Người Lính Tây Tiến

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Có ý kiến cho rằng, nhắc đến 10 nhà thơ tiêu biểu của cuộc kháng chiến chống Pháp thì có lẽ chưa có tên Quang Dũng, nhưng nhắc tới 10 bài thơ tiêu biểu trong thời kì chống Pháp, chắc chắn có Tây Tiến. Nói như PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, "Tây Tiến quả là một nét son đẹp nhất trong đời thơ Quang Dũng. Cả bài thơ hiện ra như một sự hoà điệu đẹp đẽ giữa thơ - nhạc - hoạ". "Tây Tiến" thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc và những con người cùng vào sinh ra tử trong kháng chiến. Nếu ở 2 đoạn thơ đầu của bài thơ, hình tượng người lính đã xuất hiện gián tiếp thì ở đoạn thơ này nhà thơ đã khắc hoạ chân dung của của các anh một cách rõ nét chân thực hơn:

"Tây Tiến đoàn binh k mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"


Quang Dũng là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ông là một nghệ sĩ đa tài từ vẽ tranh, làm thơ, viết văn cho đến soạn nhạc với một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Bài thơ được ông viết vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, sau hơn 1 năm chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến, mặc dù đã nhận nhiệm vụ mới nhưng lòng vẫn luôn nhớ về đồng đội và những kỉ niệm một thời trận mạc. Ban đầu bài thơ có tên " Nhớ Tây Tiến" sau đổi thành "Tây Tiến", in trong tập "Mây đầu Ô"

Đầu tiên nhà thơ đã khắc hoạ ngoại hình của người lính Tây Tiến. Hai câu thơ đầu là bức chân dung người lính hiện lên với những nét vẽ chân thực qua hình ảnh so sánh, tương phản, một vẻ đẹp bi tráng:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh "đoàn binh không mọc tóc" và "dữ oai hùm" là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên quái đản. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực thế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội "lá ngụy trang reo với gió đèo" mà còn cá những anh vệ trọc nổi tiếng một thời. Cho nên, những hình ảnh đó vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sông gian khổ mà người lính phải chịu đựng Ngoại hình của người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị: "không mọc tóc", "quân xanh màu lá". Đó là nguyên do của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính, tất cả làm mái tóc xanh của các chàng trai trẻ không còn nữa, da dẻ héo úa như tàu lá. Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng, nhà thơ sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính. Cách nói "không mọc tóc" là để tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui, hóm hỉnh: không cần tóc mọc à thấy người lính Tây Tiến rất lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ. Mặt khác cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt "Đoàn binh". Chữ "đoàn binh" chứ không phải là "đoàn quân" đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Kết hợp với ba từ "dữ oai hùm" đã gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm à người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. Bút pháp lãng mạn đã tạo ra cái nhìn xoáy vào bên trong khiến hình tượng người lính hiện lên ốm mà không yếu, khắc khổ mà không tiều tụy.
Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão cũng miêu tả người tráng sĩ với "Hào khí Đông A":

"Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"

(Múa giáo non sông đã mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Vẻ đẹp của câu thơ trên chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến, một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người người lính cụ Hồ hôm nay.

Hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn, đa tình của các chàng trai Tây Tiến:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

"Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới" (Vũ Quần Phương). Hai chữ "Mắt trừng" gợi nhiều liên tưởng: "mắt trừng" là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy "gửi mộng qua biên giới" đó là mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. "Mắt trừng' còn là đôi mắt có tình, đôi mắt "mộng mơ" thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng "kiều thơm" về bóng hình của những người bạn gái Hà Nội, thanh lịch, yêu kiều, diễm lệ.
Với ý nghĩa ấy ta thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng đó là một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt vẻ đẹp này trong bài thơ Đất Nước:

"Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu"

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa.

Các anh còn mang vẻ đẹp lí tưởng của thời đại: "Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh"

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Câu thơ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính, gợi cái bi thương: "biên cương", "viễn xứ" là nơi biên giới xa xôi, heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

Bốn từ "chẳng tiếc đời xanh " vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ phong trần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". "Chiến trường" là bom đạn khốc liệt là cái chết cận kề là dữ dội nguy nan . Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, "đời xanh", một quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống than thản không một chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, coi cái chết "nhẹ tựa lông hồng".
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ của Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được một phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh".

Cuối cùng là vẻ đẹp của sự hi sinh bi tráng của những người con anh dũng của đất nước:

"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Nhà thơ đã nói lên một sự bi thảm là: Người lính hi sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ của Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. "Áo bào" là sự kết hợp hai từ "áo vải" và "chiến bào" khiến cho "áo bào" vừa bình dị vừa sang trọng.
Cách nói "áo bào thay chiếu" là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, cũng là tấm áo bào của lòng thành kính đưa những người con ưu tú của dân tộc về với đất mẹ. "Anh về đất" là cách nói giảm, nói tránh đi cái chết làm câu thơ bi mà không lụy. "Về đất" không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại.
Con sông Mã, chứng nhân của lịch sử, bạn đồng hành của Tây Tiến, cũng nhỏ dòng lệ cảm thương lay động cả đất trời, đã gầm lên "khúc độc hành" khúc tráng ca bi hùng rực rỡ nét sử thi "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc thiêng tiễn đưa người lính về với nơi an nghỉ cuối cùng.

Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung chính là việc nhà thơ sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật: phép tương phản, đối lập gây ấn tượng mạnh. Đối lập, tương phản giữa cái ngoại hình ốm yếu, tiều tụy với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ ở bên trong; sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính; biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ... ngôn ngữ sử thi, lãng mạn, hào hùng. Cùng với đó là việc dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: "Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ". Động từ "gầm" trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.

Tháng năm đi qua chỉ còn những vần thơ ở lại. "Tây Tiến" của nhà thơ Quang Dũng cũng đã ở lại trong trái tim của mỗi bạn đọc bằng hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp độc đáo, hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Bên cạnh đó còn là những tình cảm mà Quang Dũng dành cho những người đồng đội, đồng chí của mình. Khi đọc bài thơ này nhà thơ Giang Nam đã vô cùng xúc động và có lẽ tiếng lòng của Giang Nam cũng chính là tiếng lòng của biết bao nhiêu độc giả dành tình cảm cho "Tây Tiến" của nhà thơ Quang Dũng:

"Tây Tiến biên cương mờ lửa khói

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy, con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#phượng