tap hop cac truyen than thoai tren the gioi - suu tam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ MIỀN NÚI



TỔNG LUẬT VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM



Có thể coi thần thoại Việt Nam là một thành phần của gia đình thần thoại lớn gồm cả các sắc tộc miền núi như Mường, Mèo, Thái, Mán, Khả, Lô lô … nghĩa là tất cả những sắc dân quy tụ trong khoảng địa bàn từ miền nam núi Ngũ Lĩnh đến cao nguyên Trấn Ninh, phía nam Hoành Sơn.

Nhìn vào thần thoại Việt Nam và so sánh với thần thoại của đồng bào miền núi, chúng ta thấy phần sáng tạo vũ trụ của ta dường như có bị hao hụt và lai với thần thoại Trung Hoa khá nhiều. Trong Việt Nam Văn Học Toàn Thư, quyển I, Thần Thoại, tác giả Hoàng Trọng Miên cũng đã cố gắng sưu tầm và sắp xếp rất hợp lý thần thoại Việt Nam từ thuở sáng lập vũ trụ đến các huyền thoại dật sử, nhưng trong phần “Vũ trụ và muôn loài”, chúng ta thấy hầu hết phần sau các huyền thoại đều bị pha màu Trung Hoa. Tỷ như truyện “Trời” thì vợ Trời là bà Tây Vương Mẫu (Trung Hoa) ở núi Côn Lôn (địa danh Trung Hoa). Truyện “Thần Nam và thần Nữ” thì thần Nữ la' Nữ Oa (Trung Hoa). Đến những truyện khác như thần Tài, thần Phúc, thần Thọ, thần Lộc đều là những khuôn mặt du nhập tự Trung Hoa.

Đã đành có sự giao lưu giữa các thần thoại trên thế giới, nhưng dù có chịu ảnh hưởng hỗ tương, thì huyền thoại của mỗi nước vẫn phải mang con dấu của riêng mình, không nên chấp nhận những gì chỉ là sự vay mượn hay vá víu đơn thuần.

Trước khi chọn lọc, giới thiệu thần thoại Việt Nam và thần thoại các sắc tộc miền núi, chúng tôi muốn thoạt hãy trình bày một đồ biểu để chúng ta có được ngay cái nhìn tổng quát và những nét tương đồng tương dị giữa các thần thoại đó (xem trang 19-21). Mấy nét huyền thoại chính dùng làm tiêu điểm trong đồ biểu là : Thượng đế sáng tạo vạn vật, hay đấng thủy tổ; nạn Hồng thủy; anh em lấy nhau; cây, cột hay tháp nối liền trời đất. 
Nhìn vào đồ biểu (trang 19-21), chúng ta rút ra một số nhận xét :

1. Hầu hết các thần thoại đều có nạn Hồng thủy trừ thần thoại Việt, Mường và Phủ Nội *.
2. Thần thoại Việt, Mường và Mèo thuộc dòng huyền thoại sinh ra trứng rồi nở ra các giống người; còn thần thọai Thái, Khả, Mán, Lô-lô, Phủ nội thuộc dòng huyền thoại trái bầu, rồi tự đó chui ra các giống người.
3. Thần thoại Thái và Phủ nội không có truyện anh em sống sót sau nạn Hồng thủy, buộc lòng phải lấy nhau để duy trì nhân loại.
4. Thần thoại Mán, Khả, Lô lô không thấy nói tới huyền thoại cây hay cột chống trời, nối liền trời đất.
5. Riêng thần thoại Lô lô, theo bản văn của Hoàng Trọng Miên (VNVHTT, Quyển 1, Thần thoại, trang 135-36) chỉ thấy nói người em út và người chị sống sót sau nạn Hồng thủy, mà không nói thêm có buộc lòng phải lấy nhau như những thần thoại Khả, Mán, Mèo, Mường không. Sự thiếu sót này có lẽ vì vào thời khởi thủy, Thượng đế Kết Dơ đã dùng đất nặn ra thần Nam và thần Nữ, và hai thần này cũng đã tự coi nhau như anh em buộc lòng phải lấy nhau rồi, nên không muốn nhắc lại một lần nữa ở sự tích hai chị em sống sót chăng ?
6. Sau cùng, nếu đọc kỹ bản văn (cũng của Hoàng Trọng Miên), chúng ta thấy thần thoại Mán thuở khởi thủy cũng có Bàn Cổ (giống Trung Hoa), hơn nữa con Bàn Cổ là Bàn Vũ lại lấy công chúa thứ ba của Hoàng đế Trung Hoa. Thần thoại Phủ Nội thì có nhắc đến thần Indra của Ấn độ và những tu sĩ từ Hy mã lạp sơn xuống. Đó là những nét giao lưu được ghi nhận giữa các thần thoại láng giềng.

(*) Tức P’u Noi (xem chú thích trang 21 sau đây)



Ý NGHĨA CỘT CHỐNG TRỜI



Đặc biệt những dân ngày nay đã thành dân Đại Dương, họ tin rằng khởi thủy của vũ trụ có một cái cây là trung tâm của cả Trời Đất, lá cây phát ra những tiếng vi vu là lời của tổ tiên, do đó tạo ra ngôn ngữ để làm trật tự cho loài người.

Về vấn đề này, Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã viết, đại ý :
Trong tín ngưỡng của dân Lạc cổ, hay đúng hơn của những người thuộc nhiều sắc dân nhưng gần chung một văn hóa qua các huyền thoại ở khu vực nằm giữa Ngũ lĩnh và Hoành sơn, thì sau khi Trời Đất phân chia, vũ trụ đã được tổ chức quanh một cái cột thông liền ba cõi thế gian Trời-Đất-Người. Bốn phương được định, mặt đất được tổ chức, sự phân biệt đất sống và đất linh cho phép các bộ lạc làm ăn, sinh sống dưới bóng linh thiêng.

Thần thoại Việt nam có truyện “Thần Trụ Trời”. Núi Tản Viên là một nơi khác cũng được coi là một cột chống trời, đệ nhất cao sơn của Việt nam, nơi trời đất thông nhau, Sơn Tinh ngự ở đó. Trong huyền thoại Chử Đồng Tử ở đồng bằng ven sông, trên bãi không, cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên, thành biểu tượng của cột chống trời, linh thiêng hiển hiện, đất cấm trở nên ở được, trù phú.

Người Phủ Nội cho rằng cây chống trời là cây song Khưa-khao-cát mọc ở hồ Nong-khu (Điện Biên Phủ).

Thần thoại Thái có cây song Chuốc-khao-cát làm đường đi lại giữa trời và đất. Hai thiên sứ Tao Suông và Tao Ngân khi xuống mặt đất sau nạn Hồng thủy cũng có mang theo tám quả bầu và tám gậy đồng Sao-cam-pha (gậy chống trời).

Thần thoại Mèo thì dân chúng nhớ thiên đường Giu Giang Ka bèn rủ nhau xây tháp làm đường lên trời. 

Thần thoại Mường kể rằng bộ hạ Lang-Đa-Cần đã phải vất vả lắm mới kiếm được cây Chu-đồng linh thiêng đem về làm trụ kình thiên cất cung điện *.


(*) Xin đọc Trần Ngọc Ninh, “Huyền thoại Việt nam”, Tân Văn, 14 (tháng 6, 1969), 23-36


VẤN ĐỀ THIẾU NẠN HỒNG THỦY TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM



Vẫn giáo sư Trần Ngọc Ninh trong thiên khảo luận “Huyền Thoại Việt Nam” đăng trong nguyệt san Tân Văn có nêu ý kiến về vấn đề này, xin tóm lược :

… Các nhà nho của ta xưa cũng như các triết gia Hy lạp cổ còn nhân danh một thứ luân lý hẹp hòi và hủ lậu mà chọn lọc hay sửa chữa lại các huyền thoại như Xénophone, Platon chê Homère, như Khổng Tử san định Thi, Thư, gọt rũa lại những truyện Nghiêu, Thuấn, Vũ, như Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp kể lại những sự tích u linh quái dị ở Việt Nam, nhưng chỉ ghi những vĩ tích được coi là “thông minh chính trực” theo quan niệm của nhà nho.

Nhưng các huyền thoại, công trình sáng tác chung của dân tộc từ thuở sơ khai, đâu có thể cho một vài cá nhân phán xét và sửa chữa được ? Huyền thoại chính là lịch sử linh thiêng của dân tộc, là lý do của nền văn hóa, là chân lý tối cao của cuộc sống, là di ngôn của tổ tiên để lại cho muôn đời về sau. Những người sửa lại huyền thoại không những đã làm mất một sự bi hùng chứa đựng trong những huyền thoại, mà còn phá hủy những cơ cấu khả dĩ giúp ta hiểu được một phần nào những ký hiệu và tượng trưng mà người xưa muốn truyền lại cho ta. 

Khi sưu tầm những huyền thoại do dân gian truyền lại để viết Lĩnh Nam Chích Quái Trần Thế Pháp, vào khoảng thế kỷ thứ XIV, XV đã tự ý bỏ bớt đi tất cả những truyện của thời khai thiên lập địa và không nói gì đến trận Hồng thủy, chỉ vì vào thời ấy thì các nhà nho của ta đã hoàn toàn tin theo những thuyết của Trung hoa ghi lại trong kinh Thư và kinh Thi mà cho rằng miền Nam Ngũ Lĩnh không bị nạn Hồng thủy. Lại sửa chữa lại một vài điểm trong thần thoại cho văn vẻ, trái bầu thì đổi là cái bọc hay “bào” theo chữ Hán, và dùng những chữ “quân”, chữ “cơ” để nói rằng người thần đất Lạc là một người lãnh đạo (quân), đã lấy một cô gái đất Âu (cơ). Nhưng rồi đời sau người ta tưởng rằng đây là những tên người thật ! Cứ theo những thần thoại cổ thì Lạc Long, hay vị tổ đời thứ nhất của dân tộc, tất phải là một người đầy trí đức, đã được Trời cứu khỏi nạn Hồng thủy để lập nên một nước mới. Theo truyền thuyết của Trung hoa thì trận Hồng thủy xẩy ra cuối đời vua Nghiêu đến đời vua Thuấn thì ông Vũ mới bình trị được. Kinh Thư còn có câu : “Hồng thủy ngất trời ! Mênh mông bọc núi, trùm gò ! Dân dưới mê man chìm đắm”. Như vậy thì nói rằng Lạc Long Quân cùng thời với vua Nghiêu, và là cháu của Thần Nông cũng không phải là sai lắm”

(*) Trần Ngọc Ninh, “Huyền Thoại Việt Nam”, Tân văn 13 (tháng 5, 1969), 2-5.



Chúng ta không phủ nhận những nhận xét tổng quát của giáo sư Trần Ngọc Ninh. Quả thực dân tộc ta khi đi xuống miền đồng bằng, gần bờ biển mở rộng vòng tay đón nhận nhiều dòng văn hóa dị biệt, và đặc biệt chịu áp lực nặng nề văn hóa Trung quốc trong suốt ngót một ngàn năm Bắc thuộc.

Trong khi đó kho tàng thần thoại của đồng bào miền núi vẫn giữ được trọn vẹn bản sắc khởi nguyên không bị pha trộn. Sở dĩ vậy, nguyên do vì : 
- Vị trí núi cao rừng rậm cách biệt.
- Nếp sinh hoạt của đồng bào miền núi cho đến nay cũng không khác mấy với thời đại đồ đá; nhưng sắc thái tập tục tín ngưỡng vẫn còn nguyên vẻ đơn sơ chất phác. 
- Hầu hết dân tộc miền núi cho đến nay vẫn không có chữ viết, thần thoại đều do những bài ca truyền tụng lại bằng tiếng nói cổ truyền có vần, có điệu dễ nhớ, và được quý trọng như những sản phẩm thiêng liêng. Người ta hát thần thoại trong những buổi tế lễ, ca ngợi những lực lượng siêu nhiên, kể lại những sự tích xa xưa của các vị thần, các anh hùng dũng sĩ, không ai dám thêm bớt, sửa đổi một tiếng. 

Hãy trở lại với thần thoại Việt nam với lời “kết tội” các nhà nho xưa của giáo sư Trần Ngọc Ninh. Liệu có thực tác giả tiền nhân Trần Thế Pháp đã tự ý lược bớt phần khai thiên lập địa trong có truyện Hồng thủy? Thực ra nhìn và đồ biểu, chúng ta thấy thần thoại Mường và thần thoại Phủ nội cũng không kể nạn Hồng thủy. Đặc biệt thần thoại Mường rất gần với Việt nam (cùng một dòng trăm trứng chia đôi, nửa xuống xuôi, nửa ở lại miền ngược), lại thêm phần đảm bảo giữ được mục diện cổ sơ, vì là thần thoại miền núi. Có phải vì đồng bào Mường ở miền cao hơn nên hình ảnh nước chỉ thoi thóp rất nhẹ trong huyền thoại Lang Đa Cần trong cuộc du hành có gặp con gái thần Nước, yêu cầu nàng theo mình làm vợ, xong thình lình nàng biến mất. Còn người Việt ở dưới đồng bằng, nên có huyền thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh. Nạn nước lớn trong huyền thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh chỉ là nhắc nhở nạn lụt hằng năm tại miền châu thổ sông Nhị, cũng như huyền thoại vua Vũ trị thủy (cũng là trị lụt) miền trung châu sông Hoàng Hà vào thuở nhân gian đương được ổn định, chớ không phải thứ hồng thủy thuở khai thiên lập địa. Loại hồng thủy này, thần thoại Trung Hoa cũng không có. 

VẤN ĐỀ HUYỀN THOẠI ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÀ



Ông Hoàng Trọng Miên, tác giả “Việt Nam Văn Học Toàn Thư ”, xếp truyện này vào loại truyện cổ tích, nhưng giáo sư Trần Ngọc Ninh chủ trương đây chính là di tích một thần thoại tiền sử của ta. Trước hết chúng ta hãy đọc qua nội dung truyện : 

Ông Đùng Bà Đà *



Ngày xưa, ở làng Đậu An, huyện Tiên Lữ, thuộc tỉnh Hưng Yên, có một nhà kia sinh ra một người con trai và một người con gái thân hình to lớn khác thường, tên là Đùng và Đà. Hai anh em, cha mẹ mất sớm, đến tuổi lập gia đình không lấy được ai vì cơ thể khổng lồ của hai người. Một hôm, hai anh em bảo nhau bỏ nhà ra đi, hễ ai gặp ai đầu tiên thì lấy người đó làm vợ, làm chồng. Người anh trai và người em gái đi mãi không gặp không gặp được ai, rồi lại quanh quẩn lại gặp nhau, nghĩ ý trời định thế bèn kết làm vợ chồng. 

Hai người ăn ở với nhau được ít lâu thì làng xóm hay, cho là đôi lứa loạn luân, phạm đến phong tục cổ truyền, rồi đập chết cả đôi vợ chồng anh em ruột. Tương truyền rằng hồn hai người chết cứ hiện ra quấy rối làng xóm, gây nhiều tai ách liên tiếp làm cho mọi người đều sợ hãi. Dân làng bèn lập đền thờ để chuộc tội đã làm thiệt mạng hai anh em. Chỗ thờ Ông Đùng Bà Đà có vẽ hình sinh thực khí to lớn ** của hai người, ngày nay còn vết tích ở địa phương nói trên. Mỗi năm cứ đến ngày mồng tám tháng tư âm lịch, dân làng Đậu Anh làm lễ rước ông Đùng, bà Đà tượng hình thành hai người đàn ông, đàn bà với cơ thể khổng lồ bằng tre đan.

Đám rước chia ra hai phe, một bên rước ông Đùng, một bên rước bà Đà, dân làng đi rước đều cầm đuốc, vác gậy, bắt đầu ra đi vào lúc xế chiều rồi vòng quanh làng cho đến gần đền thờ thì trời vừa tối, đôi bên gặp nhau, nổi tiếng hò reo xung đột. Cuộc ẩu đả diễn ra, đến khi đập phá nát hai hình thể ông Đùng bà Đà, người ta bèn chất lên rồi châm lửa đốt. Đèn đuốc trong đền thờ đều tắt ngấm khi hai phe rước ông Đùng và bà Đà gặp nhau. Tục lệ cho phép những trai gái dự trong đó được tự do đùa nghịch với nhau. Người ta tin rằng có như thế thì trong làng năm ấy mùa màng mới tươi tốt và tránh được các thiên tai.

Có thuyết cho là trước đây dưới thời đô hộ của quân Tàu, trai gái trong làng này phần lớn bị giết hoặc bị bắt đi, mới sinh ra nạn trai thiếu gái thừa. Sợ dân làng rồi tuyệt giống, người ta bày ra tục cho phép tự do chung chạ trong lễ rước ông Đùng, bà Đà để làng chóng có đông dân số.


Nhìn vào đồ biểu (tr 19-21), hầu hết các thần thoại đều có lối hôn phối chẳng đặng đừng này để duy trì nhân loại. Nhìn rộng ra thần thoại Trung Hoa có Nữ Oa kết hôn cùng anh (Phục Hy ?), rồi dùng đất hoàng thổ nặn ra người; thần thoại Hy Lạp, thần Zesus, đứng đầu chư thần, kết hôn với Hera là em gái; thần thoại Polynêsie Tane và Hine trầm trọng hơn : thần Sáng tạo Brahmâ đã phối hợp vớ Ushas (Rạng Đông) mà sinh ra Manu, tổ của loài người và muôn vật; Ushas chính là con gái của Thần !

Kín đáo hơn thì như thần thoại Lô lô, Thượng đế dùng đất nặn ra thần Nam và thần Nữ nhưng chính hai vị thần này cũng đã coi nhau như anh em, và khi muốn lấy nhau đã phải bốn lần thử lòng giời, bằng cách lăn đá, lăn sàng, tung giày và đốt lửa.

Thần thoại Do Thái thì Eva được tạo ra bằng một cái xương sườn của Adam. 

Văn vẻ hơn cả là cách giải thích của triết học Upanishad :

“Lúc khởi thủy, thế giới này chỉ là Ngã mang hình người. Nhìn xung quanh mình, Ngã không thấy có gì khác hơn là mình. Ngã bèn nói lời đầu tiên : “Ta hiện hữu”. Do đó có danh xưng ngôi thứ nhất là Ta …

“Ngã lúc ấy thực không được vui. Bởi vậy người cô độc không bao giờ vui. Ngã muốn có người thứ nhì. Ngã bèn lớn lên bằng một người đàn bà và một người đàn ông ôm chặt lấy nhau. Do đó có chồng vợ và ra loài người.

“ Người đàn bà nghĩ : “Chàng tự phân mình làm ra ta, làm sao chàng có thể chung đôi với ta. Vậy ta hãy ẩn thân đi”. Nàng biến thành con bò cái. Chàng biến thành bò đực… do đó sinh sản ra loài bò. Nàng biến thành ngựa cái, chàng biến thành ngựa đực, do đó động vật một móng sản sanh. Nàng biến thành dê cái, chàng biến thành dê đực. Nàng biến thành cừu cái, chàng biến thành cừu đực, và do đó sinh ra loài dê, cừu. Cứ như thế Ngã tạo ra muôn loài có đôi cho đến tận loài kiến. 

“Ngã tự nhủ : Quả thật là ta sáng tạo vì ta tạo ra muôn vật. Bởi thế Ngã là sáng tạo. Người nào biết điều đó cũng trở thành đấng sáng tạo” ***

Nhìn qua khía cạnh triết học của Upanishad thì hành vi sáng tạo nguyên thủy đó cao quý như vậy, nhưng nhìn vào thần thoại của hầu hết các nước, hành vi hôn phối đó vẫn để lại những dấu bẽ bàng của tội lỗi nguyên thủy. 

Trong truyền thuyết của ta, ông Đùng, bà Đà là hai anh em có tầm vóc khổng lồ, đúng là giống người của thời huyền thoại. Chính vì vậy mà giáo sư Trần Ngọc Ninh coi huyền thoại này như một trong những mảnh vỡ còn sót lại của thần thoại tiền sử dân tộc.

Chúng tôi xin “nghi dĩ truyền nghi”.

Sau khi đã nêu và giải quyết tổng quát một số vấn đề, giờ đây chúng ta hãy thực sự du ngoạn vào thế giới thần thoại của ta và một số thần thoại của đồng bào miền núi.

Kể lại những thần thoại ấy, soạn giả đã căn cứ vào những tài liệu : 
- Việt Nam Văn Học Toàn Thư , 2 quyển, của Hoàng Trọng Miên (lược bỏ những phần rõ rệt mang dấu vết lai Trung Hoa)
- Việt Điện U Linh Tập, bản dịch Lê Hữu Mục.
- Lĩnh Nam Chích Quái, bản dịch Lê Hữu Mục.
- Nam Hải Dị Nhận, của Phan Kế Bính.

Trong phần chú thích và bình luận, soạn giả sẽ nhắc nhở nhiều đến thiên khảo luận “Huyền thoại Việt nam” đã dẫn của giáo sư Trần Ngọc Ninh.

Đây chính là chủ trương của soạn giả. Căn cứ vào tình hình tài liệu in của nước nhà, một nước miền nhiệt đới, nắng mưa làm mục nát sách vở; một nước ở ngã ba đường văn hóa, chịu cảnh đầu sóng ngọn gió, chiến tranh liên miên thiêurụi biết bao kho tàng văn hóa, nên những tài liệu in đi sau nên đúc kết tất cả tinh hoa những tài liệu in đi trước. Với những nước thái bình thịnh trị, thư viện nhiều, giữ gìn cẩn thận, việc làm đó còn chưa hẳn là một việc thừa, huống chi lại ở vào hoàn cảnh nước nhà. Chính tác phẩm này soạn giả cũng mong sẽ được là bực thang để những tác phẩm biên khảo sau dẫm lên mà đúc kết được đầy đủ hơn. Chiến thuật biên khảo của hoàn cảnh xứ sở mình nên như vậy, một mặt mỗi công trình biên khảo vẫn giữ một cá tính riêng; mặt khác, đứng ở một phương diện nào, công trình biên khảo đó nên là hình ảnh một trái banh tuyết – boule de neige – lăn cuộn với thời gian và cùng lớn lên với thời gian.

Một lần nữa soạn giả ghi lời tri ân tới các tác giả và dịch giả Hoàng Trọng Miên, Lê Hữu Mục, Trần Ngọc Ninh mà tác phẩm của các vị là nguồn nguyên liệu đúc kết của tác phẩm này. 

Thần thoại Thượng Đế Sáng Tạo Vũ Trụ hay Thủy Tổ Giòng Giống Hồng Thủy Anh em lấy nhau Tháp, Cây, Cột chống trời
Việt Lạc Long Quân + bà Âu Cơ. Bọc 100 trứng nở ra 100 con. Không có (nhưng có truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh). Ông Đùng bà Đàn Thần Trụ Trời. Núi Tản Viên.
Mường Đôi chim thành người Ay và Ua. Đẻ 100 trứng , nửa về đồng bằng (Kinh), nửa ở lại (Thượng) Không có (nhưng có truyện Lang Đa Cần muốn lấy con gái thần Nước) Lang Đa Cần lấy em là Nường Kịt Huyền thoại cây Chu Đồng cao tới trời, mọc ở phương Tây.
Mèo Chữ Làu là Thượng đế sáng tạo ra trời đất trong 7 ngày, lấy đất nặn ra 2 người đầu tiên. Hồng thủy Hai chị em sống sót, lấy nhau sinh ra một quả trứng đem cắt, mỗi miếng thành một người. Dân chúng định xây tháp cao để lên vườn thiên đàng Giu giang Ka trên trời.
Phủ nội **** (một sắc dân ở khoảng địa bàn Điện Biên Phủ) Con trai và 2 con dâu Ngọc Hoàng xuống trần. Chặt cây Ton-Hai có 2 quả bầu. Từ những quả bầu ra các giống người. Không có Không có Cây song Khưa-khao-cát nối liền trời đất
Thái Tao Suông và Tao Ngân được trời gửi xuống sau Hồng Thủy mang theo 8 trái bầu và 8 gậy đồng Sao-cam-pha (gậy chống trời). Trong ruột những trái bầu có 330 giống người và 330 giống lúa. Hồng thủy Không có Cây song lớn Chuốc-khao-cát thông liền trời đất. 
Mán Nhiêu vương (Ngọc Hoàng) Bàn Cổ. Loài người do tâm của Bàn Cổ sinh ra. Hồng thủy Hai anh em Phu Hay sống sót sau nạn Hồng thủy, lấy nhau, sinh ra 1 quả bầu, mỗi hạt gieo xuống thành 1 người. Không có
Khả Hai anh em lấy nhau sinh ra quả bầu, là thủy tổ các giống người. Hồng thủy Hai anh em sống sót sau Hồng thủy, lấy nhau, sinh ra 1 quả bầu.Từ đó chui ra các giống người. Không có
Lô lô Kết dơ (Thượng đế) tạo ra đất, rồi cũng Ga-gie mượn đất của thần Đất nặn ra người Nam và người Nữ. Hai người tự cho là anh em nhưng vẫn phải lấy nhau sinh ra một quả bầu đầy hột; mỗi hột thành một giống người. Hồng thủy Một nhà có ba anh chị em. Người em út và người chị sống sót sau nạn Hồng thủy (Chắc rồi cũng lấy nhau như thần thoại trên) Không có

(*) Theo Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư II, Cổ tích (Saigon, 1959), tr 78.
(**) Liệu có chịu ảnh hưởng gì về nghi lễ thờ hai vợ chồng thần Shiva và Parvâti của Ấn độ, thờ dưới hình thức hai sinh thực khí linga và yoni? 
(***) Bridád-âranyaka, I,4 (xin đọc : Lê Xuân Khoa, Nhập Môn Triết Học Ấn Độ, Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1965, chương “Upanishad”, tr 124-73).
(****) Phủ nội cũng viết là P’u Noi. Tên đầy đủ là Kha P’ai P’u Noi. Tiếng Lào P’u Noi có nghĩa là “núi nhỏ”. Về sau người ta có khuynh hướng muốn hiểu chung là “những người ở miền núi nhỏ”. (Xin đọc Colonel Henri Roux, “Quelques Minorités Ethniques du Nord Indochine”, France-Asie 92-93 (Janvier-Février, 1954.)



THẦN THOẠI VIỆT NAM



TRỜI



Ngày xưa, trước tất cả mọi sự, đã có ông trời. Trời là một bậc quyền phép vô song ở trên cao, làm ra tất cả : trái đất, núi non, sông biển, mưa, nắng. Trời sinh ra tất cả loài người, muôn vật, cỏ cây …

Trời thấy tất cả, biết hết mọi sự xảy ra ở thế gian. Trời là cha đẻ muôn loài, xét đến muôn việc, thưởng phạt không bỏ ai, không ai tránh khỏi lưới trời, mọi việc đều do trời định. Do đó, mà con người tin có đạo Trời, và thường nói Trời sinh Trời dưỡng và đến khi chết thì về chầu Trời.

Trời cũng có vợ, gọi là bà Trời và mỗi khi hai ông bà giận dỗi nhau là lúc trời vừa mưa vừa nắng. Mỗi lúc Trời giận loài người lầm lỗi ở thế gian, thì giáng xuống thiên tai : bão táp, lụt lội, hạn hán …

Giang sơn của Trời là từ mặt đất lên đến trên cao, có chín tầng trời.

Từ sau khi chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc, ông Trời Việt nam cũng được gọi là Ngọc Hoàng cho văn vẻ.

MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG



Mặt Trời và Mặt Trăng là hai chị em, con của Trời. Công việc của Trời giao phó cho hai cô con gái là hàng ngày phải thay phiên nhau đi xem xét thế gian. Cô chị Mặt Trời ngồi kiệu có bốn người khiêng đi. Bọn khiêng kiệu gồm có hai lớp già và trẻ thay phiên nhau. Gặp phải bọn khiêng kiệu già đi chậm, cô Mặt Trời phải ngồi lâu, ngày ở dưới trần hóa dài ra. Đến lượt bọn trẻ khiêng kiệu đi mau, cô Mặt Trời được chóng công việc về sớm thì ngày ngắn lại. 

Cô em Mặt Trăng tính tình nóng nảy không kém gì cô chị làm cho thiên hạ ở mặt đất suốt cả ngày đã phải nóng bức vì cô chị , đến đêm lại cũng phải khó chịu vì cô em. Loài người than thở đến tai nhà Trời. Bà mẹ mới lấy tro trát vào mặt cô Mặt Trăng.Từ đó cô em đổi tính ra hết sức dịu dàng, khác hẳn với cô chị, nên được người dưới trần ai cũng thích. Mỗi khi cô ngoảnh mặt xuống trần là lúc đó trăng rằm. Ngoảnh lưng lại là ba mươi; ngoảnh sang phải, sang trái là trăng thượng huyền hay hạ huyền. Hôm nào trăng quầng là lúc vết tro trát mặt hiện ra. 

Người ta nghe nói rằng chồng của hai nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng là một con gấu. Mỗi lần Gấu đến với vợ là sinh ra nguyệt thực hay nhật thực. Lúc đo người dưới trần làm ầm ĩ lên, đánh trống, khua chiêng, gõ mõ, để cho gấu ra xa vì gấu đi lại với vợ, che lấp Mặt Trời, Mặt Trăng, làm hại cho mùa màng. 

THẦN TRỤ TRỜI


Thuở trời đất còn mịt mù hỗn độn, tự nhiên hiện lên một vị thần to lớn khác thường, đầu đội trời, chân đạp đất, đào đất, vác đá đắp thành một cái cột to cao để chống trời lên, mà phân chia ra trời đất. Trời như một cái vung úp, đất bằng như một cái mâm vuông, chia ra làm bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Chỗ giáp giới trời đất gọi là chân trời.

Khi đã chống trời lên cao rồi, thần phá bỏ cột trụ đi, ném tung vãi đất và đá khắp tứ phía làm thành những đồi, núi, đảo khiến mặt đất hóa ra chỗ cao chỗ thấp. Còn chỗ thần đào đất để đắp cột chống trời về sau đầy nước thành biển.

Dấu vết cột chống trời ngày nay người ta cho là ở núi Thạch Môn thuộc về tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt, cũng gọi là núi Không Lộ (đường lên trời), hay Kình Thiên Trụ (cột chống trời).

Dân chúng còn có câu hát lưu hành nhắc nhở đến công việc của ông Trụ Trời vào thuở khai thiên lập địa : 

Nhất ông đếm cát,
Nhì ông tát bể,
Ba ông kể sao,
Bốn ông đào sông,
Năm ông trồng cây,
Sáu ông xây rú,
Bảy ông trụ trời.

Chú thích : Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh (Bài báo đã dẫn), thì bài đồng dao trên đây là nói ông Trời hay đấng tạo hóa của người Việt đã làm ra cõi thế với bảy công trình được tuần tự thực hiện trong bảy ngày như vậy. 

SÁNG TẠO VẠN VẬT



Sau lúc dựng xong vũ trụ, ông Trời bắt đầu tạo ra vạn vật. Tương truyền rằng ban đầu Trời dùng những chất cặn còn sót lại trong trời đất mà nặn ra đủ mọi giống vật, từ những con to lớn đến những con bé nhỏ như sâu bọ. Sau đó, Trời mới gạn lấy chất trong để nặn con người. Do đó mà loài người khôn hơn các giống vật. 

Về công việc nặn ra người, Trời giao cho mười hai nữ thần khéo tay mà hạ giới vẫn gọi là mười hai bà mụ. Mười hai bà mụ mỗi người làm một công việc khác nhau. Bà nặn tay nặn chân, bà nặn tai, bà nặn mắt, bà nặn cơ quan sinh dục, bà dạy bò dạy lật, bà dạy nói dạy cười. Vì có bà mụ đãng trí nên giống người có kẻ á nam, á nữ vì thiếu mất sinh thực khí. 

Khi sáng tạo ra loài người, Trời có ý định cho họ sống mãi khỏi phải chết, hễ đến già rồi thì nằm yên một nơi trong ít lâu tự nhiên lớp da ngoài thay đổi, bỏ lốt già đi mà hóa lại trẻ, trái hẳn với giống rắn, vì bản chất độc ác nên chỉ sống đúng tuổi rồi phải chết. Một vị thần được phái xuống hạ giới để thi hành việc đó không ngờ lại gặp nhằm loài rắn trước. Lũ rắn biết được sứ mạng của thần là xuống tuyên án chết cho loài chúng nên mới rủ nhau lại hàng vạn con xúm vây lấy sứ nhà Trời, nhất quyết bắt thần phải nói lại : “Rắn già rắn lột, người già người tuột vào săng”. Nếu không thì lũ rắn quyết một mất một còn với thần. Thấy lũ rắn dữ tợn chỉ chực hại mình, thiên sứ đành phải nghe lời chúng. Do đó mà loài rắn được lột xác sống mãi, còn loài người đến khi già phải chết. 

Khi Trời hay tin, giận thiên thần đã làm trái với ý định của mình, mới đày xuống hạ giới làm kiếp bọ hung. 

TU BỔ CÁC GIỐNG VẬT



Sau khi đã tạo ra vạn vật và con người, Trời thấy còn có sự thiếu sót ở các giống vật nên sai ba vị thần xuống hạ giới để bù đắp cho các giống vật nào cơ thể còn chưa được đầy đủ. Các giống vật hay tin đua nhau đến để xin thần nhà trời tu bổ cho các chỗ thiếu sót cần thiết. 

Khi đã phân phối mọi vật liệu cho các giống vật vừa hết thì có con chó và con vịt cùng đến một lần xin mỗi con một cẳng thiếu, vì chó mới có ba chân, vịt chỉ mới có một từ lúc Trời sinh ra. Thần hết cả vật liệu, kiếm cách từ chối. Song thấy hai con vật van nài quá, thần mới bẻ tạm chân ghế chắp cho chân sau con chó bị thiếu và lấy que cây chắp cho chân con vịt rồi dặn chó và vịt khi nào ngủ nhớ giơ cẳng chắp lên, chớ để xuống đất sợ hư đi. Chó và vịt lạy tạ ra về. Tuân theo lời thần dặn, từ đó lúc nào đi ngủ, hai giống vật này cũng đều co một cẳng lên trên không. 

Các thần đang sửa soạn về trời thì bỗng có mấy loại chim chiền chiện, chìa vôi, ốc cau, mỏ nhác … cùng đến một lúc kêu nài vì nỗi Trời đã nặn chúng thiếu mất cả hai chân. Ba thần thoạt cũng từ chối, lấy cớ là đã hết vật liệu đem theo, song lũ chim một mực nài nỉ, bảo rằng vì chúng không có chân nên đến chậm, cố khẩn cầu thần giúp cho. Một vị thần thấy gần đó có bình hương mới bẻ lấy một nắm chân hương làm cho mỗi con chim một cặp chân. Thấy đôi chân mong manh quá, chim kêu lên : “Trời ơi ! Trông que nhang thế này thì đậu làm sao được!”. Thần bèn khuyên bảo : “Không việc gì đâu, cứ chịu khó giữ gìn một chút là được. Khi nào muốn đậu thì hãy đặt nhớm chân xuống đất xem có vững không đã rồi hãy đậu.” Do đó mà về sau các giống chim này cứ chới với nhún hai ba lần thử đặt chân trước rồi mới đậu. 

LÚA VÀ CỎ



Một hôm Trời ngự giữa lưng trời, phán hỏi loài người muốn điều gì trước nhất. Tổ tiên chúng ta xin một ngày hai bữa cơm. 

Trời bèn hóa phép cứ mỗi ngày có một hạt lúa khổng lồ lăn qua khắp các cửa nhà. Các bà chỉ việc đưa tay ra hứng là có số gạo đủ ăn trong ngày. Sau mỗi ngày làm xong phận sự, hạt lúa được Trời hóa phép trở lại lớn như cũ. Người ta chỉ cần quét dọn nhà cửa sạch sẽ để tiếp rước hạt ngọc của Trời lăn đến cửa.

Có một người đàn bà kia tính tình lười biếng không nghe lời dặn của Trời. Khi hạt lúa lăn đến cửa không thấy chủ nhà quét dọn tiếp rước mình, bèn quay sang nhà khác. Người chủ nhà tức giận cầm chổi rượt theo, đập một cái thật mạnh làm cho hạt ngọc vỡ tan từng mảnh. Loài người phải nhịn đói một thời gian, bèn đi thưa với Trời. Trời bảo rằng : “Các người không kính nể hạt ngọc của ta, từ đây các ngươi phải làm hết sức mình để cho hạt ngọc được sống dậy. Mỗi người phải đi tìm mảnh gạo vỡ của ta đem về, xới đất, tưới nước, săn sóc cho đến khi trổ bông sinh hạt. Ta sẽ giúp các ngươi làm việc. Ta sẽ làm mưa và nắng…

Từ đó loài người bắt đầu trồng lúa.

Cũng vào lúc sinh ra lúa, Trời sai một thiên thần đưa xuống hạ giới một số hạt giống lúa và một số hạt giống cỏ vãi ra khắp mặt đất để nuôi người và vật. Ban đầu thần gieo tất cả giống cỏ trong tay trái. Cỏ mọc rất nhanh, lan tràn rất mạnh đến nỗi hôm sau, Thần chỉ mới gieo hết một số hạt giống lúa ở trong tay phải thì không còn một khoảng đất nào để gieo nữa. Thần đành đem nửa số hạt giống lúa về trời. Do đó mà ở trên mặt đất cỏ mọc nhiều mà lại rất khỏe còn lúa thì ít lại mọc rất khó khăn, nếu không chăm bón làm cỏ thì bị cỏ át mất. 

Khi biết rõ việc ấy, Trời liền nổi giận đày thần xuống trần hóa làm con trâu, ăn cỏ đời này qua đời khác và phải kéo cày cho loài người trồng lúa. Trời đặt ra một vị thần để trông nom về lúa. Thần Lúa là một cụ già râu tóc bạc phơ, thường hay chống gậy đi đó đây.

THẦN SÉT



Trong số các thần nhà trời, thần sét là một vị hung dữ, mặt mũi nanh ác, quát tháo dữ dội, mình mảy đen thui, chỉ vận một cái khố, lưng đeo trống, tay cầm một lưỡi búa đá. Thần Sét chuyên thi hành lệnh Trời đã xử công việc ở trần gian theo luật thiên đình. Hành động của thần biểu lộ sự thịnh nộ của Trời. Theo lệnh Trời, thần Sét xử phạt những người làm tội ác có hại đến nhân mạng mà khéo che đậy, hoặc luật pháp trần gian không xét xử tới. Thần Sét cũng đánh những ma quỷ , loài vật, cây cỏ tu luyện thành tinh rồi tìm cách hãm hại người trần …

Mỗi lần xử án, thần Sét thường đánh trống đeo bên mình làm thành tiếng sấm (cho nên người ta cũng gọi thần Sét là ông Sấm), rồi thần tự trên trời nhảy xuống tận nơi trỏ ngọn cờ vào đầu tội nhân và bổ ngay búa vào. Có khi thần bỏ luôn lưỡi búa đã đánh tội nhân vì bận việc phải đi một nơi. Do đó, thỉnh thoảng người ta nhặt được lưỡi tầm sét của thần Sét quẳng lại trên mặt đất.

Thần Sét thường ngủ về mùa đông, vào khoảng tháng hai, tháng ba mới thức dậy đi làm việc. 

Tính tình thần Sét cực kỳ nóng nảy, hễ được lệnh Trời sai là đi ngay; hễ thấy là đánh liền. Cho nên cũng có lúc đánh lầm làm cho người, vật chết oan. Vì thế mà thần Sét có lần bị Trời phạt vì đánh lầm người vô tội, nằm yên không được cựa quậy ở một góc rừng trên trời. Con gà thần của Trời thỉnh thoảng lại đến mổ một cái đau điếng mà thần Sét đành phải nằm im. Cho nên sau khi được tha rồi, thần Sét phải thói quen hễ nghe thấy tiếng gà là giật mình. Do đó mà mỗi lầy có sấm chớp, sợ thần Sét xuống, người ta thường bắt chước tiếng gà để dọa thần Sét tránh đi nơi khác. 

THẦN MƯA



Thần mưa là thần hình rồng, thường xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước ra làm mưa cho thế gian có nước uống và cầy cấy, cây cỏ trên mặt đất được tốt tươi. Thần Mưa thường theo lệnh Trời đi phân phác nước cho các nơi. Thần Mưa có tính hay quên nên có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán; có vùng lại đến luôn làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới cóc phải lên kiện Trời vì thần Mưa vắng mặt lâu ngày quá. 

Công việc một mình phân phối nước khắp mặt đất rất là nặng nề. Thần Mưa có khi không làm hết nên có lần Trời mở một cuộc thi chọn các giống thủy tộc có tài trở nên thành rồng hút nước phun mưa, giúp sức thần Mưa. Cuộc thi rồng đó, Trời chọn lấy địa điểm ở cửa Vũ (Vũ môn) thuộc Hà Tĩnh ngày nay. Do đó mà trong dân gian đã có câu hát về việc cá gáy hóa rồng :

Mồng ba cá đi ăn thề,
Mồng bốn cá về cá vượt Vũ môn.

THẦN GIÓ



Thần Gió là một vị thần không đầu có một cái quạt thần để theo lệnh Trời mà làm ra gió hay bão ở thế gian. Thần gió thường hợp sức với thần Mưa, hoặc thần Sét. Cũng như thần Sét, thần Gió biểu lộ sự giận dữ của Trời đối với loài người bằng các gây nên bão táp để trừng phạt. 

Mỗi lúc đồng bằng đang yên tĩnh tự nhiên bỗng nổi lên một trận gió xoáy, đó là lúc thần Gió đi chơi và người ta gọi là thần Cụt Đầu. 

THẦN ĐẤT



Thần Đất trông nom khắp mặt đất, thường hiện dưới hình một cụ già to béo, biết hết mọi việc ở trần gian, cứ đến bảy ngày cuối năm là lên thượng giới để chầu Trời, cũng như thần Bếp. Trong mấy ngày Thần vắng mặt, mặt đất ngừng hoạt động, đến ba mươi tháng chạp, Thần trở về, muôn vật bừng tỉnh dậy. Cũng trong khoảng đó, người ta không dám động vào đất của Thần, phải đợi đến mùng hai đầu năm sau khi làm lễ động thổ cúng thần Đất rồi người ta mới lại đào xới đến đất, hoặc cày bừa. 

THẦN NÚI



Thần Núi có nhiểu tên như ông Chon Von, ông Cao Các, hoặc là Cao Sơn Đại Vương hay đức Thượng Ngàn. Cũng như mỗi vùng có một ông thổ địa, mỗi núi cũng có một vị sơn thần. Thần thường hiện thành một ông già râu tóc bạc phơ, cai quản mọi cây cối thú vật thuộc vùng núi non của thần.


THẦN BIỂN



Có sự tích kể thần Biển đội lốt một con rùa khổng lồ, ở ngoài khơi biển Đông, thường chỉ có công việc thở nước ra và hít nước vào để làm mức thủy triều lên xuống, ngày này qua ngày khác. Thỉnh thoảng thần làm sóng to nước lớn. Ấy là những lúc biển động, có những ngọn sóng cao như núi mà người miền biển vẫn gọi là sóng thần. 

Cũng có sự tích rất cảm động kể rằng trước khi làm thần Biển, nữ thần này là một thiếu nữ ở trên đảo, nổi tiếng là thương yêu anh em. Nàng có bốn người anh em đều là người chài lưới, quanh năm sống trên thuyền ở ngoài biển cả.

Một hôm trong lúc bốn người anh em đi biển, cô gái tự nhiên chết giấc rất lâu. Người chung quanh tưởng là cô bị ngộ gió chết mới đổ thuốc cho tỉnh lại. Nhưng khi sống lại, cô trách sao lại gọi mình tỉnh dậy quá sớm. Sau đó, ba người anh kể lại rằng trong lúc đi biển, họ gặp phải một cơn bão lớn giữ dội, được cô em hiện hồn lên cứu họ thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo. Người anh thứ tư đi trên một chiếc thuyền khác mất tích luôn, không thấy trở về, chỉ vì cô gái đã bị gọi khỏi cơn đồng thiếp trước khi cứu được anh.

Sau việc lạ lùng đó ít lâu thì cô gái chết. Cô từng hiện ra nhiều lần cứu các thủy thủ bị nạn hoặc giúp bắt bọn cướp biển, cùng làm mưa cứu mùa màng bị hạn nắng. Ngọc Hoàng thấy thế mới phong cô làm thần Biển.

Người ta hình dung thần là một người con gái ngồi trên đầu ngọn sóng, đầu đội mũ triều thiên, tay cầm hốt ngọc.


THẦN BẾP



Thần Bếp, cũng gọi là Táo Quân, có nhiệm vụ ghi chép những hành vi và lời lẽ của mọi người ở trong gia đình thần trông nom. Mỗi năm đến ngày hai mươi ba tháng chạp, thần lên trời để tâu mọi việc với Ngọc Hoàng và cũng do lời trong sớ của thần mà gia đình thần ở trong năm tới sẽ gặp sự lành hay sự dữ .

Bộ hạ của thần Bếp có có chép (cá gáy) để thần cỡi lên trời và nhện để giúp thần báo tin cho người.

Thần Bếp gồm có bộ ba, một vợ hai chồng, theo sự tích sau đây :

Ngày xưa có hai vợ chồng chú tiều kia rất nghèo khổ, lấy nhau đã lâu mà không con. Người vợ rất thương yêu chồng, nhưng người chồng lại có tính hay rượu chè và đánh đập vợ. Ban đầu người vợ còn cắn răng chịu sự hành hạ, nhưng sau người chồng hà hiếp quá, một hôm vác cây đuổi vợ, vợ mới trốn đi.

Chị tiều trốn vào rừng thấy có một túp lều tranh, đến gõ cửa xin ở đậu. Chủ nhà là một người thợ săn. Sau khi nghe chị tiều kể sự tình, bằng lòng cho ở đậu. Được ít lâu sau, hai người lấy nhau, chồng rất thương yêu vợ.

Về phần chú tiều, sau khi vợ bỏ đi, đâm ra hối hận, mới quyết đi tìm vợ về. Chú tiều cũng đi vào rừng, gặp túp lều tranh trong lúc người thợ săn đi vắng chỉ có vợ ở nhà. Chú tiều gõ cửa xin vào nghỉ chân, ngạc nhiên lại thấy vợ mình ở đây, mới khóc lóc năn nỉ vợ trở về. Người vợ cũng khóc theo tỏ ý còn thương chồng cũ. 

Hai người đang nói chuyện thì có tiếng người thợ săn về. Người vợ hoảng hốt bảo chồng cũ trốn vào đống rơm. Người thợ săn vào đến cửa bảo vợ : 

- Bữa nay tôi săn được con thỏ. Vậy mình hãy lấy lửa đốt rơm trước nhà để thui con mồi. 

Người vợ rụt rè một lúc. Người chồng xách thỏ ra lấy rơm đốt, lửa cháy bắt qua đống rơm, chú tiều rãy rụa một hồi rồi chết trong đó. Người vợ đau lòng quá thương chồng cũ hóa ra giết chồng, mới nhảy vào đồng lửa đang cháy. Người thợ săn thấy vợ chết thương quá, tưởng mình làm điều gì trái nghĩa cũng nhảy vào đống lửa chết theo. 

Trời cảm vì tình yêu của ba người cho hóa thành ba ông táo, chụm đầu vào nhau trong bếp lửa.

THẰNG CUỘI VỚI CUNG TRĂNG



Những đêm trăng sáng, nhìn lên mặt trăng, người Việt như nhìn thấy hình ảnh một anh chàng ngồi dưới bóng một cây đa tươi tốt. Người ta gọi đó là “thằng Cuội ngồi gốc cây đa”. Sự tích thằng Cuội như sau đây : 

Một hôm Cuội vào đốn củi ở trong rừng, lớ rớ gặp một ổ bốn con hổ con, tiện tay cầm rìu, Cuội đập chết liền, nhưng chợt nghe tiếng hổ rống ở đàng xa, Cuội biết hổ mẹ đã tới, sợ quá, vội leo tót lên ngọn cây ở kề bên. Cuội đã yên thân, mới dám cúi xuống, thì thấy hổ mẹ đang lồng lộn gầm lên rùng rợn. Rồi hổ im và đi về phía suối ở bên trái. Cuội ráng hết sức mình nhìn theo thấy hổ mẹ đến gần một cây giống như cây đa nhỏ. Hổ nhảy lên mấy bận đớp được một ít lá, sau ngậm lá đem về ổ, nhau dừ mớm cho con, chỉ một lát sau sống lại cả bốn. Xong xuôi, mẹ con đàn hổ cùng dắt díu nhau đi.

Cuội vội vàng tụt xuống, ra bờ suối đào gốc cây quý ấy, giữ đủ cành lá, rễ con rễ cái vác về. Cuội trồng cây ấy ở vườn sau, và từ đấy trở đi làm thuốc cứu người, dù ai đã nhắm tắt hơi, Cuội chỉ nhai một ít lá mớm cho là y sống lại.

Lẽ cố nhiên Cuội quý cây hồi sinh ấy lắm, ngày nào trước khi vào rừng đốn củi cũng dặn vợ : “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Đông, cây giông lên trời”. Dặn đi dặn lại, dặn mãi làm cho người vợ bực mình phát cáu. Một buổi chiều kia, khi vợ Cuội ra vườn sau đi tiểu, trông thấy cây quý liền tự nghĩ : “Đã khỏe dặn bà, thì bà cứ đái xem sao”. Ai ngờ vừa phóng uế xong, cây bỗng long gốc lừng lững bay lên. Cuội vừa ở rừng về, thấy cây đã lên quá đầu người, hốt hoảng không nói năng gì, chỉ kịp lấy rìu móc vào rễ cây, chực kìm cây ở lại với mình, nhưng cây vẫn cứ bay thẳng, mà Cuội cũng nhất định không buông. Do đó, cây lên đến cung trăng và từ đấy cho tới bây giờ Cuội còn ngồi lại gốc cây ở trên cung Quảng. 

Trẻ con Việt Nam vẫn có câu ca : 

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cỡi ngựa đi chơi cầu vồng.

ĐỊA NGỤC VÀ DIÊM VƯƠNG



Thế giới phía dưới mặt đất của loài người gọi là cõi âm do một vị thần được Trời giao cho cai quản gọi là Diêm Vương. Thế giới địa ngục chia ra làm thập điện, do mười vị thập điện Diêm Vương xét xử. Trong mười vị vương ở cõi âm, Diêm Vương là chúa tể trên hết. Những hồn chết khi xuống cõi âm, trước tiên phải qua Diêm Vương xét xem lúc sinh thời, nếu có nhúng tay vào tội ác thì Diêm Vương mới giao cho chín vị kia trừng phạt. Vị thứ nhất trị những kẻ cho vay nặng lãi, những thầy lang dốt nát làm chết oan người ta; vị thứ hai trị những tham quan ô lại, những kẻ ác khẩu, vu khống; vị thứ ba trị những kẻ hà tiện, những kẻ làm vàng bạc giả, những con buôn bất lương, những kẻ nguyền rủa trời đất; vị thứ tư trị những kẻ sát nhân, trộm cướp, dâm dật; vị thứ năm trị những kẻ tà bậy lộng ngôn; vị thứ sáu trị những kẻ đào mồ mả người khác, ăn hoặc bán thịt người; vị thứ bảy trị những kẻ bất hiếu; vị thứ tám trị những kẻ đốt nhà cùng coi những người chết vì tai nạn rủi ro; vị thứ chín có nhiệm vụ trông nom cho hồn người chết đầu thai. 

Thế giới cõi âm là một thành trì lớn, những hồn người chết phải qua cửa Ngạ quỷ (Quỷ môn quan). Vào đây, con sông Nại-hà bọc quanh thành, có ba cái cầu. Cầu bằng vàng cho những hồn hóa thành thần thánh. Cầu bằng bạc cho những hồn nhân đức. Còn cầu dành cho những hồn tội lỗi bề ngang chỉ có ba bước, không có thành cầu. Cầu dài nhiều dặm, hồn qua cầu khó tránh khỏi rơi xuống sóng nước cuồn cuộn chảy bên dưới làm mồi cho rắn đồng chó sắt tranh nhau cắn xé. Hồn người chết chẳng những phải chịu trách nhiệm về những hành vi trong đời sống vừa qua, mà còn ở các đời trước nữa. Hồn không thể nhớ được vì đã ăn cháo lú để quên hết , qua mỗi lần ra khỏi địa ngục. Song ở thập điện có sẵn một cái gương lớn gọi là gương tội ác. Hồn nhìn vào trong gương sẽ thấy rõ hình dáng mình trong các kiếp trước cùng những tội lỗi đã gây nên. Diêm Vương căn cứ vào các tội lỗi hiện ra trong gương mà kết án, chịu các cực hình rồi đầu thai thành thú vật. 

Còn những hồn đã làm điều tốt lành thì được đưa về thế giới Tây phương cực lạc, hoặc đầu thai kiếp khác thành thần hay thành người. 

Sau khi ăn cháo lú rồi, nếu hồn phải hóa kiếp làm loài vật, thì quỷ thập điện khoác lên vai hồn lớp da con thú sẽ đầu thai rồi đưa qua cầu khổ ải ở trên một dòng sông sâu nước đỏ màu máu. Hồn bị đẩy xuống sông cho dòng nước cuốn trôi đi qua kiếp khác. (Cũng có thuyết cho rằng hồn phải bước lên bánh xe pháp luân để bánh xe quay đẩy lên cõi trần.)

Còn những hồn chết oan uổng trước ngày giờ đã ghi trong sổ sinh tử, dù tự sát hay chết vì tai nạn đều bị dẫn vào thành Oan Hồn Uổng Tử hóa thành quỷ đói, quỷ khát. Muốn đầu thai lại, hồn phải kiếm được hồn khác thay thế. Muốn được như thế, sau một thời gian ở âm phủ, những hồn này được phép về trần, đến tại nơi đã chết trước kia, làm cách nào cho ai đi qua đó bị cám dỗ chết theo như họ, thì họ mới đầu thai lại được. 

Đi lại chín tầng địa ngục để cứu độ những linh hồn tội lỗi là Địa Tạng Bồ Tát . Thuở sinh thời, Địa Tạng là một nhà sư trẻ tuổi có phát lời nguyền như vậy và được Phật tổ giao phó cho việc ấy. Địa tạng có dáng một nhà sư, tay phải cầm gậy sắt, tay trái cầm hòn ngọc chiếu sáng đường đi dưới cõi âm. 

TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC



Những hồn người hiền đức ở cõi Tây phương Cực lạc, có cây lá ngọc cành vàng, hồ sen hoa nở muôn đời, cát bằng vàng ròng dưới đáy nước, ven hồ cỏ lấp lánh bảy sắc ngọc. Các loài chim đều có lông ngũ sắc, tiếng hót lên thành lời ca đạo đức. Mưa tòan bằng hoa phủ lên mặt đất. 

Ở cõi Cực lạc, người ta sống một đời đều đặn như tu hành. Mỗi buổi sáng hừng đông, đem hoa đi tặng tất cả chư Phật ở các thế giới khác, đến trưa mới về ăn. Tai luôn luôn nghe những lời chim hót, gió thổi qua cây ngọc, khiến người ta nghĩ đến Phật pháp và chư Phật, không còn luân hồi khổ ải nữa. 

Những người hiền đức, đến giờ chết, lòng sẽ không bị vẩn đục, vì Phật sẽ hiện ra đưa linh hồn họ theo vào tòa sen, cho đến khi sạch hết bụi trần, hồn sẽ từ trong hoa nở ra, bay về cõi Tây phương Cực lạc.

TRUYỆN LẠC LONG QUÂN



Lạc Long Quân là thủy tổ của giòng giống Lạc Việt nhà.

Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ), gặp một nàng tiên lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân. 

Diệt Ngư Tinh:



Hồi bấy giờ dân cư ở miền duyên hải đang bị một con cá to lớn đã sống không biết bao nhiêu đời thành tinh, phá hoại khủng khiếp. Mình nó dài hơn năm mươi trượng, có nhiều chân giống như chân rết, biến hóa vô cùng, linh dị khó dò được; mỗi khi đi đâu thì nổi cơn mưa gió, hay ăn thịt người, ai cũng đều sợ hãi. Chỗ ở của nó là một cái hang lớn thông xuống đáy biển, bên trên là một dãy núi đá ngăn vùng duyên hải ra làm hai. Ngư tinh lấy đá lấp ngang làm cho eo biển hẹp lại. Dân chúng đôi bên muốn qua lại với nhau phải đi thuyền theo con đường độc nhất đó. Ngư tinh nằm ở hang đá, đánh thấy hơi người là làm nổi sóng lên cho thuyền lật để ăn thịt. 

Lạc Long Quân thương dân bị hại mới làm một con thuyền lớn, ra lệnh cho Thủy Dạ Xoa cấm Thần Biển không được làm gió xoắn, rồi chèo thuyền đến núi Ngư Tinh, giả đem một người đến cho Ngư Tinh ăn. Ngư Tinh há miệng toan nuốt thì liền có một khối sắt nướng đỏ liệng vào trong miệng. Ngư Tinh vùng vẫy nhảy đến đánh thuyền. Đôi bên chiến đấu suốt ba ngày đêm. Long Quân chém được khúc đuôi, lột da căng lên một hòn đảo giữa biển, nay gọi là đảo Bạch Long Vĩ. Đầu Ngư Tinh hóa thành một con hải cẩu, bị Lạc Long Quân rượt theo chém chết, vứt đầu lên núi đá, nay gọi là núi Đầu Chó (Cẩu Đầu Sơn). Khúc mình của Ngư Tinh bị sóng đẩy trôi dạt vào xứ Man Cầu. Vì vậy mà ngày nay người ta còn gọi là Cẩu Man Cầu.

Diệt Hồ Tinh 

:

Bấy giờ ở đất Long Biên (Hà Nội ngày nay) về mạn phía Tây, sát sông Hồng Hà, có một hòn núi đá có hang sâu rộng, người ta vẫn gọi là động Con Cáo (Lỗ Hồ Đỗng). Đó là con cáo chín đuôi, sống hơn một nghìn năm thành ra yêu quái, có phép thuật biến hóa ra nhiều hình trạng, có lúc hóa người, lúc hóa khỉ, đi khắp cả nhân gian. Tới đâu, cáo quấy phá lộng hành tới đó, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ hoang mang. Quanh vùng hang nó ở, dân chúng phải bỏ đất đai, dời nhà cửa đi nơi khác. Lúc bấy giơ,ụ ở dưới chân núi Tản Viên có giống người Mán biết cày ruộng, dệt vải, may áo trắng mà mặc, nhân đó gọi là Bạch Y Man (Mán áo trắng). Con cáo chín đuôi cũng từ miền xuôi lên tới đó hóa ra người áo trắng nhập bọn, cùng những người Mán ca hát, dụ dỗ được người con trai con gái nào thì đem về nhốt ở hang đá. 

Lời ta thán của dân đến tai Lạc Long Quân. Thần mới tìm đến động huyệt Hồ Tinh. Một cuộc giao chiến khủng khiếp diễn ra. Hồ Tinh giở hết các pháp thuật biến hóa những mong hại đối phương, song gặp phải tay địch thủ cao cường mưu trí, con quái vật sau cùng thấy mình đuối thế đành bỏ chạy. Lạc Long Quân đã cho bao vây kín chặt quanh cửa hang, nổi lửa làm hàng rào chặn Hồ Tinh lại, dùng gươm sắt chém chết quái vật, xác hiện nguyên hình là một con cáo lớn có chín đuôi. Những người bị bắt giữ trong hang đều được Lạc Long Quân giải thoát cho về. Động con quái vật thì bị Lạc Long Quân cho dẫn nước sông Cái vào phá hủy. Nước tràn vào mấy ngày đêm, xoáy mạnh vào hang, đào sâu thành cái hồ rộng, làm mất tích cả hòn núi đá, người ta gọi là đầm Con Cáo (Lỗ Hồ Đàm), hay đầm Thây Con Cáo (Thi Hồ Bạch), về sau đổi là Hồ Tây.

Đám dân cư bấy lâu trốn tránh nạn Hồ Tinh được gọi về ở trên khoảng đất cao cạnh hồ, trồng trọt làm ăn ở cánh đồng phẳng bờ phía Tây hồ Con Cáo, ngày nay còn giữ tên là làng Hồ. 

Diệt Mộc Tinh 



Sau khi trừ xong hai con quái vật ở nước và ở đồng bằng, Lạc Long Quân lại nghe đến sự phá hoại của con yêu quái khác ở đất Phong Châu.

Nguyên nơi đây có một cây cổ thụ đã mấy ngàn năm, vô cùng cao lớn, um tùm che khuất cả vùng, gọi tên là cây Chiên Đàn, một thứ cây gỗ thơm. Sau một trận bão to, cây bị trốc gốc, tinh cây hóa thành một con yêu quái thích bắt người ăn sống, giết hại dân gian vô kể. Người ta gọi tên nó là Mộc Tinh.

Lạc Long Quân quyết ra tay trừ hại, song đánh nhau mấy ngày đêm vẫn chưa hạ được con yêu. Sau Lạc Long Quân phải cậy đến cha là Kinh Dương Vương, hai cha con mới đánh cho Mộc Tinh bị trọng thương, phải tìm đường bỏ chạy về phía Tây Nam rồi hóa thành quỷ Xương Cuồng. 

Quỷ Xương Cuồng ẩn náu trong rừng núi được ít lâu rồi lại quấy nhiễu dân chúng, rình mò tại các nơi hẻo lánh bắt người ăn thịt. Dân cư ở thượng du hàng năm phải lần lượt nộp mỗi nơi một người sống để cho nó đỡ phá hoại.

Tương truyền đến đời Đinh Tiên Hoàng, có một pháp sư Tàu tên Dũ Văn Mâu tới bày kế mở một một hồi lớn làm trò cho quỷ Xương Cuồng đến ăn và xem, rồi niệm bí chú tuốt gươm chém được quỷ cùng tất cả bộ hạ của nó. Từ đó miễn được cái họa dâng người hàng năm và sinh hoạt của nhân dân mới được bảo toàn. 

Gặp gỡ Âu Cơ – Truyện Trăm Trứng và Chia Con :



Sau khi trừ được các mối họa lớn cho dân, Lạc Long Quân thay cha trị dân, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ti, có luân thường về phụ tử phu phụ; hoặc có lúc đi về Thủy phủ nhưng trăm họ vẫn được yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thì kêu Lạc Long Quân : “Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng con!”. Tức thì Lạc Long Quân đến ngay, uy linh cảm ứng, không ai có thể trắc lượng được. 

Thuở ấy tại phương Bắc, Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai. Nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh Nam Tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tạm coi việc nước để mình Nam tuần qua nước Xích Quỷ, tới nơi vào lúc Lạc Long Quân đã về Thủy phủ. Đế Lai bèn lưu ái thê là Âu Cơ ở lại hành tại còn mình thì tiếp tục chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thế, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm, dị thú, tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị không thứ nào là không có, khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh. Đế Lai lấy làm ái mộ lắm, quên cả ngày về. Nhân dân khổ sở vì sự phiền nhiễu bèn kêu cứu đức Lạc Long : “Bố ở phương nào, nên mau về cứu chúng con !”. Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình, dung mạo đẹp lạ lùng, bèn hóa ra một chàng phong tư tài mạo, tả hữu thị tùng đông đảo, nhã nhạc vang lừng. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng, theo về núi Long Trang.

Đến khi Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai bộ hạ đi tìm kiếm mọi nơi, không được đành trở về Bắc. 

Long Quân và Âu Cơ ở với nhau, cách một năm sinh được một bọc trứng, cho là điềm không hay nên bỏ ra ngoài đồng nội. Hơn bảy ngày, trong bọc trăm trứng nở ra trăm con trai. Âu Cơ đem về nuôi nấng, lũ trẻ chóng lớn, khỏe mạnh, trí dũng hơn người. 

Long Quân thường ở Thủy phủ để Âu Cơ cùng các con trong cung điện trên đất. Xa chồng, Âu Cơ đâm ra nhớ quê cũ, bèn dẫn các con về thăm phương Bắc. Bấy giờ Đế Lai cùng giòng giõi đã bị Hoàng Đế tiêu diệt. Nghe tin Âu Cơ đưa một trăm con trai tới bờ cõi, Hoàng Đế sợ đến báo thù, bèn đem binh ra ngăn. Âu Cơ cùng các con quay trở lại phương Nam, gọi Lạc Long Quân đến. Vợ chồng cha con gặp nhau ở đồng Cổn. Âu Cơ nói : 
- Thiếp ăn ở cùng chàng, sinh được trăm con trai. Nay chàng bỏ thiếp mà đi, khiến con không cha, vợ không chồng, thật là bi thương. Xin cho cùng theo chàng. 

Lạc Long Quân nói : 
- Ta thuộc giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khác nhau, người thích ở cạn, người ưa ở nước, tính tình đôi bên khác nhau, không cùng ở chung với nhau một nơi lâu được. Bây giờ một nửa các con theo ta về Thủy phủ, còn một nửa thì ở lại với nàng. Tuy đôi bên kẻ ở rừng, người ở biển, song đến khi có việc gì thì tin cho nhau, không được bỏ nhau.

Trăm con trai đều cùng nghe lệnh rồi chia tay nhau mà đi, năm mươi theo mẹ lên núi, năm mươi theo cha về biển, chi nhau cai quản khắp nơi. Âu Cơ cùng năm mươi con ở Phong Sơn, nay là huyện Bạch Hạc, tôn người con trưởng làm chúa, gọi là Hùng Vương.

BÌNH CHÚ :


1. Về Gốc Tích Dòng Giống

Dù có chịu ảnh hưởng ngoại lai nhiều hay ít, thì nguồn gốc dòng giống và văn hóa Việt vẫn rõ ràng biệt lập hẳn với dòng giống và văn hóa Hán tộc. Có thuyết cho rằng nền văn hóa của Hán tộc cũng chỉ là nền văn hoá của Viêm đế (Thần Nông) phát xuất từ phương Nam, nòi Hán chiếm đoạt lấy, sửa đổi đi.

Cho nên khi nói đến văn hóa, nhất là khi nói đến dòng giống mà gặp điều gì cứ muốn kéo mối liên hệ dòng giống Việt vào với dòng giống Hán là y như có dư luận phản ứng chống lại. 

Cũng với ý trên, muốn giữ cho dòng giống một ngành độc lập đặc biệt và cố hữu, giáo sư Trần Ngọc Ninh viết : 

Theo những thần thoại cổ thì Lạc Long hay vị Tổ đời thứ nhất của dân tộc phải là một người đầy trí đức, đã được trời cứu khỏi nạn Hồng thủy để lập nên một nước mới. Theo thuyết của Trung Hoa thì trận Hồng thủy xảy ra dưới đời vua Nghiêu, đời vua Thuấn, tới ông Vũ mới bình trị được. Kinh Thư còn có câu : “Hồng thủy ngất trời. Mênh mông bọc núi trùm gò ! Dân dưới mê man chìm đắm.” Như vậy thì nói rằng Lạc Long Quân cùng thời với vua Nghiêu và là cháu của Thần Nông cùng không phải là sai lắm. Nhưng sự ngửa cổ hướng về phương Bắc cho rằng dân Việt phải là dòng dõi Tam Hoàng qua sự liên hệ với Kinh Dương Vương Lộc Tục thì rõ ràng là một chuyện đặt ra khi nền văn hóa Trung Hoa đã bao trùm đất Việt. Đó là điều ta phải minh định lại để ý nghĩa nguyên thủy của huyền sử được rõ ràng. 

(Trần Ngọc Ninh viết, “Huyền thoại Việt Nam”, Tân Văn số 13, tháng 5, 69, tr 5. Những dòng in ngả là do soạn giả)



2. Về Truyện Ngư Tinh :


Vẫn theo giáo sư Trần Ngọc Ninh trong bài báo thượng dẫn thì vĩ tích thứ nhất của Lạc Long Quân giết Ngư Tinh mở đầu cho sự tổ chức vũ trụ. Ngư Tinh là một con cá lớn đã thành tinh, sống ở biển ăn thịt người. So sánh với các huyền thoại khác, Ngư Tinh cũng như con rồng Tiamat hiện thân của Hỗn mang nguyên thủy trong thần thoại Babilon, và cũng như con rắn Naga hay con rồng Vaitha của dân Ấn, Âu … Nhìn qua khía cạnh cơ cấu pháp, có lẽ sự cầm cái lao nướng đỏ phóng vào họng con cá thành tinh là điều quan trọng nhất trong huyền thoại này. Cách nướng cá ngày nay của người Việt và nhất là người ven biển là một sự bắt chước thần Lạc Long để khắc phục Tinh Cá. Từ sự ăn sống, nuốt tươi, người dân cổ sơ của đất Việt đã chuyển sang một đời sống có văn hóa, dùng lửa để biến đổi thiên nhiên trong việc ăn uống.

Rồi mỗi năm vào ngày đầu năm, dân ta ngày nay còn giữ tục múa lân. Con “lân” đây thực ra là con quái vật hiện thân của Hỗn mang nguyên thủy mà thần Lạc Long đã chiến thắng bằng uy vũ. Mùa xuân mới là lúc vạn vật tái tạo, nên phải diễn lại huyền thoại cũ để đặt trật tự của vũ trụ trên những nền tảng được truyền lại từ đời Tiên Tổ.

Vẫn theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, trò chơi “Rồng Rắn” của trẻ Việt cũng là trò chơi để nhắc nhở tới vĩ tích đầu tiên của thần Lạc Long. Sau lời đối đáp cuối cùng : . “Cho xin khúc đuôi …” – “Tha hồ mà đuổi”, ông thầy thuốc (hay pháp sư) đuổi bắt khúc đuôi, Rồng Rắn chống lại, nhưng trong cuộc giao tranh, khúc đuôi bị đứt và pháp sư rượt theo nắm được. Đó là tấn kịch diễn lại việc thần Lạc Long diệt Ngư Tinh.

Hai vĩ tích kế tiếp là diệt Hồ Tinh và diệt Mộc Tinh, tất cả những huyền thoại trên đều thuộc vòng Lạc Long Quân, mang theo những di ngôn căn bản cho dân tộc, nói chuyện khai phá hỗn mang, trừ các yêu quái, để tạo cho dân tộc một không gian sinh tồn, mở đầu chuyện tổ chức nhân gian. Những thần thoại từ đời Hùng Vương trở về sau, thuộc vòng Hùng Vương, ghi chép những nỗ lực xây dựng nếp sống thuần túy văn hóa của dân tộc: vũ trụ quan trời tròn đất vuông trong Truyện Bánh Dày, Bánh Chưng; lễ nghĩa, liêm sỉ, tình anh em, tình vợ chồng trong huyền thoại Trầu Cau v.vv (Xin đọc : Trần Ngọc Ninh, bài báo đã dẫn)

HÙNG VƯƠNG



Hùng Vương trị đất Lạc, đặt tên là nước Văn Lang, chia ra thành nhiều khu vực cho các anh em mỗi người cai quản một nơi, còn một số thì ở với mẹ. 

Buổi đầu, vật dụng của dân chúng chưa đủ, lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy nước nhựa làm rượu, lấy bột cây quang lang làm cơm, lấy cầm thú ngư trùng làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, đốt rừng làm nương. Đất nhiều gạo nếp, lấy ống tre để nấu. Gác cây làm nhà để tránh hùm sói. Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Con mới sinh thì lấy lá chuối lót. Khi trong nhà có người chết thì lấy cối chày ra mà giã làm hiệu cho hàng xóm biết chạy đến giúp nhau. Trai gái lấy nhau chưa dùng trầu cau, chỉ mới lấy phong muối làm lễ đầu, rồi sau mới đem trâu dê tới. Dần dần thành lập kinh đô ở Phong Châu, các bộ lạc đặt dưới quyền tù trưởng gọi là Lạc tướng; các Lạc tướng chịu phục tòng ít nhiều một vị tù trưởng có thế lực hơn hết cả gọi là Lạc hầu hay là Lạc vương. Con trai vương là quan lang; con gái là mỵ nương hay mệ nàng.

Trong xứ có nhiều ao, đầm, hồ, sông và tiếp giáp biển. Dân chúng sinh hoạt về nghề chài lưới thường bị các giống thủy tộc như thuồng luồng cá sấu làm hại. Hùng Vương nghe những tai nạn dân sự hay gặp phải mới bảo rằng : 

- Ta cùng các anh em ta vốn thuộc giống rồng. Rồng thường ưa đồng loại mà ghét dị loại, vậy nên dùng chàm vẽ hình rồng vào người, để khi lặn xuống, các em ta nhận ra đồng loại mà không làm hại nữa.

Do đó mà người Lạc Việt có tục xâm mình và tin rằng mình là cháu giao long. Nước của Hùng Vương cũng vì thế mà gọi tên là Văn Lang. 

CHỬ ĐỒNG TỬ (*)



Đời Hùng Vương thứ ba, vua có người con gái tên là Tiên Dong, mới mười tám tuổi, nhan sắc xinh đẹp, không muốn lấy chồng, chỉ thường hay đi chơi các sông núi xem phong cảnh. Vua chiều công chúa mặc ý cho đi chơi không cấm. Mỗi năm trong tuần tháng hai, tháng ba, bơi thuyền chơi ở mạn sông làng Chử Xá (tức là làng Chử Xá huyện Văn giang bây giờ).

Ở làng ấy có một người tên là Chử Cù Vân và người con là Chử Đồng Tử. Hai cha con thiên tính từ hiếu, gặp khi nhà phải hỏa tai, của cải hết sạch cả, chỉ còn một cái khối vải, cha con thay đổi nhau, có ai đi đâu thì đóng. Đến khi Cù Vân phải bệnh, dặn con rằng : 
- Cha mà chết đi rồi thì cứ táng trần cho cha, còn cái khố đấy để cho con.

Cù Vân mất, Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết truồng, lấy khố quàng cho cha rồi mới chôn. Còn mình thì trần truồng đói rét khổ sở, ngày ngày đứng náu mình bên sông, chờ có thuyền buôn qua lại thì xin, hoặc là câu cá bán để hộ thân. 

Một hôm, nàng Tiên Dong bơi thuyền đến chơi làng Chử Xá, chiêng trống om xòm, đàn sáo rầm rĩ cờ tàn rợp đất, lính tráng rất đông. Chử Đồng Tử trông thấy sợ hãi, ẩn vào trong bãi lau sậy, cào cát lên, nép mình xuống dưới, rồi lấy cát trùm lên trên. 

Tiên Dong bơi thuyền đến bến, thấy phong cảnh vui đẹp, mới lên bãi cát đứng xem, nhân chỗ ấy sạch sẽ, mới cho giăng màn tứ vi trên bãi cát để tắm. Tiên Dong vào màn cởi áo xiêm tắm táp một hồi lâu, giội nước trôi cát. Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dong trông thấy giật mình, nhìn ra biết là người con trai, mới gọi hỏi duyên cớ làm sao, thì Đồng Tử cũng thú thật đầu đuôi làm vậy. 

Tiên Dong bảo rằng : 
- Ta nguyên không muốn lấy chồng. Nay sự đã thế này, tất là Nguyệt Lão xe duyên đây.

Mới sai Đồng Tử tắm táp, ban cho quần áo, đem xuống thuyền ăn uống vui vẻ. Người trong thuyền ai cũng cho là kỳ dị. 

Đồng Tử thoạt nhất định xin từ, không dám lấy, Tiên Dong bảo rằng : 
- Thiếp với chàng tự trời xe duyên can gì mà từ. 

Đồng Tử từ mãi không được phải nghe. Từ bữa ấy, hai người kết làm vợ chồng. 

Có người về tâu với vua Hùng Vương, vua nổi giận, nói rằng : 
- Tiên Dong không biết tiếc danh giá, chơi bời đường xa, lấy kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào mà nhìn đến ta !

Tiên Dong vì thế sợ hãi không dám về, mới cùng Đồng Tử lập ra phố xá buôn bán với dân. Buôn bán mỗi ngày một phồn thịnh, dần dần thành ra một làng. Các khách buôn bán ngoại quốc qua lại, ai cũng coi bà Tiên Dong là chủ cả vùng ấy. 

Có một người lái buôn bảo với Tiên Dong rằng : 
- Nếu được trăm cân vàng, cho người đi với tôi ra ngoài bể, buôn những đồ quý, sang năm tất được lãi gấp mười. 

Tiên Dong mừng rỡ, bảo với Chử Đồng Tử rằng : 
- Vợ chồng ta tự trời dắt lại, cơm áo mặc cũng là tự trời cho, vậy thì chàng nên đem vàng ra bể mà buôn.

Chử Đồng Tử đem vàng đi với người lái buôn ra ngoài bể. Đến núi Quỳnh Lãng, trông lên núi có một am nhỏ, Đồng Tử trèo lên xem phong cảnh. Trong am có một nhà sư trẻ, tên là Phật Quang, thấy Đồng Tử có cách điệu thần tiên, muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử ở liền ngay đấy học đạo. Được hơn một năm, Đồng tử trở về, Phật Quang tặng cho một cái gậy, một cái nón và dặn rằng : 
- Phép linh thông ở cả cái gậy và cái nón nầy.

Đồng Tử vâng lĩnh từ về, đem đạo Phật dạy Tiên Dong. Tiên Dong tỉnh ra, mới bỏ cửa hàng buôn, hai vợ chồng rủ nhau đi học đạo. Một hôm đi xa, trời đã tối mà chưa đến chỗ dân cư, mới tạm chống gậy và che cái nón ở dọc đường mà nghỉ. Canh ba đêm hôm ấy, bỗng dưng hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện châu, kho tàng, dinh phủ, vàng, bạc, châu báu, giường sập, màn trướng, lại có tiểu đồng, ngọc nữ, tướng sĩ, thị vệ hầu hạ xung quanh. 

Sáng ngày hôm sau, ai ai trông thấy cũng lấy làm lạ lùng kinh hãi, tranh nhau mang hương hoa ngọc thực đến dâng. Lại có đủ văn quan võ tướng chia quần canh giữ các cửa thành, tựa hồ một nước. 

Vua Hùng Vương thấy chuyện như vậy, cho là làm loạn, sai quan quân đến đánh. Khi quan quân sắp đến nơi, bộ hạ xin đem binh ra cự.

Tiên Dong cười nói rằng : 
- Việc nầy không phải tại ta làm ra, bởi tự trời xui nên thế. Ta dù sống chết đã có trời, dám đâu cự nhau với cha? Ta chỉ thuận theo lẽ phải, mặc ý cha ta giết chết cũng cam tâm.

Khi quan quân tiến đến, đóng ở châu Tự Nhiên (bây giờ là phủ Khoái Châu), còn cách bên này một con sông. Trời đã tối, quân chưa kịp sang sông. Đến nửa đêm, bỗng nhiên trời nổi giông gió, bay cát đổ cây, rồi thì toàn khu vợ chồng Tiên Dong ở, cửa nhà, người, giống vật trong một lúc bay cả lên trời; chỉ còn bãi đất không ở lại trong đầm mà thôi. Bởi thế bãi ấy gọi là bãi Tự Nhiên; đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ (một đêm).

Dân ở đấy thấy sự lạ lùng mới lập miếu để thờ. Về sau, vua Triệu Việt Vương đóng binh trong đầm, cự nhau với quân nhà Lương. Tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Đến lúc Bá Tiên trở về, ủy cho tì tướng là Dương Sàn vây đánh. Triệu Việt Vương thiết đàn trogn đầm cầu khẩn, xin thần giúp cho. Bỗng thấy một ông thần (tức là Chử Đồng Tử) cưỡi rồng xuống đàn, bảo rằng : 
- Ta tuy đã lên trời, nhưng uy linh vẫn còn ở đây. Người có lòng thành cầu đếm ta, vậy ta xuống giúp. 

Nói đoạn nhổ một cái vuốt chân rồng, trao cho Triệu Việt Vương và dặn rằng : 
- Người lấy cái vuốt rồng này, cắm lên chỏm mũ đâu mâu, thì đi đến đâu, giặc phải tan đến đấy.

Nói vừa dứt lời, rồng bay vụt lên trời biến mất. 

Triệu Việt Vương nghe lời, cắm vuốt rồng lên trên chỏm mũ. Tự bấy giờ sức khỏe mạnh hơn trước, thanh thế mỗi ngày một to, mới đem quân ra đánh nhau với Dương Sàn, chém được Dương Sàn tại trước trận, quân nhà Lương phải tan, chạy hết về Tàu. 

PHỤ CHÚ : Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh (bài báo đã dẫn), với người dân miền núi, tất nhiên ngọn núi cao nhất là ngọn ghê gớm nhất, linh thiêng nhất như đệ nhất cao sơn Tản Viên của Việt Nam, một hình ảnh của Kình thiên trụ nối liền trời đất, như núi Meru của Ấn độ, Côn Lôn của Trung Hoa, Gêrizim của Do Thái, Kuaba của Islam. Nhưng với người dân miền đồng bằng ven sông, trên bãi không, cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên, thành biểu tượng của cột chống trời, linh thiêng hiển hiện, đất cấm trở nên ở được, trù phú (xin đọc lại : “Ý nghĩa cột chống trời” trang 8-9 trên đây). Như vậy Chử Đồng Tử là hình ảnh của kẻ đầu tiên chinh phục miền đồng bằng và mở đầu cho xã hội ngư nông. Ý nghĩa di ngôn : hãy để yên cho người dân sinh sống và lập nghiệp, vì nếu đố kị mà đem quân xuống, tất cả nền văn hóa đồng bằng có thể tiêu tan trong một đêm, làng mạc trù phú lại trở thành một bãi tự nhiên.

(*) Theo bản văn của Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân, Saigon : Mặc Lâm, 1958.


SỰ TÍCH TRẦU CAU *



Ngày xưa, vào đời vua Hùng Vương thứ tư, có nhà họ Cao, sinh hai người con trai giống nhau như hai giọt nước, đặt tên là Tân và Lang. Hai anh em đều khôi ngô và trìu mến nhau, ít khi rời nhau. Bà mẹ nhiều khi cũng không phân biệt được đứa nào là anh, đứa nào là em. Khi anh em mới được mười lăm, mười sáu tuổi thì cha mẹ đều chết vì một trận hỏa hoạn, thiêu rụi nhà cửa và của cải. Đôi trẻ mồ côi được một ông quan họ Lưu nghĩ tình bạn đồng liêu với họ Cao thân sinh ra hai anh em, bèn đưa về nhà nuôi. 

Họ Lưu có một cô gái tên là Xuân Phù đang tuổi dậy thì, định bụng gả cho một trong hai anh em. Nàng Xuân Phù không làm sao phân biệt được: hai anh em giống nhau từ nét mặt đến tính tình, tài học. Hai anh em lại tranh nhau nhường nhịn, người này muốn cho người kia được lòng cô gái đáng yêu. Một hôm, ông quan họ Lưu sai con gái dọn ra một mâm cơm để chọn rể, bầy đầy thức ăn, hai cái bát, nhưng chỉ có một đôi đũa. Người em liền cầm lấy đôi đũa đưa mời anh ăn trước. Ông quan họ Lưu nhìn nhận người anh làm rể. 

Vì tình quý mến anh, Lang cũng dễ dàng thắng được mối tình đối với người con gái đã trở nên chị dâu mình.

Còn Tân thì mải mê theo tình duyên mới, hóa ra lơ là đối với em trai. Lang âm thầm đau khổ, sót sa anh vì tình vợ chồng mà quên tình ruột thịt, rồi đến một hôm không còn chịu đựng được nữa, Lang bỏ nhà anh chị ra đi.

Người em cứ thẳng trước mặt mà đi, đi mãi không kể mệt nhọc, cho đến khi tới một con sông lớn. Không vượt qua sông được, người em đành ngồi lại bên bờ, nghĩ đến số phận mình mà chết mòn trong đau đớn. Rồi người em hóa thành hòn đá.

Người anh ở nhà lâu không thấy em về, đoán hiểu duyên cớ, lấy làm hối hận, vội vàng đi tìm. Đi được mấy ngày, người anh đến bờ sông, mệt nhọc ngồi xuống cạnh hòn đá, tựa đầu lên nghĩ nhớ thương em mà chết. Rồi người anh hóa thành cây thân cao thẳng tắp có trái và lá khoảng ngọn. 

Người vợ ở nhà, mòn mỏi trông chồng, mỗi ngày một biệt tăm cũng lên đường đi tìm. Nàng lê bước tới sông, mệt nhoài ôm lấy thân cây cho khỏi ngã, rồi khóc lóc nghĩ nhớ thương chồng cho tới chết, hóa thành một thứ dây leo quấn lấy thân cây cao thẳng.

Dân chúng ở vùng được báo mộng bèn dựng đền thờ vong linh ba người. Sau đó gặp năm đại hạn, cây cỏ khắp nơi đều khô héo, chỉ riêng cây kia và dây leo quấn quanh là vẫn xanh tươi. Tin lại đồn đi, khách thập phương kéo đến lễ rất đông. Vua Hùng Vương cũng ngự tới nơi, nghe các bậc bô lão trong làng kể lại câu chuyện hóa thân của ba người lấy làm cảm động bèn cho hỏi các quan hầu về việc lạ lùng kia. Một vị lão thần tâu : “Tâu bệ hạ, lệ thường muốn biết sự liên quan máu mủ ruột thịt của hai người, thì chích lấy hai giọt máu của đôi bên mà hòa lẫn với nhau.Hễ hai giọt máu hòa trộn lại với nhau thì đúng cùng là một dòng huyết cha mẹ mà ra. Bệ hạ hãy cho trộn lẫn lá dây leo kia với trái cây nọ cùng bột đá này thử xem sao?

Vua nghe theo, ra lệnh nung đá thành vôi, rồi tán nhỏ, quệt lên lá trầu nhai lẫn với trái cau thì thấy hóa thành một màu đỏ thắm tươi như máu. Cho rằng đây là tình nghĩa của hai anh em và người vợ đã chết kết tinh lại, vua Hùng Vương truyền cho dân chúng đem hai thứ cây kia về trồng, gọi tên là cau và trầu. Từ đó nước ta có tục lệ dùng trầu cau trong lễ cưới hỏi để nhắc nhở đến sự tích trên. Trầu cau tượng trưng cho tình nghĩa thắm thiết giữa anh em vợ chồng. 

(*) Bản văn Hoàng Trọng Miên, VNVHTT II, Cổ tích (Sài Gòn, 1959), tr. 114-115



PHỤ CHÚ : “Sự tích Trầu Cau” kể trong Lĩnh Nam Chích Quái chỉ thấy ghi là : “Đời thượng cổ có một chàng tên là …” và “trong khoảng tháng bảy, tháng tám, khi nóng còng nồng, Hùng Vương đi tuần hành thường nghỉ chân ở đây để tránh nắng.” (Bản dịch Lê Hữu Mục tr.50). Không thấy nói là vào đời Hùng Vương thứ mấy.



Bản của Hoàng Trọng Miên trên đây thì ghi là đời vua Hùng Vương thứ tư. Vì vậy truyện được xếp sau truyện “Chử Đồng Tử”, đời vua Hùng Vương thứ ba.

Ông Hoàng Trọng Miên cũng đã xếp truyện trên vào quyển hai “Cổ tích”. Quả thực truyện Trầu Cau đã dời xa không khí thần thoại thuần túy mà xuống tới cuối dòng tiến triển thành huyền thoại (Ph. légende), khoảng này là giao lưu lẫn biên giới giữa thần thoại với truyện cổ tích. Tuy nhiên soạn giả vẫn xếp truyện này cùng truyện “Bánh Dầy Bánh Chưng” vào tập thần thoại để giữ cho trọn vẹn những huyền thoại xây dựng văn hóa của vòng Hùng Vương, sau những huyền thoại khai phá thiên nhiên gây dựng đất sống cho dòng giống của vòng Lạc Long Quân trước đấy. (Chữ dùng của giáo sư Trần Ngọc Ninh, bài báo đã dẫn).



PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG



Đời Hùng Vương thứ sáu, thiên hạ đương thái bình thì Ân Vương ở phía Bắc lấy sự thiếu lễ triều cống, giả đi tuần thú để xâm chiếm nước ta.

Hùng Vương nghe được mới triệu quần thần hỏi về kế hoạch đánh hay giữ. Có nhà phương sĩ dâng lời nói rằng : 
- Không gì bằng cầu Long Quân để nhờ âm phù.

Hùng Vương nghe theo mới đắp đàn trai giới, đặt vàng bạc lụa là ở trên bàn, đốt hương cầu tế ba ngày thì trời cảm sấm mưa, thoắt thấy một ông già cao hơn sáu thước, mặt vuông, bụng lớn, râu mày bạc phơ, ngồi ở ngã ba mà nói cười ca múa. Người ta trông thấy, ngờ là người phi thường mới tâu vua. Vua thân hành ra bái yết rước vào trong đàn; ông già không ăn uống, không nói năng gì cả.

Hùng Vương đến trước hỏi rằng : 
- Nay binh nhà Ân sắp sang đánh, hơn thua ra sao, nếu có kiến thức gì xin chỉ bảo cho.
Ông già giây lát mở thẻ ra bói, thưa với vua rằng : 
- Sau ba năm giặc mới qua đánh.
Vua hỏi kế hoạch để đánh giặc. Ông già đáp rằng: 
- Nếu có giặc đến thì phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ tốt để cho nước có uy thế, rồi tìm khắp thiên hạ, ai dẹp được giặc thì phong cho tước ấp. Hễ được người ấy thì dẹp giặc không khó nữa. 

Nói đoạn, bay lên không mà đi mới biết là Long Quân. 

Vừa đúng ba năm, biên binh cáo cấp có quân Ân sang. Hùng Vương y theo lời nói của lão nhân, sai sứ đi khắp thiên hạ để tìm người dẹp giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay) có một người đàn bà đã ngoài sáu mươi, cách đó mấy năm, một hôm ra đồng trông thấy một vết chân người rất to lớn, lấy làm lạ bèn ướm thử ướm chân mình vào. Tự nhiên khi ướm chân bà thấy xúc động cả người, rồi về nhà thọ thai, sinh ra một đứa bé trai, đặt tên là Gióng. Đã lên ba rồi mà đứa trẻ vẫn không biết lật và cũng không biết nói. 

Đến ngày sứ giả Hùng Vương đi qua làng rao tìm người tài giỏi đánh giặc, đứa trẻ tự nhiên ngồi dậy cất tiếng xin mẹ mời sứ giả đến, rồi nói với sứ giả : 
- Người hãy lập tức về tâu với vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao mười tám thước, một gươm sắt dài bảy thước, một cái nón sắt, kẻ này cỡi ngựa, đội nón đi đánh giặc cho, giặc sẽ phải tan tành, nhà vua việc gì mà lo.

Sứ giả chạy về trình cáo với vua. Vua mừng bảo rằng : 
- Thế thì ta không lo gì vậy.
Quần thần đều tâu :
- Một người đánh giặc, làm sao mà phá nổi?
Vua nói :
- Đó là Long Quân giúp ta, lời lão nhân đã nói trước không phải là nói không, các người không nên ngờ. 

Rồi sai luyện ngựa sắt, gươm sắt, và nón sắt. Sứ giả đem tất cả đến; bà mẹ thấy thế cả kinh, sợ họa đến mình. Đứa trẻ cả cười nói rằng : 
- Mẹ đem cơm thật nhiều cho con ăn, con đi đánh giặc, mẹ đừng lo sợ. 

Rồi đứa trẻ lớn rất mau, áo cơm hàng ngày bà mẹ cung cấp không đủ; hàng xóm nấu thêm cơm, làm thịt trâu, mang thêm rượu bánh, thế mà đứa trẻ ăn vẫn không no bụng, vải lụa mang chẳng kín mình, cửa nhà cũng không vừa, phải ken cỏ lau lợp một cái nhà to cho ở. 

Đến khi quân nhà Ân kéo tới Châu Sơn (thuộc huyện Tiên Du, Bắc Ninh bây giờ), đứa trẻ mới duỗi chân đứng dậy, mình cao hơn mười trượng, nghểnh mũi mà nhẩy, nhẩy mũi hơn mười tiếng rồi tuốt gươm nói lớn : 
- Ta là thiên tướng đây !

Bèn đội nón sắt, nhảy lên ngựa sắt, ngựa phi như bay, chỉ chớp mắt đã đến sát lũy giặc ở chân núi Châu Sơn. Quan quân vội vã ùa theo sau. Ngài xông vào trận thẳng tay đánh phá, quân Ân cả vỡ, thây chết ngổn ngang. Đang lúc một mình một ngựa đánh giết lũ giặc hung tợn, thanh gươm độc nhất bỗng bị gãy ngang. Ngài với tay nhổ cả bụi tre ở bên đường, quật vào đầu quân giặc đã tán loạn hàng ngũ. Quân giặc tan nát tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất, kêu rằng : 
- Lạy ngài, ngài là thần tướng trên trời, chúng con xin chịu hàng cả.

Đánh tan giặc xong, ngài phi ngựa lên ngọn núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại rồi cưỡi ngựa bay lên trời, chỉ lưu dấu chân trên đá ở dưới núi mà thôi. 

Tục truyền rằng các hồ ao ở trong rừng từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, đều là dấu vết chân ngựa sắt của ngài để lại. Khu rừng rậm bị đốt cháy ngày nay còn mang tên là làng Cháy. Những bụi tre ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ thành rừng ở huyện Gia Bình, gọi là tre đằng ngà.

Hùng Vương nhớ đến công lao không biết lấy gì để đền báo mới tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ở vườn nhà làng ấy, cho ruộng một trăm khoảnh để làm lễ hưởng tế xuân thu.
Đời nhà Ân hai mươi bảy vua, trải qua sáu trăm bốn mươi năm, không dám đem binh sang đánh nữa.

Theo sách Việt Điện U Linh tập (phần tục bổ của Nguyễn Văn Chất), thì đời Lê Đại Hành quan Khuông Việt Thái Sư là Ngô Cảnh Chân có qua núi Vệ linh, đêm mộng thấy thần, bèn cho đốn cây cổ thụ tạc tượng lập đền. Năm Thiên Phúc nguyên niên, quân Tống vào cướp, vua nghe đền này linh ứng, bảo Thái sư đến cầu đảo.

Lúc bấy giờ quân nhà Tống đóng trong làng Tây Kết, hai bên chưa đánh nhau, quân Tống tự nhiên kinh hãi, kéo lui, đóng ở dòng sông Chi Giang, lại gặp sóng cả gió to, giao xà nổi dậy, chúng càng kinh sợ mà bỏ chạy, tướng nhà Tống là Quạch Quỳ đành kéo quân trở về Tàu.

Vua lập đền thờ để phụng tự.

PHỤ CHÚ : 

Trong sách Việt Điện U Linh Tập lời “tiếm bình” có viết : 
“ … Duy giáng thế mà đuổi được giặc Ân, hiển thánh mà lui được binh Tống, có công đức với dân, không gì lớn hơn nữa; sở dĩ được hưởng trăm nghìn năm trai gái nghi cúng vái, hơn cả các vị thần khác được liệt vào hàng bất tử, có phải tình cờ mà được vậy đâu?

Đền miếu Phù Đổng đứng vào bậc nhất, bốn tổng lớn như Thắng, Đổng, Minh, Viên tuế tiết phụng tự rất là thành kính, mỗi năm đến ngày mồng chín tháng tư có hội làm hội lớn của Bắc Giang. Các tổng miền thượng du ở sát núi Vệ Linh là chín tổng, mỗi khi đến lễ đại hội thì lấy đồ lộ bộ bằng đồng thực mà nhóm lại đánh nhau để diễn lại vũ công của Thiên Vương. 

Đền thờ ở làng Cảo Vương làm cảnh đẹp cho kinh đô, đến đầu năm làm lễ tế đầu xuân thì thực là nơi đô hội của cả một phương. Âm linh chói lọi, chín tầng trời hâm mộ đoái hoài, làm lặng bụi dơ mà phục hồi bờ cõi, suối trong nước lặng, nước Việt ta yên ổn vững vàng như bàn thạch Thái Sơn thực là nhờ sức hiển tướng của thiên vương vậy.”

Sách Linh Nam Chính Quái kể truyện ngài có bài thơ rằng : 
Vệ linh năm tháng đám mây nhàn,
Muôn tía nghì hồng chói thế gian,
Ngựa sắt ở trời danh ở sử,
Uy linh lừng lẫy khắp giang san.

Về huyền thoại di ngôn Phù Đổng Thiên Vương này, giáo sư Trần Ngọc Ninh có ghi những lời cảm động như sau, chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn: 

… Trong tâm lý thần thoại của người thái cổ không riêng gì ở Việt Nam, sự so chân mà thụ thai là dấu hiệu của một định mệnh phi thường. 

Huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương là một huyền thoại sống của dân tộc trong cả một vùng từ Bắc Ninh lên tới Phủ Lạng Thương. Một huyền thoại sống là một huyền thoại được dân tin như một chân lý tối thượng và tuyệt đối tin hơn cả những gì trước mắt tin vì còn có bằng chứng hiển nhiên, tin vì chứa đựng một ý nghĩa cao cả vừa quyến rũ vừa làm cho kinh hoàng như một sự thiêng liêng.

… Phù Đổng Thiên Vương được các nho sĩ thời xưa coi là cái hạo khí của giang sơn hun đúc mà thành. Truyền thuyết cho là một hậu thân của thần Lạc Long. Cũng như Lạc Long, cậu bé làng Gióng đã tạo ra cả giang sơn cảnh vật một vùng. Vĩ tích của Phù Đổng Thiên Vương cũng là một vĩ tích để cứu dân tộc.

Nhưng những khác biệt giữa Lạc Long và Phù Đổng hàm chứa những di ngôn khác nhau. Phù Đổng là một đứa trẻ sinh ra trong chốn dân gian. Đứa trẻ ấy yếu ớt, mỏnh manh và chịu đựng. Nó câm và không nhúc nhích. Nhưng khi thời đã đến, thì nó có thể vươn lên với một sức mạnh không ai cản nổi. Nó dùng gươm sắt, nhưng sự chiến thắng sau cùng là nhờ cây tre mọc ngay trên đất Việt. Sức mạnh quyết định là bụi cây mọc ở bờ làng, tượng trưng nền văn hóa của dân tộc. Và khi thành công rồi thì cởi áo bỏ lại rồi lặng lẽ mà tan biến vào hư vô, không ai tìm thấy được nữa.

Phù Đổng Thiên Vương là người dân nước Việt, sinh ra trong bóng tối, lớn lên trong nhẫn nại và nghèo khổ, nhưng có thể làm được những việc phi thường mà không cần đòi hỏi đến công lao. Cái gì có thể biến đổi con người đến mức đó ? Chính là lòng tin của Hùng Vương! Hùng Vương không đòi dân tin nơi mình, nhưng chính Hùng Vương tin nơi dân, người dân câm và yếu, kiên nhẫn và chịu đựng, nhưng khi được ngựa và gươm có thể vươn vai mà thành Phù Đổng Thiên Vương *

(*) Trần Ngọc Ninh, “Huyền Thoại Việt Nam”, Tân Văn 14 (tháng 6-1969), 34,35.



TRUYỆN BÁNH DẦY BÁNH CHƯNG *



Sau khi Hùng Vương đã phá giặc Ân rồi, trong nước thái bình mới lo việc truyền ngôi cho con, hội hai mươi hai vị công tử lại mà bảo rằng : 
- Đến kỳ cuối năm, đứa nào làm vừa lòng ta biết đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng tiên vương để tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho.

Các công tử lo đi tìm các vị chân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc mua ở chợ, vụ được nhiều của ngon vật lạ không biết bao nhiêu mà kể. Duy có công tử thứ chín tên là Lang Liệu, bà mẹ hàn vi đã lâm bệnh mà quá cố rồi, tả hữu lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm thao thức ăn ngủ không yên. 

Hốt nhiên mộng thấy thần nhân bảo rằng : 
- Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán, không có vật gì đứng trước được. Nếu lấy gạo nếp hoặc gói làm hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được. 

Lang Liệu kinh sợ tỉnh dậy, mừng rằng : “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm.”

Lang Liệu mới lựa hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ thì đem vo kỹ, để cho ráo, rồi lấy lá chuối gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu đi cho chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu sôi đem giã cho thật nhuyễn, nặn làm hình tròn để tượng hình trời, gọi là bánh dày.

Đúng kỳ, Vương hội các con trưng bày phẩm vật; các con đem lại không thiếu thức gì, duy Lang Liệu đem bánh tròn, bánh vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ hỏi Lang Liệu, Lang Liệu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vương thân hành nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng, ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không sao hơn được. Vương khen ngợi giây lát, rồi cho Lang Liệu được giải nhất.

Năm hết, Vương dùng bánh ấy dâng lên Tiên Miếu và cung phụng cha mẹ, thiên hạ bắt chước truyền đến bây giờ, lấy tên của Lang Liệu để gọi là Tiết Liệu.

Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liệu; hai mươi mốt anh em đều giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, cứ thủ núi sông để làm hiểm cố.

(*) Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam Chích Quái (Saigon, 1960), bản dịch Lê Hữu Mục, tr. 58-59


THẦN NÚI TẢN VIÊN



Xưa kia Vua Lạc Long khi chia con cùng nàng Âu Cơ, đem năm mươi trai về biển, trong số có Hương Lang. Một hôm, Hương Lang dời hải quốc vào cửa bể Thần Phù (bây giờ thuộc tỉnh Nam Định), lòng những muốn tìm một nơi cao ráo thanh u, dân chúng thuần hậu mà ở. Thần chèo thuyền từ sông Cái đến làng Long Đậu, thành Long Biên, rồi lại chèo từ sông Linh Giang đến bến Phiên Tân thuộc huyện Phúc Lộc. Tới đây, thần trông thấy núi Tản Viên mỹ lệ, ba tầng cao chót vót, hình như cái tán, dân ở dưới núi tục chuộng tố phác, thần bèn từ phía Nam núi hóa phép mở một con đường thẳng như dây đàn từ bến Phiên Tân thẳng đến Tản Viên, đường qua cánh đồng làng Vệ Đỗng và làng Nham Toàn, lại qua cánh đồng Thạch Bạn, Vân Mộng, rồi lên mãi từng núi cao nhất để ở. Mỗi chặng đường nghỉ ngơi như vậy, thần bèn hóa phép hiện ra lâu đài nguy nga tráng lệ.

Thần tự khi ở núi ấy, thường thường ra chơi sông Liễu Hoàng xem cá. Chỗ nào có phong cảnh đẹp cũng đến chơi. Hễ cứ dạo gót qua thăm nơi nào lại hóa phép hiện ra đền đài nơi đó để nghỉ ngơi . Dân làng trông thấy chỗ nào có dấu đền đài, thì lại lập đình miếu để thờ. 

Lại có truyền thuyết khác kể rằng thần núi Tản Viên tuy thuộc dòng dõi vua Lạc Long nhưng thuở lọt lòng bị bỏ rơi trong rừng, được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là Kỳ Mạng *. Sở dĩ thần có tên nầy là vì trước khi gặp cha nuôi, đứa bé mới lọt lòng đã được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ cho khỏi chết. Kỳ Mạng chóng lớn khôn, theo nghề cha nuôi ngày ngày vác rìu vào rừng đốn củi. 

Một hôm, Kỳ Mạng đốn một cây đại thụ. Cây to lớn quá, chặt từ sáng đến chiều mà vẫn chưa hạ nổi. Bỏ dở ra về, đến sáng hôm sau trở vào rừng, Kỳ Mạng hết sức ngạc nhiên thấy những vết chặt đã dính liền lại khắp thân cây. Kỳ Mạng xách rìu lại chặt nữa, suốt ngày ráng hết sức không xong, đến ngày thứ hai trở lại cũng thấy cây vẫn nguyên vẹn như chưa hề bị động tới. Không nản chí, Kỳ Mạng ra công cố chặt nữa, quyết hạ cho kỳ được, rồi đến tối ở lại nấp gần cây rình xem sự thể. Vào khoảng nửa đêm, Kỳ Mạng thấy một bà lão hiện ra, tay cầm gậy chỉ vào cây, đi một vòng quanh cây, tự nhiên những vết chặt lại liền như cũ. Kỳ Mạng nhảy ra khỏi chỗ nấp, tức giận hỏi bà lão sao lại phá công việc làm ăn của mình. Bà lão nói : 
- Ta là thần Thái Bạch. Ta không muốn cho cây này bị chặt vì ta vẫn nghỉ ngơi ở trên cây. 

Kỳ Mạng mới phản đối:
- Không chặt cây thì tôi lấy gì mà nuôi sống?

Bà thần đưa cho Kỳ Mạng cái gậy và dặn rằng : “Gậy này có phép cứu được bách bệnh. Hễ ai ốm đau chỉ cầm gậy gõ vào chỗ đau là khỏi, vậy ta cho ngươi để cứu nhân độ thế”. 

Kỳ Mạng nhận gậy thần, từ đấy bỏ nghề kiếm củi, đi chữa bệnh cho người đau. Có một hôm, đi qua sông thấy lũ trẻ chăn trâu đánh chết một con rắn trên đầu có chữ vương, Kỳ Mạng biết là rắn lạ mới cầm gậy thần gõ vào đầu con rắn thì con rắn ấy sống lại, bò xuống sông mà đi mất. 

Được vài hôm, bỗng có một người con trai, đem đồ vàng ngọc, châu báu đến nói rằng : 
- Thưa ngài, tôi là Tiểu Long Hầu, con vua Long Vương** bể Nam. Bữa trước tôi đi chơi trên trần, chẳng may bị bọn trẻ con đánh chết. Nhờ có ngài mới được sống, vậy xin có của này đến tạ ơn.

Kỳ Mạng nhất định không lấy. Tiểu Long Hầu mới cố mời xuống chơi dưới bể, đưa ra một cái ống linh tê, để Kỳ Mạng có thể rẽ nước mà đi.

Long Vương thấy ân nhân cứu con mình xuống chơi thì mừng lắm, mở tiệc thết đãi ba ngày, rồi đưa tặng nhiều của quý lạ, nhưng Kỳ Mạng vẫn một mực chối từ. Sau cùng Long Vương mới biếu một quyển sách ước. Lần này Kỳ Mạng nhận sách mang về trần. Cuốn sách ước chỉ gồm có ba tờ bằng da cá, ngoài bọc vỏ rùa. Ba trang sách, mỗi trang chứa một tính chất : Kim, Mộc, Hỏa … chỉ thiếu một trang Thủy mà Long Vương giữ lại. 

Kỳ Mạng mới bắt đầu thử xem linh nghiệm ra sao, mở sách ra đặt tay vào trang Hỏa khấn khứa thì được nghe thấy sấm sét giữa lúc trời quang mây tạnh, rồi chỉ trong nháy mắt trên trời vần vụ đầy mây, chớp sáng, sấm sét nổi lên rung chuyển cả bầu trời.

Kỳ Mạng mỉm cười đắc ý, đặt tay vào trang Mộc, ước ao thấy một rừng cây đi. Tức thì những cây ở trước mặt chàng tự nhiên tiến bước như một đạo quân.

Kỳ Mạng gấp sách lại, thấy mình từ đấy uy quyền, sức mạnh không còn ai sánh kịp. Rồi bắt đầu lang thang đó đây cứu giúp đời. Khi đã thành thần rồi, nhân một hôm qua cửa Thần Phù, ngài mới ngược dòng sông lên núi Tản Viên, ở luôn tại đấy. Với cuốn sách ước, ngài dựng lên những lâu đài cung điện nguy nga giữa chốn rừng núi hoang vu.

Từ đó tiếng đồn đi rằng núi Tản Viên do một vị thần phép thuật thần thông cai quản. Thần Tản Viên còn có tên gọi là Sơn Tinh nữa. 

(*) Theo Phan Kế Bính, tác giả Nam Hải Dị Nhân thì thần thuộc dòng dõi vua Lạc Long, thuở hàn vi vào rừng kiếm củi. Theo bản văn của Hoàng Trọng Miên, tác giả VNVHTT, kể thêm thuyết thần núi Tản Viên xưa là một đứa con bị bỏ rơi trong rừng. Soạn giả ghi lại như trên để giữ lấy đầu mối thống nhất là : Dù Hương Lang hay Kỳ Mạng cũng vẫn thuộc dòng dõi Lạc Long Quân.
(**) Soạn giả nhớ thuở nhỏ có được nghe chuyện này và gậy thần có đầu sinh đầu tử khi sử dụng. Thần Tản Viên đã khôn ngoan cầm vào khoảng chính giữa. (Tương tự như quan niệm chiết trung của Khổng Tử về sau này?).
(***) Xin chớ lầm Long vương với Lạc Long Quân.


SƠN TINH THỦY TINH



Hai thần thoạt là bạn rất thân thiết, cùng ở ẩn tại động Gia Ninh, thuộc Châu Phong. 

Hùng Vương thuở đó có người con gái tên là Mỵ Nương, dung mạo tuyệt luân, nhan sắc khuynh thành. Vua từ chối không gả nàng cho Thục Vương vì nghi là muốn dòm ngó nước ta, nên có ý tìm khắp trong nước xem kẻ nào có kỳ tài dị thuật thì gả con gái cho.

Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến ứng tuyển. Hùng Vương cho thi tài. Sơn Tinh có thuật xem suốt ngọc đá. Thủy Tinh có thuật nhập vào nước lửa, người nào cũng có tài linh thông.

Hùng Vương cả mừng, bảo Lạc Hầu rằng :
- Xem tài của hai chàng ta thấy đều nên gả con cho cả. Hiềm vì ta chỉ có một con gái thì tính sao bây giờ?
Lạc Hầu tâu :
- Vua nên hẹn với hai chàng, hễ ai cưới trước thời được.

Hùng Vương cho là phải, bèn bảo với hai chàng về chuẩn bị lễ vật; sớm mai hễ ai tới trước với nhiều vật lạ của quý thì gả cho.

Tinh sương hôm sau, Sơn Tinh đã tới với những thổ vật như: vàng, bạc, ngọc báu, tê giác, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao và một chĩnh vàng cốm. Hùng Vương đẹp lòng lắm, gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh rước vợ về, đem lên núi Lôi Sơn.

Thủy Tinh đem thủy vật tới như: trân châu, đồi mồi, san hô, hổ phách, cá kình, cá nghê cùng các thứ cá ngon mỗi thứ một trăm. Nhưng vì tới muộn, Mỵ Nương đã theo Sơn Tinh đi mất rồi. Thủy Tinh đại nộ, đem quân đuổi theo những muốn nghiền nát núi Lôi Sơn, Sơn Tinh dời lên chóp núi Tản Viên, làm ra lưới sắt chặn ngang đường thượng lưu huyện Từ Liêm. Thủy Tinh bèn đi đường khác, tự sông Lý nhân vào sát chân núi Quảng oai, men bờ lên cửa sông Hát giang, rồi ra sông Lư (sông Cái), vào sông Đà để đánh mé sau núi Tản Viên. Lại mở ra các sông nhỏ để đem nước vào đánh mé trước núi; đi qua các làng Cam Giá, Đông Lân, Cổ Nhạc, My Xá, đi đến đâu xoáy nước xuống thành vực để làm chỗ cho giống thủy tộc ở, rồi tiến nước đánh nhau với Sơn Tinh.

Nhưng nước dâng cao chừng nào, núi lên cao chừng ấy. Sơn Tinh cho bộ hạ nhổ bao nhiêu gốc cây to lớn lấp đầy các hang hố, tuôn đá, gỗ từ trên núi xuống ầm ầm. Dân chúng miền núi hợp sức đóng cọc, đan phên đổ đất đắp đê tận lực giúp Sơn Tinh. Cuộc giao tranh ác liệt kéo dài trong mấy ngày đêm, long trời lở đất , quân thủy tộc chết trôi đầy đồng, có chỗ xác dồn lại bế tắc cả khúc sông.

Cuối cùng quyết định hơn thua, Thủy Tinh cỡi rồng xông lên, thúc rồng phóng vòi dài trăm trượng chụp bắt lấy Sơn Tinh đang đứng trên một đám mây. Sơn Tinh thả sét ra chớp nhoáng, chặt đứt vòi rồng làm mấy đoạn. 

Liệu không thể thắng nổi tình địch, Thủy Tinh đành hạ nước xuống cho quân rút lui. Tuy thất bại, nhưng Thủy Tinh vẫn không quên mối thù, nên từ đó, mỗi năm vào khoảng tháng bảy tháng tám, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh nhau với Sơn Tinh một trận để nhắc nhở mối hận tình ngàn đời. 

Sự biến hóa của Tản Viên sơn thần không biết đâu mà lường được, phàm ai có lòng thành thì cầu được ước thấy; ai nhờn nhỡ tất gặp tai nạn ngay. Vào những ngày đẹp, thần thường hiện hình chơi các nơi khe suối, có đám mây phủ như hình tán quạt. 

Dưới thời nước Nam bị nội thuộc nhà Đường, Cao Biền sang làm Đô hộ, muốn trấn yểm các nơi linh tích, thường bắt đứa con gái 17-18 tuổi chưa chồng, cho ăn đủ hoa quả, mặc áo xiêm lịch sự đặt lên ngồi trên ngôi, giết trâu bò tế bái để cho thần phụ vào người con gái ấy, rồi rình khi cất nhắc chân tay, thốt nhiên chém đi.

Đó là chước thuật Cao Biền thường dùng để trấn áp bách thần. Khi Biền dùng mẹo ấy cúng thần Tản Viên, thì thần cưỡi ngựa trắng, ngồi trên đám mây nhổ vào cỗ tế mà đi.

Cao Biền than rằng : “Linh khí nước Nam còn thịnh vượng lắm, không tài nào mà trừ được.

Về đời Trần, quan hàn lâm Nguyễn Sĩ cố nhân đi đánh giặc qua đền ngài, có đem lễ vào khấn, rồi đề một bài thơ rằng : 

Non ngất thần thiêng lẫm liệt thay !
Động lòng đã thấu tới cao dày,
Mỵ Nương cũng hiển oai linh lắm,
Xin giúp thư sinh một chuyến này.

PHỤ CHÚ : 


Vẫn giáo sư Trần Ngọc Ninh, trong bài báo đã dẫn có phát biểu ý kiến về huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh, giáo sư họ Trần cho là trong xã hội mẫu hệ thời đó, ai lấy được công chúa thì sẽ nối nghiệp vua cha. Hồng bàng thị là một dòng họ lấy con gái để chọn nhân tài làm người nối dõi, cũng như trong huyền sử Trung Hoa, Nghiêu, Thuấn, Vũ đã lên ngôi sau khi được chọn làm giai tế của vua trước. Người đầu tiên hỏi cưới con gái vua Hùng Vương là Thục Phán. Bị cự tuyệt, người anh hùng đất Tây Âu sửa soạn chiếm đoạt cả nước Văn Lang, Hùng Vương kén rể cho con đã hướng về những nhân kiệt trong nước : Sơn Tinh và Thủy Tinh là hai người lẫy lừng thời đó, Hùng Vương nghĩ rằng có thể trao được vận mệnh dân tộc cho một trong hai người. Sơn Tinh thắng lấy được vợ, nhưng một cuộc binh đao bùng nổ giữa người dân doanh hải và người dân sơn cước. Trong cuộc tranh hùng ấy, tiềm lực của dân tộc đã bị suy giảm, Thục Phán đã trở lại và chiếm hữu nước Văn Lang, đem dân Lạc Việt sát nhập vào Tây Âu mà lập nên nước Âu Lạc. 

Suy rộng ra nữa việc tranh chấp giữa người miền bể và người miền núi là một sự kiện có thể đã xảy ra, không phải chỉ một lần trong thời tiền sử. Thuộc hai dòng văn minh vật chất khác nhau. Người miền bể dùng ngọn lao, người miền núi dùng cung tên và đá ném, đã đụng chạm dữ dội nhiều phen từ đời thần Lạc Long với Ngư Tinh, xuống tới tích Sơn Thủy.

Những dân tộc miền Nam nước Trung Hoa vào đời Thương Chu, tránh áp lực nặng nề của chiến xa và kỹ nghệ sắt của người Tầu, đã di chuyển dần dần : người Lạc, người Việt dọc theo ven biển; người Man, người Miêu, người Thục theo sông Gầm, sông Hồng; người Thái theo sông Mekong và Menam; người Môn theo sông Irrawadi. Ở vùng biển, họ đã gặp các dân Đại Dương và trong cả mấy ngàn năm tiền sử, đám người đó đã cùng chiến đấu để giữ dọc biển của mình làm đất sống. Hàng năm, khi gió mùa thuận cho những người đi biển áp vào bờ và ngược dòng sông, thì dân chúng lại phải sửa soạn chống kháng. 

Như vậy, hàng năm cứ vào đầu tháng tư, khi bắt đầu mùa hạ, các trận gió bể thổi từ đại dương vào lục địa, lấp những hố áp lực bị giảm thiểu ở trung tâm Á Châu, đem mưa lại để làm nước sông tràn bờ mà gây lụt, đồng thời gió mùa ấy cũng đem theo những thuyền của bọn hải tặc từ biển cả ào ạt tới. 

Hai cuộc đề kháng chống thiên nhiên (lụt) và chống người (hải tặc) đã nhập làm một trong huyền thoại ở lưu vực sông Hồng. “Sơn Tinh và Thủy Tinh” là lý do chung của sự đắp đê và chuẩn bị chống cướp bể *

(*) Xin đọc : Trần Ngọc Ninh “Huyền Thoại Việt Nam”, Tân Văn 14 (tháng 6), 31-32



THẦN KIM QUY * 



An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục, tên Phán, nhân việc tiên tổ cầu hôn với con gái của Hùng Vương tên là Mỵ Nương không được nên sinh ra hàm oán. Phán muốn hoàn thành ý chí của tổ tiên nên cử binh đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải hiệu là Âu Lạc, đắp thành ở đất Việt Thường. Thành đắp xong lại xập. Vương mới lập đàn trai giới cầu đảo ba tháng.

Ngày mồng bảy tháng ba bỗng thấy một ông già theo phương Tây mà đến thẳng cửa thành, vừa đi vừa than rằng : 
- Xây đắp thành này thì bao giờ cho xong! 
Vương rước vào điện lạy mà rằng : 
- Ta đắp thành này đã xong lại đổ, hao tốn công sức mà rồi không xong là tại làm sao?
Ông già thưa:
- Ngày nào có sứ giả Thanh Giang cùng đắp với vương thì thành ấy mới xong.
Nói đoạn cáo từ.

Rạng ngày, Vương đứng ở cửa Đông trông ra thì thấy một con rùa vàng theo hướng Đông mà bơi lại; rùa đứng trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là Thanh Giang sứ giả biết rõ lẽ trời đất, âm dương, quỷ thần. 

Vua mừng bảo rằng : 
- Điều đó ông già đã báo cho ta biết rồi.
Bèn sai lấy kiệu vàng rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì cớ gì mà thành không đắp được. Kim Quy nói : 
- Ở đây có tinh khí núi sông, con Tiên vương phụ vào để báo thù nước, lại có con gà trắng sống ngàn năm hoá làm yêu tinh ẩn ở núi Thất diệu, trên núi có con quỷ, nguyên trước có một nhạc công chôn cất ở đấy hoá ra quỷ. Ở bên có một cái quán để cho hành khách qua lại ngủ nhờ; chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng là dư khí của quỷ thần. Hễ có người khách nào qua lại đến đấy ngủ nhờ thì quỷ tinh hoá ra thiên hình vạn trạng mà giết hại rất nhiều. Bây giờ nên bắt con gà trắng và đứa con gái chủ quán mà giết đi thì tinh quái sẽ hết. Nhưng chắc là nó lại hoá ra chim cú ngậm thư bay lên trên cây chiên đàn tâu với Thượng đế để xin phá thành ấy đi. Thần nay xin cắn cho rơi cái thư ấy xuống, Vương lập tức thu lấy, tất nhiên thành đắp sẽ xong. 

Kim Quy bảo Vương giả làm khách đi đường xin ngủ nhờ trong quán. Vương để Kim Quy ở trên ngưỡng cửa.

Ngộ Không nói : 
- Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người. Lang Quân không nên ở lại. Vả nay trời cũng chưa tối, nên đi mau đến chỗ khác để tránh hoạ.
Vương cười rằng:
- Sinh tử tại mệnh. Quỷ mị mà làm gì, ta không sợ. 
Mới ngủ lại đó.
Trong đêm có quỷ tinh đến ngoài kêu rằng : 
- Ai ở trong nhà này phải mở cửa ra mau.
Kim Quy mắng rằng:
- Cửa đóng thì mày gì nào ?
Quỷ tinh phóng hoả, tan ra vạn trạng; quỷ dị đủ phương để khủng bố, nhưng rốt cuộc cũng chẳng vào được nhà.

Đến lúc gà gáy, các quỷ đều chạy tan. Kim Quy khiến Vương đuổi theo đến núi Thất diệu, rồi Vương trở lại quán trọ.

Sáng ngày, chủ quán đem người đến để chôn thi thể của khách ngủ lại hôm qua. Thấy Vương ngồi đó nói cười như không có gì cả. Chủ quán bước đến vái lạy mà rằng : 
- Lang Quân được như thế tức là thánh nhân rồi, xin ban linh thuật để cứu sinh linh.
Vương bảo :
- Hãy giết con gà trắng của mày mà tế thì quỷ thần tan hết.

Ngộ Không giết con gà trắng thì đứa con gái tự nhiên cũng nhào xuống chết. Vương lập tức bảo người đào núi Thất diệu, được một nhạc khí thời cổ và một hài cốt, sai đốt trọn thành tro mà quăng ra sông. Lúc bấy giờ trời đã về chiều.Vương cùng Kim Quy leo lên núi Việt thường, quỷ tinh đã hoá ra chim cú ngậm thư bay lên cây chiên đàn.

Kim Quy bèn hoá ra con chuột mà bò theo sau lưng cắn chân chim; thư rơi xuống đất, Vương lập tức thu lấy thì sâu đã ăn hết hơn một nửa rồi.

Từ đó, quỷ tan hết, không lại phá phách như xưa nữa. 

An Dương Vương đắp thành nửa tháng đã xong; thành đất rộng và dài ngàn trượng, xoáy tròn như hình con ốc … Kim Quy ở lại với Vương ba năm rồi từ về. Vương bảo rằng : 
- Nhờ ơn của người, thành đã vững chắc. Nếu như có việc ngoài, thì lấy gì mà chống giữa?
Kim Quy thưa:
- Mệnh nước an nguy là vận của trời, nhưng người biết thu đức thì có thể lâu dài được. Vương đã có lòng ước nguyện, thì đâu dám tiếc.

Mới cởi cái móng chân đưa cho Vương mà nói:
- Thảng hoặc giặc có đến, hãy dùng móng này làm máy nỏ thì đánh giặc không có gì đáng lo. 

Nói đoạn trở về Đông hải.

Vương khiến bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy móng làm máy, hiệu là Linh Quang Kim Trảo Thần Nổ. Sau Triệu Đà đem quân đến xâm lăng, cùng Vương giao chiến. Vương dùng nỏ thần mà bắn quân Triệu Đà thua chạy, đóng đồn ở núi Châu Sơn. Đối luỹ với Vương, Triệu Đà biết Vương có nỏ thần nên không dám tái chiến mới khiến sự thỉnh hoà.

Vương mừng, cắt từ sông Tiểu giang trở về Bắc cho Triệu Đà cai trị, trở về phương Nam thì do Vương cai trị. 

Chưa được bao lâu, Đà sai con tới cầu hôn con gái Vương là Mỵ Châu. Vương bất ý không ngờ gian kế của cha con Triệu Đà; Trọng Thuỷ dỗ Mỵ Châu trộm lấy nỏ thần cho xem, rồi lén làm nỏ khác, đổi lấy vuốt rùa giấu đi, nói dối với Mỵ Châu là về thăm cha mẹ. Nhân đó nói rằng : 
- Tình phu phụ thì không nỡ quên, mà ơn phụ tử cũng không nên bỏ. Ta nay về thăm cha mẹ mà vạn nhất hai nước thất hoà, nam bắc cách biệt, ta trở lại tìm nàng thì nàng lấy vật gì mà làm dấu cho ta biết.

Mỵ Châu nói : 
- Thiếp là nhi nữ. Gặp phải bước phân ly, thực khó thắng được tình cảm. Thiếp có chiếc nệm gấm lông ngỗng, thường mang lên người làm áo choàng. Đến lúc ấy, thì thiếp lấy lông ngỗng mà rải ở các ngã ba để chỉ cho chàng biết chỗ thiếp đi mà đến cứu.

Trọng Thuỷ từ tạ, cắp nỏ về báo cáo với Triệu Đà. Đà được nỏ rất mừng, liền phát binh đánh vương. Vương không lo phòng bị, mải đánh cờ vây, cười rằng : 
- Đà không sợ nỏ thần của ta sao?

Đến lúc quân Triệu Đà tiến bước, Vương mới xách nỏ ra bắn thì thần cơ đã mất, quân chạy tán loạn.

Vương chở Mỵ Châu lên ngựa, chạy về hướng Nam, đến bờ biển, cùng đường, không có thuyền, Vương hét lớn lên rằng :
- Trời để mất ta hay sao? Giang Sứ đâu mau đến cứu ta.
Kim Quy nổi lên trên mặt nước mà rằng : 
- Người ngồi sau lưng nhà vua là giặc đó ! 

Vương quay lại chỉ thấy con gái, chợt hiểu sự tình, bèn tuốt gươm chém Mỵ Châu.

Mỵ Châu ngửa mặt lên trời mà nguyện rằng : 
- Thiếp là con gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại đến phụ thân, thời chết hoá thành bụi trần. Bằng như một niềm trung tín, bị người phỉnh phờ, thời hoá làm ngọc châu để gột rửa nỗi nhục nhã này. 

Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy trên nước, hàu hến ăn vào lòng, hoá thành minh châu. Vương cầm sừng văn tê bảy tấc, Kim Quy rẽ nước dẫn Vương vào biển. Tương truyền tại núi Mộ Dạ, làng Cao Xá, Châu Diên, tức là chỗ đó vậy.

Quân Triệu Đà đến chỗ ấy không thấy gì hết, chỉ thấy tử thi của Mỵ Châu. Trọng Thuỷ ôm thây nàng mang về chôn ở Cổ Loa, hoá thành giếng ngọc. Trọng Thuỷ thương cảm vô cùng, thấy lại những chỗ trang điểm hay tắm gội của Mỵ Châu, tưởng nhớ đến hình dung của nàng bèn nhảy xuống giếng mà chết. Sau này ai được ngọc châu ở Đông hải, múc nước giếng ấy mà rửa thì sắc ngọc càng thêm rực rỡ. Tránh tên Mỵ Châu nên gọi ngọc châu là Đại cưu, Tiểu cưu vậy. 

(*) Theo Lĩnh Nam Chính Quái, bản dịch Lê Hữu Mục, tr. 70-74



LÝ ÔNG TRỌNG *



Về cuối thời vua Hùng Vương, ở làng Thuỵ Hương (tục gọi là làng Chèm), huyện Từ Liêm, có một người họ Lý tên Thân, hiệu là Ông Trọng cao hai trượng sáu thước, khoẻ mạnh tuyệt trần. Thuở còn hàn vi, nhân có sự giết người, đáng phải tội chết. Vua thấy người cao lớn lực lưỡng không nỡ giết. Đến đời Thục An Dương Vương, Tần Thuỷ Hoàng muốn xua quân sang chiếm Việt Nam, vua Thục bèn đem Lý Ông Trọng ra cống hiến. Thuỷ Hoàng được Ông Trọng mừng lắm, coi như của rất quý trong đời, dùng ngay làm Tư vệ hiệu uý. 

Đến khi Thuỷ Hoàng đem binh đi đánh dẹp thiên hạ, thì sai Ông Trọng trấn thủ đất Lâm Thao để phòng quân rợ vào quấy nhiễu. Ông Trọng hùng dũng, tiếng lừng lẫy một vùng, rợ Hung Nô không dám bén mảng đến cửa ải, Thuỷ Hoàng mới phong thêm cho Ông Trọng làm Phụ tín hầu. 

Về sau, Ông Trọng cáo lão về nước nhà hưu dưỡng. Không được bao lâu, rợ Hung Nô thấy vắng Ông Trọng lại vào quấy nhiễu các xứ biên thuỳ. Thuỷ Hoàng nhớ tới Ông Trọng, sai người sang vời, thì bấy giờ người đã mất rồi. 

Sứ giả về tâu lại, Thuỷ Hoàng phàn nàn thương tiếc vô cùng, mới đúc tượng Ông Trọng bằng đồng, đặt ở ngoài cửa Tư Mã cung Hàm Dương. Trong bụng để rỗng, có máy vặn cho chân tay động đậy được. Thường khi sai vài chục người chui vào trong tượng đồng vặn máy cho rung động, người rợ Hung Nô qua lại, tưởng là Ông Trọng còn sống, không dám vào quấy nhiễu nữa. 

Đến đời nhà Đường, Triệu Xương sang làm đô hộ, nằm mơ thấy một người to tát cao lớn đến chơi, bàn giảng nghĩa sách Xuân thu, Tả truyện. Hỏi tên họ thì đáp là Lý Ông Trọng ở làng Thuỵ Hương. Triệu Xương tỉnh dậy, hôm sau thăm đường đến chơi tận làng, tra hỏi sự tích, rồi lập miếu ngay tại khu nhà cũ ông ấy để thờ. Khi sau, Cao Biền sang đánh nước Nam Chiếu, Ông Trọng hiển linh giúp Cao Biền, phá giặc thành công. Cao Biền mới sai sử sang lại đình đài, tạc gỗ tô tượng, gọi là đền Lý Hiệu Uý.

Từ bấy giờ trở đi thường linh ứng lắm, dân xã có việc gì cầu đảo đến cũng nghiệm. Lịch triều cũng phong tặng làm Linh Ứng Thượng Đẳng Thần. Vì ở làng Chèm cho nên tục gọi là Thánh Chèm.

(*) Theo Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân.



TÔ LỊCH GIANG THẦN *



Khi xưa có người tên Tô Lịch, làm quan Lịch ở huyện Long Đỗ, nhà ở cạnh con sông nhỏ. Nhà ấy ba đời nhân nhượng ở chung với nhau, được cất lên đỗ khoa Hiếu Liêm, và được vinh hiển cả nhà, vì thế ở làng đặt là làng Tô Lịch. 

Đến đời vua Mục Tôn nhà Đường, Lý Nguyên Gia sang làm đô hộ, lập dinh phủ ở trong thành Long Biên, Nguyên Gia thấy cửa Bắc thành ấy có con sông chảy ngược, sợ người ta sinh ra bụng làm phản, muốn cắm phủ chỗ khác, mà đắp ra La Thành.

Khi sắp xây thành, lập dinh ở cạnh sông Tô Lịch, rót rượu dâng khấn, xin ông Tô Lịch làm thành hoàng ở thành ấy.

Đêm nằm mơ thấy thần bảo rằng : 
- Sứ quân muốn ta làm chủ thành này, ví dù ta dạy dỗ được dân, thì phải lập miếu mà thờ ta. 

Nguyên Gia xin vâng lời. Từ đấy dân gian an nghiệp. Nguyên Gia mới đắp thành nhỏ để ở và lập miếu để thờ thần Tô Lịch. 

Khi Nguyên Gia mới đắp thành có thầy tướng bảo rằng : 
- Tôi xem tướng ông không đắp nổi thành to đâu, sau năm mươi năm nữa, tất có một người họ Cao, đóng đô lập phủ ở đây, mới đắp nổi được.

Đến thời vua Ý Tông nhà Đường, nước Nam Chiếu làm phản, vua Đường sai Cao Biền làm Tiết độ sứ. Cao Biền nhân thế giữ phủ Giao Châu, tự xưng là Cao Vương.

Cao Biền thông hiểu thiên văn, địa lý, xem xét hình thế, nhân chỗ thành nhỏ của Nguyên Gia, đắp rộng thêm ra gọi là Đại La Thành, chu vi tám ngàn bộ.

Mé Bắc thành ấy có con sông, tự sông Lư (sông Cái) chảy ra theo mé Tây Bắc, rồi chả xuống phía Nam, vòng quanh La Thành, rồi lại đổ vào sông Cái. Mỗi năm đến tháng sáu mùa mưa, nước sông tràn lên mông mênh. Có một khi Cao Biền ngồi thuyền chơi trên sông, bỗng thấy một ông cụ già, đầu bạc phơ phơ, râu mày trắng xoá, hình dung kỳ dị, đang bơi tắm ở trong sông, cười nói vui vẻ lắm. Biền lấy làm lạ, hỏi tên họ, thì nói là họ Tô tên Lịch; hỏi chỗ ở thì nói là ở trong sông. Nói đoạn vỗ tay cười ầm cả lên, rồi tự nhiên trời đất tối xầm, ông cụ biến mất.

Cao Biền biết là thần, nhân thế gọi sông ấy là sông Tô Lịch.

Lại một buổi sớm, Cao Biền đứng ở cửa Đông nam La Thành, trông ra sông Tô Lịch, thấy trong sông nổi cơn gió to, sóng đánh bồn cồn, mây kéo mù mịt, rồi có một người dị dạng, đứng trên mặt nước, cao hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ đỏ, tay cầm một cái hốt vàng, có bóng thấp thoáng như mây phủ, mãi đến lúc mặt trời mọc cao ba trượng mà chưa tan. Cao Biền lấy làm lạ, muốn dùng thuật trấn áp. Đêm hôm ấy chiêm bao thấy thần bảo rằng : 
- Ta là tinh đất Long Đỗ, thần linh xứ này, ở đây đã lâu. Nay thấy ngươi đến đây, ta mừng mà hiện ra, can gì phải trấn áp?”

Biền tỉnh dậy, sợ hãi lập tức đặt đàn cúng cấp rồi dùng những vàng, bạc, đồng, sắt làm bùa. Cúng ba đêm ngày, rồi mới chôn bùa để yểm.

Đêm hôm ấy mưa gió sấm sét, có tiếng quỷ thần hò hét quát tháo kinh thiên động địa. Một lát, những bùa vàng, bạc, đồng, sắt bật cả lên trên mặt đất, bay tan theo gió vào không khí mất cả.

Cao Biền lấy làm lạ lắm, than rằng : 
- Ở xứ này có thần thiêng như thế, ta nên về Tàu, chớ có ở đây mà sinh vạ về sau.

Tự đấy, Cao Biền có ý muốn về, mới tôn thần Tô Lịch làm Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân.

Đến thời vua Thái Tổ nhà Lý thiên đô lên thành Thăng Long. Thần Tô Lịch có thác mộng vào lạy mừng. Vua lấy làm lạ, hỏi họ tên, thì cũng nói rõ họ tên là thế. Vua lại hỏi rằng : “Thần giúp cho trẫm giữ mãi cơ nghiệp trong nghìn năm không?”. Thần thưa rằng : Xin bệ hạ hưởng phúc nghìn muôn năm thì tôi cũng được hưởng trăm năm hương hoả”. Vua tỉnh dậy, ngày hôm sau sai sứ đến tế ở đền ấy, tôn làm Đô Quốc Thành Hoàng Đại Vương. Đến thời nhà Trần lại phong Bảo Quốc Định Bang Đại Vương. Đền thờ tại làng Đông Tác huyện Thọ Xương (bây giờ thuộc về thành phố Hà Nội).

BẠCH MÃ THẦN *



Khi Cao Biền ở trấn nước Nam, giữ phủ xưng vương, đắp rộng thêm La Thành, đắp xong một buổi trưa đứng ngoài cửa Đông ngóng xem bỗng nhiên mưa gió ầm ầm, rồi có một đám mây ngũ sắc tự dưới đất bốc lên, khí sáng ánh ra tứ phía. Lại thấy có một người ăn mặc đường bệ cưỡi con cầu long (rồng chưa có sừng) nửa vàng, nửa đỏ, tay cầm hốt vàng, đứng trong đám mây, có bóng thấp thoáng lên xuống, lâu thì tan mất.

Cao Biền lấy làm lạ lùng, nghi là ma quỷ, muốn thiết đàn cúng cấp, dùng phép trấn áp.

Đêm hôm ấy nằm mơ thấy thần lại bảo rằng : 
- Ta là thần chính khí ở đất này, chứ không ma quái nào. Ta thấy người đắp xong cái thành nên mừng mà hiện ra đấy thôi !

Cao Biền tỉnh dậy hội các quan lại bảo rằng :
- Ta không trị nổi được xứ này hay sao? Sao mà lắm ma quỷ hiện ra thế, hoặc là điềm gở gì đây chăng?

Chúng xin thiết đàn, bày hình tượng thần ấy, rồi dùng nghìn cân sắt làm bùa trấn yểm.

Cao Biền nghe lời lập đàn cúng bái, rồi chôn nghìn cân sắt để yểm. Hôm sau, trời đất tối tăm mù mịt, mưa gió ầm ầm, rồi có tiếng sét đánh vào chỗ yểm bùa, sắt tan vụn bay đi mất cả. Biền thấy vậy sợ hãi, mới lập đền ở trong phố để thờ thần ấy. Về sau, vua Lý Thái Tổ thiên đô lên Thăng Long, mơ thấy thần lại mừng. Vua tỉnh dậy, sai các quan đem lễ đến tế, phong làm Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. 

Bấy giờ vua mở ra chợ cửa Đông, cho dân buôn bán, miếu thờ ngài ở bên cạnh đường, thường có hoả tai, cháy ngay cả một dãy phố, chỉ miếu của ngài là không động gì đến. Mỗi khi nhà vua làm lễ nghênh xuân, thường vẫn cúng trong miếu ấy.

Triều nhà Trần ở phố ấy ba lần có thêm hoả tai mà không lần nào động đến miếu; và một lần có sét đánh cũng không việc gì.

Thái sư là Trần Quang Khải có đề một bài thơ rằng : 

Xưa nghe lừng lẫy tiếng anh linh,
Ma cũng ghê mà quỷ cũng kinh.
Ngựa lửa ba phen thiêu chẳng tới,
Roi lôi một trận đánh không chênh.
Chỉ tay đè nén trăm loài quỷ,
Quát tiếng trừ tan mấy vạn binh.
Nhờ đội oai thần xua giặc Bắc,
Khiến cho non nước lại thanh bình.

(Trần triều phong là : Thuận Dụ Phu Ứng Đại Vương. Đền ở phường Hà Khấu, huyện Thọ Xương, gọi là đền thần Bạch Mã, bây giờ tức là đền Bạch Mã ở Hàng Buồm, Hà Nội.) 



LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA *


Về đời vua Anh Tông nhà Lê (1557), ở về thôn Vân Cát, xã Yên Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, có một người gọi là Lê Thái Công, tiên tổ tích đức đã ba đời, đến đời Lê Thái Công cũng hay làm phúc. Ngoài bốn mươi tuổi, sinh được một con trai. Cách năm sau, Thái bà có mang được vài tháng thì phải bệnh, ưa những đồ hương hoa, người nhà cho là ma làm, mời thầy phù thuỷ cúng cấp mà bệnh lại nặng thêm.

Đến đêm hôm trung thu, có người xin vào chữa bệnh cho Thái bà. Thái công mời vào, người ấy cầm cái búa ngọc, lên đàn niệm câu thần chú rồi ném búa xuống đất. Thái công ngồi cạnh ngã ngay xuống, mơ mơ màng màng thấy có hai người lực sĩ đưa đi. Đường đi khuất khúc, đến một nơi nhà vàng cửa ngọc, lực sĩ đưa qua chín từng cửa rồi đến chốn cung đường thì dừng lại ở dưới hè. Trông lên trên, thấy có một vị áo mũ đường hoàng, hai bên văn võ cầm hốt đứng chầu, nghi vệ rất thịnh. Sực có một người con gái mặc áo đỏ, bưng chén ngọc dâng rượu thọ, lỡ tay rơi chén, sứt mất một góc. Tả ban có một viên mở ngay sổ ra biên vài chữ, rồi thấy hai người sứ giả và vài chục người thị nữ xúm lại dắt nàng áo đỏ tự cửa Nam đi ra. Mé trước có một cái biển vàng, trên có hai chữ “Sắc Giáng”, giữa có hai chữ “Nam Nam”, còn các khoản dưới thì mập mờ không rõ.

Thái công hỏi người lực sĩ rằng :
- Đó là việc gì thế?
Lực sĩ nói :
- Đây là bà tiên chúa thứ hai tên là Quỳnh Hoa, chuyến này chắc là phải đầy xuống trần.

Nói đoạn lực sĩ đưa Thái công về đến nhà thì tỉnh dậy mà Thái bà đã sinh ra được một người con gái, nhân thế đặt tên là Giáng Tiên.

Khi nàng Giáng Tiên lớn lên, nhan sắc lạ thường, Thái công cho ở tĩnh một nhà học hành. Nàng thông minh mà lại tinh nghề âm nhạc, thường làm ra ca từ bốn mùa, lựa vào khúc đàn để chơi :

1. Xuân Từ (Điệu Xuân Quang Hảo)
Cảnh như vẽ, khéo ai bày? Hoa đào mỉm miệng liễu dương mày. Bướm nhởn nhơ bay, oanh vàng líu lo trong bụi, én đỏ ríu rít trên cây. Buồng xuân dìu dặt mối tình ngây, đề thơ này.
2. Hạ Từ (Điệu Cách Phố Liên)
Trời đất nhiều phần nóng nẫu. Đầu cành rức giọng ve, bãi cỏ vang tiếng chẫu; vò võ Quốc kêu sầu, eo éo Oanh hót ngẫu. Dường bảo nhau : “Chúa Xuân về rồi thôi cũng hảo” ! Cảnh sắc nhường kia, ngao ngán cầm lòng không đậu. Thần Chúc Dong gẩy một khúc Nam huân, hương sen thoảng đáo, một trận gió bay, sạch lòng phiền não.
3. Thu Từ (Điệu Bộ Bộ Thiềm)
Mặt nước trong veo, nom tự ngọc, gió vàng hây hây khua khóm trúc. Hoa lau muôn dặm trắng phau phau, cây cối vẻ hồng pha vẻ lục. Cung thiềm sáng quắc ả Hằng ngủ, dạo bước thềm giao tình rạo rạc. Chi bằng đến dưới dậu hoa cúc, thảnh thơi dạo đàn gảy một khúc.
4. Đông Từ (Điệu Nhất Tiễn Mai)
Khí đen mờ mịt toả non sông, hồng về Nam xong, nhạn về Nam xong! Gió Bắc căm căm tuyết mịt mùng. Tựa triện ngồi trông, tựa triện đứng trông. Sưởi lò mặt vẫn giá như đồng, ngồi chẳng yên lòng, nằm chẳng yên lòng! Dậy xem phong cảnh lúc trời đông. Hoa quên lạnh lùng ! Người quên lạnh lùng !

Một khi Thái công dạo chơi quanh vườn, nghe thấy khúc đàn ấy, trong bụng buồn rầu, nhân có ông bạn quen họ Trần, ở cùng một làng, mới cho làm con nuôi ông ấy và làm riêng một nhà lầu ở sau vườn Trần Công cho con gái ở. 

Cách nhà Trần Công có một nhà quen, tuổi già chưa có con trai, nhân đêm trăng ra chơi vườn đào, bắt được đứa con trai ở dưới gốc đào, vì thế đặt tên là Đào lang. Đào lang mặt mũi tuấn tú. Trần Công thấy Giáng Tiên tư chất khác phàm và lại nết na; có ý muốn kết duyên cho Đào lang. Hai bên cha mẹ thuận lòng mà hai người cũng tốt duyên phải lứa, mới gả cho nhau. Từ khi cưới về, Giáng Tiên một lòng hiếu thuận. Năm sau, sinh được một mụn con trai, cửa nhà thêm vui vẻ.

Ngày tháng thấm thoắt, chợt đã ba năm. Hôm mùng ba tháng ba, Giáng Tiên tự nhiên vô bệnh mà mất, bấy giờ mới hai mươi mốt tuổi. Ba nhà sầu thảm vô cùng.

Thái bà đau xót đêm ngày khóc lóc. Một bữa đang khóc thì thấy con về ôm lấy mẹ mà nói rằng : 
- Mẹ ơi! Con ở đây, mẹ khóc gì thế. 

Thái bà mở choàng mắt ra trông quả là con, cả nhà xúm lại hỏi han.

Tiên chúa nói rằng:
- Con là đệ nhị tiên cung, phải đày xuống trần, nay đã hết hạn, lại phải lên chầu Thượng đế. Cha mẹ có âm công đã vào sổ tiên, mai sau cũng được đoàn tụ, không can gì phải lo sầu. 

Nói đoạn thì biến mất.

Chàng Đào lang từ khi uyên bay, trăm phần sầu não. Một đêm đang ngồi ngâm thơ giải phiền, sực thấy tiên chúa đến, chàng bèn níu lấy, kể lể nỗi lòng sầu khổ. Tiên chúa khuyên giải hết điều rồi lại biến mất. 

Từ bấy giờ đi mây về gió, chơi xem phong cảnh khắp cảnh khắp nơi. Một hôm đến tỉnh Lạng Sơn, trông thấy có một ngôi chùa trên núi, mới lên xem cảnh rồi ra nghỉ mát dưới gốc cây thông, gảy đàn ngâm hát. Xảy có Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng) đi sứ về qua, hai bên đối đáp với nhau. Sau đó Phùng Công xuất tiền cho dân sửa sang chùa ấy. 

Lại khi Phùng Công lên chơi Hồ Tây, cũng gặp tiên chúa xướng hoạ liên ngâm với nhau. Về sau tiên chúa hiển thánh ở Đèo Ngang, Phố Cát, tỉnh Thanh Hoá, hiện ra làm con gái bán nước, những kẻ đùa bỡn chết hại rất nhiều. Triều đình nghi là yêu quái sai thầy phù thuỷ và Trịnh Hoàng Thúc đem quân đi tiễu. Quan quân bắn vào trong núi, tàn phá đền đài. Được vài tháng dân sứ bị dịch tễ, lập đàn cầu khẩn mới hay là tiên chúa hiển thánh. Tâu lên triều đình, vua sai sửa sang lại đền miếu, phong làm Mã vàng công chúa. Sau lại có công giúp nước phá giặc Man, được phong làm “Chế Thắng Bảo Hoà Điệu Đại Vương” lập đền trên núi Sùng sơn đến giờ vẫn còn anh linh. 

PHỤ CHÚ : 


Sách Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính, chương VI liệt kể sự tích tám vị thần linh ứng là: Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương, Tản Viên sơn thần, Lý Hiệu Uý, Tô Lịch giang thần, Bạch Mã thần, Sóc Thiên Vương, Liễu Hạnh công chúa. Cứ theo sách này của Phan Kế Bính thì Sóc Thiên Vương là thần Côn sa môn. 

Nhưng theo Lĩnh Nam Chích Quái, truyện Sóc Thiên Vương (bản dịch Lê Hữu Mục, tr.103), và Việt Điện U Linh Tập, “Bài ký sự tích Sóc Thiên Vương” và lời “Tiếm bình” (bản dịch Lê Hữu Mục, tr.123-23) thì Phù Đổng Thiên Vương và Sóc Thiên Vương là một.

Truyền thuyết trong dân gian liệt vào tứ bất tử là bốn vị sau đây:
- Chử Đồng Tử
- Phù Đổng Thiên Vương
- Tản Viên Sơn Thần
- Liễu Hạnh công chúa

Chính vì lý do này mà soạn giả tập trung cả bốn truyện trên vào tập Thần Thoại này.
Còn hai truyện “Từ Thức” và “Tú Uyên” sau đây tác giả Nam Hải Dị Nhân xếp vào chương VII “Các vị tiên tích”. Cũng xin sao lục vào tập này, đặc biệt là truyện “Từ Thức”, để tiện việc so sánh với một truyện trong thần thoại Nhật Bản sau này.

(*) Theo Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân



TỪ THỨC *



Từ Thức người ở Hoá Châu (Thanh Hoá). Trong thời Quang Thái, đời vua Thánh Tông nhà Trần, nhân có chân ấm sinh, được làm tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Cạnh huyện có ngôi chùa to, trong chùa có một cây mẫu đơn, mỗi khi mùa xuân hoa nở khách bốn phương đến chùa xem hoa đông như hội, nhân thế gọi là hội xem hoa.

Tháng hai năm Đinh Tỵ (1369), chính giữa hôm hội, có một nàng nhan sắc mỹ miều, mới độ mười lăm, mười sáu tuổi, son phấn điểm nhạt, mặt mũi tươi dòn, đến xem hoa, lỡ tay vịn gãy mất một cành, bị bắt giữ lại. Từ Thức xảy đi qua trông thấy, hỏi cơn cớ đầu đuôi, rồi cởi áo cẩm bào chuộc cho nàng ấy đi.

Từ bấy giờ ai cũng khen là quan huyện nhân đức, nhưng chỉ vì tính hay uống rượu ngâm thơ, việc quan bỏ đọng lại, lắm phen bị quan trên quở mắng. 

Từ Thức bèn treo ấn từ quan rồi đi. Tính Từ Thức ưa chơi những chốn khe đỗng trong huyện Tống Sơn, mới về làm nhà ở huyện ấy, mỗi khi nhàn đi chơi, sai một thằng nhỏ đeo một bầu rượu, cắp một cái đàn và mang một quyển thơ. Đi đến chỗ nào thích ý, thì ngồi chơi đánh chén mà gảy đàn. Phàm chỗ nào có nước non lạ lùng, như núi Chính Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga, thì tất tìm đến chơi và có thơ đề vịnh.

Một khi dậy sớm, trông ra cửa Thần Phù, cách vài mươi dặm, có khí mây năm vẻ kết lại như hình cái hoa sen, mới sai bơi thuyền đến tận chỗ ấy, thì thấy có núi rất đẹp. Đỗ thuyền trèo lên núi thì thấy khí núi xanh biếc, cao vòi vọi ước nghìn trượng.

Nhân đề mục bài thơ rằng : 
Đầu cành thấp thoáng bóng kim ô,
Hoa đỗng vui mừng đón khách vô.
Cạnh suối nào là người hái thuốc ?
Quanh nguồn chỉ có gã bơi đò.
Xênh xang ghế mát cầm ba khúc,
Đủng đỉnh thuyền câu rượu một vò.
Ướm hỏi Võ Lăng chàng đánh cá,
Làng Đào đâu đó cách chừng mo?â.

Đề xong bài thơ, nhìn xem phong cảnh một hồi, bỗng thấy trong sườn núi đá, có một cái hang, cửa hang tròn và rộng độ một trượng. Thử vào hang xem ra làm sao, vừa đi được vài bước thì cửa hang bỗng dưng đóng xập lại, trong hang tối mù mịt, không còn biết đường nào mà đi. Từ Thức chắc là chết ở chỗ ấy, nhưng cũng cứ đi liều xem ra làm sao, mới quờ tay sờ sệt vào tường đá mà đi. Trước còn loanh quanh đi trong khe nhỏ, dần dà thấy có bóng sáng, trông lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lởm chởm, mới cố leo vịn lên, thì đường đi đã hơi rộng.

Khi lên đến đỉnh núi, thì lại thấy mặt trời sáng sủa, trông ra bốn bề cùng có lâu đài cung điện, cửa nhà trang hoàng, cây cối tươi tốt, tựa hồ một cảnh chùa chiền.

Từ Thức lấy làm lạ lùng, ngắm nhìn phong cảnh, rồi thấy hai ả con gái nhỏ, mặc áo xanh bảo nhau rằng : 
- Chú rể mới nhà ta đã đến kia kìa.
Nói thế, đoạn trở vào trong nhà báo tin, rồi lại ra báo với Từ Thức rằng:
- Phu nhân cho chúng tôi ra mời người vào chơi.

Từ Thức theo hai người con gái đi vào, qua một dãy tường gấm, vào cửa sơn son, thấy đôi bên cung cấm, vàng bạc sáng quắc, có chữ đề rằng: “QUỲNH HƯ CHI ĐIỆN – GIAO QUAN CHI CÁC”.

Khi trèo lên gác thì thấy một bà tiên mặc áo lụa trắng, ngồi trên giường thất bảo, cạnh giường có đôi kỷ gỗ đàn hương, bà tiên mời Từ Thức ngồi trên kỷ và bảo rằng: 
- Ngươi vốn hay chơi cảnh lạ, có biết đây là chốn nào không? 
Từ Thức thưa:
- Tôi tuy dong chơi giang hồ đã nhiều, nhưng không biết ở đây là tiên cảnh, xin bảo cho tôi được rõ.
Bà tiên cười nói rằng : 
- Người biết đâu được chốn này. Đây tức là hang thứ sáu trong ba mươi sáu đỗng núi Phi Lai. Núi ấy đi khắp các mặt bể, chân không bén đến đất, chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi. Ta tức là Địa tiên núi Nam Nhạc, gọi là Nguỵ phu nhân đây. Vì thấy ngươi có cao nghĩa cho nên mới đón đến chơi.

Nhân bảo con hầu gọi một người con gái ra. Từ Thức trông ra thì chính là người con gái đánh gãy cành hoa mẫu đơn khi trước. 

Bà tiên trỏ vào người con gái bảo với Từ Thức rằng : 
- Con em, tên nó là Giáng Hương, khi trước xem hoa gặp ách nạn, nhờ ngươi cứu cho, ta vẫn còn hàm cái ân ấy, nay cho nó muốn kết duyên với ngươi để báo ân. 

Lập tức đêm hôm ấy truyền sai đốt đèn mỡ phụng, giải chiếu vẩy rồng, cho làm lễ thành thân. 

Hôm sau các tiên đến ăn mừng, kẻ cưỡi li vàng (tựa rồng mà không sừng), người cưỡi câu đỏ (loài rồng) đến hội. Bà tiên mở tiệc trên gác Giao Quang, nào là rèm ngọc, trướng điều, nào là đệm hoa ghế bạc. Các tiên ngồi riêng một bên tả, còn mé hữu thì Từ Thức ngồi.

Trong khi ăn yến, đủ thứ sơn hào hải vị, chả phụng nem công, thơm tho ngào ngạt, toàn những vị dưới trần không có bao giờ. Lại có đàn sáo bát âm rất là vui vẻ. 

Chiều tối tiệc tan, các tiên đâu về đấy. Từ Thức ở lại đấy được một năm, có ý nhớ nhà, nên một khi thong thả bảo với nàng Giáng Hương rằng : 
- Tôi vốn đi chơi xa xôi đã lâu, khó đè nén được bụng trần, lại tưởng nhớ đến quê cũ, xin cho tôi hãy về thăm nhà một chút. 
Giáng Hương có ý ngần ngừ không nỡ ly biệt.
Từ Thức lại nói rằng : 
- Cho tôi về chơi ít ngày tháng, bảo với anh em cho biết, rồi sẽ lại lên đây.
Giáng Hương khóc mà nói rằng:
- Thiếp không dám vị tình vợ chồng mà ngăn trở bụng quân tử, chỉ vì cõi trần bé nhỏ, ngày tháng ít oi, nếu có về chăng nữa, chỉ sợ cây cối cửa nhà không được còn như trước nữa đâu.

Nàng ấy nói với phu nhân. Phu nhân than rằng : 
- Không ngờ gã ấy còn vương víu trong đám bụi hồng, làm chi mà phải ngậm ngùi như thế?

Phu nhahn mới cho một cỗ xe cẩm vân, sai ngồi lên xe ấy mà về. Giáng Hương cũng viết một phong thư buộc kỹ đưa cho, giặn về nhà hãy mở ra coi.

Từ Thức cáo biệt, ngồi lên trên xe, đi vừa chớp mắt đã đến nhà. Về đến nơi nhìn xem phong cảnh quả khác xưa, nhân dân thành quách, không có gì là giống khi trước, duy hai bên khe núi thì vẫn còn nguyên.

Từ Thức đem họ tên mình, hỏi thăm các cụ già trong làng, thì có một người nói rằng :
- Tôi từ lúc còn nhỏ, có nghe cụ tổ ba đời nhà tôi cũng tên họ như thế, sa vào hang núi đã hơn tám mươi năm nay rồi. 

Từ Thức buồn rầu lắm, muốn lại ngồi xe đi lên thì xe đã hoá làm chim loan bay mất rồi. Mở bức thư ra xem, có câu rằng : “Trong mây kết bạn loan hoàng, duyên xưa đã hết, trên bể tìm người tiên tử, hội khác khôn cầu” mới biết là lời ly biệt. Về sau, Từ Thức mặc áo khinh cừu, đội cái nón nhỏ, vào núi Hoàng Sơn ở huyện Nông Cống (Thanh Hoá), không biết lên tiên hay là đi mất. 

TÚ UYÊN



Thời nhà Lê, ở làng Bích Câu (tức là làng Yên Trạch bây giờ, Hà Nội), có một người học trò tên là Tú Uyên, vốn người tài mạo, cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, chỉ chăm việc học hành.

Có một hôm chùa Ngọc Hồ mở hội, Tú Uyên đi xem, đến chiều trở về qua chùa Tiên Tích (ở phố cửa Nam) trông thấy một người con gái đẹp lắm, đang đứng ở dưới gốc cây đa. Tú Uyên lại gần hỏi chuyện, rồi hai người vừa đi vừa đối đáp với nhau, đến chỗ đình Quang Minh thì người con gái ấy biến mất, mới biết là tiên.

Tú Uyên đứng ngẩn ra một lúc mới trở về nhà. Từ đấy đêm ngày tưởng nhớ, phải bệnh tương tư, thuốc nào chữa cũng không khỏi. Một hôm nhớ đến sự bói thẻ, mới đến đền Bạch mã xin thẻ, rồi nằm mộng ở đấy. Đêm thần báo mộng rằng : “Sáng sớm mai, ra cổng cầu Đông sông Tô Lịch thì gặp”. 

Tú Uyên mừng lắm, sực tỉnh dậy thì trời đã rạng đông; vội vàng chạy ra đấy, đứng thơ thẩn độ vài giờ không thấy gì, toan trở về, thì gặp một ông cụ bán bức tranh. Tú Uyên cầm mở ra xem, thấy người tố nữ vẽ trong tranh, giống như người gặp khi trước, bèn mua đem về, treo ở cạnh buồng học, từ bấy giờ mới đỡ ưu phiền.

Tú Uyên mỗi khi đến bữa cơm ăn lại đặt hai cái bát, hai đôi đũa mời người tố nữ trong tranh như hai vợ chồng thực. Một hôm mời , thì hình như tủm tỉm cười muốn nói. Hôm sau đi học về, thấy mâm cơm dọn sẵn, nghĩ không biết thế nào, ăn thì toàn những mùi ngon vật lạ cả. Hai ba hôm cùng luôn như thế. Bữa sau giả cách đi học, đứng rình dòm vào trong nhà, thấy người trong tranh hiện ra đang điểm trang. Tú Uyên rón rén bước vào hỏi rằng : 
- Duyên sự làm sao, xin nói cho tôi được biết. 
Nàng rằng : 
- Thiếp ở trên cung tiên tên là Giáng Kiều, vì nhà chàng có phúc đức lớn nên gặp nhau từ khi ấy. Sau lại thấy chàng thương nhớ cho nên chúa tiên cho phép xuống kết duyên với chàng. 

Nói vừa xong rút trâm mái đầu, hoá phép hiện ra cửa nhà, lâu đài, đầy tớ, đồ đạc, rồi làm cỗ bàn mời các bạn tiên xuống ăn cưới. Từ đấy kết duyên làm vợ chồng.

Tú Uyên tự bấy giờ ham mê về tửu sắc, cả ngày chỉ uống rượu say sưa, bỏ sự học hành. Trong ba năm trời, Giáng Kiều khuyên ngăn mãi mà không nghe. Mỗi khi say rượu rồi thì lại có hành động lời lẽ vũ phu. Giáng Kiều giận lắm mới biến đi. Tú Uyên tỉnh rượu, thấy vợ bỏ mình mà đi mới hối lại, biết là lỗi tại mình. Đi tìm đâu cũng không thấy, bực mình muốn tự vẫn. Bỗng thấy nàng ở đâu lại về. Tú Uyên nửa mừng, nửa thẹn, lấy lời từ tạ, hai vợ chồng lại vui vẻ chung sống như xưa. 

Không bao lâu sinh được người con trai đặt tên là Trân Nhi. Đến sau con học hành thông minh, đã sắp nên người, Giáng Kiều bảo với chồng rằng : 
- Ở hạ giới này, một đời người chỉ được có bảy, tám mươi tuổi mà thôi, kể ra không được là bao nhiêu. Vả lại trong sổ tiên cũng có tên chàng, chi bằng chúng ta sớm đưa nhau lên cung tiên là hơn.

Liền đưa cho Tú Uyên một viên thuốc và một đạo bùa. Một lát thì có hai con hạc xuống đón, hai vợ chồng mỗi người cưỡi một con, ngoảnh lại dặn con rằng : 
- Con hãy ở đây, bao giờ thi đỗ thì ta xuống đón.

Nói đoạn bay cả lên trời.

Dân làng nhân thấy thế lập miếu ngay chỗ nhà cũ để thờ gọi là đền Tú Uyên.

(*) Theo Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân




THẦN THOẠI MƯỜNG *


(*)Tất cả những thần thoại của đồng bào miền núi, chúng tôi đều theo bản văng của Hoàng Trọng Miên (sách đã dẫn)



TRUYỆN TRĂM TRỨNG



Mặt đất vào thời kỳ ấy chưa có dấu vết loài người. Một ngày kia có một cây si to lớn mọc trên núi cao bị bão đổ xuống, trong đó bay ra một đôi chim lớn. Đôi chim đẻ ra một trăm trứng, trong số có ba cái lớn dị thường. Đẻ xong, đôi chim biến thành người, gọi tên là AY và UA, tức là hai con người đầu tiên ở trên mặt đất. Được hai bà tiên chỉ cho cách ấp trứng, năm mươi ngày sau, chín mươi bảy quả trứng nở ra thành người : năm mươi người về đồng bằng thành người kinh, còn bốn mươi bảy người ở mạn ngược, về sau thành tổ tiên các giống dân Mường, Mán, Mèo, Thổ … Đợi đủ một trăm ngày, ba cái trứng lớn còn lại nở ra thành người thứ nhất là Lang-Đại-Ca, người thứ hai là Lang-Đa-Cần, người thứ bà là nàng Nường-Kịt.

DIỆT HOA TINH



Trong số trứng nở, dân Mường sinh ra trước tiên, toàn ăn trái cây, đêm tìm hang đá mà ngủ nhưng họ vẫn làm mồi cho ác thú, đất đai bỏ hoang, họ không biết dùng lửa, sống rất kham khổ. Họ bèn cử người tới xin ba anh em cử người về cầm đầu trong xứ. Lang-Đa-Cần nhường anh là Lang-Đại-Ca về làm thủ lãnh dân Mường, nhưng Lang-Đại-Ca đi được nửa đường thì bị con yêu Hoa-tinh đón ăn thịt.

Lần này Lang-Đa-Cần nhận lời làm thủ lãnh đặt ra công ước đầu tiên cho dân Mường, quy định những liên hệ giữa người lãnh đạo và chức Quan Lang được đặt ra từ đó, lấy tộc danh của Lang-Đa-Cần làm tên gọi. 

Nhờ có sự trợ giúp đắc lực của một thầy mo* cao tay, Lang-Đa-Cần đánh bại được con yêu Hoa-Tinh, nó bị đánh gẫy hai chân, thân hình thu nhỏ lại như một khúc tre. Diệt xong Hoa-Tinh, Lang-Đa-Cần nhờ Đá-Cẩm-Cót dạy dân cách làm ra lửa nấu nướng đồ ăn. Nhìn một con rùa đứng lên trên bốn cẳng trông như bốn cây cột, mu rùa trở thành mái nhà và các vẩy rùa là những mái lợp, Lang-Đa-Cần chỉ bảo dân Mường cách cất nhà ở.

(*) Có phải đây là một danh từ gốc Mã lai? Vì gười Mã-lai ngày nay còn gọi các pháp sư của họ là bomob.



BỐN HỌ ĐINH, QUÁCH, BẠCH, HÀ



Lang-Đa-Cần không có cánh để bay lên trời mà lấy nàng Sáng (Ánh sáng) con gái bà Sao (ngôi sao). Một lần khác Lang-Đa-Cần gặp con gái thần Nước, yêu cầu cô gái theo mình làm vợ nhưng thình lình nàng biến mất; sau cùng Lang-Đa-Cần đành lấy em gái là nàng Nường-Kịt, song những đứa con đẻ ra đều hữu sinh vô dưỡng. Hai anh em phải dời nhau, Lang-Đa-Cần lấy người vợ thứ là Bà Chu Bà Chuông mới có được chín người con trai và chín người con gái, người con cả nối nghiệp cha, còn tám anh em trai lập thành bốn họ lớn : Đinh, Quách, Bạch, Hà.


TRUYỆN CÂY CHU ĐỒNG



Lang-Đa-Cần chết, con là Rịt-Ràng lên thay cha. Rịt-Ràng theo lời thần Kem-Ca sai bộ hạ là hai anh em Da-Đan và Da-Đét phải đi hướng Tây kiếm cho kỳ được cây Chu-Đồng* đem về cất cung điện.

Da-Đan và Da-Đét lên đường đi qua bao nhiêu nơi, khi tới xóm Chè (làng Văn Lang), hai anh em gặp nhiều cô gái thường dân, ngỏ lời hỏi thăm : 

- Nơi đây ao sâu chắc nhiều ốc, sông trong chắc nhiều cá, rừng cây tươi tốt chắc nhiều nai, cây cỏ tốt tươi như kia, chẳng hay có cây nào là cây Chu-Đồng không?
Đáp : 
- Ao chúng tôi tuy sâu mà không có ốc, sông tuy trong mà ít cá, rừng xanh mà kiếm không ra nai, cây cỏ tươi tốt nhưng chẳng có cây Chu Đồng nào cả.

Da-Đan và Da-Đét lại lên đường qua nhiều nơi lắm. Tới một nơi kia (làng Thiết-ung, Thanh hóa ngày nay) trời vừa tối, hai anh em nghỉ lại, hừng sáng nghe tiếng súc vật kêu họp bầy xung quanh cây Chu-Đồng. Hai anh em được trông thấy cây Chu-Đồng nguy nga rực rỡ như tòa cung điện. 

Thấy hai người lại gần, cây Chu-Đồng mới hỏi: 

- Ai đưa hai người tới đây? Tại sao lại mang khiên mộc với cung tên, sao lại đeo chuông?
- Hai anh em chúng tôi tuân lệnh truyền của vua Rịt-Ràng, đi kiếm cây Chu-Đồng, chặt đem về dâng vua.
- Thế hai anh em nhà ngươi có hoa sinh cá, lá sinh cơm không?
- Anh em chúng tôi làm sao có được!

Cây Chu-Đồng mới bảo sẽ tặng hai anh em thứ hoa lá kỳ lạ đó miễn là khi về đừng cho nhà vua hay là đã tìm thấy cây Chu-Đồng. Nếu hai anh em không giữ lời thì cùng phải chết theo cây Chu-Đồng.

Da-Đan và Da-Đét về thoạt kín miệng, nhưng sau hai người lại tiết lộ cho vợ nghe. Vua Rịt-Ràng vẫn cho kẻ tâm phúc theo rõi, rình nghe được sự thực, bèn mở một cuộc lễ mười ngày, mời tất cả mọi người tới dự. Giữa các bữa tiệc, lệnh truyền rao ai về có câu chuyện gì hay, tha hồ kể ra. Vào lúc chuếnh choáng hơi men, Da-Đan và Da-Đét móc túi lấy ra hai bảo vật khoe. Vua Rịt-Ràng liền ra lệnh cho mọi người theo nhà vua đến nơi có cây Chu-Đồng, còn hai anh em Da-Đan và Da-Đét phải dẫn đường. Tới nơi, thổ-ty** và dân làng đem rượu, thịt, xôi ra dân Rịt-Ràng. Nhưng qua chín đêm mười ngày mười ta đốn mãi mà không được. Một vị thày Mo được vời đến cho biết chỉ có hai anh em Da-Đan và Da-Đét là có thể thành công. Hai người bị ép buộc phải hạ cây thần, dùng rìu đẵn trong 15 ngày cây gần đổ, linh tính bỗng báo tai họa đến nơi, hai anh em liền nhảy lên ngựa định chạy trốn; nhưng ngựa cứ chạy quanh thân cây cho tới lúc cây đổ nhào xuống, đè chết cả hai anh em. Rịt-Ràng truyền chặt ngọn, đem thân cây về, nhưng bốn năm ngàn dân xúm lại mà không lay chuyển nổi. Một vị thuật sĩ được mời đến cho hay rằng muốn chở khúc cây khổng lồ ấy, chỉ có xương hai anh em Da-Đan và Da-Đét dùng làm bánh xe thì mới trục cây đem về tới nơi được. Khi nghe theo quả nhiên việc chuyên chở thân cây trở nên dễ dàng***.

Khi cung điện được cất xong, vua Rịt-Ràng khánh thành cho toàn dân được ăn uống no say.

(*) Tức là cây dầu-đa to lớn, cưa ra sắc đỏ như đồng
(**) Thổ-ty là trưởng quan thế tập của các người Mường, Mán miền thượng du
(***)Những chi tiết vừa hồi hộp, vừa bi hùng, vừa hợp lý một cách .. “thần thoại”, nâng cao giá trị câu chuyện biết là chừng nào. 


TRUYỆN CÂY SONG KHỔNG LỒ



Trong bữa tiệc khánh thành đãi toàn dân no say, vua Rịt-Ràng lại quên không mời Khao-Che và Giê-Chông, con của Da-Đan và Da-Đét. Hai anh em tức giận lấy cẳng trâu đập vỡ tan cái cổng đồng của vua Rịt-Ràng. Nhà vua tức giận sai người đi bắt. Khao-Che và Giê-Chông chạy trốn vào rừng toan tụ tập dấy loạn. Nhà vua hối hận sai người đi phủ dụ Khao-Che và Giê-Chông trở về, sẽ ban cho ruộng đất, rừng cây, nhà cửa. Nhưng khi quay về hai anh em chẳng nhận được gì, tức giận, bàn nhau bắt một con mèo, tẩm dầu vào giẻ buộc đằng đuôi, rồi đốt cháy. Con mèo bị lửa chạy lên nóc cung điện, cả lâu đài nguy nga đều làm mồi cho lửa. Biết được họa này là do Khao-Che và Giê-Chông gây ra, Vua Rịt-Ràng truyền lệnh bắt họ. Hai anh em chạy thoát vào rừng nhưng bị rượt đuổi gấp, sực nhớ cha họ chết đi có để lại một hột giống quý gọi là Long Lai Cai Long Cham. Hai người vội gieo hạt giống xuống đất, quỳ khấn khứa : “Bố ơi, hồn bố có linh thiêng, xin cho hạt giống này trổ ngay ra một cây song quật chết đoàn quân của Rịt-Ràng”. Khấn xong, tự hạt giống vừa lấp dưới đất vụt mọc lên một cây song dài không biết bao nhiêu trượng, rộng cả bốn ôm. Thấy đoàn quân của vua Rịt-Ràng tới nơi, cây song khổng lồ quật vút xuống, ầm một cái, nháy mắt đập chết tươi 1.100 người, rồi quét sà mặt đất, quật chết thêm 1.050 người nữa. Trước tai biến ấy, viên tướng cầm đầu đoàn quân của Rịt-Ràng bèn ra lệnh cho Lâm-Lâm và Len-Len tức con trai của Khao-Che và Giê-Chông, cháu nội của của Da-Đan và Da-Đét, phải dùng dao chặt đứt cây song ra làm đôi. Chặt đến đâu máu chảy tới đó, máu đen tuôn ra biến thành gà rừng, máu đỏ hóa thành hươu nai, máu vàng sinh ra con cọp Mông-Ty-Vy-Tượng-Vương.

TRUYỆN MÔNG-TY-VY-TƯỢNG-VƯƠNG



Lúc còn trẻ cọp Mông-Ty-Vy-Tượng-Vương chỉ ăn cua ăn ốc, nhưng càng lớn lên nó đâm ra ăn gà, heo, bò, trâu, đến khi lớn bằng núi đá, nó bắt cả người để ăn thịt, đi tới đâu, hoành hành gieo họa khủng khiếp tới đó. 

Vua Rịt-Ràng liền đem quân đi giết cọp, truyện lệnh cho hai anh em Ban-Xan và Bông-Xông (con của Lâm-Lâm và Len-Len; cháu của Khao-Che và Giê-Chông; chắt của Da-Đan và Da-Đét) đi dò la đích xác địa điểm của con ác thú đang nằm ngủ. Tới Lao-Cai, hai người nhìn thấy một con cọp lớn bằng một hòn núi đá, vú cọp lớn như đụn rạ. 

Ban-Xan và Bông-Xông quay về tâu trình với nhà vua. Sang hôm sau, vua Rịt-Ràng xua quân tấn công con mãnh thú. Hai anh em Ban-Xan và Bông-Xông vác dao, cầm nỏ, bắn trúng con thú bị thương trước tiên. Con vật chồm dậy gầm lên như sấm sét, cong đuôi chạy trốn từ Cun-Khương xuống tới Mường-Sên (làng Mân-Dục), qua một con đường độc đạo, mắc kẹt giữa khe đá. Quân vua Rịt-Ràng đuổi theo sát, Ban-Xan và Bông-Xông còn đâm trúng mình cọp trên một trăm vết thương nữa. Cọp dùng tàn lực cuối cùng vùng thoát khỏi kẹt đá, vuốt cọp còn in vết trên đỉnh núi. Ác thú lết thẳng xuống bãi Đồng-Chuông (làng Tuần Lê) và trong lúc giẫy giụa trước khi chết, nó cào đất đào thành một cái ao lớn ngày nay hãy còn. 

Cọp chết rồi người Lào mới bắt chước bộ lông rằn-rện của nó làm kiểu mẫu dệt nên những tấm vải rất đẹp gọi là Phạ-Lào. Người Mường đến sau, mặc dầu ở gần đấy hơn, nhìn thấy bộ lông cũng học kiểu để dệt, nhưng không được đẹp bằng.

Sau khi mọi người đã lấy kiểu xong, vua Rịt-Ràng cho xẻo thịt cọp ra làm 2.150 miếng tại Bãi-Chuông, do đó ngày nay người ta còn thấy nơi đây đầy rẫy những tảng đất trông tựa những mảng thịt cọp. Khi chia phần thịt cọp, dân Xóm-Cho (làng Tuần-Lê) ở ngay đấy đinh ninh thế nào cũng có phần, nhưng đến nơi vào lúc vua Rịt-Ràng đã lui quân, chỉ còn thấy bỏ xó những nồi đất đã nấu thịt cọp. Đang đói lại tham ăn, dân Xóm-Cho bèn liếm nồi, vì thế mà môi họ và đầu mũi đều bị nhọ nồi đen thui. Cho tới ngày nay, con cháu họ vẫn còn những vết nhọ trên mũi trên môi như vậy.

PHỤ CHÚ:



Thần thoại tiểu sử Mường có những nét hao hao song song với thần thoại Việt : 
ở Vĩ tích diệt Hoa-tinh của Lang-Đa-Cần làm ta liên tưởng đến vĩ tích diệt Mộc-tinh của Lạc-Long-Quân.
ở Lời Khao-Che và Giê-Chông khấn khi gieo hạt giống : “Bố ơi, hồn bố có linh thiêng xin cho hạt giống này trổ ngay ra một cây song vật chết đoàn quân của Rịt-Ràng” làm ta liên tưởng đến thần thoại Việt mỗi khi người dân gặp tai ương lại kêu khấn Lạc-Long-Quân “Bố ơi đâu sao không về cứu chúng con!”
ở Hình ảnh cây song vút xuống một lần làm chết 1.100 người làm ta liên tưởng đến nỏ thần của Thục An-Dương-Vương.
ở Cây Chu-Đồng trong thần thoại Mường cũng thấy có ở ca dao Việt nam : 
Cây chu đồng không giồng mà mọc
Rễ chu đồng rễ dọc rễ ngang.
(Chu đồng chứ không phải ngô đồng là bắt chước Trung-hoa).

Về sự tích cây chu đồng, ông Quách-Điều trong một bài báo Nam Phong có ghi một truyền thuyết khác là : “Quao lang khởi tổ từ cuối thời nước ta còn mang quốc hiệu Văn lang gồm sáu họ Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao, đều là những con thứ được nhà vua chia đất phong cho tại những nơi có rừng, thung lũng lớn để mở mang ruộng vườn, chiêu dân lập ấp, rồi hoặc tới kỳ thì về kinh đô Phong Châu chầu Vua, hoặc đem của hiếm vật lạ dâng Vua. Đời Thục An-Dương-Vương đem quân đi chặt cây chu đồng ở đất Mường-ai, Mường-ống (làng Ái-thượng, Ái-hạ, Thiết-ung, thuộc Thanh-hóa) lấy về dựng làm cung đài và Chùa Đồng. Hiện sở tại còn dấu vết gốc cây ở trên đỉnh núi, và Chùa Đồng ở núi Tam-đảo là dựng từ lúc ấy”.

Còn về con Muông Ty Vy Tượng Vương, vẫn trong bài báo trên, ông Quách Điều cũng ghi một truyền thuyết khác : “Chiếu Vua ra hội họp các quan lang cùng đi săn đuổi bắn được con muông tượng vương lớn bèn ban thưởng chia cho ăn thịt cùng da lốt. Tương truyền hình dạng con muông tượng vương như con hổ; hiện ở làng Quy-Hậu còn một vết chân nó vồ lõm vào vườn núi đá ăn sâu hơn 50 phân bề rộng ước sáu bảy thước, và ở làng Mỹ-hòa có một vực rất sâu và rộng ước độ bốn năm mẫu : khi bị bắn, nó ngã vật xuống thành vực như vậy; xung quanh đó có một bãi cỏ rộng mênh mông đều đều cứ cách độ mười thước lại có một nấm đất nhỏ nổi lên nguyên do vì khi chia nhau thịt được đánh từng phần, khi lấy thịt rồi, mỡ còn lại ngấm xuống đất, mối đùn lên thành nấm đến nay vẫn còn*

Sau đây đến truyện “Đạo Kha và Cây Trường Sinh”, như truyện “Thằng Cuội” trong thần thoại Việt Nam. Quả thật là tình trạng thần thoại thoạt cùng một gốc mà sau chia làm đôi nơi.

(*) Xin đọc : Quách Điểu, “Hoa-Bình Quan Lang-Sử Lược”, Nam Phong tạp chí, số 100 (Nov.19,25)-tr-355-56.


ĐẠO KHA VÀ CÂY TRƯỜNG SINH



Đạo Kha có tài săn bắn, một hôm nhắm bắn một đàn nai, hai con bị trọng thương nằm rãy rụa, một con cố lết tới một gốc cây mọc gần bờ suối. Nghĩ rằng con thú rừng bị tên tìm nước uống trước khi chết, Đạo Kha đứng yên nhìn theo thì thấy con nai vươn mõm ngoạm lấy một ít lá cây nhai nuốt, chỉ chốc lát lồm cồm đứng lên được, vết thương bên hông cầm hẳn máu chảy, cái chân què lành lặn như thường. Nó ngoạm thêm một nắm lá cây, nhai nhai đem đến nhả vào mồm con nai nằm chết trên vũng máu. Chỉ một lát sau, con thú đã chết cứng bắt đầu thở phì phào, lắc lư đầu, cử động bốn chân, từ từ đứng lên, ngoe nguẩy cái đuôi ngắn rồi tất cả theo vào rừng.

Đạo Kha sững sờ kinh ngạc chạy đến gốc cây cải tử hoàn sinh, tuốt lấy một nắm lá, bẻ luôn cả cành con, lấy dao rạch vào thân cây ghi dấu, rồi vội vã trở về bản.

Trong bản bấy giờ đang có mấy người đau ốm đã từ nửa năm nay mà thuốc thang không khỏi. Đạo kha vò lá pha nước cho họ uống chẳng mấy chốc các con bệnh đều lành mạnh như xưa. Không những vậy, Đạo Kha còn chữa lành cho cả những người mù, què, câm, điếc và những người vừa chết nữa. 

Danh tiếng cải tử hoàn sinh, cải lão hoàn đồng của Đạo Kha lan khắp bốn phương. 

Trên thượng giới, Trời cùng các vị thần bấy lâu đã biết rõ việc này. Các vị thần e rồi cả loài người sẽ sống mãi mãi chẳng kém gì thần tiên nên nhất quyết xin Trời trừng trị gấp, kẻo loài người sẽ coi thượng giới không ra gì nữa.

Trời bèn sai một vị thần xuống đất Mường, bắt cả những người đã uống lá cây trường sinh bất tử đưa đến một thế giới khác với cõi đời có sống có chết ở trần gian. (Không thể bắt những người bất tử ấy chết được, mà để họ ở trần gian thì còn gì là luật tạo hóa nữa.)

Còn Đạo Kha với cây trường sinh đã trót mọc ở đất Mường, thì một đêm trăng sáng dân Mường kinh hoàng thấy vị thần sống của họ ôm gốc một thân cây kỳ lạ bay tuột lên ở cung trăng. 

Từ đó dân Mường trở lại với bệnh tật, già, chết, chỉ còn biết ngắm bóng Đạo Kha ôm cây trường sinh đời đời trên cung trăng.

PHỤ CHÚ

Truyện trên được ông Hoàng-Trọng-Miên (VNVHTT quyển 2, Cổ tích) đặt tên là “Thằng Cuội Mường và Cây Trường Sinh”. Xét ra đại cương tuy giống nhau mà tinh thần cùng chi tiết có khác. Truyện “Thằng Cuội” của Việt nam đơn giản, thiên về hài hước; truyện “Đạo Kha” của Mường, trang nghiêm hơn, nhiều tình tiết hơn để giải thích sự cách biệt cần thiết giữa thế giới của thần tiên bất tử và thế giới của loài người với sinh, lão, bệnh, tử.



THẦN THOẠI THÁI



HỒNG THUỶ



Thuở đó các loài muôn thú bị người giết hại nhiều bèn kiện với Trời. Trời thoạt làm hạn hán, cỏ cây nơi nơi khô xác, muôn thú nơi nơi chết khát, kế tới sấm sét nổi dậy. Trong vòng một ngày, có trên một trăm ngàn trận mưa đổ xuống, tất cả khe, suối, ao, hồ đều tràn ngập, rồi nước dâng cao tới trời. 

Sau đại hoạ ấy, Trời đưa xuống hai thủ lãnh là Tao Suông và Tao Ngân để tạo lập lại trên mặt đất. Hai người dân nhà trời này đem theo tám quả bàu và tám cái gậy bằng đồng gọi là Sao Cam Pha (gậy chống trời). Trong ruột những quả bầu ấy có đủ mọi thứ cần dùng cho đời sống, có 330 giống lúa để gieo, 330 giống người. Trong các quả bầu cũng có đủ những sách dạy các phép phù thuỷ, bói toán, tiên tri.

Thoạt xuống đến Mường Um và Mường Ai là nơi chính giữa trời và đất, họ chỉ thấy một vùng nước mênh mông bao phủ cả mặt đất. Đợi ba tháng nước mới bắt đầu rút, sáu tháng mặt đất mới thật khô ráo. Tao Ngân đóng ở Mường Um và Mường Ai; Tao Suông thì xuống phía dưới thấp hơn, tới đâu cắm gậy và dùng trái bầu để tạo lập thế giới tại đó. 

Tương truyền một hôm, Tao Ngân dùng mác bổ một miếng trái bầu. Người Thái ở trong đó chui ra. Nhác bổ thứ hai bằng rìu thì thấy người Lào và người Lư chui ra, cao lớn hơn người Thái. Sợ quả bầu bị nát, Tao Ngân mới nung lửa chiếc dùi và cẩn thận dùi. Người Khả chui ra thấm phải than nên da đen hơn người Thái và Lào.

TRỜI THỬ MUÔN LOÀI



Ngày xưa không riêng gì con người mà cả loài chim muông cùng cây cỏ đều biết nói. Một hôm Trời muốn thử lòng mỗi loài bèn vờ chết. Tất cả loài vật mới lên trời vào dịp ấy, loài nào cũng nói rằng : “Ông Trời chết rồi, chúng ta tha hồ sống theo ý mình; ông Tổ chết rồi, chúng ta tha hồ ăn ở theo ý mình.”

Con rùa lên chậm vì nó vốn đi lâu, lại gặp một cây lớn ngã giữa đường, rùa mới nhờ người giúp nó vượt qua cây đổ, và để đáp ơn lại, nó hứa sẽ dạy cách than khóc về ông Trời chết. Khi tới trời, con rùa mới rền rỉ : “Ông Trời chết rồi, tôi không có chốn ở. Ông Tổ chết rồi, tôi không có gì để ăn!”.

Người cũng bắt chước y như lời than khóc đó của rùa. Trời nghe lấy làm bằng lòng lắm, ngồi nhỏm dậy phán rằng : 
- Loài vật các ngươi thấy ta chết đều tỏ vẻ vui mừng, bày tỏ lòng dạ xấu xa, từ đây ta không cho các ngươi nói được nữa mà chỉ để cho con người nói được mà thôi. Ta lại cho phép người được ăn thịt các ngươi.

Không một loài vật nào dám cãi lại ý định của Trời trừ cọp, rắn hổ mang và thuồng luồng. Con cọp nhảy vọt cao để tỏ sức mạnh; rắn thì phồng mang thở phì phì. Con người biết mình sức yếu hơn mới dùng mẹo, dựng lên một túp lều tranh rồi hỏi ba con vật : 
- Cái ngươi có sợ cái ta vừa dựng lên không?
Cả ba cùng đáp : 
- Sợ gì mà sợ. Cái đó chúng ta có thể dùng để ở, nằm ngủ thích thú nữa. 
Người bèn nói : 
- Vậy thì cả ba vào trong đó đi cho thích.

Cả ba con vật liền vào trong lều ở. Bên ngoài con người mới dùng hòn đá Trời cho, đốt lửa châm vào nhà tranh. Con cọp nóng quá nhảy phóng qua đám lửa cháy, vì thế mà từ ngày đó bộ lông bị vạch đen dài rằn rện. Hai con rắn và thuồng luồng tuy đã bò hết sức mau mà thân hình cũng bị vết than in hằn lên. 

Từ đấy mối thù hiềm giữa người và ba con vật càng nặng. Người tránh gặp ba con vật kia, và mỗi khi gặp thường nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng không vì thế mà người ta không ăn thịt ba giống đó.

PHỤ CHÚ : 
Loại truyện giải thích nguyên do vì sao có sự việc này, vì sao có sự việc nọ, ngày nay Tây phương mệnh danh vào loại “why stories”. Câu truyện trên của thần thoại Thái thật là loại “why stories” dí dỏm và hấp dẫn có hạng trong kho tàng thần thoại thế giới. 


CÂY SONG CHUỐC KHAO CÁT



Ngày xưa, trời đất vẫn liên lạc với nhau được bằng một cây song lớn gọi là Chuốc Khao Cát. 

Trên mặt đất có một người đàn bà góa, có một đứa con trai thường hay đi lại nhiều lần lên nước trời. Một hôm, người mẹ muốn đập lúa mà gọi con trai mãi không được vì nó còn mải chơi trên trời. Bà mẹ tức giận, khi đứa con đã xuống rồi, bèn lấy mác chặt đứt cây song làm cho đường đi giữa trời và đất từ đấy bị gián đoạn hẳn.

THẦN THOẠI MÁN



TẠO LẬP VŨ TRỤ



Thuở hỗn mang chưa có gì được tạo lập chỉ mới có hai đấng cùng thành hình một lượt là Nhiêu Vương (tức Ngọc Hoàng) và Bàn Cổ. Nhiêu Vương có ba trăm sáu con mắt; Bàn Cổ có ba trăm sáu thân hình. 

Con mắt bên trái của Nhiêu Vương sinh ra mặt trời (dương), con mắt bên phải sinh ra mặt trăng (âm), đầu làm thành trời, chân làm thành đất. Còn loài người thì do tâm của Bàn Cổ mà sinh ra, trong đó có Bàn Vũ. Bàn Vũ đã giúp vua Trung Hoa dẹp giặc phương Nam bằng cách hóa thành một con chó đi vào thành giặc, thừa lúc vua giặc đang say rượu, nằm ngủ, nhảy lại cắn chết, rồi chặt đầu mang về. Bàn Vũ được vua Trung Hoa trọng thưởng, cắt đất và gả công chúa thứ ba cho như đã hứa. Bàn Vũ và công chúa sinh ra được sáu trai và sáu gái thành tổ tiên người Mán. Hai vợ chồng Bàn Vũ về ở núi Cối Kê cai quản giang sơn, núi rừng của nhà vua đã cắt cho. Đến ngày nay, người Mán vẫn nhớ mình là con cháu của Cẩu Long (chó rồng), kiêng ăn thịt vật tổ, quần áo phụ nữ thêu dệt các hình ảnh nhắc nhở đến vật tổ, và trong vài bộ lạc Mán, đàn ông còn giữ tục lệ mang tóc kết như đuôi chó để nhớ đến nguồn gốc của bộ tộc. 

HỒNG THỦY



Thuở trời đất mới dựng nên, có một vị thần tên Chang Lô Cô xây một ngôi nhà lợp bằng lá chuối. Thần Lung Cung (Thần Sét) bèn làm đổ ngôi nhà ấy và hóa thành con gà trống để tỏ vẻ đắc thắng. Thần Chang Lô Cô thừa cơ tóm được, nhốt gà trống vào một cái lồng hình vuông, không cho uống nước. Thần Sét khát quá, đưa ra một cái răng, xin đổi được một ít nước uống. Uống xong thì trở lại nguyên hình Thần Sét, phá tan lồng bay vụt lên trời.

Thần Chang Lô Cô giận lắm, đem chiếc răng của Thần Sét gieo xuống đất thì mọc lên một nhánh bầu với một quả bầu khổng lồ; rồi ngồi trên nóc căn nhà đã bị làm đổ ở giữa ao, dùng phép ngăn sông, dâng nước lên tận trời để theo đuổi kẻ thù, làm chết đắm cả loài người. Chỉ có hai anh em Phu Hay được chim thần đến báo cho biết trước tai nạn và khuyên hai anh em tìm đến quả bầu khổng lồ ấy để tránh nạn. Khi nước dâng lên đến cửa nhà trời, Chang Lô Cô đập mạnh cửa gọi Thần Sét. Thần Sét bèn tháo nước cho trôi tuốt ra biển, thần Chang Lô Cô bị rơi theo, đầu va vào ngọn núi Côn Lôn mà chết. 

Trái bầu chở hai anh em Phu Hay thoát nạn cũng mắc trên đỉnh núi đó. Hai người độc nhất còn sót lại trên mặt đất dắt nhau đi tìm người cùng nòi giống để kết hôn. 

Đầu tiên họ gặp một con rùa đen. Rùa bảo trên mặt đất chỉ còn hai anh em mà thôi, rồi khuyên họ nên lấy nhau. Cho là rùa nguyền rủa mình, Phu Hay đập rùa vỡ tan ra từng mảnh. Nhưng các mảnh vỡ của rùa nối liền ngay lại với nhau và ngày nay còn mang dấu ở trên mai.

Sau đó, hai anh em lại ra đi, gặp một cây tre, tre cũng khuyên họ như rùa. Phu Hay tức giận chặt tre ra làm nhiều khúc, nhưng các khúc tre lại nối liền với nhau, và từ đó có dấu vết từng khúc trên thân cây.

Cuối cùng Phu Hay cùng em gái phải lấy nhau, rồi đẻ ra một quả bầu. Phu Hay cắt quả lấy hạt giao cho vợ đem gieo. Mỗi hạt mọc lên, hóa thành một người. 

Sau trận Hồng thủy, xuất hiện mười hai tinh cầu để làm khô ráo mặt đất. Nhưng sau khi mặt đất khô ráo rồi, mười hai tinh cầu vẫn chiếu nóng mãi khiến cho cỏ cây không mọc được, con người mới lấy cung bắn rụng dần, chỉ còn để lại một mặt trời và một mặt trăng.

THẦN THOẠI KHẢ



HỒNG THỦY



Ngày xưa, có hai anh em đào đất bắt được con chuột lớn. Nó van lạy xin tha chết và báo cho hai anh em biết là trong sáu ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn vô cùng. Hỏi phải làm thế nào để thoát nạn nước lớn, nó khuyên hai anh em nên chặt một thân cây, đẽo rỗng đi, để dành thức ăn vào đó, rồi buộc vào cây vả rừng, rồi hai anh em hãy vào náu trong đó, và nhớ lấy sáp ong bịt lại cho kỹ.

Quả nhiên, sáu hôm sau xảy nạn lụt lớn, nước mênh mông tràn ngập cả xứ. Hai anh em chui trong thân cây thoát chết. 

CHIM TO GO KHUYÊN HAI ANH EM LẤY NHAU



Khi nước rút hết, người xung quanh chết hết, chỉ còn hai anh em sống sót. Người con trai mới bảo với em gái : 
- Từ rày chỉ còn chúng ta sống sót ở trên đất này. Anh đi về phía này, em đi về phía kia. Anh sẽ lấy người đàn bà đầu tiên làm vợ, em sẽ lấy người đàn ông đầu tiên làm chồng. 

Hai anh em chia tay đi khá lâu, rồi lại gặp nhau. 

Người anh nói : 
- Có lẽ chúng ta đi chưa xa nên không gặp được xứ mới. Chúng ta hãy ra đi nữa, đi cho đến khi tới xứ có người ở. 

Nhiều ngày sau đó, hai anh em lại gặp nhau nữa. Họ buồn bã chưa biết tính sao thì có con chim to go bay ngang bảo hai anh em đừng đi tìm kiếm vô ích, vì trong cả loài người chỉ còn có hai anh em sống sót mà thôi. Chim khuyên hai anh em nên lấy nhau, nếu không thì khi một trong hai anh em chết đi, nhân loại sẽ bị tiêu diệt.

Hai anh em đành nghe theo lời chim, ít lâu sau người đàn bà có thai, và sau ba năm, sinh hạ ra hai quả bầu lớn. Hai vợ chồng chẳng hiểu ra sao, bỏ mặc quả bầu bên các cối giã gạo. Một hôm người vợ lỡ tay buông rơi cái chày làm vỡ một quả bầu. Tự nhiên trong đó chui ra những giống người Thái, Lư, Lào, Nhuôn.

Còn trái bầu thứ hai, người đàn bà sợ làm vỡ bị thương những người bên trong, mới cẩn thận dùng dùi nung lửa từ từ chọc thủng. Người Khả ở trong liền chui ra với làn da nám đen than cháy ở vỏ bầu, vì thế mà người Khả đen hơn tất cả các dân trong xứ.

Hai trái bầu nay đã hóa thành hai tảng đá còn vết tích bị chày rơi nứt vỡ và vết dùi chọc qua. Bên cạnh vẫn còn cây vả mà thủy tổ loài người nhờ cột thân cây rỗng vào đó mà thoát chết sau nạn hồng thủy.

Ngày nay tại Bản Tô Bung cách Điện Biên Phủ 25 cây số còn một ngôi chùa của người Lư cất lên thờ nhiều tượng Phật ; trong số có một tượng to lớn đúc bằng sắt, đồng và đất gọi là tượng ông Mồng, tên con chim đã khuyên hai anh em tổ tiên loài người lấy nhau sau trận hồng thủy. Chùa ấy ngày nay còn gọi là chùa ông Mồng.

THẦN THOẠI LÔ LÔ



SÁNG TẠO LOÀI NGƯỜI



Kết Dơ (Thượng Đế) tạo ra trời trắng và đất đen và cùng Ga-Gie lấy đất từ phương Tây qua phương Đông để làm ra người, nhưng công việc còn dở dang thì trời tối. Qua ngày sau, họ thấy tượng nặn hôm qua đã bị ai phá và hai đêm liền đều như thế. Họ nặn đến lần thứ ba rồi để ý coi chừng. Đến nửa đêm Thần Đất lại. Thấy họ, Thần Đất bảo : “Đất này là của tôi, nếu các người mượn để nặn con người thì trong bao nhiêu năm sẽ hoàn lại?”

Họ đáp : “Trong vòng sáu mươi năm chúng tôi sẽ trả.”

Do đó con người chỉ sống trong khoảng sáu mươi năm rồi phải chết để trả hình hài lại cho đất.

PHỤ CHÚ : 
Ngụ ngôn con người chết, hình hài trở về với cát bụi trong thần thoại Lô lô này gợi cảm biết chừng nào !



HAI NGƯỜI ĐẦU TIÊN LẤY NHAU



Hai người Nam, Nữ đầu tiên xuất hiện trên mặt đất không có cha mẹ, vì họ do đất nặn ra. Tự cho là hai anh em, muốn lấy nhau, mỗi người đứng trên một ngọn núi lăn xuống một hòn đá. Đá của người con gái lăn xuống dưới thấp, hòn đá của người con trai lăn chồng lên. Họ lại lăn hai cái sàng, kết quả cũng như trước. Họ lại lấy mỗi người một chiếc giày tung lên không, hai chiếc cùng rơi xuống dính liền với nhau. Hai người lại đốt lửa trên hai quả núi, khói bay lên trời, quấn quít lấy nhau.

Sau vụ thử ý trời lần thứ tư đó, hai người kết làm vợ chồng. Ít lâu sau, người Nữ mang thai và đẻ ra một quả bầu đầy hột, mỗi hột hóa thành một người. 

HỒNG THỦY



Một gia đình có bốn anh em : ba giai một gái. Lần đó họ cày ruộng. Ngày hôm sau trở ra đồng thì thấy những luống cày dính liền với nhau phẳng phiu như cũ. Họ cày đến ngày thứ ba cũng lại thấy như thế. 

Thì ra đến nửa đêm có ông già Nhi Gia, cầm gậy trắng đến lấp những luống đã cày. Người anh cả muốn đánh, người em thứ muốn bắt trói lại, nhưng người em út đã chạy lại, ôn tồn hỏi duyên cớ.

Ông già đáp : “Các người cày ruộng làm gì nữa, vô ích, lụt hồng thủy sắp tới nơi rồi, nước sẽ dâng đến tận trời, loài người sẽ chết hết”.

Nạn lụt xảy ra, người anh cả ngồi trong một chiếc trống bằng sắt, người em thứ ngồi trong một chiếc trống bằng đồng, cả hai cũng bị chết chìm. Người em út cùng chị ngồi trong một chiếc trống bằng gỗ, mang theo một quả trứng, như lời ông già đã dặn, đợi khi nào gà nở lên tiếng kêu thì hãy mở trống ra. Trống gỗ chở hai người theo nước rút xuống, mắc ở trên cành một cây si mọc ở lưng chừng sườn núi. Hai người phải nhờ đến một cây tre cứu thoát cho. Khi xuống được mặt đất rồi, người con trai mới nói với cây tre rằng : “Tôi không có tổ tiên, vậy tôi sẽ thờ tre làm tổ”.

Từ đó, người Lô lô thờ tre làm vật tổ. 


SO SÁNH THÊM VỚI THẦN THOẠI CAO NGUYÊN VÀ KẾT LUẬN



Trên đây là thần thoại Việt Nam và thần thoại đồng bào miền núi quanh vùng từ Hòa Bình tới Trấn Ninh, cùng chung một nét chính, đặc biệt là từ quả bầu hay bọc trứng mà sinh ra các giống người. Khu địa bàn này là cái nôi thuở ban đầu của dân tộc.

Trên con đường Nam tiến, trong gia đình dân tộc mở rộng, chúng ta có thêm đồng bào cao nguyên : Rốc Lai, Srê, Ba Na, Xê Đăng, Ra Đê.

Căn cứ theo bản văn của ông Hoàng Trọng Miên (sách đã dẫn) thì trong các thần thoại cao nguyên, chúng ta cũng nhận diện thấy đủ các nét đại đồng của thần thoại thế giới.

Nạn Hồng Thủy Và Anh Em Lấy Nhau.

Thần thoại Rốc Lai và Ba Na đều kể nạn hồng thủy. Riêng trong thần thoại Ba Na cũng có truyện hai anh em vì nằm trong một cái trống mà sống sót sau nạn hồng thủy, và sau đó buộc lòng phải lấy nhau vì trên mặt đất không còn ai nữa.

Cây, Cột, hay Tháp Cao Tới Trời.

Về cây, cột hay tháp cao chạm tới trời thì thần thoại Ba Na kể khi con cháu ông bà thủy tổ đã đông đảo, họ mới xây một nhà gác cao nóc gần tới trời. Người anh cả ngồi trên nóc để chỉ huy công việc, ra lệnh cho các em. Nhưng từ đó, tiếng nói của người anh cả vang xuống, không ai hiểu được nữa. Anh cả bảo một đằng, các em làm một nẻo. Anh cả quát mắng, các em nhăn răng cười vì mỗi người đã nói một thứ tiếng khác. Anh cả xuống đuổi đánh, các em chạy mỗi người một ngả, rồi ở đâu nói tiếng đấy, do đó mà ngày nay có các thứ tiếng Ba Na, Da Rai, Xê Đăng, Ra Đê, Rốc Lai …
(Có thể so sánh với truyện xây tháp lên trời của thần thoại Mèo).

Giải Thích Những Hiện Tượng Mặt Trời, Trăng, Sao:

Về mặt trời, mặt trăng, các vì sao, những vụ nhật thực, nguyệt thực, thần thoại Sré kể là thoạt nàng Mặt Trăng cũng chiếu sáng rực rỡ như nàng Mặt Trời. Người ta phải lấy tro trát vào Mặt Trăng cho bớt nóng. Trăng rằm là lúc nàng đưa mặt ra để rửa mặt, trăng thương huyền hay hạ huyền là lúc nàng ngoảnh mặt sang một bên, và trăng đầu mùa là lúc nàng đang quay lưng đi.

Thần thoại Ba Na kể là hai chị em Mặt Trăng Mặt Trời cùng lấy một con cá Bơ làm chồng chung. Sau đôi bên bỏ nhau. Người chồng cá thỉnh thoảng lại chạy theo nuốt một trong hai người vợ cũ. Vì vậy sinh ra những vụ nhật thực, nguyệt thực.

Thượng Đế và Thủy Tổ Loài Người. 

Tất nhiên thần thoại cao nguyên đều có phần chính yếu là những truyện kể về Thượng đế sáng tạo vũ trụ, hay Thủy tổ dòng giống.

Theo thần thoại Rốc Lai thì vị thần sáng tạo ra trời đất và muôn loài tên là Bung. Thủy tổ của dân miền Cao nguyên là Sọt Đen, con của Mặt Trời. Nguyên do : Trời (Trụ) và Đất (Tiah) lấy nhau đẻ ra nàng Binh. Nàng Binh đang ngủ, Ngài (Mặt Trời) ăn trầu, đánh rớt bã trầu lên người Binh làm Binh thụ thai, sinh ra Sọt Đen. Sọt Đen lấy vợ, đẻ con, sinh ra các giống dân miền cao nguyên ngày nay.

Theo thần thoại Ba Na thuở hỗn mang chưa phân biệt trời đất, thoạt có hai vị thần quyền phép vô cùng là Thần Nam (Bok Kơi Dơi) và Thần Nữ (Iă Kon Keh). Hai vị ấy chia nhau tạo lập ra vũ trụ trời đất, trăng sao. Những công việc ấy làm xong, Thần Nam và Thần Nữ mới phối hợp cùng nhau sinh được ba con, một con được giữ lại làm thần trên trời (Iă Pôm), còn hai con cho xuống làm người gọi là Iă Bok (Bà ông), tức là tổ tiên loài người.

Theo thần thoại Ra Đê thì đứng đầu thế giới thần linh là một vị thần tối cao ngự trị trong một ngôi nhà rực rỡ trên thượng tầng mây xanh, tức là Trời (Aê Diê). Dưới quyền của Trời là những thần khác, mỗi vị có một phận sự trong đời sống của con người miền núi, và ở một chỗ nhất định trên trời, dưới đất, hay trong lòng đất.

Đặc biệt thần thoại Xê Đăng, có sự tích nữ thần Hoa Lan (Thủy mẫu các bộ lạc cao nguyên) được kể lại rất văn vẻ với nhiều tình tiết kỳ thú.

Tại một làng giữa rừng, có một mụ đàn bà độc ác, xấu xí, chuyên giao thiệp với ma quỷ, tên là Mụ Lông. Một hôm, Mụ Lông đi tìm trái cây để ăn, bắt gặp một con khỉ biết nói tiếng người. Mụ định giết, khỉ nói nó bất tử nên không ai giết được nó. Mụ Lông hỏi tại sao nó nói được tiếng người và tại sao nó bất tử, thì con khỉ trả lời : “Tôi là hồn một đứa bé ngày xưa bị một mụ thầy mo giết chết để hút máu, moi lòng ăn. Thần linh tức giận, mới bắt mụ thầy mo hóa là khỉ, rồi cho hồn tôi nhập vào”.

Mụ Lông dụ dỗ con khỉ về hầu hạ mụ trong một năm rồi mụ sẽ làm nó trở lại thành đứa con gái xinh đẹp. Hồn thơ ngây ở trong thân khỉ nhận lời. Song nào Mụ Lông có giúp gì cho nó, trái lại hành hạ đánh đập, chửi mắng nó, bắt nó nhịn đói, nhịn khát và làm việc không ngừng.

Chẳng bao lâu, dân làng đều biết Mụ Lông có nuôi một con khỉ làm lụng siêng năng như một người đàn bà, khôn ngoan biết nói tiếng người và trường sinh bất tử. Biết những hành vi ác độc của Mụ Lông, trai trẻ trong làng mới bàn bạc với nhau, bày mưu gài bẫy bắt được mụ, mang đi bỏ mụ ở một chỗ thật xa cách làng và cứu con khỉ. Con khỉ nói với những ân nhân của nó là nó thề hầu hạ Mụ Lông thì nó phải giữ lời thề đó trước thần linh, còn Mụ Lông đã hứa sẽ giúp nó trở lại thành người con gái xinh đẹp, tất Mụ Lông cũng không được sai lời hứa.

Bỗng nhiên gió nổi lên, cả rừng xanh xao động dữ dội, các thân cây cổ thụ kêu răng rắc, rồi tự cây thần phát ra một tiếng nói vang như tiếng sấm : “Bớ khỉ con, hãy dời bỏ nhà mụ quỷ quái ác này đi, hồn mụ sắp phải sa hỏa ngục, con hãy đi về làng sống với người ta, rồi chẳng bao lâu con sẽ được toại niềm mong ước. Hỡi dân làng, các con hãy vì tình thương mà che chở cho nó để nó trở thành người như các con!”

Con khỉ về sống với dân làng ít lâu vẫn giữ nguyên lốt khỉ. Đàn bà trong làng bàn tán, cho nó chỉ là là tôi tớ của ma quỷ. Và khỉ lại bị những người ấy hành hạ tàn nhẫn như khi ở với Mụ Lông, duy đám trai trẻ trong làng là còn tin ở lời Thần Cây và thương mến con khỉ. Một lần, có mấy người đàn bà giữ con khỉ để ép cho một con chó đực; nhảy nó không xong, mới lượm đá thi nhau ném. Bỗng nhiên gió cuồn cuộn nổi lên., chuyển động cả núi rừng, rồi tiếng nói như sấm của Thần Cây vang lên : “Bớ khỉ con, nạn nhân của những kẻ hung ác mà ta nguyền rủa, con hãy chạy trốn đi, thần linh sẽ che chở và chỉ đường con đi”.

Và con khỉ đã bỏ chạy vào đêm tối. Nó đi mãi cho đến lúc trời hửng sáng, lần bước theo ánh sao lấp lánh trên cao.

Hôm ấy, mặt trời mọc lên đỉnh núi chậm hơn thường ngày, chói lọi khác thường. Bầu trời đỏ rực, mây như lửa, gió ngừng thổi, suối không chảy nữa. Dân chúng kinh hãi ngồi sững sờ trước sàn hiên, nhìn hiện tượng khác lạ trên trời.

Một ông lão chống gậy tre tìm đến nhà Bang, một chàng trai tù trưởng trẻ đẹp, gọi dậy cho hay : “Một cô gái đồng trinh, trẻ đẹp, từ trên cành cây xuống, từ trong hoa nở ra, đang đi về phía tù trưởng. Vậy tù trưởng hãy tới đó mau, đi một mình, đừng cho ai theo, giả cách là một kẻ nghèo đi săn bắn để rước con gái thần về làm vợ.”

Tù trưởng Bang vội vàng sửa soạn ra đi. Mặt trời trở lại với ánh sáng mọi ngày, mây thôi đỏ màu lửa rực, gió bắt đầu vi vu, nước suối lại róc rách chảy, chim rừng ca hót trở lại …

Trong khi ấy, con khỉ vừa ra khỏi rừng, miệng khô bỏng cả mình và bốn chân rớm máu sau một đêm băng rừng vượt núi. Nó vội vã tiến bước tới một dòng nước trắng bạc để giải khát.

Dòng sông này là giang sơn của Sét Sa, con rắn chúa các thủy động và sông ngầm. Sét Sa ở dưới một hốc đá sâu, làm chủ bao nhiêu vàng bạc theo các dòng nước đưa đến. Nó mài kim cương trên đá thác nước, gọt ngọc biếc dưới trăng và nhuộm các thứ ngọc theo sắc da trời khi đỏ, khi hồng, khi xanh, hoặc đủ màu sắc cầu vồng. Sét Sa thường lệnh các thần linh quấn những kẻ hung ác dìm xuống đáy vực sâu. 

Lúc con khỉ sắp cúi mình xuống dòng nước để giải khát thì một bàn tay xương xẩu chụp lấy cổ nó, quật ngửa ra. Đó là Mụ Lông. Mụ nguyền rủ khỉ là bội ước. Mụ lấy chiếc gậy cong queo đánh khỉ không tiếc tay để bắt nó về. Mụ nhổ toẹt một bãi nước trầu đỏ lòm trên mặt nước sông, mặc dầu luật lệ của núi rừng cấm đoán người ta không được làm vẩn đục nước trong. Thế là dòng sông nổi sóng, mặt nước mở ra, con rắn khổng lồ Sét Sa theo sóng hiện lên, vươn mình tới đớp lấy Mụ Lông và con khỉ cứng đơ trong kinh hoàng. Đúng lúc một trần cuồng phong nổi lên, xé tan mây mù, thổi mạnh cây cối ngả nghiêng, rồi tiếng nói của Thần Cây vang động bảo Rắn Sét Sa trước khi nuốt xác Mụ Lông và xác con khỉ (Tức mụ thầy mo đã giết đứa trẻ), hãy trả lại ba linh hồn cho Thần Cây : linh hồn cô bé thơ ngây, linh hồn Mụ Lông và linh hồn mụ thầy mo.

Sét Sa tuân lệnh Thần Cây, rồi nuốt chửng xác Mụ Lông và xác con khỉ.

Hồn Mụ Lông và hồn mụ thày mo bị biến thành hai loài ác điểu sống bằng thịt thối, xác chết và đồ dơ bẩn. Còn lại hồn đứa bé, Thần Cây mới cho theo ánh sáng mặt trời nhập vào cây hoa thơm đẹp nhất trong các loài hoa, đặt tên là Hoa Lan (Ri A Đa). Thần lấy nhụy cái ở trong hoa làm ra thân hình đàn bà, lấy hai giọt sương long lanh làm thành đôi mắt, lấy tiếng nước suối chảy trong trẻo làm thành giọng nói, lấy hai nụ hoa hồng làm bầu ngực, lấy một đóa hồng nở làm thành miệng và lấy cỏ tiên làm thành tóc.

Từ hư không, Thần Cây đã dùng ánh sáng và hoa mà tạo nên một người con gái vô cùng xinh đẹp và hiền thục. Nàng bừng mắt dậy giữa rừng xanh, soi bóng mình trên mặt nước, lòng hân hoan, chân bước đi trên cỏ rừng, ngỡ ngàng như một con nai tơ. Đang lúc nàng đi về phía Tây thì gặp một chàng trai trẻ, tay cầm nỏ đi lại. Chàng hỏi : 
- Hỡi người con gái, nàng là ai mà đi một mình trên đường đất của ta?
Nàng đáp : 
- Tôi là Ri A Đa, con gái của Hoa Lan, đi trên đường chư thần chỉ dẫn. Thế còn người là ai, hỡi chàng trai trẻ?
- Ta là Bang, tù trưởng đất này.
- Người là tù trưởng thật ư?
- Phải, ta là tù trưởng Bang, theo lời thần bảo, đi đến gặp người con gái từ hoa và ánh sáng sinh ra. 

Thế rồi đôi trai gái dìu nhau về. Hai người ở với nhau, sinh được nhiều con cái, thành tổ tiên các bộ lạc cao nguyên ngày nay. Và Hoa Lan được dân thờ xem là Mẹ của dân miền cao nguyên. 

Trên đây là tóm tắt những nét chính của các thần thoại cao nguyên : Thực ra cao nguyên cũng là miền núi nhưng soạn giả muốn dùng danh từ này để phân biệt với thần thoại của các đồng bào thiểu số Mường, Mèo, Mán, Thái, Kha, Lô Lô … trên. Thần thoại tại “khu nôi” của dân tộc này (từ miền Nam Ngũ Lĩnh tới Trấn Ninh) có chung một nét đặc thù là huyền thoại tự trái bầu hay bọc trứng mà sinh ra các giống người. So sánh với thần thoại cao nguyên, tuyệt nhiên không gặp truyện nào dính líu đến hình ảnh trái bầu, quả trứng nữa. 

Nét đại đồng và nét tiểu dị được ghi nhận làm phần kết thúc cho thần thoại Việt Nam, thần thoại đồng bào miền núi Bắc Việt và thần thoại đồng bào cao nguyên Nam Trung Việt là như vậy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO



Henri Roux (Colonel), “Quelques Minorités Ethiniques du Nord Indochine”, II P’u noi. France Asie – 92-93 (Janvier Février, 1954), 253-95.

Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư I. Thần thoại. Saigon : Quốc Hoa, 1959.

Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư II. Cổ Tích. Saigon : Văn Hữu Á Châu, 1960.

Lê Xuân Khoa, Nhập Môn Triết Học Ấn Độ. Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1965.

Lý Tế Xuyên, Việt Điện U Linh Tập. Saigon: Khai Trí, 1961. (Bản dịch Lê Hữu Mục)

Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân. Saigon : Mặc Lâm, 1968.

Trần Ngọc Ninh, “Huyền Thoại Việt Nam”. Tân Văn, 13 (tháng 5,1969), 1-12. Tân Văn, 14 (tháng 6, 1969), 25-36.

Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam Chích Quái. Saigon : Khai Trí, 1961 (?) (Bản dịch Lê Hữu Mục).




THẦN THOẠI TRUNG HOA



VÀI NÉT TỔNG LUẬN


Các học giả Tây phương chia lịch sử Trung Hoa ra làm hai phần, thượng cổ và cận đại, ranh giới của hai phần đó là đời Hán, từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên tới thế kỷ thứ hai sau công nguyên vì kể từ đời Hán với sự chinh phục lân bang, mở rộng bờ cõi, Trung Hoa mới thực sự tiếp thụ nhiều nền văn hóa ngoại lai. Đạo Phật bắt đầu du nhập Trung Hoa cũng kể từ thời đại này.

Những thần thoại soạn giả tuyển chọn sau đây đều là những thần thoại của thời Trung Hoa thượng cổ, chưa bị pha trộn bởi màu sắc một nền văn hóa ngoại lai nào.

NGUỒN GỐC



Thoạt có thể nói có hai nguồn gốc cung cấp tài liệu thần thoại Trung Hoa :
a. Những hàng chữ chép trên xương, trên mai rùa, trên các đồ đồng tế tự …
b. Những sách lưu trữ trong thư khố.

Tuy nhiên, tài liệu chính là sách lưu trữ trong thư khố, còn những hàng ghi chú khắc trên xương, trên mai rùa, trên các đồ tế tự không giúp được bao nhiêu về tài liệu thần thoại. 

Trở về những sách lưu trữ trong thư khố cung cấp tài liệu thần thoại, chúng ta cần ghi nhận điều này : 

Tất cả các sách Trung Hoa đều được sao đi chép lại nhiều lần, nhiều khi những lời bàn của hậu thế xen vào nguyên bản. Thêm một sự kiện này : nếu sách được Nho gia chép lại thường bị tước bỏ nhiều nét hoang đường hoặc quái đản (và chính đó mới là đặc tính nên thơ của thần thoại), thay vào bằng cách nhân hóa những thần linh, nhiều khi uốn nắn những tình tiết thần thoại để dễ giải thích cho phù hợp với tư tưởng triết học của phe mình.

Thái độ của Nho gia cũng dễ hiểu : đạo Khổng vốn chủ trương nhập thế giúp đời, nên Nho gia bao giờ cũng nhiễm tinh thần thực tiễn và duy lý (như tinh thần khoa học Tây phương bây giờ). Tỉ như Tư Mã Thiên, đời Hán Vũ Đế, khi viết Sử ký cũng tước bỏ những truyền thuyết hoang đường về các đời Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế.

Chúng ta, hãy xem : song song với số thần thoại Trung Hoa thuở khai thiên lập địa, là kiến trúc siêu hình ghi trong Kinh Dịch : Thái cực sinh lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh tứ tượng; tứ tượng biến hóa vô cùng.

Ghi về sự tích trị thủy của hai cha con ông Cổn và ông Vũ, các Nho gia chỉ cốt đề cao tư tưởng thuận tính tự nhiên thì thành (Ông Vũ), ngược tính tự nhiên thì bại (Ông Cổn trước đó). Kinh Thư ngoài lời ghi vắn tắt của Khổng Tử, thiên Hồng Phạm chép lời Cơ Tử:

“Tôi nghe sự tích ông Cổn đắp đê làm bế tắc hồng thủy, làm loạn mất thuận tính của ngũ hành. Trời bất bình không ban cho phép lớn nói về chín mối thự tự của tự nhiên, cho nên ông Cổn đến phải chết ức. Ông Vũ là con được nối nghiệp phục hưng, trời bèn ban cho phép lớn Hồng Phạm, Cửu Trù, luật tự nhiên lại tiến hóa theo thứ tự”.

Sách Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công chép: 
“Đương đời vua Nghiêu, thiên hạ chưa bình định, nước lũ chảy tung hoành, đầy rẫy, cỏ cây rậm tối, chim muông phồn thịnh, năm thứ thóc chưa thành thục, chim muông ở lẫn với người, những móng thú, dấu chim bừa bãi cả chốn Trung Quốc … Ông Vũ đào chín cái sông khởi sông Tế, sông Loa cho chảy về biển, xẻ sông Như, sông Hán, sông Hoài, sông Tứ cho chảy về sông Giang, rồi sau chốn Trung Quốc mới có thể cày cấy được mà ăn. Đương thời bấy giờ ông Vũ tám năm kinh lý việc nước, ba lần qua cửa nhà mình mà chẳng kịp vào …”

Kể truyện vua Vũ trị thủy như vậy thực hoàn toàn như truyện các minh quân hiền triết đương thời. Dời vùng ánh sáng chói chang lý trí của Nho gia, bước vào thế giới huyền thoại của nhân gian chúng ta gặp một ông Vũ khác hẳn (sẽ đọc sau đây)

Đào Duy Anh khi viết mấy trang sơ lược về truyền thuyết đời thượng cổ Trung Hoa cũng là viết theo những tài liệu đã thế nhân hóa, hợp lý hóa thần thoại cổ Trung Hoa. Xin lược trích: 

Theo sách Sử ký của Tư Mã Thiên thì tam hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Lại có thuyết cho Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng là Toại Nhân, Thần Nông, Phục Hy. Toại Nhân sinh lửa, lửa do mặt trời nên thác về trời; Phục Hy xếp đặt việc người nên thác về người; Thần Nông dạy người làm ruộng nên thác về đất. Toại Nhân (người lấy lửa) dạy người dùng lửa tức chỉ thời đại người mới phát minh được lửa. Phục Hy (người nuôi súc) kết dây đan lưới, dạy người săn thú và đánh cá, lại dạy người nuôi súc để làm thịt mà nấu ăn, cho nên cũng gọi là Bào Hy (nấu thịt thú); đó là chỉ thời đại văn hóa loài người đã do trạng thái đánh cá và săn bắn mà tiến lên trạng thái du mục. Thần Nông thì làm ra cày cuốc, dạy dân làm ruộng, họp chợ cho người ta giao dịch; đó là chỉ thời đại mà văn hóa đã tiến lên đến trình độ canh nông rồi.

Tiếp theo Tam Hoàng là Ngũ Đế. Thực ra thì tên Ngũ Đế cũng không phải là tên vua mà chính là tên các thị tộc (clan) đời xưa. Thuyết Ngũ Đế là lịch sử hoang đường của Hán tộc. 

Theo truyền thuyết thì Hoàng Đế là thủy tổ của Hán tộc đánh Xi Vưu là tù trưởng của Miêu tộc để chiếm miền lưu vực sông Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung Quốc. Theo một vài tác giả thì Hoàng Đế lãnh đạo Hán tộc tự phía Nam miền Thiên Sơn đến miền Cam Túc vào khoảng giữa thiên nhiên kỷ thứ ba trước kỷ nguyên. Ở đời Hoàng Đế văn hóa đã khá, người ta đã biết dùng xe cộ (Hiên Viên) làm nhà cửa và dệt cửi, (Hoàng Đế còn tên là Hiên Viên Thị).

Hai đời Chuyên Húc và Đế Cốc không thấy truyền có việc gì to lớn.

Đến đời Nghiêu, Thuấn thì có việc nhường ngôi. Sử ký chép rằng vua Nghiêu ở ngôi bảy mươi năm, nhường ngôi cho Tứ Nhạc; nhưng Tứ Nhạc không chịu, vua Nghiêu bèn xuống lệnh cử người quý thích cùng người ẩn dật; dân chúng đều cử Ngu Thuấn. Vua Nghiêu bèn đem hai con gái gả cho và nhường ngôi.

Vua Nghiêu họ là Đào Đường, tên ấy có ý nghĩa thời bấy giờ người ta đã biết nung đồ đất. 

Bấy giờ có nạn hồng thủy. Vua Nghiêu sai Cổn trị thủy, chín năm mà không thành công, Nghiêu bèn giết Cổn và giao việc ấy cho con Cổn là Vũ. Vũ ra sức suốt mười ba năm mới thành công.

Sau vua Thuấn thấy Vũ là người có công và đức bèn nhường ngôi cho làm thiên tử. 

Vua Vũ ở ngôi tám năm, thấy con là Khải vốn là người có đức nên truyền ngôi cho. Sau đó Khải cũng theo gương cha mà truyền ngôi cho con mình là Thái Khang, thế là gây mối đầu cho chế độ quân chủ thế tập*.

Cả quan niệm về hoàng thế, đế thế, vương thế và bá thế của Nho gia nếu đem so với quan niệm bốn đại kỷ nguyên trong kiếp vũ trụ kalpa của thần thoại Ấn Độ, chúng ta càng thấy rõ : Cùng ý niệm sự sa đọa tiệm tiến của con người từ hoàng kim thời đại đến hôn ám thời đại, nhưng cái nhìn của Nho gia là cái nhìn thực tế của những chính khách, chẳng hề vương một chút thần thoại nào. Hoàng thế, đế thế, vương thế được xếp vào hạng tam lược. Tam lược là thượng lược, trung lược và hạ lược.

Thượng lược là Hoàng thế, như mùa xuân; Khởi nguyên, Hoàng thay trời trị dân, đời thuần nguyên thực thà, chính trị thanh tịnh, tự nhiên không làm gì mà đời vẫn thịnh trị, chẳng phải nói mà dân tin, chẳng giận mà dân kính sợ, cây cỏ xinh tươi.

Trung lược là Đế thế như mùa hạ; Đế nối Hoàng trị dân. Đời vẫn còn thuần nguyên mà khôn hiền, chính trị có đặt ra làm vì, nhưng không phải ra uy gì đến dân mà vẫn thịnh trị, dân không nói dối, cây cỏ tốt tươi. Trong Bắc Sử ở thiên Tam Hoàng Kỷ Đường Nghiêu có một đoạn nói về đời Nghiêu Thuấn, tức Đế thế như sau:

“Vua Nghiêu dạo chơi đến một ngã tư đường đẹp tốt; có một ông lão ngậm cơm bỡn cợt; ông đánh trống bụng mà du chơi, tay đánh sênh mà hát rằng : 

Mặt trời mọc thì đi ra làm việc,
Mặt trời lặn thì nghỉ,
Cầy ruộng mà ăn, đào giếng mà uống,
Sức của vua có gì với ta thay !

Vua Nghiêu dạo chơi có ý là thân dân, hòa mình với dân thuần hậu không có sự phản trắc oán giận. Ngã tư đẹp tốt tượng trưng cho thiên nhiên phồn thịnh; ông lão vừa đi vừa du hí biểu tượng đời thái bình đầy đủ về vật chất, thuần hậu về đạo tâm, hoan hỉ về tâm lý; câu ca của ông lão mô tả đời sống thanh bạch, khỏe mạnh vui tươi, tự do và hòa hợp với thiên nhiên. 

Hạ lược là vương thế, như mùa thu; Vương nối Đế trị dân, đời thuần nguyên hơi loãng. Người khôn ngoan sắc sảo, chính trị có thi hành nhưng không tội lỗi mấy; hình chính khoan dung đời được thịnh trị nhưng có khi phải chinh phạt. 

Bá thế thì không được đứng vào tam lược, vì bá thế là đời điêu bạc giả dối, dân quỷ quái; chính trị nghiêm khắc; sát phatỉ có nhiều, hình tội cũng lắm, thuế lệ công dịch cũng nặng. Bá thế như mùa đông rét, cây cỏ héo rụng. (Xin đọc và so sánh Kalpa, quyển 3a, Thần Thoại Ấn Độ).

Sau khi đã trình bày một cái nhìn tổng quát về thần thoại Trung Hoa, những thần thoại được sưu tầm sau đây, soạn giả đều cố gắng giữ càng nhiều những nét hoang đường cổ sơ càng hay. Về thứ tự, dĩ nhiên cũng xin đi từ những thần thoại khai thiên lập địa rồi mới tới thuở an bài thế giới và đời sống.

(*) Xin đọc : Đào Duy Anh, Trung Hoa Sử Cương (Saigon : 1954), trang XVII-XXI.



THUỞ KHAI THIÊN LẬP ĐỊA



Truyện Ông Bàn Cổ 



Thuở hỗn mang chưa phân trời đất chi cả, chỉ có hình thái từa tựa quả trứng gà. Tự trong trứng sinh ra ông Bàn Cổ. Trong khoảng mười tám năm, trứng nguyên thủy đó mở ra, chất âm nặng và thô lắng xuống thành đất, chất dương nhẹ và thanh dâng lên thành trời. Mỗi ngày trời lên cao mười bộ (mỗi bộ dài om 324), đất lún xuống mười bộ và Bàn Cổ cũng mỗi ngày cao lên mười bộ. Trong mười tám ngàn năm, thân hình Bàn Cổ cao lớn nối liền trời đất.

Khi Bàn Cổ chết, thân hình ông thành các bộ phận của hoàn vũ. Đầu ông thành những rặng núi cao; đôi mắt ông thành mặt trời, mặt trăng; mỡ máu thành sông ngòi, biển cả; lông tóc thành cây cỏ; răng và xương thành đá và các kim loại; chấy rận thành người *

CHÚ THÍCH: Theo sách “Ngũ Vận Lịch Niên Ký” thì lúc ban đầu trời đất mông lung, hỗn độn, sau khi chia ra đất, trời (càn khôn), phân bố nguyên khí âm, dương. Âm dương điều hợp mà nảy sinh ra người đầu tiên là Bàn Cổ.

Theo sách “Thông Giám Ngoại Kỷ” của Lưu Thứ thì Bàn Cổ Thị cũng gọi là Hồn Đôn Thị.

(*) Theo P. Grimal, Mythologies des Montagnes, de Forêts et des Iles (Paris, 1963), pp. 122-24.


Mặt trời



Có mười mặt trời mang hình là những con quạ lửa. Hàng ngày bà mẹ của mười mặt trời đem lũ con đến tắm rửa ở một cái hồ miền cực Đông. Gần hồ là một cây dâu cực lớn, rỗng lòng (cây Khổng Tang hay Phù Tang).

Sau khi tắm rửa xong, chín con leo lên các cành cây Khổng Tang; riêng đứa đến phiên làm việc thì leo lên cành cao nhất, rồi bước vào một chiếc xe do sáu con long mã kéo, chính bà mẹ cầm cương. Cuộc hành trình chấm dứt vào buổi chiều khi xe tới ngọn cây Nhược, một cây cổ thụ mọc ngay bên bờ con sông lớn trên ngọn núi miền cực Tây. Cổ thụ này đặc điểm là có hoa đỏ và chiếu sáng ban đêm (ý hẳn ám chỉ các vì sao).

Những huyền thoại khác chung quanh mặt trời có thể kể : truyện Khảo Phủ chạy đua với mặt trời, truyện Hậu Nghệ bắn mặt trời (xem dưới đây). Một huyền thoại khác nói là trong mặt trời có con quạ vàng (kim ô) ba chân ở. (Con kim ô này vừa là biểu trưng, vừa là nguyên lý tác động của mặt trời. Mặt trời là lửa, tức dương).

Mặt trăng 



Có mười hai mặt trăng thay phiên nhau trên vòm trời trong mười hai tháng. Cũng như mặt trời ban ngày, mặt trăng ban đêm di chuyển trên vòm trời bằng xe, nhưng không phải do bà mẹ cầm cương. Mười mặt trời và mười hai mặt trăng (tượng trưng thập can, thập nhị chi ? ) đều do một mẹ sinh ra cả.

Có huyền thoại cho rằng trong mặt trăng có con thỏ ngọc ở, một huyền thoại khác, thay vì thỏ lại bảo là có con thiềm thừ (cóc). Sau này còn một huyền thoại khác khá phổ thông về mặt trăng là huyền thoại Hằng Nga, vợ Hậu Nghệ (đọc dưới đây).

Thiên Đình và Các Vì Sao. Truyện Ngưu Lang Chức Nữ



Thiên đình nơi Thượng Đế ngự được thiết lập tại chính chòm sao Đại Hùng Tinh. Trước cửa thiên đình có con chó ngao hung dữ đi đi lại lại canh giữ (tức sao Sirius). Các chòm sao khác trên vòm trời đều là những thiên quan giúp việc triều chính bên Thượng Đế. 

Sao Ngưu (chòm sao Aigle) và sao Chức (chòm sao Lyre) ở đối diện hai bên bờ sông Ngân Hà, nên có huyền thoại cặp vợ chồng Ngưu Lang, Chức Nữ. Tục truyền Chức Nữ hầu Thượng Đế, chăm lo dệt cửi không bỏ thì giờ điểm trang. Thượng Đế thấy vậy, thương tình gả cho Khiên Ngưu là kẻ chăn trâu của người. Hai người thương yêu nhau bỏ phế việc trời. Trời mới đày mỗi người ở một bên sông Ngân Hà. Năm năm cứ vào ngày mùng bảy tháng bảy, lũ quạ ô thước tự hạ giới bay lên bắt cầu để Chức Nữ qua sông Ngân gặp chồng. (Ngày đó hai chòm sao ở vào vị trí gần nhau nhất).


Hải thần 



Thần Bể có chân tay như người, nhưng mình là mình con cá kình (cá ông voi) cực lớn, dài không biết bao nhiêu dặm. Thần cưỡi hai con rồng. Khi nào nổi giận, Thần bèn hóa thành con chim Bằng khổng lồ cất cánh bay lên che kín cả vòm trời và bay một mạch sáu tháng tới Nam Hải mới hạ cánh.

Năm Đảo Bồng Lai



Tại Biển Đông có năm đảo Bồng Lai, chốn trường sinh bất tử của các tiên ở. Năm đảo này nổi trên mặt bể, mỗi đảo được Thượng đế cắt cử ba con rùa lớn thay phiên nhau neo giữ bên dưới để đảo khỏi trôi về phía Tây va phải đất liền. Nhưng trong số mười lăm con rùa đó, sáu con bị thần Long Bá câu mất, thành thử hai đảo không có rùa neo giữ bên dưới, trôi dạt lên Bắc cực rồi đắm mất. Năm đảo vì vậy chỉ còn ba. Những người đi bể mỗi khi nhìn xa gặp khoảng chân trời có mây ngũ sắc che, thường cho đấy chính là Bồng đảo. Họ không thể chèo thuyền tới được vì hễ chèo gần tới thì Bồng đảo lại như bị gió thổi đưa đi xa.


Đất và Núi 



Năm núi cao chạm trời của Trung Hoa gọi là Ngũ Nhạc, nơi các thần nhân ở, và tiêu biểu cho năm phương. Hành sơn ở phương Nam, Hoa sơn ở phương Tây, Thái sơn ở phương Đông, Hằng sơn ở phương Bắc và Trung sơn ở chính giữa.

Ngoài Ngũ nhạc ra còn núi Côn Lôn là kinh đô hạ giới của Thượng Đế, có các vị tiên ở. Núi được cai quản bởi một thần nhân mặt người, mình hổ, vuốt hổ, có chín đuôi. Có loài dê bốn sừng ăn thịt người. Có con quái vật mình hổ, chín đầu người canh cửa Quang môn phía Đông. Có những loại chim để Thượng Đế sai phái, và rất nhiều hoa kỳ cỏ lạ. Một dòng nước cực loãng, loãng đến thả một chiếc lông ngỗng lên mà cũng chìm, chảy quanh núi ba vòng để ngăn không cho phàm nhân bén gót tới. Cũng có sách nói dòng nước này, nước đỏ như chu sa, ai uống được sẽ trường sinh bất tử.

Bà Tây Vương Mẫu



Theo sách Sơn Hải Kinh Tây Vương Mẫu hình dung rất cổ quái, mặt người, đuôi báo, răng hổ. Bà ra tai bệnh dịch hạch hoặc các thiên tai khác. Bà ngụ trong hang một ngọn núi về phía Bắc ngọn Côn Lôn, ở ngay ranh giới miền sa mạc mênh mông. Trước mặt bà, thường có ba con chim xanh để bà sai phái đi kiếm thức ăn.

Về sau này, Tây Vương Mẫu được Nho gia chuyển hóa thành một nữ thần vừa đẹp vừa có quyền uy, thường hay thết tiệc chư tiên tại vườn đào của bà ở ngay núi Côn Lôn.


THUỞ AN BÀI THẾ GIỚI VÀ ĐỜI SỐNG 



Sự Tích Bà Nữ Oa



Xưa khi vũ trụ mới bắt đầu khai tịch thì có hai anh em bà Nữ Oa ngụ khoảng núi Côn Lôn. Trong thiên hạ chưa có dân chúng, do đó hai người phải ăn với nhau như vợ chồng. Họ cũng tự lấy làm xấu hổ về việc đó nên bà Nữ Oa phải lấy cỏ tết làm cái quạt để che mặt mỗi khi đi đâu. (Ngày nay còn tục cô dâu về nhà chồng thường cũng cầm quạt che mặt)*

Thấy trong thiên hạ chưa có người, bà Nữ Oa bèn lấy đất hoàng thổ nặn nên người. Tuy nhiên vì công việc làm bộn bề và mệt nhọc lắm, nên không phải người nào cũng được nặn cẩn thận bằng loại đất vàng, mà rất nhiều chỉ được nặn vội bằng giây rợ trong đất bùn. Những kẻ giàu sang, ấy là đã được bà Nữ Oa nặn bằng đất hoàng thổ; những kẻ nghèo hèn, ấy là những kẻ chỉ dược nặn sơ sài bằng chất liệu rơm rác**

Trời vào thuở xa xưa đó được chống bằng bốn cột trụ. Chẳng may những cột trụ đó bị hư hỏng đi, trời xụp xuống, chín châu bị phân liệt. Dân chúng lâm vào cảnh trời không che, đất không chở, nơi cao thì lửa cháy phừng phừng chẳng ai rập tắt nổi, nơi thấp thì hồng thủy lan tràn chẳng ai ngăn cản được. Những loài mãnh thú bắt dân lành ăn thịt, những loài ác điểu dám sà xuống tha đi những người già lão và con trẻ yếu đuối. Bà Nữ Oa bèn đứng ra luyện đá ngũ sắc để vá trời xanh. Bà chặt chân một loài giải lớn ở biển để chữa bốn trụ chống trời. Bà lại giết được con rồng đen cực lớn để cứu châu Kỳ khỏi bị mưa lụt. Khi vá trời xong, bà lấy tro than ở lò luyện đá ngũ sắc mà lấp mạch nước để cứu dân khỏi nạn nước lụt. Vì thế mà trời xanh được vá lại, bốn trụ được sửa lại, nước lụt lớn được chặn lại, an bình được châu Kỳ, diệt trừ được các loài ác điểu trên không, mãnh thú dưới đất, giao long dưới nước, và dân lành lại tiếp tục sống được.

(*) Lý Nhũng, Độc Dị Chí. Theo một bản cổ văn khác, chồng bà Nữ Oa chính là Phục Hy vậy.
(**) Phong Tục Thông Nghĩa Thiên Thái Bình Ngự Lãm
(***) Hoài Nam Tử, Thiên Lãm Minh Huấn – Nạn hồng thủy trong Kinh Thánh gợi ý con người vì tội lỗi nên bị Thượng Đế trừng phạt, nhưng nạn nước lớn trong thần thoại Trung Hoa chỉ là thiên tai từng vùng mà con người phải ra sức khắc phục.



Truyện Hai Cha Con Oâng Cổn, Oâng Vũ Trị Thuỷ



Thuở đó nước lớn tràn lan, nhiều nơi nước cao tới ba trăm nhận, và có tới chín cái vực sâu. (Mỗi nhận chừng sáu thước, bốn tấc, tám phân bây giờ)(1) .

Ông Cổn bèn ăn trộm đất tức hoại của Trời đem trám vào chỗ mạnh nước tuôn tràn. Đất tức hoại có đặc tính nở lớn ra đến vô tận, trám vào đâu thì bịt kín được mãi. Tuy nhiên ông Cổn làm mà không đợi mệnh Trời, nên Trời mới tức giận sai Chúc Dong giết ông Cổn ở núi Vũ Giao. Thế là việc trị thuỷ của ông Cổn vẫn chưa thành(2) .

Thi thể ông Cổn quẳng đó ròng rã ba năm liền mà không thối rữa. Người ta lấy gươm rạch bụng ông Cổn, thì thấy con ông là Vũ từ đó chui ra. Lập tức ông Cổn hoá thành con rùa vàng ba chân, nhảy xuống vực biến mất.

Ông Vũ thụ mệnh của Trời, hoàn tất được việc trị thuỷ, vạch đất thành sông, phân chia ra làm chín châu. Ông Vũ dùng đất tức hoại lấp những mạch nước thực sâu. Con số được ghi rõ là 233.559 mạch nước. Ông Vũ còn dùng đất tức hoại đắp thành những dãy núi chính. Núi cao không bị ngập nước, sức nặng của núi đầm xuống giúp cho mặt đất chắc dần. Ông Vũ được con rồng Phi Long phụ lực, nó dùng đuôi rạch sâu lòng sông để nước cứ việc theo đó mà chảy ra biển. Công việc nặng nhọc nhất phải kể đến việc dẫn nước sông Hoàng Hà ra biển. Thần Cự Linh đã giúp ông Vũ xẻ núi thành những đường hẻm xuyên sơn cho nước sông chảy qua mà thẳng đường sớm tới biển, khỏi quanh co thành muôn nghìn khúc vô ích. Tương truyền có lần thần Cự Linh khom người dùng sức, chân tựa phía bên này, hai tay đẩy mạnh phía bên kia, trái núi nứt làm đôi thành đuờng thông nước cho dòng sông. Cửa Long Môn là một trong những công trình trị thuỷ của vua Vũ(3) .

Tương truyền suốt thời gian trị thuỷ của ông Cổn, thuở trước cũng như của ông Vũ về sau, Cộng Công, một hung thần, luôn luôn tìm cách phá hoại bằng cách làm gió dâng sóng lớn lên, đẩy nước tràn mạnh đi tới đâu tàn phá cây cỏ hoa mầu đến đó(4) .

Ông Vũ biết Cộng Công là một quái vật mình rắn có vằn và có chín đầu, cần phải giết đi thì cuộc trị thuỷ mới có cơ thành công. Oâng đã đem hết cả tâm lực, mưu trí để thực hiện điều đó và khi ông giết được Cộng Công, máu nó tanh hôi vô cùng, chảy đến đâu đất khô cằn đến đó, cây cỏ không mọc lên được(5) .

Một truyền thuyết khác về Cộng Công cho rằng vì Cộng Công tranh nhau ngôi vua với Chuyên Húc, đôi bên xung đột nhau làm rung chuyển núi Bất Chu, gãy cả cột thiên trụ, trời nghiêng về phía Tây Bắc, vì vậy mặt trời, mặt trăng cùng các tinh tú mới xuất lộ tại những ngôi vị như chúng ta thấy ngày nay; đất phía Đông Nam không đầy nên hàng trăm con sông đổ xô về đấy (6) . 

Trở lại truyện ông Vũ trị thuỷ, thường biến hình thành con gấu. Oâng giao hẹn vợ là Đồ Sơn Thị (khi đó đương có mang) rằng chỉ khi nào nghe tiếng trống hãy đem thức ăn đến cho ông. Hôm đó ông đương biến thành gấu làm việc hăng, trong khi chay nơi nầy, nhảy nơi nọ, những tảng đá va vào nhau âm vang như trống. Đồ Sơn Thị tưởng đó là hiệu lệnh của chồng, bèn mang thức ăn tới thì chỉ thấy một con gấu lớn, sợ quá vội bỏ chạy. Oâng Vũ đuổi theo để phân trần. Đồ Sơn Thị chạy đến núi Trung sơn hoá thành phiến đá. Hàng ngày, ông Vũ tới gần phiến đá nói lớn “Nàng hãy trả ta đứa con!”. Tới một ngày kia, bề mặt hướng về phương Bắc của phiên đá nứt làm đôi, và Khải, con ông Vũ, được sinh ra.

(1) Hoài Nam Tử, Thiên Địa Hình Huấn.
(2) Sơn Hải Kinh, Thiên Hải Nội Kinh.
(3) Theo P. Gimal, op. cit., p134.
(4) Hoài Nam Tử, Bản Kinh Huấn
(5) Sơn Hải Kinh, Thiện Đại Hoang Bắc Ninh. Có bản lại nói là bầy tôi của Cộng Công mới là quáit vật có chín đầu , mình rắn).
(6) Liệt tử, Thiên Thang Vấn
(7) Hán Thư, Thiên Vũ Đế Bản Kỷy3



CHÚ THÍCH THÊM VỀ CỘNG CÔNG VÀ TỨC HOẠI



Cộng Công: Thiên Ngưu điển kinh Thư ghi Cộng Công là một chức quan coi việc thuỷ. Trịnh Huyền chú rằng chức quan nầy vốn là một dòng họ cha truyền con nối, vì vậy mà về sau tên dòng họ lẫn với quan tước. Đời Nghiêu, Thuấn bọn Cộn Công phạm nhiều điều hoang dâm, bỏ việc, kết hợp với Hoan Đâu, Tam Miêu, Cổn thành bốn dòng hung ác khiến Thuấn phải xin với vua Nghiêu trừ diệt. 

(Như vậy theo kinh Thư của Nho gia, Cộng Công không còn gì là thần thoại đầu người mình rắn nữa).

Tức Hoại : Cũng gọi là tức thổ. Sách “Dư Địa Kỷ Thắng” chép giữa năm Nguyên hoá đời Đường có quan mục ở Kinh Châu tên là Bùi Vũ đào lên thấy một khối thành bằng bá bèn cho chuyển đi, thì năm đó trời mưa rầm rĩ không dứt, quan mục lại phải cho chôn khối đá đó xuống như cũ.

Có sách lại viết là tức hoại chôn ở Kinh Châu dưới cung cũ của vua Vũ xưa, hình vuông vắn, không phải là đất, không phải gỗ, không phải đá, không phải kim loại, có vân như đường triện. Năm đầu Khang Hy có kẻ đào lên thì sấm chớp, mưa gió lớn, phảng phất thấy hình tượng điện đà của vua Vũ.

Sách Sơn Hải Kinh, thiên Hải Nội Kinh ghi là đất huyện Từ ở Lâm truy đời Hán Nguyên Đế đột nhiên nở dài năm, sáu dặm, cao hai trượng, ấy là loại tức hoại. Đất nầy thuộc phía Tây Bắc huyện Tứ, tỉnh An Huy.

Theo sách Liễu Tôn Nguyên đời Đường thì tại Phong ấp nước Tầu cũng có loại đất tức hoại Khảo Phủ Chạy Đua Với Mặt Trời.

Người khổng lồ Khảo Phủ là con của Cộng Công. Một hôm Khảo Phủ quyết định chạy đua với mặt trời. Khảo Phủ không những bắt kịp mặt trời mà còn chạy nhanh hơn xuyên sâu vào lòng mặt trời. Vì ở đấy nóng quá nên khi trở về, Khảo Phủ khát nước tới mức đã uống hết nước sông Hà và sông Vị mà vẫn chưa đã. Khảo Phủ bèn chạy lên phương Bắc dự định uống nốt nước ở đầm Dạ Trạch nữa, nhưng mới được nửa đường thì ngã gục xuống chết; chiếc gậy trúc quăng ra, sau này mọc thành rừng đào (*)

(*) Sơn Hải Kinh, Thiên Hải Nội Bắc Kinh



Hậu Nghệ Bắn Mặt Trời



Thuở đó ông Nghiêu chưa lên ngôi cửu ngũ, có lần mặt trời hiện ra mười ngày liền, thiêu rụi cả hoa mầu, cây cỏ. Các giống mãnh thú lớn, các loài rắn rết độc mặc sức tung hoành ăn thịt và tác hại người dân. Ông Nghiêu bèn sai Hậu Nghệ giết các loài mãnh thú tại vùng đất Trù hoa, giết loài rắn rết ở vùng Khu thuỷ, một số khác thì bị giết trên bờ đầm (hay gò ?) Thanh khâu. Hậu Nghệ lại dương cung bắn mặt trời, giết được loài chó ngao lớn ở trên đó. Tới hồ Động đình, Hậu Nghệ giết được loài trăn lớn, còn bắt sống được một số mãnh thú ở vùng Tang Lâm. Do đó dân chúng vui mừng và tôn ông Nghiêu lên làm thiên tử (*)

(*) Hoài Nam Tử, Thiên Bản Kinh Huấn. Lại có huyền thoại khác nói Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời mang hình quạ lửa đậu ở cây Khổng Tang ngoài biển cả.


Hậu Nghệ và Hằng Nga


(Huyền thoại này mãi về sau mới có)

Một lần Hậu Nghệ đi đến núi Côn Lôn, được bà Tây Vương Mẫu ban cho liều thuốc trường sinh đem về. Hằng Nga thừa lúc chồng đi săn bắn bèn lấy ra uống trộm. Nàng đương uống dang dở thì Hậu Nghệ về. Nàng vội chạy trốn. Vì uống thuốc tiên nên người nhẹ lâng lâng, bay được, nhưng uống chưa đủ liều nên nàng chỉ bay tới mặt trăng thì ở lại đó. Nghệ rút cung lắp tên bắn lên mặt trăng, nhưng Hằng Nga được Ngọc Thỏ che chở. Từ đó một mình Hằng Nga ở trên cung Quản Hàng cùng con thỏ ngọc. Ít lâu sau Hậu Nghệ cũng lên được thiên đình và làm quan phụ chính cho thần mặt trời.

Chuyện Chim Tinh Vệ Lắp Biển



Ở núi Phát Cư có giống chim lớn đầu vằn, mỏ trắng, chân đỏ, gọi là chim Tinh Vệ, tiếng kêu vang lớn. Tương truyền kiếp trước chim là con gái nhỏ vua Viêm Đế, tên là Nữ Khuê. Một lần Nữ Khuê dong chơi ở Đông Hải, không may bị chết đuối. Từ ấy u hồn hoá thành chim Tinh Vệ, thường tha đá, gỗ ở núi Sơn Tây về mà lấp biển Đông Hải *
(*) Sơn Hải Kinh, Thiên Bắc Sơn Kinh 

SÁCH THAM KHẢO

Sách Pháp.

Granet M. Danses et Légendes de la Chine Ancienne. 2 vol,. Paris : Librairie Félix Alcan, 1926.

Grimal P. Mythologies des Steppes, des Forêts et des Iles. Paris: Librairie Larousse, 1963.

Mythologie Aisatique Illustrée. Paris : Librairie de France, 1928.

Sách Hán được dẫn chứng
Hán Thư
Hoài Nam Tử
Liệt Tử
Lý Nhũng Độc Dị Chí
Ngũ Vận Lịch Niên Ký
Phong Tục Thông Nghĩa 
Sơn Hải Kinh
Thông Giám Ngoại Kỷ

THẦN THOẠI NHẬT BẢN



NGUỒN GỐC



Những truyện thần thoại Nhật thường rất tản mạn, khó sắp xếp thành hệ thống khít khao. Vào đầu thế kỷ thứ VIII xuất hiện hai cuốn : Kojiki (Cổ Sự Ký) và Nihongi (Nhật Bản kỷ). Hai cuốn này được coi như ghi lại những truyện đã có từ trước thế kỷ thứ VIII. Kojiki (Cổ Sự Ký) ra đời vào năm 712; còn cuốn Nihongi (Nhật Bản kỷ), thì vào năm 720. Cả hai đều viết bằng chữ Hán dùng cốt để ghi âm tiếng Nhật và đều có chủ ý chứng tỏ rằng về mặt chính trị, văn hóa, những bộ tộc tự xưng là Yamata (Đại Hoà Quốc cư trú trong vùng Kyoto – Osaka hiện nay) hơn tất cả những bộ tộc ở nơi khác (*). Sách ghi chép mô phỏng theo phương pháp của Trung Quốc, rất nhiều sử liệu hay truyện tích cổ thời được phân tích, lý giải theo tư tưởng học thuật Trung Quốc. Gạt bỏ những thiên kiến của tác giả, hai cuốn sách này vẫn là tài liệu lịch sử cổ Nhật Bản và là nguồn chính yếu của thần thoại Nhật Bản.
(*) Hiện nay dân Nhật còn tự nhận là dân Đại-Hoà-Quốc.

KOJIKI

 (Cổ Sự Ký) : còn gọi là Furu oto bumi ( Những liên hệ với các sự kiện cổ) được viết vào cuối thế kỷ thứ VII nhưng mãi đến năm 712 mới xuất bản. Đây là tác phẩm cổ nhất hiện có tại Nhật. Công cuộc biên khảo được thực hiện dưới triều vua Temmu (672 – 686) do sáng kiến của nhà vua vào năm 681. Nhà vua đã ban lệnh sưu tập tài liệu lịch sử các thời trước, ghi chép lại cho khỏi thất lạc. Tương truyền có một nhân vật nhớ việc rất tài trong đoàn Kataribe ( Đoàn xướng vịnh) được nhà vua trao phó công việc kể lại cho viên quan chép sử Ono Yasumaro (mất năm 723) ghi. Bài tựa phản ảnh rõ những ý tưởng chịu ảnh hưởng học thuật Trung Quốc đương thời, lấy lịch sử làm nền tảng luân lý soi sáng những hành động thường nhật. Kojiki (Cổ Sự Ký) quả đúng là một tập truyện cổ được lưu truyền hữu dụng cho đời.

NIHONGI 

(Nhật Bản kỷ) : Cuốn này được xuất bản tám năm sau. Cũng như Cổ Sử Ký Kojiki, cuốn Nhật Bản Kỷ Nihongi này ghi chép lịch sử Nhật từ thời tiền sử cho đến năm 700. (Riêng Cổ Sử Ký thì kết thúc vào năm 628.) Nhật Bản Kỷ mô phỏng theo lối chép sử Trung Quốc nhiều hơn cuốn Cổ Sự Ký, từ quan niệm âm dương trong truyền kỳ khai thiên lập địa cho đến lối biên niên theo các triều vua Trung Quốc. Thêm nữa, mỗi đoạn trong Nhật Bản Kỷ còn nhiều phần phụ đưa ra nhiều lối giải thích, thêu hoa dệt gấm cho câu chuyện thêm linh động và có ghi niên biểu rõ ràng cho đúng khuôn sáo của sử sách Trung Hoa. Thậm chí tác giả đã táo bạo sửa đổi niên biểu các triều vua đầu tiên, do đó chỉ có thể tin cậy vào niên biểu kể từ đầu thế kỷ thứ sáu trở đi.

Ngoài hai cuốn trên còn một số tác phẩm khác nữa cũng góp phần vào công cuộc tìm hiểu thần thoại Nhật, tuy không được dồi dào cho lắm.

THỜI HỒNG HOANG



Khởi thuỷ là một khối bầy nhầy, mờ mịt như một trái trứng khổng lồ chứa sẵn những mầm tự sinh. Rồi từ giữa khối hỗn độn mờ mịt ấy nẩy sinh ra mồi chồi lau sậy linh thiêng. Chồi lau sậy trở thành đấng thần thông biến hoá, các vị thần phụ thuộc khác cũng lần lượt xuất hiện để rồi cùng tan biến đi. Như thế trải bảy thế hệ thần kỳ, cứ từng đôi anh trai, em gái xuất hiện rồi biến diệt. Đến thế hệ thứ tám - thế hệ ngắn ngủi mong manh, nhưng lại cực kỳ quan trọng, lần lượt nam thần anh Izanagi và nữ thần em Izanami ra đời.

THIÊN ĐỊA KHAI TỊCH



Theo lệnh truyền của các vị thiên thần kỳ cựu, Izanagi và Izanami cùng tiến qua chiếc cầu nổi nhà trời (ama nouki hashi – thiên phù kiều) lấy cây ngọc mâu linh thiêng khuấy động làn nước nhớt hỗn độn dưới cầu. Khi nước cô đọng dần rồi đặc lại, họ rút cây linh mâu lên, những giọt nước như chất tương muối rớt xuống mặt đại dương kết hợp thành hòn đảo Onogoro (có nghĩa là hòn đảo tự nó đọng lại mà thành). Những con chim hải âu bắt đầu bay lượn nhịp nhàng quanh đảo. Izanagi và Izanami cùng đặt chân lên hòn đảo xinh đẹp đó, lòng bâng khuâng tràn ngập một niềm vui khôn tả. Họ nhớ lời các thiên thần kỳ cựu đã hứa, rồi đây sau khi họ đã thành đôi, họ sẽ có những đứa con thật khôi ngô tuấn vĩ.
Izanami ngắm Izanagi, ngắm đôi mắt long lanh của chàng, ngắm mái tóc dài của chàng, ngắm những cánh tay, những bắp chân và cả thân hình lực lưỡng cuồn cuộn bắp thịt của chàng. Trời, sao lại có một thân hình nam giới đẹp đến thế !
Nàng nói trước : Chúng ta kết đôi với nhau thành vợ chồng, chàng ưng chăng ?
Đôi bên nhìn nhau say đắm, cái nhìn thuở ban đầu, miệng cùng mỉm cười âu yếm. 
Họ thành vợ chồng và đợi sinh hạ được những đứa con khôi ngô đĩnh ngộ như lời các vị thiên thần kỳ cựu đã hứa. Nhưng không, đứa con đầu tiên của cặp vợ chồng này là một quái vật, một đứa bé mang hình con đỉa lớn (điệt tử). Họ bèn bỏ Bé Đỉa lên một chiếc thuyền bằng sậy thả theo dòng.
Cặp vợ chồng hy vọng ở đứa con kế tiếp, thì đứa con này kinh khủng không kém, mang hình một con sứa khổng lồ bập bềnh như một chiếc đảo bằng bọt biển.
Vô cùng thất vọng, Izanagi và Izanami tìm gặp các vị thiên thần kỳ cựu, chất vấn vì sao mà họ không hề sinh hạ những đứa con tuấn vĩ như các vị đã hứa.
Họ được các thiên thần kỳ cựu giải đáp:
“Chính đàn ông phải hỏi xin cưới đàn bà mới đúng với ý trời. Izanami đã xin cưới trước. Đó, vì sao các ngươi đã sinh ra những quái thai.”
Izanagi và Izanami cúi đầu nhận lỗi. Họ trở lại đảo. Lần này Izanami tiến lên, e lệ cúi đầu chờ đợi. Izanagi sung sướng và hãnh diện nhìn vẻ đẹp kiều diễm của Izanami. Chàng cất tiếng hỏi trước:
“Nàng có muốn trở thành vợ ta chăng ?”
Nàng mỉm cười ưng thuận. Và lần này họ thành vợ chồng theo đúng như ước nguyện của các thần linh. Và cặp vợ chồng thiên thần trẻ măng này đã sinh hạ những đứa con đẹp làm sao, khôi ngô, tuấn vĩ làm sao ! Đó là những hòn đảo Nhật Bản. Vâng, đó là những hòn đảo Nhật Bản xinh đẹp tuyệt vời với núi, với sông, với rừng thông cao vút, với hoa anh đào đua nở, với người và vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh trên đó. Tất cả, vâng tất cả đều là hậu duệ của Izanagi và Izanami.
PHỤ CHÚ: Soạn giả thuật truyện Izanagi và Izanami trên theo bản văn thanh nhã trong Contes et Légendes du Japon của Félicien Challaye. Cũng truyện này, trong Mithologies des Steppes, des Forêts et des Iles của P. Grimal, sát với nguyên bản hơn, như sau:


IZANAGI VÀ IZANAMI THÀNH LỨA ĐÔI


Izanagi và Izanami cùng đặt chân lên hòn đảo mới ấy. Đảo này trở thành trụ trời trung ương (thiên ngự trụ) để xây ngự điện.
Izanagi hỏi cô em gái : “Thân thể em được cấu tạo bằng cách nào ?”
Cô em đáp : Mọi bộ phận trên người em đều tăng trưởng trừ một chỗ.
Izanagi tiếp lời : “Thế ư ? Anh cũng thế, tất cả cơ thể đều nảy nở duy có bộ phận nảy nở hơn hết. Chi bằng lấy chỗ dư thừa của anh lấp vào nơi thiếu sót của em để sinh sản ra nhiều vùng có phải là hay không.”
Cô em đáp : “Quả là chí lý vậy”.
Kế đó, theo lời đề nghị của một vị thiên thần chủ về Nam tính cao cả, hai anh em quyết định đi quanh hòn đảo. Izanami ca ngợi cái đẹp của thân hình Nam thần mà rằng : “Trời, sao lại có một thân hình Nam giới đẹp đến thế !”
Nam thần Izanagi cũng tán tụng cái đẹp của thân hình nữ giới của cô em gái, nhưng trách ngay nàng đã bồng bột phát biểu trước :
“Anh là trai, và trai có quyền phải nói trước. Em là gái mà nói trước như vậy e có điềm chẳng lành. Chúng ta nên đi quanh đảo thêm một vòng nữa.”
Nói đoạn hai anh em mỗi người đi một ngả như trước. Lần này khi gặp nhau Izanagi phát biểu trước, sau đó mới đến lượt Izanami cho đúng nghi thức hợp cẩn. Và hai vị thần giao hoan với nhau. Thoạt Nam thần, Nữ thần lúng túng không biết giao hoan với nhau ra sao, sực ngắm đôi chim tích linh trên cành rung cổ vẫy đuôi rồi sáp lại bên nhau, hai thần bèn bắt chước mà làm nghĩa vụ vợ chồng. Do đó sinh ra nhiều đảo mới cùng một số thần linh. Tương truyền trong số thần linh con cái của hai thần có một thần tàn phế ba tuổi không đứng nổi nên Izanagi và Izanami mới đặt tên là Hiruko (Điệt tử : Bé Đỉa) bỏ trên chiếc thuyền bằng sậy (lô châu) thả theo dòng sông.
Nữ thần Izanami coi Hoàng Tuyền quốc (địa phủ) sinh ra các vị thần Sông, thần Biển, thần Núi, thần Lửa.

CÁI CHẾT CỦA NỮ THẦN IZANAMI


Izanagi và Izanami đã sinh ra khoảng bốn ngàn thần linh và những đảo Nhật Bản. Sau đó hai thần còn sinh thêm nhiều thần linh khác nữa mà sau cùng là Thần Lửa.
Tương truyền khi sinh ra Thần Lửa, Amaterasu bị bỏng nặng rồi từ trần sau một cơn sốt kinh khủng.
Izanagi buồn đau, thương nhớ đi vòng quanh chỗ nằm của vợ mà than khóc. Nước mắt biến thành các thần của thế hệ sau. Khóc lóc chán rồi bèn rút thanh trường kiếm chém đầu con là Thần Lửa. Máu Thần Lửa trở thành các vị thần của thế hệ thứ ba.

IZANAGI XUỐNG THĂM ĐỊA PHỦ


Không chịu nổi cảnh cô đơn buồn bã, Izanagi quyết chí đi thăm Địa Phủ để gặp lại mặt vợ.
Tại Izumo, có một nơi hẻo lánh, thông mọc um tùm với nhiều phiến đá ngổn ngang. Dưới một phiến đá hình dáng kỳ quái nọ có một cửa hang bí mật, bên trong tối om.
Izanagi biết đó là lối xuống Địa Phủ. Tay nắm chặt đốc gươm, chàng chui vào cửa hang, càng vào sâu ánh sáng càng yếu dần cho đến khi hoàn toàn tối hẳn. Gặp vị thần canh Địa Phủ đầu tiên, Izanagi được dẫn tới lâu đài Izanami ở. Chàng dừng bước trước cửa, lòng nấu nung muốn được gặp mặt vợ ngay. Chợt một giọng nói êm như gió thoảng rót vào tai chàng:
- Hỡi đức lang quân kính mến, thiếp được chàng hạ cố từ trên dương gian xuống thăm thế này thật vạn hạnh, vạn hạnh.
- Hiền thê, hiền thê quý mến, ta không phải chỉ đến thăm nàng mà thôi, ta tới để mang hiền thê trở về dương thế. Nơi đó chúng ta đã chung sống những ngày hạnh phúc bao nhiêu, vả lại nhiệm vụ sinh sản của chúng ta còn dang dở. Hãy trở lại, xin nàng hãy ở lại cùng ta.
- Than ôi, chàng đến quá muộn, không ai có thể trở lại dương gian khi đã ăn thực phẩm âm phủ, mà thiếp thì đã chót ăn thực phẩm âm phủ mất rồi.
- Nhưng hiền thê há chẳng cũng ao ước được xum họp lại cùng ta như ta vẫn ao ước được xum họp lại cùng nàng ?
- Ao ước lắm chứ, thiếp ao ước được trở lại làm vợ chàng biết chừng nào!
- Vậy thì hiền thê còn đợi gì mà không xin với những vị thần ngự trị nơi âm phủ này hãy trả nàng về dương thế ?
- Vâng, xin tuân theo lời chàng. Nhưng trong khi chờ đợi, chàng phải hứa là không được tìm cách gặp mặt thiếp. Lệ luật nơi này tuyệt đối như vậy.
- Ta xin hứa với nàng như vậy. Nàng hãy vào xin phép gấp đi, ta chờ, ta chờ !
Được nghe giọng nói thoảng êm của Izanami, lòng Izanagi tràn ngập niềm vui tưởng đến phát khóc lên được…
Chàng đứng trước cửa lâu đài chờ, tin rằng thế nào người vợ yêu quí của chàng cũng xin được phép trở về dương thế.
Chàng đợi. Chàng đợi. Giây phút đợi chờ dăng dăng dài tưởng như ngày này qua ngày khác…
Kỷ niệm những ngày chung sống hạnh phúc xưa rộn rã trong tâm trí. Chàng nhớ lại thuở khi giọt nước tự cây ngọc mâu linh thiêng rớt xuống đọng lại thành hòn đảo, chàng và nàng cùng đặt chân trên hòn đảo cô quạnh lần đầu. Ngày đó chàng nhìn nàng, ôi, dáng yêu kiều sinh đẹp biết chừng nào ! Phải nhìn lại mặt nàng tức khắc dù chỉ trong giây phút !
Izanagi không cầm nổi lòng nữa, bèn bẻ một răng lược dương ở phía bên trái, châm lửa soi đường. Âm phủ chợt bùng sáng nhưng cảnh tượng hãi hùng biết chừng nào ! Khi ánh lửa vừa bùng lên từ răng lược, vợ chàng, nàng Izanami, ngã lăn xuống đất, cơ thể rữa nát, khuôn mặt xanh lợt, tóc rụng từng tảng, đôi mắt trợn trừng, thất tinh lạc, ròi bọ lúc nhúc. Xác chết của nàng thét lên :
- Quân khốn kiếp, hãy cuốn xéo ngay đi ! Mi đã lừa dối ta, làm nhục ta !
Những tia chớp bao quanh lấy thân thể nàng; tám vị thần sét xuất phát tự đầu, bụng, hai vú, hai tay, hai chân nàng đâm bổ ra.
Izanagi hốt hoảng lùi vội lại, rồi chạy trốn ra khỏi địa phủ. Lũ nữ quỷ ùa đuổi theo. Ngoái nhìn thấy lũ chúng bám riết, chàng lột nón quăng lại phía sau. Chiếc nón biến thành những chùm nho mọng; lũ quỉ đứng lại, nhặt lấy, chia nhau ăn. Ăn xong chúng lại chạy đuổi theo. Izanagi gỡ chiếc lược cài mái tóc tay mặt, quăng lại phía sau. Chiếc lược biến thành cụm măng tre mơn mởn, lũ quỷ đua nhau bẻ ăn. Izanami bèn tung thêm 1500 quân trợ lực. Tám vị thần sét bám sát lấy Izanagi. May thay lúc đó Izanagi vừa nhận thấy có ba trái đào lớn, liền lấy hết bình sinh dùng ba trái đào này ném lui lũ quỷ, đoạn chàng lăn phiên đá lớn lấp chặn lối đi về giữa dương gian và âm phủ.
Từ đó chàng và nàng trở thành hai kẻ tử thù. Nàng hăm chàng là hàng ngày sẽ cho quân sát hại một ngàn sinh linh. Chàng phải bảo tồn bằng cách mỗi ngày cho tăng gia sinh sản lên một ngàn năm trăm sinh linh để duy trì lấy sự sống trên dương gian.

NỮ THẦN MẶT TRỜI AMATERASU VÀ NAM THẦN SUSANO-O


Sau khi tiếp xúc với cảnh địa phủ về, Izanagi tẩy uế cho thanh khiết. Chàng xuống tắm ở một dòng sông nhỏ tại Tsukushi (nay là Kyu-shu.) Quần áo và đồ trang sức chàng để trên bờ biến hóa ra thành 12 vị thần linh. Để tránh khúc thượng lưu nước chảy xiết và khúc hạ lưu nước chảy lờ đờ, chàng di chuyển đến khúc trung lưu. Những dấu tích chàng di chuyển dưới dòng sông cũng biến hóa thành 14 vị thần khác nữa. Sau chót mắt trái chàng sinh ra Nữ-thần Mặt Trời Amaterasu làm chói lọi cả bầu trời. Mắt phải chàng sinh ra thần Tsuki yomi (Mặt Trăng, Nguyệt Dạ Thần). Mũi chàng sinh ra nam thần Susano-o, Thần Bão.
Amaterasu sáng láng chói lọi nên được Izanagi ban cho một vòng ngọc và cho cai quản Cánh Đồng Trên Trời Cao. Còn Susano-o, Thần Bão, vừa hung hăng, vừa thảm đạm nên được trao cho cánh đồng Biển Cả.
Thần Susano-o chẳng lúc nào nguôi lòng, luôn luôn gào la vang rền. Tiếng than gào của chàng làm núi non tàn úa, làm biển cả cạn vơi, các vị thần khác chẳng còn biết xử trí ra sao. Izanagi triệu thần Susano-o đến hỏi vì sao than khóc ầm ĩ, quấy rầy đến chư thần và sao lãng bổn phận được giao phó ? Susano-o bộc trực nói thẳng vì quá nhớ mẹ (Izanami), muốn tới địa phủ gặp mẹ mà chưa được nên không lúc nào thấy an tâm, nguôi lòng.
Bực bội về thái độ xấc xược của đứa con rắn đầu cứng cổ, Izanagi đuổi Susano-o ra khỏi đất nước. Susano-o quyết đi thăm cô chị, nữ thần mặt trời Amaterasu. Chàng lên đường, miệng không ngớt kêu la ầm ĩ. Nữ thần mặt trời Amaterasu ngờ rằng chàng muốn giẫm chân lên công việc riêng của nàng, do đó nàng chuẩn bị xuất vân nghênh địch. Nàng đeo lên vai hai ống tên, một ống đựng một ngàn tên, một ống đựng năm trăm tên, với lấy cây cung rồi vận nội công đứng thủ thế, đất lún sâu ngập tới ngang đùi đúng như một dũng sĩ. Susano-o vội giải thích với chị là chàng đến thăm với thiện chí, tuyệt không có một tà ý gì.
Chàng đề nghị thề nguyền xích tâm minh ước. Nàng ưng lời, nhận cây trường kiếm chàng trao bẻ ra làm ba, đoạn cho vào miệng nhai; chàng nhận chuỗi ngọc nàng tặng và cũng làm theo nàng. Những mảnh này đã biến hóa ra nhiều vị thần linh khác.

CÁI NGẠO NGƯỢC CỦA SUSANO-O


Susano-o ở với chị gái là nữ thần mặt trời Amaterasu trên Cao Thiên Nguyên. Mặc dầu cô chị nhiều lần khuyên nhủ mà tật la gào, ngang ngạnh của chàng đã chẳng chừa lại còn tệ hơn nữa. Susano-o phá hủy cả những phân ranh đồng lúa mà nữ thần đã thiết lập thành những hào dẫn nước. Tuy vậy cô chị vẫn bỏ qua, cho rằng chàng lỡ chén say sưa nên mới xảy ra cơ sự như thế.
Nhưng tới bữa kia chàng lột da con ngựa lang trắng vung tay ném vào phòng, nơi nàng cùng các nữ thần phụ tá khác đang dệt, làm những thoi cửi buột tung ra ngoài, văng vào họ khiến họ đều bị trọng thương cả. Lần này thì quá lắm, Amaterasu hết sức bất bình bèn lánh vào Thiên Nham Cung (hang trời) lấp kín cửa vào, vì vậy dương gian chìm đắm trong tăm tối không còn ngày đêm.
Nàng tuyên bố hễ chư thần còn chấp nhận cho Susano-o sống chung, nàng sẽ ở lì trong Thiên Nham Cung không xuất hiện nữa. Chư vị thần linh hết sức bối rối, cùng tập hợp trên dòng Thiên Hà cạn khô, thoạt còn ít, sau đông dần, tới tám triệu vị, bàn nhau kiếm cách nào hiệu nghiệm nhất khiến Amaterasu rời khỏi Thiên Nham Cung.
Vị thần mưu cơ là Taka-mi-misubi nói :
“Thường thường nữ thần Amaterasu ló rạng mỗi khi nghe tiếng gà gáy, vậy chúng ta nên buộc chạc, rồi cho những con gà trống thật tốt giọng đậu lên đó thay phiên nhau gáy.”
Việc đó được thực hiện ngay, nhưng vô hiệu quả. Amaterasu vẫn bằn bặt trong cùng thẳm Hang Trời.
Thần mưu cơ Taka-mi-misubi lại tìm ra kế gợi trí tò mò của nữ thần Mặt Trời. Thần sai một thần thợ rèn độc nhỡn làm một tấm gương thật sáng, đặt trước Hang Trời. Trên tấm gương thần có treo những chuỗi ngọc trắng hình cánh cung và những đồ lễ tết bằng chỉ bạch, rồi tất cả hát lễ van vái (norito.)
Tuy nhiên cuộc vận động của chư thần chỉ hiệu nghiệm khi nữ thần Amano Uzume xuất hiện với một vũ khúc đặc biệt ngộ nghĩnh (*). Amaterasu nghe tiếng chư thần cười vang, động lòng hiếu kỳ mở hé cửa hang. Rồi cất tiếng hỏi lớn:
(*) Theo P. Grimal (sđd) thì đây là một màn vũ dâm loạn, nữ thần Uzume dậm chân, nện gót thình thịch, uốn éo, kéo núm nhũ hoa, rồi nhún nhảy thoát xiêm y, khiến chư thần cất tiếng cười vang.
“Ta ngỡ vắng ta, tám triệu chư vị thần linh sẽ buồn bã trong đêm tối dầy đặc, làm sao chư vị lại vui cười hả hê như vậy được ?”
Nữ thần Uzume lanh trí trả lời ngay:
“Làm sao chúng tôi vui ư ? Xin thưa, vì bọn chúng tôi đã kiếm được một vị nữ thần mới nhan sắc còn kiều diễm hơn Người nữa.”
Nghe vậy Amaterasu càng động lòng hiếu kỳ, và lòng ghen tức nữa, bèn mở rộng cửa bước ra, thoạt nhận thấy bóng mình phản ánh rỡ ràng trong gương. Một vị thần tiến tới cầm lấy tay Amaterasu, chư thần khác lập tức chăng dây ngang phía sau, chặn lối vào động.
Kể từ lúc đó ánh sáng lại chan hoà khắp dương thế, ngày đêm lại bắt đầu vận chuyển.
NỮ THẦN TSUKI-YOMI VÀ NỮ THẦN UKEMOCHI
Nữ thần mặt trời Amaterasu ủy cho Nữ thần Mặt Trăng Tsuki-yomi sứ mạng xuống phụ tá nữ thần Nuôi Dưỡng Ukemochi dưới trần. Hay tin đó nữ thần Ukemochi bèn cúi xuống đất thổ ra cơm chín, hướng ra bể thả các giống cá, ngước lên phía núi rừng phóng ra chim muông để làm đại tiệc khoản đãi nữ thần Mặt Trăng.
Tsuki-yomi nổi giận cho là nữ thần Nuôi Dưỡng Ukemochi khinh mạn mình, dám thổ ra cơm chín làm tiệc đãi mình, bèn tuốt ngay gươm ra chém chết và trở về thuật lại mọi việc cho nữ thần Mặt Trời nghe. Amaterasu giận lắm, hết lời mắng mỏ Tsuki-yomi và không bao giờ còn gặp mặt Tsuki-yomi nữa.
Mặt Trời, Mặt Trăng cách biệt ở hai đối cực từ đấy. Mặt Trời chỉ xuất hiện ban ngày còn Mặt Trăng ban đêm.
Sau khi Ukemochi chết, Amaterasu lại sai một sứ giả nữa xuống thì thấy xác nữ thần đã biến thành nhiều thứ : đầu hóa thành con bò, con ngựa; trán hoá thành cây kê; lông mày thành tằm; mắt thành lúa tắc; bụng thành lúa; bộ phận sinh dục thành lúa mì và đỗ. Thần sứ giả thu lượm những thứ đó về trình với nữ thần Mặt Trời. Nữ thần bèn lấy ngũ cốc làm hạt giống, trao cho một vị thần linh đem gieo, rồi ngậm con tằm mà rút tơ ra”. Từ đó bắt đầu có thuật nuôi tằm lấy tơ dệt lụa.
PHỤ CHÚ : Trong Thế Giới Đại Bách Khoa Sự Điển, người Nhật không định danh Amaterasu là Thái Dương Thần Nữ như người Trung Hoa. Theo Cổ Sự Ký gọi là “Thiên Chiếu Đại Ngự Thần”. Theo Nhật Bản Kỷ thì gọi là “Thiên Chiếu Đại Thần”. Các sách khác cũng gọi theo như thế, hoặc đổi phần bổ ngữ về tước hiệu ở dưới thành “Thiên Chiếu Tọa Hoàng Đại Thần”, hoặc viết tắt là “Nhật Thần”. Nữ thần được tôn sùng là tổ thần của dân tộc Nhật Bản, các giòng vua Nhật đều là hậu duệ của vị nữ thần đó. Họ tôn xưng Amaterasu là “Đại Hoà Triều Đình Tối Cao Thần”. (vị thần tối cao của các triều vua giống Đại Hòa – Yamato), hay “Hoàng Thất Tổ Thần”. Cho đến nay danh xưng Đại Hoà Quốc – nước của giòng Yamato – vẫn còn được sử dụng trong sách báo và các từ điển của Nhật. Nữ thần Amaterasu có uy quyền soi sáng trái đất, bảo vệ lẽ sinh tồn nơi dương thế nên có những uy hiệu : Cao chiếu, Quốc chiếu, Khoa Chiếu và Cao quang đại thần. Bảng tên tại các thần xã hay thần cung – tức đền thờ – là Thiên Chiếu Hoàng Đại Thần Cung.

SUSANO-O VÀ CON RẮN TÁM ĐẦU


Vì tính tình quá ngạo ngược, Susano-o vẫn chứng nào tật ấy luôn luôn làm mất lòng chị. Sau cùng nữ thần Amaterasu cương quyết đuổi chàng ra khỏi thiên cung.
Susano-o đọa lạc xuống vùng Izumo(*). Thấy có đôi đũa trôi ở cửa sông lớn, sông Hii, chàng cho rằng vùng đất hẳn có người ở. Chàng men ngược dòng sông lên phía thượng lưu. Chàng gặp một lão trượng, một lão bà và cô con gái đang khóc lóc thảm thiết. Hỏi ra mới hay rằng vị lão trượng tên là Asinazuci, con thần núi, lão bà tên là Tenazuci, cô con gái là công chúa Kunisada. Sở dĩ cả ba khóc lóc thảm thiết vì vùng này đang bị một con rắn thành tinh tám đầu tác yêu tác quái. Bảy năm qua, nó đã ăn thịt bảy cô con gái của hai vị. Năm nay, nó sắp ăn thịt nốt nàng công chúa thứ tám này.
(*) Izumo: viết theo Hán tự là Xuất Vân, chỗ rời khỏi Thiên Cung. Vùng đất này hiện nay còn mang tên đó, ở về phía Tây nước Nhật đối diện với Cao Ly (trên Osaka một chút)
Mãng xà tinh là một quái vật khủng khiếp nằm phủ kín tám ngọn đồi và tám thung lũng, mắt như than hồng, lưng rêu mốc thếch, tùng, bách mọc cả trên đó, bụng đỏ như máu, khắp mình phun ra lửa.
Susano-o cho vị lão trượng hay chàng là em nữ thần Amaterasu, chàng sẽ diệt mãng xà tinh và mong rằng vị lão trượng sẽ gả cô gái cho chàng sau khi công việc xong xuôi. Chàng bảo kiếm cho tám vò rượu sake hảo hạng, đặt trên tám bệ xây, quây rào cọc lớn xung quanh, nhưng mở ngỏ tám cửa vào. Mãng xà tinh tới ngửi thấy mùi rượu ngon bèn lách tám đầu qua tám cửa uống xong say khướt ngủ lăn như chết. Lúc đó Susano-o mới xuất hiện, rút thanh kiếm đâm sâu vào mạng sườn phía trái con mãng xà tinh. Máu đỏ chảy ra xối xả, nó rống lên một tiếng kinh hồn tảng đởm nhưng vẫn không ngóc cao nổi đầu lên. Susano-o đâm nhát kiếm thứ hai bên mạng sườn phải, máu nó khi đó đã chảy ra tới sông, nhuộm đỏ cả dòng. Mãng xà gục đầu chết. Muốn cho chắc, Susano-o đâm một nhát kiếm thứ ba vào khoảng chính giữa thân rắn, thanh kiếm bị gãy làm đôi, cũng may mà nó thật chết rồi. Tò mò muốn biết vật gì cứng đã làm gẫy kiếm, Susano-o bèn rạch phăng khoảng đó như rạch một trái dưa bở, thì thấy bên dưới là một thanh bảo kiếm. Chàng bèn gửi biếu thanh kiếm đó lên nữ thần Amaterasu, gọi là kiếm Kuzabagi (Thiên-Tùng-Vân kiếm).
Susano-o cho xây một cung điện tráng lệ ở Suga thuộc vùng Izumo, rồi cưới nàng công chúa diễm lệ Kunisada làm vợ. Nàng rất kính yêu chồng, người đã cứu nàng thoát chết khỏi mãng xà tinh. Cung điện luôn luôn được tám lớp mây dày bao phủ, không cho những cặp mắt tò mò nhòm ngó vào nơi ở hạnh phúc của đôi lứa. Họ sinh hạ được nhiều linh thần khác, người con xuất sắc nhất là Òkuninushi (*)
(*) Okuninushi : viết theo Hán tự là “Đại Quốc Chủ.” Những huyền thoại về con cháu Susano-o không có điểm gì trái nghịch với vùng Yamato (Đại Hoà), đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời đại.

CON THỎ INABA (*)


(*) Inaba nay là tỉnh Tottori ở phía Đông đảo Honshu, phía Bắc giáp liền với biển Nhật Bản.
Òkininushi có nhiều anh. Những vị này đều khao khát lấy công chúa Yakami xứ Inaba, một miền không xa Izumo cho lắm. Òkuninushi phải đi theo phục dịch các anh như tên quân hầu, vác một bao vật dụng rất nặng. Trên đường đi Inaba, đám bào huynh của Òkuninushi thấy một con thỏ bị tróc hết lông nằm dí trên mặt đất. Tâm địa hiểm độc, họ xúi dại con thỏ xuống tắm ở vùng biển nước mặn rồi leo lên sườn núi phơi mình hong nắng gió, đợi lông mọc như xưa. Con thỏ ngây thơ nghe theo, da dẻ khô xác, nứt nẻ, nó quằn quại rên la thảm thiết. Òkuninushi đến sau cùng thấy thỏ như vậy, hỏi han mới rõ sự tình. Nguyên thủy truyện thỏ bị trụi lông như sau:
Khi còn ở trên đảo Oki ngoài khơi, thỏ muốn vượt eo biển trở lại đất liền mà không có phương tiện. Nó bèn nghĩ ra một kế, tụ tập bầy cá sấu lại đề nghị một cuộc thi xem dân số loài nào đông đảo hơn. Thỏ bảo cá sấu hãy nối đuôi nhau trong eo biển để nó đếm đầu trước rồi sẽ đến lượt sấu điểm giòng nhà thỏ. Đàn sấu y theo, con nọ ngậm đuôi con kia nối dài tới đất liền.
Con thỏ bèn đi trên lưng chúng như đi trên một cây cầu nổi, giả bộ đếm. Sắp bước lên đất liền rồi, con thỏ dại dột nói lộ mưu chước cho con cá sấu cuối cùng nghe. Con sấu này giận quá lấy răng gậm hết lông thỏ. Kế đó thỏ bị các vị thần bào huynh của Òkuninushi xúi dại để chịu cực hình như kia.
Òkuninushi động lòng trắc ẩn bảo thỏ hãy đến chỗ có nước ngọt tắm rửa cho sạch sẽ rồi dùng phấn cỏ tranh thoa khắp mình thì sẽ thấy dễ chịu và lông mọc lại được. Thỏ nghe quả nhiên bình phục. Thỏ đó chính là vị thần thỏ xứ Inaba. Để đền ơn Òkuninushi, thần thỏ đã giúp chàng lấy được công chúa Yakami. Các thần anh căm giận vì việc hôn nhân bất thành, lại bị phỗng tay trên, nên cùng bàn mưu trừ khử thằng em tốt phúc đi. Khi cả bọn tới núi Tema cùng săn một con lợn lòi, các thần anh bảo sẽ lùa con thú xuống chân núi cho Òkuninushi bắt, rồi xúm nhau nung nóng một tảng đá lớn trên núi đẩy xuống đánh lừa. Thần em tưởng là con thú, ôm chầm lấy nên bị phỏng nặng chết. May bà mẹ ngự du trên thiên đình biết chuyện liền sai thần Hến biển, thần Ngao biển xuống cứu. Thần Hến biển biến vỏ mình thành bột phấn, còn thần Ngao biển thì hút khô nước ở vết thương. Phút chốc Đại Quốc Chủ (Òkuninushi) sống lại, trẻ đẹp khác thường.
Các thần anh họp nhau bày cách khác cố sát hại kỳ được Đại Quốc Chủ. Họ hạ một cổ thụ xẻ ngang một kẽ lớn; lừa đẩy thần em vào giữa rồi xúm nhau ép lại khiến Òkuninushi bị kẹp chết. Lần này cũng nhờ bà mẹ thần thông biến hoá biết mà cứu kịp. Bà mẹ lúc ấy mới tỉnh ngộ về những âm mưu đen tối của các con lớn, bèn khuyên Òkuninushi hãy trốn đi thật xa. Òkuninushi cắm cổ chạy chối chết mới thoát được những mũi tên của các thần anh bắn theo. Chàng luồn qua chẽ ba của cành cây mà chạy biến đi.

NHỮNG TRUYỆN PHIÊU LƯU KẾ TIẾP CỦA ÒKUNINUSHI


Òkuninushi đi xuống Hoàng Tuyền Quốc (địa phủ) để thỉnh ý cha là Susano-o đương ở đó. Khi tới gần điện thì gặp công chúa Gan Dạ, con Susano-o đi ra. Mới gặp nhau lần đầu mà đôi mắt cùng liếc đôi lòng cùng ưa, họ lấy nhau luôn. Công chúa vào báo cho cha hay là có một nam thần điển trai tới. Vốn ngang bướng hung hăng, Susano-o bèn mệnh danh Òkuninushi là “gã xấu xa của xứ lau sậy” rồi cho vào ngủ đêm tại một lều nuôi rắn. Công chúa Gan Dạ phải đưa cho chàng tấm áo lốt rắn mới thoát khỏi hiểm nghèo.
Đêm sau Susano-o lại bắt chàng ngủ ở căn lều có con rết và con ong vò vẽ. Vợ chàng vội trao cho một tấm khăn choàng đặc biệt để bảo vệ chàng khỏi bị ong và rết đốt chết.
Hôm sau Susano-o bắn một mũi tên vào cánh đồng cỏ ngút ngàn rồi bắt chàng đi kiếm lại mũi tên đó. Chàng vừa đi khuất vào cánh đồng, Susano-o bèn nổi lửa đốt cỏ. Đang cơn nguy khốn đã tưởng mình lần này thật chết thì một con chuột nhỏ xuất hiện chỉ cho cái hang lánh nạn, rồi còn mang đến cho chàng mũi tên mà nó đã cất giấu không để lửa đốt. Bực mình về sự thành công của Òkuninushi, Susano-o dẫn chàng vào cung bắt chàng bắt chấy cho mình. Đại Quốc Chủ phải nhai mấy trái cây muku mà vợ chàng đưa cho cùng ít đất đỏ, rồi nhả ra quết đỏ tươi làm như đó là những xác chấy đỏ mọng. Susano-o lấy làm thích thú mà ngủ thiếp đi. Nhanh như cắt Òkuninushi cột tóc Susano-o lên sàn nhà, với lấy kiếm, cung tên và cây đàn của ông bố tàn nhẫn, rồi cõng công chúa Gan Dạ chạy trốn. Trong lúc vội vàng chạy, chàng để dây đàn cọ vào cành cây bật thành tiếng khiến Susano-o choàng tỉnh, đứng phắt lên đuổi theo, tóc lão lôi sập cả cung điện. Đuổi tới ranh giới dương gian và âm phủ thì lão dừng lại, lúc ấy lão đành miễn cưỡng bảo con (tức Òkuninushi) đem cung tên về giết bọn ác thần, và cho chàng lấy công chúa Gan Dạ.

ANH LÙN SUKUNA BIKONA


Òkuninushi bắt đầu xây dựng một thế giới trên mặt đất. Có một vị thần kỳ dị xuống phụ tá, đó là anh lùn Sukuna Bikona lướt sóng trên con thuyền tí hon làm bằng vỏ cây có lợp mái và trang trí bằng lông ngỗng. Òkuninushi nhón anh lùn đặt lên mu bàn tay để ngắm cho rõ, bất thần bị anh lùn nhảy lên má cắn chàng một cái thật đau. Thấy sự lạ lùng, Đại Quốc Chủ kể lại câu chuyện này cho chư vị thiên thần nghe, thì một trong số thiên thần nhận ra đó là con mình, một đứa con tinh quái ngỗ nghịch đã lọt từ khe tay rớt xuống đất.
Òkuninushi bắt đầu cùng anh lùn Sukuna Bikona xây dựng cho nhân gian. Khởi thuỷ họ tìm ra cách chữa trị những bệnh tật của con người, rồi dạy người phương pháp tránh cái họa của chim muông cầm thú, loài bò sát bằng cách nuôi dạy chúng phục vụ cho loài người. Khi mọi nhiệm vụ đã hoàn tất, một bữa kia Sukuna Bikona leo lên bông kê, thân kê rung động làm bắn vọt anh về trời.


PHÂN CHIA QUYỀN UY 


Òkuninushi cai trị xứ Izumo cho đến ngày nữ thần Amaterasu cho cháu đích tôn Ninigi xuống chiếm vùng bình nguyên lau sậy trung ương mà tự xưng Hoàng Đế.
Òkuninushi bị buộc phải hiến đất xưng thần. Quyền hành được chia xẻ như sau: Với Ninigi, khởi sự quyền uy thiêng liêng ngự trị trên dương thế, còn Òkuninushi thì trông coi việc cơ mật tức quyền tôn giáo. Để tiêu biểu cho quyền uy của cháu nội, Amaterasu ban cho Ninigi ba báu vật : viên ngọc quý hình cong, một chiếc gương báu và thanh Thiên-tùng-vân kiếm (lấy ở Mãng Xà Tinh tám đầu).
Hiện nay ba báu vật này vẫn còn là biểu hiệu của ngôi báu Nhật hoàng.

PHỤ CHÚ:


Sự phân chia quyền lực thế quyền cho Ninigi ở Yamato và thần quyền cho Òkuninushi ở Izumo chứng tỏ Nhật có ít nhất là hai trung tâm văn hóa chính và thần thoại Nhật bắt nguồn tự hai nơi này. Còn một trung tâm khác ở Tsukushi (Kyushu.)
Các nhà khảo cứu sau này tìm ra có tới 10 thuyết khác nhau về vị Thiên hoàng thứ nhất Ninigi (âm Hán : Quỳnh Quỳnh Sử Tôn.) Trong Cổ Sự Ký ghi : Ninigi, cháu đích tôn của nữ thần Mặt Trời Amaterasu, tự Taka maha gara (Cao thiên nguyên) giáng lâm, cai trị nước Mizuko (Thụy Tuệ) bình định nước Ashi hara (Vi Nguyên : đồng lau sậy) trong khi Òkuninushi đã cai trị nước Izumo (Xuất Vân). Do đó các học giả cho rằng hai chữ “giáng lâm” có một ý nghĩa là từ nơi xa tới xâm chiếm khu Yamato (Đại Hoà : Osaka-Kyoto).
Danh hiệu Ninigi có thể chỉ là biểu thị cái ý lúa đạo phát triển dồi dào (đạo tuệ chi nhiêu nhiêu) nghĩa là vì canh nông phát triển mà dân Nhật bắt đầu có hình thức sống định cư. Thần lúa, cháu nữ Thần Mặt Trời, như vậy hao hao giống truyện Thần Nông của Tàu mà Nhật đã vay mượn. Mô phỏng theo Trung Quốc, nhà vua phải làm lễ gặt mùa thu. Nhật gọi là Đại Thường Tế hay Thu Hoạch Lễ, rồi có thể do nghi lễ mô phỏng đầu tiên về việc tế tự Thần Lúa đó mà người đương thời đặt ra truyện Ninigi chăng ?



ÁNH LỬA VÀ BÓNG LỬA


Trong đám con của Ninigi có hai vị hoàng tử Ánh Lửa và Bóng Lửa đặc biệt hơn cả : Ánh Lửa là anh cả sinh sống bằng nghề chài lưới, bắt cá vây lớn, vây nhỏ; còn hoàng từ Bóng Lửa thì sinh sống ở trên đất liền bắt loài lông cứng, lông mềm.
Một bữa kia Bóng Lửa đề nghị đổi nghề với anh, nghĩa là kẻ sinh sống ở đất liền thì ra gần biển làm nghề bắt cá, kẻ ở gần biển thì vào đất liền làm nghề săn muông thú. Bóng Lửa được anh đồng ý và trao cho một lưỡi câu báu, nhưng chẳng những chàng chẳng bắt nổi con cá nào mà còn làm mất lưỡi câu xuống đáy biển. Bóng Lửa xin bồi thường anh 500 lưỡi câu thường, nhưng Ánh Lửa không chịu, nằng nặc đòi cho được lưỡi câu báu. Bóng Lửa ra bờ sông khóc than, thì có vị thần biển hiện ra hỏi vì sao mà khóc. Khi rõ nguyên do, thần thương tình tạo thành một con thuyền cho Bóng Lửa lướt sóng ra khơi, tới được cung điện của vị chúa tể biển cả là vua Thuỷ Tề.
Cung điện xây toàn bằng vảy cá tuyệt đẹp. Bóng Lửa trèo lên một cây gần cái giếng bên cạnh cung điện. Khi các nữ thần hầu công chúa con của Thủy Tề Đại Vương ra lấy nước thì thấy Bóng Lửa. Chàng mon men tới xin nước uống. Các nữ thần lấy một bát nước đưa cho Bóng Lửa, chàng không uống, móc lấy viên ngọc mang theo trong mình, đưa lên miệng rồi nhả vào trong bát nước, viên ngọc dính chặt ở đáy bát không tài nào dứt ra được. Đám nữ tì đành đưa bát về trình. Cả phụ hoàng lẫn công chúa đều ngạc nhiên, cùng ra xem. Gặp Bóng Lửa, cả hai nhận rằng đó là một vị thần linh, long trọng đón tiếp, và ngay hôm đó cử hành hôn lễ giữa Bóng Lửa với Công chúa. Ba năm trôi qua êm đềm nhưng rồi càng về sau Bóng Lửa càng thấy nhớ nhà, suốt ngày thở dài buồn bã. Công chúa gạn hỏi, chàng kể lại chuyện sở dĩ ra khơi rồi hạnh ngộ gặp nàng cũng vì trót đánh mất lưỡi câu báu của người anh, bị anh thúc bách phải kiếm cho bằng được.
Vua Thủy Tề tra hỏi mọi giống cá dưới biển, phát giác ra Cá Điêu đã nuốt lưỡi câu đó còn mắc ở cổ. Vua bèn lấy ra trao cho Bóng Lửa, đoạn phán cho chàng trở về trả lại anh. Trước khi ra đi, vua tặng chàng hai viên ngọc báu, dặn dò cặn kẽ cách sử dụng.
Vua dặn :
“Khi nào ngươi trao trả lưỡi câu cho người anh thì nói : đây là chiếc lưỡi câu đồ sộ, lưỡi câu tham lam, lưỡi câu mang tai họa và lưỡi câu xuẩn ngốc. Sau đó nếu anh ngươi khai thác miền cao thì ngươi khai thác ở miền thấp; cứ như thế chỉ trong ba năm anh ngươi sẽ nghèo túng khổ sở. Sau cùng nếu anh ngươi sinh sư,ỉ ngươi sẽ xử dụng hai viên ngọc báu.”
Bóng Lửa cỡi cá sấu trở về chốn cũ. 
Sau khi Ánh Lửa gặp em, lấy lại được lưỡi câu, thì mỗi ngày một lụn bại, khốn đốn. Cuối cùng, chán nản, bực bội, Ánh Lửa tìm cách sát hại đứa em. Bóng Lửa đem viên ngọc quý thứ nhứt ra niệm chú theo lời dặn của Chúa Thần Biển Cả, nước ào ào cuốn lên. Ánh lửa trốn lủi lên miền cao, nước càng dâng mạnh (*). Đến lúc sắp sửa chết đuối, Ánh Lửa mới than van hối hận. Bóng lửa thương hại, mang viên ngọc thứ nhì ra niệm chú thì đột nhiên nước rút hết ra biển. Ánh Lửa cảm động xin quy phục hoàn toàn người em, không còn cạnh tranh ghen tị như trước nữa.
(*) Tình tiết này làm chúng ta liên tưởng đến truyện Sơn-tinh và Thủy-tinh trong thần thoại Việt Nam nhà.
Ở cung điện ngoài khơi, công chúa con Thần Biển trở dạ. Nàng nghĩ thầm thật là bất hạnh nếu để con một thiên thần phải chào đời ở lòng biển, nên nàng vượt biển vào đất liền, tức nước Đại Hoà của chồng. Nàng hoá phép làm thành một tòa nhà trang trí bằng lông chim công cốc, ngay trên bờ biển, làm nơi sinh. Nàng dặn Bóng Lửa khi nàng sinh thì không được dòm ngó. Bóng Lửa không kiềm chế nổi tính tò mò, đứng ngoài lén nhìn vào, thấy vợ mình lúc sinh hoá ra một con cá sấu khổng lồ. Công chúa xấu hổ vì bị chồng biết rõ nguyên hình, trốn biệt ra ngoài biển. Tuy rằng kể từ đó hai người chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa nhưng cả hai vẫn trọn đời nhớ tới nhau và tình yêu của họ thường được nhắc nhở như một mối tình thiên thu.

TRUYỆN CHÀNG ĐÁNH CÁ URASHIMA TARÔ


Giữa quần đảo Nhật Bản có một vùng biển nội địa, cảnh trí đẹp như gấm như hoa, núi vàng, đất đỏ, rừng xanh. Quanh vịnh sóng biếc thanh bình này có vô số những làng thuyền chài, xa xa là những đảo nhỏ nhấp nhô với những cây tùng cao vút, gió thổi rì rào.
Khoảng hai mươi lăm thế kỷ trước đây, tương truyền vào một sáng hạ đẹp trời, chàng thuyền chài Urashima Tarô đẹp trai và hiền lành, người tại vùng này, xuống thuyền buông câu. Chàng buông câu đã lâu mà chẳng được con gì. Chợt dây câu bị kéo nặng chĩu, chàng giật lên được một con rùa nhỏ.
Urashima cười thương hại nói :
“Tội nghiệp con rùa nhỏ, sở vật của Long Vương, mi có thể sống lâu hàng ngàn tuổi mà sao lại dại dột cắn câu của ta thế này. Thôi, ta thả mi trở về với Long Vương, nghe !”
Nói đoạn chàng gỡ con rùa ra khỏi lưỡi câu, thả xuống biển, rồi chán câu, nằm khểnh trên thuyền nhìn trời xanh, mây trắng, mặc cho sóng vỗ đu đưa, thiu thiu ngủ lúc nào không biết. Chợt có bàn tay ai ve vuốt, chàng sực tỉnh, mở mắt. Trước mặt chàng là một trang tuyệt sắc giai nhân, tóc đen như mun, mềm óng, dài chấm gót chân; nàng mặc chiếc áo màu đỏ rực và xanh da trời. Chính nàng vừa lướt sóng tới, cất giọng êm như ru nói với chàng :
“ Xin chàng chớ ngạc nhiên, thiếp chính là con gái Long Vương. Phụ vương thiếp cảm tấm lòng nhân hậu của chàng đã tha chết con rùa nhỏ, nên cho phép chàng được gá nghĩa với thiếp, nếu chàng ưng chúng ta sẽ chung sống ở miền bồng lai tiên cảnh quanh năm bốn mùa xuân bất tận…”
Chàng ngắm nàng say đắm không thốt nên lời. Biết ý, nàng lẳng lặng ngồi xuống đối diện với chàng, tay cầm một mái chèo, chàng cũng cầm một mái chèo, cả hai cùng chèo… Con thuyền lướt sóng phút chốc đã tới một hòn đảo kỳ thú, đất trải đầy ngọc trai, cây cối trang hoàng toàn ngọc bích long lanh. Nàng đưa chàng vào cung điện trình diện phụ vương. Một trăm tên hầu trai, một trăm nàng hầu gái tấp nập sửa soạn lễ cưới cho tân lang và tân giai nhân. Long Vương ngồi trên ngai nạm kim cương chứng kiến hôn lễ. Nửa đêm, yến tiệc linh đình vừa dứt, chàng và nàng động phòng hoa chúc. Niềm hạnh phúc lứa đôi nếu cứ thế sẽ kéo dài bất tận. Nhưng đôi khi lòng quê xúc động, Urashima đoán ở nhà cha mẹ đương thương nhớ mình, tưởng lầm mình đã làm mồi cho cá dưới đáy biển… Rồi chàng thở vắn than dài suốt ngày. Chàng ngỏ lời xin người đẹp cho chàng về thăm quê cũ đôi ba ngày, báo cho gia đình rõ sự tình, rồi trở lại ngay. Vợ chàng lặng thinh không nói, khuôn mặt buồn rười rượi, thỉnh thoảng thở dài não nuột. Chàng đoan quyết với nàng là cuộc về thăm quê sẽ không lâu, chỉ vài ngày thôi. Sau cùng nàng lên tiếng:
“Thiếp e rằng một khi chàng rời khỏi nơi đây chúng ta sẽ chẳng bao giờ còn gặp mặt nhau nữa. Để thiếp tặng chàng một món quà giúp chàng có thể trở lại đây, nếu chàng muốn….”
Đoạn nàng trao tặng chàng một hộp lược nạm ngọc bên ngoài có một dải lụa buộc, và ân cần dặn chàng dù có thế nào đi nữa cũng chớ bao giờ mở hộp ra, nếu chàng còn muốn cùng nàng tái ngộ.
Nàng nhìn chàng lau mắt lệ, chàng an ủi để nàng vững tâm :
“Xin nàng đừng nghi ngại điều gì, không bao giờ ta tháo dải lụa mở hộp này. Khi đã thăm gia đình xong ta sẽ tức khắc trở lại đây xum họp cùng nàng.”
Urashima trở về quê hương bằng chính chiếc thuyền cũ của chàng. Thuyền cập bến dưới chân đồi quê hương. Neo thuyền lại, chàng vội vã theo đường cũ dẫn về làng. Bốn bề vắng lặng, văng vẳng tiếng thác đổ từ xa vọng lại, và gió trong không gian từng đợt buồn bã thở dài. Nhà cửa đôi chỗ được cất lại rộng lớn hơn hoặc mới hơn. Cả những thửa ruộng cũng thay hình đổi dạng. Tới nơi nhà cũ của cha mẹ xưa, chàng thấy đã biến thành một khu rừng thông nhỏ. Đôi người qua lại kín đáo nhìn chàng tỏ vẻ lạ lùng. Một cụ già lưng còng râu tóc bạc phơ, chống gậy đi qua. Urashima nghĩ rằng không còn gì hơn là hỏi thăm vị lão trượng này. Chàng bèn xưng tên họ và xin vị lão trượng, nếu có thể, chỉ giúp hiện gia đình chàng đã thiên cư về nơi nào ?
Vị lão trượng nghe chàng xưng danh như vậy thì cười ngất :
“Chú điên rồi sao mà lại mạo xưng là Urashima Tarô ! Chú há không biết, tương truyền cách đây bốn thế kỷ, chàng Urashima Tarô đã mất tích trên miền biển lặng này vào một dịp chàng đi câu? Sau đó người làng cũng không tìm thấy xác chàng và thuyền của chàng đâu cả. Thật là kỳ dị. Hiện nay tại khu nghĩa địa cũ, vẫn còn chiếc lăng nhỏ người ta xây lên để tưởng nhớ chàng.”
Nói đoạn ông già chống gậy đi thẳng. Urashima Tarô theo đường ra khu nghĩa địa cũ, quả nhiên thấy chiếc lăng nhỏ xưa kia người ta đã xây cho chính chàng. Trên những tấm bia rêu phủ và đã mòn mỏi nhiều với thời gian, chàng nhận dần ra mộ cha, mẹ, anh, em, và cháu, chắt trong giòng họ.
Urashima cảm thấy cõi lòng bâng khuâng, buồn thảm. Đứng tựa vào tấm bia mộ của chính mình, chàng cuối đầu suy nghĩ. Tiếng gió chiều vi vu trong rặng thông nghe thê thiết làm sao ! Tay chàng khi đó vẫn cầm hộp tặng vật của công chúa con Long Vương, vợ chàng. Chàng nghĩ thầm :
“Biết đâu mở hộp ra mình lại chẳng tìm được lời giải đáp nào giúp mình khỏi bỡ ngỡ trước hoàn cảnh bí ẩn này.”
Chàng thong thả cởi nút giải lụa và thận trọng mở nắp hộp. Từ trong hộp bốc lên một làn khói trắng nhẹ, làn khói bay miết về phương Nam, hướng biển.
Urashima chợt hiểu là mình đã dại dột làm ngược với lời dặn của vợ và chắc là vĩnh viễn không bao giờ nữa chàng còn hy vọng gặp lại nàng. Văng vẳng trong gió dường như có tiếng nàng nhắn nhủ chàng đừng bao giờ lãng quên nàng.
Chàng dậm chân than khóc, hối tiếc mọi việc lỡ dở. Phút chốc máu như lạnh trong huyết quản, chân tay khô héo đi, mớ tóc thay màu bạc phơ như bông tuyết, da mặt nhăn nheo, răng rụng, sức lực kiệt quệ, bốn thế kỷ chợt đè nặng lên cơ thể, lên tâm trí, chàng ngã lăn xuống đất héo hon mà chết (*).
(*) Đọc xong truyện này, tất nhiên chúng ta ai nấy đều liên tưởng đến truyện “Lưu Thần Nguyễn Triệu” của Trung Hoa và truyện “Từ Thức Nhập Thiên Thai” của Việt Nam nhà.

TỔNG KẾT VỀ THẦN THOẠI NHẬT


Trước đây Trung Quốc coi Nhật là một thứ Đông di – dân mọi rợ về phía Đông – văn hóa chẳng có gì đáng kể. Thái độ Trung Quốc vốn kiêu ngạo, ngoài mình là “Trung hoa” ra, còn bốn bề đều là man ri mọi rợ cả. Tuy nhiên về trường hợp Nhật Bản, gần đây xem ý các học giả Nhật khi soạn cuốn Thế Giới Đại Bách Khoa Sự Điển cũng đã cố ý lược bỏ những đoạn tạp nhạp, bộc lộ cá tính quá thô lậu cổ thời.
Tỉ dụ Cổ Sự Ký ghi truyện vị đệ nhứt anh hùng hiệp sĩ được cả dân Nhật tôn sùng nhắc nhở : Yamato dake (âm Hán : Nhật Bản Vũ Tôn.) Đại lược như sau : “Yamato dake vốn tên là Yamato takeru no mikoto. Chàng là con thứ Cảnh Hành Thiên hoàng, người anh song sinh là Oousu nomikoto.
Một lần phụ vương sai chàng trừ khử người anh cả hỗn hào lười biếng không hầu hạ cơm nước chu tất. Sớm tinh sương đó chàng nấp sẵn ở nhà vệ sinh, chờ người anh tới đập chết, chặt những mảnh tay chân gãy nát, bó trong một chiếc chiếu, rồi quăng ra nơi xa. Một lần khác cũng được cha sai trừ hai dũng sĩ khoác lác mà lại lỗ mãng tục tằn. Chàng bèn giả trang làm thiếu nữ, mê hoặc cả hai, lơi lả mời ruợu. Phục cho hai tên say mềm rồi rút kiếm đâm suốt qua một tên, ấn mũi kiếm qua hông tên kia, rạch ngược lên phanh thây tên thứ hai này chẳng khác một trái dưa chín mõm vậy. Chàng không từ một thủ đoạn nào để diệt trừ địch thủ. Chàng kết thân với một dũng sĩ xứ Izumo mà chàng chủ tâm hạ sát. Chàng làm sẵn một cây kiếm gỗ, khi hai người rủ nhau ra sông tắm, chàng đề nghị trao đổi kiếm với bạn rồi sau đó lại thách thức đấu kiếm để nhân dịp hạ sát bạn một cách dễ dàng và tàn nhẫn. Xong xuôi chàng đi sang phía Đông, dọc đường gặp Công chúa Miyazu, đính ước với nàng, rồi sau cưới nàng làm vợ.
Có lần trên đoạn đường đi biển có người tình nhân Ototachibana cùng đi, sóng đánh dữ quá, thuyền chỉ chực lật úp. Ototachibana đã khấn nguyện tự hiến thân cho thần biển, lao mình xuống nước để cứu mạng cho chàng. Về sau cuộc đời chàng kết thúc ở trên cánh đồng Tagi, tâm trí chàng lúc đó còn thanh thản mà đôi chân thì kiệt lực xụm xuống, chàng gục ngã mà chết.
Để tưởng niệm chàng, dân chúng đã xây một ngôi lăng đồ sộ ở Ise, mọi người đến điếu tang khóc thương một đại dũng sĩ anh hùng. Chàng đã hóa thành con chim Óc-Cau trắng mà biến đi. Lăng chàng từ đó mang danh là “Lăng Óc Cau Trắng.”
Chúng ta thấy thành tích Yamato dake xảo quyệt, tầm thường là vậy mà được tôn sùng là đệ nhất anh hùng dũng sĩ thì quan niệm về anh hùng của nền văn hóa cổ thời Nhật Bản quả thật là thô thiển. Cuốn Thế Giới Đại Bách Khoa Sự Điển đã cố ý lược đi những hành vi ti tiểu của Yamato dake, mà chỉ ghi vắn tắt đại ý : “…Vào năm Cảnh Hành thứ 28, chàng vâng lệnh phụ hoàng đi chinh thảo xứ Kumaso (âm Hán: Thái tộc), đã giả trang nữ giới, thắng lợi, sau được xưng là Yamato dake (âm Hán : Nhật Bản Vũ Tôn). Năm Cảnh Hoàng thứ 40 thì đánh Đông diệt Azamaebisu cũng đại thắng. Vào lễ thần Yamato hime no mikoto thì được thần ban cho Thiên-tùng-vân kiếm. Sau xuôi dòng sông Suruga, vượt biển Karasu đến nước Ise ở phía Đông Bắc, rồi chết ở vùng Nomono, được mọi người ngưỡng mộ xây lăng lớn mà sùng bái.”
(Văn hóa cổ thời Nhật bản thô lậu như vậy mà rồi nhờ có những người lãnh đạo thời Minh Trị sáng suốt đã đưa nước Nhật tiến vượt mức trong vòng một thế kỷ, điều này thực đáng khiến cho chúng ta phải suy ngẫm).
Không kể những phần bạc tạp của thần thoại Nhật mà chúng tôi đã lược bỏ, căn cứ vào những truyện đã tuyển chọn trên, chúng ta có thể kết luận:
1. Sự khai thiên lập địa theo thần thoại Nhật Bản không phải là hậu quả của một thế lực ngoại tại, Prima Causa, mà là thể hiện theo cung cách tự sinh.
2. Nói chung thần thoại Nhật vừa có chỗ sống sượng vừa có chỗ tế nhị, tinh khiết, mỹ lệ. Đôi khi đượm buồn nhưng chẳng bao giờ thảm đạm, khuynh hướng chung là dung hòa, tuyệt nhiên không đưa đến tai họa như thần thoại nhiều nước khác, đặc biệt là thần thoại Hy Lạp.

THẦN THOẠI 


Ðại Dương Châu


 

DOÃN QUỐC SỸ


 

Sưu tập






THẦN THOẠI ĐẠI DƯƠNG CHÂU (*)


(*) Theo P. Grimal, Mythologies de Steppes, des Forêts et des Iles, Paris: Librairie de France, 1928.
Đại Dương Châu gồm nhiều nền văn minh dị biệt gặp nhau giữa vùng Thái-Bình-Dương mênh mông này.
Có thể kể bốn thành phần chính:
- ÚC
- PÔLYNÊSIA gồm những quần đảo ở phía Đông Mêlanêsia và Micrônêsia, trải dài từ Nam Hawai tới Tân Tây Lan.
- MÊLANÊSIA gồm những quần đảo Nam Thái-Bình-Dương, Đông Bắc Úc.
- MICRÔNÊSIA gồm những đảo nhỏ miền Bắc Xích-đạo, phía Đông Phi-Luật-Tân (những đảo chánh : Marianas, Caroline, Marshall).


THẦN THOẠI PÔLYNÊSIA
THUỞ KHAI THIÊN LẬP ĐỊA


Thuở hỗn mang đó Mẹ Đất Papa với Cha Giời Rangi luyến ái nhau mà có sự sống xuất hiện. Những đấng thần nhân được sinh thành ra như vậy, cứ bị tù túng hoài giữa vòng ôm của Cha Giời, Mẹ Đất. Họ bèn họp bàn nhau tìm cách giải tỏa cho sự sống khỏi bị tù túng.
TU, sau này thành thần Chiến Tranh, đề nghị huỷ diệt Papa và Rangi.
TANE, thần Rừng và Chim, đề nghị tách rời cha mẹ ra một cách ôn hòa.
TAWHIRI, thần Gió và Bão, muốn giữ nguyên, phản đối mọi thay đổi tình trạng.
TANE bèn ra sức tách rời cha mẹ, lấy thân mình làm trụ chống. Ánh sáng do đó xuất hiện tại thế gian. Nhưng Tawhiri đứng về phía cha, tung gió bão ra làm dữ, khiến các anh em thoạt đầu phải bỏ chạy, chỉ còn TU là ở lại đương đầu và đòi trừng trị những kẻ đào tẩu. Thế rồi trận chiến cứ kéo dài hoài giữa đám anh em đó.
Trận quyết liệt sau cùng TANE thắng TU, đuổi TU ra khỏi Trời, và đầy TU xuống hạ giới. Còn lại một mình TANE lấy đất sét và cát nặn thành một người đàn bà, HINE, rồi lấy làm vợ. Khi HINE khám phá ra chồng mình cũng là người cha tạo ra mình thì xấu hổ lắm bèn trốn xuống thế giới âm phủ thành nữ-hoàng và mang danh là HINE-NUI TE-PO (Nữ hoàng cõi U-minh.) Vì tội loạn luân đầu tiên đó mà có sự chết trên thế gian, và cũng kể từ đó HINE-NUI TE-PO không ngớt thu hút những kẻ sống vào thế giới âm phủ của mình.

PHỤ CHÚ:


Các thần thoại khác nhau về thuở khai thiên lập địa của quần đảo Pôlynêsia thường được kể dưới hai hình thức. Một hình thức trừu tượng: từ cái không phát sinh ra tư-tưởng, tự tư tưởng mà có không gian, từ đó tuần tự sinh ra mọi yếu tố trong cõi hữu hình. Hình thức thứ hai, thường nhắc đến 10 đấng Thượng đế vô ngã đầu tiên đã thổi sinh khí vào vũ trụ. Cả hai hình thức thần thoại trên đều mang chung ý hướng giải thích vũ trụ từ cái Một nguyên thuỷ mà ra, rồi mới biến hoá thiên sinh vạn biệt. 
Thần thoại chúng ta vừa đọc trên đây cũng không ra ngoài thông lệ giải thích từng cặp mâu thuẫn Ngày – Đêm, Trời – Đất, Sống – Chết, Động – Tĩnh,…
Và mọi nỗ lực tranh đấu của con người là chỉ muốn thực hiện lại được cái Một hoà-hài nguyên-thuỷ, và thường là thất bại. Âu đó cũng là định mệnh con người.


THUỞ AN BÀI NHÂN GIAN


Người có công an bài cuộc sống nhân gian là Maui. Bà mẹ Maui thuở mang thai sinh chàng thiếu tháng. Tin rằng đó là điềm gở, bà ném đứa con sơ sinh của mình xuống đại dương. May thay đứa bé được tổ phụ là thần Mặt Trời cứu sống, mang lên thiên cung nuôi nấng, dạy dỗ, đến khi khôn lớn thì vẫn cho trở về hạ giới sống với gia đình. Mặc dầu không hợp tánh tình với các anh cho lắm, Maui vẫn quyết định ở lại chung sống với họ. Thấy Maui có tài biến hoá, người cha đẹp lòng bèn đứng ra làm lễ chúc phúc cho Maui, chẳng may khi làm lễ ông cụ sơ ý phạm giới luật khiến Maui sau này tất bị sát hại bởi thần nhân.
Tuy nhiên Maui vẫn bắt đầu cuộc sống hào hùng của mình. Chàng thoạt đi tới giới tuyến cuối cùng của nhân gian, tỉ thí và hạ được vị thần nhân tổ phụ tên là Mui-Ranga. Chàng quyết định lấy xương quai hàm của vị tổ phụ bại trận đó làm một thứ khí giới vô địch cho mình.
Có khí giới rồi, Maui mới tính xem nên làm gì trước nhất. Nhận thấy vào thuở đó mặt trời có tật chạy nhanh vun vút trên vòm trời, ngày ngắn quá không đủ cho thế nhân làm xong bất kỳ việc gì. Maui lẻn đến nấp tại cửa trời, đợi sớm hôm sau lúc mặt trời vừa ló ra bèn xuất kỳ bất ý dùng chiếc xương quai hàm giáng xuống một truỳ thật mạnh. Mặt trời què cẳng, từ đó buộc lòng phải đi chậm, kéo dài thời gian trong suốt cuộc hành trình từ Đông sang Tây.
Kế đó, Maui đã dùng cả uy vũ lẫn mưu cơ để đoạt được lửa của một vị tổ phụ khác tên là Mahuika ngự triỉ khoảng giữa hai miền dương thế và âm phủ.
Sau cùng Maui quyết giúp con người thực hiện mộng trường sinh bất tử. Chàng theo đường xuống âm phủ, đợi lúc vị tổ mẫu khổng lồ Hine-Nui Te-Po ngủ say mới tự cởi hết quần áo rồi lén chui vào bụng tổ mẫu bằng đường giữa háng. Nếu chàng chui lọt được vào để phá phách nội tạng, tất vị nữ hoàng cõi U-minh phải mạng vong, do đó con người trên dương thế sẽ trường sanh bất tử. Không may Maui mới chui vào được nửa người, thì một con chim thấy cảnh đó khôi hài quá bèn cười phá lên.
Hine-Nui Te-Po giựt mình tỉnh dậy và kịp thời kẹp chết Maui. Từ đấy loài người đành chịu kiếp sống phù du với sinh, lão, bệnh, tử, và chết là hết không còn được trở lại dương thế sau một thời gian nương náu ở cõi âm nữa.

PHỤ CHÚ :


Hiếm có một truyện thần thoại giải thích lịch-trình xây dựng nếp sống văn hoá của con người khít khao đăng đối như truyện trên.
Con người ngay từ thuở ban đầu đã mang nặng nghiệp của ba điều mâu thuẫn :
- Nếp sống lặng lờ giữa thiên nhiên và văn hóa.
- Vì là con cháu tội lỗi của Tane và Hine nên con người có sinh rồi có tử.
- Nhưng cũng vì là con cháu của Tane và Hine nên con người mang trong bản thân cả hai tính chất thần-linh và phàm-giới.
Maui là đứa con của thế gian, lại được thần Mặt Trời nuôi dưỡng ở chốn thiên cung tất nhiên khi trở về thế gian chàng có nhiều triển vọng giúp thế nhân giải quyết được ba mâu thuẫn trên.
Việc lầm lỗi của người cha khi làm lễ chúc phúc cho chàng khiến thế quân bình giữa sống với chết không còn, Maui đã thấy trước là chàng sau này phải chết. Nhưng nếu vì làm lễ chúc phúc mà chàng bị hại, thì vì tội bất kính giết chết tổ phụ lấy xương quai hàm mà chàng có được khí giới vô địch. Sự tương xứng là ở chỗ đó.
Việc kéo dài ánh sáng ban ngày để làm việc và việc đoạt được lửa đều tượng trưng cho nếp sống văn hóa đã thắng nếp sống thiên nhiên.
Sau cùng về nỗ lực của Maui muốn đoạt trường sinh bất tử, chúng ta có thể nghĩ đấy là một nỗ lực quyết liệt để được trở về với cái Một hoà hài nguyên-thuỷ. Con người mà trường sinh bất tử thì tự nhiên giải quyết được mọi nhức buốt của những mâu thuẫn nguyên-thuỷ.
Nhưng thất bại. Tất nhiên.
Định mệnh con người là vậy : Phải chịu đựng những mâu thuẫn nguyên thủy kia !
Và khí giới để chịu đựng : Văn hoá của chính mình !
Maui lọt lòng mẹ chào đời một cách khác thường, thực hiện những việc phi thường, chết cũng một cách khác thường, đúng lúc đương chui vào lòng tổ mẫu. Tình tiết câu chuyện tương xứng, cân đối, lại như vẽ thành một chu kỳ.
 

THẦN THOẠI HY-LẠP


VÀI NÉT TỔNG LUẬN


Có thể nói toàn thể văn hóa Tây phương đều có con dấu thấm nhuần của thần thoại Hy Lạp. Những kiệt phẩm văn chương, nghệ thuật Tây phương cổ thời cũng như cận đại và hiện đại không ngớt tìm nguồn cảm hứng ở thần thoại Hy Lạp, hoặc lấy đó làm khởi điểm khai thác cho một cái nhìn, một cách giải thích mới.
Hai nguồn gốc chính của thần thoại Hy Lạp là văn chương và nghệ thuật cổ thời.
Về văn chương cổ còn truyền lại thì khoảng từ năm 1200 đến 850 trước Thiên Chúa có The Iliad và The Odyssey của Homer. Kế đó từ năm 600 đến năm 400 là những hài kịch, bi kịch, lịch sử, thơ trữ tình… với những tên tác giả Hy Lạp chói lọi : Aeschylus, Sophocles, Euripides, Aristophanes, Herodotus… Sang thế kỷ đầu kỷ nguyên này có sử gia Hy Lạp Diodorus Siculus, và các tác giả La Mã bất hủ : Horace, Ovid, Vegil…
Về nghệ thuật là những đền đài cổ còn để lại cùng những tác phẩm điêu khắc trên đá, những nét vẽ khắc trên vàng, trên ngà, trên những bình, những ly, những đĩa…thẩy đều lấy đề tài thần thoại đã quá bình dân phổ biến như cuộc vây thành Trojan, Orpheus và Eurydice, Oedipus va Sphynx, Ariadne trên bờ biển Naxos… Những đề tài thần thoại đó mãi tới thời Phục Hưng và sau đó nữa cũng đâu có suy giảm trong những tác phẩm của những bậc thầy Correggio, Michelangelo, Millet, Raphael, Rembrant, Rubens, Van Dyck…
Trở lại nhận xét nền văn chương gần đây của Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Tây-Ban-Nha…chúng ta thấy những Shelley, John Keats, Wordsworth, không ngớt đem vào thi văn những đề tài lấy trong thần thoại.
Văn học hiện đại của thế kỷ XX cũng vậy : Jean Aouilh viết Antigone, Eurydice, Medée; Jean Paul Sartre viết Les Mouches; John Updike viết The Centaur; James Joyce viết Ulysses…
Ấy là không kể trong ngôn ngữ Âu Mỹ đầy rẫy những từ ngữ có ngữ căn bắt nguồn tự thần Hy Lạp : Aurora, auroral, aurore (*); Bacchus, bacchis, bachique; Hypnos, hynotic, hypnotique; Luna, lunacy, lunatique…
(*) Những chữ in nghiêng là Anh, đứng là Pháp
Phải tìm đâu xa, hãy xin kiểm điểm ngay tên những phi thuyền hay những chương trình không gian của Mỹ gần đây: Gemini, Apollo, Mercury…
Nói tóm lại đi vào văn hóa Tây phương chúng ta không thể không biết tới thần thoại Hy-Lạp.
PROMETHEUS ĂN CẮP LỬA TRÊN TRỜI
Ngày xưa không có thần thánh chỉ có Trời và Đất thôi. Trời và Đất là bậc phụ mẫu đầu tiên sinh ra giống người khổng lồ Titans. Giống người này cai trị thế giới hằng bao nhiêu thời đại. Sau cùng các vị thần, con của giống khổng lồ Titans này nổi loạn và lật đổ họ. Thần Zeus làm chúa tể toàn vũ trụ, vợ và cũng là em của thần tên Hera trở thành hoàng hậu.
Vẫn chưa có người trên trái đất và cũng chưa có loài thú vật nào. Một người khổng lồ tên Prometheus được chọn để cai quản trái đất. Thế là Prometheus xuống hạ giới. Chàng lấy đất sét trộn với nước rồi nặn thành một hình người đứng thẳng vì chàng muốn loài người nhìn lên các vì sao chứ không nhìn xuống đất như loài vật vậy. Rồi Prometheus nghĩ :
“Ta sẽ cho sinh vật này đủ các tài năng để vượt được muôn loài”.
Nhưng không may, người em chàng tên Epimentheus, đã đem tất cả những tài năng đó ban cho loài vật : sức mạnh, lòng can đảm, sự khôn ngoan, lanh lẹ, lại cho tất cả cánh, móng, vuốt, sừng, vẩy… Chẳng còn giữ lại gì.
Chàng Prometheus nhanh trí bèn nghĩ tới lửa. Ồ một món quà vĩ đại và huyền diệu !
Prometheus nghĩ : với lửa con người có thể làm vũ khí áp chế được súc vật, làm các dụng cụ cày đất và thực hiện nghệ thuật. Con người không lông, không vẩy ư ? Lửa sẽ sưởi ấm chỗ ở, con người không còn cảnh phải lo sợ mưa, tuyết cùng gió bấc.”
Prometheus trở lại trời, châm ngọn đuốc ở xe mặt trời rồi đem lửa xuống cho loài người. Chàng cảm thấy thật sung sướng.
Nhưng trên trời cao ở Olympus, thần Zeus thấy vậy chau mày ghen tỵ với quyền lực của Prometheus. Thần Zeus nghĩ : “Sinh vật này đã biết cậy vào trời thì quả là nó hơn loài vật. Còn phải nói nó là địch thủ xứng đáng của chư thần, nhưng ta sẽ có cách kiểm soát quyền lực bất chính của nó.”
Thế là thần Zeus dựng lên một người đàn bà đẹp như một nữ thần. Tất cả những vị thần khác đều ban cho nàng những tài năng. Tên nàng là Pandora, có nghĩa là tài hoa nhất bậc. Đích thân thần Zeus đem xuống tặng. Prometheus thấy vậy bèn lưu ý Epimetheus ngay : “Hãy coi chừng, tôi ngại quà của thần Zeus xảo quyệt này ! Thần giận tôi lắm, vì tôi cả gan ăn cắp lửa đem xuống cho loài người.”
Nhưng Epimetheus đã say mê nàng Pandora và đem nàng về nhà.
Chàng Epimetheus còn giữ trong nhà một cái bình đựng ít quà mà chàng chưa phân phát cho loài vật khi chàng dựng lên chúng. Chàng hết lời dặn Pandora đừng đụng đến chiếc bình đó. Nhưng Pandora tính nết tò mò, vừa khi ở nhà một mình nàng bèn tới gần chiếc bình, tự nhủ : “Ta chỉ ghé mắt nhìn vào xem có gì bên trong chắc chả sao đâu.” Rồi nàng mở nắp bình, thế là một đàn bệnh dịch bay ra cùng là lòng đố kỵ hận thù, báo oán tức khắc lan tràn khắp nơi. Pandora vội đậy nắp bình, nhưng muộn rồi. Bình rỗng, chỉ còn xót lại hy vọng. Và hy vọng không bao giờ rời bỏ loài người kể từ đó.
Thế là thần không còn sợ người kình địch nữa, vì con người còn phải đương đầu với những địch thủ còn khủng khiếp hơn mãnh thú nhiều. Ấy vậy mà thần Zeus vẫn chưa tha Prometheus. Thần tuyên bố : Tên ăn cắp lửa trời kia sẽ bị trừng phạt nặng bằng tình thương của hắn đối với loài người. Hắn sẽ bị xích vào một tảng đá cao nhất trên núi Caucasus, nơi không ai trèo tới được. Hắn bị xém nắng, ta sẽ cho con chim kên kên mổ gan hắn, chim mổ tới đâu gan sẽ mọc ra tới đó.
Rồi thần cho gọi Hephaestus. Thần thợ rèn này bèn đóng đinh chàng Prometheus vào tảng đá trên đỉnh núi.
Tảng đá, con kên kên, sợi dây xích đã làm khổ chàng biết chừng nào, nhưng chàng cắn răng chịu đựng không rên la, không van xin và cũng không ân hận về những điều chàng đã làm.

MỘT PHÉP MÀU TRÊN NÚI PARNASSUS.


Những năm đầu tiên của con người trên trái đất là những năm đầy hạnh phúc. Đó là cả một thời Vàng Son của sự thực và lẽ phải. Sau đó là thời Bạc, sau nữa là thời Đồng, nghĩa là mỗi ngày một kém. Nhưng đến thời Sắt thì còn tệ nữa. Vào thời này con người trở nên ác độc đến nỗi máu đổ khắp nơi. Vợ chồng, anh em không còn tin nhau nữa. Con mong cho cha chết để hưởng gia tài. Khách cảm thấy không được an toàn trong nhà bạn. Thần thánh thì bị lãng quên.
Sau cùng thần Zeus không chịu đựng được nữa, mới triệu các thần rồi truyền :
“Hỡi chư thần! Chúng ta từ lâu không ngửi thấy mùi thịt nướng thơm dâng cúng nữa. Con người đã không thờ phụng thánh thần, bàn thờ hương lạnh, đền đài vắng hoe, ta sẽ tận diệt loài người xấu xa này! Ta sẽ tạo dựng nên một giống người khác xứng đáng với cuộc sống và phải biết thờ phụng thánh thần !”
Thần sấm sét đứng dậy định khạc chớp để đốt cháy trái đất nhưng lại thôi vì thần nghĩ rằng ngọn lửa cháy lớn quá có thể đốt cháy luôn thiên đình. Rồi thần quyết định: “Ta sẽ làm cho con người phải chết đuối”. Xích tất cả những ngọn gió làm tan mây lại, thần chỉ sai ngọn gió Nam gom góp tất cả mây. Bầu trời đen như mực sấm nổ vang. Rồi mưa như trút nước. Cùng lúc thần Poseidon làm cho trái đất rung lên và những ngọn sóng khổng lồ tràn vào bờ. Rồi thần kêu gọi các dòng sông :
“Hãy chảy tràn đi ! Cuốn nhà cửa đi ! Cuốn gốc vườn cây trái đi ! Làm vỡ đập nước đi !” Và các dòng sông vâng lời.
Thế là đồng ruộng ngập lụt. Mùa màng hư thối. Nhà cửa, xúc vật bị nuớc cuốn đi. Đất liền biến thành biển cả, trừ có ngọn núi Parnassus là nhô khỏi mặt nước. Có một cặp vợ chồng già ẩn trên núi này, ông già là con của Prometheus tên Deucalion, một con người trung trực. Bà vợ là con gái của Pandora, tên Pyrrha, một người đàn bà ngoan đạo luôn luôn thờ phụng thánh thần. Cặp vợ chồng này được Prometheus báo trước trận lụt nên đã kịp thời lên ẩn trên núi. Hình ảnh hai con người cuối cùng còn sót lại làm động lòng thần Zeus. Cơn thịnh nộ của ngài lắng xuống. Thần nghĩ : “Cặp vợ chồng này đã sống một đời đạo hạnh, ta hãy cho phép họ được tiếp tục sống.”
Thần sấm bấy giờ mới cởi xích các ngọn gió cho gió thổi mây tan; còn thần Poseidon, em thần sấm, dùng cây đinh ba làm dịu sóng. Những dòng sông chảy êm ả dần. Trời và đất lại nhìn thấy nhau. Thanh bình. Yên lặng. Trời hết tối lại sáng. Con người phải trả giá cho sự ác độc thật đắt…
Nhìn xuống mặt đất đặc nghẹt những xác người, Deucalion vỗ tay thất vọng nói với vợ : “Phải chi cha tôi dạy tôi ngón xảo thuật của người ! Phải chi chúng ta cũng biết nặn người bằng đất sét ! Thôi đành hãy hỏi thần thánh xem chúng ta phải làm gì bây giờ.”
Một bàn thờ hoang phế thờ Nữ-thần Công Bình ở cách chỗ hai người không xa. Cặp vợ chồng này bèn tới đó, quỳ xuống khấn hỏi : “Xin Nữ-thần hãy dạy chúng con phải làm gì?”
Lập tức có giọng nói trả lời họ : “Hãy ra khỏi đây, choàng đầu lại, cởi nút áo ra và hãy ném xương của mẹ các ngươi ra đằng sau.”
Cặp vợ chồng quá kinh ngạc. Họ sợ đến không thốt nên lời. Mãi sau Pyrrha mới nói được : “Xin Ngài hãy tha thứ cho chúng con. Chúng con không dám coi rẻ xương của cha mẹ chúng con.” Họ rời khỏi bàn thờ, đi vào rừng để suy nghĩ lời sấm truyền. Deucalion chợt nghĩ ra bèn bảo vợ: “Này, chúng ta có thể theo lời sấm dạy ! Trái đất không phải là mẹ của loài người ư ? Những tảng đá chính là xương trái đất. Vậy chúng ta có thể ném đá ra phía sau. Nào hãy thử xem”
Thế là họ che mặt lại, cởi nút áo ra, lượm những viên đá ném ra đằng sau. Và kìa, thật là huyền diệu, các viên đá đó lớn lên, có hình dáng giống như những khối cẩm thạch chưa được người thợ điêu khắc hoàn tất.
Những hòn đá Pyrrha ném trở thành đàn bà, còn những hòn Deucalion ném thành đàn ông. Và thế là một giống người mới ra đời, một giống người thích hợp với cần lao, như chúng ta ngày nay vậy.

APOLLO VÀ DAPHNE


Daphne con gái thần sông Peneus, là nữ thần của cỏ cây suối nước, và là mối tình đầu của thần Apollo. Truyện đó do sự tinh nghịch quái ác của Eros (Cupid) mà ra. Nguyên do một lần Apollo bắt chú bé đương rỡn với cây cung và tên. Vào dịp đó Apollo vừa bắn chết xong con trăn khổng lồ Python vẫn nấp ở hang núi Parnassus phá hoại mùa màng khủng bố dân chúng. Nay thấy chú bé nghịch cung tên thì lên tiếng : “Này chú bé, nghịch đồ chinh chiến đó làm gì, hãy trao cho ta là kẻ giỏi xử dụng những thứ đó.” Chú bé đó chính là Eros, con trai nữ thần Aphrodite, bèn đáp : “Ông xử dụng cung tên của ông có thể bắn được mọi vật, nhưng cung tên của tôi dùng vào việc khác hẳn, tôi có thể bắn trúng ông.” Nói đoạn Eros đứng thẳng người trên một mỏm đá của núi Parnassus, giương cung bắn liền hai mũi tên khác nhau. Mũi tên nhọn sắc bằng vàng khêu gợi tình yêu trúng phải Apollo, mũi tên cùn nhụt bằng chì làm ghê sợ tình yêu trúng phải nàng Daphne. Thế là Apollo đắm đuối say mê Daphne, trong khi Daphne hoảng hốt khi nghĩ đến tình yêu. Cha nàng, thần sông Peneus, đã nhiều lần bảo nàng : “Con gái quý của cha, con còn nợ cha một chàng rể và một lũ cháu ngoại.” Và nàng đáp : “Xin cha yêu quý hãy dung tha cho con điều đó, con muốn là sử nữ suốt đời như Diana.” Cha nàng không ép buộc nhưng cũng nói : “Chỉ có khuôn mặt của con mới cấm được việc đó thôi.”
Apollo say đắm nàng biết là chừng nào. Apollo còn là vị thần tiên tri nữa mà nào có tiên tri nổi ngay số phận mối tình đầu của thần. Nhìn mái tóc xõa phủ trên vai Daphne, nhìn đôi mắt sáng như sao của nàng, đôi môi thắm như san hô của nàng, cái cổ và đôi cánh tay trần mịn màng của nàng, Apollo những khao khát mộng lứa đôi với nàng sớm thành tựu bèn đuổi theo và nàng hốt hoảng chạy trốn nhanh như gió. Apollo gọi : “Hỡi con gái của thần Peneus, ta đâu là thú dữ, vì yêu quý nàng mà ta theo đuổi thế này, xin hãy dừng chân. Đừng chạy trốn ta như con cừu non chạy trốn chó sói, như chim câu bay trốn diều hâu. Đừng chạy hấp tấp như vậy lỡ nàng vấp phải đá mà ngã thì lòng ta sầu khổ biết chừng nào. Xin nàng chạy chậm chứ, ta không dám đuổi nhanh nữa đâu. Ta đâu phải là tên hề, ta đâu phải là tên thô tục, ta là con thần Zeus, là chủ đảo Tenedos phì nhiêu trong khoảng biển Aegean, ta là thần ca hát và là chủ cây đàn ly-tao. Mũi tên thần của ta luôn luôn trực chỉ trúng đích, nhưng chính ta lại là nạn nhân một mũi tên oan nghiệt hơn của Eros. Ta là thần y dược, ta biết hết các loại cây chữa lành bệnh, mỉa mai thay bệnh ta thì không thuốc nào chữa khỏi.”
Daphne không ngừng chạy, nàng càng chạy nhanh càng đầy vẻ quyến rũ, mớ tóc đẹp tung bay theo gió, dáng nàng uyển chuyển nhịp nhàng theo gió. Apollo càng nồng men say đắm quyết tình rượt bắt nàng kỳ được như con chó săn muốn rượt cho kỳ được con thỏ rừng. Apollo đuổi theo Daphne do sức mạnh của tình yêu. Daphne chạy trốn Apollo thúc đẩy bởi lo sợ. Apollo gần bắt kịp nàng. Daphne đã cảm nhận hơi thở của Apollo phà lên tóc. Nàng tự thấy như sắp ngã khuỵu xuống bèn cất tiếng kêu cứu thần sông : “Cha ơi hãy mở lòng đất ra cho con chạy xuống, hay hãy biến hình con đi cho con thoát hiểm.” Nàng vừa dứt lời mọi cử động tay chân nàng chợt ngưng đọng, trái tim nàng được nhốt lẩn dưới lần vỏ cây mềm, tay nàng biến thành cành cây, chân nàng thành rễ cây, bắt sâu xuống lòng đất. Khuôn mặt nàng thành ngọn cây. Apollo sững sờ đứng lại. Tuy đã biến hình thành cây mà vẻ thướt tha kiều diễm của Daphne còn y nguyên. Apollo âu yếm ôm lấy cây hôn miên man lên thân cây, lên cành, lên lá thiết tha mà rằng : “Nàng đã không là vợ ta thì từ nay cành lá nàng ta sẽ kết thành vòng vương miện cho ta; cành lá nàng sẽ dùng để trang điểm cho cây cung thần của ta, cho cây đàn ly tao của ta. Người đời sẽ dùng nàng kết thành vòng chiến thắng, tuổi trẻ của nàng vĩnh viễn với màu lá xanh mướt như nhung.”
Nghe vậy tiên nữ Daphne đã biến thành cây nguyệt quế (laurel tree) cúi đầu ưng thuận.

HERA VỊ NỮ HOÀNG CẢ GHEN.


Hôm đó nữ hoàng Hera ngồi trên thiên đình chợt thấy mây trời tối xầm. Nghi ngờ ngay là chồng mình – thần Zeus – hẳn đương làm điều gì khuất tất, nữ thần bèn quét tan mây quả nhiên thấy thần Zeus đương đứng bên một con bò cái xinh đẹp ngay trên bờ một con sông nước trong như pha lê; Hera ngờ ngay đó là một nữ thần hay một nữ thế nhân trá hình chi đây. Quả thực đó là nàng Io, con gái của thần sông Inachus. Vì biết bị Hera theo giõi nên Zeus vội biến nàng tình nhân xinh đẹp thành con bò xinh đó. Hera đã hiện tới vồn vã chào Zeus và khen con bò cái xinh đẹp làm sao, lại hỏi bò đó của ai? Zeus bèn trả lời cho xong chuyện rằng đó là một sáng tạo phẩm tân kỳ mới từ dưới đất lên. Hera ngỏ lời xin con bò đó như một tặng vật của chồng. Zeus không biết ăn làm sao, nói làm sao cho Hera khỏi nghi đành phải vui vẻ nhận lời ngay. Hera đâu đã hết nghi ngờ bèn ủy con bò cái cho tên khổng lồ Argus chăn nuôi. Argus có trăm mắt, bao giờ cũng chỉ có một đôi mắt ngủ mà thôi. Vì vậy mà Io bị canh chừng thường xuyên. Io không còn lời để kêu cứu cha, không còn tay để van xin Argus. May thay tên nàng ngắn và dễ viết, một lần gặp cha, nàng bèn dùng móng chân nguệch ngoạc tên mình trên mặt cát . Thần sông Inachus nhận ra cô con gái yêu mà thần đã nhọc công tìm kiếm, bèn ôm lấy con, âu yếm hôn lên cổ trắng của con. Argus thấy vậy bèn dắt bò đi nơi khác rồi ngồi trên một mỏm cao để có thể canh chừng được tứ phía.
Zeus cũng sót ruột thương cho cô tình nhân bé bỏng bèn ủy cho thần Hermes (Mercury) hãy sớm tìm bất kỳ diệu kế nào mà giết quách Argus đi cho rồi. Hermes vội vàng cầm gậy ngủ , đi dép có cánh, đội mũ xuống trần gian tức khắc. Nơi đây thần giấu dép dấu mũ chỉ còn cầm chiếc gậy ngủ hiện hình như thể một chú mục đồng, vừa chăn bò vừa thổi khèn. Đó là loại khèn Syrinx hay Pandean. Argus coi bộ thích tiếng khèn đó bèn gọi : “Này chú chăn bò, chẳng còn nơi nào tốt hơn cho bò gặm cỏ là nơi đây, hãy ngồi dưới bóng mát này với ta.”
Hermes bèn chống gậy ngủ tới ngồi kể nhiều chuyện xưa cho Argus nghe, thỉnh thoảng lại đưa ống khèn lên miệng thổi những cung điệu thật êm ả mà cũng thật não nùng. Thời gian đã muộn, một số lớn mắt Argus đã ngủ, nhưng vẫn còn một số mở để canh chừng. Hermes tiếp tục kể thêm những chuyện khác đặc biệt sự tích cái khèn Syrinx này. “Nguyên xưa có một nàng tiên của miền rừng suối tên là Syrinx. Biết bao nhiêu thần rừng say mê nàng mà nào nàng có để ý đến ai, chỉ một lòng phục vụ nữ thần Diana trong những cuộc săn bắn. Mà thực dung nhan Syrinx đẹp chẳng kém gì Diana, chỉ khác cung của nữ thần Diana thì bằng bạc, mà cung của Syrinx thì bằng sừng. Một lần vừa tháp tùng nữ thần Diana tự một cuộc săn về thì Syrinx gặp thần Pan (Faunus) (*). Thần Pan cũng buông lời ca ngợi ve vãn. Syrinx không nghe mà chạy trốn. Pan đuổi theo và bắt kịp nàng trên bờ sông, nàng chỉ kịp kêu cứu các bạn là những nàng tiên suối nguồn. Vì vậy mà khi Pan vừa kịp ôm lấy nàng thì nàng đã biến thành một khóm lau. Pan thất vọng thở dài, không khí chui qua ống lau vang lên tiếng nhạc ai oán. Pan có cảm tình ngay với tiếng nhạc trầm buồn đó mà rằng : “Ít nhất nàng cũng thuộc về ta như vậy.” Nói đoạn Pan lấy mấy ống lau dài ngắn khác nhau ghép lại thành thứ nhạc cụ gọi là khèn Syrinx để kỷ niệm mối tình thần muốn được trao đổi với nàng mà không được.”
(*) Thần Pan là con trai của thần Hermes với Dryope, phần giống người, phần giống dê, tai dê, sừng dê, hai chân sau dê. Thần Pan cai quản các đàn thú vật, ưa cuộc sống hoang dã, tính tình khoái hoạt và thường là hoang dâm.
Hermes kể dứt lời, nhìn Argus thì thấy cả trăm mắt của tên khổng lồ đều ngủ, đầu hắn gục xuống ngực. Hermes chém một nhát, đầu tên khổng lồ rơi lăn lông lốc. Thế là cả trăm mắt của Argus chẳng bao giờ còn nhìn thấy ánh mặt trời nữa. (Sau này Hera còn tiếc rẻ dùng chúng trang điểm cho lông đuôi loài công là loài chim mà nữ thần rất ưa thích.)
Vậy mà Hera chưa hả giận, nữ hoàng còn cho một con mòng (nhặng) đuổi đốt Io khiến nàng phải chạy trốn khắp nơi, qua núi đèo, qua rừng suối, qua đồng lầy, qua biển, chạy mải miết tới bờ sông Nile. Sau cùng Zeus phải cam kết với Hera là không còn lưu luyến nàng nữa, lúc đó Hera mới cho phép Io trở lại nguyên hình, về xum họp với cha và các chị em.

HERA VÀ CALLISTO


Thần Zeus đã từng gian díu với Callisto để sinh ra Arcas làm vua xứ Arcadia sau này. Hera biết chuyện bèn thốt lời nguyền : “Ta sẽ huỷ diệt vẻ đẹp của kẻ đã cả gan cướp chồng ta.” Rồi biến Callisto thành con gấu. Chân tay nàng trở thành to lớn lông đen phủ dài, miệng xinh chúm chím của nàng từng được thần Zeus ca ngợi nay biến thành miệng gấu rộng ngoạc với hai chiếc răng nanh to, nhọn hoắt và trắng nhởn. Tiếng kêu thương của nàng biến thành tiếng gầm gừ kinh khủng. Nàng luôn miệng gầm gừ than vãn cho số phận và vẫn cố gắng đứng thẳng chừng nào hay chừng nấy để kêu van cứu vớt và dường như tỏ ý oán than là thần Zeus đã chẳng đoái hoài gì đến việc cứu nàng. Năm tháng tuyệt vọng trôi qua. Bi thảm hơn nữa là có lần kia nàng đương lang thang trong rừng thì gặp một chàng trai đi săn. Nhận ra đó đứa con trai đã trưởng thành của mình, nàng dừng lại và tiến tới muốn ôm con, hôn con. Chàng trai hoảng hốt vung giáo lên sắp thẳng cánh phóng vào ngực mẹ mà không biết. May sao Zeus kịp thời nhận ra tấn thảm kịch vội chụp lấy ngăn xa mỗi người một phía rồi đưa cả hai mẹ con lên vòm trời thành hai chòm sao đại hùng tinh và tiểu hùng tinh.
Hera giận lắm, bà muốn trừng phạt Callisto mà rồi cả hai mẹ con Callisto lại được cái vinh hạnh thành những chòm tinh tú trên trời.
Hera bèn đích thân đến yêu cầu thần đại dương Oceanus và nữ thần biển cả Thethys là đừng cho hai chòm sao đó được xuống dầm mình tắm mát trong khoảng biển bao la của hai thần. Vì vậy mà ngày nay chúng ta thấy hai chòm sao Đại-Hùng-Tinh và Tiểu-Hùng–Tinh cứ vần vụ xoay quanh đỉnh trời mà không bao giờ được sa xuống dưới mặt biển mênh mông như các vì sao khác.


EROS VÀ PSYCHE


Có một ông vua và bà hoàng hậu kia sinh được ba nàng công chúa. Hai cô chị nhan sắc trên trung bình, nhưng cô út thì thực là đẹp đến chim sa cá lặn, lời phàm không sao tả xiết. Hàng vạn ức người từ các xứ lân cận nườm nượp kép tới chiêm ngưỡng nhan sắc nàng và hầu như thiên hạ quên khuấy mất nữ thần nhan sắc Aphrodite (Venus). Chính vì vậy mà nữ thần nói : “Nhan sắc ta bị bỏ rơi rồi sao. Lời Zeus từng công nhận nhan sắc ta còn trên Athena và Hera thành ngoa ngôn rồi sao? Ta đâu có để kẻ kia chiếm quyền ta dễ dãi như thế được. Rồi đây kẻ đó tới lúc biết hối thì đã muộn.”
Aphrodite bèn cho gọi Eros (Cupid) cậu con có cánh của nữ thần tới, nói cho con biết mọi lẽ và yêu cầu Eros hãy đi trả thù cho mẹ bằng cách bắn mũi tên yêu đương vào tim cô gái khiến nàng phải say mê một tên hèn hạ, xấu xí, khốn kiếp nào đó đến phải sượng sùng, xấu hổ, nhục nhằn cho xứng với những vinh quang mà cô gái đó hiện đương được hưởng.
Eros vâng lời mẹ. Tại khu vườn của Aphrodite có hai suối nước. Một dòng nước ngọt dịu và một dòng nước đắng cay. Eros đựng đầy hai bình màu hổ phách hai thứ nước khác nhau đó, treo lên chóp túi đựng cung rồi tàng hình bay vào phòng Psyche khi đó đương thiêm thiếp ngủ. Eros nhỏ mấy giọt nước đắng cay lên môi nàng, trong khi chính Eros cũng cảm thấy xúc động trước nhan sắc tuyệt vời của nàng. Kế đó Eros dùng chiếc tên vàng định ấn mạnh vào bên sườn nàng. Nhưng Psyche cũng vừa thức giấc mở mắt vô tình nhìn thẳng vào mặt Eros (lúc đó vẫn tàng hình), khiến chàng giật mình rụt tay lại khiến chính chàng cũng bị thương vì mũi tên của mình. Về vết thương bản thân thì chàng không lo, giờ đây Eros chỉ còn tìm cách cứu gỡ những lỡ lầm về phía nàng. Chàng nhỏ những giọt nước thơm tho lên những lọn tóc tuyệt đẹp của nàng.
Psyche từ lúc bị Aphrodite chau mày đố kỵ, chưa được hưởng lợi lộc gì về tấm nhan sắc chim sa cá lặn của nàng. Và cũng kể từ đấy, mặc dù vương tôn công tử vẫn dập dìu đông đúc, vẫn không ngớt lời ca ngợi, mà chẳng một ai quyết tâm hỏi nàng làm vợ. Hai chị nàng đã lần lượt thành đôi lứa, duy nàng vẫn phòng không lẻ bóng.
Cha mẹ nàng lo lắng, e nàng đã phạm thượng với vị thần nào chăng, bèn đi xin lời sấm dạy của thần Apollo, thì lời sấm truyền rằng : “Nàng trinh nữ sẽ không là cô dâu của người thường, mà là cô dâu của một thứ quái vật mà cả thần lẫn người đều không chống nổi. Chú rể hiện chờ đợi nàng trên đỉnh núi cao.” Lời sấm làm bao người rụng rời, cha mẹ nàng lo phiền quá đỗi. Nhưng Psyche thì đã quyết định, nàng nói : “Thưa cha mẹ yêu quý của con, việc gì cha mẹ phải nhọc lòng vì con. Lẽ ra cha mẹ nên phiền trách những lời thiên hạ đã quá lời khen tặng con là hiện thân của Vệ nữ thần. Con biết chính lời khen đó đã khiến con thành nạn nhân của nữ thần. Số phận đã an bài như vậy con đành cam chịu chứ còn biết tính sao. Xin cha mẹ hãy đưa con lên mõm đá trên đỉnh cao kia.”
Thế là cha mẹ nàng cùng đám dân chúng ngưỡng mộ làm lễ rước cô dâu lên đỉnh núi. Phải nói đó là đám tang sống sầu thảm chứ đâu có phải là đám rước dâu! Tiếng khóc than nghẹn ngào nức nở khi mọi người xuống núi để lại Psyche một mình trên đỉnh núi hiu hắt, tịch mịch đến rợn người. Chợt thần gió Zephyr thổi tới nâng nhẹ nàng Psyche lên cao rồi lại từ từ hạ nàng xuống một thung lũng xinh, hoa nở ngút ngàn. Tâm trí nàng trở lại bình tĩnh dần, nàng thản nhiên nằm xuống bờ cỏ êm bên suối thiu thiu ngủ. Khi nàng tỉnh dậy, tâm hồn khoan khoái hẳn, nàng nhận ra gần đấy có một đám cây lớn trông rất ngoạn mục, nàng tiến vào thấy khoảng giữa có một dòng nước phun trong mát và ngay sát đấy là một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ làm sao, nhất định không phải chốn ở của thường nhân phàm tục mà phải là của đấng thần linh nào đây. Nàng tò mò đi vào : cột vàng, mái bạc, vòm cao, bốn bề tường là hình vẽ hình khắc những con vật săn, những cảnh đồng quê bát ngát. Xung quanh phòng chính này còn nhiều phòng khác chứa biết bao phẩm vật cũng như ngọc ngà châu báu. Trong khi nàng đắm đuối xem ngắm như vậy thì có tiếng ai vô hình thì thầm bên tai : “Thưa lệnh bà, lâu đài, phẩm vật, ngọc ngà châu báu, tất cả đều là của lệnh bà. Giờ xin lệnh bà hãy lên nằm nghỉ trên giường êm kia, khi tỉnh giấc, lệnh bà đi tắm, rồi tới gian bên đây ngồi lên ghế là chúng tôi dọn bữa.”
Sau khi ngủ một giấc ngon lành trên giường êm nệm ấm, Psyche tắm mát rồi sang gian bên ngồi xuống ghế. Tự nhiên bàn ăn đưa tới sơn hào hải vị cùng rượu quý ngạt ngào.Trong khi đó tiếng đàn tiếng sáo nhịp nhàng hòa với lời đồng ca.
Đời sống thần tiên như vậy nhưng Psyche vẫn chưa hề được nhận rõ mặt chồng nàng. Bao giờ chàng cũng đến vào lúc đêm tối và ra đi trước bình minh. Lời chàng trong đêm tối đầm ấm thiết tha làm sao. Đã nhiều lần nàng khẩn khoản chàng hãy cho nàng biết mặt, nhưng chàng nói đó là điều tối kỵ, không bao giờ nàng được nuôi hy vọng nhận biết mặt chàng. Vả lại cần gì phải biết, nàng có điều gì không hài lòng đâu, nàng nghi ngờ tình yêu của chàng sao. Rất có thể khi biết mặt chàng, nàng sẽ sợ hoặc sẽ kính trọng, nhưng chàng chỉ muốn nàng yêu chàng như một người chứ không kính sợ chàng như một thần linh.
Lời chàng nói nghe cũng xuôi tai. Psyche yên lòng. Qua một thời gian hạnh phúc, nàng nhớ và thương cha mẹ ở nhà vẫn lo lắng vì không biết số phận nàng ra sao; nhớ hai chị và muốn hai chị được biết nếp sống nhàn hạ thần tiên của mình. Một đêm kia nàng bày tỏ nỗi lòng sầu muộn với chàng và ngỏ ý xin chàng cho đón hai chị tới với nàng ít bữa. Chàng miễn cưỡng ưng thuận. Thần Zephyr được lệnh truyền. Quả nhiên hai chị nàng được đưa tới. Được chứng kiến nếp sống thần tiên của em, hai người chị nảy lòng đố kỵ. Lại khi được em thú thật là chỉ gặp chồng trong đêm tối nên vẫn chưa biết mặt chồng, thì hai chị nhắc lại lời sấm truyền xưa, nêu ngay nghi vấn, chồng em là một quái vật, không chừng là con rắn khổng lồ thành tinh như lời đồn đại, khuyên em hãy dấu sẵn một con dao thật nhọn, thật sắc cùng một cái đèn rồi vào lúc chồng ngủ say thì soi đèn lên nhận mặt. Nếu quả là quái vật thành tinh thì cắt lấy đầu ngay để trừ hậu hoạ cho mình về sau.
Psyche thoạt hết sức phản đối lời xui đó, nhưng khi hai chị nàng đã về rồi, trí tò mò của nàng nổi dậy thúc đẩy ngày một mạnh. Sau cùng vào một đêm kia đúng lúc chồng đang ngủ say nàng bèn đốt đèn lên. Dưới ánh đèn chồng nàng đâu là quái vật, trái lại một thiên thần đẹp nhất trong các hàng thiên thần, tóc vàng từng cụm quanh cổ, bên hai vai là hai chiếc cánh nhỏ trắng như tuyết và mịn như cánh hoa xuân. Trong khi nàng say đắm ngắm vẻ đẹp thiên thần, một giọt dầu tự đèn rơi nóng xuống vai. Thiên thần sực tỉnh ngỡ ngàng nhìn vợ rồi hiểu chuyện, không nói một lời xoè đôi cánh trắng bay ra khỏi cửa sổ. Psyche vùng đuổi cố níu xin theo chàng nhưng không được, ngã xuống đất. Eros dừng cánh nói : “Psyche, nàng thật điên dại! Ta đã không tuân lời mẹ ta và lấy nàng làm vợ. Nàng còn nghĩ ta là quái vật mà muốn chặt cổ ta sao? Giờ thì nàng hối cũng chẳng kịp, hãy trở về với hai cô chị mà nàng tin theo. Tình nghĩa giữa ta với nàng đến đây là hết. Tình yêu không thể sống chung với nghi kỵ !”
Psyphe phủ phục xuống đất khóc than, khi nàng ngẩng lên thì lâu đài vườn suối đều biến đi đâu mất cả, nàng thấy mình đương nằm phủ phục trên một cánh đồng quang đãng ngay gần nơi hai chị ở. Psyphe tìm gặp hai chi kể hết sự tình. Hai chị không những không thương lại còn tự nghĩ : “Có thể là bây giờ thiên thần đó chọn đến mình.” Rồi không ai bảo ai hai cô chị lần lượt lên đỉnh núi khấn thần Zephyr hãy đón mình đến với thiên thần, rồi nhảy xuống. Thần Zephyr nào có tới đón đi : hai cô chị ngã nát thây dưới đáy vực.
Trong khi đó Psyche đêm quên ngủ ngày quên ăn, cứ thế lang thang đi tìm chồng. Ngắm một đền nguy nga trên đỉnh cao một ngọn núi, Psyche nghĩ biết đâu chồng nàng lại chẳng có trên đó. Nàng bèn lần lên thì thấy bên trong có hai đống lúa. Một đống lúa mì ném vô trật tự, một đống lúa mì đã được buộc gọn thành từng bó nhưng có lẫn lúa mạch. Lại thấy liềm và cào để ngổn ngang bừa bãi ngoài sân tựa như những người thợ gặt vì quá mỏi mệt trong một ngày oi bức đã bỏ bê ra thế chưa kịp dọn dẹp. Psyche bèn thu xếp cho gọn vì nàng nghĩ rằng chốn thờ phụng thần linh cần giữ cho tôn nghiêm trật tự. Thì ra đó là đền thờ nữ thần Demeter (Ceres.) Thấy Psyche biết giữ đạo tôn kính thần linh như vậy, nữ thần ban lời khuyên nhủ : “Psyche ngươi thật đáng thương. Ta không thể che chở cho ngươi chống lại sự phẫn nộ của Aphrodite. Tuy nhiên ta có thể chỉ dẫn cho ngươi cách làm nguôi lòng Aphrodite: ngươi hãy đích thân đến quy thuận hầu hạ nữ thần. Với lòng nhẫn nhục đó ta tin rằng ngươi sẽ được nữ thần rủ lòng thương mà cho phép tái hợp với chồng ngươi.”
Psyche đã tuân theo lời nữ thần Demeter mà tới đền thờ Aphrodite. Nữ thần này giận dữ hỏi : “Có thật ngươi đến để hầu hạ ta hay chỉ cốt đến để tìm chồng. Hiện y đương thương đau sầu não vì chính ngươi. Nếu thực tình ngươi tới đây để chuộc lỗi, người phải chăm chỉ lắm, cần mẫn lắm. Để ta thử xem.” Nói đoạn nữ thần dẫn Psyche tới kho chứa ngũ cốc : lúa mì, lúa mạch, vừng, đỗ trộn lẫn lộn làm lương thực nuôi lũ chim câu. Nữ thần ra lệnh : “Psyche, nội trong ngày nay ngươi hãy lọc lại cho ta đống ngũ cốc này thứ nào riêng thứ ấy. Chiều nay ta về, ngươi phải làm xong rồi.” Nói đoạn Aphrodite đi liền.
Psyche ngồi lại sững sờ, chân tay không hề động đậy vì tự biết không tài nào làm nổi việc đó.
Eros vẫn theo giõi hành động người vợ yêu của mình, lúc đó bèn kích thích đám kiến xúc động từ tâm mà tới giúp Psyche. Kiến chúa huy động toàn thể đám thần dân sáu chân của mình hàng hàng lớp lớp tiến tới cần cù làm công việc lọc đống ngũ cốc lẫn lộn đó, phân riêng ra từng đống thứ nào đi thứ ấy. Công việc xong đám kiến rút lui có trật tự.
Aphrodite dự tiệc trên thiên đình trở về vào lúc hoàng hôn, nhận thấy công việc giao phó đã được chu toàn mỹ mãn. Nữ thần sẵng giọng với Psyche : “Ta biết việc này, chính người chồng đương thương đau sầu não của ngươi giúp ngươi, chứ tài sức ngươi làm sao chu toàn nổi.” Tuy nhiên nữ thần cũng cho Psyche miếng bánh đen để ăn cho đỡ đói lòng.
Sớm hôm sau nữ thần cho gọi Psyche tới bảo rằng : “Hôm nay ngươi hãy tới khu rừng ven theo dòng nước kia, ngươi sẽ thấy một đàn cừu lông vàng lấp lánh trên lưng, không có người chăn. Ngươi hãy thu thập cho ta một bó lông cừu vàng gồm đủ mẫu lông của từng con trong đám cừu đó.”
Psyche ngoan ngoãn tuân theo lời nữ thần tiến tới bờ sông hăm hở muốn sang sông để thực hiện công việc được giao phó thì tựa như tiếng dòng nước chảy hòa với tiếng thì thầm của ngàn lau thành lời nhắn nhủ : “Hỡi nàng kiều nữ, đừng dại dột lội qua dòng nước nguy hiểm này, và cũng đừng dại dột tới gần đàn cừu vào lúc mặt trời đương lên, bởi vào lúc này, đàn cừu hung hăng không khác một đàn thú dữ, hễ gặp người là chúng húc hoặc ngoạm chết tươi. Nàng hãy chịu khó đợi mặt trời lên đến chính ngọ. Lúc đó đàn cừu bảo nhau tìm tới nghỉ ngơi dưới bóng cây; thần sông hát ru cho chúng ngủ. Lúc đó nàng qua sông dễ dàng và chỉ việc tới lượm những lông cừu dính ở các thân cây, ở các bụi rậm.
Psyche theo đúng lời chỉ dẫn của thần sông. Quả nhiên nàng thu lượm được thành quả mỹ mãn. Nhưng nào nữ thần Aphrodite có ban khen nàng, trái lại còn đay nghiến : “Ta biết việc này cũng chẳng phải tự ngươi làm nổi. Ta còn một công việc nữa giao phó cho ngươi. Hãy cầm cái hộp này đi xuống âm phủ tìm gặp Persephone, xin nàng hãy gửi tặng ta chút ít nhan sắc của nàng. Ngươi khá nói rõ nguyên do vì ta mải săn sóc cho đứa con trai thương đau sầu muộn của ta mà nhan sắc ta hiện bị suy giảm đôi phần. Ngươi hãy đi ngay, ta cần gấp cái đó, chiều nay ta đã phải lên Thiên đình hội họp với chư thần.”
Psyche nghĩ số phận nàng đến đây vô phương cứu chữa, làm sao nàng đích thân xuống âm phủ gặp vợ Diêm chúa là nàng Persephone cho được. Nàng bèn lên đỉnh một tháp cao định đâm đầu xuống tự vẫn, đó là cách xuống âm phủ bằng đường gần nhất. Chợt nàng nghe có giọng nói : “Hỡi nàng thiếu nữ bạc phước đáng thương, sao nàng vội tính chuyện tự kết liễu cuộc đời một cách thê thảm như vậy khi mà những khó khăn trước nàng đã dễ dàng vượt qua.” Kế đó giọng nói tiếp tục chỉ cho nàng biết chọn hang nào có đường đưa xuống âm phủ, phải biết gìn giữ ra sao để tránh mọi hiểm nguy dọc đường, phải biết cư xử như thế nào để qua mặt được con chó ba đầu canh giữ cửa vào âm phủ, phải nói như thế nào để thuyết phục thần Charon khiến thần này chịu chở thuyền cho qua sông rồi đón về. Sau cùng giọng nói ân cần dặn Psyche : “Nhưng có điều này nàng phải ghi nhớ kỹ là khi đã được Persephone trao cho hộp có đựng nhan sắc của nữ vương thì trên đường về nàng tuyệt đối không được tò mò mở hộp ra xem.”
Psyche đã tuân đúng theo lời chỉ dẫn tới gặp Persephone, được nữ vương trao lại cho chiếc hộp có đựng nhan sắc và nàng trở lại dương gian. Thấy mình thành công quá dễ dàng, Psyche nảy ý tò mò muốn mở hộp ra xem chất nhan sắc ra sao. Nàng tự nhủ : “Tại sao ta đã mang được chiếc hộp quý giá này về mà lại không lấy ra một chút nhan sắc thoa lên má cho thêm duyên với người chồng yêu quý của ta nhỉ.” Và nàng thận trọng mở hé hộp ra. Nhưng trong đó nào có nhan sắc gì, mà chỉ là khí âm lạnh của con sông âm phủ Styx bị nhốt gọn. Nay nắp hộp mở ngỏ, hơi âm lạnh thoát ra choàng lấy Psyche khiến nàng xây xẩm mặt mũi ngã xuống bất tỉnh giữa đường.
May sao Eros khi đó vừa lành khỏi vết thương đau, vội luồn qua khe cánh cửa sổ bỏ ngỏ bay thẳng xuống nơi người vợ yêu của chàng đương nằm bất tỉnh. Eros thu thập khí âm lạnh tản mạn trong cơ thể Psyche, nhốt lại vào hộp đậy kín như cũ rồi dùng một mũi tên của chàng đánh thức nàng dậy mà rằng : “Lại một lần nữa nàng tự hại mình vì tính tò mò cố hữu đó. Thôi nàng hãy mang hộp này về trao gấp cho mẹ ta, mọi sự về sau ta sẽ lo liệu.” Đoạn Eros bay thẳng lên thiên đình, tìm gặp vị thần chủ tể Zeus trình bày hết khúc nhôi và cầu khẩn thần Zeus hãy bênh vực cho đôi lứa. Thần Zeus đồng ý, và thuyết phục được Aphrodite. Sau đó thần sai nữ thần Hermes xuống đón Psyche lên thiên đình và trước chư vị thần linh, thần Zeus rót chén bồ đào trao cho Psyche mà rằng : “Con hãy uống chén rượu tiên này để trở thành bất tử. Từ nay chuyện đôi lứa của con với Eros sẽ không còn gặp cản trở nào nữa, các con sẽ sum vầy với nhau mãi mãi.”
Psyche thỏa niềm ước mong từ đấy, chẳng bao lâu nàng sinh hạ được cô gái mang tên là nàng Lạc Thú.

CHÚ THÍCH:


Truyện chàng Eros và nàng Psyche trong thần thoại Hy Lạp được coi là hàm ngụ ý nghĩa tượng trưng như sau :
Psyche tiếng Hy Lạp có nghĩa là bươm bướm và cũng còn có nghĩa là linh hồn. Thiết tưởng không còn hình ảnh tượng trưng nào đẹp hơn khi biểu lộ sự bất tử của linh hồn bằng hình ảnh con bướm thoát khỏi kiếp xấu xí, hèn mọn vẫy đôi cánh rực rỡ bốc lên cao giữa ánh sáng chan hoà và nuôi thân bằng những nhụy hoa xuân thơm ngát và bất tận. Psyche chính là linh hồn nhân loại được chuốt lọc và thanh khiết hóa qua bao khổ đau bất hạnh để rồi sau cùng được hưởng niềm vui chân tình và trong sạch.

THẦN THOẠI 


THẦN THOẠI HY-LẠP



 

DOÃN QUỐC SỸ


 

Sưu tập





PHAETHON VÀ NGỰA CỦA THẦN MẶT TRỜI.


Cậu Phaethon giận sôi lên. Các bạn chọc cậu hoài khi nghe cậu tự khoe là con Mặt Trời. Nhưng đó là sự thực mà ! Mẹ cậu, nữ hải tinh Clymene, đã nói với cậu bao lần như vậy. Bà thường chỉ vào Mặt Trời đang chiếu sáng mà bảo cậu : “Cha con đó, người cha lẫy lừng của con đó. Nhìn xem cha con lái chiếc xe ngựa khéo léo làm sao !”
Giờ đây mặt Phaethon đỏ bừng vì hổ thẹn và tức giận. Cậu đứng trước bà mẹ van xin : “Thưa mẹ, nếu quả con là con Mặt Trời, xin mẹ cho con bằng chứng !”
Bà Clymene trả lời : “Mẹ biết lấy bằng chứng nào cho con bây giờ. Rồi bà giơ tay lên trời nghiêm trang nói : “Mẹ xin Mặt Trời đang nhìn xuống chúng ta đây làm chứng cho mẹ. Nếu mẹ nói sai, thì đây là lần cuối mẹ nhìn thấy ánh sáng mặt trời ! Nhưng sao con không đi hỏi thẳng cha con? Phần đất nơi Mặt Trời mọc rất gần đây. Con nên đi hỏi Apollo xem có đúng con là con trai của Người không ?” Mặt Phaethon sáng lên. Cậu lên đường đi ngay tới Ấn-Độ và chả bao lâu, cậu đứng trước toà lâu đài rực rỡ của Mặt Trời.
Tim cậu đập mạnh vì kiêu hãnh, cậu hy vọng và ngạc nhiên khi ngắm nhìn hàng cột cao vút, những phiến đá quý chiếu lấp lánh, trần nhà bằng ngà voi đánh bóng, cửa toàn bằng bạc. Nhưng cậu không thể dừng lại lâu hơn nữa để ngắm nhìn cảnh trời, đất, biển cả mà Hephaestus đã khéo léo đúc luyện thành hình nổi trên tường. Cậu sốt ruột quá rồi. Cậu chạy như bay lên bậc thềm vào một phòng rộng. Tới đó cậu buộc lòng phải ngừng vì ánh sáng chói loà quá. Ở cuối phòng cậu nhìn ra một vị thần, mặc áo đỏ, ngồi trên ngai bằng kim cương lấp lánh. Hai bên có quần thần đứng chầu. Đó là những thần Ngày, Tháng, Năm, Giờ, và Mùa. Thần Mùa Xuân kết hoa trên đầu, thần Mùa Hạ phục sức bằng những bông lúa vàng, thần Mùa Thu mình tưới rượu nho, còn thần Mùa Đông có những lọn tóc trắng như tuyết.
Vị thần nhìn thấy cậu bé đứng ở cửa mới hỏi to : “Ai đem nhà ngươi tới đây ?” Cậu bé bật trả lời:
“Hỡi ánh sáng của thế giới vô bờ, kính thưa ngài Phoebus, cha thân yêu của con, con là Phaethon, con van xin cha hãy cho con bằng chứng để mọi người phải công nhận rằng con đích thực là con của cha.”
Thần Apollo bấy giờ mới bỏ những tia sáng chói lòa ở trên đầu xuống. Rồi ngài nói : “Hãy lại gần đây con yêu dấu của ta”. Rồi ngài ôm ghì lấy Phaethon và tiếp : “Cha xác nhận điều mẹ con đã nói với con. Để chấm dứt mọi nghi ngờ trong lòng con, cha xin thề bên dòng sông Styx – nơi các chư thần vẫn thề – là cha sẽ ban cho con bất cứ điều gì con muốn.”
Nghe vậy Phaethon vội xin : “Vậy con xin cha hãy cho con lái chiếc xe mặt trời của cha trong một ngày thôi.”
Thần Phoebus Apollo giật mình lắc đầu bốn lần vì lời yêu cầu của con. Rồi thần nói bằng một giọng đầy hối hận : “Cha đã nói lỡ, cha đành phải từ chối lời yêu cầu này của con. Hãy chọn điều khác ! Điều con vừa yêu cầu không thích hợp với tuổi và sức khoẻ của con đâu. Không một ai, kể cả thần Zeus đuổi được sấm chớp, lái được chiếc xe ngút lửa này ngoại trừ cha, và ngay cả cha cũng phải cố gắng hết mình. Đường đi lúc khởi hành dốc đến nỗi ngựa khó khăn lắm mới trèo lên được, ấy là lúc đó ngựa còn rất khoẻ. Đi được nửa đường, thì xe ở quá cao đến nỗi cha đứng thẳng trên xe mà cũng thấy chóng mặt không dám nhìn xuống mặt đất. Còn đoạn đường chót thì lại dốc xuống quá đến nỗi các hải thần đón cha về cứ băn khoăn không hiểu làm sao mà cha giữ được khỏi ngã. Nếu cha cho con mượn cỗ xe, làm sao con cầm nổi cương ngựa mà đi được ? Con lầm tưởng rằng con sẽ được đi qua nơi chư thần ở. Không đâu, trái lại con sẽ gặp toàn những ác quỷ kinh dị : Con Bò mộng, con Sư tử, con Bọ cạp, và con Cua càng… Thôi con nhé. Con đòi cha cho bằng chứng con là quý tử của cha, vậy nỗi lo âu của cha đây không phải là bằng chứng xác đáng sao ? Cha phải giữ lời thề nhưng cha xin con hãy lựa chọn khôn ngoan hơn ! Hãy nhìn quanh toàn thế giới này và hãy lựa cái gì quý giá nhất, cha chỉ khuyên con đừng đòi lái xe mặt trời.”
Phaethon lắng nghe, nhưng cậu cương quyết không thay đổi lời yêu cầu. Và thần Apollo đành dẫn cậu tới chỗ để cỗ xe. Cỗ xe này cũng là công trình của thần Hephaestus, một công trình tuyệt xảo. Trục xe và bánh xe toàn bằng vàng, nan hoa xe bằng bạc, chỗ ngồi lấp lánh ánh lục thạch và kim cương. Nhưng cậu không còn thì giờ ngắm cỗ xe lộng lẫy nữa vì Bình Minh đã mở rộng cánh cửa phương Đông. Các vì sao mờ đi và quả đất bắt đầu sáng. Mặt Trăng ra lệnh đóng yên cương ngựa và thần Giờ thả những con vật bốn cánh ra khỏi chuồng. Thần Phoebus lấy lọ thuốc ra, tự tay thoa thuốc lên mặt Phaethon rồi đặt những tia nắng lên đầu cậu. Ngài dặn :
“Con không cần dùng roi nhiều. Ngựa chạy nhanh lắm. Hãy cầm cương cho chắc. Hãy theo dấu xe, đừng lên cao quá kẻo con sẽ đốt cháy nhà cửa của chư thần, cũng đừng xuống thấp qua e rằng trái đất phát hỏa. Cha đành phó mặc con cho số phận. Hãy cầm cương đi, không thể chậm trễ được nữa.”
Phaethon lắp bắp cám ơn cha rồi nhảy phắt lên xe và nắm lấy dây cương. Chà, giá mà các bạn cậu thấy được cậu lúc này nhỉ !
Trong khoảnh khắc, cánh đồng bằng vô tận trải dài trước mắt cậu. Đoàn ngựa dũng mãnh lướt qua mây, nhanh hơn gió bình minh. Nhưng chẳng bao lâu, chúng cảm thấy bàn tay lạ cầm cương, thế là chúng hí lên và cứ thế đâm thẳng phía trước, bỏ cả lộ trình ấn định. Cỗ xe lắc lư, nhồi lên nhồi xuống. Phaethon nhìn xuống đất mặt tái lại, hai chân run lên, đầu choáng váng, mắt mờ đi. Biết vậy nghe lời cha không đòi cưỡi xe. Nhưng bây giờ thì cậu không thể lựa chọn lại được nữa. Cậu phải tiếp tục, đành như con thuyền trôi nổi trong cơn bão táp.
Cậu mở mắt sợ hãi nhìn quanh. Cậu muốn gọi ngựa nhưng cậu lỡ quên tên chúng. Tim cậu đập như trống làng, cậu cố nghĩ phải làm gì. Không biết cậu nên cầm chặt dây cương hay nới lỏng ra. Cậu còn đang lưỡng lự thì dây cương tuột khỏi tay. Đám ngựa xổng cương cứ thế chạy như bay lên vùng xa lạ trên trời rồi chạy tuột xuống gần tới mặt đất. Mây bốc khói, các ngọn núi bốc lửa, đồng ruộng cháy xém. Toàn thế giới phát hỏa.
Nhìn lửa bốc lên, cậu thấy nóng không chịu nổi. Cậu thở như thở trong lò lửa. Nước biển cạn cá phải lặn xuống đáy.
Sau cùng trái đất không chịu nổi nóng mới kêu cầu thần Zeus : “Kính lạy vị thần chúa tể của chư thần hãy cứu chúng tôi khỏi ngọn lửa ác nghiệt !” Nghe xong thần Zeus mới lên tháp cao cho nổi sấm chớp, thần ném một tia chớp vào Phaethon làm cậu ngã nhào đâm thẳng xuống đất như một ngôi sao đổi ngôi, tóc bốc lửa… Và xa xa dưới đất dòng sông Eridanus đón nhận thân thể gãy vụn và đen như than của cậu.

VỢ THẦN PLUTO


Ở sâu dưới lòng ngọn núi Aetna, các thần đã chôn sống một số người khổng lồ khạc ra lửa. Đám người này cố vùng vẫy để thoát thân. Họ vùng vẫy mạnh đến nỗi đất rung chuyển và thần Pluto, vua trị vì cõi âm, phải kinh hoảng. Thần nghĩ : “Họ có thể xẻ đôi ngọn núi và để lộ cõi âm ra ánh sáng mặt trời.” Rồi thần cỡi cỗ xe ngựa vàng lên khỏi mặt đất xem có hư hao gì không?
Vị nữ thần Tình Yêu và Mỹ Lệ, tức nữ thần Aphrodite đang ngồi trên sườn núi chơi với cậu con trai Eros, nhìn thấy Pluto cỡi xe mải miết đi vòng quanh.
Nữ thần bèn bảo con : “Này con, kẻ kia thách thức mẹ con ta đấy. Lẹ lên con, hãy giương cung và bắn một mũi tên vào giữa ngực tên Hắc vương đó. Mẹ con ta phải cho hắn nếm mùi vị yêu đương.
Nghe lời mẹ, cậu Eros đứng thẳng dậy, lựa một mũi tên nhọn nhất và chính xác nhất lắp vào cung rồi bắn thẳng vào tim thần Pluto.
Thần Pluto đã gặp nhiều thiếu nữ đẹp ở cõi âm. Nhưng tim thần chưa hề rung động. Giờ đây tự nhiên một luồng hơi ấm lan trong huyết quản. Đôi mắt lạnh lùng của thần dịu lại. Trước mặt thần là một thung lũng nở đầy hoa, và kìa một nàng con gái đang hái hoa. Nàng tên là Persephone, con gái của Demeter nữ thần Mùa Màng. Nàng vừa lạc khỏi đám bạn, giỏ của nàng đầy hoa, nàng mải xếp những bông hoa tím vào vạt áo. Thần Pluto ngắm thiếu nữ và cảm thấy yêu nàng ngay. Thần bèn giơ tay ra cắp lấy nàng và lái xe đi nhanh. Nàng Persephone kêu thét lên : “Mẹ ! Mẹ !” Hoa ở vạt áo nàng rơi lả tả xuống đất. Rồi nàng gọi tên từng người bạn. Nhưng thần Pluto đi nhanh quá nên không ai nghe được tiếng nàng. Phút chốc xe tới dòng sông Cyane. Nàng Persephone cố vùng vẫy, dây lưng của nàng tuột ra rơi xuống đất. Tới đây thần Pluto cầm cây đinh ba đập mạnh xuống bờ sông. Mặt đất nẻ ra, thế là cả người và ngựa đi xuống lòng đất.
Nữ thần Demeter tìm con gái khắp nơi mà không thấy. Sau cùng quá mệt mỏi và thất vọng thần quay về Sicily, và đứng bên dòng sông Cyane, đúng chỗ thần Pluto xẻ đất để xuống cõi âm. Một nữ thủy thần đã nhìn thấy thần Pluto cùng nàng Persephone muốn mách nữ thần Demeter nhưng lại sợ nên đành câm nín. Trước đây nàng đã nhặt được sợi dây lưng của Persephone bèn gửi sóng đưa đẩy tới chân nữ thần Demeter. Bấy giờ nữ thần mới chắc là con gái mình đã mất tích thực, nhưng vẫn không ngờ là thần Pluto đánh cắp con. Chẳng biết sao nữa thần lại giận mặt đất vô tội. Nữ thần nói : “Hỡi đất vô ơn ! Ta làm cho ngươi phì nhiêu, ta may áo bằng cỏ và hạt ngũ cốc cho ngươi, vậy mà giờ đây ngươi đối xử với ta như vậy đó – ngươi đừng hòng ta ban ơn cho nữa !”
Năm đó thật là một năm kinh khoàng. Cây cối không đâm chồi nảy lộc, súc vật chết, hạt giống không nảy mầm, người và trâu bò làm việc vô hiệu. Khi nắng thì nắng gắt, khi mưa thì mưa dầm. Chỉ có cỏ may và cỏ lau là mọc nổi. Loài người cơ hồ sắp chết đói đến nơi. Thần Zeus trên thiên đình nói : “Tình thế này không thể kéo dài được, ta phải can thiệp vậy.” Rồi thần Zeus sai từng vị thần xuống thuyết phục nữ thần Demeter nhưng nữ thần một mực trả lời : “Chỉ khi nào ta tìm thấy con gái ta thì đất mới lại sinh hoa lợi được.”
Dĩ nhiên là thần Zeus biết nàng Persephone ở đâu. Thần không muốn lấy lại bảo vật đã về tay em thần, nhưng giờ đây chắc thần phải làm vậy để cứu loài người. Nghĩ đoạn Ngài bèn cho vời thần Hermes và truyền : “Hãy xuống cõi âm bảo Pluto thả nàng Persephone ra. Nếu nàng chưa ăn gì dưới đó, nàng có thể trở về với mẹ nàng mãi mãi.”
Thần Hermes tuân lệnh bay xuống lòng đất và thấy ngay nàng Persephone ngồi bên Hades (Pluto) trong cung điện mờ tối. Trong nàng xanh xao và buồn bã. Tất cả vàng bạc châu báu cũng không khiến nàng nở được nụ cười. Nàng thường nói với chồng khi thần Pluto đeo đồ trang sức cho nàng : “Ở đây không có hoa. Nữ trang không có mùi thơm nên em không thích.”
Khi nàng thấy thần Hermes và nghe Zeus truyền lệnh xuống, tim nàng đập rộn ràng sung sướng. Má nàng hồng lên, mắt sáng long lanh vì nàng thừa biết rằng thần Pluto không dám cưỡng lệnh anh. Chỉ duy một điều khiến nàng bận tâm, là nàng không thể rời cõi âm này mãi mãi vì nàng đã trót ngậm bốn hạt lựu Pluto trao cho nàng. Thần Pluto âm thầm sắp xếp cỗ xe. Thần đỡ nàng Persephone vào ngồi trong xe rồi ngậm ngùi dặn dò : “Xin nàng hãy nghĩ tới ta, ta yêu quý nàng hết lòng. Tám tháng xa nàng thật buồn tẻ. Nếu nàng chê toà lâu đài của ta tối tăm, thì ít nhất cũng xin nàng nhớ rằng chồng nàng là một vị thần có uy quyền lớn. Thôi tạm biệt nàng, chúc nàng hái được thật nhiều hoa !”
Rồi thần Hermes lái đoàn hắc mã thẳng tiến tới nữ thần Demeter ở Eleusis. Nữ thần nghe tiếng xe, và khi thấy con gái chạy trên đồi, nữ thần chạy vội ra đón con gái. Nàng Persephone ôm choàng lấy mẹ. Mẹ con mừng mừng tủi tủi kể cho nhau nghe mọi sự.
Cứ thế kể từ đó, hằng năm Persephone trở về ở bốn tháng với thần Pluto – vì nàng đã ăn bốn hạt lựu. Trong thời gian đó, trên trái đất tạo vật héo tàn, cây trụi lá. Sang Xuân, nàng Persephone trở về, hoa nở khắp nơi. Rồi tới Hạ bông kết trái, sang Thu là mùa gặt hái.

ECHO VA NARCISSUS


Trong tất cả các nữ sơn thần, nàng Echo đẹp nhất. Nàng chỉ có một lỗi : nói nhiều quá. Nàng nói suốt ngày, và bất cứ vấn đề gì Echo cũng là người nói tiếng sau cùng.
Một hôm, khi thần Zeus đang vui đùa cùng các nữ sơn thần. Nữ thần Hera đột nhiên xuất hiện. Tất cả đều vội vã tản đi trừ nàng Echo. Nàng Echo bắt đầu trổ tài nói chuyện. Nữ thần Hera mải nghe chuyện nàng đến nỗi các nữ sơn thần đủ thì giờ trốn thoát. Nhưng rồi Hera cũng biết là đã bị lừa bèn tức giận bảo Echo: “Mi đừng hòng tái diễn trò đó, cái lưỡi có duyên của mi sẽ hết quyền lực. Từ giờ trở đi, mi không khua môi múa mỏ được nữa mà chỉ làm một việc là trả lời, chỉ trả lời thôi, không bao giờ mi được nó trước.
Chẳng bao lâu, Echo cảm thấy hình phạt đó thật là khổ ải. Nàng yêu một người thợ săn nhưng người này chẳng yêu ai mà chỉ yêu chính mình, đó là chàng Narcissus thật đẹp trai nhưng cũng thật lạnh lùng.
Nàng Echo đáng thương cứ theo Narcissus đèo đẽo khắp các ngọn núi. Nàng ước mong sao nói được với chàng những lời dịu ngọt để chiếm đoạt tình yêu. Nhưng nàng đâu còn nói được như trước.
Rồi một hôm Narcissus đang đi săn thì lạc bạn, chàng kêu to lên:
“Ai đây !”
“Ai đây !” Echo trả lời.
Narcissus nhìn quanh nhưng chẳng thấy ai, chàng lại gọi :
“Tới đây !”
“Tới đây !” Echo lập tức trả lời. Narcissus chờ mãi chẳng thấy ai chàng lại gọi :
“Sao cứ ở xa tôi vậy ?”
“Ở xa tôi vậy ?” Nàng Echo gọi lại. Narcissus mừng rỡ nói :
“Chúng ta gặp nhau đi !”
“Chúng ta gặp nhau đi !” Nàng Echo vui vẻ chấp thuận. Nàng chạy tới giơ hai tay ra sẵn sàng ôm choàng lấy cổ Narcissus. Chàng vội lùi lại la to : “Đừng đụng đến tôi ! Tôi thà chết còn hơn để nàng ở bên tôi !”
Echo xin : “Ở bên tôi !”
Nhưng vô hiệu, chàng trai trẻ vội vã ra đi để mặc nàng sơn thần với nỗi tủi hổ trong rừng rậm.
Từ đó trở đi nàng Echo không bao giờ lộ diện nữa. Những hang hốc và triền đá là nhà của nàng. Thân thể nàng hao mòn đi vì buồn phiền và mong đợi cho tới một ngày thịt nàng tiêu hao hết, xương nàng trở thành đá. Nàng chẳng còn gì trừ tiếng nói và nàng vẫn trả lời bất cứ tiếng gọi của ai.
Chàng Narcissus thật độc ác! Echo không phải là người duy nhất thất tình với chàng. Nhưng rồi chàng đã bị báo oán: một kiều nữ bị chàng khinh rẻ đã cầu xin nữ thần Trả Thù ra tay. Cô gái cầu nguyện: “Cầu cho chàng Narcissus có ngày biết yêu mà không được yêu lại!”.
Và nữ thần Trả Thù đã nghe…
Có một dòng suối trong vắt trên đồi không biết vì lý do gì mà những người chăn cừu không bao giờ dắt cừu tới uống. Những con sơn dương và những giống thú khác cũng không tới đó uống nước bao giờ. 
Cỏ xanh mọc khắp xung quanh những tảng đá che lấp dòng suối khỏi ánh mặt trời. Nước suối trong sáng như bạc được đánh bóng. Không một cành cây mục, một lá khô nào làm dơ nước suối. 
Một hôm, Narcissus tới dòng suối này. Vừa nóng, vừa khát và mệt mỏi vì cuộc săn, chàng cúi xuống uống nước và chàng nhìn thấy cái bóng đáng yêu của chàng. Chàng nghĩ : “Đây là vị thần của dòng nước này chắc”. Vì chưa bao giờ chàng nhìn thấy bóng mình, nên lần này như bị mê hoặc, chàng quỳ xuống ngắm mãi. Chàng cuối gập xuống hôn cái bóng và dang tay ôm lấy hình ảnh đáng yêu đó. Chàng vừa đụng tới mặt nước thì bóng chàng tan đi thành hàng ngàn nếp nhăn. Nhưng rồi hình ảnh chàng lại nguyên vẹn. Chàng thốt : “Đẹp tuyệt! Tại sao mi lại trốn ta. Chắc rằng mặt ta không làm mi thất vọng vì tất cả các sơn thần ở đây đều yêu ta, và xem như chính mi cũng không lãnh đạm gì với ta. Mi đã mỉm cười đáp lại ta và khi ta giơ tay ra ôm mi, mi cũng làm y như vậy”.
Những giọt nước mắt chờ mong chảy dài xuống má chàng rồi rỏ xuống nước. Tức thì bóng chàng biến mất. Chàng van xin: “Xin hãy ở lại! Xin hãy ở lại! Nếu ta không đụng tới người, xin hãy để ta ngắm ngươi!”.
Và cứ thế chàng không dứt ra được. Hết ngày này qua ngày kia, chàng cúi khom lưng để ngắm bóng mình. Chàng vẫn thường coi rẻ tình yêu thì giờ đây chàng đã bị tình yêu hủy hoại. Người chàng trắng như sáp. Chàng chỉ biết thở dài kêu “Hỡi ơi! Hỡi ơi!” và nàng Eco đáp lời chàng: “Hỡi ơi!”.
Cuối cùng chàng Narcissus tan biến đi, hồn chàng vẫn được đem xuống cõi âm. Hồn đó nhìn xuống dòng sông Styx để ngắm hình ảnh mình một lần chót. Những nữ sơn thần đã từng say mê chàng chất củi lên, làm dàn hoả thiêu và cùng tống táng chàng theo tục lệ. Chàng không để lại dấu vết gì, duy có một bông hoa trắng như xáp, nhị hoa màu đỏ sậm mọc ngay ở chỗ trước kia chàng vẫn quỳ mà thở dài. Các nữ sơn thần bèn đặt tên bông hoa này là Narcissus. 

ORPHEUS VÀ EURYDICE


Ở kinh thànhg Thrace có một chàng thi sĩ và cũng là một ca sĩ giỏi tên Orpheus. Cha chàng chính là thần Apollo cho chàng cây đàn và dạy chàng chơi đàn. Tiếng đàn của chàng đã mê hoặc được mọi người, mọi vật. Khi chàng dạo vài khúc, những con thú dữ quây quần quanh chàng và trở nên hiền lành dễ bảo, cây cối bảo nhau theo sau chàng, đá trên sườn đồi chuyển động, và sông cũng đổi dòng để được nghe tiếng đàn của chàng. 
Nhiều thiếu nữ yêu Orpheus lắm nhưng chàng chỉ yêu một người thôi, đó là nàng Eurydice. Và họ lấy nhau. Nhưng thật không may, khi cô dâu đang tung tăng với các cô phù dâu trên bãi cỏ thì một con rắn độc cắn vào mắc cá chân khiến nàng gục chết tức khắc. 
Chàng Orpheus buồn rầu khôn tả. Chàng khóc suốt ngày đêm. Cuối cùng chàng quyết định làm một việc không một ai dám làm: chàng xuống cõi âm để xin thần Pluto phục sinh Eurydice. Chàng biết một hang sâu dẫn xuống lòng đất. Chàng theo đường đó xuống tới dòng sông Styx, nói với thần chở đò: “Hãy chở tôi qua sông!”. 
Thần Charon trả lời:
“Không được, thuyền tôi chỉ chở các hồn. Ông nặng quá tôi chở sao nổi?”
Chàng Orpheus bèn gảy đàn, thế là Charon chịu chở ngay. Con chó ba đầu Cerberus gác lối vào cõi âm không cho chàng đi, nhưng khi nghe tiếng đàn của chàng, nó thuận tình nhượng bộ. Thế là chàng thi sĩ đặt chân vào cõi âm, chàng lướt qua biết bao âm hồn và cuối cùng tới được ngai vàng của thần Pluto và nàng Persephone. Chàng cúi rạp xuống chào Vua và Hoàng Hậu rồi vừa gảy đàn vừa ca rằng:
“Tâu Ngài, tôi không xuống đây để do thám đất Ngài. Tôi chỉ tới đây tìm vợ tôi. Nàng đã chết vì bị rắn độc cắn. Tôi đã cố nén sầu mà không được. Chính thần Tình Yêu Eros đã dẫn tôi tới đây. Thần Tình Yêu rất quen thuộc với chúng tôi trên mặt đất, và tôi nghĩ thần đó cũng không xa lạ gì ở nơi đây, bởi chính Ngài và Nữ hoàng cũng được kết hợp với nhau bở thần Tình Yêu. Vậy tôi xin Ngài hãy hoàn lại đời sống cho Eurydice. Đám người phàm tục chúng tôi cuối cùng đều phải xuống đất Ngài. Nơi đây sẽ là chốn ở cuối cùng của chúng tôi. Ngài thống trị loài người lâu nhất. Vợ tôi sẽ trở về đây đúng lúc. Nhưng bây giờ tôi van xin Ngài trả lại nàng cho tôi. Nếu Ngài chối từ, xin Ngài giữ tôi ở đây luôn. Tôi không muốn trở về một mình.”
Chàng ca nhạc êm với lời ca cảm động vang khắp dãy hành lang lạnh lẽo. Các âm hồn nghe đều ứa lệ. Các dụng cụ tra tấn ngưng hoạt động và lần đầu tiên các hung thần nhỏ lệ.
Đôi mắt đẹp của Persephone rưng rưng và ngay cả Pluto cũng mềm lòng và những giọt nước mắt cũng chảy dài trên má thần. Rồi thần phán: “Cho vời Eurydice tới!”. Tên nàng vang đi qua các hành lang câm nín. Dưới cùng thẳm, nơi những hồn mới tới tụ họp, nàng Eurydice nghe thấy tiếng gọi và nàng tới. Trông nàng xanh xao. Nàng bước đi chậm vì chân đau. Rồi nàng đứng buồn bã trước ngai vua Pluto, chưa hiểu vì sao mà được vời tới. Nhưng khi nhìn thấy Orpheus, mắt nàng bừng lên vì sung sướng. Thần Pluto phán: “Orpheus, hãy đem nàng đi, nhưng nên nhớ kỹ, đừng quay lại nhìn phía sau cho tới khi lên tới mặt đất.”
Chàng Orpheus đi trước. Chàng bước trên con đường dốc, hẹp và tối tăm. Nàng Eurydice bước khập khiễng theo sau. Chàng sung sướng lắm. Sự táo bạo của chàng đã thành công và tiếng đàn của chàng đã làm siêu lòng vị thần lạnh lùng sắt đá. Chỉ mong sao Eurydice đủ sức khoẻ để lên tới mặt đất.
Gần tới nơi, bỗng nhiên Orpheus cảm thấy như không nghe thấy bước chân nàng Eurydice. Chột dạ, chàng bèn quay lại xem nàng còn đấy không và thế là Eurydice tuột xuống lòng đất. Orpheus kêu rống lên, dang rộng tay ra. “Nàng yêu, hãy ở lại với ta đừng chết một lần nữa để ta cô đơn!”.
Nhưng không một tiếng trả lời. Chàng Orpheus đứng chôn chân nhìn vào khoảng không, rồi chàng đành bước những bước nặng nề lên cõi dương gian.

PERUS ĐI SĂN ĐẦU QUÁI VẬT GORGON


Acrisius, vua xứ Argos, từ Delphi ra về, lòng buồn rười rượi vì ông vừa nhận được một lời sấm truyền ghê sợ. Vị nữ tu đã bảo ông: “Người không có con trai, nhưng sẽ có một thằng cháu, và người sẽ chết vì tay thằng cháu đó.”
Nhà vua chỉ có một nàng con gái. Trong cơn lo buồn, ông nghĩ: “Ta cương quyết tránh số phận đó. Ta sẽ nhốt nàng con gái Danae của ta trong một ngôi nhà bằng đồng làm sâu dưới đất, không cho con ta tiếp xúc với đàn ông.” Rồi nhà vua thực hiện kế hoạch ác độc đó.
Nhưng nhà vua đã quên không nghĩ đến các vị thần. Một phần mái nhà để trống. Một hôm nàng Danae ngồi buồn rầu ngẩng nhìn đám mây trôi, nào ngờ lúc đó thần Zeus đương chiêm ngưỡng dung nhan nàng. Thần biến thành một trận mưa vàng xối ùa vào phòng. Sau đó nàng Danae sinh ra một thằng con trai. Nàng dấu con, nhưng nhà vua biết và càng sợ hãi. Nhà vua không dám giết cậu bé Perseus, sợ thần thánh trả thù, mới cho đóng một cái rương lớn, bỏ mẹ con Danae vào đó rồi thả ra biển. Chiếc rương bềnh bồng trên sóng. Danae hát ru con ngủ. Sáng sớm hôm sau, ngọn sóng lớn xô chiếc rương vào gần hòn đảo nhỏ Seraphos. Một người đánh cá tên Dictys nhìn thấy mới lôi chiếc rương vào bờ. Mở nắp rương ra, ông ta phải mủi lòng khi nhìn thấy hai mẹ con đáng thương này. Ông đem mẹ con Danae về nuôi (ông ta không có con). Perseus lớn lên trong gia đình chài lưới này. Nàng Danae vẫn còn đẹp. Vì thế vua Polydectes là em Dictys mới yêu nàng và cưới nàng làm vợ. Nhà vua ghét Perseus (chỉ vì nàng Danae quá thương yêu con) cố tìm cách gạt bỏ chàng mới bảo Perseus: “Đã tới lúc con nên thực hiện những cuộc mạo hiểm vinh quang cho đời con. Cha nghĩ con nên tìm cách chặt đầu quái vật Medusa. Nếu thành công, con sẽ nổi tiếng lắm”.
Thế là chàng Perseus nghe lời cha ghẻ lên đường, tìm quái vật Medusa mà không nghi ngờ gì ác ý của nhà vua. 
Chàng cũng không ngờ rằng đây là công việc hết sức nguy hiểm. Medusa là tên một trong ba con Gorgons, quái vật có cánh sống trên một hoang đảo. Răng nó như răng nanh lợn rừng, tay cứng như đồng, đầu thì rắn phủ thay tóc. Chàng Perseus không biết tìm ba con quái vật này ở đâu, mà chàng cũng không biết sẽ phân biệt được con nào là Medusa. Điều này rất quan trọng vì chàng chỉ có thể giết được con này thôi. 
Chàng đi tìm kiếm mãi, cho đến một hôm chàng nhìn thấy một người trẻ tuổi đi giày có cánh, đội cái mũ cũng có cánh, tay cầm cái gậy có hai con rắn vàng quấn quanh. Perseus nhận ra ngay đó là thần Hermes. Thấy chàng, thần nói ngay: “Perseus, ta đồng ý cuộc mạo hiểm của ngươi. Nhưng ngươi phải được trang bị cẩn thận. Nếu không có giày lắp cánh, chiếc túi thần và cái mũ tàng hình của các nữ thần miền Bắc, ngươi không thể nào thành công nổi. Ta không thể chỉ cho ngươi chỗ các nữ thần đó ở, nhưng ta sẽ đưa ngươi tới mấy Bà Xám rồi họ sẽ chỉ cho người”.
Perseus hỏi: “Liệu họ có chỉ cho tôi không?”.
Thần Hermes trả lời: “Họ không muốn đâu nhưng ngươi có thể khiến họ phải làm. Ba Bà Xám này chỉ có một con mắt. Hãy cướp lấy con mắt đó khi họ truyền cho nhau. Bắt họ chỉ chỗ các nữ thần miền Bắc ở rồi hãy trả họ mắt”.
Rồi Thần Hermes đưa Perseus cây kiếm cong. Thần nói: ” Ngươi sẽ cần tới cây kiếm này vì vẩy của quái vật Medusa cứng như kim khí.”
Perseus vừa cầm thanh kiếm thì chàng thấy một tia sáng chói ở trên cao. Ngước nhìn lên chàng thấy nữ thần Athena đang bay xuống phía họ. Nữ thần lên tiếng nói với thần Hermes: “Thanh kiếm của em liệu giúp được gì, vì em dư biết rằng hễ nhìn thấy ba con quái vật đó lập tức người ta hoá thành đá. Hỡi Perseus, hãy cầm lấy cái mộc sáng này của ta. Khi lâm trận, nhà ngươi hãy nhìn vào mộc này và tìm bóng Medusa phản chiếu trong đó”.
Nói đoạn, nữ thần biến mất cùng với vùng ánh sáng. Perseus mải miết đi theo Hermes, theo thật xa. Tới chốn tận cùng trái đất, chàng thấy ba Bà Xám kỳ khôi đang ngồi truyền mắt cho nhau. Chàng lẳng lặng bò tới gần, chời tới lúc một bà lấy con mắt ra, chàng bèn giật lấy. Ba bà hét to lên khi bị mất mắt. Họ kêu gào chán rồi doạ nạt. Cuối cùng họ đành phải chỉ đường cho Perseus tới chỗ các nữ thần miền Bắc. Chàng lên đường tới gặp các nữ thần và được các nữ thần cho ba vật báu. Sau khi đã được trang bị đầy đủ, chàng Perseus mới bay tới hoang đảo, nơi ba con quái vật ở. Khi tới gần, chàng thấy rải rác trên đường và trên cánh đồng biết bao nhiêu người và vật đã hoá đá. Rồi chàng nhìn thấy ba con quái vật phản chiếu trong tấm mộc. Vẩy trên mình chúng lấp lánh dưới mặt trời, cánh xếp lại, những con rắn nằm trên đầu cũng cuộn lại, chúng đang ngủ. Perseus đang phân vân không biết con nào là Medusa thì chàng nghe văng vẳng tiếng thần Athena:
“Perseus, hãy xuống tấn công đi! Con ở gần bờ biển nhất là con Medusa đó”. Perseus liền bay xà xuống vung mạnh lưỡi kiếm chém đứt cái đầu ghê rợn. Chàng nắm đầu quái vật bỏ vào chiếc túi thần. Hai con quái vật còn lại nhảy lên vì giận dữ, và khi nhìn Perseus, chúng cất cánh đuổi theo nhưng không kịp. 


CỨU NÀNG ANDROMEDA


Chàng Perseus bay, bay mãi và chàng lạc đường vì thần Hermes đã bỏ chàng. Chàng bay trên bãi sa mạc Lybian, máu ở trên đầu con quái vật rỏ xuống biển thành những con rắn độc sống mãi ở sa mạc. Đang bay chàng bỗng thấy một nàng con gái đẹp bị xích vào một tảng đá bên bờ biển. Nếu tóc nàng không bay trước gió và nước mắt nàng không rỏ xuống thì chàng đã tưởng đó là pho tượng. Cảm động trước sắc đẹp hiếm có của nàng, chàng mới lắp bắp hỏi: “Tại sao nàng bị trói ở đây? Tên nàng là gì vậy?”. Chàng gặng hỏi mãi nàng mới trả lời: “Tôi là Andromeda, con gái của vua Cepheus, vua xứ Ethiopians và bà Cassiopeia. Vì sắc đẹp của Bà mà tôi bị xích nơi đây. Thần thánh ghen tuông trước sắc đẹp của Bà. Bà đẹp hơn cả con gái thần Nereus. Thuỷ thần đã sai một con rắn tới rình cắn dân chúng tôi và theo lời sấm truyền thì chỉ cái chết của tôi mới khiến Thuỷ thần nguôi giận”.
Nàng vừa nói dứt lời thì sóng dội lên, báo hiệu cho biết con quái vật đang lên đường giết nàng. Nàng Adromeda hét lên. Cha mẹ nàng vội chạy tới ôm lấy con than khóc. 
Chàng Perseus trấn an mọi người: xin tất cả đừng khóc. Tôi là Perseus, con của thần Zeus và bà Danae. Bây giờ tôi ra điều kiện thế này: nếu tôi cứu được Andromeda thì nàng sẽ là vợ tôi. 
Bố mẹ Andromeda nhận lời.
Con quái vật đi tới, nó rẽ sóng như một con tàu. Perseus bay vút lên không trung. Nhìn thấy chàng, con quái vật chồm lên tấn công, chàng bèn nhào xuống đâm lưỡi kiếm vào vai bên phải của nó. Rồi cứ thế chàng đâm tới tấp cho đến khi con quái vật chìm xuống chết. 
Nàng Andromeda thoát nạn và ngay ngày hôm đó chàng tổ chức lễ cưới nàng. Những bó đuốc được tung lên cao, nhang đốt thành ngọn lửa, những vòng hoa kết rủ từ nóc lâu đài xuống. Và khắp nơi vang lên tiếng đàn ca.


NGƯỜI THÀNH ĐÁ


Trong khi tiệc cưới đang tưng bừng náo nhiệt, cửa phòng tiệc bỗng mở tung và một đám người nổi loạn ùa vào. Đứng đầu là Phineas, cậu của Andromeda, giáo cầm lăm lẳm trong tay. Ông ta hét lên: “Hãy coi đây, ta tới để trả thù kẻ đã cướp vị hôn thê của ta!”.
Cha của Andromeda hét lại: “Cậu làm gì vậy? Khi con gái tôi bị xiềng xích, cậu chỉ đứng khoanh tay nhìn, vậy mà cậu dám đòi trả thù vị ân nhân của con gái tôi à? Ai đã cứu con tôi thoát chết, người đó được lấy nó”. 
Phineas không nói nửa lời. Hắn nhìn hết vua đến Perseus, chưa biết nên lao ngọn giáo và ai, rồi hắn lao thẳng vào Perseus. Ngọn giáo cắm phập vào ghế chàng đang ngồi. Chàng Perseus nhảy lên rút ngọn giáo rồi lao lại phía Phineas. Nếu tên này không nấp sau bàn thờ thì hắn bị trúng rồi. Thế là đám địch thủ vùng lên. Tiếng vũ khí va chan chát, bàn tiệc biến thành bãi chiến trường, giáo bay tới tấp về phía Perseus. Chàng ghé vai nhấc tảng đá lớn đẩy về phía kẻ địch. Nhưng rồi chàng phải nhận rằng lòng can đảm cũng không thắng lại được đám đông kia. Chàng bèn hô lên: “Những ai là bạn ta hãy che mặt lại!” Đoạn chàng lôi cái đầu quái vật Medusa ra. Lập tức hai trăm kẻ địch hoá đá. Phineas vội đầu hàng. Hắn kêu cứu: “Hãy bỏ cái khí giới đáng sợ đó đi. Xin tha mạng sống cho tôi!” Perseus trả lời: “Mi, tên vô lại, mi sẽ là một pho tượng trong lâu đài này”. Phineas vội quay đi nhưng không kịp, và hắn biến thành một pho tượng đá.


LỜI SẤM NGHIỆM


Vào cuối năm đó, Perseus rong buồm cùng nàng Andromeda trở về. Lòng oán ghét của vua Polydectes không thuyên giảm chút nào. Ông ta thấy Perseus trở về thì rất giận dữ và không chịu tin là chàng đã giết được Medusa. Với giọng mai mỉa, nhà vua trách chàng sao lại về tay không. 
Perseus không chịu được nữa. Chàng hét lên: “Con chứng tỏ ngay cho cha biết điều con nói là đúng sự thực. Tất cả những người thân, xin hãy che mắt đi!” Rồi chàng giơ đầu con quái vật cho bạo vương Polydectes thấy.
Đó là lần chót chàng dùng cái đầu kinh dị đó. Sau đó chàng biếu nữ thần Athena.
Giờ đây Polydectes đã chết, nàng Danae muốn trở về quê hương để xin hoà giải cùng cha. Chàng Perseus bèn phong cho ngư phủ Dictys làm vua hải đảo đó, rồi cùng mẹ và nàng Andromeda trở về Hy Lạp.
Khi họ trở về Argos thì vua Acrisius vắng nhà. Nhà vua đang dự cuộc vui ở Larissa. Nghe tin đó chàng Perseus mới quyết định tới Larissa để dự và chính lời sấm truyền đã linh nghiệm ở đây. Khi tới lượt Perseus ném tạ, quả tạ đã rơi vào đám khán giả và giết chết một ông già. Đó chính là vua Acrisius, người đã có những quyết định độc ác đề cố tránh một số mệnh mà Trời đã định.


HERACLES – MƯỜI HAI CÔNG VIỆC


Trong tất cả các vị anh hùng Hy Lạp, người giỏi nhất là con trai của thần Zeus với cháu gái Perseus là nàng Alcmene (khi đó đã là vợ vua Amphitryon). Thần Zeus đặt tên chàng là Heracles (Heracles nghĩa là sự vinh quang của Hera). Vậy mà lời ca ngợi đó cũng không xoa dịu được lòng ghen tuông của Hera, vị nữ hoàng của thiên đình. Bà ghét người mang tên bà nên mới sai hai con rắn tới xiết cổ bé Heracles nằm trong nôi. Nhưng cậu bé kịp tỉnh dậy và bóp cổ rắn tới chết.
Từ đó, người ta trông đợi ở cậu bé khác thường những chuyện tầy trời. Cha hờ chàng (tức vua Amphitryon) lo giáo dục chàng thật cẩn thận về các chiến thuật cũng như về quyền pháp và đô vật. Heracles học thật mau và năm mười tám tuổi, chàng là chàng trai đẹp và khoẻ nhất Hy Lạp, luôn luôn ước mong trở thành anh hùng phụng sự đất nước. Thế là chàng đi đấu với những vật và những người khổng lồ, chẳng bao lâu uy dũng của chàng truyền đi khắp nơi.
Trước khi Heracles ra đời, nữ thần Hera đã buộc Zeus phải hứa với bà rằng hoàng tử đầu tiên sinh ra đời trong gia đình Perseus sẽ là đấng vua tối cao và sẽ cai trị tất cả đám hậu duệ của Perseus. Zeus bằng lòng vì thần hy vọng rằng Heracles là hoàng tử đầu tiên. Nhưng Hera đã cố gắng cho Eurystheus ra đời trước Heracles một giờ, và thế là Eurystheus làm vua cõi Mycenae còn Heracles bắt buộc phải là bày tôi. 
Tuy vậy, Heracles vẫn nổi tiếng hơn vua nhiều. Điều này khiến Eurystheus rất buồn bực. Eurystheus tự nhủ: “Ta sẽ bắt hắn phải làm những công việc thật khó nhọc và chắc hắn sẽ mất mạng”. Rồi Heracles được lệnh của vua đi giết con sư tử miền Nemea, da con vật rất dầy, cung tên khí giới không thể giết nổi nó. Heracles không chịu tuân lệnh. Chàng nói: “Tôi, giòng dõi thần linh, không thể là đầy tớ của người”. Nhưng cha chàng, thần Zeus, vội can thiệp: “Con phải vâng lời, con ạ, vì Eurystheus là vua.”
Heracles đành vâng lệnh. Chàng tay không bóp cổ con sư tử. Từ đó, chàng luôn luôn đội chiếc mũ làm bằng hàm răng sư tử và khoác chiếc áo bằng da nó. 
Rồi chàng lại vâng lệnh vua giết con rắn Hydra chín đầu ở miền Lerna.
Rồi chàng bắt sống con hươu cái ở núi Cerynea. Trong suốt một năm, chàng đã phải đi theo con vật có cặp sừng vàng và móng đồng này. Cuối cùng chàng bắt được nó. 
Chàng lại bắt sống được con lợn rừng Eurythion đã phá hoại khắp vùng lân cận. Khi chàng vác con vật khổng lồ này trình vua thì vua hoàn toàn thất vọng. Ông ta nghĩ: “Thử sức mạnh tên này không được. Mỗi lần thử lại một lần làm hắn nổi tiếng thêm. Ta sẽ giao cho hắn một công việc không xứng đáng với người anh hùng và chắc chắn hắn sẽ thất bại”. Rồi cho gọi Heracles tới phán: “Chuồng ngựa của Augeas, vua cõi Elis, dơ bẩn lắm. Bệnh dịch đã phát sinh từ đó và lan tới Mycenae. Vậy ngươi hãy tới Elis rửa sạch các chuồng đó đi. Ngươi phải làm xong nội trong một ngày”. 
Vua Augeas có ba ngàn ngựa. Hàng bao năm nay, chuồng ngựa không được rửa dọn gì cả. Nhưng Heracles cũng hoàn thành được việc này. Chàng đục hai lỗ tường rồi truyền nước hai con sông bên cạnh chảy qua chuồng ngựa cho đến khi chuồng thật sạch. 
Sau việc này, vua Eurystheus bèn nghĩ tới đàn chim ăn thịt người ở gần hồ xứ Stymphalus. Đàn chim này có cánh mỏ và móng bằng sắt. Chắc chắn Heracles không thể tiêu diệt được chúng. Heracles bèn khua mõ inh ỏi doạ đàn chim cho bay lên rồi lấy cung tên bắn. Chỉ còn ít con sống sót vội bay đi trốn.
Rồi chàng sang đảo Crete đem về cho nhà vua con bò rừng Poseidon. Chàng cũng thuần hoá được đàn ngựa cái của vua Diomedes ở Thrace, đàn ngựa này được nuôi bằng thịt người. Chàng đánh nhau với đoàn nữ quân Amazons và đem về cho nhà vua giải thắt lưng của nữ hòang Amazons là Hippolyta đã bị chàng giết chết. Kế tiếp chàng giết được tên khổng lồ Geryon ba mình ba đầu và chiếm đoạt đàn bò của hắn.
Tới đây, vua Eurystheus hết hy vọng, chàng Heracles đã làm được mười việc phi thường, sau mỗi việc, chàng càng mạnh thêm và nổi tiếng thêm. Nhưng vua vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Ông ta bắt Heracles tìm cho được ba trái táo vàng của đám chị em Hesperides. Táo này mọc ở một khu vườn thiêng, không ai biết ở đâu và được canh gác bởi một con rồng một trăm đầu không bao giờ ngủ. 
Heracles không biết tìm khu vườn này ở đâu nhưng chàng cũng ra đi. Chàng lang thang tới ngọn núi Caucasus. Đứng trên ngọn núi, chàng nhìn thấy Prometheus bị trói. Chàng cởi trói cho và người khổng lồ này chỉ khu vườn thiêng cho chàng. Prometheus nói: “Bạn sẽ tìm thấy vườn đó ở chỗ Atlas đứng nâng vòm trời trên vai. Nhưng đừng cố tự tay chiếm những trái táo. Anh tôi, Atlas, là cha các cô Hesperides. Hãy nhờ ông ấy lấy táo cho”. 
Heracles đã tới được chỗ Atlas đứng, nói với Atlas: “Để tôi đỡ vòm trời hộ cho ông nghỉ. Nhưng ông phải cho tôi vài trái táo vàng ở vườn Hesperides nhé”.
Atlas bằng lòng ngay, ru cho con rồng ngủ và ngắt ba trái táo vàng cho Heracles. Người khổng lồ này được nếm tự do một chút đâm ham bèn bảo Heracles: “Thôi bây giờ ông bạn hãy thế chỗ cho tôi nhé”. Nói đoạn định bỏ đi. Heracles vội kêu lại: “Đồng ý tôi sẽ thế chỗ cho ông nhưng hãy làm ơn đỡ hộ tôi một phút để tôi quấn lại dây thừng quanh đầu đã, kẻo đầu tôi sẽ bẹp dí mất”. 
Người khổng lồ Atlas ngu dại làm theo lời Heracles. Thế là chàng bỏ đi.
Khi Heracles dâng ba trái táo vàng lên vua thì ông ta nghĩ rằng chả có việc nào là chàng ta không làm được. Nhưng ông ta vẫn nghĩ: “Có lẽ uy quyền dưới âm phủ sẽ vượt được sức Heracles. Ta sẽ sai hắn xuống bắt con chó Cerberus ba đầu vẫn đứng canh ở cửa âm phủ”.
Nhưng rốt cuộc, Heracles cũng hoàn thành được việc thứ mười hai thiên nan vạn nan này. Nhà vua sai Heracles đem trả lại con chó ba đầu và từ đó không thử thách chàng nữa.


DEIANIRA VÀ QUÁI VẬT ĐẦU NGƯỜI MÌNH NGỰA


Mặc dầu khắp nước Hy Lạp đều biết tiếng Heracles, vậy mà chàng vẫn tiếp tục thi thố tài năng. Không có người nào, vật nào kể cả các thần nữa thắng nổi chàng. Chàng đi du lịch tới Calydon. Ở đây chàng đã yêu và lấy được nàng công chúa Deianira xinh đẹp. Chàng đem nàng về quê nhà. Trên đường về, chàng trải qua một cuộc mạo hiểm kỳ lạ. Những trận mưa mùa đông làm nước sông xoáy cuộn. Đối với một mình chàng thì có gì đáng ngại đâu, nhưng còn nàng Deianira, làm sao chàng mang nàng qua được? Trong khi chàng đang phân vân thì quái vật đầu người mình ngựa Nessus biết chỗ nước cạn mới thủng thỉnh đi qua. Nó nói với Heracles: “Tôi sẽ đem dùm vợ ông qua sông. Còn ông thì ráng bơi nhé”. Chàng bằng lòng. Khi bơi sang tới bờ bên kia, chàng nghe thấy vợ chàng la lên kêu cứu. Nessus định đem nàng Deianira trốn đi.
Heracles thấy vậy thét lên: “Quân đểu! Mi định cướp vợ ta hả? Mi chạy nhanh nhưng mũi tên tẩm độc của ta còn đi nhanh hơn nhiều!”. Chàng bắn ngay một phát. Mũi tên cắm sâu vào lưng con vật và xuyên qua ngực. Nessus biết thế nào nó cũng chết vì mũi tên của Heracles đã tẩm máu độc của rắn Hydra chín đầu. Nó nghĩ: “Nhưng ta không chịu chết mà không trả được thù”. Nghĩ vậy, nó mới nói với nàng Deianira: “Hỡi nàng, tôi sắp chết. Tôi muốn chỉ nàng hay điều này. Nàng hãy giữ đống máu đọng ở lưng tôi. Chỗ máu ấy có phép mầu đấy. Nếu nàng nhuộm áo của chồng nàng bằng máu ấy, chàng sẽ không yêu ai hơn nàng”.
Nói đoạn, nó ngã vật xuống chết. Nàng Deianira lúc đó không nghi gì tình yêu của chồng nhưng nàng cũng cứ trút chỗ máu đó vào một cái lọ. Nàng nghĩ biết đâu rồi lại chẳng phải dùng đến nó. Rồi nàng dấu lọ ấy đi.


NESSUS TRẢ ĐƯỢC THÙ


Bao nhiêu năm qua, nàng Deanira đã hầu quên cái lọ kia. Cho đến một hôm nàng gặp dịp phải dùng tới nó.
Chàng Heracles đi đánh vua Eurythus, người chàng vẫn mang mối thù, vì trước kia nhà vua đã từ chối không gả con gái là nàng công chúa Iole cho chàng. Chàng giết được ông vua này cùng ba người con trai và bắt sống nàng Iole. Trên đường về, chàng dừng lại làm lễ tạ ơn cho chiến công vừa qua, nhưng chàng vẫn để tên đầy tớ Lichas tiếp tục dẫn tù nhân về. 
Nàng Deianira nhìn thấy nàng Iole xinh đẹp mới thuơng cho số phận nàng ấy. Nhưng khi nàng biết chính vì Iole mà Heracles đã tiêu diệt giòng vua Eurytus, thi' nàng lại chuyển sang thương chính phận nàng. Rồi nàng sực nhớ đến lọ máu có phép mầu. Nàng vội lấy tấm áo lễ mà nàng dệt cho Heracles đem nhuộm vào chỗ máu kia. Rồi nàng gói áo lại, gọi tên hầu Lichas bảo: “Hãy mang ngay chiếc áo này tới cho chồng tôi và cẩn thận đừng giơ áo ra ánh sáng hay hơi nóng, cho tới khi chàng mặc”. 
Lichas vừa đi khỏi thì nàng trở về phòng. Nàng kinh ngạc nhìn túm len nàng đã dùng để thấm máu. Túm len đang cháy tiêu, bọt đỏ nổi bong bóng khắp chung quanh. Nàng kêu lên: “Trời, tên Nessus đã lừa tôi rồi! Tôi xin thề trước thánh thần, nếu tôi khiến chàng Heracles chết, tôi sẽ chết ngay theo chàng”. Rồi nàng vội sai người đuổi theo Lichas.
Nhưng quá muộn. Chàng Heracles đã mặc áo và đang làm lễ tế thần. Mười hai con bò và một trăm con vật khác bị giết để dâng lễ. Heracles đang rót rượu và đốt nhang trên bàn thờ. Bỗng nhiên chàng kêu lên như bị rắn cắn. Chất thuốc độc để gần lửa nóng đã chảy ra thấm vào cơ thể bỏng rãy. Heracles cố cởi chiếc áo ra nhưng áo cứ dính chặt lấy người. Chàng xé được mảnh áo nào ra thì vải lôi luôn thịt chàng ra. Máu chàng xôi xục lên, gân cốt chàng nứt ra. Chàng chạy vội tới dòng suối gần đó, nhảy ùm xuống nhưng chất độc càng sủi sục trong máu chàng. Như điên dại, chàng nhổ cây rồi lăn lộn trên mặt đất. Chàng nhìn lên trời kêu la: “Hỡi Nữ hoàng Hera, tôi đau đớn thế này chắc Bà sung sướng lắm! Tôi phải đương đầu với quái vật Geryon ba mình ba đầu và con chó Cerberus để nhận cực hình này ư? Đôi bàn tay này đã hạ được con bò rừng đảo Crete, đã chiếm được dải thắt lưng của nữ hoàng Amazons, đã mang về được những trái táo vàng cơ mà? Con lợn lòi trên núi Arcadia, cũng như con Hydra chín đầu đâu có địch lại được ta. Đàn ngựa ăn thịt người cũng bị ta thuần hoá. Ta đã nâng cả vòm trời trên vai. Thế mà giờ đây ta phải chịu cực hình này; không lòng can đảm nào, không khí giới nào thắng được. Lửa âm ỉ thiêu cháy thịt ta. Trong khi đó kẻ thù của ta là vua Eurystheus thì vẫn mạnh khoẻ! Vậy mà ai cũng tin rằng thần thánh công minh!”.
Chàng đang lăn lộn như con vật trúng tên thì bỗng nhìn thấy tên hầu Lichas sợ hãi nấp trong hốc đá. Chàng hét to: “Chính mi đã đem món quà giết người này tới cho ta phải không?” Tên Lichas chỉ còn biết ôm lấy chân chàng. Heracles quá tức giận, quay tên hầu mấy vòng rồi quăng hắn thẳng ra biển Euboea. Đau đớn như thế mà Heracles vẫn chưa chết được. Người ta mang chàng về nhà. Nàng Deianira đã tự tử. Chàng mới ra lệnh chặt cây làm giàn hoả táng. Người bạn chàng là Philoctetes nhóm lửa. Chàng Heracles nằm trên giàn, lót tấm da sư tử miền Nemea ở dưới. Trông chàng như người nằm trên nệm torng một bữa tiệc vui.
Các vị thần cũng hoảng sợ khi ngọn lửa cháy tới người Heracles. Nhưng thần Zeus, cha chàng trấn an mọi người. Thần nói: “Con tôi đã chinh phục được tất cả, sẽ chinh phục được lửa nữa. Chỉ có hình hài của con tôi – phần nó thừa hưởng của mẹ nó là bị thiêu huỷ thôi. Còn phần nó thừa hưởng của tôi sẽ bất diệt. Tôi sẽ mang con tôi lên thiên đàng. Đó mới là nơi xứng đáng với nó”.
Các vị thần vỗ tay, và ngay cả nữ hoàng Hera cũng phải yên lặng. Thân thể Heracles đã cháy, nhưng vóc dáng chàng vẫn còn giống cha chàng vô cùng. Những người đứng quanh nhìn thấy một làn khói bay lên. Trên cao, thần Zeus đứng trong xe, giơ tay ra đỡ lấy con và đặt chàng vào giữa những vì sao.
 

JASON – NGƯỜI MANG MỘT CHIẾC DÉP


Jason là người kế vị ngôi vua Iolcus nhưng chưa chắc gì chàng lên ngôi được. Vì người chú Pelias đã chiếm ngôi và đuổi cha chàng đi. Chàng được con vật đầu người mình ngựa tên Chiron nuôi nấng. Con Chiron này đã dạy dỗ rất nhiều anh hùng trong hang nó. Dưới sự chăm sóc của con vật đó, Jason đã học được tất cả những điều mà một người anh hùng phải biết. 
Tên chiếm ngôi Pelias rất buồn vì một lời sấm lạ. Sấm dạy rằng hắn phải coi chừng một người chỉ đi một chiếc dép. Pelias tìm hiểu lời đó mãi mà không nghĩ ra. Rồi Jason một hôm quyết định đi Iolcus để đòi lại ngôi báu. Chàng là một thanh niên cao, đẹp. Những lọn tóc bóng mượt rủ xuống cổ chàng. Chàng khoác tấm da báo bên ngoài chiếc áo chẽn cũng bằng da, tay chàng cầm hai cái giáo (lao). Trông chàng giống hệt một vị thần đến nỗi ai gặp cũng phải ngờ ngợ. 
Khi gần tới Iolcus, chàng phải qua một con sông đầy bùn, chàng đánh rơi chiếc dép. Chàng tới khu chợ, nơi này đông nghẹt vì nhà vua đang làm lễ tế thần. Thấy chàng, thiên hạ thầm thì: “Ai kia, có thể là Apollo trá hình chăng?”
Nhà vua nhìn ngay xuống chân kẻ lạ, mặt thất sắc, tim như ngừng đập khi nhìn thấy người đó chỉ đi một chiếc dép. Sau nghi lễ, nhà vua hỏi ngay : “Nhà ngươi là ai, tên cha ngươi là gì?”.
Chàng trai trả lời: “Tôi là Jason, con trai của vua Aeson, tôi tới đây thăm hoàng thành của cha tôi”. 
Pelias dấu nỗi sợ hãi, mời chàng về lâu đài, mở tiệc đãi chàng năm ngày liền. Rồi Jason nói với Pelias: “Hoàng thành này là của tôi vì tôi đúng là người thừa kế, nhưng tôi sẽ nhường cho chú tất cả của cải chú đã đoạt. Tất cả đồng ruộng và gia súc là của chú, tôi chỉ đòi lại cái quyền trượng và ngai vàng của cha tôi thôi.”
Pelias nghĩ thật nhanh, mặt hắn đổi sắc nhiều lần rồi hắn nói: “Cháu muốn thế nào cũng được nhưng chú cũng cần đòi cháu một điều kiện. Chú rất bận tâm về một giấc mơ. Hồn ma của Phrixus đã hiện về xin chú hãy lấy về cho được bộ lông vàng của con cừu linh đã có lần đem ngài qua biển tới Colchis, và sau đó ngài đã dâng hiến lên thần Zeus. Vậy cháu hãy đi lấy bộ lông đó về cho linh hồn Phrixus an nghỉ”.
Nghe xong, Jason cảm thấy lòng rung động vì bộ lông này vẫn là giấc mơ của bao anh hùng Hy Lạp. Mọi người đều biết rằng bộ lông vàng đó được treo ở Colchis trên một cành cây sến trong khu rừng thiêng, có con rồng canh giữ ngày đêm. Chàng mơ ước bảo vật đến nỗi không chú ý gì đến thâm ý của người chú. Chàng bèn trả lời liền:
“Cháu sẽ tới Cholchis cùng một đám anh hùng. Và cháu sẽ cố làm vừa lòng hồn ngài Phrixus”.
Rồi chàng kêu gọi những người gan dạ, kết nạp họ đi theo chàng. Chàng nhờ Argos đóng cho chàng một chiếc tàu có năm mươi mái chèo. Biết bao người tới xin theo chàng, cả Argos cũng xung phong đi. Chàng Heracles của xứ Tiryns, một chàng trai khoẻ nhất cũng đi với Jason. Laertes, cháu của thần Zeus cũng tới gia nhập. Chàng Orpheus thi sĩ kiêm nhạc sĩ kỳ tài, người đã xuống tận cõi âm tìm người vợ tên Eurydice, cũng vội vàng từ Thrace tới. Peleus, cha của Achilles, vị anh hùng của trận chiến thành Troy cũng tới. Còn biết bao dân tai mắt khác nữa. Khi đã sẵn sàng, Jason làm lễ dâng Hải thần, sau đó mọi người ngồi và chiếc tàu Argo nhổ neo. Bao nhiêu gian nguy đang chờ đoàn người Argonauts. Nhưng không ai sờn lòng.


VIỆC LÀM CỦA JASON


Ai có thể nói được tất cả những điều đã xảy ra trước khi đoàn người Argonauts tới được Colchis? Kể ra hết thì phải mất bao nhiêu cuốn sách vì biết bao người đã thuật lại chuyến phiêu du của những vị anh hùng này, mà mỗi người kể một cách. Nhưng chỉ cần biết rằng cuối cùng họ đã tới nơi vào lúc hoàng hôn, và mọi người đều mệt mỏi. Họ hạ buồm, chèo ngược dòng sông để tới kinh đô. Jason đã đổ rượu dâng thánh thần bày tỏ lòng biết ơn. Rồi mọi người nghỉ ngơi. Sáng hôm sau, Jason nói với bằng hữu : “Chương trình của tôi là đoạt được bộ lông cừu vàng mà không phải đánh nhau. Tôi sẽ hỏi xin vua Aeetes, và vua sẽ bảo chúng ta phải làm gì. Xin các bạn hãy ở đây để tôi cùng hai bạn tới lâu đài vua”.
Vua Aeetes tiếp họ rất ân cần. Theo tục lệ, nhà vua không hỏi han gì cho tới khi mọi người ngồi vào bàn ăn. Nhưng vừa nghe biết khách là ai và tới xứ này với mục đích gì, vua Aeetes đổi ngay thái độ. Ông ta nói lớn: “Hãy đoạt vương trượng và ngai vàng của ta đã rồi hãy lấy bộ lông cừu đó! Hãy trở về ngay đi kẻo ta xẻo lưỡi, chặt tay lũ ngươi bây giờ!”.
Jason ôn tồn trả lời: “Xin Ngài hãy nén giận. Chúng tôi tới đây duy có một mục đích đó. Lệnh truyền của một vị vua ác hiểm đã khiến tôi tới đây. Tôi xin Ngài hãy ban vật đó cho chúng tôi. Nếu chúng tôi có phải làm việc gì hầu Ngài, chúng tôi cũng xin sẵn sàng”.
Vua chau mày rồi đổi ngay thái độ dịu dàng nói: “Ta không có thù oán gì người nhưng ngươi phải cho ta thấy lòng can đảm của người. Ở cánh đồng Ares, ta có hai con bò một chân đồng, thở ra lửa. Người phải đóng ách cho chúng rồi cầy cho xong cánh đồng Ares, rồi người phải lấy răng rồng reo lên khoảng đất. Đám răng rồng reo đó sẽ nảy sinh một đoàn chiến binh. Người phải giết đám chiến binh này trước khi trời tối. Ta đã làm tất cả những việc này, nếu người không làm được, ta sẽ không bao giờ cho bộ lông cừu kia”.
Jason bối rối, không nói năng gì. Làm sao chàng có thể hứa làm được một công việc vô vọng kia? Nhưng rồi chàng cũng trả lời:
“Việc Ngài đòi hỏi quá nặng nề. Nhưng tôi nhận sẽ làm cho dù có nguy đến tính mệnh đi nữa. Còn có những điều tệ hơn cái chết”.
Nói đoạn chàng cùng hai bạn trở về tầu.
Sau khi nghe chuyện nhiều người xin làm thay Jason, nhưng chàng từ chối hết. Chàng nói : “Định mệnh đã đem tôi tới đây, dù chuyện gì sẽ xảy đến, tôi cũng phải vâng theo định mệnh.” Tới đây có một người cháu của nhà vua, tên Argus, người mà Jason đã cứu thoát chết trong một cuộc đắm tàu, đứng lên nói với Jason: “Ông không làm được việc mà ông tôi đòi hỏi đâu. Hãy để tôi đi cầu cứu Medea, em gái mẹ tôi. Bà rất giỏi pha thuốc độc. Chỉ có Dì tôi mới giúp ông đóng ách bò mộng và cày đám ruộng Ares được”. Jason buồn bã trả lời: “Thật buồn khi phải nhờ vào một người đàn bà để được an toàn. Nhưng nếu bạn muốn thì cứ tới tìm bà ta.”
Cả Argus và Jason cũng không biết nàng Medea sẽ làm gì để giúp họ. Riêng phần Medea thì quả nàng đang cố gắng làm sao giúp được chàng. Lý do vì nàng đã nhìn thấy Jason và đã rung động trước vẻ đẹp hùng tráng của chàng. Từ trước chưa bao giờ nàng mê ai, nhưng bây giờ thì nàng đang phải chịu sự giằng co giữa lý và tình. Nàng tự nhủ: “Nếu ta không giúp thì chắc chắn chàng sẽ chết, nhưng liệu ta có thể lừa phản cha ta (vua Aeetes) để giúp người khách lạ, rồi khi người đó trở về quê quán sẽ làm chồng một người đàn bà khác. Như thế không được. Trước khi giúp ta muốn chàng phải hứa là sẽ cưới ta”.
Nàng đang ngồi suy nghĩ thì chị nàng gọi nàng nói: “Em Medea ạ, con trai Argus của chị đã được chàng Jason cứu thoát chết. Chị xin em hãy cho chàng ta một phương thuốc để khắc phụ được đám bò mộng”. Medea trả lời: “Vì cháu Argus, vâng, em sẽ làm. Chị bảo cháu nói với Jason là sáng sớm mai, em sẽ tới đền Hecates; rồi sẽ cho chàng ta phép mầu để thắng lũ bò”. 
Sáng hôm sau, chàng Jason tới đền Hecates gặp Medea. Chưa bao giờ trông chàng đẹp trai như vậy. Nàng nhìn dán vào chàng. Khi chàng nắm lấy tay, tim nàng đập rộn rã, nàng chẳng thốt được lời nào. Cả hai đứng yên một hồi lâu rồi Jason nói: “Tôi đến đây xin nàng phép bùa. Nàng muốn đòi lại điều gì xin cứ nói. Cũng xin nàng hiểu rằng, nếu nàng giúp tôi lấy được bộ lông cừu đó, nàng sẽ bất diệt. Nước Hy Lạp chúng tôi sẽ ca ngợi nàng mãi mãi”. 
Medea đứng sững im lặng. Nàng xúc động quá, không nói nên lời. Nàng chỉ đặt một cái hộp nhỏ vào tay Jason. Jason giữ chặt chiếc hộp, mắt nhìn nàng không chớp. Mãi sau Medea mới nói được: “Chàng phải làm như thế này …”. Rồi nàng chỉ cho chàng cách dùng đạo bùa đó. “Hãy bôi dầu vào người chàng và cả vũ khí của chàng để khỏi bắt lửa. Và khi đám chiến binh nổi dậy, hãy ném một hòn đá lớn vào chúng. Như vậy chúng sẽ đánh lẫn nhau. Khi chúng chết hết, chàng sẽ lấy được bộ lông kia.”
Rồi nàng bật khóc, và nói thêm: “Xin đừng quên tên Medea khi chàng về tới nhà, vì người ấy lúc nào cũng nghĩ tới chàng”. Jason say sưa trả lời: “Không bao giờ tôi quên nàng được. Nhưng nếu nàng theo tôi, toàn dân Hy Lạp sẽ tôn thờ nàng, vì chính nhờ nàng mà chồng con, anh em họ đã về được tới nhà. Bây giờ chỉ có cái chết mới chia lìa được đôi ta”. 
Medea muốn nghe chàng nói mãi, nhưng đã tới lúc phải chia tay. Khi Jason trở về tầu, nàng Medea trở về lâu đài; nàng bị cấu xé giữa tình và lý.
Tờ mờ sáng hôm sau, dân trong tỉnh đã tề tựu ở cánh đồng Ares. Họ đứng trên những bờ dốc cao. Vua Aeetes ngồi giữa đám đông, vua mặc áo đỏ, cầm trong tay chiếc quyền trượng bằng ngà. Mọi người đổ dồn mắt vào Jason đang đứng nhìn cái cày và cái ách nặng nề. Bỗng nhiên có tiếng bò rống lên. Đám bò mộng chân bọc đồng đang ào tới miệng và lỗ mũi thở ra khói và lửa ngùn ngụt. Cỏ bắt lửa cháy bùng lên. Jason tiến tới. Đàn bò nhìn thấy chàng bèn lắc đầu và đạp chân sâu xuống đất. 
Đám bạn Argonauts của chàng nín thở nhìn chàng tiến tới gần đàn bò. Tim họ ngừng đập khi họ thấy rõ Jason bắt từng con bò quỳ xuống, rồi đóng ách cho chúng. Khi lưỡi cày xới lớp đất đen lên, các bạn Jason reo hò ầm ỹ, còn đám người Colchians thì hết sức kinh ngạc. Jason cày đến đâu, reo răng rồng tới đó. Tới chiều thì cánh đồng bốn mẫu đã cày xong. Jason tháo ách ra, chàng hét to một tiếng, đàn bò sợ hãi chạy một mạch về chuồng. Khi chàng ngoảnh mặt lại thì đã thấy cả một đoàn lính chiến từ đất chui dần lên. Đám lính lăm le lao những ngọn giáo vào chàng. Nàng Medea cũng rất lo ngại khi thấy một mình chàng phải đương đầu với đám giặc đông như vậy. Nàng niệm thần chú để giúp chàng. Nhưng không sao, Jason cầm tảng đá lớn ném vào đám giặc. Tức thì chúng quay đánh lẫn nhau và tận diệt lẫn nhau. Các bạn chàng vui mừng quá. Họ chạy ùa xuống ôm lấy chàng. Cả đám người Colchians cũng reo hò. Riêng vua Aeetes im lặng trở về lâu đài. Nhà vua giận lắm vì ông ta thừa biết rằng Jason đã được Medea bí mật giúp đỡ. Suốt đêm ông ta nghĩ cách trả thù Jason.


BỘ LÔNG CỪU VÀNG


Nàng Medea thao thức suốt đêm. Nàng sợ vua cha, và nàng cũng sợ luôn những chuyện sẽ xảy ra cho nàng nếu nàng trốn đi với Jason. Cuối cùng nàng quyết định đi theo Jason. Nàng niệm thần chú cho cửa lâu đài mở rồi vội tới tìm Jason nói thẳng với chàng: “Cha tôi đang định kế trả thù. Chúng ta phải trốn mau. Tôi sẽ lấy bộ lông cừu vàng cho chàng. Chỉ xin chàng thề rằng sẽ đối xử tử tế với tôi ở nước chàng”. Jason vội hứa: “Xin thánh thần làm chứng cho, tôi sẽ cưới nàng làm vợ”. Medea nói: “Vậy thì chúng ta hãy đi lấy bộ lông cừu ngay”.
Thế là chiếc tàu chở mọi người tới nấm mộ thiêng. Jason và Medea tới cây sến. Con rồng vươn cổ định giết họ. Nó rít lên ghê sợ nhưng Medea làm phép cho nó ngủ. Jason vội giật lấy tấm lông cừu rồi cả hai chạy về tầu. Mọi người say sưa ngắm bảo vật mà họ đã mất bao nhiêu công lao mới chiếm được. Jason nóng lòng khởi hành, mới nói với các bạn : “Chúng ta hãy dời khỏi ngay nơi đây vì chắc chắn sắp bị đuổi theo. Có mặt nàng Medea ở đây, chính nàng giúp chúng ta hoàn thành sứ mạng. Nàng sẽ là người vợ chính thức của tôi”.
ĐƯỜNG VỀ
Quả như lời Jason nói, họ vừa ra gần tới biển thì đoàn tầu của vua Aeetes rượt theo sau, thoạt đầu còn cách xa, nhưng đoàn tàu Colchian nhẹ hơn nên đã tiến mỗi lúc một gần. Khi Jason tới cửa sông Ister để ra biển Ionia, thì tàu địch đã được bố trí tản mát khắp các đảo xung quanh và sẵn sàng tấn công. Jason hoảng kinh nói: “Địch đông quá. Chúng ta hãy lên bờ thương lượng với họ”. Thủ lãnh của đoàn tầu Colchian là con trai vua Aeetes tên Apsyrtus bằng lòng cho Jason bộ lông cừu nhưng còn Medea thì phải được đem tới đền Artemis ở hòn đảo bên cạnh. Vua của miền này sẽ định đoạt số phận nàng, hoặc là nàng phải trở về, hoặc được đi theo Jason. Medea tưởng phát điên lên khi thấy Jason bằng lòng. Nàng khóc: “Jason, chàng đã quên lời hứa rồi ư? Vì chàng mà tôi giờ này ở đây! Chàng dư biết rằng nếu trở về với vua cha, tôi sẽ phải chết. Xin đừng bỏ tôi!”. Nàng nói tha thiết đến nỗi Jason phải tránh ánh mắt của nàng. Chàng vội nói gạt: “Sự thoả thuận chỉ là một mưu kế thôi. Chúng ta đang cố trì hoãn cuộc xô xát. Chương trình của chúng ta phải giết được Apsyrtus. Khi bọn Colchians mất thủ lãnh, chúng ta sẽ thắng họ dễ dàng”. Medea nhìn vào tận mắt Jason, nói : “Nếu quả thật đây là ý định của chàng, em sẽ đi sâu thêm vào tội lỗi, em sẽ nộp em trai cho chàng”. Thế là nàng vờ nhắn tin cho em biết là nàng đã bị bắt đi. Nếu đêm này Apsyrtus tới đền Artemis, nàng sẽ chỉ kế cho lấy lại bộ lông cừu. Apsyrtus vô tình sa bẫy. Giữa đêm, nay lúc Apsyrtus bước vào đền, Jason bèn đâm chàng ta một nhát chết liền. Rồi cả bọn Argonauts xông vào giết hết đám tuỳ tùng của Apsyrtus. Thế rồi tàu Argo tiếp tục đường về Hy Lạp.


MEDEA VÀ JASON


Mang được bộ lông cừu vàng về tới Iolcus, Jason được tiếp đón nồng nhiệt giữa tiếng reo vang của toàn dân. Nhưng Jason thấy lòng ân hận vì thiếu mặt cha. Cựu vương Aeson vì già yếu, bệnh tật đã không tới chứng kiến được cảnh vinh quang đó của con. Chàng bèn nói với vợ là nàng Medea rằng nhờ những bùa chú phù phép của nàng mà chàng thành công được như vậy. Nay chàng chỉ xin nàng lại dùng bùa phép lấy đi của chàng một số tuổi trời bù sang cho cha chàng khoẻ mạnh lại chút ít để cùng chàng chia sẻ vinh quang này. Nàng Medea nói rằng nàng có thể làm được điều ấy mà không cần phải lấy đi mảy may tuổi thọ của chồng. 
Vào một đêm trăng tròn, Medea đợi tới lúc thật khuya khoắc. Nàng niệm chú gửi lên trăng sao trên trời; nàng niệm chú gửi tới Hecate, vị nữ chúa miền âm phủ; tới Tellus, nữ thần cai quản những loài cây lạ thường dùng làm bùa ngải. Nàng niệm chú gửi tới chư vị thần linh cai quản các vùng rừng, núi, sông, biển. Rồi một cỗ xe có rồng bay kéo tới, nàng lên xe, bay lên cao, tới các vùng xa lạ hái thuốc trường sinh. Chín đêm như vậy. Khi mọi thứ đã kiếm được đầy đủ, nàng cho thiết lập hai bàn thờ. Một cho nữ thần Hecate; một cho nữ thần của tuổi trẻ là Hebe. Cựu vương Aeson khi đó được nằm thẳng trên giường và ngủ mê như chết. Jason và tất cả mọi người không ai được bén mảng tới. 
Medea xoã tóc cầu nguyện Diêm chúa Hades hãy khoan kết thúc cuộc đời của cựu vương, rồi ba lần nàng chạy quanh hai bàn thờ, nhúng cành cây lớn vào máu con cừu đen đã bị chọc tiết làm vật tế cúng, nhóm lửa đốt những cành cây lớn đó để đun sôi một cái vạc lớn trong đựng đủ các loại cây cỏ bùa ngải cùng những thứ kỳ dị như con ếch già da trắng phau, đầu và cánh chim cú, ruột con chó sói, và nhiều thứ vô danh khác. Khi những thứ trong vạc đó sôi sủi lên, nàng cầm một cành ô-liu đã chết khô khoắng vào trong, khi nàng nhấc ra thì, ô lạ chưa, cành khô đó đã sống lại với lá màu xanh tươi mơn mởn. Đoạn nàng cắt cổ cựu vương Aeson, đổ vào miệng cựu vương và và vết thương ở cổ ông thứ thuốc cải lão hoàn đồng trong vạc. Aeson tỉnh lại, da thịt hồng hào, tóc xanh lại, bắp thịt cường tráng như thuở bốn mươi năm về trước. 
Bốn cô con gái của Pelias (kẻ tiếm ngôi) cũng muốn nhờ Medea làm như vậy cho cha mình. Medea làm bộ ưng thuận và cũng sửa soạn nấu vạc thuốc cải lão hoàn đồng như vậy. Nhưng khi bốn cô con gái được nàng giúp sức cắt cổ cha xong thì Medea lên cỗ xe rồng bay phóng đi mất. Vì việc lừa đảo này của nàng mà Jason không chiếm lại được ngôi báu tại Iolcus. Con trai của Pelias đã buộc chàng phải trốn sang Corinth. Và chính tại nơi đây câu chuyện tình giữa Jason và Medea tới chung cuộc bi thảm.


KHI TẤM MÀN ĐƯỢC VÉN LÊN


Medea và Jason sống với nhau được mười năm. Mười năm nàng Medea sống hạnh phúc bên chồng và hai con trai yêu quý. Vì ba người thân yêu này mà nàng phải xa nhà, xa vua cha và phạm bao tội lỗi. Thế rồi một ngày, khi tấm màn được vén lên khỏi mắt nàng, nàng đã nhìn thấy con người thật của Jason, một con người nông cạn, ích kỷ, bội phản và nhẫn tâm. 
Sau mười năm chung sống, Jason đã chán người vợ xứ Colchis. Chàng say mê con gái vua Creon, vua xứ Corinth. Chàng muốn cưới nàng công chúa Glauce đó. Cho mãi tới ngày cưới chàng mới báo cho Medea hay và xin ly dị cùng nàng. Giờ phút đó tình yêu của nàng đối với Jason đổi ngay sang lòng oán giận vô bờ. Nàng chỉ mong muốn một điều: trả đũa Jason. Trong cơn tức giận, nàng đã vụng về cho chàng biết ý định. Thế là vua Creon sợ nàng sẽ làm hại con gái ông, ông bèn cương quyết hạ lệnh đuổi mẹ con nàng ra khỏi lãnh thổ. Nàng xin ở lại Corinth nhưng Greon nhất định không chịu. Sau nàng chỉ xin ở nán lại một ngày. Nhà vua đành cho phép. Medea thầm nghĩ : “Một ngày đủ rồi, ta sẽ tìm ra cách trả thù. Ta sẽ làm cho lễ cưới của họ thật thảm sầu”. Nàng đang cân nhắc mấy cách trả thù thì Jason tới. Chàng ta nói: “Nàng đã thấy nóng nảy là có hại chưa? Nếu nàng kiên nhẫn chịu đựng ý bề trên thì nàng được ở lại đất này rồi. Giờ đây vì thốt ra những lời xàm báng đó mà nàng bị đuổi đi. Nàng gọi tôi là người hèn nhát, vậy mà tôi vẫn tới đây để xem mẹ con nàng có thiếu thốn gì chăng”. 
Medea trả lời: “Quân vô lại, mi còn tới đây nữa ư? Mi tới đây không phải là để chứng tỏ mi có đủ can đảm đối diện với những người thân của mi sau khi mi đã làm tổn thương họ, mà mi tới đây chỉ vì không còn biết nhục là gì nữa. Nhưng không sao, mi tới cũng được, để tiện đây ta được dịp nói rõ con người của mi”. Thế rồi Medea nhiếc chàng thậm tệ, nhắc lại lời thề của chàng, than thân trách phận không thể về quê nhà và cũng chẳng biết đi đâu. Vì yêu chàng, nàng đã gây thù oán với những người mà lẽ ra chả bao giờ nàng nên đối xử nhầm lẫn như vậy. Nàng nói: “Tôi không có người bạn nào. Chàng thật đáng trách, khi vào đúng giờ hôn lễ của chàng thì vợ con chàng, những người đã cứu chàng, phải trở thành những kẻ ăn mày đi lang thang.” Jason thản nhiên trả lời: “Công cứu mạng tôi, nàng đã được đền bù xứng đáng. Thế nàng đã chẳng được sống ở Hy Lạp thay vì ở hòn đảo man rợ kia ư? Nàng đã chẳng nổi tiếng ư? Chẳng phải tôi ưa thích vợ mới mà hỏi cưới nàng Glauce đâu. Chính vì tôi nghĩ rằng nếu tôi làm rể đức vua đây, mẹ con nàng sẽ được sống sung sướng”.
Medea khóc lóc: “Tôi không hề màng giàu sang phú quý. Tiền của của một tên vô lại không đem lại hạnh phúc”. Rồi nàng đuổi Jason ra khỏi cửa. 
Lát sau nàng hối tiếc, bèn cho gọi Jason lại, vì chàng ta cần cho mưu kế của nàng. Gặp chàng, nàng giả vờ không quan tâm gì đến cuộc hôn nhân nữa. Nàng xin Jason: “Hãy cố nói với nàng Glauce cho hai con ở lại, để một mình tôi đi thôi. Tôi cũng xin tiếp tay với chàng để thuyết phục nàng ấy. Tôi sẽ cho con mang món quà cưới tuyệt đẹp tới tận tay nàng. Đó là một tấm áo bằng thứ hàng đẹp nhất và một chuỗi vòng vàng chạm. Tôi đành hy sinh những bảo vật đó để cho các con khỏi phải sống lưu đầy. Tặng phẩm làm mềm lòng được cả thánh thần và dễ khiến người ta đổi ý hơn trăm ngàn lời nói”.
Tặng phẩm tuyệt mỹ tới tay cô dâu. Nàng sung sướng mặc và đeo vào. Vừa mặc xong, nàng Glauce bỗn xây xẩm. Nàng lảo đảo ngồi phịch xuống ghế. Miệng nàng xủi bọt. Nàng kêu thét rồi chồm lên. Medea đã ngâm tấm áo và chuỗi vòng vàng vào một chất thuốc độc mạnh nhất, giờ đây phát lửa. Nàng Glauce ngã vật xuống, người cháy như ngọn đuốc. Khi cha nàng tới thì nàng đã chết. Nhà vua ôm con khóc lóc, chất thuốc độc ngấm luôn vào da thịt ông ta. Thế là cả hai cha con cùng chết. 
Medea vui sướng khi nghe tin người dắt con nàng về thuật lại. Nhưng còn Jason, nàng chưa làm gì cả. Thì giờ đây chàng ta đến để định cứu hai con vì chàng sợ họ hàng vua Creon sẽ trả thù chúng và cả Medea, mẹ chúng nữa. Trông chàng như người mất hồn. Nhưng chàng tới quá trễ. Hai con chàng đã chết. Chính Medea đã giết những đứa con mà nàng yêu quý để trả thù Jason. Chàng đập cửa nhưng Medea không chịu mởi. Chàng kêu gào: “Hỡi các con yêu, sao các con gặp phải người mẹ tồi tệ đến thế này!” Chàng nghe thấy Medea trả lời: “Không phải tay tôi, mà chính là sự đối xử tàn nhẫn của chàng đối với tôi đã giết chúng”. Jason van xin: “Hãy cho tôi xác các con để tôi đem chôn”.
“Không, tôi sẽ tự tay chôn chúng!”.
Hoàn toàn yên lặng. Rồi bỗng Jason nghe tiếng vi vút trên đầu. Chàng nhìn lên, thấy cỗ xe có rồng phun lửa kéo đi mang nàng Medea trốn khỏi Corinth.


DAEDALUS


Vào thời vua Minos thống trị Crete cùng lực lượng hải quân mạnh mẽ đóng ngoài biển, thì ở thành Athens có một người tên là Daedalus. Chàng ta nổi tiếng là một kiến trúc kiêm điêu khắc gia đại tài. Kiểu gì chàng cũng vẽ được, hình gì chàng cũng đẽo nặn được. Tượng của chàng nặn trông y hệt người sống. Ai ngắm cũng có cảm tưởng rằng những bức tượng đó có thể bất thần vẫy tay, bước đi một bước hoặc mở miệng. 
Chàng có người cháu gọi bằng cậu tên Talus cũng rất có tài. Chị chàng đã cho thằng bé Talus ở với chàng để học hỏi thêm. Nhưng thực sự, Talus vốn có biệt tài mà lại giàu trí tưởng tượng hơn cả Daedalus. Một hôm nó đi chơi trên bờ biển, nó mới lượm được cái xương cá. Ngồi buồn, nó cầm cái xương cá cưa vào miếng cây thấy đứt sâu vào gỗ. Nó mới đem xương cá về nhà bồi thép vào. Thế là nó làm được cái cưa. Lần khác, nó buộc hai thanh sắt vào một đầu. Nó cắm một thanh xuống đất và quay từ từ thanh kia chung quanh thành một vòng tròn. Thế là nó phát minh được cái com-pa.
Talus là một học trò khiến thầy nào cũng phải kinh ngạc và hãnh diện. Nhưng Daedelus thì không. Thấy cháu giỏi, chàng ta lấy làm sợ hãi và ghen ghét. Chàng ta nghĩ: “Talus sẽ vượt ta tới nơi!”. Thế là chàng sinh lòng muốn hãm hại thằng bé. Một hôm hai cậu cháu trèo lên núi cao, Daedalus bèn đẩy cho Talus té xuống chết. Chàng không định trước như vậy, mà chỉ do một động lực điên rồ xảy đến bất thần. Giây phút sau chàng quá sợ, vội chạy xuống kiếm thằng bé nhưng trễ rồi, Talus đã chết. Daedalus có tài khéo tới mấy cũng không làm Talus sống lại được nữa. Bây giờ để cứu chính mạng mình, Daedalus phải đi trốn. Chàng bỏ Athens, đi lang thang rồi vượt biển tới Crete.
Vua Minos vui vẻ đón nhận Daedalus. Nhà vua đã có ngay ý định nhờ đến tài của chàng. Vua có một con quái vật đáng sợ, từ đầu tới vai là bò mộng, mình và chân là người. Con vật tên là Minotaur (Con bò mộng của Minos). Vua muốn có một chỗ để nhốt con vật này. Ngôi nhà đó phải xây thế nào để cả con Minotaur lẫn những nạn nhân bị đem vào cho nó ăn thịt đều không trốn ra được. 
Nhà vua ngỏ ý đó với Daedalus. Chàng liền vẽ kiểu toà mê cung Labyrinth. Nơi đây có một hệ thống lối đi cực kỳ rắc rối. Đường đi thật quanh co, chạy vòng quanh để rồi chả dẫn đến đâu cả. Đã bước chân vào Labyrinth thì đành chịu không sao tìm được lối ra. Ngay cả Daedalus đã có lần xuýt lạc.
Vua Minos hài lòng về toà mê cung này lắm và hết sức chiêu đãi Daedalus. Nhưng chàng chẳng sung sướng gì vì chàng cảm thấy mình như một tên tù nhân ở đảo Crete. Nhà vua sợ chàng tiết lộ bí mật về toà mê cung nên đã không cho phép chàng ra khỏi đảo. Chính vì lý do đó mà chàng lại càng mong mỏi ra đi. Chàng thèm khát nhìn đàn chim tung cánh bay. Một hôm, chàng chợt nảy ra một ý nghĩ khi ngắm nhìn đàn chim biển bay lượn trên mặt đại dương: “Vua Minos cấm ta đi đường bộ hay đường thuỷ nhưng không cấm ta bay đi được.”
Thế là chàng bắt đầu học cách chim bay và quan sát xem cánh chim được làm như thế nào. Chàng ngắm những con chim sơn ca xếp cánh lại ra sao, tung cánh ra như thế nào, chúng cất cánh như thế nào, chúng bay từ trên cây xuống ra sao, cả cách chúng bay đi bay lại nữa. Chàng ngắm những con đại bàng bay vút lên rồi nhào xuống đất. Chàng cũng quan sát xem lông được xếp ra sao. Chỗ lông nào to, chỗ nào lông nhỏ. Khi chàng đã nắm vững được bí mật của sự bay, chàng mới đi lượm lông chim đủ cỡ, rồi ngồi trong phòng kín, chàng bắt đầu kết cánh. Thoạt tiên chàng xếp một hàng lông tơ, rồi tới một hàng lông lớn hơn, phủ lên hàng lông tơ, rồi tới hàng lông lớn hơn chút nữa. Cứ xếp thế cho đến khi thành một cái cánh. Chàng lấy dây buộc ở giữa những lớp lông, còn ở dưới thì chàng phết sáp. Xong rồi chàng uốn cái cánh hơi cong một chút cho giống cánh chim thật. Thằng con trai của chàng tên Icarus luôn luôn đứng bên xem cha nó làm. Nó nhặt lông chim bay cho cha nó. 
Khi Daedalus làm xong đôi cánh, chàng bèn lắp vào người. Chàng tung người lên rồi bay lượn lờ trên không trung. Chàng vỗ cánh như đã ngắm chim làm và thế là chàng bay được cao. Thằng Icarus vỗ tay reo mừng. Nó bèn đòi cha nó làm cho một đôi cánh nữa. Daedalus làm cho con một đôi rồi dạy con bay. Chàng dặn con: “Nghe lời cha dặn đây, con không được lơ đãng. Hãy khôn ngoan, đừng táo bạo. Bay ở đúng giữa khoảng trời và đất. Nếu con bay cao quá, mặt trời sẽ đốt cháy cánh con. Nếu con bay thấp quá, nước biển sẽ làm ướt cánh con. Cứ bay theo cha.” Chàng vừa buộc cánh cho con, vừa dặn dò nó. Tay chàng run run khi nghĩ tới cuộc mạo hiểm sắp tới. Tuy dặn dò con mà chàng vẫn còn lo. Trước khi cha con cất cánh, chàng hôn con mà nước mắt chảy đầm đìa. Chàng dặn con lần cuối: “Con phải nhớ lời cha và hãy bay gần cha!”.
Rồi chàng cất cánh. Icarus theo sau. Daedalus luôn luôn canh chừng con. Trời còn sớm, mới có ít người ra ngoài, nhưng cũng đã có vài bác nông phu và mấy người đánh cá nhìn thấy họ. Đám người chất phác đó nghĩ: “Chắc các thần thánh đây!”. Rồi họ vội cúi đầu kính cẩn. 
Hai cha con chàng bay trên đại dương. Daedalus không còn lo lắng về con nữa vì thằng bé bay giỏi như chim. Hai đảo Delos và Paros lùi sau họ. Đảo Calymne có nhiều mật ong ở bên tay mặt họ. Giờ đây Icarus bắt đầu muốn trổ tài. Nó muốn bay vút lên rồi nhào xuống. Hồi hộp biết mấy khi vút lên thật cao rồi khép cánh lại nhào xuống nhanh như chớp rồi lại xoè cánh ra bay vút lên. 
Icarus thử mấy lần, mỗi lần lại bay cao hơn. Rồi nó quên cả lời cha nó dặn mà bay tít lên thượng tầng. Thằng bé nghĩ: “Đại bàng cũng chả bay cao được thế này. Ta thật giống như vị thần sống ở thượng giới”. Nó vừa nghĩ tới đó thì thấy một giòng nước ấm chảy trên vai. Thì ra vì nó bay gần mặt trời quá nên lớp sáp phết dưới đôi cánh chảy ra. Nó cảm thấy người nó đang lao vút xuống. Sợ quá, nó kêu cứu: “Cha ơi, cứu con, con ngã này!”. Nó kêu cứu mà vẫn bị lao xuống mặt biển sâu thẳm và xanh biếc. Từ đó, vùng biển này được gọi là biển Icarian. Daedalus hốt hoảng gọi con, chàng nhìn tứ phía, rồi chàng nhìn xuống biển thấy từng đám lông chim bập bềnh trên ngọn sóng. Chàng biết rõ cơ sự rồi. Chàng đậu xuống một hòn đảo gần nhất. Chàng đấm ngực, rứt tóc, kêu gào khóc lóc :”Con ơi, Talus nó cũng ngã như thế đó. Thần thánh đã trả thù cho nó!”. Rồi chàng tháo cánh ra dẫm nát lên. Mấy ngày sau, xác Icarus giạt vào bờ. Daedalus chôn xác đứa con duy nhất trên đảo và từ đó đảo này mang tên Icarus.


THESEUS VÀ CON QUÁI VẬT ĐẦU BÒ MÌNH NGƯỜI ĐÔI DÉP VÀ THANH KIẾM. 


Người cháu trai của vua Pittheus ở xứ Troezen sống trong lâu đài vua. Chàng tên là Theseus rất can đảm, khoẻ và đẹp trai. Thiên hạ thường nói về chàng “Sao mà chàng Theseus đẹp và cao quý thế? Không biết có phải thần Poseidon là cha chàng không?”
Chàng sung sướng khi nghe thiên hạ đồn chàng là con thần thánh. Sung sướng là phải vì như thế chàng sẽ giống người anh họ của chàng tên là Heracles. Theseus rất sủng mộ Heracles, người anh hùng mà đâu đâu cũng biết tiếng. Chàng thường tự nhủ: 
“Ta sẽ giống Heracles, ta sẽ giết dã thú, những tên khổng lồ, cùng những kẻ xấu xa độc ác”. Nhưng chàng đã rất buồn khi hay biết được cha chàng không phải là thần thánh gì cả mà chính là vua Aegeus của thành Athens. Chàng vén được màn bí mật vì chuyện sau đây.
Những năm về trước, cứ đến ngày sinh nhật chàng, mẹ chàng là công chúa Aethra lại đem chàng ra tảng đá lớn rồi bảo chàng: “Con thử đẩy tảng đá này sang một bên đi”.
Lần nào chàng cũng cố hết sức nhưng không tài nào đẩy được. Đến ngày sinh nhật thứ 18, chàng đã đẩy được tảng đá. Dưới tảng đá là một cái lỗ, trong đó có một thanh kiếm chuôi vàng và một đôi dép thêu. Mẹ chàng nói : “Thanh kiếm và đôi dép này của cha con. Bây giờ là của con đấy. Hãy cầm lấy”.
Rồi mẹ chàng kể cho chàng nghe cuộc hôn nhân bí mật của mẹ chàng với vua Aegeus. Khi chia tay, cha chàng đã dặn mẹ chàng nếu sinh con trai thì khi con lớn lên, tất đẩy được tảng đá. Hãy bảo con đem hai vật dấu dưới là thanh kiếm và đôi dép tới thành Athens để nhận cha. Nghe xong, chàng Theseus lập tức đeo kiếm mang dép dự tính đi Athens ngay.
Nhưng vua Pittheus vội cản : “Để ông cho cháu một chiếc thuyền và đoàn tuỳ tùng vì đường nhiều cướp lắm.” Theseus không chịu nghe, chàng nói với ông: “Cháu sẽ đi bằng đường bộ. Anh Heracles cháu nổi tiếng khắp Hy Lạp. Còn cháu, cháu cũng phải ra tay giết cướp chứ.” Theseus nói mãi ông chàng đành chịu nghe. Thế là chàng lên đường một mình. 
TRÊN ĐƯỜNG TỚI ATHENS
Chàng Theseus đang đi trên đường tâm trí mải mê nghĩ về thành Athens cùng những công việc lớn lao thì một tên cướp đường ẩn sau lùm cây vụt xuất hiện. Hắn choàng chiếc áo da gấu, tay cầm cái dùi bằng sắt. Hắn đứng chắn giữa đường, tay khua dùi sắt, miệng nạt nộ. Chàng Theseus cứ tiến bước. Chàng xông tới kẻ địch, hét: “Ta sở dĩ đi đường này chỉ cốt để giết lũ mi!” Qua vài hiệp, chàng đã giết được tên cướp. Chàng tước lấy cái dùi rồi đeo vào người. Chàng giết thêm được ba tên cướp đường nữa thì tới dòng sông Cephisus gần Athens. Tới đây, chàng gặp một tên vô lại thật nguy hiểm. Tên này ăn mặc bảnh bao nói năng lịch thiệp. Nếu không may thì chắc chàng đã chết về tên này rồi. Thấy chàng, tên đó mời ngay: “Xin mời ông khách quý tới tệ xá dùng bữa. Khách nào qua đây, tôi cũng nhất định xin mời như vậy”. Theseus vội từ chối: 
“Cám ơn ông lắm, nhưng tôi hơi vội”. Nhưng tên kia cứ nắm lấy chàng lôi đi. Theseus không muốn làm buồn người hiếu khách nên bất đắc dĩ phải theo hắn về nhà. Khi ngồi vào bàn, có người gọi tên chủ vô phòng. Thừa dịp đó, tên bồi rót rượu vôi rỉ tai Theseus :”Này chàng trai trẻ, hãy trốn ngay khỏi nơi này đi! Chủ tôi là tên tối nguy hiểm. Ông ta sẽ bắt cậu ngủ ở chiếc giường sắt nổi tiếng của ông ta. Khi cậu ngủ say, ông ta sẽ trói chặt cậu vào giường. Nếu cậu cao quá mà nằm thừa chân, ông ta sẽ cắt chân cậu cho vừa. Nếu cậu thấp mà nằm còn dư giường thì ông ấy sẽ kéo dài chân cậu cho vừa cái giường mới thôi. Ông chủ tôi chính là Procrustes biệt hiệu là “người kéo co” đấy. Theseus không nói gì, chàng cầm ngay cái dùi sắt xông và bắt Procrustes nằm cho vừa cái giường của hắn.


THEUSEUS GẶP VUA CHA


Tin chàng anh hùng đang đi du lịch truyền thật nhanh. Vua Aegeus đã biết có một chàng trai can đảm đang từ Troezen du lịch tới Athens. Nhưng vua không ngờ đó chính là con ngài, cho nên vua lo lắng chờ đợi, vì thành Athens đang lúc lộn xộn mà vua thì lại không có con để nối dõi. Nhà vua nghĩ “Dân chúng dám phong hắn làm vua thay ta”. 
Vợ của vua Aegeus không phải ai xa lạ mà chính là nàng Medea, người đã trả thù chàng Jason cay độc. Hồi đó nàng đã dùng xe rồng kéo chạy trốn tới Athens. Ở đây, nàng gây được ảnh hưởng lớn với vua Aegeus và vị vua lớn tuổi này cuối cùng chịu cưới nàng. Nàng dư biết Theseus là ai. Chính nàng cũng sợ chàng tới. Nàng nghĩ: “Khi đã có con bên cạnh, tất nhiên vua sẽ không nghe lời mình như cũ nữa”. Rồi nàng nói với vua: “Chúng ta hãy đầu độc tên Theseus đó, bởi tôi biết chắc rằng hắn tới để hại chúng ta”. 
Khi Theseus tới nơi, vua tiếp đón lịch sự, tạm quên ý định xấu xa kia đi. Còn về phần Theseus thì chàng nóng lòng lắm. Chàng chỉ muốn nhận vua cha ngay nhưng chàng lại muốn chính vua cha nhận ra được chàng mà không cần bằng chứng. Cho nên chàng không tiết lộ gì vội và chỉ nhận sự tiếp đón của vua như những anh hùng khác. 
Sáng hôm sau, Theseus ngồi vào bàn ăn cạnh vua cha. Trước mặt chàng là một ly rượu nho có pha thuốc độc. Theseus không để ý đến ly rượu mà chỉ hướng về vua cha. Chàng mỉm cười chờ đợi hy vọng được cha nhận ra. Nhưng vua chẳng tỏ dấu hiệu gì, chàng đành để thanh kiếm lên bàn. Nhà vua thốt kêu lên khi nhận ra thanh kiếm, vội với tay hất đổ ly rượu. Rồi vừa khóc, nhà vua vừa ôm chặt lấy con, nắn từng bắp thịt rắn chắc của chàng rồi hôn lên má chàng. Thấy cảnh đó, nàng Medea tự biết nàng chẳng còn gì mà ở đây nữa. Thế là một lần nữa, nàng lại dùng cỗ xe rồng kéo để ra đi.


CON QUÁI VẬT MINOTAUR


Vua Aegeus vừa được hưởng niềm vui nhận ra con thì người cũng lại nhận được tin buồn. Đó là tin từ Crete đưa tới đòi vua phải giữ lễ tế lần thứ ba sau mỗi chín năm. 
Nguyên do vì trước kia con trai vua Minos ở Crete lên là Androgeos tới Athens dự giải thể thao. Chàng ta đã thắng tất cả các trận đấu. Vua Aegeus căm giận, cho mưu sát Androgeos. Thế là vua Minos gây chiến. Ông ta đem một đoàn chiến thuyền rất mạnh áp đảo Athens đến nỗi cuối cùng vua Aegeus phải chịu cầu hoà với bất cứ điều kiện nào. Và điều kiện thật cay nghiệt: đó là một lễ tế gồm bảy thanh niên và bay thiếu nữ mang tới dâng cho con quái vật Minotaur sống ở toà mê cung Labyrinth. 
Theseus nhận thấy rằng dân thành Athens rất oán cha chàng về chuyện này. Thế là chàng xin đi. Vua Aegeus hoảng sợ, vội can: “Con đừng đi. Nạn nhân sẽ được chọn bằng cách bốc thăm. Hãy chờ chừng nào tới lượt con. Cha con mình mới gặp nhau mà!”
Nhưng Theseus cứng rắn như đá. Chàng nói: “Con cương quyết là một trong mười bốn nạn nhân”. Vua đành chịu. Và chàng cùng mười ba nạn nhân nữa xuống con tầu định mệnh. Vua cha khóc ngất. Chàng an ủi cha: “Xin cha đừng khóc lóc. Vạn sự do trời định. Có thể là con sẽ giết được con quái vật. Và chiếc tầu này sẽ quay về toàn vẹn. Nếu được vậy, cha sẽ hay tin từ xa mà. Con xin hứa nếu giết được quái vật Minotaur, con sẽ cho treo buồm trắng để thay những chiếc buồm đen tang tóc này”.
Thế rồi tầu ra khơi, hướng về Crete. Tới Cnossos, kinh đô của đảo Crete, dân đảo này đã đứng đầy đường để xem những nạn nhân thành Athens sắp sửa bị con Minotaur xé xác. Đám nạn nhân bị riễu cợt rồi đưa tới trước lâu đài vua. Mọi người trong lâu đài đổ ra xem, trong số đó có cả công chúa Ariadne, con gái vua Minos. Nàng chỉ để mắt nhìn một nạn nhân là chàng Theseus. Chàng ngẩng đầu cao, chân bước đều, mắt nhìn thẳng. 
Nàng công chúa cảm thấy yêu chàng ngày. Nàng tự hứa : “Chàng không thể chết được!”
Tới đêm, công chúa Ariadne vội lẻn ra khỏi lâu đài, tới gặp đám nạn nhân. Nàng nói nhỏ với Theseus: “Tôi không phải là kẻ thù của chàng đâu. Tôi sẽ giúp chàng”. Nói đoạn nàng rút trong áo ra một thanh gươm sáng loáng, đặt vào tay chàng. Chàng vội cầm lấy dấu trong áo rồi nói: “Bây giờ thì mặc sức cho con Minotaur gào thét! Xin cám ơn nàng, mong rằng tôi được sống để trả ơn nàng!”. Thế là nàng công chúa ngỏ tình. Chàng cũng vội hứa sẽ cưới nàng làm vợ. Nàng say sưa nói: “Nhất định chúng ta sẽ lấy nhau. Nhưng còn điều này nữa, nếu không thì cây kiếm cũng đến thành vô dụng vì chàng sẽ không thể tìm được lối ra, đường đi quanh co lắm, mê chung Labyrinth này do chính một người ở quê chàng tên là Daedalus xây lên đấy. Bây giờ chàng hãy cầm lấy cuộn chỉ này, hãy buộc đầu chỉ ở cửa vào, đi đến đâu gỡ chỉ tới đó. Lúc trở ra chàng cứ cuộn chỉ vào là thấy lối.”
Thế rồi chàng anh hùng Theseus gặp con quái vật trong cùng thẳm mê cung Labyrinth. Chàng xông vào đánh con quái vật. Sau vài hiệp, chàng đã hạ được nó. Chàng bèn cuộn chỉ tìm đường ra. Không thể kể xiết nỗi vui sướng khi chàng gặp lại các bạn. Họ tíu tít bàn chuyện trở về. Rồi họ vội vã ra chỗ tàu đậu. Nơi đó nàng Ariadne đang lo lắng chờ đợi họ. Theseus mang theo Ariadne lên tàu rồi tất cả vội vã giương buồm lặng lẽ rời khỏi cảng. Dân Crete không hay biết gì cả vì bấy giờ còn rất sớm. Trên đường về mọi người tạm dừng lại ở đảo Naxos. Ariadne đã bị Theseus bỏ rơi trên đảo này vào lúc nàng còn thiêm thiếp giấc nồng. Tương truyền không phải Theseus cố tình bội bạc mà là vì trong giấc mơ chàng đã được thần Minerva truyền bảo hãy nên làm vậy*.
Chú thích: Hiện ở điện Vatican (Ý) có bức điêu khắc tuyệt hảo về nàng Ariadne vào lúc nàng đương thiêm thiếp giấc nồng trên đảo Naxos này. Và tại viện bảo tàng nghệ thuật Athenaeum ở Boston (Hoa Kỳ) có được bản sao. 
Có chuyện kể tiếp rằng nàng Ariadne về sau phát điên cuồng mà chết trên bãi biển đảo Naxos. Nhưng cũng có chuyện kể rằng thần Bacchus, thần của đảo Naxos, đã kết duyên cùng nàng công chúa bất hạnh đó và có với nàng khá nhiều con.
Trở lại truyện vua Aegeus, trong suốt thời gian chờ đợi ở Athens , ngày nào nhà vua cũng trèo lên mỏm đá ngoài bờ biển, rõi mắt nhìn về phía đảo Crete. Sau cùng nhà vua chết lặng người khi nhìn thấy chiếc tàu với những cánh buồm đen. Vì quá vui sướng, chàng Theseus đã quên không cho thay buồm trắng! Đấng phụ vương đau khổ kêu gào: “Con ta đã chết, ta còn sống làm gì?” Đoạn gieo mình xuống biển tự vẫn. Từ đó biển này được đặt tên là biển Aegeus.


OEDIPUS 
VUA BỊ GIẾT


Vua Laius cai trị xứ Thebes lo buồn lắm vì có lời sấm dạy rằng nhà vua sẽ bị giết bởi chính con trai của mình. 
Vua đã cầu nguyện đêm ngày xin đừng có con. Nhưng thần thánh không nghe, hoàng hậu sinh hạ một hoàng tử. Sinh xong, vua và hoàng hậu bàn nhau : “Thà giết đứa con này đi còn hơn sau này để nó giết cha nó”.
Thế rồi vua Laius mới chọc thủng mắt cá chân đứa bé rồi xâu dây da buộc hai chân vào với nhau, đem thằng bé cho người chăn cừu, bảo người đó phải bỏ thằng bé vào vùng núi Cythaeron.
Người chăn cừu bế thằng bé đi. Nhưng người đó không nỡ làm theo lệnh vua, mới dấu diếm đem đứa bé đi gửi người anh cũng chăn cừu, nhưng là chăn cừu cho vua Polybus ở xứ Corinth. Đến lượt người chăn cừu này lại đem thằng bé cho vua Polybus vì nhà vua không có con. Vua Polybus cưng đứa bé như con đẻ và đặt tên là Oedipus – thằng bé chân xưng.
Oedipus lớn lên thành một chàng trai khoẻ, đẹp. Chàng tin chắc rằng vua Polybus là cha và hoàng hậu Merope là mẹ chàng. Nhưng một hôm ở tiệc rượu, một chàng trai ghen tức với Oedipus mới chế riễu chàng: “Anh tưởng anh thuộc dòng dõi vương giả đấy hả? Anh không phải là con đẻ của vua Polybus đâu!”
Oedipus không nói năng gì. Chàng buồn bã suốt ngày hôm đó. Cho tới sáng hôm sau, chàng nhất định gặp vua cha để hỏi sự thật. Vua cố gắng trấn an chàng, nhưng chàng vẫn ngờ vực. Cuối cùng chàng tự quyết định : “Ta sẽ tới Delphi hỏi thần Phoebus Apollo xem ta có thật là con đẻ của vua Polybus không”. Rồi chẳng nói gì với ai, chàng cứ thế lên đường. 
Chàng sửng sốt khi nghe lời sấm dạy. Lời sấm không trả lời câu của chàng hỏi mà lại tuyên đoán một chuyện khủng khiếp : “Nhà ngươi sẽ giết cha rồi lấy mẹ”
Nghe xong chàng quyết tự nhủ:
“Không, không bao giờ ta làm vậy! Thôi tốt hơn hết ta đừng nên quay về gặp cha mẹ nữa.” Rồi chàng đi Boeotia.
Chàng vừa rời khỏi Delphi được một quãng thì tới ngã ba đường. Có một xe ngựa chở năm người đi tới phía chàng. Một người cao tóc hoa râm, một người đem tin, một người lái xe, còn hai người kia là quân hầu. Người đánh xe hét bảo chàng:
“Hãy dẹp sang bên, tên kia!” Chàng là hoàng tử, lại nóng tính, xưa nay chưa biết nhường lối cho ai, mới nổi cáu với tên đánh xe hỗn xược. Thấy thế ông già ngồi trên xe cầm chiếc gậy nhọn bổ vào đầu Oedipus. Thế là chàng nổi nóng. Chàng giơ cao chiếc gậy chàng vẫn cầm theo đập lại ông già khiến ông ta té nhào xuống. Sau đó chàng chống trọi với ba tên và giết chết cả ba. Còn một tên quân hầu thì chạy thoát.
Chàng Oedipus không bao giờ ngờ rằng một phần sấm truyền đã đúng. Vì ông già ngồi trong xe đó chính là vua Laius ở Thebes. Lúc đó vua đang trên đường tới Delphi để cầu thần Apollo. Vua chết ngay khi ngã xuống nên cũng không còn thì giờ để nghiệm rằng lời sấm dạy khi xưa mà vua hết sức tránh đã xảy ra thật.


CÂU ĐỐ CỦA CON QUÁI VẬT ĐẦU NGƯỜI MÌNH SƯ TỬ SPHINX 


Ít lâu sau lại một tai họa nữa xảy đến cho xứ Thebes. Một con quái vật đầu người , mình sư tử chuyên ăn thịt những người đi qua mỏm đá , nơi nó ẩn . Con quái vật này học được một câu đố khó . Nó đem câu này đố tất cả những người đi qua . Ai không trả lời được – cho tới lúc đó chưa có ai trả lời được cả – bị nó xé ra từng mảnh ăn thịt.
Sau khi vua Laius bị giết , người em của hoàng hậu Jocasta tên là Creoh lên cai trị xứ Thebes. Nhưng từ khi con trai ông ta là nạn nhân của con Sphinx thì ông ta không còn thiết gì cai trị nữa . ông ta cho rao đi khắp nơi là hễ ai giết được con quái vật Sphinx thì sẽ làm vua xứ Thebes và lấy hoàng hậu Jocasta . 
Tin loan ra vào đúng chàng Oedipus tới Thebes . Chàng tới bằng lối khác nên đã không gặp con Sphinx . Nghe tin này chàng tự nhủ : “ Lời sấm như vậy thì đời ta đâu có đáng sống gì ?” Thế là chàng xông đi tìm con quái vật . Chàng trông thấy nó từ xa . Không ngần ngại , chàng tiến lại gần , gọi to :” Hãy đố ta đi , ta sẽ cố gắng trả lời !” Con quái vật đố ngay :
“ Con vật nào buổi sáng đi bằng bốn chân , buổi trưa đi hai chân , buổi chiều đi ba chân ?”
Oedipus trả lời liền : “ Người ta ! Buổi sáng là khi còn nhỏ , người bò bằng cả hai chân hai tay ; buổi trưa , khoảng giữa của cuộc đời , người đi bằng hai chân ; buổi chiều tức là khi già yếu, người phải chống thêm một cái gậy để đi , đó là cái chân thứ ba . “ Nghe xong con quái vật kêu thét lên và nhào xuống đất chết nát thây. 
Thế là Oedipus lên ngôi vua xứ Thebes và lấy hoàng hậu Jocasta . Lời sấm đúng hoàn toàn : chàng đã lấy mẹ !


ÔNG THẦY BÓI MÙ TIRESIAS


Đã bao năm qua đi ! Vua Oedipus sinh được bốn con , hai trai hai gái . Vua vừa giàu, vừa nổi tiếng và được mọi người kính trọng . Xứ Thebes thịnh vượng hơn bao giờ . Không ai nghĩ tới vua Laius nữa và cái chết của ông vẫn trong vòng bí mật .
Nhưng giờ đây thành Thebes lại gặp nạn , một bệnh dịch đang lan tràn dữ dội , già trẻ chết như rạ . Cây cối bị trùng ăn chết rụi . Ngoài đồng cỏ , những đàn cừu bị đói rồi bị bỏ hoang . Cả thành phố ngát mùi nến hương cùng tiếng cầu nguyện vang lên xen lẫn với tiếng than khóc đau thương . 
Các thầy tu bèn tâu với vua Oedipus : “Chắc chắn đây là hình phạt một tội nặng . Ngài hãy sai người đi Delphi hỏi thần Apollo xem sự thể ra sao.”
Oedipus nghe lời , bèn sai em vợ là Creon đi Delphi. Creon trở về với câu trả lời của thần Apollo : “ Một kẻ tội lỗi đang ở trên đất này . Kẻ giết vua Laius phải được tìm thấy để nhận sự trả thù”. Nghe xong vua Oedipus tuyên bố :” Ta sẽ cố để tìm cho ra kẻ sát nhân đó .” Rồi nhà vua mới hỏi cặn kẽ việc cũ . Vua hỏi Creon : “ Sao ngay hồi đó không tìm cho ra kẻ sát nhân ?” Creon trả lời :” Vì con quái vật Sphinx đã làm chúng tôi quên hết cả . Hồi đó chúng tôi chỉ lo tìm cách trừ quái vật Sphinx thôi .”
Oedipus nói :” Tôi sẽ bắt đầu lại từ đầu .” Rồi vua nói với quân dân :” Ai biết được tên sát nhân, hãy cho ta biết. Đừng sợ hãi gì, vì tên đó chỉ bị đuổi khỏi xứ thôi. Còn nếu biết mà dấu diếm , ta sẽ trừng trị nặng. Ta cấm mọi người không được chứa chấp tên đó , cũng không được cho hắn dự lễ cầu nguyện hay lễ tế. Ta long trọng hứa một lần nữa rằng hễ bắt được tên sát nhân đó , ta chỉ đuổi hắn ra khỏi xứ thôi . Và ngay với chính ta đây , nếu ta biết được , dù đó là người thân , ta cũng sẽ xử y như vậy.” 
Nghe xong , một người dân lên tiếng :” Thần Phoebus có thể cho chúng ta biết kẻ giết người kia !”
Oedipus trả lời :” Nhưng không ai buộc được thần thánh phải nói.”
“ Vậy thì hãy hỏi ông thầy bói mù Tiresias.”
Oedipus trả lời :” Ta đã cho gọi hai lần , nhưng sao ông ta chưa tới .”
Nhà vua vừa dứt lời thì một thằng bé dắt người thầy bói tới. Nhà vua bèn hỏi ngay về câu trả lời của thần Apollo . Vua khích lệ người thầy bói mù :” Hãy dùng hết quyền phép vén màn bí mật lên. Hãy cứu cả thành phố , cả tôi , cả chúng ta. Vì tất cả hiện trông cậy ở ngươi.”
Tiresias nói : “ Nếu thế thì hãy để tôi về . Tốt hơn hết xin đưa tôi về .”
Oedipus vội kêu lên: ”Vì lòng kính mến thánh thần , xin đừng làm ngơ nếu người biết rõ sự thật!”
Nhưng người thầy bói mù không chịu tiết lộ, ông ta nói :” Rồi tương lai sẽ trả lời .”
Tới đây vua Oedipus nổi giận dọa nạt. Vậy mà cũng không lay chuyển nổi Tiresias. Bấy giờ vua mới nói trắng ra :” Tôi nghĩ sao nói vậy , ông có vẻ như đã nhúng tay vào vụ giết người đó . Nếu ông tinh mắt , thì tôi đã đoán chắc rằng chính ông là thủ phạm.”
Đến đây thì Tiresias không nhịn được nữa, bèn nói :” Ngài nghĩ vậy ư ? Thì đây , theo lệnh ngài , tôi xin nói sự thật : Chính ngài là thủ phạm ! Hiện ngài đang ăn ở với người thân nhất của ngài!”
Oedipus điếng người , và chỉ còn biết giải lời kết tội đó bằng một đường duy nhất :
“Rõ ràng ngươi mù cả mắt lẫn tâm trí , ngươi đã nhận tiền của Creon để xua ta xuống ngôi .”
Tiresias bèn đáp lại: ”Dù ông là vua , tôi cũng có quyền trả lời . Xin nói để ông nghe đây : ông chế riễu sự mù loà của tôi, ông đâu biết có mắt như ông mà chẳng nhìn thấy sự khổ hạnh của chính mình, chẳng biết đang sống ở đâu , đang sống với ai. Tất cả Cithaeron sắp vang lên tiếng kêu của ông khi ông hay biết cuộc hôn nhân của mình . Cứ việc rủa tôi và Creon đi , nhưng rồi sẽ không ai khốn khổ bằng ông. Giờ đây ông sáng mắt , sau đây ông sẽ mù , giờ đây ông giàu có , sau đây ông sẽ là kẻ ăn mày , ông sẽ chống gậy dò dẫm bỏ xứ mà đi .” Nói xong những lời cay đắng , Tiresias bỏ đi.


MÀN BÍ MẬT ĐƯỢC VÉN LÊN


Hay tin bị Oedipus kết tội, Creon vội chạy tới minh oan . Nhưng Oedipus nhất định không tin , và dọa sẽ đuổi Creon ra khỏi xứ , có thể sẽ giết Creon nữa. Nếu hoàng hậu Jocasta không kịp cản ngăn thì chắc Oedipus đã làm thật. Jocasta hỏi Oedipus vì sao có cuộc cãi cọ này. Oedipus trả lời : “ Hắn nói rằng trẫm có tội trong vụ giết vua Laius và xúi tên Tiresias kết tội trẫm.”
Jocasta vội khuyên: ”Hãy bình tâm , bệ hạ dư biết bọn thầy bói mù đâu biết gì. Đã có lần sấm dạy Laius rằng ông ấy sẽ chết về tay chính người con trai. Nhưng khi tôi sanh đứa bé ra, Laius đã ghim chân đứa nhỏ rồi sai ném xuống triền núi rồi . Sau ông ấy bị quân cướp giết ở ngã ba đường đấy chứ . Vậy lời sấm có đúng đâu “. Nghe tới đó , tim Oedipus muốn ngừng đập. Vua vội hỏi lại: ” Laius bị giết chỗ ngã ba ư ; Ở đâu ? Hồi nào ?”
Jocasta trả lời: ”Chỗ đó gọi Phocis, đường đi Delphi và Daulia gặp nhau ở đấy. Chuyện đó xảy ra ít lâu trước khi bệ hạ trị vì xứ này “.
Oedipus kêu lên: ”Hỡi thần Zeus, ngài đã truyền con làm gì ?” Jocasta lấy làm lo lắng hỏi: “Sao chuyện này khiến bệ hạ buồn lo quá vậy”
- “Thôi đừng hỏi ta nữa. Hãy cho ta biết Laius cao bao nhiêu và bao nhiêu tuổi?”
- Ông ấy cao, tóc đã ngả bạc, vóc dáng không khác bệ hạ là mấy.
- “Hãy nói thêm một điều nữa. Có phải ông ấy đi với những người có mang khí giới phải không?”
- “Phải, tất cả năm người.” 
- “Thế ai mang tin về cho nàng?”
- “ Một tên hầu, tên duy nhất sống sót.” 
- “Hãy gọi hắn tới đây”.
- “Rồi hắn sẽ tới. Nhưng thiếp muốn biết điều gì đã khiến bệ hạ lo buồn quá vậy?”
Oedipus mới kể cho hoàng hậu nghe chuyện Oedipus đi Delphi hỏi thần Apollo xem cha mình là ai, đã nhận lời sấm như thế nào và đã gặp năm người trên cỗ xe, rồi giết chết bốn chỉ còn một người chạy thoát. Oedipus nói tiếp : 
“Nếu quả người đó là vua Laius, thì còn ai khốn nạn hơn người đứng trước mặt nàng? Liệu trên đời này còn ai đáng ghét hơn? Rồi tôi lại lấy vợ của người tôi đã giết. Tôi sẽ bị đày ải. Tôi sẽ không thể trở về với cha mẹ tôi trừ phi tôi phải giết cha tôi là vua Polybus và lấy mẹ tôi là hoàng hậu Merope”.
Oedipus vẫn chưa nhìn ra sự thật. Chàng vẫn còn bám víu vào hy vọng rằng có lẽ chàng không giết vua Laius. Chàng nói: “Kẻ trốn thoát kể rằng vua Laius bị cướp giết. Nếu tới đây hắn cũng nói thế, thì chắc không phải tôi rồi.”
Jocasta lại an ủi Oedipus: “Bệ hạ hãy an tâm. Hắn không nói khác đâu. Cả tỉnh đã nghe chuyện đó, không phải một mình thiếp”.
Đúng lúc này, một sứ giả từ Corinth tới báo tin vua Polybus đã chết, dân chúng muốn tôn Oedipus lên nối ngôi. 
Nghe tin, hoàng hậu Jocasta vui mừng bảo đám nữ tỳ: “Các ngươi hãy đi thật nhanh báo cho đức vua biết tin này. Giờ đây ngài sẽ thấy lời sấm nào có đáng tin! Polybus là người mà ngài cứ sợ phải giết thì giờ đã chết tự nhiên”.
Oedipus quả thật có nhẹ nhõm cả người khi nghe tin vua Polybus chết vì bệnh già. 
Nhưng Oedipus vẫn còn ngờ vực và vẫn sợ về Corinth vì còn hoàng hậu Merope. Lời sấm chẳng đã tiên tri chàng phải cưới mẹ ư? 
Biết vậy, người sứ giả mới nói với Oedipus: “Vì sợ thế mà ngài đã phải rời khỏi xứ Corinth ư? Vậy xin ngài khỏi phải sợ hãi gì nữa. Vua Polybus không có liên hệ máu mủ gì với ngài hết. Ông ấy không phải là cha ngài. Chính tôi đã đem ngài biếu ông ấy. Chính tôi đã cứu ngài, đã cởi dây xâu qua mắt cá chân ngài.”
Oedipus còn kinh ngạc khi hay người này đã nhận chàng từ tay một người chăn cừu khác (người đó là đầy tớ của vua Laius) mới vội hỏi rằng: “Người đó còn sống không? Tôi có thể gặp người đó được không?”
- “Được chứ. Người đó chính là người nhà quê mà ngài đã sai gọi. Nhưng hoàng hậu Jocasta đây sẽ kể được rõ hơn ai hết.”
Hoàng hậu bấy giờ đứng che mặt, vì biết hết sự thật rồi. 
Bà lắp bắp nói: “Thôi xin đừng hỏi gì nữa, cũng đừng suy nghĩ gì nữa. Nếu ngài còn nghĩ đến cuộc đời của ngài xin đừng tìm hiểu nữa! Nỗi đau khổ của tôi quá đủ rồi.”
Oedipus còn an ủi hoàng hậu : 
“Hãy can đảm lên! Cho dù rằng sự thật tôi có là con một người nhà quê, thì nàng cũng đâu có phải thuộc giòng hạ tiện!” (Oedipus nói vậy vì hiểu lầm sự đau khổ của Jocasta)
Jocasta kêu than: “Xin đừng tìm hiểu ngài là ai nữa! Tôi chỉ biết nói thế thôi, không thể nói hơn được nữa”. Rồi bà chạy như điên dại vào lâu đài. Bà Jocasta vừa đi khỏi thì người chăn cừu tới. Oedipus quay sang người sứ giả hỏi trước: “Đây có phải người mà nhà ngươi nói không?” 
- “Dạ chính phải”.
Rồi Oedipus quay sang hỏi người chăn cừu. Chàng hỏi cho đến khi biết rõ sự thật. Chàng rên xiết : “Trời ơi! Tất cả đã trôi qua hết và tất cả đều đúng! Hỡi ánh sáng, ta nhìn mi lần cuối. Ta đã có tội khi sinh ra, có tội khi lấy vợ, và có tội khi tay nhuốm máu!”
Nói đoạn chàng chạy như điên vào lâu đài. Đám người ở ngoài đang sợ hãi thì một người trong lâu đài chạy ra loan tin: 
“Hoàng hậu Jocasta đã chết.”
Vua mở cửa phòng đã thấy bà đã treo cổ tự tử. Vua vừa nức nở khóc vừa đỡ bà xuống. Đặt bà nằm xuống, vua Oedipus mới lấy chiếc trâm của bà đâm vào mắt rồi kêu to lên : “Đã từ bao lâu nay mi nhìn những người mà lẽ ra mi không được phép nhìn. Bây giờ thì mi phải chịu tăm tối!”
Rồi Oedipus kêu người mở dùm cửa, dắt dùm ra ngoài.
Antigone, người con gái hiền thục của Oedipus đã dắt cha mù và cùng cha chia sẻ tất cả những cảnh đói khổ, bẽ bàng, tủi cực cho đến ngày cha chết ở Colonus. Theseus đã giúp Antigone chôn cất cha chu đáo ở gần Athens. 
Khi Antigone trở về Thebes thì hai anh nàng là Eteocles và Polynices vừa đích thân chiến đấu tay đôi với nhau đến cả hai cùng tử thương. Polynices bị Creon kết tội đã đem quân ngoại nhân vào Thebes nên hạ lệnh phơi thây Polynices không ai được phép chôn cất. Bất chấp vương lệnh nghiêm khắc, nàng Antigone hiền thục cương quyết chôn cất chu đáo cho người anh bạc phước. Sau đó nàng bị kết án phải chôn sống. Nàng đã tự vẫn trước khi bản án được thi hành. Heamon, con trai của Creon, vì quá yêu Antigone, thương cảm cho cái chết của nàng cũng tự vẫn theo.


KẾT LUẬN VỀ THẦN THOẠI HY LẠP


Về thần thoại Hy Lạp, chúng ta có thể ghi chú tóm tắt như sau:
Ngự trị trên đỉnh núi Olympus thuộc xứ Thessaly là mười hai vị thần thượng thặng, sáu nam và sáu nữ. Chữ hoa in nghiêng cho nữ thần; tên La Mã của thần in nghiêng trong ngoặc đơn (người La Mã chấp nhận những thần thánh Hy Lạp, chỉ đổi những tên Hy Lạp thành tên La Mã):
ZEUS (Jupiter)POSEIDON (Neptune)ARES (Mars)HEPHAESTUS (Vulcan)APOLLO (Phoèbus) HERMES (Mercury) HERA (Juno)DEMETER (Ceres)HESTIA (Vesta)ARTEMIS (Diana)PALLAS ATHENA (Minerva)APHORODITE (Venus)

Cũng có nơi kể thêm cả thần HADES (Pluto) – Diêm Vương, nâng con số lên mười ba.
Bảng sơ đồ (tr. 131) ghi lại sáu giai đoạn chính về phổ hệ thần thoại Hy Lạp:
1. Thoạt là thuở hỗn mang
2. Rồi sinh ra Trái Đất.
3. Tự Trời Đất sinh ra giống người khổng lồ trong có URANUS và GAEA
4. Qua thế hệ không lồ thứ hai có CRONOS (Saturn- Thời gian) và RHEA, vị tổ mẫu chư thần.
5. Xuất hiện một số các vị thần thượng thặng trên đỉnh Olympus mà Zeus là vị chúa tể. 
6. Giai đoạn chót này chỉ xin ghi phác qua những người con chính của thần Zeus.
Phần chú thích ghi Zeus đã có con với nữ thần nào. Riêng Heracles, chàng chỉ là một bán thần, vì mẹ chàng, hoàng hậu Alcmena, là người thường. Bà là con gái của vua Electryon và là vợ vua Amphytrion.

I. HỖN MANG
II. TRỜI ĐẤT
III. Giống người khổng lồ trong có URANUS và GAEA
IV. - CRONOA (Saturn = Thời gian) + RHEA (Terra)
- HYPERION + THEA (Hyperion thoạt cai quản vòm trời sau đó nhường cho Apollo (Phoebus)
- OCEANUS (Oceanus thoạt cai quản đại dương sau đó nhường cho Poseidon (Neptune)

V. ZEUS (Jupiter) + HERA (Juno)
DEMEIER (Ceres)
HADES (Pluto)
PESEIDON (Neptune)
HESTIA (Vesta)
MẶT TRỜI
MẶT TRĂNG
BÌNH MINH

VI. ARES (Mars) – con Zeus + Hera
HEPAESTUS (Vulcan) – con Zeus + Hera
APOLLO (Phoebus) – con Zeus + Leto 
ARTEMIS (Diana) – con Zeus + Leto
PALLASATHENA (Minerva) – thoát ra tự đầu Zeus
HERMES (Mercury) – con Zeus + Maia
PERSEPPHONE (Proserpine) – con Zeus + Demeter
APHRODITE (Venus) – con Zeus + Dion, hay sinh ra từ bọt biển
HERACLES (Hercule) – con Zeus + Alcmena


TÀI LIỆU THAM KHẢO


The Golden Treasury of Myths and Legends New York: Golden Press 1968
Bulfinch, Thomas. The Age of Fable. New York: Doubleday & Company, Inc.
Zimmerman, J.E. “Centuries of Old Stories and Evernew Delight”. Dictionery of Classical Mythology. Harper&Row Publishers, 1964. pp. VII-XIX. 

THẦN THOẠI BẮC ÂU


VÀI NÉT TỔNG LUẬN 


Bắc Âu đây chỉ mấy nước trong bán đảo Scandinavia, Thuỵ Điển, Đan Mạch và Na Uy, sau gồm thêm đảo Ích Lan (Iceland). Nơi đây là chốn phát xuất đám hải tặc Viking khét tiếng Âu Châu vào khoảng từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 10.
Dạo đó đám hải tặc này đã chiếm trọn miền Normandie của Pháp bây giờ, rồi còn tiếp tục xâm lăng miền Nam nước Ý, xứ Sicily, Anh Cát Lợi, Wales, Tô Cách Lan, Ái Nhĩ Lan.
Thần thoại Bắc Âu cũng phản ảnh nếp sống dũng mãnh, tăm tối, khắc khổ của hoàn cảnh địa lý và lịch sử đó. 
Nguồn gốc thần thoại Bắc Âu là tập Cổ Thi Edda cũ cộng với tập Vận văn Edda mới.
Tập Cổ Thi Edda là công trình tập thể của nhiều thế hệ thi sĩ vô danh sáng tác trên đảo Ích Lan (Iceland) sau khi có cuộc di dân của một số người từ bán đảo Scandinavia tới đảo này. Thời gian sáng tác không được chắc chắn cho lắm. Có những tác giả cho rằng tập cổ thi này được hoàn tất cuối thế kỷ XIII * ; Có tác giả ghi là vào năm 1056 ** . Còn tập Tản Văn Edda là công trình của một người, Snorri Sturluson, một nghệ sĩ sử gia nổi tiếng thời Trung Cổ ***. 

* Edna Johnson, Evelyn R. Sikels, Frances Clarke Sayers Anthogy of Children’s Litterature, Houghton Miflin Company, 1959, p.387
** Thomas Bulfinch, The Age of Fable, New York: Doubleday Company, Inc. p.345
*** Theo Thomas Bufinch, sách thượng dẫn, không thấy ghi tên tác giả tập văn này, nhưng có ghi năm sáng tác, 1640.


Trong thần thoại Bắc Âu cũng như trong thần thoại Hy Lạp, đám người khổng lồ có trước các vị thần linh. Rồi đám thần linh này cũng phải chiến đấu vất vả lắm với đám khổng lồ mới dành được quyền uy, tuy là mỗi nơi chiến đấu một cách.
Thần thoại Bắc Âu có 12 cấp bậc nam thần và 24 nữ thần ngự trị trên thiên đình Asgard; so với thần thoại Hy Lạp chỉ có 6 nam thần và 6 nữ thần trên đỉnh Olympus.
Các thần Hy Lạp đều bất tử và vô địch, ngược lại các thần Bắc Âu luôn luôn phải chiến đấu gắt gao với định mệnh khắt khe, và rốt cuộc các thần đó cũng phải tới ngày tận số. Theo quen niệm của thần thoại Bắc Âu thì cái chết anh hùng quả cảm không phải là một thất bại, trái lại, là một vinh quang. 

TẠO LẬP TRỜI ĐẤT RỒI LOÀI NGƯỜI


Ngày xửa ngày xưa, thuở đó chưa có trời ở trên mà cũng chưa có đất dưới. Tất cả chỉ là một hố sâu bất tận, một thế giới sương mù trong đó có một nguồn nước chảy. Có mười hai con sông bắt nguồn từ đấy, chảy thật xa, đóng băng lại, rồi cứ lớp băng nọ chồng chất lên lớp băng kia cho đến khi cái hố sâu đó được lấp đầy dần.
Về phía Nam thế giới sương mù này là thế giới ánh sáng. Một luồng gió ấm tự nơi đó thổi qua làm lớp băng tan. Hơi nước bốc lên không trung thành mây. Từ đám mây này xuất hiện một chàng Khổng Lồ Băng Giá tên là Ymir cùng đám hậu duệ, và cả con bò Audhumbla cung cấp sữa làm thức ăn cho người khổng lồ đó. Con bò này đã ăn sương và muối trên băng để có sữa. Một hôm nó đang liếm tảng đá có muối thì thấy xuất hiện mớ tóc của một người. Đến ngày thứ hai, thì cả cái đầu xuất hiện. Sang ngày thứ ba, toàn thân người xuất hiện, một người đẹp, nhanh nhẹn, dũng mãnh. Sinh vật mới này là một vị thần. Vị thần này lấy một nàng khổng lồ, rồi sinh ra được ba người con tên là Odin, Vili và Ve. Ba anh em hợp lực lại giết người khổng lồ Ymir. Xác của Ymir thành trái đất, máu thành biển, xương thành núi, tóc thành cây, xương sọ là bầu trời và óc là những đám mây đem lại mưa đá và tuyết. 
Odin mới chia giờ khắc, phân định ngày đêm cùng các mùa bằng cách đặt mặt trời mặt trăng và chỉ định quỹ đạo cho cả hai.
Vừa khi mặt trời chiếu sáng trái đất, cả thế giới thảo mộc đâm chồi nẩy lộc. Sau khi các thần đã tạo ra thế giới bèn đi dạo trên bờ biển mới nhận thấy còn một điều thiếu sót: chưa có loài người. Thế là các thần mới đục cây trần bì thành một người đàn ông, đục cây trăn thành một người đàn bà rồi đặt tên cho hai người là Aske và Embla. Thần Odin mới ban cho hai người sự sống và linh hồn; thần Vili cho họ lý trí và cảm xúc. Thần Ve cho họ ngũ quan, dáng vẻ bề ngoài và tiếng nói. Họ sống trên mặt đất. Chính là những bậc tiền bối của nhân loại vậy.
Cây trần bì vĩ đại Ygdrasill được dùng để chống đỡ toàn vũ trụ. Cây này mọc từ thân thể của Ymir và đâm ra ba rễ lớn; một rễ vươn tới Asgard (thế giới của chư thần), rễ thứ hai ăn tới Jotunheim (thế giới của những người khổng lồ); rễ thứ ba ăn tới Niffleheim (miền tối tăm và lạnh lẽo). Có suối chảy bên cạnh mỗi rễ cây. Rễ ăn tới Asgard được chăm chút cẩn thận bởi ba nữ thần Norns. Đây là ba nữ thần định mệnh, nữ thần thứ nhất tên là Urdur (quá khứ), nữ thần thứ hai là Verdandi (hiện tại) và nữ thần thứ ba là Skuld (tương lai). Dòng suối ở Jotunheim chính là nguồn nước của Ymir. Nơi đó tiềm ẩn sự khôn ngoan, minh trí. Nhưng còn dòng suối dọc theo rễ cây đưa tới Niffleheim đã nuôi dưỡng con rắn lục Nidhogge (nghĩa là bóng tối). Con rắn này ngày đêm gặm nhấm rễ cây. Có bốn con hươu đực trèo lên cây ăn nụ. Bốn con hươu này tượng trưng cho bốn ngọn gió. Xác Ymir nằm dưới đất ngay dưới cây. Khi Ymir cựa mình muốn hất cây đi thì mặt đất rung chuyển.
Asgard là tên chỗ ở của các vị thần, muốn tới nơi này phải đi qua cầu Bifrost (cầu vồng). Asgard gồm có những toà lâu đài bằng vàng và bạc, nhưng toà nhà đẹp nhứt mang tên là Valhalla, nơi cư ngụ của vị thần trưởng thượng Odin. Ngồi trên ngai, thần Odin có thể nhìn thấy trời và đất. Có hai con quạ đen Hugin (tư tưởng) và Munin (trí nhớ) luôn luôn đậu trên vai thần. Hàng ngày hai con quạ này bay khắp nơi rồi trở về kể hết cho thần những gì mắt thấy tai nghe. Nằm dưới chân thần Odin là hai con sói Geri và Freki. Hai con chó này được thần cho ăn hết phần thịt dâng lên biếu thần vì thần sống không cần thức ăn mà chỉ cần uống rượu mật ong. Thần phát minh ra chữ viết Runic, và công việc của ba nữ thần Norns là khắc những hàng chữ định mệnh trên một tấm kim khí. Tên thần Odin đọc là Woden và chữ Wednesday, ngày thứ tư, phát xuất từ tên Woden này. 

NHỮNG CUỘC VUI Ở VALHALLA


Valhalla là lâu đài của thần Odin, nơi đây thần thường mở tiệc thết các vị anh hùng đã chết oanh liệt ngoài chiến trường. Những người chết bình thường không bao giờ được mời cả. Thần Odin cho xả thịt con lợn rừng Schrimnir để đãi tiệc. Con lợn rừng này có đặc điểm là mỗi sáng bị làm thịt ăn hết, nhưng tối đến nó trở lại nguyên hình. Các anh hùng được mời uống rượu mật lấy từ con dê cái Heidrum. Tiệc tùng xong, các anh hùng giải trí bằng cách đánh nhau. Ngày nào họ cũng đem nhau ra cánh đồng giao chiến cho đến khi họ xẻ nhau ra từng mảnh. Đó chỉ là cách giải trí của họ thôi. Khi tới bữa các vết thương lại lành hẳn và họ vui vẻ kéo nhau về Valhalla ăn uống.

NGƯỜI VALKYRIOR


Người Valkyrio là những thanh niên hiếu chiến cưỡi ngựa, đội mũ sắt và mang giáo. Thần Odin thích thâu thập các bậc dũng sĩ anh hùng về Valhalla nên mới sai những người Valkyrio này tới chiến trường lựa những anh hùng tử trận (Valkyrio có nghĩa là người đi lựa chọn những người tử trận). Khi họ đi thi hành sứ mạng, áo giáp của họ chiếu sáng lung linh, rọi tới phía trời miền Bắc. Người ta gọi đó là “Aurora Borealis” (Ánh sáng miền Bắc).

NGƯỜI ELVES


Giống Elves tuy kém các thần, nhưng cũng có nhiều quyền phép. Giống Elves Ánh Sáng còn gọi là những Thiên Thần Trắng hay là Thiên Thần Ánh Sáng, rất đẹp, sáng hơn mặt trời, mặc đồ bằng những thứ hàng mịn, trong suốt và xuất hiện dưới mắt mọi người thành những đứa trẻ xinh đẹp đáng yêu. Họ ở xứ Alfhem, trong lãnh thổ của Frey, thần Mặt Trời, họ thường chơi đùa dưới ánh mặt trời.
Còn giống Elves Đen hay giống Elves Đêm Tối thì trái ngược hẳn, lùn, xấu xí, mũi dài, da màu nâu bẩn thỉu. Họ sống trong hang hốc và chỉ xuất hiện ban đêm. Họ rất sợ mặt trời vì chỉ một tia nắng chiếu sẽ biến ngay họ thành đá. Tiếng nói của họ là tiếng vang của cô quạnh. Giống này nảy sinh từ khối thịt rữa nát của người khổng lồ Ymir. Họ được các vị thần cho đội lốt người và ban cho tầm hiểu biết sâu rộng để rồi có biệt tài biết những dấu hiệu kỳ bí và những quyền lực huyền bí của thiên nhiên. Họ là những thợ rất khéo chuyên làm đồ kim loại và gỗ. Một trong những kỳ công của họ là cái búa Miollnir của thần Thor và chiếc thuyền Skidbladnir mà họ đã tặng thần Frey. Thuyền này lớn đến nỗi có thể chở hết các thần cùng với những chiến cụ và cả đồ dùng trong nhà. Vậy mà khi đem gấp chiếc thuyền ấy lại, ta có thể để gọn trong túi. Còn về cái búa Miollnir thì sự tích như sau.

SỰ TÍCH CHIẾC BÚA CỦA THẦN THOR


Chư thần trên thiên đình Asgard vẫn bị bực mình nhiều về thái độ đùa cợt vô kỷ luật cùng tính tình xảo quyệt nham hiểm của Loki. Nhưng chính nhờ sự lầm lỗi của Loki mà Thor có được chiếc búa đã làm thần trở thành vị thần dũng mãnh bậc nhì trên thiên đình, sau Odin. Câu chuyện như sau:
Thor có người vợ đẹp tên là Sif. Tóc nàng dài và ónh ánh vàng dưới ánh mặt trời. Vào một ngày kia, nàng ngủ thiếp dưới gốc cây táo của nàng Iduna, Loki bèn tinh nghịch xén mất mái tóc đẹp của nàng. Sif thức giấc thấy mình bị xén mất mái tóc bèn tìm Thor khóc lóc.
Thor gầm lên: “Đúng lại hành vi của thằng Loki đểu giả đây. Để ta sẽ dần nát xương thằng khốn đó!”
Khi bị Thor giận dữ tóm được, Loki van lạy : “Xin đại huynh đừng quá nặng tay trừng phạt tiểu đệ bởi tiểu đệ cam đoan có thể đi làm được một mái tóc bằng vàng thật, sợi rất mảnh, rất mịn, rất đẹp, và cũng tự mọc dài được như tóc thật.”
Thor hỏi : “Mi làm sao có được loại tóc đó?”
Loki đáp: “Thưa đại huynh, tiểu đệ sẽ đi tới miền giống Elves Đêm Tối ở, nhờ chúng làm cho bộ tóc vàng y như của Sif. Chúng đều là những tay thợ kỳ diệu siêu đẳng mà”. 
Nghe vậy Thor ưng để cho Loki đi, nhưng không quên lắc mạnh Loki một lần cuối và hét lên: “Nếu mi không mang về được loại tóc vàng dài và mịn như hệt tóc của Sif thì ta dần nát xương mi, nghe!”.
Loki vội rời ngay thiên đình, đi xa lắm và theo đường hẻm chui vào lòng núi nơi giống Elves Đêm Tối ở. Nghe Loki ngỏ ý, họ nhận lời ngay. Không những họ làm bộ tóc vàng để Loki mang về cho Sif, họ còn làm tặng thêm ngọn giáo Gungnir (sau đây thành một thứ khí giới của Thor) và chiếc thuyền thần Skidblanir.
Loki vui mừng lắm. Trên đường về, lại gặp một tên lùn đen khác tên là Brock. Đương lúc khoái chí, vui miệng Loki thách Brock: “Này Brock, ta hiện đang có ba tặng vật quý giá như thế này này. Ta dám đem đầu ta mà cuộc với ngươi, nếu Sindri, anh ngươi, cũng làm được ba tặng vật khác quý ngang như thế.
Brock vốn biết tài khéo léo kỳ diệu siêu đẳng của anh mình, Sindri, bèn đáp: “Tôi nhận lời đánh cuộc đó! Xin ông hãy theo tôi đến xưởng rèn của Sindri xem anh tôi sẽ làm được cái gì nào.”
Tới xưởng rèn, Brock kể lại cuộc thách đố với anh, Sindri bèn thổi bễ cho lửa bốc lên. Khi lửa lò đã thực nóng, Sindri thả lên trên một bộ da lợn rồi trao bễ cho Brock và bảo em tiếp tục thổi bễ giữ ngọn lửa hồng đều cho đến khi mình trở lại. Rồi Sindri đi ra khỏi hang (chắc là để niệm chú). 
Sindri vừa đi khỏi, Loki bèn hoá thành con ruồi cực lớn, đậu xuống tay Brock và đốt cực mạnh. Brock nghiến răng chịu đựng, bễ vẫn thổi, lửa vẫn đều ngọn. Khi Sindri trở vào thì miếng da lợn trong lò đã thành một con lợn rừng lông và bờm màu vàng óng. 
Sindri đổ vàng vào lò, bảo em tiếp tục thổi bễ rồi đi ra. Lần này Loki vẫn hoá thành con ruồi lớn đậu trên gáy Brock và đốt hai lần cực mạnh. Nhưng cũng như lần trước, Brock vẫn chịu đựng được và giữ cho bễ thổi đều. Khi Sindri trở lại, lấy ra tự lò lửa một chiếc vòng vàng đặt tên là Drauphir.
Để chuẩn bị cho tặng vật thứ ba, Sindri lần này đổ thép vào lò, vẫn bảo em tiếp tục thổi bễ, rồi đi ra. Lần này “con ruồi” Loki độc ác đậu giữa hai con mắt Brock đốt mạnh đến nỗi máu chảy ròng ròng. Brock cắn răng chịu đựng, cho đến khi máu chảy chan hoà làm mờ cả mắt. Brock mới đành chịu ngừng một tay thổi bễ để đuổi ruồi. Do đó lửa trong lò tắt ngay. Vừa lúc đó Sindri trở lại xem xét giây lâu rồi bảo là bảo vật trong lò lửa không sao, chỉ suýt bị hỏng. Thì ra đó là cái búa. Sindri đưa ba thứ cho Brock bảo em hãy mang lên thiên đình biếu các thần để xem ba tặng vật đó có quý giá hơn ba tặng vật của Loki không.
Brock và Loki tới Asgard. Chư thần hay tin bèn họp mặt đông đủ tại điện chính Gledsheim. Chư thần đều đồng ý nhường quyền quyết định cho Odin, Thor và Frey. 
Loki trình ba tặng vật trước. Bộ tóc vàng vừa đặt lên đầu Sif, tức thì tóc mọc dài và óng ả, đẹp ơi là đẹp. Ngọn giáo Gungnir tặng Thor, khi phóng ra không bao giờ hụt đích. Con tàu Skidbladmir tặng Frey đi về hướng nào cũng tìm được chiều gió thuận. Con tầu lớn là vậy mà khi gấp lại thì có thể bỏ gọn trong túi. 
Đến lượt Brock trình tặng vật. Brock tặng Odin chiếc vòng vàng Draupnir. Cứ sau chín đêm thì lại có tám cái vòng khác y như thế từ vòng Draupnir rơi ra. Brock tặng con lợn rừng bờm vàng cho Frey. Không có thứ ngựa quý nào có thể lướt trong không khí, lướt trên mặt nước nhanh bằng con lợn rừng bờm vàng này. Đặc biệt là lông và bờm vàng của con lợn rừng luôn luôn phát ra ánh sáng nên dù có phóng đi trong đêm dày đặc cũng vẫn nhìn thấy rõ đường đi. Brock tặng Thor chiếc búa thần Miollnir có đặc tính một khi tung ra thì bổ xuống mạnh như ý mình muốn, và dù đích có xa đến mấy, khi đã trúng rồi, búa lại tự quay về tay chủ nhân. Chiếc búa cũng có thể trở thành bé gọn để cho vào trong túi. Thực ra chiếc búa chỉ có một điều không được vừa ý (điều này Brock dấu không nói) là cái cán hơi ngắn, chính vì lúc Brock bị “ruồi Loki” đốt chảy máu mắt phải sớm rời một tay bễ để đuổi ruồi. Phải nói thêm là Thor còn có chiếc dây lưng thần, và đôi bao tay sắt; khi thắt dây lưng đó vào người, thần lực của Thor tăng gấp đôi; khi mang đôi bao tay sắt Thor tung khí giới rất trúng đích. (Do tên thần Thor mà ra chữ Thursday = ngày thứ năm).
Cả ba thần Odin, Thor, và Frey cùng thẩm định giá trị tặng vật và đều đồng thanh công nhận ba tặng vật của Brock quý giá hơn ba tặng vật của Loki. Riêng thần Thor từ nay làm chủ chiếc búa thần Miollnir càng khiến đám Khổng Lồ Băng Giá phải hoảng kinh *

(*) Trong thần thoại Bắc Âu thường nói đến đám khổng lồ Băng Giá tựa như có ý báo động rồi đây thế giới sẽ bị hủy diệt khi tới thời băng giá, điều xét ra cũng có lý lắm.


Odin đứng lên tuyên bố Brock thắng cuộc. Brock lập tức đòi đầu của Loki. Loki bảo Brock là lấy đầu mình làm gì vô ích, Loki cho Brock vàng thay thế vào chẳng tốt hơn sao? Thật ra giống người lùn này vốn thích vàng hơn cả, nhưng không hiểu sao lần này Brock lại cứ cương quyết đòi đầu Loki. Loki chạy biến. Thor cưỡi con lợn rừng bờm vàng đuổi theo tóm được kéo về. Loki bèn nói: “Được rồi, ngươi cứ việc lấy đầu ta, nhưng cấm không được động đến một li cổ ta. Ta chỉ hứa cho đầu chứ không hứa cho cổ ”. Brock làm sao lấy được đầu Loki mà không động đến cổ cho được! Chú lùn ngẩn ngơ không biết hành động ra sao bèn nói: “Giá như tôi có được cái dùi nhọn của anh tôi ở đây, tôi sẽ khâu miệng Loki lại.” Brock vừa dứt lời thì cái dùi xuất hiện. Brock liền dùng dùi và lấy dây da khâu miệng Loki rồi từ biệt chư thần, rời khỏi Asgard. Brock vừa đi khuất, Loki tháo tuột được liền chiếc dây da. Loki thua cuộc, bị một trừng phạt nhỏ, nhưng ba vị thần trên thiên đình Asgard đã có được những khí giới tuyệt vời để chống nhau với giống người khổng lồ thù địch sau này. 

ODIN ĐI TỚI SUỐI NGUỒN MIMIR


Odin chính là đấng toàn năng đứng đầu các vị thần. Odin là thần khôn ngoan, thần hiểu biết, thần thi ca, và cũng là thần chiến tranh và thần chết nữa. 
Lần đó hai con quạ đen Hugin (tư tưởng) và Munin (trí nhớ) đã bay lượn quan sát khắp nơi để trở về đậu trên vai Odin, kể lại cho thần nghe rằng chỉ thấy toàn những bóng đen và những triệu chứng bất thường. 
Odin linh cảm thấy mình cần khôn ngoan hơn để kịp thời đối phó những gì đen tối sắp tới. Thần từ giã vợ là nữ thần Frigga để đi tới suối nguồn của Mimir đổi sự hiểu biết thành trí khôn ngoan. Suối nguồn của Mimir ở gần Jotunheim, thế giới của giống khổng lồ. 
Trên đường đi, Odin biến hóa như người thường khi qua Midgard, thế giới của loài người, lại biến hóa như người khổng lồ khi tới khu vực khổng lồ và tự đổi tên là Chàng Lang Thang Vegtam.
Gặp một người khổng lồ cưỡi con nai đực, Odin dập dìu đi bên hắn rồi lân la làm quen : 
- Chào ông bạn, ông bạn tên chi?
- Tôi tên Vafthrudner, người khôn ngoan lanh trí nhất trong đám khổng lồ. 
Odin nhận ra Vafthrudner ngay, và biết đã có nhiều kẻ cả gan dám tới thi đua khôn ngoan lanh trí với y. Những kẻ đó phải trả lời ba câu hỏi, nếu thua là bị Vafthrudner vặn cụt đầu liền. Odin bèn lên tiếng: 
- Thưa ông bạn, tôi tên là Chàng Lang Thang Vegtam. Ông bạn nghĩ sao, tôi muốn thi đua khôn ngoan lanh trí với ông bạn!
- Hô, hô, được lắm! Ông bạn biết luật chơi của tôi rồi chứ gì? Nếu tôi thua, đầu tôi sẽ về bạn; nếu bạn thua, đầu bạn sẽ về tôi. Nào, để tôi bắt đầu trước, chịu không?
- Xin ông bạn cứ tự nhiên đặt câu hỏi trước đi cho!
Vafthrudner gật gù hỏi:
- Xin ông bạn cho biết tên con sông chảy phân ranh giới giữa chốn thiên đình Asgard với Jotunheim, thế giới khổng lồ.
- Ifling, thưa ông bạn! Tên con sông đó là Ifling! Đó là con sông nước lạnh thấu xương, nước lạnh cắt da thịt, nhưng không bao giờ đông đặc thành giá băng!
- Được lắm, còn hai câu hỏi nữa. Bạn cho hay tên hai con ngựa mà Thần Ngày và Thần Đêm vẫn cưỡi để vượt qua vòm trời.
- Skinfaxe và Hrimfaxe!
Vafthrudner giật mình vì không ngờ địch thủ lại giỏi thế. Tên hai con ngựa này chỉ các vị thần và những người khổng lồ khôn ngoan nhất mới biết mà thôi. Y lên tiếng:
- Được lắm, còn câu hỏi cuối cùng. Xin ông bạn cho biết tên cánh đồng sẽ dùng làm bãi chiến trường cho cuộc tận diệt cuối cùng. 
- Cánh đồng Vigard, thưa ông bạn! Cánh đồng này ngang dọc đều một trăm dặm!
Thế là đến lượt Odin đặt câu hỏi:
- Xin ông bạn cho biết lời nói cuối cùng của thần Odin thì thầm bên tai đứa con quý của Người là Baldur!
Nghe hỏi vậy, tên khổng lồ vội nhảy từ lưng nai xuống, chăm chú nhìn Odin và nói: 
- Chỉ có thần Odin mới có thể trả lời câu đó. Làm sao tôi có thể trả lời nổi? Phải chăng chính ông là Odin?
Odin cười ngất: 
- Ha ha, vậy là ông bạn thua rồi. Nếu ông bạn muốn giữ lấy đầu cho mình, hãy cho tôi biết Mimir đòi đổi lấy gì nếu tôi muốn uống nước suối nguồn của ông ta.
- Mimir sẽ đòi lấy con mắt bên phải!
- Cha cha! Sao đòi ác vậy? Có cách gì khác không? 
- Chẳng có cách gì khác đâu. Bao giờ và luôn luôn Mimir cũng cương quyết đòi bằng được như vậy. Thôi tôi đã nói rõ cho thần hay rồi đấy, thần đừng đòi đầu tôi nữa nhé.
- Được lắm, xin ông bạn cứ đi đi!
Vafthrudner vội vã nhảy lên lưng nai đi liền. Odin còn đứng đó, loay hoay suy nghĩ: “Đòi móc mắt phải của ta? Sao mà giá uống nước suối nguồn khôn ngoan đắt quá vậy! Có lẽ thôi, chả cần khôn ngoan nữa.”
Vừa nghĩ thầm vậy, Odin vừa theo đường về hướng Nam, bắt gặp khuôn mặt dữ dằn của tên Surtur với thanh trường kiếm Flaming của y. Rồi đây kẻ địch thủ vô cùng lợi hại đó sẽ gia nhập phe Khổng Lồ mà tử chiến với các thiên thần. Odin lãng đãng đổi hướng đi về phương Bắc lúc nào không hay. Nơi đây thần lắng nghe tiếng nước ào ào thoát khỏi miền tối tăm lạnh lẽo Niffleheim. Odin chợt nhận thấy rằng thần không thể để cho thế giới bị Surtur thiêu rụi trong biển lửa, hoặc phó mặc cho tan thành cát bụi mà đổ về chốn hư vô tối tăm, lạnh lẽo Niffleheim. Đã là vị thần tối cao, Odin phải lãnh trách nhiệm cứu thế giới khỏi hủy diệt. Muốn vậy phải thụ lãnh trí khôn ngoan bằng cách uống nước suối nguồn ở ngay dưới gốc cây trần bì vĩ đại Ygdrasill.
Odin tiến thẳng tới suối nguồn khôn ngoan.
Mimir luôn luôn đứng đó đôi mắt chăm chăm nhìn xuống canh giữ. Ngày nào Mimir cũng uống nước suối nguồn khôn ngoan một lần, nên thoáng nhìn đã nhận ra Odin ngay và cất lời chào: 
- Hỡi Odin, vị thần cao cả nhất của thiên thần, người tới đây làm gì?
- Ta muốn uống nước suối nguồn khôn ngoan. 
- Nhưng muốn vậy thần phải trả giá khá đắt!
- Ta không ngại điều đó hỡi Mimir!
- Vậy xin mời thần hãy tới mà uống!
Hai tay Odin cầm chiếc sừng, cúi xuống vục nước bắt đầu ngửa cổ uống. Trong khi thần uống như vậy, tương lai như mở ra cho Thần nhìn thấy rõ tất cả. Thần trông thấy trước những gian nan thống khổ mà cả thần và người sẽ phải chịu. Nhưng Thần cũng biết rằng chính những gian nan thống khổ đó sẽ giúp cho cả thần và người trưởng thành, đủ tài lực mà đạt tới một ngày kia – tuy còn xa xôi lắm – đè bẹp được con quỷ đã mang điêu linh thống khổ đến thế giới này. 
Thần uống trọn cả một sừng đầy nước khôn ngoan. Thần tự tay móc mắt bên phải của mình, đau đớn biết chừng nào, nhưng thần cắn răng chịu đựng được, không thốt một tiếng kêu than. Mimir nhận lấy con mắt đó, thả xuống mặt nước, nó chìm dần…chìm dần xuống đáy và sáng lấp lánh ở dưới đó.
Đó là giá mà chính vị thần trưởng thượng của thiên đình cũng phải trả để đổi lấy khôn ngoan. 

NÓI VỀ THẦN THOR VÀ CÁC THẦN KHÁC


Thần Thor là thần sấm sét, con trai lớn của thần Odin. Thần này có sức mạnh phi thường. Như chúng ta đã biết, thần Thor có ba vật quý. Vật thứ nhất là cái búa mà tất cả người Khổng Lồ ở vùng Băng Giá và vùng núi đều biết vì chính cái búa đó đã xẻ đầu ông cha họ cùng anh em bà con họ. Sau khi thần Thor tung búa, nó lại tự trở về tay thần. Vật hiếm thứ hai của thần là cái “dây lưng sức mạnh”. Khi thần dùng dây lưng đó quấn vào người, sức mạnh của thần sẽ tăng gấp đôi. Vật quý thứ ba là đôi bao tay bằng sắt. Thần mang bao tay này mỗi khi thần muốn xử dụng búa cho thật chính xác.
Thần Frey cũng là một trong những thần nổi tiếng. Thần này cai quản mưa nắng. Em gái của thần Frey là Freya, một trong những nữ thần được yêu mến nhất. Nữ thần này thích âm nhạc, thích mùa xuân hoa nở, thích những bản tình ca nho nhỏ, và đặc biệt những cặp tình nhân rất hay cầu khẩn đến nữ thần.
Bragi là thần của thơ phú. Bài ca của thần ghi lại những chiến công oai hùng của các chiến sĩ. Vợ thần là Iduna luôn luôn giữ trong hộp những trái táo. Hễ như thần nào cảm thấy sắp già yếu, chỉ cần nếm một trái táo là trẻ lại ngay.
Heimdall giữ nhiệm vụ canh gác cho chư thần. Thần luôn luôn trấn ở biên giới để ngăn không cho người khổng lồ tràn qua cầu vồng. Thần ngủ rất ít vì phải nhìn ra xa hàng trăm dặm, ngày cũng như đêm. Tai thần thính đến nỗi thần nghe được hết cả tiếng động, kể cả tiếng cỏ mọc, cùng tiếng bộ lông mọc trên lưng con cừu. 

NÓI VỀ THẦN LOKI VÀ CON CHÁU


Thần Loki như chúng ta đã biết tính khí bất thường, tâm địa xấu xa. Thần này giòng giõi khổng lồ nhưng cố chen vào xã hội thần thánh, và lấy làm thích thú mỗi khi gây được khó khăn, nguy hiểm cho chư thần bằng những mưu cơ xảo quyệt của mình. Thần Loki có ba người con: đứa thứ nhất là con chó sói Fenris, đứa thứ nhì là con rắn Midgard, đứa thứ ba là Hela (Thần Chết). Chư thần thừa biết rằng những con quái vật này đang lớn lên và một ngày kia, chúng sẽ reo rắc tai họa cho thần thánh và loài người. Vì thế thần Odin mới cho đem chúng tới. Rồi thần Odin ném con Midgard xuống vùng đại dương bao quanh địa cầu. Con rắn đó lớn đến nỗi chiều dài của nó đủ quấn quanh trái đất. Thần Odin cho thần chết Hela cai quản chín vùng Niffleheim. Nhà ở của Hela là Elvidner. Nàng dùng thần Đói làm bàn, thần Chết Đói là dao, thần Trì Hoãn làm người hầu, thần Chậm Trễ làm nữ tì, thần Vách Núi làm ngưỡng cửa, thần Thận Trọng làm giường và thần Thống Khổ làm màn treo. Nàng rất dễ nhận ra vì người nàng nửa hồng nửa xanh và nàng có một bộ mặt nghiêm khắc lạnh lùng đáng sợ. 
Duy con chó sói Fenris đã gây biết bao bối rối cho chư thần trước khi xích được nó. Nó bẻ gãy những dây xích lớn dễ như thể quơ mạng nhện. Sau cùng các thần phải sai người đi cầu cứu các Sơn thần làm cho một sợi xích tên là Gleipnir. Sợi xích này được đúc bằng sáu thứ : 1) tiếng chân mèo đi; 2) râu đàn bà; 3) rễ đá; 4) hơi thở của cá; 5) thần kinh của gấu; 6) nước miếng của chim. Đúc xong, sợi xích nhẵn và mềm như một giải lụa. Khi đem con sói ra để cột thì nó ngờ ngay rằng sợi xích này là một thứ bùa. Nó bèn ra điều kiện phải có một vị thần để tay vào mõm nó và hứa rằng sẽ có ngày cởi sợi xích đó ra, như vậy nó mới chịu buộc. Chỉ có thần Tyr (thần Chiến Trận) dám để tay vào mõm chó nhưng khi con chó biết nó không tài nào dứt được sợi xích, mà các thần cũng không bao giờ thả nó ra, nó mới ngoạm đứt luôn bàn tay thần Tyr.


THẦN THOR TRẢ LƯƠNG NGƯỜI KHỔNG LỒ TRÊN NÚI NHƯ THẾ NÀO


Trong thời gian mà các thần đang xây cất nơi ở và đã hoàn thành được miền nhân thế Midgard và lâu đài Valhalla thì có một người thợ khéo tới xin xây cho chư thần một chỗ ở thật kiên cố, và bảo đảm các thần không sợ các Khổng Lồ miền Băng Giá, cũng như ở miền núi tới xâm lấn. Nhưng người này đòi trả công bằng nữ thần Freya cùng với mặt trời và mặt trăng. Chư thần bằng lòng nhưng với điều kiện là người đó phải một mình hoàn tất việc đó trong thời gian một mùa đông thôi. Hễ công việc trễ sang tới mùa hạ, người đó sẽ mất hết những gì đã đòi hỏi. Nghe thế, người thợ chỉ xin phép được sử dụng con ngựa Svadifari của y. Chư thần bằng lòng (theo lời khuyên của Loki). Người thợ bắt đầu xây cất vào ngày đầu của mùa đông. Ban đêm cho ngựa kéo đá về để xây. Những tảng đá lớn quá khiến chư thần phải ngạc nhiên và nhận thấy ngay rằng con ngựa đã giúp hơn nửa công việc. Nhưng chư thần đã trót hứa rồi. Khi mùa đông gần hết, tòa nhà xây gần xong, bờ lũy cao vòi vọi và có thể chống lại mọi cuộc tấn công. Còn ba ngày nữa là hết mùa đông và công việc cũng chỉ còn cái cổng chưa xây. Bấy giờ chư thần mới hội họp lại bàn nhau xem ai có thể đem Freya trốn đi, hoặc làm cách nào đem dấu mặt trời và mặt trăng đi nơi khác cho trời đất tối mò. 
Nhưng rồi các thần quyết định bắt buộc Loki (kẻ đã cho lời khuyên tai hại) phải làm sao ngăn tên thợ kia không cho hoàn tất công việc đúng hạn kỳ, nếu không Loki sẽ bị giết chết thảm hại. Loki sợ quá, vội hứa ngăn chặn việc đó. Ngay đêm hôm đó, khi người thợ cùng con ngựa đi kéo đá , thì bỗng có con ngựa cái ra khỏi rừng hí lên . Con ngựa Svadilfari lập tức dứt cương chạy theo con ngựa cái , người thợ vội đuổi theo mà không kịp . Thế là công việc không hoàn thành đúng hẹn. Người thợ biết rằng mất thưởng rồi , mới hiện nguyên hình là tên khổng lồ ở núi . Bấy giờ thần Thor mới ra tay , thần tung cái búa lên đập vỡ đầu tên khổng lồ rồi ném hắn xuống miền Niffleheim . 

LẤY LẠI BÚA


Đã có lần cái búa của thần Thor rơi vào tay tên khổng lồ Thrym . Tên này đem chôn búa sâu tám sào dưới tảng đá ở Jotunheim . Thần Thor sai Loki đi điều đình với Thrym . Tên này bằng lòng đổi búa lấy nữ thần Freya. Nhưng nữ thần Freya không chịu làm vợ tên khổng Thrym. Thấy vậy thần Loki mới khuyên thần Thor hãy cải trang mặc quần áo của nữ thần Freya rồi cùng đi tới Jotunheim. Thrym tiếp đón cô dâu, nhưng hắn ngạc nhiên khi thấy nàng Freya ăn hết cả tám con cá hồi , hết cả con bò cùng bao nhiêu món khác , rồi lại uống hết ba thùng rượu mật ong . Loki biết ý mới nói với Thrym là nàng ăn nhiều vì nàng đã nhịn tám ngày liền . Nàng vẫn mong mỏi được gặp chàng , người mà nàng biết là một vị cai trị nổi tiếng ở xứ Jotunheim . Sau cùng Thrym mới tò mò nhìn qua tấm màn che mắt cô dâu Freya , giật mình kinh hoảng hỏi Loki sao mắt nàng như tóe lửa . Loki lại vội khéo tìm lời trấn an Thrym . Tên khổng lồ yên tâm sai đem chiếc búa tới rồi tự tay trao cho nàng Freya . Bấy giờ thần Thor mới lột bỏ lớp hóa trang. Cầm lấy búa giết chết Thrym cùng bộ hạ của hắn .

TRUYỆN THẦN FREY VỚI NGƯỜI ĐẸP KHỔNG LỒ GERDA


Thần Frey nhớ chị là nữ thần Freya đi vắng khỏi thiên đình Asgard đã từ lâu (nữ thần đi kiếm chồng bị thất lạc là thần Odur.) Thần Frey bèn theo đường lên tháp cao để ngồi vào chiếc ngai của thần Odin (lúc đó đi vắng)
Ngồi vào chiếc ngai này trong tháp, Frey có thể nhìn thấy chị mình lúc đó đang lang thang nơi nào. Hai con chó sói Geri và Freki nằm nép dưới chân ngai yên lặng. Frey nhìn hết miền Midgard, thế giới của loài người với nhà cửa đường phố, trang trại; lại nhìn đến miền Jotunheim, thế giới của người khổng lồ núi cao vòi vọi, tuyết băng trắng xóa đây đó. Sau cùng, Frey thấy chị đương trên đường về Asgard thì yên chí. Vô tình thần chú ý đến một ngôi nhà giữa vùng băng tuyết của thế giới Jotunheim, cánh cửa vừa mở, và thần thấy một cô gái khổng lồ khuôn mặt đẹp ơi là đẹp. Rời khỏi tháp, thần đi lang thang, rồi suốt đêm đó không chớp mắt được. Thần tương tư mỹ nhân xứ khổng lồ! Sớm hôm sau, thần lại tới tháp nhưng lần này hai con sói Geri và Freki nhe răng gừ, không cho thần tới. Thần về hỏi ý kiến cha là thần Niord, được cha cho hay người con gái đẹp đó là nàng Gerda, con gái người khổng lồ Gymer, và khuyên Frey nên từ bỏ ý định lấy khổng lồ Gymer làm vợ bởi vào trường hợp đó, Frey tất phải đánh đổi mất một vật quý nhất của mình. Vật quý nhất của Frey là thanh kiếm báu, tự nó đi chinh phạt bất kỳ lúc nào chủ nó muốn. Frey tự nhận là thần không thể nào không kết hôn với Gerda cho bớt cô đơn, dù phải hy sinh thanh kiếm báu cũng được.
Nghe vậy thần Niord bèn hỏi:
“Thế rồi đây tới ngày Ragnarok, ngày hoàng hôn của chư thần, khi những người khổng lồ tới tử chiến với các thần một lần cuối cùng, con lấy khí giới đâu mà giao chiến?”
Thần Frey nghĩ rằng ngày đó còn xa vời lắm nên đáp : 
“Con không thể nào sống không có Gerda!”
Frey thổ lộ tâm sự với Skirnir, một thần tính tình liều lĩnh và vô tâm, là Frey muốn đi gặp Gerda lắm, ngặt vì bổn phận của thần phải cai quản những chốn lâm tuyền không thể bỏ được. 
Skirnir nghe xong trợn tròn đôi mắt xanh, ngóac mồm rộng cười hô hố và nói là có thể giúp Frey đưa thư hay trao lời tới Gerda, nhưng với điều kiện Frey phải thưởng cho thanh kiếm báu. Frey thoạt ngần ngại, nhớ lời cha nhắc rồi đây tới ngày các thần phải tử chiến một lần cuối cùng với đám khổng lồ, mình không có khí giới sao được. Nhưng rồi lại nghĩ ngày đó còn xa lắm, Frey bèn bằng lòng trao kiếm báu cho Skirnir. Frey còn nhờ Skirnir mang theo một số kim ngân châu báu để trao tới tay Gerda làm đồ sính lễ. 
Skirnir nhảy lên con thiên lý mã rất quý của thần, phóng như bay theo đường cầu vồng Bifrost qua Midgard, thế giới loài người, qua con sông ngăn cách giữa thế giới này với thế giới khổng lồ Jotunheim, qua khu rừng sắt thép, vung gươm bén khiến lũ sói dữ (có nhiệm vụ canh gác thế giới khổng lồ) phải dạt sang hai bên, vượt qua bức thành lửa, sau cùng thần tới thung lũng có nhà cửa người khổng lồ Gymer, cha đẻ ra người đẹp Gerda. Skirnir cho ngựa chổng mông vào đá hậu lên cánh cửa thình thình.
Gymer lúc đó đương uống rượu say bí tỉ với bè bạn; Gerda đương dệt cửi với các nàng hầu, nghiêng tai lắng nghe rồi cất tiếng hỏi:
“Không hiểu có ai tới gõ cổng nhà ta thế”
Một nữ tì chạy ra ngó rồi thưa:
“Dạ, đó là một chiến sĩ cưỡi một con ngựa cực khỏe.” 
Gerda nói:
“Dù người đó có là kẻ thù của chúng ta thì cũng cứ mở cửa cho vào và hãy rót mời chén rượu mật của gia đình Gymer”.
Cửa mở, Skirnir được mời vào. Thần bầy ngay những kim ngân châu báu trước mặt Gerda mà nói phăng: 
“Hỡi nàng Gerda xinh đẹp tuyệt vời, đây là đồ sính lễ của thần Frey nhờ ta gởi tới nàng”.
Gerda nói:
“Ông hãy mang vàng bạc châu báu này ra mà khoe với đám thị tì của tôi. Không bao giờ vàng bạc châu báu mua được tình yêu của tôi”.
Skirnir bèn rút thanh gươm báu ra mà nói toạc móng heo rằng:
“ Nàng hãy trao tình yêu cho Frey là thần đã tặng ta thanh kiếm báu này, nếu không nàng sẽ chết vì lưỡi kiếm đó”.
Gerda cười bảo Skirnir rằng dùng kiếm dọa người thường thì được, dọa con gái người khổng lồ sao được! 
Skirnir bèn khiến cho kiếm từ múa loang loáng trước mặt Gerda, đồng thời cao giọng đọc lời nguyền: 
Ta nguyền rủa ngươi
Như lá cây xanh
Gặp cơn gió lạnh
Lá phải lìa cành
Nghe lời nguyền ác độc với ánh gươm thần loang loáng với tiếng rít ghê rợn trên đầu, Gerda vội quỳ xuống đất xin hãy khoan thứ cho nàng. Skirnir còn đọc tiếp:
Ta nguyền rủa ngươi
Suốt đời ở vậy 
Thần, người đều chê
Chẳng ai thèm lấy
Gerda khóc sướt mướt vật nài Skirnir hãy ngừng niệm chú và tra gươm vào vỏ, nàng xin tuân lời. Skirnir hỏi bao giờ Frey được gặp nàng và ở đâu? Gerda nói chín hôm nữa cả hai sẽ gặp nhau ở khu rừng Barri.
Skirnir hài lòng, tra gươm vào vỏ, uống một ly rượu mật rồi nhảy phóc lên mình ngựa phóng về Asgard.
Frey bồn chồn ngóng đợi, thấy Skirnir về vội hỏi ngay kết quả chuyến đi và được Skirnir cho hay chín ngày nữa cả hai sẽ tới gặp nhau ở rừng Barri.
Skirnir ngoác mõm cười và trợn tròn đôi mắt xanh vẻ khoái chí vô cùng vì thanh gươm báu như vậy là hoàn toàn thuộc về Skirnir.
Trong khi đó Frey quay đi thở dài tự nhủ:
Ngày dài lê thê
Dài gớm dài ghê
Đợi chín ngày nữa
Thì ai mới về
Nhưng rồi chín ngày cũng qua đi. Và Frey và Gerda cùng y hẹn gặp nhau ở rừng Barri. Frey thấy Gerda đẹp chim sa cá lặn, y hệt như ngày nào thần nhìn thấy nàng tự trên tháp cao nơi thần Odin ngự. Gerda thấy Frey cao đẹp uy nghi lòng cũng mừng thầm. Đôi bên trao nhẫn hứa hôn, sau đó Gerda theo chồng về thiên đình.
Phụ chú:
Truyện thần Frey và cô gái khổng lồ Gerda nhiễm tính chất ngụ từ nhất trong mọi truyện thần thoại Bắc Âu. Frey là thần của mùa xuân mưa nắng. Frey yêu nàng Gerda cũng như mùa xuân tới thì cây cỏ bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Nhưng mùa xuân có tới cũng phải đợi cơn gió nồm nam ấm áp – Skirnir- thổi tới trợ lực thì cây cỏ mới có cơ phồn thịnh được.

NHỮNG TRÁI TÁO CỦA NÀNG IDUNA


Odin nhiều khi cũng cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Ngồi mãi trên ngai vàng thượng đế trong cung điện Valhalla cũng chán; chào mừng mãi những linh hồn chiến sĩ anh dũng mới tử trận dưới hạ giới lên cũng chán; nghe những báo cáo về những việc xảy ra tại bốn phương của hai con quạ cũng chán. Vì vậy đôi phen Odin đã từng bí mật thoát ra khỏi thiên đình, hóa trang như người thường để được thoải mái ngao du đây đó một mình. Lần đó không hiểu sao Odin lại rủ hai em cùng đi. Đó là Hoenir, kẻ đã có công giúp Odin trong dịp tạo lập ra loài người, và Loki, luôn luôn giở trò nham nhở xảo quyệt để quấy phá chư thần.
Ba thần cùng đi lang thang, qua bao nhiêu là sông sâu, núi cao, sa mạc mênh mông. Sau cùng cả ba cùng cảm thấy đói mềm. Vừa lúc đó ba thần bước tới một khu thung lũng rộng, thấy một đàn bò đang gặm cỏ xanh. Loki bèn giết một con rồi đốt lửa lên nướng thịt. Lát sau nghĩ rằng thời gian đã thừa đủ cho thịt chín, Loki lấy thịt chia cho hai anh. Thật là kỳ lạ, thịt còn sống nguyên như thể ngọn lửa nướng đã quá yếu. Loki hì hục nướng lại lần nữa với ngọn lửa cao hơn, với than củi hồng hơn, vậy mà sau đó thịt bò cũng vẫn còn sống nguyên y như nướng giả vờ trên một ngọn lửa giả.
Loki trợn tròn mắt, miệng quát lớn : “Thế này là thế nào!”.
Hoenir kín đáo nhìn quanh tứ phía nói khẽ: “Có tên phù thủy nào đùa chúng ta đây!”. 
Odin cũng gật gù: “Chúng ta phải tìm cho ra điều bí ẩn này mới được.”
Vừa lúc đó Loki nghe có tiếng động lạ trên đỉnh cây sồi cổ thụ, bèn đứng phắt dậy ngửa cổ nhìn thì thấy trên chót cao ngọn sồi là một con chim phượng hoàng lớn. Con chim nhìn Loki với ánh mắt riễu cợt rồi nói:
“Hô hô, tôi biết thịt bò của quí vị chưa chín được đâu, tôi nói cho quí vị biết thế”.
Ba thần cũng ngạc nhiên lắm. Sau cùng Odin cất lời nghiêm khắc hỏi: 
“Ông Phượng Hoàng, ông là ai? Ông nói vậy là có ý làm sao?”
Phượng Hoàng nói:
“Xin quí vị hãy chia phần cho tôi với. Sau đó quí vị sẽ thấy thịt nướng một cái là chín liền”.
Ba thần lúc đó đói đến muốn té xỉu rồi nên đồng thanh bảo: 
“Vậy thì xin hãy xuống mà tự lấy phần của ông đi!”.
Ba thần cùng nghĩ rằng một con chim, dù là chim phượng, đòi chia phần thì ăn hết bao nả. Nào ngờ khi phượng xà xuống mới thấy nó khổng lồ biết chừng nào. Hai cánh xòe ra che rợp trời, vỗ mạnh thành giông bão, hai chân thò xuống mạnh như những móc sắt. Phượng Hoàng đã dùng cả mỏ lẫn vuốt quặp được một chân và hai vai con bò.
Thấy vậy Loki giận lắm hét lên:
“Loài ác điểu ô trọc, mi đâu phải là sư tử mà lại tự chia phần theo kiểu cha chú đó, hãy trả lại thịt bò của bọn ta như xưa.”
Tiện tay Loki vớ được khúc gậy dài bèn vung lên giáng mạnh vào con chim khổng lồ. 
Thật là kỳ lạ, trong khi con chim vừa vỗ cánh lên cao vừa như cất tiếng cười hô hố riễu cợt, đầu gậy đập xuống dính chặt vào lưng chim, còn Loki cũng bị dính chặt vào đầu kia.
Thấy mình bị nhấc bổng lên theo cánh chim bay, Loki hốt hoảng hét lên với Odin và Hoenir: 
“Cứu tôi với! Cứu tôi với!”
Nhưng cả Odin và Hoenir chưa ai kịp làm gì thì chim phượng đã bay xa, tha theo Loki, bay là là, lướt qua đầm lầy này, lướt qua bụi gai nọ. Cứ như thế cho đến khi Loki cảm thấy cả cơ thể rời rã như cây cỏ dại bị nhổ bật rễ, hai cánh tay như sắp đứt lìa khỏi vai. Lúc đó chim phượng mới bay chậm lại chút ít, rồi lên tiếng:
“Này Loki, không ai có thể cứu được ông ngoài tôi ra. Ông đừng hòng buông được tay rời khỏi chiếc gậy này. Muốn thoát nạn hãy hứa giúp tôi một việc”.
Loki rên rỉ:
“Được được, hãy hạ cánh cho ta xuống, rồi nói cho ta biết ngươi là ai và muốn gì ta sẽ giúp”.
Phượng Hoàng nói: 
“Tôi là người khổng lồ Thiasse, kẻ thù của chư thần trên thiên đình. Nhưng tôi biết ông không nỡ ghét bỏ tôi vì chính vợ ông cũng là một nữ khổng lồ”. 
“Phải phải, ta yêu, ta quý người vợ hiền của ta lắm. Hãy nói điều ngươi muốn ta giúp!”.
“Tôi muốn ông giúp tôi lấy cắp những trái táo của nàng Iduna!”.
Đó là những trái táo ăn vào thì cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử. Tất cả chư thần trên thiên đình sở dĩ mãi mãi trẻ đẹp như vậy là nhờ những trái táo của nàng Iduna. Bởi vậy khi Thiasse vừa dứt lời, Loki đã kêu lên:
“Không được rồi! Hẳn ngươi cũng biết những trái táo đó là bảo vật của cả chư thần. Ai mà ăn cắp nổi!? Giả dụ như ngươi lẩn tới định ăn cắp thì chỉ một tiếng hô hoán của nàng Iduna là lập tức cả thiên đình vây lấy ngươi mà làm thịt”.
Thiasse nói: 
“Vậy thì ông phải tìm kế cho tôi bắt cóc được cả nàng. Ông đã hứa là sẽ giúp tôi kia mà”.
Một ý nghĩ thoáng qua trong trí Loki: giúp Thiasse bắt cóc Iduna rồi tất Thiasse cũng sẽ để cho mình thỉnh thoảng được thưởng thức hương vị thứ táo cải lão hoàn đồng đó. Tóm lại chư thần trên thiên đình ngày một già yếu trong khi chỉ có Loki thoát ngoài vòng sinh lão bệnh tử, khoái biết chừng nào. Ý nghĩ đó coi bộ hợp với tính khí gian manh xảo quyệt của Loki, nên Loki trả lời:
“Được lắm, ta sẽ giúp ngươi điều đó, nhưng ngươi đừng quên những nguy hiểm ta phải trải qua khi thực hiện kế đó, đừng quên ta với người là bà con xa gần với nhau. Vậy khi được toại nguyện, ta sẽ nhờ lại người một chuyện khác”.
Thiasse hài lòng thả Loki xuống đất. Loki chạy một mạch về thung lũng cũ nướng thịt với Odin và Hoenir. Cả ba vui vẻ ăn thịt nướng no nê rồi quay trở lại thiên đình. Tất nhiên, Loki không tiết lộ gì về câu chuyện kín đã giao ước với Thiasse. 
Ngày qua ngày, tới bữa nọ Loki đến cánh đồng hoa nơi Iduna vẫn hằng lui tới . Iduna khi đó đương ngồi chải mớ tóc vàng ánh của nàng bên dòng suối bạc , giỏ táo vẫn giữ trong lòng . Nàng mặc áo lụa xanh lơ thêu hoa thêu nụ bằng chỉ màu , nàng thắt ngang lưng chiếc thắt lưng màu vàng óng . Nàng luôn luôn đẹp và hiền như vậy . Thấy Loki tới nàng đon đả lên tiếng : 
“ Chào Loki , phải chăng bạn cần nhấm nháp trái táo của tôi để xóa những vết nhăn có thể xuất hiện ở hai bên đuôi mắt ?”
Loki đáp :
“ Không đâu Iduna ạ , tôi mới tìm thấy một nơi có cây táo coi bộ ngọt hơn và thần diệu hơn táo của nàng nhiều . “
Iduna lắc đầu :
“ Đừng nói đùa Loki , ở thiên đình này còn kiếm đâu ra thứ táo thần diệu hơn táo của tôi ?”
“ Vậy mà có đấy Iduna ạ . Trong một khu rừng nhỏ không xa thiên đình là mấy có một cây táo già , dáng xù xì cằn cỗi mà cành thì nặng trĩu những trái táo ửng hồng như má con gái.”
“ Nếu thế Loki hãy mang tới đây cho tôi vài trái để so sánh thử xem thứ nào hơn thứ nào.”
“ Điều đó quyết là không được rồi. Tôi giữ kín mà. Rồi đây chư thần sẽ tìm tới xin thưởng thức táo thần chứ không tìm đến Iduna nữa đâu “.
Iduna bắt đầu vật nài vì trí tò mò bị kích thích :
“ Thôi , Loki chỉ cho tôi nơi có cây táo đó đi !”
Loki làm bộ ngần ngừ rồi nói :
“ Tôi quý Iduna lắm mới cho biết đấy , nhưng nhớ kỹ là phải giữ bí mật tuyệt đối nhé .”
Iduna gật đầu lia lịa :
“ Được rồi , hãy đưa tôi tới đó ngay, hiện giờ không có ai ở đây .”
Loki chỉ đợi có vậy bèn nói :
“ Nào , chúng ta đi ngay. Iduna hãy đem theo giỏ táo của nàng để tiện bề so sánh , nhưng nhất định táo của tôi ngon hơn rồi”.
Iduna tất tả chạy theo Loki , mang theo giỏ táo của nàng . Nhưng đi một quãng đã khá xa mà nào nàng có thấy bóng dáng khu rừng với cây táo nào đâu . 
Nàng cảm thấy rờn rợn sợ hãi , thì Loki nói chỉ còn một quãng nhỏ nữa thôi . Tới đúng chỗ mai phục , Thiasse trong bộ áo chim phượng hoàng của hắn bất chợt xà xuống bắt cóc liền nàng Iduna cùng giỏ táo thần , mang về lâu đài của hắn ở Jotunheim , xứ của người khổng lồ .
Loki lén trở lại thiên đình , đinh ninh không ai trông thấy mình vừa ra đi với Iduna .
Thoạt ít ai chú ý đến sự vắng mặt khá lâu của Iduna , nhưng rồi dấu vết thời gian bắt đầu in trên khuôn mặt chư thần thành những nét nhăn , sức lực dẻo dai của chư thần cũng sút kém trông thấy.
Nữ thần Freya đã ngại không dám nhìn bóng mình trong gương nữa , thần Baldur đẹp trai là vậy mà da mặt cũng tái lợt , đôi mắt ngơ ngác . Cả thiên đình đượm vẻ thê lương của cảnh thu tàn đông tới . Nếu không cấp tốc tìm cho ra Iduna thì chư thần cũng sẽ úa héo hết như lá vàng cuối thu sang đông . Chư thần bèn họp đại hội nghị để điều tra xem ai là kẻ trông thấy Iduna lần cuối cùng , thì Heimdall ( thần ánh sáng , kẻ coi cầu vồng , đường ra khỏi thiên đình) nói đã trông thấy Loki đi cùng Iduna vào một buổi sáng nọ , rồi từ đấy Iduna mất tích. Như vậy thì không còn nghi ngờ gì nữa, đích thị Loki đã làm điều gian manh khuất tất đây . Chư thần bèn trói gô Loki lại dẫn ra trước đại hội đồng dọa nếu không thú thực điều đã làm có thể bị giết . Sợ quá Loki thú thực hết điều mình làm .
Cả thiên đình hốt hoảng đến cực độ khi vỡ lẽ ra là Iduna và giỏ táo thần của nàng đã bị cầm tù ở thế giới người khổng lồ , trong khi đó chư thần già nua dần từng giây phút . Cáu quá thần Thor túm lấy cổ Loki tung lên cao nhiều lần đến nỗi gót chân Loki đập vào mặt trăng rồi lại chấm xuống biển , sau đó thần Thor gầm lên :
“Nếu mi không tìm được cách nào mang Iduna về đây ta sẽ hành hạ mi nặng gấp bội thế này nữa .”
Loki run lập cập đáp :
“Nhưng tôi biết làm thế nào đây ?”
Thần Thor càng gầm lên :
“Làm thế nào được thì làm, kệ mi, đó là phần mi ! Hãy đi và mang Iduna về đây ngay lập tức !”
Loki suy nghĩ giây lâu rồi ngỏ ý xin mượn chiếc áo chim ưng của nữ thần Freya. Thoạt Freya không muốn, nhưng sau chư thần khuyên giải nên nàng ưng.
Loki khoác áo chim ưng vào, rồi bay vù ngay lên không vượt qua bao rặng núi cao và thung lũng sâu, bay qua sông Ifling, ranh giới giữa thiên đình với thế giới khổng lồ. May sao khi Loki tới lâu đài Thiasse thì tên khổng lồ này còn mải đi câu ngoài biển cả. Nàng Iduna đương bị nhốt bên trong , u sầu khóc lóc tỉ tê. Khi nghe có tiếng động trên cửa sổ, nàng ngẩng lên nhìn thấy con chim ưng lớn, lòng càng hoảng sợ. Loki lên tiếng:
“Iduna đừng sợ, ta là bạn nàng đây, ta là Loki đến cứu nàng đây !” 
Iduna càng hốt hoảng:
“Loki đâu phải bạn ta. Chính vì hắn mà ta bị bắt cóc tới nơi này, hắn đâu phải bạn ta !”
Loki nói:
“Chính ta là Loki tới cứu nàng đây, đừng để mất thì giờ vô ích nữa. Phải gấp rời khỏi nơi này trước khi Thiasse đi câu về đây. Lẹ lên !” 
“Nhưng làm sao tôi dời khỏi nơi đây được ? Cổng thì khóa, cửa sổ thì có chấn song.”
“Ta có thể hóa phép cho nàng trở thành nhỏ như hạt dẻ. Lẹ lên! ” 
“Còn giỏ táo của tôi thì sao?” 
“Phải mang về chứ còn gì nữa, mang được nàng về mà không có giỏ táo thì chư thần sẽ đối xử với ta ra sao”.
Quả nhiên Loki hóa phép cho Iduna cùng giỏ táo nhỏ lại để có thể chui lọt qua song cửa sổ, rồi dùng móng chim ưng quặp lấy nàng mà bay về Asgard.
Lát sau Thiasse về khám phá ra cơ sự, vội mặc áo chim phượng hoàng bay đuổi gấp chim ưng. Cánh phượng hoàng vốn khỏe, bay nhanh hơn bất kỳ loài chim nào, nên trước sau rồi cũng tới lúc chim phượng đuổi kịp chim ưng.
Loki nghe tiếng kêu vang của chim phượng đương đuổi gấp thì hoảng sợ lắm, nhưng lúc đó Loki cũng đã vượt qua được con sông biên giới, cố sức bay miết về trung tâm Asgard.
Chư thần trên thiên đình khi đó đương sốt lòng nóng ruột tụ tập cả trên cầu vồng đăm đăm nhìn về phương Bắc. Thốt nhiên chư thần thấy con chim ưng đương vỗ cánh bay miết, dưới chân quặp một vật gì như cái hạt dẻ cùng cái hộp nhỏ thì đã đoán ra là ai rồi. Sau lại thấy bóng con phượng hoàng hùng vĩ đương vỗ cánh hăm hở đuổi theo mỗi lúc một gần, ai nấy đều thấy mối nguy cơ đe dọa cả thiên đình.
Không ai bảo ai, chư thần kể cả Odin, cùng tíu tít thu thập củi khô chất thành một đống cao ngất. Khi Loki vừa bay vượt qua bức thành cao của thiên đình, hạ nàng Iduna cùng giỏ táo thần xuống đất, chư thần bèn cho phóng hỏa đống củi khô. Lửa ngùn ngụt bốc cao ngất trời. Thiasse đương đà bay nhanh không hãm kịp, lao đầu vào bức thành lửa, cánh chim phượng cháy vèo, Thiasse hết bay được, ngã lăn kềnh xuống đất, bị thần Thor giáng cho một búa chết liền.
Chư thần reo mừng chiến thắng. Loki hóa phép cho nàng Iduna và giỏ táo thần lớn trở lại kích thước cũ. Chư thần xúm lại quanh Iduna và nàng trao cho từng thần nếm táo để được cải lão hoàn đồng và hùng mạnh trở lại như xưa. Hú vía!
Cả thiên đình tai qua nạn khỏi, nhưng cũng từ đấy chư không vị nào quên trò chơi gian manh, nguy hiểm đã qua của Loki. Chư thần ủ kỹ kỷ niệm xấu xa đó trong lòng như người ta vùi sâu một hạt giống trong lòng đất. Danh dự Loki, âm hưởng cái tên Loki hạ giá rõ rệt giữa chư thần tại chốn thiên đình, điều đó tưởng không có chi là lạ.

TRUYỆN THẦN THOR THUA CUỘC


Thần Thor vẫn nức tiếng là bách chiến bách thắng một khi thần ra tay trừng trị một tên Khổng Lồ Băng Giá nào. Tuy nhiên đã có lần thần thua cuộc.
Hôm đó Thor sử dụng chiếc xe có con dê kéo của thần lên đường ngao du một chuyến. 
Loki xin đi theo. Đi hết một ngày, Thor va Loki dừng chân tại nhà một trại chủ. Con dê kéo xe bao giờ cũng là nguồn cung phụng thịt ăn cho Thor và những trường hợp đó, Thor giết dê lột da, rồi nấu bữa ăn chiều, mời luôn cả hai vợ chồng người trại chủ và hai con của họ – một trai, một gái – cùng ăn cho vui. Cậu con trai trại chủ tên là Thialfi, cô con gái tên là Roskva. Thor dặn mọi người ăn xong nhớ bỏ hết xương và tấm da dê trải trên đất gần đấy. Mọi người đều làm theo lời Thor trừ Thialfi. Cậu này phàm ăn quá nhai nghiến luôn một miếng xương để thưởng thức đến tận cùng chất tủy ngọt. Sớm hôm sau, khi vừa thức giấc, Thor giơ búa lên trên đống xương, lập tức con dê sống lại như cũ. Nhưng khi dê đi thì chân sau hơi khập khiễng. Thor biết có kẻ đã không vâng lời mình bèn nắm chặt lấy cán búa, nắm mạnh đến nỗi các đốt ngón tay của thần như trắng bệch. Toàn gia trại chủ hết vía xụp lạy. Trại chủ van xin thần hãy tha tội cho và xin biếu thần hết cả gia cơ điền sản. Thor nguôi giận tha chết cho mọi người và nhận Thialfi và Roskva theo hầu từ đấy.
Tất cả mọi người lên đường, con dê để lại. Họ đi mãi đi mãi cho tới lúc gặp biển. Họ lội qua eo biển nông sang bờ bên kia. Đi một quãng nữa họ đi vào một khi rừng mênh mông, đi suốt ngày. Thialfi lại là kẻ lanh chân hơn cả. Cậu mang theo túi da đựng thực phẩm cho mọi người trong cuộc hành trình này. Trời đã bắt đầu tối, họ tìm chỗ ngủ và thấy một căn nhà cửa mở tuốt vào tận phía trong sâu hun hút. Thor quyết định mọi người ngủ tạm tại đó. Nửa đêm chợt ai nấy thức giấc vì có tiếng động lớn và khắp xung quanh rung lên như có động đất. Thế là mọi người nhìn quanh tìm nơi ẩn trú an toàn hơn. Loki, Thialfi và Roskva thấy có khoảng hành lang hẹp đưa vào một căn phòng nhỏ nào thì phải, bèn chui tuốt vào trong đó, Thor thì ngồi ngay lối ra vào, tay lăm lẳm cầm búa để phòng bất trắc.
Khi ban mai ló rạng, mọi người thức giấc. Roskva sửa soạn bữa ăn sáng. Thần Thor thì đi quanh một vòng xem xét sự tình. Thần bỗng nhận ra một người khổng lồ nằm ngủ gần đấy. Thì ra chính tiếng ngáy của người khổng lồ này đã làm rung chuyển mặt đất. Khi người đó tỉnh dậy, thần Thor mới hỏi tên. Thật là hạn hữu lần này thần Thor lại chùn tay, không sử dụng đến búa. Người đó trả lời: “Tên tôi là Skrymir, tôi không cần hỏi tên cũng biết ông là thần Thor nhưng này, chiếc bao tay của tôi đâu?” Thần Thor bấy giờ mới nhận ra căn nhà mà họ ngủ qua đêm chính là cái bao tay của người khổng lồ, và cái phòng nhỏ mà ba bạn đồng hành của thần Thor chui vào ẩn chính là ngón tay cái của chiếc bao tay. Skrymir bấy giờ mới đề nghị cùng nhập bọn với thần Thor. Thần Thor bằng lòng. Tất cả cùng ngồi ăn điểm tâm. Ăn xong, Skrymir gom tất cả thực phẩm vào một cái bị, khoác lên vai rồi dẫn đầu. Người này bước dài đến nỗi thần Thor và ba bạn phải cố hết sức mới bắt kịp. Đến tối tất cả nghỉ dưới gốc cây sồi lớn. Skrymir đưa bị thực phẩm cho thần Thor bảo sửa soạn bữa ăn. Thế rồi người khổng lồ nằm lăn ra ngủ. Thần Thor cố mở túi đồ ăn mà không được vì Skrymir thắt nút chặt quá. Thần Thor nổi cáu, cầm chiếc búa đập thật mạnh vào đầu Skrymir. Tên này thức giấc hỏi có phải chiếc lá vừa rơi xuống đầu hắn không, mọi người ăn tối chưa và chuẩn bị đi ngủ chưa? Thor trả lời: mọi người vừa đi ngủ. Nói xong thần Thor lẳng lặng tới nằm dưới gốc cây khác. Nhưng thần Thor không tài nào ngủ được, trong khi đó người khổng lồ lại ngáy vang. Thần Thor giận quá, trỗi dậy, xách búa, rồi dùng hết sức bình sinh giáng xuống đầu Skrymir. Tên này tỉnh dậy kêu lên: “Cái gì vậy? Có con chim nào đậu trên cây này không đây? Tôi thấy như có rêu trên cành cây rớt xuống đầu tôi”. Thần Thor đáp: “Ta cũng vừa thức giấc bây giờ mới nửa đêm, hãy ngủ nữa đi”. Đến gần sáng, khi Skrymir còn đang say giấc, thần Thor lại lấy búa đập một cái mạnh đến nỗi chiếc búa ngập sâu vào đầu Skrymir tới cán, nhưng tên khổng lồ chỉ ngồi dậy, xoa má nói: “Có một trái cây rơi xuống đầu tôi. Thần Thor cũng dậy rồi đấy ư? Thôi chúng ta sửa soạn đi . Đường tới tỉnh Utgard không còn bao xa. Tôi đã nghe quý vị thì thầm bảo tôi to lớn quá nhưng khi đến Utgard, quý vị sẽ thấy còn nhiều người cao lớn hơn tôi nữa. Cho nên tôi khuyên quý vị khi tới đó, đừng kiêu ngạo vì đám quần dân Utgard không chịu sự kiêu ngạo của những người vóc dáng nhỏ bé đâu. Bấy giờ xin quý vị hãy theo đường về hướng Đông, tôi về hướng Bắc chúng ta chia tay ở đây”. 
Nói xong Skrymir khoác bị lên vai rồi đi vào rừng. Thần Thor để mặc cho hắn đi, thần không muốn đi chung với hắn nữa. 
Bọn của thần Thor tiếp tục đi đến trưa thì thấy một thành phố nằm giữa cánh đồng bằng. Thành phố này cao đến nỗi họ phải ngửa cổ ra phía sau mới nhìn được tới đỉnh. Họ và thành phố, tới trước một tòa lâu đài, cửa mở rộng. Họ vào bên trong, thấy một đám người cao lớn vĩ đại ngồi trên ghế. Họ tiến tới gặp vua Utgard-Loki. Họ cúi chào. Để đáp lại, vua mỉm cười khinh bỉ nói: “Nếu ta không lầm người trẻ tuổi kia hẳn là thần Thor! Thế thần và đồng bọn có tài gì không, bởi không ai được phép ở đây nếu không làm được một việc gì thắng kẻ khác.” Nghe xong Loki bèn nói: “Theo như tôi biết thì việc phải đạt được là ăn nhanh hơn hết mọi người, vậy tôi sẵn sàng ăn thi”.
Vua Utgard-Loki nói ngay: “Đứng đấy! Nếu ngươi muốn, ta cho ăn thi ngay”. Nói rồi vua truyền lệnh cho một người khổng lồ ngồi đằng xa tên Logi tới thử sức với Loki. Một máng thịt được bày ra mỗi người một đầu cứ thế ăn cho đến khi gặp nhau ở giữa máng. Loki chỉ ăn thịt còn tên địch thủ kia không những nhai được cả thịt lẫn xương còn ăn luôn cả cái máng nữa. Thế là Loki bại cuộc.”
Vua Utgard-Loki quay sang hỏi tên hầu cận của thần Thor, tức Thialfi, liệu có thể thì thố được tài năng gì? Thialfi trả lời hắn có thể chạy thi. Vua bằng lòng. Tất cả cùng ra cánh đồng bằng, vua cho lệnh tên Hugi chạy thi với Thialfi. Chặng đầu Hugi chạy nhanh đến nỗi hắn quay lại gặp Thialfi mới chạy cách xa điểm khởi hành có một quãng. Họ chạy đua thêm hai chặng nữa, tất nhiên Thialfi đều thua đậm. 
Utgard-Loki bấy giờ mới hỏi đến thần Thor xem có tài gì thi thố không? Thần Thor đề nghị uống rượu thi. Vua cho mang lại một tù và rượu. Thường thì hễ ai trong đám bộ hạ của vua mà phạm luật trong bữa tiệc, phải uống cạn sừng rượu này.
Vua nói với thần Thor: “Ai uống giỏi, chỉ một hơi là cạn sừng rượu này, nhưng hầu hết phải uống hai hơi, còn những kẻ kém thì phải uống quá ba hơi”. 
Thần Thor nhìn sừng rượu thấy không to lắm vả lại thần đang khát, bèn ngửa cổ lên tụ một hơi. Thần nhìn xuống thấy rượu chỉ vơi một chút thôi bèn ngửa cổ uống hơi thứ hai nhưng khi bỏ tù và xuống, thần thấy rượu chỉ đủ vơi để khỏi sánh ra ngoài. Utgard-Loki nói: “Thế nào, thần Thor, nếu người muốn uống cạn hơi thứ ba thì phải kéo hơi thật dài. Đối với dân ở đây, người quả không phải là mẫu người dũng mãnh. Người hãy thi thố tài năng khác đi”. 
Thần Thor giận quá lại đưa sừng rượu lên môi cố uống cạn. Nhưng rượu cũng chỉ vơi đi một tý thôi, thần đành trao trả lại sừng rượu, rồi hỏi Utgard-Loki, xem muốn thử thách thần điều gì. Utgard-Loki nói:
“Chúng tôi có một trò nhỏ dành cho con nít. Trò đó giản dị là nhấc con mèo của tôi lên khỏi mặt đất. Bây giờ thần thử đi.”
Một con mèo xám khổng lồ tức thì nhảy tới Thần Thor để một tay dưới bụng con mèo, cố hết sức nhấc lên, nhưng chỉ nhấc được một chân con mèo lên thôi. Vua Utgard-Loki nói: “Tôi biết trước vậy rồi. Con mèo thì lớn mà thần thì quá nhỏ so với người chúng tôi đây.” 
Thần Thor tức giận nói: “Ông chê tôi nhỏ hả? Ông hãy gọi một người trong bọn ông ra đánh vật thử với tôi ngay bây giờ xem sao”. Utgard-Loki trả lời: “Ở đây chắc chả ai thiết đánh vật với ông đâu, thôi để tôi gọi người vú già Elli đọ sức với ông vậy. Vú già Elli tới. Thần Thor kéo thật mạnh mà bà già Elli cứ đứng trơ trơ. Cố mãi đến trùn chân, cuối cùng thần phải khụyu một chân xuống. Vua Utgard-Loki bấy giờ mới bảo mọi người lui về, vì Thor không thể vật với ai được nữa. Rồi vua chỉ chỗ cho bọn thần Thor ngủ. 
Sáng hôm sau, ba người sửa soạn lên đường. Utgard-Loki cho bày cơm rượu mời. Ăn xong, vua đích thân tiễn ba ngươi ra cổng thành. Khi chia tay, vua mới hỏi thần Thor nghĩ gì về chuyến du hành này, và thần có nghĩ rằng đã gặp người khỏe hơn mình không? Thor trả lời là không thể chối được điều ấy và thần lấy làm hổ thẹn lắm. Rồi thần nói thêm: 
“Nhưng điều tôi buồn nhất là rồi đây ông sẽ cho tôi là người chẳng có giá trị gì đáng kể”. 
Nghe tới đây vua khổng lồ Utgard-Loki vội nói:
“Không đâu! Để tôi nói hết sự thực ngài nghe, vì ngài sắp sửa rời khỏi thành phố này và sẽ không bao giờ trở lại. Tôi xin lấy danh dự mà xác nhận rằng ngài có sức mạnh vô song. Chính ngài đã làm tôi suýt nguy, tôi đã đánh lừa ngài nhiều phen. Trước hết chính tôi là tên khổng lồ đã đi chung đường với ngài, tôi buộc bị đồ ăn bằng dây sắt chặt quá nên ngài cởi ra không được. Rồi ngài tức giận mới đập tôi ba búa. Tôi đã khéo léo khuân một trái núi đặt ngăn cách giữa tôi và ngài, thành ra ngài đập vào núi. Bây giờ ngài trông kia, chỗ núi đó còn in hằn ba thung lũng, trong có một thung lũng sâu nhất. Thế rồi tôi đánh lừa bọn ngài trong cả mấy cuộc đua nữa. Loki ăn rất nhanh nhưng Logi của chúng tôi chính là Thần Lửa, cho nên đã ngốn hết cả thịt, xương cùng máng đựng thức ăn. Thialfi chạy đua với Hugi, mà Hugi chính là thần Ý Nghĩ. Vậy làm sao Thialfi đuổi kịp ý nghĩ cho được! Rồi tới lượt ngài uống sừng rượu, ngài đã làm một việc tuyệt diệu tôi chưa từng thấy vì ngài đâu có biết đáy sừng đó ăn thông ra biển. Ngài mà chạy ra biển lúc đó sẽ thấy mức thủy triều rút hẳn xuống. Việc ngài nâng được một chân con mèo lên cũng là một chiến công lớn. Lúc đó tất cả chúng tôi đều phải kinh hoàng vì ngài đâu biết con mèo đó chính là con rắn Midgard, nó dài, như ngài biết đấy, đến nỗi quấn quanh được cả trái đất.
Rồi việc ngài vật lộn với Elli cũng là một kỳ công nữa vì bà già Elli đó chính là thần Tuổi Già đấy. Từ trước tới giờ, và cả từ giờ trở về sau, có người nào chống nổi Tuổi Già đâu. Thôi trước khi chúng ta chia tay, tôi chỉ khuyên ngài một câu là đừng bao giờ tới đây nữa vì nếu có gặp nhau nữa, tôi lại phải lừa ngài để tự vệ. Như vậy chỉ làm ngài mất sức mà không được vẻ vang gì”.
Nghe tới đấy thần Thor giận quá, giơ búa lên định đập Utgard-Loki, nhưng Utgard-Loki đã biến mất. Thần Thor tức tốc quay lại thành phố định đập phá cho hả giận nhưng chỗ đó chỉ còn là một cánh đồng bằng xanh tươi.

PHỤ CHÚ:


Truyện thi tài giữa thần Thor với một người Khổng Lồ Băng Giá trên đây thật vừa giàu hình ảnh tượng trưng, vừa có nhiều liên hệ đến những điển tích thần thoại Bắc Âu khác. Nào trong truyện nhắc đến con rắn Midgard quấn quanh trái đất, nào những Thần Lửa, Ý Nghĩ, Tuổi Già được nhân cách hóa một cách vừa thông minh vừa bất ngờ. Những đường búa dũng mãnh tuyệt vời của thần Thor được thể hiện thành hình ảnh vô cùng gợi cảm là ba thung lũng liên tiếp nhau trên một trái núi, trong đó có một thung lũng sâu nhất. Sau cùng hình ảnh thần Thor ngửa cổ uống nước biển làm thành cảnh thủy triều lên xuống. Truyện thần Thor thua cuộc trên đây cũng mang tinh thần đặc biệt Bắc Âu nữa vì như chúng ta đã biết, các vị thần Bắc Âu không vô địch bách chiến bách thắng như các vị thần Hy Lạp, trái lại cũng phải luôn luôn đương đầu với định mệnh khắc nghiệt của mình, có khi được cuộc có khi thua cuộc, có khi mạng vong (truyện thần Baldur dưới đây), có khi phải hy sinh khá mắc (Odin phải móc mắt bên phải để được uống nước suối nguồn khôn ngoan, đã đọc trên đây). 


CÁI CHẾT CỦA BALDUR


Baldur, con út của thần Odin và nữ thần Frigga, là thần của ánh sáng và hòa bình; là thần của trẻ đẹp và khôn ngoan. Vào dạo đó, Baldur chợt lo lắng vô cùng vì mấy đêm liền thần có những ác mộng dị kỳ. Thoạt Baldur bỗng thấy có một đám mây lớn bay tới che ánh mặt trời, và cả thiên đình Asgard chìm trong đêm tối. Baldur ngẩng chờ cho đám mây đen bay đi và mặt trời chiếu rọi những tia sáng như cũ. Nhưng không, mây đen vẫn ngưng đọng dầy đặc và thần nghĩ thôi thế là mặt trời ra đi vĩnh viễn mất rồi. Thần sực tỉnh, lòng buồn vô hạn. Đêm hôm sau, lại một cơn ác mộng khác. Lần này thần thấy vạn vật vẫn chìm trong bóng tối như đêm hôm trước, thêm vào đấy thần nhận thấy những bông hoa đều héo rũ và chư thần trở thành già nua hẳn đi, những trái táo của nàng Iduna cũng không làm chư thần trẻ lại được nữa. Đâu đâu cũng thấy tiếng khóc than và những bàn tay vặn vẹo, tựa như vừa có việc gì ghê gớm lắm xảy ra. Baldur sực thức giấc và cũng như đêm trước cảm thấy lòng buồn rầu vô hạn. Tuy nhiên thần cũng không hề thổ lộ với vợ là Nanna một lời nào, chỉ một mình mình biết một mình mình hay thôi. 
Sang đêm thứ ba ác mộng mới giữ dằn làm sao. Baldur vẫn thấy mặt trời bị che khuất, mây sầu vần vụ, vạn vật héo tàn, còn vẳng tiếng kêu than não nề thảm đạm : “Mặt trời không còn, mùa xuân ra đi, niềm vui khuất bóng, vì vị thần trẻ đẹp Baldur đã qua đời!” Lần này thì Baldur vùng thét lên một tiếng kinh hoàng rồi sực tỉnh. Vợ thần, nàng Nanna hỏi duyên cớ. Thần kể hết những ác mộng của ba đêm liền. Nanna cũng ôm mặt khóc lo lắng và chạy sang phòng nữ hoàng Frigga – mẹ Baldur – kể lể sự tình. Nữ hoàng nghe dứt mộng báo điềm gỡ càng hốt hoảng âu lo đến cùng tột : Baldur vốn là đứa con mà nữ hoàng cưng nhất. Thực ra thì vì Baldur là vị thần trẻ trung, của ánh sáng, vừa khôn ngoan, vừa đáng yêu, thần xuất hiện ở đâu, đem lại hạnh phúc tới đó, nên có thể nói chẳng cứ gì chư thần mà cả muôn vật trên thế gian đều quý mến thần. Chính vì vậy nữ hoàng Frigga mới thốt lên: “Không thể được, Baldur, con ta đáng yêu như vậy làm sao mà chết cho được. Ta sẽ đi khắp hoàn vũ, để yêu cầu muôn loài muôn vật hãy hứa cùng ta là sẽ không làm điều gì thương tổn đến sinh mạng con ta!”.
Thế là hôm sau nữ hoàng hội họp khắp mặt chư thần ở cánh đồng Ida. Sau khi kể rõ cho chư thần nghe ba đêm ác mộng của Baldur, nữ hoàng chỉ yêu cầu chư thần có một điều là hãy hứa không làm gì tổn thương đến Baldur. Nghe vậy chư thần cùng kêu lên: “Làm thương tổn Baldur, vị thần của tuổi trẻ trong sáng, tươi vui? Không bao giờ! Ai mà làm vậy? Và những ác mộng kia nữa, đều là láo khoét hết!”
Ấy tuy hét lớn lên như vậy mà trong thâm tâm chư thần cũng cảm thấy ngài ngại. Có lẽ chư thần chỉ thật yên lòng khi nữ hoàng Frigga đã đi gặp khắp muôn vật và nghe được đủ lời hứa. Quả nhiên nữ hoàng Frigga đã không quên một vật nào trên thế gian. Nữ hoàng đã gặp gió, mưa, lửa, nước, sắt, cùng các kim loại khác; nữ hoàng đã gặp đá, cây, bệnh tật, thú vật, chim muông; các chất thuốc độc, các loài bò sát …; tất cả đều thề là quyết không làm bất kỳ một cái gì thương tổn đến sức khỏe của Baldur. Nữ hoàng Frigga yên lòng trở về. Chư thần hay tin đều reo mừng như thể vừa thắng một trận lớn với giống Khổng Lồ Băng Giá. Chư thần lại tụ tập tại đồng bằng Ida. Và để minh chứng lòng thương yêu của vạn vật với Baldur, chư thần tìm ra một trò chơi thật kỳ thú. Baldur được mời đứng giữa, gương mặt tươi vui và rạng rỡ như mặt trời, tay không hề cầm một tấc sắt. Trong khi đó chư thần thay phiên nhau kẻ dùng gậy gỗ, kẻ dùng cung tên gỗ, kẻ dùng lao sắt, kẻ dùng đá … liên tiêp tấn công Baldur. Đúng như lời muôn vật đã hứa, không vật nào đụng tới làn da Baldur. Gậy gỗ vừa chạm vào vai thần bèn tự gãy làm đôi; những mũi tên bắn tới đều tự động vượt cao lên đầu; đá ném tới tự hết trớn rớt hiền lành dưới chân thần, những lao phóng tới rơi chệch sang bên. Trò chơi hào hứng kéo dài, chỉ một lát sau các thứ khí giới nguy hiểm trên được ném, được lao, được bắn vun vút tới đã rơi xuống chồng chất thành đống cao đống thấp quanh Baldur. Thật là tuyệt diệu!
Nhưng trong đám chư thần đương hò reo kia chỉ có một kẻ đứng lặng, miệng không cười, không hò la. Đó là Loki. Loki ghen tức, sao chư thần và muôn vật lại yêu thương trọng vọng thần Baldur đến thế, và hay ghét bỏ mình đến thế. Loki nảy sinh ác tâm làm cho Baldur phải chết, mặc dầu Baldur không hề một lần tỏ vẻ thù ghét Loki.
Thế là trong khi chư thần tiếp tục trò chơi vô hại quanh Baldur, Loki lẩn đi, tự hóa trang thành một mụ già bước khập khiểng đến lâu đài nữ hoàng Frigga, lân la gợi chuyện rồi khéo léo hỏi khích: “Có chắc là nữ hoàng đạt được lời hứa của mọi vật không? Tôi e rằng khó có thể. Đã đành thần Baldur tuyệt diệu lắm rồi, vật nào mà nỡ hại, nhưng biết đâu đấy, phải thật chu đáo mới khỏi ân hận về sau”.
Nữ hoàng Frigga thấy mụ già hết lời ca ngợi con mình thì hài lòng lắm, vô tình mắc mưu, bèn nói: 
“Bà già ơi, quả thật ta đã gặp khắp muôn vật và được muôn vật hứa, trừ một vật nhỏ yếu lắm, vô hại lắm nên ta bỏ qua!”
Mụ già nhỏ nhẹ hỏi : “Chẳng hay vật nhỏ nhoi vô hại đó là vật gì vậy, thưa nữ hoàng?”
Nữ hoàng Frigga thực thà nói: “Đó là cây tầm gửi mềm yếu mọc trên một cành cây sồi cổ thụ phía đông Valhalla”.
Nghe xong, mụ già cáo lui, vội vã tới cây sồi phía đông, nhận ra ngay cây tầm gửi, bèn cắt xuống, vót nhọn thành hình một mũi tên xanh. Mụ già cất tiếng cười nham hiểm mà rằng: “Hô hô, thì ra trong muôn vật chỉ còn nhánh tầm gửi này, vì quá nhỏ nhoi mà khỏi cần cho lời hứa.Vậy hỡi nhánh tầm gửi, hôm nay ngươi hãy theo lệnh ta mà chuyển đạt một “thông điệp yêu thương” của ta tới Baldur nghe!”
Mụ già về tới đồng bằng Ida, cuộc vui còn tiếp diễn ồn ào, duy có Hodur, người anh mù lòa của Baldur là đứng riêng một góc như bị bỏ quên. Mụ già tới bên cất giọng khàn khàn hỏi vì sao Hodur không gia nhập cuộc vui. Hodur buồn rầu nói: “Tôi mù lòa từ thuở mới sinh ra nên tuy sức lực có thừa mà chẳng bao giờ dùng đến vũ khí. Trong cuộc vui hiện giờ tôi có nhìn thấy Baldur đâu mà ném, và cũng chẳng có cái gì trong tay để ném cả”.
Loki làm giọng khàn khàn nói: “Tôi cũng chỉ là một mụ già đến xem cuộc vui chẳng có gì trong tay. À đây, tôi có một nhánh tầm gửi mềm xinh này, xin cầm lấy và hãy theo tay dắt của tôi.”
Thế là cả hai gia nhập vòng tròn chạy quanh Baldur. Khi đến lượt Hodur ném mũi tên tầm gửi mềm, mụ già giữ phía sau khuỷu tay chàng để điều khiển giúp. Bà bàn tay phù thủy của mụ đã khiến mũ tên nhỏ nhọn hoắt vút tới đích nhanh như ánh sáng qua làn áo ngoài, qua làn áo trong để sau cùng xuyên thẳng vào tim. Baldur gục chết tức khắc. Loki lẩn mất. Tiếng gầm thét nộ khí sung thiên của chư thần trước thảm cảnh.
Hodur bàng hoàng run lẩy bẩy hỏi: “Sao vậy, sao vậy, tôi có làm gì lầm lẫn không?” 
Tiếng chư thần thét vang: “Ngươi đã giết chết em ngươi rồi! Baldur đã chết!”
Hodur nghẹn ngào nói: “Tôi giết chết em tôi ư? Có một mụ già cho tôi một cành cây nhỏ vô hại và điều khiển khuỷu tay tôi hướng về Baldur để tôi ném giỡn. Mụ đó đích thị là một mụ phù thủy rồi!”
Chư thần nghe vậy vội tản đi tứ phía tìm mụ phù thủy, nhưng mụ đã biến tăm mất dạng rồi. Chỉ có thần Heimdall sáng suốt là nghi và đoán ngay hành vi ác độc đó không thể do ai ngoài Loki.
Nữ hoàng Frigga khóc than khôn xiết và hỏi chư thần xem có ai đi ngay xuống miền âm phủ xin Hela cho phép Baldur trở về Asgard. Thần Hermod nhanh nhảu xung phong liền để đi tìm em (Thần Hermod cũng là con thần Odin). Hermod được phép dùng con ngựa Sleipnir của cha. Ngựa này có tám chân và chạy nhanh hơn gió. Thần đi chín ngày đêm xuống miền vực sâu, đường tối đến nỗi thần chẳng thể phân biệt được vật gì với vật gì! Rồi Hermod tới sông Gyoll, phóng ngựa qua chiếc cầu mạ vàng. Nàng con gái giữ cầu hỏi tên thần, rồi phàn nàn rằng hôm trước có tới năm toán người chết qua cầu này, vậy mà cầu không chuyển bằng một mình thần đi. Rồi nàng ta hỏi : “Nhưng người chưa chết kia mà, sao lại tới địa ngục làm gì?”
Hermod trả lời: “Tôi tới đây để tìm em tôi là Baldur. Thế nàng có gặp em tôi đi qua đây không?”
Nàng con gái đáp: “Có, Baldur có qua cầu này và đi theo đường kia để tới cõi âm”.
Hermod tiếp tục đi tới cổng Địa ngục có song sắt chắn ngang. Hermod bấy giờ mới cầm cương cho chặt rồi thúc con ngựa nhảy vọt qua cổng. Hermod thẳng tiến tới tòa lâu đài gặp Baldur. Baldur ngồi trên một chiếc ghế bành đặc biệt. Hai anh em ngủ qua đêm với nhau. Sáng hôm sau Hermod xin phép Hela cho Baldur trở về, vì khắp vạn vật không trừ một loài gì đều thương khóc Baldur. Hela trả lời : “Phải thử xem Baldur có thật được toàn thể thương mến như thế không? Nếu quả thật tất cả đều thương và khóc thì Baldur sẽ được sống lại. Nhưng chỉ một vật không thương khóc, Baldur sẽ phải ở lại âm phủ mãi mãi.”
Hermod trở về Asgard thuật lại tất cả cho chư thần nghe. Các thần mới gửi sứ giả đi khắp nơi, xin mọi vật hãy khóc cho Baldur được trở về. Người, vật, đất, đá, kim loại … đều khóc như bị đem từ nơi lạnh tới xứ nóng. Trên đường về, các sứ giả gặp mụ phù thủy già tự xưng tên là Thaukt ngồi trong hang, mới xin mụ khóc cho Baldur. Nhưng mụ trả lời: “Thaukt sẽ khóc Baldur với những giọt nước mắt khô. Hãy để Hela giữ hắn!”
Ai nấy nghi ngờ mụ phù thủy này chính là Loki, người luôn luôn quấy phá chư thần. Thế là Baldur không được trở về Asgard.
Tất cả những vị thần bào huynh của Baldur bèn xúm lại ghé vai khiêng chiếc tầu Hringhorni lớn nhất thế giới của Baldur xuống bờ biển. Xác thần sẽ được đặt trên giàn hỏa thiết lập giữa tầu. Nhưng tới lúc đó, tất cả chư thần xúm lại mà không sao đẩy được tầu xuống nước. 
Odin nói: “Cả những người khổng lồ cũng tỏ ra thương tiếc Baldur. Ta nghe thấy tiếng sấm khóc than của họ. Vậy xin chư thần hãy dẹp mọi thù hận với giống người đó và nhờ họ giúp chúng ta một tay đẩy chiếc thuyền này ra biển.”
Một sứ giả được cử đi Jotunheim, và một nàng khổng lồ khỏe nhất xứ đó tên là Hyrrockin tình nguyện xin tới giúp liền. Nàng cưỡi một con sói khổng lồ, dây cương là một con rắn. Tới nơi, nàng nhảy vội xuống và ra nắm lấy mũi tầu gò lưng kéo mạnh ra biển. Chiếc tầu nặng là vậy bỗng chuyển mình trôi phăng phăng, đáy tàu xiết mạnh trên đá, lửa tóe ra bốn phía, và khi tầu đã xuống nước thuận đà trôi phăng ra khơi khiến chư thần hốt hoảng tưởng phen này mất tầu. May sao Hyrrockin đã lội nhanh xuống biển, nhoài người ra tóm được đuôi tầu. Thế rồi xác Baldur được đưa lên tầu đặt trên dàn hỏa gồm những cuộn lụa và len đẹp muôn màu lấp lánh chỉ vàng do chính những tên thợ lùn khéo léo dệt nên. Nàng Nanna được chư thần đặt nằm xuống bên cạnh chồng. Cả con ngựa trận của Baldur cũng được giắt lên buộc trên đó với đầy đủ yên cương bạc nạm kim cương để nó sẽ dẫn chủ trên con đường về thế giới âm u của Hela. Thần Thor rút búa ra, một tia lửa từ lưỡi búa chiếu xuống đốt bén đống lụa là quý giá; phút chốc lửa bừng lên cao ngất chiếu sáng đôi khuôn mặt rạng rỡ của Baldur và Nanna. Sau cùng thần Odin đặt lên giàn hỏa tặng vật của thần. Đó là chiếc vòng vàng Draupnir, cứ sau chín đêm lại có tám cái vòng khác rơi ra cũng bằng vàng ròng, đẹp và sáng như vậy”.
Khi đặt vòng Draupnir xuống, thần Odin nói: “Con hãy giữ bảo vật này mang theo xuống thế giới của Hela. Con đừng bao giờ quên những người thân quý mà con để lại trên thiên đình Asgard.”
Sau đó Hyrrockin đẩy chiếc tầu. Chiếc tầu lấp lánh muôn vàn báu vật dưới ánh lửa bốc cháy huy hoàng lừng lững ra khơi chiếu sáng rực cả vòm trời. Trên bờ biển đứng ở hàng đầu là chư thần: thần Odin và nữ hoàng Frigga; thần Valkyrio cùng hai con quạ; thần Frey với cỗ xe do con lợn rừng bờm vàng kéo; thần Heimdall cưỡi con ngựa Gulltopp; nữ thần Freya với cỗ xe mèo kéo. Sau chư thần là đám người lùn và đám người Khổng Lồ miền Băng Giá. Tất cả đều quên hết những xích mích hận thù truyền kiếp, chỉ thấy đôi mắt ai nấy ứa lệ nhìn theo chiếc tầu lửa chở xác Baldur đương từ từ mất hút dần dưới đường chân trời và mặt nước gặp nhau. Chẳng bao lâu bóng tầu hoàn toàn khuất hẳn, chỉ để lại đằng sau một vùng hồng ánh lên đỉnh trời. 
Đó quả thực là cảnh hoàng hôn của thiên đình. Baldur trẻ đẹp chết đi, thiên đình Asgard chìm trong bóng đêm dằng dặc của niềm tiếc thương sầu hận thiên thu. 

PHỤ CHÚ


Trong thần thoại thế giới hiếm có truyện tả cái chết vừa huy hoàng vừa khốc liệt như truyện cái chết của thần Baldur trên. Tính chất vừa huy hoàng vừa khốc liệt đó đã phản ánh quá sức trung thành nếp sống kiêu hùng hồ hải của dân tộc Bắc Âu (quê hương của đám hải tặc Viking đã đi vào lịch sử). 
Đứng về phương diện biểu trưng, có thể truyện trên giống như truyện nàng Persephone (biểu tượng mùa xuân) của Hy Lạp: khoảng thời gian bốn tháng Persephone xuống âm cung với chồng thì trên dương thế là mùa đông tuyết phủ, cây cỏ tàn lụi. Nhưng cũng có thể truyện trên là để tượng trưng cho cảnh cả thần và người và vạn vật cùng bị hủy diệt khi tới thời băng giá sau này.

LOKI BỊ TRỪNG TRỊ


Loki làm sao tránh được hình phạt! Khi thấy các thần giận dữ, y đã cao chạy xa bay lẩn trốn lên một miền núi, dựng một cái lều có bốn cửa để có thể nhìn được tứ phía. Y còn làm một cái lưới để bắt cá. 
Thần Odin tức khắc khám phá ra chỗ ẩn của y, tới bắt y. Loki vội vã biến hình thành con cá hồi nằm ẩn trong một hốc đá dưới lòng suối. Chư thần bèn lấy chính cái lưới của y thả xuống suối. Loki sợ quá nhảy lên, thần Thor vội nắm lấy đuôi, bóp mạnh đến nỗi loài cá hồi từ đó có cái đuôi thật mỏng. Rồi các thần mới cột y bằng dây xích, bắt một con rắn độc treo trên đầu cho nọc rắn rỏ từng giọt xuống mặt y. Vợ y là Siguna ngồi bên cạnh cầm chiếc ly hứng nọc rắn, nhưng khi nàng ta đem ly đi đổ, nọc độc tiếp tục rơi xuống mặt Loki khiến y đau đớn giãy giụa làm trái đất rung lên. Người ta gọi đó là những trận động đất. 



RAGNAROK, HOÀNG HÔN CỦA CHƯ THẦN


Tất cả các quốc gia miền Bắc Âu đều tin tưởng rằng sẽ tới một ngày tất cả các thần ở Valhalla và Niffleheim, dân cư Jotunheim, Alfheim, Midgard cùng nhà cửa sẽ bị hủy diệt. Ngày tận thế đó sẽ có điềm báo trước. Thoạt tiên sẽ có ba mùa đông liên tiếp. Tuyết sẽ rơi phủ kín bốn góc trời, sương lạnh gió thổi cắt da, luôn luôn có bão tố, mặt trời ủ dột. Tiếp theo là ba mùa đông nữa (không có mùa hạ). Trong suốt ba mùa đông này, chiến tranh bùng ra khắp nơi. Trái đất sẽ kinh hoàng mà rung lên, biển động, sóng thần dâng cao ập tới, thiên đàng xẻ làm đôi, người chết như rạ, làm mồi cho những con đại bàng. Con chó sói Fenris bấy giờ sẽ bứt đứt dây xích, con rắn Midgard ngoi lên khỏi đại dương. Loki cũng mở được xích trói, gia nhập vào đám chống lại chư thần dưới quyền lãnh đạo của Surtur. Đằng trước và đằng sau họ lửa chảy ngút trời. Họ phi ngựa qua cầu vồng Bifrost. Cầu này bị vó ngựa làm gãy tan. Họ vẫn thẳng tiến tới mặt trận Vigard, nơi đó đã có con chó sói Fenris, con rắn Midgard, Loki cùng bộ hạ của Tử thần Hela và những người Khổng Lồ miền Băng Giá.
Thần Heimdall bấy giờ mới đứng lên thổi chiếc tù và Giallar để triệu tập các thần cùng các vị anh hùng ra ứng chiến. Các thần xung phong. Thoạt thần Odin xông vào đánh con chó Fenris nhưng bị bại. Con trai thần Odin là Vidar hạ được con chó. Thần Thor thì giết được con rắn Midgard, nhưng ngay sau đó lăn ra chết vì bị nọc độc của rắn phun vào người. Loki và Heimdall quyết một mất một còn nhưng rốt cuộc cả hai cùng mạng vong.
Cả hai phe đều chết như rạ. Surtur giết được thần mặt trời Frey, bèn nổi lửa đốt toàn vũ trụ. Mặt trời mờ tối đi, trái đất chìm sâu xuống đại dương, sao rụng lả tả và thời gian không còn nữa.
Sau đó đấng Thượng Đế Toàn Năng sẽ lập một thiên đàng mới, một trái đất mới. Tất cả đều từ lòng đại dương mà ra. Trái đất mới này sẽ kết đầy hoa trái, người không phải nhọc công chăm sóc. Sẽ không có tàn ác và khổ đau, để thần thánh và loài người sống an hòa hạnh phúc với nhau. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro