TH_HDH_Thuần phục Windows_Trẻ hóa Windows_Gỡ bỏ Windows XP SP 2 một cách an toàn_Gia tăng hiệu suất

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thuần phục Windows

Thực hiện: Phương Uyên

50 thủ thuật giúp bạn thuần phục Windows, trừ khử sự lộn xộn trong PC và ngăn chặn những phiền toái ngay từ đầu.

Khi gặp điều phiền toái thì có 2 khả năng: hoặc là bạn nổi điên hoặc cam chịu. Tuy nhiên còn có lựa chọn thứ ba: thuần phục nó. Loại bỏ những chương trình, biểu tượng và các dịch vụ Windows không cần thiết và bạn sẽ tống khứ được nhiều phiền toái. Hầu hết những công cụ cần thiết đều có sẵn, chủ yếu là những thủ thuật tinh chỉnh Windows và các chương trình để chúng chỉ làm những gì bạn muốn. Bạn cũng nên thay các chương trình thông dụng nhưng cồng kềnh và tốn kém bằng những chương trình đơn giản hơn. Nếu lỡ quá đà và làm cho PC trở nên 'đờ đẫn', cũng có cách giúp bạn quay lui.

KHỞI ĐỘNG VÀ KẾT THÚC TRƠN TRU

Nhờ sự ổn định của Windows 2000 và XP, giờ đây bạn không còn phải thường xuyên khởi động PC nữa. Nhưng dù sao, với mục tiêu thuần phục Windows, bạn cũng cần tìm hiểu qui trình khởi động. Càng ít chương trình thừa nạp lúc khởi động, Windows càng được kích hoạt nhanh hơn và càng có nhiều vùng nhớ hơn dành cho các ứng dụng. Hơn nữa, kiểm soát các chương trình nạp lúc khởi động sẽ giúp bạn tránh được những phiền toái do phần mềm gián điệp hay virus gây ra.

Bước đầu tiên để giảm tải lúc khởi động là gỡ bỏ các chương trình không dùng đến, đặc biệt là những chương trình luôn đặt biểu tượng ở khay hệ thống (góc dưới trái, chỗ hiện giờ hệ thống). Trước hết hãy tìm trong menu Start biểu tượng gỡ cài đặt (uninstall) ở chung chỗ với biểu tượng chính của chương trình. Nếu không thấy biểu tượng này, hãy dùng công cụ Add or Remove Programs trong Control Panel của Windows, chọn chương trình không cần thiết và nhấn nút Remove hay Change/Remove để thực hiện gỡ bỏ.

Tiếp theo, có thể bạn cần để mắt đến các chương trình vẫn muốn giữ lại nhưng không phải lúc nào cũng cần chạy. Ví dụ chương trình QuickTime của Apple luôn nạp tập tin qttask.exe lúc khởi động, mỗi khi bạn xem phim QuickTime, chương trình sẽ tự nạp lại vào khay hệ thống. Hãy loại bỏ những chương trình như vậy để giảm tải quá trình khởi động (bạn vẫn có thể dùng chúng khi cần). Để thực hiện việc này, hãy tìm trong tất cả những nơi Windows dùng để gọi các chương trình lúc khởi động và cấm những chương trình không cần.

Giảm tải quá trình khởi động

Có 4 cách để Windows gọi chạy các chương trình tự động lúc khởi động: khai báo shortcut chỉ đến chương trình trong mục Startup của menu Start (Start.All Programs.Startup); khai báo trong registry; khai báo theo kiểu cũ trong tập tin system.ini hay autoexec.bat; hay khai báo trong Computer Management console (nếu chương trình thuộc loại đặc biệt gọi là service - dịch vụ).

Hình 1: Gỡ bỏ khỏi menu Startup các chương trình không thật sự cần thiết chạy lúc khởi động Windows

Bạn duyệt qua từng nơi và cấm hay gỡ bỏ các tham chiếu đến chương trình không cần chạy mỗi khi khởi động. Một cách dễ dàng để thực hiện công việc này là dùng tiện ích System Configuration của Windows, nó có thể gỡ bỏ những tham chiếu như vậy ở cả 4 nơi (nếu dùng Windows 2000, trước hết hãy tải về công cụ msconfig ở địa chỉ www.perfectdrivers.com/howto/msconfig.html và lưu vào folder c:\winnt\system32).

Chọn Start.Run, gõ vào msconfig trong vùng Open và nhấn OK để gọi chạy công cụ. Các chương trình liệt kê ở mục Startup lấy từ registry; mặc dù ít có trường hợp chương trình dùng system.ini hay win.ini để tự khởi chạy, nhưng bạn cũng nên duyệt qua các mục này nếu không tìm thấy ở những nơi khác. Bạn cũng có thể dùng msconfig để quản lý các service, tuy nhiên có cách thức tốt hơn để tắt chúng nhanh chóng.

Để cấm một chương trình khởi chạy, hãy xóa ô đánh dấu chọn ở kế bên nó, nhấn OK và khởi động lại máy. Nếu xảy ra trục trặc, hãy vào lại System Configuration Utility và đánh dấu chọn lại chương trình.

Bạn có thể rút ngắn thời gian khởi động và giải phóng thêm bộ nhớ bằng cách ngừng các service không cần, sau đó thiết lập để chúng không khởi chạy cùng với Windows. Mở Services Console: nhấn phải chuột lên My Computer và chọn Manage. Khi cửa sổ này mở, ở khung bên phải bạn nhấn đúp Services and Applications (hay nhấn vào dấu cộng kề bên) để mở khoản mục này, kế tiếp chọn Services xuất hiện bên dưới.

Services Console hiển thị các service đang chạy ('Started') và cách thức service được kích hoạt: Automatic (kích hoạt mỗi khi hệ thống khởi động, bất chấp bạn có cần hay không), Manual (không chạy lúc khởi động nhưng Windows có thể kích hoạt dịch vụ khi cần), hay Disabled (hoàn toàn không chạy, ngay cả khi Windows cần).

Tất nhiên, việc cấm một hay nhiều dịch vụ mà Windows có lúc cần đến có thể gây nên một vài trục trặc. Bạn có thể tham khảo danh sách các dịch vụ Windows cùng với thông tin chi tiết ở website UK Security Online (www.uksecurityonline.com/husdg/windowsxp/disableservices.htm) để biết những dịch vụ nào có thể cấm an toàn.

Stanby để tăng tốc

Hình 2: Ngưng các service không cần thiết

Dù bạn có loại bỏ bao nhiêu chương trình và dịch vụ, hệ thống vẫn mất nhiều thời gian để khởi động (startup) và kết thúc (shutdown). Có một cách thức tốt hơn để trị bệnh cho PC của bạn: Đưa PC về chế độ Stanby hay Hibernate thay vì tắt hoàn toàn. Stanby tắt nguồn màn hình và các ổ đĩa nhưng vẫn duy trì nguồn cho CPU và bộ nhớ, cho phép bạn 'đánh thức' PC và quay lại với công việc đang làm chỉ trong vài giây. Hibernate ghi thông tin trong bộ nhớ xuống đĩa và tắt PC hoàn toàn; khi khởi động lại, PC sẽ đọc lại thông tin của phiên làm việc được lưu trên đĩa, nhờ vậy bạn có thể vào ngay công việc đang làm trước đó.

Chế độ Hibernate thích hợp cho máy tính xách tay (để tối ưu thời gian dùng pin), còn Stanby thích hợp cho máy tính để bàn. Nhấn đúp biểu tượng Power Options trong Control Panel; chọn mục Power Schemes; thiết lập các tùy chọn màn hình, đĩa cứng và Stanby; sau đó nhấn OK. Để bật chế độ Hibernate, nhấn thẻ Hibernate, đánh dấu chọn Enable hibernation, và nhấn OK. Một số PC, nhất là những PC cũ, có thể không hỗ trợ chế độ Stanby hay Hibernate; nếu vậy bạn sẽ không thấy thẻ Hibernate.

THANH LỌC DESKTOP VÀ MENU

Đôi khi thật khó biết hiện Windows có những công cụ gì. Để dễ dàng tìm thấy công cụ cần thiết, hãy loại bỏ các biểu tượng trùng trong menu Start, trong thanh công cụ Quick Launch và trên desktop. Có thể bạn muốn một vài biểu tượng xuất hiện ở nhiều nơi, tuy nhiên để đơn giản, chỉ nên bố trí biểu tượng ở nơi thích hợp nhất.

Thanh lọc biểu tượng

Việc gỡ bỏ các phần mềm có tính năng hạn chế hay dùng thử thường không xoá đi shortcut trên desktop. Thật may, Windows XP có cung cấp một công cụ tiện lợi để xoá sạch các biểu tượng desktop không dùng đến. Nhấn phải chuột trên desktop, chọn Properties, nhấn thẻ Desktop và nhấn nút Customize Desktop. Nhấn Clean Desktop Now để kích hoạt wizard tìm các biểu tượng mà gần đây bạn không dùng đến và chuyển chúng vào folder Unused Desktop Shortcuts. Khi chỉ còn lại một ít biểu tượng trên desktop (chẳng hạn như Recycle Bin), hãy liên kết chúng với thanh tác vụ để bạn không phải thu nhỏ các ứng dụng đang làm việc chỉ để nhìn thấy chúng: Nhấn phải chuột lên thanh tác vụ và chọn Toolbars.Desktop. Kế tiếp nhấn chuột phải tên thanh công cụ mới (nếu 'Lock the Taskbar' được đánh dấu chọn, hãy bỏ chọn nó, nhấn chuột phải thanh tác vụ lại để thêm thanh công cụ desktop). Trên menu hiện ra, bạn sẽ thấy các tuỳ chọn thay đổi kích thước biểu tượng và bật/tắt hiển thị tựa đề của thanh công cụ hay tên của biểu tượng.

Hình 3: Dùng Desktop Cleanup Wizard để dọn sạch các icon không dùng đến khỏi desktop

Menu Start của Windows có khả năng cấu hình cao - nhấn phải chuột nút Start, nhấn Properties, chọn thẻ Start Menu, chọn hoặc là Start menu (mặc định của XP) hoặc là Classic Start (đổi sang dạng menu giống Windows 2000), rồi nhấn nút Customize để hiển thị các tuỳ chọn. Tuỳ sở thích riêng, tuy nhiên bạn có thể loại bỏ 2 biểu tượng trùng trong menu Start mặc định bằng cách bỏ chọn các tuỳ chọn Internet và E-mail (mặc định, các liên kết đến các chương trình này xuất hiện trong thanh công cụ Quick Launch). Nhấn thẻ Advanced để xem thêm các tùy chọn tinh chỉnh. Nếu bạn ít dùng đến các mục sau của menu Start: Favorites, Search, Set Program Access and Default, Help and Support... bạn có thể làm biến mất chúng bằng cách bỏ chọn chúng trong danh sách 'Start menu items' và nhấn OK.

Thanh Quick Launch, nằm ở bên phải nút Start, là phương thức kích hoạt ứng dụng thường dùng thuận tiện nhất - bạn có thể gọi chạy các chương trình ưa thích chỉ với một nhấn chuột (nếu không thấy thanh Quick Launch, nhấn chuột phải lên thanh tác vụ và chọn Toolbars.Quick Launch).

Hãy loại bỏ các biểu tượng ít dùng đến (nhấn chuột phải lên biểu tượng và chọn Delete). Bạn cũng có thể thay đổi kích thước thanh công cụ Quick Launch (kéo thanh ở bên phải thanh công cụ với điều kiện không khoá), sắp xếp các biểu tượng (kéo từng cái một) và giấu đi tựa đề của thanh công cụ và tên của các biểu tượng. Hầu hết chương trình, khi cài đặt với thiết lập mặc định, sẽ đặt biểu tượng trên desktop, trong Quick Launch và trong menu Start - quá 'phung phí'. Để ngăn tình trạng hỗn độn biểu tượng về sau, nên chọn tùy chọn 'custom' khi cài đặt ứng dụng mới để có thể quyết định nơi đặt biểu tượng.

Thanh lọc khay hệ thống

Gỡ bỏ các ứng dụng không cần thiết sẽ làm giảm số biểu tượng trong khay hệ thống, nhưng bạn còn có thể thanh lọc thêm nữa: Windows, các thiết bị phần cứng và các tiện ích hệ thống cài đặt biểu tượng để cho phép truy cập nhanh các thiết lập hoặc để hiển thị trạng thái. Thanh lọc khay hệ thống sẽ giải phóng không gian trên thanh tác vụ để dành chỗ cho những ứng dụng quan trọng hơn (xem phần '15 biểu tượng có thể bỏ'). Thao tác trên khay hệ thống dễ dàng hơn khi tất cả biểu tượng của nó đều được hiển thị: Trong Windows XP, nhấn phải chuột lên nút Start, chọn Properties, nhấn thẻ Taskbar, bỏ chọn Hide inactive icons, và nhấn OK (có thể bạn sẽ muốn bật lại tính năng này khi thực hiện xong). Nhấn chuột phải hay trái trên từng biểu tượng để hiện các tùy chọn cấu hình (mỗi biểu tượng hành xử khác nhau). Ngay cả khi phần mềm không cho phép tắt biểu tượng ở khay hệ thống, Windows vẫn có thể giấu nó đi với tính năng tuỳ biến khay hệ thống (xem mục Outlook trong phần '15 biểu tượng có thể bỏ').

LOẠI BỎ NHỮNG ỨNG DỤNG VÔ ÍCH

Cũng như bản thân Windows, các ứng dụng bạn dùng hàng ngày theo thời gian sẽ trở nên 'mất trật tự'. Bạn cần giải phóng khỏi hộp thư đầy tràn, menu 'láu táu' che đi các lệnh cần dùng và các thanh công cụ không bao giờ dùng đến. Sau đây là cách thức để loại bỏ những thứ không cần thiết.

Đơn giản việc bảo mật

Hiện nay, việc bảo mật máy tính là quan trọng. Tuy nhiên, việc bật mọi tính năng bảo mật trên PC có thể làm ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc. Ví dụ, việc bật tính năng bảo vệ bằng mật khẩu (password) của trình tiết kiệm màn hình (screen-saver) cho phép bạn rời khỏi PC mà không lo có ai đó tò mò xem những thông tin nhạy cảm.

Hình 4: Tăng thời gian kích hoạt screen saver bằng cách dùng Tweek UI tăng 'grace period'

Nhưng screen-saver cũng có thể kích hoạt khi bạn bận nói chuyện điện thoại hay bận suy nghĩ gì đó và 'lơi là' máy tính. Có một khoảng thời gian chuyển đổi ('grace period') từ lúc screen-saver kích hoạt đến khi chế độ bảo vệ yêu cầu password có hiệu lực (trong khoảng thời gian này, khi bạn rê chuột hay nhấn phím bất kỳ thì screen-saver sẽ kết thúc ngay), mặc định là 5-10 giây. Bạn có thể tăng thời gian này lên để tránh phiền toái nhập đi nhập lại password. Công cụ miễn phí TweakUI PowerToys for Windows XP của Microsoft (find.pcworld.com/42714) có thể thực hiện công việc này. Chạy TweakUI, nhấn dấu cộng kế bên Logon ở khung bên trái, và nhấn Screen Saver bên dưới. Bạn có thể tăng 'grace period' đến 99999 giây, tuy nhiên chỉ cần trong khoảng 30-60 giây là đủ. Một cách khác, bạn có thể chỉnh sửa thẳng trong registry với công cụ regedit có sẵn (nhớ sao lưu registry trước khi chỉnh sửa). Duyệt đến khoá HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows NT\CurrentVersion\Winlogon, tạo mới biến DWORD đặt tên là 'ScreenSaverGracePeriod' (nếu đã có thì chỉ cần chỉnh sửa) và thiết lập Value thích hợp trong khoảng 0-2147483 (giây).

Windows XP SP2 bổ sung nhiều tính năng bảo mật hấp dẫn, đáng kể nhất là Windows Firewall. Khi bạn cài đặt SP2, một biểu tượng nhỏ có hình dạng giống cái khiên sẽ xuất hiện ở khay hệ thống. Biểu tượng này liên kết đến Security Center Control Panel, công cụ này cho phép bạn quản lý các thiết lập bật/tắt Automatic Updates và Windows Firewall. Nếu bạn dùng phần mềm firewall khác, Microsoft khuyến cáo nên tắt firewall tích hợp sẵn của Windows. Nhưng nếu làm như vậy, bạn sẽ nhận được hàng đống cảnh báo phiền toái ở khay hệ thống yêu cầu bật lại firewall. Để chấm dứt các cảnh báo này, hãy nhấn đúp lên biểu tượng để mở Security Center, nhấn liên kết Change the way Security Center alerts me ở bên trái, và bỏ chọn Firewall Alert. Cùng cách thức này cũng có thể giúp bạn tránh được phiền toái cảnh báo của Automatic Update, nếu bạn thực hiện cập nhật Windows thủ công và cấm Automatic Updates.

Tinh giảm menu

MS Office và nhiều chương trình khác dùng menu để giấu những lệnh thường dùng. Được thiết kế nhằm giúp sử dụng ứng dụng đơn giản nhưng trớ trêu là tính năng này lại làm khó tìm những lệnh ít dùng. Nếu thấy phiền toái, bạn có thể cấm tính năng menu tùy biến trong Outlook, Word, Excel hay Access bằng cách chọn Tools.Customize, đánh dấu Always show full menus rồi nhấn Close.

Hình 5: Loại bỏ các menu tùy biến trong MS Office để nhìn rõ ràng hơn

Có thể đôi khi bạn không muốn thấy toàn bộ menu. Một số ứng dụng như IE và Outlook cho phép kéo và thả (hay thay đổi kích thước) các thanh công cụ đến không gian tối thiểu. Các chương trình khác như trình duyệt Mozilla cho phép bỏ những thành phần ít dùng. Sau khi di chuyển hay thay đổi kích thước các thanh công cụ của IE, chốt chúng lại ở vị trí hiện tại bằng cách nhấn chuột phải lên thanh công cụ hay menu và chọn Lock the Toolbars.

Tinh giảm hộp thư

Khi số lượng thư trong hộp thư lên đến hàng trăm hay hàng ngàn, bạn sẽ dễ bỏ sót những thư quan trọng, ngoài ra việc tìm một email nào đó cũng mất nhiều thời gian. Vấn đề này có thể khắc phục.

Trước hết, dùng các công cụ lọc thư rác để loại bỏ những thư vớ vẩn có thể ẩn chứa virus (tham khảo bài 'Chống spam cho hộp thư' - TGVT A 6/2004, tr.84). Có thể bạn cần lưu giữ một vài thư để tham khảo sau này nhưng không nhất thiết để 'thường trú' trong Inbox. Hãy chuyển chúng sang các folder con và dùng tính năng lưu trữ của trình email để chuyển các thư cũ trước thời gian nào đó (ví dụ trước 3 tháng) vào một tập tin lưu trữ.

TỐI ƯU PHẦN CỨNG

Về lý thuyết, bất kỳ phần cứng nào được lắp và làm việc trên PC đều yêu cầu nguồn (điện), bộ nhớ và sự điều khiển của bộ xử lý. Loại bỏ những thiết bị không dùng đến có thể giúp cải thiện hiệu suất làm việc của hệ thống. Một số phần cứng, như adapter nối mạng không dây, cũng có thể làm giảm thời gian dùng pin (đối với MTXT) đáng kể, ngay cả khi bạn không nối mạng, ngoài việc tạo ra nguy cơ về bảo mật.

Nếu ít khi dùng modem, kết nối hồng ngoại, cổng Serial hay Parallel, bạn có thể dùng các thiết lập phần cứng để cấm một số hay cấm chung nhóm phần cứng này nhằm tiết kiệm pin. Nếu sau này cần dùng phần cứng đã cấm (chẳng hạn như cổng Serial), bạn có thể khởi động lại máy và chọn profile cho phép phần cứng này.

Để tạo một profile phần cứng mới, nhấn phải My Computer (trên desktop hay trong menu Start), chọn Properties, nhấn Hardware rồi nhấn Harware Profiles. Chọn profile hiện có (có thể bạn chỉ có một) và nhấn Copy, rồi nhấn OK (chép profile có sẵn là cách dễ nhất để tạo profile mới). Để thiết lập profile mặc định, dùng các nút mũi tên ở bên phải để di chuyển profile được chọn lên đầu danh sách. Windows sẽ sử dụng nó từ lần khởi động kế. Để cấm phần cứng trong profile hiện tại, nhấn phải My Computer, chọn Properties, nhấn Hardware và nhấn Device Manager. Nhấn phải chuột mục phần cứng mà bạn muốn cấm trong danh sách Device Manager (có thể bạn cần mở danh sách này trước), và chọn Disable (lưu ý: đừng cấm bất kỳ phần cứng nào được liệt kê bên dưới danh mục System Devices).

Hình 6: Hardware Profile cho phép cấm phần cứng không cần

Bạn cũng có thể tiết kiệm nguồn pin của MTXT bằng cách tháo ra các phụ kiện như PC Card, thẻ nhớ Flash, các thiết bị USB và FireWire. Để tránh xảy ra rắc rối mạng và tăng độ bảo mật, mỗi lúc chỉ nên dùng một mạng - cấm kết nối mạng không dây nếu đã nối mạng dùng dây. Hầu hết MTXT đời mới tích hợp Wi-Fi đều có nút bật/tắt ở bên ngoài.

Một đề xuất quan trọng: không phải mọi PC đều cần kết nối Internet. Nếu bạn có 2 hay 3 PC, hãy dành một máy để chơi game và những công việc khác không đòi hỏi kết nối Internet - chỉ việc tháo cáp điện thoại hay cáp mạng, hoặc cấm phần cứng mạng trong Device Manager. Nếu PC không nối mạng, nó sẽ ít bị virus tấn công.

Ngốn sạch không gian đĩa cứng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của hệ thống và dĩ nhiên bạn không thể cài đặt thêm phần mềm hay tạo thêm tài liệu mới. Bạn có thể giải phóng không gian đĩa đáng kể bằng cách xóa các file rác do các ứng dụng hay trình duyệt web tạo ra. Mở My Computer, nhấn phải ổ đĩa cài đặt Windows, chọn Properties rồi nhấn Disk Cleanup. Sau khi duyệt qua ổ đĩa, Windows sẽ hiện ra danh sách các mục có dung lượng đôi khi lên đến hàng trăm MB. Chọn những mục mà bạn muốn xóa và nhấn OK.

Từ bỏ trình dồn đĩa

Và đây là thủ thuật cuối cùng: Đừng mất thời gian dồn phân mảnh đĩa cứng. Trước đây, việc dồn liên tục các sector của file có thể giúp tăng tốc truy xuất đĩa. Việc dồn phân mãnh sẽ tăng không gian trống liên tục (cho phép bạn cài đặt các chương trình lớn) nhưng không giúp cải thiện tốc độ đáng kể đối với hầu hết PC hiện nay (xem bài 'Sao lưu để an toàn' - TGVT A 2/2004, tr.60). Thay vì vậy, hãy dành thời gian quí giá để thực hiện việc khác nếu bạn muốn tăng tốc PC.

MẶT TRÁI CỦA VIỆC THUẦN PHỤC WINDOWS

TUY VIÊC LOẠI BỎ các service, ứng dụng và những thứ lộn xộn khác trong PC là tốt, nhưng nếu làm quá đà có thể biến PC chỉ bị đôi chút phiền toái thành cỗ máy vô dụng. Nếu dùng Windows XP, công cụ System Restore có thể hậu thuẫn cho bạn phòng khi lỡ đà bước qua lằn ranh giữa việc thuần phục với việc 'tẩy não' PC.

Nói chung, nếu bạn không biết chắc gỡ bỏ hay cấm một chương trình hay service giải pháp nào tốt hơn thì hãy để nó lại (Google là công cụ tốt để tìm hiểu về một chương trình nào đó, chỉ việc tìm theo tên của nó), nếu không bạn có thể cấm nhầm chức năng Windows cần để khởi động.

Để đề phòng trường hợp này, hãy tạo đĩa CD cứu hộ (có thể khởi động) trước khi thực hiện (xem hướng dẫn ở TGVT A 11/2003, tr.116). Sau khi tạo đĩa CD, hãy kiểm tra thử và cất nó vào nơi an toàn và hy vọng không bao giờ phải dùng đến.

Bạn chỉ nên cấm những chương trình hay dịch vụ mà bạn biết là không cần thiết, sau đó giám sát hoạt động PC trong 1 ngày nhằm đảm bảo không gây sự cố gì. Luôn tiến hành thật cẩn thận, mỗi lần cấm một dịch vụ hay chương trình, sau đó khởi động lại máy để xem có trục trặc gì lúc khởi động không.

Nếu mọi việc đều ổn thỏa, hãy tạo điểm phục hồi mới

dùng công cụ System Restore, công cụ này sẽ lưu lại cấu hình hệ thống và cho phép bạn khắc phục việc chỉnh sửa Windows sai chỉ với vài nhấn chuột. Việc tạo điểm khôi phục với công cụ này rất dễ dàng: Chọn Start.All Programs (hay Programs). Accessories.System Tools.System Restore, chọn Create a restore point, nhấn Next, nhập thông tin mô tả điểm khôi phục (ví dụ như 'cấu hình chạy tốt trước ngày 11/9'), sau đó nhấn Create.

System Restore cũng có thể dùng để tạo điểm khôi phục trước khi cài đặt phần mềm mới, cho phép bạn rút lại bất kỳ thay đổi nào mà chương trình mới đã làm trên hệ thống. Với System Restore và đĩa CD cứu hộ, bạn có thể khá thoải mái thực hiện việc thuần phục Windows mà không phải lo mạo hiểm biến PC thành cỗ máy vô tri.

Phương Uyên

Trẻ hóa Windows

Thực hiện: Anh Thư

Máy tính của bạn trở nên chậm chạp, Windows chạy ì ạch. Đó chính là những dấu hiệu của sự lão hóa. Đã đến lúc bạn cần ra tay khôi phục lại sự nhanh nhẹn vốn có của Windows.

Việc cài đặt mới hoàn toàn Windows có thể giải quyết triệt để các trục trặc tích lũy dần trong quá trình sử dụng, nhưng cũng có những giải pháp khác giúp "hồi sức" Windows nhanh chóng hơn.

Hồi sức cho Windows

Trong trường hợp Windows gặp trục trặc nhưng chưa đến mức "ngã quỵ" thì bạn không cần thiết phải cài đặt lại Windows mà chỉ phải thực hiện tinh chỉnh vài thứ. Trên thực tế, những lỗi phát sinh trong quá trình khởi động Windows đều có thể được khắc phục dễ dàng. (Nếu hỏng hóc xảy ra trước khi Windows khởi động, hãy làm theo các hướng dẫn được đề cập trong bài "5 phút - thế là xong" - TGVT A tháng 01/2005, t.84).

Tinh giảm các ứng dụng tự khởi động

Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết số lượng các chương trình được nạp tự động khi Windows khởi động và hoạt động "ẩn" trong suốt quá trình hệ điều hành làm việc. Người dùng rất khó nhận biết được sự hiện diện này vì hầu hết biểu tượng của các chương trình này không hề xuất hiện trên khay hệ thống. Tất cả chương trình này đều chiếm bộ nhớ và những tài nguyên khác của máy, thậm chí có thể gây xung đột với một số chương trình khác.

Để liệt kê danh sách các chương trình khởi động cùng với Windows, bạn vào Start.Run, gõ vào msconfig và nhấn OK để mở cửa sổ System Configuration Utility. Do trong Windows 2000 không có tính năng này nên bạn cần dùng đến tiện ích bổ sung Startup Control Panel miễn phí của hãng Mike Lin (www.pcworld.com.vn, Download, ID: 46260). Trong giao diện System Configuration Utility, chọn nhãn Startup (hình 1), bỏ chọn chương trình mà bạn không muốn nạp trong quá trình khởi động.

Hình 1: Kiểm soát các ứng dụng được nạp trong quá trình khởi động Windows bằng tiện ích System Configuration Utility.

HĐH Windows 2000 không cần nạp một chương trình nào trong quá trình khởi động, còn Windows XP chỉ cần duy nhất một. Nếu không sử dụng Microsoft Messenger, hãy bỏ "msmsgs". Tuy nhiên việc làm này có thể phát sinh vài trục trặc với Outlook, Internet Explorer hoặc các phần mềm khác của Microsoft.

Ngược lại, Windows 98 (hay Win Me) lại yêu cầu nạp một số chương trình trong quá trình khởi động hệ thống. Vì vậy, đừng bỏ những chương trình như LoadPowerProfile, SystemTray, ScanRegistry, PCHealth và TaskMonitor kể cả khi các tên này xuất hiện hai lần vì có thể chương trình được dùng cho một quá trình khác trong lúc khởi động Windows. Nếu bạn cần đến tính năng Scheduled Tasks của Windows thì đừng bỏ Scheduler Agent. Bạn có thể chọn Start.Program.Accessories.System Tools.Scheduler Task để xem những chương trình nào đang sử dụng tính năng này. Với Win Me, bạn nên nhớ giữ lại StateMgr.

Với các chương trình nạp tự động khác, bạn cần kiểm tra để quyết định có giữ lại hay không. Bạn có thể đoán được ứng dụng đã đăng ký vào danh sách tự khởi động bằng cách đọc thông tin ở cột Command của nhãn Startup. Ví dụ, nếu thấy tập tin chương trình thuộc thư mục Roxio, gần như chắc chắn đó là chương trình Roxio. Ngoài ra, bạn cũng có thể sử dụng những dịch vụ tìm kiếm như Google chẳng hạn để tìm ra nguồn của những chương trình này. Đưa vào từ khóa là tên tập tin, chắc chắn bạn sẽ tìm thấy manh mối.

Hãy giữ lại tất cả chương trình liên quan đến ứng dụng tường lửa (firewall) và chống virus để đảm bảo chúng luôn hoạt động bảo vệ hệ thống. Mặt khác, một số ứng dụng tự động đặt biểu tượng trên khay hệ thống để dễ dàng khởi động thay vì phải kích hoạt từ Start, việc này gây lãng phí tài nguyên hệ thống, do đó hãy loại bỏ chúng.

Đôi khi bạn phải cân nhắc: nếu một tiện ích giúp cải thiện Windows, nó đáng được nạp. Nhưng nếu hệ thống hoạt động không ổn định, hãy thử vô hiệu tiện ích đó - ít nhất là tạm thời - để tìm hiểu xem có phải là nguyên nhân hay không.

Một số chương trình có khả năng xuất hiện lại trong danh sách tự khởi động dù bạn đã bỏ nó. Nguyên nhân là do những chương trình này có khả năng tự chỉnh sửa lại các thiết lập về mặc định (những phiên bản cũ của chương trình nghe nhạc Real Networks là một ví dụ điển hình). Để khắc phục tình trạng này, bạn hãy khởi động ứng dụng đó, kiểm tra các menu và bỏ tùy chọn "Load at startup".

Trường hợp không tìm thấy tùy chọn này, hãy thử kiểm tra thêm thông tin tại trang web của nhà sản xuất hoặc liên hệ bộ phận hỗ trợ kỹ thuật. Nếu vẫn tiếp tục không có giải pháp để tắt tính năng này cũng như không có nhiều lý do để bạn sử dụng chương trình đó nữa, hãy gỡ bỏ chúng khỏi hệ thống.

Loại bỏ những ứng dụng không cần thiết

Hình 2: Gỡ cài đặt những chương trình không còn sử dụng.

Những ứng dụng không dùng đến có thể làm xáo trộn và giảm hiệu suất của Windows. Hãy gỡ cài đặt (uninstall) các chương trình đó ra khỏi hệ thống càng sớm càng tốt, dù việc này không phải đơn giản.

Đa số các chương trình đều có sẵn thủ tục gỡ cài đặt nhưng không thể gỡ bỏ hoàn toàn mọi thứ đã cài vào hệ thống. Các nhà phát triển phần mềm đều muốn phần mềm của họ được sử dụng, vì vậy những thủ tục gỡ bỏ cài đặt thường được tạo một cách miễn cưỡng.

Dù vậy sử dụng thủ tục gỡ cài đặt có sẵn của chương trình vẫn là sự lựa chọn tốt nhất. Nếu không tìm thấy thủ tục đó, hãy chọn Start.Control Panel.Add or Remove Programs (trong Windows XP) hoặc Start.Settings.Control Panel.Add/Remove Programs (các phiên bản Windows khác). Tìm chương trình muốn gỡ bỏ trong danh sách Currently installed programs hoặc Install/Uninstall (trong Windows 98). Nhấn Add/Remove hoặc Change/Remove (hình 2) và thực hiện theo hướng dẫn.

Tuy nhiên, bạn vẫn chưa hoàn toàn gỡ bỏ chương trình khỏi hệ thống. Hãy mở cửa sổ System Configuration Utility để xem liệu tập tin tự khởi động của ứng dụng đó đã thật sự được xóa chưa? Nếu tập tin đó vẫn còn, bạn vô hiệu hóa chúng (xem mục " Tinh giảm các ứng dụng tự khởi động"). Kế đến, mở cửa sổ Windows Explorer, tìm và xóa thư mục chứa ứng dụng đó trong "C:\Program Files" (nếu ứng dụng được cài đặt vào thư mục này). Và nếu biểu tượng của ứng dụng trên vẫn còn trong trình đơn Start, nhấn phải chuột lên biểu tượng đó và chọn Delete.

Để chỉ định lại chương trình dùng để mở các tập tin liên quan thay thế cho chương trình vừa bị gỡ bỏ, mở Windows Explorer, chọn Tools.Folder Options (trong Windows 98 là View.Folder Options), sau đó nhấn vào nhãn File Types. Trong mục Registered file types, kiểm tra phần mở rộng tập tin của chương trình đã gỡ bỏ. Nếu tìm thấy, nhấn Change và chọn chương trình thay thế để mở dạng tập tin đó. Ví dụ: nếu đã gỡ bỏ một phần mềm biên tập ảnh, bạn có thể chỉ định lại tiện ích Paint của Windows để mở những tập tin có phần mở rộng .bmp hoặc chọn Delete để yêu cầu Windows nhắc nhở người dùng chọn chương trình mở các tập tin định dạng này vào những lần sau.

Ngoài ra, bạn cũng cần xóa sạch những thông tin của chương trình này được lưu trong Windows Registry (xem mục "Dọn dẹp Registry").

Phòng chống Spyware

Bạn nên thường xuyên kiểm tra các phần mềm gián điệp (spyware) nhiễm vào hệ thống, nhất là khi Windows hoạt động một cách khác thường.

Thực tế, không có một phần mềm nào thật sự hiệu quả vì thế bạn nên kết hợp sử dụng nhiều chương trình với nhau. Trong số những phần mềm miễn phí thì Ad-Aware (www.pcworld.com.vn, Download, ID: 42748) và Spybot Search & Destroy (www.pcworld.com.vn, Download, ID: 42746) được đánh giá có khả năng phát hiện và quét phần mềm gián điệp tốt nhất. Bạn nên tải về các bản cập nhật mới nhất trước khi tiến hành kiểm tra toàn bộ hệ thống.

Bạn cũng có thể tham khảo website SpywareGuide (www.spywareguide.com, hình 3), nơi cung cấp nhiều thông tin hữu ích với cơ sở dữ liệu hơn 800 phần mềm gián điệp hoặc đọc thêm các hướng dẫn để phát hiện và phòng chống phần mềm gián điệp tại find.pcworld.com/46320.

Hình 3. Tham khảo thông tin về spyware trên website của SpywareGuide.

Cập nhật trình điều khiển

Hình 4. Chọn Update Driver trong hộp thoại Properties để cập nhật trình điều khiển thiết bị.

Một biện pháp hữu dụng để Windows luôn hoạt động suôn sẻ là thường xuyên kiểm tra và cập nhật các trình điều khiển thiết bị. Những phần mềm này sẽ giúp Windows làm việc tốt hơn với các thiết bị phần cứng trên hệ thống.

Nếu máy tính của bạn vẫn đang làm việc tốt thì không có lý do gì để cập nhật các trình điều khiển. Tuy nhiên nếu máy gặp trục trặc, việc này có thể giúp bạn khắc phục vấn đề. Trước hết, hãy mở cửa sổ Device Manager bằng cách nhấn phải chuột lên biểu tượng My Computer và chọn Properties. Tiếp đến trong Windows XP, bạn chọn nhãn Hardware và nhấn nút Device Manager (với Windows 98, chọn Device Manager).

Tìm các liệt kê được đánh dấu hỏi màu vàng hoặc dấu chấm than màu đỏ. Dấu hỏi thông báo cho bạn biết Windows đang sử dụng trình điều khiển cơ bản cho thiết bị đó thay vì sử dụng trình điều khiển chuyên biệt. Dấu chấm than thông báo thiết bị đó không còn hoạt động trong Windows. Thông thường, trình điều khiển của card đồ họa, card âm thanh và máy in cần được cập nhật thường xuyên trong khi trình điều khiển của những thiết bị hiển thị dưới các mục Computer, Disk drives, Floppy disk drives và Keyboards hiếm khi cần phải cập nhật.

Để cập nhật trình điều khiển, hãy nhấn đúp vào thiết bị tương ứng. Chọn Driver.Update Driver trong hộp thoại Properties (hình 4). Tính năng Hardware Update Wizard sẽ tự động tìm kiếm và cập nhật nếu tìm thấy trình điều khiển thích hợp trên đĩa cứng hay website Windows Update của Microsoft. Nếu không tìm thấy trình điều khiển cần thiết, hãy thử tìm một phiên bản mới tại website của nhà sản xuất hoặc dùng các website tìm kiếm với từ khóa là tên đầy đủ của sản phẩm và thêm từ khóa "driver". Khi tìm thấy bản cập nhật, bạn phải chắc chắn rằng nó tương thích với phiên bản Windows đang sử dụng. Tải trình điều khiển đó về máy và kích hoạt nó.

Cũng có thể việc cập nhật một trình điều khiển mới làm mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên với Windows XP, bằng cách chọn Roll Back Driver từ nhãn Driver của hộp thoại Properties sẽ giúp bạn khôi phục lại trình điều khiển cũ. Trong trường hợp đang sử dụng Windows 98, Me và 2000, do không có tùy chọn trên nên bạn phải thay thế bằng trình điều khiển cơ bản cho đến khi nhà sản xuất cung cấp bản sửa lỗi mới.

Dọn dẹp Registry

Cứ mỗi lần cài đặt phần mềm, thay đổi thiết bị phần cứng hoặc tải xuống thứ gì đó từ Internet, bạn đều tác động đến cơ sở dữ liệu hệ thống điều khiển mọi hoạt động của Windows. Đó chính là Registry. Việc dọn dẹp Registry sẽ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống. Trước khi bắt đầu, bạn cần đảm bảo có thể phục hồi Registry trở lại trạng thái cũ nhằm đề phòng trường hợp xảy ra sai sót. Windows 98, Me, XP (ngoại trừ Windows 2000) đều có tính năng tự động sao lưu Registry tuy nhiên lại không có tính năng mở rộng như tự sao lưu trước khi người dùng thực hiện việc cài đặt hoặc thay đổi cấu hình máy. Với dữ liệu cá nhân, bạn có thể sao lưu vào một phân vùng đĩa cứng khác để đề phòng sự cố nhưng điều này không thể thực hiện với Registry. Nếu ổ cứng của bạn bị hỏng, việc phục hồi Registry cũng trở nên vô dụng với một phiên bản Windows hoàn toàn mới.

Trong Windows XP và Me, bạn có thể sử dụng tiện ích System Restore để sao lưu Registry bằng cách chọn Start.All Programs.Accessories.System Tools.System Restore.Create a restore point và thực hiện theo các hướng dẫn trên màn hình. Để sao lưu Registry trong Windows 98, bạn hãy nhấn Start.Run, gõ vào scanreg và nhấn OK. Nếu không có thông báo lỗi nào xuất hiện thì nhấn Yes và OK để tiếp tục.

Windows 2000 không được tích hợp tính năng sao lưu Registry, vì thế bạn phải sử dụng phần mềm của một hãng thứ ba như Emergency Recovery Utility NT, một tiện ích miễn phí của hãng Lars Hederer (www.pcworld.com.vn, Download, ID: 42636).

Thay vì sử dụng tiện ích chỉnh sửa Registry có sẵn của Windows, sẽ dễ dàng và an toàn hơn khi tinh chỉnh Registry với tiện ích Reg Organizer giá 30USD của hãng ChemTable Software (www.chemtable.com). Các khóa Registry được hiển thị trực quan, rõ ràng với những thông tin như loại tập tin, chương trình liên quan... Thậm chí bạn có thể tạo một danh sách những khóa Registry thường dùng và truy cập nhanh chóng chỉ bằng một thao tác nhấn chuột.

Công cụ Registry Cleanup của Reg Organizer sẽ tìm kiếm trong Registry và hiển thị tất cả thiết lập lỗi. Qua đó, bạn có thể tùy thích sửa lỗi hoặc xóa hẳn. Nếu vừa gỡ bỏ một phần mềm, bạn cần sử dụng tính năng Search and Replace để xóa sạch tất cả những liệt kê có chứa tên phần mềm.

Nếu đủ tự tin và kinh nghiệm, bạn có thể sử dụng công cụ chỉnh sửa Registry có sẵn trong Windows là Registry Editor. Ngoài ra bạn cũng có thể tham khảo bài "Chăm sóc và bảo dưỡng Windows Registry" - TGVT A tháng 5/2002, t.90.

Làm mới Windows

Đôi lúc bạn không thể phục hồi "phong độ" cũ cho Windows có quá nhiều trục trặc. Hãy mạnh dạn cài mới lại Windows. Việc này có thể giúp bạn "giũ sạch" những trục trặc cũ và tạo ra một hệ thống mới hoàn toàn "khỏe mạnh".

Các bước chuẩn bị

Hình 5. Dùng tiện ích True Image của Acronis để tạo bản sao đĩa cứng.

Nếu mọi việc tiến hành suôn sẻ, bạn có thể hoàn tất việc cài đặt chỉ trong vài giờ, tuy nhiên bạn cũng cần tính đến một số trục trặc có thể xảy ra. Do vậy, sao lưu dữ liệu là một bước hết sức cần thiết. Hãy sao lưu tất cả dữ liệu vào thiết bị lưu trữ hoặc ghi đĩa CD. Một giải pháp tốt là sử dụng chương trình tạo bản sao đĩa cứng như True Image giá 50USD của Acronis (hình 5) giúp bạn phục hồi dữ liệu một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Kế đến, tập hợp các đĩa CD cài đặt Windows, đĩa phục hồi đi kèm với máy tính hoặc đĩa cài đặt các ứng dụng cần thiết khác. Nếu không có đĩa phục hồi, hãy thử tìm tiện ích phục hồi trong máy. Trong trường hợp có sử dụng những phần mềm chia sẻ tải về từ Internet, hãy kiểm tra để biết chắc mã đăng ký vẫn có tác dụng kích hoạt các phần mềm đó.

Lưu trữ tất cả trình điều khiển thiết bị hiện tại vào một thư mục riêng trước khi tiến hành cài đặt lại (lưu ý là không lưu trong thư mục "C:\Windows"). Bạn có thể tải về tập tin batch thực hiện việc sao lưu này tại www.pcworld.com.vn, Download, ID: 46290. Nếu có trình điều khiển không hoạt động, bạn phải cần đến đĩa CD của nhà sản xuất.

GIAO DIỆN MỚI CHO WINDOWS

Mọi người đều nóng lòng chờ đợi "tân binh" Longhorn, phiên bản tiếp theo của HĐH Windows XP được Microsoft dự kiến phát hành trong năm 2006. Nếu không muốn chờ đợi, chỉ với 40USD bạn có thể sử dụng bốn tiện ích để cải tiến giao diện Windows (tải về tại find.pcworld.com/46288).

Desktop Sidebar: Longhorn sẽ thêm vào màn hình của Windows một thanh tác vụ mới hiển thị các thông tin thu thập từ hệ thống và Internet. Tiện ích Desktop Sidebar cũng có thể thực hiện những tính năng đó. Thanh tác vụ của tiện ích sẽ hiển thị các thông tin về thư điện tử, lịch làm việc, thông tin hệ thống, tin tức trực tuyến và thậm chí slide show các hình ảnh sẵn có của bạn.

Cũng tương tự thanh tác vụ của Windows, Sidebar có khả năng tự động hiển thị hoặc ẩn theo ý bạn.

Giao diện như Windows Longhorn.

Actual Transparent Window: Bạn không muốn cửa sổ hiện hành che khuất các cửa sổ khác kể cả hình nền tuyệt đẹp của mình. Trong HĐH Longhorn, bạn có thể làm trong suốt mọi cửa sổ theo ý thích và dĩ nhiên bạn phải tiếp tục chờ cho đến khi HĐH được chính thức phát hành. Actual Transparent Window (phần mềm chia sẻ, giá 20USD) sẽ giúp bạn thực hiện yêu cầu này. Tiện ích sẽ bổ sung vào thanh tiêu đề của mỗi cửa sổ một biểu tượng để chuyển đổi giữa chế độ hiển thị hoàn toàn (mặc định) và 20% trong suốt. Bạn có thể tùy biến linh hoạt tính trong suốt của từng cửa sổ hoặc áp dụng cho tất cả các cửa sổ bằng công cụ đi kèm.

Spaces: Bạn cần thêm không gian để làm việc? Tiện ích Spaces (20USD) của Spatial Research sẽ thay thế không gian phẳng màn hình Windows bằng một không gian làm việc ba chiều. Các chương trình, ứng dụng khi thu nhỏ sẽ được xếp vào một lưới định vị. Bạn có thể di chuyển, sắp xếp hoặc phóng to, thu nhỏ một cách dễ dàng. Spaces yêu cầu hệ thống phải hỗ trợ .Net Framework được tải về miễn phí tại www.windowsupdate.microsoft.com.

Copernic Desktop Search: Cơ chế tìm kiếm của Windows thật thảm hại. Longhorn cố gắng khắc phục điều này dựa vào việc thu thập các thuộc tính tập tin, thư mục thành những thư viện. Tiện ích Copernic Desktop Search của Copernic Technologies dù không thể đáp ứng các đòi hỏi trên nhưng có thể tìm kiếm nội dung các tập tin chỉ trong "nháy mắt". Để làm được điều đó, Copernic lập chỉ mục các tập tin tựa như các trình tìm kiếm trên web thực hiện. Tính năng tìm kiếm nâng cao cho phép người dùng thêm vào những các phép toán luận lý AND-OR-NOT giữa các từ khóa.

Thực hiện cài đặt

Đưa đĩa cài đặt (hoặc đĩa phục hồi) vào ổ CD, khởi động lại máy tính và thực hiện từng bước một theo hướng dẫn trên màn hình. Nếu may mắn, những đĩa này sẽ phục hồi lại Windows với đầy đủ các trình điều khiển và ứng dụng cần thiết. Nhưng cũng có thể chúng đưa ổ cứng trở lại tình trạng ban đầu với Windows hoàn toàn không có dữ liệu và ứng dụng nào cả. Nếu đây là lựa chọn duy nhất, bạn phải chắc chắn đã sao lưu toàn bộ dữ liệu lên một thiết bị lưu trữ khác trước khi cài đặt lại máy.

Nếu là đĩa cài đặt đầy đủ của Windows XP hoặc 2000, bạn sẽ thấy thông báo "Press any key to boot from CD". Hãy làm theo chỉ dẫn đó. Nếu không nhận được thông báo này, bạn nên khởi động lại máy tính và tiến hành cài đặt lại CMOS để thay đổi trình tự khởi động với ổ CD là tùy chọn đầu tiên. Trong màn hình "Welcome to Setup", nhấn Enter để chọn chức năng cài đặt lại Windows. Kế đến, nhấn phím F8 sau khi đọc kỹ nội dung và đồng ý với các điều khoản trong cửa sổ "Licensing Agreement".

Trong màn hình lựa chọn phân vùng cài đặt, chọn phân vùng Windows đang sử dụng và nhấn Enter. Tiếp đến nhấn phím C để chấp nhận cảnh báo về việc sử dụng phân vùng và chọn "Leave the current file system intact (no change)". Ngay sau đó, hộp thoại "To use the folder and delete the existing Windows installation in it, press L" xuất hiện và bạn cần nhấn phím L để xác nhận việc xóa thư mục Windows cũ và tạo thư mục mới trong quá trình cài đặt.

Vào cuối quá trình cài đặt, Windows sẽ yêu cầu tên người dùng người dùng (user name). Hãy nhập một tên tạm nào đó - đừng dùng tên thật của bạn, ví dụ như Temp (bạn sẽ xoá sau khi hoàn tất).

Khôi phục dữ liệu

Ở màn hình đăng nhập Windows, nhập vào tên Temp. Dùng Windows Explorer mở thư mục "C:\Documents and Settings". Trong cửa sổ Tools.Folder Options.View, đánh dấu tùy chọn Show hidden files and folders và bỏ tùy Hide protected operating system files (Recommended). Tiếp đến là chọn Yes và OK để thoát ra ngoài.

Bây giờ, bạn sẽ thấy các thư mục như All Users, All Users.WINDOWS, Default User, Default User.WINDOWS, Temp và cả thư mục của những người dùng trước. Mở thư mục "Default User", tìm và xóa những tập tin mang tên NTUSER (kể cả những tập tin khác phần mở rộng) và chuyển các tập tin còn lại sang thư mục "Default User.WINDOWS". Nếu có bất kỳ hộp thoại nào xuất hiện, luôn chọn Yes hoặc Yes to All (hình 6). Khi đã hoàn tất, xóa thư mục rỗng "Default User" này. Cứ như thế lặp lại các bước trên với thư mục "All Users", sao chép tất cả trừ những tập tin NTUSER đã có vào thư mục "All Users.WINDOWS".

Hình 6. Di chuyển các tập tin và thiết lập cũ sang thư mục mới sau khi cài lại Windows XP/2000.

Quay trở lại thư mục "Documents and Settings", đổi tên thư mục của người dùng bằng cách thêm vào phần mở rộng .old.

Để tạo những tài khoản mới, chọn Start.Control Panel.User Accounts (Windows XP) hoặc Start.Settings.Control Panel.Users and Passwords (Windows 2000) và tạo lại chính xác tài khoản các người dùng trước khi cài lại. Lưu ý: phải có ít nhất một tài khoản được thiết lập quyền quản trị (Administrator). Trong Windows 2000, bạn phải đánh dấu tùy chọn Users must enter user name and password to use this computer để tạo mới tài khoản người dùng.

Sau khi hoàn tất việc tạo các tài khoản mới, thoát khỏi tài khoản Temp bằng cách chọn Start.Log Off.Log Off hoặc Start.Shut Down.Log off Temp.OK (Windows 2000). Nếu chỉ có mình bạn sử dụng máy, hãy đăng nhập và thoát khỏi tài khoản của mình. Sau đó đăng nhập lại cũng với tài khoản tạm thời đó một lần nữa. Nếu có nhiều người sử dụng cùng một máy, bạn lần lượt đăng nhập và thoát ra với từng tài khoản một trước khi đăng nhập lại vào tài khoản tạm thời của mình (Temp). Với người dùng XP, bạn phải hoàn toàn thoát khỏi chứ không phải chuyển đổi giữa các tài khoản người dùng (tính năng Switch User).

Sau khi đăng nhập lại vào hệ thống bằng tài khoản tạm, mỗi tài khoản người dùng trong "Documents and Settings" sẽ có hai thư mục "login name" và "login name.old". Thực hiện xóa những tập tin NTUSER và chuyển tất cả tập tin khác vào thư mục mới của từng người dùng giống như Default User mô tả ở trên (nhưng ở đây là từ "login name.old" sang "login name").

Sau khi hoàn tất, thoát khỏi tài khoản tạm, đăng nhập với tài khoản quản trị và xóa hẳn tài khoản này bằng cách sử dụng tính năng User Accounts trong Control Panel.

Kết thúc công việc

Bước cuối cùng để hoàn tất là cài đặt các trình điều khiển cần thiết. Nếu đã chạy tập tin batch (đề cập ở trên) trước khi thực hiện cài đặt lại, bạn chỉ việc mở Device Manager và tiến hành cập nhật (tham khảo mục "Cập nhật trình điều khiển"). Các liệt kê được đánh dấu hỏi màu vàng là những thiết bị cần được nâng cấp trình điều khiển (hình 7). Tuy nhiên vẫn có một số thiết bị đòi hỏi nâng cấp mặc dù vẫn hoạt động tốt.

Hình 7. Device Manager giúp bạn dễ dàng xác định trình điều khiển nào cần được thay thế sau khi cài lại Windows.

Để cài lại trình điều khiển, nhấn đúp vào thiết bị trong danh sách Device Manager, chọn Driver.Update Driver. Hardware Update Wizard sẽ tự động tìm và chọn đúng trình điều khiển cần thiết. Bỏ tùy chọn tìm kiếm trong ổ đĩa mềm, CD hoặc các thiết bị tháo lắp khác, chỉ định tìm kiếm trong thư mục "C:\Olddrivers". Chọn Next và thực hiện theo các hướng dẫn trên màn hình.

Nếu gặp thông báo yêu cầu đưa đĩa CD có liên quan, chọn OK và tiếp tục chỉ đến thư mục "C:\Olddrivers". Cứ việc bỏ qua và tiếp tục quá trình cài đặt nếu Windows không tìm thấy tập tin cần thiết. Tuy nhiên, thiết bị phần cứng sẽ không hoạt động, hãy cài đặt trình điều khiển từ đĩa CD đi kèm với thiết bị. Sau khi hoàn tất, bạn có thể xóa hoặc tốt nhất là di chuyển thư mục "C:\Olddrivers" đến một nơi lưu trữ an toàn cho đến khi hệ thống hoạt động thật sự ổn định.

Với các ứng dụng vẫn còn trên đĩa cứng và được liệt kê trong trình đơn Start (trừ khi sử dụng đĩa CD phục hồi có định dạng lại ổ cứng), hầu hết chúng đều không làm việc khi cài lại Windows do các thiết lập trước đây trong Registry đã bị xóa bỏ. Cài đặt lại các ứng dụng đó hoặc xóa chúng khỏi trình đơn Start và thư mục Program Files nếu không còn nhu cầu sử dụng. Bạn không cần phải sử dụng tiện ích Uninstall trong trường hợp này.

Trong trường hợp cần thiết, có thể bạn phải kích hoạt lại Windows XP. Nếu không có sự thay đổi về phần cứng, mọi việc sẽ diễn ra như bình thường. Cuối cùng, bạn nên cập nhật các bản sửa lỗi cho Windows hay cài thêm các tiện ích cần thiết. Tham khảo những hướng dẫn về việc cài đặt Service Pack 2 cho Windows XP tại find.pcworld.com/46286.

BẮT ĐẦU MỚI CHO WINDOWS 98, Me

Việc cài lại Windows 98 và Me đòi hỏi nhiều "thủ thuật" hơn so với Windows 2000 và XP, nhưng về cơ bản thì quá trình thực hiện như nhau.

Trước hết, bạn hãy sao lưu các thư mục dữ liệu trong C:\windows sang thư mục C:\datawin. Bạn phải xóa thư mục Windows cũ trước khi cài đặt lại và đó là lý do cần sao lưu những dữ liệu quan trọng trong thư mục "C:\Windows" vào nơi khác an toàn hơn. Những thư mục khác cũng cần được sao lưu là All Users, Application Data, Desktop, Favorites, Local Settings, Profiles, SendTo và Start Menu. Bạn không cần sao lưu thư mục "C:\My Documents" vì chúng nằm ngoài thư mục Windows. Nếu máy tính có nhiều người dùng, bạn phải sao lưu thư mục "C:\Windows\Profiles".

Khởi động với đĩa mềm

Bạn cần một đĩa mềm có khả năng khởi động để cài đặt lại Windows 98/Me. Để tạo một đĩa mềm khởi động, chọn Start.Settings.Control Panel.Add/Remove Programs và nhấn Startup Disk.Create Disk và thực hiện theo hướng dẫn.

Khởi động lại hệ thống từ đĩa mềm này. Trong trình đơn Startup, chọn Start computer with CD-ROM support. Sau khi hệ điều hành DOS nạp xong trình điều khiển CD-ROM, đưa đĩa cài đặt

Sử dụng lệnh trên để thay thế dữ liệu cá nhân sau khi đã cài lại Windows98/Me. Dùng tiện ích Add/Remove Program để tạo đĩa mềm khởi động (hình dưới).

Windows vào ổ CD, ở dấu nhắc DOS, gõ lệnh dir x: (với x: là ký tự gán cho ổ CD). Gõ dòng lệnh c:\windows\command\deltree /y c:\windows và nhấn Enter.

Trở lại dấu nhắc A:, gõ lệnh x:setup, nhấn Enter và thực hiện theo các hướng dẫn trên màn hình. Và bạn đừng quên lấy đĩa mềm ra khỏi ổ đĩa trước khi Windows khởi động lại.

Nếu máy tính của bạn có nhiều người dùng, chọn Start.Settings.Control Panel.Users (Windows 98) hoặc Start.Settings.Control Panel.View all Control Panel options.Users (Win Me). Sử dụng các thông tin trong thư mục "C:\Datawin\Profiles" để tạo lại chính xác các tài khoản người dùng.

Cuối cùng, chọn Start.Run, gõ xcopy c:\datawin\*.* c:\windows /s /h /r , và nhấn OK. Nhấn phím a (All) để xác nhận chấp nhận việc ghi đè tập tin. Sau khi quá trình chép các tập tin kết thúc, khởi động lại máy và thực hiện theo những chỉ dẫn ở mục "Kết thúc công việc" .

Anh Thư

PC World Mỹ 03/2005

Gỡ bỏ Windows XP SP 2 một cách an toàn

09:01:32, 22/09/2005

Phiên bản windows XP SP2 vừa tung ra thì lại bị lỗi bảo mật. Vả lại có quá nhiều chương trình xung đột không chạy sau khi updates. Những lý do trên có thể cho bạn lời khuyên là gở bỏ XP SP2. Bài viết này giúp bạn một số cách có thể gỡ bỏ Windows XP SP2 một cách nhanh chóng và suôn sẻ nhất.

Cách 1 : Sử dụng Recovery Console

Đầu tiên bạn dùng CD cài đặt WinXP để boot từ CD. Khi gặp màn hình thông báo cài đặt, bạn nhấn R để start Recovery Console. Tiếp tục bạn chọn câu hỏi. Lưu ý bạn phải chọn một số cụ thể trước khi nhấn phím enter.

Ví dụ 1:C:\windows

Sau đó bạn điền vào password của admin. Điều này các bạn thường bỏ qua không thiết lập. Tuy nhiên nếu không biết, thì bạn cứ enter. Đừng cố nhớ, nếu bạn gõ sai bạn sẽ không thể tiếp tục. Tiếp theo tại dấu nhắc bạn gõ cd $ntservicepackuninstall$\spuninst. Nhấn Enter.

Tiếp theo bạn gõ tiếp spuninst.txt (để xem những danh sách những file đang thực thi). Sau khi quá trình remove hoàn tất, bạn gõ exit là restart lại máy tính ở chế độ safe mode ( nhấn F8 và chọn chế độ safe mode ).

Tuy nhiên nếu thấy màn hình đen thì bạn nên tắt nguồn và restart lại lần nữa. Khi đó bạn sẽ vào hệ thống được. Sau khi máy tính khởi động lại, windows Explorer (explorer.exe) sẽ không hoạt động, các icon đều biến mất, thay vào đó là những icon lạ hoắc không hình dạng. Để giải quyết trường hợp trên, bạn làm như sau. Nhấn CTRL + ALT + DEL để vào TASK MANAGER.

Chọn vào File > New Task, gõ regedit. Sau đó tìm đến từ khóa HKEY_LOCAL_MACHINE\System\CurrentControlSet\Services\RpcSs

Tạo mới một key mới là ObjectName với giá trị là LocalSystem. Nhấn Ok để hoàn tất. Khởi động lại máy tính.

Cách 2: Sử dụng System restore.

Để thực hiện bạn nhấn WIN + R để mở hộp thoại Run. Sau đó gõ vào %SystemRoot%\System32\restore\rstrui.exe.

Nhấn OK. Hộp thoại System Restore xuất hiện. Bạn chọn Restore My Computer To An Earlier Time. Nhấn Next. Chọn thời điểm bạn updates XP SP2. Nhấn Next và làm theo hướng dẫn trên màn hình để hoàn tất quá trình gở bỏ XP SP2. Restart lại máy tính.

Cách 3: Sử dụng công cụ Add or remove programs trong Control Panel

Nhấn Win + R. Hộp thoại run hiển thị ,bạn gõ vào appwiz.cpl. Nhấn OK để vào Add remove Programs (bạn cũng có thể vào danh sách chương trình cài đặt, khi đó bạn sẽ gặp ngay Windows XP Service Pack 2 trong Program list. Nhấn Remove để gở bỏ ra khỏi hệ thống).

Một vài lưu ý khi thiết lập

Cách 3 đơn giản nhất, tuy nhiên nếu chỉ trình bày cách 3 một cách riêng lẻ thì bạn sẽ gặp trường hợp như cách 1 là các icon không hiển thị. Do vậy cách giải quyết đã trình bày ở cách 1 .

Cách 1 chỉ áp dụng sau khi bước 2 và bước 3 thất bại. Trong trường hợp đó cách 1 vẫn là hiệu quả nhất và gom lại cả ba cách là có chung một giải pháp là đụng tới regedit. Do đó bạn nên sao lưu trước khi thiết lập...

Theo kinh nghiệm thì hoàn toàn không có việc gì xảy ra khi gở bỏ SP2. Ngoại trừ icon không hiển thị và cách giải quyết đều cho kết quả tốt đẹp.

Phạm Lê Minh Định

Gia tăng hiệu suất Windows

Giao diện của phần mềm.

(Dân trí) - Sau một thời gian dài hoạt động, bản ghi nhớ các chương trình Windows của bạn sẽ trở nên quá tải với một số lượng lớn các thư mục đã cũ. PC chạy như rùa bò và Windows tốn nhiều thời gian để tải, tìm kiếm và đọc dữ liệu các thư mục. Phần mềm TweakNow RegCleaner sẽ giúp máy tính của bạn đạt hiệu suất làm việc cao nhất.

Việc cài đặt phần mềm này, có thể nói là tạo dựng được một bản đăng kí được coi là trái tim và linh hồn của bất cứ một hệ thống Windows nào. Nó chứa đựng thông tin điều khiển các hệ thống trong hệ điều hành của bạn xuất hiện ra sao và chạy nó như thế nào. Hầu hết những chương trình ứng dụng hiện nay đều sử dụng đăng kí này để lưu giữ cấu hình và những dữ liệu quan trọng khác. Khi bạn cài đặt các chương trình ứng dụng, mục đăng kí mới này sẽ được tạo lập.

Phiên bản mới của phần mềm này đã chứng minh được hiệu quả của nó với các tính năng ưu việt:

- Nhanh: Sử dụng với hiệu suất máy cao, TweakNow RegCleaner nhanh chóng kiểm tra những mục đăng kí để tìm ra các thư mục cũ đã cất giữ trong hệ thống máy.

- Chính xác: Do sử dụng thuật toán phức hợp TweakNow RegCleaner nhận dạng chính xác các thư mục cũ.

- Đăng kí linh hoạt: TweakNow RegCleaner cho phép hiển thị hai phần: chi tiết hoặc không chi tiết.

Hiện nay phần mềm này đã ra mắt phiên bản mới 2.9.7 với độ bền cải tiến hơn và hiện thị một cách tối đa, hỗ trợ cao với nền 64x. Tùy vào chức năng mà bạn mong muốn, các phiên bản của phần mềm này sẽ đáp ứng giúp bạn. Tất nhiên, bạn sẽ phải mua nó với giá 26,95 USD hay 69,95 USD cho cá nhân hay cho toàn bộ hệ thống của bạn. Với gói giá 69,95 USD, phần mềm sẽ hỗ trợ máy tính của bạn cài đặt rất nhiều phần mềm với số lượng không giới hạn.

Phần mềm hỗ trợ các hệ điều hành Windows: 2000/XP/XP x64/2003.

Bạn có thể mua phần mềm tại các cửa hàng hoặc tải bản dùng thử 30 ngày tại địa chỉ:

http://www.tweaknow.com/download/RegCleanerPro-t.exe

Quốc Trung

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro