Tạp văn-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thằng điên

1. Hắn đứng nhìn đoàn người chạy. Hắn không biết họ chạy đi đâu và làm gì phải chạy không như bình thường. Hắn cho đây là trò chơi đuổi bắt. Mỉm cười, rồi lại hét to giữa trời, gãi đầu đoạn thủng thẳng đi vô chợ. Chẳng một ai buồn quan tâm về điều nầy, bởi hắn sống thế và làm thế từ bấy lâu nay; thì cái chuyện hò hét, nhảy la, cười nói là không lạ đối với dân cư ở đây. Hôm nay lại khác hơn mọi khi, hắn đứng lặng nhìn. Nét vô tư hiện trên mặt hắn. Lôi Xích Lô cũng lấy làm lạ. Ngưởng cổ ngáp dài, chưởi đổng một tiếng như than thở với trời, đưa tay đuổi con ruồi trâu đậu trên mép miệng, Lôi nói lẩm bẫm: - Mẹ kiếp! đời thật chó má. Không hiểu sao lại kéo nhau chạy như điên. Chạy đi đâu? Không đứng lại để xem cớ gì. Thấy vậy Lôi Xích Lô cũng bàng hoàng theo sự thế. Bỗng sực nhớ bầy con ở nhà đang nheo nhóc miếng ăn, vợ gầy mọp, vạch áo đút cái vú khô vô miệng thằng con cho bú. Lôi hình dung gia cảnh mà kinh hoàng. Ngồi cả buổi chưa có một ''cuốc''. Lôi Xích Lô khiếp!

Trời tháng tư ngập khói, không biết ngọn khói nầy từ đâu bay tới làm cho bầu trời đang xanh trở nên u ám. Những tiếng la thất thanh, những tiếng đồn nhảm, một đồn mười, không nói có, đổ hô, đổ thừa cho nhau, pha lẫn tiếng trẻ con khóc biến cảnh đời thành hỗn mang, vô luật hay đây là chiến thuật tâm lý của cái thời đang giao tranh giữa chó và người dành nhau nắm xương khô. Hắn cho thằng cha xích lô điên, Lôi Xích Lô cho hắn thằng điên; mà thực hắn điên từ lâu. Cả thế gian nầy biết hắn điên.

Chợ mới mở hàng, hắn đứng nhìn nồi cháo lòng bốc hơi, khịt mũi như thèm ăn, mặt lấm la, lấm liếc muốn chụp miếng gan luộc bỏ vô miệng. Chờ chực, lơ đãng, hắn đớp một miếng vừa chạy, vừa la như đuổi kẻ cướp, mụ bán cháo quay người, vói miệng chưởi vào hắn như tát nước, thằng điên cắm đầu chạy giữa bụi mờ. Chẳng ai buồn dõi mắt theo.

-  Mả mẹ nó! Cái phường thất đức. Kẻ chạy xuôi, người chạy ngược lại thêm bọn phá hoại, núp sau lưng đánh với đâm. Kiểu nầy có nước bốc cứt ăn. Mụ Đẽo nói.

Buổi chợ hôm đó nháo lên. Thằng nghèo thì đứng yên coi tình thế ra sao để liệu bề, thằng giàu thì sợ mất của hùa nhau chạy trối chết, bỏ hoang cái nhà mới xây năm rồi, bao nhiêu hy vọng đổ xuống, chẳng phải đứng lại mà cầm cây sào để chống mái nhà. Bửa đó thằng điên đứng lặng câm không nói. Lôi Xích Lô lắc đầu ngao ngán cuộc đời. Một thằng điên, một thằng nghèo có phải cái tội trời hành hay cái tội đời gán cho bọn chúng. Sự thể khi nào cũng dành ưu tiên cho đám người này. Lôi chắc lưỡi lên yên xe đạp đi tìm khách sộp chạy loạn. Y kiếm bộn bạc hôm đó. Thằng điên đi lửng thửng dưới mưa tìm nơi trú ngụ. Cảnh chiều lắng xuống chỉ nghe tiếng súng, tiếng nổ khi gần khi xa, chớp loé như ma trơi. Người trong làng gục đầu bên cây đèn dầu nghe tiếng khóc mưa đêm.

Hơn cả năm qua sanh hoạt chả mấy thay đổi, nghèo lại nghèo thêm. Dân cư vắng dần. Một số phải lên đường trả nợ núi sông, một số lở ông, lở thằng, đội tay đứng đường, chữ được chữ mất lại du nhập mấy cái từ ngụy tặc vô người, đứng lơ láo giữa bãi đời. Phụ nữ trẻ già đều mang gương mặt âu sầu, hình như họ đang chịu đựng đắng cay nào đó trên mảnh đời đang sống. Bầu trời hôm ấy không tươi. Tất cả đổi thay không còn nề nếp như xưa. O Cháu lê bước trên đường chiều từ chợ về nhà. O vừa đi vừa suy nghĩ. Không phải suy tính thiệt hơn mà O suy xét cái vận con người, đổi thay bất thường, thiệt giả bất ngờ. O ngó cái thân O, ngó cái thân thằng con trai độc mà làm O ngao ngán sự đời.

Thôi! thì mặc ai nói nắng nói mưa, O cứ đôi gánh trên vai, hến khô, hến ướt cũng là cơm hến. Có dư hột nào thì dành cho thằng Cự. Nhưng không phải bòn về mà nó ăn, suốt ngày cứ chạy rông ngoài đường, bốc hốt ba cái thứ cơm thừa cá cặn, ăn hối ăn để, có khi chạy dưới mưa như trẻ con chơi nước. Cự đâu còn trẻ con mà đùa vui. Hắn bây giờ cũng quá 25; O Cháu kể qua loa mỗi khi khách ăn hến hoặc ở chợ Riềng hỏi sự thế gia cảnh đời O nhưng O Cháu đâu có ưa chi mấy điều ấy. O ghét ai nói đến Cự. O đành lòng ngậm đắng và đau khổ mỗi khi gọi Cự là ''Cự điên'' như  đời đặc tên cho nó. O Cháu hận lắm.

Năm lên 12, tánh tình và người ngợm trở chứng, bữa tới trường, bữa đi ngơ ngơ như đứa mất hồn. O Cháu nhắm mắt nuôi con tới ngày nào hay ngày ấy. Hắn lên tới 16, thầy Thận xác định hắn bị vương âm hồn. O Cháu không tin thầy, O cho thầy tu mà nói cái kiểu nầy là giết cả đám. Điên sao hắn biết cửa biết nhà, điên sao biết mẹ với con, biết đói biết no, thấy gái đẹp còn liếc, còn dòm, ưa ghẹo. Điên đâu mà điên. O Cháu trách dân trong làng, trong thôn a dua, có ít xít cho nhiều, hùa nhau làm loạn, nuôi ong tay áo giết người vô tội. Hắn có tên hẳn hoi. Chỉ có điều hắn bất mãn cái gì mà sinh ra chứng khùng khùng. - hắn biết tui là mạ hắn. O Cháu nói một mình trong bụng. Thấy con mình vậy lại càng thương hơn. Mặc thiên hạ cho hắn điên hay khùng. O Cháu tự bào chửa cho mình, vì tự ái mà nói lên lời đa ngoa, chứ suy ra trong ngũ tạng máu me của O, thằng cháu gọi bằng O ruột điên-cực-lạc, hết thuốc chửa. Điên bị còng, bị xích. May ở xa một cõi chẳng một ai thân thuộc trong làng Đại Vệ cho nên O dập tắt khoẻ và coi như chuyện thiên hạ, hề nà làm chi. Cự sinh chứng ấy là có ít nhiều huyết thống của O trong đó. Giờ O ngậm nghe. Mà đôi khi Cự tĩnh keo chả thấy điên với khùng. O Cháu nghĩ không ra lẽ âm dương. O lủi thủi ra ngoài chái hốt nắm trú đun miếng nước chè còn dư hôm qua trong ấm nhôm.

2. Duệ ngồi trước cửa nhà O Cháu. Ngồi từ trưa tới chiều mà chẳng thấy một ai lấp ló. Duệ đói bụng; mong O về để ''kiếm chút cháo'' dém vô bao tử. Trời âm u xuống thấp, cảnh nông thôn lúc nầy không còn thi vị như trong sách vở thuở còn đi học, nó đìu hiu và buồn tẻ. Mấy bụi chuối mọc quanh nhà, lá vàng khô rủ dài, la đà xuống tận đất. Duệ nhìn bầu trời, cảnh vật mà xúc cảm về một hương xưa đã mất. Nghe tiếng chân đạp trên lá Duệ mừng, ngóng nhìn, chẳng thấy ma nào cả, chỉ nghe tiếng gió thổi xào xạc qua lùm cây, lát sau mới nhận ra O Cháu lú đầu về ngoài ngõ. Hai bên chất vấn đôi điều đoạn đi vào nhà. Ngọn đèn dầu hà tiện nhả sáng, mùi âm khí lợn cợn trong cõi u trầm. Thoáng thấy một chõng tre và hai tấm ván mộc không chưn ngưạ thả xuống nền đất làm chỗ ăn, ngủ.

- Ăn đoại hến nguội nầy đi. O Cháu nói.

- O có người con trai nay ở đâu? Nghe anh đi tu? Duệ nói.

Cái sự tình của Duệ và O Cháu chỉ có hai người biết. O Cháu không thích ai đả động đến Cự và giờ đây đến Duệ. O chứa chấp Duệ ở trong nhà có lý do kín của O; có điều tra lý lịch thì O nói: - Cho thằng cháu làm thợ mộc ở trong nhà, dân bần cố mà tra với hỏi làm chó gì ; hơn nữa nhà mẹ quá, con điên khoan hồng một chút có sao đâu mà bắt con người ta lên rừng đốn củi, giữ bò - Chơi vậy vô hậu quá! O Cháu sắp xếp trong đầu để tùy nghi ứng xử, mỗi khi có ''ka-ki'' hỏi thăm sức khoẻ. Mà ngặc gặp phải thằng con trời hành, có chất điên trong người, nhưng nói tiêu tội có khi cũng bình thường hơn cả bình thường; cũng biết nghe đờn ca xướng hát, cũng biết nhăm nhi đôi chút, nhưng Cự-điên có cái giỏi mà trong đám nhậu phục sát đất, uống không thấy ''xỉn'', không xì điên, không nói sảng mà ăn nói lại có tình. Rứa mới ngụy! Nhưng rồi tánh nào, tật nấy Cự-điên trở chứng cũ, nhiều khi khùng lên kéo đầu mấy bác, mấy chú, thằng nầy, thằng nọ ra chưởi trổng, chưởi nghe đáo để vô cùng mà hắn chưởi đâu phải chú bác gì của hắn, chưởi ẩu chơi thôi, bất luận chưởi ai, trúng tên ai ráng chịu. Nhiều lúc bà con nghe mà tái-thần-hồn.

- Mẹ nó! chưởi kiểu nầy có ngày đi theo gánh Lệ Thủy không chừng. Rô hớt tóc nói.

- Hết người bắt tù, bắt chi thằng điên nuôi tốn cơm. Cối xe kéo nói.

- Điên có ba loại điên. Cự-điên thuộc dạng điên trí thức thời đại. Biết nhậu, biết hò hát, biết cà phê thuốc lá, biết ngâm thơ. Cự-điên chơi ráo, húp ẩu bất cứ cái gì, chớp được là húp chả e lệ. Cự-điên, điên kiểu ''đại học sĩ'' Bùi Chu đó bây nghe! Đừng khinh, anh hùng đó. Tụi bây nói thì hay nhưng chưởi được như nó không? Hay trịt! Hai Mít nói.

- Nghe đâu mạ Cự-điên bửa ni phá luật, chứa tay thợ mộc trong nhà, nghe giả độc thân. Ở với Cự-điên không biết có điên lây không? Rọm mài dao nói.

- Mạ nó có lý do của mạ nó. Thợ mộc có lý do của thợ mộc. Kệ người ta tụi bây xía vô chi rứa? Thằng đó khác gì mình. Có hắn ở trong làng biết đâu có lợi. Lôi Xích Lô nói.

Đang nhậu ngon, nói ba hoa chích chòe sướng miệng, nhìn quanh không thấy Cự-điên. Cuộc vui của đám lu la còn kéo dài, có thằng xỉn cũng chưởi như Cự-điện. Ở đằng xa dường như có 2 ông đội nón màu lục đi tới tay cầm đèn pin chiếu sáng, canh kẻ trộm. Trời mới ngó vậy mà chừ đã tối đen. Nhà O Cháu vẫn còn lù mù chưa lên đèn. Không thấy Cự-điên mà cũng chả thấy Duệ-Thợ-Mộc, hay họ đợi mặt trời lặn mới về hoặc còn quấy phá đâu đây. Duệ mới ra quân đâu chừng tuần lễ mà nay có mối ngọt, chị Mùi cho gọi vào quán đóng ba cái bàn, cái ghế với kệ kê hàng. Duệ rớt trúng hủ nếp. Duệ cưa đục có vẻ rành nghề, nheo mắt nhắm đường thẳng còn hơn cả thước đo. Chị Mùi liếc mắt cười mỉm. Duệ chưa biết gì dân tính trong làng, trong thôn, trong xóm, ''lính mới nhập ngũ'' nhưng Duệ có hồn nghệ sĩ cho nên ít bàng quan chuyện thiên hạ. Cúi đầu làm. Ka-ki xanh bước vô quán chị Mùi mua một xị về xã nhắm, đưa đôi mắt diều hâu nhìn chị Mùi, rồi nhăn răng cười nham nhở, Duệ hơi ớn mấy vị nầy. Hăng xúc xích lắm!

- Duệ-Thợ-Mộc coi bộ có mòi làm ăn ra. Cối xe kéo nói.

- Rớt vô chị Mùi khoẻ re. Chị ở quá, gặp Duệ-Thợ-Mộc độc thân, lại ra dáng ''dân chơi thứ thiệt'' không chừng hợp rơ với chị Mùi. Hai Mít nói.

- Bà Mùi còn nhớ người tình chưa cưới năm nào. Nghe tết năm Thân giả đi ''bán muối'' dưới La Ỷ. Đi luôn không về. Chị Mùi có để tang. Lôi Xích Lô nói.

Họ đang ngồi ba láp thấy Cự-điên đi lơ lửng như say, gương mặt buồn, tay cầm chai xá-xị không biết đế hay nước lạnh, cúi đầu hướng về nhà. Có thằng kêu giựt Cự-điên, Cự-điên chả thèm nghe. Trong đám văng tục hai chữ nghe dòn tan: - Đ.m. đồ điên.

3. Duệ ở nhà O Cháu với Cự-điên gần 3 năm; trên răng dưới bộ đồ lòng, không hộ khẩu, không giấy tờ tùy thân, dần dà làng Đại Vệ, thôn Diên Văn, xóm Trệt biết danh Duệ-Thợ-Mộc ngọt tay nghề. Chưa tới 3 năm sắc diện Duệ đổi hẳn, có thịt có da, thỉnh thoảng thấy ngồi ngó quán cho chị Mùi đi gội đầu bồ kết. Duệ vô hình chung biến ra ông chủ nghiệp dư ở làng Đại Vệ. Mà lạ 2 năm lui tới với chị Mùi không thấy chị bụng u, thịt nở gì cả. Nhưng những gì giữa chị Mùi và Duệ-Thợ-Mộc Cự-điên biết ráo. Cự-điên có cái khoái đi bắt tôm, mò ốc ban đêm trên sông Cái Rún giữa trời về khuya. Cự-điên trở thành ghiền.

- Duệ dạy tôi hát đi! Cự-điên nói.

- Ừ! để tôi bày anh hát nhưng phải hát thiệt hay đừng phá nghe anh Cự. Duệ nói.

- Duệ đừng đi. Ở đây với mạ tui. Buồn vui có nhau. Cự nói.

- Không có nơi nào để đi và để đến.Vì tất cả không có thật cho nên tui không đi. Duệ nói.

Cự điên rút trong túi ra chai xị-đế, thả xuống đất, rót rượu vào chén sành bể miệng, ép Duệ uống. Cả hai anh em uống không còn thấy điên, họ hò hát như kẻ điên. - Rượu làng Kình phê thật. Duệ nói trong họng. Lúc ấy trời chuyển qua nửa đêm, có sấm chớp ở xa.

Cả hai hát trong đêm vắng. Đang vui bỗng Duệ buồn vì nhớ bài ca Nguyễn Hữu Thiết (người cùng quê với Duệ): ''trong đêm trăng… tiếng chày khuya…'' Duệ nhớ về đồi núi cheo leo năm xưa nơi Duệ đã cùng thề với đồng đội cuối đông năm nào… để rồi chia xa.

Trời bắt đầu rải hạt lấm tấm trên vai hai kẻ chịu tiếng đời. Cả hai ngồi đợi mưa.

Thần dược

Tôi phải lấy vợ thôi chú ạ.

Tối qua tôi nằm mơ… Một đứa con gái mười tám. Trắng lắm. Vú như thế này này… Nó bảo ngủ với nó. Tôi bảo: Hượm đã, về làm vợ anh nhé. Nó cứ nguây nguẩy. Tức quá, tôi quát to: Không lấy anh, chó nó lấy. Thế là nó cúi mặt, chớp chớp mắt… Chết cha mày rồi. Thế là hai đứa yêu nhau luôn.

Tôi cười sằng sặc, ghế và người cùng chổng vó. Vợ tôi cũng sằng sặc từ trong bếp ra:

- Nói phét. Chắc là thích quá, lúc nào cũng mơ.

- Thật đấy mà. Đẹp ối giời ôi! Lão Găng vẫn còn giọng ngon ngon.

Tôi khoái lão Găng. Vợ tôi gần đây cũng thiện cảm với lão.

Gia cảnh lão cũng vào diện có cái để nói.

Vợ mất đã ba năm. Con, ba cô gái đã lấy chồng; theo thứ tự từ cả đến út: Lanh chủ quán cà phê Ban Tím trên thị trấn, Thơm bán thịt ở chợ và Hoa giáo viên mầm non. Mỗi tháng ngoài gạo nước, thịt cá, cám bã; lão được cô cả cấp cho hai trăm nghìn bảo là chè thuốc.

Lão ở một mình với ảnh vợ trên bàn thờ. Nỗi buồn đau đã tạm vơi. Bốn gian nhà gỗ tròn chênh vênh trên taluy. Quá rộng.

Sáng sáng ngủ dậy, việc đầu tiên là cho lợn ăn. Trong tiếng bồm bộp, lão lẩm bẩm: Như mày mà sướng. Việc thứ hai, sau khi đánh răng rửa mặt, quần áo chỉnh tề; lão đứng trước ban thờ mời “vợ” ăn sáng. Người di ảnh chưa già, cứ nhìn đôi mắt, bầu má thì khoảng trên dưới bốn mươi. Hồi còn sống người ấy đi với con, ai cũng bảo hai chị em. Còn lão, thì… hai ông cháu đi đâu đấy. Lão chỉ da da xương xương, còn khỏe chán. Thấy tức tức, lão xuống tấn, gồng tay. Cũng có tí con chuột.

Tôi dạy học và làm thơ. Gần đây in được hai bài ở tạp chí văn nghệ tỉnh. Sang khoe lão, lão bảo: Thơ tán gái. Lí thuyết xuông. Tôi nóng mặt, cầm quyển sách chưa gấp trang, về. Dại, nói với bức vách.

Tôi giận mất ba hôm, thì hôm nay lão sang kể giấc mơ với gái mười tám như trên. Đợi vợ tôi vác cuốc khuất cổng, lão ghé vào tai tôi, mặt quan trọng: Chú đi với anh nhé. Đi đâu? Hỏi vợ. Ai? Cái cô mười tám ấy.

Tôi lại một phen cười, nói trong “đau bụng”: Em thì thơ tán gái, lí thuyết xuông; còn bác đi hỏi người trong mơ làm vợ. Hòa nhé… Thôi dẹp, đến giờ bác cho lợn ăn rồi đấy. Tôi đắc ý, chơi lại lão một vố. Nhưng không, lão xua tay: Thật! Nói phét tôi làm cái giẻ lau nhà chú. Cái đứa trong mơ là một đứa… Tôi biết rõ nhà, con ông… ở San Pa Pai. Chú sẽ thay mặt anh, bảo hoàn cảnh như thế… như thế… muốn một người vợ. Em làm ông mối á? Đại loại thế, gì chú cũng thầy giáo nói năng văn hoa, rõ ràng.

Chết cha tôi rồi, vào đấy kiểu gì chả dính phụ huynh… Có khi “em” của lão lại chính là học sinh mình. Lúc ấy thì đẹp mặt thầy Du nhẩy. Tôi đực người, nghĩ cách. Trong khi chưa nghĩ ra cách gì tôi hỏi: Thế nó thật là mười tám không? Không dám chắc, nhưng có hơn thì cũng vài ba tuổi. Làm cháu chưa được còn làm vợ, lúc ấy vênh váo lại khổ bác. Thôi bác ạ, bác có ý định lấy vợ em không phản đối nhưng từ từ chọn bà nào cân xứng một tí. Thị trấn này chả ma nào nó dám mình. Sao lại không, bác còn khỏe, một mình một nhà… Nhất định sẽ có, em sẽ tìm giúp bác.

Tôi chù chừ thế thôi, tôi mà giúp được! Viết thì có nhõn hai anh tre trẻ hội văn nghệ bảo hay… Còn mồm ra kém lắm; nhát gừng, nhát giềng. Chuyện tình duyên phải dẻo, đầy trai nhìn phát nôn thế mà kiên trì hót, gái trong buồng phải chạy ra.

Chú là cái thằng nhát chết. Thôi, cứ ở nhà mà hầu cái đám thanh tra thanh mẹ nó đi. Việc tôi, tôi tự lo. Lão lột mặt tôi, phơi trần lí do. Lão về, không khí có vẻ nặng.

- Vừa nãy bố với bác Găng chửi nhau à?

- Đâu. Bố bao giờ chửi nhau với ai.

- Con chào bác ngoài cổng, bác bảo về mà chào cái thằng bố mày.

- Không phải chửi nhau mà chuyện bác Găng…

Tôi kìm lại được, trẻ con không nên cho biết. Hay là con giúp bố… dạo này bác Găng bác ấy cứ thế nào. Thế… thế… Bác đi đâu thì đi theo. Hai bố con tôi ngoắc tay.

Lão không sang nhà tôi. Tôi kiễng chân ngớn cổ, trên hàng rào dâm bụt. Vẫn đang ngồi. Soi gương. Giơ trái, phải, lùi xa, tiến gần. Có tiếng lợn bộp bộp. Sao lại cho ăn trưa. Thôi chết, có khi sắp đi. Tôi gọi thằng con, không có nhà. Ra đường gọi, nhìn, không thấy. Túi quần tôi chợt rung lên… Alô thầy lên dạy ngay tiết một nhé, cô Loan đẻ. Tôi cuống cuồng mặc quần áo, xách cặp. Xe vừa nổ máy đã phóng. Phụt khói tức.

Tối hôm ấy nhà tôi được một phen tán loạn. Thằng con đi đâu không về. Người lên đài truyền thanh nhờ thông báo. Người dò tìm nhà những đứa con hay chơi. Người nhảy xuống các đầm ao khoắng… Mười giờ, các ngả về, mặt ai cũng có tang. Vợ tôi khóc ới con ơi… chưa hết câu thì thằng Thanh vót một cái qua bậu cửa: Con chào bố mẹ. Mẹ ôm chầm, bố sờ nắn. Hoàn hồn, tôi quát: Đi đâu mà giờ này mới về. Con vào San Pa Pai. Tôi giơ tay định tát thì nó bảo: Bác Găng ngủ trong đó rồi… Tôi à lên một tiếng. May vợ tôi không hỏi gì.

Tiếng lợn éc, rồi cả con đâm sang bếp nhà tôi. Phải gió, về nhà mày đi, vợ tôi bộp que củi vào lưng thằng lợn. Bác Găng ơi! Sang bắt lợn không em thịt đây này. Im. Queng, vung văng, nồi cơm nguội ụp. Pộp pạp. Giời đất ơi, cho lợn sang ăn sáng nhà người ta à…

Chửi, than, dậm chân bình bịch. Tôi tung chăn dậy, thế là toi một buổi không có tiết.

Về đi… thế thế… ngoan nào. Tôi nhẹ nhàng lùa lợn. Vợ tôi chống nạnh nhìn. Thị kinh ngạc… cái tay từ từ xuôi xuống đùi. Thị chưa bao giờ dám gọi chồng dậy, thế mà lợn gọi dậy được. Thôi anh cầm luôn cả nồi cơm “ăn dở” sang bên đấy.

Tôi thành gã chăn lợn, nói rối hộ.

Chăn lợn. Việc đầu tiên là cắt cái áo phin từ năm mới ra trường của tôi ra, bện thành sợi dây. Buộc chéo từ nách lên cổ lợn. Xong cái “chuồng dây” bên gốc muỗm. Việc thứ hai, cho ăn. Không kể nồi cơm nguội sáng ấy, cám trong thùng nhà lão còn đúng ba bữa. Bữa thứ tư, tôi ứng. Bữa thứ năm, eng éc rung cây muỗm. Hoa (con út lão) đến, xách một túi cám con cò. Bố cháu đâu? Bố mày lên chợ mua thuốc lào. Tôi nhận túi cám, hòa sống. Tiếng bộp bộp vang lên.

Tôi đã nói rối rồi, đứng về phe lão rồi. Về nhà khẳng định thêm một lần nữa… Vợ tôi hỏi: Anh làm gì mà như thằng ô sin ở bên đấy. Đáp: Giữ lợn cho bác Găng buộc. Thích lợn sang đây ăn cơm không?

Mấy hôm liền vợ tôi mải đám nương, không hỏi han, căn vặn. Tôi thấy vui vui việc chăm lợn… và lo cho lão Găng. Có khi bố này ở rể, già cả không phải xuống ruộng lên rừng nhưng đại loại lấy lòng bên ngoại. Như tôi, hồi tìm hiểu, tối nào cũng đến nhà nàng bóc sắn hộ, thống kê chắc cũng dăm tấn.

Không có tin tức gì về lão Găng. San Pa Pai, người ta vẫn ra chợ, lớp tôi có ba học sinh. Lắng nghe, chả ai nói gì. Tôi không dám hỏi.

Ối giời ôi có người chết dưới rãnh. Tôi chạy từ trên giường, hình như dẵm vào chân vợ. Lão Găng. Tôi sờ ngực, tiếng thình thình đẩy lên. Tôi xốc lão dậy, ật ưỡng dìu vào nhà. Vợ tôi cho lão uống nước gừng. Tôi nắn chân, xoa bóp cũng bằng gừng. Lão mở mắt nói một câu như thế này: Một lần rồi chết cũng đáng. Khuôn mặt lão rạng rỡ. Vợ tôi cảm động, đang đi nấu cháo. Lão hỏi: Xe đạp có việc gì không? Tôi đáp: Bánh trước mới vành số 7 thôi. Nhanh cũng phải một tháng nữa mới cưới, tôi đi bằng gì. Lão lại nhắm mắt. Tôi lay lay bảo: Tí em tháo bánh trước xe em, cho hẳn bác. Yên tâm nghỉ ngơi đi. Lão lại mở mắt.

Buổi chiều, lão vén áo, vuốt vuốt bập bềnh đám xương sườn: Chỉ xước nhõn chỗ này. Chân tay êm ro. Lão chạy chạy, mồm hô: 1, 2, 3, ha… ha… ý bảo tôi ổn chưa. Chú em biết tại sao anh lao xuống rãnh mà không việc gì không? Cao người chả bán được chứ sao… Nhầm. Thần dược đấy. Chú có biết không… Sướng không thể tả nổi… Tôi bay về nhà báo tin cho chú… Chú làm thơ tán gái, vứt mẹ nó đi, viết cho anh một chuyện. Đầu tiên anh gặp cô ấy ở… Anh đi theo, biết rõ nhà… Anh gặp ông bố… Anh bên cô ấy… Không chịu… Mãi đến một đêm… Sướng không thể tả nổi…

Tôi chưa bao giờ viết truyện ngắn. Toàn thơ là thơ:

Anh nhìn thấy em tắm suối/ Ghen với con cá con tôm/ Đùa nô trên tòa thiên nhiên hùng vĩ/ Anh ước thành con cá con tôm…

Đại loại lãng mạn thế. Giấu vợ tít trong quyển sổ bằng bàn tay để trong tập lí lịch viết hỏng.

“Chú viết cho anh một chuyện!”. Lần này thì trốn đằng trời. Văn học ơi ít nhất mày cũng phải làm một viên B1 chứ. Thầy Du ơi, ai ngồi với thầy cả buổi, cho cười chảy nước mắt khoái trá. Ai mấy lần “được” nói chuyện với sếp, phải săn thời cơ, phải túi quà…?

Tôi dặn đi dặn lại lão: Tuyệt đối không để lợn kêu. Lão hỏi để làm gì. Tôi bảo à quên nếu vợ em về thì bác sặc thuốc lào một cái… Hụ hụ như thế này này.

Tôi ngồi trước tờ giấy trắng. Em ở đâu? Nghĩ ra cái tít rồi, vẫn không dám đặt bút. Tôi thấy dòng chữ trên khoảng không. Một chàng trai, không một trái tim khao khát yêu thương đang dò dẫm, con đường mới mở, đất đỏ bết. Có tiếng chào ông đi đâu. Giọng nói trẻ trung cất lên trong nắng mai: Tôi đi tìm hạnh phúc. Tiếng xích líp reo vang bình minh. Chòm râu bay bay...

Độ một giờ trưa thì chú cho lợn ăn hộ tôi nhé. Cám tôi hòa sẵn trong cái nồi ở bếp ý. Vâng, thôi bác đừng nói nữa. À quên, bọn chúng nó đến thì bảo tôi lên chợ mua thuốc lào nhé. V...â...ng, bác đi thì cứ đi đi. Tôi đã bắt được mạch cảm hứng. Loáng thoáng nghe và loáng thoáng trả lời.

Bây giờ thì tôi chỉ việc cầm lái cho bút đi đúng dòng. Băng, lướt trên đại lộ tình yêu. Tèn tén ten em về với anh. Hai ta bốn gian nhà tranh, pháo mừng tiếng lợn vỗ tay ngoài máng. Tình yêu không là năm tháng, một ngày cũng là thần tiên. Tôi hát, ngân reo và đọc lại, đọc lại. Chỉ cần sửa mỗi cái nhan đề: Em ở đâu? thành Em về với anh.

Xong cái truyện ngắn (Chẳng biết có phải không?). Xin đọc lại lần nữa..

Ổn. Nhưng đoạn cuối sao gờn gợn.

Em ơi! Chúng mình vẫn nuôi lợn...

thô quá. Tình yêu ai lại nói thế. Thay đi. Em ơi! Chúng mình nuôi tình yêu hòa hai mái tóc. Được. Hợp cảnh hợp tình, nó nói lên được cái khao khát đã thỏa. Tôi chấm (.), tô vòng tròn thật đậm. Ngả người châm điếu thuốc. Khói bay mơ màng sung sướng, y như mình lấy được vợ mới.

- Ra đẩy hộ bao thóc cái!

- Chết ở trong nhà rồi hay sao!

Tiếng the thé của vợ. Hình như xe đổ. Đổ thật. Tôi chạy ra. Thị nằm đè lên bao thóc, bánh xe; hai chân giãy giãy. Tôi kéo tay vợ, để nhẹ bên hàng rào. Cởi dây chun, ì ạch lôi cái bao ra. Dựng xe.

Giải quyết xong “sự cố”, tôi len lén vào bếp nấu cơm. Muốn nhanh, đổ cho tí dầu, bếp bùng lên. Khói dầu sặc sụa.

- Giỏi nhể! Tôi biết ngay mà. Ông lên đây! Lên ngay đây!

Mặt thị đỏ gay, cú ngã xe vừa nãy và tờ giấy trên tay. Tôi giằng lấy tờ giấy. Thị gạt tay, khỏe như Minh Vượng. Tôi cúi mặt nghe tuyên án… Không ngủ cùng, bảo soạn bài khuya. Không đi đâu cùng, bảo bận. Không chuyện với vợ mà cứ hi hí ở trên phòng… Giờ thì còn chối nữa không. Con nào… con nào… Giời đất ơi, tôi thức khuya dậy sớm hàng xay hàng sáo để nuôi nó theo gái.

Thị tru lên từng hồi. Hai tay giơ lên, đập xuống thảm thiết. Tôi chạy vòng quanh: Tôi xin! Tôi xin! Khe khẽ cái mồm chứ. Chả phải khẽ gì sất… Ối giời ôi có thầy giáo theo gái…

Đến nước này thì tôi phải “vũ phu”. Tôi bịt mồm thị, thị giãy giụa. Tôi ghé sát vào tai: Mẹ mày nhầm rồi. Đấy là chuyện của lão Găng. Sắp lấy vợ đấy. Không tin, làm sao nhời nhẽ như trẻ con yêu nhau thế. Thị không giãy nữa, giọng đã nhẹ. Tôi bồi tiếp: Lão Găng được đấy, một mình mò mẫm thành công rồi. “Ấy” rồi. Ở đâu? Trong San Pa Pai ý. Đẹp lắm, đúng là trời thương. Thế anh nhìn thấy rồi à? Đâu, lão ấy về tả thế chứ.

Tối, lão Găng về sớm. Tôi nghe tiếng điếu cày, chạy sang. Tôi hỏi: Tiến độ đến đâu rồi? Lão bảo: Đã xong hết phần nhà gái. Bố mẹ, anh em, cô ta đồng ý. Nhưng… bây giờ mới khó, ba đứa nhà tôi chết cũng phản đối. Thì cứ nói thẳng: chúng mày có hạnh phúc của chúng mày. Tao cũng phải tìm hạnh phúc của tao. Không được, rồi mặt chúng nó như cái lệnh… Tôi chịu được nhưng cô ấy trẻ người non dạ. Bỏ về là tôi chết. Lão Găng ngả người, cổ treo trên thành ghế, hai mắt mở to. Lão đang tìm cách giải mâu thuẫn - Hạnh phúc các con, hạnh phúc bố. Im lặng, một con nhện rơi xuống bàn. Cái này phải nhờ nhà em, món thuyết khách tình duyên nó làm được đấy. Ừ, mai tôi sang nói với thím ấy. Ông cầm cái điếu nhả khói. Tôi cũng bắn thử một điếu.

Tôi về nói ngay với vợ. Vợ tôi giãy nảy. Tôi phân tích, dẫn chứng, vợ tôi xuôi xuôi… Được, em sẽ cố gắng.

Sáng hôm sau, vừa bảnh mắt thì bên nhà lão Găng ầm ầm.

- Bố giở chứng rồi. Còn sống được mấy nỗi. Thử hỏi bố còn thiếu cái gì? Tiếng cô cả.

- Con xin bố. Cố nhịn đi. Vợ nữa lằng nhằng phức tạp lắm. Tiếng cô hai.

- Thôi, dứt khoát là không. Nếu cố tình, cắt gạo tiền. Lấy về tự mà nuôi nhau. Tiếng cô út.

- Thôi bố ạ… Cần thì tối nay con điều cho một đứa quán con xuống. Chỉ sợ phải khiêng bố đi viện thôi. Lại tiếng cô cả.

Ghê quá. Tôi vào nhà. Lão Găng như con gà rù ngồi xổm trên ghế. Chợt lão đứng phăng dậy, quăng cái ghế đánh rầm vào cánh cửa:

- Tiên nhân chúng mày. Tao còn sống, tao có quyền quyết định đời tao.

Lão khóc hu hu. Tôi ôm lão, tôi cũng rung lên.

Ba cô gái biến. Cô cả nguýt lại một câu: Từ mai lên nương mà cày cuốc nuôi lấy tình yêu.

Hỏng rồi. Tôi than thở. Hay là để thư thư cho tình hình dịu lại đã bác. Không được, ngần này tuổi đầu, tôi không phải thằng Sở Khanh.

Tối đó, vợ chồng tôi đi ba nhà con gái lão thuyết phục. Không căng thẳng, nanh nọc nhưng vẫn một hai lắc đầu. Vợ tôi nhũn nhặn đến không ngờ, bảo một câu kinh điển – Con nuôi cha không bằng bà chăm ông. Tôi bảo dầu sao việc bố cháu lấy vợ vẫn diễn ra. Lấy thì kệ ông ấy, chúng tôi hết trách nhiệm. Tôi thộn mặt, nói ngu quá.

Đám cưới lão Găng vẫn diễn ra. Thực chất chỉ là năm mâm tại nhà gái. Nhà trai có bốn người: Vợ chồng con cái nhà tôi và lão “ông rể”. Tôi vào vai trưởng nhà trai, có nhời. Lúng búng, ngượng ngập, đến những từ ngữ không né được đành nói trống không. Vợ tôi cướp “diễn đàn”: Bác Găng đây, hoàn cảnh thì gia đình ta đã biết. Thôi hạnh phúc không có sớm muộn, mong tất cả chúng ta cùng yêu thương vun vén. Hay. Tôi nhìn lão Găng, ông bố bà mẹ, cô dâu nét mặt đã tự nhiên.

Tối mịt thì đoàn lấy dâu về. Mãi không ai nói với ai. Đến suối, tôi mới pha một câu: Chú rể phải cõng cô dâu chứ. Nào ghé vai vào, lại gần đây, tôi kéo cả hai người. Cháu đi được, chú kệ cháu… Vợ tôi nắm tay tôi lùi lại: Tiền cỗ lão Găng chắc phải vay ngân hàng nhỉ? Ừ, khổ thân lão, chết không biết có trả được hết không. Tôi thở dài. Vợ tôi ghé vào tai: Năm triệu rồi, không lo. Năm triệu nào? Hôm qua em lên chợ, con Lanh gọi vào quán, đưa một bọc bảo cô lo giúp chúng cháu. Thôi cứ cầm hộ đây, hôm nào nói với lão. Có thế chứ. Thế sao chúng nó không đi. Ai dám lộ mặt, hỏi anh nhé, bây giờ anh cưới vợ… em đi có mà mặt dày một mét.

Gần đến nhà, vợ tôi rảo chân lên trước. Lão Găng về bật điện, lấy chai rượu, rót. Vợ tôi sang, ôm cái chiếu: Nào đặt ai dải giường chưa. Thôi, thím cứ làm, đại khái thôi. Đại khái là thế nào, hạnh phúc nào chả giống hạnh phúc nào.

Chúng tôi cùng ngắm cái giường. Đôi chim bồ câu trong trái tim giữa chiếu mớm mỏ nhau. Lão Găng nhìn giường, nhìn cô vợ. Thế là từ nay em không phải cho lợn ăn hộ nữa. Tôi nói, vợ tôi lườm. Lão Găng vột vạt: Chết! Nói mới nhớ. Từ sáng đến giờ chưa cho ăn. Sao nó không kêu nhỉ? Thì tất cả phải cùng cho xong việc lớn đã chứ. Cô vợ lặng lẽ xuống bếp, một lúc quay lên hỏi: Cám ở chỗ nào… nhỉ. Đừng nói trống không, phải bảo:

Anh ơi cám ở chỗ nào anh nhỉ. Cô ta đỏ mặt.

Bây giờ tôi mới nhìn kĩ cô. Cao, gầy, ngực phẳng, đuôi mắt đã nhíu nhíu. Chỉ đôi má hồng lên thèn thẹn. Tên là Man phải không bác nhỉ. Ừ. Hôm tối bác ngủ lại trong ấy, trai cả bản kêu khóc như ri: Thế là mất em Man rồi. Lão cười, nghiêng đầu nhìn vợ như báu vật.

Từ hôm ấy lão Găng có tên là Găng Man. Như bao vợ chồng khác tên kép: Hùng Lan, Tuấn Thanh, Minh Lệ, Dũng Hiền…

“Giữ ý đấy, tuần trăng mật không sang nhà lão”. Vợ tôi dặn. Tôi cười: Có ở nhà đâu mà sang. Thế đi đâu? Lên đồi lấy rau lợn. Cả hai à? Ừ, vợ mới mà.

Tối về, họ ngủ sớm. Một lần thấy lão đánh răng ngoài giếng, tôi tẫm tợt nói sang: Mải vui quên hết anh em nhỉ. Thì sang chơi… Lão nói khi đã khuất vào trong nhà.

Tôi sắp quên thói quen “ngồi lê” với lão, thì một buổi vợ tôi vào bàn kéo tôi ra bờ rào.

Ọe… ọe… ọe. Cố lên em. Tiếng hổn hển. Tiếng vỗ vỗ ngực.

Lão Găng tay ôm bụng vợ, tay vuốt ngực. Tại anh đấy. Em bảo để sang năm cứ đòi. Thôi chiều nay em nằm im trên giường, tuyệt đối không được ra gió. Thế anh bỏ em một mình á? Ứ đâu. Cô bé ngốc ơi, anh đi kiếm cho em một con cá chép...

Vợ tôi nhìn tôi, tôi nhe răng. Tình yêu của mình hai mươi năm trước cũng có “Ứ cần đâu!”. Vào nhà, vợ tôi hỏi: Mới cưới được một tuần, hay là của người khác rồi? Linh tinh, tính từ hôm lão ở rịt trong đấy cũng hơn tháng rồi. Thế à? Mạnh nhỉ. Chuyện... ai mà chả mạnh.

Tối ấy vợ chồng tôi mang chục trứng gà sang thăm, nhân thể nói chuyện năm triệu của các con lão. Vợ tôi ngồi giường với Man. Tôi với lão ngồi bàn. Một lúc thì ba cô con gái đến. Tôi thủ thế... sẽ nói một câu. Một câu thôi, thật sâu cay.

- Con chào bố. Cháu chào chú... Em chào chị. À cô ở đây nữa, ngoài đường vào quáng mắt quá.

- Con đổ gạo vào thùng rồi nhé. Làm sao nồi thịt kho mặn thế, bố tiết kiệm à.

- Bố làm chuồng lợn rồi à. Khéo tay ghê.

Tôi lặng im quan sát. Ba cô con. Rồi lão. Lão bảo chúng mày uống nước, nói chuyện với dì. Dì. Ba đứa cùng nhìn, mặt mắt căng lên.

À quên con mang chai rượu thuốc cho bố. Cô cả nói và đặt chai lên bàn. Vợ tôi bảo nhất bác Găng, đúng là con gái rượu. Lão Găng bảo tôi chỉ uống trước lúc đi ngủ lưng cốc. Cô hai, cô út chạy lại bàn thì thào vào tai lão. Lão bảo ờ.

Ba cô về. Vợ chồng tôi về. Vợ tôi bảo chỉ lo chúng nó xé xác cái Man thôi. Tôi bảo xé xác thì cho một chày.

Trưa hôm sau, lão Găng mang nửa chai rượu sang nhà tôi. Tôi bảo nhà em còn đầy hai bình. Lão xua tay: Thần dược, một người uống hai người vui đấy. Tôi rót luôn hai chén, chúc mừng lão: Như vậy là hòa bình rồi nhỉ. Lão lắc đầu: Chưa. Làm sao? Man nó cứ đòi về, không cho lại bắt vào ở trong bản với nó. Đừng, cứ ở đây, mọi chuyện dần dần giải quyết. Khó quá, đấy chú thấy mặt mũi chúng nó tối hôm qua. Thôi kệ mặt mũi, con cái nào bỏ bố.

Tôi và vợ tôi làm sợi dây giữa vợ chồng lão và con lão. Sợi dây ấy đang ngắn lại, nhưng mãi không hết sợi dây.

Thời gian trôi. Tám tháng sau lão có con trai.

Lão ru con:

Ngày tháng

a

năm dài

a

lê thê

ý a

Anh bốn

ý

gian nhà gianh

ới a

nghe tiếng bước chân mình

Em ơi

a

nước mắt tân hôn và

ới a

nước mắt tái hôn

Chúng ta

này là

sẽ hát bài ca bình

y

minh và

a

xế chiều...

Lão ru lão. Tôi chạy sang. Trời đất! Văn xuôi ai đi ngâm. Liều quá. Lão nói giọng thằng cu: ú ẳng o ố on ình âm ỉ (chú chẳng cho bố con mình ngâm nhỉ). Thế thì chú chuyển thành thơ cho anh hát; thằng cu có vẻ khoái đấy.

Tôi định nói sao bác bảo thơ em toàn thơ tán gái... nhưng thôi.

Thơ ơi lão già đang cần thơ lắm.

Tôi sẽ nói với các con lão điều này.

Thần tượng (truyện ngắn)

Hắn dốc ngược bó hoa như người ta cầm chân con gà chuẩn bị cắt tiết, đưa một tay còn lại ra đầy kiểu cách. Tôi tránh xa chỗ hắn chỉ, ngồi xuống sau chiếc bánh ga-tô to ngất ngưởng như một núi kem, mút ngón tay bị gai cào.

Những người bạn đến sau của em đã ổn định chỗ ngồi. Một chàng trai gầy gò như chú nhóc cấp 3 bên cạnh một cô sồ sề, tóc sấy xoăn tít, son phấn bự mặt, một tiểu thư váy len và giầy búp bê, trắng nuột bên cạnh một người ngoại quốc cao to, mũi chảy dài như quả bầu; một người đàn ông trung niên hiền lành và bối rối; một vài người bạn của nàng từ thời sinh viên, tròn mắt nhìn tôi đầy ngạc nhiên và thốt lên mấy câu xã giao, khiến thằng mũi bầu quay lại, nhìn tôi chằm chằm rồi cười hô hố. Tôi khó chịu trừng mắt lên nhìn, nó quay lại thì thào gì đó với tiểu thư, nàng giơ hai nắm tay nhỏ xíu hồng hào lên đấm đấm nũng nịu rồi chúi vào tấm lưng to bè như gấu của gã mà cười. À, thì ra động tác mút ngón tay của tôi khiến nó nghĩ đến một hành động thô tục nào đấy. Bất giác tôi cũng bật cười, cười ngặt nghẽo.

Đôi môi nàng chu lại, đỏ mọng như một nụ hồng hàm tiếu trước những que nến. Phụt tắt, bóng tối vỡ tung tiếng vỗ tay, tôi nghe thấy có tiếng tiểu thư kêu ré lên, đèn vụt sáng, tay thằng mũi bầu vẫn đang chơi vơi giữa khoảng giữa eo và cổ tiểu thư. Nó vội rụt tay về sửa cà vạt, chiếc cà vạt như kẻ một đường nối từ mũi nó xuống bất tận. Hắn cầm tay nàng xắt miếng bánh đầu tiên như trong các phim của Tây, tiếng vỗ tay, tiếng huýt sáo đầy phấn khích. Cụng ly, chúc mừng, kẻ nói người cười rôm rả, tôi cũng tự dốc tuột ly rượu vào cổ một cách sỗ sàng. Ngay lập tức, hắn khoác tay nàng, mà chính xác là lôi xềnh xệch nàng đến bên tôi, điệu nghệ nghiêng cổ chai xoáy một đường rót thứ rượu sóng sánh vào cái ly rỗng không của tôi.

- Nào, hãy nâng ly chúc mừng chúng tôi.

Tôi lầm lì ngồi yên tại chỗ và gườm gườm nhìn hắn khiến cho bao nhiêu ánh mắt xung quanh đổ dồn. Mặt nàng tái dại đi, nàng luống cuống như muốn chạy nhưng hắn vừa dùng hết sức kìm nàng lại vừa nghiêng đầu chờ đợi. Nàng như một con gà vùng vẫy quanh cái cột mà người ta trói nó vào, bứt rứt, hoang mang cực độ. Tôi lẳng lặng đứng lên, uống cạn và dốc đáy ly trong ánh mắt chăm chú của hắn. Tôi đã ngồi về chỗ cũ, hắn mới bật ra tiếng cười đắc thắng và cúi xuống vỗ vỗ vai tôi, kẻ cả và ban ơn. Bước chân líu ríu theo hắn, nàng còn ngoái đầu lại, ánh mắt như con bê non lạc mẹ, sợ sệt và van lơn. Tôi hiểu rồi, nàng mong tôi về đi, đừng quấy phá nàng nữa, để cho nàng yên với chiếc xiềng bằng vàng to nặng nhưng êm dịu này. Không có lẽ nào, tôi không có ý định dằn vặt nàng. Cái xiềng đó là do nàng tự nguyện.

Khách bắt đầu tụ thành những nhóm cục bộ, ăn uống tự do và hát. Gã trung niên ngồi lẻ loi và lúng túng, cái trán hói bóng mồ hôi và đỏ một cách kỳ lạ dưới ánh đèn. Nàng sà xuống bên gã, váy xoay tròn mát cả mắt. Nàng còn cầm tay gã lên mà ghé mắt vào xem các đường chỉ tay. Người đàn ông trung niên há miệng như con chim non nuốt từng lời nói của nàng. Tôi ngờ rằng gã cười không phải vì nàng bói hắn lấy vợ, lên chức cao trong nay mai mà chỉ vì bàn tay mềm mại và nuột nà của nàng cứ như ấp lấy tay gã. Tôi quay sang hắn. Hắn đang mải trò chuyện với kẻ đầu tóc bóng mượt, quần áo, điện thoại, trang sức đều ánh lên màu giàu có nhưng ít chữ. Thỉnh thoảng giữa những tràng cười khả ố, hắn liếc ra nàng rất nhanh, mặt giãn nở mãn nguyện. Nàng lại như con bướm đỏ đáp sang bàn khác, còn hắn cau mày vì cuộc trò chuyện kết thúc sớm quá.

Em bất chợt hiện ra như một vành trăng non ngơ ngác giữa ồn ào xa hoa. Dịu dàng và thuần phác, em đi qua, nhỏ nhẻ với những người quen cũ, và em đến bên tôi. Tôi ngọ nguậy liên tục cái đầu đang phừng phừng vì rượu, vì khó chịu trong không khí giả tạo, phù phiếm đang diễn ra quanh mình. Em thì thào bên tai:

- Anh cũng khó chịu đôi kia à? Chẳng phải yêu đương gì đâu. Con bé xinh xắn thế mà... Chỉ ngồi chờ nó gửi tiền sang ăn thôi, chẳng làm gì cả. Sang bên ấy thì sợ vợ nó thịt.

Tôi tròn mắt nhìn em. Quá bất công khi phải nghe những lời kì cục ấy từ cái miệng xinh xắn và trong trắng ngần kia của em. Như đoán được ý tôi, em tiếp:

- Em không thể chịu được những kẻ ngu độn ngồi mát ăn bát vàng, còn những người học hành tử tế thì chạy ăn từng bữa, vắt kiệt sức mình ra mà một công việc ổn định cũng không có nổi.

À, thì ra em cũng đang chật vật vì cơm ăn, việc làm. Đúng là em có gầy và xanh xao hơn nhiều so với hồi còn là sinh viên sư phạm văn đầy mơ mộng. Thỉnh thoảng, ánh đèn quay chiếu vào mắt em, những tia lửa bắn ra sắc lạnh. Tôi say rồi chăng, những lời nói của em cứ nhẽo nhợt bên tai, chờn vờn, cay nồng, uốn éo như những dòng rượu chảy mãi vào cổ họng.

- Nhưng còn hơn đôi kia - Em chỉ vào chú nhóc mặc áo sơ mi bẻ cổ ra ngoài áo len, đội mũ lưỡi trai bên cạnh cô ả sồ sề như nạ dòng - con mẹ suốt ngày hùng hục đi tour, hướng dẫn viên kiêm mẹ mìn, chạy rạc cẳng để sau mỗi chuyến đi, cậu em kém những bốn tuổi đang học năm cuối đại học có tiền đóng học nhưng bù lại cậu ta cũng phải đóng thuế thân đến lỏng đầu gối.

Tự dưng trên mặt tôi có cảm giác nhờn nhờn, lờm lợm. Tôi nhìn sang gã trung niên, tiếng em bám theo:

- Lão ấy giàu khủng khiếp anh ạ, nhưng lúc nào cũng ra bộ ngây ngây, thơ thơ. Không dám lấy vợ vì sợ bị lừa hết tiền. Một hôm, giờ nghỉ trưa, em đến tìm con Vy - Vy là tên nàng - gõ nhầm cửa phòng lão. Lão ra mở cửa, trán hói bóng nhẫy mồ hôi, khóa quần chưa kịp kéo. Em nhoi vào trong, chỉ thấy tiếng ứ hự, ẽo ợt. Thì ra lão đang xem phim sex, mắt đỏ kè, vừa ngượng vừa nhìn em rừng rực...

Mắt em ánh lên tia tinh quái và toan tính. Không chịu nổi nữa, tôi từ từ đứng dậy, ngật ngưỡng tiến ra sân, ngật ngưỡng nhảy như một kẻ say rồi rất chính xác, tung nắm đấm vào lần lượt mặt thằng mũi bầu, gã, và cả lão trưởng phòng trán hói...

***

Khuôn mặt Thắng giãn nở, thoắt chuyển sang đanh lại, toát mồ hôi rồi tái dại đi khi đọc đến những dòng cuối cùng. Anh dằn mạnh bản thảo xuống bàn rồi vừa run cầm cập, vừa trợn mắt nhìn tôi:

- Em viết cái gì thế này, em viết cái gì thế này? Em có thể viết về em thế nào cũng được. Em có thể bôi nhọ em đến thế nào cũng được. Nhưng anh thì không. Em không được phép. Em làm thế này là giết anh đấy, có biết không?

Anh bất lực đưa hai tay lên trời, rồi buông thõng xuống, đầy khổ sở.

Đúng là mọi chuyện không diễn ra như tôi viết. Tôi đã bỏ về vì không chịu được sự ồn ào và giả tạo. Và cả vẻ khổ sở, nín nhịn rất cao thượng, rất si tình của anh.

Tôi lặng lẽ đứng dậy, xin lỗi rồi cầm bản thảo ra về. Anh gọi giật lại, giằng lấy và xé vụn nó ra trước mặt tôi, đột ngột van vỉ:

- Anh xin em, đừng đưa đi in ở bất cứ đâu, được không? Mà tốt nhất, em xóa nó đi. Anh sẽ trả, coi như tiền nhuận bút cho em, được không?

Mấy hôm sau gặp Vy, hai đứa lại chụm đầu vào nhau nói chuyện. Đang vui, Vy chợt giật giọng:

- Mày vẫn ngày ngày đi bán cháo phổi đấy à? Gầy còm xơ xác như con ma đói. Hay là sang làm thay chỗ tao đi, thư ký cho lão trưởng phòng trán hói. Công ty anh yêu ký xong hợp đồng với lão rồi, tao đếch muốn làm ở đấy nữa.

Thấy tôi lắc đầu nguầy nguậy, Vy xì môi.

- Đúng là sĩ diện hão. Mày trông lão Thắng kia kìa. Chê anh yêu tao ít chữ, chê tao sai lầm, tham vàng bỏ ngãi. Giờ bám anh yêu tao chằng chằng. Không có anh yêu tao đỡ, chắc bị đuổi ra khỏi công ty thứ 10 từ lâu. Mấy hôm trước, lại ký được cái hợp đồng với thằng Pak, bồ con Thủy tiểu thư, sướng không để đâu cho hết sướng.

Vy rướn cái môi đỏ chót lên, đắc ý và khinh thị ra mặt. Ly nước cam trở nên đắng ngắt. Trong mắt tôi, chập chờn xác bản thảo bị xé vụn hôm nào. Một đám tang, lặng lẽ ra đi, tiền giấy tung lên trắng xóa. Tôi đã chôn, một thần tượng sừng sững suốt gần chục năm trời.

Miếng Thịt Mỡ, truyện ngắn

"Thằng bé thiếu dinh dưỡng, lớn không nổi. Mỗi khi thấy con cán bộ, cùng tuổi đó, hai má phinh phính, chân tay mũm mĩm, cô nghĩ đến con mình mà đau lòng"

"Hai người đàn bà, trong cảnh túng quẫn, càng phải nương nhau mà sống. Cả hai đều cùng yêu thương một người trong tù, không biết sống chết lúc nào".

"Cô là vợ sỹ quan 'ngụy' nên thường bị chửi mắng và phạt rất nặng, phần khác cô là gái một con trông mòn con mắt nên đôi khi họ rất tử tế cho lại hàng, không phải nộp phạt nhưng đề nghị phải đi ăn tối hay đi coi hát với một người nào đó trong bọn họ. Bị mắng chửi, bị phạt nặng cô nhẫn nhục chịu đựng, nhưng khi thấy họ tử tế, vui vẻ cho lại hàng là cô yên lặng bỏ hàng ra về. Cô thấy họ như những con rắn độc nhưng miệng lưỡi lúc nào cũng nhân nghĩa".

B

à Tư không rõ mấy giờ rồi, nhưng ngoài đường đã vắng tiếng xe cộ, tiếng người nói. Bà nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ nhưng bao nhiêu ý nghĩ cứ lẩn quẩn trong đầu. Lúc nãy, khi phụ với Lan, con dâu bà, sửa soạn các thức thăm nuôi, bà không thấy chiếc nhẫn cưới trên ngón tay của nó nữa. Tại sao con dâu bà lại cất chiếc nhẫn đi? Nếu nó phải lòng thằng con trai nào, nó có thể giấu chiếc nhẫn để không ai biết là nó là gái có chồng, nhưng về nhà ắt phải nhớ mà đeo vào. Đằng nầy nó vẫn giữ ngón tay trống trơn! Có phải nó muốn công khai tuyên bố sẽ đi lấy chồng khác? Điều bà lo sợ đã xảy ra? Bà hiểu và rất thông cảm con dâu. Năm năm rồi, thằng con trai bà đang ở trong trại cải tạo, không biết ngày nào được thả ra. Bà đã thấy cảnh người hàng xóm đi thăm nuôi con về, khóc từ ngoài đường vào nhà. Đem đồ tiếp tế, thăm nuôi lên trại cải tạo chờ từ sáng đến chiều tối, cán bộ trại ra bảo một cách thản nhiên "Con bà bị bvì nh chết rồi, về đi, hôm nào chính quyền địa phương sẽ có giấy báo sau". Cảnh đó cứ ám ảnh bà mãi. Mỗi lần con dâu đi thăm nuôi về, bà cứ thấp thỏm, sợ nó vừa đi vừa khóc như người hàng xóm thì không biết bà đau khổ đến chừng nào.

Con trai bà là sĩ quan quân đội Cộng Hòa, bà nói lắm nó mới chịu làm đám cưới với một cô bạn học trước đây. Cưới xong, qua mấy ngày phép, nó lại ra đơn vị, hành quân liên miên. Họa hoằn lắm mới về thăm nhà. Khi thấy con dâu mang cái bụng lúp lúp, bà chưa kịp mừng thì Miền Nam rơi vào tay cộng sản, con trai bà đi tù. Chồng bà, trước bảy lăm (1975) là thầy giáo về hưu, khi cộng sản vào thì tiền hưu trí không còn nữa. Sau đó chồng bà bịnh, không tiền thuốc men, đành chịu chết. Con dâu bà làm thư ký hãng buôn. Hãng bị tịch thu, chủ bị đưa lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, thế là cô thất nghiệp. Mấy tháng sau, thằng cháu nội chào đời. Niềm vui có được thằng cháu kháu khỉnh không lấp được nỗi buồn chồng chết, con ở tù, nhà không còn một xu. Tất cả bất trắc đổ ụp xuống gia đình bà cùng một lúc, khiến bà điếng người, trí óc đặc cứng lại, không biết xoay xở ra sao. Thế rồi, cũng giống như bao người Miền Nam khác, bà và con dâu phải tìm mọi cách để có miếng ăn. Bà sắm một cái rổ lớn đựng linh tinh bánh, kẹo, khoai, chuối...dẫn thằng cháu nội mới chập chững, ra ngồi trước cổng trường tiểu học trên đường Chi Lăng, Gia Định bán cho học trò. Lời lãi chẳng bao nhiêu, hôm nào ế hàng thì đem khoai, chuối về ăn trừ bữa. Con dâu bà, thấy thiên hạ buôn bán chợ trời, bèn đem áo quần cũ của mình ra chợ Bà Chiểu ngồi ở vệ đường. Ít lâu sau thành người mua bán đồ cũ. Bất cứ đồ gia dụng gì người ta đem bán, cô đều mua rồi bán lại.

Mấy năm nay, trong những dịp thăm nuôi, thỉnh thoảng bà được con dâu đưa hai bà cháu cùng lên thăm người ở tù. Thấy con trai gầy ốm quá, sợ nó chết nên bà cứ nắm lấy tay thằng con, tưởng như lần cuối gặp mặt. Bà biết con dâu cho bà cùng đi là một hy sinh rất lớn. Tiền xe cộ, ăn uống dọc đường khiến cho số vốn teo lại và gánh nặng gia đình càng nặng thêm. Bên sui gia cũng không hơn gì, có mấy người đàn ông đều đi tù cả nên chẳng ai giúp nhau được. Dù sao bà cũng cám ơn sui gia đã cho bà một cô dâu rất hiếu thảo, thương mẹ chồng, thương chồng, thương con. Có những bữa ăn, con dâu chỉ ăn qua loa, nhường phần cho bà, cho cháu bà. Nó bảo đã ăn ngoài chợ no rồi, nhưng bà biết rõ tính tằn tiện của con dâu, nó chẳng bao giờ ăn quà rong. Có lần bà bắt gặp, khi rửa chén, nó lén vét những hạt cơm còn sót trong nồi cho vào miệng. Bà quay đi, làm như không thấy nhưng nước mắt bà ứa ra.

Đêm nào bà cũng lầm thầm cầu Trời khấn Phật, kêu réo vong linh chồng bà phò hộ cho con trai bà không chết trong tù, được thả về với gia đình. Dù sao trong nhà có đàn ông cũng là rường cột, đỡ đần biết bao khó khăn. Lúc đó con dâu bà không còn vừa vất vả vừa nhớ chồng đến héo hon. Và bà cũng biết, dù có thương nhớ chồng đến bao nhiêu thì với thời gian cũng phai nhạt dần trong khi cuộc sống ngày càng khó khăn. Nó không thể đi mãi trên con đường gian khổ hầu như vô tận đó được. Thế nên nó có bỏ đi cũng là chuyện thường tình. Điều lo lắng cho bà là không hiểu, khi đi lấy chồng khác, nó có dẫn theo thằng cháu nội của bà không? Rủi thằng con bà chết trong tù thì coi như chẳng còn ai hương khói, cúng kiến ông bà, cha mẹ. Mồ mả sẽ bị bỏ phế, vong linh tổ tiên, cả vợ chồng bà nữa sẽ thành những hồn ma đói khát, vất vưởng, không nơi nương tựa.

Bà Tư thở dài, nhìn lên mái nhà tôn, bà không biết, khi con dâu bỏ đi, bà bán nhà nầy được bao nhiêu tiền, thăm nuôi thằng con được bao nhiêu lần? Không biết sức bà còn đi nổi không? Đường đi thăm nuôi, phải đi bộ nửa ngày trong rừng mới đến trại tù.

Nhưng bán nhà rồi sẽ ở đâu? Hay là bán rẻ, chỉ xin để chiếc giường nhỏ ở chái nhà cho hai bà cháu? Bà Tư nhắm mắt, ước ao đây là cơn ác mộng để rồi bà sẽ tỉnh lại, sẽ sống lại những ngày tháng hạnh phúc bên chồng, bên con, nhưng phần khác bà biết chắc là cơn ác mộng sẽ còn bi đát hơn nữa.

Bà lắng nghe những tiếng động dưới bếp. Con dâu bà đang nấu nướng, chuẩn bị vật thực, sáng mai đi thăm nuôi chồng. Lúc nãy, bà phụ nó xắt thịt, xắt sả, lặt rau...Nó bảo bà lên nghỉ ngơi. Thấy vẻ mặt buồn buồn, nhất là thấy ngón tay đeo nhẫn trống trơn, bà bỏ đi nằm. Bà không đủ can đảm chờ nghe nó bảo rằng sẽ đi lấy chồng khác.

Bỗng nhiên bà thấy con dâu trở thành đối thủ của bà. Bà phải làm cách nào để giữ đứa cháu nội? Bà khóc lóc, năn nỉ? Hay bà làm bộ dữ dằn cho nó sợ? Điều chắc chắn là bà không thể chửi mắng nó được. Bà thương nó như con ruột. Giá như nó là con ruột, bà có khuyên nó ráng chịu đựng chờ chồng hay là để nó tự quyết định lấy? Chiều nay, thấy con dâu không xách bọc áo quần cũ về như mọi khi, bà đoán nó đã bán đổ, bán tháo tất cả để sáng mai đi thăm chồng lần cuối rồi nó đi thẳng với thằng chồng mới. Bỗng nhiên bà sợ đến nghẹt thở khi nghĩ đến cảnh con dâu bà tuyên bố với chồng nó là lần cuối thăm nuôi, nó sẽ đi lấy chồng khác. Rồi con bà sẽ phản ứng ra sao? Trong tù ăn uống thiếu thốn, lao động khổ sai mà tinh thần suy sụp thì cái chết sẽ đến chắc chắn. Bà thở dài, tự biết mình hoàn toàn bất lực, đành buông tay chờ tai họa ập đến.

Mùi xào nấu thơm phức khiến bà nghĩ đến kỳ thăm nuôi kế tiếp bà phải tự lo lấy. Bà phải nấu nướng những gì, mua sắm món gì để đem lên cho con trên trại cải tạo? Suy nghĩ miên man, bà thiếp dần. Trong giấc ngủ, bà mơ thấy chỉ có mình bà xách giỏ thăm nuôi nặng trịch, lếch thếch lội bộ, qua đèo, vượt suối...rồi bà lại thấy cán bộ trại ra bảo con bà chết rồi, thế là bà lại lếch thếch quay về vừa đi vừa khóc...

Sau khi cơm chín, cô Lan xới ra một cái thau nhỏ cho mau nguội, để sau đó, cô sẽ gói chặt bằng lá chuối thành cơm vắt. Cô cũng gói một gói nhỏ để ăn dọc đường. Cô đổ những miếng thịt ba chỉ mà mẹ chồng cô vừa xắt lúc nãy vào chảo. Cô đảo cho mỡ tan ra. Tiếng mỡ nổ lách tách nho nhỏ. Cô xếp những gói đậu, đường, gạo...những lon, lọ vào hai giỏ cói lớn. Cô cũng không quên bỏ vào giỏ một gói kẹo nhỏ, những viên kẹo xanh trong giấy kiếng để nhắc chồng nhớ những kỷ niệm đẹp khi còn đi học. Ngày đó cả hai cùng học chung một lớp, trường Lê Văn Duyệt, cô thường chờ giờ ra chơi, lén để những viên kẹo xanh, chua chua vào hộc bàn cho người yêu. Cô cũng không quên nhét vào xách tay của mình tấm khăn trải bàn bằng vải ny lông để đi dọc đường sẽ dùng che mưa nếu trời mưa, hoặc trễ chuyến xe, sẽ thành tấm đắp khi cùng với những người thăm nuôi khác ngủ bờ, ngủ buội...Cô đảo tiếp chảo thịt mỡ cho chín hẳn mới đổ sả bằm, đường, ớt bột và hai gói mắm ruốc vào. Cô chợt thấy một miếng mỡ lớn, cỡ ngón tay cái lẫn vào đấy, có lẽ mẹ chồng cô quên cắt nhỏ miếng mỡ nầy. Cô tưởng tượng khi chồng cô bắt gặp miếng mỡ lớn nầy sẽ ngạc nhiên lắm. Miếng mỡ ướp mắm ruốc, vừa thơm vừa cay cay, chồng cô cắn ngập vào đấy cho mỡ tươm ra trên lưỡi. Cô Lan mỉm cười, nước miếng cô ứa ra vì thèm. Cô mút đầu đũa, chép miệng "Mắm ruốc ngon thật!" Cô nuốt ực nước miếng. Lòng cô vui vì nghĩ đến chồng, khi ăn món ruốc sả nầy sẽ thấy ngon và sẽ nhớ đến cô, thương yêu cô nhiều hơn.

Khi thấy ruốc hơi quánh lại, cô trút chảo ruốc vào một thau nhỏ, chờ cho nguội mới bỏ vào bao ni lông, nhét vào lon guigoz (một loại lon nhôm, cỡ một lít, đựng sữa bột, hiệu Guigoz, khi dùng hết sữa, lon được giữ lại đựng nước, thức ăn rất tiện lợi. Tù cải tạo thường dùng loại lon nầy). Miếng mỡ lớn lại xuất hiện, lăn vào góc thau. Cô gắp bỏ lại vào chảo cùng với ít mắm ruốc và bắc chảo lên bếp. Cô định dùng miếng mỡ rán thêm chút nước mỡ. Cô múc mấy vá cơm bỏ vào chảo và đảo lên. Những hạt cơm trắng dính mắm thành màu nâu. Cô thêm chút nước mắm, đập vài tép tỏi, bỏ vào. Một lát, cô nhắc xuống chia đều chỗ cơm chiên vào hai chén nhỏ. Sáng mai hai bà cháu sẽ có món điểm tâm đặc biệt. Phần cô là những hạt cơm còn sót lại trong chảo, ước chừng vài muỗng. Miếng thịt mỡ nằm lẫn vào cơm chiên nhưng cô nhận ra ngay, cô gắp bỏ vào lon guigoz đựng mắm ruốc của chồng, nhưng không hiểu sao, cô gắp bỏ vào chén cơm cho con. Sáng mai cô dậy sớm đi thăm nuôi, thằng bé thức giấc không thấy mẹ sẽ khóc, bà nội nó sẽ cho nó ăn cơm chiên với miếng mỡ nầy, nó mừng lắm, sẽ hết khóc. Từ ngày cha nó đi tù, nó chưa hề được ăn miếng ngon nào, chỉ những dịp thăm nuôi, cô mới dành lại cho con chút thức ăn. Cô để miếng mỡ trên chén cơm, bà nội nó sẽ hiểu là phần của cháu bà. Thằng bé thiếu dinh dưỡng, lớn không nổi. Mỗi khi thấy con cán bộ, cùng tuổi đó, hai má phinh phính, chân tay mũm mĩm, cô nghĩ đến con mình mà đau lòng. Miếng ăn hàng ngày không đủ, lấy đâu mà bổ dưỡng. Cô không hiểu chút mỡ nầy có chất bổ gì, nhưng có còn hơn không.

Cô nhớ lại lúc mang bầu thằng bé, mẹ chồng cô mừng lắm, cứ ép ăn món nầy, món nọ. Bà còn bổ thuốc Bắc về, lụm cụm sắc lên, dỗ dành cô như với người bịnh. Vì thương bà, cô nhắm mắt uống bừa thứ nước vừa thơm vừa đắng vừa khó nuốt. Cô biết, sự săn sóc đó là vì cháu nội nhưng cũng có thương cô. Lúc nào bà cũng dịu dàng với cô. Cô thương mẹ chồng như mẹ ruột. Hai người đàn bà, trong cảnh túng quẫn, càng phải nương nhau mà sống. Cả hai đều cùng yêu thương một người trong tù, không biết sống chết lúc nào. Sau bảy lăm (75), cha chồng chết, chồng đi tù, mẹ chồng cô trở nên ít nói. Càng ngày bà càng gầy yếu, lưng còng xuống. Bà chóng già vì buồn phiền và thiếu ăn. Cũng may bà chưa ngã bịnh. Cô bỗng lo lắng, rủi mẹ chồng cô bịnh hoạn thì tiền đâu lo thuốc men, chạy chữa? Chẳng may có mệnh hệ nào thì sao? Ý nghĩ đó khiến cô vừa sợ vừa tội nghiệp cho bà. Thế nên cô bèn gắp miếng mỡ từ chén thằng con bỏ qua chén cơm mẹ chồng. Cô mỉm cười nghĩ ra một ý hay là cô vùi miếng mỡ trong cơm, mẹ chồng cô sẽ không thấy. Cô xúc cơm còn lại trong chảo cho vào chén thằng con, như thế, sáng mai bà thấy chén nào nhiều cơm sẽ lấy ra cho thằng bé ăn. Bà sẽ ăn sau, sẽ gặp miếng mỡ. Cô vét mấy hạt cơm còn lại trong chảo cho vào miệng. Cơm chiên mắm ruốc ngon thật! Chỉ được hơn muỗng cơm, cô nhai thật chậm để thưởng thức được lâu món ăn đặc biệt nầy. Xong, cô uống nước, thấy lửng dạ, cô súc miệng, rửa tay, chuẩn bị đi ngủ, sáng mai còn phải dậy sớm. Khi lau tay, cô cảm thấy bàn tay mình có gì bất thường mới nhớ ra chiếc nhẫn cưới không có trên ngón tay! Cô đứng lặng người. Cô buồn quá, nước mắt ứa ra. Vật kỷ niệm của vợ chồng cô không còn nữa! Trưa nay, lúc ngồi bán áo quần cũ trên lề đường, bên hông chợ Bà Chiểu, phía Lăng Ông, cô ngồi nghĩ đến ngày mai đi thăm nuôi chồng, sẽ gặp chồng, nhìn chồng cho đỡ nhớ. Bán xong mớ hàng nầy cô sẽ mua những gì để tiếp tế cho chồng? Cô sẽ gửi một gói kẹo để nhắc chồng nhớ lại những ngày còn đi học, yêu nhau, đẹp đẽ, hạnh phúc. Đang mơ mộng, cô bỗng nghe lao xao và tiếng kêu "Công an!". Mọi người ôm hàng hóa tuông chạy, cô cũng vội túm bốn góc của tấm ny lông lót trưng bày quần áo cũ của mình, định chạy vào cổng bên hông của Lăng Ông, nhưng không kịp, khắp nơi đã đầy công an với dân phòng. Thế là họ giật lấy những hàng hóa, thịt thà, rau cỏ, gà vịt... của những người buôn bán lề đường, vất tất cả vào xe, chở đi. Vì quá bất ngờ, những nạn nhân chỉ biết đứng ngớ ra, thất thần. Quãng đường nầy cấm tụ tập buôn bán. Mỗi khi có lễ lớn như Quốc Khánh, ngày thành lập đảng, sinh nhật bác Hồ...là công an với dân phòng đi dọn dẹp lòng lề đường "cho đường phố được mỹ quan". Thường thì nghe báo động một số nhanh chân thoát được. Không ngờ hôm nay công an lại mặc thường phục, họ chia nhau mỗi công an đứng gần một người ngồi bán, thế nên khi xe công an sắc phục xuất hiện người bán vừa đứng lên là hàng hóa đã bị công an thường phục đứng bên cạnh giữ chặt, không chạy được, đành bị tịch thu. Muốn nhận lại hàng phải lên phường công an nộp phạt. Tiền phạt rất nặng. Công an rất khôn, ngày thường họ không đuổi, vì đuổi, chẳng ai đến đó buôn bán thì ngày lễ lấy đâu ra tiền phạt. Cô Lan không muốn đi chuộc những áo quần cũ đó. Cô là vợ sỹ quan 'ngụy' nên thường bị chửi mắng và phạt rất nặng, phần khác cô là gái một con trông mòn con mắt nên đôi khi họ rất tử tế cho lại hàng, không phải nộp phạt nhưng đề nghị phải đi ăn tối hay đi coi hát với một người nào đó trong bọn họ. Bị mắng chửi, bị phạt nặng cô nhẫn nhục chịu đựng, nhưng khi thấy họ tử tế, vui vẻ cho lại hàng là cô yên lặng bỏ hàng ra về. Cô thấy họ như những con rắn độc nhưng miệng lưỡi lúc nào cũng nhân nghĩa. Như trường hợp của cô. Mất vốn hoài. Họ tịch thu hàng, lấy tiền của cô mà vẫn cứ hăm dọa là sẽ đưa cô vào trại cải tạo để thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa. Mà cô có làm gì phạm pháp đâu?

Sáng nay cô đã dốc hết vốn liếng ra mua được một số áo quần còn tốt của một người túng tiền, đến trưa cô bị tịch thu tất cả. Thế nên cô đành bán chiếc nhẫn cưới để mua thực phẩm thăm nuôi chồng. Tính cô không biết nói dối, cô suy nghĩ mãi không biết giải thích cách nào để chồng không nghi ngờ lòng chung thủy của cô, mà nói thật thì chồng sẽ lo lắng cho gia đình. Cô cũng không thấy trong nhà còn gì có thể đem bán làm vốn để sinh sống. Trong những ngày sắp tới đây, chắc gì trong nhà còn gạo để ăn nói gì đến thăm nuôi. Có thể cô không thăm nuôi chồng nữa. Nghĩ thế cô càng sợ hãi, chồng cô đã gầy rạc, hai má tóp lại, hốc mắt sâu xuống, hai bàn tay trơ xương, nếu không có thăm nuôi chắc gì sống nổi! Nghĩ đến đấy cô vội lấy đôi đũa moi miếng mỡ trong chén cơm của mẹ chồng bỏ vào lon ruốc sả của chồng. Cô thì thầm như nói với chồng "Thêm chút mỡ nầy cũng đỡ, anh cố gắng chịu đựng, em sẽ tìm mọi cách lên thăm anh, nhưng chỉ thăm thôi chứ em không còn tiền để mua thực phẩm nuôi anh". Cô như an ủi chồng "Em sẽ đem con lên cho anh thăm". Rồi cô thấy háo hức, vui mừng khi nghĩ đến giây phút gặp mặt chồng. Cô nhớ lại những lời chồng dặn "Em đừng đem quà cáp cho tốn tiền. Anh chỉ cần được gặp em, gặp con là anh đủ tinh thần chịu đựng rồi. Nhất là khi thấy con chóng lớn là anh vui". Cô biết chồng cô cố giấu nỗi buồn khi thấy con xanh xao, ốm yếu... Vậy là cô lại gắp miếng thịt mỡ trong lon ra, bỏ vào chén của con. Con khỏe mạnh, chồng cô sẽ vui, sẽ cố gắng chịu đựng gian khổ.

Miếng thịt mỡ chỉ bằng ngón tay cái, như một sinh vật, cứ nhảy từ lon ra chén rồi từ chén nhảy vô lon.

Cô buông đũa, chạy vào giường, ôm lấy con, và cô khóc nức nở. Giòng nước mắt yêu thương chồng con, lo lắng không biết bao giờ chồng về hay sẽ chết trong tù?! Cô cũng khóc vì buồn cho hoàn cảnh mình, chân yếu tay mềm, không đủ sức nuôi mẹ chồng, nuôi chồng, nuôi con...

Bà Tư vẫn còn thao thức. Tuy nhắm mắt nhưng nghe những tiếng động, bà biết con dâu đang làm gì. Tiếng soong, chảo là cô đang nấu nướng, tiếng lon guizgo va chạm nhau là cô đang sắp xếp đồ thăm nuôi vào giỏ xách. Đến khi nghe tiếng cô khóc thì bà mừng vì yên trí rằng con dâu bà, có thể ngày mai, sau khi thăm nuôi, nó đi luôn theo chồng mới nhưng sẽ không dẫn con theo. Vì không dẫn con đi nên nó mới khóc lóc, lưu luyến với con như thế. Bà ngồi dậy, đi xuống bếp vừa nói.

- Con ngủ đi, lấy sức mai đi sớm, để mẹ dọn dẹp.

- Cám ơn mẹ. Sáng mai con cho cháu cùng đi thăm ba nó.

Bà lại đâm lo, kiểu nầy nó dám dẫn cháu bà đi luôn, bà hỏi dò.

- Con có đem áo quần của nó theo không?

Con dâu bà ngạc nhiên.

- Dạ không, đi về một ngày. Mọi khi đâu có cần đem áo quần theo?

Bà mừng rỡ.

- Cám ơn con!

Cô càng ngạc nhiên hơn, không hiểu sao mẹ chồng cô lại nói tiếng cám ơn đó?

Truyện ngắn: LỢN NGHIỆN

Lời tác giả: Chuyện này, tôi viết vào năm 1996 thời kỳ đất nước đang chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường... mọi điều điều bỡ ngỡ...

Nhà tôi ở trong xóm. Hai vợ chồng và bốn đứa con, vậy là có 6 miệng ăn. Vợ chồng đều là nhân viên, lương tháng giỏi lắm cũng chỉ đảm bảo hai bữa ăn có canh rau đay và cá mắm là đã thấy khá lắm rồi.

Tôi bàn với vợ:

- Bây giờ họ đổi mới lắm rồi, ai muốn làm gì thì làm, miễn là đúng pháp luật, nếu em nghỉ một lần, tính ra cũng được hai triệu, vậy là khối vốn mà làm ăn!

Vợ tôi nhỏ nhẹ nói:

- Anh nghĩ được như vậy cũng là đúng, nhưng cũng phải tính lại cho nó kỹ đã!

Ý nghĩ trên tôi đã nung nấu mấy tháng rồi, nay thấy cả nhà vui vẻ cả mới nói ra, vậy mà... Tôi dằn dọng phân trần:

- Mẹ chúng nó chậm đổi mới lắm! Bây giờ phải thay đổi tư duy đi một chút, nghĩa là phải thay đổi nếp nghĩ cũ kỹ của mình. Thế này nhé: Mẹ mày nghỉ việc một lần, được một cục là hai triệu đồng. Phương án thứ nhất: Đem gửi tiết kiệm, lãi xuất ba phần trăm, vậy lãi tháng được sáu mươi ngàn đồng, gần bằng lương tháng, gốc vẫn còn, lại làm việc nhà, không phải lọc cọc tám giờ vàng ngọc. Phương án hai: Dùng hai triệu đó để lấy vốn làm ăn. Đấy, họ làm đầy ra rồi, mình cứ thế mà theo. Chẳng hạn, mở một sạp hàng tạp hoá ở chợ, hay ta xin miếng đất mặt đường để mở quán ăn, hoặc chạy hàng từ huyện vào trong bản theo phương thức hàng vào thóc ra. Nếu tích cóp được vốn thì có thể chạy hàng buôn chuyến Hà Nội hoặc sang Hà Khẩu buôn hàng Tàu. Nếu mẹ mày không thích đi buôn thì ta nuôi gà công nghiệp, nuôi ốc vàng, ba ba hoặc đóng bè thả cá lồng. Cùng quá nếu mẹ mày không làm thì cứ ở nhà làm nội trợ, còn vốn thì đầu tư cho thằng nhớn đi buôn gỗ...

- Ôi thôi ! - Vợ tôi nói - Bố mày nói thế dài lắm, làm gì thì nói ngay vào thứ ấy cho dễ bàn. Riêng cái chuyện buôn bán thì đừng nói nữa, mình đã làm bao giờ đâu mà tính đến nó làm gì.

- Ấy là tôi cứ nói cho hết nhẽ để mẹ mày mở rộng tầm nhìn, là để thấy ngoài xã hội người ta làm như thế nào. Còn nhà mình, ừ, có lẽ tôi tính nấu rượu là hơn cả. Này nhé, mua sắm bộ đồ hết hơn hai trăm ngàn, lò tôi đắp, củi các con đi lấy, gạo, men mua ở chợ, thiếu gì. Rượu giao cho các quán, cho hội nghị cơ quan, người ta nấu rượu khối ra đấy, có ai ế bao giờ. Còn kỹ thuật nấu rượu à, cũng chẳng có gì là khó, mẹ mày về quê xem bà nội, không đầy 7 ngày là biết cả thôi mà. Hạch toán kinh tế à, mẹ mày cũng chẳng phải lo, đã có tôi. Rượu bán đúng giá thành, mình lãi là lãi ở cái công. Còn cái lãi hơn nữa mẹ mày biết không ? Đó là cái bỗng, đem nuôi lợn (tôi nhấn mạnh từng từ cho thêm phần quan trọng). Mẹ mày không biết chứ tôi thì tôi rành lắm, cái anh bỗng rượu là tốt vô cùng. Chẳng thế mà khi vào trong làng công tác, cuối bữa chủ nhà chỉ cần múc cho mỗi người một bát nước bỗng uống tráng miệng, chỉ sau mươi phút, cả chủ và khách cứ gọi là say đứ đừ, nằm lăn ra sàn mà ngủ. Đấy, ngay như cơ quan mình, mấy thằng lao vào nấu rượu, nay quay ra nghiện cả bỗng. Lợn nhà mình từ trước tới nay toàn ăn sắn, thân dài như ống vầu, lông xù như lông nhím, nay cho ăn bỗng, tháng tăng trọng ít nhất cũng phải 15 đến 20 ký, da đỏ mọng như quả bồ quân, vừa ăn, vừa ỉn, đuôi ngoáy tít như hoạt Hoa sen, đứng đằng sau còn mát cả mặt ấy chứ. Cứ theo như cách làm của bà nội chúng nó mà suy ra thì mỗi tuần mẹ mày chỉ cần nấu lấy hai nồi, mỗi nồi được dư ra tiền công là hai mươi ngàn đồng, hai nồi là bốn mươi ngàn. Vậy một tháng, một năm được bao nhiêu mẹ mày thử nhẩm xem... Đấy, như vậy có phải là hơn lương không. Còn lợn, với số bỗng này thì một năm phải xuất chuồng được hai lứa, mỗi lứa 5 tạ, cả năm một tấn. Từ trước tới nay năm nào cao thủ nhất mình cũng chỉ xuất được hai tạ là cùng. Đấy, cái được, cái lợi đã rõ như ban ngày, có gì mà phải bàn với tính.

Từ trước tới nay tôi có bàn chuyện làm ăn bao giờ, trưa ngủ, chiều hết giờ đi đánh bóng bàn, tối lại khư khư ôm lấy quyển truyện, nay có chút tư duy mới, lại được một lô kinh nghiệm của bạn bè, nhồi vào, nói chuyện làm ăn cứ thông như nước chảy. Vợ tôi chỉ còn biết há mồm ra mà nghe. Mà suy cho cùng tính kỹ như vậy thì còn biết thêm vào chỗ nào nữa. Thế là cả nhà tôi lao vào công việc, mỗi người một ý thêm vào, phương án triển khai cứ như là đi đánh giặc. Vợ tôi hăng hái nói:

- Thôi thế này: Ngày mai bố chúng nó đắp lò, hai thằng nhớn đi lấy củi, tôi về quê thăm bà, tiện thể mượn luôn bộ nồi, khỏi phải mua, cũng nhân dịp chúng nó đang nghỉ hè mời bà lên thăm cháu, ở đây chơi, bà nấu luôn cho vài nồi mà xem, tội gì phải đi học.

Bố con tôi hì hục chuẩn bị, công việc vừa xong thì bà lên. Xem ra thì bà cũng ưng ý lắm. Mọi công việc liên quan đến nấu rượu đều do bà cắt đặt. Mấy gian nhà lỉnh kỉnh nào nong, nào mẹt, nào chum, đi vào nhà cứ như đi vào công xưởng.

Vài tuần sau, nhân lúc bà dẫn cháu đi chơi, tôi gọi vợ ra đầu nhà nói nhỏ:

- Em thấy chưa? Cứ như cách làm của bà mà suy ra thì chả mấy chốc nhà ta sẽ có tiền trăm, tiền triệu. Đôi lợn tháng trước ăn sắn, nay được ăn bỗng ngô, bỗng gạo, ăn xốc bôm bốp, nghe xa cứ như là đám vỗ tay ấy nhỉ!

Chả hiểu vợ tôi vì do tôi tình cảm, hay là do được gần men, được hít thở hương thơm của mùi bỗng, hàng tuần nay da mặt đã thấy hồng như thời con gái. Bà lên chơi, nấu cho vài mẻ rượu rồi bà cũng phải về, khi ra đến cổng, bà còn dặn với lại: “Này, cái thứ ủ men cũng phải như người nuôi con mọn, phải chú ý cả những lúc trái nắng giở giời...”.

Chắc bà còn muốn dặn thêm điều gì nữa, nhưng bà đang nói thì vợ tôi đã đỡ lời:

- Bà cứ yên tâm, con đã biết cả rồi.

Vợ tôi lao vào công việc. Nào sát thóc, ủ men, nào đi đòi tiền bán rượu, suốt ngày cứ quay như chong chóng.

Ủ men xong rồi vợ tôi cứ ra ra vào vào, hết mở lại đậy, đêm nằm thao thức, hồi hộp đợi chờ như người có chửa sắp đến ngày sinh. Nửa đêm cũng đánh thức chồng dậy nói chuyện chả đâu vào đâu:

- Rượu nhà mình nếu ngon như bà nấu thì phải giao đắt lên một hai giá nữa. Mẻ này nếu xong thì phải cạch cái lão chủ quán “cờ tây” bảy món, người đâu mà cứ nợ dai như đỉa đói. Tiền bán rượu lần này phải mua cái máy bơm Liên Xô, họ bảo chỉ cần vất tũm xuống giếng là nước phun lên phè phè cao bảy tám mét. Xây thêm cái bể trên nóc bếp, cứ thế mà vặn nước vào nồi, khỏi phải kéo nước vẹo cả sườn...

Thế rồi cài ngày vợ tôi đợi chờ đã đến. Hết giờ làm việc là tôi bỏ cả đánh bóng, đạp thốc về nhà. Cảnh tượng thật lạ lùng, vợ tôi ngồi im như pho tượng, mắt nhìn đăm đắm lên ngọn tre, lúc sau như sực tỉnh, vợ tôi quay lại nói với tôi vẫn với vẻ nhẹ nhàng êm dịu:

- Bố nó xem, mẻ rượu này lẽ ra phải được mười hai lít, sao được có hai chai?

Tôi vội mở nồi ra xem, thấy bỗng chìm, có mùi khê, chạy ra bảo vợ:

- Có thể mẹ nó nấu hơi sớm, thôi thì thua keo này ta bầy keo khác, có gì mà buồn! Bỗng này cho lợn ăn càng tốt!

Vợ tôi vội bê mấy chậu bỗng cho lợn ăn. Đôi lợn bốn mươi cân, chen nhau ăn, ăn xốc đến nỗi hình như cả tuần nó chưa được thứ gì vào bụng. Vợ tôi phấn chấn hẳn lên.

- Ừ, thì rượu không được, nhưng nhìn đôi lợn ăn mà sướng cả tai, cả mắt!

Cả nhà vui vẻ ăn cơm tối, để lại đôi lợn với cái bụng tròn căng như vét xi quả bóng, đi lại ậm ạch trong chuồng.

Khoảng 9giờ tối, thằng cu tý cầm đèn pin đi tè, qua chuồng lợn, nó gọi thất thanh: “Bố ơi!... Mẹ ơi!... Ra mà xem, hai con lợn nhà ta nó đòi gối đầu!”

Tôi vội chạy ra xem, thì hai con lợn say bỗng, mỗi con tựa vào một góc chuồng, hai chân trước cứ giơ ngược lên như muốn gối vào đầu. Khốn nỗi chân nó ngắn thế kia, làm sao mà gối vào đầu được.

Vợ tôi lo lắng:

- Bà bảo nếu người bội thực thì cho ngâm nước, còn nếu say rượu thì lấy khăn thấm nước lạnh lau mặt, lau chân sẽ đỡ. Hai con lợn này vừa bội thực, vừa say, bố mày lấy hai xô nước dội cho mỗi con một xô chắc sẽ khỏi.

Tôi vội làm theo. Một lúc sau, thấy một con kêu lên ẹc ẹc, còn con kia từ từ trượt xuống nằm chềnh hệnh ở giữa chuồng. Chắc là …

Tôi vội gọi anh bạn hàng xóm sang xem. Anh bạn sờ vào con lơn, mắt trợn lên, nói: “Tim nó ngừng đập rồi! Chọc tiết!... Chọc tiết mau không thì hỏng mất tiết canh!”.

Vợ tôi sờ vào con lợn mếu máo: “Khổ quá ! Nó say bỗng đây mà ! vẫn còn ấm, vẫn còn thở đây này, thế mà dao chọc vào cổ cũng chẳng biết kêu!”

Đến mười một giờ đêm thì xong, tôi và anh bạn mang hai chai rượu khê ra uống với tiết canh và cỗ lòng. Khổ nỗi ăn tiết canh mà như ăn rượu, miếng thịt bốc mùi như chấm vào bát rượu. Một giờ sau, chúng tôi nằm lăn quay quanh mâm mà ngủ. Sáng dậy đầu nhức ong ong, chẳng hiểu là mình say tiết, say thịt hay say rượu trong chai...

Vợ tôi lại tiếp tục lao vào công việc, ba bốn mẻ nấu liên tiếp mà chả mẻ nào mang lại niềm vui trọn vẹn. Rượu mang giao chả quán nào nhận. Họ bảo: “Rượu này là rượu do nhà chị cất ở nơi khác về không phải rượu do nhà chị nấu! Lần đầu có thế này đâu?”.

Thế là đành phải rửa nồi tắt lò. Rượu ế thì phải cố mà uống chứ đổ đi sao đành.

Tuần sau, bỗng hết, con lợn lại phải trở về ăn cái thứ mà cách đây hơn một tháng nó vẫn thường ăn. Thằng lớn vẫn quen mang cám ra đổ ộc vào chậu rồi về. Lúc sau ra xem, nó vội kêu lên: “Bố ơi, lợn chê cám!”.

Tôi vội cầm theo nắm muối rắc vào chậu, con lợn hít hít rồi chọc mõm hất tung lên. Nó lao bên này sang bên kia, kêu lên hồng hộc. Tôi lấy chai nước mắm rưới cho nó mấy thìa, liếm hết chỗ nước mắm, nó lại hộc lên. Hay là nó thích mùi rượu. Tôi nghĩ vậy và vào lấy chai rượu rót 3 chén vào chậu cám. Chỉ chờ có thế con lợn lao đến nó lại xốc, lại ỉn, lại ngoáy tít cai đuôi như quạt Hoa sen.

Bữa sau cho lợn ăn, thằng cu lớn lại kêu lên: “Bố ơi, hôm nay lợn lại chê cám!”

Tôi gọi với ra:

- Thì vẫn phải làm như hôm qua thôi con ạ!

Tôi ngồi trong nhà gật gù, miệng lẩm nhẩm:Vẫn chê cám... vẫn chê cám... Nó thành con lợ nghiện rượu mất rồi! Biết làm thế nào được khi mà cái can rượu khê không còn lấy một giọt. Hôm nay lại đến lượt tôi ngồi im như pho tượng, mắt đăm đắm nhìn về phía những chiếc vỏ chai nằm lăn lóc ở góc nhà. Vợ tôi khẽ khàng đến đứng trước mặt tự lúc nào, tôi cũng không hay. Tôi ngước lên nhìn vợ, lạ quá ! Từ ngày nấu rượu, vợ tôi má đỏ hây hây, thế mà hôm nay do trời tối hay... hay do mất của mà mặt vợ tôi chuyển màu đen tím như quả nho chín. Người ta bảo sợ đàn bà nhất là lúc đánh ghen, sau nữa là mất con, mất của. Tôi nghĩ bụng; mưa nguồn thì tất phải có lũ chứ sao. Nhưng không, vợ tôi vẫn đặt tay lên vai tôi, giọng vẫn nhỏ nhẹ, có điều tôi thấy nó nằng nặng và cứng hơn một chút:

- Đến nước này thì ông định tính thế nào?

Tôi thủng thẳng đáp:

- Thì cũng làm như con trước chứ còn tính sao?

Vợ tôi nhìn các con phân bua:

- Chúng mày thấy chửa, hôm nay bố mày nói ngắn quá đấy! Ông tính lại xem, sau hai tháng theo ông đổi mới, thử hỏi mẹ con tôi được những gì? Có chăng là được cái bán mặt cho bếp, bán lưng cho trần nhà, suốt ngày chúi mũi vào thổi lửa đến ù tai chóng mặt. Còn bố chúng mày thì được cái lên mồm, mấy tháng trước thì uống rượu bằng chén, nay chuyển sang uống bằng cốc, bằng ca. Còn cả nhà mình thì được cái gì à? Nhà mình chỉ được một con lợn nghiện...

Vợ tôi cứ bình thản như một diễn viên trên sân khấu, cứ thế độc tấu một bài tưởng như là bất tận. Tôi chỉ biết há mồm ra mà nghe, ngẫm lại cũng chả còn gì mà nói. Ngoài chuồng, con lợn vẫn rít lên như xé vải, chạy quay cuồng trong chuồng. Lũ con tôi sợ lợn nhảy ra, liền cầm tay nhau vây quanh chuồng như trẻ con chơi rồng rắn hôm rằm.

Anh bạn tôi gọi với sang: “Vợ chồng con cái nhà ông hú hí múa may cái gì mà để lợn kêu như bị chọc tiết thế?”.

ĐỘNG RỒ

Mẹ nó, tình hình này mà cứ ngồi làm thơ chẳng hóa ra ngu xuẩn và độc ác vô trách nhiệm lắm sao?

Nhân dân vợ mình nó bảo “Anh cứ như người trên trời, lở đến tận đít rồi mà vẫn cứ ngồi ỳ ra đấy mà thơ với chả phú. Chả trách tay “hiệu” nó  vờ hỏi thơ là là ấy nhỉ?” ông tưởng nó không biết thơ là gì đấy phỏng? Chẳng qua nó muốn nhắc nhẹ ông có đầu óc thực tế một chút. Nó lo cho em, giáo viên dưới quyền nó có ổn định cuộc sống mới có điều kiện “biết điều” với sếp. Cả tập thơ năm ngoái tài trợ được ba triệu bạc! tưởng được nhiều lắm phỏng? Có mà đong gạo mua cháo ăn mới đủ. Không có con này dài lưng ra, hết ở trường về là lao vào chuồng lợn, chạy ra vườn. may còn tý đất các cụ để lại còn có chỗ đào ngoáy, không thì khốn cả lũ, lấy đâu tiền nuôi con ăn học” Rồi nó dịu giọng: “ Thôi mình ạ, đừng có theo tàu bay giấy nữa. Đừng có phổng mũi lên mỗi khi có người giới thiệu nhà nọ nhà kia nữa.. Mình còn nhớ hôm về quê, các bác ấy hỏi mình làm gì? Em bảo nhà em là nhà thơ, các bác ấy biểu lộ thế nào mình nhớ không? Hôm ấy em cứ ngượng tím cả mặt. Cứ như thể mình làm cái nghề gì đó mờ ám, dại dột không bằng ấy”.

Nghe đến đây Tuân giận tím người. Đến như “nhân dân” vợ mình, một thời thần tượng mình còn nghĩ thế, chả trách thiên hạ coi thường là phải. Bằng chứng là thơ bây giờ chỉ còn giá trị đọc góp vui cho đám cưới và chia buồn chỗ đám ma. In rõ là đẹp, bán chả ma nào mua. Một lần gặp thằng bạn từ thủa chăn trâu cắt cỏ mình tặng nó. Mấy hôm sau có việc ghé vào thăm, thấy nó để ngay dưới chân cầu thang. Tập thơ của mình còn in dấu chân trẻ con dẫm lên thế mới đau chứ?

Vợ chồng giận nhau mấy ngày nay vì chuyện thơ phú này. Nguyên do tại  bảo: “ Tới đây có lẽ tôi phải ra tập sách nữa, không có anh em người ta kỳ kèo. Ông hội trưởng từ năm kia năm kia đã ra quy ước “sau ba năm tài trợ, không ra sách là cắt”. Mà mình cũng gần đến cái ngưỡng ấy rồi. Nhân dân vợ giãy nảy lên, như dẫm phải cứt:

- Mình định bán tôi đi để in sách chắc?

Tuân nạc mỡ:

- Nếu mình đồng ý, ai mua mình bán tạm mấy hôm!

Nói là nói chơi thế, nào ngờ nhân dân vợ tưởng thật, tru tréo lên :

- Tưởng rằng có ăn có học, có nhân cách, có tư cách, không ngờ không bằng thằng quýet chợ. Ai động vào, vác búa đinh làm việc ngay.Chỉ được cái mã. Thơ phú gì? Tưởng báu lắm đấy hả? Con này không đời nào làm cái chuyện xấu xa ấy vì thơ phú của ông đâu. Chẳng thà ông cờ bạc, còn có canh được canh thua. Đằng này thơ phú có thấy được cái gì bao giờ đâu?

Tuân cãi:

- Nhà giáo như mình nói thế sao ổn? Nó là giá trị phi vật chất, tồn trường mãi mãi, sao lại so với việc cờ bạc cá độ được?

- Xời, còn khuya nhé. Bao nhiêu ông gỉ ông gì, thơ ca lừng lẫy một thời. Đến nay còn chả ai nhắc đến, cái ngữ mình..

Không đợi cho nhân dân ấy hết câu, Tuân sừng xộ:

- Nói năng cho cẩn thận. Thằng này đói khổ lầm than thế nào cũng chịu được, làm nhục là không có được. Ai cho phép cô xúc phạm tới các vị ấy?. Cô đừng có vơ đũa cả nắm. Còn mấy ông làm vè diễn ca thì nói làm gì. Thời nào mà chẳng có? Triều đình bao giờ cũng cần có kẻ ca xướng, đám cưới cần có “em xi”. Có người lo dẫn chương trình, dù chẳng có thực quyền gì. Mấy vị ấy ăn cơm chúa phải múa tối ngày là việc của họ. Tôi là nhà thơ tự do.. Cô đừng có mà..

Cả đêm Tuân không chợp được mắt. Trở mình bên nào cũng không ổn. cứ như nằm trên chông trên gai  chứ không phải giường đệm nhà mình. Nhân dân ấy ôm gối vào nằm với đứa con gái. Ngoài trời mưa hùng hục, như ném sỏi xuống vườn, ném đá xuống sông. Phía  sông lở ùm ùm, hậu quả của việc nhân danh "khai thác cát sỏi" để đào vàng sa khoáng. Còn có thông tri từ trên phủ đánh về: “Người nào, nhà nào ngăn cản việc khai thác cát xây dựng là vi phạm, cần phải xử lý nghiêm. Nếu có xảy ra sạt lở, lý trưởng, chánh tổng phải có bổn phận báo lên bản phủ, rồi bàn cách giải quyết”. ÔI luật lệ của thời động rồ này sao mà hài hước mà lâm li, nghe như bị đấm vào mặt. Có biết nhiêu ngôi nhà, thửa ruộng lở xuống sông vì lòng tham lam quá trớn của con người?

Nửa đêm có tiếng la hét thất thanh. Nhân dân vợ quên hết cả giận, lay Tuân gọi:

- Này, này.. Dậy xem ngoài kia có chuyện gì? Hình như bên hàng xóm đổ nhà hay có ai chết í..

Tuân giả vờ ngủ say. Đây là lần đầu tiên trong đời anh “Thấy cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”. Như mọi khi, chưa cần vợ gọi đã nhao ra ngoài đó rồi. Đang giận, đang buồn hết cả chân tay, Tuân như kẻ ngoài cuộc. Nằm một lúc tự nhiên thấy nhói trong ngực, Tuận chạy bổ ra ngoài..

Đêm phố Pủ băng keo dán miệng hũ. Tối không nom thấy gì. Đi một quãng mới thấy lửa sáng một chòm. “Nhân vật” Tài cởi trần, quần lửng, cầm bó đuốc, mồ hôi ròng ròng. Thấy Tuân, nhân ấy hỏi:

- Bao giờ có điện hả chú? Mưa như thế lày lại mất điện, đến nà khổ!

Tuân gắt:

- Tao cũng như mày, biết gì hơn mà hỏi?

Cái thằng beo ăn ba ngày không hết thịt, không chịu vào khiêng vác đỡ người ta. Lại đứng đây mà cầm đuốc ra vẻ soi đường! Bực. Tuân bảo nó:

- Mày khỏe, vào xem có gì nặng vác đỡ. Nhà Bá Bành nhiều đồ quý cẩn thận kẻo hư của nó.

- Con nói thật với chú, khuân vác con không ngại. Nhưng não lày rẻ người, con ghét. Có bữa gặp não ngòai đường, chào, não còn không thèm trả nời.. Nhân ấy nói có vẻ hờn.

Tuân bảo:

- Lúc í khác, bây giờ khác. Mày cứ giúp lão rồi lão ấy sẽ hối hận. Đưa cây đuốc đây tao cầm cho.

"Nhân" có vẻ miễn cưỡng, nhưng rồi cũng hòa vào đám đông. Nom dáng nó khật khừ có vẻ miễn cưỡng, tội nghiệp.

Chả cứ lão Bá Bành, làng này có ai ưa nhân dân cu Tài? Mặc dầu nó nhanh nhảu, mồm mép, ai nhờ gì cũng hung húc làm, nhưng lại có tính tắt mắt nên cả phố đề phòng. Không ai thích nó đến nhà.

 Tuân cũng không thích nó, nhưng anh không ghét nó theo cách người ta ghét. Chẳng qua đói ăn vụng, túng làm càn. Từ đời bố mẹ nó đã trộm cắp vặt thế rồi. Nhà nó nghèo, bố ham cờ bạc, mẹ nghiện quà không kém chồng nghiện rượu. Nó đông em, lấy đâu ra có? Cũng không ai như bố nó... Trước ngày mở đường, cả khu vườn gần mẫu đất đổi cho người ta lấy cái bè nuôi cá lồng. Thằng cá lồng bảo lồng cá của nó có ngót ngàn con sắp sửa được bán cá thịt. Đếm cua trong lỗ, mua cá dưới ao, đến lúc xong giấy tờ mới trắng mắt. Lại đang dịch. Cả nhà nó được mấy bữa cá rán, cá luộc rồi cho khắp người ta. Bố nó buồn. Ốm rồi chết.

Đám ma bố nó là đám lạ lùng nhất xưa nay.Quan tài kê dập dềnh dưới cái bè cá nó đang ở bây giờ. Lúc khiêng lên, một anh sơ í, tụt chân. Suýt nữa cả bọn cùng cái quan tài văng ra thăm Hà Bá.

Rồi nó lấy vợ, đẻ con. Cứ như giống cỏ gà chẳng ai chăm bẵm mà vẫn tươi tốt. Mới tí tuổi đã ba đứa con. Ruộng nương chẳng có, cả nhà trông vào cái đò nan. Từ ngày Bá Bành ra cái đò máy, nhà nó đói nặng. Kể ra nó còn chút quân tử, chút nhân tính nó mới đến đây. Giờ thì đang è vai ra khiêng cái tủ gỗ sưa Bá Bành mới mua về..

Phải người khác, với kẻ làm đổ niêu cơm nhà mình, liệu có làm được như thế không?

Đúng là thời bây giờ cá lớn nuốt cá bé. Ngành nghề gì cũng vậy, yếu thế là thiệt. Tuân cứ day dứt mãi chuyện này. Có lần anh bảo với Bá Bành:

- Đằng nào bác cũng thuê người chạy đò, bác thuê luôn thằng cu Tài cho nó kiếm đồng nuôi vợ con nó?

Lão cười kha kha:

- Chú xúi dại anh đấy à? Thuê nó có khác gì gửi cá miệng mèo? Được đồng nào liệu nó có đưa cho mình không, hay lại bớt xén? Chú thương tình cho nó bớt đám ruộng để nó sinh nhai có phải tốt hơn không?

Lão đá quả bóng sang sân nhà mình. Chót nói, mình phải cho nó một đám. Ai ngờ cấy được đám lúa, chưa kịp gặt, nghe người ta bày dại. Bùi tai, nó bán sắm bộ kích đêm đêm đánh cá. Được vài hôm bị đoàn xã bắt lên quận, tịch thu mất vì tội hủy diệt môi sinh, hại nguồn cá tự nhiên. Lại trắng tay. Từ ấy nó ngại, luôn tránh mặt, không dám gặp Tuân. Nhưng cũng từ đấy, trộm vặt buồng cau trái chuối ở đâu không nói, vườn nhà Tuân thì không. Cũng còn có chút tự trọng, chút khí phách. Khí phách của loại công dân hạng ba ở phố Pủ này. Giá mà Bá Bành giúp nó, chút nhân tâm ấy, chưa chắc nó dám tơ hào.?

 Nhưng bá Bành thì có bao giờ nghĩ đến ai? Lão còn muốn nuốt tất cả vào bụng. Người đàng hoàng không bao giờ xử trí như thế. Không bao giờ dòm ngó đất đai của nhà hàng xóm, coi vợ hàng như vợ mình. Lão là kẻ không đàng hoàng, không cứ "nhân vật Tài" không ưa, nhân dân mình và nhân dân các nơi đều không thích. Chẳng qua sống chung với lũ. Lão gặp hoạn nạn phải cứu mà thôi

Nửa đêm, cả dãy taluy cao ngật ngưỡng đổ ụp xuống. Cái nhà ba từng của lão trật móng đổ rầm, nghe như động đất. Mưa mấy ngày liền, đất bở, nhão ra như bùn. Ngôi nhà Bá Bành chênh vênh.. Chớp mắt đã thành tương. Tivi, tủ lạnh chả biết có dùng được nữa không? Còn cái xế hộp bốn chỗ bẹp dúm, bẹp dó.

Ai cũng than trời mưa ác quá. Thực ra còn có chút nguyên nhân từ con người. Bá bành hẳn hoi, tình tiết đã không xảy ra não nề đến thế..

Cụ tổ Vân Sản ngày xưa là người thích tiết canh chó sói và hay ăn thịt mèo. Trong khi đó cụ bà nghiện bánh đúc và đôi khi có ăn thịt thỏ. Thời ấy các con vật kể trên còn rất nhiều ở vùng này. Đêm đêm còn có tiếng chó sói hú trong rừng sâu. Thỉnh thoảng người ta còn bắt gặp ma cà rồng trong khe núi. Hai cụ tổ làm nghề lái đò dọc và kiêm cả đò ngang con sông Khúc Thủy này.

Bạn bè của họ là lão Sinh Khai lông ngực rậm như cái chổi lúa giấu trước bụng. Lão cao to, mắt xếch, râu quai nón che kín gần hết mặt. Không ai biết lão làm nghề gì. Chỉ lâu lâu mới thấy xuất hiện, mang theo một cuốn sách dày chi chít chữ và một con dao nhọn với sợi dây thừng. Người nói lão là nhà truyền giáo, kẻ bảo làm lục lâm thảo khấu ở rừng phía bên kia núi. Cũng có người bảo lão chẳng qua là kẻ vô công rồi nghề, nói phét nói lác kiếm cơm thiên hạ. Con người này có ảnh hưởng ghê gớm với cụ tổ Vân Sản bởi những bài hát ngô nghê, mà cực kỳ nguy hiểm thời ấy. Những lời ca khuyếch trương và gợi óc tò mò về một nơi cực lạc. Phải băng qua địa ngục có quỷ canh vạc dầu và  vua ma xó cưa người như cưa ống nứa..

Những nhân dân, nhân vật.. kinh khủng ấy là của một thời đã qua. Không có xuất hiện một lần nữa về sau. Một thời nơi đây còn hoang sơ, tăm tối và quá ư thanh vắng. Con người có thể chơi thân với hổ, báo và các loại thú dữ vì  xung quanh quá tẻ nhạt và đơn điệu, u mê, trì trệ vv..

Bá Bành là hậu duệ thế hệ thứ ba. Cha ông ta có rất nhiều con, nhưng loạn lạc, đói kém, bất đồng, bệnh hoạn chết mất khá nhiều. Giờ còn anh thứ ba điếc lác, chẳng giống ai ở làng Bắc Cụp.  Chỉ còn hai anh em Bá Bành và Thọ Ruộng còn ở cạnh nhau.

Nhiều năm  giữa họ không xảy ra điều gì. Thọ vợ tên là Ruộng thường ốm đau luôn, kinh tế lúc nào cũng moi mói. Lại luôn bị kẻ khác bắt nạt vì tính “đã yếu lại hay ra gió”, ham mê bài bạc, gạ gẫm người này người kia. Thời gian dài Bá Bành là chỗ che chắn cho y. Không có ông anh, bọn chúng dỡ nhà, chiếm đất mất rồi. Mỗi lần Thọ Ruộng bí, phải bán ruộng vườn, ông anh lại bỏ tiền ra mua giá cao hơn người ngoài, nói là để giữ cho em, “Bao giờ chú ấy khá để chú ấy chuộc lại”. Việc mua bán này Thọ ngấm ngầm làm, không cho vợ con biết. Vẫn nói dối là mình chưa có điều kiện canh tác cho bác ấy làm, khi nào dùng đến thì lấy về. Đến khi vỡ lở ra mới sinh chuyện. Đấy là chuyện phần sau. Nhưng chuộc lại cách nào và khi nào là điều chưa hề xảy ra. Ai cũng bảo nhà ấy anh em như chân với tay. Tình nghĩa ruột thịt thật là cảm động!

Bá Bành giỏi làm ăn, con cái dễ bảo, bóp mồm bóp miệng, chịu nhẫn nhục bao năm, giờ giàu lên mỗi ngày. Mua thêm đất, tạo thêm trâu mở rộng bốn phương tứ hướng say mê đến nỗi quên cả chuyện về lâu về dài sẽ tới đâu? Bất chấp đến sự ganh tị đề phòng của xung quanh. Tạo ra một nghịch lý: Không phải phú quý sinh lễ nghĩa. Sự giàu có lại tạo thêm rất nhiều kẻ thù!

Sự đời xưa nay giàu ăn uống, khó cãi nhau. Ông em gia cảnh vì thế mà luôn lộn nhộn trong nhà, vợ con mỗi người một phách. Phàm xưa nay nhà nào đổ cũng bởi tự dột nát, mối mọt từ bên trong.  Giường cột vững chãi, gió bão chưa chắc đã đổ?

Nếu không có chuyện thằng em thay đổi cung cách, chưa chắc đã có chuyện xích mích giữa hai anh em.

Nhà Chúa cho “mở rộng” lô đề, hợp pháp hóa trò vè trước nay bị nghiêm cấm. Có một gã  tự bên kia sông Khúc Thủy đến “mở đường” cho Thọ Ruộng làm ăn.

Ngày ngày Thọ Ruộng kê cái bàn con ra gốc cây tùng. Nhàn. Rủng rinh. Tiền  như nước. Có tiền, Thọ Ruộng đặt vấn đề chuộc lại miếng vườn trước đây bán lại cho ông anh. Bá Bành chỉ mặt: “Đồ ăn cháo đá bát!”. Tuyệt tình. Anh em không nhìn mặt nhau nữa. Gặp không hỏi, chào không thưa. Ngày giỗ cụ Vân Sản nhà nào có nhà nấy cúng..

Thọ Ruộng hận không đòi chuộc lại đất. Con vợ xui:

- Mình xuống tấn phát. Cho ông ấy biết tay!

Hôm sau thuê máy xúc, đào thành taluy cao tới mười mét, nói là cho ngang với bến xuống sông, tiện tắm giặt. Nhà Thọ Ruộng được đám đất rộng, tương đối bằng phằng, tha hồ trồng su hào bắp cải. Nhà Bá chênh vênh như trứng treo đầu đũa. Ba mặt khúc mắc với lân bang từ trước, còn lối duy nhất bây giờ cũng tịt, không có lối ra.

Đang cùng mặt bằng với nhau, giờ thành hai cấp. Nhà Thọ Ruộng nhà gỗ giỡ xuống lại dựng, không vấn đề gì. Nhưng nhà Bá bành xây cao tầng mới là cái chết. Mưa lớn ròng rã nửa tháng, đất mềm nhũn ra, chỗ cao nhao xuống chỗ thấp.. việc phải xảy ra đã xảy..

Nhà đổ không bởi động đất mà là do anh em nhà này động rồ.

Tuân đang đứng cầm đuốc soi cho đám người xúc đất bới đồ đạc của nhà Bá Bành. Nhân dân Tài thỉnh thoảng chạy qua cười nhen nhen như để khoe công, cậy sức. Chợt.. có một bóng đen vụt qua, Tuân bỗng buốt nhói sau gáy, mắt tối xầm, rồi không nhìn thấy gì nữa..

Đất dưới chân Tuân lở ùm ùm. Nước chảy xiết không thể tưởng tượng được. Anh bám được đám bèo lục bình, hoa xanh tím xanh tái. Rất lâu đám bèo ấy  trôi qua nhiều xứ sở không cửa, không nhà. Không cả chó cắn mèo kêu, chứ đừng nói chim kêu vượn hót. Quang cảnh điêu tàn như thể “Hai trăm năm sau vắng bóng con người”. Không có gì sất. Tất cả đã mục nát, hoang tàn như chưa hề có sự sống của bất cứ sinh vật nào. Chỉ có núi non đơn độc và những con sông buồn chán chảy như không muốn chảy..

Bèo cứ thế trôi đi..Chợt bè tấp vào một gò đất lầy lội và ướt át. Trên đỉnh gò mấp mé nước, sách từng chồng xếp cao như một quả đồi. Những quyển sách bìa xanh, bìa đỏ, bìa vàng như mới vừa in xong, chưa từng có ai đọc, xô dồn cả đống.

Tuân kêu ú ớ:

- Sách của tôi, ai có thuyền mau tới đây…Sách mà mất đời còn nghĩa gì nữa..Sách ..sách..

Vợ Tuân đang ngồi chườm vết đau đang bị xưng u lên của chồng. Nhân dân ấy buột miệng:

- Đúng là động rồ. Đau thế này còn sách với chả vở!

Nhân vật cu Tài bảo:

- Hay để cháu cõng chú ấy lên bệnh viện. Nói mớ thế này chắc nguy mất?

Nhân dân vợ gói ghém quần áo chuẩn bị đi thì Tuân mở mắt he hé:

- Không sao đâu, đi làm gì. Vài hôm sẽ khỏi. Nhưng mà tôi làm sao thế này?

- Không biết đứa nào đánh trộm. Không có anh cu Tài phát hiện ra sớm, nằm đó chắc đi rồi!

- Tôi có làm gì ai đâu mà có người đánh?

Nhân dân vợ bảo:

- Không đi thì cứ nằm yên, cho nó đỡ đau, đừng hỏi nhiều nữa. Chắc là có đứa thù oán hay hiểu lầm chứ tự nhiên ai gây với mình?

Năm, bảy, chín, mười.. người nhìn nhau, đã xảy ra chuyện gì mấy ngày nay nhỉ?

Cơn lũ đột ngột chấm dứt như khi bất ngờ xảy ra. Trời trong xanh trở lại, chỉ còn những đám mây trắng xốp, nhẹ nhàng trôi chậm rãi về phía chân trời. Dòng sông thản nhiên trong trẻo như chưa hề có trận lũ nào qua đây.

Tuân vẫn còn chút uể oải sau lần bị đả thương vừa rồi. Anh ghét nhất là cứ phải nằm dài như những ngày vừa qua. Nhân dân vợ vẫn ngày ngày tất tả đến trường. Ngành giáo dục ngày càng eo hẹp về thời gian. Những lúc rảnh rỗi như trước đây không còn nữa. Thời buổi người khôn của khó, chả nghề nào là không có cạnh tranh. Lão “hiệu” từ ngày được trao thêm quyền theo quy định mới, ngày càng cay nghiệt ra mặt. Thì có ở đâu bệnh quan liêu cửa quyền không thò mũi vào? Nay điều chuyển, mai kiểm tra đột suất theo kiểu “rang lạc”, chị em nóng mày, nóng mặt.. Ai không ăn cánh, trái ý lão là bị điều chuyển đến phân hiệu xa, đi lại khó khăn. Buổi họp “hiệu” luôn chì chiết theo lối mẹ chồng nàng dâu, muốn nói sao thì nói. Cái mục đích vụ lợi, bắt người khác phải cung phụng mình, xà xẻo công quỹ của lão ai cũng biết, mà không dám hó hé. Có người khiếu tố lên trên. Trên về, điều tra lại “vô tang vô cứ”. Làm sao có được “tang”, “cứ” bởi những vụ mơ hồ như thế? Lão lại khôn như lươn, trườn như rắn, “trên kín, dưới bền”, một tốp theo đuôi nịnh hót thì làm gì được “hiệu” nào? Thế là thêm “tội phá rối tổ chức, làm mất uy tín lãnh đạo”. Lại bị chú ý, đày đặt, không mở mắt ra được!

Tất nhiên nhân dân vợ Tuân không dại gì lấy trứng chọi đá, nhưng căng thẳng ở trường khiến nàng không vui.

Về nhà nét mặt lúc nào cũng căng thẳng, dầu dĩ, bực bội vô cớ. Các con còn nhỏ chẳng giúp được việc gì, “nhà thơ” cứ nằm ườn ra đấy coi sao tiện?

Không biết thời các ông Tản Đà, Nguyễn Bính sống thế nào?  Các vị ấy làm gì, ăn gì mà làm thơ hay “ngây ngất con gà tây” như thế? Tuân bây giờ chữ nghĩa vón cục như bị cám để lâu ngày. Lâu lắm anh chả nặn ra được bài nào. Viết cái gì? Về cái gì luôn là cái Nhân dân nhà thơ này day dứt trong lòng.

Thôi thì lúc này ra phía bờ sông xem lũ đợt vừa rồi sụt lở ra sao. Nhân dân vợ nói đúng. Có thực mới vực được đạo. Ngồi đơm đó ngọn tre, mơ hão có khi đói cả nhà. “Sức này còn cấy lúa trồng khoai, còn chăm được mảnh vườn. Khỏe lên, vào rừng kiếm thuốc nam cũng là cách sinh nhai đáng kể. Chả làm được việc to tát gì, ít ra cũng biết vì nhân dân vợ, nhân dân con mà quên mình”!

Đang ngồi tỉ tê nội trạng như thế thì Đội Dư vào. Đội phụ trách bảo an của phố Pủ này. Thực tình mà nói, Tuân không có ác cảm nhưng cũng không thích đội. Con người đội luôn khó hiểu. Cái nghĩ bên trong và cái lời bên ngoài là hai cực trái ngược nhau. Đã dốt lại luôn làm ra vẻ nguy hiểm, quan trọng. Tình nghĩa gì mà đội Dư đến?

Thực ra đội Dư không có ác cảm và cũng không có toan tính gì với Nhân dân Tuân cả. “Gã ý là nhà thơ, tính gàn gàn một chút, nhưng thẳng tính và tốt bụng. Bất cứ ai nhờ vả việc gì là tay ấy không từ nan, sốt sắng giúp ngay. Chính vì thế mà nhiều khi mang vạ vào thân”. Đã có lần đội nói với nhân dân ấy, vì biết nhân ấy ưa thẳng thắn:

- Ông làm thơ thì cứ làm, sáng tác nhiều thơ ca bất hủ, ra nhiều tác phẩm có giá trị văn học nghệ thuật cho mai sau. Lịch sử và nhân dân sẽ ghi nhận điều đó. Đừng có mà rỗi hơi tham gia những việc không phải của mình. Việc đó có “ông trên” lo. Gái góa lo chuyện triều đình có ích gì? Hai nữa những chuyện trong quận trong phủ hàng ngày chĩa mũi vào làm gì? Không phải đầu cũng phải tai. Đơn từ khiếu kiện dính vào làm gì?  Ai có thân người đó lo. Đúng sai có xã ủy, có chánh tổng, người ta chuyên về việc này.. Kỳ đà cản mũi chả có bao giờ là cái hay cả. Đừng như mấy ông nhà thơ ở Y ở X, ban đầu “phản đối tiêu cực, giúp đỡ dân oan, sau rồi bất bình chuyện biển, đảo, biên giới”..Rồi nói với nhau:

“ Đấy là xu hướng của kẻ sĩ, của người có tâm, bao nhiêu anh tài đi trước làm gương rồi..”  Đi quá trớn lúc nào không hay.. Nhiều bài học nhỡn tiền ra đấy, có ích lợi gì cho mình, hay chỉ khổ vợ khổ con? Hiền sĩ với cả lương tâm là cuộc chơi không đơn giản. Không phải ai chưa lượng sức mình cũng có thể dí mũi vào! Tôi nói thế, ông thấy có phải không?

À thì ra lâu nay đội có “để ý” mình đến việc này. Mà mình đâu có làm gì, đội lại nói như thế nhỉ?

Tuân định tranh luận nói để cho đội nắm rõ. Nghĩ lại, anh thôi. Con người như Đội nói thế nào ấy nhỉ? Đó là khối lý luận rắn chắc, khó bề thay đổi, đã lập trình sẵn trong đầu, trong tim. Một vài lời phải trái, chả xoay chuyển được tình hình. Nó như một ngôi nhà đã định hình. Móng có chỗ đổ beton, có chỗ là móng đất. Mái thì chỗ mái bằng, chỗ lợp ngói, có chỗ lợp gianh. Tường chỗ xây, chỗ vẫn thưng vách nứa, hỏng chỗ nào sửa chỗ ấy. Hình thái tư tưởng ấy, sự cảm hóa, biến chuyển chỉ là không tưởng. Mà người xưa nói rồi, “đã không đồng quan điểm, tranh luận không bao giờ chấm dứt”. Không khác đấm bị bông, đánh bùn sang ao!

Tốt nhất là không tranh luận. “Càng tranh luận càng dễ xa nhau”. Nói gì thì nói, mình với đội vẫn cùng ăn ở, sống chết ở phố Pủ này. Đội mà cay mũi, chả hay gì.

Đội Dư có lẽ cũng nghĩ như thế. Nên bảo:

- Nói thật với chú, anh đã từng qua “cao học chính trị”, lý luận anh không thiếu. Nhưng không gì bằng sống tình cảm với nhau. Một trăm cái lý, không bằng một tý cái tình..

Rồi đội nói ra mục đích đến đây của mình.

Đội bảo thằng lớn con nhà Bá Bành nghi Tuân xúi dục nên Thọ Ruộng mới làm ra nhẽ ấy. Nó bảo mấy lần đơn từ Thọ Ruộng đều nhờ Tuân viết hộ. Nó nói thẳng với đội: “ Chú chả phải mất công điều nghiên điều nghiếc gì nữa. Nói cho chú biết việc ấy cháu làm đấy. Phải chú tức thế, chú có làm không? Có chú, cháu ở đây cháu không dấu. dưng mà chú lập biên bản, hay báo lên trên là thằng này không nhận đâu nhé! Lời nói gió bay mà!”

Đội vừa mừng vừa bực. Mừng là cuối cùng cũng tìm ra manh mối. Hung thủ đã tìm ra được. Nhưng bực là nó nói trắng trợn, lại chả có “tang”, có “cứ” nào để buộc tội nó, đem ra xử lý. Cha con Bá bành xưa nay ngang ngược, đểu cáng ở vùng này ai không biết, nhưng lại cực kỳ xảo quyệt, thâm hiểm, luôn biết che dấu hành tung. Gây với cha con nó không chừng khốn cả mình!

Nghĩ. Nghĩ đi nghĩ lại. Đội bảo:

- Có chắc là ông ấy xúi giục, đơn điếc không? Tao nghi lắm. Người như ông ấy không chắc đã làm việc này. Mày nghi oan cho người ta, xử lý đểu, kiểu xã hội đen như thế là bậy. Theo chú mày nên đến nhà xin lỗi ông ta. Hoàn cảnh chú ấy cũng khó khăn, nhà mày có điều kiện, “thường” cho người ta một chút tiền máu, mới phải con người cháu ạ!

Nó  ngẫm nghĩ một lát rồi giãy nảy:

- Làm thế có khác gì lạy ông tôi ở bụi này? Các ông có cớ để xích cổ thằng này lại à?

Còn việc bồi thường nhẽ ra không nên làm vì hai nhẽ: Một là ông ấy có làm những việc kia thì đây là trừng phạt cần thiết để “dạy cho bài học” về sau. Hai là cũng để dè chừng kẻ khác, vì trong việc này nhất thiết phải có kẻ làm. Dưng mà chú đã nói thế, để chú dễ hành xử với bên ngoài, cháu đồng ý. Chú tìm cách xoa dịu rồi đưa cho chú ấy giúp, còn cháu ra mặt thì không đâu!

Nó dứt khoát như thế, móc túi đưa đội ba triệu bạc.

Đây là lần đầu tiên đội nói với nhân dân Tuân theo kiểu thành thực. Đặc thù công việc của đội nó vậy chứ đội chẳng phải là xấu xa gì. Quan tòa và lưu manh xưa nay vẫn gần và dễ hiểu nhau. Bảo như thế là tốt, là xấu còn tùy quan điểm mỗi người. Chưa bao giờ khó xử lý vụ việc như vụ này. Bồi thường cho nạn nhân mà nạn nhân không được biết hung thủ là ai? Hung thủ chỉ là cái bóng vô hình!

Nghe xong câu chuyện, Nhà thơ nhân dân cười như mếu:

- Bác đã nói thế, em còn nói gì được nữa? Nhưng mà tiền thì em không nhận đâu. Em không thể nhận tiền mà không biết của ai, đưa cho mình vì việc gì? Như thế nó mờ ám, không nên.

- Thế chú vẫn dứt quyết đi kiện à?

- Bác buồn cười, như bác nói, kiện ai? Kiện củ khoai trong chùa à?

Nhân dân vợ đứng đấy nghe rõ câu chuyện. Không thấy nhân dân ấy bảo sao. Nhưng nhìn vào đôi mắt, Tuân biết nhân dân ấy bảo:

- Đúng là điên, động rồ. Bị đau mà không nhận bồi thường là cớ làm sao?

Đội Dư chả biết nói thế nào. Đội kéo hai, ba điếu thuốc lào liền. Điếu ục là loại điếu không nên hút như vậy. Bởi thế đội say chỏng gọng, rớt dãi, giơ cả hai chân lên trời!

MÈO LẠC

Nhà í quý mèo hơn người. Suốt ngày nếu không có việc gì nó chăm chút mèo ghê lắm. Để ý đến từng sợi lông, cái râu mép con vật yêu. Cấm có vệt bẩn nhỏ nào trên bộ lông ba màu, đen, trắng vàng của nó. Đi đâu về là chủ nhà quan tâm tâm đầu tiên đến con mèo trước đã. Sau rồi mới đến con Pốc. Một con chó bé bằng bắp tay có giá bằng hai cây vàng. Thấy bảo đó là giống chó Mỹ, sạch sẽ và khôn lắm. “Đã là mèo, bất kể đẹp xấu thế nào, cốt bắt được chuột” Lão hàng xóm người Hoa bảo thế. Việc gì phải chải chuốt, sức nước hoa, thắt nơ cho nó làm gì? Mèo là giống tinh vi, khôn lỏi. Cứ được nuông chiều là đâm ra láo, ra ích kỷ. Đâm ra lười. Đã hay ỉa bậy thì chớ lại đố chịu bắt chuột bao giờ! Cho dẫu là đại gia, trong nhà hễ có chuột cũng đều nguy hiểm. Tiền bạc giấy tờ, hợp đồng, chứng chỉ, chuột vớ được là coi như xong. Cậy nhà mình có két sắt, nhà này đâm coi thường. May mà con vằn nhà mình đêm đêm làm phận sự, nhà nó được phận nhờ. Ngày nào cũng như ngày nào, con vợ nằm tênh hênh, váy cũn cỡn, chán sơn móng tay lại bế con mèo vào lòng, vuốt ve như chăm em bé. Có ai vô tình động đến, cô ả cau mày, tỏ rõ sự không bằng lòng. Cứ như thể người ta đụng chạm vào mối tình đầu, tranh mất chồng hay tài sản quý giá của ả không bằng!

Hàng phố bảo vợ chồng nhà này khép kín, chẳng chơi với ai. Hàng xóm có cháy nhà cũng bằng chân như vại. Cậy nhà mình có tiền, lại có ba lần cửa, chả sợ bố con thằng nào. Cần gì phải lấy lòng ai cơ chứ? Ngoài con Pốc ra

 nhà ấy còn con Bẹc ác và khôn như quỷ. Nó cao đến ngực người ta. Hễ có người đến nhà cứ lồng lên như muốn phá tan sợi xích sắt để ăn tươi, nuốt sống khách tới nhà.

Hồi hai bên còn qua lại, mình nhớ có một lần. Con tam thể nhà nó đến cọ cọ làm quen, lân la nằm bên cạnh mình. Dù rất nâng chiều, ả vớ ngay cái phất trần vụt cho con mèo một cái. Có ý không thích con mèo nhà nó làm quen với mình. Mà ngoài mình ra nhà nó có ai đến bao giờ?

Hôm thằng Cò nhà này bị mấy đứa bụi đời ăn hiếp ngay trước mặt vợ chồng nhà ấy trên đường đi học về, cả hai ngó lơ. Không hẳn 

vợ chồng nhà ý sợ bọn chúng gây sự, trả thù. Cái thói thờ ơ với người ngoài lâu dần đã thành quen. Vợ chồng nhà í làm như không thấy gì. Nghe thằng Cò về kể như thế mà mình ức đến sặc máu mũi. Sao vợ chồng nhà ý lại có thể dửng dưng, ích kỷ, vô tâm đến như thế được? Hôm nay là người ta, mai mốt là mình. Thấy có sự quay mặt đi có còn là con người nữa không? Cũng không cần phải mai mốt gì, tháng trước con gái nhà ấy bị xe tông vào mình phải dừng xe ngay lại bỏ cả buổi làm để đưa nó vào viện. Bị khiển trách là vô tổ chức, nghỉ không xin phép đại lãnh đạo từ trước! Chả hóa con nó mới là công nương, quý tử, còn con mình chỉ là thằng người, không cần để mắt đến hay sao?

Toàn những chuyện nhỏ mọn, chẳng ra gì.. Nhưng mà từ đó đôi bên không còn qua lại. Thực lòng mà nói, mình cũng cảm thấy buồn. Con người dù nhạt nhẽo, vô tình đến đâu, bỗng chốc xoay lưng cũng làm cho mình thoáng chút suy tư. Dù cho người ấy không đóng vai trò gì quan trọng trong cuộc mưu sống hàng ngày. Mình chịu không thể chấp nhận được câu ví von cong cớn. Rằng: “Có cô thì chợ cũng đông..” Ra cái điều không cần, nhẫn tâm, nghe tệ bạc quá..

Nhưng rồi mình cũng dần quen sự hao hụt, thiếu vắng ấy. Cặp đôi này may là chưa hoàn hảo, nên nỗi buồn về hàng phố ở gần cũng như bát nước nóng, mãi cũng phải nguội..

Có người bảo người Việt mình lành và nhát, bởi di sản của nền văn minh hái lượm, không phải săn bắt như những thứ dân khác.  Hay sợ liên lụy, lôi thôi đến mình. Tính vị kỷ khá cao. "Đèn nhà ai rạng nhà nấy" là câu cửa miệng nhiều người. Nhưng mình nghĩ điều đó chưa chắc đã phải. Mà nếu chẳng may điều đó là có thật cũng rất cần thay đổi. Mình đã cố gắng hành sử theo phương hướng ấy. Nhất là với hàng phố với nhau. Cái gì đáng nói thì nói, đáng làm thì làm. Không thể vì những điều bé mọn mà dửng dưng, vô cảm vô tình. Thậm chí còn hằn học, bới móc hại nhau bằng mánh lới thủ đoạn.

Dưng mà ở đời cây muốn lặng gió chẳng đừng. Ở gần nhà nó cứ anh ách như bò đá. Đã bảo việc cũ bỏ qua, nhìn về tương lai, nhà ấy lại gây thêm chuyện mới. Vốn khi xưa bức tường ngăn cách hai nhà chỉ có tính tượng trưng, trồng toàn trúc cảnh từ thời các cụ. Lâu ngày hàng trúc mọc lấn sang cả hai phía. Đùng một cái nó kêu thợ đến đào bới túc mục, bảo là để xây tường kiên cố. Nó yêu cầu mỗi bên góp một nửa. Mình nghĩ phải, gật đầu. Có việc đột xuất mình đi vắng mấy ngày. Khi về bức tường đã xây xong. Vợ ấm ức bảo: “Nhà ấy lấn sang bên mình đến mươi lăm phân”. Đã thế bên ấy đổ đất cao xây chuồng nuôi nhím. Sáng ngày ra, nhà nó xả nước cọ chuồng. Nước theo rãnh thoát thế quái nào chảy lênh láng sang cả sân nhà mình. Gọi, nó bảo sẽ cho người sửa lại. Mãi rồi cũng không động tĩnh gì. Mình đành đặt cống sát tường phía mình lấy lối thoát. Giống nhím nhốt trái tự nhiên có mùi hôi thối không sao chịu được, chờ nó thì đến rằm tây đen chưa chắc đã có hy vọng. Không phải mình sợ nó giàu có, đông anh em nên mới nhún nhường. Chẳng qua tránh voi chẳng xấu mặt nào. Một thằng như nó việc gì không dám làm? Nó có cái gen truyền đời từ cụ tổ nhà nó. Ba bề bốn bên chả ở yên được với ai là hàng xóm láng giềng. Không bằng lòng ai nó có ngay trò ranh ma, quái quỷ làm cho đối phương chóng mày chóng mặt, ăn không ngon, ngủ không yên. Lại toàn trò ném đá giấu tay, thâm hiểm. Lần manh mối rất khó. Mà có đưa ra chốn công đường chưa chắc đã làm gì được nó. Lúc mơ mơ ảo ảo này, tính đi thưa kiện là một sai lầm nghiêm trọng. Chưa chắc đòi được công bằng, có khi hại vào thân!

May mà vật đổi sao dời.Chả có cái gì là vĩnh hằng, muôn năm cả. Thịnh vượng đến đâu cũng phải đến lúc suy tàn. Hỏng từ bên trong mà ra, chứ chả có ma nào thù oán hay gây chuyện.

Mấy ngày nay không hiểu xảy ra chuyện gì, bên nhà nó im ắng như không có người ở. Không hiểu vợ chồng nhà ấy đi đâu? Đi tự lúc nào?

Lệnh bán lòng lợn

Ngày ấy, thịt lợn bán theo tem phiếu, qui định tiêu chuẩn theo ngành nghề, bậc lương. Trẻ em có phiếu ưu tiên, ô phiếu in chữ

“TR”.

Có ô phiếu 100g, 200g, 300g, có cả ô phiếu 50g. Sườn, chân giò tính bằng nửa thịt, gan, tim, cật, cứ thế mà mua.

Thế còn lòng, dạ dày, phổi? Các thứ này không bán theo phiếu, nhưng không bán tự do. Cơ quan nào có hội nghị thì cán bộ phòng hành chính đem công văn triệu tập đại biểu đến công ty thực phẩm, xin mua. Công ty xét, đồng ý thì cấp cho một tờ “lệnh”, vâng, đúng là tờ “lệnh”, ghi rõ:

“Bán cho cơ quan X. 1 hoặc 2 bộ lòng lợn”.

Những hội nghị lớn, đặc biệt, thì có thể xin “lệnh” mua thịt, nhưng phải có công văn gửi sớm đến công ty thực phẩm, và nhiều khi phòng hành chính hoặc ban tổ chức phải xuất tướng đi xin.

Nói có sách, mách có chứng. Trong cuốn

“Biên niên sự kiện từ năm 1972 đến 1991”

của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lào Cai

(xuất bản năm 2002)

ghi lại mọi hoạt động tập hợp, lãnh đạo hội viên sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu, với nhiều thành quả sáng tạo, không quên ghi lại một vài chi tiết thú vị:

Ngày 12 tháng 1: “... 3) Ban Thường vụ Hội Văn học Nghệ thuật có công văn gửi công ty Thực phẩm - Nông sản xin mua hàng phục vụ hội nghị toàn thể hội viên để tổng kết công tác văn học nghệ thuật kể từ ngày thành lập hội đến nay, chuẩn bị bước sang nhiệm vụ của tỉnh mới sáp nhập, đồng thời tổng kết cuộc vận động sáng tác về đề tài nông nghiệp 2 năm và trao giải thưởng. Công văn do ủy viên thường trực hội - Q.T.C. ký. Số lượng cần mua là: 15kg thịt, 10kg sườn, 6kg chân giò, 8kg gan, 1 lạng mì chính, 5 lít nước mắm, 20 bao thuốc lá. Hội nghị sẽ làm việc trong 2 ngày. Số lượng 120 người, có một bữa liên hoan tiêu chuẩn 4 đồng một người...”

(trang 120).

Chả cứ gì thực phẩm. Những đồ dùng thông thường của cơ quan cũng phải làm công văn, nhiều khi năm lần, bảy lượt mới được mua, chẳng phải bị gây khó dễ, mà chủ yếu là hàng khan hiếm quá.

Trong cuốn biên niên sự kiện trên còn ghi:

Ngày 18 tháng 2:

Ban Thường vụ hội có công văn số 19/VN gửi cửa hàng vật liệu kiến thiết thị xã dự trù mua bàn ghế, tủ cho cơ quan mới được thành lập, do phó chủ tịch P.H.T. ký: Cần mua 15 cái bàn làm việc, 45 ghế tựa ba nan, 10 ghế dài hội trường, 12 tủ đựng tài liệu, 5 bàn uống nước, 25 ghế đẩu, 3 giá đựng sách.

Công văn ghi rõ:

“Trong năm trước, cửa hàng mới cấp cho Hội Văn nghệ 4 ghế ba nan, còn các loại khác chưa được cấp”

(trang 60). Cũng cần nói rõ để các bạn trẻ rõ: Ghế ba nan là ghế tựa, gỗ thường, chỗ tựa lưng có ba nan gỗ cong cong. Xin mua số lượng như thế, từ năm trước mà chỉ được mua có vậy, năm sau lại phải làm công văn tiếp. Một vài chi tiết thôi, nhưng đủ để thấy những ngày ấy mọi người đã say mê làm việc trong hoàn cảnh như thế nào...

VĂN TIẾU

(Lào Cai)

ruyện Ngắn Hắn

09/12/2012

by

admin

·

Leave a Comment

Truyện Ngắn Hắn – Tác giả: Vân Hải

Đầu hắn tròn. Mặt hắn tròn. Núng nính như cái thủ lợn. Cũng may hắn có chút chiều cao nên dù có phốp pháp cũng không đến nỗi ung ủng tròn lăn.ưa nay trong ca dao, dân gian thường hát: Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon. Có lẽ cũng vì thế, do ảnh hưởng văn hóa cổ truyền, mỗi khi muốn nấu cháo lòng, các bà nội trợ thường cố chọn cho được bộ đồ lòng béo nây nây, trắng hồng, uốn khúc chặt chẽ, khít khao, và khúc cổ lọ chắc nịch. Nhìn thôi đã thấy vừa ròn vừa mềm, lại vừa thơm tho nữa. Bên xứ tây này, ở Paris, chỉ có chợ Tầu, quận 13 và chợ Belleville. Tìm được một bộ đồ lòng tốt thật hiếm có. Đa số cứ thưỡn ra, lỏng lẻo, teo nhách, lại có khi hơi xanh xanh. Trông đã thấy dai, tanh và đắng. Hết cả hấp dẫn. Lòng heo để nấu cháo thì cần con lợn thật mập. Nhưng còn ruột gan hắn có tốt như hình dong thừa thãi ấy hay không lại là chuyện khác hẳn.

Hồi bà con ta còn lính mới tò te, chân ướt chân ráo tới xứ tự do này, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ai có lỡ miệng hỏi han tới hắn, thì làm cách gì hắn cũng xa gần cho biết hắn gốc gác họ « Đờ » từ bao nhiêu đời rồi. Cái tên cúng cơm của hắn ở Việt Nam xưa nay bà con biết, chỉ là tên dùng tạm thời trong xứ la….xa xôi ấy mà thôi. Nay về « cố quốc » thì cái tên ấy yêu cầu bà con …quên đi. Xin từ nay gọi hắn với cái tên…tây thật. Người đối diện nhìn hắn kín đáo, suốt từ đầu chí chân, cố tìm trên con người, trên khuôn mặt da vàng mũi tẹt ngắn ngủn, ninh ních ấy, một chút gì để gợ nhớ đến những tên họ « Đờ » phú lăng xa, nhưng thấy quả thật là khó. Khó hơn cả tìm bộ đồ lòng ngon ở chợ tầu, vì chẳng có một tí gì gọi là liên hệ, vương vấn, giông giống cả. Có người bạo phổi hỏi thẳng hắn có dính dấp giây mơ rễ má gì thì hắn…ngượng ngập trong một giây đồng hồ, sau đó hít một hơi dài trên cái tẩu thuốc gắn chếch trên mép, phà khói vào mặt ngưới đối diện, xốc lại cổ áo ba đờ suy cho có vẻ …Tây, tằng hắng xong, hắn cho biết là từ đời ông cố ông sơ gì đó có quan hàm với…mẫu quốc. Người đối diện vỡ lẽ, nhưng cứ nhìn cách ăn nói, cách cư xử của hắn, người nghe tự dưng muốn cười. Mà người muốn cười phải công nhận là người dễ tính. Nếu gặp người khó khăn, họ sẽ tìm cách kê tủ đứng mát mẻ về thái đô….tây vàng của hắn. Có người sau khi biết gốc tích của hắn, gặp hắn đâu đó, mà gọi hắn bằng cái tên tây thật « Đờ » ấy thì hắn lộ vẻ sung sướng lắm và người đó bảo đảm được hắn có cảm tình đặc biệt. Bất cứ ở đâu cũng thấy hắn. Bất cứ hội họp nào, hắn cũng le te, lảng vảng, có mặt. Kể từ một buổi văn nghệ bỏ túi đến ngày lễ tế Tổ Hùng Vương. Lúc nào cũng ra cái điều mình là nhân vật nòng cốt của cục diện. Hắn cứ tự nhiên như vào chỗ…đông người. Có nghĩa là, khổ chủ chẳng hề cầu cứu tới hắn, hắn cứ phe lờ, nhờ hay chẳng nhờ, hắn cứ vác cái thân hộ pháp tới, cũng chạy tới chạy lui, chỉ chỏ, ra lệnh cho vài chú thanh niên có thiện chí đến giúp mà không biết rõ hay chẳng cần biết rõ ai là trưởng ban tổ chức vì tuổi trẻ làm việc không vụ lợi. Nhưng tuyệt nhiên không thấy hắn trong những buổi họp chính trị, buổi biểu tình, đêm không ngủ, kịch liệt chống cộng của người Việt yêu tự do, đòi nhân quyền. Có người sốt ruột hỏi tại sao hắn có mặt gần như khắp nơi, nhưng lại không bao giờ thấy hắn đi biểu tình này nọ, thì hắn trang trọng và khiêm nhường bảo rằng hắn chỉ lo về văn hóa, chính trị có người khác lo.

- Một mình làm sao ôm được hết.

Hắn trả lời như vậy trong giọng cười hềnh hệch. Được cái chưa thấy ai than thở về hắn rõ rệt, một con người chẳng ai ưa, nhưng cũng chẳng ai ghét. Bà con Việt Nam mình vốn tính dễ dãi nên dù bực bội vẫn cứ để hắn can thiệp vào việc của mình một cách…không giấy phép.

Thời gian trôi nhanh như vó câu qua cửa sổ. Chẳng mấy chốc đã xa xứ hơn 20 năm trời kể từ năm 1975.

Những lính mới ngày xưa đa số đã trở thành. …Tây giấy. Có người thực tế lấy tên tây cho mình hay cho con cái để dễ giao thiệp hàng ngày. Điều đó có phần có lý. Có người cẩn thận hơn, áp dụng đúng câu « nhập gia tùy tục », nhất là các bà các cô, nên mỗi khi gặp nhau trong nhà hay ngoài phố đều chìa má hôn hít thắm thiết và xổ tiếng phá lăng xa loạn xạ. Cái màn hôn má này cũng được các đấng mày râu áp dụng một cách hăng hái. Tuy nhiên họ cũng…khôn lắm. Biết lựa người mà hôn. Họ biết bà nào khoái ôm hôn và bà nào nhăn mũi tránh xa. Vì thế không phải muốn…gỡ gạc ai cũng được mà lại không bị …xỉ vả oan.

Cuối thế kỷ XX có sự kiện lịch sử lớn. Đó là sự tan rã của khối cộng sản Âu Châu nói chung, Sô Viết nói riêng và sự cúp viện trợ của Sô Viết cho cộng sản Việt Nam, nói riêng nữa. Cùng trong thời gian Việt cộng gặp khó khăn chính trị và kinh tế ấy thì có phong trào người Việt ở hải ngoại về thăm quê hương. Những người ngày hôm trước còn ôm hôn nhau ở…chợ tầu Paris, ngày hôm sau lại gặp nhau trên vỉa hè …Saigon. Vì đã bỏ nước ra đi, khi trở về, họ mang ảo tưởng về thăm Saigon, chứ không phải thăm thành Hồ. Trong lòng họ Saigon vẫn là Saigon. Huyễn mộng đã khiến họ quên mất rằng trên thực tế Saigon đã bị đổi tên. Dù về nước chơi, trong những câu nói, cũng may không ai còn dùng đến tên của cái xác ướp kia nữa.

Trong lúc một số người Việt Nam trở thành…Tây Đầm trong cách sống và một số trở thành…Việt kiều yêu nước về thăm quê hương, …vô tình trở thành cứu tinh, trong sự mừng rơn của Việt cộng trong cơn túng quẫn, thì hắn cũng…thay đổi. Phải thành thật nói ngay rằng dù Việt cộng mừng hết lớn vì được ngoại tệ, nhưng một mặt vẫn « chết giun chết dế » vì lo sợ những người về nước đem cái gu yêu tự do, yêu nhân bản, về thôi vào tâm hồn những kẻ thiếu thốn các món ấy trong cái nước Cộng Hoà xã Hội Chủ Nghĩa và…vô tình lột mặt nạ cái nhà cầm quyền Xạo hết Chỗ Nói ấy. Hắn ráo riết có mặt ở các buổi họp có tính cách văn hoá hơn. Chú trọng khuyến khích mầm non văn nghệ Việt Nam hơn. Văn nghệ tình tự dân tộc, nhưng tha thiết tự do, hạnh phúc thật sự, tha thiết một quê hương không bóng dáng cộng sản. hắn rưng rưng xúc động mỗi lần được đứng nghiêm chỉnh, kính cẩn, chào quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và hãnh diện hát vang bài quốc ca cùng mọi người trong phòng họp.

Gặp hắn. Người quen miệng gọi hắn bằng cái tên phú lăng xa, thì hắn nghiêm mặt, trịnh trọng chỉnh nhẹ thiên hạ rằng phải biết nhớ nguồn, nhớ gốc của mình, rằng mình là người Việt Nam, da vàng mũi tẹt, cho dù cái tên cha mẹ đặt cho có xấu cách mấy chăng nữa cũng cứ nên dùng. Thế là hắn lại đào cái tên cúng cơm Mít Đặc đã chôn sâu đâu đó từ cả chục năm nay ra xài lại trước sự chưng hửng và sững sờ của người đối diện.

Nhân khi cả thế giới kêu gọi bỏ hoặc bớt hút thuốc lá, thì hắn cũng vứt bỏ cái ống tẩu đi luôn. Trong câu chuyện, không thấy hắn phà khói rồi nhún vai kiểu tây nữa. Cách xưng hô « toa, moi » cũng không còn. Trái lại hắn cho người đối diện biết là không những tiếng mẹ đẻ, tức tiếng Việt Nam, có một kho mà còn có một bụng chữ…nho nữa. Nếu người kia mở mắt thao láo nhìn hắn ngạc nhiên, thì hắn rút liền trong túi áo vét ra một tờ giấy vẽ ngoằn ngoèo mấy hàng chữ nho và những vần thơ cổ. Thế rồi chẳng cần người đối diện yêu cầu, hắn rung người ngâm liền vài câu. Cái thủ lợn gật gù ra vẻ hiểu biết sâu sắc lắm.

Những năm xưa, mọi người còn nhớ, hắn như một ông…tây vàng, trong lúc mọi người còn là « mít » một trăm phần trăm. Nay ngược lại, thì thiên hạ thành…tây, thành…đầm hết cả, thì chỉ hắn đơn độc trở về nguồn.

Rất có thể hắn học nhiều hiểu rộng thật. Một bà có tuổi đứng gần đó nghe hắn ngâm thơ sang sảng, lại nghe hắn khoe vừa đi làm vừa đi học, bà càng bội phục người có chí lớn. Tò mò bà hỏi làm quen:

- Gớm ông giỏi quá nhỉ, lại chịu khó thế nữa. Thế ông học môn gì đấy ạ?

- Tôi học…cao học.

Bà có tuổi định hỏi gì thêm, nhưng trù trừ giây lát rồi thôi. Mặt có vẻ bần thần. Bà quay đi, vừa đi vừa suy nghĩ. Chắc đó là môn học mới. Ở cái xứ văn minh này, cái gì cũng khác lạ. Xưa nay người ta học y khoa, nha khoa, dược khoa, luật khoa, kế toán, thiết kế, kỹ sư, giáo sư, kiến trúc sư, rồi điện toán là môn bà mới nghe nói khoảng hơn chục năm nay v.v…Mấy môn đó bà nghe nói tới thường, nhưng riêng môn…cao học, thì chưa nghe qua bao giờ. Bà nghĩ thầm rõ ràng đó là cấp bực của các môn học thì đúng hơn, như cấp tiểu học, cấp trung học đệ nhất, đệ nhị, tú tài, cử nhân v.v…Bà định bụng về nhà sẽ hỏi chồng môn cao học là môn học gì. Bà không dám hỏi thẳng hắn, sợ hắn chê bà quê mùa.

Tóm lại, hắn là thế đó. Đặc biệt như vậy. Nhìn hắn núng nính như con lợn thì chẳng hiểu có nên bắt hình dong hay không và việc nhìn bề ngoài của người có thể biết bên trong tâm óc người ấy, đúng hay sai, quả thật khó nói.

Cháo long

Sáng nay, đến văn phòng, đang lang thang tìm chỗ ăn sáng thì gặp một khuôn mặt quen quen. Rồi cuối cùng tôi cũng nhận ra đó chính là bà Bích cháo lòng. Đã hơn 20 năm trôi qua, thời gian có làm cho bà cũ hơn một chút, nhưng khuôn mặt bà vẫn vậy, gồ ghề, cục mịch nhưng chất phát, thật thà.

Với đám sinh viên trường kinh tế quốc dân thời đó, không ai không biết bà. Bà không phải là giáo sư, không phải là quản sinh, cũng không phải là cán bộ của nhà trường, nhưng tên tuổi của bà thì được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, khiến các vị giáo sư nổi tiếng cũng phải phát ghen. Lý do, bà là chủ quán cháo lòng ở cổng B, nằm ngay trên đường Đại La. Không biết trình độ văn hóa của bà thế nào, nhưng cuốn sổ nợ của bà thì dày kinh khủng. Trong đó ghi rõ tên tuổi đứa nào đứa nào, học lớp nào, khóa bao nhiêu, dày như một cuốn từ điển Anh- Việt.

Giờ đây, khái niệm cháo lòng khiến người ta liên tưởng đến màu áo của mấy anh em cửu vạn lên thành phố làm phụ hồ, lam lũ với sương gió. Trong đó có màu trắng nhờ nhờ của bột gạo, có màu đen thẩm của tiết lợn. Với đám sinh viên hồi đó, cháo lòng là thuật ngữ cao siêu, là địa điểm lý tưởng để mấy thằng sinh viên tỉnh lẻ vừa về quê nhận viện trợ lên chiêu đãi nhau.

Giờ nói điều này, có người cho rằng năng lực thẩm mỹ của sinh viên hồi đó sao mà thấp kém thế! Không bàn chuyện kinh bang tế thế thì chí ít ra cũng bàn chuyện về World cup, chuyện nhạc Mozart hay truyện Kiều của Nguyễn Du. Đàng này tâm điểm của dư luận lại chỉ xoay quanh chuyện cháo lòng!

Thực ra thì sinh viên thời nào cũng mộng mơ như nhau thôi. Thơ vẫn là chủ đề trọng tâm của mọi cuộc tán gẫu. Hồi đó, cái đói luôn luôn ám ảnh, nên thằng Châu người Nam Định đã họa lại bài thơ Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến như sau:

Tô canh lạnh lẽo nước trong veo/ Một miếng thịt heo bé tẻo teo/ Bốn thằng hốc hác tranh nhau vớt/ Một đứa nhanh tay hớt cái vèo/ Thịt heo trôi nổi giờ đâu mất/ Ba thằng không được mặt như heo/ Tựa ghế ôm thìa lâu chẳng được/ Thịt đâu còn nữa dưới nước lèo ...

Cháo lòng là món cháo được nấu theo phương thức nấu cháo thông thường, trong sự kết hợp với nước luộc lòng lợn, và nguyên liệu chính cho bát cháo không thể thiếu các món phủ tạng lợn luộc như tim, cật, gan, dồi (thường làm từ ruột già nhồi tiết và các loại gia vị), lá lách, dạ dày, ruột non, tràng, cổ hũ, lưỡi… Với những người phương Tây, đây là khái niệm xa lạ, nhưng với người Việt, đặc biệt là vào cái thời cách đây khoảng vài chục năm, cháo lòng được bán rộng rãi tại các cửa hàng lòng lợn trong cả nước, tạo nên một bộ ba sản phẩm được ăn theo thứ tự trong bữa ăn là tiết canh, lòng lợn, cháo lòng, và thường kết hợp với rượu đế nút lá chuối khô.

Trong cái thiếu đói triền miên ấy, để duy trì năng lượng cho việc học hành, để chống lại sự suy kiệt của cơ thể, cháo lòng được được coi là phương tiện hữu hiệu nhất. Lý do đơn giản là, cháo lòng không sang trọng, rẻ tiền nhưng khá nhiều năng lượng. Hôm nào sang, gọi một đĩa lòng nóng sốt, chấm mắm tôm, xong mỗi thằng làm một tô cháo, coi như bữa tiệc đặc biệt cho cả một tuần.

Lúc ít tiền, vào gọi mỗi thằng một tô, vừa có vị béo ngậy của mỡ, vừa có chất bột của gạo, chỉ mất năm hào được một tô đầy, ăn xong căng bụng, coi như nạp đủ năng lượng cho một bữa.

Cá cược nhau, thằng nào thua cũng một chầu cháo lòng. Có tiền ra quán cháo lòng là một sự sang trọng, còn với mấy thằng có nguồn gốc “nông văn dân” thì có cái gì đáng giá, mang ra cắm. Khi nào kiếm được nguồn, mang ra nhổ. Trước khi ra trường, tài sản của tôi có cái quạt con cóc đáng giá nhất, cũng bị thằng Thành mang ra cắm, cho đến bây giờ cũng không biết số phận của nó ra sao.

Gặp bà, tôi ngờ ngợ hỏi:

-         

Chị cho hỏi khí không phải, chị có phải là chị Bích không?

-         

Đúng rồi! Chú ở đâu vậy?

-         

E là cựu sinh viên của trường KTQD, ngày xưa thỉnh thoảng có vào hàng cháo lòng nhà chị!

Chị à lên một tiếng rồi bảo: Nhiều người gặp tôi vẫn nhắc lại thời đó, giờ làm gì rồi, trông mập mạp thế kia, chắc làm to rồi!

Tôi ậm ừ cho qua chuyện, hỏi thăm được biết chị bỏ nghề cháo lòng từ hơn chục năm nay rồi, hiện ở nhà trông cháu, không tiếp tục cái nghề truyền thống ấy nữa. Nghe vậy tôi thấy hơi bùi ngùi, nếu chị còn duy trì nghề cũ, biết đâu, đó là một điểm hẹn lý tưởng để mấy thằng cựu sinh viên gặp nhau. Chuyện bây giờ không phải là bát cháo lòng chống suy dinh dưỡng mà là ký ức của một thuở học trò

Lại nữa, còn cuốn sổ nợ trứ danh ấy, đó là tư liệu sống quý giá, nơi đó ghi danh tên tuổi của không ít nhân vật quan trọng. Có nhiều thằng đã thành thứ trưởng, bộ trưởng, thậm chí là triệu phú đô la cũng đã từng là con nợ của bà, vậy mà, bà đã bỏ nghề, sao tiếc thế không biết.

HẨU LỐN

Có phải ở trong Nam người ta gọi món đó là “sà bần” không?

Không ai bảo cho tôi biết tại sao người ta lại kêu như thế. Tôi cứ gọi nó là “hẩu lốn”. Chiều tháng Chạp, trời hơi lành lạnh, một mình thơ thẩn đi trên các nền đường xa vắng, nhìn vào nhà người thấy cơm canh bốc khói dưới đèn, tôi thường nhớ đến món “hẩu lốn” ngày nào...

Tất cả buổi chiều đương vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh, mà chợt nhớ đến món hẩu lốn như thế, thì lòng mình tự nhiên ấm áp hẳn lên, nhưng sau đó lại trầm trầm thêm một chút, rầu rầu thêm một chút. Là vì mình lại tương tư miếng ngon Hà Nội mất rồi!

Thực là kỳ lạ: cũng thuộc vào loại hẩu lốn, Tàu có “tả pín lù” Tây có “lâm vố”, mà ở đây thì có “sà bần”; ba thứ này, cũng như hẩu lốn, đều do các thứ ăn đổ lộn lại với nhau nấu chín lên, nhưng tại sao ăn vào tôi vẫn thấy có một cái gì “khang khác”, không làm cho mình mãn nguyện hoàn toàn?

Thưởng thức “tả pín lù”, công phu lắm. Muốn cho thực đủ vị, phải có cá, tôm, mực, gà, lợn, bào ngư, hầu sì, bong bóng... mỗi thứ gắp một miếng nhúng vào trong nước dùng, rồi gia thêm cải bẹ xanh, cải soong, hành hoa để cả cuộng, rưới nước dùng vào bát mà ăn, chính lúc các món ăn đương nóng. Ai muốn có nhiều đản bạch tinh cho mạnh, thì đập thêm một cái tròng đỏ trứng gà vào. Trứng sống, rưới nước dùng sôi lên trên, chỉ một lát thì tái: mời ông cầm đũa xơi ngay cho, kẻo nguội... Trời lạnh, ăn món nóng vào có phải ấm lòng lạ lùng không? Nước dùng gà bỏ thêm đầu tôm, đầu mực, lại đập trứng, húp vào một miếng, nó cứ ngọt lừ đi trong cuống họng... Nói cho thực thì mùa rét, mấy anh em tri kỷ dắt nhau lên một cái lầu cao, gọi tả pín lù ăn kể cũng nên thơ.

Phổ ky đưa ra một cái “cù lao hổ”; trong cù lao có để than tầu hồng; nước dùng ở quanh cái cù lao sôi lên sùng sục làm cho người ăn đã ấm trong lại ấm cả ngoài. Thỉnh thoảng, mấy bông hoa lửa bay lên đem lại cho ta cái cảm tưởng mình là những vị tiên ngồi chung quanh lò bát quái luyện linh đơn, ăn một miếng vào bụng thì trường sanh bất tử.

“Sà bần”, không ăn như vậy. Bí rợ, bún tầu, cá nướng, khoai tây, nấm, tỏi tây, haricôve, đổ chung vào một cái nồi nấu lên ăn. Cũng như tả pín lù, các món ăn này còn nguyên vẹn, mới toanh, chưa hề đụng đũa: nhưng cũng có một thứ sà bần “hầm bà là” tất cả các thức ăn ngày hôm trước nhà có tiệc tùng còn lại đun nhừ lên, gia thêm rau cỏ rồi bắc ra ăn thật nóng.

Thấp xuống một bực, người bình dân còn ăn đồ “lâm vố” cũng là một thứ sà bần, nhưng đây là “sà bần” gộp các món ăn Tây nấu nhừ ra: ragu, rôti, ôđơvơ, ăngtê, sucút cùng bơ, phó mát, cho tất cả vào một cái nồi nấu chín.

Đừng có bảo những biến chế đó không ngon vì là những món dư, rẻ tiền, được đun nấu theo một “hệ thống vô trật tự”. Sà bần, lâm vố và tả pín lù, mỗi thứ có một vị riêng, ăn vào lạ miệng, nhưng thực tình mỗi khi thưởng thức một món đó rồi, tôi chỉ thấy thương món “hẩu lốn” hơn lên. Món hẩu lốn giống tất cả những món đó, nhưng lại không giống riêng một món nào.

Tả pín lù, ăn thô và béo quá, nước lại ngọt một cách giả tạo; đồ lâm vố thì lai căng, lổn nhổn, ăn một miếng chơi, cũng được đi, nhưng đến miếng thứ hai thì “chán mớ đời”; còn sà bần kể cũng hay, nhưng không hiểu làm sao tôi cảm thấy nhạt nhẽo... và duy vật như kiểu cô gái Việt học trường đầm, thân thể cứ căng ra mà lại mặc một cái quần cóc se, rất chật, đi núng na núng nính như biểu diễn rum ba ngoài phố.

Ăn một miếng, ngon liền; hai ba miếng, được đi; nhưng đến miếng thứ tư mình thấy khẩu cái nó nhàm, “không vô” nổi nữa. Thế là tại làm sao? Tại “sà bần” thừa chất gì chăng? Hay là tại thiếu một thứ rau gì mà ở trong Nam này không có sẵn?

Chao ôi, hẩu lốn thì khác hẳn...

Một buổi chiều đông, hoa rét trở về với mưa xanh, gió thu, anh bước vào nhà, tự nhiên thấy ngào ngạt một mùi thơm... Hỏi: “Ờ, nhà làm món gì mà ngát thế?”. Đáp: “Hôm nay lạnh, làm món hẩu lốn ăn đấy mà!”

Vợ đã biết tính chồng hơi khó, thích món gì mà không đủ vị thì hay “lẫy”, cho nên từ buổi trưa đã phải mua đủ các thứ rau cần thiết như thìa là, cải cúc, cải xanh, rau cần... Bao nhiêu thứ đó rửa sạch, để cho ráo nước. Xong đâu đấy, mới đi lấy tất cả những món ăn còn lại của bữa cỗ hôm qua để riêng ra một chỗ, đợi giờ chồng về thiếu mười phút thì bắc vấu lên bếp, bắt đầu làm món ăn thích ý của chồng. Bát thịt lợn ninh với măng khô cho vào trước, rồi đến bát miến, long tu, bào ngư, vây, bóng, kế tiếp trút vào sau. Lại còn đĩa gì kia nữa? Giò, chả cũng cho vào nốt, và cho vào luôn cả mấy miếng phì tản, thịt quay, mấy cuộng hành, và chớ có quên đĩa thịt gà luộc và bát chim hầm với hạt sen và cốm!

Lửa reo lách tách như cười. Từ cái vấu tỏa lên một ngọn khói lam huyền ảo. Người nội trợ gia mắm, muối vừa vặn ngon thì chồng đã thay quần áo xong rồi, mà người nhà cũng bày bàn kê ghế đâu vào đó. Mời ông ngồi trước, xong rồi đấy! Có uống rượu thì lấy chai rượu sen ở ngăn dưới cùng tủ buýp phê, chớ cái chai để ở trên mặt tủ là thứ xoàng, uống phí công đi. Người vợ vừa nói vừa lấy rau ở trong rổ cho vào vấu: rau cải cho vào trước, rồi đến rau cần, cuối cùng là thìa là, tất cả trộn lẫn, vừa tái thì bắc ra, đập một quả trứng, đảo lên vài nhát nữa rồi trút ra bát lớn.

Ngoài sân, mưa lăn tăn làm ướt giàn thiên lý. Mấy con ngỗng trời bay tránh rét, buông ở trên bầu trời xám màu chì mấy tiếng đìu hiu. Cơm vừa chín tới, hẩu lốn lại nóng hổi, bốc khói lên nghi ngút, mà ngồi ăn ở trong một gian phòng ấm cúng với một người vợ má hồng hồng vì mới ở dưới bếp lên, có họa là sất phu lắm mới không cảm thấy cái thú sống ở đời!

Vợ thương chồng, gắp một miếng hẩu lốn vào trong bát, mỗi thứ một tí, rồi chan nước dùng vào, mời ăn. Ăn một miếng, tỉnh cả người! Ai cũng tưởng các món xào xáo lộn xộn với nhau như thế thì ăn vào lủng củng và không thành nhịp điệu, nhưng lầm. Các món nấu “loạn xà ngầu” đó, không hiểu vì một lý do tuyệt diệu gì, quyến chặt lấy nhau như một giàn nhạc tân kỳ, dương cầm, phong cầm, vĩ cầm, thoạt đầu tưởng như là lộn xộn, nhưng lắng tai nghe một chút thì hòa hợp, ăn ý nhau từng tý.

Làm nổi bật được tất cả vị của hẩu lốn lên là món nước dùng: nó không ngọt cái ngọt của mì chính, nhưng ngọt cái ngọt tinh túy của tất cả các miếng ngon đúc lại.

Tuy vậy, đừng tưởng như thế mà ngán đâu. Rau cải non, không chín mà cũng không sống, đánh tan đâu mất hết các chất béo đi; rau cần nâng vị của tôm và thịt lên cho vừa, không để cho thanh quá mà cũng không thô quá; rau cải cúc ăn vào tưởng là nồng nhưng chính ra lại hòa hợp với thịt kho tàu và phì tản; thêm thìa là vào nữa thì vừa vặn ngon mà thơm nhè nhẹ như người đàn bà đẹp ngày Tết gội đầu với nước lá mùi, ngồi xõa tóc ở trước ngọn gió xuân dìu dịu.

Phải rồi, hẩu lốn ngon chính vì nó là sự tiết tấu thoát thai từ ở chỗ hỗn mang ra vậy. Cái và nước là hai mâu thuẫn, nhưng tài tình thay, lại hòa hợp với nhau như tiếng chim loan hòa với tiếng kêu của chim phượng, như trai hòa với gái, như tình nhân trong một phút yêu thương diễm ảo hòa trộn linh hồn vào với tình nhân.

Ta phải nhận rằng “sà bần” nấu cho thực công phu mà thưởng thức thì cũng ngon đáo để. Thịt luộc, dưa cải, dưa giá, thịt quay, chuối hột, cá trê nướng... tất cả ninh dừ lên, đem dùng đương lúc khói lên nghi ngút cũng đã “gia dung” lắm, nhưng tôi vẫn thấy có một cái gì như vấp váp, như xung khắc, nó làm cho khẩu cái của người ta không được thỏa mãn hoàn toàn. Có phải tại vì thiếu thìa là, cải cúc không? Có phải tại trong sà bần có cá nướng làm cho điệu đàn ngang cung không? Hay là tại ăn sà bần, người ta không ăn chung với nước dùng như hẩu lốn mà là dùng riêng nước đó để chấm rau, bắp chuối và dưa giá?

Không. Tôi ưa sà bần, nhưng tôi yêu hẩu lốn gấp trăm lần. Có những người sành ăn thưởng thức sà bần, thường chỉ lấy mấy khúc cá nướng và vài khoanh chuối hột ra nhậu nhẹt, còn các thứ khác để cho đàn bà trẻ con dùng, và cho ăn uống như thế là khôn ngoan rất mực.

Hẩu lốn thì không thế: hẩu lốn không dùng được rượu. Có muốn thì dùng một ly nhỏ trước khi ăn, còn đã mang hẩu lốn ra bàn rồi phải ăn liền, ăn riêng có một thứ hẩu lốn không thôi, hay là ăn luôn với cơm nóng - cơm gạo tám thơm, thơm ngào ngạt, thơm nhức mũi, thơm có thể tưởng chừng ăn vào một miếng rồi thân thể ta có tan biến vào hư vô cũng được.

Ấy vậy mà thưởng thức món hẩu lốn như thế, cũng chưa thấm vào đâu. Muốn nhận thức thế nào là “ngon chết người đi được”, ta phải đợi đến ngày mồng bốn, hay mồng năm Tết, hóa vàng xong rồi, bao nhiêu cỗ bàn còn lại đem trút cả vào nồi, “hẩu lốn” lên ăn. Có thể nói rằng ăn như thế tức là ăn cả cái Tết đầy hương và ngát hoa vào bụng.

Ba ngày Tết, uống rượu, đi lễ và nịnh đầm: mệt lắm. Đã thế, giờ giấc ăn uống, ngủ nghê lại thất thường, cơ thể khỏi sao trục trặc? Vì thế ta không lấy làm lạ trong ba ngày Tết chỉ nghĩ đến cơm cũng đã thấy ngán quá rồi. Giả thử không phải ăn thì thú lắm. Nhưng nào có được: vợ thương chồng, dỗ phải ăn cho kỳ được một chút cơm để có “hơi ngũ cốc”, mình đành là phải theo cho được vừa lòng, xứng ý nhau; nhưng cứ mỗi lần nể nhau như thế thì lại càng sợ ăn quá lắm.

Điểm đặc biệt của hẩu lốn là làm cho người ta tẩy được tất cả cái gì béo ngậy, ngán ngẩn của ba ngày Tết mà vẫn cứ thưởng thức được tất cả cái ngon lành của Tết.

Ngày thường, nấu hẩu lốn còn có thể thiếu thức này thức nọ, chớ đến ngày Tết thì đủ, không còn thiếu món gì. Thịt kho tàu, miến vây, bóng, bào ngư, long tu, nấm dưa hành, giò gà, thịt bò kho, kim tiền kê... và bao nhiêu thứ rau thơm mát như da người thiếu nữ đương tơ. Không cần phải thưởng thức, những trông một bát hẩu lốn thế cũng đã thấy đê mê tâm hồn rồi.

Màu xanh tươi của hành, rau kết hôn với màu vàng quỳ của thịt kho tàu, nấm hương, mộc nhĩ, chim quay, màu hoa hiên của cà rốt sát cánh với màu bạc ố của vây, miến, long tu; màu xanh nhạt của nước dùng hòa với màu trắng mờ của nấm tây, thịt thăn luộc, chân giò hầm, tất cả lung linh trong một làn khói lam uyển chuyển: à, ngồi trước một bát hẩu như thế, mình quả thấy mình là một ông tiên chống gậy một sớm mùa thu đi vào một cánh rừng mù sương và ngát hương.

Có người gọi hẩu lốn là “Long vân khách hội” - rồng mây gặp gỡ nhau - nghĩ cho kỹ thì cũng không có gì là quá! Ăn một bát hẩu lốn đầy đủ như thế - nhất là nấu lối hỏa thực, nghĩa là để ngay cái lò trước mặt, nấu sôi lên rồi gắp ra ăn liền... sướng không để đâu cho hết. Ăn như thế, mình có cảm giác may mắn suốt năm. Chẳng nói xa xôi làm gì, vợ chồng con cái ngồi thưởng thức với nhau một bát hẩu lốn thật ngon, thật nóng, ngay lúc ấy cả nhà cũng đã thấy vui ra phá. Ông chồng ăn miếng ngon vào miệng như thấy nở gan nở ruột, nhìn vợ mà thấy đẹp hơn. Ờ, ra từ hôm Tết đến nay vợ chồng túi bụi, người thì lo đi lễ, người thì lo tiếp khách, vợ chồng quên mất cả nhìn nhau. Đến hôm nay, hóa vàng tiễn các cụ về rồi, ngồi nhởn nha thưởng thức món hẩu lốn do vợ làm, vừa lúng liếng nhìn vào mắt vợ - ờ nhỉ, sao hôm nay má hồng thế, mà con mắt đen rưng rức thế? Thì ra vợ nấu được bát hẩu lốn ngon, làm được cho chồng xứng ý, cũng thấy cõi lòng hớn hở, vì được vui cái vui của chồng.

Món hẩu lốn, tổng hợp của các món ăn ngon ngày Tết, còn là thành tố của tình yêu gia đình nữa. Ngày Tết, ăn hẩu lốn tức là con cháu thừa hưởng kết tinh các món ngon bày lễ do người chết còn để lại cho người sống; giữa người sống với người sống, món hẩu lốn xiết chặt tình thân yêu lại với nhau vì bố cũng như con, chồng cũng như vợ, thưởng thức món đó đều chung một tâm sự như nhau là không thể có món ăn ngày Tết nào “lâm ly” hơn thế.

Bao nhiêu chất ngấy của thịt kho tàu, chân giò ninh, chả gà, giò thủ... nấu chung trong hẩu lốn đã biết đi đâu mất hết, mà nước dùng của nó lại có thể thanh như vậy? Đó là một bí quyết chưa ai khám phá ra. Chỉ biết rằng ăn một bữa hẩu lốn như vậy thì lòng người ta hình như cũng dịu hiền đi, chồng thương vợ, vợ yêu chồng, đến khi có họp nhau lại rút bất hay đánh tam cúc thì cười vui ra phá, chớ không có sự càu nhàu, trách móc ‘ ôi.

Về tối, mưa xuân lún phún ở trên các chòm cây. Gió heo may rì rào giục người ta đóng cửa, đi nghỉ sớm. Sắp thiu thiu ngủ rồi, chồng hãy còn nhớ đến bát hẩu lốn buổi chiều bốc khói lên nghi ngút ở bên cạnh nồi cơm gạo mễ trì thổi vừa vặn, hạt nào hạt nấy cứ óng như là “con ong”. Cải xanh, cải cúc và rau cần non, vừa tái, nhai vào sậm sựt, ngọt lừ, đến bây giờ dường như vẫn còn để lại một dư vị nơi khẩu cái cùng với cái ngát thơm của thìa là... Và tự nhiên lòng mình thấy phơi phới thương yêu - yêu thương người vợ bé nhỏ, biết đón chiều ý thích của người chồng không muốn mâm cao cỗ đầy, chẳng thiết nem công chả phượng...

Tiếng cười ở bên cạnh vọng sang cho biết rằng hội tam cúc ở nhà bên vẫn chưa tàn. “Đây, kết nhất bộ nhị đây”, “Tôi xe pháo mã”, “Có ai có pháo không, không có, mã tôi ăn đây này!”

Nhìn ra ngoài thì cành đào cắm lọ in bóng lên tường lung linh như một bức tranh thủy mạc Tàu. Gió lay động bức màn the. Về khuya, người chồng cảm thấy lạnh hơn, nằm sát lại với vợ thêm chút nữa. Người vợ mỉm cười trong bóng tối và cảm thấy lòng mình nở hoa. Chồng khẽ thủ thỉ vào tai vợ:

- Đến mồng bảy này, nhà làm lễ khai hạ, mình làm hẩu lốn ăn nữa nhé!

- Vợ, như chợt nhớ ra điều gì, đập khẽ vào má chồng:

- Thôi, quên mất rồi, mình ạ. Em cứ thấy thiếu cái gì mà không tài nào nghĩ ra. Thì ra hôm nay hẩu lốn của nhà quên mất món đậu phù trúc rồi: tiếc quá! Có món đậu phù trúc, còn ngon nữa!

- Ờ phải. Đậu phù trúc, cái màng mỏng ở trong thân cây tre, nấu với hẩu lốn thì tuyệt diệu.

- Hẩu lốn có đậu hòa lan, cải cúc, cần, thìa là mà chưa có đậu phù trúc thì vẫn chưa hoàn toàn. Đến hôm ấy, mình nhớ nhắc em đấy nhé!

* * *

Đêm xuân rải bóng xanh lên chăn nệm của đôi lứa thương nhau. Màu thời gian tim tím, hương mùa xuân thanh thanh.

Ở nhà bên, tiếng cười nói vẫn giòn tan, nhưng ở bên này, viễn ảnh của một bữa “long vân khánh hội” có đậu phù trúc đã mặc nhiên tạo thành một thế giới mơ màng kỳ lạ: chỉ có hai người nằm im lặng không nói gì, mà là cả một thế giới hương hoa!

GỎI

Không biết từ miền Trung vào đến đất Cà Mau, những ngày nóng bức, bà con có món ăn gì đặc biệt Việt Nam mà mát ruột không?

Ở Bắc, cứ vào khoảng hết xuân sang hè, tiết trời bắt đầu nóng nực, tôi thường hay nghĩ đến một món ăn xét ra cũng có nhiều thích thú: món gỏi cá sống - một món ăn đặc biệt, mà các gia đình cũ kỹ ở đây vẫn ưa dùng.

Chỉ ngại có một điều là ăn được một bữa gỏi, cần phải tốn công xếp đặt, mua bán; mà không phải là người đàn bà nào bây giờ cũng có thể lo liệu chu tất được cho chồng con một bữa gỏi hoàn toàn đâu.

Nhưng vì gỏi cá sống có một phong vị đặc biệt, nên dù ở vào những gia đình mới hoàn toàn, có những người đàn bà, con gái thích ăn “bít tết” và “bút xêalaren” hơn là ăn đồ Việt Nam, vẫn có người đàn ông tha thiết với phong vị đất nước tự tay sắm sửa lấy cho kỳ được một bữa gỏi sinh cầm để thưởng thức cho đỡ nhớ - dù rằng sắm sửa được một bữa “chén” như thế đã tổn thất lắm công phu.

Tôi hãy còn nhớ mãi hồi tản cư, miếng ăn thường kham khổ, thịt ít nhưng ao hồ cá lại nhiều, cái món gỏi cá đó kể đã được nhiều người dùng đến. Ăn ở nhà quê món đó không cầu kỳ, mà rau cỏ lại sẵn, nên cũng không mất công nhiều quá.

Ở Hà thành khác hẳn. Riêng cái việc mua được thứ cá còn sống hay ít ra cũng còn tươi, đã là một việc khó khăn rồi; ấy là chưa kể rằng nhiều thứ rau lại thiếu thốn hoặc không có nữa, thành thử ăn mà không được hoàn toàn như ý muốn, lắm khi bực mình, mất cả ngon.

Là vì ăn cái thứ gỏi cá sống, điều đáng chú ý nhất là rau, mà rau không phải chỉ có một hai thứ như ăn nộm hay vài bốn thứ như ăn chả: nhưng có đến mười thứ - mà hầu hết là những thứ rau, lá cầu kỳ như lá sung, lá ổi, lá cúc tần, lá đơn, lá vông, lá sắn, rau húng láng, rau thơm, rau mùi, tía tô, kinh giới...

Ngần ấy thứ rau phải đủ, thứ nọ đỡ cho thứ kia thì gỏi mới hoàn toàn.

Riêng nhìn những thứ rau đó rửa sạch, đặt vào khăn khô, vẩy thật kỹ cho ráo nước rồi bày vào trong những cái đĩa trắng bong, ta cũng đủ thích mắt và thấy mát rời rợi ở trong lòng. Nhưng cái mát đó chưa thấm vào đâu với cái mát lúc người nhà bưng đĩa cá sống lên để vào giữa cái “vườn hoa” xanh ngát đó: miếng cá trắng cứ nõn ra, trông vừa nục nạc mà lại vừa khô ráo, gợi cho ta cảm tưởng như được nhìn thấy một người đẹp vừa tắm nước thang lan đi thơ thẩn trong một huê viên đầy mộng.

Tôi đã từng thấy có nhiều người hễ nói đến gỏi cá sống thì sợ tanh, tưởng chừng không thể nuốt cho trôi một miếng, nhưng hễ trông thấy một mâm gỏi bày ra thật đẹp, thì thưởng thức xong một miếng, người ấy lại đòi ăn hai và tỏ vẻ ngạc nhiên là tuyệt không thấy mùi tanh tưởi.

Ấy bởi vì cá ăn gỏi tuy là sống, nhưng thực ra thì đã chế biến cho tái rồi, lại thêm có những gia vị làm cho mất mùi tanh của cá đi, thành thử ra đến lúc ăn thì chỉ còn thấy có mùi thơm của cá, béo mà béo thanh, hương vị ngọt mà lại ngát, ăn mát mà lại không thấy chán.

Có lẽ một phần cũng vì thế nên không phải bất cứ thứ cá nào cũng có thể dùng để ăn gỏi cá đâu. Cá ăn gỏi phải là cá quả hay là cá chép, đừng bé quá mà cũng đừng to quá, độ bằng bàn tay là vừa.

Cá đó làm xong, phải treo lên cho ráo nước rồi để lên trên thớt thật khô, mổ ra, lạng lấy miếng cá nạc, bỏ da đi. Giai đoạn thú vị nhất trong việc ăn gỏi là bắt đầu từ lúc lấy giấy bản trắng như ngà thấm ráo nước ở trên mình từng con cá rồi lấy dao sắc thái cặp díp cá ra từng miếng theo chiều ngang miếng cá.

Tôi đã từng được dự một bữa gỏi sinh cầm của một vị quan già về hưu, ăn thật cầu kỳ mà thú. Cá diếc nhỏ bằng một ngón tay, mua về, đem thả bể một ngày một đêm, rồi vớt ra cho vào một cái thống Giang Tây to vừa người ôm, đầy một thứ nước mưa trong vắt. Trên bàn ăn, các thứ rau và gia vị soạn sửa đâu vào đấy cả rồi, khách ngồi vừa ngắm cá bơi lội thung thăng trong thống, vừa nhắm rượu.

Ở trước mặt mỗi vị, có một cái vợt bằng nửa bàn tay. Khách ăn lấy các thứ rau cho vào bát, cầm vợt xúc một con cá nhỏ bé đương bơi lên, rồi lấy giấy bản lau khô đi, đoạn, cứ nguyên con cá như thế cho vào miệng, ăn với rau sống, rưới một thứ tương đặc biệt.

Nhiều người không thể ăn được thế, vì sợ tanh nhưng theo các vị đã ăn quen thì ăn như thế mới là tận hưởng cái vị của cá, mà mới thật là hoàn toàn giải nhiệt.

Thường thường, cá sống ăn gỏi, trước khi đem ra thưởng thức, thường được ướp vào một bát tỏi, gia một chút muối rang, một chút đường, hồ tiêu và thìa mỡ nước. Tất cả những thứ đó cùng với cá đều được trộn đều lên; độ nửa tiếng đồng hồ thì cho vào cá một chút muối diêm tán nhỏ, một chút nước giềng trộn đều; xong đâu đấy, để nghiêng cái bát cho nước chảy ra rồi lấy đũa đem cá bày trên đĩa.

Nhưng làm cho bữa gỏi nổi vị một phần lớn chính là nhờ cái thứ nước giấm mà người nội trợ đã để vào đó rất nhiều công phu. Làm cũng hơi cầu kỳ một chút.

Lòng cá bỏ mật, ken, rửa sạch, băm nhỏ với gừng, tỏi, ớt rồi trộn với vài thìa lạc rang giã nhỏ, một thìa vừng trắng rang thơm cũng giã nhỏ, rồi cho một thìa bỗng rượu hầm và một thìa mật mía.

Tất cả những thứ đó xào cả lên cho đều tay với hai thìa mỡ nước, một thìa nước mắm và một nửa bát nước lạnh đun sôi.

Gỏi ăn có một cái thú đặc biệt là có nhiều mùi vị cay, đắng, chua, ngọt, ngái, hắc, mặn, đủ cả; thỉnh thoảng lại bùi cái bùi của chất lạc, chất vừng, và của chất bánh đa nướng - chất bánh đa vẫn dùng ăn với chả cá - thơm thoang thoảng.

Mỗi miếng cá, ăn với một miếng bánh đa và với đủ mặt rau, rưới giấm xâm xấp vừa đủ nóng, ăn như thế quả là một thú thanh nhã, đậm đà mà không béo ngấy - dùng mãi không biết chán.

* * *

Nhưng gỏi không phải là chỉ ăn với cá. Ai sợ tanh có thể thưởng thức nhiều thứ gỏi làm với gà, với tôm, với dạ dày, với cua, với trứng sam, với lươn, chạch, hay thịt lợn.

Riêng tôi, ăn gỏi gà tôi thấy thích thú hơn là phở gà, có lẽ vì bún “đi” với thịt gà và các gia vị như hạt tiêu, hành và các thứ rau như xà lách, thơm, mùi và lạc rang hòa hợp với nhau hơn.

Lúc ăn, gắp thịt gà xé nhỏ, chan nước dùng rồi đệm rau và bún cùng lạc rang giã nhỏ. Lối ăn đó thông thường. Có nhiều người muốn đổi vị gỏi gà, còn làm theo phương pháp sau này: thịt gà giò lấy nạc, thái chỉ, đun nước sôi chần qua, vắt ráo nước; rau cần tây lấy chỗ non nhúng vào nước sôi; hành tây thái chỉ: mấy thứ đó trộn đều, rưới nước mắm, đường, tỏi, ớt, trên rắc lạc rang giã dối rồi chan, ăn.

Gỏi bao tử (tức là dạ dày lợn) cũng làm theo phương pháp làm gỏi gà vừa nói, ăn với một vài thứ rau thôi cũng đủ; nhưng gỏi nham cua đồng thì cần nhiều rau, không kém gì gỏi cá sống - mà trong đó ta không thể nào quên được khế, chanh, kinh giới, tía tô, rau răm, ngổ, húng láng và lá lộc. Giấm để chấm thứ gỏi này làm với bỗng rượu, cà chua, ô mai, đường, thảo quả tán ra, đun chín với mỡ nước.

Tôi còn nhớ lúc tản cư, ở những vùng quê nhiều hồ ao, có lắm giống sinh cầm, thỉnh thoảng lại thay đổi lối ăn gỏi cũng là một cái thú để tiêu phí thì giờ và chiều khẩu cái của chúng ta một cách nên thơ vậy.

Gỏi trứng sam, làm khéo - đừng để dập mật và ruột sam - ăn mát và ngọt; gỏi sườn lợn, bóp thính và giã tỏi cho vào trộn đều với lá lộc và nước chấm, ăn sậm sựt mà lạ miệng; gỏi tôm nhúng giấm dùng với bánh đa, rau và tương ngọt ăn thơm ngát, bùi, hơi béo, nhưng không vì thế mà không mát ruột.

Người Hà Nội không ăn gỏi cá thiết linh mấy khi và gỏi nhệch, gỏi lươn, chạch, nheo, trê cũng không được người ta ưa lắm; nhưng một đôi khi có ai ở đường rừng về làm quà cho một chút thịt nai mà ta rỗi thì giờ làm một thứ gỏi nai (gọi là nai nhúng lối Lào) âu cũng là một thú khiển muộn lý thú và... lạ miệng.

Ăn thứ gỏi này, không cần phải nhiều rau lắm, nhưng không thể thiếu được rau húng láng và hành tây.

Thịt nai sống, lựa chỗ nạc, thái mỏng để ra trên đĩa - Lúc ăn, nhắc cái hỏa lò con đặt lên trên bàn, trên để một cái xoong; trong xoong có nước giấm đun sôi. Khi ăn, nhúng thịt vào trong nước giấm, cho thịt tái, rồi ăn với các thứ rau và chấm với tương Lào làm bằng nước mắm, nước cốt dừa, xả, ớt, đường và lạc rang.

Lối gỏi Lào này nhắc ta nhớ đến tả pí lù của người Tàu, nhưng thanh hơn và thường ăn về mùa rét; ngoài ra, các thứ gỏi khác thì dùng về mùa nực, ăn cho mát.

Đó là một lối ăn đặc biệt thích thú và nhàn nhã, dễ quyến rũ người, không thể ăn luôn, nhưng lâu không dùng thì nhớ - nhất là nhớ cái không khí lúc ăn. Thật vậy, trong tất cả các món ăn của Việt Nam, nhiêu khê và cầu kỳ nhất có lẽ chính là món gỏi: không những trước khi ăn phải dụng công kiếm đủ rau cỏ và gia vị, mà trong khi ăn lại còn phải ăn dễ dàng, thong thả thì mới thấy ngon và hưởng được hoàn toàn cái thú của ao hồ lẫn với hương vị rau cỏ của đất nước ngạt ngào mát rượi.

Hãy thêm vào đó một bình rượu sen Tây Hồ thật ngát hương, ta sẽ thấy sống lại cả một thuở thanh bình ngày trước, thời giờ trôi qua đi như tiếng đàn, tiếng hát, mà lòng người ít bàn về chuyện danh, lợi, được thua...

Nhưng mà thời đó đã qua rồi. Trên sự đổ vỡ, mà còn người ăn như thế, có khi cũng là một cái tội, nhưng nhiều khi ngẫm nghĩ, nếu mà không làm được điều ích lợi cho dân cho nước, thì lắm khi giở một bữa gỏi ra ăn như thế có khi lại còn đỡ hại cho bao nhiêu người.

QUÁN CHÁO LÒNG

Trời nóng bức vì cúp điện, mọi người bỏ nhà ra ngồi tán gẫu bên cái quán cóc trong hẻm. Nói là quán cóc chứ thật ra chỉ có một cây dù và hai cái bàn cùng mấy chiếc ghế nhựa. Nhờ có cây si mọc trong sân vườn nhà bên phủ bóng mát nên buổi trưa quán là chỗ lý tưởng để tránh cái nắng nóng mùa hè, nhất là mấy ngày như thế này.

Xóm nhỏ chỉ hơn chục nhà nhưng toàn là những căn hộ cao cấp, chủ nhân của nó chẳng biết giàu có do đâu song lại sở hữu những căn hộ sang trọng ở mảnh đất đắc địa này.

Ban ngày bọn trẻ đi học, người lớn đi làm chỉ còn lại mấy người cao tuổi. Nhưng cũng không nhiều, chừng dăm ba cụ bà và vài cụ ông. Họ có vẻ nhàn nhã, chẳng biết làm gì nên suốt ngày lân la ở cái quán không ra quán này. Chủ quán là một anh thanh niên tuổi chừng ba mươi hay lớn hơn một chút. Nghe nói anh ta ở đâu miệt Đồng Tháp chơi số đề thua bán mấy công ruộng cha mẹ cho rồi đùm túm vợ con lên Sài gòn tìm việc làm. Cả gia đình anh ta ở trọ bên kia con đường lớn, vợ đi làm công nhân xưởng may còn anh và đứa con xin ông tổ dân phố bày mấy cái bàn trong hẻm để kiếm thêm thu nhập. Thương tình người biết hối cãi, ông tổ trưởng cho phép anh ta bán hàng cho đám học sinh học ở trường bên, đi về tắt ngang qua hẻm. Anh bán thêm cà phê, trà đá, mấy nãi chuối và có cả chiếc điếu cày. Do vậy mấy cụ ông thường ra quán anh ta, vừa uống cà phê, hoặc uống cốc trà đá và hút thuốc lào miễn phí, vì nhà cửa sang trọng con cháu không cho các cụ hút thuốc lào phun tàn phèn phẹt nên quán lúc nào cũng có người ngồi.

Anh chủ quán tính tình hoạt bát thường kể cho khách hàng nghe những câu chuyện lạ lẫm. Những câu chuyện đồng quê miệt sông nước kinh rạch, chuyện đánh trúm đặt lờ, dùng bẫy cò ke bẫy mấy con cò quắm, chuyện quây rỗ xúc bắt cá lia thia mùa nước, chuyện dậm cù bắt chuột mùa khô, và cả chuyện tào lao kiểu của… bác Ba Phi.

Mấy cụ quê gốc Bắc thích lắm vì cả đời họ chưa một lần được đến cái vùng khỉ ho cò gáy của miệt đồng tháp mười. Riêng lão Nhậm thì chẳng chút gì ngạc nhiên bởi lão cũng là người Nam bộ. Lão ra quán vì ở nhà chẳng có việc chi làm.

Hôm nay, quán cóc chỉ có mình lão và anh chủ quán. Chủ nhật nên bọn trẻ không đi học, một số các cụ khác thì được con cháu chở đi du lịch ở các tỉnh lân cận. Vì thế anh chàng bẽm mép chẳng có ai để ba hoa. Anh ta ngồi cắt móng tay bằng cái dao nhíp nhỏ thỉnh thoảng lại liếc nhìn lão Nhậm đang ngồi vê mấy cọng râu cá chốt.

Bỗng lão Nhậm quay ra hỏi:

- Hôm nay chú mầy không còn chuyện gì để kể phải không?

- Hử? Anh ta nhướng mắt nhìn lão Nhậm… Dạ không!...

- Kể chuyện bắt chuột đồng của chú mày, nghe.

- Dạ, dặm cù bắt chuột thì con đã kể rồi.

- Theo chú mày, chuột đồng làm món gì ngon nhất?

- Dạ rô-ti nước dừa…

- Bậy! Chuột đồng lột da ướp xả ớt nướng là số dách.

- Con chưa biết món này.

- Chưa biết cũng phải. Con chuột đồng lột da, móc ruột rửa sạch rồi banh nó ra, lấy xống dao dần sơ ướp với muối sả ớt, đem phơi heo héo rồi cặp gắp nướng! Món này ăn với cơm nguội thì… phải biết!

Lão Nhậm bỏ ngang câu nói nửa chừng… Anh thanh niên nuốt nước miếng cái ực:

- Dạ để khi nào có dịp con sẽ làm món đó.

- Còn có dịp nữa sao? Chú mày tính, bán chác thế này đến chừng nào mới chuộc được mấy công ruộng ở quê đây?

Anh thanh niên như bị rơi từ trên trời xuống, bấy lâu nay anh ta cố tu tĩnh, nhẫn nại cùng vợ con nhín nhúc từng đồng bạc kiếm được mơ có ngày về quê tạ tội với ông bà già và chuộc lại mảnh ruộng anh đã trót cầm cố chơi số đề. Anh trầm ngâm nghĩ ngợi. Bỗng lão Nhậm nhướng mắt hỏi:

- Chú mày đã từng ăn lòng chuột chưa?

- Dạ, gan chuột thì con có ăn nhưng lòng ruột thì chưa ạ!

Lão Nhậm nói nhỏ:

- Ăn được!

- Ruột chuột thì có gì để ăn, nó nhỏ xíu lại làm cực công?

- Ăn được hết nếu như chú mày đói.

Anh chủ quán nhìn lão Nhậm, anh thấy lão không cười. Anh biết lão không nói đùa nhưng, ở quê nghèo như anh cũng không ai ăn lòng ruột của chuột.

Lão Nhậm kéo anh ta lại kế bên mình rồi hỏi nhỏ:

- Chú mày đã ăn lòng người chưa?

Anh chủ quán tá hoả nhích ra xa đoạn nhìn lão Nhậm, anh không ngờ lão có thể đùa một câu ghê gớm như thế. Song lão Nhậm nghiêm sắc mặt:

- Ta không nói dóc đâu, lòng tạng của con người có thể ăn được. Nhất là lá gan!

- Gan ư? Anh chủ quán mất bình tĩnh. Anh hỏi… con nghe người ta nói gan người bỏ vô chão xào nó nhảy lưng tưng có phải vậy không?

- Nhảy cái con khỉ! Lão Nhậm cười ha hả. Tao biết chú mày không tin nhưng chắc chắn là vậy?

Anh chủ quán nhìn lão Nhậm với con mắt nghi ngờ…

- Ai người ta cũng nói vậy. Chỉ có ông là nói khác. Hồi ở quê người ta nói thằng Tây moi gan của Việt Minh xào ăn nhưng khi bỏ vô chão thì nó nhảy lung tung.

- Mày có thấy tận mắt không? Không thấy chứ gì. Đúng vậy, tao cũng nghĩ như mày. Tao cũng chưa tận mắt thấy người ta xào gan người Việt nhưng gan của thằng Mỹ thì nó cũng y như gan bò, chẳng có nhảy nhót gì đâu.

- Có lẽ do thằng Mỹ nó nhát hơn người mình nên gan nó không nhảy.

Lão Nhậm cười lớn có vẻ như tán thành ý kiến của anh chủ quán. Anh ta hỏi:

- Ông có gan Mỹ chưa?

- Mày có biết đường Nguyễn Văn Thoại ở quận mười không? Lão Nhậm hỏi lại.

- Dạ không?

- Bây giờ người ta đổi thành đường Lý Thường Kiệt rồi.

- Sao ạ?

- Hồi đó ở cuối con đường Nguyễn Văn Thoại có một căn cứ của Mỹ. Nói là căn cứ nhưng nó mang một cái tên “xi-vin”, văn phòng gì đó, mẹ cái tên khó đọc dù mấy chục năm làm ở đó tao cũng không nhớ!.. nên người thường ít ai biết đến.

Anh thanh niên có vẻ lơ là với câu chuyện của lão Nhậm:

- Căn cứ đó thì có dính dấp gì đến chuyện ăn gan Mỹ?

- Có sao không? Lão Nhậm nhìn vào mắt anh thanh niên… mày có nghe hồi trước người ta nói lính Mỹ gan dạ, đánh nhau mà có thằng chết thì bằng mọi giá phải lấy được xác về không? Chẳng phải nó gan góc chi đâu, chẳng qua thân nhân của lính Mỹ tử trận họ đòi phải có xác đem về, bằng không họ biểu tình không cho con em qua Việt Nam tham chiến nữa.

- Nhưng từ Việt Nam về Mỹ phải mất mấy ngày, có khi tên lính tử trận nhiều ngày hôi thúi làm sao chịu nỗi?

- Mày hỏi hay lắm. Mà, mày biết cái gì trong cơ thể người ta mau thúi rữa không?

- Bộ đồ lòng! Nhưng bộ đồ lòng thì có liên quan gì đến căn cứ dân sự của Mỹ ở đường Nguyễn Văn Thoại?

Lão Nhậm cười:

- Đó là chỗ để bọn bác sĩ mổ bỏ bộ đồ lòng, chỉ lấy cái xác, ướp phoọc-mon rồi vô bao ny-lon nhét vào công-tai-nơ làm lạnh chở đi.

- Không ai biết sao? Anh chủ quán hỏi… Mấy chục năm như vậy lẽ nào không ai biết?

- Chính quyền Sài gòn biết nhưng dân chúng không ai biết, kể cả những người ở gần đó…

- Còn mấy bộ đồ lòng, họ làm sao tiêu hủy nó?

- Thì tao đem đi chớ ai? Hồi đó nhà tao nghèo lắm mà tao thì thất ngiệp chẳng có việc gì ổn định. Thời may tao gặp một ông sĩ quan quân y người Việt. Việt ở đây là Miền Nam, là mấy anh bác sĩ quân đội Sài gòn… ổng thấy tao thất nghiệp nên giới thiệu tao vô làm ở cái căn cứ dân sự đó. Nhiệm vụ của tao là làm sao tẩu tán những bộ đồ lòng… Ban đầu ít, tao còn lén đem ra ngoại ô chôn, sau thấy hơi nhiều nên ông bác sĩ biểu tao mua một miếng đất, giả vờ lập một vườn cây, cứ khuya khuya tao vô “cơ quan” chở mấy cái bọc về chôn dưới mấy gốc cây ăn trái.

- Vậy là ông có nguồn phân bón rất tốt rồi. Nhưng ông không sợ người ta phát hiện, nhất là đi ban đêm cảnh sát nó không kiểm tra ông sao?

- Có chớ! Nhưng tao có lá bùa hộ mạng là cái thẻ do một ông Đại tướng Sài gòn cấp. Đừng nói gì cảnh sát, đến quân cảnh nhìn thấy nó là đứng nghiêm chào và xin lỗi tao một nước.

- Vậy ông chở mấy bộ lòng đi bằng cách nào?

- Đầu tiên tao bỏ vào bọc ny-lon, tống đầy mấy cái bao tải rồi dùng xe 67 chở. Về sau, mỗi ngày có đến vài chục bộ, tụi Mỹ mới cấp cho tao cái xe “đai-hắc-xu” thùng kín mít mang biển số đặc biệt. Vườn cây của tao ngày một tốt xanh um, tao có thêm nguồn thu nhập từ huê lợi nên mỗi năm mua thêm mấy mẫu đất…

- Vậy còn tiền lương của ông, tụi nó trả nhiều không? Anh chủ quán tò mò hỏi.

- Làm ăn khoán, có nghĩa là cứ mỗi bộ bao tiền thì nhân lên.

- Ông có nhớ mình chôn bao nhiêu bộ không?

- Chiến tranh càng ngày càng ác liệt, có lúc Mỹ đổ đến nửa triệu quân. Sau hoà bình có người nói gần năm trăm ngàn quân Mỹ tử trận ở Việt Nam, chắc tao chôn cũng gần hết số đó, vì chỗ “ cơ quan” tao “ công tác” là nơi duy nhứt làm chuyện “sổ lòng” lính Mỹ. Số còn lại chết đâu tận rừng già chắc cũng chẳng bao nhiêu!

Anh chủ quán kéo ghế ngồi sát bên lão Nhậm, không phải anh muốn nghe cho rõ hơn câu chuyện, mà anh sợ. Giọng anh ta run run hỏi lão:

- Ông có sợ không?

- Lúc đầu cũng sợ nhưng sau đó quen dần. Cũng giống như người ta đem chôn cái nhao thai của trẻ sơ sinh, đó là làm phước sợ gì chớ?

Anh chủ quán tò mò:

- Còn chuyện ăn đồ lòng, ông có ăn thật sự ?

- Tao có luộc thử, gan tao cũng đem xào thử coi nó có nhảy như người ta nói không?

- Rồi sao?

- Bình thường như người ta luộc lòng heo, bình thường như người ta xào gan heo với dưa cải chua! Lão Nhậm nói tỉnh queo… rồi lão Nhậm nhìn anh chủ quán cười mím chi… lúc đầu tao định mở một cái quán bán cháo lòng, nhưng nghĩ lại, tao không nỡ!

Anh chủ quán miệng há hốc, anh ta lắp bắp:

- Tội chết!

- Thì cũng giống như trong chuyện Thuỷ Hử của Tàu, bọn hắc điếm làm bánh bao thịt người để bán cho khách có sao đâu? Giống như bây giờ người ta làm bánh bao nhân thịt chuột có ai ăn mà không khen ngon.

Anh chủ quán cười:

- Thịt chuột thì được…

- Nhưng là chuột cống xù chớ không phải là giống chuột cống nhum ở quê mình. Ê! Mày có bao giờ ăn bánh bao chưa?

- Dạ có!

Lão Nhậm cười ha hả:

- Có khi mày cũng ăn bánh bao nhân thịt chuột rồi cũng nên!

Anh chủ quán nghe lão Nhậm nói rùng mình ụa ọe một hơi, nước mắt nước mũi phẹt tùm lum… Lát sau anh mới nói thành tiếng:

- Thôi không nói chuyện này nữa, ghê thấy bà. Anh chủ quán bỗng nhiên nhớ tới cảnh cùng bạn bè dậm cù bắt chuột đồng, anh thở ra… hèn gì người ta cứ nói tránh là gà đồng..!

- Không phải vậy đâu chú em, gà đồng là con ếch.

Anh chủ quán chuyển hướng câu chuyện:

- Rồi sao sau hoà bình người ta bắt ông đi cải tạo, có phải vì cái tội chôn đồ lòng của Mỹ.

- Cái tội tao có chiếc xe biển số đặc biệt và cái thẻ đặc biệt của ông Đại tướng gì đó, cấp.

- Sao ông không đi định cư ở Mỹ?

- Đi rồi… Tao ở bển một thời gian, có lần tao đi thăm nghĩa trang lính Mỹ tử trận ở Việt Nam, nhìn những nấm mộ mà tao biết chắc những con người nằm đó chẳng có ruột gan chi hết tao thấy ớn lạnh. Rồi tao xin về. Tao nhớ đám con tao, đám con đang tuổi lớn cứ đòi ăn bộ gan tao xào thử coi có nhảy trong chão không, chúng nó tưởng là gan heo!..

- Sau đó ông làm gì mà giàu lên vậy?

- Mày nghi tao bán cháo lòng người hả? Hỏng phải đâu, tao bán bớt mấy mẫu đất, may đang lúc người ta càng ngày càng đông nên cần đất ở.

- Miếng đất này?

- Đúng! Lão Nhậm ra chìu đăm chiêu… Chỗ mày đứng đây hình như là chỗ gốc cây tao chôn mấy bộ lòng..!

Anh chủ quán đứng lặng người không nói một lời nào. Sáng hôm sau khi mấy cụ già ra quán uống cà phê thì không thấy anh ta nữa, chỉ thấy có một chị mập ú bày hàng cháo lòng ra bán! Lão Nhậm cười một mình… Đồ nhát gan!

Bà mắng

Bà đang ngủ, ngủ rất say. Cái quạt nan lúc đầu còn phe phẩy, giờ  thì tuột, rơi hẳn xuống đất.

Trông bà thật thoải mái. Cái nốt ruồi cứ giật đều đều theo nhịp thở. Miệng bà nhai nhóp nhép cứ như đang thưởng thức một món gì ngon lắm! Chiếc  ghế dựa to thế mà vẫn còn thừa chán chê phần người  ra. Một chân bà gác lên cái bàn chặn lối đi lại( những lúc này dễ bị mất cắp lắm!). Ba bốn đứa trẻ nhếch nhác nối đuôi nhau bò mẹp dưới đất, chui qua “vọng gác chân ” của bà. Chúng thò tay bốc miếng cốm bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến. Bỗng một đứa giật mình ho sặc sụa vì tiếng “ hắt xì” của bà.  Mở choàng mắt, bà hét toáng :

-Á..à... bà thì bà chém phứt cái mớ đời nhà chúng mày nhá...!

Bà đứng chống nạnh, hai chân dạng ra choán hết lối đi. Bọn trẻ hết cách. Mạnh đứa nào đứa nấy phóng qua quầy hàng, vắt chân lên cổ mà chạy. Tuy vậy, vẫn không quên cuỗm theo một mớ bánh kẹo.

Bà dẫm chân bành bạch,  không đuổi. Thây kệ, bà chỉ to mồm thế thôi, nhưng bà thương chúng mà! Chỉ tại chúng, nếu xin, bà cho ăn chán chê một thể. Chỉ bực một nỗi bà mất giấc ngủ. Mà giấc ngủ của bà vô cùng quí giá! Đêm, bà nào có ngủ được gì, cứ chong con mắt thay đèn. Âý thế ban ngày bà buồn ngủ tệ! Ngặt nỗi, nằm không ngủ, hễ cứ ngồi làm cái gì thì bà lại...ngáy. Lúc gọt trái bí chanh, khi đính cái khuy áo cho đứa bé hàng xóm...Có lần đang sang hộ lọ màu cho cái Tí, cơn buồn ngủ “hành quân thần tốc” đến. Bà gục xuống, cả khuôn mặt dính vào đám mực, đến hơn năm ngày mới cọ sạch. Khổ thân bà lắm!

Cái tên của bà cũng một “kì tích”. Ông cụ thân sinh đẻ được bốn người con. Đặt tên là: Măng, Tre, Nứa, Vầu. Bà là chị cả Măng, ngặt nồi bà hay la mắng nên mọi người gọi luôn là bà Mắng.

Tính khí của bà là thế, thích tham gia vào chuyện của người khác. Có một lần, đi chợ về trông thấy một đám người xúm đông nghịt. Bà tất tả chạy lại, thì ra con mẹ Mận đang bị ba người đàn bà túm tóc đáng túi bụi. Mọi người chỉ đứng nhìn, chẳng ai dám can ngăn. Bà quẳng vội mớ rau, xông vào hét bai bải:

-Ối làng nước ơi, chúng nó cậy đông hiếp người, ối làng nước ơi!

Rồi bà chụp quáng quàng vào ba người khiến họ chùn tay bỏ đi sau khi quẳng lại một câu xanh lét:

-Bà nhớ đấy nhé!

-Ừ bà đấy! Chúng mày làm gì bà nào!

Lúc ấy, trông bà mới cong cớn làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao!

Chẳng là con mẹ Mận ngày xưa đi thanh niên xung phong chống Mĩ. Hòa bình, Ủy ban xã cấp cho con đò chở khách sang ngang. Không chồng, thui thủi trong túp lều ở bến đò cây đa này. Chị em không biết mai mối  từ đâu một người đàn ông để “xin” một đứa con cốt để khỏi tủi thân lúc tuổi già. Hơn hai mươi năm rồi, thằng bé lớn lên cứ đòi gặp cha. Con mẹ Mận đành phải cho địa chỉ. Dặn rõ ràng là chỉ được nhìn chứ tuyệt đối không được nhận. Khốn khổ thằng con không nghe lời mẹ...

Nhưng cũng bởi ông ta không có con trai mới nên nỗi!

Bà Mắng chỉ thương con mẹ Mận thật thà, hiền lành, cả đời không làm đứa trẻ giận.

Kể cái chuyện bà giúp đỡ mọi người thì có mà thâu đêm suốt sáng.

Nào là chuyện thằng cha cả Nhân say sưa bét nhè, đánh đuổi vợ con. Bà phải cho mẹ con nó tá túc bao nhiêu bận. Rồi cái đám con nhà cả Chanh không có tiền nộp phí gì đó để vào trường. Bà ủng hộ tất!

Năm nay bà ngoài sáu mươi rồi nhưng đêm hôm hễ nghe nhà ai “tối lửa tắt đèn” bà lập tức có mặt. Hình như ông Giời cũng chiếu cố cho cái thân của bà. Chẳng bao giờ tốn tiền thuốc thang. Cứ tí cảm là có thuốc Nam trong vườn, xông là khỏi ngay. Bà ăn uống cứ thương thương là. Mỗi bữa bà chỉ tròm trèm bốn bát cơm với vài quả chuối tiêu. Chẳng đáng là bao nhưng cũng có sức mà lo cho người khác.

Chỉ mỗi tội, bà hay bực mình. Hễ có ai làm bà cáu là cái “loa phóng thanh” cứ tự nhiên mở hết công suất. Rào rào như cào hến dưới sông, rồi cuối cùng vào nhà bê chén nước chè xanh đánh ực một hơi và bình thường như chưa có chuyện gì sất...

...Chiều nay bà Mắng phải dọn hàng sớm. Vì còn nấu cháo mang sang cho ông Thèn. Ông lão bên kia sông, sống một mình, đau ốm quanh năm. Mỗi người một hoàn cảnh, đều sống cô đơn. Bản thân bà không ai bắt buộc. Nhưng bà không thể ở với cậu con trai duy nhất trên thành phố ồn ào. Con trai rất thương mẹ. Hàng tháng vẫn gởi tiền về biếu mẹ. Thế bà mới có để mà giúp đỡ láng giềng. Chứ trông vào gian hàng “ tạp phí lù” của bà thì có mà ăn cám!

Chết tiệt, chiều hôm qua có trận mưa rào, không kịp hốt đống củi vào. Bắc nồi cháo đã lâu mà chưa nhừ. Khói  um tùm. Ban sáng có tí việc, bà chạy chợ muộn. Thế nên chẳng còn tí thịt lợn nào. Ở cái chợ quê này chỉ bán một hồi là sạch sành sanh. Mặt trời lên già cây sào là tan chợ. May mà có chục trứng con mái Mơ vừa nhảy ổ. Định bụng mang sang nhà con mẹ Âng vừa ở cữ. Bớt lại hai quả để “gia cố” cho nồi cháo.

Vừa xuống bếp, trông thấy mấy con gà đuôi tôm bươi tứ tung đám tro. Điên tiết bà vung tay. Hai quả trứng bay vèo sượt qua mấy con gà, phóng luôn vào nồi cháo vỡ tan và đông đặc lại ngay. Bà Mắng luống cuống cầm muôi vớt lấy vớt để đám vỏ ra. Không thể, bà tặc lưỡi:

-Ôi dào, ăn vỏ lại có nhiều can-xi. Vô tuyến nói thế!

Bưng “cặp lồng” cháo, bà đi thật nhanh ra bến đò. Cô Mận đon đả:

-Bác lại nấu cháo hả? Khiếp, bác Thèn may mắn đáo để!

Bà ngường ngượng:

-Ơ, cái cô này! Mau chèo đò đưa người ta sang sông, không lại nguội cả !

Con Vàng nhác thấy bóng người quen, chạy ra vẫy đuôi rối rít. Bà vứt cho cái bánh đúc. Tội nghiệp, chủ đau ốm nó cũng gầy giơ xương!

-Bác Thèn đang làm gì đấy? Ăn bát cháo nóng này!

Khổ, nhà không có đàn bà cứ luộm thuộm thế này. Múc cháo xong bà loắng xoắng dọn dẹp:

-Nóng quá bác nhẩy!- bà phe phẩy quạt cho ông.

Ông Thèn nhai rào rạo, bà vội lấp liếm:

-À, tôi ...hầm ít sụn để ông ăn bớt nhức xương đó mà. Tôi...tôi lấy nước cho ông uống nhé!

Ông Thèn tủm tỉm:

-Cháo ...sụn ngon lắm, nhưng răng tôi yếu,  ăn thế này là khỏi lắm rồi, cám ơn bà!

Bà bẽn lẽn( lúc này trông sao bà thật dịu dàng!):

-Tháng này bác lĩnh trợ cấp chưa? À này, cái nhà lão Phệ lợn mới đẻ được tám con đấy! Con nào cũng núng nính trông sướng cả mắt. Bác chóng khỏe để còn sang xem ông ấy cúng ông Chuồng, bà Chuồng chứ!

Quay sang , thấy ông Thèn  đang chăm chú nhìn mình. Bà vội liếc ra sân, nơi đàn ong đang say sưa hút nhụy đám hoa bầu hoa bí mới nở đang leo chung một giàn. Đã về chiều, nhưng ánh nắng hình như còn bao trùm, lan tỏa trong không gian rộng lớn, làm cho mọi vật càng thêm bừng sáng, lung linh biêng biếc...

Bà Mắng đang lúi húi khoanh lại cái ổ cho con gà chuẩn bị ấp thì có tiếng ồn ào ngoài ngõ. Chưa kịp chạy ra đã nghe bà Tơi luyến thoắng:

-Ra mà xem này các ông bà ơi! Anh Trúc con trai bà Mắng đi ô tô về làng này. Thế là người làng ta có ô tô rồi nhé! Bà Mắng ơi! Bà sướng nhất đấy nhé! Bà hoành tráng nhất làng rồi nhé!

Từ trên xe, một người đàn ông khoảng trên bốn mươi tuổi trong bộ đồ đắt tiền nhưng không giấu được vẻ quê mùa, bước xuống nhanh nhẩu:

-Cháu chào các bác! Các bác vẫn khỏe chứ ạ? Làng ta năm nay được mùa nhỉ!

Mọi người tranh nhau trả lời,náo nhiệt , chẳng hiểu mô tê gì. Ai cũng hãnh diện!

Bà Mắng ngẩn người. Con trai bà đấy!

Đó là nhờ cái tinh tú của bà truyền cho !

...Cơm nước xong, anh Trúc thủ thỉ với mẹ:

-Hay là mẹ bán nhà lên thành phố ở với chúng con! Con sẽ yên tâm hơn, mẹ nhé!

-Tôi thì tôi  chẳng đi đâu cả- Bà nhấm nhẳng- Đẻ ra ở đây, tôi xin chết ở đây. Các anh chị cứ yên chí lớn. Có bà con láng giềng, tôi không chết khô đâu mà lo! Nếu có thì tôi chỉ chơi dăm bữa với thằng cháu đích tôn của tôi thôi!

Anh Trúc không dám lên tiếng nữa, anh cũng rất hiểu mẹ. Đến bên mẹ anh âu yếm đấm lưng cho bà...

Thật ra,  không chỉ muốn lên thăm thằng cháu cưng mà bà còn một việc khó nói..Dù gì thì bà cũng phải ngồi lên chiếc ô tô hoành tráng kia, chí ít cũng một lần! Đó là điều mơ ước của bất cứ ai trong làng này.Bà sẽ gởi cô Mận chăm sóc ông Thèn. Chỉ mươi mười lăm hôm, không nhiều.

Bất giác, bà cười một mình...

Theo sự chỉ đạo của bà, tất cả cụ ông, cụ bà trong làng đều được anh Trúc lái xe chở đi một vòng.

Loanh quanh trong nhà con trai mới mấy ngày mà bà đã chồn chân. Khiếp, con bà  chuyển sang kinh doanh kiểu mới! Có mấy chục cái vô tuyến sắp thành bốn dãy, không có cần ăng-ten. Mỗi cái chiếu một kiểu khác nhau.Trẻ con ở đây mồm nhai nhóp nhép suốt ngày nên béo ú. Chẳng như trẻ làng bà đen thủi, gầy nhom. Hình ảnh gì người không ra người, ngợm không ra ngợm cứ di chuyển loạn xạ. Chẳng bù, làng có cái vô tuyến mấy chục người xúm lại, thế mới là xem!

Ở đây tuy náo nhiệt nhưng bà cảm thấy hiu quạnh, trống rỗng. Hai vợ chồng anh Trúc và thằng cháu đi cả ngày. Tối về ăn vài miếng rồi lại vào phòng hí hoáy trên vô tuyến. Con bé giúp việc làm quần quật cả ngày. Mà muốn cũng chẳng biết nói gì. Ở làng, có ấm chè ngon mới hãm đem ra mời nhau. Tán hươu tán vượn, vui với niềm vui của nhau, buồn hộ nỗi buồn của hàng xóm.Bà Mắng bỗng nhớ con Vàng, nhớ giàn hoa bầu hoa bí...

Bà quyết định về quê mặc cho anh Trúc hết lời năn nỉ.

Ngồi trên xe đóng kín cửa nhưng không khí vẫn lắm thế! Nhà nước giỏi thật, sản xuất chiếc xe bé tẹo mà trữ được nhiều không khí mát đến tê cả người! Nhưng thật lòng bà vẫn thèm cái hương thơm của lúa, của mùi bùn, mùi rơm rạ..Nó không béo ngậy như các loại bánh kẹo cao cấp ở thành phố. Nhưng mùi thơm của nó khiến cho người ta nhẹ nhàng hơn, ấm cúng hơn. Nó như một sức mạnh thiêng liêng gắn kết giữa người và đất, giữa người với con người, từ bao đời.

Mãi suy nghĩ, xe về đến nhà lúc nào không hay.

-Bọn trẻ đâu, đến đây bà chia quà thành phố nào!

Chưa dứt câu, không biết tữ xó xỉnh nào cả vài chục đứa vây kín chiếc xe. Chúng đã quen với điều này.

Lỉnh kỉnh năm sáu túi xách to vẫn không đủ chia. Qùa của người lớn bà sẽ đích thân đến biếu. Bọn trẻ bóc kẹo bánh ăn ngay tại chỗ. Thứ bánh màu đen dính hàm răng, chúng nhe ra cười, đáng yêu làm sao!

Chiều nay, bà Mắng lại nấu cháo, với thịt sườn hẳn hoi! Có thêm ít đỗ ngự cho bùi hạt cháo. Hộp sâm Triều Tiên bà nhờ con trai mua tận Hà nội, lát mang sang biếu ông Thèn. Chắc giàn bầu đã kết trai xinh xinh? Con Vàng có béo lên tí chút?

Củi hôm nay khô giòn. Lửa cháy to. Nồi cháo sôi sùng sục.

Bà vẫn chất thêm củi vào thật nhiều. Ngọn lửa ôm tròn nồi cháo nhảy múa.

Bên bếp lửa, bà thấy lòng mình dịu mát.

Cháo chín. Bà múc nhanh.Không quên gói sâm Triều Tiên.

Rồi bước nhanh ra bến đò.

ruyện Ngắn Mùa mắm còng

08/12/2012

by

admin

·

Leave a Comment

Truyện Ngắn Mùa mắm còng – Tác giả: Nguyễn Hộ

Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới

mùa còng lột, mùa mắn còng

Mọi năm, vào dịp này, sau ngày mồng năm chừng vài tuần, tôi thường được món quà: keo chao đựng mắm còng nhỏ xíu kèm theo vài

trái chuốt chát của cậu Năm gởi từ quê lên.

Mắm làm bằng con còng lột chỉ là món ăn đồng nội đạm bạc của quê nghèo, vậy mà ngót mười lăm năm sau ngày giải phóng, năm

nào, mùa còng nào cậu cũng gởi lên cho tôi. Vì một lý do riêng đối với cậu cháu tôi, mắm còng trở thành món ăn để hoài niệm.

Trong chiến tranh, cậu làm du kích, tôi làm phóng viên mặt trận. Năm đó, quê tôi là chiến trường, lại vào chiến dịch nên tôi thường về

sống với đội du kích của cậu. Sông Ba Lai hạ nguồn mùa khô nước mặn đắng, dân lại tản cư, du kích mất nguồn tiếp tế nước ngọt và

thức ăn.

Để có nước ngọt cầm hơi, du kích phải ngược dòng sông, bơi miết về trên nguồn nơi giáp nước, nhận xuồng cho nước ngọt tràn vào

đầy óc ách rồi bơi về, tiện tặn chi xài cho qua mùa, qua chiến dịch

Có một lần, địch phục kích, mấy đội viên lấy nước ngọt không trở về nữa.

Còn thức ăn, du kích ăn toàn chữ C: thịt cò, cua, còng, cá chốt, đọt chà là, dây cóc kè… được coi là món ăn “chiến lược”. Căn cứ núp

trong rừng cò, ăn tỉa cò mới ra ràng lột da, xẻo đùi hầm với củ hủ chà là hoặc rô ti đường chảy, ăn ngày này qua tháng nọ. Tỉnh ủy sợ

lô căn cứ, sợ cò bỏ đi nên buộc phải ngưng, thế là tắt nguồn, chúng tôi phải quay sang cua, cá chốt. Những thứ này phải câu và cũng

hiếm nên cứ phải luân phiên từ cá cua, tới còng.Mùa còng lột vỏ, mỗi năm một lần vào mồng năm tháng năm ta. Lớp áo giáp đủ màu

được trút bỏ, những chú còng mềm như lụa, thân ngậm đầy sữa, chỉ cần nấu qua loa cũng thành món ăn “cao cấp” liền. Nhưng còng

lột nhiều vô kể, ăn đâu hết một lần, nên phải làm mắm để dành ăn dài hạn cả năm. Lại cũng có mùa, mắm đầy hũ nhưng không nhá

được vì nhớ tới máu của một đội viên du kích thấm vào đó…

Như thế, mùa mắm còng đâu chỉ là mùa mắm còng, nó đã trở thành mùa để nhớ quê nghèo, nhớ đồng đội, nhớ cậu Năm. Cậu biết vậy

nên cứ tới mùa còng làm mắm gởi lên thành phố cho tôi. Lần duy nhất đích thân cậu mang lên cho tôi khi cậu về hưu cách đây ba năm

nhưng cũng là lần buồn nhất: thằng con trai nhỏ bảy tuổi của tôi phản đối quyết liệt, không ăn mắm. Bảo nó mắm ngon, của ông Năm

cực khổ mang từ quê lên, nó rán nhắm mắt nhắm mũi gắp một đũa tí tẹo. Chưa kịp nuốt nó đã nôn ra mật xanh mật vàng. Bàn ăn lặng

đi. Cậu tôi buông đũa, làm bộ cười khà khà nhưng mặt tái đi như bị hớp hồn. Lầ đó cậu về, buồn, giận, thôi không gởi mắm còng, cũng

không lên nữa.

Tôi tưởng cậu sống để vậy chết mang theo, người du kích già sẽ không tha thứ đứa cháu trai kêu bằng ông sanh ra tại chốn thị thành

không biết giá trị mắm còng. Nào ngờ, chỉ mưới hôm sau tờ lịch mách bảo cho tôi mùa mắm còng tới, vợ tôi tới cơ quan làm việc thì

nhận được cái giỏ đệm con con. Vừa mở ra đã nghe mùi khăng khẳng quen thuộc của mắm còng. Thật thần kỳ, cậu đã hết giận. Tháo

bọc nylon xếp cạnh keo mắm còng ra còn thấy một gói chuốt khô, loại chuối hồng phơi nắng tại nhà! Trong bọc chuối hồng, có lá thư,

nét chữ quen thuộc của cậu tôi xấu như gà bươi:

” Mắm còng tao gởi cho vợ chồng mày. Còn gói chuối hồng khô tao gửi cho thằng Dân, nó khôg ăn được mắm thì ăn chuối cũng

không sao. Hôm hổm tao coi truyền hình thấy nó đờn tranh được giải thưởng tao mừng, hết giận. Không ăn mắm còng nhưng đờn

được bài Khổng minh tọa lầu nhịp ngoại là tốt lắm, được cả xóm mình khen. Tao nay già rồi, vợ chồng mày có dịp dắt nó về cho tao

thăm. Cậu”.

Vợ tôi vừa đọc thư vừa khóc. Còn tôi thì chỉ biết xếp bức thư lại để tối về nhà đọc riêng một mình.

Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới

mùa còng lột, mùa mắn còng

Mọi năm, vào dịp này, sau ngày mồng năm chừng vài tuần, tôi thường được món quà: keo chao đựng mắm còng nhỏ xíu kèm theo vài

trái chuốt chát của cậu Năm gởi từ quê lên.

Mắm làm bằng con còng lột chỉ là món ăn đồng nội đạm bạc của quê nghèo, vậy mà ngót mười lăm năm sau ngày giải phóng, năm

nào, mùa còng nào cậu cũng gởi lên cho tôi. Vì một lý do riêng đối với cậu cháu tôi, mắm còng trở thành món ăn để hoài niệm.

Trong chiến tranh, cậu làm du kích, tôi làm phóng viên mặt trận. Năm đó, quê tôi là chiến trường, lại vào chiến dịch nên tôi thường về

sống với đội du kích của cậu. Sông Ba Lai hạ nguồn mùa khô nước mặn đắng, dân lại tản cư, du kích mất nguồn tiếp tế nước ngọt và

thức ăn.

Để có nước ngọt cầm hơi, du kích phải ngược dòng sông, bơi miết về trên nguồn nơi giáp nước, nhận xuồng cho nước ngọt tràn vào

đầy óc ách rồi bơi về, tiện tặn chi xài cho qua mùa, qua chiến dịch

Có một lần, địch phục kích, mấy đội viên lấy nước ngọt không trở về nữa.

Còn thức ăn, du kích ăn toàn chữ C: thịt cò, cua, còng, cá chốt, đọt chà là, dây cóc kè… được coi là món ăn “chiến lược”. Căn cứ núp

trong rừng cò, ăn tỉa cò mới ra ràng lột da, xẻo đùi hầm với củ hủ chà là hoặc rô ti đường chảy, ăn ngày này qua tháng nọ. Tỉnh ủy sợ

lô căn cứ, sợ cò bỏ đi nên buộc phải ngưng, thế là tắt nguồn, chúng tôi phải quay sang cua, cá chốt. Những thứ này phải câu và cũng

hiếm nên cứ phải luân phiên từ cá cua, tới còng.Mùa còng lột vỏ, mỗi năm một lần vào mồng năm tháng năm ta. Lớp áo giáp đủ màu

được trút bỏ, những chú còng mềm như lụa, thân ngậm đầy sữa, chỉ cần nấu qua loa cũng thành món ăn “cao cấp” liền. Nhưng còng

lột nhiều vô kể, ăn đâu hết một lần, nên phải làm mắm để dành ăn dài hạn cả năm. Lại cũng có mùa, mắm đầy hũ nhưng không nhá

được vì nhớ tới máu của một đội viên du kích thấm vào đó…

Như thế, mùa mắm còng đâu chỉ là mùa mắm còng, nó đã trở thành mùa để nhớ quê nghèo, nhớ đồng đội, nhớ cậu Năm. Cậu biết vậy

nên cứ tới mùa còng làm mắm gởi lên thành phố cho tôi. Lần duy nhất đích thân cậu mang lên cho tôi khi cậu về hưu cách đây ba năm

nhưng cũng là lần buồn nhất: thằng con trai nhỏ bảy tuổi của tôi phản đối quyết liệt, không ăn mắm. Bảo nó mắm ngon, của ông Năm

cực khổ mang từ quê lên, nó rán nhắm mắt nhắm mũi gắp một đũa tí tẹo. Chưa kịp nuốt nó đã nôn ra mật xanh mật vàng. Bàn ăn lặng

đi. Cậu tôi buông đũa, làm bộ cười khà khà nhưng mặt tái đi như bị hớp hồn. Lầ đó cậu về, buồn, giận, thôi không gởi mắm còng, cũng

không lên nữa.

Tôi tưởng cậu sống để vậy chết mang theo, người du kích già sẽ không tha thứ đứa cháu trai kêu bằng ông sanh ra tại chốn thị thành

không biết giá trị mắm còng. Nào ngờ, chỉ mưới hôm sau tờ lịch mách bảo cho tôi mùa mắm còng tới, vợ tôi tới cơ quan làm việc thì

nhận được cái giỏ đệm con con. Vừa mở ra đã nghe mùi khăng khẳng quen thuộc của mắm còng. Thật thần kỳ, cậu đã hết giận. Tháo

bọc nylon xếp cạnh keo mắm còng ra còn thấy một gói chuốt khô, loại chuối hồng phơi nắng tại nhà! Trong bọc chuối hồng, có lá thư,

nét chữ quen thuộc của cậu tôi xấu như gà bươi:

” Mắm còng tao gởi cho vợ chồng mày. Còn gói chuối hồng khô tao gửi cho thằng Dân, nó khôg ăn được mắm thì ăn chuối cũng

không sao. Hôm hổm tao coi truyền hình thấy nó đờn tranh được giải thưởng tao mừng, hết giận. Không ăn mắm còng nhưng đờn

được bài Khổng minh tọa lầu nhịp ngoại là tốt lắm, được cả xóm mình khen. Tao nay già rồi, vợ chồng mày có dịp dắt nó về cho tao

thăm. Cậu”.

Vợ tôi vừa đọc thư vừa khóc. Còn tôi thì chỉ biết xếp bức thư lại để tối về nhà đọc riêng một mình.

M

M CÁY - truy

n ng

n c

a Đ

Tr

ườ

ng

THỨ HAI, 30 THÁNG 5 2011 16:27

Châu Âu đã vào h

, cây lá b

ng t

nh sau m

t gi

c dài ng

đông. B

u tr

i cao và trong xanh, tia n

ng s

m kh

e, mát nh

ư

thi

ế

u n

tu

i d

y thì chi

ế

u v

t qua khung c

a, lòng ng

ườ

i th

y nao nao.  Không hi

u sao lúc này c

m giác nh

nhà, nh

quê trong tôi trào d

âng đ

ế

n nh

ư

v

y. C

m đi

n tho

i đ

nh chia x

c

m xúc này v

i bác Tr

n M

nh H

o, có khi l

i c

m h

ng cho bác đ

ra vài ba bài th

ơ

ch

ch

ng ch

ơ

i. Nh

ư

ng tôi ch

ư

a k

p lên ti

ế

ng, bác đã h

i ngay:

           - Tr

ườ

ng h

! Chú g

i r

t đúng lúc, không hi

u sao m

y

ngày nay anh nh

và thèm ăn m

m cáy quá.

Ơ

hay bác này!  Hôm nay g

ng

ườ

i hay sao?  Đi

n đóm ch

ư

a thăm h

i nhau câu nào đã m

m cáy m

m cò.

            - Em cũng đang nh

nhà ch

ế

t đi đ

ượ

c, g

i cho thi sĩ th

thi

t, t

ưở

ng bác cho em vài nh

i bay b

ng, gi

i

đ

t trăng sao, ai ng

bác l

i đi th

ng vào đ

tài dùi đ

c m

m cáy th

ế

này, làm m

t h

ng. Bác mu

n ăn ra ch

mua, Sài Gòn thi

ế

u gì.

             - Chú mày không hi

u gì r

i, ch

bây gi

ch

có m

m còng thôi làm gì có m

m cáy th

thi

t, mà anh thèm cái th

m

m cáy câu

quê Nghĩa H

ư

ng c

ơ

, ch

không ph

i m

m làm t

nh

ng con còng còng ngòai b

. Cái th

này

quê hình nh

ư

cũng tuy

t ch

ng r

i.

Gi

i đ

t

ơ

i! C

t

ưở

ng cái bác thi sĩ này c

ngày m

ơ

m

ơ

, màng màng v

i ch

nghĩa, ch

ng

đâu có lúc bác l

i hoài t

ưở

n

g, thèm khát đ

ế

n m

m cáy, c

nh

ư

là qu

c h

n qu

c túy không b

ng. Cái th

mà dân nghèo quê tôi tr

ướ

c đây nhà nào cũng

có ít nh

t vài ba chum đ

góc v

ườ

n, hay chái b

ế

p

Làng tôi đ

ượ

c c

t làm đôi b

i m

t nhánh con sông Đáy. N

i hai b

là cây c

u g

, v

ng lên r

t c

kính. C

nh, nam m

c

u là nhà Đòn, đ

tr

ng kèn, đòn khiêng ph

c v

ma chay c

a làng. Lùi sâu vào trong  mi

ế

u th

n

m l

t th

m d

ướ

i nh

ng tán lá và r

cây si gi

à. Chi

ế

c ao sau mi

ế

u r

t rông có nhi

u cá và hoa súng, quanh b

đ

ượ

c lát đ

u m

t l

p g

ch  m

ng. C

u ao lên xu

ng làm b

ng hai phi

ế

n đá to nh

ư

manh chi

ế

u đ

ượ

c đ

b

ng nh

ng c

c tre c

m xu

ng lòng ao. Nh

ng cây nhãn, cây bàng ch

ng bi

ế

t đ

ượ

c tr

ng t

khi nà

o g

c to b

ng m

y vòng tay ôm c

a lũ tr

. Bên kia b

ao giàn nhót chín đ

r

xu

ng n

ướ

c, lũ tr

chúng tôi th

ườ

ng c

i tru

ng, b

ơ

i ra hái cho đ

y vào hai

ng qu

n đã đ

ượ

c túm l

i, lên b

chia nhau ăn

.

Chúng tôi d

n v

nh

ngôi nhà ngang c

a ch

H

u. Ch

v

i m

sinh ho

t

ngôi nhà chính, năm đó ch

kho

ng hai m

ươ

i, hai m

t tu

i. Nói là chi

ế

n tranh, M

ném bom đánh phá Mi

n B

c, nh

ư

ng làng tôi r

t yên bình sau nh

ng r

ng tre xanh. V

i ký

c tu

i th

ơ

, tôi ch

nh

n ra chi

ế

n tranh, b

ng nh

ng bu

i l

truy đi

u

li

t s

t

p th

, v

i nh

ng t

m

nh th

cha và hai ng

ườ

i anh c

a ch

H

u, hy sinh ngoài m

t tr

n. Và làng không có ti

ế

ng nói c

a đàn ông. Ngày tr

v

Hà N

i, tôi th

t s

c

m nh

n đ

ượ

c chi

ế

n tranh qua s

đ

nát, ch

ế

t chóc đ

ế

n kinh hoàng

ph

Khâm Thiên và n

gõ ch

. Nhà tôi n

m sâu trong ngõ 8 cũng bay m

t m

t ph

n mái

.

...Ch

H

u không ph

i tham gia dân quân du kích, đ

ượ

c

ư

u tiên

nhà chăm sóc m

. Ch

không đ

p nh

ư

ng r

t hi

n, có duyên, và kín đáo. Ngoài th

i gian làm ngoài đ

ng, ch

th

ườ

ng

nhà khâu nón lá

, g

i m

y bà hàng xén ngoài ch

bán. Ch

H

u r

t  khéo tay, nón ch

làm ra đ

p nh

t vùng, nên nhi

u ng

ườ

i đ

t mua, có khi ch

làm c

đêm. Ch

b

o kỳ này ng

ườ

i ta dùng mũ r

ơ

m nhi

u đ

tránh bom bi, nên công vi

c c

a ch

có th

ư

th

h

ơ

n. Hôm nào n

ng đ

p, ho

c chi

u chi

u ng

i khâu nón đã m

i m

t, ch

th

ườ

ng r

tôi đi câu cáy

.

C

n câu c

a ch

ch

là cây hóp vu

t th

ng, đ

u c

n bé tý t

o, dây câu là s

i ch

. Đeo gi

vào hông, ch

thò tay xu

ng g

m c

u ao b

t m

t con

c, đ

p v

l

y ru

t làm m

i.  Tôi l

o đ

o the

o ch

, có khi tôi đòi ch

cho đeo gi

, chi

u tôi ch

đ

ng ý. Đ

ượ

c m

t lúc gi

tu

t xu

ng chân, ch

c

ườ

i ng

t, b

o tôi.em c

m vào quai cũng đ

ượ

c. Hôm nào n

ướ

c ròng, bãi sông t

t ra, cáy bò ra nhi

u, ch

ch

c

n th

m

i xu

ng là cáy dùng càng qu

p  m

i, có n

h

ng l

n có hai, ba con tranh nhau đu

i theo m

i nh

c

a ch

, th

ế

là nh

ư

chi

ế

c c

n c

u nh

chúng b

treo l

ơ

l

ng trên không

.

Tôi không hi

u n

i loài cáy bi

ế

t b

l

a mà v

n bám ch

t m

i? Chúng ch

c

n nh

càng ra là l

i đ

ượ

c tr

v

v

i thiên nhiên và cu

c s

ng t

ươ

i đ

p v

n có, d

u r

ơ

i xu

ng có đau đ

n, v

mai g

y càng, ch

c ch

n s

h

nh phúc h

ơ

n hũ m

m c

a ch

H

u đang ch

chúng.

Hãy t

nh ng

đi h

i loài cáy kia!

T

lúc bé tý, l

o đ

o xách gi

theo ch

H

u, tôi đã có nh

ng câu h

i thông minh nh

ư

v

y. Nh

ư

ng

càng l

n, h

c nhi

u, t

ướ

c v

cao sang, tôi l

i th

y mình r

t gi

ng h

nhà cáy này. 

Tôi theo ch

đi d

c hai b

sông, tr

i b

t đ

u s

m t

i cũng đ

ượ

c  đ

y gi

. Nh

ng hôm n

ướ

c lên

, n

ướ

c sông m

p mí b

, ch

ph

i vào nh

ng gò, ho

c mép ru

ng câu. Cáy s

ng

b

, gò này th

ườ

ng ch

th

p thò trong l

, ít khi ch

u ra ngoài. Ch

H

u b

o khó câu h

ơ

n m

t chút, nh

ư

ng chúng to và m

y, r

t nhi

u tr

ng.  Ch

dùng m

i b

ng r

c khoai, t

m thính th

ơ

m đ

nh

chúng. Ph

i công nh

n ch

H

u c

m c

n câu uy

n chuy

n, đi

u ngh

nh

ư

m

y ch

ngh

s

c

m roi đi

u khi

n thú c

a đoàn xi

ế

c

nhà B

t. M

i câu th

ơ

m ph

c nh

nhàng đ

u đ

u th

t lên, thut xu

ng nh

ư

đi

u tango  ph

vào m

t, t

lúc hoài nghi th

t ra th

t vào, đ

ế

n lúc cáy k

nh ph

i d

ng l

i nghe ngóng. V

n đi

p khúc đó, mùi th

ơ

m

kỳ quái nh

ư

thôi miên không c

ưỡ

ng l

i đ

ượ

c, cáy k

nh bò ra kh

i l

, l

t đi l

t l

i mi

ế

ng ăn, h

p d

n quá, nhìn tr

ướ

c ngó sau, yên tĩnh, ch

c ăn quá, v

i l

y càng qu

p ch

t đ

nh tha vào hang. Nh

ư

ng không k

p m

t r

i, cáy càng đã b

nh

c b

ng lên, r

i ngoan

ngoãn chui vào gi

c

a ch

H

u.

Câu quanh gò, và m

y mép ru

ng, gi

đã l

ư

ng l

ng toàn cáy ch

ng, ch

H

u b

o lo

i cáy cao c

p này nhát, nh

ư

ng tham, c

n m

i r

i không bao gi

ch

u nh

ra đâu

.

Cáy mang v

, ch

H

u r

a s

ch s

, đ

ra cái n

i đ

ng, ch

bóc h

ế

t tr

ng đem ph

ơ

i khô, sau đó ch

bóc đ

ế

n mai, con nào to kh

e nh

t ch

cho vào c

i đá giã, l

c l

y n

ướ

c n

u canh. Còn l

i ch

cho c

vào chum làm m

m. Nói th

t tôi đã đi kh

p n

ơ

i, ăn không bi

ế

t bao nhiêu các lo

i canh, súp, ta có, Tây, T

u đ

c

, nh

ư

ng khô

ng đâu ngon b

ng canh tr

ng cáy khô v

i hoa bí do ch

H

u n

u. Các c

nhà ta có câu nhát nh

ư

cáy ngày, qu

th

t ch

ng sai chút nào, tôi th

ườ

ng xuyên cùng ch

H

u bóc mai cáy nh

ư

ng ch

ng bao gi

b

c

p c

, nh

ư

ng cua r

c(cua đ

ng) l

i khác, chúng hung hăng,

nghênh càng chi

ế

n đ

u đ

ế

n h

ơ

i th

cu

i cùng khi b

t

n công, nên tay tôi choe chóe nh

ng v

ế

t do càng cua r

c c

p

.

Tháng năm, tháng sáu t

m tr

ư

a, tr

i nóng nh

ư

đ

l

a. Ch

H

u r

tôi đi b

t cua r

c. N

ướ

c d

ướ

i ru

ng nh

ư

mu

n sôi lên, cua r

c không ch

u n

i t

rèo tu

t lên cây lúa tránh nóng. Ch

H

u ch

vi

c l

i xu

ng ru

ng b

t chúng cho vào gi

. Hôm nào nhi

u ch

c

i c

đôi xà c

p

chân ra, bu

c m

t đ

u l

i b

t cho đ

y vào đó.( Xà c

p dùng đ

ch

ng đ

a c

n, đ

ượ

c làm b

ng v

i thô, bao b

) Cua r

c ch

đ

n

u ca

nh, ch

không làm m

m đ

ượ

c. Nh

ư

ng tôi thích  nh

t cua r

c l

t rán cháy c

nh, ăn bùi, béo và có h

ươ

ng v

r

t đ

c bi

t, ch

H

u g

i là cua b

y.

Có hôm tôi đi h

c v

, th

y có chi

ế

c xe g

n máy simson m

i kính cong d

ng

gi

a sân, ch

H

u đang l

i h

i d

ướ

i b

ế

p

. Tôi h

i nhà có khách sao ch

H

u, ch

đ

m

t không nói gì. Sau này tôi m

i bi

ế

t, có anh

xóm trên, t

Đ

c m

i v

, đ

ế

n tìm hi

u ch

. Nh

ư

ng ch

t

ch

i, tôi g

ng h

i, ch

m

i b

o, ch

đã yêu anh CuL

n nhà bên, hi

n đang

ngoài m

t tr

n. Ch

d

n tôi không

đ

ượ

c nói v

i ai

.

Ngày tôi v

Hà N

i, ch

bu

n l

m, b

o nh

vi

ế

t th

ư

và th

nh tho

ng v

thăm ch

. Ch

H

u ít khi đi đâu xa, tôi th

ườ

ng xuyên vi

ế

t th

ư

cho ch

, lâu lâu có ng

ườ

i

quê lên, ch

g

i cho tôi khi dăm, ba l

ng tr

ng cáy, lúc thì cân b

t s

n. R

i

tôi m

i vi

c h

c hành thi c

, th

i đó vi

c đi l

i khó khăn, nên không v

thăm ch

đ

ượ

c. Sau chi

ế

n tranh, nghe ng

ườ

i làng nói, ch

đã l

y anh Cu L

n là th

ươ

ng binh tr

v

, ng

ườ

i v

a đ

ượ

c nhà n

ướ

c phong t

ng danh hi

u dũng s

di

t M

.

xa tôi cũng m

ng cho

ch

.

H

c xong tôi đi làm, r

i mang ki

ế

p s

ng tha ph

ươ

ng m

y ch

c năm, mãi đ

ế

n năm 2006 t

Châu Âu, tôi m

i có d

p v

thăm gia đình. Công vi

c

Hà N

i đã t

m

n, tôi v

thăm quê, thăm ch

H

u. Đ

ườ

ng qu

c l

v

quê đ

p và thu

n ti

n h

ơ

n tr

ướ

c r

t nhi

u. Nh

ư

ng quê tôi đ

i thay hoàn toàn, ký

c tu

i th

ơ

có con đ

ườ

ng v

i nh

ng  khóm tre xanh r

bóng xu

ng dòng sông hi

n hòa, tôi và ch

H

u th

ườ

ng ng

i ngh

lúc tr

ư

a hè không còn n

a. Dòng sông n

ướ

c đen sì th

i ho

c, tù đ

ng, l

đ

nh

ư

ng

ng ch

y. Cây c

u g

đã p

há b

thay vào đó chi

ế

c c

u s

t bêton vô h

n. Mi

ế

u và cây si làng không còn đ

l

i d

u tích, chi

ế

c ao phía sau cũng b

l

p, thay vào đó là

y ban xã, lá c

đ

ng bay ph

n ph

t gi

a sân. Ngôi nhà ngói âm d

ươ

ng c

a ch

H

u cũng bi

ế

n m

t, s

ng s

ng trên m

nh đ

t đó ngôi nhà ba t

ng, trên nóc có hình con s

ư

t

nhe răng trông r

t hãi hùng. Cánh c

a s

t s

ơ

n m

u vàng chóe, có

khóa t

bên trong. Tôi c

t ti

ế

ng g

i ch

H

u, nh

ư

ng im l

ng, nhà hình nh

ư

không có ng

ườ

i

. Có m

y cháu đi h

c v

, nghe th

y ti

ế

ng tôi, d

ng

l

i b

o, nhà bà H

u bây gi

cu

i làng, g

n bãi tha ma, bác c

ra đ

y mà tìm. Bi

t th

này là n

ơ

i ngh

ng

ơ

i cu

i tu

n c

a bác Tr

n cán b

cao c

p trên t

nh

.

Tôi đ

ượ

c bà hàng xóm ch

H

u ch

nhà và réo g

i t

ngoài ngõ:

- Bà H

u

ơ

i! Có khách xa đ

ế

n thăm n

ày.

M

t lúc ch

sau nhà đi ra, qu

th

t tôi ch

còn nh

n ra ch

đôi m

t. Năm đó ch

m

i năm nhăm, năm sáu tu

i nh

ư

ng nhìn ch

nh

ư

bà lão b

y m

ươ

i. Ng

ườ

i ch

cho

t l

i, dáng đi lòng khòng. Th

y ng

ườ

i l

, ch

v

i l

y khăn trên đ

u che nh

ng v

ế

t thâm, b

m trên m

t, hình nh

ư

ch

v

a b

ai đó đánh hay ngã?. Ch

s

ng ng

ườ

i nhìn tôi:

          -    Ông mu

n tìm ai

?

           -   Tr

i! ch

không nh

n ra em th

t sao ch

H

u? Em là th

ng Tr

ườ

ng ngày x

ư

a

nhà ch

, su

t ngày theo ch

đi câu cáy này.

Ch

ng

n

ng

ườ

i m

t lúc, đ

ư

a tay qu

t dòng n

ướ

c m

t đang ch

y xu

ng:

           -   M

y ch

c năm r

i, tóc em cũng đã b

c, làm sao ch

nh

n ra đ

ượ

c.

Ch

n

m tay tôi d

n vào nhà. Tôi không ph

i là ng

ườ

i mau n

ướ

c m

t, nh

ư

ng nhìn ch

và gia c

nh th

y m

t cay cay. Nhà có

l

đáng giá nh

t chi

ế

c t

chè hai ngăn cũ, đã g

y m

t chân. Chân g

y đ

ượ

c thay b

ng m

t ch

ng g

ch còn dính v

a ch

ư

a k

p v

c đi. Trên nóc t

có bát h

ươ

ng,

nh th

m

ch

, và

nh ba ng

ườ

i đàn ông tr

c

ườ

i r

t vô t

ư

. Đ

ng sau b

n t

m hình là ba t

gi

y T

Q

u

c Ghi Công, và m

t gi

y ch

ng nh

n, hay quy

ế

t đ

nh công nh

n bà m

VN anh hùng gì đó c

a m

ch

.

Tôi và ch

đang hàn huyên, anh Cu L

n ch

ng ch

, chân th

p chân cao t

đâu đó v

. Ch

gi

i thi

u tôi, anh c

ườ

i hi

n b

t tay và b

o:

        -  Em ng

i đây v

i ch

, anh đi ki

ế

m cái gì lai rai, cũng tr

ư

a r

i

.

Ch

H

u c

ườ

i bu

n, trông anh hi

n hi

n v

y nh

ư

ng c

c l

m, hôm r

i mang dao đ

ế

n

y ban chém cán b

xã, ch

s

quá can ngăn, anh

y còn đánh ch

thâm c

m

t. Cũng may h

nhanh chân ch

y thoát, không đã vào tù

r

i. Cũng t

đ

t đai nhà c

a em

. M

y năm tr

ướ

c cán b

xã đ

ế

n nói v

i anh ch

, h

mu

n xây nhà tr

trung tâm xã, nh

ư

ng không có ch

nào thích h

p và thu

n l

i b

ng khu đ

t nhà ch

. H

mu

n đ

i anh ch

ra ngoài này và đ

n bù th

a đáng. Đ

u tiên anh ch

không đ

ng ý, vì ra ngoài này anh ch

không bi

ế

t làm gì ki

ế

m s

ng ngoài m

y sào ru

ng, ti

n tr

c

p th

ươ

ng binh c

a anh không đ

ti

n thu

c. Nh

ư

ng h

n

n n

mãi, l

i nghĩ anh ch

không có con cái, xây nhà cho các cháu vui ch

ơ

i, anh ch

cũng xiêu lòng. Anh

ch

ra đây nh

n đ

t nh

n nhà và đ

n bù xong, h

không xây nhà tr

, mà h

giao đ

t, hay bán cho ông Tr

n xây nhà ngh

cu

i tu

n, em th

y có

c không? Ông Tr

n là cái ông đi h

c

Đ

c v

làng trên, ngày x

ư

a mu

n tìm hi

u ch

, ch

c em còn nh

. Ch

là đàn bà

nghi

ế

n răng ch

u đ

ng. Anh không ch

u, ki

n cáo kh

p n

ơ

i nh

ư

ng không ăn thua, nên th

ườ

ng xuyên vác dao đi tìm h

. Trông anh còn đi l

i v

y thôi, ch

ch

t đ

c đ

y ng

ườ

i, n

m xu

ng lúc nào không bi

ế

t. Tr

ướ

c đây ch

cũng ch

a đ

m

y l

n, nh

ư

ng có ra hình thù

con ng

ườ

i đâu em. L

n nào ch

cũng ng

t vì s

. Nghe bác s

b

o anh nhi

m ch

t đ

c

chi

ế

n tr

ườ

ng, nên không th

có con đ

ượ

c, h

khuyên anh ch

đ

ng ch

a đ

n

a.

Tôi c

t ngang nh

ng l

i bu

n c

a cu

c đ

i ch

:

         -  D

o này ch

còn đi câu cáy n

a khôn

g?

         -  Ch

đã già, m

t kém, mà h

ế

t cáy r

i. Có con nào s

ng đ

ượ

c v

i th

n

ướ

c sông đen nh

ư

nh

a đ

ườ

ng

y. Gò đ

ng h

phun thu

c sâu b

l

đ

ế

n đ

a cũng ph

i ch

ế

t thì làm gì còn cáy

.

Ti

ế

ng gió hu hú t

bãi tha ma th

i đ

p vào c

a, làm t

th

nhà ch

rung rinh nh

ư

tr

c đ

. Ch

đ

ng d

y  nhìn v

ngôi nhà cũ, n

ơ

i có con s

ư

t

nhe răng, căng móng

trên cao vòi v

i v

i đôi m

t bu

n r

ườ

i r

ượ

i.

đây không có đ

n bom, nh

ư

ng tôi đã nh

n ra d

ườ

ng nh

ư

có m

t cu

c chi

ế

n tranh th

t s

đang di

n ra trong lòng ng

ườ

i.

Vi

ế

t đ

ế

n đây ch

t có ông b

n hàng xóm sang h

i:

        -  Ông nghĩ gì mà th

m

t ra v

y?

Tôi tr

l

i:

        -  Tôi đang nghĩ,

ướ

c gì mình có m

t hũ m

m cáy th

thi

t g

i t

ng thi sĩ Tr

n M

nh H

o dùng d

n, nh

ư

ng  khó quá.

Ông hàng xóm tròn m

t nhìn,

nh

ư

tôi v

a t

trên tr

i r

ơ

i xu

ng:

        -  Ông có gi

ng

ườ

i không đ

y! Bây gi

ng

ườ

i ta m

ơ

ướ

c đ

ế

n nh

ng cái cao sang, nh

ư

đ

ườ

ng s

t cao t

c, nhà máy đi

n h

t nhân.. ai l

i m

ơ

nh

ư

các ông. Đúng là ch

p cheng..

Có l

ông hàng xóm nhà tôi nói đúng, tôi

đã gi

ng

ườ

i, và cái đ

u tôi b

t đ

u ch

p cheng.

CHAI NƯỚC MẮM

BÙI THANH MINH

Một tin quan trọng chưa từng có từ trước đến nay ở trường trung học xã Thái Bình.Tin này do anh cán bộ văn phòng Uỷ ban xã Thái Bình phóng chiếc cúp đời 81 đến tận trường thông báo cho hiệu trưởng Trương. Chiếc cúp màu ốc bươu đã mất hút khỏi cổng trường từ lâu, mà hiệu trưởng Trương vẫn ngồi trước bàn, hai tay khoanh trên mặt bàn hình chữ O, mắt tựa như mơ hồ cùng hồn vía trên thiên đường, thầy ngây ngất bởi cái tin đặc biệt. Hơn 30 năm, kể từ ngày có cái trường này, từ ngày các thầy cô còn ăn gạo sổ, thầy cô lấy “chăn nuôi làm nghề chính”, và bây giờ là phải dạy thêm, học thêm để cố giữ cho cái dáng lịch lãm của người thầy khi đến lớp…chưa bao giờ, chưa có một lần ông chủ tịch xã dẫn đầu một đoàn đại biểu đến thăm. Từ trước tới nay, trường như một đơn vị của Nhà nước đứng chân nhờ trên đất của xã mà thôi. Việc ai người nấy làm, không bên nào can thiệp đến bên nào.

Từ ngày thầy Trương được bổ về làm hiệu trưởng, thầy đặt ra nhiệm vụ là phải khai thông mối quan hệ với chính quyền địa phương, nhằm tạo ra sự giúp đỡ của lãnh đạo địa phương với sự nghiệp giáo dục của trường. Vậy mà đã hơn một chục mùa hoa phượng rụng đỏ trên sân trường, cái nhiệm vụ trọng đại mà hiệu trưởng Trương coi như sứ mệnh lịch sử của thầy vẫn không làm sao thực hiện nổi. Người thì bảo mấy đời chủ tịch trước ít học hành, chủ yếu trưởng thành từ các phong trào “cải tiến hợp tác xã”, “trừ sâu diệt chuột”, “thả bèo hoa dâu”…nên coi việc học hành chẳng là cái đinh gì cả. Đời chủ tịch này, đâu có bảy năm mài đít trên ghế trường, nhưng ông lại không được thầy cô yêu mến, bạn bè kính trọng lắm, bởi ông học thì ít mà bỏ đi đánh đáo, đánh khăng và đánh nhau thì nhiều…Nên bây giờ ông cũng coi sự giáo dục không lấy gì làm quan trọng. Năng suất lúa kém, ông sẽ bị huyện chì chiết. An ninh không bảo đảm để xảy ra án, ông sẽ bị kiểm điểm… Nhưng học sinh học giỏi, học kém, đỗ ít, đỗ nhiều…xưa nay chẳng có quan hệ gì đến cái ghế chủ tịch. Vì vậy ông không quan tâm đến nó cũng là điều dễ hiểu.

Vậy mà hôm nay bỗng dưng…vận trường có lẽ đã đến. Sứ mệnh lịch sử giao cho hiệu trưởng Trương có lẽ sắp được hoàn thành. Nhà trường sẽ có cơ hội phát triển vứng mạnh.

Hiệu trưởng Trương cho gọi hiệu phó Tần, cô An chủ tịch Công đoàn trường về ngay văn phòng hội ý.

Hiệu phó Tần, cô An phát hiện ra trên gương mặt hiệu trưởng Trương có dấu hiệu không bình thường cho lắm. Mắt thầy chớp chớp liên tục, da mặt thầy rừng rựng như người đang xúc động cực độ. Đặt hai chén trà trước mặt hai người thuộc cấp, một chén cho mình, chiêu một ngụm, môi hiệu trưởng Trương mấp máy:

-Tôi mời các đồng chí lên hội ý đột xuất vì có một việc hệ trọng… Tôi vừa được đồng chí văn phòng Uỷ ban nhân dân xã thông báo, ngày mai ngày truyền thống các nhà giáo, đồng chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã cùng một số cán bộ lãnh đạo xã sẽ đến thăm, chúc mừng thầy trò trường ta. Cũng nhân ngày truyền thống nhà giáo, đồng chí chủ tịch đã quyết định cho giáo viên, cán bộ trường mỗi người một chai nước mắm loại một. Thưa các đồng chí, đây là một sự kiện quan trọng đối với trường ta. Nó như một mốc son lịch sử, đánh dấu thời kỳ mối quan hệ giữa nhà trường với địa phương. Tôi đề nghị, chúng ta thông báo tin mừng này cho toàn thể giáo viên, học sinh toàn trường biết và tổ chức đón tiếp thật long trọng. Nhân cơ hội này ta thúc đẩy mạnh việc “bình thường hoá quan hệ” với chính quyền địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng trường vững mạnh.

Cả ba người không ai nhìn ai, không ai nhúc nhích, mắt đều nhìn xuống cuốn sổ trước mặt và lặng đi mất vài phút, dường như họ ngợp vì cái tin nóng hổi này và chờ cho thần kinh tiêu hoá hết lượng thông tin quý báu mà hiệu trưởng Trương vừa phát ra.

Hiệu phó Tần như chợt tỉnh sau cơn say, thầy nhóm nhém như vừa nuốt xong miếng ngon, phát biểu:

-Tôi có ý kiến thế này các đồng chí xem có được không? Ta nên làm vài mâm cơm gọi là, để hiếu khách. Nói thực…có chút men, chén tạc chén thù hai bên mới cởi lòng cởi dạ cho nhau. Vạn sự khởi đầu nan, dần dần mình sẽ khai thác sự ủng hộ của họ với trường.

- Phải đấy, hiệu trưởng Trương - Cô An thêm vào - Em nghĩ đây là dịp tốt để mình tranh thủ họ…Mà không làm thì thôi, làm thì phải ra cỗ, chừ làm nhè lèm nhèm…bôi bác chết.

Hiệu trưởng Trương cầm bút gạc gạc trên giấy, tính tính, tính toán rồi ngẩng lên dí cái cán bút vào trán nói:

-Tôi tính thế này…Ngoài việc ta tập trung giáo viên đón tiếp xã giao thật long trọng. Sau đó ta sẽ làm mâm cơm tiếp đãi. Tôi nghĩ, không làm không được đâu. Họ thông báo 10 giờ chủ tịch mới đến, làm việc xong là trưa, chả lẽ để họ ra về, mang tiếng chết. Vì vậy tôi mới dự trù như sau: Số người ăn khoảng bảy người. Địa phương có chủ tịch, phó chủ tịch, trưởng ban văn hóa, văn phòng, vị chi là bốn. Phía ta chỉ đại diện tiếp gồm có hiệu trưởng, hiệu phó, chủ tịch công đoàn. Ta làm một mâm cho gọn. Đồng chí An lo cho khâu hậu cần cơm nước, hiệu phó Tần giúp việc tổ chức đón khách. Tôi trực tiếp quán triệt cho đội ngũ giáo viên. Tất cả theo phương châm: chu đáo, lịch sự và tỏ ra hiếu khách.

♣♣♣

Đúng 10 giờ ngày truyền thống nhà giáo, ông bảo vệ trường từ ngoài cổng hộc tốc chạy vào văn phòng thông báo:

- Hò…họ, họ đang đến!

Hiệu trưởng Trương nhấp nhổm, nhướng cặp mày phát lệnh:

-Tất cả, ai vào việc đó.

Cán bộ, giáo viên đã tề chỉnh ngồi chờ từ 9 giờ bỗng nhốn nháo đứng cả dậy. Bộ phận phụ trách hậu cần lỉnh xuống bếp xem lại cơm nước. Các cô giáo tranh thủ soi khuôn mặt xinh đẹp của mình vào chiếc gương con con, rồi nhanh chóng cất gương vào cặp sách, đứng dậy ra cửa. Các thầy giáo rít vội hơi thuốc cuối cùng rồi mới chịu dụi tàn. Phải chu đáo, lịch sự hiếu khách mà.

Đoàn khách phóng xe vè vè qua cổng trường và đỗ xịch trước sân. Chủ tịch xuống xe, thong thả tiến vào. Ông đứng ở sân ôn tồn bắt tay mọi người. Hiệu trưởng Trương cảm ơn rồi mời khách vào văn phòng làm việc.

Chủ tịch ngồi ở chiếc ghế chủ lễ đặt ở đầu chiếc bàn dài trọn gian. Các quan chức cùng đi chia nhau ngồi hai bên hàng ghế dọc. Thầy, cô nhón nhén ngồi vào vị trí của mình.

Một cô giáo xinh đẹp mặc áo dài trắng bước vào, hai tay cô bưng từng chén trà bốc khói cung kính đặt nhẹ nhàng trước mặt chủ tịch và các quan khách. Chủ tịch đặt chiếc ca táp lên mặt bàn, gật gật đầu vẻ rất vừa lòng. Ông trò chuyện vui vẻ thân mật với mọi người. Ông hỏi học sinh năm nay vào cấp ba được bao nhiêu cháu? Hiện tượng học sinh bỏ học đã chấm dứt chưa? Đời sống của giáo viên thế nào? Rồi ông phát biểu đại ý sự nghiệp giáo dục là quốc sách hàng đầu, bất cứ ai quan tâm đến tương lai đất nước đều phải coi trọng giáo dục. Quan tâm đến giáo dục là quan tâm đến chính con cháu mình, chứ không đi đâu mà thiệt. Đất nước còn nghèo, xã còn nghèo nên mọi người phải triệt để tiết kiệm mới có tiền để đầu tư xây dựng trường ra trường, lớp ra lớp được…Cuối cùng ông công bố món quà của xã gửi các thầy cô nhân ngày truyền thống nhà giáo. Món quà tuy nhỏ bé nhưng nó thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa phương đến sự nghiệp giáo dục…

Hiệu trưởng Trương và các thầy cô nghe mà hởi lòng, hởi dạ. Hiệu phó Tần ngồi nghe thỉnh thoảng lại gật vẻ rất hài lòng. Cô An tay cầm bút nhăm nhắm ghi lời vàng, ý ngọc của chủ tịch. Nhiều người miệng há ra như con chim non chờ nuốt lấy những miếng mồi ngon của chim mẹ. Vậy mà, từ lâu cứ nghe mong manh ông chủ tịch thế này, thế khác. Nay mục kích- sở thị, tai nghe, mắt thấy mới hay. Thế là dân được nhờ, trường được nhờ rồi.

Hiệu trưởng Trương cảm động đáp lễ. Cuối cùng thầy mời chủ tịch và đoàn khách ở lại dự bữa cơm thân mật với thầy cô cho thân tình đoàn kết. Hơn nữa, cũng đã trưa rồi. Chủ tịch gấp sách đút vào cặp, miệng cười cười:

-Thôi được, các thầy cô đã có lòng thì chúng tôi có dạ vậy.

Lúc ấy, anh cán bộ văn phòng ghé vào tai hiệu phó Tần hỏi:

-Các anh cho uống gì vậy?

-À... rượu, rượu nếp chính hiệu ạ.

-Không được, chủ tịch không uống được rượu đâu.

Hiệu phó Tần sửng sốt:

-Thôi chết! Vậy uống gì bây giờ?

-Các anh cho mỗi người vài cái “póc póc” cho an toàn, đơn giản. Ngoài quán đầy, anh cứ cho bê cả két về, uống hết bao nhiêu, còn trả lại lo gì.

Được nửa bữa, két bia Halida 24 cái póc póc hết. Hơi men đang bốc, chủ tịch nói nửa đùa, nửa thật:

-Nhà trường không có tiền mua thêm được két bia à? Thì đây, lấy tiền của tôi…

Hiệu trưởng Trương vội đỡ lời:

- Ấy chết, ai lại thế…Anh cứ yên trí, một phút có ngay.

Ăn xong, theo lệ phải có món hoa quả tráng miệng mới lịch sự. Hiệu trưởng Trương vẫy cô An đến nói nhỏ:

-Cô bảo các em nó mua mớ quýt ngon ngon nhé.

Nghe tiếng “quýt”, anh phó chủ tịch góp chuyện:

-Ấy, lại nói đến quýt… Hôm nọ tôi với chủ tịch xuống thăm xí nghiệp chế biến hoa quả. Phải công nhận ở đấy các lão chơi đẹp hết cỡ. Thời buổi này, cán bộ phải năng động, thoáng như thế mới được việc phải không anh?

Anh cán bộ văn phòng lại ghé vào tai hiệu phó Tần tiết lộ:

-Họ kéo ra nhà hàng đánh chén một bữa thả phanh, lại mỗi người một phong bì dày cộp.

Y rằng, đúng như dự đoán, chỉ lát sau anh cán bộ văn phòng thấy hiệu phó Tần lại đặt miệng vào tai hiệu trưởng Trương. Mặt hiệu trưởng Trương hơi tai tái, rồi hai người trao đổi với nhau bằng bút giấy. Rồi hiệu phó Tần đi ra, lát sau thầy vào tay cầm cuốn sổ đặt trước mặt hiệu trưởng Trương. Liếc nhìn cuốn sổ thấy kênh ở giữa, chủ tịch biết thời điểm cáo từ đã đến, liền đứng dậy vui vẻ cảm ơn để ra về. Đáp lễ xong, hiệu trưởng Trương mở đôi cuốn sổ, bốn cái phong bì viền xanh đỏ, mà hiệu phó Tần đã ghi sẵn những con số khác nhau nhỏ xíu ở góc trái, phía trên. Hiệu trưởng lần lượt cầm phong bì đưa cho từng vị khách, miệng cười cười:

- Có chút quà, gọi là…gửi các đồng chí.

- Cám ơn.

- Xin cám ơn.

- Các anh cứ vẽ chuyện.

- Vâng, cám ơn. Về nhé. Hẹn gặp lại.

Vậy mà hiệu trưởng Trương cứ lo lo phải nói khéo, nói mãi may ra họ mới nhận. Thì ra cái lo của thầy bị thừa.

Rõ ràng hiệu trưởng Trương vừa tươi cười bắt tay khách, mà khách đi rồi, thầy bước vào phòng bước chân như hụt hẫng. Mặt thầy thẫn thờ, trong lòng cảm thấy hoang mang như người vừa bị mất trộm.

Chuyện chỉ có vậy thôi.Sau đó kế toán tính toán và báo cáo hiệu trưởng Trương. Số tiền chi hôm nay cụ thể là: Mâm cơm hết hai trăm nhân dân tệ; Một két rưỡi bia Hailida hết ba trăm sáu mươi nhân dân tệ; trái cây tráng miệng hai ki lô gam hết mười hai nhân dân tệ; Tiền quà biếu khách gồm chủ tịch một trăm nhân dân tệ, phó chủ tịch bảy mươi nhân dân tệ, còn lại trưởng ban văn hoá, văn phòng mỗi người năm mươi nhân dân tệ. Tổng chi là tám trăm bốn mươi hai nhân dân tệ. Phần thu là số quà Uỷ ban tặng thầy cô giáo mỗi người một chai nước mắm loại một, nhân với 28 người, nhân với năm nhân dân tệ một chai. Tổng thu là một trăm bốn mươi nhân dân tệ.

Nghe xong, hiệu trưởng Trương lại tái mặt một lần nữa. Chao ôi! Chỉ nhoáy một cái mà số tiền chắt chiu mấy năm trời, ăn chả dám ăn, tiêu chả dám tiêu, chỉ chăm chắm chờ nâng cấp một số phòng học đã đi tong. Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống.

Hiệu trưởng Trương bóp đầu, bóp trán vẻ bức xúc lắm. Mồ hôi thầy túa ra như người lên cơn sốt. Thầy lại chống cái cán bút vào trán mắt nhìn chằm chằm xuống cuốn sổ, buồn rầu nói với cô kế toán:

-Đành vậy… Ta hoãn việc mua ngói để sửa lớp 8A…Nếu trời mưa như năm ngoái, thì tạm thời tổ chức học ba ca vậy, cô nhỉ.

Bây giờ, ở Trường phổ thông Trung học xã Thái Bình người ta bày ra nhiều chuyện xung quanh chai nứơc mắm và mâm cỗ làm bằng ngói nghe vui lắm. Chỉ có một điều cả trường từ thầy đến trò đều sợ đến ngày truyền thống nhà giáo. Vì đến ngày đó lỡ chủ tịch lại đến thăm và tặng quà thì có ngày trường phải tổ chức học đến bốn ca mất.

Những bài viết phản động của bọn VNCH

NGUYỄN-HUY HÙNG

Nhiều đợt Bưu kiện thực phẩm từ miền Nam gửi ra đã được Trại ra Tỉnh lãnh về phát cho tù hàng tuần. Mỗi tháng Trại chỉ cấp cho mỗi người một Phiếu Bưu Kiện để gửi về gia đình, thế mà Đội chúng tôi có vài anh kỳ nào phát Bưu kiện cũng được gọi tên lãnh, có người còn được nhận 3, 4 Bưu kiện một lúc.

Sau 2 tháng các Bưu kiện ào ạt tới Trại, trong Đội chỉ có Tôi và khoảng 5 bạn khác nữa chưa nhận được một Bưu kiện nào. Mấy bạn quen thân thấy tôi cũng mới nhận được thư của gia đình gửi đến trong đợt học tập vừa qua mà sao không có Bưu phẩm, thắc mắc đến gần thủ thỉ hỏi xem gia đình có gặp trở ngại gì không? Tôi buồn lo lắng lấy thư của con đem ra đọc đi đọc lại cố tìm cho ra manh mối, chẳng thấy tin gì khác lạ ngoài cái tin 2 người con lớn sau 30-4-1975 vẫn đang được tiếp tục theo học năm thứ 3 Đại học Y khoa Minh Đức phải đi làm, cô chị làm Y sĩ ở Bệnh viện Nguyễn văn Cội vùng Củ Chi cách Saigon vài chục cây số, và cậu em thì được Phòng Y tế Phường cử đi chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào của Quận đang công tác tại khu Thủy lợi Lê Minh Xuân.

Mọi người đoán già đoán non an ủi rằng: “đi làm xa Saigon” “đi công tác tại khu Thủy lợi”, không chừng đây là những lời bóng gió báo tin là 2 người con của tôi đã gặp chúng mối tổ chức “đi vượt biên” được rồi. Nếu đúng thì là điều đáng mừng, vì nhiều bạn trong chúng tôi cũng từng được gia đình gửi thư nói như vậy để báo tin con đã “vượt biên” ra khỏi Việt Nam. Chắc là vợ của tôi ở nhà bận bịu lo cho con như vậy nên chậm trễ trong việc đi gửi Bưu kiện, không có gì đáng lo trước sau gì rồi cũng có quà. Có người đề nghị cho Tôi mượn mì ăn liền “bồi dưỡng” đỡ, khi nhận được quà trả lại sau. Tôi từ chối không nhận vì chẳng biết hoàn cảnh thật của vợ con ra sao, lỡ không có quà lấy gì để trả nợ.

Tôi kiên nhẫn chịu đựng, tiếp tục mưu sinh linh tinh cho qua cơn đói khổ. Cũng may, anh Tổ trưởng của tôi không còn quan tâm góp ý kiến “xây dựng” cho Tôi trong những buổi kiểm thảo ban đêm của Đội như trước nữa, vì chính bản thân anh ấy cũng chưa nhận được Bưu kiện nào như Tôi và đang mưu sinh linh tinh còn bạo hơn Tôi. Qua những mẩu chuyện tâm sự của anh ấy, Tôi cảm đoán được hình như trước 30 tháng 4 năm 1975 anh ấy có chuyện gì lủng củng trong gia đình giữa 2 bà vợ lớn vợ nhỏ sao đó, nên bây giờ chẳng ai lo cho. Thật tội nghiệp!

Ngày rồi lại ngày cứ lặng lẽ trôi qua, bỗng một hôm có một cơn mưa thật lớn đổ xuống suốt cả buổi nghỉ trưa đến tận giờ tập họp đi lao động chiều mới dứt. Nước úng không rút kịp tràn ngập đầy sân tập họp lõng bõng cao tới mắt cá chân, không ngồi chồm hổm trên mặt đất được, mọi người phải đứng chờ đợi lệnh xuất trại. Ánh sáng mặt trời le lói hun đốt làm cho mảng sân tập họp bốc hơi, nồng nồng mùi mốc mốc tanh tanh. Tự nhiên nghe thấy anh em Tù đồng loạt phát ra một âm thanh vui vẻ ồ.ồ.ồ!!! làm Tôi giật mình chú ý nhìn về phiá Cổng trại, thấy Cán bộ phụ trách phát Bưu kiện xuất hiện đọc tên những người được nghỉ lao động ở nhà lãnh quà gia đình gửi tới. Có tên Tôi, nên mấy bạn quen thân reo mừng nhắc gọi sợ Tôi không nghe được.

Tôi rời hàng ra đứng ở cuối sân, chờ các Đội xuất Trại xong sẽ cùng một số Tù khác đi đến Hội trường đợi lệnh gọi lần lượt vào ký lãnh Bưu kiện. Sau khi ký tên vào sổ và nhận bưu kiện xong, phải đem ngay Bưu kiện vừa mới nhận tới một bàn dài và trải tấm ni-lông che mưa của mình trên mặt bàn, mở gói quà ra bầy tất cả mọi thứ lên trên rồi đứng đợi Cán bộ tới xét từng món một.

Cán bộ không đích thân tới xét mà là anh “Thi Đua” (tù Hình Sự) làm thay. Những bịch nào chưa kịp mở banh ra sẵn sàng cho anh ấy coi, anh ấy lấy con dao nhọn dọc rách bao ni-lông rồi bới tung ra tìm tìm kiếm kiếm vật gì chẳng biết. Gặp bịch mì ăn liền vụn còn đỡ, chẳng may gặp bịch sữa bột hay bịch đường cát, coi như tiêu mất hết phần mười. Bột sữa và đường còn dính tùm lum sang các bịch khác bê bết, sẽ là mồi cho kiến đánh hơi bu đến làm tổ trong bao đựng quần áo nơi cất thực phẩm tại đầu xạp ngủ chỗ mình nằm. Hộp sữa đặc có nhãn hiệu ghi bằng chữ Việt Nam rõ ràng, anh “Thi Đua” cũng lấy dao đâm thủng một đầu hộp thọc đũa vào ngoáy ngoáy tìm kiếm xem có vật gì lạ khác dấu ở trong không. Keo mắm ruốc xào khô với thịt bằm xả ớt, anh “Thi Đua” cũng đổ ra bới bới để kiểm tra. Nước mỡ chẩy tùm lum, mùi mắm kho thơm nồng nặc làm con tỳ con vị trong bao tử nôn nao phát ứa nước miếng nuốt không kịp...

Sau khi kiểm tra kỹ càng tất cả mọi món xong, anh “Thi đua” đến báo cáo Cán bộ là không có gì, Cán bộ gật đầu cho phép thu vén lại “khẩn trương” đem đi để nhường chỗ cho người khác trình quà của họ. Nếu có thư gia đình để trong gói quà phải nộp để Cán bộ giữ lại kiểm duyệt, vài ngày sau Quản giáo Đội mới phát cho nếu được phép nhận để đọc.

Thời gian đợi đến lượt vào ký nhận quà thì lâu, chớ thời gian kiểm tra chẳng bao lâu. Bưu kiện chỉ có 5 kí lô: 2 hộp sữa đặc khoảng nửa kí, nửa kí đường thẻ, nửa kí đường cát vàng, 1 kí mì vụn loại ăn liền để trong 2 bọc, 1 kí bánh mì xấy khô cũng để trong 2 bọc, nửa kí bột đậu xanh hay đậu nành, keo mắm xào xả ớt nửa kí, còn nửa kí đồ linh tinh như thuốc đánh răng, xà bông tắm giặt, khăn mặt, tem thư, giấy viết thư, bút nguyên tử, âu dược chữa bệnh, thuốc bổ tăng cường các loại sinh tố...là hết. Chỉ những người được lãnh 2, 3 Bưu kiện một lúc, lỉnh kỉnh lắm thứ mới mất nhiều thời giờ. Vì ngoài mấy thứ chính như mì ăn liền, bánh tổ, cốm dẹp, cơm sấy khô, biscot, còn nào là thịt chà bông, lạp xưởng, các hộp thịt bò, thịt heo, thịt gà, cá mòi ngâm dầu hoặc sốt cà chua, kẹo, bánh ngọt, bơ, margarine, phó mát, trà ướp hoa lài hay hoa sen, cà phê, thuốc lá thơm...

Thường anh em chỉ xin gia đình cung cấp cho những thứ có chất bột, chất đạm, chất béo và chất ngọt, đang là nhu cầu chính yếu cần thiết nhất cho cơ thể, còn thuốc lá thơm, trà, cà phê thuộc loại xa xỉ phẩm, đang ở trong tù có hay không cũng được. Nhưng đối với những bạn ghiền nặng, gia đình dư giả tiền, thì các món đó cũng là nhu cầu cần yếu không thể thiếu được. Ngoài ra các món đó còn là những thứ cần có để mua cảm tình của Quản giáo Đội, để được đối xử dễ dãi hơn các bạn bè trong việc gửi nhận thơ đều đặn hàng tháng...

Mãi về sau, một vài bạn tốt bụng mới rỉ tai riêng cho nhau biết là, ở Saigon người ta in Phiếu Bưu Kiện đúng hệt như mẫu phiếu do các Trại phát cho Tù gửi về nhà, và bán công khai ngay trước sân nhà Bưu điện Saigon gần bên Nhà Thờ Đức Bà. Người ta cũng bầy bán đầy đủ những gói, những keo, những hộp thức ăn khô đủ loại được Bưu điện chấp nhận cho gửi, để thân nhân Tù mua tại chỗ cho tiện đỡ mất công làm lấy. Nếu ai mua toàn bộ đủ 5 kí lô những thứ họ bán để gửi đi, họ còn gói cột chắc chắn đàng hoàng, mình chỉ việc ghi Tên địa chỉ người gửi và người nhận xong là họ đem vào gửi giùm đỡ phải đứng xếp hàng chờ đợi cả ngày. Dĩ nhiên khách hàng phải tỏ ra sởi lởi, chi tiền đầy đủ theo đòi hỏi của họ. Hẳn là họ phải có đường dây riêng làm tay trong, do Cán bộ Bưu điện Nhà Nước cầm đầu mới dám công khai hành động như vậy.

Không phải bà vợ nào cũng dư giả tiền và dám thử liều gửi lậu như vậy, vì sợ chẳng may bị lừa hoặc bị Công an gài bẫy bắt thì nguy. Ngoài ra còn e ngại sợ gửi nhiều hơn quy định không biết Trại có cho nhận không? Lỡ quà ra đến nơi Trại không cho nhận, còn hạch hỏi làm sao ở nhà có nhiều phiếu gửi quà như vậy? Rồi phạt không cho Tù nhận quà nữa mới là khốn nạn khó gỡ.

Sau này khi được tha về, vợ của tôi cho biết là ở nhà cũng biết chuyện ấy, nhưng vì hoàn cảnh kiếm sống hàng ngày nuôi các Con rất chật vật, nên mỗi tháng chỉ lo chắt bóp gửi cho Tôi được 1 gói quà 5 kí lô đã là một cố gắng hết sức rồi.

Khoảng mùa Thu năm 1979, nhóm Đại tá chúng tôi được lệnh rời K1 di chuyển về K5 nơi có Ban Chỉ huy Trại Tân Lập. Đồ đạc được chất lên xe chuyên chở, còn người đi bộ theo sau. Cán bộ cảnh vệ đeo súng đi dẫn đầu và tập hậu áp tải để đề phòng Tù lủi trốn vào rừng. Trên dọc đường, tại những khúc quanh không nhìn thấy được từ xa còn có thêm cảnh vệ ôm súng đứng phục sẵn trong sâu để canh chừng.

Dưới khe sâu dọc theo con đường đá rộng 6 mét vòng vèo theo sườn núi thoai thoải xuống dốc từ K1 dẫn đến K5, vang vọng tiếng nước suối chảy rì rầm đều đều như tiếng cối xay lúa. Cây rừng cao dầy đặc 2 bên đường, những cây thấp nhỏ phải nghiêng mình vươn nhô ra mặt đường trống để đón nhận ánh sáng mặt trời.

Đoàn Tù gầy ốm chỉ còn da bọc xương, mặt hốc hác, lầm lũi nối đuôi nhau 2 hàng dọc lê bước di chuyển bên lề phải con đường. Thỉnh thoảng đôi con chim đang còn ngủ trong tàn lá, nghe tiếng động của đoàn người đi ngang giật mình bay vụt lên cao biến mất trong rừng già.

Chín giờ sáng mà sương mù còn phủ đặc rừng cây, hương thơm của hoa rừng thoang thoảng hoà lẫn với mùi mông mốc của lá mục, làm Tôi tưởng nhớ lại thuở ấu thơ theo Đoàn Hướng Đạo Sinh đi cắm trại cuối tuần tìm hiểu thiên nhiên vạn vật ở vùng rừng núi Lạng Sơn, một tỉnh địa đầu miền thượng du Bắc Việt ráp ranh với Trung Hoa, nơi có di tích lịch sử Ải Nam Quan, Chợ Đồng Đăng, Phố Kỳ Lừa, núi Nàng Tô Thị với Chùa Tam Thanh.

Mê mải nhìn cảnh vật chìm trong màn sương đang lộ dần dưới ánh mặt Trời ban mai, suy nghĩ miên man quên cả hiện tại, chẳng may Tôi vấp chân nhằm một hòn đá lớn lồi trên mặt đường ngã chúi về phiá trước, lăn quèo mấy vòng trên đất làm mọi người ngạc nhiên. Tỉnh mộng, Tôi lồm ngồm đứng lên vừa đi vừa phủi quần áo dính đầy đất và lá khô vụn, nhoẻn miệng gượng cười chữa thẹn mặt mũi đỏ gay 2 tai nóng bừng bừng.

Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau khi rời K1, chúng tôi ra khỏi các khúc quanh của núi rừng, một thung lũng chừng 3 cây số bề dài 1 cây số bề rộng hiện ra trước mặt, có con sông lòng đầy sỏi đá lớn nhỏ uốn khúc rì rầm chảy ngang. Xa xa bên kia sông có một phân trại (Tôi không biết đó là K mấy). Phiá bên này cách đường lớn khoảng 1 cây số, sát ngay bên bờ sông là K5, Ban chỉ huy Trại Tân Lập trụ tại đây với tấm bảng hiệu Công An Nhân Dân to tướng. Chúng tôi đã có dịp nhìn thấy khu này cả năm về trước, khi đoàn xe Quân đội đưa chúng tôi chạy ngang không dừng lại để đến K1.

Cách ngã ba đầu đường dẫn vào K5 chừng 300 mét, ngay phiá lề đường bên phải có một khu nhà lá gồm 3 căn nho nhỏ cất riêng rẽ nằm giữa miếng sân vuông chục mét mỗi cạnh, sau này mới biết là Nhà Thăm Nuôi nơi Tù và thân nhân được phép đến thăm gặp nhau.

Phiá trước khu Nhà Thăm Nuôi, ngay sát bên đường vào K5 là một nhà canh có Cán bộ ngồi kiểm soát việc ra vào Trại. Cán bộ áp tải chúng tôi đến tiếp xúc, rồi dở cần tre cản ngang đường lên cho chúng tôi đi qua. Hai bên con đường đất rộng 6 mét dài khoảng một cây số dẫn vào K5 là những thửa ruộng để trồng luá.

Trụ sở của Ban Chỉ huy Trại Tân Lập và K5 ở phiá sau chiếc cổng có bảng hiệu Công An Nhân Dân, gồm nhiều nhà mái ngói mái tôn lẫn lộn, với những đường đi nhỏ cắt dọc ngang như một xóm dân cư ngụ. Khu gia binh cho Công an có gia đình ở tít phiá sau gần bờ sông.

Chúng tôi được dẫn đi đến khoảng còn chừng vài trăm mét trước khi tới chiếc cổng treo bảng hiệu Công An Nhân Dân, thì rẽ sang phải theo con đường dẫn vào trại giam K5.

Bên trong Trại giam K5, thiết trí kiến trúc cũng tương tự như trại giam K1, nhưng rộng lớn và nhiều nhà giam hơn. Chung quanh cũng có tường rào bằng gạch cao 4 mét, thêm hàng kẽm gai trên đỉnh. Sườn hướng Đông của Trại nằm dọc theo sông, cách bờ chừng 100 mét.

Vào qua cổng sắt lớn là một sân tập họp vuông rộng. Cuối sân có một vườn hoa và Hội trường chứa được cả ngàn người, với một cây cổ thụ xum xuê cành lá xanh tươi quanh năm. Chung quanh gốc cây cổ thụ là nơi Tù được phép tới đó vào ngày Chủ nhật nghỉ lao động để nấu nướng, hâm xào lại các thực phẩm khô do gia đình gửi tới cho ăn dần khỏi bị hư thối.

Ngay sau cổng vào, ở phiá bên trái sân tập họp là một dẫy nhà tường gạch mái tôn, đây là khu biệt giam Tù Hình Sự. Dẫy nhà này có tường rào bằng gạch cao 3 thước bao quanh, và phân cách từng ngăn riêng không thông thương được với nhau, mỗi ngăn chứa được khoảng 30 người. Nhóm Đại tá chúng tôi bị giam vào ngăn áp chót trong dẫy nhà này. Các Linh mục và Đại đức Tuyên úy Quân đội bị giam ở ngăn kế bên chúng tôi.

Các ngăn không thông thương được với nhau ở dưới đất, nhưng bức tường trong nhà để phân cách các ngăn nơi sát mái nhà có chừa một lỗ tò vò người chui lọt, không biết để làm gì. Từ nền nhà lên đến mái để trống hốc, không làm trần cản hơi nóng. Ngay lỗ tò vò và dọc dài trên dàn kèo nhà sát mái tôn có căng giây kẽm gai. Sau này, bọn Tù Hình Sự thường lẻn chui qua ban đêm lúc anh em ngủ say, lấy trộm quần áo và thực phẩm của chúng tôi để ở trên giàn sát mái nhà. Chỉ những người nằm ở sàn ngủ tầng trên cao mới bị mất trộm. Tôi bị móc mất chiếc áo len cao cổ dài tay mầu hoa cà còn mới tinh, do vợ tôi đan theo kiểu riêng ngoài chợ không có bán, nhất là ở ngoài Bắc thì không thể nào có được. Nhiều bạn khác cũng mất quần áo và còn mất cả thực phẩm khô.

Có thể là bọn Hình Sự đã chui qua ăn trộm nhiều lần nhưng anh em không biết, vì không ai ngờ chúng dám cả gan làm như vậy. Anh em chỉ phát giác ra được là nhờ một hôm vào khoảng quá nửa đêm, có anh bạn đang ngủ tầng trên thấy có chất nước nhờn xền xệt rớt qua đình mùng ni-lông xuống mặt làm giật mình ngồi nhỏm dậy. Mở mắt nhìn thấy thoáng có bóng người, chạy chuyền trên các đà gỗ sát mái nhà về phiá cuối phòng nơi để chiếc thùng cho Tù giải quyết vấn đề vệ sinh ban đêm. Đây là điểm ráp ranh giữa phòng giam chúng tôi và phòng giam bọn Tù Hình Sự. Quan sát kỹ thêm, anh ấy thấy một vật gì nặng làm võng đình mùng nên chui ra lấy xuống, mới biết đó là hộp sữa đặc bị đục thủng lỗ và sữa ở trong đã cạn gần hết. Túi đựng quần áo và thực phẩm khô của anh ấy để trên giàn bị mở tung. Sáng hôm sau, sự việc được báo cáo anh Đội trưởng báo động cho anh em đề phòng, và rình để bắt quả tang nếu chúng tái diễn.

Một tuần sau, có bạn nằm tầng trên sát bên tường đi tiểu đêm vào lúc gần sáng xong, vừa trèo trở lên chỗ nằm nghe tiếng động trên giàn kèo nhà ngẩng lên thấy bóng người đang chui qua lỗ tường, anh ta vùng ra khỏi mùng chụp lấy chân kẻ trộm. Hắn dẫy mạnh chân vuột ra khỏi tay anh bạn và chui tuốt qua bên kia tường luôn, nhưng chân của hắn bị kẽm gai gây thương tích rất nặng, máu chảy ra dính đầy trên tường và trên kèo gỗ.

Đến sáng, ngay khi Cán bộ Trực Trại đến mở cửa phòng giam cho chúng tôi ra, anh Đội trưởng vội vã báo cáo ngay sự việc đã xẩy ra lúc ban đêm. Cán bộ ghi nhận và khi sang mở khoá phòng giam Hình Sự bên cạnh, đã khám xét từng người trước khi bước ra khỏi cửa. Ông ấy đã bắt được người có vết thương nơi chân còn mới nguyên. Ông ấy giữ tất cả bọn Hình Sự trong phòng giam, rồi lần lượt bắt từng đứa một đem tư trang ra sân khám xét, và cho chúng tôi những ai biết là mình bị trộm tới nhận diện những vật đã bị đánh cắp để lấy lại.

Qua khỏi khu biệt giam chúng tôi là một khoảng đất trống đang trồng rau, rồi đến mấy dẫy nhà vách gỗ mái tôn giam anh em Tù miền Nam. Phòng giam dành riêng cho Ban Thi Đua nằm ở ngay nhà đầu của khu này, có thể trông được toàn cảnh vật chung quanh khu sân tập họp ra tuốt đến cổng trại giam.

Ở phiá cuối khu là nhà vệ sinh công cộng cho Tù xử dụng trong ban ngày, được xây cất bằng gạch mái lợp tôn có cửa lửng che trước mỗi ngăn ngồi đại tiện, có hàng hiên dài phiá trước để không bị hắt ướt vào mùa mưa, trong khi ngồi làm nghiã vụ nộp phân bón hàng ngày cho Trại.

Bên phiá đối diện, tức là phiá bên phải sân tập họp đứng từ cổng nhìn vào là khu Bệnh xá và Nhà bếp. Kế theo là một khu bao quanh bởi bức tường gạch cao với một lối ra vào duy nhất, gồm nhiều nhà gỗ mái tôn cũng dùng để giam Tù miền Nam. Vào cuối tháng 12 năm 1981, nhóm Đại tá chúng tôi được chuyển từ khu biệt giam Hình Sự sang khu này ở một ngày một đêm, trước khi chúng tôi bị áp giải lên đường đi Trại Thanh Phong trong vùng rừng núi Trường Sơn thuộc huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam.

Thoạt mới tới K5, nhóm Đại tá chúng tôi được chỉ định là Đội Nông Nghiệp, có một số thứ tự riêng để gọi nhưng Tôi không nhớ.

Mùa Đông năm 1979, Bắc Việt có một đợt lạnh chết người. Theo lời các Cán bộ già cho biết thì hiện tượng này chưa từng xẩy ra trong vòng mấy chục năm qua trên đất Bắc Xã hội Chủ nghiã.

Để làm mùa vụ Đông Xuân, Trại có khu ruộng mạ giống ngay bên đường phiá trước Nhà Thăm Nuôi cần phải nhổ gấp cho khỏi bị chết cóng, Đội chúng tôi được huy động làm “khẩn trương”. Buổi sáng khi Đội ra tới “hiện trường lao động”, thấy ở phiá bên kia đường một con trâu trẻ mập nằm gục chết cóng ngay giữa ruộng, thế mà anh em chúng tôi vẫn phải bỏ giầy vắn quần đến đầu gối vén tay áo tới cùi chỏ, lội xuống ruộng nhổ mạ bó lại đem về ủ trong nhà kho cho mạ khỏi chết. Dưới nước, điả cũng cóng thun vòi bám vào gốc mạ không tung tăng bơi đi tìm chân người hút máu như những lúc trời ấm áp.

Giao việc cho Đội xong, cả Quản giáo Đội lẫn Cảnh vệ đều co ro cúm rúm mò đến ngồi bên bếp lửa hơ tay xoa mặt hút thuốc lào, và chờ anh phụ trách nấu nước của Đội pha trà Tầu nấu mì cung phụng cho ăn để hâm nóng cơ thể.

Chúng tôi tự động thay phiên nhau xuống ruộng làm trong khoảng 5 phút rồi lại lên, đến bên lò nấu nước để hơ chân tay cho khỏi cóng. Và cứ tiếp tục như vậy trong suốt buổi lao động không cần xin ý kiến của Cán bộ. Ông ta nhìn thấy cũng lẳng lặng đồng tình không nói năng gì.

Thật là một đầy đọa vô cùng dã man, may mà không ai trong chúng tôi chết cóng tại chỗ, nhưng ngày hôm sau hầu như cả Đội bị cảm hàn, ho, sổ mũi, khản đặc nói không ra tiếng. Nhiều người bị sốt cao đau cổ họng phải xin đi khám bệnh, nhưng ngặt một nỗi là hàng ngày Trại chỉ cho phép mỗi Đội ghi tên 2 người đi khám bệnh, nên anh em phải tùy trường hợp nặng nhẹ mà nhường nhau.

Cũng rất may thời gian này âu dược do gia đình gửi trong các Bưu kiện không còn bị tịch thu như trước nữa, nên ai nấy dùng thuốc riêng điều trị cả chục ngày mới qua khỏi. Riêng anh Tổ trưởng của tôi

(Đại tá Nguyễn văn Của, trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bình Dương)

bệnh không thuyên giảm, mỗi ngày anh em phải nhường cho ghi tên đi khám bệnh, và anh ấy được nghỉ lao động ở trong Trại cả tuần lễ vẫn không hết. Sau cùng anh ấy được vào nằm điều trị tại Bệnh xá một thời gian tương đối lâu.

Một hôm vào sáng Chủ nhật cả Trại nghỉ lao động, anh ấy ghé về Láng ở của Đội thăm anh em, hớn hở khoe rằng ở Bệnh xá được ăn cơm trắng thay vì ăn sắn. Thấy sắc diện anh ấy cũng khá hơn trước, bạn bè ai cũng mừng chúc anh ấy mau lành để sớm trở về với Đội. Mục đích chính anh ấy về thăm anh em là để xin âu dược Streptomicine trị bệnh, vì bệnh xá không có. Nhưng thật đáng tiếc là anh em trong Đội cũng không ai có, kể cả mấy người giầu quà nhất. Anh ấy buồn bã ỉu xìu trở lại Bệnh xá trong lo lắng. Hai ngày sau một tin đau lòng đã đến với anh em chúng tôi, anh Của chết vì sưng phổi làm ngộp thở, cứu không được.

Sau vụ làm mùa Đông Xuân, Đội chúng tôi được điều động đi phát cỏ khu đất cao dọc bên bờ sông để trồng khoai rong giềng (trong Nam gọi là củ bột mì tinh). Các công tác tiếp theo là dọn cỏ ruộng miá, rồi đi đốn miá chất lên xe nộp cho Lò ép lấy nước nấu “mật đường” để cất rượu trắng cho Trại bán.

Trong số 5, 6 người chưa có quà của thân nhân, hoặc mới chỉ nhận được một gói như tôi vẫn phải lén cải thiện linh tinh. Chẳng may vào một buổi sáng trời mây ảm đạm âm u, anh Đại tá Trần Kim Hoa (trước 30-4-1975 làm tại Văn Phòng của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) bị Cán bộ cảnh vệ bắt gặp đang ngồi trong giữa ruộng ăn lén một khúc miá. Cảnh vệ nạt nộ dẫn anh ấy ra giữa đường đi trong ruộng miá đến nơi anh em đang ngồi nghỉ giải lao, bắt phải ngồi ăn và nuốt hết cả bã lẫn nước khúc miá đã lấy trộm của Xã hội Chủ nghiã và Nhân dân trong khi lao động. Thật tàn bạo hết chỗ nói.

Anh Hoa ngồi ì ra đó nhất định không làm theo lời buộc vô lý của Cảnh vệ, tuổi còn non choẹt cỡ con của chúng tôi. Anh Cảnh vệ tức tối hăm he dùng đủ mọi thứ tiếng tục tằn để sỉ nhục chung cả chúng tôi chớ không riêng một mình anh Hoa. Nào là: “-Đồ bán nước, cặn bã của Xã hội. Cha mẹ chúng bay không biết dậy dỗ, để chúng bay đi làm Ngụy tay sai cho Đế quốc. Chúng bay ăn gì mà ngu thế...”. Trong khi đó Quản giáo Đội chúng tôi chẳng nói gì bỏ đi chỗ khác, hình như không muốn dính vào vụ cãi cọ giữa Cảnh vệ hung hăng phi lý đối với Tù.

Mọi người lo cho anh Hoa có thể bị kỷ luật vì việc này, nhưng rồi chẳng thấy gì và sự việc được êm ả qua đi trong quên lãng của mọi người.

Ngày hôm sau, Đội chúng tôi được đưa vào làm tại lò ép miá. Một số anh em ngồi gióc vỏ cây miá trước khi cho vào trục ép. Một số khác luân phiên nhau đẩy cần quay trục ép miá thay cho trâu.

Rút kinh nghiệm vụ anh Hoa, anh em ai thấy cần cải thiện chất ngọt thì xin Cán bộ cho nhặt những khúc gốc và ngọn miá vứt dưới hố rác bên lò nấu mật, đem ra sông rửa sạch trong giờ đi rửa chân tay trước khi trở về trại nghỉ, rồi ăn ngay bên bờ sông hoặc dấu vào bị đem về trại ăn sau vào buổi tối.

Từ Tết Canh Thân (1980) trở đi, Tù được ăn độn hàng ngày theo “tiêu chuẩn” 75 phần trăm “sắn duôi” và 25 phần trăm cơm trắng.

Theo thông lệ hàng năm cứ tới khoảng tháng 4 (tháng giáp hạt) là mùa Hè không trồng được lúa phải trồng hoa mầu phụ như đậu, cà, bắp, nên thời gian này Tù thường phải ăn “sắn nút chai”. Nhưng không biết vì sao, năm nay Trại bắt đầu được cung cấp hạt Bo Bo và bột Mì do nước ngoài viện trợ cho Tù ăn thay “sắn nút chai”. Phải chăng đây là kết quả Hội nghị tại Genève, do Liên Hiệp Quốc triệu tập theo yêu cầu của Hoa Kỳ để giải quyết vấn đề nhân đạo đối với Tù chính trị miền Nam ?

Cán bộ Quản giáo Đội Nhà Bếp ở đây cũng chỉ dẫn cho Tù cách nhồi bột Mì với nước, đóng theo khuôn gỗ tròn, luộc chín phát cho Tù y như bên Trại Quân đội trước kia. Chắc đây là “kỹ thuật đồng bộ” Nhà Nước Xã hội Chủ nghiã nghiên cứu và truyền dạy cho Quân Cán cả nước cùng theo.

“Tiêu chuẩn” phần ăn hàng ngày vẫn ít ỏi, không trang trải đủ nhu cầu cần yếu của cơ thể. Nạn đói vẫn tiếp tục hành hạ những người như Tôi và một vài Bạn không được gia đình tiếp tế sung túc đầy đủ như đa số các bạn khác, nên ngoài việc cải thiện linh tinh lén lút thường xuyên hàng ngày còn phải lấy một vài vật dụng riêng như khăn rửa mặt mới nhận được từ gói quà hoặc thuốc lào trại phát hàng tháng... để trao đổi cho bọn Hình Sự lấy Bánh Mì Luộc hoặc Bo Bo để ăn. Dĩ nhiên chỉ có mấy đứa “Hình Sự Đầu Nậu” trong tù mối lái móc ngoặc với anh em để làm việc này chớ không phải tất cả bọn tù Hình Sự.

“Tiêu chuẩn” ăn hàng tháng của bọn Hình Sự được quy định là 11 kí lô, ít hơn phần ăn của Tù Chính trị miền Nam là 12 kí lô, thế mà ngày nào chúng cũng có dư phần ăn để đem trao đổi vào buổi sáng trong thời gian mọi người chờ đợi ra sân tập họp đi lao động. Chắc là bọn Hình Sự phục dịch ngoài Bếp Cán bộ cả ngày, đến khuya mới trở vào Trại đã ăn cắp đem về cung cấp cho bọn “Đầu Nậu” trao đổi.

Tôi thấy anh bạn nằm bên cạnh (Đại tá Nguyễn ngọc Thanh trước 30-4-1975 làm tại Phủ Tổng Thống) cũng có đổi hoài, nên hỏi thăm và nhờ anh ấy chỉ mối để đổi chiếc khăn mặt mới lấy chiếc bánh mì luộc. Ngay sau khi trao đổi, Tôi lanh lẹ lỉnh vào Láng ngủ dấu chiếc bánh mì xuống dưới đống các bao tải đựng quà anh em cất trong kho, nơi gần khu có thùng vệ sinh ban đêm. Vừa xong thì ngoài cửa có tiếng anh Đội trưởng (Đại tá Lê Đình Luân, Đơn vị 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu)  gọi Tôi, và cho biết là Cán bộ Trực Trại kêu Tôi phải trình diện ngay tại Văn phòng Ban Thi Đua.

Mọi người nhìn Tôi lo lắng, vì thấy cậu Hình Sự đổi bánh cho Tôi bị bắt dẫn lên Văn phòng Thi Đua, vừa đi vừa bị đánh túi bụi. Riêng Tôi thì đã chuẩn bị sẵn cách ứng phó, nên tỉnh khô lặng lẽ đi trình diện. Vừa bước chân vào văn phòng Thi Đua, Cán bộ Trực chỉ mặt Tôi nạt lớn:

“-Thằng này nó vừa đưa cho anh cái gì?”

Tôi nhanh nhẹn trả lời ngay là:

“-Không có, Nó thấy tôi cầm chiếc khăn mặt lông định lót thêm dưới mũ đội cho ấm đầu, Nó năn nỉ xin để cuộn cổ cho ấm vì lạnh quá. Tôi vừa mới được gia đình gửi quà cho 2, 3 cái nên cũng dư, thấy nó tội nghiệp cũng muốn cho nhưng đang còn lưỡng lự vì sợ vi phạm Quy luật Trại giam chưa quyết định. Nó liều giật đại rồi chạy tuốt vô khu ở của nó, chớ có đổi chác gì đâu. Không tin Cán bộ khám người tôi và đồ đạc nơi ngủ của tôi xem có gì không, nếu có thì Tôi sẽ chịu “kỷ luật”.

Vừa nói Tôi vừa thọc tay vào túi quần móc ra nửa miếng bánh mì luộc và phân bua:

 “-Đây là phần “tiêu chuẩn” sáng của tôi, mới lãnh xong hãy còn nguyên chưa kịp ăn”.

Cán bộ Trực Trại đấm đá thằng Hình Sự túi bụi và hỏi nó:

 “-Có đúng vậy không?”

 May mắn làm sao, nó gật đầu và quỳ xuống đất chắp tay vập đầu lạy Cán bộ lia lịa năn nỉ xin tha. Ông ta dơ cao chân đạp vào ngực nó ngã ngửa ra phiá sau, vừa đúng lúc hồi kẻng tập họp xuất trại đi lao động nổi lên. Lập tức ông ấy quay lại xiả mạnh tay vào ngực tôi và nói:

“-Anh liệu hồn, thôi đi đi.”

Thật là xui xẻo hú hồn hú viá, người ta đổi hoài chẳng sao mình mới thử lần đầu tiên đã mắc kẹt ngay. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối Tôi liều lĩnh lén lút tiếp xúc trao đổi với tụi Hình Sự. Chuyện không may đã xẩy đến với Tôi, nhưng may mắn không việc gì vì Tôi đã chuẩn bị đề phòng từ trước.

Vào cuối mùa Hè ở vùng này thường có những đợt mưa rào, nước trên Trời trút xuống xối xả như thác đổ. Mỗi ngày có đến 2, 3 cơn mưa lâu cỡ vài tiếng đồng hồ mới dứt. Có những đợt mưa kéo dài 3, 4 ngày và sau mỗi cơn mưa mặt trời trở lại nắng gắt oi ả hơn, không một ngọn gió nóng nực kinh khủng. Tiếp theo những cơn mưa rừng chừng vài tiếng đồng hồ, bao giờ cũng là một tai họa khủng khiếp do thác lũ nước nguồn dồn xuống bứng cây cuốn theo phá hoại hoa mầu, nâng mực nước sông lên cao tràn ngập mênh mông. Nước lũ cứ cuồn cuộn vài ngày đêm như vậy mới lần lần thoát hết. Tất cả những gì con người đã khổ công reo trồng vun bón ở các dải đất gần hai bên bờ sông chưa tới ngày thâu hoạch, bị nước lũ cuốn trôi theo dòng xuống đồng bằng ra biển cả ráo trọi, chỉ còn lại một lớp phù xa đỏ ngầu ngập lút đầu gối.

Oái oăm thay, cũng chính vào cái mùa mưa lũ này các bà vợ Tù từ miền Nam cũng

 lẻ tẻ được phép đến Trại “thăm nuôi”, cung cấp tiếp tế thực phẩm cho Chồng “bồi dưỡng” lấy lại sức khoẻ.

Thời gian Vợ Chồng gặp nhau chỉ được có 15 phút, chuyện gia đình con cái ra sao trao đổi còn chưa đầy đủ, thời giờ đâu mà tả cảnh khổ cực dọc đường cho các Ông nghe. Tuy nhiên, cũng có những anh Đội trưởng, Đội phó, Tổ trưởng, và Nấu Nước ngoài “hiện trường lao động” cho Đội, được Quản giáo Đội “chiếu cố” đề nghị Trưởng trại cho thăm 2 tiếng đồng hồ buổi trưa. Có người còn được ở lại bên vợ 24 giờ đồng hồ tại Nhà Thăm Nuôi không có sự hiện diện kiểm soát của Cán bộ ban đêm, nên Vợ Chồng tha hồ tâm sự nhỏ to đủ mọi chuyện.

Cũng nhờ thế những tin tức về các cuộc họp tại Genève, liên quan đến các phương thức giải quyết vấn đề Tù miền Nam luôn luôn được cập nhật và là đề tài xì xầm hàng ngày giữa anh em Tù miền Nam trong cả Trại. Đây là những liều thuốc bổ hữu hiệu nhất để chữa căn bệnh thất vọng của anh em đã phải chịu đựng trong suốt mấy năm qua trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghiã.

Kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại dẫn “Thi Đua” đi mở cửa các nhà giam, họ đi vòng hết nhà này đến nhà kia mãi 30 phút sau mới đến lượt Đội Đại tá chúng tôi được mở cửa cho ra sau cùng. Anh Trực Nhà và 2 anh trực phụ (thay phiên hàng ngày) tất tưởi dắt nhau chạy đi lãnh phần ăn sáng và nước uống chín ở Nhà Bếp của trại đem về chia cho anh em.

Chia vội vã vừa xong, kẻng tập họp đi lao động cũng bắt đầu gióng lên, ai nấy cầm phần ăn của mình vừa đi ra sân tập họp vừa ăn. Khi tới sân tập họp, người nào ăn chưa kịp hết phải bỏ vào túi, chờ lúc ra khỏi cổng trại vừa đi vừa ăn tiếp. Nếu không ăn như vậy, ra tới hiện trường phải lao động ngay đói không làm việc được “năng nổ” tối về sẽ bị “phê bình xây dựng”. Nếu bị anh em góp ý kiến “xây dựng” hoài, hậu quả tai hại sẽ đến với bản thân là bị phạt giảm phần ăn hàng ngày trong một tháng.

Phần “sắn duôi” ăn sáng chẳng được bao nhiêu, ém gọn lại được vừa bằng một nắm tay, chỉ đôi người có dạ dầy yếu phải nhai chậm rãi như Tôi mới gặp trở ngại, còn nhiều bạn khác bụng dạ khoẻ, ăn uống nhậm lẹ thì chả thấm tháp gì.

Sáng nào cũng vậy, trong thời gian ngồi chờ Cán bộ Trực Trại đến đọc lệnh gọi các Đội lần lượt xuất trại, mấy người “Thi Đua” đi vòng “kiểm tra” xem áo quần của ai chưa đóng dấu sơn “ám số Trại” thì họ đem con dấu bằng gỗ to dài hơn bàn tay có tẩm sơn đen pha lẫn dầu đến đóng lên lưng áo và 2 bên ống quần. Người nào quầo áo đã đóng dấu, nhưng lâu ngày sơn bị phai bạc mờ đi thì đóng chồng lên cho được rõ ràng. Đây là biện pháp phân biệt Tù với người thường ngoài trại để dễ lùng bắt nếu Tù trốn trại.

Hôm nay, Đội chúng tôi và nhóm anh em mới tới xuất trại lao động lần đầu tiên nên được “Thi Đua” “quan tâm” “chiếu cố” trước nhất. Họ đến đóng dấu sơn “ám số trại” lên quần áo chúng tôi, ngay khi chúng tôi vừa tới ngồi tại sân tập họp.

Sau này Trại phát cho mọi người loại quần áo Tù bằng vải thô Nam Định, cả áo lẫn quần đều bị may ghép lẫn lộn bằng những mảnh vải nhuộm 2 mầu khác nhau, nếu nửa thân và tay áo bên Phải mầu xanh nước biển, thì nửa thân và tay áo bên Trái mầu trắng, quần cũng một ống trắng một ống xanh. Thật rõ ràng lồ lộ chẳng lẩn đi đâu lọt, thế mà cả quần lẫn áo vẫn phải đóng dấu “ám số trại”. Cứ mỗi 6 tháng mỗi người được lãnh 1 bộ, nếu rách sớm hơn thời gian quy định phải tự vá víu mà mặc. Có thể mặc quần áo riêng của mình, nhưng dĩ nhiên là phải bị đóng dấu sơn “ám số trại” lên trên.

Đội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động tại K1 Trại Tân lập với công tác đi chặt cây xim và cây muông đem về làm củi đun cho Nhà Bếp. Xim được chặt trên những ngọn đồi cách xa trại khoảng 3 cây số, bó gánh về chất đống dài sát tường phiá ngoài cổng trại giam. Nhà Bếp Tù ra lấy vào dùng đun nấu thực phẩm và nước uống chín phát cho Tù. Nhà bếp của Cán bộ canh Tù cũng lấy củi ở đây về dùng hàng ngày.

Trước khi lên đường, anh em phải ghé vào đống củi cao như núi bên cạnh tường ngoài cổng trại, lấy mỗi người 1 cây dài 2 mét đường kính khoảng 10 phân đem theo làm đòn gánh củi mang về.

Củi xim thân cây nhỏ, cỡ lớn nhất chỉ bằng ngón chân cái, xum xuê cành con và nhiều lá, cao chừng 1 mét rưỡi. Chặt củi chẳng khó khăn gì, nhưng muốn có dây để cột củi thành từng bó thì phải cắt cỏ tranh dài rồi bện nối lại với nhau thành những sợi dây nhợ dài ngắn tuỳ theo nhu cầu. Không biết cách cột cho chắc, khi xốc đòn vào đưa lên vai bó củi sẽ xổ tung ra, hoặc tụt rơi vãi từ từ dọc đường rất phiền phức.

Gom xếp một gánh củi với 2 bó nhơ nhỡ vừa với sự chịu đựng của bắp thịt vai mình thì coi không được, cán bộ nhìn thấy chỉ trích là:

“-Bó củi gì mà chỉ bằng nắm tay, trẻ con nó còn chê nhẹ”.

 Nếu gom bó đủ lớn coi cho vừa mắt, dọc đường về sẽ bị chiếc đòn gánh và sức nặng của 2 bó củi hiệp nhau hành hạ bắp thịt vai, cổ, cột xương sống lưng của mình đau đớn chịu không nổi.

Không biết gánh, lúc nào cũng phải gồng vai gân cổ lên chịu sức nặng, cắn răng bước đi dồn dập như chạy, thì mỗi bước chân đạp xuống đường là một nhát dao cứa trên vai, đau buốt vào óc, dồn xương sống mỏi hông ngang thắt lưng. Ráng hết sức cũng chỉ đi được khoảng trăm mét, lại phải quăng gánh củi xuống đất để nghỉ. Sau mỗi lần nghỉ, lúc đưa gánh củi lên vai đi tiếp cho kịp bạn bè là một lần khổ nạn, vì sẽ cảm thấy hình như gánh củi nặng gấp đôi trước, bắp vai nóng rát đau chẳng khác nào bị vọp bẻ (chuột rút) chịu hết muốn nổi.

Bị bắt buộc phải làm mãi, rút kinh nghiệm lần rồi cũng “giác ngộ” biết được là khi gánh phải hơi cúi đầu khòm lưng về phiá trước, để cho đòn gánh đè tréo từ giữa bả vai bên này qua u thịt sau cổ sang gần bả vai bên kia, bắp thịt vai sẽ không bị đau. Bước đi phải nhịp nhàng, theo đà nhún nhẩy lên xuống của 2 bó củi ở 2 đầu đòn gánh.

Nhiều bạn cả đời chưa có dịp phải gồng gánh, thấy những người buôn thúng bán bưng làm hàng ngày cứ tưởng dễ dàng như mình ngồi lái xe hơi, nay phải làm mới thấm thiá và thán phục cái tài xốc vác chịu đựng của những người “lao động chân tay” trần ai cực nhọc đến mức nào.

Đi cắt củi được hơn một tuần lễ, Trại phát động Kế hoạch “Thi đua làm Cách mạng xanh”. “Mục đích yêu cầu” là làm cho tất cả những khoảng đồi núi trong phạm vi đất dành cho Trại đang trơ trụi không cây cối, phải được phủ kín bằng một mầu xanh của các ruộng sắn (khoai mì) gồm 2 loại khác nhau: 1.-công nghiệp, 2.-để ăn, và miá re thân nhỏ vỏ cứng nhưng rất ngọt, ép lấy nước cô thành “mật đường” để cất rượu trắng. Đây là “kế hoạch làm kinh tế” để Trại có tiền tự túc nuôi Tù và Cán bộ canh Tù, theo lệnh của Nhà nước đã ban hành từ hồi đầu năm 1977.

Đội chúng tôi phải đi đào hố trồng sắn, ngay trên những ngọn đồi đã chặt củi xim. Mỗi buổi lao động sáng cũng như chiều, mỗi người phải đào 15 hố vuông cạnh 70 phân sâu 80 phân, các hố cách nhau một mét. Trên mặt đồi, cỏ dại cỏ tranh dầy đặc cao cả thước phải phát sạch trước khi đào hố. Đất đỉnh đồi cứng chắc nịch lẫn đá lổn nhổn, không có xẻng nên mỗi người phải múc đất từ dưới lòng hố lên bằng cuốc của mình.

Vất vả vô cùng cho những người lãnh phải cây cuốc cũ, lưỡi bị mòn nhỏ cùn hoặc xứt mẻ. Chỉ có 3 anh bạn Tù cấp úy tăng cường nhân số Đội, và vài người khác khoẻ như anh Đội trưởng Lê Đình Luân, Mục sư Dương Kỳ, anh Tôn Thất Hùng... là đạt chỉ tiêu quy định, buổi lao động nào họ cũng dư ít phút ngồi nghỉ ngơi, còn đa số anh em chẳng bao giờ hoàn tất đủ “chỉ tiêu” trước lúc mãn giờ lao động.

Mỗi người tham gia lao động được Quản giáo Đội “ghi điểm tính công” hàng ngày. Ai đau ốm nghỉ bệnh nhiều không tham gia đủ số ngày công hay lao động hàng ngày không “đạt chỉ tiêu”, sẽ bị phạt giảm mức ăn quy định hàng tháng xuống. Những người lao động “năng nổ vượt chỉ tiêu”, hàng đêm được anh em trong Đội “bình bầu” là “gương mẫu” nhiều lần, sẽ được Quản giáo quyết định thưởng tăng phần ăn. Người được thưởng sẽ được ăn tăng thêm 2 kí lô một tháng, tức là 14 kí lô thay vì 12 kí lô như mọi người. Người bị phạt phải giảm mức ăn xuống còn 11 kí lô, tức là bớt đi 1 kí lô.

Mức ăn quy định cho mỗi người bình thường hàng tháng là 12 kí lô ngũ cốc (gạo, hoặc các loại khác như: bột mì, hột bo bo, sắn, bắp, khoai).

Thời gian chúng tôi tới trại này, phần gạo được thay thế bằng “sắn duôi” theo tiêu chuẩn một đổi một, tức là 1 kí lô “sắn duôi” khô tính bằng trị giá 1 kí lô gạo. “Sắn duôi” là sắn tươi bào thành sợi nhỏ như sợi bánh phở, sấy hoặc phơi khô cho bốc hết hơi nước. Tôi không biết tại sao gọi là “sắn duôi”, nghe anh em Tù cũ tại đây gọi vậy thì nhận biết như vậy. Để làm cho “sắn duôi” chín, người ta rửa nước như vo gạo rồi để vào các vỉ tre đan và đem hấp từng chồng nhiều vỉ một lượt trên những vạc nước đun sôi. Lúc còn sống “sắn duôi” mầu trắng đục rời rạc như gạo, khi chín trở thành trong và dính quện với nhau như cơm nếp, những sợi sắn không chín vẫn giữ nguyên mầu trắng đục. Không biết tại sao lúc nào “sắn duôi” hấp cũng bị nửa chín nửa sống.

Phần “sắn duôi” ăn sáng được nấu cùng lúc với phần ăn chiều, xúc riêng ra để qua đêm đến sáng mới phát. Gặp mùa lạnh thì không sao, đến mùa nắng thời tiết oi nóng “sắn duôi” để qua đêm bị thiu nhơn nhớt và có mùi chua, ăn vào nhiều người yếu dạ bị đau bụng tiêu chẩy. Tù vẫn phải lãnh về ăn, vì chẳng có gì khác để nhồi vào bao tử duy trì sự sống cho cơ thể mà lao động.

Việc hớt tóc cho Tù ở K1 trại Tân Lập này khác hẳn với bên các Trại do Quân đội quản lý. Ở đây, Trại mua 1 bộ đồ hớt tóc gồm Tông-đơ, kéo và lược, trao cho Ban “Thi Đua” cất giữ. Hàng ngày, theo lịch trình quy định luân phiên cho các Đội mượn đem ra “hiện trường lao động” hớt tóc cho nhau. Hồi còn ở K2 (trại cây khế) Liên trại 1 xã Việt Cường Yên Bái, sau khi bị sốt vàng da hành không chết Tôi mất sức nhiều không ra ngoài lao động nặng được, Quản giáo Đội đã trình Phân trại trưởng cho Tôi ở trong trại phụ trách phòng hớt tóc một thời gian. Anh em trong cùng Đội hiện nay ai cũng biết, do đó ngày nào đến phiên Đội được xử dụng bộ đồ hớt tóc thì anh Đội trưởng cũng trình Quản giáo Đội cho Tôi miễn lao động để hớt tóc cho anh em.

Quản giáo bằng lòng, nhưng buộc anh em trong Đội phải gồng mình làm bù đắp phần của Tôi, nhằm “bảo đảm chỉ tiêu chung” của Đội phải “đạt” trong ngày. Giống hệt trường hợp anh phụ trách nấu nước chín tại “hiện trường lao động” cho Đội, anh em cũng phải làm nhiều hơn để bao phần “chỉ tiêu” hàng ngày của anh ấy.

Việc hớt tóc giữa trời, có nhiều kỷ niệm khó quên cho cả thợ hớt và người được hớt. Không có ghế cho khách ngồi, nên cả thợ lẫn khách đều phải đứng. Hai người cao xấp xỉ ngang nhau, do đó khách buộc phải đứng dưới ruộng hoặc rãnh bên luống, chịu đựng ướt chân và ống quần để nhường cho thợ đứng trên bờ đất cao không phải vói tay nghển cổ mới hớt được dễ dàng. Thời tiết dù mưa hay nắng, cả 2 người cùng phải đứng giữa đồng mà hớt cho nhau, không có một tán cây bóng mát nào để núp. Lúc nắng còn đỡ, gặp trời mưa thì thật là một cực hình cho cả 2 người, mặc dù ai cũng có khoác áo mưa. Khách phải dùng hai tay cằm chiếc nón lá dơ cao hơn đầu, để cho mưa không làm ướt đầu và chui qua cổ áo làm ướt người. Thợ luôn luôn phải giơ 2 tay cao ngang vai, nước mưa cứ tự do theo 2 cổ tay áo mưa, dù đã cột chặt bằng dây, để trôi vào làm ướt tay áo vải bên trong, thật là trần ai không bút nào tả xiết.

Chúng tôi đến đây được khoảng ba tháng, bắt đầu có dịch kiết lỵ lan tràn trong trại. Các khu vệ sinh công cộng dùng thùng đựng phân lộ thiên, ruồi nhặng sinh sôi nẩy nở nhanh chóng bay đi khắp trại nhất là khu nhà bếp. Có thể là trăm phần trăm nhân số Tù đã bị mắc bệnh. Những người khoẻ sức đề kháng trong cơ thể còn mạnh, chỉ bị sơ sơ vài 3 ngày rồi hết. Những người suy nhược nhiều, sức đề kháng yếu bệnh ngày một tăng, từ đi đại tiện có phân lần lần chỉ còn nước nhờn và máu. Ngày đêm đi liên tục cả 2, 3, 4 chục lần, mệt mỏi hốc hác tiều tụy mà vẫn phải đi lao động như thường. Chỉ những ai ngày đêm đi từ trên năm mươi lần ra toàn máu và thêm sốt nóng lết đi không nổi nữa, thì mới được Đội trưởng ghi danh cho đi khám bệnh.

Khi nộp sổ khám bệnh, Tù “Thi đua”  làm Y tá tại Bệnh xá buộc Tù phải ra góc sân ngồi rặn ra mũi và máu còn nóng hổi trình cho Cán bộ Y tế thấy rõ ràng, mới được cho vào Bệnh xá nằm chữa trị. Rất nhiều anh em khai bệnh nhưng không được Cán bộ Y tế cho vào điều trị tại Bệnh Xá, chỉ được cấp thuốc uống tại chỗ rồi trờ ra theo Đội tiếp tục đi lao động mặc dù họ rất mệt mỏi đuối sức.

Những người bị kiết lỵ nặng nhưng không bị phù thũng thì có hy vọng sống, còn những ai vừa kiết lỵ vừa phù thũng thì chỉ ít ngày sau là đi về với Tổ tiên. Tôi đã bị ở trong trường hợp kiết lỵ và sốt nặng đến nỗi bị ngất xỉu bên thùng phân trong phòng giam ban đêm, phải kêu cấp cứu mới được đưa vào Bệnh xá nằm điều trị.

Bệnh xá có 2 phòng, mỗi phòng rộng khoảng 16 mét vuông kê 5 giường nhỏ loại 1 người nằm. Tôi và những người kiết lỵ nằm trong phòng “bệnh truyền nhiễm”. Lúc cấp cứu đưa vào, Tôi phải nằm tạm dưới đất vì tất cả 5 giường đều đã có 2 người nằm chung. Gần sáng có người chết, sau khi bệnh nhân khiêng anh ấy ra túp lều chứa xác chết nơi giữa bãi đất trống phiá sau Bệnh xá, Tôi được lên giường nằm thế vào đó.

Thuốc chữa trị hàng ngày, chỉ là 1 bát nước đủ loại lá thuốc Nam do nhân viên bệnh xá lên rừng kiếm về, băm nhỏ, phơi khô, bỏ vào vạc ninh nhừ để qua đêm đến sáng lấy nước phát cho bệnh nhân uống. Đây là loại thuốc trị Bá Bệnh, ai đau ốm ra sao không cần biết, hễ cứ đến xin khám bệnh là được cho uống 1 bát. Nếu ai có sốt thì được thêm dăm chục viên Xuyên Tâm Liên, mầu vàng xậm như nghệ trộn với gì không biết vê thành viên tròn nhỏ bằng hột đậu xanh, bỏ vào miệng cảm thấy mùi vị hắc hắc the the lưỡi.

Ban ngày, mưa cũng như nắng lúc nào ở góc sân Bệnh xá phiá sau gần bếp cũng có để một thùng gỗ để cho bệnh nhân ra xếp hàng thay phiên nhau ngồi rặn è è, ôm bụng rên đau quằn quại. Còn ban đêm, cửa các phòng bệnh bị khoá trái bên ngoài y như các láng giam, nên có một thùng gỗ để nơi góc phòng cho mọi người tiện dụng. Lúc nào cũng có 4, 5 người ngồi chồm hổm ôm bụng, chụm đít quanh thùng nhăn nhó rặn, cổ bạnh ra mặt mũi đỏ gay.

Tại Bệnh xá, có anh Tù Hình Sự được Cán bộ Y tế dùng làm “Thi Đua” cho ở thường xuyên ngày đêm trong Bệnh xá, để kiểm soát bệnh nhân thay Cán bộ. Nếu bệnh nhân nào không gọi anh ta là Bác sĩ hoặc không khéo lời tâng bốc anh ta, thì dù bệnh tình chưa thuyên giảm cũng sẽ bị đề nghị cho xuất viện ngay để nhường chỗ cho người khác. Ai biết điều và nịnh bợ anh ấy, thì dù đã hết bệnh rồi cũng vẫn được ở nghỉ thêm vài 3 ngày mới phải rời Bệnh Xá.

Theo tin tức thâu lượm được qua những anh em nằm tại Bệnh xá trước Tôi, và phối kiểm qua những lời ba hoa của anh ta trong thời gian Tôi nằm tại Bệnh xá, biết được anh Tù Hình Sự này bị án tù trung thân vì tội “làm giấy bạc Cụ Hồ giả”. Hồi còn ở ngoài xã hội anh ta làm nghề Chăn Nuôi chuyên trách về thiến Heo, thiến Gà trống, nên anh ta tự coi mình là Bác sĩ Thú Y.

Có một chuyện ly kỳ liên quan đến anh “Thi Đua” này, làm anh em Đội chúng tôi hoảng sợ không bao giờ quên được. Số là, Đại tá Tô văn Vân phụ trách nấu nước ngoài “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, một đêm kia tự nhiên bị đau bụng giữ dội phiá bên Phải, nghi là sưng ruột dư phải kêu cấp cứu và được đưa vào Bệnh xá.

Sáng hôm sau là ngày Chủ nhật nghỉ lao động, Đội chúng tôi bị tập họp lên Hội trường để nghe anh “Thi Đua” này cùng Cán bộ Y tế nói cho nghe về tình trạng nguy kịch của anh Vân, cần phải giải phẫu gấp nếu không thì chết. Họ đưa ra “phương án hành động khẩn trương, thực hiện ca mổ ngay tại Phân trại”, vì thời gian chuyển qua K5 (Trại trung ương) làm thủ tục đưa ra Tỉnh e không còn kịp. Họ tỏ ra rất tự tin nhờ có rất nhiều kinh nghiệm về mổ sẻ súc vật (cũng chẳng khác gì người ta), nên rất bảo đảm không có gì phải lo ngại. Họ yêu cầu chúng tôi góp ý kiến quyết định, đồng thời hỏi ai có lưỡi dao bào râu còn mới thì cung cấp cho họ xử dụng làm dao mổ.

Chúng tôi ngỡ ngàng, dứt khoát xin miễn góp ý kiến vì mạng sống của anh Vân không thuộc phần trách nhiệm của chúng tôi quyết định. Đây là việc thuộc quyền quyết định của Nhà nước và thân nhân của anh ấy. Hơn nữa, trong chúng tôi không ai có lưỡi dao bào râu còn mới để cung cấp.

Buổi trưa ngày hôm sau là Thứ Hai, khi anh em đi lao động về, anh Trực Buồng cho biết hồi sáng lúc đi ngang qua khu Bệnh Xá xuống bếp lãnh thực phẩm cho bữa trưa, đã gặp anh Vân đứng bên bờ rào Bệnh xá. Anh Vân cho biết đã hết đau nhờ hồi hôm mửa ra mấy nùi giun đũa, trước khi mửa có con đã chui ra từ lỗ mũi. Thật khủng khiếp !!!

Sau khi hết đau bụng, không biết anh Vân làm cách nào được “biên chế” vào Bệnh xá phụ giúp anh “Thi đua” nấu thuốc, cháo, và nước uống chín cho Tù nằm điều trị tại đây chớ không phải ra ngoài lao động theo Đội nữa.

Trong thời gian nằm tại Bệnh xá, Tôi còn phải chứng kiến một anh bị kiết lỵ và phù thũng nằm chung giường chết rất thương tâm. Anh ấy được đưa vào nằm cạnh Tôi sau giờ khám bệnh buổi chiều, đến nửa đêm thì chết. Ngay sau khi được vào Bệnh xá, anh ấy mở túi xách đựng dụng cụ ăn và mấy thứ lặt vặt cần dùng như bàn chải răng khăn mặt… ra xem, lấy mấy bức thư và ảnh của Vợ Con ra khoe Tôi và chăm chú đọc lại rất vui vẻ yêu đời.

Tôi thấy trong túi có hộp sữa bò đặc hiệu con chim và một hộp bánh quy. Tôi nói chúng ta bị bệnh là do thiếu dinh dưỡng mà ra, sao anh không dùng sữa và bánh mà “bồi dưỡng” cho nó khoẻ để dành làm gì, lỡ chết vì đói kiệt sức cơ thể không chống nổi bệnh hoạn thì chẳng phụ lòng Vợ Con lắm sao? Anh ấy cười trả lời chưa cần, Tôi còn đủ sức chịu đựng mà!

Đến khuya anh ấy lên cơn sốt nóng như lửa, rồi mê man, Tôi phải kêu cứu và xuống đất nằm để nhường nguyên chiếc giường cho anh ấy. Anh “Thi Đua” nằm ở phòng khám bệnh kế bên nói vọng sang trả lời:

“-Để sáng sẽ tính”.

Đến gần sáng, anh Tù bệnh lịm dần không nghe tiếng rên rỉ nữa, anh ấy đã ra đi vĩnh viễn. Anh ấy là một Sĩ quan cấp Úy thuộc Công binh, Tôi không nhớ tên và đơn vị.

Phải đợi đến kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại vào mở khoá cửa phòng giam bệnh và Cán bộ Y tế đến lập biên bản xong, chúng tôi mới được lệnh Cán bộ Y Tế để anh chết nằm vào chiếc chăn dạ riêng của anh ấy, rồi khiêng ra bỏ tại túp lều tranh chứa xác giữa bãi cỏ hoang cách Bệnh xá khoảng một trăm mét. Một lúc sau anh “Thi đua” vào lấy tứi đựng đồ riêng của anh tù chết trong đó có hộp sữa và hộp bánh quy, không biết đem nộp cán bộ hay giữ làm chiến lợi phẩm riêng? Người ta đem anh tù chết đi chôn lúc nào không ai thấy, chắc là ban đêm.

Tôi nằm Bệnh xá được một tuần lễ thì bệnh kiết lỵ thuyên giảm. Không biết nhờ 2 bát nước thuốc Nam và 60 viên Xuyên Tâm Liên mỗi ngày, hay nhờ 2 bát cháo gạo lỏng nêm muối của Bệnh xá cho Tù bệnh ăn hàng ngày thay vì “sắn duôi”, hay nhờ được nghỉ không phải lao động?

Theo quy định của trại, Tù bệnh nằm điều trị tại Bệnh xá được phát mỗi bữa 3 muổng đường để ăn với cháo, nhưng anh “Thi Đua” chặn lấy dùng riêng và nói rằng kiết lỵ mà ăn đường bệnh sẽ tăng chữa không được. Chẳng ai dám tố cáo vì sợ bị anh “Thi Đua” hại ngầm thì thiệt thân. Tôi biết được là nhờ anh Tô văn Vân nói nhỏ cho nghe lúc anh em gặp nhau tại bếp của Bệnh xá.

(Anh Vân và Tôi biết nhau từ năm 1967, khi anh ấy còn là Thiếu tá được đưa về làm Chánh văn phòng cho Đại tá Hoàng Gia Cầu đang làm Tổng cục Trưởng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Bộ Tổng Tham mưu thay thế Đại tá Trương văn Xương thuyên chuyển đi Vùng 4 Chiến thuật ở Cần Thơ. Lúc đó Tôi là Trung Tá đang giữ chức vụ Tổng cục Phó.)

Những người nằm điều trị kiết lỵ trước Tôi, khi nào họ hết hẳn không đi cầu ra máu nữa thì mới phải ra viện. Nhưng phần Tôi, không biết vì sao bệnh chỉ mới thuyên giảm chưa dứt, ngày đêm vẫn còn đại tiện ra mũi và máu khoảng 6, 7 lần, gầy ốm hốc hác, mệt đi bộ xa chưa nổi, thế mà Cán bộ Y tế nói là Cán bộ Quản giáo Đội đến yêu cầu phải cho Tôi ra khỏi Bệnh xá theo Đội đi lao động để bảo đảm ngày công quy định.

Tôi ra theo Đội đi phát cỏ và vun gốc sắn. Trong thời gian này, các anh Phạm Tài Điệt, Trần văn Thăng (2 người đều là An ninh quân đội), Nguyễn văn Phúc (Chính huấn Tổng cục Chiến tranh Chính trị) vì lao động lơ là kém năng xuất, và Tôi (Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến) với cái tội nằm Bệnh xá lâu không bảo đảm đủ ngày công, nên bị phạt giảm mức ăn hàng tháng xuống còn 11 kí lô. Hai người khác trong Đội “lao động năng nổ” được thưởng tăng mức ăn lên 14 kí lô là Mục Sư Dương Kỳ và anh Tôn Thất Hùng.

Bốn người bị phạt giảm mức ăn để tăng mức ăn cho 2 người lao động giỏi được thưởng, thật là bất ngờ làm mọi người xửng sốt. Người bị phạt buồn đã đành, người được thưởng cũng xốn xang áy náy.

Thoạt đầu các vị này chỉ muốn cố gắng “năng nổ lao động” để được coi là “ cải tạo tiến bộ” sớm được tha, đâu ngờ Cách Mạng lại thâm độc áp dụng luật bù trừ lấy của người bị phạt thưởng cho người “lao động năng nổ” để tạo thù hận chia rẽ giữa anh em Tù với nhau.

Việc xẩy ra rồi 2 người được thưởng mới tỏ ra hối hận, vì biết đã bị lừa mắc bẫy của “Vẹm”

(Vẹm là chữ lóng dân chúng miền Bắc dùng để ám chỉ Việt Minh từ hồi 1946).

Anh Tôn Thất Hùng thỉnh thoảng đưa nguyên phần ăn một bữa của anh ấy tăng cường cho chúng tôi để tỏ lòng hối hận. Còn Mục sư Dương Kỳ thì không dám, ông nói qua trung gian cho anh em biết là sợ làm như anh Hùng chằng may Cán bộ biết được sẽ buộc tội vi phạm Nội quy Điều lệ của Trại, nguy hiểm cho cả người nhận lẫn người cho!!!

Mới tới K1 Tân Lập được khoảng hơn 3 tháng, mà ai nấy đã hốc hác nhất là sau dịch kiết lỵ phù thủng, mọi người suy xụp rõ ràng chỉ còn da bọc xương bơ phờ. Ai cũng sụt đi phân nửa cân nặng của mình, trông chẳng khác nào những hình “nộm bù nhìn” trong những bộ quần áo tế thần lụng thụng. Ngày đi trình diện tập trung Tôi cân nặng 67 Kí lô, đến lúc này chỉ còn được 30 kí. Chiếc thắt lưng da mang theo, bây giờ muốn dùng để giữ quần cho khỏi bị tụt xuống, phải đục thêm lỗ cách lỗ cũ khoảng 20 phân. Biết chắc là mình chỉ còn nặng đúng 30 kí lô, vì thời gian Đội chúng tôi phụ trách phơi đong cân thóc cất vào kho, anh em đã lén đứng lên chiếc cân bàn để cân cho biết trước khi cân các bao thóc.

Lúc nào cũng đói, lại phải lao động vất vả với “chỉ tiêu” cao, thiếu dinh dưỡng trầm trọng, nên trong khi lao động ở ngoài đồng hễ thấy sinh vật nào nhúc nhích ăn được là vồ ngay, ngoé, nhái, ễnh ương, chằng hiêu, cóc, thằn lằn, rắn, cào cào, châu chấu, rế cơm, rế mèn, chuột nhắt, gì cũng chộp hết ngoại trừ điả và giun. Mặc dù biết làm như vậy là vi phạm Điều lệ Nội quy Trại giam, mọi người đã phải học thuộc lòng nhưng vẫn làm. Thà mưu sinh để sống còn cho tới ngày được cứu thoát, còn hơn tôn trọng Nội quy để chết trước khi thấy “ánh sáng ló dạng nơi cuối đường hầm”.

Thoạt đầu, bắt được nhái ngoé còn bỏ túi chờ tới giờ giải lao mò đến chỗ nấu nước, giả bộ hút thuốc lào để bỏ vào đống than nướng chín rồi mới ăn. Nhưng về sau, anh nấu nước sợ vạ lây không cho, đành lột da ăn sống tại chỗ hoặc nhét vào túi đem về ngâm nước muối trại phát 3 thià canh mỗi bữa để ăn với “sắn duôi”. Ăn vào thấy cũng rất ngon ngọt chẳng khác gì thịt gà cá gỏi.

Có lẽ trong số anh em mưu sinh linh tinh bất hợp pháp này Tôi là người “năng nổ” nhất, nên thường được anh Tổ trưởng

(trước 30 tháng 4 năm 1975 làm Tỉnh trưởng Bình Dương)

thương lo lắng cho sức khoẻ của Tôi, chiếu cố xây dựng hoài trong các giờ họp “kiểm thảo, phê và tự phê” trong Đội ban đêm, luôn luôn có sự rình nghe của “Thi Đua” và Quản giáo Đội từ phiá ngoài cửa sổ phòng giam.

Anh ấy cũng thường xuyên bị anh em bắt gặp lén mưu sinh như Tôi và nhiều bạn khác, nhưng chẳng ai góp ý kiến “xây dựng” anh ấy bao giờ. Có lẽ anh ấy làm như vậy, vì phải thi hành trọn vẹn trách nhiệm do Quản giáo giao phó cho các Tổ trưởng và Đội trưởng, là phải theo sát anh em trong Đội để báo cáo thì mới được coi là “cải tạo tiến bộ”. Tuy nhiên anh ấy cũng rất thông minh và khôn lỏi, mỗi lần “xây dựng” cho Tôi về vụ mưu sinh linh tinh, anh ấy luôn luôn “tự phê” trước để tự nhận rằng bản thân cũng có vi phạm nhưng hứa sẽ “khắc phục” không tái phạm. Anh ấy cũng phân bua, sở dĩ phải “xây dựng” cho anh em vì thương và muốn anh em giữ được sức khoẻ tốt “cải tạo cho mau tiến bộ” để về với Vợ Con.

Qua mùa Thu năm 1979, Đội chúng tôi bị chuyển về K5 nằm gần bên Trụ sở Ban Giám Thị chỉ huy toàn Trại Tân Lập, thì anh ấy bị cảm sốt nặng được vào Bệnh xá điều trị, ít ngày sau bị biến chứng ho sưng phổi rồi chết vì ngộp nước trong phổi tắc thở cứu không được. Người ta phải đâm kim vào ngực rút nước ở buồng phổi ra để cứu nhưng vô hiệu.

Vấn đề vệ sinh cá nhân ở K1, mỗi tuần lễ Tù chỉ được đưa ra sông cách trại khoảng 2 cây số để tắm rửa giặt giũ quần áo có một lần, vào sau giờ lao động chiều thứ bẩy. Ngày thường sau buổi lao động chiều, Tù được đưa tới hồ nước bên Đội Gạch cách trại 2 cây số để tắm rửa. Đây là hầm lấy đất làm gạch, lâu ngày sâu dần xuống và rộng ra thành hồ chứa nước mưa tù đọng, rong rêu cỏ rác đủ thứ xà bần dơ bẩn hôi tanh thế mà vẫn phải nhào xuống tắm rửa cho sạch mồ hôi bụi bặm và bùn đất bám đầy chân tay mặt mũi sau cả ngày lao động vất vả. Cả ngàn con người chờ đợi nối đuôi nhau, mỗi đợt chỉ cho 2 Đội cỡ 80 người xuống trong vòng 5 phút là phải lên. Những người xuống sau bao giờ cũng phải tắm rửa nước bùn đục ngầu vì phải đứng gần ven bờ, ra xa một chút là hụt chân ngập đầu không đứng được.

Làm xong các ruộng sắn, Đội chúng tôi đổi công tác đến kho phụ trách việc đập vò đạp các bó luá cho thóc rơi ra, ban mỏng trên sân gạch phơi cho khô, dồn vào bao cân và cất vô kho. Trước khi dồn thóc vào bao, còn phải quạt bỏ thóc lép. Một người xúc thóc vào thúng, nâng để lên một bên vai rồi từ từ nghiêng thúng cho thóc chẩy xuống đất, người khác đứng kế bên 2 tay cầm chiếc mẹt quạt liên tục cho thóc lép bay ra khỏi dòng thóc mẩy đang chẩy xuống. Công việc phải làm giữa sân gạch nắng chang chang cả ngày, bụi bặm bám đầy người phải dùng khăn bịt mồm mũi để bảo vệ buồng phổi. Những bó rơm đã rụng hết thóc phải đem chất thành đống cao cả chục mét ở góc sân gọi là cây rơm, sau này dùng làm gì không biết.

Lúa thóc do Tù reo, cấy, trồng, gặt, đập, phơi khô, xay xát ra gạo để Cán bộ canh Tù ăn hàng ngày, còn Tù thì quanh năm ăn toàn sắn, bắp. Trong mùa thâu hoạch ồ ạt sắn, bắp, thì một phần cấp cho Tù ăn tươi hàng ngày, phần còn lại, bắp thì phơi khô tách hạt ra khỏi cùi, sắn thì lột vỏ sắt lát mỏng hoặc chặt thành những khúc ngắn sấy khô, xong xuôi đem cất kho phát ra ăn dần về sau.

Sau khi hết lúa để đập để phơi, Đội chúng tôi được chỉ định vào quét dọn hót cám lẫn trấu trong nhà máy cà xát lúa ra gạo để nhồi vào bao tải. Cả ngày chìm đắm trong bụi bậm mịt mù, vất vả hơn đập phơi lúa ngoài sân rất nhiều, nhưng được cái may hàng ngày mỗi người được “bồi dưỡng” một túi cám lẫn trấu đem về sàng rây bỏ trấu đi, còn lại cám lẫn tấm nấu chín mà ăn.

Quản giáo Đội cho phép anh đun nước giúp anh em nấu chín trong giờ lao động. Ai muốn nhờ thì đổ tấm cám và nước vào Gô riêng, giao cho anh nấu nước vào lúc đầu giờ lao động, đến giờ nghỉ giải lao giữa buổi là có cháo bột tấm cám chín sền sệt để ăn. Mùi vị hơi đăng đắng hôi hôi khó ăn, nhưng phải ráng mà nuốt cho cơ thể có thêm chất bổ của bột gạo tấm và cám để chống phù thũng và cái đói triền miên vô tận.

Một tai họa thảm thương đã xẩy ra, làm ai nấy đau đớn và lo sợ vô cùng. Có anh ở một đội khác bị trướng bao tử, nghẽn ruột và chết vì ăn cám, trong khi anh em chúng tôi cũng ăn mà chưa có người nào làm sao cả. Sau này có tin từ Bệnh xá loan ra cho biết, anh bạn tử nạn vì không rây bỏ trấu vụn lẫn trong cám tấm, cứ để nguyên như vậy nấu ăn cho được nhiều, trấu không tiêu làm nghẽn đường tiêu hoá bể ruột chết. Cũng kể từ đấy, Tù không được mót cám về “bồi dưỡng” nữa.

Kho vừa hết “sắn duôi” cung cấp cho Nhà Bếp thì vừa đúng mùa thâu hoạch sắn tươi, mọi người được ăn sắn tươi luộc dài dài ngày 3 bữa. Sắn tươi dùng thay gạo theo tiêu chuẩn 4 kí lô sắn còn cả vỏ bằng 1 kí lô gạo. Ăn sắn tươi có một số người bị say. Nghe anh em nói, sắn trồng trên đồi tranh củ nào bị rễ tranh xuyên qua, ai chẳng may ăn phải những củ này thì khoảng 2 tiếng đồng hồ sau khi ăn là bị say. Khi say sắn, cơ thể cảm thấy nao nao buồn tiểu đại tiện, nôn khan, hoa mắt chóng mặt, người bải hoải như bị trúng gió, say nặng có thể ngất xỉu vài phút sau mới tỉnh lại.

Tôi chẳng may bị say sắn tới 2 lần.

Lần đầu vào khoảng 9 giờ đêm, lúc mọi người chuẩn bị đi ngủ, Tôi mót đại tiện, mò vào góc nhà nơi để thùng cho Tù đi vệ sinh ban đêm đứng xếp hàng chờ. Tự nhiên Tôi thấy ánh sáng ngọn đèn dầu đổi mầu từ vàng trong sang vàng đục rồi đỏ và tối xầm đi, ngã qụy xuống đất không biết gì nữa. Anh bạn đứng sau, thấy Tôi đang đứng bỗng dưng xỉu và ngã gục xuống đất, phải xốc nách bế đặt đại lên một chỗ nằm kế đó, hô hoán kêu mọi người xúm lại cạo gió cấp cứu, vài phút sau thì tỉnh lại.

Lần thứ 2 nguy hiểm hơn, nó xẩy ra vào khoảng quá nửa đêm. Chỗ ngủ của Tôi ở sàn gỗ trên cao cách mặt đất 2 mét, đang ngủ tự nhiên thấy bụng quặn đau mót đại tiện,Tôi chui ra khỏi mùng bò men theo bià sạp phiá chân của 3 bạn nằm bên để tới cái cột có các cục gỗ nhỏ làm thang bấu chân vào tụt xuống đất. Sau khi đạp được đầu bàn chân trái lên mẩu gỗ thứ nhất, bắt đầu xoay người tụt xuống để đặt đầu bàn chân phải lên cục gỗ kế theo, thì thấy choáng váng chân tay bủn rủn không kiểm soát được và rớt xuống đất cái rầm, rung động cả nền nhà làm mọi người giật mình thức giấc tưởng có động đất.

Tai nạn này đã làm cổ chân phải của Tôi sưng vù, đau đớn không đứng được bằng 2 chân, và cũng không leo lên chỗ ngủ ở tầng sạp trên cao của Tôi được. Anh Đội trưởng đã phải nói đi nói lại 2, 3 lần với các bạn nằm ở sạp dưới, vui lòng đổi chỗ cho Tôi nằm tạm qua đêm.

Sau mấy phút im lặng, có một bạn tốt bụng đã đáp ứng lời yêu cầu khiến Tôi vô cùng cảm kích, và nhớ ơn bạn ấy đến bây giờ vẫn chưa quên. Sáng ngày hôm sau, bạn ấy còn quyết định cho Tôi nằm tạm trên chiếc nệm cao su bơm hơi của bạn ấy thêm mấy ngày, đến khi Tôi chống gậy đi và leo lên sàn cao được mới thôi. Người tốt bụng này là Đại tá Nguyễn văn Hãn (An ninh Quân đội), Tôi chưa có dịp quen trước 30-4-1975. Anh Hãn không những bị cận thị nặng hơn Tôi nhiều, mà lại còn bị loạn thị nữa, thật vất vả làm gì cũng phải sờ sờ mò mò gần như người khiếm thị vậy.

Mỗi buổi sáng, ngay sau khi cửa phòng giam được mở, Tôi phải 2 tay vịn chiếc đòn gánh dư của anh trực nhà cho mượn, co chân phải lên cà nhắc nhẩy từng bước một với chân trái để xuống Bệnh xá khám bệnh. Khám xong lại vội vã cà nhắc nhẩy về sân tập họp, trình sổ khám bệnh cho anh Đội trưởng biết là mình được nghỉ lao động ngày hôm đó.

Những Tù bệnh được nghỉ không phải theo Đội ra ngoài lao động, sau khi các Đội xuất trại hết phải tập trung vào một nhà giam riêng ở cuối sân bên khu Hình Sự, cửa khóa trái bên ngoài cho đến hết giờ lao động các Đội trở về nghỉ mới được mở cửa cho ra.

Khoảng 2 tuần lễ sau, tình trạng chân của Tôi hết sưng có thể đi lại với chiếc gậy nạng, Cán bộ Y tế coi là lành không cho nghỉ nữa phải theo Đội đi lao động. Cũng may, lúc này Đội không còn làm Nông Nghiệp nữa mà phụ trách Cưa xẻ và Lò rèn, ở sát ngay bên cạnh Đội Mộc (đóng giường, tủ, bàn, ghế...) cách cổng Trại giam chừng 500 mét. Chúng tôi xẻ những cây gỗ to tướng ra ván cung cấp cho Đội Mộc, và nung sắt làm cuốc, xẻng, dao... theo “yêu cầu” của Trại. Tôi được cử vào toán Rèn do anh Đại úy gốc Cảnh sát làm Toán trưởng, anh Trịnh Đình Đăng phụ tá quai buá tạ, và Tôi được giao cho việc nhóm Lò, kéo Bễ thổi lửa cho than đá lúc nào cũng hồng đủ độ nóng để nung sắt.

Ít lâu sau, cổ chân của Tôi bình thường trở lại, Tổ Rèn không còn nhiều việc để làm, Tôi được chuyển qua Tổ Cưa xẻ gỗ đứng cặp với anh Phan Trọng Thiện. Vì anh Thiện đã làm lâu rành kỹ thuật kéo cưa xẻ gỗ, nên đứng trên cao để giữ mực cưa đi được thẳng tắp và bề dầy của tấm ván đều đặn, còn Tôi mới vào nghề nên phải đứng phiá dưới, phụ nâng cưa lên và kéo cưa xuống cho được nhịp nhàng đều đặn. Cái khổ của người đứng phiá dưới xúc gỗ đang xẻ là, từ lúc bắt đầu kéo cho đến khi ngưng, lúc nào cũng bị mạt cưa rớt ra bay phủ đầy người từ đầu xuống đến chân, miệng và mũi phải dùng khăn quàng bịt kín để lọc cho bụi không lọt vào phổi nên rất khó thở và mau mệt.

Từ ngày làm trong xưởng, không còn dịp mưu sinh linh tinh các sinh vật ngó ngoáy ngoài đồng nữa, Tôi chờ giờ giải lao giữa buổi lao động chạy ra các bãi cỏ sát hàng rào quanh sân để mót rau má, rau tầu bay đem về ăn độn với “sắn nút chai”. Đây là sắn nguyên củ, sau khi lột bỏ vỏ chặt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt ngón tay đem phơi hoặc sấy khô rồi cất vào kho. Những mẩu sắn khô đổi mầu từ trắng lúc còn tươi sang nâu xám khi đã khô, trông như những mẩu xốp người ta thường dùng để làm nút miệng chai, do đó anh em đặt cho cái tên “sắn nút chai”. Muốn làm “sắn nút chai” chín để ăn, người ta rửa sạch rồi bỏ vào chảo nước luộc như luộc bắp luộc khoai. Thấy ngoài mặt các cục “sắn nút chai” luộc đổi mầu từ đục sang trong tưởng là đã chin, nhưng lúc ăn mới thấy trong lõi cục nào cũng còn sống nguyên.

Mùa Hè năm 1978, có lẽ là mùa tử vong cao nhất tại K1 trại Tân Lập-Vĩnh Phú. Có hôm, trong khi các Đội ngồi phơi nắng cả tiếng đồng hồ chờ gọi xuất trại lao động buổi chiều, có đến 3, 4 người ngất xỉu vì say nắng giữa sân tập họp, được anh em xốc nách đem vào Bệnh xá cấp cứu. Chiều tối lao động về nghe tin 1 người đã chết. Một buổi khác, một anh Đội trưởng Nông Nghiệp cũng cải thiện linh tinh ăn thịt Cóc và trứng Cóc vào bữa trưa, đến chiều ra tập họp đi lao động bị ngất xỉu, anh em cõng vào Bệnh xá cấp cứu không được nên anh ấy đã vĩnh viễn ra đi trước mọi người.

Đi lao động bị tai nạn chết tại K1 Tân Lập-Vĩnh Phú có trường hợp Trung tá Hưng

(trước 30-4-1975 làm Tham mưu trưởng Trường Đại học Chiến tranh Chính trị ĐàLạt).

Nghe anh em bạn cùng đi với anh Hưng theo xe tải của Trại công tác ngoài lãnh thổ trại giam trở về kể lại:

“-Xong công tác, lúc quay trở về trại trời đã tối mịt, Xe phải chạy băng qua khúc sông cạn đá lổn nhổn, chẳng may bánh xe bị kẹt đá ở giữa dòng sông nước chảy xiết không nhúc nhích được. Anh em Tù phải xuống xúm chung quanh đẩy cho xe tiến tới, anh Hưng chẳng may bị hụt chân chìm mất tích. Mãi mấy ngày sau dân chúng mới báo cho trại biết là thấy xác anh Hưng nổi lên tắp vào bờ sông ở phiá hạ lưu”.

Trại loan tin anh Hưng không biết bơi nên bị chết đuối.

Nữ Văn sĩ Bích Huyền là vợ Trung tá Hưng hiện đang định cư tỵ nạn tại Nam California đã viết một tuyển tập “Lối cũ chẳng sao quên”, trong đó có đoạn kể lại chuyện đi thăm nuôi anh Hưng tại K1 Tân Lập- Vĩnh Phú, phải lặn lội gian nan khổ cực như thế nào. Ít lâu sau có người nhắn tin về nhà cho biết là anh Hưng đã chết, chị ấy lại phải đi cùng 3 người anh ở Hà Nội

(theo Cách mạng từ 1945)

trở ra Tân Lập để kiểm chứng. Khi đến Phân Trại nơi gặp anh Hưng lần trước, người ta nói anh Hưng đã chuyển trại nhưng không cho biết tên trại mới. Mấy anh em phải chạy ngược chạy xuôi qua hết các Phân trại, chẳng nơi nào nhận đang “quản lý” anh Hưng. Sau cùng phải đến Ban chỉ huy Trại Tân Lập tại K5, mới được xác nhận là anh Hưng đã chết thật và đã xin được Trại cho phép bốc hài cốt anh Hưng đem về cải táng.

Mùa mưa lũ năm 1980 tại Thanh Phong đã làm gián đoạn lưu thông giữa Trại và bên ngoài nhiều lần, mỗi lần lâu từ một tuần lễ đến 10 ngày. Ban Hậu Cần không nhận được tiếp tế đều hoà đúng kỳ hạn, nên trong những dịp này cả Trại cùng chịu thiếu đói như nhau. Cán bộ K2 phải ăn ngày 2 bữa cháo độn khoai tây. Anh em Tù chỉ được phát thực phẩm mỗi ngày một lần vào buổi sáng trước khi đi lao động. Mỗi phần ăn dành cho cả ngày được khoảng chục củ khoai tây luộc to bằng trái trứng gà.

Đa số anh em Tù nhờ có Bưu kiện tiếp tế của gia đình gửi hàng tháng để tích trữ, nên vẫn đầy đủ ngày 3 bữa no nê. Chỉ tội cho các bạn không có tiếp tế thiếu đói nặng phải cải thiện linh tinh, nhưng không thấy Cán bộ làm khó dễ. Quản giáo Đội cũng thông cảm, trong mỗi buổi lao động thường cho 2 người lén lội qua sông đào trộm sắn non của Trại đem về nấu cho Quản giáo và Cảnh vệ ăn no tại chỗ, anh em Tù trong Đội cũng được chia phần “bồi dưỡng” chút đỉnh, nên vui vẻ cả làng không ai báo cáo ai. Những người có dư giả nhường phần “bồi dưỡng” của mình cho các bạn thiếu thốn, để bầy tỏ tình tương thân tương ái “miếng khi đói bằng gói khi no”.

Sau nhiều cơn hoạn nạn thiên tai, Cán bộ và Tù đã có dịp cùng nhau chia sẻ ngọt bùi thiếu đói, nên tình cảm cư xử với nhau đổi khác hẳn. Cũng nhờ thế, không khí chuẩn bị mừng đón Tết Tân Dậu 1981 có vẻ rôm rả đầm ấm hơn năm trước. Cán bộ mạnh

d

ạn

g

xin Tù cho quần áo Trại phát không dùng, đem đi đổi lấy thịt chó về vui nhậu trong 3 ngày Tết.

Ngược lại, Tù cũng nhờ Cán bộ đem quần áo đi đổi giùm lấy gạo nếp đậu xanh và trứng gà, để tăng cường các món ăn đầu năm của mình thêm phần phong phú. Việc này thực hiện được, nhờ quần áo Nhà Nước phát cho Tù 6 tháng một bộ không may pha lộn 2 mầu xanh trắng như hồi còn ở Trại Tân Lập, không đóng dấu ám hiệu Trại giam trước khi phát, vải nhuộm toàn một mầu xanh chàm đồng bào Thái ở gần Trại có thể dùng được không trở ngại gì.

Trong 2 Đội Rau Xanh, có 1 Đội gồm toàn các Tuyên úy Quân đội, Đại tá và anh em gốc Chiến tranh Chính trị, được đặt tên là Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ. Đội này, ngoài việc trồng rau còn phải dàn dựng tập dượt các chương trình Văn Nghệ. Buổi thử lửa trình diễn đầu tiên vào dịp mừng Lễ Độc Lập 2 tháng 9 thành công rất mỹ mãn, nên vào ngày mồng 3 Tết Tân Dậu 1981 Phân trại K2 tổ chức “xuất quân Thi Đua đầu năm” với một chương trình Văn Nghệ lưu động, thúc đẩy tinh thần anh em lao động rất hào hứng. Có múa Lân, có toán Nhạc nhẹ và Ca sĩ lần lượt đến từng khu vực lao động trình diễn giúp vui cho anh em hăng hái xông pha phát bụi rậm cỏ tranh cỏ bông lau, còng lưng cuốc đào đất bỏ hom trồng khoai mì trên sườn núi hai bên quãng đường dài 4 cây số bên kia sông hướng đi tới Xóm Hoán Bù.

Có những bài hát của miền Nam sau 30-4-1975 bị cấm vì Cộng sản Việt Nam coi là Nhạc Vàng phản động, nhưng thấy Ban Văn Nghệ vẫn hoà tấu không lời ca cho anh em thưởng thức. Anh em thích thú hoan hô nhiệt liệt và rất ngạc nhiên không biết vì sao Ban Văn Nghệ giám liều lĩnh đến thế. Trong giờ nghỉ lao động ở trong trại, Tôi tìm gặp Linh Mục Tuyên úy Đội trưởng Rau Xanh kiêm Văn Nghệ để hỏi, Ngài cho biết:

“-Mọi tiết mục trong chương trình đều phải trình Cán Bộ Quản Giáo duyệt trước, mình nói là nhạc Liên Xô và nhạc Cu Ba, họ hân hoan gật đầu ngay. Họ đâu có biết khỉ khô Ất Giáp gì nhiều về ca nhạc ngoài mấy bài hát do Đảng và Nhà Nước nhồi vào sọ hàng ngày. Còn anh em chúng

 mình chắc chắn không ai đi tố cáo nên chẳng có gì để mà sợ.”

Để tới “hiện trường lao động thi đua đầu năm” Con Gà Mới (Tân Dậu), mọi người phải đi theo con đường từ khu trại giam qua Đội Gạch bên đồi mía, xuống chân đồi băng qua sông chỗ khúc cạn ngập ngang đầu gối. Dòng nước lúc nào cũng chẩy rất xiết, lòng sông đầy sỏi đá rêu bao trơn trợt, anh em phải nắm tay nhau kẻ trước người sau dò đi từng bước một. Tội nghiệp cho các Bạn đến phiên trực phải vác các bó cuốc ra hiện trường cho Anh Em dùng, thật vất vả. Nếu lỡ trợt chân bị nước cuốn băng đi cả chục mét, khi gượng đứng lên được thì bị ướt sũng từ đầu đến chân chẳng khác nào tắm gội không cởi bỏ quần áo.

Mỗi Đội được giao khoán phát quang đào hố bỏ hom trồng khoai mì (sắn) trên một khoảng đất bề dài 1 cây số, sâu vào 2 bên lề chừng 200 mét dọc theo con đường đi Xóm Hoán Bù. Đội nào làm xong trước nhất được thưởng mỗi người 1 kí lô sắn “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên Đội các bạn trẻ bao giờ cũng dành phần thắng lợi, Đội chúng tôi già yếu chỉ cố gắng làm cho không bị chỉ trích chây lười là tốt rồi.

Nhưng cũng may trong kỳ “thi đua” này Trại đặt ra một biệt lệ, phát “giải thưởng bồi dưỡng” 5 cây mía cho cá nhân nào được Đội trưởng ghi nhận là “lao động năng nổ vượt chỉ tiêu” trong ngày. Đội trưởng, Đội phó và Thư ký Đội chúng tôi bàn luận với nhau rồi cho anh em biết là, mỗi ngày sẽ trình danh sách 5 người “lao động xuất sắc” để thay phiên nhau lãnh thưởng về chia đều cho cả Đội. Anh em phải kín đáo âm thầm tiếp tay cho các “anh hùng lao động” này hoàn thành “vượt chỉ tiêu” tối thiểu từ 5 đến 7 hố sắn nhiều hơn những người khác. Anh em vui vẻ “nhất trí”, nhờ vậy ngày nào toàn thể Đội chúng tôi cũng có mía “bồi dưỡng”.

Một hôm khi đang phát bụi rậm trong buổi lao động sáng, Tổ chúng tôi gặp phải một tổ ong vàng bay toả ra đốt túi bụi, anh em bỏ chạy tán loạn la ôi ối. Cán bộ Quản giáo thấy vậy chạy đến vơ nắm cỏ tranh bện làm một nùi đuốc, đốt lên đem đến chỗ bụi rậm hun xua ong bay tản đi chỗ khác, rồi vạch tìm lấy tổ ong đưa cho chúng tôi.

Chúng tôi xé tổ ong chia nhau mỗi người một mảnh, lấy một ít xáp và ong nhộng chà lên những chỗ bị ong chích để giải độc. Chỗ còn lại, gồm cả ong nhộng và mật bỏ vào miệng ăn tươi rất bùi béo ngọt. Từ đó về sau mỗi khi đi phá bụi rậm, anh em lại mong được gặp tổ ong càng lớn càng tốt để có nhiều mật tươi ăn cho nó bổ.

Cũng may, chúng tôi gặp phải tổ ong cỏ hay ong đất gì đó, mầu vàng như nghệ thân ngực to bằng hột đậu xanh khúc bụng to dài hơn hột đậu đen một chút, thế mà chúng đốt đã nhức nhối đau rát y như bị phỏng lửa chịu không nổi. Nếu gặp nhằm tổ ong Vò Vẽ (mình vằn đen vàng) nọc độc của nó làm cho bị nóng sốt mê man xưng phù, nếu không có thuốc giải cứu kịp thời có thể vong mạng như chơi. Thật là hú viá!

Trong rừng núi Trường Sơn thời gian giao mùa hết Đông sang Xuân, sáng sớm đi làm sương đêm đọng đầy trên cỏ đụng vào lạnh cóng, trưa nắng chói chang lao động mau mệt vã mồ hôi khô cổ họng, xế chiều vừa tới giờ nghỉ lao động mặt trời đã vội vã lỉnh xuống phía sau các đỉnh núi cao rừng rậm khí lạnh toả ra rất nhanh. Cả buổi lao động lam lũ, bụi đất bụi cỏ bám đầy từ đầu đến chân, người đẫm mồ hôi, không tắm thì dơ bẩn ngứa ngáy sinh ghẻ lợ, còn tắm thì phải cởi quần áo lội xuống nước lạnh rùng mình rất dễ bị nhuốm bệnh cảm sổ mũi nhức đầu mệt mỏi bải hoải, nhưng nếu không bị sốt cao độ chẳng bao giờ được nghỉ lao động. Đằng nào cũng khổ, nhưng nhu cầu giữ vệ sinh là ưu tiên số một nên phải liều xuống tắm để cho cơ thể tự thích ứng lần, cuối cùng rồi quen dày dạn chẳng sao.

Một hôm giữa buổi lao động chiều chúng tôi đang ngồi bên lề đường nghỉ giải lao, có 3 người đàn bà Kinh đứng tuổi mặc váy đen áo cánh nâu chít khăn đen mỏ quạ đã bạc mầu đi ngang. Bỗng có một người đang đi ngồi thụp xuống ôm đầu nhăn nhó mặt mày xanh lợt, anh Đại tá Trần văn Thăng (gốc An ninh Quân đội) tới gần hỏi:

“-Bà làm sao vậy?”

Bà ấy trả lời:

 “-Tự nhiên Em thấy choáng váng chóng mặt nhức đầu quá!”.

 Anh Thăng lấy hộp sáp dầu Cù Là hiệu Macshu của Singapore (Dân chúng miền Nam ưa dùng) đưa cho Bà ấy bôi vào 2 bên thái dương trán và sau gáy để trị trúng gió. Sau khi bôi được chừng vài phút, Bà ấy tỉnh hẳn ra mặt mày hồng hào trở lại, cám ơn rối rít rồi đứng lên đi tiếp cho kịp 2 Bà bạn kia.

Một lúc sau, một trong 3 người đàn bà quay trở lại chìa tay xin chút thuốc trị trúng gió. Anh Thăng nói:

“-Hồi nãy đã cho Bà rồi!”.

Bà ta lý nhí nói:

“-Thưa, lúc nãy anh cho Chị kia chớ không phải Em”.

 Anh Thăng lấy hộp sáp Cù là mở nắp thấy còn rất ít dính đáy hộp, bèn đưa luôn cho Bà ta và nói:

 “-Chỉ còn có chút đỉnh thôi, Bà cầm lấy luôn để mà chia nhau xài”.

Bà ta ngước mắt ngạc nhiên lắc đầu nói:

“-Không dám, xin anh một tý dùng thử cho biết mùi thôi”.

Sợ nói chuyện lâu với thường dân Cán bộ lại buộc tội vi phạm Nội Quy trại thì phiền, anh Thăng nói nhanh:

“-Tôi cho Bà luôn đấy, thôi đi đi kẻo Cán bộ rầy rà thêm phiền phức”.

 Mắt Bà ấy sáng rực lên gật đầu lia lịa cám ơn rối rít, cầm hộp xáp Cù là chạy vội đi khỏi chỗ chúng tôi.

Cảnh tượng này khiến tất cả anh em chúng tôi vô cùng xót xa thương cho số phận người dân sống trong Thiên đường Xã hội Chủ nghĩa bấy lâu nay tại miền Bắc Việt Nam.

Đợt “Thi đua” trồng sắn đầu năm vừa dứt, Đội chúng tôi được chỉ định khai quang và đắp sửa con đường băng qua xóm Hoán Bù cho đủ rộng để xe vận tải có thể lưu thông được.

Xóm Hoán Bù gồm khoảng chục căn nhà vách đất mái rạ, nằm dọc theo sát bên trái con đường. Trong thời gian lao động tại khu này, sáng cũng như chiều chúng tôi không thấy bóng một Nam Nữ trẻ tuổi nào ngoài vài ông bà già và ít đứa con nít dưới 5 tuổi. Chúng tôi không quan tâm tìm hiểu tại sao lại đặt tên là xóm Hoán Bù, và hai chữ Hoán Bù có ý nghĩa gì?

Tình cờ trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, sương mù chưa tan hết, không khí còn ẩm lạnh căm căm, bà cụ nhà ở sát bên đường đon đả mời Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ vào uống trà tươi và khoai luộc còn nóng hổi cho ấm lòng. Đúng lúc đó, một ông cụ từ bìa rừng về tới xà xuống bên chúng tôi, xin điếu thuốc lào hút cho ấm dạ. Chúng tôi phải mặc 2, 3 tầng áo len áo bông dài tay còn cảm thấy lạnh, trong khi ông già chỉ phong phanh có 1 bộ quần áo “kiểu bà ba” nâu bằng vải mỏng đã bạc mầu, bên ngoài phủ chiếc “áo bông chấn thủ” cụt tay đã rách phải vá víu nhiều chỗ. Da mặt ông cụ xám ngoét môi tím bầm co ro cúm rúm, xoa 2 tay vào nhau cho đỡ lạnh.

Một anh trong chúng tôi hỏi:

“-Cụ năm nay đã đến 70 chưa, già nua vậy mà vào rừng chi sớm vậy?”

 Ông cụ trả lời:

“-Cám ơn Trời cho năm nay mới được 60 thôi! Sống trong Xã hội Chủ nghĩa, ai cũng phải lao động mới được chấm công để lãnh phần “tiêu chuẩn” quy định hàng ngày. Chúng tôi dẫn trâu của Hợp tác xã đi ăn cỏ, lợi dụng trong lúc chúng đang ăn mình mò về kiếm chút khoai sắn đỡ dạ vậy mà. Bà nhà tôi ở nhà chăm sóc nhà trẻ cho xóm, còn các cháu cỡ 6, 7 tuổi trở lên phải đi hót phân cắt cỏ cho trâu ăn. Mỗi người một việc Qúy ông ạ!”

Chúng tôi lại hỏi:

“-Phiếu vải được Nhà Nước cấp hàng năm để may quần áo đâu sao Cụ không mua mà dùng?”

Ông cụ trả lời:

 “-Ấy, hàng năm Nhà Nước có cấp Phiếu cho đấy, nhưng vài năm nay mỗi lần đến Hợp Tác Xã đều nói chưa có hàng về, nên mình phải đợi thôi! Từ ngày chấm dứt chiến tranh, không còn viện trợ của các nước anh em Xã hội Chủ nghĩa nữa cái gì cũng thiếu”.

Trong lúc nói chuyện có dịp quan sát kỹ khuôn mặt ông cụ, Tôi ngờ ngợ thấy hình như mình đã có dịp gặp ông cụ này ở đâu, nhưng không nhớ ra. Bèn hỏi:

-Cụ và bà con Xóm này ở đây bao lâu rồi mà trông các mái rạ còn mới quá vậy?

 Ông cụ trả lời:

 “-Ấy cũng chưa lâu lắm đâu. Trước chúng tôi ở vùng Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, đủ hạn kỳ Nhà Nước lại điều động đến đây khai phá làm ăn sinh sống”.

 Tôi hỏi tiếp:

“-Gia đình cụ tình nguyện đi lập vùng Kinh tế mới ở đây à?”

Ông cụ lắc đầu đảo mắt liếc quanh không thấy bóng Cán bộ nào gần chỗ chúng tôi đang trò chuyện, mới hạ thấp giọng nói tiếp:

“-Trước năm 1954, Cha của tôi làm Lý trưởng vùng Tề ở Thái Bình. Sau tháng 7 năm 1954, toàn miền Bắc được giải phóng khỏi tay Tây và phe Quốc gia, Cha tôi bị Toà án Nhân dân xử tử vì tội Việt gian bán nước. Cả đại gia đình họ Nội họ Ngoại chúng tôi được Nhà Nước khoan hồng tha tội chết, nhưng phải đi lao động tại các vùng Kinh tế mới. Cứ 4, 5 năm lại rời nơi lao động, miết từ bấy đến nay chẳng biết bao giờ mới được ở yên một chỗ. Khi còn ở Yên Bái, gia đình chúng tôi ở Hợp tác xã trong vùng Xã Việt Cường. Hồi đó, chúng tôi cũng đã có dịp gặp bạn bè của Qúy ông đến đắp đập cho Hợp tác xã. Gia đình chúng tôi phải hàng ngày đại diện Hợp tác xã cung cấp sắn bồi dưỡng cho các ông ấy đấy!”

Tôi im lặng không nói gì, nhưng trong óc mung lung suy nghĩ và bây giờ mới hiểu ra tại sao ông cụ này hồi đó cư xử rất tử tế với chúng tôi, trong khi nhiều người khác luôn luôn có thái độ căm thù. Hồi còn ở Liên trại 1, Đội chúng tôi được chỉ định đi đắp đập thuê ở quanh vùng xã Việt Cường, Yên Bái (Tôi đã kể trong một đoạn trước). Hàng ngày, Tôi được Đội trưởng cử đi cùng 1 bạn khác theo Quản giáo Đội vào Hợp Tác Xã để nhân viên đưa đi đào sắn sống. “Tiêu chuẩn bồi dưỡng” Hợp Tác Xã cho mỗi người 1 kí lô một ngày. Chúng tôi lãnh đem ra trao cho anh Nấu nước của Đội rửa luộc chia đều cho anh em “bồi dưỡng” trong giờ giải lao, sau khi đã lựa mươi củ to ngon để Quản Giáo Đội và Cảnh Vệ dùng trước. Chính ông cụ này, đã được Chủ nhiệm Hợp Tác Xã giao cho việc đưa chúng tôi ra ruộng sắn tự đào củ và cân cho chúng tôi. Bao giờ ông cụ cũng cho chúng tôi lấy nhiều hơn số cân lượng quy định cả chục k

.

Công việc sửa sang đường băng qua xóm Hoán Bù vừa được chừng 1 cây số, Đội chúng tôi được điều động đi rẫy cỏ phá bụi trồng lúa nương, ngay bên kia bờ sông đối diện với khu trại giam. Đoạn đường còn lại chưa sửa không biết do Đội nào tiếp tục phụ trách.

Đường đi đến khu lao động mới rất gần, chúng tôi chỉ phải lội qua sông nơi khúc cạn nước cao ngang đầu gối, ngay khu bến tắm hàng ngày của Anh Em Tù sát bên hàng rào Nhà Bếp của Trại giam ngó xuống.

Làm việc tại khu này cá nhân Tôi học được một kinh nghiệm hú viá để đời. Một buổi sáng ra lao động, thấy trên khúc gỗ mục mọc đầy nấm mầu nâu non đẹp y như nấm Đông Cô, đúng loại nấm anh bạn thuộc Đội khác ở chung Láng chiều nào cũng nấu cả Gô đầy để ăn. Bạn ấy ăn ngon lành và khen rất ròn ngọt chẳng thua gì nấm Đông Cô trong các Nhà hàng ăn của Tầu. Tôi liền hái một lố cỡ đầy 2 Gô, rửa sạch sẽ đem về trại giam. Chuẩn bị bữa ăn trưa, Tôi lấy một nửa số nấm hái được nấu chung với bánh mì luộc trại phát cắt miếng vuông nhỏ bằng đốt ngón tay và mì vụn gia đình gửi tới để ăn thử. Quả không sai, nước súp rất ngọt y như có bỏ bột nêm, miếng nấm ăn rất ròn ngon lạ thường.

Anh bạn nằm kế bên, Đại tá Nguyễn Quốc Di

(Trưởng Khối Tài Chánh của Tổng cục Chiến Tranh Chính trị)

thuộc số anh em nghèo quà của gia đình, thấy Tôi tấm tắc khen ngon ngỏ ý muốn nếm thử. Tôi múc ra tặng một Ca nhỏ, bạn ấy chỉ lấy phân nửa ý chừng sợ gặp nấm độc không dám ăn nhiều. Thấy mấy Bạn khác nằm gần đưa mắt nhìn chúng tôi ăn, Tôi mời nếm thử nhưng họ lắc đầu không ai dám liều.

Ăn vừa xong bữa, Tôi cảm thấy đầu bừng bừng lâng lâng, giật mình nghi là bị say nấm, Tôi bèn báo cho Đội trưởng và các Bạn nằm kế bên biết để lỡ bất tỉnh thì các Bạn đem đi Bệnh xá cấp cứu. Sau đó Tôi chạy vào nhà vệ sinh trong Láng móc cổ họng cho mửa ra, nhưng chỉ nôn ra được có chút đỉnh thôi. Người bắt đầu cảm thấy lảo đảo như say rượu, phải vội vã lấy đường và bột đậu xanh ra hoà đầy một ca uống giải độc.

Hai mắt mỏi xụp xuống buồn ngủ vô cùng, Tôi phải cố hoạt động để cưỡng lại sợ ngủ có thể ngất lịm đi luôn không ai biết thì nguy. Cứ nằm xuống ngồi lên, Tôi múc từng muổng đường cát cho vào miệng ngậm cho đến giờ kẻng tập họp đi lao động buổi chiều trổi lên, mới cảm thấy dễ chịu hơn không còn lảo đảo nữa nên sửa soạn đi lao động như thường. Dĩ nhiên phải mang theo Gô đường cát đầy nhóc, để tiếp tục ngậm liên tục từng muổng một cho mau giải say. Anh bạn Di ăn ít nên chẳng sao.

Trên đường đi đến hiện trường lao động, lúc lội ngang sông Tôi trầm mình xuống nước cho ướt sũng cả quần áo và đầu, hy vọng cái lạnh làm thay đổi thân nhiệt đột ngột sẽ giúp cho cơ thể trở lại bình thường nhanh hơn. Nhưng cái nạn buồn ngủ vẫn đè nặng trên đầu, Tôi phải cố gắng lao động liên tục hăng hái hơn bình thường cho mồ hôi vã ra thật nhiều để thải độc. Lạ một điều, lao động hăng hơn bình thường mà không cảm thấy mệt. Vừa lao động vừa suy nghĩ “thật chẳng cái dại nào giống cái dại nào” như các Cụ thường ví von, nên Tôi cứ tủm tỉm cười một mình hoài. Anh Bạn Di bông đùa đặt cho loại nấm mà chúng tôi ăn một cái tên thật kỳ lạ: “khích tiếu nấm”, tức là loại nấm kích thích cho mình phải cười hoài.

Chiều về, Tôi mang chỗ nấm còn lại chưa dùng bỏ thùng rác, anh Bạn khác Đội ở chung láng chạy lại xin để ăn. Tôi nói không nên nấm này ăn làm say nguy hiểm. Lúc đó anh Bạn mới tiết lộ cái bí quyết sửa soạn loại nấm đó ăn không bị say, và đêm ngủ ngon thẳng giấc y như uống thuốc ngủ. Đó là, phải luộc thật kỹ, đổ bỏ nước, chỉ ăn xác nấm đã luộc chín sau khi vắt kiệt hết nước như ăn rau, và chỉ ăn vào buổi tối. Thảo nào, thấy anh Bạn ấy ăn hàng ngày không sao, mình vừa mới thử đã bị say làm sợ hết hồn hết vía.

Mặc dù được anh Bạn chỉ cho bí quyết rõ ràng, nhưng từ đó trở đi Tôi không bao giờ dại dột thử lần thứ hai, kể cả nấm mối hay nấm trứng vẫn thường ăn xưa nay ngoại trừ nấm mèo (mộc nhĩ). Vùng này có nhiều mộc nhĩ to bằng bàn tay và dầy, chúng tôi thường lấy về xắt nhỏ nấu với đậu xanh làm chè ăn rất ngon.

Một hôm, bỗng dưng toàn K2 được nghỉ lao động buổi sáng tập trung lên Hội trường nghe “Ban” Thùy (Giám thị Trưởng Trại Thanh Phong) từ K1 vào nói chuyện. Ông ta vòng vo Tam quốc về tình người, về lòng nhân đạo... để đi đến kết luận:

 “-Trại sẽ đem khoảng một trăm Tù Hình Sự trong K3 (vùng tử địa) đang bệnh hoạn không đủ khả năng lao động về ở chung tại K2. Để cứu sống nhóm “đầu lâu chân tay” này, Trại sẽ trích bớt phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày của anh em để tăng cường “bồi dưỡng” cho bọn chúng trong vòng 2 tháng. Theo tinh thần Dân Chủ, Trại yêu cầu anh em cho biết ý kiến để kịp thời quyết định.”

Thật là “nhân nghĩa Bà Chuá Đễ”, ai cũng biết là không đồng ý cũng chẳng được lại mang tiếng Vô Nhân Đạo, nên mọi người vui vẻ vỗ tay “nhất trí”. Thế là Ban Giám Thị đã đạt được “mục đích yêu cầu” một cách dễ dàng vẻ vang mà không mang tiếng độc tài đảng trị.

Kể từ hôm sau, mấy Đội nông nghiệp (dĩ nhiên có cả Đội chúng tôi) được tập trung thực hiện một hàng rào tre cao 2 mét, để nguyên cây ken sát bên nhau chôn sâu xuống đất 80 phân. Hàng rào nằm dọc theo bên này con đường rộng 6 mét, phân cách Khu Cách Ly giam chúng tôi và Khu sẽ giam Hình sự. Sau 1 tuần lễ lao động “khẩn trương” hàng rào hoàn tất, bọn “Đầu lâu chân tay” được xe tải chuyển từ K3 về K2 nhốt trong 2 dẫy Láng ở góc sân thấp nhất của Trại giam, nơi mà chúng tôi bị đưa vào giam từ đêm mới đến hồi đầu năm 1980 đến khi “biên chế” lại và chuyển sang Khu Cách Ly hiện tại.

Bọn Tù Hình Sự này còn rất trẻ, ốm tong teo chỉ thấy da bọc xương, ghẻ lở cùng mình, quần áo rách rưới bẩn thỉu hôi hám, đầy chí rận. Chúng được ở trong trại “bồi dưỡng” khoảng 2 tuần lễ, tạm coi như đã tỉnh táo trở lại nên phải đi tham gia lao động. Một nhóm đi làm tại Khu trồng rau xanh, một nhóm sang làm gạch và làm mía. Chúng bị cấm ngặt không được “quan hệ” với chúng tôi, nhưng tại hiện trường lao động cũng như tại bến tắm sau giờ lao động, chúng luôn luôn tìm cách mon men đến gần chúng tôi để xin thức ăn, thuốc hút, đồ dùng lặt vặt như khăn mặt, quần áo cũ... Ai tỏ ra hào hiệp sởi lởi được chúng nịnh Bố Bố Con Con ngọt sớt, còn ai lạnh lùng làm ngơ không đáp ứng lời năn nỉ, chúng đổi giọng hỗn xược chửi thẳng thừng “Đ..M.. Bố già keo kiệt”. Thật là mất dậy hết chỗ nói.

Đa số trong bọn Tù Hình Sự này toàn là thành phần băng đảng, ăn cắp, cướp của, hãm hiếp, giết người ngoài Xã hội, đã bị bắt tập trung trong các Trại Cải Tạo Thiếu Nhi từ thuở còn thơ ấu. Đến khi chúng hết tuổi vị thành niên, phải chuyển sang Trại Cải tạo của người lớn tiếp tục cải tạo cho đến hết án phạt.

Có đứa rất tội nghiệp, vì hoàn cảnh gia đình đông anh em túng thiếu, cha mẹ bệnh hoạn, phải lập bọn tổ chức ăn cắp của Hợp Tác Xã nên bị bắt Cải Tạo, lúc nào cũng mong cho mau hết hạn trở về với gia đình. Nhưng cũng có đứa thuộc loại “cải tạo chuyên nghiệp” ra vào tù như đi chợ. Ngoài xã hội, chữ nghĩa ăn đong, nghề nghiệp chuyên môn không có, lại thích sống phè phỡn như các cậu ấm cô chiêu con Đảng viên Cán bộ Nhà Nước, nên phải chuyên hành nghề bất hảo trấn lột của người mà tiêu dùng cho đỡ cực nhọc. Cướp một lần sống thoải mái rong chơi đàn đúm đĩ đượi cả tháng, rồi mới chuẩn bị làm mẻ khác. Nếu chẳng may bị thộp thì vào cải tạo ít lâu đâu có sao! Mấy đứa này thường là các tay “anh chị đầu nậu” hiếp đáp tù khác trong trại, để được cung phụng sống chẳng khác nào Cán bộ cai tù. Trường hợp trại giam có 2, 3 đứa thuộc loại này cùng bị nhốt một lượt, thì chúng lập phe cánh riêng chém giết nhau để tranh giành ảnh hưởng làm Chúa tể trong Láng ngủ.

Từ ngày có bọn Hình Sự về ở chung trong K2, anh em chúng tôi gặp cái nạn bị mất đồ lặt vặt thường xuyên nơi bến tắm. Cán bộ Cảnh Vệ bắt được đánh đập chúng rất tàn nhẫn. Họ dùng báng súng đánh vào đầu cho ngã lăn ra đất, xỉa đầu mũi súng vào ngực vào bụng, đá vào mặt vào đầu. Chúng co rúm người lăn lộn trên mặt đất, chịu đòn kêu la xin tha tội, nhưng chẳng được “chiếu cố”. Một người đánh chưa đủ, họ xúm nhau 2, 3 người ùa vô đánh “đòn hội chợ” thấy mà khủng khiếp. Thế mà chúng cũng chẳng sợ, chứng nào vẫn tật nấy.

Mánh khoé cướp đoạt công khai giữa ban ngày của bọn Hình Sự này rất tinh vi. Muốn lấy cả đôi “dép râu” của mình, chúng lén lấy một chiếc giấu vô trong bờ bụi quanh bãi rác bên bờ sông, khi tắm xong lên nạn nhân bị đánh cắp thấy chỉ còn một chiếc dép, tìm hoài không thấy chiếc kia đành vứt quách chiếc còn lại vào đống rác đi chân đất về trại. Thế là buổi tắm kế theo, thằng qủy sứ mò đến đống rác công khai đi lượm trước mặt các Cán bộ Cảnh Vệ, cả 2 chiếc dép mang ra để làm của riêng chẳng ai làm gì được nó. Thật vô cùng tinh khôn bịp bợm, phải chăng đây là nền văn hoá giáo dục mà chúng đã tiêm nhiễm được từ khi còn nằm trong lòng mẹ trước khi ra đời?

Trong giờ lao động, bao giờ chúng tôi cũng nhờ anh Nuôi của Đội nấu chín giùm những Gô mì, cơm, hoặc các thức ăn phụ khác để đem vào trại tăng cường cho các bữa ăn của mình. Hết giờ lao động, trước khi trở vào khu giam tất cả các Đội đều được tập trung xuống bến sông tắm, trong khi mình tắm mấy thằng Hình Sự ốm đói đảo tới khu để quần áo, lén lấy những Gô đồ ăn chạy ra bên đống rác bốc bỏ miệng ăn ngấu nghiến cho kỳ hết, rồi vứt lon Gô không vào đống rác. Trường hợp có người trông thấy tri hô lên, Cán bộ Cảnh Vệ xấn tới đánh nó túi bụi, nó vẫn tỉnh khô chịu đòn và tiếp tục nhồi nuốt cho hết mới thôi. Cũng có đứa chậm chạp hơn, chiếc Gô đang ăn dở bị giật ra để trả lại cho sở hữu chủ. Nhưng ai mà dám ăn chỗ còn lại đành phải đổ đi, lập tức có một đứa khác chạy ùa tới bốc cho vào miệng ăn lấy ăn để.

Từ đó về sau mỗi khi xuống sông tắm, chúng tôi phải tổ chức cử người thay phiên nhau đứng canh chừng bên khu quần áo và đồ đạc cho yên bụng.

Một buổi trưa đi lao động về anh em đang chuẩn bị ăn, nghe nhiều hồi còi huýt toét toét liên tục rồi thấy nhiều Cán bộ từ ngoài cổng Trại rầng rầng chạy vào Khu giam Tù Hình Sự. Khoảng 10 phút sau, thấy dẫn ra 2 đứa tay bị còng quặt ra sau lưng, một đứa vừa đi vừa bị đánh túi bụi ngã xấp ngã ngửa, đứa kia máu me đầy áo quần nơi bụng. Buổi chiều đi lao động hỏi ra mới biết, 2 tay “anh chị đầu băng đảng” thanh toán nhau vì chuyện xích mích giành đàn em phục vụ trong Láng giam.

Đứa đâm người là “Bụi đời” gốc Hà-nội bị án tù chung than, vì tội bắt cóc hiếp và giết chết cô gái con của ông Lãnh Sự thuộc Toà Đại sứ Đông Đức đồng minh của Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đứa bị đâm, là “Anh hùng” khét tiếng của Hải phòng từng nổi danh đem một toán bạn về tra khảo Bà Nội của chính nó để đòi tiền ăn chơi, rồi thay phiên nhau hiếp dâm và giết để phi tang.

Từ khi có bọn Hình Sự giam tại K2, các Cán bộ Cảnh vệ có dịp được mua vui thoả thích tại “hiện trường lao động” một cách dã man, y như ta thường thấy các đoạn giải trí của Vua Chúa thành La Mã trong các phim truyện cổ trích từ Kinh Cựu Ước. Họ treo giải thưởng 1 củ sắn để cho 2 đứa đánh đấm vật đá nhau kịch liệt. Đứa nào đánh được đứa kia hộc máu mồm máu mũi phải quỳ lạy xin thua thì được lấy giải thưởng. Lúc nào cũng có 2 đứa hăng hái ra đấu để tranh giải.

Thật khủng khiếp, kết quả “to lớn” của nền giáo dục Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

“đấu tranh san bằng giai cấp đem lại công bằng xã hội”

nhập cảng từ Liên xô-Trung Cộng, cộng với

“Chính sách trăm năm trồng người của Bác Hồ”

áp dụng trong suốt hai mươi mấy năm độc quyền cai trị tại miền Bắc Xã hội chủ nghĩa là như vậy sao?

Một buổi sáng trời trong vắt anh em đang chuẩn bị ra tập họp xuất Trại lao động, có lệnh An ninh yêu cầu các anh Đại tá Lê Đình Luân

(Đơn vị 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu), Phạm văn Phô (Đội phó), Trịnh Bảo Chương, Tôn Thất Hùng (dân gốc Phòng Nhì) ở lại Láng làm việc với Cán bộ. Đến trưa mãn lao động vào trại, mới biết các anh ấy đã được Cán bộ từ Hànội tới chở đi khỏi Trại. Đến tối trong giờ sinh hoạt kiểm thảo, Quản Giáo Đội đứng ngoài cửa sổ chuyển lệnh chỉ định anh Đại tá Lê Phú Phúc làm Đội trưởng thay thế anh Luân.

(Anh Phúc gốc Truyền Tin, hồi những năm đầu thập niên 1960, Tôi là Thiếu Tá Cục Phó Cục Truyền Tin Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tại Saigon, anh Phúc là Đại Úy Liên Đoàn trưởng Liên đoàn Truyền Tin. Cơ sở Liên đoàn đóng tại gần Trường đua ngựa

 Phú Thọ.)

Mấy ngày sau, bất thần có cuộc tổng xét tư trang Tù Chính trị miền Nam toàn K2, bọn Tù Hình Sự vẫn xuất trại đi lao động như thường. Sau buổi xét tư trang, có anh Trung tá (Chiến tranh Chính trị thuộc Không Quân) ở một Láng trong cùng Khu Cách Ly của chúng tôi bị bắt giam vào Nhà Kỷ Luật. Hình như Cán bộ bắt được quả tang anh ấy xé và vứt xuống hố nước tiểu nơi đầu nhà phía sau Láng chúng tôi mấy tờ giấy, ghi chép những điều liên quan tới vụ thành lập Chính phủ lưu vong hay một Hội Cựu Tù Nhân Chính trị gì đó.

Những ngày kế theo, nhiều người bị gọi lên “làm việc” với Cán bộ An ninh. Đội chúng tôi có anh Đại tá Nguyễn văn Lương (gốc Địa phương Quân) cũng bị gọi lên “làm việc”, hình như anh ta có ghi danh nhận một chức vị gì đó trong Ban Chấp hành của tổ chức dự trù thành lập. Linh Mục Phan Phát Hườn thuộc Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ cũng bị gọi lên điều tra, vì nghe nói Ngài cũng có nhận một chức vị nào đó trong Ban Chấp hành.

(Hồi những năm đầu thập niên 1960, lúc Tôi làm Cục Phó Cục Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu, Linh Mục Hườn là Tuyên úy của Binh chủng Truyền Tin. Ngài đã giúp cho Binh chủng xây dựng được một Nhà Nguyện và một Trường Trung học đệ Nhất Cấp “Tinh Thần” tại Trại Gia binh của Tiểu đoàn Truyền Tin ở ngay phía sau toà Nhà Chánh của Bộ Tổng Tham Mưu. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn Bình đã đến Chủ lễ Khánh thành,)

Ngay sau buổi xét tư trang, Đội chúng tôi có sự thay đổi lớn, một số bạn Đại tá được chuyển qua Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, ngược lại một số Đại Đức Tuyên úy Phật Giáo và Linh Mục Tuyên úy Công Giáo trẻ khoẻ thuộc Đội Rau Xanh được tăng cường vào Đội chúng tôi. Sau vụ “biên chế” này Đội chúng tôi chấm dứt công tác Nông Nghiệp trở thành Đội Mía. Chúng tôi làm trong lò mía chớ không làm ngoài đồng mía như hồi trước. Đội được chia thành 4 toán (gọi là Khâu) để thực hiện 4 công tác khác nhau:

1.- Khâu Róc Vỏ Mía và chuyển vào phòng ép mía.

2.- Khâu Ép Mía chia thành 2 toán thay phiên nhau làm việc từng đợt 30 phút, mỗi đợt 2 người làm trâu đẩy cần quay các trục ép, 1 người ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép, và 1 người lo chuyển mía vào cho người ép rồi đem các thùng nước mía đã ép đổ đầy vào các vạc lớn để trên lò.

3.- Khâu Nấu Mật lo đun các vạc nước mía liên tục suốt ngày đêm, cho sôi đến độ cạn quánh thành “mật đường”.

4.- Khâu sau cùng, gồm anh Dương Hiếu Nghĩa (Đội phó) và một bạn phụ tá lo ủ nước mía sống cho lên men để cất rượu trắng.

Mỗi Khâu làm việc có những vất vả nguy hiểm khác nhau. Khâu Róc Mía phải làm thật nhanh mới kịp đủ mía cho Khâu Ép không phải ngồi đợi. Thân cây mía nhỏ cầm nơi tay trái, tay phải cầm dao róc, làm không cẩn thận sẽ vạt đứt luôn mấy đầu ngón tay trái như chơi. Róc bỏ vỏ dầy quá sẽ bị kiểm điểm phung phí của Xã hội Chủ nghĩa.

Công tác của Khâu Ép Mía có lẽ nặng nhọc vất vả nhất trong các Khâu. “Bộ phận” đẩy cần trục ép gồm 2 người, mỗi người đứng ở một đầu cây cần gỗ dài đi vòng tròn đuổi theo nhau, đẩy cho 2 trục ép bằng kim khí cao 1 mét đường kính rộng 50 phân, đầu trục có răng cưa xoay ngược chiều nhau. Khi nào giữa khe của 2 trục không có những cây mía mới đẩy vào để ép, việc đẩy trục quay thấy nhẹ nhàng không tốn sức bao nhiêu, nhưng đến khi có những cây mía mới được đẩy vô ép sức cản trở nên nặng vô cùng. Muốn cho trục quay, cả 2 người đẩy phải để 2 bàn tay ngang ngực đè vào cần trục, bấm các đầu ngón chân xuống đất ra sức đẩy về phía trước theo thứ tự từng chân một. Cứ mỗi 30 phút các người đẩy cần trục quay phải được thay phiên, nếu không chẳng còn sức mà tiếp tục. Tôi được chia vào toán phụ trách “bộ phận” đẩy trục ép mía thật vất vả hết chỗ nói.

Người chuyên ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép ngó thấy có vẻ không vất vả, nhưng lại có nhiều rủi ro nguy hiểm hơn cả. Phải làm sao đưa đều đều liên tục từng ôm 4, 5 cây mía vào khe giữa 2 trục ép một lúc, nếu không cẩn thận bàn tay có thể bị dính cuốn theo và bị ép nát cả cánh tay như chơi. Còn một điều khó khác nữa là, phải giữ làm sao cho không cây mía nào đẩy vào ép rắt vào các răng cưa của trục. Dù chỉ 1 răng cưa bị rắt, trục cũng sẽ khựng lại không quay được. Mỗi lần trục đang quay ngon trớn bị kẹt khựng lại là một đòn nặng đánh dồn vào ngực của những người đẩy cần trục ép, đau tức ê ẩm như muốn gẫy bộ xương lồng ngực.

Khâu Nấu Mật có những nguy hiểm vất vả khác. Mỗi khi có vạc đầy nước mía bắt đầu đun, phải thay phiên nhau tiếp củi giữ lửa cháy liên tục đều đều suốt ngày đêm, đến khi cạn quánh thành “mật đường” mới hoàn tất nhiệm vụ. Trong khi đun còn phải dùng cây bơi chèo thong thả khuậy nước mía sôi trong vạc, liên tục theo chiều quay của kim đồng hồ cho mật không bị lắng khê nơi đáy vạc. Trong lò nấu lúc nào cũng có 2, 3 vạc sôi sùng sục, khí nhiệt toả ra nóng nực kinh khủng hơn cả phơi nắng ngoài trời vào giữa trưa mùa Hạ. Khi nước mật bắt đầu xệt lại, việc đứng bên mép miệng vạc cầm gậy khuậy tròn được coi là lúc nặng nề khó khăn nguy hiểm nhất. Sơ ý có thể bị té vào vạc mật chết phỏng như không. Trước khi Đội chúng tôi vào làm trong lò mật đã có một Tù Hình Sự bị phỏng nặng vì tai nạn này.

Công tác của Đội Mía vất vả nguy hiểm như vậy, nên Ban Giám Thị K2 “chiếu cố” chỉ thị Quản Giáo cho chúng tôi một đặc ân làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Mỗi buổi lao động hàng ngày, mỗi người trong Đội chúng tôi được “bồi dưỡng” 1 Gô đầy nước mía tươi vừa ép ra. Có thể để uống tươi như vậy hoặc đun sôi lên rồi mới uống tùy ý. Nhờ thế sau vài tuần làm tại lò mía, anh em chúng tôi ai cũng có đôi má hồng hồng như thoa phấn.

Nhưng cuộc sống Tù có bao giờ được phẳng lặng xuôi dòng êm ả theo mong muốn đâu. Thường xuyên lúc nào cũng có những tai ách bất ngờ hoặc do người hoặc do Trời đem đến, khiến cho mạng sống của Tù mong manh chẳng khác nào “trứng treo đầu chỉ”. Vào một buổi trưa Chủ Nhật, mọi người đang chuẩn bị nấu nướng thêm những món ăn “cải thiện” tăng cường cho ca Bo Bo luộc do Trại phát

(loại thực phẩm dành cho ngựa của Ấn Độ viện trợ ghi rõ bằng Anh ngữ ngoài bao đựng),thì từ Khu bếp lộ thiên bên hàng rào phía cuối Khu Cách Ly của chúng tôi có tiếng xôn xao náo động. Rồi thấy một toán 3, 4 người xúm nhau khiêng một anh mập mạp hôn mê bất tỉnh xuống Bệnh Xá cấp cứu. Tôi chạy ra coi thấy đang khiêng anh Đại tá Nguyễn Ngọc Điệp

(trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng B

c Liêu, từng nổi danh là “Hùm Xám Rừng Đước”)

. Đến gần tối, mới thấy xe tải từ Phân trại K1 chạy vào di tản anh Điệp ra Bệnh Xá K1 Trại Thanh Phong điều trị, vì Bệnh Xá K2 không đủ phương tiện cứu chữa.

Theo tin tức từ Bệnh Xá do bạn Tù (Bác sĩ Quân Y của QLVNCH) phụ tá cho Cô Cán bộ Y tế của K2 cho biết:

 “-Anh Điệp bị hôn mê có lẽ vì bị đứt mạch máu não do cao áp huyết. Tình trạng rất nguy kịch, với phương tiện nghèo nàn về Y Tế của Bệnh xá Trại giam không biết có cứu được không? Không biết Trại có cho di tản ra Nhà Thương Thanh Hoá cấp cứu kịp không?”

Chúng tôi rất buồn thương cho hoàn cảnh không may của anh Điệp nhưng chẳng làm gì hơn được, chỉ biết cầu nguyện cho Bạn tai qua nạn khỏi. Sống chết đều do mệnh Trời sắp đặt riêng cho mỗi người chẳng ai biết trước mà tránh.

Chừng mươi ngày sau, anh bạn Tù (Bác sĩ) Phụ tá tại Bệnh Xá K2 có dịp theo Cán bộ Y tế ra K1 lãnh thuốc về cho biết:

“-Anh Điệp nằm mê man nơi Bệnh Xá Trại Thanh Phong cả tuần sau thì hồi tỉnh. Nay anh ấy đã bắt đầu cử động được nhưng chậm chạp khó khăn, nói năng phát âm hơi ngọng nghịu, quên không biết mình là ai cũng như không nhận ra được bạn bè cũ. Thường xuyên nói chuyện với những người vô hình, y như người bị bệnh tâm thần trong các nhà thương điên.”

Thật tội nghiệp nhưng Trời chưa bắt chết là mừng rồi, sau này được tha chắc chắn bệnh sẽ hết.

Hai tháng sau anh Điệp lành hẳn đi lại nói năng được bình thường, trí nhớ phục hồi được khoảng 80 phần trăm. Rời Bệnh xá Trại tại K1 trở về K2, anh Điệp được Ban Giám Thị Phân trại “chiếu cố” đặc biệt giao cho phụ trách chăm sóc vun tưới vườn bông và vườn rau “cải thiện” nhỏ của các Cán Bộ Trực Trại ngay bên trước cổng ra vào Khu giam.

,

Lúc này anh bạn Tù (Bác sĩ) mới giải thích:

“-Anh Điệp bị trường hợp Nhũn Não (stroke) chớ không phải đứt mạch máu não nên mới có may mắn như vậy.”

Sau anh Điệp, ở K2 còn có thêm 2 người nữa cũng bị trường hợp y như vậy.

Một là Linh Mục người gốc Trung Hoa cao lớn mập mạp

(trước 30-4-1975 cai quản Đặc Khu Hải Yến, gồm toàn người Trung Hoa vùng Quảng Tây chạy sang Việt Nam tỵ nạn từ khi toàn Lục địa Trung Hoa Dân Quốc của ông Tưởng Giới Thạch lọt vào tay Trung Cộng Mao Trạch Đông. Đặc Khu Hải Yến là một vùng biệt lập hẻo lánh giữa ranh giới Cà Mâu và Rạch Giá tại miền Tây Nam Việt. Cư dân có tinh thần chống Cộng rất mãnh liệt.)

Sau nhiều ngày bị nằm liệt vì Nhũn Não tại Bệnh Xá K1, Linh Mục cũng hồi tỉnh trở lại bình thường trả về K2 làm chung công tác lo vườn hoa với anh Điệp. Ngày ngày đi xuống leo lên con dốc nghiêng 50 độ dài chừng 50 mét, để sách từng thùng nước sông lên tưới rau và hoa trước cổng Khu Giam.

Người thứ hai là Trung tá Nguyễn Thủy Chung thuộc Đội Nhà Bếp(trước 30-4-1975 làm Phụ tá Trưởng Khối Tổ chức Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, Tôi đã có dịp nói đến trong một đoạn trước). Số mệnh anh Chung không may bằng 2 vị kia, nên bị “bán thân bất toại” và nói ngọng. Một thời gian sau được tha về đoàn tụ với gia đình và đã qua đời tại Phú Nhuận Saigon. Chẳng biết sau này Vợ Con của anh Chung có được Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho đi định cư tỵ nạn theo diện H.O. hay không?

 Trại A-20 được thế giới biết đến nhiều như một trại giam man rợ nhất. Ngay cả trong danh sách những tù nhân mà các chính phủ, hội đoàn đang tranh đấu với cộng sản Việt Nam để được trả tự do, trại A-20 vẫn chiếm hàng ưu tiên một. Hiện nay, A-20 đang giam giữ những chiến sĩ Ðoàn Viết Hoạt, Lý Tống, các vị thượng tọa, đại đức, linh mục tranh đấu cho nhân quyền. Ðây là một trại tù trừng giới ở miền Nam nơi giam giữ lâu dài những anh em quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà được chúng liệt vào thành phần bất trị, các bạn chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ sau ngày 30-4, và đám tù hình sự mang án chung thân. Ðã đến đây thì chẳng ai nghĩ đến ngày về nữa. Ngay cả trong giấc ngủ, cũng chẳng mơ được chuyện thoát ra khỏi trại.

Chúng tôi từ các trại Z-30C, Z-30D (Hàm Tân) được chuyển ra đó cuối năm 1979. Từ ngả ba Chí Thạnh, khoảng 40 cây số phía Bắc thị xã Tuy Hoà, đoàn xe rời quốc lộ 1, rẽ về hướng tây, chạy trên một con lộ nhỏ đất đá lởm chởm xuyên qua những vùng đất khô cằn, những xóm nhà tiêu điều đói khổ. Ði sâu vào lòng chão vùng Kỳ lộ, nơi những dãy núi tiếp nối nhau bao lấy một thung lũng nhỏ hẹp mà ngày xưa là quận lỵ Ðồng Xuân thuộc tỉnh Tuy Hoà. Trong những năm chiến tranh, nơi đây là địa bàn du kích rất mạnh của giặc. Có thể nói gần 100 phần trăm dân số ở đây là thân cộng. Ðiều này chẳng lạ, vì trước đây, Xuân Phước là căn cứ địa kháng chiến chống Pháp và sau 1954, qua hàng chục năm trời xa cách ánh sáng văn minh tự do, người dân chỉ biết có Cộng sản mà thôi. Họ gắn bó với phong trào Cộng sản vì gia đình nào cũng có người thân trong hàng ngũ du kích. Xuân Phước, cũng như Củ Chi ở miền Nam là chỗ dựa vững chắc cho bọn du kích, nơi cung cấp chỗ ẩn náu, tài lực, nhân lực cho cộng sản. Việt Nam Cộng hoà chỉ bình định được vùng này từ khi có sự tăng viện của quân đội Ðại Hàn, với lối chiến tranh cứng rắn và đôi khi tàn khốc mà quân ta không nỡ thi hành đối với đồng bào mình (dù rằng đồng bào này cũng cầm súng cho kẻ địch!).

Thủ tục nhập trại đầu tiên là một màn kiểm soát tư trang rất chặt chẽ. Dù đã được các anh em đến trước tìm cách ra hiệu cho biết là chúng sẽ vét sạch những tài sản, thực phẩm, thuốc men…. chúng tôi vẫn không sao tìm cách dấu diếm được. Trong khi ngồi chờ đến phiên mình, ai có thứ gì có thể ăn thì cho vào miệng, nhai nuốt ngấu nghiến. Thứ không ăn ngay được như nước mắm, mỡ, … thì tìm cách đổ đi với tâm niệm “tao không ăn được, thì cũng không để cho chúng mày dùng.” Sau màn khám xét, người tù khi đi ra khỏi căn phòng chỉ còn trơ lại vài bộ áo quần tù rách rưới đóng thêm nhiều dấu “Cải Tạo” nham nhở trên lưng, trước ngực. Chúng thu tất cả, từ chiếc chén, đôi đũa, sách vở, giấy tờ, cái võng, toàn bộ lương thực, thuốc men. Chúng nắn bóp rất kỹ từng ngăn túi, vạch cả mồm miệng, hậu môn ra tìm xem còn dấu gì không.  Sau đó, khi được đưa về phòng giam, chúng mới dẫn lần lượt từng anh ra đống rác, cho nhặt những bình nhựa dẽo (vốn dùng đựng nước mắm, tương chao) về cắt miệng để làm chén ăn cơm (xin lỗi quen miệng, nơi đây chỉ ăn khoai mì H-34 thôi). Tên trưởng trại là Thân Như Yên, trung tá công an, một người địa phương Phú Yen, gầy còm, khô khan, khát máu mà chúng tôi đặt tên là Cốm dẹp. Ngay từ phút đầu, y gọi tên những người tù có tiếng là cứng đầu đứng dậy và dằn mặt: “Liệu hồn, các anh sẽ bỏ xương nơi đây…”

Trại có 5 phân trại, gọi tên theo vần A, B, C, D, và E. Phân trại A dành cho đám tù Việt Nam Thương Tín, là những người đã chạy tới dảo Guam khi miền Nam thất thủ, và tranh đấu đòi trở về, được chúng tổ chức tiếp đón, ca ngợi rồi sau đó, đưa tuốt vào trại tù sau khi đã tước đoạt toàn bộ tiền bạc, tư trang. Những người tù VNTT tương đối ngoan ngoãn, nên được chúng cho nhiều đặc ân như đi lao động tự giác, thì giờ ít gò bó, được thăm nuôi thường xuyên…. Phân trại B, cách đó chừng 5 cây số, giam tù hình sự chung thân, thuộc loại giết người cướp của hiếp dâm. Tại đây có một số cán bộ chiến sĩ VNCH, lãnh tụ tôn giáo biệt giam trong một cấm thành nằm lọt giữa trại với những bức tường cao. Phân trại C và D nằm xa hơn, nhốt tù hình sự. Anh em chúng tôi được đưa vào phân trại E, gồm 3 dãy nhà gạch kiên cố. Mỗi dãy dài khoảng 40 mét, chia làm hai căn tách biệt, mỗi căn chứa từ 100 đến 120 người, mỗi người chỉ được bề ngang chừng 4 tấc, không đủ trải tấm chiếu. Chúng tôi phải xoay nghiêng hoặc xoay ngược đầu với bạn để có thể nằm được qua đêm.

Ba tháng đầu tiên trong trại, chúng tôi không ngừng bị khủng bố, không được phép viết thư cho gia đình, tối nào cũng phải sinh hoạt học nội quy, kiểm điểm bản thân và phê bình nhau. Bọn cán bộ thay phiên đi qua đi lại suốt đêm bên ngoài phòng giam để theo dõi xem có ai tụm năm tụm ba bàn tán gì không. Mạng lưới thi đua trật tự gồm những tên tù hình sự hiếp dâm giết người xuất hiện thường xuyên, giương đôi mắt cú vọ nhìn tận sinh hoạt từng anh em chúng tôi.

Chế độ ăn uống nơi đây tồi tệ nhất so với các trại tù chúng tôi đã đi qua, có thể nói tồi tệ nhất trên thế gian. Mỗi bữa ăn chúng tôi được một vài lát khoai mì khô, trên đó cõng vài hạt cơm, với vài muỗng nước mắm thối. Gọi là nước mắm vì không biết phải gọi là gì. Thực ra đó là loại nước nấu từ xác cá mắm hạng bét thải ra chỉ dùng để làm phân. Bọn chỉ huy trại mua về từng tấn cho vào các bồn chứa đầy rác rưởi, dòi bọ. Mỗi bữa ăn, chúng múc ra vài gáo, cho vào chão, đổ thêm muối hột, nấu lấy nước phát cho tù nhân. Của đáng tội, mục tiêu phấn đấu của đảng Cộng sản trong Ðại hội 4 là đến cuối năm 1980 mới có nước chấm cho nhân dân (không hiểu nước chấm là nước mắm, xì dầu hay chỉ là thứ nước mằn mặn…) Xin mở ngoặc nói qua về khoai mì H-34. Trước đây nông dân ta thường ăn khoai mì gòn, là loại có cọng lá màu tím, vỏ lụa cũng màu tím, ăn ngọt và bở. Mì H-34 nhập cảng từ Ấn độ, còn gọi là mì công nghiệp, vì nó dùng để lấy nhựa làm bao bì nylon chứ không ăn được. Hàm lượng chất độc Acit Anhydric rất cao, tích tụ nhiều nhất ở hai đầu củ mì, trong dây tim và ngoài lớp vỏ. Cây mì có cọng lá màu trắng, lớp vỏ lụa cũng màu trắng, và cho năng suất cao gấp 5, 6 lần mì gòn lại đễ trồng trên bất cứ đất đai nào. Việt Cộng sử dụng mì H-34 cho chúng tôi ăn với hai mục đích: vừa rẻ tiền vừa đầu độc cho chết dần những người chúng không dám đem ra pháp trường vì sợ dư luận quốc tế. Ăn mì H-34 lúc còn tươi (hàm lượng chất độc cao nhất) dẫn đến cái chết tức thời, hay ít ra cũng nôn ói đến tận mật xanh. Năm 1979, một đội gồm 30 anh em tù hình sự vì đói nhổ mì luộc ăn, đã có 4 anh chết tại chỗ, số còn lại nhờ cho uống nước đường đã thoát chết. Ăn mì H-34, chúng tôi nhớ lại những câu chuyện võ hiệp Kim Dung. Khi người ta cho vào cơ thể các chất độc một cách tiệm tiến, cơ thể sẽ dần tạo nên sức đề kháng hoá giải chất độc với dung lượng cao hơn. Nhưng hậu quả thì vẫn kinh khủng: cơ thể bệu rệu, khuôn mặt phù thủng, méo mó. Bởi sống cùng nhau hàng năm trời, nhìn nhau hàng ngày, không ai thấy được sự đổi thay này. Mãi cho đến khi được thả về, gia đình, thân quyến mới phát giác ra khuôn mặt mập mạp một cách dị dạng của người tù.

Thời gian này, vì phân trại mới thành lập, chúng bắt chúng tôi thi đua đào mương quanh trại, nói rằng “đào ao bác Hồ, nuôi cá để cải thiện đời sống trại viên.” Thực chất là đào hệ thống mương sâu để phòng ngừa anh em tù trốn trại. Cũng có những dự án đào ao hồ rất lớn bên ngoài để nuôi cá thực, nhưng sau này lấy cá cung cấp cho cán bộ mà thôi. Chúng tôi đã biết quá nhiều về sự lừa bịp của bọn cán bộ Việt cộng, nên bàn nhau làm việc theo phong cách riêng của mình. Chúng tôi chia ra nhóm 3 người. Một người đào và hai người khiêng đất đi đổ. Làm suốt ngày chỉ đào vỏn vẹn mấy tấc khối đất. Chúng tôi thường gọi đùa hai người khiêng ky đất là hai ông từ đi tế đền. Quý vị cao niên chắc còn nhớ. Tngày xưa, trong buổi tế ở các đền, hai ông từ phụ lễ, tay bưng khay trầu rượu giơ cao từng bước chân và chờ tiếng trống “Bùm” mới hạ chân xuống đi một buớc. Chúng tôi cũng đi như thế, dù rằng trên chiếc ky đan bằng tre chỉ vỏn vẹn có một xuổng đất. Bọn cán bộ theo dõi tra vấn, chúng tôi chỉ trả lời ngắn gọn: “đói quá, không làm nổi.” Nhìn anh bạn cuốc đất, tên cán bộ nói mỉa: “anh này lao động hay nhỉ, sáng anh giơ cuốc lên, chiều mới hạ cuốc xuống!” Cho đến khi chúng phải chịu cho gia đình ra thăm, nhưng cũng kể ơn “khoan hồng nhân đạo của cách mạng” là để “các anh có thêm bồi dưỡng, động viên các anh cải tạo tốt, sớm được tha.”

Một chiều nọ, sắp hết giờ lao động, tên cán bộ bước đến bên chúng tôi. Anh Duy Trác và tôi đang làm trò ông từ vào đền. Nó hỏi: “Các anh có làm cho xong chỉ tiêu không?” Tôi trả lời: “chúng tôi cố hết sức, nhưng làm đến đâu thì làm thôi, chỉ tiêu cao quá, không làm nổi.” Nó chỉ lườm rồi bỏ đi. Sau khi nhập trại, tôi được gọi lên nhà bếp. Nơi đây, có tên cán bộ giáo dục phụ trách thăm nuôi, một tên hình sự là trật tự viên; dưới nền đất chỏng chơ hai túi xách nhỏ. Tên cán bộ nhìn tôi soi mói rồi cất tiếng hỏi: “Hôm nay anh lao động thế nào?” Tôi không rõ hậu ý, chỉ nói: “anh em làm sao, tôi làm vậy.” Nó chỉ vào hai túi xách: “Vợ anh lên thăm anh, lẽ ra trại phạt không cho thăm và nhận quà, vì anh bướng bỉnh, ngoan cố, chống đối lao động, chống đối cán bộ. Nhưng lượng khoan hồng của cách mạng, cho phép anh nhận 3 kilo quà, còn gặp mặt thì lần sau, khi nào anh chứng tỏ sự tiến bộ.” Liếc qua hai túi quà, chứa đựng bao tình thương yêu và hy sinh của gia đình, lại nghĩ đến công khó của vợ hiền lặn lội hàng trăm cây số ra thăm mà không được gặp. Uất hận dâng trào trong tim, tôi đứng thẳng nhìn chằm chằm vào mặt tên cán bộ không thèm nói một lời. Thấy không ổn và ngại phản ứng bất tử của tôi sẽ làm nó bẻ mặt, tên cán bộ ra lệnh cho trật tự khám xét túi quà và cho tôi mang về.

Có hai thành phần trong phân trại E: tù chính trị và tù quân nhân chế độ cũ. Tù chính trị là số anh em bị bắt vì tổ chức hoạt động chống đối sau 30-4-1975. Số này có những người thực tình đấu tranh, và có thực lực, đường lối, có những hoạt động cụ thể gây tiếng vang như nhóm Vinh sơn, phong trào nhân quyền, Fulro; ngoài ra cũng có những thành phần phức tạp gồm những người tổ chức ma để tống tiền, tống tình. Họ cũng tự xưng nào là chủ tịch, tổng bí thư, tư lệnh, toàn là giới chức chóp bu của hàng chục tổ chức hữu danh vô thực. Nhưng khi vào đây, được mang danh tù chính trị, đa số họ cũng hòa mình vào nếp sinh hoạt chung với anh em chúng tôi. Chỉ có một số nhỏ lén lút làm bậy. Tù quân nhân thì cao nhất là cấp đại tá, xuống đến tận cấp binh nhì. Chúng tôi đã thực sự đoàn kết và giúp nhau giữ vững tinh thần đấu tranh qua bao lần bị khủng bố tàn nhẫn. Số anh em tinh thần cao nhất là những người bị tuyển lựa từ các trại tù Hàm Tân, các anh trong phong trào nổi dậy đêm Giáng sinh 1978 ở Suối Máu. Nhưng cũng không phải không có một số nhỏ những người được phân loại cải tạo tốt nhờ lao động hăng say và ngoan ngoãn chấp hành nội quy từ các trại khác đưa đến. Sở dĩ có sự pha trộn như thế, là để mỗi kỳ có dịp lễ, tha tù, sẽ có vài anh được thả ra, và bọn cán bộ sẽ có cơ hội rêu rao về “lượng khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước.”

Hoạt động chống đối trong tù cũng có lúc cao trào, lúc thoái trào. Càng bị khủng bố, anh em càng đoàn kết và tinh thần lên rất cao. Những lúc đó bọn ăng ten nín khe, không dám hó hé; ngay cả bọn cán bộ cũng không dám bước qua cổng để vào sân phòng giam. Nhóm anh em trẻ như Nguyễn Tú Cường, Phạm Ðức Nhì, Hoàng Trọng Thủy, Phạm Chí Thành thì tổ chức ca hát các bài ca chiến đấu, chuyền tay các bản tin, các bài viết giáo dục chính trị; Nhóm trung niên như Nguyễn Chí Thiệp, Trần Danh San, Tăng Ngọc Hiếu…. thì động viên, cổ vũ truyền đạt những kinh nghiệm. Anh em chia nhau canh phòng, thông tin, chia sẽ miếng ăn, một lòng đoàn kết nhất trí. Trong những lúc cao trào như thế, chúng lùa vào xà lim hàng loạt những người chúng nghi ngờ và cho là nguy hiểm. Không đủ phòng nhốt ở trại E, chúng đưa vào gửi nhốt ở các phân trại khác, và thời giam nhốt xà lim có khi lên tới hàng nữa năm, không hề đọc lệnh biệt giam. Lúc thoái trào là lúc bọn ăng ten làm việc đình đám rộn ràng nhất; những tên như Dương Ðức Mai, Cao Hữu Vốn, René Nguyễn Viết Hanh, Quang què ra mặt công khai.

Trong trại, cứ vài ba tuần, bọn cán bộ bày trò khám xét tư trang. Mục đích là tịch thu những thứ đồ dùng mà gia đình tiếp tế cho tù. Sống hàng chục năm xã hội chủ nghĩa ngoài miền bắc, đói khổ và thiếu thốn; thứ gì trong miền nam cũng làm cho bọn cán bộ thèm khát. Chiếc muỗng inox, cái cắt móng tay, cây bút máy… đều thuộc loại sản phẩm cao cấp mà chúng chưa hề biết tới. Vì thế mỗi lần khám đồ là chúng tha hồ vơ vét. Chúng moi móc các bao đồ  ăn gửi theo đường bưu điện, ăn cắp đồ hộp, tôm khô, bột ngọt, thuốc lá đầu lọc. Có lần chúng lấy một hộp bơ margarine, ăn thử không hợp khẩu vị, bèn vứt bừa bãi ra ven đường. Một lần trong năm 1981, chúng chuyển từ bưu điện Ðồng Xuân về trại gần hai ngàn gói bưu phẩm. Chúng để miết trong kho để ăn cắp dần. Cho đến khi đọc tên phát quà, chỉ còn hơn hai trăm gói mà thức ăn bên trong đã mục rữa.

Bọn cán bộ đói khát đến độ đáng thương hại. Lần đó, khi có tù trốn trại, hai tên được cử ra tỉnh lỵ Phú yên đi rình ở các bến xe, chợ… Tôi thấy chúng sửa soạn lương thực đem theo gồm khoai mì khô, hai lon muối hột và mấy bó rau muống. Một tên giải thích: “rau muống ban đêm đem phơi sương cho tươi để ăn được lâu. Ra ngoài đó thấy thanh niên đi ăn tiệm mà tủi thân. Chúng tôi chỉ dám bày ra ăn uống khi trời tối không để ai thấy.” Tôi hỏi: “Thế cán bộ không lãnh lương khô à?”, nó đáp một cách chua chát: “Cứt khô thì có!”

Một thứ mà bọn cán bộ bắt đầu làm quen và ước muốn: chiếc bàn ủi. Vào Nam mới biết đến thế nào là áo quần thẳng nếp. Cách hay nhất để có bàn ủi là dùng nhôm nấu chảy và đúc  theo khuôn do bọn tù hình sự có sáng kiến bày ra. Muốn có nhôm, chúng nhắm vào tài sản anh em tù gồm những chiếc lon guigoz, những cái nồi, soong do gia đình gửi vào. Lấy lý do tù nhân nấu nướng mất trật tự, chúng tổ chức tịch thu tất cả những gì thuộc về kim loại.

Một buổi chiều trước giờ điểm danh vào phòng giam, chúng lùa tất cả tù ra khỏi phòng, cho bọn trật tự xục xạo các túi tư trang, gom hết lon, nồi nhôm, inox. Tôi giả đau không ra, nằm ôm chiếc lon guigoz đựng nước ấm nói là đắp lên vết nhức trên vai. Tên cán bộ nhất quyết đuổi tôi ra và cho tên trật tự giằng chiếc lon. Tôi phản đối kịch liệt và ném lon xuống đất, dẫm nát với tất cả lòng căm hận, rồi ném qua hàng rào. Tôi nói thẳng vào mặt tên cán bộ Luật: “Các anh đã cướp bóc cả tài sản chúng tôi, chỉ còn thứ vật dụng sinh hoạt nhỏ bé này cũng không chừa. Tôi không xài được, thì cũng không để các anh xài.” Tất cả anh em tù đều reo lên cổ võ: “đồ ăn cướp, đồ ăn cướp.” Thế là chúng đưa tôi vào xà lim, sau khi lột sạch áo quần trên người, cùm hai chân cứng ngắt vào thanh sắt 12 ly. Hôm sau, chúng đưa tôi ra làm việc lần lượt với tên trực trại, rồi chuyển qua an ninh, sau đó là gặp tên trưởng trại Lê đồng Vũ. Ðối chọi với ba tên này, tôi vẫn khăng khăng tuyên bố việc chúng giam giữ chúng tôi là phi pháp, vì chúng tôi chẳng phải tù binh, chẳng phải tù phản động, chúng tôi là người miền Nam, thi hành luật pháp miền Nam, chiến đấu chống Cộng sản là có chính nghĩa. Tên Vũ gầm gừ: “có chính nghĩa, tao cho mày nằm trong xà lim cho đến rỉ còng.” Trước sự chứng kiến của một số anh em tù đang làm cỏ ngoài sân, tôi đã nhổ nước bọt trước mặt nó; cán bộ an ninh thấy tôi hung hăng quá, bèn kéo tôi đi và nói nhỏ: “Thôi, bớt bớt, sau này làm việc với tôi.” (Người cán bộ này về sau, qua vài lần làm việc được chúng tôi dùng lý luận và thực tế thuyết phục đã phản tỉnh, anh ta đã cùng người chuẩn úy trung đội trưởng vũ trang giúp cho tù trốn trại. Anh ta bị phát giác và bị giam 5 năm ở trại tù Phú yên.)

Mỗi ngày trong xà lim, chúng cho ăn một lần vào khoảng xế trưa. Mỗi bữa ăn là hai lát khoai mì chan ngập trong nước muối thật mặn và chừng hai muỗng nước uống. Cơn khát hành hạ chúng tôi đến điên người.  Ðói, khát, lạnh (vì đang là mùa đông) làm cho tôi kiệt sức rất nhanh. Chiếc cùm quá chật làm rách thịt ở nhượng chân, làm độc; tôi dùng nước muối thoa lên hàng ngày. Lâu dần, chân teo lại, có thể xoay sở được. Các anh nằm bên các xà lim cạnh bày ra ca hát, đọc thơ cho lên tinh thần. Cũng có lúc tôi nhận được tiếp tế do những anh gan lì nhất nhảy hàng rào biệt giam chuồi vào khe cửa những miếng đường tán, chút thuốc lào. Ðây là công lao của Phạm Tuế, khoá đàn em của tôi và các bạn trẻ Tú Cường, Ðức Nhì…. Chẳng bao lâu sau đó, các phòng biệt giam chật ních người. Vì sắp đến lễ Giáng sinh, chúng lựa những người có thành tích đấu tranh cho vào giam trước đề phòng chuyện không hay xảy ra. Thế là chúng tôi, 4 người nằm một phòng, hai người trên một bệ chia nhau thanh sắt cùm. Chúng tôi giải quyết cơn khát bằng cách khi một người bị kêu ra làm việc, cố gắng uống thật nhiều nước và nhúng ướt áo quần, để khi về phòng vắt ra cho anh em khác uống. Có khi chúng tôi phải uống nước tiểu, nhưng tình trạng thiếu nước làm cho nước tiểu cũng quánh lại và gắt vô cùng, tưởng như uống máu của chính mình.

Cơn lạnh của vùng núi rừng miền trung thật khủng khiếp. Sàn xi măng thì ẩm, trên người chẳng có gì che. Suốt ngày đêm chỉ gắng ngồi thu người, ôm gối run cằm cặp.  Tôi kiệt đến mức xuất tinh và tiểu tiện mà không kiểm soát được, cũng không cảm giác được. Hình như ai ở xà lim lâu ngày cũng có thể trở thành nhà triết học. Nằm buồn, khó ngủ, thời gian thì như dừng lại. Tâm trí bắt đầu làm việc. Trước hết là ôn chuyện quá khứ, bạn bè, yêu đương; những kỷ niệm vui buồn đời lính, những ngày tháng gian khổ hiểm nguy nhưng hào hùng. Hết chuyện để suy nghĩ, tôi bắt đầu nhìn chòng chọc vào vách tường, cố hình dung ra những hình ảnh kỳ ảo như khi ta nhìn đám mây vân cẩu. Một con thằn lằn bò chậm chậm bò ra, chạy đuổi bắt những chú muỗi no máu. Thế là thằn lằn trở thành bạn đường để tôi trao gửi tâm sự. Trời ơi, ước chi có tập giấy và cây bút để tôi ghi lại cả trăm ngàn trang tư tưởng. Có lúc quay về nghĩ đến đấng tối cao, lúc thì cầu nguyện, lúc thì than trách. Tôi nhớ cựu đại tá Trung hoa Quốc dân đảng Lý Thành Cầu (năm đó đã gần 80) dạy tôi một câu: “ Na ở chuy, wò mẵn sơ kuo cha rẩn.” (dù bất cứ đâu, ta cũng là một người quốc gia), hoặc “Thien cung mỉ dậu dằn xinh, cầy tha mẫn sẳng cung ma.” (Trời không có mắt để cho chúng nó thành công sao?). Chúa trời ôi, nếu đây là con roi điện để Chúa trừng phạt dân Nam, thì hoá ra bọn Cộng sản này là tay sai của Chúa sao? Cũng có lúc nghĩ rằng Chúa thử thách chúng ta, và ngày mai đây sẽ đền bù xứng đáng cho những ai vượt cơn khổ ải. Tôi đã làm được hai câu thơ, nhặt cây đinh khắc lên vách nhà giam:

Ðời có gian lao mới rạng danh hào kiệt,

Tù không đày đọa sao rõ mặt anh hùng

Sau cùng, gần đến ngày tết, chúng lần lượt thả chúng tôi ra. Lại nói chuyện “khoan hồng cho ra ăn tết, phải thực tâm cải tạo tốt để được sớm tha về.” Tôi vịn hàng rào, lê bộ xương khô từng bước về phòng giam, và thấy quang cảnh hoàn toàn khác lạ. Bước qua khung cửa phòng, thấy một sự im lặng đáng sợ. Khác với trước đây, mỗi lần có người ra khỏi xà lim là anh em kéo đến. săn sóc, kẻ điếu thuốc, nguời viên đường; Lần này chỉ thấy những đôi mắt lén lút trao gửi chút ái ngại, thương cảm. Tôi nhìn thấy một nhúm thuốc lào của ai đó để dưới tấm chăn. Ðến chiều, khi anh em từ lao động về đông đủ, không có cảnh ồn ào như trước kia, mà ai nấy lặng lẽ về chỗ mình, lãnh phần ăn, buông màn nằm im thít. Tôi được chuyển qua đội tù chính trị và được thu xếp chỗ nằm bên người đội trưởng Trần Phương, bên trái là Nguyễn Văn Chẩm, tổ trưởng. Hai người này là thành phần tù gọi là chính trị nhưng thuộc loại được trại tin dùng. Thế là chim bị tách đàn, trói buộc trong cái lồng vô hình nhưng rất chặt chẽ. 

Chuyện là như thế này. Tên phân trại trưởng là Lê Ðồng Vũ, người miền núi Thanh Hoá có lẽ thuộc sắc dân Mường. Khuôn mặt y bèn bẹt vô tri vô giác, trên đó có đôi mắt lèm nhèm và cái miệng mỏng dính, thâm sì trông vô cùng nham hiểm. Chúng tôi đặt tên nó là Lê Văn Nhừ. Nó đúng thuộc con cháu ba đời của Chí Phèo, (cha đẻ của Chí Minh), tượng trưng cho loại người hạ đẳng của xã hội, mang đầy mặc cảm thân phận đớn hèn, nên khi có chút quyền thế là ra tay sinh sát thậm tệ với đồng bào đồng loại. Tên này ít nói, vô học đến nỗi đọc lại lời trong trang sách cũng sai bét sai be. Có lần nó đọc đoạn viết về phát triển nhà ở bên Liên sô. thay vì: “năm nay, có 10000 căn hộ đủ tiện nghi được đưa vào sử dụng,” nó đọc thành “có 10000 cán bộ đầy đủ tiện nghi…” Cũng có lần, vì không biết ngừng đúng nơi dấu chấm câu, nó đã đọc một đoạn văn như sau: “ Nhân dân ta, sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ, đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.” thành: “ nhân dân ta sau khi chiến thắng, đế quốc Mỹ đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.”

Thấy không trị nổi đám tù quân đội bướng bỉnh, Lê Ðồng Vũ dùng cái ăn để lung lạc. Ban đầu, nó bày ra ban văn nghệ, hứa hẹn có cháo gà, có chè bồi dưỡng. Ngày đầu tiên, chúng gọi một số anh em có chút máu văn nghệ lên họp, nấu sẵn một nồi lỏng lỏng mấy cục bột khoai mì với đường mật gọi là chè. Ngoại trừ vài anh vì thiếu quyết liệt đã tham gia để có được một tô chè đầy, còn đa số đều bỏ về, tẩy chay văn nghệ, trong đó có ca sĩ Duy Trác và Tăng Ngọc Hiếu. Ðội văn nghệ phải lấy chủ lực là đám tù hình sự và Việt Nam Thương tín.

Khi anh em chúng tôi còn ở trong xà lim, phong trào chống đối lên rất cao. Lê văn Nhừ bèn đưa một con chiên ghẻ là cựu Trung tá Dương Ðức Mai từ phân trại B ra làm trưởng ban Thi đua trật tự. Người này có một cuộc đời binh nghiệp đầy hào hùng, trên đầu từng đội ba màu nón: màu đỏ của Nhảy dù, màu xanh Lực lượng đặc biệt và màu nâu Biệt động quân. Người này từng làm quận trưởng Ninh hoà, từng làm Liên đoàn trưởng BÐQ. Người này trên cánh tay phải còn vết xâm hình cánh dù và dòng chữ SKY WARRIOR. Nhưng người này đã sớm bán linh hồn cho quỷ đỏ.

Hiểu rõ tâm lý và sinh hoạt của anh em, Dương Ðức Mai thiết lập một hệ thống kìm kẹp tinh vi, với những chủ đề thi đua, sắp xếp nội vụ. Mai tổ chức một mạng lưới ăng ten, tuyển lựa bọn người yếu kém tinh thần sẵn sàng vì miếng ăn và chút ưu đãi mà phản bội anh em. Khi có người phàn nàn rằng bọn trật tự cư xử mất dạy, Dương Ðức Mai không ngại ngùng tuyên bố: “đối với các anh, thế vẫn chưa đủ.”

Có thể nói Dương Ðức Mai từng bước đã thành công trong việc đàn áp tù nhân. Anh em đành phải thu lại, chỉ âm thầm chịu đựng; vì rõ ràng ngày tù thì lê thê, không biết kéo dài bao nhiêu năm, không còn tia hy vọng gì ở sự hưng phục. Còn giữ được tinh thần đấu tranh là vì có chính nghĩa và lòng căm hận, khinh bỉ đối với kẻ thù, chứ khó mong ngày lật ngược thế cờ. Cũng trong giai đoạn này, tin tức bùng nổ về việc Việt cộng bằng lòng cho tù nhân cải tạo ra đi do Hoa kỳ tranh đấu và sẵn sàng đón nhận. Ðó là niềm hy vọng độc nhất và cao nhất của chúng tôi. Nhưng đó cũng là điều làm cho nhiều anh vì quá lạc quan mà gây ra những việc làm ngây thơ, để cho Việt cộng có dịp truy ra hết mầm mống chống đối.

Dương Ðức Mai đã làm cho không khí trại tù ngột ngạt như tôi vừa nói ở đoạn trên. Anh em không còn dám ngồi gần nhau trên hai người. Chẳng ai dám ăn chung với ai, chẳng ai tâm sự với ai. Buổi tối, ở góc phòng chỗ cửa vào nhà cầu, có một ngọn đèn dầu và bóng dáng một tên ăng ten ngồi rình mò. Trong giờ sinh hoạt, có đứa nhìn tận mồm anh em xem thử có hát thiệt hay chỉ mấp máy đôi môi. Một người bị đội trưởng nêu ra là loại xấu, thì không ai dám bào chữa dùm. Chế độ ăn uống cũng được Dương Ðức Mai sáng kiến ra làm 5 thành phần: Loại tích cực 21 kí khoai, loại khá 18 kí, loại trung bình 15 kí, loại kém 12 kí, và tù biệt giam chỉ có 9 kí thôi. Thực tế đã tính luôn vỏ khoai, đất cát mà lại không cân đong đủ như thế. Chiếc bánh bột khoai mì gồm cả vỏ, tim, đất cát… nhỏ bằng bao thuốc lá là phần ăn cho loại trung bình. Người tích cực được thêm nửa cái, khá được thêm một phần tư; loại kém thì cái bánh bị cắt đi một góc mà chúng tôi gọi đùa là cây súng lục. Chế độ ăn như thế phần nào có hiệu quả trong việc đàn áp sự chống đối. Có ai ở tù, chịu đói mới thấy miếng ăn nó quan trọng ra sao. Nó hành hạ cơ thể và tâm lý con người đến mức nào. Nó đày con người xuống tận cùng của lòng tự trọng.

Ngoài những anh có gia đình thăm nuôi đều hoặc gửi bưu kiện hàng tháng, đa số đều ở trong tình trạng dân con bà phước, nghĩa là sống nhờ vào chút thực phẩm của trại và lòng thuơng của anh em khác. Vì thế, nhiều người đã lợi dụng miếng ăn để sai khiến anh em mình, và cũng có kẻ ngày xưa uy quyền nay đã phải hạ mình làm một thứ đầy tớ để đổi lấy miếng đường, chút cơm khô.  Tình trạng thiếu chất rau thật thậm tệ. Ngoài đồng, anh em trồng đủ loại rau; nào cải bẹ xanh, nào rau muống, củ cải… Nhưng trại chỉ cắt nấu khi rau đã già, cải đã lên ngồng, trổ hoa, chín hạt. Mỗi người đuợc phát ra vài cọng rau muống già. Ngày tết có chút củ cải dai như bao gạo chỉ xanh, nhai mỏi miệng rồi nhổ ra như các bà già ăn trầu nhả bã. Mỗi năm chúng tôi được ăn thịt ba lần, mỗi lần một chút xương có dính tí thịt, nước váng chút mỡ. Họ cắt da bò thành từng miếng như lát mứt dừa, nấu lên phát ra cho chúng tôi, ăn vào tưởng như đang nhai vỏ xe đạp. Vì thế, trong khi ra ngoài lao động, anh em phải tìm cách cải thiện. Bất cứ con vật gì nhúc nhích, dù nhỏ đến đâu cũng là tí chất tươi cho vào miệng sau khi nướng sơ qua trên than hồng. Có anh ăn cóc, nhái, ểnh ương; có anh ăn sâu đất, bọ. Thậm chí có anh lượm cả bộ lòng chó mà bọn cán bộ vứt đi đã sình thối về ăn. Hậu quả là ói tận mật xanh, tưởng đã đi luôn về bên kia thế giới.

Trại qui định mỗi ngày, mỗi đội chỉ được hai người khai bệnh. Trong trại có một trạm thuốc với Bác sĩ Lịch trông coi, nhưng chẳng có thuốc men gì ngoài một vườn cỏ cây mà họ gọi là thuốc dân tộc. Bọn cán bộ tịch thu thuốc tây do gia đình gửi vào để xài cho chúng. Anh em ta bệnh gì cũng “iảm thống, xuyên tâm lien”. Sáu năm ở A-20, chúng tôi đã chứng kiến cảnh ra đi đau lòng cuả bao nhiêu bè bạn chỉ vì những chứng bệnh thông thường mà không có sự chăm sóc thuốc men. Những vị từng nổi tiếng như cụ Võ Văn Hải (nguyên Chánh văn phòng của cố Tổng thống Ngô Ðình Diệm), Cụ Lê Kiên, bí danh Bùi Lượng (nguyên Tổng thư ký Tổng công đoàn Tự do), cụ Bùi Ngọc Phương (nhà tỉ phú từng ra tranh cử Tổng thống), Những vị này tuổi trên 70, đáng ra phải được ở nhà giữa sự săn sóc của con cháu trong những ngày cuối đời. Việt cộng đã giam giữ họ và bắt phải lao động khổ sai mà không thuốc men khi đau ốm. Trước khi chết, con cháu bên ngoài chờ không được vào thăm, cụ Phương thèm một cục đường mà không ai dám cho, vì cụ bị cách ly, theo dõi. Các cụ khi chết được bỏ vào trong một quan tài đóng bằng mấy miếng ván giường, sơ sài vài chiếc đinh, hở đầu hở chân, chở trên chiếc xe ba gác lọc cọc trên con đường gập ghềnh đến một nấm mồ không bia gỗ, không thân nhân, bạn bè đưa tiễn, không chút khói nhang cho ấm lòng lúc ra đi về bên thế giới bên kia. Năm 1980, chúng đưa ra xử bắn hai anh sau khi đã biệt giam hàng năm trời. Hai anh như đã chết thật từ lâu, được bạn tù dìu đi như hai bộ xương khô. Khi những viên đạn thù đâm vào cơ thể, dường như hai anh không có cảm giác gì; từ vết đạn chẳng ứa ra nổi một giọt máu. Thiếu Tá cảnh sát Quách Văn Trung cháu gọi chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ bằng cậu ruột, dù thuộc thành phần ngoan ngoãn trong tù, chết vì áp huyết cao. Gia đình ra thăm sau đó hai ngày cũng chẳng được thông báo. Họ chỉ biết được nhờ sự linh cảm khi trên đường về đi qua nơi chôn cất, thấy ngôi mồ mới đắp và trong tâm linh rộn lên tiếng thôi thúc huyền bí nào đó. Phân trại B, nơi tôi được chuyển vào cuối năm 1982 cho đến ngày về 1985, có một số quý vị tu sĩ Công giáo, các chức sắc Cao đài, có Thiếu tướng Lê Văn Tất, có nhà báo Nguyễn Tú. Cụ Tú năm đó đã 72 tuổi, râu tóc bạc phơ, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn. Dù không ai thăm nuôi trong cả chục năm tù, cụ vẫn giàu nghị lực chống chỏi cơn đói thèm và giữ gìn tư cách cao quý. Cộng sản bắt cụ đi lao động khổ sai, nhưng cụ cứ khai bệnh nằm lì ở nhà. Sau cùng chúng đưa cụ ra trước toàn trại kiểm điểm. Cụ đã đứng lên nhận lỗi như sau: “Tôi thực có tội, đã già đến bảy mươi hai tuổi đầu mà không biết lao động là vinh quang, không chịu đi lao động khổ sai …”

Ở các trại khác còn nghe chuyện tù trốn thoát chứ tại Xuân Phước thì con kiến cũng không ra lọt. Ðể phòng ngừa tù trốn trại, bọn cán bộ cấm ngặt gia đình tiếp tế các thực phẩm khô. Những đội tù gồm quân nhân chế độ cũ chỉ được lao động quanh quẩn gần trại; bao quanh là các đội hình sự. Khi xuất trại, dù mưa hay nắng, anh em phải đi chân đất. Mùa hè, cơn nắng miền trung nung cháy con đường đất, bước chân đi như dẵm lên than hồng. Mùa mưa, đường sá ngập bùn lầy lội, trong lúc bọn cán bộ ngồi trong căn nhà lô, ăn uống lu bù, thì anh em tù vẫn phải làm việc. Bọn Việt cộng dùng sự tắm rửa như một ân huệ cho những ai làm đủ chỉ tiêu trong ngày; dù là tắm vội vàng trong một khúc suối đọng, nước quậy lên đen ngầu toàn rác rưởi pha với phân người. Trước khi ra khỏi trại, các đội phải ngồi chờ đến phiên, là lúc bọn thi đua đảo qua đảo lại kiểm soát xem có ai mang theo thứ gì không. Chúng tôi chỉ được mang theo một bình nhựa đựng nước uống mà thôi. Khi nhập trại lại một màn lục soát rất kỹ, xem tù có hái trộm rau trái hay mang vào những vật cấm. Việc xét phòng xảy ra thường xuyên hàng tháng. Tuy vậy trong chúng tôi vẫn có người dấu được con dao, hộp quẹt, giấy mực… Hoá ra chỗ lộ liễu nhất vẫn là chỗ kín nhất. Có lần tôi để chiếc lò than (chúng cấm nấu nướng trong phòng) chình ình ngay giữa sân mà không tên nào phát hiện. Trốn, thì cũng nhiều anh trốn, nhưng thoát thì không. Ða số là bị bắt lại ngay quanh quẩn trong địa phương; Vì dân ở đây họ sẵn sàng báo cho công an để đổi lấy thực phẩm. Ði ra xa thì không phương kế mưu sinh. Ðâu cũng là núi, rừng. Nước thì độc, trái cây không có, thú rừng cũng không. Rừng phía tây chạy ngút ngàn về hướng Phú bổn; rừng phía Nam dẫn vào trại tù A-30 chẳng kém phần dã man; ra Bắc thì lọt vào khu căn cứ du kích cũ của chúng, chỉ thấy toàn những khuôn mặt thù nghịch. Năm 1980, có mười bốn anh em thoát khỏi trại, giết một tên chủ tịch xã người thượng, cướp súng đi về Phú bổn; nhưng sau đó bị du kích Thương truy đuổi và bắn chết hết, chỉ còn Lê Thái Chân bị bắt về chịu án 18 năm. Có lần, một anh bên hình sự trốn về được gần sáu tháng, trốn lên miệt rừng làm rẫy, cũng bị bắt lại. Trại này có đủ cán bộ và thì giờ cộng với sự kiên nhẫn, chúng mò về tận quê nhà người tù, phục kích hàng tháng trời cho đến khi bắt lại mới thôi.

Nhớ lại những ngày đầu tiên, ngay sau khi Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, chúng cho trưng bày những hình ảnh trong trại tù Côn sơn mà chúng gọi là “tội ác Mỹ Ngụy”. Hình ảnh người tù bị nhốt trong những chuồng cọp, bị tra tấn đánh đập… Chúng viết những lời lẽ rất khích động về việc ngược đãi tàn nhẫn do chế độ Việt Nam Cộng hòa hành xử đối với tù phiến cộng. Nhìn kỹ mới thấy những tấm hình đó rất cũ, chụp từ thời còn mồ ma thực dân Pháp, với những người lính cai tù mặc chiếc quần sọt rộng thùng thình, trên đầu đội mũ vải rộng vành của lính viễn chinh. Tất cả những gì xấu xa mà chúng có, chúng đều gán cho ta; còn dành về phần chúng những gì cao quý nhất, tốt đẹp nhất. Thời chiến tranh, chúng ta đã tôn trọng Công ước Geneve về việc đối xử với tù binh. Chúng ta trả chi phí 3 dollars mỗi ngày cho một người tù binh. Họ tổ chức lấy ban kiểm thực, được quyền từ chối những thực phẩm thiếu chất lượng. Mỗi tuần phải cho họ hai bữa ăn ngọt, hoặc chè, hoặc bánh. Ðau ốm thì có cả container thuốc tây để điều trị. Tôi nhớ có lần chuyển tù từ Saigon ra Ðà Nẵng, người tù Cộng sản được phát bữa trưa gồm bánh mì và cá hộp Sumaco hoặc một khoanh chả lụa. Những người này khi được trao trả về Bắc sau Hiệp định Paris có lẽ không dám nói ra sự thực. Vì trong chế độ Cộng sản, ai nói điều tốt cho kẻ địch là phản động. Ðối với tù nhân là cán bộ, du kích miền Nam, tuy không được hưởng quy chế tù binh, có thể bị đánh đập ngay khi vừa bị bắt để tra vấn. Nhưng một khi đã chuyển vào nhà giam, nếu không có hành vi phá rối, cũng được đối xử rất nhân đạo.

Ðúng là ở Xuân Phước không thấy ngày về :

Ðến đây thì ở lại đây,

Ðến khi bén rễ xanh cây, chửa về.

Vài vị linh mục trong nhóm Vinh Sơn, ra toà nhận án 5 năm. Thời gian trôi qua, hết hạn 5 năm, chờ hoài không thấy kêu lên làm thủ tục trả tự do, các vị mới hỏi và được trả lời: “tội các anh lớn lắm, đáng ra phải ra toà nhận thêm án, nhưng cách mạng khoan hồng chuyển qua tập trung cải tạo, khi nào xét thấy tiến bộ sẽ cho về.”

Thế đấy, cái luật pháp xã hội chủ nghiã là thế đấy. Trên một tờ báo Nhân Dân (năm 1983, không nhớ ngày), khi trả lời một câu hỏi về sự khác nhau giữa án tù và tập trung cải tạo, chúng đã giải thích rằng: “Án tập trung cải tạo dành cho những tội mà xét ra chưa đáng phải cho ra toà,” (có nghĩa là nhẹ lắm?), chúng liệt kê một số tội như “Làm gián điệp, âm mưu chống đối, lũng đoạn kinh tế…” (giải thích thế này thì có trời mà hiểu!). Một thanh niên tên là Nguyễn Văn Phước, bị bắt tháng 5-1975 vì tội ngủ qua đêm trong nhà người quen, khi công an đến xét hộ khẩu không có tên, chú bị án tập trung cải tạo 3 năm, mãi cho đến năm 1985 mới được tha về. Những thanh niên tù hình sự miền Bắc khi vào tù cải tạo đều gây thêm án giết người để được ra toà lãnh án 5, 10 năm để còn hy vọng có ngày về hơn là chịu án tập trung cải tạo.

Xã hội chủ nghĩa không có luật pháp. Cộng sản Trung hoa cướp lục địa năm 1949, mãi đến năm 1972 mới có bộ hình luật. Cộng sản Việt Nam nắm quyền từ năm 1945, đến 1982 mới cho ra đời bản dự thảo hình luật. Khi chưa có luật, chúng lên tiếng chỉ trích rằng luật pháp là công cụ của bọn tư bản để áp chế nhân dân. Khi sắp có luật, cũng cái mồm nham nhỡ của chúng lên án quan thầy cũ là Trung cộng (khi đó là kẻ thù không đội trời chung) đã xử oan ức cho hàng triệu người vì không có luật trong hàng chục năm dài, trong đó hàng trăm ngàn người bị giết oan! Lật lọng, lẽo mép vốn là bản chất của Cộng sản. 

Trong những năm đầu thập niên 80, một số cán bộ sau khi ở trong Nam lâu ngày, tiếp xúc được với dân Nam đã phần nào có cái nhìn khác đối với chúng tôi. Họ cảm phục chúng tôi về trình độ, tư cách nên cư xử mềm mỏng hơn. Có cán bộ như anh Ngà, anh Hoà chẳng bao giờ để cho chúng tôi làm việc quá sức. Các anh hàng ngày chạy ngược chạy xuôi kiếm cho chúng tôi giỏ khoai lang, nồi rau muống. Họ muốn trò chuyện và học hỏi nơi chúng tôi. Cán bộ Lương, trong lúc nói chuyện quá trớn, tôi đề cập đến vấn đề giai cấp; anh đã chép miệng thở dài: “giai cấp nghèo khổ vẫn muôn đời nghèo khổ, chỉ có giai cấp lãnh đạo là sướng thôi.”

Một chuyện đáng nói về một người mà đa số anh em đã quá dè chừng và nghi ngờ. Cựu trung tá Việt cộng Huỳnh Cự, sau khi ra hồi chánh với chế độ cộng hoà, đã được cử làm phụ tá bộ Chiêu hồi. Anh ở tù cùng trại, cùng nhà với tôi. Oái oăm thay, tên Thân như Yên, trưởng trại, trước đây là thuộc cấp của Cự. Một hôm nhân đứng gần, tôi nghe tên Yên nói với anh Cự: “Từ ngày anh ra theo giặc, bọn chúng tôi khốn đốn vì anh…” Câu nói này như một bản án nặng nề đè lên cuộc sống tù vô vọng của Cự. Chúng nó cho anh làm đội trưởng, nhà trưởng vì đoán rằng anh sẽ ra sức lập công -tội anh là tội chết mà. Anh chỉ tích cực trong lao động, và những mặt nổi, như sinh hoạt, học tập. Còn báo cáo thầm kín thì không có ai biết được. Lúc mới quen anh, tôi ưa nói chuyện và ít khi cảnh giác. Có lần tôi nói về Hồ chí Minh nhiều điều. Anh khẻ nói vào tai tôi: “ cẩn thận cái miệng, cái mồm; nói gì khác thì cũng còn đường sống, chứ đụng vào lãnh tụ, chúng nó đập chết.” Tôi điếng người, mấy tuần lễ như ngồi trên lửa, chờ chúng gọi ra làm việc. Nhưng thời gian qua khá lâu không thấy gì xảy ra. Tôi biết anh Cự cũng thâm thù Cộng sản,và anh không khi nào hại người cùng chiến tuyến mà anh đã lựa chọn. Anh hiểu Cộng sản, nên biết chọn cho mình cách cư xử đúng mực nhất để sống qua ngày.

Sáu năm ở trại tù Xuân Phước, thấy anh em lần lượt ra về. Ðó là nhờ các phong trào đấu tranh của các hội đoàn, các chính phủ bên trời Tây. Tôi tập cho mình quên đi ngày tháng, thờ ơ với việc đi, ở, hay về. Ba năm sau cùng tôi không tỏ ra mặt chống đối bên ngoài hung hăng như trước nữa., và cũng chẳng thấy nôn nóng mỗi khi sắp đến ngày có đợt tha tù. Qua thư nhà, tôi biết mẹ tôi nhờ chiếc tủ lạnh, hàng ngày bán nước đá cho bà con lối xóm; vợ tôi thì bán gạo đong từng lít vớt vát qua ngày. Con cái thì lớn dần trong sự ngược đãi. Có ưu tư về gia đình cũng chẳng giúp giải quyết được gì. Bao nhiêu bà vợ, vì vô vọng, vì hoàn cảnh cần nơi nương tựa đã đành gạt lệ sang ngang. Tôi còn hạnh phúc biết có người vợ vẫn ngày đêm ngóng chồng, như mẹ tôi thủa xa xưa, một lòng thờ chồng nuôi con khôn lớn. So với cảnh tù không án phạt, cái án tử hình e nhẹ nhàng thơ thới hơn nhiều; vì chết một lần thôi là xong nợ đời. Tù cải tạo cứ dai dẳng nhìn gia đình tan vỡ, nhìn thân xác tiêu hao, ý chí bị bào mòn, đau đớn lắm. 

Nói sao cho hết bao đau thương cùng cực mà cộng sản đã đổ lên cuộc sống chúng ta. Bao gia đình vĩnh viễn không còn thấy mặt người thân mà khi ra đi còn hẹn sẽ về sau 15 ngày cải tạo! Thân phụ tôi bị Việt Minh (tiền thân của Việt Cộng) bắt đi năm 1948 khi tôi vừa lên hai. Người bị đưa ra Thanh hoá, giam ở trại Lý Bá Sơ cho đến 1954 được thả ra theo quy định của Hiệp định Geneve. Nhưng người không về được đến nhà. Cộng sản đã tổ chức đón đường thủ tiêu ngay tại Vinh những người Quốc gia mà chúng e sợ về sau này. Sống trong trại tù của những năm cuối thế kỷ 20 đã khắc nghiệt như thế, thực lòng tôi không thể hình dung nổi cái dã man và cùng cực mà các cụ phải trải qua trong trại Lý Bá Sơ, Ðầm Ðùn ba mươi năm trước đó. Nếu có một địa ngục như lời các tôn giáo thường răn đe, thì chắc hẳn địa ngục đó cũng không sánh được với cái địa ngục mà Cộng sản đã dành cho người quốc gia và những ai không theo chúng. 

Ngày nay đây, hỡi các bạn từng chia sẽ niềm đau thương tủi nhục trong vòng lao lý; hỡi những ai đang sống trong phồn hoa, sung mãn, quý vị nhân danh nhân quyền, tự do, xin hãy hướng lòng về những đồng chí, những đồng bào đang quằn quại trong các ngục tù Cộng sản vì sự nghiệp đấu tranh cho dân chủ, dân sinh, xin hãy làm một điều gì đó, dù nhỏ nhặt đến đâu, ngõ hầu rút ngắn lại các chế độ phi nhân, giải phóng con người, trả lại cho họ quyền sống xứng đáng lúc cả nhân loại đang sửa soạn bước vào thế kỷ 21 tràn đầy hạnh phúc, thịnh vượng.

Vào truyện

Trên khu cải tạo Bù Gia Mập có một con đường đất đỏ dài trên dưới hai mươi cây số, chạy dài từ khu kinh tế mới Minh Hưng, quận Bù Đăng, đi vào sóc Bombo,vòng qua Đức Hạnh, Bù Đốp. Con đường được thiết lập từ thời Đệ Nhất cộng Hoà của Chính Phủ Ngô Đình Diệm với dự tính khẩn hoang lập ấp, thành lập các khu dinh điền, vừa để chế ngự một an toàn khu của phe Cộng Sản VN. Kế hoạch đã bị bỏ dở sau sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng Hoà. Con đường bị bỏ hoang. Nhiều đoạn, cây rừng mọc lan ra che phủ hết,đi dưới đường nhìn lên không thấy bầu trời.. Con đường nắng lên đầy bụi đỏ, mưa xuống lại lầy lội trơn trợt. Đàn bà con gái lặn lội thăm con thăm chồng, tất cả đều phải ba lô trên vai, dép guốc cầm tay mới ráng lết đi được...

Trong truyện ngắn này, người viết xin ghi lại một vài hình ảnh nhỏ bé như một lời tri ân của đứa con đến các bà mẹ, lòng biết ơn của người chồng đến các bà vợ Việt Nam tuyệt vời, một đời vất vả hy sinh cho người thân yêu của họ trong khoảng thời gian cùng quẫn khó khăn nhất của xã hội miền Nam.

Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng.

Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy. Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời.

Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn. Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết. Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy.

Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây?

Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ. Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa. Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ.

Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong. Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày. Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội. Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười. Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý. Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt.

Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa. Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải.

Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ,

Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương

Lặn lội thân cò pha nắng bụi,

Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng.

Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm. Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng:

- Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều.

- Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không.

- Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền. Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng.

Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”. Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì.

Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại. Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư? Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”.

Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ. Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa:

- Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa…

Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng:

- ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút…

Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm. Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé. Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ.

Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối xác xơ.

Càng đi xa Sài Gòn càng thấy sự hoang sơ tiêu điều của những vùng được mệnh danh là vùng kinh tế mới. Thật là thành quả. Giang nghĩ: hoa hôi kết thành quả đắng. Chiếc xe cũ kỹ già nua, bò ì ạch, thở hổn hển. Mãi rồi cũng lết được tới khu kinh tế mới Minh Hưng, điểm đến cuối cùng khi mặt trời đã bắt đầu ngả về Tây. Xuống xe, Giang cùng em và con bước vào một quán nước bên đường. Nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên. Khi còn ở nhà, vì hăm hở muốn gặp chồng để biết đau ốm ra sao, phần vì những lo âu khác, nàng quên đi cái khó khăn này: đường còn xa, phương tiện chuyên chở không có, phải xoay xở ra sao? Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì?

Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại:

- Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được. Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà.

Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con. Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay.

Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc. Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa.

May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về. Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang. Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe.

Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa.

Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo. Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo. Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.”

Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy.

Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch. Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu. Thôi. cứ thế mà làm.

Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc.

Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết. Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì?

Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn. Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu.

Dù mở miệng ra là nêu cao chuyên chính vô sản, ca tụng sự tốt đẹp cũa con người xã hội chủ nghĩa, bản năng tham tư của cán bộ bộ đội ngày càng phát triển mạnh hơn. Càng ở lâu thì càng tham. Khi có lệnh chuyển trại lên rừng, các doanh trại được giao lại cho đơn vị khác, số tranh chưa cắt đủ thay thế tôn, nhưng tôn vẫn được tháo gỡ xuống hết để mang theo. Số tranh có sẵn được giàn trải ra thật mỏng cho đủ che kín mái. Vì vậy, khi hoàn thành, ở trong nhà không khác chi ở ngoài trời.

Khi đơn vị mới tới, làm sao họ ở? Có anh ngứa miệng hỏi. Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này.

Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động.

Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao. Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào.

Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau. Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc.

Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại. Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ.

- Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em.

- Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết.

- Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay. Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em.

Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng. Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi.

Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định.

Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ. Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo:

- Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại. Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng. Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi, bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù. Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong. Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về.

Kế hoạch được tiến hành như dự định. Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã. Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. Nhưng họ không nói gì.

Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống. Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi.

Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?”

- Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi.

Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng. Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ.

Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó.

Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ:

- Em! Con!

Giang thổn thức: “ Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi:

- Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé!

Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi.

Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy. Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy:

- Anh kia là cải tạo phải không? Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì?

Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt:

- Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ.

Giang cũng đỡ lời:

- Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà!

Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ:

- À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi. Chị có cần tôi giúp một tay?

- Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ.

Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”.

Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ:

- Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa? Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình. Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao?

- Đã lâu không gặp anh. Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu.

Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?”

- Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn. Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về.

Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán.

Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó:

Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng. Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào!

Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên:

- A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ.

Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt. Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải…

Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?

(Để nhớ đến bạn tôi nhà văn quân đội Dương Hùng Cường đã bị CS bức hại trong lao tù)

1.

Vũ đi dọc con suối nhỏ chạy giữa khu rừng tre già ở Vùng Kinh Tế Mới Cẩm Đường (Long Giao, Long Khánh) mong tìm kiếm được ít rau tàu bay, cải trời để làm món ăn độn cho cả bọn, vì hôm nay tới phiên anh "đi chợ" (1)...

... Kinh nghiệm tù đầy trong "vòng tay nhân ái" của đảng CS đã cho bọn anh những bài học quý giá; nếu không muốn bị chết vì đói khát dưới sự lao động khổ sai và sự quản lý hà khắc của cai ngục thì phải biết đoàn kết, phải biết kết hợp thành từng nhóm nhỏ từ 2, 3 người để giúp đỡ lẫn nhau trong lao động cũng như sinh hoạt và ngay cả trong công việc tìm kiếm những cọng rau lang, rau muống, củ sắn, củ khoai... làm đầy cái bao tử vốn thường xuyên lép kẹp. Rừng tre già với những thân tre cao vút, oằn xuống.

Tàn tre đan kín không gian, che khuất ánh sáng mặt trời chói chang bên trên, khiến khu rừng trở nên âm u, hoang vắng lạ lùng. Tiếng gà rừng xao xác, xen lẫn với tiếng kẽo kẹt của thân tre cọ vào nhau sau mỗi cơn gió thoảng. Tiếng chặt tre chan chát xen lẫn với tiếng reo hò của đám cải tạo mỗi khi chặt được một cây tre tạo thành những thanh âm hỗn độn, ồn ào, vang động cả một góc rừng. Vũ men theo triền suối, nước trong vắt chảy lững lờ. Một vài con cá lòng tong bơi tung tăng ngược giòng nước tạo thành những vệt sóng nhỏ lăn tăn.

Vũ nghĩ, nếu giờ này mà có một cái vợt, anh sẽ vớt được những chú cá lòng tong bé tí kia, và đến chiều, cả bọn anh sẽ có một nồi canh rau với chút mùi tanh tanh của cá. Nghĩ đến đó tự dưng anh nuốt nước miếng... Anh chợt cười vu vơ, xua đuổi ý nghĩ vừa thoáng hiện trong đầu. Đời sống khổ ải trong lao tù khiến con người trở nên ti tiểu; suốt ngày chỉ nghĩ kế làm sao đánh lừa được cái bao tử bằng những cọng rau, những mẩu khoai, mẩu sắn nhặt nhạnh được trong khi lao động.

Vũ dừng lại lắng tai nghe ngóng. Dường như có tiếng nói cười lao xao vọng lại từ bên kia bờ suối. Anh thận trọng nghe ngóng, dò xét để đi đến quyết định có nên sang bên đó không? Đây là một chọn lựa khôn khéo mà bắt buộc bất cứ người nào được cử "đi chợ" cũng phải đắn đo, thận trọng vì có thể đó là tiếng nói cười của bọn vệ binh canh tù. Lớ ngớ để chúng tóm được thì ốm đòn; có khi dám xơi cả băng AKAMICINE (2) vào người không chừng; nhưng cũng có thể đó là tiếng nói cười của đám tù nhân Trại khác cùng lao động ở khu vực này...

Nhưng béo bở nhất là gặp được những người dân đi làm rừng, làm rẫy; đúng là trúng số, vì sẽ có cơ hội mua được tí đường, tí đậu, tí thuốc lào... Đôi khi có anh còn mua được cả lít "máu nhân dân" (3) hoặc ký thịt, ký cá v.v... về để dành ăn cả tháng.

Anh còn đang phân vân không biết có nên băng qua con suối sang bên kia không, thì loáng thoáng nghe trong gió thoảng tiếng nói vọng đến: "Tụi mày biết không? Lúc tao ở Không Quân..." Giọng nói quen thuộc lắm anh nhớ là đã nghe tiếng người này nói ở đâu đó một đôi lần thì phải nên chắc là quen với anh. Vũ mỉm cười quyết định bước sang bên kia bờ suối.

2.

Người đàn ông gầy guộc, làn da sạm đen, hai má hóp lại và khi cười để lộ hàm răng có những chiếc răng cửa bị gẫy. Anh ta nằm ngửa dưới tàn một cây "cám" lớn. Chung quanh anh, lố nhố những người tù quần áo vá chằng, vá đụp đang kẻ đứng, người ngồi nghe anh nói chuyện. Chiếc điếu cầy lỏng chỏng trên nền đất. Trong trại tù thì chiếc điếu cầy là hình ảnh quen thuộc lúc nào cũng đi sát với cải tạo như vũ khí bên mình, chẳng thế mà có nhiều anh ví von là đeo Bazôka đó sao? Tiếng nói của người đàn ông sang sảng, ánh mắt sáng và khuôn mặt cương nghị khiến Vũ nhớ đến một người bạn thân của một thời xa xưa: Dương Hùng Cường, tức Dê Húc Càn, nhà văn Quân Đội ở binh chủng Không Quân QLVNCH, tác giả của Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng... Vũ mạnh dạn bước về phía những người cải tạo đang quây quần nói chuyện. Người đàn ông ngồi bật dậy như giây lò so, gọi:

- Vũ! Mày phải không? Lại đây.

- Sao "ông" thay đổi nhiều quá vậy? Ở Trại nào ?

Vừa hỏi, Vũ vừa đưa mắt ngầm chào những người bạn chung quanh Cường. Từ lâu, mặc dù chơi với anh, nhưng Vũ vẫn có thói quen gọi anh bằng "ông", vì Cường lớn hơn Vũ khoảng 5, 6 tuổi gì đó; nhưng vì cùng là đồng nghiệp trong giới viết lách, văn nghệ văn gừng, báo chí; hơn nữa hai người lại chơi thân với nhau; nên trong đối xử Cường vẫn coi Vũ như một người bạn cùng trang lứa; ngược lại Vũ vẫn coi Cường như một người anh. Cường có thói quen gọi bất cứ người bạn thân nào cũng bằng mày, tao; nên Vũ cũng không ra khỏi cái thói quen thân tình đó.

- Mẹ kiếp! Mày thì có hơn gì tao ? Cũng thay đổi như bất cứ thằng tù nào. Vào đây mà mày không thay đổi, cứ phây phây mập mạp là làm hỏng kế hoạch của đảng và nhà nước mất. Tao ở T.11, L.2. Còn mày? Cường hỏi. Anh vẫn giữ lối nói ồn ào, dí dỏm ấy.

- T.5, L.1

- Mày có gặp thằng nào "phe ta" không? Tao chẳng gặp thằng nào cả.

Vũ đáp:

- Có. Thằng Trần Ngọc Tự (4), Nguyễn Đăng Thạch (5), Nguyễn Thanh Trang (6) ở T.5 chung với tôi. Nguyễn Nguyên Phương (7), Phí Ích Bành (8), Nguyễn Đức Quang (9), Dương Kiền (10), Dương Cự (11) ở T.1; Đỗ Kim Bảng (12), Đào Văn Khánh (13) ở T.3, Khả Năng (14) ở T.2 và khi ở Phú Quốc gặp Nghiêm Phú Phát (15) và Võ Thế Hào (16)...

Nói xong Vũ cầm chiếc điếu cầy rít một hơi. Những sợi thuốc lào Lạng Sơn chính hiệu, vàng óng, được cắt thật nhuyễn đưa anh vào cơn say ngầy ngật, tê dại. Dương Hùng Cường quay sang giới thiệu Vũ với đám bạn bè anh đang bu chung quanh:

- Đây là thằng Vũ, đồng nghiệp làm báo của tao. Thằng này nhiều tài vặt lắm viết văn cũng được, làm thơ nghe cũng khá, đặc biệt nó chẳng học trường vẽ mà vẽ cũng có nét lắm... Trong đám viết lách tao chịu thằng này nhất vì nó thẳng thắn, không lươn lẹo, quanh cọ Nhiều lúc nó "phang" những búa mà cả tuần sau thằng bị phang mới biết, mới hiểu. Đau không chịu được... Như hôm Tết Mậu Thân, nó phang thằng Cả Quỷnh, Giám Đốc Trị sự của tờ báo nó đang làm ngay trên tờ báo Xuân; vậy mà mãi sau Tết con nhà Cả Quỷnh mới biết. Đau không để đâu cho hết đau. Bọn làm báo tụi tao thằng nào cũng căm mấy ông chủ báo keo kiệt, hà tiện mà chẳng làm được gì, chẳng dám lên tiếng; chỉ có thằng này hiên ngang phang cả nhà thằng Quản Đốc tờ báo mình đang làm trên báo nhà; mà lại là báo Xuân nữa mới đau điếng. Dường như lúc đó mày làm chung với thằng Viên Linh (17) phải không?

- Ừ! Nhưng Viên Linh đã rời tòa soạn vì xích mích với Cả Quỷnh. Bấy giờ chỉ còn Anh Hoàng Sơn và Đạm Phong...

- Mày có nghe tin tức gì của thằng Nguyên Vũ và Du Tử Lê không?

- Không!

- Tao nghe mấy thằng nó nói, chính mắt bọn nó trông thấy thằng Du Tử Lê bị chết ở chân cầu Thị Nghè. Có thằng còn quả quyết nhìn thấy chiếc xe Vespa của nó nằm lật gọng ở lề đường. Còn thằng Nguyên Vũ thì có đứa nói với tao là đến chiếu ngày 30/4/75 còn gặp nó ở Sàigòn; mãi ngày 2/5/75 nó mới lần mò ra Vũng Tàu và "tếch" ở đó. Tao thích tính thằng Nguyên Vũ, nó chơi chí tình với bạn bè, hơi màu mè một chút nhưng không thủ. Có tiền là xả láng... Mày nhớ bữa tiệc lột lon ở Trung Thành Quán ngày nó giải ngũ không? Vui quá hả mày?

- Ông nghe những tin đồn về Phách và Chiêu (18) ở đâu vậy ? Nhiều khi chỉ là những tin đồn nhảm thôi. Sau ngày đứt phim, thiếu gì những huyền thoại! Vũ đáp.

- Ừ, tao cũng nghĩ thế.

Nỗi mừng vui xôn xao trong lòng; Vũ không thể nào ngờ gặp lại Dương Hùng Cường trong hoàn cảnh tù đầy này. Hai thằng ngồi nhắc nhở nhau về những kỷ niệm của thời làm báo; nhắc đến bạn bè, đứa ở, đứa đi mà ngậm ngùi. Cường thở dài:

- Chắc chẳng có dịp gặp lại bọn nó quá! Mày có tính gì không?

- Tính toán gì được ông? Bây giờ còn chưa biết sống chết ra sao; cứ được ngày nào hay ngày đó đã.

- Ừ! Đành vậy. Mày còn trẻ. Ráng sống mà về. Còn tao bệnh hoạn hoài. Không biết có ra được không?

- Hai Trại ở xa nhau quá; chứ nếu không tôi tìm cách gửi cho ông ít thuốc tây. Vũ nói.

- Mẹ kiếp! Làm sao mà gặp được? Hôm nay đúng là may mắn, tao không ngờ gặp lại được mày. Tao mừng lắm. Nhất là biết tin tức của một số bạn bè... Để tao gói cho mày ít thuốc lào và ít đường thẻ tao vừa mua được của người làm rẫy.

3.

Sau lần gặp gỡ tình cờ ở khu rừng tre Cẩm Đường, Vũ không gặp lại Dương Hùng Cường nữa; dù anh cố tình dò hỏi các anh em bên trại T.1 và T.3 là hai trại kế cận với T.5 của Vũ; nhưng không có kết quả gì. Vì dù ở trong cùng một Liên Trại (19) gặp được nhau đã là khó, huống gì Cường ở Liên Trại L.3, còn Vũ ở Liên trại L.1... Khi về đến Trại, Vũ mang niềm vui bâng khuâng vì gặp được bạn cố tri trong hòan cảnh khốn cùng nhất.

Vũ kể chuyện gặp gỡ Cường cho Trần Ngọc Tự nghe khiến Tự cứ tiếc hùi hụi là đã né không đi rừng hôm đó nên không được gặp Cường, vì Tự và Cường cùng phục vụ trong tờ báo Lý Tưởng của Binh chủng Không Quân. Bẵng đi cả năm sau, Vũ chẳng có cơ hội nào gặp lại Cường và cũng không nghe bất cứ tin tức gì về Cường nên không biết anh còn bị giam ở T.11 hay không?

Trần Ngọc Tự thì đã bị chuyển ra ngoài Bắc trong đợt chuyển một số lớn anh em cải tạo thuộc thành phần "ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân" như An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị... bị cho là nguy hiểm nên phải đầy ra núi rừng Việt Bắc vào đầu năm 1977. Cái lý do Tự bị đưa đi Bắc chỉ vì anh đã khai cấp bậc và chức vụ là: Trung úy Chiến Tranh Chính Trị, Thư ký Tòa soạn Tập san Lý Tưởng Không Quân. Bọn VC vốn ghét An Ninh, Tình Báo và Chiến Tranh Chính Trị, mà Tự lại khai là Thư ký Tòa soạn Tập san Lý Tưởng Không Quân; bọn VC ngu dốt cho là anh có nhiệm vụ soạn tài liệu về lý tưởng cho Không quân chống cộng. Hơn nữa trong một lần học tập chính trị, Tự đã phát biểu một cách văn hoa là: "Thưa các bạn, xuyên qua quá trình lịch sử VN cận đại, đảng CSVN xuyên suốt sợi chỉ hồng..." Tên quản giáo VC ngồi theo dõi buổi học tập đã chặn anh lại và "giáo dục những kẻ lầm đường lạc lối" (20) như sau:

- Anh Tự. Anh là một người cực kỳ phản động, vào đến đây rồi mà anh vẫn còn tiếp tục chống phá cách mạng bằng cách dùng thủ đoạn chiến tranh tâm lý để tuyên truyền xuyên tạc đường lối của đảng và nhà nước ta; đổi trắng thay đen làm suy yếu đi cái tính chất vĩ đại thần thánh của đảng CS tạ Đảng CSVN là một đảng vĩ đại với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt và vĩ đại của Bác, nên đã chiến thắng được 3 tên đế quốc sừng sỏ đó là Thực dân Pháp, Phát xít Nhật và Đế quốc Mỹ; đã dẫn dắt đến chiến thắng ngày nay, giành được tự do, độc lập. Đánh bại Đế quốc Mỹ và phá tan bộ máy chiến tranh khổng lồ của Ngụy quân, Ngụy quyền Sàigòn. Vậy mà anh dám xuyên tạc lịch sử VN là cận đại Lịch sử VN chỉ có vĩ đại chứ làm gì có cận đại? Đảng CSVN với biểu tượng là lá cờ đỏ rực rỡ thì anh xuyên tạc ra là sợi chỉ hồng là thế nào?

Cả Tổ đã không nhịn được cười trước sự lý luận ngu dốt và sự hiểu biết nông cạn của tên cán bộ VC. Chính vì vậy mà y đã ghim Tự vào trong hồ sơ đen của những người ngoan cố chống đối; và hậu quả là trong đợt chuyển trại lần này nhằm đem những tên nguy hiểm ra Miền Bắc, nơi có điều kiện giam giữ khắc nghiệt hơn.

Hôm Tự đi, Vũ đưa tiễn ra tận cổng trại, một đoàn người tiễn đưa bịn rịn. Tự cười toe toét, đưa tay sửa lại gọng kiếng cận thị nói:

- Kỳ này tớ lại có dịp thăm lại Ninh Bình quê tớ rồi. Vũ nhét vào tay Tự mấy vần thơ anh viết tặng Tự và dặn "...Đọc xong thì đốt đi!"

Tiễn bạn lưu đầy đất Bắc

(Tặng Trần Ngọc Tự)

Mày đi nặng gánh lao tù

Gió mưa Việt Bắc mịt mù từ đây

Còn tao heo hút chân mây

Khổ sai, lao dịch dưới tay vượn người

Mày đi, môi vẫn mỉm cười

Cỏ cây rũ rượi khóc lời chia xạ..

(Viết tại Long giao 1977 - VUG)

4.

Đến cuối năm 1977, khi mặt trận vùng biên giới Việt - Miên trở nên sôi động, tình hình chiến sự không còn ở mức va chạm nho nhỏ vì hiểu lầm nhau nữa mà chuyển sang mức độ giao tranh lớn. Khi ấy tình nghĩa của hai nước "CS xã hội chủ nghĩa anh em đời đời bền vững" Việt Miên đã tan vỡ sau khi tình hữu nghị Việt - Hoa đã biến thành thù hận. Mặt trận ở biên giới phía Bắc đã khiến cho "tên đàn em phản trắc Bắc Việt" phải nghĩ đến chuyện thanh toán "tên đàn em phản trắc" Khmer. Khu vực Liên Trại L.1/ Trại giam Long Giao được lệnh giải tán, dồn tù cải tạo sang Liên Trại L.3 để lấy khu L.1 trống làm chỗ huấn luyện tân binh cho lực lượng SPK.

Lực lượng Cách Mạng Giải Phóng Kampuchia là con đẻ của CSVN. Chúng lập ra Lực lượng này gồm một số lớn là đồng bào Việt gốc Miên ở vùng biên giới Gò Dầu Hạ, Vĩnh Bình, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Châu Đốc... bị VC lùa bắt dồn về L.1. Chúng bắt đủ mọi thành phần dân chúng, người già, trẻ em, đàn bà...không từ một ai; tất cả những người sống ở những vùng giáp ranh với Miên đều chúng bắt lùa vào các trại thuộc Liên Trại L.1, mà chúng đã dụ dỗ họ là chở đi tị nạn, tránh sự tấn công sát hại của người Miên. Ngay khi vào Trại, chúng liền lập thành đội ngũ, phát quân phục bộ đội và cho tập tành thao diễn cơ bản. Xen lẫn vào đám dân lành này là những cán binh VC được cài vào để nằm chung trong đội ngũ Lực lượng SPK, chuẩn bị cho kế hoạch xâm lược Kampuchia.

Bọn tù cải tạo như Vũ nhìn thấy cảnh những người dân lành bị lùa vào trại tập trung như một bầy gia súc mà thương hại cho họ vô cùng; có những em bé mũi dãi còn chảy lòng thòng đói ăn mặt mũi vêu vao; có những bà mẹ trẻ, bồng con còn đỏ hỏn trên tay; có những cụ già móm mém tóc bạc da mồi... họ chẳng biết gì về chiến lược lớn của đảng nên khóc lóc, kể lể, phản đối đòi về quê hương xứ sở thì bị bọn cán bộ canh gác đánh đập tàn nhẫn... Bọn Vũ thấy vậy thương hại thường nhín phần ăn thiếu thốn của mình ném sang cho họ. Nhất là lúc này đang là mùa thu hoạch lúa, ngô, khoai, sắn, nên bọn Vũ có "chôm" (21) được nhiều lương thực cất giấu dự trữ phòng khi đói. Bây giờ được dịp cứu đói mấy người dân lành bị VC bắt ở vùng giao tranh với Miên lùa về đây...

Các tù nhân cựu quân nhân VNCH thuộc Liên trại L.1 bị lùa sang Liên Trại 3, họ dồn các trại lại với nhau: Hai trại T.2 và T.5 dồn chung vào trại T.13 ở sát hàng rào trại T.11; Hai trại T.3 và T.1 dồn vào trại T.12. Ngay buổi chiều hôm ấy, bên hàng rào trại T.11 và T.13 đã trở thành cái chợ trời ồn ào. Tù nhân hai trại túa ra hàng rào tìm bạn bè, thân thuộc. Tiếng kêu réo nhau vang động cả một khu vực. Dịp này Vũ cũng gặp lại một số bạn bè cũ như Dương Hùng Cường, Trần Quan Điêu (22), Đoàn Đức Thuận (23), Trần Văn Quốc (24)...

Vũ và Cường đứng bên hàng rào vừa trò chuyện, vừa thông báo cho nhau tất cả những diễn biến sau hơn một năm đứt liên lạc. Thôi thì đủ thứ chuyện... từ chuyện tiễn Trần Ngọc Tự đi Bắc, đến chuyện Thanh Trang, Nguyễn Đăng Thạch được thả về... miên man mãi đến tối mịt.

Vũ ném sang cho Cường mấy cuốn truyện mà anh giấu được trong Trại. Suốt thời gian này, Vũ được anh em đồng tù gọi đùa là "Thư Viện Quốc Gia" vì cất giấu nhiều sách chống cộng được xuất bản từ trước năm 1975, và bí mật chuyền tay cho anh em trong trại đọc; dĩ nhiên chỉ chuyền trong số những người thật thân thiết và tin cậy được. Trong số này có các quyển của Djilas (25), Georghiu, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan v.v... anh đã chuyền sang cho Cường đọc. Một hôm gặp nhau ở hàng rào, khi trả lại cho Vũ quyển Giờ Thứ 25 (La Vingt-Cinquième Heure) của Georghiu, Cường nói:

- Mẹ kiếp! Bây giờ đọc lại mấy quyển sách này mới thấm thía cái cảnh tù đầy triền miên, đi hết trại tù này sang trại tù khác của anh chàng Moritz. Mình thì cũng vậy. Có khác gì đâu? Cũng chuyển hết trại này sang trại khác, cũng khổ như chó...

- Ông có xem cuốn phim đó chưa? Thằng Anthony Quinn đóng vai Moritz sao mà hay thế. Vũ nói:

- Có. Tao chịu nhất cái scène nó phải diễn xuất nửa cười nửa mếu của anh chàng Moritz khi hai thằng phóng viên phỏng vấn, chụp hình...

Ngày và tháng cứ trôi đi hờ hững, những người tù sống chen chúc trong các trại T.11 và T.13 Long Giao, hàng ngày vẫn bị đầy ải trong các công tác lao động khổ sai. Trại L.1 cũ nơi Vũ bị giam sau một thời gian giam giữ những người Khmer Krôm (người Việt gốc Miên), bây giờ lại nhốt thêm những người Khmer chính gốc bị bắt ở những làng giáp ranh biên giới đem về và họ cũng được cấp phát quân phục bộ đội, hàng ngày cũng ra sân tập diễn hành và cơ bản thao diễn (VC sau này xử dụng họ để núp dưới chiêu bài là Lực Lượng SPK để tràn sang Kampuchia cướp chính quyền của bọn Pon Pot và Ieng Sari). Số tù Miên mỗi ngày một đông ở xen lẫn với đám bộ đội VC hàng ngày cứ đứng dọc hàng rào chờ nhóm tù cải tạo đi lao động về để ngửa tay xin củ sắn, củ khoai đám tù mót được ngoài ruộng, ngoài rẫy.

Lại sắp đón một cái Tết nữa trong tù, Tết Mậu Ngọ... và cũng là thời điểm sắp đến hạn 3 năm tù mà trước đây VC thường cho tù nhân học tập về cái mốc để học tập cải tạo tiến bộ. Nhân dịp này Trại tổ chức một đợt học tập nhằm trấn an sự nôn nóng của một số tù nhân nhẹ dạ ngây thơ tin vào những hứa hẹn của VC.

Đa số tù cải tạo đã quá ê chề với những lời nói của VC nên trong trại họ thường nhắc nhở nhau câu nói của Ông Nguyễn Văn Thiệu, cựu Tổng Thống VNCH: "Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm" nên anh em thường bỏ ngoài tai những tuyên truyền láo khoét của cán bộ cai tù. Vì vậy khi CS đưa ra chiêu bài cái mốc học tập cải tạo 3 năm, anh em chỉ cười và an tâm với cái mốc ở tù "mút mùa lệ thủy" cho nó chắc. Tiêu đề của đợt học tập kỳ này là: "Củng cố niềm tin vào đảng CS và hạ quyết tâm học tập cải tạo cho đến khi nào tiến bộ thì về". Cái tiêu chuẩn mơ hồ "đến khi nào tiến bộ thì về" là một cái bánh vẽ nhằm trấn an, lừa mị những người ngây thơ, ngu dốt chứ chẳng gạt được ai. Nhiều người khi trước vì quá tin vào lời hứa hẹn học tập 3 năm nên đã tích cực lao động hùng hục, đoạt nhiều thành tích xuất sắc, được biểu dương trước Đội, trước Trại và trước Liên Trại...; trong sinh hoạt hàng ngày thì tích cực đấu tranh phê bình bới móc người khác. Họ nghĩ rằng như thế là học tập - thật là tội nghiệp cho hai chữ học tập vô cùng - nghĩ rằng như thế thì sẽ chóng được thả về...

Nhưng nay được học về Củng cố tư tưởng họ sinh ra bất mãn, căm phẫn; vì thế để cho số này bớt uất ức, trong một buổi lên lớp ở Trại T.11, Cường đã đứng giữa hội trường lớn tiếng chất vấn giảng viên về sự thiếu thành thật của bài học về cái mốc cải tạo 3 năm và bài học mới về củng cố tư tưởng quyết tâm học tập lâu dài này mà anh kết án là sai chính sách, lừa mị và gian dối... Tên giảng viên cứng họng trước lý lẽ sắc bén của Cường. Anh em sửng sốt trước lời phát biểu cứng rắn, mạnh mẽ của Cường. Ai cũng nghĩ rằng thế nào anh cũng sẽ bị nhốt vào nhà kỷ luật; nhưng anh chỉ bị gọi lên làm bản tự kiểm điểm rồi được cho vào trại.

Sau khi các Cải tạo viên làm xong Bản Thu Hoạch và hạ quyết tâm tin tưởng vào đường lối chính sách nhất quán của đảng CSVN là giam giữ lâu dài bọn Ngụy Quân, Ngụy Quyền phản động; để an tâm ngồi tù. Toàn thể 3 trại T.11, T.12 và T.13 đều bị giải tán để biên chế sang hai trại T.14 và T.15 ở gần sát hàng rào tiếp giáp với Quốc lộ. Trại 11 và một nửa trại 12 được đưa vào T.14; còn T.13 và một nửa còn lại của T.12 chuyển vào Trại T.15. Cường về T.14, còn Vũ sang T.15. Khi vào Trại, Vũ gặp Dương Cự, Dương Kiền, Châu Kim Thi (26), Khả Năng (14)... cùng ở chung một trại với anh. Về trại mới, Khả Năng được giao làm trưởng bếp lo nấu nướng cho anh em toàn trại.

Đêm thứ hai, ngay sau khi chuyển sang Trại T.15, Vũ lợi dụng đêm tối đã leo rào chui sang T.14 tìm Dương Hùng Cường. Phải mất khá nhiều thì giờ anh mới tìm thấy dãy nhà Cường ở, sau khi dò hỏi nhiều người. Dãy nhà giam Cường nằm gần khu nhà bếp. Đây là những barracks bằng ván thông do Quân đội Mỹ cất lên làm doanh trại đồn trú của Sư đoàn Không Kỵ số 1 từ trước năm 1972. Cũng như tất cả các trại giam khác, tù nhân nằm xếp lớp như cá mòi hai bên, mỗi người chỉ có một chiều ngang vừa đủ thân mình. Sở dĩ Vũ liều lĩnh leo rào sang thăm Dương Hùng Cường là vì buổi chiều, trong khi lao động ngoài rẫy anh được Đoàn Đức Thuận báo cho biết Cường đang bị đau nặng, có lẽ do chuyển trại phải khuân vác mệt quá sức anh chăng? Vì vậy Vũ quyết định vượt rào sang thăm bạn và mang cho Cường một ít thuốc tây.

Cường đang nằm dài trên nền đất, dưới ánh sáng vàng vọt, èo uột của ngọn đèn chai. Trông anh có vẻ mệt mỏi nhiều. Cường mừng rỡ ngồi nhỏm dậy khi nhìn thấy Vũ.

- Làm sao mày sang đây được?

- Nghe nói ông bị bệnh, tôi vượt rào sang xem ông thế nào, nhân tiện mang cho ông ít thuốc tây.

- Tao cảm thấy mệt nhiều. Mấy năm nay cái phổi hành tao muốn chết luôn. Không biết có qua khỏi không?

- Sao ông bi quan quá vậy? Ráng uống thuốc và giữ gìn sức khỏe. Mình phải sống để viết chứ. Phải nói cho hậu thế biết cái thảm trạng của đất nước ngày nay do ai gây ra chứ!

- Ừ! Tao cũng nghĩ như vậy nên cố ráng sống cho qua ngày. Mày cũng biết đấy. Nhà tao chẳng dư giả gì, nên thỉnh thoảng bà ấy mới có điều kiện thăm nom tao. Mấy năm nay tao đâu dám cho bà ấy biết tình trạng sức khỏe suy yếu của tao...

- Thôi! Ông đừng nghĩ ngợi vớ vẩn. Tôi sẽ đi kiếm thêm cho ông một số thuốc nữa. Đừng lo lắng làm gì cho hại sức khỏe. Tôi tin rằng với sự giao thiệp rộng của tôi, bằng hữu sẽ sẵn sàng giúp lại khi cần.

Cường miên man nhắc nhở những kỷ niệm trong đời sống quân ngũ của anh; những kỷ niệm của đời viết văn, viết báo. Cường cũng thổ lộ cho Vũ biết anh có một người bà con rất gần là cán bộ khá lớn ở Miền Bắc, họ đã bảo lãnh cho anh. Mới đây, anh được tên Chính trị viên Trại cho biết anh có thể sẽ được về phép vài ngày do sự can thiệp của người bà con là cán bộ CS nói trên. Có lẽ chính vì thế mà dù hôm học tập về an tâm cải tạo lâu dài anh nổi máu Dê Húc Càn đứng giữa hội trường bắt bẻ tên giảng viên mà chỉ bị làm bản tự kiểm mà thôi.

Ngồi nói chuyện với Dương Hùng Cường cho đến khuya, Vũ chia tay leo rào trở về Trại. Ngày hôm sau Vũ tìm cách gói một gói thuốc tây đủ loại, quyên góp được của bạn bè, ném sang bên kia rào cho Cường.

Một hôm, khi đi lao động về, Vũ được Khả Năng cho biết tin Dương Hùng Cường vừa được đi phép 15 ngày về Sàigòn. Khi đi ngang rào T.15, Cường có nhờ Khả Năng nhắn lại cho Vũ biết...

5.

Ngày tháng trôi qua như chiếc bóng; quay qua quay lại đã đến Tết Nguyên Đán nên toàn thể Trại được nghỉ lao động 3 ngày để vui xuân. VC cũng phát cho tù vài điếu thuốc lá Hoa Mai khét lẹt và một ít thuốc lào. Khẩu phần ăn cũng được thêm tí thịt, tí mỡ to bằng đầu ngón tay cái... Trưa mùng một Tết, Vũ đang ngồi bên hông nhà tán dóc với bạn bè thì Dương Hùng Cường leo rào sang thăm. Hai thằng ngồi trò chuyện bên hiên nhà nơi Vũ quây tấm poncho làm chỗ ngồi ăn cơm cho cả bạn. Vì là ngày Xuân, nên anh cũng vẽ một cành mai trên vách và chưng mấy nhánh hoa vạn thọ. Vũ đã viết hai chữ nho: "Sinh Sinh" trên vách với hàm ý mọi người đều được sinh tồn.

Cường cho Vũ biết anh mới trở lại trại chiều hôm 29 Tết sau khi đã nghỉ 15 ngày phép ở Sàigòn.

Vũ hỏi:

- Sao ông không lặn luôn mà còn trở vào làm gì?

- Lúc đầu tao cũng nghĩ như vậy, nhưng khi về nhà thấy hoàn cảnh gia đình, tao sợ liên lụy đến mọi người nên thôi. Hơn nữa tao cũng gặp người bà con cán bộ VC, họ nói kỳ này tao trở lên trại là về.

- Vậy 15 ngày nghỉ ở Sàigòn ông làm được những gì? Tình hình chung ra sao?

- Mày thấy đó. Nó cho tao 15 ngày phép về Sàigòn để xin một Giấy Chứng Nhận của bất cứ cơ sở nào xác nhận là sẽ thâu nhận tao vào làm, cầm nộp cho Trại thì nó sẽ thả. Vì vậy suốt mười mấy ngày tao chỉ lo chạy đôn chạy đáo gõ hết mọi cửa, đến mọi cơ quan, xí nghiệp của nhà nước xin một chân lao công, tùy phái ngõ hầu được trả tự do. Tao nhớ đến thằng Ngô Công Đức đang có trong tay tờ Tin Sáng, nên mò đến nó. Tao đâu có mơ ước cầm bút viết lách trở lại; mà viết cái chó gì ở cái xã hội này khi người cầm bút chỉ là một thứ mõ làng, một thứ máy móc viết theo toa đặt hàng của nhà nước, nói theo lời nói của đảng, nghĩ theo suy nghĩ của đảng. Tao chỉ cần nhận vào làm thợ sắp chữ, lao công lau chùi, quét dọn v.v... để được thả về.

Mẹ kiếp! Thằng này dã man không chịu được. Tao đợi nó suốt 3 ngày, ngày nào cũng từ sáng đến chiều. Nó cứ cho thư ký ra nói bận, không tiếp. Đến ngày thứ tư, nó để tao chờ suốt buổi sáng mới cho vào gặp. Gặp tao nó cũng giả vờ mừng rỡ, tay bắt mặt mừng, hỏi han đủ thứ chuyện. Rõ kịch! Khi tao cho nó biết tình trạng của tao. Tao không cần phải có công ăn việc làm thật, mà chỉ cần tờ giấy chứng nhận sẽ thâu nhận để nộp cho Trại thì mới được thả về. Thế mà nó từ chối mày ạ. Tức đ. chịu được. Vũ chen vào:

- Ông đến nhờ vả cái thằng phản phúc ấy làm gì? Sao không thử xoay sở mấy chỗ khác?

- Tao lang thang suốt mười mấy ngày như vậy, hết chỗ này đến chỗ nọ. Khi đưa giấy cải tạo là chúng lắc đầu nguầy nguậy, xua đuổi như xua đuổi tà. Thế mới biết tụi nó chèn ép mình, đẩy mình vào tuyệt lộ, cùng đường; coi mình như hủi không muốn giây vào. Ngày thứ 14, tao đang đạp xe lang thang trong tuyệt vọng; bất ngờ lại gặp thằng Hoàng Trọng Miên ở bùng binh chợ Bến Thành. Mày còn nhớ thằng Hoàng Trọng Miên không? Đúng là trời giúp mày ạ! Gặp tao nó hỏi han tíu tít, thân tình lắm chứ không lạnh nhạt đẩy đưa như thằng Ngô Công Đức; và khi nghe tao tả oán về cái vụ chạy đi xin 1 tờ Giấy Chứng Nhận sẽ tuyển dụng làm công nhân viên, nó liền kéo tao vào một quán cà phê lề đường, móc trong cặp ra một tờ giấy đã đánh máy sẵn hí hoáy viết.

Viết xong, cũng lại lôi trong cặp ra một con dấu ịn vào đấy một phát, rồi đưa cho tao. Nó nói:

- Đây là Giấy Chứng Nhận sẽ tuyển ông làm Nhân Viên Hậu Đài của Đoàn Văn Công Thành Phố. Ông đem lên trại nộp cho họ rồi chờ ngày được phóng thích nhé.

Tao kinh ngạc nhìn thằng Hoàng Trọng Miên, rồi nhìn tờ giấy... Thì ra nó là Giám Đốc Đoàn Văn Công Thành Phố mày ạ! Thế là tao có tờ giấy trong tay. Ai ngờ có ngày mình lại làm "gã kéo màn". Mình đã nhố nhăng nhiều quá rồi, bây giờ đi kéo màn cho thiên hạ đóng tuồng cũng vui... - Kể cũng may. Thôi cũng hy vọng ông sớm được về cho chị ấy đỡ lo lắng và ông có phương tiện chữa bệnh. Bây giờ ông nói chuyện tình hình bên ngoài như thế nào? Liệu có sáng sủa không?

Cường kể tóm tắt cho Vũ nghe tình hình xã hội bên ngoài, từ chuyện bọn đầu sỏ Hà Nội hấp tấp gạt bỏ tụi Giải Phóng Miền Nam và bọn tay sai ăn cơm Quốc Gia thờ ma CS; gây nên một làn sóng bất mãn và chia rẽ trong nội bộ đến tình hình dân chúng chống đối ở Miền Nam... và tình hình an ninh chung trong xã hội của VC sau hơn 2 năm cưỡng chiếm Miền Nam v.v... Cường nói:

- Tóm lại, tình hình xã hội thì vô cùng khó khăn vì bọn VC kiểm soát gắt gao về lương thực. Đời sống người dân nghèo khổ. Nhiều nơi nổi lên chống đối bị bọn chúng thẳng tay đàn áp và tiêu diệt một cách dã man. Tin đồn về các ông Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Cao Kỳ thì nhiều, giống như mình được nghe trong trại, nhưng vẫn chỉ là nhữn tin đồn vô căn cứ và khó phối kiểm.

Người ta thi nhau vượt biên nhiều vô số kể; nó đang trở thành một cái mode, một phong trào mà VC không cách nào ngăn cản nổi. Có những thằng vừa ngồi uống cà phê với mình bữa nay, ngày mai đã nghe tin biến rồi. Phe VC trốn đi cũng không phải là ít, chúng từ Hải Phòng chỉ cần đi thuyền buồm là sang đến Hồng Kông dễ dàng. Mày đừng có nản chí; ráng sao về được, bọn mình tìm cách chơi lại tụi nó. Tao đã liên lạc được mấy thằng đệ tử của ông Kỳ, tụi nó còn hăng lắm, còn cất giấu nhiều súng đạn lắm...

Hai thằng ngồi nói chuyện với nhau suốt mấy tiếng đồng hồ. Đến chiều Cường mới từ giã trở về trại T.14. Trước khi về, Cường nhìn trên vách thấy 2 chữ "Sinh Sinh" nên hỏi: "Mày viết phải không? Nét chữ mày vẫn bay bướm lắm. Để tao đối lại nhé". Nói xong, Cường lấy cây bút viết hai chữ "Xuất Xuất" (với hàm ý mọi người được ra khỏi trại) lên vách tạo nên một vế cân đối và ý nghiã: mọi người sống sót và được về hết cả. (27)

Dương Hùng Cường đi rồi mà Vũ còn bâng khuâng ngồi nhìn ra sân nắng. Mắt trời đang ngả dần về hướng Tây, hắt những tia nắng vàng vọt trải dài trên những tàn cây cao. Bất giác thi hứng nổi lên, Vũ cầm bút viết một bài thơ Xuân để kỷ niệm buổi gặp gỡ đầu xuân trong lao tù giữa hai người bạn cố tri:

Sau mấy ngày nghỉ Tết Mậu Ngọ, toàn thể tù nhân hai trại T.14 và T.15 lại bắt đầu lao vào công tác lao động khổ sai dưới sự quản thúc hà khắc của lũ cai ngục răng đen mã tấu CS. Khu vực Long Giao trước kia có 10 trại giam gọi là T. thuộc hai Liên Trại L.1 và L.3; ngày nay chỉ còn 2 Trại phải thu hoạch lúa, ngô, khoai, sắn, bầu, bí, rau... của 10 trại, nên ngày nào cũng phải gánh gồng, khiêng, vác từ mờ sáng đến tối mịt. Khu lao động cách xa trại trên 10 cây số, nên phải đi bộ đến hiện trường lao động, xong lại phải khiêng sản phẩm thu hoạch được về trại nhập vào kho của Hậu Cần.

Sở dĩ chúng giữ lại 2 Trại T.14 và T.15 là để có nhân công thu hoạch lúa, ngô, khoai, sắn nhập vào kho trước khi chuyển họ đi nơi khác. Các anh chàng tù cải tạo cũng đâu có dại dột gì, đoán biết được âm mưu của CS, nên khi thu hoạch thường lén cho dân đi mót lúa, khoai, sắn rất nhiều sản phẩm vì có hai cái lợi: một là đỡ phải khiêng về trại nặng nề, hai là cho dân chúng để họ có lương thực cho đỡ đói, bù lại người dân cũng cho lại các anh thuốc hút hoặc đường, kẹo, bánh v.v...

Có những ngày bọn cán bộ quản giáo phải tập họp tù lại để chửi bới vì những đống lúa ngô khoai mót của người dân còn cao hơn, nhiều hơn đống của cải tạo thu hoạch. Từ trên cao nhìn xuống thung lũng vàng rực lúa chín, từng đoàn tù nhân như cả một đàn kiến lớn xúm vào gặm nhấm những cánh đồng lúa vàng mênh mông, trĩu nặng bông và trên con đường nhựa dẫn về Trại Cải tạo Long Giao, từng đoàn tù nhân nhếch nhác mồ hôi, kĩu kẹt quang gánh, gánh lúa về Trại..."gánh lúa về, gánh về, gánh về..."

Ngày xưa trong những ngày mùa thì niềm vui "gánh lúa về" đã được nhạc sĩ Phạm Duy diễn tả trong bản nhạc của anh khiến người nghe cũng cảm thấy vui lây cái vui được mùa; còn đám cải tạo thì chẳng vui chút nào vì họ biết chắc, có gánh lúa về thì họ cũng chỉ được những lát sắn khô chua loét, sượng sùng... Cái độc ác và dã man của VC là ở chỗ đó, bắt người tù lao động cực nhọc, làm ra rất nhiều lúa gạo nhưng không cho họ được ăn gạo mà chỉ được ăn ngô, khoai, sắn... Không chỉ những người cải tạo mới bị chúng bắt ăn độn kiểu này mà cả nước đều bị đẩy xuống đáy vực thẳm giống nhau, đều bị chúng cho hóa thú giống nhau. Có như vậy đảng mới đạt được chỉ tiêu bần cùng hóa nhân dân để khống chế cái bao tử của người dân, bắt họ phải thuần phục theo chúng muốn.

Cường được phóng thích sau tết khoảng 5 ngày. Hôm đó tình cờ Vũ cũng lên cơn "chây lười lao động", nên khai bệnh nghỉ ở nhà phụ Tổ tăng gia tưới rau. Khi anh đang múc nước ở giếng, bỗng nhiên nghe tiếng ồn ào bất thường bên trại T.14; anh ngừng tay đứng xem chuyện gì xảy ra thì thấy tên Chính trị viên đang dẫn Cường đi ra cổng Trại T.14, theo sau là một đám tù bàn tán xôn xao... theo đưa tiễn. Cường mặc một bộ treillis còn tương đối lành lặn, tay cầm một túi xách nhỏ, miệng cười tươi rạng rỡ. Cường dừng lại trước cổng, giơ tay vẫy từ biệt bạn bè rồi cúi đầu lủi thủi đi về phía cổng lớn của Trung đoàn để ra Quốc lộ.

Vũ chạy ra sát hàng rào, đứng đón Dương Hùng Cường, vì muốn ra cổng Trung đoàn phải đi dọc hàng rào T.15. Hàng rào dày hơn 3 mét, không thể bắt tay nhau được, nên cả hai chỉ đưa tay vẫy chào nhau. May mà hàng rào mới được dẫy cỏ trống trơn nên hai người mới nhìn thấy nhau.

- Mày ở lại ráng giữ sức khỏe và giữ mồm nghe không?

Cường nhắc nhở Vũ vì anh biết tính của Vũ thẳng thắn không sợ bất cứ một thế lực, khống chế nào... Uy vũ bất năng khuất mà! Cường cũng nghe anh em nói cho biết Vũ hay phát ngôn châm chích mỗi khi học tập phải phát biểu. May mà lũ cán bộ VC ngu dốt (Vũ thường hay gọi chúng là giặc dốt và đã có lần phát biểu kêu gọi mọi người phải đứng lên diệt giặc dốt) không hiểu được cách nói của một thằng cầm bút như anh.

- Ừ! Ông về cũng cẩn thận giữ mình. Thì ông có thua gì tôi? Cho gửi lời thăm chị và các cháu. Vũ nói. Cường dừng lại, nhìn Vũ thật lâu mắt ướt sũng, rồi quay lưng lầm lũi bước đị Dáng người gầy gò, lỏng khỏng bước thất thểu về phía cổng Trung đoàn. Vũ thấy mắt mình cay cay. Anh đứng lặng bên hàng rào nhìn Cường đi mỗi lúc một xa, nhòe nhoẹt trong màn sương mỏng của buổi sáng. Anh khẽ thở dài! Anh không ngờ đó là lần cuối cùng trong đời anh được nhìn thấy Dương Hùng Cường

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro