Tap van-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bữa cơm cá với măng già

(GĐVN) Tôi sinh ra ở một huyện nghèo của tỉnh Thanh Hóa. Bố đi bộ đội rồi về nghỉ mất sức (bệnh binh 61%) vào năm 1991 với hai bàn tay trắng. Trong làng tôi khi đó rộ lên phong trào trẻ con bỏ học vì khó khăn. Dù cho nhà tôi cũng thuộc diện nghèo nhất nhì xã nhưng bố vẫn cương quyết bắt ba chị tôi phải đến trường để học con chữ.

Ngoài mấy sào ruộng ra, bố mẹ tôi bắt tay vào nấu rượu gạo và chăn nuôi. Ngày ấy, bố mẹ chạy cả làng để vay tiền mua cái nồi đồng về nấu rượu nhưng chẳng được vì nhà nào cũng nghèo như nhau. Cuối cùng ông Ngoại phải đi đến các xã khác để mượn của những người bạn cũ. Rồi bố và ông Ngoại cả một ngày đường qua sông mới đến được huyện bên để mua nồi đồng về. Có thể nói đó là tài sản lớn nhất của nhà tôi khi ấy mà như bố vẫn thường đùa: “Vàng chìm vàng nổi của nhà mình đấy con ạ”. 

Nhiều buổi trưa nắng như đổ lửa, bố còn đạp xe đi lên các huyện miền núi mua măng về bán. Những cọng măng non đem lên chợ, còn những cọng già loại ra để bỏ đi nhưng mẹ lại nhặt nhạnh để nấu canh chua. Em út nhà tôi có bữa nhai cọng măng già bị nghẹn lại nên nhăn mặt: “Khô như rơm ấy bố à. Con thích ăn măng non, không thích ăn măng già vì cứ bựa ở cổ họng. Con đã cố gắng lấy đà, thở thật mạnh để nuốt mà vẫn không trôi được”. Bố chỉ cười hiền: “Thôi để khi mô trả hết nợ, bố sẽ thịt gà cho các con ăn”. Thế là thi thoảng em trai tôi lại hỏi bố mẹ là đã hết nợ chưa khiến bố rơm rớm nước mắt. 

Cứ có thời gian rảnh là bố lại đạp xe xuống các huyện miền biển để mua cá về làm mắm để nuôi lợn. Mẹ chọn ra những con cá còn lành lặn nấu lên thay thức ăn. Cái đáng nói là cá này được dân miền biển ướp muối và để từ lâu nên mặn chát và có mùi “thum thủm”. Nhưng những bữa ăn với cá thối thế cứ triền miên từ ngày này sang ngày khác. Sẽ không có gì đáng nhớ nếu như buổi tối hôm ấy em tôi không nhăn nhó: “Cái mùi ni thối quá bố ơi, con toàn phải nhắm mắt với bịt mũi để ăn mà vẫn thấy thối. Răng bữa mô nhà mình cũng phải ăn cơm với cá của lợn? Con ứ ăn nữa mô”. Bữa cơm chùng xuống, tôi nghe thấy tiếng nấc của bố, cái thở dài của mẹ. 

Ngước mắt lên, tôi trộm nhìn thấy khóe mắt bố có những giọt nước. Mẹ lẳng lặng không nói gì vội quay mặt đi. Khi ấy tôi lớn hơn nên gõ vào đầu em, nói: “Ngon lắm, mi không ăn thì tau ăn, đưa đây”. 

Để cải thiện bữa ăn, hôm sau bố mua về một ít mỡ lợn rồi bảo mẹ rán lên lấy nước bỏ vào bát nước mắm để chúng tôi ăn. Em tôi đắc chí: “Ngon hơn cá nhiều. Giá mà bữa mô cũng được ăn cơm với mỡ lợn”. Bố ngồi nhìn chị em tôi ăn ngon lành lại vội cụp mắt xuống, và vội bát cơm rồi đứng dậy, ra bàn hút thuốc lào sòng sọc. 

Khó khăn là thế nhưng bố vẫn động viên chúng tôi học hành thì mới ngóc đầu lên được. Cái nắng miền Trung gay gắt, những cơn bão đến thất thường nên mất mùa liên miên, thậm chí có năm mất trắng. Chuyện ăn cơm độn sắn, độn khoai lang đã là chuyện thường. 

Tôi vẫn nhớ, khi mà trong nhà hết gạo, mẹ chạy sang nhà cô Hiền đi vay một bơ về nấu. Bố kêu mệt không ăn nhưng tôi biết là vì bố muốn nhường cơm cho chúng tôi. Mẹ ăn nửa bát rồi đứng dậy. Thi thoảng bố vẫn hỏi đùa: “Bố mẹ đã để mấy đứa đói bữa mô chưa?”. Em trai tôi lại nhanh nhảu nhất nhà: “Chưa, bữa mô con cũng ăn căng bụng. Cơm độn cái chi cũng được, miễn là không phải ăn cơm với cá”…

 Đã gần 20 năm trôi qua, trong tiềm thức của tôi, những bữa cơm đạm bạc chỉ với thìa mỡ lợn lại là bữa tiệc của cả nhà vẫn còn vẹn nguyên. Cả những bữa ăn cơm với cá vừa mặn vừa có mùi thối vì để lâu như một kỷ niệm về thời khốn khó. Ai cũng có một miền kí ức để nhớ, để thương. Để rồi giờ đây, ba chị em tôi đều đã tốt nghiệp đại học và đi làm. Chúng tôi hàm ơn công lao của bố mẹ. Những lúc cùng cực nhất mà bố mẹ vẫn cho chúng tôi được cắp sách đến trường. Với những vất vả và hy sinh thầm lặng của bố mẹ thuở nào, nay tôi chợt nao lòng khi nhớ đến những bữa cơm ăn với cá nuôi lợn và cọng măng già đến mức “lấy đà thở thật mạnh để nuốt” như em trai nói. 

Thi thoảng chị em tôi gửi biếu một ít tiền, bố mẹ lại cảm ơn. Những lời cảm ơn ấy khiến tôi thấy rưng rưng. Nghĩ lại những lúc tiền chẳng có một xu, gạo chẳng còn một bát, cái lúc khốn khó nhất mà bố mẹ đã từng phải trải qua thì những đồng tiền ít ỏi của chúng tôi ngày hôm nay để đền đáp có đáng là bao?Cảm ơn bố mẹ, cảm ơn những bữa cơm đạm bạc mà cả đời này chúng con sẽ chẳng thể nào quên. Bởi những con cá “thum thủm” ấy đã cho chúng con khôn lớn thành người.  

Đắt như mì chính cánh!

Thứ Năm, 01/03/2012 22:05

Trong đời sống ẩm thực có lẽ khó có thể tìm thấy một gia vị nào có quá trình hình thành, phát triển và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hằng ngày như mì chính

Kể từ khi vị giáo sư Kikunae Ikeda tại Nhật Bản khám phá ra vị “umami” (xuất phát từ tiếng Nhật “umai” có nghĩa là ngon) và nghiên cứu thành công chất tạo ra vị umami (mononatri glutamate) rồi được Cục Sáng chế Nhật Bản cấp bằng sáng chế vào năm 1908, cho đến một năm sau đó, sản phẩm “chất tạo ra vị umami” đầu tiên trên thế giới ra đời mang thương hiệu AJI-NO-MOTO mà chúng ta vẫn thường gọi là bột ngọt (hay còn gọi là mì chính) đã nhanh chóng phát triển trên toàn thế giới, từ Mỹ, Brazil, Peru, Pháp, Đức, Bỉ, Ý, Anh đến Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ...

Làm nổi danh các đầu bếp

Tại Việt Nam, từ những năm 30 của thế kỷ trước, mì chính AJI-NO-MOTO đã xuất hiện và chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa ẩm thực. Ngay từ thời bấy giờ, mì chính đã là bí quyết nấu ăn ngon của một số đầu bếp trứ danh, như ở Hà Nội có ông Bếp Ba thường được mời về nấu khi gia đình có tiệc, đám giỗ quan trọng.

Các món ăn do đầu bếp này chế biến thường có vị ngon ngọt làm người ta khó quên, đặc biệt là các món có nước như vi cá, bóng, măng tây, mọc… Hỏi ra mới biết cỗ bàn của ông ngon vì có hộp “thuốc nấu” đặc biệt. Ông bảo một đám giỗ vài chục người ăn thì chỉ cần cho độ 3-4 muỗng “thuốc nấu” này vào nồi nước dùng đã ninh xương gà hay bò sẵn là “ngon quên chết”! Chính hộp thuốc nấu đó, tức “mì chính”, đã làm nên danh tiếng của ông Bếp Ba.

Gợi nhớ quá khứ

Trong thời chiến tranh, mì chính luôn có mặt trong những gói lương khô của cán bộ, bộ đội khi đi công tác chiến trường xa. Thời đó, cái thời “nước mắm nấu chung với lá chuối, mua một con cá là cả làng đến xem” thì mì chính là loại gia vị “đắt như vàng”. Thật cũng dễ hiểu khi thời đó người ta bắt đầu ví von nam giới hiếm và quý như “mì chính cánh”, bởi lẽ trong thời chiến tranh, tất cả nam giới đều phải ra mặt trận.

Trong ký ức của rất nhiều người, về thời bao cấp, việc xếp hàng từ gà gáy đến quá trưa để mua được một ít mì chính bằng sổ, bằng tem phiếu hay việc đi mua một lọ mì chính được 2-3 lạng phải hai người chung nhau không có gì xa lạ. Thời ấy, chỉ có hai bữa chính thì đều phải ăn cơm độn với khoai, sắn và ngô. Thức ăn chủ yếu là rau và tương. Hết tương thì dùng nước chấm với muối trắng pha lẫn nước sôi để nguội. Thịt, cá là đồ hiếm nên nếu có mì chính để ăn với cơm độn thì khỏi phải chê. Mì chính đã góp phần làm cho bữa cơm gia đình dễ nuốt hơn.

Người Việt Nam ở nước ngoài cũng vậy. Các du học sinh, thực tập sinh, nghiên cứu sinh được gửi đi học ở các nước Đông Âu đều thông thạo các cửa hàng nào có bán mì chính và thông báo cho nhau rất nhanh để còn mua làm quà hoặc dùng cải thiện bữa ăn nơi xứ người. Trong những thùng quà gửi từ nước ngoài về mà có nửa ký hoặc 1 kg mì chính, lại là mì chính cánh thì còn gì quý hơn!

Ký ức về một đỉnh đèo biên giới

16:43 | 30/05/2008

Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.

hế là để lại sau lưng những Chiềng Đông, Chiềng Mai..., Cò Nòi, Hát Lót... những rừng cây cháy trụi, những cung đường nhão nhoét hố bom, xác những đoàn xe Molotova chở hàng lên mặt trận không vượt nổi tọa độ lửa Cò Nòi, cùng tiếng chim "bắt cô trói cột" khắc khoải thâu đêm. "Trận địa mới" mà đơn vị được giao là khai thông con đường Châu Mộc (Sơn La) vượt đèo Pa-Háng nối với tỉnh Sầm Nưa của nước bạn Lào.

Rời đường 6, để thị trấn Mộc Châu lại sau lưng, chúng tôi tiến về phía Tây. Vạch lau rẽ lá mà đi. Nghe nói con đường nối liền hai nước Đông Dương này đã không còn sử dụng từ ngày Nhật thất trận, đầu hàng Đồng Minh năm 1945. Gần mười năm hoang phế. Rừng Tây Bắc, với sức sống mãnh liệt của đại ngàn nhiệt đới, như những đợt sóng xanh hung dữ đã tràn lên, trùm kín, khuất lấp gần như toàn bộ con đường. Mờ mờ trước mắt là vệt xanh ngoằn ngoèo, um tùm lau lách, hằn vào lưng núi, len lỏi dưới chân những vách đá dựng đứng, thâm u trong màu xanh đẫm ướt của rừng già. Khắp nơi âm vang tiếng hú của những đàn vượn chuyền cành khi động bóng người, hoặc cheo leo bên bờ vực hun hút đang phả lên mặt đường một làn sương mù lay động, ẩm ướt, lờ mờ như khói. Con đường cứ thế trườn mãi lên cao, lên cao nữa, rồi mất hút trong mây mù. Chỉ còn lại những lối mòn ẩn hiện của dân sơn tràng. Nương theo những dấu hiệu lờ mờ ấy, đơn vị chúng tôi phát lau mở lối, tiến về phía đỉnh đèo.

Đấy là một rặng núi cao khoảng trên 2000m, hai sườn dốc đổ về hai phía Đông-Tây, biên địa của hai nước. Ngay yên ngựa đỉnh đèo, một cột mốc mờ mờ hàng chữ: "Biên giới Việt – Lào. Sầm Nưa... km –

Sơn La.

.. km" không biết được dựng từ những năm nào? Biên giới là đây. Ở độ cao này, cảnh vật dường như bớt âm u hơn. Thấp thoáng sau những cánh rừng thưa là những trảng cỏ tranh, mượt như nhung, mút tầm con mắt, thấp dần xuống đến khi chìm vào một biển mây. Nổi trên biển mây trắng xốp như bông ấy, những ngọn núi xanh thẫm như những hòn đảo đang bồng bềnh trôi giữa một đại dương trắng lóa, mãi đến chân trời. Ấy là những ngày nắng đẹp. Còn lại, chúng tôi sống trong mây mù.

Đỉnh đèo không có suối, không có cầu như một bài hát ngày còn đi học. Muốn có nước nấu ăn, tắm rửa, sinh hoạt... tất cả đều phải tụt xuống một khe sâu dễ gần trăm thước. Nương cây vịn đá mà leo. Đáy vực, một mội nước phun ra từ lòng đất tạo thành một vũng nhỏ trong veo, đầy lá mục, để rồi từ đó, một dòng suối len lỏi róc rách giữa cây rừng, chẳng biết rồi sẽ rót vào con sông của nước nào? Bếp ăn đại đội đặt ở đây. Doanh trại tựa lưng vào cánh rừng thưa trong một hẻm núi. Ở đấy vừa kín gió vừa gần bếp ăn. Khẩn trương chặt cây, đánh tranh lợp mái, ken lá rừng làm phên lấy chỗ trú quân. Việc quen thuộc từ khi tham gia chiến dịch.

Không còn nhớ chúng tôi đã ở đấy trong bao lâu. Chỉ biết rằng thực phẩm ngày một cạn. Rất có thể chúng tôi đã rời xa hành lang tiếp vận của chiến trường chính. Bữa ăn thường chỉ có cá khô và muối. Những hôm được anh nuôi "sáng kiến" thêm thắt chút rau tàu bay hay mấy củ măng rừng kiếm được đã là những bữa "ăn tươi" làm nức lòng toàn đơn vị. Những ngày nghỉ, công việc quan trọng mà cũng hấp dẫn nhất là mò cua bắt ốc ven bờ con suối nhỏ, gần chỗ đóng quân. Ốc khá hiếm, còn cua núi bằng ngón chân cái, đỏ tươi, chạy nhanh như chớp trên những gộp đá ẩm ướt ven rừng, phải đuổi cho đến khi chúng chui vào một khe hẹp giữa hai tảng đá. Đơn sơ vậy, nhưng những bát canh măng rừng ốc suối, hay đĩa cua rang muối với ớt chỉ thiên cay chảy nước mắt, toát mồ hôi không chỉ là những bữa "cải thiện" hấp dẫn, mà với chúng tôi, còn là những món thuốc trị bách bệnh, từ suy dinh dưỡng đến ghẻ lở, sốt rét rừng.

Quân số ra mặt đường giảm sút thấy rõ. Cũng dễ hiểu. Chúng tôi vừa trải những ngày phục vụ chiến trường tại một trọng điểm giao thông được coi là ác liệt nhất trong hành lang vận chuyển quân lương, vũ khí lên mặt trận: "Ngã ba Cò Nòi". Đây là hợp lưu của hai dòng sinh lực, hai mạch máu chính từ hậu phương Việt Bắc và khu ba, khu Tư dồn vũ khí, quân lương lên chiến trường Điện Biên.

Rốc két, bom phá, bom xuyên, bom nổ chậm... từ những đàn máy bay phóng pháo dội xuống cầy nát hàng cây số đường. Công binh, dân công hỏa tuyến, TNXP lấy đêm làm ngày thay nhau tải thương, phá bom, lấp hố dưới ánh sáng chập chờn của pháo sáng, đảm bảo giữ đường cho hàng đoàn xe rùng rùng nối đuôi nhau chở hàng lên phía trước. Đêm đêm, công trường như một tổ kiến rì rầm, hối hả, giọng "hò lơ..." khu Bốn, điểm nhịp vào quãng ngắt những làn điệu dân ca véo von của các nàng thôn nữ, dân công đồng bằng. Chúng tôi thì: "TNXP lắng nghe lời Bác Hồ...". Gian khổ mà vui.

Còn bây giờ, ở đây, chỉ có chúng tôi và... chúng tôi, những chàng trai mười tám, đôi mươi trên một ngọn đèo vắng lạnh, giữa muôn trùng mây núi. Cảnh đẹp nhưng buồn.

Không biểu vì ăn uống kham khổ, thuốc men thiếu thốn hay chính vì nỗi buồn đôi mươi ấy mà số quân ốm ngày càng tăng. Tất cả chúng tôi đều ghẻ lở, không trừ một ai. Sáng ra mặt đường, chạm tay vào chiếc xà beng tám ký, nhức buốt đến tận xương. Hai bàn tay kềnh càng mụn nhọt, quai vài nhát búa đã bật máu tươi. Trò giải trí thú vị trong những ngày nghỉ là phơi nắng và... bắt rận. Bồi dưỡng chỉ có cua rừng, ốc suối, còn đau ốm đã có ký ninh vàng và Dagénan của y tá đại đội được dùng để trị bách bệnh!

Có một chuyện vui.

Không nhớ nhân dịp lễ tết nào, Tổng đội TNXP thưởng cho đơn vị một con trâu. Con trâu ấy gây một làn sóng hưng phấn, xôn xao toàn đại đội dễ đến cả tuần lễ. Tin tức đầu tiên lộ ra từ tiểu đội "anh nuôi" khi các đồng chí tiếp phẩm chuẩn bị xuống núi nhận trâu về. Mấy ngày hôm ấy, từ trên mặt đường công tác đến giờ nghỉ giải lao, kể cả khi vào lán ngủ, chúng tôi chỉ nói chuyện trâu. Nào là có bao nhiêu thứ trâu. Cách thức hạ một con trâu. Có bao nhiêu món có thể chế biến từ thịt trâu. Các thứ phụ tùng gia vị cần có. Những kỷ niệm riêng về từng con trâu cụ thể ở một làng quê cụ thể nào đó. Thôi thì đủ chuyện. Những anh tỏ ra thạo nghề nấu nướng đều tình nguyện xung phong vào kíp ngả trâu, xào nấu. Cái con trâu chưa từng thấy mặt ấy đi cả vào trong những giấc mơ.

Mấy ngày sau con trâu ấy về đến đơn vị. Nó là một con trâu già. Và gầy. Chắc đã hết tuổi cày bừa. Các đồng chí tiếp phẩm cho biết phải vừa đi vừa chờ, vì nó là trâu đồng bằng không quen trèo dốc. Vả chăng, mệt quá nó có thể sút đến vài cân thịt, hay lăn đùng ra chết thì phí cả của giời!

Ngày hạ trâu thực sự là một ngày hội. Chiều hôm ấy, các tiểu đội cho quân về sớm. Soong nồi, bát đũa sẵn sàng. Cuối cùng thì rồi phút giây long trọng cũng đến. Chúng tôi xếp hàng nhận phần thức ăn mang về từng tiểu đội với một nghi thức thiêng liêng gần như dân làng rước kiệu. Mấy chàng trai trong ban nấu nướng bình thường hiền lành là thế, hôm nay trịnh trọng hẳn lên. Thậm chí có anh còn lên mặt quan trọng, lườm nguýt, quát tháo.

Bàn ăn lát bằng cây rừng trước lán mới hôm trước lỏng chỏng soong canh tàu bay đắng chát, một vốc ớt rừng tranh thủ hái khi đi làm, hôm nay bỗng biến thành một bàn tiệc quan trọng. Ai đó, vô tình hay cố ý, đã kịp ngắt mấy nhánh hoa rừng cài vào một ống nứa. Mùi thịt trâu ngào ngạt, soong trâu hầm măng sóng sánh mỡ vàng, món lòng trâu trắng muốt nổi bật trên nền xanh tấm lá chuối rừng như mời gọi. Bát muối rang nghiền ớt hồng tươi. Mấy trái "chỉ thiên" quen thuộc hôm nay nhờn ánh mỡ cũng dường như đỏ hơn, cay hơn. Trong đời tôi có lẽ chưa có một bữa ăn nào được đón nhận với một tâm trạng hồi hộp háo hức đến vậy. Kể cả những năm tháng sau này. Đúng là một bữa ăn nhớ đời. Mà có lẽ không chỉ mình tôi. Tất cả đã sẵn sàng chỉ chờ vào cuộc thì... Lộp bộp... lộp bộp... ào ào... ào ào... ào ào...! !!...? ??

Chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì tất cả đều đã ướt sũng. Một trận mưa rừng như trút rào rào đổ xuống không báo trước!!! Mà ở đây, trên độ cao này thường vẫn vậy. Không hề có gió, không bất cứ một triệu chứng nào. Bất thần đổ mưa, bất thần tạnh ráo. Có lẽ một đám mây sũng nước nào đó vào phút giây thiêng liêng quan trọng ấy đã ào ào lướt qua. Còn tất cả chúng tôi, tâm trí để hết vào nồi thịt trâu, đâu còn trông thấy gì?!

Trong nháy mắt, tất cả những gì được chờ đợi đã bao ngày bỗng thành... nước lã. "Soong măng hầm" ngon lành là thế nay ngập nước mưa, tràn hết ra ngoài. Mấy món nấu, xào không còn gì để nói, món lòng trâu bạc phếch, tái nhợt trôi truột xuống đất, bát muối ớt rang, nghiền giã bao công phu, tan biến như chưa từng có! Không có cách gì cứu vãn được nữa. Một cảm giác cay đắng, tức tưởi trào lên nghèn nghẹn. Rồi không ai bảo ai, tất cả chúng tôi òa khóc. Khóc thật tình. Không giấu giếm. Nước mắt nước mũi hòa lẫn nước mua. Thế là xong! Niềm hy vọng, nỗi hồi hộp nuôi dưỡng cả tuần nay, sự chờ đợi mong mỏi cả tháng nay đã theo trận mưa rừng quái ác trôi ra suối. Đêm nay nhịn đói! Còn ngày mai? Trở lại với cá khô, ớt hiểm và măng rừng!?

Tình hình khẩn trương và đơn vị "khai hội". Chúng tôi thống nhất phải bằng mọi cách cải thiện chất lượng bữa ăn, cải thiện tình hình sức khỏe đơn vị. Gần nhất và có lẽ là nhanh nhất là cử một tiểu đội đi sâu vào đất Lào tìm đến thượng nguồn sông Mã thăm dò, nếu có thể thì... đánh cá. Tôi hồi đó được xem là người khỏe nhất được cử đi làm nhiệm vụ này.

Thế là chặt tre, đan sọt, chuẩn bị cho mười gánh cá đầy. Hành trang mang theo: hai mươi cân bộc phá, kíp mìn, dây cháy chậm và... muối, chuẩn bị hạ sơn, mang theo niềm hy vọng của toàn đơn vị.

Từ đây xuống chân đèo cỡ gần hai mươi cây số. Từ đấy đến bờ sông Mã ước cũng gần như vậy.

Nhớ ngày nào khởi hành lên chiến dịch, chúng tôi đã ra đi từ hạ lưu con sông này, qua đập Bái Thượng, vượt Hồi Xuân, La Hán lên Suối Rút Hòa Bình, vượt Pha Đin, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v... ngày nghỉ, đêm đi, háo hức hành quân lên mặt trận. Đường ra trận ngày ấy vui như làng vào hội. Dân công các tỉnh, các miền nườm nượp đi, nườm nượp gánh. Chen chúc xe đạp thồ. Tiếng Nghệ – Tĩnh trọ trẹ, tiếng miền Bắc véo von. Đâu đâu cũng "Hò lơ... hó lơ..." đối đáp. Trong tĩnh lặng của đêm rừng, thỉnh thoảng, một giọng hò cao vút, nỉ non của đám con gái dân công đồng bằng cũng trên đường ra trận. Hò hay thế chắc là xinh lắm. Cái không khí háo hức, rộn ràng mới đây mà hình như đã lùi vào đâu đó... rất xa.

Chúng tôi khởi hành từ rất sớm, người nọ nối gót người kia, lầm lũi đi trong mây mù. Những trảng tranh còn ướt đẫm sương đêm. Chim rừng chưa kịp thức. Càng đi càng xuống thấp. Mây mỏng dần cho đến khi trời sáng hẳn. Nắng lên rực rỡ. Lâu lắm chúng tôi mới được hưởng cái nắng này, nắng đồng bằng, mà nắng Lào hẳn hoi. Ấm, nóng, khác với cái nắng trên kia, vàng tươi, trong veo mà vẫn lạnh, như không phải nắng mà là một thứ ánh sáng màu vàng hoàn toàn thiếu nhiệt, không sưởi ấm được một cái gì. Nhìn lên cao, chỗ mình vừa ra đi vẫn chìm khuất trong mây, một tầng mây âm u, đầy đặc. Sau này, mỗi lần nhìn lên một ngọn núi cao, mây giăng, tội lại nhớ về những ngày ấy, những ngày trai trẻ, gian nan, sống trên một đỉnh đèo biên giới.

Xuống hết chân đèo, băng qua mấy cánh rừng Lào, khoảng gần trưa, chúng tôi nghỉ lại trong một liếp vườn hoang. Không biết gia đình Lào này đã bỏ đi đâu, theo Pathét hay theo Vàng Pao? Đây là đất "phe ta" hay "phe địch"? Kệ, chúng tôi có súng mà. Mấy khẩu trung quốc và một khẩu "tuyn" sẵn sàng ứng phó với tình hình. Những trái khế mới tượng trên đầu cành dẫu còn non nhưng chấm muối ớt cũng làm tăng thêm hương vị nắm cơm mang theo. Một hương vị quá đỗi bình thường mà dường như lâu lắm chúng tôi mới có dịp nhớ lại. Hơn ba giờ chiều, đến bờ sông Mã. Con sông ấy đây rồi. Con sông ngày nào chúng tôi đã chia tay, nay gặp lại trên một miền đất khác, trong một cảnh quan khác. Mà kể cũng lạ. Chúng tôi hoàn toàn không có cảm giác ngỡ ngàng gì về vùng đất không thuộc nước mình. Lào với ta ấy mà. Chúng tôi hạ trại, tranh thủ trời còn sáng đi khảo sát bờ sông, tìm chỗ đánh cá.

Sông Mã nước Lào không giống sông Mã nước mình. Không biết người Lào gọi nó là gì? Ở nước ta, sông Mã là một con sông lớn, cuộn xiết, khi qua khỏi Hàm Rồng, chảy thênh thang giữa hai bờ cát, giữa những cánh đồng xanh lúa non, những xóm làng trù mật. Còn ở đây, nó réo sôi giữa những ghềnh đá, giữa hai bờ đại thụ, mang diện mạo của rừng, giống một dòng suối lớn hơn là một con sông. Càng khác xa dòng sông Hương hiền hòa quê tôi, dòng sông ấu thơ mà tôi từng lặn ngụp, vẫy vùng thỏa thích mỗi chiều, sau giờ tan học. Điều chúng tôi chú ý là rất nhiều vực, dưới những gốc cây to. Chỗ ấy nước quẩn, lặng mà sâu, nhiều cá, mà cá lớn.

Nghỉ một đêm lấy sức. Sáng ngày hôm sau chuẩn bị vào cuộc. Cứ nửa ký thuốc nổ nhồi vào một ống tre, một kíp mìn, nửa thước dây cháy chậm. Nắng lên. Nắng rừng Lào trong veo nhưng chúng tôi không còn bụng dạ nào dành cho cảnh sắc. Bố trí người chặn sẵn ở những ghềnh đá chủ yếu, nơi những chú cá Lào vỡ bong bóng nhất thiết bị dòng nước chảy xiết đẩy qua. Chọn một vực nước để đánh quả bộc phá khai cuộc. Đấy là một vực nước rộng dưới chân một gốc sung già, cành tán xanh um, phủ rợp một vùng. Chỗ này sâu, nhiều hang ổ, ắt phải trúng. Tôi đã từng đánh biết bao nhiêu quả bộc phá như thế, nhưng quả này làm tôi hồi hộp. Phải trả thù trận mưa vừa rồi, phải làm sống lại không khí hội hè hiếm hoi mà chúng tôi vừa bị cướp giật. Hai trăm con người đang chờ đợi kết quả trái bộc phá đầu tiên này đây. Có thật có cá không? ??

Tôi đưa mắt quan sát một vòng. Tất cả đã đâu vào đấy. Tôi châm ngòi, chờ khoảng năm giây, đảm bảo không tắt. Xong rồi. Tôi ném ùm vào giữa vực. Năm giây nữa trôi qua, một làn khói xanh rất mảnh từ đầu mẩu dây cháy chậm còn lửng lơ trên mặt nước... Năm giây nữa... Ùm!!! một cột nước cao, vọt lên từ mặt sông, rồi rào rào đổ xuống như một trận mưa. Cá! Cá! Thắng rồi! Nỗi mừng vui có lẽ chỉ có thể sánh với những người đi tìm mỏ khi phát hiện một vỉa vàng! Chúng tôi la lên. Những con cá bị sức ép ném tung lên trời rồi rơi xuống, bụng phơi trắng xoá. Một số con chắc là to, còn vùng vẫy như muốn lặn sâu để thoát hiểm nhưng đã bị choáng lại trồi đầu lên. Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi cùng lao xuống, cứ thế, tay không, ném cá lên bờ. Những con lớn xem ra còn khỏe lắm. Chúng bơi lờ đờ trên mặt nước nhưng chỉ chạm vào lưng một cái là chúng biến liền, để một vài phút sau, đã thấy lập lờ nổi lên phía xa. Một cuộc rượt đuổi bắt đầu cho đến khi các chú bị chúng tôi thọc tay vào mang, hết đường cựa quậy. Những chú ở xa tầm kiểm soát, trôi theo dòng nước, đã bị các chốt chặn đón đầu. Bội thu! Chúng tôi lên bờ nghỉ mệt, ngắm thành quả vừa gặt hái được trước khi vào cuộc đánh tiếp đến chiều. Thời gian còn lại là thì giờ của việc gia công, ướp muối, sao cho khi về đến đơn vị, cá vẫn còn tươi.

Hình như người Lào gọi cá là "pá". Còn tôi, chưa bao giờ thấy nhiều "pá" như thế. Cảm giác ấy tôi giữ mãi đến tận bây giờ. Mặc dù sau này tôi đã thấy những mẻ cá lớn hơn, nhiều hơn, nhưng vào lúc ấy, mẻ cá đối với chúng tôi là cả một kho tàng, một thành quả, một đền bù, hứa hẹn một tương lai. Rút kinh nghiệm, những cú đánh sau này, chúng tôi không mất công bắt cá nhỏ nữa. Các "cụ cá" to đùng, râu dài, núc ních, bụng phưỡn ra, toàn mỡ. "Các cụ" này sống ở đây chắc đã từ lâu lắm, đã sinh con đàn cháu đống và chắc cũng đã chờ chúng tôi từ lâu. Hôm nay chúng tôi đến đây, rước "các cụ" về, chung vui với đơn vị. Bụng "các cụ" toàn mỡ, đầy trứng! Những buồng trứng to bằng bắp tay, núc ních, phủ những lá mỡ vàng ươm, trông mà rỏ rãi.

Chúng tôi nhanh chóng mổ cá, ướp muối, chặt lá sung, lá chuối xếp vào sọt, cứ một lớp cá, một lớp muối, thật sạch sẽ, an toàn. Mười gánh cá đầy ắp, nặng chịch, mỗi gánh dễ đến bốn, năm mươi cân. Lòng cá và số còn lại thuộc phần chúng tôi. Cũng xứng đáng thôi, chúng tôi đã lặn ngụp suốt ngày dưới nước, đã đánh vật với những chú cá to đùng, đã bị dòng nước xiết đẩy trôi, lóp ngóp leo lên bờ rồi lại lao xuống lặn ngụp, rét run, hai hàm răng lập cập. Giờ thì chúng tôi được thưởng. Món đầu tiên: "Lấy mỡ nó rán nó". Còn lại cho tất và nồi. Gia vị đã có muối với ớt rừng nhiều vô kể. Nồi cháo vàng tươi những buồng trứng, bập bềnh đỏ màu ớt chỉ thiên, óng ánh mỡ, nghi ngút khói trong những máng bương xanh vừa chặt giữa rừng Lào. Với tôi, đấy là một bữa cháo cá nhớ đời. Những năm về sau của cuộc đời mình, tôi được ăn những bữa cháo cá sang trọng hơn nhiều, nấu nướng cầu kỳ với bao nhiêu là cao lương mỹ vị, nhưng không một bữa cháo cá nào có thể sánh được với nồi cháo bên bờ sông Mã nước Lào, năm ấy.

Tôi không được chứng kiến bữa "đại tiệc cá Lào" trên đỉnh đèo sau đó, không được trông thấy những ánh mắt sáng ngời của đồng đội khi đón nhận "chiến lợi phẩm" mà chúng tôi mang về. Tôi bị một cơn sốt rét rừng quật ngã ngay trong đêm. Hết rét lại nóng hết nóng lại rét, đến sáng thì tôi lả đi. Có thể có nhiều nguyên nhân. Những năm tháng phục vụ chiến trường gian khổ đã vắt kiệt sức lực nơi một chàng trai khỏe mạnh như tôi. Nhưng cái ngày ngụp lặn trong dòng nước lạnh buốt của dòng sông Mã nơi rừng Lào đã là giới hạn cuối cùng mà cơ thể tôi có thể chịu đựng được.

Một tình huống khó xử được đặt ra! Ít nhất phải vứt đi hai gánh cá để cáng tôi về. Hai gánh cá ấy không chỉ là công sức của đồng đội, của chính tôi mà còn là niềm hy vọng của hai trăm con người trên đỉnh đèo âm u lộng gió kia, những tấm thân còm cõi đang ngày đêm trông chờ thành quả của công việc chúng tôi đang làm để lấy sức tiếp tục cuộc chiến đấu. Mà trước mắt chúng tôi còn bao nhiêu cuộc chiến đấu nữa?! Và tôi quyết định: Tất cả anh em cấp tốc hành quân kịp mang cá về đơn vị, còn tôi, sẽ tự mình về sau. Cuộc chia tay bịn rịn và đầy lo âu. Nhưng việc không khác được, cá không thể chờ. Tiễn anh em lên đường, còn lại một mình giữa rừng Lào hoang vắng, tôi kiếm một khúc cây làm gậy, quàng chiếc chăn trấn thủ lên lưng, lê bước trở về.

Thật lạ! Mới qua một đêm và chỉ một trận sốt, tôi trở thành một người khác hẳn. Hai chân nhũn ra, người như không còn sức, vừa đi vừa thở dốc, vài trăm bước đã phải dừng. Rồi cơn sốt lại ập đến. Tôi thiếp đi bên vệ đường, tỉnh dậy lại loạng choạng theo hướng về, lê đi nữa. Không còn biết thời gian! Sáng, trưa, chiều, tối? Cứ thế, tôi lần mò, đứng lên ngã xuống giữa một cánh rừng Lào hoang vắng bên thượng nguồn con sông Mã cho đến khi bắt gặp một lối rẽ. Có thể có một bản Lào? Tôi lê theo hướng ấy và lịm ngất bên chân thang một ngôi nhà sàn.

Tôi đã mê man trong bao lâu??? Chỉ biết khi tỉnh dậy tôi đang nằm giữa vòng tay đồng đội. Các anh đã trở lại con đường cũ, đã tìm thấy tôi trong một bản Lào heo hút và đã chờ tôi, đến hôm ấy là ngày thứ ba. Chúng tôi nhìn nhau chảy nước mắt và tôi yên tâm biết mình còn sống.

Tôi đã ngủ một giấc sâu, dài, ngon lành trên chiếc cáng mà các anh, đồng đội của tôi, cáng ngược tôi trở lại đỉnh đèo. Cái đỉnh đèo Pa Háng chập chùng mây ấy.

Hôm nay, tôi kể lại câu chuyện này, hy vọng những đồng đội cũ – Đại đội 410 – Đội 40 – TNXP Trung ương năm ấy – anh Trịnh Luân, người Thanh Hóa, đại đội trưởng của tôi, anh Nguyễn Kim Thản, anh Nguyễn Văn Ba, người Nghệ An, những người đã cáng tôi trở về... và các anh khác nữa – nếu tình cờ đọc những dòng chữ này biết rằng, những kỷ niệm năm ấy, thời nào, vẫn sống trong tôi, trong chúng ta, trong trái tim mỗi người, những trái tim nồng cháy một thời trai trẻ đã từng đập vì những điều cao đẹp, và đây là lần đầu tiên chuyện chúng mình được kể lại trên báo chí. Vậy mà cũng gần năm mươi năm. Năm mươi năm, chúng ta chưa một lần gặp lại nhau.

Ký ức tro

Thứ sáu, 18 Tháng 5 2007 15:22

"Ai có chai bao nhôm nhựa chi bán không"? Tiếng rao của chị đồng nát giữa trưa như kéo tôi về với kỷ niệm một thời chưa xa. Ngày ấy, sau giải phóng quê tôi nghèo lắm. Để có được ngày ba bữa chị em tôi gồng gánh trên đôi vai của mình biết bao nhiêu thứ mong kiếm được đồng lời. Những đồng tiền mà chị em tôi có được sau những chuyến "đi buôn" đổi lại là những mắm, cá, rau... cải thiện bữa ăn. Mà nào có nhiều nhặn gì đâu, chỉ được năm bảy nghìn đồng...

Mười lăm tuổi, tôi đã biết theo các chị trong làng đi bán tro ở chợ Nồi Rang (xã Duy Nghĩa, Duy Xuyên). Nhà cách chợ khá xa, tôi không nhớ là bao nhiêu ki lô mét, nhưng khoảng hơn hai giờ đi bộ. Hành trình cho chuyến đi được bắt đầu từ lúc ba giờ sáng, khi vạn vật còn chìm trong màn đêm thì các chị đã í ới gọi nhau đi chợ. Đi sớm cho kịp chuyến đò, hôm nào dậy trễ là tất bật, cuống cuồng. Để có được gánh tro đẹp, mẹ đã chuẩn bị từ chiều hôm qua. Mẹ nhóm tro vào đôi thúng 3 ang, sự khéo léo của mẹ đã cho ra một đôi tro vuông vức. Tro tốt nhất và được người mua ưa chuộng nhất vẫn là tro được đốt từ rơm. Bởi người dân vùng cát hai xã Duy Nghĩa, Duy Hải thường dùng tro để bón cho hoa màu, ngoài tác dụng như một loại phân bón thì tro vẫn là thứ rất cần cho việc giữ độ ấm để cây phát triển tốt.

Ngày ấy, quê tôi người người đi bán tro, và người mua tro cũng không ít. Cho nên tro cũng có phần khan hiếm, ngoài bón ruộng, bón rau đậu, khi không còn dùng vào việc gì thì mới bán. Tro rơm bao giờ cũng hấp dẫn người mua hơn, giá cả vẫn đắt hơn các loại tro khác. Ngoài tro rơm, còn có tro trấu (được đốt từ vỏ trấu sau khi xay gạo xong), tro lác (đốt từ cây lác đã được lượt bỏ), tro lá tre, tro củi... Những người buôn chuyên nghiệp, họ đi khắp nơi để mua tro, có những chuyến đi dài ngày có khi lên đến thượng nguồn sông Thu Bồn. Qua quá trình "chế biến", các chị đã trộn các loại tro vào với nhau để cho ra đời một sản phẩm tro mà theo các chị gọi là "tro rơm". Làm như thế để các chị có thêm được đồng lời kha khá. Nhưng người mua tro cũng tinh mắt không kém, họ cũng phân biệt được đâu là tro rơm thật và đâu là tro có sự trà trộn. Tro rơm khi sờ tay vào rất mịn màng, không nhám như tro trấu, không vàng như tro lá tre. Vì thế đối với người mua sành điệu giá cả cũng có phần chênh nhau.

Buổi họp chợ bắt đầu từ sớm tinh mơ. Hàng tro được đông từ ngoài bến sông, người ta sắp xếp như thế là rất hợp lý, bởi sau khi thỏa thuận giữa người bán và người mua, tro được đổ vào bao, nếu chỗ đông người hẳn là sẽ bụi bặm lắm. Thuyền từ Hội An, Cửa Đại, Duy Vinh, Duy Hải và một số xã vùng đông của huyện Thăng Bình cập bến tại đây có biết bao hàng hóa được đưa vào chợ: các loại hải sản, gạo, muối, củi và có cả tro. Đổi lại, người ta mang đi từ chợ này các loại hoa màu do nông dân làm ra... Và gánh tro của tôi xuống chợ cũng đổi lại được nhiều thứ khác.

Cái thời cam khổ, lưng lon gạo cõng cả rổ sắn khoai nhưng sao ý chí con người bền bỉ đến thế. Mười lăm tuổi, thuở thiếu thời đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người, với tôi lại vời xa và đánh mất cả những giấc mơ bình dị. Để có được những ngày đến trường, chị em tôi phải gồng mình với nắng mưa, khuya sớm đắp đổi lại cái ăn, cái mặc. Tôi không còn nhớ mình đã đi trên con đường từ nhà đến chợ tro bao nhiêu lần, những gánh tro theo tôi mãi từ cái thời còn học phổ thông cơ sở cho đến ngày nhận được giấy báo đỗ đại học. Sự lo toan của mẹ, nỗi vất vả của ba và sự bền chí của tôi rồi cũng có ngày thành tựu.

Hai mươi năm ngoảnh lại thời gian đi khá nhanh, giờ mình đã có một gia đình nhỏ và tương đối đủ đầy. Nhà nhà dùng bếp ga, bếp điện, còn đâu bếp kiềng, bếp đất mà có tro? Thỉnh thoảng tôi lại về quê, tự vào bếp và nấu cơm bằng lửa rơm, được cơi tro, được giần cơm để tìm lại niềm vui nho nhỏ của ngày xưa. Và để nhớ lại tuổi thơ khốn khó, nhưng nhờ đó mà tôi có nghị lực vững tin bước vào đời...

Xa quê nhớ cá bống dừa

Cá bống có rất nhiều loại: bống dừa, bống mú, bống tượng, bống cát, bống trứng, bống mật, bống sao, bống bọt, bống xệ, bống kèo... Nhiều loại bống, nhưng tôi đặc biệt nhớ hoài con cá bống dừa. Có lẽ vì vùng quê nội tôi (Gò Công- Tiền Giang) chúng sinh sản nhiều, sống thích hợp với địa thế cây dừa nước sum suê mọc đầy ven sông rạch.

Mùa cá bống rộ thường từ tháng 6 đến tháng 8 âm lịch và cũng là mùa ép trứng. Cá mẹ cho ra đời biết cơ man nào là cá con li ti bám đầy bập dừa nước, tự do đấu tranh sinh tồn. Theo tập tính, lúc nước lớn cá bống lội theo dòng, ẩn mình nơi ngọn rạch. Khi nước ròng thì ra giữa dòng để trú thân dưới mảnh ván bể, tàu mo nang mục, vỏ dừa khô lật úp... Vào mùa cá rộ, những bạn trẻ ở quê canh ngày nước rong khoảng từ 14- 16 âm lịch để đi câu. “Thợ câu” rành nghề chỉ dùng mồi trùn, bởi cá bống dừa rất khoái khẩu với món ăn này. Một ngày nhấp câu siêng năng có thể được cả ký lô cá bống dừa làm thức ăn cho gia đình. Nhưng điều thú vị khi bắt cá bống dừa không phải câu mà là mò bằng tay. Nhẹ nhàng một tay chặn ngách, một tay thọc sâu vào kẽ hở bập dừa nước để mò. Chạm cá bống dừa rút vào trong, thấy tiếc nên đành nhịn đau móp tay quyết bắt cho bằng được. Khi tóm gọn chú bống lưng đen nhẻm, lườn trắng, tròn mình gần nửa cổ tay, bụng núc ních trứng, cảm giác thật khó tả. Ngày ấy, đối với bọn trẻ vô tư như chúng tôi thì mò cá bống dừa chỉ là một trong nhiều thú vui thôn dã. Nhưng những người dân nghèo quê tôi xem đó là việc mưu sinh hoặc chí ít cũng để cải thiện bữa ăn gia đình. Tôi nhớ hoài hình ảnh má tôi đội nón lá chằm, quần xắn quá gối, bên hông đeo giỏ đụt, nhẫn nại mò bắt từng con cá trong bộng dừa nước. Dáng gầy gầy của người lẫn vào rừng lá thấp thoáng đến rưng rưng nước mắt... Cá bống dừa thịt ngọt, ướp nước mắm ngon kho tiêu bằng tộ, hương thơm nức mũi. Có người lại thích ram nghệ, kho sả ớt tóp mỡ hay nấu canh với lá bồ ngót, mướp hương, rau đắng... Luộc cá lấy thịt bỏ xương nấu nồi cháo nhỏ, múc ra chén, rắc tiêu; trời lạnh các cụ già húp từng muỗng ấm bụng, luôn miệng khen ngon. Rồi còn món xỏ lụi nướng trui hoặc nhúng bột chiên, cặp rau thơm chấm nước mắm tỏi ớt cũng chẳng ai chê. Bằng như muốn lạ miệng thì om nước cốt dừa, phủ trên là đọt mì, đun lửa liu diu vừa chín tới, ăn một lần sẽ rất khó quên.

Không là đặc sản cao sang, chỉ bình dị và thân thiết với con cá bống dừa quê tôi. Đi đâu, xa đâu, cứ thấy rặng dừa nước là lòng tôi lại trùng xuống vì nhớ cá, nhớ người!

Hoàng Sa thiêng linh

Từ nhiều năm qua, trong công cuộc sưu tầm hiện vật, tài liệu cũng như tìm gặp những nhân viên làm công tác dự báo khí tượng, những người lính Việt Nam Cộng hòa làm công tác giữ đảo từ trước năm 1974, tôi có dịp nhiều lần được cùng đi với những người trong nhóm làm công tác sưu tầm, được gặp những nhân chứng lịch sử Hoàng Sa.

Dù đã ngót nghét 40 năm, những chàng trai trẻ làm việc trên đảo Hoàng Sa thời ấy, giờ ở cái tuổi “xưa nay hiếm”. Mặc dù tuổi đã cao, sức đã yếu, nhưng khi hỏi về Hoàng Sa, họ vẫn kể vanh vách những gì có trên đảo, từ chiếc cầu cảng, chiếc giếng nước ngọt, tượng Phật Bà Quan Âm cho đến những xác thuyền trên đảo. Với họ, ký ức về Hoàng Sa vẫn “mới” như ngày hôm qua.

Có mặt nhiều lần trên đảo từ những năm 1964 – 1968, trong tâm trí nhân viên khí tượng Trần Huỳnh (thôn Dương Lâm 2, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) vẫn hiển hiện một Hoàng Sa mới nguyên. Cụ Trần Huỳnh (nay đã 84 tuổi) được Ty Khí tượng Đà Nẵng nhận làm nhân viên tại Trạm quan trắc khí tượng tại đảo Hoàng Sa năm 1964 với thời hạn 3 tháng.

Ngày ấy, mặc dù đã lấy vợ, sinh con nhưng vì cuộc sống và vì cả lòng ham muốn một lần đến với đảo xa, ông Huỳnh từ giã vợ con đi Hoàng Sa làm việc. Những ngày ở đảo, công việc chính của ông là làm anh nuôi và thả bóng thám không.

Ông Huỳnh nhớ lại: “Đài khí tượng lúc đó có 5 cán bộ quan trắc khí tượng, 3 người ở Sài Gòn ra, 2 người của Đà Nẵng và tôi là nhân viên. Mỗi ngày 2 lần, nhiệm vụ của tôi là thả bóng thám không vào 6 giờ sáng và 15 giờ chiều. Thả bóng thám không xong, tôi lo nấu ăn và phục vụ chuyên môn cho các kỹ sư khí tượng”.

Những thời gian rỗi rảnh, ông Huỳnh đi dạo quanh đảo, câu cá, đi thắp hương tại tượng Phật Bà Quan Âm ở miếu Bà… Ông Huỳnh bảo, Hoàng Sa cá nhiều vô kể. Chỉ cần một cái cần câu và một giờ đồng hồ, ông có thể mang về những con cá mú to để cải thiện bữa ăn. Ngoài ra, ông còn gieo cải, trồng ớt và nuôi heo trên đảo.

Ông kể rằng, trước miếu Bà trên đảo Hoàng Sa có một đôi cá thần bằng bàn tay bơi tung tăng rất đẹp và rất linh thiêng. Một ngày nọ, bất chấp những lời can ngăn của mọi người, hai người lính địa phương quân của Quảng Nam dùng lựu đạn toan đánh cá, nhưng khi lựu đạn vừa được rút chốt thì phát nổ ngay trên tay làm hai người lính đó chết tại chỗ.

Từ đó, cứ vào ngày rằm và mùng 1 hàng tháng, những người sống trên đảo đến thắp hương khấn vái mong điều an lành và không ai dám xâm hại đến đôi cá đó…

Những năm tháng không quên

Cũng như ông Trần Huỳnh, những lúc rỗi rảnh, ông Võ Như Dân (trú 8 Hoàng Diệu) và ông Nguyễn Tất Phát (trú K158 Hùng Vương, Đà Nẵng) qua lại nhà nhau để ôn lại những kỷ niệm trên đảo Hoàng Sa ngày ấy. Với hai ông, chuyện về Hoàng Sa không bao giờ cũ, những năm tháng trên đảo vẫn theo suốt mấy chục năm qua.

Tháng 3-1958, ông Nguyễn Tấn Phát (lúc ấy 25 tuổi) háo hức ra Hoàng Sa làm nhân viên khí tượng. Mặc dù theo phân công mỗi người ra đảo 3 tháng rồi người khác ra thay nhưng lúc ấy, ông Phát xin thêm 3 tháng nữa để được ở lại với Hoàng Sa.

Ông Phát kể, đài quan trắc có 3 quan trắc viên làm việc phục vụ cho 2 kỹ sư khí tượng. Cả 3 người thay phiên nhau, mỗi người trực một ngày rồi nghỉ 2 ngày. Mỗi ngày ông Phát đọc khí áp mặt đất, hướng gió, lớp mây… rồi chuyển cho nhân viên vô tuyến thảo mã rồi gửi điện về đất liền. Công việc ấy đều đặn 8 lần/ngày, mỗi lần cách nhau 3 giờ.

“Hoàng Sa có vị trí quan trọng trong công tác dự báo thời tiết, số liệu trên đảo gửi về thường rất chính xác, nhất là trong công tác dự báo bão” – ông Phát cho biết.

Với ông Dân, kỷ niệm về Hoàng Sa là những món “đặc sản tự chế” để cải thiện bữa ăn. Ông Dân ra Hoàng Sa năm 1953, thay cho người anh cô cậu là ông Phạm Miễn (hiện đã chết) về đất liền. Lúc đó, làm cùng với ông Dân trong tổ phục vụ còn có ông Nguyễn Tấn Yên (quê ở Huế, nay cũng đã mất). Thời gian làm anh nuôi trên đảo Hoàng Sa, để cải thiện bữa ăn, ông Dân nghĩ ra cách lấy trứng con vít (rùa biển) trên bãi cát để nấu chè.

“Vít đẻ trứng dưới cát và lấp lại rất kín, muốn lấy trứng phải lần theo con vít khi nó thăm ổ. Bới cát lấy trứng xong, bỏ lòng trắng, lấy lòng đỏ. Lòng đỏ trứng vít cứng như viên bi, dầm với đường thành món đặc sản không nơi nào có được: chè trứng vít. Mai con vít còn được tận dụng vận chuyển lương thực từ tàu vào đảo”, ông Dân nhớ lại.

Ông Dân còn nhớ những ngày thiếu ăn vì bão. Hoàng Sa mùa hè rất đẹp nhưng rất khắc nghiệt vào mùa mưa bão. Ông Dân đã từng sống qua nhiều mùa bão trên đảo và “thấm” những nỗi khổ cực, nhất là thiếu ăn. “Nhiều tháng trời, bão liên tục nên tàu tiếp tế lương thực không đến được, cả đơn vị phải đối diện với tình trạng thiếu lương thực, trong khi mùa bão không thể đi câu cá để ăn. Nhiều người đã nghĩ ra cách bẫy chim vào đảo trú bão để ăn”, ông Dân kể lại.

Kỷ vật của ông Dân với Hoàng Sa là vỏ ốc tai tượng bóng loáng. Ông Dân bảo, trước khi về đất liền, ông bắt những con ốc tai tượng rồi chôn xuống cát đến khi nào thịt nó thối rữa thì nạo ruột ra, lấy vỏ. “Làm như thế vỏ ốc sẽ có lớp vân sáng và rất đẹp, nếu luộc ốc sẽ ngả màu đen xỉn”, ông Dân chia sẻ kinh nghiệm.

Với những người đã từng làm việc tại Hoàng Sa đều nhận xét: Hoàng Sa đẹp nhưng khắc nghiệt! Tuy nhiên, với tất cả những ai đã từng sống và làm việc tại Hoàng Sa đều thừa nhận đó là niềm hạnh phúc, hạnh phúc bởi được sống trên mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Nghề chế biến món ăn

            Để đáp ứng nhu cầu sống thì con người phải lao động và sáng tạo. Trong công cuộc đổi mới hiện đại hóa, công nghiệp hóa có rất nhiều ngành nghề được phát triển đáp ứng nhu cầu được làm việc để tạo ra của cải vật chất nhằm mục đích mưu sinh. Từ mục đích đó mỗI người có thể chọn cho mình một ngành nghề nhất định mà mình yêu thích và phù hợp với khả năng của mình.

Có người nói: “tôi thích nghề sư phạm vì nó là nghề rất cao quý?, người khác nói “Tôi thích làm kỹ sư vì tôi có thể bộc lộ tính sáng tạo của mình?.v.v…Riêng với tôi đã là một công việc, một ngành nghề chính đáng thì nghề nào cũng cao quý và tôi đã chọn cho mình ngành chế biến món ăn. Ngành chế biến món ăn không có gì xa lạ. Có thể trong con mắt nhiều người nó thật bụi bặm, nóng nực, nhọ nhem…Với tôi nó là cả một sự say mê và yêu thích, còn với bạn thì sao? Tôi xin kể cho các bạn nghe: “ Câu chuyện nhỏ của tôi?. Xin cảm ơn thầy Nguyễn Ngọc Minh, giáo viên dạy nấu ăn , thông qua bài kiểm tra này đã cho các thành viên trong lớp chúng em thêm hiều nhau hơn, hiểu thêm về các món ăn dân dã Việt nam…Đề bài kiểm tra: Bằng những nhận thức của em về phương pháp chế biến, em hãy viết một kỷ niệm về món ăn mà em yêu thích. 

Câu chuyện nhỏ của tôi

       Sinh ra ở một vùng quê nghèo, với rừng cọ, đồi chè, nương lúa, nương ngô. Cuộc sống của tôi cũng như những người dân xung quanh chỉ biết tới những công việc đồng áng và về nhà với những bữa cơm đạm bạc. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng mình sẽ có mơ ước trở thành người nộI trợ giỏi, nấu ăn ngon cho gia đình tôi. Bởi từ trước những việc nội trợ đó đều do một tay Ngoại và Mẹ tôi làm. Ngoại già rồi nhưng nấu ăn giỏi lắm. Tôi cho là vậy vì cả tuổi thơ, tôi sống trong vòng tay Ngoại. Những bữa cơm mà NgoạI nấu không có món nào là trùng lập trong ngày. Ngoại nói “Phải cải thiện món ăn để đảm bảo chất dinh dưỡng và sức khỏe con ạ?. Nghe từ “Dinh dưỡng? mà Ngoại nói tôi phì cười, cả cuộc đời lam lũ vất vả của ngoại cộng với cuộc sống khó khăn, không có cái để ăn vậy thì làm sao lại nghĩ là đủ “Dinh dưỡng? và như Ngoại nói thì “Dinh dưỡng? là gì? Nó có tác dụng gì cho cơ thể con người chứ? Ngoại nói xong rồi tôi bắt đầu suy nghĩ liên miên - tôi nghĩ đến những món ăn đơn giản chỉ với con cá, con cua, ốc, hến,… những cây rau cải, rau muống, rau ngót… hay cao cấp hơn là con gà, con vịt và những lạng thịt mua ở chợ về hàng ngày mà Ngoại nói là cải thiện. Những thứ đơn giản sẵn có ấy mà ta ăn hàng ngày cung cấp đủ dinh dưỡng sao? Câu hỏi đặt ra thì nhiều mà tôi không biêt hỏi ai, để đến tận bây giờ khi bước chân vào trường Trung cấp , học lớp Nấu ăn tôi mới hiểu và có thể tự trả lời câu hỏi cho mình từ mấy năm trước đây.

       Quả đúng như Ngoại tôi nói: dù chỉ là mớ rau, những con cua, con cá... cũng với cách nấu đơn giản là có thể cho ra nhiều món ăn ngon có đầy đủ chất dinh dưỡng như prôtein, lipit, gluxit, vitamin…Ngoại tôi còn lấy ví dụ cụ thể hơn để cho tôi hiểu như canh rau mùng tơi nấu với cua, canh cải nấu với cá rô hoặc cá để kho, để rán…mặc dù chưa hiều lắm nhưng nghe qua tôi nhận thấy không ngờ lại có nhiều món ăn phong phú và đa dạng thật. Vậy mà từ trước đến mình chỉ biết ăn mà không nghĩ đến làm sao mà lại nấu ngon được như thế. 

Tôi còn nhớ rất rõ có lần đi học về nhìn thấy Ngoại tôi đang lúi húi đào củ riềng. Tôi hỏi “NgoạI đào củ riềng để làm gì ạ??, đi vào nhà trongthay đồ xong xuống bếp, tôi nhìn thấy trong chiếc rổ có 4 con cá chép nhỏ khoảng 3-4 lạng vẫn còn tươi. Tôi nghĩ chắc là trưa nay mình được ăn cơm với cá rồi, trong đầu tôi liên tưởng tới nhiều món ăn với cá mà mọi ngày Ngoại vẫn nấu như cá rán, cá kho tương, cá nướng… nhưng vẫn chưa hình dung ra món cá gì mà lạI có riềng…trong thờI gian chờ đợI Ngoại đi lấy củ riềng tôi sắn tay áo lên bắt đầu thực hiện sơ chế cá. Tôi đánh vẩy, bỏ mang, bỏ ruột và cạo cả màng đen trong bụng cá rồi rửa sạch, đang định để cả con cá để rán cho nhanh thì Ngoại đi vào trên tay xách khóm riềng, Ngoại tôi nói “con phải cắt khúc khoảng 3-4 cm, nếu dày quá thì chẻ đôi ra?. Sau đó ướp muối, tẩm ướp tiếp nước mắm, hạt tiêu vào nhé. Còn đang bỡ nhỡ khi nghe lời dặn thì Ngoại nói tiếp “hôm nay, Ngoại nấu món cá kho riềng?, cá không cần phải rán mà đem tẩm ướp rồi cho lên kho, nói xong Ngoại tôi lấy củ riềng ra gọt vỏ, rửa sạch và bảo tôi đem nồi ra để Ngoại xếp những miếng riềng vừa thái mỏng vào đáy nồi, tôi thắc mắc là sao riềng không đem giã mà lại thái mỏng thì NgoạI tôi bảo rằng: “thái lát mỏng xếp xuống đáy để khi kho cá không bị cháy mà chỉ cháy lớp riềng sẽ tạo ra mùi thơm của riềng. Nói rồi Ngoại tôi đổ hết nước ướp cá vào nồi và đun to lửa đến khi sôi khoảng 10-15 phút. Sau đó tôi lại thấy Ngoại tôi đổ thêm cái nước gì có màu đen vào xâm xấp cá mà lúc trước Ngoại đun có mùi khen khét như đường bị cháy. Tôi hỏi thì Ngoại tôi bảo rằng đó là nước hàng, cho nước này vào để khi kho cá chín sẽ có màu nâu đỏ, cá sẽ không bị trắng như cá luộc và cứ như vậy Ngoại tôi đậy vung lại đun nhỏ lửa tới khi cạn nước, xương cá chín mềm thì Ngoại lại rưới mỡ nước lên và rắc hạt tiêu. Lúc này cũng đã đến 11h trưa rồi, cái bụng tôi nó cứ sôi lên, nó không thể kìm hãm được nữa bởi mùi thơm của riềng, thơm nhẹ của hạt tiêu, mùi của cá chín hòa quyện với nhau thơm nức cả mũi, khiến tôi phải mở thử vung ra xem có đúng như giác quan của mình ngửi không thì…oa… tôi kêu lên như thế. Thật là đúng như những gì mà Ngoại tôi nói, thịt cá có màu nâu đỏ, còn mùi thơm thì khỏi phải nói rồi, không hết tò mò tôi lấy đôi đũa nếm thử và thấy thịt cá săn chắc, ăn có vị mặn dịu, béo, xương cá thì mềm…

        Các bạn biết không lần đàu tiên tôi được ăn món đó mà tôi tự hỏi không biết Ngoại tôi đã học được ở đâu. Những nguyên liệu sẵn có của nhà ở trong vườn tưởng đơn giản, bình thường vậy mà khi kết hợp với nhau, cùng chút gia vị lạI tạo ra được nhiều món ăn ngon như vậy. Và cũng chỉ lần đó là lần cuối cùng Ngoại tôi nấu cho tôi thưởng thức món cá kho riềng. Vì sau đó ít ngày Ngoại tôi bị cảm và ra đi đột ngột, lúc đó tôi đang học lớp 10, sự ra đi của Ngoại là một mất mát lớn với tôi. Khi đưa Ngoại tôi ra đồng tôi vẫn nhớ tôi vừa khóc vừa nói “Ngoại ơi, biết bao giờ con lại được ăn món cá kho riềng của Ngoại nấu nữa, đáng ra Ngoại phải sống thật lâu để chờ con lớn con sẽ nấu cho Ngoại ăn…?

       Và giờ đây khi tôi đang học năm thứ nhất của Ngành Kỹ thuật chế biến món ăn, Trường Trung cấp thì Ngoại tôi đã đi xa được 5 năm rồi. Xong, ký ức về tuổi thơ, những ngày được sống bên Ngoại, được ăn những món ăn ngon do Ngoại nấu thì tôi không thể quên, nhất là món cá kho riềng……

Cỏ tranh

09/12/2009

Tuổi thơ tôi gắn liền với cỏ tranh đến cả trong giấc ngủ nhiều lần tôi đã bật khóc vì rễ tranh đâm vào giấc mơ tôi đau buốt.

Có lẽ trong mỗi chúng ta ký ức tuổi thơ bao giờ cũng đẹp. Cái đẹp ấy trước hết nằm ở sự hồn nhiên của lứa tuổi, nằm ở những kỷ niệm buồn vui một đi không trở lại. Với ai đó trên đường đời một khi trắc trở chợt bừng tỉnh giấc mơ phù hoa, quay gót tìm về chút hơi ấm tình quê như một nơi trú ẩn cho tâm hồn trước những sóng gió của cuộc đời nhiều khi dửng dưng đến phũ phàng. Tôi không phải là kẻ tha hương theo đúng nghĩa của nó nhưng cứ mỗi lần về lại làng quê, chòm xóm không biết sao lòng vẫn cứ nôn nao khó tả. Cảnh vật đã đổi thay, cuộc sống từng nếp nhà cũng không còn như trước, song duy chỉ mùi hương cỏ tranh ngày nắng vẫn cứ nồng nàn như bám víu lấy tôi.

Ơi cỏ tranh tuổi thơ tôi. Ơi ngôi làng nhỏ ven triền sông Tranh vẫn thấp thoáng hiện về trong ký ức. Ngôi làng bên con sông uốn lượn qua những quả đồi cỏ tranh miền trung du cằn cỗi. Sông không hiền hoà cung cấp phù sa màu mỡ như các vùng miền hạ lưu. Con nước dữ dằn về mùa lũ, khi cạn kiệt lúc mùa khô làm tôi liên tưởng đến tính cách những người dân quê tôi một đời không ra khỏi luỹ tre làng, ít màu mè, chỉ nhiều bộc trực, thô ráp mà tình thâm nghĩa trọng.       

Sau chiến tranh làng mạc quê tôi bị tàn phá đến một ngôi nhà cũng không còn nguyên vẹn. Ba tôi từ nơi xa dìu dắt vợ con trở về quê cũ. Công việc đầu tiên của ông là tìm kiếm và tu bổ lại mồ mả ông bà. Phán đoán giữa sự xáo trộn và giành giật với cỏ tranh để tìm ra gần cả 100 ngôi mộ lớn nhỏ ba tôi mừng hơn người được của. Bởi theo ông đây là công việc đáng làm nhất của người còn sống sau mấy mươi năm thoát ly đi kháng chiến. Không biết đây có phải là lý do duy nhất để ba tôi từ chối các lời mời về sống chốn phố phường đông đúc. Cả gia đình 5 con người lớn nhỏ hằng đêm phải ngủ trên hai tấm cửa ván ép đến đau nhói cả lưng. Căn nhà gỗ 5 gian ngày xưa của nội chỉ còn trơ những thân gỗ mít cháy trụi, cây dừa trước ngõ với chi chít vết thương như một chứng tích về sự tồn tại của làng qua lửa đạn. 13 cân gạo của một cán bộ về hưu tuy ý nghĩa nhưng không thể trang trải đủ cho một gia đình. Tuổi thơ của tôi gắn liền với những tháng ngày cùng ba mẹ đi khai hoang để trồng sắn khoai cho cái ăn đang thúc bách. Công việc vỡ đất khai hoang trước hết phải cắt xén cỏ tranh, cắt xén đến đâu đào rễ cỏ đến đó. Đặc biệt với loài cỏ này đào chỉ sót vài mấu rễ là ít hôm sau lập tức cỏ tranh mọc lên và sức lan của nó rất nhanh. Hai bàn tay tuổi thơ tôi ngày ấy phồng rộp, lá tranh sắc cắt cứa thân thể tôi rát bỏng, rễ tranh đâm vào chân tay đau buốt tứa máu. Duy chỉ có mẹ tôi vẫn cần mẫn, dẫu mệt nhọc đến mấy sau mỗi buổi lao động lại ngồi nhặt nhạnh chọn những rễ cỏ tranh to bóng đem về phơi khô nấu nước uống giải nhiệt. Rễ cỏ tranh tính bình lại mát nên không riêng gia đình tôi mà chòm xóm nhiều người cũng dùng nước uống bằng rễ cỏ tranh. Nước cỏ tranh ngày ấy thấm sâu vào tâm thức tôi bởi cái hương vị ngòn ngọt hơi khay khay mùi nồi đất sao vàng khử thổ rất chi đặc thù. Tuổi thơ tôi gắn liền với cỏ tranh đến cả trong giấc ngủ nhiều lần tôi đã bật khóc vì rễ tranh đâm vào giấc mơ tôi đau buốt.

Hằn sâu trong ký ức tôi còn là nỗi khó nhọc ngày thơ chị em tôi đã phải vào rừng cắt tranh đem ra chợ bán. Lúc đó tôi cũng không biết mình yêu hay ghét cỏ tranh. Bởi cỏ tranh thật sự đã giúp tôi rất nhiều trên con đường học tập, cỏ tranh phần nào cải thiện bữa ăn, mắm muối cho gia đình tôi những năm tháng dài thời bao cấp.

Ngày xa làng cỏ tranh níu chân tôi thì thầm những lời của gió. Những ngày giỗ chạp tôi lại quay về làng dẫy cỏ, tu bổ mồ mả ông bà, cỏ tranh lại tỷ tê với tôi về câu chuyện muôn đời của đất, về gốc gác tổ tiên gia tộc. Tôi thích lời nhạc Trịnh, tôi yêu hình ảnh thật bình thường nhưng mang triết lý nhân sinh trong câu hát: “Như loài cỏ tranh yêu nhau ngoài đồng...”

Bao nhiêu năm xa quê trong tôi vẫn thoang thoảng đâu đây hương cỏ tranh, mùi vị nước rễ tranh mẹ tôi vẫn thường sắc uống giải nhiệt, hình ảnh ngôi nhà tranh mới lợp lại được ba tôi xén mái thẳng thớm đẹp mắt. Đó là một chiều muộn giữa tháng trăng lên, đồng quê xào xạc tiếng nói cười trong bữa cơm đãi công họ hàng chòm xóm. Và đã có lúc trên đường đời trắc trở tôi lại về với căn nhà xưa... nghe mưa dầm dã mái tranh mà thấm thía cuộc đời. Tôi thầm hỏi, mình có là cỏ tranh?

Mai L ĩnh Du Ký

Cái nắng 37 độ của những ngày đầu hè khiến ai cũng khó chịu. Tôi ngước lên nhìn bầu trời. Thế là sắp hết tháng 5 rồi. Bằng thời gian này cách đây 1 năm, lũ sinh viên năm thứ nhất chúng tôi đang hồi hộp lắm cho kỳ quân sự của đời Sinh viên đây…

1. Ấn tượng " ngày ra quân ".

Đó là ngày cuối cùng của tháng năm ( 31/5/04 ), một ngày mưa tầm tã. Thật kỳ lạ! Mấy hôm trước trời nóng như đổ lửa, thế mà ngày chúng tớ lên đường lại mưa tầm tã. Chúng tớ, đứa nào cũng lích kích túi to túi bé bước vội lên xe. Xe vừa rời cổng trường, tôi như có cảm giác là mình sẽ đi xa lắm và sẽ đi rất lâu…Chúng tớ hô to vẫy tay chào tạm biệt trường, tạm biệt Hà Nội hệt như các anh bộ đội ngày xưa đi chiến đấu. Trong lòng chúng tớ cảm giác lẫn lộn ,chẳng ai giống ai. Nhưng tớ biết tất cả chúng tớ đang đều đang nghĩ về cuộc sống của những ngày ở Mai Lĩnh, một cuộc sống chắc chắn khổ hơn khi ở nhà….

Nơi chúng tớ đặt chân đến là " khu nhà tôn ". Một chút mệt vì khuân nhiều đồ, một chút lạnh của mưa cộng thêm với một chút đói nữa khiến chúng tớ ngồi lăn lóc trong khu nhà đó như "chợ người". Những khoa nào có danh sách nhận phòng trước thì còn sung sướng, còn những khoa áp chót thì đúng là thảm hoạ. Không phải là một chút đói, một chút mệt nữa mà tất cả những cái bụng đều đang như biểu tình (híc….). Và đến khi chúng tớ đặt chân vào phòng của mình thì…tất cả chỉ muốn lăn ra ngủ. Nhưng tớ tin chắc là dù có muốn bạn cũng không ngủ được đâu vì mùi ẩm mốc của chiếu, vì cái sàn nhà bụi bặm, vì những cái xô chứa nước không còn một giọt nào, vân vân và vân vân. Và thế là bạn phải bắt tay vào dọn dẹp, bắt đầu cho một cuộc sống mới của chính mình…

Ngày đầu tiên ở Mai Lĩnh vẫn mưa tầm tã. Chúng tớ được miễn buổi học chiều hôm đó. Nằm trên giường co quắp nhau cho đỡ lạnh, chúng tớ nhớ nhà kinh khủng. Có đứa còn khóc thút thít vì không nghĩ mình sẽ sống ở một nơi như thế này…

2.Cuộc sống ở " trại lính" Mai Lĩnh.

Mỗi người được phát 2 bộ quần áo,1 đôi giầy,1 cái mũ. Đây là những vật dụng mà bạn phải bảo quản tốt. Nếu như làm mất là bạn phải đền. Bạn sẽ sống trong một căn phòng gồm 16 người, dùng chung một "chàng William Cường". Với những bạn ở KTX thì rất bình thường, nhưng với những bạn ngoại trú thì bắt đầu phải tập quen với cuộc sống tập thể, làm gì cũng phải nghĩ cho 15 người còn lại. Tiếp về món ăn nào. Các bạn sinh viên khoá 04 thân mến, các bạn đừng có bầt ngờ về "thực đơn" ở đây nhé! Mỗi bữa ăn của các bạn sẽ có 3 món (hôm nào cải thiện thì được 4), và cứ 3 ngày lại quay lại thực đơn 1 lần, có nghĩa là ngày thứ nhất bạn được ăn gì thì đến ngày thứ 3 bạn sẽ đuợc ăn lại chính các món ấy.

Vấn đề giờ giấc ở Mai Lĩnh thật sự là "nan giải". Buổi sáng muộn nhất bạn phải rời khỏi giường lúc 5h30. Nếu không phải trực vệ sinh khu vực thì bạn sẽ "được" tập thể dục, cụ thể là chạy một vòng quanh khuôn viên (!). Sau đó thì cố gắng mà tranh nhau "chàng Williams Cường" để đến 6h45 là bạn phải sẵn sàng mọi thứ cho ca học sáng. Đến 11h được nghỉ và giờ cơm trưa bắt đầu.Trải qua giấc ngủ trưa ngắn ngủi, 1h15 bạn lại tiếp tục cho ca học chiều. Một ngày, các bạn được 2 tiếng "tự do", gọi là thời gian cá nhân. Bạn có thể tiếp khách, đi ra khỏi trường, túm lại sử dụng như thế nào là tuỳ bạn. Nhưng bạn đừng có vội mừng! 2 tiếng ấy kéo dài từ 5h đến 7h chiều. Và quãng thời gian ấy là giờ cơm, giờ nước được bơm để tắm rửa. Vì vậy nếu như bạn là một kẻ tranh giành giỏi thì cố mà tắm trước, rồi đi ăn cơm, sau đó bạn sẽ vô tư mà chơi. Nhưng nếu bạn có trót tận dụng 2 tiếng ấy đi "lang thang", ung dung đi ăn cơm, thì lúc về phòng bạn đừng có mà mếu máo nếu như mọi người phản đối bạn tắm. Vì đến giờ đó, nước đã cắt, nước dự trữ chỉ đủ cho dùng buổi sáng hôm sau. Thận trọng nhé!!!

3. Những kỷ niệm không thể quên

Bọn tớ đi đúng đợt EURO 04 nên có nhiều kỷ niệm ngộ nghĩnh lắm. Với những kẻ đam mê với trái bóng mà không được xem thì thực sự là "khủng bố". Ngày bóng bắt đầu lăn, khối đứa ngồi ấm ức. Rồi đến trận lúc 11h đêm đầu tiên, ban chỉ huy cho phép con gái được đi xem ở nhà ăn, với điều kiện: mặc quân phục và không được hò hét. Nhưng khổ thân chúng tớ, lúc về trót nói to, làm mấy chú cẩu nhà dân sủa inh ỏi.Thế là các thầy giận, cấm tiệt! Các trận sau đó, được sự hỗ trợ của bọn con trai, chúng tớ quyết tâm "vượt tường" ra bên ngoài xem nhờ nhà dân. Chỉ thương con bạn tớ, vì chiều cao không được lý tưởng lắm nên trong một lần "vượt tường", "roẹt" một cái, thế là đi tong cái quần “mồi”!

Những ngày cuối tuần ở Mai Lĩnh thật vui. Nếu như bạn không qua nhớ nhà thì cố gắng ở lại để mà tận hưởng cuộc sống tập thể nhé. Bạn có điều kiện ở với bạn bè nhiều hơn, hiểu bạn mình hơn, và đặc biệt bạn biết quan tâm đến người khác rất nhiều. Những buổi tối thứ 7, các trung đội thường giao lưu với nhau, hát hò, chơi trò chơi hay kéo hết đồ ăn do nhà tiếp tế lên ra để đánh chén, vui nổ trời. Những đêm đó, bọn tớ thường thức trắng rồi nghĩ ra đủ trò tai quái: từ sang "khu nhà tôn" doạ ma bọn con trai, bói tú, bói chén, đến đi "ăn trộm" ngô…Rồi 4 tuần ở Mai Lĩnh trôi qua tựa như một cơn gió thoảng. Tât cả đều giật mình thảng thốt vì quãng thời gian sống cùng nhau không thể kéo dài thêm nữa rồi. Bọn tớ suốt ngày kêu khổ, nhưng thật ra trong lòng đứa nào cũng thầm cảm ơn những ngày sống ở đây, ở Mai Lĩnh đã làm cho mình trưởng thành hơn rất nhiều.

Ngày chia tay Mai Lĩnh là một ngày đầy nắng. Có đầy đứa còn sụt sùi như trẻ con. Khi thầy Hùng, chỉ huy trưởng lên hát, tất cả bọn tớ hét ầm lên: "Bố Hùng ơi, bọn con yêu bố lắm…."

4. Lời khuyên dành cho khoá 04 .

- Mang theo càng nhiều mỳ tôm càng tốt. Tớ cam đoan là bạn không thể quen ngay với "thực đơn" trên Mai Lĩnh đâu. Mỳ tôm là sự lựa chọn số 1 đấy!

- Đồ hộp, xúc xích, ruốc, muối vừng…..cực kỳ phát huy tác dụng ở đây. Hãy cải thiện bữa ăn của bạn ngay từ tuần đầu tiên nhé!

- Tự chuẩn bị cho mình một vài viên thuốc: thuốc cảm cúm này và nhất là berberin để giữ an toàn cho cái bụng của bạn ( hê..hê…)

Lời cuối cùng xin chúc các bạn khoá 04 có một mùa hè ở Mai Lĩnh thật vui (khổ một tẹo cũng đừng kêu ca nhé!). Hi vọng khi trở về , các bạn sẽ viết tiếp Mai Lĩnh du ký với một version mới nhé! Chúc các bạn may mắn và thành công !

Nội tôi

Mỗi lần tết đến xuân về tôi lại nhớ bà nội tôi da diết. Bố mẹ tôi đều là bộ đội, công việc, đi vắng suốt. Tuổi thơ của tôi gắn liền với bà nội. Bố tôi bảo là ngày xưa bà biết làm nhiều món bánh ngon. Ở quê, thường giỗ Tết cúng bằng ba tầng mâm. Trong các món ăn bà làm cho chúng tôi, cầu kỳ nhất là xôi vò, cháo mành canh và bánh ngào. Bố tôi rất thích ăn món cháo mành canh và bánh ngào bà tôi làm. Ngày trước, xay bột còn khó khăn, bà thường phải giã bột tẻ, rây để nấu cháo, còn giã bột nếp để làm bánh ngào. Bột tẻ phải ngào với nước sôi, nhào nặn kỹ thành như bó giò nhỏ. Nước dùng nấu cháo là nước hầm xương gà là ngon nhất. Thịt nạc giã nhỏ nhào kỹ vói nước mắm và hạt tiêu, viên thành viên to dẹt trong lòng bàn tay, rim với nước mắm và thái lát nhỏ để cho vào cháo. Bột đã nhào xong thái lát mỏng vào thẳng nồi nước dùng. Bố tôi hào hứng tham gia thái bột vào nồi. Đây là công đoạn tương đối khó. Dao phải thật sắc. Ông tuần nào cũng đi chợ Đồng Xuân, ngoài tìm hiểu thông tin thị trường  ông còn mua được những con dao rất sắc. Bây giờ, tôi không mấy khi mua được con dao ưng ý. Bát cháo cho thêm rau mùi và hạt tiêu thơm ngon vô cùng. Bà nội tôi bảo là nếu không có thịt viên thì dùng giò lụa cũng được. Giò lụa Kỳ Anh trước đây thuộc loại ngon nổi tiếng. Cho đến nay, mẹ tôi vẫn thường hay làm món này những dịp Tết đến và bảo là món ăn Hà Tĩnh quê ta.

Trước đây, hầu như năm nào nhà tôi cũng gói bánh trưng. Bà mua đủ lá, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, hành, gừng hạt tiêu. Mẹ tôi mượn được thùng quân dụng to nấu bánh trưng. Cả nhà phân công nhau rửa sạch lá, đãi đậu, giã đậu và viên thành viên bằng quả ổi. Bà ướp thịt với hành và hạt tiêu, còn bố tôi gói bánh. Chị em tôi rất hào hứng chạy xung quanh giúp bố tôi. Ông gói rất nhanh và bao giờ cũng gói mấy cái nhỏ hơn để vớt ra cho mấy chị em thử trước. Mỗi người một việc, không khí Tết trong nhà rất vui vẻ và đầm ấm xung quanh nồi bánh trưng. Bà tôi nấu món thịt bò kho gừng rất ngon. Món này cũng chỉ dịp Tết mới làm, ăn vói bánh trưng rất ngon. Thịt bò kho phải hầm lâu nên bà nhóm luôn hai bếp, một bên bánh trưng, một bên nồi thịt bò kho trông luôn một thể. Bố tôi bảo là có mật mía quê mình nấu món thịt bò kho là ngon nhất. Sau này, Tết đến, mẹ tôi vẫn nhờ các dì gửi mật mía ra để nấu thịt bo kho và làm bánh ngào. Bà tôi kho cá bể rất ngon. Bố tôi rất thích ăn món cá bể kho nhiều gừng, một chút mỡ nước và hạt tiêu. Bà ngồi cả giờ bên bếp củi, đun nhỏ lửa, thỉnh thoảng lật khúc cá lên cho ngấm đều mắm muối gia vị. Bà kho tôm cũng rất ngon. Kỳ Anh có khoai lang ngon bở ăn với tôm kho hay cá kho đều rất ngon.  Mẹ tôi bảo rằng bố tôi còn rất thích ăn bánh rán. Bà nội cũng cất công thử làm mấy lần, nhưng không thành công như hồi xưa vẫn làm cho các cụ nội dùng. Tết đến bà nội thường làm mứt các loại. Bà thường dành riêng cái chậu đồng để làm mứt. Ông rất thích mứt gừng bà tôi làm, nhâm nhi suốt cả mùa đông sang xuân. Trong các loại hoa quả bố tôi thích nhất là chuối. Nhà tôi trồng một vườn chuối chạy dọc theo chiều dài của khuôn viên nhà nên hầu như lúc nào cũng có chuối để ăn. Bố mẹ tôi thỉnh thoảng còn đem biếu các dì dượng, chú thím. Mẹ tôi có hôm đi trực mang đến cho các cô chú trong bệnh viện 354 cùng thưởng thức.

Ông nội tôi là nhà giáo, ông mất khi bà tôi mới 23 tuổi và đang mang thai đứa con đầu lòng là bố tôi. Bà ở vậy nuôi con, chăm sóc bố mẹ chồng. Bà làm ruộng trồng lúa, trồng khoai, nuôi tằm kéo sợi, chắt chiu từng đồng cho con đi học tiểu học  ở Hà Tĩnh, rồi Trung học ở Vinh. Năm 1945, bố tôi tham gia Việt Minh, bà ở quê cùng anh chị em, bà con họ hàng.

Từ năm 1957 bà nội ra ở cùng gia đình tôi. Bà tôi ít nói, chỉ hay tâm sự cùng con cháu và những người thân họ hàng. Tính cách của bà đã thấm dần vào các thành viên gia đình tôi: trung thực, chân thành, yêu lao động, nghiêm khắc, sống hết lòng vì người thân và bạn bè, vị tha và nhường nhịn, tiết kiệm đến tằn tiện cho bản thân, luôn lạc quan yêu đời. Ra Hà Nội, bà vẫn trồng trọt và chăn nuôi rất giỏi. Trong những năm 60 của thế kỷ trước, khó khăn là thế, nhưng đàn gà, luống rau của bà đã cải thiện đáng kể cho bữa ăn gia đình tôi.

Bà rất thích đi chợ. Bố tôi có tiêu chuẩn mua hàng cung cấp ở Đặng Dung. Tuy vậy, muốn mua được miếng thịt, con cá , mớ rau, quả trứng ngon bà tôi đều phải đi xếp hàng từ 3-4 giờ sáng. Sau đó, gần đến giờ mở cửa lại đến nhận chỗ vào xếp hàng tiếp. Bà tôi một tuần vài lần đi chợ như vậy để mua thức ăn cho tươi. Chị em tôi đều đi học buổi sáng cả, chỉ có chủ nhật mới giúp bà đi xếp hàng hoặc mua thức ăn. Nhất là những ngày giáp Tết, tôi được nghỉ nên hay cùng bà đi chợ mua đồ ăn. Những năm còn nhỏ, nhà tôi có 2 chiếc xe đạp: xe nữ của mẹ thường xuyên đi làm tại Quân y viện 354, chỉ có xe nam của bố là hay để ở nhà vì bố tôi đi làm bên Tòa soạn Báo Quân đội nhân dân gần ngay cạnh. Tôi thường đèo bà đi chợ bằng xe này đi cửa hàng Đặng Dung, đi chợ Kỳ Đồng, đi chợ hàng Da, đi chợ Châu Long. Hôm nào tôi đi học, bà lại đi bộ. Có lần bà còn đi xe điện đến tận chợ Mơ.

Năm 1964, bà và chị em tôi phải đi sơ tán về Hà Bắc. Về nông thôn, điều gì cũng làm tôi bỡ ngỡ. Tôi sợ đi học những ngày mưa  trên con đường lầy lội trơn như mỡ. Lần nào đi về cũng bị ngã, quần áo lấm bùn bê bết. Bà giặt vò kỹ rất lâu mới sạch. Mùa đông trời lạnh, tôi hay bị cước chân, bà đun nước muối cho tôi ngâm hàng ngày. Hồi đó còn có phong trào làm phân xanh: thu những cây muồng muồng điền thanh, đào hố chôn ủ. Tôi không biết gánh, vai đau, nước mắt chảy dài trên má, bị tụt hậu. Bà hỏi các bạn, biết được ra đồng đón gánh cho tôi. Càng hậu đậu, càng sợ lại hay bị trêu. Có hôm bị các bạn cho ếch vào cặp sách, thối ỉnh cả tuần, không có cặp đi học… Bà tôi lúc nào cũng lo cho tôi, hiền lành quá, thật thà quá, hay tin người quá… Người ta lòng dạ khôn lường mà. Ưu điểm nhất của tôi là học giỏi, có cơ may gỡ lại phần nào để bà yên lòng. Khi tôi đi học Liên Xô, bà nước mắt lưng tròng, không biết cháu về còn gặp bà không.

Bà tôi không biết chữ nhưng sự minh mẫn, linh hoạt, quyết đoán khi xử lý mọi tình huống trong lúc khó khăn của bà làm mọi người phải kinh ngạc. Tôi không bao giờ bằng được bà. Nếu phải lựa chọn, chắc tôi sẽ không bao giờ dám cho đứa con trai duy nhất của mình đi kháng chiến như bà đã động viên bố tôi. Bà tôi mong cháu trai lắm. Nhưng khi bố mẹ tôi có 3 chị em tôi, bà không bao giờ nói gì làm mẹ tôi phải lo lắng về chuyện này cả. Khi tôi sinh con trai đầu lòng, bà tôi mừng lắm. Bà đã già, móm mém, tóc cắt ngắn, nhưng khuôn mặt vẫn giữ nét trái xoan, mũi thẳng tắp. Có lần bạn tôi đến trầm trồ, chắc lúc trẻ bà đẹp lắm. Bà tủm tỉm cười: ” Không xinh nhưng cũng khá, chả thế mà ông chạy theo mãi”

Bà tôi mất năm 1992, thọ 90 tuổi. Bà sống mãi trong lòng con cháu, trong ký ức của bà con chú bác các khu tập thể Lý Nam Đế. Con người có lẽ ai cũng có số phận nhưng không mấy người sống vất vả cực nhọc nhưng sống một cuộc đời đầy ý nghĩa như bà.

Vị cá quê nhà

TUỲ BÚT CỦA TRẦN MINH HỢP

NVTPHCM- Nhà tôi nằm ở khúc đuôi miền Trung, thuộc một xã buồn thiu nằm kế biển. Trong vài cuộc cải cách địa giới, Chính phủ lại gom vào miền Nam. Nhưng trong tâm trí của những người quê tôi, họ vẫn là những người miền Trung dãi dầu nắng gió, ăn to nói lớn.

Tuy sát sườn bên biển nhưng xóm tôi không phải là xóm vạn chài mà là xóm Vườn, trồng lúa, thanh long và những thứ rau củ quả nhiệt đới lặt vặt khác. Thiên chức đánh cá và làm muối dành cho xóm Muối, một cộng đồng dân di cư, sát biển hơn. Sự giao lưu dân cư ở quê tôi diễn ra khá đậm đà, thi thoảng người xóm Vườn rỗi chuyện đồng điền vườn tược lại đạp xe xuống biển đi kéo trủ, tựa như những người kéo lưới thuê cho những chuyến đánh bắt gần bờ, để kiếm ít cá tôm mực ghẹ cải thiện bữa ăn. Còn những ngày trăng sáng, biển vắng cá, người xóm Muối chạy ngược lên xóm Vườn mua gạo và bầu bí, rau muống rọc. Thời gian cứ thế trôi qua trong bình yên.

Những ngày hè thiếu niên, tôi thường cọc cạch đạp xe xuống biển để kéo trủ theo phong trào đang dâng lên thành cao trào ở xóm Vườn. Tôi thường ra khỏi nhà từ khuya, sau khi ăn qua loa gói mì tôm có bỏ thêm bánh tráng mỏng, ít cơm nguội còn sót trong nồi và trở về khi trời đứng nắng với một bịch nilông tả pí lù cá tôm, mực ghẹ và cả sò. Tôi rửa sạch cát biển, bỏ hết vào xoong luộc tươi, sau đó vớt ra chấm muối ớt nướng, mùi biển khơi vẫn đọng đầy trên gai lưỡi. Những phút giây hưởng thụ thành quả lao động luôn làm tôi hạnh phúc. Đôi khi trúng lưới có cá mòi, tôi đem về cho má nấu canh chua măng.

Cá nục thì má đi chợ mua rau về hấp cuốn bánh tráng chấm nước mắm me. Những ngày hè của tôi trôi qua trong nồng nàn vị cá biển. Thịt heo đối với tôi và cả những người quê tôi là một loại thực phẩm giàu protein xa lạ và xa xỉ. Những miếng cá xuất hiện dày đặc trong những bữa cơm sáng trưa chiều trở nên quá đỗi bình thường, đôi khi là minh chứng cho một cuộc sống bình lặng và nghèo nàn ở những ngôi nhà kề biển.

***

Tôi xa biển trong những chuyến học hành dài dằng dặc. Những bữa cơm bụi qua loa nhưng tha hồ chọn món. Tôi thường chọn sườn nướng hay thịt kho tàu gì đấy. Tôi hơi bất ngờ rằng khách khứa chọn món cá biển thì phải trả thêm tiền so với những đĩa cơm chọn những món thịt. Tôi thầm nghĩ họ là những người ăn cơm bụi... dại khờ. Tôi ăn thịt như để bù đắp quãng đời thiếu niên ứ hự cá. Vị cá bắt đầu xa lạ trong những chiếc gai vị giác của tôi.

Những bữa cơm trong trường đại học, tôi không được quyền chọn món vì nhà ăn đã dọn sẵn thức ăn tinh tươm, chúng tôi chỉ việc bốn đứa sáp lại với nhau chung một mâm mà ăn. Những bữa thịt cá xen kẽ nhưng bữa thịt vẫn nhiều hơn bữa cá. Tôi bắt đầu ngán thịt và đâm ra thèm cá. Cá Sài Gòn hơi nhạt sau những chuyến vận chuyển, ủ ấp dài về không gian lẫn thời gian. Ấy vậy, tôi vẫn không tìm ra khoảng cách giữa vị cá quê nhà và vị cá xa nhà. Những lần về quê ít ỏi, khoảng cách ấy tôi cảm nhận bắt đầu rõ rệt dần.

Tôi trở lại thành phố, ăn những miếng cá nhạt và đầy màu sắc ướp đá đến buồn bã. Tôi thèm một miếng cá chính gốc quê nhà như thèm được cô bạn cùng lớp khen... đẹp trai, như thèm một lần được tỏa sáng về điểm số. Nỗi thèm trở thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ trở thành nỗi buồn của một kẻ xa quê đang trong độ tuổi ý thức về cố hương.

Má lên thành phố, mang theo một thùng ăm ắp cá mòi, cá nục. Má lên lỡ cỡ tuần nhưng cuối tuần tôi mới được ra ngoài theo lệ của một ngôi trường quân sự. Má để cá trong ngăn đá của tủ lạnh nhà chị. Tôi bắt chuyến xe buýt cuối tuần đầu tiên lên gặp má. Má nấu một nồi canh chua măng cá mòi, hấp một nồi cá nục để cuốn bánh tráng như những ngày thiếu niên ở nhà. Má vẽ vào chén tôi đầy những miếng cá.

Tôi lật đật gắp bỏ vào miệng như sợ những con cá trong xoong sẽ búng đuôi về với biển. Cảm giác ngọt lự len đều trong lưỡi. Sự béo ngậy chạy rần rật trên vòm miệng. Bỏ tủ lạnh gần nửa tuần nhưng vẫn nguyên vẹn như lúc còn búng nhảy trong lưới của dân xóm Muối. Tôi nhắm mắt hít vào trong lòng như hít vào miền quê. Vị cá quê nhà lần đầu cảm nhận trọn vẹn. Trong lòng tôi cảm động như muốn bật khóc. Khóc như một kẻ xa quê được trùng phùng cố hương sau cả đoạn đời. Ký ức về một thời niên thiếu bỗng xô ào ạt.

Cuối cùng, không một con cá nào còn sót trong xoong. Má nhìn tôi đầy thương cảm...

TM MƯA

Ngày còn nh, mi bn cơn mưa mùa hè hi h trút nước xung là tôi cùng bn tr trong xóm li r nhau ra sân, ra đường tm mưa. Cơn mưa mang theo làn nước lnh làm cho đa nào đa ny đu cm thy mát m, khoan khoái. Chúng tôi chy tung tăng nô đùa t ngõ trong ra ti tn xóm ngoài, nơi cũng có rt nhiu nhng đa tr trong làng cùng đi tm mưa.

Trẻ quê như chúng tôi thường đi bêu nắng suốt ngày nên đứa nào mình cũng đầy rôm, sảy và rất ngứa ngáy. Người lớn thường nói tắm mưa sẽ làm cho rôm, sảy lặn hết vì thế nên cứ đợi mưa xuống là chúng tôi hào hứng lột bỏ hết áo quần để chạy ra dầm mưa cho thoả thích. Mà cũng đúng thật. Tắm dưới trời mưa khoảng hơn nửa tiếng khi vào nhà, tôi thấy trên người rôm, sảy lặn đi đâu hết, chỉ còn lại làn da đen nhẻm nhưng nhẵn bóng. Chẳng thế mà hôm nào tắm mưa xong, nhất là tắm lúc buổi chiều thì tối ấy tôi ngủ rất ngon lành. Vì lẽ đó mà khi thấy trời có mây đen kéo tới là bọn trẻ chúng tôi đều mong mưa xuống thật nhanh, mưa thật to lên để lại được đi tắm mưa, trong khi người lớn thì lo lắng đến mệt mỏi vì phải chạy đôn chạy đáo về nhà thu dọn rơm, thóc lúa đang phơi ở sân, ở ngõ… Không ít hộ dân do không chạy kịp về và vì mưa quá nhanh không thu dọn kịp nên rơm ướt, thóc trôi hết ra ngõ. Nhà tôi cũng có đôi ba lần bị cảnh rơm ướt thóc trôi như vậy khi không có ai ở nhà, trong khi mưa nhanh, mưa bất thình lình, lại rất to, to đến như trút nước. Tôi còn nhớ những lần như vậy, trong khi bố mẹ về lo thu dọn và bốc thóc lúa bị trôi ra cổng để đãi sạn, thì tôi và thằng em học lớp 4 vẫn tung tăng chạy đi tắm mưa. Những lúc như thế này, phải là người lớn mới thấy khổ sở, chứ trẻ con với tâm hồn thơ ngây, hồn nhiên vẫn không nghĩ suy, phó mặc cho người lớn làm gì thì làm, mà mình thì vẫn thoả chí tang bồng với các trò vui tắm mưa đùa nước. Nhiều bận tôi còn gấp thuyền giấy để thả trôi theo dòng nước mưa dâng cao nơi đầu ngõ trước sân nhà với sự thích thú.

Trong những buổi tắm mưa của quãng thời gian ấu thơấy, bọn trẻ chúng tôi có rất nhiều trò vui. Nào là đi bắt cá nào là đi bắt cua ở các con rãnh chảy dọc đường. Do nước dâng đầy nên từ các ao hồ cá cua cứ thế thả cửa chảy ra theo. Nhiều bữa, chỉ cần cái rổ tre to hay mảnh lưới nhỏ là tôi có thể xúc được cả một bữa cá, bữa cua ngon lành ngay tại cái rãnh thông giữa hai cái ao ở bìa làng. Khoái nhất là những dịp, trời đang nắng hạn, lâu ngày mới có trận mưa to và khi mưa xuống, đi tắm mưa chúng tôi có thể bắt được cả vài kg cá rô đồng rạch lên bờ ngược dòng nước chảy. Khi mang cá về bao giờ mẹ cũng làm sạch, bỏ riềng, gừng, nêm thêm chút tương để kho một niêu đất to đùng dành cho cả nhà cải thiện vài ba bữa ăn. Rồi cũng có những buổi, dưới cơn mưa chúng tôi tung tăng chạy lăng xăng đi bắt mối cánh về để rang ăn. Từ những tổ mối dưới đất bỗng gặp mưa và nước ngập, mối bay tứ tung lên không trung và khi gặp mưa ướt cánh, chúng lại xà xuống nước và lúc này chúng tôi chỉ cần lấy tay nhúm lại bỏ vào túi nilon. Mối nhiều đến nỗi, có lần cơn mưa chỉ qua đi trong khoảng 15 phút vậy mà tôi bắt được gần nửa kg mối. Loại mối này mang về vặt sạch cánh mỏng, bỏ chút mỡ, nêm thêm chút nước dưa chua rang giòn lên ăn ngon phải biết. Ngày ấy, chuyện được ăn thịt thường xuyên như bây giờ là không hề có, vì kinh tế nhà ai cũng rất nghèo, nên mỗi khi bắt được cá, mối dưới mưa là bữa ăn của cả nhà coi như được cải thiện…

Kỷ niệm đáng nhớ nhất đối với những buổi tắm mưa của tôi có lẽ là khoảng thời gian làng tôi vào vụ thu hoạch lạc (đậu phộng). Vâng, khi mọi gia đình nhổ lạc xong rồi, khoảng đất ruộng trống không, còn chưa gieo trồng loại cây gì ấy, gặp mưa xuống là những củ lạc còn sót lại do bị đứt khi thu hoạch đã bị hạt mưa làm lộ rõ ra. Chúng tôi chỉ đợi có thế là mang bao tải, mang rổ đi gom lại những củ lạc sót ấy. Không chỉ tận dụng những trận mưa ngày, mà nhiều hôm mưa đêm, tôi cũng rủ thằng em dậy đi tắm mưa nhặt lạc sót ở ngoài ruộng. Những lúc đi đêm như thế này thường là mỗi anh em cầm chiếc đèn pin được bọc nilon cẩn thận cho nước mưa đỡ ngấm vào và có thể làm đèn không thể sáng được nữa. Năm tôi học lớp 8, chỉ một buổi tắm mưa nhặt lạc sót của dịp hè năm ấy mà tôi đã gom được tới hơn 20kg lạc. Số lạc ấy mẹ đã bán lấy tiền mua cho tôi hai bộ quần áo mới để mặc tới trường vào năm học mới. Tôi là người sống khá hoài niệm nên tôi rất nhớ và nhớ rất lâu những gì đã trở thành kỷ niệm, những gì đã trở thành ký ức đi qua cuộc đời…

Thời gian thấm thoát vậy mà đã hơn chục năm rồi tôi xa quãng thời gian tuổi thơ với đầy rẫy những kỷ niệm tắm mưa của những ngày hè oi ả. Trong cuốn "nhật ký” tuổi thơ của cuộc đời tôi có hàng trăm, hàng ngàn kỷ niệm buồn, vui lẫn lộn, song với những buổi tắm mưa bắt cá, bắt mối, chơi trò thả thuyền giấy và nhặt lạc sót… luôn gợi lại một khoảng sáng đặc biệt mỗi khi tôi mường tượng nhớ về miền quê yêu dấu của mình…

ẨM THỰC VIỆT NAM THỜI BAO CẤP.

Có thể nói, thời bao cấp chỉ còn sống trong ký ức của những người sinh trước thập niên 70 và chẳng còn chút dấu ấn nào với những ai sinh ra từ năm 1986 trở lại đây. Không có sự hiểu biết rõ ràng về một thời gian khó của cha anh thì sẽ không thể hiểu thấu đáo giá trị của công cuộc đổi mới hôm nay.

Một mâm cơm thời bao cấp với bánh bo bo, cơm độn khoai lang, trạch trấu om trám của quán Ngoại ô ở Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội... có thể sẽ phần nào tái hiện lại một góc của cái gọi là "thời bao cấp" ấy.

Những món ăn có thể là một hoài niệm đối với những ai đã từng sống ở thời bao cấp và cũng có thể là một sự sẻ chia, giúp những thế hệ trẻ hiểu hơn về ngày hôm qua để cảm nhận được hết giá trị của ngày hôm nay.

Lắng lại trong cái se lạnh cuối thu, giữa không gian gợi nhớ những miền ngoại ô đầy kỷ niệm, thật ý nghĩa khi cùng bạn bè thưởng thức lại những món ăn của một thời gian khó, một thuở hàn vi.

Nguyên lý chế biến thức ăn thời bao cấp là tận dụng mọi thực phẩm dân dã có được, thêm những gia vị quanh vườn nhà, qua bàn tay tài tình và yêu thương của mẹ, của chị trở thành những món ăn đầy sáng tạo như cá thầu dầu nấu dưa, bì trâu xào rau muống, hoa chuối nấu trai, dưa xào tóp mỡ… Đến “Ngoại ô” để hoài niệm với những món ăn thời bao cấp cũng là một cách để hiểu thêm những ngày xưa gian khó mà thấy rằng hạnh phúc phải bắt đầu từ ngay hôm nay.

Đó là món nộm hoa chuối để khai vị theo phong cách phối trộn chua, cay, mặn, ngọt đủ cả ngũ hành của người phương Đông. Rồi những con ốc bươu gợi nhớ thuở thiếu thời sơ tán ai đã lặn lội ruộng sâu cho mấy đứa em có bữa chiều cải thiện. Nay thì dưới bàn tay khéo léo và cách chế biến cầu kỳ của đầu bếp, băm nhuyễn với gia vị, rán cho dậy mùi, rồi lại cuộn trong giấy bạc rán lại một lần nữa - chúng đã trở thành món chả ốc độc đáo, ngon miệng.

Chạch trấu om trám thì đích thị là một sáng tạo đầy tinh tế của các bà nội trợ Việt Nam. Cái chua, chát của quả trám với vị béo, bùi của cá chạch trấu hòa quyện, ngấm vào nhau làm thành món đưa cơm bậc nhất.

Đại diện cho thời bao cấp với tem phiếu, gạo mậu dịch là các món cơm độn: cơm độn khoai, độn sắn, độn mì sợi. Trong lúc đợi cơm độn khoai lang chín, có thể tranh thủ chiên vài chiếc bánh bo bo ăn cho vui miệng.

Bo bo nguyên là những hạt cao lương, lúa mạch. Xưa dân mình thường chỉ luộc lên, hoặc bung như ngô để rồi trệu trạo ăn độn cho no bụng. Nay thì thêm bột mì thơm, đường, trứng, sữa tươi rồi chiên vàng lên là đã thành một món thú vị. Khi rán xong bo bo cũng là lúc Chè khoai mỡ tráng miệng cũng đã xong. Cuối cùng, mâm cơm được dọn ra thật đẹp mắt trong một không gian tre trúc bài trí tự nhiên và ấn tượng, với nhạc dân gian, áo tứ thân.

Nếu bạn là người hoài cổ, muốn cùng gia đình hay bạn bè ôn lại kỷ niệm xưa thì không gian Ngoại ô có lẽ là nơi hữu cảnh” để “sinh tình”.

Tạp văn: Tiếng chim côi 

Cập nhật ngày: 11/07/2011 15:15:01

Mùa mưa trở lại. Nước từ khắp các đồng ruộng dâng cao ngập xăm xắp cả mé bờ, lũ chim chóc không biết trốn chui trốn nhủi ở đâu trong những ngày nắng hạn dần xuất hiện. Nửa đêm nằm trong mùng nghe tiếng chim chích, cúm núm kêu, tôi không tày nào ngủ được. 

Tiếng kêu như gợi nhớ gợi thương về miền quá khứ xa xăm, ám ảnh cả thời tuổi thơ tôi. Ký ức ấy ăm ắp hình ảnh những chiếc bẫy chim của cha tôi đầy nào là cúm núm, trích cồ, quốc, cả loài cò trắng, cò đen, dơi quạ... 

Quê nội tôi ở miệt Vĩnh Thuận, Kiên Giang (thuộc U Minh Thượng). Rừng U Minh xưa là nơi trú ngụ lý tưởng cho các loại chim cò. Ông nội tôi đến khai phá, học cách gác chim, bẫy các loại thú để cải thiện bữa ăn cho gia đình. Dần dà các bác tôi, cha tôi, chú tôi ra đời trên mảnh đất ấy. Lúa trồng xuống có khi còn không sống nổi dưới lớp phèn chua mặn, nên mọi người lấy nghề bẫy chim làm kế sinh nhai. 

Năm cha tôi mười lăm tuổi, trong những lần đi bẫy chim, nhìn lũ chim cò bay nháo nhác bởi từng loạt bom rơi đạn nổ của Mỹ - ngụy trút xuống tán rừng U Minh, lòng ông chợt dâng lên một niềm u uất nào đó. Rồi ông thôi không vô rừng gác chim mà trốn nhà đi bộ đội. Hòa bình, một phần thân thể gửi lại chiến trường, ông kết duyên cùng mẹ tôi và chọn Cà Mau làm quê hương thứ hai. Chỉ với vài ba công đất ruộng mỗi năm cấy được một lần không đủ sống, ông tiếp tục tìm về nghề cũ.

Cha tôi sắm một giàn lưới dài chừng ba chục thước, cao gần ba mét, chọn một cái bờ cao ngay giữa ruộng, dùng thân tre để làm sào giăng lưới, ở khoảng giữa có làm thêm một cái róc-két được nối bằng một sợi dây.

Ông lấy lá dừa nước quấn làm kèn, thổi giống hệt như tiếng cúm núm, chim trích kêu. Cứ thế ông ngồi ở giữa tay cầm kèn thổi, giả làm chim kêu, sợi dây móc vào ngón chân cái, đợi chim vừa bay vào lưới thì chỉ cần nhích ngón chân buông sợi dây cho lưới thun lại, lũ chim khó mà thoát được. Nhưng chỉ ở một chỗ thì sẽ không thu hoạch được nhiều. 

Cứ vài ba hôm ông lại dời địa điểm, gom tất cả dụng cụ xuống chiếc xuồng be chín, cùng với một chiếc nóp, một cái lò, một cái xoong để nấu cơm, một ít củi và bắt đầu chèo đi. Ông đi vài ba ngày, vào mùa thì hơn nửa tháng mới về.

Cha tôi bảo ông đi đến những nơi có lau sậy um tùm và càng hoang vu càng tốt, vì đó là nơi các loài chim đang trú ngụ. Ông neo xuồng lại và lên bờ nấu cơm ăn. Khi mặt trời còn đứng giữa đầu người ông đã phải bắt đầu mọi thao tác cho cuộc trình diễn vào lúc đêm tối. Công việc thổi chim cứ làm y như cũ, đến khi mòn mỏi thì chui vào nóp mà ngủ. 

Có hôm thấy chỗ nằm hơi chật chội, ông lấy dao ra chặt bớt đám sậy lấy chỗ ngủ, dưới ánh trăng nhờ nhờ chợt hiện ra những gò đất lổm chổm. Ông thấy hơi lạnh người, rồi kịp trấn tĩnh lại, ông lôi trong giỏ xách ra một chai rượu, bắt một con cúm núm nướng làm mồi. Và ông nhâm nhi với những nấm mồ vô danh ấy. Ông biết đâu, đó có khi là đồng đội của mình.

Khi tôi ra đời, cuộc sống cũng ổn định hơn, cha tôi thay những chiếc kèn lá bằng cuộn băng casset, bắt cúm núm con về nuôi để làm chim mồi. Tuổi thơ tôi qua đi ngọt lịm hương vị cháo khuya mẹ tôi nấu với thịt chim mà cha thổi được. Năm tôi mười hai mười ba tuổi, những chuyến đi bẫy chim của cha không còn nữa. 

Lượng chim ngày một thưa dần bởi không còn những bờ cỏ lau sậy, thuốc trừ sâu, máy móc tân tiến, hai ba vụ lúa một năm đã đẩy lùi dần vùng đất sống của lũ chim. Cha tôi hay ngồi trước hiên nhà đốt thuốc trầm ngâm. Ông ngồi đó lặng lẽ trong đêm, để lắng nghe những tiếng chim càng ngày càng trở nên đơn độc. Một ngày nọ, sau một đêm thức trắng suy tư, ông tuyên bố từ nay sẽ giải nghệ trước sự ngạc nhiên của mọi người.

Nhưng cha tôi vẫn không hết buồn, ông vẫn quấn thuốc ngồi trước hiên nhà mỗi đêm, tiếng chim vẫn vang lên lúc xa lúc gần, những tiếng chim quen thuộc dường như khắc khoải hơn. Lòng ông đau quặn lên khi bất chợt nghe được tiếng chim non lạc mẹ kêu thảm thiết. Ông luôn có cảm giác mình đang mang một món nợ không thể nào trả nổi, nợ những tiếng kêu đơn côi trong đêm. Ông đem lũ chim trong lồng ra thả hết, chúng vẫy cánh bay chấp chới lên bầu trời cao rộng mà bấy lâu nay chúng chưa được tận hưởng.  

Cha tôi giờ không còn nữa, ông đã vĩnh viễn nằm lại trên quê hương thứ hai của mình. Mộ ông hướng ra bốn bề ruộng lúa. Ở nơi đó, ông sẽ lại được nghe tiếng chim kêu mỗi đêm. Hiểu được lòng cha, tôi thấy mình cũng mang nợ, giờ đây tôi chẳng khác gì một cánh chim lạc lõng, càng thấy thương hơn những tiếng chim côi ngơ ngác giữa trời./.

Ngon bùi món sung kho mỡ

 -

Thuở ấu thơ, gia đình tôi sống ở một vùng quê nghèo miền Trung du, vì vậy cuộc sống và sinh hoạt của gia đình tôi cũng như đại đa số các gia đình khác đều lắt lay với bữa đói, bữa no. Ngay cả cơm trắng, cũng chỉ vào độ mùa gặt chúng tôi mới được ăn no thỏa thích, còn những tháng ngày khác trong suốt cả năm dài thường là một hạt cơm phải “cõng” thêm vài ba hạt ngô, củ khoai… Vì cơm cũng không đủ no nên thức ăn dùng để ăn kèm thường là chẳng có gì đáng kể. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ rau luộc, rau nấu canh suông, bỏ chút mì chính, muối chứ cũng chẳng mấy khi có mỡ lợn để nấu cùng. Mẹ tôi thường ngả hũ tương, làm vại dưa, vại cà để cả nhà dùng ăn quanh năm. Nếu khi nào cả nhà được ăn thịt thì ngày đó một là ngày giỗ nội, giỗ ngoại hoặc ngày khách khứa đặc biệt nào trong năm là cùng. Các bữa ăn được cải thiện chất đạm là con tôm, con cua, con tép… thì thường là hôm đó mẹ tôi, hay chị tôi tranh thủ buổi trưa ra đồng tát vét, hoặc mò dưới mương mới có.

Đói khổ là vậy, được ăn rất nhiều món ăn rất đỗi bình dị của quê hương nhưng tôi không nhớ hết đặc trưng của từng món, cũng như cách chế biến, mà có một món duy nhất tôi không bao giờ quên, đó là món sung quả đập dập kho với tương cùng mỡ lợn. Nhà có cây sung rất lớn bên bờ ao và quanh năm sai trĩu chịt quả nên món sung kho đã đi suốt những năm tháng tuổi thơ tôi, cũng như cùng gia đình của những giai đoạn khốn khó.

Thường là quả sung xanh, hay sung muối dưa chua người ta có thể kho cá, kho thịt đều ngon, thế nhưng trong lúc đời sống còn muôn vàn thiếu thốn thì để có chút mỡ lợn kho cùng vài bát quả sung xanh đã là quá mĩ mãn rồi. Mỗi tháng, nhà tôi thường làm hơn chục bữa sung kho mỡ. Cứ hôm nào mẹ làm món sung kho là cả nhà lại ăn cơm rất ngon miệng và ai nấy đều ăn no nê hơn. Món sung kho đơn giản về cung cách chế biến nên hầu như ai ai cũng có thể làm được. mẹ tôi là người chế biến món ăn này bao giờ cũng ngon hơn hết thảy mọi người trong gia đình. Nhiều lần mẹ dạy tôi, chỉ bảo tận tình, từng công đoạn một nhưng làm sao mà hôm thì tôi nấu mặn, hôm lại kho nhạt thếch… khiến mẹ vẫn phải thường “chữa cháy” để cả nhà khỏi chê!

Sung hái trên cây xuống rửa sạch để ráo nước rồi mang đập dập trên thớt. Khi đập dùng dao bản rộng đập và chỉ đập cho các quả sung dập tách ra làm ba, bốn phần là đạt. Sung đập xong bỏ vào nồi nêm tương, rắc chút mì chính, rưới vài thìa mỡ lợn, đổ xâm xấp nước rồi bắc lên bếp đun sôi. Khi nồi sung sôi thì cho lửa nhỏ liu riu tới khi nào cạn sền sệt, sung nhừ là được. nếu ai muốn ăn cay có thể cho thêm cả ớt, chút tiêu bột rắc đều vào sẽ cảm thấy món sung thơm ngon hơn.

Đây là món ăn chủ đạo của nhà tôi, và vì nhà có cây sung to nên hàng xóm cũng thi thoảng sang xin về kho ăn. Mấy bận khách ở dưới xuôi lên, mẹ tôi kho đãi khách và mọi người ăn lần đầu cứ tấm tắc khen ngon mãi…

Sung, cà, tương, dưa… cùng biết bao sự vất vả nghèo khó vậy mà anh chị em chúng tôi, cũng như bao thế hệ trẻ của làng cũng lớn khôn lên và học hành tử tế. Ngày nay, khi mà cuộc sống dần một đủ đầy về vật chất thì món sung kho mỡ đã không còn hiện diện thường nhật trong các bữa ăn hàng ngày của gia đình tôi cũng như bao gia đình khác. Thế nhưng những thế hệ lớp người của một thời nghèo khó của ngày hôm qua vẫn hoài niệm, vẫn thi thoảng ôn nghèo kể khổ để lớp người trẻ của ngày hôm nay thấu hiểu phần nào sự vất vả để biết vượt qua mỗi khi gặp gian khó…

Nhớ cái thời ổ rơm nghèo khó

 -

Thời nay, đời sống kinh tế của đa phần các gia đình đều đã được cải thiện nên vào những ngày đông rét mướt, ai cũng có giày, dép, áo quần, chăn ấm để chống chọi với cái lạnh đầy khắc nghiệt, buốt giá đến tê tái như kim châm vào da thịt. Ngay cả với những ai nghèo nhất cũng có thể mua được mấy bộ đồ cũ nhưng vẫn còn tươm tất. Nhưng mỗi khi chợt nghĩ về thời thơ ấu của mình, của biết bao người nghèo khó thời bấy giờ, tôi lại rùng mình và tự hỏi, không biết ngày ấy con người ta có nghị lực phi thường thế nào để có thể vượt qua mọi khó khăn, rét mướt một cách ngoạn mục như vậy khi mà chỉ với những manh áo quần mỏng manh, chiếc ổ rơm bình dị(?!)...

Cũng như bao gia đình làm nông nơi thôn quê, nhà tôi cũng luôn phải chịu cảnh túng đói mỗi độ giáp hạt. Cái nghèo, cái đói không chỉ đeo đẳng qua từng bữa ăn với ngô khoai, tương cà, rau, mắm…, mà nó còn hiển hiện trên áo quần của tất cả các thành viên trong gia đình tôi với hình ảnh là các mảnh vá chằng vá đụp. Bố mẹ, ông bà tôi thì hầu như chẳng có một chiếc áo quần nào gọi là lành lặn. Mấy anh chị em chúng tôi do phải cắp sách tới trường nên còn được gọi là tươm tất hơn đôi chút khi được bố mẹ may cho mỗi người một bộ gọi là không có một miếng vá nào. Bộ quần áo lành lặn này anh chị em tôi chỉ mặc vào những ngày thứ hai đầu tuần có tiết chào cờ, những khi có tiết dự giờ của giáo viên, hoặc khi nào lớp đi tham quan đâu đó…, còn những ngày bình thường vẫn phải “diện” quần áo vá. Một năm có bốn mùa, với ba mùa khác còn đỡ, chứ bước vào thời khắc mùa đông thì không chỉ người lớn mà trẻ con trong làng đều sợ. Thời tiết khắc nghiệt của mùa đông miền Bắc ai cũng biết rồi, lạnh đến thấu xương, áo quần chống rét lại mỏng manh, chẳng mấy ai có giày để đi mà toàn đi dép hoặc chân trần. Tiền không có thì lấy đâu ra để mua chăn, mua đệm. Mà cái thời đó đã làm gì có đệm, nhà nào khấm khá cũng chỉ có cái chăn vải dù màu xanh của bộ đội, hoặc là chiếc chăn dạ loại mỏng. Nhiều nhà phải dùng chiếu để đắp khi ngủ. Có nhiều đêm, gió mùa đông bắc về, trời trở lạnh dưới 10oC, lại thêm sương muối nên rét tê tái. Khi đi ngủ tôi thường phải mặc thêm mấy chiếc áo rách, chiếc áo len bằng sợi vải tuốt ra từ đầu vỏ bao xi măng mà mẹ tận dụng đan cho. Để chống lại cái lạnh, mẹ tôi thường chằm, bện những lọn rơm khô để rải dưới giường sau đó trải chiếu lên nằm cho đỡ dặm người. Ổ rơm thường được trải dày độ 15-20 cm, vì thế nằm khá êm và ấm. Nhà nào cũng đều bện ổ rơm để nằm như thế vào mùa đông. Rơm dùng để trải ổ là loại rơm thật khô, được tuốt hết các mùn nhỏ cho đỡ bẩn. Nhiều nhà cẩn thận còn mang rơm đi giặt, rửa thật sạch, phơi khô sau đó mới bện ổ để nằm. Qua mỗi một mùa đông, ổ rơm lại được thay đi để cho muỗi, rĩn, màn mạt, kiến… không trú ngụ được, và cứ chuẩn bị vào vụ rét khác là công việc bện ổ rơm lại được mọi gia đình tiến hành. Mẹ tôi thường chọn loại rơm nếp, loại nếp cái hoa vàng thu hoạch vào dịp tháng 11 hàng năm để bện ổ. Thế nên đêm nằm vẫn nghe thoang thoảng mùi thơm nồng của lúa nếp tỏa ra từ những cọng rơm.

Suốt từ lúc mới sinh ra cho đến khi rời nhà lên thành phố học tôi vẫn đều nằm ổ rơm mỗi khi ngày đông tháng giá tới. Cả một thời nằm ổ rơm ấy là cả một giai đoạn nghèo túng của gia đình tôi, của mặt bằng chung xã hội nơi tôi sinh sống thời bấy giờ. Giờ đây, làng quê tôi đã đổi mới rất nhiều, người dân đều đã xây nhà tầng, kinh tế khá giả với cuộc sống đủ đầy tiện nghi và trẻ em được xúng xính trong những bộ áo quần mới với đủ kiểu cách thời trang để đến trường. Không ai sợ mùa đông nữa, bởi họ đã có đủ tiền để mua chăn ấm, đệm êm, thậm chí là quạt sưởi, lò sưởi. Nhưng thoáng chút tôi lại thấy hiện về hình ảnh, kỷ niệm những tháng ngày tuổi thơ của tôi, của biết bao những lớp người đi trước đã từng phải trải qua mùa đông với những ổ rơm sực nức mùi hương quê.

Một thời ngóng Tết thần tiên

 -

Quãng đời tuổi thơ tôi luôn đầy ắp những kỷ niệm và hương vị Tết của một miền ngoại thành mến yêu, mà ở đó sự nghèo nàn, vất vả, lam lũ và những cái Tết… nghèo tới mức đạm bạc vẫn còn đọng lại trong tiềm thức. Và những kỷ niệm về những cái Tết nghèo ấy sao mà đẹp, mà thơ đến vậy! 

Sinh ra trong một gia đình nghèo nên bố mẹ tôi dẫu bươn chải quanh năm vẫn không đủ lo cho gia đình một cái Tết tươm tất. Nhà đông con nên việc chi tiêu cho anh chị em tôi ăn học đã là một gánh nặng. Tết đến, trong nhà chỉ có bánh chưng, vài cân thịt lợn ăn đụng bên nhà hàng xóm, mấy đĩa chè kho mẹ nấu lấy cho đỡ tốn tiền. Ngay cả mâm ngũ quả và gói mứt Tết đơn xơ để cúng ông bà tiên tổ cũng luôn không… to bằng nhà hàng xóm khiến tâm hồn con trẻ như tôi chạnh lòng với con bé nhà bên. Có lần thấy Tết nhà tôi “bé tí”, con bé chê: “Tết nhà mày bé quá còn lâu mới bằng nhà tao! Nhà tao có nhiều bánh chưng này, có nhiều mứt, bánh kẹo này! Rồi cả bao nhiêu là bóng bay nữa…”. Đem chuyện con bé hàng xóm chê Tết nhà mình, tôi mách mẹ thì mẹ cười và an ủi: “Nhà mình nghèo nên Tết thế này là cũng to rồi con ạ! Nay mai bố mẹ giàu sẽ làm Tết to hơn nhà bạn ấy…”.

Thế nhưng, dẫu Tết nghèo, Tết “bé tí” là vậy mà niềm háo hức chờ, ngóng Tết trong tôi chẳng khi nào vơi đi. Có năm, mới chỉ là đầu tháng Chạp, khi làng tôi bước vào mùa cấy hái mẹ đã động viên: “Con ạ, cố làm lụng đi, Tết này mẹ cho đi chợ sắm Tết và mẹ sẽ mua cho một bộ quần áo mới!” Thấy mẹ hứa vậy tôi mừng quýnh lên và càng mong ngóng cho Tết tới thật nhanh. Những ngày sau đấy, bất cứ công việc nào mẹ giao phó tôi đều làm rất nhiệt tình và chẳng bao giờ dám trái lời vì sợ mẹ “phạt” không cho đi chợ Tết, không mua cho quần áo mới… Tết đó rồi cũng tới và mẹ giữ đúng lời hứa! Tôi được mẹ mua cho cái quần kaki màu đen và cái áo kẻ ca rô phin nõn! Tôi còn nhớ như in, năm đó mẹ còn phát vốn cho 5 hào để đi chơi Tết cùng bạn bè… Nhưng nhiều năm do bố mẹ túng quá nên chị em chúng tôi toàn phải diện Tết bằng các bộ quần áo cũ sờn. Dẫu vậy, Tết nào cũng vậy, tôi đều ngóng Tết tới thật nhanh và cầu cho nó lâu qua đi bởi trong mấy ngày Tết đó, trẻ con như chúng tôi được cưng chiều hơn, được ăn ngon hơn ngày thường, được nghỉ học và đi chơi…

Với tôi, không khí Tết đến với làng quê sớm hơn thành phố dẫu có nhiều gia đình tới tận chiều 30 Tết vẫn phải ra đồng làm việc. Nhà nào cũng gói bánh chưng, mà cứ có mùi vị bánh chưng là có Tết. Nhà tôi thường gói bánh vào ngày 27 hoặc 28 để kịp có bánh cúng Tất niên. Mẹ thường gói bánh tày (loại bánh dài) và mấy cặp bánh vuông để cúng. Tôi và thằng em út rất thích bánh chưng nhỏ nên bao giờ cũng ngồi bên chầu trực bảo mẹ bớt lại chút gạo, đỗ để gói cho hai chị em mỗi đứa một cặp bánh nhỏ bằng bàn tay. Khi bánh chín, chưa kịp để nguội hai đứa tôi đã bóc ăn một cách ngon lành…

Dẫu Tết đến là nỗi vất vả, bao lo toan của người lớn, song với bất cứ ai thì, quãng đời tuổi thơ ngóng Tết thần tiên với sự háo hức, niềm vui khôn tả luôn là kỷ niệm đẹp đọng lại trong tiềm thức của mỗi người mỗi khi Tết sắp tới, xuân sắp về… 

Cuối Chạp Tết xưa

class=imglogo v:shapes="_x0000_i1028"> -

Bắt đầu rục rịch từ 20 tháng chạp, nhưng mãi đến ngày 26, 27 không khí Tết mới thực sự trở nên nao nức ở mỗi gia đình nơi làng xóm thôn quê.

Buổi sáng, mẹ đi chợ từ lúc tinh mơ, nhanh chóng về còn ra đồng cấy lúa. Mẹ mua về măng khô và những bó dong xanh. Măng khô cho vào nồi đổ nước vo gạo ngâm. Mẹ bảo măng khô ngâm nước gạo chóng mềm và ngon. Bố xắn cao tay áo, kéo lên từng gầu nước giếng thơi đổ vào cho đầy, ngập những tập lá dong.

Sáng sớm 29 Tết, hai anh em tôi ngồi lật từng tấm lá dong, dùng khăn lau rửa nhẹ nhàng. Bố bảo lá dong rửa không thật sạch, bánh chưng sẽ chóng thiu. Tiếp theo chúng tôi giúp bố đánh rửa xoong nồi trắng bóng như mới. Vui đấy nhưng mệt ơi là mệt. Những ngón tay ngâm nước nhăn nheo, lạnh đơ.

Năm nào cũng thế, xóm tôi có lệ luộc bánh chưng, vài ba nhà một nồi. Bởi lẽ không phải nhà nào cũng có điều kiện gói nhiều. Vả nữa, cả xóm chỉ có vài cái nồi to. Cái nhất hạng là nồi quân dụng 100 lít của nhà bác Thân, trước làm cấp dưỡng ở nhà máy. Về mất sức, bác được mua chiếc nồi thanh lý, một quai đã gẫy. Nhà tôi luộc bánh chưng chung với nhà chú Hậu và ông Đồng. Bố tôi khéo tay, chẳng cần khuôn mà gói bánh chưng cứ vuông vức, đều chằn chặn. Anh em tôi lại nhanh nhảu để bố sai vặt, nên nhà tôi được tín nhiệm gói luộc nồi bánh chưng cho cả ba nhà, từ A đến Z. Cái nồi nhà ông Đồng ước chừng vừa độ 40 chiếc, nhưng chưa năm nào luộc tới số ấy, vì vợ chồng chú Hậu muộn con nên chỉ góp 5 chiếc. Bánh chưng buộc kỹ, vớt ra nén chặt mới ngon.

Chiều 29 Tết, hai anh em tôi theo bố cuốc bộ đi chợ huyện. Chợ cách nhà dăm cây số nhưng ba bố con đi vèo một cái đã đến nơi. Bởi trong thâm tâm ai cũng náo nức. Dạo ấy tôi chưa hề được nhìn thấy bích đào, nghe đâu ở mãi trên chợ thị xã mới có, mà chỉ gia đình có máu mặt mới mua được. Anh trai tôi thỉnh thoảng viêm họng nên được bố ưng thuận cho mua cây quất, để hết Tết mẹ ngâm quả, chắt nước uống dần. Tôi mê mải bên chậu cúc đại đóa bông to bằng miệng bát ăn cơm, cánh hoa loăn xoăn rực màu vàng của nắng. Bố thì tẩn mẩn trước lều của cụ đồ nho hói trán viết câu đối, xuýt xoa chờ đợi từng nét chữ mực tàu đen nhánh ướt trên trang giấy đỏ thắm.

Ngày 30 Tết bao giờ cũng là ngày bận rộn và vui nhất. Trong nhà, ngoài sân được quét dọn sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế được lau chùi sạch sẽ. Bố trịnh trọng xếp hai chồng bánh chưng thơm hương thoang thoảng. Hai chiếc bánh chưng nho nhỏ xinh xinh được đánh dấu bằng lạt đỏ, mẹ để dành riêng cho anh em tôi, để trong hòm thóc đậy nắp kín trong buồng, đề phòng chuột đục khoét. Góc sân đằng kia, chú Hậu giúp bố nhóm lò, cái lò đất mới đắp hôm trước để đặt nồi nước đun sôi làm lông lợn. Cũng mấy nhà, chung nhau mổ một con lợn to đã được vỗ béo từ mấy tháng trước. Cái quạt điện con cóc cũ kỹ thổi bếp chạy sòng sọc, củi gốc tre khô bén lửa, kêu lách tách. Bác Bốn, bác hàng xóm miệng ăn trầu môi đỏ tươi, sang hỏi mượn mẹ tôi cối chày giã đỗ. Hai bà chụm đầu nói bí quyết nấu chè kho, sao cho ngọt đậm và thơm lâu. Từ ngoài cổng, thím Hậu đi vào, nói: Các bác có biết chiều nay gà xuống giá, có đi mua không kẻo mùng 3 đắt lên, lấy đâu làm lễ hóa vàng? Mẹ và thím Hậu te tẩy đi chợ.

Năm nào cũng thế, trừ vại dưa cà nén từ nửa tháng trước, còn thực phẩm mẹ mua cầm chừng. Ăn Tết còn nghĩ đến ra giêng. Vụ lúa vừa rồi được mùa, xem chừng mẹ xởi lởi hơn mọi năm, nhưng chi tiêu vẫn không vung tay quá trán. Trong nhà, bố đang bày biện bàn thờ. Mâm ngũ quả lấp ló màu xanh của quả chuối, màu vàng của bưởi, quất và đỏ của ớt tươi.

Anh em tôi vừa tắm xong, lần tắm cuối cùng của năm cũ, đầu tóc thơm hương nước lá mùi. Tôi mang quần áo mới ra sân phơi trong gió khô hanh, để sớm mai diện Tết. Bố bảo năm nay không đứa nào được tuổi xông nhà, lúc Giao thừa và sáng sớm mùng 1, chớ sang nhà hàng xóm…

Cây mồi rơm và trò đốt đồng ấu thơ

 -

Ngày còn ấu thơ sống ở làng quê, sau thời gian nửa buổi cắp sách tới trường là bọn nhỏ trong xóm chúng tôi lại làm bạn với những con bò, con trâu ở ngoài đồng, triền đê. Công việc chăn trâu, thả bỏ đã gắn bó với bất cứ đứa trẻ quê nào, bởi nhà ai mà chẳng nuôi trâu, nuôi bò dùng để cày ruộng và kéo xe. Với các mùa khác trong năm thì công việc chăn trâu, thả bò rất nhàm chán, thậm chí còn “ngấy” nữa là đằng khác, nhất là dịp mùa hè mà phải dầm mình ngoài đồng với cái nắng như thiêu như đốt khiến cho đứa nào đứa nấy đều đen nhẻm. Thế nhưng, khi bước vào mùa đông với mưa phùn, gió bấc, rét thấu da thịt thì bọn trẻ chúng tôi lại rất thích thú khi phải ra đồng chăn thả trâu bò. Mặc dù khi đó nhà ai cũng rất nghèo, đứa nào cũng quần áo phong phanh, vậy mà vẫn thích trốn việc nhà để lùa trâu bò ra đồng. Cái thú, niềm vui của những buổi chăn thả trâu bò ở thời khắc mùa đông đó là bọn nhỏ chúng tôi có cây mồi rơm giữ lửa làm bạn. Cây mồi rơm bện lại từ những đọn rơm khô đã giữ lửa để chúng tôi mang theo ra đồng đốt sưởi.

Trước khi lùa trâu bò ra đồng vào buổi chiều là tôi vẫn thường được “phân công” bện một chiếc mồi rơm to bằng bắp chân và dài chừng nửa mét. Các đụn rơm được bện tròn nối tiếp nhau kéo dài, ở ngoài cuộn thêm một lượt rơm ve theo kiểu dây thừng cho cây mồi càng chặt tay bao nhiêu càng tốt. Sở dĩ phải bện thật chặt tay để cho lửa cháy chậm, cây mồi mới lâu hết. Nếu bện chặt, với chiều dài khoảng nửa mét cây mồi có thể giữ lửa trong khoảng 4-5 tiếng đồng hồ. Ngày đó, khi mà diêm và bật lửa gas chưa thật thông dụng như thời nay thì việc giữ lửa mang đi ra đồng chỉ có cách duy nhất là dùng cây mồi rơm. 

Khi ra tới đồng, sau khi để cho trâu bò tung tăng gặm cỏ trên các bờ vùng, bờ thửa, bọn chúng tôi thường phân công nhau đi kiếm gốc rạ khô được đập từ các tảng đất cày ải khô xác mang về tập trung một chỗ rồi lấy lửa từ cây mồi rơm để đốt sưởi. Ngoài gốc rạ, cả cỏ khô, thậm chí cả các loại lá khô rụng xuống từ rặng bạch đàn, xà cừ, phi lao cũng luôn được chúng tôi tận dụng để đốt sưởi. Nhiều hôm, muốn đống lửa được cháy lâu hơn, vài đứa cùng hội trẻ chăn trâu còn kiểm củi gỗ, gốc tre ở trong làng mang đi dành đốt kèm.

Điều thú vị của những buổi chăn trâu, bò vào mùa đông không chỉ là được sưởi ấm bằng lửa từ cây mồi rơm, mà trẻ nhỏ chúng tôi còn thường xuyên be bờ, tát vét dưới mương nước để bắt cá, bắt cua để nướng ăn. Sự mộc mạc từ các con cá, con tép, tôm, con cua, và thậm chí cả con ốc vừa được bắt lên từ bùn còn tươi rói ấy và chỉ qua một cách chế biến duy nhất là… nướng cũng đủ hấp dẫn với mùi thơm lừng. Khi thì chúng tôi dùng que xiên cá để nướng, lúc thì lại dùng bùn bao quanh con cá và nướng cho tới khi lớp đất bùn khô cứng, cháy đen thì cũng là lúc cá ở bên trong chín tới. Nướng cá kiểu này ngon tuyệt vì độ ngọt của cá được giữ lại còn như nguyên vẹn. Rồi nữa, có những lúc chúng tôi còn nhặt được trứng vịt đẻ rơi của những người nuôi vịt đẻ chạy đồng. Hôm nào mà “vớ” được mấy quả trứng như thế thì cả hội lại được bữa ngon vì trứng nướng ăn nóng hổi ngon “tuyệt cú mèo”, mà ngày nay người ta coi nó là đặc sản.

Ở quê, khi vào mùa đông, nhất là dịp tháng Chạp áp Tết, khoai lang, khoai tây, ngô còn chưa thu hoạch thì những buổi đi chăn trâu bò ngoài trò nướng cá, tôm, cua… thì các sản vật nhà nông là ngô, khoai ấy cũng luôn khiến chúng tôi ấm lòng. Ngày ấy chuyện trẻ nhỏ ăn trộm bắp ngô, củ khoai như vậy để nướng ngoài đồng cũng là thường tình, nghịch ngợm(?!). Khoai nướng, ngô nướng ăn ngay tức thì sau khi rời đống lửa, ngon và ngọt lắm. Có những hôm mỗi đứa làm vài củ khoai, mấy bắp ngô nướng là no căng bụng và tối về đứa nào cũng “chê” cơm.

… Mới đây, vậy mà đã thấm thoát gần 10 năm có lẻ, tôi xa cánh đồng quê hương, xa cây mồi rơm và trò đốt đồng tuổi thơ với bao trò tiêu khiển vu buồn, khó quên. Tết lại sắp về và lúc này đây, dẫu không còn cái cảm giác ngóng tết thật nhanh để được nghỉ học, được đi chơi, được ăn ngon, mặc đẹp… như thời trẻ con ấy nữa, nhưng thi thoảng trong tôi vẫn mong Tết để được trở về với mẹ, với cánh đồng tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm của một thời ấu thơ…

Mít hông của má

 -

Lâu lắm rồi tôi mới có dịp về thăm nhà. Nằm đung đưa trên võng, nhìn lên tán mít xanh rì tự dưng cái cảm giác yêu thương ngày bé cứ ùa về khiến lòng tôi xốn xang. Vườn mít ba trồng ngày trước giờ đã sai quả rất nhiều, quả nào cũng lủng lẳng như tổ ong, mắt gai nở to trông thỏa mắt. 

Từ nhỏ gia đình tôi đã chuyển lên vùng núi định cư, mọi thứ đã có nhiều thay đổi theo thời gian. Mà đúng rồi, tôi hơn hai mươi còn gì, nhưng với tôi có một thứ vẫn mãi không bao giờ thay đổi. Đó là món mít hông của má. Món mà mỗi lần đi học xa về má đều làm cho tôi ăn thật no mới thôi. Có lần má biết tôi về nên làm sẵn từ sớm, xuống xe mệt lả vì đường dài nhưng được ngốn ngấu vài miếng mít hông thơm lừng, tôi quên bẵng cái mệt. Nhìn tôi ăn ngon lành mà má ngậm ngùi. Cứ nhìn mãi không thôi, cái điệu bộ đói ăn của tôi mới trông đến tội nghiệp, nhưng chẳng hiểu sao mỗi lần nhớ nhà thì cái mùi thơm ấy quyện lại trong lòng tôi cùng hình ảnh của má cứ rõ mồn một, vỗ vào lòng buồn se sắt. Có lúc nhớ má quá, tôi phóng xe một mình đi tìm quán bán mít hông, nhìn những múi mít vàng ươm bóng nhẵn vì dầu mà nước mắt cứ trào ra, mít hông của má không có dừa tươi, không có đậu phộng nhưng múi nào cũng dày, thơm phức và ngon hơn rất nhiều. Cái mùi thơm của nén lẫn với tiêu, gia vị được má đảo đều thấm tháp vào từng sớ mít, thêm cái bùi bùi của hột mít xay nhuyễn thì lại càng thích hơn. 

Má nói khi chọn mít để nấu đừng chín quá sẽ không ngon, chỉ vừa chừng hườm hườm ngọt là tốt nhất, có lúc vừa làm má vừa chỉ tôi cách để canh cho múi mít vừa mềm tới, vì lâu quá sẽ bị nhũn đi. Tôi chăm chú theo dõi ghi nhớ từng công đoạn má dặn, nhưng má để tôi tự làm thì lại mất ngon, bởi chẳng bao giờ tôi nêm chính xác gia vị cả. Chứ không như má, lúc nào cũng vừa vặn. Thấy tôi buồn buồn, má mắng yêu: 

- Con gái lớn phải để ý học nấu nướng để bữa sau còn hầu nhà chồng chứ. 

- Con ở với má suốt đời không lấy chồng đâu.

Tôi đáp lại má, nghe vậy má cười lắc đầu, như thể con gái má còn trẻ con lắm. 

Nhớ có lần tôi dẫn đứa bạn học cùng về, nó được thưởng thức món mít hông của má, cứ tấm tắc khen mãi thôi. Nó còn khoe với mấy nhỏ bạn, làm cả bọn cứ ức rộ lên. 

Nhìn má với bàn tay thô ráp vì làm việc cật lực, lại thêm bệnh khớp kinh niên làm các khớp xương căng mọng lên đỏ ửng, vậy mà má đưa tay gắp từng múi mít bỏ thêm vào chén cho tôi, ánh mắt đầy ắp niềm hạnh phúc. Tôi chợt nhận ra rằng chỉ có tình yêu thương của má mới dạt dào và bao la đến vậy. Mít hông dân dã như cuộc đời của má nhưng đượm ngọt tình thương và ngào ngạt hơi ấm.

Bánh xèo ơi!

class=imglogo v:shapes="_x0000_i1031"> -

Quê mình đã chìm sâu vào những đợt lạnh cứ nối tiếp nhau về. Cuối chiều, xuống phố, thoang thoảng mùi bánh xèo tỏa ra từ các quán ăn san sát ven đường. Chợt thấy lòng buồn hơn là thèm, thấy nhớ một cái gì đó hơn là muốn dừng chân, ghé vào, nhâm nhi vài cái “bánh xèo công nghiệp”. Tự hỏi mình tại sao. Hình như, rất lâu rồi chưa được ăn bánh xèo mẹ đúc....

Ngày nhà mình còn non 2 sào ruộng trồng lúa, mỗi mùa gặt lại là những niềm vui mới của anh chị em con. Trong những niềm vui ấy, sướng nhất là được ăn bánh xèo mẹ đúc. Khi rơm đã lên cây, lúa đã vào thùng hết, bao gạo đầu mùa đem về, mẹ thường đúc bánh xèo, bánh bèo cho chúng con ăn. Hầu như mùa lúa nào cũng vậy. Hôm ấy, mẹ dậy thật sớm, đem gạo đi xay bột, về để đó rồi mới đi làm các công việc khác, đi chợ mua các gia vị kèm theo cần thiết. Gần trưa, mẹ mới bắt đầu bắc chảo lên và đúc bánh xèo.

Từ sáng, khi xô bột mẹ xách về còn nằm nơi góc bếp, chúng con đã cảm giác như mùi bánh xèo ngậy lên đầu mũi, đã cảm giác hơi nóng của những cái bánh xèo đầu tiên chạm vào lòng bàn tay mình. Rồi khi mẹ đổ vá bột đầu tiên vào chảo, con là đứa chạy xuống bếp đầu tiên. Và thằng con trai của mẹ lúc nào cũng được ưu tiên cho cái bánh xèo đúc ra trước nhất, dù sau này có thêm em nhỏ đi nữa. Sợ bánh nóng bỏng tay con, mẹ lại bỏ luôn bánh vào dĩa cho thằng con trai cưng. Con vênh mặt lên cùng chị, cùng em dù cái bánh xèo tiếp theo mẹ cho chị, cho em con cũng chỉ sau con vài phút. Việc đầu tiên là con lấy trước lát thịt và con tôm khá to trong bánh ra ăn trước như sợ ai tranh mất, sau đó mới cuốn bánh, kẹp rau, chấm vào chén nước mắm mẹ vừa làm sẵn. Mẹ nhìn con, mỉm cười, lau những giọt mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán. Rồi cứ thế, chị em con ăn đến chừng nào no căng bụng thì thôi.

Ba đi làm về, đã có sẵn một dĩa đầy bánh xèo mẹ để trong lồng bàn. Riêng mẹ, vẫn miệt mài bên chảo bánh. Cả nhà ăn đủ rồi, còn phải đúc để biếu ông bà, cậu dì, chú bác và bà con hàng xóm xung quanh nữa. Có khi đến hơn 1 giờ chiều mẹ mới đúc xong, ngồi lại ăn qua loa vài cái bánh xèo rồi lại phải đem đi biếu mọi người. Thành ra, mỗi lần đúc bánh xèo, mẹ là người vào bếp đầu tiên và cũng là người cuối cùng ra khỏi bếp. Nhưng khi nghe chúng con nói bánh xèo ăn ngon, khi nhìn khuôn mặt vui vẻ của ba, mẹ lại mỉm cuời ngay...

Giờ, ruộng nhà mình làm càng ngày càng thất bát. Còn non 1 sào làm lúa, đất thì ngày càng xấu, chuột chim thì cứ phá dần nên đến cuối mùa cũng còn không mấy hạt gạo. Gặt xong về, riêng gạo không đủ cả nhà ăn được nửa tháng. Mẹ cũng không đúc bánh xèo như ngày trước nữa. Lúc nào chúng con thèm, mẹ ra chợ mua về cho cả nhà ăn luôn. Nhưng những cái bánh xèo ấy sao mà nhàn nhạt, không có chút gì háo hức và vui như ngày xưa nữa. Dần dần, con cũng không thấy thèm ăn bánh xèo nữa...

Nhiều lúc, con muốn theo nỗi nhớ mang tên bánh xèo, tìm về với những mùa gặt no đủ như ngày xưa, mà không thể được. Những cái bánh xèo mẹ đúc giờ cũng đã là dĩ vãng của gần 1/3 đời người. Con thèm lắm cái không khí chờ đợi, thập thò nơi cửa bếp của chị em con, thèm thấy ba mẹ vui vẻ nhìn nhau sau bữa bánh xèo, sau một vụ lúa như ý. Nhưng hình như tất cả cũng đã là hoài niệm. Chỉ biết buồn, nhớ và tiếc. Những niềm hạnh phúc bình dị mà thiêng liêng của con bên ba mẹ, chị em cứ bị thời gian lấy dần đi... Càng trưởng thành, con lại càng muốn mình nhỏ lại. Bánh xèo ơi!

Lại một mùa mít chín

class=imglogo v:shapes="_x0000_i1032"> -

Tuổi thơ tôi đi liền với cỏ cây, hoa lá cùng những khoảng vườn. Trong ấy đáng nhớ là vào những mùa mít chín.

Dưới chân ngọn núi Chóp Chài, làng Liên Trì, trong xóm Hóc cạnh doi đá Cổ Rùa có vườn mít do cụ cố ngày xưa trồng. Năm tháng qua đi, chiến tranh tàn phá, thời tiết thay đổi, chỉ duy nhất còn lại cây mít trước sân nhà nội Sáu đã trở thành cổ thụ. Mùa hoa vào cữ tháng Giêng, đài hoa rụng trắng để vào tháng Tư sang hè hương mít chín đã tỏa lan khắp vườn. Mỗi lần về, cả bọn nhóc đều tót lên các chạng cây để nô đùa vì thân cây đến cả ba vòng tay ôm trọn. Mỗi lần được bà nội Sáu đem sào tre ra chọc tìm trái chín là buổi ấy cả bọn sướng tê người vì được ăn trái chín. Quả mít bổ ra, dày cơm vàng, tứa mật thơm lựng, và ngay trên thềm sân cả bọn chen nhau xuýt xoa thọc tay vào moi từng múi mít mặc mũi dãi lòng thòng, lấm lem đất cát.

Bình đã lớn, đi học xa rồi có vợ con trong phố. Ân đi làm xa rồi lập nghiệp nơi vùng đất khác, Lộc cũng đi chỉ còn Hậu, Lực ở lại với mảnh vườn quê, doi đất vồng. Cả những đứa con gái cũng theo chồng về xứ khác. Đó là những đứa em trong một gia tộc.Thời gian vẫn trôi, khoảng nhớ ít khi dừng lại mà hoài niệm, mà nhớ những khi hè về cả bọn rủ nhau tề tựu dưới gốc cây mít già để bày các trò chơi. Tôi từng theo cả bọn lên rẫy để tìm những trái thị chín, len lỏi qua từng bụi dây gai để tìm những chùm dủ dẻ vàng, chùm chim chim đỏ mọng hay tha thẩn với Bình lên đất vồng vào mùa sắn nước, nhổ từng củ trắng ngần vục rửa nơi con suối nhỏ sau nhà mà nhai giòn rụm, mà ngắm mây trời trôi lang thang trên đỉnh núi Chóp Chài. Cũng như giờ đây, trên mảnh đất vồng ngày cũ đã có những hàng mít trưởng thành khi mọi người lấy hột từ cây mít già năm xưa ươm giống, nó không như chúng tôi, khi trưởng thành đã vội quay lưng đi về miền khác.

Cây mít già thì vẫn còn đó dù thân sần sùi, bọng to bọng nhỏ, dù cành nhánh có mục đi gãy rời. Nó vẫn tỏa bóng mát qua bao tháng năm cùng những cơn bão đổ về hóc núi. Vào mỗi một tháng Tư, mùa mít chín, trong phố thị xa quê tôi vẫn nhận được lời nhắn của nội Sáu là hãy về. Đôi khi, lại nhận được món quà từ trong chiếc giỏ tre lót cành lá chuối là một góc mít vàng ươm, tươm mật của đứa em đạp xe chở vào. Nhưng cuối tháng Tư năm nay, vào sáng đầu tuần, mẹ gọi điện thoại bảo nội Sáu đã mãi mãi không còn. Tôi day dứt vì nghe tin bà yếu nhưng bận việc, lại đi công tác xa không về bên bà. Khi về, cây mít lão đầu sân đang kết trái trĩu cành và những vành khăn tang cũng đang kết trên đầu những đứa em một thời đu bám trên cành nhánh để nô đùa, chen vai nhau khi bà mang sào tre ra chọc trái chín.

Bà đã về nằm lại đất vồng như ông tôi, chú tôi, anh tôi dưới hàng mít mùa này trĩu quả cùng mây trắng trôi bồng bềnh trên đỉnh Chóp Chài lộng gió, nơi bà sinh ra, ở lại và ra đi mãi mãi. Hay mảnh đất mà ông tôi, chú tôi, anh tôi một thời dấu yêu cho dù có nhiều đạn bom, bão lũ vẫn ước nguyện trở về. Tôi sẽ không bao giờ được thấy bà vào mỗi một ngày đầu năm, ngồi trước hiên nhà dưới tàn cây mít lão mà chờ tôi cùng vợ con trở về đi dọc theo luống hoa vạn thọ để đến bên bà, cũng sẽ không bao giờ được nhìn thấy ánh mắt chứa nhiều u uẩn nhớ một đứa con xa nơi miền đất Bắc chưa lần nào về đúng tháng Tư độ mùa mít chín. Và giờ, tôi vĩnh viễn mất đi mỗi một tháng Tư có một người bà cùng hương mít chín. Cho dù tôi có đi đâu về đâu, có ăn bao nhiêu quả mít vào mùa ở vùng khác hay cả ngồi bên gốc cây mít già sần sùi bọng to, bọng nhỏ kia vẫn không thể tìm lại hương thơm ngày cũ, cho dù cây mít già sẽ còn và cả những hàng mít non đang trưởng thành ngày một đơm hoa, kết trái.

Tôi ngồi nơi góc phố nhỏ vào sáng tinh sương bên ly cà phê đen thong thả rơi từng giọt, từng giọt như đếm nhịp thời gian đi qua.Trong không gian k hóa ng đạt ấy, một người đàn ông chở cả sọt mít trên chiếc xe đạp để vào chợ sớm và tôi chợt nhớ về mùa này, nơi vùng đất cũ dưới chân núi Chóp Chài lại một mùa mít chín của tháng Tư. Bây giờ tuổi thơ đã qua đi, hình ảnh cũ vẫn còn nhưng thời gian và người thân trong ấy có bà nội Sáu thì như áng mây trôi qua đỉnh núi. Sẽ không còn ai ngóng đợi tôi về để nhắc lại bao chuyện cũ một thời. 

VQG Pù Mát nằm ở Tây Nam Nghệ An với diện tích 91.000 Km2, đây là vùng rừng với sinh cảnh chủ yếu là rừng ẩm nhiệt đới núi thấp với các loại cây gỗ và dây leo phát triển mạnh. Đây cũng là vùng có đa dạng sinh học lớn nhất tại khu vực Bắc Trường Sơn.Từ xưa đến nay vốn đã lưu truyền "rừng thiêng nước độc", cũng đã nghe những câu chuyện rợn người về những chuyến tìm trầm, săn thú và xen lẫn những câu chuyện săn người.Tò mò là cái điều đáng ghét nhất với 1 phượt thủ, những câu chuyện về núi rừng hoang vu đã nghe chán, nhìn cũng nhiều nhưng chưa thấy tận mắt bao giờ.Một tuần nóng bức càng làm cho ham muốn trỗi dậy, rục rịch làm thủ tục xin phép với những câu khuyên bảo "Mày điên à mà đi rừng"... Ừ thì 10 thằng phượt thì '8 thằng chập, 1 thằng điên và nửa thằng bị vợ' đuổi nên nói thế chẳng sao cả, và rồi thủ tục cũng xong.Rủ rê lôi kéo được 4 lão phượt, kiếm 1 lão thợ săn mà nghe nói đã đi rừng từ khi 8 tuổi dẫn đường.Chuyến đi dự kiến 6 ngày nên mọi công tác chuẩn bị rất chi tiết, mỗi balo mang gần 8kg, khá nặng với những gã này.Chúng tôi tiến vào rừng sâu... 

Ấn tượng đầu tiên là bẫy, bẫy và bẫy, những hàng bẫy cắt ngang cắt dọc những ngọn đồi, bám theo những con đường mòn nhỏ và che kín những bờ suối, những chiếc bẫy gần nhất chỉ cách con đường nhựa chừng 2m.Những gã trai Hà Nội tò mò, muốn thử cái cảm giác bị săn đuổi như thế nào, chỉ tiếc là gã còn phải đi 6 ngày nữa nếu không cũng bỏ chân thử cái cảm giác bị bẫy để... trải nghiệm.

Chúng tôi đến cái đích đầu tiên là ngọn Thác Kèm. Thác Kèm là tên gọi của dòng thác cao trên 100m, ngọn thác chính là nơi hợp lưu của 2 dòng suối, 1 dòng nhỏ xuất phát từ đỉnh cao nhất, chảy khoảng 20m thì nó gặp dòng thứ 2 hợp vào và cả 2 dòng suối đều đổ nước xuống 1 cái địa danh chung là Thác Kèm.Do địa thế hiểm trở nên chúng tôi chỉ đến được đỉnh cao nhất của thác mà không đến cái ngọn suối thứ 2.        

Xuất phát từ 8h sáng, đến 12h chúng tôi đến điểm nghỉ đầu tiên, giữ sức cho chuyến đi vượt đỉnh Bù Lở với địa danh "Dốc Cháy 1200" vào ngày mai.Với sự giúp đỡ của bác thợ săn, khu trại được dựng lên sau 30 phút, chúng tôi nhanh chóng nhóm lửa nhằm đáp ứng cái nhu cầu của dạ dày, thực sự là rất đói sau chuyến đi mệt mỏi. 

Ấn tượng đầu tiên là một chút cảm nhận về rừng ẩm nhiệt đới, chúng tôi đi sau thời gian nắng to hơn 10 ngày và đất rừng vẫn trơn như đổ mỡ, các tầng thực vật dày đặc đã chắn hết ánh sáng chiếu xuống mặt đất, ít nhất nắng trên 10 ngày mới mong đường có thể khô.Đấy là lý do làm cho chuyến đi này không như ý muốn.

Những cây gỗ ướt nhẹp là lý do chính để thử thách trình độ nhóm lửa của đoàn. Mất hơn 1 tiếng để nhóm cái bếp lửa, thực sự vất vả để có cái ăn. Nhưng rồi cái gì cũng thế, mãi rồi nó cũng xong, bữa ăn trưa với cá khô và thịt hộp, được cải thiện thêm bằng những món rau dọc đường. Những món rau, cây cỏ ăn được trong rừng rất nhiều, tại mâm cơm, với 1 cái nhoài người thì chúng tôi đã có những lá Chân Chim, lá Mì Chính để bổ sung vào bữa ăn thêm phần thịnh soạn.  

Xong bữa cơm trưa thì chúng tôi phải lo bữa tiếp theo , với phương châm là lấy thức ăn rừng là chính, 3 lão trai lại lao xuống suối kiếm cá cho bữa ăn chiều. Do có Thác Kèm chắn ngang nên tại thượng nguồn Khe Kèm không có các loài cá lớn, hầu hết là các loài cá nhỏ cỡ ngón tay.

  Bên cạnh rau rừng, cá suối thì một món quan trọng khác cũng không thể không nói đến, chỉ tiếc là nó không mời mà đến và trở thành nỗi ám ảnh của những kẻ chỉ quen ngồi văn phòng với điều hòa mát lạnh. Đó là vắt rừng.  Rồi điều không mong nhất cũng đến.Chỉ tiếc là mưa rừng nó không lãng mạn như bài hát, chỉ biết là nó ầm ầm và dai dẳng cả ngày cả đêm, xối ầm ầm qua các kẽ lá và rơi cả đêm trên những tấm tăng. Mưa đến ngay khi chúng tôi chuẩn bị đèn cho chuyến săn ếch và săn cá ban đêm. Mưa thì điều tốt nhất là ngồi 1 chỗ, ngay các bác thợ săn khi gặp mưa cũng phải "nín".Trong đêm mưa, nằm nghe những câu chuyện phiếm, hầu hết là những tự bạch của gã thợ săn, về những ký ức vui lẫn buồn. Những câu chuyện kể về những ngôi mộ chứa chục xác người nằm mãi ở rừng, những cái đầu lâu lăn lóc bên bờ suối, những chiếc võng mục dần làm rơi ra những mảnh xương, những phát súng không rõ từ đâu nhưng cũng đủ hạ 1 gã và làm những gã khác chạy toán loạn.Nhưng rồi sau những mất mát thì họ lại vào rừng vì kế sinh nhai.Nói thêm một chút về những điều nguy hiểm nhất nơi này. Những nguy hiểm nhất với thợ săn và những người đi cội (tìm trầm) chính là con người, những người được gọi cái tên chung là "phỉ", chúng là những nhóm chuyên cướp hàng của những người đi rừng.

Hầu hết những người đi rừng đều có súng, AK hoặc CKC, nhẹ nhất cũng khẩu thể thao. Những vụ bắn giết trong rừng mãi luôn là những câu chuyện của rừng hoặc là những ký ức kinh hoàng của những người may mắn sống sót trở về, gã thợ săn dẫn đường cũng bị bắn 2 lần và 2 lần gã đều may mắn.

Mưa cũng chính là nguyên nhân làm cho chuyến đi lỡ hẹn, khi mưa lớn thì tuyến đường trơn như đổ mỡ. Những con dốc cao lại trơn như đổ mỡ là chướng ngại không thể vượt qua, ngay cả với những gã đi rừng lâu năm nhất. Họ đã vậy thì chúng tôi sao tránh khỏi, trời đã mưa lớn thì ít nhất 1 tuần nữa đường mới có thể đi, thời gian không cho phép nên lựa chọn duy nhất là quay về.Hạ hết những thứ cồng kềnh, bỏ sang túi của người dẫn đường hầu hết những cái nặng, chúng tôi đành quay về và để lại lời hẹn vào mùa khô,một lời hứa với những đỉnh núi cao, những con dốc thẳng đứng và những con vắt đang chờ đợi.Chúng tôi phải quay về sau 2 ngày 1 đêm trong rừng già Pù Mát.   

Ký ức thời sơ tán

Nếu nói đến trại sơ tán báo Nhân Dân, thì có thể nói trại viên đầu tiên là tôi, Huỳnh Dũng Nhi, lúc đó 12 tuổi, học lớp 6. Trên chuyến xe đầu tiên của báo Nhân Dân chở những vật dụng ban đầu của trại về địa điểm sơ tán có khoảng bốn, năm người đi tiền trạm, trong đó có cô Bình Định, chú Ninh… Tôi được ba mẹ cho đi theo để trông coi số đồ đạc của gia đình. Tên làng, xã, huyện tôi không nhớ rõ lắm, còn tỉnh thì chắc chắn là Hà Tây. Ở gần đó là trường cấp II Tân Phương (tôi nhớ vì liên hệ tới tên chú Tân Phương, bố của Hạnh (Phúc), Hoàn và Bé). Còn có bệnh xá Vân Đình (tôi nhớ vì chỉ mấy tháng sau, tôi có dịp ghé thăm). Khu đất của nhà ông chủ (tôi không nhớ tên), nơi trại đóng quân, khá rộng, nhiều cây cối. Nhà có nhiều chó, khá dữ. Ông chủ có ba người vợ. 

Không nhớ là bao lâu sau, năm, mười ngày hay nửa tháng gì đó, tốp trại viên đầu tiên nhập trại. Bắt đầu những ngày sơ tán đầy thú vị. Không biết các bạn khác thì sao, chứ đối với tôi, những ngày sơ tán đem lại biết bao điều mới mẻ, bổ ích mà ở Hà thành, ít đứa con nít nào có được. Tôi học cùng Trần Dũng, còn ai nữa hay không thì không nhớ. Thật ra thì thời gian tôi ở trại lúc này không dài, ở những trại sau thì nhớ tên các bạn nhiều hơn. Chúng tôi, cả 4 anh em đều ở trại cả: tôi, Dũng Nhân, Ngọc Thụy và Hoa Lê. Mẹ tôi, cô Lê Thị Lý, còn gọi là Hoa Lý, thời gian này cũng là một trong những “cô nuôi dạy trẻ” của trại. Đoạn cuối trong danh sách trại viên có đoạn nhắc tới các cô, trong đó không có tên mẹ tôi, chắc tại quên, vì thời gian mẹ ở trại cũng không lâu. 

Ở trại sơ tán thật là tuyệt. Đi học về là có cơm ăn ngay, không phải đụng tay vào việc bếp núc, khác với khi còn ở Hà Nội, cỡ tuổi như tôi, Nhân…đều phải lo nấu cơm, luộc rau để ba mẹ đi làm về là có cơm ăn liền. Ở trại, sáng đi học, chiều học bài, xong thì đi chơi. Không thiếu gì thứ để chơi. Đi bơi ư? Không cần đến Tăng Bạt Hổ mua vé, cứ việc ra sông Đáy, không biết bơi thì cũng là tắm sông. Đi dạo chơi? Cứ theo đường làng, rồi ra xóm dọc bờ sông. Trên đường ấy có nhà nuôi khá nhiều chó, dữ như cọp. Nhà có cổng bằng lưới thép, luôn đóng chặt, nhưng hễ thấy có người đi ngang qua là cả đàn chó xồ ra, chồm lên, sủa chát chúa. Một đứa trong bọn tôi, không biết nghe ai dạy, bảo chúng tôi: cứ ngồi thụp xuống là chúng nó sợ, tưởng mình lượm đá ném. Chúng tôi làm theo. Quả là như vậy thật. Thú vị, bọn tôi thử đi, thử lại nhiều lần. Trên đường đi lại có nhà trồng nhiều cây roi. Bọn tôi, không đứa nào không biết quả roi, nhưng hoa roi thì lần đầu tiên mới biết. Không rõ các bạn khác thì sao, chứ quả thật là có đi sơ tán, lần đầu tiên tôi biết được đâu là cái cày, đâu là cái bừa, cũng là hột thóc mà ra nhưng lúc nào thì gọi là mạ, lúc nào thì gọi là lúa… 

Bọn trẻ trong làng nhanh chóng làm quen với chúng tôi, đám trẻ thị thành mà chúng nó gọi một cách hài hước là “dân sơ mít”. Bọn chúng hò reo, chạy theo từng đàn mỗi khi thấy ô tô của báo Nhân Dân về. Đầu tiên, bọn chúng không tin là nhóc con như chúng tôi mà biết đi xe đạp, phải chờ đến lúc mượn xe của các bậc phụ huynh về thăm con biểu diễn cho chúng nó xem, chúng nó mới phục lác mắt. Ngược lại, chúng tôi lắc đầu thán phục và ước làm được như chúng nó: leo lên lưng bò, cưỡi bò, đứng trên lưng bò, điều khiển bò đi nhanh, đi chậm, quẹo trái, quẹo phải, với những mệnh lệnh nghe rất lạ tai như: “vắt- diệt- họ”… Còn khi trong bọn tôi có mấy đứa có học tiếng Nga bập bẹ: sờ-tô ê-tơ, ê-tơ đôm… thì đúng là mấy ông tây con hiện hình trước mắt đám trẻ làng chưa hề có khái niệm gì về ngoại ngữ. 

Kỷ niệm khó quên của tôi trong những ngày sơ tán đầu tiên là bị gãy chân. Hôm đó là chủ nhật, ở Hà Nội có ô tô về trại. Một chiếc Din hai hay ba cầu gì đó. Các chú thanh niên làm việc của các chú, hình như đào hầm thì phải, chiều sẽ trở về Hà Nội. Tôi và các bạn sang một nhà hàng xóm chơi, được chiêu đãi món khoai lang trần (trần nước sôi chứ không luộc). Tôi, tay cầm miệng nhai nhưng vẫn chơi trò vật nhau với một đứa bạn (quên tên rồi, trước đây có nhớ tên bố của bạn ấy, bây giờ cũng quên luôn). Té ngã, không hiểu bằng cách nào mà bạn ấy đè lên chân làm tôi gãy chân. Nói chung là rất đau. Đưa về Tổng hành dinh của trại, nằm đó, không sơ cấp cứu gì cả, chờ đến chiều theo xe ra bệnh xá Vân Đình. Chỗ chân gãy bỏng rát, bàn chân lật ngang (đố ai có thể làm cho bàn chân nằm ngang trên chiếu như tôi lúc đó được). Mai (Ngô Phương Mai – con bác Quỹ và cô Nghệ) ngồi quạt chân cho tôi. Lúc đó tôi rất biết ơn Mai, nhưng chưa có thói quen nói lời cám ơn. (Bây giờ, khi viết những dòng này, xin gửi lời cám ơn muộn màng đến Mai nhé. Ông già 58 tuổi bây giờ cám ơn thay cho cậu bé 12 tuổi lúc đó)

Khoảng 5 giờ chiều, mẹ gói cho tôi một bộ quần áo và 1 đồng trong chiếc khăn tay rồi đưa tôi lên xe. Phải ngồi ở ca-bin, mà leo lên, mặc dù có sự giúp đỡ của người lớn đối với tôi là một cực hình. Chiều chủ nhật, bệnh xá Vân Đình vắng hoe, chỉ có một cô y tá trực. Cô nẹp cố định cho tôi bằng hai thanh tre mới vót, cho ăn cơm với bắp cải xào, bảo tôi chờ đến tối có xe đưa đi bệnh viện Hà Đông cùng 2 bệnh nhân nữa. Xe đưa chúng tôi đi là một chiếc com-măng-ca đít vuông, tôi được ưu tiên chiếm một băng ghế dài trên xe. Một trong hai bệnh nhân cùng đi bị giun chui vào túi mật, rên rỉ, kêu la suốt dọc đường. Đến bệnh viện, cô y tá “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”, đi đâu mất. Tôi được vào một phòng bệnh rộng, có hàng chục giường, không phải giường nào cũng có người nằm. Chắc hồi đó dân chưa đông, người bệnh ít hơn bây giờ. Giường khá cao, rất may tôi chỉ phải leo xuống có một lần, tự thân vận động. Cái khổ lúc này không còn là vết gãy chân, mà chính là đầu hai cái que tre cọ xát vào mắt cá . Sáng hôm sau, bác sĩ cho đi chụp X-Quang. Chụp cẳng chân bằng máy chụp phổi, nghĩa là phải đứng một chân trên một cái ghế đẩu, hễ té thì gãy cổ chứ đừng nói gì đến gãy chân. Bác sĩ kết luận: vết gãy có đầu xương nằm gần mạch máu, phải chuyển về bệnh viện Việt Đức điều trị. Thế là được về Hà Nội. Cũng một xe Com-măng-ca, một chú lái xe và một cô y tá. Đến bệnh viện, xong việc, có lẽ cô y tá và anh lái xe tranh thủ đi dạo Hồ Gươm nên biến mất luôn. Bác sĩ ở phòng cấp cứu soi chân tôi bằng chiếc máy soi giống như một cái bảng có cắm điện, tôi nhìn thấy rõ khúc xương gãy màu trắng trên nền xanh của tấm bảng. “Gãy cả 2 xương cẳng chân, 1/3 dưới xương chày, 1/3 trên xương mác”. Thế là nhờ đi sơ tán, bị gãy chân, nhờ bác sĩ ở bệnh viện Việt-Đức mà tôi biết được cẳng chân có 2 xương: xương chày và xương mác - hóa ra trong lúc nào, ở hoàn cảnh nào cũng học được một cái gì đó. Rồi tôi được đưa lên phòng bó bột. Lúc nằm chờ, có một anh đang bị nắn xương, kêu la thảm thiết. Tôi hỏi bác sĩ: “chân cháu có phải nắn không?”. “Có chứ. Không nắn cho thẳng thì làm sao mà bó được.” Tôi hồi hộp, lo sợ, chờ đợi. Đến lúc bó bột, ông bác sĩ khác bảo: “Xương thẳng thế này đâu cần phải nắn”. Thế là bó luôn. Tôi mừng quá, và nghĩ “chắc tại lúc nằm dài cho xe Com-măng-ca đít vuông nhồi lắc, xương đã tự sắp xếp lại, chứ trước đó, bàn chân nằm ngang ra kia mà”. Bó bột xong, trở lại phòng cấp cứu. Bây giờ thì về đâu, báo cho ai bây giờ? Ba tôi lúc đó đang học ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. Người đầu tiên tôi nghĩ đến là chú Ngô Lê Dân. Hồi gia đình tôi còn ở 71 Hàng Trống, tôi quý mến nhất chú Dân, người thường chở tôi đi dạo phố trên chiếc xe đạp sườn ngang, hay đưa tôi đi ăn kem ở Bờ Hồ, dạy tôi chèo thuyền trên hồ Hoàn Kiếm. Tôi hỏi mượn điện thoại và gọi về báo Nhân Dân. Số điện thoại của báo Nhân Dân thì tôi thuộc nằm lòng. Một lúc sau chú Dân đến, vẫn bằng chiếc xe sườn ngang đó. Chú gọi xe xích lô, đưa tôi về cơ quan. Chiều, ba tôi về. Tôi được ở một phòng trong dãy nhà phía sau, gần phòng bác Nhuệ lái xe, sau chuyển xuống dãy nhà ở “phố Hàng Cống”, gần bếp ăn tập thể của báo, ở cùng với bác Viên. “Xuống ở đây cho gần hầm hố, nhỡ có báo động…” Các chú, các bác bảo thế. Bố của bạn vật nhau với tôi thường lui tới, mua quà sáng cho tôi. Một đồng mẹ cho vẫn còn, khi chân đã lành, tôi đi bộ ra Bách hóa tổng hợp mua ngay một cái súng lục nhựa màu xanh lá cây. Chân tôi lành khá nhanh. Thời gian bó bột quy định là 1 tháng, nhưng mới 2 tuần tôi đã chống cái ghế đẩu đi khắp cơ quan, tuần sau nữa thì chống gậy. Từ lúc bị gãy chân đến lúc trở lại trại sơ tán là gần 2 tháng. Gần 2 tháng nghỉ học, tôi bị đúp lớp 6. Còn Nhân, cũng thời gian này phải đi mổ tai, đúp lớp 3. 

hời gian trại sơ tán ở Thành Vật, nơi hạ trại đầu tiên, không lâu. Thành Vật, (tôi nhớ mang máng như thế) là xã (hay làng) có bệnh xá Vân Đình và trường cấp II Tân Phương đó. Tôi nhớ rằng, cũng trong năm đó, trại chuyển về xã Tuy Lai, huyện Mỹ Đức, Hà Tây. Tôi nhớ Tuy Lai, vì hồi đó có bài hát chèo “Gái Tuy Lai gửi trai Cồn Cỏ”. Tuy Lai, nơi có hồ nước nhân tạo được tạo ra bằng cách đắp đê bao quanh chân núi, tạo điều kiện để cải tạo đồng chiêm trũng. Một lần, máy bay Mỹ bị bắn bị thương bên Hòa Bình nhào sang, cắt bom cho nhẹ để chạy thoát thân. Xã phát động căm thù “giặc Mỹ phá hồ, hòng gây ngập lụt, phá hoại mùa màng”. Một tốp dân quân được lệnh lên núi, ém quân phục kích ngang thung lũng. Chỉ vài ngày sau, một máy bay AD 6 của hải quân Mỹ bị tốp các nam nữ dân quân này bắn hạ (từ đó mới có bài “Gái Tuy Lai gửi trai Cồn Cỏ”), rớt ngay tại một làng gần trường cấp II mà tôi, Hiếu Dân (Hươu- các bạn khác thì viết là Hiêu, có lẽ là chữ Hiếu không dấu, nhưng tôi thì vẫn nghĩ là Hươu) và các bạn khác học. Máy bay đâm xuống một cái ao sát đường giữa làng, cháy mất cái nhà bếp, chết một con heo (sau đó làm thịt chiêu đãi mừng công dân quân luôn). Phi công người Úc nhảy dù, bị bà già, cô gái và em gái bắt sống. Bà già cầm cái liềm cắt cỏ, cô gái cầm súng trường, em gái cầm sợi chạc (dây) mũi trâu. Bà và cô tôi không biết tên, còn bạn gái ấy tên là Kéo, học lớp 6 cùng trường. (Giá như bạn Kéo, nay là bà Kéo đọc được những dòng này nhỉ). Tại sao tốp dân quân kia với súng trường CKC, tiểu liên AK lại bắn rớt được máy bay Mỹ? Ngoài câu trả lời quen thuộc là lòng yêu nước, căm thù giặc Mỹ, còn phải nói tới sự sáng tạo trong cách đánh. Bên kia rặng núi là Hòa Bình, có nhiều mục tiêu cho địch bắn phá, ắt hẳn có mặt trận phòng không dày đặc. Còn bên này, như xã phát động căm thù, mục tiêu chỉ có thể là cái hồ nước rộng lớn. Máy bay địch bị bắn rát bên Hòa Bình nhào theo khe núi sang bên này tránh đạn, phải bay thấp vì sợ tên lửa. Vậy là tốp dân quân cứ việc cơm nắm muối vừng ngồi chờ trên lưng chừng núi, nó luồn sang thì cứ đưa súng ngang ra mà bắn, chẳng cần đón trước “một thân, hai thân, ba thân” gì cả. Đúng là kiểu “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Tôi biết điều này là do các chú, các bác dạy cho. Một bài học cực kỳ dễ hiểu, dễ nhớ.Ở Tuy Lai có núi Chày, một quả núi mồ côi nằm giữa đồng, gần sát dãy núi ngăn cách với Hòa Bình. Sau ngày máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Tuy Lai, ngày nào bọn trẻ sơ tán chúng tôi cũng vào hang núi Chày sơ tán. Sơ tán của sơ tán. Sáng tinh mơ đi, chập choạng tối mới về. Đường vào hang phải băng qua một cánh đồng, trên đường đi có một rãnh nước cắt ngang, là một trở ngại lớn, nhất là đối với bọn con gái. Không phải vì nước sâu, mà vì nhiều đỉa. Cứ đặt chân xuống là hàng chục con lúc nhúc lao tới. Cố đi thật nhanh, cẩn thận đến cỡ nào thì chí ít cũng bị một con bám vào. Nhưng sợ vẫn phải lội. Bị đỉa bám thì đã có cách trị. Không có vôi thì cứ nhổ nước bọt ra tay mà “vuốt lấy xác nó”. Đó cũng là một bài học của thời sơ tán, như bài ngồi sụp xuống khi bị chó tấn công vậy.Hang núi Chày khá rộng, có nhiều ngách. Hơn 10 ngày sơ tán vào hang, bọn con trai chúng tôi thám hiểm mọi ngóc ngách, phát hiện ra vỏ trấu trong một ngách, vỏ đạn ở một khe núi… Thời chiến tranh chống Pháp, hang Chày từng là căn cứ của dân quân, du kích. Mười ngày, nửa tháng sáng đi, tối về, chẳng thấy gì xảy ra cả. Đến một ngày chủ nhật, ngày có các ông bố, bà mẹ từ Hà Nội vào thăm con, gửi xe đạp ngoài làng, vào hang, thấy đất trời im ắng quá, đề nghị cho trại viên rút sớm để các cô, chú còn kịp đạp xe về Hà Nội. Mới lục tục khăn gói ra tới cửa hang thì ầm ầm, ào ào, rét rét, rít rít, đùng đùng…Không gian tóe lửa. Nắng chiều cũng như bị rách toạc ra. Từng đàn máy bay - như đàn chó dữ bên bờ sông Đáy hôm nào - bên Hòa Bình lao sang. Hình như chúng lao qua rồi lao lại, hết tốp này đến tốp khác, trên trời không lúc nào ngớt máy bay. Chúng bay rất thấp. Nhìn chiếc nào chiếc nấy đều to như chiếc thuyền nan cả. Mọi người lại rút vào hang, chỉ có bọn con trai chúng tôi đứng ngấp nghé ở cửa hang, xem máy bay Mỹ.

Sau đó ít lâu, trại lại dời địa điểm. Lúc trại dời đi, không biết tại sao tôi không có mặt tại trại. Nghe các bạn kể lại, trên đường dời trại, còn nghe tiếng bom đạn sau lưng. Thư từ Tuy Lai cho biết, máy bay Mỹ bắn phá điên cuồng, nhiều nhà bị trúng bom… Nhưng cái hồ nước vẫn còn.

Hồi ở Tuy Lai, chúng tôi ở nhà ông Dem. Thực ra, Dem là tên của con ông, ở nông thôn người ta thường gọi cha theo tên con trai cả. Ông Dem hay kêu tôi cho ăn ốc luộc, lễ bằng gai bồ kết. Ông Dem hút thuốc lào bằng điếu bát. Có lần ông hút xong, tôi cầm xe điếu, hút sái, ho sặc sụa. Còn Dem là người có công dạy tôi cưỡi bò và bắt cua. Hồi đó tôi theo Dem đi bắt cua, bắt được bao nhiêu thì phần của ai, người đó bán. Một xâu cua mấy hào, đối với bọn nhóc chúng tôi cũng đã là nhiều. Một lần, Dem móc trong hang cua ra một con rắn. Dù chỉ là con rắn nước, nhưng tôi cũng hoảng hồn, từ đó bỏ nghề mò cua luôn.

Trước nhà Dem có một cái ao, không do ai đào cả, mà là một hố bom thời đánh Pháp. Ao nuôi cá rô phi và thả bèo. Giữa ao là một cây tre dài dùng để ngăn bèo. Cá rô phi rất dễ câu. Chỉ cần buộc vào sợi chỉ một đoạn ruột phanh xe đạp uốn thành lưỡi câu, móc hột cơm vào, thả xuống , chờ và giật lên. Cá lúc nhúc, giật đại cũng có con bị lưỡi câu móc vào mang, vào bụng. Còn ao bèo là một nơi tắm rất thú vị. (Bèo chỉ chiếm nửa ao do có cây tre ngăn lại, còn nửa ao thì tha hồ cho mọi người vẫy vùng, tắm giặt). Các cô ở trại thì cấm, còn bọn tôi lại rất thích tắm ao. Rủ nhau đi tắm ao thì gọi là “ùm bom”, nghĩa là nhảy một cái ùm xuống hố bom. Chính tại cái hố bom-ao bèo này mà tôi đã biết bơi. Không ai dạy, không bài bản, hoàn toàn là tự học. Đầu tiên là úp mặt xuống nước, nín hơi thả nổi. Sau đó là khua chân khua tay như con chó, gọi là bơi chó. Bơi chó thì không cần quan tâm lắm đến cách thở, vì đầu lúc nào cũng ngẩng cao trên mặt nước. Ráng bơi ra được đến cây tre rồi nghỉ một lúc, bơi về. Rồi bơi đến cây tre, không nghỉ, về ngay. Rồi tập bơi ếch. Bơi ếch mà đầu vẫn ngẩng cao. Rồi tập bơi ếch thở có bài bản. Cuối cùng là tập bơi sải. Tay bơi sải mà chân đạp ếch. Vẫn tốt như thường. Cốt là biết bơi, chứ có đi thi thố gì đâu. Chỉ trong một thời gian ngắn, “nghề bơi” của tôi tiến bộ trông thấy. Các bạn cùng trang lứa với tôi, người trước, người sau cũng đều biết bơi cả. Cái ao bèo trở nên chật chội đối với chúng tôi. Và hồ nước không tên dưới chân núi mới là bể bơi lý tưởng. Mặc dù hơi xa và phải đi trong trưa nắng nhưng đối với chúng tôi, điều đó chẳng hề hấn gì.

Hồ rất rộng và dài. Rộng chừng nửa cây số và dài chừng ba cây số. Không biết có đúng không, nhưng tóm lại là mênh mông. Không có chỗ cạn. Chỗ nào cũng sâu gần như nhau. Cứ hình dung như một cái bồn tắm khổng lồ vậy. Qua lại trên hồ chủ yếu là người đi củi. Cứ hễ chìm xuồng là chết đuối, có bám vào mấy bó củi cũng chìm. Người ta bảo dưới hồ có ma cà rồng. Có lần người ta thấy có người ôm bó củi chết chìm dưới đáy hồ. Đó là do ma bắt đấy. Chắc là hù dọa chúng tôi thôi, nhưng chẳng đứa nào sợ. Học trò mà, đứng thứ ba, chỉ thua ma (nếu ma có thật) một bậc.

Chỗ chúng tôi chọn để bơi là một góc sát chân núi. Ở đây có nhiều cây có cành xòa ra mặt nước, có cành cao dùng làm nơi “ùm” xuống rất tuyệt, có cành thấp làm nơi bám víu tạm nghỉ khi chưa muốn leo lên bờ. Nước hồ rất trong. Leo lên cây nhìn xuống thấy rõ từng bụi rong lớn dưới đáy. Chúng tôi bơi lội, lặn ngụp, đùa giỡn thoải mái chừng một tiếng đồng hồ thì về. Quần ướt, tóc ướt, nhưng trưa nắng chang chang, về đến nhà là khô, các cô không thể nào biết được là bọn chúng tôi trốn ngủ trưa đi tắm hồ.Tụy An là địa điểm thứ ba trại sơ tán báo Nhân Dân đóng quân. Đây là nơi có nhiều kỷ niệm nhất, có lẽ vì là nơi hạ trại lâu nhất, và là nơi chúng tôi ít nhiều trưởng thành sau hai năm sơ tán tập sự. Ở đây, nhiều sự việc, nhiều gương mặt bè bạn in nét rõ nhất trong ký ức của tôi. Khó mà có thể tập họp, sắp xếp bằng cách nào đó để kể cho hết được. Thôi thì nhớ đến việc gì, nhớ tới ai thì kể về việc đó, kể về người đó vậy. Trong việc có người, trong người có việc.

Tổng Hành dinh của trại là nhà thờ họ Phùng mà hình như bác Lê là trưởng họ. Khu nhà thờ họ này khá rộng. Ngoài dãy nhà chính là nơi thờ phụng, còn hai dãy nhà phụ, đâu lại thành hình chữ U, ở giữa là sân (hình như có mái che). Các cô phụ trách, các trại viên bé, “phòng hành chính”, bếp ăn của trại ở đây. Bọn con trai chúng tôi ở nhà bác Lê, cách nhà thờ họ khoảng 50 mét, đi qua một bụi nứa rậm rạp và một vườn có xoan, có bưởi. Tôi nhớ bụi nứa vì dưới bụi nứa này, ngoài nhiều trò khác, chúng tôi thường chơi cái trò không biết gọi là gì: một tay chĩa xuống đất, tay kia luồn dưới tay này nắm lấy tai bên ngược lại, rồi xoay tròn, đếm vòng. Không biết kỷ lục được lập ra là bao nhiêu vòng, nhưng đứa nào làm xong khi dừng lại đều không đi thẳng được, mà cứ lệch về một hướng, có khi đâm thẳng vào bụi nứa, có đứa đi được một hai bước là té cái rụi. Còn tôi nhớ có xoan vì đây là nơi Trần Dũng (con cô Bình Định) leo cây, gãy cành, rơi từ độ cao khoảng trên dưới 2 mét xuống đất. Chúng tôi xúm lại, định đỡ Dũng lên thì Khánh Hoài(con chú Khánh Căn) trong nhà chạy ra ngăn lại. Hoài bảo là người ta nói, người bị ngã cây phải cho nằm một lúc cho có hơi đất, không được đỡ dậy ngay. Không nhớ là chúng tôi có làm theo không, nhưng nói chung là Dũng chẳng bị làm sao cả. Tôi nhớ có bưởi là vì tôi, một xạ thủ súng cao su hạng bét, chưa bao giờ bắn trúng một con chim nào cả, hôm đó đi qua vườn, thấy trên cây có duy nhất một trái bưởi (hình như bác Lê để làm giống), bèn giương súng lên bắn một phát trúng cuống, rớt một cái bịch. Hoảng hồn bỏ chạy, bỏ cả chiến lợi phẩm. Nhân nói chuyện súng cao su, nhớ có một lần, Tảo ngồi học bên cửa sổ, loại cửa khi mở chống lên bằng một cái que, tôi đi ngang, giơ súng cao su nhắm cái que bắn một phát. Cánh cửa rơi sập xuống, đè gãy cây bút máy của Tảo. Không nhớ rồi sau đó có phải đền không.

Bọn con gái lớn thì ở một nhà xa hơn, hình như phải đi qua con đường giữa làng thì phải. Bọn con trai chúng tôi ít khi qua bên ấy, và cũng chẳng có lý do gì để mà qua bên ấy, nhất là có một dạo chia phe nam nữ, nghinh với nhau. Chẳng vì lý do gì cả. Báo tường do cánh con trai làm “chủ xị” đăng một bài kiểu xã luận, tựa đề “Vì sa cô”, nói xấu, phê phán bọn con gái. “Vì sa cô” thực ra là hai chữ “vì sao” mà chữ o được thay bằng chữ cô, theo cách xưng hô của người Nghệ An, Hà Tĩnh. Nếu như bây giờ mà viết “Visaco”, dám người ta hiểu là một công ty gì đó lắm. Trở lại chuyện phe phái. Đi chơi thì con gái một tốp, con trai một tốp, đi cùng đường nhưng cách xa nhau không quá xa, mà cũng không khá gần. Tủ sách của trại được giao cho bọn con gái phụ trách, chẳng có đứa con trai nào qua mượn. Một bữa, mấy thằng bàn nhau đột nhập nhà bọn con gái, lấy trộm sách. Cũng diễn tập kỹ càng. Đi theo kiểu bộ đội đặc công mới học lóm được. Tính đến cả cách vô hiệu hóa con chó hiền lành của chủ nhà. Cuộc đột nhập thành công. Bọn con gái la oai oái, thừa biết rằng chỉ có bọn con trai là thủ phạm. Cũng trong cái đoạn phe phái nay, có lần nghe Ngô Phương Hồng (chị của Ngô Phương Mai) kéo Violon, mặc dù nghe rất hay đấy, trong bụng rất phục đấy, nhưng tôi vẫn có ba câu truyền miệng cho các bạn: “Còn như cái Hồng-Đánh Violon-Như là gãi ghẻ”. Xin lỗi Hồng nhé, hồi đó còn con nít mà. Lời xin lỗi muộn màng, cũng như lời cám ơn muộn màng đối với Mai vậy.

Chuyện phe phái chỉ là chuyện nhất thời, còn nhìn chung, con trai con gái trong trại chơi với nhau rất thân mật. Có một dạo, bọn trẻ trong trại thành lập quân đội, phong quân hàm cho nhau. Con gái cũng tham gia, có đứa được phong quân hàm tới cấp thiếu úy, trung úy…Con gái cũng được phân công nhiệm vụ như cứu thương, giao liên, chị nuôi v.v… nhưng thường chẳng có việc gì làm. Bọn con trai thì thường có việc. Đó là đi ném nhau với bọn trẻ địa phương. Chỉ cần “trinh sát” chạy về thông báo là có bọn nào đó thách ném nhau, lập tức lệnh báo động được ban ra, và ào ào, mỗi đứa mỗi cái mũ rơm, kéo nhau lao ra chiến trường. Chiến trường là một khu đất rộng, giống như sân hợp tác hoặc tương tự như vậy, bên cạnh đó có một vùng đất cao, không biết nên gọi là đồi hay là gò. Quân sơ mít thường chiếm căn cứ trên cao này, ném nhau rất hào hứng. Thường là những cuộc ném nhau đều bất phân thắng bại. Quân đối phương khi xong trận, ai về nhà nấy, còn cánh sơ mít thì về trại, ngồi tụ lại, tha hồ khoe thành tích, nào là ném trúng tay thằng này, trúng chân thằng nọ, nào là tránh được một lúc ba cục đất liền... Những thành tích không được kiểm chứng, nhưng là những niềm tự hào không thể dấu được. Không ai nhớ được đã xảy ra bao nhiêu trận ném nhau, nhưng có điều chắc chắn là chẳng ai bị thương cả. Cũng ở cái “sân hợp tác” này, chúng tôi thường chơi trò bắn hoặc ném dơi. Chạng vạng tối, dơi bay ra rất nhiều, bay loạn xạ trên trời. Không bao giờ ném hay bắn trúng nó cả. Nó né rất tài. Đó cũng là một kiểm nghiệm thực tế cho kiến thức “dơi dùng sóng siêu âm để tránh chướng ngại vật” mà chúng tôi được biết qua sách báo.

Ở trại, phong trào văn nghệ cũng xôm lắm. Bọn trẻ, đứa nào cũng biết hát, không biết có hay hay không, nhưng đúng giọng, đúng điệu. Có lẽ đó cũng là một trong những thế mạnh của dân thành phố. Chiều chủ nhật, nhiều đứa trai có, gái có, xúm quanh chiếc radio độc nhất của trại, học hát theo đài. Có lần, cô Tân Nhân (mẹ của Khánh Hoài, Khánh Châu, Khánh Như) về trại, có dạy cho bọn trẻ con chúng tôi một bài hát mới cứng, chưa nghe trên đài lần nào. Đó là bài “Tên lửa sông Đà”: “Đêm nay ta về bên sông Đà, rừng bát ngát nở hoa, suối róc rách reo vui…chiến sĩ…” Tôi chỉ nhớ được có hai câu đó, nhưng nhớ mãi cái cảm xúc được biết một bài hát mới, chưa nhiều người biết, và lại do một ca sĩ nổi tiếng như cô Tân Nhân dạy. Học hát trên đài, nghe hát trên đài, chúng tôi cũng lập ra đội đồng ca, dàn dựng một số bài hát, trong đó nhớ nhất là bài “Quảng Bình quê ta ơi”. Có chia bè, có lĩnh xướng đàng hoàng. Khánh Châu lĩnh xướng giọng nam, Oanh (con cô Liên, chú Nghĩa) lĩnh xướng giọng nữ. Chẳng đi biểu diễn ở đâu cả, chỉ hát cho nhau nghe thôi. Hình như cũng có lần biểu diễn phục vụ các bậc phụ huynh vào thăm trại, dịp Phương Hồng đàn violon đó thì phải. Hồi đó phục Phương Hồng, vì cả trại, ngoài Phương Hồng ra, chẳng có ai được học nhạc một cách bài bản cả. Trong bọn con trai, có mấy đứa biết thổi sáo, cũng là do tự mò, tự học, thổi cho kêu, cho đúng bài là hay lắm rồi. Cả trại chỉ có một ống sáo, chuyền tay nhau thổi. Nhớ Khánh Hoài, không hiểu vì sao một dạo bị các bạn “te lô” (nghỉ chơi), có tật liếm vào lỗ thổi của sáo trước khi thổi. Cả bọn bàn nhau lấy ớt bôi vào sáo. Thấy sáo bỏ không, Hoài cầm lấy thổi, nhăn mặt, phun phèo phèo. Cả bọn được một trận cười. Cái ống sáo ngày ấy là vật bất ly thân của cả bọn. Trong một bài nào đó, Hiếu Dân có nhắc chuyện Trần Dũng bị rắn cắn trên đồng, buộc ga-rô bằng chiếc khăn quàng đỏ. Hồi đó, không biết đi ngủ có đeo khăn quàng đỏ không, chứ đi đâu, đứa nào cũng đeo khăn quàng. Lấy khăn quàng đỏ buộc ga-rô, xong dùng cái ống sáo bất ly thân đó xỏ vào, vặn cho chặt. Đưa về nhân viên y tế (tôi nhớ là chú chứ không phải là cô), đồng chí này dùng dao băm bèo rạch vết thương, nặn máu. Chi tiết này tôi chỉ nghe kể lại, không biết có đúng hay không. Đêm đó, chúng tôi đi ngủ trong niềm xúc động thật sự. Ai cũng lo, nhưng không nói ra. Sáng hôm sau thức dậy, nhìn Trần Dũng vui vẻ, mạnh khỏe, cả bọn cười ha ha. (Đang nói chuyện văn nghệ với ống sáo lại nhảy qua chuyện rắn cắn…Thì tôi nói rồi mà, nhớ gì kể nấy. Trong việc có người, trong người có việc, kể việc này lại nhớ đến việc kia, kể luôn kẻo phải tìm cơ hội khác để kể).

Những cuộc đi chơi, những trận ném nhau, những lúc dạo khắp đường làng tìm hái rau tập tàng… có thể diễn ra bất cứ ngày nào, bất cứ lúc nào trong tuần, chỉ trừ sáng ngày chủ nhật. Ngày đó, khoảng 8-9 giờ sáng, nhiều trại viên đã kéo nhau ra đầu làng, ngóng trên đường bên kia cánh đồng, chờ bóng một tốp người đi xe đạp. Đó chỉ có thể - và chắc chắn - là các bậc phụ huynh về trại thăm con thôi. Đứa nào cũng mong bố mẹ, còn nếu bố mẹ không về được thì vẫn còn hy vọng là có quà, có thư. Trong số những đứa trẻ trông ngóng, chờ đợi đó, không phải không có những đứa có “ngày chủ nhật buồn”. Nhưng chúng cũng rất hiểu rằng không phải là tuần nào bố mẹ cũng về thăm được, và không phải tuần nào cũng gửi quà được. Vì vậy, ngày chủ nhật buồn kết thúc vào lúc khoảng 10 giờ, khi tốp phụ huynh cuối cùng đã đến trại. Lúc này thì vui. Vui với cái không khí rộn ràng của trại. Vui với cái vui của các bạn, cũng như các bạn vui với cái vui của mình trong những lần khác vậy. Rồi những trại viên đó lại tiếp tục những trò chơi, những trò nghịch ngợm, tìm hiểu, khám phá của mình, chờ đợi tuần tới.

Đi hái rau tập tàng cũng là một trong những trò thú vị và thiết thực. Rau tập tàng của chúng tôi ngày ấy không phải là những thứ rau dân dã được chọn lọc để dùng kèm những món lẩu như lẩu mắm bây giờ. Tập tàng của chúng tôi hồi đó có nghĩa là hầm bà lằng, là tổng hợp bất cứ thứ lá gì ăn được. Lá ớt, lá găng, lá lốt, rau sam, rau dền dại, lá mồng tơi… Chỉ đi hái ven đường thôi, không thể lội trong vườn của người ta mà hái, mặc dù trong đó có thiếu gì thứ lá ăn được. Ớt ở đây là nói đến những cây ớt dại, còn mồng tơi là mồng tơi leo ở bờ rào, nhỏ xíu và còi cọc. Hái được một rổ là được một nồi luộc. Góp nhau mỗi đứa 1-2 xu đi mua ớt. Nước mắm thì xin các cô. Bữa rau luộc cải thiện, mỗi đứa gắp 1-2 gắp vậy mà ngon đáo để. Không phải bữa ăn của trại không có rau, mà tại vì rau đây là rau tự mình kiếm được, là kết quả của một bài sinh vật về các loại lá, là cái ngon của nước mắm loại một đồng mốt đi xin và ớt góp tiền mua. Nói vậy thôi, chứ gọi là bữa rau cải thiện cũng được. Cơm bữa ba chén (dù có phải độn ngô), một vài gắp rau, một hai miếng thịt kho được coi là đầy đủ, so với bữa ăn của nông dân thì có lẽ còn sang hơn, nhưng mỗi thứ ăn thêm đều có thể được coi là cải thiện. Tôi nhớ, có một lần “bắt được” một cái tem gạo 225 gr, tôi và một đứa bạn (quên mất là ai rồi) chung tiền nhau được mấy hào, lội bộ mấy cây số ra tận Chúc Sơn ăn cơm ở Cửa hàng ăn uống quốc doanh. Hai đứa một xuất, cơm trắng (không độn), canh và thịt kho, sao mà ngon thế. Ăn xong, lội bộ về đến nhà thì đã lại đói rồi. Nhưng dù sao thì cũng đã được mỗi đứa nửa bữa ăn cải thiện.

Cũng trên con đường đi Chúc Sơn này, tôi còn có một kỷ niệm nữa. Đó là một lần tôi mượn xe đạp chở mẹ tôi từ trại sơ tán ra Chúc Sơn để đón xe về Hà Nội. Từ Chúc Sơn về, đường vắng, không mưa, tôi đạp xe bon bon. Có một anh thanh niên (hồi đó hình như kêu bằng chú thì phải) đi xe chiều ngược lại, cũng bon bon không kém. Cả hai đều đi giữa đường. Tôi tránh qua phải thì anh ta tránh qua trái (của anh ta), tôi tránh qua trái thì anh ta lại tránh qua phải(của anh ta), nói tóm lại là đụng nhau chính giữa đường. Chẳng té, chẳng làm sao cả. Xe anh ta chỉ lệch ghi đông, kẹp bánh xe vào giữa hai đùi mà chỉnh lại là xong. Thế mà anh ta cứ một hai bắt tôi phải về cơ quan (của anh ta) để giải quyết. Bữa trưa đó tôi nhịn đói (cứ tiếc mãi tấm tem gạo 225 gr). Chiều tối, một anh khác phát hiện ra tôi, hỏi anh ta. Anh ta kể lại đầu đuôi câu chuyện. “Vớ vẩn, mày thật là… Thôi, cho nó về đi, tối rồi.”Anh ta cười khì khì. Thế là tôi về, một mình, trời tối, bụng đói. Trên đường về gặp một anh bộ đội, không biết có đói bụng không, nhưng cũng chỉ có một mình, “làm bò” kéo chiếc xe chở mấy bao gạo từ Chúc Sơn về. Tôi xuống xe, dắt bộ, phụ anh đẩy xe, trong bụng còn chưa hết tức cái anh chàng giam người trái phép kia và lo ngay ngáy, sợ các cô mắng vì mượn xe đi từ sáng sớm, đến bây giờ vẫn chưa về. Rồi tôi nghĩ đến phải viết một cái gì đó về một cậu bé tốt bụng và về một anh thanh niên xấu bụng, bắt nạt trẻ con... Đó có lẽ là lần đầu tiên tôi nghĩ đến viết báo, trừ một lần tôi bắt chước viết tin “hôm nay, quân và dân… bắn rơi hai máy bay Mỹ”, bị mẹ tôi la: “bắt chước làm gì mà”.

1.    Không hiểu vì sao có lần bọn trẻ chúng mình có phòng trào đi hái rau về ăn cải thiện. Mọi người chia nhau ra nhiều nhóm. Tôi nhớ nhóm tôi có anh Lân (Lan), con bác Bốn thường làm người dẫn đầu nhóm đi tìm và hái lá về ăn. Để bí mật về những loại rau và mình tìm được, không để nhóm khác bắt chước, bọn tôi đặt tên mới cho rau, lá. Ví dụ, rau dền thì nói là rau Kim Đồng (tên thật của anh Kim Đồng là Nông Văn Dền), lá găng trên ngọn cây thì được đặt tên là lá bao tay (tức là găng tay), lá cây đay gọi là lá bao gai (vì nhớ lại ngày trước quân phát xít Nhật bắt dân mình phá lúa, trồng cây đay để làm các loại bao đay)...Nhiều loại lá lắm mà tôi chưa kịp nhớ hết các tên mới tự đặt.

2. Má tôi (Hồ Vân) có lần kể thương các con (tức là anh em chúng tôi 4 đứa Phương, Nguyên, Quang, Nam)tuổi đang lớn, ăn khỏe thường hay bị đói vì theo tiêu chuẩn tem phiếu ở trại. Má tôi phần nhịn ăn để dành tem phiếu, phần xuất tiền lương mua thêm tem phiếu ở ngoài gửi cho các cô phụ trách trại trẻ nấu thêm cơm cho anh em chúng tôi. Đến bữa ăn, Mẹ An và các cô phụ trách trại trẻ xới cơm đầy bát cho anh em chúng tôi. Một số bạn thấy thế mách bố mẹ. Thế là mẹ An và các cô phụ trách trại lại phải giải thích rằng anh em chúng tôi được xới nhiều cơm vì cô Hồ Vân có gửi thêm tem gạo.

3. Má tôi có kể ở Tuy An, trại trẻ thường lấy gạo trên huyện về, trong khí đó đang làn Tuy An lại đem gạo mới gặt lên đóng cho huyện để vào kho. Má tôi bàn với mẹ An lên gặp lãnh đạo xã và trên huyện bàn cho trại trẻ được lấy gạo của làng Tuy An thay vì lấy gạo trên huyện. Làm như vậy lọi cả đôi đường, làng Tuy An không mất công đưa gạo lên cho huyện, mà trại trẻ mình có gạo mới ăn ngon miệng hơn, không phải ăn thứ gạo hầm mốc để trong kho hàng mấy năm trời. Tuy An thì đồng ý ngay, nhưng huyện thì sợ vi phạm nguyên tắc. Sau nhiều lần nhẫn nhại đi lại mới thuyết phục được. Kể từ đó, trại trẻ mình luôn ăn gạo mới. 

QUÀ TẶNG

Minh Tâm

- Nè, anh ơi, đây xuống Chợ Lớn bi nhiêu vậy?

- Dạ, Chợ Lớn, mà chổ nào chị?

- Ngay cửa chợ Bình Tây cho tui xuống.

- Dạ, cho em mười hai đồng.

- Tám đồng… Thôi, mười đồng.

- Dạ được, mời chị lên.

Vừa trả lời, Tường vừa hạ càng xe xuống sát đất. Chị phụ nữ đẫy đà bước vội lên xe, tay phải cầm chặt giỏ hàng to tướng.

- May cho mình là trong giỏ không có hàng, bà này đi Chợ Lớn lấy hàng đây... Tường vừa rướn người cố sức đạp lấy trớn, vừa suy nghĩ mông lung.

Mặt trời đã đứng bóng. Ban nãy, Tường đang đẩy xe ghé vô tiệm cơm bình dân cặp bên hông chợ Bà Chiểu, định kêu một dĩa cơm đậu hũ kho... nào ngờ bà khách này đến gọi Tường chạy tiếp. Anh cúi rạp người xuống, dồn hết sức xuống hai bàn chân, cố đạp thật nhanh đến chợ Bình Tây để còn ăn cơm, anh cảm thấy đói cồn cào. Ở dưới đó có nhiều quán cơm bình dân, ngon mà rẻ...

- Ghé vô, ghé vô...

Đang đạp ngon trớn, anh giật mình, ngửa người với tay ra phía sau yên xe kéo mạnh càng thắng. Chiếc xe xích lô già nua lết bánh xoèn xoẹt trên mặt đường.

- Sao? Chị...

- Sao anh không kéo mui xe lên dùm tui, nắng quá nè!

Tường vội nhảy xuống, bật mui lên. Xong, anh vội nhảy thót lên yên xe, mải miết đạp, cố lờ đi những lời lầm bầm của bà khách về cái mui xe rách tơi.

Trời không chút mây, nắng thật. Mấy ngày giáp tết, mặt trời rực lửa. Sài gòn nóng bức lạ. Mồ hôi anh đổ dài từ trán xuống ướt đẫm đôi chân mày, chui vào tận hai khóe mắt. Mồ hôi cũng từ lưng anh toát ra ướt cả áo, đẫm cả thắt lưng. Tường gắng sức đạp nhanh để mong có chút gió làm dịu bớt mồ hôi, nhưng anh càng cố sức đạp mồ hôi càng đổ ra như tắm.

Mới cách đây mươi lăm ngày, ông trời còn mưa tầm mưa tã... Anh thuê chiếc xe xích lô này đã gần hai năm. Không phải vì xe mướn mà anh không thay mui đâu. Tiền đâu mà thay tấm mui mới. Cái nón lá trên đầu anh còn tơi tả hơn cái mui xe nhiều! Xe đẹp, khách đông. Biết vậy, nhưng cái khó bó cái khôn. Hai đứa con anh còn quá nhỏ, vợ thì đang mang bầu. Nghề chạy xe bữa nắng bữa mưa. Tiền thuê nhà phải sòng phẳng bất kể tháng mưa hay tháng nắng. Gặp ngày đắt khách, anh liền mua chút thịt về để cải thiện bữa ăn cho hai đứa nhóc đang tuổi háu ăn, và còn bồi dưỡng cho đứa nhỏ trong bụng mẹ nó... Do đó tết tới, nắng gắt, mà anh cũng không kiếm đâu ra mươi đồng để thay tấm mui và sơn mới chiếc xích lô đã bạc màu qua bao mùa mưa nắng như mái tóc “muối nhiều hơn tiêu” của các cụ ngoài bảy mươi!

Nghĩ tới đây, thì xe cũng vừa trờ tới cổng chợ Bình Tây. Bà khách béo phì nặng nề bước xuống khỏi xe. Nhẹ nhàng. Anh tà tà đạp xe tìm đến quán cơm quen thuộc. Bất ngờ, một bà khách khác hai tay xách hai giỏ đầy, bước lên xe và bảo anh chạy về cảng 4, quận 4. Không kịp gọi cơm, anh lại leo lên xe tiếp tục đạp.

Chiếc xe thân thương của anh cố sức đi ngang qua nhiều chợ nhỏ, chợ lớn. Nhiều chợ hoa muôn màu muôn vẻ đã lùi lại phía sau anh. Thật sự Tường không dám nhìn thẳng vào hàng hàng lớp lớp những chậu hoa rực rỡ sắc xuân ấy. Mặc cho bụi, khói giăng giăng phủ ngập thành phố này, anh vừa hít lấy bầu khí ấy vừa cố sức đạp nhanh. Không phải anh muốn trốn chạy khỏi ánh xuân đang đến, nhưng đúng hơn anh không muốn gợi nhớ đến những ngày tết nhà anh đầy hoa, những mùa xuân sung túc bạc tiền và ngất ngưỡng danh vọng trong quá khứ của anh…

 Đã quá trưa, mà chợ nào cũng còn tấp nập người mua. Kẻ ra người vào, chen lấn nhau. Tường cũng được đông khách. Tết có khác. Quên đi cái đói cồn cào, anh cố sức đạp, đạp mãi, đạp mãi...

- Hôm nay nhịn cơm một bữa cũng không sao, vì một năm mới có tết một lần. Thời cơ kiếm tiền đây mà! - anh thầm nghĩ vậy.

Ngày hôm qua, thấy nhà hàng xóm mua sắm tết, vợ anh thinh lặng không nói gì. Sáng nay, khi anh chuẩn bị đẩy xe ra thì vợ anh nói.

- “Xin Chúa cho anh chạy xe đắt khách, để mai em đi chợ tết mua thịt, mua mứt cho mấy con”.

Đứa con trai cũng thỏ thẻ với anh:

- “Hồi tối, con với mẹ có cầu xin Chúa cho ba chạy xe có tiền nhiều... Ba nhớ mua cho con một ký thịt heo với hai trái dưa hấu nhe”.

Hôm nay là 28 tết rồi, nhà anh chưa sắm sửa gì! Người ta làm cơ quan có tiền thưởng tết, vợ ôm tiền rủng rỉnh sắm tết. Còn nghề lang thang này, ngày tư cũng như ngày tết. Trừ phi có trúng số !

Ngồi chót vót trên cao, anh vừa cố đạp cho nhanh, vừa liếc mắt xuống, nhìn mãi hai giỏ xách đầy ắp hàng tết của bà khách giàu tiền đang ngồi bên dưới: nào thịt, nào giò chả, nào bánh mứt... buồn, tủi cho thân phận nhập cư của gia đình anh.

Đời anh đã một thời vi vút trên cao. Suốt hai năm qua, có rất nhiều vị khách đã ngồi bảnh chọe trên chiếc xe xích lô đạp cà tàng này, nhưng không ai hiểu được quá khứ của anh. Một quá khứ không đến nỗi tệ!

Tường là một sĩ quan của chế độ cũ. Vợ anh là một cô giáo chánh ngạch hẳn hoi. Anh đã từng được cấp một chiếc xe Jeep và một tài xế riêng. Ngoài việc theo anh trong công vụ, hàng tuần chú tài xế trung sĩ còn đưa vợ anh đi chợ mua sắm nữa...

Sau khi học tập cải tạo về, anh đã đến nhiều cơ quan xin việc... Khi nhìn thấy lý lịch anh xám đen, họ lạnh lùng từ chối dù vẫn biết chất xám anh có thừa... Anh đành chạy xe đạp ôm để cải thiện kinh tế gia đình. Sống với đồng lương còm của cô giáo không được phép dạy kèm tư gia, gia đình anh thiếu thốn mọi thứ. Thế mà suốt mười năm anh đi học tập cải tạo, người vợ đảm đang đã làm tròn bổn phận của người mẹ và cả bổn phận người cha thay cho anh, để nuôi dạy hai con mọn, lúc đó một đứa chưa được ba tuổi còn đứa kia mới tròn ba tháng tuổi. Vợ anh buồn bã kể lại, trong thời buổi “củi quế gạo châu” ấy, cả ba mẹ con ăn hạt bo bo thay cơm gạo là chuyện thường ngày. Anh mãi ghi nhớ công ơn ấy của vợ. Ngày đoàn tụ, nhìn hai đứa con gầy guộc mà lòng anh quặn đau.

Đứa nhỏ mười tuổi phải gần mười ngày sau mới gọi Tường, một người “khách lạ”, bằng tiếng BA nho nhỏ... Sống ở tỉnh lẻ ấy quả thật khó khăn! Anh muốn lên thành phố này với một hy vọng sẽ khấm khá hơn, và cũng vì muốn quên đi một quá khứ vi vu ngày nào... Vợ anh thinh lặng, nhưng anh hiểu nàng cũng quá xót xa cho anh trong nghề xe đạp ôm. Ông sĩ quan ngày trước luôn có tài xế đưa đón, lên xe xuống ngựa, nay phải đón khách từ bến phà tỉnh lẻ đi khắp hang cùng ngõ hẻm của cái thị xã rất đỗi bình lặng và an phận này...

Rồi trong một ngày mùa hè đỏ lửa màu phượng vĩ, vợ chồng anh đã âm thầm giã từ thị xã u buồn và bình lặng, đã chứng kiến biết bao kỷ niệm đẹp của thời “thanh mai, trúc mã” và những kỷ niệm vàng son của thời thượng ấy... Riêng nàng, không dám giã từ đám học trò coi cô như mẹ để khăn gói lên thành phố này. Khi gia đình anh chầm chậm bước chân lên chiếc phà bập bềnh quen thuộc từ tấm bé, có lẽ chỉ có tiếng nhạc ve sầu nhẹ nhàng tiễn đưa, tiếp đó là tiếng còi phà lạnh lùng dội xuống mặt sông, bật lên không trung, rú lên inh ỏi báo hiệu giờ rời “bến xưa”, làm ù tai nhói tim những kẻ trên đường tha phương cầu thực!...

- Cho xuống, cho xuống đi.

Giọng nói the thé của bà khách kéo giật anh trở về với thực tại, giã từ khỏi dĩ vãng sống động mà anh không bao giờ quên. Bà khách trả tiền, bước vào ngôi nhà sang trọng, đóng cửa lại. Nhưng anh vẫn còn đứng tần ngần, ngó sang bên kia đường. Đó là lối vào một ngôi chợ gì đó mà anh không biết tên. Một ngôi chợ khá sầm uất. Bóng người thấp thoáng ra vào…Anh chỉ cảm nhận vậy thôi, ngoài ra anh không có một cảm thức gì rõ nét. Có lẽ những hoài tưởng vi vu trên cao chưa thả hồn anh xuống thực tại mặn đắng mồ hôi của anh hiện giờ.

Sau tiếng hú ga của chiếc xe gắn máy đời mới vọt nhanh ngang tầm mắt, bỗng anh thấy một vật gì to, nặng, rơi bịch xuống lòng đường... Anh cố nhướng mắt nhìn kỹ. Nhưng cái nắng gay gắt của đất Sài Thành, cái đói âm ỉ gặm nhấm âm thầm nhưng cũng gay gắt không kém làm mắt anh mờ đi... Sau một lúc định thần nhìn kỹ, anh đã thấy rõ một mảng thịt đang nằm vừa hớ hênh, vừa gọn ghẽ trong một tấm lá chuối to trên mặt đường nhựa, cách chỗ anh đứng khoảng hai mét.

- Ai làm rớt vậy?

Anh vừa tự hỏi vừa rảo mắt nhìn quanh xem có ai đến nhặt lên không. Nhưng năm phút, rồi mười phút trôi qua, không ai đến nhặt. Chỉ thấy nhiều xe cộ ngược xuôi qua lại. Thậm chí không ai đến gần khối thịt ngon lành đó. Không ai để ý tới nó, rõ ràng không ai nhìn thấy nó, ngoại trừ anh.

- Tôi có thể lượm lên và mang về cho gia đình không? Một phần thịt ngon “trong tầm tay” nhưng lại ngoài khả năng tài chánh của tôi! Tôi có bị tội tham của người không? Của vô chủ mà! Không, có chủ chứ! Nhưng chủ làm rớt, không hay biết và bỏ đi rồi! Nhưng có thể kẻ đánh rơi sẽ quay trở lại. Bao lâu nữa? Khi chủ quay lại, có lẽ một chiếc xe tải nào đó đi ngang qua sẽ làm dập nát nó rồi chăng? Sau một hồi đấu tranh tư tưởng giữa lấy hay không lấy, anh từ từ bước ra đường để nhặt cục thịt ấy... nhưng!

- Trời! Trời! Trời ơi! ...KÉT, KÉT, KÉT

Anh giật nẩy mình. Chết, kẻ đánh rơi đã quay lại, anh nghĩ vậy.

- Không có ai quay lại!

Nhưng có một chiếc xe hơi đã rướn sát bên anh, vừa dừng lại, rít bánh, cách anh nửa gang tay. Anh tài xế trẻ, thò đầu ra khỏi xe, miệng làu bàu:

- Có đánh rơi thì cũng từ từ mà nhặt chứ, bố ạ!

- Suýt nữa toi mạng ông xích lô rồi đó...

Nhiều tiếng xì xào từ bên kia đường vọng sang, nhưng anh không muốn nghe thêm. Thong thả anh treo cục thịt bên hông xích lô, rồi vội vàng đạp xe thật nhanh ra khỏi khu vực đó... giấu đi vẻ vui mừng. Không phải vui vì mình vừa thoát chết, nhưng vui vì người làm rơi đã không trở lại tìm gói thịt. Thật vậy, quên mất cơn đói gay gắt trong lòng, anh đạp thẳng một mạch về nhà.

- Ba mua thịt, ba mua thịt nhiều quá mẹ ơi! Các con anh mừng rỡ.

Nhìn các con xúm xít lại, sờ mó cục thịt đùi nặng hơn hai ký, một chân giò, hai miếng thịt ba rọi cũng khoảng hai ký, còn có thêm xương sườn và xương ống cuộn tròn trong những tấm lá chuối lấm lem cát bụi... Anh cố giấu dòng nước mắt trôi dài trên đôi má xạm đen nắng gió. Chỉ có vợ anh biết rõ nguồn gốc cục thịt ấy. Anh khóc vì niềm vui vô tư, tíu tít của các con, hay vì câu nói của vợ:

- Chúa ban ơn cho nhà mình đó!

Từ lâu rồi, anh là một kẻ khô đạo. Có thể đây là của dư thừa của một gia đình giàu có vô tình hay cố ý đánh rơi chăng?

- Chúa ban ơn cho mình? Đó chỉ là ý nghĩ của vợ anh thôi.

Trong chiến tranh, cận kề với sự chết và chứng kiến nhiều cái chết đau thương của biết bao đồng đội nên anh quý cuộc sống hơn ai hết. Nhưng anh không quý cuộc sống bằng cách sống tốt, sống đúng nghĩa sống như ba má anh vẫn khuyên nhủ anh, như vợ anh vẫn nguyện cầu cho anh. Anh lại sống vội vã, tận hưởng mọi lạc thú trên đời như sợ rằng “...chết xuống âm phủ biết có hay không!”. Anh sống không có ngày mai. Những ngày phép ngắn ngủi, sau hàng tháng hành quân miệt mài gian khổ, thường bị anh bán rẻ nơi các quán bar tràn ngập rượu mạnh cay đắng và khói thuốc cay xè, khác hẳn mùi thơm quen thuộc của thuốc súng thường ngày... Sau mười năm học tập, sống sót trở về, anh khô nước mắt, khô cả lòng nhân ái.

* * *

- Sao ngoại khóc vậy?

Tiếng nói bập bẹ của đứa cháu ngoại làm anh trở về với thực tại. Những ký ức từ hai mươi năm qua như dòng sông cứ mãi tuôn trào. Năm xưa anh giấu kín được niềm cảm xúc trào dâng. Con gái anh không thấy ba nó khóc trong ngày 28 tết ấy, nhưng nay thì anh không giấu được đứa cháu ngoại mới lên ba tuổi. Hiện nay anh đang sống tại xứ Hoa Kỳ sung túc. Anh khó mà quên được kỷ niệm nhiễu đầy nước mắt ấy.

Anh chợt nghĩ đến Thánh Giuse, gia trưởng của Thánh Gia Thất ngày xưa. Có lẽ Ngài cũng đã không khỏi xúc động khi nhìn thấy Chúa Giêsu mừng rỡ mân mê món quà nhỏ mà Ngài đã mang về sau một chuyến giao hàng. Khó mà đánh giá tầm cỡ cao thấp giữa tình thương của người cha và tình yêu của mẹ. Chỉ có khác nhau ở hình thức bên ngoài như xưa nay người ta vẫn ví von: “Công cha như núi Thái, nghĩa mẹ như nước nguồn chảy ra”. Tình cha cũng dạt dào như tình mẹ nhưng luôn ẩn tàng kín đáo, âm thầm yêu thương và phục vụ vợ con mà ít khi bộc lộ tình cảm đối với con cái nhất là bằng lời nói. Do đó, không lạ gì trong Tân Ước, các Thánh sử không ghi được một lời nào của Cha Thánh Giuse.

Ngày xưa, cha của anh cũng khá nghiêm khắc với anh, anh không khỏi bất mãn, dầu mẹ anh đã cố gắng nói tốt cho ông. Cho đến khi anh hiểu được thế nào là tình cha, thì người cha đáng kính, đáng yêu của anh đã về bên kia thế giới ngàn thu. Nhiều lần ngồi một mình lắng đọng tâm tư trên tầng thượng này, anh rất thèm được nghe lại giọng nói dạy dỗ nghiêm nghị của ông, nhưng không bao giờ có thể.

Không thể... mãi cho đến ngàn thu...

Ngày nay, anh cũng đã nghiệm được tình Cha trên trời khi anh được định cư sang Mỹ cách thật dễ dàng và thật nhanh chóng ngoài sức tưởng tượng của anh và bạn bè. Lúc đó, vì chán cảnh nhân tình thế thái, anh đã xếp xó diện H.O của anh. Anh đã bỏ địa chỉ gốc, nhập cư tận Sài Gòn. Anh muốn xóa bỏ quá khứ, nhìn về tương lai. Nhưng tương lai không nhìn đến gia đình anh, tại quê hương của anh. Mọi cơ quan, xí nghiệp đều không mở cửa cho anh vì một lý do giản dị là anh không có hộ khẩu thường trú! Tương lai của gia đình anh là gì?!!! Vợ anh đã cảm nhận được điều đó. Nàng đã không cam phận. Nàng không đành lòng nhìn cảnh “ông sĩ quan” sáng sáng hăng hái đạp xích lô đi, chiều chiều uể oải đẩy xích lô về... và lũ con gầy yếu, vô tư vui đùa quanh anh...

Nàng đã âm thầm cầu nguyện thật nhiều. Nàng dâng cả tương lai của gia đình mình trong tay Chúa, nàng cố gom góp đủ hồ sơ để làm thủ tục xuất ngoại – và Chúa đã nhậm lời. Giờ đây, anh mới có dịp cảm nhận và nhìn ra điều này: Chúa luôn đồng hành với anh và gia đình anh trong cuộc sống.

Kỷ Niệm Thời … Đói Kém.

Lê Xuân Dung (77KNN)

Đọc bài “Rầy nâu” của thầy Khang làm XD nhớ đến những ngày nước ta thiếu gạo ăn, đó là vào những năm 77-78, là năm XD bắt đầu học tại trường SPKT.

KỶ NIỆM THỜI … ĐÓI KÉM.

Ngày đầu tiên lên trường, XD xách cái vali to tướng bằng ván ép mỏng bọc nhựa mà má đã bán hình như là 20 kg đậu xanh mới có tiền mua được. 

Khi nhận phòng Ký túc xá, XD quen Nguyễn thị Dung và Nguyễn thị Hồng, quê ở Củ Chi. N T Dung dẫn XD gặp một anh đồng hương Củ Chi đang học khóa 76 (?), anh đó cho 2 phiếu ăn. XD ngại lắm nói: không lấy phần ăn của anh ấy được. Nhưng anh đó móc túi áo cho xem thêm vài phiếu nữa và nói là có dư. Bây giờ XD nghĩ lại: có thể là anh đó đã rút bớt phần ăn của bạn bè để cho mấy đứa em ngây thơ … “vô số tội” này.

Vậy là lần đâu tiên XD ăn “cơm” ở trường. Đó là một ổ bánh mì và chén canh bí rợ “toàn quốc” “không người lái” (rất nhiều nước và không có thịt). 

Món ăn này chẵng biết có phải là bài thuốc an thần kiểu dân gian hay không mà sau khi ăn xong, trưa nào lên giảng đường, gần 1/3 sinh viên bị … ngủ gật. Mặc cho thầy giảng, ở dưới này học trò ngủ lơ mơ, khi giật mình tỉnh dậy mới thấy mình “vẽ bùa” trong tập tùm lum.

Nhưng không phải ngày nào cũng ăn bánh mì. Nhà ăn cũng thường xuyên đổi “món”. Có hôm nhà ăn nhồi bột mì rồi đem luộc, nếu nắn hình dẹp dẹp thì nghe nói người miền Bắc gọi là: hôm nay ăn “cái tát”, nắn cục tròn tròn thì họ gọi là ăn “nắm đấm”!.

Và thật là thiếu sót nếu không nhắc đến bo bo, mà hình như đúng ra phải gọi là lúa mì thì phải! Mỗi lần lãnh một thau đầy bo bo cho 4 phần ăn. May sao lúc đó ai cũng có hàm răng khỏe, nhai nỗi loại hạt cứng ngắc, còn nguyên vỏ cám. Cũng có ngày được ăn cơm, nhưng với nhiều sạn và thóc. Một anh chàng bức xúc quá, viết lên tường: “ Năm nay trúng mùa, nhà ăn cho ăn lúa!”.

Chị H (74KNN) yêu cầu anh đó phải bôi hàng chữ đã viết, anh ta cự lại, nhưng cuối cùng cũng chịu bôi. 

Chị H ơi! “Bây giờ còn nhớ hay không?” 

XD đi học ở trường, được ăn no đủ dù không hẵn là cơm. Trong khi đó, ở quê còn khó khăn hơn: Ba má và các em phải ăn cháo thường xuyên mà những khi XD về thăm nhà vào Chủ Nhật đã cùng ăn với gia đình trong bầu không khí ảm đạm của những ngày đói kém. 

Giờ đây, cơm dẻo, trắng đã thay cho bo bo và gạo hẩm, nhưng có lẽ kỷ niệm của những ngày khủng hoảng lương thực vẫn còn in đậm trong ký ức mỗi người. 

Đọc bài của em làm chị củng nhớ lại thời gian cực khổ đó và nhớ lại bài hát " Tổ quốc ơi , ta ăn mì mãi mãi . Tổ quốc ơi , ta ăn mì dài dài". Nghĩ thời đó sao mà khổ tận cam lai " trần ai khoai củ" thật, mà không ai nghèo và đói khổ như sinh viên , vậy mà vẫn cố gắng học để ra trường có tương lai khá hơn. Ban đầu vì chưa có kinh nghiệm nên ai cũng phải ăn bột mì cả , thật là khó nuốt , nhưng sau nhờ " cái khó nó ló cái khôn" nên mới biết làm bánh bao , bánh mì , và mì sợi . Thì đở ngán hơn , lúc đó ăn mì sợi với nước trà pha như nước mắm toỉ ớt, phi chút hành khô rưới lên trông cũng hấp dẫn lắm , đi thực tập ở nông trường sáng nào khóa chị cũng được tổ hậu cần cho ăn vậy mà nó ngon làm sao đâu . Bây giờ mới biết thêm món Spaghetti của Italy là mì ăn với sốt cà chua thôi vậy mà nổi tiếng cả thế giới đó.Lúc đó ai củng " khoái ăn sang "( sáng ăn khoai ) cả , sợ không có khoai mà ăn đó chứ , ăn khoai mì ríết sáng dậy mắt đổ ghèn , nên người ta gọi khoai mì là " gạo nàng ghèn " thật đúng quá đi thôi .Còn gạo thì gạo hẩm đầy bông cỏ ,ngày nào nấu cơm cũng phải ngồi lựa bông cỏ cả buổi .Nhớ thời đó khóa chị đi thực tập ở Mỹ Tho , ở nhà dân, họ nấu cháo cho heo ăn mà gạo trắng tinh , thấy tụi chị ăn gạo hẩm , họ đổi gạo mới cho tụi chị, cảm động làm sao đâu. Dưới miền tây sướng thiệt. Không phải ăn độn như miền Trung và miền Đông. Lúa mì mà hồi đó mình gọi là ăn bo bo, ban đầu không biết để nguyên cả hột nấu cả buổi mà chả mềm , ăn vào không tiêu hóa được , sau họ chỉ xay dập dập cho nó vỡ ra , trước khi nấu phải ngâm nước nên khi nấu nó mềm dễ ăn hơn , vậy mà ăn quen rồi thấy ngon và ngọt ngọt , dẻo nên nhiều người lại thích ăn hơn gạo thường . Bị ăn bo bo nhiều nên bây giơ nhiều người còn bị đau bao tử từ cái thời "kinh qua giai đoạn XHCN" đó . "Qua cơn bĩ cực tới hồi thới lai" rồi ' sau cơn mưa trời lại sáng , bây giơ thấy dân sung sướng lại ăn nhậu thả dàn bù lại thời kỳ cực khổ ngày xưa . Mấy năm đầu Xd ở chung phòng ký túc xá của chị Ngọc Cẩm, Thúy Nga, Nghiệp (74 KNN). Mỗi khi muốn cải thiện bữa ăn thì xách rổ đi mót rau muống ở sân trường. Đem về luộc ngoài chái bếp kế hàng rào. Mà cũng phải mót củi mới có cái để chụm lửa. Hôm nào giàu lắm thì mua được hủ chao ăn với rau muống luộc, cảm thấy ngon kinh khủng.! Hèn chi bây giờ muốn ăn món này phải vô nhà hàng hạng sang mới có bán!::Xd không rộng lượng như chị Kim Vân đâu!. Chắc Xd giống như mấy ông bà già xưa, bây giờ nhìn tụi nhỏ ăn chơi mà muốn càm ràm: “Hồi đó tao khổ lắm, chứ không sung sướng như tụi bây đâu!”

Công nhận trí nhớ của em còn rất tốt. Những năm đầu rất cực khổ mà vẩn cố gắng học hành. Em chưa kể thêm những lúc ăn trưa ở nhà ăn, 4 người ăn chung thì có 6 củ khoai lang ...5 củ bị sùng ( sâu ăn ), con 1 củ thì tốt cũng chỉ được nửa củ... Vậy mà vẩn phải ăn cho xong cái “lunch” hoặc “dinner”..Hình như những năm đầu đó ( 75,76) thì em chưa gia nhập gia đình SPKT-TĐ.

Thỉnh thoảng , các anh chi gom đươc giấy vụn lặt vặt, giấy làm nháp trong luc tự hoc...đi ra chợ chiều Thủ Đức để bán và mua được vài gói mì gói...và rất là happy.

Sau ký túc xá....phe ta có trồng được nhiều luống khoai lang, nhưng khoai lang không kịp lên vì bà con ta cứ ngắt đọt để ăn với mì gói !!! Như thế thì làm sao có củ kịp để ăn???? Vậy là trồng rau lang chi để ăn lá mà thôi...

Nếu kể cho nhau nghe về những cái cực cảa thời đi hoc thì các anh chị từ khóa 71-76 là hiểu nhiều nhất.

Nhớ hoài thôi, 6 củ khoai bi sùng hết 5 củ rưỡi...vẩn no!!

Hình như cái bộ nhớ của bàn dân SPKT nó bị chạm đúng tần số rồi hay sao í!? Những hình ảnh cũ nó như cứ lần lượt hiện ra trên từng cây số bài viết? Hình như nó đã bị ức chế lâu ngày (mà ngay chính bản thân mình cũng O hay biết!) mãi đến giờ có người châm ngòi (bắt trúng đài) rồi nó mới bắt đầu bừng sống dậy! Sẵn dịp thấy đàn anh biết thành thực khai báo việc trộm khoai mì thì HN cũng tới luôn. Người ta thường nói đồ "ăn" trộm cái gì cũng ngon nhưng đám 74 Nữ công thì bị tổ trác! 

Số là bọn này có ý nhắm vào đám bắp của dân NN trồng ở phía sau, trái nào trái nấy to trông rất hấp dẫn, cứ trầm trồ khen là dân NN có khác! Thế rồi nhân 1 đêm đi gác đẹp trời, đúng hẹn lại lên, bọn này ghé vào mượn vài quả đem luộc. Khi bắp chín, vì là bắp già nên hột lảy ra rất dễ và hột thì lại rất to nhưng đến khi bỏ vào miệng nhai thì hỡi ôi không những quai hàm nó muốn trẹo mà lại còn lạt nhách nữa, vô duyên chưa từng thấy! May mà lúc đó còn trẻ, răng cỏ còn chắc! Vì thời điểm đó ăng ten, cờ đỏ đầy dẫy cho nên HN lén hỏi nhỏ 1 tay 74 NN thân tín cho ra lẽ. Thị ta bèn phá lên cười ngất: Đó là bắp trồng thí nghiệm để nuôi TRÂU BÒ mi ơi!!!Thêm một kỷ niệm đẹp của đội Bóng Chuyền Nam mà tôi chưa kể. Nhân bài viết này tôi xin kể thêm: như các bạn biết đội BC Nam được cấp một phòng riêng ở KTX, lầu 2 nhìn xuống sân bóng chuyền KTX. Trong phòng có Ng. Quy Đạm, Võ Khắc Hùng, Nguyễn Minh Châu và tôi. Tuy nhiên mỗi khi ăn tôi thì cả nhóm họp lại ở phòng này, số 2—?,thời đó dù có tiêu chuẩn bồi dưỡng thêm, nhưng với sức "thanh niên" và luyện tập thể lực nhiều nên bao nhiêu phần cơm cũng không đủ ! Quý Đạm bèn có ý-kiến đi xin "cơm dư" các bạn gái ở KTX, đội bóng chuyền Nữ và lớp 77KNC! bên dãy nhà đối diện ... Dù sao bây giờ cũng cám ơn các bạn nữ KTX đã "tiếp sức" cho đội bóng chuyền Nam thời đó ! 

Lao Động Là Vinh Quang.

Nguyễn Ngọc Lan (74KNN)

Khoá 74 của tụi tôi là khoá của buổi giao thời, vào đại học học đại được vài tháng thì đất nước thay đổi. Cái thời của “ Dùng dằng nửa ở nửa về. Trở đi đôi dép, trở về tay không”. Sinh viên tụi tôi từ các nơi khác đến đây, phần lớn phụ thuôc vào trợ cấp của gia đình, bây giờ hoàn cảnh thay đổi, rất nhiều các bạn tôi đã phải bỏ học ngang. Còn tụi tôi một số thì phân vân, không biết mình nên về hay ở lại học tiếp. Lúc vào trường thì “mũ áo xênh xang” bây giờ không lẽ lại về tay không ăn bám gia đình. Nếu tiếp tục học thì không biết gia đình có khả năng lo cho mình hay không? Thật là “tiến thoái lưỡng nan”. Thôi thì phóng lao phải theo lao, “Cứ liều nhắm mắt đưa chân. Thử xem con tạo xoay vần đến đâu” (Kiều).

Chắc các bạn còn nhớ khoảng đầu tháng 5,1975 trường được chỉ đạo bởi Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố , nên tụi tôi những sinh viên đang học tại trường chỉ “quanh quẩn” hết học chính trị thì đi lao động. Mà lúc đó vì cả nước phải khắc phục khó khăn để ‘kinh qua thời kỳ quá độ và tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN’ nên chúng tôi phải “xếp bút nghiên theo việc tăng gia”, để thêm vào khẩu phần lương thực hàng tháng không được no cho lắm, nếu không muốn nói là đói dài dài, vì đang lứa tuổi thanh niên “hay ăn chóng đói”. Tôi chỉ xin kể lại cho các bạn nghe những kỷ niệm vui buồn , khốn khổ, không phải “sướng khổ” của thời kỳ “quá độ” hay “quá đát”, những kỷ niệm cười ra nước mắt của tụi tôi thời đó.

Do diện tích khuôn viên của trường có giới hạn, nên nhà trường tìm ra được địa điểm lý tưởng cho chúng tôi tăng gia sản xuất, đó là nông trường Long Thạnh Mỹ. Ngày xưa là trường bộ binh Thủ Đức. Trước tiên để có thêm đất canh tác, chúng tôi phải lấp đất các công sự mà ngày xưa là sân tập bắn của các anh sĩ quan tập sự. Công trình này được xây dựng bằng những hầm chống bom, vừa rộng , vừa sâu, cao hơn đầu người và chỉ với cuốc, xẻng, “Bàn tay ta làm nên tất cả”. Dưới sự chỉ đạo của một anh bộ đội kiêm chính trị viên quân đoàn, chúng tôi phải lấp đầy cái đường hầm đó. Làm đến trưa tất cả đều mệt mỏi, “đổ mồi hôi mẹ mồ hôi con” mà đất chỉ mới lấp chưa được phần trăm công sự. Thấy một anh bộ đội đứng gần đó, anh bạn cùng lớp đến gợi chuyện, “Đồng chí thấy không? Bọn Mỹ thâm độc thật, nó làm mấy cái công sự này sao mà sâu và kiên cố thế, chúng tớ đổ biết bao nhiêu là đất mà cũng chả thấy thấm vào đâu cả”. Cứ tưởng anh bạn mình nói thật, anh bộ đội cũng rờ rờ, nắn nắn, “Cái đường hầm dày và chắc thế này thì dù B52 có bỏ bom cũng chả thấm vào đâu cả, dễ thường nó to gấp biết bao nhiêu lần cái địa đạo Củ chi đó nhỉ?” Được thể anh bạn mình tán phét thêm, “Đồng chí có biết không điạ đạo này được đặt tên là “Chủ Không” đó. Anh bộ đội ngạc nhiên “Thế à?”. Đợi anh bộ đội đi rồi, anh ta mới nói, vì sợ nói trước mặt anh sẽ bị kiểm điểm, “Chúng tớ phải ‘chổng khu’ xúc đất để lấp , không ‘Chủ Không’ thì là gì?” Giá mà lúc đó có xe ủi đất thì đỡ khổ biết bao.

Khoảng tuần lễ sau, thì được lệnh trên ban xuống là phải xúc đất trở ra. Trời ạ, lúc đổ xuống thì dễ, nhưng lúc xúc lên mới vất vả làm sao vì cái đường hầm cao hơn đầu người. Các bạn tôi phải nghĩ cách làm sao để dễ dàng đem đất lên trở lại rồi còn phải xúc sạch hết những mảng đất đã ứ đọng từ trước nữa, đúng là “Lợi bất cập hại”, lại thêm một lần nữa vất vả để biết rằng “Lao động là vinh quang”. Nghĩ cũng may mà lúc đó lại không có xe ủi đất, nếu xe lấp đất đầy quá thì không biết phải làm đến bao giờ mới xong. Tuy mệt nhưng các anh cũng kiếm cách nói đùa cho bớt mệt, “Chắc thấy tụi mình ‘quởn’, sợ ‘nhàn cư vi bất thiện’, nên mấy ổng mới kiếm chuyện cho tụi mình lấp đất xuống rồi xúc lên cho có làm việc vậy mà”. Xong được công tác đó, tiếp đến còn phải trồng khoai mì, khoai lang để có thêm lương thực.

Những buổi trưa hè, trời nóng gay gắt ở nông trường Long Thạnh Mỹ, không có một bóng cây để trú, thầy trò chen chúc nhau dưói bóng mát của xe Sealand, mà từng cơn gió thoảng qua cũng phả hơi nóng lên làm bỏng rát cả thịt da, làm rám má hồng con gái.

Do đi lao động toàn trường, tất cả các khoa từ Công Nghiệp, Nông Nghiệp cho đến Kinh Tế Gia Đình đều có mặt, nên các anh được dịp làm quen và trổ tài gallant “hào hoa phong đòn gánh” của mình.

“ Trai nào ‘galăng’ cho bằng trai Công nghiệp,

Gái nào yểu điệu cho bằng gái ‘Nữ Công’ ”

(Đèo nào cao cho bằng đèo Châu Đốc,

Gió nào độc cho bằng gió Gò Công)

Giữa trưa ở nông trường nắng cháy da người, các chị cũng áo bà ba, quần đen cho hợp với “thời đại mới”. Tuy thế vẫn không che dấu được những vụng về của “tiểu thư đài các” ở Sài gòn, có bao giờ cầm đến cái cuốc cái xẻng đâu. Thấy các chị đi lui đi tới là các anh cũng cảm thấy.

“Nắng nông trường anh đi mà chợt mát,

Bởi vì em mặc áo xẻ ngang hông” 

(Áo lụa Hà Đông)

Có phải thế không ạ? Cũng nhờ dịp may hiếm có này mà có nhiều cuộc tình nảy nở và một số kết thúc rất có hậu.

Công việc trồng khoai mì tương đối đơn giản, chỉ việc cắm hom khoai mì xuống rồi lấp đất lên. Tuy vậy cũng phải biết cắm cho đúng hướng, cái mầm lá phải quay lên trên, nếu cắm ngược lại thì làm sao cây mọc lên được. Do đó khi các chị KTGD lao động thì các bạn bên khoa Nông nghiệp phải đi kèm theo nhắc nhở, vậy mà cũng có nhiều người cắm ngược. Không biết có phải vì “lý do kỹ thuật” hay không mà cũng có nhiều đám khoai mì không mọc lên được, không chừng các anh “tự vệ” đã nhanh tay thu hoạch trước?

Việc trồng khoai lang khó hơn một chút vì phải lên vồng (dồng).

“Trên đất dồng , mình trồng khoai lang,

Trên đất dồng mình trồng dưa gang, 

Tủi thân con khỉ ở rừng,

Cuốc không lo cuốc lo dòm là dòm người ta,

Tang tình tang tính tình tang”

Tiếng anh bạn cùng lớp đang hát để trêu các anh khác đang đứng “ngẩn trông vời áo bà ba” của các cô nàng. Đột nhiên có anh la lớn, “Trời, chân mày sao mày không cuốc mà cuốc chân tao”, hoặc “Bớ ba hồn bảy vía mày T ơi, về đây ăn khoai vơí ráy”. Có người còn nói, “Nàng đi một nửa hồn nó đứng, còn nửa hồn kia nó sặc sừ”. Đấy, các anh bạn cùng lớp lúc nào cũng ráng đùa giỡn cho “đời bớt khổ”. Tuy cực nhưng cũng vui , vì những câu hò, giọng hát và những lúc đùa cợt với nhau cho “qua ngày đọan tháng”.

Buổi trưa tốp nữ tụi tôi ngồi ăn chung với nhau, đối diện phía bên kia là các anh. Một viên giấy chợt bay vèo qua, có cục kẹo nhỏ và hai câu thơ.

“Hát vài câu giải sầu con đom đóm,

Anh thương em, ôm ốm anh thương”

Tờ giấy bay qua , thì bài thơ cũng phải bay lại cho phải phép “bánh ít đi thì bánh qui lại”, tụi tôi cũng không vừa.

“Hát vài câu giải sầu con tôm tít,

Em thương anh đầu đít có một gang”

Cả bọn cười ồ nhìn anh thấp nhất trong bọn, “Thôi chết mày rồi D ơi”. Thế đấy, bọn mình chỉ đùa một chút cho vui thôi chứ cũng chẳng ai có ác ý gì cả.

Do trồng khoai ở xa trường nên đến gần đến ngày thu hoạch, mỗi tối các anh phải sang canh gác sợ dân vào đào trộm. Hình như các anh chỉ làm việc buổi chập tối vài tiếng đồng hồ rồi về ký túc xá ngủ. Không lẽ “cám treo heo nhịn” nên các anh nghĩ ra cách đào trộm khoai lang thế nào để không ai biết cả . Đúng là “giao trứng cho ác”, vì các anh thường nói.

“Nếu biết công ta đã cuốc trồng,

Ta thà thu hoạch trước hơn không,

Bụng ta thì đói , người ăn hết,

Thật uổng công ta đã cuốc trồng”

Các Bạn Của Tôi: Đi Ăn Giỗ

Nguyễn Ngọc Lan-74KNN

Năm đầu tiên theo học đại học Giáo Dục. Sau khi nghỉ Tết một tháng trời, trở lại trường vẫn còn không khí Tết, chưa ai có tinh thần cho việc học, Bạch Cúc rủ bọn tôi về nhà ở Bình Dương ăn đám giỗ. Ngày Chủ Nhật, Thu Hà, Kiều Hạnh, chị Mai Hương, chị Mỹ và tôi cùng đón xe đò, trên đường đi bọn tôi ghé nhà Hoàng Loan ở chợ Búng. Ban đầu tụi tôi tưởng ở đó chắc bán bún nhiều nên người ta mới gọi là chợ Bún, nhưng hỗng phải dzậy, ngay cả Hoàng Loan cũng không biết tại sao người ta kêu là chợ Búng (không phải chợ Bún). 

Chợ Búng có món đặc biệt rất ngon là Bánh Bèo Bì, bọn tôi được Hoàng Loan đãi một chầu no nê. Một dĩa bánh bèo đầy ắp với bì thit và nước mắm pha vừa ăn, đã làm sao đâu. Lần đâu tiên được ăn món này khi bụng đang đói vì phải đi từ sáng sớm nên ai cũng làm hết một dĩa đầy vun mà còn muốn ăn thêm nữa. Hoàng Loan nhắc: “Các bạn nhớ để bụng ăn đám giỗ, chứ ăn no bây giờ hồi nữa đến nhà Bạch Cúc ăn không nổi, nó rầy cho đó”. Thế là cả bọn đành phải tạm ngưng để chờ một dịp khác, nhưng rồi chẳng có dịp nào đến nữa cả.

Trong bọn chỉ có mình Hoàng Loan biết nhà, nên nhận nhiệm vụ dẫn đường. Đến nhà Bạch Cúc cũng đã trưa, tất cả đã chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi chỉ việc sà vào bàn tiệc đã dọn sẵn. Cũng là lần đầu tiên đi ăn đám giỗ nhà bạn là người Nam nên chúng tôi, bốn con nhỏ Bắc kỳ, có nhiều ngạc nhiên về những món ăn lạ miệng và ngon mà tụi tôi chưa hề được biết đến. Nhất là tôi, lần đầu nhìn thấy má của Bạch Cúc chiên mì xào dòn, tôi ngạc nhiên trố mắt ra nhìn. Lạ nhỉ ? vắt mì có một chút xíu, bỏ vào chảo dầu đầy, chưa đầy một phút nó nở lớn bằng cái dĩa bàn, trông thật hay. Đúng là như thằng mán trên rừng mới xuống tỉnh, thấy cái gì cũng lạ cả. Đám giỗ đã chuẩn bị từ mấy ngày trước nên thức ăn nhiều quá, đủ các món mà toàn là những món đặc biệt của người miền Nam khác với những đám giỗ của người Bắc và người Trung mà tôi đã được biết đến. Chẳng hạn như chả giò, người miền Bắc thì cuốn thành cái lớn, chiên xong rồi cắt ra từng miếng nhỏ . Còn trong Nam thì cuộn nhỏ chỉ vừa bằng ngón tay, ăn vừa một miếng mà không phải cắt ra.

Đặc biệt nhất là món gỏi cuốn. Bánh tráng nhúng nước rồi cuốn với rau sống, bún, thịt luộc, nem chua, hoặc nem nưóng, chấm với tương hay nước mắm pha chua chua ngọt ngọt tùy người thích. Tụi tôi bốn con nhỏ Bắc kỳ, ngồi nhìn nhau chưa bíết phải ăn làm sao cả thì Thu Hà nhanh tay nhúng bánh tráng, rồi bỏ rau, thịt luôc, bún vào cuộn, tụi tôi cũng bắt chước làm theo. Thấy Thu Hà cuộn xong cái cuốn to bằng cườm tay, bánh tráng vẫn không đủ kín, lòi cả rau ra, phải nhúng thêm cái nữa vá vào. Làm xong được cái cuốn đầu tiên bự tổ chảng, mới cắn được một miếng rau rớt xuống tùm lum. Bạch Cúc thấy vậy cười quá chừng nói: “Cuốn nhỏ như vầy nè, chứ cuộn cái bự như vậy làm sao mà cắn được”, cả bọn cười quá chừng. Bọn tôi chỉ cuốn theo cách cuộn chả giò của người Bắc chứ có ăn món gỏi cuốn bánh tráng này bao giờ đâu, đây là lần đầu nên có nhiều bỡ ngỡ. Sau khi nhìn Bạch Cúc cuốn cho xem, mỗi người biết cách tự cuốn lấy một mình một cách nhanh chóng và thuần thục, chẳng bao lâu dĩa thịt và rau hết trơn. Ngoài món gỏi cuốn, bọn tôi cũng chiếu cố tận tình tất cả những món ngon khác. Ăn xong ai nấy no quá chừng, cả bọn đòi đi một vòng cho biết chợ Bình Dương và cũng để cho nhẹ bụng, rồi mới chịu đón xe về Sài Gòn. Một ngày vui qua mau và kỷ niệm đẹp đó vẫn được nhớ mãi.

Sau này chị Mai Hương cũng có dịp làm món gỏi cuốn này cho cả lớp thưởng thức nhưng cuốn ở nhà sẵn rồi mới đem lên trường, vừa gọn và nhẹ. Chị làm món tương mới ngon làm sao đâu, chè đậu tán nhuyễn trộn với tương thêm ít đậu phụng rang giã nhỏ và một ít cà rốt xắt nhuyễn đã làm chua ngọt. Cả lớp được ăn một bữa rất ngon, uống nước vào là no tới chiều.

Sau này mỗi lần có dịp ăn gỏi cuốn ở nhà, tôi vẫn không quên được buổi đầu tiên món này ở nhà Bạch Cúc. Thân tặng các bạn của tôi bài thơ “con ễnh ương” để nhớ kỷ niệm ngày đó. Sở dĩ có bài thơ này vì ăn xong mấy cái gỏi cuốn, uống nước vào, bụng phình to ra như con ễnh ương vậy đó.

Vài món ăn chơi của ông cha ngày trước

Mẹ tôi còn kể về món kẹo mạch nha ướp hoa thủy tiên hàm tiếu trong lồng bàn phủ kín, để ông ngoại tôi và các bạn thơ mặc áo bông, áo kép nhâm nhi trà mạn hảo không ướp hoa, thưởng trăng. 

Cụ cũng thích loại rượu tắc kè do cụ Lang Giảng Võ ngâm. Tắc kè bỏ đầu, chân. Quý nhất cần giữ lại là đuôi và quả tim. Phải lột da, tẩm gừng và mật ong, rồi hong lửa cho khô, đậm màu. Sau đó mới đem ngâm rượu. Rượu tắc kè và các loại rượu rắn không bao giờ hạ thổ. 

Đây chỉ là sơ lược về vài món ăn chơi của các cụ ngày xưa. Gọi là món ăn chơi, nhưng nhiều món cũng có mặt trong cỗ bàn. Tiếc rằng tôi không được rõ về cách các cụ pha trà, và đây là một khiếm khuyết lớn.

Với các trưởng bối trong nhà, mẹ tôi học hỏi được nhiều nhất từ bà Phủ Ba, một bà thím dâu họ. Văn học cận kim đôi khi cũng có nhắc đến bà Phủ. Tuy bà là con gái của một vị thượng thư người Chàm, nếu tôi nhớ không nhầm thì đấy là cụ Chế Quang Ân, chính thống của hoàng gia Chiêm Thành, nhưng bà nổi tiếng khắp Bắc kỳ về tài âm nhạc, bếp núc. Nhiều tiểu thư danh gia phải cầu cạnh để được thụ giáo bà.

Lúc đầu mẹ tôi chỉ được gởi đến để học đàn tranh. Nhưng sau vì thấy mẹ tôi có năng khiếu, nên bà Phủ khuyên học thêm nấu nướng. Và bà Phủ không nhìn nhầm người. Từ năm mười sáu tuổi mẹ tôi đã đảm đương được các cỗ bàn trong dinh cụ Thượng.

Cỗ bàn ở các dinh trấn lớn thời trước cũng cầu kỳ không kém yến tiệc trong cung bao nhiêu về nét cầu kỳ. Người xưa trọng phẩm hơn lượng. Trọng sự tinh, quý, chứ không màng chuyện lòe loẹt, khoe khoang. Đĩa đựng đồ thượng thiện trên bàn ăn của các hoàng đế Nguyễn Triều không bao giờ rộng đến một gang tay.

Trái với sự nhầm lẫn của mọi người, các hoàng đế ở Huế không chuộng những món yến tiệc cầu kỳ cho lắm. Các đại yến 60 món, trung yến 40 món, và tiểu yến 30 món với ảnh hưởng Trung Quốc thường được dùng để đãi quốc khách hay các quan. Còn mọi món ăn thường ngày để hoàng đế ngự thiện (dùng bữa) có thể nói là đạm bạc. Theo như Mệ Bông, tức là bà Cẩm Hà, người có nhiều năm phụ giúp nấu ăn cho Hoàng đế Bảo Đại, thì nhà vua ăn uống cũng rất đơn giản.

Mệ đơn cử ra hai món ăn mà vị hoàng đế cuối cùng này ưa chuộng nhất. Một là món cá nục kho. Cá nục rửa sạch rồi ướp nước mắm, đường, ớt, và rau răm khoảng vài tiếng đồng hồ. Sau đó kho nồi đất thật ít nước trên lửa nhỏ, lâu khoảng hai giờ. 

Món thứ hai chỉ đơn giản là rau dền luộc chấm nước mắm. Để làm loại nước mắm này, kho cá cho nục, lọc lấy nước trong, sau đó trộn thêm nước mắm ngon, đường và ớt. Người Huế xưa ít khi bỏ chanh hoặc dấm vào nước mắm. 

Ngoài ra vua Bảo Đại còn thích món cháo gà hạt sen, và món cá bống thệ kho khô năm lần nước trong niêu đất, với tiêu, rau răm, đường, muối, nước đường thắng (nước hàng), mà theo các ngự y thì đây là món ăn có tác dụng an thần.

Quan trọng nhất trong đại, tiểu yến cung đình là các món tứ linh, thì món Long cũng chỉ là con cá chép hấp gừng, hành, tương Tàu, được trang trí với sừng bằng tre vót, nhuộm phẩm ngũ sắc; và vẩy, đuôi cắt bằng giấy tráng kim. Tương tự như thế, món Ly là khúc dưới chân giò heo, ninh măng, cũng cắm sừng tre vót nhuộm phẩm màu vào gốc hai móng, và vẩy, đuôi làm bằng giấy tráng kim. Món Quy là con bồ câu tiềm được gắn vẩy quy giáp bằng giấy tráng kim. Và món Phượng là con gà ri hầm bát bửu, với mào, cánh, đuôi bằng giấy tráng kim. Các món tứ linh thường dùng để bày cho đúng lễ mà thôi, chứ ít ai đụng đến.

Cỗ bàn ở các đại dinh trấn cũng có các món tứ linh này làm chủ, nhưng không có trang trí sừng, vẩy. Hiện nay trong các dịp giỗ, Tết ở Huế và ngoài Bắc ít nhất vẫn còn thấy món chân giò ninh măng có xuất xứ từ các đĩa tứ linh này.

Nếu nấu đúng theo lối cung đình thì có nhiều món dễ bị dân sính nhậu ngày nay chê là nhạt nhẽo, chán ngấy. Món chè long tu để giải nhiệt chẳng hạn, cây râu rồng khi nấu lên ra chất nhờn khiến nhiều người ghê sợ. Nhưng nó lại là thứ không thể thiếu được trong Nội. 

Theo các cụ kể lại thì từ đời Hàm Nghi trở đi, vì nhiều vị vua nhà Nguyễn đã có thời gian sống như dân dã bên ngoài cung cho nên trong Nội mới bắt đầu dùng các thứ nặng mùi như mắm để nêm thức ăn. Còn trước đó thì trong cung chỉ sử dụng tinh chất chảy ra từ muối hột, và dùng các vật phơi khô mà thôi. Đồ ngự thiện vì thế thật thanh nhẹ. Những món tẩy trần thì phải hoàn toàn tinh khiết. Thí dụ như món vịt hầm bát bửu.

Vịt dùng cho món này phải là vịt mái trắng, nuôi từ nhỏ bằng cơm nếp, rong tảo, nước mưa và giun cổ trắng rửa sạch. Khi vịt đẻ quả trứng không trống đầu tiên là phải làm thịt. Huyết vịt không ăn mà đem chôn. 

Vịt làm lông, để nguyên con rửa thật sạch trong ngoài, mổ moi và nhồi bát bửu rồi khâu lại cho kín. Bên ngoài vịt bỏ thêm sâm, hạt sen, ít lát cam thảo và vài con quy. Món này chỉ nêm bằng tinh chất muối, sá sùng, đường thẻ. 

Các dụng cụ nấu nướng trong cung trước thời Bảo Đại đều làm bằng sành, đất nung. Riêng món vịt này được nấu trong siêu đất loại to cho vừa con vịt. Nước mưa cho vào xâm xấp ngang tầm vịt rồi đun nhỏ lửa để nước chỉ sủi tăm. Hễ nước cạn gần hết thì lại thêm vào như lúc đầu, như thế khoảng sáu bảy lần. Lần chêm nước cuối cùng người ngự trù phải áng chừng cho nước cạn xuống vừa một cái tiềm nhỏ rồi chắt vào tiềm để dâng vua, quý phi, hay hoàng thái hậu. Xác vịt thì bỏ đi.

Món gỏi tôm chua phổ biến, hay còn gọi là gỏi Huế, cũng được dâng tiến vua quan thời cuối Nguyễn. Món này khi vào cung có đôi phần khác biệt. Tôm chua trong cung được làm với nước mắm chứ không bằng muối. Như thế hương vị tôm chua sẽ dịu hơn. Rau muống được trồng chui ống trúc, với đầu ống chúc xuống nhưng không đụng nước. Trồng thế này rau muống ngắn, béo, dòn, không cành lá và có mầu trắng nõn.

Ngoài các rau thơm, húng thường lệ của gỏi tôm chua, trong cung còn thêm vào món này loại cải lăn tăn, hay còn gọi là cải ngọc. Hạt cải được gieo vào đất phù sa trộn chút phân ải lâu ngày trong rổ, cho đến khi cây con cao khoảng một, hai phân Tây rồi lấy lá chuối có châm lỗ bọc kín ánh sáng. Thỉnh thoảng nhúng rổ vào nước rồi treo lên trong chỗ râm mát. 

Khoảng một tuần sau, khi ăn gỏi, lá chuối được gỡ ra. Trong vài phút những cây cải con trắng như ngọc sẽ tự đứng dựng lên. Rửa cải con cả rễ cho sạch. Bún, đọt rau muống, khoai lang trắng luộc thái dọc bằng cây đũa, rau húng và rau cải được cuốn chặt bằng bánh tráng thấm nước rồi cắt thành từng khúc ngắn vừa miếng ăn. 

Xếp các khúc gỏi này đứng thẳng trên đĩa. Trên mặt mỗi khúc gỏi bầy một lát thịt lợn ba chỉ luộc và một con tôm chua bỏ đầu. Nước chấm thì được trộn năm phần tương đậu với một phần ruốc. Cho thêm đường và ớt màu rồi nấu chín.

Cách làm món lạc (đậu phụng) rang để vua dùng khi xem tuồng cũng thú vị. Lạc Nghệ tròn hột được bóc vỏ cứng, chỉ giữ lại vỏ lụa. Ngâm lạc vào nước tinh chất muối ba đêm hai ngày (ba sương hai nắng) rồi đem phơi khô ở nơi râm, thoáng. 

Cho dầu lạc vào nồi đất trên bếp nóng để dầu thấm vào nồi, rồi chắt bỏ chỗ dầu dư thừa. Cho hoa hồi vào rang cho đến lúc mùi vị và dầu hoa hồi thấm vào nồi thì bỏ hồi đi và cho lạc vào rang. Khi lạc chín muối bên trong sẽ bao thành một lớp trắng ngoài vỏ, dễ tróc. 

Gói lạc rang vào những vuông lụa mỗi cạnh khoảng 20cm, mỗi miếng vải chứa 20 hột, buộc túm lại và treo ở chỗ thoáng mát. Khi vua và hoàng thái hậu xem tuồng sẽ dâng, nhưng thường thì các ngài ngự chỉ dùng hai ba hột làm vì mà thôi. Còn bao nhiêu thì ban cho các phi tần và quan khách.

Ký ức trường xưa -3.

1.10 Trò chơi của quỷ (chương đầu Nơi hội tụ của Quỷ)

Đến gìơ này tôi có thể khẳng định, không có ở đâu mà “đầu ra” của con người lại khổ như chúng tôi hồi ấy. Do ăn không đủ nên “ị” đâu cần phải quan tâm… theo tiêu chuẩn Việt Nam, 30 người/ 1WC nhưng cả trường Phan năm ấy chỉ có nhà tập thể gồm 6 buồng WC hạng Delux nên thôi thì đủ kiểu cho qua chuyện… cho mấy trăm con người chen chúc. Nên nói cho cùng, các thầy cô lại là người khổ nhất mà thôi… ơn Chúa.

Thường thì, chúng tôi chơi trò Quận công… khoảng 10 giờ đêm rũ nhau đi làm quan chơi. Có lẽ, do trường Phan nằm trên bãi tha ma nên nhiều người đắc tội, có lẽ nếu không chí ít có kẻ phải là ông này, bà nọ lâu rồi thì phải…

Chị em thì đi một mình không dám, không gặp quỷ mà gặp người cũng đã toi rồi… nhưng rủ thêm “bọn coi trai” thì gượng chết.. ại lại chơi trò tập thể như vậy, tiếng tăm lọt sang Vinh1 có mà ế chồng. Nhưng không lẽ, suốt đời không đi “ị” hay chính xác hơn là chui đầu vào nhà xí công cộng. Thôi thì liều… chúng tôi đi thành đoàn, đến bãi chiến trường thì thống nhất chia thành 2 phe, kiểu như thời Tam quốc, quay lưng lại với nhau để khỏi nhìn thấy khuôn mặt đang phừng phừng đáng ghét của hắn… Luật chơi trò Quận Công là cấm quay mặt lại với nhau, nếu vi phạm là giận luôn, mai hết được mời tham gia…Nhưng sao lại nửa đêm còn ngồi như quỷ sứ cả đàn thế kia ?.. Gặp người quen thì chỉ có mà độn thổ xuống đất. Thôi thì tranh thủ.. học Nga văn: ết tờ đôm, Các vác gia vốt… quay lưng mà hội thoại với nhau có lẽ chỉ có ở Trường Phan. Nhưng tôi nhớ không nhầm, có lần chào cờ đầu tuần chúng tôi đã được khen: Có tinh thần ham học, giải lao học Toán – Văn chuyển sang học ngoại ngữ… Tôi xin thay mặt những đứa trò hư, xin thú nhận mình đã cả gan lừa thầy, chính xác hơn là các thầy vi phạm quy định “muốn khen phải nhìn tận mắt, bắt tận tay…”

Tội nhất là những đêm trăng dịp rằm. Đến tháng thì trăng tròn mà chúng tôi thì không thể chờ đến ngày trăng mờ… Càng gió Lào, trăng càng sáng, sáng xanh mặt người… thế là thấy hết, không cần ngoảnh mặt lại mà chúng tôi chúc, chúc đầu nhìn ngược lại như mấy con vịt ngoài bờ ao.. Có lần, tôi thề dưới ánh trăng, bốn mắt chan chứa nhìn nhau một cách vụng dại…thực ra chỉ có cánh đàn ông là thiệt, bởi ở cự ly 3-5 m, “của quý” của các ông dễ bị phát hiện hơn, đối chiếu với bài Sinh vật của Cô Nghĩa thì đúng vậy…

Không biết, bao nhiều đôi lứa yêu nhau và thành vợ thành chồng bắt đầu từ trò chơi Quận Công này không nhỉ? Riêng tôi, có… 

Hàng năm, duy nhất rằm tháng 7 – Ngày xá tội vong nhân, tôi sợ không dám đi làm Quận Công, nên đến nay ăn thì đủ nhưng phần mặc thì vẫn chưa…

Chương 3 Nhìn lại thời gian 

Tôi muốn dành hẳn một chương trong bộ Ký ức trường xưa để cho các anh, các chị viết về những sự kiện (chứ không phải con người) đáng nhớ nhất của năm tháng học ở Trường Phan. Xem ra, tôi và bạn… đều có 3 năm gắn bó với trường ấy nhưng không phải đã hiểu hết về trường ấy, đã có những hiểu biết đúng về trường ấy.

3 năm là hơn 1.000 ngày… rồi mấy chục năm lùi xa, nhìn lại…Buồn vui lẫn lộn. Điều kỳ diệu nhất thôi thúc thôi cầm bút, vui cùng các bạn chính là qua trang này, gặp lại những kỷ niệm xưa, người cũ… với những cung độ tình cảm khác nhau. 

Ký ức trường xưa chỉ hay hơn, phong phú hơn khi các anh, các chị góp tay vào.

Xin nhắc lại kết cấu của topic

Chương đầu. Nơi hội tụ của Quỷ

Xuất xứ trường Phan, Quỷ sống, chơi và có thể cả học

Chương 2. Gương mặt người

Thầy giáo cũ, cán bộ trường xưa…

Chương 3. Nhìn lại thời gian

Những sự kiện ấn tượng thời chúng ta là học trò trường Phan

Chương 4. Đọng lại tình người

Những kỷ niệm, những người con trường Phan sau khi rời ghế nhà trường.

Bác nào viết về chương nào thì đánh số kiểu 1.1, 2.5…v.v

Trân trọng kính mời

3.1 Âu cũng vì cái nghèo

Trường Phan có một khu gia đình, nơi các thầy cô và các bác phục vụ sinh hoạt. Nói thật, như vậy là bất tiện vì môi trường sư phạm vốn nhạy cảm mà đời thường lại lắm va chạm không lường trước được. Đời càng nghèo lại càng lắm tai ương…

Tối qua nếu thầy lỡ có tiếng to với bà hàng xóm, đến tai học sinh.. mai lên lớn tính sao đây. 

Chiều vừa dành nhau mấy bụi rau muống với bà cấp dưỡng, tiếng bấc, tiếng chì mai lại lên lớp giảng về tình đồng chí, đồng bào… nghe sao mà khó.

Nhưng mà không tranh nhau, tuần sau bỏ gì vào nồi cho con đây, lương ba cọc, ba đồng tiêu sao đủ…

Xét cho cùng, ngày trường Vinh 1 bên cạnh đó, cũng không hơn là mấy… nhưng họ còn cách khu giảng đường cái đường 3 m. Thôi thì, trong cái khu vực ấy, ai chửi nấy nghe…

Thương các thầy cô của chúng tôi ngày đó quá..

Cha ông ta đã từng đấm nát tay

trước cửa cuộc đời

Cửa vẫn đóng

Và Đời im ỉm khoá

Cả dân tộc 

Đói nghèo trong rơm rạ

Văn Chiêu hồn còn thấm giọt mưa rơi

Có những trải nghiệm cuộc đời mất mấy chục năm, giờ đây con lại thay các thầy bước lên bục giảng, mới thấm hiểu nỗi lo đời thường oằn lên trang giáo án. Xin dùng dòng chữ này thay lời thú tội và xin lượng thứ bởi suy nghĩ trẻ con ngày còn trẻ thơ của chúng con.

@VoViet: Chuyện đói ở trường Phan.

“…Mẹ ơi sao con đói thế này

Bút cầm xiêu vẹo, chữ lung lay

Thư con viết trong cồn cào cơn đói

Mẹ ạ, sao con đói thế này…”

Cái thời chúng tôi học ở trường Phan là giai đoạn khó khăn nhất về kinh tế của đất nước. Nhà nhà thiếu mặc, người người không đủ ăn. Chỉ trừ những gia đình có thân nhân ở nước ngoài,đi tàu viễn dương, bố mẹ làm trong ngành thương nghiệp hay buôn bán nhỏ thì đời sống khá hơn. Còn lại gia đình cán bộ, công nhân viên chức, bộ đội, giáo viên…thì thiếu thốn đủ bề.

Học sinh trường Phan ngày đó cũng được xếp vào loại học sinh quý sờ tộc, nghĩa là đã đỗ vào trường, bất kể bố mẹ làm gì đều có tiêu chuẩn mỗi tháng 13 cân gạo, dù so như vậy cha mẹ cũng đỡ được một phần. nhưng có nhiều thời điểm thì cái tiêu chuẩn 13kg đó bao gồm cả ngô, sắn, hạt mỳ (bobo)trộn lẫn. Và chất lượng gạo của ngày đó thì khỏi phải nói- đã có tên gọi là

“gạo mậu dịch” mà. Tôi cũng có được khoảng hơn nửa kỳ sống trong nội trú và cũng được nếm trải cái “buồn, vui, sướng, khổ” của học sinh nội trú trường Phan ngày ấy.

Trong các bữa ăn của chúng tôi, mỗi người được khoảng 2 lưng bát cơm, độn với ngô xay hoặc sắn lát. Mỗi mâm 6 người được 1 chậu cơm độn và 1 chậu canh, thỉnh thoảng có thêm vài con cá trích kho mặn- đó đã là sự nỗ lực của Đinh đại nhân với đám học trò thân yêu rồi, vì tiêu chuẩn thì chỉ có gạo thôi, còn thức ăn các thầy phải đi quan hệ, vận động mới có được tý chút.Hầu như hôm nào trong cái chậu cơm chúng tôi cũng phải nhặt ra hơn chục con sâu gạo, và bát cơm bưng lên miệng còn mang đầy mùi ẩm mốc…

Trong nội trú thì cũng chia thành hai dòng: dòng quý sờ tộc và dòng con nhà thảo dân.

Dòng quý sờ tộc thì mỗi tuần về nhà bố mẹ còn trang bị thêm cho vài cân gạo để nấu ăn sáng, ít muối lác hoặc ít ruốc (thịt băm nhỏ rang mặn) để ăn thêm với cơm nhà bếp.

Học sinh quý sờ tộc có thể cắt cơm nhà bếp, nhận gạo về, mang về quê đổi lấy gạo trắng và hàng ngày nấu ăn bằng bếp dầu (thường cứ vài chú thì nấu chung một nồi). Nguồn rau xanh có thể buổi chiều ra mua rau ế, rẻ ở chợ, có thể chờ đến đêm khi các thầy trong trường đã đi ngủ thì ra “xin” một ít. Học sinh quý tộc có đầy đủ các bữa ăn sáng với cơm nấu bằng bếp dầu, ít muối lạc hoặc nước mắm. Thỉnh thoảng họ có thể tự cải thiện bằng cách đổi 1 bơ gạo lấy một đĩa bánh mướt để ăn cho ngon miệng.

Còn những học sinh con nhà thảo dân thì chỉ dựa vào cơm nhà bếp, ít muối lạc (muối nhiều hơn lạc) và nguồn rau xanh, bầu bí của các thầy cô , cán bộ trong trường và cá ở dưới ao trường được thu hoạch một cách bí mật vào khoảng 2-3 giờ sáng…

Xung quanh chuyện tự cải thiện đời sống bằng cách mạn phép thầy cô và nhà trường khai thác nguồn sau xanh và thủy sản này có rất nhiều kỷ niệm, rất nhiều giai thoại mà hẳn những anh chị, những bạn học vào khoảng k11- k17 còn nhớ.

Vậy mà ngày ấy chúng tôi vẫn học một cách say mê, đêm thường thức đến 2-3 giờ sáng để học, sáng dậy mắt đứa nào cũng đỏ dọc, lỗ mũi đứa nào cũng đen sì vì muội đèn dầu…

Vào những năm 80 của thế kỷ trước học sinh trường Phan hầu như ai cũng đã vài lần phải đi nhặt phân, cắt cỏ để nuôi cá ở ao trường.

Nghe nói đây là sáng kiến vĩ đại của thầy X- người mà đã được nhắc đến trong box này và nhiều bạn có thể biết rõ  

Hàng tuần các lớp phải cắt cử học sinh đi trực đêm để canh trường và canh ao cá. Vấn đề này có hai mặt, đối với những bạn nào ngoan hiền và sợ ma thì rất khó chịu, thấy đó là một cực hình và nhiều vị phụ huynh cũng phản đối về chuyện này rất nhiều. Còn với các đôi “trai tài gái sắc” có tình ý với nhau từ trước thì đây là những cơ hội hiếm hoi để học được gần nhau giữa cái mênh mông của đất trời, cái im lặng nên thơ của đêm và cái du dương của những bản nhạc côn trùng. Và trong những đêm tối đó họ ngồi bên nhau làm gì và nói gì thì chỉ có họ biết, trời đất biết, ma quỷ trường Phan biết và thầy X (may ra) mới biết…

Thầy X là người rất tích cực trong biệc điều tra, nghiên cứu và bắt quả tang các học sinh vi phạm nội quy của trường và một số quy định thầy đưa ra, ví dụ: đi xe đạp trong trường bị phạt phải mang đến 1 bao tải phân hoặc hai bao tải cỏ; nói bậy, chửi thề cũng vậy (may quá, nếu thầy X mà vào diễn đàn này thì khối đứa phải méo mặt vì bị phạt đi nhặt phân đây)…

Xin trích nguyên văn câu chuyện kể của một thành viên NKNT là người đã sống vào thời kỳ đó ở trường Phan và nhớ rõ về những chuyện này để các bạn cùng hoài niệm: 

Quote:

Từ nguồn Phong Lục K15:

Chuyện trực cá đêm và chàng Ng. sợ ma 

Đầu tiên xin quý vị hãy thả ký ức về những năm tháng Trường Phan thân yêu. Ở đó, ngoài những bài giảng bổ ích của các thầy cô giáo, còn đọng lại trong ta những hình ảnh thân thương gì? Không biết với quý vị là gì , còn tôi có lẽ suốt đời tôi không thể quên được hình ảnh hồ cá bên cạnh những lớp học của chúng ta, một hình ảnh trực quan minh chứng sinh động của chiến lược giáo dục “học đi đôi với hành”,”lý luận đi đôi thực tiễn” những năm đó của hệ thống giáo dục đất nước ta, tỉnh ta, trường ta.

Nhưng, lại cũng thật thú vị là từ cái hồ cá đó tôi và một số bọn con gái lớp Văn phát hiện nhiều bí mật về bọn đàn ông lớp văn, câu chuyện mà các quý vị sẽ được nghe ngay sau đây.

Mùa hè năm lớp 10, như mọi mùa hè khác, nhiệm vụ của lớp tôi( và cả nhiều lớp khác) là thay phiên nhau trực hồ cá buổi đêm . Trước khi nói về những buổi trực cá( hình như phải trực là để canh cái bọn nội trú ra bắt cá trộm của trường chứ có ma nào ở ngoài nó vào bắt cá) thì ký ức của tôi lại đau đáu nhớ cái tâm trạng lo lắng của những buổi đi nộp phân( bò,trâu) cho nhà trường để thả cho cá. Hình như có một điều mà không khiến các vị thầy cô nào ở trường Phan cần quan tâm là mặc dù chúng ta đều là nông dân, con em nông dân, lớn lên ở nông thôn là chính, nhưng khi đã là học sinh trường Phan thì chúng ta buộc phải trở thành những học sinh thành phố. Mà thưa các vị,làm cái thân phạn học sinh thành phố tôi sướng ít, khổ nhiều. Khổ nhất là những buổi nộp phân cho cá. Lấy đâu ra phân bò, phân trâu ở thành phố văn minh?Nhân đây tôi cũng muốn hỏi quý vị, hồi ấy các vị đã thường lấy phân ở đâu để đóng cho trường?Mỗi tuần, mỗi tháng cứ đều đều định mức 20kg/người?Còn tôi và mấy đứa cùng lớp,là Gi.ke,(cô bạn thân hết sức tiểu thư của tôi, mà chỉ cần nghe chữ Phân đã nôn oẹ, suýt ngất, như thể nàng chưa bao giờ có cái thứ này!!!) và Ng.ngất(nhân vật mà sẽ xuất hiện chính ở phần sau đây cua câu chuyện), cúng tôi đạp xe đạp vào tận trong làng chi chi đó, là người quen của mẹ Gi.ke, ở Hưng Nguyên. Nhà ấy có một chuồng bò to đùng. Trời ơi, mắt chúng tôi sáng rực( hình như chỉ mỗi mắt tôi).Cơ man nào là phân, cái thứ mà chúng tôi mơ cũng không nhìn thấy trên đường phố Vinh. Chúng tôi( chính xác là chỉ tôi) vội vàng xúc lấy xúc để, kể cả hứng rổ vào tận đít con bò để nhận lấy những bãi

phân nóng hổi . Và xe đạp bon bon hân hoan về thẳng Trường Phan, nơi những chu cá mè ranh đang há mõm chờ đợi

Ngay sau khi được biểu dương đã nộp đủ phân tiêu chuẩn tốt, chúng tôi được phân công trực đêm hồ cá. Lại nhóm tôi,Gi.,M. và Ng.ngất.(Thừa nhận là hồi đó tôi, Gi.ke và Ng.ngất rất thân nhau,nên trực đêm cũng đi với nhau).Bọn nó thường hù là ở Trường Phan lắm ma vì nguyên xưa kia đó là một nghĩa địa. Sự thật thế, vì chúng tôi lao động đã đào được nhiều mảnh sành, xương người….Nhưng chúng tôi không sợ vì đã có một thằng đàn ông đi kèm. Sợ quái gì…

Màn đêm buông xuống, thị sát quanh hồ, không thấy đứa nào trong nội trú ra trộm cá, chúng tôi yên tâm đi ngủ. Ngủ ở đâu, thưa các vị , đó là ghép bàn học lại và nằm dài. Ba đứa con gái rất yên tâm vì chàng Ng.bảo: Chúng mày cứ ngủ đi, tao nằm phía ngoài canh cửa cho!( Ôi thật sung sướng làm sao, khi đời chúng mình được một chàng trai bảo vệ!). Phía trong, nàng Gi.ke thỉnh thoảng rên lên khe khẽ, (nàng này có một đặc biệt là sướng cũng rên mà sợ cũng rên, nên chả biết đường nào mà lần). Tôi và M. phải cho nàng nằm giữa, kẹp chân tay nàng lại để nàng yên tâm ngủ. Phía ngoài kia thỉnh thoảng nghe tiếng đập muỗi bèn bẹt của chàng Ng. và tiếng thở khá gấp. Chắc là hắn cũng xốn xang đây…

Nhưng kệ, chúng tôi yên tâm ngủ. trời ơi, chưa có một giấc ngủ nào say sưa và đẹp đẽ đến thế. Nàng Gi. ke thỉnh thoảng mơ ngủ, thích thú điều gì giật nẩy người hết toáng, nước dãi chẩy trắng hai bên mép…Và lại say sưa ngủ. Nhưng khoảng bốn giừ sáng, bỗng có một vật gì chọc bên hông Gi. ke, nàng thét lên Trộm trộm, trộm cá….(cá ngoài hồ chứ cá quái nào ở đây!!!!). Theo phản xạ , cả ba chúng tôi nhỏm dậy, hướng ra phía cửa kêu lên : Ng. , Ng. ơi, đâu rôi, có trộm. Trong cơn hốt hoảng, chả thấy chàng Ng. đâu, chỉ nghe tiếng thở hổn hển bên cạnh : Tao đây. im mồn đi, hình như có ma ở ngoài, sợ bỏ mẹ.Trời ơi, hóa ra, chàng Ng. của chúng tôi, nằm phía ngoài không sao ngủ được vì sợ ma, và không có cách nào khác hắn quyết địng chui vào nằm giữa ba đứa con gái chúng tôi cho đỡ sợ. Thôi, sự thể đã thế thì để cho hắn ngủ một lát. Và, như các bạn đã thấy. Sau cái đêm được ba đứa con gái chúng tôi kèm ngủ nên đến tận bây giờ hắn vẫn chưa lấy được vợ….

Tuổi thơ 7X ở Hà Nội

Năm 1979, bố đi công tác Sài Gòn, mua được cái tivi cũ đen trắng Sanyo 14” quả là chuyện kinh thiên động địa. Lúc đó đã có mấy nhà trong xóm có tivi đâu. Ăn cơm chiều xong, tôi tự ngồi vào học bài thật nhanh để 7h được ngồi trước tivi thưởng thức chương trình Những bông hoa nhỏ.

Gia đình tôi là một gia đình công chức như bao gia đình thời đó. Bố mẹ mải mê đi làm cũng chỉ đủ nuôi chúng tôi ăn học chứ đừng mơ những thứ xa xỉ như đồ chơi hay quần áo đẹp.

Nhà có 3 anh chị em, tôi là con út nên phần nào cũng được ưu tiên hơn. Nhưng tôi cũng hiểu và thương bố mẹ tranh thủ giờ nghỉ hoặc tan làm phải xếp hàng mua chút thịt cải thiện cho bữa ăn gia đình, xếp hàng mua mớ rau, phần ngọn người ăn, còn phần già băm cho lợn, thương anh trai khi anh phải dậy thật sớm để ra máy nước công cộng xếp hàng lấy từng xô nước rồi sau giờ học lại tất tả xếp hàng mua dầu hỏa, nước mắm, chị gái dậy từ 3 giờ sáng để ra cửa hàng gạo xếp hàng mua gạo, trong khi giờ đó tôi còn ngon giấc. Từ “ xếp hàng” là từ xuất hiện nhiều nhất trong từ điển thông dụng, hoặc nếu thời đó có Google, chắc nó sẽ có đứng đầu trong cái công cụ tìm kiếm.

Chỉ đôi ba lần tôi phải đi mua thực phẩm bằng bìa C của bố. Nơi bán cho cán bộ có bìa C là chùa Kim Sơn ở góc phố Kim Mã - Giang Văn Minh bây giờ. Cửa hàng thực phẩm đó dành cho tiêu chuẩn ưu tiên, không cần phải xếp hàng nên tôi có thể đi bất kỳ lúc nào. Ra đó rồi chìa cái giấy mà bố mẹ đã cẩn thận gói trong túi ni lông cho tôi, đưa cho cô mậu dịch viên rồi cầm thịt về. Đơn giản vậy thôi nhưng với tôi lúc đó như là một chiến tích vậy. Còn những loại tem phiếu khác, với tôi, chúng là một bảng màu đủ sắc hồng, vàng, xanh, đỏ. Mẹ thường nói vui với tôi rằng bảng màu đó là sự sống của cả gia đình. Đấy thực sự mới là cuộc sống muôn màu.

Nhà nuôi lợn, đó là nỗi vất vả của cả nhà nhưng lại là niềm vui của tôi. Anh chị phải sang hồ Hào Nam vớt bèo cho lợn ăn, bố mẹ tranh thủ giờ nghỉ trưa đi mua cám, còn tôi, tôi chăm sóc lợn bằng cách lấy nước dội chuồng, tắm cho nó và lấy lược chải lông. Con lợn vì thế rất thích tôi, mỗi khi thấy tôi là nó lại nằm uỵch ra sàn để chờ tôi chải lông cho nó. Nó là bạn mỗi khi cả nhà đi làm và đi học. 

Buổi sáng, bố mẹ đi làm, anh chị đi học nên tôi thường xuyên ở nhà một mình, với cái khóa cửa to lù và chìa khóa treo lủng lẳng ở cổ.

Đến giờ vẫn không hiểu tại sao phải khóa cửa khi mà trong nhà chả có vật gì gọi là đáng giá. Nhà chỉ có giường tủ, bàn ghế, 1 cái đài được treo trên tường giữa 2 phòng của căn nhà và tài sản lưu động là con lợn. Ờ, hay là sợ bị trộm bắt lợn ???

Đến trưa anh chị đi học về, nấu cơm cho tôi ăn, cho tôi ngủ rồi đến chiều, tôi tự đi học. Thời đó, kể cả là lớp 1 thì cũng tự đi bộ đi học chứ đâu có xe đón xe đưa như giờ.

Phương tiện thông tin giải trí duy nhất của cả nhà lúc đó là cái đài phát thanh to bằng quyển từ điển Anh Việt loại dày. Vì thế nên đến giờ tôi vẫn nhớ như in giờ các chương trình như 6h30 sáng thứ Bảy và Chủ nhật là có chương trình Chuyện kể ở đại đội, 7h tối thứ 7 là chương trình kể chuyện cảnh giác, 4h30 chiều hàng ngày là chương trình dân ca và nhạc cổ truyền, 10h tối là kể chuyện đêm khuya hoặc tiếng thơ…

Đến năm 79, bố đi công tác Sài Gòn, mua được cái tivi cũ đen trắng Sanyo 14”. Trời, quả là chuyện kinh thiên động địa. Lúc đó đã có mấy nhà trong xóm có tivi đâu. Ăn cơm chiều xong, tự ngồi vào học bài thật nhanh để 7h được ngồi trước tivi thưởng thức chương trình Những bông hoa nhỏ. Từ 7h đến 9 – 10h tối, nhà tôi lúc nào cũng chật ních người, trong căn phòng 12m2 có cái tivi để ở vị trí thật là trang trọng. Hàng xóm từ lớn đến bé, ngồi trật tự, chăm chú như nuốt từng lời của phát thanh viên truyền hình hoặc lời thoại của nhân vật trong bộ phim hay vở kịch được trình chiếu. Cả xóm lúc đó hình như có 3 cái tivi, mà ngồi trước nó, bao giờ cũng là đám đông ngưỡng mộ như vậy. Thật lạ là chủ của mấy cái phương tiện truyền thông đó không bao giờ cảm thấy phiền hà gì khi nhà mình tối nào cũng chật ních như vậy. Tình người thời đó thật đáng ngưỡng mộ gấp nghìn lần cái máy phát hình.

Xóm tôi ngày xưa bé tí và ngắn, không dài miên man như bây giờ. Mọi người trong xóm biết hết nhau, tên của nhau cũng thuộc kể cả đứa trẻ bé tí. Nhà nhà cách nhau cái giậu dâm bụt, cổng tự chế bằng những thanh tre được buộc vào nhau bằng những sợi dây thép. Cây cỏ hoa lá vô kể. Ngày đó buổi tối hay mất điện. Bọn trẻ chúng tôi chỉ chờ ánh điện tắt phụt là xông ra đường với bao trò chơi thú vị: ném ống bơ, bịt mắt bắt dê, trốn tìm… Hôm nào đúng tuần rằm có trăng thì đúng là thiên đường với chúng tôi.

Rằm Trung Thu, mẹ thường làm cho tôi bông hoa sen bằng quả bưởi để đi góp cỗ cùng các bạn trong xóm, để rồi thật tự hào với bọn bạn khi bọn chúng khen mẹ mình khéo tay quá. Đèn ông sao chơi hết năm này qua năm khác, hết Trung thu, bố lại lấy ni lông bọc vào rồi cất lên gác xép cho tôi. Trung thu năm sau lại mang ra chơi tiếp, vẫn mới như thường.

Tết là khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong năm. Bố mẹ luôn chắt chiu để các con có bộ quần áo mới. Rục rịch mua lá dong, gạo nếp, đỗ xanh và thịt để chuẩn bị nồi bánh chưng. Mẹ chuẩn bị bột mỳ, đường, trứng để chị mang đến hiệu làm bánh quy gai của nhà bác ở phố Huế. Chiều 30 Tết, nhà lúc nào cũng đông vui vì các bạn của anh trai tập trung ở nhà tôi thành thông lệ. Sáng mùng 1 Tết, thò cổ ra ngoài cửa hít hà cái mùi của bánh pháo mọi nhà vừa đốt và không khí lành lạnh của Năm mới, thấy cuộc sống thật đáng yêu. Được xúng xính quần áo mới và đi chúc Tết nhà các bác, cô chú, nhận chút tiền mừng tuổi rồi cất thật kỹ. Thế mới là Tết chứ.

Cứ thế, tuổi thơ của tôi đồng hành với những câu chuyện nhỏ nhặt như thế, nhưng chẳng bao giờ quên được. Nhưng thực lòng tôi không hề oán trách gì cuộc sống lúc đó. Nhờ có nó mà anh chị em chúng tôi lớn lên và trưởng thành với tình yêu thương vô bờ của bố mẹ. Ai đó đã nói một câu thật chí lý: có được mọi thứ hiện tại, là nhờ quá khứ.

Nhưng cuộc sống vẫn đơn thuần là cuộc sống. Đến giờ đã là vợ, là mẹ, tôi cũng phải tuân theo cái quy luật và dòng chảy của hiện tại. Đi chệch ra khỏi cái quy luật đấy, mình sẽ trở thành người đến từ Sao Hỏa trong mắt mọi người xung quanh.

Thôi thì đành hoài niệm trong tâm thức vậy. Vâng, tôi là người luôn hoài niệm với quá khứ, dù hạnh phúc hay đau buồn, dù sung túc hay khốn khó, nhưng nó vẫn luôn là một miền ký ức đẹp trong tôi.

âu chuyện của bạn về Máu và Rau đã đưa mình trở lại những tháng ngày gần 40 năm về trước.

Khi chúng ta còn chốt ở An Tiêm, Chợ Sãi, những khi ở ngoài để bổ sung, củng cố sau những ngày trong chốt, hàng đêm chúng tôi ra bến sông gùi đạn, lương thực về nếu không sẽ phải đưa cơm cho các đơn vị trong chốt. Biết anh em trong chốt thèm rau chúng tôi cố gắng hái nhiều các loại rau như muống, dền, đay, mùng tơi ở cứ tại Đầu Kênh, Phương Ngạn... Nhìn anh em bẻ nắm cơm ăn với những ngọn rau mang vào và hình như ai cũng hỏi:" Rau chỉ có thế thôi à !!!" . 

Khi ra Cửa Việt, trên là trời dưới là cát, rau cực kỳ hiếm. Ngoài cồn cát xen lẫn những bụi cây dại gai góc có 1 số cây lá chua. Lá này hái về nấu 1 nồi canh lõng bõng với thịt hộp cũng dễ nuốt. Phát hiện được cây này là phải giấu chỉ có trong tiểu đội được biết vì đâu có nhiều. Có 1 thứ cũng thay được rau là xương rồng bà (loại bẹt bẹt có gai) tước hết vỏ xanh rồi đem ngâm mấy ngày cho hết nhựa dùng thay rau cho đỡ cảm giác thèm. Đại đội bắt trồng khoai để tự túc lương thực, mà rồi thò ra ngọn lang nào là mất ngay ngọn đó vì lính hái trộm. Mỗi tiểu đội có 1 khoảnh đất để trồng rau. Đất được gùi về, rau muống hạt đựoc gieo và mọc lên trong mồ hôi, công sức của lính tráng. Nói ra thì bảo mất VSATTP nhưng quả thực nếu không có nó chẳng hiểu rau sống bằng gì. >:( 

Sau này mỗi khi Bùi Thanh Phong từ Lao Cai về HN mang theo rau dớn (một loại rau quý tộc của lính), là mấy anh em e95 a-lô cho tôi đến nhà Đức com-lê hay Sơn bạc . Lấy cớ có rau rừng để gặp nhau nhớ lại ngày xưa và tha hồ chém gió    ;D

Còn cây móc như bạn nói mình đã nghe rất nhiều về loại cây này mặc dù chưa được thưởng thức. Khi Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết nổi chiếu Cần Vương và ra vùng Sơn Phòng tại Quảng Trị, Quảng Bình và Hà Tĩnh, các tùy tòng của của vua HN đã lấy lá đùng đình làm lán ngủ cho vua, đọt của nó thay rau và củ của nó lấy bột thay cơm, bẹ của nó tước lấy sợi thay chỉ khâu cho quần áo khỏi rách. Vua Hàm Nghi đã đặt tên cho loại cây này là cây Trung quân (trung thành với vua).ỘT THỜI MÁU VÀ RAU

             Đầu năm du xuân lên vùng cao, một người bạn đem về làm quà cho tôi một nắm rau rừng. Lẫn trong mớ rau mơn mởn ấy, có cả rau tầu bay quen thuộc với các thế hệ lính đã từng  trải qua mấy mùa kháng chiến.

           Chẳng hiểu tên khoa học của loài cây này là gì, chỉ biết anh em quen gọi là tầu bay. Nghe nói thời chống Pháp, các bác lính vệ quốc thấy nó mọc nhan nhản quanh hố bom nên gọi  như thế, lâu ngày thành tên.

          Thực ra gắn bó với lính không chỉ có rau tầu bay,  còn rất nhiều các loại rau rừng khác, đã giúp bộ đội vượt qua muôn vàn khó khăn thiếu thốn trong kháng chiến trường kỳ.

           ...............

       Luộc nắm rau rừng bạn cho, rót một chén rượu mạnh, tôi nhấm nháp cái vị đăng đắng xa xưa, cố tìm  trong ấy  chút dư vị ngọt bùi. Nhấm nháp luôn cả những kỷ niệm của một thời trai trẻ,      Máu và Rau.                                                                                           

Cảm với bài “ Máu và Rau “ của Như thìn  và  đôi  điều tự sự 

                 Lính và  rau rừng  

   Nhiều người lính, mỗi  khi trở lại chiến trường đều muốn được  tìm ăn một bữa... “ rau rừng “. Nó  đã mang theo kỷ niệm của người lính thời trai trẻ .

   Nếu kể về rau rừng của lính,  Rau tàu bay là loại đã  được nổi danh  từ trong  cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nó có thâm niên  dài nhất và gắn bó với lính nhiều thế hệ.

   Theo  ẩm thực thì ngoài rau dớn,  đầu bảng  là  rau môn thục -  có thể ăn  cả dọc lẫn củ,  vì có chất bột nên có thể vừa làm rau vừa nấu thành cơm. Những lúc không có gạo, lính phải ăn  môn thục thay cơm nhiều ngày. 

   Còn rau ngót rừng, lá lốt rừng,  tóc tiên, rau rệu, rau càng cua (Càng cua  giờ  là đặc sản trong nhà hàng ) rồi  rau vòi voi ( cây  giống như vòi voi ) .....

 Rồi phải kể ra Búng báng,  lấy lõi dài ba bốn mươi phân bằng bắp tay, ăn sống hoặc xào như su hào. Rồi măng rừng, đặc sản Tây Nguyên vào mùa mưa, lính Tây nguyên đều biết cả.  Còn tôi thấy măng giang ăn ngon nhất trong các loại măng rừng, có phải vậy không nhỉ ? 

  Các loại rau trong cuộc sống thường ngày như;  rau má,  rau dền dại,  hoa chuối, mít non .....  dân vẫn thường ăn nhưng với lính trận thì chỉ khi xuống đồng bằng  gặp những  nương ruộng dân đã bỏ may ra mới có cơ hội thưởng thức loại rau này .

 Kể ra  những loại rau của  một thời gian khó cùng  người lính, khi đấy chỉ biết tìm rau để duy trì sức khỏe cho cuộc chiến chưa biết khi nào sẽ kết thúc mà không biết tên gọi từ đâu ra  hay  nó  có  Vitamin hay chất bổ gì  không ? 

   Giờ có thời gian đọc tài liệu, tra cứu  thì à ra thế !    “ Gọi là rau tàu bay vì khi có gió, hoa của nó bay phát tán trong không khí như “tàu bay”... 

NHỮNG NGƯỜI BẠN

Đăng ngày: 12:06 08-01-2012

Thư mục: Tổng hợp

           Hai năm rồi tôi không chạy xe gắn máy.  Về VN, muốn đi thăm mấy người bạn ở xa, nếu đi xe đò thì thấy bất tiện quá. Thôi thì lấy Honda chạy vậy. Phải chi có ai chở thì tuyệt biết mấy…

            Hướng xuống Long Xuyên, tôi chạy xe chầm chậm. Ghé thăm Trần Quang Khải trước. Khải học chung lớp đại học ở Cần Thơ, bây giờ là chuyên viên của Sở GDĐT tỉnh AG.  Khải hẹn vào nhà chơi. Như Ý, bà xã của Khải cũng là giáo viên. Ngày xưa hai người yêu nhau từ lúc học phổ thông. Có lần Khải chở Như Ý bằng xe đạp từ Long Xuyên lên Châu Đốc. Bạn bè hỏi mệt không? Khải nói “ Pình thường !”. Ôi sức mạnh tình yêu.  Sau này nhắc lại chuyện cũ, Khải với cái đầu ngày càng ít tóc như Lênin cười dí dỏm “ Bộ trâu bò sao không biết mệt ”hjhj…

          Có thầy Hoàng Văn Phong – chuyên viên Sở GDĐT đã nghỉ hưu – và anh Nguyễn Hữu Chí cùng lai rai. Hai vợ chồng Khải làm cá lóc nướng trui và thêm vài món bình dị khác đãi bạn ở xa về. Anh Nguyễn Hữu Chí, quê Mỹ Hòa Hưng, là lớp trưởng của tôi và Khải lúc học khóa 7 khoa Văn ĐHCT.  Cuộc đời anh đầy thăng trầm.  Tốt nghiệp ra trường , cả lớp đại học chúng tôi về Long Xuyên dự đám cưới của anh với chị Hoa. Hai người này cũng yêu nhau từ hồi trung học, chàng làm lớp trưởng, nàng làm bí thư chi đoàn. Chúng tôi chúc mừng hạnh phúc của hai anh chị. Nào ngờ…Năm sau chúng tôi hay tin chị Hoa mất khi họ mới có một đứa con trai vài tháng tuổi.  Anh gà trống nuôi con. Nghe nói bà già vợ định gả cô em vợ cho anh mà anh không chịu…Có bạn nữ chung lớp đại học với chúng tôi thương ảnh, chờ đợi mà anh vẫn chối từ. Dạy đại học An Giang, đi học thạc sĩ chung với Võ Đình Hóa, nhưng rồi anh cũng bỏ, ra dạy phổ thông. Đứa con trai học giỏi, tốt nghiệp đại học kiến trúc đã đi làm ở Sài Gòn, lương rất khá. Vừa rồi anh bị bịnh, tôi và Khải chọc, phải chi anh có một bàn tay đàn bà chăm sóc thì đâu đến nỗi. Anh cười, mắt đăm chiêu, có lẽ đang nhớ tới một người đang ở Canada …

         Hôm sau, tôi đi Cần Thơ. Vùng đất Tây Đô gắn bó với tôi rất nhiều năm.  Từ khu vực Trà Nóc, Bình Thủy, bến Ninh Kiều, đại lộ Hòa Bình đến đại học Cần Thơ, nơi nào tôi cũng nhớ. Tôi có nhiều người bạn thân học chung đại học đang ở đây. Thân nhất là tiến sĩ Nguyễn Văn Nở, chủ nhiệm khoa Văn của ĐHCT, vừa được phong học hàm phó giáo sư.

         Cuộc đời của anh chìm nổi cũng nhiều. Tôi và anh ở chung phòng tập thể, dãy A4 ký túc xá . Giường sắt đôi, tôi ở tầng trên, anh ở tầng dưới. Có lúc học thi khuya, cả nhóm chúng tôi đói bụng, đành bẻ vạt giường nấu cơm ăn. Phòng tôi còn có bạn Trần Văn Lượng, cả ký túc xá đều biết vì Lượng …pêđê ! Rất nhiều chuyện bi hài về cuộc đời sinh viên khốn khổ thời đó.

         Buổi tối anh Nở mời tôi dự liên hoan mừng được phong học hàm phó giáo sư ở quán Sáu Đời 2. Phòng tiệc khá rộng, một em chân dài đang rót rượu tây cho hơn 20 tiến sĩ bạn của Nở thuộc nhiều ngành của ĐHCT. Tiếng cụng ly, tiếng cười đùa, hát karaoke thật ồn ào. Tôi gặp tiến sĩ Hiếu, Thạng bạn chung lớp Văn khóa 7 với tôi, nhưng tốt nghiệp được giữ lại khoa Mác- Lê. Không thấy tiến sĩ Nam, hồi xưa cũng ở chung phòng ký túc xá với tôi. Nam quê Phú Tân AG, lý lịch tốt được giữ lại khoa làm cán bộ giảng dạy. Cuộc đời tình ái của Nam rất dài. Nam yêu từ khóa 5 ( đàn chị) đến khóa 17 ( học trò) mới cưới được em Nâu, quê Bến Tre. Có một đứa con trai , thế rồi em Nâu đi Nga học thạc sĩ. Nam vò võ ôm con ngóng vợ mấy năm, không biết ở Nga em Nâu có làm gì thêm nữa không , chỉ có ông Putin biết mà thôi…

         Sáng hôm sau thầy Huỳnh Văn Minh hẹn đi ăn sáng.  Thầy dạy môn Hán Nôm, môn khó nuốt nhất, đến hết  năm thứ 3 mới xong. Chúng tôi phải học bài Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo … bằng Hán Văn. Rồi học thơ Đường bằng nguyên tác, học Truyện Kiều, Lục Vân Tiên… bằng chữ Nôm. Nhiều bạn học kỳ nào cũng thi lại môn Hán Nôm, có người thi đến lần thứ 2, thứ 3 vẫn không đạt, cuối cùng thầy cũng cho qua.. Thầy làm chủ nhiệm lớp Văn của tôi năm thứ nhất, rồi dẫn tụi tôi đi thực tế ở nhiều nơi, nhiều năm nên thầy trò rất thương nhau. Thầy nghỉ hưu, mở trung tâm luyện thi đại học Minh Đức, một trung tâm luyện thi lớn và có tiếng ở Cần Thơ.

         Ăn sáng cùng thầy còn có Bích Thủy, lớp phó học tập của lớp Văn k7, hiện công tác ở đại học tại chức Cần Thơ  . Thủy cũng là một người kết hôn sớm nhất lớp chúng tôi và sau đó ly dị cũng sớm nhất. Gà mái nuôi 2 con trai đến bây giờ, đứa lớn đã vào đại học.

        Tôi chia tay với thầy Minh và các bạn, định sẽ xuống Cần Thơ lần nữa để họp mặt với các bạn lớp Văn khóa 7 . Nhưng rồi không thực hiện được, đành hẹn lại dịp sau. Một tối, tôi nhận được điện thoại của anh Nở. Anh cho biết một số bạn đang ngồi cùng anh và hay tin tôi về nước nên muốn nói chuyện, thăm hỏi . Tôi rất mừng. Nào là Khánh Linh( công tác ở Thông tấn xã VN), Quí Hương ( dạy ở Tiểu Cần- Vĩnh Long), rồi Hồng Ngự( dạy ở Châu Thành – CT), Ngọc Điệp( ĐHCT)..Có bạn 26 năm mới nghe lại giọng nói ngày nào.

        Ở Châu Đốc , tôi  ghé thăm được vài người. Huỳnh Thị Tiếm, vừa là bạn học ở trung học vừa là bạn chung lớp đại học, đang dạy ở THPT Mỹ Đức. Hồi xưa tôi đã dại dột làm mai Tiếm với chú họ tôi, nên tôi phải gọi Tiếm bằng thím và Tiếm gọi lại tôi bằng … “anh” như ngày nào ! Tôi chúc mừng Tiếm có đứa con trai lớn mới đậu đại học Y Dược năm nay làm rạng rỡ thêm dòng họ. Ông mai này coi bộ cũng khá mát tay hjhj…

       Còn Trần Văn Tuấn, nguyên giáo viên toán ở trường THPT Tịnh Biên, bây giờ nghỉ ở nhà dạy thêm lai rai. Tuấn là một người bất đắc chí về cuộc sống. Lúc học lớp 12, tôi thi học sinh giỏi văn cấp tỉnh để chọn vào thi vòng quốc gia nhưng rớt, còn Tuấn đi HSG môn toán vòng toàn quốc cũng rớt luôn. Chỉ có Tống Hồ Hải dân Bình Trị Thiên lưu lạc vào đây, năm đó đậu giải khuyến khích toán toàn quốc, sau đó học toán khóa 7 ĐHCT, vừa làm sinh viên, vừa chạy xe đạp ôm kiếm tiền gửi mẹ hiền …

       Tuấn có vợ dạy tiếng Pháp ở  trường THPT Mỹ Đức. Hai người có được một cô con gái, trước đây được tôi dạy bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12, hiện nay đang là sinh viên ngành ngân hàng của ĐHAG. Lúc tôi còn dạy ở CĐ, tôi và Tuấn thường hẹn nhau đánh tennis, nhưng sau đó Tuấn bịnh, ngày càng yếu. Lần này tôi đến thăm,thấy Tuấn khỏe, mập mạp hơn lúc trước, tôi lấy làm mừng cho bạn.

     Đời người ai cũng có bạn. Biết trân trọng và quan tâm nhau để tình bạn mãi vững bền là một điều quí của chúng ta. Phải không bạn…

           “ Bạn bè là nghĩa tương tri

       Sao cho sau trước một bề mới nên ”

Khóa 86-90: một nhịp cầu

Nguyễn Chánh Tú (Khóa 1990)

Thấm thoát đã 17 năm kể từ ngày chúng tôi chia tay nhau, rời xa ngôi trường ĐHSP yêu dấu để dấn thân vào nghề dạy học trên khắp mọi miền đất nước. Khóa học 1986-1990  mãi đồng hành cùng mỗi thành viên, góp những dư âm buồn vui trong từng thành bại của mỗi người.

Tập thể chúng tôi ngày ấy tựu trường trong xu hướng thoái trào của nghề dạy học. Hình ảnh người Thầy tội nghiệp hơn bao giờ hết. Những câu châm ngôn “hướng nghiệp” phổ biến lúc bấy giờ  là “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”, “nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa,…”  thể hiện phần nào một giai đoạn khó khăn của nghề. Bởi nhiều nguyên nhân, số phận đưa đẩy chúng tôi gắn bó với nhau trong một tập thể gồm 42 thành viên trong năm thứ nhất để rồi khi chia tay, chỉ còn 32. Cuộc sống đầy ắp niềm vui từ những gian khổ và sự đồng cảnh ngộ dù mỗi người một xuất xứ. 

Lúc đó, Thầy Trần Khánh Hưng là chủ nhiệm Khoa. Với dáng hình thấp bé nhưng giọng nói sang sảng, Thầy ghi đậm trong tâm trí chúng tôi bằng những bài nói chuyện giầu tính nhân văn và triết lý sâu sắc. Năm thứ nhất, Thầy Trần Khánh chủ nhiệm lớp, mang đến cho chúng tôi những phong cách sinh hoạt mới lạ, phảng phất văn hóa phương Tây. Chúng tôi có những buổi picnic quanh vùng lăng tẩm Huế, những buổi tập khiêu vũ nơi phòng ký túc xá hay những đêm trực trường, những buổi sinh hoạt giao lưu với sinh viên lớp Địa 1. Những buổi giao lưu này đã gieo mầm cho những mối tình sinh viên, để rồi lại theo gió cuốn đi, cuối cùng chỉ còn lại sự kết hợp dễ thương của chị Ái-anh Tạnh, nơi hội tụ nỗi niềm gửi gắm của hai miền Địa-Toán.

Thầy Hoàng Tròn chủ nhiệm lớp chúng tôi năm 2 và năm 3. Lúc bấy giờ, phong trào văn nghệ của lớp vang dội khắp trường, là hạt nhân của Đội văn nghệ Liên chi đoàn Khoa. Những buổi biểu diễn giao lưu văn nghệ với các đơn vị bộ đội Cửa Tùng, Điền Hải,…để lại cho chúng tôi những kỷ niệm đẹp đẽ.

Năm thứ 4, Thầy Lê Văn Hạp làm chủ nhiệm lớp. Lúc bấy giờ Thầy Hạp còn rất trẻ, chưa lập gia đình, là thần tượng và nguyên nhân của bao “chiến tranh” của  nữ sinh trong lớp. Nhớ đêm gặp mặt tại phòng ký túc xá với lớp chủ nhiệm, Thầy đọc cho chúng tôi nghe bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ ” của cố thi sỹ họ Hàn, giọng Huế nhẹ nhàng, xa vắng như làn sương sớm ẩn hiện chiếc áo dài trắng với lời nhắn gửi “sao anh không về chơi...”, vấn vương bao tâm hồn chớm biết mộng mơ !

Trong bốn năm đại học, để lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm hơn cả có lẽ là cuộc sống nội trú ở ký túc xá Đội Cung. Lớp chúng tôi thường được ở chung một phòng, năm thì lên tầng hai, lúc thì quay lại tầng một, bao giờ cũng đầy ắp tiếng cười. Khu ký túc xá lúc đó nay chỉ còn lại dãy lầu 2 tầng. Dãy nhà G của nữ sinh trong lớp đã không còn nữa. Tài sản của mỗi đứa thường gồm một cái vali gỗ hay sắt kê đầu giường, thêm chức năng làm bàn học về đêm. Cái vali to nhất lớp của Cao Huy Linh vào một đêm khuya bị chủ nhân đạp rơi từ giường nằm tầng 2 gây ra một kỷ niệm nhớ đời. Những đêm mùa đông, chúng tôi phải dồn vào ngủ chung cho đủ ấm. Mỗi ngày, việc sắp hàng để đánh răng hoặc tắm là mất nhiều thời gian hơn cả. Còn giặt đồ thì phải thức dậy lúc 2,3 giờ sáng thì mới có nước, cũng may là chúng tôi chỉ phải giặt đồ 2 tuần một lần.  Nhớ những bữa ăn giống nhau như đúc ở bếp ăn tập thể: một tô cơm không mùi vị, một chén nước muối có màu cơm cháy, một tô nước rau lẫn váng bèo và vài con cá “nhi đồng”. Thế mà mỗi đứa có thể ăn một lèo 2 suất vẫn còn thòm thèm. Nhớ một đêm, sau giờ học trên thư viện, cả phòng hí húi bẻ trộm vạt giường và xé giấy vở để nấu chè trong chiếc ấm to đùng mà trường phát cho mỗi phòng. Chè là hỗn hợp từ đậu, nếp và một cặp đường bát Quảng Nam được viện trợ từ quê hương yêu dấu. Mỗi đứa một cái muỗng chen vai nhau tác chiến quanh  ấm chè nghi ngút khói. Loáng một cái, ấm chè đã trơ đáy. Lúc cầm lên, chiếc ấm đã thủng đáy từ lúc nào !

Trong cặp sách lên giảng đường, con trai trong lớp thường nhét thêm một vật vô cùng quan trọng. Đó là muỗng ! Để chủ nhân có thể ghé nhà ăn trên đường học về. Không lạ gì những tiết học căng thẳng trên giảng đường bị phá vỡ bởi  tiếng muỗng rơi leng keng trên nền nhà. Không lạ gì tiếng la ó vì phát hiện ra cái muỗng của mình đã bốc hơi trước khi về đến nhà ăn.  Biết bao kỷ niệm gắn liền với muỗng và những chiếc phiếu ăn thiêng liêng được cẩn thận chuyền lại cho nhau khi có phi vụ ra ngoài.  Gia cảnh đứa nào cũng như nhau nên thương nhau như ruột thịt. Mỗi tháng, sau khi trừ tiền ăn, học bổng còn lại đủ để tự thưởng cho nhau một, hai bữa điểm tâm bằng khoai sắn ở Giảng đường III nằm trên đường Lê Lợi. Khái niệm điểm tâm thật cao sang và chỉ được nhắc đến quanh ngày nhận học bổng mà thôi. Thế nhưng, chúng tôi đã sống những ngày thật  vui tươi, hồn nhiên và hừng hực sức sống. Thư viện trường luôn đầy ắp và sinh viên phải đi thật sớm để giành chỗ. Ngoài việc đọc sách toán, chúng tôi còn đọc tất tần tật những cuốn sách văn học nào vớ được. Những đêm sinh hoạt  câu lạc bộ thơ của sinh viên khoa Văn thường xuyên chứng kiến các sinh viên khoa Toán đăng đàn.

Lớp chúng tôi chỉ có được 10 bạn nữ. Sang năm thứ 2 chỉ còn lại 8. Tám bông hoa, mỗi người mỗi vẻ được bọn nam sinh chúng tôi gọi là “mì chính cánh”. Học toán vất vả, với nữ lại càng vất vả hơn. Thế mà ai cũng xinh xẻo, học giỏi và yêu đương quá chừng. Ngày  8-3 năm thứ 2, bọn nam sinh chúng tôi bí mật  làm một bữa tiệc bánh lọc ra trò để mời 8 vị khách đặc biệt, kèm theo một quyển kỷ yếu, tập hợp các bài viết ngô nghê của bầy ngỗng đực trong lớp.  Vui !

Tháng 7 năm 2005, kỷ niệm 15 năm ra trường, lớp chúng tôi rủ nhau họp mặt tại Huế. Có được gần 60 thành viên, kể cả “dâu, rể” và “cháu nội, ngoại”. Bùi ngùi cảm động, ai cũng tay bế tay bồng, tóc đã điểm bạc nhưng hạnh phúc vỡ òa  trong niềm vui được sống lại những ngày thân ái cũ. Vui mừng vì ai cũng đã cứng cáp và đứng vững sau chừng ấy gian nan. Càng trân trọng công ơn Quý Thầy Cô đã gieo cho mình hạt giống tốt, cám ơn cuộc đời đã kiến tạo những hợp tan, để được sống, được vui, được quây  quần bên nhau như thế  sau chừng ấy trầm luân, dâu bể.

Để ghi nhận nỗi niềm của những đứa con đi xa, chúng tôi đã lập một Quỹ Học Bổng Cựu Sinh viên Toán Khóa 86-90 để gửi gắm niềm hy vọng cho thế hệ sinh viên mai sau. Âu cũng là chút gió giữ gìn ngọn lửa truyền thống của  khoa Toán, ngọn lửa đã lưu giữ và ấm áp trong lòng bao thế hệ suốt 50 năm qua.

KÝ TÚC XÁ VẪN BỊ CÔ LẬP...SINH VIÊN DƯ NƯỚC THIỂU CƠM

Ký túc xá Mễ Trì nhiều ngày sau mưa vẫn... ngập. Bì bõm ngâm chân dưới dòng nước đen suốt từ đường Lương Thế Vinh khét tiếng vì "bụi, bẩn" rồi rẽ vào cổng ký túc xá lại phải tiếp tục... lội. Ngoài đường chính (Nguyễn Trãi, Thanh Xuân) khô cong, bụi mù thì Lương Thế Vinh, con đường thường ngày bị bầm dập bởi nhiều xe trọng lớn, lạị bì bõm. 

Theo chân nhóm sinh viên Mễ Trì đang bấu víu vào nhau "vượt cạn" mua cơm về, phóng viên Ngoisao.net đã có dịp vào vùng bị cô lập này. Khuôn viên ký túc vẫn mênh mông nước. Toàn bộ tầng một khu nhà C1, C2, nước tràn vào phòng và "ở lại" mãi tận hôm nay chưa chịu rút. Mùi hôi thối tổng hợp từ rác rưởi, quần áo ẩm mốc, nước không có chỗ thoát ứ đọng lâu ngày trong rác, cả mùi... người bốc lên đặc quánh rồi "ngưng tụ" trong các phòng và ngoài hành lang.

Trong phòng 107, nước ngập tới sát mép giường dưới và khu vực nhà tắm, nhà vệ sinh. Những người ở giường tầng một phải leo lên ngủ nhờ giường trên hoặc phòng bạn bè ở những tầng cao hơn. Chỉ vào chậu quần áo chất cao, Mai (ĐH Khoa học Tự nhiên) cho biết: "Nước ngập, nhà tắm ngập, không có chỗ giặt giũ, phơi phóng nên bọn em để dành đấy. Không có nước sạch rửa chân, sinh hoạt, ra ngoài cũng thấy ngại nên hạn chế đi lại là tốt nhất".

Nhiều ngày nay, phòng Mai đều phải "hy sinh" một người ra ngoài mua lương thực. Những hôm mưa lớn, cả phòng ngồi trong nhà bẻ mì tôm nhỏ ra rồi trộn với gia vị để ăn vì không có điện cũng chẳng có nước nóng để nấu. 

Khom người từ giường trên vớt rác trôi vào phòng, Mai nói với ra: "Ngập bọn em vẫn phải đi học, vẫn bị điểm danh như thường. "Hành trang" đi học bây giờ của em có thêm một chiếc quần dài để lỡ đến lớp ướt còn có cái khác thay. Chiều nay em thi hai môn giữa kỳ, phải lội nước đi thôi".

Quán cơm bụi ngoài cổng ký túc không nấu cơm, các quán tạp hóa thi nhau để bánh mì, lương khô vào hộp xốp, thùng nhựa rồi "bơi" vào tận cầu thang phục vụ sinh viên với giá "cắt cổ". Nhiều nhà còn nhanh nhẹn đóng cơm vào hộp mang vào bán cho sinh viên nhưng tận 25 nghìn một suất, mì tôm thì cũng 5.000 đồng một gói. 

Cách đó vài bước chân, cùng chung con đường "bé, bẩn, bụi" là ký túc xá Đại học Hà Nội. Dòng nước sâu lềnh phềnh rác vẫn cao đến đầu gối. Từ cổng chính đi vào đến khu nhà D4, D5, D6, nước vẫn mênh mông. Bể nước hàng ngày dùng để bơm lên các phòng thì nay được trưng dụng làm chỗ giặt giũ, rửa rau, rửa bát của cả sinh viên lẫn cán bộ sống trong các khu nhà này. 

Bọt xà phòng, nước rửa bát và rác thải đổ ra giữa đường đi khiến dòng nước ngập thêm bẩn và bốc mùi khó chịu. Xác chết của các con vật trương lên trôi dập lềnh bềnh. Ký túc xá vắng tanh, các phòng chỉ lác đác thấy một vài người ở lại vì nhà xa đang hì hục xách nước vào rửa phòng và tát bớt nước bẩn phía trong ra. 

"Mất điện, mất nước từ hôm thứ sáu đến giờ vẫn chưa có, bọn mình phải xách nước về dùng. Mấy hôm trước nước ngập hết ghế đá vẫn phải cố "bơi" đến nhà ăn mua cơm không thì chết đói", Hương (khoa Tây Ban Nha) tiết lộ.

Toàn bộ sinh viên của trường được nghỉ một tuần để "lánh nạn" bởi các dãy nhà học ở phía ngoài đều đang ngâm mình dưới nước từ nhiều ngày nay và chưa có chiều hướng rút, nhất là khi theo dự báo, mưa lớn sẽ tiếp tục trong nhiều ngày tới.

Không riêng gì khu vực ký túc xá này, rất nhiều trường khác như Học viện An ninh, Đại học Kiến trúc vẫn "giữ nguyên hiện trạng".

hạnh nhớ Nguyễn Xuân Hoàng

Không thể nào quên Huế...

Hôm qua còn sót hơn đồng bạc

Hai đứa bàn nhau uống rượu say

Nón lá áo tơi ra quán chợ

Chơ vơ trên bến nước sông đầy

Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả

Chén ứa men lành lạnh ngón tay 

Hôm qua, xếp lại tủ sách. Tìm lại được cuốn Hương Mùa Thu của Nguyễn Xuân Hoàng. Mở sách ra, nét mực như còn mới nguyên: Thương tặng Sơn... Huế tháng 9.2001.

Ngó chữ, nhớ người. Tưởng như người ở rất gần mà đã xa lắc xa lơ...

Tôi vô trường năm đầu, Xuân Hoàng năm cuối. Tôi ở G7, anh Hoàng G6 và chơi với nhau lúc mô không biết nữa.

Ban đầu còn ở hai phòng. Qua một mùa mưa ở Huế chuyển về ở chung G7 vì “bán” lại giường ở G6 cho một thằng X, Y nào đó lấy tiền đi uống rượu.

Thời ở Huế thiếu rượu triền miên. Mới uống bữa trước, bữa sau đã thấy thèm. Uống mấy cũng không dứt cơn, say mấy cũng vui. Không có thằng gian tửu mô trà trộn trong chiếu rượu hại người. Cũng chẳng có thằng tửu tặc mô phiền hà giang hồ quần ẩm. Đời vui chi lạ nhưng đời cũng buồn chi lạ. Có lẽ tại ở Huế mưa hay rủ rê lòng người.

Chừ cũng còn nhớ miết. Nhứt là những buổi chiều mưa rơi. Hai anh em ngồi trong ký túc xá ngó nhau như hai con mèo ướt. Không còn đồng bạc mô trong túi trong khi người đã lên cơn. Làm răng đi uống rượu hè? Hỏi qua hỏi lại miết mà không biết làm răng. Xe đạp mới cầm bữa kia, túi xách mới cầm hôm qua, áo quần mỗi người còn một bộ. Bạn bè không ai cho mượn tiền nữa. Thôi, cứ đi uống đại rồi tính. Hai anh em kéo nhau ra quán thịt chó của Ngài – Đại – Tá – Chờ – Thư trên đường Đống Đa.

Mới thấy hai vị khách bước vô, con gái ngài đại tá về hưu nguýt một cái. Ngài đại tá mặt lạnh như tiền nói ngay, không cho nợ đấy nhé. Hai thằng không có tiền cũng tỉnh bơ, điềm nhiên chơi bốn năm xị rượu, tán chuyện văn chương sách vở tào lao, triết ly đời sống đã đời rồi say hồi nào không biết. Tàn cuộc, Hoàng biểu, em đi về trước đi để anh lo. Tôi nói kệ cha nó, ở lại luôn đây ra răng thì ra. Hoàng ghé tai nói nhỏ, đi đi, rủi nó không cho ký, một mình anh chạy cho gọn. Tôi bước ra khỏi quán hai chục mét, đứng lại lắng nghe. Ban đầu là tiếng con gái, sau đó tiếng Ngài – Đại – Tá vang lên. Rất nhanh, thấy Hoàng chạy vụt qua trước mặt kêu chạy đi. Cả hai cùng chạy ná thở về ký túc xá, nằm vật ra hối hận.

Từ đó, đường Đống Đa ơi xin chào mi, không qua không lại chi nữa. Hơn tháng sau mới đem tiền ra trả. Ngài – Đại – Tá lại vồn vã như không hề có cuộc chia ly một tháng trước đây.

Chỉ có mấy chỗ rượu quen thôi. Ngài – Đại – Tá – Chờ – Thư đường Đống Đa, Lương Huyết Tửu gần cửa hàng số 1, Ngõ Vắng Xôn Xao đầu cầu Trường Tiền, bà già đường Lê Quí Đôn, mệ Cúc đầu cầu Kho Rèn. Chỉ một thời gian sau, chỗ mô hai anh em cũng có tiền án tiền sự. Nợ rượu vòng quanh và chu kỳ trả nợ rượu tuần hoàn suốt những năm đại học.

Xuân Hoàng quê ở Quảng Ngãi, tôi Quảng Nam. Hai vùng quê khác nhau nhưng hai cha hai mẹ, những anh những chị đều giống nhau qua chuyện trà dư tửu hậu. Chỉ hơn nửa năm, Ban quản lý KTX 8 lần lập biên bản. Uống rượu hát nửa đêm, ném đá vô nhà ban quản lý, bẻ vạt giường đốt lửa, hái trộm dừa, trèo vô bể nước tắm... Tái phạm triền miên. Nói chung, đạo đức xuống cấp.

Hai anh em, bàn nhau ra ngoài ở, xa lánh giang hồ, cai nghiện. Tới chừ cũng còn nhớ miết căn nhà thuê số 6 Trần Thúc Nhẫn. Nhà kiểu Pháp rộng thênh, chủ nhà đi Mỹ. Chỉ ở được ba tháng phải dời đi vì nhà rộng nhưng đói cơm, thiếu rượu vì tiền thuê nhà. Lại dọn vô ký túc xá. Lại lần quầng với Ngài – Đại – Tá, bà già Lê Quí Đôn.

Xuân Hoàng ra trường trước, cưới vợ. Ngày liên hoan khoá Xuân Hoàng xong, anh nói: “Cố gắng ở lại chiến đấu!”. Chẳng biết chiến đấu với ai, chiến đấu với cái chi nhưng nghe hai từ đó khí thế lắm. Ước mơ duy nhứt của hai anh em thật đơn giản. “Ra trường đi làm xong, nhận tháng lương đầu tiên, hai anh em mình uống một bữa rượu thiệt say, rượu thiệt ngon, chỉ hai anh em mình đi uống thôi!”.

Nhưng tháng lương đầu tiên không có. Thất nghiệp ở Huế. Trời lại mưa. Nhờ một mối quen biết gì đó bên thương binh, Xuân Hoàng xin đi giữ xe đạp ở bệnh viện Trung ương Huế. Tuần giữ hai ngày hai đêm. Mỗi ngày mỗi đêm được 75 ngàn đồng. Hoành tráng. Tối tối, tôi lại đạp xe đạp lên, phụ giúp dắt xe vô nhà xe với Hoàng. Chừng mười hai giờ đêm, khách thăm bệnh về hết, chỉ còn người nhà nuôi bệnh, dắt xe vô khoá cửa nhà xe lại. Hai anh em cuốn chiếc chiếu kéo ra bờ sông Hương, mua chai rượu, rủ giang hồ vật vờ vật vưởng quanh bệnh viện đi uống.

Bữa rượu đã đời cuối cùng của hai anh em không bao giờ có được. Ra trường, mỗi người mỗi nơi. Hoàng vẫn ở Huế. Lâu lâu ra, lại gặp nhau đi nhậu. Nhưng nhậu tập thể. Những cuộc rượu như vậy ồn ào là chính. Cũng thiệt lạ kỳ, cái thời chỉ có chai rượu trắng toàn cồn nhưng vui hơn. Có lẽ sau này, gian tửu trà trộn trong chiếu rượu, chờ mình say nói bậy, đi đồn thổi làm chuyện hại người nên mất vui.

Một bữa, cùng Trần Tuấn đi Huế. Điện thoại hẹn Xuân Hoàng. Lên trên phòng thời sự của Đài phát thanh truyền hình Huế, thấy mặt Hoàng đừ câm đừ điếc, nằm vật trên chiếc bàn họp nghe nhạc. Say quá rồi. Không nhậu được nữa.

Lần sau cũng cùng Trần Tuấn ra Huế, gặp Hoàng ở quán Chân Đồi. Lúc này Hoàng đã chuyển về tạp chí Sông Hương. Bữa nớ hỏi răng không làm bên Đài truyền hình mà chuyển về tạp chí. Hoàng nói, anh em mình ngày xưa không thể quyết định được số phận của mình nhưng bây chừ mình có thể quyết định số phận mình được. Đi đâu, ở đâu, làm chi mình đều quyết được cả. Không ngờ, đó là định mệnh.

Không ngờ, chỉ hai tháng sau cuộc rượu Chân Đồi, một buổi sáng mưa tầm mưa tã, nhận được điện thoại báo tin Xuân Hoàng đã ra đi. Hoàng mô? Nguyễn Xuân Hoàng, Hạnh Lê, Hoàng Bình Thi chớ Hoàng mô nữa. Răng lại ra đi? Chiều qua có đi uống chút rượu ở quán Cỏ Cú bên thành, về nhà đọc sách rồi ngủ luôn. Thiệt đơn giản. Sinh tử như sợi tóc mong manh. Còn nhớ cuộc rượu cuối cùng, Hoàng hỏi ông già Sơn vì răng mất? Tôi nói, thì mất chớ răng. Không răng cả.

Đám tang Hoàng dưới trời mưa. Mấy anh em Trần Tuấn, Trung Việt, Huỳnh Sơn... bần thần kéo rượu uống triền miên. Hôm sau nói, hay là cái rượu pha bằng cỏ cú đó có độc? Mấy anh em rủ nhau qua quán Cỏ Cú chơi tiếp một trận chẳng thấy có độc chi. Quán nằm giữa Cửa Ngăn và cửa Thượng Tứ, ngồi ở đó chỉ có ngó mặt vô bờ tường thành nội. Ông chủ, bà chủ cũng quí Hoàng, nói Hoàng hay tới đây ngồi một mình. Dù sao, trước khi ra đi, Xuân Hoàng cũng được uống rượu. Dù là uống rượu một mình, không có bạn.

Trong cuộc đời của một người đàn ông uống rượu, bạn có thể uống rượu với ngàn người nhưng bạn rượu chỉ có vài ba. Ngàn cuộc rượu nọ chẳng quan trọng chi. Chẳng biết răng, mỗi lần nhớ tới Xuân Hoàng tôi lại hay nhớ mấy câu thơ của Nguyễn Bính. “Hôm qua còn sót hơn đồng bạc. Hai đứa bàn nhau uống rượu say”. Chính xác là uống rượu cũng phải bàn bạc. Bàn đi uống chỗ mô, uống với ai cho vui. Tới chừ cũng không hiểu răng, cái thời ấy chúng tôi khốn khó như rứa. Cũng mới đây thôi. Như một ngày hôm qua...

Tôi bước vô trường, Xuân Hoàng đã nổi tiếng. Cái thời Cửa Việt của ông Tường, anh Lập, Xuân Hoàng đã được đăng sáng tác dưới bút danh Hạnh Lê. Sinh viên có nhuận bút thì oai. Ước mơ văn chương nhen nhóm lên từ Cửa Việt. Nhưng than ôi! Cái nghề "lập thân tối hạ" cũng chỉ mua vui cho mình, cho thiên hạ là chính. Xuân Hoàng tài hoa, đọc nhiều, viết nhiều. Có lẽ, nghề báo không thích hợp với Xuân Hoàng. Giang hồ gió tanh mưa máu đôi khi cũng làm người nhạy cảm sầu muộn vì không biết mình đứng ở đâu giữa chốn đương trường. Người quân tử phải làm chi?

Cuối cùng, Hoàng chọn đứng về phe cát bụi. Hai từ trong Kinh Thánh và trong nhạc Trịnh mà Xuân Hoàng hồi còn sống rất thích.

Uống rượu như Lệnh Hồ Xung, yêu như Đoàn Dự. Lưu luyến ở trần gian này cũng vui hơn chớ?

Có lẽ là ĐỊNH MỆNH.

Anh Hoàng ơi! Anh đã nói sai. Con người làm chi quyết định được số phận của mình. Con người không có quyền năng lớn như rứa đâu anh ạ! 

Nhớ cái Tết thời bao cấp

Đối với tôi, cái Tết thời bao cấp lại là những cái Tết đáng nhớ nhất trong đời, dù lúc ấy cái gì cũng thiếu, muốn mua đều cần tem phiếu, duy chỉ có một thứ là lúc nào cũng sẵn, ai cũng có thể sẻ chia, đó là tình người.

Tôi nhớ đó là mùa đông năm 1980, khi vừa từ CHDC Đức về nước tám tháng thì được cử phụ giúp ông tổ trưởng công đoàn đi liên hệ với một nông trường ở Lương Sơn, Hòa Bình để mua đôi lợn cho tập thể. Thú thật, tôi rất lo vì chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Nhưng ông tổ trưởng công đoàn thì cứ tỉnh khô và bảo: “Yên chí, chỗ anh em quen biết cả, họ nhiệt tình lắm. Lát nữa, trên đường đi mình rẽ vào nhà máy thuốc lá mua mấy chục cân thuốc vụn biếu họ”. Tôi ngạc nhiên vô cùng vì lúc đó thuốc lá điếu phải phân phối từng bao mà ông tổ trưởng của tôi đòi mua cả mấy chục cân thì quả thực là đáng nể quá! Khi đến nhà máy thuốc lá tôi mới ngã ngửa khi ông bảo tôi cùng với mấy chị công nhân vào quét những mẩu vụn sợi thuốc được vun lại thành đống dưới nền nhà. Sau khi lèn chặt hai bao tải to vụn thuốc, ông tổ trưởng nói với ông cán bộ cung tiêu của nhà máy thuốc lá cho thêm năm cân “ruột mèo”. Tôi trố mắt hỏi ông: “Sao lại ruột mèo hở anh”? Ông bảo cứ đi theo họ đi, rồi sẽ hiểu. Thì ra đó là loại giấy cuốn thuốc lá bị rối khi cuốn bằng máy họ thải ra, nó quăn như ruột mèo thật. Ấy thế mà khi lên đến nông trường thì cánh đàn ông từ đằng xa đã chạy lại và hỏi ngay: “Có thuốc lá không ông anh?”. Ông tổ trưởng của tôi vui như Tết pha một chút đắc thắng: “Không có thì lên đây làm gì”. Nói rồi ông bảo tôi bê từ thùng xe Mô-nô (một loại xe tải một cầu của Liên xô) hai bao tải vụn thuốc lá xuống cùng với đống ruột mèo, giao cho anh em ở nông trường làm quà.

Sau khi ăn trưa, chúng tôi lên xe về Hà Nội với hai chú lợn của nông trường. 

Trên đường về ông tổ trưởng bảo tôi: “Cậu thấy không, cứ trông vào tem phiếu thì có mà… treo niêu ngày Tết. Công việc tối mặt, thời gian đâu mà đi xếp hàng từ bốn năm giờ sáng. Mình chịu vất vả một chút thì anh em được nhờ, lại còn có phần để đi đối ngoại nữa chứ”. Nói chưa hết câu đã nghe ông ngáy như sấm, làm hai con lợn cũng phải giật mình.

Chiều tối, cả cơ quan vẫn háo hức chờ. Khi xe vừa lùi vào đến sân, mọi người đổ xô ra, mỗi người một việc, loáng một cái đã thấy hai chú lợn phân thân thành nhiều phần nhỏ, đều nhau tăm tắp, phần nào cũng có đủ thịt mông, thịt vai, chân giò, thịt thủ, gan , lòng vv… Nhớ lại hình ảnh ông tổ trưởng cắt đặt công việc thật hợp lý, lại tay năm tay mười pha các loại thịt cho từng phần rất thành thạo, rồi hướng dẫn đám thanh niên làm lòng, đánh tiết canh, tôi thực sự ngưỡng mộ ông. Không biết thời nay có bao nhiêu tổ trưởng công đoàn được như ông, không phải vì cái tài pha thịt như ông Mỡi trong “Việc làng” của cụ Ngô Tất Tố, mà ở sự hết lòng với công việc, hết lòng với đồng nghiệp. Và ông cũng chỉ nhận một gói thịt như mọi người trong cơ quan mà không hề một lần kể công của nình.

Đêm ấy, số anh em ở tập thể trong cơ quan tổ chức gói bánh chưng và luộc chung ở sân khu tập thể. Tôi được phân công đi mượn nồi của một anh ở Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Đến nơi thì một mẻ bánh mới được vớt ra, cái nồi còn nóng bỏng. Đó là một cái nồi nhôm rất dày, thường gọi là nồi quân dụng. Tôi buộc cái nồi lên chiếc mô-kích màu đỏ ớt và phóng về cơ quan trong cái rét cắt da. Lửa được nhóm lên, bánh được xếp vào nồi và thế là một đêm nữa không ngủ. Cánh đàn ông ngồi quanh bếp lửa vừa uống chè mạn, vừa đánh tu-lơ-khơ, thỉnh thoảng lại rắc trấu vào bếp. Tết năm ấy sẽ là một cái Tết đầy ắp tiếng cười, nếu không có sự cố khá hy hữu xảy ra…

Số là, sau khi bánh chín thì phải vớt ra và ngâm vào nước lã, rửa sạch để có thể dùng được lâu không lên mốc ở bên ngoài, rồi chia cho các nhà. Nhưng năm ấy nấu chung, mới rửa hết nửa nồi bánh thì chậu nước rửa đã nóng bỏng, phải thay chậu khác. Mọi người chỉ chú ý vào nồi bánh mà không để ý gì đến chậu nước rửa đang bốc hơi nghi ngút ở gần đấy. Mấy đứa trẻ trong khu tập thể đã dậy và xúm xít quanh nồi bánh chưng. Những đôi mắt trước đó còn ngái ngủ, bỗng chốc sáng lên khi nhìn những chiếc bánh nóng hổi cứ nối tiếp nhau được vớt ra rồi lại ngâm vào chậu nước. Lũ nhóc đứa nào cũng muốn chen vào gần để xem cho rõ hơn. Và tai nạn đã xảy ra khi thằng bé con một cán bộ phòng kế hoạch bị ngã ngồi vào chậu nước rửa bánh nóng bỏng. Thằng bé khóc ré lên! Mẹ nó là người đầu tiên chạy lại, bế thốc nó ra khỏi chậu nước, mặt cắt không còn giọt máu. Lên tiếng đầu tiên là ông tổ trưởng công đoàn, ông nói như quát :“Lấy ngay chậu nước lạnh ra đây”. Không ai hiểu ý ông nên cứ đứng như phỗng. “Điếc à? Thằng Đông đâu rồi”. Bấy giờ, bố đứa bé mới hấp tấp bê chậu nước đến. Ông giằng lấy thằng bé đang khóc lặng trên tay mẹ, và thật bất ngờ ông đặt nó ngồi vào chậu nước lạnh buốt, từ từ cởi quần nó ra, miệng liên tục dỗ dành, an ủi: “Một phút thôi, giỏi nào, rét một tý nhưng giữ được của quý cháu ạ”. Rồi quay sang mẹ thằng bé, ông lại quát: “Lấy cái khăn bông”. Ông khéo léo như một người mẹ thực sự ủ đứa trẻ vào khăn bông và bế nó vào nhà. Nước lạnh làm môi nó tái nhợt, nhưng nó không khóc nữa, chắc nó đã đỡ đau rát, hai tay nó ôm lấy cổ ông và ngả đầu vào ngực ông. Tất cả chỉ diễn ra trong mấy phút đồng hồ mà tôi thấy căng thẳng, hồi hộp như vừa xem xong một trận chung kết bóng đá.

Sau khi bố mẹ thằng bé đưa nó đi bệnh viện, mọi người tiếp tục rửa bánh và giao cho từng nhà. Ông tổ trưởng công đoàn phân công thu dọn dần cái sân khu tập thể và làm vệ sinh các khu vực còn lại để đón năm mới. Xong xuôi mọi việc, ngồi uống nước chè ông mới tủm tỉm với mấy bà phụ nữ: “Nhà thằng Đông nó cậy có những hai cái của quý nên chả chịu để ý đến con cái. Cứ lúng ta lúng túng như thợ vụng mất kim. Không ngâm ngay vào nước lạnh có mà… rụng mất của quý rồi còn gì. Của quý do công đoàn quản lý, đúng không nào?”. Mấy bà phụ nữ vừa cười rũ rượi, vừa đấm thùm thụp vào lưng ông…

Năm Tân Mão sắp qua rồi. Không biết giờ này ông tổ trưởng công đoàn của tôi đang làm gì khi đã vượt cái tuổi thất thập cổ lai hy. Cầu xin giời đất cho ông sống khỏe mạnh, cứ đặt lưng xuống là lại ngáy vang như sấm, hệt như khi đi bắt lợn năm nào.

Phở gánh:

Ký ức Tết một thời gian khó. 

Điều lo lắng nhất của mỗi gia đình khi Tết đến gần là làm sao mua được hết các tiêu chuẩn gạo, thịt và “tiêu chuẩn Tết”. Tiêu chuẩn Tết cũng chẳng có gì nhiều: một hộp mứt thập cẩm đồng loạt cho cả nước, đựng trong cái hộp bìa mỏng manh xấu xí, vài lạng đậu xanh để gói bánh chưng, hình như mỗi người được thêm lạng thịt và cuối cùng là một bánh pháo tép. Xếp hàng ở các ở các loại cửa hàng khác nhau mua cho hết các tiêu chuẩn là nỗi lo lắng đầu tiên và lớn nhất của mỗi gia đình khi Tết đến. 

Bánh chưng là nỗi lo lắng thứ hai. Bánh chưng hồi đó rất quan trọng, là một món ăn ngon được chờ đón và là chủ lực trong mấy ngày Tết. Khách đến chơi cũng mang bánh chưng ra mời và nhà nào “có khả năng” (từ chỉ nhà giàu) gói được cái bánh chưng ngon, nhiều đậu, thịt thì rất tự hào và là chủ đề bàn tán cho bạn bè, khách khứa trong nhiều ngày sau đó. Hồi đó không có ai làm bánh chưng để bán và một gia đình thì cũng không thể làm cả một nồi bánh chưng. Vì vậy thường là mấy gia đình chung nhau luộc một nồi bánh chưng. Bánh nhà ai nhà nấy gói, đánh dấu riêng, chiều 29 mang đến một nhà có sân, có một cái nồi to (hoặc mượn ở đâu đó), bắc bếp củi lên nấu và thay nhau canh suốt đêm, đến sáng hôm sau thì chín. Mãi sau này, khi "kinh tế thị trường" bắt đầu phát triển, mới có các cửa hàng bán nước sôi nhận luộc bánh chưng thuê vì họ có sẵn nồi và bếp than. Bây giờ chắc nhiều bạn trẻ không thể hình dung ra được những cửa hàng bán nước sôi, nơi có một bếp than và cái nồi nước sôi sùng sục suốt ngày có vòi ở dưới, khi cần bạn có thể xách phích ra mua một phích nước sôi về dùng. 

Vì thế mà bận rộn nhất mấy ngày giáp Tết là chuẩn bị gói bánh chưng. Mua lá dong, rửa lá, thái thịt rồi ướp nước mắm, hạt tiêu, ngâm và đãi đậu xanh. Tôi đã từng có những buổi sáng ngồi còng lưng đãi đậu xanh cho thật sạch vỏ, rồi lại ngồi gói. Bao giờ cuối cùng cũng vét chỗ gạo, thịt đậu còn sót làm một hai cái bánh dậm nho nhỏ để ăn ngay sau khi vớt từ nồi ra (các bánh to phải để cúng, không được ăn). 

Ngoài tiêu chuẩn Tết chính thức của nhà nước cho, các cơ quan bao giờ cũng cố gắng lo thêm cái gì đó cho cán bộ, nhân viên. Phòng Hành chính hoặc phòng Đời sống (có cơ quan có hẳn thứ phòng này chuyên lo tìm kiếm mua bán các loại hàng hóa quanh năm) tỏa đi khắp nơi, liên hệ với mọi mối quan hệ để mua lợn, bò, gạo nếp, thuốc lá. Tôi nhớ có năm, cơ quan lo được cho mỗi phòng một con lợn sống. Ngày 29 Tết cả cơ quan nhộn nhịp chọc tiết làm thịt lợn. Lợn làm xong được chia ra thành từng phần theo số người trong phòng, cả thịt, xương phải tương đối đều. Sau đó bắt thăm cho công bằng, phần ai người đó bỏ vào túi nilông, lòng lợn và tiết canh thì làm bữa liên hoan cuối năm. Không khí rất nhộn nhịp vui vẻ và đầm ấm khác hẳn không khí cơ quan bây giờ mặc dù lĩnh thưởng Tết tiền triệu. Đến lúc chia tay, xe đạp người nào cũng đeo lỉnh kỉnh túi thịt, túi gạo ra về. 

Một việc nữa cũng quan trọng, phải lo là chuẩn bị cái xe đạp để đi chơi Tết. Thanh niên ngày ấy hầu như ai cũng biết sửa xe đạp. Trước mấy ngày Tết, ngả cái xe ra, tháo tung các ổ bi, rửa dầu hỏa sạch sẽ rồi lắp vào, bôi đầy mỡ mới. Nan hoa, ốc vít được kiểm tra, siết chặt lại kỹ lưỡng. Xích thì tăng lên cho nó khỏi chùng. Các thứ hỏng hóc khác cũng được sửa kỳ hết. Sau đó lau sạch sẽ toàn bộ xe, cái khung xe bằng sắt đã long sơn và rỉ hoen thì chỉ có mỗi cách là dùng dầu hỏa lau, trông nó cũng bong bóng lên một ít. Cái xe hồi đó là cả một tài sản và công cụ không thể thiếu nên được chăm sóc hết sức kỹ lưỡng. Có người "đi làm nhà nước" gần hết đời mới được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp mà phải qua một đợt bình bầu, xem xét rất kỹ lưỡng. 

Cả Hà nội hồi đó chỉ có một chợ hoa hàng Lược. Nhà nào cũng cố mua lấy hai cành đào: cành to thì cắm ở chỗ tiếp khách, cành nhỏ cắm trên bàn thờ. Chiều 30, đàn ông con trai thì lo dọn dẹp lau nhà cửa (được cái nhà hồi đó cũng hẹp chỉ 20m2 là to nên dọn cũng nhanh), phụ nữ thì lo làm cỗ cúng. Hai mâm cỗ cúng tối 30 và sáng mùng một không bao giờ bỏ được. 

Tiêu chuẩn vải cả năm hình như chỉ mỗi người 5 mét. Vì vậy thanh niên bao giờ cũng để dành đến Tết mới bắt đầu diện. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác sau khi dọn dẹp nhà cửa xong xuôi, bắt tay vào là bộ "củ" (từ dùng để gọi bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất). Chắc chắn là chúng tôi là cẩn thận, nâng niu và mất thì giờ hơn bây giờ nhiều. Cái quần kaki thôi nhưng phẳng lỳ, ly quần sắc như dao cạo! Những cái bàn là thời Pháp cũ, băng sắt nặng chình chịch, rải vỏ chăn ra để quần áo lên trên mà là, không có cầu là như bây giờ. Đôi dép nhựa Tiền phong nếu được mua trong năm cũng phải để dành đến Tết, còn nếu không trước Tết phải kiểm tra lại, gia cố những chỗ sắp bị đứt. Hà nội có hồi nở rộ các hàng chuyên hàn dán dép nhựa, đồng phục của cả nước (trước đó thì là dép cao su). Giầy thì chỉ có cán bộ cao cấp, ngoại giao hoặc những anh đi Tây về mới có. 

Phải nói là cái thời gian khổ ấy lại có rất nhiều cảm giác sung sướng. Vì thiếu thốn mọi thứ nên khi có được cái gì là sướng đến hàng tháng!!! Cái bữa ăn tối ba mươi được cả nhà hồi hộp chờ đón và ăn rất ngon lành. Vì quanh năm ăn uống có gì đâu, thiếu chất nên cảm giác đói triền miên. Ngồi trước một mâm cỗ có thịt gà rán, thịt gà luộc, bánh chưng, bát bóng, bát măng, trẻ con người lớn mặt mày đều rạng rỡ. Đến giờ, ngay cả khi dự những bữa tiệc rất thịnh soạn và đắt tiền trong các khách sạn 5 sao, tôi không bao giờ có được cảm giác ăn ngon như ngày ấy nữa. Phần do tuổi tác nhưng tôi chắc các bạn trẻ bây giờ cũng không có được cảm giác ăn ngon như chúng tôi ngày xưa trong một bữa cỗ. 

Cái cảm giác sung sướng nữa mà tôi còn nhớ là khi ăn xong bắt đầu đóng bộ đi chơi. Khoác cái áo sơ mi vải pôpơlin, cái quần kaki mới là xong hồi chiều,... vào thấy người khác hẳn, "nhớn" hẳn lên, đẹp trai hẳn lên, tự tin hẳn lên nhưng đi đứng thì rón rén vì sợ làm mất nếp quần áo! Bây giờ, mặc cái sơ mi Pierre Cardin 500 000đ, bộ comple gần chục triệu cũng thờ ơ không sướng được như hồi ấy. 

Cả Hà nội tối ba mươi đổ về quanh hồ Hoàn kiếm là chỗ đi chơi duy nhất. Pháo nỗ râm ran suốt từ 7,8 giờ tối. Tiếng pháo nổ và mùi khói pháo cùng với mùi hương là những cái tạo nên không khí đặc thù ngày Tết chắc chắn sẽ phải khôi phục lại. Không có tục hái lộc nên cây cối không bị phá phách như bây giờ. Cũng không có ca nhạc, hàng quán gì quanh hồ, chỉ đi và ngắm nhau thôi. Mà cũng có gì lạ để ngắm đâu. Quần áo, giấy dép, xe cộ hầu như mọi người đều giống nhau chỉ có vài ba loại. Vì Hà nội thời đó vắng nên tuy người đổ về đông nhưng gửi xe, đi dạo cũng không chen chúc, chật chội gì. 

Ba ngày Tết chỉ đi thăm nhau là chính. Mồng một là họ hàng, các ngày sau là bạn bè. Tuyệt đối không có lệ biếu xén trước Tết (mà cũng chẳng xoay đâu ra cái gì mà biếu). Đi chơi thăm hỏi nhau cũng thoải mái đầu óc vì cả nước hoàn cảnh sống như nhau, chẳng phải đố kỵ, tủi hờn gì trước cảnh thành đạt, giàu sang của người khác. 

Ngày đầu tiên đi làm cũng dành chúc Tết và kéo nhau cả phòng đi thăm từng nhà một. Mà toàn đi bằng xe đạp. Có bao thuốc Tam đảo được phân phối trước Tết cũng để dành nguyên trên bàn thờ để sau Tết tiếp khách cơ quan. Tình cảm đồng nghiệp trong sáng vô tư, giúp được gì nhau là giúp. Vì hồi ấy, trưởng phòng cũng không hơn nhân viên được bao nhiêu, vị trí nào trong cơ quan thì cũng hưởng lương như nhau chẳng có lộc lá gì. Do đó mà âm mưu, thủ đoạn, đố kỵ, tranh giành không có đất mà phát triển. Những chuyện lặt vặt thì tất nhiên là có, nhưng không có những vụ dữ dội như bây giờ. 

Tôi còn có một kỷ niệm sâu sắc về Tết những năm chiến tranh. Hồi đó các trường đại học sơ tán về nông thôn. Tôi không ở nhà tập thể của lớp mà tìm vào trong xóm xin ở nhờ nhà một người dân. Cần phải nói rõ "ở nhờ" đây đúng nghĩa là "nhờ": không tiền nong, quà cáp gì hết, chỉ có tấm lòng người dân thương "các chú sinh viên" mà thôi. Gia đình tôi ở nhờ có đến tám người con mà cũng đâu có rộng rãi gì. Một ngôi nhà tranh ba gian hai trái nhỏ nhỏ. Họ dồn cả nhà lại nhường cho tôi một gian. 

Tết năm đấy sau khi ăn Tết ở nhà lên, tôi được liên hoan với cả nhà một bữa. Bác chủ nhà trịnh trọng vào trong buồng bê ra một liễn mỡ, lấy đũa móc từ trong đó ra một miếng thịt đã rán chín khoảng nửa lạng và bảo: "Để phần chú suốt từ trong Tết đấy. Phải ngâm vào đây mới giữ được". Mà đã nói phần chú là của chú. Suôt bữa cơm tôi không sao bảo được bọn trẻ con ăn lấy một miếng. Bạn phải biết là dân thành phố thì còn có tiêu chuẩn thịt hàng tháng, nông thôn tuyệt đối không. Chất đạm hàng ngày của họ là con cá, con tôm bắt được trong ao, trong ruộng (không ai nuôi tôm, cá như bây giờ). Nhà có nuôi gà cũng chỉ dám giết thịt vào ngày giỗ. Cái miếng thịt lợn để phần tôi suốt hai tuần tôi nghỉ Tết ấy trích từ tiêu chuẩn của cả nhà, đến Tết hợp tác xã mổ lợn tập thể chia cho, phần rán lấy mỡ để dành cho cả năm, phần để ăn chắc cũng chỉ được hai bữa Tết. Mà nhà họ tám đứa con lít nhít, thiếu ăn, gầy còm. Miếng thịt nhỏ bé, bình thường ấy nặng hơn cả núi. 

Còn nhiều những chuyện khác đại loại như thế làm cho tôi, một người Hà nội gốc, các cụ đã nhiều đời ở Hà nội, đến bây giờ vẫn giữ trong tâm khảm sự kính trọng vô bờ bến với những người nông dân chân chất, hiền lành nhưng có một nhân cách và tình người không gì sánh được. 

Kể lể chuyện ngày xưa như vậy, không có nghĩa là tôi bảo bây giờ toàn những điều xấu xa cả đâu. Gần đây, tôi có một việc liên quan đến nhiều người giải quyết. Và tôi đã sửng sốt khi phát hiện ra rằng giữa cái thời buổi đồng tiền ngự trị khắp nơi này vẫn còn khá nhiều người tốt, sống và làm việc theo lương tâm. Cái tốt bây giờ khó khăn hơn cái tốt ngày xưa, nhất là với giới công chức: vì làm điều tốt bạn có thể phải chịu tai tiếng oan, gánh nhiều điều phiền toái, bị mất nguồn thu nhập,.v.v. và v.v

Hoa hoè:

"Sản phẩm" của thời bao cấp

(ONO) - Thời bao cấp đã sản sinh ra nhiều từ và cụm từ cũng như câu khẩu hiệu mà giờ đây không còn thấy sử dụng nữa. Xin đơn cử một vài ví dụ..

Từ "con phe” hay "làm nghề phe phẩy” dùng để chỉ những người mua lại những mặt hàng của người được cung cấp theo tem phiếu hay chế độ phân phối để bán lại kiếm lời. 

Những người này bị mọi người khinh bỉ, mặc dù họ kiếm được nhiều tiền. Thời tôi đi học phổ thông, có bạn trong lớp có mẹ là... "con phe" bị các bạn trong lớp chế giễu đến mức uống thuốc ngủ tự tử. 

Cụm từ "móc ngoặc" được dùng khá phổ biến thời bao cấp được dùng để chỉ sự cấu kết của hai cá nhân hay hai cơ quan nhằm một mục đích không chính đáng, hay vi phạm pháp luật. Các họa sĩ biếm thời đó hay vẽ hai người giơ hai bàn tay có ngón trỏ dài và cong móc vào nhau để minh hoạ cho sự "móc ngoặc".

Có câu chuyện vui kể về chuyện "móc ngoặc" của một ông bác sĩ và bệnh nhân: Ông bác sĩ kê đơn cho vị "bệnh nhân"... không hề ốm đau được nghỉ làm việc 10 ngày để anh ta đi chơi, với lời nhắn "Nhớ kiếm cho tớ vài lạng chè... móc câu (chè búp Thái Nguyên) nhé!”. 

Thời bao cấp, làm trong ngành thương nghiệp là nghề "có giá” nhất! Nghề thương nghiệp gắn liền với cụm từ "mậu dịch", nên người ta hay gọi "kem mậu dịch”, "phở mậu dịch”, “vải mậu dịch", v.v... để chỉ những thứ do thương nghiệp bán cung cấp theo tem phiếu hay "lệnh” của cấp trên. 

Ở các cửa hàng bách hóa thường có các khẩu hiệu như "Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi" nghe rất... hài hước, vì hàng được phân phối theo tem phiếu, không hề có sự lựa chọn nào khác. Trong cửa hàng bách hóa trưng bày rất nhiều hàng, nhưng bán rất ít, còn đa số là "hàng mẫu không bán”. 

Tuy treo khẩu hiệu "Cân đong, đo, đếm đầy đủ”, nhưng nếu có bị thiếu hụt, nhiều khách không dám thắc mắc, vì sợ bị nhớ mặt và lần sau sẽ bị gây khó dễ. Không những vậy, mấy cô "mậu dịch viên" mặt lạnh lùng hay cáu gắt thì làm sao có thể làm "vui lòng” và "vừa lòng” khách hàng được! 

TẢN MẠN VỀ CHUYỆN ĂN UỐNG TRONG THỜI BAO CẤP

Từ những thế hệ sinh năm 1986 trở đi, những dấu vết về một thời bao cấp gian khó dường như đã dần phai nhạt. Tuy nhiên trong lòng những người Việt sinh ra trước thập niên 70, hình ảnh của giai đoạn bi tráng này vẫn còn thấm sâu trong ký ức, để hôm nay trỗi dậy, bão tố nhưng lại dịu dàng. mơ hồ như mới đến hôm qua.

Tôi là một người sinh vào năm 1976, cái mâm cơm ngày ấy cũng đã bắt đầu có những gì khởi sắc. le lói những gì đổi mới đằng xa. nghĩa là không còn những món bánh bo bo, cơm độn hay nắp hầm, đứa trẻ con đã bắt đầu được chiều cái quyền đòi thêm một miếng thịt lợn hay một bát phở lúc ốm đau.

Không biết những bạn trẻ ngày nay có thể hiểu và sẻ chia cái khó khăn qua cảm nhận trên thông tin đại chúng hay không. Những người lớn đã cố gắng gợi lại bằng những hoạt động về một thời bao cấp thiếu thốn, chưng ra những đồ đạc cũ, những hình ảnh về một xã hội đang trong thời kỳ bắt buộc phải chuyển mình trong những cơn dằn vặt. 

Và cứ như thế chúng ta, hai thế hệ bên hai bờ đổi mới, cứ cố gắng nhìn nhau qua sự trao đổi hai chiều, một bên là bếp dầu, xe đạp..., một bên là xe máy, bếp ga,..., họ cố tưởng tượng và hiểu nhau. Lúc này những vận động để tiếp thu và thâú hiểu cũng chính là một khó khăn thực sự.

Đọc qua những bài viết trên, của những người anh, người chị và cũng có thể là các em, trên cùng Diễn đàn Tứ Hải, tôi không có ý thêm thắt và ôm lấy toàn bộ một vấn đề hay cố gắng đưa ra một chủ thuyết mà chỉ muốn nói một chút thoáng qua về một khía cạnh thời bao cấp: Ăn uống.

Thật ý nghĩa khi một ngày mưa, ngồi với chúng bạn ở đó đây, ngày quốc tế lao động, có thể ở Hồ Tây, ở công viên, hay cửa ô Quan Chưởng, cùng ôn lại, cùng bạn bè thưởng thức lại những món ăn của một thời kỳ đã qua, một thời hàn vi nghèo khó.

Nói về thực phẩm thời bao cấp, đó là những món ăn từ bất cứ thứ gì, những cây nhà lá vườn, qua bàn tay người phụ nữ đảm đang khéo léo đã thành những bữa cơm nuôi sống chúng ta, những đứa trẻ.

Đó là những lạc rang muối, thầu dầu nấu dưa, bì trâu xào muống, hoa chuối trộn trai hay dưa xào tóp mỡ.v.v..., tất cả đều đơn giản nhưng đậm đà biết bao!

Xa hơn nữa đó là những con cua, cá cờ hay rắn nước quấn que nướng những ngày chủ nhật cha tôi tát được, rồi những con ốc âm tháng tám để chị tôi rủ chúng bạn quây quần những chiều thứ bảy. Rồi đó là những miếng chả nhái, chẫu chuộc tẩm bột rán thơm lừng, là kết quả tranh thủ của anh những chiểu trên ruộng rau muống.

Họ ngoại tôi ở Lạng Sơn, cho nên cứ mỗi lần cậu mợ xuống thăm là đem theo một bịch trám lớn, món ăn tôi không thể nào quên thời thơ ấu. Vị trám béo, bùi, lẫn với mùi cá trạch kho khiến chúng tôi ăn thủng nồi trôi rế.

Tôi sinh ra không còn phải ăn thứ cơm độn gồm đủ loại như khoai sắn, mì, bo bo, nhưng thời ấy chuyện ăn cơm hẩm và đầy sạn là một điều không thể tránh khỏi.

Thế là trước bữa ăn, cả gia đình phân công nhau ngồi nhặt thóc, nhặt sạn. Có khi ngồi hồi lâu nhặt được đến cả hàng chục viên sỏi nhỏ. Công việc ấy đối với một đứa bé ham chơi thì thật chả thích chút nào. Tuy nhiên, xét ra, chính cái thời tôi sinh ra ấy đã khiến tôi thấm thía hơn về giá trị của cuộc sống cần lao, để hôm nay, sẻ chia cùng mọi người gần xa, nhân ngày quốc tế lao động. Tem phiếu, gạo mậu dịch, cá biển ươn, thịt bạc nhạc, mắm thum thủm… là những ký ức có lẽ không bao giờ quên đối với mỗi người từng đi qua một thời có tên là bao cấp.

Nhà tôi 4 người, bố bộ đội, mẹ giáo viên, hai anh em đều được ăn theo. Thế tức là, tiêu chuẩn gạo một tháng của cả nhà lên tới 65kg, tạm đủ cho vấn đề lương thực. Đó còn chưa kể, gạo mậu dịch vốn nấu rất nở (trừ khi đong phải gạo tấm dính)!

Thức ăn mới là vấn đề. Một tháng 1,8kg thịt được mua theo tiêu chuẩn tem phiếu chưa bao giờ đủ cho gia đình. Để có thêm chút thức ăn cho hai đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, mẹ cũng cố gắng tần tảo chạy chợ sau giờ đi dạy học. Thế nhưng, chẳng được bao lâu lại nghỉ vì giáo viên và “con buôn” là hai thực thể độc lập mà những “chuẩn mực” của xã hội không cho phép nhập thành một.

Thiếu thức ăn, mẹ xoay xở đủ cách. Hàng sáng tinh mơ, ba mẹ con, hai cái xe đạp đã ra khỏi nhà. Mẹ ôm hai chục cái vó tôm. Hai anh em tôi mỗi đứa một cái cần câu. Ba mẹ con đạp xe chừng 5 cây số, ra mấy cái đầm ở vùng ven đô. Mẹ cất vó tôm. Hai anh em tôi câu cá.

Ngày ấy, cá tôm còn nhiều, chỉ chừng 2 giờ buổi sáng, ba mẹ con đã kiếm được nửa cân tôm, một cân cá. Mang về, mẹ đảo qua tôm, rồi đem phơi. Còn cá, chủ yếu là cá diếc, mẹ cũng đảo qua với muối rồi phơi. Cá khô và tôm khô là hai thứ thức ăn dự trữ “chiến lược” cho những ngày đông rét mướt không kiếm chác được gì.

Những ngày ấy, chỉ cần thêm chút nước mắm, cả nhà tôi đã có món tôm hoặc cá rang khô ngon tuyệt. Cơm hết cả nồi to.

Những lúc thức ăn khan hiếm, hai anh em tôi nghĩ ra đủ trò. Bố mẹ đi làm, trưa chỉ còn hai anh em, thức ăn dù có dè sẻn thì cũng chỉ đủ hai lưng. Bí quá, anh tôi mang chút nước mắm ra đun đến lúc khô cong, chuyển sang màu trắng vàng, thơm thơm khác hẳn mùi nước nguyên gốc. Mỗi chấm đầu đũa là một miếng cơm to. Thơm, ngọt lạ thường. Thêm đôi bát cơm cho ấm bụng!

Một món nữa độc đáo hơn nhiều là ớt. Thuở ấy, đất trống ở Thủ đô còn nhiều, nhà tôi tạm chiếm dụng được một mảnh để làm vườn. Chẳng hiểu chất đất thế nào mà thứ cây trồng hiệu quả nhất lại là ớt. Đủ loại, ớt chùm, ớt chỉ thiên, ớt vàng, ớt đỏ. Cho, biếu chẳng hết, đành phơi khô làm ớt bột và ngâm giấm. Được ngâm trong giấm chua lâu ngày, chất cay của ớt đã giảm nhiều và chuyển sang chiều dìu dịu. Cộng thêm vị mặn của nước mắm, ớt ngâm giấm trở thành thứ đưa cơm đáng nhớ. Còn món ớt bột thì đơn giản hơn nhiều. Trộn đại với ít muối, cộng thêm quả chanh bứt ở vườn nhà, cho ra một món chẳng lấy gì làm ngon lành nhưng cũng đủ để tạm qua bữa.

Trẻ con thời bao cấp thèm đủ thứ. Một cái kẹo hoa hồng Hải Hà chỉ để ngậm cho tan dần trong miệng chứ không bao giờ dám nhai. Sợ nhanh hết! Thế nhưng, bánh kẹo là đồ “xa xỉ”, chỉ được ăn trong dịp Tết hay đám cưới.

Mỗi tháng, theo tiêu chuẩn tem phiếu, nhà tôi được mua 8 lạng đường. Mẹ dùng tiết kiệm lắm. Phòng lúc ốm đau còn có thứ mà pha. Nhưng trẻ con biết gì, thèm là lôi ra. Đường được cho vào nồi đun chảy vừa độ. Đơn giản thì để nguội là thành một thứ kẹo giòn tan, ngọt lịm, nhai rôm rốp. Cầu kỳ hơn thì đem trộn với ngô rang, thành món kẹo ngô. Ngô thời bao cấp đầy dấu mọt đục, nhưng nhờ vị ngọt của đường, vẫn vô cùng hấp dẫn.

Nhà khó là thế, nhưng thi thoảng, mẹ vẫn cố làm bữa tươi. Nhớ nhất là món canh bún. Rau muống tự trồng, cua bắt ngoài đồng, chỉ có bún là phải mua. Sợi bún ngày ấy to gấp đôi, gấp ba so với sợi bún bây giờ, lại trắng đục màu gạo.

Bát canh bún mẹ làm gồm có rau muống, bún, canh cua rồi thêm hành khô, tóp mỡ phi thơm. Bát bún nhiều màu sắc, màu xanh của rau được giấu dưới lớp bún trắng. Phía trên là màu vàng của hành phi, tóp mỡ. Màu đỏ của cà chua, màu nâu của gạch cua… Thời ấu thơ, bát canh bún quả là thiên đường!

Ai đã từng là sinh viên thời bao cấp đều không thể nào quên cảnh ”canh toàn quốc, nước mắm đại dương”. Tùy vào mỗi trường Đại học, Trung cấp mà cách ăn uống cũng có khác nhau chút đỉnh, nhưng về cơ bản, tất cả sinh viên đều kham khổ. Sau đây là chuyện bữa ăn tập thể của sinh viên ở một trong những trường Đại học ở Hà nội.

Trong các món ăn, trước hết phải kể đến cơm, vì đây là thành phần cơ bản của bữa ăn. Đầu thập niên 80, sinh viên phải ăn sắn hoặc hạt bo bo độn cơm, sau đó, mà cái cơ số cơm ít ỏi đó thì hỡi ôi cơm nhưng phải ăn loại gạo tồn kho lâu ngày. Loại gạo này bán không ai mua, phát không ai nhận, nên chuyển sang cho giới sinh viên ăn vì đây là loài dễ nuôi nhất trong tất cả các loài. Người ta tưởng ăn loại gạo thiếu chất dinh dưỡng này thì sinh viên sẽ gầy ốm. Nhưng họ đã lầm, càng ăn, sinh viên càng béo…, ấn ngón tay vào da thịt không biết đau, mà để lại một chỗ lõm… Họ đã mắc chứng phù thũng.

Thức ăn thứ hai là thịt lợn,thôi thì lợn sề,lợn ốm,lợn dich,lợn chết …Cứ miễn sao cứ gọi là lợn thì ô kê rồi. Xin đừng tưởng là nó ôi nó thiu nó thối…là được ăn thoải mái đâu nhá,ngày ăn 2 bữa cơm chính(buổi sáng thì ăn bánh mỳ,bo bo,ngô hoặc cơm nguội còn lại từ tối hôm trước)trong đó sẽ có 1 bữa ăn tươi (có thịt)và chỉ được ăn những ngày đi học có nghĩ là từ thứ 2 đến thứ 7 thôi nhá chủ nhật nghỉ học tức là cũng không cần phải ăn tươi làm gì chắc là sợ sinh viên rửng mỡ vì thừa chất dinh dưỡng.Lại nói về ăn tươi (điệp khúc thịt lợn)mỗi người được một miếng thịt mỏng như tờ giấy pô luya,gắp lên vô phúc gặp phải cơn gió cái ối giời ơi…là bay mất luôn,nên lúc ngồi ăn cũng phải tính được hướng gió hoặc cẩn thận hơn là ngồi chỗ kín gió nhé không thì hỏng mất bữa tươi luôn nghe. Các trí thức của loài người có mỗi món ăn đặc sản đeo đẳng suốt 4 – 5 năm Đại học. Món này được sinh viên xem là món cao cấp nhất của bữa ăn nên chỉ vài phút là sạch sành sanh,nói chung là phải nhanh tay nhanh mắt chứ không thì thằng khác gắp mất.Còn thằng nào muốn ăn tự bồi dưỡng chất đạm thì chỉ còn cách nhổ vào cái gọi là bát thịt bãi nước bọt thì sẽ chẳng phải tranh nhau với thằng chó nào nữa. Tiếp theo là mắm, còn gọi là Nước Mắm đại dương. Xin đừng hiểu nhầm đây loại loại nước mắm nổi tiếng với thương hiệu “Đại dương”. Thực ra đây chỉ là nước muối, người ta cho thêm màu vào (nghe đâu là nước cơm cháy,sang hơn tí nữa là nước gạo rang cháy). Cho nên, tuy gọi là mắm cho sang trọng nhưng không phải là mắm.

Món cuối cùng là Canh, còn gọi là Canh toàn quốc. Xin đừng tưởng lầm là sản phẩm nổi tiếng toàn quốc, mà thực ra là “canh toàn nước”, chỉ lèo tèo vài cọng rau. Tất nhiên, là loại rau rẻ tiền hoặc không tốn tiền như rau muống, mồng tơi, lá giang, rau dền (khiến nhiều sinh viên chạnh lòng nhớ lúc còn ở nhà cắp rổ đi hớt bèo cho lợn)… Còn về thịt thì có bói cũng không tìm ra miếng nào. Nếu dùng kính hiển vi thì may ra mới phát hiện vài nguyên tố Lipid trôi nổi trong Thái bình dương. Đôi lúc, các sinh viên nhà ta còn bắt gặp trong thau canh những vị khách không mời mà đến như cỏ rác, lá cây, cọng tóc, giẻ rách… Thậm chí có khi còn bắt gặp mấy con sâu to như đầu đũa vẫn ngoe nguẩy do mấy bà nhà bếp mắt cà la tóe cứ nhặt bừa..chắc nghĩ thương sinh viên thiếu chất nên cố ý tăng chất béo, thôi thì vãi cả…luôn.

 Thực tế thì đời sống Sinh viên thời đó vô hình Đã tạo ra được cái cảm giác không còn phân biệt giữa cái đói & no nữa,kể ra mỗi thời đều có cái hay của nó…

 Thời đó xung quanh các trường có rất ít quán xá nên căngtin là nơi ăn uống chính. Hình ảnh của căngtin, mùi vị, âm thanh của xong nồi bát đĩa loảng xoảng Và nỗi nhớ…sắc vì đói bụng.Nó luôn ám ảnh giấc ngủ của sinh viên.Căngtin đã đi vào thơ văn,nhật kí… Và mãi mãi không thể phai mờ trong ký ức của những sinh viên đã đi qua thời bao cấp.

CÂU CHUYỆN CỦA HÀ NỘI ĐÊM TRƯỚC ĐỔI MỚI

POSTED BY ADMIN2 ON MAR 01, 2012 | LEAVE A COMMENT

Câu chuyện của Hà Nội đêm trước đổi mới

Chiến tranh là những giai đoạn bất thường của lịch sử. Bố mẹ tôi đã sinh ra đúng vào cái giai đoạn bất thường kéo dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Cái giai đoạn dài hàng chục năm ấy đã tầm thường hoá con người ta rồi trộn vào đấy những lý tưởng cao siêu đến mức phi lý để rồi kết cục còn lại là những mơ ước cơm, áo, gạo, tiền cỏn con mà đến nay nghe lại là phì cười rồi liền sau đó là nước mắt xót thương. Những câu chuyện kể của bố mẹ tôi là những kỷ niệm của cả một thế hệ và là những bài học cho tôi và thế hệ sau này trên bước đường sắp tới của mình với những mong vá lại những lỗ hổng mà cái giai đoạn đen tối này đã tạo ra ở Việt Nam, giai đoan được coi là hậu chiến với cái tên gọi khó quên “thời bao cấp”.

Chuyện nghề giáo

Bố mẹ tôi sinh ra vào đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, đúng vào giai đoạn đất nước tràn ngập những biến cố lớn của lịch sử. Và vì vậy tuổi thơ của bố mẹ tôi đã phải gắn liền với 2 từ chiến tranh và những cuộc sơ tán rời xa khỏi thủ đô, để rồi đến lúc thanh niên thì đất nước lại bước vào một cuộc chiến mới, cuộc chiến đã chia đôi sông Bến Hải, cuộc chiến đã kéo dài hơn bao giờ hết.

Ba mươi năm đất nước chìm trong khói bom, hết trận chiến này lại đến trận chiến khác. Những khó khăn, gian khổ tưởng như sẽ không bao giờ hết chỉ được xoa dịu những câu chuyện lúc cuối ngày bắt đầu bằng : “Khi nào hoà bình …” . Những câu chuyện, những ước mơ nhỏ nhoi, như ánh sáng leo lét cuối đường hầm để người ta bấu víu vào, để lấy thêm nghị lực mà bước ra khỏi cái đêm dài vô tận ấy.

Chiến tranh qua đi mọi người sẽ được sống sung sướng thì lúc anh, chị, em tôi chào đời là lúc bố mẹ tôi cũng như bao nhiêu gia đình khác lại đang phải chiến đấu với một cuộc chiến khác, cuộc chiến với cái nghèo đói. Cuộc chiến cũng không kém phần khốc liệt so với cuộc chiến bằng súng đạn.

Thời bao cấp không phải là lúc để làm giáo viên, đằng này cả hai vợ chồng đều làm giáo viên thì hẳn nhiên cái nghèo đói hẳn nhiên là cứ luẩn quẩn mãi treo ở trên đầu. Lúc ấy, nếu nhà anh mà có người làm trong ngành phân phối hay cung cấp lương thực ở Hà Nội thì đồng nghĩa với no ấm, với nể trọng, với cái sự “cả họ được nhờ”. Còn nghề giáo viên, cái nghề đem tri thức, nghề đem tương lai đến cho các thế hệ kế tiếp thì lại là nghề nghèo nhất. Ngay cả so với một anh lái xe cho thủ trưởng hay một cô bán hàng dịch vụ thì anh chỉ có hơn những căn bệnh mãn tính về đường hô hấp, cặp mắt cận vì phải chấm bài hàng đêm trong ánh đèn dầu leo lét, vài ba cây dừa làm bằng phim vào những ngày 20/11 và cả thu nhập ít ỏi hơn rất nhiều. Có thầy giáo, cô giáo nào lúc đó mà không phải làm thêm để kiếm sống, phổ biến thì trồng rau nuôi lợn tăng gia, rồi dệt len, làm bánh, chụp ảnh … thôi thì đủ nghề vậy mà cái đói vẫn cứ bám theo nhăng nhẳng. Và rất nhiều đồng nghiệp, bạn bè của bố mẹ tôi dần phải bỏ cuộc trong cái cuộc chiến mưu sinh ấy. Và thế là xuất hiện những cô hàng xén-giáo viên, anh hàng phở-giáo viên, ông bơm mực bút bi – giáo viên… Những người may mắn có cơ hội dạy nhạc hay dạy kèm cho con của các cán bộ cao cấp để đổi lấy những tem phiếu thịt, tem phiếu gạo thì hoá ra là những người may mắn vì đã bám được lấy nghề.

Bố mẹ tôi không phải là những người may mắn như thế, tuy vậy họ vẫn quyết bám trụ lấy nghề dù cho đã có bao bạn bè đồng nghiệp xung quanh, trong đó có cả hai dì ruột của tôi đã phải bỏ nghề mà đi kiếm những công việc tầm thường mà no ấm hơn. Mẹ tôi lúc đó đã phải dành dụm, chắt bóp mua lấy một cái máy đan len của Tiệp về để làm thêm ở nhà. Công việc vất vả kéo dài thường đến tận 3 giờ sáng, nhiều khi là hết cả đêm, thế rồi sáng hôm sau vẫn phải xách cặp đến trường để dạy học. Có lẽ cái tính chịu thương, chịu khó, cái đức hy sinh vì chồng, vì con của người phụ nữ Việt Nam đã giúp mẹ tôi làm được những công việc phi thường ấy. Cũng xin nói thêm, cái máy dệt len của Tiệp này thời đó là một gia tài vì nó có thể là nguồn sống cho biết bao gia đình và sau này mẹ tôi bán nó đi, thêm một ít tiền là mua được căn hộ bé nhỏ ở phố Hàng Lược, nơi tôi đã sinh ra và ở đó đến tận năm 14 tuổi. Còn bố tôi lúc ấy may mắn kiếm được công việc có lẽ còn tương đối dây dưa với cái nghệ thuật của môn văn mà ông vẫn hàng ngày dạy cho học sinh ở trên bục giảng, nghề chụp ảnh. Hàng ngày sau giờ lên lớp, ông lang thang ở các công viên, vườn hoa chụp ảnh cho những người đi chơi muốn lưu giữ lại hình ảnh của mình bằng cái máy ảnh cũ kỹ của Nhật được ông ngoại tôi cho, nhưng nào đâu có kiếm được nhiều vì thời đấy ăn còn chẳng đủ thì người ta lấy tiền đâu ra mà nghĩ đến cái sự ảnh ọt. Thế nhưng những buổi tối rửa ảnh, cái hoá chất rửa ảnh của công nghệ thô sơ thời ấy cũng đã kịp ăn vào tay ông. Những ngón tay xưng đỏ để những lúc cầm bút chấm bài là lại phải xuýt xoa.

Và cứ thế, cùng với cái chuồng gà be bé ở ban công, bố mẹ tôi đã xoay sở để nuôi anh chị em tôi ăn học mà không phải bỏ nghề. Cùng với sự chăm lo về vật chất đó, cái đức chịu thương, chịu khó, vun vén cho gia đình của mẹ tôi, những tủ sách đầy truyện và những giảng giải của cha tôi, sự khó nhọc vất cả và cả tính mẫu mực nhà giáo của cả hai người là những gì đã nuôi lớn tâm hồn tôi. Giờ đây cả ba anh chị em tôi chẳng có ai theo nghề giáo cũng như cả 2 bố mẹ tôi đều đã về hưu. Nhưng đối với tôi, nghề giáo vẫn là nghề thiêng liêng và rất đáng được trân trọng.

Chuyện bữa ăn

Nếu ngày hôm nay, chúng ta luôn đòi hỏi cái sự “ăn ngon, mặc đẹp” mà thực tế người Hà Nội ngày nay ăn ngày càng ngon, mặc càng đẹp: những KFC, McDonald’s đâu còn là lạ, những Versace, CK, Longchamp đâu phải là hiếm thế nhưng hãy thử nhìn lại hơn 20 năm trước đây thôi thì mới thấy ngay cả cái ước mơ “ăn no, mặc ấm” vẫn còn là xa xỉ. Cái sự mặc thì thôi khó khăn cứ đành xuề xoà mà cho qua, nhưng cái ăn là cái phải đối diện hàng ngày thì biết tránh vào đâu được.

Hãy thử xem một bữa ăn phổ biến của các gia đình trung bình thời ấy ở Hà Nội nhé, một nồi chuối xanh kho tương với ít tép vụn rồi rưới lên trên ấy một thìa mỡ (chỉ một thìa thôi nhé vì mỡ đắt mà – vậy mà cái nồi này có khi ăn được đến cả tuần lễ), một bát tép hay cá kho mặn mà một miếng có khi và được cả bát cơm, một đĩa rau muống luộc, nước luộc rau vắt chanh và một bát tương nhỏ được đã được pha thêm hẳn 3 thìa muối mà chấm rau vẫn phải chấm đứng cọng cho đỡ tốn. Đấy là nói đến thức ăn, giờ mới nói đến cái nồi cơm-nhân vật chính của bữa ăn. Này đừng có mà mơ mà đắn đo gạo hạt ngắn hay hạt dài nhé, chỉ có gạo hạt đỏ thôi, thế mà đôi khi cũng thiếu, cái chuyện độn khoai, sắn, ngô, mỳ hay cả hạt bo bo là “chuyện cơm bữa”. Đấy cái sự ăn nó thông thường và gần gũi thế đấy, nên cái gì mà quá bình thường và phổ biến thì người ta lại gọi là : “chuyện cơm bữa”.

Cũng may nhà bà ngoại tôi vốn là nhà buôn bán lâu đời ở Hà Nội, dù sau giải phóng gia cảnh có nhiều sút kém, các cửa hàng đã bị Chính phủ tịch thu hết nhưng cái gia thế vẫn còn nên đôi lúc cũng đỡ đần được cho con gái trong cái sự ăn uống hàng ngày, đôi khi là gói chả, khi là quả trứng… nên lũ chúng tôi cũng đỡ phải chịu cảnh kém ăn. Cộng vào đó, sự chịu khó của mẹ tôi nên riêng nhà chúng tôi chưa bao giờ phải chịu cái cảnh ăn cơm độn và sang hơn nữa ấy là sáng Chủ Nhật, mua một bát phở về cho cả nhà ăn cùng với cơm nguội, thế cũng đã là một bữa sáng sang. Có lẽ vì được sinh ra trong một gia đình nề nếp nên mẹ tôi rất coi trọng đến bữa ăn và luôn chăm lo, vun vén để lũ chúng tôi không bao giờ phải thua kém những nhà khác trong chuyện ăn uống.

Cái hạnh phúc nhỏ bé quây quần bên mâm cơm ngày ấy giờ đây khó tìm lại được, ngay cả khi cả nhà ngồi trong một nhà hàng sang trọng. Những bát phở trộn cơm nguội ngày xưa giờ tôi không còn phải ăn nữa, nhưng những khi ngồi ăn phở 24, tôi lại ao ước tìm lại được cái cảm giác thèm muốn và háo hức thời đó. Cái cảm giác chắc là sẽ mãi mãi không bao giờ còn tìm lại được nữa.

Hà Nội giờ đã và đang làm quen với văn hoá hưởng thụ, nhưng những câu chuyện “đêm trước đổi mới” của nơi này sẽ mãi mãi là bài học về đức chịu thương, chịu khó cho chúng tôi.

Chuyện mơ ước

Bây giờ người ta hay mơ ước điều gì nhỉ? Thì du lịch vòng quanh thế giới, rồi nhà biệt thự với đầy đủ tiện nghi, rồi xe Lexus… Vậy không có ước mơ nào dính đến ăn mặc à? Ăn với mặc thì làm gì phải mơ ước!

Thế mà mới chỉ hơn 20 năm trước đây thôi, ước mơ của người Hà Nội chỉ quanh quẩn trong có bốn từ : “miếng cơm, manh áo”.

Chuyện cái mặc, lúc đó, nếu anh mặc một cái áo lông Đức ra đường thì đã là rất oai có khác chi ngày nay diện một bộ veston Armani chính hiệu. Và nếu còn dắt theo một chiếc xe đạp Peugeout nữa thì đích thị anh chính là mẫu hình tượng mơ ước của người Hà Nội thủa ấy. Hãy tưởng tượng, chiếc xe đạp Peugeout ngày ấy, bây giờ tựa như một chiếc xe SH hay thậm chí là còn hơn nữa. Lúc bố mẹ tôi mới lấy nhau cũng được bà ngoại cho một chiếc xe Peugeout như vậy, tuy cũ nhưng đi ra đường thì vẫn vô cùng oai. Sau này nó bị trộm mất, vậy là sáng sáng ba bố con (lúc đó chưa có tôi) dắt nhau ra chợ Đồng Xuân để chờ tàu điện để đi học, đi làm. Cái cảnh chen tàu điện thì khổ hết chỗ nói. Vậy là lúc ấy lại ước mơ có được một chiếc xe đạp.

Ở cái thời mà đến ngay cả cái bút bi cũng phải bơm mực để dùng đi dùng lại, nên mới sinh ra một cái nghề rất phổ biến là “bơm mực bút bi”, thì vẫn còn hằng xa số các ước mơ nhỏ nhoi mà lại quá xa vời khác nữa như cái quạt điện Sanyo, cái radio Philips , cái TV JVC , hay chỉ là cái nồi áp suất Liên Xô…

Để đạt được tất cả những ước mơ ấy, chỉ còn cách cố gắng để đạt được một ước mơ khác, ước mơ xuất ngoại. Cán bộ thì cố học tiếng Pháp để cơ hội được đi làm chuyên gia ở Algeria hay Iraq, nếu được vậy thì cả nhà được nhờ. Học sinh, sinh viên thì cố học giỏi để đạt được suất học bổng ở Liên Xô, vậy là có thể vừa học vừa tiết kiệm học bổng để mua hàng hoá bên ấy gửi về nhà báo hiếu bố mẹ. Còn những người không phải 2 đối tượng trên thì vẫn còn những suất lao động xuất khẩu ở Đông Âu để mà mơ ước. Những Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan… lúc đó là những chân trời mới để con người ta hướng đến trong cái đêm đen tăm tối ấy. Những con người đã phải mơ ước được rời bỏ quê hương với mong muốn tìm thấy hy vọng cho mình và gia đình để thoát ra khỏi cái cảnh nghèo. Rồi đến khi Liên Xô tan rã, hầu hết trong số họ đều đã phải trốn ở lại đây để buôn bán. Kiếm ăn trong cái hoàn cảnh tranh tối, tranh sáng ấy ở xứ Đông Âu quả thật là không tệ nhưng cũng lại ẩn chứa muôn vàn bất trắc. Những lúc cuối ngày mệt mỏi thì chỉ còn có ước mơ được trở về nhà, nơi luôn luôn yên bình, nơi vẫn còn ấm áp tận sâu trong trái tim họ. Nhưng họ không thể, họ vẫn phải cố bám trụ lại nơi xứ người này vì biết trở về nhà sẽ là đói, không chỉ có mình đói mà cả gia đình nữa. Tất cả những vất vả, những giấc mơ đều đã bị đánh đổi cho cái mơ ước thoát ra khỏi cái nghèo.

Đó là câu chuyện những mơ ước của “Hà Nội đêm trước đổi mới 1986”, những câu chuyện không hề xa chúng ta mà sao nghe quá xa xôi. Những ước mơ nhỏ bé đến tức cười mà nghe xong lại thấy lòng xót xa. Câu chuyện của bố mẹ tôi, câu chuyện của cả Hà Nội vào cái thời tăm tối ấy, những câu chuyện giờ đây gợi lên nhiều kỷ niệm cho những ai đã sống ở vào cái thời kỳ đó. Để lúc này đây, tay cầm điện thoại di động, mắt xem TV màn hình phẳng, tai nghe dàn nhạc 7.1, trên người mặc những bộ quần áo lộng lẫy … chúng ta, những người đã may mắn không phải trải qua cái thời kỳ đó, suy nghĩ gì về ngày xưa ? “

KÝ ỨC THỜI SỔ GẠO

POSTED BY ADMIN2 ON MAR 03, 2012 | LEAVE A COMMENT

Sau ngày giải phóng, tiếng reo vui chưa được bao lâu thì người dân hai miền Nam – Bắc phải đối mặt với biết bao gian nan. Cả nước chạy gạo ăn từng bữa.

Nhiều người vẫn còn giữ những tờ tem phiếu, sổ gạo ngả màu ố vàng thời gian, gợi cho họ cả một quãng đời mà người ta quen gọi là thời bao cấp.

Sài Gòn những năm 1980

Sống giữa Sài Gòn thời ấy, ông giáo Nguyễn Văn Hàng thèm bát cơm trắng và đủ thứ: cây viết trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa vá, chiếc xích chưa lộn… Hơn 20 năm rồi ông Hàng vẫn còn nhớ cái hôm chiếc xe đạp cà tàng bị banh niền.

Ông mượn cây kim to và sợi cước dài vật lộn với chiếc lốp suốt đêm. Sáng hôm sau, ông đến lớp mà không cầm nổi viên phấn nhưng không biết phải giải thích thế nào với học sinh. Mấy ngón tay nứt toét, sưng lên. Thế mà ông vẫn ngày hai buổi đến lớp.

Năm ấy, vợ ông sinh con đầu lòng. Tiêu chuẩn gạo hằng tháng được 13kg/khẩu, nhưng thường chỉ lĩnh được 3kg, còn lại qui đổi lúc bo bo, lúc bột mì, lúc mì sợi vụn, lúc khoai lang…

Cả tiêu chuẩn gạo của ông giáo Hàng cũng ưu tiên dành cho vợ, mấy tháng trời ông quên mất trên đời còn có món cơm trắng. Còn thịt chỉ là thứ mơ ước. Một hôm hội đồng giáo viên bỗng nảy ý định biến mơ ước thành hiện thực: nuôi một con heo.

Nhưng bằng cách nào? Cả tập thể nhảy vào bàn bạc và quyết định tập thể cùng nuôi. Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dãy phòng học. Ai có thức ăn thừa mang đến, nhưng khổ nỗi người không đủ ăn thì làm gì có thừa cho heo.

Nhưng rồi vẫn có: nước vo gạo, ruột cá, gốc rau… Nhưng nước vo gạo thì trong veo, gốc rau thì cụt ngủn. Con heo con thèm cám như trẻ con thèm sữa.

Một học kỳ trôi qua, con heo chẳng lớn được bao nhiêu. Nhưng đến ngày đến tháng hội đồng giáo viên cũng đành xẻ thịt liên hoan. Thế mà buổi liên hoan vẫn linh đình vì có được mấy miếng thịt.

Thầy Hàng bảo nửa năm rồi ông chưa ngửi được mùi thịt. Nuôi heo cực quá, trường thầy Hàng chuyển hướng “đầu tư” nuôi chó. Ông hiệu trưởng “lý luận”: không có gì cho chó ăn thì nó vẫn có thể tự kiếm lấy cái ăn.

Tưởng nói đùa hóa ra ông hiệu trưởng đi xin chó con thật rồi gửi nuôi ở nhà bà cụ trong trường. Thầy cô giáo có canh thừa, cá cặn lại gom góp mang đến cho con chó của tập thể.

Cuộc sống cứ thế trôi. Cây vẫn đơm hoa kết trái. Thầy cô cưới nhau trong cảnh mượn của người này chiếc áo trắng, của người kia chiếc cà vạt. Chén, đũa, ly, đĩa… tập hợp của nhau lại bày cho đủ mâm.

Nói thế cho sang chứ khẩu phần mỗi người ăn cỗ cưới chỉ có một miếng chả giò, một miếng dưa hấu và một quả chôm chôm. Thầy Hàng ra sân trường chặt một cành sứ vào trang trí, quét dọn sơ sơ để biến thành căn phòng… hạnh phúc.

Nhưng chiếc giường quá ọp ẹp, chân gãy tự bao giờ. Một ông thầy bạn thân thầy Hàng vốn khéo tay được tín nhiệm giao chăm chút lại “tổ ấm” cho đôi uyên ương. Chiếc giường đến giờ chót đủ bốn chân. Chú rể cười: xem như xong cái căn bản nhất…

Không chỉ giới công chức, nhà giáo mà giới kinh doanh cũng khốn khó. Khi cuộc cải tạo công thương bắt đầu thì cuộc sống của ông Trần Văn Thành (nay trú tại 26C, ấp 4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, TP.HCM), từng là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung, nhà cửa đàng hoàng, thường ăn cơm tiệm, cuối tuần hay đi mua sắm… cũng bắt đầu đổi khác.

Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng, dầu, bơm vá…

Tiền lương của ông mỗi tháng không đủ chi tiêu cho một tuần sinh hoạt gia đình. Vì sao vậy? Ông kể: nối nghiệp gia đình theo nghề lái xe, đến năm 1973 ông Thành sắm được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng, tương đương hơn 100 lượng vàng thời đó.

Đây là một tài sản lớn, nghề khác không dễ có được. Ông Thành được xem là nhà tư sản “nhỏ” và ông đã có thể mơ đến chuyện thành lập một hãng xe. Lúc ấy dân tài xế nói riêng, những nhà buôn, dịch vụ nói chung làm ăn khấm khá.

Bến xe miền Tây khi đó có một số hãng xe lớn sở hữu hàng chục phương tiện đắt tiền như Hiệp Thành, Phi Long, Á Đông… không ngừng phát triển.

Nhưng sự phát triển đã dừng lại bởi “sáng kiến” công ty công tư hợp doanh. Tất cả mọi chiếc xe lớn nhỏ dù của ai cũng đều phải đem góp vào công ty. Giá xe do Nhà nước định mà trên thực tế thì nó chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô.

Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn lương theo qui định. Ai không biết lái xe thì coi như mất xe.

Có những ông chủ hãng xe 30- 40 chiếc, cai quản hàng trăm lái, phụ xe nay muốn quá giang 30-40km nếu không mua được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin mãi mới được làm phụ xe, còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ý.

Hà Nội sau niềm hân hoan

Bà Đinh Thị Vận – 63 tuổi, phường Tương Mai, Hai Bà Trưng (Hà Nội), là công nhân Nhà máy Dệt 8-3 – vẫn còn nhớ: sau giải phóng miền Nam, gia đình, cơ quan, khu phố của bà cũng như nơi nơi đều ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô bờ.

Nhưng sau đấy một vài năm thì giá cả tăng vùn vụt, cơ quan của bà không việc làm. Nồi cơm của gia đình bà nấu gạo “mậu dịch” (gạo từ kho các cửa hàng lương thực của Nhà nước) hôi đủ các thứ mùi: gián, mốc và có khi là xăng dầu…, có khi lẫn những hạt sạn to như hạt ngô.

Sau đó gạo mậu dịch cũng thiếu và ngày một lẫn đầy những sắn, ngô, khoai… Hường, con gái bà, từng nói lên mơ ước trong bài văn nộp cô giáo: “Ngày tết em mong sao có một nồi cơm trắng và một bát thịt kho…”. Một ước mơ không có trong tâm thức những người trẻ bây giờ, nhưng không phải hiếm thời đó.

Mỗi tháng, theo chỉ tiêu, cả nhà bà Vận được nhận 2kg thịt. Gọi là thịt nhưng toàn mỡ vụn, bạc nhạc và lại chia làm hai lần. Lần nào cơ quan bà cũng chỉ đủ thịt chia cho 2/3 công nhân.

Mỗi tổ phải tự bắt thăm. Ai trúng thì lĩnh trước, không trúng thì chờ đợt sau. Các chị tiếp phẩm (bộ phận chia thực phẩm) cân hụt mất một lạng, có biết cũng phải cố mà cười. Ngày lĩnh thực phẩm cả nhà cứ phấp phỏng, rình mò và hít khói bếp.

Rán cho cùng kiệt mỡ, cẩn thận đổ vào liễn rồi bà mới cho “cả làng” muối, mắm mặn chát vào kho với mấy miếng thịt để ăn dè. Cả khu tập thể công nhân nhà máy vui như hội. Khu phố lên đèn, ở những gia đình không được lĩnh, có tiếng chì chiết của ông chồng nào đó vì vợ không bốc trúng thăm…

Rất nhiều nhu yếu phẩm khác như xà phòng, mì chính, chất đốt… của tất cả cán bộ công nhân viên chức khác cũng như vậy. Có năm ba tháng liền bà chỉ được lĩnh vải mà không xà phòng.

Có người như cô Hoa chồng chết, nhà có bốn người toàn phụ nữ (mẹ chồng, Hoa và hai con gái) nhưng khi lĩnh tiêu chuẩn quần áo lót thì toàn quần đùi, áo may ô và… dao cạo râu. Cô Hoa khóc cả tuần liền…

Công ty của em bà sản xuất sứ tích điện. Không có tiền, công ty trả lương cho công nhân bằng tích điện. Đơn vị có cao su trả bằng cao su, xí nghiệp có mũ cứng thì trả lương công nhân bằng mũ cứng… Những lúc như vậy lĩnh lương xong cũng không biết đem về đâu, để làm gì?

Chuyên gia kinh tế Lê Văn Viện bảo rằng đó là bối cảnh chung của đời sống người dân trước năm 1986. Hầu như những mặt hàng thiết yếu đều đến tay người tiêu dùng qua kênh phân phối bằng hiện vật, tem phiếu và định lượng bằng chỉ tiêu.

Một số hình ảnh sổ gạo, “báu vật” của mỗi gia đình thành thị thời bao cấp:

Thời bao cấp trai gái thời thượng không ai gọi là hot boy, hot girl. Không biết miền Nam gọi là gì chứ ở miền Bắc trai gái thời thượng đều gọi là người yêu lý tưởng. Ngay cả cái từ hot hình như cũng chỉ được dùng hơn chục năm trở lại đây thôi, nó bắt đầu từ ngôn ngữ chat chít của lớp trẻ. Mình đã viết hot boy thời bao cấp rồi, giờ kể thêm hot girl cho vui.

Khác với hot boy có dăm bảy loại, thời bao cấp hot girl chỉ có một loại thôi, ấy là những cô gái mậu dịch viên. Tất nhiên thời nào gái đẹp, gái nổi tiếng đều hot cả, thời bao cấp cũng thế, nhưng thời này gái mậu dịch được trọng vọng nhất, hầu như họ không có đối thủ trong tình trường. Cái thời dân chủ yếu sống bằng tem phiếu, đường sữa mắm muối vải vóc.. nhất nhất đều phải dựa vào tem phiếu, đồng lương cán bộ chỉ có thể sống được nhờ các cửa hàng cung cấp, không thể sống nhờ chợ búa được thì ai đứng cửa hàng kể như cầm mạng sống của cả nhà.

Các cửa hàng luôn ở tình trạng thiếu hàng, mọi người xếp hàng chầu chực chờ hàng về để được mua đầu tiên. Chỉ cần chậm chân một chút hoặc là xách túi về không, hoặc là phải lấy mấy thứ đầu thừa đuôi thẹo. Mình nhớ ngày đó ba mình cất phiếu thịt chờ con cái đi học, đi làm ở xa lâu ngày về thăm, ông mới đem phiếu ra cửa hàng thịt. Ông dậy từ 4 giờ sáng ra cửa hàng đứng xếp hàng chờ đến 7 giờ cửa hàng mở cửa. Thế mà nhiều khi ông phải xếp thứ mấy chục. Chưa khi nào ông mua được cân thịt ngon. Thịt ngon đều để dành cho cấp trên, người nhà, người quen, người trong cửa hàng trong công ty của mậu dịch viên. Mua được cân thịt là may rồi, chẳng ai dám mơ có được cân thịt ngon. Ba mình xách cân thịt về, mồ hôi muối trắng lưng áo, nói cười hể hả như là nhặt được cân thịt ở đâu về chứ không phải đi mua thịt tiêu chuẩn. Lúc nào ông cũng khoe mình đã gặp may. Khi thì khoe đứa học trò nó nhường cho mua trước. Khi thì khoe đến lượt ông mua xong là hết sạch thịt chỉ còn lòng. Khi thì khoe hết thịt rồi nhưng cô bán thịt nhận ra người quen, cô linh động bán cho phần thịt cô để dành cho người nhà. Cả nhà nghe ông kể ai nấy mừng húm, nói may hè may hè.

Khổ thân, tiêu chuẩn của mình mà mỗi khi mua được thì mừng hơn cha chết sống lại. Một cân thịt có khi về nhà cân lại chỉ còn tám lạng vẫn mừng, có tám lạng còn hơn không có lạng nào. Chả ai ngu xách cân thịt ra cửa hàng yêu cầu cân lại. Người sắp hàng mua rất đông, chẳng ai cho mình chen ngang để kiện cáo. Nếu chen vào được, nói chị ơi tôi cân lại chỉ có tám lạng thôi. Cô mậu dịch một là không thèm trả lời; hai là lườm cái, nói thừa thiếu phải nói ngay tại quầy, bác đã đem thịt ra khỏi quầy còn đem lại đây bảo thiếu a; ba là cô cầm tám lạng thịt ném vào thớt, nói bác chê thiếu thì để người khác mua. Lập tức có cả chục người nói đây đây tôi mua tôi mua, tám lạng thì tám lạng. Xong om.

Kể qua vậy để nói quyền thế của cô mậu dịch viên lớn lắm. Bán ai trước, bán đúng cân hay thiếu cân, hàng nguyên chất hay đầu thừa đuôi thẹo đều thuộc quyền cô cả. Nếu ai thấy cô cân thiếu yêu cầu cân lại, hoặc muốn đổi hàng chất lượng cao hơn cũng không được. Mình chưa nói xong câu thì cả chục người đứng sau réo ầm ầm, nói ông kia mua nhanh cho người khác mua. Mua được hàng là tốt rồi còn đổi chác, ngu thế, tham thế. Nếu mình còn chần chừ nhất địch bị đám đông đứng sau đánh bật mình ra khỏi hàng khi nào không biết.

Muốn mua hàng nhanh, đạt chất lượng chỉ có cách quen biết mậu dịch viên, hoặc cửa hàng trưởng, không còn cách nào khác. Quen được họ rồi thì là được mua đầu tiên, hàng đã không thiếu lại ngon lành. Sáng sớm đi làm gửi phiếu gửi sổ mua hàng cho họ, đến trưa thì viếng qua cửa hàng lấy, khoẻ re. Nếu không cứ đến thẳng cửa hàng, cố dơ mặt ra cho người ta thấy, búng ngón tay cái tách ra hiệu. Cô Mậu dịch thấy rồi, vờ gọi tên hai ba người là đến tên mình ngay. Ai thắc mắc, nói anh này mới đến sao mua nhanh thế thì vờ cau mặt cười nhạt, nói bác đến sau biết gì, tôi sắp hàng từ ba giờ sáng, giờ mới đến lượt đây. Hi hi.

Các cô mậu dịch viên chẳng những có quyền thế lại được hưởng lộc từ các trò cân thiếu, đánh tráo chất lượng hàng, thậm chí còn đánh tráo cả tem phiếu mua rồi thành tem phiếu chưa mua, thành thử thời này tất cả các mậu dịch viên nếu không giàu có cũng không khi nào túng thiếu. Lấy được mấy cô này khác gì chuột sa chĩnh gạo. Nhà nào kiếm được cô dâu là mậu dịch viên thật mừng hết lớn. Cả họ mừng chứ không riêng gì nhà đó mừng.Mình chưa tán được cô nào là mậu dịch viên cả, mặc dù rắp ranh rất nhiều lần, lần nào cũng thất bại. Hễ cô nào là mậu dịch viên thì nhất định gia đình mấy người quyền thế đều thửa trước. Nếu không thì mấy ông hot boy thời này cũng cua ngay, chẳng cô nào “vườn không nhà trống” cả, rất khó tán. Mậu dịch viên thường mặt mày không đến nỗi, đa số đều sạch nước cản. Cũng có cô xấu, xấu mấy thì xấu, dù xấu ngang tầm Thị Nở cũng không đến lượt mình.

Chẳng phải cưa đổ tán được, anh nào quen được mấy cô cũng đã vinh dự lắm rồi. Quen được một cô mậu dịch là giá mình lên hẳn, từ gia đình, bà con đến thầy cô, bạn bè ai ai cũng nể trọng, ra sức chiều nịnh để nhờ cậy. Vì thế quen được cô mậu dich viên còn phấn khởi gấp mấy lần được thăng chức lên lương ( Tất nhiên là lương nhỏ chức quèn).

Mình nhớ hồi ở Huế, mình làm việc cùng phòng với thằng T. Thằng này thiên tài về quan hệ, thích quen ai là nó quen được liền. Một hôm có cô mậu dịch tìm đến phòng mình tìm nó. Nó kéo cô vào phòng, nói đây là cô A. ở cửa hàng B. Cả phòng bỗng ngẩng phắt lên mặt mày sáng trưng, không ai bảo ai tất cả đều xúm đến rồi rít hỏi han mời mọc. Thằng T. vắt chân chữ ngũ, mặt vênh lên y chang nó vừa quen được ông thủ tướng.

Anh M. là con ông phó chủ tịch huyện. Anh đi bộ đội lên đến hàm đại uý, hàm ấy gọi là siêu, cũng là “đồ quí hiếm”. Ở nhà bố anh dấm sẵn cho một cô mậu dịch viên. Khi anh về phép bố anh dẫn đến xem mặt. Anh chê xấu. Bố anh trừng mắt lên, nói ngu lắm, vàng đó con ơi, tao quyền thế lắm mới kiếm được cho mày đấy, đừng có tưởng bở. Anh vẫn chê. Cô này biết được, cười cái xoẹt, nói đó chê thì đây cũng nỏ thèm, tưởng đại uý là to à. Chỉ trong tuần lễ cô cưới ngay một ông thiếu tá trước mặt anh, ông này còn đẹp trai hơn cả anh nữa.

Thời mình đi lính chơi thân với thằng Q. Thằng này cực đẹp trai lại hát hay đàn giỏi, đi đâu gái chạy theo cả đàn. Chị nó ở nhà viết thư cho nó, nói chị đã dấm cho em một cô rất xinh xắn, khoẻ mạnh, nết na. Mày đồng ý thì để chị nói chuyện với nó. Thằng Q. làm chảnh, viết thư nói chị cứ từ từ, để em về xem có đồng điệu tâm hồn không đã. Thư sau chị nó dục, nói em quyết nhanh lên, ba mạ chờ ý kiến em để làm lễ bỏ trầu. Thẳng Q. vẫn thờ ơ, viết thư nói chị ơi em làm sao quyết được khi chưa biết tâm hồn người ta có đồng điệu hay không. Chị nó lại viết thư, lần này kể chuyện kĩ hơn, nói con bé hiện bán ở cửa hàng tổng hợp huyện em ạ. Thằng Q. đọc thư đến câu này, vội vàng tót ra bưu điện đánh điện khẩn về, nói em đồng ý, chị nói ba mạ làm lễ bỏ trầu cho em. He he.

NHỚ THỜI SINH VIÊN

 Ngày xưa, cái thời sinh viên, thời bao cấp đói khổ thế mà vui, vì chả đứa nào sợ đứa nào nắm áo kéo lại. Còn ngày nay,  nghe nói trọng tài chưa huyt còi có thằng đã đề ba xuất phát phóng như ngựa điên. Nhắc lại thời sinh viên, vui thật. Thời ấy đi học , đúng là nhà nước lo từ miếng ăn đến chỗ ngủ.  Mặc dù vẫn còn dư âm nào là “nước mắm đại dương”, “bánh xe lịch sử”…để gán cho một xon nước mắm do nhà bếp tự chế biên, hay những chiếc bánh làm bằng bột sắn mì thay những buổi thiếu cơm.

         Vui, sinh viên thời ấy hầu như đều ở trong kí túc xá  của trường cả.  Mỗi khi tan  học ở giảng đường là gấp gáp về phòng ngay nhảy tót lên giường nằm thở , chờ nghe ngóng tiếng kẻng báo ăn cơm. Kẻng vừa báo xong , cả túc xá vang lên một bản hòa tấu cốc cốc keng keng dậy cả trời. Các nhạc gia chính là những thằng tếu táo như Nẫu, nhạc cụ chính là cái chén và đôi đũa gõ vào nhau, rồng rắn kéo xuống nhà bếp. Có lúc chen lấn nhau để tránh gặp những thằng ăn nhanh như heo, tụi nó mà ngồi chung mâm có mà đói.

        Khi  đứa nào nhận được tiền viện trợ của ông bố, bà mé chi viện thêm để cải thiện ăn tươi thì cứ như là mở hội. Kéo cả đàn vào quán chén mấy cái bánh tà dạt, húp sồn sột nước mắm thật, hay ăn ngon lành mấy đĩa rau xanh, nếu có con sâu nằm trong đó vẫn bình thảng chứ không la làng như bây giờ , nào chê  rau không sạch, có chất tăng trưởng này nọ.

       Khuya về, tạt vào công viên của trường, một thằng lên phòng xách cây đàn gi-ta xuống rồi chụm nhau rên rỉ nhạc Trịnh: ”Em còn nhớ hay em đã quên ? Nhớ Sài gòn mưa rồi chợt nắng. Nhớ phố quen biết tên bàn chân…”. Hát đến khi có thằng ngáp rồi tự động ủ rủ về phòng . Nằm chưa kịp chợp mắt thì nghe tiếng kẻng tập thể dục, dành phải bật dậy  ra sân ngay …nếu không tháng ấy bị quở phạt hay cắt phần ăn thì có mà khổ. Nẫu  nhớ mãi thằng bạn có tên P…  ú, nó ú vì sỉnh , đầy chứ không phải nhờ nạp đầy đủ cô gái Hà lan như bây giờ. Nẫu còn nhớ bài thơ của nó viết cho báo tường của lớp.  Chỉ vài câu , nhưng ban biên tập cho đăng ngay vì  nói lên được… cái gọi là thực trạng của kí túc xá thời bấy giờ.

Keng , keng …

Cứ ngở… tiếng kẻng cơm.

Ai ngờ… kẻng thể dục.

….Mình dân xứ nẫu thứ thiệt , nói tiếng đặc sệt quê  mùa. Một hôm ,  thầy dạy môn Hình học gọi Nẫu lên  trả bài giải bài tập . Nẫu vẽ hình chóp S.ABCD,  miệng nói: :”Đây là hình chớp có đỉnh êt (S),  đáy là tứ giác a, bơ (b) , xơ (c) ,dơ (d)…lớp bắt đầu có tiếng xì xào, Nẫu ngỡ tụi nó  đang ngưỡng mộ  nên  càng hăng tiết thao thao xổ ra một tràng tiếng nẫu , cả lớp hôm đó được dịp ôm bụng nhau cười ngặt nghẽo, thầy giáo không nói gì vì cũng đang lo ôm bụng mình .

      Sau này,  Nẫu mới biết cái hớ của mình và điên tiết lên khi phát hiện được thằng Na. dân Quảng Ngãi cùng phòng với Nẫu cười  nhiều nhất. Phòng Nẫu có bốn đứa nó không ủng hộ thì thôi lại cười , mới chết.. Thế là đòn trả thù bày ra:

       Hôm  đó, trong phòng có đầy đủ bốn thằng,  mình nhờ thằng S . gi- ta ôm đàn, Thằng T cầm hai nắp xon ngồi trên giường tấng cao nhìn xuống, còn chính hắn ngồi trên giường há mỏ, trố mắt nhìn Nẫu  tằn hắng , cất tiếng trịnh trọng ra vẻ MC xướng ngôn viên:

-         Đây,  là đài phát thanh Quãng nghễ, chương trình nói tiếng Quảng nghễ, bắt đầu.

Thế là tiếng đàn gi -ta của thằng S năm dây xổ ra từ tay của nó kêu loàng xoàng, trên giường hai nắp xon của thằng T kêu loảng choảng,  đột ngột dừng lại,  Nẫu tiếp tục:

-         hê lần hê là bốn.

Tiếng thằng S,  dịch theo:

-         Tức là, hai lần hai là bốn.

Tiếng đờn , tiếng nắp xon nhịp theo reng reng , dưt đoạn. Nẫu nhìn mặt nó ra chiều nghiêm túc, tiếp:

-         Hê mư hê ké.

Thằng T trên giường cũng buột miệng, gào lên:

-         Tức là, hai mươi hai cái.

Ôi  thôi, tới đó thằng Na tức gáy lên , đứng dậy thấy cái đẩu quơ cái đẩu , thấy cái chẩu quơ cái chẩu  liệng  tới tấp lên ngừ thằng Nẫu tôi.

         Vui,  thời ấy chơi nhau sát ván nhưng rồi ôm nhau cười ha hả, chứ không như  cho xin tí huyết vì mày nhìn đểu tao như bây giờ.

Ngày trước những lúc rảnh rỗi tôi với thằng bạn nối khố cùng phố và bố tôi thường đứng ở trước cửa nhà vừa nói chuyện vừa lơ đãng nhìn dòng người gánh gồng rau quả từ ngoại thành vào thành phố. Hồi đó không có xe máy thồ như bây giờ và hình như cũng hiếm những người buôn bán lớn cho nên hầu hết đi chợ đều là các bà các chị quang gánh tuềnh toàng: bên mấy bó rau, bên mấy củ khoai dong riềng, bên này mấy con trai con hến bên kia là mớ tôm đồng dù được che bằng cành lá xoan xanh biếc vẫn cứ nhảy lao xao, bên thì xảo rau tập tàng hái trong vườn nhà thêm mấy bông thiên lý điệu đàng, bên là cái lồng nhốt độc chú gà trống choai chốc chốc hứng chí vươn cái cổ có màu lông đỏ tía lên gáy te te.

Thi thoảng có bà còn treo lắt lẻo nơi đầu đòn gánh một con cá chép to bằng bàn tay tươi rói, cái đuôi màu đỏ của nó cứ quẫy hết bên này sang bên khác. Họa hoằn lắm chúng tôi nhìn thấy cũng treo ở đầu đòn gánh là một con ba ba to bằng cái vung nồi cơm. Con ba ba thò cái cổ dài ngóc bên nọ ngóc bên kia theo nhịp gánh. Sự kiện này đặc biệt thu hút sự chú ý của bọn trẻ con. Lũ trẻ xoắn xuýt chạy theo. Đúng lúc ấy mà gặp người  hỏi mua, bà bán hàng dừng lại là cả bọn xúm xít vây quanh. Có đứa còn cầm một cành que dứ dứ vào mồm con ba ba. Rất nhanh con ba ba đớp lấy thanh que và rụt ngay cổ lại mặc cho mấy thằng tha hồ kéo nó vẫn không chịu nhả ra. Cho đến khi bà bán hàng không kiên nhẫn được nữa quát một tiếng là cả bọn kêu ré lên rồi chạy tán loạn. Thời đó những người nông dân đem bán tất cả những gì trồng được trong vườn nhà, nuôi được trong sân nhà, bắt được tại ao nhà. Cái thời mà kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp theo kiểu sản xuất nhỏ cộng với sự hỗ trợ phần lớn của nhà nước – thời mà sau này được định danh là "Thời bao cấp".

Hồi đó, tôi nghĩ, chắc không có khái niệm kinh tế thị trường hay kinh tế bao cấp. Vì đơn giản, giống như ta còn đang sống ở trong quả bầu thì không thể biết hình thù nó ra sao, chỉ khi chui ra khỏi nó rồi mới biết nó có hình tròn. Cho nên những khái niệm này chắc chắn xuất hiện sau thời "sụp đổ" của chủ nghĩa bao cấp. Nghe nói năm ngoái năm kia gì đó Hà nội mình có tổ chức triển lãm "Hà nội thời bao cấp" đã thu hút được rất đông người đến xem, đủ các thành phần, đủ mọi lứa tuổi. Những người thế hệ U40-50 đến để nhớ về một thời gian khó nhưng cũng rất đỗi tự hào. Những người thế hệ 8X, 9X đến để mong thấu hiểu hơn cuộc sống một thời của bố mẹ, ông bà và cả vì tò mò nữa. Không tò mò sao được khi nghe nói những thứ bây giờ chỉ cần một cú phôn là có người mang đến tận nơi với lời cám ơn chân thành, với thái độ ân cần như của thần dân đối với Thượng đế cộng thêm bao nhiêu ưu đãi khuyến mại nữa thì ngày xưa phải mua có định lượng, phải có bìa, có sổ, có tem phiếu, phải xếp hàng, phải giành giật mới mong đến phần mình.

Tôi hỏi con trai mình, cũng thế hệ 8X có biết gì về thời bao cấp không? Nó hỏi lại, bao cấp là cái gì? Tôi muốn nói để nó dễ hiểu nên trả lời: Bao cấp là xếp hàng. Nó bảo, thế thì con biết rồi, vì hồi 5-6 tuổi con có mang can đi xếp hàng mua dầu cho mẹ. Thế hệ con trai tôi có lẽ là sản phẩm cuối cùng của thời bao cấp. Vì hồi mới đẻ nó, tôi còn phải khổ sở cầm giấy chứng sinh của nó nhờ vả chạy chọt mãi mới kiếm được phiếu mua sữa cho con. Rồi làm sổ gạo, tem phiếu thực phẩm. Vợ chồng tôi mới ra trường phiếu loại E, tháng được mua 3 lạng thịt. Con tôi loại phiếu TR dành cho trẻ con tháng được lạng rưỡi thịt nhưng cũng tháng có tháng không. Vì nhiều khi cửa hàng không có thịt tươi thì đành lấy thịt ướp muối, lấy mỡ thậm chí lấy đậu phụ trừ vào tiêu chuẩn thịt. Ít ỏi vậy mà hồi đó người ta giữ gìn sổ gạo và tem phiếu thực phẩm còn hơn giữ gìn con ngươi của mắt mình. Vì tất cả các loại tem phiếu chỉ cấp mỗi năm một lần và chỉ một lần thôi nên để mất cầm chắc là đói. Cho nên không có bộ mặt nào thảm hại hơn bộ mặt bị mất sổ gạo. Vì thế "mặt nghệt như bị mất sổ gạo" đã trở thành thành ngữ phổ biến một thời.

Mỗi nền kinh tế đều có sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của mình. Nền kinh tế thị trường đã cho ra đời một từ mới "cave"- để chỉ một bộ phận đông đảo các em chân dài, mắt xanh mỏ đỏ chuyên sống bằng nghề tiếp thị thân xác. Từ này và nghề này không biết đã đã có nhà khảo cứu nào công bố chính xác niên đại xuất hiện của chúng chưa? Tôi không rõ. Nhưng theo sự hiểu biết hạn hẹp của tôi thì đến tận năm 90 của thế kỷ trước nghề này mới chỉ là manh nha. Bây giờ Karaoke đã là món khoái khẩu của đại bộ phận dân cư từ nông thôn đến thành thị. Nhưng ngày ấy Karaoke chưa có trong đầu bất cứ người dân Việt nào dù chỉ là ý niệm. Nhà hàng đã hiếm nhà hàng sang trọng lại càng cực hiếm. Quán Hoa hồng ở Trần Quốc Toản là một trong những quán đầu tiên ở Hà nội mọc lên vào thời kỳ đổi mới và mang phong cách phục vụ hoàn toàn khác lạ nên rất được dân sành điệu thời đó thường xuyên lui tới. Tôi, một cán bộ khoa học nghèo kiết xác tất nhiên không đủ mác mỏ để đến những nơi như thế. Nhưng nhờ chơi với những ông bạn có đẳng cấp nên đã một lần tôi được hiện diện và tận thưởng không khí ở đây. Bởi quá quen với cảnh phải chen lấn giành giật nơi cửa hàng ăn Mậu dịch, quá quen với thái độ lườm nguýt chao chát của mấy cô nhân viên quốc doanh nên khi bước vào đây tôi đã thật sự bị choáng. Thức ăn sơn hào hải vị đầy bàn, rượu bia ngoại có người rót, ăn có người bón đút. Những người đó, những cô gái xinh đẹp ngồi bên thực khách khi đó chỉ có một tên gọi rất trung tính: Nhân viên nhà hàng, phục vụ nhà hàng. Và công việc của họ là rót, là gắp cả cho mình cả cho khách càng nhiều càng tốt miễn sao cuối buổi nhận tiền lương tiền thưởng của chủ, cuối tiệc nhận tiền bo của khách. Khái niệm tiền bo, vì thế, có lẽ cũng ra đời từ thời này. Còn chuyện "đi" khách và việc họ được xã hội phong tặng là "cave" thì chắc là chuyện của hồi sau - hồi mà các quán karaoke mọc nhanh và nhiều như nấm sau mưa. Rất tiếc hồi đó tôi không còn ở Việt nam nữa nên không được mục sở thị.

Nếu các em cave là sản phẩm nhãn tiền của thời kinh tế thị trường thì các chị phe tem phiếu là con đẻ tiêu biểu của thời bao cấp. Nếu các em cave lấy nhan sắc của mình làm kế sinh nhai thì các chị phe tem phiếu lấy bản lĩnh của mình làm kế tác nghiệp. Nếu các em cave sống nhờ vào tiền bo của khách thì các chị phe tem phiếu sống nhờ vào sự chênh lệch giữa giá cả chợ đen với giá mậu dịch. Cũng là phụ nữ nhưng nhìn các em cave màu mè đài các bao nhiêu  thì các chị phe tem phiếu nhếch nhác bụi bặm bấy nhiêu. Nhưng những lúc nhàn tản ngồi đợi khách thì cả các em cave thời nay hay các chị phe tem phiếu ngày xưa đều "thở“ ra những ngôn từ không thể tiêu hóa được. Để chê một phụ nữ nào đó ăn nói cong cớn xấc xược, người Hà nội ngày ấy thường nói kiểu so sánh: "ăn nói như mấy con mụ phe tem phiếu“. Nhưng dù khen dù chê, như một sản phẩm tất yếu, các chị vẫn chềnh ềnh tồn tại ngay trên mặt tiền của các cửa hàng mậu dịch hay đứng ngay trước các quầy bán thực phẩm trong các chợ. Hễ ai có nhu cầu bán tem phiếu là các chị lao ra giành giật làm người bán nhiều khi phát hoảng. Cảnh thường thấy ở các quầy bán thực phẩm hồi đó là rổ rá sứt cạp, gạch ngói vỡ, nón mê, mũ bẹp nằm chen nhau thay thế người xếp hàng. Chỉ cần một tiếng hô, hàng về, là lập tức mọi người nhốn nháo nhận gạch nhận rổ của mình và như một lẽ đương nhiên các chị phe tem phiếu vẫn là những người xếp hàng đầu. Và vì đứng hàng đầu lại móc ngoặc với các nhân viên bán hàng nên miếng thịt nào ngon các chị chọn trước. Đến lượt mình hoặc là hết hàng hoặc chỉ còn vài miếng bèo nhèo nếu cất lời chê bai thì thể nào cũng nhận được một cái nguýt dài của bà bán thịt kèm theo câu đe dọa: không mua thì thôi, để người khác mua. Thế là dù trong lòng hậm hực nhưng vẫn phải mua vì nếu không lại mất  thêm một buổi  xếp hàng nữa mà kết quả đã chắc gì hơn.

Hàng hóa khan hiếm, đời sống khó khăn nhọc nhằn như vậy nhưng những người đã sống qua thời đó, giờ nghĩ lại, vẫn thấy như mình đã sống qua một thời đáng nhớ. Giống như chẳng ai thích chiến tranh, nhưng nếu ai đã từng cầm súng trong cuộc chiến tranh vệ quốc  thì dù trong lòng còn nặng trĩu những nỗi đau mất mát vẫn không giấu được cảm giác tự hào vì những năm tháng hào hùng mình đã đi qua. Tương tự như những người dân đông Đức bây giờ và cả những người Việt lao động thời đông Đức đều càng ngày càng cảm thấy nuối tiếc một thời DDR măc dù họ biết không thể quay lại và cũng không nên quay lại. Thế mới biết vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Cái mà ai cũng nuối tiếc và ghi nhận ở thời đó chính là tình người. Bố tôi đã vĩnh viễn rời xa cuộc đời này cách đây đã 15 năm rồi, nhưng tôi vẫn nhớ như in nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt của bố tôi khi ông chen từ đám đông ra trên hai tay hai bát mỳ "không người lái" còn bốc khói mang đến cho tôi khi tôi đang đói dài cổ ngồi chờ bên chiếc bàn ăn nơi cửa hàng ăn mậu dịch đầu phố. Tôi cũng không quên bộ mặt rạng rỡ xen lẫn tự hào của bạn tôi khi mồm ngậm hai gói lạc bán kèm, tay cầm hai cốc bia chỉ còn vơi độ nửa chui ra từ đám đông chen chúc của quầy bia Cổ tân. Buổi trưa hè nắng nồng hôm đó trong tiếng ve ngân ri rả trên những vòm cây cổ thụ bên cạnh nhà hát Lớn, những ngụm bia mới mát lành làm sao. Lại nhớ lần tôi được cử đi hội nghị ở thành phố Hồ Chí Minh, biết tôi không có tiền, vẫn người bạn ấy, lấy cớ tiễn tôi về, cho đến tận đầu dốc đường Thanh niên mới ngập ngừng giúi cho tôi một nắm tiền. Nhìn nắm tiền ấy tôi không nỡ từ chối vì đó toàn là những đồng tiền lẻ chẳng đáng là bao so với số tiền tôi đang cần nhưng đó lại là tấm lòng và cũng là tất cả tài sản mà bạn tôi có được giành cho tôi.

Hết chiến tranh, khi tôi đang cùng đơn vị tham gia sản xuất ở nông trường Cờ đỏ thì nhận quyết định xuất ngũ dành cho những người đang học dở đại học hoặc đã có giấy gọi đại học được trở về trường học tiếp. Từ ga Hàng cỏ tôi đi bộ về nhà theo con đường Điện Biên Phủ, Hùng Vương. Mặc dù trong trạng thái hồi hộp và háo hức tôi vẫn không khỏi bồi hồi khi đi qua lăng Bác. Vẫn kịp nhận ra hàng chò chỉ chạy dọc đường Hùng vương khi đó chỉ cao ngang đầu tôi và lá cũng rất thưa thớt. Trở về nhà, mẹ tôi đã mua cho tôi một chiếc xe đạp Diamon màu cá vàng bằng số tiền dành dụm bao nhiêu năm của mẹ tôi cộng với số tiền mười đồng một tháng dành cho gia đình có con đi B mà mẹ tôi luôn nghĩ là  tiền xương máu của tôi và giữ cho tôi. Chiếc xe đạp là niềm kiêu hãnh của tôi và cũng là ước mơ của bao người cùng thế hệ với tôi khi đó. Nó gắn bó với tôi thân thiết như một người bạn và rong ruổi cùng tôi suốt cả thời trai trẻ. Nhưng xe chạy mãi lốp cũng phải mòn. Mà hồi đó mua được chiếc lốp để thay thế còn khó hơn một sinh viên nghèo thời nay muốn mua một chiếc xe máy Tầu. Hàng phân phối theo cơ quan một năm chỉ có đôi lần mà phải bốc thăm. Mà số tôi đen đủi làm sao bốc lần nào cũng trượt. Nên đành phải: lốp chỗ nào mòn thì độn, đứt tanh thì khâu, nặng quá thì vá chín. Thời đó nếu ai đi xe mà lốp không vá, mặc quần mà không có một vài miếng tích kê, đi dép nhựa mà không có vài mối hàn thì chắc chắn không phải là công nhân viên chức Thủ đô. Nhưng lốp vá nhiều quá thì tanh bị hở lòi cả xăm không thể đi được nữa nên tôi đành để xe ở nhà đi làm bằng phương tiện công cộng. Đến ngày thứ ba khi trở về nhà trong trạng thái mệt mỏi vì chen tầu chen xe tôi ngán ngẩm nhìn chiếc xe dựng nơi góc nhà thì chợt nhận thấy đôi lốp xe vá chằng vá đụp của tôi đã được thay bằng đôi lốp cao su Sao vàng mới tinh mầu còn đỏ tươi. Tôi nhìn sang phía mẹ, thấy mẹ tôi vẫn đang cặm cụi ngồi may bên đống hàng gia công may thêm với giá rẻ mạt, mà không thể nói nên lời. Tôi biết để mua được đôi lốp đó, để tôi đỡ phải đi lại vất vả mẹ tôi đã phải thức khuya bao đêm, thậm chí còn phải vay mượn nữa. Tôi đành nhìn đi chỗ khác mà nghe sống mũi mình cay cay.

Hồi tôi học lớp 8, mẹ tôi mua ở cửa hàng mậu dịch cho tôi một chiếc áo len dệt của Liên xô. Chiếc áo có ba đường kẻ chạy ngang với ba màu xanh, trắng, nâu rất đẹp. Mỗi lần tôi diện chiếc áo đó, đội thêm chiếc mũ lông màu xanh tím, trông tôi nổi bật trước đám bạn bè cùng phố và bạn học cùng lớp. Nó đẹp và ấn tượng tới mức mẹ tôi mang tôi với bộ đồ đó đi chup ảnh ở hiệu ảnh Phương đông tận phố Cửa nam. Khi tôi đi B mẹ tôi phóng to tấm ảnh đó lại còn cho tô mầu và treo ở giữa nhà. Mẹ tôi định, nếu chẳng may tôi hy sinh thì cũng dùng tấm ảnh đó làm ảnh thờ, mặc dù trong lần về phép trước khi đi B mẹ tôi cũng đã dẫn tôi ra hiệu ảnh ở đầu phố chụp một tấm ảnh chân dung với đầy đủ quân hàm quân hiệu. Hồi đó chẳng ai nói nhưng ai cũng hiểu tấm ảnh ấy dùng để làm gì. Sau này cũng đôi lần tôi nhìn lại bức ảnh đó thấy khuôn mặt mình ngày ấy sao mà sầu thảm và ánh mắt dài dại như mắt của oan hồn. Vậy mà nhờ Trời, nhờ Phật, nhờ phúc đức của tổ tiên tôi đã được lành lặn trở về.

Những năm tháng tôi ở chiến trường mẹ tôi vẫn giữ gìn chiếc áo len đó chỉ có điều khi trở về nhờ cơm bộ đội tôi đã lớn lên và không còn mặc vừa nữa. Tuy thế tôi vẫn giữ nó như giữ môt kỷ vật trong ngăn tủ của mình. Cuối năm thứ ba thời đại học tôi yêu một cô bạn cùng lớp. Nghe tôi kể về chiếc áo len, cô ấy muốn được xem. Sau khi xem cô ấy muốn tháo ra để đan lại thành chiếc áo len mới vừa để giữ kỷ niệm, vừa có áo mặc chống rét. Tôi nghe thấy cũng hợp lý, phần vì cho đến thời điểm đó tôi cũng chẳng có một chiếc áo len nào, phần vì tôi nghĩ để đan chiếc áo len đó chắc cũng đơn giản. Nhưng lúc trực tiếp cùng bạn gái tháo chiếc áo cũ tôi mới biết nhiệm vụ đan chiếc áo khó khăn chẳng khác xây dựng một thành phố mới từ trong hoang tàn và đổ nát. Bởi cả chiếc áo khi được tháo ra chỉ còn là những đoạn sợi ba mầu dài ngắn khác nhau mà đoạn nào dài nhất cũng chỉ độ 20cm. Tất nhiên tôi đã khuyên bạn gái mình không nên tiếp tục thực hiện ý đồ dù muôn phần tốt đẹp đó nữa. Nhưng tôi vẫn thấy cô ấy hàng ngày sau giờ học, hàng đêm trước khi đi ngủ, bên ánh đèn, miệt mài chắp chắp nối nối, đan đan lát lát.

Bắt đầu từ mùa hè nóng nực với những cơn mưa rào lúc bất chợt thoáng qua, lúc dữ dội dai dẳng. Qua một mùa thu mát mẻ với bầu trời lúc trong xanh ngăn ngắt, lúc xám xịt mà tịnh không một gợn mây. Tới những đợt gió mùa đầu tiên mới chỉ se se lạnh báo hiệu mùa đông về mà chiếc áo vẫn chưa thành hình như mong đợi. Đêm Nôen và cả những ngày nghỉ tết dương lịch năm ấy trong khi mọi người vui vẻ rong chơi tụ bạ thì bạn gái tôi vẫn lặng lẽ ngồi đan. Đến tận đêm giao thừa khi ngoài đường tiếng pháo mừng năm mới đã nổ rộn ràng tôi mới chính thức được mặc  chiếc áo ấy trong ánh mắt hân hoan của người đã cần mẫn tạo ra nó. Tết năm đó tôi mặc chiếc áo len mới cùng bố mẹ đi chúc tết họ hàng. Ai cũng khen chiếc áo được đan rất đẹp, pha mầu rất khéo. Nhưng chẳng ai biết chiếc áo ấy được đan như thế nào. Đêm ấy về mẹ tôi đã cầm chiếc áo lên xem. Lúc lộn phía bên trong ra, mẹ tôi đã lặng đi như không tin vào mắt mình khi nhìn thấy hàng trăm nghìn mối nối ngổn ngang sần sùi  chạy chằng chịt dưới mặt áo. Trước đấy đã có đôi lần tôi dẫn bạn gái mình về ra mắt nhưng mẹ tôi cũng chẳng mặn mà gì. Sau sự kiện chiếc áo len, mẹ tôi đã chính thức xem cô ấy như con dâu trong nhà. Bốn tháng sau chúng tôi cưới nhau.

Từ đó đến nay cũng đã gần ba mươi năm trôi qua rồi. Gia đình tôi cả về kinh tế lẫn tình cảm lúc thịnh, lúc suy, lúc làng nhàng nhưng tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cảnh vợ tôi dịu dàng nhẫn nại ngồi đan áo cho tôi nữa. Cũng có lần tôi nhìn thấy những cuội len trong tủ những tưởng vợ mình định lập lại kỳ tích cũ nhưng đợi mãi vẫn chẳng thấy chi. Rồi những cuội len đó cũng không cánh mà bay. Hy vọng trong tôi cũng bay đi mất. Mặc dù bây giờ tôi có thiếu thốn gì đâu. Riêng áo len hãng hiệu hẳn hoi tôi cũng có không dưới hai mươi chiếc. Cái thiếu, có chăng chỉ là cái không khí thấm đẫm tình người của một thời gian khổ kể cả ngoài xã hội lẫn trong mỗi gia đình. Vẫn biết là không thể và không nên quay lại thời bao cấp – thời của những thiếu thốn và đói khổ - nhưng sao mỗi lần nhớ lại thời kỳ đó, lòng mỗi chúng ta không thể không bâng khuâng và cả một chút nuối tiếc xen lẫn tự hào.

ẨM THỰC KÝ

Đã là đàn ông Hà Nội, cứ 10 ông thì chắc 7, 8 ông phải  dính đến bia hơi. Mà đã uống  bia hơi ắt phải có cái gì để „gắp“ cho cái răng, cái lợi đỡ thấy „trống trải“ . Tôi không nằm ngoài mấy ông đó nên cũng hay ngồi lê bia hơi ở Hà Nội. Mấy năm vừa qua, vì công việc tôi ở Việt Nam liên tục và càng có cơ hội „khai thác „ cái gọi là „tiềm năng ẩm thực“ của bản thân. Thật ra tôi là thằng khảnh ăn ( cứ nhìn thân hình „vạm vỡ“ như Hiệp „gà“ của tôi thì biết) nên tôi hay „ngắm“ thức ăn và thưởng thức nó chủ yếu  thông qua khứu giác. Hôm nay nhân lúc nhàn rỗi, tôi viết một bài kiểu „mỳ ăn liền“ về ẩm thực  tặng các anh,chị hội người Hà Nội.

Bắt đầu từ năm 1990, khi đất nước , trong đó có Hà Nội bước vào thời kỳ đổi mới, cái ăn , cái uống của người Hà Nội đã được cải thiện đáng kể. Sau đó, chỉ trong vòng 1 thập niên, diện mạo của Hà Nội thay đổi đến chóng mặt khiến người xa xứ trở về phải bàng hoàng. Từ chỗ chỉ lo „ăn no, mặc ấm“, người Hà Nội bắt đầu „ăn ngon, mặc đẹp“ và để phục vụ nhu cầu của hàng triệu cái bao tử khao khát được hưởng thụ sơn hào hải vị sau đêm dài bao cấp, hàng quán ở Thủ đô mọc lên với tốc độ phi thường. Đầu tiên là các quán phục vụ những món thiết thực hàng ngày. Quà sáng vẫn là phở, bún, cháo , miến, mỳ… Về phở thì ngoài phở Thìn Bờ Hồ ( sau này mới có „Niederlassung“ ở Lò Đúc!!) có thể kể đến phở Tư Lùn ở Hai Bà Trưng. Hai hàng này nước dùng ngon, thit bò mềm vì không tận thu loại bò cày kéo, bò ngã bệnh. Phở gà ngoài hàng ở phố Đỗ Hành thì lâu đời vẫn là nhà Lâm „béo“ trên Nam Ngư, ăn cũng được nhưng nhìn bà chủ thì sự ngon miệng giảm đi ½ vì mặt bà lúc nào cũng nặng như cối đá. Khổ cho  người  Hà Nội chính là cái cơ sự này. Cứ đông khách là kiêu, là coi ai cũng như thằng đánh giày, bán báo… Khách ăn phở khó tính về chỗ ngồi, ưa sạch sẽ thì chọn phở Ngon, phở 24, phở Vuông…vì được ngồi phòng máy  lạnh, dùng khăn ướt, có người phục vụ chu đáo. Phở loại này nhìn bắt mắt vì cách bài trí nhưng vị phở lại không đạt tiêu chuẩn truyền thống. Ăn loại phở này ta hay nhớ đến phở ở quận 13 (Paris), nơi bán các tô phở „khủng long“ mang tên „xe lửa, tàu bay“, to bằng cỡ cái….chậu giặt. Ăn phở mà có cả húng quế, mùi tàu và giá sống thì rõ là phở lai..hủ tiếu Sài Gòn rồi!! Miến lươn (món khoái khẩu của các bà , các chị) chắc vẫn phải lên Hàng Điếu chỗ xế cửa chợ Hàng Da, sau này khách mới về Triệu Việt Vương. Bún riêu ăn ở Thi Sách cũng được, ghét mỗi tội chủ quán chắc quê ở…miền núi nên cho cả giò sống, đậu phụ, thịt bắp bò vào  bát bún. Bún riêu  của Hà Nội như mẹ tôi vẫn nấu cho các con ăn vị phải thanh, nước đạt màu „chuẩn“ và chỉ dùng đúng có gạch cua. Vị chua thì không thể thiếu giấm bỗng, cà chua, mẻ và thêm quả dọc nướng vàng.

Ăn cháo có thể qua bà Mỹ ở Lý Quốc Sư, vẫn được gọi là cháo „chửi“ vì con mẹ này hơi ngoa ngoắt. Thật ra tôi nếm nhiều loại cháo ở đây rồi: cháo gà, cháo cá, cháo trứng vịt muối kèm ca-la-thầu, cháo thịt bằm…Chẳng bằng về nhà mua con gà quăng vào nồi, thêm dúm gạo và nắm đỗ xanh, ngon ngọt hơn chục lần!!

Quà trưa Hà Nội thời trước thịnh hành nhất là bún chả. Ngày nay Hà Nội dùng cơm bụi cho chắc da. Quán cơm nhiều vô kể nhưng tiêu biểu trong phố cổ là cơm Vinh-Thu ở Lý Thường Kiệt. Ở đây có món tôi thích nhất là cá diếc trứng kho tương Bần, chả mực Hạ Long. Muốn khác lạ thì lên cơm „Làng tôi“ hoặc cơm niêu Phương Lộc trên Huỳnh Thúc Kháng để nghe tiếng đập niêu chan chát. Cái sự ăn trưa của đa số người Hà Nội ngày nay cũng rất đơn giản, gọi mấy thằng bạn rồi „ngã“ vào bất cứ ngã tư, ngã năm nào gần nhất là đã có cái ăn.

Một đặc điểm không thể không nhắc đến của người Hà Nội là thói quen ăn đêm. Vì thành phố có lệnh cấm bán hàng sau 24 giờ nên việc ăn đêm là cả một công phu. Tụi tôi hay ra cơm rang nhà Tâm ở Nguyễn Du ngồi nhâm nhi lòng mề, cổ cánh gà. Đông vui hơn thì lên 36 Hàng Dầu ngồi lẫn lộn cả tây với ta đến sáng. Phố ẩm thực Tống Duy Tân tuy đông hàng quán nhưng nhà nào cũng  nhõn món cơm rang, mỳ xào, gà tần thuốc bắc, chim quay… nên khách  bỏ đi dần. May còn được hàng xôi ngõ Cấm Chỉ-Hàng Bông  là đông đúc kéo lại. Hôm nào muốn ăn chút đồ tử tế sau 1, 2 giờ sáng thì chỉ còn mỗi cách lên khách sạn Hà Nội. Món ăn ở đây phong phú tuy hơi đắt. Cái đen nhất cho các „tao nhân mặc khách“ là lên đây hay phải ngồi chung với „ Cave“ vì các em toàn „giao ban“ tại địa điểm này. Mà „công ty“ của các em lại làm ăn phát đạt , quân số đến vài trăm lận!!

Phần ăn là vậy, phần nhậu có vẻ phức tạp hơn. Nhậu tất nhiên phải „phân chia giai cấp“, tức là sau khi „nội soi ví“ bạn sẽ tự biết mình sẽ ngồi ở đâu, dùng cái gì với  số „lương khô“ bạn có. Nếu muốn ăn hải sản trong không gian lộng lẫy thì mời bạn lên Long Đình ở Quán Sứ hoặc đi thêm vài bước là vào San Hô bên Lý Thường Kiệt. Tại đây có đủ món cho bạn chọn : tôm hùm, bào ngư, hải sâm, cá mặt quỷ, tu hài Canada, vi cá mập… „Mềm“  hơn 1 chút thì sang phố Biển bên Tràng Thi hoặc „Biển Nhớ“ cũng nằm trên phố này, cạnh công an quận Hoàn Kiếm. Hợp với túi tiền hơn thì về ăn hải sản ở Tô Hiến Thành, ra Kim Anh ở  Phan Chu Trinh hay vào ủng hộ luôn chợ hải sản Đông Du ngay bên cạnh, nơi tôi đã có thời kỳ góp vốn làm ăn. Đông vui, ầm ĩ thì ra chợ biển Sầm Sơn ngoài dốc Bác Cổ.

Thịt bò anh chị em ở Đức  hay ăn ở Block House hoặc Escado. Ở Hà Nội muốn ăn kiểu đó thì ngoài Sofitel Metropol bạn có thể ăn ngay dưới hầm nhà hát lớn hoặc chạy ra „ Thế giới bò“ ở Ngô Quyền. Giá cả tại những địa chỉ này có phần còn „ qua mặt“ bên „Đức quốc xã“. Bình dân thì thiên hạ vẫn lên Hiếu „béo“ trên Nghi Tàm, quán này lúc nào cũng đông nghet. Nhớ Sushi thì về Triều-Nhật dưới Bà Triệu, có cả gan ngỗng, chân ngỗng rút xương tần hải sâm… Lẩu thì lên Phú Sỹ trên hồ Trúc Bạch hoặc rẽ vào Nguyễn Khắc Cần

Có vài món đặc sản nhiều người ưa thích là  ba-ba và thịt thú rừng. Trước đây mọi người hay ngồi Thủy-Bình ở Bát Sứ ( nay chuyển về Hàng Gà). Sau này họ chạy về Bảo „lốp“ trên Âu Cơ vì có chỗ đỗ xe. Từ ngày nhà nước kiểm soát chặt việc săn bắt thú rừng, các quán này cũng không còn rầm rộ về cầy hương, cầy vòi, tê tê..như trước nữa. Thi thoảng có „mật báo“ là „hàng „ về, các tay chơi đành phi sang Lệ Mật cho kín đáo.

Ở đầu bài viết, tôi có nói đến bia. Động đến ẩm thực Hà Nội mà không nói đến bia thì quả là mắc tội. Nhớ thời bao cấp, cầm được vại bia hơi sứt mẻ trên tay sau một hồi chen lấn , xô đẩy mà thấy sướng như trúng..xổ số. Ngày đó Hà Nội có lèo tèo vài ba điểm bán bia hơi: Cổ Tân, Đặng Dung, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Cao.. Bia chai cũng chỉ có 2 loại : bia Hà Nội và bia Trúc Bạch. Đồ nhắm chỉ có vài hạt lạc rang, bìa đậu phụ chấm mắm tôm, sang hơn thì là con mực nướng, góc thịt chó con con…

Bây giờ bia hơi chỗ nào cũng có. Bia Hải Xồm, Lan Chín, bia Việt Hà và rất nhiều loại bia liên doanh. Đi qua những „bãi“ bia này vào buổi chiều nhiều khi không còn chỗ chen chân. Ngày xưa bạn bè mời nhau chén trà, ly cà phê, nay họ tiếp nhau bằng bia.

Mấy năm gần đây Hà Nội có thêm bia tươi Hoa Viên ( nay về số 1- Tăng Bạt Hổ) rồi Legend Beer ở Vũ Ngọc Phan và các loại bia lon, bia chai nhập từ Đức, Bỉ, Tiệp về. Ai cũng tò mò uống thử một đôi lần nhưng đa số vẫn quay về với bia Hà Nội. Chưa chắc đã vì tình yêu Hà Nội mà họ dùng thứ bia này nhưng bia Hà Nội quả là dễ uống. Có lẽ vì nấu bằng nguồn nước nơi địa linh, nhân kiệt nên bia Hà Nội có vị rất đặc trưng và phải nói là…ngon vì không nặng vị cồn, không đắng vị men chưa ngấu và giá cả rất phải chăng.

Tản mạn về vài địa chỉ ẩm thực của Hà Nội hôm nay ( tôi biết còn thiếu rất rất nhiều) đã hơi quá đà, tôi xin thay cho lời kết bằng bài thơ kiểu „Bút Tre“ của anh bạn xứ Nghệ tôi quen, người đã chọn Hà Nội làm quê hương thứ hai, người cũng yêu Hà Nội , yêu ẩm thực đất Thăng Long:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh , nước biếc như tranh họa đồ

Ai vô xứ Nghệ thì vô

Còn „choa“ „choa“ cứ Thủ đô „choa“ mần

'Điều kỳ diệu trong cống rãnh’ của trẻ Hà Nội một thời

·    

·                                 1

·                                 2

·                                 3

·                                 4

·                                 5

Hai từ “cống rãnh” luôn gợi đến sự liên tưởng về nơi tập trung mọi thứ cặn bã, hôi hám, bẩn thỉu của đời sống... Nhưng đối với trẻ em tại các thành phố Việt Nam từ thập niên 1990 trở về trước, cống rãnh chính là nơi khởi nguồn của một “điều kỳ diệu”.  

Đó chính là những chú cá rất nhỏ bé nhưng có màu sắc thật lung linh quyến rũ, thường được gọi là cá bảy màu hay mây chiều, khổng tước. 

Khoảng 2 thập niên trước, có thể bắt gặp những chú cá này ở mọi nơi của Hà Nội. Chúng tung tăng trong các hồ nước, lúc nhúc trong những rãnh mương, bơi hàng đàn dọc theo các đường cống. Thậm chí, cả những vũng nước mưa trên vỉa hè cũng đấy ắp cá bảy màu. Có lúc chúng nhiều đến nỗi tưởng như… lấy đũa cũng có thể gắp được. 

Có nguồn gốc từ châu Mỹ, cá bảy màu được đưa vào Việt Nam từ năm 1970 để thả vào các ao, hồ, sông, rạch nhằm tiêu diệt bọ gậy trong chương trình diệt trừ sốt rét và các bệnh truyền nhiễm khác. Nhưng chẳng đứa trẻ nào cần phải biết về điều này. Với chúng, cá bảy màu đơn giản chỉ là một niềm vui khó có thể cưỡng lại.  

Cứ đến những buổi chiều mùa hè, bọn học sinh cấp 1 lại í ới  gọi nhau đi bắt cá bảy màu. Đồ nghề lỉnh kỉnh gồm vợt bắt cá, túi ni lông, chai nhựa đựng cá… Nơi bắt cá có thể là một bờ hồ gần nhà, cũng có khi là đường cống ngay trước khu tập thể.

Càng đông thì càng vui. Buổi bắt cá diễn ra với những cảnh bủa vây, lùa, truy đuổi, … trong tiếng hò hét náo nhiệt, sôi động không kém gì những cuộc đi săn trong truyện nước ngoài. Đứa nào cũng phấn khích khi nhìn những chú cá lấp lánh cầu vồng búng mình trong lòng vợt.

Có đứa “tham lam” làm cả một cái “gọng vó” như của các bác dân chài, mỗi lần “hớt” có thể bắt được cả đàn cá. Nhưng thông thường không phải bạ con nào cũng bắt mà phải chọn lọc kỹ càng, cá đực thì phải màu đẹp, đuôi dài, cá cái thì bụng phải chửa. Những con nhỏ chưa lên màu  nhiều lỡ dính vợt có khi lại lúi húi gỡ ra thả về cống. Nhiều khi chú tâm để lùng bắt những chú cá đẹp thì thất bại, nhưng khua vợt vu vơ thì lại dính những chú “trên cả tuyệt vời”. Bọn trẻ ở Hà Nội thường rỉ tai nhau mương Tô Lịch là nơi có cá bảy màu to và đẹp nhất. Không hiểu điều này có liên quan gì đến mức độ… hôi thối vào bậc nhất của con mương này hay không?

Chiến lợi phẩm của buổi “đánh bắt cá” thường được nuôi trong các chai, lọ thủy tinh đặt trên bàn học. Đứa nào có bể thủy tinh thì tha hồ sướng vì nuôi được rất nhiều cá. Có khi bể to, bê mỏi cả tay nhưng vẫn chăm chỉ thay nước hàng ngày vì nước trong thì nhìn cá bơi mới đẹp.

Bọn trẻ con có thể mê mẩn ngắm nhìn những chú “cá cống” lung linh màu sắc của mình cả buổi không biết chán. Mỗi chú cá bảy màu toát lên có một vẻ đẹp riêng,  không bao giờ giống nhau, chú vằn vện, chú thì xanh biếc, chú đuôi đỏ, có chú đuôi lại trắng toát Có khi trên thân cá còn có cả đốm nhấp nhánh đổi màu… 

Không chỉ đẹp, một điều thú vị khác khi nuôi cá bảy màu là chuyện cá… đẻ con. Dấu hiệu nhận biết cá sắp đẻ là cá cái bụng phình to, cá đực rượt đuổi theo sau để “thúc”. Nếu cẩn thận thì phải tách cá chửa ra ruôi riêng để tránh cho cá con bị các cá lớn khác ăn thịt. Ngóng chờ từng ngày để xem cá đẻ, nhưng rất dễ xem… hụt vì cá thường đẻ vào đêm, khi sáng dậy nhìn vào lọ đã thấy cả một đàn cá con nhỏ xíu bơi tung tăng.Cá bảy màu trưởng thành nhanh và rất mắn đẻ nên chỉ sau 1 năm, từ vài cặp ban đầu, cá sản sinh ra cả một lô một lốc “con đàn cháu đống”, nuôi không xuể. Đem đi cho hết bạn này đến bạn khác mà vẫn còn nhiều, có khi phải đem ra cống đổ vì bố mẹ kêu…

Giờ đây, phần lớn các đoạn mương, cống ở Hà Nội đã ngầm hóa, nguồn nước ở nhiều nơi ô nhiễm đến độ cá bảy màu không sống nổi. Những chú cá bảy màu “hoang dã” ngày càng trở nên hiếm hoi. Niềm vui thú của trẻ em một thời dần trở thành dĩ vãng. 

Đi qua những của hàng cá cảnh ngày nay, có thể thấy nhiều chủng loại cá bảy màu lai tạo có những cái tên mỹ miều, màu sắc rực rỡ, dáng vẻ thướt tha như bảy màu “pha lê” đỏ rực như lửa, bảy màu “da báo” quý phái... So sánh với chúng, những chú cá “bảy màu cống” thuở nào trông thật nhỏ nhoi và quê mùa.  

Chỉ có cái cảm giác thân thương, niềm vui trong trẻo của tuổi thơ gắn với những chú cá đến từ cống rãnh là điều mà không một loài cá cảnh quý phái, đắt tiền nào khác có thể đem lại.

Ký ức Hà Nội và Tết những năm chiến tranh phá hoại

·    

·                                 1

·                                 2

·                                 3

·                                 4

·                                 5

Đã cuối đông. Tết sắp đến. Mùa xuân đang về tràn đầy nhựa sống. Dịp này, những người đã từng sống, học tập và làm việc ở Hà Nội chắc đều có những cảm xúc để ôn lại bao kỷ niệm thật khó phai mờ, trong đó có ký ức Tết Hà Nội, nhất là những cái Tết trong thời kỳ chiến tranh phá hoại leo thang từ năm 1964-1972.

Khi cái giá lạnh đang tràn về với sắc xuân là cơ hội cho những người như tôi ôn lại một thời gian đã qua, tuy chưa phải quá xa để những rung động, những xúc cảm không thể phai mờ có dịp lại bùng dậy mãnh liệt, vì đó là ký ức đã ghi đậm nhiều dấu ấn trong tâm thức.

Ngược thời gian những năm 60 của thế kỷ trước là quảng đời sinh viên của thế hệ chúng tôi với nhiều ước mơ cháy bỏng, lãng mạn với nhiều kỷ niệm khó quên, mặc dù bây giờ đang bước vào độ tuổi “cổ lai hy” nhưng vẫn thấy mình như còn trẻ. Nhớ lại, đầu những năm 60 của thế kỷ trước, Hà Nội đang ở giai đoạn phồn thịnh, nếp sống của người Hà Nội còn nguyên vẹn Hà Nội xưa văn minh, thanh lịch, ứng xử tế nhị nhẹ nhàng qua giọng nói đầy truyền cảm thu hút, dễ mến dễ gần, nhưng cũng khó bắt chuyện làm quen, nhất là các cô gái Hà thành chính gốc đầy nét kiêu sa, e lệ, quyến rũ.

Hà Nội với những con đường phố cổ như bàn cờ, dễ vào khó ra, chi chít hàng quán. Tiếng tàu điện leng keng một thời từ trung tâm Bờ Hồ Hoàn Kiếm tỏa đi các con phố chính như phố Huế, Hàng Bài, Bạch Mai, Quán Thánh, Hàng Đào, Đồng Xuân... Rồi những hương vị hiếm có của đặc sản đất Hà thành như phở, miến gà, bún thang, xôi lạp xưởng, cốm Vòng, bánh gai, bánh cuốn chấm nước mắm cà cuống...

Nhưng đặc sắc đậm đà hơn cả vẫn là những ngày Tết cổ truyền dân tộc với hoa đào, bánh chưng, thịt đông, các loại mức kẹo hòa với dòng người đủ màu sắc ngược xuôi thưởng ngoạn sắc Xuân. Rồi những lời chúc “An khang – Thịnh vượng” với những nụ cười đầu năm mới. Tết Hà Nội xưa bao giờ cũng kéo dài nhiều ngày và thời tiết giá lạnh, rét buốt như để mọi người xích lại gần hơn truyền hơi ấm cho nhau.

Ngày 5/8/1964, tàu chiến Mỹ gây hấn ở vùng biển Thanh Hóa, tấn công vào tàu của hải quân Việt Nam rồi dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” để tiếp theo đó là hàng loạt vụ khiêu khích gây hấn khác. Thời điểm đó, cùng với chiến trường miền Nam đang rực lửa, miền Bắc bắt đầu cuộc chiến đấu chống lại chiến tranh phá hoại leo thang của Mỹ. Cuộc sống sinh hoạt của nhân dân miền Bắc nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng bắt đầu dần dần chuyển sang thời chiến, mọi gian khổ của một thời kinh tế bao cấp đến với từng người, từng gia đình.

Sinh viên chúng tôi cũng được phân phối tem phiếu hàng tháng, nào tem gạo, đường, xà phòng giặt, xà phòng đánh răng, dao cạo râu... Cả năm còn có phiếu vải, phụ tùng xe đạp, áo may ô, kim chỉ, dép nhựa... Những dịp lễ, tết có thêm phiếu mua trà gói, bánh kẹo, thuốc lá (Thăng Long, Điện Biên, Tam Đảo, Hoàn Kiếm, D’rao... bao bạc hoặc bao giấy). Ai cũng đều nhớ mọi thứ đều phải mua bằng tem phiếu và xếp hàng. Ngày lễ, ngày tết cũng phải xếp hàng rồng rắn mất rất nhiều thời gian vì có thêm tem phiếu hàng được mua.

Rồi xuất hiện xếp hàng bằng những viên gạch từ sáng sớm, nhất là các hộ gia đình đều có tem thịt, mỡ, đậu phụ, dầu hỏa, gạo, mỳ chính, nếp... tuy vất vả nhưng thấy vui khi mua được hàng. Những cái tết trong chiến tranh hàng hóa có hạn chế hơn, không khí cũng kèm nhộn nhịp hơn, nhưng khi nào cũng có hoa đào, bánh chưng, mức tết, trẻ con vẫn có áo quần mới xênh xang vui mắt, thích thú nô đùa.

Chắng bao lâu, khi chiến tranh phá hoại leo thang đến gần Hà Nội, rồi trung tâm Thủ đô thì sinh hoạt hàng ngày bắt đầu bị đảo lộn. Trước mỗi nhà dọc các phố đều có hầm cá nhân với nắp đậy sẵn, rồi những dãy hầm chữ A cho nhiều người cùng trú, những chiếc mũ rơm xuất hiện ngày càng nhiều trên đường phố để tránh mảnh bom, áo quần phải nhuộm xẩm màu để ngụy trang, ông bà già, trẻ con lần lượt đi sơ tán khỏi nội thành, các cơ quan, trường học lớn cũng di chuyển đến những địa điểm an toàn hơn.

Tôi học ở trường Đại học Y khoa cũng phải sơ tán rất nhiều nơi theo trường. Chiếc xe đạp được dùng để chở đủ thứ (trẻ con, gạo, thức ăn, đồ dùng, áo quần...), có khi xe quá sức chịu đựng nổ lốp, cong vành là chuyện thường ngày xảy ra trên đường đến nơi sơ tán. Tuy đầy khó khăn gian khổ, nhưng cũng đầy ắp tình người, khoảng cách giàu nghèo ở chốn đô thành và làng quê không quá chênh lệch như hiện nay.

Thường ngày thời kỳ đó không ai có thể quên được tiếng còi báo động trên hệ thống loa công cộng ở Thủ đô, trước khi còi hú vang rền đều có câu: “Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý máy bay địch cách Hà Nội... cây số về phía..., yêu cầu tất cả đồng bào hãy xuống hầm trú ẩn”. Mọi người trên đường tự giác xuống hầm. Quan sát trên đường chỉ có thấy lực lượng tự vệ làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự và hướng dẫn người đi đường tự giác xuống hầm trú ẩn. Lúc đó ngẩng lên nhìn ở các nhà cao tầng sẽ thấy các tiểu đội tự vệ nam nữ phân công giương cao súng sẵn sàng nhả đạn nếu có máy bay bổ nhào lao xuống ném bom phố phường, khu dân cư “không cho chúng nó thoát”.

Khi hết báo động, mọi sinh hoạt lại trở về bình thường, nhân dân Thủ đô hết sức bình tĩnh, chủ động trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh ác liệt có thể xảy ra lúc nào, bất kể ngày hay đêm.

Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại đã leo thang ra Thủ đô Hà Nội, mỗi lần Tết đến tuy không có qui ước nào cả, nhưng mấy ngày này thường im tiếng còi báo động. bà con đi sơ tán kéo về Hà Nội ăn Tết cũng không kém phần vui vẻ nhộn nhịp, nhưng phải rất cảnh giác có thể máy bay bất ngờ ập đến bỏ bom.

Hồi đó, gia đình bố mẹ tôi và một em gái út còn nhỏ ở Thị xã Thanh Hóa cũng phải đi sơ tán, không về ăn Tết ở Thị xã được. Tuy Thanh hóa chỉ cách Hà Nội 150 km, nhưng tôi cũng không thể về ăn Tết với gia đình, vì các tỉnh ở Miền Bắc thời gian đó máy bay Mỹ oanh tạc rất ác liệt, đi đường không bảo đảm an toàn, phương tiện giao thông lại rất hạn chế, phần lớn ô tô phải chạy đêm bằng đèn gầm (đặt dưới gầm ô tô) vừa đủ sáng để soi đường. Khi nghe tiếng máy bay phản lực, phải lập tức tắt đèn dừng lại.

Tôi và một người em gái cũng đang học Đại học phải ở lại ký túc xá ăn Tết. Tuy cũng có bà con ở Hà Nội đùm bọc, nhưng mấy ngày tết phải xa gia đình bố mẹ thì quả thật không có nổi buồn nào hơn. Trong ký túc xá nhà trường cũng có nhiều trường hợp như chúng tôi để cùng nhau chia sẻ nỗi niềm. Trong phòng tôi có hai anh em ở lại, anh bạn là người quê trong Nam tập kết không có tin tức gia đình, Tết đến lại càng buồn da diết.

Chúng tôi phải chuẩn bị cái ăn trong mấy ngày ngoài tiêu chuẩn tem phiếu được cấp mua cho nên cũng tạm đủ dùng và tiếp bạn bè các phòng xung quanh. Đêm giao thừa, các bạn còn lại trong ký túc xá đều thức, nghe Bác chúc tết qua Radio, nghe pháo nổ rền vang kéo dài cả một góc trời (hồi đó chưa cấm đốt pháo), sau đó cùng nhau ngồi trao đổi chuyện trò, ăn mứt kẹo. Mỗi người có một nổi niềm tâm trạng riêng.

Sáng mồng 1 Tết, một mình tôi lang thang thưởng ngoạn Tết trên các đường phố vẫn khá đông vui nhộn nhịp đủ sắc màu. Mọi người như quên đi sự ác liệt của chiến tranh chỉ trước đó vài hôm trên khắp các khu vực dân cư Thủ đô. Tôi vừa đi vừa liên tưởng đến cảnh Tết của gia đình nơi sơ tán mà thấy nhớ, thấy thương vô cùng những người thân.

Rồi trận Điện Biên Phủ trên không xảy ra, 12 ngày đêm quân dân Thủ đô chiến đấu anh dũng, ngoan cường với các loại “thần sấm”, “con ma”, B52... Chúng muốn cho Thủ đô trở về thời kỳ đồ đá! Đau thương, tang tóc xảy ra đến khi những loạt bom B52 rải trúng Bệnh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên... và không khí chiến thắng, sục sôi căm thù bắt sống phi công Mỹ trên hồ Trúc Bạch mà nhiều bài hồi ký sau này đã kể lại. Hà Nội thật xứng đáng là Thủ đô Anh hùng!

Cuộc sống thường nhật bên ngoài là vậy. Riêng tôi, trong sâu thẳm có một tình yêu với cô gái ở phố cổ Mã Mây. Chiến tranh ác liệt, tình yêu cháy bỏng nồng nàn không có gì mâu thuẫn. Thời sinh viên tình yêu đẹp lắm. Những năm chưa xẩy ra chiến tranh phá hoại thì Hồ Tây, Vườn Bách Thảo, Công viên Thống Nhất, Bờ hồ Hoàn Kiếm... là những nơi chúng tôi thường dạo chơi vào dịp cuối tuần. Đặc biệt mùi hương hoa sữa ở phố Nguyễn Du tỏa ngát dìu dịu khi mùa thu về với dãy vòm cây phủ kín mặt đường in bóng xuống hồ Thiền Quang vẫn in đậm trong ký ức chúng tôi. Đi bên nhau tay trong tay với bao ước mơ ấp ủ.

Yêu nhau trọn khóa học 6 năm. Chúng tôi cưới nhau sau khi ra trường 2 năm. Lễ cưới không thể tổ chức ở Hà nội, mà phải tổ chức nơi sơ tán tại một huyện tỉnh Hưng Yên. Hồi đó đám cưới có bánh qui, kẹo, thuốc lá (phân phối theo tiêu chuẩn qui định) và văn nghệ thật rôm rã. Nếu có báo động phải tắt hết đèn “măng-xông”.

Quá nhiều chuyện gian khổ trong hạnh phúc lứa đôi thời chiến. Thấm thoắt chúng tôi đã có 2 con nhỏ (1 trai, 1 gái). Cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng hết sức căng thẳng. Hà Nội chìm trong khói lửa đạn bom. Vợ chồng đi sơ tán mỗi người mỗi nơi theo cơ quan cách nhau hàng trăm cây số, phải phân công nhau nuôi con, cũng phải đạp xe hàng trăm cây số thăm nom nhau là chuyện bình thường. Đến dịp Tết lại còn lủng củng hàng được phân phối.

Giữa lúc đó, chiến trưởng B giục giã kêu gọi những người con quê hương trở về. Tôi rời gian phòng ở phố cổ Mã Mây vào một chiều thu phảng phất buồn. Với chiếc ba lô trên vai, đầu đội mũ tai bèo, bộ áo quần quân phục mới hướng về bến tàu điện Bờ Hồ đi đến chỗ tập trung tập huấn ngắn ngày trước khi lên đường vào Trị-Thiên. Lúc đó nhiều cảm xúc lẫn lộn dâng trào trong tôi và trong khóe mắt sâu thẳm của người thân, tôi vẫn tâm niệm sẽ gặp lại nhau sau ngày chiến thắng... Rồi những cái Tết ở chiến trường, tôi liên tưởng đến những cái Tết ở Hà nội với bao thương nhớ đầy vơi ...

Và niềm vui trọn vẹn đã ngập tràn, niềm vui đoàn tụ sau ngày 30/4/1975 cũng tại gian phòng phố cổ Mã Mây năm nào ...

Chuyện thời bao cấp

1. Hôm nay thằng Sấm õng ẹo không thích ăn cá, bố nó bảo: con không ăn 20 năm nữa chả có cá mà ăn, nó rú lên sung sướng: con chỉ thích bây giờ là 20 năm nữa.

Rồi nó hỏi hồi bé bố thích ăn gì nhất? Mẹ thích ăn gì nhất?

Hồi bằng tuổi nó, mình thèm nhất cái bánh mì. Mình nhớ mẹ mình đổi 1kg gạo được 6 cái bánh mì, vứt vào trong thùng gạo ăn cả tuần, cảm giác ngon, thèm khát đến mức bây giờ chưa có một sơn hào hải vị nào có thể mang đến sự thèm khát ngon miệng đến thế. Mình nhớ bánh mì có tiêu chuẩn nên mình hay mở thùng gạo ra để ngửi cho nó đỡ thèm. Nếu hôm nào đổi bún, 1kg gạo được gần 2kg bún, đấy chỉ có thể là buổi sáng chủ nhật. Nhà mình hoặc nhà hàng xóm sẽ nấu bún thơm lừng (lệch pha nhé) và mang cho nhau 1 tô to tướng, trẻ con hít hà sướng điên và nhà hàng xóm bao giờ cũng nấu ngon hơn nhà mình!!

Sấm thì không thể hiểu nổi tại sao mình lại thích bánh mì, tại sao không thích thịt Cừu, thịt Bò. Thời đó từ Thịt Cừu khéo còn chưa có trong từ điển. Mình chỉ biết đến thịt gà khi về quê ăn tết với ông bà hoặc thịt lợn khi bố mẹ xếp hàng mua mỗi tháng được vài lạng, vài lạng thịt nhưng đâu được toàn thịt, cả bì, cả mỡ, cả xương… mà vẫn thấy may vì không phải ăn lòng. Các chị mậu dịch viên hồi đó chả khác gì thánh, ban phước cho ai cái gì nấy dạ, bố bảo dám cãi.

Chưa đến 10 tuổi đầu mình được giao nhiệm vụ đi xếp hàng mua thịt, gạo. Mình nhớ là khu tập thể Dệt Nhuộm thì không có điểm mậu dịch nào mà mình phải sang bên khu Gạo xưởng than (gần X20 phá lưới) để xếp hàng. Mình đứng đến khuỷu tay mọi người (nói giảm nói tránh chứ đúng đến cạp quần mọi người), đám đông nhốn nháo, chen chật cứng, hở cái là có người chen ngang, cãi nhau chí chóe, mình cứ lặng lẽ đợi đến lượt rồi mỗi lần mua được đồ, mừng hơn nhặt được của.

ái ô cửa sổ của các cô mậu dịch bao giờ cũng cao hơn mình, tha hồ dướn cho chóng lớn. Cái cân của các cô đen nhánh, cáu két những mỡ, bên cạnh là đống quả cân các cỡ mà đến phiên ai thì các cô thoăn thoắt hơn ảo thuật, chả biết có đủ thịt không nữa.

Về nhà mẹ sẽ thái thịt mỏng dính ra, đảo với mắm muối mặn chát để ăn được vài hôm, một bữa cơm 2 miếng không hơn, tuy rằng hai chị em vẫn mè nheo thêm tí. Mẹ và bố thì chả bao giờ ăn thịt, người lớn không cần ăn thịt. Mắm hồi đó cứ mang về là đun sôi sùng sục rồi mới đổ vào chai dùng dần. Mình không hiểu tại sao mắm hâm lại là câu chuyện cười chứ mình thấy khu mình nhà ai cũng hâm mắm thơm hoắc (cái mắm mậu dịch mặn chát và chả có mùi thơm như bây giờ).

Chồng nghe tả hãi quá bảo giá như hồi ấy anh biết em sớm anh sẽ gửi cho em cả bánh mì lẫn thịt cừu, đi đâu mà thiệt, gửi cho vợ tương lai, ha ha, chết cười, đang kể chuyện đến đoạn xúc động định rơm rớm nước mắt…

2. Hồi đó, mọi người không có nhiều thời gian để mắt đến con cái như bây giờ, bố mẹ mình hay gửi mình ở trường Y, trong đó có khu tập thể lắp ghép 2 tầng mà nhà bác mình uy nghi đầu hồi tầng 2 (hồi đó oai thì được ở tầng trên). Trường Y khi đó rộng khủng khiếp, tụi mình cứ đi bộ là cà cả ngày không hết chỗ chơi. Trong đầu mình vẫn còn nhớ như in chỗ nào hái hoa, chỗ nào vớt cá, chỗ nào bãi đá bãi sỏi, đúng là mênh mông ngút tầm mắt… và khi đó mình gọi các anh sinh viên bằng chú!

Một trò chơi ngu dại nhất mà tụi mình hay chơi đó là vào cái khu thổi ống thủy tinh trong trường, rác thủy tinh là món quà tuyệt vời cho mấy đứa mình. Cả hội ngồi đợi tiếng xoảng của người đi đổ thủy tinh, đứa nào đứa đấy cắp dép vào nách, chân trần lao vào đống rác thủy tinh cố tìm ra 1 ống dài nhất, vỡ đẹp nhất để làm súng. Đôi khi cũng bị đứt chân nhưng đứt chân chân lại lành, đứt dép thì toi, dép không tự lành mà còn no đòn nữa. Có súng rồi thì cả hội sẽ về xé vở nhai giấy thật nhuyễn rồi vo tròn nhét vào ống thủy tinh thổi đến phụp 1 cái, kiểu gì cũng có tiếng oái bởi vì ngày nào cả bọn chả luyện.

Chán trò thổi thì tụi mình sẽ biến súng thành kiếm, đập chát chát chát chát mấy phát kiếm vỡ tan tành, cả hội sẽ chuyển sang trò vớt cá. Đằng sau khu nhà lắp ghép 2 tầng đó là khu tăng gia, nuôi lợn, trồng rau. Có một cái ao rau muống cơ man cá Săn sắt và cá rô con. Rổ rá xong nồi của mọi nhà đều được mang ra đây dìm, cả ngày kiểu gì chả quây được vài con, đứa ”người lớn” hơn thì câu cá, đứa không hớt không câu được thì cũng vẫn xin được vài con, phuy nước nhà ai cũng được thả vài con cá. Ngày đó nước hiếm, đi hứng từ 4 giờ sáng để về đổ vào thùng phuy trữ (vì còn hay mất nước nữa), bẵng đi vài ngày lại thấy cá chết nổi phềnh phềnh trắng phuy. Phụ huynh điên tiết nện cho 1 trận, cả khu mang đèn ra soi xem nhà mình có cá không còn thanh trùng phuy nước, ấy thế mà vài bữa lại lặng lẽ thả cá, có khi còn vớt giun thả vào cho cá ăn nữa…

Buổi tối thì xách đèn dầu đi sờ ve dưới gốc cây Xà Cừ, sao mà nhiều ve đến thế, hôm nào ăn cơm muộn chúng nó kịp lột xác xong rồi chỉ sờ được cái xác thì hôm đó tha hồ mà hậm hực. Bọn trẻ con hôm sau đứa nào đứa nấy khoe Ve cánh dài ngoằng và cong queo vì lột xác trong bao diêm, kêu è è rõ chán, thế mà cũng là niềm tự hào mỗi khi túm được. Giờ hè qua công viên Thành Công xác ve đầy ra đấy, trẻ con bố bảo dám lượn đi sờ ve buổi đêm sợ sờ nhầm cái gì khác…

Mình vẫn nhớ in những khuôn mặt trẻ con ngày đó trong trường Y, cái Liên, cái Hạnh, tay Quang, Châm, Phương, cái Hằng… cách đây chục năm nghe chuyện đứa nọ đứa kia lấy chồng mà mình quên mất rằng chúng nó đã lớn, cứ tưởng vẫn váy xanh quần xi líp trắng như ngày nào.

3. Đi học:

từ nhà đi bộ đến trường cũng hơn cây số, ngày ấy hầu như tuần nào đường tàu cũng có tai nạn chết người, ấy thế mà trẻ con cứ chạy rầm rập trên đường tàu, nhảy nhót giữa các thanh đường ray làm cho mình nhanh về nhà hơn.

Rồi khi lên lớp 7, hầu như mỗi đứa đều được mua cho 1 con mini, riêng mình thì phải đi 1 cái xe bố tự thửa (tự mua phụ tùng rồi lắp ráp dần dần) chả ra xe đực cũng không giống xe cái, cái ghi đông nó to kềnh càng chưa từng thấy, yên thì ngồi lên chân không với hết bàn đạp chứ chả nói chạm đất, thế là cứ đạp thật mạnh cái bàn đạp bên phải rồi giơ chân bên trái ra đón cái bàn đạp kia, xe đó không có phanh ở tay mà phanh chân, đạp ngược lại là phanh, thế mà chỉ vài tuần đi xe ti toe thả hai tay phóng như bay ngoài đường, đi thi với bọn con trai cùng khu thì đi thẳng đứa nào cũng như nhau nhưng ngoài mình ra chả có thằng nào đi qua đường tầu mà thả được 2 tay cả (ôi, bảo sao sau này mình ế)

4. Tình yêu:

Tình yêu thưở bé hàm chứa đầy bạo lực, tức là nếu giai thích con nào giai sẽ hoặc dứt tóc, hoặc lấy thước quật cho mấy phát. Tình yêu của mình thì giật cặp sách. Không ngày nào ra khỏi lớp mình không bị ”thằng chó” ấy nó giật cặp. Mình chiến rất quyết liệt, đằng nào nhà nó cũng trên đường đi học về, mình lẵng nhẵng theo nó, đúng đến cửa nhà nó mình bắt đầu gào tổ sư thằng chó… (tên nó + bố nó). Giờ trưa là giờ mẹ nó ra đường hóng nó tiện thể cũng phơi cái áo cái quần luôn, mỗi lần nhìn thấy mình bả đứng như giời trồng, ú ớ nói không ra hơi, mình thì vênh mặt lên giật lại cái cặp sở hữu của mình, nghênh nghênh bước đi nhưng tai vẫn để sau gáy, lúc nào cũng là 1 tiếng rít và tiếng phát bồm bộp vào thằng kia, ha ha, thế mà hôm sau tình yêu vẫn diễn lại bài giật cặp

5. Chuồng xí tập thể:

Giữa khu tập thể Dệt Kim, Dệt Nhuộm và Tạp Phẩm có chung nhau 1 dãy gồm 8 nhà xí. Khoảng 400 con người sống trong 3 khu tập thể mà chỉ có 8 cái nhà xí, tức là nếu mỗi người đái 3 lần ị 1 lần/ngày thì 1 nhà xí chịu 200 lần ghé thăm, trước giờ đi làm là giờ cao điểm của khu tập thể, người người nhà nhà vừa đi vừa vò giấy, nói chuyện í ới, ấy thế mà phàm cứ gần đến khu này thì ai nấy in lặng như chả quen nhau bao giờ, xếp hàng lặng lẽ như đang làm việc gì xấu hổ lắm í. Khu Dệt kim có 2 chị em sinh đôi P.A, P.M (giờ là hai gái xinh đẹp dịu hiền lắm) được mệnh danh là phù thủy, ai đi vào trước giờ phù thủy đi thì cứ gọi là tha hồi run vì chúng nó ko có tí kiên nhẫn nào, chúng nó đứng đợi 1 phút và sẽ hét lên ai ở trong đấy, bố ai dám nhận là ai, chỉ vò giấy sột soạt đáp lại (í là tao sắp xong rồi, tao đang vò giấy đây này), hai chị em này không bao giờ thỏa mãn với kiểu trả lời bằng giấy, nó sẽ cầm ngay mấy viên gạch ném vào cái cửa sắt gỉ vốn đã rất mong manh: choang, ối… chả ai bị thương nhưng đúng là không ai còn hồn vía mà cố thủ. Mình thì hay tránh giờ cao điểm nên đi vào buổi tối, buổi tối thì thấy bảo lắm ma, lắm ma thì phải hát cho ma nó sợ (đúng thật), thế là vừa x vừa hát Những ánh sao đêm, có hôm đi học thằng ngồi sau nó bảo: tối qua mày hát sai mấy đoạn liền (cùng khu tập thể thì hay học cùng lớp luôn, thế mới đau)

Sau này xây nhà, 4 cái toilet, mình tự hỏi, không hiểu sao người ta có thể dùng chung cả trăm người như vậy, thế mà vẫn sống ổn ra phết, bằng chứng là chửa bao giờ nghe thấy ai nói là tôi thấy chán cuộc sống này, sống kiểu x gì mà đi ị cũng phải xếp hàng…hay những điều tương tự như vậy

6. Tẩy giun:

Thỉnh thoảng bọn trẻ con lại ra ao rau muống hái về mớ tướng, lấy trộm ít gạo ở nhà, tìm đâu cái lon sữa bò, ít giấy học sinh, ít lá ít que đun khói mù mịt, rau thái nhỏ, nấu sống xít không bằng cám lợn nhưng tự nấu nên tự khen ngon, chia nhau 5-7 đứa kiểu gì cũng hết. Hàng năm cơ quan được phát thuốc tẩy giun dạng nước, uống rất là tởm (sau này tiến bộ hơn có thuốc giun quả núi xanh đỏ và ngọt ngọt thì là niềm mơ ước, chả khác gì một loại kẹo hấp dẫn, trẻ con ước ngày nào cũng được tẩy giun) . Thuốc giun ngày đấy không có chức năng tự tiêu như bây giờ nên công dụng của thuốc bao giờ cũng được thực tế chứng minh. Con cô The cứ không tẩy thì thôi, tẩy thì 3 ngày chỉ rặt giun, không tạp chất…

Thuốc giun bây giờ văn minh quá, những đứa sinh thời bao cấp có khi lại nghi ngờ tác dụng thực!!

7. Chị Thanh:

Chuyện này kể sau

8. Nhà cửa:

Nhà tập thể hồi đó là 1 nhà dài, xây 4 cái tường, trong chia ngăn bằng cót ép, chỉ cót ép thôi nhé nên hàng xóm thở mạnh cũng nghe thấy. Mỗi nhà có duy nhất 1 cái tường chính là lối vào của nhà. Nhà rộng 9m2, 4 người ở mà cũng chả thấy chật mấy. Cả nhà nằm chung trên 1 tấm gỗ lớn ghép lại, 1 cái bàn to đặt được 1 cái tủ lên trên và 1 cái máy Dệt nữa. Trong nhà chỉ có 1 cái xe đạp với 1 cái bếp dầu, thế mà đi đâu cũng phải khóa cửa, đeo chìa khóa ở cổ. Mình nhớ có lần đi chơi về thấy cửa mở, mình thất thanh gọi hàng xóm tới ứng cứu. Hàng xóm gọi thêm mấy hàng xóm mang đòn gánh đến ”quây”, xong vào nhà thì nhõn có cái gầm giường để kiểm tra, chả có ai cả nên các chú kết luận có thể trộm đã xong rồi, kiểm tra xem có mất thùng gạo không  . Nhà mình không mất gì (sau mình nghĩ có thể mải chơi chạy ra khỏi nhà quên không khóa)!

Sau này năm 86 thì phải, cơ quan bố phân cho một miếng đất rộng đến trăm m2, nhưng mà nhà chả máu, ở chỗ to thế buồn chết, đang ở nhà dài tự dưng chuyển ra ở riêng, xa mọi người đến cả trăm mét đường bộ, chả ai thích tí nào. Sau gần năm thì bố mới chịu chuyển về khi có gia đình chú thợ điện cũng chuyển về đó. Nhà lúc này ở cạnh bể nước công cộng, sau lưng nhà có 1 bụi tre, đêm kẽo kẹt phát khiếp, sau bụi tre là cái ao rau muống to đùng rồi đến cái lô cốt rồi là sông tô lịch, khu này ngày đấy hoang vắng đến nỗi cái ao thành chỗ đổ rác cho cả khu, rác thải hồi đó thực ra cũng ko giống bây giờ, không có túi nilong và cũng chỉ vài thứ rau cỏ sạch sẽ.

Cứ Chủ Nhật đến, cả khu tập thể mang chăn chiếu ra bể nước giặt, nói đủ chuyện trên đời (chủ yếu là nói xấu người chưa đi giặt). Mình ở nhà buồn nên ghé cửa sổ hóng chuyện, biết ối chuyện kể lại mẹ giật mình. Từ đấy cấm chỉ thập thò chỗ cửa sổ ngày Chủ Nhật.

Chuyển sang nhà này được vài tháng thì mình quen bạn Hà, hai đứa ra bờ đê trồng rau muống, nắng vỡ đầu 2 đứa cũng đi nhổ cỏ, mưa vẫn mang gáo dừa ra múc nước ở sông Tô Lịch lên tưới, rau lên xanh um, bán được 3 mớ cho mẹ (không đòi được tiền) thì bà hàng xóm sang bảo đất đấy bà ấy khai hoang cách đây mấy năm, giờ rau mình trồng tốt tươi bà ấy đòi lại, khổ hai đứa cày quốc rõ vất vả, luống rau mơn mởn giờ rơi vào tay.. kẻ khác! Mình trắng tay còn bạn Hà hình như đòi được mẹ bạn ấy ba chục đồng tiền rau.

Ký ức của một nhà khoa học về cuộc sống thời bao cấp

Cập nhật lúc: 09:25, Thứ Sáu, 10/02/2012 (GMT+7)

Thời bao cấp, một thời đoạn mà hầu hết các sinh hoạt kinh tế đều diễn ra theo kế hoạch, đang đi dần vào quá khứ và trở thành một phần lịch sử của đất nước. Nhưng những ai đã trải qua thời kỳ đó đều đọng lại trong lòng những ký ức khó phai. Trong câu chuyện đầu năm, PGS. Bác sĩ Lê Văn Tiến đã chia sẻ với chúng tôi một số kỷ niệm về cuộc sống gia đình ông trong thời bao cấp.

           Ngăn ban công để nuôi gà

        Với những người đã trải qua cuộc sống thời bao cấp, việc nuôi gà ở ban công hay nuôi lợn trong nhà tắm là một bức tranh bình thường, không có gì đáng ngạc nhiên, dù hậu thế nghe lại thì có thể xem đó là một chuyện đùa được cha ông mình kể cho vui.

          Là một bác sĩ chuyên khoa, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật thần kinh, Quân y viện 108, cựu sinh viên Đại học Y Hà Nội (1950-1957), Lê Văn Tiến có một gia đình êm ấm với vợ (bà Phùng Thúy Nga - một giáo viên trung học) và các con tại một căn phòng nhỏ ở nhà D5, khu tập thể lắp ghép Quỳnh Mai, Hà Nội. Sự chật chội của không gian chưa phải là vấn đề nan giải nhất trong vô vàn sự khó khăn khác. Lương của một bác sĩ và một giáo viên không đủ nuôi cả gia đình mà các công việc làm thêm khác để có thu nhập thì không đơn giản. Bắt chước một số gia đình khác, cô giáo Phùng Thúy Nga cũng nghĩ đến chuyện chăn nuôi gà để tăng thêm thịt, trứng cho gia đình. Trong căn phòng nhỏ đã có 7 con người sinh sống (gồm vợ chồng ông, mẹ ông và 4 người con), có thể nuôi gà ở chỗ nào khi vườn thì không có?

Thấy một số nhà ngăn ban công ra rào lại để nuôi gà, nhà tôi cũng học làm theo. Hơn 2m2 ban công được rào lại và nuôi mỗi lần cũng được chục con gà. Cho gà ăn các thứ phế phẩm trong nhà, từ rau cỏ đến những thứ gì người ăn thừa ra mà gà có thể ăn được. Ấy vậy mà gia đình cũng khá hơn một chút nhờ vào mấy con gà” - PGS Lê Văn Tiến chia sẻ.

Nhà đã chật chội, người thì đông, có thêm chục con gà nhiều khi cũng bất tiện, nhất là khi chúng đói mà đòi ăn thì kêu nghe khó chịu. Nhưng nghe lắm rồi cũng quen, thành ra lại vui”.

 Ngày đi mổ cho bệnh nhân, đêm về trộn bột làm bánh

Năm 1983, Bác sĩ Lê Văn Tiến mổ thoát vị đĩa đệm cho một bệnh nhân tên là Mùi ở phố Hàng Chiếu. Chẳng biết là cơ may của bệnh nhân hay bác sĩ nhưng sau ca mổ thành công, bà Mùi đến thăm để cảm ơn gia đình ông. Thấy gia đình vị ân nhân của mình nghèo khó quá nên bà tìm cách giúp đỡ. Vốn là con gia đình tiểu tư sản, bà Mùi có cửa hàng làm và bán bánh ở phố Hàng Đường. Để giúp đỡ gia đình bác sĩ Tiến, bà Mùi đến dạy cho vợ con ông nghề làm bánh, sau đó cung cấp nguyên liệu cho gia đình ông và nhận tiêu thụ toàn bộ bánh do gia đình ông làm được để gia đình có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống. Bác sĩ Lê Văn Tiến nhớ lại:

Từ hôm học được nghề làm bánh, gia đình tôi rộn ràng hơn. Mọi người trong gia đình, từ mẹ tôi, vợ và con tôi đều tham gia làm bánh. Là bác sĩ, ngày tôi làm việc ở bệnh viện, mổ cho các bệnh nhân, tối tôi về làm nghĩa vụ gia đình, tức là cà bột, trộn bột để vợ con làm bánh. Không khí gia đình luôn rộn ràng vì ai cũng lao động, cũng làm việc”… “Việc làm bánh lúc đó, khó nhất là mua bột mì thì bà Mùi đã cung cấp, gia đình chỉ đi mua củi, than và đường. Vào thời điểm đó, những thứ này không quá khó mua như một số thực phẩm khác như gạo, thịt, cá… Chỉ cần có ít tiền lên chợ Hàng Bè là mua được đường”.

Hàng đêm, cả nhà quây quần, mỗi người một việc tham gia làm bánh để cải thiện đời sống. Sáng ra ai nấy lại đi làm việc. Riêng vợ ông là giáo viên trường Trung học Nguyễn Công Trứ trên đường đi dạy lại mang bánh lên Hàng Đường giao cho bà Mùi.Công việc vất vả nhưng cũng để lại nhiều kỷ niệm đẹp về tình người: “Có lần, do cả gia đình đều mệt nên làm ra một mẻ bánh kém chất lượng. Cả nhà đều lo không biết phải làm sao để giải quyết. Thông báo cho bà Mùi biết, bà Mùi đã bảo vợ chồng tôi cứ đưa lên bà vẫn nhận bánh và sử dụng để làm nhân loại bánh khác. Tuy giải quyết được nhưng cả nhà vẫn được bữa không ăn không ngủ”.

Cuộc ra đi đầy trăn trở

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 quyết định đổi mới đất nước và mở cửa nền kinh tế để phát triển. Đó là một bước ngoặt lịch sử. Tuy nhiên, sự thay đổi diễn ra không thể một sớm một chiều. Đến cuối những năm 1980, đời sống của người dân vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu, ảnh hưởng của kinh tế bao cấp vẫn còn nặng nề. Trong thời kỳ khó khăn đó, với chủ trương cử cán bộ Việt Nam đi làm chuyên gia ở nước ngoài, mà chủ yếu là ở các nước châu Phi, một số giảng viên các trường Đại học, các bác sĩ... đã đăng ký để được cử sang Châu Phi làm chuyên gia như là một phương án để giải quyết khó khăn cho cuộc sống gia đình.  

au bao nhiêu nỗ lực từ “tăng gia sản xuất nông nghiệp” (nuôi gà ở ban công) đến phát triển thủ công nghiệp (làm bánh vào ban đêm) mà đời sống của một gia đình trí thức vẫn không khá lên được, năm 1989, cùng với một số chủ nhiệm khoa ở Quân y viện 108 như bác sĩ Trần Đức Hòe (đi Angieri), bác sĩ Nguyễn Ngọc Toản (đi Congo), bác sĩ Nguyễn Thị Mẫu Đơn (đi Congo)… bác sĩ Lê Văn Tiến đăng ký đi chuyên gia châu Phi. Nơi ông đến là đất nước Angola. Và ông làm việc ở đó đến năm 2004 mới về nước.

Lúc đó, là bác sĩ đầu ngành nên đi chuyên gia, ông được trả lương l�100 đô la một tháng. Trừ một số chi phí khác thì vẫn còn gấp nhiều lần so với lương ông đang được hưởng trong nước. Đi chuyên gia đồng nghĩa với việc những khó khăn gia đình được giải quyết dần. Nhưng đó cũng là một nỗi niềm mà ông luôn trăn trở trong lòng. Đã bao năm gắn bó với công việc ở bệnh viện, góp một phần công sức để xây dựng ngành Phẫu thuật thần kinh ở Viện Quân y 108. Nay bỏ tất cả để ra đi... , ông chia sẻ:

Đó là một quyết định khó khăn. Đứng trước sự lựa chọn đi làm để có kinh tế chăm lo cho gia đình và tiếp tục theo đuổi nghề nghiệp mà mình tâm huyết quả thật khó lựa chọn. Lúc đó, phẫu thuật thần kinh mà tôi tâm huyết đang lớn mạnh do đưa vào những kỹ thuật vi phẫu vào để khám chữa bệnh. Tôi đã mong mỏi điều này từ những năm còn đi thực tập sinh ở Bungari. Nhưng rồi cuối cùng, thấy vợ con khổ quá nên quyết định ra đi. Đến giờ tôi vẫn trăn trở không biết mình đã quyết định đúng hay không!”.

Tất cả đều trôi vào quá khứ, thời bao cấp cũng vậy, nhưng ký ức của mỗi con người thì vẫn còn nguyên vẹn. Và nó trở thành một phần trong cuộc đời của họ. Như PGS Lê Văn Tiến nói, “ký ức không phải đưa ra để đánh giá mà kể lại để cho thế hệ sau biết rằng thế hệ trước đã kinh qua những tháng ngày như thế”./.

Nói tóp mỡ thì phải nói cái thời các chị mình, bà thì bện tóc hai bên, bà thì tóc mái ngố, oách lắm đợt phi dê, áo vai bồng, quần sơ vin qua rốn, chân loẹt qoẹt tổ ong 108 lỗ anh hùng lương sơn bạc, quây quần bên bếp than tổ ong, tay vòng ngọc lấp lánh quạt lấy quạt để. Cái thời trẻ con, lấc cấc, ngồi khều gạch cua còn ngong ngóng nhạc "Những bông hoa nhỏ", khều dối qua quýt để còn ngồi trước ti vi, thứ mà hồi đấy với mình là kỳ diệu lắm...

Ôi, cái thời nhi đồng ấy, suốt ngày nhểu mỏ lên nhại Văn Sơn - Bảo Liêm, mặc áo vest, đội mũ phớt của bố, vẽ ria mép dưỡn dẹo dáng hề Sác lô...

Cài thời mà... tranh ăn với chị, bốc bài ăn gian, chơi đồ hàng góc nhà, ngủ vén rốn trước quạt, trốn ngủ trưa ngồi vẽ và chỉ biết vẽ mặt người hình chữ U, ông mặt trời có mồm cười và 8 tia xung quanh. Đặc sản cái thời đấy của mình là cơm trộn dấu chảo và tóp mỡ rán giòn tan.

Nói về tóp mỡ thì bạn bè cùng tuổi mình có đứa nhăn mặt chê khiếp, đứa chỉ nói được câu "đời em ra tóp" mà không biết thế nào là thưởng thức tóp mỡ, đứa thì coi đấy là thứ bỏ đi.

Nhìn chung là mình ăn được đồ mỡ màng và bóng bẩy, thịt thà cứ phải có tí mỡ thì mới không bị khô, bát canh cũng phải có tí lấp lánh nhìn nó mới hấp dẫn.

Nhân đọc "Đĩa tóp mỡ" của Xuân Vũ Trần Đình Ngọc, cảm thấy hỉ hả vì món thức ăn tuổi thơ mình cũng có lúc lấy lá được thành tình, thành truyện.

Mình thèm tóp mỡ!

Mình thèm cái hình ảnh teo tóp khô quắt, ngả một màu vàng sụm. Cái thứ của dân dã một thời đói khổ, quắt queo đượm vị béo, lại làm mình nhớ đến thế. Mình thèm cái cảm giác mắt hau háu xem mẹ thái miếng mỡ to bằng 2 ngón tay, thắng kiệt lên mà tóp lại chỉ còn vừa đốt ngón, đủ cho 2 chị em nhón miếng, thổi phù rồi tranh nhau đưa tọt vào mồm, lấy làm sung sướng lắm vì trò vụng trộm. Ăn tóp mỡ thì nhớ canh ngót nấu, cải xào, dưa xào, trứng đúc, cơm rang, cá kho,... di dỉ cái gì chế biến với tóp mỡ mình cũng ăn được ngon lành. Tóp mỡ để nguội, thêm chút thịt nạc dính vào, mùi thơm  béo, chấm nước mắm chanh tỏi ớt, dấp  dấp  lên cơm nguội, vị nóng hòa với cái giòn tan, át đi cái vị béo, thêm cảm giác chua chua và cay nhẹ, mằn mặn của nước mắm cốt, đưa vị giác đến với cái giòn rụm, vừa bùi, vừa  ngậy. Tóp mỡ rang với cơm thì phải giòn, mà xào lên thì phải mềm, nhưng vẫn đủ độ dai. Khéo léo của các mợ là phải trung hòa cái béo cái ngậy không thành ngấy, đủ béo mà vẫn ngon. Dưa chua vàng, xào tóp mỡ, thêm tẹo ớt đỏ, hành hoa. Hay canh sọ, hoa mùi, tóp mỡ chưng thơm lừng hành lá. Hay ít xôi sắn trộn mỡ gà, thêm vài miếng da, 1,2 miếng tóp phi thơm hành, rưới lên lớp gà hay thịt xíu. Hay canh chua thịt. Hay niêu cá nục/cá chép kho. Hay đĩa rau xào xanh rì..

hêm tóp mỡ là điều mẹ biết mình thích.

Càng lớn, tình yêu của mình với tóp mỡ càng ngày càng nhạt nhẽo, nhưng đảm bảo không bao giờ chết. Không  phải cấu trộm ăn tranh, không phải lén lút thì thụp, không phải đứng sau lưng mẹ sợ mỡ bắn, không phải ... không phải là những lúc lếch thếch bê bát cơm nguội hay ngồi cạo cháy, lục chạn tìm tóp mỡ, lách cách xúc từng thìa, đợi tiếng lạch cạch ngoài cửa, biết đâu mẹ chợ về lại có quả thị, cái bánh dày giò cho mình... Có khi, không còn phải bằng đấy cái, khiến tóp mỡ đối với mình giờ chỉ như kỷ niệm, thỉnh thoảng thèm rồi nuốt ực, đợi dịp nào vòi mẹ dùng mỡ động vật cho các bữa ăn, chứ chẳng còn chén tì tì được nhiều như ngày nào.

Từ cái thời ông già áo đỏ cầm đinh ba vào Việt Nam, người ta bỏ bếp than, đi dép nhựa màu mè, người ta biết thế nào là cholesterol, người ta đọc báo về các ổ mỡ lợn, các container mỡ lậu... Người ta chả đoái hoài về tóp mỡ.

Mình tha thẩn viết về tóp mỡ. Nhớ cái thời  chơi đồ hàng, bốc bài ăn gian, tóc còn mượt và là con út.

Thơm ngọt mắm cua đồng Hà Tĩnh

Chủ nhật - 18/03/2012 21:53

·                                

·                                

·                                

Khi những đợt nắng nóng mùa hè đã hạ nhiệt bởi những luồng heo may mang theo hơi sương lành lạnh, ấy là lúc những đàn cua đồng theo nhau bò ra khỏi ổ kiếm mồi ăn và sinh sản.

Chính cũng trong thời điểm ấy những con vật ký sinh, trốn nóng trong chiếc mai cứng cáp cũng đã lần lượt rời thân cua ra ngoài sinh sống. Chẳng những thế mà khoảng cữ cuối tháng 9 đầu tháng 10 âm lịch là con nào con ấy béo ngậy, vàng hươm màu gạch. Người nông dân lại được đồng quê đãi ngộ cho một mùa thực phẩm mới...

Từ cua đồng, người ta có thể chế biến được rất nhiều món, món nào cũng rất ngon và đậm đà hương đồng ruộng.

Cua đồng rang muối, lẩu cua đồng, canh cua nấu với rau khoai lang, rau cải, măng rừng, bún cua… đều đã làm nên những món ăn mang hương vị riêng biệt đầy hấp dẫn trong ẩm thực Việt Nam.

Những món ấy hầu như người dân vùng quê nào cũng biết ăn, biết làm. Riêng có một món mà chỉ một số nơi như Hương Sơn, Đức Thọ, Thạch Hà của tỉnh Hà Tĩnh…đã “sáng chế” và duy trì đến tận bây giờ - mắm cua.

Nếu như nhiều loại mắm được làm bán rộng rãi thì mắm cua lại chỉ giới hạn trong từng gia đình. Quê tôi, mỗi mùa cua về là hộ nông dân nào cũng tự đi bắt cua và làm một bình mắm cua để dùng dần trong suốt mùa rét.

Mắm cua được làm chủ yếu từ cua đồng và 1 số phụ gia khác như thính ngô, riềng, hạt tiêu, hành tăm, nghệ và đặc biệt là phải có vỏ quả tắt (một loại quýt rừng có mùi rất thơm).

Chẳng biết ai đã nghĩ ra cách cho vỏ tắt vào mắm cua nhưng quả là cách phối hợp rất mang lại hiệu quả rất cao. Và cũng thật kỳ lạ là tắt lại chín đúng vào thời điểm mùa cua béo rộ.

Quy trình làm mắm cua cũng lắm công phu. Sau khi rửa sạch cua là công đoạn bóc yếm, bóc mai, lấy gạch cua và giã. Cua phải được giã bằng tay rồi lọc lấy nước mới ngon. Sau khi đã lọc xong thì pha chế với muối trắng, thính ngô đã được rang, giã nhỏ và một ít vỏ tắt, riềng, hành tăm giã nhuyễn.

Mắm cua được cho vào hũ sành hoặc bình sứ, đậy kín rồi đặt cạnh bếp củi. Sau khoảng 7 ngày là đã dậy lên đầy đủ hương vị của đồng quê với vị ngọt của thịt cua, vị béo của gạch cua và mùi thơm của các loại phụ gia.

Mắm cua có thể dùng nguyên như thế hoặc một số người lại chế biến thêm lần nữa bằng cách chưng lên với tỏi, hành phi mỡ.

Bằng cách nào thì mắm cua cũng rất thơm ngon và có thể dùng với cơm nóng và rất nhiều loại rau luộc như: ngọn khoai lang, rau cải, rau mùng tơi...Thế nên, những ai đã thưởng thức, đã trót mê hương vị của loại mắm này thì sẽ nhớ đến tận mùa sau.

Từ hồi thôi làm ruộng, năm nào mẹ tôi cũng mua vài yến cua về làm mắm, một phần để ăn và một phần để biếu anh em, bạn bè. Vì thế nên bếp củi vẫn được mẹ giữ lại.

Mắm cua do mẹ tôi làm rất ngon, thịt cua không quá nhiều nên không bị chát, thính mẹ rang đều tay, độ cháy vừa phải nên thơm mà không đắng, muối cũng nêm vừa độ giữ cho mắm không bị chua mà lại không quá mặn… Mắm cua thành phẩm vừa thơm vừa có màu nâu đậm, sánh váng gạch cua…

Năm nay, những chiếc hũ sành sứ nhà tôi đã được làm nhiệm vụ quen thuộc của mình, chúng nằm yên bên bếp lửa ấm áp mà như đã chạy khắp đồng quê gom về những mùi thơm đặc trưng.

Mỗi lần làm mắm cua mẹ lại nhắc nhớ một thời đói khổ, mùa lạnh đi làm đồng về thèm một bữa cơm chan mắm cua mà không có nổi bát gạo để nấu toàn phải ăn cơm độn sắn.

Còn tôi, cứ mỗi mùa cua đến lại chênh chao nhớ những ngày mùa đông theo bạn bè lội bì bõm qua các bờ đồng, bờ thửa, thò tay vào tận hang để bắt đầy những oi cua đồng mang về cho mẹ.

Tôi cũng đã mang mắm cua biếu nhiều người, có những người ăn chỉ để thưởng thức một loại thực phẩm thơm ngon, có người lại dùng để hoài niệm những tháng ngày xưa cũ, để nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ anh em, bạn bè, nhớ chính mình của một thời thiếu thốn… Mắm cua vì thế cũng đã vượt lên trên giá trị đơn thuần của một món ăn.

Món ăn thời bao cấp nay là đặc sản

Một thời gà công nghiệp là món không thể thiếu trong bữa tiệc cưới hỏi, hành tây , tỏi tây, dâu tây, khoai tây cái gì đặc sản cũng là của Tây. Ngày nay thì "gà ta, tỏi Lý Sơn, mận hậu, cua đồng, ốc đồng, lợn mọi... cái gì của "thời bao cấp cho là thấp hèn thì nay là đặc sản dành cho các vị lắm của nhiều tiền. Dân lao động lấy đâu ra tiền mà ăn.

> Bữa cơm thời bao cấp

Tôi còn nhớ cách đây vài năm cháu ruột của một tỷ phủ nổi tiếng đất Sài Gòn theo cô giáo đến nhà tôi chơi. Tôi bảo hôm nay bác đãi cháu món ăn thời bao cấp. Tôi tự tay làm. Tôi lấy một ít mỡ lợn chung với nước cà chua, hành ta, cho một ít mỳ chính, nước. Nhân dịp gần Tết có ít xà lách ở ngoài quê gửi vào tôi cho cháu chấm ăn. Cháu chấm đến bạc trắng nước ra, còn ít chan ăn nốt.

Cháu bảo tôi chắc thời bao cấp nhà bác giàu lắm ...làm vợ tôi và cô giáo bật cười. Tôi bảo thời đó món này toàn dân đều ăn...! Rồi cháu nói tiếp: sao các món bố cháu cho ăn ở nhà hàng sang trọng nhất Sài Gòn, kể cả súp yến sào cháu cứ thấy nhạt thếch. Bác nhớ Tết năm sau bác cho cháu ăn "Món bao cấp".

Thời đó ăn khổ nhưng món gì cũng ngon miệng vì không ai sống so đo bon chen luôn yêu thương lẫn nhau, không ai phải lo sợ khi đi ra đường, không ai lo con mất đạo đức, nghiện hút, tiêu cực, tham nhũng gần như không có từ đó trong "TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT".

Khi cuộc sống đã đủ đầy, bỗng nhiên người ta lại nhớ nôn nao về cái thời bao cấp đầy khốn khó với những món ăn không thể đơn giản hơn về cách chế biến và nguyên liệu. Nhưng thật lạ, những món ăn bình dị đó giờ lại vươn vai hóa thành “đặc sản”. Với những người trẻ 8X trở về sau, thời bao cấp chỉ là một câu chuyện được nghe kể lại từ thế hệ anh chị, cha mẹ mình.

Cả tuần cứ thịt với cá ngán tới tận cổ, cuối tuần, mẹ đổi món cho cả nhà bằng món tép riu rang khế chua. Rồi mẹ kể, ngày trước ao hồ, kênh rạch nhiều, tôm to thì phải mua bằng tem phiếu, còn tép riu thì người ta cho hoặc đổi muối, mắm với mình. Về rang tép không cũng chán và vì ít mỡ (do không mua thịt lợn mỡ), các mẹ, các chị “sáng chế” bằng cách cho thêm khế chua vào rang kèm. Con ăn vèo vèo hết 3 bát cơm, đĩa tép cũng vơi phân nửa, còn tủm tỉm “mỗi lần xúc mình cũng “diệt” tới cả trăm chú tép con vào bụng”.

Mẹ bùi ngùi nhớ lại, hồi ấy khi hết tem phiếu đồng nghĩa với thực phẩm cũng vơi. Thế là tận dụng tất cả những gì có sẵn trong vườn nhà như các loại rau mồng tơi, rau đay, hoa chuối…hay ra đồng mò cua bắt ốc để “cải thiện”. Vậy là sự kết hợp ngẫu nhiên đó tạo ra rất nhiều món ăn thú vị như canh cua mồng tơi, hoa chuối nấu trai, cá thầu dầu (cá cơm khô) nấu dưa chua, dưa chua rang tóp mỡ hay cá chạch chấu kho trám…Nghe mẹ kể mà con rỏ nước miếng. Mẹ bảo giờ người ta đầy đủ rồi nên quên nó vì ngày xưa phải ăn nhiều quá nên…sợ, hơn thế, nguyên liệu nấu ngày trước dễ kiếm, nay hiếm hoi. Thế nên nhiều món đã trở thành “đặc sản”, thành món ăn “độc đáo, mới lạ” ở các nhà hàng.

Ngày nay, vẫn tên gọi cũ nhưng món tép rang khế lại có rất nhiều “dị bản”.

Tại quán Ngoại Ô (19 Nguyễn Gia Thiều, Q. Hai Bà Trưng, HN), bếp trưởng cho thêm thịt lợn sấn băm nhỏ cùng ít ớt thái nhuyễn khi rang. Mỡ, thịt “rán” tép tạo nên độ bóng săn cho chú tép, khế chua thái mỏng tang để ngấm đều gia vị. Hoặc thay vì tép tươi chỉ bán theo mùa ở các chợ, người ta lại dùng tép khô đóng gói. Bất đắc dĩ lắm mới làm món tép khô rang khế vì dường như ăn vào chỉ để đỡ nhớ chứ vị ngon mát và đúng “chất” đã mất hẳn.

Tằn tiện như thời bao cấp

Đăng lúc: Chủ nhật - 09/10/2011 09:20

Trong căn hộ chung cư cao cấp chị em Lan góp tiền mua cho bố mẹ, lạc lõng giữa những đồ đạc tối tân được nhập khẩu là mớ xoong nồi nhôm móp méo từ những năm 1970, cái radio bán dẫn tậm tạch, bộ vỏ chăn hoa Con Công vải chéo go đã sờn, cái quạt tai voi Liên Xô vừa chạy vừa nhảy cóc… Nhiều lần “ngứa mắt”, Lan đề nghị giải tán, nhẹ nhàng dụ dỗ có, căng thẳng gay cấn có - nhưng hai cụ đều từ chối quyết liệt với thái độ nhất quán: “Mày kệ bọn tao, đồ tuy cũ vẫn tốt chán, chẳng làm gì phải phí”…

an kể: “Khổ lắm, mấy anh chị em có để bố mẹ thiếu thốn gì đâu mà cái gì bỏ đi cũng tiếc, ở trong nhà mới mà cứ như ở trên đống đồng nát”. Để con cái đỡ nói rát tai và mất công phân tích về việc ôm giữ đồ dùng vô dụng trong nhà, mới đây bà cụ cất sạch bộ nồi thủy tinh Vision con mới sắm, mang ra đám xoong nhôm đáy đen xì muội than đặt hiên ngang lên dàn bếp gas Teka bóng loáng. Cụ bà còn hớn hở thuyết minh: “mấy cái nồi này là quà mừng cưới tao với bố chúng mày, ngày xưa chỉ có nấu rau suông với cơm hẩm, lấy đâu ra thịt cá! Cái nồi bé nhất này là xoong quấy bột của cả ba chị em chúng bay đấy…”. Thế là cứ hôm nào bà đi vắng, Lan lại dọn sạch đồ cũ cất tủ. Bà lão về, mẹ con cãi cọ ầm ĩ một hồi rồi kết thúc bằng màn khóc mếu: “Chị muốn dùng đồ hiệu thì chị đem về nhà chị mà dùng, còn tôi thích dùng đồ đạc bao nhiêu năm (còn tốt) của tôi!”. Sau đó thì nồi nhôm méo đứt quai vẫn đun trên bếp Teka, chăn Con Công sờn cũ tiếp tục kết hợp cùng đệm bông “made in Korea”.

Chuyện mẹ con đấu khẩu nhau mỗi dịp dọn nhà hầu như diễn ra ở mọi gia đình. “Điên lắm, cụ Khốt vẫn giữ thói quen sinh hoạt tằn tiện thời bao cấp. Có đi đâu mua đặc sản hay thuốc bổ về biếu bố mẹ, nửa năm sau kiểm tra vẫn thấy cất trong tủ lạnh với tình trạng đã mốc hỏng. Các cụ thì chối đây đẩy: “Tao để dành chưa nỡ dùng đấy chứ!”. Trong hốc tủ nào cũng thấy tích trữ đầy túi nylon với vỏ hộp thuốc tây, vỏ hộp bánh kẹo. Đụng đến thì các cụ gầm lên là cứ để đấy, có lúc tao dùng đến! Nhưng thực sự thì chỉ thấy túi nylon và vỏ hộp đầy lên như nhà bà bán ve chai, chứ các cụ làm gì đến đám nylon ấy…”, chị Hương Liên (kiến trúc sư của Cty Vinaconex) ấm ức kể.

Mai Anh (giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội) luôn muốn bù đắp cho bố mẹ những ngày nghèo khó. Nên cô rất chăm chỉ sắm quần áo đẹp cho bố mẹ, mua tour du lịch động viên các cụ đưa nhau đi chơi. Ngặt nỗi mong ước báo hiếu của cô cũng không được như ý: ông bà cất kỹ quần áo mới trong tủ (quần áo chúng tao đã rách đâu, người chỉ có một tấm thân mặc gì mà lắm thế), “tour” thì các cụ lắc quầy quậy: “Tính ra mỗi ngày tiêu tiền triệu, bọn tao thèm vào. Ở nhà cũng mát mẻ rộng rãi, muốn ăn hải sản đi chợ cái gì chẳng có, làm gì phải ra tận biển cho chúng nó chém…”. Nếu nhận lời đi những “tour” đặc biệt như chùa chiền, lễ hội - thì cụ bà cũng cơm đùm cơm nắm mang theo như thuở “hôm qua em đi chùa Hương” của ông thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp. Con biếu tiền đi đường, về các cụ trả lại không thiếu đồng nào và còn đắc chí: “Không tốn kém mà vẫn vui và hiệu quả con ạ”!

Thùy Trang mới làm dâu được một tháng đã khóc mếu: “Mẹ chồng tiết kiệm quá, bát nước mắm chấm dở còn thừa vài giọt cũng cất đi để bữa sau nấu. Hôm nào cũng phải ăn thức ăn thừa nấu đi nấu lại đến mức nát nhừ. Bọn này ớn quá không thể nuốt nổi, bảo mẹ đừng quá tiết kiệm chuyện ăn uống, đi chợ tốn kém bao nhiêu bọn này lo hết. Nhưng bà gạt đi bảo các con cứ ăn đồ mới, mẹ ăn đồ bữa trước không bỏ đi có tội với Trời. Nói thế con nào dám…?!”.Thuyết phục các cụ Khốt từ bỏ thói quen tiết kiệm đến mức chắt bóp là việc không dễ dàng gì (nếu không nói là vô ích). Bởi đó là tính cách được rèn giũa để phù hợp với hoàn cảnh sống trong những năm tháng quá khốn khó. Nhưng bọn con cái vừa thương vừa bực bố mẹ cũng chẳng dễ buông tay để các cụ yên thân mà lưu luyến với “tàn dư” bao cấp. Như Lan, sau vài lần đôi co với mẹ việc dọn đồ cũ ra - cất đồ cũ vào - lại dọn đồ cũ ra, đã nhân một hôm cụ bà đi lễ chùa, ở nhà thẳng tay dọn sạch bách mớ tài sản lạc xoong, đem biếu thẳng cho bà đồng nát vui chân đi qua. Nhưng cô lập tức ân hận khi tận mắt chứng kiến cơn tăng-xông của mẹ mình khi bà lão về tới nhà. Cách bà cụ khóc tức tưởi không phải là cách khóc của người tiếc của, mà là đau đớn của việc phải chia xa với những gì yêu dấu và thân thuộc, không có cách nào tìm lại được…

Người già nói chung hay lưu luyến với ký ức, những tài sản từng gắn bó với ông bà suốt hàng chục năm (cái phích mừng cưới, cái chậu men khi sơ tán cũng cố mang theo để tắm cho bọn trẻ, cái đồng hồ ông ấy mang ra ngày Giải phóng, cái quạt cóc nhà mua được sau một lứa lợn chắt bóp tăng gia…) với lũ con cái chỉ là đống đồ đạc lỗi thời vô dụng; Nhưng với ông bà, đồ đạc ấy mang yếu tố thiêng liêng hơn giá trị tiêu dùng. Nó là kỷ vật, là nhân chứng, là những gì còn lại của một thời đã vĩnh viễn qua đi. Hơn tất cả, nhìn đồ đạc cũ người già thấy yêu dấu thân thuộc, đôi khi chuyện gẫu với nhau có thể kể những chuyện ấm áp thế này: “Con Tũn hồi làm mẻ cái cánh quạt, tôi xót của quá đánh cho một trận quắn đít. Thế mà cái quạt mẻ cánh này theo Tũn xuống Hà Nội học đại học đấy…”. Những tình nghĩa ấy của đồ đạc cũ, con cái có hiểu được không?

Trong những tình huống con cái muốn bố mẹ được hưởng thụ, đi du lịch, mua sắm, ăn nhà hàng… thì cũng không nên suy từ sở thích mình ra để cưỡng ép. Rượu tây, shopping tại trung tâm thương mại hoành tráng, phơi nắng ở bãi biển Bali… với các cụ là chịu đựng (dù rất đắt). Có khi chỉ là một chuyến về quê để thăm chòm xóm cũ, đi hành hương để thấy thanh thản tâm linh, lượn chợ Đồng Xuân vừa mua hàng rẻ vừa mặc cả bằng thích, lai rai xị rượu đế với thịt cầy 7 món… là các cụ đã thấy cực kỳ tận hưởng rồi. Ở đây không phải là chuyện tằn tiện không dám hưởng thụ, mà các quý con hiếu thảo nên thông cảm rằng: muốn vui trước hết phải thoái mái và đúng nhu cầu của bố mẹ mình.

Tuy nhiên, không phải mọi hành vi chắt bóp của các cụ đều khả dĩ chấp nhận được. Ví dụ như ham muốn vô thức tích trữ túi nylon và các loại vỏ hộp (mà hầu hết cụ bà nào cũng mắc). Hay thuốc bổ sâm nhung cao cốt, các loại quà tặng con cháu kính biếu đã mốc xanh mốc đỏ nhưng vẫn luyến tiếc cất kỹ trong tủ với lý do “phòng có lúc dùng đến”. Thực ra chính các cụ cũng không kiểm soát hết mớ tài sản lạc xoong của mình, tích trữ chỉ vì là sở thích và thói quen. Trong tình huống này, bạn cứ âm thầm dọn dẹp (tất nhiên phải khuất mắt trông coi của các cụ), cũng chẳng nên đôi co thắng bại làm gì khiến các cụ tổn thương, mà có khi “việc lớn” không thành. Còn thức ăn thừa lưu cữu có thể đối phó bằng cách nấu bữa nào gọn đủ bữa đó (vừa tươi ngon, vừa đỡ phí phạm. Nếu thức ăn dư thấy gớm bạn hoàn toàn có thể mạnh tay đổ thẳng vào sọt rác và la lên rằng đã ôi thiu - đảm bảo lúc đó cụ bà sẽ không thấy áy náy “phải tội với Trời”.

Vậy đấy, làm con, chăm bố mẹ nào có dễ, dù không thể khó bằng một phần việc các cụ đã vất vả nuôi chúng ta lớn khôn như hôm nay.

Gia vị thời bao cấp

Tem phiếu, gạo mậu, cá biển ươn, thịt bạc nhạc, mắm thum thủm… là những ký ức có lẽ không bao giờ quên đối với mỗi người từng đi qua một thời có tên là bao cấp

Một cân tám thịt được mua theo tiêu chuẩn tem phiếu chưa bao giờ đủ cho gia đình 4 người chúng tôi. Một thời gian, để có thêm chút thức ăn cho hai đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, mẹ cũng cố gắng tần tảo chạy chợ sau giờ đi dạy học. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, lại nghỉ. Nguyên do chính, giáo viên và “con buôn” là hai thực thể độc lập mà những “chuẩn mực” của xã hội không cho phép nhập thành một.

Thiếu thức ăn, chúng tôi nghĩ ra đủ trò, thậm chí là biến những gia vị thành món đưa cơm.

Bố mẹ đi làm, trưa chỉ còn hai anh em. Cơm gạo mậu dịch không thiếu vì bố là bộ đội, tiêu chuẩn mua gạo tới hơn hai chục ký. Nhưng thức ăn dù có dè sẻn thì cũng chỉ đủ hai lưng. Bí quá, anh tôi mang chút nước mắm ra đun đến lúc khô cong, chuyển sang màu trắng vàng, thơm thơm khác hẳn mùi nước nguyên gốc. Mỗi chấm đầu đũa là một miếng cơm to. Thơm, ngọt lạ thường. Thêm đôi bát cơm cho ấm bụng!

Món thứ hai thường xuyên được đem ra “ứng dụng” là ớt.

Thuở đất trống ở thủ đô còn mênh mông, nhà tôi tạm chiếm dụng được một mảnh để làm vườn. Chẳng hiểu chất đất thế nào mà thứ cây trồng hiệu quả nhất lại là ớt. Đủ loại, ớt chùm, ớt chỉ thiên, ớt vàng, ớt đỏ… quả ríu rít khoe. Cho, biếu, tặng chẳng xuể, đành phơi khô làm ớt bột và ngâm giấm.

Những ngày “giáp hạt”, ớt “lương khô” tỏ ra đặc biệt hữu dụng. Được ngâm trong giấm chua lâu ngày, chất cay của ớt đã giảm nhiều và chuyển sang chiều dìu dịu. Cộng thêm vị mặn của nước mắm, ớt ngâm giấm trở thành thứ đưa cơm đáng nhớ. Còn món ớt bột thì đơn giản hơn nhiều. Trộn đại với ít muối, cộng thêm quả chanh bứt ở vườn nhà, cho ra một món chẳng lấy gì làm ngon lành nhưng cũng đủ để tạm qua bữa.

Trẻ con thời bao cấp thèm đủ thứ. Một cái kẹo hoa hồng Hải Hà chỉ để ngậm cho tan dần trong miệng chứ không bao giờ dám nhai. Sợ nhanh hết! Thế nhưng, bánh kẹo là đồ “xa xỉ”, chỉ được nhón nhén trong dịp tết hay đám cưới.

Mỗi tháng, theo tiêu chuẩn tem phiếu, nhà tôi được mua 8 lạng đường. Mẹ dùng tiết kiệm lắm. Phòng lúc ốm đau còn có thứ mà pha. Nhưng trẻ con biết gì, thèm là lôi ra.

Đường được cho vào nồi đun chảy vừa độ. Đơn giản thì để nguội là thành một thứ kẹo giòn tan, ngọt lịm, nhai rôm rốp. Cầu kỳ hơn chút thì đem trộn với ngô rang, thành món kẹo ngô. Ngô thời bao cấp đầy dấu mọt đục, nhưng nhờ vị ngọt của đường, vẫn vô cùng hấp dẫn.

Nấu “kẹo” xong, sợ mẹ biết, thi nhau cọ nồi cho sạch bóng.

ĐẶC SẢN THỜI KHÓ

Thời bao cấp, cuộc sống khó khăn thiếu thốn. Các gia đình chẳng mấy khi có điều kiện mua thịt cá cho con, đặc biệt là các loại cá to ngon thì càng hiếm. Trong khi đó các loại cá nhỏ, cá tạp (ở vùng Bắc bộ thường gọi chung là cá tép) lại bán rất sẵn và nhiều bởi nó hợp với túi tiền của đa số dân nghèo. Khổ nỗi, trẻ em không thích ăn loại cá này vì không hợp vị, và vì nếu không cẩn thận rất có thể bị hóc xương.

Song cá tép lại là món “sơn hào hải vị” với gia đình tôi, khi được chế biến thành món chả cá khoái khẩu. Hồi đó, vì không có thời gian, mẹ tôi và cả vợ tôi sau này chỉ rửa thật sạch cá tép, trộn với gia vị như gừng, hành, ớt, thì là... rồi băm nhỏ. Sau đó thêm vào chút bột mì cho dẻo, viên thành viên tròn, dẹt cho vào niêu nước sôi đã nêm mắm muối vừa phải là được món mọc cá kho đậm đà thơm ngon. Mọi thành viên trong gia đình đều xuýt xoa khen ngợi, ăn hết ngày này sang tháng khác mà vẫn không chán.

Cũng là nguyên liệu cá băm đó, nếu hôm nào rỗi rãi, có “sự kiện” gì muốn cải thiện cho sang hơn thì đập thêm vào quả trứng, ít mộc nhĩ rồi cho vào chảo rán. Thời đó hiếm dầu mỡ. Chúng tôi lấy lá lốt bọc viên cá lại, nướng sơ qua than lửa, sau đó mới đem chiên giòn cho đỡ tốn mỡ. Vậy mà món chả cá ấy thơm lừng khắp xóm, làm “điếc mũi” dân làng. Còn chúng tôi thì xem bữa cơm có món chả cá đó như là “yến tiệc” vì vị thơm giòn, béo bùi, đậm ngọt pha lẫn cay the đặc trưng được chế biến từ những thức quê vô cùng dân dã.

Còn một món nữa cũng hấp dẫn không kém là canh mọc cá làm từ nguyên liệu nói trên. Nước lèo hồi đó không có thịt xương gì cả. Đơn giản chỉ là bí đao, củ cải, su hào, cà rốt... Củ, quả này được thái sợi nhỏ hoặc hình quân cờ xào chín rồi cho nước, nêm mắm muối mì chính vừa phải, đun sôi, sau đó thả mọc cá vào nấu. Cuối cùng rắc hành hoa, rau mùi vào trước khi bắc ra. Vậy là cả nhà đã có nồi canh mọc cá “tuyệt cú mèo”.

Tuy bình dị, không sang trọng, cầu ky,â tốn kém, nhưng đến nay mặc dù cuộc sống đã khá giả, có nhiều món ăn cao cấp hơn song cả gia đình tôi vẫn cho rằng: Những món ăn trong “thực đơn” thời khốn khó là món ăn ngon nhất mà mình đã từng được thưởng thức...

..

Cảnh xếp hàng tại quán phở Bát Đàn.

Phở được coi là món điểm tâm sáng đặc sản của Hà thành. Tất nhiên tôi phải chọn phở “thương hiệu” để ăn. Phở “thương hiệu” thì nhiều lắm: phở Thìn, phở Gia Truyền, phở Lý Quốc Sư, rồi phở Bát Đàn...

Đuổi, quát, chửi

Đến Bát Đàn! Thâm nhập vào khu phố cổ, chúng tôi chia nhau mỗi người một việc: tìm chỗ để xe hoặc xếp hàng mua phở. Khách hàng sẽ “được” nếm “hương vị” đầu tiên là... xếp hàng ngửi phở và... mồ hôi người. Loay hoay, ngơ ngác chừng gần 10 phút tôi mới tìm được chỗ để xe... 

Chạy tới nhà hàng, tôi không biết bạn mình đứng ở đâu trong đám đông đến mấy chục người đang xếp thành hai hàng cong sang hai bên phố như hình hai cái râu rồng (vì không thể xếp hàng thẳng ra lòng đường). 

Không có chỉ huy, giám sát nhưng những thành viên trong hàng khá kỷ luật: đến trước đứng trước, đến sau xếp sau. Không chen lấn xô đẩy, không đặc cách ưu tiên. Thực khách phần lớn mang vẻ của giới thu nhập trên trung bình. Họ xếp hàng dưới cái nắng gắt cắn như kim châm và chỉ dịch được từng bước dính sát vào cái mùi mồ hôi bết áo của người đứng trước để tiến dần đến cái thớt của người đàn ông đang chan chát băm hành thái thịt. Người già, trẻ con, bà chửa đến những ông cán bộ nhìn rất khó tính, trịch thượng hay các cô gái kiêu kỳ quen được chiều chuộng... đều cam nguyện như vậy. 

Anh bạn tôi được nhận phở trước, 7-8 phút sau đến tôi. Quả là mùi thơm của hành mỡ, nước dùng, bánh, thịt hấp dẫn khác thường. Nhưng khi ôm được bát phở nóng bỏng trong tay thì cũng là bắt đầu cho cuộc thử thách phần hai, đó là tìm chỗ ngồi... Quán phở chật chội, khách ngồi tràn ra cả vỉa hè. 

Nhiều người bê bát phở nóng vẫn nghiến răng chịu đựng, mắt nhớn nhác tìm chỗ đặt bát. Nhiều đôi vợ chồng, bố con, chị em đi với nhau nhưng phải mỗi người mỗi bàn. Mời nhau bằng ánh mắt. Bởi nếu họ chờ có một bàn trống đủ để cùng ngồi thì chắc là để ăn... trưa. Muốn ăn được phởở đây, ngoài sức chịu đựng xếp hàng thì họ còn phải có nghề bưng bê. 

Bát nóng, phở đầy, nền nhà trơn trượt, khách đông, nắng gắt... nên chỉ một giây thiếu tập trung thì sẽ vật cả bát vào mặt nhau hoặc đổ cả nước phở vào lưng cô gái đang ngồi hay một bà già đứng cạnh. Người có kinh nghiệm thì đừng chạy tìm chỗ mà phải nhanh mắt “tia” xem ai sắp ăn hết thì đứng sau lưng họ, chờ họ đứng dậy mà lao ngay vào. Thế là sau 40 phút anh bạn phương xa của tôi cũng được biết thế nào là đặc sản phở Hà Nội. 

Gặp một tay sành ăn chúng tôi biết rằng thủ đô còn có nhiều quán cơm bán phiếu ăn từ đầu tháng, đến bữa khách xếp hàng chìa phiếu, tự bê cơm về chỗ mà ăn. “Cao cấp” hơn nữa còn có phở Đuổi, phởQuát, tức là khách vừa phải chờ, phải tự thu xếp gửi xe, chỗ ngồi lại còn vừa bị nhà hàng mắng nhiếc, quát tháo như đuổi đi. 

Ở chợ Ngô Sĩ Liên (trên phố Ngô Sĩ Liên) còn có quán bún nổi tiếng gọi là bún “chửi”. Bún móng giò, rọc mùng rất ngon nhưng bà chủ có gương mặt đen dày cùng cô con gái mỏ nhọn thì không ngừng chửi khách trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ví dụ khách gọi một bát bún, sau đó gọi thêm thịt hay gia vị thì bà chủ nói: “Lần sau thì gọi mẹ nó một lần cho nhanh!”. Khách đợi lâu mà giục thì coi như tiêu đời. 

Lúc đó sẽ là: “Làm đ. gì mà phải giục rối cả lên!” hay “Không có 10 tay nhá!”... Ai xin thêm chút rau sống hay miếng ớt thì phải cúi sẵn đầu xuống để chuẩn bị lắng nghe những trận mắng nhiếc với toàn “món” không sinh vật nào ăn được. Thậm chí có cô gái gọi món thỏ thẻ, nhẹ nhàng quá cũng bị chửi: “Mẹ! Điệu chảy nước ra...”. Cho đến cách đây ít tháng, một thực khách du côn (không biết đã từng bán phở, bún gì chưa) đến ăn hàng, bị nhiều “gia vị chửi” quá, nổi đóa đánh bà chủ... đi viện.

Ông bạn sành ăn nói: đuổi, quát, chửi, xếp hàng và cố gắng đối xử tàn tệ với khách thì không chỉở hàng ăn mà cả hàng bia, cắt tóc, sửa chữa máy ảnh... “gia truyền” ở Hà Nội cũng đều có. Ngược đời là những nhà hàng ấy thường có lịch sử lâu năm, có thương hiệu và tất nhiên rất đông khách! 

Những ông bà chủ này khi được hỏi thường cho rằng họ là số 1, khách không thiếu nên không cần phải ngọt nhạt. Hoặc một số đã quen với cảnh thương mại thời bao cấp, nay không cần thay đổi mà vẫn bán được hàng, lại có thương hiệu độc đáo nên... kệ. Số còn lại cơ bản là các ông bà chủ mang bản tính hung đồ, lỗ mãng nhưng nấu ăn ngon. Nhưng thật ra, những loại quán hàng này tồn tại là do sự chấp nhận của khách hàng. 

Những người hiểu Hà Nội chia khách làm ba dạng. Một là số người già, luôn “nhớ nhung” cảnh sống bao cấp. Họ thích thế. Hai là số khách ưa sành điệu, thích sống “Hà Nội phố”. Đã ăn phở thì phải ăn phở Bát Đàn, đã ăn kem thì phải kem Tràng Tiền, đã đi chơi với bạn gái thì phải đưa ra hồ Tây... để vênh mặt lên với dân qua đường và để có chuyện mà khoe (nếu “vô phúc” cho ai hỏi anh chị đi chơi (ăn) ở đâu vậy?). 

Họ ngầm cho rằng đó là một nét văn hóa rất Hà Nội... Kiểu thứ ba “bệnh hoạn” đến mức tưởng như không có thật. Đó là “không bị xử tệ thì ăn không ngon!”. Thậm chí có ông chủ (khi mát mình) bộc bạch: “Mình đang chửi mắng nó (khách) quen rồi, nó thích. Bây giờ mà tử tế có khi phá sản (?!)”. Nhà văn Băng Sơn từng giải thích: người Hà Nội ăn không chỉ lấy ngon hay no mà còn cả thưởng thức không khí ẩm thực thật riêng biệt, đặc trưng... Có lẽ cách giải thích ấy phù hợp với các quán phải xếp hàng hoặc quán nhà cổ như chả cá Lã Vọng mà thôi chứ nhu cầu bị chửi, quát, đuổi thì chắc... hiếm!

Không ăn thì biến

Những nhà hàng ngược đời nói trên thường có “cá tính” đó là chế biến ngon và dường như cả ý thức lẫn vô tình, họ cố gắng xử tệ với khách như để tạo sức hấp dẫn, chất “gây nghiện” của riêng mình. Và quát, đuổi, chửi tức là vẫn còn... quan tâm đến khách. Nhưng phổ biến hơn, ngán ngẩm hơn chính là sự coi thường khách. Bơ (bỏ mặc) hết!

Trong một quán ăn sáng ở phố Yên Phụ, đám khách miền Nam vào gọi bánh mì ốpla. Không thấy nhà hàng đả động, tưởng bị quên, khách nhắc. Tay phục vụ không thèm nhìn khách, liền nói: “Đợi 15 phút!”. Chờ 10 phút sau, khách lại gọi tay nhân viên nọ. Anh ta cộc lốc: “Mới 14 phút!”. “Ốp quả trứng thì hai phút chứ mấy!”. “Ở đây qui định gọi gì cũng 15 phút”. “Trời, qui định kỳ vậy?”. Gã phục vụ mặt không biến sắc, mắt không nhìn người đối thoại, vừa đi vào nhà vừa lẩm bẩm: “Ăn không ăn thì biến!”. Đoàn khách há hốc mồm, người nọ hỏi người kia mà không tin ở tai mình... 

Phổ biến nhất là tình trạng gọi ít mang nhiều. Gọi món trong thực đơn, nhà hàng không có nhưng cũng không thèm thông báo. Khi khách hỏi quá thì nói là hết rồi. Thậm chí không hết cũng nói là hết để đỡ... phiền. Một nhà hàng có địa thế đẹp nhất nhì Hà Nội bán đặc sản bánh tôm ngay cạnh hồ Tây cũng có thái độ phục vụ rất khó chịu. Khách ăn xong, gọi chén trà, nhân viên xẵng giọng: “Không có!”. Nhưng khi thấy đoàn khách nước ngoài ngồi bàn bên ăn xong thì họ bê ra một ấm trà. Tất nhiên là tính thêm tiền...

Có người nói với tôi là anh ta hơi xấu hổ khi đọc cuốn sách nổi tiếng Chiếc Lexus và cây ôliu của tác giả Thomas L.Friedman viết về toàn cầu hóa. Sách nói đến rất nhiều vùng đất trên thế giới với những đặc trưng riêng thời toàn cầu hóa đều rất hoành tráng. Riêng Hà Nội được nhắc đến chút ít thì là về câu chuyện anh hầu bàn của khách sạn Metropole: Khách (tác giả) gọi quít để tráng miệng. Hầu bàn nói: hết quít rồi. Lúc đó VN đang mùa quít. Đường phố vô vàn quít. Tác giả nói: “Sáng nào cũng thấy đầy quít trên bàn. Chắc chắn thế nào trong bếp cũng còn quít mà?”. Anh hầu bàn lắc đầu. Khách xin thay bằng dưa hấu. Năm phút sau, người phục vụ bê ra một đĩa quít và nói: “Không có dưa hấu. Tôi tìm ra quít!”...

Khu phố cổ Hàng Ngang, Hàng Đào nổi tiếng kinh kỳ bán nhiều quần áo, giày dép. Thế nhưng khách dù sang hèn, tây ta có ngắm hàng, xem giá thì ông bà chủ cũng coi như... không khí. Mắt nhìn xuyên qua mặt khách, miệng cậy không ra một lời chào. Còn đám nhân viên thì bám chặt lấy khách không rời nửa bước. Không giới thiệu, không mời mọc, tư vấn mà chỉ để cảnh giác... mất cắp.

Có người lý giải tình trạng trên bằng hai lý do. Thứ nhất là Hà Nội đã sống quá lâu trong bao cấp. Tư duy, phản xạ trước cơ chế thị trường không được như Sài Gòn. Thứ hai là dân Hà Nội thường có thói quen dễ bằng lòng với những thành quả bước đầu. Lý luận này được chứng minh bằng chuyện: những nhà hàng độc quyền vị trí đẹp (gần hồ, gần sông, ngã ba, diện tích rộng...) rất ít khi có văn hóa kinh doanh tốt. 

Vì không cần cải thiện thì họ cũng có khách. Số khách buộc phải đến vì chỗ ngồi đẹp cũng đủ nuôi sống chủ hàng. Và chủ chỉ cần vậy. Sinh động hơn là câu chuyện đôi vợ chồng một nhà hàng đặc sản ngan vịt ở quận Thanh Xuân. 15 năm trước họ là đôi tình nhân sinh viên nghèo, xa quê. Ra trường không muốn xa nhau. Trụ Hà Nội thì chưa có việc. Chàng trai tìm được nghề chở ngan vịt thuê. Thay vì nhận tiền công, anh nhận gia cầm cho bạn gái chế biến thành cháo, miến, bún gồng gánh bán hàng tối ngay cổng ký túc xá Mễ Trì. 

Chịu khó, có khiếu nấu ăn, vui tính, tốt bụng và giá rẻ nên quán dù xập xệ nhưng rất đông khách. Chăm làm, tiết kiệm, không mấy chốc họ đã thuê được một gian hàng đàng hoàng. Cưới nhau, sinh con, thuê thêm người làm và bốn năm sau quán vịt ngan ấy đã trở thành một trong những nhà hàng ăn nên làm ra nhất khu vực. 

Họ mua được nhà, mở được nhà hàng rộng rãi, sắm thêm tiện nghi nhưng lúc này ông bà chủ đã trở thành trọc phú. Ăn nói chỏng lỏn, kênh kiệu. Đám gia nhân làm ẩu, bẩn, kém chất lượng và khách hàng vắng dần. Nhà hàng mấy năm sau dẹp bún phở, cho thuê bán quần áo. Vợ chồng chủ nhà sống tầng trên và cũng lại đi làm thuê...

Tôi có ba năm sống cảnh cơm hàng cháo chợở phố Pháo đài Láng (phường Láng Thượng, Cầu Giấy), hằng ngày ăn cơm trong một quán bình dân không có biển hiệu. Bà con gọi là quán Ba Cô vì nhà có ba chị em gái. Cơm ở đây bán cho người làm thuê, bán hàng rong và sinh viên nên giá cả luôn rẻ nhất Hà Nội. Sau này ăn những bữa cơm đắt tiền hơn nhưng thú thật tôi vẫn thấy không ngon bằng cơm ở quán Ba Cô. 

Không phải vì họ xinh đẹp hay lắm duyên thầm, thậm chí ba cô đều đã có chồng là những gã đàn ông lực lưỡng (rất đáng ngại!), mà vì dù nắng lửa hầm hập bên những lò than dưới mái tôn, hay mưa phùn gió bấc buốt như kim châm cũng chưa bao giờ tôi thấy các cô cáu gắt hay lạnh lùng kể cả với anh xích lô nát rượu, bà bán rau bủn xỉn hay cậu sinh viên nợ lâu. Mâm cơm các cô dọn rất gọn gàng, bắt mắt và vừa đủ bữa (không bê nhiều để tính tiền). Mọi thứ tuy rẻ tiền, đơn giản nhưng sạch sẽ, chu đáo. Vài năm bán cơm nay họ đều rất khá giả. Hỏi thăm, hóa ra họ là người Hà Nội gốc!

Bia hơi - "Đặc sản" của người Hà Nội (tiếp)

23/8/2011 15:00

Bia hơi - "Đặc sản" của người Hà Nội

Ngày trước, khách mang bia ra ngoài vỉa hè lập tức bị nhân viên yêu cầu vào bên trong, còn bây giờ, đúng như câu hát của nhạc sỹ Trần Tiến "rủ nhau ra phố bia hơi vỉa hè".

Thời kỳ đầu, ngành ăn uống Hà Nội thống nhất sử dụng cốc men mầu da lươn dung tích 500ml nên dân uống bia gọi là vại. Tuy nhiên do cốc này nặng và chiếm nhiều diện tích trong khay bia, gây khó cho nhân viên bán hàng nên năm 1971, ngành này đổi sang sử dụng cốc thủy tinh và vẫn dung tích như cũ. Do chất lượng thủy tinh tồi, thành cốc đầy bọt khí nên rất dễ vỡ khi va chạm mạnh. Không ít người đã phải đền oan.

Các quán bia Cổ Tân (nay là khu vực Công an phường Tràng Tiền và Quận đội Hoàn Kiếm), Nguyễn Biểu, Cầu Giấy, Thủy Tạ, Mơ, Vọng, Hàng Bài... bao giờ cũng đông khách. Những năm 1970, bia bắt buộc phải kèm với lạc rang ngọt (không phải lạc rang húng lìu), nộm đu đủ. Nhưng đã từng có bia kèm "sư tử". Chuyện là tháng 10-1974, bách hóa Quán Thánh bán đầu sư tử cho trẻ em vui chơi Trung thu nhưng bán không hết đã kết hợp với bia Nguyễn Biểu tiêu thụ nốt đầu sư tử ế. Mua 4 cốc kèm một đầu sư tử loại nhỏ, 6 cốc kèm đầu sư tử loại lớn. Thời đó chẳng ai nghĩ đó là độc quyền chỉ mong cửa hàng bán càng nhiều càng tốt nên dù ép thế nào cũng được miễn là có bia uống. Hôm đó quán bia giống như cơ sở sản xuất đồ chơi, chật ních đầu sư tử. Bên ngoài quán này, dãy số chẵn phố Nguyễn Biểu có bà cụ bán vó bò. Tương của cụ ngon đến mức mà hết vó bò có người nì nèo mua tương không để nhắm với bia.

Bên ngoài cửa hàng Cổ Tân cũng có người bán ốc bươu luộc, đậu rán chấm mắm tôm, nộm, mực nướng, bánh đa như các cửa hàng khác. Nhưng khác là ở đây có thơ về các bà bán hàng: "Nộm Thừa, đậu Thiếu, ốc Phân. Vắng ba bà ấy Cổ Tân rất buồn". Nộm Thừa là bà bán nộm tên Thừa, đĩa nộm bao của bà này bao giờ cũng thừa tương ớt nhưng lại ít đu đủ. Đậu Thiếu là bà bán đậu rán chấm mắm tôm tên Thiếu, vì rán ít mỡ nên đậu của bà này bao giờ cũng xém đen như đậu nướng, còn ốc Phân là bà Phân bán ốc, vì bà luộc quá khéo khiến khi nhể ốc bao giờ cũng kéo theo cả phần phân. Ba bà hút thuốc lá như ranh, nói tục như hát nhưng sẵn sàng cho khách chịu, bao giờ có thì trả. Khi cửa hàng hết bia mới là lúc các bà, các cô phe lôi bia ra bán. Ai cũng biết bia do nhân viên cửa hàng tuồn ra, nhưng biết để mà biết chứ ai làm gì được họ vì cả cửa hàng thông đồng với nhau. Mà chẳng riêng bán cho phe, khối người có chức quyền cũng mua cửa hậu cả vài can. Chỉ có người lao động phải kiên nhẫn xếp hàng. Can bia được bọc bằng quần áo cũ để giữ lạnh nhưng uống nhạt thoẹt do bị pha nước lã. Giá 5 hào một cốc, loại cốc chỉ có 330ml nhưng dân nghiện vẫn phải chấp nhận. Khoảng tháng 8-1975, ngành ăn uống đã quyết định đổi cốc 500ml sang cốc 330ml với lý do bia có hạn, chuyển sang cốc nhỏ để ai cũng được uống.

Không phải ai cũng có tiền uống bia và vì thế không ít người nghĩ ra trò phe vé. Những người này đến các cửa hàng từ khi "chợ chưa họp", kiên nhẫn xếp hàng. Sau khi mua theo định suất, họ nhanh chóng quay lại xếp hàng mua vé lần hai. Rồi họ bán lại vé cho những người đến muộn với giá cao hơn và thế là có 1 hay 2 cốc uống không mất tiền. Năm 1978, Nhà máy bia Hà Nội đầu tư nâng cấp nhà nấu và hệ thống lạnh theo công nghệ của Cộng hòa Dân chủ Đức sản lượng lên 50 triệu lít/năm. Nhờ đó các điểm bán bia trong thành phố mở ra nhiều hơn và lượng bia cung cấp cũng dồi dào hơn. Cũng từ năm đó, các quầy bia xuất hiện thịt chó chặt. Tầm hơn 8 giờ, những chiếc xe buýt Karosa dài ngoằng chạy từ Nhổn ra Lò Đúc toàn dân bán thịt chó. Chó nhuộm hoa hiên nhe răng rải từ đầu xe đến cuối xe chiếm hết lối đi. Khi xe buýt đỗ ở cuối phố Phan Chu Trinh, họ xuống lấy xe đạp gửi tháng rồi tỏa đi các quán bia trong nội thành.

Giữa những năm 1980, biên giới Việt - Trung mở cửa thông thương, bia chai Trung Quốc tràn vào Việt Nam đã góp phần giảm bớt tình trạng thiếu bia và cũng làm cho các cửa hàng bia quốc doanh bớt kiêu căng. Rồi thực hiện đổi mới, khiến các quán bia quốc doanh khai tử, bia tư nhân xuất hiện.

Vào cuối những năm 1990, các lò bia tư nhân xuất hiện tràn lan. Người ta gọi bia nấu thủ công là bia cỏ. Và bia cỏ có ở hang cùng ngõ hẻm trong thành phố với giá rẻ nên lôi kéo dân lao động. Chẳng cần ngon, miễn là có tý men. Lê Quang Bình, bộ đội phục viên, chuyển ngành về Công ty Ăn uống Đống Đa. Xóa bỏ bao cấp, công ty rơi vào cảnh chơi vơi vì vốn quen "bú sữa mẹ". Bình về hưu non. Thấy bán bia hơi kiếm được nên anh thuê cửa hàng gần Nhà máy bia Việt Hà mở quán vào năm 1992. Nhưng Bình không bán bia Việt Hà mà bán bia cỏ do xưởng Trường đại học Bách khoa sản xuất. Mùa hè, mỗi ngày Bình bán khoảng 600 lít. Công nhân nhà máy ra uống cứ tưởng bia của nhà máy mình.

Khi bia hơi có vẻ bão hòa thì xuất hiện bia tươi và một cú lừa “ngoạn mục” sau này dân uống bia mới biết. Chuyện là năm 1996, người ta đồn đại cửa hàng bán bia tươi đen ở phố Ngô Thì Nhậm được nhập từ Đức. Thấy lạ, khách đến nườm nượp. Cửa hàng chiều ngang chỉ khoảng 3 mét lúc nào cũng chật cứng dù người ta bán tới 100.000 đồng/lít (thời điểm này vàng khoảng 400.000 đồng/chỉ). Hằng ngày xe ô tô chở bia chạy lên hướng sân bay Nội Bài sau đó cho xe quay đầu chạy về xưởng bia thủ công nằm ngay cạnh Hà Nội. Chuyện chỉ bại lộ khi nhân viên sân bay cho hay "làm gì có bia tươi Đức nhập về Việt Nam qua Nội Bài"!

Bây giờ uống bia cũng khác, trước vốn tốn ít mồi thì nay ú hụ đồ nhắm trên bàn. Duy nhất quán bia hơi uống kiểu nhấp nháp như thời bao cấp là quán ở phố Nguyễn Cảnh Chân. Ngày trước, khách mang bia ra ngoài vỉa hè lập tức bị nhân viên yêu cầu vào bên trong, còn bây giờ, đúng như câu hát của nhạc sỹ Trần Tiến "rủ nhau ra phố bia hơi vỉa hè". Trước Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, quán bia "bao cấp" cuối cùng đã bị dỡ bỏ. Gọi là bao cấp vì quán vẫn bán theo bình nhựa và bia còn giữ được vị bia Hà Nội xưa trong khi không thể tìm được mùi vị ấy ở bất cứ nơi nào trên đất Hà Nội.

rung Quốc

Không ai xác định được chuột đã từng được sử dụng như một nguyên liệu chính để chế biến các món ăn từ bao giờ và phổ biến nhất trong những quốc gia nào. Vũ Bằng, trong cuốn Món lạ miền Nam[1], khi dẫn lời của một người chồng nói chuyện với vợ, cho biết tại Trung Hoa chuột được cho ăn sâm và nuôi bằng phương thức đặc biệt để tạo nên món ăn "thập toàn đại bổ" mang tên sâm thử (chuột sâm): Từ Hy Thái Hậu, trong đại lễ yến chiêu đãi liên quân 8 nước, đã giới thiệu với người phương Tây món ăn "sâm thử" này với tư cách là một trong 7 món ăn đặc biệt nhất trong tổng số 140 món được giới thiệu suốt 7 ngày đêm[2]. Những con chuột mới đẻ được nuôi trong lồng, cho ăn sâm thượng hảo hạng và uống nước suối tinh khiết. Lứa chuột đẻ ra lại được nuôi theo cách thức tương tự để sinh lớp chuột mới và lứa chuột mới này lại tiếp tục nuôi đến đời thứ 3. Sau đó những con chuột "đã hấp thụ tất cả cái tinh hoa, bén nhậy, khôn ngoan của giống chuột cộng với tất cả tính chất cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh, tráng dương bổ thận của cây sâm"[1], mới được đem ra sử dụng. Con chuột mới sinh đỏ hỏn (chuột bao tử) còn sống được đưa lên đĩa ngọc và được quan khách dùng nĩa xúc ăn.

Tại nhiều vùng trên đất nước Trung Hoa hiện nay thịt chuột được ưa chuộng. Vùng Vũ Hán các khách sạn lớn đều có bán thịt chuột với thực đơn gồm 10 món đặc sản chế biến từ 100 con chuột đồng vùng Giang Nam, trong số này món phi lê chuột. Người Phúc Kiến đánh giá cao món lườn chuột. Tại các khu chợ khắp Quảng Tây đều có bán chuột sống, còn Quảng Đông thì có thịt chuột đóng hộp[3].

Các nước khác

Trong bài viết về chuột và những điều kỳ lạ có liên quan, tác giả cho biết tại Đài Loan, những cặp vợ chồng hiếm muộn "thi nhau ăn chuột với mục đích cháy bỏng là sớm có thai", tuy rằng chính xác hơn, bài báo nói cụ thể rằng các cặp vợ chồng thường tìm ăn bộ phận sinh dục của chuột. Lý do để các cặp vợ chồng lựa chọn thịt chuột không ngoài niềm tin sẽ "mắn" như chuột, vì loài chuột đẻ nhanh và nhiều[4].

Theo bài báo tóm lược về những năm tháng đấu tranh giai cấp tại Liên Xô[5], những năm 1930 tại Liên Xô khi tiến trình tập thể hóa đã kéo theo hệ quả là tình trạng trâu bò lợn gà chết hàng loạt và nạn đói xảy ra tại rất nhiều địa phương, người dân đã phải ăn cả thịt chuột, côn trùng và vỏ cây.

Các dân tộc ở miền Bắc cực chế biến thịt chuột thành một món ăn độc đáo, bằng cách đem thịt chuột đã làm xong ngâm vào rượu vài giờ, sau đó vớt thịt chuột ra lăn bột rồi đem chiên ăn rất ngon và lạ miệng[3].

Tại Campuchia món thịt chuột đồng cay với tỏi đặc biệt được ưa chuộng. Do lạm phát lên cao, trong năm 2008 giá thịt chuột tại quốc gia này đã tăng gấp 4 lần so với năm trước[6]. Bên cạnh đó, các quốc gia như Thái Lan, Ấn Độ cũng thịnh hành thịt chuột. Nhằm chống chọi với giá lương thực tăng nhanh, chính quyền một bang ở Đông Ấn Độ đã khuyến khích người dân ăn thịt chuột[6].

Việt Nam

Tại Việt Nam, chuột được chế biến thành nhiều món ăn tùy địa phương, phong tục và sở thích của người nội trợ. Tuy có ý kiến cho rằng trong bối cảnh có nạn đói năm 1945, hay sự thiếu thốn lương thực trong thời bao cấp do đói quá chuột mới được sử dụng làm thức ăn[7][8], nhưng trong thực tế từ trước tới nay rất nhiều địa phương trên đất nước Việt Nam vẫn sử dụng thịt chuột như một trong những món ăn phổ thông, món ăn đặc sản[3][9]. Thậm chí có một số địa phương tại miền Bắc Việt Nam (như Từ Sơn Bắc Ninh, Thạnh Thất, Hoài Đức Hà Tây) thịt chuột là một phần không thể thiếu của mâm cỗ[10] trong đó có cả cỗ cưới[11].

Một số món ăn từ thịt chuột

Thịt chuột đồng có màu trắng và thơm ngon như thịt gà[9], được sử dụng như một nguyên liệu chính, kết hợp với các phụ gia để chế biến nhiều món ăn từ đơn giản đến cầu kỳ. Hàng trăm món ăn thịt chuột đặc biệt về hương vị và cách thức thực hiện có thể được liệt kê: chuột xắt miếng to khìa nước dừa và sả ớt, chuột xào sả ớt, chuột ram mặn với muối, chuột xào lá cách, chuột nấu canh chua, chuột ướp sả nướng, chuột băm nhỏ xào lá quýt, chuột xào lá mò om cuộn bánh tráng nướng, chuột xào bầu, chuột luộc rắc lá chanh thái chỉ, chuột xào với đậu phụng và hành lá ăn với bún, chuột ram vàng kho mềm chấm muối chanh hay nước mắm dầm ớt, chuột nấu đong, chuột nấu giả cầy, chuột xào chua ngọt, chuột sốt cà chua, chuột ướp tỏi ớt kẹp lá chanh nướng, tiết canh chuột, chuột ướp lá lốt phơi hay sấy khô tương tự món bò khô hay khô nai khô mực, chuột ướp hành tỏi bỏ lò, chuột xào lăn, chuột làm mắm, chuột nấu đông, chuột bao tử hấp thuốc bắc[3], chuột xé phay, chuột lúc lắc, gỏi chuột, chuột cà ri, chuột quay trong các lu vại, chuột nấu chua cơm mẻ, thịt chuột nấu với hà thủ ô và lá câu kỷ, chuột nhồi thịt và các gia vị vào da chuột đem hấp hoặc nướng, chuột bao tử hấp cơm, chuột bao tử nhúng dấm[12], chuột bao tử tẩm bột chiên v.v.

Chuột bắt về thường được sơ chế bằng cách lột da, cắt bỏ tứ chi, đuôi, hạch cổ hạch bẹn, vứt ruột chỉ lấy tim gan cật[3], treo lên cho ráo nước (thành ngữ ướt như chuột lột chỉ những con chuột ướt nước khi bị lột da), sau đó mới được chế biến thành các món ăn tùy thích. Tuy vậy, các món thịt chuột thơm ngon nhất khi chuột được sơ chế với phương thức thui vàng lột da để tránh bị sình vì nước có trong thịt[1].

Thịt chuột nếu quá nhiều, ăn không hết có thể bảo quản bằng cách ướp muối trong các lu, khạp để giữ thịt tươi ngon; bên cạnh đó có thể làm mắm thịt chuột hay sấy khô ăn dần.

Đánh giá

Trong thiên "Thịt chuột" của cuốn sách Món lạ miền Nam[1], trong khi dẫn lời một số nhân vật và bằng lối phê bình ấn tượng, Vũ Bằng cho biết thịt chuột không phải là thứ ăn chơi ăn bời nhưng là một thực phẩm gia dụng, một món ăn được nhiều người ưa chuộng và ca tụng hơn cả thịt gà, thịt vịt, thịt rừng, thịt chó. Bàn riêng về món thịt chuột chù, tác giả cũng nhấn mạnh thêm với các nhận xét: sách Tàu nói rằng thịt chuột chù ăn ngon hơn cả các giống chuột khác, và thịt chuột chù sơ chế cẩn thận trước khi chế biến món ăn thì thịt nó ngọt và thơm kinh khủng, có lẽ không có một thứ sơn hào hải vị nào sánh kịp. Mà lại có tiếng bổ dương ích khí còn hơn cả hải cẩu và cao hổ cốt!.

Dân đồng bằng sông Cửu Long gặp nhau buổi tối phải lai rai dăm ba sợi cho ấm râu, nhậu mà ăn cháo thì đâu còn bụng uống rượu. Nhậu cháo thịnh hành thời bao cấp, cái thời khó khăn ấy nhậu cháo vịt, cháo sò huyết vừa mát ruột vừa chắc bao tử.

Qua cầu, đi vòng vèo giữa vườn dừa quãng dài mới đến quán. Chị Thâm Thúy giới thiệu, đây là điểm du lịch sinh thái Tân Phú (ấp 1, xã Tân Thạch). Nhìn quang cảnh tôi biết sinh thái rồi. Sinh thái, theo một cách hiểu nôm na thì đó là đồng ruộng, vườn cây, sông rạch, rừng, ao cá và khu dân cư… Ở đây có cả.

Chúng tôi ngồi cái bàn kê trên căn nhà sàn sát mé kinh xanh um rừng dừa nước, chốc chốc lại thấy ghe chở khách du lịch thong dong đi qua. Không khí mát rượi, tiếng thiên nhiên thường được các nhà thơ tả là im ắng ở đây sôi động hơn tiếng người.

Cháo sóc được bê ra. Một nồi nước đặt trên bếp ga. Một đĩa rau xanh có mồng tơi, cải, trái bầu đã cắt miếng. Rau thơm, tiêu, ớt, nước mắm trong. Một đĩa thịt sóc băm nhỏ tươi hồng, nén tròn trên đĩa như thịt cá thát lát nạo ra để làm chả.

[Only registered and activated users can see links]

Ông Hai nói, nồi nước trên bếp đã hầm cháo và nêm gia vị cả rồi, khi bùng sôi ông múc từng muỗng thịt sóc bỏ vào. Chị Thâm Thúy ngắt rau bỏ tiếp theo. Rượu nếp trong vắt rót ra mỗi người một ly nhỏ, cụng ly, cạn. Chà, ấm bụng!

Nhấm nháp đậu phộng rang trong lúc chờ thịt sóc chín. Rót ly thứ hai. Chị Thâm Thúy tươi cười uống cạn nên tôi không thể không uống cạn. Ấm bụng, hơi xốn xang ruột gan!

Cái nồi trên bếp sôi trở lại. Sôi đều một lúc, tôi múc một môi vào chén. Cháo rất loãng, gần như là nước lõng bõng vài hạt gạo với thịt sóc. Thịt sóc thả vào nước khi chín không thành viên săn dẻo như cá thát lát mà tơi ra.

Tôi dè dặt đưa vào mồm một muỗng nhỏ. Cháo loãng nên dễ trôi vào cổ họng. Chao ôi, ngọt lự! Ngọt dịu và thơm mát, không phải ngọt của bột ngọt hay đường. Vài miếng thịt sóc dính xương sóc, tôi phải nhai trước khi nuốt, nhẩn nha càng đậm đà.

Từng ăn nhiều loại cháo nhưng tôi chưa thấy thứ nào ngon như cháo sóc tôi đang được thưởng thức. Ngon quá, tôi thốt lên. À, ngon thật, người bạn tôi cũng tấm tắc.

Nếm hai muỗng cháo, tôi gắp cọng rau, gắp cái nấm rơm, lại gắp miếng bầu, cứ như ăn cháo mà chan canh thú vị khó tả. Cháo rắn cũng có rau, cũng ngon và tôi đã ăn nhiều song không thể so được với cháo sóc, so sánh như thế khác nào đem hạt bo bo luộc đặt cạnh nồi cơm nấu gạo tám.

Thấy tôi khen lia lịa, ông Hai đoán, chắc nước nấu cháo có luộc trái mướp nên mới ngọt thơm như thế. Nhiều món ăn ở nhà quê để có vị ngọt thơm và dịu thường bỏ trái mướp vào nấu.

Tôi thấy màu nước hình như hơi xanh, cảm giác trong miệng dường như có phảng phất mùi mướp nên gật gù tán thành. Hóa ra chúng tôi trật lấc. Tôi vào bếp hỏi bà chủ Ngô Thị Thủy Tiên, biết tôi là nhà báo thì bà cởi mở nói, không có mướp đâu, chỉ thịt sóc mà ngọt thơm như vậy đấy.

Bà Ngô Thị Thủy Tiên giải thích, con sóc ở rừng dừa chuyên ăn đọt dừa, hoa dừa và uống nước trái dừa nên thịt thơm ngọt. Tôi bị thuyết phục nhưng vẫn băn khoăn, từ đâu mà sáng chế ra món cháo sóc độc đáo? Với thứ thịt này, người ta hay nướng, luộc, hoặc xào, hoặc bóp tái, chưa thấy nấu cháo bao giờ.

Bà Ngô Thị Thủy Tiên cười, chẳng phải chúng tôi tự nghĩ ra, hồi chiến tranh ở rừng, nhiều lúc thiếu gạo phải ăn cháo, bắt sóc nấu cháo nên biết được cháo sóc ngon.

Bà nói thêm, bà tham gia cách mạng từ năm 1968, chồng bà tham gia sớm hơn. Tôi phục lăn ông bà cựu chiến binh này, thật tài tình, mở quán phục vụ khách du lịch, đem món ăn thuở chiến tranh gian khổ nâng lên thành đặc sản thu hút gần xa.

Sách thuốc của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác gọi con sóc là sơn lai: “Không có chất độc, ống chân chữa được chứng âm luy, xương mài ra để bôi chỗ tên bắn có chất độc”. Sóc ở vườn dừa ăn hương hoa, tinh túy của dừa càng nhiều chất bổ. (Riêng chữ “âm luy” sau này tôi tìm trong nhiều từ điển mà không thấy, chưa hiểu).

Một con sóc khoảng 200 gram, giá 50.000 đồng. Nồi cháo của chúng tôi 5 con. Khi hết nước cháo được tiếp thêm. Bốn người ăn no. Ngon và lạ. Rượu mềm môi lâng lâng. Có chút men phấn chấn, hương vị cháo sóc tuyệt vời, không gian êm ả… Khó quên lắm đây!

Bữa cơm thời bao cấp.

Ngày đó ở quê không phải lúc nào cũng có điện, thỉnh thoảng có điện vài ngày rồi cắt điện cả tháng. Ngày thường thường xuyên không có điện, nhưng khi chuẩn bị đón Tết là chắc chắn có điện, tôi còn nhỏ quá nên cũng không hiểu tại sao lại như vậy.

Chuẩn bị đón Tết, nhà thì to, sân thì rộng, vườn cũng rộng, cổng thì dài, tối chỉ có một mình mẹ còng lưng dọn dẹp. Ba chị em tôi thì vui đùa chạy nhảy hết chỗ này đến chỗ khác, rất vui vì có điện sáng trưng và thấy căn nhà sạch sẽ sáng sủa hẳn ra.

Trời mưa thì bố chỉ cần bắt cá rô rạch lên vườn nhà hoặc bắt ếch trong sân là cả nhà có một bữa ngon rồi.

Ngày đó cái gì cũng thiếu thốn mà sao thấy cuộc sống có ý nghĩa, sáng sớm thức dậy thấy vui vì 1 ngày mới bắt đầu, ánh nắng ban mai dường như có 1 mùi gì đó, lạ và thật tuyệt. Tôi phấn chấn đi tập thể dục, tắm, ăn sáng, đi học, ôn thi, đi chơi với các bạn, ra vườn hái quả ăn.

Bữa cơm không có gì, có khi có chút thịt, trứng, cá, cũng có khi chỉ có lạc rang muối, cà muối, rau muống luộc, rang cơm ngày đó chỉ có mỡ lợn và muối hoặc nước mắm chứ đâu có phong phú như bây giờ. Ăn thì như vậy tưởng sẽ thiếu chất, thiếu sức sống vậy mà không, lúc nào cũng thấy khoẻ khoắn yêu đời.

Còn bây giờ chất lượng cuộc sống nâng cao mà sao lúc nào cũng thấy mệt mỏi, sáng sớm thức dậy không còn muốn hít thở không khí buổi sáng nữa, món tiền đầu tiên tiêu không phải cho bữa sáng mà chính la tiền thuê nhà, 1 tháng 3 triệu suy ra mỗi sáng thức dậy món tiền đầu tiên là 200 ngàn tiền thuê nhà, thấy cuộc sống này đang bóp nghẹt con người ta.

Nhưng cũng chẳng có cách nào khác vì chúng ta buộc phải chạy theo thời gian.

Nhớ ngày xưa quá.

Cảnh xưa ...người cũ nay ra thế đó ư Bác Lộc !

Tháng 1/1984. Một quãng thời tuổi trẻ ngao du khắp miền nam Đông Dương. Mỏi gối chùn chân và cơ bản là " không cơ cấu được theo cơ chế mới " nên đầu xuân Giáp Tý được về lại cố hương. Một tấm thân gầy xanh như tàu lá chuối, luôn bị sức ép bởi mấy cái tủ lạnh mang trong ba lô hành hạ "mọi lúc mọi nơi" như quảng cáo của Mobifone. Điểm dừng chân để giải quyết các vấn đề tồn đọng của chiến tranh là Đoàn 556 Truông Bà Đờn. Doanh trại đối diện với trung đoàn 574 xe tăng, gần Cửa hảng mua bán tổng hợp và Cửa hàng ăn "uổng" xã Nhơn Hoà.

Mỗi buổi sáng cả nhóm dẫn nhau đi uống cà phê. Y như các bác nói, nó được thực hiện bởi một " dây chuyền công nghệ" không biết nhập khẩu từ đâu. Mua vé ở quày + đưa vé cho cô mậu dịch viên + về chỗ ngồi tự chọn + Mậu dịch viên bưng ra để trên bàn ( quên lời mời và thiếu cái nhìn lưu luyến ấy !  v:shapes="_x0000_i1035"> )+ uống xong chán rồi về.

Buồn buốn chẳng biết làm gì, cứ mỗi buổi sáng sau khi thăm Cửa hảng ăn uổng xong thì đến cửa hàng mua bán tổng hợp Nhơn Hoà. Cũng chẳng có gì để mấy thằng đực rựa từ đất K trở về mua và nói thật trong túi cũng chẳng có tiền để mua bất kể thứ gì. Nhưng phải ghé vì không ghé HTX mua bán thì cũng như trời hôm đó âm u không có nắng vậy.

Lâu rồi cũng quen.. biết tên... quê quán của nhau. Nơi đây cũng là nơi chứng kiến bao cái cầm tay thân ái. Nơi toả ra hương đồng gió nội của đất ruộng đồng An nhơn trên đôi má của các Cô.  alt=em36 v:shapes="_x0000_i1036">  alt=em36 v:shapes="_x0000_i1037"> 

Lãnh tem phiếu gạo 6 tháng tìm việc = 90kg (về nước rồi thì ăn ít thôi, đâu còn cảnh mang súng trèo đèo lội suối đâu mà ăn cho nhiều !  title=Laughing v:shapes="_x0000_i1038"> ) mang ra cửa hàng mua bán tổng hợp giao lại cho các em mậu dịch viên, mọi vấn đề vé xe, vé tàu coi như giải quyết thoả đáng. Tội cho mấy bố ở Đà Nẻng, ở Quoảng Noam, Quảng Ngửa hầu như gửi lại trọn bộ tem phiếu và những cái gì có thể gửi lại được.

Đám ngáo ộp Bình Định - Quy Nhơn thì không như thế. Thành một hàng dọc hành quân từ đó xuống ngả ba đường 19 và đón xe về quê. Đa số là đi ra hướng bắc ( về các huyện ) còn đi vô thì ít.

Khi đi qua đoạn quán cà phê H.V hiện nay ( nơi tiêu thụ loại cà phê hảo hạng nổi tiếng " cà phê cứt chồn@truongvinhloc" thì một cảnh tượng khó tin mà có thật xảy ra :

Đội QLTT huyện An Nhơn đang xuống hàng một chiếc xe từ Quảng Nam vào với lý do " xe chở hàng cấm ". Thấy trên xe có hai chú Đội nhà mình mặt non choẹt đang dở khóc dở cười về cái chuyện hai bao gạo nếp thơm ( đặc sản của vùng lúa Thăng Bình ) mà các chú mang lên An Khê làm quà !!  alt=em39 title=sốc v:shapes="_x0000_i1039"> Các chú là tân binh của sư đoàn 2 về nhà ăn tết, nay trở lại đơn vị ở Hà Tam.

Mỗi bọc gạo khoảng chừng 20kg được chăm sóc kiểu giật qua rồi giật lại giữa QLTT và 2 chú Đội.

Xô xát xảy ra. Một chú Đội bị một cước như trời giáng khi cố giành lại bọc gạo.

Thì ra ...thời đó ...việc chuyên chở gạo từ nơi này đến nơi kia là không được. 

Mọi việc được giải quyết ổn thoả khi có sự can thiệp của chúng tôi.

Nhìn trụ sở của Cửa hàng mua bán tổng hợp xã Nhơn Hoà, nhớ lại chuyện xưa " Chuyện thời bao cấp ".

Cảm ơn Bác Lộc đã cung cấp tấm hình quý như vàng của một thời để nhớ !Cuối năm 1968, khi chiến tranh bắn phá Miền Bắc lần thứ nhất chấm dứt, gia đình tôi trở về Thành Phố ký ức sâu sắc nhất của tôi về thời kỳ đó ở Thành Phố Nam Định là cái quạt điện và những năm đầu tiên đi học.

Thời đó chắc chưa có nhà nào có cái quạt điện, nhà cửa thì toàn cấp 4 thấp lụp xụp mùa hè nóng kinh khủng. Bố tôi là kỹ sư điện của nhà máy Liên hợp Dệt, cụ có sáng kiến chế tạo ra 1 cái quạt điện từ chiếc Củ đèn của xe đạp (bộ phận phát điện tỳ vào bánh xe đạp, khi xe chạy phát ra điện và thắp sáng bóng đèn. Bây giờ các xe đạp nhập ngoại vẫn có) Ông cụ làm một cái biến thế hạ điện áp xuống 6 vôn (bằng với điện áp của Củ đèn) cánh quạt thì cắt và uốn từ những miếng tôn thùng gánh nước hỏng, xuyên một lỗ thủng qua phía trên đình màn để luồn dây và móc quạt là đã có 1 cái quạt trần bé bé cũng giúp cho tôi những giấc ngủ ngon thời thơ ấu.

Năm 1969 tôi bắt đầu đi học lớp Vỡ Lòng (gần như lớp 1 bây giờ) thời đó giáo dục Việt Nam vẫn ở hệ đào tạo 10 năm. Lớp Vỡ lòng học biết mặt chữ cái và đánh vần như mẫu giáo bây giờ không tính vào hệ giáo dục, hệ 10 năm được chia làm 3 Cấp, cấp 1 là từ lớp 1 đến lớp 4, cấp 2 từ lớp 5 đến lớp 7, còn cấp 3 là từ lớp 8 đến lớp 10.

Dạy lớp chúng tôi là 1 ông giáo già vẫn còn hoàn toàn mang phong cách giáo dục thời phong kiến. Ông có 1 chiếc thước kẻ gỗ Lim to bằng cổ tay trẻ con dài chừng 50cm. Mỗi khi viết sai, viết ẩu là ông vụt thước vào mu bàn tay rất đau. Tôi còn nhớ như in những hình phạt kinh khủng mà ông dành cho chúng tôi, khi quên vở, làm dây mực ra quần áo, bàn ghế, sách vở... Hình phạt thứ nhất là nếu phạm lỗi với bạn thì phải đứng trước mặt bạn kia và để cho bạn ấy tát, thường khi được trả thù thì ai cũng thoải mái tát, còn bạn nào thương bạn không tát hoặc tát nhẹ thì Thầy sẽ tát hộ. Hình phạt thứ 2 nặng hơn là khi bị điểm kém nhiều lần Thầy bắt chui qua háng 1 bạn gái học giỏi của lớp, vì rất sợ thầy nên ai cũng phải chui, một ông bạn tôi tên Hoàng đen một lần bị phạt không chịu chui, Thầy đã quát mấy lần mà vẫn tư thế bò bất động trước đôi chân dạng ra của bạn gái, bực quá thầy đạp vào mông cho một cái Hoàng chui tọt qua và cắm mặt xuống đất. Từ đó hầu như không ai dám trái lệnh của Thầy.

Một kỷ niệm nữa trong lớp học hồi đó đối với tôi không bao giờ quên được. Sau thời gian luyện viết bảng và bút chì xong chúng tôi được chuyển qua viết bút mực. Mực thì thầy mua và pha sẵn 1 bình, mỗi trò phải mua và mang lọ mực từ nhà đi để thầy giót mực vào. Đầu giờ mọi người mang lọ mực lên bàn thầy, xếp ở đó xong về chỗ ngồi để chờ thầy giót mực. Riêng tôi hôm đó, trời rét mẹ mặc cho nhiều quần áo quá mà lọ mực lại cẩn thận nhét trong tận túi áo trong cùng móc mãi cũng không lấy ra được, đành ngồi im như thóc, định bụng về nhà bảo mẹ mua mực khác cho cũng được. Khi giót mực xong Thầy gọi từng người lên nhận lọ mực của mình mang về, đến lượt tôi thấy tôi ngồi im thầy quát: thằng kia không lên đi mày còn ngồi đấy làm gì. Thiết chút nữa tôi tè ra quần cun cút đi lên như như bị thôi miên, tôi nhặt đại một lọ mực của ai đó cầm về chỗ. Tới bạn cuối cùng thì nhất định là thiếu 1 lọ. Để phát hiện ra kẻ ăn cắp Thầy dẫn bạn đó đi từng bàn để nhận ra lọ mực của mình. Một lần nữa đầu và tim tôi như muốn nổ tung ra. Nhưng may mắn làm sao bạn ấy lại chỉ một ông khác cầm lọ mực của bạn ấy. Hình phạt với ông bạn kia thế nào chắc các bạn cũng đoán ra. Sau lần đó tôi ân hận quá, ân hận về tính nhút nhát và hèn hạ của mình...

Còn tiếp...

Ps: Về câu chuyện đi học thời thơ ấu của tôi là chuyện hoàn toàn có thật. Những người bạn học cũng lớp Vỡ lòng thời ấy với tôi hiện vẫn đang sống ở Phố Cửa Trường và Ngô Quyền. Thầy giáo tên Nhạ (chắc bây giờ Thầy đã mất), lớp học hồi đó ở số nhà 50 Phố Ngô Quyền. Nếu các bạn thấy câu chuyện giáo dục ngày xưa nó quá phản cảm so với bây giờ, tôi có thể bỏ phần đó đi.Thời bao cấp tôi vẫn còn quá nhỏ để có thể biết được những khó khăn đã qua nhưng những điều bố mẹ kể lại thật ấn tượng. Lúc đó tàu xe đi lại là cả một vấn đề. Nhà tôi bốn người, bố mẹ tôi và hai chị em tôi, đứa lẫm chẫm biết đi, đứa còn đang phải bế. Mỗi lần về quê, cả nhà lại đùm đúm túi túi bịch bịch, chờ mua vé tàu từ sớm, thế mà có lần chỉ mua được vé cho ba mẹ con còn bố thì đạp xe từ Hà Nội về đến tận Nam Định bằng cái xe phượng hoàng nam vẫn còn đeo biển số. Vậy mà bố về Nam Định trước cả tàu. Dì tôi đi lấy chống Ninh Bình,ngày cưới, dì mặc một cái áo sơ mi màu trắng với quần lụa đen và chú đón dì từ Nam Định về Ninh Bình cũng bằng xe đạp. Rồi lúc cậu đi học lên ở cùng nhà tôi, suốt ngày rang gạo, rang muối giã ra trộn muối gạo(như làm muối vừng bây giờ) để ăn với cơm và thành tích là thời gian đó cậu giã nhiều đến nỗi vỡ mấy cái cối đá. Cậu một buổi đi học, một buổi đi mò hến đỡ đần gia đình. Su hào thường được mẹ thái khối to đem kho mặn với nước hàng Mẹ vẫn kể khách đến chơi con hồn nhiên khoe hôm nay cháu ăn cơm với giò đấy vì miếng su hào kho trông cũng giống miếng giò thật. Còn cơm ruốc của chúng tôi chính là cơm muối vừng. Bây giờ, thỉnh thoảng cậu với dì sang chơi mấy chị em mẹ vẫn kể những ngày cơ cực đó.

STC: Gặp lại ngày xưa…(2)

Posted on Tháng Một 28, 2012 by mecoi

Bài chuyển nhà từ trang songthatcham.wordpress.com

Sáng nay tôi điện thoại cho cô hiệu phó trường Mẫu giáo Pa Cheo, định hỏi nhanh vài câu để lấy thông tin chuẩn bị cho chuyến trở lại thăm các em bé nơi này. Vài câu hóa ra kéo dài đến nửa tiếng nói chuyện, và sau đó lại là những ngày xưa cũ chen lấn xô về.

Ngày xưa của tôi có nồi mì sợi tỏa hương mì tôm thơm nồng nàn…

Ngày bé tôi sợ mì sợi lắm, cái mùi bột mì hôi mốc cứ nồng lên ám lấy tôi. Thế cho nên hôm nào nấu mì nước mà lại có một gói mì tôm “đi qua hàng” thì lũ trẻ con chúng tôi coi như đại tiệc, tha hồ mà hít ngửi, tha hồ mà xuýt xoa. Chúng tôi lại còn ra vẻ sành sỏi khi bình luận với nhau là mì “5 tôm” thì thơm và đậm hơn mì “2 tôm” (nghĩa là trên bao gói có in hình 5 con tôm hay là 2 con tôm ấy mà). Tôi còn nhớ lúc tôi khoảng 10 tuổi, lần đầu tiên trong đời được ăn bát mì tôm “nguyên chất” không pha phách gì, cả mắt, mũi và mồm thì sung sướng nhưng dạ thầm xót xa “lãng phí quá”.

Hôm nay khi tôi hỏi về thức ăn của các bé trước khi các bác “Cơm có thịt” gửi thịt lên cho các con, cô Việt – hiệu phó trường MG Pa Cheo nói: “Bọn em góp mỗi người năm đến mười ngàn hàng tháng để mua thêm mỳ tôm về bỏ vào nồi canh rau cải cho các con chị ạ. Rau cải thì bọn em tự trồng lấy được rồi.” Tôi có thể hình dung những vụn mì vàng ươm lượn trong bát canh rau xanh ngắt, thay cho thịt cho cá, giúp bát canh có vị có mùi. Hơn tất thảy là tấm lòng của những người thầy, người cô ấy, không cam tâm nhìn các con chẳng có gì ăn, đã bằng mọi cách để các con có thể thấy ngon miệng. Tôi nghe mùi mì tôm đáng thèm muốn năm nào lại phảng phất đâu đây.

Ngày xưa của tôi có những ngày lếch thếch bám theo chị tôi đến lớp…

Kể lại bây giờ chẳng ai tin: có 1 dạo gia đình tôi chuyển vùng sơ tán, nơi mới đến chẳng có trường mẫu giáo, anh tôi may mắn đến tuổi vỡ lòng còn được đến lớp, chị tôi 8 tuổi vào lớp 2, còn con bé 3 tuổi là tôi thì tha thẩn cả ngày ngóng mãi chẳng thấy anh chị về, hôm sau bèn lẽo đẽo bám theo chị đến lớp. Được vài ba ngày, cô giáo thấy tôi cứ lê la nghịch đất bên ngoài cám cảnh quá, thương tình cho vào lớp ngồi chung với chị. Tôi giống hệt những bông hoa nhỏ ở Bát Xát bây giờ, ăn uống thì chẳng có gì nhưng má lúc nào cũng hồng căng chắc nụi. Thế cho nên được chui vào lớp rồi chẳng biết thân biết phận ngồi im, cứ tý toáy chui từ bàn này sang bàn khác để các anh các chị nựng nịu, véo má. Cô giáo không chịu nổi bèn ra lệnh cho tôi lên bàn giáo viên ngồi bên cạnh cô thì mới yên chuyện. Đó là kỷ niệm đáng hãnh diện nhất của tôi hồi ấy 

Theo lời cô hiệu phó MG Pa Cheo, danh sách chính thức các cháu ở trường là 218 cháu, nhưng thực tế có hôm có đến hơn 300 cháu ở tất cả các điểm trường. Cái quân số dôi ra kia là lũ em 1-2 tuổi bám đít anh chị đến trường. Lý do ư: ở nhà thì ai trông em? ở nhà làm gì có cơm ăn? (chỉ cơm thôi nhé, chưa nói đến thức ăn hay sang hơn nữa là thịt đâu ạ). Các cô cũng đành chia bớt phần cơm của các anh các chị cho em, ai nỡ để em ngồi nhìn, rồi xếp chỗ anh chị nằm sát vào cho em nằm với, ai nỡ để em lạnh. Thế là cái lũ trứng gà trứng vịt ở đây phải cõng thêm lũ trứng chim cút nữa (học đòi ngôn ngữ của bác Thùy Linh đấy ạ). Bài học sẻ chia các con được học thật sớm, mong sẽ theo các con đi suốt cuộc đời.

Ngày xưa của tôi có ước mơ “miếng giò cắn ngập răng”…

Bạn có bao giờ bị đói chưa? Đói dài ngày ấy chứ không phải là đứt bữa 1-2 ngày đâu. Nếu đã bị, ước mơ của bạn khi ấy là gì? Tôi thì ước mơ nhiều lắm: giá tôi chạm vào cái gì nó cũng biến thành pate, chẳng là có 1 lần tôi được ăn 1 tẹo pate mậu dịch bé bằng cái đầu ngón tay út, tôi lập tức quyết định công nhận nó là món ngon nhất trên đời  v:shapes="_x0000_i1041"> ; rồi có lúc tôi lại ước mình được biết cái cảm giác “cắn giò ngập răng” là như thế nào, vì chỉ thấy trong sách hay người lớn nói thế, chứ cái thứ giò mà mỗi năm 1-2 lần tôi nhìn thấy thì nó mỏng như tờ giấy pơ-luya.

Năm mới, tôi quyết tâm để các em bé MG Pa Cheo được 1 lần thoát khỏi cái ám ảnh đeo bám suốt tuổi thơ tôi, được dõng dạc nói với mọi người rằng “ối, cái đấy con biết rồi” nếu ai đó có hỏi các em khái niệm về giò, về chả. Có vẻ như tôi chưa được người lớn lắm bạn nhỉ.

Còn một ước mơ thầm kín nữa, tôi chẳng kể ai nghe bao giờ, bây giờ tự nhiên muốn lôi ra xưng ở đây, hòng níu kéo chút danh dự kẻo mọi người nghĩ con bé này ham ăn quá: suốt cả thời thơ ấu, tôi luôn khao khát có ai đó ngồi xuống bên cạnh mình, nhìn vào mắt mình, nói chuyện với mình như nói chuyện với một người lớn. Món quà đặc biệt ấy tôi nhận được có 1 lần từ 1 người không hẳn là gần gũi thân thiết với tôi. Tôi giữ mãi nó như báu vật của mình. Hẳn người tặng tôi cũng không biết hết sự kỳ diệu mà mình đã trao tặng.

Tôi nghĩ mình có thể tặng lại món quà đặc biệt ấy cho các em bé ở Pa Cheo: sự quan tâm, chú ý thực sự của một con người tới một con người.

Tại sao lại là Pa Cheo?

Tôi ghé thăm cả thảy 8 ngôi trường trong chuyến đi cùng đoàn “Cơm có thịt”, đến đâu cũng thấy có bao nhiêu việc mình nên đỡ một tay vào, nhưng lòng tôi cứ đau đáu với Pa Cheo. Tại sao lại là Pa Cheo? Pa Cheo là xã nghèo nhất trong huyện Bát Xát nên trường mẫu giáo ở đây cũng nghèo về cơ sở vật chất nhất là chuyện đương nhiên. Dù thuộc diện xã nghèo nhưng lại không phải là xã biên giới nên không có phần hỗ trợ đặc biệt như một số trường khác. Các cô giáo nói thậm chí ở đây không thể kêu gọi phụ huynh góp gạo như các trường khác vẫn làm, vì nếu phải góp bất cứ thứ gì, chắc chắn cha mẹ sẽ không thể cho con đến trường.

Cái khó ló cái khôn, các thầy cô giáo Pa Cheo có vườn cải xanh um để nấu cho học sinh. Gạo thì mua bằng tiền phụ cấp cho trẻ 5 tuổi, về nấu lên chia đều cho tất cả, có ít ăn ít, có nhiều ăn nhiều. Nói một cách khách quan, tôi thấy khả năng nói tiếng Kinh của các bé trường này là tốt nhất trong tất cả các trường mẫu giáo tôi có dịp ghé qua, mặc dù cô giáo vẫn than: “Tuần trước em mới dạy xong chữ O, tuần này sang chữ Ô thì các con lại quên mất chữ O rồi chị ạ.” 

Bạn có nghĩ:

-         Nguồn nước sạch cho các bé có giá 2,5 triệu đồng: Tôi đã từng kể những khó khăn của các bé khi không có đủ nước sạch để dùng. Nhưng tôi thực sự giật mình khi biết số tiền cần có để tạo nguồn nước sạch cho 4 điểm trường thiếu nước chỉ gần 10 triệu đồng.

-         Bát ăn của các bé phải xoay 2 tua trong bữa ăn trưa: Vì số bát ở các điểm trường do các cô đi xin hoặc vận động kinh phí để mua nên các cháu chưa thể có mỗi người 1 bát và thìa riêng. Không đủ thì chia ca: nửa lớp ăn trước, ăn xong tráng bát qua nước sôi rồi nửa lớp còn lại sẽ ăn thôi.

-         22 ngàn đồng có thể giúp một bé giữ ấm chân qua suốt mùa đông: Hóa ra ủng lại là thứ tiện dụng và hữu ích nhất cho bé trong mùa đông, đặc biệt là khi trời mưa. Cô giáo nói vì ủng giữ chân bé ấm và khô. Lúc đầu tôi cứ nghĩ đi ủng thì trơn và dễ trượt ngã lắm nhưng cô bảo không phải, ở đây đi ủng tốt hơn nhiều so với đi giày dép chị ạ. Và một đôi ủng cao su cho bé có giá 22.000đ.

Mỳ tôm

Chủ nhật vừa rồi mình cùng ông nội đi siêu thị Coop Mart để mua đồ lặt vặt cho cả gia đình. Lang thang khắp  nơi mọi xó trong siêu thị sắp về rồi mới bạn Ngọc dặn mua mấy gói mỳ tôm để thỉnh thoảng ăn sáng. Sau khi mua mấy gói mỳ Gấu đỏ chợt nhìn thấy gói mỳ Miliket 2 con tôm. Thế là kỷ niệm ngày thơ bé lại ùa về và thế là quyết định mua thêm vài gói mỳ Miliket 2 tôm nữa. Về nhà nói chuyện tào lao thì bạn Ngọc lại cứ cười khì khì và bảo mình cứ ăn đi để rồi lại thất vọng. Cũng có thể thất vọng nhưng chắc chắn vẫn sẽ ăn hết chứ nhỉ. Nhớ lại hồi mình học lớp 4 hay lớp 5 gì đó thì bắt đầu sinh ra mỳ tôm. Ngày đó ngoài Hà Nội ngoài mỳ Sông Hồng ra còn có mỳ Miliket 2 tôm nữa. Mỳ Miliket phổ biến đến mức người ta đã gọi mỳ ăn liền là mỳ tôm. Mình nhớ hồi đó hình như là 500 đồng/1 gói mỳ. Nhưng mà nhà mình làm gì có tiền đâu mà để mua mỳ cho con ăn hàng ngày. Chính vì thế mà thỉnh thoảng lắm mình mới được ăn mỳ tôm. Mình nhớ mãi lần đầu mình ăn mỳ tôm. Hôm đó mình bị ốm, sốt và chóng mặt lắm nên không ăn được cơm. Mẹ thương nên mẹ mua cho gói mỳ để ăn trưa. Hôm đó mẹ lại có việc đi đâu, mẹ nhờ thằng Chinh chở mẹ đi. Thằng Chinh sang nhà, thấy mình chuẩn bị nấu mỳ nên còn dặn mình là đun nước sôi rồi cho mỳ vào nhưng chỉ cho mỳ khoảng 5 phút thì bỏ ra ăn. Của đáng tội, lần đầu được ăn thứ mỳ thượng hạng như thế nên mình rất là cẩn thận. Sau 5 phút theo lời thằng bạn dặn, mở vung nồi ra thấy vẫn còn nguyên hình gói mỳ, dùng đũa chọc chọc vào vẫn thấy hơi cứng nên mình yên tâm ninh mỳ thêm 15 phút nữa. Ôi thôi đến lúc bỏ mỳ ra ăn thì nó nát bét, chắc hơn cháo một tý.

Nhưng mầ lạ lắm, ăn vẫn thấy ngon mới chết chứ. Sau này cũng vẫn thỉnh thoảng được mẹ mua mỳ tôm cho ăn. Đến giờ mình vẫn còn nhớ mùi hương thơm ngát của bát mỳ đang bốc hơi nóng nghi ngút. Thật sự cảm giác tuyệt vời đó  không làm sao quên được.

Một kỷ niệm đáng nhớ nữa là ăn mỳ tôm xào. Anh Hải Thổ và mình trưa đó học xong đi đá bóng nên về muộn. Nó rủ mình về nhà nó, nó xào mỳ tôm cho ăn. Nghe đến mỳ tôm là sướng rồi, chẳng cần suy nghĩ gì cả nên gật đầu OK đi luôn. Về nhà nó hý hửng đợi nó xào mỳ, nhìn nó đun nước sôi, trần mỳ rồi xào mỳ mà sốt ruột kinh. Lúc nó bê đĩa mỳ xào xuống thấy sướng lắm, ăn lấy ăn để. Chỉ có điều mỳ xào như hơi mặn, mà không phải là hơi mặn, mặn quá luôn. Giờ thì sao nào, bỏ đi thì tiếc, cả một đĩa mỳ lớn thế cơ mà. Thôi đành ăn vậy, ông bạn thì ăn cơm nguội nhìn mình ăn mà cười hỷ hả. Ăn xong mình uống 3, 4 cốc nước lọc mà vẫn thấy khát khô cả họng.

Mấy hôm sau mình mới thủ thỉ hỏi nó là hôm nọ nó xào mỳ rất ngon nhưng mà có vẻ hơi mặn. Ông bạn ngẫm nghĩ một lúc thì sực nhớ ra là mỳ tôm nó cũng có gia vị rồi nên khi xào mỳ người ta bỏ rất ít bột gia vị hoặc có khi không bỏ. Hôm đó thấy mình đói nên nó xào 2 gói mỳ liền và cũng tiện tay bỏ vào cùng cả 2 gói bột gia vị luôn  class=wp-smiley v:shapes="_x0000_i1043">

Lần này mẹ cũng nấu mỳ 2 tôm cho mình, hôm thì cho thịt xay, hôm thì cho thịt bò. Nói chung là đầy đủ gia vị, dinh dưỡng mà sao mình không cảm thấy ngon như ngày xưa nữa. Lúc đó nghĩ thấy vừa vui vừa buồn. Vui vì cuộc sống đã đấy đủ hơn xưa, không còn thiếu ăn như trước nữa. Buồn vì cảm giác ngày xưa đã không thể có lại được nữa. Cái gì đã qua đi chỉ có thể nhớ lại chứ khó có thể tìm lại nguyên vẹn giống trong quá khứ đượ

Mì tôm ơi

Đặng Thiên Sơn

Mẹ tôi đi chợ Giát bán khoai để mua lợn về nuôi nái. Biết mẹ đi chợ thể nào cũng có quà. Mà đi chợ Giát thì chắc chắn quà sẽ nhiều hơn. Suốt buổi sáng hôm ấy, ba anh em tôi nằm vắt vẻo trên cây ổi trơn sành trên bờ ao trước nhà chờ mẹ về. Đúng như dự đoán là sẽ có quà. Mẹ vừa về tới nhà ba anh em đã sà vào cái làn cước để lục lõi. Nào bánh xèo, cam, kẹo ông sư, kẹo chanh những thứ quà mà chỉ đi chợ xa mới mua được, chúng tôi được một bữa tiệc tưng bừng. Có mười lăm cái kẹo chanh mà ăn gần mười ngày mới hết. Nói là ăn nhưng thật ra là mút. Sau khi chia quà xong mẹ bảo tôi vào đun nước sôi để chế mì tôm. Lần đầu tiên trong đời tôi được nghe danh từ MÌ TÔM, nên lạ lẫm lắm, háo hức lắm. Nhìn vào một khối hình chữ nhật được bao bằng giấy cứng, trên bao vẽ mấy con tôm màu đỏ mà mường tượng ra bũa tiệc thơm ngon. Đúng là bữa ăn hôm đó ngon thật. Những sợi mì vàng, dai, thơm, ăn đến đâu hít hà đến đó. Sau giờ ăn ấy, chúng tôi chỉ mong mẹ lại sớm đi chợ Giát bán khoai để mua thứ gì đó và chắc chắn là không quên mì tôm. Vẫn biết rằng nửa vồng khoai mới mua được một giờ ăn trưa của gia đình tôi nhưng ba anh em tôi vẫn cứ nằm trên cây ổi vắt vẻo để ước rằng mẹ sẽ mua mì tôm.

Lên cấp ba tôi đi học xa nhà 11 km. Hôm nào học cả ngày thì ở lại trường và giờ ăn trưa là một tô mì tôm. Nhưng không phải mì tôm gói như mẹ tôi mua ở chợ Giát mà là mì tôm ký. Người ta đóng 10kg một bao, sợi mì nát vũn như nét chữ Lào, ăn vừa xẳng, vừa nghe mùi mỡ bò đến phát ngán. Nhưng không còn lựa chọn nào khác nên cũng phải ăn, ăn rất nhiệt tình là đằng khác. Ngày đó bạn bè khao nhau cái quần mới, cái Giấy khen, hay có người yêu cũng bằng mì tôm. Nhờ mì tôm mà chúng tôi những đứa xa trung tâm thị trấn mới vượt qua được thời THPT.

Lên thành phố học Đại học, đỡ hơn một chút là được ăn mì Hảo Hỏa nhưng Hảo Hảo thì cũng là mì tôm. Hảo Hảo có mặt trong giờ ăn sáng, ăn khuya. Sinh viên đứa nào cũng có một thùng dự trữ như Quốc gia dự trự lúa vậy. Có tháng bố mẹ gửi tiền vào muộn thì: “Mì tôm ơi! Ta hát khúc ca vời vợi”… Thế rồi cũng trở thành cử nhân. Nhưng thật ra có rất nhiều cử nhân mì tôm.

Giờ đi làm lại thấy mì tôm gắn bó với mình nhiều hơn nữa. Khi lương chỉ đủ để mua 500 gói mì tôm mỗi tháng nếu không tắm, không giặt, không xỉa tăm và không mặc gì hết chưa kể đến những việc to tát khác. Còn nếu nói như Bác Hồ “Ai pha trà thì đừng rửa mặt/ Ai rửa mặt chớ pha trà” thì trừ tiền tắm, giặt và xỉa tăm ra… số lương cũng chỉ còn mua 100 gói mì tôm là cùng.

Vì vậy, chẳng biết từ khi nào tôi và mì đã trở thành tri kỷ (có lẽ từ hôm mẹ đi chợ Giát), mì tôm nuôi sống tôi và cho tôi những ước mơ, hoài bão lớn lao. Mì tôm cũng là thước đo của đồng lương thời bão giá. Nếu như ngày xưa mẹ tôi chỉ cần nửa vồng khoai là đã mua được cho mỗi đứa con một gói mì tôm thì một gói mì bây giờ đã mua được một sào khoai ngày đó. Một sào khoai đủ để gia đình tôi ăn sáng một năm.

Sáng nay ra mua gói mì tôm ăn sáng bà chủ tạp hóa trước nhà đã tăng lên 3.700 đ một gói. Cứ tưởng 3.500 đ như mọi ngày nên không mang thêm 200 đ và thế là đành nhịn đói. Hỏi bà chủ quán thì được trả lời gọn lỏn một câu: xăng dầu tăng giá nên hàng hóa phải tăng. Thế là đành nhăn mặt đi làm. Với tôi được ăn mì tôm cũng là một ước mơ từ nhỏ đến giờ.

Nhớ Tết xưa16/01/2012 13:23

   Ngày xưa sao mà khổ.

Cả nhà 6 miệng ăn nhưng bữa nào món chủ đạo cũng chỉ rau muống luộc. Hôm nào có tí gì tươi tươi như cá kho (cá đồng tiền bé tí tẹo, mình mỏng dẹt, rặt xương là xương, hoặc cá mè ranh), hay tí thịt bạc nhạc rang đã là tươm tất lắm, người cứ sướng run lên.

Ngày còn bé, năm nào cũng mong ngóng đến Tết.

Mong đến Tết để được ăn ngon, được mua quần áo mới.

Năm nào con gái rượu cũng được ngồi vắt vẻo sau xe đạp đi sắm Tết với bố. Nói là sắm Tết cho oai chứ bố con ra về cũng chỉ tòn ten một cành đào và túi mứt Tết, trong đó èo uột vài món hàng mậu dịch như hộp mứt, gói chè «ba hào», bao thuốc lá, miếng bì lợn sấy khô,... Bố cưng chiều con gái rượu duy nhất nên thường mua cho chiếc nơ cài tóc kết bằng vải nhựa màu để làm dáng. Năm nào khá tí nữa thì được thêm đôi dép nhựa Tiền Phong, bộ quần áo vải phin (hay vải chéo). Có thế thôi mà đã sướng run người, chạy khoe khắp khu tập thể. Tối nằm ngủ nơ vẫn cài mái tóc, tay vẫn ôm khư khư bộ quần áo và đôi dép.

Quanh năm nuôi gà, vịt nhưng hầu như chỉ được ăn khi Tết đến, hoặc khi nhà có khách đặc biệt, hoặc có ai ốm đau, hoặc khi…. gà bị rù, vịt bị chết. Khổ thế đấy. Thế nhưng, xung quanh mọi nhà đều thế cả nên cũng không lấy thế làm buồn, làm khổ. Thậm chí còn thấy vui sướng là khác.

Lớn chút nữa, là con gái duy nhất trong nhà nên mọi việc chuẩn bị cho Tết đều đến tay. Đến giờ vẫn không sao quên được những ngày giáp Tết, mưa phùn giá rét, cả người run lập cập, hai bàn tay nhăn nhúm vì rửa lá dong, vo nếp, đãi đậu, bóc hành. Mấy đứa con nít trong khu vừa làm vừa tán phét râm ran quanh bể nước của khu tập thể. Lạnh, rét cóng người nhưng mà vui. Cứ xong nồi bánh chưng là nhẹ hết cả người. Tự gói bánh nhưng lại mang vào bếp tập thể của trường thuê luộc nên cũng đỡ vất vả đôi chút, tuy thế lại thiếu mất cái thú vui thức đêm trông nồi bánh chưng.

hiều tối ba mươi, sau bữa cơm cúng tất niên, trẻ con cả khu lại í ới nhau tụ tập chơi đủ thứ, từ tú lơ khơ, tam cúc cho đến bịt mắt bắt dê, trốn tìm. Có năm, cả khu vừa đốt pháo râm ran đón giao thừa thì cả lũ rủ nhau chơi trốn tìm. Bí quá không có chỗ nấp tôi lao ngay vào nhà bác Thạch bố thằng “Phúc gái” (thằng này tính như con gái, lại biết thêu thùa, đan lát rất khéo nên bị trẻ con cả khu sư phạm gọi là Phúc gái, còn con Hạnh em gái nó thì tướng mạo và tính tình y hệt đàn ông nên bị gọi là con “Hạnh giai”). Chẳng hiểu đen đủi thế nào mà vừa ra giêng thì con lợn nhà nó lăn quay ra chết. Bố mẹ nó cứ đổ riệt là do mình xông đất. Đứa trẻ con dại nghếch có biết gì đâu nên nghe thấy bị qui tội tày định đó thì sợ chết khiếp. Của đáng tội, ngày đó lợn mà chết còn kinh hơn bố chết. Bởi thế, có câu chuyện tiếu lâm kể rằng có vị giáo sư khi đang thao thao giảng bài thì người nhà đến báo bố hấp hối, vị nọ vẫn hăng say nói không phanh được. Người nhà đành đánh liều chạy vào ghé tai rỉn ra mấy lời “ông ơi, lợn chết, lợn chết”. Nghe đến thế vị giáo sư nọ bủn rủn chân tay, bắn ngay ra khỏi bục, tức tốc lao về nhà. Thời buổi đói nghèo thê lương đến thế!

Trong mấy ngày Tết kiểu gì lũ bạn cũng rủ nhau nhảy tàu điện ra phố Thuốc Bắc thăm cô giáo chủ nhiệm cấp 2. Quà cho cô khi là cây dừa tết bằng phim, khi là bức tượng thạch cao hình cô gái cầm cuốn sách, khi là một con hươu nho nhỏ xinh xinh bằng thủy tinh đựng nước màu xanh đỏ. Ngày ấy, quà tặng cho cô chỉ sơ sài thế thôi, đâu có phong bao phong bì, quà cáp như ngày nay, nhưng tình cảm thì nồng ấm vô cùng. Buồn cười nhất là vừa ra khỏi nhà cô, trước khi trèo lên tàu điện để về, cả lũ còn tính tính toán toán chia nhau tiền đóng góp mua quà cho cô…. Là con gái, lên cấp ba bắt đầu biết ăn diện đôi chút. Chiếc áo đẹp nhất là chiếc sơ mi may bằng vải lụa hoa do anh trai ở Liên Xô gửi về. Mùa đông thì tứ đời mặc chiếc áo nhung đen sờn và rách hai khuỷu tay, của mẹ. Mãi đến đầu cấp 3 mới có nổi một chiếc áo len, màu tím hoa cà, đan từ chiếc áo len cũ của bà ngoại. Ngày bà ngoại mất, mẹ giữ lại chiếc áo của bà làm kỉ niệm. Mẹ tháo ra, hấp lại và đan cho con gái chiếc áo diện Tết. Chỉ thế thôi mà con gái thấy làm hãnh diện và sung sướng lắm, diện mãi. Suốt cả thời thiếu nữ con gái của mẹ cũng chỉ có mỗi chiếc áo len ấy.

Rồi lớn lên, lấy chồng quê xa.

Quê chồng nghèo xác, nghèo xơ.

Xưa chỉ biết đến cái nghèo xứ này qua văn chương, nay thì, “mục sở thị” tận nơi…

Nhiều lần nói vui với chồng: Tớ lấy cậu coi như trúng số độc đắc. Việt Nam nghèo nhất thế giới, Nghệ An nghèo nhất Việt Nam, Nghi Lộc lại nghèo nhất Nghệ An (vùng đất được gọi là “chó ăn đá, gà ăn sỏi”), Nghi Trường nghèo nhất Nghi Lộc (“đất Nghi Phong cồn khô cát bạc, đất Nghi Trường chó chạy phỏng chân”), nhà cậu nghèo nhất Nghi Trường (vì gia đình chồng tuy ở quê nhưng lại không phải nhà nông nên quanh năm đói).

Chồng đi bộ đội mới được ăn no bằng cơm.

Chẳng thể nào quên được những lần về quê chồng ăn Tết. Tết nào chiếc xe tuyến của Học Viện Quân Y chở các gia đình người Nghệ Tĩnh về quê cũng ngật ngưỡng bò trên đường. Đồ đạc chất đầy lên tận nóc xe, từ đồ dùng cho đến đồ ăn, thức uống. Nào gạo nếp, gạo tẻ, thịt thà, rau cỏ,… Đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, đến cả su hào, cà rốt cũng phải tha lôi về quê. Nhiều nhà còn chất cả xe đạp lên nóc ô tô để về quê còn có cái mà đi chúc Tết bà con xa. Người ngợm và hàng hóa chất đống trong xe đến ngạt thở. Sao dạo đấy tuyệt chẳng thấy công an phạt xe chở quá trọng tải và số hành khách cho phép nhỉ? Mà cũng may không có chuyến nào bị lật nhào. Hai vợ chồng năm nào cũng chuẩn bị Tết cho toàn bộ đại gia đình nhà nội không thiếu thứ gì, chắc chỉ trừ lá dong và lạt. Cũng bánh kẹo, gạo nếp, gạo tẻ, đậu xanh, thịt, giò, mì chính, đường, sữa, hương, miến, măng, mì đa, mì tôm, (mì tôm ngày đó được ba chồng quí như đặc sản). Chồng bảo gạo nếp ở quê không ngon, nấu bánh không dẻo nên lọ mọ kiếm cả nếp cái hoa vàng mang về quê gói bánh. Giờ nếp cái hoa vàng bán giăng giăng khắp nơi chứ ngày xưa thuộc hàng cao cấp, khó kiếm. Ở Nghệ An chỉ thắp trầm, chồng còn cẩn thận mang cả hương Hà Nội về thắp cho Tết có hương vị Bắc. 

Vợ chồng lần nào về quê cũng thấy mẹ, dáng bé nhỏ, giấu chiếc rá sau lưng, con cón sang nhà hàng xóm vay gạo. Các con mới chân ướt chân ráo ở Hà Nội về chẳng nhẽ lại hỏi có mang gạo về không để mẹ nấu cơm.

Thấy cảnh đó, con dâu ngoảnh đi chùi vội giọt nước mắt. Ở Hà Nội cũng chỉ ăn gạo đong 13kg/tháng theo tiêu chuẩn nhà nước, tuy thế nhưng chưa bao giờ đứt bữa, lèng tèng ra cũng còn có cơm độn bo bo hay “bánh nắp hầm” (thứ bánh làm bằng bột ngô pha bột mì để ăn thay cơm)

Bữa cơm tất niên ở nhà chồng bao giờ cũng là thịt chó.

Làm thế cho rẻ, cho tiện vì “của nhà trồng được”, chỉ cần tóm lấy một «anh» trong cả đàn đang chạy ngoắng ngoài sân là xong.

Ba chồng bảo “quê mình có đặc sản là bánh chưng bất nhân (không có nhân) con ạ”.

Canh bù (bầu) khô thay cho canh măng. Từ ngày có vợ chồng thằng con trai lập nghiệp ở Hà Nội về ăn Tết cả nhà mới được biết đến món giò và canh măng khô (măng lưỡi lợn hẳn hoi).

Gia đình nhà chồng thuộc nền nếp gia phong cũ. Mẹ và các con gái lúc nào cũng chỉ ngồi mâm dọn ra ở nhà dưới, những đồ ăn ngon nhất bao giờ cũng dọn lên mâm trên (bày trên nhà thờ) cho ba và các con trai. Từ ngày có cô con dâu “tân thời” từ Hà Nội về nói mãi mẹ mới chịu lên mâm trên ăn với ba và các con trai. Mà cũng không phải dễ thuyết phục bà. Nói mãi không được nên có lần con dâu đành xuống bếp bế luôn mẹ chồng ra sân quay mấy vòng rồi mang vào nhà đặt bà ngồi cạnh ông. Bà có lẽ là người đàn bà hiền lành nhất mà tôi biết. Cả đời bà chưa nói nặng hay nói to với ai một câu, nhẹ nhàng, hiền hậu với cả vật nuôi trong nhà.

Tết của những ngày xưa có mùi rất đặc trưng, mùi thơm của pháo. Mùi pháo quyện với mùi hương, mùi bánh chưng mới luộc làm nên mùi của Tết.

Từ ngày không còn được nghe thấy tiếng pháo, ngửi mùi pháo và nhìn thấy xác pháo hồng tràn ngập khắp nơi, cảm giác về Tết, nhất là thời khắc giao thừa, khác hẳn, trống rỗng và nhẹ bẫng hẳn đi.

Rồi những ngày dài xa xứ.

Tết đến, dù không phải là dịp nghỉ, ba mẹ vẫn cố gắng tạo hương vị Tết đầy ắp trong nhà mình. Ba hì hụi gói bánh chưng, giò xào, mẹ cùng con gái ngồi làm cành đào. Sau này có thêm thằng út bò lổm ngổm quanh phòng, bốc nếp và đậu xanh rải khắp nhà. Chỉ thế thôi mà lòng nhẹ hẳn nỗi buồn xa xứ.

Tết bây giờ cái gì cũng làm sẵn, chỉ cần vài phút ra chợ hay vào siêu thị đã có thể mang Tết về nhà.

Một cặp bánh chưng, một nồi măng nho nhỏ, một con gà cúng.

Thế là xong Tết.

Tranh thủ những ngày nghỉ để làm những việc mình yêu thích, chuyện trò với những người mình quí mến.

Người lớn chắc chẳng mấy ai còn mong Tết đến.

Trẻ con còn mong Tết, vì được thoát gánh nặng bài vở mấy ngày.

Càng ngày mình càng hờ hững với Tết.

Mà cũng không chỉ với Tết.

Hay là mình bắt đầu già?

Nhớ ngày xưa ấy...!

Tôi ra trường đã được 3 năm và trong thời gian đó cũng là thời gian tôi làm việc tại TP.HCM này. Sống xa nhà nơi đất khách quê người làm tôi nhiều lúc cũng quên mất đi mình là ai, chỉ biết đến công việc và phấn đấu hết mình để có thể tự lo cho bản thân giữa nơi đô thị xô bồ này. Những đứa bạn tôi ở quê có đứa đã lập gia đình, có con lớn biết đi rùi, nhìn bọn nó tôi thấy mình dường như đã già (So với SV thì đúng là hơi già thật, hix). Hôm vừa rồi, tôi có thằng em làm cùng rủ đi họp mặt đầu xuân với hội SVTH toàn thành phố. Đã 3 năm kể từ khi ra trường tôi mới có lại cảm giác tuổi trẻ của thời sinh viên. Tôi nhớ những ngày ăn mì tôm sống qua ngày uống nước cầm hơi, có những lần 9 thằng con trai ăn hết 14 ngàn đồng với thức ăn chỉ có 13 tô cơm và 1 bát cà muối (hồi SV tôi sống trong KTX), tuy khổ nhưng thật sự rất vui. Cuộc sống SV giúp tôi học được nhiều điều và đến giờ nghĩ lại tôi vẫn muốn mình là một Sv như trước đây. Tôi chỉ mong các bạn SV Thanh Hóa khóa sau hãy cố gắng phát huy những đức tính của Sv, học hết sức chơi hết mình để khi ra trường không phải ngẫm nghĩ hối tiếc về bất cứ điều gì về thời SV đã qua của mình. Chúc các bạn SV Thanh Hóa mọi điều tốt đẹp nhất, tôi yêu các bạn. (^.^)!!!

Thương tiếc ông cụ mì gói

Mì là món ăn phổ thông từ Á sang Âu, từ mì nước đến mì khô, mì vịt tìm đến mì xào giòn... Mì có loại sợi nhỏ, sợi vừa vừa đến mì sợi to, đủ mọi kích thước và màu sắc, màu vàng từ màu trứng đến màu xanh của rau dền. Mì làm bằng bột gạo, bột mì, cả bằng đậu nành cho đến nấm shitaki... Ta gọi mì là... mì, người Trung Hoa hô to “mein” và người Ý thì bảo rằng spaghetti có gốc gác Ý Đại Lợi.   

Ngày trước, Dế Mèn chỉ biết đến mì qua những hàng quán, xe đẩy bán rong. Tô mì gồm những sợi mì vàng óng, những sợi mì cuộn tròn với nhau thành một nắm nhỏ bằng nắm tay, người ta gọi là “vắt”, Dế Mèn chưa biết tại sao lại gọi như thế, được trụng nước sôi cho chín tới rồi sắp vào tô. Trên mặt là những miếng xá xíu thái mỏng, vài cọng ngò, miếng cải xà lách và thêm một cái bánh tráng vàng chiên giòn có thêm con tôm. Rồi người ta đổ nước dùng xăm xắp, thế là ta có tô mì, đôi khi thêm vài cái hoành thánh. Thỉnh thoảng, ta có món mì xào, cũng những sợi mì vàng trụng nước sôi cho chín, nhưng trên mặt là những thứ... thập cẩm xào với nhau, thịt heo, thịt bò, hải sản, rau, nấm... hầm bà lằng đếm sao cho đủ 10 món!  Bên Trung Hoa, người ta bán tô mì nước ăn cũng giống giống như bên nhà, chỉ thiếu cái bánh tráng nhỏ chiên giòn bày trên mặt. Ở Nhật Bản thì hình như tô mì có vẻ... hùng hậu hơn, sợi mì to và dai hơn, và nước dùng thì khác vị với mì ta và mì Tàu rất xa!

Khi qua đến Hoa Kỳ, những năm đầu Dế Mèn làm quen với spaghetti, mì sợi ăn chung với sốt cà chua nấu với thịt băm. Cũng là món mì nhưng sao nó... lạ quá, lạ từ sợi mì sượng sượng lạ đi, rồi đến cái món sốt có mùi nồng nồng của oregano, của húng quế Tây (basil), của tỏi... Ấy thế mà cũng quen!  Rồi những ngày đi học xa nhà, ăn cơm ở học xá, mèn ơi, mấy người thợ... nấu đổ những hộp spaghetti to kềnh vào nồi đem hâm cho nóng để nuôi học trò, spaghetti nấu ở nhà từ từ tuột dốc xuống spaghetti trong hộp! Dế Mèn còn nhớ người bạn cùng phòng lẩm bẩm... sao nó nhão nhoẹt giống thức ăn của con lulu nhà tui quá... Trời, mì ơi là mì! Ra chợ nhìn quanh và phe ta bắt gặp món... mì gói!

Từ đó, hôm nào nhà ăn nuôi món spaghetti là phe ta trốn mất, chạy về phòng, chỉ đun sôi một ấm nước, thả gói mì vào tô nước sôi, thả thêm cái gói gia vị nhỏ nhỏ vào tô đậy kín, vừa tán chuyện vừa chờ đợi bữa ăn. Tô nước bốc khói, miếng cà rốt, hạt đậu từ từ nở bung trong nước sôi và những sợi mì vàng mềm ra, trông có vẻ giống như thức ăn... thật! 

Ăn hết mấy chục thùng mì gói rồi mà chẳng bao giờ Dế Mèn thắc mắc và nghĩ đến người đầu tiên nghĩ ra việc gói ghém món ăn phổ thông này vào gói giấy đem bán như một món thức ăn, ăn liền ăn lẹ, nhẹ và nhanh. Lúc nào cũng đinh ninh, như tất cả mọi thứ ...made in Japan..., món mì gói này chắc cũng là con chung của một tổ hợp nào đó, đằng sau những công ty thương mại khổng lồ như Sony, như Honda... Nghĩa là người ta họp nhau, bàn tán thảo luận, nghiên cứu thị trường, thử... vân.. vân...  rồi mới đưa sản phẩm ra bán, và món mì gói ăn lẹ ăn liền này cũng thế!  Nhưng không bạn ơi, đến hôm nay Dế Mèn mới biết chuyện đầu đuôi, cái món ăn nuôi mình những năm đi học xa nhà là do một mình ông cụ Momofuku Ando sáng chế ra! Cho đến khi đọc bản cáo phó của công ty Nissin Foods mới biết rằng cụ Ando mới mất tại Ikeda  ngày 5 Tháng Giêng năm 2007 (gần Osaka), Nhật Bản, thọ 96 tuổi, là cha đẻ của món ăn rẻ tiền này.  Năm 1958, ông cụ Ando sáng chế ra món mì gói, những sợi mì được chiên, sấy khô rồi vào bọc đem bán ra thị trường. Người tiêu thụ chỉ việc tìm một tô nước sôi, mở gói giấy thả mì vào, mấy phút sau là có một tô mì bốc khói mà xì xụp...  Người ta yêu món mì gói quá xá, và công ty Nissin Foods ra đời. Đến nay, chỉ riêng công ty Nissin Foods đã bán ra trên 100 triệu gói mì mỗi ngày, và trong năm 2006, đã có 25 tỉ tô mì gói bán ra trên thị trường thế giới! 

Hôm nay, bạn nào ăn tô mì gói, nhớ ngửa mặt lên trời mà cười với ông cụ Ando một cái nhé?  Dế mèn không còn yêu món mì gói nữa nhưng ngày xưa lúc nào cũng thân ái!

Tản mạn mì ăn liền

alt=PDF. v:shapes="_x0000_i1044">

alt=In v:shapes="_x0000_i1045">

Mì ăn liền, mụn! Mì ăn liền, không có chất gì cả! Mì ăn liền, không tốt cho sức khỏe! Nghe mấy câu cảnh báo trên thấy đầy cả ra rồi, thế mà mì ăn liền vẫn cứ là một món “No 1” không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại này.

Này nhé, nếu nói mì ăn liền là nguyên nhân gây ra mụn thì đầy những ai không ăn mì vẫn cứ mọc mụn đấy thôi. Còn bảo mì ăn liền không có chất gì sao tụi sinh viên cứ ăn mì quanh năm suốt tháng, vẫn thấy một gói mì đủ sức lôi một cậu học trò tỉnh táo trong năm tiết học. Mà nếu bảo mì ăn liền không tốt cho sức khỏe vẫn thì tại sao ông tổ mì ăn liền, người ăn mì nhiều nhất thế giới thọ đến 96 tuổi. Hay cả các phi hành gia vũ trụ vẫn có một loại mì chuyên dụng đấy thôi. Vậy là dù có nói gì đi nữa, mì ăn liền vẫn cứ xuất hiện trong bữa sáng, thậm chí cả bữa trưa và bữa tối.

Có những người lại nói mì ăn liền chẳng qua dành cho những người lười biếng không chịu nấu ăn. Ở một phương diện nào đó thì điều đó đúng nhưng xét kĩ nói như thế chưa chính xác. Ăn mì ăn liền không phải là lười mà để tiết kiệm thời gian. Chỉ cần xé giấy gói bột canh, gia vị và đổ nước sôi chờ 3 phút là có ngay một bữa ăn. Trong khi nấu một món ăn gì đó cũng phải mất tới 30 phút. Dùng ngay 30 phút đó trong thời đại công nghệ này làm được nhiều việc lắm chứ. 

Mì ăn liền hay còn gọi nôm na là mì tôm. Vậy có ai biết nó nghĩa là gì không? Theo cách phân tích theo triết tự thì mì ăn liền = mì + ăn liền. Có nghĩa là ăn liền mì hay liền ăn mì, tóm đi tóm lại là ăn mì liền luôn không cần phải tốn tới 3 phút chế biến nữa. Ăn mì kiểu này là không cần tới nước sôi, có thể được gặm sống luôn, đảm bảo trở thành món tráng miệng rất tuyệt, ăn ngon không kém bim bim, giòn tan, mằn mặn, cay cay. Nếu không tin, một buổi tối nào đó, nhớ lấy một gói mì ăn liền, mở một bộ phim vừa ăn vừa xem, bạn sẽ phải bất ngờ phải thốt lên: Ô! Mì ăn sống ngon thế này mà sao mình không biết nhỉ? 

Ai dám bảo mì ăn liền không ngon? Một món gì đó dù có tiện dụng đến mấy cũng không thể hấp dẫn người ta trong một thời gian dài lâu được nếu không ngon. Nhưng mì ăn liền đã và đang ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình đấy thôi. Bước vào một siêu thị mì ăn liền nhiều khi tần ngần mãi vì không biết phải chọn loại mì nào, hay đúng hơn là thứ mì nào cũng muốn mua. Nói một cách khác, ẩm thực thế giới thu nhỏ trong gói mì ăn liền, từ ẩm thực truyền thống Việt Nam, đến mì Thái, mì Nhật, mì Hàn bạn đều không khó khăn gì trong việc thưởng thức. Chỉ cần từ 2000 đến 10.000 bạn đã tự cho phép mình biết đến bò, gà, cá, thập cẩm, kim chi...của mọi kiểu ẩm thực tích đọng trong một gói mì be bé. Quả thật  bao nhiêu là mì, mì gói, mì hộp với đủ màu sắc hương vị quyến rũ dù cho ăn cả tháng cũng không hết được chủng loại, họ hàng nhà mì. Cứ tưởng tượng đi, này nhé, sợi mỳ dai dai được quyện đủ mọi thứ gia vị ngọt bùi, cay cay, thơm nồng nàn có làm bạn ứa nước miếng khi đói bụng không nào? Nhất là khi trời lạnh, ăn miếng mì cay xé lưỡi đến chảy nước mũi, xuýt xoa húp nước mì trong bát mà vẫn thấy sướng.Mì ăn liền không chỉ đem đến sự nhanh gọn, tiện dụng mà góp phần tạo nên những giây phút lãng mạn. Nghe thật vô lí, mì ăn liền thì có gì mà liên quan đến tình yêu? Thế nhưng khi xem phim Hàn, thấy bộ phim nào cũng phải có cảnh chàng và nàng hoặc bón hoặc tranh mì của nhau rất tình cảm. Từ phim đến ngoài đời chẳng cách xa nhau là mấy. Cứ đợi mùa thi mà xem, cái cảnh kí túc ý ới gọi nhau xin gói mì chống đói rộn rã, tình bạn được thắt chặt, và không hiếm những chàng và nàng sinh viên từ gói mì ăn chung mà nên đôi nên lứa. 

Tôi không khuyến khích bạn ăn mì trừ bữa mà chỉ muốn minh oan cho mì ăn liền xưa nay vẫn chịu tiếng xấu. Viết bài này xong lại thấy thèm ăn một tô mì thật to thế không biết. Phải đi pha mì mới được. Ai bảo tôi lỡ là tín đồ của mì ăn liền cơ chứ!

Năm tôi còn nhỏ, hàng năm từ dạo tháng 6 hay tháng 7 âm, thấy ở vệ vườn có cái mộc nhĩ nào là bầm tôi lại xiên vào cái lạt treo lên gác bếp và "để đến Tết ăn". Báo ngày, báo tuần, báo tháng là chuyện cơm bữa! Báo Tết y như làm cỗ, phải ngon, nhiều món, năm nay phải khác (hoặc hay hơn) năm ngoái. Vừa "dí' bàn phím gửi thư đi tôi bắt đầu lo lo,"túi" chưa có chữ nào về Tết. Chuyện thường ngày của những người xa xứ cũng đang bù đầu: năm nay kinh doanh lẹt đẹt, không gặt hái như những năm trước, cạnh tranh tăng hơn, đua nhau giảm giá, người mua bị chia sẻ, khách hàng cũng không rủng rỉnh tiền như vài năm trước đây.

Nhưng nỗi lo thường trực vẫn là chuyện học hành của con cái, tụi nhỏ học tốt còn đỡ, chứ điểm kém đem về thì thể nào trong nhà cũng có "chiến sự" xảy ra. Nhưng đó chỉ là chuyện "trong nước", bao nhiêu chuyện từ quê hương phải bận lòng như nhà hàng xóm vừa xây nhà làm nứt tường nhà mình, ông bố đang nằng nặc nhất định đòi về quê tận Thanh Hóa, kiểu gì cũng không ở Hà Nội nữa.

Lại thêm thằng cháu ở quê (đã có vợ rồi) vừa chơi số đề thua 400 triệu đồng, chuyện cứ dày lên như nấm gặp mưa, làm sao có tâm hồn lộng gió để làm thơ, viết tiểu phẩm? Ngày nộp bài đến nơi rồi, Tết sắp đến nơi rồi, nhìn những cành cây trụi lá như những cái chổi xể dựng ngược quét lên trời, tự nhiên nỗi nhớ quê trở nên da diết. Tết ngày xưa ào về.

Ngày xưa là từ bao giờ chả ai quy định cụ thể, chục năm, trăm năm, nghìn năm, trước Công nguyên? Sau Công nguyên? Nhưng có lẽ ai cũng nghĩ ngày xưa là lâu rồi. Ngày xưa của tôi là khi tôi còn bé, còn học lớp 1 ở xóm Lầy, lớp học nhờ nhà bà Văn, căn nhà lợp lá đơn sơ, vài cái bàn bằng gỗ sung, ghế là những đoạn tre ghép lại như những chiếc cầu ao vớt về đây. Phải đi qua bãi ngô rộng hơn cả chục sân bóng đá mới tới lớp, chủ nhiệm là cô giáo Ngọ, tóc cô dài, cô giảng bài giọng nhè nhẹ, không quát học sinh và không bao giờ lấy thước vụt vào mu bàn tay học trò như năm vỡ lòng mà cụ giáo làng vẫn thẳng thừng với chúng tôi, lý luận của cụ là "già đòn, non lý sự". Ngày xưa của tôi như vậy!

Nhưng ngày giáp Tết xưa lại găm vào tôi nhiều nhất, bây giờ ở trời Tây, khi lá thu trút những cánh cuối về với đất, trơ lại cành khẳng khiu, lòng người tự nhiên nôn nao, đếm ngón tay còn bao nhiêu tuần nữa là đến Noel, bao nhiêu ngày nữa là đến Tết ta? Con đường làng, bụi tre, khóm chuối, cây rơm, những tiếng gọi con khi trời xẩm tối hiện về như đoạn phim cũ, bị mốc mà vẫn thích xem! Bùi ngùi, thoáng buồn, cảm giác thấy chạnh lòng, tủi thân nữa là mình sinh ra ở quê. Từ ngày "thoát ly" xa quê, lại thấy vui hơn vì quê có nhiều chuyện ngày xưa hơn ở phố (chẳng biết đúng vậy không?).

Năm tôi còn nhỏ, hàng năm từ dạo tháng 6 hay tháng 7 âm, thấy ở vệ vườn có cái mộc nhĩ nào là bầm tôi (quê tôi gọi mẹ là bầm) lại xiên vào cái lạt treo lên gác bếp và "để đến Tết ăn". Ngày gần Tết vui lắm, nhưng nhớ lâu nhất có lẽ là mùi thịt nướng tỏa ra ngào ngạt từ mái bếp của các hộ của làng tràn ra đê, chao ôi sao mà thơm thế, cả làng tưng bừng, rôm rả, nhà nào cũng có chất tươi. Ngày ấy cứ vào dịp 29 Tết , từ gà gáy lần hai là xóm trên, xóm dưới đồng loạt eng éc tiếng chọc tiết lợn. Hợp tác xã mổ lợn chia cho xã viên theo nhân khẩu, nhà tôi con đàn, nhưng ít công điểm nên được chia không nhiều, thông thường phải "ăn đụng" nhà khác.

Thường thì 5 nhà ăn chung con lợn 35-40 cân móc hàm, chiều 29 Tết bánh chưng đã gói xong, củi gốc tre, củi xoan, để nỏ, luộc bánh chưng sôi ùng ục từ chiều, vui nhất là gói và luộc bánh chưng, nhưng vui hơn nữa là được bánh chưng con. Nhớ có lần xin bầm 1 miếng thịt nạc chừng nửa lạng, xiên vào xiên tre, hơ sát than của nồi bánh chưng, thịt vừa chín tới, bay hơi ghi ngút, thơm lừng… chén ngay!

Miếng thịt đó theo tôi đến tận bây giờ. Cuộc sống ngày nay thật đầy đủ, trẻ con phải ép ăn, mà lạ thật mỗi khi nhớ đến miếng thịt của Tết ngày xưa tôi vẫn ứa nước miếng!

Có lẽ tôi chẳng bao giờ quên đựợc không khí tấp nập của những ngày giáp Tết ở giếng làng, bộ đội, công nhân, giáo viên, học sinh, người ở xa, người ở gần… đều tranh thủ gánh cho nhà đầy bể nước để ăn Tết, nhiều đôi lứa cũng nên duyên từ giếng làng, nhà tôi ở ngay gần giếng, những câu chào, lời hỏi thăm: về bao giờ? Bao giờ đi? Cứ râm ran cả chiều Tết, vẳng bên tôi mãi mãi.

Vui nhất là phiên chợ 30 Tết, chợ họp gần tới ngõ nhà tôi. Vội như 30 Tết, các cụ nói không sai, người mua thêm cành đào, bó hoa, kẻ khó lo đủ cỏ cho trâu trong rõi, người thì tất tưởi lo trả nốt những món nợ trong năm!

Chiều 30 Tết bao giờ tôi cũng được giao trọng trách là lấy chổi cọ (chổi làm bằng lá cọ) quét mạng nhện trên kèo, dui, mè, quá giang… và không quên quét nhà thật sạch (ngày mùng 1 không được quét nhà, mất lộc!). Xong việc đi tảo mộ và bữa cơm chiều 30 bắt đầu khi mẹ tôi đã hóa vàng xong. Bao giờ mẹ cũng dặn anh em tôi là sáng mùng một không cãi nhau, sẽ dông cả năm!

Những dòng này tôi viết để tham dự "Xuân quê hương". Trong căn hộ tầng 11 tại Berlin, ở đâu đó xa lắm lại vẳng lên tiếng đòi nợ không âm thanh, nghe quen quen cất lên ở đầu ngõ làng ngày nào: "…ơi! Có tiền trả chưa? Tết rồi! Trả nốt nợ đi chứ!". Tiếng đòi nợ (tiền đong chịu gạo) của bà Dậu điếc, từ ngày xưa lại vang vọng trong tôi trong những ngày giáp Tết! Tết ngày xưa!

Thịt chó Đông Lỗ, thịt chó Vân Đình

Bạn đã đến Ứng Hòa chưa? Nếu chưa mời bạn hãy một lần đến nơi đó. Một vùng đất quê chiêm miên man lúa. Bạn hãy rong thuyền theo dòng sông Đáy tận hưởng yên tĩnh, trầm mạc của làng quê cổ kính ven sông. Bạn hãy về xứ miền Đông của huyện, nơi hội tụ những kỳ tích về người anh hùng làng Gióng ở thời Hùng Vương thứ VI cưỡi ngựa sắt rong ruổi đuổi giặc Ân. Chiến tích của ông Gióng vẫn còn kia, một làng Cháy, những búi tre đằng ngà trong các xóm thôn, tương truyền là do ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương phun lửa vào đám giặc mà lưu dấu tích đến tận hôm nay.

Đã đến với ứng Hòa, bạn chớ quên thưởng thức những đặc sản của vùng quê này. Có rất nhiều đặc sản, nhưng ai đó kỹ càng, sành ăn thì không thể không biết tới những món thịt chó.

Đố bạn tìm thấy ở nơi nào có mẹo chế biến thịt chó chỉ một nồi như thịt chó Đông Lỗ của Ứng Hòa.

Nhiều quán ăn ở trong Nam ngoài Bắc treo biển quảng cáo rõ to: thịt cho đông lỗ, nhưng bạn phải về tận nơi ấy, tường tận nhìn người Đông Lỗ chọn chó, làm thịt chó, cách chế biến thịt cho để bạn thưởng thức mới cảm nhận hết sự khéo tay hay mắt của người ở đây.

Đông Lỗ là tên xưa của một tổng, gồm 12 xã, thôn: “Thôn Ngọc Đường, thôn Xuyến Lưu, thôn Nhân Trai, thôn Tiêu Thiêu, thôn Mạnh Tân thuộc xã Đông Lỗ; thôn Đào Xá, thôn Viên Đình thuộc xã Vân Kiều, Tu Lễ, Kim Giang, thôn Mãn Đường, thôn Kim Bồng thuộc xã Ngọc Đường, Cung Thuế”. (Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, H.KHXH, 1981). Tổng rộng là vậy nhưng nguồn gốc phát sinh của thịt chó lại từ thôn Viên Đình. Viên Đình vốn là một làng Việt cổ nằm trên thế đất con rồng đang cuộn khúc, tên thôn là Kẻ Kẹo.

Thiên nhiên chẳng ưu đãi gì cho cái làng Kẹo của tổng Đông Lỗ ấy. Xưa, đất quanh làng ngập úng, năm chỉ cấy được vụ chiêm. Phải năm mưa sớm, hạt nổi chim ăn, hạt chìm cá rỉa. Người làng tơ lưới, nơm, lờ đuổi theo bóng chim, tăm cá kiếm miếng cơm. Đói khổ buộc trai làng Kẹo xuôi ngược khắp nơi tìm kế sinh nhai. “Cái khó ló cái khôn”, cha ông làng Kẹo tìm cho các thế hệ trai làng một nghề độc đáo: Nghề thợ mộc. Trước năm 1945, đã mấy khi trai làng Kẹo ở nhà. Già trẻ khăn gói đi kiếm cơm thiên hạ lấy tiền nuôi bố mẹ, vợ con, chỉ đến kỳ hội làng, giỗ tết mới kéo nhau về. Thuở ấy, người con trai nào không được các phó cả mời đi làm, nghĩa là vụng nghề, thuộc hạng hèn yếu, bị gái làng chê bai nên rất khó được con cái nhà tử tế yêu để lấy về làm vợ.

Có thể nói Viên Đình của Đông Lỗ là đất thợ, nhưng là thợ xuất ngoại. ở làng, trừ dịp tết, thường chỉ có người già yếu, đàn bà và con trẻ. Vì lẽ đó, con gái Viên Đình nổi tiếng đảm đang, tháo vát rất hiếu hiền với bố mẹ. Phụ nữ Viên Đình đánh trâu ra đồng cày bừa sớm tối, đánh gianh chặn gió lợp nhà. Mọi công việc cưới xin, ma chay, giỗ tết, các bà lo toan từ làm cỗ đến giao đãi khách, các ông giỏi giang ở ngoài thiên hạ về nhà chỉ là loại trai đưa gianh cho vợ, lúc tiệc tùng thì vào ngồi hưởng vui vậy thôi.

Điều đó cũng là lẽ phải. Các đức ông chồng đi suốt tháng, suốt ngày vất vả kiếm tiền, lúc về đưa bọc tiền cho vợ, đằng đẵng mấy tháng trời vợ chồng mới gặp mặt nhau, các bà “tâm lý lắm” không nỡ để các ông chồng phải lo lắng, bận bịu công việc ở nhà.

Những trai làng Viên Đình theo nghề mộc, làm thuê cho thiên hạ. Đã làm thuê, có khi người chủ mướn công, cũng có khi người ta khoán gọn công việc. Đi làm, lại là làm thiên hạ, tất khác đi chơi, phải chí thú mà làm ăn. Tính mục đích đặt ra rõ ràng như vậy nên mọi sự từ ăn uống, ngủ nghỉ, đến công cụ hành nghề, người thợ Viên Đình đều phải kỹ lưỡng để đạt tới cái sự tiện lợi, tiết kiệm thời gian công sức, tiết kiệm giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng, thẩm mỹ mới là tài tính.

Hàng năm có những tốp thợ người Viên Đình tổng Đông Lỗ ngược nước sông Hồng, sông Đà lên thực thi nghệ làng ở vùng Tày - Thái. Trên ấy sẵn việc để làm hơn vùng khác, kỹ nghệ cũng không đòi hỏi cầu kỳ, thợ đồ mướp là làm được, làm luân phiên nhà này sang nhà kia, có điều kiện truyền nghề cho trai làng mới theo nghiệp của làng. Thức ăn của vùng Tày - Thái cũng không phải sẵn nhưng có một thứ mà tôi được biết là rất sẵn, ấy là thịt chó. Các nhóm Tày - Thái, nhất là phụ nữ và trẻ em kiêng không ăn thịt chó, khi ấy gia đình nào cũng muốn nuôi chó để giữ nhà, dọn vệ sinh, đi săn và chia sẻ tình cảm. Thịt chó là nguồn thực phẩm rất sẵn đối với những thợ mộc sống ở vùng Tày - Thái, họ có thể xin chó của gia đình trong vùng để hóa kiếp cho chó mà không phải trả tiền cho chủ nhà.

ở vùng Tày - Thái thịt chó không được ăn trong nhà, phải ăn ở các lán trại, phụ nữ Tày - Thái nhất quyết không chịu để mùi thịt chó dính vào bát đũa, xoong, nồi, đồ ăn thức uống của gia đình.Nguồn thức ăn thì có sẵn nhưng tập tục ràng buộc quá khắt khe buộc những tốp thợ mộc người Viên Đình ở tổng Đông Lỗ tìm đến một giải pháp tối ưu ở vùng Tày- Thái là chế biến kiểu thịt cho một nồi, ăn khô và ăn theo lối bốc tay thay cơm.

Từ nguồn gốc phát sinh ban đầu như trên, hàng năm vào dịp sắp tết nguyên đán diễn ra sự hội nhập đông vui của các trai làng làm thợ ở các nơi về. Biết bao hương thơm sắc lạ ở khắp mọi miền cũng nhân dịp này được người làng khoe diễn. Theo con đường đó, thói quen thịt chó một nồi đã được một tốp thợ nào đó của làng truyền đạt kinh nghiệm, nhanh chóng được các tốp thợ khác học hỏi, coi đó là phát minh sáng chế của làng mình, của cả tổng Đông Lỗ. Mẹo chế biến thịt chó một nồi khi đã tiếp thụ vào làng Viên Đình thì được người làng tìm tòi, nâng cao kỹ thuật nấu nướng, để món ăn đạt đến mĩ mãn.

Đặc sản thịt chó một nồi được coi là ngon phải đồng bộ từ khâu đầu đến khâu cuối. Đầu tiên là chọn chó. Kinh nghiệm cho hay chó vàng độ 8 - 9 tháng tuổi (có nhu cầu đực cái), dân gian quen gọi là cầy tơ, ở độ tuổi đó, thịt chó không bị già quá ăn dai, không non quá ăn nhão, người Viên Đình có quy định cứ 1kg chó tương ứng với một người ăn, để ăn thật no, thật chán, thật sướng mới thôi, ăn theo phong cách của người thợ không đãi bôi, giữ gìn.

Bắt chó trói giật cánh khuỷu, treo ngược, cắt một miếng con da cổ, chọn tìm hai tia máu, cắt đứt một nhát lấy tiết. Tiết chó bỏ muối một lần tương ứng độ nhạt mặn của cả nồi thịt chó. Cắt tiết xong cho chó nằm quỳ để thui chó. Rơm thui là rơm nếp quýt, đốt hai sườn đến lưng, sau cùng là bụng. Lại dùng rơm nếp tuốt sạch lông rồi thui lần hai, chớm vàng mặt da, ngấm mùi hương thơm nếp quýt, thui đâu được đấy.

Rửa sạch chó tách phần xương, chặt xương theo lối cứ hai rẻ sườn thành một miếng. Số thịt thái vuông con trì. Thịt xương lẫn lộn cho vào bóp mắm tôm đồng, riềng giã nhỏ và tiết, khác mọi nơi thịt chó một nồi không cho mẻ và bí quyết để thịt chó ngon phải bóp mật chó lẫn vào với xương thịt.

Bóp trộn xong cho thịt và xương vào nồi (xưa là nồi đất) không cho nước đặt lên bếp đun, vừa đun vừa đảo khoảng 10 phút thì cho bộ lòng chó đã nhồi đậu xanh rang với bạc nhạc chó, riềng, tiết, là mơ tam thể, lá ổi, lá ớt, có thêm lá bầu đất - một loại rau thường để nấu canh. Hấp kèm vài củ riềng già ăn ghém. Xong, phủ lớp là chuối bánh tẻ cho riềm lá vào trong miệng nồi để không bị thoát hơi ra ngoài. Tiếp tục đun nhỏ chừng 25 phút. Kinh nghiệm xưa, thời gian đun từ lúc đậy vung đến lúc bắc ra tương ứng mọt tuần thắp cây nhang. Cách đun này hơi bốc lên gặp lá chuối lại chuyển hơi xuống cứ thế xoay vòng đến chín thịt mới thôi.

Thịt chín là khi xem cái cùi xương ở đùi chó thịt bị ngót một đốt tay, hoặc nhắc miếng xương ra rút được xương rẻ sườn.

Thịt chó Đông Lỗ nhất thiết phải đun hai lửa. Lần thứ nhất đun nhỏ lửa đến khi chín thì mở vung. Lần thứ hai cho ngọn lửa cháy to bùng hơi nước lên, tác dụng bật mùi hôi thoát ra.

Lòng chó mang khỏi nồi quấn vào que xoay tròn nướng cho vàng rộp trên ngọn lửa rơm nếp quýt.

Như vậy, thịt chó Đông Lỗ chỉ gồm 3 món: Thịt om, xương chặt rẻ quạt, lòng nướng. Nước chấm chính là thứ nước lấy ra từ nồi.

Khi xưa, người Đông Lỗ có thói quen ăn bốc, cho là ăn kiểu thế mới thật là ngon. Uống rượu ăn bốc xương và lòng trước, thịt ăn sau điểm lá mơ tam thể và lá củ riềng già đã hấp chín, tạo ra cảm giác thơm thơm hương nếp quýt và sự cay nóng của chất riềng già với sự béo bùi của miếng thịt cùng mùi thơm đậm đà của mắm tôm đồng.

Ưu điểm của thịt chó một nồi là thịt ăn đậm, không hôi mùi mỡ, người ta có thể ăn no, không biết chán, càng ăn càng ngon. Thịt chó một nồi còn tác dụng để được lâu, thức ăn dự trữ cho những ngày sau. Kinh nghiệm cho hay, để thịt đến hôm sau ăn, đun thêm lửa lần nữa sẽ cảm nhận miếng thị bùi, béo, thơm đậm hơn nhiều.

Thịt chó một nồi trở thành đặc sản dùng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa của người Viên Đình. Trừ đám cưới, còn các kỳ tiết, hội lễ, kỵ giỗ, người làng vẫn thường làm món này được khách xa gần rất mến chuộng. Xem thế đủ biết, thịt chó một nồi ở Đông Lỗ phản ánh tri thức và phong cách ăn - một nét văn hóa của người thợ thủ công gắn với nông nghiệp ở đất Ứng Hòa.

Ngoài Đông Lỗ, Ứng Hòa còn một trung tâm thịt chó nữa, nổi tiếng không kém, ấy là thịt chó Vân Đình. Vẫn Đình xưa thuộc xã Đoàn Xá, nay thuộc xã Tân Phương. Vân Đình tên nôm là Kẻ Đình. Kẻ Đình nằm trong khu vực thủ phủ Ứng xưa, nay là huyện lỵ Ứng Hòa có nghề làm gốm. Gốm Vân Đình một thời nổi tiếng ở các phủ xứ Đoài và xứ Sơn Nam, chủ yếu sản xuất các mặt hàng tiêu dùng. Những người thợ gốm làng Đình cặm cụi bới đất, nhào nặn đất để kiếm miếng cơm, chắc chắn đời sống không thể sung túc, ráo mồ hôi là hết tiền. Họ là tầng lớp thứ ba dưới thời phong kiến (sĩ - nông - công - thương). Họ vừa là người sản xuất đồ gốm, vừa mang đồ gốm đi bán. Đồng tiền họ kiếm được quả là khó khăn. Nên trong sự ăn, người thợ gốm Vân Đình không thể hào phóng. Hợp với túi tiền mà ngon, đó là vấn đề đặt ra cho họ. Một số cụ mà tôi tiếp kiến đều trả lời tôi rằng, ngày xưa thịt chó ít người ăn, giá thành một ki lô rẻ hơn nhiều so với thịt gà, thịt lợn; do vậy đã từ lâu lắm những người thợ gốm làng Đình không ngần ngại dùng thịt chó trong các sinh hoạt cộng đồng làng xóm. Cứ làm thành quen rồi thành tục được cả Kẻ Đình chấp thuận. Có điều, Kẻ Đình - làng gốm, lại ở xen phố xá, nơi có gia quyến các nhà chức sắc, nơi tụ tập thương nhân và nơi dân các xã trong phủ kéo về trao đổi hàng hóa và tiêu sài ăn chơi. Yếu tố: phố xã - thị dân xâm nhập vào yếu tố thợ, chi phối tâm lý tiêu dùng và tập tục làng quê. Trong cái sự ăn cũng vậy, người Vân Đình tìm đến thứ ăn ngon mà rẻ nhưng chuộng lạ, thích cầu kỳ vốn là thị hiếu của tầng lớp thị dân. Sau này làng Đình không chỉ có một nghề gốm, thêm nhiều nghề khác. Tập tục ăn thịt chó trong các kỳ tiệc đã là tài sản, tập tục của làng. Từ đó mẹo chế biến thịt cho ở Vân Đình thiên về khuynh hướng tỉa tót, cầu kỳ. Kiểu thịt chó Vân Đình là thịt chó chế biến nhiều món. Khác với Đông Lỗ, các món cho vào một nồi, ở Vân Đình thịt chó làm sạch sẽ được tái chế ở nhiều nổi, ra nhiều món. Sơ bộ thống kê có tới 12 món: 6 món: thịt luộc, xáo rựa mận, xương, lòng, chả nướng, đùi nhừ vốn đã quen thuộc với mọi người. Nhưng còn 6 món: giả chuột, giả trâu, giả chim, giả dê, giả bò, gan nướng lá na quả thực là ít nơi làm.

Tuy gọi là món thịt chó dã quen thuộc nhưng ở Vân Đình khâu nấu nướng rất được xem trọng. Ví như món thịt luộc, người Vân Đình thịt chó thường mổ moi, nửa thân phần dưới đem luộc, khoang bụng dưới nhồi đầy riềng và các thứ gia vị. Luộc thịt chó cách thuỷ để chín bằng hơi nước chứ không phải luộc ngâm trong nước. Chính vì làm như thế nên thịt chó luộc ăn cảm giác khô, được ướp thêm gia vị, ăn đậm mà không bị ngấy mỡ.

Phần nửa mình trên con chó, người Vân Đình tách lấy hai màng thịt bụng ngậm sụn chặt vuông, bóp riềng mẻ, xiên từng cặp nướng trên lửa rơm nếp. Ăn loại chả nướng này vừa thơm, vừa giòn rất đặc vị đưa cay với những anh chàng nghiện rượu. Còn loại chả khác thú vị không kém, ấy là thịt chó băm nhỏ trộn vừa phải gia vị riềng, quấn mỡ chó vòng quanh đem nướng lửa rơm nếp, nướng đến khi nào cháy tan hết lớp mỡ bọc ngấm vào chả là được. Đây là loại chả ăn đến no không biết chán.

Món ăn cổ truyền cầu ký nhất là món gan chó nướng lá na. Gan chó thái miếng quấn lá na nướng bằng lửa rơm nếp khi bốc mùi thơm ngậy của lá na và mỡ chó là được. Lá na vốn rất đắng và hôi. Thế mà nhờ mỡ quấn chặt lá na vào gan đã tạo ra một mùi thơm rất lạ. Ăn miếng gan cảm nhận thơm cay, cứng giòn ở ngoài, lại có vị béo bùi, dẻo bột ở trong, không hề có mùi hôi của thịt chó, lá na, thật là một món ăn cao sang.

Món giả chuột, người Vân Đình lấy phổi chó, lòng chó và những miếng thịt thừa băm nhỏ lẫn với ớt xanh, bóp tiết cho riềng, mẻ, khế vào đun sôi tới khi se nước cho lá chanh thái sợi chỉ, các miếng thịt chó băm nhỏ gặp chất chua của mẻ sắt lại, ăn đậm và dai tựa món thịt chuột thoang thoảng lá chanh, cay cay vị ớt.

Món giả trâu: thịt chó nạc thái vuông, nấu với rau cần, nếu không phải mùa rau cần thì thay bằng lá dâu.

Món giả chim: thịt chín nướng cháy, băm nhỏ, cho rau răm, hành hẹ vào đun khô, nhờ có mùi rau răm và thịt nướng ta ngỡ như thịt chim.

Món giả dê: thịt nạc chó thái mỏng, nướng chín, cho vào đĩa trộn đậu tương rang giã nhỏ, rắc lượt vừng rang lên trên chấm với tương gừng.

Món giả bò: thịt chó nạc thái mỏng, ướp tỏi với nước mắm cho vào xào hành tây, cần tây, ăn nóng.

Một nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng rất độc đáo có lẽ đến nay chúng tôi chỉ mới thấy ở Vân Đình là hầu hết các đám cưới của trai gái trong thôn đều làm cố cưới chế biến từ thịt chó. Đám cưới dù có các món khác như giò, chả, ninh, nem song thiếu thịt chó thì dân làng vẫn coi cỗ cưới nhà đó kém sang và kém ngon. Tục này đã truyền từ nhiều đời.

Cỗ cưới ở làng Vân Đình, thịt chó không cốt ăn lấy no bởi mâm cỗ nhiều món, mỗi món lại không nhiều, người ăn thiên về thưởng thức tài nghệ chế biến món ăn của nhà chủ xem cái sự làm giả các món ăn đã đạt đến trình độ như thật chưa. Đó cũng là một nét độc đáo của sự ăn thịt chí ở giới thợ thủ công gắn với phố xá thị dân.

Sẽ là khiếm khuyết nếu cho rằng kiểu thịt chó Vân Đình hay hơn kiểu thịt chó Đông Lỗ hoặc ngược lại. Mỗi loại đều mang một sắc thái văn hóa của một vùng nghề, vùng đất nên chúng đều có giá trị tự thân cùng tồn tại, cùng được mọi người mến chuộng.

Có điều, hai phong cách khá trái ngược nhau ấy xuất hiện ở một huyện, vì thế cái này là đối tượng của cái kia, đều bắt đầu từ những bàn tay biết làm lụng và tính cả sự ăn uống để hướng tới cái đẹp của nết ăn, nết ở, tạo ra một bản sắc văn hóa Ứng Hòa thật khó lẫn với vùng quê khác.

HIÊN

Hiên đi làm. Cầm tờ hợp đồng thử việc ba tháng trên tay, lòng Hiên rộn lên niềm vui khó tả. Bao năm tự học, tự mày mò nghiên cứu của Hiên đã được sử dụng.

Nhiều lúc Hiên đã hét lên trong im lặng, “Bao năm sống trong tù ngục!”. Đâu ai giam cầm Hiên. Gia đình khuyến khích, luôn tạo điều kiện cho Hiên ra đường. Chỉ có chính Hiên tự giam hãm mình thôi. Hiên ít ra đường đến nỗi, mỗi lần ra đường luôn thấy lạ lẫm, bỡ ngỡ với những đổi thay của cuộc sống. Hiên đã thành cái cột điện bao năm qua trong vòng quay của cuộc đời. Cảm giác đó đã từng làm Hiên mất tự tin vào bản thân mình, tính nhút nhát cố hữu làm cô càng thêm thấy mình khó hòa nhập với cuộc đời.

Ngày đó… xong lễ tốt nghiệp, thầy trò ôm nhau khóc. Mắt đỏ hoe, thầy nói trong uất nghẹn, “Các em hãy… tự bơi… thầy bất lực rồi…”. Đời luôn có những nghịch lý như vậy. Ai cũng đau đầu về vấn nạn thất nghiệp. Mọi người đều đổ công đổ sức đào tạo bao lứa thanh niên như Hiên có nghề nghiệp đàng hoàng. Nhưng ra trường, ở cái tỉnh lẻ này, là không có việc làm. Mọi chuyện như đổ sông đổ bể. Hiên cười chua chát, tốn tiền, tốn công sức, tốn thời gian.

Lên rừng. Hiên mang theo ước mơ làm cô giáo từ thuở bé lên rừng.

Những khuôn mặt khắc khổ, se sắt không muốn đời con giống mình, thiếu chữ. Cô giáo trẻ lên rừng, một bên vai mang lửa nhiệt tình, niềm tin tuổi trẻ. Một bên vai mang gánh nặng gia đình. Nhiệm sở đầu đời của Hiên là đây.

Ngày xưa, trường do dân trong vùng hợp sức dựng lên. Chị đồng nghiệp làm quen “lính mới” kể cho Hân nghe. Ở xóm rừng heo hút này có nhà ông hai Khó, bà con thường gọi vậy. Tên Khó không phải do cha mẹ ông đặt cho, đủ biết tính cách ông thế nào rồi. Ông thuộc dạng trí thức chế độ cũ. Thời thế đẩy đưa ông phải lên đây lập nghiệp, phá rừng làm rẫy. Vì không muốn ba đứa con mình thất học. Vợ chồng ông là người tích cực nhất vận động bà con chung tay dựng nên trường này. Nhà ông không tiếc sức người sức của, thời gian đốn từng cây rừng về làm cột, đánh từng tấm tranh dựng nên ngôi trường đầu tiên có ba phòng học. Chị bạn đồng nghiệp tiếp tục kể. Những năm đầu mới giải phóng, đâu có giáo viên để đưa lên vùng xa xôi hẻo lánh này. Vợ chồng ông vừa làm rẫy vừa thay phiên nhau đứng lớp dạy từng con chữ cho trẻ con ở nơi này. Ba đứa con của nhà ông cũng là những học sinh đầu tiên của xóm rừng này.

Hai mươi năm sau. Lại nhờ một mạnh thường quân ở Sài Gòn về xây tặng một dãy lớp tường gạch mái tole, một người con của xứ sở này. Nói thế cũng đúng mà không đúng. Cậu bé ngày xưa theo gia đình lên đây theo diện kinh tế mới. Sau. Nhà cậu không chịu nổi cuộc sống ở vùng đất khô cằn này, lại trôi dạt về Sài Gòn. Giờ cậu đã là doanh nhân có tiếng có tăm. Cậu luôn đau đáu muốn một lần tìm lại thuở ấu thơ, tìm lại nơi lớn lên của một thời gian khó, đi tìm lại những gì đã mất… Thấy trường đã xơ xác. Cậu muốn đóng góp một chút gì đó cho nơi đã từng cưu mang mình.

Giữa rừng không điện, không nước, lũ học trò bữa học bữa lặn. Bao tháng rồi không nghe nói đến lương. Ái ngại, Hiên hỏi thầy hiệu trưởng, chỉ nhận được câu trả lời chua chát, “Em nào đã vào biên chế, còn phải chờ thử thách một thời gian nữa”

Lũ học trò đầu khét nắng chua lè, chân mốc cời thỉnh thoảng đến biếu cô giáo con trào cửn, mấy con cá rô. “Cô ơi, qua nhà con Tím cắt mấy tàu bạc hà. Rồi cô ghé nhà thằng Tửng bứt nắm lá giang là cô có nồi canh chua bá chấy!”. Sự cố gắng uốn nắn của Hiên cho bọn trẻ nói năng, dùng từ cho “đúng chuẩn” nhiều khi vô vọng. Đã thành tiềm thức, đã thành phản xạ, mở miệng là bọn trẻ vô tư chẳng kể đất trời. Thằng bé toét miệng cười rồi cụp mắt, rụt rè lí nhí. “Cô khoan tới nhà đòi má em tiền trường nghe cô. Cô đòi là má bắt em ở nhà mò cua bắt cá luôn quá!”.

Hiên trào nước mắt. Ngày xưa, Hiên cũng vậy. Ba Hiên thường kể, hồi ba học mà đóng trăm thứ tiền như bây giờ chắc ba Hiên thất học tám mươi đời rồi. Hiên chỉ muốn được hưởng những phút giây thần tiên như lúc thằng bé mới đến biếu cô mớ cá. Tình thầy trò, tình cô cháu hòa quyện nhau, tình người sao lai láng. Chính tình người đã giữ chân Hiên lại nơi này đến nay. Hiên đã tính bỏ chạy từ lâu rồi. Hiên chỉ muốn mình là cô giáo, là bà tiên ban con chữ cho bọn trẻ. Là bà tiên gột sạch mốc phèn để dáng người chúng ngang tầm với đôi mắt sáng thông minh. Mà nào có được. Hiên cũng muốn được như thấy cô mình ngày xưa, chỉ dạy chữ, dạy học trò thành người. Mà nào có được. Gian khổ gì, cực nhọc gì cô cũng chịu được (Hiên đã quá quen ở nhà mình rồi). Nhưng Hiên không chịu được, khi bắt ông thầy làm chủ nợ của học trò mình. Vô lớp mà Hiên cứ phải nhắc đến tiền, phải đòi tiền học sinh “thiếu nợ”, phải bắt bọn trẻ nộp hàng trăm thứ phí… Hiên xấu hổ quá. Có cái dở nào bằng chuyện, thầy vô lớp học chỉ nói tới tiền! Hiên nào muốn vậy, ở trên thì cứ ép xuống, cô chỉ là con sâu cái kiến mà thôi. Hiên ám ảnh, bọn trẻ giữa rừng ám ảnh, ba mẹ chúng lại càng ám ảnh.

Tháng trước về thăm nhà, má Hiên thắc mắc mãi. Sao bạn con dạy được ở thị xã? Tốt nghiệp loại giỏi mà con phải lên rừng? Hiên chẳng biết trả lời sao cho má hiểu. Có những sự thật đau lòng mà Hiên không thể nói ra cho má biết được. Hiên chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Mà lòng cô thật buồn. Ước muốn của cô thật giản dị bình thường, chỉ mong làm được việc mà mình thích và sống được với nghề. Mà nào có được? Hiên đã tin và nghe theo lời nói êm dịu của vị chức sắc trong ngành. “Năm nay không có chỉ tiêu. Em muốn làm việc đúng nghề? Nếu có thể được, em đi theo diện… ở… em chịu không?”. Chẳng lẽ bỏ công học ba năm trời đành thất nghiệp? Máu chảy trong người Hiên vẫn còn nóng hổi. Lửa nhiệt tình của Hiên vẫn bốc cao. Nên Hiên đã đi đến đó và Hiên đã thấy.

Dãy lớp nằm trơ trọi trên đất trống. Những cây xanh trồng vội chưa kịp phủ tán, chưa đủ tạo bóng mát cho sân trường. Mùa khô, đất xám bạc màu tơi ra thành bột. Những cơn gió trên đường du lịch ghé ngang qua thốc bụi mịt mùng vào lớp học. “Quét lớp chi cô ơi! Gió thổi là lớp dơ lại rồi!”. Lũ học trò nhao lên khi Hiên bắt chúng quét lớp vào đầu giờ chiều.

Mấy tháng nay, Hiên tồn tại được ở đây là nhờ tấm lòng của phụ huynh, của đám học trò. Người thì đem gạo. Có chị ghé ngang giả bộ, lỡ mua miếng thịt lớn quá, xin cô giáo phụ dùm một ít. Chị đi thẳng xuống bếp kiếm dao xẻ ngang miếng thịt, phần cô giáo nhiều hơn phần mình. Rồi chị te tái bỏ đi ngay sợ cô giáo nhùng nhằng chuyện tiền nong thêm khó xử.

Hiên mang nỗi buồn làm việc không lương về hỏi cái Sở đã ký quyết định phân công cô lên rừng. Một vị đã trả lời rành rẽ, ở đây chỉ chịu trách nhiệm về nhân sự. Còn chuyện tiền lương cô đến Sở… hỏi đi. Chúng tôi không chịu trách nhiệm về lương bổng. Hiên nhẫn nại chạy qua Sở nắm giữ tài chính của cả tỉnh (hình như là nơi có thế lực nhất vì nắm giữ hầu bao của cả tỉnh mà!)… thì lại nhận được câu trả lời lạnh lùng, “Chúng tôi không nhất trí chính sách X phân bố các em của Sở kia nên không có kế hoạch chi trả lương cho các em!”. Ai sẽ chịu trách nhiệm về cuộc sống, về tương lai nghề nghiệp của bao người đi theo diện chính sách này như Hiên? Cô tự hỏi rồi không tự trả lời được. Ai sẽ trả lời câu hỏi này cho Hiên? Cô cũng không biết được.

Ba giờ sáng, Hiên thu dọn vật dụng cá nhân vào túi xách. Đi hay ở lại? Ở lại hay đi? Cô đã quyết định sau một đêm thức trắng. Đâu có gì nhiều, mấy bộ quần áo, sách vở giáo viên, mấy tuyển tập truyện ngắn là đầy một túi xách. Đồng nghiệp trường này có cái hay. Ai đến đây. Những thứ nồi niêu, chén bát, thau chậu và những thứ linh tinh khác… thiếu gì thì mua nấy. Ai đi thì để lại, người sau có sẵn mà dùng. Cô thầy nào ở thấy thiếu thứ gì thì mua tiếp. Rồi có đi thì cũng để lại cho người đến sau. Cứ thế cứ thế. Nên Hiên ra đi chỉ với một túi nhỏ bên mình. Tất cả để lại cho người đến sau.

Hiên lặng lẽ dò dẫm từng bước quanh co một mình trong rừng ra lộ lớn. Đâu phải Hiên đi một mình? Đồng hành còn có nỗi sợ hãi bao trùm lấy cô. Hiên sợ ma, sợ gặp quỷ sống, sợ thú dữ, sợ đủ thứ, nỗi sợ mông lung trong đêm tối. Nhưng cô vẫn cố dấn bước. Hiên ra đi giờ này để Hiên không phải gặp ai. Mà sẽ chẳng có ai thấy Hiên bỏ đi mà không một lời thanh minh, không một lời… gặp học trò thì Hiên thấy xấu hổ, gặp những phụ huynh từng chia sẻ với Hiên những ngày qua thì Hiên không đành lòng bỏ lại.

Công việc mới của Hiên tuy vất vả nhưng vui. Hết việc thì thời gian còn lại là của cô. Hiên hoàn toàn làm chủ thời gian còn lại của mình, không ai được xâm phạm vào khoảng trời riêng đó của Hiên. Hết việc trong ngày là hết trách nhiệm là hết vướng bận. Ngày mai đến cơ quan, sếp phân công việc mới là việc của ngày mai, hôm nay không cần biết, hôm nay không cần quan tâm miễn là Hiên làm xong trách nhiệm công việc được phân trong ngày đó. Hết việc đầu óc thảnh thơi không vướng bận. Tới tháng lãnh lương không nhiều nhưng cũng đủ để Hiên trang trải cuộc sống. Muốn đủ thì đủ, muốn thiếu thì thiếu là do Hiên thôi! Không phải lo toan về cơm áo gạo tiền. Công việc của ai thì người ấy chịu trách nhiệm cụ thể, không ai có thể đùn đẩy cho ai. Rồi yêu cầu của công việc đang làm bắt Hiên phải nghiên cứu, không ngừng học hỏi. Không học là không thể hoàn thành công việc. Không hoàn thành thì bị sa thải. Mọi việc thật rạch ròi, rõ ràng mạch lạc. Chả bù cho những ngày Hiên đi dạy trên rừng, mọi chuyện đều có thể vui vẻ thông cảm xuê xoa với nhau. Tất cả đều vui vẻ, tránh đụng chạm mếch lòng mà kết quả công việc thì không đạt. Tất cả đều là thành tích ảo mà mọi người đều lấy đó bằng lòng. Vì có thế nào trong báo cáo thì cũng chẳng chết ai mà sợ. Bọn trẻ vẫn đến trường, thầy cô vẫn đến lớp, sổ sách giấy tờ vẫn sạch sẽ trơn tru là tốt rồi… có gì thì do học sinh, do phụ huynh, do vùng sâu, do khách quan… và cuối cùng trách nhiệm không thuộc về ai cả. Chỉ tội cho lũ học trò càng lên lớp cao mà trong đầu không mang theo được là bao kiến thức… 

Ngồi nhâm nhi ly café, đắm mình trong tiếng nhạc thoảng xa. Dẫu biết ly café đá ở cái quán café sân vườn nổi tiếng nhất thị xã này là đánh đổi cả nữa ngày công mà Hiên vất vả làm việc. Cô vẫn sướng vui. Hiên đã tự thưởng cho mình, một thời khắc hoàn toàn của riêng mình. Nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây, nhìn cây, nhìn lá. Lòng Hiên bỗng như lan tỏa vào không gian khoáng đãng. Hiên thấy mình như con chim đang tung sải cánh tự do giữa bầu trời cao rộng. Cuộc đời vẫn đẹp. Những tháng ngày lang thang trên đường, những nụ cười, những ánh mắt biết ơn của khách hàng mỗi khi cô làm xong công việc, mang lại niềm vui cho họ đã giúp cô nhìn ra điều đó. Giam hãm cuộc đời hay sống hết mình đều do tự mình quyết định mà thôi! Bâng quơ, Hiên đỏ mặt khẻ mỉm cười. Biết đâu chừng? Trong các nhà khách hàng cô sẽ ghé làm việc, có một người gõ cửa trái tim con gái của Hiên thì sao nhỉ?

Hiên đang bay bổng tâm hồn theo hương cà phê ngào ngạt thì bỗng cô giật mình nghe những tiếng nạt nộ vẳng từ cài bàn phía bên ngoài;

- Thằng nhỏ này kỳ quá. Tao nói không là không. Mày coi nè, giày tau còn láng o vậy nè. Tau đâu có cần phải đánh. Đi, đi ngay không tau bợp cho mày mấy cái bây giờ…

Một thằng nhỏ uể oải đứng dậy, ánh mắt vẫn nhìn vào đôi giầy của người đàn ông ăn mặc lịch sự, trong khi chủ nó mặt vẫn phừng phừng tức giận và tay thì xọc xọc mạnh ly cà phê đá…

Hiên giật thót mình. Thằng nhỏ quen quá. Dong dỏng, ốm o. Ôi, thằng nhỏ con người đàn bà mượn dao xẻ đôi miếng thịt ở ngôi trường cũ ngày nào. Hiên muốn gọi thằng nhỏ lại, nói với nó mấy câu. Cô buột miệng:

- Ê…

Thứ ngôn ngữ thị thành thấm rất nhanh vào cô. Thằng nhỏ giật mình đứng lại. Nó nhìn sang Hiên. Hai mắt nó sáng lên:

- Cô…

Tiếng nó giống như hôm nó mang đến cho cô mấy con trê vàng bắt được ở vũng sình ngoài đồng vào lúc mùa khô.

- Sao em lại ở đây?

- Cô đi rồi, chúng em không học nữa. Nghe người ta bảo lên thị xã dễ kiếm tiền. Thế là em lên. Mà dễ kiếm tiền thật, cô ơi. Khỏi cần chữ nghĩa. Quay quay vài cái được mấy ngàn. Sướng ghê cô…

Hiên gai người. Cô cũng đang kiếm tiền rất dễ nè. Nhưng một nỗi xót xa trào lên. Cô cảm thấy hình như mình là kẻ phản bội, mà trước hết là phản bội chính mình…

Thằng nhỏ lắc đầu từ chối mấy đồng bạc Hiên đưa cho và xách cái hòm đánh giày chạy vội đi mời khách…

Cuộc sống tự nó đang lăn.

Cha tôi

Nhà tôi có bốn người. Cha tôi thế hệ 5X, chớm già. Sinh năm Canh Dần, theo tuổi bà mụ, tính đến nay cha vừa tròn năm mươi chín tuổi. Hơn nửa thế kỷ có mặt trên đời thì hơn bốn mươi năm cha mặc áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. Cha tôi lấy vợ muộn và lại muộn đường con cái bởi đi chinh chiến hết miền Nam rồi lại sang Campuchia đến năm 1989 mới về nước; rồi ở lì ở Tây Nguyên, thỉnh thoảng mới về nhà.

Mẹ thế hệ 6 X, sinh sau cha 1 giáp, luôn chịu cảnh xa chồng. Nay mẹ đang ở tuổi hồi xuân rực rỡ (đấy là nhận xét của bạn cùng thời với mẹ, chứ tôi đâu biết thế nào là hồi xuân?). Có lúc mẹ mặc áo hai dây trong suốt, để vai trần, đi xe máy @. Mẹ làm chủ cửa hàng mỹ phẩm Hàn Quốc, và rất thích ngâm mình trong bồn tắm thả ngập cánh hoa hồng Đà Lạt.

Chị Mai tôi thế hệ 7X đã ba mươi năm nhìn thấy ánh sáng mặt trời; yêu ngầm thì nhiều, nhưng chưa tìm được chàng trai nào đáng làm chồng. Chị tôi mắt đen buồn, tóc xõa ngang vai, sống nội tâm ẩn mình khép kín, yêu thích phim Hàn Quốc. Tốt nghiệp đại học, chị đi làm cho một doanh nghiệp Nhật Bản, suốt ngày ăn cơm tiệm.

Tôi, thế hệ 9X - mười chín tuổi, tốt nghiệp phổ thông hạng làng nhàng, thi vào đại học hai lần đều trượt. Sống theo ý mình luôn là cảm hứng thường trực và tự do muôn năm. Mẹ tôi lúc nào cũng bận tối mắt tối mũi với Cửa hàng mỹ phẩm Hàn Quốc, chẳng để ý gì đến chuyện học hành của con mà khoán trắng cho gia sư. Sống tự do theo ý thích, tôi suốt ngày chơi bời, đàn đúm. Chỉ trong có mấy năm phổ thông trung học, tôi đã kịp đánh mất ba xe cuốc, cắm quán hai con Dream, đầu tóc thì đổi kiểu xoành xoạch; hết nhuộm hoe hoe vàng lại hấp màu lông chuột. Tôi với mẹ hợp tính ưa nết. Tôi với cha như nước với lửa, như mặt trăng với mặt trời. 

Cuộc sống nhà tôi bước sang trang mới kể từ khi cha có mặt ở nhà. Hình như mọi thứ đều đảo lộn. Hình như mọi người không hiểu nhau.

Cái bếp nhà tôi quanh năm không đỏ lửa. Thay đổi đầu tiên là việc cha bắt mẹ tôi hàng ngày phải đóng cửa hàng mỹ phẩm lúc 5 giờ chiều, về nhà sớm nhóm bếp nấu cơm.

- Căn nhà có cái bếp; cái bếp phải đỏ lửa mới ra cái bếp các con ạ. - Cha tôi lại bảo - Ngày xưa nấu toàn nồi đất chứ đâu được bếp âm, nồi i nốc, chống dính như bây giờ...

Bếp không đỏ lửa. Cha tôi buồn. Cha phàn nàn đứa con gái gần ba mươi tuổi mà vụng về, lơ là bếp núc. Bếp lạnh tanh. Nồi niêu xoong chảo để mốc, lăn lóc, toàn cứt dán. Cha mang vào phòng vệ sinh cọ rửa sáng bong. Cha bảo chị Mai:

- Cha không hiểu sau này con về nhà chồng, con sẽ nấu nướng thế nào?

Chị tôi nhấm nhẳng:

- Cha đừng lo. Con không lấy chồng đâu. Chẳng có thằng đàn ông nào đáng làm chồng con.

Cha tôi buồn suội. Nếu là tôi, ông đã "ục" liền; nhưng với con gái, cha tôi lại nhẹ nhàng, không hề cáu giận. Ngày xưa, bằng tuổi chị Mai bây giờ, bà nội đã đẻ ba bác và cha tôi rồi. Chị Mai gần ba mươi tuổi mà chưa đứng đầu đứng số, cứ sống trơ trơ bên bố mẹ. Cha tôi tỏ ra sốt ruột và lo lắng. Con gái nước Nhật lấy chồng muộn hơn; có khi còn không chịu xây dựng gia đình, ở một mình khi thích đàn ông thì cặp, chán lại bỏ; lấy chồng như đeo gông. Nhưng đấy là nước Nhật, chứ không phải nước Nam ta. Càng nghĩ, cha tôi càng buồn phiền. Giọng ông nghèn nghẹn, có phần đau xót:

- Con đừng nói thế, cha đau lòng.

Chị tôi chợt thấy ân hận:

- Lo gì cha ơi. Con có về nhà chồng thì bếp cũng không cần đỏ lửa. Con chọn chồng giàu, không phải nấu nướng, đi ăn tiệm tiện hơn. Khỏi phải rửa bát.

Mẹ tôi hóng chuyện, nói chõ vào:

- Ấy là tôi chưa duyệt. Con rể tôi mà quanh năm xa nhà như ông, thì con gái tôi vò võ chờ đợi, thèm chồng cũng héo hon gầy mòn như mẹ nó thôi.

Mặt cha tôi có vẻ rạng lên một chút và ngượng ngùng như người có lỗi, cha tôi đánh trống lảng:  

- Con thấy mẹ trách bố khéo chưa - Cha quay sang nói với mẹ tôi - Em biết rồi còn gì nữa: Anh lúc nào cũng là một người lính.

Rồi cha tôi căn dặn mẹ:

- Đồ ăn hàng ngày em đừng mua bán cầu kỳ. Ba cái đồ xúc xích, lạp sườn, thịt hun khói, ba tê... sang thì sang thật; nhưng của người Tây, không hợp với nhà mình. Cứ canh cua, cà pháo, cá bống hay thịt trâu xào rau cần tỏi, hoặc thịt lợn ba chỉ rim mắm tép như ngày xưa anh ăn ở quê là thú nhất.

Mẹ tôi cười rộn, đùa vui với cha:

- "Ông thộn" ơi! Đặc sản quý hiếm đấy. Nấu một bữa canh cua cho cả nhà ăn cũng hết đến hai mươi ngàn đồng. Một đĩa thịt trâu như anh nói không dưới bảy mươi ngàn. Để tôi đưa "ông thộn" và cả nhà đi quán "Hương quê" ăn cho tiện. Mắc quá hết hai triệu đồng là cùng.

Cha tôi chối đây đẩy, bảo ăn nhà vẫn hơn, bảo bão lụt miền Trung còn bao nhiêu người khổ hơn mình. Cha lập lại trật tự: trừ bữa trưa tùy nghi di tản, còn lại "cả nhà sum họp". Hết tiệt những ngày mẹ phát cho tôi ba chục nghìn, muốn gì tự mua nấy mà ăn. Hôm nào mải ùng oàng với thế giới games, ăn qua quýt hoặc nhịn, mẹ cũng chẳng bao giờ biết cả. Ăn uống không điều độ, bữa đực bữa cái nên tôi gầy như cái que củi.

Bây giờ đến bữa cơm, cha ngồi bên gắp thức ăn đầy bát bắt con ăn. Đứa lát chả, đứa khoanh giò, song chị em tôi khảnh ăn lại gắp ra bỏ vào đĩa. Mặt tối sầm lại, cha bảo: "Nhìn các con ăn nhỏ nhẻ, cha buồn quá. Cứ như lính tráng của cha đánh ục một cái là bốn bát cơm đầy có ngọn. Ăn được thì mới chạy nhảy, hành quân rèn luyện được; chứ như các con, nhìn cớm nắng lắm. Ngày xưa, cha chỉ có bo bo với cháo rau má. Xanh cả ruột. Năm hết tết đến mới có tí  thịt mỡ bôi mép, nhìn miếng thịt mà mắt sáng lên". 

Lại ngày xưa, cái điệp khúc ấy tôi đã nghe nhiều lần đến phát chán rồi mà cha ngày nào cũng nhắc lại. Ngày xưa cha sống kham khổ cả năm vào dịp tết mới có miếng thịt bạc nhạc... Ngày xưa cha vất vả suốt ngày đi trâu tóc cháy nắng đỏ như râu ngô, phải đi tát múc kiếm con cua con cá cờ nấu dấm, chứ không sung sướng như các con bây giờ đâu...

Những lúc ấy tôi thầm nghĩ: cha nói quá vậy thôi; làm gì đến nỗi khổ thế. Tôi chẳng tin. Cái ngày xưa của cha đi vào đầu chúng tôi rồi biến mất ngay, chẳng hề lưu lại một chút gì gọi là hình ảnh hay ấn tượng. Cha và tôi, đúng hơn là cha và cả nhà khác biệt quá nhiều thứ. Dường như bắt nguồn từ việc cha đi bộ đội, xa gia đình quá lâu. Đời sống bộ đội nghiêm nghỉ, niêm luật nhà binh ngấm vào máu cha rồi; và cha mang nguyên phong cách sống ấy về nhà.

Cha vẫn tự hào:

- Cha về nhà nghỉ hưu, nhưng cha vẫn có một tiểu đoàn quân trong thành phố. Cha ới một tiếng là các bác, các chú ấy có mặt ngay.

 Mẹ tôi bảo chồng:

- Anh đã cầm quân một sư đoàn. Bây giờ về còn cần gì nữa?

Cha bảo:

- Là anh nói: anh em cùng đơn vị phục viên, nghỉ hưu, chuyển ngành về thành phố này đông tới vài trăm người. Ấy là chưa kể cán bộ chiến sĩ trưởng thành từ sư đoàn anh chuyển công tác về các cơ quan Bộ, đương tại ngũ, đội mũ đeo sao. Lúc trái gió trở trời bằng ấy người xúm vào thì lo gì. Anh mà chết thì có cả một tiểu đoàn quân đưa tiễn.

Mẹ tôi không nói, chỉ thở dài.

Đúng là bạn bè, cấp dưới của cha nghỉ hưu, phục viên, chuyển ngành về thành phố đông cỡ vài trăm. Ông nào cưới con, đem danh sách đồng đội cùng sư đoàn X. trải ra trước mặt, bốc điện thoại lên vừa xướng vừa mời là có mặt gần đủ. Khách đến dự mặc toàn sắc phục nhà binh; cũng là dịp để các ông đương binh, cựu binh gặp nhau hàn huyên.

Cha trở về, cha mang theo nguyên hình vị đại tá tại ngũ. Sáng mới 5 giờ, cha đã gọi tôi dậy lên sân thượng tập thể dục. Cha hô một hai, một hai; con cũng hô một hai... một hai..., đến mức sáng bảnh bà hàng phố ngó đầu sang bảo: "Nhà mày đang huấn luyện tân binh a?". Mẹ tôi không giận, cứ cười ngặt nghẽo.

Cha tôi đọc báo nghe đài, xem tivi. Ông càng lo cho tôi - đứa con trai độc nhất. Nó mà dây vào nghiện hút thì không những đời nó tàn mà cả nhà khổ, ông sẽ mất con. Lúc nào, cha tôi cũng cảm thấy bất ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể... Suốt cả đời, cha tôi quen rèn luyện người khác, quen chăm lo người khác nên nó ngấm vào máu, thành thuộc tính cố hữu rồi.

Tối, cha bắt cả nhà đi ngủ sớm. Riêng điểm này thì tôi khó chịu lắm, cứ mặt nặng mày nhẹ với cha. Bấy lâu nay quen sống tự do, tôi học hành ấm ớ rồi vào mạng Internet chơi games hoặc chat với mấy đứa "chíp con" cùng lớp đến một, hai giờ sáng. Một tuần, mẹ tôi sáu ngày đến vũ trường nhảy nhót, hoặc đi uống cà phê đến khuya mới về. Chị Mai mải xem phim Hàn Quốc liên miên. Cái thứ phim toàn khóc lóc, thất tình, ung thư, hoặc bệnh máu trắng rồi ân hận, sám hối...; có gì đáng đồng tiền bát gạo mà lấy mất thời gian của chị tôi đến thế?--PageBreak--

Cha về. Cha thiết quân luật. Đừng hòng ai thức khuya quá 11h đêm. Cha bảo: "Cứ như đơn vị bố thì 9h30 là kèn báo ngủ đã tèn teng... tèn teng... Anh nào có muốn đọc nốt bài báo cũng không được; vì trực ban... tắt điện". Chị Mai tôi than thở: "Cứ thế này thì tao đến phải lấy chồng mất thôi; "chạy trốn" vào nhà bà mẹ chồng có khi còn tự do hơn".

Tuy có ca thán về cha, nhưng chị Mai thương cha vô cùng. Cái dạo chị mới năm sáu tuổi, cha về phép. Một cái khung xe đạp, một con búp bê tóc vàng, vài mảnh vải cho vợ con; vậy mà cả nhà vẫn đầm ấm, hạnh phúc, vui vẻ. Cha rất quý con gái. Ngày ấy, gia đình tôi chưa chuyển lên Hà Nội ở. Chiều chiều, cha tôi dẫn con gái đi dọc triền đê nhìn đồng quê sông nước. Hình ảnh cha vận sắc phục nhà binh, đeo quân hàm đỏ chói, bàn tay to dầy thô dắt đứa con gái nhỏ bé lích chích đi tha thẩn, nhàn hạ, thanh bình trên triền đê đầy hoa cỏ may cứ đi theo chị tôi suốt tuổi thơ đến bây giờ.

Nhưng, ám ảnh, sợ hãi nhất là khi cha khoác balô trả phép. Ngày ấy, bên chiến trường Cămpuchia đánh bọn Pôn Pốt vẫn đang ác liệt. Cha phải đi, bên ấy có nhiều việc đang chờ. Con gái và cha vừa ấm hơi, quen nhau thì cha đã ra đi. Cha không muốn mẹ đưa ra tận ga tàu, cha sợ những giọt nước mắt sụt sùi. Mẹ và chị tôi tiễn chân cha ra đầu làng. Cha âu yếm nhìn vợ, rồi ôm hôn con gái. Cha bảo mẹ tôi: "Em và con về đi".

Cha thả con gái xuống và quay lưng rảo bước; những bước chân dài đạp trên đá mạt rào rạo, vội vã, thỉnh thoảng quay lại vẫy vẫy tay. Bỗng chị tôi khóc thét lên và cùn cụt chạy theo cha. Cha tôi quay lại ôm choàng lấy con gái. Nước mắt chị tôi nhoen nhoét vào gương mặt dãi dầu từng trải của cha. Mẹ tôi bảo: "Hay anh ở lại, mai hãy đi". Cha tôi bảo: "Em đừng buồn. Anh mà ở lại thì anh không đi được nữa. Thôi nào con, cho bố đi nào". Cha chuyền tay trao con gái cho vợ; rồi quay gót. Lần này, bước chân ông quả quyết, thật nhanh, không ngoái đầu nhìn lại. Mẹ và chị tôi thầm thũi khóc nhìn bóng cha tôi cứ xa dần, mờ dần.

Hầu như tôi không có kỷ niệm ấu thơ với cha. Cha nhẹ nhàng với con gái bao nhiêu thì nghiêm khắc với con trai bấy nhiêu. Hễ lần nào tôi đi học luyện thi về là cha hỏi han từng li từng tí: "Hôm nay con học môn gì? Con có tiếp thu được không?...". Tất nhiên, tôi khó chịu ra mặt, trả lời qua loa đôi chút. Lúc cha chưa về, mẹ chẳng bao giờ xét nét tôi như thế.

Mẹ tôi đi làm, buổi sáng nào nhanh cũng hết ba mươi phút trang điểm. Có hôm mẹ mặc váy ngắn trên đầu gối; vai mẹ để trần, môi và móng tay tô màu trầm. Cha bảo mẹ, giọng buồn buồn, nhưng kiên quyết lắm". Em còn trẻ trung gì nữa đâu. Để đôi vai trần cho đám đàn ông nhìn, chướng lắm." Mẹ không nói gì. Chỉ thấy sau hôm đó, mẹ mặc đồ dài tay, cao cổ và không bao giờ đụng đến váy. Nhẫn mặt đá, dây chuyền, vòng ngọc... mẹ không đeo bỏ tất cả vào hộp... niêm phong. Mẹ ngoan quá, biết nghe lời chồng, biết hạ cơn nhiệt của người mình thương yêu. Nhưng tôi đã nhầm...

Một tuần sau ngày cha "thiết quân luật", tôi cố tình quên để chuông đồng hồ đánh báo ngủ 10 tiếng. Tôi miệt mài rồi bị cuốn hút bởi mấy nhân vật trong trò chơi Võ lâm truyền kỳ với những Thiếu lâm, Võ Đang, Đường môn... đầy máu lửa. Cha đến đằng sau mà tôi chẳng hề hay biết. Đang hào hứng, tôi như lên đồng cùng Võ Đang thì cha tắt - bật ổ cắm dây điện ba lần, màn hình tắt ngúm. Tôi sửng sốt ngước nhìn lên. Cha nghiêm nét mặt, buông lời lạnh tanh, kiên quyết: "Cha đã nói con bao nhiêu lần rồi? Về phòng ngay. Đi ngủ". Nghẹn cổ. Chân bước nặng như đeo đá, tôi còn nghe được tiếng mẹ khóc thút thít vọng ra qua cửa buồng ngủ. Tôi chui vào màn cứ tưởng đang ở tù.

Nhà tôi như trại lính, mà cha là vị tướng chỉ huy cao nhất. Cha bảo: "Đừng để cái thân lười nhác. Lao động cho khỏe người con ạ". Cha bắt chị em tôi phải làm những việc vặt mà trước đó chẳng bao giờ phải mó tay vào: quét nhà, lau bàn ghế, cọ rửa phòng vệ sinh... Ngày trước, mẹ thuê ôsin mỗi tuần hai lần đến lau chùi toàn bộ căn nhà để anh em tôi có thời gian học. Nhưng mẹ nào có biết tôi đã lơ là việc học từ lâu lắm rồi.

Về nhà tôi sống với thế giới Võ lâm truyền kỳ, bài tập cô giáo ra mười bài thì bỏ chín. Đến lớp lại ngồi mơ màng nhìn mây nhìn lá cây ngoài cửa sổ, và thường ngủ gà gật vì thức khuya. Kiểm tra thì toàn quay cóp đứa ngồi bên cạnh; lúc "quay phim" được thì điểm 9 điểm 10 đỏ tươi; lúc thầy cô coi thi gắt quá thì điểm 2 điểm 3 xám ngắt. Lại một mùa thi đại học sắp đến gần mà trong đầu tôi kiến thức thực chất gần như là số 0.

Thằng con lêu lổng dần dần hiện lên rõ nét trong đôi mắt cha quen nhìn lính tráng chỉnh tề răm rắp. Cha giận lắm. Ông thở dài, trách mắng tôi mải chơi không biết thương mẹ. Cha giận cả mẹ vì không để ý gì đến con cái, tối ngày chỉ ăn diện.

Mọi nếp sống tự do đều thay đổi, tôi có cảm giác bị gông cùm, lẽ dĩ nhiên tôi bực mình và khó chịu lắm. Tự nhiên có một ông già xa xưa, cũ kĩ, khó tính như từ trong chuyện cổ tích đi ra làm đảo lộn cả cuộc sống của mình thì bố ai chịu được. Quả thật, cha là "người âm lịch" hết nói và nhiều khi rất buồn cười và đáng thương hơn giận. Cha như ông già Khốttabít đi vắng xa trái đất mấy trăm năm nay bỗng dưng nhớ quê trở lại. Nhiều lúc cha làm mẹ con tôi phát cười đến rung rốn vì sự quê mùa của ông.

Lọ sữa tắm Flex đượm mùi nhân sâm mát da thơm thịt, giá tám trăm nghìn đồng của mẹ thì cha lấy ra gội đầu. Nhanh hết quá, mẹ không biết cứ cằn nhằn cái Mai trẻ con sao dùng sữa tắm của người lớn. Xoong chảo trong nhà, cha lấy búi giẻ sắt đánh làm bay cả lớp mạ chống dính. Cha thích nghe các bài hát "Hành quân đêm", "Lá đỏ", "Hãy yên lòng mẹ ơi"... và các điệu chèo làng Côi Trì. Còn chúng tôi thích nghe nhạc rốc thì cha bảo tắt đi chờ cha sang nhà bạn đánh cờ tướng thì hãy mở kẻo rác tai cha...  

Chiều muộn trên thành phố. Ánh nắng cuối ngày sắp tắt trên những khối nhà bê tông thì đứa bạn gái cùng lớp tôi đến chơi. Cha tôi không thiện cảm với cái mặt lấc cấc và cái đầu cắt tóc ngắn dựng đứng, nhuộm đỏ hồng như cầu thủ Gionmar người Thụy Điển. Của đáng tội, con bé cũng hơi bất nhã vì áo lưới ngắn tũn hở cả cái rốn lồi đeo vòng khuyên bạc (nhưng cha không biết nó đang là mốt bây giờ).

Vừa đến cổng nó tưởng như mọi khi bấm chuông inh ỏi. Cha tôi ra mở cổng - ông đại tá về hưu ra đón khách; thấy nó, chưa gì ông đã phủ đầu, hỏi dồn dập như bắn súng liên thanh: "Cháu tìm ai? Cháu con cái nhà ai? Cháu đã là Đoàn viên thanh niên cộng sản chưa?...".  Sau một hồi tra lên hỏi xuống, căn vặn kỹ càng ông mới cho nó vào nhà.

Cứ tưởng yên chuyện rồi, nhưng không ngờ ông chẳng để cho chúng tôi một không gian của riêng mình. Ông bảo hai đứa tôi ngồi ở phòng khách nói chuyện đoàng hoàng. Ông xách phích nước ân cần đưa cho tôi pha nước mời bạn uống. Ông mở toang cửa chính, cửa sổ cho ánh sáng tràn vào... cứ như sợ chúng tôi làm gì mờ ám trong bóng tối. Hai đứa chúng tôi nói chuyện mà cứ mắt la mày lét ngó trước nhìn sau. Thỉnh thoảng cha tôi lại đảo qua một tí, có ý như nhắc nhở "Sắp thi đại học đến nơi rồi, cháu về đi cho con bác học bài". Ngày cha chưa về, tôi đưa bạn gái lên phòng riêng chơi cả buổi có chuyện gì xảy ra đâu. Cha tôi phòng xa quá, ông đem cách đánh nhà binh về phòng bị ngay cả trong nhà mình.

Đến tận lúc về, con bé bạn tôi còn chưa hết hãi:

- Khiếp! Ông già mày ghê quá. Hỏi tao mà cứ như mật thám hỏi cung các chiến sĩ cộng sản trong nhà tù đế quốc thực dân ấy.

- Bố tao nghiêm thế. Nhưng mà thương vợ con và mọi người lắm.

- Tao đếch thích kiểu thương ấy. Bận sau nếu có chuyện gì tao với mày ra quán cà phê cho tiện.

Cánh cổng khép lại. Tôi mang theo nỗi ấm ức của thằng con trai mới lớn:

- Cha cứ như thế này thì con hết bạn, hết chỗ chơi. Từ bây giờ có giời bảo cũng chẵng đứa nào dám đến nhà mình cả.

- Mẹ con con ăn uống, đi lại, ngủ nghỉ, chơi bời không ổn chút nào. Ma túy, tệ nạn xã hội đầy ra đấy. Các con còn non nớt. Rất dễ sa ngã.

Tôi tức quá cãi lại:

- Bao nhiêu năm qua không có cha, mẹ con con vẫn sống tốt cơ mà. Cả cuộc đời cha ở trong quân đội, ngoài việc sinh ra bọn con cha đã làm được cái gì cho cái nhà này chưa mà cha trách mắng mọi người...

Nói chưa dứt, mắt tôi đã hoa cả lên. Một cái tát nổ đom đóm mắt từ bàn tay thô ráp quen cầm súng nhà binh. Tôi ngã dúi. Cha quát to:

- Chả nhẽ cha đi bộ đội bao nhiêu năm là để mày nói với cha bằng cái giọng chợ giời ấy hả? Bà ấy đâu rồi? Con hư tại mẹ.

Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Bà tôi mất từ lâu lắm rồi, còn mẹ ở cửa hàng mỹ phẩm vẫn chưa về, chị Mai ngoan ngoãn thì đi học thêm Anh văn. Dường như lòng tự trọng của đứa con trai mới lớn chấm hết. Tất cả kìm hãm, dồn nén sự khó chịu của tôi từ lúc cha về đã quá đủ. Tôi cãi lại cha và tôi lao khỏi nhà. Tôi bỏ đi lang thang trên phố.

Đêm tôi không về. Sau này, khi "trời yên biển lặng", tôi mới biết: Suốt đêm ấy, cha lo lắng sợ tôi dạt vòm đi bụi đời. Ông điện thoại báo hung tin về thằng con quý tử bỏ nhà cho bạn bè, đồng đội đã phục viên, xuất ngũ, nghỉ hưu biết. Người nọ vội vã gọi người kia lan truyền theo cấp số nhân; như thể ông đã huy động gần hết một "tiểu đoàn quân" đi tìm... tôi

Thịt gà rang (hồi ký)

Dinhhaphotographer viết ngày 13/02/2012 |  Có 3 bình luận |  176 lượt xem

Một con gà chết rồi ba ơi...!

  Tôi réo gọi ba trong ánh bình minh leo lét  của một ngày đông giá buốt khi nhìn thấy trong chuồng gà nhà tôi anh gà trống nổi tiếng hào hoa nằm ngay đơ hai chân duỗi thẳng...

 Nổi tiếng hào hoa vì trong chuồng gà nhà tôi ngoài ba ả gà mái ra anh là người đàn ông mạnh mẽ nhất, hào hoa nhất và duy nhất chỉ mình anh biết gáy.

 Tôi đánh giá anh hào hoa bởi mỗi buổi sáng tôi đổ cám vào máng thì anh không vội ăn ngay mà thường lấy mỏ gắp từng sợi rau giơ lên cao nghiêng ngó xem có đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm không , sau khi đã chắc chắn đó là cọng rau sạch rồi anh mới lịch thiệp nghêng người thả xuống sàn chuồng và khẽ kêu .túc..túc..túc...tu..c...thế là ngay lập tức ba ả gà mái xô đến dành dật cuộng rau rồi một ả ngã bổ chửng vì mất đà sau khi giằng mạnh cuộng rau từ hai ả nọ, ả vừa giãy vừa nuốt nom đến buồn cười.

 Anh gà trống lịch sự và hào hoa của tôi lúc đó chỉ nghiêng nghiêng cái đầu đứng xem ra chừng rất lấy làm tiếc rồi trong lúc một trong ba ả gà mái sơ hở ,nhanh và nhẹ như cơn gió ban mai anh lao thẳng tới và phốc nhẹ lên lưng một ả, Ả nọ xù lông rũ rũ cố làm ra vẻ khó chịu khi anh làm song cái việc duy trì nòi giống ấy rồi lại nháo nhác bươn bả tìm xem trong máng còn cọng rau nào tươi không...và anh gà chống hào hoa của tôi lúc đó oai nghiêm đập cánh phành phạch cất tiếng gáy vang gọi mặt trời....

....Vậy mà sáng nay..anh nằm ngay đơ,hai chân duỗi thẳng, mắt trợn ngược, mỏ há ra mào tím ngắt. Mấy ả gà mái đi quanh anh lặng lẽ ,thỉnh thoảng một ả dừng lại mổ mổ vào cánh anh ra ý lay gọi nhưng anh lặng thinh chả thèm đáp lại.

  Tôi cứ đứng lặng như thế nhìn anh gà trống mà tôi hằng ngưỡng mộ nằm ngay đơ dưới sàn chuồng mà không biết ba tôi đã đứng bên cạnh từ lúc nào

 - Nhóm củi đun ấm nước sôi- ba nói và tôi hiểu việc cần làm

 Tôi lấy mạt cưa trong chíêc bao tải rách dựng nơi góc bếp đổ vào cái kiềng một chân gãy được kê bởi một mảnh ngói nhỏ, lấy tay gạt mạt cưa sang hai bên tạo thành một hình lòng chảo, đổ vào giữa một chút dầu hoả cho dễ cháy rồi bật diêm châm lửa....ngọn lửa nhỏ ấm áp sực mùi  dầu và mạt cưa ẩm bốc lên khét lẹt ngai ngái.Với tay lấy vài cành xà cừ khô chất chéo nhau trên ngọn lửa mới nhóm, đặt lên đó cái siêu nứơc bám đầy mồ hóng đen ngòm rồi huơ huơ hai tay trên lửa cho đỡ lạnh , lòng vẫn miên man nghĩ về anh gà trống hào hoa.....nằm lạnh cóng..hai chân duỗi thẳng...mỏ há ra...

 - Để bếp đấy ra giúp ba một tay- ba tôi gọi.

 Tôi bỏ siêu nước lại đó và chạy vụt về phía ba gọi, tôi thấy ba tôi đang cố lôi anh gà trống  ra khỏi cái cửa chuồng chật hẹp, anh gà trống thì như vẫn tiếc rẻ ba ả gà mái của mình nên  anh dang đôi cánh lạnh queo cứng ngắc mắc vào hai bên cửa chuồng  ý chừng khi anh chết thì cũng phải chết tại nơi đây....

 - Kéo cái cánh nó ra cho ba -ba tôi nói như ra lệnh.

 Tôi thò hai bàn tay qua nan chuồng và gỡ đôi cánh của anh gà trống đang mắc vào nan tre đoạn ấp hai cánh vào bụng để ba tôi dễ dàng lôi anh ra ngoài...

    Ba ả gà mái nhìn theo mắt lấc láo dò xét...

 Tôi vung chân đá mạnh vào cánh cửa chuồng bằng sắt hoen rỉ được đan bằng những ô thép mắt cáo cũng rỉ hoen , cánh cửa ập lại trước những ánh mắt láo lơ của ba ả gà mái và cảm thấy trong lòng thấy khoan khoái vô cùng...

  Cho đến tận lúc này tôi cũng không thể lý giải nổi cái cảm giác khoan khoái của tôi  lúc đó...khi vung chân đá mạnh vào cánh cửa chuồng gà...có lẽ tôi nghĩ về sự phản bội...sự bạc bẽo của ba ả gà mái kia  hoặc cũng có thể là...tôi hình dung ra những khuôn mặt bơ phờ vì khóc quá nhiều trong những đám tang nhưng lại cười nói rôm rả sau những mảnh khăn xô trên đường từ nghĩa trang về của những người hàng xóm quanh nhà tôi ... khi mà người chết vẫn còn nằm chưa ấm chỗ....

  Lại đây giữ cái cánh nó cho ba- ba tôi gọi, tay liếc liếc con dao trên trôn bát.

  Tôi bỏ mặc ba ả gà mái  vừa goá bụa chạy đến bên anh gà trống , khẽ khàng ngồi xuống , tay trái cầm chân , tay phải cầm cánh anh giơ cao lên dốc đầu anh xuống cái bát mà ba tôi dùng mài dao hồi nãy, anh gà chống lạnh ngắt chẳng buồn giãy giụa nhưng khi tôi lôi cánh anh ra thì anh có vẻ như muốn co lại vì rét...

 Ba tôi vặt một đám lông bên tai anh miệng lẩm nhẩm "sống cắt tai...mái cắt cổ" rồi dùng con dao vừa mài  cứa ngang một nhát sắc lẻm dưới tai anh chừng một centimet...một vết cắt dài trắng ởn há ra nhờn nhợt dưới ánh bình minh nhợt nhạt...ba tôi cắt mạnh thêm nhát nữa, cái đầu của anh gà chống ngoẹo sang một bên nom rõ cả cuống họng...

  Con gà này chắc chết từ chập tối - Ba tôi chép miệng -máu nó đông lại hết cả rồi.

  Tôi chạy vào bếp nhắc ấm nước đang sôi lạch cạch trên bếp  rồi nhảy chân sáo trở lại chỗ ba ngồi, ba tôi đã bỏ anh gà trống vào cái chậu làm bằng cao su và đỡ ấm nước sôi trên tay tôi, ông mở vung rồi chế thêm vào đó chừng nửa bát nước lạnh - cho nó đỡ tuột da con ạ -ông vừa dội nước đều đều lên người anh gà trống vừa giải thích.

  Hình như nước nóng đã làm anh gà trống hồi tỉnh, anh vuơn cổ lên trên chậu nước, duỗi dài đôi chân vàng óng ra chiều khoan khoái lắm , anh tiếp tục dang một bên cánh ra rồi khẽ co lại giật giật liên hồi...

                                                            *********

 .....Tôi vắt chân lên cổ chạy về nhà khi trống tan trường chưa kịp dứt, quăng đại chiếc cặp vào góc nhà và chạy nhanh xuống bếp mở vung nồi, chao ôi ngon làm sao ...những miếng thịt gà màu đen chắc nịch gối lên nhau ngầy ngậy thơm xực nức mùi gừng ...và một âu cơm nóng hổi ủ trong chiếc áo bông rách đặt ngay gần đó

 Không nhớ nổi hôm đó tôi đã ăn bao nhiêu bát cơm với cái món thịt gà rang ngầy ngậy xực nức mùi gừng thơm và cay xộc lên mũi như thế, chỉ đến khi thấy cái đầu của anh gà trống nổi tiếng hào hoa lăn lóc một góc nửa như khóc nửa như cười tôi mới dừng lại và chợt nhớ tới câu chuyện sáng nay cùng cái kết cục bi thương của anh gà trống , lấy tay gom những mảnh xương vừa ăn tôi mang ra thả vào máng gà, một ả gà mái ngó nghiêng lấc láo rồi lấy mỏ gắp nhẹ một miếng xương vào chuồng ra ý thăm dò, lập tức hai ả còn lại lao tới...một trận hỗn chiến xảy ra, những chiếc lông vũ bay tứ tung và cuối cùng một ả gà mái cũng dành được miếng xương , ả bị mất đà ngã dúi vào góc chuồng...vừa giãy vừa nuốt trông đến buồn cười.

                                           ***************************************** 

(Cái thời của chúng tôi đói nghèo lạc hậu đè nặng lên cuộc sống của mỗi gia đình.Ngày ấy không ai biết "con " H5n1 là con gì ..chỉ gọi chung chung là gà toi, gà rù và gà chết qua đêm cũng là đặc sản bởi ngày thường không ai tự nhiên dám thịt cả một con gà)

Cái mái nhà (hồi ký)

Tôi đã viết về ngôi nhà nơi tôi sinh ra như thế khi tôi còn là đứa trẻ chừng mười một mười hai tuổi, với cách gieo vần thật ngô nghê nhưng lúc này nhớ lại thì chỉ với hai khổ thơ thời thơ bé đó đã tái hiện trong tôi cả một thước phim rõ mồn một,chi tiết đến từng lỗ thủng trên cái mái nhà lợp giấy dầu và cả những vật dụng nghèo nàn cũ mọt được che chắn bao bọc bởi bốn bức tường bằng đất bùn trộn rơm mục nát sặc mùi ẩm mốc ...ngôi nhà dấu yêu đã trở che tôi suốt những năm tháng tuổi thơ.

Và câu chuyện về cái mái nhà đầy những lỗ thủng , những đêm mưa lạnh tái tê triền miên suốt mùa bão lũ với bao nhiêu hồi ức tuổi thơ tôi bỗng hiện về trong tôi đêm nay.... tất cả bắt đầu từ mấy cây xà cừ.

                                                               ****

 Khi tôi chừng sáu, bảy tuổi,biết cảm nhận lờ mờ về cuộc sống thì những cây xà cừ với cái vỏ mốc thếch thô nhám đã đứng sừng sững hai bên đường ngay sát nhà tôi tự bao giờ.Cây xà cừ thật lạ, vào những ngày nắng to lớp vỏ cây mang cái màu mốc trắng khô nẻ như da chân của những cụ già mắc căn bệnh á sừng  nhưng lại xanh mướt rêu phong đầy hoài cổ trong những ngày mưa bão...cái mùa kinh hãi in đậm trong tuổi thơ tôi...môt tuổi thơ nghèo đói....thiếu  thốn trăm bề.

 Đêm nào cũng vậy ba tôi buông màn cho lũ con ngủ lúc khoảng mười một giờ đêm ...khi mà tiếng gió mưa hu..hu..hu..u ....u..u...rạt ..rạt ...rạt..rạt... vọng xuống từ những tán xà cừ cổ thụ đen ngòm.

 Ba tôi lật lật bốn góc cái chiếu rách  để giắt vào đó phần dưới của cái màn xô có nhiều lỗ thủng trên cái giường có một chân bằng gỗ và ba chân còn lại được kê bằng những viên gạch đủ loại,nhiều kích cỡ mà ba nhặt được ở đâu đó mỗi khi về nhà.

 Cái màn ấy mắc lên không phải dùng để ngăn muỗi đâu nhé,bởi vì nó đã tả tơi với hàng chục lỗ thủng to,to đến độ những con dơi với bộ sóng siêu âm thính nhậy đến thế còn bay nhầm cả vào trong màn khiến tôi tưởng ma la hét toáng lên trong đêm và bị ba mắng cho một trận tơi bời vì tội..." con trai gì mà nhát gan thế...con dơi chứ có phải quỷ đâu....."

 Ba tôi nào hiểu được trong giấc ngủ chập chờn bị con dơi bay vào mặt ,nhoáng nhoàng bật dậy la hét nào đã kịp nhìn ra là dơi, quỷ .... hay ma.

 Ba tôi căng cái màn rách nát ấy lên chỉ để đỡ lấy những giọt mưa đêm lạnh buốt rơi từ trên mái nhà xuống ,căng cái màn xong và gài chặt bốn góc, ba tôi lấy một tấm vải mưa cũ kỹ cẩn thận để trên nóc màn và kéo đều bốn góc tấm vải mưa ra bốn phía, đó chính là "tuyệt chiêu"của ba tôi để ngăn những hạt mưa lạnh từ những lỗ thủng trên mái nhà rơi vào đàn con bé dại đang thiêm thiếp say nồng với những giấc mơ hồng  trong mùa bão lũ.

                                                         *****

 Có đêm tôi mơ thấy tôi bơi...bơi trên một khúc sông lạ.Nếu ai đã từng bơi trên một khúc sông lạ thì sẽ hiểu cái cảm giác mơ hồ của nỗi sợ hãi phập phồng , hoang mang  vô cớ...như sắp bị một con quái vật rút chân xuống đáy sông lạnh ngắt hoặc ít nhất cũng bị một con vật gì đó ( tôi chưa tưởng tượng ra) cắn vào chân mình....lôi đi....

 Và tôi đã kêu lên thất thanh...."ba ơi...ba ơi..!" với một tiếng kêu tuyệt vọng khi tôi bị một con quái vật cắn vào chân và lôi xuống đáy sâu thực sự.Những xoáy nước lạnh lẽo hút tôi xuống, tôi cố vùng vấy và  cố gào lên..."ba ơi..cứu con ba ơi..!!"

  Một cái tát mạnh vào má, một vòng tay ôm chặt lấy tôi , kéo tôi thoát khỏi đáy  sông lạnh lẽo...tôi choàng tỉnh và thật lạ...toàn thân tôi ướt nhèm lạnh cóng như vừa mới được vớt từ đáy sông lên...thật vậy.

  Tôi ngước nhìn ba tôi đang lúi húi buộc lại cái góc màn bị nước mưa đọng trên đó suốt một đêm quá nặng làm đứt và tôi bỗng hiểu ra những xoáy nước nhấn chìm tôi xuống đáy sông hoá ra là từ cái áo mưa cũ trên nóc màn đã hứng chịu suốt đêm những giọt mưa rơi xuống qua lỗ thủng trên mái nhà ...những lỗ thủng được tạo lên bởi những quả xà cừ rơi xuống mỗi khi gió về.

                                                              ********

 Đọc đến đây chắc có bạn sẽ nghi ngờ và hỏi tôi:"Sao không kê cái giường ra chỗ khác cho đỡ mưa dột" hay "mái nhà gì mà chỉ vài quả xà cừ to chưa bằng nắm tay trẻ con rơi xuống đã thủng..???"

 Vâng tất cả những điều bạn lập luận đều đúng cả....nhưng cái giường ấy như tôi đã kể chỉ có một chân bằng gỗ, ba chân còn lại được kê bằng những viên gạch đủ kích cỡ, chủng loại mà ba tôi mang ở đâu đó mỗi khi về nhà và nếu có tháo ra kê chỗ khác thì có lẽ nó sẽ không còn là cái gường nữa mà nó sẽ biến thành ..chất đốt chẳng hạn....thôi thì cứ để kệ nó nằm đó và tên nó vẫn là "Giường"

 Còn chất liệu để lợp lên mái nhà ư..??? Đó là một loại giấy có lõi bằng bìa cacton mỏng chừng 2mm sau đó đuợc phủ lên hai mặt hai lớp kết dính tựa như nhựa đường...và thế là bỗng dưng cái mái nhà  với hai mái xuôi xuôi rộng chừng bốn mươi mét vuông ấy trở thành chỗ nô đùa trong trò chơi tung hứng của những quả xà cừ bé nhỏ như nắm tay trẻ thơ tung tăng  nhảy xuống từ độ cao vài chục mét mỗi khi mưa bão về.

 Bộp....bộp bộp...bịch bịch..bịch...là những âm thanh vui nhộn với tôi vang lên đều đặn hàng đêm trên mái nhà mỗi khi mưa bão đến nhưng không hiểu sao tôi luôn nhìn thấy nỗi buồn dâng kín ,ngập tràn trong khoé mắt ba tôi sau cặp kính lão mờ mờ trong làn khói thuốc bay bay mỗi lần nghe tiếng rụng của một quả xà cừ bé nhỏ.

 Những tiếng..tong ...tong ..tong....là tiếng của những giọt mưa rơi qua lỗ thủng trên mái nhà xuống cái chậu nhôm hứng bên dưới nền đất nện, những tiếng ...peng..peng...peng...tang ...tang..tang...là những hạt mưa rơi trệch  xuống miệng  chiếc thau đồng có một vết rạn chạy dài vòng  quanh ....những  tiếng tạch..tạch..tạch.tạch..là những hạt mưa rơi xuống mảnh vải mưa mà đêm nào ba tôi cũng cẩn thận kéo đều bốn góc trên cái nóc màn xô cũ nát được căng lên bằng nhiều loại dây nối buộc đủ sắc màu.

 Tôi đã lớn lên dưới cái mái nhà dột nát ấy trong những âm thanh ẩm ướt lạnh lẽo rơi rơi qua  những lỗ thủng hằng đêm ấy...những âm thanh trầm lạnh đã ru tôi trong những giấc mơ dài lạnh lẽo tuổi thơ trong ánh mắt ba tôi với làn khói thuốc đầy suy tư trăn trở hằng đêm sau cặp kính lão ướt mờ.

                                                        *******

 Tiếng mưa rơi tí tách từng giọt lạnh buồn trong đêm vắng, tiếng gió lùa lạt xạt lạt xạt trên vòm khế  ngoài hiên.....lại nữa một đêm mưa nữa ba ơi..!!!cái mái nhà nơi con ngồi đêm nay không còn mưa dột nữa nhưng con vẫn thấy những giọt mưa lạnh buốt đâu đó  từ những lỗ thủng của mái nhà xưa rơi xuống ...rơi xuống từng giọt buốt lạnh trong hồn.

Khách quê (hồi ký)

Dinhhaphotographer viết ngày 28/02/2012 |  Có 9 bình luận |  93 lượt xem

  Đó là những người bạn của bà cô ruột tôi từ Thanh Hoá ra cùng với cô.

 Cô ruột của tôi vốn là người Hà Nội , lấy chồng rồi theo chồng về Thanh Hoá và sau nhiều năm cô sống ở đó, trong tiềm thức của tôi đứa trẻ 11 tuổi cô là một người quê Thanh Hoá thực sự .

  Tôi vẫn nhớ như in những lần cô ra Hà Nội,hành trang cô mang theo là vài quả dừa khô gói trong một cái bao tải rách (cái bao tải rách ấy cô sẽ dùng để đựng đầy một bao mì sợi mà ba tôi cho cô khi trở về quê)

 Cô luôn mặc một chiếc áo nâu vá chằng vá đụp và chiếc quần lụa cũng vá đụp vá chằng, hai tay cô luôn xoa vào nhau , hai chân cô cũng xoa vào nhau như thế và mắt cô luôn cúi nhìn xuống đất hoặc liếc ngang thật nhanh về phía ba tôi khi ông cúi xuống rót trà . Tôi biết cô rất sợ ông .

- Năm nay mùa màng thế nào - ba tôi hỏi mà không bao giờ nhìn cô ,có lẽ bởi ông đã quá quen với cái điệp khúc quen thuộc ê a

 -Dạ ....hoa màu năm nay mất trắng cả...mấy bữa rồi sương muối nhiều quá...định mang biếu bác con gà nhưng mới dịch chết toi cả...đàn...

 - Mai tao bảo chị (ý ông nói mẹ tôi) mua cho bao mì sợi rồi về sớm luôn nhá...mà từ bận sau thì ra một mình thôi,ông nói và liếc ánh mắt chán chường về phía  gần chục cái ba lô , bao tải lăn lóc một góc nhà.

 - Dạ đây là mấy người làng đi buôn chè , là cháu ông.... Năng...con của bác cả Vại phó cối ...năm ngoái có ra đây biếu bác gái cái cối đá....nhân tiện ghé thăm sức khoẻ hai bác và các cháu...

 - Thôi rửa ráy chân tay, chuẩn bị đi mà ăn cơm  - Ba tôi nói và cắm cúi đạp nhanh hơn cái bàn đạp máy khâu con bướm (nhà tôi có nghề may đồ quân khu rởm bán tại chợ Nguyễn Thiệp thời bao cấp)

 Tôi biết rất rõ khi cô tôi cun cút đi về phía cái thùng phuy Liên Xô chứa nước máy đặt ở góc sân thì lần nào ba tôi cũng bỏ cặp kính lão xuống bàn máy khâu ,  rút một điếu thuốc lá Sông Cầu và bật diêm châm sau khi đã lấy miếng vải phin màu bộ đội  ngâm nước cơm đã khô queo  chấm chấm mắt và lau lau cặp kính ( ba tôi thuờng mua loại vải phin trắng mỏng như vải xô , đem nhuộm màu bộ đội rồi dùng nước cơm "hồ" cho vải cứng sau đó  là phẳng rồi đem cắt may thành quần áo bộ đội, mẹ tôi thì mang ra chợ bán buôn cho con buôn tỉnh lẻ,. Loại quần áo mà ba  tôi "sản xuất" ra chỉ cần giặt một nước thôi là lại trở về với thời nguyên thuỷ của nó).Những lúc cô  tôi đi xuống sân như thế ba tôi thường châm điếu thuốc đến bốn năm lần mới cháy.

 Rồi bữa cơm tối cũng được bầy ra trên chiếc chiếu giữa sân, có trứng vịt  rán thìa là, có rau cần  xào và có cả thịt ba chỉ rang cùi dừa ( Tôi biết mẹ tôi đã phải rất vất vả để xoay sở những món xa xỉ này  nh­­ưng  món tôi khoái nhất là món cùi dừa rang cháy cạnh  mà cô tôi mang từ Thanh Hoá ra)

 - Mời bác xơi ạ  - một ông khách mà tôi chả bao giờ nhìn thấy trên  đời này gắp miếng trứng rán được cắt vát hình chữ v thả vào bát ba tôi.

 - Mời bác cứ tự nhiên ạ, tôiđang hút dở điếu thuốc - ba tôi nói và rất nhanh tay gắp lại miếng trứng vào bát của ông khách lạ kia.

 Cứ gắp đi gắp lại ba bốn lần như thế ,sau vì có lẽ  quá nể ba tôi nên ông khách kia đành nhượng bộ để miếng trứng rán nằm tơ hơ trên cái bát trống không của mình với vẻ mặt rất no nê bất cần, ông không ăn ngay mà chống đũa hỏi chuyện ba tôi trong khi cái yết hầu của ông cứ chạy lên chạy xuống trên cái cổ đỏ lừ gân guốc như gà chọi.

 -Các bác ở ngoài này sướng thật, hễ chạy ào ra chợ một cái là có tất - Ông cười ra vẻ thoải mái lắm ...cứ như nông dân chúng em thì phải trồng , phải nuôi hàng năm trời mới có ăn ...chưa kể mất mùa ....  Ông khách lạ ngừng nói rồi gắp miếng trứng rán lên dập dập mạnh hai ba lần vào bát nước mắm mặn chát nổi lều phều vài miếng ớt rồi bỏ tọt vào miệng ông vừa nhai nhồm nhoàm vừa với tay vớ chén rượu tợp một ngụm to.

 - Mời bác xơi..bác xơi đi ạ....ông khách lạ lại gắp cho mẹ tôi một miếng thịt ba chỉ cháy cạnh - Nhà quê chúng em là không làm khách đâu nhé - ăn đi cháu , ăn đi mày - Miệng nói tay ông gắp cho tôi một miếng thịt ba chỉ đầy mỡ bầy nhầy.

  Chả hiểu sao hôm đó tôi thù và ghét ông khách quê ấy đến vậy..? có lẽ cũng bới ông  không hiểu tôi đang thích ăn dừa mà ông lại vô duyên gắp cho tôi miếng thịt ba chỉ (tôi vốn không ăn đựơc thịt mỡ mặc dù thời bao cấp thịt là món xa xỉ) Hay vì tôi nhiễm căn bệnh của ba tôi..."ghét khách nhà quê"...? Nhưng lý do chính có lẽ là tôi thực sự ghét câu "mày"

 Cháu không ăn đâu, bác thích thì đi mà ăn - tôi nói rồi gắp ngay miếng thịt ba chỉ rang cháy thả mà như ném vào bát ông khách lạ.

 - Hà.....hư con...ba tôi nói khẽ nhưng mắt thì gườm tôi rất nhanh.

 Tôi cúi mặt  xuống bát ăn nhỏ nhẹ nhưng từ trong sâu thẳm của  một đứa bé mười một tuổi bị ba mắng, mà lại bị mắng bới mấy vị khách quê mùa không mấy thân thiện này nữa, phải trả thù một phen mới đựơc....Tôi cắm cúi ăn một hơi hết bát cơm rồi đứng nhanh dậy.

 -Con xin phép ba mẹ , con xin phép các bác ,con thôi ạ!

 Ra đến ngoài cửa tôi vãn nghe trong nhà có tiếng lao xao - "cháu nhà bác ngoan quá...ngoan quá ạ.

 Tôi cắm đầu cắm cổ chạy một mạch ra bờ sông Hồng, vứt mình lên thảm cỏ quen thuộc , ngắm sông Hồng đỏ nặng phù sa , nghe tiếng sóng rạt rào trong tiếng gió thổi ..u...u ...man mác bên tai, nhắm mắt lại và....nghĩ cách trả thù...rồi   chợt nhớ ....

 Ông khách đó khi đến nhà tôi có mang theo một con cò được nhốt rất kỹ trong một chiếc lồng phủ đầy lá cây, con cò ấy quan trọng thế nào trong lòng ông khách nọ thì tôi không biết, chỉ biết rằng khi tôi mon men đến gần cái lồng , định vén lớp lá lên để xem rõ con cò mặt mũi thật thế nào(tôi chưa từng được nhìn con cò gần đến thế bao giờ) thì ông khách buông ngay chén trà mà ba tôi mới rót còn nóng hổi xuống bàn và chạy xô lại phía tôi.

  -Âý chớ...ấy chớ...nó mà bay mất là cả nhà bác chết đói đấy. Vừa nói ông khách vừa hoảng hốt lấy tay giữ chặt cái lồng lại như thể nếu ông buông ra thì cái lồng sẽ bay vút lên trời và mang theo cả con cò của ông.

 Tôi bật dậy khoái trí vô cùng tay vớ một mảnh  phù sa khô cong như một mảnh sành liệng trên mặt nước chiều đỏ quạch. Mảnh phù sa lướt trên mặt sông, vấp phải những con sóng nhỏ nhảy tang tang như  con thoi loi vài cái rồi  tan chìm vào nơi đã mang nó đến đây.

 Đêm đó gió mùa đông bắc thổi về đem theo giá buốt và mưa phùn của những ngày cuối năm, ba tôi co ro trong chiếc áo bông bạc màu dậy trước  xuống bếp nhóm lửa đun ấm nước rửa mặt và pha trà , mẹ tôi cũng dậy ngay sau đó lặng lẽ lôi mảnh vải mưa trong có bọc chừng hai muơi cân mì sợi rồi như mọi lần lấy cái bao tải rách mà cô tôi  đã dùng để đựng những quả dừa khô ra ,trút toàn bộ số mỳ vào đó trong tiếng thở dài ...

 Ngọn lửa ấm áp nhẩy nhót xua đi phần nào cái giá lạnh của những ngày cuối đông...Ba tôi với tay lấy cái xanh ( Một dụng cụ nấu ăn đa năng của thời bao cấp nửa như cái chảo , nửa lại giống cái nồi) treo bởi một chiếc đinh trên cột bếp xuống, ông mở chạn lấy âu mỡ,tiếp đó dùng đôi đũa tre đen cháy hớt nhẹ một một cái vào lớp váng mỡ quánh đặc đông cứng phía trên và sau đó là mùi hành phi thơm đến nhức nhối khiến  từng kẽ chân răng ứa nước tràn xuống luỡi và đổ xối xả xuống cái dạ dày trống rỗng kêu lọc ọc...lọc ọc.. và cuối cùng là một nồi mì sợi bốc hơi nghi ngút được đặt lên chiếc chiếu hoa trải giữa nhà....chừng đó thôi cũng đủ để thức tỉnh gần chục giấc mơ ngả nghiêng theo nhiều chiều trên ba chiếc chiếu gần kề sát đó.

  Mọi nguời lục tục gọi nhau dậy cho kịp chuyến tàu đêm, tiếng xịt mũi, tiếng ho khan xen lẫn tiếng điếu cầy rít lên sòng sọc, rồi tất cả ngồi quây quần bên xanh mỳ với những chiếc tô to bốc hơi nghi ngút và những tiếng xì xụp lan dần trong đêm đông tĩnh lặng cùng tiếng nói chuyện rì rầm khe khẽ.

 Tôi cứ nằm im trong chăn ấm lòng hồi hộp vô cùng, cho tới khi có tiếng kêu thảng thốt.

  - Ối giời ôi....! Mèo nó bắt mất con cò  của em rồi.....

  Tôi kéo chăn chùm kín đầu tim đập mạnh liên hồi.

  - Sao mèo lại bắt được.- Ba tôi thắc mắc- Tôi nằm ngay bên cạnh có thấy nó giãy dụa gì đâu!!??

  -Mất con cò này thì cả nhà em chết đói bác ơi! ông khách nói như khóc .Nó là con cò mồi em nuôi lâu lắm rồi, em vốn chỉ trông vào nghề bẫy cò, mùa màng mất sạch mấy năm nay rồi bác ơi!

 - Khổ quá thế bác mang nó theo làm gì? Ba tôi nói giọng vô cùng ái ngại.

 - Để ở nhà sợ các cháu nhỏ không trông được nên em mới mang nó theo...thôi thế là tai hoạ...ông khách phân trần vẻ khổ sở vô cùng.

  Mưa mỗi lúc một nặng hạt , mọi người sắp xếp hành trang ra về trong không khí buồn bã , cô tôi đội lên đầu bao mì sợi như thuờng lệ, mọi người lấy áo mưa ra quàng lên vai tiếng áo mưa va vào nhau loạt soạt,loạt soạt lẫn những tiếng thở dài ...

  - Bác cầm mấy đồng này gọi là thêm cho các cháu - Ba tôi giữ chặt tay ông khách và dúi vào tay ông  mấy mấy đồng tiền nhàu nát , giọng  vô cùng ái ngại.

 -Ấy chết thế ra em bắt đền bác ư...? ông khách  giãy  lên mặt hốt hoảng.

 - Là tôi giúp bác một chút cho các cháu thôi - ba tôi khẩn khoản - Mong bác nhận cho.

 - Không ... quyết là em không nhận tiền của bác...chúng em ở quê đói quen rồi vả lại các bác trên này cũng khấm khá gì đâu, được bác cho ăn mấy bữa  là tốt lắm rồi - ông khách cương quyết chối từ.

 Tiếng cửa gỗ khép lại trong đêm kèn kẹt lạnh lùng trong tiếng mưa rơi buốt lạnh và tiếng những bước chân vội vã  xa dần...

                                       ...............................................

 Tôi cúi xuống gạt búi cỏ gà rậm rạp để lộ tấm bia đục bằng đá nhám nham nhở có ghi hàng chữ :Ông Trần văn Cúi ...tạ thế ngày...tháng ...năm....

  Rót một ly rượu nhỏ trong khói nhang buồn giữa một buổi chiều cuối thu se lạnh cuối nghĩa trang của một ngôi làng nhỏ vắng teo , xơ xác, gió xác xao lật lật mấy chiếc là khô va vào nhau lạt xạt như tiếng những chiếc áo mưa đêm nào.

  -Ta về thôi anh! Bố em mất thế mà hơn chục năm rồi , hồi bố mất em mới có sáu  tuổi - Cô gái có đôi má bầu bĩnh và đôi mắt ướt buồn nói với tôi trong tiếng thở dài.

- Ừ ...thế mà đã gần hai mươi năm.....tôi nói và tránh cái nhìn tò mò của cô bé.

 - Gần hai muơi năm là sao anh? cô ngước đôi mắt trong veo tựa một hồ nước cuối thu hỏi tôi vẻ ngạc nhiên.

  - Em ngồi xuống đây cùng anh, Tôi nói và kéo tay cô bé ngồi xuống bên ngôi mộ nhỏ , nhấp một ngụm rượu trong gió thu se lạnh, mắt nhìn xa xa về phía cuối con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn tới ngôi làng heo hút.

   Hôm ấy là một ngày cuối đông.....bằng một giọng trầm buồn tôi khe khẽ kể.....

Rùng rợn chuyện một dân tộc ăn máu sống và cá tôm trong thời kỳ phân huỷ

Dinhhaphotographer viết ngày 27/02/2012 |  Có 26 bình luận |  332 lượt xem

  Hôm nay vô tình ghé qua nhà bác canh tung vì thấy bác ấy giật một cái title rất giật gân "Kinh hãi ngôi làng ăn thịt sống ở Thái Bình"

   http://canhtung.multiply.com/journal/item/5154/5154

  Tò mò về ngôi làng"kinh hãi "này tôi mới mò vào đọc và tìm hiểu...té ra chỉ là một món ăn rất lạ của người dân biển là thịt lợn xay trộn với thính ăn kèm với các lọaị  lá (có thể đặt tạm tên là "gỏi lợn")

  Oài ...tưởng chuyện gì to tát kinh dị thật, hóa ra chỉ là ăn thịt sống  trộn thính và tôi chợt nhớ ra tôi đã từng biết đến một dân tộc ...ăn máu tươi ở châu Á, còn kinh dị hơn nhiều.

  Thế là tôi lấy cảm hứng từ bài viết của bác canh tùng và về nhà mul giật ngay một cái title :"Rùng rợn chuyện một dân tộc ăn máu sống và cá tôm trong thời kỳ phân hủy", định sẽ gửi lên tạp chí "TRAVEL+LEISURRE" biết đâu tôi lại trở thành người, nổi tiếng  vì thành tích khám phá phát hiện sau vụ này .

Câu chuyện của tôi thế này mong các bạn làm giám khảo duyệt hộ xem có nên gửi không nhé!

                                                                     **************

 Tôi đã từng đi rất nhiều nơi trên thế giới và ăn nhiều món ăn lạ lẫm có phần khó nuốt trôi  của các bộ lạc nơi rừng sâu núi thẳm. những nơi chưa hề biết đến nền văn minh của chúng ta.

 Nhưng ấn tượng khó quên nhất và gây xốc nhất lại chính  là khi tôi được biết đến một dân tộc có truyền thống bốn nghìn năm ăn máu sống ở Châu Á 

 Không thể có từ ngữ nào có thể diễn tả hết nỗi kinh hãi của tôi khi chứng kiến sự man rợ của cách làm món ăn cũng như cách chế biến món ăn này mà mỗi lần nghĩ lại tôi chợt thấy rùng mình muốn ói....

 Đầu tiên là hai ba người bản xứ vừa la hét vừa lao vào bắt con heo bẩn thỉu ngập ngụa phân và rác. Tay cầm dao, tay cầm dây thừng , họ đè nghiến con heo khốn khổ tội nghiệp ra giữa những đống phân rác hôi thối đến nghẹt thở, kế đến họ lôi chú heo đang giãy dụa la hét đặt lên một cái chậu được úp ngược lại rồi một cái chậu cũ kỹ bẩn thỉu được kề dưới cổ chú heo tội nghiệp với một nắm muối hạt được vứt vội vào trong đó.

 Tôi nhắm nghiền mắt lại khi con dao sáng loáng cứa ngang qua cổ chú heo rồi đâm ngập vào tim...máu đỏ vọt ra cùng bọt trắng.

 Tiếng ẹc ...ec...bé dần ..chỉ còn tiếng khụt khịt..ăc .ặc...khò khè nho nhỏ bởi những bọt máu tràn vào phổi....tôi he hé mắt nhìn.

 Chú heo đã mềm oặt cổ đầy máu me ri rỉ chảy qua vết khứa toang ngoác chảy qua những vệt phân tươi dính bết trên lông cổ . Lại vẫn cái bàn tay ấy, cái bàn tay vừa đuổi bắt vật lộn với chú heo khi còn sống trong phân rác hỗn độn thò vào chậu máu tươi và khỏa đều đều cho máu hòa với muối mặn khiến cho máu không đông lại được.

 Người ta rạch bụng chú heo khốn khổ lôi ra cái cổ họng lòng thòng nhúng vào chậu nước vừa dùng để cạo lông heo để làm sạch máu sau đó thì ném cả cái cuống họng lầy nhầy vào một nồi nước to đang sôi trên cái bếp kỳ dị hình trụ đắp bằng đất bùn và được đốt cháy bởi một loại than rất lạ có nhiều lỗ (lửa sẽ theo những lỗ này mà cháy âm ỷ nhưng nhiệt lượng khá cao).

 Họ để một miếng gỗ tròn được cưa từ một thân cây xuống đất rồi băm nát cái cuống họng vừa đun sôi thành một đống nhầy nhụa  trên cái mặt còn lại của miếng gỗ tròn dày chừng năm hay bảy xăng ti mét ấy.... và vẫn cái bàn tay vừa rồi trộn đều cái cuống họng  đã đuợc băm nhuyễn và chia ra làm nhiều bát. Cuối cùng họ múc máu tươi trong cái chậu vừa kể bằng một chiếc muỗng to bẹp dúm nhiều góc rồi  pha thêm chút nước luộc họng heo và ....xối máu tươi lên từng bát họng heo vừa băm.

 Một vài miếng gan được thái lát mỏng rắc lên trên và cuối cùng là những hạt lạc rang cháy để che đi cái màu máu tươi đỏ ói tanh nồng.

   Bạn nên tin vào điều này, và xin đừng nghi ngờ những gì tôi sắp kể ...Mỗi người trong bọn họ tự lấy cho mình một bát máu tươi trộn cuống họng đã đông đặc và một cốc rượu có màu trắng đục , họ lấy những chiếc muỗng con bằng nhôm cáu bẩn xắn vào bát máu tuơi trộn thịt và....đưa vào miệng nhai ngon lành với đôi môi khô nứt như những thửa ruộng gặp kỳ nắng hạn lấp dưới hàng ria mép lem nhem dính máu và hàm răng ố vàng nhầy nhụa máu đỏ khè.....

 Trời đất như lộn ngược chao đảo khi chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó làm cái dạ dày của tôi lộn lên phía trên khiến thức ăn hồi sáng phun trào qua cổ,tôi cố bịt miệng nuốt vào vì sợ bị họ cho là thất lễ, tay còn lại cố móc cái điện thoại và vờ nghe điện thoại rồi chạy như ma đuổi  ra ngoài.

 Tôi còn được tận mục sở thị những cô gái rất đỗi  xinh xắn  của dân tộc này với tà áo dài quét đất và tóc xỏa ngang vai(trang phục truyền thống của họ) lúi húi bên đường với những cái mẹt trên có để một đĩa mỳ màu trắng và vài miếng gì như làm từ bột đậu vàng....????Họ chấm những miếng bột rán màu vàng ấy vào một bát dịch sền sệt màu đen có cái mùi hôi hám tanh nồng thật ghê sợ của những  xác cá tôm đang trong thời kỳ phân hủy và ....đưa vào những cái miệng xinh xinh nhai nuốt ngon lành.

 Họ vừa ăn vừa nói cười rôm rả vừa cầm  hai cái que nhỏ dài chừng 30cm làm bằng tre dùng để kẹp thức ăn đang dính đầy cái dịch đen ngòm ấy xỉa xỉa vào mặt nhau để minh họa cho câu chuyện của họ thêm phần sinh động.

 Khi mỗi người ăn xong thì luôn có một thủ tục rất lạ ....lần lượt từng người thò tay vào cái  cái lọ nhỏ gần nơi bà bán hàng ngồi , rút ra một cái que nhỏ xíu dài Thịt lam

Cập nhật lúc08:58, Chủ Nhật, 30/10/2011 (GMT+7)

Bữa rồi tôi theo mấy anh em nhiếp ảnh lên Nam Giang chơi. Đà Nẵng mưa, nhưng Nam Giang không mưa không nắng không nóng không lạnh, gợi một cảm giác mùa thu dù rừng vẫn một màu xanh ngắt, mỏi mắt không tìm thấy một chiếc lá vàng.

Người đi du lịch không mấy ai không kè kè một chiếc máy ảnh. Còn dân nhiếp ảnh chuyên nghiệp mới nhìn đồ nghề lỉnh kỉnh đã thấy phát khiếp, lại không bao giờ bỏ lỡ cơ hội. Suối nước đẹp tuyệt vời, đứng trên cầu treo nhìn dòng nước róc rách tung bọt trắng, nhìn những hòn cuội khổng lồ đinh ninh một màu tím gan gà, chỉ lo chiều xuống quá nhanh. Vậy là vào buôn rủ ba cô thiếu nữ xinh đẹp xúng xính những váy những áo thổ cẩm ra suối “diễn” - té nước, bắt cá, dắt nhau qua suối… người dùng tê-lê, kẻ chụp cận cảnh, không biết trong cả vài trăm bức ấy có bức nào sẽ hằn sâu kỷ niệm, một ngày nào đó khiến cho người chụp thấy bâng khuâng?...

Buổi tối, quây quần trong sân khách sạn Faifo 3. Ăm ắp những chai rượu tà vạt, ngồn ngộn những thịt những cá đã ướp gia vị. Nồi than hoa đỏ rực. Ngọn lửa hồng giữa sân bập bùng chơi trò đuổi bắt với bóng tối, vờn nhau trên gương mặt người. Sau một ngày lội rừng lội suối, chân mỏi thì ít mà bụng đói thì nhiều. Xúm xít nướng thịt nướng cá, ríu rít chiết rượu tà vạt ra những chiếc ly uống bia. Mùi thịt nướng, cá nướng thơm lừng. Vị tà vạt chát trong miệng. Hình như khi nướng không gì không ngon không hấp dẫn, huống chi nướng cá chình, huống chi nướng gà mái tơ…

Thiếu nữ Cơtu xinh đẹp, hồn nhiên ban chiều và tôi đối diện. Tôi ra chỗ bếp than nướng cho cô một miếng thịt gà. Khi nhận miếng thịt nướng, thiếu nữ nở một nụ cười thay cho lời cám ơn. Đã lâu lắm tôi mới thấy một nụ cười ngọt lành đến vậy (Là môi cười mắt cười chứ không phải son phấn cười, là nụ cười không cho đi mà chỉ đơn giản bày tỏ lòng mình!). Nhưng thiếu nữ hình như không muốn đụng đến miếng thịt trên đĩa. Cô bảo thịt “lam” trong ống ngon hơn thịt nướng trên bếp than. Lửa không tiếp xúc trực tiếp với thịt mà qua ống tre nên vị ngọt của thịt bảo toàn nguyên vẹn. Mùi thơm của thịt, của riềng của sả quấn quít trong nhau, tình nhân với nhau, khi thoang thoảng xa lúc nồng nàn gần. Miếng thịt lam ấy ăn với miếng cơm lam, bảo giản dị thì vô cùng giản dị, bảo tinh tế thì nó quả thật rất tinh tế…

Tôi đã từng được thưởng thức thịt lam cơm lam, đã say mê những chiếc áo chiếc váy thổ cẩm trên vùng núi Tây Bắc. Tôi không hiểu vì sao, bằng cách nào đồng bào dân tộc ít người, dù là dân tộc nào, ở đâu cũng đều có chung những sản phẩm lam và thổ cẩm. Tôi đắm mình trong màu sắc và hoa văn thổ cẩm đang chuyển động trước mặt tôi. Hương vị của miếng thịt lam một ngày xa xưa khiến tôi nhận ngay lời mời của thiếu nữ Cơtu Nam Giang khi cô ngỏ lời bảo tôi về nhà cô thưởng thức một miếng thịt lam…

chừng 5cm cũng được làm bằng tre chọc chọc vào miệng và ngậm lại..??? chắc là cách để họ đánh dấu những cái miệng đã ăn rồi...????

 Đây là câu chuyện có thật mà tôi là nguời  chứng kiến trong một chuyến công du châu Á.Tôi biết các bạn sẽ nghĩ là tôi hoang tưởng bịa đặt ra câu chuyện ăn uống kinh dị này  nên đã cố gắng  chụp lén vài bức ảnh làm bằng chứng dưới đây.

Em tôi về quê ra í ới: “Chị ơi, qua nhà em ăn cơm. Em kho dưa cải với thịt chị ăn rồi xem có giống nồi dưa cải của mệ (bà) ngày xưa không nhé!”. 

Vừa sang đến đầu ngõ nhà nó đã nghe mùi dưa cải kho thơm nồng. Tưởng tượng ra vị ấm ấm, ngọt ngọt, cay cay...

Mắt tôi cũng cay caDưa cải chị gái tôi muối, ém chặt hai hũ nhựa bọc kín trong túi nilon từ hôm 26 Tết. Tôi hoặc em trai về, khi chuẩn bị trở ra, chị trao hũ dưa với những dặn dò: “Cải quê mình, trồng trên lèn (núi đá) khác hẳn dưa Hà Nội. Chị muối mặn. Bọn em kho với thịt, bỏ thêm chút đường là vừa ăn... Cố gắng kho cho giống kiểu bà nội hồi trước để mấy đứa nhỏ biết thêm món Tết của làng mình”.

Tết làng tôi thời nghèo nhất cũng có bánh tét, thịt lợn, mứt gừng, kẹo lạc tự làm. Và có nồi dưa cải kho thịt. Khi khá giả thì thịt nhiều hơn dưa. 

Tết 1 năm, 2 năm, 3 năm, 4 năm sau ngày mẹ mất, ít khi thấy có miếng thịt nạc trong nồi dưa cải kho ngày Tết. Bà nội bảo: “Tại mệ già rồi, ra tới chợ, người ta bán hết thịt nạc. Chỉ còn thịt mỡ. Mệ đãng trí, đun lâu quá. Thịt mỡ nó tan vào dưa hết rồi. Cứ ăn thử đi. Vẫn ngon như nhiều thịt...”.

Đúng thật. Vẫn thơm. Vẫn ngậy mỡ. Vẫn cay. Vẫn ngọt. Và hết hai lát bánh tét, hai bát cơm phần mình rồi vẫn muốn ăn thêm dưa kho.

Ngày mẹ mới mất, thấy đội sản xuất chia sắn, khoai, gạo, thịt, mấy chị em lại chộn rộn định xách thúng đi chực. Bà nội bảo: “Miếng ăn là miếng nhục. Đừng chộn rộn vì miếng ăn. Cái gì không phải mình làm ra thì không phải là của mình. Mẹ cháu mất rồi, không làm được nữa. Người ta không chia cho các cháu nữa đâu. Lúc nào các cháu lớn rồi, làm được rồi, thì các cháu có quyền đòi được chia...”.

Ngày cha làm lễ đầy tháng cho đứa em cùng cha khác mẹ của chúng tôi ở cách làng 15km, em trai tôi  nhìn theo thùng bánh chưng cha chở đi, đòi ăn. Bà nội ôm em vào lòng và bảo với hai chị em tôi: “Cái gì không thuộc về mình thì cố giành cũng không được...”. 

Ba mươi năm rồi, tôi nhớ mãi ánh mắt của bà hôm đó.  Như thể, bà muốn dùng cả sức lực và ý chí của mình để đem về sự no đủ và ấm áp cho những đứa cháu mồ côi. 

Nhưng, hơn thế, bà đã dạy cho chúng tôi biết chấp nhận và để bước đi trên cõi đời này một cách tự tin và rắn rỏi!

Làng mỗi năm qua thời cận chiến tranh có khá hơn chút xíu. Bữa cơm Tết có thêm cá, gà, giò, thịt kho Tàu... nhưng vẫn không thiếu nồi dưa cải kho. Nồi dưa cải kho lúc đó thay “thùng rác” của nhà bếp ngày Tết: thức ăn thừa, đặc biệt là thịt, cá thừa lại sau mỗi bữa cúng, bữa cỗ các nhà đều đổ vào đó. Tết càng dài, nhà càng khá giả, nồi dưa kho càng ngon.

Ông bà nội mất. Mấy chị em tôi ngày Tết chia nhau tản đi “ăn chực” mỗi nhà một bữa. Ở nhà của cha cũng nấu món nọ, món kia để đãi khách nọ, khách kia. Dù chưa thành người lớn nhưng chị em tôi cũng không thấy mắt thèm, mũi nhức, bụng chộn rộn hay ấm ức. Phận mồ côi nó dạy cho con trẻ nên bỏ đũa vào đâu trong ngày Tết cho đúng chỗ, cho khỏi rón rén.

 Hóa ra cả Tết, bốn chị em tôi đứa nào cũng chỉ ăn có món dưa cải kho. Kể cho nhau nghe rồi cười. Cũng không thấy tủi thân. Biết thân, biết phận cũng là một cách tự tin

Bốn chị em, sau rồi vơi một, chỉ còn ba. Em út tôi thiệt phận năm 12 tuổi. Không kip được hưởng một cái Tết có đủ thịt, cá, kẹo bánh...

Ba chị em tôi giờ đã đi qua dốc của nửa đời người. Tết nào cũng thao thiết trở về mảnh vườn xưa một, vài ngày. Dù nhà chẳng còn là nhà. Tết nào cũng chỉ muốn cúng cho ông bà nội, cho mẹ, cho em thức nọ, thức kia. 

Chỉ có điều, tuyệt nhiên, không ai dám cúng món dưa cải kho dù rất nhớ Tết xưa. Có lẽ cả ba đều chung ý nghĩ: “Sợ em út lại chỉ ăn món dưa cải kho vì tưởng các món ngon là của người khácy.

ôi rau muống thân yêu ....

Đăng ngày: 03:32 23-05-2011

Thư mục: Bếp nhà Sếu

·                               

Rau muống ! chỗ Sếu đang sống ko dễ mà có nên cũng khó mà ngon được  v:shapes="_x0000_i1050"> nhưng lâu lâu mà thấy thì cũng phải chộp ngay. Ngày xưa cái thời Hà nội còn xếp hàng thì sau bữa cơm trưa là đám lau nhau từ 10 tuổi trở lên rủ nhau đi mua rau mậu dịch. Đi sớm còn xếp hàng, chờ xe tải chở rau đến từ đầu phố là nhao nhao "rau về rau về" rồi chờ các cô mậu dịch viên chuyển rau nhập vào cửa hàng xong mới mua được. Ngày nào cũng vậy, mùa nào thức nấy nhưng rau muống là nhiều hơn cả. Rau muống ngày đấy bán theo kilo, mà từng bó rau dài có cả rễ trắng đâm tua tủa, cứ mua về nhặt vứt đi non nửa cho thùng nước gạo nhà hàng xóm nuôi lợn . ... Hồi đấy có bao giờ hình dung nổi đến một ngày thèm nhớ rau muống như thế nà

RAU CẢI MUÔN NĂM, RAU MUỐNG VẠN TUẾ (dkquoc)

Trong bài "Kỷ niệm nhà bếp ở Khánh Vân" Mến viết: "Gọi là thực phẩm nhưng chủ yếu là rau, nhiều nhất là rau cải và rau muống, hết luộc lại nấu canh. Thời đó anh Mạo treo 1 quyển sổ góp ý ở nhà bếp, phe thích rau muống thì ghi: “Rau muống muôn năm”, lập tức ở dưới xuất hiện: “Rau cải vạn tuế”. Cứ như vậy không phân thắng bại, vì mùa đó không có rau gì để thay thế cả".

Cái cuốn sổ góp ý ngày xưa nếu còn sẽ phải là một kỷ vật vô giá vì nó gắn với cuộc sống khốn khó của chúng ta thời sơ tán...

Và nó đây... mười hai trang giấy của nó đây. Xin trân trọng giới thiệu với các bạn kỷ vật của "ma xó" Hoàng Văn Dương, người đã giữ cuốn số góp ý của nhà bếp khốn khổ của chúng ta suốt 40 năm qua giao cho tôi công bố.

1. Trang bìa còn nguyên nét chữ của Pa pa tổng quản Hoàng Văn Dương. Trong trang 2 đã có những yêu cầu cực khó với hai chị cấp dưỡng, chị Thơm và chị Sản: "CẤM RUỒI BAY VÀO". Cũng đã xuất hiện kháng nghị của PHE RAU MUỐNG: Đừng nấu rau cải nữa.

MUỐNG tìm thấy những lý do mới chống CẢI. Mùa đông, ăn cải thì có mà đi tồ tồ cả đêm, phải ra vườn, ma bắt mất các hiền tài - nguyên khí quốc gia thì ai chịu trách nhiệm. MUỐNG đòi thêm có "MIẾNG NHỤC". Đích thị đây là lời của Dương Đình Đào. Đào bắt đầu giở giói vốn tiếng Nga sai ngữ pháp, biến cách vô cùng loạn, lẽ ra là phải чем болше, чем луше (thịt càng nhiều càng tốt - thật là chân lý). Đúng là cả MUỐNG và CẢI đều là đồ dở hơi.

Tiếp theo thì là ý kiến của tôi (dkquoc). Chẳng hiểu hồi ấy thế nào mà gấu thế, nói năng rất thô lỗ chứ không được mềm mỏng ý nhị như ngày nay "Đừng chửi nhau nữa, thằng đòi ăn, thằng đòi bỏ. Để năng lượng ấy để làm những việc khác tốt hơn, ví dụ như chửi nhau..." lại còn ký tên đang hoàng chứ không như lũ chúng bạn hèn nhát giấu tên. Đã thế lại còn đánh đố hai chị cấp dưỡng đọc góp ý bằng tiếng Nga đầy lỗi chính tả "1) Функция f(x) неприрывная b x0, 2) Функция имеет ax + b= y нажывается лйнейной функцим": Hàm f(x) liên tục tại xo, hàm có dạng ax+b được gọi là hàm tuyến tính - đúng là loại lá cải, ăn nhiều cải, thiếu protit, đầu óc có vấn đề.

Câu chuyện MUỐNG, CẢI, SẮN vẫn tiếp tục dường như không có hồi kết. Có anh khùng đề xuất món ĐÁ, SỎI và THAN

Mãi rồi cũng có một góp ý thoạt đầu thì có vẻ rất xây dựng. Chữ đẹp mềm mại, bút danh Hoa Chanh cho thấy đây có thể là một nữ nhân. Giữa các chàng trai dùi đục chấm mắm cáy, các kiều nữ bao giờ cũng thể hiện được sự dịu dàng, mềm mỏng của họ.

Ồ không... nhầm to. Đúng là Chanh chua, ngoa ngoắt. "Có những hôm chị rửa rau vẫn còn con sâu to tổ bố, ăn như vậy thì no suốt ngày đấy. Người ta tưởng là cả một lớp chửa. Hay là chị định lấy cái bụng của bọn em thay trống". Kiều nữ ai lại nói thế bao giờ, các nữ yêu quái muốn chửa thì chửa chứ đừng đưa cả lớp vào. Lũ đàn ông chúng tôi cùng lắm chỉ là nguyên nhân chứ làm sao chửa được, mà chúng tôi có ăn được con sâu nào đâu. Yêu biết mấy các nữ yêu quái K16. Các nam yêu quái, may thế, trừ anh Thuận.

Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Tiếp theo những lời phê bình của Hoa Chanh là lời chỉ trích của Phich Ten Gôn, Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Max-cơ-va danh tiếng về hai chị cấp dưỡng dám đem nồi cơm của riêng mình nấu ở bếp ăn tập thể. Chắc là Giáo sư sợ hai chị "xà xẻo" gì của tập thể chăng. Lại một cơn thịnh nộ vì sau những lời chỉ trích ấy, các chị đã đáp trả bằng cách cho cả lớp ăn cơm sống nhăn, sống nhở.

 Một góp ý vô cùng văn vẻ giữa những góp ý thô kệch, sặc mùi MUỐNG CẢI SẮN. Cuối bài lại điểm chút tiếng Anh dù có sai be bét (We are thanking you, because your tense , which help us to good work). Đích thị là Thắng Cộc, xuất thân từ dòng dõi quý tộc. Cụ thân sinh ra anh, cụ Đặng Thế Bính là người vô cùng cao thủ trong tiếng Anh, tiến sỹ luật của Đại học Yale, đã từng viết một cuốn từ điển tiếng Anh cùng với một số tác giả trong đó có người bạn Đặng Chấn Liêu. Còn chính bác Liêu sau này có một cuốn từ điển khác viết chung với Bùi Ý. Vì chiến tranh, trước khi đi sơ tán anh mới chỉ học được có thế. Lớp mình hồi đấy ngoài Thắng thì có thằng nào biết Inh Ních đâu. Dẫu sao nó cũng làm cho cuốn sổ góp ý của chúng ta thêm phần TRÍ TUỆ. Khi đọc lại những dòng này, Thắng thốt lên, giọng của Hiệp Gà: sao mà hay thế, mình phục mình quá. Dương lẳng lặng cất cuốn sổ góp ý lại để chờ 40 năm sau cho chúng mày biết  "Anh mày ma xó không kém Cuốc lủi". Dương còn cố tình nuôi mọt, để mọt chén một góc sổ làm cho cuốn sổ mang dáng dấp của một thư tịch cổ. Mà cũng chọn vị trí cho mọt ăn rất khéo, không bị mất nhiều chữ, ăn đúng nửa chữ ký của tôi - nó vẫn còn kèn cựa trình độ ma xó với tôi. Thằng cha này cao thủ thật. Ma xó nhà xin có lời bái phục ma xó bếp.

Những ai còn nhận ra góp ý của mình thì vui lòng khai ra nhé. Tôi có 3 đoạn ở đây.

Hôm trở lại Khánh Vân, Dương đi từ Hải Dương lên, nhập với đoàn tại Cầu Chui. Cả lớp đều mừng rỡ, nhất là chị em vốn ngày xưa được Dương ưu ái. Phương nhắc lại chuyện Dương đã phải vòng lên sân thượng xuống cầu thang bên kia mang bánh cho chị em, thế mà vẫn bị lũ ma lanh phát hiện và trêu trọc khiến Dương không dám tiếp tế cho chị em nữa.

Entry này lấy cảm hứng từ một entry trên blog của BS Hồ Hải, người đề nghị sử dụng rau muống làm quốc hoa. Quả thật, rau muống rất gắn bó với nhiều người Việt Nam, trong đó có tôi. Đến nỗi có hẳn một câu ca dao mà ai cũng biết

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Hồi còn bé, gia đình tôi rất hay ăn rau muống. Lúc còn nhỏ, tôi rất ghét rau này vì tôi hay bị sai nhặt rau. Lúc ấy gia đình tôi nghèo, con đông, nên tôi nhớ bó rau muống mà tôi phải nhặt luôn là một bó to đùng, nhặt rất vất vả.hời đó, rau do chính người trồng cắt từ ruộng đem ra chợ bán, dịch vụ hồi đó còn kém, nên bó rau bao giờ cũng còn nguyên chùm rễ con, dính bùn sình bê bết. Bên cạnh các lá rau xanh tươi còn nguyên những lá bị sâu ăn thủng lỗ chỗ hoặc úa vàng, thối đen. Đôi khi trên lá còn cả trứng sâu, và cả … con sâu nữa!

Riêng khoản sâu rau muống thì phải nói là ấn tượng: con nào con nấy to khỏe, béo mập! Chắc là vì rau muống là loại thức ăn rất bổ dưỡng chăng, bổ cho con người (hình như có ai nói rau muống bổ ngang thịt bò???), nên cũng bổ cho cả sâu nữa hay sao ấy? Chợt nhớ Việt Nam có câu tục ngữ "Rau nào sâu ấy". Cái câu này chắc hẳn đã được sáng tác ra bởi một người hay phải nhặt rau muống giống như tôi. Đến giờ tôi vẫn nhớ cảnh nhặt rau, thỉnh thoảng không để ý, tay cầm trúng vào một con sâu mập mạp (!), nhũn nhùn nhùn, cọ quậy ngo ngoe, ôi, cái cảm giác đó thật kinh khủng! 

Nhưng còn kinh khủng hơn nếu nhặt rau, rửa rau không kỹ, con sâu “lọt lưới” được ... luộc chung với rau rồi vớt ra đĩa đem lên bàn ăn. Thế nào người phát hiện con sâu đó cũng là mẹ tôi, kèm theo lời mắng tới tấp, con gái đoảng!!!! Bị mẹ mắng thì tất nhiên là không thú vị rồi, nhưng điều kinh hoàng nhất là sự tưởng tượng của tôi. Rằng nếu mẹ không phát hiện ra, thì chắng may mình gắp trúng cọng rau có con sâu đó, sẽ cắn trúng ngay giữa bụng sâu và đứt ra làm đôi .... Ôi, chỉ nghĩ thôi đã thấy rùng mình kinh hãi rồi.Lẩn thẩn, tôi bỗng thắc mắc không hiểu từ đó tới giờ có ai đã ăn nhằm sâu rau muống như vậy chưa? Hẳn là phải có chứ? Có khi tôi đã ăn vài con rồi cũng nên (!!!!). Mà biết đâu những con sâu ấy cũng đã làm tăng thêm chút chất đạm cho tôi hồi đi học đại học, thời Việt Nam đói khổ nhất vào đầu thập niên 1980 ấy? Thôi đúng rồi, chắc là ăn nhiều sâu quá, nên từ lúc học đại học tôi đã bị mang tiếng tưng tửng bất thường, và khó chịu nổi tiếng, kéo dài mãi đến tận ngày nay như thế này đây. Khổ thật!

Nhặt rau thì như thế, còn chế biến rau muống cũng thật cực hình. Tôi nhớ có mấy món mà ở nhà tôi hay ăn, đó là rau muống luộc (of course!), rau muống xào (có hoặc không có thịt bò, xào theo kiểu Bắc, thỉnh thoảng, để đổi vị lại xào theo kiểu người Hoa mà nhà tôi gọi là món "rau muống xào tàu", rất bình dân dễ nhớ!), và còn rau muống chẻ nữa chứ, để ăn sống. 

Luộc rau muống! Nhớ lại "cực hình" hồi đó, tôi chợt cất tiếng thở dài đánh sượt vốn là “bản quyền” của tôi (tôi rất hay thờ dài, bất giác thôi, nhiều người nói thế!) Để luộc được một nồi rau muống to đùng cho cả chục người ăn như gia đình tôi hồi đó, công phu lắm. Rau muống luộc phải xanh, chin vừa, lấy ra đĩa phải rời từng cộng chứ không cuộn bùi nhùi lại với nhau thành một búi, và tô nước luộc phải thật trong xanh. Vậy phải cần một cái nồi to, rộng, nhiều nước, nước sôi đều mới thả rau vào, giữ lửa to đều cho sôi ùng ục, rồi vớt ra ngay. Bây giờ nghe những cái ấy thì thấy dễ làm lắm. Nhưng ngày xưa, ngay cả đồ nghề làm bếp còn không có đủ, nồi nhỏ mà rau nhiều, lại làm biếng không luộc làm 2 lần, rồi đun bếp củi, lửa tắt lên tắt xuống, không khéo léo, cẩn thận thì đố mà luộc được, thật đấy!

Những lỗi thông thường khi luộc rau muống: nồi nhỏ, ít nước không đủ ngập rau, nước sôi không đều, lửa nhỏ, thì luộc mãi luộc mãi, cọng rau dai nhách, đen xì, chỗ chin chỗ sống, hoặc mềm nhũn, vớt ra như một đống bùi nhùi … Tôi chợt nghĩ, muốn biết tài khéo và sự kiên nhẫn, bền bỉ của con gái Việt (nhà nghèo đông anh em), chỉ cần xem cô ấy luộc rau muống như thế nào, từ lúc nhặt đến lúc luộc xong, đó chính là cái test tốt nhất, thật vậy.

Còn rau muống xào. Cũng vậy, sau khi nhặt, rửa, ngắt ra từng khúc (không hiểu sao mẹ tôi không cho dùng dao cắt khúc), thì phải đổ vào chảo to, nóng, đảo đều cho chin, nêm mắm muối, rồi cuối cùng giã thật nhiều tỏi thơm lừng để trộn vào trước khi xúc ra đĩa. Nếu xào thịt bò thì chế biến thịt bò riêng, xào thịt bò trước (cũng nhiều tỏi, ướp vào thịt bò), rồi xong rau thì trộn chung vào. Món này thì tôi thích, và làm nhiều nên làm cũng giỏi, không tin cứ hỏi ông xã tôi hoặc các cậu em tôi sẽ rõ! ;-)

Còn món rau muống chẻ mới là ngán ngẩm nhất nè: trước hết phải tước hết lá, sau đó cọng rau muống đã tước lá phải chẻ bằng lưỡi lam, được kẹp vào một thanh tre nhỏ hơn chiếc đũa một chút để rọc đôi cọng rau, rồi sau đó cầm 2 nửa cọng rau đó chẻ tiếp ra thành những sợi nhỏ và thả ngay vào chậu nước có vắt chanh cho ra hết nhựa để cọng rau được trắng. Do rau muống rất nhiều nhựa nên khi nhặt rau xong thế nào đầu ngón tay cũng bám nhựa đen thui, mấy ngày mới rửa hết. 

Cái này tôi chào thua hoàn toàn nên không có kinh nghiệm gì để kể ngoài mấy giòng như vậy. Vì ngày xưa còn bé, chỉ có bà chị khéo léo đảm đang của tôi mới thích làm thôi (mẹ tôi thì khỏi nói), còn tôi thì chắp tay vái lạy! Tôi hoàn toàn không thích ăn rau muống sống, nên đến giờ vẫn tự hỏi, tại sao người ta nhọc công và mất thời gian đến thế chỉ để chẻ ra được một dĩa rau muống sống để ăn. Nếu ăn rau muống sống bổ, thì cầm nguyên một cọng ăn sống cho rồi? (Thật đúng là con gái đoảng!!!)

Tôi còn chưa nói đến canh rau muống, là món đã được nêu trong câu ca dao. Cái này thì tôi có thể nói dài dài được đấy, đầy đủ màu sắc, mùi vị, hẳn là thi vị lắm. Thì “canh rau muống” đã được vào trong văn học rồi còn gì? Đẹp lắm chứ.Ở Châu Á, người Mã Lai và Philippines cũng rất thích ăn rau muống, và họ gọi nó là Kan-kung hay Kan-kong gì đó. Hình như còn có tên Tàu là Ong-Choi (Ông Xôi, có họ với Bó Xôi, Pok-Choi?) Còn tên khoa học của rau muống là Ipomoea Aquatica. 

Nhớ hồi ở Úc, tôi ở cùng nhà với một cô bạn Úc đã từng làm việc ở Mã Lai 2 năm. Khi nấu cơm, bọn tôi nhặt rau muống, cô bạn người Hà Nội của tôi bỏ hết lá, chỉ lấy cọng để làm nộm rau muống, và cô bạn Úc ấy cứ tròn mắt tiếc rẻ khi bọn tôi quẳng hết lá rau đi. Cô ấy bảo, “what a waste, all the goodness thrown away like that!”. Vì ở Mã, ngược lại với VN ta, người ta ăn hết lá rau muống, mà quẳng hết cọng đi, cô ấy bảo vậy. Và đến lượt tôi và bạn tôi lại tròn xoe kinh ngạc, “trời ơi, uổng quá vậy?”

Kết luận của tôi: rau muống thì nên ăn hết cả lá, cả cọng, và có khi nên ăn cả sâu nữa cũng nên? Rau nào sâu ấy mà? 

CHUYỆN CỌNG RAU MUỐNG

Chuyện phiếm

Trồng rau muống hay bán rau muống là phạm pháp, đó là chuyện có thật đã xẩy ra tại xứ Mỹ này. Lệnh cấm bán rau muống trước đây, chỉ thấy ban ra ở Orlando hồi năm 1991, nhưng năm 1996 thì lệnh được áp dụng gắt gao hơn cho cả những người trồng, khiến cho các hội viên hội nông gia Việt Nam ở Florida dở mếu, dở khóc.

Trước khi nói rõ cái lý do tại sao? Ở đâu lại có cái chuyện nghe trái tai kỳ quặc như vậy.  Xin hãy có vài lời lòng thòng về cái món rau muống lôi thôi này.

Trước năm 1955, rau muống không phải là đề tài được để ý trong xã hội chúng ta. Đối với người miền Bắc VN. Rau muống là món ăn thông dụng hàng ngày, hết xào thì tới luộc, hết luộc lại xào, ăn mãi không chán. Nếu luộc rau muống mà chấm với nước mắm cáy có cái mùi vị khăm khẳm lại ngon hơn nữa. Có người còn tiết kiệm tới mức vắt một tí chanh vào nước rau muống luộc, húp xùm xụp thấy mà cũng mát ruột giùm. Còn xào thì phải xào với thịt bò, thịt trâu và phải có tỏi mới đúng vị. Những nhà nghèo thì chỉ xào với tí mỡ và tỏi, ăn cũng vẫn ngon như thường. Có một điều lạ lùng là rau muống được chiếu cố như vậy (từ ông chánh tổng đến ông tiên chỉ, lý trưởng, trương tuần và ngay cả thằng mõ vv. nghĩa là dù con ông bá cháu ông huyện hết thảy đều xơi rau muống) nhưng tiệc tùng cỗ bàn là không có rau muống. Dân Hà Nội ăn rau muống còn tuyệt hơn nữa. Dù xào hay luộc thì cũng chỉ để vừa chín tái, rau muống trông xanh tươi, vừa thanh cảnh vừa đẹp mắt. Khi luộc rau muống mà cho chút muối vào nước sôi trước khi bỏ rau vào, thì rau vẫn giữ được màu xanh và không bị đổi sang màu vàng.

Sau năm 1954 những người miền Bắc di cư vào miền Nam cũng không quên được rau muống, cho nên có những người vào các xóm địa phương tìm mua rau muống để bán lại cho đồng hương di cư của mình. Những người địa phương hỏi "Mua rau muống mầng cái chi dzậy?" thì được trả lời: "Mua dzìa ăng". "Ủa! Cái này cho heo ăng mà ăng cái gì?". Mặc kệ con gì ăn thì ăn, ta cứ mua rau muống về bán cho dân Bắc kỳ ta. Thế là tất cả các ruộng rau muống đều được chiếu cố thường xuyên và dân Bắc kỳ di cư có một cái tên mới là "dân rau muống". Có điều rau muống miền Nam trồng ở ruộng nên không được tốt và ngọt như rau muống trồng ở miền Bắc. Miền Bắc thường trồng bằng cách thả rau muống ở ao, nên cọng lớn và dài lòng thòng. Khúc ngọn thì người ăn, khúc giữa thì cho trâu bò ăn, còn cái khúc gốc thì băm nấu cám cho lợn ăn, chả phí phạm một tí nào.

Nói đến chữ "dân rau muống" người ta còn phân biệt anh Bắc kỳ nào di cư vào Nam sau hiệp định Genève 1954 là dân rau muống ướt. Còn anh nào vào Nam trước đó 1945 (thường là theo sự tuyển mộ của mấy đồn điền cao su) thì được gọi là rau muống khô.

Nhưng những anh Bắc kỳ vào Nam sau Ba mươi tháng Tư năm 1975 thì người dân miền Nam không gọi là dân rau muống mà cứ gọi là Bắc kỳ hay cán hô. Thì ra chỉ có anh Bắc Kỳ di cư năm 1954 là còn giữ được cái vinh dự là "dân rau muống".

Nếu chuyện chỉ có thế thì có gì đáng nói. Cái thắc mắc lớn nhất là không có một sử gia nào ghi chép lại, ai là người miền Nam đầu tiên ăn rau muống? Chúng ta không biết là ai, mà chỉ biết rằng càng ngày người ăn rau muống càng nhiều, chả cần phải là Nam hay Bắc. Cho đến sau 1957 hầu như từ Bến Hải xuống đến Cà Mau mọi người đều ăn rau muống mà lại còn khen ngon. Không những ăn xào, ăn luộc, mà còn ăn sống nữa. Dân miền Bắc ngày xưa cũng có ăn rau muống sống nhưng hơi kiểu cách một chút. Rau muống được vặt hết lá; cọng rau muống được chẻ ra làm tư làm tám, ngâm trong một chậu nước cho sạch nhựa, rồi chỉ ăn với cái món mà người ta gọi là "riêu cua" mà thôi. Nhưng dân di cư sau này cũng bỏ cái kiểu cách đó đi và hòa đồng cùng "anh em ruột thịt miền Nam" ăn sống tuốt nuốt. Này nhé, cuộn chặt trong tay ít cọng rau muống, chấm với tí nước tương hay sì dầu (có một vài miếng xoài xanh trong đó) cắn nghe đánh xột một cái, ôi cha "ngon thấy mẹ".

Rau muống tuy chưa phải là món ăn được nâng lên hàng quốc hồn quốc túy nhưng không có rau muống không được và chính rau muống đã là sợi giây thắt chặt tình Nam, Bắc quấn quít lấy nhau suốt từ 1955 đến nay. Trong những năm trường ấy biết bao nhiêu trai Bắc lấy gái Nam, bao nhiêu trai Nam lấy gái Bắc sinh ra cả lũ con lòng thòng chả cần biết Bắc hay Nam lai túi bụi, lưu lại biết bao nhiêu kỷ niệm về rau muống còn đó. Chỉ có một chút hơi khác biệt là anh miền Nam nói ăn rau muống "ngoong thấy mẹ" còn anh Bắc kỳ thì nói "ngon bỏ mẹ" không hiểu tại sao? Chẳng lẽ người muốn nói mẹ chết rồi mà ăn rau muống ngon qúa và thích qúa cũng giống như thấy lại bố mẹ. Còn anh kia chắc có ý muốn nói rau muống ngon qúa nên bỏ cả mẹ mà chạy theo rau muống. Dù ý muốn nói gì thì nói tựu trung cũng cùng một ý: rau muống ngon. Dù rau muống đã thắt chặt tình Nam Bắc, xóa tan được cái thảm họa phân chia Bắc Nam do thực dân bảo hộ tạo ra, nhưng sự đùa giỡn lẫn nhau bởi cọng rau muống vẫn thường xẩy ra. Sự đùa giỡn đôi khi làm anh Bắc kỳ bực mình nhưng cọng rau muống không đứt, tình Nam Bắc vẫn cứ khắng khít thêm, thắt chặt tình thân thương và nhậu nhoẹt với nhau vui vẻ như thường. Nhớ lại một thuở ở quân trường, căn phòng có 30 khóa sinh chỉ có duy nhất một anh Bắc kỳ. Mỗi tối khi lên giường ngủ, anh bạn Nam Kỳ hay "chọc" anh Bắc Kỳ bằng câu ca: "Anh Bắt Kỳ vi cư đi dzô Nam, anh xuốn tàu còn man theo rao muốn xào, đi xuốn tàu còn hút điếu thuốt nào". Anh Bắc Kỳ có lúc chịu hết nổi hét lên: "Ông sẽ đánh chết mẹ chúng bay".

Anh bạn Nam Kỳ đôi khi còn "dậy khôn" anh Bắc kỳ về cách ăn rau muống tân tiến của mình. Anh nói rằng rau muống luộc phải có nước mắm chanh ớt, lấy một trái cà chua dằm vào nồi nước rau muống, thêm chút hành tươi, chút muối, ăng ngoong thấy ông bà ông dzải. Đấy, hết ngoong thấy mẹ bây giờ lại ngoong thấy ông bà ông vải. Chưa hết, anh bảo: "Mày phải dùng cái muỗng mà múc, chứ đừng dùng cái thìa, nước rau hết ngon". Lạ nhỉ!.

Còn một chuyện nữa. Có người đàn ông bị đụng xe chết, người kéo đến coi, rồi hỏi nhau: Thằng chả ấy là Bắc kỳ hay Nam kỳ dzậy. Có người bôi bác nói: Cứ vạch quần chả ấy ra mà coi: Hễ có cọng rau muống ở lỗ đít là dân Bắc kỳ, còn hễ thấy cọng giá sống ở đó là dân Nam kỳ.

Từ năm 1975, phần lớn phe ta tỵ nạn đến Mỹ, sau khi tạm ổn định cuộc sống thì lòng lại khắc khoải đến rau muống, nhưng kiếm đâu ra bây giờ. Ấy thế mà trời vẫn còn thương, không biết ai đã mang được rau muống đến Mỹ. Dần dần có người chuyên trồng rau muống để bán cho đồng hương ở các tiệm thực phẩm VN, làm cho chúng ta đôi khi cứ tưởng mình đang đứng tại chợ ông Tạ hay chợ Bàn Cờ ở Sàigon. Suốt mấy năm dân ta ăn rau muống thỏa thê có chết thằng Mỹ đen nào đâu. Đùng một cái năm 1991, một chuyện khó tin xẩy ra khiến mọi người bỡ ngỡ. Mấy ông Mỹ của sở thanh tra thực phẩm vùng Orlando, tiểu bang Florida, ra lệnh cho tất cả các tiệm thực phẩm VN không được bán rau muống. Lý do: rau muống gây nguy hại cho tính mạng của con người. Không rõ lý do nào khiến họ biết và để ý đến rau muống; họ có thí nghiệm và phân chất ra hay không? Nhưng hồi năm 1991 họ cho biết rau muống tạo sự nhức nhối và làm băng hoại các bắp thịt, nguy hiểm đến tính mạng, nên không thể ăn được. Ai bán rau muống sẽ bị phạt tiền từ $5000 US và có thể bị tù nữa. Cho nên từ năm 1991, đi mua rau muống ở Orlando cũng phải lén lút, như đi kiếm thuốc phiện hút vậy.

Theo kinh nghiệm tại VN, rau muống qủa thật có tạo sự đau nhức, nhưng đối với những người có mụn nhọt hay đau mắt vv.. Sau khi ăn rau muống thì nhức nhối ghê lắm. Đối với những vết thương nào bị mất thịt, hay mụn nhọt (như sâu quảng) khoét sâu vào bắp thịt, ăn rau muống chỗ đó sẽ được bồi đắp nhanh chóng. Nhưng chỉ ăn vừa đủ mà thôi, vì ăn nhiều qúa, thịt chỗ vết thương hay mụn nhọt đó sẽ lồi ra cao hơn bình thường. Có người còn tỏ ra hiểu biết hơn nói rằng rau muống có chất "Ni-Tơ" (Nitrozen?) ăn vào rất tốt. Chỉ có một vấn đề đặt ra là rau muống (bán ở các tiệm thực phẩm VN) đã được trồng ở đâu? Ở trên đất ruộng hay dưới hồ? Nếu trồng rau muống ở những hồ nước hay những ao nhỏ có đường cống nước phế thải (sewer) chạy vào thì có thể có một hậu qủa tai hại thật. Vì đường mương cống rãnh ở xứ ta có dơ bẩn lắm, thì cũng chỉ bẩn như chất cặn bã của con người thải ra. Còn ở Mỹ đường nước phế thải có cả trăm thứ nguy hiểm; ngoài cặn bã của con nguời, nào chất hóa học, nào chất độc được phế thải từ các nhà thương hay các xưởng chế tạo cũng như các chất khác khó mà biết được. Nếu có những vị thần-y, thần dược VN nào có phương tiện làm một màn thí nghiệm, nghiên cứu để có một câu trả lời dứt khoát về rau muống tại xứ Mỹ này thì hay biết mấy.

Hình như lệnh cấm bán rau muống chỉ có ở thành phố Orlando mà thôi, nên ở các vùng khác trong tiểu bang Florida người Việt Nam vẫn trồng rau muống để bán cho khắp nước. Có nông gia trồng cả hàng trăm mẫu vốn liếng lên đến cả bạc triệu. Thì đùng một cái giới thẩm quyền ra lệnh tất cả các nông gia phải hủy diệt hết tất cả rau muống, nếu không sẽ bị phạt tiền và tù. Có nghĩa là lệnh sẽ được áp dụng một cách nghiêm chỉnh; nếu ai trồng, bán và... (ăn?) rau muống sẽ được coi như đã vi phạm luật. Như vậy trồng lén rau muống ở nhà cũng sẽ bị tội như trồng cây thuốc phiện. Hội nông gia Việt Nam ở Florida đã cố gắng trình bầy và thuyết phục đến rớt nước mắt rằng nếu không cho người Việt ăn rau muống thì chẳng khác chi cấm dân Mỹ ăn "hamburger", nhưng giới thẩm quyền vẫn không thay đổi lệnh "cấm trồng rau muống".

Có nguồn tin nói rằng lý do cấm trồng rau muống không phải vì rau muống làm hại đến thân thể con người mà vì những lý do khác. Một số nông gia Mỹ khiếu nại rằng rau muống phát triển lan tràn làm tắc nghẽn đường dẫn thủy đến trang trại của họ và đã làm thiệt hại lợi tức của họ giảm đi cả trăm triệu. Họ đã mướn chuyên viên nghiên cứu tìm nguyên nhân và sau một thời gian nghiên cứu họ đi đến kết luận sự ứ thủy do chính rau muống gây ra. Giới thẩm quyền cũng cho biết những dân cư Việt Nam cũng đã trồng rau muống ở những hồ ao, rồi từ đó rau muống bò vào các đường nước xả"sewer" tạo cho hệ thống bị tắc nghẽn khiến cho việc khai thủy tốn rất nhiều tiền. Hội nông gia Việt Nam đã cố gắng đề nghị các biện pháp giữ gìn rau muống riêng biệt không liên hệ tới các đường dẫn nước, nghiêm cấm không cho trồng lẻ tẻ hoặc tại nhà, cùng tình nguyện để giới thẩm quyền thanh tra vv. nhưng đề nghị của họ cũng không được giới thẩm quyền ("Department of Environmental Protec- tion) lưu ý. Luật liên bang HK và tiểu bang Florida cấm trồng rau muống; vi phạm luật này sẽ bị phạt 500 đô la hoặc 60 ngày tù, hoặc cả hai (Theo Section 369.25 of Florida Statutes and rule 62C-52.044, 62C-52-011).

Ôi! Cọng rau muống gian nan, chạy từ Bắc vào Nam, rồi từ Miền Nam qua Mỹ tưởng đâu sẽ có một tương lai thoải mái, ai ngờ lại gặp khốn khổ. Nếu người Việt Nam ở các tiểu bang hay các quốc gia Tây phương khác mà không khéo giữ gìn rau muống và gây giống một cách cẩn thận thì rau muống có thể bị tuyệt nọc.

Có người sẽ nói: "Chỉ có thế thì nói mẹ nó ra cho rồi, hơi đâu mà nói dài dòng sốt cả ruột". Ấy tại vì rau muống đã lòng thòng nên mới phải nói lôi thôi lếch thếch như vậy. Tuy không phải là món quốc hồn quốc túy nhưng không ăn rau muống thì mất mẹ nó tình quê hương còn gì. Thịt chó đã không cho ăn, bây giờ rau muống lại cấm nốt, chúng ta lấy cái quái gì để mà thắt chặt lại tình đồng hương với nhau đây?

Má đi chợ về, lẫn trong các túi là một gói rau muống xanh (không dám gọi là bó nhưở Việt Nam, vì bên này mà ăn vài bó thì sẽ mau nghèo ngay), “để muối như dưa,” Má nói.

“Rau muống muối như dưa hở Má?”

“Ừa, bà ngoại cu Bi mới chỉ cho má”

Bà ngoại đã hơn chín chục tuổi, tóc bạc trắng toát, miệng móm mém nhai trầu bỏm bẻm, nhưng thức ăn món gì nấu ra sao, bà nhớ hết. “Ngày xưa tui hay muối rau muống đem cho mấy ông ở trong trại cải tạo, mấy ổng thích quá trời.”

Nhớ Bố, nhớ ngày xưa và nghĩ đến ngày nay.

Ngày xưa, rau muống rẻ, có khi ăn độn với mì gói, có bữa hết gạo, ăn rau muống trừ cơm (rau muống heo, vì rau muống heo rẻ và nhiều hơn, nhà đông con phải biết tính toán), tới bữa ăn, thấy rau muống là lòng buồn vời vợi, Bố thường trêu chọc để động viên con cái, “Thịt bò Bc đấy, ngon ra phết!” Thời thiếu dinh dưỡng, chỉ cần 100 gram thịt bò, cả nhà cùng chia, là vui, là hạnh phúc.

Ngày nay, thấy thịt bò lại sợ, sợ bịnh. Chỉ thèm rau. Nhất là rau muống. Nghịch đời.

Rau muống xào với giá, rau muống xào với tỏi, rau muống luộc xanh rờn, nước luộc rau giầm vài trái cà chua, đập thêm vài tép tỏi, nêm thêm nước mắm hoặc mắm ruốc, vắt tí chanh, bỏ chút ớt, chan vào bát, húp xì xụp, ngon vô cùng. Rau muống nấu canh, cũng nêm giống như nước luộc, chỉ khác là không vớt rau ra, nấu cho mềm, món này người nào răng yếu hoặc răng giả thích nhất. Rau muống bào sợi ăn với bún bò và bún riêu, còn gì hơn.

Hơn ba mươi năm mới biết có món rau muống muối như dưa. Hăm hở đợi chờ, một ngày, rồi hai ngày, dưa chín, cọng xanh rờn, giòn xộm. Má xào thịt bò Mỹ với hành tây, luộc một dĩa bún, thêm vài cọng rau thơm, cuộn với bánh tráng, gói thêm vài cọng rau muống muối, chấm nước mắm tỏi ớt cay, hơn cả tuyệt vời.

Thiếu thì thèm, dư thì không biết tận hưởng, đấy là con người.

Rau muống đầu mùa (tạp bút)

31-03-2011

1. Hồi còn là sinh viên ở nước ngoài, chúng tôi đau đáu rau muống. Rau dền dại chen nhau trên những bãi đất trống, có vẻ không ngon như rau dền quê nhà nhưng dù sao cũng làm vơi đi nỗi nhớ. Những con trai to bằng bàn tay lổm ngổm dưới đáy hồ, lặn một hơi đã bắt được vài ba con. Cháo trai, lại cũng vơi đi nỗi nhớ hương vị quê nhà…

      Nhưng rau muống thì dứt khoát không tồn tại trên mặt đất châu Âu. Chẳng có… Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai, chỉ thuần túy nhớ ngọn rau muống cạn, mớ rau muống bè. Nhắm mắt nằm mơ đĩa rau muống luộc, mở mắt tơ tưởng đĩa rau muống xào. Lại đĩa rau sống thật nhiều rau muống chẻ. Thế rồi rau muống khởi nguồn nhớ – bát bún riêu, tô mì Quảng, gắp chả, cá nục kho cuốn ngọn rau muống… Cậu bạn quê Nam Bộ trợn mắt bảo raumuống quê anh to bằng cổ tay, lại béo nên trước khi luộc phải ngâm trong bỗng rượu. Thế mà chẳng ai cãi, chẳng ai bác bỏ, cả bọn nuốt nước miếng ừng ực. Chỉ có cô bạn quê Bắc tủm tỉm cười, khoe cái răng khểnh để thương để nhớ cho bao chàng trai sau này…

       Là vì cô bạn quê Bắc nhớ ngọn rau muống đầu mùa. Rau muống quanh năm suốt tháng, nhưng kể từ tháng chín “nàng dâu nhịn cho mẹ chồng” thì rau muống chừng như chát và dai nhanh nhách trong miệng. Đợi… chờ… khi cái rét buốt da buốt thịt nhường chỗ cho ánh nắng ấm áp của một ngày cuối xuân, những gốc raumuống đâm chồi. Chỉ qua một đêm, hai đêm, những cái mầm đã trở thành rau. Thứ rau muống ấy, ăn sống hay luộc, xào cũng đều ngon hết chỗ nói. Sự thể giống như cây chè, phải qua một mùa đông khắc nghiệt mới cho những búp chè tràn nhựa, mới có ấm trà xuân ngon nhất trong năm.

2. Thời buổi giá cả vùn vụt, bước chân ra chợ đã thấy giá hôm nay khác giá hôm qua, thì rau muống đầu mùa là một sự lựa chọn hợp lý. Đã đành giá cá, giá thịt, giá gas, giá điện kéo giá rau lên theo. Nhưng gì thì gì, rau củ trong đa số các trường hợp bao giờ cũng rẻ hơn các thứ khác. Và còn một lý do quan trọng hơn giá cả, là cái miệng người Việt không bao giờ chê rau muống. Hôm nay luộc lấy nước rau dầm sấu hay vắt chanh, ngày mai xào tỏi, ngày mốt nấu canh tôm…

Rau muống không nhiều món, quay đi quay lại chừng ấy, nhưng luôn làm ngon miệng. Nghe chuyện ngày xưa ông Ngô Đình Thục thích món rau muống muối dưa. Lại chuyện người Tàu dùng que xuyên thủng cọng rau muống – khổng tâm thái, rau rỗng ruột – nhồi thịt rồi hấp. Rau muống quê mùa, dân dã, gắn bó với đồng quê, với bao thế hệ con Lạc cháu Hồng, đâu có cầu kỳ rắc rối đến vậy!

Theo Hoàng ( Thanh Niên Online) 

 Những ngày hè, những ngày mưa bão

Sài Gòn đang là mùa mưa, trời mưa xối xả. Nghe mưa người tôi nhớ đến đầu tiên là mẹ. Miền Trung quê tôi giờ đang là mùa bão. Tôi nhớ những ngày tháng trước đây, những ngày tôi còn được ở nhà với mẹ. Chẳng phải là tôi được mẹ nuông chiều, cũng chẳng phải mẹ cho tôi ăn những món ngon. Mà tôi nhớ những ngày bình dị nhất, tuổi thơ không phai mờ. Quê tôi nghèo, nhà tôi cũng chẳng khá. Một gia đình thuần nông làm sao mà khá được ở cái vùng đất chịu sự khắc nghiệt của thời tiết ấy. Mùa đông thì rét cắt da cắt thịt, mùa hè thì nắng nóng nứt đất nẻ đai. Thế nhưng chưa bao giờ tôi quên vùng quê nghèo ấy - Thanh Chương - quê hương yêu dấu của tôi.

Ở quê tôi nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ. Mùa này vườn nhà tôi có rau muống, lá hẹ, khoai lang cho heo ... Ôi những ngày xưa ấy! Những buổi chiều hay ngày nghỉ mẹ thường phân công cho chị em tôi nhổ cỏ cho rau trong vườn. Chị tôi nhổ cỏ cho hẹ, tôi nhổ cho rau muống. Cái tuổi 14 - 15 chỉ muốn ăn chơi ấy tôi ghét cay ghét đắng nhiệm vụ mẹ giao. Ngồi giữa vườn tìm nhổ từng cọng cỏ trong luống rau ấy. Ghét thì ghét nhưng vẫn phải làm, trong tôi bắt đầu xuất hiện những suy nghĩ ngây ngô. Mẹ dặn "nhổ cỏ rau muống thì không được dẫm nát rau nghe chưa". Vốn ương ngạnh, bướng bỉnh, đã không thích mẹ lại bắt làm, đã thế còn dặn "không được dẫm nát rau". Tôi đi làm ngược lại, ngồi nhổ cỏ với hai hàng nước mắt, tôi bóp nát từng cọng rau muống với suy nghĩ nó chết đi thì mình sẽ không phải nhổ cỏ nữa. Ôi, sao mà dại khờ đến thế. Nhưng cũng chỉ ngang bướng được một lúc, tôi đã say sưa nhổ cỏ cho rau từ lúc nào không hay. Rồi nhớ những buổi chiều cùng cha gánh nước từ giếng ra vườn tưới rau. Nắng hè gay gắt như đã giết chết đất cằn, dường như chỉ còn lại cái xác. Bao nhiêu nước tôi đổ xuống đều chẳng thấm tháp gì. Lúc này tôi đã biết thương cây rau hơn, cố chia đều và tưới nhiều nước cho từng khóm từng cây từ chiều cho đến tối.

Cũng những ngày hè này tôi ghét cái nhiệm vụ thứ hai mẹ giao cho tôi đó là đi chợ. Làm sao mà làm việc đó được chứ. Tôi có thể bị thầy cô, bạn bè bắt gặp và châm chọc bất kỳ lúc nào "Lêu lêu đi chợ kìa". Lúc đó tôi phải làm sao chứ. Nghĩ đến đó tôi giãy nảy lên, không đi, nhất định không đi. Nói là không những vẫn phải đi, mẹ đang ốm liệt giường với căn bệnh thoái hóa xương. Chị gái đã hết học và đi làm xa, tôi không đi ai đi? Ai phụ mẹ bán những bó rau muống, bó hẹ để đổi nước mắm hay một chút đồ ăn cho cả nhà? Thật ra chẳng ai châm chọc tôi cả, người quen có gặp thì cũng là hỏi thăm mẹ con đâu, mẹ đã đỡ nhiều chưa. Ôi mẹ ơi, con gái mẹ khờ quá phải không?

Rồi đến những ngày mưa bão, nước chảy không kịp ngập hết cả mảnh vườn bé nhỏ. Thế là dập nát hết những lá hẹ đã tốt mà chưa kịp cắt đi bán. Sông Lam thường ngày vốn hiền hòa, nay cũng trở nên dữ dội bởi những cơn bão dồn dập. Chẳng ai làm được gì. Cả nhà ngồi trong nhà nghe mưa, nghe sấm chớp. Cha tôi thỉnh thoảng lại mang áo mưa, đội nón đi xem tình hình nước sông đã lên đến đâu, có khả năng lụt không. Mẹ cũng đi ra đi vào sốt ruột. Chỉ có tụi nhỏ chúng tôi là chẳng lo lắng gì, lại vui vẻ vì không phải làm việc, hết nô đùa lại luộc những mẻ khoai, những hột mít ăn ngon lành. Lại còn thì thấm với nhau mong cho mưa để xem lụt như thế nào. Ôi tuổi thơ, càng nhớ càng thấy dại khờ...

Bí mật hải quân nhà Nguyễn - Kỳ cuối: Đội Hoàng Sa và bí mật quân lương

21/09/2011 0:57

Ngoài các nhiệm vụ được ghi trong chính sử, đội Hoàng Sa của nhà Nguyễn còn có sứ mệnh sang Nhật và Phi Luật Tân (Philippines). Họ ra đảo cùng với bí mật quân lương và mang về những sản vật kỳ diệu…

Với kỹ thuật tàu chiến như đã đề cập ở phần trước, việc đi tới đi lui giữa đất liền với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và xa hơn nữa không mấy khó khăn. Ba bộ sách Nguyễn Phúc tộc đế phá tường giải đồ, hai bộ sách bí truyền khác trong hoàng tộc là Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính và Bí mật quân lương và khử uế chiến thuyền của hai vương triều Tây Sơn và Nguyễn Phúc tộc còn cho ta biết thêm nhiều bí mật thú vị về hải quân nhà Nguyễn.

Theo đó thì đội Hoàng Sa còn có nhiệm vụ sang Nhật Bản và Phi Luật Tân. Họ sang Nhật Bản để hợp tác huấn luyện thủy quân, vì quan hệ giữa nước ta với Nhật Bản rất thân thiện sau khi Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái cho một thương gia Nhật. Các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu thêm phương cách tác chiến của thủy quân Nhật trong những trận thủy chiến với nước ngoài có tương đồng gì không với cách tác chiến của thủy quân ta để làm rõ thêm nhiệm vụ của đội Hoàng Sa.

Còn họ sang Phi Luật Tân để làm gì? Ngày nay, dọc ven biển nước ta có trồng nhiều dừa. Dừa không phải là cây bản địa, đó là loại thực vật được di thực từ Phi Luật Tân sang từ thời các Chúa Nguyễn. Việc trồng dừa là theo khuyến nghị của người Nhật. Ngày xưa, trên bờ biển nơi nào có dừa chính là nơi tàu bè có thể cập vào an toàn. Chính đội Hoàng Sa đã mang những cây dừa về trồng dọc bờ biển nước ta.

Về sản vật, chính sử chỉ ghi chung chung là đội này mang về các “hóa vật”. “Hóa vật” đó gồm những gì? Đó là xà cừ, ngọc trai lộ thiên, san hô đen, san hô đỏ, tảo, vỏ hàu 9 lỗ (cửu khổng thạch khuyết minh), ốc vú nàng, chất thơm trong đầu cá nhà táng...

Ốc vú nàng và chất thơm trong đầu cá nhà táng đều là những vị thuốc quý. Ốc vú nàng được cho là có thể chữa được ung thư tụy tạng, cầm máu, chữa sốt không rõ nguyên nhân, các bệnh nhiễm trùng da và rắc rối đường huyết, bệnh phụ khoa... Vỏ ốc phải lấy vỏ từ con ốc tươi mới làm thuốc được. Cá nhà táng là một loại cá voi, chất thơm trong đầu nó được lấy khi cá đã chết hoặc do cá tiết ra trên đảo (Nhà Nguyễn, nhất là từ đời Gia Long về sau, đã cấm triệt để việc săn bắt cá voi). Chất này được ứng dụng rất hữu hiệu trong điều trị bệnh sản phụ và nhi khoa, đặc biệt trong ngừa trị tai biến mạch máu não...

Đội Hoàng Sa ra đảo mỗi năm 6 tháng, họ ăn uống như thế nào? Điều này thuộc bí mật quân lương của nhà Nguyễn. Qua sách Nguyễn Phúc tộc đế phá tường giải đồ ta biết trên mạn thuyền của đội Hoàng Sa có trồng 7 thứ rau: rau muống, rau húng, rau lang, hẹ, hành, tỏi, me đất (đến năm Tự Đức thứ 12 có thêm rau sam bay). Đây là 7 loại rau Trung Quốc không có hoặc một số thứ có nhưng chất lượng không bằng của ta. Hẹ, hành, tỏi thì sách thuốc đã nói nhiều. Còn rau muống thì có tác dụng bổ huyết do có nhiều chất sắt, đây là loại rau di thực từ Nhật Bản sang Việt Nam thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Rau húng cân đối lượng đường trong máu, giúp tuần hoàn tim mạch, điều hòa tiêu hóa, điều hòa hô hấp, điều hòa não, nếu ăn thường xuyên từ nhỏ thì không bị trĩ... Tất cả các loại rau trên đều có tác dụng bảo vệ sức khỏe của quân dân khi ra đảo. Nhưng vì sao những thứ đó được trồng trên thuyền mà không đem trồng trên đảo? Đó là bí mật quân lương.

Họ ăn những loại rau nói trên với cá biển và nước mắm. Tuy nhiên, ăn cá biển thường xuyên sẽ không bảo đảm cho sức khỏe, cho nên lương thực – thực phẩm chính mà đội Hoàng Sa mang theo là thịt thưng và cám gạo (cám gạo, chứ không phải gạo). Các món thịt thưng chính là bí mật quân lương của quân đội nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn, các vua Nguyễn sau này trong các lễ cúng tế tổ tiên bao giờ cũng có món thịt thưng.

Đó là thịt heo hoặc gà, vịt, dê... được ướp với dầu lạc (dầu ép thủ công) và nước ớt, cho muối hột và nước mắm với độ mặn gấp 3 lần so với kho thịt bình thường, cho nước ngập xăm xắp, đun nhỏ lửa cho đến khi khô hết nước. Thịt này cho vào một cái hộp đậy kín, có thể để hàng năm không hỏng. Do để lâu không hỏng nên nó mới dùng làm quân lương.

Thịt thưng ăn vào cân bằng tiêu hóa, ngăn ngừa các bệnh về đường ruột và giá trị dinh dưỡng đạt đến tối ưu trong điều kiện đi xa trên biển. Còn cám gạo thì ngày nay khoa học khẳng định nó là tinh hoa của lúa gạo. Dùng cám gạo thay cho gạo vừa đạt giá trị dinh dưỡng tối đa vừa không chiếm nhiều chỗ chứa khi ra biển đảo. Mỗi thành viên trong đội Hoàng Sa được cấp một cái hộc có nắp ép như cái hộc làm bánh, mỗi bữa ăn cho cám gạo vào hộc, bỏ vài miếng thịt thưng vào giữa, ép lại thành một chiếc bánh. Cộng thêm một ít rau là đủ cho một bữa ăn không thiếu một chất dinh dưỡng nào.

Do không có nhiều nước ngọt, nên ra Hoàng Sa, Trường Sa, người xưa ăn nước mắm chứ không ăn muối. Ăn nước mắm tốt hơn ăn muối, tăng cường sự dẻo dai của thủy binh.

Điều đặc biệt là nước mắm cũng có thể dùng để... giải khát. Trên một tảng đá nghiêng, khi trời nắng lấy nước mắm thoa lên đá phía mặt trời chiếu vào, nước mắm khô sẽ bám vào mặt đá. Đêm xuống, lấy đồ hứng những giọt sương rơi trên đá chảy qua chỗ có thoa nước mắm. Khi khát nước, thấm một ít nước này vào miệng, thứ nước đó đủ cho tuyến giáp trạng điều tiết dịch, không gây ra những cơn phiền khát. Vì vậy, uống ít nước vẫn không thấy khát.

Trên đảo có một thứ rau mà ngày nay không ai nghĩ là ăn được, vì ăn vào sẽ bị say. Đó là rau muống biển. Nhưng ngày xưa, đội Hoàng Sa của chúng ta vẫn ăn được thứ rau này. Sách Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính có chỉ rõ y lý của rau muống biển và cách chế biến với nhiều công đoạn phức tạp nhưng có thể thực hiện được trên đảo. Ăn rau muống biển được chế biến đúng cách, phòng tránh được nhiều bệnh thông thường, tăng sự dẻo dai cho cơ thể, đặc biệt nó tránh được những cơn say sóng nặng, bởi vậy mà sách này gọi nó là một vị thuốc mang tên “Cứu mệnh thảo”. Người viết bài đã chế biến rau muống biển theo đúng cách hướng dẫn và đã ăn nó trước khi viết loạt bài này.

Trên đây là những tư liệu mới mẻ. Trong phạm vi một bài báo chúng tôi chỉ giới thiệu sơ qua. Từ một nguồn, đã hé mở biết bao điều kỳ thú. Chắc chắn còn rất nhiều tài liệu đang tản mát trong các gia đình, hy vọng các nhà nghiên cứu tiếp tục khảo sát, thu thập để xác minh, tổng kết.

Tôn thờ rau muống

Mình đã tự nhủ lòng đừng quan tâm đến vụ bình chọn rượu nồng dê béo, hoa này áo kia, thế nhưng báo chí cứ ra rả mãi, vậy cầm lòng chả đậu xin lắm chuyện một phát: Không có hoa nào xứng đáng, tỏ rõ phẩm chất Việt như hoa RAU MUỐNG đâu. Hết sảy, đúng không các vị?

Đối với người Việt thì sen, mai, đào, cúc, mào gà (hoa này cụ Vũ Khiêu giới thiệu) đều phọt phẹt chỉ để chơi tí thôi, còn cây lúa lại khó hình dung hoa lúa với quả lúa thế nào, có lẽ chỉ tre và rau muống là gắn với con người Việt nhất. Nhưng hoa tre thì siêu hình quá, chả mấy ai biết hình thể nó ra sao, vả lại tre đâu chỉ ở VN, nhìn xem TQ, Thái Lan, Lào cũng đầy rẫy. Thế là chỉ còn rau muống đương nhiên lọt vào chung kết, không đụng hàng nước nào, hoa lại rất cụ thể, thậm chí đẹp, và đặc biệt nhất rau muống gắn bó máu thịt với con người xứ ta, cả lúc cơ hàn nhất lẫn khi vinh hoa phú quý. 99% dân Việt là nông dân, anh chị nào mà chẳng gắn bó, đầy kỷ niệm với rau muống. Nói về nó, viết về nó có nói cả ngày chả hết.

Hồi mình còn bé, lúc chưa vào HTX nhà mình có cái ao; khi bị bắt buộc vào, phải góp tất cả ruộng đất cá thể cho hợp tác, mỗi nhà chỉ được giữ lại mảnh đất nhỏ phần trăm gọi là ruộng rau xanh rau đỏ. Bu mình (quê mình Hải Phòng nhiều nơi gọi mẹ là bu, bố là thày)thay vì nhận ruộng đã giữ lại cái ao, cũng chẳng lớn gì, chỉ non 1 sào. Bốn cái ao liền nhau, ao nhà mình, ao bà Hiếm (có 4 con trai đi bộ đội, 2 người không về), ao bà Trại và 1 ao nữa mình quên chủ nhân)quanh năm đầy nước, và xanh ngắt rau muống. Cái ao ấy đã nuôi sống gia đình mình những tháng ngày cơ hàn nhất. Mấy chị em mình chẳng bao giờ quên hình ảnh mỗi chiều bu lại đội chiếc mủng (tròn, bằng sắt tây) ra ao hái từng ngọn rau bó lại thành bó, xẩm tối thì gọi anh em mình ra khiêng mủng về, còn bu quẩy gánh rau, sáng mai đem sớm lên chợ huyện, hôm nào bu bận cấy thì thày gánh đi. Nào có nhiều nhào gì, nếu bán hết cũng chỉ được hơn 3 đồng bạc. Tháng qua tháng, năm lại năm, bu cứ cần mẫn nhặt nhạnh rau muống như thế nuôi cả nhà, kiếm tiền cho mấy đứa con ăn học. Nhà khác mình không biết thế nào chứ nhà mình, hình ảnh người mẹ gắn liền với rau muống. Ơn mẹ là chuyện đương nhiên rồi. Rau muống ơi, mấy chị em tao thật thà biết ơn mày.

Không ít lần mình theo bu ra ao, được bu cho ngồi lên mủng bơi tròng trành giữa những bè rau muống. Mình hái những bông rau tim tím xòe ra như chiếc loa kèn, vò nhẹ phần giữa bông sau đó chụm môi thổi căng phồng lên, xoắn phía đầu hoa lại, có ngay một chiếc bong bóng nho nhỏ bằng hoa rau. Rồi quả rau muống, chọn những quả tròn xoe, lấy chiếc gai bòng gai bưởi cắm xuyên qua là có ngay một con quay dễ thương để thi đấu cùng chúng bạn. Đồ chơi hồi ấy giản dị biết bao.

Nay bu già lắm rồi, vượt ngưỡng cửu thập nhưng mỗi lần mình về quê mấy mẹ con vẫn nhắc chuyện ngày xưa, cả cái ao và những bè rau muống.

Rau muống ơi, cho tao được tôn thờ mày nhé, hỡi quốc hoa vạn tuế.

Nhớ rau muống quê

Ngày tôi còn bé, những đêm mưa dai dẳng, khi tiếng rơi lộp bộp trên tàu lá chuối thưa dần, tiếng ếch nhái uôm uôm phía bờ sông, mẹ tôi thường trở dậy lôi những bó rơm gác gọn ở chái bếp xuống, sắp ra thành những nắm nhỏ để mai dậy hái rau muống. Tiếng gà gáy dồn, tôi vùng dậy, mắt nhắm mắt mở lếch thếch theo mẹ ra sông. Đẩy thuyền xuống bờ sông, hai mẹ con bám theo những bè rau muống. Mẹ thoăn thoắt hái bằng cả hai tay những ngọn rau muống xanh non. Còn tôi thì rất khoái hái những ngọn rau muống giòn sật. Tảng sáng, cả thuyền chất ngất những bó rau tía xanh. Chỉ việc xếp rau vào quang gánh, mẹ tôi lật ngật gánh ra chợ, thoáng cái các bà buôn đã xếp hết veo. Về nhà, tôi tự thưởng cho mình khi thì bắp ngô luộc, khi thì tấm bánh rán, trong khi bàn tay đen đúa vì nhựa rau dính đầy. Lòng tôi lâng lâng vui sướng. Những đêm hái rau, những buổi chiều hè uống bát nước canh rau dầm sấu chua đeo đẳng tôi mãi. Nó là vệt ký ức sáng dìu dịu, có thể bị khuất lấp bởi những bận rộn của đời thường, nhưng một lúc nào đấy, nó lại trở về nguyên vẹn.

Chiều nay, mưa vừa tạnh. Tôi lang thang đi vào những ngõ ngách của phố Láng. Thật ngạc nhiên, giữa làng húng nổi tiếng của Hà Nội, tôi bắt gặp ao rau muống xanh rờn. Dân làng Láng gọi là Ao Phủ. Mấy chị áo gụ, đội nón trắng, vừa khom người đẩy thuyền, vừa thoăn thoắt hái rau. Hình ảnh ấy làm tôi như sống lại với những ngày thuở bé nơi miền quê trong trẻo. Tiếng ơi ới trên bờ: “Này để cho tôi một hai mớ nhé. Mưa xong, rau vừa non vừa ngọt. mà ăn rau này đỡ bị thuốc sâu". “Gớm, nhà bà rõ khéo. Ao này là rau sạch”. “Biết thế, nhưng mới rồi có khối người bị ngộ độc rau muống. Nhà tôi sợ chết khiếp. Ăn mãi các rau khác cũng ngán. Mua rau muống về, nhưng phải ngâm đến vài tiếng. Rau nhạt thếch”. Các bà còn bảo nhau, trên phố người ta “truyền” nhau kinh nghiệm: cứ chọn những mớ rau lá thủng lỗ chỗ ấy, sâu nó ăn đấy, đích thị là chưa bị phun thuốc sâu, Người khác nghi ngờ: chắc gì, người ta phun chán ra rồi đấy, thuốc kích thích đủ rồi đấy. Sắp bán rau thì thả mấy con sâu vào cho nó cắn lá! Chao ôi, sự thật phũ phàng đến thế kia ư? Còn đâu là niềm tin vào những người sống quanh ta? Một bà thở dài: “Chả biết ở nông thôn bây giờ người ta có phun thuốc sâu vào rau muống không. Nếu họ cũng làm thế thì chắc cánh ta chả bao giờ được ăn rau muống chấm tương”.

Lại nói về món ăn dân dã, bây giờ thành đặc sản trong các nhà hàng sang trọng. Rau muống chấm tương là món ăn chính trong suốt mùa hè của người dân quê. Ngày xưa làm gì trồng được rau cải trái vụ như bây giờ. Ngoài rau ngót, rau đay, rau mồng tơi trồng quanh nhà, món rau chính vẫn là rau muống. Rau muống rất dễ thả. Trên ao, trên hồ, trên sông, thậm chí trồng trên ruộng nó vẫn sống. Nhưng rau sông vẫn ngon nhất. Rau sông bao giờ ngọn cũng dài hơn, non hơn, nó chẳng bị quấn thành bè như thả ở ao. Chỉ cần buổi chiều, thấy sấm chớp loé sáng, một vài người quẳng bè rau muống xuống sông, cắm một hai cái sào vào giữa cho rau khỏi trôi, chỉ sau một vài đêm, rau muống đã nẩy ngọn non. Rau đấy luộc khi nước vừa sôi, vớt ra ăn vừa bở, vừa ngọt. Có loại rau muống trắng vừa bở vừa non nhưng nhạt. Chỉ có rau muống tía, ăn giòn, ngọt. Vào những ngày nắng, rau đanh lại, ăn càng giòn. Chiều hè đi làm về, mẹ tôi vẫn thích ra sông hái mấy ngọn rau thả vào xoong. Nhập nhoạng tối, cả nhà trải chiếu ra hiên ăn cơm. Ngoài mấy món tép đồng rang với khế chua, hoặc canh cua rau đay, bố tôi - một thầy giáo làng, vốn “nghiện” ca dao cứ tặc lưỡi: “Cái anh rau muống chấm tương là “hoàng hậu bốn mùa”. Ăn không ngán bao giờ. Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”. Bữa cơm quê đơn giản vậy, ai cũng có nó trong tuổi thơ của mình nhưng có khi, chính những điều giản dị đó khiến người ta bâng khuâng, nhung nhớ…

Mấy chị hái rau xong, ôm những bó rau muống non xếp lên bậc cầu ao. Chị hàng xóm nhà tôi nhanh nhảu cầm một bó đặt vào tay tôi: “Em mang về xào. Rau này thì vô tư, khỏi lo thuốc sâu”. Tôi cảm ơn chị, cầm bó rau muống về nhà. Tôi nghĩ đến món quà thơm thảo của người làng Láng - làng mới vừa lên phố trong nhịp sống sôi động của đô thị. Tôi nghĩ đến những đêm mưa, tiếng ếch kêu loãng cả đêm hè, để sớm mai, những bè rau xanh mê mải đan kín lòng sông. Người làng, người phố vẫn như xưa, chắt chiu, nhuần nhị. Chiều nay bữa cơm nhà tôi chắc chắn ngon hơn.

Bây giờ vào hàng ăn ở Hà Nội mới thấy sự phát triển của văn hóa ăn đã đạt đến độ cao của  thứ tạp pí lù. 

Bún thì có riêu bò, phở gà bò, phở gà bò trứng v.v…vị của riêu cua khác hẳn vị của thịt bò  nhưng người ta cứ hào hứng cứ trộn chúng với nhau như là sự phát hiện. Phở bò gà trứng cũng vậy, có gì giao lưu giữa vị thơm của thịt gà với vị đậm thịt bò và vị tanh của trứng?. Bây giờ ẩm thực  người ta đã đạt đến độ thực bất cần tri  kì vị. Vấn đề là chất lượng đạm càng cao càng tốt. Chất thanh lịch trong miếng ăn thức uống ở Hà thành cũng trở nên hiếm hoi. Người thông thạo chuyện ăn uống đếm trên được trên đầu ngón tay vài nơi những món ăn còn giữ được truyền thống.

Trộn được là trộn ngay. Ví thử cà phê  thi có cà phê ôm lâu rồi. Khổ thân cho cà phê chỉ còn là cái cớ. Bia cũng có bia ôm, karaoke cũng karaoke ôm. Các món ăn chơi đã nhuốm màu  dung tục. Câu ca xưa: Chẳng thơm cũng thể hoa lài / Dẫu không lịch, cũng vẫn người tràng an”. Thủ phủ Tây An của Thiểm Tây Trung Quốc, kinh đô nhiều đời của các triều đại vua Tàu từng được gọi là Tràng An. Tràng an sang ta nó thành tính từ  để chỉ người kinh kì. Lịch ở đây là chỉ  sự lịch duyệt, lịch lãm  lịch sự chứ không chỉ riêng thanh lịch. Sự phát triển đô thị thiếu sự chăm sóc và gìn giữ , chữ lịch đã rơi mất từ trong cách ăn, cách chơi và cả cách mặc. Bộ áo dài lụa trắng mặc vào như có gió ở trong. Vẻ  đẹp khuê các mất đâu rồi. Nhà thiết kế  trộn rồng vẽ phượng, táp vá lung tung thậm chí có bộ áo dài trang phục  cho biểu diến của một nhà hát đưa lên áo dài  hình phố cổ, gác Khuê văn, chùa Một cột trông phản cảm và xấu xí mà mọi người mặc nhiên chấp nhận. Nó chẳng khác gì  món riêu bò, cua bò và phở gà bò trứng. Chẳng khác gì bia ôm, cà phê ôm, karaoke ôm nhớp nháp và ti tiện. Như thế thì còn còn gì là .kinh kì, còn đâu chữ lịch.

Đó là chưa kể đến ăn nói giao tiếp và lan man sang lối buôn có bạn bán có phuờng của người kinh kì xưa cũng thoái hóa dần. Bây giờ kiếm đồng tiền dễ là chộp giật lừa lọc. Có sự chân thành may ra còn ở mấy người bán rau muống ở nhũng chợ xanh.

Chữ lịch dần mất đi trong cuộc sống, mà thay vào đó là món cua bò!

Rau ở Thảo Điền

TP - Người ta có thú vui ngắm gái, ngắm chim, ngắm hoa, buồn buồn thì ngồi vô tư lự ngắm xe đi qua đi lại. Tôi còn thú vui khác: ngắm rau. Chịu khó đi vào những khu dân cư trong Thảo Điền như Kim Sơn, Eden, Thảo Điền là tha hồ ngắm các thể loại rau.

Rau muống mọc hoang ngay trong mấy vũng nước ngập. Lá rau muống hoang màu xanh tím, bỏ đó không ai thèm hái. Chiều chiều, rau muống buồn buồn trổ bông chơi. Tôi thích ăn rau muống nước nhưng ở Sài Gòn khó tìm rau muống sạch quá. Hồi ở quê, má có cái ao rau muống trước khu gò rơm. Cái ao chủ yếu dùng để lấy nước tưới mấy luống cà chua, nhưng má cũng tranh thủ làm luôn một vạt rau muống và rau ngổ điếc. Vãi urê xuống vài ngày, ngọn rau muống non lại vươn dài ra, xông xáo xâm chiếm cái mặt ao nhỏ. Khoảng một tuần sau là có rau muống để ăn.

Anh Hai thường bứt rau muống vô ngắt khúc. Cứ khúc nào dài mà không có mắt là anh bứt thành một đoạn riêng. Anh Hai nấu canh rau muống ngon lắm. Cứ nấu nước sôi lên, quậy chút mắm cái đổ vô, thêm dầu phộng, đổ rau muống vô là xong. Nước rau muống có hơi mắm cái là ngọt không thể tả.

Bữa canh múc ra, mấy anh em tranh nhau cọng rau muống để hút nước canh trong tô. Nhiều khi đang hút mà ngước lên dòm cái gì là nước rau chảy tùm lum, bị ba la quá trời. Có lẽ ống hút là sản phẩm của đứa nào đó đã từng hút nước canh rau muống chăng?

Trong khu Thảo Điền, nhiều người giàu cũng tranh thủ cái vỉa hè để trồng rau. Tôi thích cái luống rau muống cạn của một nhà nọ. Rau muống cạn cọng nhỏ hơn rau muống nước nhiều và ăn ít ngon hơn. Rau muống cạn nhiều mủ nên ăn nhớt nhớt. Nhưng nói vậy không phải rau muống cạn không có món độc nha. Hồi xưa, mỗi lần giữ bò bên sông, tôi còn nhớ mấy người dưới Bình Phục lên sông Ly Ly đãi sạn.

Món ăn nửa buổi của họ là bánh tráng sắn cuốn cá nục và rau muống cạn. Ăn cá nục với rau muống cạn đúng là số dách. Cái nhà đó còn làm nguyên mấy luống nữa: mồng tơi, rau dền cơm, rau diếp cá. Tôi thích cái trò xu trộm diếp cá nhà người ta. Cứ mỗi lần đi ngang là bứt vài lá, bỏ miệng nhai luôn. Nhiều khi nghĩ lỡ nó mới phun thuốc trừ sâu, có khi về nhà giãy đành đạch chứ hông giỡn.

Thích nhất ở Thảo Điền là trò bứt rau dại. Vào mùa này, lạc tiên bắt đầu nảy mầm mới. Cứ đi lòng vòng quanh Thảo Điền là thấy lạc tiên mọc trên hàng rào, mọc lẫn với dây leo, mọc xen với cỏ tranh khắp nơi. Cây lạc tiên cùng họ với cây chanh dây, lá nó xẻ thùy, dây leo có tua cuốn.

Đặc biệt, trái của nó cũng có hột y như chanh dây, bên ngoài trái bọc một lớp bao lưới. Nhiều người gọi đó là cây chùm bao, còn tụi tôi hồi nhỏ thì gọi là cây rọ heo vì cái bao lưới dòm giống cái rọ bắt heo ở quê. Hồi nhỏ, má tìm ở đâu về một dây trồng sau hè. Cái giường của tôi có cửa sổ dòm ra giàn rọ heo đó. Tụi tôi chờ từng trái chín để tranh nhau hái.

Trái hườm hườm màu vàng ăn là ngon nhất, hơi chua và ngon hơn trái chín. Đến giữa mùa hè, bướm về đẻ trứng là mùa rọ heo tàn. Chừng hai tuần, lũ sâu bắt đầu nở rộ. Giống sâu này vằn vện, con nào cũng có màu sặc sỡ khoang đen đỏ vàng. Cây chùm bao trụi hết lá, chỉ còn đám sâu chúm chụm lại từng cụm, nhìn như loài hoa kỳ dị đầy tua gai. (Viết đến đây tự dưng nhớ con bạn Khương Hà, nó mà thấy dàn sâu đó chắc nó bỏ đi biệt xứ!).

Ở Thảo Điền, tôi có người bạn mà tôi không biết tên. Chị từ ngoài Nam Định vào, giúp việc nhà cho một gia đình ở Thảo Điền. Mấy lần thấy chị tưới rau ở mảnh vườn bên cạnh nhà, tôi xin tưới rau phụ, đơn giản vì thích tưới rau thôi. Hồi xưa, lúc ba mới sắm được cái máy bơm nước, mua mấy chục mét ống tưới rau cho má đỡ gánh nước là tụi tôi tranh nhau giành tưới cây buổi sáng.

Cái cảm giác cầm vòi nước xịt lung tung, ngắm nước rớt từ trên lá xuống đất mà không phải è cổ gánh hai thùng nước hai vai thiệt sướng. Vụ gánh nước này chắc phải viết cả một bài mới tả nổi nghệ thuật múc nước, gánh nước, tưới nước, tưới gàu xoa hay tưới gàu vòi. Giờ ở đây, chiều chiều đi cầm vòi tưới rau cũng thiệt tao nhã.

Chị giúp việc có được người tâm tình thì vơ lấy mà kể chuyện. Chị kể mảnh đất này chủ đất bỏ đó, không biết bao giờ mới xây, chả biết khi nào mới ghé nên chị làm liều ra trồng rau. Chị kể làm giúp việc chán quá, suốt ngày cứ ở trong nhà. Thà hồi xưa đi nấu cơm cho thợ xây còn vui hơn, có đứa đi qua đi lại nói chuyện, còn ở đây thì rầu như chùa. Chị bảo ông chủ nhà giàu lắm, đi làm tận đâu đâu. Bà chủ nhà thì đẹp lắm, ngoài bốn mươi rồi mà trẻ lắm, không có già lắm như chị em mình đâu em ạ.

Bà chủ nhà sáng sáng tụng kinh, trưa trưa đi chùa, chiều chiều về tụng kinh nên cái nhà chị càng giống cái chùa lắm. Chị buồn lắm lắm, trồng rau giải sầu. Chị đi bứt rau lang dại về trồng thành luống, gửi con nhỏ osin làm chung mua mấy gói hạt giống về trồng. Chị trồng thêm mấy bụi sả để lỡ cảm cúm bứt lá xông, còn củ thì mang vô ướp đồ ăn. Chị trồng mấy bụi hành hoa, tỏi để bứt bông xào.

Chị bảo ban đầu thì chỉ có chị ăn rau thôi. Rồi một ngày nọ, bà chủ nhà thấy vườn rau thích quá, bèn xin ăn ké. Bà chủ nhà sợ các loại rau ngoài chợ lắm, chúng độc lắm. Chị giúp việc vừa “lắm lắm” vừa đi lòng vòng nhổ cỏ trong khi tôi thì hưởng thụ trò tưới rau.

Rồi chị thiệt thà bảo, từ lúc có vườn rau, bà chủ nhà cũng có rau ăn vừa ngon vừa sạch, vừa tiết kiệm mỗi ngày cả chục ngàn tiền rau chứ chả chơi. Mười ngàn mỗi ngày thì tiết kiệm cả tháng ba trăm ngàn, nhiều lắm em ạ!

Rau muống ơi, rau muống à,...

Thứ Sáu, 6.8.2010 | 18:38 (GMT + 7)

Lò dò vào mạng, blog nọ xọ blog kia, chị rơi tõm vào blog đồng nghiệp già thở than thương “quốc rau”-rau muống hè này lại bị trồng bẩn. Đồng nghiệp già lọ mọ tra cứu nhiều nguồn, tìm ra từ tích xưa, rau muống được gọi là rau vô tâm hiểu thẳng theo cách “Nếu trống ruột thì sống. Người vô tâm (không tim) thì chết tức thời”. Nôm na lắm chữ, đồng nghiệp già xài ngay chữ “vô tâm” để nói về người cố tình trồng rau muống bẩn.…

Ăn nhiều loại rau muống, ngon với chị là rau muống cọng nhỏ mọc lan trên đá ở Côn Đảo, rau muống cọng to như ngón tay tím bầm của rừng tràm U Minh, rau muống mướt xanh hồn nhiên mọc ở Công viên Lenin-La Habana. Thu năm ngoái, hơn chục ngày trời, ngày hai bữa có việc đi-về trung tâm La Habana, mỗi lần ngang công viên bọc xanh um những rặng tre, thằng em mới quen lại bảo, ở đây có măng và rau muống, chỉ dăm người Việt và người Lào đến hái ăn thôi. Dân La Habana bảo, thứ cỏ ấy, ăn làm gì… Sau nhiều bữa cơm đậu đen Cuba, chị có được bữa tối chị bạn đãi cơm rau muống đã đời…Quanh bàn ăn ngút đĩa rau xanh, chị bạn kể chuyện ngày đầu từ Hà Nội sang, vừa đến La Habana, thương chồng, bươn bả đi công viên hái rau… Năm thì mười hoạ, đãi cơm khách từ nhà sang, vợ chồng nhất định đánh xe đi hái rau. Anh chồng - từng là tay bếp khéo - thong thả kể chuyện biến hoá rau muống theo lối Nam, lối Bắc,…

Muống ơi, muống à… Với chị, rau luộc là ngon nhất. Có những tối về khuya, dặn trước người nhà, phần rau cứ để về mình tự luộc. Rau ăn với cơm, nhưng cũng có khi ăn lộn xộn nhưng “thích miệng” là ăn kèm với bánh mì nóng trét bơ, rắc cá cơm khô, tiêu mặn. Nước rau, bỏ muối biển vài hạt thôi, vắt vài giọt chanh, thả thêm vài lát ớt hiểm. Bưng bát nước lên, từ từ uống từng ngụm nhỏ, bao mệt nhọc bay đi phắt cả. Ngon hơn bát canh gà nấu nấm gừng Trung Quốc, gà nấu sâm Hàn Quốc, hơn cả ly Pina Cola Cuba, hơn ly Gin-Tonic, hơn ly Vermouth hay Martini thả đá, hơn trà bơ Tây Tạng, hơn Kvax của Nga, hơn trà Lipton chanh vàng… Càng ngày chỉ càng thích cái gì mình nghĩ là của mình, một dấu hiệu của lão suy chăng? Kiểu như thế này, như bạn già, đi đâu thì đi nhé, xa nửa vòng trái đất, một phần tư trái đất, hay từ Hà Nội cách 1735km, bước ra khỏi cửa máy bay, vừa cảm thấy cái dấp dính của mưa nắng Sài Gòn trên da, là thở phào khoan khoái, “về đến nhà mình rồi”.

Muống ơi, muống à… Rau bị trồng bẩn, muốn ăn, phải làm sao? Chị chạy đi hỏi ông thầy già. Ông thầy già bàn tay có lằn chỉ hình chữ “Nhất” cười, hoặc tẩy chay, hoặc học cách thở cho đúng để xả cái bẩn ấy ra. Tẩy chay cũng có cái hay, nhưng cực đoan… Thế thì, học cách xả. Sống để mà ăn, không xấu như xưa nay có người cao ngạo vẫn nghĩ. Ăn sạch nhưng sống bẩn, học xả cái bẩn trong tâm ấy khó gấp nhiều lần… Mà chẳng phải chỉ chuyện miếng ăn, học buông xả bao giờ cũng khó… Rau muống ơi, rau muống à, ngon thế, sao bỏ được…

Tết … Tết đã đến gần lắm rồi.

Nhìn trên lịch còn 19 ngày nữa là Tết.Không hiểu sao dạo gần đây tôi luôn có xu hướng hoài niệm.Trong những câu chuyện với người ấy,tôi thường bắt đầu bằng “Ngày xưa…”.Những khi ngồi 1 mình…trong tiết trời giá lạnh,tôi bỗng nhớ về ngày xưa…

Hôm nay xem chương trình Vietnam’s Next Top Model đến đoạn các thí sinh được gặp lại gia đình,tôi bỗng không kiềm được cảm xúc.Tôi lại nhớ về ngày xưa…Ngày xưa của tôi có gì nhỉ ???

Ngày xưa tôi có 1 ngôi nhà nhỏ,có bố có mẹ,có ông bà bên nội bên ngoại.

Có những ngày thấy mẹ ngồi bên máy may cả ngày kiếm từng 5000 đồng nhưng sẵn sàng mua cho tôi gói bimbim hay cốc sữa chua.

Có những ngày bố đạp xe mười mấy cây số đi phụ hồ kiếm 10.000 đồng mỗi ngày nhưng vẫn mua cho tôi bánh kẹo,đồ chơi.

Có những bữa cơm rau muống với lạc rang,cả nhà ăn trong tiếng cười.

Có những bát phở chia 3 trộn lẫn với cơm.

Có những tối nằm cuộn tròn giữa bố và mẹ xem tivi.

Có những ngày sinh nhật đc mặc quần áo mới,đc bóc quà của ông bà cô chú,đc thổi nến sinh nhật bên bạn bè hàng xóm.

Có những cái tết đc gói bánh chưng cùng ông nội,được chuẩn bị cỗ cúng cùng bà ngoại,đc nhận những bao lì xì tươi đỏ,cùng rộn ràng xúng xính cùng nụ cười tươi đi chúc tết cùng gia đình.

Sao tôi lại cứ nhớ về ngày xưa nhỉ ???

Bây giờ tôi có 1 ngôi nhà to gấp 3 nhà cũ…nhưng chỉ còn 3 mẹ con.

Bây giờ mẹ tôi vẫn vất vả,vẫn thức khuya dậy sớm,mẹ kiếm đc tiền triệu mỗi ngày nhưng chưa bao giờ mẹ hỏi tôi cần gì hay muốn gì.

Bây giờ bố tôi 1 tuần về thăm em tôi 1 lần,và cũng chẳng còn những món quà dù chỉ là gói bánh,hay 1 lời hỏi thăm tôi bây giờ học j hay làm j.

Bây giờ bữa cơm nào cũng có thịt cá … nhưng chẳng còn đâu tiếng cười,thay vào đó là những câu chuyện của mẹ với nội dung xoay quanh đồng tiền.

Bây giờ nhiều lúc đi ăn phở,20 ngàn 1 tô.1 mình 1 bát đầy thịt nhưng tôi chẳng còn thấy cái vị ngon như cách đây 15 năm của cái ngày xưa ấy.

Bây giờ nằm chăn bông Hàn Quốc,đã cố nằm sát mẹ mỗi đêm nhưng cảm giác lạnh lẽo vẫn lan tỏa trong từng giấc ngủ…đâu đó trong giấc mơ tôi lại thấy mình nằm giữa bố và mẹ.

Bây giờ sinh nhật cũng chẳng khác ngày thường,cũng chẳng còn háo hức bóc quà,mà cũng làm j có quà mà bóc,chỉ là những chiếc phong bì với những tờ polime….thiết thực đấy nhưng chẳng đọng lại 1 chút ý nghĩa.

Bây giờ tôi không mong tết,vì tết phải lo sắm sửa trang trí nhà cửa cho chu toàn khi mà trong nhà thiếu bàn tay của người đàn ông trụ cột.Tôi sợ tết và mẹ càng sợ hơn.Chung quy lại cũng vì đồng tiền cả thôi.

Tôi không trách bố hay mẹ vì người lớn có lý lẽ và con đường đi của riêng mình.Dù sao họ cũng đã cho tôi 1 tuổi thơ hạnh phúc,tuy rằng khó khăn nhưng tôi còn có kí ức,còn có cái để mà nhớ.Bỗng chạnh lòng thương đứa em mới 10t,sau này khi nó nhớ về ngày xưa của nó sẽ như thế nào.

Tôi mong những người làm cha làm mẹ hãy giành ra 5p mỗi ngày để quan tâm xem con cái mình cần gì,mỗi bữa cơm hãy tạm gác chuyện cơm áo gạo tiền để hỏi xem con mình hôm nay vui hay buồn.Đừng nghĩ trẻ con bây giờ chỉ chúi mũi vào internet,có những chia sẻ những yêu thương của gia đình sẽ là chỗ dựa cho chúng vững bước trên đường đời.

Tôi đã từng rất sợ lập gia đình vì tôi sợ cảnh gia đình sẽ không hạnh phúc,con cái sẽ bơ vơ khi bố mẹ mỗi người 1 ngả...có thể đó là những ám ảnh trong tiềm thức...Nhưng giờ có 1 ng đã mang lại niềm tin cho tôi,tôi tin anh sẽ cho tôi 1 gia đình ấm ấp...như ngày xưa tôi đã từng có...

Bát canh tình người

Thứ Hai, 03/10/2011 16:01

Đầu tháng 7 - 2001, có dịp vào Sài Gòn, tôi đến thăm anh, lúc ấy bệnh của anh đã quá nặng. Tôi cúi sát người anh và nói: “Anh Tám còn nhớ em không?”. Anh ôm chầm lấy tôi, một đứa em mà anh từng cưu mang ngày nào, nói một cách yếu ớt: “Sao anh Tám có thể quên em được!”. Rồi, hai anh em đều bật khóc.

Tôi khóc vì được gặp lại anh sau một phần tư thế kỷ, khóc vì những hình ảnh yêu thương bên anh ngày ấy ùa về, khóc vì không thể nào chịu nỗi sự kiệt cùng về thân xác của anh do bệnh tật gây nên, sự sống của anh chỉ còn được tính từng ngày. 

Thể trạng như vậy nên anh lúc nhớ lúc quên, nhưng lúc tôi nhắc đến bát canh chua cá lóc khi xưa anh nấu cho tôi ăn, anh bóp nhẹ tay tôi và hiện một nụ cười trên đôi môi khô héo, gần như không còn một chút máu.

Và đến nay, tuy đã  gần 10 năm anh từ giã cõi đời này, trái tim tôi vẫn lưu giữ mãi hình ảnh của anh, tấm lòng của anh, khí chất của một con người nghèo khổ nhưng nặng nghĩa tình, mà đặc biệt nhất là câu chuyện về bát canh chua cá lóc, món đặc sản của đất Nam Bộ.

Ngày ấy, khoảng đầu năm 1976, vì không chịu nỗi cách đối xử quá bạc bẽo của người chú họ giàu có ở Hàng Xanh, tôi tìm đến nhà một người bạn học trên đường Nguyễn Lâm ở tạm. Anh gặp tôi ở đó, nhận đồng hương Bình Định và đưa tôi về ở với anh tại số nhà 47 Vạn Kiếp thuộc phường 4, nay là phường 3 (Bình Thạnh). 

Thực ra, đó là nhà của vợ chồng bà chị ruột của anh. Dù sao đi nữa thì chuyện ở cũng đã tạm ổn. Anh duy trì cuộc sống của hai anh em bằng nghề bốc vác và chạy xe ba-gác mướn bữa được bữa không. 

Còn tôi tham gia công tác Đoàn, hằng tháng được nhận 15 ký gạo và 6 đồng từ một phần ba định suất 20 đồng dành cho người phụ trách thanh niên khu phố. Thu nhập ít ỏi như thế nên tuy sống giữa lòng thành phố Sài Gòn nhưng thức ăn chủ yếu của hai anh em thường là mắm ruốc chưng hoặc cà tây hấp trong nồi cơm.

Riết rồi thành quen, nhưng không hiểu sao, bỗng dưng một hôm tôi nói với anh:

        - Em vào Sài Gòn cũng được vài tháng, nhưng chưa ăn được món đặc sản Nam Bộ - canh chua cá lóc. Khi nào có điều kiện, anh… 

Mặc dù vừa đi làm về còn mệt, nhưng anh vẫn cười và cắt ngang :

        - Được rồi, ba bốn bữa nữa thôi. Anh sẽ cố gắng!

Không cần phải đến ba bốn bữa, khoảng 10 giờ trưa hôm sau, anh đem về một con cá lóc đã được làm sẵn, cùng với các loại rau như ngổ điếc, bạc hà, me… Anh không cho tôi nấu vì bảo rằng đây là món đặc sản nên không phải ai cũng có thể nấu được. 

Khi nồi canh bắt đầu sôi, anh nếm và riêu lửa lại, rồi nói với tôi:

        - Anh có tí việc phải đi, nếu quá 11 giờ mà anh không về thì em cứ ăn hết, không phải để dành cho anh đâu.

Tôi tin như vậy nên khi chờ đã quá 11 giờ rưỡi, tôi ăn hết bát canh một cách ngon lành. Mãi sau này tôi mới biết là hôm ấy anh ra ngoài ăn để tôi được ăn trọn vẹn bát canh mà tôi thèm muốn. 

Trải qua bao năm tháng, dù đã đi nhiều nơi, thưởng thức nhiều món ăn đặc sản của từng vùng miền, nhưng bát canh chua cá lóc ngày ấy đã in đậm vào ký ức tôi, không thể xóa nhòa. Với tôi, đó là bát canh của tình người trong lúc thiếu thốn, khó khăn mà vẫn san sẻ cho nhau. 

Tôi còn nhớ ngày đó anh nói với tôi, nếu sau này tôi làm ăn giàu có thì đừng ngó lơ anh, nhớ mời anh một ly rượu nhỏ là được. Bây giờ và mãi mãi, dù rất muốn, nhưng tôi không còn cơ hội để làm điều anh tâm sự nữa rồi. 

Tôi cũng không thể nào quên câu nói: “Anh sẽ cố gắng” (để có một bát canh chua cá lóc). Một câu nói rất đỗi bình thường, từ một con người lao động bình thường, nhưng với tôi, đó là chữ tình thật đẹp mà anh dành cho tôi. 

Nhớ anh, tôi viết những dòng này xin được hóa thân thành những nén hương hằng ngày thắp trên mộ anh. Bát canh chua cá lóc, và câu nói “anh sẽ cố gắng” của anh ngày nào nhớ mãi, anh Tám ơi!

BÁT CANH CUA ĐỒNG

http://gplongxuyen.org

Bố gầy đét. Tấm thân lực điền 70 kg ngày nào vác chiếc máy bơm Kohler 7 mã lực đi ra đồng xa hàng cây số không nghỉ, giờ chỉ còn da bọc xương. Bố gầy đến nỗi người ta có thể nhìn thấy từng rẻo xương sườn, nhìn thấy cả từng nhịp đập trái tim trên ngực bố.

Lúc bố xuất viện, bác sĩ trưởng khoa, bạn cùng lớp với tôi từ thuở lên mười, đưa ra đến tận cổng, nói nhỏ vào tai tôi:

- Tao thành thật chia buồn với mày. Ông cụ không qua khỏi, bị K trực tràng di căn, cơ thể đã mục ruỗng hết rồi, chẳng sống được bao lâu nữa đâu. Việc cần làm bây giờ là cho cụ uống thuốc theo toa tao cho để cụ bớt đau đớn. Nhớ đừng cho cụ biết tình trạng của cụ, sợ cụ bị khủng hoảng chăng? Và cụ thích ăn gì, cứ chiều, không phải kiêng cữ gì sất.

Về nhà, bố vui vẻ uống thuốc đều đặn. Chúng tôi giấu bệnh án, giữ kín không nói to nhỏ gần xa gì đến bệnh tình của bố. Nhưng không hiểu tại sao bố biết. Bố gọi chúng tôi lại:

- Sao các con lại giấu bố. Bố biết rõ bố hơn các con nhiều. Bố bị ung thư giai đoạn cuối, sắp chết đến nơi. Nhưng chết thì đã làm sao nào? Con đường sinh tử ai không phải đi? Sinh ký tử quy, lá rụng về cội, cái chết là một phần của cuộc sống. Các con không biết rằng: Bên kia thập tự là ánh sáng, bên kia cái chết là sự sống lại, là cuộc sống vĩnh cửu hay sao? Bố sống thế nào thì bố sẽ chết như vậy. Rồi các con xem, bố sẽ sống cái chết của bố một cách trọn vẹn. Bố sẽ thanh thản ra đi. Con Út đó à? Sao con lại khóc? Lau nước mắt đi con! Người sắp chết lại phải an ủi người sống hay sao?

Sự việc đã đến như vậy thì còn biết làm thế nào được nữa. Đành chịu. Anh Cả hỏi bố một câu hết sức vô duyên:

- Bố có dặn dò chúng con gì không?

Thế mà bố không tỏ ra phiền hà gì:

- Ô hay! Bố đã chết đâu mà dặn với dò, giăng với giối? À! Nhưng mà có đấy. Bố đã dậy dỗ, chỉ bảo các con từng li từng tí mấy chục năm nay hết cả rồi. Các con có thể tạm được coi là đã nên người. Bố mãn nguyện rồi. Vậy đã là người thì hãy sống cho ra người, nhất là lại là người Kitô. Đối với các con, bố có thể là một người cha tốt. Nhưng bố có nhiều thói hư tật xấu, các con phải tránh vết xe của bố: Đừng rượu chè say sưa, đừng nói gì, đừng làm gì khi nóng giận, đừng thù oán ai.

Chị Hai ngắt lời bố còn vô duyên hơn:

- Bố thích ăn gì, chúng con mua cho.

Bố cười:

- Nói về chuyện ăn. Bố thèm ăn tô mì ăn liền như thuở bố còn đi học. Nhưng đừng nấu cho bố. Lúc này bố không thèm tô mì đâu, mà thèm ăn được như ngày xưa cơ. Hôm trước thằng Bốn đi công tác Hà Nội, mang chả rươi về cho bố. Của một đồng công một nén. Nhưng rươi mà không có vỏ quýt thì vứt đi. À! Sao các con không nấu cho bố một bát canh cua rau đay nhỉ? Nhưng phải nhớ “thịt không hành, canh không mắm” là hỏng đấy.

Rau đay và mắm tôm thì quanh năm suốt tháng, mua đâu cũng có. Nhưng mùa này mà kiếm được mấy con cua đồng thì “hơi bị gay go” đây. Cô Út thuê xe ôm, đi hết năm sáu cái chợ lớn bé trong vùng, mua về đủ thứ trời ơi đất hỡi, chất đầy hai chiếc giỏ cói, nhưng chẳng mua được con cua nào:

- Thế là mất toi buổi sáng. Trời Tháng Tư nắng cháy da cháy thịt thế này, đồng ruộng mới gặt xong nứt nẻ hết, họ hàng nhà cua chui xuống địa ngục cả rồi. Nhưng chúng có xuống đến âm ty địa phủ, em cũng moi lên, nấu bát canh hầu bố.

Giữa trưa, cô Út đi ra đồng móc cua, trời gần tắt nắng mới về, mặt mũi đỏ gay vì cháy nắng, quần áo bê bết bùn. Cô chỉ tay vào thùng cua, cười tươi như một đóa hoa dại đồng nội:

- Lớn bé già trẻ gái trai vừa tròn một chục. Đừng ai thò tay vào. Để đấy, tắm rửa xong, em nấu canh cua theo kiểu của mẹ.

Cô kỳ cọ những con cua sạch bóng, xé cua, khều gạch, giã nhuyễn, lược kỹ, nêm nếm cẩn trọng từng li từng tí, đặt nồi canh lên bếp, điều chỉnh lửa lúc nhỏ lúc to, lúc nào vớt bọt cho bớt nồng mùi mắm mà không ảnh hưởng đến tảng gạch cua đang kết lại. Các quan ngự thiện ngày xưa nấu nướng dâng vua cũng chỉ cẩn thận, trang trọng, thành kính đến thế là cùng.

Tối hôm ấy bố ăn được lưng bát cơm với bát canh cua đồng. Từ khi bố ở bệnh viện về, chúng tôi chưa bao giờ thấy bố ăn ngon lành như vậy. Bố gật gù:

- Con Út nấu canh đúng bài bản đấy. Ngon lắm. Nhưng bố thấy dường như thiêu thiếu cái gì ấy. Ngon, nhưng vẫn không ngon bằng bát canh mẹ các con nấu ngày xưa.

Tất cả năm anh em chúng tôi đều cảm nhận được “cái thiêu thiếu” ấy là gì, nhưng chẳng ai nói ra. Và câu hỏi của anh Cả: “Bố ăn bát canh cua đồng hay ăn để hoài niệm về bát canh cua đồng mẹ nấu?”, thì ngoài bố ra, không ai trả lời được.

Mà bố thì không bao giờ trả lời nữa. Tối hôm ấy, chị Ba khoác vào cổ áo bố cỗ tràng hạt, trông đẹp như vòng nguyệt quế thắng trận của các anh hùng La Mã ngày xưa trên các bức họa cổ. Lúc đêm hầu tàn, bên cạnh đông đủ người thân, bố mỉm cười bước vào cõi vô thủy vô chung ung dung, thanh thản, khoan thai, êm ái, nhẹ nhàng như một chiếc lá rụng âm thầm trong vườn một đêm mùa xuân lặng gió.

Nhớ bát canh môn ngày Tết 

19/01/2012 8:00 

PNO - Thời thơ ấu, mỗi lần được bà ngoại dẫn đi ăn giỗ chạp, tôi chỉ thích ăn canh khoai môn, bởi vì mỗi năm giỗ chạp chỉ một lần, đúng vào dịp thu hoạch khoai môn nên món canh khoai môn thơm ngon luôn xuất hiện trên bàn cúng vào dịp cuối năm. Tôi rất thích những món ăn nấu từ khoai môn vì nó ngon, mềm với hương vị rất riêng.

Bà tôi nói, môn cũng có nhiều loại như môn trốn, môn sáp, môn tàu… nhưng môn dựng là loại môn nấu canh với cá, thịt, xương là  hợp và  thơm ngon. Trong các đám giỗ, cúng đất, chạp mả, cúng tất niên, ngày Tết, canh môn nấu với cá tràu, xương heo là món ăn dân dã nhưng hấp dẫn, lạ miệng, trước để cúng tổ tiên, ông bà, sau là  họ hàng, con cháu thưởng thức.

Lúc sinh thời, bà tôi thường chỉ cách phân biệt môn dựng với các loại môn khác, bởi  củ  môn dựng không nứt củ con ở chung quanh mà gần như liền nhau, không phân biệt đâu là củ cái, đâu là củ con. Cạo vỏ ra, môn dựng có màu hồng nên nhiều nơi ở vùng Đại Lộc (Quảng Nam) còn gọi là môn “mặt khỉ”. Đặc biệt, loại môn này khi cạo vỏ bằng “tay không” thì rất ngứa, nhưng khi luộc, nấu thì rất  bùi, thơm, bở và dẻo. Màu hồng hồng của ruột  và da (sau khi cạo)  là màu đặc trưng của môn dựng mà không loại môn nào có được. Môn dựng nấu ăn chơi cũng được, nấu canh cũng ngon, nấu chè cũng thuộc hàng số một hoặc làm môn um cũng tuyệt.

Còn nhớ, hằng năm, cứ vào dịp giáp Tết, bà tôi đào mấy hàng môn trong vườn mà ông bà ngoại tôi đã trồng vào tiết mưa giông tháng tư (âm lịch). Bà mang môn đi chợ quê bán để sắm đồ Tết. Những năm trồng nhiều, môn có giá bà lại sắm cho tôi chiếc áo mới đầu xuân. Số môn còn lại, bà bày dưới bộ phản cho mát nhằm để được lâu. Có giỗ, chạp vào thời điểm này, bà mang môn ra cạo. Đôi bàn tay sần sùi, dày như “mo” của bà đã “trị” được chất ngứa của loại môn “siêu ngứa” này. Và năm nào cũng vậy, sau khi đào môn xong, bà nấu đãi cả nhà món canh môn nấu với cá tràu.Muốn nấu món canh này, trước tiên bà cạo vỏ, rửa sạch, cắt lát và để ráo. Cá tràu đã nhốt mấy ngày do cậu Út tôi đi thả câu ngoài đồng, bà tôi làm sạch và khứa xéo nhiều đường trên thân. Trước khi nấu, bà nướng sơ cá trên lửa than cho thơm, cho môn vào nấu khoảng 30 phút cho mềm, sau đó cho cá tràu đã nướng vào nấu tiếp với lửa nhỏ, nêm muối, hạt nêm cho vừa ăn. Món này dùng nóng, rắc ngò ta hoặc ngò tây cắt khúc và chút tiêu bột lên trên. Không gì thú bằng bữa cơm quê với món canh môn  thơm lừng ăn cùng rau sống  vườn nhà. Ngon hơn nữa nếu “lua” cùng với rau cải con chấm mắm ớt. Ngày nay, món canh môn hay món môn um ít thấy xuất hiện trên các mâm cơm cúng ông bà, tổ tiên trong những ngày giỗ kỵ, Tết…ở quê tôi vì lẽ làm món này lắm công phu, tỉ mẫn và người chế biến dễ bị ngứa khi gọt vỏ. Tôi còn nhớ, tiết tháng chín, tháng mười, quê nghèo sụt sùi mưa lụt, thức ăn hiếm hoi. Bà mang tơi đội nón ra vườn bứt những bẹ môn già vào làm dưa môn. Từ hủ dưa này, bà mang ra chợ bán, mua lại ít cá đồng vụn về kho với dưa môn ăn cũng khá ngon. Tuổi thơ tôi lớn lên, trưởng thành, qua bao mùa dưa môn muối. Tôi nhớ lúc đang đào môn, bà vui vẻ đọc mấy câu thơ dân dã của người dân quê tôi truyền khẩu từ bao đời: “Canh môn nấu với cá trê / Ông ăn một bát, ông mê tới già”; hoặc “Canh môn nấu với cá tràu / Ông ăn một chén qua Tàu cũng không quên…”.

Ngày nay, trên bước đường tha phương lập nghiệp, tôi được nếm nhiều món ăn ngon, lạ, nổi tiếng của nhiều vùng miền, song tôi vẫn nhớ hoài món canh môn do bà tôi nấu năm nào. Cứ mỗi lần Tết đến xuân về, có dịp đi qua luống môn xanh tốt của nhà ai, lòng tôi lại bồi hồi nhớ quê, nhớ bà.

Sống Thật Chậm : Gặp lại ngày xưa…(2)

Posted on 10/12/2011 

Sáng nay tôi điện thoại cho cô hiệu phó trường Mẫu giáo Pa Cheo, định hỏi nhanh vài câu để lấy thông tin chuẩn bị cho chuyến trở lại thăm các em bé nơi này. Vài câu hóa ra kéo dài đến nửa tiếng nói chuyện, và sau đó lại là những ngày xưa cũ chen lấn xô về.

Ngày xưa ca tôi có ni mì si ta hương mì tôm thơm nng nàn

Ngày bé tôi sợ mì sợi lắm, cái mùi bột mì hôi mốc cứ nồng lên ám lấy tôi. Thế cho nên hôm nào nấu mì nước mà lại có một gói mì tôm “đi qua hàng” thì lũ trẻ con chúng tôi coi như đại tiệc, tha hồ mà hít ngửi, tha hồ mà xuýt xoa. Chúng tôi lại còn ra vẻ sành sỏi khi bình luận với nhau là mì “5 tôm” thì thơm và đậm hơn mì “2 tôm” (nghĩa là trên bao gói có in hình 5 con tôm hay là 2 con tôm ấy mà). Tôi còn nhớ lúc tôi khoảng 10 tuổi, lần đầu tiên trong đời được ăn bát mì tôm “nguyên chất” không pha phách gì, cả mắt, mũi và mồm thì sung sướng nhưng dạ thầm xót xa “lãng phí quá”.

Hôm nay khi tôi hỏi về thức ăn của các bé trước khi các bác “Cơm có thịt” gửi thịt lên cho các con, cô Việt – hiệu phó trường MG Pa Cheo nói: “Bọn em góp mỗi người năm đến mười ngàn hàng tháng để mua thêm mỳ tôm về bỏ vào nồi canh rau cải cho các con chịạ. Rau cải thì bọn em tự trồng lấy được rồi.” Tôi có thể hình dung những vụn mì vàng ươm lượn trong bát canh rau xanh ngắt, thay cho thịt cho cá, giúp bát canh có vị có mùi. Hơn tất thảy là tấm lòng của những người thầy, người cô ấy, không cam tâm nhìn các con chẳng có gì ăn, đã bằng mọi cách để các con có thể thấy ngon miệng. Tôi nghe mùi mì tôm đáng thèm muốn năm nào lại phảng phất đâu đây.

Ngày xưa ca tôi có nhng ngày lếch thếch bám theo ch tôi đến lp

Kể lại bây giờ chẳng ai tin: có 1 dạo gia đình tôi chuyển vùng sơ tán, nơi mới đến chẳng có trường mẫu giáo, anh tôi may mắn đến tuổi vỡ lòng còn được đến lớp, chị tôi 8 tuổi vào lớp 2, còn con bé 3 tuổi là tôi thì tha thẩn cả ngày ngóng mãi chẳng thấy anh chị về, hôm sau bèn lẽo đẽo bám theo chị đến lớp. Được vài ba ngày, cô giáo thấy tôi cứ lê la nghịch đất bên ngoài cám cảnh quá, thương tình cho vào lớp ngồi chung với chị. Tôi giống hệt những bông hoa nhỏở Bát Xát bây giờ, ăn uống thì chẳng có gì nhưng má lúc nào cũng hồng căng chắc nụi. Thế cho nên được chui vào lớp rồi chẳng biết thân biết phận ngồi im, cứ tý toáy chui từ bàn này sang bàn khác để các anh các chị nựng nịu, véo má. Cô giáo không chịu nổi bèn ra lệnh cho tôi lên bàn giáo viên ngồi bên cạnh cô thì mới yên chuyện. Đó là kỷ niệm đáng hãnh diện nhất của tôi hồi ấy

Theo lời cô hiệu phó MG Pa Cheo, danh sách chính thức các cháu ở trường là 218 cháu, nhưng thực tế có hôm có đến hơn 300 cháu ở tất cả các điểm trường. Cái quân số dôi ra kia là lũ em 1-2 tuổi bám đít anh chị đến trường. Lý do ư: ở nhà thì ai trông em? ở nhà làm gì có cơm ăn? (chỉ cơm thôi nhé, chưa nói đến thức ăn hay sang hơn nữa là thịt đâu ạ). Các cô cũng đành chia bớt phần cơm của các anh các chị cho em, ai nỡ để em ngồi nhìn, rồi xếp chỗ anh chị nằm sát vào cho em nằm với, ai nỡ để em lạnh. Thế là cái lũ trứng gà trứng vịt ở đây phải cõng thêm lũ trứng chim cút nữa (học đòi ngôn ngữ của bác Thùy Linh đấy ạ). Bài học sẻ chia các con được học thật sớm, mong sẽ theo các con đi suốt cuộc đời.

Ngày xưa ca tôi có ước mơ “miếng giò cn ngp răng”

Bạn có bao giờ bị đói chưa? Đói dài ngày ấy chứ không phải là đứt bữa 1-2 ngày đâu. Nếu đã bị, ước mơ của bạn khi ấy là gì? Tôi thì ước mơ nhiều lắm: giá tôi chạm vào cái gì nó cũng biến thành pate, chẳng là có 1 lần tôi được ăn 1 tẹo pate mậu dịch bé bằng cái đầu ngón tay út, tôi lập tức quyết định công nhận nó là món ngon nhất trên đời  ; rồi có lúc tôi lại ước mình được biết cái cảm giác “cắn giò ngập răng” là như thế nào, vì chỉ thấy trong sách hay người lớn nói thế, chứ cái thứ giò mà mỗi năm 1-2 lần tôi nhìn thấy thì nó mỏng như tờ giấy pơ-luya.

Năm mới, tôi quyết tâm để các em bé MG Pa Cheo được 1 lần thoát khỏi cái ám ảnh đeo bám suốt tuổi thơ tôi, được dõng dạc nói với mọi người rằng “ối, cái đấy con biết rồi” nếu ai đó có hỏi các em khái niệm về giò, về chả. Có vẻ như tôi chưa được người lớn lắm bạn nhỉ.

Còn một ước mơ thầm kín nữa, tôi chẳng kể ai nghe bao giờ, bây giờ tự nhiên muốn lôi ra xưng ở đây, hòng níu kéo chút danh dự kẻo mọi người nghĩ con bé này ham ăn quá: suốt cả thời thơấu, tôi luôn khao khát có ai đó ngồi xuống bên cạnh mình, nhìn vào mắt mình, nói chuyện với mình như nói chuyện với một người lớn. Món quà đặc biệt ấy tôi nhận được có 1 lần từ 1 người không hẳn là gần gũi thân thiết với tôi. Tôi giữ mãi nó như báu vật của mình. Hẳn người tặng tôi cũng không biết hết sự kỳ diệu mà mình đã trao tặng.

Tôi nghĩ mình có thể tặng lại món quà đặc biệt ấy cho các em bé ở Pa Cheo: sự quan tâm, chú ý thực sự của một con người tới một con người.

Ti sao li là Pa Cheo?

Tôi ghé thăm cả thảy 8 ngôi trường trong chuyến đi cùng đoàn “Cơm có thịt”, đến đâu cũng thấy có bao nhiêu việc mình nên đỡ một tay vào, nhưng lòng tôi cứ đau đáu với Pa Cheo. Tại sao lại là Pa Cheo? Pa Cheo là xã nghèo nhất trong huyện Bát Xát nên trường mẫu giáo ở đây cũng nghèo về cơ sở vật chất nhất là chuyện đương nhiên. Dù thuộc diện xã nghèo nhưng lại không phải là xã biên giới nên không có phần hỗ trợ đặc biệt như một số trường khác. Các cô giáo nói thậm chí ở đây không thể kêu gọi phụ huynh góp gạo như các trường khác vẫn làm, vì nếu phải góp bất cứ thứ gì, chắc chắn cha mẹ sẽ không thể cho con đến trường.

Cái khó ló cái khôn, các thầy cô giáo Pa Cheo có vườn cải xanh um để nấu cho học sinh. Gạo thì mua bằng tiền phụ cấp cho trẻ 5 tuổi, về nấu lên chia đều cho tất cả, có ít ăn ít, có nhiều ăn nhiều. Nói một cách khách quan, tôi thấy khả năng nói tiếng Kinh của các bé trường này là tốt nhất trong tất cả các trường mẫu giáo tôi có dịp ghé qua, mặc dù cô giáo vẫn than: “Tuần trước em mới dạy xong chữ O, tuần này sang chữ Ô thì các con lại quên mất chữ O rồi chịạ.

Ngày xưa khổ 06:08 09-04-2011

Anh trai tôi công việc thất thường, nhưng biết điều từ ngày thuyết phục được tôi về ở cạnh nhà, cũng cố gắng thu xếp về ăn tối cùng gia đình. Bữa cơm ngày hè có bát canh cua, quả cà, mặt mày phởn phơ, anh bảo vợ:   

Ngày xưa khổ, bữa ăn còn thừa đầu cá, xương cá Dì đổ cả vào chum cà. Cà vị hơi mặn nhưng giòn tan, ăn thơm mùi cá. Vừa nói anh vừa chỉ trỏ vào đĩa thịt gà kho gừng có màu vàng cánh dán lẫn từng miếng gừng khiến anh tưởng nhầm cá kho tộ.

Tôi bấm bụng, xem màn tiếp diễn, chị dâu nghe chuyện chăm chú miệng nho nhỏ, sao bỏ xương cá vào vại mà cà không bị thối nhỉ?  

Thối là thối làm sao, cá mặn cơ mà, không tin bảo Huyền gọi về cho Dì thử xem. Anh tôi lên giọng ra vẻ, thực tình đang tranh thủ đồng minh.

Em nhớ, ngày xưa khổ, mẹ muối  con moi làm nước mắm, xác mắm tận dụng muối cà, cà mặn ăn cả năm, lúc nhúc cả dòi (Còn gọi là troi )  Em cũng nghe kể, ngày xưa khổ, bò gác bếp, thành dòi làm mỡ, làm mỳ chính. Giọng tôi đủng đỉnh trêu tức.

Anh tôi phản pháo: con bò, con lợn có mỡ thì việc gì phải chờ cho con ruồi đánh hơi vào mới có dòi. Thế thì ăn dòi cứt còn ngon hơn.

Tôi im lặng, anh trai xuống dọng: Điện thoại hỏi Mẹ đi, sao  người ta không lấy dòi cứt(*) làm mỳ chính?

Thấy anh trai không chịu buông tha, tôi đề nghị, cá.  

Được, 500k.

Cả vụ trước, và cả vụ này nữa, gấp đôi.

Điện thoại hỏi Dì, Dì cười, để Dì nhớ xem. HÌnh như Dì chưa bao giờ lấy xương cá muối cà cả và cũng chưa thấy ai làm như thế. Mẹ đang ở trên mạng, có cần hỏi thêm mẹ nữa không?.

Di nghiêm túc nhé, cháu đang "làm ăn", hỏi Mẹ hộ cháu, con dòi có làm được mỳ chính không?

"Là thời thuộc pháp, người ta giết lợn, bò treo  lủng lẳng trần nhà, đàn ruồi bay qua đẻ trứng nở ra những con dòi, người ta hứng nó rồi nghiền làm mỳ chính. Mẹ thực ra cũng chưa được chứng kiến, ông ngoại kể lại, nhưng là chuyện có thật".

Hỏi ông ngoại đi, anh trai tôi  chọc tức (ông tôi mất lâu rồi), nói đoạn đứng dậy, anh đi tiếp khách bây giờ, ra đến cửa ném lại cái nhìn rất đểu, anh thua hai trận, lúc nào nhớ anh trả.

Thu Huyền

hịt Heo Quay Việt Nam

Nhớ ngày xưa khi còn ở nhà, heo quay luôn là món xa xỉ mà chỉ ngày giỗ hay lễ, tết…..cả nhà mới dám đặt mua. Mình nhớ mãi tảng thịt với lớp da đỏ au, giòn rộm trông thật bắt mắt và rất ngon miệng. Heo quay có thể ăn chung với bánh hỏi chấm nước mắm hoặc ăn không hết có thể kho lại với cải muối, hay kho như thịt kho tàu……..Riêng mình ngày bé thì chỉ thích ăn vụng mà thôi.

Nhà mà có giỗ, khách khứa qua lại ầm ì, mình cũng làm chân phụ bàn cùng mấy chị em, chẳng có đứa nào có thời gian mà ngồi bẹt xuống ăn, toàn phải chạy lung tung, chạy xuống bếp bóc chỗ này một chút, chỗ kia một tí rồi lại í ới chạy lên dọn dẹp……Nhớ quá là nhớ ngày xưa……!

Giờ đi xa, nhiều khi nhớ lắm món heo quay bánh hỏi ở nhà!

Sang đây mình biết thêm là Áo cũng có món heo quay đặc trưng, với cách tẩm ướp gia vị hơi khác Việt Nam nhưng cũng khá ngon. Cũng thịt ba rọi, cũng mỡ nạc xen kẽ nhưng thịt quay bên này còn được ướp thêm hạt Kümmel (tên tiếng anh là Caraway) nên thịt khi quay lên sẽ có mùi vị rất đặc trưng và nồng hơn thịt quay Việt Nam.

Độc đáo món ăn xương lợn sống băm nhừ

Theo congannghean.vn - 10 tháng trước

Qua trò chuyện với ông Sanh và các cụ già trong làng, người làng Vị Thuỷ không chỉ ăn món thịt nạc sống, gọi là nem, mà họ còn ăn cả xương lợn sống!

>>Làng ăn thịt lợn sống

Những người chưa từng ăn món thịt sống ở làng Vị Thuỷ (Thái Dương, Thái Thuỵ, Thái Bình), mà trông cảnh chế biến, thì quả là chết khiếp, không thể ăn nổi. Nhưng với người làng Vị Thuỷ, thì món ăn này chả có gì đáng sợ. Chị em phụ nữ mang bầu, thường đột nhiên thèm món ăn này một cách khủng khiếp. Hà Thị Thuý là dược sĩ, bán thuốc ở làng, bảo rằng: “Hồi em mang bầu, thèm không chịu được. Cứ mỗi bữa, em xơi tái nửa cân thịt lợn sống”. 

Người nổi tiếng làm món thịt lợn sống cực ngon ở làng Vị Thuỷ là ông Đinh Văn Chính. Vậy thế, hầu hết các đám cưới, đám ma, lễ lạt, dân làng đều mời ông Chính chỉ đạo chế biến món ăn này. 

Ông Chính bảo rằng, mấy chục năm làm món thịt sống, song ông chưa từng thấy ai bị đau bụng, bị Tào Tháo rượt đuổi sau khi ăn. Để món ăn này an toàn, những người chế biến cũng phải có bí quyết và có những nguyên tắc bất di bất dịch. Đó là không được rửa thịt qua nước lạnh. Các đồ chế biến như dao, thớt cũng không được rửa bằng nước giếng, nước bể, mà nhất thiết phải rửa bằng nước sôi hoặc bằng nước sôi để nguội pha muối loãng. 

Nếu là thịt mua ở chợ, đã để ra ngoài vài tiếng, thì người ta thường nhúng vào nước sôi vài giây, để vi trùng bám ngoài miếng thịt chết. Còn thịt cắt ra từ con lợn vừa mổ thì không cần nhúng nước, vì theo người dân nơi đây, nếu thịt chín tái sẽ giảm độ ngọt khi ăn. 

Điểm chính khiến món ăn này an toàn là tỏi. Để chế biến một kg thịt sống, phải cần đến một bát con có ngọn tỏi bóc lõi. Tỏi được giã dập, rồi trộn với thịt sống đã băm nhuyễn cho đều. Tỏi sẽ làm nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ vi trùng, virus, giun sán có trong thịt. ì đã trộn một lượng tỏi lớn vào thịt, nên không cần vắt chanh vào thịt, không cần để lên men, có thể ăn ngay sau khi chế biến. 

Nói thì đơn giản, nhưng để làm món ăn này, cũng phải rất kỳ công. Người Thái Bình gọi món thịt sống ở làng Vị Thuỷ là nem. Một số làng quê khác rải rác ở huyện Thái Thuỵ cũng có món này, nhưng món nem của làng Vị Thuỷ là nổi tiếng nhất, không đâu ngon bằng. 

Hầu hết người làng Vị Thuỷ đều chế biến được món thịt sống. Từ các cụ già cho đến thanh niên đều làm được. Nhưng có một điều lạ là chỉ đàn ông làm được món này. Chưa thấy người phụ nữ nào làm được cả. Điều này kể cũng lạ. Qua tìm hiểu, tôi thấy rằng, đàn ông ở Vị Thuỷ đều rất giỏi giang trong việc nấu ăn. Họ không những làm mọi việc nặng nhọc như cày cấy, trồng trọt, mà còn sành nấu nướng. Phụ nữ thường chỉ làm được vài món đơn giản, không làm được món phức tạp, cỗ lớn. Người dân trong huyện, trong tỉnh, đã một lần được xơi món thịt sống ở Vị Thuỷ, thường bị nghiện, nhưng lại không thể tự chế biến để ăn được. Do đó, khi muốn ăn, họ thường tìm về làng đặt người dân làm cho. Ai có người quen ở làng Vị Thuỷ, mỗi lần về làng, khi đi, không thể không có vài quả nem mang theo. 

Mang câu hỏi món thịt lợn sống xuất phát từ đâu hỏi các cụ già, song tôi đều không nhận được câu trả lời chính xác. Các cụ già đều bảo rằng, món ăn này đã có từ thời xa xưa, do tổ tiên truyền lại. 

Ông Phạm Văn Sanh, trưởng ban liên lạc họ Phạm, người trông coi ngôi đền thờ tổ họ Phạm đặt giả thiết: Theo gia phả họ Phạm, thì ông tổ họ Phạm của làng có nguồn gốc từ Thanh Hoá, di cư ra đây khoảng 700 năm trước. Món nem chua của Thanh Hoá đã nổi tiếng cả nước, có thể có liên quan đến món thịt sống, hay còn gọi là nem ở làng Vị Thuỷ. Theo phán đoán của ông Sanh, ngày xưa, người Thanh Hoá chế biến thịt lợn sống thành nem để ăn. Họ Phạm di cư từ Thanh Hoá ra vùng biển Thái Bình đã mang theo món ăn này và đến nay vẫn ăn y hệt như xưa. Nhưng người Thanh Hoá đã nâng món ăn lên một bậc, khiến nó nổi tiếng, đó là chế biến kiểu khác, gia vị kiểu khác và để vài ngày cho lên men, thành nem chua. 

Một số người cầu kỳ trong ăn uống ở làng cũng thường để nem lên men. Họ gói những nắm nem sống vào rơm nếp rồi treo lên không trung. Chỉ cần một ngày sau là nem lên men, ăn có vị chua như nem Thanh Hoá. Tuy nhiên, theo người Vị Thuỷ, độ ngon của món nem này không chấp với thứ nem kinh doanh của Thanh Hoá. Người Vị Thuỷ không thể ăn được nem Thanh Hoá, vì theo họ, món đó không ra gì. hận định của ông Sanh về nguồn gốc của món thịt sống ở làng Vị Thuỷ không có cơ sở lịch sử vững chắc, song cũng phải công nhận là có lý riêng. 

Qua trò chuyện với ông Sanh và các cụ già trong làng, người làng Vị Thuỷ không chỉ ăn món thịt nạc sống, gọi là nem, mà họ còn ăn cả xương lợn sống! 

Xương sườn lợn sống được tách ra từ con lợn vừa mổ xong, để nguyên cả lớp thịt nạc dày chừng 0,5 - 1cm bám ở ngoài. Người ta cũng dùng sống dao rựa dần đều tay, cần mẫn. Chính vì băm xương, nên loại thớt phải là thớt nghiến, bền, cứng, không lên mùn. 

Để băm được 1kg xương sườn lợn nát nhừ, phải mất 2-3 tiếng đồng hồ, do đó, người không có tính kiên nhẫn, thì không thể chế biến được món này. Việc dần xương cũng phải đều tay, kiên trì như tụng kinh gõ mõ. Người nóng tính không thể làm được món này, vì nếu cứ băm hùng hục, rồi lại nghỉ, xương sẽ nhừ không đều, mà chỗ nát, chỗ lổn nhổn, ăn lạo xạo. Băm xương đến khi nào sờ thấy mịn, mát tay thì rắc thêm mì chính, bột canh, mắm cốt cho đậm đà. Các loại rau thơm như mùi tàu, răm cũng được trộn vào xương băm nhuyễn. 

Khi những khúc xương đã nhừ thành một thứ bột mịn, dẻo quánh, thì trộn gạo rang đã giã thành bột. Những giọt nước chảy ra trong quá trình băm xương được giữ lại, trộn vào để món xương dẻo quánh, đỡ khô. Món này được người dân Vị Thuỷ gọi là chạo. 

Điều đặc biệt là món này không cho tỏi, cũng chẳng vắt chanh. Chỉ chấm với nước mắm cốt vắt chanh, dầm tỏi. Người dân trong làng cứ thế ăn nhiệt tình, mà không hề đau bụng. 

Vì món ăn này vô cùng công phu, tốn kém thời gian, nên ít được sử dụng. Trong các lễ cưới không có mặt nó, vì không đủ sức để làm. Cũng vì cuộc sống bận rộn, nên món chạo làm bằng xương lợn sống độc đáo này không còn hiện diện thường xuyên trên mâm cơm người làng Vị Thuỷ nữa. Nó thường chỉ xuất hiện trong các bữa giỗ. Con cháu tụ họp cùng băm chặt chan chát trong ngày giỗ cho vui tai, tăng thêm sự gần gũi, tình cảm. Và đặc biệt, món đó được đưa lên bàn thờ, mời tổ tiên về thưởng thức trước, rồi con cháu mới được ăn sau. 

Ngoài các món liên quan đến thịt sống, xương sống của lợn, người làng Vị Thuỷ còn ăn khá nhiều món cá sống nữa, như cá nhệch, cá mè sống. Hai món gỏi này thì khá nổi tiếng và nhiều nơi ăn, chứ không riêng gì làng Vị Thuỷ. Những ngày hè, khi gieo mạ, mưa rào, người làng Vị Thuỷ còn có một món ăn lạ hơn, là món châu chấu, muồm muỗm (loại côn trùng to hơn châu chấu). Riêng món thịt chuột đồng, thì tài chế biến của người làng Vị Thuỷ đã nổi danh khắp vùng. Mùa gặt cuối năm, người làng Vị Thuỷ săn chuột vui như hội. 

Vị Thuỷ quả là một ngôi làng độc đáo, với nhiều món ăn lạ, rất cổ xưa. 

Rời làng Vị Thuỷ, tôi không mang theo nỗi ám ảnh kinh hoàng với các món thịt lợn sống như ban đầu, mà có vẻ như đã nhớ những món thịt sống ấy. 

Thật bất ngờ, trên chuyến khách đi Hà Nội, tôi lại ngồi cạnh anh Đinh Văn Hưng, người làng Vị Thuỷ, hiện là giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự. Kể chuyện ăn thịt lợn sống, anh Hưng mở ba lô cho tôi xem: Cả một ba lô, ngập một thứ gạo rang giã thành bột. 

Anh Hưng bảo, anh đã thử rang gạo và xay thành bột, nhưng không hiểu sao không thể ngon bằng gạo rang của người Vị Thuỷ. Vậy nên, mỗi lần về quê, anh lại mua đầy ba lô bột gạo rang mang lên Hà Nội để làm nem ăn dần. 

Vậy là, thi thoảng thèm món thịt sống Vị Thuỷ, tôi lại gọi anh Hưng, và thế là, lại được đánh chén món thịt lợn sống đặc biệt này tại Hà Nội.

CHUYỆN PHIẾM 7 : ĂN TRỘM LỢN

 Trở về Mục Lục Chuyện Phiếm 7

Mỗi khi tết đến, gã lại nghe rộn rã :

- Thị mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,

 Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.

Người Việt Nam ăn tết không thể thiếu món thịt lợn, nhất là đối với những người sống ở nông thôn ngày xưa. Lúc bấy giờ, cuộc sống còn nhiều lam lũ và thiếu thốn, có khi cả năm trời mới được một vài lần ăn thịt mà thôi, thành thử vào dịp tết, người ta thường “đánh đụng” với nhau, để có tí thịt cho gia đình. Vì thế, ông thầy bói đoán chẳng sai :

- Số cô chẳng giàu thì nghèo,

 Ba mươi tết có thịt heo trong nhà.

Hơn thế nữa, năm nay lại là năm Đinh Hợi, cầm tinh con lợn, gã cảm thấy cần phải tán hươu tán vượn về con vật thân thương này. Rất may, trong một dịp về Saigon đi tìm sách cũ, gã mua được cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm” của Toan Ánh. Trong đó có một vài mẩu chuyện liên quan tới việc ăn trộm lợn, gã xin phép được mượn tạm và ghi lại nơi đây, để bàn dân thiên hạ cùng đọc trong những ngày đầu xuân năm mới.

ĐƠM LỢN

Bắt một con gà giữa đàn gà là một sự khó, nhưng vẫn không khó bằng bắt một con lợn ở ngay trong chuồng mà con lợn đó không kêu.

Nghệ thuật bắt lợn tài tình như vậy, trong làng đào ngạch gọi là…đơm lợn.

Bọn trộm có một phương pháp đơm lợn rất khéo, ai nghe qua cũng phải chịu là giỏi.

Chắc các bạn thừa biết lợn là một giống vật khi đòi ăn thì ủn ỉn, nhưng hễ ai hơi động tới người là chúng kêu lên eng éc, và có khi chỉ trông thấy bóng người, chúng đã hồng hộc lên rồi. Ấy vậy mà khi chú chích đã muốn bắt lợn, thì chú bắt cứ ngon ơ, lợn không kêu và chủ nhân cũng không bao giờ biết được.

Thường thường trộm hay đơm lợn của những nhà giàu. Chúng nói :

- Nhà nghèo nuôi được con lợn khó khăn, mình lấy của người ta hóa ra vô nhân đạo hay sao ?

Sự thật không phải là thế ! Mạ không thương người ốm thì trộm cũng không thương người nghèo. Nhà nghèo họ giữ lợn cẩn thận hơn, con lợn có khi là một phần gia tài của họ, cho nên nuôi lợn họ thường làm chuồng ở sát ngay vào cạnh vách nhà, để vừa tiện trông nom, lại vùa tiện giữ gìn. Còn nhà giàu họ vệ sinh, họ sạch sẽ nên chuồng lợn thường đặt xa nhà ở : có khi ở vườn, có khi ở cuối sân.

Cái khó trong việc đơm lợn là làm sao vào được chuồng lợn. Lợn thấy bóng người thường hồng hộc lên, tuy chúng không kêu. Chuồng lợn ở sát nhà thì tiếng hồng hộc có thể đánh thức chủ nhà. Bởi vậy, tâm lý của bọn đơm lợn là tránh những chuồng lợn ở sát ngay vách nhà ở. Chẳng kiếm ăn đám này thì kiếm ăn đám khác, lợn ở nhà quê thiếu gì, chẳng anh ăn trộm nào lại dại đột đi đơm lợn của nhà nghèo, làm chuồng kề ngay bên nhà.

Dụng cụ dùng để đơm lợn giản dị lắm, có thể nói là chẳng có gì cả. Chỉ cần một cái giỏ đựng cám, và chỉ có thế thôi.

Nhự trên đã nói, vào được chuồng lợn khó, còn đơm lợn dễ. Đã vào được chuồng lợn, tức là đã thoát được sự đề phòng của chủ nhân và tránh được sự sợ hãi của lợn rồi.

Vì vào được chuồng lợn khó, cho nên bọn đơm lợn mới tìm những chuồng lợn cách xa nhà ở. Khi vào được chuồng lợn rồi, muốn tránh sự hồng hộc của lợn, thì phải cho chúng ăn. Chỉ có cái ăn mới nhử được chúng. Lợn thường khi thấy có người nhảy vào chuồng, không những hồng hộc mà còn sùng sục chạy quanh. Phải làm thế nào cho lợn không chạy mới đơm xong lợn chứ.

Phải cho chúng ăn. Ai cũng rõ lợn là giống tham ăn, thấy ăn là chúng quên cả sợ hãi, quên cả sùng sục chạy quanh. Người đi đơm lợn cần có giỏ cám chính là bởi vậy.

Vào được chuồng lợn, người đó chìa giỏ cám cho lợn ăn. Lợn mải ăn không sợ người nữa. Người chỉ việc lùa cho lợn đút đầu vào chiếc giỏ, chịt chặt giỏ lại. Lợn sẽ không kêu được tiếng nào vì mồm còn đầy cám. Lợn muốn giẫy dụa thì cái giỏ đã thít chặt lấy đầu lợn rồi. Thế là anh chàng ăn trộm chỉ việc cõng lợn đi êm ru không ai biết. Cứ kể cũng không khó khăn lắm.

Đơm lợn xong, kẻ trộm thường phải tiêu thụ lợn ngay, mà phải tiêu thụ ở làng khác, vì ở nhà quê trong làng có người nào thành tích bất hảo, người ta đều biết.. Người mất lợn ngay ngày hôm sau tới trình làng và xin khám xét ngay nhà những người đó. Nếu để lợn ở trong nhà, tức là tự tố cáo mình vậy.

Cũng có những con lợn đơm bị đem đi làm thịt ngay, nhưng cũng có con tiêu thụ chưa kịp, được gửi gấm ở một nơi. Đã có những chủ lợn, khi mất lợn không đi trình báo gì, mà chỉ đi tìm mấy tay tổ đơm lợn để xin chuộc lại.

Hành động như vậy có nhiều kết qủa hơn, vì số tiền chuộc lợn chẳng đáng bao nhiêu, chỉ đáng giá một phần tư con lợn là nhiều. Chủ lợn đã xin chuộc, thì kẻ đơm lợn cho chuộc, nhưng tất nhiên phải có sự cam kết không trình báo gì của chủ lợn và người đơm lợn cũng cam kết về sau sẽ không đến đơm lợn chủ nhân nữa. Tuy nhiên, người đơm lợn bao giờ cũng có một sự đề phòng tối thiểu, để tránh mọi sự lôi thôi với pháp luật. Thường thường chủ lợn trao tiền chuộc lợn trước cho người đơm lợn, còn lợn sẽ được mang trả lại chủ lợn sau, mà không có hẹn trước. Như thế có khi chủ nhân về tới nhà đã thấy sẵn rọ lợn ở sân nhà rồi, hoặc cũng có khi qua đêm, sáng hôm sau, con lợn đã ở trong chuồng với sự bình yên, như không hề xảy ra chuyện gì bao giờ.

Đơm lợn đã tài tình, nhưng đem trả lợn cũng không phải là kém vậy.

ĐƠM LỢN VỀ GẶP NGƯỜI

Đây là câu chuyện do anh Cả Trường Xuân Vũ thuật lại :

Đêm đó, anh đi đơm lợn ở một làng bên về. Con lợn đầu bị đút trong một chiếc giỏ đầy cám, được anh cõng trên lưng như một đứa trẻ, hai chân trước quàng qua vai anh.

Còn lợn này khá to, nên anh thấy hơi nặng. Anh đang cố rảo cẳng đi cho chóng tới nơi tàng trữ để gửi con lợn.

Đang đi, bỗng anh thấy mé đằng trước có một người đi lại, người đó đã nhìn thấy anh, anh muốn tránh cũng không kịp. Anh đành phải cứ ung dung đi.

Hôm đó trời không có trăng, nên gặp nhau không ai nhận ra ai ngay, chỉ trông thấy bóng đen.

Người kia gặp anh Cả liền hỏi :

- Ai đó, đêm hôm khuya khoắt mang cái gì đi đâu thế ?

Bắt buộc anh Cả phải trả lời, nhưng anh sợ người kia nhận ra tiếng anh, nên anh trả lời qua giọng khịt mũi :

- Thưa ông, thằng cháu nhà tôi nó lên tốt (lên đậu) bị chết, tôi phải mang chôn, sợ mai ban ngày ban mặt lại phải khai báo lôi thôi.

Câu nói của anh Cả khiến cho người kia phải bước mau hơn để tránh cái thây ma lên đậu. Ở nhà quê, người ta rất sợ bệnh lên đậu, nên câu nói của anh Cả đã khiến cho người kia không hỏi han gì thêm nữa.]

Anh Cả tiếp tục ung dung cõng lợn về.

GẶP NHAU TRƯỚC CHUỒNG LỢN

Có một anh chuyên môn đi đơm lợn. Một lần kia sau khi đã rình mò và điều tra kỹ về một chuồng lợn của nhà giàu, anh định đêm hôm đó tới đơm lợn.

Chuồng lợn của nhà này làm cách xa nhà ở, tận cuối vườn cây, vườn cây ở chân đồi, xa xa khỏi quãng đồi là rừng thưa, rồi đến rừng rậm, vì nơi xảy ra chuyện này thuộc một tỉnh ở trung du, nghĩa là ở một nơi tuy có ruộng nương, nhưng có cả đồi núi và rừng rậm nữa. Từ chuồng lợn đến nhà ở cách vào khoảng trăm thước. Chung quanh vườn có hàng rào cây, và đôi chỗ có rào tre xanh mọc.

Anh trộm lần đi từ ngoài rừng, len qua hàng rào cây, rồi nhẹ nhẹ tiến tới phía chuồng lợn.

Trời hôm đó không tối lắm, nhưng cũng đủ tối để anh trộm dễ lẩn tránh nếu chẳng may bị chủ nhà bắt gặp.

Anh tiến dần đến mé chuồng lợn, trong tay lăm lăm giỏ cám. Không một tiếng động ở trong nhà, không một tiếng chó sủa ở trong xóm. Anh mừng thầm và tin rằng thế nào anh cũng thành công.

Anh tới gần cửa chuồng lợn rồi. Anh nắm chặt giỏ cám và bước nhè nhẹ hơn. Bỗng anh ngừng lại : anh thấy lù lù ngồi trên bờ chuồng lợn dưới mái tranh một cái bóng. Chắc là một anh chính cược khác cũng đang rình đơm lợn. Anh trộm rón rén đi tới chỗ bóng đen. Bóng đen vẫn ngồi yên, không biết có người ở đằng sau đi tới. Khi tới gần bóng đen, anh trộm đưa tay lên, vỗ vai bóng đen và nói :

- Con lợn này tớ rình đã mấy bữa nay, đằng ấy định phỗng tay trên hay sao ?

Bị vỗ vai bất thần, bóng đen gầm lên một tiếng “Hừm” và nhảy vọt rất xa để chạy thẳng vào rừng. Thì ra đấy là một chú cọp đang rình bắt lợn, sắp vồ mồi, bị vỗ vai bất thần, chú ta hoảng sợ, chuồn thẳng.

Và anh trộm, thấy bóng đen là chú cọp, cũng hoảng sợ, vứt cả giỏ cám, chạy trối chết.

Chỉ chủ nhân là may, lợn không bị cọp vồ và cũng không bị trộm đơm, vì sau bữa đó lẽ tất nhiên họ phải đề phòng cả trộm lẫn cọp.

CON LỢN VÀ TRĂM BẠC

HAY MƯỜI ROI

Tới đây, tôi xin kể một câu chuyện về anh Cả Trường Xuân Vũ. Các bạn đã biết tài anh Cả, thì bây giờ mời các bạn thưởng thức thêm một lần nữa tài nghệ của anh.

Trong câu chuyện thách đố dưới đây, anh Cả đã là người thắng cuộc và anh đã thắng một cách vẻ vang, khiến cho người nghe chuyện cũng thấy thêm hào hứng. Kể rathách đố với kẻ trộm đại tài là một điều dại, nhưng ở đời nhiều khi người ta biết dại mà vẫn cứ làm, như ông Bá hộ trong câu chuyện này chẳng hạn.

Trong làng anh Cả có một ông Bá hộ giàu có, xưa nay nhà cửa vẫn kín cổng cao tường, trộm đạo vào được nhà ông thật cũng khó khăn.

Anh Cả chưa từng lấy của ông Bá cái gì, không phải là anh không vào nổi nhà ông Bá, nhưng chính vì anh Cả không muốn lấy trộm của người làng, vì tình làng nước cũng có, mà cũng chính vì thành thích bất hảo sợ họ trình báo thêm phiền.

Ông Bá không cho là thế. Ông tin vì nhà ông kín đáo, lại có đề phòng, nên anh Cả chịu không dám mon men tới. Ông vẫn định bụng hôm nào gặp anh Cả sẽ nói khích chơi.

Bấy giờ vào hồi gần Tết. Trong một đám giỗ, ông Bá gặp anh Cả. Trước mặt đông đủ mọi khách ăn giỗ, ông Bá bảo anh Cả :

- Tôi nghe nói anh trèo tường khoét vách vào bậc nhất nhì trong thiên hạ, nhưng chính tôi, tôi chưa thấy tài anh ở chỗ nào cả. Anh phải làm thế nào trổ tài cho tôi trông thấy hai năm rõ mười, tôi mới chịu phục.

Anh Cả đáp và phân bua với mọi người :

- Trên thưa các cụ và các ông, tôi tuy tài hèn nghề mọn, nhưng nếu ông Bá muốn tôi cho biết rõ tài nghệ, tôi xin vui lòng chiều theo ý muốn của ông Bá. Vậy ông Bá đặt cuộc cái gì để tôi lấy làm chuẩn đích.

Ông Bá lúc ấy rượu đang ngà ngà say, liền hách dịch bảo anh Cả :

- Nhà tôi có con lợn để ăn tết, nếu anh lấy được con lợn của tôi, tôi cam đoan sẽ không trình báo gì và thưởng thêm cho anh trăm bạc nữa, nhưng nếu anh không lấy nổi con lợn thì sao ?

Thời ấy trăm bạc là một số tiền lớn, nên anh Cả nghe lời ông Bá nói như vậy thì mừng lắm. Anh lại phân bua cùng đám giỗ :

- Xin các cụ và các ông chứng hộ. Tôi là bề dưới, tôi chỉ sợ rồi không những không được trăm bạc, mà ông Bá lại đi trình quan thôi.

Nghe anh Cả phân bua, ông Bá trợn mắt đáp :

- Anh coi tôi là hạng người thế nào ? tôi đã nói một lời như đao chém đá, anh cứ yên tâm. Nhưng còn anh, anh định sao ?

Mọi người trong đám giỗ đều nhận lời làm chứng cho cuộc đố này, anh Cả bây giờ mới nói :

- Tôi nghèo nàn, không có gì, nhưng nếu thua cuộc chỉ xin đến để ông Bá đétmười roi vào đít.

Nghe anh Cả nói, ông Bá cười ha hả, đắc trí bảo :

- Ừ nhé, tôi cũng chỉ cần đét cho anh mười roi, để từ sau anh đỡ khoác lác đi thôi. Các cụ làm chứng hộ lời nói của anh Cả nhé.

Thế là cuộc đố bắt đầu. Hôm ấy là 17 tháng chạp, chỉ còn 13 hôm nữa đã Tết rồi. Anh Cả phải làm thế nào lấy cho được con lợn trước Tết, thì vừa có lợn ăn Tết, lại vừa có tiền tiêu tết. Về phần ông Bá, ông phải lo giữ thế nào cho đến ngày mổ lợn, con lợn không bị mất là ông được cuộc , nghĩa là ông được đét mười roi vào đít tên trộm đại tài. Ông giữ được lợn lại khỏi mất trăm bạc.

Lẽ tất nhiên, ông đã tổ chức canh phòng chuồng lợn rất cẩn mật. Anh Cả cũng thừa biết vậy, nên anh chẳng buồn đến rình mò nhà ông Bá làm gì.

Có ai hỏi anh bao giờ lấy được lợn nhà ông Bá, thì anh chỉ cười đáp lửng lơ :

- Để còn xem đã chứ. Ông Bá ông ấy canh phòng kỹ lưỡng lắm. Không khéo đến bị ông ấy đét mười roi mất.

Ngày này qua ngày khác, con lợn của ông Bá vẫn là con lợn của ông Bá. Thấm thoát đã 25 tháng Chạp. Ông Bá đã hơi mừng, vì còn bốn hôm nữa, sáng 30 Tết, ông sẽ làm thịt lợn, là anh Cả hết đường mon men tới.

26, 27, rồi 28 cho đến 29 tháng Chạp, anh Cả vẫn chưa làm gì nổi được con lợn ông Bá. Và đến sáng 30 Tết, một mũi dao nhọn đã hóa kiếp cho con lợn. Lúc người nhà chọc tiết con lợn, ông Bá bảo :

- Xem nào, chuyến này thằng đại bợm có thua ta không ? Để ta phải cho gọi nó đến, đét cho nó mười roi cho sướng tay.

Một tên người nhà nói :

- Thật là kẻ cắp gặp tay bà già. Phải tay ông mới trị nổi anh Cả.

Ông Bá hả dạ lắm. Ông sai người đi tìm anh Cả tới và nói với bọn người nhà :

- Vị tất anh Cả đã dám lại. Lời nói có bao nhiêu người làm chứng còn chối vào đâu. Nếu hắn lấy được lợn có phải ta mất thêm trăm bạc với hắn không. Các anh làm lợn cho sạch sẽ rồi lát nữa hắn tới, ta cho phép tất cả các anh và người nhà lên xem tađét han.

Bọn người nhà thích lắm, chỉ mong anh Cả tới để xem anh bị ông Bá đét. Họ làm vội làm vàng cho xong con lợn. Vừa cạo lông lợn, họ vừa bàn tán cùng nhau. Kẻ bảo anh Cả sẽ đến, người bảo không.

Thì ra anh Cả đến. Một tay trộm đại tài có bao giờ hèn mà sợ mười roi đòn. Anh Cả đến với khăn áo rất chỉnh tề. Thấy anh, ông Bá nói :

- Tôi tưởng anh không đến. Nguyên hôm nay là 30 Tết, nhà tôi đã mổ thịt con lợn rồi. Nhớ tới lời nói hôm ăn giỗ, tôi cho mời anh lại.

Anh Cả đáp :

- Vâng tôi cũng rõ, nên hôm nay đến đây chịu đón của ông Bá.

Ông Bá khen anh :

- Thế thì anh thật anh hùng lắm ! Tôi khen đấy !

Ông gọi người nhà :

- Nào bây đâu, lên cả đây, ta cho chứng kiến việc này.

Lũ người nhà đổ xô cả lên nhà trên. Ông Bá tay cầm chiếc roi mây chỉ chiếc phản gỗ, bảo anh Cả :

- Quả thật anh không sợ đòn, thì mời anh nằm xuống kia cho lão đét.

Lũ người nhà cùng nhau cuời khúc khích. Ông Bá mỉm cười một cách tự đắc.

Anh Cả nói :

- Tôi vui lòng nằm chịu đòn, nhưng thưa ông Bá, phải có người làm chứng chứ, kẻo ông Bá đánh tôi xong, ông Bá lại bảo chưa đánh, rồi tôi lại phải đòn lần nữa, tôi cãi vào đâu. Vậy sẵn người nhà đây, xin ông Bá cho đi mời mấy cụ có mặt tại đám giỗ lại, để chứng kiến vụ tôi chịu đòn !

- Tưởng gì thì khó, chứ thế thì dễ lắm !

Chính ông Bá cũng muốn như vậy để có kẻ nọ người kia trông thấy công việc anh hùng của ông. Ông liền sai người nhà đi mời năm sáu cụ có mặt tại đám giỗ hôm trước lại. Trong lúc chờ đợi, ông sai rót nước mời anh Cả xơi và ông để ý nhìn kỹ nét mặt anh Cả, xem anh có thẹn thùng sợ hãi không. Ông thấy anh thật ung dung thản nhiên.

Anh Cả khen ông Bá :

- Nhà ông Bá kín cổng cao tường thật. Chúng tôi rình hơn mười đêm không sao vào được. Chó nhà ông Bá dữ quá, ông Bá lại rất thính ngủ.

Ông Bá vuốt râu cười với chiếc điếu ống hút điếu thuốc lào, thở ra làn khói trắng ra vẻ khoan khoái lắm. Ông bảo anh Cả :

- Anh biết tay tôi như thế là phải lắm, chứ không những hôm ấy mà anh chờn vờn vào nhà tôi thì chỉ có què.

Trong lúc đôi bên đối thoại, lũ người nhà vẫn thập thò ngoài hiên để chờ xem cuộc tên bợm đại tài chịu đòn.

Một lúc sau, bốn năm cụ tới. Ông Bá đon đả mời các cụ và nói :

- Hôm nay nhà tôi mổ thịt con lợn. Anh Cả thua cuộc đến chịu đòn, muốn mời các cụ lại chứng kiến.

Ông Bá vừa dứt lời, thì anh Cả nói tiếp :

- Thưa các cụ không phải thế ạ ! Đấy là ông Bá muốn mời các cụ lại làm chứng để ông Bá thưởng cho tôi thêm một trăm bạc như lời đã hứa, vì con lợn của ông Bá, tôi đã mạn phép lấy và cho người nhà mang đi rồi !

Kỳ lạ chưa ? Lời nói của anh Cả làm ông Bá giật mình. Ông Bá cãi :

- Anh nói láo ! Đâu có chuyện ấy ! Con lợn sáng ngày tôi đã cho làm thịt rồi còn gì nữa 1

Anh Cả ung dung thưa :

- Thưa ông Bá, tôi vừa mới lấy lúc nãy xong. Không tin ông Bá thử cho người nhà ra vại nước xem có còn con lợn không ?

Thật là sét đánh ngang tai. Ông Bá vội gọi lũ người nhà lúc ấy đang thập thò cả ra ngoài mái hiên để chờ xem cuộc đánh đòn, bảo đi xem lại con lợn. Một tên người nhà chạy vội ra vại nước rồi hốt hoảng chạy vào thưa :

- Bẩm ông, con lợn ai khiêng đi mất rồi ạ. Họ lấy cả chậu tiết lẫn cỗ lòng. Chỉ còn đống lông ngoài ấy !

Anh Cả bảo ông Bá :

- Tôi có dám nói sai đâu. Vậy xin ông Bá trăm bạc để về còn sắm Tết. May năm nay không có trăm bạc của ông Bá, nhà tôi chẳng có gì là Tết !

Tức đến điên ruột, nhưng ông Bá cũng đành làm mặt đàn anh, đưa cho anh Cả trăm bạc và quay mắng lũ người nhà :

- Chỉ tại lũ chúng mày vô ý.

Lũ người nhà len lén sợ hãi, vội vàng rút chuồn cả xuống nhà dưới.

Anh Cả lại nói :

- Thưa các cụ và ông Bá, đáng lẽ chúng tôi xin con lợn từ mấy hôm trước, nhưng vì dạm bán không ai mua, họ đều sợ phép ông Bá, mà muốn để ăn tết, thì nhà chúng tôi neo người, không có người làm, nên đành phải chờ đến hôm nay, nhờ ông Bá cho làm lông hộ sạch sẽ. Mang về chỉ việc xả ra là xong. Xin chào các cụ và cám ơn ông Bá lắm.

Nói xong anh Cả đi thẳng. Các cụ đến làm chứng muốn cười mà không dám cười. Ông Bá hết sức bực mình. Thật là bợm già mắc bẫy cò ke.

Chắc các bạn cũng thừa rõ là trong lúc tất cả người nhà ông Bá đều lên trên nhà để chực xem ông Bá đánh đòn tên đại bợm, thì người nhà tên đại bợm đã lẻn vào bằng lối trèo tường, chuyển con lợn đi một cách êm nhẹ.

Năm ấy nhà anh Cả ăn Tết rất sang ! Và câu chuyện ông Bá mất lợn đã thành một thiên giai thoại lý thú.

Rau dền ơi, sao cứ nhớ cái ngày xa xưa ấy...

15:51, 11/6/2010 (GMT+7)

Blog Việt

Những trưa mùa hè, buổi cơm có chén canh rau tập tàng bao giờ cũng làm buổi ăn thú vị hơn, ngoài những món canh bình thường khác... Sau giờ tan sở,chạy xe nhanh qua một vòng chợ (kiểu chộ chồm hổm ở phố ), cứ vẫn thích nhìn cái rổ rau tập tàng của bà lão ở tận quê mang lên chợ... Những lá rau xanh mượt mà, non mướt, của rau nhớt, rau đay, rau lang, rau mồng tơi xanh um, nhìn thôi đã thèm, để nấu với tôm hoặc cao cấp hơn thì nấu với cua là tuyệt vời nhất...

Cái trí nhớ lại lan man về ngày xa xưa, như xa lắm. Những năm 1980 trở đi thôi, mà nghe chừng xa lắc lê thê... Đó là những năm tháng dường như cái nghèo đeo bám - mà hình như lúc đó ai cũng vậy thôi... Gia đình ở trong khu tập thể của cơ quan, bên đường Trần Phú - con đường đẹp nhất Nha Trang bây giờ... Khu đất rộng cả ngàn met, ngôi nhà gia đình tôi như lọt thỏm trong cái không gian đầy bóng cây xanh, ngày ngày nghe sóng biển... Tôi còn nhớ, chung quanh cái giếng lớn của khu nhà tập thể, rau dền mọc xanh um cả góc sân... Cứ buổi trưa đi dạy về, vợ và chồng cứ ra hiên nhà ngắt những chùm lá rau dền xanh, chỉ một ít cá cơm có sẵn trong nhà là có bát canh rau dền thơm lừng mùi lá... Rau dền hết luộc lại nấu canh,cứ thế đều đặn ngày qua ngày, bát canh rau dền nuôi con đầu khôn lớn, bình dị thế đấy! Rồi tôi có thai đứa sau - cu bắp bây giờ, lại cũng canh rau dền ngày qua ngày...Những cộng rau dền xanh không một chút phân bón, chỉ nước giếng thôi mà xanh um, cộng rau to nhưng non lắm... Lại cũng điệp khúc rau dền ngày ngày, khó khăn mà đồng lương "ba cọc ba đồng " ngày ấy chỉ đủ để ăn những bửa cá cơm triền miên.Cá cơm hết kho keo ơt, cá cơm lăn bột chiên mỡ, rồi cũng cá cơm nấu canh rau dền... Những tháng đầu mang thai, cứ nghe mùi rau dền sôi lên tôi lại nôn ọe, ọe đến khi không còn gì trong bụng rồi lại phải bắt đầu với bửa cơm canh rau dền đạm bạc... Chỉ nghe mùi rau xông lên mũi là lại nôn -hình như ăn quá nhiều nên cảm giác mùi là sợ.... Nấu nồi canh mà lấy khăn bịt cả mũi mình...

Thế đấy, những ngày gian khổ qua đi, cu Út ra đời, nhưng hình như trời thương, cu Út - mẹ chỉ ăn canh rau dền, mà cu khỏe và mập ú... Không tốn viên thuốc nào ... Chỉ là bát canh rau dền mà các cháu lớn nhanh lên, như cỏ cây không cần thuốc... bổ gì!

m cũng đơn giản bình thường như bao gia đình thời bao cấp- chỉ toàn là mắm, đủ thứ mắm trên đời, ruốc, mắm nêm, mắm cà ba mẹ làm gởi cho ăn dặm... Ngày ấy sao mà cơ cực thế....

Bây giờ cả tuần mới ăn bữa canh rau, thỉnh thoảng con bảo dạo này nhà mình ăn canh rau hơi nhiều... Mùa hè mà con, canh rau ăn cho mát, chợt thoáng nghĩ lại ngày xa xưa ấy, canh rau dền muôn thuở, nhưng có ai kêu ca bao giờ... Canh rau bây giờ, nấu toàn với hải sản xịn, tôm tươi ngọt lừ, có khi là cua lột võ, mẹ giả nhuyễn và nấu nồi canh rau, ngọt lịm, bốc khói thơm hấp dẫn bên bàn ăn...

Rau dền ơi, sao lại cứ nhớ cái ngày xa xưa ấy..

Hồi nhỏ ăn xôi khúc của "bà Bắc kỳ" ở xóm bên, tôi đinh ninh xôi khúc nghĩa là xôi lấy ra từng khúc, mỗi khúc có một "cục nhưn". Tôi không chứng kiến tận mắt cách bà nấu xôi, nhưng đứa con gái bà trạc tuổi tôi thường ngày phải giã một cối hành lá cho mẹ làm bánh. Mùi hành lá quyện với mùi tiêu, đậu xanh, mỡ heo bùi béo chỉ bốc lên khi cắn vào "cục nhưn" bên trong lớp xôi trắng dẻo thơm ngon đặc trưng mà tôi đinh ninh là mùi xôi khúc.

Mãi sau này tôi mới biết "cục nhưn" đậu xanh xào thịt mỡ trộn tiêu hành lẽ ra được bọc bằng một lớp bột nếp trộn rau khúc giã nhuyễn. Chính rau khúc này mới làm nên mùi thơm đặc trưng và cái tên xôi khúc.

Vậy là mấy chục năm trời tôi cứ tưởng mùi lá hành là mùi lá khúc. Tôi phải ít nhất một lần ăn cho được miếng bánh khúc thứ thiệt để cải chính, hay để minh danh cho xôi khúc. Tôi cũng hiểu là khí hậu miền Nam không phù hợp với rau khúc, một thứ rau ôn đới chỉ mọc vào mùa đông đến đầu mùa xuân phương Bắc và rụi tàn khi trời ấm lên.

Cho nên ở Sài Gòn chỉ có thể ăn xôi khúc cải biên với lá hành, lá cải, lá khoai hay lá tần ô. Tôi đợi dịp ra Hà Nội, đặc biệt vào mùa xuân, hi vọng thưởng thức miếng bánh khúc trong cái lạnh se da miền Bắc.

Tôi đã đi lơ ngơ trong cái chợ to gần Cầu Đông (vì chỗ ở trọ trên đường này) hỏi người ta có bán rau khúc không. Người bạn Hà Nội đi cùng bảo: "Chị hỏi cái lá diêu bông có thể người ta còn biết đấy là ông Hoàng Cầm bịa ra, chứ cái lá rau khúc thì người ta không biết đâu mà lần". Tôi leo lên cả đường đê nhìn ra bờ bãi sông Hồng để tìm. Nhưng làm sao tìm cái mình chưa từng biết hình dạng?

Bạn tôi thú thật là chị cũng chưa từng thấy rau khúc ra làm sao, và chị không chắc cái bánh khúc bán quanh năm trong ngõ nhà chị làm bằng cái thứ lá gì. Rau khúc cũng như những thứ của thời thôn dã xa xưa đã trở thành nỗi niềm hoài cổ trong đô thị ngày nay, có hay không thật ra chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống hiện đại đang phát triển.

Tôi không hoài niệm rau khúc (đâu có ký ức gì về nó!). Tôi đi tìm rau khúc vì lý do thực tế hơn.

Chúng ta đang sống ở thời thông tin Internet. Tôi tra Google "rau khúc" ra cái tên khoa học Gnaphalium affine D. Don. Tôi lần theo cái tên khoa học thì gặp vô số website chữ Hoa, chữ Nhật, chữ Hàn, chữ Anh. Thì ra nó rất phổ biến ở các nước Đông Á. Ở Nhật người ta có tục ăn cháo bảy thứ rau trong đó có rau khúc vào ngày bảy tháng giêng để có sức khỏe trong năm mới.

Ở Đài Loan có món bánh ngon làm bằng rau khúc mọc trên vùng núi Alisan gần gần giống bánh khúc ở Việt Nam: lá khúc giã nhuyễn trộn bột nếp bọc nhưn rồi hấp chín, chỉ khác là không có xôi bọc quanh bánh. Ở các nước Đông Á rau khúc còn hiện diện trong bữa ăn như rau luộc, và dùng trong ngành y dược dân tộc như một cây thuốc phổ thông trị cảm mạo ho trướng mụn nhọt thông thường. Nói chung rau khúc vẫn sống hồn nhiên ở đâu đó chứ không đến nỗi tuyệt chủng để mà thương tiếc nhớ nhung.

Thật ra rau khúc mọc... khắp nơi trên thế giới, ngay cả ở Mỹ. Mà ở Mỹ thì rau khúc bị coi là cỏ, có tên là cudweed. Hồi mười năm trước, thuở mới theo chồng về ở xứ Bellingham này, mùa xuân nhìn từ cửa sổ nhà bếp ra góc vườn thấy một giề xanh xanh vàng vàng, chồng bảo đó là cudweed, một thứ cỏ dại mọc lan rất nhanh và rất khó diệt. Nên tôi đã tận lực nhổ bỏ. Mấy năm sau chúng mọc lại thưa thớt, tôi cũng nhổ sạch bách. Bây giờ thì trong vườn chẳng còn cọng cudweed nào nữa.

Thấy tôi buồn, ông chồng hứa xuân sang sẽ chở tôi ra đồng, tha hồ hái hoặc bứng về trồng lại trong vườn. A phải rồi! Dù là cỏ dai hay rau tự mọc hoang ngoài đồng mình vẫn có thể trồng được.

Thậm chí trồng còn tốt hơn. Nhớ rau càng cua, rau đắng đất, rau dền dại, rau cải trời... những thứ ngày xưa là rau dại mọc hoang trong vườn nhà ngoại tôi, chẳng ai trồng cũng chẳng ai bán mua gì chúng. Rồi bỗng dưng Sài Gòn thịnh mốt ăn gỏi rau càng cua, cháo cá rau đắng đất... những món được liệt vào hàng đặc sản trong thực đơn nhà hàng cao cấp.

Vậy là các chợ Sài Gòn, cả siêu thị, hè nhau bày bán rau càng cua, rau đắng... Hái hết rau dại thì người ta trồng, có cầu thì có cung. Xuân này tôi sẽ bứng cudweed về trồng, xuân sau tôi sẽ hái một mớ đem về xóm cũ làm quà cho cháu ngoại "bà Bắc kỳ" bán xôi khúc ngày xưa...

Thịt chó muôn năm !!!!

Người Việt Trì tự hào về thú ẩm thực rất dân dã của đất mình và chắc chắn đến Việt Trì một lần bạn sẽ được những tấm lòng hiếu khách khoản đãi món ngon này. Phố Đoàn Kết là trung tâm của thịt chó Việt Trì với gần 20 cửa hàng lớn nhỏ. Những cửa hàng này đều đã có trên dưới chục năm nay nhưng vẫn mang vẻ bình dị, dân dã vốn có bởi theo những chủ cửa hàng ở đây thì phòng ốc bóng nhoáng, bàn ghế sang trọng sẽ không còn là thịt chó Việt Trì.

Làng mổ chó

Hàng chục lồng đựng chó xếp chồng lên nhau, tiếng sủa inh ỏi và những chiếc xe tải gầm rú lùi lại để mấy thanh niên choai choai bốc lô hàng gồm hàng trăm con chó từ Hà Tĩnh về. Đó là ấn tượng đầu tiên khi chúng tôi về làng Cao Xá (Đức Giang, Hoài Đức, Hà Tây).

“Chú đặt bao nhiêu con, ưng con nào thì cứ chọn thoải mái. Hàng xịn từ miền núi Hà Tĩnh vừa về hôm qua đó”, vừa nói, ông T. vừa lấy chiếc cùi sắt thúc mấy con chó dậy cho khách xem. Trên chiếc lồng sắt có một tờ giấy ghi chi chít. Ngày 30/7, cao điểm nhất mổ 104 con, rồi xuống 80, 75... và chốt lại là con số 30.

Giải thích thắc mắc của chúng tôi, ông T. nói: “Nếu các chú không tin thì cứ nhìn các nhà hàng và số điện thoại trên mà hỏi”. Chưa kịp dứt lời thì chiếc điện thoại bên hông ông T. reo vang: “Alô! 50 con sáng mai 4h lấy. Ok, yên tâm đi hàng xịn cả”.

“Đấy làm ăn quen với nhau rồi nên giờ có việc gì họ cứ việc alô là xong”, ông T. giải thích. Thấy khách tỏ vẻ không ưng hàng thì ông T. khẳng khái: “Nếu không ưng thì các anh cứ đi hết cái làng này thử hỏi có hàng ai chất lượng hơn nhà T. này không”.

Vừa thoát được thứ mùi nhức đầu từ những đống phân chó lâu ngày không dọn, PV bị kẹt ngay ở cổng nhà ông T. vì chiếc xe công nông chở rơm cho nhà bà Phong quá khổ không thể lách được vì con đường quá chật.

Ở cái làng Cao Xá này, bà Phong được coi là “Vua cầy” vì theo như nhiều người, nhà bà chuyên nghề mổ chó rất nhiều năm. Trong căn nhà ba tầng khang trang sạch sẽ khác hẳn với nhiều ngôi nhà trong làng, bà Phong kể: “Ngày xưa ông nhà tôi còn sống, mỗi sáng đưa lên thớt hơn một trăm con chó là chuyện thường. Nhưng nay các cháu nó đi học hết nên mỗi sáng chỉ làm vài chục cho có lệ thôi”.

Đến nhà bà N.T.V., người được coi là mối hàng lớn của nhiều nhà hàng và quán ăn ở Hà Nội hiện nay. “Hàng nhà tôi luôn được khách đánh giá cao vì không làm ăn theo kiểu “gom hàng” như nhiều nhà khác trong làng”, bà V. khoe.. Theo giới làm thịt chó của làng, ngoài “nguồn hàng” trong nước, bà V. còn lặn lội sang tận Lào và Thái Lan lấy hàng. Bà V. khoe: “Nhà tôi làm ăn với hơn 30 quán nhậu của Hà Nội và có hẳn một quán ở phố cổ để chuyên giới thiệu và cung cấp hàng cho các quán mỗi khi cần nhanh”.

Theo những người chuyên làm chó của làng Cao Xá, bình quân vào ngày cao điểm, cả làng đưa lên thớt cả nghìn con chó. Khi khách hỏi chó đã được kiểm dịch bệnh chưa, họ chỉ trả lời một cách vu vơ: “Đã có ai ăn chó thịt chúng tôi mà chết đâu”.

Chiêu “nâng cấp” thịt cầy

Mặc dù đã giải nghệ từ lâu nhưng ông Q. có biệt danh là Q. "Cầy” luôn được những thành viên trong hội làm thịt chó kính nể vì luôn hướng dẫn cho họ những chiêu độc để biến những chú “cẩu” gầy thành béo, thịt ươn thành tươi. Dù đã có của ăn của để nhưng ông Q. vẫn làm một cái quán nước ven đường để ngày ngày tụ họp anh em. Ông Q. bảo: “Có gì đâu, những món này ngày xưa cha ông tôi dạy cho cả mà. Có điều mình phải làm chừng mực để lấy phúc cho con cháu sau này”. “Các chú đi ăn thịt chó chớ có tham thấy thịt hồng, béo mà coi đó là chó ngon”, ông Q. cảnh báo.

Theo ông, các nhà làm chó ngoài có những chiếc lồng sắt đặt trước sân thì sau nhà bao giờ cũng một không gian “cấm cửa”. Nếu sân sau này mà khách nhìn thấy thì coi như mất mối.

“Chú xem gom hàng từ các tỉnh đã mấy ngày mà đâu phải tất cả đều là chó đàng hoàng được nuôi và có kiểm tra gì đâu, có nhiều chó thu mua của bọn ăn cắp và chó bị đánh bả”, ông Q. thổ lộ. Sau khi bốc hàng, những con đang còn thở và khỏe mạnh được các ông chủ nhốt vào trong lồng để “đánh bóng” với khách hàng.

Sau khi khách chọn được những chú “cẩu” ưng ý rồi, họ yên tâm ra về sáng hôm sau đến lấy hàng mà không biết hàng này có khi có lẫn những con chó đã được “hóa kiếp” cách đó đôi ngày. Khi thấy khách ngỡ ngàng thắc mắc tại sao “về bên kia” một đôi ngày rồi mà thịt chó vẫn tươi ngon. Ông Q cười nhẹ: “Các chú nếu nghe xong thì đừng có bảo ông già này bịa. Thật một trăm phần trăm đó”.

Theo ông, sau khi bốc hàng những ông chủ ở đây thường “lược” ra những con gầy còm nhất đưa về sân đằng sau nhà. Con nào chết thì được đưa xuống hố đất đào sâu khoảng 1,2m.

Còn những con gầy thì tống vào bao tải nhỏ vứt xuống ao. Đó chính là “công nghệ” biến chó gầy thành béo, ươn thành tươi… Khi đó thịt những con chó này lại khiến khách hàng ưng ý hơn vì trông béo lên và nhìn rất ngon.

Theo ông Q. thì nhiều gia đình do quá tham nên cứ áp dụng chiêu này nên đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc do ăn thịt chó. Ông Q. cho biết làng chó Cao Xá có nguồn gốc từ những năm 20 của thế kỷ XX. “Ngày xưa các cụ cao niên trong làng thường xuyên nhắc nhở với lớp con cháu chúng tôi là làm ăn gì thì cũng phải có cái tâm. Mong muốn của các cụ là được công nhận một làng nghề. Nhưng nhiều người tham nên làm liều thôi”, ông Q. tâm sự. Nghề nào cũng có sướng có nhục. Nhiều ông chủ làm thịt chó trong làng bị đánh vì chuyên mua chó của những người đi ăn trộm nên bị người dân các vùng lân cận đến bắt quả tang và kéo đến tận nhà để bắt đền.

Làng xóm giờ vẫn nhắc đến chuyện hai nhà ông C. và bà U. Bà U. đã nhiều lần nhắc nhở vì ông C thịt chó làm mất vệ sinh trong thôn xóm nhưng ông cứ lờ đi. Chịu không nổi bà U. và một số người đã lôi nhau đến nói chuyện bằng tay với ông C. gây náo động cả làng.

Mười năm về trước làng Cao Xá chỉ có một nghề là làm thịt chó. “Nhiều nhà cao tầng cũ ven đường đều được xây từ thời đó cả. Nhưng giờ thì nhiều người không trụ được với cái nghề này nữa rồi”, ông Q. kể. Vừa đứng dậy chào ông Q., PV thấy hai thanh niên đi trên chiếc xe Wave đỗ xịch ngay trước quán gườm gườm nhìn và quát: “Hỏi lắm thế. Léng phéng mà viết cái gì thì cứ liệu hồn”.

Trên thế giới, ngoài Việt Nam thì quốc gia tiêu thụ thịt cầy mạnh nhất phải nhắc ngay đến Hàn Quốc. 92% đàn ông và 68% phụ nữ Hàn Quốc khi được phỏng vấn đã cho rằng thịt chó là món ăn ngon nhất đối với họ. 

Theo thống kê, thịt chó là món ăn được sử dụng thứ tư tại Hàn Quốc sau thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Do vậy, trên đất nước này có đến hơn 6.000 cửa hàng bán thịt chó, và thịt loại động vật này được các bác sĩ chỉ định như một món ăn bổ dưỡng cho các bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo.

Đó là chuyện bên xứ Hàn, còn ở xứ Việt, thịt cầy cũng có một bề dầy lịch sử không kém. Có quán đề bảng Cờ Tây, nói lái của cầy tơ; nơi thì Mộc Tồn, diễn nôm na là cây còn tức con cầy; chỗ lại ghi Lá Mơ, một thứ lá không thể thiếu khi ăn thịt chó... Thịt chó đã đi vào cả ca dao, thơ văn của người Việt Nam như:

"Sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ hỏi có hay không?". Hoặc:

"Ăn rồi xách nón ra về

Thấy hàng chả chó lại lê chân vào

Chả này bà bán làm sao?

Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng không

Dối rằng lại nghĩ đến chồng

Gần đến cánh đồng ngả nón ra ăn”.

Vài chục năm trước, nhà văn Vũ Bằng trong bài Thịt cầy đã viết rằng: "Đã định không nói, nhưng không nói thì không chịu được. Ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, người ta quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu một người, vũ trụ bao la hiu quạnh... Huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?".

Cầy tơ có mặt trong khá nhiều tiệc cưới ở nhiều địa phương Bắc bộ như Hà Tây, Nghệ An, Nam Định... Thậm chí có những nơi như Vân Đình (Hà Tây) thì "phi thịt chó bất thành tiệc cưới". Trong đợt khảo sát đánh giá thực phẩm địa phương nổi tiếng tại Việt Nam có tiềm năng lớn về chỉ dẫn địa lý được Liên minh Thị trường Nông nghiệp châu Á tiến hành cho thấy có 265 loại thực phẩm địa phương, trong đó có 75 loại thực phẩm được đánh giá cao và nhắc đến nhiều nhất thì thịt chó được nhắc đến 2 lần!

Các "tín đồ... cầy tơ" rất tự hào khi nghe câu chuyện về ông Trần Hữu Triệu là người Việt Nam đầu tiên sang Triều Tiên những năm 1960 nấu những món thịt chó phục vụ chủ tịch CHDCND Triều Tiên - Kim Nhật Thành. Ông Triệu có "ngón nghề" độc đáo trong việc chế biến thịt cầy quay và thịt om cực ngon. Ông Triệu sang Bình Nhưỡng gần 2 năm, ăn ở đều được biệt đãi để tập trung hướng dẫn món “cẩu nhục”.

Từ câu chuyện này, nhiều "tín đồ... cầy tơ" Việt Nam quả quyết, món thịt chó phải xuất phát từ Việt Nam vì nếu dân Triều Tiên thích ăn thịt chó từ lâu thì sẽ không cần đầu bếp Việt Nam sang hướng dẫn? Những người bảo vệ ý kiến này còn chứng minh thêm rằng, dù thịt chó cũng là món "hẩu xực" của người Trung Quốc mà họ xưng tụng là "hương nhục" nhưng so ra lượng người ăn thịt chó không nhiều và cũng chỉ chủ yếu có một món chính là chó tần với 4-5 vị thuốc bổ.

Vậy là chưa thể so bì với các quán "Liên hiệp xí nghiệp thịt chó" trên đê Nhật Tân với thực đơn 7, 9 món cầy tơ hảo hạng! Khoảng những năm 1993, khu vực đê Nhật Tân (Hà Nội) có đến gần 50 nhà hàng, tiệm thịt chó, mỗi ngày tiêu thụ đến trên 5 tấn thịt. Hàng loạt nhà hàng thịt chó cất theo kiểu nhà sàn lợp mái cọ, ngồi trên chiếu trải trên sàn nhà trông na ná nhau và đau đầu nhất vẫn là "hệ thống" nhà hàng mang tên Anh Tú. Nào là Anh Tú Béo, Anh Tú Xịn, Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Sàn, Anh Tú Rởm, Anh Tú Thật...

Chủ tiệm nào cũng bảo mình mở quán đầu tiên và cam đoan tên khai sinh là Anh Tú. Nhắc đến những vùng đất trứ danh nhất về thịt cầy ở Việt Nam thì có thể kể ra như cầy tơ Nam Định, cầy tơ Việt Trì, cầy tơ Vân Đình...

Nhưng có điều khi hỏi 9/10 người "nghiện" và "sành" thịt chó thì đều quả quyết với tôi rằng, thịt cầy Vân Đình vẫn là ngon nhất. Hiện nay, chỉ riêng thị trấn Vân Đình (huyện Ứng Hòa, Hà Tây) có khoảng trên dưới 40 quán thịt chó, và một đội ngũ khoảng 200 người thợ chuyên đi làm cỗ thịt chó thuê ở khắp mọi nơi.

Ông Đào Văn Tâm, chủ quán thịt chó Tâm Úc nổi tiếng ở Vân Đình cho biết, "menu" thịt chó ở đây đã lên tới "tuyệt đỉnh công phu" với 14 món. Ngoài những món nguyên thủy căn bản là dồi, rựa mận, luộc, nướng thì thịt cầy Vân Đình có thêm các món rất "độc chiêu" như chả bọc, giả chuột, giả chim, giả ba ba, giả trâu...

Chẳng biết Vân Đình có phải đích thực là "thủ phủ" của cầy tơ hay chưa, nhưng hôm về chơi Vân Đình, nhiều chú bé mới 9, 10 tuổi ở đây vừa nhai thịt chó ngồm ngoàm vừa nói rất sành điệu về "đẳng cấp" thịt chó.

Nào là “nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm” và còn khẳng định chỉ tính riêng tiệm Tâm Úc ở cái thị trấn nhỏ này mỗi ngày đã "giải quyết" 40, 50 con chó là xoàng thôi. Khách đi ôtô con từ Hà Đông (Hà Nội) đổ về đặt hàng, thưởng thức, có cả khách Việt kiều, người Hàn Quốc vừa xuống sân bay Nội Bài lại đón taxi đi thẳng về Vân Đình để... xơi thịt chó.

Hôm qua vừa làm 1 bữa xong, sáng nay dậy vẫn còn thèm.... 

Nói đến món ăn miền Bắc, ngoài cái công việc “nghi lễ và cách thức ăn uống” phải kể đến yếu tố hoàn cảnh, không gian lẫn thời gian. Thật vậy, không có gì bằng buổi trưa nóng hừng hực, một mâm gỏi cá với những đĩa rau lá xếp gọn gàng thứ tự, bát giấm nóng thơm phức, nhâm nhi vài ly rượu đế thì thực là cõi tiên! Rồi những buổi mưa tầm tã, hưởng mùi ngai ngái của hơi đất ẩm nồng, mùi nụ mướp đơm hoa, cà vừa chớm nụ mà trước mặt mình ngổn ngang “11 món thịt cầy”! “Nắng gỏi mưa cầy” là vậy đó.

Ai đã từng thưởng thức món “Hạ cờ tây” cũng đều phải ca tụng rằng :

“ Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó,

Chết xuống âm phủ, biết có hay không?”

Gạt ngoài vấn đề phong tục tập quán, ở đây chúng ta chỉ bàn về món ăn “độc nhất vô nhị” này. Thật ra, không chỉ món cầy là riêng của người miền Bắc, hầu như trên khắp thế giới, không nơi nào lại không có “khuynh hướng giả cầy”.

Vào thời kỳ chiến tranh, dân chúng thường thấy một vật rất đắc lực cho mình, bỗng trở nên một “gánh nặng”. Đó là mấy anh “cà bông” nhông nhông suốt ngày, người chiến binh đang thiếu thực phẩm, người thôn quê hiện chẳng thức ăn, bỗng chốc nghĩ ra rằng : Mấy anh khuyển…có vẻ “vô duyên” quá! Các sách kiếm hiệp Tàu, đôi khi cũng nhắc đến món cầy trong bước đường giang hồ của các tay võ lâm cự phách một cách tự nhiên.

Tuy vậy, lại có người xem chó như một động vật có tư tưởng cho nên nuôi nấng một cách “đường hoàng” cho đến khi “khuyển lão” yên giấc ngủ ngàn thu. Thay vì bỏ vào lò luyện món trường sinh bất tử lại làm một màn tiễn đưa đầy thương tiếc.

Những tay hạ cầy lại có một lối lý luận rất ư là vững chắc. Họ quan niệm rằng, cái nhiệm vụ tự nhiên của chó là giữ nhà coi cửa, những cử chỉ thân thiện là do thói quen cố hữu, còn ngoài ra “hắn ta” vẫn là một trong muôn ngàn động vật của “Trời cho”, vậy việc gì mà ta không ngả cầy cho đúng với định luật bất di bất dịch đó.

Người ta không thể không công nhận rằng, yếu tố ăn uống là một nhu cầu tối quan trọng của người phàm. Lại có người tỏ ra e dè hoặc mặc cảm.

Xin kể một câu chuyện : Anh Phó Đảm, người miền bể Nam Định, cưới cô Hai Huệ miền Cửu Long Giang bát ngát, những tưởng êm ấm vì tình Bắc duyên Nam. Cô Hai Huệ dù hết sức cưng chiều anh Phó Đảm cũng không tránh khỏi cái cảnh cơm không lành canh không ngọt, mặc dầu với canh chua cá lóc, anh Phó Đảm hết sức là hoà đồng, thưởng thức một cách tuyệt vời món canh chua quê vợ. Tuy nhiên, anh ta cũng không bao giờ quên được những mùi vị miền quê hương yêu dấu, mà phải do cô vợ hiền tự tay nấu nướng nó mới thật chân tình. Vì thế, anh Phó Đảm thường hay vắng nhà để đi dốc bầu tâm sự với quán cầy. Báo hại cô Hai Huệ phải chịu khó mon men đến nhờ một Bà Bắc hàng xóm học hỏi về món “thần sầu” để giữ chồng. Và chỉ sau một thời gian, cả hai vợ chồng đều hoà đồng với cái món Mộc Tồn.

Đấy là vì người ta nhận thấy một sự quan trọng đầy tế nhị trong vấn đề ăn uống. Yêu nhau chẳng phải “cởi áo cho nhau”, về nhà mẹ hỏi lại phải nói dối “qua cầu gió bay” mà còn phải mang niềm vui cho người phối ngẫu trong vấn đề “thích khẩu”.

Chắc rằng, trước đây cô Hai Huệ đâu có rõ những cái thích của trai miền Bắc :

“Đàn ông biết đánh tổ tôm

Biết ăn thịt chó, xem nôm Thuý Kiều”.

Có thể nói, món thịt cầy là một món thông dụng trên khắp miền thôn quê Trung Châu, Bắc Việt, nhất là các tỉnh Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định… Không nhà nào mà không nuôi chó. Nghèo thì dăm ba con, giàu thì mươi mười lăm con. Nuôi chó vừa có tác dụng giữ nhà vừa để khi trong nhà có việc giỗ chạp, đình đám, lễ lạc, tuỳ theo số thực khách tham dự nhiều ít mà ngả cầy từ một đến hai con. Trong một xóm, mấy ông bợm nhậu thỉnh thoảng lại rủ nhau “đánh đụng” chia hai hoặc chia tư một con cầy.

Làm thịt cầy cũng được chọn lựa kỹ càng, không những về tuổi tác mà còn cả về màu sắc lông, cho nên chó cũng được liệt kê thứ bậc : “nhất bạch, nhì vàng, tam khoan, tứ đốm”. Chó bạch được xếp loại thịt ngon, ít mỡ, nạc mềm. Loại chó này rất hiếm. Còn loại chó mực ít người dùng vì cho là hãm tài.

Chó nuôi từ một năm đến một năm rưỡi là ăn thịt được, còn như trên hai, ba năm thì thịt cứng và dai. Người kén ăn thường chọn chó vàng, nhất là chó đang độ “đi tơ”. Vì thế có câu : “Gà lọt dậu, chó xáo xác”. Gà thì lớn vừa luồn khe dậu, còn chó xáo xác có nghĩa là loại chó đang trong thời kỳ nẩy nở toàn diện, chạy đôn chạy đáo đi tìm nguồn…yêu đương.

Phần đông các chợ miền Bắc đều có một hay hai hàng bán thịt cầy. Các quán này đặt ngay trong nhà lồng chợ, không những thu hút bợm nhậu mà khi mùi vị của món chả nướng từ trên bếp than hồng toả ra thơm phức quyện theo làn không khí bay thoảng vào khứu giác thì ngay cả quý bà quý cô…cũng phải…lần vào :

“Cô kia đi chợ đồng quê

Thấy hàng chả chó liền…lê tôn vào

Cặp này anh lấy bằng nao

Ba đồng một cặp lẽ nào lại không

Nói dối là mua cho chồng

Đi qua quãng đồng ngả nón…liền ăn”

Ngày nay, sau cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam, món cầy cũng được đồng bào Bắc du nhập. Đảo qua vài vòng trong các thành phố lớn nhỏ, xuất hiện những quán mang tên “Hạ Cờ Tây”, “Mộc Tồn”, “Cây Còn”…Nhưng có quán thì tấp nập khách ăn, có quán lại vắng vẻ đìu hiu. Nguyên nhân chính là cách thức làm cầy mỗi nơi mỗi khác, gia vị không thích khẩu, cho nên không vừa ý người sành ăn.

Nói đến gia vị, cũng là một phần quan trọng trong các món thịt cầy. Bạn sẽ khó chịu khi thấy trên bàn tiệc, thiếu đĩa rau húng quế hoặc bạn phải nằng nặc đòi cho được ít lá mơ tam thể. Đối với các loại rau, vấn đề vệ sinh được đặt lên hàng đầu. Cho nên, rau phải được rửa kỹ lưỡng bằng thuốc tím, lựa nhặt từng lá rau, rảy cho ráo nước, dùng khăn sạch lau khô, nhất là lá mơ, và xếp thành từng loại,xén đầu xén đuôi, đặt trên đĩa.

Riềng, mắm tôm, mẻ, một trong ba thứ gia vị này mà thiếu thì xin bạn đừng “ngả cầy”. Phải có đủ mới thưởng thức đúng mùi vị của nó, và mới cảm thấy ngon. Món ăn nào gia vị đó, cho nên :

“Con gà cục tác lá chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

Con chó khóc đứng khóc ngồi

Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”.

Ngoài việc phải giã nát riềng để tra vào các món, riềng còn được thái mỏng để “đưa cay” như rau rợ. Bạn cứ thử tưởng tượng : Hớp một ngụm rượu, gắp một miếng thịt luộc đưa lên miệng sau khi chấm mắm tôm chanh, đồng thời cắn một miếng riềng nhai cùng với lá mơ, lá quế…thì ôi thôi! Ngon ơi là ngon!

Mẻ có mùi vị chua, muốn “nuôi mẻ” cần phải gây “cái mẻ”. Nấu cháo hoa đặc sệt, để nguội rồi đổ vào hũ mẻ cái, để càng lâu càng ngon, càng để lâu mẻ càng dậy chua. Một con cầy cần đến một bát mẻ. Nghiền tan như bột, cho vào chiếc rá nhỏ, lấy thìa xát kỹ xuống nan rá. Nếu không lược kỹ, mẻ ít tan ngấm vào thịt dù rằng nhào bóp mạnh. Không nên nuôi mẻ bằng cơm nguội, vì mẻ sẽ ngả màu vàng úa, hột cứng lâu tan.

Mắm tôm là một thứ mắm làm bằng tôm rảo, tôm phải thật tươi mắm mới thơm ngon. Nếu nhà làm được thì tốt nhất, sạch sẽ. Thường thường mắm tôm mua ở chợ có cấn và sạn, vì họ làm nhiều để bán nên cẩu thả, không đậy kỹ khi phơi nên ruồi nhặng bâu bám, màu đen và mùi vị không thơm.

CẦY - Phiếm

alt=Post title=Post v:shapes="_x0000_i1058">by LeMinh on Sun Feb 26, 2006 2:38 pm

Chó lúc sống gọi là con chó, lúc chết gọi là chó chết. Nhưng khi cái xác chó leo lên bàn nhậu thì cải danh thành cầy. Tại sao vậy? Các nhà ngữ học chắc không khoái món cầy nên làm ngơ về sự đổi tên này. Tôi thì ấm ức, muốn cho ra ngô ra khoai, bèn đoán đại, trúng thì tốt không trúng cũng... huề! Ăn thịt chó có lẽ trong lòng vẫn cảm thấy cấn cái nên người ta... kỵ húy. Đổi ra cầy cho an tâm. Đến nhà văn Vũ Bằng, ca tụng hầu hết các món ăn Bắc Kỳ trong Miếng Ngon Hà Nội, ngòi bút ông thao thao những con chữ ngợi ca. Ngay cả đến những món không... qui ước lắm như hẩu lốn, lòng lợn, tiết canh, ông vẫn cứ phóng bút thoải mái. Vậy mà đến món thịt cầy ông bỗng khựng lại. Trong bài Thịt Cầy, ông mở đầu bằng những dòng rao nam rao bắc rất khổ tâm: “Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, người ta quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh...Huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?” 

Tại sao đụng tới cầy lại khựng lại như vậy? Cũng như mấy quán bán thịt chó cũng chẳng dám nghênh ngang trương bảng hiệu để rõ là thịt chó mà núp dưới những cái tên chỉ phảng phất mùi rựa mận. Chỗ thì Cờ Tây, nói lái của chữ Cầy Tơ. Chỗ thì Mộc Tồn, diễn nôm ra là Cây Còn, đọc lái lại thành Con Cầy. Chỗ thì Lá Mơ, nói xa nói gần tới thứ rau chuyên trị thịt chó. Chỗ thì Sống Trên Đời, mon men từ câu thơ: Sống trên đời ăn miếng dồi chó/ Chết xuống âm phủ hỏi có hay không? Đại Hàn, một dân tộc cũng... chó hạng nặng, khi tổ chức Thế Vận Hội tại thủ đô Seoul, cũng bắt dân chúng dấu đi những tiệm bán thứ... quốc hồn quốc túy này. Ăn thịt chó là làm mất mặt nhau lắm sao? 

Mùa đông năm 1967, tôi được mời tới dự một bữa ăn tại nhà một mục sư Tin Lành ở Hoa Thịnh Đốn. Ông mục sư này đã từng có thời tới rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam, rất mến Việt Nam, đã tổ chức bữa ăn này nhân có tôi từ Việt Nam qua. Nếu chỉ có gia đình ông ấy với tôi thì bữa ăn đã rất Việt Nam. Nhưng để cho vui, ông mời thêm khoảng hơn một chục người Mỹ, bạn của ông. Bữa ăn quả thật vui, vui cho tới khi không biết có phải vì rượu vào không mà miệng ông lại phun ra... thịt chó! Ông khơi khơi kể là ông đã ăn thịt chó ở Việt Nam. Những cắp mắt xanh quanh ông bỗng như bị lửa đỏ. Tròng xanh tròng trắng cứ trợn trừng cả lên. Các bà lấy khăn ăn lên che miệng. Họ nhìn ông bỗng như xa lạ. Ông vẫn tỉnh bơ nói nói cười cười, lại còn khen thịt chó rất ngon. Có mấy bà đã dợm đứng lên. Mọi cặp mắt đổ dồn qua tôi. Như không phải nhìn một con người. Họ hỏi tôi để xác nhận có phải ở Việt Nam người ta ăn thịt chó thiệt không? Tôi lúng túng, không nhận thì không được, mà nhận thì, trong bối cảnh quá bất tiện này, mất mặt bầu cua quá! Tôi cứ giữa hai lằn đạn mà ... ấp úng. Thì cũng có người ăn, nhất là ở thôn quê, nhưng chó ở Việt Nam không phải giống như chó ở Mỹ. Người ta ăn thịt chó Việt Nam chứ không ăn thịt chó Tây chó Mỹ! 

Cái ấp úng của tôi cũng có... căn bản lắm chứ. Chó Tây chó Mỹ, ai thèm ăn! Vừa hôi, vừa lạt, vừa tanh, lại... ngoại lai. Lại phải viện tới tiên sinh Vũ Bằng. “Cái giống chó ‘bẹc giê’, ‘pê ki noa’, cái giống chó ‘bát sê’ cũng như giống ‘phốc’, nói tóm lại tất cả các giống chó tây phương, cấm có ăn thịt được. Thịt cứ dai như chão rách, mà hôi quá ăn không ra cái ‘thớ’ gì. Chó ăn, phải chính cống là giống chó ta, không được lai căng một tí một li ông cụ”. 

Chó ta, tuy vậy, không phải... cá mè một lứa đâu. Cũng có đẳng cấp đàng hoàng. Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm. Không hiểu mấy ông tổ sư... chó ngày xưa, khoa học đến đâu, mà lại nối được mầu lông chó với chất lượng thịt cầy? Nhưng trong giới sành điệu, bảng sắp hạng trên vẫn được tôn trọng từ đời này qua đời khác. Cứ như là kinh sách! 

Cầy nguyên thủy chỉ có bốn món căn bản: luộc, nướng, rựa mận và dồi. Sau này, nhân loại tiến bộ, cầy cũng mon men leo lên bằng... bò. Bẩy món đầy đủ. Món nào cũng... nhức răng! 

Bữa ăn thịt cầy gần đây nhất của tôi là đầu năm ngoái, 2003. Bữa đó, chúng tôi nhậu nơi nhà ký giả Hà Túc Đạo ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Bàn ăn la liệt đủ món... quê hương, kể cả món hot nhất lúc đó ở Saigon là món cá điêu hồng. Mọi người đã đến đủ, chỉ chờ Văn Quang và Nguyễn Quốc Thái. Thời gian cứ ưỡn ẹo đi mà hai ông văn thơ này vẫn mù mịt tăm cá. Điện thoại di động. Cười hề hề bảo là sắp tới. Sau ba cú điện thoại dục dã, tới thật. Bị trách móc, Văn Quang giơ ra cái túi xách. Còn phải đi kiếm thuốc cho mấy ông Việt Kiều. Nguyễn Quốc Thái kể công. Tụi này phải đi tới nơi chân truyền nhất, loại xịn chính gốc! Mở ra. Cầy! Độc có hai món: luộc và dồi. Đầy đủ đoàn phụ tùng giềng, lá mơ, húng chó, mắm tôm pha chanh! Bữa đó tôi hơi xấu tính. Cứ nhè cầy mà tì tì với Martell! Sao mà... chó thế không biết! Ngon đâu mà ngon lạ ngon lùng. Món luộc đã nhức răng, món dồi thì hết biết. Đúng là cứ hỏi... có hay không? 

Để cho quý vị còn nghi hoặc đến cái khiếu sành ăn của Diêm Vương, tôi lại mời ông Vũ Bằng về giúp một tay... tả tình tả cảnh cái món xuống tới Âm Phủ mới tiếc hùi hụi! “Sao mà có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm được cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở Trời? Gắp một miếng chấm muối chanh, rồi đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành. Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta thường gọi một cách nôm na là “sốt sích”. Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông? Dồi chó làm khéo thì cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi tây; nhưng nó nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừn sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát nhưng không nồng mùi tỏi.” 

Luộc đã vậy, dồi đã vậy, cái món chả chó cũng... đê mê phát khiếp! 

Ăn rồi xách nón ra về 

Thấy hàng chả chó lại lê chân vào 

Chả này bà bán làm sao? 

Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng không 

Dối rằng lại nghĩ đến chồng 

Gần đến cánh đồng ngả nón ra ăn! 

(Ca dao) 

Chả chó là cái chi chi mà cô thôn nữ đi chợ, lê lết đủ thứ hàng quà, bụng căng mà trông vẫn thấy thèm, nói là mua về cho chồng, nhưng mới tới giữa đường đã ngả nón ngồi phệt bên đường mà... đớp! Chả chó, chân dung nó như thế này. Giềng già, mẻ, mắm tôm trộn vào với nhau. Thịt chó, cắt thành từng miếng bằng đốt ngón tay, vừa nạc vừa mỡ, bỏ vào thứ... hợp chất lừng lừng trên, bóp cho đều, để vài tiếng đồng hồ cho ngấm. Xiên vào thành từng xiên. Rồi nướng. Than phải là than tàu, lúc nào cũng quạt liền tay cho đỏ, thịt xèo xèo cháy, mỡ nhỏ xuống than bốc khói thơm lên quyện vào thịt. Mùi thơm nương theo làn gió làm khổ những cánh mũi, làm ứa nước miếng. Ăn một miếng chả chó chấm với muối tiêu, cắn một miếng ớt, quên hết trời trăng! 

Rựa mận lại là một... chiêu khác! Cũng mắm tôm, gừng già, mẻ trộn với nhau. Thêm hành, muối vừa đủ. Cho thịt cầy vào bóp kỹ, để chừng một tiếng đồng hồ rồi ninh. Trước khi ninh trộn thêm tiết chó vào. Ninh cho tới khi quánh lại “đưa bát rựa mận lên ngang mặt, nheo một con mắt lại mà không thấy nổi lên những rằn ri của bẩy sắc cầu vồng, thế là chưa biết nấu” (Vũ Bằng). Cái thứ hợp chất đan kết với nhau một cách chặt chẽ này mà ăn với bún, bẻ thêm một miếng bánh đa nướng thì... tuyệt cú mèo! 

Cầy, nó chẳng tha những chiếc áo thầy tu. Lỗ Trí Thâm trong Thủy Hử, dù có bị đời bỉ thử là “sư hổ mang” cũng cứ... cầy. Một ông hổ khác, ông Thiên Hổ, bút danh của cha Nguyễn Quý Lãm, Chủ Nhiệm nhật báo Xây Dựng của Saigon trước 75, cũng... cầy như ai. Trong Hồi Ức Bốn Mươi Năm Làm Báo, nhà báo Nguyễn Thụy Long tiết lộ: “Những bữa cơm trưa ở tòa soạn báo thường có món thịt chó, tôi không ăn được bèn biến, nhưng có hôm cha cũng dụ tôi ở lại được, ăn cơm với chả chiên, nhưng rồi tôi cũng khám phá ra món ấy là món chả chó!” 

Ở hải ngoại, chúng ta cũng... tu. Tu giữa đời! Chó quẩn quanh đầy dẫy bên cạnh, như những cậu ấm cô chiêu, nhưng cầy thì tuyệt nhiên mất bóng. Nhiều người nhớ cầy nên... vọng tưởng, thịt heo một miếng làm tạm... giả cầy. Giả cầy dĩ nhiên không phải là cầy, cái thứ thịt dắt răng ba ngày vẫn còn thơm! Vậy mà ông bạn tôi ở Mỹ, cầy thiệt trăm phần trăm mới tài chứ! Cú phôn với giọng nói đẫm nước miếng báo cho tôi biết là trong tủ lạnh nhà ông đang nằm nguyên một cái đùi chó. Thứ thật một trăm phần dầu. Ỡm ờ cho sốt tiết bạn bè một đỗi rồi chàng mới bật mí. Nguyên là cô con dâu người Đại Hàn về chơi Đại hàn, khi trở lại Mỹ, không biết bằng cách nào mà dấu nguyên được một đùi chó trong hành lý để làm quà cho ông bố chồng theo đạo... dựa mận! Bạn tôi cất vào trong tủ lạnh, bảo quản còn hơn giữ cái thân mình, mỗi lần... lên cơn chỉ dám dè xẻn xẻo ra một chút cho đỡ... tương tư. Khi rựa mận, lúc chả chìa, khi luộc, lúc nấu măng. Ăn xong lại... a lô cho bạn bè chúng thèm chơi! 

Thượng điền tích thủy hạ điền khan! Chúng ta đang ở hạ điền, bỏ ra một xín, vù một cái là tới thượng điền. Có mà khối! Chó tràn lan. Và rẻ rề! Rẻ nhất trong các thứ thịt. Khu ông Tạ, “nghĩa địa” chó từ những ngày di cư, vẫn cứ tấp nập dân làng... chó. Thịt cầy ở đây thuộc trường phái cũ, rất cổ điển. Món nào món nấy còn... khăn vấn áo the! Muốn theo thời một chút, chịu khó chạy lên đường Ba Tháng Hai, gần nhà thờ Vinh Sơn. Món dựa mận ở đây... số một! Hẻm Cống Quỳnh, cạnh nhà sách Thanh Niên, là địa chỉ của món chó... xô bồ. Xô bồ đây là nói về dân nhậu. Thượng lưu có, hạ lưu có, trung lưu cũng... lưu lại. Nhiều dân nhậu cho rằng ăn thịt chó phải xô bồ, tuệnh toạng như vậy mới đúng... chó. Chứ cứ đút đầu vô tiệm thịt chó máy lạnh bên hông Sở Thú, gần cầu Thị Nghè, sạch thì có sạch, sang thì có sang, nhưng không có không khí. Cũng quanh quẩn bên cầu Thị Nghè, có chó... ôm. Không phải ôm chó đâu. Tây đầm chi đâu mà bầy đặt! Đây là nơi có thịt chó trên bàn, thịt người bên cạnh. Hai thứ đều thơm nhưng mỗi mùi thơm một cách khác. Thứ thơm của thịt chín và thứ thơm của thịt... sống! 

Hà Nội... Chó! Hay là Hà Nội Phố? 

Nhật Tân phố chó 

Quảng Bá phố phò! 

Phò không ăn nhậu gì tới chó. Nó là thứ thức ăn của... chim. Chó mới là thứ thức ăn của người. Vậy đi ăn thịt chó thì chớ tới Quảng Bá, cứ Nhật Tân mà thẳng tiến. Đã có thời nơi đây có xấp xỉ ba chục tiệm thịt chó nhưng nay thì chỉ còn khoảng một chục. Nếu được mách bảo trước nên tới quán Anh Tú thì... nhức đầu. Vì ngày nay quán danh Anh Tú đã bị lạm dụng. Anh Tú Béo, Anh Tú Xịn, Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá, Anh Tú Rởm... Biết anh nào mới là Anh Tú chính cống? Mỗi Anh Tú, cũng như những anh hàng xóm Hồ Kiểm, Trần Mục, A Trang..., là một căn nhà được làm theo kiểu nhà sàn, lợp mái cọ, ngồi ăn trên chiếu trải trên sàn nhà. Ăn thịt chó kiểu này, mỏi chân lắm! 

Ngày xưa, muốn ăn thịt chó, người ta chẳng phải mỏi chân ra tiệm. Người ta giết chó nuôi trong nhà. Con chó mực trong truyện ngắn Cái Chết Của Con Mực của Nam Cao là một chú chó già, ghẻ lở, có nhiều tật xấu. Người ta đã định thịt nó nhiều lần nhưng nó vẫn được hưởng... án treo! Khi Du trở về, số phận nó hầu như đã được định. Du là chủ cũ, đi xa lâu ngày, nay trở về, thấy con chó cũ ra mừng thì thương, nhưng nó ghẻ lở gớm ghiếc quá làm chàng không dám ve vuốt như ngày chàng còn nhỏ, thường chơi đùa với con mực. Những ngày sau đó, trong đầu Du cứ lởn vởn nửa thương con vật trung thành cũ, nửa ghê tởm cái nhơ nhớp của nó. “Sau cùng thì chàng bực mình: chàng nhận ra rằng một con chó đã làm mất sự bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập?” 

Lòng đã quyết, khi thấy con Mực ngủ bên bờ dậu, Du rón rén cầm cái gậy bước tới định đập chết con Mực. Nhưng chàng như cảm thấy ngạt thở, lòng quả quyết tiêu tan hết. Khi con Mực giật mình thức giấc, chàng hoảng hốt vụt mạnh. Con Mực rống lên một tiếng và chạy trốn trong vườn. Cả đêm đó, Du thấy toát mồ hôi và nhất định không giết con chó nữa. 

“Nhưng gần sáng chàng còn đương mơ mộng, thì đã nghe tiếng Hoa gọi cuống cuồng lên. Con vật khốn nạn không biết mỏi mệt thế nào mà ngủ quên đi ngay ở giữa sân để đến nỗi bị Hoa úp được... Hai ba người nắm vào hai đầu gậy tre ngáng sẵn bên cạnh thúng rồi Hoa mới hé miệng thúng lên. Thấy sáng con Mực nhô ra ngoài cái mõm ướt thở phì phì. Hoa nhích lên tí nữa nhưng một cái đầu gối đã tì sẵn trên thúng. Mực lách cả cái đầu ra. Cái gậy đè mạnh xuống. Con vật khốn nạn không còn kịp kêu. -Đè chặt, thật chặt, đừng buông nó ra nó cắn đấy! Du kêu lên như thế nhưng tiếng chàng đã run run. Con chó phì ra một cái nữa: hơi thở mới thoát ra một nửa bị tắc. Cái gậy đè sát đất. Mắt nó trợn lên. Lòng đen ươn ướt cứ đờ dần rồi ngược lên lẩn một nửa vào mí trên. Lòng trắng đã hơi đục. Lúc Hoa trói xong cả chân trước, chân sau và buộc mõm rồi thì con chó đã mềm ra không còn cựa cậy nữa. Du nghẹn ngào nén khóc...” 

Những ngày còn nhỏ ở Hà Nội, tôi đã có lần mục kích ông hàng xóm làm thịt con chó nuôi trong nhà. Ông âu yếm gọi nó lại. Nó vẫy đuôi nhưng chân còn ngại ngùng. Hình như linh tính báo cho nó điều chẳng lành. Nhưng rồi nó cũng rón rén bước lại, thè lưỡi liếm chân ông. Ông bỗng bóp cổ con chó, cột chặt bằng sợi dây thép, xiết cổ cho tới lúc lưỡi nó thè ra. Tôi nhìn kỹ vào mắt con chó tội nghiệp. Thấy vẻ ngạc nhiên hơn là oán thù. Có lẽ nó ngạc nhiên vì sự đổi thay của người chủ mà nó vẫn phục tòng. Cho tới khi nhắm mắt!

Ba chỉ mắm tôm

Cập nhật lúc :10:40 AM, 04/08/2010

Mắm tôm được tra vào thịt từ từ. Bốn lần mắm thì tra nước hành khô, sả, riềng với dăm, ớt. Đun chừng 15 phút là chín tới. Thịt còn nguyên miếng, không cứng, vỡ, thơm nức cả ba gian nhà... Món thịt lợn ba chỉ mắm tôm hoài niệm về một thời...  thịt chó. 

>> Cá lóc đồng nấu mận 

>> Lịch lãm ẩm thực Hà Nội 

Hình như từ ngàn đời nay thịt chó luôn được coi là thứ ẩm thực ngon, ngọt, giàu đạm và bổ không có loại thịt nào sánh được. Chó nấu kiểu truyền thống là bảy món cùng trong một nồi. Chó hấp, chó dựa mận, chó lòng dồi, chó xáo… tất tật các món chó tùy theo thứ tự mà bưng ra, bày lên mâm, để trong rá vo gạo hoặc trưng lên sàng, lên mẹt đều phải ấp ủ trong một nồi mới đúng là người biết làm, biết nấu cầy tơ bảy món.

Ngày xưa, thời phong kiến chỉ có đàn ông được ăn thịt chó. Nghe đâu phải lên lão làng, tức ngoài 50 mới được ra giữa sân đình, nhà thờ họ xếp chân chữ ngũ thưởng thức cái món truyền đời, truyền kiếp này.

Thời văn minh, thời bình đẳng, nữ giới đã được ngồi chung với đàn ông, thậm chí trẻ con cũng chẳng kiêng nể gì thịt chó cùng với mẹ nó. Nữ giới bây giờ xơi cầy tơ cũng uống rượu, uống bia, cũng khà cũng khượt như ai. Oách ra phết.

Người nước ngoài, trừ người Trung Quốc và người Hàn, còn không có dân tộc nào dám ăn thịt chó cả. Họ quan niệm chó là bạn của người, là trung thành, hiếu thảo, là loài vật khôn và thân thiết với người cho đến chết. Là thứ phải khoanh đuôi dưới đất, gác mõm bậc thềm, thậm chí phải cơm thừa canh cặn nhưng tuyệt không bao giờ có ý định phản chủ. Nó còn giữ nhà, khư khư tài sản của chủ như tài sản của mình mà chỉ biết mỗi gâu gâu.

“Vai trò” của chó rõ là phải xem xét lại, dù trước đây đi qua “tập đoàn thịt chó Nhật Tân”, sát gió Sông Hồng hay bây giờ đi qua chó gia truyền Diện Béo, lại hít hít cái mùi thịt nướng, dồi nướng, nôn nao như bà chửa thèm mơ lông đúc trứng gà. Thịt chó vẫn cho ta cảm giác và ấn tượng về lễ tục ẩm thực làng quê. Thương chó với cái hình bóng lẽo đẽo của nó bên mình nhưng khi nó hóa mộc tồn thì đũa lại không dừng lại được.

Đó cũng là day dứt đặc biệt của lương tâm trong hàng vạn nỗi day dứt của chúng sinh…

Tuần trước về nhà ông bạn Nguyễn Thế Thịnh ở xã Tân Lập, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội mở rộng. Một cái làng rất làng, rất quê, tập tục như chưa nhập vào Hà Nội văn minh,  cạnh làng hoa nổi tiếng Tây Tựu. Hoa hồng càng nắng càng rực đỏ. Hoa hồng đỏ đến 40 độ là cách ví von của nhà văn trồng hoa giữa cánh đồng.

Trước đây, Thịnh nuôi chó cả đàn. Lẫn trong gà thành bầy, lợn thành đàn là chó đến bốn năm con. Giờ cái nhà lợn đã thành cái nhà ăn lắp điều hòa mát rượi. Chuồng gà thưa thớt và chó còn độc chú. Thịnh này tưởng chết vì ung thư. Bác sĩ bệnh viên K khuyên gia đình mang bệnh nhân về bồi dưỡng sức khỏe để thăng thiên. Ăn cho đến chết. Ăn hết mọi súc vật trong nhà cho bõ cái đời. Nhưng Thịnh này không chết vì bác sĩ nhầm lẫn tên họ. Người chết vì ung thư là cô Nguyễn Thị Thịnh 32 tuổi chứ không phải Nguyễn Thế Thịnh.

Từ đấy, Thịnh hối hận vì mình không chết mà chỉ chó chết. Nhà cửa vắng hoe và vắng cả tiếng chó sủa.Thịnh quyết không ăn thịt chó nữa như một sám hối. Trời ơi, người quê mà bỏ thịt chó thì còn khó hơn cả cai thuốc phiện. “Một đùi thịt chó, rượu quê/ khoanh đuôi, đánh chén đê mê suốt đời”. Thịnh vừa khề khà vừa lể nhể ngâm nga miếng dồi chó hôi hổi trên lửa rơm mà mụ vợ mới dọn ra.

Có một món hắn làm để đãi tôi thay chó. Hắn bảo: đây là món hoài niệm những ngày xưa. “Em đãi bác món thịt lợn ba chỉ mắm tôm do chính tay em nấu, bác cứ ăn thử rồi bác về viết báo viết sách để tha cho phận chó không còn bị lôi ra làm thịt”.

Cả đời chỉ biết món giả cày. Thịt lợn chặt ra na ná món thịt chó, rồi đem nấu với đủ thứ gia giảm như nấu thịt chó gọi là món giả cày. Thịt giống thịt nhưng… ăn không giống ăn. Cứ ngờ ngợ, cứ thắc mắc, cứ giả dối và cứ như bị đánh lừa…

Món thịt ba chỉ nấu mắm tôm của Thịnh cũng là món tuyệt hảo.

Thịt lợn ba chỉ được thái con toán. Lợn thịt phải đúng lợn nhà nuôi, không tăng trọng, không vỗ béo theo kiểu lợn bán đại trà ngoài chợ. Một “quả” phía trên mông được xẻo ra và ném vào rổ, sạch đến không cần rửa hay xát muối.Hành khô giã và vắt lấy nước. Riềng và xả cũng giã và ép lấy hương vị. Mắm tôm vắt chanh, pha chút rượu đánh tung lên như bia sủi bọt. Mắm muối thì tất nhiên nhưng không phải là bảo đảm mặn nhạt cho ba chỉ thịt .

Giống như người ta kho thịt thông thường. Thịt được rang cháy cạnh nhưng ở đây không cho nước mắm hay muối mà lại mắm tôm. Mắm tôm được tra vào thịt từ từ. Vừa tra mắm tôm vừa đảo nhẹ đũa. Rồi đậy vung lại. Rồi lửa. Mười phút lại mở vung tra mắm tôm vào. Bốn lần như thế thì ào một lượt nước hành, nước sả, nước riềng với dăm quả ớt đỏ vặt cuống xếp lên. Đun chừng mười lăm phút là ba chỉ chín tới. Thịt còn nguyên miếng, không cứng, không vỡ và thơm nức cả ba gian nhà.

Xúc điếu cày, thông nõ, đổ nước chè xanh thay nước điếu cũ. Ông Thịnh nhà ta đã trịnh trọng tuyên bố cho cả thế giới biết về một một món ăn có một không hai của từ điển ẩm thực nhân loại.Trải chiếu Nga Sơn nào. Trải ra thềm mới là trải.Cởi trần ra nào.Cởi trần mới thật tình chiến hữu. Xếp bằng chân để chứng tỏ lễ phép chứ. Rót rượu quê ra bát mới đúng tình quê. Chuyền tay nhau bát rượu đầu, đến người cuối chiếu là vừa cạn mới là khà một tiếng.

Múc ba chỉ mắm tôm ra bát tô ngoằn ngoèo những khói đã thấy cái món thay chó này đáng được tuyên dương sang lợn. Thơm, bùi, ngậy, ngọt và mang cho lưỡi một mùi vị thật lạ lùng. Mùi của đồng quê và dân gian sáng tạo.

Bận bã mưu sinh tất bật suốt đời người đôi lúc cứ tự hỏi mình sinh ra để làm gì. Có phải để ngồi ở đây không. Để rít một hơi thuốc lào. Tựa lưng vào bức tường không trát vữa. Nghe tiếng lợn kêu. Gà gáy vang cả xóm. Để thấy bạn tôi vừa thao thao về ba chỉ mắm tôm đã ngáp một cái rõ dài và thiu thiu ngủ. Gió cái từ cánh đồng thổi bất chợt trong căn nhà ngói ba gian. Thế mà đã xê xế chiều, chênh chếch nắng.Ở cuối chân trời đã hoàng hôn ba chỉ. Buồn và đẹp quá. Chỉ thiếu mỗi mắm tôm. Nhưng rượu đã cạn rồi…

Thịt Chó-Hà Hương - Liên Hà

v:shapes="_x0000_i1059">gửi bởi honlangthang » Thứ 5 Tháng 2 19, 2004 11:06 pm

Người dân quê tôi từ xưa tới nay vẫn thường ăn thịt chó theo cách riêng của mình. Trước hết người ta phải chuẩn bị các loại nguyên liệu và gia vị để làm đủ các món (lạc, đỗ xanh, củ chuối, giềng, lá cúc tần, mẻ, muối, hạt tiêu, ớt, gừng, lá mơ, mì chính, nước mắm, mắm tôm, tương được ngả từ đỗ tương và gạo nếp, chanh,húng chó và các loại rau thơm....) 

v:shapes="_x0000_i1060"> 

Người ta chọn lựa những con chó béo khoẻ để làm thịt mỗi khi có công có việc, nhất là trong những dịp liên hoan Đồng Niên, Đồng Ngũ, thậm chí trong những ngày Lên Đồng và Xuống Đồng (Sau một vụ mùa hoặc đầu vụ mùa). Trước khi người ta cắt tiết chó thì một nồi nước sôi đã sẵn sàng. Rồi người ta đem con chó ra cắt tiết và cố gắng hãm được tiết để làm dồi. Sau đó, người ta tắm cho con chó với ít nước lạnh, tiếp đến là đầm con chó vào nước sôi để dễ cạo lông hơn. Đến khi màu trắng nõn vốn có của da con chó hiện ra hoàn toàn thì cũng là lúc người ta mang một cơ số rơm nếp ra để thui chó (nhất thiết phải là RƠM NẾP- rơm của cây lúa nếp) 

Người ta thui con chó đã làm lông cho tới khi lớp da bị thui vàng nứt ra thì cũng là lúc người ta chuẩn bị rút ruột con chó. Sau khi mổ con chó bằng cách rút ruột thì người ta chia nhau công việc. Người thì làm lòng, người thì chuẩn bị pha thịt cho các món. Thịt chó pha xong tuyệt đối không được rửa ngoại trừ 4 cái chân và phần cổ. Bốn cái chân chó sẽ được đem hấp giềng, phần thì làm nhựa mận, phần thì đem nướng,...Quê tôi người ta không làm đủ 7 món như dân gian vẫn nói mà chỉ làm vài ba món chính mà thôi (trong đó có món dồi là không được phép thiếu) 

Trong khi đang chờ những món đang được nấu trên bếp thì người ta bắt đầu chuẩn bị những hũ rượu đã được để lâu ngày trong buồng hay dưới những cái hố chỉ dành cho rượu. Rượu sẽ được rót ra chai và lấy lá chuối khô làm nút chai thì mới thấy hương vị của rượu thêm nồng và thơm. Những chai rượu sủi tăm ấy sẽ được bày xuống mâm bên cạnh những chiếc chén hạt mít màu da lươn. Rồi người ta pha mắm tôm với nước chanh, với đường. Người ta đánh mắm tôm cho tới khi nó nổi bọt thì dừng. 

Những đôi đũa được làm bằng gốc tre thẳng và cứng sẽ được bày xuống mâm ngay bên cạnh những chiếc bát sứ Hải Dương trắng tinh. Những quả ớt đỏ sẽ được dùng để trang trí trên các đĩa rau thơm và trên các đĩa thịt chó thơm và còn đang bốc hơi nghi ngút

Cũng vì… chó!

(VienDongDaily.Com - 22/09/2011)

Hoài Mỹ/Viễn Đông

Chưa thời nào loài chó lại lên ngôi như ngày nay ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Công tác và giá trị của loài chó đã thay đổi theo chính thể. Vào các thời quân chủ phong kiến hay thời tư bản, chó chỉ có một phận sự là canh giữ an ninh cho tư gia và tài sản của chủ. Hoàn thành tốt nhiệm vụ này, chó được đánh giá là vĩ đại. Những thành phần chơi chó bằng cách vuốt ve, ôm ấp dù sao cũng chỉ rất ít, chưa đủ sức lực của một dòng thác cách mạng hầu tạo thành một giai cấp. Đến thời xã hội chủ nghĩa, giới trộm cướp quá cao tay ấn khiến chó tiên tiến cỡ nào cũng phải từ chào thua đến mất mạng. Thế nhưng giá trị của chó lại được chế độ nâng cấp - ở một vị thế duy nhất: Thịt! 

Thời xa xưa, vì chó thuộc hạ tầng cơ sở nên từ ngữ “chó” mang ý nghĩa sỉ nhục. Bởi thế người đời mỗi lần đấu võ miệng với nhau thì trong mười trận, cả mười trận đều ngập tràn tiếng… chó. Đủ loại, nhưng “ấn tượng” hơn cả là: Chó ghẻ! Chó cái! Chó đẻ! Chẳng cứ giới bình dân tức nhau liền gán nhãn hiệu - “Đồ chó” - cho nhau mà giới đại trí thức muốn chửi xéo nhau, nói bóng nói gió nhau hay muốn đá giò lái nhau, cũng cậy cục đến… chó. Trong văn học sử Việt Nam, trận chiến châm biếm… chó gây “đau hơn hoạn” hơn cả thiết tưởng không trường hợp nào bằng giai thoại Cao Bá Quát, nhà thơ lừng danh của thế kỷ 19, bị vua Tự Đức bắt đóng vai chứng nhân. Số là vào thời kỳ Cao Bá Quát tự Chu Thần giữ một chức quan hạng bét ở bộ Lễ, đã xẩy ra một vụ đấu khẩu kịch liệt giữa hai đấng quan lớn. “Sự cố” lập tức được một nịnh thần tâu trực tiếp vào lỗ tai vua. Tên nịnh thần này vốn cũng chẳng ưa gì cái bộ mặt vẫn coi đời không to hơn cái lá tre của Cao Bá Quát, bèn vớ ngay dịp may hiếm có này để chơi xỏ họ Cao, xác nhận với vua là trong số khán giả có quan Cao Bá Quát đứng gần hơn cả. Vua Tự Đức lập tức ra lệnh cho Cao Bá Quát viết tờ trình. Không đầy 3 phút sau, vua nhận được bản báo cáo nóng hổi khiến vua vừa thổi vừa đọc: “Tiền thần bất tri - Hậu thần bất tri. Đản kiến: Thượng bàn hô cẩu! Hạ bàn hô cẩu! - Thượng hạ giai cẩu - Lưỡng tương đấu ẩu - Thần gián bất đắc - Thần kiến thế nguy - Thần hoảng thần tẩu!”. Bản dịch chữ Nôm: “Trước, thần không biết gì cả - Sau, thần cũng chẳng hay chi. Chỉ thấy: Bàn trên hô: Chó - Bàn dưới hô: Chó! - Trên dưới đều là chó - Rồi hai bên đánh nhau - Thần can không được - Thần thấy thế nguy - Thần sợ quá, thần bèn chạy!”

Long nhan vua Tự Đức đang hồng hào nhờ sâm nhung đại bổ hải cầu hoàn từ từ chuyển sang mầu xanh xám của bộ mặt của một kẻ bị bệnh thiếu máu kinh niên hoặc suy thận, viêm gan. Vua Tự Đức đau điếng vì hiểu thâm ý của Cao Bá Quát muốn bóp nghẹt đường sinh mệnh của mình; nhất là câu “thượng hạ giai cẩu” - trên dưới đều là chó - à thì ra thằng… chó này nó muốn ám chỉ mình cũng là chó đây. Chữ “thượng” rành rành ra đó. Chẳng thế mà các thần dân vẫn rạp mình mà “muôn tâu thánh THƯỢNG” là gì?! Ngầm biết vậy nhưng vua Tự Đức vẫn không thể công khai bắt bẻ được Cao Bá Quát, bởi “tác giả” tờ trình này có viết gì sai quấy đâu, dù có chẻ từng chữ ra làm tư cũng chẳng thấy cái khe hở nào mà chụp mũ. Cuối cùng vua Tự Đức đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” cho tới ngày bệ hạ di chuyển xuống tuyền đài.

Lại có nhiều tác giả văn học quả quyết giai-thoại-chó trên đây không phải là của Cao Bá Quát, nhưng của Nguyễn Công Trứ, một thi sĩ của hạ bán thế kỷ 18. Chuyện kể, khi Nguyễn Công Trứ “chen chúc lợi danh đã chán ngắt” rồi, hối hận vì “đám phồn hoa trót bước chân vào - Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết”, nên trước ngày dứt khoát “thoát vòng danh lợi”, cụ Trứ mời tất cả quan lớn ở trong và ngoài triều đình đến nhà đánh chén một bữa linh đình trước khi chia tay. Cụ sai gia nhân làm thịt chó để đãi các thượng khách, nhưng cấm họ không được bật mí thịt gì. Bàn kê chật ở nhà trên, bàn kê khít ở nhà dưới, dễ đến hơn hai, ba chục bàn. 

Sau khi đã chuếnh choáng hơi men, một “cây đại thụ” trịnh trọng đứng lên phát biểu cảm tưởng: “Cụ Thượng hôm nay cho chúng tôi đớp, à quên ăn, à lại quên, cho thưởng thức món cao lương mỹ vị gì mà ngon quá sức tưởng tượng vậy, đến nem công chả phượng hay ‘dzấm-sủ’ của Hằng Nga cũng không sánh bằng”. 

Cụ Nguyễn Công Trứ bèn tỏ ra khiêm nhượng, vẫn giả bộ không dám tiết lộ, lại càng khiến thực khách bấn loạn, thi đua mà hò hét, gõ bát, đập cốc, khua đũa mà đòi gia chủ cho lòi ra bí mật. Sau khi nhận thấy các đấng “phụ mẫu chi dân” đã chịu hết nổi, cụ Nguyễn Công Trứ mới thong thả đứng dậy, lấy tông thỏ thẻ như thể của con gái trăng tròn nhưng nghe vẫn lanh lảnh như giọng thiếu phụ hàng cá: “Bẩm các quan, đáng lý mạn phép được giữ độc quyền món quốc hồn quốc túy này, nhưng vì các ngài ép quá nên kẻ hèn này đành phải thành khẩn khai báo vậy: “Thưa, thật sự chẳng có thịt gì khác lạ cả?” - rồi cụ Trứ chỉ tay lên dãy bàn trên: “Dạ, thưa trên đó là chó!” - rồi chỉ tay xuống: “Dưới này cũng là chó!” - rồi xoa hai tay vào nhau, giọng nói có vẻ hể hả, tự đắc: “Phải, trên dưới đều là chó cả, ạ!”

Các bộ mặt bỗng xạm lại, mất hết khí thế do rượu đế tạo nên, các cửa “khẩu” (khẩu = miệng) liền mở banh ra như thể để tống ra hết tất cả những gì vừa được nhập “khẩu”. À thì ra nó gián tiếp cho mình là chó. Vậy là chó lại vừa ăn… thịt chó. Đau gấp trăm lần so với nỗi khổ vì bệnh trĩ. Ai bảo cứ nằng nặc hỏi cho bằng được nó cho ăn gì để nó có cớ chửi cả quan nhớn lẫn quan bé là đồ chó. Chẳng thể bắt bẻ nó được. Sách viết tiếp, thế là các quan, thượng trước, hạ sau, nối đuôi nhau mà ra khỏi nhà của cụ Nguyễn Công Trứ. Một vài cái miệng hàng ngày vẫn tụng kinh thánh hiền đã buột những tiếng “đèo” ai oán!

Được biết trong văn học sử, cả Công Trứ lẫn Cao Bá Quát đều là những nhà thơ đại tài có dư máu ngông trong huyết quản và ngòi bút. Cả hai đều là nạn nhân của thời đại nhiễu nhương - cả hai đều bị triều đình “đì sát ván” vì thái độ cao ngạo, bất khuất - và cả hai đều ghét cay ghét đắng từ hoàng triều thối nát đến lũ quan lại tham ô. Nên hậu thế có ngộ nhận giai-thoại-chó trên đây của cụ nào thì vẫn… có lý thôi! Tuyệt vời hơn nữa là giai-thoại-chó ấy mà mang áp dụng vào xã hội Việt Nam ngày nay, người ta vẫn có thể chỉ tay lên Ba Đình, vào bộ Trung Ương Chính Trị… rồi chỉ xuống hàng ngũ bộ đội, cán bộ Việt Cộng rồi hô to: “Thượng hạ giai cẩu! - Trên dưới đều chó cả!”. Vẫn đúng! 

Vâng, như ở phần đầu bài kẻ hèn này đã viết là chó hiện đã chiếm được thế thượng phong trong xã hội Việt Nam - và giá trị của loài chó nằm ở một vị thế duy nhất. Đó là thịt. Khắp trên lãnh thổ đất nước, từ thôn quê lên thành thị, trong bất cứ hang cùng ngõ hẻm nào cũng có cửa hàng thịt chó. Đại Hàn vẫn vỗ ngực với thế giới khoe món thịt chó là món ăn truyền thống của họ, nhưng nếu so sánh tổng số cửa hàng thịt chó, thực khách thịt chó lẫn món thịt chó, đương nhiên vẫn thua đậm Việt Nam xưa kia đã đành, ngày nay lại càng bị bỏ xa hơn.Ở Việt Nam bây giờ, giai cấp nào cũng ăn thịt chó. Chẳng lạ mắt tí nào khi một cặp tình nhân đưa nhau vào một tiệm thịt chó. Không ai còn chê một bầy con gái xẻ cho nhau một dĩa tiết canh chó hay “vô tư” gậm một khúc xương chả chìa. Vào bất cứ dịp nào, kể cả cưới hỏi, tang chế, đãi đằng… có thịt chó là có tất cả. Thời xưa, người ta còn phân biệt: “Nhất mực, nhị vàng, tam khoanh, tứ đốm” nay thì chó nào cũng quí, cũng ngon, bất kể là chó ghẻ, chó hoang, chó bệnh hay chó dại. Cũng ngày xưa, thiên hạ chỉ mong “hạ cờ tây”, tức hạ cầy tơ. Nay, từ chó sữa tới chó già… đều có giá. Đã nói, loài chó nay đã được bình đẳng trong quan niệm của dân nhậu thịt chó nói riêng, trước mắt “nhân dân ta” nói chung.

Các món thịt chó cũng vì thế mà thi đua phát triển. Trước kia, việc làm thịt một con chó thường phải qua các giai đoạn chính yếu: Cắt tiết, đổ nước sôi để cạo lông, thui, mổ để lấy lòng rồi chặt từng phần để làm các món “chính qui” như: Luộc, nấu rựa mận, nướng chả chìa, làm dồi và đánh tiết canh. Ngày nay, “thịt chó 7 món” chỉ là… “chuyện nhỏ”. Cổ nhân thường lo lắng cho kiếp sau: “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó - Chết xuống âm phủ biết có hay không”. Nhiều cụ xơi thịt chó xong vẫn không chịu xỉa răng ngay, bảo để ba bốn hôm sau, lấy đầu cây tăm nậy chất thịt-chó-tàn-dư còn giắt ở kẽ răng rồi đưa lên mũi ngửi… Vẫn thơm! Phương pháp cổ truyền này nhằm lưu trữ thịt chó - y như nay ta cất trong tủ lạnh - để phòng ngừa trường hợp lâu mới được ăn lại. Đỡ nhớ! Bởi thế dân nhậu có câu: “Phòng cơ tích… nhục cẩu” để đối lại lời khuyên của tổ tiên: “Tích cốc phòng cơ”. 

Cũng vì đâu đâu cũng “trăm hoa đua nở” quán thịt chó nên dân số chó ngày một xuống dốc không phanh. Chó chưa biết… mùi đời thì đã bị ngửi lá mơ, củ riềng, vậy thử hỏi làm sao loài cẩu sinh sôi nẩy nở kịp. Bởi thế hiện nay ở Việt Nam tình trạng hiếm chó không khác gì hoàn cảnh năm đói 1945. Dân buôn chó hàng ngày vẫn phải rong ruổi khắp mọi “con đường cái quan” để lùng chó mà mua, mà bắt trộm. Có người than, nhiều khi đi ba, bốn ngày không vớ được một con chó nào. Thiết nghĩ, đặt trường hợp Muammar al-Gaddafi có ẩn núp ở Việt Nam, chắc dân buôn chó cũng khám phá ra tương đối dễ, chứ tìm được một con chó ngon lành ngày nay khác chi “mò kim đáy bể”. Hàng nội cạn dần, nhiều tay buôn chó đã phải lặn lội sang tận các nước lân bang như Cam Bốt, Lào, Thái Lan, Mã Lai hay Trung Cộng… để lùng hàng ngoại. Nghe nói, người ta đã ngấp nghé cả thị trường chó… Hoa Kỳ rồi đó! Trong lịch sử, đã có chiến tranh nha phiến, có giặc châu chấu… Nay nếu chiến-tranh-chó có xẩy ra, âu cũng là lẽ thường tình thôi. 

Cũng vì cạn chó nên nhà nào ở Việt Nam có chó thì - thay vì chó canh nhà - chủ nhân phải canh chừng chó thường trực. Người lạ đi lang thang vào xóm làng hay ngõ hẻm dễ bị “đánh giá” là quân trộm chó. Xưa kia, người nào đi đến đâu cũng bị chó sủa ắt là tự tố cáo mình là kẻ mê ăn thịt chó. Nay khỏi cần đến sự đánh hơi hay bản năng tự nhiên của chó, nhưng lại là người. Chẳng bao giờ sai, bởi người người ăn chó, nhà nhà ăn chó, toàn dân ăn chó… thì đâu đâu cũng là chó. Dễ nhận ra nhau!

Ngày nay, người Việt nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ trộm chó. Chẳng thế mà thầy giáo Phạm Văn Tần (36 xuân xanh) ở Mã Thành, Nghệ An đã bị dân chúng huyện Yên Thánh đánh gần bể sọ não, lòi xuông sống, sưng vù cặp mắt và mặt mũi… Nguyên nhân chỉ vì người ta nghi Tấn đến đây trộm chó. Khổ quá, hai làng xã vốn cận kề nhau, Tấn được nghỉ dạy học ngày 2 tháng 9, nên muốn sang thăm một người bạn. Tấn bị lạc đường, phải dừng xe gắn máy lại để hỏi thăm một phụ nữ. Tấn chưa kịp mở miệng thì một người đàn ông đã bất ngờ xuất hiện, túm lấy cổ áo Tấn, hét: “Đéo mẹ, mày hỏi gì?”. Lại vẫn chưa có cơ trả lời, Tấn đã bị hai thanh niên khác phóng từ nhà ra, tấn công vừa bằng gậy gộc vừa bằng võ miệng: “Ăn trộm chó!”. Lúc đó khoảng 8 giờ tối, không hiểu dân chúng rảnh rỗi thế nào mà vừa nghe báo động “trộm chó”, rất đông người đã ứng chiến ngay. Tấn ôm được chân một người lớn tuổi, hy vọng được cứu, xưng là giáo viên nhưng thay vì “muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy”, ông này lại hô: “Đánh cho nó chết mẹ nó đi!”. Hơn chục người, già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu hưởng ứng tận tình. Những trận mưa gậy gộc, dao rựa thi đua giáng xuống thân hình ông thầy giáo trẻ tuổi vốn ốm như “bộ xương cách trí” này.

Khi “ngọc thể” của Tấn đã mềm như sợi bún; máu me tuôn chẩy. Dân làng tiện tay châm lửa đốt luôn xe gắn máy của Tấn. Điện thoại di động, tiền bạc và giấy tờ tùy thân thì được bảo vệ, nhưng không biết người nào đã “cầm nhầm”. 

Chị Đặng Thúy Hằng, vợ của thầy Phạm Văn Tấn đệ đơn lên chính quyền huyện Yên Thành  khiếu nại chồng bị vô cớ hành hung dã man. Quan lớn ở đây không xử, giải thích cho chị Hằng: Dân chúng bị mất chó quá nhiều nên bực tức, thành ra cứ thấy người lạ xuất hiện là nghi mò đến ăn trộm chó. Đánh!

Nghe nói, chính quyền đã ưu ái đưa cho chị Hằng 5 (năm) quả trứng gà, nói mang về cho anh Tấn… tẩm bổ. Nhưng vì bị chấn thương nặng ở sọ não, cột sống thắt lưng và lõm đốt sống 12… e rằng thầy giáo Tấn sống sót là đã phúc hơn bẩy mươi đời, chứ chẳng hy vọng có thể tiếp tục nghề “gõ đầu trẻ” được nữa.

Ước mong khí thế của dân chúng Yên Thành được sử dụng vào công cuộc “đánh bỏ mẹ” bọn Tầu Cộng xâm lấn đất đai nước mình và vẫn bạo hành ngư phủ Việt Nam. 

Người viết bài này mạn phép kể lại truyện trên đây, chỉ muốn truyền thông đến quí độc giả một kinh nghiệm khi về thăm quê hương: Ở Việt Nam ngày nay, có nhiều nguyên nhân dễ gây tử vong cho bất cứ người vô tội nào, cách riêng Việt Kiều, trong số đó chó luôn luôn đứng đầu bảng.

Bố vợ mình

Dec 2, '10 12:50 AM

for everyone

Bố vợ mình là bộ đội, lúc về hưu là đại tá. Mẹ vợ mình cũng là bộ đội, làm cấp dưỡng, rồi làm thủ quí, về hưu là đại úy. Hồi chiến tranh bố vợ mình vào B, bom B52 nổ thùm thùm trên đầu, bố chẳng sợ, nhưng về nhà bố hơi bị sợ, mà không, gọi là “nể” vậy,... mẹ vợ mình!

Nhà vợ mình có ba cô con gái, mình về làm rể thứ hai trong nhà. Bố vợ mình gọi con rể là  “ông”, xưng “mình”, có lúc gọi “ông”, xưng “tao”. 

Bố vợ mình là đảng viên, mẹ vợ mình là đảng viên, chưa hề bỏ họp chi bộ. Chị vợ và em vợ mình làm cho hãng của Mỹ, vợ mình làm cho tổ chức phi chính phủ. Mình hay ăn nói nhảm nhí, nên bố nói: "ông là vô chính phủ lắm!", rồi bố lại nói: "Diễn biến hòa bình tới nơi rồi!"

Thịt chó là món bố vợ mình mê mẩn. Nhưng mẹ vợ mình ghét món này. Ba cô con gái cũng ghét món này cay đắng. Bố thành cô đơn.

Hôm vừa rồi mình mua thịt chó về nhà mời bố đánh chén. Mẹ vợ mình vì nể con rể, nên chỉ cau mày chứ không ra mặt phản đối. Mình hồn nhiên lấy mâm, bày đủ bộ thịt chó, mắm tôm, lá mơ, riềng, xả... giữa nhà.

Đầu tiên bố ậm ừ, hơi tần ngần.

Rồi bỗng hào khí nổi lên, bố xách ra chai rượu sâm…

Các thế lực thù địch thịt chó lượn lờ quanh bố con mình như sẵn sàng úp bom.

Rượu vài tuần, thịt chó ngót ngót ba phần, bố vợ mình nói:

-         Bao nhiêu năm ở nhà này mình toàn phải ăn dấu, giờ có thêm ông, mới có ngày thịt chó phát hương quang đại!

Mình ngà ngà, nói:

-         Bố ạ, sau sự kiện hôm nay, con đúc kết được quả chân lý…

-         Là gì?

-         Là một khi đàn ông chúng ta đoàn kết lại, thì không một thế lực tàn bạo nào đàn áp nổi!

Bố vỗ đét đùi, rồi bố nói to, giọng sang sảng như chỉ huy chiến trường:

-         Kể cả thế lực hung hiểm như đàn bà.

Hai bố con mình nhìn nhau, rưng rưng…

Sau bữa thịt chó, bố vợ mình bắc ghế lấy trên bếp một cái roi đưa cho mình, nói:

-         Cái này ngày xưa tao dùng để dạy vợ ông, giờ tao tặng lại cho ông, coi như là chuyển giao thế hệ.

Nhận món quà, mình vô cùng xúc động, mình thầm hứa sẽ không phụ tấm lòng của bố.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro