tạp văn-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đời lão Vịt – truyện ngắn

Trời về chiều, từng rán nắng vàng chóe, le lói xuyên qua các đám mây đang ngã màu xanh đen, thành những tia nắng nhỏ sắc bén như mũi kim tiêm, lao nhanh xuống cảnh đồng miền Tây chảy sém. Mùa nắng hạ, đất khô cằn nứt nẻ, lão già đang ngước nhìn bầu trời như muốn đối chọi, muốn diện kiến, mặc cho từng tia nắng sắc nhọn đang đâm vào làn da đen sạm và nhăn nheo vì tuổi tác, những giọt mồ hôi mặn chát chãy xuống mắt, miệng làm thành những chén thuốc đắng đang từng ngày thuốc chết đời lão.



Trong giây phút đó! Lão như xuất thần khi đã trãi qua sự hồi tưởng về quá khứ của chính lão, của ông bà lão, từng đợt - từng đợt tới tấp vọng về như người tu Thiền đến giờ đắc đạo. Hình ảnh ông của Lão, lúc lão tóc còn để chỏm, quần ống thấp ống cao, chạy ti tue theo chân ông của Lão trên những bờ ruộng chênh chênh, bé tẹo của thời tấc đất tấc vàng nên thi nhau cuốc bờ trồng lúa, cái bờ ruộng càng ngày càng bé, cong keo như nhưng con rắn chết trông thật đáng sợ.



Ông của lão là bần cố nông chính hiệu, nuôi vịt đàn là truyền thống của gia đình từ mấy đời nay, ở Văn Giang – Hưng Yên ai mà chẳng biết. Cách Mạng như từ trên trời mà rơi xuống, hay cứ như ở đất vọt lên. Cứ tưởng là “Ai giàu ba họ - Ai khó ba đời” - sẽ đến với gia đình ông bà lão. Ông lớn lên cùng với đàn vịt, ngày ngày sống cùng chúng ở ngoài “cồn” của ông bá hộ. Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất đến, cả làng thi đua đấu tố, đàn ông thì đánh, đàn bà thì thỏa mạ… kết quả cả nhà ông bá hộ kẻ chôn sống, người bỏ đói… Nghe nói chẳng còn ai. Của trời cho, khi không hợp tác xã hình thành, ông của lão nghiễm nhiên trở thành chủ nhân của đàn vịt và cái “cồn đất rộng” giữa cánh đồng mênh mông và bất tận.


Cứ tưởng cuộc đời sẽ khác, cái cảnh vừa nhai cơm vừa chạy trời mưa lại vừa lùa đàn vịt sẽ không còn nữa, cứ tưởng đảng đã cho ta mùa xuân cả năm, cả chục năm hay cả đời thay đổi… Ngờ đâu, hết ông bí thư huyện, chủ tịch xã… hể đến chơi là lại “kế hoạch năm năm của nhà nước đợt một, đợt hai… Rồi đến thi đua thành tích tỉnh, huyện, xã… Thi đua giữa các hợp tác xã… Chủ Trương của đảng thì nhiều lắm, nhiều lắm… nên lượng khách đến nhà ông của lão cũng ngày một tăng lên. Đầu tiên ông của lão cũng vui “đáo để”, khi ra đường, lúc hội họp thì khuôn mặt nỡ “tưng” lên, ra dáng Cán Bộ lắm lắm…



Niềm vui của cuộc đời đúng là mỏng manh và ngượng ngạo. Khi nhà nông đến mùa gặt hái thì đời lão lại bắt đầu cuộc chạy đua… cái vui chưa tắt thì cái mặt “xo xo” đã dần hiện hữu, mà chẳng biết hiện hữu tự bao giờ. Lượng cán bộ đến nhà lão nói chủ trương đường lối thì ít, mà tiết canh với rượu đế thì nhiều, đã thế gia đình lại hiểu khách nên ra về các “đồng chí” lúc nào cũng có thêm con vịt làm quà. Kết quả lượng khách tăng thì đàn vịt giảm… Cuối mùa vịt đẻ trứng, khi ông của Lão nhận khen thưởng thi đua thì vợ và con ở nhà “mếu mão” với cơm rau vặt đến trứng cũng chẳng còn. Mỗi bận như thế ông của lão thường khuyên.



- “Mình cam khổ có bao nhiêu… Tao nghe nói trong Nam nó khổ lắm”… rồi ông tiếp tục.


- “Nhà này còn cái bát mà húp cơm, chứ trong kia ăn bằng cái gáo dừa kia kìa!”



Nói xong, Ông cố rướn thẳng cái lưng đã còng, ngữa mặt “tu” chén rượu đánh ực một cái, với vẽ mặt sao chua chát thế. Cứ thế thành tích khen thưởng càng nhiều gia đình càng chẳng ra sao, đàn vịt “teo tóp” dần, trông thật xơ xác nhỏ nhoi đến thảm hại. Cứ tưởng cuộc đời thay đổi khi ông của lão làm một cuộc cách mạng, đó là di cư vào Nam, mà cái di cư những năm ấy cũng theo chủ trương thanh niên xung phong và vùng kinh tế mới của đảng, rõ ràng sự đi đứng, ăn uống…mọi thứ đều theo chủ trương của đảng. Ông của lão từng nói:



- “Thằng Sáu kẹt ra Hà Nội được thì tau cũng vào Nam được.” Thế là cả nhà lão hành quân sau câu nói đó…



Ngôi nhà thâm thấp, xiêu xiêu cạnh mé ruộng này là do ông Chú để lại, khi gia đình chú ấy đi Mỹ theo diện HO. Trước đây, chú ấy là lính, khi ra đi đã để lại toàn bộ cho nhà lão. Cứ tưởng sẽ đổi nghề, lúc mới vào đi làm rừng, khai hoang nhưng vẫn chẳng khá hơn, cả gia đình lão lại tăng gia bằng cách nuôi vịt, cuộc sống kha khá hơn, thì nghề nuôi vịt bổng dưng trở thành chủ tọa.



Một ngày mưa lớn, cái không khí buốt buốt, sương sương của miền Nam như thấm vào gia thịt người ông của lão, từng cơn ho rũ rượi, liên tục như những tràng đại liên xuất hiện, cuối cơn ho là những đợt thổ huyết… ba tháng sau, ông của lão ra đi mang theo những thành tích, khen thưởng truyền thống của gia đình lão trở về lòng đất. Khi ông đã nghiệm ra rằng đảng chẳng cho ta mùa xuân gì ráo, đảng chỉ mong ta “làm công” cho đảng mà thôi. Cuối đời ông, gia đình lão vẫn là một “bần cố nông”, với cái nghiệp chăn vịt có từ bao giở bao giờ.


Cuộc đời của lão khá hơn người ông, lão cũng học hết tiểu học, kiểu “bình dân học vụ” lớp ba trường làng, thế nên lão biết chữ. Lão có chút phong độ hơn, nhưng cái nước da đen và những vệt phèn của ngày tháng dọc ngang đồng ruộng đã thấm hẳn vào da thịt, tạo nên nét đặt trưng, nét của nghề nghiệp. Rút kinh nghiệm đời ông của lão, đời lão khác lắm, khác lắm. Khi mọi người đổ xô thi đua trồng sẳn cho đủ chỉ tiêu của HTX, thì vợ con lão ngồi chợ bán hột vịt, hột gà… Nhà lão dần dần có “sạp” hàng tại cái “chợ nách” miệt vườn này.



Lão đứng ra thầu đầm cá, cất nhà cho vợ con lão, còn lão thì vẫn sống cảnh cơm chòi canh đầm thũa ấy. Đang ăn nên làm ra, thì cơ chế kinh tế thay đổi, đảng ngấm ngầm cho các đảng viên làm ăn kinh tế, ngấm ngầm tư nhân tư hữu dựa trên quyền lực của đảng, cái nghề của lão trở nên bị cạnh tranh khốc liệt, cái đầm cá lão thầu đang bị đe dọa, mấy mẫu đất chính quyền đã cho người đến ủi, hàng ngàn cây ăn trãi bị chặt phá… đảng ta thu mua cho lão công sức trồng cây, trái cây, khai phá đất hoang… với giá không bằng vài quả trứng vịt.


Không riêng gì lão, cả làng này nó thế, dân làng tụm năm tụm bảy kéo nhau đi kiện, hết tỉnh đến thành phố, rồi ra tận Trung Ương… Tới đây lão mới biết không riêng gì xã của lão, huyện của lão, mà cả thành phố của lão, cả cái Trung Ương của lão đều thế… Lão chợt nhận ra một sự thật, sự thật cả nước là dân oan.


Ngày ngày, ở cái văn phòng có dòng chữ Tiếp Dân nhưng chỉ Tiếp Quan này diễn ra nhiều cảnh ngộ, cảnh đồng cảm với rất nhiều người như lão, cảnh mấy tên công an đánh đập, cảnh chúng đấm thắng vào ảnh hồ chí minh khi dân oan dùng làm bùa hộ mệnh, cảnh mẹ già –quả phụ - con côi – lão thành cách mạng, mẹ tiểu anh hùng, mẹ đại anh hùng, “cây cao bóng cả”, cựu chiến binh… ôi thôi đủ cả.



Giờ đây! Lão đã hiểu, đã tỏ tường rồi. Lão hay nói với mấy người dân oan cùng hội, kiện mãi rồi, đời mình vẫn thế. Mà chẳng riêng đời lão, đời ông của Lão, Cha của lão… đều thế. Nghĩ tới đây lão nói nhỏ:



- “Cộng Sản nó thế”. – Rồi hát rất tự nhiên.


- “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?”



Hôm nay, đầu óc lão như sang ra, như bừng tỉnh, càng bình tỉnh hơn khi đứa nhỏ nhà lão mở máy tính cho lão em sự thật hồ chí minh, tàn sát mậu thân và những sai lầm của đảng cộng sản, cái đảng đã làm cho đời Cha của lão thổ huyết còn đời lão không khéo thì cũng sẽ thế thôi. Ông Chú của lão bên Mỹ gọi điện thoại về nói rằng cộng sản chỉ có thay thế, chứ đừng nói gì đến thay đổi. Lão nghiệm thấy rất đúng, có điều đời chú ấy cũng không khá gì. Cứ nghĩ chạy được khỏi cộng sản, cứ nghĩ thay đổi được cuộc đời. Ai dè cộng sản vận bên đó đầy rẫy ra. Ngẩm nghĩ cuộc đời của chú ấy cũng hay, sau khi tới được bến bờ tự do, cái tính ngông ngông đa tình của người lính vẫn thế, nên không thích hợp cho việc công nhân, công ty vốn theo một lề thói cố định. Chán cảnh sống gò bó, ông Chú quay qua nuôi gà với câu phát biểu xanh rờn:



- “Nguyễn Thiện Khiêm nuôi gà, Cao Kỳ nuôi cá được sao tao lại không nuôi được?”



Ấy thế thôi, chứ Chú ấy làm cho vui tuổi già, cái tuổi “thất thập lai hy” nên làm việc một chút cho nó thoãi mãi. Lại dành tiền gởi về quê… Nhưng gánh nặng quê nhà luôn canh cảnh bên lòng, vì thế thi thoảng Chú vẫn gọi về quê thăm lão. Nhờ đó mà con lão có cái “com-bu-tơ”, thế là lão biết được chút ít cuộc sống xa gần ra sao. Biết được bàn tay của cộng sản thế nào, chúng chiếm Chùa ra sao, mua các thị phần báo giấy ở Hải Ngoại, làm tan rã chúng, giờ đây lại chiếm lĩnh thị phần thông tin của báo mạng, núp bóng chống cộng, gây rối trị an… làm cho cộng đồng Hải Ngoại của chẳng yên ổn gì. Cả tướng và lính có lúc tưởng như phải bán đi đàn gà của mình, ông chú cũng không ngoại lệ… gọi điện về than thở cho cái số phận người việt…


Ngồi giữa cánh đồng khô, lão nhớ lại cái trang thư mà chú ấy gởi về, cái thư dài lắm, chép lại một quổn tự thuật sự trở về miền đất hứa “Exodus(1)”. Cái nóng của ánh nắng chói gắt, cái nóng của cái dạ dày đang sôi sục, cái tức của cái bao tử đang quặn đau… cộng với thời gian trắng tay vì kêu oan và kiện cáo… giữa cánh đồng khô, lão buôn tiếng lớn:



- “Chỉ còn cách trở về. Người dân trong nước phải trở về vị trí thật của mình, phải gành lại cái vổn dĩ là của mình, phải cộng sức, cộng sức… Hải Ngoại cũng nên can đảm lên tàu Exodus VN để trở về đất mẹ…”



- “Chắc Chú ấy dám lắm?” - Tiếng của bà lão.



Xa xa bà nhà lão đang mang chiếc “ni-gô” cơm chiều cho lão, nghe tiếng lão nói vọng tới, câu được câu chăng, giữa đồng khô nắng hạn, trong cái nắng hình kim tiêm… Lúc này trên thinh không có tiếng vi vu và nghe như trong gió có lời Âu Ca…



Lão Phích

LÃO PHÍCH TỈNH DẬY, LẬP TỨC CÁI ĐÓI ùa đến làm chân tay lão bủn rủn như bị rút hết gân cốt. Đã ba ngày nay lão không được một hạt cơm nào vào bụng, sự sống của lão trong ba ngày được duy trì bới sáu củ khoai lang và nồi cháo cám. Cho đến lúc tận cùng của sự đói rách, lão cùng không thể lý giải nổi tại sao lão lại khốn nạn đến nông nỗi này. Lão Phích có hai người con thì một cùng với mẹ đã lìa bỏ lão trong trận dịch tả năm 60.



Người con gái út của lão lấy chồng ở làng bên, nhưng bị cái đói quanh năm rình tập nên phải ngày đêm xuôi ngược kiếm tiền nuôi một đàn con tám đứa, thành thử ba, bốn tháng mới đảo về thăm lão, song cũng chỉ dấm dúi cho lão bơ gạo hay ít tiền rồi lại tất tả ra về. Trước đây lão được hợp tác xã giao cho sào rưỡi ruộng khoán nhưng vì không có vốn, lại thêm cái đầu đần độn nên năm nào lão cũng mất mùa riêng, thành thử hợp tác xã rút hết ruộng và trợ cấp cho lão hai tạ thóc mỗi năm. Nhưng số thóc này cũng không bao giờ về đến nhà lão, lão bán ngay tại kho để lấy tiền đi uống rượu, đi đánh xóc đĩa. Hết tiền, lão kiếm sống bằng hai nghề: làm thuê, ai cần lấy bùn, đánh gốc tre, đánh phân hôi, xới vườn, nghĩa là bất cứ công việc gì thuộc về cơ bắp, chỉ cần một cái hất hàm: "Lão Phích sáng mai đến sớm nhé" là lão gật đầu ngay. Và nghề thứ hai, là nghề ăn chực. Gia đình nào có đám cưới, đám ma y như rằng khi người ta động dao động thớt cũng là lúc lão mò đến, chẳng mượn ai sai khiến, lão lăng xăng rửa soong, mài dao để rồi khi đến bữa lão cũng chễm chệ bên mâm cỗ với bọn trẻ con hay mấy bà con mọn thân quyến của gia chủ. Bây giờ đang là tháng ba, tháng của nhàn rỗi và đói kém nên hai nghề của lão đều thất nghiệp vì vậy mà giờ này lão đang bị cái đói hành hạ đến khổ sở.- Bim! bim bim! - Tiếng còi ô tô từ ngoài đường cái dội vào, lão Phích bật dậy như cái lò xo, lão rút cái then cửa đánh soạt rồi cắm đầu đi như ma đuổi ra đường. Từ xa chiếc Toyota màu sữa đang gừ gừ tiến lại, đợi chiếc xe gần thêm một đoạn nữa, lão ngã xoài ra giữa đường. Lão tìm đến cái chết để chạy trốn cái đói chăng? Không, chính cái đói đã bật dậy trong đầu lão cái ý định ăn vạ. Lão đinh ninh rằng cái đám người no đủ trong chiếc xe sang trọng kia thế nào cũng phải quẳng cho lão dăm ngàn để đổi lấy đường đi. Chiếc xe dừng cách lão mươi mét. Bốn, năm người lục tục đi xuống tiến lại chỗ lão, anh lái xe cúi xuống lay gọi:- Bác làm sao thế?Lão từ từ mở mắt, chớp chớp mấy cái rồi thều thào:- Đ..oo...ói !Một người quay lại xe, lát sau mang đến cho lão một ổ bánh mì và khoanh giò lụa. Lão Phích ngồi dậy ăn ngấu nghiến như sợ người ta sẽ cướp lại. Một thanh niên mặc quần áo bò, áo bò mở túi du lịch lấy máy ảnh ra bấm liên tiếp. Từ trên xe một người đàn ông râu quai nón, đeo chiếc kính đen kịt, nặng nhọc đi lại. Người đàn ông tháo kính, nhìn như thôi miên vào lão Phích:- Chúa ơi! Đây rồi!Người đàn ông thốt lên vẻ sung sướng, đoạn cầm tay lão Phích kéo lên. Lão Phích đứng ngẩn người, hết nhìn ông bụng phệ lại nhìn mọi người. Người đàn ông không dấu nổi xúc động nói với lão Phích:- Bác làm ơn cho tôi thuê bác trong vòng mười phút, chúng tôi sẽ trả công bác xứng đáng.Thì ra là họ thuê mình. Phúc đức cho mình quá! Lão Phích khấp khởi trong lòng, rồi như để chứng minh cho đám ông chủ thấy rằng sức khoẻ mình vẫn còn dẻo dai, vẫn có thể làm thuê được, lão hùng hồn nói:- Việc gì mà Phích này không làm được, vậy các ông cần làm gì? Lấy bùn hay đảo chuồng lớn?Người ta ôm bụng cười, cười sặc sụa trước câu hỏi của Lão Phích. Niềm hy vọng sẽ được làm thuê, sẽ được đánh căng bụng của lão Phích đang ngùn ngụt bốc lên nay bị trận cười tước đoạt. Lão chới với, hụt hẫng như vừa rơi tõm xuống một chiếc hố khổng lồ.- Không không… không - Người bụng phệ vừa nín cười vừa nói. Chúng tôi đang quay một bộ phim về đề tài nông thôn trong đó có nhân vật Chí Phèo thời nay, tôi thấy bác mà nhập vai này thì hợp lắm.- Hà hà - Lão Phích cười, hàm răng vổ đầy vựa phô ra lấp kín cái miệng rộng ngoác - Làm Chí Phèo vậy có được uống rượu không?- Uống chớ, uống đái ra rượu như Chí Phèo của ông Nam Cao ấy chớ.Còn gì hơn là được ăn, được uống vào lúc này, lão Phích gật đầu lia lịa. Ông đạo diễn thò tay gãi gãi cái bụng phúng phính đầy mỡ của mình mấy cái rồi nói như ra lệnh:- Đất có thổ công, sông có hà bá, quay xe về Uỷ ban làm việc với lãnh đạo xã.Lão Phích lên xe, lão rùng mình, người nổi da gà không phải vì lạnh mà vì nóng. Tại sao thế nhỉ? Lão nhìn khắp lượt trong xe nhưng chẳng thấy một ngọn khói nào cả. Cứ như là ma trơi. Lão lẩm bẩm, hay bọn này là phù thủy?- Này anh - Cuối cùng không nhịn được tò mò nữa, lão hỏi ông đạo diễn - hình như trên xe có đống rấm phải không?- Đống rấm là cái gì?- Là đốt trấu để vùi cơm hay sưởi ấm ấy.Lại một lần nữa lão Phích làm cho đoàn làm phim khổ sở vì cười. Trận cười kết thúc cũng đúng lúc chiếc xe đỗ xịch trước ngôi nhà hai tầng kiên cố. Ông chủ tịch xã đang ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế làm việc, một tay ông ký công văn, một tay ông cầm chiếc tăm tre ngoáy liên tục vào cái lỗ tai chết tiệt làm ông ngứa ngáy suốt đêm qua, nghe có tiếng ô tô, ông vội vàng đi ra. Nhìn thấy lão Phích đang đứng với những vị khách sang trọng, ông chủ tịch mừng ra mặt. Ông nghĩ rằng cái công văn mà ông gửi cho công an huyện, tỉnh đề nghị đưa lão Phích đi cải tạo về tội rượu chè, cờ bạc, làm mất trật tự trị an trong xã đã có hiệu lực. Ông phăm phăm đi lại, cười, chào rồi hỏi:- Các đồng chí là công an tỉnh phải không ?Mọi người ngơ ngác nhìn ông chủ tịch, có đến mấy phút sau, ông đạo diễn mới nhận ra vai mà ông đang đạo diễn, ông bắt tay ông chủ tịch rồi hỏi:- Xin lỗi, có phải đồng chí là chủ tịch xã không?- Vâng! tôi Nguyễn Thế Sang, đại biểu hội đồng nhân dân huyện, thường vụ Đảng uỷ xã, chủ tịch xã đây ạ!- Báo cáo đồng chí Chủ tịch - ông đạo diễn nói - chúng tôi là đoàn làm phim Trung ương, trên đường qua đây, chúng tôi có gặp bác Phích và có nhã ý mời bác đóng vai lãi Thủ một nhân vật trong phim.Không phải là công an! Sự thất vọng tót lên khuôn mặt của ông chủ tịch, mắt ông đờ đẫn nhưng không lạnh lùng bởi hai tiếng Trung ương đối với ông có nghĩa là cấp trên, là mệnh lệnh, ông nặng nề hỏi:- Các anh cần gì?- Về vật chất chúng tôi không cần gì cả chỉ cần các đồng chí chấp nhận cho chúng tôi quay ngay tại nhà bác Phích.- Vâng!Đáp xong ông chủ tịch mời khách vào Uỷ ban. Ba giờ, đoàn lên xe về khách sạn Sao Mai ở thị xã. Việc đầu tiên mà lão Phích phải làm theo chỉ đạo của ông đạo diễn là đi tắm để bớt cái mùi khai và tanh nồng vì mồ hôi và ghét trên thân thể, quần áo của lão. Một sự cố xảy ra đã làm náo loạn cả khách sạn. Lão Phích sau khi dốc hết phích nước sôi vào chậu, lão vào buồng tắm, loay hoay mãi lão mới mở được vòi nước. Đợi một lúc thấy đã vừa tắm, lão muốn cho nước thôi chảy, thay vì vặn ngược lại, lão lại cứ thế vặn, nước chảy ra xối xả, đầy chiếc chậu nhựa, tràn ra buồng tắm. Lập tức hình ảnh lão bị dòng nước lũ năm 1976 cuốn trôi trên đồng làng lừng lững hiện về. Chết đuối mất! Lão hốt hoảng chạy ra ngoài kêu lên ầm ĩ: Cứu! Cứu tôi với!Buổi tối, lão Phích được chiêu đãi, ngồi trước bàn tiệc la liệt thức ăn, lão như là mơ, lão không ngờ rằng cuộc đời mình lại được thưởng thức những món ăn mà chưa một lần lão trông thấy. Lúc đầu lão uống, lão ăn ỏn ẻn như một nàng dâu mới về nhà chồng, nhưng chỉ sau mấy phút, lão đã trở về với đúng nguyên bản. Lão gắp, lão và, lão húp sùm sụp, chốc chốc lão lại đưa cánh tay áo lên quệt ngang mồm. Ông đạo diễn và đoàn làm phim sau mấy lầm mục sở thị hành động ngu ngốc của lão Phích thì không còn ngạc nhiên, không còn cười, chỉ thỉnh 

thoảng ném cho lão cái nhìn khinh bỉ. Đang ăn lão Phích bỗng buông đũa, hai tay ôm bụng, mặt méo xệch như bị phong giật, lão bị bội thực. Anh lái xe dìu lão về phòng rồi bảo lão:- Ông vào toa-lét kia móc họng cho nôn bớt ra đi.Lão lật vật đi vào, thò cái ngón tay cáu bẩn vào họng. Oẹ oẹ, bao nhiêu bia, bao nhiêu thức ăn thốc phọt cả ra. Lão giơ tay quệt miệng rồi đi ra đổ vật xuống chiếc giường nệm mút. Mọi khi đặt mình xuống giường, xuống hè hay tựa người vào cột, vào tường là lão gáy như sấm nhưng giờ đây lão trằn trọc không sao ngủ được. Cái giường êm quá, cứ như có một bàn tay đàn bà nào đó rờ rẫn vào lưng lão. Phát cuồng lên được, lão liên tưởng đến bàn tay của con mụ mò ốc, người tình vụng trộm của lão ở cuối làng.- Cộc 

! cộc ! - có tiếng gõ cửa, lão lật người lại rồi hỏi với ra :- Ai đấy ?- Cộc ! cộc ! Đáp lại vẫn là tiếng gõ cửa khô khốc. Lão Phích lồm cồm bò dậy đi ra mở. Cửa hé mở, một ả điếm lách mình bước vào, mùi nước hoa rẻ tiền xộc lên mũi làm lão Phích phát nôn, lão định quay vào toa-lét nhưng không kịp, ả điếm đã khoác vai lão lại giường.- Cô làm gì vậy ? Bỏ tôi ra ! Lão Phích hoảng hốt kêu lên. Ả điếm nắm lấy bàn tay bè bè của lão Phích đặt lên cặp vú mềm nhũn của mình. Lão Phích run bắn lên, ngước đôi mắt đờ đẫn nhìn ả điếm một cách bàng hoàng.- Em sẽ chiều anh đêm nay, một trăm ngàn thôi mà cưng.- Tiền gì ?- 

Anh cứ vỡ vĩnh hoài vậy, tiền ngủ với em chứ còn gì nữa.Bấy giờ lão Phích mới lờ mờ hiểu ra, cũng là nhờ bọn 

thanh niên trong làng thỉnh thoảng kéo đến nhà lão hút thuốc lào vặt rồi tào lao đủ thứ chuyện trên trời dưới biển. Người lão bắt đầu nóng ran lên, đã ba năm nay, từ khi người tình mò ốc của lão dở chứng cắt đứt quan hệ với lão để giữ gìn "phẩm giá", lão chưa biết đến da thịt đàn bà, lão chồm lên đè ập ả điếm xuống nhưng ả đã giữ chặt tay lão lại :- Tiền trao, cháo múc!Ả bảo, lão Phích nói trong hơi thở hổn hển:- Mai mới có, họ trả tôi nhiều, nhiều lắm.- Sao ? Anh là diễn viên mà không có tiền ?- Hề hề, họ thuê tôi, họ chưa trả tiền.Lập tức lão bị đẩy vật ra bên cạnh, ả điếm ngỏng dậy ném cho lão cái nhìn tức tối rồi tự nhiên phá lên cười khanh khách.* -Lão Phích ơi ! Lão Phích !Lão Phích bị đánh thức bởi tiếng gọi, tiếng đập cửa thình thình, lão bực tức nguyền rủa:- Bố chết hay sao mà ầm ỹ lên vậy ?- Gì mà nóng nẩy vậy ông "Thủ", dậy đi thôi, dậy mà sang nhà tôi ăn cơm rồi bổ cho tôi ít củi.- Không làm đâu .- Sao ? Hôm nay còn đóng phim nữa hả ?- Đã bảo không làm là không làm, đừng có quấy rầy nữa.

Lão Phích gắt xong lại nằm vật xuống chiếc giường gẫy chân kẻ bằng gạch vỡ. Hình ảnh của lão Thủ tay cần chai rượu, tay cầm con dao phay đang hỏi tội kẻ tham nhũng do lão đóng lại chập chờn trước mắt. Lão tự hào lắm, kiêu hãnh lắm, cả đời bị đói khổ, bị đe nẹt quá nhiều nên khi được đóng vai lão Thủ, được hách dịch, quát nạt kẻ khác, lão tưởng đó là thật và nhập vai thành công thật bất ngờ. Chưa hết, lão lại còn được bí thư, chủ tịch xã bắt tay, được mọi người gọi ông bằng lão Thủ. Ôi ! vinh hạnh quá, sung sướng quá ! Ánh hào quang được một lần làm người đã dẫn lão Phích đi đến quyết định bỏ nghề làm thuê và nghề ăn chực để giữ lấy danh dự! Nhưng bỏ thì bốn trăm ngàn tiền thưởng của ông đạo diễn làm sao có thể sống hết đời ? Rồi cũng cần tiền để ra quán lão Đành uống rượu với thịt chó, đến nhà tay Phách để chơi xóc đĩa ! Lão vắt tay lên trán suy nghĩ, trưa, chiều rồi mãi đến gần sáng lão mới bật dậy. Lấy bốn trăm ngàn nhét vào cái túi quần nâu xong, gói gém quần áo vào chiếc túi cũ, lão mở cửa đi ra. Đường vắng ngắt, lão mừng vì không có ai nhìn thấy mình.Một ngày, hai ngày, rồi một tuần, hai tuần, dân làng vẫn không thấy lão Phích trở về. Không còn ai nghi ngờ gì nữa, lão Phích đã biệt tích khỏi làng.

 Thái Bình, 1992

Chim trời cá nước

Ở cái xứ đồng không mông quạnh * này, hàng năm ngoài hai vụ lúa, thời gian còn lại là nông nhàn. Đến mùa nước nổi mọi nhà không phải bận việc đồng áng thì lại là lúc thuận tiện cho việc săn bắt chuột đồng, rùa, rắn, cá, ếch...

Năm nay mưa nhiều, nước dâng lên sớm hơn các năm trước. Tuy vậy, gia đình anh Hai Hậu vẫn kịp thu hoạch vụ lúa Hè-Thu muộn. Cũng may cho anh, nhằm lúc mùa vụ đông ken mà thuê được máy suốt lúa nên chẳng mấy chốc đã làm xong gần trăm giạ lúa. Lúa vừa phơi phóng khô ráo, vô bao, vào bồ xong thì con nước cũng vừa trờ tới. Nước sông từ kinh, rạch dâng lên, nước mưa từ trên trời đổ xuống. Một tuần, hai tuần cả cánh đồng hàng trăm mẫu tây đã đầy ắp trắng xóa bởi nước. Mặt nước trải dài nhấp nhô sóng lưỡi búa. đó đây những đụn rơm lớn trôi dật dờ tỏa hơi khói trên nước, xa xa trông như những hòn đảo đá ẩn hiện trên vùng biển sương mù.

Mọi năm, cứ vào thời tiết này, anh Hai Hậu đã rủ mấy người bạn cùng quảy giỏ tre đem theo chĩa, dao, mác dẫn chó xuống xuồng ba lá đi vào mấy bờ sậy, gò đế cao để săn bắt. Ban ngày thì đi săn chồn đèn, chuột cống, xom rắn, bắt rùa; ban đêm thì đi giăng câu, soi ếch, được ít thì nhậu lai rai, được nhiều thì cái để ăn, cái đem bán. Cuộc sống trong mùa nước nổi tuy vất vả nhưng cũng có cái hay và thú vị.

Mấy năm gần đây dân cư vào lập nghiệp ngày một nhiều hơn, ai cũng đi săn bắt như vậy thì của trời cho cũng phải hao mòn. Rùa rắn ít đi, việc săn bắt ngày một thêm khó khăn không còn dễ dàng như trước nữa.

Anh Hai Hậu bây giờ tuổi cũng ngoài bốn mươi lăm vào hàng trung niên, cái tuổi tuy chưa phải là già nhưng cũng không còn nhanh nhẹn, dẻo dai như hồi còn trai trẻ được. Nhiều người cho rằng ở tuổi này, con người đã "lưng mật" rồi, làm việc gì cũng chín chắn, cẩn thận không dám liều lĩnh nữa. đi săn bắt cũng có cái nguy hiểm của nó nhất là đi xom rắn. Rắn càng được giá, nhiều người càng ham đi bắt rắn. Nước lên, các loài rắn trên cạn từ các nơi đổ về những gò cao, rắn hổ đất, hổ hèo, hổ chúa, mai gầm... ở chen chúc, chui lủi vào các bụi cỏ, kẽ đất, hang chuột, nhiều con dài cả thước, to bằng cổ tay, dữ tợn. Người đi săn dùng chĩa nhọn xom theo dấu hang... Nhiều khi bị xom trúng vào phần đuôi, con rắn đau quá chui ngược lại hoặc trổ ngách cất đầu lên mổ vào tay, vào chân người. Nó mà mổ trúng thì cũng khó mà cứu được.

Năm nay anh Hai Hậu không đi săn, đi soi nữa, anh quay ra làm lưới, giăng câu, đặt lọp. Mỗi sáng bắt được năm ba ký cá giao cho chị Hai rọng lại cứ hai ba ngày đem ra chợ bán một lần cũng đắp đổi được, vậy mà "ăn chắc, mặc bền".

Đã sinh sống nhiều năm trong vùng sâu xa xôi này, anh Hai Hậu cũng thấy rất rõ mấy trăm giạ lúa làm được mỗi năm của anh so với chi phí của gia đình cũng chưa thấm tháp gì. ở đây trăm thứ đều trông cậy cả vào lúa: Lúa để trả nợ vay, lúa để ăn, để làm giống, đi đám cưới, giỗ, nuôi con đi học và bao nhiêu thứ phải quấy khác... Do vậy, ngoài lúa còn phải biết xoay sở làm thêm việc khác, phải biết "buông dầm, cầm chèo" thì mới đỡ phải chật vật thiếu thốn.

Mấy tháng trước, chị Hai Hậu cũng mua về năm chục con vịt, hai chục con gà nuôi từ đầu vụ lúa, đến nay vịt, gà đã lớn mây mẩy, sắp sửa cho trứng, cho thịt. Anh chị rất mừng, nhưng khổ một nỗi, nước lên, nhà cửa chật chội, gà vịt ở chung với người hôi hám không chịu được. Bí quá, anh Hai Hậu mới nghĩ cách đi kéo mấy đụn rơm lớn về kết bè lại, bên cạnh nhà, vừa để làm chỗ ở cho gà vịt, vừa để tạo nguồn thức ăn côn trùng cho chúng, đỡ phải hao tốn lúa gạo, lợi cả đôi bề. Được ăn nhiều trùn, dế, đàn gà vịt của anh mau lớn ngó thấy.

Mừng thầm trong bụng, anh bàn với chị Hai Hậu:

- Cuối mùa nước, mình đem bán phân nửa số gà vịt này chắc cũng đủ vốn để làm vụ lúa sớm tới hả bà?

- Tôi định bán hết mới đủ, phân phướng, thuốc sâu bây giờ mắc mỏ! Còn lại bao nhiêu tiền hốt vịt con nuôi lại.

- Còn tiền bán cá không dành dụm được để phụ vô sao?

- Không đủ! Ông tính coi tiền cá một phần gửi về cho má để mấy đứa nhỏ đi học, phần thì mua sắm lặt vặt không còn bao nhiêu. Với lại mấy ngày nay cá đã rẻ rồi, không được giá như trước. ở chợ bây giờ cá đồng nhiều lắm, cả chục người bán, chỉ có năm ba người mua không rẻ sao được, rắn, ếch cũng rất nhiều bán đầy ngoài chợ. Vợ thằng Tám, vợ thằng Mến thường bán ếch ở đó, mỗi lần bán cả chục ký. ếch sống con lớn nó bỏ mối cho mấy người ở xa, ếch nhỏ nó làm sẵn bán luôn tại chợ.

- Tụi nó bắt ếch ở đâu mà nhiều vậy?

- Tôi có hỏi, nó nói chồng nó được ai đó chỉ cách làm mồi thuốc dụ ếch tới ăn rồi bắt cũng ở quanh đây chứ không đi đâu xa. Hỏi nữa thì nó giấu, nó chỉ biết vậy thôi, chứ mồi thuốc ra sao thì không rõ.

- Ôi thôi! Tôi biết rồi!

- Biết! Sao ông không làm?

- Tôi nghe tụi nó bàn với nhau là: dùng cua, ốc, trùn đất đem trộn với một vài vị thuốc bắc tạo thành mùi rồi trộn thêm một số thuốc độc đem đặt ở những chỗ có ếch. Loại mùi này rất hấp dẫn với ếch, khiến chúng tụ tập kéo đến để ăn rồi bị say, bị chết. ếch lớn, tụi nó sẽ cho uống thuốc để giải độc đem bán sống, ếch nào chết tụi nó lột da làm thịt bán, ếch nhỏ, ếch con thì tụi nó bỏ chết không lấy. Bắt được một con, tụi nó bỏ chết tới mười con, có nơi thúi hoắc cả một khoảng ruộng.

- Làm như vậy hủy hoại quá đỗi! Sao ông biết mà không can ngăn nó?

- Can ngăn cái gì! Tụi nó làm sao được thì nó làm. Có can ngăn, tụi nó cũng không nghe. Kệ nó!

- Kệ sao được! Nó làm như vậy riết rồi còn ếch đâu nữa mà bắt? Tụi nó lại trộn thuốc độc cho ếch ăn, rồi lại làm thịt ếch bán cho người ta ăn, biết đâu có người ăn ếch bị chết thì sao? Ông khuyên tụi nó không nghe thì ông bàn với mấy chú trên xã để mấy chú nói với tụi nó. Ông không nói thì tui sẽ nói.

- Ôi! Chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn, bà không nghe người ta thường nói như vậy hay sao? Đi mét với mấy chú trên xã không khéo tụi nó biết được tụi nó thù oán mình thì kẹt lắm... Thôi! Bà muốn vậy thì để bữa nào tôi lựa lời nói với tụi nó thử coi.

Có lẽ anh Hai Hậu ưởm ờ như thế cho qua chuyện, bởi vì sau khi nói xong, anh đi thẳng xuống bếp đốt một điếu thuốc lá rồi vừa lên võng nằm hút vừa nghĩ ngợi điều gì đó ra vẻ chuyện không còn phải bàn cãi gì nữa.

Sáng hôm sau, như thường lệ khi mọi người còn chưa thức giấc, anh Hai Hậu cặp nách cây đèn pin, xách giỏ xuống xuồng đi thăm lưới, giở lọp. Chiếc xuồng ba lá của anh thuộc loại nhỏ đi được từ một đến hai người, dân trong vùng này thường gọi là xuồng "năm quăng". Xuồng được làm bằng loại gỗ xoài hoặc gáo vàng là loại cây gỗ mềm dễ làm xuồng, giá rẻ nhưng rất mau hư, thường chỉ đi được một năm là bỏ nên gọi là "năm quăng". Khi bơi, người đi xuồng thường ngồi ở phía trước bơi bên phải một dầm, xong phải bơi bên trái một dầm và cứ như vậy, xuồng lướt trên mặt ruộng phăng phăng như một lá tre trên dòng nước.

Trời chưa tan tảng sáng, anh Hai Hậu đã về gần đến nhà. Từ xa anh thấy bóng ai như là chị Hai Hậu đang nhảy loi choi trước nhà, tay chỉ chỏ cái gì đó về phía anh. Anh nghĩ bụng:

- Chắc có chuyện gì nữa rồi!

Anh bơi xiết một chập. Đến nơi anh nghe rõ tiếng chị Hai Hậu chu chéo:

- Trời ơi là trời! Gà vịt chết hết rồi! Cái quân ác độc.

Cảnh tượng trước mắt anh thật não lòng. Mấy chục con gà, vịt nằm la liệt đủ mọi tư thế. Có con đã chết hẳn, có con đang ngoắc ngoải, nhiều con đi đứng xiêu vẹo, múa may.

Thì ra hồi hôm này, có mấy đụn rơm theo gió trôi dạt về phía nhà anh tấp vào chỗ chuồng gà vịt, sáng ra đàn gà vịt xúm xít lại ăn phải mồi thuốc ếch và ngã ra chết.

Nghe nhà anh có chuyện, mấy người hàng xóm thương tình qua phụ giúp anh, chị đổ nước chanh, nước bù ngót mong cứu sống những con gà vịt còn lại nhưng chắc gì cứu được.

Nhìn gương mặt đầy nước mắt, méo xệch thảm thương của chị Hai Hậu, bất giác anh chợt thấy hiển hiện lên rõ ràng cái cảnh khốn khổ của vợ chồng anh trong mùa vụ tới: thiếu tiền, thiếu vốn, thiếu phân, xăng... Mất mát này của anh do ai gây ra? Ai có lỗi? Và ai sẽ phải bồi thường cho anh?

Anh cũng tự trách mình và cảm thấy rất thấm thía về cái quan niệm chim trời cá nước cũ kỹ lỗi thời của mình. Chim trên trời, cá dưới nước, chim cá này không là của riêng ai nhưng không phải ai muốn bắt chim, bắt cá theo kiểu gì cũng được.

Chèng đéc ơi, là ngon! - Nguyễn Thị Diệp Mai





Trở gió nghe hơi chướng lành lạnh là dân miền Tây rụt rịt chuẩn bị ăn tết rồi. Nhà tôi thì cũng không ngoại lệ mà chính xác là từ rằm tháng Chạp, sau khi cha tôi lặt lá cho mấy cây mai trước cổng xong. Dọn nhà, sơn cửa, tỉa kiểng, rửa sân chuyện nhỏ không tính. Chuyện chính là từ sau bữa đưa ông Táo về trời.



Năm nào cũng vậy, sáng hai bảy tết là cha mẹ tôi chở nhau đi chợ. Lúc đi thì hai người và ba cái giỏ không bự chảng, lúc về thì ba cái giỏ đầy có ngọn. Mà đi từ hừng đông kìa. Giác đó đến lò mổ mới mua được thịt vừa xả ra, đem về đến nhà còn âm ấm. Rồi xuống cảng, cá mới lên tha hồ lựa cá ngon. Ba chị em tôi đã đặt thiệu: " Hai bảy chợ cha, ba mươi chợ mẹ". Bởi lẽ chợ ngày hai bảy là chủ yếu những món để dành ăn dài trong tết mà cha tôi nắm "độc quyền cách chế biến".



Từ hôm trước tôi đã lãnh trách nhiệm đi cắt lá chuối trong vườn, rọc, lau sạch, phơi cho dẻo, xé thành từng loại và chẻ lạt. Tôi ngán nhất là món chẻ lạt. Cha tôi chỉ thích cột bằng lạt cọng chuối. Tôi làm biếng kêu cha tôi mua mấy ngàn đồng lạt bằng cọng lác tha hồ cột. Ông bắt đầu chê lạt lác vừa nhỏ, vừa không dều, hay bị đứt, lại không đẹp. Ông còn đế thêm một câu: "Con gái mà không biết chẻ lạt chuối, mai mốt gả về vườn thì ăn muối". Tôi muốn không ăn muối nên cất công bỏ một buổi ngồi chẻ lạt. Cọng tàu chuối sau khi rọc lấy lá hai bên, gom lại cắt ngọn và đuôi thành đoạn dài chừng một sải tay. Rồi phơi vừa heo héo, đừng để héo quá ruột dính vào vỏ khó tách. Cha tôi chẻ cọng lạt làm mẫu thì phải biết. Lấy dao nhíp mũi nhọn liễu rọc một đường ngọt xớt chia cọng chuối làm hai. Lách mũi dao vào da cọng chuối dày chừng ba li, rộng chừng năm li rồi chuốt một đường từ đuôi đến ngọn lấy ra một cọng lạt. Cứ như vậy mà làm. Xong rồi thì ôm bó lạt rải ra sân phơi một nắng. Cọng lạt lúc này teo lại, cuộn tròn, dẻo dai vừa đủ độ tha hồ cột không sợ đứt nửa chừng.



Đi chợ về, cha trải chiếc đệm bàng ra giữa nhà lấy mâm ra bắt đầu phân loại cá thịt, phân công việc làm cho cả nhà. Mẹ tôi và tôi thì rửa cá và nạo lấy thịt. Em gái kế rang gạo, xay thính. Em gái út đi bẻ lá chùm ruột non, là vông nem rửa sạch, giũ khô và thái ớt, tỏi từng lát mỏng. Cha tôi ngồi bẹp giữa nhà, trước mặt là cái thớt me bự một vòng tay ôm, bên phải một cái mâm, tay cầm cây dao yếm bắt đầu lọc thịt. Trước khi cái công đoạn lọc thịt làm nem chua thì phải nói sơ việc chuẩn bị cây dao yếm của cha tôi. Hai ngày trước ông đã mang tất cả dao kéo ra mài. Riêng cây dao yếm thái thịt này được cha tôi "chăm sóc" kỹ nhất. Mài, thử, ngắm nghía, mài. Thấy mẹ tôi đứng nhìn cười tủm tỉm, ông cười đánh trống lảng: "Mài dao không bén người ta nói sợ vợ". Mà cây dao yếm bén thật. Rủi có con ruồi nào đậu trên lưỡi dao trợt chân té chắc đứt cánh. Nhìn cha tôi mài dao yếm giống như ông tôi mài phảng phát ruộng. Nhờ cây dao bén vậy mà chỉ trong vòng chưa đầy một tiếng mâm thịt gần hai chục ký lô đã được cha tôi lọc, thái, xẻ hết sạch. Thịt nạc cắt miếng nhỏ thớ ngang, lọc sạch gân, màng bọc để quết làm nem chua. Thịt vừa mỡ vừa nạc xẻ xuôi mỏng chừng hơn một phân, lớn chừng năm phân, dài hơn một gang để ướp làm "xà bỉm" và muối mặn. Phần thịt thái mỏng dính, vuông vuông có cả mở lẫn thịt thì để làm mắm. Da lọc sạch mỡ, cạo sạch lông đem luộc để thái sợi bì. Quan trọng là cha tôi phải làm nhanh vì thịt quết nem phải vẫn còn ấm và mềm thì nem mới dai, mới ngon. Trong khi cha tôi quết thịt trong cái cối đá miệng rộng sáu tấc, bề sâu năm tấc có từ thời ông nội tôi xuống U Minh lập nghiệp tới giờ thì em gái út tôi đã đem rổ lá đúng yêu cầu vào. Không cần sai biểu, nó tự giác đem da heo đi luộc.



Mẹ tôi và tôi nạo xong hết những khúc cá lạt tươi xanh, thịt trắng trong veo đựng gần đầy một thau nhỏ. Mẹ tôi đi lấy phần thịt để làm "xà bỉm" đi ướp. Thật ra làm "xà bỉm" rất là đơn giản: thịt thái miếng (nếu thích ăn da thì để cả da), ướp tỏi và ớt chín bỏ hột đâm nhuyễn cùng đường, muối, muối diêm, bột ngọt, muốn ngon hơn thì chế vào một ít mật ong. Tất cả trộn đều để hai, ba tiếng đồng hồ cho ngấm gia vị rồi xâu một sợi dây ni long nhỏ, hai miếng một cặp vắt lên sào phơi dưới nắng tốt. Nói thì đơn giản vậy chớ liều lượng gia vị như thế nào cho ngon là chuyện mới đáng nói. Làm sao cho miếng thịt ướp không mặn, vừa đủ vị ngọt, cay, đượm một sắc đỏ thẫm, mỡ và da cá màu vàng trong như mật mới gọi là đạt tiêu chuẩn. Quá tay thì mặn, nhiều đường thì ngọt khó ăn, nhiều muối diêm thì thịt đỏ bầm và bủn, ít muối diêm thì thịt không đỏ, mỡ không trong. Bởi vậy, mẹ tôi chỉ chuẩn bị gia vị, nêm nếm là phần của cha tôi. Bà chỉ làm mỗi một việc nữa là trộn đều, đợi ngấm, xỏ xâu đem phơi.



Cha tôi quết xong thịt, vét hết ra thau, trả cối để tôi quết cá làm nem cá. Da heo luộc chín rửa qua nước lạnh cho săng, để ráo đem ra. Cha tôi lật cái mặt kia của thớt lại (vì mặt dưới láng hơn), cũng cây dao yếm đó bắt đầu thái bì. Sợi bì mỏng dính, nhỏ bằng cây tăm xỉa răng thi nhau tràn ra hai bên thớt. Cha tôi thái xong bì, tôi cũng quết xong cá. Ông lại chỗ cối cá, đưa tay quẹt một miếng nhỏ, se se trên hai ngón tay xem độ mịn, độ dính đến đâu. Ông gật đầu. Tôi buông tiếng thở khì. Hai cánh tay gần rã rồi còn gì. Ông bắt đầu công đoạn "tẩm ướp" ba món "chính quy" nem chua thịt, nem chua cá, mắm thịt. Nem chua thì cách thức ướp gia vị giống nhau chỉ có cá thì lạt hơn, thịt thì đậm hơn: tỏi thái lát, tiêu chín nguyên hột, đường, muối, rượu "ốp-xanh", sợi bì heo hoàn toàn không có bột ngọt. Mắm thịt thì khác: đường, muối, thính, rượu trắng. Ướp xong, ém mắm vô hũ, bắt đầu công đoạn gói nem. Cha tôi ngồi bên này, mẹ tôi ngồi bên kia đối mặt nhau, tôi ngồi phía phải của mẹ tôi. Chính giữa là chồng lá gói, hai thau thịt cá đã ướp, rổ lá chùm ruột, lá vông nem, đĩa ớt tỏi xắc mỏng. Cha tôi chọn lá vông vừa ý đặt lên xấp lá chuối, múc thịt để vào, bẻ góc lén vuông rồi mở ra đặt lên mặt một lát ướt, vài lát tỏi, lá chùm ruột non, gói lại, đưa qua mẹ tôi và tôi để cột chặt. Mẹ tôi thích gói nem vuông như cục ru- bíc. Em gái tôi thích dài như chiếc đũa bếp ruột nhỏ mau chua, mau ăn được. Tôi thì thích gói một đòn như đòn bánh tét. Mẹ tôi nói tại tôi làm biếng lên gói đòn lớn cột cho mau rồi, nhưn nem bự thì lâu được ăn. Cha tôi bênh tôi: "Lâu ăn nhưng cắt bày ra đĩa nó đẹp, để lâu được". Cha tôi bao giờ cũng làm đủ ba thứ nem có hình thù như ý thich của cả nhà. Gói xong nem vuông và dài cột chùm mười cái, nem bánh tét cột từng đôi treo lên móc. Một dãy những chiếc nem vuông đều, thẳng tắp như nhau.



Ngày ba mươi tết, đến tua chợ của mẹ tôi. Ông bà xách hai giỏ không đi. Mẹ tôi đã dặn trước chủ bán những món cần mua, chỉ việc ra lấy về thôi. Món ruột của mẹ tôi là: bánh tét, thịt kho hột vịt, da cải tùa xại, da lỗ tai heo. Còn món dưa kiệu đã được làm từ trước không cần kể. Hôm qua tôi đã làm xong nhiệm vụ rọc lá, chẽ lạt, ngâm nếp, ngâm đậu rồi. Mẹ tôi vắt cốt nước dừa, trộn nếp, ướp thịt làm nhưn xong là cả nhà tôi ngồi quanh cái đệm bàng để gói bánh. Món bánh tét này tôi thấy nguyên liệu cũng chỉ có mấy món nếp, nước cốt dừa, đậu xanh, thịt ướp, chuối chín hoặc đậu xào đường làm nhưn ngọt nên không mấy quan tâm. Khi gói bánh cha tôi bao giờ cũng là người bắt bánh. Ông khéo tay lắm. Đòn bánh đầu thì vuông, mình thì tròn, nhưn rãi đều, nước cốt ít khi nào chảy ra ngoài. Dóng bánh xong, cha tôi bỏ cái khối trụ cột sơ đó qua chỗ mẹ, tôi và hai đứa em ngồi để cột. Cột bánh thấy đơn giản vậy chớ không dễ đâu. Chặt quá bánh "nín" luộc chín không đều. Lỏng quá nước nong vô, bánh nhão dễ thiu. Cột sao cho đẹp, theo trục đứng thì bốn bên phải đều nhau, trục ngang thì mỗi khoanh cách nhau phải đều chừng ba phân, xong rồi phải giấu mối cho khéo, đánh dây cho gọn, cắt tỉa dây dư, đừng để "đầu tóc bù xù". Cột được chừng hai chục đòn, hai đứa em tôi đứng dậy đi kê lò, bắc nồi nước luộc bánh. Còn lại bốn chục đòn cha, mẹ và tôi phải chiến đấu đến hơn hai tiếng đồng hồ.



Chiều ba mươi, mẹ tôi làm mâm cơm cúng ông bà xong, dọn ra cái bàn đá dưới giàn sơ- ri để cả nhà cùng ăn. Ông ngoại tôi từ Cà Mau lên ăn tết với nhà tôi là người ngồi vào bàn trước tiên. Ngoại tôi thích ngồi nhìn con cháu dọn cơm. Đứa này bưng món này, đứa kia bày món kia vui lắm . Hai đứa em tôi đang sên mứt dừa, tôi thì mắc canh nồi bánh tét chỉ có mẹ và cha lui cui dọn cơm thôi. Mẹ tôi nướng "xà bỉm" mỡ cháy xèo xèo thơm nức mũi. Bà cắt đòn bánh tét đầu tiên cho cả nhà cùng ăn ra. Cha tôi cắt nem cá, nem thịt bày ra đĩa. Khoanh tròn, khối vuông xấp lớp trong đĩa trưng mấy miếng ớt đỏ tươi, lát tỏi trắng ngần trên nền hồng nhạt của thịt nem, nổi giữa màu xanh xẩm của lá vông nem, lá chùm ruột. Cha ôm hũ rượu ngâm bìm bịp rót ra mời ngoại tôi. Hai người đàn ông ngồi nhâm nhi rượu, "khai trương" mấy món mà chỉ có ngày tết mới làm. Tôi chịu hết nổi bỏ thêm một gốc củi lụt vào bếp, rửa tay chạy ra sà ngồi kế ông ngoại tôi, thò tay bốc một miếng nem cá bỏ vào miệng, bốc thêm một củ kiệu bỏ vào miệng nhai luôn. Vị ngọt của cá, chua đượm của kiệu, cay cay của tiêu, bùi bùi của lá chùm ruột khiến cho vị giác của tôi "thức dậy" hết để tận hưởng. Thêm một miếng mắm thịt kẹp da cải tà xại. Mặn đợm, béo giòn, chua chua, ngọt ngọt. Ông ngoại tôi quay sang cười mắng: "Thứ đồ con gái khoái ăn đồ nhậu!". Thật ra thì tật xấu này là do ngoại tập cho tôi đó. Hồi nhỏ vì tôi là cháu đầu tiên, khi ngoại tôi ngồi nhậu lai rai là để tôi ở trong lòng, lâu lâu đút cho một miếng. Riết rồi lớn lên tôi "nghiền" ăn đồ nhậu luôn.



Mẹ tôi đến ngồi cạnh cha tôi, vòng tay ra sau đấm đấm lưng càu nhàu: "Tết nhứt làm cực muốn chết, mua đồ người ta làm vừa rẻ, mà ngon hơn". Cha tôi đưa tay đấm lưng giúp bà, thủng thẳng: "ờ, nhưng mà nó hổng vui. Vợ chồng con cái cả năm mới tụ về với nhau mấy ngày. Lụp cụp, lạc cạc vui nhà vui cửa". Chắc mẹ cũng nghĩ vậy nên thôi, cầm khoanh bánh tét lên ăn. Ngoại tôi khề khà ly rượu, mắt ngắm nghía mấy món đồ ăn ngày tết, chắc lòng ông đang rưng rưng niềm cổ lệ !



Chỉ có tôi là không nghĩ gì cả, bởi lúc đó bụng tôi đang khoái trá kêu lên: "Chèng ơi, là ngon ! Cha tôi là người đàn ông làm đồ nhậu ngon nhứt xứ U Minh !"

ĐI SĂN

                                     Nguyễn Đình Phi

   - Nay tao với mày nhậu thịt heo rừng. Món này là món thịt hấp lá nốt, tía tô. Món thứ hai gọi là món gỏi. Thịt hôm nay là thịt sạch đấy.

Tôi thấy Dũng bưng lên hai đĩa thịt đầy ú ụ, mùi thơm hấp dẫn. Dũng bày biện ngay trên nền nhà cùng  với chai rượu đế. Dũng giảng giải cho tôi biết:

 - Thịt heo rừng dễ chế biến, làm được nhiều món. Nào là nướng gừng mẻ, nướng ngũ vị hương, xào lăn, xào măng, bóp thấu phồng tôm…Thịt heo nhiều nạc, da ăn dòn, mềm,  nên ăn không ngán. Tao có mời chú Tư Săn, nhưng chú ấy bận không đến được. Bây giờ chỉ có hai ta, nhậu xong sang nhà xin chú Tư cho mày đi săn thử một chuyến cho biết.

- À! Hôm trước mày nói săn ở đâu nhỉ?

- Vào rừng nguyên sinh TCT nằm trên địa bàn huyện BĐ và ĐP cách đây phải đến 20 cây số. Tới đó còn vào sâu trong đó mười mấy cây số nữa. Nói chung đi săn vất vả lắm!

Nghe thấy vậy tôi cũng hơi ngán, nhưng quyết tâm đi một chuyến. Tôi và Dũng nhâm nhi ly rượu với món thịt heo mà Dũng chế biến. Thú thật, tôi ăn thịt heo rừng đã nhiều, nhưng nay thấy nó ngon làm sao, nhất là món gỏi, nó chua chua, ngọt ngọt, hương thơm thịt heo hoà với lá húng, hành tây... Thật tuyệt!

  Nhớ lại cái ngày tôi đến quán thịt rừng có tiếng  ven thành phố. Qua cách xưng hô, giao tiếp, tôi thấy ở đây  đủ hạng người, toàn là những người có “máu mặt”. Họ đến để thưởng thức những đặc sản thịt rừng. Tôi đi vòng ra phía sau nhà hàng, thấy họ nhốt đủ các loại thú như: rắn, khỉ, nhím, tê tê, kỳ đà, cheo, voọc…Nhìn người nhà hàng  giết con cày hương nghe tiếng kêu của nó mà thấy xé lòng.

Đằng kia, họ đang  moi trong hầm ra những tảng  thịt rừng còn nguyên lông.

Bỗng thấy có người vỗ vào vai, tôi quay lại, nhận ra Dũng. Tôi với Dũng là người cùng làng, bạn thân với nhau từ nhỏ. Khi lớn lên mỗi người một ngả, nay mới gặp lại. Nói chuyện mới biết bây giờ Dũng là thợ săn trộm thú rừng,  Dũng cho tôi địa chỉ, hẹn ngày gặp lại.

 Nay ngồi uống rượu với Dũng. Tôi phải hỏi Dũng về cách bảo quản thịt rừng của cánh thợ săn:

-  Nghe mày nói “nay mình ăn thịt sạch”. Có thịt sạch, thì phải có thịt thịt bẩn. Như thế nào thì gọi là thịt bẩn?

Dũng nhìn trước nhìn sau, không thấy ai, vả lại rượu đã làm nó ngà ngà say,  Dũng cũng muốn tỏ ra là người từng trải, nên nói một mạch:

- Thịt bẩn là thịt để lâu ngày trong rừng, rồi mang về nhập cho “đầu nậu”, “đầu nậu” lại nhập cho quán. Nếu thịt bị thối rữa, thì họ lại nhúng vào nước khử mùi chỉ khoảng hai chục phút, trông phần thịt mỡ trắng ra, phần thịt nạc lại hồng lên. Nhìn miếng thịt lại tươi như cũ.

-        Tại sao lại làm như vậy? - Tôi hỏi.

Mày tính xem, mỗi lần đi rừng ít nhất phải mất  từ ba, bốn  ngày trở lên. Săn bắn  được thú, có con chết, có con sống. Không thể mang ngay về được, nên phải ướp.

- Ướp thế nào?

Dũng thật thà kể:

Thú rừng ít mỡ, nhiều nạc, giầu đạm. Nên chỉ để một ngày là thối rữa. Cần  phải bảo quản, con nào bị chết thì mổ bụng nó ra, vất ruột đi, lấy nước và thuốc đổ vào túi nilon rồi bỏ con thú vào đó ngâm,  túm chặt bao  lại đem chôn một chỗ. Con nào bị thương nặng, biết không thể  sống  được thì lấy thuốc trích vào, máu sẽ đưa thuốc đi khắp cơ thể, nên không bị thối, rồi lại bỏ vào bao nilon, cũng đem chôn. Đánh dấu để lúc về lấy.

- Mày có biết thuốc gì không?

- Mấy năm trước,  tay “đầu nậu” đưa thuốc cho chú Tư bảo làm thế, bọn mình làm theo. Nay tao mới biết đó là  fomol, loại thuốc dùng để ướp xác. Còn thuốc làm thịt thiu thối mất mùi là bột Sămpết. Toàn là những thuốc độc, gây ung thư. Ăn loại thịt này nguy hiểm quá!

 Tự nhiên chúng tôi không ai nói với ai. Có thể Dũng nhận ra đó cũng là tội ác. Còn tôi, tôi cũng đang tìm cách khuyên nhủ Dũng bỏ con đường tội lỗi đó, và tôi cũng muốn theo một chuyến đi săn xem thực tế như thế nào, nên nhắc Dũng tranh thủ sang nhà chú Tư kẻo trời lại tối.

 Dũng lấy xe chở tôi đi ngoằng ngoèo, qua đoạn đường đất vào sâu trong rẫy, thấy chú Tư  độ tuổi khoảng ngoài năm mươi, chú cởi trần thấy cơ bắp cuộn cuộn nổi nên, chú đang sửa mấy cái cạm bẫy, bên cạnh để mấy khẩu súng săn tự chế. Chú quay ra hỏi Dũng:

- Thế nào? Chuẩn bị cho ngày mai chưa?

- Dạ!  Cháu đã chuẩn bị xong rồi ạ! Thưa chú! Đây là bạn cháu, người cùng làng,  nay mới gặp lại, bạn cháu muốn ngày mai theo chú đi săn.

- Cháu làm nghề gì?

- Dạ! Cháu làm rẫy.

- Làm rẫy sao chân tay chẳng thấy chai sạn gì cả, hay là công an, nhà báo vào theo dõi tụi tao?

Thưa chú! Cháu có rẫy nhưng cho thuê và khoán người làm, lúc rảnh cháu buôn bán.

Nói vậy chứ, mai đi chơi với bọn tao cũng được, đi săn vất vả lắm, vào rừng thiêng nước độc, rất nguy hiểm, nếu quyết tâm thì đi. Dũng chuẩn bị mấy thứ cần thiết cho nó nhé?

Tôi cảm thấy Dũng sợ và nể chú Tư. Mọi cái cứ răm rắp nghe lời. Tôi quan sát trong nhà, ngoài vườn, thấy có mấy con khỉ bị xích đang leo trèo trên cây khô, ngoài đó còn có một số lồng đang nhốt thú.

Dũng giới thiệu với tôi: “Chú Tư chỉ có một đứa con, nó tên là Đức. Đức theo ba nó đi săn từ bé nên biết nhiều mánh khoé trong nghề săn, là một thợ săn đã có tên tuổi, nó biết tận dụng những con thú mà phường săn bắt được, như việc nhồi và sấy khô làm cảnh. Cách đây hai năm trong một lần đi săn, Đức đánh bẫy đựơc con lợn rừng khoảng bảy, tám mươi kg. Khi gần đến nơi nghe tiếng thở phì phì, tưởng nó gần chết. Nhưng không. Thấy người, nó vùng dậy, kéo cả cái cạm nhằm thẳng thằng Đức lao tới. Do bất ngờ, Đức không  tránh kịp, nó bị húc ngã lăn ra, Cứ thế nó nó húc liên tiếp, lại vướng cây nên Đức không tránh được. Cũng may bọn mình đến mới cứu được. Khi mang đến bệnh viện, bác sỹ nói bị vỡ gan. Nằm viện nửa tháng thì mất. Nó để lại cho chú Tư một đứa con trai bây giờ đã được sáu, bảy tuổi”.

  Tôi và Dũng vào trong nhà, thấy trên tường, trên giá để rất nhiều những con thú nhồi, những đầu con thú đã sấy khô. Có nhiều những động vất quý hiếm, nằm trong danh sách đỏ như: Voọc xám, mèo ri, sóc bay sao, đầu trâu rừng, bò rừng, hươu, nai, hoẵng…

 Tôi sực nghĩ, chú Tư hơn ba mươi năm đi rừng, lại có bao nhiêu đệ tử  theo nghề săn bắn kiểu “huỷ diệt” thế này sao nhà nước không tìm cách chặn bọn họ lại. Thảo nào đài báo vẫn nói thú rừng đang kêu cứu.

Sáng mai, tôi theo nhóm của chú Tư  đi săn, xe chạy vài chục cây số mới đến bìa rừng, lại đi vòng vèo để tránh lực lượng kiểm lâm, gửi xe ở nhà quen, rồi theo lối mòn của người đi rừng, Đi bộ hơn chục cây số, thấy cảnh rừng bị tàn phá trơ trụi. Đi sâu vào bên trong  khu rừng, có tán cây lớn, càng vào càng thấy bí hiểm, nhiều chỗ cảm thấy ngột  ngạt, âm u, khó thở.

Đi tới ba giờ chiều, chú Tư đứng lại nhìn xung quanh, chú phát hiện ra “Có dấu chân thú”. Thế là đội hình được triển khai, ai vào việc ấy, người chặt cây, người cài bẫy, người đóng cọc rào để tạo cho thú một lối đi ăn đêm. Dũng nói nhỏ với tôi: “Đây là bẫy  

rào

để bắt thú vừa, còn loại bẫy

chọt

bắt được cả thú lớn như bò, nai, hoẵng…Loại thú đi ăn đêm chúng gặp hàng rào là cứ đi men theo tìm lối qua là bị sập bẫy.

Màn đêm buông xuống, tiếng côn trùng thi nhau kêu, nghe não nùng. Trời thì tối đen như mực. Thỉnh thoảng lại có những cơn gió thổi làm xôn xao những  lá cây, những ánh đèn soi của thợ săn loáng qua, lại nghe thấy tiếng súng vang vọng trong rừng cảm thấy rờn rợn tóc gáy.

 Từ chiều cho tới đêm khuya, nhóm săn của chú Tư vừa đặt bẫy, vừa dùng súng để bắn thú, con nào còn sống mang về được thì mang, còn lại ướp xác. Sáng mai trên đường về,  thu nhặt những con vật đã mắc bẫy và đào những con đã chôn lên. Con to thì xẻ xác ra chia nhau gùi.

 Tôi hỏi Dũng: “Đi như thế này không sợ kiểm lâm bắt à?”

-  Qua mặt kiểm lâm sao được! Phải quan hệ chứ, nhưng đi cũng không được lộ liễu.

Vừa tới bìa rừng đã được bọn “đầu nậu” chờ sẵn, nhận hàng. Chú Tư bảo Dũng đưa con cầy hương bị thương về cho cánh thợ săn nhậu tối nay.

Tôi và Dũng phóng xe về trước. Tới nhà chú Tư thấy đông người, trong nhà ồn ào. Tôi giật mình xuống xe hỏi mấy bác đang đứng ở cổng, họ cho biết:

- Chiều hôm qua,  sau khi ăn cơm xong thì cả nhà thím Tư bị đau bụng, vừa thổ vừa tả. Mang đến bệnh viện thì bác sỹ nói bị ngộ độc thức ăn, Thằng bé mất nước nhiều quá, sức lại yếu nên không cứu được, ông bà ngoại đã đưa nó về đây. Còn bà nội và mẹ cháu vẫn đang  nằm cấp cứu ở bệnh viện.

Vừa lúc đó chú Tư về đến nhà, được nghe  kể lại. Lúc đầu chú ấy như người phát điên. Khi tìm hiểu nguyên nhân, thấy chú ấy bình tĩnh lại, hình như có cái gì đó đã làm cho chú thay đổi về mặt tâm lý.

Anh em thợ săn cùng với  bà con xóm ngõ lo liệu đám ma cho cháu rất chu đáo.  Hai mẹ con thím Tư sau vài ngày cũng được xuất viện.

Sau đó tôi trở về nhà, có bao nhiêu day dứt chưa tâm sự được với ai. Mấy tuần sau Dũng ra nhà chơi, thấy nét mặt không vui, chúng tôi ra quán nhâm nhi ly cà phê. Tôi gợi chuyện:

-        Chú Tư hồi này thế nào?

Dũng không sôi nổi như mọi khi, giọng buồn, chậm rãi:

- Đi săn lần trước còn sót lại trong ba lô một miếng thịt nai, khi mang về quên không dặn người nhà, thím Tư lấy thịt xào ăn nên với bị vậy. Mấy năm nay nhà chú Tư liên tục bị xui xẻo. Thằng Đức thì bị heo rừng húc chết, còn có đứa cháu nội ăn phải thịt rừng mà “ra đi”. Chúng tao đến chơi, chú ấy không nói lời nào, chỉ rót ra một  ly rượu mời uống, uống xong úp ly xuống. Ngồi một lúc ai muốn về cũng mặc. Đến ngày 49 sau cái mất của đứa cháu. Chú mời tất cả phường săn đến nhà, chú bảo bọn tao lấy củi chất một đống củi lớn ở giữa sân, rồi mang tất cả nhưng con thú đã nhồi, đã sấy khô cùng với những cạm bẫy, súng săn  chất cả lên đống củi. Chúng tao phải làm theo. Sau khi tụng kinh xong, chú mời mọi người sân, chú nói với một giọng đau buồn nhưng dứt khoát:

- Thưa anh em và bà con cô bác! Tư Săn này có mấy chục năm đi săn bắn thú rừng,  đã bao nhiêu con thú bị Tư giết chết, Tư đã gây tội ác, gần đây Tư mới biết rõ hơn, việc ướp xác thú rồi bán cho nhà hàng làm món ăn, món nhậu cũng là tội ác gián tiếp có hại sức khoẻ của con người. Con, cháu  tôi chết, có phải “quả báo” không? Có phải là “luật nhân quả?” không? Có thể lắm! Nay tôi bỏ nghề đi săn này để lương tâm đỡ cắn rứt.  Tất cả những dụng cụ săn bắn, Tư đốt hết. Những con thú đã  nhồi và sấy khô cũng mang ra hoả thiêu, trả linh hồn của nó và thả những con thú còn sống kia  về với rừng. Tư thề với anh em và bà con từ nay không đi săn và ăn thịt thú rừng nữa. Những người còn coi Tư là anh em thì hãy làm theo. Còn ai không làm theo thì đừng đến nhà Tư nữa.

Nói đến đây, giọng Dũng chùng xuống: “Chú ấy đau quá. Cái đau này đều từ việc đi săn mà ra. Bỏ nghề săn trộm thú rừng là quyết định đúng đắn, không thể kéo dài thêm tội ác nữa. Cánh thợ săn bọn mình nghe những lời sám hối của chú mà thấy suy nghĩ. Còn bỏ nghề đi săn! Khó lắm,  một số anh em cho đấy là một nghề  kiếm sống. Còn mình! Lương tâm day dứt lắm! Phải chọn nghề khác. Khi quyết định như vậy, mình thấy trong lòng  thanh thản”.

Chết trong cơn đói

Một chiều tháng tám, cách đây 5 năm.

Một chiều mưa gió não nùng, mẹ tôi gọi vội chị tôi lấy nạn cây đẩy hai cái tử thi đang trôi bập bều gần bến.

Để tránh những thảm cảnh ấy, mẹ tôi bảo làm rào tre quanh nhà. Nhà tôi đã kê gần đến mái lá. Ban đêm hơi nước xông lên oi bức lạ thường. Mực nước càng ngày càng lên dữ dội. Chỉ có ba ngày mà chỉ một cánh đồng lúa bát ngát xanh tươi chôn vùi dưới nước.

Những thuyền đánh cá đêm như ngày, đánh cuộc số mạng với thiên nhiên. Kiếp sống như một cánh bèo con cửa bể. Những tiếng hú nhau giữa lúc giông to, khiến cho người nhà khôn xiết lo sợ

Cánh đồng không còn một cây cỏ. Tha hồ những lượn sóng hành hung. Nhiều đoạn đường bị vỡ, nước chảy mạnh ghê người. Thuyền qua lại chỉ hơ hỏng một chút là bị cuốn theo dòng nước đổ. Ngày có sóng gió thì tiếng kêu cứu của kẻ đắm thuyền trên sông không ngớt. Trên bờ cảnh đói rách không thể tả cho hết được

Hai năm, hai lần nước lụt, sóng gió vùi chôn biết bao sản nghiệp của nông dân. Không ai lấy đặng được một hột lúa ! Người ta đã góp tất cả vốn liếng, có người không có vốn phải vai mượn chu đủ làm mùa. Họ tin tưởng dầu sao trời cũng không thể hại một cách nhẫn tâm. Tuy mọi người cố gắng lắm mà mùa năm nay vẫn thấy nhiều khoảng đất trống, vì chủ nhân không có thể vai mượn vào đâu được nữa. Những chủ khoảnh đất bỏ trống ấy phần nhiều đã bỏ “xứ” ra đi đến “xứ” khác để tìm sinh kế hoặc đi để trốn nợ nần. Hay còn ở lại chịu cảnh nghèo đói lang thang…

Nhà ông phó Tuần, cũng như nhiều gia đình khác có đến tám đứa con. Đứa gái lớn gần hai mươi, suốt ngày lên núi lầy củi đem về bán đổi gạo. Thằng trai thứ hai thì ra đồng đánh cá mà mấy hôn nay trở trời, giông gió dữ quá, mẹ nó không cho nó ra khỏi nhà. Thà chịu đói tạm còn hơn bất đắc kỳ tử. Đứa gái thứ ba lẩn quẩn theo vườn hái rau, bứt lá, mỗi sáng ra chợ nó bán cùng gần được năm xu. Ở chợ về nó mua hết hai xu muối, hai xu dầu và một xu giấy cho cha nó.

Ông Tuần vả bà Tuần thì lo vun quén nương khoai mì, ban đêm phải lo canh giữ. Mì đã có củ lớn hơn ngón tay, nếu lơ đễnh gặp kẻ cắp phá thì vận mạng của gia đình càng khốn.

Nhưng ba hôm nay, mưa gió dầm dề, đứa gái lớn không thể lên núi được, lại lên cơn sốt từ hôm qua. Thằng trai thứ hai cũng bó gối bên cạnh mấy rường câu không làm gì được. Cố lắm đứa gái thứ ba vẫn được mỗi ngày năm xu. Nó lại không mua muối mua dầu nửa. Số tiền ấy phải lấy một ít gạo đem về. Một lít gạo cung cấp cho mười người ăn một ngày ! Bà Tuần bỏ một nửa vào cái nồi lớn, đỗ nước thật nhiều nấu cháo cho cả nhà húp tạm. Sáng nay con bé lại đau. Cả nhà nhao nhao khổ sở

Đã xế trưa mà không có vật gì trong bụng, hai đứa nhỏ khóc sụt sùi. Người đau thì năm thiêm thiếp không thuốc uống, phần đói, sắc mặt xanh nhợt trong rất ghê. Ngồi nhìn cảnh gai đình đang oằn oại trong cơn đau đói, bà Tuần không cầm được nước mắt. Biết làm thế nào ? Xoay trở ra sao đây, bà lặng thinh để cho đau khổ dày vò. Ông Tuần đã hai hôm không hút được một điếu thuốc lá, ngồi đan gượng mấy nếp lờ, lâu lâu lại thở dài

Ngoài trời mưa dầm dề. Trong túp nhà ấy, lạnh lùng khác lạ. Ông Tuần nhìn vợ :

- Mẹ nó bây giờ chưa cơm cháo gì cho chúng ? Đau lại đói thì nguy lắm. Mẹ nó ra đám bắp bẻ hết vào luộc cho chúng ăn tạm đi. Trồng muộn để cũng không được gì !

- Bắp chưa có hột ăn thế nào được ?

- Ấy, nó có chất ngọt trong cùi non ăn đỡ lòng được. Mẹ nó nghe tôi mà !

Thấy chồng quả quyết, bà Tuần đội cái nón lá tất tả ra nương. Ông Tuần cất mấy bếp lờ vào một xó, lấy búa đoạn một khúc cây khô để làm củi chờ vợ đem bắp về. Mưa chiều phong cảnh âm u, buồn não ruột. Bà Tuần bưng nong bắp về đến nhà thì mình mẩy ướt dầm, phải sốt rét vì trúng nước. Thật bối rối như tơ vò ! Lo đánh gió xong cho vợ, ông Tuần nhúm lửa luộc cùi bắp non và hong quần áo ước của bà Tuần.

Gần chạng vạng ông gọi cả nhà ngồi quanh nong cùi bắp, ăn một cách ngon lành với chén mắm kho. Bà Tuần vì cảm nặng không thể ăn được. Cơn sốt rét lên đến cùng độ, không một nhỏ thuốc vào lòng, đến nửa đêm bà trăn trở không yên. Cơn mệt đến từng hồi. Giữa lúc xóm làng xác xơ đói khổ, ông Tuần, không còn phương vay mượn vào đâu. Chỉ ngồi nhìn vợ đang rên la trong tay thần bệnh.

Ông buồn rầu khấn vái Phật Trời cho tai qua nạn khỏi. Bà Tuần mỗi lúc yếu dần. Nhà tối ôm không ánh sáng. Rờ trán vợ, ông ái ngại vô cùng. Tiếng bà Tuần rên mỗi lúc một nhỏ. Cả nhà điều thiêm thiếp không hay gì cả.

Gió mưa càng rầu rĩ. Bà Tuần đã hấp hối, thở gấp một hồi rồi tắt thở. Nhà không có chút lửa. Ông Tuần chùi nước mắt mấy lần, rồi lay gọi các con :

- Mẹ chúng bây mất rồi, dậy đi con ơi !

Lũ trẻ nghe gọi vùng dậy xúm quanh xác mẹ, òa lên khóc. Thật là cảnh não nùng giữa đêm mưa bão.Ông Tuần phải sang hàng xóm mượn đèn. Rồi, xung quanh người chết, những tiếng khóc cứ âm thầm nức nở dưới ngọn đèn lu mờ như sắp tắt. Đó là những tiếng than thở đau buồn của những cõi lòng khốn khổ không biết ngày mai !

Và ngày mai của gia đình ấy lả cả một tang khó, một cảnh đời không ánh sáng.

Mùa nấm

Ở vào cái tháng

chưa nằm đã sáng này

mà đoán thời tiết qua cánh chuồn chuồn thì cầm bằng trớt he! Bởi vì trời thoáng rào thoáng tạnh làm như ai rãnh đem chậu nước ra tạt chơi giữa lúc nắng. Tháng 5, nếu phơi quần áo sợ ướt thì cứ chạy ra chạy vô … mệt nghỉ! Cũng như đi đường gặp mưa nếu sợ ướt dừng lại mặc áo mưa thì chắc cũng phải bực mình cởi ra cởi vô đến rách.

Tháng 5, ở đồng bằng ngoài việc chờ cơn mưa mùa đẫm nước để trục đất cho tơi, đợi ăn tết nửa năm rồi cấy, thì còn cái háo hức hơn đó là chờ nhổ nấm mối. Bởi tháng 5 cũng là mùa nấm mối.

Đó là nói lúc làm lúa một vụ. Hồi đó thời gian nông nhàn kéo dài, nông dân chỉ lo

o bế

lại mấy cái lạch nước chờ những trận mưa nhận hầm bắt cá. Còn dân miệt vườn (mà theo tuồng cải lương Tiếng Hò Sông Hậu chỉ

ngồi không hái trái thì hết

đường tương chao!); thì cũng ngại đi chơi vì thời tiết lúc nắng lúc mưa bất chợt dễ bị cảm ho còn khí hậu thì oi nồng bức bối. Chỉ có nước qua vườn hàng xóm lùng sục nấm mối!

Chính cái thời tiết oi nồng khó chịu, thất thường của tháng 5 đã làm cho… đất ngộp, những meo nấm vùi trong đất có ẩm độ cao mà sản sinh ra nấm. Thứ meo này từ những ổ mối già sâu chừng mươi phân dưới mặt đất, bầy mối khoét lỗ hình tròn nên ổ mối cũng theo đó mà phát triển, người ta gọi đó là phổi mối!.. Nhiều ổ phổi mối già nối tiếp nhau hình thành gò nấm có khi lớn bằng chiếc chiếu đôi, kéo dài một vạt bờ vườn. Đi nhổ nấm mối mà gặp gò nấm như vậy thường phải lấy rổ xúc mà đựng.

Hồi đó chưa ai nghiên cứu xem nấm mối độc hại hay bổ dưỡng thế nào nhưng thứ nấm chỉ có theo mùa này ăn ngon phải biết, người ta có thể chế biến nhiều kiểu khác nhau… nhưng kiểu gì thì hương vị của nó bốc lên khi nấu chín thì khó mà cưỡng lại việc mau mau … ngồi vào mâm. Đơn giản nhứt là món canh, với rau gì cũng được, chẳng cần dầu mỡ làm chi cho tăng lượng cholesteron (!), chẳng cần bột ngọt hay bột nêm từ thịt làm chi cho nó báng mùi mất ngon mà chỉ cần một chút muối ớt nêm vào là đủ ngọt tô canh. Còn xào với các thứ rau vườn hoặc kho tiêu thì ăn cơm cũng…

bắt

lắm. Mấy tay nhậu thì chế biến kiểu cọ hơn – nói vậy chớ thực ra chỉ tốn thêm chút ít công phu để làm món nấm mối gói lá cách nướng hay băm khúc chiên hột vịt. Chọn tay nấm mới vừa lú lên khỏi mặt đất, cái tán dù chưa kịp nở, cái chột cỡ ngón tay cái, rửa sạch dùng miếng lá cách vừa độ già mà gói lại, rồi nướng riu riu trên lửa than. Nấm mối tiết ra nước tự làm chín nó, canh chừng tay nấm vừa chín tới thì lấy ra thổi

nguồi nguội

rồi chấm muối ớt mà ăn. Hãy nín thở một chút để cảm nhận cái vị ngọt của nấm, mùi thơm chan chát của lá cách, lắng nghe tiếng giòn giòn của chột nấm lọt qua kẽ răng cùng vị cay cay mằn mặn của muối ớt; mà theo mấy tay sành ăn thì phải là muối hột mới ngon! Mấy bà nội trợ thì cũng “sáng tạo” không kém cho cái món nấm cả năm chỉ có một lần này. Ngoài món nấm mối chiên bánh xèo thì các bà còn chế biến món nấm mối

um

lá cách nước cốt dừa, nấm mối bằm chưn với mắm, nấm mối nấu canh hay xào với măng tre

mạnh tông,

 

nước cốt dừa, lại thêm chút bột nghệ cho nó màu mè vậy mà ăn mấy

tượng

cơm cũng nghe chưa no!

Người miền Tây vốn quý trọng nhau, ngày thường ngại phải đi vào

lãnh địa

của nhau nhưng đến mùa nấm mối thì chuyện sáng sớm lén lùng sục trên đất người khác là chuyện bình thường. Chim bay trên trời ngang đất nhà anh có thể nói là chim của anh nhưng nấm mối mọc ngay trên đất nhà mình thì không thể nói là của mình được. Bao nhiêu đời nay, chuyện tìm nhổ nấm mối đã thành quy ước bất thành văn cho nên nếu phát hiện trong vườn nhà mình có gò nấm thì phải ráng mà giữ. Có người đi săn nấm mối lâu năm làm sổ sách hoặc ghi chép trong đầu rất kỹ, gò mối ấy là nấm cơm hoặc nấm nếp, mọc vào ngày giờ nào, diện tích gò nấm, thu hái được bao nhiêu… còn kỹ hơn nhớ ngày giỗ của ông bà. Có người, trong vườn nhà có gò nấm nhưng chậm chưn không năm nào nhổ được một tay nấm nên tức khí đem cuốc ra băm nát chỗ đất ấy. Lũ nấm “kỵ mùi kim loại” nên bỏ đi. Có người nâng niu đào cái phổi nấm về chôn ở vườn nhà những mong khỏi đi xa mà vẫn có nấm thu hoạch nhưng nào có được… Đủ biết nấm mối có sức

cám dỗ

cỡ nào!...

Về sau, các nhà khoa học nghiên cứu làm ra loại meo nấm mối nhân tạo cấy trong các giá thể nên có nấm hái quanh năm. Nhờ vậy mà giá nấm mối không đến nỗi… biết bay! Nhưng vào tháng 5, giá một ký nấm tươi nhổ từ đất cũng tương đương một ký thịt bò Úc. Mà, không phải lúc nào cũng có để mua! Muốn ăn phải dặn trước…

Người ta nói nấm mối có ma, cũng gò mối nằm đó mà người nặng bóng vía dù có đi ngang đạp nát vẫn không thấy. Chỉ những ai hạp vía thì nấm mới cho thấy, chuyện này ai cũng nói nhưng không lý giải được tại sao, mà điều này cũng tốt vì hạn chế được những xung đột do tranh chấp. Nhưng nếu để ý thì thấy vòng đời của nấm mối rất ngắn, vừa ngoi lên mặt đất, bung tàng được một lúc đã ngã màu vàng và thịt nấm đã nhũn ra do một loại dòi làm cho thối rửa. Tháng 5, ẩm độ cao nên nấm mọc nhanh, có thể người đi trước qua đó mươi phút thì chẳng thấy gì còn người đi sau ít phút lại nhằm lúc tay nấm…

đội mồ!

Tháng 5, rào tạnh những cơn mưa không làm được việc gì ngoài trời liên tục nghĩ cũng bực mình, nhưng cũng có nhiều người cố gắng thu xếp thời gian, công việc để tìm về quê nơi có mùa nấm mối, tìm về những món ăn dân giả làm từ nấm mối mà bây giờ đã trở thành món đặc sản không dễ kiếm!

Rau rừng chấm mắm cua ở Gia Lai

Tôi vừa làm một chuyến du lịch các tỉnh Tây Nguyên. Đến Pleiku chơi, ghé thăm các học trò cũ bây giờ là những quan chức có cỡ của thành phố Pleiku, của tỉnh Gia Lai. Được tiếp đãi rất nồng hậu: ở nhà khách thành phố, có xe con đưa

 đi tham quan, ngày ba bữa đến các nhà hàng sang trọng ăn uống. Thức ăn thì nhiều, đủ thứ cao lương mỹ vị, nhưng ngay từ đầu tôi thích nhất món rau rừng chấm mắm cua thơm ngon, hấp dẫn. Mấy ngày ở đây, dù ăn ở nhà hàng nào, tôi cũng đòi có món này, ăn không biết chán.

Từ đọt rau rừng bình dị, làm nên

món rau xanh luộc. Những đọt lá xanh ngăn ngắt,

 khá giống rau lang ở miến xuôi, nhưng có vẻ cứng cáp, tươi non, hấp dẫn hơn nhiều.

Khi hỏi tên nó thì mấy cô phục vụ 

chỉ biết đáp gọn: “Rau rừng!”. Tôi đã xuống bếp, xem kỹ những ngọn rau sống. Đọt rau xanh tươi bắt mắt, ngửi thử: thơm nồng, đậm!

Nhưng rau rừng là rau gì? Theo hình dáng thì loại này rất giống rau lủi, vốn là đặc sản chỉ có ở vùng rừng Trà My (Quảng Nam), nhưng xét về hương vị, rau rừng Gia Lai thiếu đi chất nhớt và cả vị thuốc, dù độ giòn ngọt thì tương tự.



Có người lại cho rằng nó na ná rau tàu bay hay đọt dớn… Vừa ăn, chúng tôi vừa tiếp tục đoán mò về gốc gác của thứ rau ấy, nhưng rồi nhất trí rằng có lẽ cứ gọi theo đúng cách của người Gia Lai là hay nhất: rau rừng!

Theo lời người dân địa phương, rau rừng “rộ” ở Gia Lai chỉ khoảng chừng hơn một năm trở lại đây, trước đây là món “chống đói” của bộ đội Trường Sơn.

Được trồng khá rộng rãi nên ở đâu cũng có, lúc nào cũng có, nhưng rau ngon nhất là ở đầu mùa mưa, khi cây nảy những đọt non xanh mướt, bóng lưỡng. Nó gắn liền với chất rừng núi của vùng Gia Lai nên người phương xa ghé Gia Lai,

 muốn tìm thứ gì đó mới lạ cho bữa ăn thì được giới thiệu ngay.



Nghe nói rau rừng đã có mặt cả trong các siêu thị ở Pleiku, được bán với giá khoảng hơn ba chục ngàn đồng một ký.

Chất rừng ở loại rau này không nằm ở sự ngon ngọt mà ở vị mát, dù ban đầu cứ tưởng nó chẳng có mùi vị gì. Rau rừng còn ngon ở độ giòn, giả như có nấu quá lửa thì vẫn không bị nát. Cách chế biến ngon nhất là luộc hoặc xào tỏi, chấm với mắm cua (làm từ cua đồng giã nát, lọc xác vắt lấy nước rồi phơi nắng) màu nâu đất ánh sắc vàng gạch, mặn mòi.

Khẳng định như thế vì món rau này từng được mang ra “thí nghiệm” với tất cả các loại nước chấm, kể cả muối tiêu chanh, nhưng không có loại nào vượt qua được mắm cua” (Trích Việt Báo 16.10.2010)

Đúng! Rau rừng chấm mắm cua ăn rất khoái khẩu, ăn mãi không biết chán. Nhưng mắm cua ở Pleiku không ngon lắm, chỉ là một thứ nước đen, nhờ nhờ. Rau rừng này mà đem về trồng được dưới xuôi, đến bữa cơm, đem luộc chấm với mắm cua đồng tươi hay để chua của vùng Tuy Phước, Bình Định của tôi thì không biết sẽ ngon đến độ nào! Rau rừng giòn, mềm ngọt, thơm ngon chấm với mắm cua đồng béo ngậy, thơm lừng, ăn đứt các món đặc sản từ rừng xuống biển mà tôi đã thử qua!

Hôm đó cậu tài xế của Chủ tịch Thành phố Pleiku nói nhỏ với tôi: “Hôm nào bác về, cháu sẽ tìm cho một bó rau về dưới trồng thử!” Hôm về, lại quên mất. Tiếc ghê! Nhưng rau rừng mà trồng ở đất miền xuôi, cũng chưa biết có ngon không? Dù sao các nhà làm vườn cũng nên trồng thử, nếu thành công, nhà nông sẽ có một món thu nhập khá đấy!

Phần I : Tình Mẹ - Thân cò



T

hử hỏi ai sinh ra trên đời mà không có một miền quê, một nơi chôn nhau cắt rốn, một vùng trời đầy ắp những ký ức vui buồn, sướng khổ của thời thơ ấu. Tôi cũng không nằm ngoài cái lẽ tự nhiên ấy .



Nơi tôi sinh ra là một xã trung du của miền đất văn vật Hương Sơn - Hà Tĩnh. Miền quê yêu thương được trang điểm bởi một dãi lụa uốn cong mềm mại, đó chính là dòng Ngàn Phố trong xanh hiền hòa, từ ngàn đời nay nay ôm ấp quê tôi như vòng tay người mẹ mở rộng ôm ấp chở che tưới mát cho những đứa con thân yêu ở miền gió lào nắng cháy. Tôi sinh ra trong một gia đình hiếu học nhưng lại nghèo nhất nhì trong xóm. Tuổi thơ tôi gắn liền với lưng bò, cánh diều, tay lưới, cái nơm, cái nhủi, cái giỏ và những mớ cần câu đủ kích cở phục vụ cho từng loại cá. Mẹ tôi - một con người hiền hậu, lam lũ, cả đời mẹ chỉ biết chắt chiu cho chồng con, không dám dành một chút gì hơn cho riêng mình. Bố tôi thời kỳ cải cách (nghe kể lại) bị bọn cơ hội vu cho là địa chủ, cường hào đem ra đấu tố, thu hết của cải, ruộng đất chia cho dân nghèo. Có một câu chuyện bi hài mà bây chừ người ta vẫn kể lại - khi đấu tố người đàn bà (em họ của Bố tôi) vừa dụi vào mặt Bố tôi vừa nói:

- Khi mày còn nhỏ tao bế mày cho mòn cả hông - (Nhưng thật trớ trêu là bà ta ít thua Bố tôi những 20 tuổi, cho nên đến bây giờ những người chứng kiến thỉnh thoảng vẫn còn nhắc đến).

Rồi đến lượt người ở của gia đình tôi đấu - Ông ta dúi nhẹ Bố tôi nói :

- Khi ở với mày, tao đi cày về mày nấu cơm, làm thịt gà bắt tao phải ăn, mày bắt tao phải lấy vợ, mày làm nhà bắt vợ chồng tao ra ở riêng ...



Vì thực tế là ông ta được Bố tôi nhận làm con nuôi, cho vườn, lấy vợ làm nhà giống như con cái trong nhà. Cái tâm của ông ta không muốn đấu tố, nhưng nếu không đấu thì bị qui tội cấu kết với cường hào địa chủ, nên khi đấu xong về nhà ông ta đã nhịn ăn và khóc cả ngày, hiện ông vẫn còn sống và tôi được nghe từ miệng ông ta kể lại.



Sau khi cách mạng sửa sai, phục hồi danh dự thì gia đình tôi chẳng còn gì cả. Bố tôi buồn phiền, mất hết niềm tin ở con người, ông ốm đau thường xuyên và mất năm 81.



Nghề cá là cái nghề mà ngày ấy cả làng tôi từ già đến trẻ đều đánh bắt rất giỏi, vì hồi đó cá nhiều mà gạo thì không có, do làm ăn tập thể hay còn gọi là thời kỳ bao cấp. Mỗi nhà được cấp một cuốn "sổ mua hàng", có khi phải mất cả ngày xếp hàng nộp sổ mới mua được một bao diêm hoặc lít dầu hỏa. Nói chung tất tần tật đều phân phối theo tiêu chuẩn. Còn về quần áo thì 1 năm mỗi người lớn chỉ được phát 4m phiếu vải ,trẻ em 2m có nghĩa là được mua tương đương 4m vải một năm. Bạn thử nghĩ xem may được mấy bộ quần áo. Thôi tôi không nhắc chuyện bao cấp này nữa kẻo buồn.



Vì thương Mẹ nên anh em tôi đứa nào cũng chịu khó bắt thêm con cua, con cá về để mẹ đi chợ bán kiếm chút tiền lẻ, con nào tươi ngon thì đem bán, con nào ươn thì kho ăn. Mẹ tôi ngoài việc làm đồng áng với bà con xã viên thì bà rủ một số người trong làng chạy chợ buôn bán . Nói là buôn bán cho oai vậy thôi, chứ chỉ có ai quá nghèo, chịu đựng được gian nan vất vả thì mới dám chạy chợ. Bởi vì cứ 1-2 giờ sáng Mẹ tôi đã dậy, quảy đôi gióng đi bộ lên chợ trên (chợ Rạp) hơn 10km (nên nhớ là đi chân trần) đón mua chè xanh - Ở quê tôi hay uống chè xanh người ta bó thành từng bó khoảng 1kg đem bán ở chợ. Mua xong chè khoảng 4-5 giờ sáng, lại lo tất tả chạy về, trên vai gánh khoảng 70-80 kg - Không nói dóc đâu các bạn ạ, tôi còn nhớ như in gánh chè của Mẹ tôi phụ nữ trong làng không một ai gánh nổi. Khi về khổ gấp ngàn lần khi đi, trên vai đã nặng lại không dám đi đường cái mà phải xắn quần lội tắt giữa bờ ruộng, hoặc đi trùng triềng ven bờ sông, vì sợ phòng thuế rình bắt là họ tịch thu hết - coi như trắng tay. Hơn nữa phải về cho kịp để đi làm đồng với bà con nếu không sẽ bị kiểm điểm. Chiều tối làm đồng về lại Mẹ lại ngồi xỗ cả gánh chè ra bó lại, bớt mỗi bó một tý để gom lại được nhiều bó hơn, nửa đêm lại gánh đi đem xuống chợ dưới (chợ Hôm Đức Thọ) bán - Cách nhà tôi hơn 20 cây số. Cái thời này ngăn sông cấm chợ triệt để luôn, đi buôn bị coi là thành phần tiểu tư sản. Những ngày trời nắng ráo còn đỡ, chứ trời mưa xuống là bùn lút mắt cá chân , cả tháng không khô, đường giao thông ngày xưa nó thế đấy. Có một kỷ niệm buồn mà nó sẽ đi theo tôi đến hết kiếp người, kể cả Mẹ tôi mặc dù bây giờ đã hơn 90 tuổi nhưng bà vẫn nhớ như vừa mới hôm qua, mỗi khi con cháu sum họp bà lại đem ra kể cho mọi người nghe - Hồi đó tôi đang học lớp 4, Mẹ thì khoảng trên dưới 50 một tý, khoảng tháng 11 trời rét cắt da cắt thịt, buổi tối Mẹ thơm tôi một cái, ôm tôi vào lòng âu yếm nói :

- Hai tháng nay Mẹ không bị phòng thuế bắt nên có dư được mấy đồng mẹ sẽ mua cho con bộ quần áo mới để mặc tết, kẻo không may đến tết phòng thuế nó bắt hết tiền không có mà mua. Con có ưng đi đêm nay Mẹ cho đi chợ Thượng để đo mà mặc cho vừa, kẻo lâu nay con trai út của Mẹ toàn phải mang đồ thừa của hai anh (hai anh mang lâu nên ngắn và chật ,có cái đã rách vá mấy miếng nhưng tôi vẫn phải mang lại, Mẹ rất khéo tay trong việc khâu vá).



Khỏi phải nói đến cái độ vui sướng của tôi, tôi cứ tưởng mình như đang bay trên trên chín từng mây, tối đó tôi không tài nào ngủ được. Cứ nghĩ đến ngày thứ 2 đi học diện bộ cánh mới chắc chắn lũ bạn không dám gọi tôi là "chuyên gia đồ vá" nữa, nằm trông cho thời gian trôi thật nhanh để Mẹ gọi dậy đi chợ.

Tưởng tượng mãi rồi cũng đến lúc gà cất tiếng gáy, nghe tiếng Mẹ trở mình là tôi bật dậy ngay. Vì tôi luôn ngủ bên Mẹ kể cả những năm học cấp 3, làm gì có chăn chiếu mà ngủ riêng cơ chứ (và bây giờ cũng thế, mỗi lần về quê tôi lại rúc vào giường của bà để ngủ). Thấy tôi bật dậy nhanh nhẹn Mẹ chửi yêu:

- Thằng chó nóc mừng quá không ngủ được à?

Rồi Mẹ dậy bắc lại cơm cho nóng, vắt dưa trong vại ra đĩa xúc cho tôi ăn, còn Mẹ ăn mấy củ khoai chuối nguội đã được nấu từ đầu hôm - trước khi Mẹ đi ngủ. Mẹ lấy cái áo trấn thủ của anh cả hay mặc mang thêm cho tôi, và quàng lên cổ tôi cái khăn làm bằng dù pháo sáng. Mấy bà bên xóm cũng đã gọi, lúc này khoảng 1 giờ 30 sáng. Trười mưa phùn gió lạnh thấu xương, đường trơn như đổ mỡ, bùn lầy lút mắt cá chân, Mẹ bảo tôi bỏ dép vào gánh khi nào đến chợ rửa chân rồi lấy ra mang. Từ nhà tôi xuống chợ khoảng 20 km, mặc dù xác định là vất vả nhưng tôi vẫn rất hăng hái. Do sợ bị bắt nên cả đoàn 4-5 người không dám đi chung mà đi cách nhau chừng 200m không có đèn đóm gì cả, đã thế lại đi đường nhỏ ven bãi sông chứ đâu dám đi đường cái. Tôi lẽo đẽo đi sau mẹ cứ trượt ngã oành oạch, mẹ cũng mấy lần suýt ngã. Tôi cứ thầm cầu mong Mẹ đừng có ngã, vì sợ cái gánh chè nặng kia nó đè lên người mẹ. Trầy lên trượt xuống mãi rồi mẹ con tôi cũng đến bến đò, cách nhà khoảng 4 km. Mẹ dặn tôi đứng chờ để mẹ gánh hàng lội qua sông rồi quay lại cõng tôi qua, nước cạn chỉ quá đầu gôi Mẹ một tý. Trời tối đen đứng một mình sợ lắm, nhưng thấy Mẹ vất vả nên tôi vừa run vừa dạ cho Mẹ yên tâm. Khoảng 15 phút Mẹ quay lại cõng tôi sau khi đã giấu gánh chè cẩn thận vào dưới bụi tre. Cõng tôi trên lưng Mẹ hỏi:

- Con có mỏi chân không?

- Con không mỏi nhưng ngã đau và bẩn áo quần hết rồi Mẹ ạ!



- Được rồi sang bên tê Mẹ con mình sẽ lên đường quan đi cho con khỏi ngã, Trời mưa lạnh thế này chắc bọn phòng thuế cũng không rình mô, con cố gắng đi xuống đến chợ có bánh đúc, bánh ướt ưng ăn chi Mẹ mua cho.

Nghe Mẹ nói đến bánh tôi nuốt nước miếng đánh cái ực!!!

Mẹ không ngớt lời động viên vì sợ tôi khóc. Sang bên kia sông sợ tôi ngã nên Mẹ tôi đưa tôi lên đường cái đi thật, vì thương con mà Mẹ bất chấp cả mối nguy hiểm của phòng thuế. Đúng là đi đường cái dễ đi quá, tuy vẫn bùn lầy nhưng không trơn như ven bãi sông.

Mà lại sáng hơn tý chút. Đi được khoảng 500m hai Mẹ con đang mò mẫm giữa bùn lầy, đến đoạn giáp ranh giữa 2 xã Sơn Mỹ và Sơn Hà thì bỗng từ hai bên đường có mấy ánh đèn pin quét ra, cùng lúc với tiếng hô:



- Đứng lại!

Mẹ tôi đứng như trời trồng, chỉ thốt được một câu:

- Chết rồi phòng thuế con ơi!!!

Bốn bóng đen như những hung thần, từ trong bụi cây lao ra chắn ngang đường đi của hai con người khốn khổ - Đó là mấy ông phòng thuế bằng xương bằng thịt, nhưng trái tim họ lại được làm bằng gỗ đá.
Họ lập biên bản để tịch thu gánh chè lá của Mẹ tôi. Mặc cho bà quỳ xuống dưới chân họ van xin rồi chắp tay lạy:

- Tui lạy các chú! Nhà tui cực quá không đủ ăn nên tui phải đi kiếm bát gạo về nuôi cháu, thằng ni ( mẹ chỉ vô tôi ) quần áo rách hết cả nên tui cho hắn đi theo xuống chợ mua cái quần để về mặc đi học, các chú soi đèn mà coi!!! Bà vừa nói vừa khóc làm tôi cũng khóc theo .

Mấy vị phòng thuế đó soi đèn lên người tôi, quả thực lúc này tôi đang mặc trên người cái áo trấn thủ rộng thùng thình cũ mèm, vá ba bốn chỗ, và cái quần đùi nâu không thể cũ hơn được nữa, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, phần vì thương Mẹ phần vì rét. Không một chút nhíu mày, bằng một giọng vô cảm ông tổ trưởng quát lên :



- Không xin xỏ chi hết! Đưa về đội!



Mẹ tôi lần mở cái ruột tượng, lấy ra một tờ giấy nâu được gấp kỹ sau mấy lớp giấy bóng, hai bàn tay xương xẩu của bà vuốt vài lần cho phẳng tờ giấy một cách trân trọng rồi quỳ xuống giữa bùn lầy, run run đưa bằng cả hai tay cho kẻ vô cảm vừa khóc vừa nói:



- Chú ơi! tui là mẹ liệt sỹ, đây là giấy báo tử của con trai tui, vì hoàn cảnh cơ cực mà tui phải chạy chợ như ri, mong các chú thương tình mà tha cho mẹ con tui, tui xin đội ơn suốt đời.

Trời ơi! Mãi sau này lớn rồi tôi mới biết, kể từ khi báo tử anh tôi năm 1973, Mẹ luôn cất cái giấy đó trong người, Mẹ coi cái giấy báo tử như một di vật duy nhất, là linh hồn của anh nên đi đâu mẹ cũng mang theo.



- Cứ về đội đã rồi xét sau.



Lại cái giọng vô cảm ấy vang lên một cách khô khốc và nhẫn tâm.

Hai Mẹ con tôi chẳng còn làm được gì hơn, ngoài việc lẽo đẽo đi theo những ông thuế làm bằng gỗ đá kia về đội, vừa gánh đi mẹ tôi vừa khóc như ông ngoại mất - trông thật là thảm thương, bởi cả nhà trông vào gánh chè trên lưng mẹ.

Tôi xin cam đoan với các bạn rằng nếu sự việc này diễn ra sau đó khoảng 10 năm, nghĩa là tôi đã lớn hơn một tý - thì chắc chắn rằng tôi phải ngồi đếm lịch, còn hai hàng tiền đạo của kẻ vô cảm kia sẽ nhảy hẳn ra khỏi vị trí thường trực của nó mà nằm la liệt giữa đường và hắn sẽ phải gặm xương bằng hai cái hàm đỏ lòm mà bác sỹ nha khoa gọi bộ phận này là "nướu" .

Sau vụ mất mát này gia đình tôi lại càng khó khăn, Mẹ không còn vốn để đi buôn, tết đến cận kề nên Mẹ tôi đưa ra một quyết định táo bạo là: bán đi con lợn đang nuôi, chuẩn bị phải cân nhập nghĩa vụ cho nhà nước, để lấy tiền may áo mới cho con cái, còn bao nhiêu thì lo tết . Mặc dù sau đó bị chính quyền xã kiểm điểm nhưng Mẹ đã cài số lỳ vào rồi, không bận tâm nữa - Chả là ngày xưa mỗi lao động một năm phải nộp mấy chục ký heo hơi làm nghĩa vụ cho nhà nước, nếu còn thừa thì mới được bán ra ngoài, nếu không sẽ bị kiểm điểm. Ngày đó hai từ "kiểm điểm" nghe rùng rợn lắm.



Đây là sự thật 100 phần trăm, đó là ký ức buồn của tôi, nhưng nhờ nó mà tôi hiểu được tấm lòng bao la trời biển của mẹ, đối với tôi bây giờ và mãi mãi Mẹ là tất cả.



Nếu quí vị không chê tui lắm điều thì xin hãy góp ý để tui viết phần tiếp theo. Đó là nguyên nhân vì sao câu cá lại trở thành sự đam mê của tui từ thưở chăn trâu cắt cỏ !!!...!!!...!!!...!!!

Phần II : Đặc sản mục đồng




T

ôi luôn tự hào về dòng Ngàn Phố, thường nói với bạn bè rằng: Dòng sông quê mình chẳng khác gì "con sông quê hương"của nhà thơ Tế Hanh. Suốt bốn mùa dòng sông tưới mát tâm hồn thơ trẻ, gột rửa và cuốn trôi bụi bặm sau mỗi ngày lam lũ, nó mang trong lòng mình những kỷ niệm buồn vui,những miền ký ức sâu thẳm của tuổi thơ tôi xuôi êm ả theo dòng trôi miệt mài năm tháng. Bọn trẻ quê tôi thời đó đứa nào cũng bơi lặn như rái cá, bởi về mùa hạ được nghỉ hè hầu như không ngày nào chúng tôi vắng mặt trên trên dòng sông,cùng nhau bơi lặn, nô đùa giữa dòng nước mát trong. Bây giờ mỗi lần về quê tôi lại quặn thắt lòng, khi thấy dòng sông vắng vẻ, trẻ con bây giờ chẳng mấy đứa biết bơi lặn,vì cha mẹ chúng sợ con chết đuối nên không được tự do như thời chúng tôi. Nhưng họ không hiểu rằng cấm đoán như vậy làm cho con mất đi một cơ hội sống sót, nếu không may có lúc bị trôi trong dòng nước.



Tuổi thơ của tôi gắn liền với con cua, con cá, nên nghề tôm cá trên sông và đồng ruộng đánh bắt kiểu gì tôi cũng làm được, thậm chí còn giỏi hơn những đứa bạn cùng trang lứa nữa là khác. Những lúc chăn bò đông vui chúng tôi thường phân công nhau đứa đi hái củi, đứa đi mò cua bắt cá về nhóm lửa nướng để cùng ăn. Nếu là mùa hạ, tôi chỉ cần nhảy ùm xuống dòng sông một lúc là đã có được thứ mà cả bọn cần. Thuở ấy tôi thuộc đáy sông còn hơn cả lòng bàn tay của mình, trên chiều dài bãi sông nơi chúng tôi hay chăn bò khoảng chừng 2km, không có gốc tre, hang đá nào dưới đáy sông mà tôi không biết. Ngày ấy tôm cá còn nhiều cứ lặn xuống thò tay mò vào các hang hốc hoặc các gốc tre bị lũ cuốn chìm dưới lòng sông, thì tha hồ bắt tôm càng, có khi còn bắt được những chú bống lồi to bằng cổ tay và một số loài cá khác hay túm cổ được một vài lão ba ba 1-2 kg là chuyện thường tình. Tất cả đều được cho vào đống lửa nướng chín. Nhưng cấm tuyệt đối không ai ăn trước, mà phải chờ chín hết rồi đếm con đem chia cho đầu người, những chú cá to hoặc ba ba thì xẻ ăn chung. Muối ớt luôn được giấu vào hốc cây đa ven bãi. Nghệ thuật nướng tôm cá của lũ mục đồng chúng tôi xem ra không thua đầu bếp hotel là mấy. Nếu là tôm thì chọn chổ than đượm nhất cho tôm vào, tôm vừa đỏ au là gạt ra ngay, thổi sạch rồi đem chấm với muối hột trộn ớt xanh thì ôi thôi rồi! Nó vừa thơm ngọt vừa béo ngậy, bởi tôm tươi quyện với vị cay nồng của ớt, vị mằn mặn của muối, làm cho cái bụng của lũ mục đồng lao xao, yết hầu đứa nào cũng chạy lên chạy xuống bởi những cục nước bọt cứ tuột dốc không thể phanh lại.



Khi có cá thì phải vất vả hơn, làm sạch ruột, hái rau thơm nhồi vào bụng, dùng lá bí đỏ quấn ba bốn lớp, rồi bỏ vào bếp, lật qua lật lại khi nào cháy hết lớp lá, da cá sém vàng là gạt ra. Gia vị cũng chỉ là muối ớt "truyền thống" thôi, nhưng sự hấp dẫn thì không ngôn từ nào tả cho hết, hương thơm vị béo thấm đến từng kẻ răng. Ăn xong hết rồi nhưng những cặp mắt mục đồng chăm chăm nhìn vào đống xương trắng, với cái nhìn đầy tiếc nuối, dẫu có dùng kính lúp soi nửa ngày cũng không thể phát hiện một mẩu thịt cá, dù đường kính chỉ bằng con vi khuẩn dính trên xương. Thế là có đứa chịu không nổi nhặt mấy cái xương sống cho vào bếp nướng lại cho giòn rồi nhai rum rúm.



Còn lúc những chú ba ba vô phúc nào rơi vào cái vòng oan nghiệt lũ mục đồng giăng ra, thì hôm đó là một bửa đại tiệc thịnh soạn của bọn trẻ, mà đến vua chúa cũng phải mơ ước. Trước hết chúng tôi dùng hai cành tre tươi buộc ngang ép hai bên nó cho thật chặt, hai đứa giữ hai bên hơ trên bếp lửa than hồng, khi ba ba đã chết hẳn, đem xuống mổ lấy ruột vứt đi (trừ tim gan lại), cắt thịt thành miếng bằng ba ngón tay, cả phần mềm của mai, dùng muối ớt và vài củ hành tăm (nén) đâm nhỏ bóp kỷ. Sau đó lấy lá nghệ vấn kín, rồi bọc thêm vài lớp lá bí đỏ, xiên vào cành tre tươi cho lên than hồng mà nướng, khi nào cháy hết lá ngoài thì được. Lúc đưa thịt ra khỏi bếp, hơi nóng nghi ngút, mùi thơm tỏa ngào ngạt..

Ực...ực...ực...ực... Cục yết hầu của lũ mục đồng lúc này chẳng khác gì cái con thoi trên khung cửi đang dệt vải, những cặp mắt thèm thuồng hau háu nhìn đổ dồn vào tấm lá chuối trải trên bãi cỏ - nơi mà tưởng như tất cả các món ăn của cuộc đời chúng tôi sau này đều tập trung vào đó. Như để biết ơn, lúc nào bọn nó cũng cho tôi nhiều hơn một tí, tôi cũng lấy đó làm vinh hạnh lắm.


Những hôm nước sông to quá không bắt cá được thì cả bọn lại đi câu hoặc móc cua đồng để nướng. Nếu không thì mỗi thằng một súng cao su đi dọc bãi sông, tìm mấy chú gà trong xóm đi ăn xa nhà, cả bọn vây lại bắn bằng được. Đem về nơi tập kết, khoét sau đít lôi lòng ra làm sạch nhét lại vào bụng, để cả lông, bọc một lớp đất sét dày, quăng vào bếp lửa. Đến khi nào đất sét khô, lên màu khác là lôi ra, dùng que đập nứt lớp đất sét và bóc từng mảng, lông gà dính liền với đất, con gà sạch tưng, thơm ngậy. Cả bọn xé ra chia nhau chấm muối ớt ăn ngon lành. Có đứa ăn xong tối về nhà phát hiện ra lúc chiều ăn gà nhà mình, nhưng đành ngậm bồ hòn chứ biết nói gì hơn.



Lũ mục đồng chúng tôi có những món đặc sản mà ăn từ thuở chăn trâu đến bây giờ tôi vẫn cảm nhận được nó như vừa mới ăn đây thôi. Tôi đảm bảo với các bạn rằng: Khi thấy các món đặc sản của lũ mục đồng thì đến cả hòa thượng "Thích Đủ Thứ" cũng sẵn sàng bỏ cơm chay nhảy ngay vào tôm cá của chúng tôi mà xơi.

Nói vui vậy thôi chứ ngày xưa đói dài cổ ăn cái gì mà chả ngon phải không các vị ?...?...?



Ngày đó nhà máy đường Sông Lam còn hoạt động, nên những triền bãi hai bên sông là những cánh đồng mía ngút ngàn của các hợp tác xã. Hồi đấy trong hội mục đồng chúng tôi có anh Q bố làm bảo vệ hoa màu, anh lớn tuổi hơn nên tất cả những trò tinh quái đều do anh vạch ra cho chúng tôi hưởng ứng. Chả là sát mép sông thường hay có những bụi tre mỡ, giống tre không cao to nhưng cành nhiều tỏa ra xum xuê bằng cả cái nhà, trùm xuống lòng sông. Một hôm anh Q bảo cả bọn:

- Ngày mai mỗi đứa mang đi một cây dao chặt.

Hỏi đem làm gì thì anh nói:

- cứ đem rồi biết, đứa nào không đưa thì cho nghỉ luôn!

Chúng tôi chỉ còn biết tuân theo. Ngày hôm sau khi đã đông đủ, anh dẫn chúng tôi đến bên bụi tre to nhất, cành phủ kín xuống cả mặt nước và bảo:



- Cởi áo quần xuống nước theo tao, chặt khoét vào giữa bụi tre thành một cái nhà, làm xong đã rồi nói sau.

Cả bọn chúng tôi hì hục chặt dọn đến trưa thì được một chỗ rộng khoảng 5-6 người ngồi thoải mái. Cái nhà của chúng tôi chỉ có một con đường độc đạo là lặn từ dưới sông chui lên nên không thể phát hiện. Xong xuôi anh Q bảo:

- Bố tao làm bảo vệ nên tao sẽ theo dõi ông ấy, khi nào tao ra hiệu an toàn là tất cả chúng mày vào chặt mía, mỗi thằng phải chặt được một vác đem xuống nhà cất ăn dần, nhớ là mang đi cả ngọn và chặt tỉa chứ không được chặt một chỗ dễ bị lộ, còn ngọn khi vắng người thả cho trôi sông.

Thế là từ đó về sau cái nhà bụi tre thành kho dự trữ các thứ của lũ mục đồng chúng tôi. Mía thì hết đi là anh Q lại đứng gác cho bọn tôi chặt đem vào. Mùa dưa hấu, các cụ phụ lão xã Sơn Châu ở bên kia sông trồng cả bãi, chúng tôi trộm nhiều quá các cụ nghĩ ra sáng kiến là chôn quả dưa hấu xuống dưới cát. Nhưng "hậu sinh khả úy", chúng tôi phát hiện ra và chỉ cần cầm dây dưa hấu dật lên chỗ nào mắc là lại moi lên thế nào cũng được quả to bự. Vì các cụ thường chọn quả to ngon mới chôn. Rồi mít, vải, bưởi, cam mùa nào thức ấy, chúng tôi đều mang ra đó cất ăn chung. Có một điều lạ là tuyệt đối không có đứa nào dám mang cái gì về nhà, dù là một quả cam. Cái nhà đó tồn tại ba bốn năm trời với tuổi thơ của chúng tôi, cho đến trận lũ năm ấy quá lớn nó cuốn bụi tre sập xuống lòng sông. Lúc này chúng tôi cũng đã tương đối lớn rồi nên không còn ngịch phá nữa, nhưng cuộc sống nghèo khổ thì vẫn bám riết lấy làng xóm và gia đình tôi. Nên tôi vẫn suốt ngày chân lấm tay bùn để mò cua bắt cá phụ giúp mẹ tôi.



Ngày nay xã hội phát triển, cuộc sống đủ đầy, tôi đi nhiều nơi, được ăn nhiều món ngon mà ngày xưa không bao giờ dám nghĩ tới, nhưng thú thực với quý vị cái thằng tôi chưa lúc nào có được cái cảm giác ngon lành, hấp dẫn đến tuyệt vời như những món "Mục Đồng" của tuổi thơ tôi.



(Kính mong quý vị góp ý cho bài viết để tôi có đủ can đảm viết tiếp phần 3 : Nói về các kiểu đánh bắt cá, mưu sinh thời niên thiếu trên sông và đồng ruộng ở làng quê của tôi: Nhọc nhằn tuổi thơ.)

Mùa mưa lũ, lan man về cá ngạnh


Bài : Chautuanvu




1.C

ó lẽ đối với những người dân Quảng Bình quê tôi, từ bao đời nay cá ngạnh là một loài cá rất thân thuộc, thân thuộc như những cái tên rất thân thuộc khác vốn đã từng đi vào ca dao cổ tích như cá trê, cá bống, cá rô đồng .v.v. 



Thuở còn thơ, có lẽ không mấy ai trong chúng ta lại chưa từng một lần được nghe những lời ru à ơi, những câu ca dao ngọt ngào trong đó có nhắc đến tên của những chú cá thân thuộc này từ bà, từ mẹ.

Với những chú cá bống thì vô vàn, nào là :

"Ta về ta sắm cần câu - Câu lấy cá bống nấu rau tập tàng"

(Ca dao); Hoặc :

"Cái bống là cái bống bang - Kéo sảy kéo sàng cho mẹ nấu cơm - Mẹ bống đi chợ đường trơn - Bống ra gánh giúp chạy cơn mưa rào"

(Ca dao); Rồi trong câu chuyện cổ tích "Tấm cám" hình ảnh của chú bống lại xuất hiện thật thân thương, gần gũi :

"Bống bống bang bang - Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta - Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người"

.



Chú cá rô đồng cũng vậy, thuở nhỏ, mấy ai trong chúng ta lại không thuộc, lại không nghêu ngao hát khi cùng chúng bạn nô đùa dưới ánh trăng thanh với làn gió mát quanh gốc đa giếng nước đầu làng những câu đồng dao sau :



"Bao giờ cho đến tháng ba


Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng


Hùm nằm cho lợn liếm lông


Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi


Nắm xôi nuốt trẻ lên mười


Con gà, be rượu nuốt người lao đao


Lươn nằm cho trúm bò vào


Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô


Lúa mạ nhảy lên ăn bò


Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu.


Gà con đuổi bắt diều hâu


Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông"

hú cá trê cũng thế, có câu ca dao rằng :

" Cái ngủ mày ngủ cho ngoan - Để mẹ đi cấy đồng xa trưa về - Bắt được con cá rô trê - Thòng cổ mang về cho cái ngủ ăn"

.



Còn chú cá ngạnh của chúng ta thì như thế nào? Thưa với các bạn chú ta cũng đã xuất hiện ở trong câu ca dao sau :



"Măng giang nấu cá ngạnh nguồn


Đến đây ta phải bán buồn mà vui"



Cây giang là một loại cây rừng cùng họ với cây tre, cây nứa. Thân cây giang nhỏ hơn và mỏng hơn cây tre nhưng khi chẻ ra làm "lạt" (tên gọi loại dây buộc được làm từ thân các loại cây họ tre chẻ mỏng ra, có câu rằng "lạt mềm buộc chặt" là vậy) lại rất mềm dẻo và rất chắc bền còn gọi là "lạt giang" để phân biệt với "lạt tre". Lạt giang là loại dây buộc rất phổ biến ở miền trung, được sử dụng để làm từ việc lớn như làm nhà (nhà tre) để ở đến việc nhỏ như gói bánh chưng bánh tét, buộc chổi quét nhà .v.v. Măng giang tươi muối chua với ớt bay (ớt hiểm) đem nấu canh với cá ngạnh nguồn (cá ngạnh sống ở khe suối đầu nguồn) là một trong những món ẩm thực đặc biệt ở miền trung. Và còn rất nhiều các món đặc biệt khác nữa được chế biến từ cá ngạnh, xin hẹn sẽ được chia sẻ cùng các bạn trong phần sau của bài viết này, ở phần lan man về ẩm thực từ cá ngạnh các bạn nhé.





2.C

á ngạnh, ở miền nam gọi là cá chốt, là loài cá da trơn có họ hàng gần với những anh chàng cá trê có màu da vàng ươm tuyệt đẹp sống trong các vùng ao hồ, ruộng đồng, đầm phá. Là bà con thân thuộc với những chú chàng cá úc, cá ngát có những cái ngạnh cực độc khét tiếng khắp cả vùng cửa biển, cửa sông. Là anh em con chú con bác với những gã cá lăng, cá chiên giang hồ vạm vỡ sống ở những vùng ghềnh thác đầu nguồn mãi tận miền sơn cước. Là cháu chắt gần gũi của những bác cá thiều (cá gúng) mạnh mẽ ở ngoài đại dương mênh mông. Và cả những bác cá bông lau với những cái đuôi vàng khé tuyệt đẹp nữa cũng đều có họ hàng thân thiết với chúng. uy bà con của cá ngạnh toàn là những loài cá lớn và mạnh mẽ, nhưng cá ngạnh lại là một loài cá khá nhỏ con. Khi trưởng thành, trong điều kiện bình thường, chúng chỉ lớn cỡ ngón tay cái của người lớn. Con nào gặp điều kiện đặc biệt ví như sống ở vùng nhiều thức ăn, lớn nhất cũng chỉ cỡ ngón chân cái. Đặc biệt có những con sống lưu cửu lâu năm có thể lớn bằng nửa cổ tay người lớn, nhưng đây là loại rất hiếm khi bắt gặp.



Tuy nhỏ con nhưng cá ngạnh lại có một khả năng rất đặc biệt đó là chúng có thể sống được ở nhiều môi trường sống hoàn toàn khác nhau như môi trường nước ngọt, môi trường nước lợ và thậm chí cả môi trường nước mặn. Chính vì thế nên các bạn cũng đừng ngạc nhiên khi ở những khe suối đầu nguồn cũng có chúng, ở những ao hồ kênh rạch nước ngọt cũng có chúng, rồi cho đến mãi tận những vùng sông nước mênh mông ở cửa sông cửa biển cũng có sự xuất hiện của chúng.



Cũng giống như những loài cá họ hàng của chúng, cá ngạnh cũng có tập tính sinh sống theo bầy đàn. Cá ngạnh thường đi kiếm ăn theo bầy, con này bám đuôi con khác đi theo từng hàng dọc y như những đơn vị bộ đội đang hành quân vậy.



Cá ngạnh là loài cá sống ở tầng đáy và tầng giữa. Chúng rất thích những dòng nước mát, chính vì thế chúng thường hay tập trung thành từng bầy ở các miệng cống hoặc những nơi có nước chảy. Chúng là loài cá ăn tạp, thức ăn của chúng rất phong phú từ động vật, thực vật đến mùn bả hữu cơ chúng đều xơi tuốt. Bộ râu cá ngạnh gồm bốn đôi mọc cân đối xung quanh miệng, chúng không chỉ là bộ phận làm đẹp mà chúng còn là cơ quan khứu giác giúp cá phát hiện ra mùi của thức ăn từ một khoảng cách rất xa. Khi di chuyển kiếm mồi, chúng thường bơi sát đáy, vừa bơi những đôi râu của chúng vươn ra trước khảo sát địa hình địa vật y như những chiếc vòi bạch tuộc. Ở đầu những chiếc râu ấy là những tế bào khứu giác rất nhạy giúp cá xác định được hướng và vị trí của mồi rất hiệu quả.

Cá ngạnh rất nổi tiếng ở những vùng sông nước nhờ ba cái ngạnh rất sắc bén và rất độc của chúng. Tuy không độc bằng ngạnh cá ngát nhưng nếu ai vô ý dính đòn "đánh ngạnh" của chúng thì dù khỏe đến mấy, dù nội công cao đến mấy rồi cũng phải la ... ba làng đều nghe thấy... khe khe... 



Nhân đây các bạn cũng nên lưu ý một chút về những chiếc ngạnh này. Cá ngạnh có cả thảy ba chiếc ngạnh được tạo hóa sắp xếp rất hợp lý để có thể đối phó hiệu quả với những thiên địch của chúng ở xung quanh, gồm hai ngạnh bố trí ở ngay hai vây bơi ở hai bên mang và một ngạnh nằm ngay giữa vây lưng của chúng. 



Thực ra đây là những chiếc xương vây tiến hóa thành ngạnh. Hai ngạnh hai bên có mũi rất sắc, phần thân hơi khoằm khoằm có cạnh hình răng cưa không khác gì một cây quái đao của những đại ma đầu trong ma giới. Chiếc ngạnh giữa lưng chúng hơi khác hai chiếc ngạnh hai bên một chút, chúng thẳng tắp, mũi nhọn hoắt nhô cao như lưỡi kiếm của hiệp khách giang hồ. Tuy hơi khác nhau về hình dạng một tý nhưng cả ba cái ngạnh này đều có một điểm chung, đó là chúng đều được "tẩm" một loại hoạt chất rất độc, có thể gây đau đớn, thậm chí tử vong cho những đối thủ của chúng chỉ trong chớp mắt.



Nhớ lại một buổi sáng nọ, chúng tôi gồm mấy anh em đi câu ở cống Hói Tre. Trong số anh em hôm đó có một anh chàng cao to vạm vỡ, bắp tay bắp chân cuồn cuộn như hộ pháp. Trước khi đi anh ta lại vừa ních đầy một bụng "rượu sáng" nên mày mặt phừng phừng, hùng hùng hổ hổ buông câu như muốn ăn tươi nuốt sống tất cả các loài cá dưới kia kể cả cá mập cá sấu. Khi câu lên được một chú cá ngạnh bé xíu bằng ngón tay, anh ta tỏ vẻ khinh thường nói, đéo mẹ cái con quỷ ni nhỏ mà láo, ăn rồi chuyên đi phá mồi, đã rứa tau bẻ cổ mi một phát cho mi chết toi luôn... Vừa nói đến đó bỗng thấy anh ta vùng nhảy ngược lên như phải bỏng, vừa nhảy vừa la ôi làng ôi nước ơi đau quá đau quá. Cái tay anh ta rảy rảy như đỉa phải vôi, vừa rảy anh ta lại hét váng lên như lợn tạ bị chọc tiết, chết cha tau rồi chết cha tau rồi. Nhảy nhót la hét một hồi cũng mệt, anh ta bèn ngồi phệt xuống đất. Cái mặt anh ta tái mét nghệch ra như ngỗng ỉa. Mồ hôi lạnh toát ra dầm dề trên trán. Chỉ thiếu một tý nữa có lẽ anh ta sẽ chết ngất vì đau. Khe khe...


Ba cái ngạnh nhọn hoắt rất độc của cá ngạnh : hai cái hai bên vây bơi và một cái chính giữa sống lưng


Thì ra anh chàng hộ pháp kia cả đời chưa hề nghe danh tiểu sát thủ cá ngạnh nổi tiếng trong giới "giang hồ" sông nước miền hạ lưu này. Đã thế lại còn cậy khoẻ, thấy chú cá kia nhỏ xíu thì thò tay vào bóp mạnh để gỡ lưỡi cho nhanh, ai dè bị chú chàng đánh cho một nhát ngạnh vào ngón tay cái cả một giờ đồng hồ sau vẫn cứng đơ không thể nắm lại được. Từ đó về sau anh ta cạch mặt hẳn cá ngạnh. Hễ đi câu mà vô tình mắc phải cá ngạnh là anh ta lại chắp tay lại vái, xin thua xin thua, đại ca là cá ngạnh, cá ngạnh là đại ca. Khe khe ...



Có một bài thuốc giảm đau khi bị cá ngạnh hay cá ngát đánh rất hiệu quả, đó chính là bài "dùng mỡ nó rán nó". Khi bị cá ngát hay cá ngạnh đánh, ngay lập tức chúng ta phải nặn hoặc hút sạch máu ở vết thương. Sau đó chúng ta dùng chính bộ lòng hoặc thịt của chú cá vừa đánh chúng ta để đắp lên vết thương thì cơn đau nhức sẽ nhanh chóng được giảm xuống. Đây tuy là cách chữa dân gian, thực hư chưa rõ thế nào?! Nhưng phải khẳng định đây là kinh nghiệm được đúc kết từ lâu đời của những ngư dân sinh sống ở quanh vùng hạ lưu sông Gianh nên chúng ta cũng nên ghi nhớ để phòng khi hữu sự. Mà thường vào những lúc đó, chúng ta lại đang ở giữa sông giữa biển, trên răng dưới dái... nếu không dùng phương pháp này thì biết dùng phương pháp nào hay hơn nữa phải không các bạn? Khe khe...




3.Ở

 vùng hạ lưu sông Gianh, có hai loại cá ngạnh phổ biến là cá ngạnh đen và cá ngạnh vàng. Cá ngạnh đen thường to con hơn, thịt chắc hơn nhưng lại không thơm bằng cá ngạnh vàng. Mùa cá ngạnh đẻ trứng thường vào tháng 7 tháng 8 hàng năm, khi thời tiết nơi đây bắt đầu bước vào mùa mưa lũ.



Cư dân vùng này có rất nhiều cách để đánh bắt loài cá này, đó là thả lưới, đơm nò và giăng câu. 



Đi lưới cá ngạnh phải là người có nghề. Đó không phải là nghề gì ghê gớm mà là nghề ... gỡ cá. Bởi như đã nói ở trên, hai ngạnh hai bên của loài cá này có hình răng cưa, nên khi cả đàn đóng vào tay lưới nếu chúng ta gỡ không có nghề thì một là sẽ mất thời gian, hai là có thể bị rách hết lưới, ba là có thể sẽ bị cá đâm cho què tay liền. Đã có rất nhiều trường hợp cá đóng dày quá, khi gỡ không có nghề đã phải quăng cả tay lưới.



Cá ngạnh có thể câu được quanh năm, nhưng nhiều nhất vẫn là vào khoảng từ tháng 5 đến tháng 10, nhất là sau những trận mưa rào hoặc sau những trận lũ là thời điểm có thể câu cá ngạnh nhiều vô kể. Điểm câu cá ngạnh thích hợp nhất là những miệng cống ngăn mặn có dòng nước chảy. Nếu nước chảy ra chúng ta nên câu ở phía bên ngoài miệng cống (bên nước mặn), còn nếu nước chảy vào chúng ta nên câu phía bên trong miệng cống (bên nước lợ). Các bạn cứ nhằm vào giữa dòng chảy hoặc các điểm nước vầy sát dòng chảy mà buông câu, nước càng chảy mạnh thì cá càng tụ lại nhiều và càng ăn câu nhiều.

Như đã nói ở trên, vì cá ngạnh là loài ăn tạp nên mồi câu chúng rất phong phú. Có thể câu chúng bằng nhiều loại mồi khác nhau, nhưng nhạy nhất phải kể đến mồi trùn, mồi tép hoặc mồi tôm bóc vỏ.



Có nhiều cách dụ cá ngạnh tụ lại để câu rất hiệu quả. Đó là cách dùng mồi xả bằng bột tép khô nhồi với bùn hoặc dùng ruốc xả trực tiếp xuống điểm câu. Ngoài ra, dân gian còn có bài khi câu, lâu lâu dừng lại dùng đầu cần câu ngoáy ngoáy trực tiếp xuống điểm câu tạo tiếng động để dụ cá ngạnh tụ lại. Cách này cũng rất hiệu quả, nhất là khi câu ở những bến đò, có lẽ đây là phản xạ có điều kiện khi chúng tưởng tiếng động đó là thức ăn từ trên thuyền đổ xuống!



Khi câu được cá ngạnh, nhất là khi câu thẻo nhiều lưỡi một lần giật lên được nhiều cá, các bạn phải chú ý cẩn thận khi gỡ cá. Bởi như đã nói ở trên, nếu vô ý để ngạnh cá đâm vào tay thì chỉ còn nước quẳng câu mà về.




4.C

ũng giống như các loài cá da trơn đã được giới sành điệu xếp vào hàng đặc sản như cá lăng, cá bông lau, cá thiều (cá gúng) ... thịt cá ngạnh cũng rất thơm ngon, vừa chắc, vừa giòn lại vừa ngọt. Thịt cá ngạnh cũng có mùi tanh đặc trưng của loài cá da trơn nhưng không quá nặng mùi như cá ba sa, cá tra, cá ngát... mà nó chỉ

tanh vừa đủ độ

để có thể cho ra đời những món ẩm thực mà bất cứ ai trong chúng ta chỉ cần nếm qua một lần là sẽ khó mà quên được.



Theo đông y, thịt cá ngạnh có vị ngọt, tính bình, là loại thực phẩm bổ dưỡng và thanh nhiệt tuyệt vời. Theo tây y, thịt cá ngạnh giàu đạm và các loại chất béo không chứa cholesterol nên rất tốt cho sức khoẻ.



Thời xưa, vì cá ngạnh rất nhiều, khắp sông hồ vùng nào cũng có nên những món ăn từ cá ngạnh chỉ được xem là những món ăn rẻ tiền, dân dã. Thế nhưng thời nay thì đã khác, bây giờ cá ngạnh đã hiếm hẳn đi nhiều. Vì thế ở chợ nếu có mớ cá ngạnh tươi xuất hiện thế nào cũng được các quý phu nhân tranh nhau nâng giá giành mua. Nói không đâu xa, bây giờ trong thực đơn của những nhà hàng sang trọng đã bắt đầu xuất hiện những món ẩm thực từ cá ngạnh như canh chua cá ngạnh hoặc lẩu cá ngạnh với giá không hề rẻ chút nào. Cá ngạnh có thể chế biến được nhiều món như món kho gồm

cá ngạnh kho tiêu, cá ngạnh kho nghệ, cá ngạnh kho khế, cá ngạnh kho bần

(

quả bần

); món um gồm

cá ngạnh um dưa môn, cá ngạnh um bần, cá ngạnh um xơ mít

; món lẩu cá ngạnh .v.v.



Nhưng ngon nhất, nhớ đời nhất vẫn là hai món cháo cá ngạnh và canh chua cá ngạnh.



Cháo cá ngạnh :



Để có một nồi cháo cá ngạnh đúng điệu thì phải dùng loại cá ngạnh vàng có trứng để nấu. Thường vào khoảng tháng 7 tháng 8 hàng năm, khi thời tiết bắt đầu bước vào mùa mưa lũ cũng là lúc những cái bụng mập mạp trắng hếu của lũ cá ngạnh dưới sông đã căng phồng những trứng là trứng. Trứng cá ngạnh hạt nhỏ, mịn, có màu vàng ươm rất bùi và béo. Cá ngạnh câu về nên lựa những con ngạnh vàng loại lớn, còn sống, có trứng để riêng. Cách nấu món này như sau :



- Cho cá vào chậu, bỏ nắm muối hạt vào xóc đều tay cho sạch nhớt, sau đó rửa sạch cá bằng nước lã rồi cho vào nồi luộc chín sơ thì vớt ra để ráo.



- Tiếp theo là công đoạn cần phải có sự tỷ mỷ và tốn công nhất, đó là ráy thịt và trứng cá. Thịt và trứng cá sau khi ráy xong được để riêng. Xương và đầu cá bỏ vào cối giã nhỏ, dùng nước luộc cá lọc cho hết chất ngọt, sau đó vớt hết bọt cho trong nước rồi để riêng để làm nước nấu cháo.



- Gạo dùng để nấu cháo phải là gạo lứt thì nồi cháo mới thơm ngon. Có hai cách xử lý gạo như sau :



+ Cách thứ nhất là rang gạo sơ qua trước khi nấu, khi hạt gạo hơi se vàng thì dùng nước vừa lọc xương cá ở trên đổ vào đun cho gạo chín tới. Lượng gạo dùng để nấu vừa phải để nồi cháo thoang thoảng, không loãng quá cũng không đặc quá. Đặc điểm của cách chế biến này làm hạt gạo được nguyên, chỉ nở búp, nồi cháo không bị sền sệt hoặc bị đặc.



+ Cách thứ hai là cho một lượng gạo thật nhiều (có thể vài lon) vào một nồi to, cho nước vào đun nhừ, chờ đến lúc nước hơi cạn thì đổ số nước lọc xương cá ở trên vào đun tiếp. Sau đó tắt bếp, dùng vá lớn múc nước súp gạo lứt vừa nấu xong sang nồi khác để nấu cháo. Cách nấu này cũng giống nấu súp gạo lứt, nên nồi cháo này rất thơm và ngọt vị của gạo lứt. Đây là cách nấu đặc biệt và công phu dùng bồi dưỡng cho người già, người bệnh, phụ nữ và trẻ em.



- Đồng thời với nấu cháo, chúng ta cho dầu vào chảo, phi hành hoặc nén (tùy theo sở thích, vì cháo cá ngạnh nấu nén có hương vị rất đặc biệt) thật thơm, cho thịt và trứng cá vào, nêm chút nước mắm, bột ngọt, hạt tiêu rồi đảo sơ cho thịt cá săn lại thì tắt bếp.



- Cho thịt và trứng cá vào nồi cháo đang sôi lúp búp. Nêm nếm vừa ăn thì bắc nồi xuống. Múc cháo ra bát, cho hành ngò, tiêu, ớt bột vào và ăn nóng.



Một nồi cháo cá ngạnh dù nấu theo cách nào cũng phải có màu vàng ươm của trứng cá rền trên bề mặt, phải ẩn hiện màu trắng ngà của thịt cá điểm xuyết một vài sắc xanh của lá ngò, màu đỏ của ớt bột; Nồi cháo đó phải bốc mùi thơm ngào ngạt của hương gạo lứt, mùi thơm béo bùi của trứng cá, thịt cá quyện lẫn mùi thơm cay nồng của ớt bột, của tiêu.



Canh chua cá ngạnh :



Món ngon không thể quên được thứ hai về cá ngạnh đó là món canh chua cá ngạnh. Có rất nhiều loại nguyên liệu có thể kết hợp với cá ngạnh để nấu món canh chua này, nhưng thích hợp nhất vẫn là măng chua, hoặc khế chua, hoặc dưa cải muối chua, hoặc trái bần, hoặc xơ mít muối chua, hoặc có thể kết hợp một số nguyên liệu ở trên lại với nhau đều được.



Trong các loại nguyên liệu kể trên, có lẽ chúng ta đều đã rành rẽ hết những loại nguyên liệu như măng chua, khế chua, dưa cải muối rồi... nên ở đây chỉ xin lan man với các bạn hai món canh chua cá ngạnh nấu với trái bần và canh chua cá ngạnh nấu xơ mít mà thôi.



Canh chua cá ngạnh nấu với quả bần:



Bần là cây gỗ lớn mọc ven sông ven rào nước lợ. Cây bần có bộ rễ phát triển rất mạnh, mọc ngược từ dưới nước vươn lên thẳng tắp và nhọn hoắt nên dân gian còn gọi đó là cặc bần. Có câu đối vui về cặc bần và mít đái, một tên gọi dân dã khác của trái mít non nhỏ cỡ ngón tay, như sau : "

Gió đưa mít đái lẵng đu lơ - Sóng vỗ cặc bần run lẩy bẩy

" là như vậy! Quả bần tuy là một món ăn dân dã nhưng có vị chua chua thanh thanh rất khó quên. Ngày xưa thời đất nước còn nghèo khó thì quả bần là món ăn của những người nghèo khổ. Không hiểu những từ như "bần hàn", "bần cùng", "cờ bạc là bác thằng bần" liệu có liên quan gì với quả bần này không? Thời nay nhiều người lại thích tìm lại món hương quê dân dã này nhưng không phải lúc nào cũng có.



Quả bần xanh nấu canh chua với cá ngạnh, cá ngát, cá thiều rào hoặc các loại cá trắng khác ngoài rào có vị chua thanh vô cùng hấp dẫn. Ngoài ra quả bần chín kho với cá trích ve (một loại cá rào có rất nhiều ở sông Gianh) hoặc kho với cá tràu đều là những món ăn dân dã nhưng đã thưởng thức qua một lần thì đố ai quên nổi.



Cách chế biến món canh chua này như sau :



- Cho cá ngạnh vào chậu, bỏ nắm muối hạt vào rồi xóc đều cho sạch nhớt, sau đó cắt ngạnh, làm sạch ruột, nhớ giữ nguyên hai buồng trứng trong bụng (nếu có) rồi rửa lại bằng nước lã cho sạch sẽ, vớt ra để ráo. Quả bần gọt vỏ, cắt lát. Một vài quả cà chua, chuối chát cũng được rửa sạch, cắt mỏng.



- Ướp cá với nước mắm, tiêu bột, ớt bột. Cho dầu vào nồi, phi thơm hành củ với rồi cho một chút ớt bột vào làm màu. Tiếp theo cho cá ngạnh vào, đảo qua cho thịt cá săn lại, cho nước vào nồi đun sôi. Sau đó, cho bần, cà chua, chuối chát và vài lát ớt xanh vào, đợi nước canh sôi lại, cho hành ngò lá vào, tắt bếp, nêm nếm gia vị cho vừa ăn. Món này ăn nóng với cơm và là món canh giải nhiệt tuyệt vời.



Canh chua cá ngạnh nấu với xơ mít muối chua:



Xơ mít muối chua là món ăn dân dã ở Quảng Bình. Xơ mít sau khi cắt ra khỏi vỏ được xé tơi ra, rửa sạch vắt ráo nước. Sau đó cho vào thố sành rồi cho tiếp vào một lượng muối vừa đủ, trộn đều, lèn chặt, đậy kỹ và để yên ở chỗ thoáng khí, mát mẻ. Cỡ vài ngày sau xơ mít sẽ lên men, mở ra nghe có vị chua chua, thơm thơm là có thể đem ra ăn được.



Đi bắt Chè Khé

Tác giả: Carodong

Từ dạo Du câu Đảo La về, thấy không khí diễn đàn chúng ta hơi vắng vẻ, mấy thằng bạn quyết định làm một chuyến dã ngoại theo tuyến đường tỉnh lộ 11 xuất phát từ ngã ba Nông trường lên đỉnh U Bò. Thực ra chuyến đi này đã bị hoãn lại hai tuần, do lần đầu hẹn nhau thì sáng hôm sau trời mưa tầm tả vậy là kế hoạch bị huỷ bỏ.

Từ thành phố Đồng Hới trông về phía Tây, bạn sẽ thấy dãy núi Ba Rền chạy dài tít tắp, đỉnh cao nhất của dãy núi trông như khối u trên lưng của một con bò nên từ lâu người dân địa phương gọi nó là đỉnh U Bò.

Có hai con đường đến với đỉnh U Bò: con đường thứ nhất là từ ngã tư Trạ Ang (trên đường 20 -Quyết Thắng) bạn có thể đi theo đường Hồ Chí Minh theo nhánh Tây khoảng 40 km, hoặc từ ngã ba nông trường Phú Quý trênđường Hồ Chí Minhtheo tỉnh lộ 11 (nhánh Đông) khoảng 70 km.Đỉnh U Bò nằm ở độ cao hơn 1.000 m so với mực nước biển, giữa một khu rừng nguyên sinh ngút ngàn. Đứng trên đỉnh, vào những ngày hè thời tiết đẹp, trời quang mây tạnh, bằng mắt thường bạn có thể nhìn thấy thành phố Đồng Hới, xa xa là cửa Nhật Lệ, đảoHòn La. Mùa đông, khu vực này thường xuyên bị sương mù che phủ. Khí hậu ở trên đỉnh của dãy Trường Sơn này rất mát mẻ, bốn mùa lộng gió. Nhiệt độ quanh năm dưới 22 độ C, phù hợp cho hệ động thực vật nhiệt đới phát triển.

Một quyết định không sai chút nào khi dừng chân nơi này! Suối không sâu chỉ độ hơn 1 mét nước, nhưng trong xanh và mát lạnh, có nhiều đá, hang hốc là nơi trú ngụ của loài cua núi, các loài cá… Đang tìm một địa điểm thích hợp để an toạ thì chúng tôi phát hiện rất nhiều Chè Khé (Cua núi), cởi phăng cái bộ đồ đang mang trên người tôi lao xuống dòng suối mát lạnh sau một cú ngụp lặn tôi lôi lên một em chè khé rất to, thành quả đầu tiên thật mỹ mãn… Tiếng hò hét vui mừng của mọi người khiến tinh thần chúng tôi thật là sảng khoái, mọi nguời chia nhau đi tìm những “em” tiếp theo và liên tục ngụp lặn…thật ngon ăn quá. Lũ Chè Khé to kềnh càng, chắc là có chức có quyền trong vùng này nên béo bự và tác phong di chuyển rất chậm chạp, thậm chí có “cụ” thấy chúng tôi mà không thèm để ý có phải chăng suốt cuộc đời chúng chưa bao giờ thấy bóng dáng con người?



Sau một hồi ngụp lặn chúng tôi cũng lôi lên được một số “cụ”, mọi người hình như chưa quan tâm đến lũ chè khé dưới khe mà cứ di chuyển lên phía đầu nguồn con suối, chắc họ đang muốn khám phá xem có hang động nào còn bí ẩn trong rừng già để có cơ hội đặt tên cho nó?

Lúc này khoảng 11h trưa, bụng đói cồn cào nhưng riêng tôi vẫn tích cực mò tìm, đi hái củi để chuẩn bị cho buổi tiệc, sau một hồi nhặt củi thì cuối cùng cũng phải vứt lại vì xa điểm tập kết quá và di chuyển trên địa hình cheo leo rất nguy hiểm nếu sẩy chân, cũng rất may hôm nay khâu hậu cần của các bạn khá chu đáo, đi rừng mà còn nhớ mang theo bếp ga nên việc củi lửa vậy là tạm ổn. Ban hậu cần đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng về thực phẩm cho 6 người ăn, gồm 2 con gà, 2 kg thịt ba chỉ để nướng. Gạo, mỳ tôm, mắm muối…và thức uống đều đầy đủ.

Trong lúc đang chuẩn bị cho buổi giao lưu văn nghệ, ẩm thực thì chính tôi là nguời phát hiện ra lũ Chè Khé có nhiều hơn trí tưởng tượng của mình, mới đưa miếng thịt ra để rửa thì một “em” Chè Khé lại bu ngay vào miếng thịt định tha… về hang. Nhanh như…rùa!!! Tôi chộp một phát bất thình lình cộng với sự thèm khát được ăn, không để ý nên chú chè khé phải giơ hai càng đầu hàng một cách vô điều kiện. Từ một phát hiện nhỏ ban đầu mà chúng tôi đã làm nên một việc lớn! khi làm thịt xong hai “cô gà” thì như một trận địa đã bố trí sẵn sàng từ bao giờ, các cụ Chè Khé, các ông, bà, các chú… cứ lần lượt kéo đến để thưởng thức bữa tiệc miễn phí không mất tiền mua này. Thật là thú vị, Chè Khé ở đây to không kém gì cua bán ở ngoài chợ, thân hình rắn chắc, thịt thơm ngon hơn cua nhà… Ở rừng, nếu bạn muốn thưởng thức món cua núi nhanh nhất , chỉ cần nướng lên chấm với muối tiêu thì có thể so sánh ngang hàng với cao lương mỹ vị. Nếu có điều kiện đem về nhà lấy càng, chân, một ít thân đem xay nhuyễn, lọc lấy nước còn một ít thân rang lên nhậu hoặc thả vào nồi cháo canh, đảm bảo các bạn phải xuýt xoa hết lời khen ngợi.

Sau khi mổ gà xong chúng tôi lấy 2 bộ lòng, cắt thành đoạn ngắn buộc vào sợi dây và dòng xuống các hang đá, khoảng 2 phút đi thăm câu một lần thì kiểu gì cũng có một vài “em” đang cố gắng tha mồi vào hang, khi chúng đã bu vào mồi thì ít khi mà bị sẩy được, chúng bám rất chắc vào mồi, các bạn cứ thoải mái mà kéo lên. Nhưng các bạn nên để ý hai cái càng to khoẻ của chúng, vì cũng như con mồi nếu đã cắn vào rồi thì chúng không chịu thả, chỉ có cách là cho “em nó” thoát thân xuống nước thì mới không bị mang “sẹo” vào thân!

Câu Chè Khé rất đơn giản, các bạn có thể đem đi một ít ruốc, mắm tôm để làm mồi nhử. Tìm chỗ nào đầu nguồn nước nếu muốn bắt phạm vi rộng, dùng tấm vải cũ (giẻ) nhúng vào mắm tôm, ruốc, rồi cột dây ngâm ngay dưới dòng suối đảm bảo chỗ nào có Chè Khé cũng đều bò ra khỏi hang, nếu nước sâu các bạn dùng cần câu buộc một chùm dây cao su (có nhiều màu sắc) cứ nhè ngay trước mặt con Chè Khé mà nhấp nhấp, chúng sẽ chộp ngay chùm dây cao su đó và nhiệm vụ của các bạn là đưa “em nó” vào bao. Và rất còn nhiều cách bắt khác nhau đơn giản và hiệu quả, nhưng đáng tiếc hôm đó ra đi vội vàng quá mà quên đem theo ruốc để làm mồi xả nên hiệu quả đánh bắt chưa cao.


Sau một thời gian khoảng 2 tiếng đồng hồ vừa nấu nướng, vừa bắt Chè Khé thì chúng tôi cũng “lôi” lên được khoảng 3 kg các “cụ” cho đến các “cháu” Chè Khé. “Cụ” cao niên nhất cũng nặng đến hơn 100 gram, như ông cha ta thường nói càng già càng dẻo càng dai, các “cụ” ở đây thật chắc nịch, cơ bắp cuồn cuộn hơn các “cụ” ở dưới đồng bằng! Chắc phải trèo đèo lội suối nhiều để mưu sinh nên mới có thân hình chắc nịch như vậy!

Lúc này khoảng 3h chiều, một cơn mưa rừng bất chợt đi qua không khí lạnh đang tràn về chúng tôi cứ nghĩ rằng mùa đông đang quay trở lại…một cảm giác hiếm thấy trong mùa hè oi ả này. Nếu chuẩn bị hành trang đầy đủ chắc chúng tôi sẽ ở lại nơi đây để được tận hưởng một đêm của đại ngàn Trường Sơn. Cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, nên chúng tôi đành phải chia tay nhau, để kịp về trước lúc mây mù giăng kín, xin tạm biệt đại ngàn Trường Sơn, tạm biệt các bạn. Chúng tôi sẽ quay lại nơi này, các bạn hãy chờ nhé!

Sản phẩm sau một ngày lăn lộn với núi rừng được đưa về chế biến tại nhà Carodong, nhân dịp có bác Chủ nhiệm, anh Thái, Camu đang trên đường đi biển về và cũng có một chút quà của biển, (các anh này biết thân phận mèo nhỏ nên thường rình chuột nhắt để bắt nạt). Một sự kết hợp rất hài hoà của những người con Vua Hùng, kẻ lên rừng - người xuống biển.


Có thể nó không là đặc sản, không là cao lương mỹ vị, nhưng nó được làm nên từ sức lao động rất miệt mài của nhiều người, một tinh thần tập thể đoàn kết vui vẻ… Một nồi cháo bột mỳ được nhào nặn dưới tay một võ sư tiếng tăm… và với sự chọn lựa, chắt lọc những nét tinh hoa qua bàn tay của Hà mập, Songnil, đã cho ra đời một nồi cháo canh không thể chê vào đâu được. Món quà từ biển được đạo diễn thành nồi canh chua do đầu bếp Carodong, mới nhìn qua là biết ngon rồi!

Câu ếch, kỷ niệm tuổi thơ tôi

Bài : Carodong



T

ôi cũng không nhớ rõ là mình bị nghiền câu từ lúc nào, cái thuở còn con nít 13 - 14 tuổi gì đó… Cứ mỗi dịp hè về, chúng tôi lại được dịp để bày ra các trò chơi như đi tát cá, đi câu ếch, câu cá, câu lươn… nhưng với tôi ấn tượng nhất vẫn là đi câu ếch. Có một điều rất nghịch lý đó là nhà của tôi không có ao hồ, sông suối gì nhưng tôi lại biết câu và mê câu từ rất nhỏ, niềm mơ ước của tôi là có được một cái ao để nuôi thật nhiều cá… nhưng có lẽ điều này thật là khó khăn.

Có thể câu ếch không thú vị bằng câu cá, nhưng tôi lại rất mê, vì nó cũng có một nguyên nhân cụ thể đó là các ao hồ ở quê tôi không ai nuôi ếch cả, mà chỉ để nuôi cá nên việc câu ếch được xem như không “phạm pháp” các ao hồ của hàng xóm tôi đều thuộc làu trong đầu, nhà nào hồ có ếch, mấy con… tôi cũng thuộc nốt.


Bọn trẻ trong xóm rất nể tôi về món câu ếch này, có lẽ chúng cũng rất nghiền câu, nhưng có thể là không có điều kiện rảnh rỗi, ham chơi như tôi nên việc câu không bằng tôi cũng là lẽ thường tình thôi. Phải nói thời đó ếch nhiều vô kể, nhiều nhất là vào các tháng 6 âm lịch đến tháng 8 âm lịch, vào các tháng này thường có những cơn mưa giông là mùa sinh sản của chúng. Ếch có một đặc điểm rất giống với cá chép, cá rô đồng… đó là những con cái trưởng thành luôn có sẵn buồng trứng trong bụng, chỉ chờ đến trời mưa to, có nước mới là chúng tìm đến để sinh sản.

Vào mùa này thì tôi lại ít khi đi câu, mà chỉ cần chờ đến trời mưa thì ếch bắt không xuể. Trên các cánh đồng trồng lúa “cực nhanh” (là giống lúa ngắn ngày) chờ đợi những cơn mưa giông đủ nước để “cấy”. Đây có thể gọi là “thiên đường” của ếch các cặp uyên ương ếch cứ đeo bám lấy nhau con nào con ấy béo múp có khi một chàng ếch đực mà có đến 2, 3 cô bạn tình! Có thể là do số lượng cô ếch nhiều hơn chàng ếch hoặc cũng có thể là do chàng ếch này dẻo mồm dẻo miệng hơn các chàng ếch khác! Mỗi khi đã tìm được bạn tình rồi thì chàng và nàng “câm miệng” ngay để tỏ tình với nhau… Còn những chú không tìm được bạn tình thì cứ kêu ộp ộp suốt đêm đến khan cả cổ họng! Những chú ếch mà kêu càng về khuya thì tiếng kêu trông rất thảm thiết, nếu đi soi mà gặp mấy chú như thế nhiều khi thấy “thương” quá nên cũng tha, không bắt.


Từ khi tôi bước vào “nghề” câu ếch thì cuộc sống của tôi cũng được cải thiện rất đáng kể từ lúc đầu đi bắt, câu về để ăn rồi khi ăn không hết đem đi bán… và sau khi nguồn ếch bị cạn kiệt tôi lại chuyển sang đi mua ếch ở các nơi đem đi bán lại. Có khi tôi mua, dự trữ trong nhà cũng lên tới 20 -30 kg, thời đó mà mỗi lần tôi bán ếch cũng có trong tay hàng trăm nghìn đồng! Những điều mà những đứa trẻ cùng trang lứa mơ cũng không có. Nói thì có vẻ to tát nhưng có tiền mà tôi cũng có biết mua gì đâu! Tôi chỉ mua đúng một bộ quần áo hết khoảng mười mấy nghìn đồng, còn lại đưa cho Mẹ cất giùm(?) để đòi lại Bà khoản nợ gần 20 năm này cái đã!

Khi vệc câu kéo không ăn thua nữa thì tôi lại chuyển sang đi đào ếch ngoài ruộng. Đào ếch ở ruộng cũng phải có nghệ thuật đào, nghệ thuật nhận biết hang ếch, nghệ thuật “xoi” ếch… Nhận biết hang ếch thì cũng đơn giản, hang ếch ở thường có lỗ bằng cổ tay, miệng hang trơn, có dấu chân ếch… khi có dấu hiệu khả nghi thì đưa cái que vào “xoi” nếu nghe mềm mềm, có đàn hồi thì cứ việc đào, còn nghe cứng thì thôi.


 
Đào ếch cũng cần nghệ thuật bởi nếu đào lỗ lớn quá sẽ bị bảo vệ họ bắt, vì tội làm hư bờ đất. Tôi có một cái chòng chuyên dụng, gọi là chòng vọm (hình cầu 180 độ) cái chòng này tôi đổi hết 2 kg ếch cho ông bảo vệ đồng không nhớ giá tiền quy đổi thời đó khoảng bao nhiêu nữa, nhưng nó đã đem lại rất nhiều hiệu quả...

Rất tiếc bây giờ không còn được nhiều ếch như ngày xưa nữa nên kể lại những câu chuyện này có thể mọi người cho là vô bổ, nhưng đối với tôi nó như một kỷ niệm không thể phai mờ theo thời gian được. Và rất còn nhiều câu chuyện đáng nhớ nữa, nếu có điều kiện tôi sẽ kể để các bạn, những ai có một tuổi thơ như tôi thì hãy bớt chút thời gian quay về quá khứ nhé.

Tản mạn tép đồng

Bài và ảnh : Chautuanvu



"Công anh xúc tép nuôi cò


Cò ăn cò lớn cò dò lên cây"

 (Ca dao)





M

ấy ngày đầu năm mới Nhâm Thìn vừa rồi mình có việc đi Hà Nội, toàn ngủ khách sạn, ăn cơm tây ở nhà hàng nhiều sao nhưng không hiểu răng cứ thấy mồm miệng nhạt thếch. Đêm nọ ngủ mớ, không mơ thấy chi, tự dưng lại thấy được ăn cơm nóng với rau sống cuốn tép đồng xào nén thơm phức. Giật mình tỉnh giấc, nước miếng vẫn còn ứa ra đầy miệng, mùi thơm của món tép đồng xào nén dường như vẫn còn phảng phất đâu đây ...




K

hông biết ở các vùng khác, tép là tên gọi của con chi, chứ ở Quảng Bình thì tép là tên của loài giáp xác nhỏ nhất trong họ nhà … tôm tép. Con tép nhỏ lắm, chỉ cỡ que tăm nên người ta hay dùng từ “đồ tép riu” để tỏ ý kinh thị những người ăn ở nhỏ nhen, sống lăn tăn lít tít. Tuy nhỏ nhưng tép cũng có mấy loại, đó là tép nước ngọt (tép đồng) và tép nước lợ (tép bầu). Tép bầu thẩm màu hơn và to hơn tép đồng chút xíu, con to nhất cỡ đầu đũa. Điểm chung giữa chúng là thường dùng chân ôm trứng dưới bụng. Ở ngoài biển cũng có một loài giáp xác rất giống con tép, đó là con ruốc biển, nhiều vùng gọi là con moi. Mùa ruốc 2008, mình cũng đã có một bài viết về con ruốc này rồi, nên bây chừ không nói về chúng ở đây nữa. Bạn mô muốn tìm hiểu thêm về loài này thì xin mời vào xem ở đây....

Q

uay lại chuyện về con tép đồng. Vốn con tép thường sống ở các ao hồ, đầm phá, ruộng đồng, sông rào nước lợ... Chỉ cần trời đừng lạnh quá là có thể đi bắt được chúng quanh năm. Ở quê, đi bắt tép dường như là việc chỉ dành riêng cho trẻ em và phụ nữ, đàn ông đàn ang chẳng mấy ai đi bắt tép bao giờ. Có lẽ do con tép quá nhỏ, mà đàn ông đàn ang vốn là phái mạnh, chuyên làm việc lớn như thả lưới, đóng đáy, cất rớ, giăng câu các loài cá lớn ... nên không mấy ai đụng đến món này thì cũng phải thôi!



Cách bắt tép thông dụng nhất đó là cất te. Vốn con tép quá nhỏ, không thể lưới được, cũng không thể kéo vó được, cũng không thể bẫy bằng nò được vì chúng sẽ lọt hết, nhưng cất te thì lại rất hiệu quả. Dụng cụ để cất te bắt tép gồm một bó vài chục đến vài trăm cái te, một cái que tre dài dùng để đặt te xuống và cất (nâng) te lên và một cái rá tre dùng để đựng tép. Cái te cất tép trông rất giống cái vó nhưng nhỏ hơn nhiều, gồm hai nan tre vót mảnh dài cỡ 2 mét buộc chéo nhau ở giữa, phía dưới bốn đọt nan tre này được buộc vào một mảnh vải mùng hình vuông mỗi cạnh dài cỡ 8 tấc, không quá thưa để tép lọt qua, cũng không quá dày sẽ cản nước, cất lên chậm, tép sẽ nhảy hết ra ngoài. Thường một người đi cất te khi mô cũng phải có từ vài chục cái te trở lên. Trước khi đi cất te, mọi người thường dùng cám trộn với mỡ heo rang lên thật thơm để làm mồi nhử tép. Chọn một đám ruộng, ao hồ hay mép rào nào đó. Dùng tay vén sạch cỏ rác rong rêu rồi đặt te xuống, chờ đáy te chìm sát đáy bùn thì nhón tay vắt một nhúm cám rang ném vào giữa te dụ tép. Đặt xong cái này thì đặt qua cái khác, đặt đến cái cuối cùng thì bắt đầu quay lại nhấc cái đầu tiên lên để đổ tép. Rứa rồi cứ lặp đi lặp lại như vậy cho đến khi ra về. Các loài tép (nhất là tép đồng) rất khoái mùi cám rang mỡ heo, chỉ cần vứt mồi nhử một chút chúng sẽ kéo nhau bò vào đáy te ăn cám. Người cất te chỉ việc dùng que tre xỏ qua nan te nhấc lên thật nhanh, sau đó nghiêng te giũ cho bọn tép rơi hết vào rá rồi dùng cái lá chuối đậy lại kẻo tép nhảy hết ra ngoài. Nói thì dễ nhưng để cất được tép cũng không phải là chuyện đơn giản, mà phải khéo léo nhấc te lên thật nhanh để tép không kịp thoát. Mỗi lần nhấc te lên, nhìn lũ tép đồng màu trắng ngà nhảy tanh tách trên đáy te trông thật thích mắt. Chính vì thế nên đi cất te bắt tép cũng là một công việc rất thú vị đối với nhiều người. Nhất là đối với bọn trẻ con, vừa được đi chơi, vừa có sản phẩm đưa về phụ giúp cha mẹ nên hầu như đứa mô cũng khoái cái món làm chơi ăn thiệt ni hết!



Đẹp như con tép kho tương


Kho đi kho lại nó trương phềnh phềnh

(Ca dao)





C

on tép đồng thấy nhỏ như rứa nhưng nếu biết cách chế biến sẽ trở thành nhiều món ăn rất đậm đà hương vị. Nhớ hồi mình còn nhỏ, mạ mình thường hay mua tép đồng về nấu canh với dưa cải muối hoặc kho tiêu ăn với cơm nóng thì phải nói là bá cháy con bọ chét. Còn nhiều món ngon lắm, nhưng món mình thích nhất vẫn là món tép đồng xào với cây nén (cây thun) ăn với cơm nóng hoặc dùng để chấm và ăn với rau sống cực ngonNói qua một tý về cây nén. Cây nén thuộc họ hành tỏi, thân giả, tức là do nhiều lá tạo thành thân giống cây hành, ở nhiều nơi còn gọi là cây thun hoặc cây hành tăm. Lá và củ nén có chứa tinh dầu như hành và tỏi. Lá nén dạng hình mũi kim. Củ nén màu trắng có vỏ mỏng bao bọc. Lá nén, củ nén dùng để nấu cháo cá, kho cá hoặc kho với mắm xổi vừa thơm vừa ngọt lại là một phương thuốc có tác dụng giải cảm rất tốt bởi vì trong tinh dầu của nó chứa rất nhiều hợp chất có đặc tính sát khuẩn. Do vậy người ta coi nén là một vị thuốc Nam dùng để trị ho, cảm cúm .v.v. rất hiệu nghiệm.Tuy nhiên mùi tinh dầu nén khá hôi, có lẽ ai mới ăn nén cũng đều cảm thấy khó chịu. Nhưng rồi ăn riết sẽ quen và chắc chắn sẽ nghiện lúc mô cũng không biết chừng.



Cách làm món tép đồng xào nén cũng đơn giản tựa như thân phận của con tép riu vậy. Lựa mớ tép đồng còn nhảy tanh tách cho vào thau ngâm và rửa qua vài nước cho thật sạch. Vớt ra để vào rá cho ráo nước. Cây nén cắt khúc đều cỡ đốt ngón tay. Cho hành củ, mỡ heo (ai thích ăn dầu thực vật mô thì mình không biết, chứ theo mình thì mỡ heo là thơm nhất) vào chảo, phi lên cho thiệt thơm rồi đổ tép vào đảo đều. Cho ớt quả cắt mỏng, ớt bột, tiêu bột... vào. Sau cùng cho nén vào, đảo đều cho chín tới thì châm thêm chút nước (để làm nước chấm rau sống) rồi nêm nếm gia vị vừa ăn thì bắc xuống ăn nóng với cơm và rau sống. Kể cũng lạ, món tép đồng xào nén ni rất hợp với rau sống, nên khi làm món ni các bạn đừng bao giờ quên rổ rau sống kẻo phí mất công làm.


C

ó một món đặc sản khác cũng được làm từ con tép đồng ni. Đó là món nhút tép đồng Lệ Thủy. Lệ Thủy xưa kia là vựa lúa lớn nhất ở Quảng Bình, có câu “Nhất Đồng Nai, nhì Hai huyện” (Hai huyện ở đây là huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) chỉ những vựa lúa lớn nhất nước ta thời đó. Nguyên Lệ Thủy vốn là vùng thấp trũng, năm mô, lũ về trên sông Kiến Giang cũng đem theo phù sa bồi đắp nên ruộng đồng ở đây rất màu mỡ, sản lượng lúa thu hoạch hàng năm rất lớn. Chính vì thế mới có câu :



Lệ Thuỷ gạo trắng nước trong

 


Ai về Lệ Thuỷ thong dong con người



Lũ về hàng năm cũng đem theo biết cơ man nào là tôm cá cho hệ thống sông ngòi, đầm phá, ao hồ, đồng ruồng mênh mông ở nơi đây. Chính vì thế nên quanh năm, tép đồng ở đây nhiều vô kể, lượng tép đánh bắt được rất lớn, bán không hết, ăn không xuể nên dân vùng này mới nghĩ ra nhiều cách chế biến và bảo quản chúng. Trong vô số các cách chế biến đó có một cách chế biến khá lạ, đó chính là cách chế biến món nhút tép đồng. Nghe kể thì cách chế biến món nhút tép đồng này khá công phu. Đó là phải lựa loại tép đồng thật đều, tươi rói, đang còn nhảy tanh tách. Đem rửa thật sạch, để ráo, sau đó ủ vào vại sành theo thứ tự lớp tép, lớp muối. Nhút tép đồng muốn muối cho ngon phải lựa cái vại sành loại tốt. Vại sành được làm từ đất sét nung lửa. Một cái vại tốt thì thành vại phải đều, mặt láng mịn, không dày mỏng chênh nhau, không bị nung cháy quá. Khi gõ ngón tay lên thành vại, phải có tiếng kêu vang và trong. Loại muối dùng muối tép đồng phải là loại muối hạt trắng tinh, sạch sẽ, không có tạp chất. Lượng muối dùng để ủ tép phải vừa đủ (đây là bí quyết gia truyền). Thiếu, nhút sẽ không chín. Thừa, nhút sẽ quá mặn, nặng mùi. Sau khi đã ủ tép vào vại xong, dùng nẹp tre và đá lèn phía trên mặt cho thật chặt, sau đó đem ra phơi nắng một thời gian cho tép chín. Khi tép đã chín tới, trước đây người ta thường bỏ vào rá tre rồi dùng tay chà cho thật mịn, còn bây giờ đã có máy xay rồi nên không mấy ai chà bằng tay nữa. Tiếp đó người ta đem trộn với thính được làm bằng gạo, bắp rang vàng giã mịn rồi trộn hỗn hợp đó thật đều. Thêm vào các một số loại gia vị khác như ớt bột, riềng củ, gừng củ cắt chỉ … Sau cùng bỏ hỗn hợp đó vào chai, lọ thủy tinh hoặc thố sành loại nhỏ rồi tiếp tục đem ra phơi nắng cho đến khi chín ngấu, màu của nhút chuyển thành màu đỏ au, hương thơm sực nức, khi nếm có vị thanh, vị ngọt của con tép đồng là dùng được.



Như đã nói ở trên thì cách làm nhút cũng tương tự cách làm mắm tép (ngoài bắc còn gọi là mắm tôm), mắm ruốc. Tuy nhiên, mắm nhút tép đồng khác mắm tôm, mắm ruốc ở chỗ nó thanh hơn, có vị chua hơn và mùi thơm hơn do được trộn với thính chứ không mặn chát và nặng mùi như các loại mắm tôm, mắm ruốc bình thường.



Nhút tép đồng ăn kèm với món chi cũng ngon. Thường người ta hay ăn nhút tép đồng với cơm nóng, hoặc dùng để chấm với quả sung, quả vả, quả bầu luộc hoặc các loại rau ráng khác như đọt lá sung, lá xoài, lá két non... cũng rất ngon. Tuy nhiên, nếu ăn với thịt heo ba chỉ luộc thì mới gọi là đỉnh cao muôn trượng.



Vốn mình có thằng bạn học quê gốc ở xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ở trong chạn bếp nhà hắn khi mô cũng có một hũ nhút loại ni. Cứ đến bữa, không kể là bữa cơm hay bữa nhậu, mặc cho ai có thích hay không, hắn cũng cứ mần riêng cho hắn một bát nhút vắt chanh quấy lên thơm sực nức. Cứ chiều lại, không kể những khi hắn câu được con tràu cóc hay bẫy được con mỏ nhát, hắn vẫn thường ra sau vườn hái nắm đọt lá xoài, lá sung, lá mưng non… rồi gọi mình với mấy thằng nữa đến đưa cay với món mắm nhút tép đồng này. Tuy dân dã nhưng cũng bén lắm, lắm bữa, cả bọn cũng đánh bay cả chai quốc lủi là chuyện bình thường.

N

hắc lại chuyện đi Hà Nội bữa trước. Vốn trong đoàn đi cùng với mình có ông anh cùng cơ quan đóng một cái thùng to tướng làm quà cho ông chú làm to ở ngoài bộ. Hỏi quà chi rứa bác, ổng cười cười nói tôm hùm chơ chi. Sau ra tới nơi mình mới biết thì ra đó là thùng tép đồng với một mớ cây nén. Hi hi… Rứa mới biết dù ai đi mô về mô, dù ai làm ông to bà nậy chi rồi cũng rứa. Sau khi đã nếm trải đủ đầy sơn hào hải vị rồi thì ai cũng sẽ có xu hướng quay trở về với những món ăn dân dã nhưng mang đậm phong vị của quê hương, của đồng quê thương nhớ như món mắm nhút hoặc món tép đồng xào nén ở trên chẳng hạn ...



Chiều hôm qua có thằng bạn gọi mình đến nhà hắn làm vài ly rượu chiều. Hỏi đã có mồi chi chưa, hắn nói đã có mồi tôm hùm rồi. Tức cười. Đến nơi, y như rằng lại thấy món tép đồng xào với thịt ba chỉ và một rổ rau sống to tướng. Mình hỏi răng mi không bỏ ít nén vô cho thơm? Hắn nói tau ghét mùi cây nén lắm, bỏ vô không ăn được! Rứa rồi cả bọn ngồi mần một chặp cũng đánh bay hết cả chảo tép xào, rổ rau sống và chai men riềng nút lá chuối. Tự dưng đến lúc nớ mình lại thấy nhớ cái mùi hôi hôi của cây nén đến lạ lùng.



Ừ, mà kể cũng lạ. Thường chỉ thấy người ta hay nghiện cay, nghiện đắng, nghiện những thứ khó ngửi, chứ chưa hề thấy ai nghiện ngọt, nghiện bùi, nghiện những thứ dễ ngửi bao giờ...câ

Câu cá sài gòn

Sài Gòn cả hơn chục năm nay, câu cá không chỉ là chuyện mưu sinh mà đã trở thành một môn thể thao giải trí. Có người nặng tình với điếu ngư còn mệnh danh câu cá giải trí là một “thú vui tao nhã”. Tôi nói hơn chục năm cũng bởi trước cái hơn chục năm đó, dân câu giải trí chưa nhiều như bây giờ…Thế mà lại nhớ lắm cái hơn chục năm đến hai chục trở về trước, dân câu cải thiện đã là nhiều cùng với ao hồ, chuôm rạch cũng còn đã là nhiều…



Thế nhưng thời gian cứ xô về cái thời buổi mà chỗ nào cũng “tấc đất tấc vàng”, các chủ đất đua nhau san nền lấp vũng, cắm cọc chia lô, phân nền thì ao hồ tự nhiên cứ thu hẹp rồi mất dần và con cá đồng trong tự nhiên cũng chẳng còn mấy đất sống. Thêm vào đó, nạn xuyệt điện và tát cạn bắt lấy với suy nghĩ “con to mềm, con bé bùi” khiến cho lũ cá đồng ở vùng ven thành phố ngày càng vắng bóng…



Đối với đa số dân câu giải trí thì ai cũng mê và nặng lòng với những con cá đồng vì chúng dễ kéo người ta về hoài niệm của tuổi thơ. Với nhiều người, những nết nháy phao, đặc tính ăn mồi, cung cách thể hiện của những con cá kia như ngấm vào máu ta từ thủa còn cắp sách tới trường khiến mỗi khi nhớ tới, nhìn thấy thì cái rạo rực đam mê trong ta lại dâng lên, bồi hồi.



Kìa, con cá rô quẫy đuôi lẹt rẹt một góc ao, cái lưỡi câu dù thô, dù lụt nhưng với chú ong mầm làm mồi mắc vào thảy xuống, tức thì phao nhấp nháy rồi lừ lừ thụt xuống, cần tay búng nhẹ: một chú rô mề lên uốn lưng tưng nháng nhóa giữa chiều hôm! Rồi con Trê đồng thịt vàng hươm ướp gừng già nướng lên thơm lựng kia từng chuyên ủi bùn sình đeo theo mùi trứng kiến ta rải xuống; vẫn cái phao nhưng nó nhấp nhấp rồi xuống thẳng dứt khoát đến cong cần…


Hoài niệm về những con cá đồng cắn câu! những chữ đó tưởng như an bài trong cuộc sống vội vàng thường nhật quanh ta. Nhưng mà không! Nắm bắt thật nhanh nhạy nhu cầu giải trí của đa số doanh nhân và nhân viên thành đạt không nhiều thời gian đi xa về những miền quê và những hành trình tốn kém trong các chuyến du câu trên biển, một số chủ hồ câu đã khoanh vùng thả cá, tạo dựng khung cảnh, môi trường câu cá giải trí gần gũi với thiên nhiên giữa lòng thành phố; để mỗi khi rảnh rỗi, du khách có thể tạt vào bất cứ điểm câu cá đồng giải trí nào câu cá dù chỉ vài giờ đồng hồ.



Những hồ câu cá đồng ở Hóc môn, Gò Vấp, Bình Tân, Đồng Diều... là những điểm đến hấp dẫn nhiều du khách và những tay câu từ nghiệp dư đến lão luyện.



Những loại cá lóc bông, lóc đen, trắm, trê, trôi, sặc rằn, sặc bướm, thác lác, rô mề, điêu hồng và cả tôm càng thực sự thu hút du khách bởi những đặc tính ăn mồi đầy ấn tượng, những cách câu từ truyền thống đến sáng tạo (thậm chí vi diệu) mà chỉ có những cần thủ với niềm đam mê câu cá mới nghĩ ra. Những cuộc đấu trí giữa người và cá bằng cả kiên trì, khôn khéo, nhẹ nhàng nhưng không kém bản lĩnh của một bên là quyết khuất phục những con cá tinh khôn, một bên dẫu không thể không cắn cục mồi thơm nhưng khi dính câu cũng quyết vẫy vùng tìm đường thoát...



SẮM ĐỒ NGHỀ



Câu cá đồng là môn câu yêu cầu chi phí rất thấp. Có khi chỉ cần cây cần trúc, đoạn dây, cái lưỡi câu và nhúm trứng kiến ta đã có thể đủ tư cách mang những chú trê, rô, phi, sặc…lên bờ trong tiếng reo mừng trong trẻo của bạn bè. Tuy nhiên, đối với đa số người câu giải trí thì khi vô hồ câu cũng phải cho ”coi được với người ta”. Cái coi được ở đây là sắm một cây cần tay (cần làm bằng carbon càng tốt vì nó nhẹ, cầm lâu mỏi tay) dài lối 3,6 mét đến 4,5 mét. Cần phổ thông chỉ với giá 250-300 ngàn đã đủ đẹp để …mấy chú thiếu niên mới tập câu ngước nhìn rồi. Với vài đường dây câu cỡ 0,18-0,22 mm buộc sẵn móc gút với phao đọt cờ bắp để sẵn sàng thay thế. Chiếc giỏ đựng cá là không thể thiếu, vài bịch mồi đủ loại. Bấy nhiêu thiết bị đó, kể như tạm đủ. Hành trang vào nghề dĩ nhiên còn là niềm đam mê, ý chí quyết thắng cùng chiếc nón rộng vành chống nắng, chai nước chống khát. Nếu câu tinh vi hơn, ngoài mồi câu thông thường thì người câu cần phải làm thêm một số loại mồi xả để dẫn dụ cá.



Cũng cần cảnh báo thêm rằng: sắm đồ câu nhiều khi cứ như một sự lôi cuốn mà mê nghiện. Đa số cần thủ khi mới vào nghề, trang bị vô cùng gọn nhẹ và đơn giản, nhưng theo thời gian, kinh nghiệm, niềm tin chiến thắng của bản thân trước những con cá, anh ta cứ mua sắm và trang bị thêm cho mình nhiều thứ đến nỗi cái ba lô ngày càng nặng thêm và túi cần câu ngày càng phồng thêm với những thiết bị ngư cụ hiện đại nhưng khá tốn kém.



Nếu câu bằng cần máy, việc bắt cá cho thấy khoa học hơn, chắc chắn hơn khi người câu được hỗ trợ bằng những thủ thuật níu, xả của drag máy câu, hệ thống khoen tỳ và cả sự trì níu của chất liệu cứng, mềm của thân chiếc cần câu máy phụ trợ.



Ai đã từng đi câu cá đồng bằng cần tay máy phụ mới thấy cái hồi hộp và thú vị của cái máy câu nho nhỏ phụ vào với giàn dây câu nhỏ mảnh. Với cần tay không máy phụ, sự đôi co với con cá dính câu cơ bản cây cần và dây câu phải chịu tải. Dây câu sẽ đứt, cần sẽ gãy nếu con cá dính câu lớn quá (cái cục tiếc sẽ theo mãi làm kỷ niệm với cần thủ). Để chống đứt, người câu phải tăng thiết diện dây, nhưng oái oăm là với dây lớn, con cá sẽ nhát dây và không dạn mồi. Rõ ràng, câu cá bằng dây lớn quá không nhạy bằng câu dây nhỏ. Chính từ đó, việc gắn thêm cái máy phụ vô cần tay để câu những con cá trắm, cá chép (thậm chí cá tra) lớn bằng dây nhỏ là điều người đi câu cần áp dụng. Cần áp dụng bởi cái máy câu điều khiển được sự thu dây và xả dây với lực nặng nhẹ, cho phép dây co giãn ở mức nhất định và giòng con cá cho tới khi nó mệt để vươn vợt ra xúc hắn về. Chính nhờ sự ưu việt của máy câu mà người ta có thể câu con cá to bằng dây nhỏ có lực test kém xa lực bứt phá của con cá dưới nước.



Với lưỡi câu, ở những tiệm bán đồ câu luôn sẵn các kiểu, mọi cỡ lưỡi câu thích hợp cho từng loại cá. Người đi câu chỉ việc ghé tiệm, nói loại cá mình định câu, chắc chắn bạn sẽ mua được những cái lưỡi câu thích hợp. Ví như lưỡi câu cá phi, điêu hồng...người ta dùng lưỡi không có ngạnh vì nó mảnh nhỏ, độ cứng cao và khi dính cá dễ gỡ. Lưỡi câu cá bống đai dài để dễ gỡ cá vì họ nhà bống ăn mồi con nào con nấy nuốt sâu trong bọng họng. Lưỡi câu cá sặc nhỏ mà khum vào, khi sặc nút mồi dỡ nhẹ là móc. Câu cá chim thì phần sát lưỡi thường tóm bằng dây siêu bền hoặc cáp mịn vì chúng có bộ răng rất sắc có thể nghiến dây cước như người ta nhai bún.



Phao câu yêu cầu phải nhạy vì nó chính là người cảnh giới duy nhất của bạn và người câu bao giờ cũng muốn phao của mình báo rõ ràng rằng: con cá phía dưới đang ăn mồi là loại gì, cỡ nào...vv . Để được như vậy, cái phao phải là hàng chuẩn. Tuy nhiên, đối với dạng cá như rô đồng, sặc các loại, trê...chỉ cần dùng phao bằng đọt cờ bắp cũng đủ hấp dẫn và thật ấn tượng khi cá cắn mồi. Người câu đơn giản không cầu kỳ về phao, dẫu rằng trên thế giới, có những công ty giành cả những...ngành chuyên nghiên cứu thiết kế và sản xuất phao câu cá. Ở Nhật, làm phao câu tay đã nâng lên tầm tuyệt phẩm tinh vi; với gía cả đương thời, có những chiếc phao cây tay từ 300- 500 ngàn đồng Việt Nam…



Gần đây, ở Việt Nam, những tay câu chuyên về kỹ thuật Đài Loan đã nghiên cứu, học hỏi, chế ra những chiếc phao câu cần tay có thể nói không thua gì những phao của các nghệ nhân Nhật Bản, Hàn Quốc. Cũng chỉ vật liệu bằng gỗ Balsa, nhưng sự tuyệt luân của chiếc phao được đánh giá bằng nhiều tiêu chí, mà tiêu chí hàng đầu phải là: cái phao phân biệt được con cá bên dưới đu mồi, ăn mồi hay đè mồi, đẩy mồi… (có lẽ tác giả sẽ đi sâu vào bài viết về phao kỹ hơn trong một chuyên đề khác)



Nói về kỹ thuật câu hồ giải trí, người câu rất cần thiết tích lũy một số kinh nghiệm vì nếu đi câu mà không có cá thì sự hứng thú của chuyến đi giảm hơn một nửa. Nhiều bạn câu cứ nghĩ đơn giản rằng: hồ câu thả cá nhiều như vậy thì câu có cá là đương nhiên. Vâng! nhận định trên chỉ tạm hợp với những hồ câu cân ký (khách câu lên bao nhiêu, cân bán cho khách luôn). Đối với những hồ câu tính theo giờ khác hẳn. Để câu cá có hiệu qủa, dính cá to, nhiều cá thì yếu tố may mắn chỉ là phụ mà cái chính là phải biết cách câu.



Cách câu tại các hồ giải trí bây giờ nhiều bạn đã nâng đến tầm nghệ thuật. Bởi lẽ, câu càng có kinh nghiệm, hiểu con cá, phán đoán được thời tiết, tính được thuỷ triều (con nước), biết kiên trì chờ đợi thời điểm cá cắn câu thì hiệu quả càng cao. Tuy nhiên, một yếu tố không thể bỏ qua đó là ...cách câu!



Như đã nói phía trên, không phải con cá nào cũng có đặc tính ăn mồi như con cá nào mà chúng thể hiện rất đa dạng và trong nhiều tầng nước. Điểm chung nhất của chúng trong ăn mồi là ảnh hưởng bởi các địa chấn và thuỷ triều. Trước mỗi cơn động đất, giông bão vài ngày, chúng ăn mồi gấp gáp (như để tích trữ năng lượng vượt qua khó khăn). Trong cơn dư chấn và giông bão, cá tôm ít ăn mồi và chỉ sau khi bão tan, sau cơn dư chấn, con cá ăn mồi liên tục.



Có thể nói, ngoài các nét chung ấy, bọn cá có các cách ăn mồi, tìm mồi riêng cùng các đặc điểm cơ thể mà người câu cần biết để câu có kết qủa.



Trước tiên, bạn phải tìm cách dụ cá đến hố câu của bạn. Mồi dụ cá thật đa dạng như cám tanh, trùn huyết, trứng kiến, hoa hồi, a-nguỳ, cám gạo rang, bã bia, mẻ, mắm tôm...vv. Khi trộn mồi, người câu thường dùng chính bùn đất ở hồ câu cá nhằm tránh sự khác lạ đối với con cá và để mồi lẫn với bùn sình, con cá chỉ sục sạo chứ không dễ dàng ăn mồi dụ. Khi cá vào nhiều, hố câu của ta có nhiềm tăm (tim) cá. Người câu có kinh nghiệm sẽ phân tích được tăm từng loại cá và dùng mồi thích hợp để câu chúng lên.



Tuy nhiên, có thể cá vào, tim xì giăng giăng nhưng chúng không động tới mồi của bạn. Xin hãy chờ! Câu cá ta học được cái kiên trì chờ đợi là như vậy. Con cá lớn ăn mồi cũng lịch sự, đĩnh đạc và chín chắn như người lớn vậy! Cũng có khi, do nhiều người câu qúa, ngày này qua ngày khác dẫn đến con cá nhát lưỡi, nhát dây và nhất là bị lờn mồi. Nếu vậy, công thức mồi câu cần phải thay đổi và dây câu càng phải nhỏ hơn và các phụ tùng như thẻo, khoen, chì...càng phải mảnh nhỏ và tinh tế hơn..



Ở một số hồ câu cá đồng trong Thành phố, có khi bạn chỉ cần đi tay không, đến nơi, ngỏ ý với người bán vé hoặc anh bảo vệ ý định câu cá giải trí của mình, lập tức bạn có thể mượn hay được thuê cần câu, giỏ đựng cá, mua mồi tại chỗ và còn được cả tư vấn nên câu như thế nào thì hiệu quả. Tuy nhiên, đa số người câu giải trí là thích câu bằng thiết bị câu riêng của mình chau chuốt và sử dụng thức nhậu bằng chính sản phẩm là cá câu của mình kéo lên…




CÂU HIỆU QỦA MỚI VUI



Đó là nhận định của đa số người cầm cần đi câu giải trí. Đành rằng, với số tiền mua vé câu kia mà ra chợ có thể mua ngay được 1-2 ký cá tức thì. Nhưng, cá câu được mới là cá ngon. (Ngon ở đây đúng về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng).


Chính vì thế, việc tìm hiểu và tham khảo những cách câu và cách làm mồi câu luôn là ưu tiên hàng đầu của cần thủ.




Cá nào mồi nấy và cách câu cũng không hẳn giống nhau. Ví như con cá lóc trong hồ câu, chúng xì tim, cuộn giỡn, trồi lên táp bóng đầy ấn tượng nhưng nếu ta không đa dạng cách câu mà chỉ theo một cách thông thường cổ điển là rê nhái đùm hay nhái treo thì vẫn cứ lock như thường. Dân câu sáng tạo ra cách rê bằng dế, bằng thằn lằn, ngâm bằng tép, bằng cá ba đuôi (loại cá bán ngoài tiệm làm thức ăn cho cá long kim và nàng hai) và thậm chí một lát thịt philê của cá bạc má. Người câu sau khi móc mồi, chỉ cần quay nhẹ tay quay máy câu hoặc nhắp. Con cá lóc ăn mồi thường có hai dạng là đói mà tìm ăn mồi hoặc là tức con mồi mà táp.



Người câu nắm được hai đặc tính này để câu chúng. Khi đói (hay tới giờ ăn), chúng đuổi theo và táp bất cứ con gì trong tầm vây bắt. Những lúc như vậy, con cá thật dễ câu. Người câu gọi là...tới giờ nó xơi mồi! Ngược lại, khi chúng no mồi, thật khó dụ dỗ. Để tóm được chúng, người câu phải kiên trì rê nhắp, rung mồi khiêu khích cho đến khi chúng không thể cưỡng được mà lao tới ...



Cá rô đồng (còn gọi là rô mề) xưa nay vốn là con cá gắn liền với những tuổi thơ lãng mạn của chúng ta nhiều nhất vì thường ở đâu có nước là có cá rô. Mỗi khi mùa lũ, mùa nước nổi, cá rô theo nước đi hàng đàn. Ở Nam bộ, những vùng gần cửa sông, mùa rửa phèn và trốn phèn câu cá rô càng mê ly. Mồi câu cá rô ngoài thiên nhiên đa dạng từ trứng kiến, nhộng ong, cào cào, dế nhũi, tép nhỏ...



Trong hồ câu giải trí, cá rô thường tụ thành từng đàn ăn móng hoặc dạt vào ven bờ nấp trong các bụi, cọc cừ.... Nhìn đàn cá rô nhào lên, uốn quấy xà tăng vậy nhưng nếu câu không quen tay thì hiệu qủa cũng không bao nhiêu.



Để câu cá rô hiệu quả trong hồ câu giải trí, người câu mua một lon trứng kiến, lọc những trứng lớn ra riêng (cuối mùa mưa, trứng kiến lớn rất nhiều), những trứng nhỏ dùng làm mồi dụ cá. Nếu câu phao lửng nổi thì chỉ việc vãi trứng kiến nhỏ ra dụ cho bọn rô nghe mùi quẩn tới. Nếu câu phao sát đáy, người câu trộn trứng kiến với cám tanh và chút bùn sình ném xuống cho chìm sát đáy. Một điều cần lưu ý là: cố gắng câu lưỡi câu không gắn chì (hoặc gắn chì thật nhẹ) vì sao cho lưỡi câu và mồi chìm từ từ, bảng lạng thì con cá rô mới dễ thấy để bám theo mồi. Câu rô khó quên ở chỗ: cái phao làm bằng đọt cờ bắp lút xuống lừ lừ là ta búng nhẹ và kìa, con cá rô dính câu uốn quẫy tà lưng tà lưng trên nền nắng vàng nhấp nhóa.



Cá sặc ăn mồi đặc biệt khác cho nên cách câu cá sặc cũng thật khác. Nếu người câu không quen, thật khó câu được nhiều sặc và hình như không bao giờ câu được cá sặc lò tho lớn.


Cá sặc ăn mồi nút vào miệng rồi lập tức phun lưỡi câu ra ngay. Chúng thật giỏi trong cách nhằn mồi và trong cái tích tắc đó người câu phải dỡ cần ngay lập tức nếu không sẽ lỡ nhịp. Cá sặc có nhiều loại, sặc bướm nhỏ như con săn sắt rất dễ câu. Cá sặc rằn to hơn nhiều, chúng càng to, câu càng khó khăn vì chúng sợ bóng người và động nước. Người đi câu sặc thường dùng cần câu dài nhưng dây câu ngắn, khi tín hiệu phao nhấp xuống là dỡ nhanh và đón cá cho chuẩn bởi miệng cá sặc rất mỏng dễ xảy vuột. Dân chuyên nghề câu sặc ngoài thiên nhiên còn phải biết bơi thuyền (thúng). Có người cần câu đã dài nhưng vẫn lội ra xa, trước mặt là miếng vải nhựa trải trên nước để đón cá dỡ về, trên cổ bùng bêng giỏ trứng kiến. Vất vả vậy nhưng bù lại thì những con cá sặc lò tho thật giá trị, nhất là chúng được cạo vảy, làm sạch ướp gia vị và phơi khô...



Cá trê có vẻ như dễ câu nhất trong số các loại cá nếu nắm bắt đúng đặc tính của chúng. Cá trê đánh hơi mồi rất nhanh, chúng lại không sợ tiếng động. Người câu ngoài thiên nhiên thường tạo lỗ câu gần bờ bằng cách lội xuống, dọn dẹp khuấy cho bùn tươi lộn lên rồi xả trứng kiến hoặc trùn băm nhỏ, nước mắm, mắm tôm... xuống dụ trê tới. Khi trê vào ổ thì chúng sục sạo xì tim ồn ào. Lúc này, người câu chỉ việc dùng mồi câu là tép ủ hoặc dế nhũi mắc vào lưỡi câu, thả xuấng sát đáy và chờ đợi chúng mấp phao, rút xuống và giật cá lên.



Ở các hồ có thả cá trê, người câu chỉ cần căn theo 2 dạng: một là trời mưa, trê sẽ di chuyển mạnh để sục tìm mồi. Nếu trời không mưa, thì khi chiều sập xuống hoàng hôn cũng là lúc cá trê tìm mồi.



Câu cá Chép vốn là niềm say mê của nhiều thế hệ bởi khi con cá chép ăn mồi cái phao câu của ta biểu lộ những ấn tượng không bao giờ quên được. Chép là loại cá ủi mồi, đè mồi trước khi nuốt. Chiếc phao câu của ta nhấm nhí rồi như bị đè xuống một chút và không chóng thì chầy chúng sẽ trồi lên. Khi cái phao trồi lên chính là lúc con cá chép đã nuốt mồi và ngửa mặt lên. Người câu giật cá vào thời điểm này! Nếu giựt trễ, khi con cá há miệng, cái lưỡi câu sẽ phun ra: trượt! Cũng có những con cá ham ăn, sau khi trồi phao thì ngậm lưỡi chạy ngang (nhưng những chú cá dại dột như vậy không nhiều)



Cá chép là loài ăn tạp nên mồi câu chúng cũng rất đa dạng. Có người câu chỉ bằng cám tanh trộn nước sôi, mồi bịch của TQ bán ở các tiệm đồ câu, trùn huyết móc cả con, trùn chỉ quấn vào lưỡi câu..vv. Trong lĩnh vực làm mồi câu cá chép hiện nay có quá nhiều trường phái, vùng miền. Chỉ riêng món mồi xả dụ chép vào ổ cũng đến vài chục loại từ bã bia, thóc ngâm đến tinh dâu, bột đậu xanh, cám trứng, hoa hồi, a ngùy... mà hình như mỗi cần thủ đã câu cá chép không thể không bỏ công tìm hiểu.



Cá tra câu khó hơn. Cá càng lớn, câu càng khó. Nếu các loại cá lóc, chim, chép...khi chủ hồ thả xuống chúng có thể tìm mồi và dính câu sau 30 phút thì cá tra khác hoàn toàn. Khi thả cá tra từ nơi này qua nơi khác, chúng có thói quen xâm nhập đàn cá cũ trong hồ. Cách “kết thân” của chúng thường là cuộn lên, cuộn xuống như giỡn nhau. Người câu nhìn cảnh đó thật hấp dẫn nhưng nếu buông câu thì...99 %là thua vì những con cá cuộn lên như vậy sẽ chẳng mấy khi ăn mồi. Sau vài ngày, con cá tra ổn định thì chúng mới tìm đến mồi câu. Để câu cá tra hiệu quả, người câu nên tìm hiểu xuất xứ của cá tra trong hồ. Nếu nơi nuôi cá tra cho ăn cám viên công nghiệp thì hãy câu bằng cám tanh trộn nước và bột cháo khô; nếu nơi nuôi cho cá ăn bằng cơm thừa nhà hàng thì câu bằng bún mẻ, cơm ủ sẽ hiệu qủa. Thậm chí, một dạo chuối và sơ ri, dưa...rẻ qúa, người nuôi cá mua về làm thức ăn cho cá. Với những con cá nuôi như vậy, có khi người câu chỉ cần xắt miếng chuối cau móc vào lưỡi câu ném ra xa cũng bắt được cá khủng.



Câu cá trước tiên là một nghệ thuật, chính vì vậy, sự tìm hiểu và tích lũy kinh nghiệm không bao giờ đủ. Mỗi hồ câu các con cá ăn mồi khác nhau. Dù cùng loài cá nhưng hồ A ăn dạng này nhưng hồ B lại thích ăn loại mồi hoàn toàn khác. Có những ngày do thời tiết, do đáy hồ bị xử lý mà những con cá xưa nay vẫn ăn mồi sát đáy trở chứng tìm mồi ở tầng nước lưng chừng. Thôi thì đủ các tình huống và tác giả chỉ khuyên bạn mới tập câu rằng: hãy vào hồ câu, làm quen hoặc ngồi gần những người lên cá thường xuyên hoặc những người đã là khách câu quen ở đó, người ta câu thế nào, mình câu theo họ, khi nắm vững được căn bản, bạn có thể sáng tạo và cải tiến cách câu, cách làm mồi sao cho hiệu qủa hơn..


BẠN CÂU: “MÃI MÃI LÀ CẦN THỦ”



Khách câu trong các hồ câu giải trí bây giờ thật đa dạng. Một thực tế hiển nhiên là những “thợ” câu chính gốc kiếm cơm ngày càng mai một và chuyển nghề để nhường sân cho các thành phần câu cá giải trí.(không chuyển nghề sao được khi giá vé, chi phí mồi, ăn uống, đi lại...cao ngất ngưởng).


Khách bây giờ là những thương gia, công chức, VIP về hưu, chủ các cơ sở sản xuất, giao dịch và một số thành phần nhiều thời gian dư rả. Những ngày nghỉ, hồ câu còn đón thêm một lượng học sinh, sinh viên và gia đình ham câu cá. Những khách câu trên đã tạo cho khung cảnh hồ câu một bộ mặt sống động, gần gũi thiên nhiên và không kém phần thơ mộng.



Đa phần, khách vào hồ câu theo nhóm. Ồn ào một chút nhưng thật vô tư. Còn gì thú vị hơn sau những giờ làm việc căng người, mệt mỏi, anh em gặp nhau hỉ hả buông cần rồi thách đố, háy hó với nhau và cùng nhau lên cá, cụng ly...


Nhóm “các cụ” bao giờ cũng yên tĩnh. Tỉ mỉ, chau chuốt, nắn nót thì đã rõ nhưng hiệu qủa câu cá của các cụ về hưu không bao giờ thấp. Hình như kinh nghiệm sống cả đời về lòng kiên trì, chờ thời cơ, chắc chắn trong hành động ...đã dồn cả vào tay cầm cần. Vào những hồ câu dân dã, gần với thiên nhiên thường thấy có những bác già hưu trí ngồi yên tĩnh, dáng như tạc vào khoảng không, mắt không dời cái đuôi phao nhú lên phía trước mặt. Nhìn các động tác ra cần, so dây, búng giật, giòng cá...đều khoan thai, chắc chắn của các cần thủ có tuổi, ta mới giật mình: câu cá chẳng bao giờ già được.



Đối với người mới tập câu khi vào hồ câu bước đầu ai cũng lạ lẫm và có cảm tưởng như mình đơn lẻ. Nhưng rất nhanh chóng, họ sẽ có bạn câu vì anh em câu cá giải trí đễ gần và hầu như ai cũng sẵn sàng chia sẻ. Theo thời gian, những người bạn câu sẽ tìm thấy sự tương giao.



Cái dòng chữ MÃI MÃI LÀ CẦN THỦ! không phải là một câu slogan hay câu khẩu hiệu mà là một thực tế. Thực tế không ít người khi đến với môn câu cá giải trí đã say mê theo từng cấp độ khác nhau. Cái cảm giác đôi công của người quyết khuất phục những con cá tinh khôn trong ao, hồ, sông biển có khi đã đi vào tận giấc ngủ.



Nguyễn Anh Nguyên, hiệp sĩ CNTT Đông Nam Á (anh từng giữ chức Phó chủ tịch HĐQT Unilever, chủ nhiệm CLB câu cá 4so9) vốn là người của công việc. Một tuần, anh làm việc 6 ngày căng thẳng. Anh bảo: làm việc căng thẳng cần giải tỏa, ban đầu tôi đến với quần vợt, sau rồi bóng đá, game, máy bay mô hình...nhưng các môn này đều không giữ cho tôi sự hào hứng lâu dài. Đến với câu cá, niềm đam mê của môn thể thao giải trí tao nhã này đã cuốn hút tôi .... Quả thật, những chuyến du câu khiến những người bạn xích lại gần nhau, anh đã cùng các bạn thành lập hẳn một CLB câu cá, tổ chức nhiều chuyến du câu đầy ấn tượng và đáng nhớ.]



Nguyễn Văn Tám, một đại cao thủ của làng câu hồ giải trí với công thức làm mồi câu cá tra không đụng hàng và hiệu qủa nhất mực vốn là chủ doanh nghiệp congtenơ. Mười mấy năm trước, ước mơ cháy bỏng của ông chủ doanh nghiệp này không phải là tiền, là công việc, là gì gì mà là...mong sao cho thằng con trai tôi nó mau chóng quản lý tốt đoàn xe của gia đình để tôi với bả (tức vợ) yên tâm ngao du đây đó mà câu cá. Đến nay, ước mơ của bạn tôi đã thành hiện thực và hàng ngày những địa danh như hồ Đồng Diều, Sông Mây, Trị An...người ta thấy hai ông bà cứ như vợ chồng sam: chồng ném câu, kéo cá phà phà; vợ rảnh thì nặn mồi, bận thì giương kìm bẻ ngạnh cá.



Vũ Dương Ngọc Duy- một thương gia nổi tiếng trong làng kinh doanh lắp ráp điện tử mê câu đến độ tuần nào anh không ra biển câu là bứt rứt không yên. Anh cùng với Ba Đại, Minh Tân, Mai Hương, Hoàng Thịnh…lập thành một nhóm câu thiên nhiên bền vững đến độ không bao giờ họ đi câu mà không có nhau cả chục năm trời. Anh em bạn câu đặt cho họ một cái tên rất vui: nhóm 6 trái (lựu đạn??)


Đoàn Thanh Thoại- một quái thủ khác ở lĩnh vực lure và cần tay thì tất tật từ con mồi giả đến chiếc phao câu đều do chính tay mình chế tác, cải tiến và anh giật giải đều đều ở các sân chơi. Kỷ niệm đáng nhớ nhất với Thoại là chuyến câu thi do Câu Lạc Bộ Tràng An tổ chức mừng sinh nhật lầm thứ 2 tại Hồ câu Vĩnh Hưng Hà Nội. Hôm ấy, các câu lạc bộ trên cả nước và vài CLB nước ngoài tỉ thí với nhau. Thoại Nắn nót từng con cá đưa lên bờ. Anh và 2 cao thủ người Trung Quốc ngồi gần nhau và họ so kè từng con cá trong 2 giờ đồng hồ. Thế nhưng, sang đến giờ thứ 3 thì Đoàn Thanh Thoại bứt lên ngoạn mục, anh giành giải Nhất cần tay trong sự ngưỡng mộ và mến phục của mọi người…



Ở hồ Đồng Diều quận 8 có vài khu hồ dành thả những loại cá khác nhau nên người câu khá đa dạng. Người mê nét ăn mồi lịch sự đè xuống, trồi lên của con cá Chép; người mê cái kiểu mấp mấp phao của trắm cỏ, người lại thích cái nhẩn nha đu mồi của những chú điêu hồng và cảm giác mạnh hơn: cái kiểu ben cần thẳng băng của cá chim hay tra khi hốt được cục mồi. Khách câu đông nhưng tôi nhớ mãi một sĩ quan quân đội đã về hưu và vợ chồng một bác giáo sư đang giảng dạy ở trường Đại học. Họ quen nhau qua những buổi câu cá và tình bạn của họ thật đẹp. Họ có nhiều kỷ niệm với nhau tôi không tiện kể ra đây nhưng chỉ nghe họ bình luận về nhau đã đủ thấy cái môn câu cá giải trí quan trọng như thế nào với mỗi người: Ông sĩ quan quân đội về hưu bảo ông giáo sư đại học sướng vì có bà xã cũng ham câu nên khoản xin quơ-ta (giấy phép vắng nhà) coi như không cần thiết. Ông giáo sư đại học bảo ông sĩ quan quân đội sướng vì không phải cảnh giác với “rơ moóc” nên có thể cho phép mình thoải mái nhìn sang một chị cần thủ ngồi gần đó...



Nhắc đến dân câu sông, hồ hàng quái kiệt ở Việt Nam không thể quên Huỳnh Minh Định mà đã chết tên là “Định ĐD”. Biệt tài làm mồi câu cá của Định từng làm cho cái quái thủ bậc thầy của trường dạy câu cá Lão Quỉ (Vân Nam Trung Quốc) vì nể qua nhiều đợt so dây cao thấp. Trong câu cần tay có nhiều trường phái như câu kiểu Đài Loan, câu kiểu Hàn Quốc, câu kiểu Trung Hoa lục địa, câu truyền thống Việt Nam, câu chì nằm cho cá tự đóng và thậm chí câu rà ổ, câu không mồi...vv. Với Minh Định, anh là sự tổng hợp tinh tế của nhiều trường phái câu ấy. Bằng chứng hùng hồn là nhà anh có cả một...bức tường treo kín danh hiệu từ biệt hiệu Quái Thủ đến Quái Kiệt và...Cần Vương, mà các cuộc câu thi danh tiếng công nhận tài năng.



Với Định, anh từng đạt tới n kết qủa khi bắt một con cá lớn và hung tợn bứt phá trong một cuộc câu thi có những qui định ngặt nghèo như thiết diện dây nhỏ, hạn chế độ dài của dây và cần cùng hạn chế mức thời gian. Anh bảo: với sự hạn chế như thế thì người câu không được phép phân tâm khi dính cá chứ không nói sai lầm. Anh kể rằng: trong chuyến câu tranh tài ngôi Vương tại Ao Đôi Bình Chánh. với loại dây do Ban tổ chức cung cấp có 6 lb (test khoảng 2,8 kg), anh đã bắt được con cá tra tới 8 ký lô hơn. Hôm ấy, ngoài sử dụng nhuần nhuyễn nâng hạ thế cần, mobin máy, khoen cần silicong láng dây hỗ trợ mà ngón tay trỏ của anh còn phải phụ trợ miết, xả sườn tang dây cẩn thận đến độ hạn chế tối đa sự nóng dây và giãn dây... . Sau 30 phút, anh khuất phục con cá trong tiếng reo hò và những cái bắt tay chúc mừng của mọi người!



Mê câu đến độ dù anh đã khai trương hẳn một tiệm đồ câu bề thế, có logo, liên kết nhập khẩu ngư cụ, PR đầy đủ nhưng anh cũng giao cho đệ tử trông coi để suốt ngày ôm bó cần rong ruổi các ao hồ...



Trong quá trình tham gia câu cá giải trí, tại các hồ câu, có khi tôi còn bắt gặp những gương mặt khá phong trần. Ví như H. Sẹo! thoạt nhìn gương mặt dữ rằn và bắp tay đầu sẹo cứa ngang cứa dọc bằng lưỡi lam của anh thì ai cũng ngại ngần, bởi những vết cứa ấy là vết tích của những cữ lên cơn vã thuốc. Thực ra, H. hiền khô (nhất là khi anh cười) và anh giải thích cho tôi: Con hiền và con cười được là nhờ câu cá đó chú! Thì ra, H. là một tay nghiện nặng và đã vài lần ra vô Bình Triệu. Nhưng cứ mỗi lần được cho về là vài bữa lại tái nghiện. Gia đình nghĩ tới chuyện sắm cho anh một bộ đồ câu cá mong gã theo con cá mà quên con sâu. Mà thật! với quyết tâm cai nghiện, Hoàng đã thành công. Anh bảo mê cái phao mấp máy, mê cái dây sàng ngang lắm chú à! Bây giờ con sống bằng nghề câu cá! Vậy sao? Vâng! Má con cho mỗi tháng 1 triệu làm vốn, con mua vé vô hồ câu, được cá là bán bớt, tiền đó mua mồi mua vé lại...loanh quanh mỗi tháng con cũng hết vừa đủ 1 chai. Má con bảo vậy là nhà mình lời to rồi! bởi hồi con còn chơi hàng trắng mỗi tháng mõi của má tới 4 chai lận...



Với bác Tư Hơn- người câu cá thuỷ chung hàng ngày trên khắp nẻo ao hồ thành phố lại khác, bác đến hồ câu cá đồng bởi nỗi nhớ, sự hoài niệm một thời. Bác quê gốc Bạc Liêu- nơi mà những vùng đất lung láng, kênh rạch chằng chịt, cá nhiều đến nỗi có người phải thốt lên:” Đồng lung bao nhiêu cọng cỏ năn là bấy nhiêu con cá”. Bác kể rằng: tuổi thơ của bác cắm câu những con cá lóc 5- 7 ký là thường, cá sặc to như đế dép, rô mề thì 7 con đã sắp một ký lô..



Theo con cái lên thành phố nhiều năm, nỗi nhớ những con lóc nướng trui, cá rô kho tộ ăn với bồn bồn có khi đến quắt quay. Con cái hiểu lòng cha, họ cùng nhau sắm dụng cụ đồ nghề cho cha và ông cụ tối ngày chỉ mỗi việc...đi câu! Nhìn cái tay ông thoăn thoắt vắt trứng kiến vô lưỡi câu, miệng tủm tỉm, cặp mắt hơi đục ánh lên tinh quái sau hai tròng kiếng lão mà thèm. Cá câu mỗi ngày ông đều cẩn thận mang về. Ông bảo chia cho con cháu ăn, ăn không hết thì tự tay ông làm khô gửi về dưới quê cho các cháu. Trả lời cho cái sự “chở củi về rừng” này, ông bảo bây giờ dưới quê nạn xiệc điện hoành hành, thuốc trừ sâu ...đã làm suy giảm đáng kể nguồn cá đồng.




Ôi! chuyện cá, chuyện câu ...; sẽ là huyên thuyên với ai dửng dưng và coi câu cá là một trò giết thời gian vô bổ. Nhưng cái tao nhã nhất, cái gần gũi nhất trong câu cá có lẽ đây là môn giải trí không phân biệt giàu nghèo, cấp bậc, vị trí xã hội và kể cả xuất thân nghề nghiệp. Đã ở trong hồ câu hoặc ngoài điểm câu thì bất cứ ai cũng có thể hỏi người câu bên cạnh rằng:” Bạn câu lâu chưa, bạn câu được mấy con cá rồi??”!



Có lẽ câu cá cũng như bóng đá và âm nhạc. Trên sân cỏ, trong nhà hát hay trên chiếc thuyền câu, người ta dễ xích lại gần nhau hơn. Thật vậy, khi cùng cầm cây cần trên tay, người ta ít phân biệt màu da hay chủng tộc và cả tuổi tác cũng không còn gì trở ngại. Rồi con cá dưới kia như một thực thể công bằng: cắn mồi cũng không phân biệt người giàu sang hay người nghèo khó...



Có lẽ chính vì vậy mà theo thời gian, sở thích và sự đồng điệu trong lĩnh vực điếu ngư, những người câu cá kết thân và thật dễ dàng khi hình thành những Nhóm, Câu lạc bộ, Hội...câu cá với những tiêu chí đặc thù và đầy bản sắc.



Chỉ trong vòng hơn 10 năm qua, ở Việt Nam ban đầu chỉ có duy nhất 1 Câu lạc bộ câu cá của các bậc lão thành tại Thủ Đô; cho đến nay, hàng chục Hội câu cá, Câu lạc bộ, Nhóm câu trên mọi miền đất nước được thành lập như CLB câu cá Thể thao Hà Nội, CLB câu cá Âu Lạc, CLB Câu cá Tràng An, CLB Câu cá 4so9, CLB Câu cá Thành Nam (Nam Định), CLB Câu cá Xứ Thanh, Phao Màu Hồng, CLB Câu cá Dã Ngoại, CLB câu và chơi, CLB Hòn Dấu Hải Phòng, Nhóm Câu Huế, CLB Hội An-Đà Nẵng, CLB Gò Vấp, CLB Câu tay, Hội quán bạn Câu, Hội câu những người bạn...với thành phần đa dạng.



Đã có những cuộc câu thi xuyên Việt, xuyên biển và trụ lại giữa biển khơi với vài trăm người tham gia từ các Hộ, CLB, Nhóm câu…. Bên cạnh câu cá, đa số các Câu lạc bộ câu cá ở Việt Nam còn đề cập đến các lĩnh vực lành mạnh môi trường, từ thiện, hỗ trợ lẫn nhau...v

Sống chung với lũ

Ngày xưa từ hồi tôi còn nhỏ cứ hè năm nào thấy rùa nổi nhiều, hay nằm phơi mình trên vạt bèo tây giếng đình, thì ông tôi lại lẩm bẩm năm nay lại sắp có lũ lớn đây. Và đúng như vậy, y rằng năm đó nước lớn. Người nhớn thì lo nháo nhác, còn chúng tôi thì khoái trá với cả bó cần câu, mớ lưới tơ, mắt hau háu nhìn vào ao hợp tác... chờ xem cái bờ ao bao giờ thì vỡ... khoái thật!



Ấy thế mà bây giờ nghĩ lại, thấy giật mình thon thót, chết thật năm nay lại có bác Rùa to vật... bò từ bên tây về, phen này thì lại lũ to rồi, mà mình lại có mấy cái ao cá to, lụt thật thì bỏ mẹ!



Bữa hổm thấy bác Rùa dắt theo bác rùa gái cùng Lão Bá vào thử cần cái hồ câu tay, nhân thể chào tạm biệt chú em là tôi. Hê hê, cụ chơi chán, cuối hạ rồi cụ mới lặn thì giời cũng chả có hột nước mắt nào nữa mà sợ lụt.



Ai dè cụ rút cần về chiều thì bữa tối đó mưa ngay, thiêng thật!



Hôm sau vẫn mưa, mưa mãi, mưa rất to, nước ngập toàn thành phố tới lưng ống chân, nhà tôi vẫn còn tỉnh tướng lắm, sợ qué gì chắc mai nó tạnh lụt thế nào được, giời làm gì mà còn nhiều nước thế. Cho đến xẩm tối hôm đó thì mới chột dạ, khi thấy nước không biết ở đâu đổ dồn về mỗi lúc một nhanh, tôi bèn phi thẳng xuống hồ ĐQ3, lúc này con đường vào nước mới ngập ống xả, xe vẫn chạy tốt, hồ vẫn chưa ngập, nước mới mấp mé vạt cỏ ven bờ, mấy chú em trông hồ ỏn ẻn anh xuống thì trông cho em một buổi em tạt về nhà xem nước ngập thế nào, ừ về đi chúng mày nhát thế ngập thế đếch nào được… Thế là còn lại một mình một lều, cắm cái nồi cơm điện xong là ung dung nằm khểnh, trời tối dần mưa vẫn cứ mỗi lúc một to, chưa kịp ăn bữa tối thì bỗng dưng mất điện, trời tối đen, vớ cái đèn xạc bấm ra ngoài hồ thì giật mình ngã ngửa, cái xe máy dựng lúc chiều trên chỗ bờ cao thì giờ ngập đã gần một nửa, nước lên đột ngột lớn quá nên người ta ngắt điện mất rồi, bỏ mẹ thật! Tôi toan dắt xe quay ra phố lấy lưới về quây thì không thể nào đi nổi nữa, lối ra nước có chỗ đã lên đến ngực, chảy ngang qua đường khá xiết, nên đành phải quay trở lại, một mình xoay sở thế nào đây? Anh em thì túm lại hết trên kia vì hồ ĐQ1 thì cũng đang ngập, hồ ĐQ2 thì đã vỡ bờ khá to nước xối tràn vào trôi cả mấy gian nhà bảo vệ đằng sau, thôi đành còn nước còn tát một mình cố gắng giữ hồ ĐQ3 vậy!



Tôi cố gắng chặt hàng loạt cây ven hồ chặn quanh bờ ngăn cá trôi theo dòng nước, nước đến đâu thì đắp bờ và chặt cây tới đó, nước mỗi lúc một cao, lúc này nhìn xung quanh đã ngập trắng nước, nhà dân xung quanh đã chìm một nửa, chỉ còn mỗi khu nhà sàn hồ câu là cao nhất nên nước chưa lên đến sàn. Hi hi, yên tâm vẫn ở tốt! Đang loay hoay chặt ngả nốt mấy cây chuối, thì tôi bỗng giật mình dựng tóc gáy bởi một tiếng phì phì rõ mạnh, chắc con trâu nhà nào bị lạc thôi, chưa kịp định thần thì lại... phì iiiii... tôi dừng tay bấm đèn, bỗng giật mình tá hoả bởi con rắn hổ mang to như bắp tay đang cố bạnh mang như cái bàn tay xoè, cổ vươn cao chừng nửa mét nhằm nơi phát ra tiếng động bổ tới. Thôi ba sáu chước - chước chuồn là thượng sách, tôi nhào vào nhà sàn, nước đã mấp mé tới sàn, ngay lập tức dùng nilon bít kín các lỗ hổng và kẽ hở quanh sàn nhà, cậy lấy mấy tấm ván đóng ngang bục cửa chống rắn tấn công vào nhà, rồi kiểm tra lại kỹ càng từng góc nhà, xó tủ. Khi đã yên tâm chưa có kẻ địch nào lọt vào nhà mới ngồi thu lu tính kế thoát hiểm.



Giời ạ! Do nước ngập cả cánh đồng nên lũ quái vật kia đều dồn lên nơi cao nhất là khu hồ này, có lẽ chúng sinh sống ở trong khu trận địa tên lửa của quân đội ở gần đây, nay nước ngập sâu nên dồn hết lên đây.



Để chiến thắng nỗi sợ hãi thường trực tôi quyết định sẽ tìm và tiêu diệt chúng trước lúc chúng tìm đến nhà mình, sau khi lục lọi mớ đồ câu tôi tìm được 2 cái chống cần bằng inox có cái chạc ba khá chuẩn, một cái để nguyên làm cái chẹn đầu, một cái chế làm cái kẹp, cái thùng ủ thính được úp cái rổ vào thành một cái giỏ đựng khá chắc chắn, chưa kịp hài lòng với thứ vũ khí tự chế lại nghe tin qua điện thoại có 4 con cá sấu sổng chuồng trong khu nuôi ở phía trên, chiều nay mới bắt được một con, tôi tái mặt, sao mình lại rỏi vào hoàn cảnh oái oăm này nhỉ?



Thôi đành hí hoáy lôi nốt ra khẩu 2 nòng, từ ngày nhà nước cấm săn bắn thì cất đi làm kỷ niệm, nay lúc sinh tử đành mạn phép phòng thân, may mà còn 4 viên đạn.



Tôi khá yên tâm với trang bị vũ khí tận răng, vậy là ngay đêm nay có thể yên tâm phản công.


Để trấn tĩnh, khi lên đường tìm diệt tôi hát lảm nhảm luôn mồm bài quốc ca cho nó có khí thế, có tiếng người nó cũng đỡ sợ, tôi quay lại chỗ lùm chuối cao cao lúc tối săm soi khá kỹ nhưng không thấy gì, toan quay lại thì thấy mờ mờ trên gò đất cao ngay bên trái có cái gì đang đung đưa, tôi bấm đèn: Hổ mang! Hổ mang đây rồi! Cái mang trăng trắng đang bành ra đang đung đưa phì phì dọa dẫm, không phải con trước, con này khá to, chừng 2 kg. Cảnh tượng hãi hùng này tôi mới chỉ xem trên kênh đít cô vơ ry, đây là lần giáp mặt đầu tiên và khoảng cách hơi gần nên cũng khá hoảng, cơ mặt như đanh lại, nhưng vẫn run bắn không thể nào can đảm nhao vào chẹn cổ nó, tôi giương súng, nhưng lại tiếc đạn, vì chỉ vỏn vẹn có 4 viên, rủi lại gặp con to hơn thì sao? Đang phân vân thì bỗng thấy một cái đầu nữa to như ngón chân cái thò lên bên cạnh: Giời ạ! Lại 2 con! Có lẽ quá hoảng hốt nên theo phản xạ tự nhiên, gần như cùng một lúc hai ngón tay tôi co rúm vào cò súng, hai tiếng nổ đanh phá tan màn đêm yên tĩnh, kịp thời và chính xác. Trong mờ mờ làn khói súng là hai con rắn nằm quằn quại, tiếng nổ như làm tôi phấn khích và tự tin hơn bước lại gần, một con bị bắn gãy sống lưng, một con bị đạn thổi bay đầu, có lẽ do cự li bắn khá gần. Hai con nặng tới gần 4 ký, lúc này gần như đã bị mê hoặc bởi chiến thắng nên không còn cảm thấy sợ hãi, tôi lôi chúng vào nhà xăm soi.



Chúng đẹp thật! - Một vẻ đẹp dễ sợ!!! Con còn sống liền bị nhốt vào cho vào bao tải, còn con mất đầu liền bị lột da cắt khúc và luộc, bữa tối đầu tiên nơi vùng lũ là món rắn luộc chấm muối tiêu, vì nồi cơm nấu dở mất điện không ăn được. Khà khà! Con này mà vào nhà hàng thì... tiền triệu chứ chẳng chơi... Nói thế chứ lúc đó tôi vừa ăn vừa run...



Câu chuyện có thật 100 % nên có thể nó không hấp dẫn lắm, dưng các bác cứ đọc chơi cho đỡ buồn những lúc trà dư tửu hậu thế này. Giá mà không ai biết thì em có thể thêm mắm thêm muối hay bốc phét thêm một chút cho nó có phần ly kỳ hấp dẫn, nhưng đằng này nhiều người biết quá mới chết, nên đành phải kể thật. Hi hi... thú thật với các bác là em cũng dát như cáy ngày, đang ngồi nhấm nháp bữa tối đạm bạc thì giật mình đánh thót vì một tiếng động mạnh ngoài cửa. Hú hồn!... Một bộ mặt xám ngoét đang nhăn nhở với hàm răng trắng ởn ướt lướt thướt đang run lập cập trèo qua cửa sổ mò vào. Té ra là Bạo, con trai ông chủ hồ câu tay bên cạnh, nghe tiếng súng nổ nên bì bõm mò sang cầu cứu: Nhà em ngập hết rồi, phải kê ván trên bè chuối để ngủ, bên này cao, hôm nay em ngủ với bác nhá. Tôi mừng như bắt được vàng, thế thì vững tâm rồi, thế là mình đã có thêm đồng đội, hắn ta bộc tuệch: Bác ăn chuột luộc trừ bữa à? Tôi thủng thẳng: Chém được con mòng, tao luộc. Thế là hắn xà vào chén ngay, rồi xít xoa, đúng là ngon như thịt rắn anh nhỉ, thấy hắn thích, tôi rỉ tai: Muốn ở đây thì chốc nữa mày phải đi bắt cùng với tao, hắn đồng ý ngay.



Có thêm đồng đội tôi như được tiếp thêm dũng khí liền buông bát đũa khoác cái giỏ tự chế cùng dàn kẹp với cái đèn câu, hắn ôm hai cái bao tải với khẩu súng ì ũm lội sau hót như khiếu, theo phán đoán, tôi quyết định sẽ mò tới hai gò đất cao nhất còn chưa ngập. Giời đất ạ! Đúng y như dự đoán, tôi đang xăm soi thì hắn hét lạc cả giọng: Rắn! Rắn!... Hổ mang kìa!



Tôi ngoảnh lại thì thấy một em hổ mang xám ngoét cỡ bắp tay đang bò chậm rãi men theo rìa cỏ ngập nước, mặt tôi chắc tái mét nhưng vẫn giả vờ tỉnh queo, có lẽ hơi sĩ diện một chút trước thằng đệ tử nhát gan, tôi gằn giọng: Bình tĩnh! Đứng im! Sợ gì, để tao bắt sống. Lấy hết can đảm tôi bặm môi lấy cây gác cần chẹn mạnh vào cổ rồi gí chặt xuống đất, con rắn oằn mình quấn chặt đến nỗi cong cả cây gác cần bằng inox, có thêm cái mặt hắn như làm tôi can đảm thêm, tôi nhẹ nhàng và thận trọng một tay tóm chặt cái đuôi, một tay lần theo cái mang đang bành ra của con rắn rồi ghì chặt lấy đầu, miệng con rắn há ngoác ra nhe cả 2 cái răng nanh dài như cái gai mây đầy nọc độc,tôi thoáng rùng mình nhưng trấn tĩnh được ngay.



resizemod=on v:shapes="_x0000_i1025">



Ra vẻ chuyên nghiệp, tôi hét thằng Bạo xoè cái bao tải ra để bỏ con rắn vào, xong việc tôi thở phào rồi ngồi phịch xuống đất, ngồi đúng vũng nước, ướt cả quần lúc nào không biết. Còn thằng Bạo thì đứng run lẩy bẩy chả giống như cái tên nó chút nào: Em chưa nhìn thấy rắn hổ mang to như thế bao giờ, chưa bao giờ…



Chưa kịp định thần ngoảnh sang bên thì tôi lại hét lớn: Bạo, đứng im! Nhanh như cắt tôi thẳng tay vụt mạnh cây chống cần ngay chân thằng Bạo, lại một con rắn hổ mang chừng một cân nữa bị vụt gãy lưng đang lộn vòng dưới nước, lúc này thì cả tôi và thằng Bạo đều hoảng thực sự, nó run bắn: Thôi đi về thôi anh ạ, rồi hắn làu bàu trách móc: Em tưởng anh bảo đi chém mòng, tôi giả vờ bực dọc: Mày đổi mẹ nó tên thành thằng Dát cho rồi... chứ Bạo cái đéo gì! Tôi cố gạt con rắn lên chỗ nước nông rồi chẹn cổ tóm sống, cho nốt vào cái bao tải dứa còn lại, rồi hai thằng líu ríu quay lại con đường cũ, đang ì ũm bỗng thằng Bạo lại hét toáng rồi nhảy cẫng lên: Cạp nia anh ơi! Nó suýt bò vào chân em. Tôi soi kỹ trong lùm cỏ ngập nước thì phát hiện một vạt cỏ đang động đậy theo chiều con rắn bò, liền vụt ngang một roi sắt hú họa, một cuộn sóng quẩn mạnh rồi một khúc khoang đen khoang trắng của con rắn cạp nia khá to oằn lên, tôi thò móc kéo lên, một con khoang đen khoang trắng to bằng cái chuôi liềm mà dài cả một sải tay, cái đầu đang ngoe nguẩy há cái miệng đỏ lòm đớp đớp.



Lúc này thì thằng Bạo đã hoảng loạn thực sự nên đã nhảy ngay lên đường tầu quầy quậy đòi về, còn tôi lúc này như đang say đòn, nỗi sợ hãi đã biến thành liều lĩnh, tôi quyết tâm săn lùng tìm diệt tất loài rắn độc phòng hậu hoạ về sau, bởi tôi biết cả cánh đồng bao la này có con nào sống sót thì nay dồn hết về đây. Trên đường đưa thằng Bạo về tôi còn đập hụt 2 con hổ mang to và kết liễu vài con khoang đen khoang trắng. Bước vào nhà nhìn đồng hồ, chúng tôi mới đi được 45 phút và quãng đường chừng 300m... Thật là hãi hùng!



Vứt hai cái bao tải rắn đang phì phì vào góc nhà, tôi quyết định một mình khoác súng và cầm gậy đi tiếp, vì lý do an toàn nên tôi quyết định gặp rắn là “đập chết ăn thịt”, và chỉ 2 tiếng sau với vài vòng bờ đất cao tôi đã vụt chết 4 con hổ mang nữa, toàn loại chừng hơn một ký, hú hồn, trong đời tôi chưa bao giờ thấy rắn to và nhiều đến như vậy.



May mà trong ngăn đá tủ lạnh vẫn còn đá lạnh, tôi vứt mấy con rắn bị đập chết vào, rồi chui vào màn giắt thật kỹ xung quanh, nhưng cũng chẳng thể nào ngủ được bởi tiếng phì phì của mấy con rắn trong bao tải, càng nghĩ lại càng thấy rùng rợn, thằng Bạo không dám về đêm nay, nó ngủ lại bên này, có nó tôi cũng thấy vững tâm hơn, nhưng vẫn thắc thỏm chờ trời sáng... Quả là một đêm ác mộng!



Mà là ác mộng thật, bởi tôi chưa bao giờ thấy nước lớn thế này, và cũng chưa bao giờ rơi vào cảnh cùng quẫn thế này, nguy cơ trắng tay thì đã đành, nhưng còn sự nguy hiểm đến tính mạng nửa chứ, và chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy tôi đã hạ một quyết tâm: Phải giữ bằng được hồ cá bằng bất cứ giá nào, và sẽ tiêu diệt hết mọi mối nguy hiểm từ rắn cho cả khu vực này về sau, thế là cả đêm tôi ướt lướt thướt ì ũm be bờ chắn nước và lên kế hoạch đề phòng lũ lớn, thi thoảng lại tuần quanh chỗ mấy gò đất cao xem có con rắn nào mò về không.



Để đề phòng nước lớn có thể trôi mất nhà sàn, tôi tháo lấy một cuộn dây điện và kết thêm một cái bè chuối khá vững chăc, bỏ lên chiếc bếp ga du lịch với ba bình ga,cái ăng gô, túi bột canh và tất cả đồ câu cần câu, mồi bả, cùng khẩu súng hơi của Bá Vương rồi phủ lên một tấm bạt, neo cạnh mấy gốc cây keo to, như vậy nếu có vỡ đê thì tôi vẫn có thể kiếm chim trời cá nước mà sống đàng hoàng. Suy nghĩ của tôi lúc này thật lập dị...ha ha...thử sống hoang dã với tự nhiên một phen.




Tôi đây - gã nhà quê với thùng mỳ tôm và can nước ngọt cứu trợ ngày hôm sau, cùng cái thùng đựng rắn.



Trong nhà gạo vẫn còn, nhưng nước sạch thì không có vì mất điện và máy bơm thì cũng ngập sâu trong nước từ lâu rồi, mái nhà thì phủ đầy lá cây mục nên hứng nước cũng không dùng được, tôi liền nghĩ cách chế một máy cung cấp nước ngọt bằng cách cắm cọc căng cái áo đi mưa ra ngoài trời mưa rồi hứng vào một cái nồi to, nhưng tôi vẫn quyết định sẽ để dành gạo phòng khi nước lớn không tiếp tế được, từ ngày mai tôi sẽ kiếm được gì thì ăn nấy.



Rất may gần sáng tôi bẫy được một con chim Cuốc bèo vướng chân vào đống lưới tơ cũ trôi cạnh góc hồ, tôi bơi vòng sang hồ bên vặt vài quả đu đủ xanh và chùm khế, thế là sáng mai tôi đã có một bữa sáng ngon lành với thịt chim nấu với đu đủ, cùng lòng rắn xào khế và vài khúc rắn luộc, ăn sáng như thế thì quá ổn rồi còn gì!



Ban ngày tôi liên tục đi kiểm tra xung quanh hồ chèn chân chì và căng thêm luới chỗ ngập nước, đắp thêm bờ những chỗ sắp tràn, điện thoại của tôi lúc này đã hết pin, tôi cố gọi cuộc cuối cùng cho Thực và Kiên, hai chú em trông hồ đến tiếp cứu, vì ngày thứ 2 nước vẫn lên to nhưng tôi mù tịt chẳng biết tin tức gì.



Rất may đến khoảng 10h sáng thì có thuyền cứu trợ của xã đến cập vào đường tầu, họ hỏi thăm, động viên và tặng tôi một thùng mỳ tôm với 1 can 20 lít nước ngọt... Hu hu! Tự nhiên mình trở thành người được cứu trợ, có rơi vào hoàn cảnh như thế này mới thấm thía nỗi khổ, sự khó khăn của bà con vùng lũ đã trải qua. Thật là cảm động! Thế là yên tâm về lương thực, nhưng tôi vẫn cứ thử sống theo cách tự nhiên của tôi, mỳ tôm tôi chỉ bóc lấy gói bột canh để dành, còn nhường phần mỳ cho hai con chó trung thành đang ướt lướt thướt và lả ra vì đói, mỗi bữa mỗi con 1gói. Còn tôi sẽ tự kiếm, chế được món gì tôi sẽ ăn món ấy, tôi định vị trong đầu lại những vị trí của mấy búi xả, búi gừng và mò được vài khóm, cùng với 1 cây ớt trĩu quả, tôi nhổ tất nhặt hết lá và đem gác lên để dùng dần, buổi trưa đó tôi xào thịt rắn với xả ớt, đu đủ ninh xương rắn... Nhưng vẫn đói, tôi đành nhá thêm một gói mỳ tôm lẽ ra để dành cho chó, Hi hi... mì tôm sống ngon thật! Nhưng mỗi tội khát nước.



Hôm sau nhân tiện có thuyền về tôi gửi về hồ ĐQ1 cho chú em Nghĩa trông hồ và Thế Anh, Năm "chim"- mấy anh em cần thủ đang phụ giúp chống lụt, tôi gửi 2 con hổ mang chừng hơn 2 cân để nhậu chơi, làm anh em xanh mắt. Tới xẩm tối thì Trung "nhảy", một cần thủ Âu Lạc Hà Đông vốn hay lọ mọ, nghe tin rắn rết liền cởi quần áo lội vào năn nỉ cho anh cho em theo bắt rắn với. Thế là có đồng đội rồi, đêm đến chúng tôi sẽ tiếp tục sát cánh truy lùng loài quái thú này.



Trung "nhảy " là một cần thủ trẻ, vào nghề từ dạo tôi còn đi săn hàng, cái đêm tôi bị con cạp nong bò qua chân ở hồ Kỳ Đạo trong Thạch Bích thì hắn cũng ngồi tập toẹ ôm cần bờ bên cạnh, thằng cha đẹp trai nhưng khá lỳ lợm, sau 3 tiếng lội nước bì bõm cùng hai chú em trông hồ mới đến được hồ câư, uớt lướt thướt với một túi chẫu chuộc và ba con chuột đồng, chưa kịp nghỉ chân tôi đã sốt sắng vào đề ngay: Đi bắt luôn chứ, làm mấy con hổ mang chốc nữa uống rượu, hắn cười khẩy: Nghỉ tý đã, bác cứ phét lác, cứ làm như bắt gà trong chuồng không bằng ý. Tôi lẩm bẩm hôm nay nồm nó ra sớm đấy, mày chờ tao kiểm tra một vòng quanh hồ rồi đi nhé. Nói rồi tôi tùm tũm lội nước bước đi, mới lội được chừng vài chục bước chân khi bước qua một bụi cây đổ tôi chợt thoáng thấy có mùi là lạ... hơi thum thủm, chợt nhớ câu chuyện cũ ông tối kể rắn hổ trâu đi đến đâu có mùi thối đến đấy, sự tò mò nghi hoặc làm tôi quay lại lom khom nhẹ nhàng dò xét từng bụi. Sự im lặng, hồi hộp đến rợn cả tóc gáy, mãi khi tôi lấy cây chống cần đập nhẹ vào phía trên bụi cây có búi sắn dây leo um tùm,thì mới nghe một tiếng xì mạnh làm tôi giật thót nhảy lùi lại.



Một con rắn hổ mang đen xì rớt đánh bịch xuống đất, ngỏng cổ dọa dẫm nhưng không bò, giời ạ, nó đang lột xác, thảo nào nặng mùi thế, tôi cụp đèn cho đỡ chói rồi giơ bàn tay trái sang ngang nhứ nhứ, vẫy vẫy để thu hút sự chú ý của con rắn, nó cụp mang rồi nhẹ nhàng nhằm hướng bàn tay tôi chăm chú nhưng rất chậm rãi bò tới, tôi từ từ lùi lại, khi bò qua được chỗ rậm rạp con rắn chợt bất ngờ bạnh mang ngỏng đầu vươn cao cổ khỏi vạt cây xấu hổ xì xì doạ dẫm, rối cong người chuẩn bị tấn công... Chỉ chờ có thế, tôi lia ngang cây chống cần bằng i nox chính xác vào cái cổ bạnh trắng xám nhờ nhờ, chỉ nghe tiếng vút một cái và con rắn gãy cổ đang giãy đành đạch lộn vòng xuống vạt cỏ ngập nước.



Nghe tiếng đập, Trung "nhảy" từ nhà nhảy ngay ra lấy roi đập tới tấp, hắn đang say đòn làm tôi ngăn không được, hắn thở hổn hển: Hổ... hổ mang hả anh? Uồi!... To nhề!...Ở đây sao nó to thế này? Tôi sỹ diện đủng đỉnh bĩu môi, con này nhỏ, được hơn cân thôi, ăn thua gì mà đã... uồi, mà ần sau mày đừng có đánh như đánh kẻ trộm thế, nói rồi tôi chẹn cổ tóm lấy con rắn giơ lên, con rắn há ngoác cái miệng màu đỏ hồng gương hai cái răng nanh nhọn hoắt rồi oằn mình phụt hai tia nọc độc cực mạnh như hai tia nước dài chừng 30 cm, làm ướt cả một vạt áo gần bằng bàn tay khiến tôi sợ chết khiếp, hét thằng Trung lùi ra, rồi bỏ con rắn vào thùng, nó dò dẫm theo sau, chúng tôi tiếp tục bới tung từng đống cỏ cây rậm rạp và bắt được một con ếch đang nằm mà to sụ, chúng tôi đi tiếp. Lên đến đường tầu thì tôi nhìn thấy thấp thoáng xa xa hai vệt đen bóng nhoáng đang lấp lánh chậm rãi bò ngang, Trung "nhảy" sấn lại gần toan đập, tôi chặn lại: Mày thử tập chẹn bắt sống bằng tay đi xem nào, con này hổ chì không có nọc độc, chậm chạp và lành như đất mà.



Thằng Trung nhanh tay chẹn cổ rồi luồn tay bắt sống, con rắn hổ chì bằng nửa cổ tay nhưng béo tròn, quấn chặt lấy bắp tay cái đuôi ngoáy ngoáy rồi cong người toan xiết chặt lấy bắp tay thằng Trung. Còn tôi nhẹ nhàng cầm đuôi rồi nhặt nốt con hổ chì kia nhẹ nhàng cho nó luồn vào thùng, tua đầu tiên mới vòng quanh hồ mà chúng tôi đã bắt đựoc 3 con, 1 hổ mang, 2 hổ chì và thêm một con ếch to vật.





Có được chiến lợi phẩm đầu tay của Trung, chúng tôi quay về chuẩn bị ăn tối lấy sức cho tua đêm nay. Hôm nay nhà có khách là thằng Trung và hai chú em trông hồ cộng với tôi là 4 nên bữa tối tôi bốc một nắm gạo ninh một nồi cháo rắn với hai con hổ chì, tôi lấy thêm hai con hổ mang trong tủ và một con vừa bắt được đem cắt tiết, lấy mật pha với rượu, xong lột da chiên giòn, còn thịt rắn được chế biến làm ba món lòng xào hành tây, cắt khúc hấp xả, và xào xả ớt, hì hụi chế biến, trông ngon mắt và hấp dẫn chẳng kém gì nhà hàng Quốc Triệu bên Lệ Mật mà Bá Vương nhà ta hay sang.





Thằng Trung và hai chú em trông hồ cứ lẩm bẩm: Tưởng lũ lụt... cứ sợ bác Toán đói, chứ biết bác chén toàn đặc sản thế này thì bọn em ở luôn đây cùng bác từ hôm nọ, chén xong bữa tối thì đã 11h đêm, hai chú em trông hồ nhát chết nghe chuyện sợ thọt cả chim chẳng dám bước khỏi nhà nên xin chân dọn dẹp nhà cửa và trông lưới, còn tôi và Trung "nhảy" tiếp tục lên đường.


resizemod=on v:shapes="_x0000_i1029">


Ảnh chụp lúc nước đã rút được gần 30 cm



Có thêm thằng Trung đã làm tôi can đảm lên bội phần, chúng tôi sục sạo khắp các vùng hồ lân cận, luồn vào tất cả các bờ trồng cây khế rậm rạp, và các nhà kho ngập nước, có chỗ nước ngập lên tới tận cổ, chuột và ếch, chẫu và rắn nước thì nhiều vô kể, nhưng chúng tôi chỉ truy tìm rắn độc, tôi quyết định sẽ chẹn và bắt sống tất, sau vài vòng tua đến 2h sáng chúng tôi chẹn bắt được 3 con hổ mang to trên mấy khu đất cao thậm chí cả trên những mái nhà dân ngập lụt và 18 con loại vừa vừa kể cả hổ mang nhỏ và rắn mai gầm, hổ chì... Thằng Trung khoái trá lẩm bẩm to nhỏ bắt tất, cho em đem về thịt và ngâm bình rượu.



Khệ nệ ôm thùng rắn lội về đến nhà thì thấy hai chú em Kiên và Thực vẫn còn đang rên hừ hừ trong màn vì sợ, khi dọn dẹp thấy cái bao tải nào cũng nhốt rắn bên trong, rồi chúngcứ phun phì phì mỗi khi có tiếng động, và hễ động đến thì chúng mổ rất chính xác vào vật đó dù qua cả một lớp bao tải nhìn rõ cả răng nanh lòi ra ngoài bao tải mà nhả nọc, rồi khi mở cái thùng đá coca cola cũng thấy rắn, mở tủ lạnh ra thì cũng thấy con rắn đập tưởng chết nay đang hồi tỉnh bò lổm ngổm trong túi bóng, khiến hai chú em sợ xanh mặt, nhẩy ngay vào màn chèn chặt xung quanh và chùm chăn kín mít rên hừ hừ như bị sốt rét, chờ khi chúng tôi về thì mới dám hồ hởi bước ra khỏi màn,


Chúng tôi bắt đầu phân loại để nhốt, khi mở bao tải dù rất thận trọng nhưng có những con hung dữ vẫn nhằm thẳng miệng bao phi lên hòng thoát thân, có những con dù nhốt trong hai chiếc bao lống vao nhau vẫn chui lọt ra ngoài, may mà chiếc bao tải đó tôi vứt trong chiếc thùng nhựa đựng đá và đậy chặt, nếu không chẳng biết chuyện gì sẽ sảy ra, chúng quả là những con vật thông minh và quỷ quái,chỉ cần một lỗ thủng nhỏ như đầu chiếc đũa là chúng dùng đuôi ngoáy vào và xoáy mạnh như một cái khoan và chỉ một lát sau cái lỗ cứ to dần cho đến khi chúng chui lọt cả ngưòi ra ngoài -đây quả là một trò chơi nguy hiểm,


Để đề phong nguy hiểm, tôi và Trung thận trọng bắt từng con ra để bẻ răng,đối mặt với chúng lúc này thật nguy hiểm, vì là rắn hoang dã, để sống và tồn tại đến được bây giờ chúng đều là những con quá lanh lẹ và hung dữ, chúng đều ngỏng cổ phun phì phì đối phó và sẵn sàng tấn công chứ không lành như lúc bắt ngoài đồng,khiến Kiên và Thực phát hoảng thằng nhảy lên bàn, thằng phi lên giường chèn chăn cẩn thận,tôi thận trọng túm cổ từng con rồi một thằng cầm đuôi một thằng bóp chặt vào mang khiến con răn phải gồng mình há ngoác cái miệng đỏ lòm đầy răng lởm chởm, tôi ghé chiếc kìm câu bẻ gãy từng chiếc răng nanh sắc nhọn như một mũi kim tiêm, nọc độc của chúng lúc phụt mạnh ra từng tia, lúc thì nhểu ra từng giọt làm ướt đẫm cả kìm lẫn cái khăn mặt làm giẻ lau, thật kinh hoàng vì với chừng này nọc độc có thể giết hại ngay tức khắc hàng trăm người,sau khi hoàn tất công việc tôi mới thở phào lắc đầu lè lưỡi, thằng Trung sợ lụt nước có thể lên thêm nên không dám ở lại nó khệ nệ bắt một con hổ mang to về làm quà cho bố, một con hổ chì béo nung núc cỡ bắp tay về làm thịt, và mớ rắn 18 con nhỡ nhỡ chừng bảy tám ký về ngâm rượu,


nhân thể quần áo ươt tôi khoác súng lội tiễn thằng Trung vài km cho nó đỡ sợ, đến gần khu quân đội có đoan đường đá chỉ ngập quá đầu gối thì nó lội về một mình, trên đường quay lại hồ tôi lội tắt qua một khoảnh bờ đìa cho gần, cứ ngỡ là ở đây cao hơn, ai dè tiến thoái lưỡng nan nươc ngập tói tận cổ, bèo tây mắc vào hàng cây và ken dày chặt cứng cả lối đi tôi vừa gặt bèo vừa căng mắt quan sát, tay lăm lăm vào cò súng, gặp cá sấu lúc này thì...ứ sợ... , nhưng lỡ gặp rắn độc mà nó lũi trong những vạt bèo ken dày đặc này thì nguy to, đang ào ào gạt chướng ngại vật để đi tiếp bỗng tôi thấy nhói một cái ở ngay sau bả vai, tôi tái mặt từ từ đảo mắt quay lại, may quá không thấy gì, nhưng vẫn thấy nhột nhột lưng, tôi quơ bàn tay chẹt mạnh vào bả vai áo và bóp mạnh ngấu ngiến tới nát bét một vật gì cồm cộm nhơn nhớt bên trong cái áo rằn ri, rồi luồn tay vào trong lôi ra một con rết.....hú hồn may mà không phải rắn cạp nia con, có lẽ lúc luồn trong vạt bèo tây rậm rạp nó đã lẫn vào qua cái cổ áo đứt khuy,tôi quyết tâm lội tiếp, chừng 300m nữa thì tới đoạn bờ kênh, tôi rút dao bấm tiện một thân cây chuối làm phao, ghếch súng bơi theo đoạn kênh về hồ, đồng hồ lúc này đã bốn rưỡi sáng, mệt nhoài người tê cả vai vì vét thương con rết cắn -một đêm chết tiệt



Sáng ngày hôm sau vẫn mưa rả rích, nước ở sông nhuệ bắt đầu chảy ngược vào cánh đồng, nước vẫn lên trong đêm qua thêm 10 phân nữa, cho đến trưa thì nước đã ngập đến sàn nhà, có thêm người cứu viện nên tôi cũng yên tâm hơn, hai người kia sẽ lo cho tôi căng cao tiếp thêm lưới chắn 70cm nữa, nhưng lo nhất là về khoản hậu cần, ngoài kia thứ hữu dụng nhất là mỳ tôm thì đã cháy chợ 100.000,đ/thùng không có mà mua, hơn nữa khâu chất đốt rất nan giải, nên chúng tôi hơi lo lắng, chúng tôi đã gỡ để đun hết cái trần nhà bằng cót ép,và một cái cánh cửa được tháo ra chẻ làm củi cũng sắp hết, tôi liền phân công Kiên ra tháo dần những tấm lá cọ lợp ngoài lều câu vào trong nhà treo lên từng tầu chỗ thoáng gió, mỗi khi đun thì đun tầu này thì hơ tầu kia cho khô, nên cháy đượm ra phết, một ít củi ướt để bên hong bên cạnh cũng khô dần, nói trung chúng tôi đã tiết kiệm năng lượng đến mức tối đa, và mưa nhiều nên thoải mái nước ăn, bây giờ chỉ còn lo nhất khoản chống lụt giữ cá và phòng chống rắn độc, cẩn tắc vô áy náy - tôi quán triệt anh em trước khi đi ngủ hãy kiểm tra kỹ chăn màn giường chiếu, khi mở tủ lấy quần áo cũng vậy, đề phòng nhỡ may có con rắn độc nào lọt vào quận khoanh trong đó,


Còn tôi vẫn tiếp tục kế hoạch phòng chống từ xa -tức là tìm diệt,.Ban ngày rắn trú ẩn rất kỹ, không có trên mặt đất, săn chúng trên những lùm cây rậm rạp quả là khó khăn, nước ngập đến cổ nếu nhì thấy chúng trên cây cũng không dám chọc, hôm qua có anh bạn hàng xóm đang nghển cổ chọc con hổ mang trong chuồng gà nhà thằng Bạo thì bị nó quăng rồi quấn ngay vào chân may mà đi ủng nên nó cắn hụt mặt cắt không còn giọt máu bỏ của chạy lấy người, tôi đành đội thêm cái mũ bảo hiểm và chỉ mang một con dao quắm dài chừng 50 cm vì luồn trong những tán cây rậm sẽ không chẹn hay vụt được vì rất vướng víu mà chỉ có thể đánh nhau ở cự ly gần, suốt buổi trưa tôi toàn bắt hụt, vì ban ngày chúng quá tinh ranh, hễ phát hiện thấy người là chúng phi thẳng từ trên cây đánh ùm xuống nước rồi lặn mất tiêu, hổ mang là một loài rắn ở rất sạch, chúng thường ở nơi cao ráo, và rất sợ nước, nhưng rất kỳ tài chúng lặn hơi đầu tiên một mạch vài chục mét, hay cả tiếng đồng hồ mới thèm nổi, nhưng nếu phát hiện được sau lúc này thì bắt dể như thò tay vào túi, vì hơi sau chúng mệt sẽ nổi ngay cách đó chỉ vài mét.


Về ăn cơm thôi anh Toán" - Chú em Thực nhát chết chẳng dám đi theo cứ đứng ở nhà mà réo. Nhưng phải đến gần một giờ trưa tôi mới quay về nhà sàn ăn trưa, tức tối vì ban ngày chưa có biện pháp nào hay chiều nay tôi đành phải sử dụng khẩu 2 nòng với nhõn 2 viên đạn, tôi ăn trưa "qua loa" với món chuột đồng luộc ướp lá chanh, chẫu chuộc rán giòn, rắn nấu củ chuối, và tráng miệng bằng đu đủ chín cây vặt trộm, thứ này thì nhiều vô tội vạ chín rụng đầy xung quanh các bờ hồ không có sức mà lấy.



Quyết định mang theo súng của tôi quả là sáng suốt, tôi lấy mấy miếng thùng xốp buộc lại với nhau vừa làm phao, vừa kê súng, kéo sụp chiếc kính mũ bảo hiểm vào, tôi yên tâm lom khom ngụp nước tận cổ rúc vào từng bụi cây rậm ngập nước tới tận tán cây, tới một bờ cây khế và nhãn xen lẫn với nhau khá rậm rạp, tôi bỗng bủn rủn cả chân tay khi phát hiện ra cái bụng vằn vện trắng nhởn loang đen rất lạ của một con hổ mang cực to đang khoanh tròn như cái rế trên một cái tổ chuột cây ngay trên đầu, may mắn nó vẫn rúc đầu vào trong và chưa phát hiện ra tôi, không thể khai hoả ở cự ly quá gần nên tôi quyết định thật nhẹ nhàng lùi ra xa hơn, giời ạ, khi lùi ra xa mấy bước mới thấy rõ mặt thì ra con hổ mang vẫn đang ngỏng cổ nhìn tôi hau háu chứ đâu phải nó rúc đầu vào trong, có lẽ lúc nhìn trực diện bên dưới tôi đã không nhận ra... Hú hồn, tôi loay hoay định vị chính xác cái vị trí nơi con rắn đang nằm quận khoanh, vì ra xa thì tán lá hoàn toàn che khuất, rồi thận trọng nâng súng bóp cò...



Đoàng... Một tiếng nổ đanh gọn, cả một quầng tán cây rụng lả tả rồi con rắn dài tới hơn một mét thõng người từ từ rớt đánh ùm rồi chìm nghỉm, tôi tiến lại thò nòng súng khoắng xuống nước và mò nâng con rắn lên, tôi phát hoảng vì con rắn quá to - Hình như hổ mang chúa, nó đã chết không kịp ngáp, mềm nhũn, cái đầu màu cứt ngựa nhọn hoắt hình tam giác khác hẳn những con hổ mang khác, lại có thêm cái vằn vện như chữ nho trên đỉnh đầu phía đằng sau gáycó một vạch trắng chéo mờ mờ còn toang thân đen xì thỉnh thoảng lại có lốm đốm vảy trắng, trông thật dữ tợn, nó bị bắn gãy cổ, gãy vài đoạn xương sống, toạc cả thịt máu chảy ra ròng ròng, trống ngực tôi đập thình thịch, gạt con rắn vào bao tải buộc lại rồi treo lên một cành cây lát nữa sẽ quay lại lấy vì nó quá to, đây là con to nhất từ trước tới nay tôi nhìn thấy và bắt được, nó nặng tới 2,7 kg.



Lùng sục tới hơn bốn giờ chiều thì trời sập tối và mưa cũng nặng hạt, trên đường quay về thì tôi bỗng thấy một vệt sóng lớn trong mưa đang uốn éo bơi ngược về phía tôi - Lại hổ mang! Toàn thân nó bơi gần như nổi trên mặt nước, với cái đầu to như quả trứng gà đang rẽ sóng, con này gần to bằng con trước, tôi rón rén lùi lại chọn một vị trí bắn đón, giương súng thót tim chờ đợi, khi tới cự ly còn 20m tôi nín thở bóp cò... Cạch! - Đạn không nổ!... Thôi... Chết bỏ mẹ tôi rồi!... Còn mỗi một viên cuối cùng mà lại xịt, tôi tái mặt hoảng hốt lúng túng kéo cơ bẩm lên đạn để bắn lại, may mà mưa to rào rào nên có lẽ con rắn không phát hiện ra tôi.



Tôi chết đứng như trời trồng, vì khoảng cách quá gần. May quá, khi tới gần bờ thì con rắn bơi chậm lại, hình như nó đã phát hiện ra tôi. Súng vẫn đang kẹp nách, không kịp ngắm vì sợ lộ, tôi lẩy bẩy rê nòng súng theo ước lệ nồi bóp cò...



Đoàng... Một quầng nước toé lên trước mặt con rắn, chỉ một giây mà sao tôi thấy như dài hàng thế kỷ, hụt rồi... Lạy chúa! Tôi lặng người, toan nhảy bổ bơi chạy tháo thân, thì bỗng thấy con rắn thẳng đơ ưỡn bụng nổi phềnh rồi cong người từ từ chìm nghỉm. Tôi mừng húm lao ra lấy nòng súng nâng nhẹ kéo dần vào bờ, con rắn chừng 2 kg mềm nhũn, chết mà không hề dính một viên đạn nào... Kỳ lạ thật! Tôi móc túi lấy ra chiếc bao tải bỏ vào rồi ùm ùm lội nước quay lại lấy nốt con rắn bắn chết lúc nãy rồi lội trở về hồ.



Chưa kịp khoe với hai chú em con rắn to thì bỗng Kiên hét toáng lên khi phát hiện ra cái bao tải đựng con nhỏ hơn đang có cái đuôi thò ra ngoe nguẩy, tôi quăng tõm cả hai bao xuống nước rồi nhặt từng cái lên dò xét... Thật quá chủ quan, suýt chết, ai ngờ con tôi bắn sau chỉ bị ngất vì sức ép của viên đạn bắn xuống nước ở cự ly gần, nay nó tỉnh lại khoẻ như hùm đang ngoáy đuôi dựng cổ phì phì...



Hai thằng được thể thi nhau mắng: Nhà đầy rắn, ăn cho mãi không hết, thì anh bắt về làm gì, bọn em không ăn nữa đâu, anh mang tất cả ra ngoài mà để, để trong nhà là đêm nay bọn em thức cả đêm không ngủ đâu đấy, ngày mai công việc kệ anh...



Tôi cười hềnh hệch: Bọn mày không ăn thì để tao, chứ mưa lụt rắn nó kéo đầy về đây, tao không bắt hết để sau này nó cắn chúng mày à, phòng còn hơn chữa mấy chú em ạ, ngu thế... Hì hì...



Nói rồi tôi lấy một con cắt tiết làm thịt để tối chén, còn một con to và hai con nữa tôi nhờ thằng Bạo bơi thuyền mang ra "bến "gửi về cho cần thủ Thông - chủ nhà hàng thịt chó 18 Nguyễn Trãi, cho anh em câu quanh phố nhậu chơi,số còn lại tôi mang tất ra cái bể không, tát hết nước và thả vào đó, đậy lại ăn dần.



Tối hôm đó thằng Trung lại mò xuống, thêm chú em tên Hùng ở hồ bên cạnh, mâm rượu được dọn ra, toàn đặc sản đồng quê - ngoài các món rắn ra là một rổ chuối tây gần chín luộc cả quả, ăn no không chán, và cùi quả gấc non luộc, trông như miếng đu đủ luộc, nhưng ngọt và có vị đắng ngăm ngăm như mướp đắng, hay ra phết, đúng là phải lúc khó khăn mới phát minh ra được mấy món mới, ăn lạ miệng, thằng nào cũng khen.



Đêm đó ba chúng tôi chia ba ngả lùng sục cả đêm nhưng kết quả kém dần, tua đầu được 2 con hai tua sau cũng được 2 con, nhưng toàn là những con đã bắt hụt đêm trước, nay rình bắt lại, đến 3h sáng bọn tôi tụ tập về nhà sàn làm nồi cháo rắn vừa rét run lẩy bẩy vừa xì sụp, ngon đáo để, thằng Trung nhát chết lại đòi về, nó rủ thêm thằng Hùng về cùng cho vui, còn tôi vẫn choáng vì chuyện đưa tiễn đêm qua nên nhăn nhở cười trừ.



Phải công nhận món thịt rắn "toàn tính" này ăn bổ thật bọn tôi toàn thức gần như cả đêm mà không hề cảm thấy mệt mỏi.



resizemod=on v:shapes="_x0000_i1030">


Đến khi nước rút mới có xuồng cứu trợ... để đi xa hơn săn rắn và cá sấu sổng chuồng.



Cứ như thế suốt mấy ngày hôm sau vừa chống lũ vừa săn rắn lũ chúng tôi đã bắt thêm hàng chục con nữa nhưng càng ngày càng khó khăn dần có những đêm mấy thằng chỉ được một con, rồi có đêm móm không được con nào, móm - thế là mừng khu vực xung quanh hồ gần như hết rắn nên chúng tôi yên tâm hơn, những đêm sau này muốn bắt được chúng tôi phải đi xa sang các vùng lân cận chừng bốn năm cây số, nhưng cũng ít dần, thằng Trung về hưu non chẳng mò vào nữa còn Hùng chuyển ngạch sang bắt ếch và chẫu chuộc.

Mớ rắn "giòi"thuộc loại chưa được ghi vào sổ nhaque cho anh Hùng nv bảo vệ hồ Đq 2 mang về ngâm rượu


Chiến dịch săn lùng quái thú đã tạm thời kết thúc, cho đến lúc này toàn bộ khu vực chừng 5 km vuông này chúng tôi đã càn quét và bắt được hàng trăm con rắn độc lớn nhỏ, trong đó riêng tôi đã bắt 27 con hổ mang từ 1 ký trở lên còn loại nhỏ thì vô kể, Trung "nhảy" 3 con, Hùng 6 con và bác Tương hồ bên cạnh 5 con, bố con thằng Bạo đập chết 5 con, số rắn này nếu bán thì cũng phải hàng chục triệu, đúng là Trời cho của, nhưng với chúng tôi... Trời cho là trò chơi - Một trò chơi mạo hiểm mà không ai mong muốn, đó là trò chơi có tên:

Sống chung với lũ!



Sau đây là một phóng sự bằng hình, sau cơn lũ:

Chìa vôi

Một chiếc quán bình dân náu mình dưới tán bằng lăng lịm màu hoa tím, trên chiếc bàn đơn sơ mộc mạc, món gỏi cá Chìa vôi bao nhiêu năm nay từng tô đậm sự lãng mạn cho những chuyến đi sinh thái.

Những lát thăn cá Chìa vôi thái ngang trộn với hành tây, củ kiệu ngâm dấm, ngó sen non, cà rốt thái chỉ và đậu phộng rang đâm dối. Cẩn thận đến trịnh trọng, ông chủ quán lướt lên món gỏi vài muỗng hành khô chưng mỡ và rắc lên trên những cánh ngò tươi…

 Lạ chưa kìa, rõ cá sống hẳn hoi mà sao đưa vô miệng tịnh không thấy mùi tanh! Miếng cá giòn dặm, đậm dịu lưỡi rồi như quánh lại trong thoáng chua giòn của ngó sen, bùi ngậy của đậu phộng, phảng phất vị thơm thanh cao của hương chanh, chút tê tê ngây ngất của đọt tần…

XUẤT XỨ MỘT LOÀI CÁ HIẾM

Cá Chìa vôi không xa lạ gì, chúng có mặt ở nhiều cửa sông và không chỉ ở Việt Nam ta. Đó là loài cá ăn tạp, thân hình bầu dục, mình phủ vảy lược và toàn thân là một màu vàng quí phái. Trên lưng mỗi con cá đều có những hàng vây cứng; đặc biệt, loài cá trống giữa lưng mọc ra một chiếc vây dài vàng hươm nom tự chiếc chìa vôi dùng lấy vôi quết trầu của các bà (chính từ đặc điểm này mà nó có tên gọi là Cá chìa vôi). 

Có thể nói: không ở đâu có cá Chìa vôi cho thịt ngon và giá trị kinh tế như con cá Chìa Vôi vùng Nhà Bè. Đây là một vùng nước đặc thù do thiên nhiên ban phú bởi nước giao nhau giữa 3 dòng mặn (thủy triểu) lợ (sông Nhà Bè) và ngọt (sông Đồng Nai). Vùng nước pha trộn hy hữu này người ta gọi là nước chè hai. 

Nước chè hai đậm hữu cơ, sẵn mồi để  đông đảo cá tôm tụ về. Không chỉ một loài cá Chìa Vôi mà những con cá Bông Lau, Tra  bần, Vược, Ngát, tôm càng…cũng cho thịt thơm ngon và săn chắc. 

Chìa vôi sinh khi cá còn bột, chúng ở trên bãi và những hụm nước tĩnh lặng, từ lúc bằng bàn tay, chúng dời dần ra cửa biển sống sát đáy sông và dưới áp lực của độ sâu, người chúng dày lên, vảy cứng, đầu tù…con to có thể lên đến cả chục ký lô.

So với cá chìa vôi của các cửa sông khác thì cá Chìa vôi vùng Nhà Bè dày mình và tròn trịa hơn nhiều. Cá Chìa vôi không theo mùa, có quanh năm, ăn mồi tạp, sản lượng đã thấp lại khó đánh bắt và càng ngày càng hiếm nên giá thành rất đắt. 

THEO CHÂN THỢ CÂU CÁ CHÌA VÔI

Để bắt được cá Chìa vôi, nhiều năm nay, người ta chỉ có một cách duy nhất là câu chúng. Bởi lẽ, dưới 30-40 thước nước của vùng cửa sông nước lên, nước xuống ròng dậy như vậy không thể thả lưới (Đương nhiên, với đàn cá nhỏ như bàn tay thì có khi lưới dược cả bầy nhưng hi hữu lắm). Thợ câu cá nói chung vốn là những người thừa bản lĩnh và kiên trì nhưng nếu câu cá chìa vôi thì họ còn phải đương đầu với nhiều thử thách ghê gớm hơn. Cá Chìa vôi  thường cắn câu vào đêm khi lúc nước triều vừa dậy dâng hoặc con nước ắp xoay ngang để giựt ròng. Người thợ câu phải thuộc nằm lòng con nước. Giữa mênh mông trời nước, trên chiếc thuyền câu bé nhỏ chơ vơ và hiu quạnh, người câu chỉ biết bạn cùng nước chuyển, sóng duyềnh, gió lộng, trăng khuya và thậm chí mưa lạnh. Cái oái oăm của việc câu cá Chìa vôi là chúng thường ăn mồi ở những nơi hụm hoáy, dòng nước quẩn xoáy và rất sâu. Với một chiếc thuyền câu bé nhỏ bập bềnh quay ngang, quay dọc theo luồng của nước ngầm, nước dậy; thi thoảng lại chồm vồng lên bởi sự giãn nước của một con tàu nào đó đi ngang, người yếu bóng vía không thể hiện diện. Tín hiệu duy nhất để áo cho cuộc đời này sự tồn tại của con thuyền câu chính là ngọn đèn chai le lói…

Tuy vậy, không phải đêm nào thợ câu cũng bắt được cá Chìa Vôi. Vùng Nhà Bè -Duyên Hải bây giờ, câu được cá Chìa Vôi chỉ là những tay câu đầy dũng cảm và lão luyện. Họ hoàn toàn không sống hẳn bằng nghề câu cá Chìa Vôi mà bằng nghề câu tất cả những loài cá như cá Bông Lau, cá Ngát, cá Úc…

Với giá giao thẳng về quán ăn đặc sản lê đến cả triệu đồng/ký hiện nay, việc câu trúng cá Chìa vôi là một niềm vui đồng thời đó chính là những phút dây tạo cho người thợ câu cảm giác vô cùng diệu ảo. Khi chiếc cần câu vẫy vẫy rồi chúi nhẹ, người thợ câu lập tức rờ ve bằng tất cả sức lực sẵn có miễn sao con thuyền câu vẫn ở thế cân bằng. Dính câu, đa phần con cá kia sẽ trì níu như mắc gốc. Toàn thân con cá xoay ngang mài xuống đáy sông và đầu cần câu của người thợ câu cong vòng xuống. Cá và người như cùng căng ra để dây câu phưng phưng tựa dây đàn. Rồi bất ngờ, đầu cần câu hụt hẫng, dây câu chùng lại cho ta cảm giác con cá đã thoát đi. Nhưng mà không! Con cá đang nương dây chạy vào. Lúc này, người thợ câu phải nhanh tay cuốn cước và sẵn sàng thả dây, nẻ dây để tranh thủ đánh con cá cho mau ê khờ. Cuộc đôi co diễn ra trong vòng 10 phút cho đến khi con cá Chìa vôi mệt phơi cái bụng vồng tang trống vàng xuộm trên mặt nước. Qua ánh đèn, ta còn thấy cả chiếc vây lưng hệt chiếc chìa vôi quyết trầu của các bà đang ngượng ngập trăn trở trên sóng nước và những gã thợ câu điiệu nghệ có khi không dùng vợt mà dùng tay tóm cứng cái chìa vôi thảy cá lên thuyền…

Con cá Chìa vôi câu lên được nâng niu giộng thả rất cẩn thận, bởi lẽ nếu để cá chết, thịt làm gỏi sẽ không còn quánh đậm mịn màng nơi chân răng thực khách như con cá đang tươi.

Cũng có khi, con cá nuốt mồi vô bộng họng và chúng sẽ chết bởi chiếc lưỡi câu móc nghiệt. Khi ấy, người thợ câu mới cho chúng vào ướp đá. Trước khi vào thùng đá, bao tử của chú Chìa Vôi phải được tọng chí ít vài cục chì cho…nặng cân thêm. Hầu hết, các quán có đặc sản chìa vôi đều biết trò tọng chì vô bụng cá nhưng đành vậy, vì nếu không chiều kẻ bỏ mối thì không có lần sau. Tất tật! chi phí tính vào giá thành cho khách sành ăn. 

HÃY ĐỂ CHÌA VÔI MÃI MÃI LÀ ĐẶC SẢN

Chìa vôi vốn là loài cá hiếm, hiếm bởi nó là một món ăn ngon. Nếu như Cá Anh Vũ vùng Sông Gâm, Việt trì chỉ ngon với cách nấu chín quí phái thì cá Chìa vôi lại ngon trong cách chế biến đa dạng và dân dã. Con Chìa vôi sau khi đánh vảy, người đầu bếp phải biết pha cá. Những lát philett để dành cho gỏi; xương, vây, đầu dùng cho nồi cháo hoặc lẩu; buồng trứng cất riêng, bao tử cũng làm sạch để riêng.

Bình thường, gỏi cá Chìa Vôi sẽ được xào sơ qua trộn với ngó sen rau mùi, đậu phộng, hành khô, hành tây… cùng với bát nước chấm được pha chế công phu mà chỉ có bà chủ quán mới biết được nó hình thành ra sao mà tuyệt diệu như thế. Tuy nhiên, khách sành ăn cá Chìa vôi bây giờ dùng món gỏi cá nhúng mù tạt ấn tượng hơn nhiều. Bên cạnh những hành ruôi, ngò, mùi, ớt lát, tía tô, kinh giới, cải cay nguyên phiến là những lát cá chìa vôi lạng mỏng tang đặt trên lớp màng cách thuỷ lạnh. Lát cá Chìa vôi trước khi gói gỏi phải nhúng vào hỗn hợp mù tạt với tiêu, chanh. Lát thịt cá chìa vôi trong veo sắc hồng khi nhúng vào mù tạt sẽ xoăn seo và ngả sang màu trắng tái. Khi đưa miếng gỏi vào miệng, ta thấy mù tạt nồng ran khoang mũi. Người ăn quen sẽ hít vào, nuốt trọn cái nồng ran ấy khiến cho cả vùng nhân trung, xoang mũi nhẹ hẫng, hanh thông. Một chút nước mắt ứa ra để rồi trong ta cảm nhận cái vị ngọt quánh quéo của miếng gỏi cá Chìa Vôi…

Rượu ư? người sành ăn không dùng rượu tam xà, cửu xà, hay vang nho bởi với các món cá Chìa Vôi sẽ là lạc điệu. Nhậu với gỏi và lẩu cá chìa vôi cũng không ai uống với bia mà thường là rượu Đế. Cái món đế trong veo cất từ than đước đượm mồng ngâm với mật ong và mật gấu xin đừng ngửa cổ dốc tràn mà hãy cúi xuống để cái hơi rượu nồng nàn hơi nhây nhẩy đắng kia lan toả vào khứu giác trước khi làm nóng ran vòm họng khách đa tình…

Lẩu Chìa vôi cho người ăn ấn tượng khó quên. Khó quên bởi những rẻo sụn đặc trưng của loài cá hiếm này. Thêm nữa, đi cùng với lẩu đẹp nhất lại là những thứ rau tập tàng dân dã. Ôi! biết bao thực khách sành điệu vẫn nặng lòng với những cọng rau đắng đất bên nồi lẩu cá Chìa vôi. 

Để dằn bụng, khách sẽ có một chén cháo ngà. Hạt gạo lứt khi nấu bà chủ khéo léo cho nở bung như những cánh hoa chanh điểm xuyết những hạt đậu xanh còn nguyên vỏ nhưng đã nhuyễn nhừ. Bát cháo ngọt lịm, nồng nàn bởi có thêm gừng tươi thái chỉ. Trong nồi cháo cá Chìa vôi tưởng như bình thường ấy có hai món mà không thể thiếu: đó là trứng cá và ruột cá. Trứng cá chìa vôi nhỏ li ti, vàng xám thơm ngon đầy quyến rũ. Và, khi đến những thìa cháo cuối cùng, một bất ngờ rất có thể: khách sẽ gặp một miếng bao tử cá. Vâng! Nó đã được một đầu bếp tài hoa Năm Thạnh- người bếp trưởng của khách sạn Hòa Bình Vũng Tàu được du khách ngoại quốc phong tặng: đầu bếp nấu món ăn dân tộc gỉoi nhất hoàn cầu, nhận định:”Đời làm bếp của tôi từng thấy thực khách khoái khẩu nhất bao tử của 3 loại cá: đó là cá Lóc bông gấm, cá rô biển (vược) và cá Chìa vôi”.

Vốn là một trong những món ăn đặc sản nên cá Chìa vôi trong thiên nhiên ngày càng khan hiếm, Nếu như cách đây mươi năm, một ký cá Chìa vôi do thợ câu bỏ mối cho những quán ruột khoảng chừng 300 ngàn/ký thì bây giờ đã xấp xỉ triệu đồng. Những người thợ câu săn Chìa vôi xem ra ngày càng đông hơn bởi giá trị kinh tế của nó. Người ta không câu cần đơn nữa mà tổ chức câu giăng, câu ngâm. Trong khi đó, chưa một công trình nghiên cứu nào đặt ra dù chỉ là câu hỏi rằng con Chìa vôi sinh sản ở đâu, như thế nào..?? 

Đã đến lúc các nhà quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên có những biện pháp bảo vệ và phát triển sinh sản những loài cá đang hiếm dần trong đó có cá Chìa vôi. Thiên nhiên hào sảng ban tặng cho chúng ta một vùng nước chè hai hiếm có. Con cá Chìa vôi theo làn nước này tạo thành giá trị ẩm thực đặc trưng của một vùng miền. Những năm qua, cá Chìa Vôi âm thầm khẳng định một thương hiệu quyến rũ những du khách sành ẩm thực về với những chuyến đi sinh thái, về nguồn đầy lãng mạn. Nên chăng cần có những qui chế rõ ràng, cụ thể trong khai thác như tránh mùa cá đẻ, bảo vệ đàn cá con.

Để ước gì cho đến một ngày, du khách nặng lòng với thiên nhiên, với vùng sông rạch nơi cửa biển được đi thuyền lướt trên dòng sông Lòng Tàu-Nhà Bè-Soài Rạp. Những dòng sông đan nhau, trải ra mênh mông và vào mùa nước sắt, thuyền của chúng ta có thể đi trên đường phân ranh của hai làn nước trong và đục của cùng một dòng sông: bên Tả nước ngầu nghệ đục đổ xuôi và bên Hữu nước trong xanh chảy ngược. Thực tế thiên nhiên kia chỉ Nhà Bè mới có và nó đã đi vào câu ca dao:

Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia định, Đồng nai thì về

Vâng, trên cái làn phân ranh mà người ta vẫn quen gọi một cách dân dã là Giọt giòng ấy, những con cá Bông Lau, Chìa Vôi đang xuôi ngược kiếm mồi. Rất có thể, du khách chúng ta sẽ tự tay câu mang lên những con cá Chìa vôi tươi nguyên màu nắng mới để rồi tự tay mình pha thịt, chế biến cho chính mình món ăn đặc sản dưới sự cố vấn của cô chủ quán vẫn ửng hồng đôi má lúm đồng tiền…

         

Ngày ấy sẽ tuyệt lắm! Giữa trời mây sông nước bao la của thiên nhiên Nam Bộ, du khách sẽ tìm được trọn vẹn cái cái bản lĩnh, lòng dũng cảm và đức tính kiên trì của chính mình mà những ngày tháng bươn chải mưu sinh đôi lúc ta chợt quên đi mất…

Ông lão đìa tôm

(Truyện ngắn này mình viết năm 2002, năm đầu tiên thực hiện thi Đại học 3 chung. Khi đăng nó trên tờ Văn Nghệ, vài người bảo: ông Việt Hòa viết nịnh Bộ Giáo dục. Mình chỉ cười không cãi. Nhưng hơn bao giờ hết: mình cầm bút chỉ muốn khắc vào trang giấy những tình đời và tình người…)

Mới nắng chói chang và gió lộng thốc vậy mà bầu trời chợt ắng. Không gian tưởng hẹp lại. Mây giông vần vũ. Trời đất này thì mưa to đây! Lão Bính vừa nghĩ vừa cắm nốt bụi chà cuối cùng. Sình non rừng Sác thum thủm tanh, lúng rúng lùng nhùng quanh cặp giò nâu bóng nom ông lão cứ như thể sắp sa lầy đến nơi.

uối cùng thì Lão Bính đu người rút chân khỏi đám bùn lún và bước lên bờ. Cái nhìn vẫn sắc lẹm trên khuôn mặt lem nhem lấm. Uốn tay vòng ra sau gãi sồn sột cái lưng trần đã hơi còng, lão dặn con trai mà như quát vào không gian:”

Vôi khử phèn tám mươi ký, mô tưa cào nước đủ hai bốn giờ cho lô E. Đám thủy sản ghé cân tôm nhớ ghi kỹ từng đợt lên vách ván cho tao. Đêm nước cường phải nhớ canh cho đúng cữ. Tiền bán tôm chi trả giống, vốn những nơi nào thì biết rồi đấy. Có điều ai nhận bao nhiêu cũng bảo họ ký cho một chữ. Chiều thứ bảy, mùng hai dương mang về cho tao ít trăm. Làm gì à? Mày có ở trên trời rơi xuống hay không mà không biết mồng bốn tháng bảy con Hiền nó đi thi đại học hả! Lão chuyển giọng: Ta bận rồi! con

làm mọi việc cho quen đi

…. Câu nói cuối cùng chìm trong cơn giông, không vượt khỏi cái dáng đi hơi khòng lao nghiêng của lão. Mặc! Ánh mắt sắc lẻm của lão lia nhanh vẫn bao quát cả tràn rừng, khu đìa tôm cùng anh con trai chắc chãi như cây cột lim bên lều lá.

Đối với Rừng Sác, lão Bính như thổ công dẫu quê gốc gác tận miền ngoài. Xuất thân bộ đội thủy từ ngày đầu thành lập chiến khu, lão đã bám trụ chiến đấu. Chiến công, thành tích đánh giặc thì khỏi nói và chuyện xưa, chuyện ta, chuyện địch một thời cũng khỏi nói vì nói không dưới cuốn sách vài trăm trang. Chỉ biết mỗi lần có đơn vị bộ đội nào gặp mặt mừng công hạ cố mời thì ngực lão Bính xếp nặng hàng dãy cuống huân chương với huy hiệu dũng sĩ. Ấy vậy nhưng triền trên, mé dưới vùng này cấm ai nghe nói lão công thần hay ỷ thế quen biết nhiều ông lớn trên thành phố rồi lợi dụng này nọ. Lão mê rừng vì thuộc nằm lòng cả vùng rừng nước mặn mênh mông. Lão mê con tôm sú không chỉ vì nó sinh lợi mà cả vì cái cách con tôm xám sắt uốn mình búng rất nghệ sĩ và cả cách đổi màu xoăn xeo rất lãng mạn của món tôm tươi gặp nước chanh trong mỗi bữa rượu nếp gừng. Mỗi ngày, lão lụi cụi, lăn lộn, trần trũi lụi hụi ngoài những tràn, đìa tôm có dễ tới hai chục tiếng đồng hồ.

Thế mà đến kỳ thi đại học năm nay lão Bính đổi khác. Ban đầu, lão cạy cục nhờ đám thanh niên kéo cho bằng được cái máy điện thoại ra lều. Khiếp! nhìn dây nhợ là xà trên những cái cột tầm vông liêu xiêu ai cũng bảo cái ông già này hâm tỉ độ. Điện thoại di động hay vô tuyến bây giờ rẻ rề sao không sắm một cái mà nhiễu nhương như thế? Đến khi lão cho khuân cái giàn máy vi tính mua thanh lý trên huyện ra lều thì vài người chợt à hiểu ngay nơi đây có khoản truy cập intenet.

Thế nhưng mười người thì chín vị bảo dứt khoát kiểu này là ông lão dở chứng. A! dám già mà sinh tật lắm nghen! Lão trúng hai vụ tôm, tiền rủng rỉnh định kiếm đường Chat (tán gẫu trên mạng) hay tìm bạn bốn phương? Có cậu Thanh niên còn qủa quyết rằng thấy lão đang rê chuột (con trỏ) vào mấy cái website thiếu lành mạnh ngắm bọn con gái nhà nghèo!

Lão Bính nghe đàm tiếu chỉ cười tủm. Chỉ tới khi bé Hiền cùng cha chúi vào màn hình với những đề luyện thi, qui chế, tỉ lệ chọi, điểm chuẩn, vùng ưu tiên... hiện ra thì ai cũng lại... À ra thế. Chê lập tức thành khen: mấy cái dư luận rõ thật là. Dám đặt điều cho ông già bảy mươi nhưng chuyện tầm phào. Cái sự khen này đã đến mức: có vị còn cả quyết rằng cái ông lão nuôi tôm này biết sửa cả phần cứng, gỡ rối cả phần mềm vi tính và nghe đâu còn quen biết, giao du với cả vài vị chức sắc ngoài bộ nữa.

Lão Bính quyết định tạm xa những vạt rừng và những đìa tôm thế kia chắc là hệ trọng lắm. Không hệ trọng sao được khi một lần, ngồi trong căn nhà một trệt, một lầu thơm phúc mùi sơn nước trên phố lão nhìn di ảnh vợ, nhìn con, nhìn cháu, nhìn cái ti vi, nhìn cái dim Tàu, nhìn giàn vi tính… rồi chép miệng: “

Nhà này chỉ

còn thiếu mỗi cái bằng đại học??

“. Nghe lão lẩm bẩm thế, ngần ấy đứa con xịu mặt lảng đi một nước. Lảng đi vì phần lớn học dở và lười học. Đàn con lão ngày trước đứa ngồi học một tai nghe cô giảng bài, tai kia nghe cá với rùa rắn quẫy cựa ngoài đìa, đứa sách giắt cạp quần chạy đuổi con còng, con cáy đều bỏ ngang hay trầy trật mới hết cấp 2. Đã có lúc, lão hối hận vì đã không chuyển ngành về thành phố để có điều kiện cho con ăn học nên người. Nhưng rồi, nhìn những đứa cháu nội, ngoại chăm chỉ và khoẻ mạnh lão lại hy vọng…

Ngày bé Hy Hiền ra đời. Ai cũng bảo đấy là cái tội, cái nợ cho lão. Có người còn bảo đó là một sự qủa báo nhỡn tiền gì gì đó nữa. Chả là cái ngày ấy, lão Bính bây giờ còn đang công tác trên Thành đội. Thành tích, chiến công nhiều, uy tín lớn và kinh nghiệm đầy người như thế tưởng vị trí vững còn hơn kiềng vậy mà chỉ vì vỡ kế hoạch, cố sinh đẻ thêm mụn con gái rượu mà nay kiểm điểm, mai phê phán. Cho đến khi bà vợ lão qua đời sau ca mổ vì không đủ sức sinh đẻ bình thường thì lão Bính sốc thực sự. Dẫu còn vài năm nữa mới tới hưu nhưng lão quyết xin về một cục. Mà dời biên chế như lão Bính cũng là lạ. Cứ nhẹ như không. Bao nhiêu chiến công, bằng khen, huân huy chương quên đi bằng hết. Cởi áo quân phục ra, lão như đột biến thành một ông già khắc khổ. Và, hàng ngày, cái ông già da đen như sừng kia ôm đứa con đỏ hỏn khi quì, khi đứng hàng giờ bên mộ vợ, khi thậm thụt trước cửa nhà ai đó xin cho con bú chực đã trở thành cảnh quen mắt.

Bé Hiền lớn lên trên trên tấm lưng bóng lưỡng của cha. Đôi tay nó như hai dải bẹ môn thục vắt vẻo quàng ôm cổ bố, mắt lim dim, miệng thì ghép vần a bờ cờ cực kỳ điệu nghệ và tính nhẩm thật nhanh nhao. Con hay cháu đấy ông? Đôi khi có người hỏi kháy lão Bính. Lão không tỏ vẻ gì mà chỉ nói:

Nó là người. Mà người bình thường!

Bé Hy Hiền bình thường thật, nếu không nói là rất giỏi và ngoan. Mới lớp bốn, nó đã lấy gọn hết các bài toán trong đầu bố. Mười hai năm học là mười hai năm khá, giỏi. Lão còn nhớ, nhà xa, đò phà cách trở như thế mà hình như con lão chỉ nghỉ có ½ buổi học vì trúng gió mà thôi. Kìa, hình như con lão nó biết, nó hiểu thấu tâm trạng của lão mà quyết tâm theo học và học không chỉ cho mình, cho cha mà còn cho cả dòng họ và bà con vất vả và tảo tần bên những cánh rừng ngập mặn vùng Duyên Hải này.

Ngay từ tết Nguyên đán, Hy Hiền đã lo ôn luyện. Cơ thể con bé sụt hơn ba ký lô. Nhìn con ngồi căm cụi dưới cả một thư viện sách và có lúc nó gục xuống mặc cả bầy muỗi rừng đói mồi lập bập bu vào người, lão Bính lén nhẹ như con mèo bò đến ngồi cạnh rồi với tàu lá sả, lão phe phẩy đuổi đàn muỗi quỉ sứ. Chậc! tiên sư cha cái giống muỗi rừng sình, đuổi nó mà cứ phải dùng mẹo như năn nỉ vì chỉ cần đập vài con, mùi máu và nhớt muỗi sẽ kích thích đàn muỗi tụ về. Lão bảo con:”

Đừng cố nữa. Nếu thấy học căng thẳng quá thì cứ dừng lại. Bố cho phép thế mà

!”. Con bé ráo hoảnh như chưa hề ngủ gục: “

Bố thông cảm cho con. Con không biết

dừng nữa!”.

Đến ngày nộp hồ sơ thi đại học, lão Bính ôm máy vi tính lục lọi tất cả mọi ngóc ngách những trang web nói về tuyển sinh. Bao nhiêu thứ thu lượm được, lão đưa cho con gái. Con bé cặm cụi rồi đưa cho bố túi hồ sơ:”

Xin phép bố cho

con thi sư phạm

“. Thế còn nguyện vọng 2?

Con ghi kinh tế

! Nguyện vọng 3?

Cao

đẳng sư phạm

! rồi con bé nói thêm:”

Con nghĩ kỹ từ năm lớp 10 rồi! nhà mình nghèo lại đông anh em, con mà vào sư phạm vừa đỡ học phí mà ra trường về dạy ngay gần nhà, có điều kiện để mắt đến các cháu con anh Hai, anh Ba, anh Tư....

Còn

nguyện vọng 2 con ghi kinh tế thì chắc bố cũng muốn thế

!”. Lão Bính nhìn con: ơ kìa, guơng mặt rắn rỏi của vợ thấp thoáng rồi như hiển hiện trước mắt. Lão rưng rưng: bà nó ơi! bà về đây mà chứng kiến con mình. Nó sắp thi đại học rồi đây này...

Trái ngược với khung cảnh nhà lão Bính - bên cái quán cà phê Rừng Duyên bao la vườn và bề thế kia, vợ chồng, cha con nhà Tư Mèo cũng đang xoáy quanh chuyện thi cử. Lão Tư Mèo xốc xốc cái quần soọc có dải treo, vuốt hờ lọn tóc thưa mà đen nhức bởi thuốc nhuộm loại xịn, bĩu cái môi thâm trên khuôn mặt mập mẩy ưng ửng màu cà chua dặn thằng con trai:

- Con ạ! Mày phải thi! Mày phải làm đúng theo ý đồ của bố mày. Không phải ngẫu nhiên mà tao từ Thành phố chuyển về đây nhập khẩu cho mày, mua đất, mở quán xá. Chưa hiểu hả? Thứ nhất: để tách mày khỏi đám bạn đua đòi hút hít. Thứ hai, có hộ khẩu vùng này khi thi đại học mày được cộng thêm khoảng 4 điểm. Mẹ kiếp! dân thành phố, thành thị mà ghép vào sê ri miền núi, hải đảo thì làm gì mày không đỗ? Tao với mẹ mày đây bảo thi sư phạm là có hoạch định cả. Chỉ mươi năm nữa cả vùng này sẽ trù phú, ngần này héc ta đất nhà mình một nửa xây khu trường dân lập cho mày làm hiệu trưởng, một nửa xây cái chùa vợ chồng tao kinh doanh. Cả gia đình mình nhặt tiền của người già, thu tiền của con trẻ...

Thằng con trai Tư Mèo cố thu mình trên cái ghế bành. Những ngón tay xương xẩu của nó vừa xoa, vừa bẩy những cái mụ trứng cá to xù, nữa thâm xịt, nửa đỏ hỏn trên gò má hóp heo:

-         Mặc kệ bố! con không thi sư phạm. Con không thi đại học. Con muốn đi du học, con muốn đi...

- Tiên sư mày con ạ! mày không qua nổi mắt bố mày đâu. Mày nhìn vào bố mày đây này chứ đừng dõi mắt ra cái đìa tôm chết tiệt kia nữa. Con Hy Hiền nhà lão Bính không là cái gì! Hay hớm lắm cũng chỉ hoa khôi xó rừng ấy mà. Tao nói cho mà biết, nếu mày muốn trụ thì con Hường nhà Hai Hương ngon hơn. Nó cũng xinh, học giỏi nhà có quán nhậu mênh mông và nhất là cha mẹ là Việt Kiều đúng điệu

.

 

Con ơi!

Việt gian , Việt Cộng , Việt kiều,

Trong ba Việt ấy em yêu Việt nào....

Đến lúc này, vợ Tư Mèo mới dừng tay khoắng túi cà phê:

-Mày thi xong đi. Tao với bố mày sẽ đánh tiếng rồi sang gặp lão Bính.

Mắt thằng con trai sáng lên. Thế nhưng nó đâu có ngờ bên kia đìa tôm, lão Bính từng rủa thành lời chi họ nhà Tư Mèo như thế này:”

Tiên sư cái đồ âm binh. Tao lạ gì cái kiểu mượn mỡ rán bánh. Tao biết tỏng âm mưu của các người khi dọn về ở xứ này từ vài năm trước kia. Hừ ưu tiên vùng? Chưa vào cuộc ta đã biết các người rồi sẽ vô ơn với vùng đất này cho mà coi. Nhưng mà hãy coi chừng! mảnh đất này không dung thứ những con người hời hợt“.

Lão Bính phủi tay, đủng đỉnh tản bộ sang quán Hương, đó là cái quán nhậu gần như duy nhất của vùng này. Hôm nay lão không đi nhậu mà có việc.

Bà Hai Hương chủ quán đang băm thịt một cách chăm chú. Những lọn tóc uốn sì tôn như muốn đổ ập ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh có đôi gò má hây hẩy đa tình. Làn môi cắn chỉ uốn điều điệu kia đã hơn một lần khiến ngực trái lão Bính đây nhoi nhói nghẹt. Kìa, bà chủ dạo này như đẫy đà ra. Chậc! cặp ngực ác nhơn cứ rúng rẩy theo mỗi nhát dao băm khiến lão Bính nửa muốn e hèm đánh tiếng, nửa muốn đứng ngó nuốt khan vài hớp cho bõ công nhìn.

-Ơ kìa! bác... à... anh Bính! Vào đây đã! gớm hôm nay rồng mới lại đến nhà tôm! Dùng gì đây anh? Cửu xà, thất xà, nếp cẩm hay hương cây Nhội mới ra lò?

Lão Bính khoát tay:

- Dẹp nhậu đi thiếm Hai. Tui sang đây vì chuyện thi cử của con Huờng.

Bà Hương à lên một tiếng. Cặp mắt đẹp chợt ánh vui rồi chợt ánh buồn. Trầm ngâm một hồi lâu, người phụ nữ như đổi giọng trở về thời xa xưa:”

Em cảm ơn anh“.

Bốn chữ

em cảm ơn anh

như đưa lão Bính trở về chuyện cũ.

Ngày ấy cách nay mấy chục năm. Bà Hương vốn xuất thân từ thành viên của đội Phượng Hoàng. Đội này được quân đội Sài Gòn tung vào chiến khu Rừng Sác để lung lạc tinh thần chiến sĩ, làm sa ngã cán bộ và thu thập tin tức tình báo. Với cái vỏ bọc chạy giặc vào chiến khu và sẵn nhan sắc, Hương chiếm được cảm tình của nhiều người trong đó có trung đội trưởng đặc công Lê Bính. Thế nhưng, Hương lại cảm phục và yêu Nguyễn Quyền– người trung đội phó tài hoa, cấp dưới của Lê Bính. Từ cảm phục đến tình yêu thực sự đã khiến Hương thú nhận hết với Quyền. Cô nguyện từ bỏ vai trò nội gián để yêu và mong được sống với anh. Thế nhưng, cuộc đời không đơn giản thế. Quyền được cấp trên khuyến cáo phải tách rời khỏi Hương. Đó là mệnh lệnh, là chỉ thị. Quyền đau khổ chấp hành. Người hiểu bạn nhất vẫn là Lê Bính. Chính anh từng bao che, dung túng, chống chế cho Quyền mỗi khi họ lén lút gặp nhau. Chuyện phải đến đã đến: Hương có thai. Thương bạn, Lê Bính đứng ra đảm bảo và cam đoan rằng Nguyễn Quyền không có liên quan gì đến cái thai kia. Nghĩa cử ấy đã giúp Quyền và Hương tránh nhiều phiền toái.

Quyền hy sinh.

Rồi đất nước giải phóng.

Hương trở thành dân ngụ cư và thành chủ quán. Đứa con gái của nàng lớn lên không cha và thiệt thòi quyền lợi lại là nỗi ám ảnh, day dứt nhất đối với Lê Bính. Hơn ai hết, lão Bính biết rõ rằng nó là con Nguyễn Quyền – con liệt sĩ. Thế nhưng, lão không thể thay đổi vị thế ấy vì chót cam đoan với Tổ chức năm xưa. Mặc cảm khiến lão e ngại gặp nó, cho tới ngày con bé lấy chồng sinh con. Đến khi hai vợ chồng con bé vượt biên để lại cho Hương đứa con gái nhỏ dại thì lão Bính mới rõ chuyện. Lão không bao giờ quên được những đêm trời đen sệt, lão ôm con đi trước, Hương bế cháu ngoại theo sau, lần lũi băng đìa gõ cửa nhà người ta xin cho hai đứa trẻ bú nhờ. Đã mấy lần, lão định liều nói cùng Hương khi cứ nghe ai đó nhủ rằng: Kìa con con cháu cháu sao không bấu chắc vào nhau!

Khổ! từ thâm tâm. lão sợ rằng khi mà lão ngỏ lời (thậm chí hành động) thì Hương sẽ vĩnh viễn dời khỏi lão vì nàng là típ người yêu ai, chấp nhận ai phải là sự nể phục và cảm phục. Mà lão thì... hình như ông thầy tử vi trên thị trấn nói đúng: Đời lão rồi khổ về đàn bà, chết vì gái. Lão nghiệm: khổ vì đàn bà thì đúng rồi! nhưng chết vì gái thì... sao cà?

Chà! nom cái mông diêu diêu của bà chủ quán sàng qua sàng lại khung cửa hẹp trước ánh lửa bập bùng kia, tuổi sắp bảy mươi của lão còn phừng phừng những mê tơi đắm đuối bởi những ý nghĩ tội lỗi hành hạ thì cái nhận định chết vì gái đâu có quá đáng bao nhiêu.

Giọng bà Hương kéo lão Bính về với thực tại:

- Thôi thì trăm sự em nhờ anh. Cháu mà đỗ đại học nhà em ở lại đất này, mẹ nó sẽ gửi tiền về. Còn không thì bà cháu em sẽ đi Mỹ theo bảo lãnh.

Nghe thế, lão Bính thoáng giật mình tưởng như mình sắp rơi mất cái gì Không được! phải đỗ! Lão đập tay thùm thùm xuống cái bàn gỗ khiến ly rượu

hương nhội

nhảy choi choi muốn ngã...

Ngày thi đến. Lão Bính trở lại cái tháo vát đầy uy lực và quyết đoán vốn dĩ. Lão phân công con cháu đứa lo bơm xe, đứa nắm cơm, đứa chuẩn bị phụ tùng phòng hờ sự cố trên đường. Thằng con lão Tư Mèo bả lả:”

Bác cứ giao hai em cho

con. Con thuê bao nguyên chiếc taxi. Đảm bảo đi hai về hai

“. Lão Bính trợn mắt:”

Mày biến đi. Chim Hồng Hạc có chơi chung với Chim Cú bao giờ

!’.

Lão Bính săm soi lại cái thùng xe lôi mới sơn ra chiều đắc ý lắm. Chà! hai đứa trẻ sẽ ngồi đâu lưng vào nhau. Thắt dây an toàn xong là mỗi đứa một cuốn sách có thể tranh thủ học thêm bài. Lão đã thực hành đến lần thứ một trăm cách mắc 3 chiếc võng chỉ với chiếc xe lôi với một gốc cây. Để giữ vững liên lạc giữa hậu phương (nhà) và tiền tuyến (thành phố) lão mượn thêm mấy chú kiểm lâm cái Điện thoại di dộng.

Chiều hôm trước. lão thành tâm thắp hương khấn vái rồi ra vườn chọn lựa trong đàn gà tre lai một cặp trống giò chuẩn nhất cắt tiết thịt rồi cúng ông bà rồi mời thiếm Hai Hương sang khấn. Bữa cơm liên hoan thật vui và lão Bính thấy hình như Hương cởi mở hơn ngày thường. Chiếc áo cánh nõn mỡ gà như cứ muốn bung ra. Rượu nếp gừng ủ lâu ngày thơm ngột mũi. Đôi gò má hây hây kia cứ chao qua chao lại cùng nụ cười chúm chím. Phà ơi! nhìn bộ dạng của bả, lão Bính đồ rằng bà ngoại đang vì tương lai đứa cháu mà chấp chới chứ qua cơ hội này là lại “chảnh gấp đôi cho mà xem”. Một ý định dung tục phớt qua: sao không nhân cơ hội này mà đụng vào lưng, ôm bờ vai nàng? Tức thì lão toan vả vào mặt mình: Ơ hay! cái ngày trọng đại và những giờ khắc thiêng linh thế này mà lại để cái ý nghĩ vớ vẩn ấy lòi ra ư?

Thế nhưng, bà chủ quán Hương như không thèm xét đến thái độ ấy của lão. Tấm thân còn nõn nà chợt xích lại muốn ép cái cơ thể bắt đầu vụng về của lão Bính vào vách lá dừa nước:

-         Em ra kèo đây: cháu nó mà đỗ thì em chiêu đãi bác. Muốn gì, chiều nấy!

-         Ý thiếm nói...

- Thì bác cứ thoải mái: ba ba tần thuốc bắc, rắn hổ đất xào hành xả, trứng rùa om ngải cứu, se sẻ chiên dòn, le le hầm măng khô... món gì thì món!

Như nhận thấy ánh mắt chưng hửng của lão, lần đầu tiên sau hơn ba mươi năm, Bà Hương dùng tay vỗ đánh đét vào khoảng đùi trần đen lưỡng của người bạn già rồi bả lả cho lão đủ nghe:

- Hay là em chiêu đãi anh theo phương án 2? Chiêu đãi ngay tại quán nhà em. Anh chỉ cần mang rượu nếp gừng. Bên em mồi có sẵn, tiếp viên có sẵn mà không đòi tiền bo!!

Nhìn đôi mắt liếc mướt đuôi, vành tai ưng ửng của tuổi hồi xuân kia, lão Bính thấy mình lâng lâng rạo rực. Quái! đã mệnh danh là sâu rượu của Trung đoàn đặc công xưa vậy mà hôm nay mới dăm tợp dông dài đã đổ say, đổ xỉn ra rồi?

Lão Bính soạn hành trang. Lâu lắm mới có dịp đóng bộ mà phải đóng cho oách. Đợt thi đại học này dứt điểm là một trận tranh đấu thư hùng không thua gì Wơn cớp. Cái tỉ lệ chọi một trên ba mươi lăm kia còn trần ai hơn vô địch bóng đá ấy chứ. Con thi nhưng cân não cha mẹ cũng thi luôn chứ bộ giỡn chơi? Vậy nên lão quyết định xuất hành với mũ cối Trung Quốc, giày da chiến sĩ Liên Xô và xanh tuya rông đặc công chính hiệu - Những món đồ mà chỉ những chiến binh lâu năm và trân trọng kỷ niệm mới có thể giữ gìn được đến bây giờ. Thiếm Hai Hương ngắm lão từ đầu đến chân khen nắc nỏm. Thiếm bảo chỉ thiếu cái xà cột da trung cấp khoen khoá mạ kền ngày xưa nữa là đúng kiểu cán bộ đi họp Miền.

Lâu lắm lão Bính mới về thành phố. Xà! mình chả khác gì con cua bò lên mặt ruộng. Chỗ nào cũng thấy lạ, thấy mới. Khiếp! người đông cứ như thể cái thành phố này không ăn, không ngủ để suốt ngày rong rẩy ngoài phố hay sao ấy. Lão còn có cảm tưởng như tất tật mọi người đều nhìn vào cái xe lôi kèm hai chỗ ngồi có thắt dây bảo hiểm của gia đình lão. Cứng tay lái như lão mà đôi khi cũng chờn chợn vì những pha thanh niên phóng xe sát sạt như muốn đâm sầm vào xe mình. Qua kính chiếu hậu, lão thấy vững lòng vì hai đứa trẻ vẫn ôm sách đọc cắm cúi và phớt lờ hết thảy những tia nhìn tò mò. Được - lão thầm khen hai đứa: làm người đôi khi cũng phải biết phớt đời như thế...

Dẫu rằng phớt đời đến mấy thì Lão Bính cũng bị chặn lại. Anh cảnh sát giao thông lia còi cái roét. Ai cũng tưởng phen này lão già da chì này thua chắc. Vậy mà không dè, thay vì rút bằng lái thì lão chìa cái bản potocopy giấy báo thi đại học. Người cảnh sát dịu mặt, phẩy dùi cui:”

Mời cụ đi cho cẩn thận!”.

Lão Bính cười chúm chím: cuộc đời bây giờ thoáng thật!

Trường đại học đây ư? Ô kìa, sao đột nhiên lòng lão lại bồi hồi? À! như thế là cuộc đời lão có lý do chính đáng để chững chạc bước chân vào khuôn viên trường đại học quốc gia. Cái hạnh phúc, chỗ hơn người có lẽ là những phút giây như thế này đây. Ghìm cảm xúc để nhìn ngang: lão thấy rất nhiều những ông bố, bà mẹ cũng dẫn con đi thi như lão. Ban đầu, lão Bính e ngại mấy anh chàng tre trẻ cứ xáp vô hỏi han. Sau rồi, khi biết họ là những sinh viên tình nguyện thì lão yên tâm ra mặt. Khỉ ạ! vậy mà mấy người dưới nhà quê cứ đồn trên thành phố là thế này, thế nọ. Thành phố mà cứ cười tươi như cô nàng trên pano quảng cáo và mặt mũi sáng sủa, nói năng tử tế như mấy cậu sinh viên kia thì thành phố muôn năm!

Phải nói với bọn trẻ câu gì đó trước khi chúng vào phòng thi chứ nhỉ. Dà! bao nhiêu câu nói văn hoa, bao nhiêu lời động viên khích lệ lão tích cóp thu nạp dự trữ cả một đời, lúc này bỗng chốc bay đâu hết. Khi tiếng chuông báo giờ vang lên, lão đứng nghiêm. cầm tay hai đứa trẻ giọng thẳng đuột:

- Cố gắng nghe tụi bây. Đằng sau bức tường của phòng thi là có bố!

Nhìn bước chân hơi xiêu xiêu của Hy Hiền lên từng bậc cầu thang giảng đường Đại học, lão hiểu con lão cũng đang hồi hộp lắm.

Bất chợt, chiếc điện thoại di động nơi túi quần rung bần bật. Lão bật máy. Đầu dây bên kia, giọng thiếm Hai Hương kề màng tai:”

Chúc cha con, ông cháu

nhà anh vạn sự như ý

!” . Giời ạ! cái bà ngoại nầy học đâu được cái cách uốn éo khách khí nhanh như thế. Chỉ tổ tốn tiền! nghĩ thì vậy nhưng lão lại nói như quát vào cái bao diêm trong tay:”

Hê lô! Được! bạn mình hãy đợi đấy!!

Có ngồi nghe lỏm chuyện các ông bố, bà mẹ kia tâm sự cùng nhau, lão Bính mới biết mình khờ dại. Lão phục lăn như bi khi một ông bố vọt khoe:”

Cháu nhà tôi tập trung ôn luyện thi khối B. Thế nhưng tôi vẫn cho cháu đăng ký thi khối A này trươc. Đỗ hay trượt khối A không thành vấn đề. Chủ

yếu cho cháu làm quen với phòng thi, với giám thị, giấy, phách, số báo danh...

“. Rồi cái khoản ăn, chu đáo như lão lại là lạc hậu. Một bà mẹ nâng cao cái cạp lồng thức ăn nói như khoe:”

Tôi chuẩn bị cho con bé món thức ăn nó khoái khẩu. Còn khoản cơm thì cứ ghé quán nào nóng nhất

,

dẻo nhất mà triển khai

!”. Bất giác, lão nhìn hai đùm cơm nắm mang theo rồi tự trách mình già rồi không thể theo kịp tình hình.

Thế nhưng với lão Bính thì nhiêu khê nhất của sự chờ đợi này lại là... đầu ra. Khiếp! trà đá, nước lọc vào cơ thể rồi đâm ra bí bích. Tuổi già vật vã giữa phố phường xem ra hơi bị nguy. Nghĩ mãi, lão liều tạt sang cái quán vỉa hè. May sao, ông chủ quán cũng nguyên là cựu chiến binh. ông này cười móm mém rồi chuyển cho lão chiếc bô xanh:”

Ông anh vào cái bếp dã chiến kia xả đỡ rồi pha nước đổ xuống cống ngoài kia. Nhân thể xem có vị nào cần qúa giang thì duyệt luôn!”.

Cánh phụ huynh bắt tay hoan nghênh lão quá thể. Thế mới biết, tình đồng đội thật bao la !!

Cuối cùng thì đám thí sinh cũng lần lượt rời phòng thi. Mặc ai lo săn đón thăm chừng con cái, lão Bính không lạ gì tính nết con mình: có cạy răng chưa chắc con bé đã nói những điều gì chưa chắc chắn. Vả lại, với món thi đại học thế này thì hỏi cũng như không bởi lẽ đề thi dễ thì cười tươi chưa chắc đã đỗ nhưng đề khó thì mếu đấy nhưng có khi lại đậu. Lão lại tặc lưỡi nhủ mình:’

Thôi thì cứ làm hết nhiệm vụ của người bố rồi chờ đợi“.

Mà thật! cái người sốt ruột chờ đợi kết qủa thi mãnh liệt nhất của vùng tôm này vẫn là Lê Bính. Sau hai ngày lều chõng đi thi thật bão táp là hơn một tháng trời chờ đợi và hy vọng. Lão trở về với đìa tôm nhưng tâm trạng còn bỏ cả trên thành phố và ở vài nơi khá . Rồi lần đầu tiên, lão phá lệ đời mình. Lão gửi đi một loạt e-mail nhờ mấy người bạn ngoài bộ. Một anh bạn thương tình bỏ công làm cho lão mấy phép tính xác suất. Như vậy, trong tay lão có điểm của đám trẻ dẫu chỉ là tương đối. Nhưng mà khổ! có điểm rồi nhưng lão càng hoang mang không biết trường nào điểm chuẩn bao nhiêu mà hy vọng. Duy có mỗi điều lão được an ủi là cái thằng đua xe con nhà Tư Mèo điểm rất kém! chậc! Cái đồ nằm ngửa ăn sẵn, đồ cò trắng và đồ mánh mung bẩn vụn rồi đời cũng lòi ra. Tiên sư lão Tư béo chứ! cái sân chơi này còn đang công bằng và vô tư lắm chứ đồng tiền chả mua gọn được đâu. Gì chứ đề thi năm nay mà mướn thầy dạy tủ như cha con lão thì chỉ có ôm tủ mà khóc. Coi, phao là cái gì? luyện thi đảm bảo đậu là cái gì? Phét lác hết!

VĨ THANH

Tới ngày công bố điểm thi đại học, cả đêm lão Bính thức trắng để vào intenet. Khi xác định đúng điểm bọn trẻ rồi thì lão thở phào. Với số điểm như thế, lão tin rằng chúng không đậu nguyện vọng 1 cũng rơi vào nguyện vọng 2, 3. Mà đúng thật cái bữa báo đăng tên thí sinh trúng tuyển, thiếm Hai Hương ôm tờ Tuổi trẻ ào vào như một cơn lốc:”

Đỗ rồi! Con bé cháu nhà em đỗ rồi!

“. Và , cả tấm thân nần nẫn kia ôm chầm lấy lão Bính khiến lão suýt ngạt thở. Dùng hết sức, lão đẩy Hai Hương sang một bên, với tấm áo bà ba khoác vào người lui cui bước ra ngoài đìa tôm. Ơ! sao thế này! Mỡ đem đến miệng mèo mà chê a? Tới khi bé Hy Hiền thoắt chạy ra theo cha thì bà Hai Hương chợt hiểu: Hy Hiền không có tên trong danh sách trúng tuyển trường Sư Phạm.

Lão Bính mở computer rồi vào intenet. Bàn tay lão gõ trên bàn phím như múa. Lão gửi thư điện tử. Lão gọi điện thoại đường dài. Lão chả cần giữ kẽ gì nữa. Cứ hỏi và hỏi và dẫu có ai đánh giá thế nào lão cũng chấp nhận vì lão hơi hoang mang và sốt ruột thực sự. Chỉ đến khi không dưới ba người bạn khẳng định như đinh đóng cột rằng với số điểm như thế của bé Hy Hiền thì chắc chắn đậu vào Đại học kinh tế Quốc dân lão mới yên tâm.

Khi lão buông bàn phím thì mặt trời Rừng Sác vừa tròn đúng Ngọ. Ơ, trời không gió mà sao lão thấy mát rượi thế này. Quay qua phải, lão bồi hồi nhận ra thiếm Hai Hương đang phe phẩy quạt mát cho lão tự khi nào không hay. Bất giác, lão nắm tay người phụ nữ mà lão từng toan nắm tay từ mười bảy năm trước. Mặt Hai Hương chín rần cả màng tang. Bà vội giằng tay rút về, mắt ngước lên nóc lều tôm nói bâng quơ:”

Kìa anh, có lẽ phãi dọi lại cái

lều chứ để vầy mưa xuống thì ướt hết

“. Phía bên ngoài đìa, bé Hy Hiền đành nép vào sườn cây bình bát chịu trận. Nó không dám lên tiếng dù chỉ là húng hắng ho. Không dám không phải vì sợ mà vì thương cha già từng cô đơn thui thủi đến vô cùng; lúc này là cơ hội hiếm hoi của cha…

Thế rồi, ngày nhập học cũng tới kề. Hường, cháu ngoại của bà Hai Hương cứ dặn đi dặn lại rằng sau khi cô lên thành phố trọ học rồi thì bà ngoại không được một mình bươn chải bán quán nữa. Tốt nhất là bà ngoại dọn về phụ ông Bính làm đìa tôm. Tiên sư bay! ta không cần mi mai mối! Bà Hai Hương chửi cháu như thế nhưng câu chửi vừa buông thì vành tai bà cũng nẫu nhừ.

Trước hôm bọn trẻ nhập trường, cả nhà ra nghĩa trang. Trước ngôi mộ Nguyễn Quyền, bà Hai Hương quì xuống vái lạy rồi tựa lưng vào bia đá. Nước mắt người đàn bà lã chã rơi. Ừ phải! bốn chục năm trời Hai Hương mới được khóc chồng trước sự chứng kiến của tất cả những đồng đội của ông đang nằm đây và những người còn sống đang đứng bên. Giọng Hai Hương nghẹn ngào

“ Quyền ơi! em coi hôm nay như ngày cưới ra mắt công khai của chúng mình đây! Anh ơi! con Hường cháu ngoại chúng ta ngày mai bước chân vào giảng đường trường đại học rồi. Cái giảng đường mà bốn mươi năm trước anh vẫn kể cùng em rằng anh mơ thấy mình sau chiến tranh trở về thành sinh viên đại học Tổng hợp Văn. Cầu mong anh sống khôn, chết thiêng phù hộ cho con, cho cháu. Em cũng xin lỗi anh đã không sao vượt được khó khăn để dìu dắt con gái của chúng ta được học hành theo ý nguyện. Vâng! ngay cả chuyện giữ chân con ở lại đất này em cũng không làm được. Thế nhưng, em tin rằng con mình sẽ trở về. Hãy tha lỗi cho em và hãy tha lỗi cho em... từ ngày mai em... và... và anh Bính và... đìa tôm

...” .

Lời khấn của Lê Bính như tan hòa cùng gió và nắng Rừng sác:”

Quyền ơ ! ơn trời và nhờ ông phù hộ , nay các cháu thi đậu cả rồi. Hôm nay, nhân ngày ý nghĩa này, tôi muốn trải lòng cùng ông, cùng trời đất. Cuộc đời nà

 

...

mọi s … dẫu sao thì… tôi và Hương…

“.

Lời khấn, lời tâm sự lúc nghe rõ, lúc thầm thì, lúc chan chứa tự hào, lúc ngượng ngùng như có lỗi của Lê Bính và Hai Hương có thể bọn trẻ chưa hiểu hết thế nhưng những người nằm dưới mộ kia đều hiểu hết.

Gió vẫn rì rào .Rừng Sác trời thật trong phía trên và màu xanh của Rừng vẫn ầm ập bung dày phía dưới.

Rừng Sác Tháng 10 năm 2002

ÔNG ĐỊA

        

Còi tầm của nhà máy dầu hụ lần thứ nhất, ông lão Vị trần xì cái tà lỏn lươi bươi bước vô qúan phở Năm Sùi. Vừa đi, ông vừa lắc lư cái cần cổ ngắn rụt nung núc thịt. Chả thèm nhìn ai, ông ngồi vào chiếc ghế xúp trước cái bàn nhỏ góc quán.

 Đã thành lệ, ông lão ngồi xuống, đập hai chân bồm bộp rồi co một chân lên khiến cái bụng tổ chảng lệch về một phía. Bàn tay có những ngón bè ra, móng viền cáu ghét bắt đầu gãi sồn sột vào đùi và bọng chân nần nẫn thịt màu thiết bì. Nhìn kỹ, dưới nắng mai chiếu xiên, vết gãi tở ra thứ bụi mốc trắng của da khô lười tắm nom gai cả người. Thi thoảng cái bàn tay ấy ngừng gãi vỗ tam tám phía sau lưng hoặc trước bụng đuổi muỗi.

Bát phở bưng đến đặt kịch. Lão xoay nó vào đúng vị trí. Đôi mắt như đạn lên nòng xói vào khay rau thơm, chai tương ớt, hũ nước mắm, dĩa chanh tươi... Đôi tay thoăn thoắt, chăm chút chúng đến độ bát phở được chất đầy um rau và gia vị. Sau khi dùng đũa khoắng trộn lộn xà ngầu tất cả, ông lão khoanh đũa một vòng đưa lên miệng nếm thử mặn nhạt, gõ đũa cạch vào thành tô rồi bắt đầu bữa sáng.

Nhìn lão Vị ăn hơi nhồm nhoàm, bầy hầy, chướng mắt thì đã rõ nhưng chả ai lạ. Kệ! Cả cái thị trấn này có ai không biết lão đâu. Người ta còn biết cả cái bàn góc kẹt trong cái mặt bằng quán phở rộng thênh thang là chỗ vợ chồng Năm Sùi chủ quán dành riêng cho lão nữa. Có người đùa nơi ấy là… bàn ông địa. Dân thị trấn huyện lẻ cũng dông dài, ít người chấp nhặt cái cung cách ăn phở thiếu mỹ quan của ông lão. Còn khách lạ? Mấy ai ở thành phố cất công chạy tới đây để ăn sáng mà lo.

Người ta gọi lão là ông địa cũng có ý cả đấy. Thì cứ thử giở ngược lịch sử về hơn hai chục năm

 là thấy ngay – Cái thời mà rừng ngập mặn còn gần xệu mé bên kia kinh ngang. Có tới hai thời,lão Vị từng là bùa hộ mệnh (thậm chí bảo kê), từng là ân nhân của khối người trong đó có vợ chồng Năm Sùi.

Lão Vị xuất thân dân dạt Rừng Sác. Thời xưa, nhắc đến Rừng Sác là ghê lắm. Nơi ấy ban đầu tụ tập toàn thành phần bất hảo không thèm coi thể chế, chính quyền ra cái gì. Ở đó, người ta thích thì làm, không thích thì thôi. Mãi sau này những người họat động bí mật bị khủng bố mới lánh về rồi thu phục nhân tâm dân thảo khấu, giang hồ và sau nữa mới lập chiến khu Cách mạng.

Lơ xe mãi không khá, Vị đi ở cho điền chủ. Trong một lần dạy võ cho con chủ nhà, lỡ tay

 đuy rếch 

quá mạnh, thằng con ông chủ dập hòn cà chết tươi. Hoảng quá, Vị lủi tuốt vô Rừng Sác trốn kỹ. Cách mạng đến, Vị là đối tượng tuyên truyền, thuyết phục của họ. Thế nhưng, Vị xưa nay thích tự do, vô tổ chức thành bản tính, dòm mấy anh Cách Mạng thì nể phục có nể nhưng theo hẳn thì… cho em xin!

Vị tìm cách ra hương lộ đánh xe thổ mộ.

         

Nom khá bảnh trai, lại nén lòng cưa sừng thành nghé bởi cái

 píc 

bị nhà đương cục tầm nã nên Vị được lòng mọi người. Ngay mấy người lạ leo xe kiếm đường về Rừng Sác kể như khỏi tiền bạc. “Qua đỡ mấy người một độ đường“. Tử tế thì hẳn rồi nhưng phải cái Vị có máu…ba lăm! Cứ cô nào leo xe tướng tá dày cơm là Vị khoái. Gã chờ khi ghé bến, cầm tay khách đỡ xuống mà nghe tay nong nóng, mạch hơi giật nhẹ là kiếm chuyện. Cái miệng gã nịnh leo lẻo và bàn tay to bè cứ mông người ta mà vuốt ẩu. Chửi: cười! đánh mạnh: cười! đánh nhẹ: càng cười! Cứ nhăn nhăn nhở nhở như “ đồ mắc dịch “ vậy mà một mình lượm hai bà vợ, đặt hai dinh cơ ở hai chặng đường xe thổ mộ. Hai bà, bà nào cũng sắc sảo, cơm cùi đúng gu to khỏe béo bền và cách làm ăn cũng thớ lợ chát chao chả kém gì dân buôn nhà nòi.

         

Từ ngày có hai vợ, Vị ta có đứng đắn hơn trước. Lịch trình sum họp rạch ròi: thứ ba, năm, bảy về bà nhứt, thứ hai, tư, sáu ghé bà nhì còn chúa nhựt dứt khoát  nhong nhong ếp ếp tùy nghi…ghé đâu thì ghé!

   

***

         

Mãi sau này, mọi người mới biết lão Vị khôn quật giời. Hai bà vợ đẻ hơn chục đứa. Lớn lên lão lựa một nửa con trai cho đi lính, nửa còn lại gửi gấm mấy anh, mấy chú trong chiến khu. Bốn cô con gái lấy ai thì tùy nhưng bay cử một lượm cho tau thằng chồng cảnh sát gộc để dựa hơi đỡ khoản mã tà, phú lít với bọn âm binh kiếm chuyện.

         

Cái ngày giải phóng về, ai cũng cuống lên chuyện di tản, chuyện trốn tránh thì lão Vị tỉnh rụi: Nhà này đứa nào thích thì di tản. Thích chết kiểu đêm không ai hay, ngày không ai biết ở xứ người thì cứ đi. Đứa nào không đi, ở lại tao bảo đảm không ai làm gì tụi bay. Sao á? Tao là bố một đàn con: thằng lên xanh, thằng nhảy núi, thằng vác tôm xông cho ngụy. Chế độ ngụy hay chế độ cộng sản tao đây cũng có con đóng tới cấp tá; Không lẽ thằng anh bắn bỏ thằng em trước mặt ông già nó hay sao?

 Ấy là nói khiêm tốn vậy chớ thực ra ông lão bảnh hơn nhiều. Người ta còn thống kê được từng chuyến ông dùng xe thổ mộ chuyên chở cán bộ Cách mạng chuyển vùng họat động, từng tấn vũ khí, truyền đơn, thuốc men… chuyển vào chiến khu. Bảo ông làm báo cáo, khai thành tích, ông cười hềnh hệch:”

Chuyện nhỏ vầy mà công cán thành tích cái chi. Tui hay ai chạy xe thổ mộ cũng làm vậy cả. Cùng người Việt máu đỏ da vàng với nhau mờ

!”    

Xe thổ mộ không còn, ông xoay chạy xe bồn. Ông mua đất lập cái gara ven đường. Công việc làm ăn cứ thế mà tấn tới. Bên cạnh cái gara của ông xuất hiện thêm vài cái chòi bơm xe, vá vỏ, bán xôi, bắp với bún riêu.

         

Vợ chồng Năm Sùi phiêu bạt từ Miền Trung đến và bắt đầu lập nghiệp bằng vợ mẹt xôi, chồng ôm cần rê và cắm câu. Nói về vợ Năm Sùi trước: Khi mẹt xôi của y thị xuất hiện thì những ma cũ trong khu vực trợn mắt: A, dân dạt ở đâu dám tới giành khách? Cô bé bán xôi cũ đã sắp cho“ con mẻ mập“ biết thế nào là lễ độ thì ông Vị đi ngang:”

Tụi bây đúng là…thân cò khác gì thân chim mà gây nhau. Ta bảo dẹp là dẹp!“

. Nhờ một câu nói mà ma mới yên tâm gói xôi. Nhìn vợ Năm, lão Vị nuốt khan. Mẹ khỉ! thằng chồng mặt rỗ nhằng rỗ nhịt rắc cả đầu vừng không kín rỗ thế mà kiếm được con vợ dày cơm, thơm cùi. Chà! cái mông, cái eo thế kia cứ gọi là…là đẻ đến phá bầy. Chỉ tội cái mặt hơi cằn. Nhưng mà… chậc! gặp thằng Năm Sùi típ người yêu kiểu ưu tiên mé dưới thì bản mặt cằn cỗi mà ăn nhằm gì. Hôm trước có ai đã bảo cứ lấy cái khăn mù soa rắc dầu thơm che lên mặt vẫn đủ mệt bằng vác cày leo núi cơ mà!

         

Vợ Năm Sùi leo lẻo:”

 Con mời chú xơi xôi

!”. Ông ừ hữ. Hay ông chê xôi con.? Vẫn ừ hữ:”

 Hừ… ăn xôi nóng họng thấy mẹ. Sao mầy không cháo hay hủ tíu? Vợ Năm ỏn ẻn:” Thưa chú, tụi con kẹt không có vốn! “. Hử? thế thằng chồng mầy đâu? Bảo nó kiếm qua

!

Trong khi đó thì Năm Sùi đang chú tâm với công nghệ chế biến mồi câu cá Ngát độc chiêu. Cá Ngát ở vùng này rất nhiều mà con nào con nấy chắc lẳn như cái chày vồ. Lạ! Năm Sùi đi đã nhiều nơi mà chưa thấy nơi nào con cá con tôm lại nhiều và ăn ngon như ở vùng này. Sao cà? Ừ! Hình như có lần lão Vị bảo rằng đây là vùng nước Chè hai nên hải sản ngon có tiếng. Chè Hai là cái chi? A! tóm lại thì nó chỉ là sự trộn trạo của nước mặn, nước ngọt và nước lợ bằng bàn tay của ông Giời. Cá tôm thì nhiều nhưng Sùi mê nhất là bọn Ngát. Đây là giống cá phàm ăn. Mồi gì gặp chúng cũng tớp vào tận bao tử. Thế nhưng kiếm cách dụ chúng đi cả bầy tìm mồi thì chỉ Năm Sùi có bản quyền. Trong cái chòi con của Sùi, đi đâu thì chớ chứ về nhà là y phủ rèm giã ký cốc kỳ cạch suốt. Trong cái ngăn tối như hũ nút ấy bốc ra lúc thì mùi thơm lựng như mùi cua nướng, lúc thì khen khét như mật cháy, lúc thì hoi hoi oi khói của cơm khê… Đôi lần, lão Vị nổi máu vác cần theo Năm Sùi câu cá Ngát. Mê thật! dẫu rằng Sùi câu 3 con thì lão chỉ được 1 con. Nơi câu thường là kè đá. Cái hũ mồi do Sùi kỳ cạch chế biến dẻo quánh như bánh xào, vo viên vào đầu lưỡi câu rồi thả xuống, mắt chăm chú nhìn đầu cần khi nào nó nhấp chúi là phải lắc mạnh tắp lự và guồng cái cuộn dây gai cho nhanh kẻo con cá rút vô hang là hỏng cháo. Thường thì mỗi buổi câu, lão Vị chỉ lượm 1 con trồng trộng thảy cho vợ Năm Sùi làm nồi chua còn bao nhiêu để Sùi tùy biến. Cái cách vô tư của lão khiến Năm Sùi nể và nể đến nỗi có lần gã tuyên bố bật mí bí quyết làm mồi cá Ngát. Kìa! Khi thằng Sùi đang thao thao với còng lửa nướng vàng giã nhỏ, trộn với cơm cháy nhuyễn rồi nghiền xôi nếp cho thật dẻo trộn vào sau đó…thì lão Vị trợn mắt cắt ngang đúng điệu dân giang hồ có mỏ neo:”

 Thôi dẹp đi mầy! Mỗi tuần vài chục con cá Ngát, đít ướt rền rệt, người tanh như rồ, vắt mũi không đủ đút mõm mà hay ho gì. Trò câu kéo không thể gọi là nghề! Mịa kiếp! Tao buồn thì đi câu chơi với mấy chứ đếch thèm biết mồi mè tanh tưởi. Phi thương bất phú! Mày bỏ đồ nghề đi, về tao cho mượn vốn…

·        

         

Cho vợ chồng Năm Sùi mượn vốn rồi nhưng xem chừng cái quán phở bò kia sập tiệm vì ế ẩm. Đến cả tháng sau khi hỏi thăm vẫn nghe vợ chồng Năm Sùi than phải ăn bánh phở thiu trừ bữa thì ông lo tợn. Kiểu này không khéo chúng nó bỏ đất này quỵt nợ mình luôn. A nó thua mình thua! Nhưng đời lão đâu dễ thua lãng nhách vậy được? Phải giúp chúng“. Ông nhắn nhe, nhờ vả anh em tài xế quen biết, bạn bè xưa ghé quán phở ủng hộ. Chính ông là vị khách đầu tiên, bắt buộc theo kiểu: ngồi đấy, vừa ăn, vừa gật chào bạn bè vừa… cho nó hên và vừa cho giúp cho Năm Sùi đỡ ế. Ban đầu, ông Vị còn tà lỏn, sơ mi cộc tay, sau riết nóng bức quá quanh năm ông ở trần. Cái tướng ông vốn to béo lại thấp đậm nên cái biệt danh:

 Ông địa 

bắt nguồn từ cái cách ngồi ăn phở. Chả biết có phải cố tình quảng cáo hay thật tình mà ông lão bảo đời mình đi khắp bàn dân thiên hạ chưa thấy phở ở đâu ngon như ở đây. Con mẹ Năm Sùi kỹ tính chịu thức đêm hớt bọt ninh xương, thằng chồng chịu khó bỏ sức ngồi đập xương heo lấy tủy hãm nước dùng. Phở ngọt, ăn gà có mùi gà, ăn bò có mùi bò xộc nồng khoang xoang mũi và nhất là cái khoản dấm tỏi kiểu miền Trung…

         

Đối với vợ chồng Năm Sùi, ông là ân nhân, là hàng xóm, là chỗ dựa mọi tình huống. Ngay mấy thằng ba gai hay mượn rượu xin đểu cũng từng ngấp nghé đóng nắp Năm Sùi nhưng ông Vị chỉ lừ mắt lập tức đi chỗ khác chơi. Thực ra, tụi nó đâu có chết nhát nhưng mọt làm sao dám nhằn cứt sắt? Giỡn mặt với bố của hai đặc công Rừng sác với ông già của thiếu tá công an thì chỉ có mờ đời!

Dù theo thời gian, tay nghề tinh thông, khách khứa nhiều lên, quán được cơi nới và có tiếng nhưng xem ra nơi ông ngồi, cái vị trí đắc địa kia trong quán vẫn vô cùng ý nghĩa với quán Năm Sùi. Vợ Năm vẫn bảo: với ông thì nhà con cứ là“ sống tết, chết giỗ “. Đời con cha mẹ mất sớm, xin lấy ông làm ngoại cho cái Hĩm, thằng Bò….Nghe con bé nói, lòng ông mềm nẫu vì nó đã nói trúng cái tình đời trong ông bởi ông vốn là người của đường đất, của những bươn chải nhốn nháo pha những bụi bặm và dăm câu chửi thề vô định. Đời ông, từ lúc lọt lòng mẹ đã đẻ rơi trên nền đất phèn nhiễm mặn. Tuổi thơ lê la với đọt chà là, nhánh đước vùng sâu. Lớn lên lạc thảo theo thầy làm lơ xe bươn bả khắp lục tỉnh Nam Kỳ. Những tưởng quãng đời đi ở làm mướn cho chủ đất sẽ đổi đời và đôi chân sẽ trụ lại. Nhưng cái phần số của ông nó cứ buộc đời phải trải theo những cung đường nên mới xảy ra cái sự cố không chủ tâm đập mà lại chết người năm nọ. Buồng phổi nếu có ngăn cất giữ chắc thu lượm dễ đến hàng tấn bụi đường đời. Cuộc đời vốn dĩ thế nên mọi sự tù túng, định chế với ông lão đều như cực hình…

         

         

Cái số Năm Sùi đến kỳ gặp và phất lên. Nói cái số cho đúng bởi gã không buôn thuyền, bán bè, không đong đầy bán vơi không thớ lợ, lươn lẹo mà chỉ có phở và phở! Với gã chỉ là tiếng dao ký cốc, lò lửa bập bùng cùng các thuật ngữ chín, tái, nạm gầu, xé phay… muôn thuở. Giống như nhiều ông hàng phở khác, trang phục của Năm Sùi là quần soóc lửng với cái áo bo -lu- rông bó đít kiểu Đông Đức, đầu trần, chân đất, người to ngang như trâu nan nhưng di chuyển lanh lẹ như báo gấm.

         

Vẫn như vài ông chủ quán khác, Năm Sùi hay cười và có tật bông lơn. Cái mặt rỗ cả đấu mè không khắp vậy mà mỗi khi cười ra thớ ra vùng, cánh mũi hơi hỉnh lên thành thử đâm ra có duyên, rõ ra típ rỗ mà rỗ hoa, đen mà giòn. Cái khoản bông lơn thì Năm hơi ẩu. Gã bụm tay vỗ đít hết thảy chị em bưng phở. Gã thanh minh rằng cái tay cầm hành, cầm hẹ nhiều hay sinh mỏi. Mà mấy con nhỏ bưng phở cứ túng tẩy, cái mông riêu lên nom mắc ghét nên không vỗ không được. Mỗi lần như vậy dòm cái tai cô giúp việc đỏ lựng và đôi tay nhuốm mỡ của họ ngượng ngùng sang số (sửa quần) là vợ Năm sôi máu. Mẹ kiếp! vẫn biết thằng cha mũi cụp nhọn sân thì gái nào moi nổi của nhưng mà ngứa mắt lắm. Chén bát quăng qua quật lại đã từng. Có thằng cha thầy bói vườn muốn kiếm tô phở chùa dúi cho vợ Năm cái bài bói: Muốn phát tài thì hai mệnh ông bà vốn tương khắc phải chồng trên (nhà) vợ phận dưới (bếp). Cái kế ly gián đã trúng kênh duy tâm của vợ Năm Sùi. Thế nhưng duy tâm thì hẳn nhưng Thị cũng rắp tâm kén thuê toàn các cô kém bề nhan sắc cho lão ấy bơn bớt đi. Năm Sùi biết tỏng. Gã cười ruồi: Quán quay hướng đông, buổi sáng, nắng mai chiếu xiên, chị em mình chấp chới qua lại, quần đồ bộ mỏng tang thế kia… Xà! cơn cớ này thì xấu đẹp mà ăn nhằm gì??? Đời thằng Sùi này chỉ toàn nhìn… xuống chớ mấy khi nhìn lên? Ơ hơ! Đã bảo

 văn công nghệ thức khuya dậy sớm 

mà lại…

Duy có điều hơi kẹt là ông lão Vị ngồi như ông Địa nơi góc nhà ngay cạnh chỗ khuất Năm Sùi hay bốc hốt chị em. Đành là chuyện đàn ông cả. Xem ra chuyện thả dê của Sùi còn thua ông cụ xưa hàng trăm bậc nhưng múa rìu qua mắt thợ hoài đâu được!?

         

Như đã nói, số Năm Sùi có của. Chả là một số bà con thường cắm quán. tô phở chả bao nhiêu nhưng cộng dồn cũng ra vấn đề. Thêm nữa, một số người thi thoảng xin vay, mượn đỡ. Ấy là cái ngày xưa bao cấp, đất đai còn hoang hóa nhiều rẻ như cho, đã có ai mua đi bán lại. Người ta mang cả bằng khoán đến cầm rồi gán đứt cho Năm Sùi.Ngày ấy nói là gã ‘bị’ cầm ruộng, vưòn cũng đúng bởi dân quê có còn gì thanh toán ngoài ruộng vườn. Chậc! thôi thì cứ sang tên cắm chà, gây dừa nước để đó ngó chơi chứ đất cát xứ này mà canh tác nỗi gỉ? Vậy mà chỉ vài năm, gã bán phở ngụ cư vụt trở thành ông… chúa đất!

         

Giàu lên, Năm Sùi không bưng phở nữa. Mọi việc nhất nhất có người làm công. Gã chỉ còn vai trò quản lý. Mà cũng không chỉ có Năm Sùi giàu lên, mọi người xung quanh ai cũng khá lên sau cái đận mở cửa bước vào kinh tế thị trường. Với phở, bên tai Năm nghe khá nhiều ý kiến. Từ chuyện sao không nâng cấp phở, sao không cơi nới quán cho bề thế, trương cái bảng hiệu chữ nghĩa vi tính hóa cho xứng danh… vân vân và vân vân. Ngay cái chuyện tại sao quán phở có ông lão ngồi mút mát suốt sáng cũng có người đặt vấn đề góp ý.

                                                         

OOo

         

Khi nghe chồng nói lại những góp ý của khách, vợ Năm Sùi giãy nảy:

         

-Không được! Ông cụ là phúc, là lộc của nhà mình. Không thể thay đổi! dù có bước vào thế kỷ 30 cũng mặc chứ đường nói là thị trường với thị đoản. Này bố nó! không có ông cụ liệu mình có chỗ mà đặt bàn thờ cúng ông bà chưa chứ đừng nói…

         

Năm Sùi đấu dịu:

         

- Mẹ nó đừng gắt như mắm thế. Tôi chỉ định bảo cụ dùng bữa nhanh nhanh lên thôi!

         

- Không được là không được. Một đời người già, hai đời con trẻ. Các cụ già hay tự ái lắm. Bố nó lại làm hỏng hết việc.

         

- Bà là đồ âm lịch! Xã hội đi lên ầm ầm. Nhà mình cũng phải thế thời thời phải thế. Kệ xác tôi. Tôi bảo mai nói nhắc ông cụ là phải nói…

         

Mắt vợ Năm Sùi đã long lên:

         

- Ông mới là đồ có mới nới cũ. Này, tôi nói cho mà biết: chưa kể chuyện ơn nghĩa ân tình mà chỉ xét thuần túy: ông cụ là khách. Mà khách hàng thì…. Này, tôi còn bảo cho anh biết ý đồ anh muốn ông cụ biến cho dễ ôm dễ vuốt mấy con âm binh kia chớ gì. Này! có động nấng thì cũng phải ra ngoài! ra ngoài cái quán, cái nhà này! xớ rớiở đây có ngày cả lũ ăn dao thái phở! Hừ! con này nói mà không nghe cứ là lành làm gáo, vỡ làm muôi, lôi thôi đất cát…

         

Thế nhưng, chẳng chờ Năm Sùi phải đo đẳn hay lựa lời, tự nhiên ông lão Vị không đến quán phở nữa. Sáng sáng, người ta thấy ông lão ngồi mãi quán cà phê bên này đường, đôi mắt chậm chạp, u buồn ngó ngang sang quán phở. Mặt trời lên chừng con sào, ông đu người đứng dậy nặng nề quay lưng bỏ lại ly cà phê sữa đục lờ xám nghét.

         

Rồi, ông lão cũng không ra quán cà phê nữa. Nghe đâu con cháu trên thành phố đã thuyết phục được ông đi đổi gió. Và, người ta quên phứt ông lão. Cái bàn gỗ ông thường ngồi được dẹp đi nhường chỗ cho những cái bàn ghế rộng, cái nào cái nấy vuông vắn, nhẵn bóng rồi quạt tường, đèn chùm, khăn giấy. Khách có vẻ đông hơn dù giá một tô phở có được đẩy lên chút đỉnh.

Mọi việc ở cái thị trấn ven đường cứ trôi đi êm ả. Quán quay hướng đông, nắng vẫn chiếu xiên bốn mùa cho đến một ngày kia, chiếc ô tô đời mới đỗ xịch trước quán phở. Người tài xế còn trẻ, ăn mặc lịch sự, tỏ ra nghiêm trang trước cung cách xun xoe quá đáng của Năm Sùi trước khách sộp.

         

  

 -Ông là Năm Sùi?

  

 - Đúng ạ!

  

 - Ông bác tôi dặn là cụ Vị sắp…, cụ muốn ăn một tô phở…

Năm Sùi cuống quýt:

 -Phiền anh chờ cho. Tôi muốn mua biếu cụ thêm ít cam nho…

- Không cần dài dòng. Nhanh lên thưa ông. Cụ nhà tôi…

         

Như hiểu hết vấn đề, vợ Năm Sùi lao vào kho xép. Chỉ trong giây lát, thị mang ra chiếc bàn độc mộc nhỏ bám đầy mạng nhện, cái ghế nửa xúp, nửa đẩu, giật cái cạp lồng nhiều ngăn giúi cho chồng, tay chỉ vào bếp phở. Năm Sùi cũng hiểu tắp lự. Gã thao tác như xiếc. Chỉ sau vài phút, cả hai vợ chồng đã lọt thỏm trong chiếc xe hơi. Chiếc xe xả còi trong vắt uốn điệu nghệ dời thị trấn trước vài anh mắt tò mò dõi theo.

         

Cả cái bệnh viện tư cao cấp này ngạc nhiên bởi cái sự xuất hiện đường đột của băng Năm Sùi; Vợ: áo quần vò vặn, lưng chữ cụ, miệng chữ ớ mắt hết nhìn ngang lại nhìn dọc cái hành lang sạch láng, chân nhon nhón dẻo như múa. Chồng: soóc lửng khâu thêm dải treo, áo khuy trên lồng nhầm khuyết dưới, đầu đinh, tóc hai màu, mắt nhìn lơ lửng, cặp chân vòng kiềng bươn bả rõ ra nặng nề với chiếc bàn, cái ghế và giỏ đệm, cạp lồng, bình thủy…. Nhìn hai vợ chồng gã hàng phở đi giữa những rèm bâu ngoại nhập, cửa kính đổi màu loang loáng, giữa tiếng sè sè của máy điều hòa, mùi nong não, ê te thoang thoảng thế kia có người liên tưởng đến đoạn đem diễn viên nghiệp dư

lên cả sân khấu hoàng gia biểu diễn.

         

Mặc!

         

Khi cánh cửa phòng bệnh mở ra. Dù trong phòng hơi tối nhưng vợ chồng Năm Sùi vẫn nhận ra ngay ông cụ Vị nằm giữa giường trên người đeo gài đủ thứ dây rợ nối vào mấy cái ti vi xung quanh. Đầu giường, đuôi giường, bên cạnh nào cam sành, táo tàu, nho Mỹ… ê hề.

         

Mặc tất cả người nhà, khách khứa, vợ Năm Sùi hịt lên một cái, hai tay bưng mặt và giọng nói lạc khan, nước mắt ứa rề rề : Ông ơi! Con đây, vợ Sùi đây, Hu Hu!!!

         

Thế nhưng hình như lão Vị đang mê man. Bác sĩ bảo đông quá. Có lẽ đàn ông nên ra ngoài bớt đi. Còn lại vợ Sùi cùng hai người con dâu. Nghe ông lão cựa mình rung vai thế kia dám là nằm lâu mỏi khớp. Vợ Năm nhào tới toan xếp bớt dây nhợ, lật giùm cụ tấm lưng, tiện tay vỗ táp mé thăn xuôi, cần thì bấm hai cái huyệt hõm vai, cà sơ nơi thái dương là khỏe liền. Nghĩ sao toan làm vậy nhưng hai bà con dâu cản gấp. Họ nhìn vợ Sùi đã như nhìn phạm nhan yêu quái lại còn nhăn mũi chảnh mặt. Vợ Sùi bị cản ngang hầm một, ngó hai khuôn mặt đang chảnh thì hầm mười . Mụ muốn chan như chan phở vào cái văn minh dở hơi của cái phường giàu sổi:”

Đây 

muốn nói cho mà biết: lúc đây chửa con so lão Vị này bị con ngựa trở chứng đá bong gân khớp. Lão từng nằm dưới nhờ

 đây 

leo lên lưng đạp ray làm phép tới ba lần mong mau khỏi. Nói cho mà biết: ổng nằm nghiêng bên dưới mà mắt lá cứ liếc xiên he hé. Hỏi đỡ chưa chú? Đáp rằng thế này thì đỡ lắm. Vợ Sùi này cúi mặt:”

 Nếu chú thấy thế nào thì đỡ, con cho chú tự nhiên. Con chịu được

!”. Câu nói ngày ấy đã giật lão Vị đây về với vị trí bề trên. Nhìn thẳng lại, lão đổi giọng e hèm: Mi bầu bì con so mà xài đồ lót chật chội thế e không có lợi đâu vợ Năm  Sùi à!. Ấy là nghĩ vậy, là hồi tưởng vậy để cho rõ cái thử thách chú cháu rất chi thân tình mà đàng hoàng xưa nay chớ đem những chuyện ấy có xỉa xói nói hai vị dâu con này cũng phí mồm. Vợ Sùi len lén bước ra phía chồng và vô tình, họ nghe hết những dự tính của đám con cháu ông lão. Từ phía ấy, cuộc giao ban nội tộc đang vào hồi gút lại:

         

- Theo như ý em, chúng ta tổ chức chuyển ông cụ sang Pháp. Bên ấy bệnh viện, thiết bị y tế đầy đủ…

         

-  Pháp không bằng Nhật. Khoa học của Nhật thì khỏi nói. Hơn nữa họ cũng người Á đông, cùng máu đỏ da vàng.

- Hay là chúng mình tìm đón thầy thuốc cả Nhật, cả Pháp sang? Tiềm lực kinh tế anh em mình thừa sức lo cho bố cơ mà.

Công cuộc đi Tây, đi Nhật của ông lão chưa ngã ngũ thì kìa ông lão lại cựa mình tỉnh dậy và lên tiếng gọi. Mấy chục bước chân rầm rập chạy tới bên giường.

Lão Vị mở mắt ngơ ngác một hồi. Lão nhìn khắp lượt các chân dung đang cúi xuống. Cái nhìn dừng lại ở khuôn mặt già chát có cặp môi dày:

         

-A, mẹ cái hĩm Sùi hả? Lại đây! Lại đây! Đừng khóc con… Mày lên… cho tao…tao muốn phở!

         

-Vâng, vâng! -Giọng thị đột gọn hơ: kìa bố nó dọn bàn nhanh lên! Ông ơi! con mang cả cái bàn của ông vẫn ngồi ngày trước. Vâng! cả cái ghế. Dạ thưa… bữa nay ông dùng gì? Chín, tái, nạm, gầu, xí quách…?

         

-Ồ… Cảm ơn vợ chồng Sùi! tuyệt! tuyệt…

         

Vừa biểu diễn phi dao xắt phở, vợ Năm Sùi nói với ông lão:

         

-Ông phải chịu khó ăn cho con. Từ nay bao nhiêu phở con cũng lo cho ông. Có rức mình rức mẩy mé nào ông cứ dạy. Ba cái vụ bấm huyệt với giác hơi con vẫn rành sáu câu. Ông nhỉ? ngày xưa ông chỉ chỗ nào đau, con chỉ đạp vài ba nhát làm phép là hết liền ấy mừ… Này ông ơi! Chiều chiều, ông với nhà con ra cầu Cảng buông câu. Ối giời! cá Ngát còn khối ra đấy! con nào con nấy to cỡ cổ tay xắp lên. Thằng chồng nhà con mà đi với ông thì con khỏi lo nó câu cá đầu đen mỏ đỏ. Con thì con cứ nói thẳng:” Đàn ông các người Câu mà không câu! Không câu lại bảo câu cứ rối nhằng như dây sáp câu Lục của cái bác Quốc Vận hôm rồi mang ra huấn luyện tranh thủ ở quán nhà tui! Chán! Đi câu có gió độc đâu mà về nhà ông nào cũng xức dầu cù là? Xạo quá ông nhỉ? Bọn họ xức dầu cho mất mùi són phân - Ấy con lại nhịu rồi! Phấn son ! Vâng phấn son! Con nói thật! con chỉ tin có mỗi ông! Ông nhớ về sớm! con bảo lão ấy sắp sẵn cần câu cho ông…

         

Kìa! sao lại như thế? Sao lạ như thế? Sắc diện ông cụ tự nhiên hồng lên và mỗi tiếng, mỗi lời lộn xộn phát ra từ cái miệng tía lia của Hĩm Sùi thì trên trán ông lão, một nếp nhăn lại giãn ra.

         

Đến nước này, những người thân của ông cụ không ai bảo ai đều đưa mắt nhìn nhau. Lạ chưa, bao nhiêu ngày vợ lớn, vợ nhỏ, con gái con trai, dâu rể, cháu chắt dỗ dành, năn nỉ với sơn hào, hải vị mà ông cụ có ăn, có cười cho đâu. Thậm chí con, cháu từ nước ngoài bay về vòng tay thưa gửi cung kính mà ông cũng chỉ ừ hữ. Thế mà vợ chồng cái ông mặt  rỗ, mũi cụp, mỏ hô, môi dà,y chân vòng kiềng này làm cứ như là... là...thuốc tiên!

Có lẽ,Vợ Năm Sùi đã hiểu biết hết, thị cung kính vòng tay:

-Thưa bà Nhất! Thưa bà Nhì và thưa toàn thể cơ quan đoàn thể. Ông cụ với nhà con xưa nay… Vâng, con nói khí không phải chứ dạo trước một ngày hai bốn tiếng, cụ ở bên con phân nửa. Thương lắm! quí lắm. Xin các bác đừng bắt ông cụ sang Tây, sang Tàu làm gì. Cái bệnh ông là bệnh Á! Á lờ…Ăn..! Vâng! Từ mai, gia đình cứ giao cụ sang bên con chứ cứ thế này thì… vâng! Gia đình mình sẵn xe hơi, tiện điện thoại, cụ mà chê cơm thèm phở thì có sẵn rồi. Cụ muốn bề chê phở..., em cũng bấm điện thoại ẻn một cái. Chả có gì mà lo.

         

Những người thân của ông lão Vị lại đưa mắt nhìn nhau. Họ thấy lạ. Lạ bởi một vấn đề trọng đại như thế sao cái bà sồn sồn này phát biểu gọn hơ như thế? Phải bàn bạc! phải thỉnh thị ý kiến, rồi quyết nghị mức độ đóng góp, ai tiền trạm, ai vòng trong, vòng ngoài….chán ra chứ!

         

Duy có Năm Sùi, gã phớn phở ra mặt! ghê chưa! đúng là đời giàu vì bạn, sang vì vợ. Hay! Con mẹ tưởng âm lịch mút mùa mà nói được những lời khôn có ngạnh như thế. Gã vội kéo vợ ra một góc vọt khen:

- Mẹ nó suya lắm! Mình xin nhận cụ về, vừa được tiếng vừa có thể được thêm miếng đất. Đất cụ bên cạnh quán mênh mông thế, biết đâu lúc sắp đi cụ lại di chúc cho mình chút đỉnh thì tuyệt. Tôi quyết rồi! Đả thông cho bọn trẻ – tụi con Hĩm thằng Bò ấy từ nay đối xử phải đâu ra đó. Ông cụ thuộc hàng quí hiếm! quí hiếm!

Mắt mợ Hĩm Sùi lại long lên, y nghiến răng sèo trẹo:

- Này! ông bỏ ngay cái suy nghĩ con buôn đi! Từ giờ phút này tôi là tôi cấm ông phát ngôn linh tinh, nếu không cứ là lành làm gáo, vỡ làm muôi, lôi thôi là đất cát…

NHỮ

Lão Ngư dân ghi nhanh về ngày hôm nay..thứ 2 7/11 Sáng sớm ..lén dậy "xin phép" vợ " em ơi 2 mẹ con ngủ tiếp nhé, anh đi câu 2 h rồi về...". Vợ nó quay 1 phát vào tường không thèm nhìn mình các bác ạ, các bác tự hiểu mặt mình lúc đó thế nào rồi đấy.
Thôi kệ...Bực mình rồi tôi đi (đi tới tối về). Kế hoạch hôm nay là câu tay Vườn Mận....VƯỜN MẬN thẳng tiến...chạy 1 đoạn đường

      dài lê thê mưa to thật toooo mới tới....a!!!!!!!! ĐâY Rồi ....em nó… Đây rồi...Vườn Mận. Nhưng sao cái cửa rào vẫn đóng thế này.

Mình:

- Em gái ơi mở cửa cho anh....Zoooo với nào
Vườn Mận service center , giọng thằng cha giữ xe:
- Nghỉ rồi ...Trưa lại câu
Mình xin:
Thôi ông anh mở cửa cho em vào câu, em đi đường xa lắm từ Long An tới đây câu đó

Vườn Mận service center :
KHÔNG!
Móc điện thoại ra gọi hỏi bác Cường số phone bà chủ hồ, nghĩ  lại quê quá... về luôn.
Trên đường về qua hồ Thanh Nhàn (sáng nay tự nhiên nhiều truyện chạy vô Thanh Nhàn xem tình hình kiếm chỗ cho máy bác chống lóc..bị đụng bể cái đèn xi nhan)......tiếp
Chẳng lẽ lại về sớm thế này??? thôi vô luôn..đi kiếm trùn khắp không có..thôi lấy mồi phi ra câu chơi..Ngồi từ 8h30 tới 10h30 giựt hụt 3 lần, chim cắn đứt dây 1 lần. Nhưng 3 phút lại có người lên 1 con..hồ thả Tra, Chim, Trê, Mùi, phi, Lóc..Hôm nay hồ lên Tra với Chim nhiều...lên liên tục.
Đang mơ có ngày mấy anh em mình được như "mấy anh ấy". "....anh ơi Gấu Mẹ gọi kìa.."
Một giọng nói ngọt như mía lùi các bác ơi" Chồng về chưa?". ..."em đợi xíu anh về ngay.".Thôi về ngay...hehe...sao hôm nay Gấu nó lại thay đổi nhanh thế nhỉ????
Viết đến đây thấy dài quá...Nhưng các bác cho em kể lể 1 tý... Cái  nỗi buồn của em hôm nay.
Về tới nơi....cái mặt gấu vẫn cứ hằm hằm...thế mới lạ. Hôm nay trời mưa có bất thường đâu??? sao vợ mình lại....thế này nhỉ???
Thôi kệ...chắc hôm nay đi không báo trước..lại đi đâu tuần...:" Vợ ơi ...anh về rồi....."....ơ lạ nhỉ cái mặt vẫn thế...bực mình rồi nhé.. xách cần đi tiếp....
Trong đầu suy nghĩ : " sao hôm nay đạp phải...hay sao mà xui thế nhỉ? Đã vậy, xui nơi nào thì quay lại nơi ấy: CHIẾN".
Thế là Vườn Mận thẳng tiến. Kết quả không ngoài dự định: Một giỏ đầy Phi, Điêu Hồng, Chép…Xảy nhiều trong đó có 1 em chép cái vẩy nó To bằng ngón cái các bác ah.

Vô giận thì cứ Giận, còn anh đã phục thù được VƯỜN MẬN....

Lão Ngư Dân

------------------------------

Còn đây là nỗi khổ của

dragon blue

Như đã hên cùng anh em nhóm Mê câu chủ Nhật chiến ở Hồ Tràm từ 15h -đến 19h ! 
Hôm qua thứ 7 ! đi Bình Dương đến 21h15 về tới nhà ! vừa bước vào thì " Khủng Long " mẹ và " Khủng long" con (3.5 tuổi) ngồi ngay lối vào! (Khủng Long là danh từ mà các bác hay dù gọi gấu nhà các bác ! vì nhà em, gấu nhà em quá khủng nên em gọi là khủng long)
Khủng long con chạy ra chóng nạnh phán 1 câu: " pa nha! đi câu hoài ! tới giờ này mới về ! " 
(oh my god ! con nhỏ này nuôi nó mà nó phản bội mình! nhớ trước khi đi mua cho bánh và kẹo rồi mà !)
Khủng long mẹ : " Nghe con nói không ! con nhà không cho ăn ! vợ nhà không chở đi chơi ! cá với cá ! nào là sanwich ! phô mai ! cơm dừa .... ! 
Khủng long con ngắt ngang: pa ơi lên tắm đi không bệnh đó ! 
Rồi nó quắt quắt nói nhỏ : mai pa đi câu nữa không ??? ( con nhỏ này ý gì đây) mai pa đi cho con đi với nghe! 
( ý chà cục phô mai và bịch bánh có hiệu quả ta ) 
Khủng long mẹ : Hay quá ha ! cha con mày đi ra hồ câu luôn đi ! 
Khủng long con : đi không pa ?!!! (con nhỏ này nó chế xăng dô kìa ) 
thôi lên ngủ đi con - mai sáng anh không đi câu nữa đâu ! 
khủng long mẹ : nói là phải giử lời nha! (heehehehe dính kế ! sáng không đi trưa mình mới đi mà!)

Sáng chủ nhật dậy sớm chay mua cháo và mua bún bò cho 2 con khủng long ăn (được cộng 1 điểm)! khi mua còn nhớ chạy dô lưa cục thịt giò ngon nhất cho Khủng long mẹ ăn! về tới nhà đổ ra ! em em ! dây ăn sáng ! thêm 1điểm + ( í chà..... nó nhìn mình với anh mắt nghi ngờ kìa ! huuhhu). Tranh thủ khung long đang ăn ! xách 2 con cá trê ( được anh huyga tặng ) chạy về cho má vợ ! heheheh thêm 1điểm+!
Ăn sang xong! chơi với con ! đưa con ngủ ! tranh thủ ngủ 1 tí có sức chiều đi câu ! hihhiih!
10h roi ! chay xuong keu khủng long mẹ lên ngủ ! em ngủ đi em trưa nay còn đi làm ! trưa anh đưa em đi làm cho ! 
khủng long mẹ vừa lên ngủ ! tranh thủ  làm lại mấy cái thẻo ( hôm qua bị nổ thẻo ) làm 1 ít cơm dừa ! chạy mua bịch trùn! chuẩn bị OK ! 
Gần 12 ! dọn cơm ! chạy kêu khủng long mẹ và con dậy ăn cơm ! 
13h chở khủng long đi làm! hehhehe ! 
khủng long mẹ bước ra ! đưa người ta đi làm sao mà đem cầu câu theo hả??? 
- Thì anh chở em đi làm rồi anh đi 1 tí thôi ah!!
- Hừ ! tranh thủ về sớm nha chưa! - khủng long mẹ phán ! thôi thì ậm ừ cho qua chuyện ! 
Dong xe chạy 1 cái vèo tới COOP - Đinh Tiên Hoàng - em đi làm nha! chiều anh đón! hehehe 
bật máy ! alo lairaiUSA ! em ở đâu ! qua Hồ tràm gấp nhá ! Ok hẹn ở cầu Nguyễn Văn Cừ !
tiếp theo ! a lố Thich-thì-câu ! ố là ! hồ tràm sao rồi chú ! 
Giọng yếu xìu ! chán quá ! toàn rôi phi 2 ngón tay ! đi chổ khác ! ok thôi thì A-Xây Thanh Đa! Pôn báo cho LaiRai USA ! chạy tốc hành qua A-xây ! móc điện thoại hỏi anh Nhung liền " anh Nhung chỉ giúp em ổ đánh tra ở A-xây "
Anh Nhung chỉ liền ! 
Anh nhung phán thêm 1 câu " Ông A-xây là 1 cao thủ câu cá ! vậy muốn kéo cá ổng thì cũng không phải đùa đâu nha! " ý trời seo mà lạnh quá ! 
Chạy dô tới nơi! thằng bé chạy ra tươi cười giữa xe đẩy xe giúp !!! nói liền: 
- Anh mới tới lần đầu ! giá sao em !
- 15k/1h anh ! anh quăng cầu thì em ghi h ! - ( hihihihi good)
Nó nói thêm : anh câu cá gì !?! - nó nói tiếp:  nếu anh cá tra thì câu ở kia ổ cá tra! quăng sát bờ cỏ giữa hồ câu bằng cám ! anh muốn câu chép thì ... ngắt ngang ! cám ơn nha! anh câu tra thôi em ! 
( thằng nhỏ này tốt ta! chỉ như anh Nhung chỉ mình ) Tui xách cần chạy qua liền ! Trên đường đi gặp 1 anh đi ra; hỏi có cá không anh? - không con nào! ( giọng buồn thui )
rồi thêm 1 anh nữa ! 1 anh nữa ! ( trời ơi ! nghê quá ) ! 
Thấy mấy tiền bối đang câu! chú cá lên chưa chú! - chưa em ơi ! ( ăc ặc ... chít rùi )
15 phút sau Lairai USA tới ! 15 phút nữa Thich-thi câu và thằng bạn tới ! 4 mạng
mồi thì có đủ ! cơm dừa ! cám chuối ! cám phô mai ! trùn quắn ! dế ! nhọng ong ! trùng mủ ! Ruột vịt ! khí thề bừng bừng ( quá tự tin mồi cơm dừa mà ) ! 

Người ta không có cá mình có cá mới PRO! nhìn qua bên kìa ! thấy một tiền bối ! quăng cái nào như cái đó ! 1 chổ 1! ( cao thủ ! cá chưa có - mình sao ta )
Í chà 14h xuống cần ! roi 15h -16h -17h im re bà rè ! không có rô phi nhịp nữa ! 
Alo cho Anh Nhung ! " anh ơi Lóc hết rồi anh ! " - cá ăn từ 17h den 18h đó em, mà em phải quăng sát cỏ nha! hay là quăng xa rồi kéo dô sát !! Mình quay qua báo anh em ! chuẩn bị mồi tốt nhất ! cá sắp ăn ! 
Mồi quăng vèo vèo ! lên cỏ mất thẻo ! cuối cùng cũng sát bờ ! ý chà hi vong rồi ! 15phut! 30 phút trôi qua! im re bà rè! 
Này ông thích-thí-câu ! đi chổ khác đi ! cả hồ chả ai lên con nào câu chán quá ! Rút cần chạy liền! thôi thì giản hạn câu tính kg luôn ! chạy ra bánh xe hết hơi - xui gì mà xui dữ! 
18h - chạy qua Biền Lá - cái hồ như cái lổ mũi ! câu tay! thì OK ! nhưng 40k/1kg chua quá! biến ngay ! 
Chạy qua Đức Mập ! -ông chủ : 18h nghĩ rồi em ơi ! 
Chạy qua TRUNG NGUYÊN! tối om ! không 1 người! - chia tay Lairai voi Thich-thich cau ở đây!  Gọi típ: alo ! anh nhung ơi ! A-xay lóc rồi còn chỗ nào không anh ! 
- Em chạy qua kỳ anh đó ! 
Đua liền dô ! ông giử xe : đi trể quá vậy ! dô gập phục vu hỏi ! em hồ nào câu cá tra em ! 
hồ này câu tôm ! hồ này Rô đầu vuông ! hồn này cá chép! - phuc vụ nói 
( đang điên - thằng này bị điếc hay sao ta ! hỏi cá tra nó chỉ đâu đâu ! )
- Có ca tra không em ??!??! 
- Có mà còn sót đó anh ! qua hồ chép kia câu ! 1 suat 4h 80k anh ! 
- em ơi anh câu den 8h thôi ( còn đón khủng long mẹ ) cho anh câu 2 cầu nha! mà cá tra còn sót là khoảng bao nhiêu con em !?
- da câu 1 cần là 1 suất anh ! không là 1h 30k ! không chia ra! cá tra còn sót 1 vài con! 
( Ý chang Từ Hải chết đứng ! 1 hồ tao còn không câu được ! 1 vài con có nước chít điện ! ẹc ẹc )
em có bán mồi cá chép hôn anh câu chép luôn ! 
- không có anh ơi! - 1 câu xanh rờn ! 
Lủi thủi đi ra ! (buồn hơn con chuồn chuồn ) Ra gập ông bảo vệ :

 - bác biết chổ nào câu cá tra không !!
- Bên lã vong đó! chạy ra đường rẽ trái ! 
Hi vọng ! chay tiếp! dâm đầu vào lã vong !

- Anh ơi 19h nghĩ rồi anh ! anh câu 1h tốn 1 suất đó anh !1 suất 4h ! 80k ! – giọng em gái dễ thương !
- thôi em cho anh câu 3 cần nha - 2 máy 1 tay ! anh đóng 80k luôn ! anh đang bị lóc tội anh lém em ! 
- 3 cần thì 240 anh ơi! ( ẹc ẹc ! chết đứng lần 2!) thứ 7 anh quay lại bên em câu giải nè anh ! 
Mình ậm ừ chui ra! buồn ơi là buồn ! chạy vòng vòng thanh da tìm chổ tá túc ! chỉ được phán 1 câu! " nghỉ rồi anh ơi" 
19h chạy về Đinh Tiên Hoàng ngồi chờ đến 21h đón khủng long luôn ! đói quá ăn tô bún bò lề đường ! nhìn con bé rửa cái tô rẹt rẹt ! má ơi gớm quá! thôi kệ ăn đi không thì chết liền, ăn thì bệnh từ từ mới chết ! quất mày luôn! 
- em em cho anh 1 ít rau muống em ! kéo rau ra nó bỏ dô cái thau rửa chén rửa , chô lên đĩa ! anh rau nè anh ! 
ặc ăc ! người ăn hay heo ăn nèo trời ( nói trong bụng)
lúc đó cái mặt đơ như cây cơ! giả bộ ! móc điện thoại : alo ! ok ok ! anh đến liền .... 
em tính tiền ! trả tiền không ăn gì ! biến liền ! 
Chay qua COOP - Đinh Tiên Hoàng chờ khủng long luôn ! 
20h trời mưa tầm tả ! ướt như con chuột ! đúng là đen như cái mõn chó mực ! 
vừa lạnh vừa đói ! 21h15 khủng long ra giống như chiến thắng 30-4! đua về nhà gấp ! 
Vừa tới nhà ! là giọng Khủng Long " đi câu vậy đó ! người không ra con người! giống con quỷ ! da thì đen thui! áo quần ướt nhẹp ! mặt mài thì tím gắt ! ko biết ăn uống gì hết ! .....v...v." -khủng long gầm.
Mình lủi thủi đi tắm! ăn cơm! vừa bước vào phòng thì " đi chổ khác cho người ta ngủ! - Ra ôm cá mà ngủ" 
huuhhuhuhu ! cái này mới đúng là lóc toàn tập ! Lóc cá ( không có cá)! lóc hồ (không có hồ câu)  lóc thực (ko có gì ăn) ! rồi ngủ cũng lóc luôn!

mấy bác chia buồn giúp em nha! huhuuhuh

Dưới Ðồng Sâu

Câu Cá



Rủ nhau đi cấy đi cày,


Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.


Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,


Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.


Hai tháng rồi, ruộng cấy xong, lúa đang đứng cái và gần có đòng đòng. Nhà nông rảnh việc. Mùa câu kéo bắt đầu, sau những đám mưa dầm.


Nghề câu của dân quê không giống sự tiêu khiển nhàn nhã của dân thị thành mà thỉnh thoảng người ta cũng thấy ngồi buông câu ở bờ sông để… chờ bữa cơm tối, hay để “giết” một sáng chủ nhật! Ở đồng quê, nó là cả một nghệ thuật và cả một công việc đổ mồ hôi.


Phải chịu thức gần phờ râu mới biết giống cá đồng chỉ thèm đớp tới mồi câu vào khoảng đầu hôm đến canh một và từ canh ba đến sáng!


Phải năm cơm bảy cháo mới rõ cá lóc có tật ăn “mồi chạy” bằng nhái sống, cá trê ăn bãm bằng mồi cắt[1]và hơi ngầm. Có những đêm trời lạnh tái môi mà phải cởi trần truồng nhảy xuống ruộng, tay đập muỗi, tay vét rong, gặp môn, nghể không từ, đụng rắn, đỉa chẳng sợ… để dọn “luồng” nghĩa là dẹp một khoảng trống trước khi cắm câu!


Ðó là nói chuyện ruộng nhà, chớ gặp lúc ruộng mình khan cá, mò qua bên đất ngưòi ta thì còn phải chịu biết bao nhiêu là khổ sở hơn nữa.


Tôi chưa từng làm thằng ăn trộm, nhưng tôi chắc đi câu lén không sướng hơn thằng ăn trộm chút nào.


Ừ, thì chim trời cá nước, ai bắt được là ăn, tại sao người ta hay cự nự?


Có hai lẽ. Lẽ thứ nhứt là ai có của cũng muốn để hưởng một mình, dầu chưa có biết hưởng được hay không.


Lẽ thứ hai là kẻ câu lén hay làm chết lúa.


Thằng ăn trộm đi ngã sau vường không khi nào biết tiếc mấy ngọn rau, ngọn cải, không khi nào có ý bước tránh cho khỏi giẫm chưn lên đám đậu, cây cà.


Thì thằng đi câu lén có khác gì? Cứ chỗ nào lúa cao là đoán rằng nước sâu, gặp chỗ nào kín đáo thì dọn luồng, dầu phải nhổ phăng đi cả chục bụi lúa cho trống trải, nó cũng không từ!


Nhưng đó là… ai kìa, chớ tôi, tôi là một kẻ từng lượm mót từ hột ngọc trời, từng cắm từ cộng lúa, có bao giờ tôi đang tay bứt cả cội nguồn.


Chẳng dám vỗ ngực xưng mình “tốt” gì hơn ai, bởi tôi cũng đã từng đi câu lén ruộng người ít lắm là vài chục lần, nhưng đến đâu tôi cũng giữ gìn phải phép lắm!


Năm ấy, nước giựt sớm, mà ruộng tôi hơi gò, nên cá rất ít.


Nghề làm ăn, đã sắm lỡ câu kéo, xuồng bộng, không lẽ đem treo lên giàn bếp… nên tôi đành làm… con vạc ăn đêm!


Một đêm nọ, lấy theo mười đường câuy, tôi đẩy xuồng, bỏ sạp dài tử tế đem nào nóp, nào bếp un, một cây giầm, một cái vợt và cây sào nạng.


Tôi tính qua “nhờ” bên điền ông Chủ Nghĩa. Ông này xưa nay đã có tiếng “oai như cọp, dữ như thần”!


Dọc theo điền ông, ban ngày thấy giăng giăng những bảng cây: “Cấm câu cá! Cấm câu cá!”


- Ậy, ông oai, ông dữ mặc ông, ông cấm thì cứ… cấm, tôi câu lén cứ việc… câu! Có rượt cống xuồng tọt về bên mình. Qua khỏi ranh thì “bà hú”… ai còn sợ gì ai?


Ỷ y như thế, tôi cứ “đường hoàng” chống xuồng qua ruộng ổng.


Thả câu xong, tôi nằm trên sạp, chờ tới giác đi thăm cá.


Ðêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh in trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng ngũ trong ánh sáng mờ mờ. gió thoảng từng hồi, từng hồi ngọn lúa cựa mình xào xạc. Tiếng giạt sành vang lên trong im lặng xa xa. Tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu, rồi nhẹ nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca.


Chưa kịp nói với các bạn rằng tôi là một cây đờn kìm và ca mùi có điệu, nhờ ở nơi sản xuất ra bản Vọng cổ đời này.


Ai đã nghe tôi nỉ non những bài ruột như “Ác ngậm non Ðoài” hay “Mỗi độ thu về” thì mới biết tại sao cả làng, các cô gái đều ngã lăn ra mà mê mệt!


Ðêm nay, tiếng gió gợi hứng, nằm một mình thanh vắng giữa đồng, lỡ mang cái bịnh tài tử, tôi trút hết nỗi “tơ tằm”:


-… Mỗi độ Thu về…


Tiếng ca ban đầu nho nhỏ, lần lần đượm vẽ mê say, đến ngang tàng, quên phứt cái “oai như cọp”, cái “dữ như thần” của ông Chủ Nghĩ.


-Ôi! Vì thương mà phải bỏ ngai vàng, vì thương mà thành chim, hoá đá, thương thì phải khổ, nhưng càng khổ lại càng thường… ơ!…”


- Ai đó! Câu lén phải không?


Bị nạt thình lình, chớp một cái, tôi ngồi dậy gọn gàng. Quơ gàu nước đổ xèo vào bếp un, rút sào nạng, tôi ra sức chống vo vo.


- Ai đó, ngừng lại! Không, tôi la lên, mấy người rình chung quanh áp lại ví đập chết bây giờ!


La mặc la, doạ mặc doạ, người ta đang chạy chết đây mà!


Xuồng tôi chống đi thoan thoát, xuồng nọ đuổi bon bon.


Thình lình nghe một cài ồ… Thôi chết rồi, xuồng đã rấn lên mô cỏ. Tôi rán sức chống. Xuồng chỉ qua được phân nửa, và lúc rút cây sào tôi nhấn mạnh, lái bị khẩm, nước ào vô rồi chìm lĩm.


Tôi điếng hồn loi ngoi tính lắc nước xuồng, lượm sào chống nữa… nhưng xuồng nọ đã tới kề!


Dưới ánh lồng đèn, hai cây giầm giơ lên cao toan nện xuống.


- Tội nghiệp! Tội nghiệp tôi, ông ơi! Tôi mới lỡ…


Một tiếng cười khì bên xuồng kia:


- Ông ở đâu đây mà ông?


Nghe nói trớ trêu, tôi nhìn lên: Ý trời đất quỷ thần ơi, rõ ràng là một cô gái với một thằng nhãi con!


Có nhục nhã cho tôi chưa, có chết được cho tôi chưa, trời nè! Phải dè… mà thôi, đã đến nông nỗi nầy còn mong gì vùng vẫy, tôi nhỏ nhẹ:


- Tội nghiệp tôi mà cô hai! Tôi mới lỡ một lần…


- Ai biết chú mầy lỡ một lần hay mười lần? Thôi, mau mau lên chống xuồng theo tôi về nhà ông Chủ.


- Trời ơi! nếu cô bắt tôi về đó, ông Chủ xiết câu tôi, tịch thâu xuồng tôi, đóng trăng tôi, tội nghiệp tôi lắm cô hai à!


- Biết vậy sao chú mầy còn qua đây câu?


- Dạ, túng, kiếm ăn chút đỉnh vậy chớ đâu có nhiều nhõi gì, cô.


- Nhiều ít không biết. Ông Chủ dặn hễ gặp ai câu lén, cứ bắt quách về cho ông.


- Như vậy chết tôi còn gì, cô hai. Cô làm nhơn làm phước tha cho tôi một phen, tôi lạy cômà!


Cô gái nín lặng một chút, rồi cười giòn:


- Ừ, lạy đi rồi tôi tha!


Thằng nhãi con, độc, lại khúc khích:


- Á ngộ, đi câu lén mà còn ca mùi cho bị bắt, bị lạy….


Cha chả, tụi nầy chơi “bứt gân” quá! Lạy nó thì nhục, bằng không, nó dẫn về ông Chủ. Rồi làng xóm hay… rồi má mình hay! Ôi, má mình hay được chắc là sầu thảm lắm.


Thôi, một liều, ba bảy cũng liều, tôi bặm môi tự an ủi: Trời tối, ai thấy mà sợ! Mình giả dại qua ải mà!


Tôi chấp tay, sửa soạn mọp xuống… nước thì…


- Ý chết, tôi, thôi! Nè, tôi hỏi thiệt, anh có phải là anh “Sáu đờn kìm” bên điền cậu Bộ không?


Tôi giật mình:


- Dạ… phải!


- Tội nghiệp dữ hôn, lên xuồng tát nước, hơ lửa cho ấm đi anh Sáu, rồi tôi nói cho mà nghe.


Tôi riu ríu vưng lời, bụng bảo dạ: “Mẹ thử, nó còn muốn làm gì đây nữa?” Tuy vậy, tôi hơi vững lòng vì giọng con nhỏ đã dịu, coi mòi dễ thương.


- Nè anh Sáu, em thấy anh một lần hồi theo Ba em qua điền cậu Bộ mua gà. Chèn ơi, anh ca mùi quá! Hồi nãy nghe thanh giọng, em cũng đoán là anh, mà tại anh chạy…


- Không, tôi có chạy đâu, tôi chống chớ!


- Qủy vật anh, đã bị bắt mà còn giễu.


Tôi thấy có mòi “sống êm biển lặng”, hỏi gặng:


- Bây giờ cô tính chở tôi đi đâu?


- Không chở đi đâu hết !


- Cảm ơn, vậy là cô tha cho tôi rồi?


Cô gái bí mật:


- Là tha ở đâu!


Tôi lại hơi lo:


- Coi kìa, bắt không bắt… mà tha cũng không tha, là làm sao?


- Thủng thẳng đã. Nè anh Sáu, bây giờ tôi nói tắt với anh một điều, là tôi tha cho anh… mà lại còn cho anh… câu nữa, nhưng…


- Nhưng… sao?


- Nhưng anh phải “mùi” cho chị em tôi nghe một bài!


- Ý chết! Người ta nghe, áp lại đón ngách, thì phen nầy chắc tôi bị lọi ống quyển!


- Anh nhát hít, lúc nãy em dọa chơi, chó Ba em không có ở nhà, mà cũng không có ai canh vùng nầy hết, chỉ có hai chị em tôi thôi!


Thằng nhỏ nãy giờ im lặng cũng “xía” vô:


- Ừ, ca đi anh Sáu! Mùi một bản nghe chơi rồi câu kéo gì thì câu!…

Một thời đã xa

Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố Dệt, nhà ở ngay cổng sau của nhà máy. Đêm đêm, tiếng thoi đưa rì rầm tưởng chừng như không bao giờ dứt đã tạo nên âm thanh hết sức đặc trưng của thành phố quê tôi. Từ lúc 7 tuổi trở về trước, tôi chỉ biết đến hai loại cá: Thứ nhất là những con cá mà chúng tôi vẫn gọi là cá “mặt nước” - đến giờ tôi vẫn thực sự chưa biết chính xác tên thật của loại cá này - đây là loại cá bé tí xíu, chỉ lớn hơn que diêm một chút, thân hình gần như trong suốt, nhìn thấy cả ruột và đôi mắt lồi luôn đi theo đàn nhỏ và bơi sát mặt những vũng nước trong sau cơn mưa rào. Thứ hai, là loại cá hoặc là đã được rán vàng, nấu chín hoặc kho kỹ được đưa lên đĩa, bốc mùi mặn mà, thơm phức. Lúc ấy tôi gọi chúng với những cái tên chung đầy hấp dẫn và gợi cảm là : Cá rán, cá kho hoặc cá nấu. Thời kỳ chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, gia đình tôi cũng giống như bao người dân thành phố đã phải tạm xa thành phố thân yêu để sơ tán về những vùng nông thôn xa. Ngót một mười năm với cả chục lần di chuyển chỗ ở đầy vất vả nhưng tôi - và có lẽ là nhiều thằng bé dân thành phố cùng tuổi với tôi - được tắm mình trong biết bao trò chơi mà trước đó đa phần trẻ thành phố ít được biết đến như : Cưỡi trâu, thả diều, bẫy chim và nhất là câu cá, bắt cua. Gần bốn chục năm qua đi, nhưng giờ đây, mỗi khi nhớ lại những ngày ấu thơ ấy, những kỉ niệm như vẫn còn đó, tươi rói, bồi hồi lòng người. Có lẽ nhớ nhất vẫn là những câu chuyện có liên quan đến cậu cua, con cá.



Con cá đầu tiên câu được trong đời: Nếu ai biết tôi giờ đây đã là kẻ mê câu kéo đến mụ mị chắc sẽ hỏi tôi vậy con cá đầu tiên ông câu được là cá gì, mấy kílô ? Xin thưa đó là một chú cờ (có nơi gọi là săn sắt…) bé tí xíu, chừng độ ngón tay người lớn với những vệt màu ngang thân và những cái vây lưng, vây đuôi dài, mềm mại đầy quyến rũ. Tôi không nhớ chính xác là ai đã hương dẫn tôi tự làm ra tất cả các loại vũ khí để bắt sống được những con cá cờ đầu tiên, nhưng các công đoạn thì còn nhớ như in và bây giờ tôi vẫn còn có thể làm lại nếu có điều kiện. Cần câu: Một đoạn nhành tre nhỏ dài chừng non mét, tước hết lá, hơi cong queo một chút cũng không sao. Dây câu: Hãy đến bên một cây chuối khá to, bóc bỏ cái bẹ khô rũ bên ngoài, bấm móng tay vào bẹ bên trong còn đang tươi rói, bạn sẽ lấy ra được một sợi tơ chuối dài chừng hơn mét. Nhẹ nhàng tuốt hết ít thân chuối còn sót lại, ta có một sợi dây mỏng mảnh, hãy phơi một chút nắng nắng để nó se đi là có thể dùng để bắt bất cứ một tên cá cờ nào, dù nó là loại “khủng” nhất trên hành tinh này ( Chả biết nói vậy có gì sai không chứ quả thật đời tôi, đã nửa thế kỉ nay chưa bao giờ thấy một con cá cờ nào to hơn 2 ngón tay). Lưỡi câu ư ? Kể ra với một bộ dụng cụ như trên mà có thêm cái lưỡi câu bất cứ thuộc loại gì cũng là hơi xa xỉ. Vậy nên, không cần lưỡi câu mà làm gì, hãy bắt một con sâu nhỏ, màu xanh đang nằm cuộn tròn trong một cái lá dâm bụt và buộc nhẹ nhàng vào đầu dây tơ chuối đã có. Hãy sẵn sàng cho chú cá cờ đầu tiên. Bên bờ ruộng, hoặc những lạch nước nhỏ khá trong ( nhưng chắc chắn là không sạch) um tùm cỏ dại, cứ có một khoảng trống chừng bàn tay là có thể khéo léo thả mồi vào đó và nhử nhử một cách nhẹ nhàng. Khi cái đầu cần câu chúi xuống thì phải thật nhanh tay nhấc cần để đưa một chú các cờ sặc sỡ lên khỏi mạt nước và thường là chú ta sẽ rơi ngay khi bạn còn đang chưa kịp đưa nó lên đến bờ, lại phải nhanh tay vạch cỏ mà tóm lấy chú khi nó còn đang dãy dụa tìm đường thoát thân. Nếu bạn nhìn thấy một đám bọt trắng muốt chừng hơn hai đốt tay mà thả mồi bên cạnh thì chắc chắn bạn sẽ bắt được một vài chú vì đám bọt ấy chính là dấu hiệu nơi mà dường như chúng đang làm tổ. Đó là bộ đồ câu, cách câu và những con cá đầu tiên trong cuộc đời tôi. Về sau, bộ đồ câu tự chế có hiện đại hơn một chút : Cần câu được vót từ một đoạn tre tươi, hết sức mềm mại và đẹp; dây câu là đoạn chỉ loại tốt lấy trộm từ túi đồ kim chỉ của mẹ; lưỡi câu được mài uốn từ một sợi nhỏ lấy từ ruột phanh cũ xin ở hàng chữa xe đạp đầu làng hoặc cao cấp hơn chút là lấy trộm hẳn một cái kim khâu nhỏ - ngày xưa cây kim khâu tay rất quí, ở cơ quan mẹ tôi, hàng quí mỗi người mới được phân phối vài cái - phải hơ đầu kim trên ngọn đèn dầu cho nóng mềm ra rồi mới uốn kẻo gãy. Với bộ đồ câu “xịn” như vậy, lũ trẻ con chúng tôi có thể lang thang cả buổi trưa dễ dàng bắt hàng chục chú cá cờ, bỏ vào cái chai đã cắt ngắn để ngắm và chơi trò chọi - kiểu như chơi cá chọi bây giờ - những con cá cái thường xấu xí, không có được màu sắc sặc sỡ như các đực thường được mang về làm mồi cho gà, ngan. Còn những chú cá đực đẹp đẽ sau các cuộc chọi, vừa mệt, vừa đói cũng tìm đường về gặp các con cá cái trong cùng một địa chỉ là diều gà.

Bà con cô bác thử nghĩ coi, thuở đời nay người ta biểu

"Gần mực thì đen. Gần đèn thì sáng"

mà sao tui thấy nó trật lất.

Sống ở xứ người, lúc nào cũng gần với đèn điện sáng trưng mà tui vẫn tối u tối mịt. Còn cái câu "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"kiểu bông sen, thì nghe nó cũng trớt quớt. Bạn bè tui, có đứa theo gương bông sen, dù mọc lên từ trong bùn, nhưng đã trở thành thanh cao, sang trọng, quý phái, có thể sánh vai với ông Phật, ông thánh trên bàn thờ thơm phức nhang đèn, khỏi dám nhận mình thoát thân từ bùn. Phần tui thì kỳ cục hổng giống ai,

xa bùn mà vẫn cứ vương mùi bùn

?! Tối ngày nhớ chuyện đào đuôn, đào dế, tát đìa, giăng câu, đặt chà ngôm, bắt cua, bắt cóc, bắt cá cạn. v.v., toàn mấy chuyện hết sức là quê. Lên thành lâu rồi mà cặp giò tui đâu có nhả phèn, mùa lạnh da mốc cời, phải lấy lưởi lam cũ cào hai ống quyển cho bùn khô nó tróc ra như phấn bột, rồi gọt gót chưn chai thành từng lớp từng lớp như bì. Muốn gột rửa cái gốc nhà quê đó. Mà nó vẫn đeo theo tui như đỉa suốt đời. Bởi vậy, tui đâu có chuyện gì khác hơn để mà kể, ngoài những chuyện nhà quê. Cũng chính vì vậy mà năm nay, tui xin tiếp tục chương trình bằng mấy chuyện tạp nhạp vìa con

tép mòng

cá lóc

, hai thứ cật ruột của tui ở vùng ruộng lúa bùn lầy. Và cũng như thuở giờ, tui chỉ kể theo kinh nghiệm chứ hổng có cầu viện từ bất cứ sách vở báo chí nào.


À mà quên, tui vừa bắt gặp một người đồng hương, cũng rất là đồng quê, đồng điệu, đồng tình. Ðó là Anh Bắp. Trong Ðặc San TV Xuân 2005 vừa rồi, ảnh kể chuyện cộ lúa, chăn trâu, đặt trúm, đánh trổng, xay lúa, thả diều.v.v... nghe đã hết chỗ nói. Ảnh chưa kể tới chuyện trồng ấu, thả chà sông và dệt chiếu. Trước đây tui đã hú bà con cô bác tiếp sức cho vui, mà cho tới năm rồi mới hân hạnh gặp Anh Bắp. Ừa, chuyện nhà quê kể suốt đời chưa hết. Mình cứ lục lạo trong garage kỷ niệm tìm cái nào nhắm xài được, đem ra phủi sạch bụi, lau chùi cho láng, rồi hô mại dô, làm garage sale. Coi vậy mà có món sẽ trở thành đồ cổ vô giá đó nghen. Và thể theo cái hướng này, xin mời quí vị và bà con cùng Hai tui trở vìa sống lại một chút ở Prah Prabăng,

sróc dợnn,

trước năm 1975.



Phần I.

Tép Mòng.-



Trà Vinh mình là xứ may mắn được Tiền giang, Hậu giang và biển rộng bao quanh, có thiếu gì cá sông, cá biển, tôm cua mà chắc bà con ai cũng dư biết nên miễn bàn. Ðây chỉ xin nói riêng vìa con tép ruộng nước ngọt. Tức con tép mòng hay

tép muỗi

. Tui sẽ hông nói tới mấy cái vụ đăng, đó, lờ, lọp, xịp, vó, chài, lưới, nò, đáy... trong nghề đánh cá, mà chỉ kể riêng cách bắt tép rất đặc biệt của đồng bào mình. Trước hết là việc đặt chà ngôm.

Chà ngôm được đươn bằng tre và có nhiều loại. Mấy cái bự cao cả thước hay hơn là để đặt dưới rạch dưới xẽo, hứng ngọn nước chảy để bắt tép bạc, cá kèo, hay hầm bà lằn cá. Loại này phải trang bị thêm cái miệng hình ống loa hay cái

chĩu lạo

, cái quặn, mà đàng ngoài kêu là cái phểu. Bỏ qua vụ này luôn. Tui muốn nói riêng vìa loại chà ngôm khác, nhỏ hơn, dùng để đặt trên ruộng, chuyên trị tép mòng. Nhìn chung chung, chà ngôm này có hình dáng như cái giỏ nhái, nhưng nó hổng có cái cổ, hổng có miệng hình miệng bát, mình mẩy gọn hơ, cái hông suông đuột, dáng nho nhỏ dễ thương, vòng mông chừng ba bốn gang, chiều cao trên dưới đầu gối, thường được làm một cở như nhau. Bên hông khoét cái lỗ tròn gọi là miệng hom để gắn cái hom sâu vô bên trong. Ðứa nào rắng mắt thử thọc bàn tay vô khỏi hom thì biết, chỉ có nước khóc la làng và nơ nguyên cái chà ngôm chạy đi nhờ người lớn gở ra dùm. Nói vậy nghĩa là hom hình cái ống loa, ghép lại bằng nan tre mỏng dính, ngoài bự trong túm lại nhỏ xíu


Dùng chà ngôm này để đặt dưới ruộng nước im, chơ vơ trụi lủi hông cần cái miệng hay đăng chận gì ráo, thì đồng bào tui kêu là đi

plong

hay

phlong

. Nước hông chảy mà tép rủ nhau chạy vô là vì nó mê mùi mồi cám rang.


Rang cám cho thiệt thơm hén, rồi đem quết nó với cháo heo đặc, nhớ là cháo nấu bằng gạo lức nghen, rồi vò nó thành viên tròn như trái quít đường. Ðó là cục mồi. Khoảng mưa già, thời tiết tháng 6, tháng 7, đồng cấy xong, nước dâng cao, những buội lúa vừa bén rể xanh rì xếp hàng thẳng tưng ngang dọc vuông vức trên đồng, ngó y như cái khăn rằn nền trắng sọc xanh trãi dài mát mắt. Chiều chiều, cơm nước xong, lấy cây đòn bằng đọt tre hay cây tầm vong gánh chà ngôm ra đồng ruộng bao la trước nhà để đặt. Không cứ là ruộng của chủ nào, muốn đặt đâu đặt, miễn đừng làm hư lúa người ta thôi. Chim trời cá nước mà. Nước ruộng cạn, chưa liếm tới cái lai quần xà lỏn. Tuỳ sức mà làm. Thong thả mà làm. Lúa mùa hồi đó cấy thưa lắm, giữa bốn buội lúa là ô vuông cạnh cả nửa thước, dư chỗ ngồi cho một cái chà ngôm. Lựa chỗ tương đối trũng và bằng phẳng, ém sình cho hũng xuống, rồi lấy chà ngôm đặt vô lỗ hũng đó, ấn xuống cho dính, giữ miệng hom đừng cho thấp hơn mặt đất, moi bùn chung quanh túm lại để kềm cho nó đứng. Kế tiếp là dọn đường cho tép bò vô. Khoả đất cho bằng phía mặt tiền, dùng bàn tay làm cái bay vuốt cho bùn láng o từ miệng hom ra xa chừng một thước. Bỏ cục mồi cám rang vô chà ngôm, kiếm cục sình cứng nhồi với cỏ rạ mục, nắn thành một cục bự bằng cái tô làm nắp đậy, khá nặng, dằn miệng trên của chà ngôm, vừa đậy kín vừa giữ cho nó thêm vững. Cứ như vậy đặt tiếp cái thứ hai, thứ ba. Khoảng cách với nhau tuỳ ruộng tép chạy nhiều ít, thường là từ 20 tới 30 thước một cái, tính theo cả 4 hướng trước sau ngang dọc. Xong xuôi bỏ đó cho ông trời giữ giùm. Hổng có ai siêng đi ăn cắp của ai đâu. Bước lên đứng trên bờ ruộng cao lớn, mềm dịu cỏ xanh, nhìn xuống thấy lô nhô những đốm đen, ẩn hiện trong sóng lúa. Có nhiều người khác cùng ra đồng cắm câu hay giăng câu v.v... Tiếng nói vói nhau ở xa nghe mơ hồ vang đi gờn gợn như sóng. Ruộng xanh thẳm hoá đen. Xa xa chợt có giọng

chầm- riêng

hay

là- bam

ngân dài theo gió. Mấy cô cậu nhỏ người Miên ra đồng hay hát và hát hay lắm. Cò diệc thưa dần, nhường chỗ cho cúm núm, mỏ nhác. Ếch nhái kêu óp ép. Tiếng cá lóc ăn móng lỏm bỏm. Mùi bùn tanh tanh, mùi lúa non hăng hăng mà dễ chịu lắm. Tất cả môi trường hãy còn trong lành, thanh khiết. Khát nước? Cứ khom xuống bụm hai bàn tay múc nước ruộng lên uống, ngọt ngay. Thời ấy, cảnh nhà quê êm đềm như cõi tiên. Người, vật, cây cỏ cá tép, hoà chung tiết điệu và nhịp sống của đất trời. Thời gian như đứng yên. Cả ngàn năm rồi, vẫn y thinh. Cho tới ngày "cách mạng"

về.


Về tới nhà thì đỏ đèn. Chim họp mặt trên cây xôn xao chào nhau đi ngủ. Từ những hàng tre, tiếng ve giồng kêu chiều ngân dài ve ve từng hồi nối tiếp như bất tận, cùng bóng đêm ru một ngày vừa qua về nơi tiền kiếp. Rồi giấc ngủ thật êm. Giác hừng đông bửa sau, gà gáy thưa dần, thì quảy giỏ ra đồng trút tép. Nếu tép chạy nhiều thì sau khi đổ tép, đặt tiếp, giác chiều lại trở ra, vừa giở vừa đặt lại, khỏi phải gánh chà ngôm tới lui. Cùng mùa tép mòng còn có cá lòng tong ruộng chạy khi có mưa lớn. Cả thúng, cả giạ. Lòng tong ướp nghệ đem hấp hay đem kho với đọt gừng, lá gừng non đó, còn phải nói? Nó cũng là độc chiêu của quê mình.


Tép mòng.


Con tép mòng, còn gọi là tép muỗi, lớn bằng đầu đủa, và hông lớn quá đầu ngón tay út, có màu trong xanh như ngọc thạch, coi rất hiền lành. Nó to hơn và khác xa con ruốc nước mặn. Giở chà ngôm lên nghe tép nhảy rồ rồ, thấy mà ham. Rặt là tép tươi chong cùng một lứa, như lựa, sạch trơn hông cần rửa ráy gì ráo. Ðôi khi có lộn một hai con cá sặc, cua đồng, lôm chôm hay điên điển. Con

lôm chôm

hình dạng giống con muỗi đòn sóc khổng lồ, chưn cẳng dài thòn, mình ốm nhom tong teo, phải ưu tiên bóc nó bỏ, vì làm mắm mà có lộn nó thì ăn ói chết. Cua đồng cũng bị xé đôi, tức là tách mu ra, quăng xuống ruộng làm phân cho lúa, chừa xác vài con bỏ lợi vô chà ngôm đặng thêm mùi hĩnh hĩnh hấp dẫn. Con

điên điển

thì đen thui tựa con bù hung, dẹp lép như con dán, ăn được. Một cái chà ngôm có thể kiếm cả tô, hay cả lít tép. Một người có thể kiếm cả thùng tép trong ngày.(Thùng = 20 lít ). Những vùng Ða lộc, Hoà Thuận, Song Lộc, Thanh Mỹ, Hiệp Hoà, Nhị Trường, Phước Hưng, Long hiệp, v.v., thuộc quận Trà Cú và Cầu Ngang, tạm kêu là ruộng giồng, là xứ sở tép mòng. Nếu chỗ nào có dòng nước sông tưới vô thì, dù là nước ngọt, chỗ đó thường có thêm tép bạc đất. Tép mòng chạy trốn. Xứ giồng có cái ngộ là mùa nắng ruộng khô, đất nẻ, cá tép đi mất hết, in như là là nó bị khô theo, nhưng mà khi nước lợi thì nó cũng lợi theo. Mưa đầu mùa nặng hột thì ruộng có cua đồng, ốc bươu, ếch bò ra trước. Tới chừng nước đứng, đọng lợi thì tép mòng bắt đầu tràn ngập. Hằng hà sa số tép. Thực phẩm bắt đầu phong phú. Tép mòng rang muối luôn râu, hông cần mỡ tỏi gì ráo, rang cho khô, chấm nước mắm ròng dằm ớt hiểm với vài giọt chanh. Hoặc đem luột luôn râu, trộn gỏi su đủ hay cây chuối con. Hoặc đem bằm nấu canh xiêm lo rau đắn hay lá bình bác, với măng tre hay bù ngót, nêm vô chút bò hóc, vân vân và vân vân. Nếu quí bạn là dân quê chánh hiệu của Trà Vinh thì hông cần mô tả thêm, nghe nhắc tới đó cũng đã thấy chảy nước miếng rồi.


Xúc tép.


Ngoài cách đặt chà ngôm, cũng có cách khác là đi xúc tép.

Bỏ công xúc tép nuôi cò. Nuôi cho cò lớn..

Xúc bằng cái

xà neng

. Cái xà neng giống hình cái ki xúc đất, nhưng nó bự, dài, đít nhọn và sâu, nan đươn vót láng bóng, nên dáng nó mỏng manh thanh tú lắm. Miệng nó có cái nẹp cho khỏi bén như miệng ki. Dùng xà neng đẩy, dậm và quậy. Dậm là đặt xà neng nằm ngửa ra sát bùn rồi lấy chưn dậm cho lẹ trước miệng để lùa cá tép chạy vô. Thường là dậm chỗ có cỏ. Còn

quậy

hay khuấy, tức là đi

cà-cô

, nói theo tiếng đồng bào tui, thì đứng một chỗ cào nước cho chạy theo một chiều nhứt định, cào cho bương bương lẹ lẹ, nước xoay thành vòng tròn trôn ốc chung quanh người đứng, tép chóng mặt, bị cuốn theo dòng


nước xoáy, vớt vô xà neng hết. Mấy con cá rô con, cá sặc, hủng hỉnh, cá chốt...cũng vô luôn. Muốn mau ăn thì trước khi quậy, thẩy xuống nước mấy cục mồi cám rang nho nhỏ làm điểm, để yên một lát cho tép đánh mùi thơm, bu lại, thì nhảy xuống cà cô ngay chỗ cục mồi đó sẽ bắt được nhiều hơn. Cách này có thể chỉ dùng cái rổ dày thôi, đứa con nít cũng kiếm dư đồ ăn cho cả nhà. Còn mấy cái xịp, vó, chài, lưới xài ở đây sẽ thua.


Vài cách ăn.


Trà Vinh mình có loại mắm đặc biệt, mà may quá báo chí ít biết và hổng nhắc tới, đó là mắm

brờ ọt

, nói trại ra thành bờ ót, tức mắm tép chua, làm bằng tép mòng, khác vớimắm tôm chua

mà dân thành thường dùng để trỏ mắm

tép bạc

. (Còn brờ hóc, hay bò hóc là mắm mặn, để lâu). Cách làm brờ-ọt thật đơn giản, giản đơn, chỉ có tép mòng, muối hột và

côm nguội

. Hông cần rượu, tỏi gì ráo mà mắm vẫn đỏ au. Rồi cũng trộn su đủ mỏ vịt, gừng, riềng, ớt. Nhưng mà thịt và vỏ tép mòng mền mịn, nên bờ-ót có vị ngọt ngào đậm đà, ngon gấp mấy lần mắm tôm chua tép bạc. Mắm ruốc so ra là đồ bỏ. Có một điều lý thú là chính brò ót tép mòng là mẹ đở đầu của cá lóc nướng trui. Hai tui sẽ nói rỏ hơn ở phần sau. Tép mòng cũng còn dùng làm

brò hóc tép

, ngon hết xẩy. Hoặc đem luộc rồi phơi khô, xong đập sơ sơ cho rụng râu rồi vô bao cà ròn treo nóc nhà cất, kêu là

tép khô

hay khô tép, chứ hổng phải là tôm khô

. Không thích làm tép khô thì làm mắm để nấu nước mắm, mà bà con mình kêu là

nước mắm đồng

. Dỉ nhiên nó thua nước mắm biển của Phan Thiết, Phú Quốc. Mắm

bò hóc tép

còn dùng để kho, hoặc nêm canh, kêu là

canh xiêm lo

, ít ai đem nấu nước lèo bún. ( Ximlo, tiếng Khmer, có nghỉa là canh, ăn với

côm

thì người mình kêu trại lại là canh xiêm-lo, ăn với bún thì kêu là nước lèo, đồng bào tui kêu

tưk ximlo num chooc

, lai tây thì gọinước súp). Ngoài ra mắm này còn làm gia vị cho heo kén ăn. Con heo nào yếu ăn, trộn một chút vô mámg cháo thì sẽ thấy nó táp phầm phập phát thương.


Ðây hai tui xin mở ngoặc để nói vìa việc ăn ghém một cách kỳ lạ của tụi tui hồi nhỏ. Không biết phải kêu là ăn gì, nhưng bà con tui kêu là

xi

chrôc le.

Trưa trưa đói bụng, buồn miệng, đám con nít tui thường rủ nhau, đứa kiếm mắm bò hóc tép mòng, đứa đi kiếm khế, chuối chát, trái sung, trái đào hay trái gòn non, và nhứt là hông thiếu đọt đu đủ, hay lá su đủ non cũng là nó, ớt hiểm rừng, cơm nguội. Phành đọt đu dủ ra như miếng bánh tráng, để vô mấy lác chuối khế trái sung rồi cuốn lại như gỏi cuốn to bằng cùm tay, ăn với mắm. Hấp dẫn lắm! Cắn từng khúc bự, ngốn ngốn, gò má phùng ra như khỉ ngậm bần. Ðủ thứ vị đắng chua chát cay mặn ngọt quến lại, ngon thôi là ngon; cay quá! chảy nước mắt thì cắn một miếng cơm nguội để giải. Ăn đã, chạy lại lu nước trước hàng ba, lấy cái gáo dừa đen mun có tra cán bằng nhánh tre, giở nắp lá ra, thọc vô khoả khoả cho lăng quăng lặn xuống, rồi múc một gáo, tu vô miệng hụp ừng ực hổng kịp thở, nước tràn chảy dài xuống càm, nhễu lách chách xuống chân. Thứ nước giếng đào giữa ruộng sao mà ngọt như đường. Buông gáo ra, thở khà một cái như mấy ông già uống rượu đế, quẹt quẹt cái mỏ bằng lưng cánh tay, chạy đi chơi tiếp.


Ngày nay, khó tìm ra được bờ ót tép mòng, người ta làm bằng con ruốc có để màu nhuộm chiếu cũng đỏ tươi, rất nguy hiểm. Riêng hai tui thì khỏi lo, cứ vô sróc hỏi đồng bào tui: miệl

brờ ót kompựh

tê miịn, là có ngay.

Kompưh,

tiếng Khmer, là con tép mòng đó bạn ạ. Xin tạm ngưng chuyện này để nói qua con cá lóc.

Cá lóc, đồng bào tui kêu là

trây

ptoc

. Trây là cá.Ptoc mình kêu trại ra thành lóc,cá lóc. Tương tợ như cá lò tho (sặc rằn) do tiếng

trây cơn- tho

mà ra. Ở đàng ngoài cũng có con cá y chang như vậy, nẫu kêu là cá tràu, nhưng thường nhỏ con hơn, nước da trắng lợt, bự lắm là bằng ngón chân cái. Lớn lên chút nữa thì kêu là cá tràu cửng. Thật ra tuy hai mà một, chỉ khác phong thổ thôi. Còn ở miệt Châu đốc, Hồng Ngự, thuộc Ðồng Tháp Mười thì cá lóc và cá bông, ở sông ở ruộng có hết. Cá lóc sông thì da trắng như gái Nha Mân nhưng hay bị có mực, lốm đốm đen thui ở trong thịt. Cá bông y hịt cá lóc, theo sông, từ Tonlê-sap bên Nam Vang qua, bự con lắm, nặng một hai ký là thường.

Dòng An Giang sông sâu..

cá lớn. Da nó màu đất lợt lợt, mình có sọc ngang trắng trắng. Khô cá bông bự bành ky. Thịt cá bông lạt, bở hơn cá lóc đồng Trà Vinh. Cá lóc đồng của mình vì nước cạn, thường tắm nắng ruộng nên lưng đen, mình mẩy có màu mặn mòi như nước da gái ruộng Trà Vinh. Ðây tui chỉ ban

vìa cá lóc đồng Trà-Vinh thôi.


Vài món ăn làm với cá lóc.


Cá lóc làm ra đủ món, kho riêng hay kho chung với thịt heo kho tàu, nấu canh, nhứt hạng là canh chua, làm mắm, nướng than, nướng trui, nướng đất bùn, hấp khô, hấp nước, kho mắm ăn ghém, chiên xào, làm khô, chà bông. Cá lóc chà bông cứu biết bao bịnh nhân, nuôi lớn trẻ con còn nhỏ. Ðàn bà đẽ mà ăn cá lóc kho tộ với hành hương luột thì an toàn trên xa lộ. Kể làm sao cho hết thành tích cá lóc. Có cả trăm cách ăn ngàn cách nấu. Có cả nền văn minh cá lóc, viết ra cả mấy trăm trang sách cũng chưa rồi. Hai tui xin kể sơ sơ vài món phổ biến sau đây.


Trước hết là

Bánh canh cá lóc.


Nóđã đi vô máu và tiềm thức tui từ hồi thời bà ngoại còn sống. Bắt con cá nhắm chừng 1 cân trở lên, làm xong đem luột, chín rồi vớt ra rỉa thịt, sao cho còn lục cục, để đó. Bột gạo vừa xay rồi, và bòng cho khô xong, lấy từng cục nhỏ quấn, ép vô cái chai lít, hoặc cán trên thớt, cho nó thành lớp mỏng, rồi lấy dao cắt thành từng sợi, từng sợi dẹp như bánh lá mít, gạc nó thẳng vô nồi nước súp cá đương sôi. Bánh chín, đổ thịt cá rỉa vô rồi nêm nếm, trộn đều. Nước bánh canh sẽ đục đục lền lền như bầu sữa mẹ. Cọng bánh mềm mại quấn quít lấy nhau như anh em một nhà. Gia vị có hành hương, ngò, tiêu, ớt, chanh, nước mắm ròng. Làm sao diển tả hết cái ngon này. Nó rất thiên nhiên, nguyên chất và rất hiền. Ai chưa đủ răng hay mất răng đều ăn được ráo. Người bịnh yếu ngáp ngáp mà húp vô một chén nước bánh canh này là hồi dương ngay.


Ðó là Bánh canh nhà quê gốc Trà Vinh, đã có trước cái thời

"Bánh canh

con dắn, con dài. Lòng thương chú đội bán hoài

bánh canh". Xin bái-bai mấy cái móng giò heo ở cổ, của bánh canh bột lọc, cọng tròn và dai như con trùn sống, gắp hông dính múc hông lên, cứ bò vô thục ra, lua nó vô rồi thì nó né hai hàm răng, nhai hông trúng, trệu trệu nuốt trọng. Nước thì trong veo, ngọt ngây nhờ bột ngọt, nhưng mà cái mùi móng heo, mùi hành sấy, hơi nhuốm bịnh mà hữi một cái là bịnh nặng luôn. Lại còn thêm chéo-oãi chiên phồng nữa! Mạnh trong mình mà ăn nhiều cũng

bò-hố.

Xin nói lạc đề thêm chút xíu là ngoài bánh canh cá lóc nói trên, Trà Vinh còn có loại

bánh canh ngọt

cũng dùng bột gạo tươi như trên, nấu với đường thẻ, nước sền sệt đâm đà tình nghĩa, chế chút nước cốt dừa, ăn mệt phát ách mà chưa chịu thôi..


Món thứ hai khó quên nữa là

mắm chao cá lóc.

Làm bằng cá tươi, con vừa vừa hông bự lắm, thường là cở cùm tay, chao bằng cơm rượu hay chè nếp, chứ hông chao bằng khóm như mắm Châu Ðốc. Mình làm nó khoảng tháng chạp năm trước, đến tháng mưa già năm sau, hơn 6 tháng, mới thiệt là ngon. Trời mưa, làm biếng đi mua đồ ăn, gần bửa cơm, gắp con mắm lóc ra, để vô tô chưng, thêm chút hành, tóp mở, tiêu. Bên ngoài vẫn mưa ào ào, trong nhà mọi người xúm lại, quanh nồi cơm nóng hổi, ngọn đèn dầu ống khói sáng trưng, ăn cơm với rau càng cua (rau tiêu) luột, hoặc rau mờ-om (dân chợ sửa thành ngò-om) luộc, hoặc măng tre giồng xắn ở buội tre sau hè đem luộc, chắm mắm chưng, nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, nghe như chuyện đời xưa.Thịt mắm chao dai, đỏ tươi màu gạch, lấy đầu đủa quẹt quẹt liếm húp hết nồi cháo trắng cái rụp. Cĩ người đem chiên để

ăn côm

hay uống trà.

Phấc te, chìa té

, uống trà bằng mắm cá lóc chiên nó còn ngon bổ hơn dẫm-sà với

phùng-chjão

, toàn là nước màu và gia vị độc hại. Người Cắc Chú làm khô mặn bằng cá chét, kêu là khô cá mặn, phải nói là khỏi chê, hẫu sực lắm, họ thường dùng nó làm món chưng, giống món chả của đàng ngoài trong cơm tấm bì xường chả, nhưng đây họ gọi là

hầm diiễu chíu dục taãn

. Má tui có chồng lai Tiều Chiêu nán (Tều chứ hông phải Quảng nghen), hổng thèm theo Tàu, mà lại dùng mắm chao cá lóc, thay vì khô cá mặn, đem bằm chung với thịt ba rọi củ hành rồi trộn với hột vịt đem chưng hay hấp. Kêu là mắm bằm chưng hột vịt. Xin đừng độn bún tàu và núm mèo như chả ngoài ấy, nó sẽ làm mất kiểu Trà Vinh, mà phải để mắm cho thật nhiều vô, cho thật đậm vị đậm mùi, chiếm trên 60% ở trỏng, nó mới chính danh là mắm bằm. Cà nâu, củ cải, chuối khế rau thơm cặp vô, phải nói là dách lầu. Ðó là món độc đáo của Trà Vinh, vì nó gồm đủ ba thứ kiểu cách văn hoá Việt, Miên, Tàu, bằm bằm trộn chung lại. Nó qua mặt món hầm-diễu cái vù, và ngoảnh lại nhìn món chả-hấp trong cơm tấm bì với vẻ khinh khi. Ðó là nói vìa mắm chao. Còn mắm

bò-hóc

cá lóc mà xé hay thái ra đem trộn gia vị đường ớt su đủ vô thì nó đậm đà gấp mấy lần mắm thái Châu Ðốc. Việt Miên đề huề, chưa đâu bằng.


Món thứ ba, cũng bí hiểm lắm, thấy đơn giản mà hổng phải dễ nấu, đó là

nước lèo bún cá lóc

, chánh gốc Trà Vinh

.

Mắm bò hóc làm bằng cá lóc, hoặc các loại cá đồng, đem nấu nước lèo bún với cá lóc tươi, là nhứt xứ. Chỉ cần cá lóc thôi nghen. Hổng có bày đặt thêm thịt, huyết heo, mực, tép vô làm cho nó mất gốc và vô tình biến nó thành

mắm kho và rau

mất rồi. Chính yếu là cá lóc, xứ cá lóc mà, nhiều cá thì nước sẽ ngọt ngất ngư, chứ cần gì tép biển, mực, ba rọi, đường bột ngọt. Nồi nước lèo cá lóc thơm phức, trên mặt lềnh bềnh lớp hột trứng vàng tươi, lấy vá khuấy nhẹ cái, thịt cá trắng nỏn từ đáy cuồn cuộn lên xuống, chan vô bún đóng thành dề trên

là-bôi

bắp chuối, nhìn thấy đố ai nhịn được hè. Còn bò-hóc cá biển mà nấu nước lèo với cá kèo thì ăn rồi mặc sức mà khảy đờn tranh tới rách... háng cũng chưa xong. Bà con mình nói cá biển phong lắm. Có nhà báo nào đó còn xúi bá láp kêu nấu nước lèo với cá tra, trê, trèn?! Chèn đét. Vừa thôi, bỏ đi tám. Ðể khi nào rảnh rảnh, tui sẽ kể kỹ hơn

cách vặn bún

(làm bún), cách nấu nước lèo

tưk ximlo

và cách ăn bún

xi nùm-chóc

theo kiểu Trà Vinh chính gốc cho bà con nghe chơi. Lạ lắm!...


Cách bắt cá lóc.

Làm sao kể cho hết cách bắt cá lóc. Nè hén, đầu mùa thì đi soi, đi nôm. Mưa lớn vài đám thì cá lóc bắt đầu bung ra khắp đồng, cùng với ếch, ốc bươu, cá trê, cua đồng, chuột, v.v. Ðèn soi nhái hồi đó tim làm bằng chỉ bao bố, choá bằng thiếc, cốt bằng đọt tre có lỗ thông, đốt bằng dầu lữa đựng trong chai gắn sau đuôi. Có thể dùng nôm hay cây chà bộp. Chà bộp là loại chĩa có năm mũi, không ngạnh như xà no, phóng trúng một cái là nó hết cục cựa.

Cái nôm

thì quí vị biết quá rồi. Gần cuối mùa thì tát vũng, mò và thụt hang. Hết mùa mưa thì làm hầm.

Làm hầm

là chuyện dễ nhứt và rất hấp dẫn đối với con nít. Khi ruộng sắp khô cạn thì cá tép rút về vùng đìa, bào,

bân, tà nụp.

Càng nắng hạn thì cá lóc càng lo cho vận nước, bèn tìm đi nước khác sâu hơn, đó là thời gian tốt nhứt để làm hầm. Moi lỗ sát mí nước để cho cá lóc nhảy đi mà bị rớt xuống kẹt ở lại đó, gọi là làm hầm. Có người làm hầm dài, qui mô lắm, đặng bắt cho nhiều cá. Nhưng Hai tui thường làm tròn cở khạp da bò, miệng chèng bẹt, đáy túm lại, sâu hông quá một thước. Bên trong láng lình như thoa mở, để cá rớt vô thì dễ, mà lóc lên thì vô phương. Quan trọng nhứt là miệng ngoài, chỗ giáp nước, bo tròn như cái máng, nện cho cứng, vuốt thật láng, như lối mòn nhiều kẻ qua, nhưng nó là con đường bi-đác bác-đi. Khi tới gần, thấy êm phẳng quá, tưởng thiên đường trước mặt, nó hè nhau nhảy vọt, rớt rơi xuống hầm cạn khô, nằm im ngáp gió. Ðôi khi có nhiều con quá độ khỏi miệng hầm, bay lên đất nẻ nằm đó. Sống dai lắm. Nó có thể lóc thêm vài chục thước hay quay về ta tắm ao ta. Ðó là những chuyện nhỏ. Sau đây xin kể vài cách khác ít nhiều đã đi vô sách báo, là

câu rê, giăng câu và tát đìa

. Mấy cái vụ này muốn viết cho rỏ thì tốn giấy lắm, cầu hai, ba cuốn Ð/S Trà Vinh nhập lại. Nhưng đây chỉ nói phớt phớt qua thôi, để góp vui một chút với bà con và bạn bè trong ba ngày Tết.


Trước hết là

Câu rê

(còn kêu là câu nhấp). Nó là một nghệ thuật và kỹ thuật chủ trị cá lóc, cọng thêm tính thể tháo lành mạnh. Khoảng từ lúc cấy xong cho tới khi gió trở chướng là mùa của câu nhấp. Ai thích cũng có thể tự đốn trúc làm cần và lấy thép kèo dù uốn lưỡi cắt ngạnh theo ý mình. Móc mồi nhái vô, khoá lưỡi lại bằng cỏ ống, nắm một đoạn dây vung vung thành vòng tròn lấy trớn quăng tới, thật xa, rớt cái chũm, kéo rê vô như nháy đang nhảy, nghe cái phập, ngưng vài giây, giựt mạnh, đọt cần câu cong xuống nặng trịt. Sướng tê, rên la om sòm chớ phải chơi. Các bạn cứ nhớ lại coi, vùng ruộng đường vô Ða lộc, Ðầu Bờ, Sân bay, hình ảnh nhiều vị quần áo sạch sẻ chĩnh tề, đứng rãi rác trên bờ ruộng lúa xanh no nước, nhấp nhấp cây cần trúc dịu quặt cao ngồng, coi nó ngộ hết biết. Ðó là bức tranh quê hương an bình dễ thương quá mà ngày nay hông còn nữa.


Còn việc

cắm câu

cũng lắm công phu. Cây cần câu bằng tre, lớn tròn như ngón tay, đầu vót dẹp, mỏng và mềm, cong xuống in hình dấu hỏi. Cắm câu chủ ý là để bắt cá lóc. Nó thích mồi chạy, nên phải dùng mồi nhái sống, loại nhái cơm dai sức. Móc lưỡi câu lểu trên da lưng để nó còn sống mà bơi lội tung tăng, cá lóc thấy mới ham. Như kiểu đặt chà ngôm, phải cắm làm sao cho con nhái nằm ở khoảng trống, giữa bốn buội lúa, hổng có cỏ, dây đừng vùn quá, cho con nhái lòng thòng trên mặt nước và bơi xa thì bị hỏng giò, hông vói tới bất cứ buội lúa nào, vì nếu nó ôm được cây lúa mà nằm im re thì cá lóc hổng tới. Nó thích

mồi chạy

mà. Một người có thể cắm hàng trăm cây trong một đêm, và phải đi thăm câu nhiều lần. Nếu cắm nhiều và xa nhà thì mang theo nóp ngủ chờ thức thăm câu. Mua lưỡi đúc làm sẳn bán ở tiệm. Mua chỉ vìa tóm lưỡi và se nhợ.v.v... Chuyện còn dài vô tận, xin nhường đất lại quí bạn kể dùm. Còn cái mục

Giăng câu

thì xin thưa, dù được nghe nói nhiều, nhưng nó hổng phải chuyên bắt cá lóc. Bởi vì là nó dùng mồi trùng quắn hay đuôn đất, tức là mồi im, ngược lại với mồi chạy, giăng sao cũng được, có thể bắt nhiều thứ cá, trong đó đôi khi cũng dính cá lóc, nhưng nó hợp khẩu hơn hết đối với mấy anh trê trắng trê vàng. Mục này tui cũng dư hơi kể cho tới qua đêm.


Bàn vìa cá lóc, hổng thể bỏ qua

Cá rồng rồng,

tứclà cá lóc con. Phía dưới bầy cá rồng rồng lúc nào cũng có cá lóc mẹ. Như kiểu bầy gà con với gà mái mẹ. Có một cách bắt cá lóc mẹ ác lắm. Ðó là dùng vịt con để trị cái tình mẩu tử của nó. Nếu câu như bình thường, nó hông cắn mồi. Phải cuột lưởi câu trong chưn, dấu dưới bụng con vịt con rồi thả nó xuống đìa chổ có bầy ròng ròng đang lội. Ðể bảo vệ con, cá mẹ thấy vậy liền tấn công vịt, sẽ cắn nhằm lưỡi câu. Xong con mẹ, tính tới bầy rồng rồng màu đỏ tía. Ngồi rình đợi nó gom bi lại thành một dề đỏ bằng cái nia, thì phóng xuống cái đùng như trời sập, xúc lia lịa, mà cú xúc đầu tiên có thể hớt cả tô. Cũng dùng xà neng để xúc. Cá ròng ròng nho nhỏ bằng đầu đủa, đem kho tộ, ngon hơn cá bống trứng nhiều lần. Nhưng mà, ác quá và mang tội diệt chũng .. cá lóc?

Phần 3 : Tát Ðìa


Khi ruộng đã khô, lúa gặt xong, cá tép rút vìa chỗ nước sâu, đìa thành những kho tàng cá. Mùa tát đìa bắt đầu. Tát đìa là tổng động viên, là chiến dịch Ðông-Xuân, hông còn đánh du kích lẻ tẻ mùa mưa như nói trên, mà phải cần đông người mới giải phóng xong cái đìa. Có cái ngộ là trong đám cá đồng nước ngọt như trê, rô, sặc, thác lác, mè, trèn, trạch, lòng tong, lột chốt... thì cái sắc tộc cá lóc chiếm đại đa số. Do đó, có thể nói tát đìa là để bắt cá lóc. Trà Vinh mình là vậy, người vùng ngoài nghe hổng lọt tai.


Nói tới tát đìa thì phải kể tới cái

gào dai

. Có nhiều người kêu là gào tát hay

gào sòng

. Gào đươn bằng tre, có đủ cở, nhỏ thì dùng để múc nước giếng, lớn hơn chút thì để gánh nước xài hay tưới trầu, bự cở một giạ thì dùng để tát đìa. Gào có hình dạng của khối nón cụt lật ngửa, miệng cũng tròn, nhưng đít dẹp lép, y như khứa đuôi cá lóc kho. Vì không có mông nên ngồi hổng được, tưới trầu muốn nghỉ vai phải gác đòn gánh lên hai cây cọc cao có nạn chữ V, treo lòng thòng ở đó. Trái lại, gào con múc nước giếng rất dễ, hễ thả gào xuống nước là nó ngã qua một bên, nước vô đầy liền, hông cần dục dặc sợi dây. Gào gắn chặt với văn minh cây

tre

, được đươn theo lối long hai long ba, bằng nan tre cật. Ðươn xong xuôi phải phơi thiệt khô, rồi phết dầu hắc, rồi lại phơi khô. Phết hai ba bận dầu hắc là cái gào đựng nước hông nhĩ một giọt. Bên ngoài là cái khung nưng, cặp sát hai bên hông và chắn ngang miệng, ngang đít, vừa làm cho chắc thêm vừa có chỗ mà cột bốn sợi dây vô. Riêng gào tát thì trên miệng còn có thêm cái nẹp bản bự bằngtre, rộng chừng ba ngón tay, bao vòng quanh niềng để bảo vệ miệng gào, vì nó cứ ụp xoà thường xuyên xuống đất. Dây tát đìa cũng bằng

tre

non. Ngoai ngoai hai đầu nó cho dẽo, cuột vô đâu cũng dính. Ðầu dây được nối vô cái rọc rạch để nắm, cũng bằng ống

tre

hay trúc, dài tấc rưởi hay 2 tấc, nắm khỏi phồng tay.


Trước ngày tát đìa, ở nhà lo làm hồ để rọng cá. Thường là hình chữ nhựt, và đào âm xuống đất. Mà đất giồng thì toàn là cát, nên phải chở đất bùn, đất sét vìa ém, trám vách thành hồ trên dưới thật khắn thật chặt cho hông chảy nước, rồi gánh nước đổ vô từ mấy ngày trước cho im. Rọng trong hồ có hơi bùn cá mới sống lâu, để dành ăn qua khỏi Tết. Rọng trong mái đầm cứng nhám cá bị mòn đầu, mau chết.


Bây giờ mời quí bạn đi tát đìa với Hai tui cho biết. Dậy sớm ngheo. Người lớn đã cụ bị mọi thứ cần thiết chất lên cộ cho bò kéo đi. Nào là gào, dây, bù cào, dao búa, cái trang, cái giỏ, cái đục, cái rọng, thùng thiết, cuốc xẻn, nôm rổ thúng mủng xà neng, với lại nồi soong, mắm muối, gia vị, trà, đường, kẹo đâu phọng, nếp, gạo, chén dĩa, v.v... Bạn có thích thì có giang bằng cách đứng ké lên cần trượt lú ra phía sau cộ, như ván trượt tuyết vậy đó. Ðìa thường ở từng chòm, nơi khu ruộng tương đối sâu, có nhiều hình dạng, chữ nhựt hay chữ L chẳng hạng, nhưng mỗi cái đều có đường nước riêng ăn thông ra ruộng. Khi nước lưng, mọi người đã lo khoá miệng đìa, nhốt cá lại đừng cho nó vượt biên bậy bạ. Ra tới nơi, trước hết là lo phát quang, dở chà sơ sơ cho trống sòng. Thường sòng tát cố định từ năm trước, nằm chỗ khúc quanh để đùng đưa gào cho dễ, và hơi sâu để nước rút lại tát cho hết. Dọn chỗ đứng thành một, hai bục bằng. Trên miệng sòng lấy rạ hay chuối cây lót cho êm, gào dập xuống hông bị bể. Nói thiệt bạn nghe, tui đã từng giã gạo cối đạp nhảy lên bước xuống, hoặc xay lúa hai tay đẩy tới kéo lui cái giàn xây, đều đặn hoài hoài, cả hai đều cần dai sức và kiên nhẩn, chưa biết ngán, nhưng mà cái mục tát đìa này thì tay ngang dễ đầu hàng lắm. Nè, tập kéo vài gào thử coi. Mỗi người nắm hai dây, đùng đưa thử cái gào như đưa võng trên không, tập cho nó nằm đứng chỏng mông đủ kiểu. Cả bốn dây đều là dây lái. Gào phải nằm cân bằng giữa hai người, hổng được ăn gian thả dây chùn hơn người kia. Rồi sau khi lui tối đa, hè, kéo tới và cho nó xắn nghiêng xuống mặt nước như máy bay trút bôm, ụp, cho ngóc đầu ngay như con ó vừa chớp được mồi, kéo theo bụng nước, nặng trìu trịu, lên tới bờ, hổng cần thả nó nằm xuống đất, mà chỉ cần lái cho nó ở thế nằm ngang trên không, rối giựt ngược cái mạnh, nước tự động tuôn xoà, cái gào theo trớn trở lui tối đa, cứ như vậy mà ụp xoà, ụp xoà theo lối ngựa phi gà-lốp-bê. Tới khi nào tay hơi mõi thì làm từ từ, kéo lên, cho gào nằm nghỉ vài tích tắc trên bờ, rồi lui gào xuống. Bạn thấy sao. Ngoài cái sức bền, còn cần thêm sức mạnh và chút khéo tay, hoà điệu nhịp nhàng giữa hai người, và nhứt là cái lưng phải dẽo dai cứng cựa vì luôn phải khum lên khum xuống, nhứt là khi nước cạn gào sâu. Nếu bạn là nghệ sỹ thì cứ việc mô tả cái cử chỉ thao tác của hai người, đẹp lắm, như khiêu vũ, nhưng mà tui thấy nó đuối gần đứt xương sống. Người chuyên nghiệp thì rùn đầu gối xuống, giúp cho lưng đở mệt hơn. Cách gì thì tát một cái đìa phải có nhiều sòng và mhiều cặp thợ cái luân phiên nhau, hoán đổi công việc, người tát người dở chà khai nước, người dọn bếp dã chiến, quơ củi, cho mấy bà. Chà đìa cũng giống như loại chà sông, là loại cây chắc, chịu nước, chụm đầu nhau như kim tự tháp, vừa làm nơi trú ngụ cho cá vừa phòng ngừa kẻ gian quăng chài.


Khi nước vừa giựt, người ta có thể nhìn móng đánh giá đìa có bao nhiêu giạ cá, loại nào nhiều ít. Hai tui chỉ lo đếm mấy con tôm càng, cá đuôi đỏ (còn gọi là cá mè hay cá ngựa), cá trèn, thác lác, cá sặc, là mấy thứ dở ẹt, động một chút là nó nổi đầu ngừ nước, cho nên nó bị hốt trước khi đìa cạn. Trên miệng sòng thì đám con nít bu quanh, kêu la om sòm khi bắt hôi được con nào lớn lớn. Ở xứ mình có cái hay là đi mót lúa gặt, mót khoai đào và bắt cá hôi tự do. Ðó là phong tục của xứ hiền hoà dư ăn. Tui vớt mấy con tôm càng, gom gốc rạ đốt lên nướng trui chắm muối ớt ăn chơi sốt dẽo, sang như dân ruộng. Nước cạn, dở chà xong thì tui làm Lý chơn Tâm anh hùng cởi cá. Những con cá lóc thâm niên công vụ, bự bằng bắp đùi người lớn, tui nằm sấp xuống đè lên nó, dùng hai tay ôm cứng vô ngực, mà nó vẫn chạy vuột và thiếu điều mang tui đi theo. Cái quần xà lỏn lúc nào cũng muốn tuột ra vì sình bám. Ðầu mình tay chưn được bọc trong bùn. Có lúc tui thành Chữ Ðồng Tử chôn mình luôn mà hổng có công chúa nào tắm cho coi. Tui bèn bắt bồ với cá lóc, mấy thứ có ngạnh thì giao cho người lớn. Mấy con trong hang tui cũng né. Trên bờ đìa thường trồng cây gừa, rễ mọc chằng chịt ăn xuống tới đáy, cá làm bọng làm hang trong đó, dùng cù ngoéo có đầu sắt nhỏ như ngón tay co chọc nó phóng ra, mặc sức hốt. Nói nhỏ chút nghe chơi, mấy cái bọng này đôi khi cũng được du kích thời chiến biến cãi, thêm ống tre thông hơi, thành hầm trú ẩn lúc lâm nguy. Cá bắt được thì chở về từ từ nhiều chuyến cộ mới hết. Giai đoạn chót là, sau khi bắt cá xong, dùng trang cào bùn tới sòng để tát lên, nặng dữ lắm, những gào bùn vẫn còn lộn ít cá ngộp làm quà cho trẻ bắt hôi. Sạch bùn, sắp chà xuống trở lại. Không thể nào quên lựa vài cặp cá mỗi thứ thả lại làm giống khi nước mội mới từ từ dưng nước trong veo vô đìa. Phần ở nhà thì ôi thôi, rầm rộ lo làm cá, cá tạp cá xình làm bò hóc, cá lóc làm mắm chao, chứa bằng khạp hay tĩn da bò. Làm khô dùng khoanh bồ mà phơi. Cá mạnh đem rọng cất. Tui thì khiêng giỏ cá đi cho bà con đầu trên xóm dưới, cũng đuối vai. Người làm vần công được tặng cá, rất nhiều. át đìa còn là cuộc pic-nic,

ăn côm

giữa đồng. Lều trại là bóng mát cây gừa cổ thụ trên bờ. Nồi cơm được đặt nấu trên 3 cục đất nẻ làm ông táo, củi là nhánh cây khô và gốc rạ. Ðồ ăn thì có tại chỗ. Cá tôm. Thức mặn thì có muối ớt và mắm, nhứt là mắm tép mòng. Cá tôm hổng cần nấu kho cho phiền phức. Tất cả đều nướng. Gốc rạ đầy đồng, cứ đốt thả giàn, hổng sợ cháy nhà. Bắt những con cá lóc lớn hơn cùm tay, lấy nhánh tre tươi xanh, vót nhọn, xỏ từ miệng lần cho sát cạnh sườn rối lú dài ra khỏi đuôi, nhớ xuyên đừng cho lệch cây lụi làm mất thăng bằng khó xoay trở cá, gác lên cục đất nẻ, đánh tơi làm cho rối gốc rạ ra, vun đống chung quanh nó mà đốt. Nướng trui. Chín rồi dùng bẹ tre làm dao giả cào cào bỏ lớp than, đừng cho tróc da cá, vàng như cơm cháy, ăn luôn da mới đúng điệu. Chắm mắm tép mòng. Ăn cơm tát đìa là vậy. Tự nhiên nó diển ra như vậy, hông chủ ý xếp đặt gì ráo.


Nhưng mà, thấy vậy mà hổng phải vậy. Vì nó dấu vài ý nghỉa thầm kín bên trong, nói lên sắc thái văn minh nông nghiệp, văn hoá ruộng đồng của Trà Vinh yêu mến. Ðể tui cắt nghỉa sơ coi bà con đồng ý hông hén. Trước hết tui dám quả quyết rằng nguồn gốc món cá lóc nướng trui là xứ Trà Vinh, đồng bào mình đã chế ra nó. Hoàn cảnh lúc tát đìa đã đẻ ra nó. Mùa nắng khô, rơm rạ đầy đồng, cá đầy giỏ, ruộng trống trải, cứ đốt lửa lên mà nướng. Nếu bắt cá trong ruộng còn nước, hoặc cá lóc vựa đầy ghe, có rơm đâu mà nướng, mà nướng để cho cháy ghe sao. Còn dân chợ, nhà cửa chật chội, chỗ nào mà đốt đống rơm. Chỉ có xứ ruộng đồng như Trà Vinh mới giản tiện và hợp tình hợp cảnh. Trong ngày tát đìa, còn nướng nhiều thứ lắm, tôm nướng trui, cua nướng trui, rắn nước nướng trui. Cho nên cá lóc nướng trui hổng phải là thức ăn

khai hoang Nam bộ

như mấy tay viết xạo ăn tiền chuyên nói tầm bậy. Ðây nó còn thể hiện tinh thần và lối sống giản dị, chuộng phẫm hơn lượng của người Nam nói chung, người Trà Vinh nói riêng, ăn thật ngon mà hổng cần mặc đẹp, chọn thực chất mà hất bỏ màu mè.


Tiếp theo điều thứ hai là mình đã thừa hưởng phần nào văn hoá Khmer, ruộng đồng Phù Nam đã có từ ngàn năm, mắm muối đã thành thức ăn căn bản. Cách ăn cá lóc nướng trui cũng độc đáo vô cùng. Ðừng nói tới chuyện lột da, thoa mỡ hành, cặp rau cuốn bánh tráng, chắm nước mắm me hay cẩm tương, độn đủ thứ hết, hổng hay, mà xin mời quí bạn ăn thử cá lóc nướng trui cặp mắm tép mòng. Chưa có cách nào đạt điểm hạng cao hơn. Cả hai đã cùng một chỗ sanh ra. Mà mắm tép là món chắm quanh năm, cho nên có thể nói mắm tép, nhứt là mắm bờ-ót tép mòng là mẹ đở đầu cho cá lóc nướng trui. Ở quê mình có loại cây mà người Khmer kêu là câysơ-đau, mình kêu trại lại là cây sầu đâu (Xin đừng sửa thành cây

sầu đông

nghe mấy cha nhà báo bá láp), người Hà Nội kêu là cây soan,

Hoa soan bên thềm cũ

của Tuấn Khanh đó. Ừa, hoa soan, tức bông sầu đâu, trụn sơ, làm gỏi khô cá lóc, trộn me chín, ớt chín, và nêm chút xiu mắm tép. Các bạn cố mà tìm thử cho biết rồi sẽ không bao giờ quên. Còn đọt của nó hả, lá soan non ấy mà, cũng bóp dập dập làm gỏi, cũng me cũng ớt, củ hành, nhưng mà phải với cá lóc nướng trui để luôn da cháy cháy xé ra, chắm nước mắm ròng. Bông và lá sầu đâu đều đắng như bông su đủ đực hay dây lòng thông. Ðắng mặn chua cay mà nó tạo nên hương vị ma quái mê hoặc vị giác con người. Ăn một miếng gỏi, nhấp hớp đế hoặc bia 33, mất ngay vị đắng mà nghe nó ngọt ngất mê tơi đó bạn ạ!.


Trên đây là những chuyện hông xưa lắm, cở thập niên 60 của thế kỷ trước thôi, cái thời đã có lai rai máy cô-le đặt chưn vịt ngược để làm

máy bôm

tát đìa, có đèn soi khí đá, nhưng vẫn còn lúa mùa nhiều rạ, mới đó thôi, cái thời chiến tranh đang bắt đầu mà cuộc sống hảy còn sung túc lắm, nhưng giờ nó đã thành xa quá xá xa, xa cả thời gian lẩn không gian. Ðã thành thiên thu. Thôi Hai tui xin tạm ngưng kể để xin tạm biệt quí vị, bà con cô bác cùng các bạn thân mến. Cám ơn quí vị đã bỏ công đọc cái tâm sự lẩm cẩm nồng mùi bùn của một người nhà quê chưa ai quê hơn như Hai tui. Hẹn

quang năm

gặp lại./.

TNT - Người miệt biển thường ví von giống cá chình to lớn ngoài đại dương là “thuồng luồng” biển - loài linh ngư đã đi vào huyền thoại. Chính những câu chuyện liêu trai đầy thú vị xung quanh sinh vật này đã thôi thúc tôi vượt đại dương ra cù lao Xanh thuộc xã đảo Nhơn Châu (Quy Nhơn - Bình Định) để nhập cuộc chuyến đi “chà” “thuồng luồng”.


Truyền kỳ “thuồng luồng” biển


Sáng sớm, chúng tôi đã có mặt ở trạm hải đăng cù lao Xanh, ngọn hải đăng lớn nhất Bình Định lừng lững ngang trời như thách thức thời gian. Trong phòng đại sảnh, nghe tôi hỏi chuyện chình biển, những cán bộ trong trạm chỉ mủm mỉm cười. Tôi biết mình đã đến đúng địa chỉ. Anh Nguyễn Mạnh Tú, Phó trạm hải đăng cho hay: “Thật ra nghề bắt chình biển vốn không phải của người dân đảo này mà xuất phát từ anh em công nhân hải đăng Hòn Lớn (Nha Trang - Khánh Hoà). Năm 1980, anh Sáu (giờ là Trạm trưởng trạm Kê Gà – Bình Thuận) nhìn thấy dân bản địa ăn chình biển, mới biết chúng chẳng độc hại gì nên cũng bắt chước đi câu để cải thiện đời sống cho anh em. Năm 1982, anh Sáu chuyển công tác ra trạm hải đăng cù lao Xanh và nghề bắt chình biển cũng theo anh về “định cư” nơi này”.


Cá chình thường xuất hiện vào mùa êm gió, khoảng tháng 3 đến tháng 7 âm lịch. 3 loại thường gặp: chình dừa màu xanh; chình bông với những chấm màu lam đen trên thân trắng và chình nghệ có chấm đen nhỏ như hạt bắp trên thân vàng. “Thuồng luồng” biển thường sống và kiếm ăn ở nơi có địa thế hiểm hóc, hang sâu trong gành đá, nơi nước cuộn xiết và hiểm trở.


Có hai cách câu chình, cách thông thường là câu gành, hay còn gọi là đi “chà”. Nghĩa là dùng mồi cá tươi, đem mài lên gành đá gần nước có sóng để tạo mùi tanh, “nhử” chình vào vị trí câu. Khi phát hiện chình vào thì thả mồi, chúng sẽ ăn ngay. Lúc ấy, chỉ cần giật mạnh lưỡi câu ngược lên phía trên đầu chình và ghì, kéo chình lên. Đầu chình vừa nhô khỏi mặt nước phải dùng lưỡi khấu móc vào mang hoặc cổ rồi kéo thật nhanh. Sau đó, dùng cây hoặc đá đập cho chình chết. Người câu không được để tay chân mình sâu dưới nước, tránh bị chình cắn.


Cách thứ hai là câu soi, cách này phải lặn xuống biển 4 - 5m (tùy theo độ sâu của khu vực để quan sát, nếu lặn quá sâu sẽ không nhìn thấy chình). Người câu đeo kính bơi bộ hoặc nắm phao, tay cầm lưỡi câu có móc sẵn mồi, được nối với một đoạn dây cước lớn hoặc dây dù, phải có đoạn dây cáp ở phần lưỡi câu để chống răng chình cắn. Khi thả mồi (những miếng thịt cá tanh được cắt nhỏ thả xuống nước), chình bắt đầu đến ăn, người câu giật mạnh rồi hô người trên ghe hoặc bờ kéo chình lên. Anh Tú cho biết: “Chình ngửi thấy mùi tanh mà ra, chứ nó nằm trong hang không nhìn thấy mình. Cách này khá nguy hiểm vì thi thoảng gặp cá mập”.


Chuyện câu chình của anh em trong trạm cũng nhiều giai thoại, có người kiên trì nhử mồi nhưng khi thấy “thuồng luồng” xuất hiện thì hốt hoảng bỏ chạy. Chẳng nói đâu xa, anh Tú cũng từng gặp trường hợp khóc dở, mếu dở với “thuồng luồng” biển. Trong một lần hứng chí đi câu “thuồng luồng” biển cùng người bạn ở bãi sau, hai anh lần ra một gành sâu của bãi, mỗi người ngồi ở một đầu hang. Ngồi mài cá trên mỏm đá sát cái hang chình mà anh thắc thỏm không yên vì hang tối và sâu hun hút. Đang chà, bất giác anh nghe một tiếng động mạnh, chú cá chình nghệ to bằng gàu xách nước ló đầu lên… Anh hoảng quá bỏ về luôn.


“Đột kích” hang sâu...


Gió chiều lồng lộng, tôi cùng anh Trương Thanh Hiền – người chuyên câu “thuồng luồng” biển, dong thuyền thúng ra biển câu dăm ả cá hố – thứ mồi tanh “khoái khẩu” của thuồng luồng. Anh vội vã đem cá ra sau nhà cắt khúc nhỏ, trộn thêm dăm con cá cơm. Vơ vội mớ dụng cụ câu “thuồng luồng”, anh giục tôi lên đường. Bộ đồ nghề khá đơn giản, một lưỡi câu bằng inox (nếu là thuồng luồng lớn thì chơi lưỡi số 5, còn loại nhỏ thì xài lưỡi số 2) buộc vào một đoạn dây cáp thắng xe đạp dài 60cm. Phía trên nối với một đoạn cước dài 1m có con găng bằng gỗ để khi cầm không bị tuột. Một lưỡi câu khấu (là móc thép vuông có chặt ngạnh) cột chặt vào một thanh gỗ khi lưỡi câu móc được chình thì dùng lưỡi câu khấu này phụ kéo lên cùng khúc gỗ dài khoảng nửa sải tay để đập cho chình chết. Đi bộ hết một đoạn đường cát trước biển hơn cây số, chúng tôi bắt đầu leo gành đá. Đúng lúc chân tôi muốn khịu gối vì mỏi thì nghe anh Hiền reo khẽ: “Đến rồi!”. Tôi ngẩng đầu lên quan sát, bên trái là lăng thờ nằm ở lưng chừng núi, bên phải là tảng đá to và những cái hang nước sâu hoắm. Anh Hiền bảo đấy là những hang chình và chui vào ngách đá chà cá làm mồi nhử chình, chốc chốc anh lại vốc ít nước biển tạt lên vách đá, thịt cá theo đó trôi xuống và lan ra. Vừa chà cá, vừa quan sát, anh bảo: “Đi chà vào buổi chiều khi thủy triều xuống, lúc đó nước cạn dần, mồi sẽ không bị loãng, câu được nhiều chình hơn”.


Chờ lâu mà chưa thấy bóng dáng “thuồng luồng” biển xuất hiện, tôi sốt cả ruột gan. Trên trời mây đen vẫn lòng vòng, những đợt sóng biển đập vào càng lúc càng mạnh. Anh Hiền vẫn ngược xuôi hai ngách hang mà chà cá. Màu trắng đục của xác cá cứ loãng dần trong nước biển. Rốt cuộc chỉ còn trơ lại mấy miếng da. Bỗng một con sóng to đập vào phiến đá, nước biển phủ trọn lên bộ xương còm nhom của tôi. Chưa kịp hoàn hồn, anh Hiền đã thét: “Coi chừng, chình!”. Tôi ngoảnh lại, một con “thuồng luồng” to bằng bắp vế, dài cả sải tay đang nương theo con sóng, há hốc mồm với hai hàng răng nhọn hoắt phủ xuống cái tay đang cầm mồi săn của tôi. Tôi điếng người thả vội mồi, nhoài người sang một bên tảng đá thì nghe một cái “cộp”, con chình dữ đã trúng ngay một nhát gỗ thật mạnh của anh Hiền, nó oằn người lao thẳng xuống hang sâu.


Dù không câu được con “thuồng luồng” nào nhưng hôm ấy tôi vẫn được thưởng thức món cari ngon tuyệt. Anh Hiền cho biết: “Dân Sài Gòn chuộng thịt chình biển lắm. Hiện tại, giá chình tại đảo này chỉ 20.000 đồng/kg, nhưng khi qua Quy Nhơn thì gần 50.000 đồng/kg, vào nhà hàng còn cao hơn gấp mấy lần. Một ngày, người đi câu cũng kiếm được vài ba con chình”.


Chuyến câu chiều nay của tôi thất bại, con chình xổng mất… nhưng tôi cũng vui vì đã diện kiến được con “linh ngư” trong huyền thoại.

ý ức tuổi thơ


Ngày đó, phía trước gò Đống Đa, chếch về phía bên phải là một nghĩa địa lớn gọi là “nghĩa địa ta” (nay là khu vực trường đại học Công đoàn và học viện Ngân hàng). Rất nhiều người chết đói năm 1945 đã được chôn ở đấy, có lẽ vì thế mà nghĩa địa này rất cô quạnh, mộ chí sơ sài. Ngay sát bên cạnh, chỉ cách một lối mòn nhỏ do người đi lễ chùa Bộc tạo thành là một nghĩa địa lớn của những người khá giả, gọi là “nghĩa địa tây” với từng dãy mộ xây ốp đá rất đẹp (nay là vị trí toàn bộ trường đại học Thuỷ Lợi). Đứng từ phía trường đại học Công đoàn, nhìn chếch về bên trái, có thể thấy suốt đến đê La Thành còn nhìn chếch về bên phải thì đến tận làng Kim Liên vì thời đó, ở khoảng giữa chỉ là ruộng lúa, ao rau muống, bãi cỏ hoang, đầm cỏ lác... Phia sau gò Đống Đa có nhiều hồ rất lớn và sâu như hồ Bầu Dục (cả dãy phố Thái Hà ngày nay nằm gọn trong cái hồ lớn và dài ấy), hồ Đống Đa, hồ Trung Liệt,… Bên phải gò Đống Đa có một con đường rải đá dẫn vào trường cấp 1 Trung Liệt, bao quanh trường là hồ, đầm ngút ngát. Từ trường Trung Liệt có thể nhìn đến tận đê La Thành (đoạn nối Ô Chợ Dừa với Giảng Võ) hay làng Thành Công. Phía bên trái Gò cũng có một con đường rải đá dẫn vào Trại Nhi đồng Miền Nam (Có thể gọi là trường mẫu giáo chung cho các nhi đồng Miền Nam dưới 7 tuổi theo ba mẹ tập kết ra Bắc. Ngày trước Bác Hồ rất hay đến đây để thăm các cháu nhi đồng Miền Nam vào các dịp 1/6, trung thu, Tết Nguyên đán, tôi cũng đã được vinh dự gặp Người ở trại này) - một ốc đảo dừa xanh mát rượi được ôm ấp bởi những bờ tre dày, bao quanh cũng là hồ, đầm bất tận. Từ phía sau trại Nhi đồng Miền Nam có thể nhìn đến tận đường Láng bên trái hay đài khí tượng thuỷ văn nếu nhìn thẳng.



Sau cải cách ruộng đất, gia đình tôi chuyển đến sống ở gần gò Đống Đa, cái nơi mà mặt nước nhiều hơn mặt đất ấy. Là những đứa trẻ hiếu động, nghịch đứng hàng sau quỷ và ma (mà có lẽ còn hơn) vào cái thời chẳng có gì để giải trí (không TV, không công viên,…) thì trèo cây, bắn chim, câu cá, mò trai, trộm ổi, chơi khăng, đánh đáo,…là những trò chơi cuốn hút chúng tôi không bao giờ thấy chán.



Ba tôi là người nghiêm khắc, nhưng ông sẽ bỏ qua mọi chuyện nếu tôi học giỏi. Ông chỉ hướng dẫn tôi khi tôi thật sự thấy bí và chỉ hướng dẫn cách suy nghĩ chứ tuyệt đối không bao giờ cầm bút giải hộ bài toán. Tôi thích học và học giỏi, luôn luôn đứng trong top 5 từ lớp 1 đến hết phổ thông, điều đó làm ba tôi rất hài lòng, và cũng chính vì thế mà tôi thoát khỏi những trận đòn lẽ ra tôi đã phải chịu (như chấp nhận lời thách đố của đám trẻ, trốn nhà ngủ qua đêm ở nghĩa địa tây để cả nhà phải đốt đuốc đi tìm chẳng hạn). Vì ham chơi nên tôi học nghiến ngấu, thường là tan trường tôi xin phép bác bảo vệ cho nán lại làm hết mọi bài tập về nhà, xong, gấp vở lại, về nhà ăn quáng ăn quàng, đeo ná cao su vào cổ, xách cái cần tre rồi biến đến tận xẩm tối mới về. Quanh nhà tôi cơ man nào là hồ ao như đã kể trên nên những trò mò trai, câu cá, câu lươn, chọc tìm ba ba, tát mương bắt chạch, trèo cây hái quả, bắn chim, vợt châu chấu, bắt cà cuống,… bọn chúng tôi tha hồ mà phô diễn, thoả chí vẫy vùng.



Tập bơi


Sống gần hồ ao, đầm nước mênh mông, ba tôi đã lường trước được điều gì sẽ xảy ra cho thằng con hiếu động, suốt ngày mò mẫm ngoài hồ nếu nó không biết bơi. Một buổi chiều chủ nhật, ba tôi bảo tôi ra hồ tắm với ông. Tôi mừng rơn vì ba tôi thường rất bận, ít khi nào dành thời gian cho tôi. Ra đến hồ ba tôi bảo tôi cởi áo ra chỉ mặc quần đùi, xoa người cho nóng lên theo hướng dẫn của ông, rồi “ùm” ông túm lấy tôi vứt ngay xuống nước. Hồ Bầu Dục có tiếng là sâu, chỗ tôi bị vứt xuống là chân cầu, nước sâu đến 6 mét. Tôi chới với, cuống cuồng vùng vẫy và sặc nước. Ông già vẫn ngồi im hút thuốc như không có chuyện gì xảy ra. Đến khi tôi đuối sức, bắt đầu uống nước và chìm dần thì ông mới nhảy xuống, kéo lên bờ, lau khô nước, chà cho người tôi nóng lên rồi chở tôi đi ăn cháo thịt có hành nóng hổi và không nói gì cả. Buổi tối, biết tôi vẫn ấm ức vì bị vứt xuống hồ, ba tôi vỗ vỗ nhẹ trên đầu tôi và nói “Có xuống nước thì mới biết bơi, có gì mà phải sợ”. Từ hôm đó, tôi quyết tâm tự học bơi. Bắt đầu từ chỗ ôm cây chuối, sau bỏ tay ra bơi kiểu… cún. Đám bạn thấy tôi tập bơi hò reo: “Phải cho chuồn chuồn cắn rốn thì bơi mới thạo”. Thằng Sáu sứt, đứa bơi giỏi nhất đám, vạch rốn cho tôi xem vết cắn của con chuồn chuồn và khẳng định nhờ thế hắn mới bơi giỏi. Tôi là kẻ anh hùng rơm, bảo “chả sợ”. Thế là chúng hò reo cổ vũ ầm ỹ. Không biết chúng kiếm đâu ra một con chuồn chuồn ngô to tổ bố, hàm răng đen bóng phát khiếp, chúng dí đầu con chuồn chuồn vào rốn tôi. Ôi mẹ ơi, nó xơi ngay một miếng đứt thịt, toạc da, nước mắt tôi ràn rụa, phải nghiến răng mà chịu. Bây giờ nghĩ lại còn kinh. Ờ mà lạ, sau đấy tôi bơi khá hẳn, đến 10 tuổi tôi đã bơi thạo và không sợ nước.



Câu tôm


Hồi đó sao mà nhiều tôm thế. Sáng sớm tinh mơ, đám tôm bậu quanh bờ hồ xanh rì. Bọn trẻ rủ nhau vào trại Nhi đồng Miền Nam xin chú bảo vệ cành dừa đã chặt xuống mang về tước lá dừa chỉ lấy cọng làm cần câu tôm, mỗi đứa 10 – 15 cái. Lưỡi câu tôm uốn từ dây phanh xe đạp, bé tí. Dây câu là chỉ, dài hơn 1 mét, đen hay trắng gì cũng được. Bây giờ, đào tí giun nữa là xong. Ra hồ cả bọn chia nhau mỗi đứa một đoạn, mắc mồi, vứt xuống, cắm cần vào bờ đất ngọn cần ngỏng lên, dây căng mắc võng, rồi lại mắc cần khác, cứ thế cho đến hết cần. Có khi đang cắm cần này thì có một trong số cần vừa cắm đầu cong xuống nảy tưng tưng thì chạy ngay đến nương nhè nhẹ kéo con tôm lên bờ. Đặt con tôm vào cái rá có vải màn che, trong rá thả vài cái lá tre, rẩy vào tí nước. Con tôm đất chỉ bằng ngón tay nhảy tanh tách, thật vui mắt. Bọn trẻ chúng tôi chạy ngược chạy xuôi trên bờ gỡ tôm, cắm cần, hò reo quên hết mọi chuyện. Ở một góc hồ yên tĩnh có một bác ngồi câu, bác ấy ra hiệu cho chúng tôi đừng làm ồn vì làm ầm ỹ thì con cá sẽ chạy mất. Chúng tôi nghe lời và chuyển sang phía bên kia hồ để bác ấy được yên tĩnh. Bác ấy ngồi im như tượng, mắt chăm chú nhìn cái phao bé tí chỉ nhú lên mặt nước một chút. Cái cần trúc thẳng băng. Rất lâu chả thấy được con gì. Mãi đến lúc chúng tôi gần về mới thấy bác ấy giật được cá, con cá chạy ngùng ngoằng dưới nước, người bác ấy co lại, tay cầm cần run bần bật, cố hướng cái ngọn cần lên cao. Chạy lại xem, bác ấy câu được con cá chép đuôi đỏ tươi, rất đẹp, một chùm lưỡi bám vào hàm con cá. Lúc bác ấy gỡ ra, tôi mới nhìn thấy cái chùm nhiều lưỡi ấy (đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái lưỡi lục). Bác ấy lau mồ hôi, vê một tí mồi khoai vào sợi cước cách cái lưỡi khoảng nửa gang rồi thật cẩn thận thả từ từ xuống nước. Bọn trẻ chúng tôi lại tản ra cho bác ấy câu. Câu tôm hồi đó là thứ dễ nhất đối với chúng tôi. Chỉ sau 2 giờ câu đã được mớ tôm ngon mang về cho mẹ rim, buổi tối cả nhà khen ngon, bữa cơm gia đình thật vui vẻ. Tối hôm ấy, tôi giở quyển sổ tay chị tôi tặng nhân kỷ niệm sinh nhật tôi lần thứ 7 ra ghi những dòng chữ bằng mực tím nguệch ngoạc: “Nhật ký đi câu” ghi lại ngày hôm nay câu được lũ tôm con ở hồ Chùa. Chị tôi lén đọc rồi cười như nắc nẻ: “Ui trời, nhật ký cơ đấy, mới 7 tuổi ai ghi nhật ký bao giờ, lại ghi về câu với kéo nữa chứ”. Mẹ tôi can: “Đừng làm nó xấu hổ”. Ba lại bênh tôi: “Cứ kệ nó, ghi chép cũng tốt đấy”. Thế là tôi tự tin, ngày nào câu được con gì cũng ghi lại cả.



Mò trai


Một lần, bọn trẻ chúng tôi nhìn thấy một nhóm người ở nơi khác đến, mang theo giỏ đựng cá đan bằng tre hình chiếc giầy, có hom ở cả hai đầu, hai bên giỏ có hai ống nứa. Họ đứng trên bờ quan sát kỹ rồi bảo nhau xuống nước. Họ cởi quần áo ngoài, đàn ông chỉ mặc quần đùi, phụ nữ mặc quần chẽn và yếm. Họ gấp quần áo, buộc thật gọn trên đầu rồi xách giỏ xuống nước. Bọn trẻ chúng tôi tò mò xem họ bắt con gì và tại sao họ lại đội cả quần áo theo chứ không để lại rên bờ. Hay là họ sợ bị mất? Nhóm người kia dàn hàng ngang, lội sát bờ, nước ngang đến bụng và bước đi rất chậm, mắt quan sát bọt tăm nổi trên mặt nước. Thỉnh thoảng một người cúi nhanh xuống bắt lấy một con gì mình nâu bóng, bụng vàng vàng, mình cong vòng, cho ngay vào giỏ nổi lềnh bềnh bên cạnh. À thì ra họ bắt lươn. Hai ống nứa ốp hai bên làm cho cái giỏ nổi lềnh bềnh bên cạnh, họ buộc cái giỏ vào bụng mình bằng một sợi dây nhỏ, đi đâu kéo theo đến đấy. Nhóm người này đi từ hồ này sang hồ khác. Bây giờ chúng tôi hiểu vì sao mà họ đội quần áo theo rồi. Lúc họ nghỉ, đám trẻ chúng tôi chạy lại xem. Tôi hỏi: “Làm sao các bác lại bắt được lươn bằng tay không?”.Một người đàn ông cao lớn, đen chũi cười hiền lành: “Cho cháu thò tay vào giỏ mà bắt, hễ túm chặt được con nào thì cho luôn con đó”. Tôi thò tay vào thử, đám lươn trơn tuột, không thể nào nắm được. Người đàn ông vừa thò tay vào giỏ vừa nói: “xem đây” rồi kéo ra một con lươn. Tôi để ý thấy ông kẹp con lươn vào giữa ba ngón tay, thân con lươn ở trên ngón trỏ và ngón đeo nhẫn nhưng ở dưới ngón giữa. Bàn tay người bắt lươn gân guốc, cứng như sắt. Ông bảo muốn cho tay cứng, về nhà chọc tay vào thùng gạo 1000 lần, mỗi ngày 100 lần, rồi chọc vào đống cát cũng 1000 lần theo cách như thế. Úi chao, chỉ mò lươn thôi mà công phu thế. Những người bắt lươn bảo chúng tôi xuống hồ mà mò trai, họ thấy dưới đấy nhiều lắm và nên lấy chân mà rờ. Chúng tôi làm theo. Ô, quả nhiên là có trai. Con trai nằm dưới bùn theo hướng thẳng đứng, đầu nhọn hơn hướng lên trên cho nên phải dùng chân mà khuơ ngang, đụng trai thì lấy mu bàn chân mà khều lên, cầm lấy, vén áo lên bỏ vào và ôm trước ngực. Cả bọn mò hăng hái, đôi khi mò ra đến chỗ sâu đến ngực. Trai nhiều vô kể, sau vài tiếng là hết chỗ đựng, phải lên thôi. Lên bờ gió thổi mới thấy lạnh, giữa trời nắng chang chang mà lạnh run mới kỳ chứ. Chúng tôi đổ trai lên đám cỏ, so sánh xem đứa nào được nhiều nhất, đứa nào ít nhất rồi bắt đầu chia theo kiểu người lớn: đứa nào có công nhiều nhất thì được lượm con đầu tiên, tiếp đến đứa thứ hai, thứ ba,…rồi quay vòng, tiếp tục như vậy cho đến hết số trai bắt được. Hôm sau mẹ tôi nấu một nồi cháo trai với gừng và rau răm pha chút thì là băm nhỏ, ngon tuyệt, cả nhà xì xụp. Mẹ khen tôi bằng một câu nói theo cách của bà: “nhà có con trai có khác!”. Được khen tôi thích lắm. Để chuẩn bị, tôi tìm một cái rổ cũ, nẹp hai ống nứa nhỏ hai bên làm phao để lần sau đi mò trai khỏi phải ôm trước ngực. Hồ sau gò Đống Đa và hồ Trung Liệt quả là những kho trai vô tận, bắt hết một vòng quay lại lại có tiếp.

Câu rô đồng


Có lẽ bất cứ ai đã từng đi câu thì đều đã câu rô đồng. Có người câu bằng giun đất, có người câu bằng trứng kiến, người khác lại dùng tôm ươn, riêng tôi, tôi chỉ thích câu bằng mồi thính. Thính gạo là tốt nhất. Lấy chút gạo rang gần cháy, giã nhỏ, rây mịn. Lấy cơm nguội nghiền nhuyễn, cho mẻ vào nghiền tiếp rồi rắc thính gạo vào, vừa rắc vừa nhào cho đến khi thành một hỗn hợp mềm, dẻo, thơm, chua ngai ngái. Nếu nhão thì thêm thính, khô thì thêm mẻ hay tí nước. Nếu bấu lấy một mẩu mà vê tròn dễ dàng, không cứng, không nhão là OK. Ra hồ chọn chỗ câu sát mép bèo hay bè rau muống, sâu độ hơn 1 mét trở lên, ném thính rồi chờ. Thính ném tốt nhất vẫn là thính gạo rang cháy, giã mịn trộn tý bùn non và nước. Không có gạo dùng bột ngô hay mỳ sợi cũng được. Có người tỷ mẩn giã củ ráy trộn vào thính để cá rô đớp vào sẽ ngứa mồm nên cái gì thả xuống cũng xơi (tôi thật sự không thích kiểu này). Rất dễ phát hiện khi cá rô đến vì tăm cá rô nhỏ lăn tăn, thỉnh thoảng nổi theo cả bùn loãng vì chúng sục phía dưới. Bây giờ chỉ còn thả mồi và chờ đợi. Cá rô háu ăn, đi thành đàn hay đơn lẻ, ăn mồi thường kéo chìm phao, giật lên con cá gương hết cỡ tất cả vây vi trên mình trông thật hùng dũng. Hồi nhỏ đi câu cá rô thường tôi câu đến hết mồi mới chịu về. Những con rô ron rán vàng lên ăn cả xương thơm phức, còn những con rô lớn, nấu canh rau cải với gừng thì không gì bằng. Nghe người ta nói “Cá rô đầm Sét” là một trong 4 đặc sản của đất kinh kỳ, chúng tôi đã rủ nhau đến tận cái đầm nổi tiếng ấy mà câu. Đó là đầm thuộc xã Thịnh Liệt (ngày xưa có tên là Kẻ Sét) huyện Thanh Trì ở phía Nam Hà Nội. Tôi không phân biệt được mức độ thơm ngon hơn hẳn của cá rô đầm Sét so với cá rô đầm Trung Liệt nhưng điều dễ thấy là chúng to hơn, mình đen và dài hơn rõ rệt. Chỉ đến khi được ăn món cơm nếp cá rô đầm Sét bọc trong lá sen tươi của chính người Thịnh Liệt nấu thì tôi mới thấy hết cái thơm ngon, béo, ngậy không thể so sánh. Trong cả nước, ngoài Thịnh Liệt, Thanh Trì ra, không một nơi nào biết chế tạo món đặc sản này. Ai lại đi nấu cơm nếp bằng nước luộc cá rô, tanh chết. Ấy thế mà với cá rô đầm Sét thì lại không tanh mới lạ.



Bắt cá rô có nhiều cách. Khi những trận mưa đầu mùa đổ xuống, cá rô tức nước rạch đi bốn phương, đội áo mưa mà đi dọc theo bờ ao hồ nơi nước trên đường tràn xuống cũng túm được hàng chục con đang phởn chí rạch cỏ mà đi ngược dòng. Đặt lờ đứng với một nhúm thóc ủ phía đáy cũng là một tuyệt chiêu bắt cá rô. Kéo vó cũng thường đụng anh chàng hiệp sỹ thích lang bạt này. Ôi, cái anh rô đồng! Trong các loài cá nước ngọt, có lẽ anh này thân thiết với con người nhất chăng?



Săn tìm ba ba


Chỉ đến khi người ta tát cạn hồ Bầu Dục thì tôi mới biết ba ba là con gì và cách bắt chúng như thế nào. Hồ Bầu Dục to và dài là thế mà người ta cũng tát cạn được (cả cái phố Thái Hà ngày nay nằm gọn trong lòng hồ Bầu Dục ngày xưa đấy). Hai máy bơm to tướng hút đến gần cả tháng mới cạn. Cá bắt lên nhiều vô kể. Ngay những người đi hôi cá sót lại cũng kiếm được hàng nhiều ký lô. Hôm ra hồ xem hôi cá, tôi nhìn thấy một người đi dưới lòng hồ, dọc theo bờ hồ, bùn lún đến quá đầu gối. Người này vừa đi vừa lấy một cái gậy tre nhỏ chọc xuống bùn. Lâu lâu, người đó reo lên khe khẽ rồi lấy đầu gậy nậy lên một con vật đang rúc dưới bùn: con ba ba. Người này dùng gậy lật ngửa con ba ba lên mặt bùn rồi túm lấy con vật bằng cách kẹp ngón tay cái và ngón tay trỏ vào hai bên hốc háng của nó. Chỉ có cách đó mới tránh được cái đầu có bộ hàm rất khoẻ có thể vươn dài ra của con ba ba. Hôm sau chúng tôi cũng bắt chước lấy mỗi đứa một cái gậy trúc rồi đi chọc ven mép nước. Tôi là đứa to con và khoẻ nhất trong đám trẻ nên tôi xung phong lội ngoài cùng. Chúng tôi chọc đều đặn cây gậy xuống bùn, lỗ này cách lỗ kia gần một gang. Chọc mãi, rồi “bộp, bộp, bộp” ba cú chọc liên tiếp của tôi đều vướng phải vật cản. Không phải hòn gạch vì chọc phải gạch tiếng kêu đanh hơn và tay bị dội lên cứng hơn. Ba ba đây rồi. Học theo người lớn, tôi luồn đầu gậy xuống phía dưới rồi hất con vật lên. Trời ơi, con ba ba to quá, gần bằng cái mũ cát, dễ phải đến 4 kg. Tôi cũng lật ngửa nó ra, bóp vào hõm ở hai chân sau của nó rồi chạy lên bờ. Đám trẻ reo hò chạy theo. Chúng tôi tìm được cọng dây thép bèn trói nó lại buộc vào cái cọc cạnh gốc cây cho đứa nhỏ nhất ở lại trông, rồi cả bọn lại hoan hỉ chia nhau xuống bùn mà chọc. Đến trưa thì chúng tôi bắt được một con nữa nhỏ hơn. Về nhà, thịt ra chia phần cho mọi người, chả nhà nào biết nấu món ba ba cả. Nhà thì nướng, nhà thì nấu giả cầy, nhà thì rim. Nhưng nhà nào cũng khen ngon và lạ miệng. Sau này, áp dụng phương pháp học được, tôi đã kiếm được khá nhiều ba ba ở các vùng đầm lầy khi nước cạn. Tuy nhiên, con ba ba to nhất, nặng đến gần 30 kg thì tôi tham gia bắt được bằng cách câu chứ không phải chọc như thế này. Vụ này rồi sẽ ghi lại ở phần sau.



Bắt lươn


Câu lươn

có cái thú khác hẳn câu cá. Cái thú khi câu cá là giật và dòng con cá còn cái thú khi câu lươn lại là trò “kéo co” với con lươn khi nó đã mắc câu. Thêm nữa, câu lươn chủ động hơn câu cá và đồ câu cũng đơn giản hơn rất nhiều. Được người lớn chỉ dẫn, bọn trẻ chúng tôi xe chập đôi hay chập ba sợi dây cước thành sợi dây câu lươn dài độ gần một cánh tay, chắc chắn và dễ vê xoay tròn. Một đầu buộc lưỡi câu, đầu kia buộc vào một đoạn tay tre nhỏ làm điểm tựa nắm dây khi câu. Lưỡi câu làm bằng tanh xe đạp, mài sắc, uốn lại, chỗ cong chỉ ôm gọn chiếc đũa, không có ngạnh, thân lưỡi hơi dài. Kiếm ít giun đất, cầm theo cái túi vải có dây thắt miệng túi là xong (bộ đồ câu lươn có lẽ rẻ nhất so với tất cả các bộ đồ câu khác). Bây giờ quan trọng là tìm cho ra cái tổ lươn. Thời đó, quanh khu vực gò Đống Đa, ven bờ hồ hay mương, tổ lươn nhiều vô kể. Lươn thường làm tổ sát bờ, miệng tổ có khi ngầm dưới nước có khi lộ thiên, sát mí nước. Đó là một cái lỗ tròn, trơn bóng, nhỏ bằng đầu ngón tay hoặc ngón chân. Lỗ càng to thì lươn càng lớn. Khi tìm được tổ lươn rồi, móc mồi, đặt sát vào miệng tổ rồi lấy tay vê dây câu, vừa vê vừa đẩy mồi vào trong tổ lươn. Nếu nước trong tổ lươn dềnh lên thì chắc chắn trong đó có lươn. Con lươn rất tham ăn, thấy động mò lên, ngửi thấy mùi giun là bập ngay. Bây giờ là lúc mình kéo ra, hắn gồng mình trì xuống. Cố kéo căng dây, đừng mạnh quá kẻo sứt môi và cũng đừng nhẹ quá, con lươn chui vào sâu trong hang càng có thế ghì mạnh. Khi đã dính lưỡi, đa phần con lươn sẽ phải chui ra dần. Khi đầu con lươn nhô ra khỏi tổ là lúc một tay cầm dây kéo ra, một tay khoá bằng ba ngón tay kẹp lấy con lươn mà kéo ra, cho vào túi vải rồi hãy gỡ lưỡi. Vì không có ngạnh nên tháo lưỡi rất đơn giản. Xong thì nhớ thít miệng túi vải lại không có mải câu, lươn lại luồn ra mất. Hồi đó, bọn trẻ chúng tôi đi câu lươn chỉ một buổi sáng cũng được vài kg. Cháo lươn ăn nóng với tía tô, rắc thêm hạt tiêu thì còn gì bằng.



Câu lươn thì nhiều người biết chứ

chặt lươn

thì chắc không mấy ai rành. Vào những buổi tối mang nơm đi soi đèn úp cá tôi phát hiện ra ở những chỗ nước nông cỡ chừng 40 cm đổ lại, nhất là ở những ruộng rau muống nước có khá nhiều lươn mò đi ăn đêm. Không thể úp lươn bằng nơm được, tôi nảy ra ý định dùng dao mà chém. Gặp hôm nào trời mưa vào buổi chiều thì tối hôm đó lươn ra rất nhiều. Mượn một chiếc đèn săn đội đầu dùng pin con thỏ, trời tối hẳn, tôi xách dao và túi vải đi tìm lươn. Ra đến ruộng rau muống, tôi đi thật chậm trên bờ, cúi gập người soi đèn xuống đáy nước, chăm chú quan sát mọi chuyển động bất thường ở phía dưới. Có một cái gì đó động đậy dưới bên cạnh gốc rau, à đây rồi, một con lươn khá to mà tôi chỉ nhìn thấy một khúc thân. Theo chiều chuyển động, tôi đoán đầu con lươn ở phía nào, đuôi ở phía nào rồi vung dao chém xuống một nhát. Một vệt nước toé lên từ chỗ con dao chém xuống, chạy dạt ra xa, vẫn có cái gì đó động đậy bên dưới. Tôi túm lấy, thì ra con dao sắc quá đã chém đứt đôi con lươn, nửa đầu chạy mất tiêu còn mỗi nửa đuôi ở lại. Đến con thứ hai thì tôi nhằm vào khoảng giữa thân, trở sống dao chem xuống, con lươn oằn mình, co cứng nhưng không đứt đôi. Chỉ cần nhặt lên cho vào bao là xong. Ở những chỗ có nhiều lươn, chỉ cần đi 2 tiếng là có vài ký. Thật dễ dàng. Đi chém lươn thường xuyên gặp rắn nước. Khi chiếu đèn, thân con rắn có vẩy phản xạ ánh đèn thành vệt sáng óng ánh còn con lươn thì không nên cũng dễ nhận ra. Rắn nước không có nọc độc nên chẳng có gì đáng sợ. Nói thật, bất chợt gặp nó thì cũng giật mình. Tôi không thích bọn rắn, sờ vào chúng nham nhám, oằn èo, ghê tay. Đi chém lươn buổi tối, tôi được chứng kiến nhiều cảnh lạ mà nếu không tận mắt nhìn thấy thì khó mà hình dung ra. Này nhé, bạn có biết con ốc nó bơi thế nào không? Bạn cứ tưởng tượng con ốc đang bò nhưng không phải trên mặt đất mà là trên mặt nước với hướng ngược lại 180 độ (con ốc nằm ngửa trên mặt nước). Nó giãn toàn bộ phần chân ra, ở mép cong lên như cái nắp chai bia đặt ngửa rồi lấy râu làm chèo mà bơi. Trông lạ lắm. Rõ ràng là chúng bơi với tốc độ rất chậm, chỉ khi nào có gió, con “thuyền ốc” đó mới đi nhanh hơn một chút.



Có người thấy tôi đi câu lươn mới bày cho cách đặt ống trúm bắt lươn. Theo hướng dẫn, tôi đi xe điện vào chợ Hà Đông mua ống trúm. Ngày ấy đi chợ Hà Đông vào phiên chủ nhật cũng giống như đi trẩy hội. Chợ Hà Đông bán đủ thứ trên đời, rất nhiều hoa quả, thực phẩm tươi mà giá lại rẻ. Chính ở đây, lần đầu tiên tôi nhìn thấy quả chay, bẻ ra ăn chua chua ngòn ngọt, lạ miệng. Dãy hàng bán đồ bắt cá rất phong phú từ lưới rải, lưới chài đến nơm, cần câu, ống trúm, giỏ cá, đèn soi cá,… đủ loại. Tôi mua 5 cái ống trúm, buộc gọn lại rồi về. Ống trúm làm bằng nứa, một đầu kín, một đầu hở. Phía đầu hở lắp một cái hom, phía đầu kín cắm ngang một cái cọc để ghim ống xuống đáy hồ. Một vài lỗ khoan nhỏ được tạo ra ở thân ống cho mùi mồi toả ra xung quanh. Mồi dụ lươn là giun đất băm nhỏ. Buổi tối cho mồi vào trong ống, mỗi ống một nhúm rồi đi đặt vì lươn chỉ đi ăn buổi tối. Cứ chỗ nào thấy có nhiều lỗ lươn cạnh bờ mà đặt. Khoảng 7-8 giờ tối đặt, 4-5 giờ sáng lấy lên. Có khi lươn chui vào đầy một ống, nặng chịch. Trung bình hôm nào về đổ ra cũng được đến đầy một chậu nhỏ. Ăn không hết thì cho hàng xóm, không ai nghĩ đến chuyện đem bán bao giờ. Ngày ấy xóm giềng quý nhau lắm, có miếng gì ngon cũng mang cho nhau. Nhưng hình như việc láng giềng quá quan tâm đến nhau nhiều khi cũng không thoải mái lắm.



Câu chạch chấu trên sông


Mùa hè năm 1962 tôi lên Thái Nguyên thăm anh trai tôi đang học về luyện kim trên đó. Biết tôi mê câu, anh tôi viết thư về dặn trước mua mấy thứ ở Hà Nội mang theo như lưỡi câu, dây cước và chì. Chì thì ngày ấy chúng tôi làm lấy, cũng chẳng khó khăn gì. Nhặt tuyp đánh răng đã dùng hết gom lại, cho vào lon sữa bò hay nồi gang nấu chảy ra rồi đổ vào khuôn là xong. Muốn ra hình gì thì làm khuôn theo hình đó, ví dụ quả nho, quả bàng, quả cân,… hồi ấy chúng tôi đã biết cách xỏ một khuyên bằng dây thép nhỏ vào khuôn trước khi đổ chì (thực ra là thiếc) để làm chỗ móc chì. Lên đến Thái Nguyên, vì anh tôi phải đi học hàng ngày nên anh tranh thủ dẫn tôi ra thác Guống trên dòng sông gần trường để chỉ chỗ và cách câu cá chạch chấu. Từ hôm ấy, ngày nào tôi cũng ra sông, câu kéo thoải mái đến cả tuần liền. Con chạch chấu to từ cỡ chuôi dao đến bắp tay, đầu nhọn, mình thon dài, tròn lẳn, thịt rất ngon. Cá chạch chấu có một cái gai nhọn, khá dài mọc ở dưới bụng,nếu không cẩn thận khi bắt rất dễ bị nó đâm bào tay rất buốt. Khi dính câu nó thường cong mình quấn vào dây câu y như con cá chình. Anh tôi bảo dân thổ công ở đây câu chạch chấu bằng cách như sau: đào một vốc giun to (ở ven sông thiếu gì), cho lên miếng gỗ băm cho nhuyễn, trộn với ít đất thành một thứ hỗn hợp nhão nhoẹt và tanh lợm rồi ném xuống chỗ nghi là có cá chạch. Chỗ nào nước chảy mạnh thì trộn thêm ít đá dăm để mùi tanh giữ được lâu. Chạch chấu thường sống ở nơi nước chảy, cạnh chân cầu, trong hốc đá, trong hõm nước trên sông hay trong các khe ở kè đá ở các đập, hồ lớn. Cá chạch chấu là loài săn mồi, chúng thường nấp trong hang chờ con mồi bơi ngang qua là xông ra tấn công. Mắc mồi giun rồi thả xuống chỗ đã ném thính, dùng chì từ 30g đến 50g cho khỏi trôi rồi nhấp lên nhấp xuống. Nếu có cá chạch dưới đó thì nó sẽ ăn ngay. Chúng là loài tham ăn, bụp một cái đã nuốt tít vào họng, giật được nó nếu có mang theo lưỡi dự phòng thì tốt nhất là cắt cước, thay lưỡi mới, như thế vừa nhanh mà con cá lại không chết. Nếu chỉ có mỗi một cái lưỡi thì cách duy nhất là cầm cước mà vung đập chết con cá, lấy kéo cắt lựa theo dây cước mà tháo lưỡi ra, tiện tay xả luôn ruột cá ra ngoài và xỏ lạt treo ra ngoài nắng, không đụng gi đến nước cả vì sẽ rất tanh. Làm như vậy đến chiều, thịt cá sẽ se cứng lại nhưng không hôi. Khi con cá ăn mồi phải nhanh tay giật nếu không nó sẽ chui tọt vào hang và lúc đó chỉ còn cách kéo co với nó. Cứ giữ cho căng cước là nó phải chịu thua.


Tôi dùng cách này câu chạch chấu ở sông Hồng (chỗ cầu Việt Trì), sông Đuống (chỗ đập Phùng), sông Đà (chân đập Hoà Bình), sông Tích (ở Ba Vì), sông Mã (chỗ cầu Hàm Rồng), sông Cầu (Bắc Ninh), sông Thương (cầu qua thị xã Bắc Giang), sông Chu (đập Nông Cống, bến Vạn Hà),… nơi nào cũng cho thu hoạch khá.



Câu chạch chấu trên kè đá


Câu chạch chấu trên sông hay suối có cái khoái là nếu đã tìm được đúng điểm câu thì chắc chắn có cá, con cá khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Tuy nhiên, đi câu chạch chấu ở kè đá bên bờ hồ lớn hay đập cũng có cái hay của nó. Những kè đá mà người ta chỉ xếp đá hộc lại làm kè chứ không trát vữa bít kín hết các khe hở thì thường có chạch chấu. Chỉ cần đi dọc bờ kè, chăm chú nhìn xuống đáy nước, tìm những khe hở giữa các hòn đá và quan sát. Nếu có một cái bong bóng to cỡ đầu chiếc đũa nổi lên là đích thị, có hắn ở trong. Lấy cái cần câu đầu cứng, chắc chắn, dây chắc, lưỡi to, chì bằng hạt đỗ đen thả xuống đúng giữa khe ấy thì con cá sẽ xông ra đớp rồi chui ngay vào hang. Bây giờ là màn kéo co. Con cá sẽ cuộn tròn mình cho cước quẹt vào thành đá sắc làm đứt cước. Kệ nó, chỉ cần giữ chắc, căng cước không để con cá chui sâu hơn vào trong thì thế nào nó cũng phải đầu hàng. Càng xa bờ thì cá càng to, nhưng lúc đó không nhìn rõ khe đá nữa. Chuyện nhỏ, nếu đã biết quan sát tăm cá thì chỉ cần nhìn kỹ nơi nào có cái bong bóng nhỏ nổi lên thì chiếu thẳng xuống sẽ là hang con chạch ẩn nấp. Mắc mồi mới, xỏ con giun sao cho một đầu chờm qua cả khoen chân lưỡi câu, lấn sang phần cước, một đầu còn thừa cách mũi lưỡi câu 1 cm với đầu con giun còn sống ngo ngoe thì tuyệt nhất. Thay hòn chì to hơn cho dễ căn tổ và nhắp nhắp cần. Đầu cần chúi xuống thì phải giật ngay, giữ căng dây ghì mạnh là con cá sẽ chào thua. Câu chạch chấu trên kè đá không cần ném thính vì nước không chảy và khe đá hẹp. Tôi đã câu được nhiều cá chạch chấu ở kè đập Suối Hai trên Ba Vì. Trong các loài cá, tôi rất thích câu chạch chấu vì cách câu đơn giản mà lại rất hiệu quả, thịt cá lành và thơm ngon. Kho chạch chấu chung với thịt ba chỉ, thêm mấy miếng củ cải thái to, dăm sợi gừng và hành tía thì ngon vô cùng, ăn vào nhớ suốt một đời. Thật đấy.



Đến năm 1964, khi Mỹ bắt đầu leo thang ra miền Bắc, tuổi thơ của tôi cũng chấm dứt. Bắt đầu một thời kỳ gian khổ, nhiều khi cái chết cận kề một bên. Ấy vậy mà cái thú câu kéo chỉ tăng thêm chứ không giảm. Tất cả những gì kể trên là ký ức khắc hoạ một thời gắn với những thú vui bất tận, nguyên sơ của riêng tôi ngày thơ bé. Ghi lại đây để các bạn đọc chơi. Thế thôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro