Tay sung cuoi cung 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TAY SÚNG

CUỐI CÙNG

DAVID BALDACCI

Dịch ĐỖ TUẤN ANH

Cuốn sách này cũng xin được dành tặng cho

hương hồn Yossi Chaim Paley (14/04/1988 – 10/03/2001)

Cậu bé quả cảm nhất mà tôi từng biết.

Một người bị kết tội oan bao giờ cũng bị người đời

phỉ báng; trong tình cảnh quẫn bách, anh ta sẽ nổ súng bừa phứa. Thế nào chẳng có người dính đạn.

Khuyết danh.

“Tốc độ, bất ngờ, ra tay quyết liệt”

Phương châm giải cứu con tin

CHƯƠNG 1

Web London sử dụng một khẩu bán tự động SR75 được chính tay một nghệ nhân làm súng huyền thoại thửa riêng cho anh. Một khẩu SR không chỉ xuyên thủng thịt và xương như bình thường mà còn phá toác chúng ra. Web không bao giờ ra khỏi nhà mà thiếu thứ vũ khí được mệnh danh là vua của các loại súng này, vì cuộc sống của anh gắn liền với bạo lực. Lúc nào anh cũng phải sẵn sàng cho việc giết người, thật hiệu quả và gọn ghẽ. Lạy Chúa, nếu chẳng may anh giết nhầm một mạng người chắc anh cũng sẽ tự nhai một viên tương tự để không phải chịu đựng nỗi bất hạnh và cắn rứt chắc chắn sẽ đeo đẳng suốt đời. Công việc kiếm cơm hàng ngày của Web là như vậy. Không thể nói là anh yêu nghề, nhưng quả thực anh là người xuất chúng nhất trong lĩnh vực này.

Mặc dù có khẩu súng gắn chặt trên tay hầu như mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống, nhưng Web không phải loại người thích nâng niu vũ khí của mình. Anh chẳng bao giờ coi một khẩu súng ngắn là bạn hay đặt cho nó một cái biệt hiệu nào đó, nhưng vũ khí vẫn là một phần quan trọng trong đời anh, cho dù cũng giống như thú hoang, súng đạn không phải lúc nào cũng dễ thuần. Ngay cả những sĩ quan cảnh sát được huấn luyện bài bản cũng bắn trượt mục tiêu như thường, mười phát có khi trúng tám đã là may. Nhưng đối với Web, đó không chỉ là điều không thể chấp nhận được, mà còn là tự sát. Anh có nhiều phẩm chất điên rồ, nhưng thích tự tìm cái chết thì chắc chắn là không. Phải nói thật là không thiếu kẻ muôn giết anh và đã có lần chúng đã suýt hạ được kẻ thù của mình.

Quãng dăm năm trước, người ta tìm thấy anh trong tình trạng đã mất một hay hai lít máu gì đó, nằm thẳng cẳng trên sàn phòng thể dục của một trường trung học, xung quanh là những xác chết nằm la liệt, hoặc những người đang ngắc ngoải. Sau khi chiến thắng những vết thương của mình và làm cho các bác sĩ phải sững sờ, Web bắt đầu quay sang sử dụng khẩu SR thay vì loại tiểu liên mà các chiến hữu của anh vẫn ì ạch vác theo.

Thoạt trông thì khẩu súng cũng chẳng khác gì một khẩu M 16. sử dụng loại đạn cỡ 308 ([1]), và luôn là một sự lựa chọn tuyệt vời khi mục đích của người dùng là đe dọa. Khẩu SR khiến tất cả mọi người đều tỏ ra muốn là bạn với anh.

Qua cửa kính đen sì của chiếc Suburban, Web chăm chú theo dõi những bóng người đang chuyển động dọc các góc phố cùng những nhóm người khả nghi náu mình trong các hẻm tối. Khi họ đã tiến sâu hơn vào khu vực nguy hiểm, ánh mắt cảnh giác của Web lại quay về trên phố, nơi anh biết rõ rằng mỗi chiếc xe đều có thể là một pháo hạm ngụy trang. Anh đang dè chừng những ánh mắt lấm lét, những cái gật đầu hoặc những ngón tay kín đáo lướt trên điện thoại di động, như thể đó là dấu hiệu bọn chúng đang âm mưu hạ gục gã Web cứng đầu.

Chiếc Suburban rẽ qua một góc phố và dừng lại. Web liếc nhìn sáu người đồng đội đang cùng anh chen chúc trong xe. Anh biết họ cũng đang nung nấu một ý nghĩ giống hệt anh: ra khỏi xe thật nhanh và gọn gàng, cơ động tới những vị trí phong tỏa, thiết lập đội hình phát huy hỏa lực. Trong phương trình này không có chỗ cho sự sợ hãi, tuy nhiên căng thẳng lại là chuyện khác. Sợ hãi không phải là bạn của anh; thực ra nó còn có thể là nguyên nhân khiến anh mất mạng như chơi.

Web hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh. Anh cần duy trì mạch đập ở mức 60 -70. Chỉ cần mạch lên đến 85 lần/phút là tay cầm súng của ta sẽ run bần bật; lên đến 90 có nghĩa là ta không còn khả năng bóp cò, vì máu như bị tắc lại trong tĩnh mạch, vai và cánh tay cứng đờ. Nếu mạch quá 100 lần /phút, chắc mười mươi là có một con voi đứng trước mặt khoảng một mét ta cũng sẽ bắn trượt; trong trường hợp này thì tốt nhất là dán lên trán mình dòng chữ HÃY GIẾT TÔI NHANH LÊN. vì sớm muộn thì kiểu gì ta cũng bị hạ thôi.

Web cảm thấy phấn chấn và tự tin hẳn lên. Đối với anh càng những lúc bấn loạn nhất lại là lúc cần bình tĩnh nhất.

Chiếc Suburban lại chạy tiếp, rẽ qua một góc phố nữa và lại dừng lại. Đây là lần cuối cùng, Web biết chắc thế. Trạng thái tĩnh của máy radio đeo trên tai mỗi người bị phá vỡ khi Teddy Riner nói vào mic của anh ta. “Charlie gọi TOC, đề nghị được toàn quyền hành động và xin được phép chuyển sang màu vàng.” Qua chiếc mic gắn trên tai của mình, Web nghe thấy TOC (tên đầy đủ là Tactical Operations Center - Trung tâm Tác chiến Chiến thuật) trả lời cộc lốc, “Charlie One, nghe rõ, đợi lệnh.” Trong thế giới của Web, “màu vàng” là vị trí cuối cùng của khâu ẩn mình và phong tỏa; “xanh lục” là địa điểm xảy ra khủng hoảng, thời khắc quyết định: đột kích. Việc phải chạy xuyên qua khoảng đất linh thiêng nằm giữa màu vàng tương đối an toàn thoải mái, với khoảnh khắc hành động màu xanh nhiều khi không hề đơn giản chút nào. “Toàn quyền hành động” - Web làu bàu. Đó chẳng qua là cách nói khác của việc yêu cầu được cho phép nổ súng nếu cần thiết, nghe như thể họ đang yêu cầu cấp trên cho phép mặc cả thêm bớt vài đô la cho một chiếc xe cũ. Trong tai lại nghe vang lên tiếng của TOC. “TOC gọi tất cả các đơn vị: Các anh có toàn quyền hành động và được phép chuyển sang màu vàng.

“Cám ơn rất nhiều, TOC.” Web nép sát cửa sau của chiếc Suburban. Anh sẽ đi đầu còn Roger McCallam bọc hậu. Tim Davies bao quát ở bên và Riner là chỉ huy đội. Big Cal Plummer và hai tay súng khác, Lou Patterson và Danny Garcia, đứng im, lạnh lùng như đá tảng, nai nịt gọn gàng với khẩu tiểu liên MP-5, lựu đạn mù ([2]), súng ngắn cỡ nòng 45 ([3]). Ngay khi cửa mở tung, họ sẽ lao ra và tỏa thành đội hình nan quạt, sẵn sàng đương đầu với hiểm họa từ mọi hướng. Họ sẽ chạm ngón chân xuống trước, rồi mới đến gót chân, đầu gối hơi khuỵu xuống để giảm độ giật khi cần nổ súng. Mặt nạ của Web làm tầm quan sát của anh giảm đi đáng kể: chỉ còn là một sân khấu Broadway ([4]) thu nhỏ của màn kịch lộn xộn sắp xảy ra, có điều là không cần phải mua vé đắt tiền và diện những bộ đồ lịch lãm. Từ giờ trở đi chỉ cần ra hiệu bằng tay là đủ. Khi đạn đang bay chiu chíu vào người, đằng nào thì bạn cũng khó mà mở miệng nổi. Web không bao giờ nói chuyện khi làm việc.

Anh nhìn Danny Garcia vượt qua mặt mình, giống hệt như mọi khi. Và Web lại nói câu lần nào anh cũng, nói khi Garci bước qua mặt mình trước khi mở tung cửa chiếc Chevy Suburban. “Chúa khôn lắm nên chẳng mò đến đây đâu. Chỉ còn anh em mình thôi nhé”. Web lúc nào cũng nói câu này với vẻ pha trò, nhưng thực ra anh không hề đùa.

Năm giây sau, cửa xe mở bung và cả đội lao vọt ra, còn cách địa điểm zero khá xa. Bình thường thì họ thích lái xe đến tận nơi và đánh đòn phủ đầu bằng một loạt thuốc nổ 2x4, nhưng việc cung ứng hậu cần trong trường hợp này thì hơi khó khăn. Những chiếc xe bị bỏ lại, tủ lạnh hỏng bị xô đổ lăn lóc và những vật dụng cồng kềnh khác đã chặn kín đường tiếp cận mục tiêu.

Radio gắn ở tai lại vang lên tiếng gọi từ những tay súng bắn tỉa của Đội X quang. Đội này cho biết, có một số người ở trong con hẻm trước mặt, nhưng không thuộc nhóm mà Web đang săn lùng, ít nhất thì những tay bắn tỉa cũng cho là như vậy. Web và đội Charlie của mình cùng đồng loạt đứng bật dậy và lao vào con hẻm. Bảy thành viên của đội Hotel cũng vừa lao ra khỏi một chiếc Suburban khác đậu ở phía đầu kia của khối nhà để tấn công mục tiêu từ bên trái. Theo kế hoạch thì hai đội Charlie và Hotel sẽ gặp nhau ở đâu đó giữa khu vực tác chiến được ngụy trang như một khu dân cư bình yên này.

Lúc này thì Web và đồng đội đang tiến về phía đông, một cơn bão sắp ập tới, thổi tung người họ. Sấm, chớp, gió thốc và mưa tạt ngang mặt đường như làm gián đoạn thông tin liên lạc, phá hỏng những vị trí chiến thuật và làm mọi người phát điên, mà trớ trêu thay là lại đúng vào những thời điểm quyết định nhất khi mọi hành động và kế hoạch đều phải vận hành hoàn hảo. Cho dù được trang bị vũ khí và thiết bị hiện đại đến tận răng thì trong trường hợp này, cách duy nhất để chống chọi lại cơn giận dữ của thiên nhiên là chạy nhanh hơn nữa. Họ chạy rầm rập dọc con hẻm hẹp, lổn nhổn ổ gà trên mặt đường nhựa đầy rác rưởi. Hai bên đường là những tòa nhà xây kín mít, mặt tường gạch lỗ chỗ vết đạn của hàng thập kỷ giao tranh. Ở đây, tất nhiên là cũng có những người không hoàn toàn hư hỏng, nhưng hầu hết là những thanh niên thanh toán nhau vì tranh giành đàn bà và ma túy, hoặc cả hai. Ở đây, súng là điều giúp bạn trở thành một người đàn ông, cho dù bạn mới chỉ là một thằng nhóc đang nhảy chân sáo ngoài đường phố và háo hức đọc quyển truyện tranh vừa phát hành sáng thứ bảy, trong đầu đinh ninh rằng nếu bạn có khoan thủng một lỗ to đùng trên đầu ai đó thì sớm muộn anh ta vẫn sống lại và chơi với bạn.

Họ ập tới bao vây nhóm thanh niên mà các tay súng bắn tỉa đã thông báo: một đám thanh niên choai choai da đen, Latin và châu Á đủ kiểu đang mặc cả, mua bán ma túy. Hiển nhiên là lợi nhuận cao và việc dễ dàng mua bán trao tay đã vượt qua mọi rào cản về sắc tộc, tín ngưỡng màu da hoặc tư tưởng chính trị. Web có cảm giác mấy gã choai choai dặt dẹo này chỉ cần hít thêm một hơi, chích thêm một mũi, hoặc nuốt thêm một viên ma túy là đi đời nhà ma. Anh lấy làm lạ là lũ rác rưởi du thủ du thực này không hiểu sao vẫn còn đủ sức và độ tỉnh táo để thực hiện việc mua bán thứ thuốc độc chết người này.

Trước sự xuất hiện của các thành viên nhóm Charlie mang áo giáp chống đạn, súng trên tay lăm lăm hăm dọa, tất cả những tên bán ma túy nhãi nhép đều quỳ sụp xuống lạy như tế sao, rối rít van xin tha chết. Web để tâm đến thằng nhãi duy nhất vẫn đứng nguyên. Trên đầu nó là một chiếc khăn trùm đầu màu đỏ - biểu tượng của một băng nhóm nào đó.

Thằng nhóc trông rất bặm trợn, eo thon, vai u lên; chiếc quần sóc mặc trễ lộ cả phần khe mông, chiếc áo bó lệch hẳn sang một bên khoe phần thân trên đầy cơ bắp. Mặt nó câng câng, ra vẻ Tao khôn ngoan hơn, chịu chơi hơn và sẽ sống lâu hơn mày. Quả thật là Web cũng phải ngầm thừa nhận rằng trông nó rất hợp với dáng vẻ đại ca giẻ rách này.

Chỉ cần ba mươi giây là có thể xác định rằng tất cả bọn bán ma túy, chỉ trừ thằng nhóc Khăn Sặc Sỡ, đều đang phê thuốc và không thằng nào mang súng - hay điện thoại di động để có thể đánh động mục tiêu. Thằng Khăn Sặc Sỡ có một con dao, nhưng dao thì chẳng nước mẹ gì khi phải đối đầu với tiểu liên và áo giáp chống đạn. Cả đội để mặc cho thằng nhóc giữ con dao của nó. Nhưng khi cả đội Charlie tiếp tục tiến, Cal Plummer vẫn phải quay lưng lại đi giật lùi, khẩu MP-5 lăm lăm chĩa vào nhà doanh nghiệp trẻ trong con hẻm, chỉ là để đề phòng cho chắc ăn.

Thằng Khăn Sặc Sỡ gọi với theo Web. Nó nói gì đó đại loại là thán phục khẩu súng của anh và đề nghị mua lại. Nó sẽ trả cho anh rất hậu hĩnh. Nó hét toáng lên như thế, và rồi nói rằng nó sẽ dùng khẩu súng để bắn chết Web và tất cả thành viên trong đội. HA-HA! Web liếc lên các mái nhà, nơi anh biết là các thành viên của đội Whiskey và đội X quang đã triển khai vào các vị trí bắn tỉa, đầu ngắm của mỗi khẩu súng đã dính chặt vào sọ của những thằng mất dạy này. Những xạ thủ bắn tỉa bao giờ cũng là bạn thân nhất của Web. Anh biết rất rõ họ thực hiện công việc như thế nào vì bản thân anh cũng đã là một xạ thủ bắn tỉa suốt bao năm liền.

Đã có thời Web phải nằm bẹp hàng tháng trời trong những đầm lầy ẩm ướt, chung sống với lũ rắn khốn khiếp bò trườn cả lên người. Hoặc không thì lại nằm kẹp giữa một khe núi gió thổi cắt da cắt thịt, báng súng bọc da áp chặt lên má, căng mắt theo dõi mục tiêu qua kính ngắm, vừa phải yểm trợ vừa hướng dẫn cho đội đột kích. Thời gian làm xạ thủ bắn tỉa đã giúp anh phát triển nhiều kỹ năng quan trọng, trong đó phải kể đến cách đi tiểu thật khẽ vào một cái chai. Những bài học khác là: sắp xếp các gói thức ăn theo thứ tự để ngay cả trong đêm đen như mực anh cũng vẫn có thể tự nạp năng lượng; bố trí đạn thật hợp lý để nạp lại thật nhanh; tự ép mình tuân thủ một chế độ nghiêm ngặt như trong quân đội để giữ lấy cái mạng còm. Chỉ có điều Web không hiểu những kỹ năng đó liệu có giúp gì được anh nếu phải chuyển sang một cuộc sống dân sự yên lành.

Cuộc sống của một xạ thủ bắn tỉa luôn phải cân bằng giữa thái cực này với thái cực khác. Bạn cần chiếm lĩnh vị trí bắn tốt nhất nhưng lại phải đảm bảo kín đáo nhất, và nhiều khi hai tiêu chí này mâu thuẫn với nhau hoàn toàn. Đơn giản là bạn phải xoay xở trong khả năng cao nhất có thể. Nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tuần, thậm chí là nhiều tháng nằm bẹp một chỗ, không làm gì đến mức ươn người, tinh thần xuống đến mức thấp nhất, để rồi chợt bùng lên khi tình huống đối đầu nổ ra, đạn vãi như mưa, đến hoa cả mắt, và trong những hoàn cảnh như vậy việc nhầm lẫn hoàn toàn có thể xảy ra. Mỗi quyết định nổ súng có nghĩa là sẽ có người mất mạng, và bạn không bao giờ biết chắc liệu cái chết của chính mình có là một nghiệm trong phương trình hay không.

Lúc nào Web cũng có thể mường tượng lại những hình ảnh đó chỉ trong chớp mắt, rõ ràng như chúng mới chỉ diễn ra ngày hôm qua. Cả kẹp đạn năm viên luôn sẵn sàng trong băng đạn có lò xo đẩy chờ đến lúc được xuyên thẳng vào kẻ thù với tốc độ nhanh gấp đôi ánh sáng chỉ cần Web ấn chiếc cò súng cực nhạy của mình. Chỉ có người xâm nhập vào phạm vi kiểm soát của anh là Web sẽ nổ súng và thế là một con người bỗng chốc biến thành một cái xác nằm còng queo trên mặt đất. Tuy nhiên những phát bắn quan trọng nhất mà Web từng có lại là những phát đạn mà anh chưa hề bắn. Nói tóm lại, bắn tỉa là công việc như thế đấy. Không phải công việc dành cho những kẻ nhát gan, những kẻ ngu ngốc, và thậm chí là cả những kẻ chỉ thông minh ở mức bình thường.

Web thầm cảm ơn những anh bạn bắn tỉa chiếm lĩnh ở phía trên và xộc thẳng về cuối hẻm.

Tiếp theo, họ nhìn thấy một đứa trẻ, có lẽ chỉ khoảng chín mười tuổi gì đó, ngồi trên một ụ bê tông, chẳng áo xống gì sất, xung quanh chăng thấy người lớn nào cả. Cơn bão sắp đến đã làm nhiệt độ trong nhiệt kế giảm ít nhất là 6 độ C, và cột thủy ngân vẫn tiếp tục xuống nữa. Vậy mà thằng bé vẫn trần như nhộng. Chẳng biết đã bao giờ nó có áo mặc chưa?

Web tự hỏi. Anh đã chứng kiến quá nhiều cảnh đời trẻ thơ cơ cực. Anh không tự coi mình là kẻ yếm thế, mà là một người thực tế. Anh thấy xót xa cho những sinh linh bé nhỏ, nhưng anh cũng chẳng thể giúp chúng điều gì. Đó là chưa kể thời buổi này khi khắp nơi đều đầy rẫy những mối đe dọa tiềm ẩn, vì vậy Web vẫn phải cảnh giác lướt khắp người thằng bé từ đầu đến chân, để xem có vũ khí nào không. Thật may mắn là không có gì; Web đâu có thích thú gì việc phải bắn một đứa trẻ.

Thằng bé nhìn thẳng vào mắt anh. Dưới vầng sáng hắt ra từ một chiếc cột đèn không hiểu sao còn chưa bị bắn vỡ, gương mặt thằng bé hiện lên cực kỳ sống động. Web nhìn rõ cơ thể gày gò của nó, vai và cánh tay rắn đanh bọc quanh hai bên xương sườn dô ra, trông như một cái cây đùn vỏ dầy sần sùi quanh một vết thương. Ngang trán thằng bé là một vết sẹo do dao chém. Trên má trái của nó là một cái lỗ sâu hoắm nhăn nhúm và lồi lõm, dấu vết không lẫn vào đâu được của một viên đạn. Cái này thì Web biết chắc.

“Quỷ bắt mày xuống địa ngục đi,” thằng bé thốt lên bằng một giọng uể oải, rồi phá lên cười, hay nói đúng hơn là nó kêu khành khạch. Câu rủa và tiếng cười ma quái của thằng bé làm Web thấy choáng váng như sấm nổ bên tai, không hiểu sao anh cứ thấy sởn cả gai ốc. Anh đã gặp nhiều thằng nhóc thuộc loại hết thuốc chữa giống nó, chúng ở khắp mọi nơi quanh đây, nhưng vẫn có điều gì đó bất nhẫn trong đầu mà anh không sao hiểu được. Có lẽ anh đã làm công việc này quá lâu chăng, và đây lại hoàn toàn không phải lúc để bắt đầu nghĩ về điều đó?

Ngón tay trỏ của Web băn khoăn đặt trên cò súng, anh nghiêm trang sải những bước dài về phía trước mặc dù trong thâm tâm phải cố gắng hết sức để gạt bỏ hình ảnh thằng bé quái đản ra khỏi đầu. Web là một người chắc lẳn, không phải dạng vai u, thịt bắp, nhưng bù lại anh có hai cánh tay rất dài, những ngón tay khỏe mạnh, và đôi vai rộng trông rất vững chãi. Và cho đến lúc này Web vẫn là người nhanh nhất trong đội và cũng là người có khả năng chịu đựng bền bỉ nhất. Anh có thể chạy những chặng tiếp sức l0km suốt cả ngày. Tốc độ và sự bền bỉ của anh lúc nào cũng vượt trội so với những người chỉ có cơ bắp bắt mắt. Xét cho cùng thì cơ bắp hay mỡ cũng đều bị đạn xuyên thủng dễ dàng. Nhưng tất nhiên là đầu đạn chì không thể làm bạn đau nếu bạn không để nó bắn trúng mình.

Hầu hết mọi người đều miêu tả Web London, với đôi vai rộng và chiều cao 1m90, là một người cao lớn. Nhưng thường thì mọi người chỉ chú ý đến phía mặt bên trái của anh, hay đúng hơn là những gì còn lại của phía mặt bên đó. Web phải bất đắc dĩ chấp nhận rằng quả thật ngày nay y học có thể làm được những điều kỳ diệu: các bác sĩ đã tái tạo lại phần xương gò má và cái mặt nát bấy của anh phía bên phải. Nếu không nhìn kỹ sẽ rất khó nhận ra vết thương khoét sâu hoắm, xương gò má nhô hơi cao, và vết ghép còn lờ mờ của những mảnh xương, thịt mới cấy vào. Đẹp lắm, ai cũng bảo vậy, tất nhiên là trừ Web.

Đến cuối con hẻm, họ dừng lại một lần nữa, tất cả đều khom người thật thấp. Sát bên cạnh Web là Teddy Riner, qua thiết bị radio Motorola không dây của mình, Riner liên lạc với TOC, báo cáo cho họ biết đội Charlie đã đến vị trí màu vàng và xin phép chuyển sang màu xanh lục - “vị trí khủng hoảng” của mục tiêu, trong trường hợp này đơn giản đó chỉ là tên gọi khác của cánh cửa trước. Web giữ khẩu SR75 bằng một tay, tay kia lần xuống báng khẩu súng ngắn 45 cũng là hàng thửa riêng, đeo gọn ghẽ bên đùi phải. Anh còn một khẩu nữa giống hệt như vậy đeo trên miếng gốm hộ tâm che giữa ngực. Và anh cũng chạm cả vào khẩu đó trong nghi thức tâm linh trước khi tấn công của mình.

Web nhắm mắt và hình dung những gì sắp diễn ra trong vòng một phút nữa. Họ sẽ cơ động sát cửa trước. Davies sẽ đến trước và đứng giữa đội hình để cài mìn. Các tay súng sẽ cầm lăm lăm lựu đạn mù ở tay không thuận. Chốt an toàn của những khẩu tiểu liên đã được mở ra, những ngón tay thả lòng đặt sẵn trên cò súng, sẵn sàng nã đạn. Davies sẽ tháo chốt an toàn trên hộp điều khiển và kiểm tra lại dây dẫn đến kíp nổ nối với khối thuốc phá, rà soát xem còn trục trặc nào không và hy vọng mọi chuyện đều trơn tru. Riner sẽ liên lạc với TOC những từ chuyên biệt: “Charlie đã ở vị trí xanh lục.” Bao giờ cũng vậy, TOC sẽ trả lời, “Sẵn sàng, tôi đang kiểm soát.” Câu trả lời đó lần nào cũng làm Web bực bội, bởi không hiểu làm thế nào một thằng cha quái quỷ ở đâu đó lại kiểm soát được những gì họ làm ở đây?

Trong suốt sự nghiệp của mình, Web chưa bao giờ nghe thấy TOC chạm đến mốc cuối cùng của mỗi lần đếm ngược. Sau tiếng đếm đến “hai”, những tay bắn tỉa sẽ đồng loạt nổ súng vào mục tiêu, một loạt súng cỡ 308 nã đạn cùng lúc chẳng tạo nên âm thanh ấn tượng nào. Nhưng rồi quả mìn đột kích sẽ nổ bùm trước khi TOC kịp nói “một” và trong cơn cuồng phong khủng khiếp cao tần đó dường như ý nghĩ trong đầu ta cũng bị thổi bay. Thực ra nếu bạn nghe được TOC đếm ngược đến tận cùng thì tức là bạn đã gặp rắc rối to rồi, vì điều đó cũng đồng nghĩa với việc bộc phá đột kích có trục trặc không nổ được. Và như thế thì quả là một điềm cực gở cho công việc gày hôm đó.

Khi khối bộc phá đã phá toang cửa trước. Web và đội của mình sẽ thâm nhập vào mục tiêu, ném lựu đạn mù. Đây quả là tên gọi phù hợp cho thứ vũ khí này, vì bất kỳ ai mở mắt khi nó nổ chắc chắn sẽ bị mù, ít nhất là trong một thời gian dài, còn tiếng nổ khủng khiếp của nó cũng làm nạn nhân thủng màng nhĩ. Nếu trong quá trình đột kích, họ tiếp tục gặp phải những cánh cửa bị khóa chặt thì chắc chắn là ổ khóa của chúng cũng sẽ bị khuất phục sau vài phát đạn cối thô bạo của Davies, cùng lắm thì lại phải dùng một quả mìn dán - trông giống như một miếng cao su dẻo nhưng chứa đầy thuốc nổ C4 mà không cánh cửa nào chịu nổi. Họ sẽ triển khai cơ động như được lập trình sẵn, tập trung vào người và vũ khí phát hiện trên đường đột kích, nổ súng thật chính xác, tư duy như người ta chơi cờ. Việc liên lạc sẽ được thực hiện qua tiếp xúc trực tiếp. Tập kích điểm nóng, xác định vị trí giam giữ con tin, đưa họ ra ngoài nhanh chóng và an toàn. Điều duy nhất bạn không được nghĩ đến là cái chết. Ý nghĩ tiêu cực đó lấy đi quá nhiều sức lực và thời gian cần thiết cho nhiệm vụ, và nhất là nó sẽ làm tiêu tan những bản năng và kỷ luật đã ăn sâu vào máu thịt của một người từng làm đi làm lại kiểu công việc nguy hiểm như thế này.

Theo những nguồn tin tình báo đáng tin cậy thì tòa nhà mà họ đang đột kích, tập trung toàn bộ những trùm tài chính của một đường dây ma túy lớn có tổng hành dinh ở thành phố thủ đô này. Trong mẻ lưới béo bở tối nay còn có cả những tay kế toán và chủ ngân hàng bự nhất, những nhân chứng cực kỳ giá trị của chính phủ nếu Web và đồng đội có thể đưa họ ra ngoài an toàn. Được như thế, các cơ quan chính phủ sẽ có bằng chứng để tấn công những nhân vật chóp bu và thế lực nhất từ nhiều phía.

Ngay cả những tay trùm ma túy cũng phải kiêng sợ một đòn tấn công trực diện của IRS (Cục Thuế thu nhập nội bộ). Vì nói cho đúng thì làm gì có tay trùm nào tự giác nộp thuế cho chú Sam? Đó là lý do đội của Web được triệu đến. Họ là những chuyên gia giết những người cần giết, nhưng cũng giỏi không kém trong việc giữ mạng sống cho những người cần sống. Ít nhất thì cũng là cho đến khi những cái lưỡi này đặt tay lên Kinh thánh tuyên thệ, chịu đứng ra làm chứng trước tòa và giúp chính phủ tống những tay trùm vào nhà đá bóc vài chục cuốn lịch .

Sau khi TOC ra mệnh lệnh xong, quy trình đếm ngược sẽ bắt đầu : “Năm, bốn, ba, hai…”

Web mở choàng mắt, trấn tĩnh lại. Anh đã sẵn sàng. Mạch đập lúc này là sáu mươi tư; Web biết chắc là như thế. OK, các chàng trai, sẵn sàng dọn dẹp nào. Trong tai nghe của anh lại vang lên tiếng của TOC lần nữa, đồng ý cho cả đội tiếp cận cửa trước.

Và đúng lúc đó Web London chợt tê cứng người. Cả đội của anh bật dậy khỏi vị trí ẩn nấp và lao vào vùng màu xanh lục, khu vực khủng hoảng, còn Web thì không. Dường như chân và tay của anh không còn là một phần cơ thể của chính anh nữa, giống như ta ngủ quên, nằm đè lên tay mình và khi tỉnh dậy thì thấy cả cánh tay tê dại không còn cảm giác. Hoàn toàn không phải vì khiếp sợ hay căng thẳng quá mức; đây là công việc mà Web đã làm quá lâu rồi. Vậy mà anh chỉ có thể đờ người nhìn cả đội Charlie lao vào mục tiêu. Khoảnh sân đã được xác định là khu vực nguy hiểm duy nhất trước khi tiếp cận địa điểm khủng hoảng, và cả đội đồng loạt tăng tốc, canh chừng tất cả các phía xem có bất kỳ dấu hiệu kháng cự nào không. Không có ai trong đội nhận ra rằng Web tụt lại sau.

Mồ hôi túa khắp người, tất cả các cơ bắp căng lên cưỡng lại thế lực bí hiểm nào đó đang ghì chúng xuống, Web chậm rãi đứng dậy được và loạng choạng về phía trước vài bước. Tay chân anh nặng như chì, cả người bừng bừng như bốc hỏa, đầu chỉ chực nổ tung, anh cố lảo đảo thêm một chút, đến sát mép sân, trước khi ngã sấp về phía trước, mặt đập thẳng xuống đất trong khi cả đội vẫn lao thẳng về phía cửa.

Anh chỉ kịp hé mắt lên để nhận ra đội Charlie vẫn đang lao rất nhanh, mục tiêu đã ở trước mặt, như đang cầu xin, mời gọi họ đến. Chỉ năm giây nữa là cả đội sẽ phát hỏa. Và đó là năm giây sẽ thay đổi cuộc đời Web London mãi mãi.

CHƯƠNG 2

Teddy Riner là người đầu tiên gục xuống. Mất hai giây anh mới đổ hẳn xuống đất, nhưng thực ra anh đã chết được một giây rồi. Phía bên kia Cal Plummer đổ sập xuống như bị một lưỡi rìu khổng lồ đốn ngang thân. Trước ánh mắt tuyệt vọng của Web, lần lượt từng thành viên lực lưỡng của đội, cùng cả bộ áo giáp Kevlar và súng ống nặng trịch trên mình đổ sập xuống, máu thịt bắn tung tóe, và rồi là chấm hết. Không thể tin nổi là những người tốt lại có thể chết dễ dàng đến thế.

Trước khi những loạt đạn bắt đầu nổ đinh tai. Web đã ngã đè lên khẩu súng của mình, nó nằm kẹt cứng dưới người anh. Web không sao thở được; chiếc áo giáp và súng ống bên dưới đang đè cứng cơ hoành của anh. Trên mặt anh có gì đó lầy nhầy. Anh không biết, nhưng đó chính là một phần của Teddy Riner - một viên đạn cỡ quái thú đã xé toang áo giáp của Riner và bắn tung phần cơ thể của anh về chỗ Web, người ở phía sau cùng của đội, và thật trớ trêu, cũng là người cuối cùng còn sống.

Web vẫn có cảm giác như tê liệt hoàn toàn, tất cả các cơ bắp của anh đều không nhúc nhích đáp lại những lời cầu xin từ bộ não. Chẳng lẽ anh đã bị đột quỵ ở cái tuổi 37 sung sức? Rồi đột nhiên tiếng súng nổ chát chúa làm đầu tỉnh táo hẳn lên, cảm giác cuối cùng cũng quay lại với tay và chân, anh gượng giơ tay lên tháo mặt nạ và lăn người qua một bên. Anh thở hắt ra và rên lên một tiếng nhẹ nhõm. Giờ thì Web đang nằm ngửa mặt lên trời. Trước mắt anh là những ánh chớp giật loang loáng mặc dù tiếng súng nổ chát chúa bên tai đã át hẳn cả tiếng sấm ầm ì xa xa.

Bất giác anh nảy ra một ý muốn rất sôi sục và điên rồ là giơ tay lên không trung, giữa những luồng đạn veo véo lướt qua mặt. có lẽ chỉ là để chắc chắn rằng thực sự là những viên đạn đang xé toang không khí sát người anh, giống như một đứa trẻ được nhắc nhủ là không được động vào bếp lò nóng đỏ, nhưng chính đó lại là điều duy nhất mà nó muốn làm.

Nhưng rồi anh cũng kiềm chế được và lần tay xuống thắt lưng, tháo khuy cài của một chiếc túi đeo bên sườn, rồi lấy ra chiếc kính nhìn đêm tầm nhiệt của mình (TI - Thermal Imager). Ngay cả trong đêm đen như mực, một chiếc TI cũng có thể giúp người sử dụng nhìn rõ mọi vật mà mắt thường không nhìn thấy, cơ chế hoạt động của nó dựa trên việc cảm thụ những năng lượng nhiệt tỏa ra từ bất kỳ thứ gì. Mặc dù không nhìn rõ, nhưng với chiếc TI đeo trên mắt, Web có thế cảm nhận chính xác những luồng đạn lửa chiu chíu rít xung quanh mình.

Anh cũng xác định được rằng làn hỏa lực dầy đặc này được bắn ra từ hai hướng tách biệt: tòa nhà chung cư ngay trước mặt và khu nhà xập xệ liền kề bên phải. Qua chiếc kính TI, anh căng mắt quan sát tòa nhà thứ hai, nhưng chẳng trông thấy gì ngoài những ô kính vỡ nham nhở. Và rồi Web nhận ra một điều làm người anh còn cứng đờ hơn trước. Những ánh lửa đầu nóng kia đang khạc ra đồng loạt từ mỗi ô cửa sổ vỡ nát. Chúng di chuyển qua những khe hở, ngừng trong giây lát rồi quay lại, để rồi những cầu vồng đạn lửa phối hợp rất nhịp nhàng, chặt chẽ, lại tiếp tục vang lên chát chúa.

Loạt đạn mới vừa bắt đầu, Web lật người nằm sấp xuống và chăm chú quan sát tòa nhà mục tiêu ban đầu trước mặt anh. Ở tầng thấp của tòa nhà này cũng có một hàng cửa sổ. Và cũng từ đây lại khạc ra những loạt đạn rất đều, phối hợp nhịp nhàng, kín đặc. Đến lúc này Web có thể nhận ra nòng thép dài của những khẩu súng máy. Qua ống kính nhìn đêm những nòng súng hiện lên một màu đỏ quạch khi mà thép đã bị nung nóng đỏ như sắp chảy ra. Mặc dù vậy, trong kính của anh không hề hiện lên một bóng người nào, vì nếu như chỉ cần có bất kỳ tên nào hiện ra trong khu vực đó là Web hoàn toàn có thể bắn vỡ sọ hắn ngay. Anh biết chắc là mình đang phải đối mặt với một hỏa điểm được điều khiển từ xa. Giờ đây thì Web mới đau đớn nhận ra rằng đội của anh đã bị “cài”, bị phục kích, trong khi kẻ thù không hề sứt mẻ một mạng nào.

Những đầu đạn đập chan chát vào tường gạch nằm phía sau và bên phải của Web, anh cảm thấy rõ những mảnh đạn sắc lẻm văng ra, rơi khắp xung quanh, như những giọt nước mưa bằng thép nặng trịch. Hơn chục lần những viên đạn bắn văng ra đã đập vào tấm áo giáp Kevlar của Web. Nhưng tốc độ và sức hủy diệt của chúng đã suy giảm gần hết. Web ép sát phần chân và hai tay không được bảo vệ của mình xuống nền bê tông.

Nhưng thực ra ngay cả chiếc áo giáo Kevlar cũng không chịu nổi một phát bắn trực diện, vì chắc chắn là những khẩu súng máy này đang dùng loại đạn cỡ 0.50 ([5]), mỗi viên dài bằng cả con dao phết bơ, và có lẽ đều là đạn xuyên giáp. Web có thể suy ra như vậy, căn cứ vào những tiếng rít xé gió với tốc độ siêu thanh và chớp lửa phụt ra từ đầu nòng. Và nhất là vệt khói của loại đạn cỡ 0.50 thì không thể lẫn vào đâu được. Thậm chí có lẽ bạn cảm thấy tiếng đạn rít trước khi nghe thấy nó nổ - chỉ tiếng đạn rít không thôi cũng đủ làm người ta sởn hết cả gai ốc, dựng tóc gáy - giống như khi ta nghe thấy tiếng sét rét rét trước một đòn khủng khiếp.

Web thét gọi tên đồng đội, lần lượt từng người một. Không một tiếng trả lời. Không một bóng người cử động. Không một tiếng rên. Không có bất kỳ động tĩnh nào chứng tỏ cuộc sống còn tồn tại ở đâu đó. Nhưng Web vẫn tuyệt vọng gọi tên họ hết lần này đến lần khác như một kiểu điểm danh điên rồ. Khắp xung quanh nơi Web nằm, những thùng rác nổ bụp bụp, kính vỡ vụn, tường gạch rơi lả tả như những dòng sông hung tợn đang bào mòn hai bên bờ đất. Đây chẳng khác gì bờ biển Normandy ([6]), hay nói đúng hơn là Cuộc đột kích của tướng Pickett ([7]), Và Web đã nướng sạch đội quân anh có trong tay. Cả con hẻm không còn bóng dáng một con chuột nào sau trận thảm sát. Khoảng sân đã sạch trơn lũ gặm nhấm bẩn thỉu vốn nhung nhúc khắp nơi trước kia. Có lẽ không vị thanh tra y tế nào của thành phố có thể làm tốt hơn loạt đạn 0.50 bắn xối xả đêm hôm đó. Web không muốn chết, nhưng mỗi lần nhìn vào những thân xác nát bấy của đồng đội, một phần trong con người anh cũng muốn đi theo họ.

Họ là một gia đình luôn chiến đấu và sống chết bên nhau. Đó là giá trị mà Web luôn tin tưởng. Chân anh như chỉ chực bật dậy và lao thẳng vào chốn vĩnh cửu đó cùng những người bạn của mình; nhưng có điều gì đó mạnh mẽ hơn đã giữ anh nằm sát xuống. Chết có nghĩa là đầu hàng. Đầu hàng có nghĩa là anh đã để đồng đội của mình hy sinh vô ích.

Sao vẫn chưa thấy hai đội X quang và Whiskey đâu cả? Tại sao họ không tụt xuống yểm trợ cho đội Charlie? Những tay bắn tỉa trên các tòa nhà trông xuống khoảnh sân không thể leo xuống mà không bị băm nát bởi những loạt súng máy bắn dầy đặc, nhưng vẫn còn những tay bắn tỉa khác trên mái các tòa nhà nằm dọc con hẻm mà đội Charlie đã đi qua. Họ có thể trượt xuống. Nhưng liệu TOC có bật đèn xanh cho họ không? Có thể là không, nhất là nếu TOC không biết chuyện gì đang diễn ra. Mà làm sao họ biết được chứ? Thậm chí chính Web nằm bẹp ở đây mà cũng còn không hiểu chuyện quái quỷ gì đang xảy ra nữa. Nhưng anh cũng không thể nào cứ nằm đây mà chờ đợi TOC ra quyết định cho đến khi một viên đạn lạc nào đó dọn sạch sẽ cả đội Charlie. Trong lòng anh chợt dấy lên một cảm giác sợ hãi đến mụ mẫm người. Bất chấp đã trải qua biết bao năm tháng huấn luyện và thử thách nghiệt ngã chỉ để cảm giác sợ hãi yếu ớt đó bị xóa sạch ra khỏi tâm khảm của những người như anh. Hành động, anh cần phải làm gì đó lúc này.

Radio gắn tai đã bắn đi đâu mất, Web lần tay tháo chiếc bộ đàm Motorola đeo trên khóa vai. Anh nhấn nút, hét vào máy, “HR ([8]) 14 gọi TOC, HR 14 gọi TOC.” Không có tiếng trả lời. Anh chuyển qua tần số dự phòng rồi lại chuyển tiếp sang tần số chung. Vẫn không có gì. Web nhìn kỹ lại chiếc bộ đàm và hoàn toàn tuyệt vọng. Toàn bề mặt phía trước của chiếc máy đã vỡ nát, chắc là vì anh đã ngã đè lên trên. Web trườn đến bên xác Cal Plummer. Đúng lúc anh đang định tháo chiếc máy radio hai chiều của Plummer thì có gì đó bắn mạnh vào tay anh khiến Web phải rụt tay lại. Chỉ là một viên đạn nảy từ tường ra; một phát đạn bắn thẳng thì tay Web đã nát bét rồi. Anh bình tĩnh đếm lại, vẫn còn nguyên cả năm ngón trên bàn tay, cảm giác đau nhói làm anh muốn chiến đấu, muốn giành giật lại sự sống, và hơn hết là muốn sống để trả thù bất kỳ kẻ nào đứng đằng sau chuyện này, mặc dù trong thời điểm hiện tại Web coi như đã hết võ.

Lần đầu tiên trong đời, Web phải tự hỏi liệu có phải anh đang phải đối mặt với đối thủ hơn hẳn mình không. Web biết rằng nếu ngừng suy nghĩ, anh sẽ phát điên, sẽ đứng bật dậy bắn vung vãi và dính đạn một cách lãng xẹt. Anh cố gắng tập trung suy nghĩ về tình huống chiến thuật lúc này. Anh đang mắc kẹt trong một khu vực chết, hai bên là hai ụ súng máy bắn chéo cánh sẻ, tạo thành một góc chết chín mươi độ, và nhất là không thấy bóng dáng kẻ thù nào cho anh khống chế. Được rồi, tình huống chiến thuật trước mặt là như vậy. Nào, bây giờ anh phải làm cái chó chết gì đi chứ! Trong điều lệnh tác chiến phần này nằm ở chương nào nhỉ? Hình như là ở chương “Mày tiêu rồi” thì phải?

Lạy Chúa, những tràng súng máy thật đinh tai, nhức óc. Anh thậm chí còn không nghe được tiếng tim mình đập nữa. Ngực Web như bị đè nặng, hơi thở hổn hển, dứt quãng. Đội Whishkey và X quang chết dẫm đâu rồi? Còn đội Hotel nữa? Chẳng lẽ họ không thể chạy nhanh hơn được sao? Nhưng họ cũng làm gì được chứ? Họ chỉ được huấn luyện để giết người, cả ở tầm xa lẫn tầm gần. Anh gào lên tức tưởi, “Chẳng có cái quái gì cho các người bắn đâu ? “

Cằm ép sát xuống ngực, Web sững sờ trông thấy thằng bé, chính là thằng bé cởi trần ngồi trên ụ bê tông. Hai tay bịt chặt tai, thằng nhóc đang men sát góc tường, dọc theo con hẻm mà Web và cả đội đã cơ động vào. Nếu tiến sâu hơn vào trong sân, Web biết chắc thằng nhóc sẽ sớm phải nằm trong một cái túi đựng xác - mà có lẽ là phải hai túi mới đủ vì những viên đạn cỡ 0.50 kiểu gì cũng cắt cơ thể gày gò của nó ra làm hai.

Thằng bé tiến thêm một bước, gần sát mép tường gạch và sắp bước vào sân. Có thể nó đang định đến giúp. Có thể nó đang chờ cho đến khi tắt tiếng súng để lao vào hôi của, đồ đạc, tư trang, thậm chí cả súng ống của người chết để mang ra rao bán lại trên phố. Cũng có thể nó chỉ đang tò mò. Web không biết mà cũng chẳng quan tâm.

Những khẩu súng bỗng ngưng bặt, cả khoảng sân lặng như tờ. Thằng bé tiến thêm một bước. Web hét lên. Thằng bé đứng sững lại, sợ cứng người, tất nhiên là nó không thể tin được là người chết lại đang quát người sống. Web giơ tay lên vẫy, quát thằng bé lùi lại, nhưng đúng lúc đó tiếng súng lại tiếp tục vang lên chát chúa, át đi lời cảnh báo của anh. Web áp sát bụng xuống mặt nền bê tông, trườn đi giữa làn đạn bỏng rát, luôn miệng gào đến khản cổ . “Lùi lại ! Quay lại !” Thằng bé không hề có vẻ gì là chùn bước. Web cố gắng để mắt đến mỗi cử động của nó, nhưng quả thật đó là việc hết sức khó khăn khi người ta đang phải bò sát bụng xuống đất, vì chỉ cần ngẩng đầu lên vài cm nữa thôi là cái đầu của anh cũng đi tong. Cuối cùng thì thằng bé cũng làm cái điều mà Web nghĩ nó sẽ làm: nó thụp người lùi lại. Web bò nhanh hơn. Thằng bé quay người chạy và Web lại phải hét lên ngăn nó đứng lại. Thật khó tin là nó đứng lại ngay. Web cũng đã bò ra sát mép con hẻm. Anh cần phải cố gắng khẩn trương hơn, vì lúc này bắt đầu xuất hiện một yếu tố nguy hiểm khác đối với thằng bé. Trong những khoảnh khắc yên lặng cuối cùng trước khi bắt đầu loạt đạn mới, Web đã nghe thấy tiếng bước chân chạy rầm rập và tiếng quát tháo ra mệnh lệnh từ phía xa vẳng lại. Họ đang đến. Web nghĩ bụng chắc là tất cả đều đang đến: đội Hotel và những tay bắn tỉa cùng cả đơn vị dự bị mà TOC luôn giữ lại cho những tình huống khẩn cấp. Mẹ kiếp, trường hợp này mà không được coi là khẩn cấp thì còn gì nữa.

Vâng, vậy ra họ đang hối hả đến để giải cứu bọn này đây, hoặc đúng ra họ có tưởng là vậy. Điều họ thực sự đang làm lúc này là lao đầu vào giữa mũi súng của kẻ thù mà hoàn toàn không có chút thông tin tình báo nào.

Vấn đề là thằng nhóc cũng nghe thấy tiếng họ đang tới. Web có thể thấy là thằng nhóc biết đích xác những người sắp tới là ai và như thế nào, giống như một chiến bính da đỏ đi tiền trạm đang hít hít dấu vết trên mặt đất và rút ra vị trí chính xác của một đàn trâu rừng khổng lồ. Thằng bé đang cảm thấy bị mắc kẹt, và đúng là như vậy. Web biết là một thằng nhóc đường phố như nó mà bị nhìn thấy quanh những người như Web thì coi như đã lĩnh án tử hình. Bọn kia thế nào cũng nghĩ nó là thằng phản bội và sớm muộn nó sẽ nhận phần thưởng là được phơi xác trong một góc rừng.

Thằng bé co rúm người lại, bối rối nhìn về phía sau, nơi Web đang bò mỗi lúc một nhanh hơn. Web đã rơi mất quá nửa vũ khí trang bị khi phải trườn lên mặt bê tông thô ráp, giống như một con rắn nặng 90 cân đang giẫy giụa. Anh có thể cảm nhận rõ máu đang túa ra từ hơn chục vết trầy xước trên chân, tay và mặt. Tay trái đau buốt như thể hàng nghìn con ong vò vẽ đang liên hoan trên đó. Tấm áo giáp lúc này nặng khủng khiếp, cơ thể anh co rúm lại vì đau mỗi lần cử động chân tay. Tất nhiên là Web có thể bỏ lại khẩu súng cho dễ bò, nhưng anh vẫn cần đến nó. Không, không bao giờ có chuyện Web bỏ lại khẩu SR75 chết tiệt của anh.

Web biết thằng bé định làm gì. Dù đường rút lui đã bị cắt. nó vẫn sẽ lao thẳng về phía đó, vọt qua khoảng sân và lẩn vào một trong những tòa nhà ở phía bên kia. Thằng nhóc nghe rõ tiếng đạn ni chiu chíu giống như Web. Nhưng nó không thể nào nhìn thấy những đường đạn nóng đỏ trong đêm. Và Web biết thằng nhóc sẽ liều mạng thử.

Thằng bé nhảy vọt ra khỏi góc tường, và đúng lúc đó Web chồm lên ôm choàng ngang bụng rồi đè vật nó xuống. Thằng nhóc vùng vẫy đạp Web; hai nắm tay xương xẩu của nó đấm bình bịch lên mặt và ngực anh.

Web nhịn đau giữ chặt nó trong hai cánh tay dài của mình. Anh kéo thằng bé lùi sâu hơn vào trong hẻm. Phần tay của chiếc áo giáp Kevlar càng lúc càng trở nên vướng víu, nhưng cuối cùng thì thằng nhóc cũng ngừng quẫy đạp và nhìn thẳng vào Web. “Cháu không làm gì hết. Thả cháu ra !” “Cháu mà chạy ra ngoài kia là mất mạng ngay!” Web quát lên cố át tiếng đạn súng máy nổ đinh tai. Anh giơ bàn tay đầy máu của mình ra.

“Chú mặc áo giáp chống đạn đây mà còn không chịu được nữa là. Cháu bị đạn chém làm đôi cho mà xem.”

Thằng bé có vẻ bình tĩnh lại và chăm chú nhìn những vết thương của Web. Anh lôi nó ra xa hơn khỏi khoảng sân và những khẩu súng máy khủng khiếp. Giờ thì ít nhất họ cũng có thể nói chuyện mà không phải hét lên. Chẳng hiểu sao, bất giác Web đưa tay lên sờ vào vết thương sâu hoắm trên má thằng bé. “Cháu gặp may một lần rồi,” Web nói. Thằng bé gầm ghè chửi gì đó và vùng ra khỏi tay Web. Nó đứng bật dậy và nhanh như sóc, trong khi Web còn chưa kịp chớp mắt, nó đã quay người chạy lại về cuối hẻm. Web quát với theo, “Cháu mà ra đó trong đêm tối như thế này là cháu tiêu ngay. Chắc chắn họ sẽ bắn nát đầu cháu đấy.” Thằng nhóc đứng khựng và quay đầu lại. Lần đầu tiên, ánh mắt của nó thực sự tập trung vào Web. Rồi nó lại càng mắt nhìn về phía khoảnh sân.

“Họ chết hết rồi à?” nó hỏi.

Web không trả lời, anh lặng lẽ giật khẩu súng to đùng của mình ra khỏi vai. Thằng bé giật mình lùi lại khi nhìn rõ thứ vũ khí đáng sợ đó.

“Mẹ.kiếp, chú định làm gì đấy?”

“Ở nguyên chỗ này, nằm thấp xuống,” Web nói. Anh khom người quay lại sân. Lúc này tiếng còi đã rú inh ỏi khắp nơi. Vậy là đội thiết giáp đang đến, quá muộn, lần nào cũng vậy. Điều khôn ngoan nhất lúc này là không làm gì hết. Nhưng không thể để yên thế này được. Web còn một việc phải hoàn thành. Anh xé ra một tờ giấy từ quyển sổ nhỏ cài bên thắt lưng và nguệch ngoạc vài dòng. Rồi anh lột bỏ chiếc mũ vải lót anh vẫn đội dưới chiếc mũ sắt. “Đây,” anh bảo thằng bé. “Đi chậm thôi, đừng có chạy, quay lại đầu hẻm nhé. Giơ chiếc mũ này lên cao và đưa mảnh giấy cho những người đang vào đây.” Thằng bé cầm lấy hai thứ đồ anh đưa, những ngón tay dài và xương xẩu giữ chặt lấy chiếc mũ và mảnh giấy.

Web rút khẩu súng bắn pháo sáng ra khỏi bao và nạp đạn vào. “Sau khi chú bắn thì cháu đi nhé. Đi nào!” Web nhắc lại, “đừng có chạy.”

Thằng nhóc cúi xuống nhìn mảnh giấy. Web cũng không biết là nó có biết chữ không. Ở những khu ổ chuột như thế này hiếm có chuyện trẻ em được hưởng một nền giáo dục cơ bản mà trẻ em ở đâu cũng có. “Tên cháu là gì?” Web hỏi. Bây giờ là lúc phải giúp thằng bé bình tĩnh hơn. Những người căng thẳng bao giờ cũng phạm sai lầm. Web biết chắc những lính đặc nhiệm đang tiến vào sẽ bắn tung xác bất kỳ ai lao về phía họ.

“Kevin,” thằng bé trả lời. Vừa nói xong tên mình, đột nhiên trông nó giống hệt như bất kỳ đứa trẻ bình thường nào đang sợ hãi, và Web càng thấy ân hận khi yêu cầu nó làm công việc này.

“Được rồi, Kevin, chú là Web. Cứ làm theo lời chú bảo và cháu sẽ không sao hết. Hãy tin chú,” anh nói, để rồi càng cảm thấy cắn rứt hơn.

Web chĩa thẳng khẩu súng bắn pháo hiệu lên trời, nhìn Kevin gật đầu khích lệ, và bóp cò. Phát pháo sáng sẽ là tín hiệu cảnh báo đầu tiên cho họ. Còn mảnh giấy mà Kevin cầm sẽ là lời cảnh báo thứ hai. Thằng bé bắt đầu bước, nhưng có vẻ là nó đang bước quá nhanh. “Đừng chạy,” Web quát với theo. Anh quay lại khoảnh sân và gắn chiếc kính nhìn đêm của mình lên khe ngắm của khẩu súng, rồi đóng chốt.

Phát pháo sáng màu đỏ làm cả một khoảng trời như nhuộm máu, Web biết các đội đột kích và bắn tỉa sẽ phải dừng lại, đánh giá kỹ động thái mới phát sinh này. Thằng bé sẽ có thêm thời gian để bước lại gần hơn.

Kevin sẽ không chết, kiểu gì cũng không thể chết đêm nay. Đúng lúc đó, những khẩu súng máy dừng bặt trong giây lát, Web lao vọt ra khỏi con hẻm, lăn một vòng và hằm sấp xuống chuẩn bị tư thế bắn. Anh đưa khẩu súng lên trên, dựng giá hai chân của nó xuống, tỳ báng súng sát vào vai.

Ba ô cửa sổ ngay trước mặt là mục tiêu đầu tiên của anh. Bằng mắt thường anh cũng dễ dàng nhìn thấy những chớp lửa đầu nòng, nhưng chiếc kính tầm nhiệt còn giúp anh “nhìn” thấy đường nét chính của những khẩu súng máy nóng rực. Đó chính là mục tiêu mà anh cần hạ. Khẩu SR75 gầm lên và lần lượt từng ổ súng máy nối tiếp nhau nổ tung. Web nạp tiếp một băng đạn hai mươi viên, lấy lại đường ngắm và bóp cò, thêm bốn khẩu súng máy nữa cuối cùng cũng phải câm họng. Ổ súng máy cuối cùng vẫn còn đang khạc đạn trong khi Web trườn sâu về phía trước và tung thẳng một quả lựu đạn có sức công phá lớn vào họng nó. Sau đó là một khoảng im lặng cho đến khi Web trút sạch đạn từ hai khẩu súng ngắn 0.45 vào những ô cửa sổ giờ đã im phăng phắc, vỏ đạn bắn tung tóe như lính dù nhảy ra từ bụng máy bay. Sau khi bắn xong phát cuối cùng, Web gục người xuống, thở hổn hển. Người anh nóng ran như bị lửa đốt.

Rồi những đám mây hé ra, và mưa ào xuống xối xả. Anh ngoảnh lại và nhìn thấy một lính đột kích đang thận trọng men vào trong sân. Web cố gắng vẫy anh ta, nhưng cánh tay anh không còn nghe lệnh nữa; nó nằm thẳng đuỗn như một cánh tay gỗ bên sườn.

Web đau đớn nhìn những thi thể nát bấy của cả đội, những người bạn thân thiết của anh nằm rải rác trên nền bê tông ướt nước bóng loáng. Anh khuỵu gối, phủ phục xuống. Chỉ mình anh còn sống và Web cũng chẳng hề thấy vui vì điều đó. Điều cuối cùng mà Web London còn nhớ được trong cái đêm khủng khiếp ấy là khi anh đờ đẫn nhìn mồ hôi của mình nhỏ xuống, hòa vào những vũng nước mưa loang máu.

CHƯƠNG 3

Randall Cove là người được trời phú cho vóc dáng cực kỳ lực lưỡng cùng những bản năng đường phố tinh quái được anh mài dũa ngày một sắc bén hơn sau hàng chục năm lăn lộn. Suốt mười bảy năm qua anh vẫn là một đặc vụ chìm của FBI. Anh đã từng thâm nhập được vào các băng nhóm buôn bán ma túy gốc Latin ở Los Angeles, những tổ chức tội phạm gốc Nam Mỹ dọc biên giới Mexico và Texas, và thậm chí là cả những siêu tổ chức của dân ma túy châu u dưới mạn nam Florida. Hầu hết những điệp vụ của anh đều thành công vang dội, nhưng cái giá phải trả nhiều khi cũng không rẻ chút nào. Lúc này anh đang sử dụng một khẩu bán tự động cỡ 0.40 bắn đạn có đầu lõm - loại đầu đạn này sẽ vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ khi xuyên vào cơ thể, gây tổn thương bên trong và cuối cùng là một cái chết đau đớn; ấy là còn chưa kể đến một con dao găm có lưỡi răng cưa, có thể giúp anh xé toang động mạch chủ của đối phương chỉ trong chớp mắt. Randall Cove vẫn tự hào rằng anh là người chuyên nghiệp và đáng tin cậy trong công việc. Ngay lúc này không thiếu người không biết vẫn lên án anh là một tên tội phạm ghê tởm đáng phải ngồi bóc lịch cả đời trong nhà đá, hoặc tốt hơn hết là bị đưa lên ghế điện vì những tội ác khủng khiếp của mình. Cove biết lúc này anh đang gặp rắc rối nghiêm trọng và cũng nhận ra rằng anh là người duy nhất có thể giải thoát cho chính mình.

Cove cúi thấp người trong xe và theo dõi nhóm người kia bước vào xe của chúng và lái ra ngoài. Ngay khi chúng vừa lái qua, Cove ngồi dậy, chờ một lát rồi lặng lẽ bám theo. Anh kéo sụp chiếc mũ lưỡi trai trên quả đầu mới xén của mình, vĩnh biệt nhé, những lọn tóc dài lãng tử, nhưng cũng đến lúc rồi, anh đã quyết định là phải thế. Mấy chiếc xe phía trước dừng lại và Cove cũng phải đạp phanh. Khi nhìn thấy những tên kia bước ra khỏi xe, Cove vội rút chiếc máy ảnh từ trong balô ra và bấm lia lịa. Lát sau anh bỏ chiếc Nikon qua một bên, lấy ra chiếc ống nhòm hồng ngoại, và điều chỉnh độ phóng đại. Cove gật gù với chính mình và lần lượt điểm mặt từng tên một.

Anh hít thật sâu và thở ra nhẹ nhõm. Nhóm kia đã biến vào trong một toà nhà. Cove lặng lẽ ngồi chờ và nghĩ ngợi mông lung, bất giác cả cuộc đời anh từ trước đến giờ chợt hiện lên trong tâm trí như một cuốn phim tiểu sử. Hồi học đại học, Cove đã từng được xem là một phiên bản bự hơn, nhanh hơn cả Walter Payton ([9]); hồi còn chơi cho giải nghiệp dư các trường đại học toàn Mỹ, anh đã là một cầu thủ mà tất cả các đội bóng của giải NFL ([10]) đều sẵn sàng bỏ ra cả đống tiền để có được. Mọi chuyện đều tốt đẹp cho đến khi anh phải phẫu thuật vì đứt dây chằng cả hai đầu gối sau một chấn thương chết tiệt lúc đang thi đấu trận thuộc giải sát hạch hỗn hợp ([11]) . Tai nạn dở hơi này đã biến anh từ siêu nhân số một thành một tay chơi nghiệp dư tầm thường mà chẳng huấn luyện viên nào ở NFL thèm để ý. Vậy là giấc mơ hàng triệu đô la phút chốc tan tành mây khói và lối sống duy nhất mà anh biết cũng không còn. Anh sống dặt dẹo, bất cần đời vài năm, tìm kiếm sự thương hại của người đời, và tự thanh minh cho thất bại của mình, cứ như thế, cuộc đời anh đã tụt dốc không phanh đến nỗi hoàn toàn mất phương hướng, và đúng lúc đó anh đã gặp nàng. Cove vẫn luôn tin rằng vợ anh là sự can thiệp của Chúa, được cử xuống thế gian để cứu rỗi thân xác tàn tạ của anh khỏi sự lãng quên của số phận. Với sự giúp đỡ của nàng, anh đã lại đứng thẳng lên và thực hiện được giấc mơ bí mật của mình là trở thành một đặc vụ thực sự.

Anh đã bị bắn đi hết nơi này đến nơi khác trong Cục FBI. Đó là thời kỳ cơ hội dành cho những người da đen vẫn còn cực kỳ hạn chế. Cuối cùng thì người ta hầu như ép anh phải nhận công việc làm đặc vụ chìm về ma túy, vì cấp trên của anh đã bảo anh không thèm úp mở rằng hầu hết những “bọn xấu đều có cùng màu da như anh. Anh có thể đi lại ăn nói và hòa lẫn vào bọn chúng một cách dễ dàng. Mà thực sự thì anh cũng chẳng biết cãi thế nào. Công việc quá thừa nguy hiểm nên không còn thời gian mà buồn chán nữa. Đó là điều an ủi rất nhiều vì Randall Cove không bao giờ chịu được cảnh buồn tẻ, ăn không ngồi rồi. Và chỉ trong một tháng anh đã loại được số lượng tội phạm nhiều hơn hầu hết các đặc vụ khác từng làm trong suốt cả sự nghiệp của họ, mà lại toàn là những con cá lớn chứ, những tên đầu sỏ, những thằng trùm làm tiền thực sự, chứ không phải loại tép riu bán lẻ trên phố, những thằng nghiện sắp chết. Anh và vợ đã có hai nhóc tì đẹp như thiên thần và anh bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc đến việc giải nghệ thì đột nhiên cả thế giới tươi đẹp cửa anh bỗng sụp đổ tan tành, anh mất hết cả vợ lẫn con.

Anh giật mình trở lại với thực tại khi nhìn thấy bọn kia bước ra, trèo vào xe và tiếp tục lái đi và Cove lại bám theo.

Cove đã mất đi điều quý giá nhất mà anh không bao giờ lấy lại được nữa. Sáu người đã chết chỉ vì sai lầm tệ hại của anh, chỉ vì anh đã bị xỏ mũi như một tay lính mới chưa ráo máu đầu. Lòng tự trọng của anh bị tổn thương, nỗi thù hận lúc nào cũng sôi sục. Và thành viên thứ bẩy của cái đội đột kích tan tành ấy khiến Cove phải đặc biệt đau đầu. Người này đã sống sót trong khi lẽ ra anh ta cũng đã phải chết mà không ai hiểu tại sao, hay ít nhất thì cũng chưa hiểu tại sao. Cove muốn nhìn thẳng vào mắt anh ta và hỏi, Thế quái nào mà mày vẫn còn thở nhỉ? Anh không có hồ sơ của Web London và anh cũng biết là một đặc vụ chìm như anh thì còn lâu mới được tiếp cận hồ sơ đó. Đúng, Cove là người của FBI, nhưng cũng đúng là ai cũng đinh ninh anh đã thành một tên phản bội. Chẳng phải các đặc vụ chìm bao giờ cũng sống chênh vênh sát đường ranh giới là gì? Còn gì có thể bạc bẽo hơn công việc mà anh đã phải làm suốt bao năm qua, nhưng anh chấp nhận tất, chỉ vì anh làm việc cho mình, chứ không vì bất kỳ ai khác.

Mấy chiếc xe tấp lại bên lối vào và Cove cũng dừng lại, chụp thêm vài tấm ảnh rồi quay đầu xe. Đêm nay thế là quá đủ rồi. Anh quay đầu xe và lái về nơi duy nhất tạm gọi là an toàn trong lúc này, và đó không phải nhà anh. Anh vừa quay đầu xe và nhấn ga thì bỗng nhiên một cặp đèn pha xuất hiện từ phía sau, như từ trên trời rơi xuống và bám theo anh. Không ổn rồi, nhất là trên một con đường vắng như thế này. Bị chính đồng nghiệp theo dõi không phải điều khiến Cove thích thú gì. Anh rẽ, chiếc xe cũng rẽ. OK, vụ này nghiêm trọng đây. Anh lại tăng tốc. Cái đuôi cũng bám theo. Cove lần tay xuống bao súng cài ở thắt lưng, rút súng ra và kiểm tra chốt an toàn. Anh liếc nhìn kính chiếu hậu, cố xác định xem đang phải đối mặt với bao nhiêu thằng. Trời quá tối nên không sao nhìn được, đoạn đường này chẳng có đèn đóm gì cả. Viên đạn thứ nhất bắn thủng lốp sau bên phải của anh, phát thứ hai bắn thủng lốp trái . Trong lúc anh đang vất vả giữ lái chiếc xe đang chao đảo, một chiếc xe tải lao từ đường ngang ra húc thẳng vào bên sườn xe anh. Cũng may Cove đã hạ cửa kính xe, nếu không đầu anh đã đập xuyên qua kính rồi. Phía trước chiếc xe tải có gắn tấm ủi tuyết, mặc dù bây giờ đâu phải giữa mùa đông. Chiếc xe tải rồ ga và đẩy xe của Cove rê đi trên mặt đường. Anh cảm thấy xe mình như sắp lộn nhào và rồi chiếc xe tải đẩy xe anh lộn tung qua cả gờ bảo vệ - vốn được lắp ở đây để bảo vệ cho các phương tiện không lao xuống triền vực dốc dựng đứng ở đoạn cua này. Sườn xe đập thẳng xuống đất đá lổn nhổn và lăn lông lốc, cả hai cánh cửa mở tung ra. Cuối cùng chiếc xe nát bét cũng ngừng lăn khi chạm tới đáy triền dốc, bốc cháy rừng rực và nổ tung.

Chiếc xe vẫn bám theo Cove bỗng dừng lại, một người đàn ông trong xe bước ra, chạy đến sát gờ bảo vệ bẹp rúm và căng mắt nhìn xuống triền dốc. Hắn nhìn lửa bốc lên, chứng kiến vụ nổ khi lửa liếm vào xăng chảy ra, rồi mới quay vào xe. Cả hai chiếc xe cùng rồ máy rời khỏi hiện trường.

Sau khi chúng đi khỏi, Randall Cove từ từ gượng dậy và rời khỏi nơi anh đã bị bắn văng ra khi cửa xe mở tung sau khi va chạm với mặt đất. Khẩu súng của anh đã rơi đâu mất và hình như có vài cái xương sườn bị gãy, nhưng quan trọng nhất là anh vẫn sống. Anh nhìn xuống những gì còn lại của chiếc xe rồi ngước lên nhìn theo bóng những tên tìm cách giết anh vừa đi khỏi. Cove lảo đảo đứng hẳn dậy và nặng nhọc lần đường trèo lên triền dốc.

*

Web ôm chặt cánh tay bị thương, trong khi đầu anh chỉ chực nổ tung. Cảm giác như thể anh vừa nốc liên tục ba cốc rượu tequilla và chất cồn nóng bỏng đang bốc hết lên đầu. Phòng bệnh viện vắng tanh. Bên ngoài có một nhân viên vũ trang đứng gác, để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với Web - bất kỳ chuyện gì.

Web đã nằm đây cả ngày, cả đêm để suy nghĩ về những gì đã xảy ra. Và anh không tiến gần đến những câu trả lời hơn được chút nào so với khi họ đưa anh đến đây. Người chỉ huy của Web cũng đã vào thăm, cùng với vài thành viên của đội Hotel, và một số tay bắn tỉa của Whiskey, X quang. Họ hầu như không nói gì, chỉ lặng lẽ gặm nhấm và chia sẻ nỗi đau mà tất cả đang phải trải qua, tất cả đều bàng hoàng không thể tin nổi là một chuyện như vậy có thể xảy ra với mình. Và trong mắt họ, Web có thể cảm nhận rõ nỗi nghi ngờ, về những gì đã xảy ra với anh trong con hẻm.

“Tôi xin lỗi, Debbie,” Web ấp úng với gương mặt tưởng tượng của người vợ góa mà Teddy Riner vừa để lại. Anh cũng nói câu đó với Cynde Plummer, vợ của Cal và giờ cũng là một góa phụ. Anh điểm lại danh sách: sáu người phụ nữ cả thảy, tất cả đều là bạn của anh. Chồng và người yêu của họ đều là đồng đội, là chiến hữu của Web; trong anh cũng là cảm giác đau đớn và mất mát đâu có kém gì những người phụ nữ.

Anh buông thõng bàn tay bị thương xuống và chạm vào thành giường bằng thép lạnh lẽo. Thật xấu hổ khi chỉ bị một vết thương lố bịch thế này, trong khi các đồng đội đều chết hết. Anh thậm chí còn không bắn được phát nào trực diện. “Mình còn không kịp bắn một phát chó chết nào trước khi họ ngã xuống,” anh nói với bức tường. “Không một phát nào! Không thể tin nổi, đúng không?” Anh hét lên với chiếc cọc treo lọ truyền dịch trước khi rơi vào trạng thái im lặng, trầm tư.

“Chúng ta sẽ bắt chúng phải trả giá, Web.”

Giọng nói làm Web giật mình vì anh không nghe thấy tiếng người bước vào phòng. Nhưng có tiếng nói thì phải có người chứ. Web lăn qua lăn lại trên giường đến khi anh nhìn thấy hình dáng một người đàn ông.

Percy Bates đang ngồi trên ghế ngay sát giường Web. Anh ta đang chăm chú dán mắt xuống sàn nhà lót thảm như thể đó là một tấm bản đồ có thể đưa mình đến nơi có tất cả những câu trả lời.

Người ta đồn rằng Percy Bates chưa hề thay đổi chút nào trong suốt 25 năm qua. Thậm chí cân nặng và vóc dáng của anh ta cũng không hề suy xuyên. Mái tóc vẫn đen nhánh không một sợi tóc bạc và được chải gọn gàng như ngày anh ta mới bước vào trụ sở FBI sau khi rời học viện. Cứ như thể anh ta đã được đông lạnh để giữ nguyên hiện trạng, nhất là trong một lĩnh vực công việc nguy hiểm và căng thẳng luôn làm con người ta già trước tuổi như thế này. Anh ta đã trở thành một huyền thoại sống trong Cục vì thành tích đã đập tan những đường dây buôn bán ma túy dọc biên giới Texas-Mexico rồi tiếp tục gây ác mộng cho thế giới ngầm ở Bờ biển Tây trong thời kỳ anh ta làm ở Văn phòng Địa bàn Los Angeles của Cục. Anh ta thăng tiến vùn vụt và hiện đang là một trong những nhân vật đứng đầu của Văn phòng Địa bàn Washington, hay thường được biết tới với tên lóng là “WFO”. (Washington Field Office) Anh ta đã kinh qua hầu hết các lĩnh vực hoạt động của Cục nên biết rõ cách thức phối hợp hiệp đồng của các bộ phận.

Bates, thường được gọi thân mật là Perce, vốn là người nói năng nhẹ nhàng, mềm mỏng. Nhưng anh ta vẫn có thể làm một nhân viên dưới quyền nhũn ra như bún bằng ánh mắt khiến người ta có cảm giác mình chỉ là kẻ bỏ đi. Anh ta có thể là đồng minh tốt nhất hoặc kẻ thù tồi tệ nhất mà ta có. Rất có thể đó là số phận không thể khác của một người lớn lên với cái tên Percy ([12]).

Web đã từng là đối tượng phải hứng chịu một vài bài thuyết giáo kinh điển của Bates, đó là thời kỳ anh là nhân viên dưới quyền trực tiếp của anh ta trong Cục. Vô số lần phải nhẫn nhục chịu đựng, vì thực ra để trở thành một đặc vụ xuất sắc như bây giờ, Web cũng đã phạm phải không ít sai lầm. Như bất kỳ người chỉ huy nào khác, Bates cũng có lúc chơi trò vỗ về, cưng chiều cấp dưới, lúc thì chọn ra ngay một con dê tế thần không may nào đó trong trường hợp mọi chuyện trở nên bung bét. Vì thế anh hiểu rằng câu nói này của anh ta không phải là không có ẩn ý. Anh cũng không tin giọng nói nhẹ nhàng, ấm áp đó là một cử chỉ hòa bình và thiện chí thực sự Nhưng cái đêm mà Web bay mất cả một bên mặt trong trận đọ súng khủng khiếp đó, Bates là một trong những người đầu tiên đến bên giường anh nằm, và Web không bao giờ quên điều đó. Không, Percy Bates không phải là một phương trình đơn giản, mà thực ra cũng làm gì có ai đơn giản đâu. Anh và Bates không bao giờ có thể là bạn uống rượu tâm giao. Nhưng anh biết giữa anh và anh ta luôn có sự tôn trọng dành cho nhau.

“Tôi biết là cậu đã báo cáo qua tình hình, nhưng chúng ta vẫn cần có báo cáo đầy đủ của cậu ngay khi có thể.” Bates nói. “Nhưng đừng vội. Cứ bình tĩnh thôi, phải để cậu khỏe lên đã.” Thông điệp đã quá rõ. Những gì xảy ra đã làm tất cả đều suy sụp. Sẽ không có những cơn bùng nổ giận dữ từ phía Bates; ít nhất thì cũng là trong lúc này.

“Chỉ là vài vết xước thôi mà,” Web làu bàu trả lời.

“Họ nói tay cậu bị một vết đạn bắn vào. Khắp người đều thâm tím và trầy xước. Các bác sĩ bảo trông như cậu bị ai đó nện bằng gậy bóng chày vậy.”

“Không có gì,” Web trả lời, và cảm thấy hoàn toàn kiệt sức sau khi nói xong câu đó.

“Cậu vẫn cần phải nghỉ ngơi. Và sau đó chúng ta sẽ lấy báo cáo hoàn chỉnh.” Bates đứng dậy. “Và nếu có thể, tôi biết là rất khó khăn, thì hy vọng cậu sẽ cùng chúng tôi quay lại đó và phân tích chính xác những gì đã diễn ra.”

Và tại sao chỉ mình tôi còn sống? Web gật đầu. “Tôi sẽ sẵn sàng trong thời gian ngắn nhất. “Không cần vội đâu,” Bates nhắc lại. “Chuyện này không hề dễ dàng chút nào. Nhưng dù thế nào cũng phải làm cho xong.” Ông ta vỗ nhẹ lên vai Web và quay về phía cửa.

Web ngọ nguậy, cố gắng gượng ngồi dậy. “Perce?” Trong bóng tối của căn phòng, tất cả những gì Web nhìn thấy là tròng mắt của Bates. Web có cảm giác chúng là hai con súc sắc treo lơ lửng trên không trung.

“Họ chết hết rồi phải không?”

“Tất cả,” Bates xác nhận. “Cậu là người duy nhất còn lại, Web ạ.”

“Tôi đã làm tất cả những gì có thể.”

Cánh cửa mở ra rồi khép lại, và Web chỉ còn lại một mình.

Ngoài hành lang, Bates trao đổi với một nhóm người ăn mặc giống hệt anh ta: complet màu xanh tím than giản dị, sơ mi trắng, cà vạt tối màu, giày đen đế mềm và súng ngắn cỡ nòng lớn đeo trong những bao da cài sát nách.

“Đây sẽ là một cơn ác mộng nếu báo chí đánh hơi thấy vụ này, các ông biết đấy,” một người trong bọn nói. “Mà thực ra thì họ biết cả rồi.”

Bates thảy một viên kẹo cao su vào miệng thay thế cho một điếu Winston mà anh ta đã quyết tâm bỏ đến lần thứ năm rồi. “Những đòi hỏi của bọn nhà báo lắm chuyện chưa bao giờ có vị trí cao trong danh sách ưu tiên của tôi đâu,” ông ta càu nhàu.

“Anh vẫn phải thông báo tình hình cho họ, Perce ạ. Nếu không họ nghiễm nhiên cho rằng kết cục tồi tệ nhất đã xảy ra, và sẽ tha hồ bịa ra mọi chuyện. Ngay lúc này trên Internet đã có nhiều thông tin mà anh không thể tin nổi đâu, nào là vụ thảm sát này có liên quan đến sự trở lại khải huyền của Chúa Giêsu, nào là có dính dáng đến một âm mưu làm ăn của Tam Hoàng người Hoa. Ý tôi là họ lấy những thông tin cặn bã này ở đâu ra chứ? Báo chí cứ bịa chuyện tùm lum thế này là bung bét hết.”

“Tôi không thể tin nổi là có kẻ nào dám cả gan làm chuyện này với chúng ta,” một người tóc hoa râm và béo ị than thở. Bates biết tay đặc vụ này chẳng biết quái gì ngoài cái bàn làm việc sang trọng của mình suốt chục năm qua, nhưng lúc nào ông ta cũng cố thể hiện như mình xông xáo lắm. “Không thể là bọn Columbia, hay bọn Nga, mà cả bọn Tàu cũng không thể nào có gan chơi chúng ta một vố đau thế này.”

Bates liếc xéo vào mặt ông ta, “Nhớ là ở đây chỉ có 'chúng ta' chống lại 'chúng', hiểu chứ? Chính chúng ta lúc nào chẳng muốn đập chúng tơi tả. Thế ông nghĩ chúng không muốn chơi lại sao?” “Nhưng lạy Chúa tôi, Perce. Chúng đã giết sạch cả một đội tinh nhuệ nhất của ta. Ngay trên sân nhà của chúng ta!” Lão béo the thé rít lên phẫn nộ. Perce khinh khỉnh ném cho lão một cái nhìn bằng nửa con mắt; như đang nhìn một con voi già không có ngà sắp gục xuống và trở thành mồi ngon cho những con thú ăn thịt của rừng già. “Tôi không nghĩ chúng ta kiểm soát được khu vực đó của D.C.([13])” Bates nói.

Đã hai hôm nay anh ta không hề chợp mắt nên mỗi lúc một cáu kỉnh. “Thực ra tôi có cảm giác đó là sân nhà của chúng thì đúng hơn, và chúng ta chỉ là đội khách.”

“Anh biết ý tôi là gì mà. Làm sao lại có một cuộc tấn công dã man đến thế chứ?”

“Mẹ kiếp, tôi đếch biết, có thể vì chúng ta đã hơi quá tay trong việc chặn đứng hoạt động vận chuyển ma túy trị giá hàng tỷ đô la mỗi ngày của chúng khiến chúng không chịu nổi nữa, đồ ngu ạ.” Bates bắt đầu nổi nóng, anh ta vừa nói vừa sấn sổ dồn lão béo vào góc, nhưng rồi kiềm chế được và quyết định rằng lão ta quá vô hại, chẳng đáng để bị đình chỉ công tác vì chuyện vớ vẩn này.

“Anh ta thế nào rồi?” người khác hỏi. Đó là một người tóc vàng hoe, mũi đỏ như quả cà chua vì bị cúm.

Bates dựa hẳn vào tường, lạnh lùng nhai kẹo và nhún vai. “Tôi ngại những chấn động tâm lý mà anh ta phải chịu đựng hơn bất kỳ điều gì khác Nhưng thực ra cũng dễ hiểu thôi.”

“Một anh chàng may mắn, đó là tất cả những gì tôi có thể nói.” Mũi Đỏ nhận xét. “Ai cũng phải băn khoăn là tại sao anh ta sống sót được.”

Chỉ mất đúng một giây Bates đã nhảy xổ đến trước mặt người kia. Đêm nay thì không có chuyện anh ta sẽ nương tay gì hết. “Ông dám gọi việc phải chứng kiến sáu đồng đội bị băm nát trước mặt mình là may mắn à? Ông định nói thế phải không, đồ chó đẻ khốn kiếp kia?”

“Thôi nào, tôi có ý đó đâu, Perce. Anh biết là tôi không có ý đó mà.” Mũi Đỏ vừa nói vừa cố ho khù khụ, như để cho Bates thấy rằng ông ta đang rất ốm nên không muốn đánh nhau.

Bates buông cổ áo Mũi Đỏ và bước lùi hẳn ra xa, không che giấu vẻ kinh tởm với tất cả mọi người. “Ngay lúc này tôi đếch biết gì hết. Không. Tôi xin nói lại. Tôi chỉ biết là một mình Web đã tiêu diệt cả tám ụ súng máy, cứu mạng cả một đội khác cũng như một thằng bé ở khu ổ chuột nữa. Đó là tất cả những gì tôi biết.”

“Báo cáo ban đầu nói là Web đã bị tê cứng người.” Nhận xét này đến từ một người vừa mới bước lại góp chuyện, và rõ ràng ông ta là người có chức vụ cao hơn. Hai quý ông mặt lạnh như tiền đứng ngay đằng sau người mới đến. “Mà thực ra thì Perce ạ, tất cả những gì chúng ta biết đều là do Web báo cáo,” ông ta nói. Rõ ràng người này là cấp trên của Percy Bates, nhưng có thể thấy là Bates chỉ muốn nhảy lên vặn cổ ông ta, dù không dám .

Ông ta tiếp tục, “London còn rất nhiều việc phải giải trình đấy. Và chúng ta sẽ phải tiến hành cuộc điều tra này với những con mắt mở thật to, to hơn nhiều so với đêm qua. Đêm qua là một nỗi nhục nhã. Đêm qua sẽ không bao giờ, không bao giờ được phép lặp lại. Chừng nào tôi còn ở đây”. Ông ta gườm gườm nhìn Bates rồi buông một câu châm biếm nặng như búa tạ, “Bảo London là tôi gửi lời hỏi thăm.” Nói xong câu đó, Buck Winters, người đứng đầu Văn Phòng Địa bàn Washington của FBI quay người cút thẳng, hai tay tùy tùng lật đật bước theo ông ta như hai con rối.

Bates căm phẫn nhìn theo bóng ông ta. Buck Winters từng là một trong những người chỉ đạo chính tại hiện trường vụ Waco ([14]) Và theo quan điểm của Bates thì chính ông ta đã góp phần gây ra một trong vụ thảm sát tồi tệ nhất ở nước Mỹ bằng cung cách chỉ huy ngu xuẩn của mình. Thế mà, chẳng hiểu sao Winters vẫn thăng tiến vùn vụt nhờ sự bất tài của mình và hiện đang là người đứng đầu WFO. Có lẽ Cục không muốn thừa nhận là mình đã sai lầm và thực sự tin rằng việc thăng chức cho một trong những người chỉ huy vụ Waco là thông điệp mạnh mẽ cho thế giới rằng Cục tự cho mình vô can trong thảm họa nói trên. Tổng kết lại thì có vô số cái đầu đã rụng vì sự điên khùng của David Koresh trên một ngọn đồi ở Waco, Texas, nhưng đầu của Buck Winters vẫn còn nguyên trên cổ. Đối với Bates thì Buck Winters là hiện thân cho tất cả những gì là mặt trái của FBI.

Bates dựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực và nhai ngấu nghiến chiếc kẹo cao su Wrigley trong miệng đến khi mỏi nhừ cả hàm răng. Anh tin chắc lúc này lão Buck già khọm sẽ đi tâu hết với giám đốc FBI, với Bộ trưởng Tư pháp, và có khi là cả với Tổng thống cũng nên. Hừm, mặc xác lão, càng đỡ vướng đường của Percy Bates.

Đám người còn lại cũng lục tục tan dần, chỉ còn lại Bates và người nhân viên mặc sắc phục đúng gác ngoài cửa. Cuối cùng Bates cũng bỏ đi tay đút túi quần, ánh mắt mông lung, vô định. Trên đường ra khỏi bệnh viện, anh thổi phù chiếc bã kẹo cao su vào thùng rác. “Lũ khốn kiếp ngu ngốc” anh làu bàu. “Khốn kiếp và ngu ngốc.”

CHƯƠNG 4

Vẫn mặc nguyên bộ quần áo bệnh nhân màu xanh của bệnh viện. Web xách túi đồ cá nhân của mình và ngước nhìn bầu trời đầy nắng rực rỡ tràn ngập cửa sổ buồng bệnh. Những lớp gạc quanh bàn tay bị thương của anh thật vướng víu và khó chịu; anh có cảm giác như đang mang một chiếc găng tay quyền Anh ngoại cỡ.

Anh đang chuẩn bị bước tới mở cửa để ra ngoài thì cánh cửa tự bật mở; ít nhất đó cũng là điều Web nghĩ cho đến khi có một người đàn ông xuất hiện.

“Cậu làm gì ở đây, Romano?” Web thốt lên ngạc nhiên.

Người đàn ông không nhận ra ngay Web. Anh ta chỉ cao khoảng lm80, vóc người lực lưỡng. Anh chàng tóc đen xoăn tít này mặc một chiếc áo khoác da cũ kỹ, quần jeans, và đội một chiếc mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankees trên đầu. Tấm phù hiệu FBI được cài ở thắt lưng; báng một khẩu súng ngắn thò ra khỏi bao kẹp ở nách.

Romano nhìn Web từ đầu xuống chân, ánh mắt anh ta dừng lại ở bàn tay bị thương của Web. Anh ta chỉ vào vết thương. “Đấy à? Vết thương khốn kiếp của cậu đấy à?” Web nhìn tay mình rồi nhìn lại Romano. “Chẳng lẽ cậu sẽ hạnh phúc hơn nếu vết đạn này nằm ở đầu tớ sao?”

Paul Romano cũng là một thành viên đội đột kích Hotel. Anh chàng là một trong những người mạnh mẽ, liều lĩnh nhất và bao giờ bạn cũng biết mình đang ở một nơi nguy hiểm không hứa hẹn điều gì tốt lành nếu thấy anh ta có mặt. Romano và Web chưa bao giờ thực sự thân thiết mà theo Web thì chủ yếu là vì Web đã bị thương nhiều hơn anh ta, và Romano rất lấy làm cay cú với ý nghĩ rằng Web anh hùng và dũng cảm hơn anh ta.

“Tôi chỉ hỏi cậu một lần thôi, Web, và tôi muốn hỏi toạc móng heo. Cậu mà nói dối thì biết tay tôi đấy.”

Web cúi xuống nhìn Romano và bước lại gần anh ta thêm một chút chỉ để nhấn mạnh thêm sự chênh lệch chiều cao giữa hai người. Anh biết chắc làm như thế càng khiến Romano tức tối thêm. “Được rồi. Paulie - cậu mang kẹo và hoa cho mình đấy à?”

“Hãy nói thật với tôi xem nào Web.” Anh ta ngập ngừng một lát tôi nói tiếp, “Anh đã bỏ chạy à?”

“Ừ, Paulie ạ, mấy khẩu súng đó bắn rát rạt luôn.”

“Tôi biết rồi. Ý tôi muốn nói là trước đó kia. Khi đội Charlie ngã xuống ấy. Anh không lao lên cùng với họ. Tại sao?”

Web cảm thấy mặt nóng ran và anh căm ghét bản thân vì điều đó. Thường thì chẳng mấy khi Romano làm anh bận tâm. Nhưng sự thật là Web không biết phải trả lời anh ta như thế nào.

“Có chuyện gì đó đã xảy ra trong đầu tớ! Paulie ạ. Tớ cũng không biết chính xác là điều gì nữa. Nhưng tớ chẳng liên quan gì đến vụ phục kích này hết, trong trường hợp cậu đã phát điên và đang nghi ngờ tớ.”

Romano lắc đầu. “Tôi không nghĩ cậu đã trở thành kẻ phản bội, Web ạ, nhưng cậu đã trở nên hèn nhát.”

“Nếu như cậu đến chỉ để nói với tớ chuyện đó thì biến mẹ cậu đi cho rảnh.”

Romano lại nhìn anh từ đầu đến chân và với ánh mắt khinh bỉ của anh ta. Web lại thấy mình như không còn là người nữa. Không thèm nói một lời, Romano quay người bỏ đi. Có lẽ Web sẽ hài lòng hơn nếu trước khi đi anh ta bỏ lại một câu xúc phạm gì đó còn hơn là im lặng như vậy.

Web đứng chờ thêm vài phút cho anh ta đi hẳn rồi ra mở cửa.

“Anh đang làm gì vậy?” người gác cửa ngạc nhiên hỏi.

“Bác sĩ cho tôi ra viện rồi mà, chưa ai bảo anh à?”

“Chẳng ai nói gì với tôi cả.”

Web chìa bàn tay băng kín mít của mình lên. “Chính phủ sẽ không trả tiền thêm một đêm nữa cho một bàn tay bị trầy xước qua loa thế này đâu. Và tất nhiên là tôi chẳng việc mẹ gì mà bỏ tiền túi ra làm gì.”

Web không biết người dùng gác, nhưng có vẻ như anh ta là loại người biết thông cảm với một đề nghị hợp tình hợp lý.

Không đợi anh ta trả lời. Web cứ thế bước đi. Anh biết người lính gác không có lý do gì mà ngăn trở mình. Tất cả những gì anh ta có thể làm là liên lạc với cấp trên để báo cáo về động thái này. Gì chứ việc ấy thì chẳng cần nhắc chắc anh ta cũng đang thực hiện rồi.

Web ra khỏi bệnh viện qua một lối đi ở bên, anh tìm một chiếc bốt điện thoại công cộng, gọi cho một người bạn, và một giờ sau anh đã ở trong trang trại cũ kỹ của mình ở một khu ngoại ô yên tĩnh của Woodbridge, Virginia. Anh thay đồ jeans, đi giày, mặc một chiếc áo len chui cổ màu xanh hải quân, tháo bỏ những chiếc gạc và thay bằng một lớp băng mỏng. Anh không muốn nhận sự thương hại của bất kỳ ai, nhất là khi sáu người bạn thân nhất của anh giờ đang nằm trong nhà xác.

Anh kiểm tra tin nhắn. Không có gì nghiêm trọng, nhưng anh biết điều đó sẽ thay đổi sớm thôi. Anh mở một chiếc hộp trên mặt lò sưởi lấy ra khẩu chín ly dự phòng và đút vào trong bao súng ở thắt lưng. Mặc dù về mặt kỹ thuật mà nói thì đêm qua anh không bắn ai. Nhưng đây vẫn là một vấn đề của SRB - Shooting Review Board - tức Ban Kiểm Tra Súng; vì trong thực tế là anh đã sử dụng vũ khí của mình. Họ đã tịch thu toàn bộ súng của Web, như thế khác nào chặt tay anh đi. Sau đó họ còn khuyên bảo anh về những quyền lợi của mình và đã lấy lời khai. Tất cả chỉ là thủ tục, là quy định của ngành, nhưng vẫn khiến anh có cảm giác mình đang bị coi là một tên tội phạm. Kệ xác họ, anh sẽ không đi đâu hết nếu không có đồ lận lưng. Nếu như bản chất anh đã là người hoang tưởng thì vụ thảm sát của sáu người đồng đội đêm qua càng biến anh thành một người loạn tinh thần, thậm chí chỉ cần nhìn trẻ con và đàn bà cũng thấy giật mình, cảnh giác.

Anh ra giữa, khởi động chiếc Ford Mach One đời 1978 màu đen chì và lái ra ngoài.

Web có hai chiếc xe: chiếc Mach này và một chiếc Suburban cổ lỗ sĩ nhưng nồi đồng cối đá, đã từng đưa anh và cả đội Charlie của mình đi xem những trận bóng bầu dục của đội Redskin, tới những bãi biển của Virginia và Maryland, đi bia bọt đâu đó và biết bao lần cắm trại hay dã ngoại dọc bờ biển Đông. Mỗi người trong nhóm đều có chỗ ngồi mặc định trong chiếc Suburban, căn cứ vào khả năng và tuổi tác, đúng theo cách phân chia thứ bậc trong ngành của Web. Họ đã có biết bao kỳ niệm đẹp với chiếc xe to bự đó. Giờ thì Web tự hỏi anh sẽ bán chiếc Suburban với giá thế nào cho phù hợp, vì anh không thể nào có tâm trạng ngồi vào nó được nữa.

Anh lái xe theo đường cao tốc liên bang số 95, hướng về phía bắc và cố luồn lách qua chặng đường nhọc nhằn là giao lộ Springfield. Giao điểm này có lẽ là tác phẩm của một kỹ sư cầu đường trong cơn phê thuốc. Giờ đây nó đang được nâng cấp toàn bộ, dự kiến sẽ hoàn thành trong khoảng mười năm nữa. Người nào mà vô phúc lái xe hàng ngày qua giao lộ này thì có nước là khóc đến méo mặt khi tốc độ dịch chuyển của giao thông vào buổi sáng được tính bằng cm. Web đi qua Cầu Phố 14, xuyên qua khu Tây Bắc của thành phố nơi có những công trình kỷ niệm và thắng cảnh thu hút khách du lịch chính, và cuối cùng là một khu ổ chuột nhếch nhác của thành phố.

Web là một đặc vụ FBI, nhưng trong thâm tâm anh không bao giờ nghĩ vậy. Đầu tiên và trên hết anh là một lính đặc nhiệm của đội Giải cứu con tin (HRT: Hostage Rescue Team), lực lượng phản ứng nhanh tinh nhuệ nhất của Cục. Anh không bao giờ phải mặc complet đi làm, cũng hiếm khi giao du với những đặc vụ khác ngoài HRT. Anh không xuất hiện tại hiện trường vụ án sau khi súng đã ngừng nhả đạn. Bao giờ anh cũng phải có mặt từ lúc xuất phát, tăng tốc, áp sát mục tiêu, nổ súng khống chế và nhiều khi còn phải giết người. Chỉ có tất cả 50 lính đặc nhiệm HRT cả thảy, vì quá trình chọn lọc và đào thải của công việc này vô cùng khắc nghiệt. Tuổi nghề trung bình ở HRT là năm năm. Web đã vượt quá quy định chung đó và sắp kỷ niệm tám năm công tác ở đội. Dường như đạo này HRT được huy động thường xuyên hơn, và phải có mặt ở các điểm nóng ở khắp nơi trên thế giới. Luật bất thành văn của HRT là phải có mặt ở hiện trường sau tối đa là bốn tiếng xuất phát từ Căn cứ Không quân Andrew. Có điều là tấm rèm sân khấu đã khép lại, vai diễn của Web trong vở này đã xong. Giờ thì anh chỉ còn bơ vơ một mình.

Web chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ là người cuối cùng còn sống sót trong bất kỳ trường hợp nào. Điều đó có vẻ không phù hợp với bản chất của anh. Cả đội đều đã nói đùa về chuyện này, thậm chí còn đánh cuộc xem ai sẽ là người chết trước trong một đêm không trăng tối thui. Lúc nào Web cũng là người đứng đầu trong danh sách, bởi vì anh luôn là người đầu tiên đương đầu với mọi hiểm nguy. Giờ thì điều đó đang giày vò Web, anh vẫn không hiểu điều gì đã ngăn cản anh không nằm trong chiếc quan tài thứ bảy. Và tệ hơn cả cảm giác cắn rứt là nỗi nhục nhã.

Anh quặt chiếc Mach tấp vào lề đường và bước xuống xe chỗ có dải băng cấm đánh dấu hiện trường. Anh xuất trình chứng minh thư của mình cho những người lính gác, họ không giấu được vẻ sững sờ khi nhìn thấy anh. Web cúi đầu lặng lẽ bước nhanh vào con hẻm trước khi một biển phóng viên đông nghịt kịp vây chặt lấy anh. Sau khi vụ thảm sát xảy ra các đài truyền hình đã đóng quân tại khu vực này và truyền tin trực tiếp bằng những chiếc xe chuyên dụng có ăng ten vệ tinh cao vút. Web cũng đã nghe qua vài bài phản ánh khi còn trong bệnh viện. Thực ra giới truyền thông cũng chỉ nhai đi nhai lại với những sự kiện cũ rích, sứ dụng mấy hình ảnh và sơ đồ vô thưởng vô phạt với giọng điệu chắc như đinh đóng cột kiểu như “Đó là tất cả những gì chúng tôi biết tại thời điểm này. Nhưng hãy theo dõi sát sao chương trình, cam đoan là chúng tôi sẽ sớm có thêm thông tin giá trị, dù có phải dựa hoàn toàn vào sự phỏng đoán của mình. Hẹn gặp lại các bạn, phóng viên Sue phản ánh từ hiện trường”.

Web lặng lẽ đi về cuối hẻm.

Cơn bão đêm qua đã tan sâu vào Đại Tây Dương. Không khí sau bão trở nên mát mẻ hơn đôi chút. Vốn được xây dựng trên một đầm lầy, thủ đô Washington ứng phó với với điều kiện nóng ẩm tốt hơn là với giá lạnh và bão tuyết. Mỗi khi tuyết rơi thì đừng có mơ đến chuyện nhìn thấy một con đường nào được dọn tuyết chu đáo.

Đến giữa con hẻm thì anh gặp Bates. “Cậu làm cái quái gì ở đây vậy?” anh ta thốt lên.

“Anh đã nói là anh muốn tôi trình bày lại những gì đã xảy ra, vậy tôi đang ở đây thôi.” Bates liếc nhìn tay Web. “Bắt tay vào thôi, Perce. Mỗi phút đều giá trị.”

Xuất phát từ chính điểm chiếc Chevy Suburban đã thả họ xuống, Web bắt đầu đi lại hành trình của đội mình. Với mỗi bước chân tiến gần về phía mục tiêu, Web càng cảm thấy cơn giận dữ và tủi hổ của mình lớn dần lên. Những thi thể đã được dọn đi; nhưng vết máu thì không. Ngay cả trận mưa rào xối xả cũng không thể rửa sạch những vết máu đặc quánh. Trong tâm tưởng, Web hình dung lại tất cả những hành động mà anh đã thực hiện, những cảm xúc mà anh đã trải qua.

Một nhóm kỹ thuật viên đang tháo dỡ những ụ súng máy bị phá hủy, chốc chốc họ lại nhặt ra những mẩu hoặc mảnh vỡ nhỏ có thể dùng làm bằng chứng điều tra. Những người khác đang sục sạo khắp trên sân, người thì quỳ gối xuống sàn bê tông săm soi, người thì lom khom tìm kiếm nhặt nhạnh đủ thứ, hy vọng tìm ra được câu trả lời từ những vật linh tinh rải rác khắp sân. Web nhìn họ làm việc với ánh mắt hoài nghi. Gần như chắc chắn một trăm phần trăm là trên những mảnh vỡ và thân súng bị phá hủy còn lại kia sẽ chẳng có dấu vân tay nào hết. Kẻ đã sắp đặt vụ phục kích kỳ công đến dường này thì chắc hẳn phải là kẻ cực kỳ ranh ma và thận trọng.

Anh lặng lẽ bước qua những vũng máu như thể đang rón rén luồn lách giữa những ngôi mộ của đồng đội, mà thực ra cũng có khác gì đâu?

“Những ô cửa sổ này đã được sơn đen kịt để không ai có thể nhìn thấy những khẩu súng được bố trí trong này cho đến khi chúng bắt đầu nhả đạn. Không thể nhìn thấy ánh nắng phản xạ trên nòng súng, không gì sất”, Bates nhận xét.

“Thật vui khi biết chúng ta bị chơi bởi những tay chuyên nghiệp” Web cay đắng trả lời.

“Cậu làm ăn được đấy.” Bates chỉ vào một khẩu súng máy đã nát vụn.

“Khẩu SR75 nào cũng làm được như vậy thôi.”

“Đây là những khẩu súng máy loại mini, quân dụng, kiểu Gatling sáu nòng, gắn trên giá ba chân, chân đế súng được bắt vít xuống sàn nhà để cố định vị trí. Có cả hộp tiếp đạn và băng truyền đạn gắn kèm đây với 4000 viên mỗi khẩu. Tốc độ bắn được điều chỉnh cố định ở mức 400 phát/phút, mặc dù tốc độ bắn tối đa là 8000 phát/phút.”

“Bốn trăm là quá đủ rồi. Và có tám khẩu cả thảy. Có nghĩa là trong vòng sáu mươi giây có đến 3200 viên nã vào anh rồi. Tôi biết vậy vì có một viên nẩy ra cách tôi có vài phân.”

“Với tốc độ bắn chậm như vậy thì những khẩu súng này có thể bắn được lâu hơn.”

“Đúng thế.”

“Súng hoạt động bằng điện, còn đạn mà chúng sử dụng là đạn xuyên giáp.”

Web lắc đầu chán nản. “Các anh đã tìm thấy thiết bị khởi động chưa?”

Bates dẫn anh qua một tường gạch ở phía bên kia con hẻm mà Web vừa đi xuống. Đó là một tòa nhà đứng vuông góc với tòa nhà chung cư là mục tiêu ban đầu và chính là nơi đặt một nửa số súng máy đã hủy diệt đội Charlie, trừ Web. Ngay giữa ban ngày, cũng phải căng mắt mới nhìn rõ khu vực tối tăm này.

Web quỳ gối xuống và nhận ra cái mà anh nhìn thấy trước mặt là một thiết bị lade. Trên bức tường đã được đục sâu một ô để đặt đầu phóng lade và bộ phát điện. Ô gạch này được đục khá sâu nên sau khi đặt vào hầu như không thể nhìn thấy bộ phát điện được nữa. Những đội viên đội bắn tỉa không thể nào xác định được thiết bị này từ vị trí phục kích của mình, ngay cả khi họ chủ động tìm kiếm nó chăng nữa, hoặc nếu họ đã nhận được tin tình báo đề cập đến một thiết bị kiểu này. Đường chiếu của tia lade là ngang đầu gối và rõ ràng là tia sáng này đã chiếu qua khoảng sân sau khi được kích hoạt.

“Tia sáng bị gián đoạn, và thế là bộ phát điện tự động kích hoạt súng nổ, hết một băng đạn lại ngưng vài giây cho đến khi bắn hết sạch. Anh bàng hoàng nhìn xung quanh. “Thế chẳng may có chó hoặc mèo hoặc ai đó vô tình đi qua đây và chặn mất tia lade trước khi chúng ta đến thì sao?”

Vẻ mặt của Bates cho thấy anh ta cũng đã cân nhắc khả năng này rồi. “Tôi nghĩ người quanh đây thì kiểu gì cũng được cảnh báo kín đáo là tránh xa. Nhưng chó và mèo thì lại là chuyện khác. Do vậy tôi nghi là bộ phát tia lade kia được kích hoạt từ xa.”

Web đứng dậy. “Vậy là chúng đợi đến khi chúng ta gần vào đến nơi mới kích hoạt tia lade. Có nghĩa là kẻ đó phải ở gần đây.”

“Hừm, hắn nghe thấy các cậu đến, hoặc hắn được thông báo về điều đó. Hắn chờ cho đến khi các cậu rẽ qua ngõ phố rồi nhấn nút điều khiển từ xa trước khi cao chạy xa bay.”

“Chúng tôi không nhìn thấy mống nào trong sân cả, và kính nhìn đêm tầm nhiệt của tôi cũng không phát hiện ra nguồn nhiệt 37,5 độ C nào hết.”

“Có thể là chúng trốn trong tòa nhà mục tiêu, hay trong bất kỳ tòa nhà chết tiệt nào xung quanh đây. Chúng chỉ việc thò thiết bị điều khiển ra khỏi cửa sổ, nhấn nút và úm ba la biến.”

“Vậy mà đội bắn tỉa và đội Hotel không nhìn thấy gì?”

Bates lắc đầu. “Đội Hotel khẳng định họ chẳng trông thấy gì cho đến khi thằng bé mang mẩu giấy của cậu lại.”

Nghe nhắc đến đội Hotel, Web lại nhớ dấn Paul Romano và càng thêm chán nản. Có lẽ giờ này Romano đang ở Quantico ([15]) và bô bô với mọi người rằng Web đã lấy cớ là bị động kinh để bao biện cho sự hèn nhát của mình khiến cả đội thiệt mạng.

“Thế còn Whiskey? X quang? Họ phải nhìn thấy gì đó chứ,” Web nói, ám chỉ những tay súng bắn tỉa bố trí trên mái nhà.

“Họ nhìn thấy gì đó, nhưng hiện tại tôi không muốn nói đến chuyện này.”

Bản năng của Web cho anh biết là không nên đề cập thêm. Những tay bắn tỉa còn nói gì được nữa? Rằng họ nhìn thấy Web đã chùn tay để cả đội lao lên tấn công, rằng anh đã nằm úp mặt xuống đất khi cả đội bị quét rụng như lá? “Thế còn DEA ([16])? Họ ở cùng với đội Hotel mà. Ngoài ra họ còn có cả một đội dự phòng nữa.” Web và Bates nhìn nhau hồi lâu trong lặng lẽ, và cuối cùng Bates lắc đầu.

Xưa nay FBI và DEA vẫn luôn hục hặc. Theo suy nghĩ của Web thì DEA cũng giống như một cậu em trai nghịch ngợm thích đá chân anh mình cho đến khi ông anh tức quá ra tay thì cậu em lại bỏ chạy và kêu la ầm ĩ.

“Mẹ kiếp, tôi nghĩ chúng ta sẽ phải chấp nhận thực tế đó cho đến khi có gì mới mẻ,” Web cay đắng nhận xét.

“Có lẽ vậy. Lúc đó các cậu có ai mang khí tài nhìn đêm không?”

Ngay lập tức Web hiểu lôgic của câu hỏi này.

Nếu đeo kính hồng ngoại nhìn đêm thì tất nhiên họ sẽ phát hiện ra tia lade kia, vì nó sẽ hiện ra rõ mồn một như một tia sáng đỏ quạch trong màn đêm.

“Không. Tôi chỉ đeo kính của mình sau khi những khẩu súng kia bắt đầu nã đạn rồi, nhưng bình thường thì các đội viên đột kích cũng có mang kính nhìn đêm luôn bao giờ đâu. Lúc đeo thì nhìn rất sáng, nhưng khi cần bỏ ra để bắn thì gần như ai cũng bị lóa mắt trong giây lát. Hơn nữa ngay cả các xạ thủ bắn tỉa có lẽ cũng chẳng mang kính trong quá trình tấn công; vì những chiếc kính này làm rối loạn khả năng ước lượng khoảng cách của mắt.”

Bates hất đầu về phía những tòa nhà xập xệ đã được sử dụng để bố trí các ụ súng máy. “Kỹ thuật viên đã kiểm tra súng. Mỗi ụ đều có một hộp liên kết tín hiệu. Nhiều khả năng là có một khoảng trống vài giây sau khi đội Charlie khởi động công tắc lade và thời điểm những khẩu súng phát hỏa để bảo đảm là cả đội đã lọt hẳn vào vùng kiểm soát. Cả khoảng sân và các đường bắn đều rất rộng cho việc đó.”

Web chợt cảm thấy choang váng đến nỗi phải chống tay vào tường.Dường như anh đang sống lại cảm giác tê liệt mà anh phải trả qua khi cuộc tấn công định mệnh kia bắt đầu.

“Lẽ ra cậu phải nghỉ ngơi cho khỏe hẳn lại đã,” Bates vừa nói vừa luồn một tay vào dưới nách Web để đỡ anh.

“Tôi từng bị nhiều vết xước lớn hơn thế này nhiều.”

“Tôi có nói về vết thương ở tay cậu đâu.”

“Đầu tôi cũng vẫn ổn, cám ơn anh đã quan tâm,” Web càu nhàu, rồi gắng bình tĩnh lại. “Ngay lúc này tôi chỉ muốn hành động, chứ không phải suy nghĩ gì hết.”

Cả nửa giờ sau đó, Web tiếp tục xác định lại những vị trí và đặc điểm của từng người mà cả đội đã đi qua tối hôm đó, cùng tất cả những gì anh có thể nhớ được kể từ lúc đội Charlie tấn công đến khi viên đạn cuối cùng được bắn ra trong sân.

“Liệu cậu có nghĩ trong bọn chúng có kẻ liên quan đến bọn trong mục tiêu không?” Bates hỏi. Anh ta đang nói tới nhóm buôn lẻ ma túy mà Web và cả đội đã gặp trong hẻm.

“Ở đây thì tất cả đều có thể,” Web trả lời. “Rõ ràng là đã có rò rỉ thông tin. Và có thể là từ bất kỳ khâu nào.”

“Đúng là có rất nhiều khả năng,” Bates trầm ngâm. “Hãy thử xem xét nhé.”

Web nhún vai. “Đây không phải là một tình huống ba số tám.” Anh nói. Web muốn nói tin nhắn gồm ba con số tám thường xuất hiện trên các máy nhắn tin của các thành viên trong đội HRT mỗi khi họ được lệnh triệu tập khẩn cấp đến Quantico. “Theo kế hoạch đêm qua đã được chọn làm ngày tấn công, vì vậy cứ đúng lịch là mọi người tập trung ờ HRT để nhận vũ khí, trang bị, phân công nhiệm vụ cho từng đội rồi triển khai lên những chiếc Suburban như mọi khi. Chúng tôi còn kiểm tra và nhận lệnh ban đầu tại Điểm Chim Ó trước khi tiếp tục lái đến điểm dàn trận cuối cùng. Chúng tôi còn có cả một công tố viên của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong trường hợp cần có lệnh bắt khẩn cấp. Các tay súng bắn tỉa cũng đã vào vị trí dọc hai bên con hẻm. Họ đến từ sớm, đóng giả làm một đội công nhân xây dựng cần sửa lại mái nhà. Các đội đột kích cũng đã hiệp đồng nhiệm vụ dưới đất với cảnh sát địa phương như mọi khi. Sau khi rời khỏi vị trí ém quân cuối cùng, Teddy Riner đã thông báo về TOC và nhận được toàn quyền hành động vì đây là trường hợp tác chiến trong điều kiện tiếp ứng khó khăn. Chúng tôi muốn được phép tùy nghi nổ súng. Chúng tôi biết rằng nếu tấn công chính diện và để lộ mình ra trước khoảng sân là quá liều lĩnh, nhưng cơ bản chúng tôi tin rằng bọn chúng bị bất ngờ. Hơn nữa căn cứ vào vị trí cụ thể của tòa nhà thì cũng chẳng có lựa chọn nào khác cả. Chúng tôi được phép tiếp cận vào khu vực khủng hoảng và tại đó chúng tôi bắt đầu thực hiện theo mệnh lệnh đếm ngược của TOC. Chúng tôi chỉ có một điểm đột kích chủ yếu từ bên ngoài. Kế hoạch tấn công là cả đội sẽ tản ra sau khi vào bên trong và tấn công theo hai cánh, trong khi Hotel và DEA sẽ bọc hậu, ngoài ra còn có một đội dự bị và hỏa lực yểm trợ của đội bắn tỉa nữa. Nhanh chóng và dứt khoát, đúng như mọi khi.”

Hai người ngồi trên hai thùng rác. Bates thổi phù miếng bã kẹo vào trong thùng, rút ra bao thuốc và mời Web. Anh từ chối.

“Cảnh sát địa phương biết mục tiêu này đúng không?” Bates hỏi.

Web gật đầu, “Họ biết rõ khu vực này. Vì vậy họ đã có mặt, phong tỏa từ xa, và ngăn không cho người ngoài tiếp cận vào, đề phòng đồng bọn của mục tiêu đánh động, bao giờ cũng là những nhiệm vụ như thế.”

“Theo cậu thì bọn trong mục tiêu có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị trong trường hợp thông tin bị rò rỉ từ cảnh sát địa phương.”

“Một giờ.”

“Hừm, không ai có thể sắp đặt cái bẫy khủng khiếp như thế này trong vòng có một giờ được.”

“Ai là tay trong của chúng ta trong vụ này?”

“Nhớ là anh phải giữ kín cái tên này cho đến khi xuống mồ nhé.” Bates ngừng lại một lát, có lẽ là để nhấn mạnh thêm mệnh lệnh của mình rồi nói.

“Tên anh ta là Randall Cove. Một tay sừng sỏ thực sự. Làm việc với mục tiêu ở cấp độ rất sâu. Tôi muốn nói là sâu đến tận đáy ấy. Người Mỹ gốc Phi, to khỏe như một chiếc xe tải và rất dày dạn chinh chiến. đánh đấm. Anh ta đã làm hàng triệu vụ như thế này rồi.”

“Vậy anh ta khai như thế nào?”

“Tôi chưa hỏi anh ta.”

“Sao không?”

“Không sao liên lạc được với anh ta.” Bates ngừng lại một lát rồi nói thêm, “Cậu có biết chắc liệu Cove có nắm được thời điểm tấn công không?”

Cầu hỏi làm Web bất ngờ. “Đầu bên anh phải biết rõ hơn tôi chứ. Tôi nói cho anh biết là chúng tôi hoàn toàn không nhận được chỉ thị nào về việc có đặc vụ chìm hay bất kỳ người cung cấp tin nào sẽ có mặt ở mục tiêu. Nếu họ cũng có mặt ở đó, chúng tôi hẳn đã được thông báo trước khi tấn công. Qua đó chúng tôi có thể biết họ là ai, hình dáng thế nào và chúng tôi sẽ bảo đảm đưa họ ra ngoài an toàn giống như những con tin khác, để mục tiêu thật sự không thể biết trước và thủ tiêu họ.”

“Các cậu biết những gì về mục tiêu tấn công lần này?”

“Rằng đây là những tay trùm tài chính của giới buôn ma túy, có cả những tay kế toán của chúng. An ninh cực kỳ nghiêm ngặt. Họ muốn tóm được những tay nắm tay hòm chìa khóa này như là những nhân chứng tiềm năng và chúng tôi phải coi đó là những con tin cần bảo vệ. Nhanh chóng bảo vệ và đưa họ ra ngoài an toàn trước khi bất kỳ ai kịp nhận ra chúng tôi đang làm gì và phải làm thật nhanh để không ai chạy thoát. Kế hoạch tấn công của chúng tôi đã được thông qua; chúng tôi nắm được sơ đồ mục tiêu và đã xây dựng hẳn cả một tòa nhà giống hệt như vậy tại Quantico. Tập dượt không biết bao nhiêu lần cho đến khi chúng tôi biết rõ từng centimét vuông trong tòa nhà. Thông qua cả quy tắc tham chiến không có gì khác thường, nai nịt gọn gàng, lên những chiếc Suburban. Chấm hết.”

“Như vậy là các cậu thì quan sát bằng mắt thường, còn đội bắn tỉa dùng thiết bị,” Bates nói, vì bao giờ các tay súng bắn tỉa cũng theo dõi mục tiêu qua ống nhòm. “Có gì khác thường không?”

“Chẳng có gì đặc biệt, nếu không chúng tôi đã được chỉ thị trước.” Ngoài vấn đề con tin và nhân chứng ra thì đây chỉ là một vụ đột kích chống tội phạm ma túy thông thường. Mẹ kiếp, chúng tôi đã thực hiện hàng ngàn vụ thế này rồi.”

“Nếu chỉ là một vụ tấn công tội phạm ma túy, họ đã không cử đội các cậu,Web ạ. WFO lẽ ra đã có thể dùng đội SWAT ([17]) là được rồi.”

“À, chúng tôi nhận được chỉ thị rằng việc tiếp ứng lần này sẽ rất khó khăn, và thực tế thì đúng như vậy. Chúng tôi cũng biết là mục tiêu lân này sẽ rất khó xơi, nhất là khả năng chúng được trang bị những vũ khí đặc biệt mà SWAT không tự tin là họ sẽ xử lý ổn thỏa. Và nhất là lại dính dáng đến những nhân chứng tiềm năng nữa. Chừng đó cũng đủ để để họ huy động đến chúng tôi rồi. Nhưng có lẽ không ai trong chúng tôi ngờ rằng có đến tám ụ súng máy đã chờ sẵn.”

“Rõ ràng là không thể tệ hơn thế. Chúng ta đã bị chúng xiếc một vố cực đau. Ngoài những khẩu súng này ra thì cả khu nhà vắng hoe. Phải gọi đúng là phục kích. Hoàn toàn không có bọn kế toán hay dân sổ sách nào hết, không hồ sơ tài liệu, không gì sất.”

Web mân mê những vết đạn găm sâu vào tường gạch. Nhiều phát đạn xuyên sâu đến nỗi lộ cả phần lõi bê tông bên dưới - chắc chắn là chúng đã dùng đạn xuyên giáp, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Ít nhất cũng có điều an ủi là các đồng đội của anh đã chết ngay lập tức không kịp cảm thấy đau đớn. “Chắc đội bắn tỉa phải nhìn thấy gì đó chứ.” Web vẫn hy vọng họ sẽ nhìn thấy điều đã khiến anh cứng đờ người. Nhưng làm gì có chuyện đó.

“Tôi vẫn chưa hỏi họ được kỹ lưỡng cho lắm,” Bates nói nhanh, và một lần nữa Web quyết định không hỏi thêm nữa.

“Thằng bé đâu rồi? Web hỏi, anh băn khoăn một lúc rồi mới nhớ ra, “Tên nó là Kevin.”

Bates cũng hơi ngần ngừ một lát, “Biến mất rồi.”

Web ngẩn người, “Tại sao? Nó chỉ là một thằng nhóc.”

“Tôi có nói là nó tự trốn đi đâu.”

“Chúng ta đã xác định được danh tính nó chưa?”

“Kevin Westbrook. Mười tuổi. Nó có người thân và gia đình ở khu này, nhưng đều là người từ bang khác tới. Có một thằng anh trai, tên đường phố là Big F, chữ F ([18]) nghĩa là gì thì cậu biết rồi đấy. Đó là một tay trùm băng đảng đường phố, to như một cây cổ thụ, khôn ngoan như một tay có bằng thạc sĩ ở Harvard. Chuyên buôn bán thuốc lắc, cần sa Jamaica, loại hảo hạng, mặc dù chúng ta chưa bao giờ có đủ bằng chứng để bắt hắn. Có thể coi khu vực này là lãnh địa của hắn.”

Web duỗi thẳng các ngón của bàn tay bị thương. Giải băng mỏng có vẻ không hề giúp làm giảm cơn đau, nhưng anh chợt thấy hổ thẹn khi nghĩ vậy. “Có vẻ như là sự trùng hợp khá thú vị khi cậu em của tay trùm khu vực này lại ngồi chơi trong con hẻm khi chúng tôi đi vào.” Ngay cả khi đang nói về thằng bé, Web vẫn cảm thấy một điều gì đó đang thay đổi trong cơ thể dường như linh hồn anh vừa thoát ra ngoài và đang trôi lềnh bềnh. Đã có lúc anh chợt nghĩ mình sắp ngất đến nơi. Web bắt đầu tự hỏi không biết anh cần một bác sĩ hay một pháp sư đây.

“À, cái đó thì cũng không biết vì thằng bé sống ở đây mà. Và như chứng ta đã xác minh thì gia đình thằng bé cũng không yên ả lắm đâu. Có lẽ nó chỉ muốn ở ngoài đường bất kỳ lúc nào có thể.”

“Thằng anh trai nó cũng mất tăm rồi à?” Web hỏi khi bắt đầu cảm thấy bớt choáng váng hơn.

“Hắn sống lang bạt, không có địa chỉ cố định. Một khi cậu làm cái công việc như của hắn thì cũng thế thôi, nay đây mai đó. Chúng ta không hề có bằng chứng nào để có thể bắt hắn vì bất kỳ cớ gì, nhưng tất nhiên là tôi đã cho người lùng tìm hắn rồi.” Anh ta chăm chú nhìn Web. “Cậu chắc là vẫn ổn chứ?”

Web vẫy tay ra hiệu mình không sao. “Làm thế quái nào mà các anh để mất dấu thằng bé?”

“Lúc này thì tôi chưa biết. Chúng ta sẽ biết rõ hơn sau khi kiểm tra kỹ khu vực này. Chắc chắn phải có ai đó nhìn thấy số vũ khí này được đưa vào đây, nhất là khi lắp đặt các ụ súng máy. Sự xuất hiện của những khẩu súng đó thế nào cũng gây tò mò, cho dù là ở một khu vực phức tạp như ở đây.”

“Anh thực sự tin là người dân ở đây sẽ chịu nói chuyện với cảnh sát sao?”

“Chúng ta đành phải cố thử thôi, Web ạ. Chỉ cần một đôi mắt nào đó nhìn thấy thôi mà.”

Hai người im lặng một hồi lâu. Cuối cùng Bates ngước lên, nét mặt lộ vẻ khó xử: “Web, thực sự thì chuyện gì đã xảy ra?”

“Sao anh không hỏi thẳng toẹt ra? Rằng tại sao không phải là bảy anh em cùng sống cùng chết chứ gì?”

“Thì đúng là tôi đang hỏi thế đấy.”

Web đăm đăm nhìn qua khoảng sân, ánh mắt anh như dán chặt vào nơi anh đã ngã sấp mặt. “Tôi vọt ra con hẻm chậm hơn một chút. Lúc đó dường như tôi cứng đờ người bất động. Tôi cứ tưởng mình bị đột quỵ cơ. Rồi sau đó tôi ngã sấp mặt ngay trước khi súng nổ. Tôi không hiểu tại sao nữa.”

Đầu óc Web bỗng trở nên rỗng tuếch và tất cả đột nhiên ùa trở lại như một chiếc ti vi bị mất tín hiệu sau tiếng sét nổ sát bên cạnh. “Tất cả chợt qua đi trong giây lát, Perce. Tất cả chỉ mất có một giây. Thật không đúng lúc chút nào.” Anh chăm chú nhìn Bates để xem anh ta phản ứng ra sao. Đôi mắt nheo lại của anh ta cho Web biết tất cà những gì anh cần biết.

“Mẹ kiếp, không sao. Chính tôi cũng còn không im nữa là” Web cay đắng nói. Bates lặng im, và Web quyết định đi thẳng vào lý do khác khiến anh đến đây. “Lá cờ đâu rồi?” Anh hỏi. Bates tỏ ra ngạc nhiên. “Lá cờ của HRT ấy. Tôi đến để mang nó về Quantico.”

Theo truyền thống, trong mỗi điệp vụ của mình, thành viên cấp cao nhất của đội bao giờ cũng quấn trong người lá cờ HRT. Sau khi nhiệm vụ hoàn thành, lá cờ sẽ được chính người này chuyển về cho người chỉ huy HRT. Và bây giờ thành viên đó chính là Web.

“Theo tôi,” Bates nói.

Một chiếc xe của FBI đỗ ngay cạnh lề đường. Bates mở một cánh cửa sau, chui vào trong và kéo ra một lá cờ được gấp gọn gàng theo kiểu quân sự. Anh ta đưa nó cho Web.

Web chìa hai tay đỡ lấy lá cờ, chăm chú nhìn màu cờ hồi lâu, hình ảnh mỗi người đồng đội lần lượt hiện ra trong tâm trí anh.

“Có vài lỗ thủng trên lá cờ,” Bates nhận xét.

“Chúng tôi ai chẳng có,” Web lạnh lùng nói.

CHƯƠNG 5

Ngày hôm sau Web lái xe xuống Quantico, đến thẳng khu dành riêng cho HRT. Anh lái xe theo Đường số Bốn Thủy quân Lục chiến, qua khu Học viện FBI được xây dựng như khuôn viên trường đại học, nơi đặt trụ sở của cả FBI và DEA. Web đã phải mất 13 tuần cực nhọc và khổ ải tại Học viện mới trở thành một đặc vụ FBI. Đổi lại anh phải ăn món lạc nấu dở ẹc, ngủ trong phòng tập thể và dùng nhà tắm chung mà thậm chí khăn tắm cũng phải tự mua! Nhưng Web vẫn yêu khoảng thời gian đó và dành trọn từng giây từng phút mà anh có để cố gắng trở thành đặc vụ FBI giỏi nhất mà anh có thể bởi vì trong thâm tâm anh luôn tin rằng mình được sinh ra cho công việc này.

Hồi còn là một tay tân binh mới tốt nghiệp Học viện, Web được trang bị một khẩu Smith & Wesson 0.357 ổ quay, cò cực nặng, phải bóp bằng một lực nặng đến hơn ba cân khi muốn bắn. Với một khẩu súng như vậy thì có muốn tự bắn vào chân mình cũng còn khó. Những tân binh ngày nay được phát loại Glock 0.40 bán tự động với băng đạn 14 viên, cò cực nhạy, nhưng Web vẫn không thể quên khẩu Smith & Wesson của mình.

Tân tiến hơn chưa hẳn đã tốt hơn. Anh phải mất cả sáu năm rèn luyện tiếp theo để trở thành một đặc vụ FBI hoạt động. Anh đã phải đổ mồ hôi với núi công việc bàn giấy nhàm chán của FBI, lần tìm các đầu mối, tuyển mộ các tay chỉ điểm, giải quyết những khiếu nại hình sự, ngồi mòn dũng quần để nghe lén điện thoại, đảm nhiệm không biết bao cuộc theo dõi suốt đêm, lập các chuyên án, bắt bớ bọn người xấu. Web đã đạt đến trình độ có thể xây dựng được kế hoạch tác chiến trong vòng có năm phút trong khi đang phải lái một chiếc Bucar - tức là xe công đo Cục trang bị - với tốc độ 110 dặm/giờ trên đường cao tốc, vừa tranh thủ nạp đạn vào súng. Anh đã học được cách thẩm vấn nghi phạm, xác định các đường ranh giới và đặt ra những câu hỏi khó để chúng phải lòi đuôi, xem chúng nói dối hay nói thật. Anh cũng đã biết cách ra làm chứng trước tòa mà không tỏ ra hớ hênh trước những tay luật sư tinh quái, những kẻ chỉ chăm chăm chôn vùi sự thật thay vì phanh phui chúng ra.

Cấp trên của anh, trong đó phải kể đến cả Percy Bates (khi Web được thuyên chuyển về WFO sau vài năm hoạt động ở Văn phòng miền Trung Tây), đã điền vào hồ sơ cá nhân của Web hết lời tuyên dương này đến lời tuyên dương khác, rằng anh luôn có tinh thần tận tụy, những kỹ năng thể chất và tinh thần, cùng khả năng tư duy sắc bén. Đã không ít lần anh hành động vượt qua những quy định cứng nhắc, mà trong thâm tâm anh biết đó là điều mà những đặc vụ giỏi thực sự luôn làm vì thực ra có những quy tắc của Cục mà người ta phải gọi thẳng là cực kỳ ngu xuẩn.

Đó cũng chính là điều mà Percy Bates đã dạy anh.

Web dừng lại, ra khỏi xe và bước vào tòa nhà của HRT, một tòa nhà mà ai nhìn qua cũng khó có thể gọi là đẹp được. Tại đây anh được chào đón bằng những vòng tay mở rộng, những người đồng đội thô ráp nhưng đồng cảm, những người đã không biết bao lần cận kề cái chết những người cùng anh đổ máu trong mỗi lần xuất kích. Nhưng họ đều thể hiện sự thông cảm đó trong những phòng riêng của từng người. HRT không phải là nơi con người ta tranh nhau thể hiện cảm xúc và sự mềm yếu.

Chắc chắn không có ai muốn đối đầu với súng đạn và cái chết bên cạnh một kẻ yếu đuối và nhạy cảm. Bạn phải từ bỏ vẻ mặt thân thiện tình cảm của mình ngay từ cửa, và khoác lên vẻ lạnh lùng bất cần đời khi vào công việc Mọi thứ ở đây đều được xây dựng dựa trên kinh nghiệm vả khả năng; và hầu như thì lúc nào hai tiêu chí này cũng song hành, nhất là trong lĩnh vực của Web.

Web trao lại lá cờ cho người chỉ huy. Sếp của Web là một người đàn ông lực lưỡng, chắc nịch, tóc muối tiêu. Một đội viên đột kích gạo cội của HRT, người hoàn toàn sẵn sàng chia lửa cùng cấp dưới. Ông nhận lá cờ với vẻ trang trọng và kính cẩn, cùng một cái bắt tay nhanh chóng biến thành một cái ôm và vỗ về đầy cảm thông trong phòng làm việc riêng của mình Vậy đấy, Web xúc động tự nhủ, ít nhất thì ở đây cũng không ai ghét bỏ anh vì đã không chết.

Ban đầu tòa nhà của HRT chỉ được xây dựng cho năm mươi người, nhưng hiện nay có đến một trăm người gọi đó là ngôi nhà thứ hai của mình. Có một nhà vệ sinh dành cho ngần ấy người. nên mặc dù được coi là những người tinh túy nhất của Cục mà lúc nào cũng phải xếp hàng. Có những văn phòng nhỏ dành cho người chỉ huy bộ phận, người này có cấp bậc tương đương với trợ lý đặc biệt của Giám đốc, phụ trách hành động của Cục, cùng với những phụ tá của mình, gồm một phó phụ trách đột kích, một phó chỉ huy lực lượng bắn tỉa. Những đội viên HRT ngồi theo ô, chia thành hai mảng lớn, giữa là hành lang, một bên là lực lượng đột kích, một bên là lực lượng xạ thủ bắn tỉa. Trong cả tòa nhà chỉ có một phòng học, dùng làm phòng hội thảo và giao nhiệm vụ, do điều kiện khó khăn về phòng làm việc. Những chiếc cốc inox để uống cà phê xếp gọn gàng trên giá phía cuối phòng. Mỗi khi trực thăng đậu trên mái nhà, cánh quạt của chúng lại làm cả giá cốc rung lên leng keng. Lần nào nghe âm thanh đó Web cũng cảm thấy vui vui. Có nghĩa là các đội viên đều trở về an toàn.

Anh ghé qua thăm Ann Lyle, bà đang làm việc trong văn phòng. Ann đã sáu mươi, lớn tuổi hơn bất kỳ người phụ nữ nào đang làm việc trong Cục. Bà thực sự được coi là nữ tướng và là người mẹ che chở cho những gã trai bặm trợn gọi HRT là nhà. Luật bất thành văn là đừng có chửi thề khi ở gần Ann, và cũng không nên sử dụng thứ ngôn ngữ hoặc cử chỉ tục tĩu nào khác. Cả lính mới và ma cũ vi phạm nguyên tắc này sẽ nhanh chóng trở thành mục tiêu bị trừng trị, người thì bị đổ keo dính vào mũ, kẻ thì phải nhận một mục tiêu cực kỳ khó gặm khi tập bắn, khiến anh ta phái đổ mồ hôi hột mà không biết tại sao. Ann đã làm việc ở HRT từ khi nó ra đời sau nhiều năm làm việc ở WFO và trở thành góa phụ từ hồi đó. Không con cái, bà dành cả đời cho công việc, bà lắng nghe những đặc vụ còn trẻ tuổi và độc thân, thông cảm với khó khăn của họ và đưa ra những lời khuyên khôn ngoan. Bà cũng đóng vai trò là chuyên gia tư vấn hôn nhân không chính thức của HRT và đã cứu vãn nhiều vụ ly hôn. Hồi Web bị thương nặng, đang chuẩn bị được ghép lại mặt, ngày nào bà cũng vào bệnh viện thăm, còn thường xuyên hơn cả chính mẹ đẻ của anh. Ann thường xuyên mang món bánh tự tay bà làm lấy đến văn phòng. Bà cũng được coi là nguồn thông tin chủ yếu về tất cả những gì liên quan đến Cục và HRT. Ann còn là chuyên gia số một trong việc đánh giá tình hình nội bộ Cục, và nếu như HRT cần gì, dù lớn dù nhỏ, chắc chắn là họ có ngay.

Anh tìm thấy Ann trong văn phòng liền đóng cửa lại và ngồi xuống trước mặt bà.

Tóc Ann đã bạc trắng từ vài năm nay, bà cũng không còn gọn gàng như hồi còn trẻ, nhưng ánh mắt thì vẫn giữ nguyên vẻ trẻ trung ấm áp, còn nụ cười thì vẫn tươi tắn như ngày nào. Ann đứng dậy, bước tới và choàng tay dành cho Web một cái ôm mà anh biết mình đang cần biết mấy. Nước mắt chảy giàn dựa xuống gò má bắt đầu nhăn nheo của bà. Từ trước đến nay bà vẫn cực kỳ gần gũi với các thành viên của Đội Charlie, vì họ luôn thể hiện tình cảm đặc biệt trước tất cả những gì bà làm cho họ.

“Trông cậu không được ổn lắm đâu. Web ạ.”

“Đúng là không ổn như mọi khi.”

“Tôi không hề muốn bi kịch này xảy ra với bất kỳ ai, kể cả kẻ thù tồi tệ nhất của mình,” bà nói, “vậy mà nó lại xảy ra với chính cậu. Ngay lúc này, tất cả những gì tôi muốn làm là hét mãi không thôi cho vợi bớt nỗi đau.”

“Cám ơn bà, bà Ann,” Web cảm kích nói. “Thực sự thì tôi vẫn không biết là chuyện gì đã xảy ra nữa. Tôi chưa bao giờ bị cứng đờ người như thế cả.”

“Web, cưng à, suốt tám năm qua cậu đã phải làm bia đỡ đạn rồi mà. Chẳng nhẽ cậu không thấy là sẽ đến lúc cậu bị như thế sao? Dù sao cậu cũng là người chứ có phải sắt thép đâu cơ chứ?”

“Đành rằng là vậy, Anna. Nhưng với tôi thì vẫn phải khác chứ. Nếu không tôi đâu có trụ ở HRT này được.”

“Điều cậu cần lúc này là nghỉ ngơi một thời gian. Lần gần đây nhất cậu nghỉ phép là bao giờ? Cậu có nhớ không?”

“Điều tôi cần lúc này tôi cần là thông tin và tôi cần bà giúp.”

Ann chấp nhận sự thay đổi đột ngột của anh mà không hỏi gì thêm. “Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể, cậu biết vậy mà.”

“Một đặc vụ chìm tên là Randall Cove. Anh ta đang mất tích.”

“Tên này nghe rất quen. Tôi biết một người có họ là Cove hồi tôi còn làm việc ở WFO. Cậu nói là anh ta mất tích à?”

“Anh ta chính là tay trong trong vụ bung bét này. Tôi đoán chính anh ta là chủ mưu vụ này, hoặc không thì cũng bị chúng phát hiện ra và khử rồi. Tôi cần tất cả những gì bà có thể tìm ra về anh ta. Địa chỉ tên tuổi, những mối quan hệ, công việc.”

“Nếu anh ta hoạt động ở D.C, có nghĩa là nhà anh ta sẽ không ở quanh đó đâu,” Ann nhắc anh. “Đối với các đặc vụ chìm bao giờ cũng có luật bất thành văn là phải sống cách địa bàn hoạt động tối thiểu là hai mươi lăm dặm. Có ai muốn gặp ngay chính hàng xóm của mình lúc đang hoạt động đâu cơ chứ. Thậm chí đối với những nhiệm vụ khó khăn, có thể Cục còn phải huy động các đặc vụ chìm từ bang khác đến.”

“Tôi hiểu. Nhưng kể cả hai mươi lăm dặm thì cũng có rất nhiều khả năng rồi. Có lẽ chúng ta sẽ tìm được danh sách những cuộc gọi của anh ta, kể cả là liên lạc với WFO, đại loại là vậy. Tôi không biết bà phải làm như thế nào, nhưng tôi thực sự cần chúng.”

“Hầu như đặc vụ chìm nào cũng sử dụng sim điện thoại trả trước với số tiền vừa phải để liên lạc. Mua ở những cửa hàng bán đồ tạp hóa, dùng xong là vứt đi mua sim khác. Khó lần ra danh sách các cuộc gọi theo cách đó lắm.”

Hy vọng của Web mỗi lúc một tắt đần. “Thì cũng phải có cách gì để lần ra anh ta chứ?” Từ trước đến nay, anh chưa bao giờ phải lần theo tung tích của một đặc vụ chìm.

Ann mỉm cười hiền hậu. “Ôi. Web, lúc nào cũng phải có cách chứ. Cậu cứ để tôi thử xem sao.”

Anh cúi xuống nhìn hai bàn tay. “Tôi có cảm giác như một người tham gia trận Alamo ([19]) mà không hiểu sao quân Mêhicô còn để sót.”

Ann gật đầu thông cảm. “Trong bếp có cà phê vừa pha, và một cái bánh nhân quả óc chó mà tôi mang vào sáng nay. Cậu cứ ăn tự nhiên đi Web, cậu gầy quá đấy.” Những lời tiếp theo của Ann làm anh phải ngước lên nhìn vào khuôn mặt xiết bao dịu dàng với ánh mắt vỗ về của bà. “Và tôi sẽ luôn chăm lo cho cậu chừng nào tôi còn ở đây, cưng ạ, đừng bao giờ nghĩ là tôi sẽ bỏ cậu. Tôi biết tất cả, Web ạ. Tôi nghe thấy hết, từ trên xuống dưới. Và không một ai, tôi muốn nói là không có bất kỳ ai hết, được gây khó dễ gì cho cậu chừng nào tôi còn ngồi đây.”

Trên đường rời khỏi văn phòng, bất giác Web tự hỏi không biết có khi nào Ann Lyle nghĩ đến chuyện nhận anh làm con nuôi không?

Web tìm thấy một bàn máy tính còn bỏ trống và ngồi xuống truy cập vào cơ sở dữ liệu của HRT. Ngay từ đầu anh đã nảy ra ý nghĩ, và anh tin tất cả những người khác cũng nghĩ vậy, rằng vụ phục kích và hủy diệt đội của anh là một hành động trả thù. Anh ngồi rất lâu để xem xét lại những vụ trong quá khứ mà HRT đã được huy động. Ký ức tràn về như một cơn lũ, với những chiến thắng vang dội và cả những thất bại đau đớn đến thắt tim. Vấn đề là ở chỗ nếu tính hết tất cả những người có liên quan trực tiếp đến các điệp vụ của HRT, rồi lại còn bạn bè và người thân của họ nữa, và cả những tên mà họ mất công truy đuổi nhưng chưa tóm được, thì con số cuối cùng lên đến hàng nghìn. Web sẽ phải để công việc chọn lọc và rút ngắn danh sách đó cho người khác. Anh biết chắc là ngay lúc này thì các máy tính của Cục cũng đang gặm nhấm những thông tin đó rồi.

Web bước lững thững ra hành lang chính và đứng bần thần trước những bức ảnh ghi lại các chiến dịch của HRT. Ở đây là những hình ảnh của biết bao thành công vang dội của đội. Phương châm hành động của đội giải cứu con tin là, “Tốc độ, bất ngờ, ra tay quyết liệt.” Và từ xưa đến nay HRT vẫn luôn trung thành với những lời này. Web nhìn vào ảnh một tên khủng bố trong danh sách truy nã khẩn cấp đã bị tóm cổ sau một điệp vụ mà HRT được triển khai ở ngoài nước, tên này đã bị biệt giam tại một trong những nhà tù bí mật của chính phủ và chờ ngày ra tòa lĩnh mức án chung thân. Cạnh đó là những bức ảnh của lực lượng đặc nhiệm liên quân chụp tại một trung tâm sản xuất côcain ở một nước Nam Mỹ. Và cuối cùng là bức ảnh về một vụ bắt giữ con tin cực kỳ căng thẳng trong một tòa cao ốc của chính phủ ở Chicago. Kết quả là tất cả các con tin đều được giải cứu an toàn, ba trong số năm kẻ bắt giữ con tin bị tiêu diệt tại chỗ. Đáng tiếc là không phải lần nào mọi chuyện cũng suôn sẻ như vậy.

Anh bước ra khỏi tòa nhà điều hành và lặng yên ngắm nhìn cây dương đơn độc trồng trước cửa. Đây là loài cây biểu tượng của bang Kansas được trồng ở đây để tưởng nhớ một thành viên HRT quê ở Kansas đã qua đời trong một tai nạn khi huấn luyện. Mỗi lần đi qua cây dương này Web lại thì thầm cầu nguyện rằng đó sẽ là cái cây tưởng niệm duy nhất mà họ phải trồng. Vậy mà lời cầu nguyện của anh đã bị Chúa nguyền rủa. Có lẽ họ sắp có cả một khu rừng trước cửa.

Web cảm thấy phải làm một điều gì đó, bất kỳ điều gì, chỉ để thoát khỏi cảm giác của một kẻ thất bại thảm hại. Anh bước vào kho vũ khí, lấy ra một khẩu súng bắn tỉa cỡ .308 cùng một ít đạn và quay ra. Lúc này anh cần trấn tĩnh lại, và thật trớ trêu, bắn súng sẽ mang lại cảm giác thư thái đó, vì nó đòi hỏi sự chính xác và khả năng tập trung tư tưởng cao độ khiến con người ta phải gạt bỏ mọi ý nghĩ trong đầu, kể cả những ý nghĩ nặng nề nhất.

Anh bước qua trụ sở chính trước kia của HRT, một tòa nhà hẹp và cao ngất, trông như một xilo chứa ngũ cốc hơn là ngôi nhà của lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ nhất của nước Mỹ. Rồi anh lặng lẽ đứng lại và ngắm nhìn sườn đồi đã được cải tạo lại làm trường bắn. Các nhóm công nhân đang trong quá trình san phẳng một khu rừng bên cạnh đó để bổ sung vào cơ sở hạ tầng ngày càng mở rộng của HRT, đó là chưa kể một trường bắn trong nhà đã có từ lâu. Phía sau trường bắn ngoài trời trước mặt là những rặng cây rậm rạp xanh um. Web luôn có cảm giác đây là một quy hoạch hơi lạ đời: màu sắc rực rỡ và tươi tắn của thiên nhiên lại được dùng làm phông nền cho những người như anh đứng tập bắn giết người suốt bao năm qua. Nhưng anh biết mình là người tốt, và thế là quá đủ, ít nhất đó cũng là niềm tin để tự an ủi mà tấm phù hiệu mang lại cho Web và đồng đội mỗi khi nghĩ đến việc phải nổ súng giết người. Anh bắt đầu sắp đặt bia bắn. Anh sắp chơi một trò xì phé của dân bắn tỉa. Những quân bài sẽ được hơi xòe hé ra trên giá để bia thành hình quạt, sao cho người bắn chỉ trông thấy một phần nhỏ của quân bài. Tất nhiên là trừ quân bài ngoài cùng. Mục tiêu đặt ra là phải tạo thành một nước bài có điểm. Nhưng khó khăn lớn nhất là mỗi viên đạn chỉ được bắn gọn ghẽ vào đúng một quân bài. Nếu phát đạn chỉ cần sượt qua quân bài bên cạnh thì coi như bạn chưa được quân nào. Và tất cả chỉ có năm viên đạn. Do đó hoàn toàn không được phép sai lầm vì khoảng cách hé ra giữa các quân bài là rất nhỏ. Bài tập này chỉ là một tình huống thư giãn cho người bắn, tất nhiên người bắn phải là một đặc vụ lão luyện của HRT.

Web chọn vị trí bắn cách mục tiêu 100 yard. Sau khi nằm sấp trên mặt đất, anh đặt một túi cát nhỏ phía dưới báng khẩu 0.308 để đỡ phần thân trên của mình khi nằm cố định. Thân anh xếp thẳng với đường súng giật để giảm thiểu độ lệch của nòng súng; hông ép sát xuống đất, hai đầu gối mở rộng bằng vai, hai mắt cá chân ép xuống đất để thu gọn người tối đa, trong trường hợp có tay súng khác đang nhắm vào anh. Web hiệu chỉnh lại các thông số phù hợp trên kính ngắm của khẩu súng và xác định tốc độ gió. Độ ẩm khá cao nên anh vặn thêm một nấc chờ nửa phút nữa.

Là một tay súng bắn tỉa, mỗi phát đạn anh bắn trong các điệp vụ đều phải được ghi lại. Đây là một nguồn hồ sơ lưu rất quan trọng để đánh giá tác động của các yếu tố môi trường lên viên đạn giúp họ rút kinh nghiệm và tìm ra nguyên nhân tại sao bắn trượt mục tiêu, vì đó mới là trường hợp phải lôi nhau ra mà kiểm điểm. Khi bạn bắn trúng mục tiêu, tất cả đều bình thường vì công việc của bạn là như thế, chăng có gì đáng bàn hết.

Không có chi tiết nào là nhỏ trong việc phải bắn trúng mục tiêu ở khoảng cách cực xa như thế này. Một vết đen mờ lướt qua kính ngắm cũng có thể làm tay súng bắn tỉa không tập trung và bắn nhầm phải con tin thay vì tên khủng bố.

Web nhẹ nhàng nắm lấy tay cầm khắc khía của khẩu súng. Anh kéo báng súng sát vào vai, áp má vào báng súng, điều chỉnh ống ngắm, và dùng bàn tay không thuận đỡ lấy ốp báng súng, cố định chiếc giá hai chân của khẩu 0.308. Anh hít một hơi thật sâu, rồi thở phù ra. Web không bao giờ dùng cơ bắp khi bắn tỉa. Trong lĩnh vực này thì nhiều khi cơ bắp căng thẳng là nguyên nhân dẫn đến sai lầm; anh cần xương tỳ lên xương vì xương thì không bao giờ dao động. Web vẫn luôn áp dụng kỹ thuật mai phục khi bắn tỉa. Kỹ thuật này cho phép xạ thủ có thể chờ đợi mục tiêu xuất hiện trong một phạm vi hỏa lực được xác định trước. Xạ thủ sẽ chỉnh dấu chữ thập trong kính ngắm ngay phía trước mục tiêu và đếm thông số trên kính ngắm để xác định khoảng cách từ vị trí bắn đến mục tiêu, góc tới và tốc độ. Ngoài ra còn phải tính toán đường đạn ăn lên, gió và độ ẩm rồi mới có thể yên tâm chờ đợi mục tiêu xuất hiện, như một con nhện chăng sẵn lưới săn. Bao giờ cũng phải nhắm bắn vào đầu vì một điều đơn giản: những mục tiêu bị bắn lủng sọ sẽ không còn khả năng bắn trả.

Xương tỳ lên xương. Mạch ở mức 64 lần/phút. Web thở hơi cuối cùng; ngón tay anh lướt trên tay cò và anh bắn năm phát với cử động cực kỳ chính xác của một người đã làm công việc này hàng nghìn lần. Anh lặp lại toàn bộ quá trình thêm bốn lần nữa, ba lần ở khoảng cách 100 thước, và lần cuối cùng khoảng cách tăng gấp đôi.

Khi kiểm tra những quân bài, Web không giấu nổi nụ cười hài lòng.

Anh có hai nước bài đồng hoa, một nước có bốn con át và một con K, nước còn lại là mùn xẩu (một bộ ba và một đôi) với những lá bài bắn từ khoảng cách 200 thước; quan trọng nhất là không hề có dấu vết gì trên những quân bài còn lại. Và cũng không hề có viên đạn nào vứt đi. Nói theo cách của Cục thì là không trượt phát nào, ít nhất thì kết quả này cũng giúp anh cảm thấy hài lòng khoảng mười giây trước khi cảm giác nặng nề, u ám lại tràn ngập trong lòng.

Anh cất lại khẩu súng vào kho và tiếp tục lững thững bước chân vô định. Ngay sát với Tổng hành dinh Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là Đường Yellow Brick, thực chất là một đường chạy vượt vật cản địa ngục đài 7,5 dặm với những đoạn leo dây cao 5m, những hố nhảy sâu hoắm bên dưới là dây thép gai chờ sẵn những kẻ vụng về trượt chân, và cả những vách đá nhân tạo dựng đứng. Trong những ngày kiểm tra để gia nhập HRT, Web đã phải chạy trên đường này nhiều lần đến nỗi anh thuộc lòng từng centimet vuông khổ ải. Những bài tập theo đội là chạy vũ trang mười lăm dặm, trên người là 25kg khí tài và những vật quý giá, ví dụ như gạch - không được để rơi viên nào nếu không cả đội sẽ bị xử thua. Rồi lại còn phải bơi qua những hồ nước hôi thối, lạnh giá, vượt qua những cầu thang 5m dựng thẳng lên trời. Sau đó nếu anh thích thì sẽ là hành trình vất vả đến với “khách sạn vỡ tim” bằng tay không - đó là một con tàu cũ rích cao bằng tòa nhà bốn tầng, và bạn sẽ phải nhảy từ ống khói cao vút xuống dòng sông James. Kể từ sau khi Web gia nhập HRT đến nay, khách sạn vỡ tim đã được cải biến đôi chút, có thêm dây bám, rào chắn và lưới bảo hiểm. Rõ ràng là an toàn hơn, nhưng theo Web thì trò đó đã mất đi sự hấp dẫn ngày nào. Tuy nhiên, với những người sợ độ cao thì tốt nhất là không nên đăng ký tham gia. Bài tập nhảy thẳng từ trực thăng xuống những tán cây trong rừng rậm cũng thực sự giúp phân biệt những người đàn ông dày dạn với những cậu ấm miệng còn hơi sữa: một khi bạn túm trượt điểm hãm của mình, thì khoảng 30m từ ngọn cây xuống đất là quá đủ cho bạn tan xác.

Và để tốt nghiệp, mỗi học viên còn phải biết cách tìm đường thoát ra khỏi nhà nóng. Đó là một tòa tháp bê tông cao ba tầng. tất cả các cửa sổ thép đều bị hàn kín. Kết cấu nhà bên trong, với sàn nhà mắt lưới cho phép lửa cháy rừng rực ở tầng một bốc khói mù mịt lên các tầng trên chỉ trong vài giây. Tay học viên khốn khổ sẽ bị quẳng xuống tầng ba và phải dùng xúc giác, sự liều lĩnh và bản năng của mình để tìm đường xuống tầng một rồi thoát ra ngoài an toàn. Phần thưởng dành cho bạn nếu sống sót là một xô nước dội thẳng vào mắt cho đỡ cay vì khói, rồi vài phút sau bạn sẽ có cơ hội làm lại lần nữa, nhưng là với một hình nộm nặng 70kg trên lưng.

Xen giữa những bài tập khủng khiếp đó là hàng nghìn lần tập bắn, những kiến thức khoa học mà Enstein sống lại cũng phải đau đầu. Rồi những bài tập thể lực cực nặng mà thậm chí một nhà vô địch Olympic cũng phải thở hổn hển vì kiệt sức, cộng thêm những tình huống giả định cần ra quyết định trong tích tắc cực kỳ căng thẳng khiến cho đàn ông không còn lòng dạ nào mà nghĩ đến rượu chè, trai gái, chỉ còn muốn chui vào phòng dành cho người điên mà lảm nhảm một mình. Và đằng sau mỗi bước chân của bạn luôn có những thành viên HRT thực thụ theo sát để đánh giá và phân tích mỗi sai lầm cũng như mỗi thành công của bạn. tất cả những gì bạn làm là hy vọng mình đúng nhiều hơn sai. nhưng cũng chẳng bao giờ biết được, vì sẽ không có ai hé miệng nói gì với bạn hết. Với họ thì bạn chỉ là đồ rác rưởi, đồ rác rưởi đang mệt bở hơi tai, nhưng vẫn chỉ là đồ rác rưởi không hơn không kém. Và bạn cũng phải chấp nhận thực tế rằng họ còn không thèm thừa nhận sự tồn tại của bạn chừng nào bạn đủ tiêu chuẩn tốt nghiệp. Mẹ kiếp, thậm chí họ còn không thèm đến dự đưa tang nếu chẳng may bạn bỏ mạng trong quá trình tập luyện nghiệt ngã.

Không hiểu sao Web lần lượt vượt qua mọi thử thách. Và sau khi tốt nghiệp Trường Huấn luyện Đội viên mới, anh đã được “biệt phái” sang làm xạ thủ bắn tỉa, và lại mất thêm hai tháng nữa trong Trường Xạ thủ bắn tỉa của Thủy quân Lục chiến, nơi anh đã học được từ những người giỏi nhất các kỹ năng và mánh lới của nghề, cách quan sát, ngụy trang, và nhất là cách giết người một cách chính xác bằng súng và kính ngắm. Sau đó Web đã có bảy năm liền trước thì làm xạ thủ bắn tỉa, sau thì làm đặc nhiệm đột kích vì quá chán cảnh phải nằm lì một chỗ phục kích mục tiêu, mà thường là trong những điều kiện cực kỳ tồi tệ, hết bắn thì lại bị bắn ở khắp nơi trên thế giới bởi những tên tội phạm loạn trí nhất. Đổi lại, anh được dùng qua tất cả những loại súng đạn tân tiến, và một khoản thu nhập có lẽ cũng bằng những gì một thằng nhóc 16 tuổi kiếm được bằng cách lập trình máy tính trong giờ ăn trưa. Nhưng về cơ bản thì có thể nói rằng đó là một công việc mà anh cực kỳ yêu thích.

Web bước qua nhà chứa máy bay, nơi lưu giữ những chiếc trực thăng Bell 412 to đùng của đội, và cả những chiếc MD530 mà họ thường gọi là Chim nhỏ - đó là những chiếc trực thăng cực kỳ cơ động và mau lẹ, có khả năng mang bốn người bên trong và bốn người ngồi ở hai càng, bay với tốc độ 120 hải lý một giờ. Web đã ngồi trên những con Chim nhỏ trong những tình huống tồi tệ và bao giờ chúng cũng đưa anh quay về an toàn, dù có đôi lần phải treo lủng lẳng lộn đầu dưới một sợi dây buộc vào càng máy bay, nhưng Web cũng như các đồng đội có bao giờ cầu kỳ, kén cá chọn canh, vì chỉ cần sống được là đã tốt rồi.

Nhà để xe được bố trí sau một hàng rào được cài bằng dây xích. Web dừng lại kéo khóa áo khoác lên sau khi một cơn gió buốt lạnh ùa tới. Bầu trời bỗng chốc trở nên âm u như sắp bão, hiện tượng rất bình thường ở vùng này vào thời điểm này trong năm. Anh bước vào trong hàng rào và trèo lên ngồi trên nóc chiếc xe bọc thép duy nhất của đội; một món quà dùng lại của Lục quân. Ánh mắt anh lướt qua dãy xe Suburban đang đậu yên lặng. Những chiếc xe hầm hố này tất nhiên đã được độ lại, có cả thang gấp gắn kèm để họ có thể lái sát đến tòa nhà mục tiêu, mở thang ra và tấn công chớp nhoáng từ trên tầng năm xuống. Ngoài ra còn có những chiếc xe tải nhỏ dùng để tiếp ứng khí tài, xe tiếp ứng hậu cần, và cả một chiếc xuồng máy cao tốc có mép bơm bằng hơi thiết kế riêng cho đội đặc nhiệm SEAL của Hải quân. Chiếc xuồng này trang bị hai động cơ V-8 của hãng Chrysler. Đối với Web thì cảm giác ngồi trên chiếc xuồng này chỉ có thể sánh với cảm giác tức ngực khi bị giam trong một tòa nhà cũ đang bị phá đi bằng một quả cầu sắt khổng lồ. Anh đã không biết bao lần đi trên chiếc xuồng máy này - hay nói đúng hơn là đã sống sót trên nó mà không nôn thốc nôn tháo.

Tất cả đều được đặt ở đây, từ những thiết bị đột kích trong rừng rậm nhiệt đới cho đến những cuộc viễn chinh lên vùng cực. Họ đã tập luyện cho tất cả các tình huống có thể xảy ra, và đã trải qua tất cả trong thực tế.

Mặc dù vậy, họ vẫn có thể phải trả giá vì những sai lầm ngẫu nhiên, vì vận may đến khó tin của những đối thủ yếu thế và nhất là vì những âm mưu trả thù được lên kế hoạch tỉ mỉ cùng thông tin tuyệt mật mà một kẻ phản bội tuồn ra ngoài.

Trời bắt đầu mưa, Web chui vào trong khu nhà huấn luyện - một tòa nhà lớn trông như nhà kho với những hành lang mô phỏng hành lang khách sạn, cùng những bức tường bọc cao su có thể xê dịch được. Trông tòa nhà giống hệt một trường quay của Hollywood. Nếu may mắn thu thập được bản thiết kế của một mục tiêu cụ thể, HRT sẽ xây dựng lại mô hình mục tiêu đó ngay tại đây và tập dượt cho đến khi nắm chắc tất cả những chi tiết liên quan. Mô hình gần đây nhất mà họ dựng lên chính là để phục vụ cho điệp vụ đã xóa sổ cả đội Charlie. Trong lúc đứng trân trối nhìn mô hình tòa nhà, Web không nhận ra rằng anh và đồng đội không bao giờ có cơ hội nhìn bên trong mục tiêu thực sự như thế nào. Họ đã không bao giờ tiếp cận được cửa chính. Lúc này anh chỉ mong người ta sẽ nhanh chóng tháo dỡ mô hình này đi, chuẩn bị sẵn sàng cho một chiến dịch mới. Làm gì còn kết cục nào tồi tệ hơn thế nữa?

Những bức tường bọc cao su chi chít vết đạn, vì HRT bao giờ cũng tập luyện bằng đạn thật. Cầu thang được làm bằng gỗ để đạn không bị nẩy ra; tuy nhiên cả đội đã phát hiện ra, cũng may là không có thiệt hại gì - là những chiếc đinh trong gỗ có thể bị dính đạn và bắn văng ra xung quanh.

Anh bước qua mô hình thân máy bay được lắp đặt ở đây để họ có thể tập luyện những tình huống chống cướp máy bay. Mô hình được bố trí trên những rui xà nên có thể nâng lên, hạ xuống tùy theo yêu cầu huấn luyện.

Đã có bao nhiêu tên khủng bố tưởng tượng bị anh bắn hạ trong này? Việc tập luyện đã tỏ ra rất bổ ích vì anh đã sớm có lần phải hành động trong thực tế khi một chiếc máy bay của Mỹ bị không tặc ở Rome. Bọn khủng bố đã ra lệnh cho phi công lái qua Thổ Nhĩ Kỳ, rồi tiếp tục sang Manila, Philippines. Web và đồng đội đã cất cánh từ Căn cứ Không quân Andrews chỉ hai giờ sau khi vụ không tặc diễn ra. Họ đã bám theo hành trình của chiếc máy bay bị cướp bằng chiếc máy bay vận tải C141 của Không quân Hoa Kỳ. Tại sân bay Manila, khi chiếc máy bay dừng lại tiếp nhiên liệu, bọn khủng bố đã ném ra ngoài hai xác con tin, cả hai đều là người Mỹ, trong đó có một bé gái mới lên bốn tuổi. Đó là một tuyên ngôn chính trị, chúng ngạo nghễ tuyên bố. Có điều đó là tuyên ngôn cuối cùng mà chúng kịp đưa ra.

Chiếc máy bay đã bị trì hoãn hồi lâu vì thời tiết xấu rồi sau đó là trục trặc kỹ thuật. Đến khoảng nửa đêm, giờ địa phương, Web và Đội Charlie của anh đã lên được máy bay, đóng giả làm thợ máy. Chỉ ba phút sau khi họ lên được máy bay, đã có năm cái xác của bọn khủng bố và không một con tin nào bị giết nữa. Web đã bắn một tên trong đó bằng khẩu 0.45 của mình, viên đạn xuyên thẳng qua lon Coke mà tên này đang kề lên miệng. Đến tận bây giờ anh vẫn không sao uống nổi thứ nước giải khát đó nữa.

Nhưng anh chưa bao giờ phân vân vì đã bóp cò. Hình ảnh xác một bé gái bị ném xuống đường băng - là người Mỹ, Iran hay Nhật Bản thì Web cũng không thấy khác gì nhau - chính là động cơ anh sẵn sàng bóp cò để loại bỏ hết những kẻ xấu trên đời này. Bọn chúng có thể rêu rao rằng mình đại diện cho những người bị áp bức trên thế gian này, chúng có thể viện dẫn tất cả những vị thần vị thánh trong thứ tôn giáo cuồng tín của mình, tìm đủ mọi lý do biện minh cho việc đánh bom này nọ; nhưng tất cả sẽ không hề làm Web thấy cảm thông một khi chúng bắt đầu ra tay giết người vô tội, nhất là trẻ em. Và anh sẽ còn đương đầu với chúng chừng nào chúng còn chưa chịu dừng reo rắc tội ác và gây đau thương trên đời này, chúng trốn đi đâu anh cũng lần theo đến đó.

Web luồn lách qua những căn phòng vây bằng tường bọc cao su rải rác hình vẽ những tên khủng bố tay cầm súng nhắm vào anh. Theo bản năng, anh giơ phắt ngón tay lên làm súng và bắn hạ chúng ngay lập tức.

Với một kẻ có vũ khí thì bạn phải chú ý đến bàn tay, đừng quan tâm đến đôi mắt, vì từ cổ chí kim chưa có ai biết chết vì ánh mắt kẻ thù bao giờ.

Lúc hạ “khẩu súng” của mình xuống, Web bất giác mỉm cười tự giễu mình. Mọi chuyện bao giờ cũng thật dễ dàng khi tập luyện vì đối phương không thể bắn trả. Trong những phòng khác là đầu và thân trên của các hình nộm được bố trí trên các cọc gỗ, lớp “da” và vóc dáng của những hình nộm trông như người thật. Web lại thực hiện những cú đá vòng vào đầu, tiếp theo đó là một loạt những cú đấm vào hai bên thận làm đối phương tê liệt, rồi lại tiếp tục đi.

Bên trong một phòng khác anh nghe thấy có tiếng động nên thò đầu vào nhìn. Người đàn ông trong phòng mặc một chiếc áo ba lỗ bó sát và quần dã chiến, mồ hôi nhễ nhại đọng trên cổ, vai và hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp của anh ta. Những sợi dây thừng lủng lẳng rủ từ trên trần nhà xuống. Đây là phòng các đội viên tập luyện kỹ năng leo dây nhanh. Web đứng nhìn anh chàng thoăn thoắt leo lên rồi lại tụt xuống ba lần liền với những chuyển động nhẹ nhàng, thanh thoát, những múi cơ ở tay và vai vồng lên rồi lại thả lỏng, như một con mèo.

Khi anh ta ngừng tay, Web bước hẳn vào trong và lên tiếng, “Chào Ken, cậu không bao giờ nghỉ lấy một ngày sao?”

Ken McCarthy ngước lên nhìn Web, ánh mắt của chàng trai không hề tỏ ra có chút gì là thân thiện. McCarthy là một trong những xạ thủ bắn tỉa đã phục trên những mái nhà dọc con hẻm trong cái đêm mà đội Charlie đã bị bắn rụng như sung dưới bão đạn 0.50. McCarthy là một anh chàng da đen, 34 tuổi, một người sinh ra và lớn lên ở Texas, một người lính chuyên nghiệp đã đi khắp nơi trên thế giới bằng tiền của chú Sam. Trước kia anh ta từng tham gia đội đặc nhiệm SEAL của Hải quân, nhưng không hề có cái vẻ tinh vi, khệnh khạng mà hầu như thành viên SEAL nào cũng có. Anh chàng chỉ cao lm78, nhưng khỏe như voi và có đai đen trong ba môn võ thuật khác nhau. Anh ta là đội viên thành thạo nhất tác chiến dưới nước của HRT và có khả năng vừa bám lủng lẳng trên cây vừa găm một viên đạn vào giữa trán kẻ thù từ khoảng cách 1000 thước ngay trong màn đêm đen kịt. Anh ta đã gia nhập HRT được ba năm nay, nhưng khá khép mình, ít giao du với mọi người và không có cái thói hài hước cay độc và ghê gớm như hầu hết các đội viên khác. Web đã dạy anh ta những điều mà McCarthy chưa biết hoặc gặp khó khăn khi làm quen. Đổi lại, McCarthy cũng chia sẻ với anh những kỹ năng cực kỳ quan trọng. Xưa nay giữa Web và McCarthy vẫn không có vấn đề gì, nhưng với ánh mắt của anh ta lúc này thì có thể thấy thời kỳ êm ấm đó có vẻ sắp chấm dứt.

Có lẽ Romano đã khiến tất cả mọi người quay sang chống lại anh.

“Anh làm gì ở đây, Web? Tôi tưởng anh vẫn ở trong bệnh viện mà vuốt ve vết thương của mình chứ?”

Web tiến thêm một bước về phía anh chàng. Anh không thích câu châm chọc của McCarthy, nhưng dù sao anh cũng hiểu tại sao anh ta lại thốt lên như vậy. Web cũng hiểu suy nghĩ của những người như Romano, trong một công việc như vậy thì khó mà nghĩ khác được. Người ta lúc nào cũng kỳ vọng bạn phải hoàn thành nhiệm vụ của mình, một cách hoàn hảo. Hoàn hảo là tất cả những gì họ cần trong công việc này. Web chưa làm được như vậy. Đồng ý là anh đã phá hủy tất cả những ụ súng máy, nhưng đó là sau khi bi kịch đã xảy ra. Với những người này thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết.

“Tôi đoán là cậu đã chứng kiến tất cả.” McCarthy tháo đôi găng tay tập luyện ra , xoa xoa hai bàn tay to xù và đầy vết chai của mình. “Lẽ ra chúng tôi đã định leo dây xuống con hẻm, những TOC ra lệnh cho chúng tôi án binh bất động.”

“Các cậu cũng không thể làm được gì đâu, Ken ạ.”

McCarthy vẫn chăm chăm nhìn xuống dưới chân. “Cuối cùng chúng tôi cũng nhận được lệnh hành động. Mất quá nhiều thời gian. Chúng tôi nhập vào cùng với Đội Hotel. Mất quá nhiều thời gian mà không vào được trong hẻm,” anh ta nói tiếp. “Chúng tôi chốc chốc lại phải đứng lại, cố gắng liên lạc qua radio với các anh. TOC cũng không biết chuyện quái gì đang xảy ra nữa. Mạng lưới thông tin và chỉ huy của chúng ta coi như tê liệt Chắc anh cũng biết rồi.”

“Chúng ta đã tính đến mọi tình huống trừ chuyện đó.”

McCarthy ngồi bệt xuống sàn nhà lót đệm cao su, quàng tay qua hai đầu gối. Anh ta ngước lên nhìn Web. “Tôi nghe nói anh lao ra khỏi con hẻm hơi chậm một chút so với cả đội và anh bị ngã, hay gì đó.”

Hay gì đó.

Anh ngồi xuống cạnh McCarthy. “Những khẩu súng máy được kích hoạt bằng công tắc lade, nhưng có lẽ công tắc lược lại được kích hoạt bằng thiết bị điều khiển từ xa để bảo đảm những khẩu .50 này không phát hỏa quá sớm và bắn nhầm mục tiêu. Chắc chắn phải có người ở gần đó để thực hiện việc bấm nút.” Nói đến đó Web ngừng lại và chăm chú nhìn McCarthy.

“Tôi đã nói hết với WFO rồi.”

“Tôi biết.”

“Họ đang tiến hành AFO, Web,” anh ta nói. AFO là thuật ngữ chỉ cuộc điều tra khi có một nhân viên an ninh liên bang bị hạ sát, trong trường hợp này là quá nhiều người.

“Tôi cũng biết cả chuyện đó, Ken. Nghe này, tôi cũng không chắc chuyện gì đã xảy ra với mình lúc ấy nữa. Chính tôi cũng bị bất ngờ. Tôi đã làm tất cả những gì có thể.” Web hít một hơi thật sâu. “Và nếu như có thể làm lại ngay lúc này, tôi sẽ làm ngay. Và ngày nào từ nay đến cuối đời, tôi sẽ phải sống chung với cảm giác nặng nề này, Ken. Tôi hy vọng là cậu hiểu điều đó.”

McCarthy lại ngẩng đầu lên, vẻ thù địch trong mắt anh ta đã dần biến mất.

“Lúc đó chẳng có gì để bắn cả. Web. Không có cái chó chết gì để đội bắn tỉa nã đạn vào; mất bao công tập luyện để rồi chẳng làm cái quái gì hết. Chúng tôi có ba người phục trên mái nhà để theo dõi khoảng sân nhưng không ai chỉnh được kính ngắm vào những khẩu súng máy đó. Mẹ kiếp, họ sợ không dám bắn, vì họ nghĩ đến trường hợp những viên đạn văng ra sẽ làm các anh bị thương.”

“Thế còn thằng bé thì sao? Cậu có thấy thằng bé không?”

“Thằng nhóc da đen à? Có, lúc nó quay lại đầu hẻm, cùng chiếc mũ và mảnh giấy của anh.”

“Lúc vào chúng tôi cũng đã nhìn thấy nó.”

“Thế chắc lúc đó các anh đã che mất tầm nhìn của bọn tôi. Hơn nữa ánh sáng trong cái hẻm quái quỷ đó không hiểu sao cũng hắt ngược đúng vào mắt bọn tôi trên mái nhà.”

“OK, thế còn mấy thằng kia? Mấy thằng đang mua bán ma túy ấy?”

“Lúc nào cũng có một xạ thủ bắn tỉa theo dõi chúng từ đầu đến cuối . Chúng vẫn đứng yên tại chỗ cho đến khi súng nổ mới bỏ chạy tán loạn. Jeffries cho biết là bọn chúng cũng tỏ ra cực kỳ bất ngờ. Sau khi TOC bật đèn xanh, chúng tôi đã lao ngay xuống.”

“Rồi sao nữa?”

“Lại bùng nhùng với đội Hotel, như tôi đã nói. Chúng tôi nhìn thấy phát pháo sáng, dừng lại, rồi tản ra. Sau đó thì thằng bé đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi nhận được mẩu giấy ghi lời cảnh báo của anh . Everett và Palmer đi trước để thám thính tình hình. Quá muộn, mẹ kiếp.” Nói đến đây thì McCarthy ngừng lại, và Web nhìn thấy một giọt nước mắt đang lăn trên gương mặt trẻ trung và rất đẹp của chàng trai, những nét trẻ trung và trong sáng mà chính Web cũng đã từng có.

“Cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến trận nào mà súng nổ dữ dội như thế, Web ạ. Tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy bất lực như đêm đó.”

“Cậu đã làm hết trách nhiệm của mình, và đó là tất cả những gì cậu có thể làm,” Web ngừng.lại giây lát rồi nói tiếp. “Có vẻ như họ không tìm thấy thằng bé. Cậu có biết gì không?”

McCarthy lắc đầu. “Hai người của đội Hotel phụ trách trông nó mà. Hình như là Romano và Cortez thì phải.”

Lại là Romano. Mẹ kiếp, có nghĩa là Web sẽ phải nói chuyện với anh ta. “Sau đó thì cậu làm gì?”

“Tôi vào trong sân cùng vài người khác. Chúng tôi nhìn thấy anh, nhưng lúc đó anh đã ngất rồi.” Anh ta lại cúi gằm mặt. “Và chúng tôi nhìn thấy cả đội Charlie nằm đó.” Anh ta liếc nhìn Web. “Vài xạ thủ bắn tỉa bảo tôi là anh đã quay lại đó như thế nào, Web. Họ đã chứng kiến những gì anh làm và vẫn không thể tin là anh làm được như vậy. Họ còn bảo chắc phúc nhà anh phải to bằng cái đình ([20]) mới dám quay lại đó. Nếu là tôi thì tôi cũng không dám chắc.”

“Có cậu cũng sẽ làm thế thôi, Ken. Và cậu sẽ còn làm tốt hơn tôi nữa.”

McCarthy hơi bất ngờ trước lời khen của Web.

“Vậy sau khi ra khỏi khoảng sân, cậu có thấy thằng nhóc nữa không?” McCarthy suy nghĩ hồi lâu. “Tôi nhớ là nó vẫn ngồi trên thùng rác. Đến lúc đó, tất cả mọi người đều đã có mặt đông đủ.”

“Cậu có trông thấy nhân viên nào của Cục phụ trách trông nom thằng nhỏ không?”

McCarthy lại cố nhớ. “Không, tôi nhớ loáng thoáng là Romano nói chuyện với vài người, nhưng cũng chỉ nhớ được có vậy.”

“Cậu có nhận ra ai không?”

“Anh cũng biết là chúng ta không mấy khi giao du với những nhân viên bình thường mà.”

“Thế còn DEA thì sao?”

“Tôi nói tất cả những gì tôi biết rồi đấy, Web.”

“Cậu có nói chuyện với Romano không?”

“Chút chút.”

“Đừng có tin tất cả những gì cậu nghe thấy, Ken ạ. Không tốt đâu.”

“Kể cả là nghe từ anh à?” McCarthy hỏi một cách xoi mói.

“Kể cả là từ tôi.”

Trên đường lái xe ra khỏi Quantico, Web mới nhận ra anh sẽ có rất nhiều việc phải làm. Về danh nghĩa việc điều tra này không phải là trách nhiệm của anh, nhưng xét theo góc độ nào đó thì cũng lại là của anh hơn bất kỳ ai khác. Nhưng trước mắt anh phải tập trung giải quyết một vài việc đã; vài việc còn quan trọng hơn cả việc lần ra ai là kẻ đã cho đội của anh vào bẫy. Quan trọng hơn cả việc tìm ra điều gì đã xảy ra với một thằng nhóc trần trụi có vết sẹo trên má.

CHƯƠNG 6

Sáu đám tang. Web phải dự tất cả sáu đám tang trong vòng ba ngày. Đến đám tang thứ tư, anh đã không còn nhỏ thêm giọt nước mắt nào được nữa.

Anh bước vào nhà thờ hoặc nhà tang lễ, lắng nghe những người xa lạ nói về những đồng đội đã khuất mà nhiều lúc anh còn hiểu rõ hơn cà chính bản thân mình. Dường như tất cả những nơ- ron thần kinh của anh đã chai lì, cùng với một phần tâm hồn anh. Thậm chí anh còn cảm thấy bất lực khi không thể phản ứng như mình muốn. Anh kinh hoàng nhận ra rằng những lúc cần phải khóc than thì anh chỉ chực phá lên cười như điên dại.

Tại các lễ tang, có quan tài thì mở, có cái đóng kín. Vài đồng đội của anh có lẽ đã gặp may hơn với kích thước và vị trí của những vết thương đã cướp đi sinh mạng họ và thế là nắp quan tài được mở ra cho người thân nhìn mặt. Tuy nhiên, khi ngắm nhìn những khuôn mặt lạnh giá, méo mó, và những thi hài cứng đờ, khô kiệt trong quan tài bằng kẽm, ngửi mùi hương hoa hăng hắc, và nghe tiếng thút thít của những người xung quanh, Web chỉ ước anh cũng đang nằm bất động trong một chiếc hòm như vậy, để được chôn sâu dưới ba thước đất, vĩnh viễn tránh xa cuộc sống hiện tại. Đám tang của một vị anh hùng; ít ra đó cũng là một cách để họ tưởng nhớ anh trong danh dự.

Anh đã băng kín bàn tay bị thương của mình vì cảm giác dằn vặt khi bước đi giữa gia đình những người đã khuất. Anh biết chẳng ai thèm quan tâm đến điều nhỏ nhặt đó, nhưng anh vẫn có cảm giác sự xuất hiện của mình là một cái tát thẳng vào mặt mọi người. Tất cả những gì họ biết là không hiểu bằng cách nào mà Web đã thoát chết. Anh đã bỏ chạy? Anh đã bỏ mặc đồng đội của mình hứng đạn? Anh có thể nhận ra những câu hỏi đó trên một số gương mặt. Chẳng nhẽ kẻ sống sót duy nhất nào cũng phải nhận một số phận như thế này sao? Những đám tang đã rước qua giữa các đội nghi lễ mặc quân phục xếp thành hàng dài bất tận, theo sau là hàng trăm người mặc complet và đi giày đen đặc trưng của FBI. Xe mô tô phân khối lớn dẫn đường, người dân đứng chật hai bên phố, khắp nơi treo cờ rủ. Tổng thống và hầu hết nội các của mình đều có mặt, cùng với rất nhiều nhân vật quan trọng khác. Trong mấy ngày liền, cả thế giới chỉ nói về việc sáu người anh hùng bị thảm sát trong một con hẻm. Chẳng mấy ai đả động gì đến người thứ bảy, và Web cảm thấy biết ơn vì điều đó. Nhưng trong thâm tâm anh vẫn tự hỏi cái án treo lơ lửng này bao giờ mới rơi xuống.

Cả thành phố Washington chìm trong không khí tang tóc. Không hẳn chỉ vì cái chết thương tâm của những người lính đặc nhiệm, mà còn vì những điều ẩn chứa sau sự kiện đẫm máu này. Chẳng lẽ bọn tội phạm đã thực sự trở nên trắng trợn đến thế? Chẳng lẽ cả xã hội đang vỡ vụn? Cánh sát không còn khả năng duy trì trật tự nữa sao? Phải chăng viên ngọc quý trên vương miện của ngành thực thi luật pháp Hoa Kỳ, FBI, đã không còn lấp lánh? Các cơ quan truyền thông thù địch ở Trung Đông và Trung Quốc hẳn đang sướng phát điên khi được chuyển đến cho khán thính giả của họ thêm một ví dụ nữa về việc đế quốc Mỹ kiêu ngạo đang phải trả giá. Không phải nghi ngờ gì nữa, khắp các đường phố Baghdad. Teheran, Bình Nhưỡng và Bắc Kinh đang dậy tiếng reo hò vì đế quốc Mỹ già cỗi đang sụp đổ. Những học giả đạo mạo các nước đang thi nhau vẽ ra đủ các loại viễn cảnh hoang đường khiến Web không còn nghĩ đến việc bật ti vi hay đài lên nghe tin, hoặc động đến một tờ báo. Nhưng nếu có ai hỏi Web hẳn anh sẽ trả lời rằng cả thế giới, chứ không gì nước Mỹ đã rối tung lên từ lâu rồi.

Sau một thời gian thì dư luận cũng bớt chú ý đôi chút đến thảm kịch này, mặc dù chất xúc tác của sự chuyển hướng đó lại là một thảm kịch khủng khiếp khác. Một máy bay chở khách của Nhật Bản đã nổ tung ngoài khơi bờ biển Thái Bình Dương, thế là giới săn tin lại đổ xô về phía đó và tạm thời để lại phía sau con hẻm đẫm máu. Vẫn còn một xe đưa tin thường trực gần đó, nhưng dù sao thì xác của hàng trăm hành khách đang nổi lềnh bềnh trên mặt biển vẫn là câu chuyện nóng hổi và ăn khách hơn là câu chuyện cũ rích về một đội đặc nhiệm FBI bị phục kích. Lại một lần nữa Web có lý do để cảm thấy biết ơn. Hãy để mặc chúng tôi tiếc thương trong yên lặng.

Anh đã nhận được chỉ thị “lên phố”: tức là trình diện ở Tòa nhà Hoover và trụ sở WFO ba lần liền, trả lời thẩm vấn trước nhiều nhóm điều tra khác nhau. Các điều tra viên tay lăm lăm giấy, bút, máy ghi âm, những người trẻ tuổi còn mang cả laptop. Họ thay nhau hỏi Web hết câu này đến câu khác. Tuy nhiên, mỗi khi đến phần anh khai trước các nhóm điều tra rằng anh không hiểu tại sao mình lại bị cứng đờ người và ngã xuống, những chiếc bút chì bỗng ngừng lạo xạo trên mặt giấy, những ngón tay cũng ngừng lướt lách cách trên bàn phím.

“Khi anh nói là anh bị cứng đờ người, anh có nhìn thấy gì không? Nghe thấy gì đó khiến anh bị như vậy?” Điều tra viên hỏi bằng một giọng đều đều không cảm xúc, mà đối với Web thì rõ ràng là ông ta tỏ ra hoài nghi, hay đúng hơn là hoàn toàn không tin gì hết.

“Tôi cũng không biết nữa.”

“Anh không biết? Anh không chắc là anh có bị cứng đờ người hay không à?”

“Tôi không chắc, ý tôi là có chứ. Tôi không sao cử động được. Như thể tôi bị liệt toàn thân.”

“Nhưng anh lại cử động được sau khi cả đội của anh bị giết?”

“Vâng.” Web thừa nhận.

“Vậy điều gì đã thay đổi khiến anh làm được như vậy.”

“Tôi không biết.”

“Và khi lao ra đến sân thì anh bị ngã?”

“Vâng.”

“Ngay trước khi những khẩu súng máy nhả đạn?” Một điều tra viên khác chen vào.

Web nghe thấy câu trả lời của mình thoát ra nhẹ như một hơi thở “Vâng.” Sau câu trả lời là sự im lặng nặng nề khiến Web càng thêm tan nát và tuyệt vọng.

Trong mỗi buổi thẩm vấn, Web luôn đặt tay trên mặt bàn, ánh mắt nhìn thẳng vào điều tra viên, người hơi cúi về phía trước. Họ đều là dân chuyên nghiệp, những điều tra viên trong đầu có sỏi. Web biết nếu anh nhìn đi chỗ khác, ngồi ngửa người, xoa đầu vò tóc một cách đáng ngờ, hay thậm chí nếu trót dại mà khoanh tay trước ngực nữa thì kiểu gì họ cũng kết luận rằng anh là thằng dối trá, ma mãnh. Web không hề gian dối điều gì, nhưng anh cũng không nói ra toàn bộ sự thật. Vì nếu như Web nói thật rằng hình ảnh thằng bé kia đã có tác động rất kỳ quặc với anh, thậm chí chính là nguyên nhân khiến anh cứng đờ người nên mới thoát chết - hoặc nói về việc cảm thấy chân tay nặng như chì nhưng chỉ vài giây sau lại hoạt động bình thường - thì coi như sự nghiệp của anh tại FBI đã hoàn toàn chấm hết. Nói chung cấp chỉ huy thường không mấy thích thú gì trước việc các đặc vụ hoạt động mà lại đưa ra những câu nói điên rồ. Dù sao anh cũng có công rất lớn. Những ụ súng máy kia đâu có tự gục xuống. Vết đạn từ khẩu SR của anh đã găm chi chít quanh những nòng súng máy. Hơn nữa những xạ thủ bắn tỉa đã chứng kiến tất cả, chính anh là người cảnh báo đội Hotel và cứu mạng thằng nhóc. Web nhấn mạnh những thực tế đó. Anh làm tất cả để bọn họ đều nhận ra điều đó. Các cậu cứ việc đạp mình đi khi mình đang ngã, chỉ cần đừng đạp mạnh quá là được rồi. Nói thế nào thì mình vẫn là một anh hùng khốn kiếp.

“Tôi không sao,” Web đã khẳng định với họ như vậy, tôi chỉ cần một thời gian nghỉ ngơi. Tôi không sao đâu.” Và đã có lúc Web nghĩ rằng đó là lời nói dối đầu tiên của anh trong cả ngày thẩm vấn.

Họ cũng thông báo là sẽ triệu tập anh để thẩm vấn tiếp nếu cần. Trong lúc này, họ chỉ muốn anh không làm gì hết. Anh sẽ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một thời gian. Cục thậm chí còn khăng khăng đề nghị anh đi gặp chuyên gia tư vấn tâm lý, và Web cũng nói anh sẽ đi, mặc dù trong Cục vẫn tồn tại một luật bất thành văn rằng đi gặp bác sĩ tâm lý là một điều ô nhục. Web được chỉ thị rằng, khi mọi việc có vẻ ổn thỏa, anh sẽ được biên chế vào một đội đột kích hoặc bắn tỉa khác, nếu anh muốn trong khi chờ xây dựng lại đội Charlie. Nếu không, anh có thể đảm nhiệm một vị trí khác trong Cục. Thậm chí người ta đã bàn đến việc chuyển anh về một văn phòng bàn giấy vô thưởng vô phạt nào đó chờ ngày nghỉ hưu.

Đó là kiểu bố trí dành cho những đặc vụ đã già và là thông điệp cho thấy Cục thực sự không biết phải làm gì với anh. Về danh nghĩa, Web đang nghỉ việc trong thời gian điều tra nội bộ, nhưng bất kỳ lúc nào cũng có thể trở thành một cuộc điều tra hình sự đầy đủ, tùy thuộc vào tình hình cụ thể.

Chậc, ít nhất thì chưa có ai đọc cho Web quyền Miranda ([21]) của anh, đó là một tín hiệu vừa tốt vừa xấu. Tốt là vì nếu Web nhận được quyền Miranda rồi thì có nghĩa là anh đang bị giam lỏng, xấu là vì bất kỳ điều gì anh nói trước ủy ban điều tra có thể được sử dụng làm bằng chứng chống lại anh trong quá trình xét xử dân sự hoặc hình sự Rõ ràng là khuyến điểm lớn nhất của Web là anh đã không chết.

Và sự dằn vặt trong lòng anh có lẽ còn nặng nề hơn bất kỳ hình thức kỷ luật nào mà Cục có thể nghĩ ra.

Thực ra cũng không tệ đến thế. Web đã được thông báo là bất kể anh muốn thế nào cũng sẽ được đáp ứng. Dù sao tất cả cũng là bạn anh. Lúc nào anh cũng nhận được sự ủng hộ hết lòng của họ.

Web có hỏi cuộc điều tra diễn ra đến đâu rồi, nhưng cũng không nhận được câu trả lời thỏa đáng. Sự ủng hộ hết lòng là thế đấy, Web thầm nghĩ.

“Cứ bình phục đi đã,” một người cũng hạ cố nói với anh như vậy. “Đó là tất cả những gì cậu cần tập trung vào.”

Lúc chuẩn bị ra về sau buổi thẩm vấn cuối cùng anh nhận được câu hỏi cuối, “Tay cậu thế nào rồi?” một điều tra viên hỏi. Web không biết tay này. Và mặc dù câu hỏi nghe hoàn toàn vô tư, nhưng trong ánh mắt anh ta vẫn có điều gì đó khiến Web chỉ muốn nhảy đến vặn cổ. Nhưng tất nhiên là Web nói tay anh vẫn ổn, cảm ơn tất cả mọi người và bỏ về.

Trên đường ra khỏi tòa nhà, anh đi qua Bức tường Danh dự của FBI, nơi có treo những tấm bảng nhỏ ghi tên tuổi và chức vụ mỗi đặc vụ FBI đã hy sinh vì nhiệm vụ. Chắc chắn trên tường sắp có thêm biển mới, một tấm biển to nhất từ trước đến nay, dành cho cả sáu người. Nhiều lúc Web cũng tự hỏi không biết có bao giờ tên anh xuất hiện trên đó không? Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của anh được ghi vắn tắt trên một tấm bảng gỗ khảm đồng và gắn lên tường. Anh rời tòa nhà Hoover và lái xe về nhà, trong đầu lại đau đáu với biết bao câu hỏi mà anh không sao tìm được câu trả lời.

FBI còn có nghĩa là Fidelity (Trung thành), Bravery (Dũng cảm) và Integrity (Chính trực), nhưng ngay lúc này Web cảm thấy anh không hề có được phẩm chất nào trong trong đó.

CHƯƠNG 7

Francis Westbrook là một gã khổng lồ thực sự; với chiều cao và vòng ngực của một hậu vệ trái mà các ông bầu của giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ phải thèm khát. Bốn mùa quanh năm, bất kể thời tiết thế nào gã cũng chỉ diện áo sơ mi lụa ngắn tay, quần vải rộng, đi giày da lộn không tất. Đầu gã cạo bóng loáng, hai cái tai to đùng đeo đầy kim cương, còn bàn tay chuối mắn thì chi chít nhẫn vàng. Thực ra gã cũng không phải là mẫu công tử bột thích diêm dúa, khoe của, nhưng vấn đề là nếu không thế gã cũng chẳng biết tiêu khoản thu nhập kếch xù từ ma túy của mình vào việc gì. Nhất là khi người ta không phải đóng thuế cho nhà nước. Vả lại bản thân hắn cũng thích trông cho ra dáng. Ngay lúc này, gã đang ngồi chễm chệ trên băng ghế sau của một chiếc Mercedes bóng lộn, lắp kính đen sì. Ngồi bên trái là tay phó thứ nhất của gã, Antonie Peebles. Lái xe là một gã trai cao to, lực lưỡng tên là Toona, ngồi bên cạnh là Clyde Macy phụ trách an ninh, tay da trắng duy nhất trong bầu đoàn của Francis Westbrook, và không khó nhận thấy rằng tên này tỏ ra đặc biệt tự hào vì sự khác biệt đó.

Peebles có bộ râu quai nón cùng mái tóc xoăn tít được xén tỉa rất cầu kỳ. Hắn có vóc người thấp đậm, vạm vỡ, nhưng trông dáng rất thoát trong bộ complet của Armani. Peebles giống một nhà sản xuất phim của Hollywood chứ không phải trùm ma túy cỡ bự. Macy thì giống hệt một bộ xương biết đi, hắn chỉ thích diện đồ đen để tỏ ra mình là dân chuyên nghiệp, quả đầu cạo trọc lốc khiến người nhìn có thể nghĩ rằng hắn là một tên Quốc xã mới.

Đó là bộ sậu chóp bu trong đế chế nhỏ của Westbrook, và vị chúa tể của đế chế đó đang cầm một khẩu chín ly trên tay phải, với vẻ mặt chết chóc như muốn thử súng đến nơi. “Mày có muốn nhắc lại cho tao một lần nữa tại sao mày để lạc thằng Kevin không?” Gã nhìn Peebles và xiết chặt báng khẩu súng thêm chút nữa. Chốt an toàn của khẩu súng được bố trí ở ngay sát báng, và Westbrook vừa gạt nó xuống. Peebles có vẻ cũng nhận ra điều đó và vội vàng trả lời ngay. “Nếu ông để chúng tôi cử người canh nó 24/24 thì không đời nào chúng tôi để lạc nó được. Thỉnh thoảng ban đêm nó lại ra ngoài. Đêm hôm đó nó cũng ra ngoài nhưng không thấy quay về.”

Westbrook vỗ đánh đét lên cái đùi khổng lồ của mình. “Nó đã ở trong con hẻm đó. Bọn FBI giữ nó lại nhưng giờ thì không thấy đâu nữa. Không hiểu bằng cách nào nó lại dính dáng đến vụ này và vụ đó lại xảy ra đúng ngay ở cái sân sau chó chết của tao.” Gã đập chát khẩu súng vào cửa xe và rống lên, “Tao muốn đưa thằng Kevin về đây”

Peebles sợ hãi nhìn đại ca của hắn, trong khi đó Macy vẫn ngồi bất động.

Westbrook đặt tay lên vai gã tài xế. “Toona, mày tập hợp vài thằng lại và lật tung cả cái thành phố chó chết này lên cho tao, mày nghe chưa? Tao biết mày đã làm một lần rồi, nhưng làm lại đi. Tao muốn thằng em tao quay về đây lành lặn và nguyên vẹn, mày nghe chứ? Lành lặn và nguyên vẹn và đừng có vác mặt về nếu mày chưa làm xong. Mẹ kiếp. Mày nghe thấy rồi chứ, Toona?”

Toona liếc vào gương chiếu hậu, “Tôi nghe rõ rồi, tôi nghe rõ rồi.”

“Đây là một cái bẫy,” Peebles nói. “Hoàn toàn là một âm mưu. Để đổ lỗi cho ông.”

“Mày tưởng tao không biết à? Mày nghĩ vì mày có bằng đại học mà mày khôn còn tao thì là thằng ngu chắc? Tao biết bọn FBI đang bám theo tao vì vụ này. Tao biết chúng nó đang đồn đại những gì trên phố. Có thằng nào đó đang tìm cách thống nhất các băng lại với nhau, kiểu như một liên minh chó má nào ấy, chúng nó biết thừa là tao sẽ không đời nào tham gia và điều đó gây cản trở cho kế hoạch của chúng.” Mắt Westbrook đỏ ngầu. Gã đã không chợp mắt suốt 48 giờ qua. Cuộc sống của gã là vậy. Sống sót qua đêm là mục tiêu lớn nhất mỗi ngày. Vậy mà tất cả những gì có trong đầu gã lúc này là tìm kiếm một thằng nhóc đang ở đâu đó. Gã đang tiến sát đến mép vực; gã cảm thấy rõ điều này. Gã đã biết là ngày này sẽ đến, mặc dù vậy gã vẫn chưa hề thấy sẵn sàng chấp nhận.

“Cho dù ai đang giữ Kevin, sớm muộn chúng sẽ cho tao biết. Chúng muốn gì đó. Chúng muốn tao đem nộp băng của mình cho chúng, chắc chắn là chúng muốn thế.”

“Và ông sẽ làm vậy chứ?”

“Chúng có thể có bất kỳ những gì tao có. Chỉ cần đưa được Kevin về.”

Gã ngừng lại và nhìn ra ngoài cửa sổ xe. Cả bọn đang đi qua những góc phố và con hẻm tối tăm, những quán bar rẻ tiền, nơi những chiếc vòi bơm ma túy của gã đã vây bủa. Công việc làm ăn của gã ở vùng ngoại ô cũng rất phát đạt, thực ra chủ yếu tiền của gã từ đó mà ra. “Hừm! đúng thế đấy. Tao đưa Kevin về rồi tao sẽ giết từng thằng chó đẻ một. Chính tay tao sẽ làm.” Gã chĩa khẩu súng vào một kẻ thù tưởng tượng; “trước hết sẽ là đầu gối, rồi lên dần, lên dần.”

Peebles lo lắng nhìn Macy, thằng này vẫn ngồi trơ trơ như thể mặt hắn được làm bằng đá. “Nhưng vẫn chưa có ma nào liên hệ với chúng ta cả”, Peebles rụt rè nhận xét.

“Chúng sẽ sớm liên hệ thôi. Chúng đâu có bắt Kevin vì muốn chơi bóng rổ với nó. Chúng muốn tao kìa. Hừm, tao đây, đến mà chơi. Tao cũng muốn chơi lắm, thích kiểu gì cũng được.” Gã nói tiếp với giọng bình tĩnh hơn. “Tao nghe nói có một thằng không bỏ mạng trong sân, đúng không?”

Peebles gật đầu. “Web London.”

“Thấy chúng nó bảo là toàn súng máy, đạn .50. Làm sao vẫn có thằng không chết nhỉ?”

Peebles nhún vai và Westbrook quay sang nhìn Macy.

“Mày có nghe nói gì về việc này không, Macy?”

“Ngay lúc này thì không ai dám chắc, nhưng tôi nghe nói thằng đó đã không vào trong sân. Nó sợ vãi tè, ngất xỉu hay gì đó.”

“Ngất xỉu hay gì đó,” Westbrook nhại lại. “Được rồi, mày điều tra thằng này cho tao. Kiểu gì một thằng sống sót sau vụ đó cũng phải biết chút gì chứ. Có khi nó còn biết Kevin đang ở đâu cũng nên.” Gã nhìn bọn đàn em của mình. “Bọn nào chơi FBI cũng chính là bọn đang giữ thằng Kevin. Tao bảo đảm với chúng mày như thế.”

“Vâng, như tôi đã bảo, lẽ ra chúng tôi đã có thể kè kè bên nó 24/24” Peebles nói.

“Mẹ kiếp, thế còn gọi chó gì là sống?” Westbrook quát. Nó không việc gì phải sống như thế cả, không phải vì tao. Nhưng bọn FBI đang lùng theo tao, nên tao sẽ phải mồi cho chúng lần theo hướng khác. Nhưng chúng ta phải biết đó là hướng nào đã. Với sáu cái xác nát bét thì chắc chắn bọn FBI sẽ không nhẹ tay đâu. Chúng đang muốn rán mông một thằng nào đó để trả thù và nhất định không phải là mông tao đâu.”

“Cho dù ai giữ Kevin, thì cũng không có gì chắc chắn là chúng sẽ để Kevin đi,” Peebles nói. “Tôi biết ông không muốn nghe chuyện này, nhưng chúng ta còn không chắc liệu Kevin có còn sống không ấy chứ.”

Westhrook mẹt mỏi ngả người ra sau ghế. “Ôi, nó vẫn còn sống, được rồi. Kevin không sao hết, ít nhất là trong lúc này.”

“Tại sao ông dám chắc thế?”

“Tao chỉ biết thế và mày cũng chỉ cần biết thế thôi. Mày cứ thu thập cho tao thông tin về cái thằng FBI thoát chết kia đã.”

“Web London.”

“Web London. Nếu nó mà không có cái tao cần thì nó sẽ phải ước là nó chết cùng với đội của mình cho xong. Nhanh lên đi Toona. Bọn ta có việc đấy”

Chiếc xe lao vọt vào trong màn đêm.

CHƯƠNG 8

Phải mất vài ngày Web mới hẹn gặp được một bác sĩ tâm thần mà Cục thỉnh thoảng vẫn thuê theo hợp đồng ngắn hạn. Tất nhiên là trong biên chế của FBI cũng có những bác sĩ tâm thần được đào tạo bài bản, nhưng Web đã quyết định chọn người ngoài. Anh cũng không chắc là tại sao; nhưng dù thế nào thì giãi bày lòng mình với một người trong cùng cơ quan vào lúc này có vẻ không phải là ý hay cho lắm. Chẳng biết đúng hay sai nhưng nói với bác sĩ của Cục thì cũng có nghĩa là nói cho cả Cục nghe còn gì. Web nghĩ bụng. Vứt mẹ nó cái nguyên tắc giữ bí mật của bác sĩ đi.

Cục vẫn quen giữ nguyên nếp tư duy thời Trung Cổ man rợ trong những vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm lý của nhân viên. và đó luôn được coi là trách nhiệm của mỗi cá nhân chứ chẳng liên quan gì đến tố chức hết. Cho đến tận cách đây vài năm nếu bạn làm việc ở FBI và cam thấy bị stress hoặc có liên quan đến nghiện rượu hoặc các loại chất cấm khác, tốt nhất là hãy giấu kín và tự giải quyết. Một đặc vụ theo trường phái cổ điển sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện tìm đến bác sĩ tư vấn, anh ta sẽ chọn một chai rượu và khẩu súng nếu gặp vấn đề. Nếu một đặc vụ nào đó đang cần sự giúp đỡ của chuyên gia tâm thần, chắc chắn sẽ không ai biết nên sẽ không có ai bàn tán gì. Để mọi người biết thì coi như bạn đã thành hàng phế thải. Những định kiến thâm căn cố đế trong Cục đã tạo nên cho mỗi thành viên một tính tự lập khắc kỷ và ương bướng rất khó vượt qua.

Sau đó cấp trên cuối cùng cũng quyết định rằng tình trạng căng thẳng khi làm việc trong FBI, thể hiện qua tỷ lệ nghiện rượu và ma túy cùng tỷ lệ ly hôn ngày càng cao, là một vấn đề cấp bách cần giải quyết. Chương trình Hỗ trợ Nhân viên, EAP, được ban hành. Mỗi bộ phận của FBI đều có một nhà tư vấn và điều phối EAP. Trong trường hợp chuyên gia tư vấn của đơn vị không thể giải quyết được tình hình, ông ta hoặc bà ta sẽ giới hiệu bệnh nhân của mình đến một cơ sở nào đó bên ngoài, như trường lớp của Web. Ngay trong Cục cũng không có nhiều người biết về EAP. Bản thân Web còn chưa bao giờ nắm được văn bản nào về sự tồn tại của nó. Đó chỉ là những thông tin rỉ tai từ người này sang người khác. Bất chấp mọi cố gắng của Cục, dấu vết ô nhục vẫn còn nguyên đó.

Những phòng khám tâm thần được bố trí trong một tòa nhà cao tầng ở quận Fairfax gần góc đường Tyson. Trước đây Web đã gặp bác sĩ O’Bannon, một trong những bác sĩ tâm thần làm việc ở đây. Lần gặp đầu tiên cách đây đã vài năm khi HRT được huy động đến giải cứu các sinh viên trong một trường tu ở Richmond, Virginia. Một nhóm vũ trang thuộc tổ chức tự xưng là Hội Tự Do, với chủ trương xây dựng một nền văn hóa Aryan ([22]) bằng các biện pháp thanh trừ sắc tộc, đã đột nhập vào trường học và bắn chết hai giáo viên. Vụ bắt giữ con tin này kéo dài suốt hai mươi tư giờ. Cuối cùng HRT cũng tìm cách lọt vào trong sau khi biết chắc rằng bọn khủng bố sẽ tiếp tục giết các con tin. Mọi chuyện đang tiến triển rất hoàn hảo thì có gì đó đã đánh động bọn khủng bố trước khi HRT sẵn sàng ập vào. Hậu quả của vụ nổ súng là cả năm tên khủng bố đều thiệt mạng, hai đội viên HRT bị thương nặng, trong đó có Web. Chỉ có thêm một con tin duy nhất bị giết, đó là cậu bé David Canfield, mười tuổi.

Web đã đến sát bên thằng bé, gần đủ để kéo nó vào chỗ an toàn thì mọi chuyện bắt đầu đổ bể. Khuôn mặt của thằng bé bị chết đã ám ảnh trong những giấc mơ của Web thường xuyên đến nỗi anh phải tự đi tìm tư vấn của bác sĩ. Khi đó chưa có EAP, nên sau khi bình phục vết thương Web đã bí mật lần ra tên của bác sĩ O’Bannon từ một đặc vụ khác mà bác sĩ O’Bannon cũng đang điều trị. Đó là một trong những việc khó khăn nhất mà Web từng phải làm, vì như thế có nghĩa là thú nhận rằng anh không thể tự giải quyết vấn đề của mình. Anh không bao giờ nói chuyện đó với các thành viên khác của HRT và anh thà tự cắt lưỡi mình còn hơn là chịu thừa nhận rằng anh đang gặp bác sĩ tâm thần. Đồng nghiệp của anh sẽ chỉ coi đó là một biểu hiện mềm yếu, và ở HRT không bao giờ có chỗ cho điều đó.

Các đội viên của HRT cũng từng có kinh nghiệm không hay với việc tư vấn sức khỏe tâm thần: Sau vụ Waco, Cục đã cho mời một số chuyện gia tư vấn tâm thần đến làm việc với những đội viên có vấn đề. Có điều thay vì gặp riêng từng người thì các bác sĩ lại gặp cả đội cùng một lúc. Kết quả thu được sau lần đó vừa nực cười vừa đáng buồn. Và đó cũng là lần cuối cùng Cục cố thử làm chuyện tương tự với HRT.

Lần gần đây nhất Web gặp O’Bannon là ngay sau khi mẹ anh qua đời.

Sau vài buổi điều trị với O’Bannon, Web đã rút ra kết luận rằng mọi chuyện liên quan đến vấn đề này sẽ không bao giờ được giải quyết ổn thỏa và anh bắt đầu nói dối với O’Bannon rằng anh hoàn toàn không có khó khăn gì. Anh cũng không trách O’Bannon vì anh biết chẳng bác sĩ tâm thần nào có thể giúp anh bình tâm lại. Có chăng thì phải nhờ đến một phép màu nào đó.

O’Bannon là một người thấp đậm nhưng lại hay mặc áo len cao cổ màu đen, khiến cái cằm nhiều ngấn nung núc mỡ của ông ta càng lộ rõ hơn. Web vẫn nhớ là O’Bannon có cái bắt tay rất nhẹ nhàng, thái độ cũng rất hòa nhã, thân thiện, nhưng anh vẫn chỉ muốn quay người bỏ chạy khi hai người gặp nhau lần đầu tiên. Tuy nhiên, anh vẫn nghe lời O’Bannon và quay lại văn phòng của ông ta, liều lao mình vào những vùng nước đầy nguy hiểm.

“Chúng tôi sẽ giúp anh, Web ạ. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Tôi rất lấy làm tiếc vì chúng ta phải gặp nhau trong những trường hợp khó khăn như thế này nhưng mọi người đâu phải đến gặp tôi làm gì nếu tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp; có lẽ số phận của tôi là thế đấy.”

Web làu bàu gì đó đại loại là như thế cũng tốt nhưng anh vẫn thấy cực kỳ chán nản và tuyệt vọng. Rõ ràng là O’Bannon chẳng thể có phép màu nào giúp thế giới của anh có thể trở lại bình thường.

Hai người đã ngồi trong văn phòng của O’Bannon. Lạ lùng là chẳng có trường kỷ nào, mà chỉ có một chiếc ghế sô pha hai chỗ ngồi: quá ngắn để bệnh nhân có thể nằm ngả hẳn ra. O’Bannon đã giải thích, “ Đây là một điều ngộ nhận lớn nhất trong ngành của chúng tôi, không phải phòng khám của bác sĩ tâm lý nào cũng có một chiếc trường kỷ bọc da.”

Văn phòng của O’Bannon được bài trí cực kỳ giản dị, tường sơn trắng, nội thất công nghiệp và hầu như không bày biện đồ đạc cá nhân nào. Tất cả khiến Web có cảm giác như đang ngồi trong nhà giam tử tù chờ ngày lên ghế điện. Họ trao đổi những câu chuyện gẫu vô thưởng vô phạt, có lẽ để Web cảm thấy bớt căng thẳng hơn. Trước mặt O’Bannon có một quyển sổ và một cây bút chì, nhưng chẳng bao giờ thấy ông ta động gì đến chúng. “Tôi sẽ làm sau,” O’Bannon đã giải thích như vậy khi Web hỏi ông ta về việc ghi chép. “Trước mắt, chúng ta cứ nói chuyện đã.” Ông ta có ánh mắt chăm chú và sắc lẻm làm Web thấy bứt rứt, mặc dù giọng của ông ta khá dịu dàng và êm ái. Sau hơn một tiếng thì buổi điều trị kết thúc mà Web không nhận thấy là có kết quả nào khả quan cả. Anh biết về O’Bannon còn nhiều hơn những gì ông ta biết về anh. Ông ta đã chẳng hề chạm đến được vấn đề thực sự đang làm anh rối trí.

“Những chuyện như thế này thường mất nhiều thời gian. Web” O’Bannon đã bảo vậy khi tiễn Web ra ngoài. “Kết quả rồi sẽ đến, anh đừng lo. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Người ta có xây Rome trong một đêm đâu.”

Web chỉ muốn hỏi ông ta chính xác là trong trường hợp của anh cần bao lâu mới xây xong cái thành Rome chết tiệt của ông ta, nhưng rồi anh lại im lặng và chào tạm biệt. Ban đầu Web đã đinh ninh rằng anh sẽ không bao giờ quay lại để gặp tay bác sĩ lùn tịt và béo ú trong văn phòng trống hoác của ông ta. Vậy mà anh đã quay lại. Và O’Bannon đã làm việc cùng anh hết buổi này đến buổi khác, giúp anh giải quyết từng vấn đề. Có điều là Web vẫn chưa thể quên được hình ảnh cậu bé bị giết hại dã man trong khi Web chỉ đứng cách đó chưa đầy một mét mà không thể làm gì. Nhưng có lẽ quên một sự kiện bi thảm như vậy cũng chưa chắc sẽ là điều tốt.

O’Bannon đã nói với Web rằng ông ta và nhiều bác sĩ khác ở cơ sơ điều trị của mình đã chăm lo nhu cầu tinh thần của các nhân viên trong Cục nhiều năm qua và đã giúp nhiều đặc vụ cũng như nhân viên hành chính vượt qua các thời điểm khủng hoảng. Web cực kỳ bất ngờ khi biết điều này vì anh cứ đinh ninh rằng anh chỉ là một trong số ít người cần tư vấn. O’Bannon đã nhìn anh với ánh mắt vô cùng thông cảm và nói. “Việc con người ta không nói về điều đó cũng không có nghĩa là họ không muốn giải quyết vấn đề của mình hoặc không muốn tình hình được cải thiện. Tất nhiên là tôi không thể tiết lộ bất kỳ cái tên nào nhưng hãy tin tôi đi, anh không phải là người duy nhất từ FBI đến đây đâu. Những đặc vụ tìm cách trốn tránh như con đà điểu vùi đầu trong cát chẳng khác nào ôm một quả bom hẹn giờ có thể nổ bất kỳ lúc nào.”

Giờ thì Web phân vân không biết mình có phải là quả bom hẹn giờ không nữa. Anh bước vào trong và lên cầu thang càng đi càng thấy bước chân nặng nề hơn.

Với tâm trí đang để tận đâu tận đâu. Web suýt nữa xô thẳng vào một người phụ nữ đi ngược chiều. Anh xin lỗi và ấn nút thang máy. Thang máy đến và cả hai bước vào trong. Web nhấn số tầng của mình và lùi lại.

Khi cả hai cùng ngước lên trên, Web thoáng liếc qua người phụ nữ. Trông cô không cao lắm, người mảnh mai và cực kỳ quyến rũ. Anh ước chừng cô khoảng ngoài 30 tuổi. Cô mặc một bộ vest màu xám trông rất trang nhã, cổ áo sơ mi trắng thò hẳn ra ngoài. Mái tóc đen lượn sóng được cắt ngắn rất cá tính, hai tai đều đeo khuyên. Tay cô cầm một chiếc cặp nhỏ. Những ngón tay dài và thanh tú nắm chặt quai cặp. Nghề của Web là luôn phải quan sát và để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt vì những điều nhỏ nhặt đó hầu như lúc nào cũng quyết định tương lai của anh, thậm chí cả việc liệu anh còn có tương lai hay không nữa.

Thang máy dừng lại tại tầng của Web và anh hơi ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ cũng bước ra. Nhưng rồi anh chợt nhớ ra là lúc ở trong cũng không thấy cô ấn nút chọn tầng nào. Chậc, thôi, để ý và quan sát thế là quá đủ rồi. Anh bước theo người phụ nữ về phía văn phòng anh đang định đến.

Cô quay lại nhìn anh. “Tôi giúp gì anh được không?”

Giọng cô rất nhẹ nhàng, rõ ràng và làm anh cảm thấy rất dễ chịu. Cặp mắt xanh sâu thẳm của cô làm Web thấy chú ý. Đôi mắt cũng rất to, tròn, phảng phất vẻ u buồn và dò hỏi. Có những cặp mắt lúc nào cũng làm ta phải đứng lại, đôi mắt này cũng thế.

“Tôi đến gặp bác sĩ O’Bannon.”

“Anh có hẹn trước không?”

Cô ta có vẻ cảnh giác, Web tự nhủ. Nhưng anh cũng hiểu là phụ nữ hoàn toàn có quyền tỏ ra nghi ngờ khi đứng trước những người đàn ông lạ mặt. Anh đã chứng kiến nhiều kết cục bi thảm của những cuộc gặp gỡ không may đó và có nhiều hình ảnh khiến anh không thể nào quên.

“Có, lúc chín giờ, sáng thứ Tư. Tôi đến hơi sớm.”

Cô trao cho anh một cái nhìn thông cảm. “Sớm thật, hôm nay mới là thứ Ba.”

Web rủa thầm, “Mẹ kiếp,” và lắc đầu mệt mỏi, “Tôi lại đang rối tung hết cả ý niệm về ngày tháng. Xin lỗi đã làm phiền cô.” Anh quay người bước đi, tin chắc rằng sẽ không bao giờ quay lại nữa.

“Tôi xin lỗi, nhưng trông anh rất quen,” người phụ nữ lên tiếng.

Web từ từ quay người lại.

“Tôi xin lỗi,” cô nói thêm “Thường thì tôi không mấy khi nói năng đường đột thế này, nhưng tôi biết tôi đã trông thấy anh rồi.

“Vâng, nếu cô làm việc ở đây thì có lẽ thế thật. Tôi đã từng đến chỗ bác sĩ O’Bannon nhiều lần rồi.”

“Không, không phải ở đây. Tôi tin là tôi nhìn thấy anh trên TV. Nói đến đây thì cô à lên một tiếng, mặt giãn ra, “Anh là Web London, đặc vụ FBI, đúng không?”

Anh không biết phải nói gì trong giây lát trong khi cô vẫn nhìn anh rõ ràng là chờ đợi câu trả lời cho nhận xét của mình.

“Đúng vậy.” Web vừa nói vừa liếc nhìn cô. “Cô làm ở đây à?”

“Tôi cũng có một văn phòng ở đây.”

“Vậy cô cũng là bác sĩ điên.”

Cô chìa tay ra. “Tôi thích dùng từ bác sĩ tâm thần hơn. Tôi là Claire Daniels.”

Web bắt tay cô và rồi hai đứng yên, lúng túng.

“Tôi sẽ pha chút cà phê nếu anh muốn dùng một tách” cuối cùng cô phá tan sự im lặng.

“Không dám phiền cô.”

Cô quay người và mở cửa. Web bước theo cô vào trong phòng.

Hai người ngồi trong một phòng lễ tân nhỏ và uống cà phê. Web liếc nhìn quanh căn phòng trống hoác.

“Hôm nay văn phòng đóng cửa à?”

“Không, hầu hết mọi người phải chín giờ mới đến.”

“Lần nào tôi cũng ngạc nhiên là các cô không có một nhân viên lễ tân nào ở đây cả.”

“Vâng, chúng tôi muốn mọi người cảm thấy hoàn toàn thoải mái. Nhiều khi mọi người cảm thấy rất ngại khi phải tuyên bố với một người lạ rằng họ đến đây để điều trị. Chúng tôi nắm chắc lịch hẹn của mình và khi tiếng chuông cửa reo báo hiệu có người đến, chúng tôi sẽ ra đón trực tiếp. Đây là khu đợi chung vì không thể không có, nhưng quy định là chúng tôi không bắt các bệnh nhân phải ngồi cùng nhau. Nhiều khi ngồi như thế cũng rất bất tiện.”

“Kiểu như mọi người cùng ngồi chơi trò ‘Đoán xem tôi bị bệnh tâm thần gì’?”

Cô mỉm cười. “Cũng đại loại như vậy. Bác sĩ O’Bannon gây dựng cơ sở điều trị này nhiều năm trước và ông ấy vô cùng quan tâm đến việc tạo không khí thoải mái cho những người đến đây tìm sự giúp đỡ. Chắc chắn chẳng ai muốn làm những người vốn đã lo lắng phải thấy khó xử thêm.”

“Vậy là cô biết rõ bác sĩ O’Bannon?”

“Vâng. Thực ra tôi từng làm việc cùng ông ấy. Sau đó thì ông ấy quyết định giảm bớt khối lượng công việc của mình nên giờ chúng tôi làm riêng, nhưng vẫn chung khu văn phòng làm việc này. Tôi cũng thích như thế. Ông ấy rất giỏi, chắc chắn ông ấy sẽ giúp được anh.”

“Cô nghĩ vậy sao?” Web hỏi mà không hề tỏ ra có chút xíu hy vọng nào.

“Giống như cả nước Mỹ, tôi đã theo dõi rất kỹ những gì xảy ra. Thành thật chia buồn về các đồng đội của anh.”

Web lặng lẽ nhấp một ngụm cà phê.

Claire nói, “Nếu anh vẫn nghĩ đến chuyện chờ đợi thì bác sĩ O’Bannon đang giảng ở Đại học George Washington. Hôm nay ông ấy không vào đây đâu.”

“Không quan trọng. Lỗi của tôi mà. Cám ơn vì tách cà phê.” Anh đứng dậy.

“Anh London, anh có cần tôi nói lại với ông ấy là anh đến không?”

“Cứ gọi tôi là Web. Còn chuyện kia thì không cần đâu, tôi không nghĩ là ngày mai tôi sẽ quay lại.”

Claire cũng đứng dậy. “Tôi có thể làm gì giúp anh không?”

Anh giơ chiếc cốc ra. “Cô đã pha cà phê cho tôi còn gì.” Web hít một hơi. Đã đến lúc ra khỏi đây rồi. “Trong vòng một tiếng nữa cô làm gì?” Đột nhiên anh hỏi, và bàng hoàng khi nghe thấy những từ đó bật ra từ chính miệng mình.

“Chỉ là việc giấy tờ thôi,” cô đáp nhanh, mắt cúi gằm xuống, mặt cô thoáng đỏ bừng như thể anh vừa mời cô đi dự buổi khiêu vũ.

“Cô nghĩ thế nào về việc nói chuyện với tôi vậy?”

“Mang tính công việc ư? Không thể như thế được. Anh là bệnh nhân của bác sĩ O’Bannon mà.”

“Thế nếu như là giữa con người với con người?” Web hoàn toàn không hiểu những từ đó ở đâu ra nữa.

Cô lưỡng lự một lát rồi bảo anh chờ. Cô vào trong văn phòng và quay ra sau vài phút. “Tôi cố gọi cho bác sĩ O’Bannon ở trường đại học, nhưng họ không tìm thấy ông ấy. Nếu chưa nói chuyện với ông ấy thì tôi không thể nào tư vấn cho anh được. Mong anh hiểu cho, đậy là chuyện rất nhạy cảm liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, Web. Tôi không thể tranh giành bệnh nhân của người khác được.”

Đột nhiên Web ngồi xuống, “Không có ngoại lệ nào sao?”

Cô lại ngẫm nghĩ hồi lâu, “Có, trong trường hợp bác sĩ của anh không có mặt và anh thì ở trong trường hợp khủng hoảng.”

“Ông ấy không có ở đây và tôi thì, nói có Chúa, cực kỳ khủng hoảng.” Web đang hoàn toàn chân thật, vì như thể anh đang quay lại khoảng sân đó, không sao cử động nổi, không thể làm bất kỳ việc gì, vô dụng và bất lực. Nếu cô vẫn từ chối, Web cũng không chắc là anh có đứng lên và ra về được không.

Nhưng cuối cùng cô cũng dẫn anh qua sảnh, vào văn phòng của mình và đóng cửa lại sau lưng hai người. Web nhìn xung quanh. Không thể có sự khác biệt nào lớn hơn giữa văn phòng của Claire Daniels và văn phòng của O’Bannon. Tường ở đây sơn màu xám nhạt thay vì màu trắng toát, không gian ấm cúng với những bức rèm hoa nữ tính thay vì những tấm rèm gấp công nghiệp. Tranh ảnh treo khắp nơi. Hầu hết là ảnh chụp người, có lẽ là gia đình. Những bằng cấp trên tường là bằng chứng cho thành tích học tập ấn tượng của Claire Daniels: bằng tốt nghiệp của hai trường đại học Brown và Columbia, bằng y khoa của trường Stanford. Trên một chiếc bàn là một bình thủy tinh có gắn mẩu nhãn với dòng chữ “Liệu pháp trong một chiếc bình.” Trên bàn còn những cây nến chưa đốt và những cây đèn hình xương rồng lắp ở hai góc phòng. Trên giá và rải rác trên sàn nhà là hàng chục con thú nhồi bông. Góc tường có một chiếc ghế bọc da. Và, lạy Chúa tôi, Claire Daniels có một chiếc trường kỷ.

“Cô muốn tôi ngồi ở kia phải không?” Anh chỉ về phía chiếc trường kỷ, cố gắng kiềm chế cảm giác hồi hộp của mình. Đột nhiên anh ước là giá như mình không mang theo súng, vì anh bắt đầu cảm thấy hơi mất kiểm soát.

“Thực ra, nếu anh không phiền, tôi thích chiếc trường kỷ hơn.”

Anh thả phịch người xuống ghế, rồi lặng lẽ nhìn cô thay đôi giày đế bằng của mình bằng đôi dép lê vẫn đặt bên cạnh trường kỷ. Khoảnh khắc trông thấy bàn chân trần của cô làm dấy lên trong lòng Web một phản ứng khá bất ngờ. Hoàn toàn không có gì là nhục dục; cảnh đó khiến Web nghĩ đến những mảng da thịt bê bết máu của đồng đội trong sân, những gì còn lại của Đội Charlie. Claire ngồi xuống chiếc trường kỷ, lấy ra một quyển sổ và một cây bút từ ngăn bàn bên cạnh và mở nắp bút. Web thở nhanh từng hơi ngắn để cố gắng bình tĩnh.

“O’Bannon không bao giờ ghi chép trong những buổi điều trị.” anh nhận xét.

“Tôi biết,” cô nói với một nụ cười gượng gạo, tôi không nghĩ mình có trí nhớ tốt như của ông ấy. Xin lỗi.”

“Tôi thậm chí còn không hỏi cô có nằm trong danh sách những bác sĩ hợp đồng được Cục chấp nhận hay không. Tôi biết là O’Bannon thì có.”

“Tôi cũng vậy. Và tôi sẽ phải thông báo về buổi điều trị này cho cấp trên của anh. Chính sách chung của Cục là như vậy.”

“Nhưng không phải là nội dung của buổi điều trị đó chứ?”

“Không, tất nhiên là không. Chỉ thông báo là chúng ta đã gặp nhau thôi. Ở đây vẫn duy trì những nguyên tắc căn bản về việc bảo mật thông tin giữa bác sĩ và bệnh nhân như bình thường.”

“Những nguyên tắc căn bản?”

“Tức là cũng có những điều chỉnh, Web ạ, vì tính chất công việc đặc biệt của anh.”

“O’Bannon có giải thích hồi ông ấy đang điều trị cho tôi nhưng tôi nghĩ là tôi cũng chưa thực sự hiểu rõ cho lắm.”

“À, tôi sẽ có trách nhiệm phải thông báo cho cấp trên của anh nếu trong buổi điều trị có thông tin nào đó có thể tạo thành mối đe dọa đối với anh hoặc cho người khác.”

“Tôi thấy thế cũng thỏa đáng.”

“Anh thấy thế thật sao? Hừm, còn theo quan điểm cá nhân tôi thấy nó đòi hỏi người bác sĩ phải đặc biệt thận trọng, bởi vì có những chuyện người này coi là bình thường, người khác lại cho là nguy hiểm. Nên tôi cũng không chắc là chính sách đó có thỏa đáng với anh hay không. Nhưng cũng tiện thể cho anh biết là tôi chưa bao giờ phải dùng đến sự thận trọng đó, mà tôi đã làm việc với rất nhiều người đến từ FBI, DEA và các cơ quan thực thi luật pháp khác trong một thời gian khá dài.”

“Còn những gì nữa sẽ được báo cáo lên trên?”

“Chủ yếu là việc sử dụng thuốc và các liệu pháp cụ thể.”

“Đúng rồi. Cục giám sát việc này rất chặt chẽ, tôi biết.” Web nói.

“Ngay cả những loại thuốc mua không cần đơn của bác sĩ cũng phải được báo cáo cho Cục. Nói chung là nhiều lúc cũng khá khó chịu.”

Anh nhìn quanh. “Chỗ của cô thoải mái hơn rất nhiều. Văn phòng của bác sĩ O’Bannon trông cứ như phòng mổ.”

“Mỗi người đều có cách làm việc riêng.” Cô ngừng lại và chằm chằm nhìn vào thắt lưng của anh.

Web liếc nhìn xuống và thấy chiếc áo khoác của anh đã bị tung khóa để lộ báng khẩu súng ngắn. Anh kéo khóa áo lên, còn Claire thì cúi nhìn quyển sổ.

“Xin lỗi, Web, cũng không phải là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một đặc vụ mang súng. Có điều là nếu không phải ngày nào cũng nhìn…”

“Thì cũng vẫn thấy rất đáng sợ,” anh nói hộ ý nghĩ của cô.

Anh nhướng mắt về phía những con thú nhồi bông.

“Những món đồ chơi này để làm gì vậy?”

“Tôi có rất nhiều bệnh nhân là trẻ em” cô nói. Rồi bồ sung: “thật đáng tiếc, lũ thú bông khiến bọn trẻ cảm thấy thoải mái hơn. Mà thú thực là chính tôi cũng thấy thoải mái hơn.”

“Thật khó tin là trẻ em cũng cần bác sĩ tâm thần.”

“Hầu hết đó là những đứa trẻ gặp các vấn đề rối loạn về ăn uống như thèm ăn vô độ, đứa thì lại biếng ăn. Nguyên nhân chủ yếu liên quan đến quan hệ giữa trẻ và bố mẹ. Vì thế phải điều trị cho cả bọn trẻ và bố mẹ chúng. Nói chung đây không phải là một thế giới dễ dàng cho trẻ em.”

“Với người lớn cũng chẳng dễ dàng gì.”

Cô nhìn anh chăm chú, Web coi đó là một động thái nhằm đánh giá anh.

“Chắc anh đã phải trải qua nhiều chuyện trong đời.”

“Hơn vài người, kém vài người. Cô có định thực hiện bài kiểm tra dấu mực ([23]) với tôi không vậy?” Anh nói vẻ đùa cợt, nhưng thực ra đó là câu hỏi hoàn toàn nghiêm túc.

“Các nhà tâm lý học mới dùng các bài kiểm tra Rorschach. MMPI, MMCI…Tôi chỉ là một bác sĩ tâm thần xoàng xĩnh.”

“Tôi đã phải làm bài kiểm tra MMPI hồi tôi tham gia Đội Giải cứu Con tin.”

“Phương pháp Đánh giá Tính cách qua nhiều giai đoạn Minnesota (Minnesota Multiphasic Personality Inventory), tôi biết phương pháp này khá rõ.

“Mục đích của nó là loại bỏ những kẻ tâm thần.”

“Xét theo khía cạnh nào đó thì đúng thế thật. Anh có thấy thế không?”

“Nhiều người không qua được. Cô hỏi tôi à, tôi biết thừa mục đích của bài kiểm tra, tôi cứ nói dối từ đầu đến cuối, thế là xong.”

Lông mày của Claire hơi nhướng lên và ánh mắt cô lại một lần nữa nhìn về phía khẩu súng của anh. “Thế thì tốt.”

“Tôi nghĩ là tôi cũng chưa thực sự hiểu rõ sự khác biệt giữa một nhà tâm lý học và một bác sĩ tâm thần.”

“Để trở thành bác sĩ tâm thần phải trải qua kỳ thi MCAT ([24]). Sau đó học thêm bốn năm ở trường y. Rồi phải có ba năm làm bác sĩ nội trú tại khoa tâm thần của một bệnh viện nào đó. Tôi còn có thêm một năm làm bác sĩ nội trú về tâm thần học hình sự. Từ khi tốt nghiệp đến nay tôi mở phòng khám riêng. Các bác sĩ tâm thần cũng là bác sĩ y khoa nên được phép kê đơn thuốc và chỉ định cách điều trị, còn các nhà tâm lý học thì cơ bản là không được phép.”

Web đan hai bàn tay vào nhau rồi lại gỡ ra một cách bứt rứt.

Claire chăm chú nhìn anh rồi nói, “Tại sao chúng ta không bắt đầu bằng cách tôi sẽ kể cho anh nghe về công việc của tôi nhỉ? Sau đó nếu anh thấy thoải mái, chúng ta có thể tiếp tục. Được chứ?”

Web gật đầu đồng ý và Claire dựa hẳn người thoải mái lên những chiếc gối. “Là một bác sĩ tâm thần, tôi phải nắm chắc những khuôn mẫu thông thường trong hành vi của con người, từ đó tôi có thể phân biệt được những hành vi như thế nào thì được coi là lệch chuẩn. Ví dụ điển hình nhất thì chắc chắn là anh cũng đã quá quen thuộc: những kẻ giết người hàng loạt. Trong đại đa số các trường hợp này thì thủ phạm đều bị hành hạ và lạm dụng khi còn bé. Khi còn trẻ những đối tượng này bao giờ cũng thể hiện những hình thức giận dữ và hung bạo, như hành hạ những con vật nhỏ, như là một cách vô thức để trút bỏ sự tàn tệ và đau đớn mà chúng phải chịu đựng sang những sinh linh nhỏ bé hơn mình. Khi lớn hơn, khỏe hơn và liều lĩnh hơn, chúng chuyển qua những con vật lớn hơn, và cuối cùng khi đến tuổi trưởng thành chúng sẽ nhắm đến con người. Đó là một quá trình diễn biến hoàn toàn có thể dự đoán được.”

“Ngoài ra tôi còn phải học cách nghe với một cái tai thứ ba. Tôi lắng nghe những gì người khác nói, nhưng tôi cũng tìm kiếm những thông điệp và đầu mối ẩn sâu trong đó. Đằng sau mỗi tuyên bố của con người bao giờ cũng ẩn chứa những thông điệp nhất định. Một bác sĩ tâm thần phải đội nhiều chiếc mũ, nhiều khi là cùng lúc. Vấn đề mấu chốt là lắng nghe, ý tôi là thực sự lắng nghe những gì người khác kể với bạn. bằng lời nói, ngôn ngữ cơ thể, đại loại như vậy.”

“OK, vậy cô muốn bắt đầu với tôi như thế nào?”

“Tôi thường yêu cầu bệnh nhân điền vào một bảng câu hỏi, nhưng tôi nghĩ với anh thì tôi sẽ bỏ qua khâu đó. Con người với con người.” Cô nói thêm với một nụ cười ấm áp.

Cuối cùng Web cũng cảm thấy ngọn lửa nóng bỏng trong bụng anh dịu đi đôi chút.

“Nhưng trước hết chúng ta hãy nói qua về tiểu sử bản thân anh. Tất cả những thông tin tiêu biểu nhất. Sau đó chúng ta sẽ xem xét tiếp tục như thế nào.”

Web thở phù một hơi. “Tháng ba tới tôi sẽ tròn 38 tuổi. Tôi học đại học như bao người khác, rồi chẳng hiểu sao tôi lại thi vào trường luật của Đại học Virginia và cuối cùng cũng tốt nghiệp được. Sau đó tôi làm việc trong văn phòng luật sư cộng đồng tại Alexandria được khoảng sáu tháng gì đó cho đến khi tôi nhận ra rằng tôi không phù hợp với một cuộc sống như vậy. Tôi quyết định nộp đơn vào Cục cùng một người bạn. Chỉ là một phút bốc đồng, để thử xem mình có làm được không. Tôi qua được vòng loại, cậu bạn thì không. Tôi sống sót qua khóa đào tạo ở Học viện và tôi đã làm đặc vụ FBI suốt mười ba năm may mắn vừa rồi. Ngay sau khi tốt nghiệp tôi làm một đặc vụ thông thường, mài răng, luyện kiếm đủ kiểu. Luân chuyển qua nhiều văn phòng địa bàn khắp cả nước. Cách đây khoảng gần tám năm, tôi đăng ký thi tuyển vào HRT. Có nghĩa là Hostage Rescue Team - Đội giải cứu con tin. Nó là một bộ phận của CIRG, Critical Incident Response Group - Tổ phản ứng nhanh trong tình huống khấn cấp, nói chung đây cũng là một bộ phận khá mới mẻ. Quá trình tuyển lựa cực kỳ khắc nghiệt và hơn 90% người đăng ký bị loại. Trước hết họ không cho ngủ, bẻ gẫy về mặt thể xác, rồi bắt đưa ra những quyết định chớp nhoáng liên quan đến vấn đề sống còn. Họ bắt làm việc và hy sinh với cả đội nhưng mỗi người vẫn phải cạnh tranh với nhau rất quyết liệt, vì chỉ cần tụt lại là bị gạt ngay. Thực sự là rất khó xơi. Tôi đã chứng kiến những người từng là đặc nhiệm SEAL của Hải quân, đặc nhiệm của Lục quân, kể cả quân Delta, cũng phải đổ gục như chuối, gào khóc, ngất xỉu, gặp ảo giác, dọa tự tử, dọa giết người, nói chung là làm bất kỳ những gì có thể để những người đang hành hạ họ phải dừng tay. Nhờ một phép màu nào đó, tôi đã vượt qua và có thêm năm tháng đào tạo nữa trong Trường Huấn luyện Đội viên mới, tức là NOTS. Tôi phải giải thích như vậy vì trong Cục có rất nhiều cơ quan viết tắt. Chúng tôi đóng tại Quantico. Lúc này thì tôi là một lính đột kích.”

Claire có vẻ bối rối.

“HRT có các đơn vị Xanh và Vàng, mỗi đơn vị có bốn đội. Hai đơn vị được tổ chức giống hệt nhau, có nghĩa là chúng tôi có thể ứng phó với hai địa điểm khủng hoảng cùng một lúc. Trong các đội đó thì một nửa là xạ thủ bắn tỉa, nửa còn lại là đột kích, tức là lực lượng tấn công chủ yếu. Các xạ thủ bắn tỉa thì được huấn luyện tại Trường Bắn tỉa Thủy quân Lục chiến. Nhưng chúng tôi cũng luân phiên hoán đổi, huấn luyện chéo. Ban đầu tôi cũng là một xạ thủ bắn tỉa. Nói chung đội bắn tỉa thì chịu nhiều thiệt thòi hơn. Mặc dù sau khi HRT được cơ cấu lại vào năm 1995 thì tình hình đã sáng sủa hơn nhiều. Nhưng vẫn cứ phải nằm bẹp trong bùn hoặc tuyết hàng tuần liền rình rập mục tiêu, cố gắng phát hiện ra điểm yếu của các đối thủ để rồi có thể giết chúng một cách dễ dàng. Hoặc cũng có thể là sẽ cứu chúng cũng nên, bởi vì trong quá trình theo dõi, có khi lại phát hiện được điều gì đó cho thấy là chúng sẽ không bắn trả trong những tình huống cụ thể. Phải chờ đợi đến khi cơ hội xuất hiện mới bóp cò, mà cũng không biết phát đạn của mình có gây ra đổ vỡ gì sau đó không nữa.”

“Anh nói như thể anh đã trải qua tất cả những chuyện như vậy.”

“Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của tôi chính là vụ Waco.”

“Tôi hiểu.”

“Hiện tại tôi đang được biên chế trong đội Charlie ở Đơn vị Xanh.” Từng được biên chế thì đúng hơn, Web thầm tự chỉnh mình. Làm gì còn Đội Charlie nào nữa.

“Như vậy thì cơ bản anh không còn là đặc vụ FBI nữa.”

“Ồ, có chứ, tất cả chúng tôi vẫn là người của FBI mà. Phải có ít nhất ba năm thâm niên trong Cục và những thành tích vượt trội mới được phép xét tuyển vào HRT. Chúng tôi vẫn mang phù hiệu và cấp bậc cũ. Nhưng người của HRT không tiếp xúc rộng với các bộ phận khác. Cơ sở hạ tầng riêng biệt, chỉ thực hiện những nhiệm vụ của HRT. Chúng tôi huấn luyện cùng nhau. Những kỹ năng cơ bản, kiểu như kỹ năng trọng tâm và CQB.”

“Cụ thể là những gì.”

“Kỹ năng trọng tâm là huấn luyện về sử dụng vũ khí và chiến đấu. CQB có nghĩa là Close Quarter Battle training - huấn luyện kỹ năng cận chiến. Nói chung thì sử dụng súng và CQB là cách nhanh nhất để hạ gục mục tiêu, nên chúng tôi phải tập luyện thường xuyên.

“Nghe có vẻ rất quân sự.”

“Đúng vậy. Chúng tôi cũng không khác gì quân đội. Chúng tôi được chia thành các bộ phận sẵn sàng chiến đấu và bộ phận huấn luyện. Nếu đang trực mà có tình huống xảy ra sẽ được huy động. Tất cả những khoảng thời gian chết của các đội viên đang trực chiến sẽ được dành cho việc thực hiện các bài tập đặc biệt, những kỹ năng đặc biệt như leo dây, nhảy từ trực thăng xuống, huấn luyện SEAL - Biển, Không, Trên bộ.(Sea,Air,Land). Ngoài ra còn phải học chiến thuật, tức là cách rình rập và tấn công trong rừng. Thời gian trôi qua cực nhanh, tin tôi đi.”

“Tôi biết,” Claire nói.

Web chăm chú cúi xuống nhìn đôi giày của mình. Hai người ngồi lặng lẽ một lúc. “Năm chục người đàn ông ở cùng nhau nhiều khi cũng không phải là chuyện tốt.” Anh mỉm cười. “Lúc nào chúng tôi cũng tìm cách ganh đua với nhau. Cô có biết loại súng Taser bắn đạn gắn dây điện làm người ta tê liệt không?”

“Có tôi đã nhìn thấy rồi.”

“Đấy, bọn tôi có lần tổ chức một cuộc thi xem ai sẽ tỉnh dậy nhanh nhất sau khi bị bắn bằng loại súng này.”

“Lạy Chúa,” Claire thốt lên.

“Tôi biết, thật điên rồ.” Anh nói thêm, “Tôi không thắng. Tôi đổ gục như vừa bị một hậu vệ bóng bầu dục nhà nghề đốn vậy. Đấy, đại loại lả toàn chuyện điên rồ thế đấy. Cạnh tranh khốc liệt.” Anh bỗng trở nên nghiêm nghị. “Nhưng chúng tôi làm rất tốt công việc của mình. Mà công việc thì đâu có dễ dàng. Những gì không ai muốn làm thì chúng tôi làm. Phương châm chính thức của chúng tôi là “Cứu mạng người dân!” Và cơ bản chúng tôi vẫn thành công. Chúng tôi phải suy nghĩ và lường trước mọi khả năng, nhưng lúc nào cũng có vô số khả năng sai sót. Và việc chúng tôi thành công hay thất bại nhiều lúc lại phụ thuộc vào một sợi dây xích hoặc một cánh cửa chẳng biết ở đâu ra khi chúng tôi đột nhập vào trong, rồi thì rẽ trái hay rẽ phải, bắn hay không bắn. Mà thời buổi này bọn tội phạm ngày càng quỷ quyệt, lúc nào chúng cũng sẵn sàng bắn tung óc bọn tôi. Ai cũng kêu ca, kiện tụng, các đặc vụ FBI thì rụng như sung. Có lẽ nếu tôi xin ra sau vụ Waco thì cuộc đời tôi đã khác đi rất nhiều.”

“Vậy sao anh không xin rút?”

“Vì tôi có rất nhiều kỹ năng đặc biệt mà tôi có thể sử dụng để bảo vệ những người dân vô tội. Để bảo vệ lợi ích của đất nước này khỏi những kẻ muốn phá hoại.”

“Nghe có vẻ rất yêu nước. Nhưng người hoài nghi chắc sẽ cười nhạo anh vì ý nghĩ đó đấy.”

Web trừng trừng nhìn cô hồi lâu trước khi trả lời. Đã có bao nhiêu vị học giả trên ti vi phải trải qua cảnh bị một khẩu súng săn cưa nòng gí sát mũi trong khi một thằng điên rác rưởi hoặc một tên cướp đang phê thuốc đặt tay trên cò súng, quyết định có nên kết liễu cái mạng của họ hay không? Hay phải chờ đợi giữa một chốn khỉ ho cò gáy nào đó của nước Mỹ, bên trong là một kẻ bệnh hoạn mạo danh Chúa khăng khăng nói rằng hắn tìm thấy trong Kinh thánh những dòng cho phép hắn lạm dụng tình dục những em bé vô tội, và rồi trong một cơn cuồng loạn hắn quyết định chấm dứt những giây phút nổi tiếng trên truyền hình của mình bằng cách cho nổ một quả bom và cướp đi sinh mạng của những đứa trẻ mà hắn đã lạm dụng? Nếu có ai đó nghi ngờ động cơ và phương pháp của chúng tôi, sao họ không tự đi mà làm lấy? Chỉ hai giây là họ đi đời. Họ trông chờ sự hoàn hảo ở những người tốt trong một thế giới mà điều hoàn hảo chẳng bao giờ tồn tại. Và những kẻ xấu thì đã kịp cướp đi mạng sống của hàng nghìn đứa trẻ, vậy mà cô vẫn để nguyên cho chúng có cơ hội thuê luật sư làm um lên chỉ vì cô làm xước móng tay bọn khốn nạn đó khi bắt chúng. Bây giờ thì các quan chức cao cấp trong Cục thường xuyên mắc sai lầm khi ra mệnh lệnh và nhiều người trong số họ không nên được giao công việc họ đang làm vì phải nói thẳng là họ chẳng hề có năng lực. Tôi không tham gia vụ Ruby Rigde ([25]), nhưng phải nói đó là một thảm họa ngay từ phút đầu tiên và phải chịu trách nhiệm cho cái chết của những người vô tội chính là FBI. Nhưng cơ bản vẫn là những người như tôi, những người nhận lệnh để hành động, phải dựa vào bản năng và kinh nghiệm của mình để sẵn sàng liều mạng cho những gì họ tin là đúng đắn. Vậy mà đổi lại, chúng tôi chỉ nhận được những lời xỉ vả và chê trách. Thế giới của tôi là thế đấy, bác sĩ Daniels ạ. Xin chào mừng cô đã đến với địa ngục trần gian.”

Web hít thật sâu, người anh bắt đầu run lên bần bật. Anh nhìn Claire đang sững sờ trước thái độ có phần hơi hung hăng của mình. “Xin lỗi.” anh khẽ nói. “Tôi thường bị kích động khi nói đến những vấn đề như thế này.”

Claire cũng nói với vẻ hối hận, “Tôi nghĩ chính tôi mới phải xin lỗi anh. Tôi chắc là nhiều khi anh thấy công việc của mình thật là bạc bẽo.”

“Quả thật ngay lúc này đây thì tôi thấy đúng là thế.”

“Hãy kể cho tôi nghe về gia đình anh đi,” cô nói sau vài giây hai người cùng im lặng một cách ngượng ngập.

Web ngồi ngả người lại và vòng hai tay ra sau gáy, anh lại phải áp dụng kỹ thuật thở nhanh để bình tĩnh lại. Sáu mươi tư lần một phút. Web , ạ đó là tất cả những gì mày cần. Sáu mươi tư lần một phút, có khó gì đâu? Anh cúi người về trước. “Được chứ. Không vấn đề gì. Tôi là con một. Tôi sinh ra ở bang Georgia. Chúng tôi chuyển đến Virginia năm tôi lên sáu.”

“Chúng tôi ở đây là những ai? Cả anh và bố mẹ anh à?”

Web lắc đầu, “Không, chỉ tôi và mẹ tôi thôi.”

“Thế bố anh đâu?”

“Ông ấy không đi cùng. Chính phủ muốn giữ ông ấy lại một thời gian.”

“Ông ấy làm việc cho chính phủ à?”

“Nói vậy cũng không sai. Ông ấy ở trong tù.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Tôi không biết.”

“Anh không tò mò muốn biết à?”

“Nếu tôi muốn thì chắc chắn tôi đã biết rồi.”

“Thôi được. Vậy là anh đến Virginia. Sau đó thì sao?”

“Mẹ tôi tái hôn.”

“Quan hệ của anh với cha dượng thế nào?” Claire không nói gì, rõ ràng là cô chờ đợi anh tiếp tục. Nhưng chờ mãi không thấy anh nói gì thêm, cô bèn lên tiếng, “Hãy cho tôi biết về quan hệ của anh với mẹ.”

“Bà ấy đã mất được chín tháng nay rồi, nên chúng tôi chẳng có quan hệ gì hết.”

“Nguyên nhân cái chết của bà ấy là gì?” Cô nói thêm, nếu anh không thấy phiền vì tôi hỏi như vậy.”

“Chữ B lớn.”

Claire tỏ ra không hiểu. “Anh định nói là chữ C([26]) lớn à?

“Không, đúng là chữ B ([27]) lớn.”

“Anh nói là anh vào FBI trong một cơn bốc đồng. Anh có nghĩ đằng sau đó còn nguyên nhân nào khác nữa không?”

Web liếc nhìn cô, “Ý cô muốn hỏi là có phải tôi trở thành cớm vì bố đẻ của tôi là một tên tù?”

Claire mỉm cười. “Anh quá biết trò này rồi.”

“Tôi không hiểu tại sao tôi còn sống, Claire.” Web khẽ nói. quả thật là lẽ ra tôi phải chết cùng cả đội rồi. Điều đó làm tôi phát điên mất. Tôi đâu có muốn làm kẻ duy nhất còn sống sót.”

Nụ cười trên môi Claire vụt tắt. “Nghe thực sự nghiêm trọng đây. Chung ta hãy nói về chuyện đó nhé.”

Web đan xoắn hai tay vào nhau. Rồi anh đứng dậy và nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ. “Tất cả sẽ hoàn toàn tuyệt mật, đúng không?

“Vâng,” Claire nói. “Tuyệt đối.”

Anh ngồi xuống. “Tôi vào trong con hẻm. Tôi đang đi cùng với cả đội, chúng tôi đã gần đến điểm tấn công và rồi…và rồi…” Anh bỗng im bặt. “Và rồi tôi, mẹ kiếp, tôi cứng đờ người. Tôi không sao cử động được. Tôi không biết có chuyện quái quỷ gì đã xảy ra nữa. Cả đội của tôi bước vào trong mảnh sân còn tôi cứ đứng trơ ra. Cuối cùng tôi cũng nhúc nhắc được, nhưng dường như hai chân tôi được đổ bằng chì nặng trịch. Và tôi ngã sấp xuống, bởi vì tôi không sao giữ được thăng bằng nữa. Tôi ngã sấp xuống đất. Và rồi...” Anh ngừng lại. Một tay đưa lên bưng mặt, không phải phía mặt bị thương trước kia, bàn tay vò chặt lên mặt, như thể anh muốn ngăn những ý nghĩ chỉ chực trào ra…Và rồi những khẩu súng máy bắt đầu nhả đạn. Và tôi vẫn sống. Tôi sống, còn cả đội của tôi thì không.” Cây bút nằm yên trong tay Claire, cô lặng lẽ nhìn anh.

“Được rồi, Web, anh phải nói hết ra.”

“Tất cả chỉ có thế thôi. Tôi còn biết nói thêm cái chết tiệt gì được nữa? Tôi đã hoảng sợ. Tôi là một thằng hèn nhát khốn nạn!”

Cô nói rất bình tĩnh và rõ ràng, “Web, tôi biết đây là việc cực kỳ khó khăn, nhưng tôi muốn anh nói lại tất cả những chi tiết chính xác nhất dẫn đến việc anh bị 'đông cứng', như anh nói đấy. Càng chính xác càng tốt. Có thể sẽ rất quan trọng.”

Web thuật lại cho cô nghe tất cả những chi tiết; bắt đầu từ khoảnh khắc cửa chiếc Chevy Suburban bật mở cho đến lúc anh bị cứng đờ người, lúc anh nằm yên nhìn đồng đội của mình chết. Khi kể lại xong, Web hoàn toàn chết lặng, tê tái, như thể anh đã vắt kiệt cả linh hồn mình cho câu chuyện thương tâm đó.

“Chắc chắn anh đã cảm thấy như hoàn toàn tê liệt,” cô nói. Tôi đang tự hỏi không biết anh có cảm thấy triệu chứng ban đầu nào không trước khi nó khống chế anh hoàn toàn. Biểu hiện nào đó giống như thay đổi nhịp tim đột ngột, thở gấp, cảm giác hốt hoảng, toát mồ hôi lạnh, miệng khô đắng?”

Web suy nghĩ về những gợi ý của Claire trong lúc anh điểm lại trong đầu tất cả những động thái mà anh đã trải qua. Anh đã định lắc đầu để trả lời là không, nhưng rồi anh lại nói, “Có một thằng bé trong con hẻm.” Anh không định tiết lộ cho Claire Daniels biết về tầm quan trọng của Kevin Westbrook trong cuộc điều tra, tuy nhiên vẫn có những điều mà anh có thể nói với cô. “Khi chúng tôi đi qua chỗ thằng bé, nó lầm bầm gì đó. Điều gì đó rất kỳ quặc. Tôi nhớ là nghe giọng nó như một ông già độc địa. Nhìn nó chắc cô cũng thấy là cuộc sống của nó không thể nói là ngọt ngào.”

“Anh không nhớ là thằng bé nói gì à?”

Web lắc đầu. “Lúc này tôi hoàn toàn chẳng nhớ gì cả, nhưng chắc chắn là điều gì đó rất kỳ quặc.”

“Nhưng điều mà nó nói đã khiến anh có cảm giác gì đó, một cảm giác vượt quá sự thương hại và thông cảm bình thường?”

“Nghe này, bác sĩ Daniels. . .”

“Xin cứ gọi tôi là Claire.”

“OK, Claire, tôi sẽ không cố làm gì để tỏ ra rằng tôi là một vị thánh. Với công việc của mình, tôi thường xuyên phải chứng kiến những điều khủng khiếp nhất trên đời. Tôi cố gắng không nghĩ gì về tất cả những chuyện khác, kiểu như số phận của bọn trẻ.”

“Hình như anh nghĩ rằng làm như thế sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến công việc của mình?”

Web liếc nhìn cô. “Cô nghĩ đó có thể là điều đã xảy ra với tôi sao? Tôi nhìn thằng bé và nó tác động đến điều gì đó trong đầu?” “Rất có thể, Web ạ. Người ta gọi đó là shell-shock ([28]), hội chứng căng thẳng hậu tổn thương với các triệu chứng như tê liệt toàn thân và một loạt những rối loạn chức năng vận động khác. Nó xuất hiện thường xuyên hơn người ta tưởng. Đây là triệu chứng thần kinh điển hình của những người tham gia chiến đấu.”

“Nhưng lúc đó đã có chuyện gì đâu. Thậm chí còn chưa có phát đạn nào.”

“Anh đã làm công việc này nhiều năm rồi, Web ạ; tất cả đều có thể đã tích tụ trong người anh và hậu quả của sự tích tụ đó sẽ bộc phát ra ngoài bất kỳ lúc nào, kể cả những thời điểm quan trọng nhất. Anh không phải người đầu tiên tham gia chiến đấu trong môi trường nguy hiểm và phải chịu loại phản ứng đó.”

“Hừ, đó là lần đầu tiên nó xảy ra với tôi,” Web cáu kỉnh nói. “Cả đội của tôi cũng đều từng trải qua tất cả những gì kinh khủng nhất, thế mà có ai bị sao đâu.”

“Mặc dù đây là lần đầu tiên nó xảy ra với anh, Web, anh phải hiểu là mỗi chúng ta đều khác nhau. Anh không thể so sánh bản thân mình với bất kỳ ai khác. Như thế không công bằng với chính anh.”

Anh chỉ thẳng một ngón tay vào mặt cô. “Để tôi cho cô biết thế nào là công bằng. Nếu công bằng thì đêm đó tôi phải hành động khác đi chứ. Lẽ ra tôi phải làm được điều gì đó, nhìn thấy gì đó để có thể báo động cho đồng đội của mình, và lẽ ra họ vẫn còn sống, tôi sẽ không còn phải ngồi đây nói chuyện với cô về việc tại sao họ lại chết.”

“Tôi hiểu là anh đang tức giận và cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng. Rõ ràng là anh đã gặp hàng trăm ví dụ chứng minh cho thực tế đó. Vấn đề ở đây là anh phải làm thế nào để chấp nhận chuyện đã xảy ra rồi.”

“Làm thế quái nào mà cô có thể chấp nhận một chuyện khủng khiếp như vậy? Không thể nào tệ hơn thế được nữa.”

“Tôi biết là mọi chuyện có vẻ vô vọng, nhưng sẽ còn tệ hơn nếu anh không thể vượt qua những vấn đề của mình và tiếp tục sống.”

“Sống ư? Ồ vâng, đúng rồi, thế ra tôi vẫn còn phải sống nốt phần đời còn lại cơ đấy. Cô có muốn đổi cho tôi không? Đảm bảo là cô sẽ có một món hời đấy.”

“Thế anh có muốn quay lại HRT không?” Cô hỏi không úp mở.

“Có”, anh bật ra ngay lập tức.

“Anh chắc chứ?”

“Hoàn toàn chắc.”

“Nếu vậy đó cũng là một mục tiêu để chúng ta phấn đấu.”

Web lần một tay lên hông và dừng lại khi chạm vào báng súng. “Cô thực sự nghĩ là có thể ư? Ý tôi là ở HRT nếu cô không mạnh mẽ cả về thể chất và tinh thần thì, chậc, coi như cô đã bị bật ra.” Bật ra khỏi nơi duy nhất mình thấy thực sự phù hợp, anh thầm nghĩ.

“Chúng ta có thể cố, Web ạ, đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm. Nhưng tôi cũng khá giỏi trong lĩnh vực của mình, tôi không tự tin quá đâu. Và tôi hứa là tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp anh. Chỉ cần có sự hợp tác của anh.”

Anh nhìn thẳng vào mắt cô, “Thì cô đã có nó rồi đấy thôi.”

“Có điều gì đặc biệt gây khó khăn cho cuộc sống của anh trong lúc này không? Một điều gì đó cực kỳ căng thẳng hơn mức bình thường ấy?”

“Cũng không có gì.”

“Anh vừa nói là mẹ anh mới mất.”

“Vâng.”

“Anh hãy kể về mối quan hệ của hai mẹ con anh đi.”

“Tôi sẵn sàng làm tất cả cho bà ấy.”

“Vậy có nghĩa là anh rất gần gũi với mẹ?”

Web ngập ngừng lâu đến nỗi cuối cùng Claire phải lên tiếng, “Web, lúc này đây điều quan trọng là anh phải nói thật.”

“Bà ấy cũng có những vấn đề của mình. Nghiện rượu chẳng hạn. Hơn nữa bà ấy căm ghét công việc của tôi.”

Ánh mắt của Claire lại dừng lại chỗ khẩu súng bên hông Web. “Bà mẹ nào chắc cũng vậy thôi. Công việc của anh nguy hiểm thế cơ mà.” Cô liếc nhìn lên mặt anh rồi lại cúi mặt xuống. Mặc dù vậy Web vẫn kịp nhận ra.

“Có thể,” anh bình thản trả lời, rồi quay phía mặt không bị thương về phía cô; đó là một hành động anh đã làm quá thường xuyên nên nhiều khi chính anh cũng không nhận ra là mình đang làm như vậy.

“Tôi tò mò chút. Anh thừa kế những gì của mẹ anh? Bà ấy có để lại cho anh cái gì mà anh thấy có ý nghĩa không?”

“Bà ấy để lại cho tôi ngôi nhà. Ý tôi là bà ấy cũng không ghi rõ là để lại nó cho tôi, vì bà ấy không có di chúc. Theo luật thì nó nghiễm nhiên thuộc về tôi.”

“Anh có định sống ở đó không?”

“Không bao giờ!”

Claire giật mình vì giọng anh hơi gay gắt.

Anh nói nhanh, nhưng với giọng đã bình tĩnh hơn, “Ý tôi là, tôi có nhà riêng rồi. Tôi không cần nhà bà ấy làm gì.”

“Tôi hiểu.” Claire ghi chép gì đó rồi nhanh chóng chuyển chủ đề.

“Không biết anh đã lập gia đình bao giờ chưa?”

Web lắc đầu. “À, chưa, ít nhất thì theo những quan niệm thông thường về hôn nhân.”

“Ý anh là gì?”

“Những người khác trong đội của tôi đều có gia đình. Qua họ, tôi có cảm giác mình có rất nhiều vợ và con.”

“Như vậy là anh rất thân với đồng đội của mình?”

“Trong nghề của chúng tôi, ai cũng phải thân nhau hết. Càng thân thiết và hiểu nhau, càng phối hợp làm việc tốt hơn, và về lâu dài đó là vấn đề sống còn. Hơn nữa, bản thân họ cũng là những con người rất tốt. Tôi thích ở bên họ.” Nói đến đây bỗng nhiên ngọn lửa trong lòng anh lại bùng lên. Web đứng bật dậy và quay người bước ra cửa.

“Anh đi đâu vậy?” Claire sững sờ gọi với theo. “Chúng ta chỉ vừa mới vừa bắt đầu. Còn rất nhiều chuyện phải giải quyết nữa mà.”

Web hơi khựng lại trước cửa. “Hôm nay tôi nói thế là quá đủ rồi. Anh bước ra và đóng cửa lại, Claire không bước ra theo. Cô đặt giấy bút xuống và lặng lẽ nhìn bóng anh vừa khuất.

CHƯƠNG 9

Trong Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Percy Bates rảo bước từ trung tâm khách tham quan lên con đường lát đá dẫn đến Nhà Custis-Lee. Sau khi tướng Robert E. Lee ([29]) quyết định ủng hộ quê hương Virginia của mình ly khai khỏi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và đồng ý trở thành người đứng đầu quân đội Miền Nam thay vì đứng dưới lá cờ Sao và Sọc lúc Nội chiến bắt đầu, chính phủ liên bang đã tịch thu ngôi nhà của ông. Giai thoại lịch sử nói rằng chính phủ Tổng thống Lincoln đã đề nghị trả lại điền trang này cho vị tướng Miền Nam ngay trong lúc chiến tranh diễn ra. Tất cả những gì ông phải làm chỉ là đến và nộp tiền thuế cũ. Đến một mình. Tất nhiên là Lee phớt lờ đề nghị của tổng thống Lincoln nên sau đó điền trang này được chuyển thành nghĩa trang danh giá nhất của nước Mỹ. Mẩu chuyện lịch sử đó lúc nào cũng làm cho Bates, vốn sinh trưởng ở bang Michigan, mỉm cười, mặc dù phải nói rằng ngôi nhà giờ đây cũng đã trở thành một nơi để tưởng nhớ tướng Lee và thường được nhắc đến với tên gọi Nhà Arlington.

Bates đến trước Nhà Arlington và phóng tầm mắt nhìn bao quát khắp nơi mà nhiều người đánh giá là phong cảnh đẹp nhất Washington và thậm chí là đẹp nhất cả nước. Từ đây, có thể thấy trọn vẹn thành phố thủ đô của nước Mỹ ngay dưới chân mình. Bates tự hỏi không biết ngày xưa viên tướng Lee già lão có nghĩ vậy mỗi buổi sáng thức dậy và đứng ở đây nhìn ra xung quanh không.

Nghĩa trang trải rộng trên một diện tích là hơn 600 mẫu Anh([30]), rải rác khắp nơi là những bia mộ giống hệt nhau bằng đá cẩm thạch trắng. Ngoài ra còn một số công trình tưởng niệm rất trang nhã dành cho những người đã khuất, do những người còn sống hoặc những người biết ơn dựng lên. Tuy nhiên điều ấn tượng nhất với tất cả mọi người mỗi khi đến thăm nơi này chính là biển mộ chí bằng đá cẩm thạch trắng rộng mênh mông, nhìn từ xa trông như mặt đất phủ tuyết trắng xóa ngay cả giữa mùa hè. Nghĩa trang Quốc gia Arlington là nơi an nghỉ cuối cùng của những người lính Mỹ hy sinh khi chiến đấu vì tổ quốc, những vị tướng năm sao, một Tổng thống bị ám sát, bảy vị Chánh án Tòa án tối cao, những nhà thám hiểm, những nhà đấu tranh vì quyền lợi thiểu số tên tuổi, và rất nhiều người khác được xem là đủ tiêu chuẩn được mai táng ở đây. Có tất cả khoảng hai trăm ngàn ngôi mộ và con số đó vẫn tăng với tốc độ mười tám ngôi mộ mới mỗi ngày.

Bates đã đến đây không biết bao nhiêu lần. Đã vài lần anh tham dự tang lễ của bạn bè và đồng nghiệp. Những lần khác anh đến với tư cách là hướng dẫn viên du lịch khi gia đình có khách đến chơi. Một trong những điều anh thích nhất ở đây là xem nghi lễ đổi gác của các quân nhân Sư đoàn ba của Lục quân Hoa Kỳ, họ có nhiệm vụ canh gác suốt ngày đêm bên cạnh mộ những Liệt sĩ Vô danh. Bates kiểm tra đồng hồ. Anh ta sẽ đến kịp nếu khẩn trương.

Khi mới bước vào khu vực những ngôi mộ, Bates có thể thấy là đám đông mỗi lúc một lớn dần, chủ yếu là khách du lịch từ nơi khác đến, lỉnh kỉnh máy ảnh và trẻ con. Người lính gác tại đây đang thực hiện nghi thức cực kỳ chuẩn xác thường ngày của mình: bước đều 21 bước, dừng lại 21 giây, đổi súng từ vai nọ sang vai kia, rồi quay lại theo con đường cũ.

Bates đã nhiều lần tự hỏi không biết khẩu súng trên vai những người lính gác có nạp đạn không. Tuy nhiên, Bates tin rằng nếu có kẻ nào định phá hoại hoặc làm vấy bẩn những ngôi mộ này, thì chắc chắn hắn sẽ nhận được sự trừng trị đích đáng ngay lập tức. Nếu có nơi nào đó đáng được gọi là thiêng liêng trên đất nước này thì phải là đây. Nghĩa trang Quốc gia Arlington có vị trí không kém gì Trân Châu Cảng.

Khi nghi thức đổi gác bắt đầu và đám đông đổ xô lại chụp ảnh. Bates liếc ngang về phía bên trái mình và bắt đầu len lỏi qua những hàng khách du lịch và xuôi xuống những bậc đá. Đổi gác là một nghi lễ rất trang nghiêm, cầu kỳ và tốn khá nhiều thời gian. Khung cảnh đó thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, nhưng không phải Percy Bates.

Anh bước xung quanh khu Hý trường Tưởng niệm (Memorial Amphitheater) rộng lớn xây sát gần khu mộ. Bates tiếp tục rảo bước ngang qua Đường Tưởng niệm và đi vòng qua Đài Tưởng niệm Tàu vũ trụ con thoi Challenger. Sau đó anh quay lại và bước vào trong Hý trường. Anh bước tới khu vực sân khấu, nơi có những hàng cột lớn, những trán tường và hàng lan can; tiến sát một bức tường, rút trong túi ra tấm bản đồ, giơ lên và chăm chú tìm kiếm.

Người đàn ông đứng khuất hẳn tầm nhìn của Bates cũng như của bất kỳ ai khác. Anh ta có một khẩu súng đeo trong bao cài bên hông, một bàn tay đặt sẵn trên báng súng ngay cả khi anh ta tiến gần đến chỗ Bates đang đứng. Anh ta đã theo dõi Bates lượn khắp nghĩa trang, để chắc chắn là người đặc vụ FBI chỉ có một mình. Anh ta tiến gần hơn.

“Cứ tưởng anh không tới cho đến khi anh ra tín hiệu cho tôi ở ngoài kia,” Bates nói. Tấm bản đồ hoàn toàn che kín mặt anh. trong trường hợp có ai đó đang theo dõi.

“Phải kiểm tra xem tình hình có bảo đảm không đã,” Randall Cove nói. Anh ta vẫn đứng ẩn mình trong một góc tường.

“Tôi đã kiểm tra kỹ là không có đuôi rồi.”

“Bất kỳ những gì chúng ta có thể làm, thế nào cũng có kẻ khác làm tốt hơn.”

“Điểm đó thì đúng là khó mà cãi được. Tại sao anh lúc nào cũng thích hẹn gặp trong nghĩa trang thế nhỉ?”

“Tôi thích không khí thanh bình và yên tĩnh. Chẳng mấy nơi nào khác có được điều đó” Cove ngừng lại rồi nói tiếp, “Tôi bị gài.”

“Tôi cũng đoán thế. Nhưng ngay lúc này tôi biết đã có sáu người chết, người thứ bảy thì là một dấu hỏi to đùng. Liệu vỏ bọc của anh có bị lộ từ bên trong không? Thay vì giết anh, có lẽ nào chúng cung cấp cho anh những tin giả để gài HRT? Tôi cần những chi tiết thật rõ ràng, Randy.”

“Chính tôi đã có mặt trong tòa nhà chết tiệt đó mà. Tôi vào trong đó với tư cách là một tay chơi tiềm năng cùng với mấy thằng đó và muốn kiểm tra hoạt động của chúng. Tôi đã nhìn thấy bàn ghế, hồ sơ, máy tính, bọn ong ve chạy lăng xăng quanh những con số, tiền mặt, hàng, khắp nơi. Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà. Tôi không bao giờ thông báo cho các anh những chuyện như vậy trừ khi tôi đã đích mục sở thị. Tôi có phải là dân mới vào nghề đâu cơ chứ.”

“Tôi biết. Nhưng lúc chúng tôi ập vào thì trong đó chẳng có gì hết. Ngoài tám khẩu súng máy bị bắn nát.”

“Đúng rồi. Bị bắn nát. Cho tôi biết về London đi. Anh có tin anh ta không?”

“Cũng nhiều như tôi tin bất kỳ ai.”

“Anh ta khai thế nào? Tại sao anh ta vẫn còn sống?”

“Tôi không cho là anh ta biết. Anh ta bảo anh ta bị cứng đờ người.”

“Mẹ kiếp, thật là đúng thời điểm quá.”

“Chính anh ta đã hạ những khẩu súng đó. Cứu cả một thằng nhóc.”

“Đó là một thằng nhóc thực sự đặc biệt đấy. Kevin Westbrook.”

“Tôi cũng biết thế.”

“Nghe này, chúng ta đã tiến hành truy lùng ngay thằng Westbrook vì các sếp ở trên nghĩ đã đến lúc hạ bệ hắn để họ có thể khoe khoang với dư luận. Nhưng càng điều tra, tôi càng nhận thấy rằng hắn chỉ là một con cá nhỏ, Perce. Hắn kiếm cũng khá nhưng cũng không phải hàng đại gia. Thằng này không bao giờ nổ súng bậy bạ, khá kín đáo.”

“Nhưng nếu không phải hắn, thì là ai?”

“Có khoảng tám tên trùm bao tiêu ma túy đường phố trong thành phố này và Westbrook chỉ là một trong số đó mà thôi. Về tổng thể bọn chúng phân phối đến cả tấn hàng này chứ không đùa. Nhưng nếu anh cứ nhân con số đó với mỗi khu vực đô thị lớn từ New York xuôi xuống Atlanta thôi thì đã thành một khối lượng khổng lồ rồi.”

“Cái gì, anh đang định nói là có một nhóm kiểm soát tất cả dòng ma túy này à? Không thể nào.”

“Không, tôi đang định nói là tôi nghĩ có một nhóm đang kiểm soát dòng vận chuyển cả Oxycontin từ các khu vực nông thôn và thành thị suốt một dải bờ biển phía Đông.”

“Oxycontin, loại thuốc bán theo đơn ấy à?”

“Chính xác. Chúng gọi nó là heroin nhà quê, vì hoạt động buôn bán trái phép loại thuốc này bắt nguồn từ vùng nông thôn. Nhưng giờ thì nó đã bắt đầu lan ra các thành phố lớn. Anh hiểu chưa. Tiền ở đó mà ra chứ đâu. Dân chơi ở vùng nông thôn quê mùa thì làm gì có nhiều tiền bằng dân chơi thành phố. Đó là một loại morphine tổng hợp dùng cho những người bị đau mãn tính hoặc ốm nặng. Dân nghiện thường nghiền nó ra thành bột để hít, hút, hoặc chích, tác dụng cũng tương tự như heroin.”

“Đúng. Chỉ khác là nó có tác dụng từ từ, vì vậy nếu anh chơi cả một viên theo cách đó mà không chú ý đến thời gian tác dụng của nó khéo mất mạng như chơi.”

“Đã có khoảng 100 người chết vì nguyên nhân này. Tác dụng của nó không mạnh bằng heroin, nhưng lại mạnh gấp đôi morphine và lại là một loại thuốc trong danh mục cho phép, do đó nhiều người tưởng rằng lạm dụng thuốc cũng không gây hại gì. Anh có thể gặp đầy người già bán lẻ từng viên trên phố để lấy tiền trang trải cho số thuốc còn lại trong đơn vì bảo hiểm của họ không thanh toán hết. Nếu không anh phải hối lộ bác sĩ để họ kê thêm thuốc, hoặc đột nhập vào các nhà thuốc và nơi ở của những bệnh nhân dùng thuốc này.”

“Tệ thật.” Bates trầm ngâm.

“Đó là lý do FBI và DEA đã triển khai lực lượng đặc nhiệm chung. Và vấn đề không chỉ là Oxycontin, mà còn cả các loại thuốc trước đây như Percocet và Percodan nữa. Dạo này chỉ cần 10 đến 15 đô là mua được một liều “Perk” ngay trên phố. Nhưng những loại này vẫn không thể sánh được với Oxycontin. Phải cần đến 16 viên Percocet mới phê bằng một viên Oxy 80mg.”

Trong suốt thời gian trò chuyện, Bates đã nhiều lần kín đáo quan sát xung quanh, để kiểm tra xem có ai đang theo dõi không, nhưng chắc chắn là không có ai. Quả thật là Cove đã chọn địa điểm liên lạc rất tốt. Bates kết luận, vì không ai có thể nhìn thấy anh, hơn nữa với cách đứng quay mặt vào tường và giơ tấm bản đồ lên, trông anh chẳng khác nào một khách du lịch bình thường đang hỏi đường.

Bates nói “Hừm, tất nhiên là chính phủ kiểm soát việc phân phối các loại thuốc gây nghiện, cho nên chỉ cần phát hiện thấy một bác sĩ và một nhà thuốc xuất ra hàng chục viên thuốc cùng loại là có dấu hiệu báo động ngay, nhưng tất nhiên là chúng hoàn toàn có thể nhập lậu hàng từ nước ngoài vào.”

“Đúng vậy.”

“Tại sao tôi lại không hề biết gì về cái vụ Oxycontin này nhỉ Randy?”

“Vì tôi cũng chỉ mới vừa phát hiện ra. Lần đầu tiên tiếp xúc, tôi không hề biết rằng tôi đang dây dưa vào một đường dây buôn bán Oxy. Tôi cứ đinh ninh đó là loại cocain hay heroin như bình thường. Nhưng rồi tôi bắt đầu mắt thấy tai nghe nhiều chuyện. Phần lớn loại ma túy này được chuyển đến trong những túi nhỏ dọc một dải Appalachia ([31]). Trước nay nó vẫn chỉ dừng lại ở quy mô buôn bán nhỏ lẻ, chủ yếu là giữa những bệnh nhân từng dùng thuốc rồi bị nghiện. Nhưng tôi bắt đầu cảm thấy có một thế lực duy nhất đang tìm cách thâu tóm tất cả những hoạt động này lại và vươn vòi ra những thành phố lớn. Anh hiểu chưa, đó là bước tiếp theo. Đây có thể là nguồn lợi cực kỳ béo bở và có kẻ đã nhận ra điều đó. Đưa nó lên đúng theo tiêu chí của một hoạt động buôn bán ma túy thực sự nhưng với mức lợi nhuận tăng gấp ba lần những gì mà các băng nhóm khác đang làm trong khi rủi ro lại thấp hơn nhiều. Chúng ta cần tìm bọn này. Đó thực sự chính là bọn mà tôi nghĩ đã hoạt động trong tòa nhà mà HRT tấn công vào. Tôi đã đinh ninh rằng chúng ta có thể đập tan đường dây đó nếu giữ trong tay bọn kế toán tay hòm chìa khóa của chúng. Hơn nữa việc chúng bố trí một dạng ngân hàng hoán đổi tiền trong lòng một thành phố lớn là điều hoàn toàn bình thường.”

“Vì nếu ở vùng nông thôn thì những hoạt động kiểu này sẽ bị lộ ngay,” Bates nói nốt ý nghĩ của anh ta.

“Anh hiểu đúng rồi. Hơn nữa chúng có động cơ cực lớn. Anh hoàn toàn có thể bán một triệu viên thuốc mỗi tuần với giá trị bán lẻ trên phố lên đến 100 triệu; hừm, anh hiểu ý tôi chứ.”

“Nhưng cho dù kẻ đang kiểm soát loại hàng này là ai chăng nữa thì chúng cũng chẳng có động cơ nào trong việc gài bẫy một đơn vị HRT. Hành động đó sẽ chỉ gây khó khăn không cần thiết cho chúng. Tại sao chúng phải làm vậy?”

“Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là những hoạt động tôi chứng kiến trong tòa nhà đó chẳng liên quan gì đến Westbrook hết. Quy mô cực lớn. Cực kỳ nhiều hoạt động, tầm của hắn không thể bao quát được. Nếu tôi mà cho rằng đó chỉ là Westbrook, chẳng bao giờ tôi phải bảo các anh huy động HRT làm gì. Nếu vậy thì có chăng chúng ta cũng chỉ tóm được con cá nhỏ, cá lớn thì nhảy ra khỏi lưới rồi. Nói đi thì phải nói lại, đúng là Westbrook đang phân phối loại hàng đó ở D.C, cùng với những băng nhóm khác. Nhưng bằng chứng cụ thể thì tôi chưa có. Thằng này khôn như ma và biết rất nhiều.”

“Ừ, nhưng anh đã tiếp cận được với một thằng trong băng của hắn còn gì. Cực kỳ giá trị đấy.”

“Đúng vậy, nhưng trong công việc mà tôi đang làm hôm nay mà hớt lẻo ngày mai sẽ chết lả chuyện thường tình.”

“Vậy là có kẻ thực sự dựng lên cả một sân khấu hoành tráng là cái nhà kho đó để chứng tỏ chúng có một đường dây ma túy khổng lồ. Anh có biết gì không?”

“Không. Sau khi chuyển tin đó cho các anh và vụ tấn công được ấn định thì chắc kẻ chơi tôi cũng đã quyết định là không cần thằng Randall Cove già nua này nữa. Tôi nghĩ là tôi đã quá may khi còn sống. Perce. Đúng ra tôi đang tự hỏi tại sao tôi còn sống.”

“Web London cũng vậy. Tôi cho là sau một vụ thảm sát thì những chuyện như thế cũng dễ hiểu.”

“'Không, ý tôi là đã có kẻ thực sự tìm cách loại tôi sau vụ tấn công của HRT. Tôi mất toi chiếc Bucar và rạn mất vài chiếc xương sườn.”

“Lạy Chúa, sao anh không thông báo gì cho chúng tôi? Anh phái vào trong Cục thôi, Randy. Phải trình bày lại toàn bộ sự việc để chúng tôi tiến hành điều tra.” Bates lại nhìn xung quanh. Câu chuyện đang kéo dài quá lâu. Anh sẽ phải rảo bước thôi. Không thể cứ đứng mãi một chỗ với cái bản đồ Nghĩa trang nếu không muốn tạo sự nghi ngờ. Nhưng anh không muốn đi mà không có Randall Cove.

“Đừng hòng bắt tôi làm như thế, Perce,” Cove gằn giọng trả lời làm Bates bất giác phải hạ tấm bản đồ xuống. “Tôi không làm thế đâu, vì tôi biết vụ này có dính dáng rất sâu.”

“Chính xác thì ý anh là sao?” Bates hỏi, giọng anh tỏ ra hơi cáu kỉnh.

“Ý tôi là vụ này bắt đầu từ bên trong và tôi sẽ không liều giao phó mạng mình vào tay người khác trừ khi tôi biết chắc không có chuyện gì.”

“Đây là FBI, Randy, có phải KGB đâu.”

“Có thể là thế với anh. Lúc nào anh cũng là người bên trong, Perce. Còn tôi tôi gần như là người ngoài. Bây giờ tôi vào trong mà không biết chuyện gì đã xảy ra, thế rồi đột nhiên họ không bao giờ tìm thấy tôi nữa thì sao. Tôi biết thừa là đầy kẻ trong Cục nghi tôi đứng sau chuyện của HRT”

“Đúng là điên.”

“Thì cũng điên như vụ sáu anh chàng xấu số kia bỏ mạng chứ gì? Nếu không có thông tin của tôi thì làm sao họ phải chết?”

“Chuyện không may như vậy vẫn xảy ra trong công việc của chúng ta mà.”

“Ok, vậy là anh đang nói với tôi rằng anh không nhận ra chuyện gì đáng ngờ đây à? Những điệp vụ thất bại thảm hại, năm ngoái thì có hai đặc vụ chìm bị giết, những đội đột kích của Cục đến hiện trường thì hầu như chẳng còn ma nào ở lại, dân buôn ma túy đã cao chạy xa bay vì có người đánh động cho chúng. Tôi cam đoan là trong Cục có một con chuột thối tha cỡ bự đang bán rẻ mạng sống của nhiều đồng đội, trong đó có cả cái mạng của tôi đây này!”

“Đừng có mà vẽ lên những giả thuyết âm mưu hoang tưởng ấy với tôi, Randy.” Giọng Cove trở nên bình tĩnh hơn. “Tôi muốn đến để anh biết rằng tôi không hề liên quan đến vụ này. Anh cứ tin lời tôi vì ngay lúc này tôi cũng không thể chứng tỏ gì hơn được. Hy vọng là sau này sẽ có.”

“Vậy là anh đang có dự định nào đó phải không?” Bates gặng hỏi. “Nghe này, Randy, được rồi, tôi tin anh, nhưng tôi còn phải trả lời câu hỏi trước nhiều người khác. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh, quá nhiều chuyện tồi tệ đã xảy ra, và chúng tôi đang cố xác định nguồn tin rò rỉ, nhưng anh cũng phải hiểu cho nỗi lo lắng của tôi chứ.” Anh ngừng lại. “Mẹ kiếp. Thôi được rồi, tôi sẽ làm tất cả để cam đoan với anh rằng nếu anh quay vào Cục, tôi sẽ canh chừng cho anh như chăm bố tôi trên giường bệnh, được chưa? Hy vọng là anh cảm thấy có thể tin tôi sau tất cả những gì chúng ta đã cùng trải qua. Tôi đã phải gánh đòn cho anh nhiều rồi.” Không thấy Cove trả lời. “Được rồi, Randy, hãy cho tôi biết anh cần gì thì mới quay vào Cục và tôi sẽ xem tôi có thể làm gì cho anh.” Vẫn không thấy động tĩnh gì. Bates lầm bầm chửi và lao vọt qua bức tường. Qua khoảng trống anh nhìn thấy cánh cửa dẫn qua bên kia. Anh chạy lại, nhưng cửa đã bị khóa. Anh chạy lại, vòng quanh Hý trường và lao ra ngoài. Nghi lễ đổi gác đã xong và đám đông đã tản bớt ra khắp những lối đi và các khu mộ lớn. Bates đảo mắt nhìn khắp xung quanh, anh biết đã để mất dấu Randall Cove. Dù có vóc người khổng lồ, Cove đã có quá nhiều năm kinh nghiệm để học cách hòa lẫn vào bất kỳ khung cảnh nào.

Bates chỉ kịp nhớ láng máng là anh ta ăn mặc như một người trông coi nghĩa trang hay khách du lịch gì đó. Bates ném tấm bản đồ vào thùng rác và uể oải bỏ đi.

CHƯƠNG 10

Khu vực mà Web đang lái xe qua trông giống hệt như phần lớn các khu vực khác trong vùng. Những ngôi nhà khiêm nhường xây từ sau Chiến tranh thế giới 2 trông vuông chằn chặn, những lối đi rải sỏi, mái hiên lợp tôn kẽm. Những vườn trước nhà bé tí, nhưng đằng sau lại có những khoảng không khá rộng rãi để gara và nơi hóng mát, nướng thịt ngoài trời dưới tán lá yên ả của những cây táo thân xù xì, cổ thụ. Đây là khu vực của những gia đình công nhân, những người vẫn luôn tự hào về ngôi nhà của mình và chẳng bao giờ dám coi chuyện con cái phải vào đại học là chuyện đương nhiên. Hôm nay, cánh đàn ông đang túm tụm bàn cãi quanh những chiếc xe cũ kỹ trong những chiếc gara râm mát. Phụ nữ tụ tập ngồi trước hiên nhà uống cà phê, hút thuốc và buôn chuyện dưới ánh nắng khá gay gắt vào thời điểm này trong năm, bầu trời trong vắt sau khi cơn bão cuối cùng đã tan đi. Những đứa trẻ mặc quần soóc và đi giày bata đuổi nhau chí chóe trên những chiếc xe máy đồ chơi mà chúng phải lấy chân để đẩy đi.

Khi tấp xe lại trước cửa nhà của Paul Romano, Web nhìn thấy Paulie - như mọi người vẫn gọi gã - đang hý hoáy làm gì đó dưới nắp capô của một chiếc Corvette Stinggray Vintage vốn là niềm vui và tự hào vô bờ bến của gã, ngay cả vợ và con gã cũng còn phải xếp sau. Xuất thân từ Brooklyn, Paul Romano là mẫu người lúc nào “tay chân cũng dính đầy dầu mỡ”, rất phù hợp với một khu dân cư như thế này, cùng với những người dân làm nghề thợ cơ khí, thợ điện, tài xế xe tải đường dài, vân vân . . . Sự khác biệt duy nhất là Romano có thể giết bạn bằng hàng trăm cách khác nhau nếu gã muốn và thật khốn nạn là bạn chẳng thể làm gì được. Paul Romano là loại người thích trò chuyện và cưng nựng những khẩu súng của mình, thậm chí còn đặt tên cho chúng như những con thú cưng. Khẩu MP-5 của gã tên là Freddy, giống như nhân vật Freddy trong phim Ác mộng trên phố Elm, còn hai khẩu súng ngắn 0.45 là Cuff và Link, giống tên của hai chú rùa trong phim Rocky. Quả thực là khó tin, nhưng Paul Romano sinh trưởng từ khu Brooklyn, lại là một fan cực kỳ nhiệt thành của ngôi sao điện ảnh Sylvester Stallone - mặc dù lúc nào gã cũng chê bai rằng cái “thằng cha nhân vật Rambo ấy chỉ là đồ chết nhát.”

Romano ngước lên với vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Web bước tới và nhìn vào trong ruột gan của chiếc Corvette màu xanh nước biển có mui trần mềm bằng vải bạt trắng. Web biết chiếc xe thuộc mẫu 1966, năm đầu tiên hãng sản xuất bắt đầu sử dụng loại động cơ có dung tích 1100cc với 450 sức ngựa, bởi vì Romano đã kể cho anh và những người khác trong HRT cả nghìn lần rồi. “Hộp số bốn tốc độ, điều khiển bằng tay. Tốc độ tối đa 165 dặm một giờ. Cho tất cả xe cộ trên đường hít khói hết.” Gã cứ lải nhải đến nỗi Web phát ớn. “Xe tuần tra của cảnh sát, xe đua của dân chơi cho đến các loại xe giẻ rách, mẹ kiếp, cứ là phải gọi bằng cụ.”

Nhiều lần Web đã tự hỏi không biết sẽ như thế nào khi được là một thằng nhóc cùng với bố mình miệt mài tập vặn cờ lê, tháo xe ra rồi lại lắp vào trước cửa giữa. Được học hỏi ông già thế nào là chế hòa khí, thể thao, phụ nữ, tất cả những điều khiến cuộc sống này trở nên đáng sống thật sự. Kiểu như, bố này, bố biết đấy, cô ta đứng ngay bên cạnh bố và bố đang tự hỏi, mình có nên choàng tay quanh người cô nàng không nhỉ, hay là mình thử đặt tay vào kia xem thế nào? Đúng, chỗ đó đó, bố, giúp con đi, ngày xưa bố cũng từng trẻ như con còn gì? Đừng có nói dối là ngày trước bố không bao giờ nghĩ đến những chuyện “bậy bạ”“ đó, vì nếu thế thì làm gì còn có con đứng đây, đúng không bố? Con có nên hôn cô ấy không? Phải tìm kiếm những dấu hiệu nào chứ? Bố, bố không tin đâu, nhưng thật không thể hiểu nổi bọn con gái điên rồ. Không biết khi họ già đi thì có dễ chịu hơn không? Và ông già sẽ nháy mắt, mỉm cười thông cảm, ực một ngụm bia, rít một hơi Malboro thật dài rồi ngồi xuống, chùi tạm hai bàn tay xù xì của mình vào một miếng giẻ, rồi mới trả lời, Được rồi, nghe này, con trai, con phải làm thế này nhé. Bố sẽ nói hết và con phải ghi lại cho đầy đủ, vì đó chính là Kinh thánh đấy, con trai ạ. Nhìn chăm chăm vào khoang động cơ của chiếc Corvette, Web tự hỏi không biết cảm giác khi hai cha con trao đổi kinh nghiệm sẽ như thế nào.

Romano chằm chằm nhìn Web và không đả động gì đến loại động cơ 450 Big Bloc có thể cho các “loại xe giẻ rách trên đường phố hít khói”. Tất cả những gì gã phọt ra là, “Bia trong hộp đá. Tự lấy một lon. Và đừng tự nhiên như ở nhà.”

Web thò tay vào trong thùng đá hiệu Coleman vứt dưới chân, mở một lon bia Budweiser, tuy nhiên anh không quên để lại tờ một đôla. “Cậu biết không, Paulie, không chỉ có Budweiser thôi đâu. Có nhiều loại bia Nam Mỹ rất phê mà cậu nên thử.”

“Được thôi, bằng lương của tôi à?”

“Chúng ta kiếm được như nhau mà.”

“Tôi có vợ và con, anh thì chẳng có đếch gì hết.” Romano xiết thêm vài vòng ốc với cái cờ lê rồi bước qua mặt Web để khởi động động cơ. Cỗ máy nổ nghe giòn tan như chỉ chực phá tung cái khung thép mỏng mảnh bên ngoài.

“Nghe êm như tiếng mèo con rên ấy,” Web vừa nói vừa nhấp một ngụm bia.

“Mẹ kiếp, nó gầm như hổ chứ.”

“Nói chuyện một lúc được không? Có vài câu hỏi.”

“Anh và tất cả mọi người khác. Được rồi, nói đi. Cứ như tôi có sẵn thời gian cho cả thế giới ấy. Mẹ kiếp, ngày nghỉ mà tôi cũng không được làm những gì mình muốn à? Thế anh cần gì? Mấy cái tất chân à? Để tôi hỏi vợ tôi.”

“Anh biết là tôi sẽ rất biết ơn nếu anh thôi mang tên tôi ra mà dè bỉu với tất cả mọi người ở Quantico.”

“Còn tôi cũng sẽ biết ơn nếu anh đừng có mà ra lệnh cho tôi. Đằng nào đã thế thì, cút ngay ra khỏi nhà tôi. Không phải hạng người nào tôi cũng giao du.”

“Chỉ nói chuyện một lát thôi, Paulie. Anh nợ tôi điều đó.”

Romano chỉ thẳng chiếc cờ lê vào mặt Web. “Tôi đếch nợ anh gì hết, London.”

“Sau tám năm làm cái nghề bạc bẽo này, tôi nghĩ cả hai chúng ta đều nợ nhau nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể trả lại.”

Hai người gườm gườm nhìn nhau, cuối cùng Romano cũng hạ chiếc cờ lê xuống, lau tay, tắt con hổ đang gầm của gã và quay người về phía vườn sau. Web coi đó là một lời mời bước theo. Tuy nhiên, trong anh vẫn có cảm giác là Romano đang vào gara tìm chiếc cờ lê nặng hơn để đánh anh cho đã.

Ở sân sau, cỏ được cắt ngắn, cây cối được xén tỉa gọn gàng, một khóm hoa hồng nở rộ ở bên cạnh giữa. Nhiệt độ ngoài trước chắc phải lên đến gần 27 độ C, không khí thật sảng khoái và trong trẻo sau cơn mưa.

Họ kéo ra hai chiếc ghế hóng mát và ngồi xuống. Web nhìn Angie vợ Romano, đang mắc quần áo lên dây phơi. Cô ta là người sinh trưởng ở vùng Mississippi. Vợ chồng Romano có hai con; hai thằng nhóc. Angie xinh xắn, nhỏ nhắn, những lọn tóc vàng óng vẫn còn lượn sóng như hồi con gái, cặp mắt xanh quyến rũ đến mê hồn và ánh nhìn lúc nào cũng như mời mọc, khiêu gợi. Lúc nào cô ta cũng làm cho bạn có cảm giác đang được tán tỉnh ve vãn, hết chạm vào tay lại cọ chân, luôn miệng khen bạn dễ thương, nhưng thật ra thì đó cũng chỉ là những cử chỉ thơm môi thơm miệng, hoàn toàn không có ý gì. Nhiều lúc điều đó cũng làm Romano phát điên, nhưng Web biết là gã rất thích thú khi thấy những anh chàng khác bị vợ mình hút hồn. Nhưng đó mới chỉ là một phần những gì khiến Romano phải đau đầu. Nhất là khi Angie Romano mà nổi điên thì bạn nên cẩn thận là hơn. Web cũng đã chứng kiến cả mặt đó của cô ta tại một số buổi họp mặt của HRT; người phụ nữ nhỏ nhắn này có thể trở thành một mụ phù thủy đanh ác trong chớp mắt - cô ta khiến cho cả những anh chàng kiêu ngạo nhất chuyên kiếm sống bằng cái nghề súng đạn của mình cũng phải khiếp đảm lảng đi chỗ khác một khi cô ta đã giương vuốt lên.

Bây giờ thì Paul Romano là một lính đột kích. Nhưng gã và Web đã gia nhập HRT từ cùng một lớp và đã từng được phân công làm xạ thủ bắn tỉa cùng nhau suốt ba năm. Romano đã tham gia lực lượng đặc nhiệm Delta trước khi tham gia FBI. Mặc dù Romano cũng có vóc người giống như Web, nghĩa là không phải dạng vai u thịt bắp, nhưng những cơ bắp mà gã có thì đúng là chắc như dây cáp. Bạn không thể nào bẻ gẫy chúng được, và gã thì lì lợm như một chiếc xe ủi. Cho dù đối phương có trút tất cả vào Romano, gã cũng không bao giờ dừng lại. Có lần, trong một trận đột kích ban đêm vào sào huyệt của một tay trùm ma túy vùng Caribê, chiếc xuồng chở đội đột kích đã thả Romano xuống cách bờ quá xa. Còn gã, mang trên người gần 30kg vũ khí và trang bị, đã nhảy xuống nước với độ sâu năm mét. Thay vì chết đuối như người khác, gã chìm xuống tận đáy, đứng thẳng, không hiểu sao vẫn xác định được phương hướng, nín thở một mạch liền bốn phút và bước thẳng vào bờ, tham gia cuộc tấn công. Vì bị mất tín hiệu liên lạc với đồng đội nên gã lại vào nhầm chỗ. Nhưng cuối cùng chính vì thế mà gã lại tóm được tay trùm kia sau khi hạ hai tên vệ sĩ của hắn. Vậy mà điều duy nhất Romano càu nhàu sau đó chỉ là việc gã bị ướt tóc và đánh rơi mất khẩu súng ngắn tên là Cuff.

Khắp người Romano chi chít những hình xăm, nào rồng phượng, nào đao súng và rắn, và còn cả một dòng chữ ANGIE nhỏ nhắn lồng trong trái tim trên bắp tay trái. Web đã gặp Romano ngay trong ngày đầu tiên của lớp tuyển chọn HRT năm đó, khi hầu hết các ứng viên đều đang đứng trần truồng và căng thẳng, lo lắng chờ đợi những thử thách kinh hoàng mà họ biết đang chờ phía trước. Web đã lần lượt quan sát tất cả những anh chàng đó, tìm kiếm những vết sẹo trên đầu gối và vai - bằng chứng của những điểm yếu về thể chất, hoặc những vẻ mặt thể hiện bản lĩnh tâm lý kém cỏi.

Đây là một cuộc tuyển chọn khốc liệt, mang tính cạnh tranh sống còn đến mức điên rồ, và Web phải tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu có thế giúp anh có lợi thế so với các đối thủ. Web biết sẽ chỉ có một nửa trong số họ vượt qua được đợt thử thách đầu tiên sau hai tuần nữa, và sẽ chỉ có một phần mười số còn lại nhận được đề nghị quay lại nhận lấy công việc khổ ải này.

Romano đến đây từ đội SWAT của Văn phòng FBI tại thành phố New York. Ở đó gã đã khét tiếng là một người cực kỳ đáng sợ giữa môi trường toàn những tay ghê gớm như thế. Trông gã chẳng có chút gì là e dè khi đứng trong phòng với bảy mươi tay đàn ông khác đã bị lột trần truồng trong ngày tuyển chọn đầu tiên của HRT hôm đó. Web có cảm giác Romano trông như một người thích thú với sự đau đớn, gã đang ngứa ngáy muốn được HRT thử hết các ngón nghề hành hạ ra với mình. Và anh cũng là loại người có thể làm người khác đau như vậy. Ngay từ lúc đó Web cũng không dám chắc là anh có được chọn vào HRT hay không nhưng chỉ nhìn qua Romano là anh đã biết rằng gã sẽ trúng tuyển. Hai người vẫn luôn ganh đua nhau không ngừng nghỉ, và nhiều khi gã khiến Web cũng phải phát điên, nhưng dù sao anh cũng phải khâm phục lòng can đảm và năng lực của gã.

“Anh bảo anh muốn nói chuyện, vậy thì nói đi,” Romano lạnh lùng nói.

“Kevin Westbrook. Thằng nhóc trong hẻm.”

Romano gật đầu sau khi tu ực một ngụm bia. “OK”

“Nó mất tích rồi.”

“Anh nói cái quái gì vậy?”

“Cậu có biết Bates không? Percy Bates ấy?”

“Không! Biết để làm gì?”

“Anh ta phụ trách cuộc điều tra của WFO. Ken McCarthy cho tôi biết là cậu và Mickey Cortez đã ở cùng Kevin. Cậu có thể nói gì với tôi đây?”

“Chẳng có gì nhiều.”

“Thằng bé nói gì?”

“Không gì hết.”

“Vậy các cậu đã bàn giao nó cho ai?”

“Mấy thằng cha mặc complet gì đó.”

“Cậu có biết tên những người đó không?”

Lắc đầu.

“Này, Paulie, cậu có biết sự khác biệt giữa nói chuyện với cậu và nói chuyện với một bức tường không?”

“Khác gì?”

“Chẳng khác đếch gì hết.”

“Anh muốn tôi phải nói gì đây, Web? Tôi nhìn thấy thằng nhóc, tôi canh chúng nó và sau đó nó biến mất.”

“Cậu nói là nó không hề nói gì với cậu?”

“Thằng đó lì lợm. Nó cho chúng tôi biết tên và địa chỉ nhà. Chúng tôi đã ghi lại. Mickey cố tìm cách hỏi chuyện thêm, nhưng không ăn thua. Mẹ kiếp, Cortez thì đến nói chuyện với con mình hắn còn không biết cách nữa là. Vả lại chúng tôi cũng đâu hay biết vai trò của thằng nhóc đó trong chuyện này như thế nào. Tôi muốn nói là bọn tôi chạy hộc tốc vào trong sân thì thấy phát pháo sáng của anh nên dừng lại. Sau đó thằng nhóc này từ bóng tối đi ra với cái mũ và mẩu giấy của anh. Tôi thậm chí còn không chắc nó có cùng phe với mình không nữa. Tôi chẳng dại gì mà dính dáng đến vấn đề pháp lý nếu tôi hỏi nó những câu không thuộc thẩm quyền của mình.”

“OK, vậy là cậu rất khôn ngoan đấy. Nhưng cậu lại giao nó cho những nhân viên của Cục mà không hỏi một lời nào là sao? Tại sao lại có thể có chuyện quái quỷ thế?”

“Họ đã chìa cho tôi xem phù hiệu, họ bảo họ đến vì thằng bé thế là đủ rồi còn gì. Chúng tôi chẳng có thẩm quyền gì mà từ chối cả. HRT có phụ trách điều tra đâu nào, Web, chúng ta chỉ pằng pằng thôi. Cánh mặc complet mới lo việc dò xét đó. Hơn nữa khi đó tôi còn nhiều việc phải nghĩ tới. Anh biết tôi và Teddy Riner đã tham gia Delta cùng nhau.”

“Tôi biết, Paulie, tôi biết rồi. Vậy khi đó là khoảng mấy giờ. lúc các nhân viên kia xuất hiện?”

Romano cố nhớ lại. “Chúng tôi cũng không ở đó lâu lắm. Khi ấy trời vẫn tối om. Có lẽ khoảng hai giờ rưỡi gì đó.”

“Có vẻ như WFO làm việc cực kỳ hiệu quả khi có thể chuyển lệnh và phái nhân viên đến thẩm vấn thằng bé trong thời gian ngắn kỷ lục như vậy.”

“Vậy anh muốn tôi phải nói gì với họ cơ chứ? Này, các anh kia, các anh không thể đưa thằng nhóc đi được đâu, các anh làm ăn hiệu quả quá; FBI đâu có làm ăn được như vậy? Trời ạ, nói thế chắc sự nghiệp của tôi đi tong rồi. Nói xong câu đó chắc tôi chỉ còn nước bỏ việc về đi ăn mày cho xong.”

“Những nhân viên mặc thường phục ấy, anh có thể miêu tả nhân dạng của họ được không?”

Romano lại suy nghĩ một lúc. “Tôi đã khai tất cả với các đặc vụ điều tra rồi.”

“Cũng lại là một lũ nhân viên thường phục khác. Vậy thì anh cứ kể lại cho tôi nghe đi, có hại gì cho anh đâu nào. Cứ tin tôi.”

“Hừ, đúng rồi. Nếu tôi mà ngốc đến nỗi tin anh thì có mà trời sập mất.”

“Thôi nào, Paulie, đây là giữa hai đặc nhiệm đột kích với nhau. Giữa đội Hotel và những gì còn lại của đội Charlie.”

Romano suy nghĩ hồi lâu rồi hắng giọng. “Một người trong đó là người da trắng. Thấp hơn tôi một chút, gầy nhưng chắc lẳn. Thế đã đủ chưa?”

“Chưa. Tóc tai thế nào?”

“Húi cua, màu vàng hoe - mẹ kiếp hắn là nhân viên của Cục mà, còn thế nào nữa chứ? Anh tưởng J. Edgar ([32]) để tóc đuôi ngựa chắc?”

“Khối người vẫn nói thế mà. Tóc thế được rồi, còn quần áo? Tuổi tác thế nào, già hay trẻ?”

“Khoảng ngoài ba mươi. Cũng mặc complet kiểu đồng phục của Cục, nhưng là hàng may đo rất sành điệu. Đẹp và đắt hơn bất kỳ thứ gì anh có trong tủ quần áo nhà mình đấy, London.”

“Mắt?”

“Anh ta mang kính râm.”

“Vào lúc hai rưỡi sáng à?”

“Hừm, có thể đó là kính đổi màu. Mẹ kiếp, tôi việc quái gì mà phải đi thẩm vấn thằng cha đó về việc hắn đeo kính gì.”

“Cậu nhớ tất cả những chi tiết đó, vậy mà không nhớ nổi tên anh ta à?”

“Hắn chỉ chìa phù hiệu ra và tôi cũng chỉ liếc qua. Lúc đó tôi đang đứng giữa hiện trường, đủ loại người đang chạy qua chạy lại: sáu người của chúng ta thì nằm đó, bị bắn nát đầu. Hắn đến vì thằng bé và hắn nhận nó đi. Hắn đã làm những gì cần làm, nói những gì cần nói. Mẹ kiếp. Có khi hắn còn là cấp trên của tôi cũng nên ấy chứ.”

“Thế còn cộng sự của anh ta?”

“Cái gì nữa?”

“Cộng sự của anh ta, tay còn lại ấy, cậu nói là có hai người cơ mà?”

“Đúng.”

Lần này trông Romano không còn vẻ chắc chắn như trước.

Gã dụi mắt và lại lớp một ngụm bia. “Hừ, thực ra thì thằng cha đó cũng không bước lại gần. Tay đầu tiên chỉ về phía hắn và nói rằng đó là cộng sự, thế thôi. Tay kia đứng nói chuyện với vài cảnh sát, vì vậy hắn không hề lại gần chỗ tôi.”

Web nhìn gã với vẻ nghi ngờ. “Paulie, vậy là cậu không biết chắc liệu người nói chuyện với cậu có đúng là đi cùng với người kia không nữa. Rất có thể hắn đến một mình và bịa chuyện để lừa cậu. Cậu đã kể tất cả những chuyện này với một đặc vụ FBI thật sự nào chưa?”

“Nghe này, Web, thì chính anh cũng là một đặc vụ FBI đấy thôi. Anh quá quen với cái trò điều tra kiểu này rồi. Tôi thì là dân Delta chuyển sang. Tôi vào FBI chẳng qua để được nhảy sang SWAT, sau đó là HRT. Lâu lắm rồi nên tôi cũng quên cách chơi trò thám tử này. Tôi chỉ pằng pằng cho nhanh. Chỉ pằng pằng, anh hiểu chứ.”

“Hừ, có lẽ cậu làm một thằng nhóc bỏ mạng oan rồi.”

Romano giận dữ trợn mắt nhìn anh trong vài giây rồi cụp mắt và quay nhìn ra chỗ khác. Web đoán có lẽ Romano đang nghĩ đến hai đứa con trai của mình. Web thực sự muốn anh ta phải hối hận, để sai lầm này không bao giờ được phép lặp lại nữa. “Rất có thể thằng nhóc bị vùi xác đâu đó rồi. Nó có một thằng anh trai. Một thằng đầu trộm đuôi cướp tên là Big F.

“Thằng nào chẳng thế,” Romano lầm bầm.

“Thằng nhóc đó không hề có tuổi thơ. Anh có nhìn thấy cái sẹo sâu hoắm vì vết đạn trên má nó chứ? Thế mà nó mới chi có mười tuổi.”

Romano nhấp một hớp bia rồi giơ tay lên quệt ngang miệng. “Hừ, thế đấy, sáu người tốt lẽ ra đáng được sống thì lại phải chết, tôi vẫn tự hỏi là tại sao không phải là bẩy người.”

Gã vừa nói vừa ném cho Web một cái nhìn độc ác.

“Nếu điều này mà khiến cậu cảm thấy thoải mái hơn, thì thú thật là tôi đang phải nhờ đến sự giúp đỡ chuyên môn để cố giải thích chuyện đó đây. Đó là một sự thừa nhận cực kỳ khó khăn đối với Web, nhất là lại thừa nhận trước mặt Romano, ngay lập tức anh cảm thấy hối hận.

“A ha, đúng là điều đó làm tôi thấy thoải mái hơn, chắc tôi phải chạy ra phố mà hét toáng lên, Web đang phải đi gặp bác sĩ tâm thần, thế giới an toàn rồi.”

“Để tôi được yên đi, Paulie, cậu nghĩ tôi muốn bị cứng đờ người đúng lúc đó sao? Cậu nghĩ rằng tôi muốn nhìn cả đội của mình bị bắn gục sao? Có đúng thế không?”

“Tôi nghĩ anh là người duy nhất có thể trả lời câu hỏi đó,” Romano vặc lại.

“Nghe này, tôi biết tất cả chuyện này trông thật tồi tệ, nhưng tại sao cậu lại cứ gây khó dễ cho tôi như thế?”

“Anh muốn biết tại sao à? Anh thực sự muốn biết tại sao à?”

“Đúng vậy.”

“Được rồi, tôi đã nói chuyện với thằng nhóc đó, hay nói đúng hơn thì thằng nhóc đã nói chuyện với tôi. Anh có muốn biết thằng nhóc đó nói gì không?”

“Tôi đang ngồi đây thôi, Paulie.”

“Nó nói anh sợ đến nỗi khóc nức nở như một đứa trẻ. Nó còn bảo anh van xin nó đừng kể lại với ai. Rằng anh là đồ hèn nhát bẩn thỉu nhất mà nó từng thấy. Nó bảo anh thậm chí còn cố gắng cho nó khẩu súng của mình vì sợ đến vãi đái ra nên không bắn nổi.”

Một thằng nhóc vô ơn. “Và cậu tin tất cả những chuyện giẻ rách đó sao?” Romano lại ực một ngụm bia. “Hừ, không phải chi tiết về khẩu súng. Chẳng đời nào có chuyện anh đưa khẩu SR75 khốn kiếp đó cho ai hết.”

“Cám ơn cậu rất nhiều, Romano.”

“Nhưng chắc chắn thằng nhóc đã nhìn thấy gì đó nên mới nói ra như vậy, ý tôi là tại sao nó phải nói dối làm gì?”

“Ôi làm sao tôi biết được, Paulie, có thể là vì tôi là cớm, trong khi nó vốn không ưa những ai liên quan đến luật pháp. Tại sao cậu không đi hỏi đội bắn tỉa? Họ sẽ nói cho cậu biết lúc đó tôi đang khóc hay đang bắn. Hoặc có khi là cậu cũng không tin họ cũng nên.”

Romano không thèm đếm xỉa đến câu này. “Tôi cho là ai cũng có lúc hèn nhát thế mà, còn tôi thì đừng có hòng.”

“Cậu biết không, cậu là một thằng chó đẻ.”

Romano đặt lon bia xuống và hơi nhổm dậy khỏi ghế. “Anh có muốn biết tôi là loại chó đẻ đến mức nào không?”

Cả hai gườm gườm như chỉ chực lao vào nhau bằng nắm đấm thì Angie bước tới chào Web và choàng tay ôm lấy anh vỗ về cùng những lời an ủi.

“Paulie,” cô nói, “có lẽ anh Web muốn ở lại ăn tối với chúng ta. Em đang làm món sườn lợn rán.”

“Có lẽ tôi không muốn Web ở lại vì cái món sườn rán chết tiệt đó được chứ?” Romano rống lên.

Angie cúi xuống chộp lấy cổ áo Romano, kéo xệch anh ta dậy. xin lỗi một lát, anh Web,” cô nói.

Web đứng nhìn cô lôi chồng mình về phía sau giữa, và trút lên gã cái mà Web chỉ có thể gọi là một trận đòn nên thân. Cô hết tát lại giúi thẳng ngón tay vào trán gã, trông chẳng khác nào một thượng sĩ huấn luyện đang ra oai với một tay tân binh. Và Paul Romano, người có thể giết bất kỳ sinh vật nào từng có trên đời, chỉ biết đứng im chịu trận. không dám ngẩng đầu lên, và lặng lẽ răm rắp tuân lệnh “người phụ nữ nhỏ bé” của mình. Cuối cùng Angie cũng dẫn gã quay lại chỗ Web.

“Nào, Paulie, hỏi anh ấy đi.”

“Angie,” Web ngại ngùng nói , “đừng bắt cậu ấy phải…”

“Câm đi, Web,” Angie quát, và Web câm thật. Angie vỗ lên gáy anh chàng Romano đang lúng búng như ngậm hột thị. “Hoặc là hỏi anh ấy hoặc là tối nay anh sẽ ngủ trong gara với cái xe chết tiệt của anh.”

“Anh có muốn ở lại ăn tối không, Web?” Romano lên tiếng, trong khi ánh mắt anh ta ngó lơ qua bãi cỏ trước nhà, hai tay lạnh lùng khoanh trước ngực.

“Một bữa tối có món sườn lợn rán,” Angie nói giật giọng, và tại sao anh không thử nói một cách thật chân tình và thoải mái xem nào. Paulie?”

“Anh có vui lòng ở lại ăn một bữa tối có món sườn lợn rán không, Web?” Romano lí nhí hỏi bằng một cái giọng khổ sở nhất mà Web từng nghe thấy, và đố gã dám không nhìn vào mắt Web khi nói ra câu mời này.

Cô nàng Angie này thực là một mụ phù thủy. Với tất cả những gì Romano vừa phải chịu đựng, Web không đành lòng nói không, mặc dù trong thâm tâm anh chỉ muốn từ chối lời mời để gã bị vợ phạt cho đáng đời.

“Nhất định rồi, Paulie, tôi sẽ ở lại chứ, cám ơn vì đã quan tâm tới tôi.” Trong khi Angie quay vào trong chuẩn bị bữa tối. hai người tiếp tục ngồi uống bia và nhìn ngắm bầu trời.

“Nếu nói ra điều này có thể khiến cậu thấy thoải mái hơn thì. quả thực là Angie cũng làm tôi sợ vãi linh hồn, Paulie ạ.” Romano ngước lên và lần đầu tiên, ít nhất là cũng như những gì Web vẫn nhớ anh ta thực sự mỉm cười.

Web cúi xuống nhìn lon bia của mình. “Tôi đoán chắc anh đã bô bô khắp Quantico những gì thằng nhóc bịa.”

“Không đâu.”

Web ngẩng đầu lên, sững sờ. Romano đang tỏ ra hoàn toàn nghiêm túc.

“Tại sao không?”

“Vì không phải như thế.”

“Tôi rất biết ơn anh.”

“Tôi biết lúc nào thì bọn trẻ nói dối, hai thằng quỷ con nhà tôi cũng ma lanh không kém. Lúc nãy là tôi chọc tức anh thôi. Có lẽ nó thành thói quen xấu của tôi mất rồi.”

“Nhưng tôi thực sự không thể tin là thằng nhóc lại nói dối như vậy, Paulie. Tôi đã cứu nó mà. Mẹ kiếp, nó gặp may những hai lần. Nhờ có tôi mà nó không có thêm lỗ đạn nữa trong đầu.”

Romano ngạc nhiên nhìn anh, “Thằng nhóc đó làm gì có vết thương đạn nào.”

“Chắc chắn là có chứ, bên má trái ấy. Trên trán còn cả một vết dao cắt cơ, dài bằng ngón tay út của tôi đây này.”

Romano lắc đầu “Nghe này, Web, tôi đã ở cùng thằng nhóc đó và có thể là tôi không chú ý lắm đến ngoại hình của nó nhưng tôi không thể nào bỏ sót một chi tiết như thế được. Tôi biết vết sẹo do đạn bắn trông như thế nào chứ, tôi cũng có cơ mà. Và, mẹ kiếp, ngược lại tôi cũng đã thổi vỡ sọ nhiều thằng để biết sẹo sẽ như thế nào rồi.”

Web ngồi thẳng dậy, “Thế màu da của thằng nhóc đó là gì?”

“Anh đang nói cái quái gì vậy, màu da của thằng nhóc là gì là sao? Nó là dân da đen mà!”

“Mẹ kiếp, tôi biết chứ, Paulie! Ý tôi muốn hỏi là sáng màu hay tối'?”

“Khá sáng màu. Mịn màng như mông em bé, và không hề có vết sẹo nào hết. Thề có Chúa?”

Web vỗ chát một tiếng lên thành ghế. “Mẹ kiếp!” Kevin Westbrook, ít nhất là Kevin Westbrook mà anh đã gặp, có nước da màu nâu bóng như sô cô la cơ mà.

Sau bữa tối với gia đình Romano, Web đến nhà Mickey Cortez và cũng nhận được câu chuyện giống hệt như vậy. Anh ta không nói chuyện gì với thằng nhóc. Không nhớ danh tính của người mặc complet đã đưa thằng bé đi, những mốc thời gian thì đúng như Romano đã kể. Và nhất là trên má thằng bé không có vết đạn nào hết.

Vậy ai là kẻ đã đánh tráo thằng nhóc? Và tại sao?

CHƯƠNG 11

Fred Watkins mệt mỏi bước ra khỏi xe, hôm nay là một ngày vất vả đối với vị cộng tố của chính phủ Hoa Kỳ. Mỗi ngày ông phải mất cả tiếng rưỡi đồng hồ lái xe từ nhà mình ở vùng ngoại ô phía bắc Virginia đến Washington, và mất thêm ngần ấy nữa để về nhà. Chín mươi phút cho một chặng đường có mười lăm dặm, ông mệt mỏi lắc đầu ngán ngẩm. Công việc của ông cũng chưa xong. Mặc dù hôm nay ông đã phải dậy từ bốn giờ sáng, làm việc không nghỉ suốt mười giờ liền, ông vẫn còn ít nhất ba tiếng chờ đợi phía trước nữa trong thư viện nhỏ mà ông dùng làm phòng làm việc trong nhà mình. Một bữa tối ấm áp và chút thư giãn quý giá với vợ và hai cậu con trai xong là ông sẽ phải chong đèn làm việc. Watkins là công tố viên chuyên về việc điều tra những hoạt động làm ăn bất chính ở cấp cao của Bộ Tư pháp Mỹ tại Washington sau một thời gian dài dặt dẹo làm một luật sư cộng đồng khiêm tốn ở Richmond, truy tố bất kỳ tên vô lại nhãi nhép nào ông tóm được. Ông yêu thích công việc của mình và luôn cảm thấy rằng ông đang thực sự phục cho đất nước mình. Ông tin rằng mình đã được đền đáp xứng đáng với công sức bỏ ra, đủ cho thời gian làm việc có hơi dài và căng thẳng, nhưng cuộc sống của ông vẫn khá ổn thỏa. Con trai lớn của ông sẽ vào đại học mùa thu năm nay, và sau hai năm nữa là đến lượt cậu út. Ông và vợ đã có kế hoạch đi du lịch, để được chiêm ngưỡng những vùng đất trên thế giới mà hai người mới chỉ được nhìn thấy qua các tạp chí du lịch. Watkins cũng đã nghĩ đến việc nghỉ hưu sớm và trở thành giáo sư thỉnh giảng về ngành luật tại trường Đại học Virginia, nơi ông đã nhận bằng luật sư. Ông và vợ cũng đang cân nhắc đến khả năng một ngày nào đó sẽ chuyển hẳn về sống ở Charlottesville tránh xa cuộc sống ngột ngạt và tình trạng giao thông khủng khiếp ở bắc Virginia.

Ông xoa cổ và thích thú hít thở bầu không khí của một buổi tối trong trẻo và mát lạnh. Đó là một kế hoạch tổng thể rất hấp dẫn; ít nhất thì ông và vợ cũng đã có một kế hoạch. Nhiều đồng nghiệp của ông chẳng bao giờ quan tâm đến ngày mai, chứ đừng nói gì đến cả nhiều năm sắp tới.

Nhưng xưa nay Watkins vẫn là một người thực tế và lo xa. Quan điểm đó được ông áp dụng trong cả trong công việc và cuộc sống.

Ông đóng cửa xe và rảo bước trên lối đi dẫn vào nhà. Trên đường đi ông vẫy tay chào một người hàng xóm cũng đang tấp xe vào giữa. Một người hàng xóm khác đang làm món thịt nướng thơm điếc mũi. Chà. có lẽ tối nay ông cũng phải làm món thịt nướng ngoài trời mới được.

Như hầu hết mọi người ở khu vực Washington, Watkins đã biết về vụ phục kích đẫm máu của đơn vị HRT với sự quan tâm và đau đớn sâu sắc. Ông đã từng làm việc với một số người thuộc đơn vị này trong các vụ án và không thể nói gì khác ngoài những lời tốt đẹp nhất về sự dũng cảm và tính chuyên nghiệp của họ. Những anh chàng này thực sự là người giỏi nhất, ít nhất là trong cuốn sách của ông, và họ đã làm một công việc mà hầu như không ai khác muốn làm. Watkins vẫn nghĩ rằng mình làm việc vất vả cho đến khi ông chứng kiến những gì mà các anh chàng này đã trải qua. Ông đặc biệt thấy thông cảm cho gia đình của họ và thậm chí còn nghĩ đến việc tìm hiểu xem đã có một quỹ đặc biệt nào được lập ra cho họ hay chưa. Nếu chưa có một quỹ nào như vậy, Watkins sẽ cân nhắc đến việc đứng ra kêu gọi thành lập. Lại thêm một dòng nữa trong danh sách những việc phải làm cũ rích, nhưng cuộc sống là như thế, ông tự nhủ.

Ông không trông thấy một con chim cho đến khi nó bay vụt lên khỏi bụi cây và lao thẳng về phía ông. Watkins kêu rú lên và hụp đầu xuống tránh. Con chim bay sát sạt qua đầu ông; vẫn là con chim giẻ cùi khốn kiếp màu xanh đó. Có vẻ như đêm nào nó cũng nằm đợi ông, hay nó đang làm hết sức để ông bị đau tim đây nhỉ? “Không phải đêm nay đâu, đồ quỷ” Watkins đắc thắng nói với con chim đang bay vụt qua. “Không bao giờ. Tao sẽ tóm được mày trước khi mày chơi tao.” Ông lắc đầu cười khùng khục và bước tới trước mái hiên. Đang loay hoay mở cửa thì điện thoại di động của ông bỗng đổ chuông. Gì nữa đây, ông nghĩ bụng.

Không nhiều người biết số này. Hay là vợ ông. Nhưng chắc chắn bà sẽ không gọi vì bà biết rằng giờ này ông đang vào nhà rồi. Thế thì là điện thoại của văn phòng. Và nếu là điện thoại của văn phòng thì nhất định phải là chuyện quan trọng, sẽ khiến ông mất cả buổi tối, hoặc thậm chí là quay xe lại thành phố cũng nên.

Ông rút điện thoại ra và nhận thấy là trên màn hình không hiện số người gọi, ông đã nghĩ đến chuyện thôi không nghe máy nữa. Nhưng Fred Watkins không phải người như vậy. Biết đâu có chuyện quan trọng thì sao, nhưng cũng có thể ai đó gọi nhầm số. Thôi được rồi, coi như là không có bữa thịt nướng tối nay nữa, ông vừa nghĩ vừa bấm phím nghe máy, sẵn sàng chấp nhận tất cả những tin xấu nhất.

*

Người ta tìm thấy phần còn lại của Fred Watkins trong bụi cây nhà người hàng xóm bên kia đường, sau khi vụ nổ làm nhà ông nát vụn và bắn xác ông qua đó. Đúng lúc ông nhấn nút trả lời thì một tia lửa điện li ti trong điện thoại của ông đã làm nổ bùng khí gas đã đặc quánh trong nhà ông. Rất khó để Watkins có thể phát hiện ra mùi gas vì mùi thịt nướng của nhà hàng xóm bên cạnh đang bốc lên thơm nức. Không hiểu sao chiếc cặp tài liệu vẫn không bị hư hỏng, vẫn còn được nắm chặt trong một bàn tay giờ thực ra chỉ còn toàn xương. Những tài liệu quý giá vẫn còn nguyên vẹn và sẽ sớm được bàn giao cho một công tố viên khác thay thế người luật sư xấu số. Người ta cũng tìm thấy thi thể của vợ và hai con ông trong đống đổ nát. Kết quả giám định pháp y cho thấy cả ba người đã chết từ trước đó vì bị ngạt thở. Phải mất bốn giờ mới dập được hoàn toàn đám cháy, hai ngôi nhà bên cạnh cũng bị bén lửa. Cũng may là không có người nào khác bị thương nặng. Chỉ có cả gia đình Watkins xấu số là không còn ai sống sót. Câu hỏi về việc ông và vợ mình sẽ tận hưởng những năm tháng nghỉ hưu như thế nào sau cả một đời làm việc vất vả cũng sẽ yên nghỉ mãi mãi cùng với họ. Người ta không gặp khó khăn nào trong việc tìm điện thoại của Watkins, vì nó đã chảy ra, dính chặt trên tay ông.

Vào thời điểm cuộc sống của Fred Watkins đang dần chấm dứt; cách đó chín mươi dặm về phía nam ở Richmond, thẩm phán Louis Leadbetter đang ngồi vào băng ghế sau của một chiếc xe công dưới sự canh gác cẩn mật của một cảnh sát tư pháp Hoa Kỳ. Leadbetter là một thẩm phán liên bang, một cương vị mà ông đảm nhiệm từ hai năm nay sau khi giữ chức vụ Chánh án tòa án lưu động Richmond. Với tuổi đời còn rất trẻ - ông mới chỉ 46 tuổi - cùng năng lực nổi bật của ông, rất nhiều nhân vật trong các vị trí quyền lực nhất đã để ý đến Leadbetter như một ứng cử viên sáng giá cho chức Chánh án Tòa án Phúc thẩm Lưu động thứ tư, và có lẽ một ngày nào đó chiếc ghế trong Tòa án Tối cao của nước Mỹ cũng sẽ thuộc về ông. Với tư cách là một vị thẩm phán trong cuộc chiến pháp lý, Leadbetter đã làm chủ tọa trong không biết bao nhiêu phiên tòa cực kỳ phức tạp, với đủ mọi cung bậc hỉ, nộ, ái ố. Nhiều kẻ bị ông tống vào tù căm hận thề có ngày lấy mạng ông. Thậm chí đã có lần ông suýt là nạn nhân của một vụ tấn công bằng bom thư, mà thủ phạm là một tổ chức kỳ thị chủng tộc cực kỳ căm ghét Leadbetter vì quan điểm sắt đá của ông rằng tất cả mọi người, bất chấp tín ngưỡng, màu da và sắc tộc đều bình đẳng trước Chúa và luật pháp. Những mối đe dọa thường trực đó đủ là lý do để người ta phải lo đến chuyện tăng cường an ninh cho Leadbetter. Và nhất là lại vừa có một động thái mới làm tăng thêm sự quan ngại về việc bảo đảm an toàn cho ông.

Vừa xảy ra một vụ vượt ngục cực kỳ táo bạo - thủ phạm là một kẻ đã từng thề sẽ trả thù Leadbetter. Nhà tù nơi giam giữ tên này cách đây rất xa và lời đe dọa cũng đã được đưa ra từ nhiều năm trước, nhưng các cơ quan chức năng vẫn không thể mạo hiểm với tính mạng của vị chánh án trẻ tuổi. Về phần mình, Leadbetter chỉ muốn cuộc sống bình thường của mình như từ trước đến nay, và việc tăng cường các biện pháp an ninh không làm ông thấy thích thú cho lắm. Tuy nhiên, sau khi chết hụt một lần, ông cũng đủ thực tế để nhận ra rằng mối đe dọa đó là hoàn toàn có thật; và ông không hề muốn chết vì tay của một kẻ rác rưởi nào đó lẽ ra đang phải thối rữa trong xà lim; thẩm phán Leadbetter sẽ không đời nào để hắn được toại nguyện.

“Có tin gì về Free không?” Ông hỏi người cảnh sát.

Đó là tên của kẻ vừa vượt ngục. Free vẫn luôn làm Leadbetter ăn không ngon ngủ không yên. Ernest B. Free. Phần họ và tên đệm viết tắt ở giữa của hắn tất nhiên không phải là tên thật. Hắn đã nộp đơn yêu cầu thay đổi họ của mình một cách hợp pháp sau khi hắn tham gia một nhóm tân bảo thủ bán vũ trang, trong đó tên của các thành viên đều được coi là biểu tượng cho cuộc đấu tranh giành tự do ([33]). Và tên gọi của nhóm cực đoan này là Hội Tự Do, điều lố bịch là ở chỗ chúng hành xử cực kỳ bạo lực và không dung thứ cho bất kỳ ai trông không giống chúng hoặc bất đồng với những tư tưởng bạo lực của hội. Rõ ràng đây là một loại tổ chức chẳng lợi lộc gì cho nước Mỹ, nhưng chúng cũng là một ví dụ nổi bật cho những loại tổ chức và nhóm hội đủ loại mà Tu chính án thứ nhất ([34]) của Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được viết ra để bảo vệ chúng. Nhưng tất nhiên là không phải khi chúng giết người. Không, không bao giờ pháp luật dung thứ cho chúng giết người. Không mảnh giấy nào, cho dù là mảnh giấy được ngưỡng vọng nhất có thể bảo vệ những kẻ reo rắc bạo lực và chết chóc.

Free và những thành viên khác của nhóm này đã đột nhập vào một trường học, bắn chết hai giáo viên và bắt giữ nhiều học sinh và cả giáo viên làm con tin. Cảnh sát địa phương đã phong tỏa ngôi trường. Một đội SWAT được huy động, nhưng Free và đồng bọn được trang bị đến tận răng bằng vũ khí tự động và cả áo giáp chống đạn. Do đó về sau người ta phải huy động cả lực lượng giải cứu con tin chuyên nghiệp của FBI từ Quantico đến. Ban đầu mọi việc diễn biến tốt đẹp, tưởng chừng như tất cả sẽ kết thúc trong hòa bình, nhưng tiếng súng đã nổ ra từ bên trong trường học và Đội Giải cứu con tin HRT đã phải vào trong. Một cuộc giao tranh dữ dội đã diễn ra. Leadbetter vẫn còn hình dung rõ mồn một hình ảnh thương tâm của một cậu bé nằm chết trên hè, cạnh xác hai giáo viên.

Tên Ernest B. Free bị thương nặng và đã phải đầu hàng sau khi đồng bọn của hắn đã bị bắn hạ.

Đã có những tranh cãi xung quanh việc tên Free sẽ được đưa ra xét xử ở tòa án của bang hay liên bang. Người ta cho rằng ngôi trường nói trên trở thành mục tiêu tấn công vì nó là hình mẫu thành công của sự hòa hợp và tăng cường quan hệ sắc tộc, trong khi quan điểm kỳ thị sắc tộc của Free đã quá rõ ràng, tuy nhiên Leadbetter đã nhận thấy là cũng khó chứng minh được lập luận này. Thứ nhất, cả ba người bị giết - hai giáo viên và một học sinh - đều là người da trắng, do đó truy tố Free theo điều luật của liên bang về tội phân biệt chủng tộc thì sẽ không đủ yếu tố vững chắc để buộc tội hắn. Và thứ hai nữa là, mặc dù về mặt danh nghĩa hoàn toàn có thể truy tố hắn vì tội tấn công người thi hành công vụ, nhưng có lẽ tốt nhất vẫn là đơn giản hóa mọi chuyện bằng cách xét xử hắn tại tòa án của bang và đề nghị án tử hình cho hắn vì tội sát hạt nhiều người. Kết quả là nằm ngoài dự kiến của tất cả mọi người.

“Không, thưa thẩm phán,” người cảnh sát trả lời làm Leadbetter giật mình thoát khỏi dòng suy tưởng. Viên cảnh sát tư pháp này đã bảo vệ Leadbetter một thời gian và hai người đã nhanh chóng xây dựng một mối quan hệ khá gần gũi. “Nếu ông đã hỏi, thì có vẻ kế hoạch của hắn là trốn xuống Mexico, rồi từ đó đi tiếp xuống Nam Mỹ. Hắn đang muốn tìm đến những phần tử Quốc xã, cùng loại người như hắn.”

“Hừ, tôi hy vọng người ta sẽ bắt được hắn và tống hắn trở lại nơi hắn phải đến.”

“Ồ, vâng, nhất định rồi. Lực lượng liên bang đang truy lùng hắn và chắc chắn họ đã lần ra manh mối.”

“Tôi đã muốn tên khốn kiếp đó phải lĩnh án tử hình. Tội của hắn thì đáng phải nhận hình phạt đó.”

Đó là một trong những điều nuối tiếc hiếm hoi của Leadbetter trên cương vị một chánh án tòa án lưu động. Nhưng tất nhiên là luật sư bào chữa của Free đã viện lý do hắn bị tâm thần, và thậm chí còn tìm cách thuyết phục bồi thẳm đoàn rằng thân chủ của ông đã bị tẩy não khi tham gia vào “giáo phái”, ông ta gọi tổ chức của Free như thế.

Tất nhiên là tay luật sư chỉ làm công việc của mình. Và ngần ấy là đủ để làm lung lay ý chí của bên công tố. Họ không còn dám chắc là hắn sẽ nhận được một bản án xứng đáng, và thế là bên công tố đã có thỏa thuận với luật sư bào chữa của Free ngay trước khi bồi thẩm đoàn nhóm họp xong.

Thay vì án tử hình, Free chỉ phải nhận 20 năm tù cùng hy vọng là một ngày nào đó hắn sẽ được ân xá trước thời hạn. Leadbetter không đồng với thỏa thuận dàn xếp này, nhưng ông thực sự không có lựa chọn nào khác là ký vào bản án. Sau đó giới truyền thông đã tiến hành một cuộc điều tra không chính thức với bồi thẩm đoàn. Hóa ra Free thực sự là kẻ đắc lợi. Tất cả các thành viên đoàn bồi thẩm đều đã bỏ phiếu kết tội hắn và đều sẵn sàng đề nghị mức án tử hình. Báo chí đã làm um lên với kết quả đó Tất cả mọi người đều chưng hửng. Vì nhiều lý do. Free đã được chuyển đến một nhà tù được canh gác cực kỳ nghiêm ngặt ở Trung Tây.

Đó chính là nơi mà hắn vừa đào thoát.

Leadbetter xem qua lại cặp tài liệu. Xếp ngay ngắn bên trong là một tờ New York Times mà ông rất thích đọc. Leadbetter đã sinh ra và đi học ở thành phố New York trước khi chuyển xuống miền Nam và ở hẳn lại Richmond. Tay Yankee tha hương cũng rất yêu quê hương mới của mình, nhưng mỗi tối về đến nhà ông lại dành đúng một tiếng để đọc tờ Times. Đó đã là thói quen của ông suốt bao năm làm thẩm phán và bao giờ tờ báo của ông cũng được chuyển đến tòa án trước khi ông rời nhiệm sở mỗi ngày. Đó là một trong những nguồn giải trí hiếm hoi mà người đàn ông đáng kính này còn được hưởng trên đời .

Khi người cảnh sát đang lái xe ra khỏi gara của tòa án, điện thoại của anh ta chợt rung lên, anh ta nghe máy. “Có chuyện gì ạ? Vâng thưa thẩm phán. Vâng, thưa ông, tôi sẽ nói với ông ấy.” Anh ta đặt máy xuống và nói, “Thẩm phán Mackey vừa gọi, ông ấy bảo ông xem phần cuối của trang đầu tiên của tờ Times, có thông tin gì đó thú vị lắm thì phải.”

“Ông ấy có nói cụ thể là gì không?”

“Không, thưa ông, chỉ bảo ông xem đi rồi gọi lại cho ông ấy ngay.”

Leadbetter liếc nhìn tờ báo, mỗi lúc một tò mò. Mackey là một người bạn tốt và có nhiều quan điểm tương đồng với Leadbetter. Nếu Mackey đã cho điều gì đó là thú vị thì chắc chắn là Leadbetter cũng thấy vậy. Lúc này xe đang dừng lại trước đèn đỏ. Thật là thuận tiện vì Leadbetter không thể đọc trong lúc xe đang chạy, ông chỉ chực buồn nôn. Ông lấy hẳn tờ báo ra, nhưng trong xe quá tối. Ông với tay bật chiếc đèn đọc sách trong xe và mở tờ báo.

Viên cảnh sát cau mặt quay lại và nói, “Thẩm phán, tôi đã bảo ông bao nhiêu lần là đúng có bật cái đèn đó lên. Nó khiến ông trở thành một cái bia khốn kiếp cho…”

Tiếng kính vỡ loảng xoảng làm người cảnh sát chết lặng, không nói hết câu, trước mặt anh ta là cảnh Thẩm phán Louis Leadbetter đổ úp mặt lên tờ báo New York Times quý giá của mình, những trang báo loang máu đỏ lòm.

CHƯƠNG 12

Web biết là mẹ của Kevin Westbrook đã chết rồi, mặc dù không ai có thể dám chắc với anh điều đó. Bà ta đã biến mất từ nhiều năm trước. Vốn là dân nghiện ngập, cả rượu và ma túy, rất có thể bà ta đã tự kết liễu cuộc đời bằng một mũi chích bẩn hoặc chút thuốc kém chất lượng nào đó. Danh tính của bố Kevin cũng là điều bí ẩn. Rõ ràng những khoảng trống bí ẩn về bản thân và cuộc đời mỗi người như thế chẳng phải là điều gì khác thường ở khu mà Kevin Westbrook đang sống. Web lái xe dọc khu phố dành cho người da đen Anacostia, nơi mà kể cả những cảnh sát cũng lảng tránh, anh dừng lại trước một căn hộ đôi đổ nát và nhếch nhác giữa những ngôi nhà khác giống hệt xung quanh. Theo người ta nói thì Kevin Westbrook sống ở đây cùng với một mớ họ hàng hỗn độn là anh chị em họ xa, bà cô, những ông cậu hay chú rể xa lắc xa lơ nào đó. Web cũng hoàn toàn mơ hồ về hoàn cảnh gia đình hiện tại của thằng bé và tất nhiên là bất kỳ ai khác cũng chẳng biết gì hơn. Có lẽ phải gọi đó là một kiểu gia đình hạt nhân phiên bản mới của nước Mỹ. Trông khu vực này như thể bị phủ bụi phóng xạ từ một lò phản ứng hạt nhân bị rò rỉ gần đó từ nhiều thập kỷ nay. Chẳng hiểu sao không có bất kỳ loại hoa hay cây to nào mọc ở quanh đây; ngay cả cỏ trong những mảnh sân nhỏ cũng héo úa, vàng vọt; thậm chí những con mèo và chó trên đường phố trông cũng ốm yếu dặt dẹo như sắp chết đến nơi. Tất cả con người, phong cảnh và sự vật đều cũ kỹ, không còn sinh khí.

Bên trong căn hộ kép là một bãi rác rưởi hôi thối. Ngay từ ngoài cửa mùi bắp cải thối đã bốc lên nồng nặc, vào đến bên trong chật chội và tù túng thì cái mùi kinh khủng đó còn không sao chịu nổi. Thứ hỗn hợp chết người đó bốc thẳng lên óc của Web ngay khi anh vừa đặt chân vào nhà. Anh tưởng mình sắp ngã sấp mặt, hôn sàn nhà đến nơi. Lạy Chúa, anh thà ngửi lựu đạn cay còn hơn là thứ chất độc cây nhà lá vườn như thế này.

Những người ngồi trước mặt anh lúc này trông chẳng có vẻ gì là quá lo lắng trước việc Kevin đã mất tích. Rất có thể sau một vụ bắn nhau khủng khiếp như vậy thằng bé đã sợ vãi đái và trốn vào đâu đó. Một gã choai choai mặt câng câng ngồi trên đi văng. “Chúng tôi đã kể hết với cảnh sát rồi,” gã lầm bầm, xịt những từ đó qua kẽ răng hơn là nói với Web một cách tử tế.

“Tôi chỉ kiểm tra lại thôi mà,” Web nhã nhặn nói. Anh không muốn nghĩ tới việc Bates sẽ làm gì nếu biết anh đang thò mũi vào công việc của anh ta. Mẹ kiếp, anh nợ Riner và những đồng đội khác. Mặc xác những quy định chết tiệt của Cục. Mặc dù vậy, anh vẫn cảm thấy hơi bồn chồn và lo lắng.

“Câm miệng đi, Jerome,” bà già nghiêm nghị ngồi cạnh Jerome nạt gã. Bà ta có mái tóc trắng xóa, đeo kính lão to bự, một bộ ngực khổng lồ và vẻ đạo mạo trang nghiêm. Bà ta nhất định không chịu nói tên khi Web hỏi, và anh cũng không ép thêm; chắc chắn là tên bà ta đã có trong hồ sơ của FBI, nhưng anh đã truy lùng theo những nguồn khác. Trông bà già này hoành tráng như một chiếc xe hơi loại nhỏ và có vẻ như bà ta hoàn toàn có thể xách cổ Jerome lên, không vấn đề gì. Mẹ kiếp. ngay cả Web có lẽ bà ta cũng xách cổ như chơi, không vấn đề gì. Bà già đã yêu cầu được xem phù hiệu và giấy tờ của Web đến hai lần rồi mới chịu mở xích cửa. “Tôi không thích để người lạ vào trong nhà” bà ta giải thích, “cảnh sát hay ai cũng thế thôi. Như tôi biết thì khu vực này chẳng có gì là an toàn, mà nguyên nhân là do cả hai bên gây ra.” Bà ta vừa nói vừa nhướng mày lên với vẻ mặt ra điều ta biết tuốt, ánh mắt kẻ cả xoáy thẳng vào trong đầu của một nhân viên an ninh liên bang như Web.

Tôi đếch muốn đến đây làm gì, Web chỉ muốn quát thẳng vào mặt bà ta, nhất là khi tôi phải nín thở để không lộn mửa. Khi đã ngồi xuống, Web có thể nhìn thấy những vết nứt toác sâu hoắm trên sàn nhà ăn thẳng xuống tận tầng đất sét cứng bên dưới móng nhà. Chỗ này vào mùa đông chắc phải ấm chảy mỡ đây. Anh châm biếm nghĩ bụng. Ngoài trời lúc này là mười tám độ C, nhưng trong nhà cứ như là chỉ có 0 độ vậy. Không hề có tiếng tí tách vui tai của củi cháy trong lò và không hề có chút mùi thức ăn ngon lành nào đang sôi sục trong căn bếp “xinh xắn” của bà già. Trong một góc phòng là một đống những lon Pepsi dành cho người ăn kiêng. Chắc có ai đó đang quan tâm đến vấn đề cân nặng. Nhưng ngay bên cạnh lại là một đống đồ thức ăn nhanh McDonald vứt lăn lóc. Có lẽ là của Jerome. Web nghĩ bụng. Trông hắn béo như một con lợn. “Tôi có thể hiểu điều lo lắng của bà,” Web nói. “Gia đình ta sống ở đây đã lâu chưa?” Jerome chỉ khịt mũi, còn bà già thì cúi xuống nhìn hai bàn tay đang xoắn chặt của mình. Bà ta nói, “Ba tháng. Trước kia chúng tôi sống ở nơi khác, chúng tôi đã sống ở đó rất lâu. Chúng tôi đã sửa sang chỗ đó đâu ra đấy”.

“Nhưng rồi họ cho là chúng tôi kiếm được quá nhiều tiền để có thể ở lại một nơi dễ chịu như thế, và chúng đá chúng tôi ra đường”, Jerome giận dữ nói thêm. “Chúng thản nhiên đá chúng tôi ra đường.”

“Có ai bảo cuộc sống là phải công bằng đâu, Jerome,” bà già bảo hắn.

Bà ta nhìn quanh ngôi nhà bẩn thỉu và hôi thối của mình rồi hít một hơi rất sâu khiến bao nhiêu hy vọng của Web cũng dường như bị rút sạch. “Chúng tôi cũng sẽ sớm sửa sang lại chỗ này thôi. Sẽ ổn thôi mà.” Giọng bà ta không có vẻ gì là tự tin cho lắm, Web có thể cảm nhận rõ điều đó.

“Cảnh sát đã có tiến triển gì xung quanh việc mất tích của Kevin chưa?”

“Sao anh không đi mà hỏi họ?” bà già làu bàu. “Họ chẳng nói gì với chúng tôi về thằng Kevin tội nghiệp cả.”

“Họ để lạc nó rồi,” Jerome vừa nói vừa thả hẳn mình xuống đống gối bẩn thỉu và méo mó trên đi văng. Web cũng không biết là chiếc đi văng già cỗi ấy có còn khung bên trong không nữa. Trần nhà hở toác ở ba chỗ khác nhau và Web có thể thấy là trần nhà bị võng xuống đến nỗi nếu muốn lên tầng hai, chẳng việc gì phải dùng đến cầu thang, bạn chỉ cần với tay bám vào trần và đu người lên là xong. Những bức tường lỗ chỗ vết mốc đen sì, không loại trừ khả năng trên đó còn toàn sơn pha chì cũng nên. Và cam đoan một điều là các ống nước đã bám đầy chất amiăng cực độc. Cứt chuột rải rác khắp nơi và Web sẵn sàng cá một nghìn đô là lũ mối đã xơi hầu hết đồ gỗ trong nhà, có lẽ đó là lý do tại sao ngay khi đứng ngoài đường Web đã nhận thấy là ngôi nhà hơi bị nghiêng sang trái. Chắc hẳn các thanh tra nhà ở của thành phố đã xóa sổ cả khu vực này trên bản đồ dân cư từ lâu, hoặc nếu không thì họ đang ngồi uống cà phê đâu đó, cười nói đến sái quai hàm.

“Bà có bức ảnh nào của Kevin không?”

“Có chứ, đã đưa cho cảnh sát rồi mà.” bà già nói.

“Bà còn bức nào không?”

“Này, chúng tôi chẳng việc đếch gì mà phải đưa cho ông nhé.” Jerome nạt nộ.

Web chồm người tới để lộ báng súng trong nách áo ra một cách đe dọa. “Có đấy, Jerome, cậu sẽ phải đưa cho tôi xem. Và nếu cậu không bỏ cái thái độ hỗn xược ấy đi, tôi sẽ lôi đít cậu xuống dưới kia và chúng tôi sẽ xem lại hồ sơ của cậu xem có lý do nào để tống cậu vào nhà đá nghỉ ngơi một thời gian không, trừ phi cậu muốn thử chơi tôi và quả quyết rằng cậu chưa bị bắt bao giờ, hay đấy.”

Jerome nhìn lảng đi chỗ khác và làu bàu. “Mẹ kiếp.”

“Câm ngay, Jerome,” bà già nói. “Mày có câm ngay không thì bảo.”

Thế, phải thế chứ, bà ngoại, Web nghĩ bụng.

Bà già rút ra một chiếc ví, lấy từ trong đó ra một tấm ảnh nhỏ rồi chìa qua cho Web, những ngón tay thoáng chút run rẩy, lập bập, giọng nói hơi khản đi trong cổ họng, rồi lại đàng hoàng, bình tĩnh lại ngay. “Đây là bức ảnh cuối cùng của Kevin mà tôi có đấy. Xin đừng làm mất nó.”

“Tôi sẽ giữ gìn cẩn thận. Bà sẽ nhận lại mà.” Web liếc qua tấm ảnh. Đó đúng là Kevin. Ít nhất thì cũng là thằng Kevin mà anh đã cứu trong con hẻm. Vậy là thằng nhóc mà Cortez và Romano đã hỏi chuyện là một đứa khác. Kẻ đã nói dối và tự nhận mình là Kevin Westbrook. Đây là việc làm có chủ đích và kế hoạch đây. Nhưng mà để làm gì chứ?

“Bà nói là bà đã đưa cho cảnh sát một bức ảnh của Kevin?”

Bà già gật đầu. “Nó là một thằng bé ngoan. Anh biết đấy, hầu như ngày nào nó cũng đến trường. Một trường học đặc biệt vì nó là một thằng bé đặc biệt mà,” bà ta tự hào nói thêm.

Web biết là ở một nơi như thế này đến trường thường xuyên quả là một thành tích đáng tự hào, có lẽ chỉ đứng sau việc sống sót được qua một đêm.

“Tôi tin nó là một thằng bé ngoan.” Anh nhìn chằm chằm vào đôi mắt dữ dằn, đỏ ngầu của Jerome. Mày cũng từng là một cậu bé ngoan, đúng không Jerome? “Họ là cảnh sát mặc sắc phục à?”

Jerome đứng bật dậy. “Cái gì, ông nghĩ chúng tôi là bọn ngu chắc? Họ cũng là dân FBI, giống như ông thôi.”

“Ngồi xuống đi, Jerome,” Web lạnh lùng nói.

“Ngồi xuống, Jerome,” bà già cũng nói và Jerome hậm hực ngồi xuống.

Những ý nghĩ lướt nhanh trong đầu Web. Nếu Cục đã có ảnh của Kevin, thì có nghĩa là họ cũng đã biết rằng họ giữ một thằng bé giả mạo, dù chỉ là trong chốc lát. Mà chắc gì họ đã biết? Romano hoàn toàn không biết gì về việc có đến hai thằng bé. Anh ta chỉ miêu tả nó là một thằng nhóc da đen. Nếu toàn bộ bản báo cáo chính thức chỉ có thế thì sao? Nếu thằng nhóc Kevin Westbrook giả mạo đã biến mất trước khi Bates và những người khác đến hiện trường, thì tất cả những gì họ biết chỉ là có một thằng nhóc da đen khoảng mười tuổi tên là Kevin Westbrook, sống ờ địa chỉ đó, gần con hẻm, và giờ thì mất tích. Họ đến đây và nói chuyện với gia đình, lấy một tấm ảnh, như họ đã làm, và bắt tay vào điều tra. Không có vẻ gì chắc chắn là họ đã yêu cầu Romano và Cortez xem ảnh để xác nhận danh tính thằng bé, nhất là khi họ không có cơ sở nào để nghĩ tới khả năng đã có một vụ hoán đổi. Và Ken McCarthy đã nói rằng những xạ thủ bắn tỉa không kịp nhìn thấy thằng Kevin thực sự khi đội Charlie đi qua nó trên đường vào. Có lẽ chỉ mình Web biết có chuyện giả mạo ở đây.

Web nhìn quanh, và vì bà già, hay vì bất kỳ mối quan hệ nào của bà ta với Kevin, anh cố gắng không thể hiện sự ghê tởm của mình. “Kevin có thực sự sống ở đây không?” Bates đã nói cuộc sống gia đình của Kevin cực kỳ tồi tệ và nó luôn tìm cách lảng tránh về nhà mỗi khi có thể. Đó là lý do giải thích tại sao nó lại ở ngoài trời một mình lúc nửa đêm thay vì đang nằm trong giường. Khung cảnh quanh đây thật khủng khiếp, nhưng có lẽ cũng không làm gì tệ lắm so với nhiều gia đình khác ở đây. Đói nghèo và tội ác đầy rẫy khắp nơi, và dấu vết mà chúng để lại chẳng lấy gì làm đẹp đẽ.

Nhưng bà ngoại trông có vẻ chắc chắn như một hòn đá tảng. Một người tốt và dường như bà thực lòng quan tâm đến Kevin. Tại sao nó phải lảng tránh bà cơ chứ?

Bà ngoại và Jerome liếc mắt nhìn nhau. “Hầu hết mọi lúc là như thế.” bà ta trả lời.

“Vậy thì lúc khác nó sống ở đâu?”

Cả hai người đều im lặng. Web chăm chú nhìn bà già cúi gục đầu xuống lòng với ánh mắt lảng tránh, còn Jerome nhắm mắt và lúc lắc đầu làm ra vẻ đang bận chú tâm vào thứ âm nhạc chết tiệt nào đó trong đầu hắn.

“Tôi biết là Kevin có một người anh trai. Thỉnh thoảng Kevin có sống cùng người anh đó không?”

Mắt Jerome bỗng trợn lên thao láo, bà già cũng không còn nhìn vào lòng mình nữa. Nét mặt hai người trông như thể Web đang chĩa một khẩu súng vào đầu họ và lạnh lùng bảo họ hôn nhau vĩnh biệt.

“Không biết anh ta, chưa bao giờ gặp anh ta.” bà già nói nhanh người rung lên bần bật, cúi về trước rồi lại ngả về sau như thể có điều gì đó bất ngờ làm bà ta đau đớn. Giờ thì trông bà không còn cái vẻ có thế xách cổ bất kỳ ai nữa, mà chỉ còn là một bà già yếu đuối đang sợ hãi đến mụ mẫm người.

Web vừa quay sang nhìn Jerome thì hắn đã đứng bật dậy và vọt đi trước khi Web kịp nhổm người lên. Web nghe thấy tiếng cửa trước mở bung ra rồi sập lại đánh rầm, rồi sau đó là tiếng chân người chạy mỗi lúc một xa.

Web quay lại nhìn bà già.

“Jerome cũng không biết gì đâu,” bà già nặng nề nói.

CHƯƠNG 13

Buổi sáng hôm đó sẽ diễn ra lễ truy điệu chính thức cho những người xấu số. Web dậy sớm, tắm rửa, cạo râu, và diện bộ complet đẹp nhất của mình. Đây là lúc để bày tỏ lòng thương tiếc và kính trọng đối với những người bạn của anh, vậy mà tất cả những gì Web muốn làm là bỏ chạy như một thằng điên.

Web vẫn chưa nói gì với Bates về điều anh đã khám phá ra từ Romano và Cortez, cũng như việc anh tìm đến nhà Kevin. Web cũng không biết chắc tại sao anh lại không làm như vậy, chỉ có điều anh không cảm thấy tin cậy bất kỳ ai, và bởi vì chắc chắn Bates sẽ xạc cho anh một trận vì dám can thiệp vào cuộc điều tra của anh ta. Web biết Bates đã xác định thằng bé đó là Kevin Westbrook, có nghĩa là thằng nhóc đó đã khai với anh ta như vậy, hoặc Bates biết điều này qua Romano và Cortez nếu như thằng bé đã biến mất trước khi Bates đến hiện trường. Web sẽ phải xác định xem chuyện cụ thể là thế nào. Nếu Bates đã nhìn thấy thằng bé kia, thì khi anh ta nhận bức ảnh từ tay bà già chắc chắn anh ta sẽ phải nhận thấy là trong vụ này có đến hai thằng bé.

Vậy là Web đã đưa cho thằng bé có một vết sẹo trên má một mảnh giấy để nó mang đến cho những đồng đội HRT của mình, thằng bé nói với Web tên nó là Kevin. Tờ giấy đã được chuyển đi, nhưng rõ ràng là người chuyển không còn là thằng bé mà Web đã đưa tờ giấy lúc đầu. Điều đó có nghĩa là giữa lúc anh đưa cho thằng bé tự xưng là Kevin mảnh giấy và lúc mảnh giấy được chuyển đến tay người nhận đã có sự đánh tráo thằng bé này với thằng bé khác. Điều này chỉ có thể xảy ra trong con hẻm giữa nơi Web đứng và vị trí của đơn vị HRT đang tiến vào. Khoảng cách không quá xa, nhưng cũng đủ để tiến hành đánh tráo, vậy là đã có người khác trốn ở đâu đó trong con hẻm, chờ đợi chuyện này xảy ra. Và có lẽ còn chờ đợi rất nhiều chuyện khác xảy ra nữa kia.

Liệu việc Kevin đi xuống con hẻm đó có được lên kế hoạch từ trước không? Liệu có phải nó đang làm việc cho anh trai mình Big F? Phải chăng nhiệm vụ của nó là ra kiểm tra xem có ai còn sống không? Và nó đã chắc mẩm là sẽ không còn ai? Và khi nó phát hiện thấy Web còn sống, điều đó đã làm đảo lộn kế hoạch của một kẻ nào đó? Nhưng cái kế hoạch đó là thế quái nào mới được chứ? Và tại sao lại phải tráo thằng bé này bằng một thằng bé khác? Tại sao thằng Kevin giả lại nói dối và khẳng định rằng Web là kẻ hèn nhát? Và ai là người mặc complet tự xưng là đặc vụ đã đưa thằng bé thay thế đi? Bates đã rất kín tiếng về việc để mất dấu thằng bé. Liệu tay mặc complet mà Romano nói chuyện có đúng là đặc vụ FBI không? Nếu không, tại sao một kẻ mạo danh có thể xuất hiện với đầy đủ phù hiệu, và sự bạo dạn quá ấn tượng nên có thể dễ dàng đánh lừa Romano và Cortez để rồi mất hút cùng thằng bé cũng là đồ mạo danh nốt? Tất cả thật là điên đầu, và trong lòng Web lúc nào chỉ toàn là những mối hoài nghi, do đó việc quay sang Bates để tìm câu trả lời và chia sẻ thông tin hoàn toàn không có vị trí ưu tiên trong danh sách hành động của anh.

Anh đỗ chiếc Mach One gần sát nhà thờ, ít nhất thì cũng ở mức độ gần nhất có thể. Đã có rất nhiều xe đậu sẵn xung quanh trong khi bãi đỗ xe cũng khá hạn chế. Nhà thờ là một công trình bằng đá nguyên khối trông u ám, được xây dựng từ cuối thế kỷ mười chín, vào thời kỳ mà những điều răn trong kiến trúc nhà thờ là “Ngôi nhà thờ của các ngươi phải có nhiều tháp nhỏ, hàng lan can, những cây cột Ionia ([35]), những trán tường đứt gãy, mái vòm, đầu hồi, cửa chính, cửa sổ, và vòng xoắn trang trí nhiều hơn nhà người hàng xóm.” Chính tại ngôi nhà thờ thiêng liêng này, các đời Tổng thống các Chánh án Tòa án tối cao, nghị sĩ, đại sứ và nhiều nhân vật danh giá khác đủ mọi cấp độ đã cầu nguyện, hát thánh ca, và thỉnh thoảng còn xưng tội.

Các chính trị gia thường thích được chụp ảnh hoặc quay phim trong tư thế đang lên xuống những bậc thềm này, cuốn Kinh Thánh trên tay với vẻ mặt của một người biết kính sợ Chúa trời. Mặc dù có sự tách biệt rõ ràng giữa nhà thờ và chính trị tại Mỹ, Web vẫn luôn tin rằng các cử tri thích nhìn thấy những chính trị gia mà họ bầu lên thể hiện lòng mộ đạo. Chưa đội viên HRT nào từng đi lễ ở nhà thờ này, nhưng giới con buôn chính trị vẫn phải dựng lên một sân khấu hoành tráng để bày tỏ lời chia buồn của mình. Trong khi ngôi nhà nguyện nhỏ trong rừng gần Quantico, nơi một vài thành viên trong đội Charlie trước kia thường tới cầu nguyện thì lại phải đóng cửa im ỉm.

Bầu trời trong xanh không một gợn mây, mặt trời tỏa ánh nắng ấm áp. Thi thoảng lại có một làn gió nhẹ thổi đến thật thư thái và dễ chịu. Web có cảm giác đó là một buổi chiều quá đẹp trời cho một nghi lễ nặng nề như buổi truy điệu hôm nay. Nhưng anh vẫn lặng lẽ bước lên những bậc thềm nhà thờ, mỗi tiếng lộp cộp mà đôi giày đen bóng của anh nện trên mặt đá lại nghe giống như tiếng xoay nòng của khẩu súng máy, một ổ đạn, một viên đạn, một mạng sống bị tước đoạt. Web tự nhủ có lẽ chỉ có những người suốt đời chung sống với bạo lực như anh mới có kiểu liên hệ và so sánh kỳ cục như thế. Ở đâu người khác nhìn thấy hy vọng, anh lại chỉ chứng kiến những vết lở loét đầy máu mủ của nhân loại đang thối tha băng hoại dần. Lạy Chúa, với thái độ yếm thế như thế này, chẳng trách anh không bao giờ được mời đi dự tiệc.

Các nhân viên Mật vụ có mặt khắp mọi nơi, bao súng đeo dưới nách, nét mặt lạnh như tiền, trên tai gắn những thiết bị liên lạc xoăn tít. Web phải đi qua một cổng kiểm tra kim loại trước khi vào trong nhà thờ. Anh giơ súng và phù hiệu FBI của mình ra cho bên Mật vụ biết rằng cách duy nhất để chia lìa anh và khẩu súng của mình là phải bước qua xác anh.

Vừa mở cửa, Web đã gần như lọt thỏm vào giữa một đám đông hỗn loạn đang đứng đông chật cứng trong nhà thờ. Anh đành phải dùng đến chiến thuật bất đắc dĩ là giơ cao tấm phù hiệu FBI của mình và xô đẩy để tiến lên, đám đông rẽ sang hai bên nhường đường cho anh đi qua. Ở một góc nhà thờ là một đội phóng viên quay phim đã lắp đặt xong thiết bị và đang truyền hình trực tiếp toàn bộ buổi lễ. Thằng điên nào cho phép làm việc này? Web tự hỏi. Và chính ra thì thằng điên nào nảy ra ý tưởng mời cả cái lũ lau nhau chết tiệt này đến tham dự một buổi lễ lẽ ra cần được tổ chức thật đơn giản và trang trọng? Vậy ra đây là cách những người còn sống tưởng nhớ những người đã khuất, trong một rạp xiếc tạp nham.

Với sự giúp đỡ của một số đồng nghiệp, Web chen mãi mới vào được một hàng ghế dài và đứng đó quan sát xung quanh. Các gia đình của những người đã khuất được bố trí ngồi trên hai hàng ghế đầu. Web cúi đầu cầu nguyện lần lượt cho từng đồng đội của mình, nhưng lâu nhất vẫn là những lời cầu nguyện dành cho Teddy Riner, người thầy của Web, một đặc vụ lão luyện, một người cha tuyệt vời, và một con người chân chính.

Web không kìm nổi những giọt nước mắt khi anh nhận ra rằng anh đã mất mát quá nhiều chỉ trong vài giây địa ngục đó. Nhưng khi ngẩng đầu lên và nhìn gia đình của những người đã khuất đang ngồi trước mặt mình, anh biết rằng những mất mát của anh vẫn không thấm vào đâu so với những con người này.

Sự thật phũ phàng đó được thể hiện trước hết qua những đứa trẻ. Web có thể nghe thấy những tiếng khóc xé lòng dành cho người cha đã ra đi vĩnh viễn. Cùng với đó là tiếng nức nở và gào khóc đến khản tiếng kéo dài suốt giữa những bài phát hiểu lê thê, từ những lời sáo rỗng và giả dối của các chính trị và và linh mục, những kẻ chưa bao giờ gặp những con người mà họ đang ca tụng.

Họ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, Web muốn đứng dậy và nói thật khẽ khàng. Họ đã chết để bảo vệ tất cả chúng ta. Đừng bao giờ lãng quên họ, vì bản thân họ cũng đã trở thành những biểu tượng không thể nào quên. Hết màn tưởng niệm, Amen. Đi nhậu thôi nào!

Cuối cùng thì buổi lễ tưởng niệm cũng xong, toàn bộ cử tọa đều đồng thanh thở phào nhẹ nhõm. Trên đường ra ngoài, Web nói chuyện với Debbie Riner, và nói vài lời an ủi với Cynde Plummer, Carol Garcia. Trao và nhận những cái ôm chia sẻ, những cái vỗ vai đầy thông cảm với vài người khác. Anh ngồi thụp xuống nói chuyện với những đứa bé mất cha, ôm chặt những sinh linh bé bỏng đang run rẩy đó trong lòng mình mà không muốn rời chúng ra. Sự gần gũi thể chất đó làm Web chỉ muốn khóc òa lên. Xưa nay anh đâu phải là người mau nước mắt, vậy mà chỉ trong vòng một tuần vừa rồi anh khóc nhiều hơn cả quãng đời trước đây dồn lại. Nhìn những đứa trẻ bất hạnh này anh chỉ muốn chết đi cho nhẹ lòng.

Ai đó vỗ lên vai anh. Web đứng dậy và quay người lại, anh cứ đinh ninh anh sẽ an ủi và động viên một người đang đau đớn vì mất người thân. Tuy nhiên, người phụ nữ đang chằm chằm ném vào anh cái nhìn nảy lửa, trông cô ta không hề có vẻ gì là cần đến sự cảm thông của Web.

Julie Patterson, người vợ góa của Lou Patterson. Cô ta đã có bốn đứa con và đang mang thai đứa thứ năm nhưng đã bị sảy thai chỉ sau ba tiếng đồng hồ cô biết tin mình đã trở thành góa bụa và một mình nuôi con. Chì cần nhìn vào đôi mắt đờ đẫn là Web đã nhận ra người phụ nữ này đang chịu ảnh hưởng của một loại thuốc an thần nào đó, cầu trời đó là thuốc do bác sĩ kê đơn. Và Web cũng ngửi thấy cả mùi rượu nồng nặc. Rượu và thuốc an thần có vẻ không phải là món kết hợp lý tưởng cho một ngày quan trọng như hôm nay. Trong số tất cả những người vợ của đồng đội mình, Web ít gần gũi nhất với Julie, vì chồng cô ta là Lou Patterson vẫn yêu quý Web như một người anh trai và Web có thể dễ dàng nhận ra là Julie ghen với mối quan hệ đặc biệt đó.

“Anh thực sự nghĩ là anh nên có mặt ở đây sao Web?” Julia nói. Cô ta đang lảo đảo không vững trên đôi guốc cao gót màu đen ánh mắt đờ đẫn không thể tập trung vào người đối diện, giọng nói lè nhè, méo mó, lưới như ríu lại, chưa nói xong từ này đã chuẩn bị nói từ khác. Mặt cô sưng húp, làn da xám xịt nhưng lỗ chỗ những vết đỏ bầm. Cái thai vừa bị sảy vẫn còn rất nhỏ nên bụng cô còn chưa phồng hẳn lên. Mất mát này càng làm khoét sâu thêm vào nỗi đau của người phụ nữ bất hạnh. Lẽ ra giờ này cô phải nằm nghỉ trong thương và Web tự hỏi tại sao cô lại cố đến đây làm gì. “Julie, chúng ta ra ngoài kia nhé, cô sẽ thấy dễ chịu hơn. Đi nào, để tôi giúp cô.”

“Tránh xa tôi ra, đồ khốn kiếp!” Julie hét toáng lên the thé khiến tất cả những người đi cách họ hơn chục mét cũng nghe thấy, họ đứng khựng lại và tò mò nhìn. Cả nhóm truyền hình cũng nhìn thấy cảnh này, và cả tay camera lẫn tay phóng viên đều thấy đây là một mỏ vàng cần khai thác.

Ống kính máy quay vội lia về phía Web, còn tay phóng viên hộc tốc chạy lại gần.

“Julie, chúng ta hãy ra ngoài kia đã.” Web khẽ nói. Anh nhẹ nhàng đặt tay lên vai cô.

“Tôi không đi đâu với anh hết, đồ khốn nạn?” Cô giằng tay anh ra. Và anh phải kêu lên vì đau, rụt bàn tay bị thương lại sát người. Những ngón tay nhọn hoắt của Julie đã bập sâu vào vết thương, làm tung cả chỉ khâu, tóe máu.

“Đúng là gai mồng tơi đâm, tay mày bị thương nặng thế cơ à, đồ chó đẻ vô lương tâm kia? Đồ quái thai với khuôn mặt Frankenstein ? Tại sao mẹ mày có thể chịu nổi khi nhìn mày cơ chứ? Đồ quái vật, chính mày đấy !”

Cynde và Debbie cố dỗ dành, an ủi cô ta, nhưng Julie vẫn xô họ ra và nhảy chồm chồm trước mặt Web. “Mày đã run sợ trước khi súng nổ. Chỉ có mày mới không biết tại sao phải không? Rồi mày ngã xuống à? Mày nghĩ chúng tao sẽ tin chuyện vớ vẩn đó hay sao!”

Hơi thở của cô nồng nặc mùi rượu khiến Web phải nhắm nghiền mắt chịu trận, anh cảm thấy lảo đảo và choáng váng như sắp ngã đến nơi .

“Đồ hèn nhát. Mày đã để mặc cho họ chết! Mày nhận được bao nhiêu? Chúng trả mày bao nhiêu tiền cho máu của Lou, đồ khốn kiếp?”

“Cô Patterson.”

Đó là tiếng Percy Bates, anh đã đến sát chỗ hai người. “Julie,” anh nhẹ nhàng nói, “Chúng ta hãy ra xe thôi trước khi đường tắc. Tôi đã tập trung bọn trẻ ở đây rồi.”

Môi Julie run run khi nghe nhắc đến những đứa con.

“Bao nhiêu tất cả?”

Bates nghe mà bối rối không hiểu.

“Có bao nhiêu đứa trẻ tất cả'?” Julia hỏi lại, cô vẫn đứng yên, một tay lần xuống chiếc bụng rỗng không của mình, nước mắt nhỏ xuống thấm ướt cả vạt váy đen trước ngực.

Julia lại nhìn Web, môi mím lại, đanh ác. “Lẽ ra tao có năm đứa con tất cả. Tao đã có năm đứa con và một người chồng. Giờ thì chỉ còn bốn đứa, và không còn Lou nữa. Lou của tao đã mất rồi. Con tao cũng mất rồi, quỷ bắt mày đi! Tao nguyền rủa mày.”

Giọng cô ta lại lạc đi, the thé đến chói tai. Bàn tay điên cuồng xoa trên bụng: như thể cố xoa một cây đèn thần, với hy vọng vị thần đèn sẽ đưa chồng và con cô quay lại.

Ống kính máy quay đã ghi lại toàn bộ cảnh đó. Tay phóng viên đang ghi chép lia lịa.

“Tôi rất tiếc, Julie. Tôi đã làm tất cả những gì có thể”. Web cay đắng nói.

Julie chợt ngừng xoa bụng và ngẩng lên nhổ toẹt vào mặt anh. “Đó là cho Lou.” Cô ta lại nhổ thêm lần nữa. “Đó là cho con tao. Cút xuống địa ngục đi! Quỷ tha ma bắt mày đi, Web London.” Cô ta tát vào mặt anh, đúng vào bên má bị thương. Tát xong cô ta cũng lảo đảo suýt ngã. “Còn đó là cho tao, đồ chó chết! Mày. . . mày là đồ quái vật. Julie như kiệt sức sau cơn điên khùng. Bates phải nhanh tay đỡ lấy trước khi cô ta ngã lăn ra sàn nhà. Họ đưa cô ra ngoài. Đám đông bắt đầu tản ra thành những nhóm nhỏ và thì thào bàn tán. Nhiều người còn công khai ném cho Web những cái nhìn giận dữ.

Web vẫn đứng yên bất động. Anh thậm chí còn không buồn lau hết nước bọt của Julie trên mặt mình. Vết tay của cô ta còn đỏ bầm trên má anh. Web đã bị gọi là đồ quái vật hèn nhát, một kẻ phản bội. Nếu có thể chắc Julie Patterson cũng không ngần ngại gì mà không cắt đầu anh mang đi rồi. Web sẵn sàng giết chết bất kỳ người đàn ông nào dám nói những điều đó trước mặt anh. Nhưng Julie là một người phụ nữ mất chồng, một người mẹ bất hạnh, cơn giận dữ của cô ta là hoàn toàn dễ hiểu. Nếu có giết ai thì lúc này anh chỉ muốn giết chính mình để giải thoát khỏi nỗi nhục nhã này. Tất cả những gì cô ta vừa nói đều không phải là sự thật. Nhưng Web cũng còn biết nói gì để thanh minh cho mình nữa?

“Thưa ông, ông có phải là Web, Web London không ạ?”

Người phóng viên đã đến bên cạnh anh. “Mong ông hiểu cho, tôi biết đây là thời điểm không thích hợp, nhưng tin tức thì không thể chờ đợi được; ông có vui lòng trả lời phỏng vấn của chúng tôi được không?” Web lặng thinh không đáp.

“Thôi nào,” người phóng viên nài nỉ, “Chỉ mất một phút thôi, chúng tôi có vài câu hỏi.”

“Không,” Web lạnh lùng đáp rồi dợm bước bỏ đi. Đến lúc đó anh vẫn không chắc chắn là anh có còn cử động được không nữa.

“Nghe này, chúng tôi cũng sẽ phỏng vấn cả người phụ nữ đó nữa. Và ông không muốn công chúng chỉ nghe câu chuyện từ phía bà ấy thôi đúng không? Tôi đang tạo cho ông cơ hội để giãi bày câu chuyện của mình. Thế mới công bằng.”

Web quay phắt lại và chộp lấy cánh tay người phóng viên. “Sẽ không có 'phía' nào hết. Và anh hãy để cho người phụ nữ đó được yên. Cô ấy đã phải chịu đựng quá đủ rồi. Anh hãy để cho cô ấy yên. Tránh xa cô ấy ra! Anh hiểu tôi chứ?”

“Chỉ làm công việc của mình thôi mà.” Người phóng viên nhẹ nhàng gỡ tay Web ra khỏi người mình. Anh ta quay sang nhìn người quay phim. Tuyệt cú mèo, đó là ý nghĩ hiện lên trong đầu cả hai .

Web bước ra khỏi cửa và nhanh chóng bỏ lại phía sau ngôi nhà thờ của những người nổi tiếng và giàu có. Anh trèo lên chiếc Mach One, nổ máy và bỏ đi. Anh vừa lái xe vừa giật tung chiếc cà vạt trên cổ, kiểm tra trong ví xem còn chút tiền nào không, sau đó anh dừng xe trước một cửa hàng rượu, mua hai chai vang Chianti rẻ tiền và một hộp sáu chai bia Negra Modelo.

Web lái thẳng xe về nhà, khóa chặt tất cả cửa rả, kéo toàn bộ rèm cứa sổ xuống kín mít. Anh vào nhà tắm, bật điện lên và chăm chú nhìn mặt mình trong gương. Da trên phần mặt bên phải của anh hơi rám nắng, khá nhẵn nhụi, một vài sợi râu mà lưỡi dao cạo của anh còn để sót lại sáng nay. Một bên da rất ổn, không tệ chút nào. “Bên da.” Đó là cách gọi của anh cho từng bên mặt của mình. Đã lâu lắm rồi và không ai còn nhớ đến khuôn mặt rất đẹp trai và đàn ông của anh ngày nào. Julie Patterson động đến khuôn mặt nhăn nhúm trong hiện tại của anh thì cũng được thôi. Nhưng Frankenstein ư? So sánh mới mẻ đây, Julie. Bây giờ nghĩ lại. anh không còn cảm thấy thông cảm cho cô ta nữa. Lẽ ra cô đã mất Lou từ lâu rồi nếu cái thằng Frankenstein này không làm cái việc khiến nó mất bay nửa mặt. Cô đã quên rồi sao? Tôi thì không. Julie ạ. Ngày nào tôi cũng nhìn thấy nó.

Anh từ từ quay nghiêng qua một bên để nhìn trọn vẹn phần mặt bên trái của mình. Bên này chẳng có sợi râu nào hết, và phần da cũng không bao giờ thực sự rám nắng. Các bác sĩ đã nói điều có thể sẽ xảy ra. Nhưng cuối cùng vẫn không ăn thua gì cả. Nhiều lúc, mỗi khi anh muốn cười phá lên hoặc mỉm cười thật tự nhiên, nhưng cũng không được vì phần mặt bên này của anh nhất định không chịu hợp tác, cứ như thể nó muốn bảo anh thôi đi, đồ điên ạ, hãy xem anh làm gì với tôi đây này? Và vết thương khủng khiếp đó còn ăn lên cả rìa mắt khiến cả hốc mắt bị kéo lên gần thái dương hơn bình thường. Trước khi phẫu thuật, trông gương mặt anh méo xệch, thảm hại. Bây giờ đã khá hơn nhiều nhưng hai bên khuôn mặt anh không bao giờ còn vẻ cân đối, hài hòa như trước kia nữa.

Bên dưới lớp da ghép là những khung đỡ bằng nhựa và kim loại thay thế cho phần xương đã nát vụn. Lần nào những miếng than trong mặt cũng khiến anh bị ách lại mỗi khi đi qua máy dò kim loại ở sân bay. Đừng lo, chả là khẩu AK-47 tôi nhét dưới mông ấy mà.

Web đã phải trải qua không biết bao nhiêu ca phẫu thuật mới có được khuôn mặt coi tạm tạm như thế này. Các bác sĩ đã làm rất tốt. Mặc dù từ giờ đến hết đời người ta vẫn nhận ra khuôn mặt méo mó của anh. Cuối cùng thì các bác sĩ phẫu thuật cũng phải tuyên bố rằng họ đã dùng hết võ và chúc anh mạnh khỏe. Mọi chuyện hóa ra khó khăn hơn anh tưởng rất nhiều, và đến tận lúc này anh vẫn chưa thể nói rằng mình đã chấp nhận hoàn toàn khuôn mặt mới. Đó không phải là điều con người ta có thể quên được, vì hàng ngày mỗi lần nhìn vào gương anh lại nhận ra sự thật phũ phàng trên khuôn mặt mình. Anh rướn cổ lên một chút, kéo trật cổ áo sơ mi xuống và vết thương cũ trên cổ lộ hẳn ra. Viên đạn đã bắn đúng phía trên mép áo giáp. Cho đến bây giờ anh vẫn không hiểu phép màu nào đã khiến nó không xuyên trúng các động mạch và xương sống của mình. Vết thương trông như một vết bỏng xì gà, một vết bỏng xì gà to tổ chảng trên da; anh đã nói đùa như vậy khi nằm trên giường bệnh viện, với một bên mặt đã bay mất và hai lỗ thủng toang hoác trên người. Và tất cả những đồng đội đến thăm đã cười cùng anh, nhưng anh có thể cảm thấy sự lo lắng trong những tiếng cười gượng gạo đó. Tất cả đều tin chắc là anh sẽ qua được, chính anh cũng tin như vậy. Nhưng không ai trong số đó hình dung được những cơn ác mộng thể xác và tinh thần nào nằm dưới lớp băng đẫm máu này. Các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đã đề nghị xóa đi những vết đạn. Nhưng Web nói không. Anh đã chịu đựng quá đủ việc các bác sĩ lấy phần da chỗ này của anh để đắp điếm cho chỗ khác. Cứ để nguyên như thế này cho đến già cũng chẳng sao.

Anh lần tay xuống ngực, nơi “vết bỏng xì gà” thứ hai vẫn còn nguyên vẹn, như mới vừa liền miệng. Viên đạn đã xuyên từ đằng trước qua đằng sau vai, xuyên qua cả hai lớp áo giáp Kevlar. và vẫn còn đủ sức công phá để làm vỡ sọ một tên đứng sau anh đang vung dao rựa lên bửa xuống đầu anh. Và ai dám bảo là anh không may mắn chứ? Web mỉm cười với mình trong gương. “May mắn đến thế là cùng,” anh giễu cợt bóng mình trong gương.

HRT vẫn luôn tuyên dương Web với những lời lẽ tốt đẹp nhất vì sự anh hùng mà anh đã thể hiện đêm hôm đó. Đó là vụ giải cứu con tin trong trường học ở Richmond, do bọn Hội Tự Do gây nên. Web vừa được chuyển sang lực lượng đột kích từ đội xạ thủ bắn tỉa nên đang rất hăng hái, muốn được chứng tỏ lòng can đảm của mình trên tuyến đầu. Vụ nổ đã xảy ra từ quả bom xăng tự chế mà một trong những tên trong Hội Tự Do đã ném. Chắc chắn Lou Patterson đã lĩnh trọn nếu Web không nhảy lên và xô anh ta ngã lăn qua một bên. Quả bom xăng đã lao thẳng vào bên mặt trái của Web, xô anh ngã ra sàn và làm chảy cả lớp mặt nạ bảo vệ ăn thẳng lên da. Anh đã giật tung lớp mặt nạ bảo vệ cùng với cả một mảng mặt và tiếp tục chiến đấu, sự say máu khi giao tranh là điều duy nhất khiến anh chịu đựng được cơn đau khủng khiếp đến phát ngất.

Bọn Hội Tự Do đã nổ súng và Web lĩnh trọn một viên đạn xuyên qua người, viên thứ hai ghim vào cổ anh. Nhiều người vô tội nữa sẽ chết nếu không nhờ những gì Web làm sau khi dính đạn. Thay vì hạ gục anh, những phát đạn đó lại như tiếp cho Web thêm sức mạnh để anh tiếp tục chiến đấu như một con hổ bị thương, giết gần hết những kẻ tìm cách giết anh và đồng đội! Anh đã kêu những đồng đội bị thương đến nơi an toàn, kể cả anh chàng Lon Patterson bị một phát đạn xuyên qua cánh tay ngay sau khi Web cứu anh ta khỏi chai bom xăng. Những hành động mà Web thể hiện đêm đó đã vượt xa những gì anh làm trong mảnh sân đó; vì lần đó anh đã bị thương nặng, chứ không chỉ là vết xước dùng băng dính như lần này. Cả ma cũ và lính mới ở HRT đều coi Web như một huyền thoại. Và ở một tổ chức gồm toàn những người đàn ông tinh túy và thiện chiến nhất như HRT, không còn cách nào khác để nâng tầm bản thân lên hàng bề trên tốt hơn là thể hiện sự quả cảm và khả năng của mình giữa chốn giao tranh ác liệt nhất. Trong khi tất cả những gì anh phải trả giá chỉ là vài vết sẹo xoàng và phần lớn lượng máu trong người.

Web thậm chí còn không nhớ cảm giác đau đớn lúc đó. Nhưng khi bắn xong viên đạn cuối cùng, và hạ xong đối thủ cuối cùng, anh cũng đổ gục xuống sàn nhà. Anh đã chạm vào vết thương toang hoác trên mặt và cảm nhận được máu đang mang theo sự sống chảy tràn ra khỏi người anh từ hai vết thương khác, và Web biết cuối cùng thì cũng đến lượt anh chết.

Trên xe cấp cứu, Web đã chìm vào tình trạng hôn mê sâu. Đến khi được chuyển đến cho các bác sĩ của Đại học Y Virginia, Web đã bắt đầu chết lâm sàng. Không ai biết tại sao đêm đó anh lại tỉnh lại, tất nhiên Web lại càng không biết. Có điều là mặc dù chưa bao giờ là người ngoan đạo nhưng trước đó Web đã bắt đầu mơ màng nghĩ đến những điều như Chúa trời và phép lạ.

Quá trình hồi phục là điều đau đớn nhất mà Web từng phải trải qua trong đời. Dù có là một anh hùng, cũng chẳng có gì bảo đảm rằng anh còn khả năng để quay lại HRT. Nếu như anh không thể tha nổi bản thân mình chẳng còn ai muốn nhận anh về, dù có là anh hùng hay không cũng thế thôi - đơn giản là thế. Và bản thân Web cũng không muốn có bất kỳ sự châm chước nào. Tóm lại là còn mang được bao nhiêu cân, chạy bao nhiêu dặm, trèo qua bao nhiêu bức tường, nhảy ra khỏi bao nhiêu chiếc trực thăng, và bắn trúng bao nhiêu phát? Thật may mắn là những vết thương trên mặt không hề ảnh hưởng gì đến thị lực của anh. Không có thị lực hoàn hảo thì đừng mơ vào HRT. Tuy nhiên những vật lộn về mặt tâm lý trong quá trình hồi phục còn khổ ải hơn nhiều so với những vất vả về mặt thể xác. Liệu anh còn khả năng nổ súng khi thực hiện nhiệm vụ? Liệu anh có sợ đến đờ người trong một tình huống khủng hoảng và đặt đồng đội của mình vào tình thế nguy hiểm hay không? Ồ không, anh không bao giờ phải đối mặt với những mối lo sợ đó trong thực tế, ít nhất là cho đến khi xảy ra sự việc trong khoảng sân khốn kiếp đó. Anh đã quay lại, quay lại hoàn toàn. Tất cả phải mất gần một năm, nhưng không ai có thể nói rằng anh không xứng đáng được quay lại, hoàn toàn như cũ. Nhưng giờ thì người ta sẽ nói gì đây? Lần này anh còn quay lại được không? Vấn đề lần này không phải là thể xác: tất cả liên quan đến những gì xảy ra trong đầu anh, và như thế có nghĩa là còn khủng khiếp và khó khăn hơn hàng trăm lần.

Web vung nắm đấm giáng thẳng vào chiếc gương, làm rung rinh cà mảng tường phía sau. “Tôi không để mặc họ chết, Julie.” Anh nói với tấm gương vỡ nát. Anh nhìn xuống tay mình. Thậm chí nó còn không chảy máu. Chẳng nhẽ vận may của anh vẫn còn nguyên vẹn?

Anh mở tủ thuốc xộc xệch trong phòng tắm và lấy ra một lọ thuốc hổ tốn, lẫn lộn. Lọ thuốc này được anh tích cóp lâu nay từ nhiều nguồn khác nhau, cả chính thức và không chính thức. Thỉnh thoảng anh cần đến chúng mới có thể chìm vào giấc ngủ. Mặc dù vậy Web vẫn sử dụng chúng rất thận trọng, vì anh đã suýt bị nghiện thuốc giảm đau trong thời gian các bác sĩ tái tạo khuôn mặt cho anh.

Web tắt đèn và con quỷ Frankenstein vụt biến mất. Mẹ kiếp, ai chẳng biết là bọn quái vật bao giờ cũng thích bóng đêm.

Anh đi xuống tầng hầm và cẩn thận bày ra tất cả những chai bia và rượu của mình, rồi ngồi vào giữa, như một vị tướng đang ngồi giữa đội ngũ sĩ quan phụ tá lên kế hoạch tác chiến. Nhưng anh vẫn chưa mở chai nào. Điện thoại kêu inh ỏi hồi lâu, nhưng Web nhất định không nghe máy.

Có tiếng người gõ cửa; anh cũng mặc kệ không ra. Web ngồi bất động lặng lẽ nhìn bức tường trước mặt như người mất hồn đến khi trời tối hẳn.

Tay anh sục qua mớ thuốc hổ lốn và nhặt ra một viên con nhộng. Anh chằm chằm nhìn nó hồi lâu rồi lại vứt vào chỗ cũ. Anh ngồi dựa vào một chiếc ghế và nhắm nghiền mắt. Đến bốn giờ sáng, anh ngủ thiếp đi trên sàn tầng hầm. Web thậm chí còn không thèm rửa mặt.

CHƯƠNG 14

Bảy giờ sáng. Web biết chắc chắn là như thế vì chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi đang đổ chuông lảnh lót, anh chếnh choáng bò dậy từ sàn nhà tầng hầm. Web giơ tay lên xoa lưng và cổ; khi ngồi dậy chân anh đạp vào một chai rượu vang khiến nó đổ văng và vỡ ra. Rượu Chianti chảy tràn ra sàn. Web ném chai rượu vào thùng rác, chụp lấy ít giấy vệ sinh và lau sạch vết rượu. Rượu dính vào tay anh đỏ choe choét. Và trong lúc vẫn còn chưa tỉnh hẳn, anh đã tưởng mình bị bắn khi đang ngủ.

Tiếng động bên ngoài cửa sổ phía sau nhà khiến anh chạy vội lên cầu thang và chụp lấy khẩu súng. Web đi ra cửa trước với ý định vòng ra đằng sau nhà và tấn công bất ngờ. Có thể chỉ là một con chó hoang hoặc một con sóc nhỏ, nhưng Web không nghĩ vậy. Tiếng bước chân người cố đi lại thật khẽ khàng bao giờ cũng có một âm thanh rất riêng nếu chúng ta biết cách nghe, mà Web thì đã nghe tiếng động này quá nhiều lần.

Vừa mở cửa ra, cả một biển người hiện ra trước mặt đã suýt nữa khiến Web giật mình và nổ súng. Các phóng viên đang vẫy lia lịa micrô, rồi giấy bút, tranh nhau tuôn ra hàng tràng câu hỏi nhặng xị. Tất cả đều ồn ào, rào rào như thể họ đang đồng loạt nói tiếng Quan hỏa chứ không phai tiếng Anh nữa. Họ hét lên, yêu cầu anh nhìn ra phía này, phía kia để họ chụp ảnh, quay phim, cứ như thể anh là một ngôi sao giải trí, hoặc đúng hơn là thột con thú lạ trong vườn thú. Web nhìn lướt qua đầu họ ra ngoài phố, nơi những con tàu của giới truyền thông với những cột buồn điện tử cao vút đã thả neo bên ngoài trang trại nhỏ của anh. Hai đặc vụ FBI có nhiệm vụ canh chừng nhà Web đang tỏ ra cố gắng ngăn can đám đông nhưng rõ ràng là họ đang thua trận.

“Các người muốn cái chết tiệt gì vậy?” Web gào lên.

Một người phụ nữ mặc bộ vest bằng vải lanh màu be nhạt, tóc vàng tỉa tót rất sành điệu, len lỏi về phía trước và đặt cả hai bàn chân đi guốc cao gót lên bậc thềm bằng gạch gần như áp thẳng vào mặt Web. Mùi nước hoa quá gắt của cô ta làm cái dạ dày rỗng tuếch của anh quặn lên.

Cô ta hỏi, “Có đúng là ông khai rằng ông đã ngã xuống ngay trước khi cả đội của ông bị giết nhưng lại không thể giải thích tại sao không? Và đó tà lý do tại sao ông còn sống sót?” Lông mày cô ta nhướng lên, băn khoăn trước chính câu chuyện lố bịch của mình.

Một phóng viên khác, một người đàn ông, chĩa thẳng micrô vào miệng Web. “Đã có những thông tin cho rằng thực ra ông không hề nổ súng, mà những khẩu súng máy đó tự động dừng lại vì lý do nào đó và thực ra ông không hề chịu mối nguy hiểm nào hết. Ông trả lời như thế nào về điều này?”

Người mỗi lúc một chen chúc hơn, những câu hỏi cũng theo đó mà tuôn ra không ngừng. “Có đúng là khi còn làm ở WFO ông đã bị quản thúc một thời gian vì để xảy ra nổ súng trái phép, khiến một nghi phạm bị thương không?”

Web ngỡ ngàng, “Cái thông tin quái quỷ đó ở đâu…?”

Một phụ nữ khác huých vào sườn anh. “Tôi nhận được nguồn tin đáng tin cậy nói rằng cậu bé mà anh 'tự nhận' là đã cứu sống thực ra lại là một kẻ tòng phạm trong toàn bộ vụ này.”

Web trừng trừng nhìn cô ta. “Tòng phạm của vụ gì? Của ai?”

Người phụ nữ xoi mói nhìn Web. “Tôi hy vọng ông sẽ trả lời câu hỏi đó.”

Web đóng sập cửa, chạy xuống bếp, lục tìm chìa khóa chiếc Suburban và quay ra ngoài. Anh chen lấn qua đám đông và đưa ánh mắt tìm kiếm đồng nghiệp của mình để yêu cầu giúp đỡ. Họ len về phía trước, xô đẩy, kéo giật vài người, nhưng Web có cảm giác họ không hề nhiệt tình làm điều đó, và nhất là họ đang lảng tránh ánh mắt của anh. Vậy ra mọi chuyện là thế đấy, Web tự nhủ.

Đám đông đột nhiên xô lại gần hơn, che kín đường trước mũi xe của anh.

“Tránh ra khỏi đường của tôi,” Web hét lên. Anh nhìn quanh. Toàn bộ người dân quanh đó đang chứng kiến cảnh này. Đàn ông, đàn bà, trẻ em, cả bạn bè anh lẫn người quen đều đang mở tròn mắt, há hốc miệng trước khung cảnh hỗn loạn này.

“Ông có định phản ứng trước những lời kết tội của bà Patterson không?”

Web đứng lại và nhìn sững vào mặt người vừa hỏi. Đó vẫn là tay phóng viên tại buổi lễ truy điệu. “Ông nghĩ sao?” anh ta hỏi rất dứt khoát.

“Tôi không hề biết rằng Julie Patterson lại có thẩm quyền đưa ra những lời kết tội,” Web lạnh lùng nói.

“Bà ấy đã nói rất rõ với ông rằng hoặc ông là kẻ hèn nhát hoặc đã dính dáng kiểu gì đó đến vụ thảm sát này. Nói đúng ra là ông đã bị mua đứt.”

“Cô ấy không ý thức được mình đang nói gì. Cô ấy vừa mất chồng và đứa con còn mang trong bụng.”

“Vậy có nghĩa ông khẳng định rằng những lời buộc tội đó là không có cơ sở?” Tay phóng viên vẫn không chịu buông tha anh, thậm chí anh ta còn đẩy micrô lại gần hơn. Ai đó xô anh ta từ phía sau khiến tay anh ta chĩa thẳng về trước, chiếc micrô va thẳng vào miệng Web làm anh bị chảy máu. Theo phản xạ, Web vung nắm đấm lên và tay phóng viên ngã lăn ra đất hai tay ôm mũi. Nhưng anh ta không hề tỏ ra sợ hãi hoặc giận dữ, mà còn luôn miệng gào lên với đội quay phim của mình, “Các anh có quay được cảnh đó không? Các anh có quay được không?”

Tất cả đều xô lại đông hơn, và Web kẹt giữa đám đông hỗn loạn, bị xổ đẩy giúi giụi. Những ống kính máy ảnh thay nhau chĩa vào mặt Web, làm anh lóa mắt. Những ống kính máy quay cũng thi nhau chĩa cận cảnh, hàng chục giọng nói đồng thanh rống lên, loạn xạ. Giữa vòng vây hỗn loạn, nào người nào máy đủ loại, Web vấp vào một sợi dây cáp và ngã ra. Đám đông bu cả lại, nhưng anh lại gồng mình đứng lên được.

Đúng lúc anh cảm tưởng như mình sắp phát điên, thì đột nhiên có một nắm đấm xương xẩu của ai đó nện thẳng vào lưng anh. Web quay đầu lại và nhận ra kẻ tấn công là một người đàn ông sống ở cuối phố từ trước đến nay vẫn chưa bao giờ coi Web là con người chứ đừng nói đến là hàng xóm. Trước khi Web kịp hành động để tự vệ, gã đánh trộm kia đã chạy biến đi. Web tuyệt vọng nhìn quanh, rõ ràng đây không phải là những phóng viên đang háo hức tìm kiếm một tác phẩm có thể giật giải Pulizer ([36]). Đám đông này chỉ là một bọn du thử du thực hỗn loạn.

“Quỷ bắt các người, tránh xa tôi ra,” Web gào lên. Anh quát gọi hai đặc vụ, “Các anh có giúp tôi hay không vậy?”

“Ai đó gọi cảnh sát ngay,” cô nàng tóc vàng thơm nức vừa hét lên vừa chỉ thẳng vào Web. “Anh ta vừa hành hung người phóng viên khốn khổ kia, tất cả chúng ta đều chứng kiến tận mắt.” Cô ta cúi xuống giúp đỡ người phóng viên đồng nghiệp, trong khi một loạt người xung quanh thò tay vào túi rút điện thoại di động.

Web nhìn quanh mớ hỗn độn mà anh chưa bao giờ phải trải qua, và đã phải chịu đựng nhiều hơn bất kỳ ai khác. Nhưng với anh thế này là quá đủ rồi. Web rút súng ra. Hai nhân viên đặc vụ FBI nhìn thấy và tỏ ra chú ý ngay lập tức. Web chĩa thẳng súng lên trời và bắn liền bốn phát chỉ thiên. Xung quanh anh đám đông dạt ra đổ rạp xuống. Nhiều người ngã lăn quay ra đất, gào khóc thảm thiết, cầu xin anh đừng bắn họ, rằng họ chỉ làm công việc của mình, cho dù đó là công việc thật bạc bẽo. Cô nàng tóc vàng thơm nức vứt đánh uỵch anh bạn đồng nghiệp xuống đất bẩn và bỏ chạy bán sống bán chết. Đôi guốc cao gót của cô ả mắc vào cỏ mềm làm cô ả ngã lăn ra. Cặp mông núng nính của cô phóng viên trở thành một tấm bia không thể bắn trượt nếu Web muốn nhắm vào. Anh chàng phóng viên với cái mũi đầy máu vẫn đang bò lổm ngổm trên mặt đất, khản giọng gọi đồng nghiệp, “Các anh có quay được không? Mẹ kiếp, Seymour, anh có quay được không?” Hàng xóm láng giềng bế xốc con cái và bỏ chạy về nhà. Web cất súng vào bao và bước về phía chiếc Suburban của mình.

Khi hai đặc vụ liên bang tiến về phía anh, tất cả những gì anh lạnh lùng nói là, “Đừng có nghĩ đến chuyện đó.” Anh trèo vào trong xe và khởi động máy, hạ cửa sổ xuống. “Cám ơn vì đã giúp đỡ,” anh nói với hai gã, rồi lái xe đi thẳng.

CHƯƠNG 15

“Anh điên rồi à?” Buck Winters trợn mắt nhìn Web đang đứng cạnh cửa trong phòng họp nhỏ của Văn phòng Địa bàn Washington, bên cạnh anh là Percy Bates. “Rút súng ra và nổ súng, ngay trước một đống phóng viên, và lại còn để chúng ghi hình toàn bộ sự việc khốn kiếp đó nữa. Anh mất trí rồi à?” Ông ta đay nghiến.

“Cũng có thể!” Web vặc lại. “Tôi muốn biết ai đã để lộ thông tin cho Julie Patterson. Tôi cứ đinh ninh cuộc điều tra về đội Charlie được xếp vào loại thông tin tuyệt mật. Làm thế quái nào mà cô ấy lại biết những gì tôi đã nói với các điều tra viên?”

Winters khinh bỉ nhìn Percy. “Bates, anh từng là người chỉ đạo gã này. Làm thế quái nào mà anh lại đào tạo được một tay hỏng nặng như thế chứ?” Ông ta quay lại nhìn Web. “Có cả đống người khác nhau điều tra vụ này. Đừng có làm ra vẻ gái trinh xấu hổ khi bị hở ngực áo như thế, nhất là đây lại là việc một người vợ muốn biết chuyện gì đã xẩy ra với chồng mình. Anh mất trí rồi, Web, và anh đã làm mọi việc rối tung lên, có vẻ như đây không phải lần đầu tiên.”

“Nghe này, tôi vừa ra khỏi cửa thì chúng đã bâu kín lấy tôi. còn đồng đội của tôi đứng đó chỉ khoanh tay đứng nhìn. Người ta đấm đá tôi, gào thét buộc tội tôi. Tôi chỉ làm điều mà bất kỳ ai khác ở cương vị tôi cũng phải làm.”

“Cho anh ta xem anh ta đã làm gì đi, Bates. Bates lặng lẽ bước tới bên chiếc TV kê trong góc phòng. Anh cầm một chiếc điều khiển lên và bấm vài nút trên đó.

“Vụ Báo chí của Cục gửi lời khen đấy,” Winters mỉa mai. Cuốn băng bắt đầu chạy, Web nhìn thấy khung cảnh trong nhà thờ hôm tổ chức buổi lễ truy điệu. Và kia là hình ảnh anh đang đứng nhìn Julie Patterson xoa cái bụng đã mất con của cô ta, rồi cô ta gào thét, nhổ bọt vào mặt anh tát anh. Và anh vẫn đứng im chịu trận. Lời tuyên bố rằng anh đã làm tất cả những gì có thể không hiểu sao đã biến mất rất bí hiểm, hoặc ít nhất thì cũng không ai nghe thấy. Trong cuốn băng, tất cả những gì anh nói với Julie là, “Tôi xin lỗi.” Câu nói đó khiến Web chẳng khác nào kẻ đã tự tay bóp cò giết chết Lou Patterson.

“Chưa phải phần hay nhất đâu,” Winters gằn giọng rồi đứng dậy và giật lấy chiếc điều khiển từ tay Bates. Ông ta nhấn nút và Web nhìn màn hình chuyển sang cảnh bên ngoài nhà anh. Cảnh quay này đã được biên tập lại rất công phu để tạo ra một khung cảnh thật yên bình, đám đông điên loạn đã biến đâu mất, cảnh quay được thu hẹp lại rất nhiều. Mỗi phóng viên đang hỏi đều tỏ ra rất kiên quyết, truy vấn đến cùng, nhưng vẫn lịch sự và chuyên nghiệp. Cả anh chàng mà Web đã nện cũng trông toát lên một vẻ cực kỳ anh hùng, bất chấp máu mũi đang chảy ròng ròng anh ta vẫn tiếp tục giới thiệu với khán giả những cảnh điên rồ mà họ sắp được chứng kiến. Và kia là Web, trông như một con chó điên thù địch. Anh đang gào thét, chửi tục, và cuối cùng là rút súng ra. Tốc độ phim lúc này đột nhiên chậm lại khiến cho hành động rút súng của anh trông như hoàn toàn có chủ ý, có kiểm soát, chứ không còn là hành động phản ứng tự vệ nữa. Tiếp sau đó là những hình ảnh cực kỳ kịch tính miêu tả cảnh hàng xóm láng giềng chạy tán loạn, bế xốc nách trẻ con chạy khỏi con quái vật đang nổi điên. Lạnh lùng, tàn nhẫn. Web đút súng vào bao và bước khỏi mớ hỗn loạn mà anh đã gây ra.

Web chưa bao giờ chứng kiến một đoạn phim nào được cắt gọt tài tình như vậy, ngoài những bộ phim của Hollywood. Trong cuốn băng, anh xuất hiện như một kẻ tàn ác, độc địa, người đàn ông với khuôn mặt của Frankenstein. Ống kính máy quay nhiều lần lia cận cảnh vào phần mặt bị thương của anh, nhưng không hề đề cập đến việc anh đã bị thương như vậy trong những hoàn cảnh nào.

Web lắc đầu nhìn Winters rồi thốt lên, “Mẹ kiếp, đó không phải những gì đã xảy ra. Tôi đâu phải là Charlie Manson ([37]).”

Winters rít lên “Đếch ai thèm quan tâm là đúng hay không? Định kiến của người xem mới là tất cả. Giờ thì những đoạn phim đó đã được phát trên tất cả những kênh truyền hình trong thành phố. Và sẽ sớm phát trên toàn quốc thôi. Xin chúc mừng, anh đã trở thành một sự kiện nóng hổi rồi. Khi được báo cáo về vụ này Giám đốc đã phải bỏ dở một cuộc họp cấp cao ở Denver để quay về đây. Vụ này thì anh tiêu rồi, Web, tiêu hẳn rồi.”

Web thả phịch người xuống một chiếc ghế và lặng thinh. Bates ngồi bên cạnh, tay gõ gõ một chiếc bút trên mặt bàn.

Winters đứng trước mặt anh, hai tay chắp sau lưng. Web có cảm giác ông ta đang thích thú trước sự việc này.

“Giờ thì anh biết rằng điều lệ chính thức của Cục trong việc giải quyết những tình huống như thế này là không làm gì hết. Từ trước đến nay chúng ta vẫn theo chủ trương con đà điểu vùi đầu trong cát. Có lúc có tác dụng, có lúc không, nhưng dù thế nào thì cấp trên vẫn thích chiến thuật thụ động. Càng nói ít càng tốt.”

“Mặc xác họ. Tôi không hề yêu cầu Cục phải đứng ra gánh đạn thay cho tôi, Buck.”

Bates chen vào. “Không, Web, chúng tôi không thể để sự việc theo hướng tự chìm xuồng được, không phải lần này.” Bates vừa nói vừa bấm ngón tay để liệt kê. “Thứ nhất, những người phụ trách quan hệ với giới truyền thông đang chuẩn bị cho công bố một cuốn phim tuyên dương anh. Ngay lúc này đây cả thế giới cho rằng anh là một kẻ điên khùng. Nhưng họ sẽ phải biết rằng anh là một trong những đặc vụ nhiều thành tích nhất của Cục. Chúng tôi sẽ cho ra nhiều thông cáo báo chí để trình bày chi tiết về nội dung này. Thứ hai, mặc dù chỉ muốn bóp cổ anh ngay lúc này, nhưng Buck đây sẽ chủ trì một cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp vào chiều ngày mai để tuyên bố rõ ràng rằng anh là một đặc vụ xuất sắc như thế nào, và chúng tôi sẽ cho chiếu cuốn phim tuyên dương anh một cách rầm rộ nhất. Có thể chúng tôi cũng sẽ tiết lộ một số chi tiết về những gì xảy ra trong con hẻm đó để chứng minh rằng anh không hề bỏ chạy và hèn nhát mà đã một mình phá tan lực lượng hỏa lực đủ để tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh.”

Web bật dậy “Anh không thể làm thế được trong lúc cuộc điều tra vẫn chưa kết thúc. Rất có thể chúng ta sẽ làm lộ một số đầu mối.”

“Chúng ta đành chấp nhận mạo hiểm vậy.”

Web quay sang nhìn Winters. “Tôi đếch thèm quan tâm những kẻ đó nói gì về tôi! Tôi biết những gì mình làm. Và điều tôi không muốn là làm bất kỳ điều gì có thể ảnh hưởng đến việc tìm ra kẻ đã giết hại cả đội của tôi!”

Winters gí sát mặt mình vào mặt Web. “Nếu là do tôi quyết định, thì anh đi tong rồi. Nhưng đối với nhiều người trong Cục thì anh là một loại anh hùng, và họ đã quyết định rằng chúng tôi sẽ phải gánh đạn thay cho anh. Tin tôi đi, chính tôi đã phản đối ý tưởng này, vì nếu xét từ quan điểm PR ([38]) điều đó chẳng giúp được gì cho Cục, mà chỉ đánh bóng tên tuổi cho anh thôi.” Ông ta liếc xéo sang Bates. “Nhưng anh bạn của anh đây đã giành chiến thắng trong trận đánh đó.”

Web ngạc nhiên nhìn sang Bates.

Winters tiếp tục, “Nhưng không phải là cả cuộc chiến đâu. Và tôi sẽ không để yên cho anh thành một vị thánh tử vì đạo đâu.” Winters liếc nhìn vào khuôn mặt méo mó của Web. “Một vị thánh tử vì đạo có khuôn mặt méo xệch. Giờ thì Perce sẽ hướng dẫn cho anh trò hề phí công vô ích của Cục mà chúng tôi phải làm để dọn cái đống bừa bộn mà anh đã bày ra. Tôi không ở lại đâu, vì điều đó làm tôi thấy buồn nôn. Nhưng nghe này London, và nghe cho rõ vào. Ngay lúc này đây anh đang ở tình trạng mành chỉ treo chuông, và tôi, chính tôi sẽ rất lấy làm vui lòng được cắt béng sợi chỉ đó. Tôi sẽ theo anh rất sát để có thể đếm từng hơi thở của anh. Và nếu anh mắc sai lầm, chắc chắn là sẽ sớm thôi, chiếc búa sẽ giáng xuống và anh đi tong mãi mãi, tôi sẽ ăn mừng bằng một điếu xì gà lớn nhất mà tôi có. Anh rõ chứ?”

“Vâng, rõ hơn rất nhiều so với những mệnh lệnh của ông ở Waco.” Winters đứng thẳng dậy và hai người đàn ông gườm gườm nhìn nhau.

Web lên tiếng trước, “Buck ạ, lúc nào tôi cũng tự hỏi tại sao ông lại là người duy nhất trong hệ thống chỉ huy - xin lỗi, phải gọi là hệ thống gây hỗn loạn thì đúng hơn - của vụ bung bét đó vẫn còn thăng tiến trên con đường sự nghiệp. Ông biết không, khi đó tôi là xạ thủ bắn tỉa đang nằm phục bên ngoài, đã mấy lần tôi nghĩ chắc ông làm việc cho bọn Branch Davidians thì mới có thể đưa ra những quyết định ngu xuẩn như thế được.”

Bates đanh giọng, “Web, câm cái miệng chết tiệt của anh đi.” Anh lo lắng nhìn Winters. “Tôi có thể tự giải quyết việc ở đây mà Buck.”

Winters trừng trừng nhìn Web thêm vài giây nữa rồi quay người hướng ra cửa, nhưng ông ta vẫn quay đầu lại. “Nếu tôi mà được quyền quyết định thì sẽ không còn cái đội HRT chó chết của anh nữa đâu, và chắc chắn là tôi sẽ sớm có cái quyền đó thôi. Và thử đoán xem ai sẽ là thằng chó đẻ đâu tiên phải đi tong? Lúc đó anh mới biết thế nào là chỉ huy.” Winters đóng sầm cửa lại.

Web thở phù ra một hơi rất dài mà đến lúc này anh mới nhận ra là anh đã nín thở từ nãy đến giờ. Bates bực bội bước tới ngay trước mặt anh. “Tôi giơ cổ ra xin nói hộ anh, tác động tất cả những mối quan hệ mà tôi có trong Cục thế mà anh đã đổ hết xuống sông xuống biển, sao anh dám nói với Winters như thế? Anh có phải là một thằng điên khốn kiếp không chứ?”

“Tôi đoán là tôi điên thật,” Web trả lời một cách ương bướng.“Nhưng tôi chẳng hề yêu cầu việc này. Báo chí muốn hành tôi thế nào cũng được, nhưng không có gì, không có gì được phép làm ảnh hưởng đến cuộc điều tra hết.”

“Anh làm tôi bị nhồi máu cơ tim mất, không sớm thì muộn thôi.” Cuối cùng thì Bates cũng bình tĩnh lại. “Thôi được rồi, bây giờ anh sẽ phải như thế này. Trước hết cần phải lánh mặt một thời gian. Đừng về nhà. Chúng tôi sẽ kiếm cho anh một chiếc xe từ kho xe của Cục. Anh cứ đi đâu đó ở tạm một thời gian. Cục sẽ thanh toán các hóa đơn. Chúng ta sẽ liên lạc qua số di động được bảo mật của anh. Thường xuyên chủ động vào đây nhé. Mặc dù ngay lúc này tình hình có vẻ bi đát, nhưng sẽ ổn thôi sau khi chúng ta có tuyên bố chính thức. Và nếu trong vòng ba mươi năm nữa, bất kỳ lúc nào tôi thấy anh đứng gần Buck Wintes, chính tay tôi sẽ bắn chết anh. Giờ thì cút khỏi đây đi!” Bates đi ra cửa, nhưng Web vẫn đứng yên.

“Perce, tại sao anh phải làm những chuyện này? Anh đang mạo hiểm để bảo vệ tôi đấy.”

Bates cúi nhìn sàn nhà hồi lâu. “Nghe thì có vẻ sến, và quả là sến thật, nhưng vẫn là sự thật. Tôi đang làm việc này vì Web London mà tôi biết đã sẵn sàng hy sinh mạng sống của anh ta cho cái Cục này không biết bao lần rồi. Bởi vì tôi đã chứng kiến anh nằm mê man trong bệnh viện suốt ba tháng trời mà không dám chắc anh có qua được hay không. Lẽ ra anh đã có thể nghỉ hưu mà vẫn được thanh toán toàn bộ tiền phúc lợi, thậm chí là với mức tiền về hưu cao nhất, như một vị anh hùng. Đi câu cá hay làm bất kỳ chuyện chết tiệt nào cũng còn chán vạn lần tốt hơn là làm cho Cục. Nhưng anh đã quay lại và tiếp tục giơ đầu hứng đạn. Tôi không biết nhiều người dám làm như vậy.” Anh thở ra một hơi rất dài. “Và tôi biết những gì anh đã làm trong con hẻm đó cho dù cả thế giới chẳng ai biết và tin gì hết. Nhưng chắc chắn rồi họ sẽ phải biết thôi, Web. Không còn lại nhiều anh hùng thời buổi này đâu, nhưng anh là một người trong số đó. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói về chuyện này. Và đừng bao giờ, đừng bao giờ hỏi lại tôi nữa đấy.” Anh bước ra ngoài và bỏ mặc Web ngồi lại một mình mà suy nghĩ về một khía cạnh khác của Percy Bates.

Đã gần nửa đêm và Web bắt đầu hành động. Anh trèo qua các hàng rào và luồn vào trong vườn nhà hàng xóm. Mục tiêu của đêm nay rất đơn giản nhưng cũng thật khó tin. Anh phải chui vào trong nhà của chính mình qua cửa sổ sau vì giới truyền thông vẫn đang bu kín cửa trước chờ đợi bâu lấy anh. Và nhấn chìm anh vĩnh viễn. Hai nhân viên an ninh mang sắc phục của Cục cũng có mặt, ngoài ra còn có một sĩ quan cảnh sát tuần tra của bang Virginia, ánh đèn xe tuần tra chiếu loang láng khắp khoảng sân trước cửa. Web hy vọng sẽ không còn những đám đông hỗn loạn, cùng với đó là những mớ bòng bong. Mà dù thế nào cũng mặc xác, chỉ cần không ai xía vào việc anh trèo vào nhà mình qua cửa sổ phòng tắm là đủ.

*

Web lặng lẽ gói ghém một túi đồ lề vũ trang trong bóng tối, lấy thêm mấy băng đạn, một số thứ linh tinh mà có thể anh sẽ cần đến, rồi lại bò ra ngoài. Anh vượt qua hàng rào và trườn vào trong vườn nhà hàng xóm, rồi dừng lại nghe ngóng. Anh mở túi đồ, lấy ra một chiếc ống nhòm hồng ngoại nhìn đêm chạy bằng pin, qua ống kính khung cảnh trước mắt anh hiện ra rõ mồn một như ban ngày, có điều là hơi pha chút màu xanh lơ.

Web chăm chú theo dõi đội quân hổ lốn đang cắm trại trước cửa nhà anh và điều chỉnh tiêu cự của ống kính để quan sát rõ hơn. Tất cả những con người đó lúc này đều chỉ có chung một mục đích duy nhất trong đời là tìm kiếm những điều bẩn thỉu, giật gân và câu khách, bất chấp sự thật. Nỗi căm giận trào lên trong lòng Web khiến anh tụ nhủ khi có cơ hội sẽ phải chơi lại chúng. Và ngay lúc này anh cũng có thể tung ra đòn trả đũa thật thích đáng. Web rút ra một khẩu súng bắn pháo sáng, nạp đạn vào, nhắm thẳng vào một điểm trên trời, ngay phía trên đầu đám người kia và bóp cò. Quả pháo sáng lao vút lên trên, nổ tung và tỏa ra một màu vàng chanh rực rỡ. Qua ống nhòm, Web chứng kiến cảnh đám đông những con người tinh túy và tiêu biểu của giới truyền thông ai nấy mắt tròn mắt dẹt vì khiếp đảm, gào thét kinh hoàng và chạy túa ra khắp nơi. Cuộc sống thật ngọt ngào vì những điều thật bé nhỏ và giản dị: những cuộc đi dạo xa, những trận mưa rào mát mẻ, những chú cún con xinh xắn, và nhất là khi được làm đám phóng viên cao ngạo kia phải sợ đến vãi linh hồn.

Anh rảo bước ra chỗ đậu chiếc xe Crown Vic mà Bates đã bố trí cho anh mượn và lái đi. Đêm đó Web ngủ trong một nhà nghỉ tồi tàn cạnh Đường số Một phía nam Alexandria, nơi anh có thể thanh toán bằng tiền mặt, không bị ai quấy rầy. Ở những nơi như thế này, hình thức dịch vụ tận phòng duy nhất là túi đồ ăn nhanh McDonald mà bạn mang theo, hoặc chiếc máy bán nước ngọt và đồ ăn nhanh xập xệ được xích vào một cây cột bẩn thỉu đặt bên ngoài phòng. Anh xem ti vi, ăn bánh mì kẹp thịt và pho mát cùng với khoai tây chiên. Xong xuôi, Web rút lọ thuốc từ trong túi ra và nuốt vội hai viên. Một lát sau, anh chìm vào giấc ngủ sâu, không hề bị những cơn ác mộng giày vò một lần nào.

CHƯƠNG 16

Một sáng thứ Bảy tinh sương, Scott Wingo đẩy chiếc xe lăn của mình lên đoạn dốc thoai thoải và mở khóa cửa tòa nhà bốn tầng bằng gạch xây từ thế kỷ mười chín mà ông vẫn sử dụng làm văn phòng luật. Vợ chồng ông đã ly dị từ lâu, con cái đều đã trưởng thành. Wingo có một văn phòng luật bào chữa hình sự khá thành công ở Richmond, thành phố nơi ông đã sống kể từ khi sinh ra và lớn lên đến nay. Thứ bảy là khoảng thời gian ông có thể đến văn phòng mà không bị quấy rầy bởi những hồi chuông điện thoại chói tai, tiếng gõ bàn phím lách cách, những cộng sự cáu bẳn và những khách hàng khó tính. Ông đã phải chịu đựng những trò vui đó cả tuần rồi. Ông vào trong tòa nhà, tự pha cho mình một ấm cà phê, pha thêm một chút whiskey ngô Gentleman Jim ưa thích rồi lăn xe vào phòng làm việc.

Văn phòng Tư vấn luật Scott Wingo và Cộng Sự đã hoạt động ở Richmond được gần ba mươi năm. Trong suốt thời gian đó Wingo phát triển từ chỗ chỉ là một luật sư đơn độc làm việc trong văn phòng bé tẹo như cái kho chứa đồ, nhận bào chữa cho bất kỳ ai có đủ được số tiền mặt để trả công cho ông, thành người đứng đầu một hãng luật có sáu cộng sự, một thám tử tư chuyên điều tra sau sự vụ, và một đội ngũ nhân viên giúp việc gồm tám người. Với tư cách là cổ đông duy nhất của hãng, mỗi năm thu nhập của Wingo lên đến bảy con số trong những năm phát đạt, tệ nhất cũng ở mức giữa sáu con số. Những thân chủ của ông bao giờ cũng là dân lắm tiền nhiều của. Đã có thời gian, ông nhất định từ chối bào chữa cho những người dính án ma túy, nhưng quả thật là chính những người này mới lại có nhiều tiền nhất và Wingo đã quá chán cảnh phải nhìn những đồng đô la béo bở đó rơi vào tay những luật sư kém xa ông. Wingo tự thuyết phục mình rằng, bất kỳ ai, cho dù đã làm những việc đáng ghê tởm đến đâu chăng nữa, cũng xứng đáng có được một luật sư bào chữa năng lực nhất.

Wingo đã dày dạn những kỹ năng và kinh nghiệm của một luật sư bào chữa trước tòa, và sự xuất hiện của ông trước bồi thẩm đoàn cũng không hề mảy may suy xuyển chút nào sau khi ông phải gắn mình vào chiếc xe lăn cách đây hai năm vì bệnh đái tháo đường và suy gan, suy thận. Thậm chí ông cảm thấy chính tình trạng sức khỏe hiện nay còn giúp ông có thêm sức nặng và ảnh hưởng khi xuất hiện trước bồi thẩm đoàn. Không biết bao nhiêu luật sư trong bang cũng phải ghen tỵ với những thành công của Wingo. Nhưng ông cũng là đối tượng bị căm ghét vì nhiều người coi ông chỉ là công cụ để bọn tội phạm giàu sụ thoát khỏi những bản án thích đáng mà lẽ ra chúng đã phải lãnh nhận cho những tội ác khủng khiếp của mình.

Tất nhiên là Wingo không nghĩ vậy, nhưng cũng đã từ lâu ông không tìm cách tranh luận về chủ đề này nữa vì đó là một trong những chủ đề hiếm hoi mà ông cho rằng không đáng mất công tranh luận cho mệt sức.

Ông sống trong ngôi nhà lộng lẫy ở Windsor Farms, một khu vực giàu có và sang trọng dành cho giới thượng lưu ở Richmond, đi lại bằng một chiếc Jaguar dòng sedan được thửa riêng cho phù hợp với tình trạng sức khỏe của mình; thực hiện những chuyến đi nghỉ và làm việc xa xỉ ở nước ngoài bất kỳ lúc nào ông muốn; đối xử tốt với các con; hào phóng và tử tế với người vợ đã ly dị vẫn sống trong ngôi nhà trước kia của họ. Nhưng phần lớn thời gian là ông làm việc. Dù mới năm mươi chín tuổi, nhưng có thể nói Wingo đã sống lâu hơn tất cả những gì người ta dự đoán từ trước đến nay về tuổi thọ của ông. Những lời dự đoán này bắt nguồn từ tình trạng bệnh tật của ông, hoặc xuất phát từ những mối đe đoạ của những thân chủ hậm hực hoặc những người phía bên nguyên cảm thấy bản án quá bất công chủ yếu là do Wingo đã làm điều mà lâu nay ông vẫn làm tốt nhất: đó là tạo ra được mối nghi ngờ cho các thành viên đoàn bồi thẩm về lời kết tội đối với bị đơn mà ông bào chữa. Nhưng lúc này thì tự ông biết là thời gian dành cho ông đang hết dần. Ông có thể nhận thấy điều đó qua những bộ phận rệu rã trong cơ thể, cảm giác kiệt sức đến rã rời, quả tim dường như từ chối nhiệm vụ lưu thông máu. Ông hình dung ra cảnh mình sẽ làm việc cho đến tận lúc chết. Nếu được như thế thì cũng không phải là cách ra đi quá tệ.

Wingo nhấp một ngụm cà phê pha whiskey và nhấc điện thoại. Ông có sở thích là làm việc qua điện thoại, kể cả là những dịp cuối tuần, nhất là khi ông cần gọi lại cho những người mà ông không muốn nói chuyện.

Hiếm khi những người này có mặt ở văn phòng vào sáng thứ bảy, nên ông chỉ việc để lại cho họ một lời nhắn, rằng ông rất lấy làm tiếc khi không gặp họ. Ông gọi liền mười cuộc như vậy và cảm thấy sảng khoái hơn rất nhiều. Miệng ông mỗi lúc một khô, có lẽ là vì phải nói nhiều quá. Ông nhấp thêm một ngụm cà phê nữa, rồi quay sang bản hồ sơ biện hộ của một vụ án mà ông đang thụ lý. Nếu hồ sơ biện hộ này được công nhận, ông sẽ phủ nhận được những bằng chứng liên quan đến vụ việc được xem là băng nhóm trộm cắp có tổ chức này. Hầu hết người ta đều không biết rằng các vụ kiện đã ngã ngũ từ trước khi phiên tòa diễn ra. Trong vụ này, nếu bản biện hộ được công nhận sẽ không có phiên tòa nào hết vì bên công tố sẽ không còn cơ sở nào để truy tố thân chủ của ông.

Sau vài giờ làm việc và thêm một số cuộc điện thoại khác, ông tháo kính ra và ngồi dụi dụi mắt. Căn bệnh đái tháo đường khốn kiếp đang tàn phá tất cả những bộ phận trên cơ thể ông, và mới tuần trước ông được biết rằng ông còn bị bệnh tăng nhãn áp. Có lẽ Chúa đang đòi ông về, vì những công việc mà ông đã làm trên trái đất này.

Ông có cảm giác như vừa nghe thấy tiếng cửa mở ở đâu đó và nghĩ rằng có thể đó là một trong những cộng sự được trả lương cao quá mức của ông vừa lang thang đến văn phòng làm thêm một chút cuối tuần cho đỡ áy náy. Những anh chàng trẻ tuổi thời buổi này, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp của họ hoàn toàn khác so với thế hệ của Wingo, mặc dù họ kiếm được hàng đống tiền. Trong suốt mười lăm năm đầu tiên khi khởi nghiệp phòng luật này, có cuối tuần nào ông dám nghỉ lấy dù chỉ một ngày? Bọn trẻ ranh ngày nay cứ làm quá sáu giờ một chút là lại kêu rầm lên. Mẹ kiếp, ông đến chết mất với đôi mắt đau nhức. Ông uống nốt cốc cà phê, nhưng cơn khát quay trở lại ngay lập tức và còn tồi tệ hơn. Ông kéo ngăn bàn, lấy ra chai nước để sẵn ở đó và tu ừng ực. Giờ thì đầu ông cũng giật giật, đau buốt. Lại còn cái lưng mỏi nhừ nữa chứ. Ông đặt một ngón tay lên cổ tay và nhẩm đếm. Chà, mẹ kiếp, mạch của ông cũng đập loạn lên rồi; nhưng thực ra có ngày nào mà không thế. Ông đã tiêm một liều insulin rồi và phải đến tối mới cần tiêm thêm liều thứ hai; mặc dù vậy, ông vẫn băn khoăn không biết có cần tiêm sớm thêm một chút không. Có lẽ lượng đường trong máu ông đang tụt thảm hại. Lâu nay lúc nào ông cũng phải điều chỉnh lượng insulin, vì ông không thể nào biết dùng liều lượng thế nào cho đủ. Bác sĩ đã bắt ông phải bỏ rượu, nhưng đừng hòng có chuyện đó, Wingo biết chắc. Đối với ông, whiskey là một nhu cầu không thể thiếu chứ không phải là một thói xa xỉ.

Lần này thì ông tin chắc là có tiếng mở cửa. “Xin chào,” ông gọi với ra ngoài. “Mày đấy à, Missy?” Missy, ông nghĩ, Missy là tên con chó khốn kiếp của ông, đã chết mười năm nay rồi. Vậy cái tiếng động quái quỷ đó ở đâu ra nhỉ? Ông cố gắng tập trung vào hồ sơ trước mặt, nhưng mắt ông như mờ đi, nhòe nhoẹt, và cơ thể ông bắt đầu có những hành động thật lố bịch khiến Wingo chợt cảm thấy sợ hãi. Mẹ kiếp, có khi ông bị nhồi máu cơ tim cũng nên, mặc dù ông không hề cảm thấy cơn đau nào trong ngực, không thấy cảm giác giật giật âm ỉ bên vai và cánh tay trái.

Ông ngước nhìn đồng hồ nhưng không thể xác định được là mấy giờ nữa. Được rồi, ông phải làm gì đó thôi. “Xin chào ông lại gọi với ra. “Cứu tôi với, tôi ở trong này.” Ông nghĩ ông vừa nghe thấy tiếng bước chân ai đó chạy lại, nhưng rồi chẳng nhìn thấy ai cả. Được rồi, mẹ kiếp, ông nghĩ. “Bọn chó đẻ,” ông gào lên. Ông nhấc ống nghe và cố đưa ngón tay nhấn phím số chín và nhấn phím số một hai lần. Ông chờ đợi, nhưng không có ai nghe máy. Mẹ kiếp, tôi đã phải đóng thuế, để rồi quay số 911 mà không ai nghe máy là sao. “Cứu tôi với,” ông thều thào vào máy. Và rồi ông nhận ra là đường dây không hề có tín hiệu nào. Ông dập máy và nhấc lại ống nghe lên. Vẫn không có tín hiệu. Mẹ kiếp, chó chết thật. Ông ném thẳng ống nghe xuống lăn lóc trên sàn nhà. Wingo chụp tay lên cổ áo, mỗi lúc ông lại thấy khó thở hơn. Đã mấy lần ông định kiếm một chiếc điện thoại di động, nhưng rồi lại chẳng bao giờ thực hiện. “Có ai ở ngoài đó không, mẹ kiếp?” Giờ thì ông có thể nghe thấy tiếng bước chân. Hơi thở của ông mỗi lúc một khó khăn, như thể có gì đó chẹn mất thực quản. Mồ hôi túa ra đầm đìa, ông cố rướn lên nhìn ra ngưỡng cửa. Qua ánh mắt lờ mờ ông nhìn thấy cửa đang mở ra. Người đó bước vào.

“Mẹ?” Mẹ kiếp, chắc chắn đó là mẹ ông, nhưng mà đến tháng mười một này bà ấy chết được hai mươi năm rồi cơ mà. “Mẹ ơi, cứu con với, con không thở được.”

Tất nhiên là chẳng có ma nào hết. Wingo đã bắt đầu mê sảng.

Giờ thì ông phải trườn xuống sàn nhà, ông không thể nào ngồi thẳng trên ghế được nữa. Ông bò trên sàn nhà, đến chỗ mẹ, hơi thở khò khè, hổn hển. “Mẹ,” ông khàn khàn nói với hình bóng mà ông nhìn thấy trước mặt. “Mẹ phải cứu con với, con chết mất.” Ông đến bên bà để rồi bà vụt biến mất trước mặt ông, thế đấy, đúng lúc ông cần bà nhất. Wingo gục đầu xuống sàn nhà và từ từ nhắm mắt lại.

“Có ai ngoài đó không? Cứu tôi với,” ông hắt ra lần cuối cùng.

CHƯƠNG 17

Francis Westbrook có cảm giác như đang bị bủa vây tứ phía. Tất cả những địa điểm làm ăn, giao dịch thông thường của hắn đều không thể dùng được nữa. Hắn biết, bọn an ninh liên bang đang lần theo dấu hắn, và chắc chắn cả kẻ nào gài hắn vào chuyện này cũng chỉ chờ hắn lộ mặt để ra tay. Westbrook không còn tin vào bất kỳ điều gì được nữa. Trong thế giới đầy bất trắc của mình, chỉ có tính đa nghi đến mức hoang tưởng mới là điều duy nhất giúp hắn sống được. Vì thế lúc này, hoặc ít nhất là trong vòng một tiếng nữa, hắn đang ở tạm phía sau một kho thịt đông lạnh ở Đông Nam D.C. Chỉ cách chỗ hắn đang ngồi co ro có mười phút lái xe là đồi Capitol và những công trình quốc gia vĩ đại khác. Westbrook đã sống cả đời ở Washington nhưng chưa bao giờ đặt chân đến bất kỳ công trình nào. Những công trình kỳ vĩ của một dân tộc vĩ đại hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với hắn. Westbrook thậm chí còn không tự coi mình là một người Mỹ, một người Washington, một công dân hay bất kỳ thứ gì khác.

Hắn chỉ là một tay dao búa đang tìm cách sống sót qua ngày. Năm lên mười, mục tiêu của hắn là sống đến năm mười lăm tuổi. Rồi sau đó mục tiêu lại là cố sống đến hai mươi trước khi bị giết. Rồi là hai mươi lăm. Cách đây vài năm khi tròn ba mươi tuổi, hắn đã tự tổ chức cho mình một bữa tiệc linh đình như người ta mừng thượng thọ bát tuần, vì trong thế giới của hắn, thì ba mươi cũng có nghĩa là tám mươi rồi. Tất cả chỉ là tương đối, nhất là trong mắt Francis Westbrook thì điều đó lại càng rõ ràng.

Điều vướng bận lớn nhất trong tâm trí hắn bây giờ là tại sao hắn đã để mọi chuyện của Kevin đến nông nỗi này. Khát khao để thằng bé có được cuộc sống bình thường đã khiến hắn chểnh mảng việc bảo đảm an toàn cho Kevin. Đã có giai đoạn hắn giữ thằng bé sống bên mình suốt cả ngày, nhưng rồi một xích mích nhỏ giữa các băng nhóm đã bùng lên thành một cuộc giao tranh thực sự, Kevin đã bị bắn vào mặt và suýt chết. Francis còn không thể đưa em đến bệnh viện vì rất có thể hắn sẽ bị bắt. Sau đó, hắn quyết định để Kevin sống một cuộc sống tạm gọi là gia đình, một bà già và đứa cháu ngoại. Hắn để mắt sát sao đến Kevin, và thường xuyên đến thăm nó bất kỳ lúc nào có thể; tuy nhiên, hắn để thằng bé được tự do vì đứa trẻ nào cũng cần điều đó.

Và quả thật là Kevin đã dần lớn lên khác hoàn toàn với Francis. Nó sẽ có một cuộc sống thực sự, tránh xa súng đạn và ma túy, và nhất là sẽ tránh được viễn cảnh bị đưa đến phòng giải phẫu tử thi với một thẻ số buộc trên ngón chân. Nếu ở gần Francis quá lâu, chứng kiến một cuộc sống như thế, bất kỳ đứa trẻ nào cũng có thể cảm thấy bị thôi thúc chỉ muốn thò chân xuống nước. Và một khi đã trót thử, bạn sẽ lao vào đó mãi mãi, không rút chân ra được, vì hồ nước trông có vẻ thanh bình đó chỉ toàn là cát lún, đầy rẫy những con rắn hổ mang lượn lờ xung quanh, giả vờ là bạn tốt của bạn, và chỉ cần bạn lơ là một giây thôi chúng sẽ cắm ngập nanh vào cổ bạn. Những chuyện đó sẽ không bao giờ được xảy ra với Kevin, Francis đã tự hứa với lòng mình như vậy khi Kevin chào đời, nhưng có lẽ mọi chuyện vẫn đã xảy ra. Sẽ thật là trớ trêu nếu hắn lại sống lâu hơn thằng em bé bỏng của mình.

Westbrook cầm đầu một băng đảng buôn bán ma túy làm ăn rất béo bở ở khu vực đô thị của D.C, nhưng hắn vẫn chưa một lần bị bắt, vì bất kỳ tội gì, dù là nhỏ nhất, mặc dù hắn đã hoạt động trong “nghề” này được hai mươi ba năm, khởi đầu từ khi còn rất trẻ và chưa bao giờ ngoái đầu nhìn lại, vì thực ra cũng chẳng có gì để mà nhìn lại. Hắn tự hào vì cái hồ sơ sạch sẽ của mình, dù hắn đã gây ra toàn những tội ác tày trời. Tất cả không đơn thuần chỉ là may mắn; kỳ thực phần lớn là do những kế hoạch rất khôn ngoan mà hắn vạch ra để tồn tại: hắn chỉ tiết lộ thông tin khi cần thiết với những kẻ đáng tin cậy, những kẻ đó sẽ thực hiện những mệnh lệnh hắn giao một cách khéo léo và kín đáo. Đó là vấn đề mấu chốt, đừng đánh động, đừng gây chuyện trên phố, đừng bắn ai nếu không thực sự cần thiết. Đừng gây khó dễ cho bọn FBI vì chúng có thừa đủ nhân lực và tiền bạc để biến cuộc sống của bạn thành địa ngục. Cuộc sống của hắn cũng đã quá đủ phức tạp rồi. Và nếu không còn Kevin thì đời gã coi như cũng chẳng còn gì nữa.

Hắn liếc nhìn Macy và Peebles, hai thằng lúc nào cũng gắn với hắn như hình với bóng. Hắn tin chúng nhiều như hắn tin bất kỳ ai khác, nghĩa là cũng chẳng nhiều nhặn gì cho lắm. Lúc nào hắn cũng mang theo súng trong người và đã hơn một lần cần đến nó để tự cứu mạng mình. Bạn chỉ phải học bài học đó đúng một lần thôi. Hắn quay ra phía cửa: thằng Toona khổng lồ vừa mới bước vào.

“Toona, mày có mang tin về không đấy? Tin tốt về Kevin.”

“Vẫn chưa có gì, thưa sếp.”

“Thế thì cút mẹ mày đi, chừng nào có tin thì hãy vác mặt về.”

Toona mặt mày sưng sỉa nhưng vẫn phải quay ra ngoài ngay lập tức. Westbrook quay sang nhìn Peebles.

“Thông báo tình hình xem nào, Twan.”

Antoine “Twan” Peebles ủ dột với tay cẩn thận sửa cặp kính đắt tiền của gã. Westbrook biết thừa là mắt thằng này tinh như ma. Gã đeo kính chỉ để lấy mẽ ngoài của một nhà quản lý làm ăn lương thiện - đúng là trò nực cười. Từ lâu Westbrook đã quyết định không thèm băn khoăn, day dứt gì thêm về công việc của mình nữa. Có lẽ số phận của hắn đã được định đoạt ngay từ giây phút hắn chào đời trên băng ghế sau một chiếc Cadillac, mẹ hắn vẫn đang hít côcain ngay cả khi Francis chui từ lòng bà ta ra. Người đỡ hắn trên tay là người tình của bà ta lúc đó. Gã đàn ông cắt rốn cho hắn bằng một con dao bẩn thỉu, rồi quẳng hắn sang một bên trước khi bắt bà mẹ vừa sinh con phải dùng miệng “chiều” mình luôn. Sau này bà mẹ đã kể cho Francis nghe câu chuyện hắn chào đời trong hoàn cảnh nào, một cách rất chi tiết và cụ thể, cứ như đó là câu chuyện tiếu lâm buồn cười nhất mà bà ta từng được nghe.

“Toàn tin xấu thôi,” Peebles nói. “Nhà cung cấp chính của chúng ta cho biết chừng nào nếu tình hình của ông không dịu bớt đi, ông ta cũng không chắc có thể giao thêm hàng hay không. Trong khi kho hàng dự trữ của chúng ta sắp cạn sạch rồi.”

“Mẹ kiếp, lại còn thế nữa,” Westhrook chửi thề. Hắn ngồi ngả hẳn ra phía sau, chán nản. Westbrook lúc nào cũng phải tỏ ra mạnh mẽ trước Peebles và Macy cũng như bọn đàn em của mình, nhưng thực sự là hắn đang gặp rắc rối to. Giống như bất kỳ nhà cung cấp nào, Westbrook phải có trách nhiệm đối với khách hàng của mình. Và nếu chúng không có được cái chúng cần từ hắn, chứng sẽ tìm đến người khác. Thời gian sống sót của hắn không còn nhiều nữa. Và chỉ cần một lần làm bọn kia thất vọng, thì đừng hòng nghĩ đến chuyện làm ăn lại với chúng nữa. “Được rồi, tao sẽ giải quyết việc đó sau. Mày biết thêm gì về thằng Web London kia rồi?”

Peebles mở một tập hồ sơ hắn đã rút ra từ chiếc cặp da luôn mang theo bên mình. Trước đó hắn đã cẩn thận dùng chiếc khăn tay thêu chữ lồng điệu đàng để lau sạch chỗ hắn đang ngồi, và không hề giấu giếm thái độ rằng phải tổ chức cuộc họp trong một lò mổ như thế này là một điều xúc phạm tới phẩm giá của hắn. Peebles chỉ thích tiền rủng rỉnh trong túi, quần áo hàng hiệu, những nhà hàng sang trọng và những cô em xinh đẹp sẵn sàng làm tất cả những gì hắn muốn. Hắn không bao giờ mang theo súng, vì như Westbrook biết, thậm chí Peebles còn không biết bắn súng như thế nào. Hắn bước chân vào giang hồ vào thời điểm buôn bán ma túy đã trở nên ít bạo lực hơn, có trật tự hơn, với những kế toán và máy tính, hồ sơ làm ăn, những thủ thuật biến tiền bẩn thành tiền sạch, xây dựng những danh mục đầu tư cổ phiếu và thậm chí là những ngôi nhà nghỉ sang trọng mà người chủ đến ở bằng máy bay phản lực riêng.

Hơn Peebles mười tuổi, Westbrook đã trưởng thành hoàn toàn từ đường phố. Hắn bán côcain với giá vài xu mỗi gói, ngủ trong những hang hốc bẩn thỉu, nhịn đói thường xuyên hơn là được ăn, trở thành bia hứng đạn và cũng trở thành người trút đạn lên kẻ khác khi cần tranh giành địa bàn làm ăn. Peebles làm tốt công việc của mình: hắn bảo đảm cho hoạt động buôn bán của Westbrook được vận hành suôn sẻ, hàng được chuyển đến nơi đúng theo kế hoạch, và được phân phối đến tay khách hàng thật chuẩn xác. Và hắn bảo đảm các tài khoản phải thu - Westbrook đã cười đến vỡ bụng khi lần đầu tiên Peebles sử dụng thuật ngữ này với hắn - có nghĩa là khách hàng phải nhanh chóng thanh toán đầy đủ cho hắn. Tiền bạc được tẩy rửa sạch sẽ, những dòng vốn thừa được đầu tư rất khôn ngoan để sinh lợi, các phát minh mới trong lĩnh vực này đều được cập nhật, công nghệ mới nhất được nhanh chóng áp dụng, tất cả đều được Antoine Peebles cẩn thận để mắt đến. Mặc dù vậy Westbrook vẫn không sao yêu nổi thằng này.

Khi những vấn đề tranh chấp phát sinh, có nghĩa là băng của chúng đang bị kẻ nào đó tìm cách chơi một vố, Antoine Peebles sẽ nhanh chóng tránh qua một bên. Hắn không mặn mà gì với mảng công việc này. Đó là lúc Westbrook trực tiếp tiếp quản và điều hành công việc. Và đó cũng là lúc Clyde Macy thực sự tỏ ra xứng đáng với những đồng đô la hắn nhận được.

Westbrook nhìn qua gã trai da trắng nhỏ bé của mình. Hồi đó hắn cứ tưởng là trò đùa khi Macy tìm đến hắn hỏi xin việc. “Mày đến nhầm khu rồi, nhóc,” hắn đã bảo Macy. “Bọn da trắng ở khu Tây Bắc cơ mà. Mày lên đó mà tìm việc.” Hắn tưởng mọi việc thế là xong cho đến khi Macy hạ cả hai thằng đang tìm cách gây chuyện, và như Macy giải thích lúc đó, hắn làm việc này trên cơ sở pro bono (miễn phí), chỉ để chứng minh giá trị của mình. Từ đó đến nay gã trai đầu trọc này chưa bao giờ để đại ca của mình phải thất vọng. Ai mà dám nghĩ rằng đại ca Francis Westbrook da đen lại có ngày trở thành một ông chủ để người ta tìm đến kiếm việc như thế này?

“Web London,” Peebles nói, rồi dừng lại. húng hắng ho và hỉ mũi, “đã làm cho FBI hơn mười ba năm và tham gia Đội Giải cứu con tin khoảng tám năm gì đó. Tay này được đánh giá rất cao. Hắn đã nhận được rất nhiều lời tuyên dương và danh hiệu khen thưởng trong hồ sơ. Bị thương nặng đến suýt chết trong một lần thực hiện nhiệm vụ, có dính dáng đến dân quân.”

“Dân quân à,” Westbrook nói. “Đúng rồi, đó là bọn da trắng được trang bị súng và nghĩ rằng chúng bị chính phủ đối xử tệ bạc. Mẹ kiếp, chúng phải đến mà xem dân da đen bọn ta sống như thế nào thì mới thấy chúng còn sướng chán.”

Peebles tiếp tục, “Đang có một cuộc điều tra về vụ nổ súng trong khoảng sân.”

“Twan, cho tao biết những gì tao chưa biết ấy, nhanh lên, tao đang rét cứng mông đây này, và tao thấy là mày cũng thế phải không?”

“London đang gặp một bác sĩ tâm thần. Không phải người của Cục, mà làm một phòng khám bên ngoài.”

“Chúng ta biết là ai chứ?” “Đó là một nhóm bác sĩ tâm thần ở Góc Tyson. Vẫn chưa biết ai là bác sĩ tâm thần điều trị cho hắn.”

“Hừm, phải sớm tìm cho ra thông tin đó. Hắn sẽ nói với tay bác sĩ những điều hắn không bao giờ nói với bất kỳ ai khác. Rất có thể chúng ta sẽ phải làm việc với tay bác sĩ đó.”

“Được rồi,” Peebles vừa nói vừa lúi húi ghi chép.

“Và Twan này, mày có thể cho tao biết mục đích của chúng là cái quái gì đêm hôm đó không? Mày không thấy đây là vấn đề rất quan trọng à?”

Peebles cau có vặc lại, “Thì tôi đang định nói đến phần đó đây.” Hắn lục lọi đống giấy tờ trong khi Macy tỉ mẩn ngồi lau súng, lau sạch từng vết bụi trong nòng súng mà có lẽ chỉ mình hắn nhìn thấy.

Cuối cùng Peebles cũng thấy thứ mà hắn tìm và ngẩng lên nhìn đại ca của mình. “Ông sẽ không thích thông tin này đâu.”

“Thiếu đếch gì những thứ mà tao không thích. Nói đi.”

“Đang có tin đồn là đêm đó chứng nhắm vào ông. Tòa nhà đó được xem là nơi đặt toàn bộ hoạt động tài chính của chúng ta. Kế toán, máy tính, hồ sơ, toàn bộ hoạt động giao dịch.” Peebles lắc đầu ra vẻ tự ái, cứ như thể danh dự của bản thân hắn đã bị xỉ nhục. “Chúng làm như bọn ta ngu đến nỗi tập trung hóa những hoạt động như vậy. Chúng huy động HRT vì muốn bảo đảm an toàn tính mạng cho những tay kế toán, làm nhân chứng chống lại ông.”

Westbrook quá sững sờ trước thông tin này nên hắn không thèm chỉnh lại câu nói của Peebles về hoạt động tài chính “của chúng ta”. Đơn giản và rõ ràng, đó là những hoạt động của Westbrook, thế thôi. “Cái quái gì khiến chúng nghĩ như vậy nhỉ? Bọn ta có bao giờ sử dụng tòa nhà đó đâu? Tao thậm chí còn chưa vào trong cái nơi khốn kiếp đó bao giờ.”

Một ý nghĩ bất chợt hiện lên trong đầu Westbrook làm hắn cứng đờ người, nhưng hắn quyết định không nói ra. Khi bạn muốn mặc cả, bạn phải mang theo thứ gì đó đến tham dự bữa tiệc, và có thể hắn đã có thứ gì đó, thứ gì đó liên quan đến tòa nhà này. Khi Westbrook bắt đầu khởi nghiệp trên đường phố, quả thực hắn đã biết quá rõ nơi đó. Tòa nhà là một phần trong quy hoạch nhà chung cư do chính phủ tài trợ từ những năm 1950, và được chia cho những gia đình nghèo để có nơi che mưa che nắng. Chỉ có điều sau khoảng hai mươi năm, khu này đã biến thành một trong những địa điểm buôn bán ma túy tồi tệ nhất trong thành phố, đêm nào cũng có bắn giết. Lúc bọn trẻ da trắng xem tivi mỗi tối thì Westbrook phải chứng kiến những vụ giết người ngay trong sân sau nhà mình. Nhưng có một điều về tòa nhà đó và những tòa nhà khác tương tự mà rất có thể bọn FBI đã không biết. Đúng, thông tin này sẽ nằm trong hồ sơ “mặc cả” của hắn.

Hắn bắt đầu cảm thấy dễ chịu hơn, dù chỉ là chút ít.

Peebles lại chỉnh gọng kính trễ trên sống mũi và nhìn Westbrook. “Vâng, tôi cho là Cục có một đặc vụ chìm hoạt động trong vụ này, chắc tay đó đã thông báo cho bọn chúng như vậy.”

“Thằng đặc vụ chó chết đó là ai?”

“Điều đó thì chúng ta chưa biết.”

“Mẹ kiếp, đó là điều tao nhất định phải biết. Có thằng dám lởn vởn xung quanh mà dối trá, tao phải biết nó là thằng nào.”

Đột nhiên có gì đó lạnh buốt bóp nghẹt ngực Westbrook mặc dù hắn vẫn tỏ ra cứng cỏi. Lần này hắn không hề thấy dễ chịu chút nào. Nếu như một đặc vụ của Cục đã nhắm đến cái được cho là trung tâm đầu não của Westbrook thì có nghĩa là FBI đã để mắt đến hắn. Vì lý do quái quỷ nào mà chúng lại làm thế chứ? Hắn đâu phải là một tay trùm cỡ đại gia và chắc chắn hắn cũng không phải tay trùm duy nhất trong thành phố này. Còn cả đống các băng đảng khác làm nhiều chuyện tồi tệ hơn cả hắn. Tất nhiên lâu nay không có ai qua mặt hắn, không có ai dám tranh giành địa bàn làm ăn, nhưng đó là vì hắn đã hành sự rất kín đáo suốt bao năm qua, không hề tìm cách gây khó dễ cho bất kỳ ai.

Peebles nói tiếp, “Vâng, cái thằng chỉ điểm cho Cục chắc chắn là biết hết chân tơ kẽ tóc. Họ không bao giờ huy động HRT nếu không có chuyện cực kỳ quan trọng. Họ tấn công tòa nhà đó vì nó được cho là chứa đầy những bằng chứng có thể được sử dụng để chống lại ông. Ít nhất đó là những gì nguồn tin của chúng ta cho biết.”

“Thế bọn chúng tìm thấy gì ở đó, ngoài những khẩu súng?”

“Không có gì, tất cả đều trống hoác.”

“Vậy là thằng đặc vụ chìm đó đã báo tin láo?”

“Hay đúng hơn là nguồn tin của hắn đã báo láo.”

“Cũng có thể là hắn bị gài, để gài cả tao nữa,” Westbrook nói. “Mày hiểu không, Twan, bọn cớm đếch thèm quan tâm đến những gì không có ở đó. Chúng chỉ nghĩ rằng tao đứng đằng sau chuyện này vì đó là sân nhà của tao. Cho nên thằng nào làm chuyện này không hề đánh quả liều. Chúng đã ken bài từ trước khi chia rồi. Tao không còn đường nào để thắng nữa. Tao nói đúng không, Twan, hay mày nghĩ khác?” Westhrook chăm chú nhìn sát mặt Peebles. Ngôn ngữ cơ thể của thằng này đã nói lên tất cả. Westbrook đã phát triển thành bản năng khả năng nhận biết những dấu hiệu như thế của người đối diện, một bản năng từng cứu mạng hắn không biết bao nhiêu lần. Và hắn hiểu tại sao lại như vậy.

Mặc dù có bằng đại học và rất giỏi giang trong việc làm ăn, Peebles vẫn không thể tinh ranh bằng Westbrook trong việc đánh giá tình hình và đưa ra quyết định chính xác trong chớp mắt. Lý do rất đơn giản: Westbrook đã mất bao nhiêu năm sống sót nhờ những bản năng đường phố cạnh tranh khốc liệt của mình và ngày càng mài giũa chúng trở nên sắc bén hơn.

Trong khi đó, Peebles chưa bao giờ phải bận tâm đến chuyện này.

“Có lẽ là ông nói đúng.”

“Ừ, có lẽ…” Westbrook nhại. Hắn trừng trừng nhìn Peebles cho đến khi thằng này không chịu nổi phải cụp mắt xuống đống tài liệu.

“Vậy tóm lại là, như tao thấy, chúng ta chẳng biết đếch gì về Web London, ngoại trừ việc hắn đang phải gặp bác sĩ tâm thần vì hắn đã run tay đúng lúc đó. Rằng có thể hắn có dính dáng trong vụ này và đang cố lừa mọi người bằng cách bịa ra lời giải thích khốn kiếp kia.”

“Tôi tin chắc là hắn có dính dáng,” Peebles nhận xét.

Westbrook ngồi ngả ra sau, mỉm cười. “Không, hắn đếch dính dáng gì đâu Twan. Tao chỉ thử xem đường phố có giúp mày khôn ngoan thêm tí nào không thôi. Xem ra không ăn thua rồi. Chỉ toi cơm.”

Peebles ngạc nhiên ngẩng đầu lên. “Nhưng chính ông nói…”

“Hừm, hừm, tao biết tao nói gì chứ, Twan, tao có thể nghe tao nói gì mà, hiểu chứ?” Hắn lại chồm người về trước. “Tao đã xem ti vi và đọc báo, theo dõi tình hình quanh cái thằng Web London này, Twan. Như mày nói, thằng này quả là một anh hùng, nó cũng là nạn nhân thôi.”

“Tôi cũng theo dõi tin tức như ông,” Peebles cãi. “Nhưng không có gì thuyết phục được tôi là thằng London vô can trong vụ này. Thực ra, chính vợ góa của một thằng cùng đội nó còn nghĩ rằng nó ăn tiền để bán đồng đội Mà ông có xem những chuyện xảy ra bên ngoài nhà nó không? Thằng cha đó đã rút súng và bắn vào bọn phóng viên. Hắn điên rồi.”

“Không, nó bắn chỉ thiên thôi. Những thằng như nó mà muốn giết ai thì người đó chết chắc. Thằng đó, nó biết dùng súng đấy, chỉ cần nhìn là biết.”

Peebles vẫn không chịu thua. “Tôi nghĩ lý do hắn không lao ra sân là vì hắn biết trước những khẩu súng được bố trí ở đó. Hắn lại ngã sấp ngay trước khi súng nổ. Chắc chắn là hắn phải biết rồi.”

“Thật thế ư, Twan? Hắn phải biết ư?”

Peebles gật đầu quả quyết. “Ông muốn biết ý kiến của tôi, thì đấy.”

“Hừ, để tao mở mắt thêm cho cái ý kiến chết tiệt của mày nhé. Mày đã bao giờ bị bắn chưa?”

Peebles hết nhìn Macy rồi lại nhìn Westbrook.

“Chưa, ơn Chúa.”

“Ừ, đúng là đáng để biết ơn đấy. Mẹ kiếp, mày nghe đây, tao thì rồi. Mày cũng vậy, phải không, Mace?”

Macy gật đầu và cất súng đi trước khi tham gia vào cuộc trò chuyện.

“Mày thấy chưa, đếch thằng nào thích bị bắn hết, Twan. Chỉ có thằng điên mới thích bị bắn vỡ sọ ra. Nghe này, nếu quả thật thằng London kia đứng đằng sau vụ này thì nó thiếu chó gì lý do để không tham gia cuộc tấn công. Nó có thể lỡ tay bắn vào chân khi đang huấn luyện, ăn phải thứ ôi thiu nào đó rồi vào bệnh viện nằm, đâm xe vào tường gãy tay, thiếu mẹ gì cớ để tránh xa các con hẻm chết tiệt đó ngay từ đầu. Nhưng nó vẫn đi, nó vẫn chung tay cùng cả đội. Rồi đúng lúc đó nó không chịu được nữa và cả đội bị bắn chết. Nếu là một thằng bán đứng đồng đội để ăn tiền thì tại sao nó phải tiếp tục nổ súng làm gì? Nó chỉ việc nằm bẹp một góc, bắn vu vơ vài phát, rồi về gặp bác sĩ tâm thần, giải thích rằng đầu óc nó đã phát điên. Một thằng phản bội sẽ không bao giờ dám lao ra sân và đối đầu với những khẩu súng máy kia. Nó phải rúc đầu vào góc nào đó thật an toàn rồi chờ đến lúc thu tiền bán đứng đồng đội. Những mày nhớ xem, đằng này nó lại vẫn ra sân và làm cái điều mà có các vàng chính tao cũng đếch có gan làm.” Hắn ngừng lại. “Và nó còn làm một việc khác cũng điên rồ không kém.”

“Việc gì?”

Westbrook lắc đầu và tự nhủ thật may mắn cho thằng Peebles là nó làm rất tốt công việc quản lý kinh doanh vì ngoài ra đúng là nó chẳng biết đếch gì hết. “Trừ trường hợp cả thế gian này đều dối trá, còn không thì đúng là thằng đó đã cứu Kevin. Một thằng đểu sẽ không bao giờ thèm liều mạng vì chuyện đó.”

Peebles ngồi thộn mặt, ngây người trước thông tin mới mẻ này.

“Nhưng nếu ông nói đúng và hắn không dính dáng, thì hắn cũng không biết Kevin đang ở đâu.”

“Chính xác. Nó không biết. Mà thực ra tao cũng đếch biết gì, ngoài những chuyện vớ vẩn.” Hắn dừng lại và ném ánh mắt giận dữ vào Peebles. “So với một tuần trước tao vẫn chẳng biết thêm chút tin tức gì về Kevin cả, đúng không? Mày vui lắm hả Twan? Vì tao đang chết tắc à?”

“Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ?” Peebles rụt rè hỏi.

“Chúng ta phải để mắt đến London và tìm ra tên của người bác sĩ tâm thần mà hắn gặp. Sau đó thì chờ đợi. Bọn nào đang giữ Kevin không làm việc này một cách ngẫu nhiên đâu. Chúng sẽ tìm đến đây, và khi đó chúng ta sẽ biết phải làm gì. Nhưng để tao cho mày biết chuyện này: tao mà biết thằng nào bán đứng tao và Kevin, con ạ, thì dù nó có chạy xuống Nam Cực chăng nữa tao cũng sẽ tìm ra và xé xác nó cho gấu trắng xơi ([39]), từng mảnh, từng mảnh một, và thằng nào nghĩ tao nói đùa thì cứ thử xem.”

Mặc dù trong phòng đang lạnh buốt, những giọt mồ hôi vẫn lấm tấm rịn ra trên trán Peebles khi Westbrook kết thúc cuộc họp.

CHƯƠNG 18

Không khí hơi ẩm mốc và tù túng, nhiều lúc không thở nổi, nhưng ít nhất thì cũng ấm áp. Họ cho nó ăn tất cả những món nó yêu cầu và thức ăn hóa ra cũng rất ngon. Nó lại còn được đọc sách, mặc dù bóng điện trong phòng chỉ lờ mờ, nhưng họ đã xin lỗi rồi mà. Họ thậm chí còn cho nó vài chiếc bút chì và tập giấy vẽ khi nó hỏi xin. Những điều đó khiến cuộc sống cầm tù của nó trở nên dễ chịu hơn. Mỗi khi phải hứng chịu những khó khăn của cuộc sống, tâm hồn non nớt của nó chỉ còn biết tìm sự an ủi từ việc vẽ tranh. Nhưng mặc dù ai ở đây cũng đối xử với nó rất tốt, mỗi lần có người vào phòng là nó lại giật bắn mình vì nghĩ rằng đó sẽ là giây phút nó phải đối mặt với cái chết, vì họ giam cầm nó ở đây nếu không để giết thì còn làm gì nữa?

Kevin Westbrook nhìn quanh căn phòng rộng rãi hơn phòng của nó ở nhà, nhưng nó có cảm giác căn phòng mỗi lúc một chật chội, như thể phòng đang thu hẹp lại hay nó đang lớn lên? Nó không biết mình đã ở đây được bao lâu. Nó phát hiện ra rằng một khi không nhìn thấy mặt trời mọc hay lặn thì thật khó ước lượng thời gian. Nó cũng thôi không nghĩ đến chuyện la hét nữa. Nó đã thử làm một lần, rồi ông ta đã đến và bảo Kevin đừng làm như vậy. Ông ta nói rất lịch sự và bằng một giọng rất mềm mỏng không có vẻ gì là đe dọa, như thể Kevin vừa nhỡ chân bước lên một luống hoa. Mặc dù vậy Kevin có cảm giác người đàn ông đó sẽ giết nó ngay lập tức nếu nó liều hét lên một lần nữa. Bao giờ cũng thế, những kẻ nhỏ nhẹ nhất lại là những kẻ đáng sợ nhất.

Lúc nào cũng có tiếng kim loại chạm nhau loảng xoảng, tiếng xì xì và cả tiếng nước chảy róc rách ngay bên cạnh. Khi kết hợp với nhau có lẽ chúng thừa sức át đi bất kỳ âm thanh nào nó có thể tạo ra, nhưng nghe mãi cũng thật bực mình, nhất là khi giấc ngủ của nó bị gián đoạn. Họ cũng đã xin lỗi về cả chuyện đó nữa. Họ lịch sự hơn nhiều so với những gì nó vẫn hình dung về những người giam tù.

Nó đã tìm cách bỏ trốn, nhưng căn phòng chỉ có đúng một cửa ra vào, lúc nào cũng khóa chặt. Nó đành nằm đọc sách và vẽ tranh, hết ăn lại uống và chờ đợi đến lúc có người đến và giết nó.

Trong lúc đang hý hoáy vẽ một bức tranh khác mà có lẽ chỉ mình nó hiểu nổi, Kevin giật bắn người khi nghe thấy tiếng bước chân. Nó dừng tay chăm chú nghe tiếng mở cửa, vả tự hỏi phải chăng đã đến lúc đó.

Vẫn là người đàn ông đã bảo nó không nên hét. Kevin đã gặp ông ta nhưng không biết tên. Ông ta muốn biết xem Kevin có thấy thoải mái không, có cần thêm gì không.

“Không. Các ông đối xử với tôi rất tốt. Nhưng bà tôi đang rất lo cho tôi Có lẽ hây giờ tôi nên về nhà thì hơn.”

“Không phải bây giờ,” Ông ta nói gọn lỏn. Ông ta ngồi trên chiếc bàn lớn kê giữa bàn và liếc nhìn chiếc thường nhỏ kê trong góc. “Mày ngủ được không?”

“Cũng được.”

Sau đó ông ta muốn biết, một lần nữa, chính xác những gì đã xảy ra giữa Kevin và người đàn ông kia trong con hẻm đó, cái người đã kéo Kevin lại, đưa mảnh giấy cho nó và chỉ đường cho nó đi ra.

“Tôi không nói gì với ông ta hết, vì tôi có biết gì đâu mà nói.” Giọng Kevin vẫn tỏ ra ương ngạnh hơn nó nghĩ, nhưng ông ta đã hỏi nó câu này nhiều lần rồi và lần nào nó cũng phải trả lời như vậy đến nỗi phát điên đến nơi.

“Nghĩ đi,” người đàn ông lạnh lùng nói. “Hắn là một điều tra viên lão luyện, có lẽ hắn đã đánh hơi thấy điều gì đó mày nói, dù lúc nói ra mày không thấy có gì là quan trọng. Mày là một thằng bé thông minh mà, rồi mày sẽ nhớ ra thôi.”

Kevin nắm chặt mẩu than chì trong tay và bóp chặt cho đến khi các khớp ngón tay kêu răng rắc. “Tôi đi xuống cuối hẻm như ông bảo. Tôi đã làm những gì ông dặn, thế thôi. Lúc đó ông bảo là không còn ai sống nữa đâu mà sợ. Tất cả đều đã nát bét và chết hết rồi. Nhưng có phải thế quái đâu, ông ta làm tôi sợ chết khiếp. Ông thấy chưa, ông đã tính nhầm rồi.”

Người đàn ông giơ tay lên và Kevin co rúm người lại. Nhưng ông ta chỉ nhẹ nhàng đặt tay lên vai nó. “Bọn tao không bảo mày đến gần khoảnh sân đó đúng không nào? Bọn tao chỉ bảo mày cứ ngồi yên ở đó, bọn tao sẽ đến đón mày. Hiểu chứ, bọn tao đã tính toán rất chu đáo rồi.” Người đàn ông phá lên cười. “Mày làm bọn tao phải chạy mướt mồ hôi đấy, thằng nhóc.”

Kevin cảm thấy bàn tay trên vai nó bóp chặt hơn và mặc dù người đàn ông đang cười nó vẫn cảm thấy là ông ta rất tức giận, vì vậy nó quyết định chuyển chủ đề. “Tại sao các ông lại cần thêm thằng bé kia?”

“Có chút việc cho nó làm thôi, cũng như mày. Kiếm thêm ít tiền, cũng như mày. Lẽ ra, kế hoạch là mày không được nhìn thấy nó, nhưng bọn tao phải thay đổi vì mày không đứng đúng vị trí mà bọn tao đã bảo. Mày làm mọi chuyện rối mù lên.” Bàn tay lại bóp chặt hơn.

“Vậy các ông thả nó ra chưa?”

“Mày cứ kể nốt chuyện của mày đi đã nào, Kevin, mày không phải bận tâm đến thằng bé đó làm gì. Nói cho tao biết tại sao mày lại làm như vậy.”

Kevin biết giải thích thế nào bây giờ? Lúc đó nó hoàn toàn không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau khi nó làm tất cả những gì họ dặn. Sau đó súng bắt đầu nổ và nó thấy sợ, chết cứng người, nhưng mà là khiếp đảm pha lẫn tò mò. Phải gọi là một cảm giác vừa sợ vừa tò mò: muốn nhìn tận mắt những gì nó đã gây ra; cũng giống như khi bạn thả một hòn đá từ trên cầu vượt xuống đường cao tốc bên dưới mà chẳng để làm gì ngoài việc dọa vài thằng cha đi xe máy, chỉ để xem là tác phẩm của bạn có gây ra một tai nạn dây chuyền và vài thằng mất mạng không thôi. Và lẽ ra phải vắt chân lên cổ mà bỏ chạy, thì Kevin vẫn tiếp tục bước sâu hơn về phía cuối hẻm để xem những gì nó đã gây ra. Và thay vì khiến nó bỏ chạy thì những khẩu súng máy đang khạc đạn lại hút nó lại gần hơn, giống như cảm giác vừa khiếp sợ vừa hấp dẫn khi nhìn thấy người chết. “Và sau đó ông ta quát gọi tôi,” nó kể tiếp với kẻ giam giữ mình. Lạy Chúa. lúc đó nó mới sợ làm sao. Cất lên từ giữa những xác chết, giọng nói đó đã quát bảo nó đứng yên, lùi lại, cảnh báo nó.

Kevin lặng lẽ nhìn người đàn ông sau khi miêu tả xong toàn bộ những chuyện đó. Nó đã làm những gì họ yêu cầu vì một trong những lý do cũ rích nhất trên đời, đó là tiền, đủ để giúp bà nó và Jerome chuyển đến một nơi tử tế hơn. Đủ tiền để Kevin thấy là nó đang có ích, đang chăm sóc những người thân của mình, chứ không để họ phải chăm sóc nó mãi. Bà nó và Jerome đã nhắc nó bao nhiêu lần là không được nhận tiền từ những kẻ lảng vảng quanh khu đó, tìm kiếm những đứa trẻ muốn kiếm tiền để làm thay chúng những công việc bẩn thỉu. Rất nhiều bạn bè của Kevin đã dính vào cái bẫy này, để bây giờ đứa thì chết, đứa thì tàn tật, đứa vào trại giáo dưỡng, đứa thì vỡ mộng suốt đời. Và giờ thì nó cũng bị sung vào đội quân vất vưởng đó, mà nó mới mười tuổi đầu.

“Rồi mày nghe thấy tiếng người đang từ đầu hẻm xuống?” người đàn ông nhẹ nhàng nhắc nó.

Kevin gật đầu và nhớ lại khoảnh khắc đó. Nó đã sợ đến mụ mẫm.

Súng máy đang khạc đạn không ngừng trước mặt, lại còn những người đang chặn nốt đường thoát duy nhất của nó. Chỉ còn cách là chạy băng qua khoảng sân, ít nhất là nó đã nghĩ vậy. Người đàn ông kia đã ngăn nó lại; đã cứu nó thoát chết. Hoàn toàn không biết nó vậy mà ông ta đã cứu nó. Đó là một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ đối với Kevin.

“Tên ông ấy là gì ạ?” nó hỏi lại.

“Web London,” ngươi đàn ông trả lời. “Hắn chính là người mà mày đã nói chuyện. Hắn cũng là thằng khiến tao rất quan tâm.”

“Tôi nói với ông ấy là tôi không làm gì hết,” Kevin nhắc lại, với hy vọng nếu nó khẳng định lại câu trả lời cũ một lần nữa sẽ khiến người đàn ông này bỏ đi, để nó tiếp tục với bức tranh của mình. “Ông ta bảo nếu tôi chạy ra ngoài đó tôi sẽ bị giết ngay. ông ta chìa tay cho tôi xem, tay ông ta bị đạn bắn thủng. Tôi định chạy lại đường cũ, nhưng ông ấy bảo nếu tôi làm thế, tôi cũng chết. Sau đó ông ta đưa cho tôi cái mũ và mảnh giấy. Ông ta bắn quả pháo sáng đó rồi bảo tôi đi đi. Chuyện chỉ có thế thôi.”

“May là bọn tao đã có sẵn một thằng bé khác để thế chỗ mày. Mày đã phải chịu đựng nhiều rồi.”

Không hiểu sao Kevin lại không nghĩ đó là điều may mắn cho thằng bé kia.

“Và London đã quay lại khoảng sân đó?” Kevin gật đầu. “Tôi có nhìn lại một lần. Ông ta vác một khẩu súng to đùng, ông ấy quay vào trong đó và tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Tôi chạy rất nhanh.”

Đúng, quả thật là nó đã chạy rất nhanh. Đến khi có ai đó xuất hiện trên một ngưỡng cửa và tóm được nó, kéo giật vào trong. Kevin đã thoáng thấy thằng bé kia, cũng sàn sàn tuổi và cao bằng nó nhưng Kevin chưa gặp bao giờ. Trông nó cũng đang sợ hãi như Kevin. Một người đàn ông đọc lướt qua mẩu giấy, hỏi Kevin những gì đã xảy ra. Sau đó họ đưa chiếc mũ và mảnh giấy cho thằng bé kia rồi bắt nó chuyển đi thay Kevin.

“Sao các ông cần đến thằng bé kia làm gì?” Kevin lại hỏi, nhưng người đàn ông không nói gì. “Tại sao các ông lại bắt nó đi chuyển mẩu giấy thay cho tôi?” Người đàn ông lại phớt lờ câu hỏi của nó.

“Mày có thấy London tỏ ra mất bình tĩnh không? Đại loại là hắn suy nghĩ và nói năng không còn mạch lạc nữa?”

“Ông ấy còn chỉ dẫn tôi phải làm những gì. Theo tôi thấy thì ông ấy hoàn toàn tỉnh táo.”

Người đàn ông hít một hơi rất sâu rồi lắc đầu, rõ ràng là ông ta đang suy nghĩ rất lung. Đột nhiên ông ta mỉm cười với Kevin. “Mày không bao giờ biết chuyện này lạ lùng thế nào đâu, Kevin. Web London phải là thằng cực kỳ đặc biệt mới làm được như vậy.”

“Các ông chẳng kể gì cho tôi biết về những chuyện đã xảy ra.”

Người đàn ông vẫn mỉm cười. “Đó là vì mày không nên biết, Kevin.”

“Thế thằng bé kia đâu? Tại sao các ông lại cử nó đi?” nó lại hỏi.

“Con người ta phải tính đến mọi tình huống, để lúc nào cũng xoay xở được.”

“Nó chết rồi à?”

Người đàn ông nhổm dậy. “Mày cần gì thì cứ bảo. Bọn tao sẽ cố, và chăm sóc cho mày cẩn thận.”

Kevin quyết định tung ra quân bài duy nhất mà nó có. “Anh trai tôi đang tìm tôi đấy.” Đây là lần đầu tiên nó nói câu này, nhưng nó đã suy nghĩ từ lâu, mỗi phút rỗi rãi là nó lại cân nhắc. Có ai lại không biết anh trai Kevin. Bất kỳ ai mà nó biết cũng phải sợ anh trai nó. Kevin cầu là người đàn ông này cũng sợ Francis Westbrook. Nhưng hy vọng của nó cũng sớm tan thành mây khói khi nó nhận thấy nét mặt của người đàn ông chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Có lẽ ông ta không biết sợ là gì.

“Mày cứ nghỉ ngơi đi, Kevin.” Ông ta liếc nhìn những bức tranh của nó. “Mày biết không, mày có năng khiếu đấy. Ai biết được, lẽ ra mày đã có kết cục không giống như thằng anh mày.” Ông ta đóng sập cửa và khóa lại chắc chắn trước khi bỏ đi.

Kevin có kìm nén, nhưng những giọt nước mắt cay đắng cứ thay nhau chảy tràn trên má, nhỏ lã chã xuống dưới chăn. Nó đưa tay lên quệt nước mắt, nhưng chẳng ăn thua gì. Kevin ngồi phục xuống một góc nhà và khóc nức nở, người nó rung lên bần bật tưởng như nó ngạt thở đến nơi. Rồi nó kẻo chăn trùm kín đầu và ngồi lặng yên như hóa đá trong bóng tối.

CHƯƠNG 19

Web lái chiếc Crown Vic dọc con phố mẹ anh từng sống trước kia. Đó là một khu dân cư tàn tạ, cũ kỹ, những tiềm năng ngày nào không bao giờ trở thành hiện thực, và sức sống đã từ bỏ khu này từ lâu. Mặc dù vậy, khu vực này, cách đây ba mươi năm còn bị coi là vừng nhà quê, vẫn nằm kẹt cứng giữa một vùng ngoại ô đông đúc, với diện tích đô thị mỗi ngày một nới rộng hơn, nơi những người làm công ăn lương thức dậy vào bốn giờ sáng hàng ngày để kịp đến văn phòng lúc tám giờ. Có lẽ chỉ cần dăm năm nữa, một công ty phát triển đô thị nào đó sẽ mua lại tất cả những ngôi nhà xập xệ này, ủi phẳng chúng đi để lấy mặt bằng xây dựng những khu nhà cao cấp mới từ đống tro tàn của quá khứ.

Web bước ra khỏi chiếc Crown Vic và nhìn quanh. Charlotte London từng là một người già neo đơn sống ở đây, và ngôi nhà cũ của bà, bất chấp những cố gắng của Web, trông cũng xiêu vẹo chẳng kém gì những ngôi nhà xung quanh. Hàng rào trước cửa nhà đã han rỉ hết hàng cọc sắt và có thể đổ sụp bất kỳ lúc nào. Hàng hiên lớp tôn của ngôi nhà đã võng xuống vì nước đọng và thời gian, với những vết ố không thể nào rửa sạch.

Cây phong cô độc trước cửa nhà đã chết khô, những chiếc lá vàng úa từ mùa trước vẫn xào xạc buồn bã mỗi khi có làn gió đơn côi đâu đó thổi qua. Cỏ trước nhà mọc um tùm vì đã lâu Web cũng không đến để đẩy máy xén cỏ. Đã bao nhiêu năm Web vật lộn và cố gắng đến mức phi thường để giữ gìn sự tươm tất cho ngôi nhà nhưng cuối cùng anh đã phải đầu hàng vì mẹ anh chẳng mấy quan tâm đến việc chăm lo nhà cửa và vườn tược Giờ thì bà cũng không còn nữa, Web nghĩ lúc nào đó anh sẽ phải bán ngôi nhà đi; ngay lúc này anh không muốn giải quyết chuyện đó, cũng có thể là không bao giờ.

Web vào trong nhà và nhìn quanh. Ngay sau khi mẹ mất, anh đã đến đây. Ngôi nhà là một mớ lộn xộn, đúng như khi bà còn sống. Anh đã mất cả ngày dọn dẹp ngôi nhà và kết quả là thu gom được đến hơn một tạ rác đủ loại. Rồi Web vẫn phải duy trì hệ thống điện, nước, và thoát nước hoạt động bình thường ngay cả sau khi mẹ mất. Không phải vì anh tính đến khả năng một ngày nào đó anh sẽ về sống ở đây, nhưng có gì đó khiến anh không thể dứt áo bỏ đi hẳn được. Giờ thì anh đứng đây, kiểm tra lại các căn phòng, tất cả vẫn sạch sẽ, chỉ trừ đôi chỗ bám bụi và mạng nhện. Anh ngồi xuống, kiểm tra đồng hồ, bật ti vi xem một tập phim truyền hình rẻ tiền, chương trình bỗng nhiên bị gián đoạn nhường chỗ cho bản tin. Hóa ra đây là cuộc họp báo của FBI mà anh đã biết. Web nhổm người về phía trước để điều chỉnh âm thanh và hình ảnh cho rõ nét.

Anh há hốc miệng nhìn Percy Bates xuất hiện trên bục. Buck Winters lẩn đi đằng chết tiệt nào rồi nhỉ? Web tự nhủ. Bates đang điểm lại những nét chính trong sự nghiệp huy hoàng của Web ở FBI, kết hợp với những hình ảnh hào nhoáng ghi lại cảnh Web đang nhận đủ các loại huân chương và phần thưởng, từ các nhân vật cao cấp của Cục và thậm chí của chính Tổng thống. Bates nói về sự kiện đẫm máu trong khoảng sân và nhấn mạnh lòng can đảm cũng như sự lì lợm của Web khi anh đương đầu với những khẩu súng máy khủng khiếp kia.

Sau đó là hình ảnh Web nằm trong bệnh viện, mặt quấn băng kín mít.

Hình ảnh này khiến Web bất giác giơ tay lên sờ vào vết thương cũ của mình. Anh vừa cảm thấy tự hào vừa cảm thấy bị rẻ rúng. Đột nhiên anh thầm ước, giá như Bates không nảy ra ý tưởng này. Chương trình “xúc tiến hình ảnh” này sẽ chẳng làm thay đổi được gì trong suy nghĩ của mọi người. Nó chỉ làm anh thấy dễ bị tổn thương hơn. Chắc chắn cánh báo chí sẽ không tha cho anh, họ sẽ buộc tội Cục đã bao che cho nhân viên của mình. Và xét theo góc độ nào đó thì có lẽ thế thật. Anh không nén nổi tiếng thở dài chán nản. Anh không nghĩ mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn, nhưng hóa ra anh đã nhầm. Anh tắt ti vi, ngồi lặng người, mắt nhắm nghiền. Trong giây phút mơ màng, anh cảm thấy như có người đang đặt tay lên vai mình, nhưng thực ra chẳng có ai hết. Hình như điều này luôn xảy ra mỗi lần anh về đây; dường như mẹ anh vẫn hiện hữu đâu đó.

Mãi đến lúc qua đời Charlotte London vẫn giữ nguyên mái tóc dài chấm vai, theo thời gian đã ngả từ màu vàng óng, quyến rũ thành màu bạch kim sang trọng. Da mặt bà dường như vẫn không có một nếp nhăn vì bà bị dị ứng ánh mặt trời nên suốt đời lúc nào cũng phải che kín mặt. Bà có chiếc cổ thon dài, thanh nhã, hơi gợn lên một đường cơ nhỏ khi chạm vai. Web tự hỏi không biết đã có bao nhiêu người đàn ông bị mê hoặc bởi đường cong kỳ ảo đó. Hồi còn là một cậu bé, Web đã có những giấc mơ kỳ lạ về người mẹ trẻ trung, quyến rũ của mình mà đến tận bây giờ anh vẫn còn thấy hổ thẹn.

Mặc dù nghiện ngập và ăn uống vô tội vạ, mẹ anh vẫn không hề tăng thêm cân nào suốt bốn mươi năm, vóc người vẫn thon thả, quyến rũ như thời còn con gái. Ngay cả ở tuổi năm mươi chín, mỗi khi tỉnh táo và trang điểm gọn gàng, Charlotte London vẫn làm cho người ta phải sững sờ.

Đáng buồn là lá gan của bà đã đầu hàng quá sớm. Ngoài điều đó ra thì hầu hết phần còn lại của bà lẽ ra vẫn còn có thể thách thức sự tàn phá của tuổi tác thêm một thời gian nữa. Không chỉ xinh đẹp, mà chính vẻ duyên dáng và sự thông minh của bà mới là điều quyến rũ nhất. Nhưng những cuộc trò chuyện giữa bà và con trai thì phải nói thẳng là kỳ quặc. Mẹ anh không bao giờ xem ti vi. Bà thường bảo, “Người ta gọi nó là chiếc hộp ngu ngốc cũng đúng thôi. Mẹ thà đọc Camus, hoặc Goethe, hoặc Jean Genet. Genet làm người ta phải vừa khóc vừa cười mà không hiểu tại sao, vì thực ra chẳng có gì đáng cười trong những tác phẩm của Genet cả. Chủ đề sáng tác của ông ấy là sự suy đồi, trụy lạc. Toàn là những khổ đau, thống khổ. Hầu hết là mang tính tự truyện.”

“Vâng. Đúng rồi, Genet, Goethe,” Web đã nhiều lần tranh luận với mẹ. “Thì cũng toàn là dân G ([40]) hết, giống con thôi.” Mẹ anh chưa lần nào hiểu câu nói đùa này.

“Nhưng nhiều lúc họ mới quyến rũ và sâu lắng làm sao - thậm chí phải nói là gợi tình mới phải.”

“Sao lại thế được?” anh đã nghi ngờ.

Suy đồi và trụy lạc , Web đã thở dài. Lúc ấy anh chỉ muốn nói với mẹ rằng trong đời mình anh đã chứng kiến nhiều biểu hiện của suy đồi và trụy lạc đủ khiến Jean Genet nếu còn sống cũng phải chết nghẹn. Anh muốn nói huỵch toẹt với mẹ rằng những tội ác xấu xa đó không phải chuyện đùa, bởi biết đâu một ngày nào đó sẽ có kẻ đầy “suy đồi và trụy lạc” xuất hiện trên ngưỡng cửa và kết liễu đời bà bằng bạo lực. Tuy nhiên, cuối cùng anh lại im lặng. Mẹ anh thường tạo cho anh một cảm giác ngần ngại, mơ hồ.

Ngay từ bé Charlotte London đã được coi là một thần đồng, khiến người lớn phải sững sờ vì trí thông minh siêu việt của mình. Bà vào đại học khi mới mười bốn tuổi và giành được bằng cử nhân văn học Mỹ của trường Wellesley, tốt nghiệp gần như thủ khoa. Bà thành thạo bốn ngoại ngữ. Sau khi tốt nghiệp đại học, Charlotte đã một mình đi du lịch vòng quanh thế giới suốt gần một năm, Web biết, vì anh đã xem ảnh và đọc nhật ký hồi đó của bà. Mà đó là thời kỳ phụ nữ đâu có dám làm những việc động trời như thế. Thậm chí bà còn viết một cuốn sách kể về những chuyến phiêu lưu của mình, đến tận bây giờ vẫn có nhiều người tìm đọc. Tên sách là London Times (Những trải nghiệm của London). London là tên thời con gái của bà, và mẹ anh đã lấy lại cái tên này sau khi người chồng thứ hai của mình qua đời. Sau khi ly dị người chồng đầu tiên, tức là cha Web, bà đã đệ đơn lên cơ quan tư pháp để đổi lại họ anh từ Sullivan sang thành London theo họ mình. Web chưa bao giờ mang họ của người cha dượng vì mẹ anh không đồng ý. Tính bà là vậy. Và đến tận bây giờ anh vẫn không hiểu tại sao anh lại có một cái tên kỳ quặc đến thế, vì chữ Web chỉ có đúng một chữ b. Anh đã tra lên tra xuống cây gia phả đằng ngoại nhưng vẫn không tìm được câu trả lời. Thậm chí mẹ anh còn thẳng thừng từ chối trả lời Web khi anh hỏi ai là người đã đặt tên cho anh.

Hồi Web còn bé, bà đã kể với anh hầu hết những gì bà trải qua và chứng kiến trong những cuộc phiêu lưu thời thanh niên, và anh đã coi đó là những câu chuyện tuyệt vời nhất mà anh từng được biết. Và anh đã muốn được cùng bà thực hiện những cuộc phiêu lưu như thế, để được viết cuốn sách của riêng anh, chụp ảnh người mẹ xinh đẹp và táo bạo của mình trên nền một thác nước hoang sơ ở Italy, hoặc trên đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa của Thụy Sĩ, hay trong một quán cà phê ngoài trời giữa Paris hoa lệ.

Người mẹ xinh đẹp và cậu con trai bảnh bao chinh phục cả thế giới dưới chân mình là giấc mơ lớn nhất của anh thời thơ ấu. Nhưng sau đó bà đã tái hôn với bố dượng của Web và những giấc mơ đó sớm tàn lụi.

Web mở choàng mắt và đứng dậy. Anh bước xuống tầng hầm. Một lớp bụi dầy che khắp mọi nơi, và Web không sao thấy bóng dáng cái mà anh đang tìm kiếm đâu cả. Anh quay lên nhà và đi xuống cuối bếp. Web mở cửa hậu và nhìn ra cái gara nhỏ bé, xếp đủ thứ đồ linh tinh và cả chiếc Plymouth Duster cổ lỗ sĩ của mẹ anh. Web có thể nghe rõ tiếng bọn trẻ đang hò hét, chơi đùa gần đó. Anh nhắm mắt và gục đầu vào khung cửa khi những tiếng la hét đó lặng đi. Trong tâm trí Web vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh quả bóng được ném vụt đi, những sải chân còn non nớt hối hả guồng theo, cậu bé Web hồi đó chỉ nghĩ rằng cậu sẽ chết nếu không bắt được quả bóng. Anh hít hít không khí, mùi gỗ ám khói trộn lẫn với mùi thơm ngọt ngào của cỏ vừa cắt mùa thu. Dường như không gì có thể tuyệt vời hơn thế, nhưng đó cũng chỉ là một mùi hương, không bao giờ kéo dài lâu được. Và rồi con người ta bao giờ cũng bị ném bịch trở lại thực tại của cuộc sống phũ phàng. Mà anh đã nhận ra rằng, cuộc sống chẳng lúc nào là phũ phàng tạm thời cả.

Trong ký ức của anh, cậu bé Web đang guồng chân chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Trời tối dần và anh biết mẹ sắp gọi anh vào. Không phải để ăn tối, mà là chạy qua nhà hàng xóm hỏi xin thuốc lá cho bố dượng. Hoặc là ba chân bốn cẳng chạy ra cửa hàng tạp phẩm Foodway của khu với vài đô la lẻ và một câu chuyện buồn cho ông già Stein, người chủ cửa hàng có tấm lòng thật hào phóng và thoáng đạt. Lúc nào cậu bé Web cũng đang hộc tốc chạy xuống Foodway. Lúc nào cũng nghêu ngao bài hát Ireland có lời rất buồn mà mẹ đã dạy cho cậu. Mẹ đã học bài hát này ở đâu, sao nó buồn thế? Web đã hỏi bà. Nhưng cũng như nguồn gốc của tên anh, bà chẳng bao giờ nói cho anh câu trả lời.

Web vẫn nhớ như in hình ảnh ông già Stein mập ú, với cặp kính lão to đùng, chiếc áo len đan tay cũ kỹ và chiếc tạp dề trắng gọn gàng đang chìa tay ra nhận những đồng đô la nhàu nát từ “Webbie” London, ông lão vẫn thích gọi anh như vậy. Rồi ông giúp Web chọn thực phẩm cho bữa tối, và thậm chí là cả bữa sáng nữa. Những túi rau quả, tất nhiên, bao giờ cũng nhiều hơn hai đô la mà anh đưa, nhưng ông già chưa bao giờ phàn nàn một lời về giá cả. Nhưng không phải chuyện gì ông cũng kín kẽ như vậy.

“Cháu bảo mẹ đừng có uống nhiều như thế,” ông gọi với theo Web khi anh chạy vụt về nhà, mang theo hai túi rau to đùng. “Và cháu nhớ nói với thằng chồng quỷ quái của bà ấy là Chúa sẽ giáng sấm sét lên đầu hắn vì những tội lỗi mà hắn đã gây ra, nếu như không sớm thì muộn cũng có người trừng phạt hắn. Và giá mà Chúa ban cho ta vinh dự đó. Đêm nào ta cũng cầu nguyện điều đó xảy ra, Webbie. Cháu nhớ nói với mẹ như thế, và cả hắn nữa!” Ông Già Stein đã phải lòng mẹ Web, cũng như tất cả những người đàn ông khác trong vùng, cả những người đã có vợ và những gã trai tân. Có lẽ người đàn ông duy nhất không hề phải lòng Charlotte Church lại chính là người đàn ông bà đã cưới làm chồng.

Anh lên tầng và lặng nhìn đoạn cầu thang gấp đi lên gác xép được bố trí giữa hành lang. Đây mới chính là nơi mà anh phải bắt đầu cuộc tìm kiếm của mình, tất nhiên là phải thế, nhưng anh không hề muốn bước chân lên đó. Cuối cùng anh cũng với tay kéo sợi dây, hạ chiếc thang gỗ xuống và bước lên. Anh bật đèn, ánh mắt lướt nhanh qua những góc tối của căn phòng. Web hít thêm một hơi nữa rất dài và tự nhủ rằng những kẻ hèn nhát ngu xuẩn sẽ chẳng bao giờ làm được trò trống gì cho đời, còn anh là một lính đặc nhiệm của HRT, to lớn và can đảm, lại có cả một khẩu chín ly đã nạp đạn trong bao. Anh bước hẳn vào trong gác xép và cố ép mình dành cả một tiếng đồng hồ sau đó xem lướt qua những dấu ấn của quá khứ mà anh từng trải qua.

Những cuốn niên giám của trường vẫn còn đây với hình ảnh nhưng cô bé và cậu bé vụng về, ngượng ngập cố tỏ ra người lớn trước tuổi, để rồi chỉ và năm nữa qua đi là họ lại tuyệt vọng muốn quay lại thời thơ dại đã vĩnh viễn rời xa. Anh cũng tỉ mẩn ngồi căng mắt dịch lại những dòng lưu bút nguệch ngoạc trên cuốn niên giám của các bạn học, trong đó họ đã vạch ra những kế hoạch vĩ đại cho tương lai của mình - theo Web biết thì chẳng có bất kỳ kế hoạch hay ước mơ nào trong đó trở thành sự thật, kể cả chính bản thân anh. Cả chiếc áo khoác in tên đội bóng bầu dục của trường và chiếc mũ bảo hiểm của anh vẫn còn nằm nguyên trong hộp. Đã có thời anh nhớ chi tiết đến từng vết trầy xước trên chiếc mũ đó. Giờ thì Web thậm chí còn không nhớ anh đã mặc áo số bao nhiêu khi còn chơi trong đội. Vẫn còn đó những cuốn sách giáo khoa cũ rích và vô dụng, những cuốn nhật ký bên trong chẳng có gì ngoài những hình vẽ mà anh nguệch ngoạc bằng đôi bàn tay uể oải mỗi khi buồn chán. Đôi bàn tay uể oải của anh. Trong một góc phòng là một giá treo quần áo, với những thứ trang phục có tuổi đời đến cả bốn thập kỷ nằm phủ bụi, mốc meo và thủng lỗ chỗ. Có cả những chồng đĩa nằm lăn lóc. Những chiếc hộp đựng đầy thẻ cầu thủ bóng chày và bóng bầu dục lẽ ra bây giờ phải giá trị bằng cả một gia tài nếu Web không lấy chúng làm đích tập phóng phi tiêu và bắn đạn hơi. Vài phụ tùng han rỉ của một chiếc xe đạp mà Web chỉ nhớ lờ mờ là anh đã từng sở hữu, cạnh đó là gần chục chiếc đèn pin đã hỏng. Thậm chí cũng còn nguyên một bức tượng nhỏ bằng đất sét mà mẹ anh đã nặn, rất đẹp; nhưng nó đã bị bố dượng anh quăng quật quá nhiều lần nên bức tượng không chỉ mất cả hai tay mà còn sứt cả tai và mũi.

Đó là một phút hồi tưởng thật buồn về một gia đình bình thường, và quả thực là rất bình thường xét theo nhiều nghĩa.

Đúng lúc Web định bỏ cuộc, thì đột nhiên anh tìm thấy nó.

Chiếc hộp nằm dưới một chồng sách hồi học đại học của mẹ anh - những tác phẩm của các triết gia cổ đại, những nhà văn, nhà tư tưởng đã chết từ đời nảo đời nào. Web lướt nhanh qua những món đồ trong hộp. Thế là quá đủ để khởi đầu rồi. Anh chỉ đáng bị xem là một điều tra viên ngu dốt nếu không lần ra được gì từ chúng. Web ngạc nhiên nhận ra là mặc dù anh đã lớn lên trong ngôi nhà này, nhưng từ trước đến nay anh chưa bao giờ để ý đến chiếc hộp. Nhưng có lẽ nguyên nhân là hồi đó anh đâu có đi tìm nó.

Bỗng anh giật nảy mình và trừng trừng nhìn vào góc phòng trước mặt. Đó là nơi tối tăm, u ám nhất phòng, anh có cảm giác vừa nhìn thấy vật gì đó chuyển động. Bàn tay anh đã lần xuống báng súng từ bao giờ.

Web căm ghét căn phòng này. Căm ghét! Cho dù anh cũng không hiểu tại sao. Một căn gác xép khốn kiếp.

Anh mang chiếc hộp ra xe và trên đường về nhà nghỉ Web dùng điện thoại di động của mình để gọi cho Percy Bates. “Anh làm giỏi lắm, Perce. Hôm nay đúng là một ngày trọng đại. Nhưng có chuyện gì với lão khọm già Bucky vậy?”

“Winters quyết định rút lui vào phút cuối cùng.”

“Phải rồi. Đề phòng trường hợp tôi lại sa vào một mớ bung bét mới. Và thế là ông ta đẩy nó cho anh.”

“Thực ra tôi đã tình nguyện khi thấy ông ấy ngần ngại.”

“Anh rất tốt với tôi, Perce, nhưng anh sẽ không bao giờ thăng tiến được trong Cục đâu, nếu anh cứ làm những việc đúng đắn như thế này.”

“Tôi quan tâm đếch gì.”

“Có thêm manh mối gì không?”

“Chúng tôi đã lần ra xuất xứ của những khẩu súng máy. Bị đánh cắp từ một căn cứ quân sự ở Virginia. Cách đây hai năm. Nói chung là còn rất mông lung, nhưng tôi sẽ lần ra bằng được tất cả những gì ẩn sau vụ này.”

“Có tung tích gì của Kevin Westbrook không?”

“Không. Cũng chưa có nhân chứng nào xuất hiện cả. Có vẻ như tất cả dân sống ở khu đó đều câm điếc hết rồi.”

“Tôi đoán thế nào anh cũng đã thẩm tra những người sống cùng với Kevin. Có biết thêm gì không?”

“Không nhiều lắm. Họ cũng không biết nó ở đâu. Như tôi đã nói, thằng bé cũng chẳng mặn mà gì với nơi đó, lúc nào có thể là nó trốn đi.”

Web thận trọng cân nhắc những từ anh nói sau đó. “Vậy là không có ai yêu thương thằng bé sao? Không có bà già hay bà ngoại nào ở đó à?”

“Có một bà già. Chúng tôi đoán bà ta là mẹ ghẻ của mẹ Kevin thì phải. Bà ta cũng không nói cụ thể về mối quan hệ của mình với thằng bé. Nghe thì cứ tưởng là dễ, nhưng vớ vào những gia đình rổ rá cạp lại mà xem, phức tạp phát kinh. Bố thì đi tù, mẹ thì chết hoặc bỏ đi, anh trai chết, chị đi làm gái đứng đường, thế là bọn trẻ bị quẳng hoặc tha lôi hết chỗ này đến chỗ khác, chỉ cần tìm được người trông có vẻ khả kính một chút, thường là những ông bà già. Có vẻ như bà ta cũng thực lòng lo lắng cho thằng bé, nhưng bà ta cũng rất dè dặt. Tất cả người dân khu đó đều hốt hoảng, dè dặt.”

“Perce, anh có thực sự nhìn thấy Kevin trước khi nó mất tích không?”

“Tại sao anh lại hỏi vậy?”

“Tôi đang cố xác định lại quãng thời gian giữa lúc tôi nhìn thấy nó lần cuối cùng và khi nó mất tích.”

“Quãng thời gian. Chết thật, giá mà tôi cũng nghĩ đến chuyện đó,” Bates kéo dài giọng, giễu cợt.

“Thôi nào, Perce. Tôi không hề có ý định chõ mũi vào công việc của ai đâu, nhưng tôi đã cứu mạng thằng nhóc đó nên tôi muốn tìm hiểu cho rõ ràng thôi.”

“Web, cậu có biết là khả năng thằng nhóc đó còn sống là rất mong manh. Cho dù kẻ bắt cóc nó có là ai chăng nữa thì chúng cũng không định tổ chức tiệc sinh nhật ở Chuck E. Cheese ([41]) cho nó đâu. Chúng tôi đã lùng sục tất cả những nơi có thể. Hồ sơ nhận dạng và tìm kiếm thằng bé đã được thông báo đến tất cả các bang lân cận, thậm chí đến tận biên giới Canada và Mexico. Nhiều khả năng chúng đã ở lại trong thành phố cùng thằng bé.”

“Nhưng nếu nó làm việc cho anh trai thì rất có thể nó vẫn an toàn. Tôi muốn nói tôi biết Big F là một thằng con hoang khốn kiếp thật, nhưng chẳng lẽ hắn lại khử cả em trai mình sao? Thôi nào.”

“Tôi đã chứng kiến vô khối trường hợp còn tồi tệ hơn, và cả cậu cũng vậy.”

“Nhưng anh có gặp Kevin không?”

“Không, tôi không trực tiếp gặp Kevin. Nó đã biến mất khi tôi đến rồi. Đấy, cậu hài lòng chứ?”

“Tôi đã nói chuyện với những người của HRT có nhiệm vụ trông nom thằng bé lúc đó. Họ nói là đã chuyển thằng bé cho hai nhân viên mặc complet của Cục.”

Web quyết định không nhắc lại lời kể của Romano rằng thực ra chỉ có một người chắc chắn có liên quan đến việc này, vì anh muốn nghe xem Bates nói thế nào.

“Chắc chắn là cậu cũng sẽ phải ngạc nhiên là tôi cũng thẩm tra họ rồi và kết quả cũng là những gì họ nói với cậu thôi.”

“Họ không biết tên hai đặc vụ đó. Anh có biết gì không?”

“Tất cả vẫn còn quá sớm.”

Web quyết định vứt toẹt cái vẻ ngoài nhã nhặn của mình. “Không, không còn sớm nữa đâu, Perce. Tôi đã làm loại công việc của anh nhiều năm rồi và tôi biết quy trình điều tra là thế nào. Nếu như anh không thể nói cho tôi biết tên của hai người mặc complet đó, thì tức là chúng không phải người của FBI. Điều đó có nghĩa là hai kẻ mạo danh đã lọt vào trong hiện trường vụ án của FBI, hiện trường vụ án của anh đấy, và xoáy đi một nhân chứng quan trọng. Biết đâu tôi có thể giúp anh.”

“Đó chỉ là giả thuyết của cậu thôi. Hơn nữa tôi không muốn và cũng không cần sự giúp đỡ của cậu.”

“Anh định nói là tôi sai à?”

“Tôi định nói là cậu hãy biến mẹ nó ra khỏi cuộc điều tra của tôi cho rảnh. Đấy, tôi muốn nói thế đấy.”

“Nhưng họ là đồng đội của tôi, mẹ kiếp!”

“Tôi hiểu, nhưng nếu tôi mà phát hiện ra cậu đang làm gì, tự mình dò hỏi, hay lần theo các manh mối thì cậu không xong với tôi đâu. Hy vọng là tôi nói rõ quan điểm của mình rồi chứ.”

“Tôi sẽ gọi lại cho anh khi tôi phá xong vụ này.” Web tắt máy và thầm rủa mình đã làm hỏng mất quân bài cuối cùng của mình trong Cục. Anh đã tử tế và tế nhị hết mức rồi, nhưng có vẻ như Bates cứ thích chơi trò úp úp mở mở. Anh ta lại còn tưởng Web chỉ gọi điện đến để cám ơn mình vì buổi họp báo chắc!

CHƯƠNG 20

Claire vươn vai và ngáp một cái thật uể oải. Cô đã dậy quá sớm sau khi làm việc đến tận khuya tối hôm trước; lâu nay đó đã là thói quen làm việc hàng ngày của cô. Kết hôn từ năm mười chín tuổi với mối tình đầu từ thời trung học của mình, Claire làm mẹ năm hai mươi tuổi, hai năm sau đó thì ly dị.

Không thể kể hết những hy sinh và nhọc nhằn mà cô đã phải trải qua mười năm sau đó để theo đuổi ngành y và chuyên khoa tâm thần. Mặc dù vậy cô không có gì phải hối tiếc về con gái mình, giờ đã là một cô sinh viên năm thứ nhất đại học. Maggie Daniels là một cô gái khỏe mạnh, thông minh và có khả năng tự lập cao. Bố cô bé chưa bao giờ tỏ ra mặn mà trong việc nuôi dạy con gái mình vì thế anh ta cũng sẽ chẳng có vai trò gì trong cuộc sống của cô khi đến tuổi trưởng thành. Thực ra tất cả tùy thuộc vào Maggie, Claire biết vậy, nhưng cô bé cũng chưa bao giờ hỏi nhiều về bố mình và đã quá quen với việc lớn lên mà không có bố ở bên như bao đứa trẻ khác. Bản thân Claire cũng chưa bao giờ thực sự hòa nhập trở lại với những mối quan hệ xã hội và cuối cùng cô đã đi đến kết luận rằng sẽ dành cả cuộc đời cho công việc.

Cô mở tập hồ sơ và nghiên cứu những bản ghi chép trong đó. Web London là một đối tượng nghiên cứu rất đáng chú ý cho bất kỳ sinh viên nào theo đuổi chuyên ngành tâm lý con người. Từ những điều ít ỏi mà Claire thu thập được trước khi anh bất thình lình bỏ ra khỏi văn phòng của cô, có thể nói người đàn ông này là một điển hình sống động cho những xung đột nội tâm của con người. Từ những vấn đề thời thơ ấu cho đến quá trình trưởng thành phức tạp của anh ta, đến loại hình công việc nguy hiểm mà anh ta theo đuổi, một bác sĩ tâm thần có thể dành cả cuộc đời nghiên cứu cho một bệnh nhân như vậy. Đột nhiên có tiếng gõ cửa làm giản đoạn dòng suy nghĩ của cô.

“Ai đấy?”

Cửa mở ra và một đồng nghiệp của Claire thò đầu vào. “Có lẽ cô sẽ thích xem chương trình này đấy.”

“Gì vậy Wayne? Tôi đang dở chút việc.”

“FBI tổ chức họp báo. Web London, tôi thấy hôm nọ anh ta ở đây đi ra. Cô đang điều trị cho anh ta phải không?”

Cô chau mày trước câu hỏi của anh ta và không nói gì. Nhưng cô vẫn đứng dậy và theo anh ta ra khu vực tiếp tân, nơi có đặt một chiếc ti vi nhỏ.

Nhiều bác sĩ tâm thần và chuyên gia tư vấn tâm lý, những người có phòng khám ở đây, kể cả Ed O’Bannon, đã tập trung đông đủ trước màn hình.

Bây giờ đang là giờ nghỉ trưa nên không ai có vẻ phải bận rộn tiếp bệnh nhân. Nhiều người vẫn còn cầm bữa trưa ăn dở trên tay.

Sau mười phút, Claire Daniels đã hiểu thêm rất nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của Web London. Bất giác cô nhận ra mình đang đưa tay lên bụm miệng khi nhìn thấy Web trong bệnh viện, phần lớn khuôn mặt và thân trên bị thương rất nặng. Người đàn ông này đã phải chịu đựng quá nhiều, nhiều hơn bất kỳ ai khác. Và Claire chợt cảm thấy một sự thôi thúc lạ thường muốn được giúp anh ta, cho dù anh ta đã đùng đùng kết thúc buổi điều trị lần trước. Khi buổi họp báo kết thúc và mọi người bắt đầu tản về phòng mình, Claire chặn O’Bannon lại.

“Ed, ông có nhớ là tôi đã kể với ông về chuyện tôi gặp Web London khi ông không có ở đây không?”

“Tất nhiên rồi, Claire. Thực ra tôi rất cám ơn cô đã làm như vậy ông ta hạ thấp giọng. “Không giống như nhiều người quanh đây, tôi biết tôi có thể tin tưởng là sẽ không bị cô giành mất bệnh nhân.”

“Vâng, cám ơn ông vì đã nghĩ như vậy Ed. Nhưng sự thật là tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của Web. Anh ta và tôi tỏ ra rất tâm đầu ý hợp trong buổi điều trị đó.” Cô nói thêm một cách dứt khoát. “Và tôi muốn tiếp tục phụ trách việc điều trị cho anh ta.”

O’Bannon tỏ ra sững sờ, ông ta lắc đầu. “Không, Claire. Tôi đã gặp London nhiều lần rồi, anh ta không dễ xơi đâu. Anh ta và tôi chưa bao giờ thực sự khám phá đến tận cùng, nhưng dường như anh ta gặp những vấn đề rất nghiêm trọng về quan hệ mẹ - con trai.”

“Tôi hiểu, nhưng tôi thực sự muốn nghiên cứu trường hợp này,” và tôi đánh giá cao điều đó.

“Nhưng anh ta là bệnh nhân của tôi và tính liên tục trong điều trị cần phải được tôn trọng, việc thay đổi bác sĩ cũng là điều tối kỵ.”

Claire hít thật sâu và nói dứt khoát, “Chúng ta có thể để Web quyết định chuyện này được không?”

“Xin lỗi?”

“Ông có thể gọi cho Web và để anh ta quyết định sẽ chọn ai trong hai chúng ta?”

O’Bannon tỏ ra cáu kỉnh. “Tôi không nghĩ là phải làm như thế.”

“Thực sự là chúng ta có vẻ đang ngáng chân nhau, Ed, và tôi nghĩ để anh ta tự quyết định trong trường hợp này là tốt nhất.”

“Tôi không thích điều cô ám chỉ chút nào, Claire. Những kinh nghiệm và thành tích chuyên môn của tôi thì không thể chê vào đâu được. Trong trường hợp cô không biết, thì xin nói rõ là tôi đã phục vụ ở Việt Nam, nơi tôi đã điều trị rất thành công cho nhiều bệnh nhân mắc hội chứng chiến tranh, và những người từng là tù binh bị đối phương tẩy não.”

“Web không phải là bên quân sự.”

“HRT là một cơ quan dân sự thật nhưng về bản chất thì còn quân sự hơn cả quân đội đấy. Tôi hiểu cuộc sống và ngôn ngữ của những con người đó. Tôi tin chắc là chỉ có những kinh nghiệm của tôi mới phù hợp cho bệnh nhân này.”

“Tôi không hề ám chỉ điều gì ngược lại. Nhưng chính Web đã cho tôi biết là anh ta không hoàn toàn thoải mái khi làm việc với ông.Và tôi biết là ông cũng nhất trí rằng lợi ích của bệnh nhân mới là điều tối thượng.”

“Tôi không cần cô phải rao giảng cho tôi về đạo đức nghề nghiệp.” Ông ta ngần ngừ một lát. “Nhưng anh ta đã nói…rằng anh ta không hoàn toàn thấy thoải mái khi làm việc với tôi sao?”

“Đúng vậy, nhưng tôi nghĩ điều đó càng chứng minh nhận định của ông rằng anh ta là một bệnh nhân khó khăn. Theo như tôi biết thì rất có thể anh sẽ không thích tôi một khi chúng tôi bắt đầu quá trình điều trị thực sự.” Cô đặt tay lên vai O’Bannon. “Vậy ông sẽ gọi cho anh ta chứ?

“Ngay hôm nay?” O’Bannon miễn cưỡng nói, “Tôi sẽ gọi cho anh ta.”

*

Web đang lái xe thì điện thoại di động của anh rung lên. Anh liếc qua màn hình. Đó là một số mang mã vùng Virginia mà anh không biết.

“Alô?” anh tò mò trả lời.

“Web?”

Giọng nói nghe có vẻ quen quen, nhưng anh vẫn chưa nhớ ra.

“Bác sĩ O’Bannon đây.”

Web nháy mắt. “Tại sao ông biết số này?”

“Anh cho tôi mà. Trong buổi điều trị lần trước của chúng ta.”

“Nghe này, tôi đã nghĩ là…”

“Web, tôi đã nói chuyện với Claire Daniels.”

Web cảm thấy mặt mình nóng bừng. “Cô ấy có kể với ông là chúng tôi đã nói chuyện không?”

“Có. Nhưng cô ấy không nói là hai người đã nói về chuyện gì, tất nhiên rồi. Tôi hiểu là khi đó anh đang trong tâm trạng khủng hoảng và Claire đã cố tìm cách liên lạc với tôi trước khi nói chuyện với anh. Đó thực sự là lý do tôi gọi điện.”

“Thật ra tôi cũng không hiểu lắm.”

“Hừm, Claire nói rằng hai người thực sự có vẻ rất tâm đầu ý hợp. Hình như cô ấy nghĩ là có thể anh sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu làm việc cùng cô ấy. Vì anh đang là bệnh nhân của tôi, nên anh và tôi cần thống nhất những chuyện như thế này.”

“Nghe này bác sĩ O’Bannon…”

“Web, tôi muốn anh biết là trước kia chúng thành công trong việc giải quyết những vấn đề của anh và tôi nghĩ chắc lần này cũng thế. Có lẽ Claire đã nói hơi quá về việc anh cảm thấy không yên tâm khi làm việc cùng tôi. Nói thật cho anh biết là Claire không thể có nhiều kinh nghiệm bằng tôi được. Lâu nay tôi đã điều trị cho rất nhiều đặc vụ FBI rồi. Tôi không thích phải nói điều này, nhưng chỉ là giữa anh và tôi biết thôi, chuyện này nằm ngoài khả năng chuyên môn của Claire.” Ông ta ngừng một lát để chờ Web trả lời. “Vậy, chúng ta vẫn như cũ, anh sẽ tiếp tục điều trị ở chỗ tôi chứ?”

“Tôi sẽ chọn Claire.”

“Web, thôi nào.”

“Tôi muốn Claire.”

O’Bannon im lặng hồi lâu. “Anh chắc chứ?” cuối cùng ông ta xẵng giọng.

“Tôi chắc.”

“Nếu vậy tôi sẽ nói Claire liên lạc với anh. Hy vọng hai người hợp tác tốt”, ông ta nói thêm với giọng cộc lốc rồi gác máy.

Đường dây không còn tín hiệu gì, Web vẫn tiếp tục lái xe. Hai phút sau, điện thoại của anh lại rung lên. Lần này là Claire Daniels.

“Tôi đoán chắc lúc này anh đang cảm thấy như một người bị truy đuổi”, cô nói với giọng nhẹ nhàng, thông cảm.

“Được nhiều người theo đuổi như thế kể cũng hay.”

“Tôi muốn kết thúc những gì tôi đã bắt đầu,Web, cho dù điều đó có nghĩa là làm đồng nghiệp của mình phật ý.”

“Claire, tôi đánh giá cao mọi chuyện, và tôi biết là tôi đã nói với O’Bannon là tất cả đều ổn, nhưng…”

“Thôi nào, Web, tôi nghĩ tôi có thể giúp được anh, ít nhất thì tôi cũng muốn cố gắng hết sức.”

Anh vừa suy nghĩ về điều cô nói vừa chằm chằm nhìn chiếc hộp giấy. Nó chứa những kho báu gì trong đó nhỉ? “Tôi gọi cho cô theo số này à?

“Tôi sẽ chỉ ở đây đến 5 giờ chiều.”

“Sau đó thì sao?” Anh tấp lại một cây xăng bên đường và ghi lại số điện thoại nhà và số di động của Claire. Anh nói sẽ gọi lại cho cô sau và tắt máy. Web lưu những số đó vào điện thoại của mình, bẻ lái rẽ ra đường và bắt đầu suy nghĩ về những chuyện vừa diễn ra. Điều anh cảm thấy không thích chính là việc hình như cô đã rất nhiệt tình và cố gắng, có lẽ là quá nhiệt tình.

Web lái xe quay lại phòng nhà nghỉ. Anh kiểm tra những tin nhắn qua điện thoại ở nhà. Vài người đã xem cuộc họp báo và gọi đến để hỏi thăm anh. Cũng ngần ấy giọng nói mà anh không biết nói thẳng với anh rằng họ chỉ muốn đấm thẳng vào cái mặt hèn nhát và méo mó của anh. Có một tin nhắn mà Web nghĩ là giọng của Julie Patterson và tiếng trẻ con khóc, nhưng anh cũng không chắc lắm. Có lẽ nào anh lại ở vị trí đầu tiên trong danh bạ điện thoại của người phụ nữ khốn khổ đó.

Anh ngồi bệt trên sàn, dựa lưng vào tường và cảm thấy thương Julie đến nỗi người anh bắt đầu rung lên bần bật. Đành rằng lúc này mọi chuyện đối với anh thật kinh khủng, nhưng tất cả rồi sẽ qua đi. Còn Julie còn phải sống với cả cuộc đời khó khăn trước mặt, với nỗi ám ảnh về một người chồng và đứa con đã mất, suốt đời đeo đẳng cô, lại còn một nách bốn đứa con nheo nhóc. Cô cũng chỉ là một người sống sót, như Web. Và những người sống sót mới là những người đau đớn nhất, vì họ phải chịu đựng tất cả những gì điều tồi tệ và tiếp tục sống.

Anh bấm số và một giọng trẻ con trả lời. Đó là đứa lớn nhất, Lou Jr., mới mười một tuổi mà đã phải đảm trách vai trò người đàn ông trong nhà.

“Louie, mẹ cháu có nhà không? Bác Web đây.”

Im lặng hồi lâu. “Bác khiến bố cháu chết à, bác Web?”

“Không, không phải bác, Louie. Cháu phải tin chứ. Nhưng chúng ta sẽ sớm tìm ra kẻ nào gây ra chuyện đó. Cho bác nói chuyện với mẹ đi, con trai,” anh nói.

Web nghe thấy tiếng thằng bé đặt điện thoại xuống và chạy đi. Trong lúc chờ đợi, Web lại thấy người anh đang run lên, anh hoàn toàn không biết phải nói gì với người phụ nữ đang đau khổ kia nữa. Nỗi hồi hộp mỗi lúc một tăng khi anh nghe thấy tiếng bước chân lại gần trong điện thoại rồi tiếng ống nghe được nhấc lên, nhưng người ở đầu kia không nói gì.

“Julie phải không?” cuối cùng anh cũng lên tiếng.

“Anh muốn gì, Web?”

Giọng cô có vẻ mệt mỏi. Thật trớ trêu, chính giọng nói uể oải và chán chường của cô lúc này còn làm Web thấy đau đớn hơn là khi cô giận dữ gào thét trong nhà thờ.

“Tôi chỉ muốn hỏi xem tôi có thể giúp cô và các cháu được gì không?”

“Anh hay bất kỳ ai khác cũng chẳng làm được gì đâu.”

“Cô nên có ai đó ở cùng. Ngay lúc này ở một mình không tốt đâu.”

“Mẹ và chị gái tôi ở Newark mới đến.”

Web thở phào, ơn Chúa, thế thì tốt. Ít nhất thì nghe giọng Julie lúc này cũng có vẻ bình tĩnh và kiềm chế hơn. “Chúng tôi sẽ tìm ra kẻ nào gây ra chuyện này, Julie. Dù có phải mất cả đời, tôi cũng sẽ tìm cho ra. Tôi chỉ muốn nói vậy thôi. Lou và những người khác là tất cả những gì tôi có.”

“Anh cứ làm những gì phải làm thôi, nhưng điều đó cũng không thể mang họ trở lại , Web”.

“Cô có xem buổi họp báo trên ti vi hôm nay không?”

“Không. Và xin anh đừng gọi điện nữa.” Cô dập máy.

Web ngồi lặng người, ngơ ngẩn. Không phải là vì anh đã kỳ vọng rằng cô sẽ xin lỗi về việc lăng mạ anh hôm nọ. Không thể trông đợi một điều quá hão huyền như thế. Điều làm Web thấy suy sụp chính là việc anh cảm thấy bị cô xua đuổi. Xin anh đừng gọi nữa ư? Có lẽ đó cũng là tâm trạng của những người vợ khác. Cả Debbie hay Cynde, hay bất kỳ người vợ nào của đội cũng không hề liên lạc để hỏi thăm xem anh thế nào. Rồi anh lại tự nhắc nhở mình rằng sự mất mát của họ còn lớn hơn nhiều những gì anh đã mất. Họ đã mất chồng, con họ đã mất cha. Web chỉ mất những người bạn. Rõ ràng đó là cả một sự khác biệt rất lớn. Nhưng đối với Web thì hoàn toàn không khác gì nhau.

Anh chạy qua cửa hàng 7-Eleven ([42]) bên kia đường, mua một cốc cà phê. Trời bắt đầu mưa phùn, nhiệt độ giảm xuống rất nhanh. Một ngày khởi đầu rất đẹp với ánh bình minh ấm áp giờ lại xám xịt và ẩm ướt - chuyện quá bình thường ở khu vực này - khiến tâm trạng của anh càng thêm nặng nề, chán nản.

Web quay về phòng, lại ngồi bệt trên sàn nhà và mở chiếc thùng các tông. Những tập tài liệu cũ mèm, mốc thếch, vài tấm ảnh ít ỏi cũng đã ố vàng và sờn rách. Nhưng tất cả vẫn khiến anh thấy tò mò, háo hức như bị thôi miên vì từ trước đến nay anh chưa bao giờ nhìn thấy những thứ này.

Một phần cũng vì anh không bao giờ biết rằng mẹ mình vẫn còn giữ lại những kỷ vật từ cuộc hôn nhân đầu tiên. Và anh cũng chưa bao giờ lục lọi trong nhà để tìm chúng. Tại sao lại không, anh cũng không biết nữa. Có lẽ mối quan hệ của anh và người cha dượng đã làm thui chột tất cả những mối quan tâm của Web đối với những người cha.

Anh xòe hết những bức ảnh lên sàn nhà và ngắm nhìn từng bức một. Bố anh, Harry Sullivan, là một người đàn ông khá đẹp trai, cao lớn, vai rộng. Mái tóc dài và lượn sóng, sẫm màu, của ông được chải ngược ra sau, óng mượt, trong ảnh ông đang nhìn anh với ánh mắt tự tin, ngạo nghễ. Trông ông chẳng khác nào một ngôi sao điện ảnh của kỷ nguyên 1940, trẻ trung và kiêu ngạo, trong đôi mắt tóe lên vẻ tinh nghịch, bất cần đời Web có thể thấy tại sao Harry Sullivan lại có thể hớp hồn cô thiếu nữ ngây thơ là mẹ anh hồi đó, dù thông minh và táo bạo đến đâu chăng nữa. Web tự hỏi không biết giờ đây trông bố anh sẽ như thế nào, sau bao năm tháng trong tù, và sau hàng chục năm sống bạt mạng, gấp gáp, không cần biết tương lai.

Trong một bức ảnh khác, Sullivan đang choàng tay ôm quanh vòng eo thon thả của Charlotte. Cánh tay ông dài đến nỗi nó gần như quấn quanh thân bà, những ngón tay đặt bên dưới ngực Charlotte, có lẽ còn tì hẳn lên bầu vú. Trông họ thật hạnh phúc. Quả thật Charlotte London trong tấm ảnh, với chiếc váy xếp li và mái tóc óng ả xõa ngang vai, trông còn lộng lẫy, quyến rũ và sống động hơn tất cả những gì Web còn lưu giữ trong ký ức về mẹ mình. Có lẽ đó chính là vẻ đẹp kỳ diệu của tuổi trẻ, anh tự nhủ. Đó là khi hai người chưa phải trải qua những thời khắc khó khăn. Web sờ tay lên má. Không, chẳng sung sướng gì những lúc khó khăn, và chưa chắc chúng đã giúp bạn trở nên mạnh mẽ hơn. Nhìn gương mặt rạng ngời hạnh phúc và sức sống của bà, Web không thể tin nổi là mẹ mình đã chết.

Ngoài trời mưa mỗi lúc một nặng hạt, Web ngồi trong căn phòng tồi tàn của mình, nhấp cà phê và lặng lẽ xem qua những đồ đạc khác. Anh mân mê giấy đăng ký kết hôn của cặp vợ chồng trẻ nhà Sullivan. Web cảm thấy ngạc nhiên là mẹ mình vẫn còn giữ nó lại. Xét cho cùng, đó vẫn là cuộc hôn nhân đầu tiên của bà, cho dù tất cả đã không phải là màu hồng như người ta kỳ vọng. Chữ ký của bố anh trông bé xíu, bé một cách đáng kinh ngạc so với một người đàn ông to lớn có dáng vẻ tự tin như thế.

Và những con chữ cũng xộc xệch, xiêu vẹo, như thể ông vô cùng bối rối khi phải ký tên mình, không biết phải đưa bút ra sao. Một người đàn ông học hành lỡ cỡ, Web kết luận.

Anh đặt tấm giấy đăng ký kết hôn xuống và nhặt một tờ giấy khác lên. Đó là một lá thư. Trên cùng là tên của một trại cải tạo ở Georgia. Ngày viết lá thứ là một năm sau khi người mẹ và cậu con trai đã từ bỏ tên tội phạm trước từng là chồng và cha của họ. Lá thư được đánh máy, nhưng chữ ký của Harry Sullivan xuất hiện bên dưới. Và lần này chữ ký đó được viết to hơn, đậm hơn và rõ nét hơn, một cách đầy chủ ý. Nhưng chẳng qua vì hồi đó, ông ấy đang có rất nhiều thời gian “rảnh rỗi” trong tù mà.

Nội dung của bức thư rất ngắn gọn. Đó thực chất là một lời xin lỗi gửi tới Charlotte và Web. Rằng khi ra tù, ông sẽ trở thành một người hoàn toàn thay đổi, ông sẽ làm tất cả để bù đắp cho họ. Nhưng, thực ra lá thư chỉ nói rằng Harry Sullivan sẽ cố gắng hết sức để thực hiện những lời hứa đó. Web phải thừa nhận rằng về phần Sullivan đó là một sự trung thực tàn nhẫn, không hề dễ dàng đối với một người đang chết mòn trong nhà đá.

Web đã quá quen với những cuộc thẩm vấn để biết rằng những song sắt, khóa lớn của nhà tù cùng tương lai mù mịt khiến con người ta hoàn toàn có thể nói dối một cách trắng trợn nếu họ nghĩ điều đó sẽ giúp ích cho mình. Anh tự hỏi không biết những giấy tờ ly dị có đến được tay bố mình sau khi ông ta gửi lá thư này đi hay không. Không biết điều có tác động như thế nào đến một người tù? Tự do của ông ta đã bị tước mất, và rồi cả vợ con cũng ra đi? Chắc chắn khi đó ông ta sẽ chẳng còn gì. Web chưa bao giờ trách mẹ vì đã làm những gì phải làm. Và ngay cả lúc này anh cũng không hề oán trách bà. Tuy nhiên những chi tiết rời rạc này về lịch sử gia đình mình khiến Web cảm thấy thoáng một chút thương hại Harry Sullivan, cho dù lúc này ông ta đang ở đâu, còn sống hay đã chết.

Web đặt lá thư qua một bên và dành cả hai tiếng sau đó lần lượt xem qua những món đồ trong chiếc hộp giấy. Phần lớn là những thứ hoàn toàn vô giá trị đối với anh trong việc tìm hiểu về cha mình, nhưng Web vẫn tỉ mẩn xem xét từng cái một thật kỹ lưỡng, dù chỉ để biết rõ hơn về ông ta. Tay anh lần đến hai thứ hứa hẹn sẽ mang đến những đầu mối quan trọng.

Thứ nhất là một tấm bằng lái đã hết hạn có dán ảnh của cha anh trên đó, thứ hai chính là tấm thẻ An sinh Xã hội của ông ta. Những bằng chứng mới này mở ra rất nhiều khả năng. Web cũng lại có thêm một mảng công việc khác phải hoàn thành.

Anh ngậm ngùi cố nuốt tính sĩ diện của mình và gọi điện cho Percy Bates và ngượng ngùng xin lỗi anh ta. Rồi anh đọc tên của Harry Sullivan, số An sinh Xã hội và khoảng thời gian ước đoán là Sullivan được phóng thích khỏi nhà tù ở bang Georgia. Web đã nghĩ đến chuyện gọi cho Ann Lyle để nhờ bà việc này nhưng anh không muốn lạm dụng lòng tốt của bà. Ann đã có quá nhiều việc phải làm, và ngay lúc này HRT đã thực sự cần đến sự chú của bà. Hơn nữa, bà vẫn còn chưa gọi gì cho Web về những thông tin liên quan đến Cove, anh không muốn bà cảm thấy bị anh thúc ép.

“Người này là ai vậy” Bates muốn biết ngọn ngành.

Khi Web nộp đơn xin dự tuyển vào Cục, anh đã phải khai tên thật của cha mình, và các điều tra viên đã yêu cầu anh cung cấp những thông tin cụ thể hơn. Web đã phải hỏi mẹ anh bổ sung thêm một số thông tin về ông ta, nhưng bà đã kiên quyết từ chối nói về chủ đề này. Web đã nói với các điều tra viên là anh không hề biết cha mình đang ở đâu và hoàn toàn không có thông tin nào để tìm ra ông ta. Và theo anh biết thì mọi chuyện đã kết thúc ở đó. Anh đã qua được vòng kiểm tra lý lịch và bắt tay vào theo đuổi sự nghiệp của mình ở FBI. Lần cuối cùng anh gặp cha mình là năm lên sáu tuổi, và Cục cũng chẳng có lý do gì để đàn hặc Web rằng cha anh là một tên tội phạm.

“Chỉ là một người mà tôi muốn tìm thôi,” Web nói với Bates. Web biết chắc là Cục rất kỹ lưỡng trong việc xác minh hồ sơ lý lịch và rất có thể họ đã có đầy đủ thông tin về cha Web rồi. Chỉ có điều là suốt bao năm qua làm việc trong Cục, anh chưa bao giờ nghĩ đến chuyện kiểm tra trong kho hồ sơ về vấn đề này. Và cũng rất có thể là chính Bates đã biết rằng Harry Sullivan là cha của Web. Nếu vậy thì anh ta quả là một tay nói dối đại tài.

“Có liên quan gì đến cuộc điều tra không?”

“Không, thì anh chả bảo tôi không được can thiệp vào chuyện đó còn gì, nhưng tôi thực sự rất cảm kích nếu anh giúp được tôi.”

Bates nói để anh ta xem có làm gì được không rồi dập máy.

Web đóng chiếc hộp lại và đẩy nó vào góc phòng. Anh lấy điện thoại di động ra và quay số hộp thư thoại ở nhà của mình một lần nữa. Kể từ sau vụ thảm sát ở khoảng sân đó đến nay anh hầu như bị ám ảnh với hộp thư thoại mà không hiểu tại sao. Khi nghe giọng nói cất lên anh mới cảm thấy mừng là mình đã cẩn thận kiểm tra lại. Debbie Riner hỏi Web có thể qua nhà ăn cơm tối nay được không. Ngay lập tức anh gọi lại cho cô và nói là mình sẽ đến. Cô đã xem cuộc họp báo trên ti vi. “Tôi chưa bao giờ nghi ngờ anh, Web ạ,” cô nói. Anh buông một tiếng thở dài. ít ra thì cuộc sống cũng bắt đầu trở nên dễ thở hơn.

Anh chọn ra trên màn hình số điện thoại mà anh đang tìm. Bây giờ đã hơn năm giờ chiều, vậy là Claire Daniels không còn ở phòng làm việc nữa. Ngón tay Web tần ngần trên bàn phím. Và rồi anh cũng quyết định gọi cho cô. Claire cho anh biết là đang trên đường lái xe về nhà. “Sáng mai tôi có thể bố trí gặp anh ngay từ đầu. Chín giờ sáng,” cô nói.

“Vậy là, cô đã giải quyết được tất cả các vấn đề của tôi rồi?”

“Đồng ý là tôi giỏi thật, nhưng làm sao nhanh thế được.”Anh không nén nổi mỉm cười khi nghe cô nói vậy. “Tôi đánh giá cao việc anh đã để tôi tư vấn cho anh. Tôi biết việc thay đổi này thực sự khó khăn.”

“Thay đổi thế nào tôi cũng giải quyết được, Claire. Chính những việc điên rồ đang diễn ra mới làm tôi xáo động. Tôi sẽ gặp cô lúc chín giờ sáng mai nhé.”

CHƯƠNG 21

Bữa tối với Debbie Riner cùng các con cô không diễn ra tốt đẹp như Web hy vọng. Carol Garcia và một đứa con cũng đến. Họ ngồi quanh bàn ăn, nói chuyện linh tinh và hầu như lảng tránh hoàn toàn những gì liên quan đến sự kiện bi thảm vừa xảy ra đối với mình. Khi gia đình Garcia làm dấu thánh trước khi ăn, Web lại nhớ đến những gì anh vẫn nói với Danny Garcia trước mỗi điệp vụ. Hóa ra Web đã đúng, vì đêm đó Chúa đã không ở cùng anh và đồng đội. Nhưng cuối cùng Web cũng chỉ nói, “Vui lòng chuyển hộ bát khoai tây nào.”

Thực ra thì các đội viên HRT cũng không mấy mặn mà với việc các bà vợ của họ tụ họp cùng nhau. Một phần là vì họ không muốn các bà vợ buôn chuyện với nhau về chồng mình. Các đội viên thường thể hiện rất nhiều khía cạnh của bản thân trong quá trình huấn luyện và thực hiện nhiệm vụ, và không phải là khía cạnh nào cũng tốt đẹp cả. Chỉ cần một câu nói hớ hênh của một người với vợ mình cũng có thể lan truyền rất nhanh nếu các bà vợ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Lý do nữa là họ không muốn các bà vợ cùng tụ tập với nhau lo lắng linh tinh, trao đổi những thông tin không chính xác, những phỏng đoán vô căn cứ và cả những lời dối trá trắng trợn xuất phát từ nỗi lo sợ thường trực về việc chồng họ đang ở đâu họ sẽ đi bao lâu, họ còn sống hay đã chết.

Bọn trẻ cắm mặt vào đứa thức ăn, ngồi lặng lẽ trên ghế và không hề che giấu là chúng chỉ muốn mau mau chóng kết thúc cho nhanh bữa ăn.

Xưa nay chúng vẫn coi Web như người bạn chí thiết của mình, người chơi đùa, và nhìn chúng lớn lên hàng ngày, nhưng giờ đây chúng đối xử với anh như một kẻ hoàn toàn xa lạ. Tất cả mọi người, kể cả cô con gái bảy tuổi của Debbie Riner mà gần như từ khi chào đời đã quấn lấy chú Web, đều không giấu nổi vẻ mặt nhẹ nhõm khi anh nói lời tạm biệt.

“Thường xuyên liên lạc nhé,” Debbie nói, khẽ lướt môi trên má anh.

Carol chỉ đứng cách một đoạn và vẫy vẫy tay chào, cậu con trai mắt trong veo của cô đang nép sát vào hông mẹ.

“Nhất định rồi,” Web nói. “Mọi người bảo trọng nhé. Cảm ơn vì bữa tối. Nếu cần gì, cứ cho tôi biết.”

Anh lên chiếc Crown Vic và lái vụt đi, biết chắc rằng nhiều khả năng anh sẽ không bao giờ còn gặp lại họ nữa. Đã đến lúc phải bước qua một trang mới, đó là thông điệp rõ ràng của bữa tối vừa xong.

*

Đúng chín giờ sáng hôm sau Web bước vào thế giới của Claire. Thật trớ trêu là người đầu tiên anh nhìn thấy lại là bác sĩ O’Bannon.

“Web, rất vui được gặp anh. Anh uống chút cà phê nhé?”

“Tôi biết chỗ rồi. Tôi sẽ tự lấy được, cám ơn ông.”

“Anh biết đấy, Web, tôi đã từng ở Việt Nam. Chưa bao giờ tham chiến. Ngay từ hồi đó tôi đã là bác sĩ tâm thần rồi. Nhưng tôi đã gặp nhiều người từng cầm súng. Trong chiến tranh thì thiếu gì chuyện có thể xảy ra, kể cả những điều mà anh không bao giờ hình dung nổi. Nhưng anh biết không, có lẽ nhiều khi qua đó mà anh trở nên mạnh mẽ hơn. Và tôi đã làm việc với người của bên ta bị đối phương bắt làm tù binh và tra tấn dã man. Họ đã phải trải qua những điều thật khủng khiếp, bị hành hạ cả về thể chất và tinh thần, ai gây chuyện sẽ bị tẩy chay, loại bỏ hoàn toàn sự phản kháng về thể chất và ý chí. Kẻ thù còn kiểm soát cuộc sống của họ cả trong giấc ngủ, kích động người này chống lại người kia nhân danh tập thể, đó là theo định nghĩa của những kẻ bắt giữ họ. Tất nhiên bây giờ thì chẳng có gì là hợp đạo lý nghề nghiệp khi bác sĩ tâm thần này lại đi xúi giục bệnh nhân bỏ bác sĩ kia, mặc dù phải nói thẳng là tôi rất ngỡ ngàng trước những gì đã xảy ra với Claire. Nhưng tôi nghĩ Claire cũng đồng ý rằng điều quan trọng nhất ở đây là lợi ích của anh, Web ạ. Vì thế nếu có bao giờ anh nghĩ lại về việc làm việc với Claire, tôi vẫn ở đây chờ anh.” Ông ta vỗ lên lưng Web, trao cho anh cái nhìn ra vẻ khích lệ rồi bước đi.

Một lát sau Claire nhìn thấy anh khi cô ra khỏi văn phòng của mình, hai người cùng pha cà phê. Họ trông thấy một người thợ sửa chữa mặc đồng phục mang hộp dụng cụ bước ra khỏi tủ cầu dao điện và cổng điện thoại của văn phòng và đi khỏi.

“Có gì hỏng hóc à?” Web hỏi.

“Tôi không biết, tôi cũng vừa mới vào,” Claire trả lời.

Trong lúc pha cà phê, Web kín đáo quan sát người phụ nữ. Claire mặc một chiếc áo sơ mi trắng và váy dài ngang đầu gối, khoe hai bắp chân tròn trịa rám nắng. Nhưng mái tóc của cô, dù đã cắt ngắn, vẫn hơi bù xù. Hình như cô nhận ra Web đang quan sát mình nên đưa tay lên vuốt lại mái tóc.

“Sáng nay đến đây, tôi đi bộ quanh tòa nhà một vòng coi như tập thể dục. Gió và độ ẩm thời điểm này có vẻ không tốt cho cho tóc lắm.” Cô nhấp một ngụm cà phê và bỏ thêm đường. “Anh sẵn sàng rồi chứ?”

“Lúc nào cũng sẵn sàng.”

Sau khi vào trong phòng Claire tranh thủ xem lướt lại hai cặp hồ sơ trong lúc Web nhìn đôi giầy đế mềm trong góc phòng. Có lẽ đó là đôi giầy cô dùng khi đi bộ. Anh hồi hộp nhìn Claire.

“Trước hết, Web ạ, tôi muốn cám ơn anh đã tin tưởng để tôi tiếp quản việc điều trị của anh.”

“Tôi cũng không chắc tại sao tôi lại làm như vậy,” anh nói không giấu giếm.

“Vâng, cho dù là vì lý do gì chăng nữa, tôi cũng sẽ cố hết sức để bảo đảm rằng anh đã quyết định đúng. Bác sĩ O’Bannon không hài lòng lắm, nhưng anh mới là người tôi quan tâm.”

Cô lấy ra tập hồ sơ nhỏ. “Đây là tập hồ sơ bác sĩ O’Bannon đưa khi bàn giao việc điều trị của anh cho tôi.”

Web cố gượng mỉm cười. “Tôi cứ nghĩ phải dầy hơn chứ nhỉ.”

“Thực ra tôi cũng nghĩ thế.”

Web hơi ngạc nhiên khi thấy Claire trả lời như vậy. “Trong này chỉ có những bản ghi chép một vài buổi điều trị thông thường; ông ấy có kê cho anh một số loại thuốc, thuốc chống trầm cảm, nhưng nói chung là chẳng có gì khác thường cả.”

“Vậy là sao? Tốt hay xấu?”

“Tốt, nếu như nó giúp được anh, và tôi cho là thế thật, vì anh đã quay lại cuộc sống bình thường đó thôi.”

“Nhưng?”

“Nhưng có thể là trường hợp của anh đáng ra phải được đào sâu hơn thế. Tôi phải nói thật là tôi rất ngạc nhiên khi không thấy ông ấy thôi miên anh. Ông ấy rất giỏi chuyện này mà, và thường thì đó là một phần trong phác đồ điều trị của O’Bannon. Trong thực tế, O’Bannon phụ trách khoa thôi miên ở trường y của đại học George Washington, cứ đến năm thứ ba hoặc thứ tư là ông ta lại thôi miên một sinh viên và thực hiện những thủ thuật kiểu như khiến họ hoàn toàn không còn nhìn thấy một chữ cái nào đó, ví dụ như ông ta viết từ “mèo” lên bảng thì người sinh viên chỉ đọc là “èo”. Thậm chí ông ta còn có thể khiến họ tin rằng có một con muỗi đang bay vo ve quanh tai mình, đại loại như vậy. Các bác sĩ tâm thần chúng tôi thường xuyên áp dụng kỹ thuật này để tạo ra ảo giác do hình ảnh hoặc lời nói tạo ra.”

“Tôi nhớ là chúng tôi có nói đến chuyện này lần đầu tiên tôi gặp ông ấy cách đây nhiều năm. Tôi không muốn thử, nên việc đó đã không xảy ra,” anh nói dứt khoát.

“Tôi hiểu.” Cô nhấc lên tập hồ sơ dầy hơn còn lại. “Đây là hồ sơ chính thức của anh ở Cục, hoặc ít nhất cũng là một phần,” cô nói khi thấy anh vẫn chằm chằm nhìn tập hồ sơ.

“Thì ra là thế. Vậy mà tôi tưởng đó phải là hồ sơ mật chứ.”

“Khi đồng ý đi khám như thế này anh đã ký một tờ khai đồng ý cho chúng tôi sử dụng hồ sơ của anh. Tập hồ sơ này được Cục chuyển cho bác sĩ trị liệu, tất nhiên là trừ những thông tin tuyệt mật và nhạy cảm khác.

Bác sĩ O’Bannon đã bàn giao lại hồ sơ này khi anh trở thành bệnh nhân của tôi. Tôi đã xem qua rất kỹ rồi.”

“Thế thì tốt.” Web bẻ ngón tay và nhìn cô chờ đợi.

“Trong lần nói chuyện đầu tiên giữa hai chúng ta, anh không hề nhắc đến việc bố dượng của anh, Raymond Stockton, chết vì bị ngã trong nhà, năm anh mười lăm tuổi.”

“Vậy sao? Hừm, tôi tưởng tôi nói rồi chứ nhỉ. Nhưng làm sao cô có thể chắc chắn là tôi chưa nói chứ?”

“Tin tôi đi, Web, nếu anh nói thì nhất định tôi đã nhớ. Anh còn bảo tôi là anh và bố dượng của mình rất hòa thuận mà, đúng không?” Cô lại cúi xuống những tập tài liệu.

Web cảm thấy tim anh bắt đầu đập thình thịch, tai nóng bừng. Kỹ thuật tra vấn của cô phải nói là kinh điển. Anh đã hớ hênh vượt qua đường ranh giới mà cô vẽ, để rồi bây giờ cô đang giật lại sợi dây xích khiến anh bắn ngược trở lại. “Chúng tôi có một vài bất đồng, ai mà chẳng thế?”

“Ở đây có không biết bao nhiêu đơn tố cáo bạo hành. Một số là của hàng xóm, một số là của chính anh. Tất cả đều tố cáo Raymond Stockton. Anh gọi đó là vài bất đồng à?”

Anh đỏ bừng mặt giận dữ và cô nhanh chóng bồi thêm, “Tôi không hề chế nhạo hay mỉa mai gì hết, tôi chỉ muốn cố gắng hiểu được mối quan hệ của anh với ông ta.”

“Chẳng có gì phải hiểu hết vì chúng tôi không có quan hệ gì với nhau.”

Claire lại chăm chú nhìn những tài liệu của mình, lật qua lật lại từng trang, trong khi Web quan sát mỗi cử động của cô với cảm giác bồn chồn mỗi lúc một tăng lên.

“Có phải Stockton đã chết trong đúng căn nhà mà mẹ anh để lại cho anh phải không?”

Web không nói gì.

“Web, có đúng là…”

“Tôi nghe thấy rồi!” Anh gắt. Vâng, đúng là ngôi nhà đó, thì sao?”

“Tôi chỉ hỏi thôi mà. Vậy, anh nghĩ là anh sẽ bán nó đi à?”

“Cô quan tâm làm gì? Cô làm thêm nghề buôn bất động sản à?”

“Tôi chỉ đang cảm thấy là dường như anh có những vấn đề liên quan đến ngôi nhà đó.”

“Chẳng qua đó không phải là nơi thực sự hay ho gì đối với thời thơ ấu của tôi.”

“Tôi hoàn toàn hiểu điều đó, nhưng thường thì để cảm thấy thoải mái hơn và có thể tiếp tục sống bình thường thì cách tốt nhất là đối mặt với những điều mà anh lo sợ.”

“Chẳng có gì trong căn nhà đó mà tôi phải đối mặt cả.”

“Vậy tại sao chúng ta không nói chuyện thêm về nó?”

“Nghe này, Claire, có vẻ như chuyện này mỗi lúc một đi ra ngoài lề, đúng không? Tôi đến chỗ cô vì đội của tôi bị bắn tan xác và tôi như phát điên. Cô hãy nhớ lấy điều đó. Hãy quên quá khứ đi. Hãy quên cả ngôi nhà và những ông bố nữa. Những chi tiết đó chẳng liên quan gì đến tôi hoặc tôi là con người như thế nào.”

“Ngược lại, chúng liên quan rất nhiều đến việc anh là con người như thế nào. Nếu không hiểu rõ quá khứ của anh thì tôi không thể nào giúp được anh trong hiện tại cũng như tương lai. Đơn giản thế đấy.”

“Tại sao cô không kê cho tôi mấy viên thuốc khốn kiếp và chúng ta nghỉ ở đây cho xong? Chỉ cần thế là Cục đã hài lòng vì tôi đã đi khám đầu còn cô cũng làm xong chức trách của mình.”

Claire lắc đầu, “Tôi không làm việc theo kiểu đó, Web. Tôi muốn giúp anh. Tôi nghĩ tôi có thể giúp anh. Nhưng anh phải hợp tác với tôi chứ. Nếu không tôi sẽ chẳng làm được gì hết.”

“Tôi cứ tưởng là cô nói tôi bị hội chứng chiến tranh hoặc cái gì đó đại loại thế. Mà chuyện đó thì liên quan gì đến ông bố dượng của tôi chứ?”

“Chúng ta chỉ nói về điều đó như là một khả năng cho những gì xảy ra với anh trong con hẻm. Tôi không hề nói đó là khả năng duy nhất. Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng mọi khía cạnh nếu chúng ta thực sự muốn giải quyết dứt điểm những mối bận tâm của anh.”

“Những mối bận tâm - nghe cô nói thì thật đơn giản làm sao. Cứ như là tôi đang kêu ca vì bị trứng cá không bằng.”

“Chúng ta có thể dùng một thuật ngữ khác nếu anh muốn, nhưng điều đó cũng không hề tác động đến cách chúng ta tiếp cận vấn đề.”

Web đưa hai tay lên che mặt, rồi lên tiếng qua kẽ ngón tay. “Vậy chính xác thì cô muốn cái chết tiệt gì ở tôi chứ?”

“Sự trung thực, ở mức độ anh thấy có thể. Và tôi nghĩ là anh hoàn toàn có thể, nếu anh thực sự cố gắng. Anh phải tin tôi. Web.”

Web bỏ hai tay xuống. “Được rồi, sự thật là thế này. Stockton là một tên khốn kiếp. Nghiện ngập bê tha. Ông ta chưa bao giờ thoát ra khỏi lối sống của những năm sáu mươi ([43]) . Ông ta làm nhân viên quèn ở một văn phòng, hàng ngày diện complet đi làm, những lúc rảnh rỗi thì tự coi mình như một Dylan Thomas ([44]) thứ hai.”

“Vậy anh muốn nói rằng ông ta là một người ảo tưởng, thậm chí là một trí thức dỏm đời?”

“Lúc nào ông ta cũng muốn tỏ ra là một người thông minh, tài năng hơn mẹ tôi, nhưng còn lâu ông ta mới xứng bám váy cho bà. Thơ của ông ta thì không ngửi được; ông ta chưa bao giờ được xuất bản tác phẩm nào. Điểm chung duy nhất giữa ông ta và Dylan là việc ông ta uống như hũ chìm. Tôi nghĩ chắc ông ta cho rằng rượu sẽ mang lại cảm hứng cho mình.”

“Vậy ông ta có đánh mẹ anh không?” Cô gõ gõ lên tập hồ sơ.

“Trong hồ sơ có nói vậy à?”

“Thực ra, chính những điều không được nói đến trong hồ sơ còn đáng chú ý hơn nhiều. Mẹ anh không bao giờ tố cáo Stockton.”

“Hừ, vậy thì có lẽ chúng ta phải tin vào hồ sơ thôi.”

“Ông ta có đánh mẹ anh không?” cô hỏi lại, và một lần nữa Web không trả lời. “Hay ông ta chỉ đánh anh thôi?”

Web chậm rãi nhướng mắt lên nhìn cô, nhưng vẫn không nói gì.

“Vậy là chỉ anh thôi? Và mẹ anh để mặc cho chuyện đó diễn ra?”

“Charlotte không mấy khi ở nhà. Bà ấy đã sai lầm khi cưới ông ta. Chính vì biết vậy nên lúc nào bà ấy cũng lảng tránh.”

“Tôi hiểu. Tôi đoán bà ấy không coi ly dị là một giải pháp.”

“Bà ấy đã ly dị một lần rồi. Tôi không nghĩ là mẹ tôi muốn mất công ly dị lần nữa làm gì. Đơn giản nhất là buổi tối cứ lái xe bỏ đi đâu cho xong.”

“Và bà ấy để anh ở nhà với một người đàn ông mà bà ấy biết là vẫn luôn hành hạ con trai mình? Điều đó khiến anh cảm thấy thế nào?”

Web không nói gì.

“Anh có bao giờ nói chuyện với mẹ về điều đó không? Để cho bà ấy biết là anh cảm thấy như thế nào?”

“Chẳng để làm gì. Với mẹ tôi, ông ta chưa bao giờ tồn tại.”

“Có nghĩa là bà ấy đã cố chôn vùi những ký ức của mình?”

“Có nghĩa là cô muốn hiểu thế quái nào cũng được. Chúng tôi chẳng bao giờ nói chuyện về điều đó.”

“Anh có ở nhà khi bố dượng anh qua đời không?”

“Cũng có thể, tôi không nhớ nữa. Tôi cũng đã cố chôn vùi ký ức đó.”

“Trong hồ sơ chỉ nói là bố dượng anh đã bị ngã. Ông ta ngã như thế nào?”

“Từ trên đỉnh cầu thang gác xép xuống. Ông ta cất giữ những đứa con tinh thần bí mật của mình trên đó. Ông ta đang chếnh choáng nên bước hụt và bị ngã đập đầu vào cầu thang, sau đó gãy cổ khi rơi xuống dưới sàn. Cảnh sát đã đến điều tra và kết luận đó là một tai nạn.”

“Mẹ anh có ở nhà không khi chuyện đó xảy ra, hay bà ấy lại đi hóng mát đâu đó rồi?”

“Gì đây, cô không định giả vờ cô là một đặc vụ FBI đấy chứ?”

“Tôi chỉ cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh đó thôi.”

“Charlotte có ở nhà. Chính bà ấy là người gọi xe cấp cứu. Nhưng như tôi đã nói, ông ta đã chết rồi .”

“Lúc nào anh cũng gọi mẹ mình bằng tên như vậy à?”

“Có vẻ như thế là phù hợp nhất.”

“Tôi đoán anh đã cảm thấy nhẹ nhõm trước cái chết của Stockton.”

“Nói thế này cho nhanh, tôi không hề khóc trong đám tang.”

Claire cúi người về phía trước và nói bằng một giọng rất nhẹ nhàng. “Web, tôi biết câu hỏi tiếp theo là rất khó khăn, và nếu anh không muốn trả lời ngay lúc này thì cũng tốt thôi, nhưng trong những trường hợp cha mẹ lạm dụng con cái, tôi không thể không hỏi được.”

Web giơ cả hai tay lên. “Ông ta không bao giờ chạm vào những bộ phận riêng tư của tôi, và ông ta cũng không bao giờ bắt tôi phải chạm vào những bộ phận riêng tư của ông ta, thế được chưa? Không có chuyện đó đâu. Hồi đó người ta cũng đã hỏi như thế, và tôi đã nói toàn bộ sự thật rồi. Thằng cha đó không phải là một kẻ lạm dụng tình dục trẻ em. Ông ta chỉ là một tên khốn kiếp muốn giải tỏa nỗi thất vọng và chán chường của đời mình bằng cách trút đòn lên người tôi. Còn nếu như ông ta mà động đến tôi theo kiểu kia thì chính tôi cũng sẽ tìm cách giết ông ta rồi.” Web chợt nhận ra anh vừa nói gì và vội vàng nói thêm, “Nhưng rốt cuộc thì ông ta đã giúp mọi người không phải tốn công bằng cú ngã của mình.”

Claire ngồi ngả ra trên ghế và đặt tập hồ sơ qua một bên. Cử chỉ nhỏ này ít nhiều làm Web thấy vợi bớt nỗi lo lắng và anh cũng ngồi thẳng lên.

Cô nói, “Rõ ràng là anh nhớ rõ quãng thời gian anh ở bên bố dượng và có lý do xác đáng để căm ghét quãng thời gian đó. Có bao giờ anh suy nghĩ về những kỷ niệm với bố đẻ của mình chưa?”

“Bố nào chẳng là bố.”

“Nghĩa là sao, anh xếp bố đẻ của mình và Raymond Stockton vào cùng một loại sao?”

“Để đỡ phải bận tâm vô ích, chẳng đúng thế sao?”

“Cách lảng tránh mọi chuyện như vậy sẽ không bao giờ giải quyết được gì hết.”

“Tôi thực sự không biết phải bắt đầu từ đâu, Claire, tôi thực sự không biết.”

“Được rồi, chúng ta hãy quay lại khoảng sân đó một chút. Tôi biết là sẽ rất đau đớn, nhưng hãy kể lại toàn bộ một lần nữa đi.”

Web làm theo, và quả thật là không còn gì đau đớn hơn thế.

“Được rồi, nhóm người đầu tiên mà các anh gặp, anh có nhớ là điều đó có tác động gì đến anh không?”

“Chẳng có gì ngoài việc đề phòng trong bọn chúng có kẻ tìm cách giết chúng tôi hoặc đánh động cho bọn khác, nhưng tôi biết là các xạ thủ bắn tỉa đã theo dõi chúng rồi. Tóm lại là ngoài cái chết bất thình lình ra, tất cả đều ngon lành.”

Nếu như Claire có phật ý trước câu trả lời đầy mỉa mai của anh, thì cô cũng không thể hiện gì. Điều đó thực sự làm Web thấy ấn tượng.

“Được rồi bây giờ anh hãy hình dung lại về thằng bé đó trong đầu. Anh đã nhớ ra là chính xác thì nó nói gì chưa?”

“Điều đó có thực sự quan trọng không?”

“Vào lúc này thì thực sự chúng ta không thể biết chắc điều gì là quan trọng hay không?”

Web thở dài nặng nề và nói, “Được rồi, tôi nhìn thấy thằng bé. Nó nhìn chúng tôi. Nó nói. . .” Nói đến đây Web dừng lại vì anh có thể hình dung rõ ràng khuôn mặt của Kevin trong đầu. Vết sẹo do đạn trên má nó, vết dao rạch ngang trán, một thằng bé sớm phải sống một cuộc đời bầm dập, chết chóc. “Nó nói, nó nói, ‘Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi’, nó nói thế đấy.” Anh nhìn cô trong tâm trạng đầy kích động. “Đúng rồi. Ôi, và sau đó nó bật cười. Ý tôi là một tiếng cười rất quái dị, một tiếng khành khạch thì đúng hơn.”

“Và anh bị tác động bởi phần nào?”

Web suy nghĩ một lát. “Tôi phải nói rằng đó là khi nó vừa lên tiếng. Ý tôi là như thể có một màn sương mù dày đặc bị nhét vào đầu tôi.” Web nói thêm, 'Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi,' chính xác là nó nói thế đấy. Cảm giác đó lại đang xảy ra đây này, tôi có thể cảm thấy các ngón tay của mình đang tê đi. Kỳ quái thật.”

Claire ghi chép một lát rồi lại ngẩng lên nhìn anh.

“Kể cũng rất lạ khi một thằng bé chín tuổi lại biết câu rủa đó, nhất là ở một thành phố lớn như thế này. Rõ ràng là 'quái quỷ' và 'địa ngục' thì vẫn được dùng, nhưng 'Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi'? Ý tôi là nghe rất cổ xưa, như từ một thời đại khác. Nghe rất độc địa, ma quái. Anh thấy sao?”

“Tôi thì thấy nó giống như ngôn ngữ thời Nội chiến hoặc quanh thời gian đó,” Web trả lời.

“Đúng là kỳ lạ thật.”

“Tin tôi đi, Claire, cả đêm hôm đó đều rất kỳ lạ.”

“Anh còn cảm thấy gì nữa không?”

Web cố nhớ lại. “Chúng tôi đang chờ mệnh lệnh cuối cùng để tấn công mục tiêu. Rồi chúng tôi nhận được lệnh.” Anh lắc mạnh đầu. “Ngay sau khi nghe thấy mệnh lệnh từ tai nghe, tôi bị cứng đờ người. Ngay lập tức. Cô có nhớ tôi nói với cô về loại súng Taser mà những đội viên HRT chúng tôi vẫn mang ra đùa nghịch đó không?”

Cô gật đầu.

“Đó, cứ như là tôi đã bị một mũi tên điện đó bắn trúng vậy. Tôi không sao cử động được.”

“Liệu có khả năng đúng là ai đó trong con hẻm đã dùng súng Taser bắn anh không? Đó có thể là lý đo anh bị cứng đờ người?”

“Không thể có chuyện đó. Xung quanh chúng tôi lúc đó làm gì có ai, hơn nữa mũi tên điện cũng không thể nào xuyên qua tấm áo giáp Kevlar của tôi được. Và cuối cùng, nếu có thì mũi tên đó phải đính trên người tôi chứ, đúng không?”

“Đúng.” Claire ghi chép thêm một chút rồi nói, “Anh đã nói rằng mặc dù bị tê cứng người, cuối cùng anh vẫn đứng dậy được và vào trong khoảng sân.”

“Đó là điều khó khăn nhất tôi từng làm trong đời, Claire. Cứ như thể tôi nặng đến cả tấn, không bộ phận nào trên con người tôi chịu tuân theo mệnh lệnh của bộ não. Và cuối cùng nó cũng thắng - tôi ngã xuống và nằm im. Đúng lúc đó thì súng nổ.”

“Khi nào thì anh hồi phục?”

Web suy nghĩ “Tôi có cảm giác là phải mất mấy năm liền tôi mới cử động lại được. Nhưng thực ra thì không lâu đến thế. Ngay sau khi súng nổ, tôi cảm thấy tất cả trên người tôi đều sống lại. Tôi có thể cử động được chân tay, nhưng chúng nóng khủng khiếp, giống như khi chân và tay ta ngủ quên rất lâu và máu bắt đầu tuần hoàn trở lại. Đó là cảm giác của chân và tay tôi lúc đó. Mà đó là lúc tôi đâu có thực sự cần đến chúng, đạn đang bắn rất rát nên tôi cũng không còn chỗ nào mà đi được.”

“Vậy là chúng tự động hồi phục trở lại? Anh có nhớ là anh đã làm gì có thể khiến bản thân bị tê liệt như thế không? Có thể là một chấn thương lưng khi huấn luyện chẳng hạn? Anh đã bao giờ bị tổn thương thần kinh chưa? Những chấn thương loại đó nhiều khi cũng có thể làm anh tê liệt.”

“Không thể có chuyện đó được. Nếu như cô không có ở trong tình trạng sức khỏe tốt nhất, cô sẽ không bao giờ được tham gia thực hiện nhiệm vụ.”

“Vậy là anh nghe thấy tiếng súng nổ và cảm giác bắt đầu quay lại với cơ thể?”

“Đúng thế.”

“Còn gì nữa không?”

“Thằng bé, tôi đã nhìn thấy cả triệu đứa trẻ giống nó. Nhưng không hiểu sao trông nó vẫn rất khác. Tôi không sao rũ được hình ảnh của nó ra khỏi đầu. Không phải vì vết sẹo trên má nó, tôi chứng kiến nhiều đứa trẻ bị bắn rồi. Tôi không biết. Khi những khẩu súng máy đang vãi đạn thì tôi lại nhìn thấy thằng bé. Nó đang lò dò đi xuống cuối hẻm. Chỉ cần tiến thêm một bước nữa là đạn súng máy sẽ xé nó ra làm đôi ngay lập tức. Tôi hét lên để đó lùi lại. Tôi bò đến sát chỗ nó. Có thể thấy là nó đang sợ chết khiếp. Nó đã nghe thấy đội Hotel đang từ trên đầu hẻm cơ động xuống, đầu này thì có tôi nằm giữa đống xác chết, những khẩu súng máy khốn kiếp vẫn đang khạc đạn. Và tôi cũng nhận thấy là nó đang định bỏ chạy, ngang qua khoảng sân, và cầm chắc cái chết. Tôi không thể để điều đó xảy ra, Claire. Đã quá nhiều người chết đêm đó rồi. Đúng lúc nó định nhảy lên thì tôi cũng nhảy lên và tóm được nó, tôi vỗ về cho nó bình tĩnh lại vì nó đang la hét là nó không làm gì hết, và tất nhiên là khi một đứa trẻ nói như vậy thì cô biết ngay là nó đang che giấu điều gì đó.

Như tôi đã nói, tôi dỗ cho nó bình tĩnh lại. Nó hỏi đội của tôi chết rồi à, và tôi bảo nó là đúng vậy. Tôi đưa cho nó mảnh giấy và chiếc mũ, rồi bắn quả pháo sáng. Tôi biết đó là cách duy nhất để đội Hotel không giết nó khi thấy họ thấy có người lao vọt về phía mình trong đêm tối. Tôi không muốn nó phải chết, Claire.”

“Đó chắc chắn là một đêm khủng khiếp đối với anh, Web, anh nên cảm thấy mừng là anh đã cứu thằng bé.”

“Vậy sao? Tôi đã cứu nó làm gì nhỉ? Để nó quay lại cuộc sống đường phố à? Cô hiểu chứ, đó là một thằng bé đặc biệt. Anh trai nó là Big F, trùm một băng đảng buôn bán ma túy trong thành phố. Thằng này mới thực là đáng sợ.”

“Vậy rất có thể toàn bộ chuyện này có liên quan đến những kẻ thù của người có tên là Big F đó chăng?”

“Có thể.” Anh ngừng lại và quyết định có nên nói thật chuyện này hay không. “Có người đã đánh tráo thằng bé. Trong con hẻm.”

“Đánh tráo thằng bé. Anh nói vậy là sao?”

“Ý tôi là thằng Kevin Westbrook mà tôi đã cứu trong hẻm không phải là thằng bé đã chuyển mảnh giấy cho đội Hotel. Và thằng bé biến mất khỏi hiện trường không phải thằng Kevin Westbrook mà tôi cứu.”

“Tại sao ai đó lại phải làm như thế?”

“Đó mới là câu hỏi đáng tiền đây ([45]), và tôi đang đau hết cả đầu. Tôi chỉ biết là tôi đã cứu Kevin Westbrook trong khoảng sân đó còn thằng bé bị đánh tráo thay nó đã nói với đội Hotel rằng tôi là một thằng hèn nhát. Tại sao nó phải làm như vậy?

“Nghe như thể nó đang cố tìm cách bôi nhọ anh một cách có chủ đích.”

“Một thằng bé mà tôi thậm chí còn không biết?” Web lắc đầu. “Có kẻ đang tìm cách gây khó khăn cho tôi, chắc chắn là như thế, và chúng đã bảo thằng bé phải khai như vậy. Sau đó chúng nhảy vào và thoát ra với thằng bé đóng giả. Có khi nó chết rồi cũng nên. Mẹ kiếp, có lẽ cả Kevin cũng chết rồi.”

“Dường như trong vụ này có người đã lên kế hoạch rất chi tiết,” Claire nhận xét.

“Và tôi rất muốn biết tại sao.”

“Chúng ta chỉ có thể cố gắng hết sức, Web. Tôi có thể giúp anh ở vài khía cạnh, nhưng những gì liên quan đến cuộc điều tra nằm ngoài khả năng của tôi.”

“Rất có thể chuyện này cũng nằm quá ngoài năng của tôi nữa. Thực ra thì suốt tám năm qua tôi hầu như không còn làm những việc liên quan đến điều tra nữa.” Anh nghịch nghịch một chiếc nhẫn trên ngón tay. “O’Bannon cho tôi một bài giảng nhỏ về hội chứng chiến tranh khi tôi đến đây sáng nay.”

Claire nhíu mày. “À, vậy sao? Lại những kinh nghiệm ở Việt Nam của ông ấy chứ gì?” Có vẻ như cô phải cố gắng lắm mới không mỉm cười.

“Tôi không nghĩ đó là lần đầu tiên ông ấy nhắc đến vấn đề đó. Nhưng đó có phải là điều cô nghe - ý tôi là, cho dù có những chuyện khác liên quan đến thằng bé?”

“Tôi chưa thể nói gì được, Web, còn quá sớm để kết luận.”

“Nghe này, tôi biết là chuyện đó thường xảy ra đối với các binh lính. Khi người ta phải làm bia cho kẻ thù nã đạn thì việc họ hoảng sợ là bình thường. Ai cũng thông cảm với điều đó…”

Cô chăm chú nhìn anh, “Nhưng?”

Anh bắt đầu nói rất nhanh. “Nhưng hầu hết các binh sĩ đều chỉ được huấn luyện qua loa trước khi bị tung ra hỏa tuyến. Họ chẳng hề biết gì về việc giết người. Họ chẳng hề biết gì về cảm giác khi nằm dưới hỏa lực thực sự của đối phương sẽ như thế nào. Tôi, chính tôi đã giành cả phần đời trưởng thành của mình để tập luyện cho công việc này. Tôi đã phải hứng chịu tất cả những gì khủng khiếp nhất mà nói ra cô cũng không tin đâu, Claire. Từ họng súng máy cho tới những loạt đạn cối mà nếu tôi để bị dính đạn thì chắc chắn là sẽ tan xác. Tôi đã phải chiến đấu và giết người trong khi máu trong người tôi đã phun ra thành vũng trên sàn .Và chưa một lần, chưa một lần quái nào, tôi cảm thấy cứng đờ người như cái đêm hôm đó. Và nhất là khi đó chưa hề có phát đạn khốn kiếp nào được bắn ra cả. Cô hãy giải thích đi, làm thế quái nào lại có chuyện như thế chứ?”

“Web, tôi biết anh đang muốn tìm kiếm câu trả lời. Chúng ta phải tiếp tục kiên trì thôi. Nhưng tôi có thể nói với anh rằng một khi bàn đến vấn đề tâm thần của con người thì tất cả đều có thể.”

Anh trừng trừng nhìn cô, lắc đầu và tự hỏi làm thế quái nào anh có thể thoát khỏi mớ bòng bong chết tiệt này. “Chà chà, bác sĩ, có vẻ không ăn thua, đúng không? Cục phải trả cho cô bao nhiêu tiền để cô rốt cuộc chẳng nói cho tôi cái chó gì cả?”

Đột nhiên anh đứng bật dậy và bỏ thẳng ra ngoài.

Một lần nữa Claire không hề cố tìm cách gọi anh quay lại, mặc dù không phải là cô không muốn. Cô đã gặp nhiều bệnh nhân bỏ về khi giữa buổi điều trị như thế này, nhưng chưa bao giờ có ai bỏ dở cả hai buổi điều trị đầu tiên như Web. Claire ngồi ngả người trên ghế và bắt đầu xem xét lại những gì cô đã ghi chép, rồi cô cầm lên một chiếc máy ghi âm và bắt đầu đọc. Claire hoàn toàn không biết rằng ẩn sâu trong thiết bị cảnh báo cháy gắn trên trần là một thiết bị nghe lén cực kỳ tinh vi hoạt động bằng chính nguồn điện của tòa nhà, và còn có một bộ pin dự phòng. Trong văn phòng của mỗi bác sĩ tâm thần và chuyên gia tư vấn tâm lý làm việc ở đây đều có một thiết bị nghe lén tương tự. Tủ tổng đài điện thoại của tòa nhà cũng là nơi gắn các cổng cắm thiết bị nghe trộm, một cổng như vậy mới bị hỏng, đó là lý do người “thợ sửa chữa” xuất hiện ở đây sáng nay.

Những cái tai tọc mạch này đã thu được lượng thông tin tình báo khổng lồ từ mỗi bệnh nhân bước vào các phòng điều trị. Chỉ trong một năm qua, hơn một trăm đặc vụ FBI từ tất cả các bộ phận, kể cả lực lượng đặc vụ chìm, Cơ quan chống tham nhũng, WFO, Tổng hành dinh và HRT, cùng hơn hai mươi người vợ hoặc chồng của các nhân viên này, đã đến đây và thổ lộ tất cả những bí mật và vấn đề của mình với niềm tin tuyệt đối .

Thực tế lại hoàn toàn ngược lại.

Ngay sau khi Web đùng đùng lao ra khỏi văn phòng, Ed O’Bannon cũng lặng lẽ lẩn ra, đi thang máy xuống nhà để xe, trèo vào trong chiếc Audi mui trần cáu cạnh của mình và lái ra ngoài. Ông ta rút điện thoại và ấn số. Chỉ vài hồi chuông đã có người trả lời.

“Lúc này có tiện không?” Ông ta lo lắng hỏi.

Người bên kia trả lời rằng không có vấn đề gì, nếu như cuộc trò chuyện thật súc tích và đi vào trọng tâm.

“Hôm nay London đã đến đây.”

“Tôi có nghe nói,” giọng đầu kia trả lời. “Người của tôi đến đó sửa chữa đôi chút. Thế anh bạn Web sao rồi?”

O’Bannon nuốt khan vì căng thẳng. “Anh ta đang điều trị với một bác sĩ khác”, ông ta nói nhanh. “Tôi đã cố hết sức để ngăn chặn, nhưng không ăn thua.” O’Bannon giơ chiếc điện thoại cách xa khỏi tai mình, vì người ở đầu kia đang phản ứng bằng cách quát tháo giận dữ và ầm ĩ.

“Nghe này, tôi cũng không ngờ mọi chuyện lại diễn ra như thế.” O’Ban non nói. “Tôi còn không thể tin nổi là anh ta lại nghĩ đến việc gặp một bác sĩ khác. Mọi chuyện diễn ra hoàn toàn bất ngờ…Gì cơ? Tên cô ta là Claire Daniels. Trước đây cô ta làm việc cho tôi. Cô ta làm ở đây từ lâu rồi, rất có năng lực. Bình thường trong những hoàn cảnh khác thì không vấn đề gì. Nhưng lần này nếu tôi mà làm gay gắt quá thì thể nào họ cũng đặt nghi vấn.”

Người kia đưa ra một lời gợi ý khiến O’Bannon rùng mình. Ông ta tấp xe lại bên đường. “Không, giết cô ta sẽ chỉ khiến mọi người nghi ngờ. Tôi biết London. Biết quá rõ là khác. Hắn ta cực kỳ tinh quái. Nếu có điều gì đó xảy ra với Claire, hắn sẽ sinh nghi và theo đuổi đến cùng cho mà xem. Hắn là thế đấy. Tin tôi đi, tôi làm việc cùng tay này lâu lắm rồi. Hãy nhớ đó là lý do các ông thuê tôi.”

“Nhưng cũng không phải là lý do duy nhất đâu,” người kia nói. “Chúng tôi đã trả ông rất hậu hĩnh, Ed. Cực kỳ hậu hĩnh. Và tôi không hề thích việc hắn gặp cái con mụ Daniels đó một chút nào.”

“Tôi vẫn đang kiểm soát tình hình. Nếu đúng như tôi biết về London, thì hắn sẽ đến vài lần rồi phun hết tất cả cho mà xem. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra, chúng ta sẽ biết ngay. Tôi sẽ hết sức lưu ý đến việc này.”

“Thế thì tốt,” người kia nói. “Và khi nào ông không kiểm soát được mọi chuyện, chúng tôi sẽ can thiệp.”

Đầu kia cúp máy, chỉ còn lại một mình O’Bannon như người quẫn trí, vòng xe ra đường và lái vụt đi.

CHƯƠNG 22

Web đã ngồi không biết bao lâu trên chiếc Vic lượn vòng khắp các con phố gần nơi xảy ra vụ thảm sát. Anh đang nghỉ phép không lương và không tham gia nhóm điều tra chính thức. Vì vậy anh không được phép yêu cầu yểm trợ, trong trường hợp cần thiết, mà chính anh cũng không biết mình đang tìm kiếm điều gì trong lúc này. Màn đêm đen kịt trên những con phố thỉnh thoảng lại bị xé toang bởi những cột đèn giao thông giống hệt nhau. Tại những ngã tư này có gắn rất nhiều camera với lý do bề ngoài là để phát hiện những lái xe vượt đèn đỏ. Tuy nhiên, Web biết thực ra chúng được gắn ở đây còn là để phục vụ mục đích theo dõi tình hình tại những khu vực có tỷ lệ tội phạm cao. Mặc dù vậy, anh cũng phải khâm phục sự ranh ma của những tên tội phạm địa phương, vì phần lớn trong số những chiếc camera này đã bị bẻ ngoặt ra khỏi những góc quay ban đầu. Cái thì chĩa lên trời, cái thì chúc xuống đất, vài cái thì hướng vào nhà, đó là chưa kể số còn lại đã bị đập nát. Chà chà, rõ ràng là ông anh cả đã bị chơi một vố quá đau.

Web tiếp tục kiếm tra những tin nhắn lưu lại trên điện thoại ở nhà của anh. Những người vợ của đồng đội anh đã không còn gọi nữa. Có lẽ Cynde và Debbie đã thông báo cho những người khác là họ đã làm xong phần việc khó khăn là trục xuất anh vĩnh viễn khỏi cuộc sống của tất cả mọi người. Web hình dung ra trong đầu tiếng thở phào nhẹ nhõm của những người phụ nữ.

Cuối cùng Web cũng đã bố trị một cuộc hẹn khác với Claire. Cô không nhắc đến việc anh đã xúc phạm cô trước khi đùng đùng bỏ ra khỏi văn phòng. Cô chỉ đề cập đến thời gian thích hợp để hai người có thể gặp nhau. Cô ta đúng là đồ mặt dày đáo để, Web nghĩ bụng.

Có vài người khác đang đứng trong phòng chờ khi Web đến. Không một ai quay ra nhìn Web và anh cũng không định nhìn ai. Anh hiểu đó là chuyện bình thường trong phòng chờ của một bác sĩ tâm thần. Có ai muốn bị người lạ biết rằng mình đang bị bệnh tâm thần đâu cơ chứ?

Claire bước ra và chào anh với một nụ cười khích lệ rồi chìa cho anh một cốc cà phê vừa pha, đã có sẵn cả đường và kem bên trong, đúng như anh vẫn thích. Hai người ngồi lặng lẽ trong văn phòng của cô.

Web đưa tay lên vò tóc. “Nghe này, Claire. Tôi xin lỗi về lần trước. Bình thường thì không mấy khi tôi phản ứng thô lỗ như vậy. Tôi biết là cô chỉ muốn giúp tôi và tôi biết tất cả những chuyện này đều chẳng có gì là dễ dàng cả.”

“Anh không việc gì phải xin lỗi vì đã làm mà anh nên làm, Web, đó là thể hiện tất cả những suy nghĩ và cảm xúc đó ra ngoài để anh có thể nhận biết và giải quyết chúng.”

Anh gượng gạo mỉm cười và nói, “Vậy hôm nay chúng ta đi đâu đây bác sĩ? Sao Hỏa hay sao Kim?”

“Trước hết chúng ta hãy bàn về hiện tượng rối loạn căng thẳng hậu tổn thương để xem anh có bị ảnh hưởng gì không.”

Web cười thầm. Gì chứ cái này thì anh đối phó được. “Kiểu như sốc bom đạn à?”

“Thuật ngữ đó thường bị dùng một cách vô tội vạ, nên lần này tôi muốn gọi tên nó một cách chính xác hơn. Còn bây giờ, xét về mặt bệnh lý lâm sàng, có thể anh đã bị căng thẳng thần kinh sau những sự kiện xảy ra khoảnh sân đó.”

“Tôi cũng nghĩ là như vậy.”

“Được rồi, chúng ta sẽ xem xét cụ thể kết luận đó. Nếu qua chẩn đoán mà đúng là như vậy thì có rất nhiều phương pháp điều trị đã qua kiểm chứng, bao gồm các kỹ thuật xử lý căng thẳng, điều chỉnh chế độ dinh dưỡng và nghỉ ngơi, những bài tập thư giãn, tái cấu trúc nhận thức, và dùng thuốc an thần.”

“Mẹ kiếp, nghe đơn giản thật,” anh mỉa mai.

Web nghĩ cô đang nhìn anh với ánh mắt lạ lùng.

“Nhiều lúc đúng là rất đơn giản.” Cô nói rồi lại cúi xuống những bản ghi chép. “Nào, anh có nhận thấy những thay đổi bất thường nào về mặt thể chất không? Cảm giác ớn lạnh, choáng váng, tức ngực, tăng huyết áp, khó thở, mệt mỏi, buồn nôn, bất kỳ triệu chứng nào tương tự?”

“Lần đầu tiên tôi quay lại khoảnh sân đó và trình bày lại những gì đã xảy ra, tôi hơi cảm thấy choáng váng thật.”

“Còn từ đó đến nay thì sao?”

“Không.”

“Từ đó đến nay anh có cảm thấy mình đặc biệt dễ bị kích động không?”

Web không phải suy nghĩ lâu. “Không, hoàn toàn không.”

“Anh có phải lạm dụng bất kỳ loại hóa chất nào không?”

“Không. Thậm chí tôi còn uống ít hơn trước kia.”

“Thế có bao giờ anh đột nhiên hồi tưởng lại sự kiện bi thảm đó?” Web lắc đầu.

“Anh có cảm thấy quẫn bách, muốn lảng tránh cuộc sống và mọi người xung quanh không?”

“Không, tôi muốn điều tra việc gì đã xảy ra. Tôi muốn hoạt động thật xông xáo.”

“Anh có cảm thấy giận dữ, cáu kỉnh hoặc hung hăng hơn mọi khi với mọi người không?” Cô nhìn anh và mỉm cười. “Tất nhiên là trừ trường hợp với người đối diện lúc này.”

Web cũng gượng gạo mỉm cười đáp lại. “Hoàn toàn không, Claire. Tôi nghĩ thực ra tôi còn trở nên bình tĩnh hơn nhiều.”

“Trầm cảm kéo dài, hoang mang, lo lắng hay sợ một cái gì đó thì sao?”

“Không có chuyện đó đâu.”

“Được rồi. Vậy thỉnh thoảng những ký ức của sự kiện đó có lúc nào đột nhiên xuất hiện trong ý nghĩ của anh không? Những cơn mơ vật vã hay nói cách khác là những cơn ác mộng?”

Web chậm rãi cân nhắc từng từ ngữ trong khi anh thận trọng bước qua bãi mìn tâm lý mà Claire giăng ra. “Cái đêm trong bệnh viện, sau khi chuyện xảy ra, tôi đã gặp những giấc mơ nặng nề. Họ đã tiêm thuốc an thần cho tôi, nhưng tôi nhớ là tôi đã luôn miệng xin lỗi vợ con những đồng đội của mình.”

“Hoàn toàn dễ hiểu trong trường hợp này.Vậy từ đó đến nay thì sao?”

Web lắc đầu. “Tôi quá bận bịu với cuộc điều tra,” anh nói một cách đề phòng. “Nhưng lúc nào tôi cũng suy nghĩ đến điều đó. Ý tôi là chuyện đã xảy ra trong khoảnh sân đã giáng cho tôi một đòn trí mạng. Như bị một chiếc búa máy giáng vào đầu. Tôi chưa bao giờ phải trải qua điều gì khủng khiếp như vậy.”

“Nhưng trong công việc của mình anh đã nhiều lần phải chứng kiến cảnh chết chóc rồi còn gì?”

“Đúng vậy, nhưng chưa bao giờ là với đồng đội thân thiết của mình.”

“Anh có nhận thấy là anh đang cố tìm cách chôn vùi một phần của những gì xảy ra trong đầu không, mà chúng tôi vẫn gọi là rối loạn chức năng trí nhớ hoặc hội chứng cố tình quên?”

“Không, tôi nhớ rõ từng chi tiết khốn kiếp đó.” Web mệt mỏi trả lời.

Trong lúc Claire cúi xuống nhìn những bản ghi chép của mình, Web bỗng buột miệng, “Tôi không muốn họ chết, Claire. Tôi rất đau đớn vì điều đó. Tôi sẵn sàng làm tất cả để đưa họ trở lại.”

Cô ngẩng lên nhìn anh và gạt tập tài liệu qua một bên. “Web, hãy nghe tôi nói này. Việc anh không có những triệu chứng của rối loạn căng thẳng hậu tổn thương hoàn toàn không có nghĩa là anh không quan tâm tới những gì đã xảy ra với bạn mình. Cũng không có nghĩa là anh không đau khổ. Anh phải hiểu điều đó. Tôi nhìn thấy ở anh hình ảnh một người đang phải chịu đựng tất cả những triệu chứng bình thường sau khi phải trải qua một thử thách nặng nề mà hầu hết người khác sẽ không thể nào chịu đựng nổi, ít nhất là trong một thời gian khá dài.”

“Nhưng tôi thì không.”

“Anh có những kỹ năng đặc biệt, quá trình rèn luyện sau nhiều năm và cấu tạo tâm lý bẩm sinh đã khiến anh được chọn vào HRT ngay từ đầu. Từ khi anh đến đây, tôi đã tìm hiểu thêm rất nhiều về HRT. Tôi biết những căng thẳng và khổ ải về thể chất mà họ bắt các anh phải trải qua là khủng khiếp, nhưng vẫn chưa thấm vào đâu so với những thử thách về tinh thần. Chính nhờ vào cấu tạo tâm lý và thể chất khác thường của mình nên anh có thể chịu đựng tốt hơn hầu hết mọi người, Web. Anh đã sống sót sau những gì xảy ra trong khoảnh sân đó, không chỉ là về thể xác mà cả tinh thần của anh cũng còn nguyên vẹn.”

“Vậy là tôi không bị rối loạn căng thẳng hậu tổn thương?”

“Đúng vậy, tôi nghĩ là nó không ảnh hưởng gì đến anh cả.”

Anh cúi xuống nhìn tay mình. “Có nghĩa là chúng ta đã xong việc?”

“Không. Việc anh không bị tổn thương bởi những gì xảy ra đêm hôm đó không hoàn toàn đồng nghĩa với việc anh không có những trục trặc cần giải quyết. Rất có thể anh đã có những vấn đề đó từ rất lâu, kể cả trước khi anh vào HRT.”

Web ngồi ngây người, không tin vào những gì vừa nghe thấy; anh buột miệng. “Như thế nào cơ?”

“Đó là điều mà chúng ta cần bàn đến ở đây. Anh đã nói rằng anh cảm thấy như là một phần trong gia đình của các đồng đội. Tôi đang tự hỏi đã khi nào anh muốn có gia đình của riêng mình chưa?”

Web suy nghĩ một lúc trước khi trả lời. “Xưa nay tôi vẫn nghĩ mình sẽ có một gia đình thật lớn, cô biết đấy, thật nhiều con trai để cùng chơi bóng, và nhiều con gái để chiều chuộng và làm hư chúng, cho chúng quàng những ngón tay xinh xẻo quanh cổ mình, còn tôi thì lúc nào cũng mỉm cười hạnh phúc.”

Claire cầm bút và quyển sổ lên. “Vậy tại sao anh lại không thực hiện ước mơ đó?”

“Tại tôi cứ lần lữa để thời gian trôi qua mất.”

“Thế thôi sao?”

“Thế chưa đủ à?”

Cô chăm chú nhìn thẳng vào mặt anh, cả bên lành lặn và bên xấu.

Web lại quay mặt đi như lần trước.

“Lúc nào anh cũng làm vậy à?”

“Làm gì cơ?”

“Quay phần mặt bị thương đi khi có ai đó nhìn vào.”

“Tôi không biết, thực sự là tôi cũng không nghĩ đến chuyện đó.”

“Web, tôi có cảm giác là anh suy nghĩ rất cẩn thận về tất cả những gì anh làm.”

“Thế thì có lẽ cô sẽ phải ngạc nhiên đấy.”

“Chúng ta chưa nói gì về những mối quan hệ riêng tư. Anh có đang hẹn hò với ai không?”

“Nghề của tôi không còn nhiều thời gian cho việc đó.”

“Nhưng những người khác trong đội của anh vẫn có gia đình đấy thôi.”

“Có lẽ trong chuyện này thì họ giỏi hơn tôi,” anh nói cộc lốc.

“Hãy cho tôi biết, anh bị thương vào mặt là khi nào?”

“Chúng ta có cần phải nhắc đến chuyện này không?”

“Hình như anh không thoải mái lắm với chuyện này thì phải. Chúng ta nói sang chuyện khác vậy.”

“Không, mẹ khỉ, chẳng có gì là không thoải mái cả.”

Anh đứng bật dậy, mở tung áo khoác, và trước sự ngỡ ngàng mỗi lúc một tăng của Claire, Web mở chiếc cúc trên cùng chiếc áo sơ mi để lộ ra vết đạn trên cổ mình. “Tôi bị thương vào mặt ngay trước khi tôi dính vết thương này.” Anh trỏ vào vết thương trên cổ, sát gần vai. “Một nhóm những tên cuồng tín sắc tộc người da trắng có tên là Hội Tự Do đã chiếm một trường học ở Richmond. Trong khi mặt tôi đang bốc cháy đùng đùng, một tên trong bọn chúng đã bắn trúng tôi bằng một viên đạn Magnum cỡ 0.357. Một phát đạn rất gọn ghẽ, xuyên qua cổ tôi. Chỉ cần chệch sang trái một milimét nữa thôi, là tôi đã chết hoặc tàn phế rồi. Đây, dưới đây tôi còn một vết sẹo nữa, nhưng không tiện cho cô xem được. Đúng chỗ này.” Anh chỉ vào vết sẹo dưới nách. “Trong nghề giết chóc của bọn tôi, đó được gọi là một viên đạn đào đường hầm. Cô biết đấy, kiểu như loại máy khoan dùng để đào đường hầm xuyên qua eo biển Manche giữa Anh và Pháp ấy. Đây là một loại đạn có sức công phá cực kỳ ghê gớm, Claire ạ, nó được bọc thép hẳn hoi. Nó xoáy tít trong cơ thể cô với tốc độ Mach 3([46]). Và bất kỳ thứ gì chặn đường đều bị xuyên thủng hoàn toàn. Viên đạn xuyên qua người tôi và giết chết tươi một tên đứng đằng sau đang vung dao định bửa đôi đầu tôi ra. Nếu chỉ là một viên đạn DumDum chứ không phải đạn bọc thép, thì có lẽ viên đạn đã nằm lại trong người tôi và tôi đã xong đời với con dao rựa kẹt giữa hộp sọ rồi.” Anh mỉm cười. “Cô thấy chưa, không thể nào tin là lại có sự trùng hợp kỳ lạ đến vậy.”

Claire bàng hoàng cúi mặt xuống và im lặng.

“Này, bác sĩ, đừng có nhìn đi chỗ khác thế, cô còn chưa nhìn thấy phần hay ho nhất đâu.”

Cô liếc nhìn lên đúng lúc anh lấy tay bụm cằm và kéo mặt nghiêng qua một bên, khiến cả phần mặt bị thương bày ra trọn vẹn trước mặt cô. “Vâng, đây là kiệt tác từ một quả bom xăng làm anh bạn tốt Lou Patterson của tôi suýt chết - cô nhớ không, chính là chồng người phụ nữ đã sỉ nhục tôi trước cả thế giới đó? Tôi chắc là cô có xem ti vi. Cái mặt nạ đã chảy tan ra dính vào cả da mặt tôi. Người ta kể lại là một bác sĩ và một y tá đã ngất xỉu khi họ nhìn thấy tôi trong bệnh viện ở Richmond. Cả bên mặt này là một vết thương trống hoác, thịt đỏ lòm. Có người còn nói là trông mặt tôi như một tử thi đang thối rữa. Năm ca phẫu thuật, Claire ạ, và những cơn đau thì, chậc, nói thật với cô là những cơn đau không hề giảm đi chút nào. Thậm chí mấy lần liền họ phải trói chân, trói tay tôi khi phẫu thuật. Khi nhìn thấy những gì còn lại trên mặt mình, tôi chỉ muốn một khẩu súng vào miệng và nhai một viên đạn cho xong đời, mà thực ra thì suýt nữa tôi đã làm vậy thật rồi. Và cuối cùng khi đã vượt qua tất cả những điều đó để ra viện, kể cũng vui khi nhìn thấy phụ nữ kêu lên mỗi lần họ trông thấy gã Web già đứng trước mặt. Cuốn sổ bìa đen ([47]) của tôi nhanh chóng bị xé tan và trôi trong toilet. Vì vậy tôi thực sự không còn hẹn hò gì nữa, và hôn nhân cũng nhanh chóng bị xếp sau cả những việc quan trọng khác như dọn dẹp giữa và cắt cỏ”. Anh ngồi xuống và đóng cúc áo sơ mi. “Cô còn muốn biết thêm gì nữa không?” anh làm ra vẻ ân cần.

“Đúng là tôi có xem buổi họp báo của Cục mà họ trình bày về những hoàn cảnh bị thương của anh. Những gì anh đã làm thực sự là anh hùng và phi thường. Nhưng hình như anh tự coi mình là một người không quyến rũ và bị ruồng bỏ trước mặt phụ nữ thì phải.” Rồi cô nói thêm, “Và tôi cũng đang tự hỏi liệu anh có bao giờ nghĩ rằng lẽ ra anh đã có thể là một người cha tốt hay không?”

Quỷ bắt người phụ nữ này đi, cô ta nhất định không chịu bỏ cuộc. “Tôi cũng muốn nghĩ vậy,” anh nói một cách điềm đạm cố gắng kiềm chế cơn giận dữ của mình.

“Không, tôi đang hỏi là anh có thực sự nghĩ vậy không.”

“Kiểu hỏi chó chết gì vậy?' anh tức giận nói.

“Anh có nghĩ là nếu anh có con, có khi nào anh sẽ hành hạ chúng không?”

Web suýt đứng bật dậy khỏi ghế. “Claire, tôi chỉ muốn đứng dậy và bước thẳng ra khỏi đây! Và không bao giờ muốn quay lại nữa.”

Cô chăm chú nhìn anh ngồi xuống. “Hãy nhớ rằng, khi chúng ta mới bắt đầu điều trị, tôi đã nói anh phải tin tôi. Web, anh phải biết là việc điều trị hoàn toàn không dễ dàng, nhất là nếu anh có những vấn đề mà anh không muốn giải quyết. Tất cả những gì tôi đang làm là để giúp anh, nhưng anh cũng phải hết sức thẳng thắn với tôi. Nếu anh muốn lãng phí thời gian với trò đóng kịch ấy thì tùy anh. Tôi chỉ muốn làm việc thật.”

Cô bác sĩ tâm thần và người lính đặc nhiệm trừng trừng đối mặt hồi lâu. Cuối cùng Web là người phải nháy mắt trước, anh lặng lẽ ngồi xuống.

Giờ thì anh bắt đầu thông cảm với tình cảnh của Romano khi đứng trước Angie. “Tôi sẽ không đánh đập các con tôi. Tại sao tôi phải làm thế chứ, sau những gì Stockton đã gây ra với tôi?”

“Điều anh nói có vẻ hoàn toàn lôgic. Tuy nhiên, thực tế là hầu hết những ông bố bà mẹ hành hạ con cái đều là những người từng bị hành hạ khi còn bé. Việc rút kinh nghiệm từ những sai lầm của các bậc cha mẹ thực ra cũng rất không hề dễ dàng vì tâm thức cảm xúc của con người ta rất khó bảo. Hơn nữa trẻ em cũng không đủ khả năng để suy nghĩ như vậy. Chúng không có khả năng chống lại sự bạo hành và từ đó chúng phải kìm nén lòng căm thù, giận dữ và cảm giác bất lực trong rất nhiều năm. Mớ hỗn độn giữa cảm giác hoang mang, bị phản bội và bị sỉ nhục ở đứa trẻ bị hành hạ sẽ không tự nhiên biến mất - bố, hoặc mẹ, không yêu mình vì họ đã đánh mình, và chắc chắn đó phải là lỗi của mình, vì bố mẹ không thể nào sai được. Những đứa trẻ bị bạo hành sẽ lớn lên, thành bố thành mẹ, và nhiều khi họ vượt qua được những vấn đề của mình và trở thành các bậc cha mẹ lý tưởng. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp cơn giận dữ và cảm giác căm hận tưởng chừng đã ngủ yên suốt bao năm lại bùng lên và trút xuống đầu con cái họ, giống như những gì họ phải chịu đứng trước kia.

“Tôi sẽ không bao giờ giơ tay đánh bất kỳ đứa trẻ nào, Claire. Tôi biết công việc có thể khiến tôi trông có vẻ hung hãn, nhưng tôi không phải loại người như vậy.”

“Tôi tin anh, Web. Tôi nói thật đấy. Nhưng nói thẳng vào vấn đề đi, anh có tin anh không?”

Mặt anh lại nóng bừng. “Cô thực sự làm tôi đến phát điên mất, bác sĩ.”

“Thế thì để tôi nói thẳng hơn nhé. Anh có nghĩ là rất có thể việc anh quyết định không kết hôn và có con bắt nguồn từ việc anh bị hành hạ khi còn bé và anh sợ anh sẽ lại hành hạ con mình? Đó không phải là chuyện xa lạ gì, Web; hoàn toàn không. Thực ra nhiều người còn gọi đó là sự hy sinh tối thượng.

“Hoặc là sự trốn chạy tối thượng khỏi những vấn đề của mình.”

“Nhiều người cũng nói như thế thật.”

“Vậy cô nghĩ thế nào?”

“Rất có thể với anh thì là cả hai. Nhưng nếu đó là vấn đề khiến anh không dám lập gia đình và có con, thì chúng ta có thể cùng giải quyết, Web. Và mặc dù tôi hiểu tại sao những vết sẹo trên mặt anh khiến nhiều phụ nữ không dám lại gần, thì anh cũng đừng nghĩ là tất cả phụ nữ đều như thế, vì hoàn toàn không phải vậy.”

Anh lắc đầu và rồi dừng lại, ngước lên và chăm chăm nhìn vào ánh mắt dò hỏi của cô. “Có một dạo tôi phải ăn chực nằm chờ ở Montana trong vụ bắt giữ con tin liên quan đến một nhóm chống chính phủ khác, tôi thường mất cả ca nằm phục buổi sáng dùng kính ngắm gắn trên súng để vẽ râu cho từng tên một khi chúng xuất hiện trên cửa sổ. Mỗi ngày tôi phải mất nhiều giờ chỉ để chờ đến thời điểm tôi phải bóp cò giết một tên nào đó trong bọn chúng. Cái trò chờ-đợi-để-giết-người đó nhiều khi làm ta phát điên, Claire ạ. Vì vậy những lúc không phải trông chừng, dưới ánh sao đêm ở chốn khỉ ho cò gáy của Montana đó, tôi đã viết rất nhiều thư về nhà.”

“Cho ai?”

Trông Web lúng túng rất khổ sở, phải một lát sau anh mới bình tĩnh lại, vì từ trước đến giờ anh chưa bao giờ thổ lộ điều này với bất kỳ ai.

“Tôi giả vờ như tôi có con.” Anh lắc đầu và thậm chí còn không dám nhìn thẳng vào mắt cô nữa. “Tôi còn tưởng tượng ra những cái tên như Web Junior Lacey. Con út của tôi là Brooke, tóc đỏ hoe và sún một chiếc răng. Tôi viết thư cho tất cả các con. Thậm chí tôi còn gửi thư về địa chỉ nhà mình, để khi tôi quay về thì những lá thư đã được chuyển đến rồi. Ngay giữa lúc nằm phục để bắn hạ lũ vô lại ở Montana vũ khí đầy mình như thế, tôi đã viết cho Brooke Lousie để con bé biết rằng bố nó sắp về nhà.

Thậm chí tôi còn bắt đầu tin rằng tôi có một gia đình thực sự đang chờ ở nhà. Đó là điều duy nhất khiến tôi có thể trụ vững, vì cuối cùng tôi vẫn phải bóp cò và dân số Montana bớt đi được vài mạng.” Anh dừng lại và đưa tay quệt miệng, cố nuốt vào trong cảm giác cay đắng và tủi nhục như một quả mật to như trái núi chẹn ngang họng, ánh mắt Web dán chặt xuống mặt thảm lót sàn. “Khi tôi về nhà, tất cả những lá thư đó đều đã được chuyển đến, chờ sẵn. Nhưng tất nhiên là tôi không đọc lại. Tôi biết thừa là trong đó viết những gì. Cả ngôi nhà trống hưu trống hoác. Chẳng có Brooke Lousie nào cả.” Cuối cùng anh ngẩng đầu lên. “Nghe thật điên rồ phải không?” anh nói, “viết thư cho những đứa con mà mình chưa bao giờ có?”

Chẳng khó khăn gì, Web cũng có thể nhận thấy là cuối cùng anh đã làm cho Claire Daniels không còn giấu nổi nỗi xúc động trong lòng.

Khi Web rời văn phòng của Claire và nhìn thấy hai người đang khe khẽ trò chuyện với nhau trong khu vực chờ đợi, anh đứng ngây người trong vài giây, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt mình, có gì đó không đúng ở đây. O’Bannon đang đứng kia, điều đó thì đúng rồi, dù sao ông ta cũng làm việc ở đây mà. Nhưng còn người phụ nữ đang nói chuyện với ông ta, lẽ ra cô không nên ở đây chứ. Khi cô quay lại và nhận ra Web, bất giác Debbie Riner cũng phải há hốc miệng vì sững sờ.

O’Bannon cũng trông thấy Web và bước lại gần anh, chìa tay ra. “Web, tôi không biết là hôm nay anh cũng tới đây. Thực sự là tôi không thể nào biết được, Claire và tôi không hề chia sẻ lịch làm việc, đúng là cơn ác mộng của cái gọi là đạo đức nghề nghiệp.”

Web không bắt tay ông ta; anh vẫn đứng sững ngơ ngác nhìn Debbie. Cô cũng đứng lặng người, cứ như thể cô vừa bị bắt quả tang đang gian díu với O’Bannon.

O’Bannon hết nhìn người này lại quay nhìn người kia. “Hai người biết nhau à?” Rồi ông ta vỗ vỗ tay lên trán và tự trả lời câu hỏi của mình. “HRT.” Web bước lại gần Debbie, cô luống cuống lấy trong túi xách ra một tờ khăn giấy.

“Deb? Chị đang điều trị với bác sĩ O’Bannon à?”

“Web,” O’Bannon nói, “đây là điều tuyệt mật.”

Web phẩy tay xua ông ta đi. “Vâng, tôi biết, tuyệt mật.”

“Tôi chưa bao giờ thích khu chờ chung này - rất không tốt cho việc bảo vệ sự riêng tư của bệnh nhân, nhưng cũng chẳng còn cách nào khác,” O’Bannon nói, mặc dù rõ ràng là cả hai người chẳng ai thèm quan tâm đến lời phàn nàn của ông ta. Cuối cùng, ông ta bèn ngượng nghịu nói với Debbie “gặp lại cô sau.” Với Web ông ta nói, “Bình tĩnh đi, Web. Tôi tin chắc là Claire đang làm cho anh những điều kỳ diệu.” Ông ta nhìn anh với ánh mắt dò hỏi.

Đúng đấy, Web muốn buột miệng. Quả là người phụ nữ đó đang làm cho tôi nhĩng điều kỳ diệu, cô ta làm tôi muốn phát điên.

Web giữ cửa cho Debbie và họ bước vào thang máy. Cô lảng tránh ánh mắt của anh và Web cũng cảm thấy mặt mình mỗi lúc một đỏ bừng lên, vì giận dữ, vì tủi hổ, anh cũng không rõ vì sao nữa. Cuối cùng anh lên tiếng, “Tôi đang gặp gỡ một bác sĩ tâm thần để giúp tôi vượt qua những gì đã xảy ra. Tôi đoán là chị cũng vậy.”

Cô hỉ mũi và cuối cùng cũng ngước lên nhìn anh. “Tôi đã gặp bác sĩ O’Bannon hơn một năm nay rồi, Web.”

Một lần nữa anh lại ngơ ngẩn nhìn cô, và thậm chí còn không biết là cửa thang máy đã mở ra.

“Anh định xuống tầng hầm à?” Debbie hỏi.

Họ bước ra ngoài phố và đang chuẩn bị mỗi người đi một hướng thì Web cố nén cảm giác bàng hoàng của mình và nói, “Chị có thời gian đi uống cà phê một lát được không, Deb?” Anh tuyệt đối tin rằng cô sẽ không bao giờ có chút thời gian rỗi nào dành cho anh hết. “Có một quán cà phê Starbucks ngay góc đường. Tôi biết khá rõ khu vực quanh đây.”

Hai người lặng lẽ ngồi quanh những cốc cà phê của mình trong một góc khuất của quán, xung quanh là những chiếc máy pha cà phê sáng loáng đang sôi vo vo, sùng sục, phì phì, sẵn sàng phục vụ khách hàng bất kỳ lúc nào.

“Chị vừa nói là hơn một năm à? Chị đã phải gặp bác sĩ tâm thần suốt thời gian đó sao?” Debbie quấy những mẩu quế nghiền vụn trong cốc cà phê của mình.

“Nhiều người còn phải điều trị suốt cả đời cơ, Web.”

“Vâng, nhưng đó là người khác. Không phải người như chị.”

Cô ngước lên nhìn anh với ánh mắt rất lạ mà anh chưa bao giờ nhìn thấy. “Để tôi nói cho anh biết về những người như tôi, Web. Hồi Teddy và tôi mới lấy nhau, anh ấy đang là quân nhân trong quân đội. Tôi biết rõ những gì chờ đợi mình phía trước, những đợt đồn trú ở nước ngoài nơi chẳng có ai nói thứ tiếng của bạn, hoặc là ở một xó xỉnh đầm lầy nào đó của nước Mỹ mà anh phải lái xe hàng trăm dặm mới đến được rạp chiếu phim. Nhưng tôi yêu Teddy và tôi sẵn sàng chấp nhận dấn thân, hoàn toàn không ảo tưởng gì. Rồi anh ấy gia nhập lực lượng Delta. Những đứa con lần lượt ra đời, và trong khi mẹ con tôi hầu như ở yên một chỗ, thì Teddy chẳng mấy khi có mặt ở nhà. Phần lớn thời gian tôi không biết anh ấy ở đâu, sống hay chết. Tôi chỉ biết tin tức liên quan đến anh ấy qua báo chí hoặc xem trên CNN như tất cả mọi người, và thực ra tôi thấy thế còn dễ chịu hơn. Lạy Chúa tôi, nhưng không có ai cho tôi biết là HRT còn điên rồ hơn cả Delta, Web, và chồng tôi sẽ còn phải vắng nhà thường xuyên hơn trước kia. Mọi chuyện dù sao cũng còn dễ thở khi tôi mới hai mươi và còn son rỗi. Nhưng tôi đã qua tuổi hai mươi từ lâu rồi Web. Và tôi luôn phải một mình nuôi dạy ba đứa con, bằng tiền lương của Teddy. Mà của đáng tội, sau bao nhiêu năm phục vụ cái đất nước khốn kiếp này của anh ấy, đồng lương đó còn không bằng một người nhân viên thu ngân ở siêu thị Kmart. Ngày nào tôi cũng phải ở bên các con và đứa bé nhất lúc nào cũng hỏi, sao bố phải đi? Sao bố không ở nhà? Và tôi hoàn toàn không biết phải trả lời con bé như thế nào nữa.”

“Anh ấy đã hy sinh như một anh hùng, Deb. Anh ấy đã hy sinh vì tổ quốc.”

Nắm đấm của cô giáng mạnh xuống mặt bàn, khiến những khách hàng đang xì xụp nhấp cà phê nóng xung quanh cũng phải giật mình quay sang nhìn. “Đó chỉ là một mớ nhảm nhí, anh cũng biết thừa còn gì.” Và đột nhiên với một nỗ lực phi thường, cô bình tĩnh lại.

Web có cảm giác người phụ nữ trước mặt anh giống như một ngọn núi lửa đang phun trào bỗng nhiên dừng lại và cố kéo về những dòng dung nham sôi sục.

Cô nói tiếp, “Anh ấy đã lựa chọn cuộc sống cho mình. Anh ấy chỉ muốn sống bên cạnh đồng đội, súng ống và những cuộc phiêu lưu của mình mà thôi.” Giọng cô càng lúc càng bình tĩnh, và buồn da diết. “Anh ấy yêu các anh. Anh ấy yêu anh, Web ạ. Lạy Chúa tôi, anh không biết là anh ấy yêu anh nhiều thế nào đâu. Hơn cả những gì anh ấy dành cho tôi và các con, vì anh ấy chẳng hề hiểu mẹ con tôi dù chỉ bằng một nửa những gì anh ấy hiểu về các anh. Các anh chiến đấu bên nhau, cùng đồng cam cộng khổ, cùng sống và cùng chết, mỗi ngày các anh lại tay trong tay cùng đương đầu với hiểm nguy và cùng tập luyện vất vả, nỗ lực để vượt qua chúng. Các anh là một đội. Đội đặc nhiệm khốn kiếp vĩ đại nhất trên đời. Anh ấy nói với các anh những điều mà chẳng bao giờ anh ấy nói với tôi. Anh ấy có một cuộc sống hoàn toàn khác mà tôi không có chỗ trong đó. Và cuộc sống đó còn thú vị hơn, lôi cuốn hơn bất kỳ điều gì khác trên đời.” Cô không nhận ra là mình vừa nói vừa giang rộng hai cánh tay. “Làm sao một người vợ và gia đình có thể cạnh tranh nổi với sức hút đó? Thỉnh thoảng Teddy cũng có nói với tôi rằng anh ấy đang làm cái này cái kia, toàn là những chuyện vô thưởng vô phạt để giữ không khí yên ấm trong gia đình.” Cô chán nản lắc đầu. “Có rất nhiều ngày tôi cảm thấy căm thù các anh vì đã cướp anh ấy đi.” Cô chấm chấm chiếc khăn giấy lên mặt để lau những giọt nước mắt đang ứa ra.

Web chỉ muốn vươn tay ra vỗ về cô, nhưng anh không dám chắc là hành động của mình có được chào đón hay không. Anh cảm thấy lương tâm cắn rứt như mình vừa gây ra những tội ác tày trời , khủng khiếp, và anh không nhận ra rằng thậm chí mình đã bị kết án rồi.

“Thế Teddy có đi điều trị cùng chị không?” anh khẽ hỏi.

Debbie lau sạch những giọt nước mắt và nhấp một ngụm cà phê.

“Không. Anh ấy nói nếu bất kỳ ai ở HRT biết anh ấy đang đi gặp bác sĩ tâm thần thì họ sẽ tống anh ấy ra khỏi đội, rằng hoàn toàn không có chỗ cho những kẻ yếu đuối trong HRT. Và anh ấy còn nói là anh ấy chẳng làm sao mà phải đi gặp bác sĩ tâm thần cả. Anh ấy chẳng làm gì sai hết, ngay cả khi tôi có phải chịu đựng vài vấn đề điên rồ nào đó. Anh ấy không muốn tôi đi, nhưng ít nhất thì cũng phải có một lần trong đời tôi làm gì đó cho mình chứ. Tôi phải làm vậy, Web, tôi cần ai đó để giãi bày. Và tôi không phải là người vợ duy nhất có chồng làm trong HRT cũng phải đi gặp bác sĩ tâm thần. Còn những người khác nữa, như Angie Romano ấy.”

Angie Romano! Web tự hỏi chẳng lẽ cô ta đến đây để nói với bác sĩ về Paulie. Có lẽ gã đánh cô ấy. Không, nhiều khả năng là cô ta đánh Paulie thì hợp lý hơn. “Tôi rất tiếc khi thấy chị không được hạnh phúc Deb. Chị xứng đáng được hưởng điều đó. Ở nhà mình, Web còn lưu giữ hơn một trăm bức ảnh của anh và những đồng đội trong đội Charlie đang vui vẻ bên nhau. Và không có hình bất kỳ người vợ nào xuất hiện trong những tấm ảnh này vì họ chẳng bao giờ được mời đến. Web đã đánh giá người khác mà chưa bao giờ đặt mình vào cương vị của họ. Và đó là sai lầm anh không bao giờ muốn lặp lại, thật không thể tin là anh có thể thiển cận và vô tâm đến thế.

Cô ngẩng đầu lên nhìn anh, chìa tay ra và nắm tay anh, thậm chí còn gượng mỉm cười. “Thế đấy, vậy là tôi đã trút lên anh tất cả những gánh nặng của mình rồi, việc điều trị của anh thì sao?”

Web nhún vai. “Vẫn đang tiến triển. Tôi cũng chẳng biết là đến giai đoạn nào rồi. Tôi biết tất cả không thể sánh được những mất mát của chị và các con, nhưng tôi chợt nhận ra rằng những người đồng đội đó là tất cả những gì tôi có trên đời. Và giờ thì họ đã ra đi, còn tôi vẫn ngồi đây và tôi cũng không biết tại sao nữa. Tôi cũng không nghĩ là sẽ có ngày tôi biết tại sao.”

“Tôi rất tiếc vì những gì Julie Patterson đã làm với anh. Cô ấy hoàn toàn suy sụp. Ngay từ đầu cô ấy cũng đã không phải là người mạnh mẽ gì. Và tôi nghĩ đều quan trọng nhất là cô ấy ghen với các anh.”

“Julie có thể làm lại điều đó với tôi, và tôi vẫn sẵn sàng chịu đựng,” anh nói thật lòng. “Anh phải xin ra đi, Web. Anh đã làm xong phận sự của mình rồi. Anh đã phục vụ cái đất nước chết tiệt này quá đủ rồi. Anh đã phải hy sinh quá đủ. Họ không thể yêu cầu ở anh bất kỳ điều gì nữa.”

“Tôi nghĩ sau khoảng ba mươi năm điều trị điên như thế này nữa là tôi sẽ ổn hẳn thôi mà.”

“Có tác dụng thật mà, Web. Thậm chí O’Bannon còn thôi miên tôi nữa; ông ấy bắt tôi nghĩ về những điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ là mình có thể. Tôi nghĩ chúng bị ẩn giấu rất sâu trong tiềm thức.” Debbie nắm tay anh chặt hơn. “Tôi biết bữa tối hôm nọ ở nhà tôi thật khủng khiếp. Chúng tôi không biết phải nói gì với anh cả. Chúng tôi chỉ muốn làm anh thấy thoải mái, nhưng cuối cùng thì mọi chuyện còn tồi tệ hơn. Tôi ngạc nhiên là anh không đứng bật dậy mà gào lên sau món khai vị.”

“Các chị đâu có trách nhiệm phải làm cho tôi thoải mái.”

“Anh đã rất tốt với con cái của tất cả mọi người suốt thời gian qua. Tôi chỉ muốn anh biết là tất cả chúng tôi đều cảm kích vì điều đó. Và chúng tôi cũng đều biết là anh đã liều mạng không biết bao lần trong những năm qua như thế nào để bảo vệ tính mạng cho chồng chị em tôi.”

Cô với tay qua bàn và chạm lên phần mặt bị thương của anh, nhẹ nhàng vuốt ve những ngón tay mềm mại lên lớp da xù xì và gồ ghề và Web cũng không hề quay mặt đi như mọi lần.

“Tất cả chúng tôi đều biết cái giá mà anh phải trả, Web.”

“Lúc này đây tôi mới thấy cái giá đó là hoàn toàn xứng đáng.”

CHƯƠNG 23

Toona chui tọt vào ghế của mình trước vôlăng và khóa chặt cửa xe lại. Hắn quay người, chìa cánh tay dài lằng ngoằng của mình ra phía sau và đưa chiếc phong bì cho Francis, tên này đang ngồi trên băng ghế sau cùng của chiếc Lincoln Navigator đen cáu cạnh. Macy ngồi băng ghế giữa, cặp kính đen sì đeo chình ình trên mặt, mặc dù cửa kính của chiếc xe cũng đã được phủ màu đen ngòm. Hắn đeo một chiếc tai nghe, khẩu súng lúc nào cũng sẵn sàng trong bao. Peebles không có trong xe.

Francis chằm chằm nhìn chiếc phong bì nhưng không vội cầm ngay.

“Mày lấy cái này ở đâu, Toona? Tao đã dạy bảo mày không biết bao nhiêu lần rồi. Đừng có đưa cho tao những thứ cứt đái mà mày không biết ở đâu ra cơ mà!”

“Sạch sẽ mà sếp. Tôi đã cho chúng nó kiểm tra kỹ rồi. Không biết ở đâu ra, nhưng chắc chắn không phải là bom thư hay bất kỳ thứ gì độc hại.”

Francis giật lấy chiếc phong bì và ra lệnh cho Toona lái xe đi. Vừa chạm tay vào vật đựng bên trong chiếc phong bì, Francis đã biết ngay lá thư này là thế nào. Hắn mở phong bì, và lấy ra chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn vàng nhỏ xíu, thậm chí cả ngón út của hắn cũng không vừa, nhưng lại đeo vừa vặn vào ngón giữa của Kevin, khi Francis mua chiếc nhẫn cho thằng bé. Mặt trong của chiếc nhẫn có tên của Kevin và Francis được khắc rất rõ nét. Cả dòng chữ đầy đủ là, KEVIN VÀ FRANCIS. MÃI MÃI.

Francis cảm thấy tay mình bắt đầu run rẩy, hắn vội ngẩng đầu lên và bắt gặp Toona đang tò mò quan sát hắn qua gương chiếu hậu. “Mẹ kiếp, lái xe đi Toona. Không thì mày sẽ phải hối hận khi nhìn thấy cái xác khốn nạn của mày nằm co quắp trong thùng rác với cả băng đạn trong đầu đấy.” Chiếc Navigator rẽ ra khỏi lề đường và lao vọt đi.

Francis cúi xuống chiếc phong bì và cẩn thận rút lá thư ra. Tất cả đều là chữ in hoa, giống như những gì chúng ta vẫn xem trong một bộ phim hành động. Kẻ giữ Kevin đang yêu cầu, - không, đang ra lệnh cho Francis phải làm những gì nếu hắn còn muốn nhìn thấy thằng bé sống sót. Những gì chúng ra lệnh cho hắn thật kỳ quặc. Francis cứ chắc mẩm là sẽ nhận được một yêu cầu đòi tiền chuộc hoặc buộc hắn phải từ bỏ tất cả hoặc một phần lãnh thổ làm ăn của mình, nếu thế thì hắn đã sẵn sàng làm theo; đưa Kevin quay về an toàn, rồi từ từ lần ra những kẻ bắt cóc khốn kiếp đó trước khi giết từng thằng một, cho dù là có bằng tay không chăng nữa. Nhưng không hề có những đòi hỏi nào như thế khiến cho Francis thực sự hoang mang và đột nhiên hắn còn thấy lo sợ cho Kevin hơn lúc trước, vì hắn hoàn toàn không hề biết bọn người này đang âm mưu những gì nữa. Hắn đã tận mắt chứng kiến những động cơ khiến con người ta sẵn sàng làm tất cả từ cướp tiền đến cướp đi mạng sống của người khác. Hắn vẫn nghĩ hắn đã nếm trải qua tất cả. Và căn cứ vào nội dung lá thư thì hiển nhiên là những người này cũng biết rõ điều mà Francis đã biết, một điều đặc biệt liên quan đến vị trí của tòa nhà nơi những đặc nhiệm FBI đã toi mạng.

“Lá thư này ở đâu ra, Toona?”

Toona ngước lên gương chiếu hậu và nhìn thẳng vào mắt đại ca của hắn. “Thằng Twan bảo là lá thư này được chuyển đến ngôi nhà trên phố. Có người tuồn nó qua khe cửa.”

Ngôi nhà trên phố thực chất là cả một tòa nhà lớn, một trong những địa điểm hiếm hoi mà Francis từng ghé lại hơn một lần. Đứng tên chủ sở hữu của tòa nhà này là một công ty ma được dựng lên nhằm mục đích duy nhất là tạo vỏ bọc hợp pháp cho Francis - ông trùm ma túy, để cảánh sát không có lý do gì mà sờ gáy hắn. Francis đã đầu tư không tiếc tay để bài trí nơi này trông thật tươm tất, với những tác phẩm nghệ thuật khá độc đáo của một vài nghệ sĩ trong khu ổ chuột mà hắn ngưỡng mộ vì họ dám hướng tới những điều tưởng chừng như không thể và sống một cuộc đời lương thiện giữa bạo lực và tối tăm. Đúng vậy. Francis Westbrook là một Mạnh Thường Quân của nền nghệ thuật bị chèn ép. Và trong tòa nhà còn có những đồ nội thất hàng thửa riêng đủ vững chãi và rộng rãi để thân hình hộ pháp của hắn có thể ngự lên mà không sợ gãy sụp. Địa chỉ của tòa nhà này là một trong những bí mật được bảo vệ cẩn thận đến nỗi những ông trùm khác cũng phải ghen tỵ, và là nơi duy nhất hắn có thể yên tâm thư giãn. Giờ thì đã có kẻ phát hiện ra nơi này, thậm chí đã xâm nhập vào bên trong cũng nên, Francis biết rằng từ nay hắn không thể quay lại nơi đó nữa.

Hắn gấp lá thư lại và nhét nó vào túi áo nhưng vẫn mân mê chiếc nhẫn bé xíu trên tay với ánh mắt chăm chú. Rồi hắn rút tấm ảnh ra khỏi túi áo sơ mi và ngây người ngắm nhìn. Tấm ảnh được chụp vào sinh nhật thứ chín của Kevin. Francis đang kiệu thằng bé trên cổ. Hai người đã đi xem một trận bóng bầu dục của đội Redskins và đang mặc áo của đội này trên người. Francis to đến nỗi hầu hết mọi người trong sân vận động đều tưởng hắn là cầu thủ của đội Redskins. Đúng rồi, to lớn và lại là người da đen chắc chẳng làm được trò trống gì nếu không làm cầu thú bóng bầu dục để kiếm những đồng đô la rẻ rúng. Tuy nhiên hắn vẫn nhớ rằng Kevin đã rất thích thú với nhầm lẫn đó. Có lẽ thằng bé thấy như thế đáng tự hào hơn là có một ông bố là trùm ma túy.

Và không biết con trai hắn đã nghĩ thế nào về hắn; người mà thằng bé vẫn đinh ninh là anh trai mình nhưng thực ra lại là bố đẻ của nó? Nó đã nghĩ gì khi bị kẹt giữa một trận phục kích được bố trí để giết Francis? Francis còn nhớ lúc hắn một tay ôm Kevin che chở cho nó, một tay lăm lăm súng và nã đạn không ngừng vào những thằng chó đẻ đã biến bữa tiệc sinh nhật của con trai hắn thành một buổi tắm máu. Hắn thậm chí còn không thể đưa thằng bé đến bệnh viện mà phai phó thác cho Jerome.

Còn Kevin thì vẫn gào đến khản cổ là nó muốn anh trai nó cơ, và Francis hoàn toàn bất lực, vì cảnh sát đang chăng lưới khắp các bệnh viện ở D. C. Chuyện bình thường sau mỗi vụ thanh toán nhau của giới xã hội đen.

Cảnh sát đang chờ sẵn những thằng nào bị thương vì súng đạn xuất hiện để tra tay vào còng. Bọn cớm vẫn đang kiếm cớ để loại bỏ hắn như cái gai trong mắt. Nên thậm chí đến cái việc rất đỗi khẩn thiết là đưa thằng con vừa dính đạn của hắn đến bệnh viện cho các bác sĩ cấp cứu mà Francis cũng không thể tự làm, vì hắn không thế chường mặt ra để rồi ngồi mọt gông trong một nhà tù siêu an ninh nào đó.

Hắn chợt nhận ra mắt mình đang ầng ậc nước và phải cố gắng lắm Francis mới ngăn nổi mình òa lên khóc. Hắn nhớ là cả đời mình hắn mới chỉ khóc có hai lần. Khi Kevin chào đời, và khi Kevin bị bắn suýt chết. Từ lâu nay kế hoạch của hắn là kiếm tiền đủ dùng cho hai cuộc đời: của hắn và của Kevin. Và khi rửa tay gác kiếm bước chân ra khỏi giang hồ, để tìm đến một hòn đảo thanh bình nào đó, hắn sẽ đưa con trai mình cùng đi, tránh xa ma túy và súng đạn cùng cái chết lúc nào cũng rình rập quanh mình. Có thể đến lúc đó hắn sẽ có đủ can đảm để nói với Kevin sự thật: rằng hắn là cha nó. Hắn cũng không hiểu tại sao ngay từ đầu hắn đã nói dối với thằng bé rằng hắn là anh nó. Chẳng nhẽ hắn sợ vai trò một người cha? Hay chẳng qua dối trá đã trở thành bản năng sống còn trong cuộc sống của Francis Westbrook?

Điện thoại của hắn bỗng nhiên rung lên, giống như những gì đã nói trong lá thư. Chắc chắn là chúng đang theo dõi nhất cử nhất động của hắn. Hắn chậm rãi áp điện thoại lên tai.

“Kevin?”

Toona ngoái đầu lại khi hắn nghe thấy tên thằng bé. Trong khi đó Macy vẫn dửng dưng ngồi im bất động.

“Vẫn ổn cả chứ, chàng trai? Chúng đối xử với em tốt không?” Francis nói vào điện thoại. Hắn gật gù với câu trả lời hắn vừa nghe thấy. Họ nói chuyện khoảng một phút và đầu kia tắt máy. Francis bỏ điện thoại xuống.

“Mace?” hắn nói.

Macy quay lại ngay lập tức và nhìn hắn chờ đợi.

“Mace, bọn ta phải tìm thằng Web London này ngay. Mọi chuyện đã thay đổi.”

“Ông đang nói đến chuyện giết hắn hay trao đổi thông tin? Ông muốn hắn đến chỗ chúng ta, hay chúng ta đến chỗ hắn? Nếu muốn thông tin thì tốt nhất là để hắn đến chúng ta. Còn nếu ông muốn khử hắn thì tôi sẽ lo liệu thật gọn gàng chu đáo.”

Macy bao giờ cũng lập luận rất logic như vậy. Hắn đọc được suy nghĩ trong đầu bạn, tự suy nghĩ cân nhắc các khả năng và không khiến đại ca của mình phải bận tâm phân tích; tự đưa ra những quyết định dù khó khăn đến mấy. Francis biết Toona sẽ không bao giờ được như thế, thậm chí ca Peebles cũng không đáng xách dép cho Macy trong vấn đề này. Thật trớ trêu khi cái thằng nhóc da trắng tính tình quái dị này lại trở thành đệ tử thân tín nhất của Francis, bạn chí cốt của hắn trong chừng mực có thể giữa một người da trắng với một người da đen.

“Trước mắt là thông tin. Vậy để hắn đến với chúng ta. Mày tính mất khoảng bao lâu?”

“Lâu nay hắn vẫn đang sục sạo quanh khu đó với chiếc Bucar của mình, có lẽ là đang tìm kiếm manh mối. Theo tôi thì sẽ nhanh thôi. Hắn sẽ rơi vào bẫy của chúng ta, tôi sẽ nhử một củ cà rốt thật ngon lành trước mũi hắn.”

“Làm đi. À mà này Mace, nhớ làm gọn cả việc kia nữa nhé.” Francis vừa nói vừa liếc nhìn Toona.

“Tôi vẫn đang làm đây,” Macy trả lời.

*

Kevin ngước nhìn người đàn ông đang cất điện thoại vào túi.

“Mày làm khá lắm, Kevin.”

“Tôi muốn gặp anh tôi.”

“Từng bước một thôi chứ. Mày vừa nói chuyện với hắn còn gì. Thấy chưa, bọn ta đâu phải là kẻ xấu. Mẹ kiếp, chúng ta giờ còn là người một gia đình ấy chứ nhỉ?” Ông ta phá lên cười độc địa khiến Kevin biết sẽ chẳng có gia đình nào hết. Nó sờ lên ngón tay từng đeo chiếc nhẫn.

“Tại sao các ông lại để tôi nói chuyện với anh ấy?”

“À phải làm thế để hắn biết là mày vẫn ổn.”

“Và anh ấy sẽ làm theo những gì các ông yêu cầu.”

“Mẹ kiếp. mày đúng là một thằng nhóc tinh quái. Mày muốn làm cho tao không?” Ông ta lại phá lên cười rồi quay người bỏ đi, khóa chặt cánh cửa sau lưng mình.

“Tôi chỉ muốn ra khỏi đây thôi,” Kevin hét toáng lên.

CHƯƠNG 24

Đã mấy ngày nay Web chưa đọc tờ báo nào. Cuối cùng anh mua một tờ Washington Post và đọc lướt qua những trang báo khi ngồi uống cà phê bên một chiếc bàn kê gần đài phun nước ở Trung tâm Reston Town.

Trước đó anh đã lượn lờ khắp các phố xá Washington và tích lũy một lượng hóa đơn đáng kể cho Cục thanh toán. Thỉnh thoảng Web lại ngẩng đầu lên và mỉm cười ngắm nhìn những đứa bé cố leo lên bờ tường để tung những đồng xu vào đài phun nước trong khi những bà mẹ thì cẩn thận níu chặt đuôi áo chúng để con mình chẳng may không cắm đầu xuống nước.

Anh đã xem lướt qua các trang Thể Thao, Đô Thị, Phong ách. Đọc ngược từ trang cuối về trang nhất. Đến trang A6 thì thái độ hờ hững của anh vụt biến mất. Anh đọc đi đọc lại bài báo đến ba lần liền và chăm chú nhìn những bức ảnh đi kèm. Khi anh ngồi lại và bình tĩnh suy nghĩ về những gì vừa đọc trong đầu Web bắt đầu xuất hiện những kết luận tường chừng như không thể và ít nhiều gượng gạo. Bất giác anh sờ lên phần mặt bị thương của mình rồi lần lượt áp đầu ngón tay vào những lỗ sẹo do đạn gây ra trên người. Chẳng nhẽ sau ngần ấy thời gian anh lại sắp phải đối mặt với nó nữa sao?

Anh bấm số gọi nhanh trên máy. Bates không có trong văn phòng.

Web bèn nhắn vào máy nhắn tin của anh ta. Vài phút sau anh ta gọi lại cho anh. Web vội kể cho anh ta nghe về bài báo.

“Luis Leadbetter. Đó là vị thẩm phán ở Richmond người đã làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án Hội Tự Do. Bị bắn. Watkins là công tố viên trong vụ này. Ông ta bước vào nhà và nó nổ tan tành. Cả hai vụ đều xảy ra cùng một ngày. Rồi còn những gì xảy ra với Đội Charlie nữa. Chúng tôi chính là đội được huy động theo yêu cầu của Văn phòng Địa bàn Richmond. Chính tôi đã hạ hai tên trong nhóm này trước khi bị bỏng mặt và lãnh hai viên đạn. Rồi còn tên Ernest B. Free kia nữa. Hắn trốn tù. Cái gì? Cách đây ba tháng rồi, anh biết chưa? Hắn đã mua chuộc một người lính gác, nhờ anh ta kiếm một chiếc xe thùng, rồi cắt cổ anh ta để bịt đầu mối.”

Câu trả lời của Bates làm Web sững sờ. “Chúng tôi biết hết rồi. Web.” Máy tính của Cục đang sục sạo thông tin liên quan đến vấn đề này thì hai cái chết kia, hai vụ mưu sát thì đúng hơn xảy ra. Và còn chuyện này nữa.”

“Gì vậy?”

“Tốt nhất là cậu vào đây mà xem.”

Khi đến trụ sở của WFO. Web được dẫn lên phòng Điều hành Tác chiến Chiến lược với tất cả những loại chuông báo động và còi hụ mà người ta thường thấy ở một cơ quan phòng chống tội phạm giàu sụ của Nhà nước Liên bang, cả những bức tường bọc đồng tiêu chuẩn, những hệ thống an ninh nội bộ cực kỳ hiện đại, tiếng sóng nhiễu ù ù chống nghe lén ở tất cả những khu vực dễ bị tổn thương, máy soi võng mạc và nhận dạng vân tay, hàng dãy siêu máy tính đắt tiền, những thiết bị hiển thị hình ảnh và quan trọng nhất là thừa mứa cà phê ngon vừa pha cùng cơ man nào là bánh rán Krispy Kreme nóng hổi.

Web tự rót cho mình một cốc cà phê và lịch sự chào vài nhân viên đang hối hả chạy qua chạy lại trong căn phòng lớn. Anh chăm chú nhìn những sơ đồ vẽ bằng máy tính về khoảnh sân định mệnh và những tòa nhà xung quanh được gắn lên các tấm bảng lớn treo trên tường. Trên sơ đồ gắn chi chít những chiếc đinh ghim nhiều màu sắc, Web biết chúng thể hiện những khu vực quan trọng có bằng chứng hoặc đầu mối liên quan. Tiếng bước chân, tiếng lách cách trên bàn phím không bao giờ dứt. Điện thoại lúc nào cũng réo vang, giấy tờ loạt soạt và không khí căng thẳng trong phòng cho Web biết có chuyện quan trọng đang diễn ra. Trước kia anh cũng từng là một phần của những cơ quan tham mưu tác chiến như thế này rồi.

“Vụ đánh bom ở Oklahoma ([48]) tạo ra một tiền lệ với tiêu chuẩn quá cao,” Bates nói với một nụ cười mỉa mai khi Web ngồi xuống đối diện với anh ta. “Bây giờ mọi người mặc nhiên cho rằng chúng tôi chỉ cần xem xét vài chiếc xe, kiểm tra mấy cuốn băng vi deo, lùng tìm mấy cái biển số, gõ vài phím máy tính và a lê hấp! Tên tội phạm sẽ bị tóm sau vài tiếng.” Anh vứt toẹt tập giấy đang cầm trên tay xuống bàn. “Nhưng hầu như chẳng bao giờ có chuyện gặp may như thế cả. Dù là người hay máy thì cũng phải có lúc nghỉ chứ. Mẹ kiếp, chúng tôi vừa nhận được cơ man nào là điện mật. Chắc chắn có kẻ đang muốn chúng ta biết hắn đã thoát ra ngoài.”

“Tôi sẽ đi tiên phong trong mọi trường hợp. Perce. Dù kẻ đó là ai chăng nữa cũng có thể kiểm soát được tất cả những gì xảy ra sau đó.”

“Cậu có biết là tôi đã rất bực mình khi cậu quyết định rời bỏ WFO để chơi trò leo dây và bắn súng lớn không? Nếu như cậu vẫn ở lại với tôi rất có thể ngày nào đó cậu sẽ trở thành một đặc vụ FBI hàng đầu rồi.”

“Nhiều khi nghề chọn người chứ người có chọn được nghề đâu. Anh bảo là anh có tin gì mới mà.”

Bates gật đầu và thảy một tập tài liệu vào tay Web. Web đọc lướt nhanh.

“Scott Wingo…tên này nghe quen chứ?”

“Tất nhiên, ông ta bào chữa cho anh bạn cũ Ernest B. Free của chúng ta. Tất nhiên là tôi không có mặt ở phiên tòa. Lúc đó tôi vẫn đang được điều trị trong bệnh viện. Nhưng những người có mặt ở đó có nói đến Wingo.”

“Một tay khôn ngoan và xảo quyệt. Ông ta cứu hắn thoát án tử hình còn gì. Và giờ thì ông ta cũng chết.”

“Bị giết?”

“Chất Atropin được bôi lên ống nghe điện thoại trong phòng làm việc của ông ta. Anh nhấc điện thoại lên, tất nhiên là anh sẽ áp nó vào da mặt gần lỗ mũi và những vùng nhạy cảm khác. Atropin được hấp thụ vào cơ thể qua màng nhầy nhanh hơn nhiều so với đường máu. Nó khiến mạch của anh đập loạn nhịp gây khó thở, tạo ảo giác chỉ trong vòng khoảng một giờ gì đó. Nếu anh bị suy thận hay những trục trặc khác về tuần hoàn máu khiến cơ thể không thể đào thải chất độc đó thì tác động của nó còn phát huy nhanh hơn nhiều. Wingo bị đái tháo đường, tim mạch cũng có vấn đề nghiêm trọng và lại phải ngồi xe lăn, nên atropin là sự lựa chọn quá lý tưởng. Thứ Bảy nào ông ta cũng tới văn phòng một mình, vì vậy không có ai ở bên cạnh để giúp đỡ khi ông ta bắt đầu cảm thấy những ảnh hưởng của atropin trong người mình. Hơn nữa, cuối tuần nào ông ta cũng trả lời rất nhiều cuộc điện thoại, đó là những gì các đồng nghiệp ở Richmond cho chúng ta biết.”

“Vậy kẻ mưu sát ông ta phải biết rõ về tiểu sử bệnh và thói quen làm việc của Wingo?”

Bates gật đầu. “Leadbetter thì bị bắn khi ông ta bật đèn trong xe lên để đọc một bài báo nào đó mà một thẩm phán khác đã khuyên ông ta nên đọc. Người sĩ quan cảnh sát tư pháp nhận cuộc gọi nói rằng đó là một ông thẩm phán Mackey nào đó. Tất nhiên, đó là một kẻ mạo danh.”

“Lại là điện thoại.”

“Chưa hết đâu. Người hàng xóm của Watkins lái xe về đúng lúc Watkins đang đi bộ vào nhà. Ông ta khai với cảnh sát rằng ông ta trông thấy Watkins cho tay vào túi áo và lấy điện thoại ra. Ông ta không nghe thấy tiếng chuông điện thoại, nhưng ông ta cho biết hình như Watkins đang trả lời cuộc gọi nào đó. Trong nhà có khí gas; ông ta ấn nút nghe máy. Bùm!”

Web vội nói, “Khoan đã. Một chiếc điện thoại di động đâu phải là cái công tắc điện. Tia lửa điện của nó cũng không đúng loại và cũng không đủ lớn để làm nổ khí gas.”

“Chúng tôi đã kiểm tra chiếc điện thoại; những gì còn lại của nó thì đúng hơn. Mấy tay pháp y và giám định hiện trường đã phải nạo nó ra khỏi tay Watkins. Có kẻ đã cài một cuộn đây Sôlênôit vào trong điện thoại để tạo ra tia lửa điện cần thiết có thể làm cháy bùng khí gas.”

“Vậy là phải có kẻ ăn trộm điện thoại của Watkins lúc ông ta ngủ say hoặc bỏ nó ở đâu đó trong khoảng thời gian dài, hắn cài cuộn dây vào trong điện thoại, và chắc chắn hắn còn phải theo dõi ông ta khi mọi chuyện xảy ra thì mới bảo đảm sự trùng khớp về thời gian như thế chứ.”

“Đúng vậy. Chúng tôi đã cho kiểm tra danh sách các cuộc gọi đến máy của Watkins và của viên cảnh sát tư pháp kia. Cả hai đều là những thuê bao trả trước, dùng xong là bỏ. Không có dấu tích gì nữa.”

“Giống như những gì các đặc vụ chìm vẫn dùng. Tôi đoán là tay đặc vụ chìm của anh vẫn chưa lộ diện?”

“Quên anh ta đi.”

“Không đời nào, tôi sẽ nói chuyện về anh ta sau. Nào, tin mới nhất về thằng Free này là gì?

“Chẳng có gì. Dường như hắn trốn sang một hành tinh khác vậy.”

“Tổ chức của hắn vẫn hoạt động chứ?”

“Thật đáng tiếc là vẫn. Có lẽ cậu còn nhớ là chúng đã phủ nhận sự liên quan đến vụ tấn công vào trường học ở Richmond và Ernie cũng không chịu phản lại đồng bọn, hắn khai rằng một mình hắn lên kế hoạch tấn công trong khi tổ chức hoàn toàn không biết gì hết, thế là vụ án đành khép lại. Những đồng bọn khác thì đều đã chết, mà chính cậu đã hạ hai thằng đấy thôi. Chúng ta không tóm được thành viên nào khác nên không thể bắt chúng ra làm nhân chứng, thế là Hội Tự Do vẫn bình yên vô sự.

Hoạt động của chúng có chìm xuống một thời gian vì bị dư luận lên án dữ dội, nhưng nghe đồn là chúng đang trỗi dậy khá mạnh mẽ.”

“Hiện chúng đóng ở đâu?”

“Miền nam Virginia, gần Danville. Cậu phải biết là chúng tôi đã có người theo dõi rất sát sao nơi đó. Chúng tôi cho rằng thằng Ernie sẽ quay về đó sau khi đào thoát. Nhưng từ đó đến nay vẫn chưa thấy tăm hơi hắn đâu cả .”

“Sau tất cả những chuyện vừa xảy ra, chúng ta vẫn không có lệnh khám xét sào huyệt của chúng sao?”

“Gì cơ? Chúng ta đến tòa án và bảo họ rằng vừa có ba vụ giết người. Sáu vụ, nếu tính cả nhà Watkins, và chúng ta nghi Hội Tự Do đứng sau việc này. Trong khi chúng ta hoàn toàn không có bằng chứng gì cho thấy chúng có liên quan đến vụ tấn công vào HRT hoặc bất kỳ ai khác sao? Anh tưởng bọn Liên minh Dân quyền Mỹ sẽ để yên à?” Bates ngừng lại. “Cho dù tất cả đều rất rõ ràng. Nạn nhân là công tố viên, thẩm phán, trả thù là động cơ hoàn hảo nhất.”

“Nhưng tại sao lại cả luật sư bào chữa? Chẳng phải ông ta đã cứu hắn thoát án tiêm thuốc độc à?”

“Đúng thế, nhưng chúng ta có nói đến những kẻ có đầu óc bình thường đâu cơ chứ, Web. Theo tôi, chúng căm hận vì tên đồng bọn điên rồ của chúng đã phải ngồi tù, dù là một ngày thì cũng là ngồi tù. Hoặc có thể Ernie đã có cãi vã gì đó với tay luật sư nên khi trốn được ra ngoài hắn quyết định thanh toán tất cả cho gọn.”

“Hừ, ít ra thì mọi việc giết chóc coi như xong. Không còn ai nữa cả.”

Bates với một tập hồ sơ và rút ra một tờ giấy có dán ảnh khác. “Chưa chắc. Cậu có nhớ là có hai giáo viên bị bắn chết trong trường học đó không?”

Web hít một hơi dài nặng nề khi những ký ức đau đớn ồ ạt tràn về.

“Cả thằng bé nữa, David Canfield.”

“Đúng vậy. Một giáo viên trong đó đã có chồng. Và cậu biết gì không? Cách đây ba hôm chồng cô ta đã thiệt mạng ở phía tây bang Maryland trên đường lái xe đi làm về nhà lúc trời tối.”

“Giết người à?”

“Không chắc lắm. Đó là một vụ đâm xe. Cảnh sát vẫn đang điều tra. Trông như một vụ đâm rồi bỏ chạy.”

“Có liên quan gì đến điện thoại không?”

“Có một chiếc điện thoại trong xe. Sau khi chúng ta liên lạc; cảnh sát địa phương cho biết họ sẽ kiểm tra danh sách gọi trong máy để xem anh ta có nhận được cuộc gọi nào ngay trước khi xảy ra tai nạn không.”

“Thế còn gia đình người giáo viên còn lại?”

“Người chồng và những đứa con đã chuyển đến Oregon. Chúng tôi đã liên hệ với họ và giờ thì họ đang được bảo vệ 24/24 rồi. Nhưng thế chưa phải đã là xong đâu. Cậu còn nhớ bố mẹ của David Canfield chứ, Bill và Gwen ấy?”

Web gật đầu. “Tôi nằm trong bệnh viện MCV ở Richmond một thời gian dài. Billy Canfield đã đến thăm tôi vài lần, ông ta là một người tốt. Ông ấy gần như suy sụp sau cái chết của đứa con trai, mà có ông bố bà mẹ nào không thế chứ? Tôi chưa bao giờ gặp vợ ông ta. Và từ đó đến nay tôi cũng không gặp lại Billy nữa.”

“Họ đã chuyển chỗ ở. Hiện họ đang sống ở Hạt Fauquier, điều hành một trang trại ngựa giống.”

“Có chuyện gì bất thường xảy ra với họ không ?”

“Ngay sau khi nhận ra mối liên hệ giữa các vụ việc này. chúng tôi đã liên lạc với họ. Họ cho biết hiện chưa có gì bất thường xảy ra cả. Họ cũng đã biết việc Free đã vượt ngục. Và theo lời Billy Canfield thì ông ta không hề muốn nhận sự giúp đỡ của chúng ta và ông ta còn hy vọng là tên vô lại đó đang bám theo mình vì ông ta muốn được tự tay mình bắn nát đầu hắn.”

“Billy Canfield không phải là kẻ nhát gan đâu. Tôi có thể nói như vậy ngay từ lần đầu tiên ông ta đến bệnh viện thăm tôi; mạnh mẽ đến mức thô bạo, cứng rắn và ương ngạnh. Một số đồng đội của tôi tham gia làm chứng trước tòa đã kể với tôi là trong quá trình xét xử ông ta cũng cãi vã rất hăng. Mấy lần liền ông ta suýt bị tòa cáo buộc là có thái độ khinh mạn.”

“Hồi đó ông ta có một công ty vận tải, nhưng sau khi con trai chết, ông ta đã bán lại công ty đó.”

“Nếu bọn Tự Do đứng đằng sau những vụ mưu sát ở Richmond thì Hạt Fauquier rõ ràng là gần hơn bang Oregon rất nhiều. Rất có thể gia đình Canfield đang gặp nguy hiểm.”

“Tôi biết. Tôi đang cân nhắc đến việc đến đó một chuyến để cố nói chuyện phải quấy với ông ta.”

“Tôi sẽ đi với anh.”

“Cậu chắc chứ? Tôi biết chuyện xảy ra trong trường học đó không phải là điều mà cậu muốn nhắc đến mà.”

Web lắc đầu. “Có những chuyện mà anh không bao giờ bỏ lại sau lưng được, Perce, cho dù có mất cả đời chăng nữa. Hai cô giáo đã bị bắn chết trước khi chúng tôi đến, đó là chuyện hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi, nhưng David Canfield thì bị chúng giết hại ngay trước mặt chúng tôi, đó lại là chuyện hoàn toàn khác.”

“Cậu đã làm nhiều hơn bất kỳ ai có thể làm, kể cả suýt mất mạng. Và tấm huân chương vĩnh cửu vẫn còn kia trên mặt anh đấy thôi. Cậu chẳng có gì để phải cắn rứt cả.”

“Thế thì anh không hiểu tôi rồi.”

Bates chăm chú nhìn Web. “Thôi được, nhưng đừng có quên. Nếu như xóa sổ đội Charlie là mục tiêu của Hội Tự do thì chúng vẫn còn chưa xong việc đâu. Vì anh là tay súng cuối cùng còn sống đấy.”

Thoi thóp thì đúng hơn, Web nghĩ. “Đừng lo, tôi sẽ quan sát cả hai bên mỗi khi sang đường.”

“Tôi đang nói nghiêm túc, Web. Nếu chúng đã thử một lần, chúng sẽ thử nhiều lần nữa. Đây là một bọn bệnh hoạn.”

“Vâng, tôi biết rồi. Hãy nhớ là tôi có tấm huân chương vĩnh cửu đây mà.”

“Còn chuyện này nữa. Tại phiên tòa Wingo đã đâm đơn kiện ngược lại HRT và FBI về việc giết người vô cớ.”

“Chuyện nhảm nhí.”

“Đúng thế. Nhưng đó là cách chúng sẽ khám phá được một số thông tin về HRT. Rất có thể Hội Tự do đã biết được nhiều điều về phương thức hoạt động của các anh, quy trình, cơ cấu tổ chức…Đó có thể là những thông tin giúp chúng bố trí trận phục kích vừa rồi.”

Web chưa hề cân nhắc đến khả năng này. Giờ thì mọi chuyện có vẻ đã rõ ràng hơn rất nhiều.

“Tôi hứa là nếu tôi có nhận được cú điện thoại mờ ám nào, anh sẽ là người đầu tiên được thông báo. Và tôi sẽ kiểm tra ống nghe xem có atropin không. Giờ thì hãy cho tôi biết về tay đặc vụ chìm của anh đi. Rất có thể bọn Hội tự do là chủ mưu, nhưng nhất định chúng phải có tay trong chứ. Nào, tôi đã biết anh ta là người da đen, và tôi cũng không tin là bọn cuồng tín như Hội Tự do lại làm việc với một người không phải da trắng như chúng, nhưng nói chung ngay lúc này chưa thể loại bỏ nghi vấn nào hết. Anh nói với tôi là Cove sống độc thân. Anh còn biết những gì về anh ta nữa nào?” Web vẫn chưa nhận được thông tin gì từ Ann Lyle liên quan đến Cove, nên anh quyết định hỏi thẳng Bates.

“Ô, nhiều chứ. Tất cả nằm trong tập hồ sơ kia kìa, có gắn nhãn “Những Điều Cần Biết Về Các Đặc Vụ Chìm Của FBI”

“Perce, rất có thể tay này chính là chìa khóa.”

“Không có chuyện đó đâu! Cứ tin tôi đi.”

“Tất cả những gì tôi muốn nói là tôi đã làm những loại công việc này rồi. Và ngược lại với điều anh nghĩ tôi không hề quên cách làm việc của một đặc vụ FBI khi tôi gia nhập HRT. Tôi có một người thầy giỏi - anh không cần phải phổng mũi làm gì. Và dù sao hai cái đầu vẫn hơn là một cái đầu. Chẳng phải anh vẫn luôn cố nhồi nhét cho tôi bài học đó sao?”

“Nhưng tôi không thể làm thế được, Web, rất tiếc. Quy định là quy định.”

“Hình như tôi nhớ là ngày trước anh dạy tôi khác đấy.”

“Thời gian thay đổi, con người thay đổi.”

Web ngồi ngả người ra sau ghế và cân nhắc anh có nên tung ra con át chủ bài của mình không. “Được rồi. Vậy anh nói sao nếu tôi cho anh biết một điều cực kỳ quan trọng mà anh không biết?”

“Tôi sẽ hỏi là vì lý do chó chết nào mà cậu không nói cho tôi từ trước?”

“Tôi chỉ vừa mới biết.”

“Hừ, thế đấy.”

“Tóm lại là anh có muốn nghe hay không nào?”

“Đổi lại cậu sẽ nhận được gì?”

“Tôi cung cấp cho anh tin liên quan đến cuộc điều tra, anh cũng làm như vậy cho tôi.”

“Thế nếu tôi cứ bắt cậu phải nói vô điều kiện thì sao nào?

“Thôi nào, hãy vì những ngày xưa yêu dấu.”

Bates gõ gõ nên tập hồ sơ trước mặt. “Sao tôi biết đó là một thông tin hữu ích?”

“Nếu không giá trị thì anh chẳng nợ gì tôi hết. Tôi tin tưởng sự đánh giá khách quan của anh.”

Bates chằm chằm nhìn anh một lúc. “Nói đi.”

Web kể lại cho anh ta việc Kevin Westbrook bị đánh tráo. Trong khi anh nói, mặt Bates mỗi lúc một đỏ bầm lên và Web có thể dám chắc là mạch của anh ta chắc chắn phải vượt xa sáu mươi tư, và thậm chí lên cả ba con số chứ chẳng chơi.

“Chính xác thì anh biết chuyện này từ khi nào? Nói cụ thể đến từng phút vào cho tôi.”

“Lúc tôi đang ngồi uống bia với Romano và tôi nhắc đến việc Kevin Westbrook mà tôi gặp có một vết sẹo do đạn bắn trên má. Nhưng anh ta lại nói là thằng bé chẳng có vết sẹo nào. Cortez cũng kể đúng như vậy. Mà anh đừng trách họ. Tôi đã hứa là sẽ thông báo cho anh trong thời gian sớm nhất có thể.”

“Đúng là sớm thật. Nhưng ai đã đánh tráo thằng bé và tại sao?”

“Tôi có đoán mò cũng không nghĩ ra. Nhưng tôi xin khẳng định với anh rằng thằng bé tôi cứu trong con hẻm và thằng bé mà Romano bàn giao cho tay tự xưng là đặc vụ FBI kia là hai đứa hoàn toàn khác.” Anh gõ gõ lên mặt bàn, anh thấy sao? Đáng giá đấy chứ?”

Bates đáp lại bằng cách mở tập hồ sơ, mặc dù anh ta thuộc lòng những gì có trong đó. “Randall Cove. 44 tuổi. Gia nhập FBI từ khi bắt đầu đi làm. Anh ta từng là một cầu thủ bóng bầu dục ở Oklahoma, nhưng bị vỡ đầu gối trước khi thử việc ở NFL ([49]). Đây là ảnh mới chụp của anh ta.” Bates đẩy bức ảnh qua bàn và Web chăm chú nhìn. Người đàn ông trong ảnh có bộ râu quai nón tỉa ngắn, tóc bện thành nhiều lọn và đôi mắt chỉ có thể gọi là sắc lạnh. Bộ ngực và đôi vai lực lưỡng cho thấy anh ta là một người khổng lồ, cao khoảng gần hai mét. Trông anh ta thừa sức đối đầu với một con gấu xám và có lẽ còn hạ nó một cách dễ dàng. Web cúi hẳn người về phía trước làm ra vẻ xem xét kỹ khuôn mặt của người đàn ông trong ảnh, nhưng thực ra mắt anh đang gắn chặt vào tập hồ sơ mà Bates đang mở toang trên mặt bàn. Những năm tháng làm một đặc vụ FBI chính thống đã dạy anh nhiều thủ thuật để chỉ cần nhìn lướt qua là có thể ghi nhớ rất nhanh và lâu. Anh cũng quá lão luyện trong cách đọc ngược trang giấy.

Bates lên tiếng, “Anh ta là người biết chăm sóc bản thân, thông thạo đường phố hơn bất kỳ tên trùm xã hội đen nào. Lạnh lùng và bình tĩnh ngay trong những hoàn cảnh áp lực nhất.”

“Hừm, thì xưa nay mấy tay bánh mì trắng ([50]) tốt nghiệp Princeton mang những cái họ như William hay Jeffrey có bao giờ hòa nhập được với Thành phố Ma túy của nước Mỹ, nhiều lúc tôi cũng tự hỏi là tại sao nhỉ ” Web nói. “Anh có nói là anh ta không vợ không con. Anh ta chưa bao giờ lấy vợ à?”

“Có chứ, nhưng vợ anh ta chết rồi.”

“Vậy họ không có con sao?”

“Đã từng có.”

“Chuyện gì đã xảy ra với chúng vậy.”

Bates bực bội ngọ ngoạy trên ghế. “Chuyện lâu lắm rồi.”

“Tôi đang nghe đây.”

Bates buông một tiếng thở dài nhưng không hề có vẻ gì là định trả lời câu hỏi thúc giục của Web.

“Tôi đã mất cả đội của mình, Perce, tôi sẽ rất biết ơn nếu anh không úp mở gì với tôi hết.”

Bates ngồi thẳng dậy và vặn vẹo hai bàn tay trước mặt mình. “Anh ta đang làm một chuyên án ở California. Chuyên án tuyệt mật và cực kỳ nguy hiểm vì liên quan đến một băng nhóm người Nga, bọn này sẵn sàng bắn cả quả tên lửa vào mông anh chỉ cần anh dám ho cạnh chúng thôi. Đối với bọn này thì dân mafia Italia chỉ là bọn trẻ con. Bates chợt ngừng lại.

“Và?”

“Và vỏ bọc của anh ta bị lộ. Chúng lần ra gia đình anh ta.”

“Và giết họ?”

“Phải gọi là tàn sát thì đúng hơn.” Bates hắng giọng, tôi đã xem ảnh rồi.”

“Lúc đó Cove ở đâu?”

“Chúng đã đánh lạc hướng khiến anh ta vắng nhà để chúng rảnh tay hành động.”

“Chúng không bám theo anh ta sao?”

“Có chứ, ngay sau đó. Chúng đợi đến khi anh ta mai táng xong cho vợ con. Bọn tử tế thật. Cove đã chờ sẵn khi chúng đến.”

“Và anh ta giết chúng?” Bates bắt đầu hấp háy mắt và bỗng nhiên Web nhận ra là mắt trái của anh ta đang giật giật.

“Tàn sát. Tôi cũng xem ảnh rồi.”

“Vậy mà Cục vẫn để anh ta hoạt động à? Sao thế? Sao họ không cho về hưu non đối với những đặc vụ có gia đình bị giết?”

Bates khoát tay tỏ vẻ bất lực. Cục đã cố, nhưng anh ta không chịu. Anh ta muốn hoạt động. Và nói thực lòng, sau những gì xảy ra với vợ con, anh ta còn làm việc hiệu quả và gan lì hơn bất kỳ đặc vụ chìm nào chúng tôi từng có. Họ thuyên chuyển anh ta đến WFO để quên đi California. Xin nói để anh biết là anh ta có khả năng thâm nhập vào những nơi mà từ trước đến nay chúng ta không thể nào mon men đến. Sở dĩ chúng ta có thể tống rất nhiều tên trùm đầu sỏ vào nhà đá thời gian qua là nhờ có Randall Cove.”

“Nghe có vẻ anh ta là một người hùng.”

Cuối cùng thắt trái của Bates cũng hết giật. “Anh ta là một đặc vụ khác thường, chủ yếu là hành động theo cách của mình và xưa nay cấp trên hiếm khi chấp nhận điều đó, kể cả với các đặc vụ chìm, cho dù có vợ con bị tàn sát hay không cũng thế. Nhưng với Cove thì không ăn thua. Tôi không thể nói là điều đó không gây tổn hại cho sự nghiệp của anh ta. Ý tôi là quả thật Cục cũng chẳng đời nào bố trí được cho anh ta cương vị nào khả dĩ ngoài mảng hoạt động chìm đó, và Cove cũng thừa biết vậy. Nhưng anh ta vẫn tuân theo luật chơi của Cục. Và lúc nào cũng có phương án phòng thân cẩn thận. Anh tử tế với anh ta thì anh ta tử tế lại, bao giờ cũng thế, ít nhất là cho đến lúc này.”

“Việc bọn mafia Nga lần ra vợ con anh ta - liệu đó có phải là do lỗi của FBI không?”

Bates nhún vai. “Có vẻ như Cove không nghĩ thế đâu. Từ đó đến nay anh ta vẫn hoạt động rất mẫn cán mà.”

“Anh có biết người ta nói gì về sự trả thù không, Perce, rằng đó là món duy nhất càng để nguội càng ngon.”

Bates lại nhún vai. “Có thể.”

Web bắt đầu cảm thấy mất kiên nhẫn. “Anh biết không. Chuyện này chỉ càng làm tôi thấy băn khoăn tại sao một người như thế vẫn được ở lại trong Cục và có thể anh ta đã xỏ mũi cả đội tôi đi vào con đường hủy diệt để trả thù cho vợ con mình. Các anh không có cách nào để kiểm soát và ngăn ngừa chuyện này sao?”

“Web ạ, đặc vụ chìm là loại người khác hẳn chúng ta. Cả đời họ phải sống trong dối trá nên nhiều lúc họ dấn quá sâu và có thể người thì trở mặt, người thì hóa điên. Đó là lý do Cục phải áp dụng chính sách luân chuyển từ ngoài vào trong, thay đổi nhiệm vụ và cho họ có thời gian sạc lại pin.”

“Vậy họ có làm thế với Cove không? Đưa anh ta trở vào trong Cục để anh ta sạc lại pin? Cho anh ta đi gặp chuyên gia tâm thần sau khi chôn vợ con xong?”

Bates lặng thinh không nói gì.

“Hay là vì anh ta vẫn hoạt động hiệu quả đến nỗi họ quyết định cứ để mặc như thế đến khi cuối cùng anh ta hóa điên và trút giận lên đội của tôi?”

“Tôi sẽ không bàn chuyện đó với anh. Tôi không thể bàn chuyện đó với anh được.”

“Thế nếu tôi nói thẳng toẹt rằng đó chỉ là chuyện nhảm nhí thì sao?'

“Thế nếu tôi nói thẳng toẹt rằng anh đang đi quá giới hạn của mình thì sao?”

Hai người trừng trừng nhìn nhau cho đến khi cơn điên giận từ từ hạ xuống.

“Vậy còn những tên chỉ điểm của anh ta? Cũng là thông tin mật à?” Web hỏi.

“Trong chuyện này thì Cove rất kín kẽ. Chỉ một mình anh ta được tiếp xúc với nguồn tin, không còn bất kỳ ai khác. Điều này không đúng với quy định của Cục cho lắm, nhưng như tôi đã nói, không ai có thể nghi ngờ gì về hiệu quả tin tức mà anh ta cung cấp. Đó là quy tắc của anh ta.”

“Vậy chúng ta biết thêm gì về mục tiêu vừa rồi không? Anh nói đó là bọn trùm tài chính của một đường dây ma túy lớn à. Của bọn nào?”

“Hừm, về chuyện đó thì vẫn còn một số ý kiến khác nhau.

“Ồ, đừng có kẻ cả thế, Perce. Tôi thích giải câu đố từ hai đầu mà.”

“Cái trò điều tra này đâu phải là một môn khoa học chính xác. Web.Khu vực mà các cậu được điều đến là địa bàn hoạt động của băng Big F; như tôi đã nói với cậu rồi.”

“Vậy là chúng ta tấn công vào tòa nhà đó để triệt phá đường dây của hắn?”

“Cove không cho là vậy.”

“Anh ta cũng không dám chắc mà.”

“Sao, thế cậu tưởng bọn chúng đi lại lăng xăng khắp nơi với tấm thẻ tên lủng lẳng trên cổ là ‘Tôi là thành viên của băng X’ à?”

“Vậy quan điểm của Cove là gì?”

“Theo anh ta thì những hoạt động tài chính đó là của một tay chơi lớn hơn nhiều. Có thể đường dây này đang cung cấp một loại ma túy có tên gọi Oxycontin cho khu vực D.C. Anh đã nghe nói chưa?”

Web gật đầu. “Mấy tay bên DEA ở Quantico cũng suốt ngày nhắc đến loại ma túy này. Không phải lo điều chế, chưng cất. Cũng chăng việc gì phải mất công tuồn hàng qua cổng hải quan. Tất cả những gì cần làm là cứ mua được thuốc là xong, mà có đến hàng chục cách để có thuốc một cách hợp pháp, rồi cứ thế mà ngồi in tiền.”

“Một cảm giác chẳng khác nào Niết bàn đối với dân nghiện,” Bates nói thêm với giọng khô khốc. “Đó là một trong những loại thuốc giảm đau công hiệu và phổ biến nhất trên thị trường hiện nay. Nó ức chế việc truyền tải những tín hiệu đau đớn từ dây thần kinh đến bộ não và tạo cho người ta cảm giác hưng phấn, đê mê. Thông thường thì nó cho tác dụng từ từ trong vòng hai mươi bốn giờ, nhưng nếu nghiền vụn thuốc ra để hít hoặc chích thì nó có thể cho tác dụng trực tiếp không kém gì heroin. Người lạm dụng thuốc có thể bị ngưng thở đột ngột, đây là hiện tượng xảy ra khá thường xuyên.

“Tác dụng phụ này hay đấy. Anh đang định nói với tôi là anh hoàn toàn không biết tay chỉ điểm của anh ta là ai à?”

Bates bâng quơ gõ gõ ngón tay lên tập hồ sơ trước mặt. “Chúng tôi cũng có vài phỏng đoán. Nhưng vào thời điểm này thì tất cả vẫn còn chưa chính thức.”

“Vào lúc này tôi chỉ cần tin đồn và tin giả cũng được.”

“Một khi Cove có thể vào sâu được mục tiêu như vừa qua, chúng tôi cho rằng tay chỉ điểm của anh ta cũng phải là dân tay trong khá có máu mặt. Anh ta đang theo dõi các hoạt động của Westbrook thì anh ta tình cờ phát hiện ra những động thái về Oxycontin. Nhưng tôi nghĩ là dù kẻ mà anh ta đang sử dụng để thâm nhập vào đường dây của Westbrook có là ai chăng nữa thì đó cũng chính là người giúp anh ta tiếp cận thông tin mới này. Antoine Peebles là COO ([51]) của Westbrook; dùng tạm từ này cho có vẻ kinh doanh một chút vậy. Hắn điều hành công việc làm ăn rất chặt chẽ và chủ yếu là nhờ hắn mà chúng ta chưa thể chạm được một ngón tay vào Westhrook. Đây là Westbrook, thằng kia là Peebles.” Anh ta đẩy hai tấm ảnh qua bàn.

Web nhìn những bức ảnh. Westbrook quả là một con quái vật, còn bự con hơn cả Cove. Trông hắn như một người đã dạn dày trận mạc. Đôi mắt của hắn, dù chỉ là trên bức ảnh hai chiều, cũng toát lên vẻ sắt đá và kiên định mà chúng ta thường thấy ở những người sống sót trong mọi khó khăn. Peebles thì hoàn toàn trái ngược. “Westbrook đúng là một con ngựa chiến. Còn Peebles trông như dân tốt nghiệp Stanford ra vậy.”

“Chính xác. Tên này còn rất trẻ và theo chúng tôi thì chính Peebles là hiện thân cho một thế hệ trùm ma túy mới, ít hung hãn hơn, tháo vát và chuyên nghiệp hơn, nhưng không hề kém phần tham vọng. Trên phố bọn chúng đang đồn đại là có kẻ nào đang tìm cách tập hợp tất cả các nhà phân phối trong vùng lại với nhau, làm cho chúng trở nên hiệu quả hơn, tăng cường quy mô hoạt động và tầm vóc kinh tế, với cung cách hoàn toàn chuyên nghiệp.”

“Nghe có vẻ như anh bạn Antoine muốn trở thành một CEO chứ không cam phận làm COO.”

“Cũng có thể. Westbrook thì trưởng thành từ đường phố. Hắn rất già đời và tinh quái, nhưng chúng tôi được biết là hình như hắn đang tìm cách rút hẳn ra khỏi nghề buôn bán ma túy.”

“Chà, có thể Peebles lại có một chương trình nghị sự hoàn toàn khác nếu hắn đứng đằng sau việc tổ chức các băng nhóm trong vùng lại với nhau. Nhưng cung cấp những thông tin vô giá cho Cove như vậy có vẻ không có lợi lộc gì đối với một ông trùm tương lai như hắn. Nếu như chúng ta đập tan đường dây, Peebles lấy gì mà điều hành nữa?':

“Vấn đề là thế đấy,” Bates thừa nhận.

“Còn nhân vật nào đáng chú ý nữa không?”

“Cánh tay phải của Westbrook. Clyde Macy.” Bates chìa cho Web bức ảnh của Macy. Của đáng tội, thằng này trông như cô hồn chẳng khác nào một tên tử tù đang chờ đến lượt mình lên ghế điện. Macy trắng bợt như một tên bạch tạng; cái đầu cạo trọc lốc và đôi mắt lạnh lẽo, vô cảm khiến Web liên tưởng đến những tên giết người hàng loạt khủng khiếp nhất mà anh từng biết.

“Nếu Chúa Giê-su mà gặp thằng này trước mặt thì chắc Người cũng phải gào toáng lên mất.”

“Rõ ràng là Westbrook chỉ làm việc với những thằng giỏi nhất, Bates nhận xét.

“Làm thế quái nào mà Macy lại có thể hòa hợp với những tên đồng bọn khác? Trông nó như là một thằng cuồng tín da trắng ấy.”

“Không. Đừng có nhìn cái đầu trọc ấy mà tưởng nhầm. Chúng ta không biết nhiều về hắn lắm trước khi hắn đến D.C. Mặc dù chưa có cơ sở nào để kiểm chứng, nhưng người ta đồn là hắn từng làm tay chân cho một vài ông trùm đang nằm bóc lịch trong nhà tù liên bang ở Joliet. Sau đó hắn đến D.C và làm cho Westbrook. Hắn khét tiếng trong giới xã hội đen vì lòng trung thành và ra tay cực kỳ tàn khốc. Một kẻ bệnh hoạn thực sự, nhưng rất chuyên nghiệp, theo cách riêng của hắn.”

“Như bất kỳ tên tội phạm nguy hiểm nào.”

“Hành động ác ôn đầu tiên của hắn là bổ cả một con dao chặt thịt vào đầu bà nội mình vì hắn phàn nàn rằng bà cụ dám nói dối hắn về giờ ăn tối.”

“Tại sao hắn vẫn được tự do sau một hành động man rợ đến thế được?”

“Hồi đó hắn mới mười một tuổi nên chỉ bị đưa vào trại giáo dưỡng vị thành niên. Từ đó tới nay, tội duy nhất của hắn mà chúng ta biết là ba cái giấy phạt vì phóng xe quá tốc độ.”

“Thằng này thú vị đây. Tôi giữ những bức ảnh này được không?”

“Cứ tự nhiên. Nhưng nếu anh tình cờ đối đầu với Macy trong một con hẻm tối hay giữa một đường phố sáng choang chăng nữa, lời khuyên của tôi dành cho anh là hãy chạy cho nhanh.”

“Tôi là HRT mà, Perce. Tôi nhai rau ráu những thằng như nó trong bữa sáng.”

“Được rồi. Cứ tự huyễn hoặc mình thế đi.”

“Nếu Cove quả thực giỏi như anh nói, thì không thể nào có chuyện anh ta đâm đầu vào một trận phục kích. Có chuyện gì đó ở đây.”

“Có thể, nhưng ai mà không có lúc sai lầm.”

“Anh có khẳng định là Cove không hề biết khi nào chúng tôi sẽ đến đó không?”

“Tôi khẳng định. Cove không hề được thông báo gì về thời điểm tấn công.”

“Tại sao anh ta lại không biết?”

“Họ không muốn thông tin bị rò rỉ, và đằng nào thì anh ta cũng không có mặt ở đó, vì vậy anh ta được xếp vào nhóm những người không cần được thông báo.”

“Tuyệt thật, vậy là anh cũng không tin ngay chính người đặc vụ chìm của mình. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là anh ta không thể có được thông tin từ nguồn khác. Như WFO chẳng hạn?”

“Hay là như HRT?” Bates vặc lại.

“Lại còn chuyện ở đó có thể có những nhân chứng tiềm năng nữa chứ, cũng là thông tin của Cove à?”

Bates gật đầu.

“Anh biết mà. Perce, lẽ ra bọn tôi phải được biết tất cả những điều này ngay từ đầu.”

“Chỉ những gì cần biết thôi, Web. Và các anh đâu cần biết những thông tin đó thì mới làm được công việc của mình.”

“Mẹ kiếp, sao anh có thể nói như vậy khi anh hoàn toàn không biết chó gì về công việc của chúng tôi cả?”

“Anh lại sắp vượt quá ranh giới rồi đấy, bạn thân mến. Đừng có hấp tấp thế .”

“Thẳng toẹt ra thì có ai quan tâm đến việc sáu lính đặc nhiệm đã bị bắn rụng như sung không vậy?”

“Về cơ bản là không, Web ạ. Chỉ có những người như anh là tôi mới quan tâm thôi.”

“Nếu thế thì làm chó gì có cái tôi không cần biết hả?”

Từ đống tài liệu to đùng của mình Bates rút ra một cặp hồ sơ dầy cộp, chọn lấy một túi hồ sơ và mở nó ra. “Tại sao anh không nói ngay từ đầu rằng Harry Sullivan là ông già anh vậy?”

Web đứng bật dậy và tự rót cho mình một cốc cà phê khác. Thực ra anh cũng chẳng cần lắm thứ đồ uống toàn caffeine này, nhưng ít nhiều thì hành động đó cũng giúp anh có thêm thời gian suy nghĩ để trả lời hoặc tìm ra một câu nói dối. Khi anh quay lại ghế ngồi thì Bates vẫn đang nhìn tập hồ sơ. Với ánh mắt của Bates khi ngẩng lên nhìn Web thì rõ ràng là anh ta muốn có câu trả lời cho câu hỏi của mình trước khi chịu từ bỏ chủ đề này.

“Tôi chưa bao giờ coi ông ta là bố mình. Chúng tôi cắt đứt quan hệ từ khi tôi lên sáu tuổi. Đối với tôi, ông ta chỉ là một kẻ xa lạ.” Sau một lát, anh hỏi, “Anh biết ông ta là bố tôi từ khi nào?”

Bates kéo ngón tay trỏ lướt trên các trang giấy. “Sau khi tôi cho lục lại toàn bộ hồ sơ lý lịch của anh. Thật lòng là khi nhìn vào mớ tiền án tiền sự này tôi ngạc nhiên khi ông ta có đủ thời gian để khiến mẹ anh có thai đấy. Cơ man nào là tội,” Anh nói với vẻ thích thú.

Web chỉ muốn giật bộ hồ sơ khỏi tay Bates và chạy ra khỏi phòng.

Tuy nhiên, cuối cùng anh vẫn ngồi yên đó, chằm chằm nhìn những trang giấy lộn ngược, kiên nhẫn chờ đợi. Những âm thanh hối hả trong phòng dường như đã tan biến hoàn toàn. Chỉ còn lại anh, Bates, và những trang giấy về người bố tội lỗi của anh.

“Vậy tại sao đột nhiên anh lại quan tâm đến, anh vừa bảo gì nhỉ? À, “một kẻ xa lạ” thế này?” Bates hỏi.

“Tôi nghĩ khi đến một tuổi nhất định, những chuyện như vậy bỗng trở nên quan trọng.”

Bates gập lại bộ hồ sơ và đẩy cả cặp qua bàn cho Web. Đọc cho vui nhé.”

CHƯƠNG 25

Điều đầu tiên Web để ý khi quay về ngôi nhà nghỉ là có một vết dầu xe còn mới trên ô đỗ xe mà anh vẫn sử dụng. Thực ra cũng không có gì bất thường, rất có thể một vị khách trọ khác đã tình cờ sử dụng ô đó, mặc dù nó ở ngay trước cửa phòng của anh. Trước khi mở cửa anh thận trọng kiểm tra kỹ tay nắm trong lúc giả vờ cúi xuống nhặt chiếc chìa khóa phòng anh vừa đánh rơi. Đáng tiếc, thậm chí Web còn không thể xác định được là ổ khóa đã bị động đến hay chưa nữa. Ổ khóa không có dấu hiệu bị phá, những kẻ nào đang theo dõi anh hoàn toàn có thế huých tung chiếc khóa mỏng manh này trong chớp mắt và bỏ đi không một dấu vết.

Web mở cửa, tay kia cầm sẵn trên báng súng. Phải mất mười giây anh mới có thể kết luận hoàn toàn không có ai trong căn phòng tồi tàn bé xíu của mình. Không có gì xáo trộn, kể cả chiếc hộp anh mang từ nhà mẹ về cũng còn nguyên, mỗi tờ giấy vẫn còn nguyên vị trí như cũ. Tuy nhiên Web vẫn còn có năm chiếc bẫy treo tí hon khác rải khắp nơi trong phòng và ba trong số đó đã bị vấp vào. Suốt bao năm qua, Web vẫn áp dụng hệ thống kiểm tra này mỗi khi anh phải ra khỏi nhà. Chà, kẻ nào lục soát phòng anh cũng không vừa, nhưng chưa phải là hoàn hảo. Kể ra cũng hay hay, giống như khi ta biết tên súc vật nặng tạ rưỡi mà ta sắp đương đầu lại có điểm yếu chí tử, và thỉnh thoảng lại còn tè dầm nữa.

Thật trớ trêu, trong lúc Web đang bận gặp Bates, có kẻ đã vào lục soát phòng anh đang trú tạm. Web chưa bao giờ ảo tưởng về cuộc sống vì anh đã tận mắt chứng kiến những điều tồi tệ nhất. Cả khi còn bé cũng như khi trưởng thành. Tuy nhiên có một điều mà anh vẫn nghĩ là anh có thể tin cậy ở Cục và tất cả những con người mang lại cuộc sống cho nó đằng sau cơ cấu tổ chức và súng đạn. Lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình niềm tin đó đã không còn đứng vững. Anh thu dọn mớ đồ đạc ít ỏi của mình, năm phút sau đã ở trên đường. Anh đến một nhà hàng gần Old Town Alexandria, đậu xe ở nơi anh có thể nhìn thấy nó qua cửa sổ nhà hàng, vừa chậm rãi dùng bữa trưa vừa đọc qua những trang cuộc đời của Harry Sullivan.

Bates đã không nói đùa. Ông già Web đã từng là khách mời của nhiều nhà tù khét tiếng nhất nước Mỹ, chủ yếu là những nhà tù ở miền Nam, gì chứ ở đó thì Web biết là họ có những chuồng cọp nhốt người không chê vào đâu được. Tội của ông ta thì vô cùng đa dạng, nhưng vẫn là một chủ đề chung duy nhất: bao giờ cũng là những tội liên quan đến tài chính quy mô nhỏ, kinh doanh gian lận, biển thủ và lừa đảo. Web có thể thấy rằng vũ khí chính của ông già anh là một cái lưỡi dẻo quẹo và sự trơ tráo hiếm có trên đời.

Trong tập hồ sơ có kèm theo rất nhiều ảnh của bố anh. Chụp từ phía trước, từ bên trái, bên phải, và cả tấm bảng nhỏ gắn số tù bên dưới. Web đã xem qua không biết bao nhiêu bức ảnh lưu hồ sơ của những người bị bắt, tất cả đều giống hệt nhau: khổ sở, sợ hãi, sẵn sàng mở phanh cổ tay hoặc tự bắn vỡ sọ mình để tự sát cho nhanh. Nhưng trong tất cả những bức ảnh tù của mình, Harry Sullivan đều cười nhăn nhở. Lão già khốn kiếp đó cười ngoác miệng, như thể ông ta đang cười nhạo những tay cảnh sát chụp ảnh mình, cho dù chính ông ta mới là người sắp bị tống vào tù. Nhưng bố anh đã già sọm đi rất nhanh. Ông ta không còn là người đàn ông đẹp trai và phong độ như những bức ảnh anh tìm thấy trong gác xép. Những bức ảnh gần đây nhất là một ông già hom hem mặc dù ông ta vẫn đang nhếch mép cười cực kỳ trơ trẽn, với hai hàm răng đã ít nhiều móm mém. Web chẳng có lý do gì để quan tâm đến ông ta, nhưng anh vẫn cảm thấy thật khó khăn khi phải chứng kiến sự suy sụp của bố mình qua những bức ảnh Kodak lạnh lùng.

Web không nhịn được cười khi đọc lại những biên bản ghi lời khai trước tòa của bố mình. Từ những dòng đối thoại được ghi lại này hiện lên chân dung một tay lừa đảo già đời và tinh quái đang đương đầu với các công tố viên rắp tâm tống ông ta vào nhà đá.

“Ông Sullivan,” một ủy viên công tố quận hỏi. “Có đúng là trong đêm đó ông đang…”

“Cậu bảo gì cơ, cậu nhóc, đêm nào cơ nhỉ? Trí nhớ của ta không còn được như trước kia.”

Web có thể hình dung ra cảnh tay ủy viên công tố cau mặt trả lời. “Ngày hai mươi sáu, tháng Sáu, thưa ông.”

“À, đúng rồi. Tiếp đi, cậu nhóc, làm tốt lắm. Ta chắc là mẹ cậu tự hào về cậu lắm đấy.”

Trong biên bản, người thư ký tòa đã gõ trong ngoặc đơn, “Phá lên cười trước tòa.”

“Ông Sullivan, tôi không phải là cậu nhóc của ông.” Người luật sư trả lời .

“Ồ. Tha lỗi cho ta, con trai, vì ta không có nhiều kinh nghiệm lắm trong những chuyện như thế này, và thật ra ta cũng chẳng có ý gì đâu. Thật ra là ta chẳng biết xưng hô với anh thế nào cho phù hợp cả. Mặc dù trên đường từ nhà tù đến phòng xử án đẹp đẽ này ta được nghe những người khác gọi anh bằng những cái tên rất hay ho mà ta cũng không dám dùng cho kẻ thù ghê gớm nhất của mình. Đó là những từ ngữ rất bậy bạ mà một người kính Chúa như mẹ ta mà nghe thấy chắc cũng phải giật mình trong ngôi mộ Công giáo xinh xắn của bà cụ. Chúng dè bỉu lòng trung thực và tính liêm chính của anh đấy, làm sao anh có thể để yên như vậy nhỉ?”

“Tôi chẳng việc gì phải quan tâm đến chuyện những tên tội phạm nói gì về tôi, thưa ông.”

“Xin thứ lỗi, con trai, nhưng những lời tồi tệ nhất lại được nói ra từ miệng của các giám thị trong trại giam cơ mà.”

“Lại cười phá lên.” Người thư ký tòa đã viết như vậy. Chắc là phải cười sặc sụa và nghiêng ngả, Web đoán vậy vì căn cứ vào những dấu chấm than dài dằng dặc sau câu đó.

“Chúng ta tiếp tục được chưa, ông Sullivan?” Công tố viên hỏi.

“À, tôi thích cậu gọi tôi là Harry hơn. Đó là tên mọi người vẫn gọi từ lúc cái thằng Ireland là tôi đây được cha sinh mẹ đẻ ra đến giờ đấy.”

“Ông Sullivan!”

Đây là tiếng quát của vị chánh án, nhưng Web có cảm giác đằng sau hai từ này là một tiếng cười thích thú, nhưng có thể Web nhầm. Nhưng họ của vị chánh án này là O'Malley ([52]). Có lẽ cả ông ta và Harry Sullivan cùng chia sẻ lòng căm thù đối với người Anh cũng nên.

“Chắc chắn là tôi sẽ không gọi ông bằng cái tên Harry,” công tố viên nói và Web có thể hình dung rõ ràng thái độ phẫn nộ rất cao đạo trên mặt ông ta khi phải tham gia một cuộc cãi vã không đâu với một tên tội phạm quèn và rõ ràng là đang phải ê mặt.

“Ờ, được rồi, cậu nhóc, tôi biết công việc của cậu là phải tống lão già hom hem này vào một phòng giam lạnh lẽo và tối tăm nào đó, nơi con người đối xử với nhau chẳng có chút phẩm giá nào. Và rất có thể chút hiểu lầm nho nhỏ vừa rồi có thể khiến cậu có những thành kiến trong đánh giá, khiến tôi phải lãnh thêm vài năm tù giam oan cũng nên. Nhưng ngay cả như thế chăng nữa, cứ gọi tôi là Harry, vì mặc dù chúng ta đang phải trải qua những việc khó khăn này, cũng chẳng có lý do gì khiến cậu và ta không thể là bạn bè.”

Khi Web đọc tập hồ sơ ở đúng chương này trong cuộc đời của bố mình, không hiểu sao anh cảm thấy đôi chút hài lòng khi nhận thấy là bồi thẩm đoàn đã kết luận Harry hoàn toàn vô tội trước mọi cáo buộc và bên nguyên đưa ra.

Lần gần đây nhất bố anh bị tống vào tù với một bản án là hai mươi năm, bản án nặng nhất đối với ông ta từ trước nay. Như vậy ông ta đã ngồi tù được mười bốn năm trong một nhà tù ở Nam Carolina - Web biết nhà tù này: chỉ kém địa ngục có một bước chân. Và ông ta vẫn còn thêm sáu năm nữa, trừ trường hợp ông ta đã được đặc xá, hoặc nhiều khả năng đã chết trong tù.

Web nuốt miếng pastrami ([53]) cuối cùng trên đĩa và tu nốt chỗ bia Dominion Ale còn lại trong chai. Vẫn còn một tập hồ sơ mỏng nữa cần đọc nốt. Một lát sau, khi đã đọc xong. Web ngồi thừ người trên ghế vừa bàng hoàng, vừa bối rối.

Phải nói là FBI làm việc đâu ra đấy; không còn hòn đá nào mà họ không lật lên. Một khi họ đã muốn kiểm tra lý lịch của bạn, thì mẹ kiếp cam đoan là không có gì có thể qua mắt họ. Nếu bạn đang nộp đơn xin vào làm cho Cục, dù ở bất kỳ vị trí nào, họ cũng sẽ trực tiếp thẩm định qua tất cả những người mà bạn từng có bất kỳ có mối quan hệ nào trong đời. Từ giáo viên chủ nhiệm lớp một, người phát báo, thậm chí cả cô nàng xinh đẹp mà bạn đưa đi dự khiêu vũ mừng lễ tốt nghiệp và cùng lên giường sau đó. Và chắc chắn là họ cũng sẽ nói chuyện với bố cô ta để rồi bạn sẽ phải giải thích về hành động khốn nạn đó của mình một khi mọi chuyện vỡ lở mặc dù có thể chính cô con gái rượu ngây thơ của ông ta mới là người tụt quần bạn ra và cũng là người mang theo chiếc bao cao su trơn tuột. Rồi lại còn người trưởng nhóm Hướng đạo sinh của bạn, tất cả những em dâu, anh rể mà bạn có, người giám đốc ngân hàng đã cho bạn vay tiền mua chiếc xe đầu tiên, người phụ nữ cắt tóc cho bạn - tóm lại là không có gì - hoàn toàn không có gì bị bỏ qua, một khi Cục đã ra tay. Và mẹ kiếp, nếu họ không lần ra tung tích của Harry Sullivan mới là chuyện lạ.

Đó là khi ông ta vừa mới được đưa đến xà lim chật chội của mình trong một nhà tù ở Nam Carolina. Chính tại đó ông ta đã nói với hai đặc vụ đi xác minh lý lịch những nhận xét của mình về Web London con trai ông ta. “Con trai tôi.” Cụm từ mà Harry Sullivan đã dùng cả thảy ba mươi bốn lần trong cuộc gặp đó vì Web đã ngồi kỳ công đếm lại.

Harry Sullivan dành cho “con trai tôi” lời nhận xét tốt đẹp nhất mà bất kỳ ai có thể dành cho người khác, mặc dù ông ta mới chỉ được biết con trai tôi có sáu năm đầu đời ngắn ngủi. Nhưng theo lời Harry Sullivan, một người Ireland chân chính có thể biết ngay con trai tôi là người có những phẩm chất gì chỉ sau lần thay tã đầu tiên. Và con trai ông ta có đầy đủ những gì cần thiết để trở thành đặc vụ FBI giỏi giang nhất từng có trên đời, và họ có thể trích lại lời tiên đoán của ông ta là như thế. Và ngay khi họ muốn ông ta đến Washington để nói với những lãnh đạo chóp bu của Cục điều đó, thì ông ta cũng sẵn lòng, cho dù tay chân đều phải mang xiềng, thì ông ta vẫn sẽ đến đó với trái tim tràn ngập niềm tự hào vô bờ bến. Không có gì trên đời này là quá sức đối với “con trai tôi”.

Web đọc tiếp, đầu anh mỗi lúc một cúi xuống và cúi xuống thấp hơn, rồi cuối cùng gần như gục hẳn xuống mặt bàn khi đọc lời tuyên bố cuối cùng của Harry Sullivan được chép lại trong hồ sơ: “Và thưa hai ngài đặc vụ đáng kính, hai ngài đặc vụ quý hóa,” bố anh đã bắt đầu như vậy, rằng họ có vui lòng nhắn với con trai tôi là suốt bao năm qua, ngày nào bố nó cũng nghĩ về nó, chưa một lần nào hình ảnh của nó không ở trong trái tim ông, và rất có thể hai bố con không thể còn có ngày đoàn tụ thì Harry Sullivan vẫn muốn “con trai tôi” biết rằng ông yêu nó và luôn cầu mong cho nó những điều tốt đẹp nhất? Và xin nó đừng nghĩ xấu về cha mình vì đã để cơ sự xảy ra như vậy? Không biết các ngài đặc vụ quý hóa có vui lòng nhắn lại với “con trai tôi” rằng ông sẽ rất biết ơn họ nếu họ nhắn lại với nó như vậy. Và rằng ông sẽ sẵn sàng mời họ mỗi người một cốc bia nếu có dịp, mặc dù với triển vọng của ông thì không thể hứa hẹn được gì, nhưng cũng không biết thế nào mà nói trước.

Mẹ kiếp. Vậy mà họ chẳng bao giờ nói gì với Web. Web chưa bao giờ được đọc bản báo cáo cho đến tận giây phút này đây. Quỷ tha ma bắt Cục đi! Chẳng lẽ không còn chỗ nào cho sự linh động sao? Chẳng lẽ lúc nào cũng phải dập khuôn các quy định bất di bất dịch đó à? Nhưng thực ra Web vẫn có thể tìm ra thông tin này từ nhiều năm nay nếu anh thực sự muốn. Vấn đề là anh đã không muốn.

Ý nghĩ tiếp theo bỗng làm mặt Web tối sầm lại. Nếu như Cục đã gửi hồ sơ của Web cho Claire Daniels, thì liệu cô đã được tiếp cận với những thông tin liên quan đến Harry Sullivan hay chưa? Nếu rồi, thì tại sao cô không nói với anh điều đó?

Web đóng tập hồ sơ lại, thanh toán tiền và quay ra chiếc Vic. Anh lái thẳng xe tới một trong những bãi đỗ xe công vụ của Cục, đổi xe và lái một chiếc Grand Marquis đời cũ ra cổng khác không nằm trên con phố mà anh đã đi vào. Không phải lúc nào Cục cũng có sẵn xe công, nhưng chiếc Grand này vừa mới được chuyển đến trong tình trạng rất hoàn hảo, và Web đã phải thuyết phục người quản lý kho xe rằng anh xứng đáng có một chiếc xe tử tế hơn tay đặc vụ già khú ở Tổng hành dinh mà ban đầu chiếc Grand Marquis được phân cho ông ta sử dụng. Web đã phải nói thêm là nếu có gì trục trặc, cứ nói chuyện với Buck Winters, ông ta là bạn thân của tôi đấy.

CHƯƠNG 26

Bates vẫn ngồi trong phòng tác chiến chiến lược khi ông ta bước vào Bates ngẩng đầu lên và phải cố gắng lắm anh mới không để lộ vẻ khó chịu trên mặt mình.

Buck Winters ngồi xuống trước mặt anh. Những nếp gấp trên bộ complet của ông ta trông thẳng tắp, không chê vào đâu được. Đôi giầy bóng lộn sáng như lau như li. Chiếc khăn mùi xoa thò ra trên mép túi cực kỳ lịch sự. Winters là một người có vóc dáng cao lớn, vai rộng và cân đối, khuôn mặt toát lên vẻ thông minh và tự tin, một hình mẫu được thèm khát trong FBI. Có lẽ đó là lý do ông ta có thể thăng tiến xa đến thế.

“Tôi vừa nhìn thấy London ra khỏi tòa nhà.”

“Anh ta đến xem có mệnh lệnh mới nào không ấy mà.”

“Hừm, chắc thế.” Winters đặt tay lên mặt bàn và chăm chú quan sát mọi chuyển động trên mặt Bates. “Việc quái gì mà anh cứ phải quan tâm đến hắn nhiều như thế?”

“Anh ta là một đặc vụ giỏi. Và như ông nói, trước kia tôi từng là người kèm cặp anh ta.”

“Là tôi thì tôi chẳng việc quái gì mà phải khổ công vì hắn đến vậy.”

“Anh ta đã bao lần suýt mất mạng vì nơi này hơn cả ông và tôi rất nhiều đấy.”

“Hắn chỉ là một thằng cục súc. Tất cả bọn HRT đều vậy. Chúng đâu phải là một phần của chúng ta. Bao giờ chúng cũng tự làm theo ý mình và vênh váo như thể chúng là người cao quý hơn vậy. Thực ra chúng chỉ là một lũ to xác lúc nào cũng chăm chăm sờ đến súng đạn.”

“Họ với chúng ta là một, Buck. Họ là một đơn vị đặc nhiệm chuyên giải quyết những việc mà không ai làm được. Vâng, đồng ý là họ cũng hơi kiêu ngạo, nhưng ai mà không thế? Nhưng tất cả chúng ta đều là đặc vụ FBI; tất cả chúng ta đều làm việc vì một mục tiêu chung.”

Winters lắc đầu. “Anh tin vậy thật sao?”

“Vâng, tôi thực sự tin là thế đấy. Nếu không, tôi đã chẳng ở đây.”

“Chúng cũng là nguyên nhân của nhiều thời điểm tồi tệ nhất trong Cục.”

Bates vứt toẹt tập hồ sơ xuống bàn. “Thế thì ông sai hoàn toàn rồi. Chính Cục đã tung họ vào lửa ở giây phút cuối cùng và khi đã có chuyện bung bét, thường là vì những quyết định ngu xuẩn của cấp trên cùng mà bất kỳ ai trực tiếp thi hành lệnh đều có thể thấy ngay là chỉ làm tình hình nghiêm trọng hơn, họ mới là những người phải giơ đầu chịu báng. Thực ra tôi lấy làm ngạc nhiên là tại sao họ chưa đề nghị tách ra khỏi chúng ta thì đúng hơn.”

“Anh chưa bao giờ tuân theo những luật chơi cần thiết, để có thể thăng tiến ở trong này, Perce ạ. Anh bị kẹt dưới bức trần nhà bằng kính, trong trường hợp của anh phải gọi là trần bằng thép mới đúng. Không sao thoát ra được.”

“Hừ, tôi hài lòng với cương vị hiện tại của mình.”

“Thế thì để tôi cho anh một lời khuyên: ở đây mà không lên nữa là anh sẽ bắt đầu rơi.”

“Cám ơn ông vì lời khuyên,” Bates nói cộc lốc.

“Tôi vẫn nhận những báo cáo của anh về cuộc điều tra. Phải nói thật là quá sơ sài đấy.”

“Toàn bộ kết quả điều tra mới chỉ có vậy.”

“Cove, anh ta thế nào rồi? Không thấy anh đả động gì cả.”

“Chẳng có gì mà báo cáo.”

“Tôi tin rằng anh đang làm việc với quan điểm rằng bất kỳ đặc vụ chìm nào của Cục mà không xuất hiện sau một thời gian dài như vậy thì có thể coi là đã chết, hoặc nếu không chết thì anh ta cũng đã phản bội và có lẽ chúng ta nên bắt đầu truy lùng anh ta qua Lệnh Truy nã toàn diện.”

“Cove không phản bội.”

“Vậy là anh đã liên lạc với anh ta? Buồn cười thật, tôi không thấy điều đó trong bản báo cáo của anh.”

“Tôi chỉ cảm thấy như vậy thôi. Nhưng tôi có nhận được thông tin từ Cove.”

“Vậy anh chàng đặc vụ chìm khét tiếng của chúng ta nói gì về vụ xì căng đan này thế?”

“Anh ta cho rằng anh ta bị cài.”

“Chậc chậc, nghe bất ngờ quá!” Winters kéo dài giọng một cách châm biếm.

“Anh ta không muốn vào Cục vì anh ta nghĩ trong Cục có kẻ phản bội.” Bates trừng trừng nhìn vào mặt Winters khi anh nói câu này, mặc dù anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ nào Winters lại là người làm rò rỉ các thông tin mật không nhỉ? “Anh ta biết rõ về những lần rò rỉ thông tin và những điệp vụ thất bại. Anh ta nghĩ những gì đã xảy ra với HRT cũng xuất phát từ việc rò rỉ thông tin như vậy.”

“Giả thuyết thú vị đấy, nhưng tôi nghĩ chắc anh ta cũng chẳng có bằng chứng nào?”

Câu hỏi của ông ta làm Bates thấy hơi ngạc nhiên. “Anh ta không nói gì thêm với tôi cả,” anh trả lời. “Tôi vẫn đang kiểm soát mọi việc, Buck. Tôi biết là ông rất bận rộn nên tôi không muốn làm xáo trộn tầm nhìn xa huyền thoại của ông bằng những chi tiết lặt vặt. Xin hứa với ông là nếu có chuyện gì quan trọng xảy ra, ông sẽ được biết ngay từ đầu. Để ông có thể đối phó với giới truyền thông. Khoản này thì quả là ông tài thật.”

Winters chẳng khó gì mà không nhận ra thái độ mỉa mai của Bates. Nhưng ông ta quyết định phớt lờ, làm như không biết. “Nếu tôi nhớ không lầm, anh và Cove đã từng rất thân thiết. Hồi ở California ấy, đúng không ?”

“Chúng tôi có làm việc cùng nhau.”

“Vào khoảng thời gian gia đình anh ta bị giết hại.”

“Đúng vậy.”

“Một thảm họa của Cục.”

“Thật ra tôi nghĩ đó là một thảm họa của gia đình Cove.”

“Tôi đang băn khoăn là tại sao lại có chuyện như thế này. Theo tôi hiểu thì Cove đã phát hiện ra những hoạt động tài chính của một đường dây ma túy trong tòa nhà đó.”

“Và HRT được điều đến để tấn công,” Bates nói. Nhiều khả năng trong đó có những nhân chứng tiềm năng. HRT chuyên về việc đưa những người này ra ngoài an toàn.”

“Anh bạn ạ, họ làm ăn giỏi thật đấy. Đến cái mạng mình mà họ còn không giữ được nữa là.”

“Chẳng qua là họ bị cài.”

“Đồng ý. Nhưng bằng cách nào chứ? Nếu không phải là Cove thì tại sao?”

Bates nhớ lại cuộc liên lạc của anh với Randall Cove tại nghĩa trang. Cove cho rằng có một sự rò rỉ thông tin ngay trong Cục và đó là nguyên nhân của tất cả những điệp vụ thất bại thời gian qua. Bates trầm ngâm nhìn Winters hồi lâu. “Vâng, để thực hiện được một kế hoạch phục kích công phu như thế thì tôi nghĩ chắc chắn kẻ chủ mưu phải có thông tin từ bên trong, ở cấp cao nhất.”

Winters ngồi ngả người ra sau ghế. “Ở cấp cao nhất. Anh đang định nói là ngay bên trong Cục?”

“Bên trong là bên trong.”

“Đó là một lời cáo buộc nghiêm trọng đấy. Bates.”

“Tôi chẳng cáo buộc gì hết. Tôi chỉ nêu ra một khả năng thôi.”

“Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn rất nhiều nếu chúng ta tóm được tay đặc vụ chìm đó.”

“Ông chẳng hiểu gì về Randall Cove cả.”

“Thế thì có lẽ anh hiểu hắn ta quá rõ. Rõ đến nỗi, anh chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.” Winters nhổm người đứng dậy. “Không có bất ngờ nào đấy nhé. Bates. Đừng để chuyện gì quan trọng diễn ra mà tôi không được thông báo trước đấy. Anh rõ chứ?”

Sau khi Winters đã đi khỏi, Bates lầm bầm, rõ như Waco ấy, Buck.

*

Web đang ngồi trong xe thì Ann Lyle gọi đến.

“Xin lỗi vì đã để cậu chờ lâu, nhưng tôi muốn kiếm cho cậu thứ gì đó thật hữu ích.”

“Được rồi mà. Tôi cũng mới nhận được vài thông tin về Cove từ Cục, việc này cũng đâu thể làm nhanh được.”

“Thế này nhé, tôi tìm được cho cậu một người.”

“Ai? Cove à?”

“Đồng ý là tôi giỏi, nhưng làm gì giỏi đến thế, Web. Tôi vừa tìm ra được một tay trung úy cảnh sát của D.C, từng là đầu mối liên lạc của Cove hồi anh ta mới làm cho WFO lần đầu tiên từ cách đây lâu rồi.”

“Một cảnh sát địa phương làm đầu mối liên lạc cho một đặc vụ chìm của FBI sao? Sao lại có chuyện đó?”

“Chuyện các đặc vụ chọn một cảnh sát nào đó mà họ tin cậy làm người trung gian là thường tình mà, Web. Cove đã làm việc với tay cảnh sát này hồi anh ta mới chuyển về đây. Và tay cảnh sát đó đồng ý nói chuyện với cậu.”

Anh tấp xe vào lề đường, vớ giấy bút và ghi lại cái tên Sonny Venables, một sĩ quan cảnh sát thuộc Quận Một của thủ đô. Ann cũng cho anh số điện thoại của anh ta.

“Ann, còn ai khác biết về Venables không?”

“Sonny không nói gì, nếu có thì tôi nghĩ anh ta đã nói rồi. Anh ta là đầu mối liên lạc không chính thức của Cove khi Cove mới đến D.C. và cũng lâu lắm rồi. Có lẽ nhiều người không biết gì về mối liên hệ này. Mặc dù Sonny Venables có vẻ khá cởi mở.”

“Bà nói như thể bà biết rõ anh ta lắm.”

“Web, cưng à, khi cậu đã sống lâu bằng tuổi tôi, thì chẳng có ai mà cậu không biết đâu. Tôi làm việc rất nhiều với các cảnh sát của D.C.”

“Và tay Venables đó đồng ý nói chuyện với tôi? Tại sao?”

“Anh ta chỉ nói là anh đã nghe nhiều về cậu. Tôi cũng đưa ra lời bảo đảm của mình, tất cả những gì tôi thấy đáng làm.”

“Nhưng chúng ta vẫn chưa biết là anh ta biết những gì?”

“Tôi nghĩ đó là việc cậu phải tìm ra thôi.” Ann tắt máy.

Web gọi theo số đó. Venables không có nhà, vì vậy Web để lại tên và số di động của mình. Hai mươi phút sau Venables gọi lại cho anh và hai người hẹn gặp nhau chiều hôm đó. Web cũng hỏi anh ta một câu hỏi khác và Venables nói để anh ta xem có thể làm gì. Nếu như tay cảnh sát này có thể giúp Web biết về Cove thì anh mới có thể thoát ra khỏi mớ bế tắc này.

Tuy nhiên có điều khiến Web thấy băn khoăn về Bates, cụ thể là việc anh ta chưa bao giờ cho Web biết là Cove đã từng làm việc cho WFO từ trước khi chuyển đến California. Thực ra cũng không quan trọng. Anh ta đã cho Web xem qua hồ sơ của Cove, và Web đã có cơ hội nhận ra thông tin đó. Chỉ có điều anh không có đủ thời gian để nắm toàn bộ tiểu sử của tay đặc vụ chìm này. Nhưng tại sao Bates không nói thẳng với Web?

Venables đã đề nghị Web gặp anh ta vào đầu giờ chiều ở một quán bar gần khu vực anh ta làm việc, một việc rất bình thường. Web biết đó là cách vừa để giải tỏa cơn khát vừa là dịp ngồi nghe ngóng tình hình và thu nhặt những thông tin biết đâu lại có ích cho một vụ án sau này.

Những tay cảnh sát sẽ chẳng làm ăn được gì nên hồn nếu không biết tranh thủ thời gian.

Sonny Venables là một người da trắng, khoảng ngoài bốn mươi và đã làm cảnh sát được gần hai mươi năm, anh ta kể với Web như vậy lúc hai người đang mua bia. Cao khoảng lm90, vóc người chắc nịch, nhìn cũng biết là anh ta tập luyện thường xuyên và hiếm khi chịu để chút mỡ thừa nào tích tụ trên người; có cảm giác là anh ta chỉ cần một tay cũng nhấc bổng một chiếc rơ moóc.

Sonny đội một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày có in dòng chữ TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĐÁNH CÁ ĐỀU LÊN THIÊN ĐƯỜNG và mặc một chiếc áo khoác da có lông của giải đua xe Bắc Mỹ NASCAR sau lưng. Cái cổ lực lưỡng của anh ta to gần bằng cái đầu phía trên. Giọng nói mang âm sắc giọng mũi rất du dương của người miền Nam, và Web còn để ý thấy đường viền tròn tròn của một hộp thuốc lá nhai hằn trên túi quần bò của anh ta khi cả hai bước đến một chiếc bàn còn trống trong quán. Họ tìm được một góc khá yên tĩnh và ngồi xuống nhâm nhi chai bia của mình.

Venables cho biết anh ta làm ca đêm. Anh ta thích thế, vì ban đêm thú vị hơn; nhưng tôi sẽ nghỉ hưu sớm ngay khi đủ hai mươi năm. Đi chơi và câu cá, uống bia và xem đua xe từ giờ đến hết đời, như hầu hết các cảnh sát chân chính khác.” Anh ta mỉm cười với câu nói đùa của mình và tu một hơi dài từ vại bia Red Dog. Máy hát tự động Eric Clapton đang chơi đi chơi lại bài Layla. Web lặng lẽ nhìn quanh. Có hai gã đang chơi bi-a ở phòng trong, một tập tiền hai mươi đô và vài chai Bud Lights xếp trên rìa bàn. Thỉnh thoảng họ lại liếc ra chỗ Web và Sonny ngồi: nhưng cho dù có nhận ra Web hay Sonny hay không thì họ cũng chẳng biểu lộ thái độ gì.

Venables đang lặng lẽ nhìn Web qua vại bia của mình. Gương mặt của người đàn ông có quá đủ nếp nhăn để đáng được gọi là già dặn và từng trải. Một người từng nếm trải nhiều điều trong cuộc sống, chủ yếu là những điều tồi tệ, Web phỏng đoán, cũng giống anh.

“Lâu nay tôi vẫn tò mò về những tay HRT các anh.”

“Có gì mà tò mò chứ? Chúng tôi cũng là cớm, chỉ có điều là được trang bị thêm ít đồ chơi thôi mà.”

Venables bật cười. “Này, đừng có khiêm tốn thế chứ. Tôi có vài tay bạn cũng là dân FBI từng thử thi vào HRT và lúc quay về trông họ cứ như chó cụp đuôi. Họ nói chẳng thà phải cắn răng chịu đau đẻ với một đoạn gậy trong miệng còn hơn là phải chịu đựng những trò thử thách ấy thêm một lần nào nữa.”

“Từ bức ảnh của Randall Cove mà tôi được xem, có vẻ HRT cũng chỉ là trò trẻ con đối với anh ta thôi.”

Venables chăm chú nhìn vại bia của mình hồi lâu. “Có lẽ anh đang tự hỏi Randy Cove có điểm gì chung với những loại người cục mịch và thô lậu như tôi?”

“Ý nghĩ đó chỉ thoáng hiện ra trong đầu tôi thôi.”

“Chúng tôi lớn lên cùng nhau ở một làng quê nhỏ hẻo lánh của bang Mississipi, nhỏ đến nỗi thực sự là nó chưa bao giờ có một cái tên đầy đủ nữa. Hồi đó chúng tôi suốt ngày chơi thể thao cùng nhau vì thật ra cũng chẳng có gì mà làm cả. Vậy mà làng quê nhỏ bé của chúng tôi đã vô địch bóng bầu dục của bang hai năm liên tiếp. Chúng tôi còn chơi cùng đội hồi học đại học ở Oklahoma nữa.” Venables lắc đầu. “Randy là cầu thủ chạy cánh vĩ đại nhất mà tôi từng biết, và đội Sooners bắt đầu biết đến chiến thắng. Tôi chơi ở vị trí hậu vệ. Cầu thủ xuất sắc nhất ba năm liền, cũng giống như cậu ta. Trận nào tôi cũng là người cản phá và che chắn cho Randy. Tôi lao người ra như một con tàu điên khùng và tận hưởng niềm vui được chơi trên sân từng phút một, mặc dù giờ đây tôi bắt đầu cảm nhận rõ những hậu quả của thời trai trẻ liều lĩnh ấy. Anh hiểu không, anh chỉ cần để cho Cove có một chút khoảng trống là cậu ta vụt biến mất ngay. Lúc tôi đang cố thò đầu ra từ bên dưới một đống cầu thủ đối phương đè bên trên thì cậu ta đã chạy đến khu vực cuối sân rồi, bao giờ cũng cho một hai cầu thủ đối phương hít khói. Năm cuối cùng chúng tôi đã vô địch toàn quốc giải nghiệp dư dành cho các trường đại học. Hồi đó Oklahoma không chơi với chiến thuật chuyền bóng ngược từ phần sân đối phương về như bây giờ. Chúng tôi cứ việc chuyền bóng thẳng cho Randy Cove và để cậu ta muốn làm gì thì làm.”

“Nghe như hai người có một tình bạn rất bền chặt.”

“Quả là thế thật. Tôi chưa bao giờ có đủ tài năng để lên chơi giải chuyên nghiệp, nhưng chắc chắn là Randy thì quá thừa. Tất cả mọi người, tôi thực sự muốn nói là tất cả mọi người, đều muốn có cậu ta.” Venables ngừng lại và trầm tư gõ gõ ngón tay trên mép bàn. Web quyết định chờ anh ta một lúc.

“Tôi đã chơi cùng Cove tại giải hỗn hợp khi cậu ta bị chấn thương đầu gối. Cậu ta vừa khuỵu xuống là chúng tôi đã biết thế là hết. Hồi đó đâu có được như bây giờ. Chỉ việc vào viện, sửa sang, mổ xẻ lại là lại ngon lành, ra sân như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng hồi đó thì sự nghiệp cửa cậu ta coi như chấm dứt. Thế đấy. Vậy mà bóng bầu dục, lạy Chúa, bóng bầu dục là tất cả những gì cậu ta có. Chúng tôi ngồi bệt ngay xuống sân và òa khóc nức nở gần một giờ liền. Thậm chí ngày mẹ tôi chết tôi còn không khóc nữa là. Nhưng tôi yêu Randy. Hồi đó cậu ta là một người tốt.”

“Hồi đó?”

Venables nghịch lọ hạt tiêu rồi ngồi ngả ra sau, hất ngược chiếc mũ lưỡi trai lên trán và Web nhìn thấy một lọn tóc xoăn màu muối tiêu rủ xuống.

“Chắc anh biết chuyện xảy ra với gia đình cậu ta,” Venables nói.

“Tôi có nghe nói. Sao anh không nói cho tôi nghe những gì anh biết?”

“Nói gì bây giờ nữa? Chính FBI đã làm ăn như cứt khiến Randy mất cả vợ lẫn con.”

“Hồi đó anh có gặp anh ta không?”

Trông Venables như thể anh ta chỉ muốn ném thẳng vại bia vào mặt Web. “Chính tôi là người đứng hộ tang bên quan tài. Đã bao giờ anh phải khiêng quan tài một đứa bé bốn tuổi chưa?”

Web lắc đầu.

“Mẹ kiếp, thế thì để tôi nói cho anh biết, đó là điều anh không bao giờ quên noori.”

“Cove đã nói vậy với anh à, về việc đó là lỗi của Cục ấy?”

“Cần gì cậu ta phải nói với tôi. Tôi cũng là cảnh sát mà. Tôi biết thế nào là phải trái chứ. Tôi làm ở D.C. này vì vợ tôi là người ở đây. Randy cũng bắt đầu với FBI chính từ đây. Tôi đoán là anh cũng biết. Randy dùng tôi làm đầu mối liên lạc vì cậu ta biết có thể tin tưởng tôi, đó là điều khá hiếm hoi trong loại công việc của cậu ta.”

“Đó có vẻ là điều hiếm hoi trong nhiều loại công việc nữa.” Hai người đàn ông trao cho nhau cái nhìn đầy thấu hiểu và thiện cảm, bất giác họ cảm thấy gần gũi và tin tưởng nhau hơn chút ít.

“Sau đó Randy chuyển đến California và gia đình cậu ta bị sát hại ở đó.”

“Tôi hiểu là anh ta đã trả thù.”

Venables ném cho Web cái nhìn lạnh lẽo, cái nhìn cho thấy anh ta còn biết nhiều bí mật hơn so với những gì anh ta muốn nói ra. “Là anh thì anh có làm vậy không?”

“Tôi nghĩ là có. Cove chắc chắn là tay sừng sỏ. Dân mafia Nga có phải bọn tay mơ đâu.”

“Anh cứ thử là một người da đen lớn lên ở một xó xỉnh nào đó ở Mississipi xem.” Venables cúi người về phía trước, chống hai khuỷu tay lên mặt bàn. “Tôi đã nghe nói nhiều về anh. Từ báo chí, và cả từ Ann Lyle.” Anh ta ngừng lại và chăm chú đánh giá Web. Lát sau Web mới nhận ra là Venables đang chằm chằm nhìn vào phần mặt bị thương của anh.

“Trong gần hai mươi năm làm cảnh sát, tôi đã phải rút súng ra hơn chục lần gì đó, và nổ súng sáu lần. Bốn lần tôi bắn trượt, hai lần bắn trúng. Tôi chưa bao giờ bị thương khi đang làm nhiệm vụ, thậm chí xước móng tay cũng không nốt, kể ra đó cũng là điều đáng tự hào trong cái thành phố điên rồ của chúng ta vào thời buổi này. Giờ tôi đang phụ trách Quận Một, không được như khu da trắng thượng lưu ở mạn Tây Bắc, nhưng ít ra cũng còn hơn các quận Sáu và Bảy ở Anacostia, nơi mà đội của anh bị phục kích ấy. Và tôi đặc biệt ngưỡng mộ những người đã từng phải đấu tranh với tử thần giữa lằn ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Có vẻ như anh là hình mẫu tiêu biểu của những người như thế.”

“Tôi chưa bao giờ đòi hỏi được như thế.”

“Tôi chỉ muốn nói là tôi tôn trọng anh nếu không tôi đã không ngồi đây nói chuyện với anh làm gì. Nhưng vấn đề là anh sẽ không bao giờ thuyết phục được tôi tin rằng Randy đã làm điều gì đó sai trái. Tôi biết là cái nghề đặc vụ chìm có thể làm con người ta phát điên và Randy cũng chẳng thiếu gì lý do để trách cứ Cục, nhưng chuyện xảy ra với đội của anh chắc chắn không liên quan gì đến Randy, tôi muốn anh hiểu điều đó.”

“Còn tôi muốn anh hiểu là mặc dù anh đang có vẻ rất chân thành và tôi muốn khi có dịp sẽ làm thêm chầu bia nữa với anh, nhưng tôi không thể chỉ nghe anh nói thế mà tin ngay được.”

Venables gật gù thông cảm. “Hừm, tôi nghĩ nếu mà anh tin ngay thì anh đúng là đồ đầu đất.”

“Lẽ ra anh ta đã có thể nghỉ việc sau vụ đó. Tôi đã kiểm tra thông tin này rồi. Cục đề nghị giúp anh ta tìm cuộc sống mới, lương hưu đầy đủ. Theo anh thì tại sao anh ta lại từ chối?”

“Để rồi dành cả bốn mươi năm còn lại trong đời ngồi xén cỏ ngoài vườn của một ngôi nhà vùng ngoại ô tồi tàn nào đó ở miền Trung Tây à? Như thế đâu còn là Randy. Cậu ta còn làm gì được nữa ngoài việc tiếp tục cày ải cho quên đi tất cả? Nghe có vẻ nực cười, nhưng cậu ta rất tự hào về công việc của mình. Cậu ta nghĩ rằng mình đang sống có ích.”

“Tôi cũng vậy. Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Tôi sẽ quyết tìm ra sự thật. Nếu Cove là một phần của âm mưu này, tôi sẽ trả thù giống như những gì anh ta từng làm. Tôi không thể hứa với anh là tôi sẽ không trả thù, cho dù anh có là bạn thân của anh ta chăng nữa. Nhưng nếu anh ta hoàn toàn vô can, tôi sẵn sàng là bạn thân nhất của anh ta. Và tin tôi đi, hầu hết mọi người đều muốn có tôi là bạn hơn là làm kẻ thù đấy.”

Venables ngả người ra sau và tỏ vẻ đăm chiêu, cân nhắc. Sau đó dường như anh ta đã quyết định và cúi người về trước, mắt chăm chú quan sát hai tay chơi bi-a vừa quệt phấn lên đầu mũi cơ vừa tu bia và rít thuốc.

Lát sau anh ta bắt đầu nói với giọng rất khẽ khàng. “Tôi hoàn toàn không biết Randy đang ở đâu. Từ khi xảy ra chuyện này tôi không nhận được tin tức gì của cậu ta. Thực ra là trước cả thời điểm đó cơ.”

“Vậy là anh ta không bao giờ nói chuyện với anh về những gì anh ta đang làm à?”

“Anh phải hiểu là hồi đó tôi là cơ sở liên lạc của cậu ta trong lần đầu tiên cậu ta hoạt động ở D.C. Còn trong nhiệm kỳ mới nhất vừa rồi tôi cũng có gặp cậu ta, nhưng nói thật là chỉ gặp gỡ nói chuyện thôi, hoàn toàn không liên quan gì đến công việc cả. Tôi chỉ biết là cậu ta đang làm một vụ gì đó rất lớn, nhưng cậu ta chẳng bao giờ tiết lộ.”

“Vậy là hai người không còn thân thiết nữa à?”

“Vẫn thân chứ, nhưng chỉ trong chừng mực có thể đối với một người như Randy. Sau những gì xảy ra với gia đình cậu ta, tôi không nghĩ Randy có thể thực sự thân thiết với bất kỳ ai khác được nữa. Kể cả đối với thằng bạn cũ Sonny Venables cùng lớn lên ở Mississipi và không biết bao lần tôi đã lấy thân mình làm vật cản đường đối phương cho cậu ta ôm bóng lao về đích.”

“Anh ta có bao giờ nhắc đến một đầu mối liên lạc nào khác mà có thể anh ta đang sử dụng không?

“Không, nếu cậu ta có cần một đầu mối liên lạc nào đó, thì nhất định sẽ là tôi.”

“Lần gần đây nhất anh gặp anh ta là khi nào?”

“Hơn hai tháng trước.”

“Trông anh ta thế nào?”

“Rất kín kẽ, tâm trí lúc nào cũng như ở tận đâu tận đâu ấy. Thực ra trông cậu ta không được ổn cho lắm.”

“Khá lâu rồi không thấy anh ta quay về nhà. Cục đã cử người canh gác ở nhà anh ta mà.”

“Tôi chưa bao giờ biết cậu ta sống ở đâu cả; chúng tôi luôn gặp nhau ở một nơi nào đó hoàn toàn vô hại, để bảo đảm an toàn cho công việc của cậu ta. Thật ra, chúng tôi chỉ nói về những chuyện ngày xưa. Tôi nghĩ có lẽ cậu ta cần người để chia sẻ và tâm sự. Nếu có lúc nào đó cậu ta cần tôi chuyển hay nhắn nhủ gì đó cho người khác thì tôi làm.”

“Anh ta liên lạc với anh như thế nào mỗi khi muốn gặp?”

“Cậu ta không bao giờ gọi về nhà cho tôi. Bao giờ cũng gọi đến đồn cảnh sát của quận. Mỗi lần lại xưng một tên khác nhau. Và mỗi lần chúng tôi gặp nhau cậu ta sẽ cho tôi biết cái tên mới mà cậu ta sẽ dùng trong lần tiếp theo, để tôi biết là cậu ta gọi tới.”

“Và vẫn chưa thấy anh ta gọi sao?” Web chăm chú nhìn Venables. Có vẻ như Venables đang rất thẳng thắn với anh, nhưng chẳng biết thế nào mà dám chắc được.

“Không, không một lời. Tôi bắt đầu thấy lo là có chuyện xảy ra với cậu ta. Trong cái nghề của Randy, mối lo ngại như vậy là hoàn toàn chính đáng.”

Web ngồi ngả ra sau. “Vậy tôi đoán là anh khó giúp được tôi tìm ra anh ta.” Venables uống nốt vại bia của mình. “Chúng ta đi dạo một lát nhé.”

Họ bước ra ngoài và thả bộ dọc một con phố khá vắng người. Chưa đến giờ tan sở nên có lẽ lúc này hầu hết mọi người vẫn đang bận rộn trong phòng làm việc, đếm từng phút cho đến lúc hết giờ, Web nghĩ bụng.

“Trong lần đầu tiên hoạt động cho WFO, Randy có một chỗ mà cậu ta vẫn dùng làm nơi đặt hộp thư trong trường hợp muốn nhắn gì đó cho tôi. Cậu ta cũng cho biết sẽ dùng nơi đó để thay đổi quần áo, như một ngôi nhà bí mật phòng khi cần thiết.”

“Cục có biết nơi đó không?”

“Không. Ngay từ hồi ấy tôi đã không nghĩ là cậu ấy tin tưởng cấp trên của mình ở Cục nhiều đến mức đó. Đó là lý do cậu ấy dùng tôi, tôi đoán vậy.”

“Khôn ngoan lắm. Gần đây anh có đến đó không?”

Venables lắc đầu. “Có lẽ tôi hơi sợ điều gì mà tôi có thể phải chứng kiến ở đó, cũng không rõ là tại sao nữa. Thậm chí tôi còn không biết Randy dùng nơi đó nữa không. Rất có thể nó đã bị phá đi rồi cũng nên, tôi cũng không chắc.”

“Anh cho tôi địa chỉ nơi đó được không?”

“Anh có hút thuốc không?”

“Không.”

“Thế thì giờ anh phải hút đi.” Venables rút trong túi áo khoác ra một bao Winstons và chìa nó cho Web, anh cầm lấy. “Anh nên châm lửa đi, đề phòng có ai đó đang nhìn.” Venables đưa cho anh một bao diêm.

Web châm thuốc, rít một hơi và cố lắm mới không ho sặc sụa, anh thảy bao thuốc vào túi áo.

“Rất cảm ơn anh đã giúp đỡ. Nhưng nếu Cove có liên quan…” Anh bỏ lửng câu nói của mình.

“Nếu Randy mà làm một việc như vậy thật, thì tôi không nghĩ cậu ta còn muốn sống nữa làm gì.”

Khi Sonny Venables bước đi, Web quay lại xe, xé toạc bao Winstons và moi ra mẩu giấy cuộn tròn bên trong. Anh đọc địa chỉ được viết trên đó. Bên trong bao thuốc còn có ba bức ảnh nhỏ được gấp lại. Trước đó, khi gọi điện, Web đã hỏi Venables xem có thằng nhóc da đen sáng màu nào mới được báo cáo là mất tích trong thành phố trong vòng một tháng vừa qua không, và rõ ràng đây là những gì mà tay cảnh sát tìm được; anh kết luận là trông ba thằng nhóc đều nhang nhác Kevin Westhrook. Nét mặt lũ trẻ cho anh thấy một điều là tất cả những kỳ vọng của chúng vào một cuộc sống tử tế đều đã tan thành mây khói. Web lái xe lao vụt đi.

Hai mươi phút sau, Web lái xe chậm lại và đánh mắt ra ngoài cửa sổ xe, bao nhiêu hy vọng trong đầu bỗng nhiên vụt tắt. Lời cảnh báo nhất thời của Venables hóa ra đã ứng nghiệm ngay lập tức. Căn nhà mật ngày nào của Randy Cove giờ chỉ còn là một công trường xây dựng trống hoác; một chiếc cần cẩu cao ngất ngưởng đứng giữa bãi đất, một nhóm công nhân đang lục tục ra về sau một ngày làm việc mà Web nhận thấy chắc là không nhẹ nhàng gì. Căn cứ vào khối lượng công việc đã được thực hiện tại công trường Web kết luận là từ lâu nay Randall Cove đã không còn sử dụng nơi này nữa. Tất cả lại sa vào một ngõ cụt mới. Web vò nát mẩu giấy ghi địa chỉ và ném nó xuống sàn xe. Nhưng anh vẫn còn một đầu mối mới cần xem xét về Randall Cove.

Anh gọi cho Romano từ trong xe. “Cậu có rỗi không, đi lòng vòng với tớ một lát?” Anh qua đón Romano và lái xe về phía nam, thẳng hướng Fredericksburg.

Romano nhìn quanh nội thất chiếc xe. “Xe gì mà như cứt!”

“Xem lại đi, một chiếc Grand Marquis đấy, có lẽ giám đốc Cục cũng chỉ đi xe như thế này là cùng.”

“Thì vẫn là xe như cứt thôi.”

“Thôi lần sau tớ sẽ cố kiếm cái nào khá hơn cho cậu vậy.” Web vừa nói vừa liếc nhìn Romano và tự hỏi Angie đã nói những gì về chồng mìnhvới bác sĩ tâm thần. Có lẽ là với một người chồng như Romano, thì cô sẽ có quá nhiều điều để mà giãi bày với chuyên gia sức khỏe tâm thần của mình.

“Dạo này ở HRT thế nào rồi?”

“Vẫn thế, vẫn thế thôi. Chẳng có vụ việc gì cần đến bọn này cả. Toàn tập luyện. Tôi chán ngấy cuộc sống này rồi, mẹ kiếp.”

“Cứ bình tĩnh, Paulie, cậu sẽ sớm được dùng đến những khẩu súng của mình thôi.”

“Có lẽ tôi phải xin gia nhập Binh đoàn Lê dương Viễn chinh Pháp hay cái gì đó đại loại mới phải.”

“Hồi trước sao không thấy cậu kêu ca gì.”

“Mọi người bàn tán nhiều về anh đấy, Web.”

Web vẫn chờ đợi sự thay đổi chủ đề trò chuyện này từ đầu, nhưng khi nó đến anh vẫn hơi bất ngờ.

“Vậy sao? Mọi người nói gì?”

“Cả tốt lẫn xấu, bằng nhau.”

“Thế là được rồi, tớ tưởng tớ phải tai tiếng hơn thế chứ.”

“Không đến mức đó. Không ai nghĩ anh là kẻ hèn nhát, Web. Bao năm qua anh đã làm quá nhiều chuyện rồ dại và liều lĩnh. Có lẽ cũng rồ dại và liều lĩnh như tôi.”

“Nhưng…?”

“Nhưng một số người cho rằng nếu anh đã run tay một lần, anh sẽ còn run tay lần nữa. Tất nhiên chuyện xảy ra với anh cũng không thể thay đổi được gì chuyện xảy ra với đội Charlie, nhưng lần khác thì rất có thể.”

Web nhìn chăm chăm về phía trước. “Tớ nghĩ chắc không có cách nào để phủ nhận lập luận đó được. Mà có khi tớ mới là người phải gia nhập Binh đoàn Lê dương Viễn chinh Pháp. Cậu có mang súng không đấy?”

“Có chính trị gia nào không nói dối không?([54])” .

Randall Cove sống ở vùng ngoại ô của Fredericksburg, Virginia, cách Washington D.C và cũng là nơi Cove hoạt động gần 50 dặm, có nghĩa là gấp đôi quy tắc hai mươi lăm dặm của Ann Lyle về khoảng cách tối thiểu giữa địa bàn hoạt động của một đặc vụ ngầm và nơi họ sống. Địa chỉ nhà Cove là một trong những thông tin mà Web đã đọc lén được từ tập hồ sơ của Bates.

Bốn mươi phút sau khi thoát khỏi bầu không khí ngột ngạt của thành phố giờ cao điểm, hai người lái xe chậm lại khi đến con phố ngoại ô yên tĩnh mà Randall Cove sống. Đó là một dãy nhà xây đồng loạt, giống nhau như đúc phần lớn là có biển cho thuê gắn phía trước. Chẳng có bà mẹ hay đứa trẻ nào đang chơi ngoài vườn, mặc dù hôm nay là một ngày thời tiết rất đẹp. Vài chiếc xe đậu thưa thớt trên đường phố. Cả khu này trông như một con phố bỏ hoang, ít nhất là cho đến khi những người đi làm ở D.C và Virginia rồng rắn kéo nhau về. Nhìn qua cũng biết là đây là khu dân cư dành cho những người làm xa nhà, chủ yếu là những người sống độc thân hoặc những cặp vợ chồng chưa con cái chịu sống ở đây đến khi có thêm thu nhập hoặc có thêm thành viên mới trong gia đình là họ sẽ chuyển đi ngay. Anh có thể hiểu tại sao Cove lại chọn sống ở một nơi như thế này. Không có những người hàng xóm tọc mạch, mọi người sống khép kín và lúc anh ta ở nhà thì hầu hết những người xung quanh đều đã đi làm. Web biết là phần lớn các đặc vụ chìm hoạt động trong mảng ma túy đều đi săn vào ban đêm.

Có một chiếc Bucar mang biển số công vụ đậu trước cửa ngôi nhà.

“Bọn trông trẻ của FBI,” Romano nhận xét. Web gật đầu và phân vân không biết phải xoay sở thế nào đây. Anh lái xe đến đỗ sát chiếc Bucar, rồi cùng với Romano bước xuống.

Tay đặc vụ trong xe hạ kính cửa sổ xuống, liếc nhìn phù hiệu FBI của Web và Romano rồi lại quay ra nhìn Web.

“Anh nổi tiếng lắm rồi, không cần phải trình phù hiệu làm gì,” người đặc vụ nói, Web không biết anh ta. Đó là một thanh niên trẻ măng, tràn đầy sức sống và triển vọng, Web cũng nhận thấy là ngay lúc này trông anh ta có vẻ chán đời khi cứ phải ngồi lý ở đây theo dõi ngôi nhà mà chẳng ai biết Randall Cove có bao giờ thèm quay về hay không. Anh chàng bước xuống xe và bắt tay hai người.

“Chris Miller, đặc vụ thuộc Văn phòng Địa bàn Richmond.” Anh ta chìa tấm phù hiệu FBI vừa rút từ túi áo ngực bên phải và giơ thẳng ra trước một cách rất ấn tượng, đúng như những gì được đào tạo trong Học viện FBI. Một khi Cục rỗi việc, họ sẽ dành thời gian bắt các nhân viên của mình phải thống nhất và đồng bộ từ những chi tiết nhỏ nhất.

Không cần nhìn Web cũng biết là Miller có thêm một lớp lót trong áo khoác để khẩu súng mà anh ta mang trong nách áo sẽ không hằn rõ. Anh cũng biết là khi anh tấp xe lại phía sau Miller và bước về phía chiếc xe của anh ta, Miller đã chăm chú theo dõi trên gương chiếu hậu và khóa chặt vào đôi mắt của Web, vì ý định của một người bao giờ cũng thể hiện rõ trên đôi mắt của anh ta.

Họ bắt tay nhau, Web liếc nhìn ngôi nhà đóng cửa im ỉm trước mặt mình. “Các cậu canh gác ờ đây 24/24 à?”

“Cứ tám tiếng một, tám tiếng một,” Miller thốt lên mệt mỏi. Anh ta xem đồng hồ. “Tôi còn ba tiếng nữa mới hết ca.”

Web tỳ người lên chiếc xe. “Chắc là chán mớ đời hả?”

“Nếu không tính trận hỗn chiến của lũ mèo hoang mà tôi được xem cách đây khoảng hai tiếng thì đúng là chán thật.” Nói đến đây anh ta ngừng lại và chăm chú nhìn Web rồi lâu, rồi buột miệng, “Các anh biết không, nhiều lúc tôi cũng nghĩ đến việc thử đăng ký vào HRT xem sao.”

“À lúc nào chúng tôi cũng cần thêm người.” Thực ra là sáu người, Web nghĩ, để tổ chức lại đội Charlie.

“Tôi nghe nói quá trình tuyển chọn rất khắc nghiệt.”

Romano khịt mũi. “Cứ lấy tất cả những gì cậu nghe thấy rồi nhân lên với mười, coi như là gần sát với thực tế.”

Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Miller, Web có thể thấy là anh chàng không tin lắm vào những gì Romano vừa nói. Nhưng dù sao cậu ta cũng còn trẻ và quá tự tin vào khả năng của mình, những người trẻ tuổi bao giờ cũng vậy.

“Các anh có tham gia vụ Waco không?” Miller hỏi. Web và Romano gật đầu. “Các anh có hạ được thằng nào đó không vậy?”

“Thực ra tôi vẫn cố trục xuất nó ra khỏi tiềm thức của mình,” Web nói. Claire Danels chắc phải tự hào lắm đây.

“Tôi có thể hiểu,” Miller nói với một vẻ hoài nghi khiến Web dám chắc là thật ra chàng đặc vụ trẻ này không hiểu ý anh.

“Cậu vào Cục được bao lâu rồi?” Romano hỏi.

“Gần hai năm.”

“Hừm, khi nào đủ ba năm công tác thì cậu có thể đăng ký tham gia HRT. Có gì cần cứ hỏi tôi. Nếu cậu thực nghiêm túc về vụ HRT, tôi có thể giúp cậu ít nhiều.” Romano chìa cho anh ta tấm danh thiếp của mình.

Trong lúc Miller nhét tấm danh thiếp vào túi áo, Romano và Web kín đáo trao cho nhau những cái nhìn thích thú.

“Chà, sẽ rất tuyệt cho mà xem,” Miller háo hức nói. “Thấy bảo là ở chỗ các anh có nhiều loại hàng khủng lắm.”

Web thừa hiểu, đối với nhiều người, động cơ đầu tiên khi vào HRT chính là các loại súng. Anh biết nhiều người tham gia FBI chỉ vì cơ hội được mang và sử dụng những loại vũ khí tối tân nhất. “Đúng thế thật. Và chúng tôi sẽ cho cậu thấy một điều là bao giờ cũng vậy, không phải dùng đến chúng là tốt nhất.”

“Đúng rồi.” Miller tỏ vẻ thất vọng, nhưng Web biết anh ta sẽ vượt qua điều đó.

Ba người đều im lặng một cách gượng gạo, cuối cùng Miller lên tiếng, “Vậy tôi có thể giúp gì cho các anh đây?' “Chúng tôi đến đây vì tôi muốn nhìn qua chỗ này một chút. Anh có biết gì về anh ta không?”

“Cũng không biết nhiều lắm. Tôi chỉ biết là hình như anh ta có dính dáng đến những gì xảy ra với các anh. Tôi muốn nói là nhiều khi thật khó hiểu tại sao con người ta lại có thể quay lưng lại như thế, với chính đồng đội của mình.”

“Ừ, đúng là khó hiểu thật.” Web nhìn quanh dãy nhà. Tất cả đều quay lưng vào khu rừng. “Hy vọng là các cậu có ai đó bao bọc phía sau.”

Miller cười ngoác miệng. “Gì đó thì đúng hơn. Chó nghiệp vụ được thả đầy ở sân sau. Xung quanh được rào kín. Kẻ nào tìm cách đột nhập theo lối đó thì hắn sẽ phải ngạc nhiên cho mà xem. Tôi đoán là làm vậy rẻ hơn nhiều so với bố trí hai đặc vụ.

“Tôi cũng đoán vậy.” Web vừa nói vừa nhìn đồng hồ. “Sắp tới giờ ăn tối rồi. Cậu ăn gì chưa?”

Miller lắc đầu. “Tôi mang theo ít bánh quy và vài thứ linh tinh, một chai nước. Dùng hết sạch rồi. Và như tôi nói, tôi vẫn còn ba tiếng nữa mới thoát nợ. Điều tệ nhất là không có chỗ mà đi đái nữa.”

“Đừng phàn nàn chuyện đó với tôi. Đã vài lần tôi phải làm nhiệm vụ giám sát mục tiêu ở vùng Trung Tây. Phải theo dõi những trang trại rộng hàng ngàn mẫu Anh bị nghi là các cơ sở phân phối ma túy, hoặc ăn chực nằm chờ ở những bãi đỗ xe ngoài trời rộng mênh mông, tìm kiếm mấy thằng vô lại chuyên cướp ngân hàng và giết người bằng những khẩu súng săn cưa nòng. Những lúc như vậy mà buồn thì hoặc là cố nhịn, hoặc là tiểu vào chai, không thì cứ đứng ngay giữa cánh đồng mà tự biên tự diễn thôi.”

“Ừ, Romano nói chêm vào. “Hồi tôi còn ở trong Delta, bọn tôi còn phải ngồi thành hàng mà đi ị ấy chứ, bất kể anh đang ở chỗ khốn kiếp nào. Mẹ kiếp, mà có phải ngồi trước mặt ai anh cũng có thể làm được chuyện đó đâu, bao giờ cũng phải là những tay chiến hữu thân thiết cả. Đã có lần tôi phải hạ một thằng đúng lúc tôi đang một tay xách quần. Mẹ kiếp, lúc đó mới thật là dở khóc dở cười.”

Nhìn Miller thì có thể biết là anh ta chưa bao giờ phải nếm trải những hoàn cảnh trớ trêu đó. Web để ý là anh chàng diện rất bảnh chọe, và hiển nhiên việc phải đi tiểu vào chai nước hoặc phải giải quyết các nhu cầu đó trước mặt người khác không hề có trong hình dung của anh ta về hình mẫu của một đặc vụ.

“Có một quán ăn nhanh Denny ở phía đầu đường ấy. Cậu đi mà ăn tối đi bọn này sẽ trông cho một lúc đến khi cậu quay lại.”

Miller tỏ vẻ băn khoăn khi phải rời bỏ vị trí canh gác.

“Không phải ngày nào cũng có những lời đề nghị thế này đâu đấy, Chris.” Web khẽ phanh vạt áo khoác qua một bên để anh ta thấy là anh cũng mang súng. “Và tôi cũng hạ vài thằng ở Waco. Đi mà ăn tối cho thoải mái vào.”

“Các anh có chắc là mọi việc sẽ ổn chứ?”

Romano đáp lại bằng cái giọng hăm dọa nhất của anh ta. “Nếu có kẻ nào đó không mời mà đến, chúng sẽ phải bước qua xác bọn này.”

Chỉ cần nghe nói vậy, Miller nhanh chóng chui vào xe và lái vọt đi.

Web chờ đến khi anh chàng đi khuất hẳn mới bước tới thùng xe của mình, lấy ra một chiếc đèn pin và một thiết bị nhỏ, quan sát xung quanh và cùng Romano bước tới trước cửa nhà Cove.

“Mẹ kiếp, thằng ngốc đó mà vào HRT thì không trụ quá hai phút,” Romano nói.

“Ai biết được, Paulie. Cậu còn qua được cơ mà?”

“Cậu định đột nhập vào đây thật à?”

“Ừ, thật chứ. Nếu cậu thấy ngại, cứ ra ngoài xe chờ tớ vậy.”

“Chẳng có nhiều thứ trên đời khiến tớ ngại đâu.”

Chỉ trong thoáng chốc là ổ khóa cửa đơn giản đã bị phá tung bằng khẩu súng phá khóa mà Web mang theo, vài giây sau anh và Romano đã ở trong nhà. Web đóng cửa lại và bật đèn pin. Anh thấy có một thiết bị báo động gắn ở cửa trước, nhưng không còn hoạt động. Hơn nữa chắc cũng chỉ có một mình Cove là biết mã điều khiển thiết bị này. Họ bước qua gian sảnh ngắn và vào phòng khách. Web rọi đèn vào mọi ngóc ngách, anh và Romano đều đặt sẵn tay trên báng súng. Ngôi nhà được bài trí rất giản dị. Web nghĩ có lẽ bình thường Cove cũng chẳng mấy khi về đây. Họ xem lướt qua tầng dưới nhưng không thấy có gì đáng chú ý, điều đó không làm Web ngạc nhiên. Cove là một con sói già, và sói già thì chẳng bao giờ để lại dấu vết của mình ở khắp mọi nơi cho người ta lần ra một cách dễ dàng. Tầng hầm vẫn còn xây dang dở, Romano và Web nhanh chóng kiểm tra vài chiếc hộp vứt chỏng chơ dưới đó. Thứ duy nhất khiến Web tần ngần xem qua một lát là bức ảnh lồng trong khung kính của Cove, vợ anh ta và lũ trẻ. Web chiếu đèn pin hơi lệch đi khỏi bức ảnh để mặt kính không phản xạ ánh sáng. Trong ảnh Cove mặc complet, không có những lọn tóc tết như anh vẫn thấy, nét mặt đẹp trai và tự tin. Nụ cười của anh ta thật dễ lây. Chỉ nhìn bức ảnh mà bất giác Web cũng nhận ra là anh đang mỉm cười. Một tay Cove ôm choàng vợ, tay kia ôm ghì cả hai đứa con.

Vợ anh ta là một phụ nữ vô cùng xinh đẹp, với mái tóc dài ngang vai, nụ cười rạng rỡ và đôi mắt long lanh có thể khiến bất kỳ người đàn ông nào cũng phải run rẩy. Cả hai đứa con đều giống mẹ nhiều hơn. Chắc chắn là khi lớn lên chúng cũng sẽ là những thanh niên rất đẹp, khi mà cha mẹ chúng đang nếm trải những năm tháng tuổi già bên nhau. Cuộc sống lẽ ra phải diễn ra theo đúng lộ trình như vậy, nhưng thực tế thì lại hoàn toàn khác, ít nhất thì đối với những người làm cái nghề bạc bẽo như Web và Cove. Bức ảnh đã làm toát lên được một Randall Cove hoàn toàn khác, một Randall Cove trên cương vị người chồng và người cha. Web chợt hình dung ra hình ảnh chàng cựu tiền đạo của giải All-America đang ném bóng cho con trai mình trong sân sau nhà; biết đâu thằng bé cũng được thừa hưởng những tố chất thể thao của cha mình. Thậm chí có khi nó còn phát triển được một sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp mà cha nó đã không có cơ hội thực hiện. Trong một bộ phim của Hollywood thì điều đó có thể xảy ra, nhưng hiếm khi trở thành sự thật trong cuộc sống trái ngang này.

“Một gia đình hạnh phúc,” Romano nhận xét.

“Hết rồi.” Web cũng chẳng buồn giải thích thêm.

Anh cất tấm hình vào trong hộp và hai người lại lên tầng. Khi ánh đèn pin của anh lia qua gần cửa kéo phía sau, có gì đó lao rầm vào tấm kính ngoài cửa. Cùng một lúc, Web và Romano rút phắt súng ra khỏi bao cho đến khi họ nghe tiếng sủa dữ dội ngoài cửa và nhận ra đó là con chó canh gác đang làm nhiệm vụ.

Hừm, ít nhất thì một con chó sẽ không bao giờ phản bội bạn; có lẽ đó là lý do tại sao chúng được coi là người bạn tốt nhất của con người, Web tự nhủ. Những con chó bao giờ cũng mang bí mật của chủ nó cho đến tận lúc chết.

Họ vội vã chạy lên tầng trên, hy vọng sẽ xong sớm trước khi Miller quay lại. Web không thích phải lừa một đồng nghiệp của mình như thế này, nhưng anh lại càng không muốn bị bắt quả tang đang lục soát trái phép nhà của một nghi phạm chính. Bates nhất định sẽ không để yên vụ này, và có lẽ Web cũng không thể trách gì được anh ta. Trên gác có hai phòng chung nhau một phòng tắm ở giữa. Căn phòng ở phía trước trông thẳng xuống phố là phòng ngủ của Cove. Chăn gối được xếp đặt gọn gàng, trong tủ đầu giường vẫn còn vài bộ quần áo. Web lấy ra một chiếc áo sơ mi và thử khoác lên người. Tay áo rộng đến nỗi ví thử Web có xỏ chân vào có lẽ cũng vừa. Nếu phải ra sân Web không hề muốn làm nhiệm vụ cản phá chàng tiền đạo này, có lẽ phải đứng chắn trước một chiếc xe tải nhẹ còn dễ dàng hơn.

Căn phòng ở phía sau ngôi nhà trống trơn. Theo thiết kế nó cũng là một phòng ngủ, nhưng có lẽ chưa bao giờ được sử dụng cho mục đích đó. Mặt trong của chiếc tủ nhỏ trong phòng không hề có vết xước nào cho thấy từng có những chiếc mắc áo trên đó, mặt thảm cũng không có những vết hằn của đồ đạc từng được kê xếp trong phòng. Web và Romano đang định đi xuống thì Web nhận ra điều gì đó. Anh nhìn kỹ cửa sổ của căn phòng phía sau này và đi qua phòng tắm nối liền để trở ra phòng ngủ phía trước và quan sát cửa sổ. Trên cửa sổ có gắn mành mành xếp bằng những lá nhôm mini để bảo đảm sự kín đáo; rất hợp lý, vì phòng này trông ra phố. Anh quay lại qua phòng tắm để vào phòng kia. Trên những cửa sổ của phòng này cũng có mành, nhưng Web nhận thấy rằng đó không phải là những tấm mành mành mini; chúng chỉ là những tấm mành liền mảnh kiểu cổ cuộn lên trên.

Căn phòng phía sau trông ra rừng, nên sự kín đáo có lẽ không hẳn là vấn đề cần tính đến. Web nhìn qua cửa sổ và quan sát hướng mặt trời đang lặn. Phòng ngủ phía sau này quay về hướng bắc, do đó nó sẽ không phải hứng ánh nắng buổi chiều rọi vào. Vậy lắp mành che làm gì nhỉ? Hơn nữa phòng này cũng chẳng có ai dùng, mành để làm gì đây? Và nếu như có người thích trang trí cửa sổ như vậy thì tại sao mỗi chỗ lại một kiểu mành mành che khác nhau như thế? Ít ra thì với những tấm mành xếp người ta còn có thể để chút ít ánh sáng lọt vào phòng mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, kín đáo. Nhưng với mành liền mảnh thì hoặc là sáng hẳn hoặc là tối hẳn, và với điều kiện ánh sáng ít ỏi hiện có cùng với việc không có đèn trần, lúc nào trông căn phòng cũng tối om om. Có gì đó thật khó hiểu, nhưng cũng có thể Cove đã thừa hưởng cách bài trí này từ người chủ cũ và cũng chẳng thèm bận tâm thay đổi.

“Điều gì khiến cậu cảnh giác thế?” Romano hỏi.

“Cách lựa chọn mành che cửa của thằng cha này.”

“Cậu quan tâm đến cái trò đàn bà này từ bao giờ vậy?”

Web phớt lờ Romano và bước lại cửa sổ. Tấm mành cửa đã được cuốn hẳn lên. Web túm sợi dây và kéo mạnh. Tấm mành tuột xuống không có gì khác thường. Anh bước sang cửa sổ khác và cũng làm như vậy. Dây thừng bị tắc, và tấm mành không tuột xuống. Trong khoảnh khắc Web đã định bỏ cuộc. Nhưng nghĩ thế nào anh lại chiếu đèn pin lên phía trên và xem xét cơ chế tuột xuống của bức mành và phát hiện ra là cái móc cài phía trên đã bị uốn cong khiến cho sợi dây sẽ không suy xuyển gì khi bị kéo. Anh bẻ lại cái móc vào vị trí cũ và kéo dây. Tấm mành tuột xuống, và Romano há hốc mồm khi nhìn thấy chiếc phong bì bị giấu kín trong tấm mành cuốn tròn rơi thẳng xuống tay Web.

Romano tròn mắt nhìn Web. “Mẹ kiếp, cậu thánh thật.”

“Đi thôi, Paulie.” Web kéo tấm rèm lên trên như cũ và hai người vội rảo bước xuống cầu thang. Romano kiểm tra khắp xung quanh để bảo đảm là phía trước nhà không có ai trước khi hai người lẻn ra. Web đóng lại cửa trước sau lưng anh.

Web và Romano trèo vào xe. Web bật đèn trên nóc xe lên và ổn định chỗ ngồi, bắt đầu kiểm tra lại những gì hai người vừa tìm thấy.

Anh mở phong bì và rút ra một tập những bài báo được cắt rời đã vàng ệch. Đó là tập hợp những bài báo trên tờ Los Angeles Time liên quan đến cái chết của gia đình một đặc vụ chìm dưới bàn tay của bọn mafia Nga. Vị quan chức thay mặt Cục đã cực lực lên án hành động dã man của bọn tội phạm và thề rằng sẽ đưa chúng ra trước công lý. Danh tính của vị quan chức này được xác định là một người có quan hệ chặt chẽ tới cuộc điều tra. Thực ra ông ta cũng chính là người chỉ đạo hoạt động của đặc vụ chìm. Danh tính của đặc vụ chìm này không được công bố mặc dù tên tuổi của những thành viên trong gia đình của anh ta bị sát hại đều đã được công khai trên báo chí. Web chỉ có thể lắc đầu khi đọc tên của vị quan chức này.

Percy Bates.

Vài phút sau Miller lái xe quay về. Anh chàng xoa xoa bụng vẻ thỏa mãn. “Cám ơn các anh đã giúp đỡ.”

“Có gì đâu,” Romano nói. “Đằng nào chúng tôi cũng ở đây rồi, giúp cậu một chút có là gì đâu.”

“Trong lúc tôi đi vắng, ở đây có chuyện gì không?”

“Không, tất cả vẫn ổn.” “Này, khoảng hai tiếng nữa là tôi hết ca trực. Các anh có thích đi làm vại bia không?”

“Chúng tôi . . .” Web vụt liếc mắt qua phía sau Miller vì ánh nắng mặt trời đang tắt dần vừa làm lóe lên vật gì đó lấp lánh từ xa.

“Web, cẩn thận,” Romano hét lên, vì rõ ràng là anh ta cũng đã nhìn thấy vật đó.

Web chồm người về trước mặt Miller, túm lấy cà vạt của chàng trai để kéo anh ta ngã nhào xuống. Nhưng phát đạn đã găm thẳng vào giữa lưng Miller và xuyên qua ngực anh ta, rít qua ngay trước mặt Web và bắn vỡ tung tấm kính trước của xe. Romano đã kịp lao ra khỏi xe và nấp sau một chiếc bánh xe. Anh ta chĩa khẩu súng lên qua nắp capô, nhưng chưa bắn.

“Web, ra khỏi xe ngay.” Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi Web vẫn nắm chặt lấy cà vạt của Miller ngay cả khi chàng đặc vụ trẻ đổ dần xuống bên cạnh cửa xe. Điều cuối cùng Web nhìn thấy là đôi mắt của người đã chết trừng trừng nhìn anh, rồi Miller ngã lăn xuống đất.

“Web, ra khỏi xe ngay, không chính tay tôi sẽ bắn cậu đấy.”

Web thụp xuống đúng lúc một phát đạn khác bắn vỡ nát tấm kính phía sau của chiếc Bucar. Web trườn ra khỏi xe và nấp vào phía sau một bánh xe. Tại Học viện, người ta vẫn dạy bạn rằng nơi bạn cần chiếm lĩnh khi bị tấn công chính là vị trí sau bánh xe vì hiếm có loại vũ khí nào có thể xuyên thủng ngần ấy lớp kim loại.

“Cậu có thấy gì không?” Romano hỏi.

“Chỉ thấy vệt phản quang đầu tiên thôi. Từ kính ngắm phát ra. Từ một vị trí ở sâu trong rừng, cách khoảng 900m, giữa hai khối nhà. Miller chết rồi.”

“Chó chết thật. Tớ đoán không nhầm thì đó là một khẩu bắn tỉa gắn ống ngắm Litton cỡ 0.308 đầu bọc thép.”

“Tuyệt lắm, đúng loại chúng ta vẫn dùng nhé,” Web trả lời .

“Cách duy nhất là phải cúi đầu xuống cho thấp thôi.”

“Ồ vâng, cám ơn cậu đã nhắc, Web. Chứ không tôi đang sắp nhảy dựng lên mà khóc gọi mẹ đây này.”

“Chúng ta không thể bắn trả được, mục tiêu nằm quá xa, ngoài tầm bắn của súng ngắn.”

“Tại sao cậu không nói điều gì mà tôi chưa biết ấy? Trong thùng xe của cậu có hàng gì khủng một chút không?”

“Nếu mà là xe tôi thì còn nói làm gì.” Một phát đạn khác bắn trúng chiếc xe và hai người lại hụp đầu xuống.

Thêm phát nữa bắn tới ngay lập tức và bánh xe trước bên trái xẹp xuống. Phát tiếp sau đó thì khói từ bộ tản nhiệt bắt đầu bốc lên.

“Này, cậu có nghĩ là phải có ai đó đang gọi cho cảnh sát rồi chứ nhỉ?” Romano phàn nàn. “Mẹ kiếp, chẳng lẽ ngày nào ở vùng ngoại ô cũng có bọn bắn tỉa thế này à?”

“Điện thoại của tớ ở trong xe.”

“Mẹ kiếp, thế thì đừng có liều. Thằng ngoài kia có vẻ là dân chuyên nghiệp đấy.”

Họ chờ thêm năm phút nữa, không còn phát đạn nào tiếp theo, sau đó tiếng còi xe cảnh sát bắt đầu vẳng đến từ phía xa. Web khẽ hé đầu lên khỏi mép thân xe và nhìn qua cửa kính. Anh không nhìn thấy vệt phản quang nào trong rừng nữa.

Cuối cùng thì cảnh sát cũng xuất hiện, Web và Romano chìa phù hiệu của mình ra và ra hiệu cho các nhân viên cảnh sát nằm xuống. Sau khoảng năm phút nữa, Web trườn ra chỗ chiếc xe tuần tra và giải thích tình hình. Không còn phát đạn nào bắn ra và rồi có lẽ là toàn bộ lực lượng cảnh sát trong hạt đều có mặt, với cả gần chục cảnh sát tuần tra của bang.

Họ lùng sục khắp khu rừng nhưng không phát hiện được bóng người nào mặc dù con đường mòn dẫn ra đường chính từ phía bên kia lô đất nhà Cove vẫn còn nguyên vết bánh xe mới tinh. Họ còn tìm thấy vài vỏ đạn súng trường vung vãi trên mặt đất. Romano đã nói đúng: đạn cỡ 0.308 đầu bọc thép.

Chris Miller được chính thức xác nhận là đã chết, chiếc xe cấp cứu được gọi tới và đưa xác anh ta đi. Web chợt nhận ra chiếc nhẫn cưới trên tay chàng trai đúng lúc các nhân viên y tế kéo khóa để đóng chiếc túi xác lại. Vậy là tối nay bà Miller sẽ phải nhận chuyến viếng thăm khủng khiếp của Cục. Anh chán nản lắc đầu và quay sang nhìn Romano.

“Tớ thực sự chán ngấy cuộc sống này lắm rồi.

CHƯƠNG 27

Web và Romano lần lượt báo cáo lại sự việc, mỗi người ba lần tất cả. Và tất nhiên là Bates đã đến xạc Web một trận tóe lửa vì đã tự tiện tiến hành điều tra trái phép.

“Tôi đã cảnh báo là chúng đang lần theo anh ngay từ đầu. Web. Vậy mà anh đúng là cái đồ chó đẻ ương bướng, anh có chịu nghe đâu cơ chứ.” Bates rủa xả.

“Này, bình tĩnh đi nào,” Romano can.

“Tôi có biết anh không nhỉ?” Bates nói và trừng trừng nhìn thẳng vào mặt Romano.

“Paul Romano, đặc nhiệm đột kích Đội Hotel.” Anh vừa nói vừa chìa tay ra.

Bates làm như không nhìn thấy cử chỉ lịch sự của Romano và quay sang Web. “Anh có biết là Buck Winters đang tìm kiếm bất kỳ cớ nào có thể để nện anh ra bã không?” Anh liếc nhìn Romano: và để chính thức xóa bỏ toàn bộ lực lượng HRT? Vậy mà anh lại để chuyện này xảy ra à?”

“Tất cả những gì tôi đang làm là tìm ra chuyện gì đã xảy ra với các đồng đội của mình mà thôi,” Web vặc lại. “Và chắc chắn là anh cũng làm như vậy, nếu anh mà là tôi.”

“Đừng có giở cái cớ chó chết đó ra với tôi làm gì.” Bates rống lên và đột nhiên đứng sững lại vì Web đang chìa ra trước mặt anh ta tập báo cắt.

“Tôi tìm thấy chúng trong nhà anh ta. Bates chậm rãi chìa tay ra cầm lấy tập báo.

“Anh muốn nói về chuyện này chứ?” Web hỏi.

Bates dẫn hai người ra khỏi hiện trường, tới một chỗ yên tĩnh. Anh liếc nhìn Romano rồi lại quay sang Web.

“Không sao đâu,” Web nói, cậu ấy cũng được phép tiếp cận tất cả những thông tin thuộc loại tuyệt mật.”

“Thậm chí còn tham gia hoạt động bảo vệ yếu nhân, kể cả một lần bảo vệ Arafat.” Romano lạnh lùng nói. “Nếu nói về mục tiêu thì tay đó mới là một mục tiêu bị săn đuổi ráo riết.”

“Anh không hề kể là anh đang làm việc cùng với Cove khi gia đình anh ta bị giết,” Web nói.

“Tôi chẳng nợ gì anh việc liên quan đến tiểu sử của mình cả,” Bates cáu kỉnh.

“Vậy thì có lẽ anh nợ tôi một lời giải thích.”

Bates gấp tập báo cắt lại và nhét vào túi áo. “Thực sự thì đó chẳng phải lỗi của ai hết. Cove không phạm sai sót nào và chúng tôi cũng vậy. Tất cả chỉ là do không may và bọn Nga đã tình cờ phát hiện ra. Tôi ước tôi có thể thay đổi những gì đã xảy ra, nhưng rõ ràng là không thể. Randy Cove là một đặc vụ chìm siêu hạng.

“Vậy là Cove không có lý do gì để trả thù Cục?”

“Không. Tôi đã nói chuyện với anh ta. Ngay sau chuyện xảy ra với đội Charlie, anh ta cũng suýt mất mạng. Anh ta cho biết chính mắt anh ta đã nhìn thấy tòa nhà, với đầy đủ những thứ đáng lẽ phải có mặt ở đó khi chúng ta tấn công.”

“Vậy anh ta khẳng định là anh ta bị cài nên đã cung cấp cho chúng ta những tin tình báo sai lệch. Hồ sơ sổ sách thì bị đưa ra. súng máy được đưa vào?” Web nói.

“Đại loại như vậy. Tất cả diễn ra rất nhanh. Cove cho biết anh ta đã ở trong tòa nhà một thời gian ngắn trước khi các anh tấn công. Anh ta nghĩ anh ta đã xâm nhập được vào một đường dây ma túy khổng lồ.

“Perce, tôi không hề có ý định chỉ bảo anh phải làm công việc của mình như thế nào, nhưng có lẽ khôn ngoan nhất lúc này là đưa anh ta vào Cục. Một khi vỏ bọc của anh ta đã bị lộ, có vẻ như anh ta đang cần sự bảo vệ tối đa.”

“Cove có thể tự chăm lo cho bản thân. Hơn nữa nếu ở ngoài anh ta sẽ làm được nhiều việc hơn. Rất có thể anh ta đang lần ra một đường dây cung cấp ma túy cực lớn.”

“Tôi chẳng thèm quan tâm đến chuyện đó. Tất cả những gì tôi muốn là tìm ra thằng nào đã cài chúng tôi.”

“Thì cũng vậy thôi, Web, rất có thể cả hai đều là một.”

“Hừm, nhưng như thế có vẻ không hợp lý lắm. Tại sao một đường đây cung cấp ma túy lại muốn Cục lùng theo chúng để trả thù làm gì?”

“Lúc nào cũng có thể có rất nhiều lý do khác nhau. Để trả thù. hoặc để thống nhất các băng đảng phân phối. Đó là chưa kể việc có thể chúng cũng giăng bẫy để một đối thủ cạnh tranh nào đó phải giơ đầu chịu báng và giảm bớt sự cạnh tranh.”

“Anh cứ để tôi nã đạn vào bọn này cho xong,” Romano chen vào. Thế nào tôi cũng giảm bớt được cái gì đó đáng kể, ít nhất thì cũng là tuổi thọ của chúng.”

“Vậy tôi đoán là thời gian gần đây anh ta không còn liên lạc thường xuyên nữa?” Web hỏi.

“Làm sao anh biết?” Bates nói.

“Nếu quả thật Cove tinh ranh đến thế, anh ta sẽ biết là mọi người đều nghĩ anh ta có dính dáng đến vụ này. Vậy là anh ta sẽ ẩn mình thật kỹ, không tin bất kỳ ai và bắt đầu tự mình điều tra. Ít nhất thì cũng cố tìm ra sự thật trước khi có kẻ lần ra anh ta.”

“Suy luận giỏi đấy.”

Web nói, “Thật ra, tôi cũng chỉ suy ra từ kinh nghiệm của bản thân mình thôi.”

“Nhân nói về kinh nghiệm, cuối cùng tôi cũng nhận được điện thoại của Bill Canfield. Tôi có cuộc hẹn tại trang trại của ông ta vào sáng mai. Anh có muốn đi cùng không?”

“Tôi đã nói là tôi sẽ đi rồi mà. Cậu có muốn đi cùng không, Paulie?”

Bates chăm chú nhìn anh ta. “Anh có phải là Paul Romano từng tham gia Delta và sau đó là lực lượng SWAT của New York không?”

“Chỉ có một Paul Romano thôi.” Romano trả lời, hoàn toàn không có vẻ gì là tự mãn.

“Anh đã bảo vệ cả Arafat nữa chứ?”

“Này, một khi anh muốn cử những người giỏi nhất…”

“Tốt, vậy là coi như anh vừa nhận một nhiệm vụ đột xuất. Tôi sẽ nói với chỉ huy của anh.”

Romano ngỡ ngàng. “Nhận nhiệm vụ gì cơ?”

“Làm những gì tôi bảo anh làm. Gặp lại các anh vào ngày mai nhé.

*

Web thả Romano xuống trước cửa nhà anh ta.

Trước khi bước ra khỏi xe, Romano nói, “Này Web, cậu có nghĩ là nhiệm vụ mới này sẽ giúp chúng ta kiếm được thêm chút đỉnh không? Angie đang tính đến chuyện mua chiếc máy giặt mới và xây nốt tầng hầm.”

“Tớ mà là cậu, tớ sẽ không đả động gì chuyện này với Angie cả. Nếu được trả thì coi như cậu vớ bẫm rồi.”

Romano ngán ngẩm lắc đầu và bước xuống, “Đúng là câu chuyện đời tôi.”

Web quay xe ra đường và vừa lái xe anh vừa suy nghĩ mông lung. Anh cảm thấy đau lòng về chuyện của Chris Miller và không hề ghen tỵ với người nào tối nay phải đến thông báo tin xấu này với vợ anh ta. Web chỉ hy vọng là Miller chưa có con, nhưng nhìn dáng vẻ anh chàng thì nhiều khả năng là anh ta đã có con cái êm ấm rồi. Mẹ kiếp thế giới này thật là khốn nạn. Cuối cùng anh quyết định làm thêm một chút công việc điều tra cổ điển.

Web lái ra vành đai Capital Beltway để quay lại đường cao tốc liên bang 395, hướng về phía bắc và tăng tốc chiếc Mercury Bates vừa kiếm cho anh, băng qua cầu Phố Mười bốn nơi cách đây vài năm một chiếc máy bay cất cánh từ Sân bay Quốc gia đã lao xuống vì bão tuyết. Anh lái xe thẳng về một khu vực gần như bị lãng quên của thành phố, nơi hiếm có công dân lương thiện nào, ngoài những người vô gia cư hoặc những người mang súng và phù hiệu cảnh sát, dám lai vãng đến, nhất là vào lúc đêm hôm khuya khoắt như thế này.

Toàn bộ khung cảnh đối với Web thật quen thuộc. Đó chính là tuyến đường mà đội của anh đã đi qua trong đêm cuối cùng của họ trên đời này.

Web biết chiếc xe và bảng số công vụ của nó chẳng khác nào đang hét toáng lên “Cảnh sát liên bang đây!” nhưng anh cũng chẳng quan tâm.

Suốt một tiếng đồng hồ anh lượn lờ dọc khắp các con phố, những ngõ hẻm, quan sát mỗi lỗ thủng trên tường mà anh nhìn thấy. Vài lần anh lướt qua những chiếc xe tuần tra của cảnh sát đang vòng vèo qua các hang cùng ngõ hẻm, tìm kiếm những dấu hiệu khả nghi, kiểu như một con mèo đang rình mò ngoài lồng chim: cái ta muốn có thể ở bất kỳ đâu đó quanh đây.

Đúng lúc Web định bỏ cuộc thì anh chợt thoáng thấy một vệt gì đó màu đỏ bên dưới ngọn đèn đường. Anh cho xe chạy chậm lại, rút chiếc ống nhòm thân thiết của mình ra khỏi túi và quan sát kỹ hơn. Rất có thể là chẳng có gì, vì quanh khu này thiếu gì bọn choai choai quấn khăn trên đầu và phần lớn là khăn màu đỏ. Đỏ như máu; ngay cả những người ở khu vực ổ chuột này cũng có tính mục đích và máu hài hước trong công việc của mình. Nhưng sau vài giây quan sát, mạch của Web đã đập rộn ràng. Cái thằng anh đang nhìn thậm chí còn mặc đúng bộ quần áo hôm đó. Một chiếc áo ba lỗ bó sát, đôi vai rộng bè bè, và chiếc quần soóc trễ xuống hở cả khe mông. Đó chính là nhà kinh doanh trẻ, chuyên bán lẻ côcain và các loại ma túy phi pháp khác mà đội Charlie của anh đã gặp trong con hẻm.

Web tắt máy, để xe tự trôi một lúc trước khi dừng hẳn và lặng lẽ thoát ra ngoài. Anh định mang theo khẩu súng trường nhưng lại nghĩ bụng chỉ cần khẩu súng ngắn cũng đủ. Nếu phải túm cổ thằng nhóc mà một tay cầm súng trường thì kể ra cũng vướng víu. Anh đặt tay lên báng súng và chầm chậm bước dọc con phố, cố gắng ẩn mình vào những khoảng tối sát lề đường. Có một cây đèn đường nằm ngay giữa đoạn đường anh tiếp cận nơi thằng nhóc đứng. Và đúng lúc Web bước chân vào quầng sáng, chẳng hiểu từ đâu đó bỗng cất lên một tiếng hét đánh động. Thằng nhóc vụt ngẩng đầu lên và trông thấy anh: Web rủa thầm và rảo chân lao bổ về phía nó.

“Mày còn muốn mua súng của tao không?” Web vừa lao đến vừa hét lên.

Thằng nhóc chạy tuột vào trong hẻm. Web biết là anh không nên đuổi theo, cho dù có được vũ trang tận răng chăng nữa. Vì vậy anh hậm hực dừng lại. Nếu vào trong hẻm tối mà không được yểm trợ, tốt nhất là anh đặt mua quan tài cho mình là vừa. Đó quả là một quyết định khó khăn vì lúc này Web không mong gì hơn là tóm được thằng Khăn Sặc Sỡ. Theo suy luận của Web thì rất có thể chính Khăn Sặc Sỡ là người đã bấm nút điều khiển từ xa để kích hoạt thiết bị lade khai hỏa những khẩu súng máy làm những người bạn thân nhất của anh thiệt mạng. Cuối cùng anh cũng phải đành tự an ủi. Để hôm khác vậy, anh bạn. Lần sau thì đừng hòng có chuyện tao sẽ dừng chân đâu, chừng nào tay tao còn chưa kẹp chặt vào cổ mày.

Web quay người bước về xe. Và đúng lúc đó anh nhìn thấy chúng đang bước đến; hoàn toàn không có vẻ gì là vội vàng. Có lẽ phải đến hơn mười thằng. Ngoài những cái bóng đổ dài của chúng in trên tường gạch, Web còn nhìn thấy cả cơ man nào là vũ khí, cả hàng “nóng” lẫn hàng “lạnh” mà chúng cầm trên tay. Lúc này đường quay về xe của anh đã bị chặn mất, Web lao vọt vào trong con hẻm và chạy thục mạng.

Anh nghe thấy tiếng bọn người đằng sau cũng vội vàng chạy theo.

“Mẹ kiếp.” Anh rủa thầm. Chẳng lẽ lại là một vụ phục kích?

Quầng sáng từ bóng đèn đường nhanh chóng bị bỏ lại phía sau. Web chỉ còn có thể dựa vào sự hiện diện của vài tia sáng lờ nhờ từ trên trời hắt xuống và tiếng bước chân chạy rầm rập phía trước và sau lưng anh. Chỉ tiếc là giữa một mê cung kín cổng cao tường này thì không thể trông đợi vào những tiếng vọng được. Web hết rẽ phải lại rẽ trái cho đến khi anh hoàn toàn mất phương hướng. Anh rẽ vào một góc hẻm cuối cùng và dừng lại. Anh hình dung là một nửa nhóm truy đuổi có lẽ đã bủa kín phía trước để chặn đường thoát của anh, mặc dù anh chỉ biết chắc một điều là từ nãy đến giờ anh vẫn chỉ chạy lòng vòng. Web nghĩ là anh có thế nghe thấy tiếng chân bọn chúng đang đến gần, nhưng anh không thể biết là từ hướng nào. Anh chui tọt vào một con hẻm khác và dừng lại. Nghe ngóng. Không một tiếng động. Mẹ kiếp. anh ghét sự im lặng này làm sao. Im lặng có nghĩa là chúng đang rình rập. Anh quan sát bên trái, bên phải và phía trên đầu. Phía trên. Phía trên có vẻ ổn đây. Anh trèo lên một cầu thang thoát hiểm của tòa nhà gần đó và đứng im bất động. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần. Anh sớm biết là tại sao. Có hai thằng xuất hiện phía góc hẻm. Hai thằng to cao, lực lưỡng, đầu cạo trọc mặc áo da, quần bò tụt rộng thùng thình, cùng những đôi giày to tổ chảng. Chắc chúng đang ngứa ngáy chỉ muốn nện thẳng những chiếc gót giầy khủng bố đó vào giữa mặt Web cho hả giận.

Chúng cũng dừng lại và nhìn ngó khắp xung quanh. Chúng đứng ngay dưới chân anh. Cũng giống như Web trước đó. chúng hết nhìn trái lại nhìn phải. Anh đoán là một vài giây nữa là - như anh đã làm - chúng sẽ ngước lên trên. Vì vậy anh đu người xuống, mỗi chân đạp thẳng vào đầu một thằng làm cả hai tên bị xô cắm đầu vào tường gạch. Web tiếp đất trong tư thế không thật thuận lợi, hai mắt cá kêu răng rắc như sắp trật khớp đến nơi. Hai thằng ma cô chửi rủa ầm ĩ và lồm cồm bò đậy. Web nhanh như chớp gõ thẳng báng súng vào gáy chúng và cả hai thằng cùng đổ gục xuống, chết giấc. Anh móc lấy súng của hai thằng ném vào trong thùng rác gần đó và lại bỏ chạy.

Web vẫn nghe thấy tiếng bước chân rầm rập và thỉnh thoảng lại có tiếng súng nổ. Anh cũng không biết chắc đó là những kẻ đang truy đuổi anh hay đơn giản chỉ là sự thanh toán nhau giữa các băng đảng vốn xảy ra như cơm bữa ở khu vực này. Anh vừa chạy qua một góc hẻm nữa thì lãnh trọn một cú đạp như trời giáng vào giữa bụng. Đòn đánh làm Web ngã lăn ra đất, và trong khi anh còn loạng choạng thì khẩu súng đã rơi đâu mất. Anh lăn người và đứng bật dậy, thủ thế.

Thằng Khăn Sặc Sỡ đang đứng trước mặt anh, tay nó đang vung một con dao to gần bằng người mình. Nó đang nhăn nhở cái điệu cười khả ố hệt như cái đêm nó nhìn thấy Web và đội Charlie vào con hẻm.

Web nhận thấy là thằng nhóc vung dao rất có nghề. Có lẽ nó đã trái qua hàng trăm trận chiến sống còn bằng dao. Nó thấp hơn Web, nhưng lại cơ bắp hơn, và có lẽ là nhanh nhẹn hơn. Đây sẽ là một trận đối đầu kinh diện giữa tuổi trẻ và kinh nghiệm đây.

“Mẹ kiếp, nhào vào đây mà nhận ít bài học đi, thằng nhãi,” Web vừa làu bàu vừa sẵn sàng thủ thế.

Thằng nhóc lao thẳng vào Web, vung dao loang loáng rất nhanh để Web không kịp nhìn thấy đường dao và né tránh. Nhưng Web chẳng việc gì phải tránh, anh hụp người xuống và đá quét vào giữa hai chân thằng Khăn Sặc Sỡ làm nó ngã dập mặt xuống đất. Thằng bé bật dậy rất nhanh vừa vặn để lĩnh trọn một chiếc giầy cỡ 12 của Web vào giữa mặt. Nó còn đang choáng váng thì Web đã lao vào. Anh bẻ quặt cánh tay cầm dao xuống đất, trước khi bẻ gãy bàn tay cầm dao và cả cẳng tay dưới của nó. Thằng nhóc bàng hoàng nhìn con dao của nó bị bắn văng qua một bên, trước mặt nó chỉ còn cánh tay gãy rời lủng lẳng. Nó rú lên vì đau đớn và bật dậy chạy trối chết vào trong hẻm, bỏ lại đằng sau cái thái độ câng câng cùng con dao của mình trên vũng máu. Web lắc lắc đầu cho đỡ choáng và loạng choạng cúi xuống tìm khẩu súng cửa mình. Nhưng rốt cuộc là anh không bao giờ tìm được.

Anh chỉ có thể đứng lặng im nhìn bọn người kia xuất hiện từ khắp mọi ngõ ngách xung quanh, chẹn mất đường giữa anh và khẩu súng.

Thằng nào cũng mang súng săn cưa nòng và súng ngắn. Web có thể cảm nhận được sự hả hê của chúng khi thấy anh trong tình cảnh như thế này. Một mình đối mặt với mười thằng. Web xác định anh chẳng còn gì để mất nên cố lấy dáng vẻ thật bình tĩnh và khinh khỉnh. Anh chìa tấm phù hiệu FBI của mình ra. “Tao có thể tóm tất cả bọn mày vì tội sử dụng vũ khí trái phép. Nhưng cho chúng mày biết là hôm nay tao cảm thấy rất hào phóng và không muốn nhọc sức với những công việc giấy tờ, vì vậy bọn mà nên cuốn xéo cho nhanh, việc thằng nào thằng ấy làm, chúng ta sẽ coi như chưa có chuyện gì xảy ra, ít nhất là trong lúc này. Nhưng đừng có bao giờ để tao nhìn thấy chúng mày nữa.” Chúng phản ứng bằng cách lừ lừ tiến gần lại. Phản ứng của Web là từ từ lùi dần cho đến khi anh cảm thấy bức tường chặn sau lưng mình. Việc tiếp tục lùi cho đến khi thoát hẳn có lẽ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của anh. Rồi đột nhiên hai thằng đứng ngay trước mặt anh bị gạt bắn sang hai bên trong chớp mắt như thể trọng lực dưới chân chúng bất ngờ biến mất. Và giữa khoảng trống mới xuất hiện đó, Web nhận ra anh đang đứng đối diện với một người đàn ông có thân hộ pháp nhất mà anh từng nhìn thấy bên ngoài một trận bóng bầu dục chuyên nghiệp. Gã khổng lồ này cao đến hơn hai mét và nếu gã không nặng đến gần hai tạ thì Web cứ gọi là đi đầu xuống đất. Anh chợt nhận ra kẻ trước mặt mình lúc này chính là Big F: huyền thoại của đường phố.

Tên trùm khổng lồ mặc một chiếc sơ mi lụa màu đỏ tía ngắn tay rộng thùng thình mà Web có thể dùng làm chăn cũng không ngoa. Chiếc quần bằng vải lanh màu be nhạt phủ trên đôi chân dài lêu nghêu, nhưng trông chúng có vẻ rất ngắn so với thực tế, vì chân nào chân ấy cũng to như cột nhà, nung núc những thịt là thịt. Hắn dận đôi giày bằng da lộn, không đi tất, cúc áo sơ mi mở phanh đến tận rốn, mặc dù nhiệt độ ngoài trời lúc này chỉ khoảng mười độ C, thỉnh thoảng lại có những luồng gió lạnh buốt thổi qua làm ai cũng phải rùng mình, sởn gai ốc. Cái đầu to bự của hắn phủ một lớp tóc mỏng xoăn tít. Những chi tiết trên khuôn mặt của Big F cũng rất hài hòa với vóc người hộ pháp của hắn. một cái mũi sư tử to đùng, đôi tai cúp lại thành hình nón, hai dái tai đeo chi chít những hạt kim cương nhỏ xíu đang lấp lánh rất ấn tượng trong con hẻm nhập nhoạng tối.

Hắn không phí chút thời gian nào mà lao thẳng vào Web. Khi Big F vừa vươn tay ra để chộp lấy anh, Web tống cho hắn một cú móc vào bụng dưới đủ để hạ gục bất kỳ nhà vô địch quyền anh hạng nặng nào. .Nhưng tất cả những gì anh nhận được từ Big F chỉ là một tiếng làu bàu. Hắn nhấc bổng Web lên, hơi lùi lại, như một vận động viên đẩy tạ lấy đà rồi ném văng anh chàng Web nặng hơn 90kg của chúng ta bắn ra đến hơn 3m. Bọn đàn em của hắn đồng thanh hò reo, huýt sáo, chửi rủa ầm ĩ như điên dại khi chứng kiến đại ca của mình đánh te tua một thằng đặc vụ liên bang đáng ghét.

Web còn chưa kịp gượng dậy thì gã khổng lồ đã lại lao vào anh. Lần này hắn chộp lấy thắt lưng của anh, nhấc bổng Web lên rồi quặng anh vào giữa một đống thùng rác xếp sát chân tường. Web bật dậy rất nhanh, há hốc miệng cố hớp lấy không khí, đầu óc quay cuồng. Nhưng trước khi Big F kịp chạm vào anh lần nữa Web lao thẳng người về trước, hạ thấp vai và húc cả cơ thể rắn như đá tảng của anh vào bụng đối thủ. Có lẽ cảm giác của Web khi lao người vào một chiếc xe bán tải cũng chỉ đến thế là cùng. Anh đổ gục xuống mặt hẻm trải nhựa đường trong khi Big F không hề suy xuyển một phân nào. Vai anh như trật rời ra khỏi khớp. Web lồm cồm đứng dậy, làm ra vẻ đang choáng váng và mụ mẫm vì đau đớn, rồi đột nhiên anh tung người phóng thẳng một cú đá vòng cầu nện vào giữa thái dương Big F. Những vệt máu bắt đầu rỉ ra trên tai hắn, và Web hài lòng nhận thấy anh đã đá rụng phần lớn số kim cương đính trên tai Big F để lại những vết máu me trông khá thảm hại.

Nhưng Big F vẫn đứng sừng sững, như một trong những tòa nhà gạch cũ kỹ bao quanh đó. Với tuyệt chiêu đá vòng cầu sở trường đó. Web đã từng đá bay cả những bao cát nặng gần tạ. Sao lại thế nhỉ? Thực ra Web cũng chẳng có thời gian mà tự hỏi sao lại thế vì Big F, quá nhanh so với một người có vóc dáng khổng lồ như hắn đã kịp tống cả nắm đấm to như búa tạ vào đầu Web làm cả bầu trời trước mặt anh như nổ tung và gần như ngất hẳn. Vài giây sau, Big F vừa xách vừa kéo lết Web dọc hẻm ra ngoài phố, giầy và áo khoác của anh rơi đâu mất trên đường. Quần của Web cũng rách toạc, chân và tay bầm dập và tóe máu khi bị lôi xềnh xệch trên mặt đường trải nhựa.

Rõ ràng là chỉ để cho vui vì Web hoàn toàn không còn khả năng chống cự, Big F thẳng tay động đầu Web vào một chiếc thùng rác lớn.

Lần này thì Web ngất hẳn, anh hoàn toàn không biết gì cho đến khi nhận ra mình vừa bị ném lên một cái gì đó mềm mềm. Anh nặng nhọc hé mắt và nhận ra mình đang nằm trong chiếc Mercury. Web hơi giật mình khi Big F đóng rầm cửa lại và bỏ đi. Gã khổng lồ không hề hé răng lấy một lời từ đầu đến giờ, vậy mà cả đời Web chưa bao giờ cảm thấy nhục nhã như lúc này. Thảo nào bà cụ già và Jerome lại sợ hãi đến thế. Mẹ kiếp.

Web từ từ gượng dậy và sờ nắn khắp người xem có gãy cái xương nào không. Anh vừa xòe bàn tay phải thì một mảnh giấy rơi ra. Web lờ đờ nhìn những con số và câu chữ nguệch ngoạc viết trên đó, bàng hoàng nhìn chỗ Big F vừa đứng nhưng không còn thấy hắn đâu nữa. Anh nhét mảnh giấy vào túi quần, với tay vặn chìa khóa khởi động chiếc Mercury và lùi xe đến cháy khét lẹt cả bánh sau để nhanh nhanh chóng chóng thoát khỏi nơi đó, vứt lại đằng sau áo khoác, súng, giày và cả một khoanh to đùng của lòng tự tin tưởng chừng như không thể nào lay chuyên nổi trước kia.

CHƯƠNG 28

Trời vừa hửng sáng và Web đang ngâm mình trong bồn tắm của một nhà nghỉ nhếch nhác ven đường. Toàn thân anh đau ê ẩm. Những vết xước trên tay và chân anh bỏng rát như bị một chiếc bàn ủi nóng rực áp lên. Trên trán anh là một cục u to đùng, dấu vết của sự va chạm giữa hộp sọ của anh với thùng rác, và cả một vết xước khá sâu dọc theo phần mặt lành lặn của anh, còn dính nguyên cả những vết nhựa đường trong đó. Khỉ thật, trông mình mới đẹp lão làm sao. Có lẽ sau khi rời Cục anh phải thử làm người mẫu nam mới được.

Chiếc điện thoại di động của anh được đặt cạnh bồn tắm bỗng rung lên rồi đổ chuông, Web với tay cầm lấy máy. Đó là Bates đang gọi đến.

“Tôi sẽ qua đón anh và anh bạn của anh sau một giờ nữa. Tại nhà của tay Romano đó nhé.” Web không kìm nổi một tiếng rên.

“Sao thế?” Bates hỏi.

“Đêm qua tôi thức khuya. Đầu óc còn hơi chếnh choáng một chút.”

“Ồ thế à. Xin lỗi nhé Web. Đúng một tiếng nữa đấy. Nếu anh chưa có mặt ở đó thì đi tìm hành tinh khác mà sống. Bates gác máy.

Đúng một tiếng sau Bates đón Web và Romano, rồi ba người lái thẳng ra vùng nông thôn của Virginia.

Bates chăm chú nhìn những vết thương còn mới tinh của Web.

“Chuyện quái gì xảy ra với anh vậy?” Bates hỏi. “Tốt nhất là anh đừng có làm hỏng thêm chiếc xe nữa đấy, sau chiếc Mercury này sẽ chỉ còn xe đạp cho anh thôi.” Bates liếc nhìn chiếc xe của Web đang đậu bên lề đường.

“Tôi trượt chân lúc ra khỏi bồn tắm.”

“Anh bị bầm dập đến kia chỉ vì ra khỏi bồn tắm thôi sao?” Rõ ràng là Bates không đời nào lại tin lời giải thích qua loa của Web.

“Anh có biết người ta vẫn bảo gì không, Perce, phần lớn các vụ tai nạn đều xảy ra tại nhà.”

Bates chằm chằm nhìn anh hồi lâu rồi quyết định không truy vấn thêm làm gì. Anh ta còn rất nhiều việc khác phải quan tâm.

Sau một giờ lái xe họ rẽ ra khỏi đường cao tốc và đi thêm nhiều dặm trên những con đường ngoằn ngoèo với những đoạn cua tay áo giữa những khu rừng rậm rạp. Họ đi quá đoạn rẽ đâu đó vì cuối cùng xe đi vào một con đường đất chỉ rộng bằng một thân xe. Web nhìn thấy một cánh cổng sắt xiêu vẹo và tấm biển gắn bên cạnh với dòng chữ, TRANG TRẠI EAST WINDS, CẤM SĂN BN, CU CÁ HAY ĐỘT NHẬP TRÁI PHÉP. AI VI PHẠM SẼ PHẢI CHỊU SỰ TRỪNG TRỊ NGHIÊM KHẮC NHẤT CỦA LUẬT PHÁP.

Họ đều biết East Winds là tên trang trại của gia đình Canfield. Web kết luận rằng chắc chắn ba người đã vào nhầm cổng phía sau của trang trại. Anh đọc tấm biển gắn cạnh cổng và không khỏi mỉm cười. Chà. mẹ kiếp, đúng là dân làm ăn; anh sợ phát khiếp mất. Anh quay sang Romano. Anh chàng này cũng đang mỉm cười vì có lẽ anh ta cũng đang nghĩ giống hệt Web. Hàng rào ở phía này rất thấp, chỉ là những thanh gỗ dài đóng trên cọc. Đúng là một nơi đồng không mông quạnh.

“Bất kỳ kẻ nào có ý đồ đều có thể dễ dàng nhảy qua hàng rào này trong nháy mắt, vào thẳng nhà chính, giết cả nhà Canfield và bất kỳ ai khác trong nhà. nhởn nhơ uống rượu, xem ti vi và có lẽ phải đến mùa xuân năm sau mới có người phát hiện ra,” Romano phát biểu với vẻ am tường.

“Ừ, hơn nữa giết người cũng không phải là một trong những tội được liệt kê trên tấm biển kia,' Web nói thêm. “Tôi đoán là thủ phạm sẽ không bị trừng trị đâu.”

“Có thôi cái trò vớ vẩn ấy đi không,” Bates càu nhàu. Tuy nhiên. Web có thể thấy là anh ta đang lo lắng thực sự. Nơi này quả là rất dễ bị tấn công.

Cuối cùng họ cũng tìm đúng lối rẽ và đến được cổng trước của trang trại East Winds. Hai cánh cổng của trang trại làm Web có cảm giác đang đứng trước cổng Nhà trắng. Tuy nhiên, xét trên góc độ bảo đảm an ninh thì những cánh cổng này đúng là trò cười. Phía trên lối vào là một vái vòm bằng sắt uốn có gắn tên của trang trại bằng những chữ lớn. Nhưng điều hay ho nhất là hai cánh cổng đều mở toang hoác! Tuy nhiên vẫn có một hộp thoại gắn ở cổng, Bates nhấn nút. Họ chờ một lúc và cuối cùng cũng có người lên tiếng.

“Đặc vụ Bates của FBI đây.”

“Xin mời vào.” Giọng nói đáp lại. “Đi theo đường chính và rẽ phải ở lối rẽ đầu tiên để vào nhà lớn.”

Bates đang nhấn ga lái xe vào trong thì Web chỉ tay ra ngoài và nhận xét, “Không hề có camera quan sát. Biết đâu bọn ta là Charlie Manson gà đồng bọn thì sao nhỉ, họ chủ quan quá.”

Họ lái thẳng vào trong. Trước mặt là một cánh đồng cỏ xanh mướt trải ngút tầm mắt, thỉnh thoảng lại có những khoảnh nhỏ được quây lại bằng rào gỗ. Những đống cỏ khô to đùng rải rác khắp nơi. Chếch bên kia đường là một chiếc ao nhỏ. Con đường chính trải nhựa dẫn từ cổng vào chạy thẳng tắp một đoạn dài rồi ngoặt phải quanh một cụm những cây sồi và gỗ mại châu cổ thụ, xen giữa là những cây thông thấp lè tè. Đi xuyên qua rặng cây, chếch về bên phải, có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của một dinh cơ đồ sộ.

Cuối cùng họ cũng đến trước một tòa nhà hai tầng xây bằng đá to lớn với những ô cửa sổ hoành tráng mang phong cách của kiến trúc sư Andrea Palladis, bên dưới là những khung cửa chính rộng rãi. Trên nóc nhà là một mái vòm bọc thiếc đã phai đi ít nhiều vì mưa gió, một chiếc chong chóng gió trên đỉnh mái vòm, mang hình một kỵ sĩ đang rạp mình trên lưng ngựa. Web chợt nghĩ có lẽ chính cái màu bợt bạt ấy mà vào tay Martha Stewart ([55]) có khi lại thành một thứ màu sắc rất thời trang và hút khách chứ không chỉ là màu thời gian bạc phếch.

Họ rẽ phải, đi qua ngôi nhà ngang và chầm chậm để xe lăn bánh dọc một lối đi trải nhựa. Hai bên đường là những hàng phong cổ thụ cao to, cành lá xum xuê đan vào nhau tạo thành một mái che tự nhiên trên đầu họ.

Web ngước nhìn về phía trước và trợn tròn mắt, há hốc miệng. Đó là ngôi nhà hoành tráng nhất mà anh từng trông thấy tận mắt mà lại được xây hoàn toàn bằng đá tảng. Với một vòm mái trước khổng lồ được đỡ bởi sáu cây cột đồ sộ bên dưới.

“Mẹ kiếp,” Romano thốt lên, “Có khi còn rộng chẳng kém tòa nhà Hoover ấy chứ.” Bates dừng xe trước sân nhà và chuẩn bị bước xuống. “To thì nó cũng chỉ là một ngôi nhà thôi, Romano, và câm cái mồm của cậu đi cho, đừng có mà phọt ra những câu làm xấu mặt Cục như thế.”

Cánh cửa nặng trịch mở ra và một người đàn ông xuất hiện.

Billy Canfield già sọm đi nhanh quá. Web nghĩ bụng. Ông ta vẫn giữ được vóc dáng cao lớn và gọn gàng, nhưng đôi vai rộng và bộ ngực lực lưỡng - mà Web còn nhớ rõ trong những lần ông ta đến bệnh viện thăm anh - đã xẹp hẳn đi. Tóc ông ta cũng mỏng đi rất nhiều và ngả hẳn sang màu xám, khuôn mặt càng thêm khô đét xương xẩu. Khi Canfield bước ra chào họ, Web nhận thấy ông ta đi hơi khập khiễng, một đầu gối quay hẳn vào trong rất khác thường. Anh nhớ là năm nay ông ta cũng phải ngoài sáu mươi rồi. Cách đây mười lăm năm ông ta lấy người vợ thứ hai hiện nay của mình là Gwen, trẻ hơn ông ta rất nhiều.

Canfield đã có con cái trưởng thành từ cuộc hôn nhân trước. Ông ta và Gwen cũng có một con chung, chính là cậu bé mười tuổi đã bị các thành viên của Hội Tự Do sát hại tại trường học ở Richmond. Trong những giấc mơ của mình, Web vẫn thường xuyên nhìn thấy khuôn mặt của cậu bé David Canfleld. Cảm giác cắn rứt suốt bao năm tháng vẫn không hề vơi bớt; thậm chí còn nặng nề hơn.

Canfield lặng lẽ quan sát từng người với ánh mắt dò xét dưới cặp lông mày rậm rạp. Web nín cười khi nhận thấy Bates chìa bàn tay thuận của mình ra phía trước, còn tay kia giơ cao tấm phù hiệu, đúng như những gì Cục vẫn dạy trong Học viện.

“Thưa ông Canfield, tôi là đặc vụ Bates thuộc Văn phòng Địa bàn Washington của FBI. Cám ơn ông đã đồng ý tiếp chúng tôi.”

Canfield chẳng thèm để ý gì đến Bates, thay vào đó ông ta chằm chằm nhìn Web. “Tôi có biết anh thì phải.”

“Web London, thưa ông Canfield. Tôi thuộc Đội Giải cứu Con tin. Tôi có mặt ở Richmond đúng ngày hôm đó,” Anh nói thêm một cách xã giao. “Ông đã vào bệnh viện thăm tôi. Đó là điều khiến tôi rất lấy làm cảm kích. Tôi muốn ông biết điều đó.”

Canfield chậm rãi gật đầu và chìa tay ra cho Web. Anh bắt tay ông ta.

“Hừm, tôi cũng rất cảm kích những cố gắng của anh hôm đó. Anh đã làm tất cả những gì có thể, thậm chí đã liều cả mạng sống của mình, chẳng qua là vì con trai tôi đoản mệnh thôi.” Ông ta ngừng lại và nhìn Bates. “Nhưng tôi đã nói qua điện thoại với anh là ở đây chẳng có chuyện gì bất thường cả và nếu cái thằng chó đẻ đó mà dám bén mảng đến đây thì coi như nó tiêu rồi.”

“Tôi hiểu điều đó, ông Canfield.”

“Billy.”

“Cám ơn ông, Billy, nhưng ông phải hiểu là ba người liên quan đến những gì xảy ra trong trường học ở Richmond, và có lẽ cả người thứ tư đều đã bị giết. Nếu Hội Tự Do đứng sau việc này, tôi phải nói thật là chúng tôi vẫn chưa có bằng chứng cụ thể nào cho thấy chúng có dính dáng, nhưng nếu quả thật là như vậy, thì rất có thể ông sẽ là mục tiêu tiếp theo. Đó là lý do chúng tôi có mặt ở đây.”

Canfield liếc nhìn đồng hồ.

“Sao cơ? Các anh muốn tôi phải sống trong cảnh giam cầm à? Tôi còn phải điều hành cả một trang trại ngựa giống, và nói cho các anh biết là nó không chạy bằng chương trình tự động đâu.”

“Tôi hiểu điều đó, nhưng có một số biện pháp mà chúng tôi có thể triển khai không ảnh hưởng gì…”

“Nếu các anh vẫn không chịu thôi thì chúng ta vừa đi vừa nói vậy. Tôi còn phải làm nhiều việc.”

Bates liếc nhìn Web và Romano rồi nhún vai. Ba người bước theo Canfield tới một chiếc Land Rover đen bóng và trèo vào xe.

Canfield không thèm chờ mọi người thắt dây an toàn. Ông ta nhấn ga và chiếc xe lao vọt đi. Web ngồi bên cạnh ông ta trên hàng ghế trước.

Trong lúc xe chạy, anh tranh thủ quan sát khắp trang trại.

“Tôi nhớ lần trước mọi người nói là ông điều hành một công ty vận tải ở Richmond cơ mà. Làm thế nào mà cuối cùng ông lại quay sang một trang trại ngựa ở hạt Fauquier thế này?”

Canfield rút trong túi áo sơ mi ra một điếu thuốc và châm lửa, mở hé cửa sổ và phả khói thuốc ra ngoài. “Gwen không cho tôi hút thuốc trong nhà, tôi phải tranh thủ hút trộm bất kỳ lúc nào có thể,” ông ta giải thích. “Còn câu hỏi của anh cũng hay đấy, Web, từ xe tải sang ngựa. Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi mình điều đó và nhiều lúc tôi ước giá như mình vẫn đang làm vận tải lại hay. Tôi sinh ra và lớn lên ở Richmond và rất gắn bó với nó. Dù xấu hay tốt thì không khí thành phố cũng ăn vào máu thịt tôi rồi. Tôi đã chứng kiến cả hai mặt của đồng xu. Nhưng Gwen vẫn luôn thích ngựa; cô ấy sinh ra và lớn lên ở một trang trại miền Kentucky. Tôi nghĩ điều đó cũng ăn vào máu cô ấy rồi. Nói thật là cái không khí trang trại này chỉ làm huyết áp tôi tăng vọt thôi. Tuy vậy, dù sao thì chúng tôi cũng đã quyết định lên đường. Bây giờ vẫn còn quá sớm để đánh giá đó là quyết định đúng hay sai. Tôi đã dồn tất cả tiền của vào chỗ này, nên ít nhất chúng tôi cũng phải vắt óc suy nghĩ xem làm sao cho nó hoạt động.”

“Chính xác thì người ta làm những gì trong một trang trại ngựa?” Romano nhoài người lên trên và hỏi. “Vì thật ra những con ngựa duy nhất mà tôi nhìn thấy là lũ ngựa kéo xe du lịch xung quanh Công viên Trung tâm. Tôi sinh ra và lớn lên ở Quả táo lớn ([56]) mà.”

“Thế thì thật đáng tiếc, anh chàng Yankee ạ,” Canfield nói. Ông ta quay lại nhìn Romano. “Tôi chưa biết tên anh.”

“Romano, Paul Romano. Bạn bè gọi tôi là Paulie.”

“Hừm, chúng ta không phải là bạn bè, vậy tôi sẽ gọi anh là Paul thôi. Còn câu hỏi của anh thì, công việc chính mà anh làm trong một trang trại ngựa là đẻ ra tiền, Paul ạ. Đẻ tiền sòn sòn như mưa đá trong một cơn giông ấy. Anh phải chi sạch như chùi để đầu tư vào một dinh cơ như thế này và tất cả những người anh cần thuê để nó có thể hoạt động. Anh phải trả những khoản phí cao đến vô lối để được mang ngựa cái nhà mình đi lấy giống của một con ngựa đực khốn kiếp đang động dục có vài cái giải thưởng gắn kèm theo tên. Và rồi tự nhiên sẽ mang lại cho anh vài con ngựa non tiếp tục bòn rút nốt số tiền còm cõi còn lại trong túi anh. Kể từ khi lũ ngựa non này lớn lên thành ngựa trên một tuổi, số tiền mà anh phải chi cho cái lũ chó đẻ ấy quá thừa để gửi hàng chục thằng nhóc vào Harvard. Sau đó anh chỉ còn biết hy vọng và cầu nguyện là một con nào đó trong đám ngựa non nhà anh trổ được ít mã ngoài triển vọng, để anh có thể bán nó cho một tay máu me nghèo kiết xác và kiếm lại số tiền 5% còm cõi của những gì anh phải chi ra cộng với thời gian làm việc vãi cứt mười sáu tiếng mỗi ngày. Còn nếu không kiếm được đồng nào ư? Cái ngân hàng nơi anh đã bán linh hồn đi ấy sẽ đến và thu sạch tất cả những gì anh từng sở hữu trong đời và để mặc anh chết trong nghèo đói nơi đầu đường xó chợ, không quần không áo và cũng không có một ai để anh gọi là bạn bè. Thế đấy, Paul ạ. Anh còn câu hỏi nào nữa không?”

“Không, nói thế là quá rõ rồi,” Romano vừa nói vừa ngồi ngả ra ghế.

Họ đến trước một khu tổ hợp bao gồm nhà kho chứa cỏ khô, chuồng ngựa và những tòa nhà khác. Canfield lái xe qua phía dưới một mái vòm bằng gỗ mà theo ông ta là được làm dựa theo đúng nguyên mẫu là mái vòm ở trang trại Mount Vernon của George Washington, chỉ có điều là tốn kém hơn nhiều.

“Đây là trung tâm gây giống ngựa. Tàu ngựa, kho cỏ khô, văn phòng quản lý, nhà ở của công nhân, nhà tắm cho ngựa, bãi tập cưỡi ngựa, đủ các thứ linh tinh. Cánh đồng của Chúa ([57]) nếu quả thật là có một nơi như vậy…Canfield vừa nói vừa cười phá lên và bước ra khỏi chiếc Land Rover. Các đặc vụ FBI lặng lẽ bước theo ông ta.

Canfield gọi một người đàn ông đang nói chuyện với một đám người mà Web đoán là các công nhân của trang trại. “Nemo, lại đây một lát. Người kia chậm rãi bước lại. Ông ta cũng cao chừng như Web, nhưng lực lưỡng hơn nhiều, với vóc người vạm vỡ của một kẻ kiếm sống bằng cơ bắp, cắt ngắn, hơi ngả màu muối tiêu ở sát thái dương, cùng khuôn mặt đẹp trai với những nét rất đàn ông. Quần áo của ông ta rõ ràng là thích hợp với công việc ở trang trại: quần jean may rộng cùng một chiếc áo sơ mi vải bò bạc phếch. Chân đi ủng cao bồi mũi nhọn. Không có chút gì là hoa hòe hoa sói, không phải ủng làm bằng da cá sấu hay kangaroo, cũng không có những chiếc đinh thúc ngựa bằng bạc bảnh chọe. Cả hai chiếc ủng đều bụi bặm và nhăn nhúm, thậm chí còn sờn bong ở những chỗ bàn đạp ngựa tiếp xúc với thân ủng. Một đôi găng tay bằng da lấm bùn thò ra khỏi túi quần jean.

Người đàn ông vừa bước tới nhấc chiếc mũ cao bồi hiệu Stetson đẫm mồ hôi của mình ra khỏi đầu và lau trán bằng một chiếc khăn cũ rích.

“Ông Nemo Strait đây là người quản lý trang trại của tôi. Nemo, đây là những anh chàng của FBI. Họ đến đây để thông báo rằng tôi đang gặp nguy hiểm vì họ đã để cho thằng khốn kiếp giết con trai tôi xổng khỏi tù và rất có thể hắn đang nhắm vào tôi.”

Strait ném cho cả ba người một cái lườm hằn học đến khủng khiếp.

Web lịch sự chìa tay ra. “Tôi là Đặc vụ Web London.”

Strait bắt tay anh, và Web cảm nhận rõ sức mạnh mà ông ta thể hiện trong cái bắt tay đó. Nemo Strait là một người đàn ông cực khỏe và rõ ràng ông ta muốn Web nhớ điều đó. Web nhận ra ông ta đang chăm chú nhìn phần mặt bị thương nhăn nhúm của anh. Vết thương thường gợi cho người đối diện cảm giác thương hại, và đó là điều Web căm ghét nhất.

Tuy nhiên Nemo vẫn lẳng lặng không chút xúc động, như thể bản thân ông ta đã phải chịu đựng những vết thương còn ghê gớm hơn thế.

Ngay lập tức Web thấy có cảm tình với người đàn ông này.

Canfield chỉ vào Web. “Đây chính là anh chàng đã thực sự cố gắng cứu con trai tôi, hơn bất kỳ người nào khác có liên quan trong vụ đó.”

“Hừ. Theo ý tôi thì chính phủ chẳng làm cái đếch gì ra hồn ngoài việc khiến cho cuộc sống của người ta rối tung lên,” Nemo vừa nói vừa liếc nhìn Web. Giọng ông ta khàn khàn, đặc chất nông thôn, hơi xuống giọng giữa mỗi âm tiết, mô phỏng chuyển động lên xuống nhịp nhàng của cái yết hầu to khác thường. Không hiểu sao Web lại hình dung ra cảnh anh chàng Nemo hộ pháp đang biểu diễn nhạc đồng quê rất sành điệu trong những quán rượu miền Tây.

Web quay sang nhìn Bates, anh này đang trả lời, “Những gì chúng tôi đang cố gắng làm ở đây là giúp đỡ ông thôi, Billy. Nếu có kẻ tìm cách gây chuyện với ông, chúng tôi muốn có mặt ở đây để ngăn chặn hắn.”

Canfield nhìn khắp dinh cơ của mình một lượt rồi quay sang nhìn Bates chăm chú. “Tôi có mười nhân công làm việc 24/24 trong trang trại và ai trong số họ cũng sử dụng súng rất thành thạo.”

Bates lắc đầu. “Chúng tôi vào đến tận trong này rồi mà ông thậm chí còn không biết chúng tôi là ai nữa là. Ông ra khỏi cửa trước một mình và không hề mang theo vũ khí. Nếu chúng tôi muốn giết ông thì có lẽ ông đã chết mấy lần rồi.” Canfield mỉm cười. “Thế nếu tôi nói với các anh rằng những chàng trai của tôi đã theo dõi các anh sát sao kể từ lúc các anh đặt chân lên trang trại này thì sao? Và cái mà họ chĩa vào các anh trong suốt thời gian đó không phải ngón tay đâu nhé.”

Web và Romano liếc nhìn xung quanh với vẻ lơ đãng. Web có giác quan thứ sáu giúp anh nhận biết khi nào thì bị người chĩa súng vào mình và anh đang tự hỏi lần này tại sao giác quan đó chưa hoạt động.

“Thế thì tôi phải nói rằng sớm muộn các chàng trai của ông cũng có lúc bắn nhầm người vô tội,” Bates lạnh lùng nói.

“Hừm, mẹ kiếp, khoản đó thì tôi đoán là đã có bảo hiểm lo rồi,” Canfleld vặc lại.

“Tôi đã kiểm tra hồ sơ, Billy. Trong thời gian diễn ra phiên tòa ông đã nhận được nhiều lời đe dọa đến tính mạng từ Ernest Free và những tên khác. Hồi đó FBI đã đưa ông vào chương trình bảo vệ.”

Nét mặt Canfield bỗng tối sầm lại. “Đúng thế, mỗi lần tôi ra khỏi nhà là lại có một tay mặc complet, đeo súng, nhắc tôi rằng con trai tôi đã chết và nằm sâu dưới ba thước đất. Vì vậy, không hề muốn xúc phạm các anh đâu, nhưng tôi chịu đựng các anh thế là quá đủ cho đến già rồi. Tôi nói vậy là rõ ràng lắm rồi đấy.”

Bates ưỡn thẳng ngực và bước lại gần Canfield “Cục đang đề nghị sẽ tiếp tục bảo vệ ông và gia đình. Và chừng nào Ernest Free còn chưa bị bắt và chúng tôi thấy ông vẫn còn gặp nguy hiểm thì tôi thành thực mong ông chấp nhận lời đề nghị này,” Bates nói.

Canfield ngạo nghễ khoanh tay trước ngực. “Hừ, thế thì coi như chúng ta có bất đồng rồi đây, bởi vì đây là Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ và một công dân có quyền quyết định ai được bước vào nhà của anh ta và ai không được, và tôi đang yêu cầu các anh biến mẹ nó ra khỏi đất của tôi ngay lập tức.”

Strait tiến sát lại ông chủ của mình và Web cũng nhìn thấy các công nhân của trang trại cũng đang áp sát lại. Anh cũng thấy là bàn tay của Romano đã lần xuống bên báng súng.

Một gã lực lưỡng phạm phải sai lầm lớn là đặt tay lên vai Romano.

Chỉ trong tích tắc gã đã nằm úp mặt xuống đất, đầu gối của Romano đè lên gáy gã, một khẩu 0.45 kề sát mang tai, một khẩu 0.45 khác, mà Romano rút ra từ bao súng đeo phía sau lưng, chĩa thẳng vào những người làm còn lại của Canfield.

“Được rồi…Romano nói, “còn chàng cao bồi nào thích thử sức không?” Web vội đứng chen vào giữa trước khi Romano kịp giết cả bọn.

“Nghe này, Billy, tôi đã bắn hai thằng của Hội Tự Do, và nếu có cơ hội chắc chắn tôi cũng đã bắn vỡ sọ thằng Ernest rồi. Nhưng thằng con hoang đó gặp may và chỉ bị một phát đạn xuyên qua vai, còn tôi thì được khiêng ra với một nửa khuôn mặt nát bét và mất gần hết máu. Còn bây giờ, tôi thực sự tin rằng tất cả chúng ta đều mong muốn chung một điều; chỉ có điều cách thực hiện của chúng ta thì hơi khác phau chút ít. Vậy nếu Romano và tôi đến ở cùng gia đình ông trong trang trại này thì sao? Không có complet gì hết, chỉ quần jean và ủng cao bồi thôi? Thậm chí chúng tôi còn có thể giúp gia đình ông công việc trong trang trại. Nhưng đổi lại, ông phải hợp tác với chúng tôi. Ông sẽ phải nghe theo khi chúng tôi nói rằng đang có chuyện, và nếu chúng tôi bảo ông phải cúi đầu xuống, thì ông phải cúi xuống. Có vẻ như bọn Hội Tự do đã vừa cướp đi thêm vài mạng người, và cách thức ra tay của chúng thì phải nói là cực kỳ tinh vi. Vì vậy mặc dù tôi tin chắc là người của ông rất thạo việc nhưng ngần đó cũng chưa đủ nếu những tên giết người chuyên nghiệp kia muốn loại bỏ ông. Tôi có thể thấy ông không phải là mẫu người thích bị người khác sai khiến, nhưng tôi không tin ông lại muốn mang cho bọn Hội Tự Do sự thỏa mãn khi chúng giết được ông. Ông và vợ ông đã phải chịu đựng điều đó với cái chết của con trai mình. Tôi không tin là ông muốn vợ mình phải trải qua nỗi đau mất mát đó thêm một lần nữa, mà lần này là ông đấy.”

Canfield chăm chú nhìn Web hồi lâu. Và trong suốt quãng thời gian đó Web không biết là ông ta sắp nhảy xổ vào anh hay thậm chí sẽ ra lệnh cho những người làm của mình nổ súng. Cuối cùng Canfield nhìn xuống và đá đá mũi giầy lên một mô đất. “Chúng ta hãy quay vào nhà và nói thêm về chuyện này.”

Ông ta ra hiệu cho Strait và người của mình quay lại làm việc. Romano giúp gã kia đứng dậy và thậm chí còn phủi bụi cho anh ta.

“Chẳng có gì là cá nhân cả, anh bạn ạ, ai mà động vào tôi thì tôi cũng làm như vậy thôi. Anh hiểu chứ?”

Gã kia nhặt mũ, chụp lên đầu và lặng lẽ cút thẳng. Từ ánh mắt sợ hãi của anh ta, Web không nghĩ là anh ta còn nghĩ đến chuyện thử “động” vào người Romano lần nữa.

Canfield và các đặc vụ lại chui vào chiếc Land Rover. Trong lúc lái xe quay về nhà, Canfield nhìn sang Web. “Được rồi, tôi không thể phủ nhận rằng những điều anh nói là rất xác đáng, nhưng tôi không hề mong muốn phải quay trở lại quãng đời đó của mình. Và tôi lại càng căm ghét vì chính những tên khốn kiếp đó đang đẩy tôi vào tình thế này.”

“Tôi hiểu điều đó, nhưng…” tiếng chuông điện thoại di động ở đâu đó bỗng vang lên làm Web không nói hết câu. Anh kiểm tra điện thoại của mình, nhưng đó không phải là điện thoại của anh. Bates và Romano cũng làm tương tự. Canfield rút trong ngăn đựng đồ của chiếc Rover ra một chiếc điện thoại di động và nhìn nó chăm chú. Chiếc này cũng không đổ chuông. Ông ta liếc nhìn sàn xe, cúi xuống và nhặt lên một chiếc điện thoại đang nằm lăn lóc bên dưới.

“Chắc ai đó bỏ quên điện thoại ở đây rồi, có điều đây không phải là điện thoại của Gwen và tôi cũng không biết còn thằng cha quái nào lái cái xe này nữa. Chắc là có ai đó muốn bán gì cho tôi chăng.”

Canfield đang định nhấn nút nghe máy thì Web giật lấy chiếc điện thoại ra khỏi tay ông ta, ấn nút mở cửa sổ xe và ném thẳng chiếc điện thoại ra ngoài.

Canfield sững sờ nhìn anh. “Mẹ kiếp, anh nghĩ là anh đang làm cái quái gì vậy?”

Mọi người trong xe đều chăm chú nhìn chiếc điện thoại đang vẽ một vòng cung trên không trung rồi rơi xuống giữa một bãi đất trống. Không có gì xảy ra. Canfield đạp phanh, dừng hẳn chiếc Land Rover lại. “Anh có nhấc đít ra ngoài kia và lấy cái điện thoại khốn kiếp đó…”

Vụ nổ mạnh đến nỗi chiếc Land Rover đồ sộ cách đó khá xa cũng phải rung rinh, làm bắn tung lên trời một cột khói lửa đen đặc cao đến ba mươi mét.

Tất cả mọi người trong xe đều trân trối nhìn khung cảnh khói lửa kinh hoàng trước mặt mình trong vài giây, không ai nói nên lời. Cuối cùng Canfield cũng run rẩy quay sang nhìn Web.

“Khi nào thì các anh muốn bắt đầu công việc đấy?”

CHƯƠNG 29

Web lái xe dọc phố và dừng lại trước cửa nhà mẹ anh. Anh vẫn không biết phải làm gì với ngôi nhà nữa. Bán ngôi nhà có nghĩa là anh sẽ phải sửa chữa lại nó, và tất nhiên là anh sẽ phải tự làm, vì tài khoản ngân hàng của Web không còn đủ cho anh thuê nhân công chuyên nghiệp. Nhưng quan trọng nhất là anh không hề muốn xiết lại một chiếc bản lề hay thay mới một tấm ván lớp nào của nơi này.

Web quay lại đây vì anh chợt nhớ ra là nếu ở lại trang trại nhà Canfield một thời gian anh sẽ cần thêm quần áo. Lúc này anh vẫn chưa muốn quay lại nhà mình. Rất có thể cánh phóng viên vẫn rình rập quanh đó. Tuy nhiên, anh cũng vẫn để một ít quần áo ở nhà mẹ mình. Vả lại, anh cũng muốn cất lại chiếc hộp chứa đựng những thông tin về cuộc đời Harry Sullivan lên căn gác xép. Với cuộc sống lang thang lúc này, Web không muốn chiếc hộp bị thất lạc. Anh cũng không biết chắc phải làm gì với cha mình bây giờ nữa. Anh có nên gọi điện đến nhà tù không? Liệu đó có phải là nơi để anh xây dựng lại mối quan hệ với ông già mình? Nhưng nhiều khả năng là sau ngần ấy năm, rất có thể Harry đang sắp chết trong tù. Rất có thể đây là cơ hội cuối cùng của Web. Kể ra cũng thật nực cười khi việc suýt chết vì một quả bom cài trong điện thoại có thể khiến con người ta thay đổi thứ tự ưu tiên trong danh sách những việc cần làm của mình.

Dòng suy tưởng của Web về người cha bị cắt ngang bởi tiếng chuông điện thoại. Đó là điện thoại của Claire, nghe giọng cô có vẻ hồi hộp nhưng vẫn đầy vẻ quyết tâm.

“Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về những buổi điều trị của chúng ta, Web ạ. Tôi nghĩ có lẽ chúng ta cần thay đổi chiến thuật một chút. Còn một số điểm khiến tôi rất tò mò và tôi nghĩ chúng có thể được giải quyết theo cách khác.

“Hừm, nghe có vẻ mù mờ quá. Claire. Chính xác thì cô đang nói đến những điểm gì vậy?”

“Căn cứ vào những gì chúng ta đã trao đổi từ đầu đến giờ, Web. Tôi cảm thấy là phần lớn những vấn đề mà anh gặp phải đều xuất phát từ mối quan hệ của anh với mẹ và bố dượng. Trong buổi điều trị gần đây nhất anh có nói với tôi là anh đã lớn lên trong chính ngôi nhà mà anh mới thừa kế từ mẹ mình.”

“Thì sao?”

“Và anh cũng nói rằng anh sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện sống ở đó. Và rằng bố dượng anh đã chết trong ngôi nhà đó nữa.”

“Đúng thế, thì sao?”

“Tôi nghĩ rất có thể đằng sau chuyện này còn có điều gì đó. Anh còn nhớ tôi đã nói là tôi lắng nghe để tìm kiếm những đầu mối từ các bệnh nhân của mình chứ? Vâng, trong trường hợp của anh tôi nghĩ là tôi đã lần ra một đầu mối rất quan trọng.”

“Một ngôi nhà cũ thì liên quan quái gì đến những vấn đề của tôi chứ ?”

“Đó không phải là chuyện ngôi nhà, Web. Mà rất có thể là chuyện xảy ra trong ngôi nhà đó.”

Anh vẫn ương bướng “Làm sao có thể có chuyện gì khác ngoài việc lão bố dượng của tôi ngủm củ tỏi ở đó mà lại liên quan đến tôi vậy?”

“Cái đó thì chỉ có anh biết thôi.”

“Thế thì tôi đã nói cho cô tất cả những gì tôi biết rồi đấy thôi. Và thực sự là tôi không thể hiểu tại sao việc tôi bị cứng đờ người trong con hẻm đó lại liên quan đến chuyện tôi lớn lên trong ngôi nhà này. Đó là chuyện quá lâu rồi.”

“Web anh sẽ phải kinh ngạc khi biết ký ức của con người có thể lưu giữ những chuyện đã xảy ra lâu đến nhường nào cho đến một ngày tất cả bùng ra như núi lửa. Rất có thể sự tiếp xúc của anh với thằng bé trong con hẻm đã khơi dậy ở anh ký ức nặng nề nào đó trong quá khứ.”

“Ôi trời, tôi đã bảo cô là tôi hoàn toàn không biết đó là ký ức gì rồi mà.”

“Nếu tôi không nhầm thì anh có biết đấy, Web. Chỉ có điều là anh không ý thức được điều đó mà thôi.”

Anh nhướng mắt, cô đang nói quái gì vậy?”

Claire trả lời “Web, tôi muốn thôi miên anh.”

Anh giật mình, “Không.”

“Biện pháp đó có thể sẽ thực sự giúp được chúng ta.”

“Làm thế quái nào mà việc bắt tôi sủa như chó trong khi tôi đang bất tỉnh lại có thể giúp gì được?”

“Ở trong trạng thái thôi miên là một hình thức tỉnh táo Tăng Cường Web ạ. Anh sẽ hoàn toàn ý thức được những gì đang diễn ra xung quanh. Anh vẫn kiểm soát được toàn bộ. Tôi không thể bắt anh làm những gì mà anh không muốn.”

“Không ăn thua gì đâu.”

“Làm sao anh biết được? Thôi miên có thể giúp anh đối mặt với những vấn đề mà bình thường anh hoàn toàn bị ức chế nên không thể làm được.”

“Cũng có thể trong đầu tôi có nhiều thứ mà tôi không muốn khơi dậy nữa.”

“Nếu không thử thì anh sẽ không bao giờ biết được đâu Web. Anh hãy suy nghĩ về chuyện này nhé. Xin anh đấy.”

“Nghe này, Claire, tôi tin chắc là cô còn có rất nhiều người điên đang cần được giúp đỡ. Tại sao cô không nghĩ đến họ một chút nhỉ.” Anh tắt máy.

Web tấp xe vào lối đi trước nhà, bước vào trong, lấy vài bộ quần áo rồi lưỡng lự đứng dưới chân cầu thang lên gác xép. Một tay vẫn ôm chiếc hộp đựng hồ sơ của Harry Sullivan. Anh cố tự nhủ là chuyện này thực ra đâu có gì khó khăn. Một căn gác xép cũng chỉ là một căn gác xép. Dù cho anh đã nói gì với Claire chăng nữa, thì vẫn có điều gì đó về căn nhà này khiến anh cảm thấy xốn xang sâu thẳm trong lòng. Tuy vậy anh vẫn với tay giật sợi dây thừng và hạ chiếc thang xuống.

Khi lên gác, anh đặt chiếc hộp xuống và vươn tay ra định kéo dây bật đèn, nhưng rồi lại buông thõng tay xuống. Anh chăm chú nhìn vào tất cả các góc nhà, tìm kiếm những mối đe dọa vô hình. một hành động mang tính bản năng hơn là do thói quen. Anh đờ đẫn thả ánh mắt trên sàn nhà lát bằng gỗ dán, rồi liếc qua những dấu ấn u ám trong lịch sử gia đình đen tối của mình thể hiện qua những chiếc mắc áo, những chồng sách cũ, những đống đồ mốc meo theo thời gian. Anh chợt chú ý đến đống thảm màu đỏ tía gần đầu cầu thang. Những mảnh thảm đã được cuộn lại rất chặt và cứng bằng băng dính. Anh cầm một cuộn lên. Cuộn thảm rất nặng và cứng, rắn như đá và lạnh toát theo thời gian. Đây là những mảnh thảm còn thừa của tấm thảm lót sàn nhà bên dưới và Web tự hỏi mẹ anh giữ chúng lại làm gì.

Phía bên kia từng là nơi để một đống quần áo rất to. Chỗ đó giờ đây trống trơn. Trước kia Web vẫn nhiều lần lên đây, đóng chặt cửa sập thông lên gác xép và chui vào trong đống quần áo để lẩn trốn những cơn cuồng nộ của người bố dượng. Bố dượng của anh cũng thường giấu mớ ma túy và các loại rượu của ông ta ở đây, vì ông ta sợ vợ mình sẽ tìm ra. Cứ nửa đêm là ông ta lại loạng choạng mò lên đây, bao giờ cũng trong trạng thái ngật ngưỡng, và tìm kiếm những thứ chất độc kia để tăng độ phê. Đó là thời kỳ đầu những năm bảy mươi, đất nước này vẫn còn đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Và những người như bố dượng của anh, những kẻ chưa từng cầm súng chiến đấu vì tổ quốc hay vì bất kỳ lý tưởng nào, thường lợi dụng tinh thần dằn vặt và thờ ơ chung của thời kỳ đó làm cớ để biện minh cho lối sống say sưa, bệ rạc của mình. Một phần của sàn căn gác xép cũng đồng thời là trần phòng ngủ của Web phía dưới. Khi còn là một cậu bé đang nằm trên giường, Web vẫn thường xuyên nghe thấy tiếng bố dượng anh đang lục đục trên đầu. Đó là khi ông ta tìm kiếm những thứ chất độc nhằm thỏa mãn sự nghiện ngập bệnh hoạn của mình.

Cậu bé Web hồi đó lúc nào cũng nơm nớp sợ rằng Stockton có thể bất thình lình tụt từ trên trần xuống nhảy thẳng đến chỗ cậu nằm và đánh đập cậu không thương xót. Mỗi khi bị Stockton đánh. Web lại tìm đến mẹ. Nhưng hầu như lần nào cũng thế. chẳng bao giờ bà ở nhà để mà an ủi anh. Hồi đó đêm nào mẹ anh cũng lái xe lang thang mãi đến khi trời sáng bạch mới quay về, sau khi Web đã mặc quần áo, tự làm đồ ăn sáng và ba chân bốn cũng chạy đến trường để không phải đối mặt với con người vũ phu mà anh gọi là bố kia tại bàn ăn. Tiếng bước chân cọt kẹt đeo đẳng tâm trí anh đến tận bây giờ.

Anh nhắm nghiền mắt và hít một hơi thật sâu, cảm nhận bầu không khí lạnh lẽo của căn phòng đang thấm vào trong phổi, trong đầu anh chợt hiện lên hình ảnh của đống quần áo cũ ngày nào, rõ mồn một như tất cả mới chỉ xảy ra ngày hôm qua. Và đột nhiên trước mắt anh thoáng xuất hiện một vệt đỏ xé toang không khí và tiếp đó là những âm thanh lạ lẫm làm Web mở choàng mắt. Vội và tụt xuống khỏi thang và kéo sập tấm cửa thông lên gác xép. Anh đã nhìn thấy ảo ảnh đó trong đầu mình hàng nghìn lần mà chưa bao giờ hiểu tại sao. Dần dần anh cũng quen với điều đó và không buồn cố tìm hiểu lý do. Nhưng ngay lúc này đây, không hiểu sao anh cảm thấy mình đang đến gần với nguyên nhân thực sự của điều đó hơn bao giờ hết.

Anh ngồi trong chiếc Mercury, mở điện thoại di động và rút trong túi ra mẩu giấy mà Big F đã đưa cho anh từ đêm hôm trước. Anh nhìn đồng hồ. Bây giờ đúng là lúc mà mẩu giấy yêu cầu anh gọi điện. Anh ấn số là ngay lập tức đầu kia trả lời. Người ở đầu kia đọc cho anh nghe một loạt những chỉ dẫn rồi tắt máy. Ít ra thì chúng cũng là một băng chuyên nghiệp đáng gờm đây. Hừm, xem ra anh sắp có một đêm bận rộn rồi.

Vừa nhấn ga lái vọt xe đi, Web vừa lẩm bẩm nhại những câu lệnh bất tử của TOC :

“Web London gọi toàn thể nhân loại, chẳng có ai đang kiểm soát tình hình.”

CHƯƠNG 30

Web lái thẳng đến nhà Romano đón anh ta. Angie đang đứng ở bậu cửa khi Romano bước ra với ba lô quần áo, trông cô nàng không có vẻ gì là hạnh phúc. Ít nhất thì Web cũng có thể tự suy ra kết luận này khi anh vẫy chào Angie và cô chỉ đáp lại bằng một cái búng tay khinh khỉnh.

Romano chất lên xe hai khẩu súng trường bắn tỉa, một khẩu tiểu liên MP- 5, một bộ áo giáp Kevlar và bốn khẩu súng ngắn bán tự động cùng cả đống băng đạn .

“Chúa ơi, cậu làm như bọn mình đang đi săn lùng Saddam Hussein vậy Paulie.”

“Anh cứ làm theo cách của anh, tôi làm theo cách của tôi. Cái thằng bắn Miller vẫn đang nhởn nhơ ngoài kia và nếu nó còn muốn cho anh xơi một viên đạn từ khoảng cách một nghìn mét thì tôi phải có gì đó mà bắn trả thằng chó đẻ ấy chứ. Hiểu chưa?” Anh ta quay người và vẫy tay chào Angie. “Tạm biệt em yêu.” Angie cau mày phẩy tay trước khi đóng sầm cửa lại sau lưng mình.

“Hình như cô ấy không vui lắm thì phải,” Web rụt rè nói.

“Tôi vẫn còn vài ngày phép. Bọn tôi đang định về thăm mẹ cô ấy. Chính xác là ở Slidell, Lousiana.”

“Tớ rất tiếc, Paulie.”

Romano nhìn Web và nhăn nhở cười trước khi kéo sụp chiếc mũ lưỡi trai Yankee xuống mắt và ngã người ra trên ghế. “Tôi thì không.”

Hai người lái xe đến East Winds, tại cổng trang trại đã có hai đặc vụ FBI chờ sẵn. Họ giơ phù hiệu của mình ra và được phép lái xe vào trong.

Sau vụ ám sát hụt nhằm vào Billy Canfield bằng bom giấu trong điện thoại di động, sự hiện diện của Cục tại trang trại bỗng trở nên vô cùng đường hoàng và quan trọng. Trên đường vào họ gặp chiếc xe chở đội rà phá bom mìn của Cục đang đi ra. Chắc chắn là mang theo cả tất cả những mẩu bằng chứng mà họ tìm được sau vụ nổ. Web tin chắc là đặc vụ của Cục đã thẩm vấn tất cả mọi người trong trang trại: tất cả những ai có thể kích hoạt từ xa thiết bị nổ giấu trong chiếc điện thoại di động đó.

Web cũng biết chắc rằng Billy Canfield sẽ chẳng hứng thú gì với những hoạt động điều tra này. Nhưng dù sao chính anh cũng là người cứu mạng ông ta. Bản thân điều đó đã đủ bảo đảm cho việc họ được có mặt trong trang trại.

Anh vừa nghĩ đến đó thì phía trước xuất hiện một con ngựa cùng kỵ sĩ trên lưng. Đó là một con ngựa nòi lực lưỡng, bóng loáng, với sự kết hợp hoàn hảo giữa cơ bắp, gân, dây chằng và khung xương: tất cả đều chuyển động một cách uyển chuyến và thanh thoát đến tuyệt đối tương chừng chỉ có ở máy móc chứ không phải động vật. Trước đây Web cũng từng cưỡi ngựa một vài lần nhưng chưa bao giờ thực sự say mê môn thể thao này, nhưng dù sao anh cũng phải thừa nhận rằng hình ảnh trước mặt anh lúc này quả là vô cùng ấn tượng. Nữ kỵ sĩ mặc chiếc quần cưỡi ngựa màu nâu, chân đi ủng cưỡi ngựa đánh xi bóng loáng, trên người là chiếc áo len màu xanh nhạt. Đôi bàn tay nhỏ nhắn đi găng da. Chiếc mũ màu đen không thể giấu được mái tóc vàng óng ả.

Anh hạ cửa sổ xe xuống khi người phụ nữ thúc ngựa lại bên chiếc xe. “Tôi là Gwen Canfield. Chắc anh là Web?”

“Đúng vậy. Còn đây là Paul Romano. Chồng bà đã nói gì về việc bố trí cho chúng tôi ở đây chưa?”

“Rồi. Anh ấy bảo tôi chỉ chỗ ở cho các anh.” Gwen nói.

Cô nhấc mũ bảo hiểm ra khỏi đầu, lắc lắc cho mái tóc vàng buông xõa xuống ngang vai.

Web thán phục nhìn con ngựa. “Một cô nàng tuyệt đẹp”.

“Nó là một anh chàng.”

“Xin lỗi, tôi quên không kiểm tra kỹ thiết bị. Không định làm ai phật ý.”

Gwen vỗ về lên cổ con ngựa, “Mày cũng không phật ý đâu nhỉ.? Baron ([58])? Dù thế nào thì cũng không ảnh hướng đến khí phách đàn ông cua mày mà ?”

“Giá kể chúng ta ai cũng được như thế thì tốt.”

Gwen ngồi thả lỏng trên chiếc yên ngựa kiểu Anh nhỏ nhắn. một tay nắm chắc dây cương hai lớp. “Billy có kể lại cho tôi nghe chuyện xảy ra trong chiếc Rover. Tôi muốn cám ơn những gì anh đã làm. Có lẽ Billy quên chưa cảm ơn anh.”

“Tôi chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi.”

Mặc dù anh chưa bao giờ gặp Gwen, nhưng các thành viên HRT khác có mặt trong phiên tòa ở Richmond đều miêu tả cô là một người sôi nổi và dễ xúc động. Còn người phụ nữ đứng trước mặt anh lúc này lại hết sức lạnh lùng, lãnh đạm. Mặc dù nói lời cảm ơn nhưng giọng cô ta nghe vô cùng thờ ơ, vô cảm. Có lẽ từ hồi đó đến giờ cô ta đã sử dụng đến cạn kiệt những cảm xúc của mình.

Web cũng đã xem những bức ánh giới truyền thông chụp Gwen ngoài phòng xử án. Không giống như chồng mình, năm tháng không để lại nhiều dấu ấn trên cơ thể Gwen. Anh tưởng chừng như cô ta vẫn chỉ ngoài ba mươi. Mái tóc vàng vẫn mềm mại và óng ả như ngày nào. Cơ thể thon thả của cô vẫn đủ khiến một phụ nữ trẻ hơn mình mười tuổi phải ghen tị. Với những đường cong quyến rũ mà người đàn ông nào cũng phải ngẩn người, một bộ ngực căng đầy làm bao người phải dõi mắt ngắm nhìn. Khuôn mặt cô cũng rất xinh đẹp, đôi gò má cao và cặp môi đầy đặn. Nếu quyết định trở thành một diễn viên, chắc chắn trông cô sẽ rất ăn ảnh. Gwen còn là một phụ nữ có chiều cao và tư thế ngồi thẳng tắp. Tư thế mẫu mực của một kỵ sĩ, Web tự nhủ.

“Chúng ta sẽ tới nhà ngang. Nó ở ngay cuối đường này thôi.”

Gwen giật cương cho Baron quay đầu lại, thúc gót ủng vào hai bên sườn chú ngựa, và thốt lên một hiệu lệnh nào đó mà một người mù tịt về ngôn ngữ huấn luyện ngựa như Web không sao hiểu nối. Anh chỉ đoán là cô giục chú ngựa chạy nước kiệu. Vì chính xác thì đó là những gì mà Baron thực hiện ngay sau đó. Cả ngựa và nữ kỵ sĩ xinh đẹp lướt đi trên đường. Rồi Gwen rạp người về phía trước gần như hòa lẫn với phần thân trước của chú ngựa thành một khối thống nhất trong khi Baron tung vó lên khỏi mặt đất, bay qua đoạn hàng rào cao 1,2m - đây chính xác là một đoạn hàng rào được thiết kế riêng cho ngựa và kỵ sĩ nhảy qua - trước khi đáp xuống một bãi đất nhỏ mềm mại và nhẹ nhàng. Web buột miệng huýt sáo để bày tỏ sự thán phục của mình. Còn Gwen thì lạnh lùng vẫy tay trong khi không thèm quay người lại.

Hóa ra nhà ngang chính là ngôi nhà có những cửa sổ kiểu Palladis và mái vòm bọc thiếc bạc màu mưa nắng mà Web đã thấy trước kia. Gwen nhảy từ trên lưng Baron xuống đất và dắt chú ngựa lại một cây cột gỗ.

Trong lúc đang loay hoay dỡ đồ đạc từ trên xe xuống, Web ra hiệu cho Romano không nên tháo dỡ súng trước mặt người phụ nữ.

Web quan sát vị trí ngôi nhà ngang và quan hệ của nó với ngôi nhà chính mà anh chỉ có thể nhìn thấy loáng thoáng xa xa qua hàng cây. Anh quay qua Gwen. “Tôi không hề có ý tỏ ra vô ơn, nhưng có thể bố trí cho chúng tôi ở trong nhà chính được không? Nếu có chuyện gì thì chúng tôi sẽ không phải mất quá nhiều thời gian mới chạy sang kịp.”

“Billy đã nói là ở nhà ngang. Nếu các anh thấy có vấn đề với chuyện đó, các anh sẽ phải tự đi mà nói với ông ấy.”

Vâng nhất định rồi, Web tự nhủ. Nhưng anh chỉ nói với cô ta “Tôi rất tiếc vì tất cả những chuyện này, thưa bà Canfield. Lẽ ra ông bà không còn phải chịu đựng lại những chuyện này.”

“Tôi không bao giờ còn tin vào sự công bằng cửa thế giới này nữa.” Cô ta chằm chằm nhìn anh. “Tôi xin lỗi. Billy nói chúng tôi có biết anh nhưng tôi cũng không nhớ đã gặp anh ở đâu.”

“Tôi tham gia lực lượng giải cứu con tin có mặt ở trường học ngày hôm đó.”

Cô cúi xuống trong giây lát. “Tôi nhớ rồi. Và giờ thì tên đó lại được tự do. Cái tên đã giết David ấy.”

“Đáng tiếc là đúng vậy. Nhưng hy vọng là chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi.”

“Lẽ ra hắn phải nhận án tử hình.”

“Điều đó thì tôi không tranh cãi với bà thưa bà Canfeld.”

“Cứ gọi tôi là Gwen thôi. Ở đây chúng tôi không thích trang trọng quá.”

“Được rồi, Gwen. Nhưng chúng tôi ở đây là để bảo đảm cho cô và chồng cô được an toàn.”

Cô ta liếc nhìn anh. “Đã nhiều năm nay chúng tôi không còn biết thế nào là an toàn rồi, Web. Và bây giờ tôi cũng không tin là mọi chuyện sẽ thay đổi”.

Cô dẫn hai người vào trong. Tầng một của ngôi nhà ngang được dùng làm nơi trưng bày những chiếc xe cổ phục chế. Web nhìn sang anh chàng Romano yêu xe như yêu vợ và có cảm giác như anh bạn đồng nghiệp của mình đang bị nhồi máu cơ tim đến nơi.

Gwen giải thích, “Đây là bộ sưu tập của Billy. Tôi nghĩ ông ấy gọi đây là bảo tàng xe hơi cá nhân của mình.”

“Trời đất ơi,” Romano thốt lên, “kia là một chiếc Stutz Bearcat tay lái bên phải.” Anh chàng bàng hoàng đi quanh khu trưng bày xe như một cậu bé đang choáng ngợp trong Đài Lưu danh những huyền thoại bóng chày. “Còn kia là một chiếc Lincoln LeBaron 1939. Tất cả chỉ có chín chiếc từng được sản xuất. Lạy Chúa tôi.” Anh chàng lao bổ về góc phòng trưng bày và đang chết lặng người.“Web, đây, đây là một chiếc Duesenberg SSJ Speedster 1936.” Anh ta quay sang Gwen. “Nếu tôi không lầm thì chỉ có hai chiếc như thế này từng được sản xuất, một chiếc cho Clark Gable và chiếc còn lại của Gary Cooper? Xin hãy nói là tôi không lầm đi.”

Gwen gật đầu. “Anh biết người biết của đấy. Đây là chiếc của Cooper.”

Romano quay sang nhìn Web như thể anh chàng đang sắp ngất đến nơi.

“Đẹp quá…” Romano thốt lên. Anh ta quay sang người phụ nữ. “Gwen, tôi muốn cô biết rằng, tôi thực sự vô cùng lấy làm vinh dự được ở dưới cùng một mái nhà với những cỗ máy huyền thoại này.” Web đau thắt cả bụng vì cố nhịn cười.

Gwen nhìn Web và lắc đầu trước khi nhếch mép với một nụ cười thoảng qua trên môi. “Đàn ông ai cũng có đồ chơi. Anh có đồ chơi không Web?”

“Hoàn toàn không. Hồi bé tôi còn không có nữa là.”

Cô ta ném cho anh cái nhìn như muốn xoáy sâu vào tâm can rồi nói. “Tầng trên có hai phòng ngủ, mỗi phòng đều có phòng tắm riêng, phòng khách và cả nhà bếp đầy đủ tiện nghi. Ngôi nhà này từng được sử dụng làm nhà để xe của trang trại thời Thực dân. Nó còn là một di tích lịch sử đấy nhé. Hồi những năm 1940, người chủ cũ chuyển nó sang làm trạm cứu hỏa. Billy sửa chữa lại làm nhà cho khách khi ông ấy mua nơi này, mặc dù với hai mươi phòng ngủ trong nhà chính, bản thân tôi cũng luôn thấy là việc xây thêm nhà khách như thế này là quá thừa.”

“Hai mươi phòng ngủ?” Romano choáng váng.

“Tôi hiểu,” Gwen nói. “Tôi lớn lên trong một trang trại ở vùng nông thôn Louisville. Hồi đó cả gia đình bảy người chúng tôi cũng chỉ có hai phòng ngủ.”

“Tôi nhớ là Billy cũng không sinh ra trong một gia đình giàu có gì cho lắm,” Web nói.

“Vận tải không phải là một ngành kinh doanh dễ dàng, nhưng ông ấy đã thành công.”

“Tôi thấy Billy phàn nàn rằng trang trại này đang hút sạch từng xu của ông ấy,” Romano nhận xét.

“Nhưng những chiếc xe này cũng đâu có rẻ.” Lần đầu tiên Gwen thực sự mỉm cười và bất giác Web cảm thấy anh cũng đang mỉm cười lại với cô.

“Các anh sẽ sớm nhận ra là Billy Canfield thích kêu ca. Về mọi chuyện. Nhưng nhất là chuyện tiền nong. Tôi tin chắc thế nào ông ấy chẳng nói với các anh rằng chúng tôi dồn đến đồng xu cuối cùng vào nơi này, và quả là vậy thật. Nhưng có lẽ ông ấy chưa nói với các anh rằng con ngựa non đầu tiên mà chúng tôi bán đã giành chiến thắng trong giải Kentucky Derby và về thứ ba trong giải Preakness.”

“Tên con ngựa là gì?”

“King David,” Gwen trả lời rất khẽ. “Tất nhiên là chúng tôi không kiếm thêm được đồng nào từ những danh hiệu đó, nhưng ít nhất thì người ta cũng bắt đầu biết đến trang trại của chúng tôi, và hơn nữa là chúng tôi vẫn còn con ngựa cái nòi đã sinh ra con King. Con ngựa đực mà chúng tôi lấy giống cho nó không hề có gì đặc biệt, điều đó có nghĩa là gen di truyền của con ngựa cái mà chúng tôi có chính là nguyên nhân chính tạo nên sức mạnh cho con King.”

“Nghe cũng có vẻ hợp lý, cho dù trong trường hợp này công lao là con ngựa cái kia hưởng hết.”

Gwen liếc xéo Web. “Tôi thích cách nghĩ của anh đấy. Vậy là với danh tiếng mà con King mang về, tất cả những người chơi ngựa đua trên khắp nước Mỹ bắt đầu phải nhắc đến East Winds. và về cơ bản những con ngựa của chúng tôi đều được mua với giá rất cao. Cho đến thời điểm này chúng tôi đang có vài con ngựa đực từng giành giải. Và phí phối giống càng ngày càng được nâng lên. Nhưng quan trọng hơn cả là hai năm trước chúng tôi được mùa ngựa non nên mọi việc cũng dễ dàng. Các anh đừng hiểu nhầm, quả thật là việc duy trì một trang trại nhân giống ngựa như thế này tốn kém kinh khủng. Nhưng trong chừng mực như Billy phàn nàn, tôi nghĩ là chúng tôi vẫn còn xoay sở được.”

“Thế thì tốt rồi,” Web nói. “Tôi đoán là ông bà đã chuyển đến đây ngay sau phiên tòa.”

Cô nói cộc lốc, “Nếu các anh cần gì, cứ gọi vào nhà chính và chúng tôi sẽ đáp ứng ngay. Số điện thoại được dán ngay trên tường bên cạnh chỗ để điện thoại ấy.”

Cô bỏ đi trước khi hai người kịp nói lời cảm ơn.

Họ lên tầng trên và nhìn ngắm qua một lượt. Toàn bộ nội thất đều là đồ cổ, với cách bài trí rất tinh tế và chỉn chu. Web tin chắc rằng phần lớn khung cảnh ở đây là dấu ấn của Gwen Canfield. Billy Canfield không có vẻ gì là mẫu người thích tốn thời gian chăm sóc nhà cửa.

“Ôi trời ơi. chỗ này chúa thật.” Romano thốt lên.

“Ừ chúa nhất là ở chỗ nó nằm quá xa những người mà chúng ta cần bảo vệ, tớ không thích chút nào.”

“Vậy thì hãy gọi cho Bates và bảo anh ta gọi cho Canfield và để mặc cho hai người quát tháo với nhau. Hai thằng mình chỉ là thiên lôi trên chỉ đâu thì đánh đấy.”

“Vậy cậu nghĩ thế nào về Gwen Canfield?”

“Có vẻ khá tử tế. Trông cô ta cũng bắt mắt đấy chứ. Một phụ nữ ra phụ nữ. Thằng cha Canfield này may mắn thật.”

“Đừng có tơ tưởng gì đấy Paulie.”

“Ừ, để rồi Angie xé xác tớ ra ấy à.”

“Dỡ đồ của cậu ra đi rồi tụi mình lượn vài vòng. Tớ muốn lúc nào cũng phải kè kè bên Canfield. Nếu chúng ta muốn bảo vệ ông ta thì ít nhất chúng ta cũng phải có mặt bên cạnh ông ta chứ. Và có lẽ chúng ta sẽ phải luân phiên nhau đấy, Paulie, thay nhau ngủ.”

“Hê hê, lại như những ngày xưa yêu dấu khi còn là xạ thủ bắn tỉa.”

“Ừ, những ngày xưa yêu dấu, chỉ có điều là cậu ngáy như một con tầu chất đầy hàng ấy.”

“Thôi rồi. Angie đã chữa cho tớ rồi.”

“Cô ấy làm cách nào vậy?”

“Tớ thật sự không muốn nhắc đến chuyện này. Web.”

Hai người bước ra ngoài và ngay lập tức va phải Percy Bates đang bước vào.

“Có thông tin gì về quả bom chưa?” Web hỏi.

“Đó là một thiết bị cực kỳ tinh vi, theo những gì mà các chuyên viên kỹ thuật cho biết. Chúng tôi đang thẩm vấn tất cả những người có thể liên quan, nhưng vẫn chưa lần ra manh mối nào. Có điều là chiếc điện thoại đó không thể tự nhiên mà vào trong xe được.”

“Vậy là có kẻ làm tay trong rồi. Một thành viên của Hội Tự Do giả danh trà trộn vào đây chăng?” Web nhận xét.

Bates gật đầu, trông anh có vẻ rất lo lắng. “Chúng vẫn tuyển mộ thành viên từ những khu vực như thế này. Những gã da trắng ở nông thôn thích súng và đất đai cùng nếp sống ngày xưa, vai u thịt bắp, không có khả năng thích ứng trong một thế giới đang đổi thay liên tục.”

“Đã có chuyện gì xảy ra với bọn Hội Tự Do ở miền nam Virginia chưa?”

“Chúng ta đã bố trí rất nhiều nhân viên theo dõi chúng nhưng đến nay vẫn chưa có gì mới. Có lẽ hiện tại chúng đang ém mình sau tất cả những hoạt động vừa qua. Làm như thế là khôn ngoan nhất. Và chúng cũng đâu có ngu. Chúng phải biết thừa là chúng đang bị tình nghi trong vụ này và chúng ta đang theo dõi. Tất cả những gì chúng ta cần lúc này là một mắt xích, để có thể lần ra chúng.”

“Canfield đâu rồi? Dù sao tôi cũng phải để mắt tới người mà tôi được phân công bảo vệ.” Bates nói, “Và cả Gwen nữa chứ. Cô ta cũng nhận được những lời đe dọa lấy mạng giống như chồng mình.”

Web suy nghĩ một lát. “Hừm, Paulie và tôi có thể chia nhau công việc, nhưng có lẽ tăng cường thêm người sẽ tốt hơn. East Winds có vẻ là một nơi quá rộng.”

“Hai nghìn mẫu Anh và sáu mươi tám ngôi nhà, tất tật. Tôi cũng đã đề cập chuyện này với Canfield và ông ta nói nếu tôi muốn đưa thêm người vào đây ông ta sẽ gặp tôi tại tòa và sau đó là địa ngục, và tôi biết thằng cha này không nói đùa đâu. Tất cả chỉ phụ thuộc vào hai cậu thôi đấy. Nhưng nghe này, Web, chúng tôi cũng sẽ ở quanh đây thôi.”

“Tôi nhớ rồi, Perce.”

“À mà Web này?”

“Gì vậy?”

“Cám ơn anh đã cứu mạng tôi.”

*

Họ tìm thấy Billy Canfield ngoài khu chuồng ngựa, nơi ông ta đang kiểm tra chân trước của một con ngựa đực trong khi Nemo Strait và hai thanh niên khác mặc trang phục kỵ sĩ đang đứng giữ cương.

Canfield nói với một gã thanh niên, “Tốt nhất là gọi cho bác sĩ thú y. Có thể chỉ là bong gân, nhưng cũng có thể là rạn xương. Mẹ kiếp, hy vọng là không.”

Gã thanh niên vừa quay người bước đi thì Canfield gọi với sau lưng anh ta, “Và nhớ bảo cái thằng đóng móng khốn kiếp ấy là nếu nó không mang đến loại móng nào tốt hơn thì ta sẽ thay người khác. Chúng ta có vài con ngựa có móng guốc mềm và hợp với chúng nhất phải là những loại móng dán vậy mà thằng cha đó thậm chí còn không bao giờ mang đến.”

“Vâng thưa ông.”

Canfield vỗ vỗ lên sườn con ngựa, chùi tay và bước tới chỗ những đặc vụ FBI đang đứng.

“Đóng móng là sao?” Romano hỏi.

“Tức là thợ đóng móng sắt cho ngựa ấy,” Canfield trả lời.

“Một loại thợ rèn danh giá. Ngày trước ở trang trại ngựa nào cũng phải thường xuyên có một thợ đóng móng. Còn bây giờ cứ một tuần chúng lại qua các trang trại một lần, trong xe có sẵn cả bễ, rồi búa, rồi đe: những khuôn móng sắt đúc sẵn và thực hiện công việc. Chúng lấy giá cắt cổ. Nhưng xét cho cùng thời buổi này còn ai muốn làm những công việc như thế nữa chứ? Vừa nặng nhọc, vừa vất vả lại nguy hiểm nữa, nhỡ không may vớ phải mấy con ngựa điên đá cho phòi óc ra chứ chẳng chơi.”

“Thế còn những chiếc móng dán mà ông vừa nhắc đến thì sao?” Web tò mò .

Strait trả lời, “Nhiều khi móng guốc của một con ngựa nào đó đã quá mòn nên cứ đóng đinh vào là vỡ, nhất là những con ngựa nhập về từ châu u, vì sự khác biệt về thời tiết và đất; nên móng của chúng rất giòn. Một chiếc móng ngựa mềm thì không cần đinh, chẳng khác nào một chiếc túi nhỏ bọc ngoài móng guốc của ngựa. Nếu thao tác chuẩn xác thì cũng dùng được hai ba tháng. Còn loại móng dán thì đơn giản thôi: chỉ việc dính vào móng guốc của ngựa bằng keo, không cần dùng đinh .”

“Nghe có vẻ nghề chơi cũng lắm công phu thật.”

“Hừm, được cái xưa nay tôi học cái gì cũng nhanh.” Billy vừa nói vừa liếc xéo vào mặt Strait. Sau đó ông ta chằm chằm nhìn Bates. “Các anh đã thẩm vấn xong mấy người làm của tôi chưa? Tôi còn cả một trang trại cần vận hành đây này.”

“Chúng tôi sắp rời khỏi đây rồi.”

Canfield nhìn Web rồi chỉ sang Bates. Anh ta có nói với tôi về tất cả những vụ giết người liên quan đến điện thoại vừa qua. Nhưng quả là anh nhanh trí thật.”

“Tôi cũng là người học nhanh mà, Web nói.

Canfield tò mò nhìn anh. “Vậy điều anh muốn học trong thời gian sắp tới là gì vậy?”

“East Winds. Tôi muốn nắm rõ từng centimet vuông của trang trại này.”

“Anh phải nhờ Gwen giúp thôi. Tôi còn cả đống việc khác phải quan tâm.”

Web quay sang nhìn Romano. “Nếu vậy Paulie sẽ đi cùng ông.”

Trông Canfield như sắp nổ tung đến nơi, nhưng cuối cùng ông ta cũng kìm chế được. “Được rồi.” Ông ta nhìn Romano. “Paul, anh biết cưỡi ngựa chứ?”

Romano giật mình, hấp háy mắt và quay sang nhìn Web rồi lại nhìn Canfleld. “Tôi chưa cưỡi bao giờ.”

Canfield choàng một cánh tay qua vai anh chàng HRT và mỉm cười thích thú.

“Hừm. Hy vọng anh cũng học nhanh như anh bạn kia.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro