th2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1

22

D:\Documents and Settings

tthao\My Documents\ON THI2\Cd8- Nhung van de chung ve thue.doc

D:\Documents and Settings

tthao\My Documents\ON THI2\Cd8- Nhung van de chung ve thue.doc

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN  VỀ THUẾ

I- BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA THUẾ:

1-Bản chất của thuế:

1.1- Sơ lược vài nét về sự ra đời và phát triển của thuế:

Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài. 

Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó hình thức quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định và lâu dài, thường được Nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Ngân sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho Nhà nước. 

Hình thức Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình - Đó chính là thuế. 

Về quan hệ giữa Nhà nước và Thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước" (Mác- Ăng Ghen tuyển tập- Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1961, tập 2). Ăng ghen cũng đã viết: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó là thuế". (Ăng Ghen: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước - Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1962).

Như vậy, Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của Nhà nước quy định bản chất giai cấp của thuế. 

- Trong chế độ phong kiến, hệ thống thuế khoá nhằm huy động sự đóng góp tiền bạc của dân chúng để nuôi dưỡng quân đội, tổ chức bộ máy công quyền, quan lại để cai trị. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước. 

- Đến khi giai cấp tư sản nắm được chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ trương xây Nhà nước tự do, không can thiệp vào hoạt động kinh tế của các lực lượng kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc phòng. Thuế khóa chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài chính tối thiểu để nuôi sống bộ máy Nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng khác. Nhưng khi bước vào những năm 29- 33 của thế kỷ XX, nền kinh tế của các nước tư bản lâm vào khủng hoảng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng,Nhà nước tư sản phải can thiệp vào hoạt động kinh tế bằng cách lập ra các chương trình đầu tư lớn và thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong số các công cụ trên thì thuế là công cụ quan trọng và sắc bén để Nhà nước thực hiện điều chỉnh nền kinh tế. 

Như vậy, cùng với việc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và sự phát triển của các quan hệ hàng hoá tiền tệ, các hình thức thuế ngày càng phong phú hơn, công tác quản lý thuế ngày càng được hoàn thiện hơn và thuế đã trở thành một công cụ quan trọng, có hiệu quả của Nhà nước để tập trung nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và tác động đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước.

1.2. Khái niệm:

Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: " Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khoá..." (Mác - Ăng Ghen. TT.T2- NXB Sự thật - Hà Nội- 1962. Tr.522).

Càng về sau này, khái niệm về thuế càng được bổ sung hoàn thiện hơn. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho rằng : "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản". Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ như sau: "thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật" (Economic. Makkollhell and Bruy-M.1993.- tr.14- Tiếng Nga).

Ở nước ta, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Theo từ điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998) thì thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp v.v buộc phải nộp cho Nhà nước theo mức quy định. 

Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế phải nêu bật được các khía cạnh sau đây: 

- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả tực tiếp; 

- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước; 

- Các các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định.

Từ việc phân tích những quan niệm về thuế của thế giới và của nước ta nêu trên, chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về thuế như sau: 

Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung toàn xã hội. 

Ngoài khoản thu về thuế, Ngân sách Nhà nước còn có những khoản thu về phí và lệ phí. Đây là những khoản thu mà một tổ chức hay cá nhân phải trả khi được một cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước uỷ quyền cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng.

1.3. Đặc điểm của thuế: 

Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy nhiên, về bản chất, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, giá cả.v.v. Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau của thuế: 

(1)  Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước:

Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp -Đạo luật gốc của một quốc gia. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao. Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể thực hiện thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành. 

Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình thức động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác.

(2) Thuế là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước: 

Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện phương thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thức thuế, mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.

Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính tự nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng đối với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.

(3) Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Còn phí, lệ phí mang tính chất hoàn trả trực tiếp cho người thụ hưởng dịch vụ này.

Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện trên các khía cạnh:

Thứ nhất, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước.

Thứ hai, Các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần giá trị mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế với các khoản phí, lệ phí và giá cả. 

2. Chức năng cơ bản của thuế:

2.1 Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính:

Ngay từ khi ra đời thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế.

Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho thuế ở tất cả các dạng Nhà nước trong tiến trình phát triển của xã hội. Về mặt lịch sử,  chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính  là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân sự ra đời của thuế.

Thông qua chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế mà các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân (do đó chức năng này còn được gọi là chức năng phân phối của thuế).

Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng được nâng cao. Thông qua thuế một phần đáng kể tổng sản phẩm quốc nội được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Thuế trở thành nguồn thu có tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nước của tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế và phí thường chiếm tới trên 90% tổng số thu Ngân sách Nhà nước.

Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế.

2.2- Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế:

Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế tự động xuất hiện trong quá trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế, nhưng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX thì chức năng này mới được nhận thức đầy đủ và sử dụng rộng rãi và gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.

Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội bằng nhiều biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp và kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công cụ để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng. Trong đó thuế là một công cụ thuộc lĩnh vực tài chính và là một trong những công cụ sắc bén nhất được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.  Trong nền kinh tế thị trường, mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền kinh doanh bất kỳ ngành nghề, mặt hàng nào mà Nhà nước không cấm, miễn rằng họ phải có đăng ký kinh doanh và hoàn thành nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Bằng việc ban hành hệ thống pháp luật về thuế, Nhà nước quy định đánh thuế  hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thuế suất thấp, có chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế đối với ngành nghề, mặt hàng và địa bàn kinh doanh cụ thể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo sự cân đối trong cơ cấu kinh tế giữa các ngành nghề và vùng lãnh thổ.

Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vật tư, tiền vốn nhằm điều tiết hoạt động kinh tế trong cả nước. Nhà nước cũng sử dụng thuế để tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu nhằm thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế.

Như vậy, thông qua việc thu thuế Nhà nước đã thực hiện điều tiết và kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của xã hội, tức là chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế đã được thực hiện.

II-HỆ THỐNG THUẾ :

1- Khái niệm về hệ thống thuế:

Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập được tạo ra và luân chuyển theo một dòng khép kín: người lao động nhận được tiền công, dùng tiền công này để mua hàng hoá, dịch vụ của các công ty, đến lượt các công ty lại dùng số tiền thu được để trả lãi cho vốn vay để đầu tư, tiền thuê đất, tiền nhân công... và sau đó các đối tượng có thu nhập này lại dùng thu nhập để chi tiêu dưới nhiều dạng để mua hàng hoá, dịch vụ. Chính sự biến đổi đa dạng này đã tạo ra những cơ sở đánh thuế khác nhau, do đó tạo khả năng cho Chính phủ đánh thuế trên các cơ sở thuế khác nhau trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín. Hay nói cách khác là xuất hiện các hình thức thuế khác nhau.

Ta có thể hiểu Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau với cơ chế hoạt động, đối tượng điều chỉnh, phương pháp đánh thuế, mức độ điều tiết và phương pháp thu nộp khác nhau. Các hình thức thuế có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau nhằm thực hiện mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.

Hệ thống thuế đề cập ở đây chủ yếu là hệ thống chính sách thuế, các luật thuế, các hình thức thuế mà một quốc gia sử dụng để điều tiết nền kinh tế.

Số lượng các hình thức thuế trong hệ thống thuế nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: 

 - Một là, sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế đơn giản hay phức tạp.

- Hai là, khả năng kiểm soát và điều chỉnh sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế của Chính phủ.

Tuỳ thuộc khả năng và ý đồ của Chính phủ trong việc điều chỉnh sự vận động của dòng thu nhập ở những giai đoạn khác nhau mà hình thành các hệ thống thuế khác nhau. Ngoài hệ thống chính sách thuế, để thực thi pháp luật về thuế, các quốc gia còn phải có hệ thống các định chế về thuế. Đó là tổng hợp các qui định, các biện pháp về nghiệp vụ, về tổ chức, về kinh tế, về hành chính… và cơ chế vận hành chúng nhằm tổ chức có hiệu quả việc thực thi các luật thuế như: bộ máy quản lý thu thuế; các biện pháp, quy trình nghiệp vụ; hệ thống các tổ chức tư vấn thuế; các trường đào tạo thuế…

2- Các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế:

Để đánh giá hệ thống thuế của một quốc gia  nhất định, người ta thường ít chú ý đến số lượng của các loại thuế trong hệ thống thuế đó, mà chủ yếu đánh giá xem xét đến khía cạnh chất lượng của hệ thống thuế đó. Mỗi quốc gia tuỳ theo điều kiện lịch sử kinh tế, xã hội ở từng thời kỳ cụ thể mà định hướng xây dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống thuế đó phải phản ánh được  những mục tiêu của Nhà nước đặt ra.  Chính vì vậy, việc tìm ra những tiêu thức chung để đánh giá một hệ thống thuế được coi là tích cực hay hiệu quả không phải là việc dễ dàng. Tuy nhiên, nếu xem xét các yêu cầu chung của sự phát triển nền kinh tế quốc dân, cũng như đòi hỏi của một xã hội dân chủ trong việc xác lập một hệ thống thuế tích cực, phù hợp và hiệu quả thì tất yếu phải đặt ra những tiêu thức cần thiết để xây dựng một hệ thống thuế . 

Nhà kinh tế học Adam Smith (1723 - 1790) trong tác phẩm "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giầu có của nhân loại" đã vạch ra bốn nguyên tắc cơ bản xây dựng hệ thống thuế hợp lý là: thuế phải huy động phù hợp với khả năng và sức lực của dân cư; mức thuế và thời hạn thanh toán phải được xác định chính xác; thời gian thu thuế cần được quy định thuận lợi đối với người nộp thuế; các chi phí để tổ chức thu nộp thuế cần phải thấp nhất.

Trên cơ sở các nguyên tắc trên, các nhà kinh tế học hiện đại đã hoàn chỉnh, bổ sung và khái quát thành những tiêu chuẩn đánh giá một hệ thống thuế tích cực, hiệu quả. Các tiêu chuẩn này đã trở thành kim chỉ nam trong việc xây dựng hệ thống chính sách thuế ở các nưóc có nền kinh tế thị trường.

2.1 Tính công bằng:

 Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc phân chia gánh nặng của thuế khoá đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế mới động viên các thành phần kinh tế trong xã hội hăng hái lao động, do đó mới đảm bảo được các mục tiêu kinh tế và chính trị của đất nước. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế phải dựa trên nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo chiều dọc.

- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó áp dụng trong thực tiễn không thể chỉ rõ được tiêu thức nào để xác định hai cá nhân có điều kiện về mọi mặt như nhau, mặt khác cũng khó xác định việc đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là như thế nào.

- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp thuế ít hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần xác định rõ hai vấn đề: tiêu thức xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao hơn.

Vấn đề tiêu thức xác định khả năng nộp thuế cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Phổ biến hiện nay người ta dùng tiêu thức thu nhập hoặc tiêu dùng để đánh giá khả năng nộp thuế. Cũng có ý kiến đề nghị để đánh thuế công bằng nên dựa vào lợi ích mà người nộp thuế nhận được từ việc cung cấp dịch vụ, hàng hoá công cộng của Nhà nước .Trong thực tế có nhiều hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp không thể xác định được lợi ích cụ thể mà cá nhân nhận được để xác định mức thuế. Việc căn cứ vào lợi ích để đánh thuế chỉ xảy ra trong trường hợp mà việc cung cấp hàng hoá công cộng đó xác định được một cách chính xác lợi ích mà cá nhân nhận được.

Tóm lại, công bằng trong thuế khoá là một đòi hỏi khách quan, nhưng việc đánh giá một hệ thống thuế được coi là công bằng không phải là công việc dễ dàng. Do đó, công bằng trong thuế khoá vẫn thuộc về nhận thức và quan điểm của mỗi quốc gia.

2.2- Tính hiệu quả:

Tính hiệu quả của hệ thống thuế được xét trên các mặt sau:

Thứ nhất, hiệu quả đối với nền kinh tế là lớn nhất: 

Xét trên phương diện kinh tế, hành vi đánh thuế của Nhà nước bao giờ cũng ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội và chịu sự chi phối của hai tác nhân có xu hướng vận động không đồng nhất là: Nhà nước và các lực lượng thị trường. Sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường dựa trên yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, còn sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của Nhà nước thường dựa trên yêu cầu của xã hội và yêu cầu của quản lý, điều chỉnh theo chức năng của Nhà nước. Nói chung sự phân bổ các nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên do động cơ chủ yếu là lợi nhuận, nên xét ở tầm vĩ mô việc phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường, trong nhiều trường hợp không đem lại hiệu quả chung cho nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tất yếu cần phải có sự kết hợp của các hệ thống phân bổ nguồn lực của Nhà nước, trong đó có công cụ thuế để điều chỉnh các xu hướng vận động khác nhau nhằm đạt hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân.

Như vậy tính hiệu quả của hệ thống thuế được xét dưới hai góc độ: giảm tối thiểu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ nguồn lực vốn đã đạt hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường; tăng cường vai trò của thuế đối với việc phân bổ nguồn lực chưa đạt được hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường.

Thứ hai, hiệu quả thu thuế là lớn nhất:  

Thể hiện tính hiệu quả của thuế là tổng số thuế thu được là lớn nhất với chi phí tổ chức thu thuế là thấp nhất. Trong thực tế, khi thu thuế bao giờ cũng phát sinh chi phí, đó là các khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những chi phí gián tiếp do người nộp thuế gánh chịu. Tính hiệu quả của thu thuế được thể hiện là tổng số thuế thu được nhiều nhất trên cơ sở chi phí trực tiếp của cơ quan thuế và chi phí gián tiếp của người nộp thuế là thấp nhất.

Các khoản chi phí trên gọi là chi phí hành chính và sự tăng hay giảm các khoản chi phí này phụ thuộc vào: tính phức tạp hay đơn giản của hệ thống thuế; Số lượng và mức độ phân biệt của thuế suất đối với đối tượng nộp thuế cũng như cơ sở tính thuế; Sự lựa chọn các loại thuế. Nói chung các loại thuế có cơ sở tính thuế phức tạp, yêu cầu quản lý cao thường có chi phí hành chính lớn.

Nhằm giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ thống thuế phải đơn giản chứa đựng ít mục tiêu. Mặt khác hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ dàng thuận lợi.

2.3- Tính chính xác:

Một hệ thống thuế chính xác thể hiện sự rõ ràng và minh bạch. Tức là, hệ thống thuế trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế.  Một hệ thống thuế rõ ràng và minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tính toán chính xác được hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ nộp thuế. Đây là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm bỏ tiền đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngược lại hệ thống thuế không rõ ràng và minh bạch sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xác định hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, do đó làm cản trở việc thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế.

2.4 Tính thuận tiện:

Tính thuận tiện thể hiện sự dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ quản lý và khả năng thích ứng một cách dễ dàng của hệ thống thuế với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi.

Yêu cầu về tính dễ hiểu , dễ thực hiện thường thuộc về kỹ thuật xây dựng các văn bản pháp luật quy định về thuế sao cho lô gíc, mạch lạc, rõ ràng, các từ dùng trong văn bản phải mang tính phổ thông để dễ hiểu và hiểu đúng thì thực hiện mới đúng và dễ kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện luật thuế trong thực tế.

 Hệ thống thuế phải đảm bảo có khả năng dễ thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế thì mới phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế.  Bởi vì Nhà nước ban hành ra chính sách thuế, nhưng người thực hiện chính sách thuế ấy là các tầng lớp dân cư trong xã hội. Cho nên chính sách thuế càng đơn giản, dễ hiểu thì người dân mới có điều kiện hiểu rõ và làm đúng theo quy định của các luật thuế. Có như vậy, thuế mới phát huy được vai trò là công cụ chủ yếu tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để đảm bảo được yêu cầu này mà không vi phạm nguyên tắc đã định ra, khi xây dựng hệ thống thuế thì cơ quan lập pháp thường chỉ quy định khung thuế suất , còn việc quy định thuế suất cụ thể thường giao cho cơ quan hành pháp, có như vậy mới đảm bảo cho hệ thống thuế thích ứng với những biến động của hoàn cảnh kinh tế.

Hiện nay, Việt nam đang thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trên cơ sở  mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, để phát huy hơn nữa vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế của công cụ thuế, hệ thống thuế  hiện hành cần phải tiếp tục được sửa đổi,  hoàn thiện và bổ sung sao cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Trên cơ sở các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế, kết hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay thì hệ thống thuế mà chúng ta hướng tới cần phải đảm bảo được các tiêu thức cụ thể như sau: 

-  Thuế phải bao quát hết nguồn thu để quản lý và thu cho Ngân sách Nhà nước.

- Thuế phải là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả  góp phần khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư và khuyến khích tối đa cho xuất khẩu, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần thực hiện chính sách mở rộng kinh tế đối ngoại của Nhà nước.

- Thuế phải góp phần động viên công bằng, hợp lý thu nhập xã hội.

- Chính sách thuế phải quán triệt yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra.

- Chính sách thuế phải xây dựng trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm và rút ra những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhất là các nước có điều kiện kinh tế tương đồng với nước ta; đồng thời phải phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, cũng như truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc.

  III- PHÂN LOẠI THUẾ:

1- Khái niệm về phân loại thuế:

Thời kỳ đầu khi Nhà nước ra đời sản xuất hàng hoá chưa phát triển, thuế thường được thu bằng hiện vật. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, kinh tế hàng hoá - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống, các thứ thuế khác nhau lần lượt ra đời làm cho thuế ngày càng đa dạng, phong phú linh hoạt hơn. 

Tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước mà hệ thống thuế bao gồm nhiều hay ít các loại thuế khác nhau. Để định  hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, người ta tiến hành sắp xếp các sắc thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.

Có thể đưa ra khái niệm chung về phân loại thuế như sau: 

 Phân loại thuế là sự sắp xếp các sắc thuế trong một hệ thống chính sách thuế thành những nhóm khác nhau theo các tiêu thức nhất định.

2- Các tiêu thức phân loại thuế: 

Để phân loại thuế người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau. Từ thực tế sử dụng tiêu thức phân loại thuế ở nước ta và thế giới, chúng ta thấy  các tiêu thức để phân loại thuế rất đa dạng và tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý của mỗi quốc gia mà người ta có thể đưa ra các tiêu thức khác nhau như: phân loại thuế dựa theo phương thức đánh thuế, phân loại thuế dựa theo cơ sở tính thuế, phan loại thuế dựa theo phạm vi điều chỉnh của sắc thuế, phân loại thuế theo tên gọi của sắc thuế, theo tính chất thuế suất....

Dưới đây là một số tiêu thức phân loại thuế cơ bản thường được áp dụng:

3- Phân loại thuế: 

3.1- Dựa theo phương thức đánh thuế: 

Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế là đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại: thuế trực thu và thuế gián thu.

3.1.1- Thuế trực thu: Là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế.

Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật quy định đồng nhất với người phải chịu thuế. Ở đây, theo quy định của luật, thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế. Như vậy thuế trực thu làm cho khả năng và cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác khó khăn hơn. Về nguyên tắc loại thuế này mang tính chất thuế luỹ tiến vì nó tính đến khả năng của người nộp thuế, người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn, còn người có thu nhập thấp thì nộp thuế ít hơn. Loại thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế đánh trên thu nhập của tổ chức và cá nhân. Ở nước ta các sắc thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà, đất...

Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập, hơn thế nữa, thuế trực thu còn cho phép xem xét đến các yếu tố tương đối độc lập đến thu nhập của người nộp thuế như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh gia đình... Do đó, thuế trực thu có tác dụng rất lớn trong việc điều hoà thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch đáng kể về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, do đó đã bảo đảm được tính công bằng trong xã hội.

Nhược điểm của thuế trực thu là dễ gây ra phản ứng từ phía người nộp thuế khi Nhà nước điều chỉnh tăng thuế. Hơn nữa việc theo dõi, tính toán số thuế phải nộp và thủ tục thu, nộp thuế hết sức phức tạp. Số thu động viên vào Ngân sách thường chậm  và chi phí quản lý thu thuế  khá tốn kém.

3.1.2- Thuế gián thu: Là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá  cả hàng hoá, dịch vụ. Người tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ đó là người chịu loại thuế này.

Thuế gián thu có đặc điểm là người nộp thuế theo luật và người  chịu thuế không đồng nhất với nhau. Người nộp thuế là người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá đó, họ mua hàng hoá với giá cả trong đó có cả thuế. Loại thuế này có sự chuyển dịch gánh nặng thuế trong những trường hợp nhất định. Thuế gián thu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế giá cả thị trường. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó của thuế gián thu không những chịu chi phối của mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào bản chất của thị trường, trong đó có sự tác động của thuế, tức là thị trường đó là thị trường cạnh tranh hay độc quyền. Về nguyên tắc thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái vì nó không tính đến khả năng thu nhập của người chịu thuế, người có thu nhập cao hay thấp đều phải chịu thuế như nhau nếu cùng mua một loại hàng hoá, dịch vụ. Loại thuế này thưòng là các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng. Ở nước ta các sắc thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...

Ưu điểm của thuế gián thu là đối tượng chịu thuế rất rộng. Thuế gián thu được che đậy qua giá bán hàng hoá, dịch vụ nên người chịu thuế ít có cảm giác mình bị Nhà nước đánh thuế. Thuế gián thu đem lại nguồn thu thường xuyên và ổn định cho Ngân sách Nha nước. Đối tượng quản lý thu thuế cũng tập trung hơn, nghiệp vụ tính và thu thuế thuế đơn giản, nên chi phí  quản lý thuế cũng thấp hơn so với thuế trực thu. 

Nhưng loại thuế này cũng có nhược điểm là có tính chất luỹ thoái nên không đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tính tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàucó tỷ lệ động viên thuế  chịu thuế thấp hơn so với người nghèo.

3.2 Dựa vào cơ sở tính thuế:

Nếu căn cứ vào cơ sở đánh thuế để phân loại thuế thì có thể chia các sắc thuế thành ba loại như sau:

3.2.1- Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được. Thu nhập kiếm dược từ nhiều nguồn: từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanhdưới dạng lợi nhuận, lợi tức cổ phần... do đó thuế thu nhập cũng có nhiều dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế lợi tức cổ phần...

3.2.2- Thuế tiêu dùng là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập của tổ chức, cá nhân được mang ra tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng...

3.2.3- Thuế tài sản là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản. Tài sản có nhiều hình thức biểu hiện:

- Tài sản tài chính gồm có tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương phiếu...; 

- Tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy móc, nhà máy, xe cộ..; 

- Tài sản vô hình như nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật ...

Thuộc loại thuế tài sản là các sắc thuế như thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...

3.3 - Dựa vào phạm vi điều chỉnh của thuế:

Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của thuế người ta có thể chia các sắc thuế thành hai loại:

3.3.1- Thuế tổng hợp: Là loại thuế  đánh vào tất cả các thành phần của cơ sở đánh thuế  mà không có trường hợp ngoại lệ, không có miễn, giảm thuế.

3.3.2- Thuế có lựa chọn: Là loại thuế chỉ đánh vào một phần nhất định của cơ sở đánh thuế. Thuế thu nhập cá nhân có thể coi là một sắc thuế điển hình của loại này.

3.4- Ngoài ra đôi khi người ta còn tiến hành phân loại thuế theo tính chất thuế suất mà sắc thuế đó áp dụng như thuế tỷ lệ, thuế luỹ tiến, thuế luỹ thoái, thuế tuyệt đối...

Tóm lại, trong thực tế có nhiều tiêu thức phân loại thuế, tuỳ theo yêu cầu quản lý  thuế của mỗi nước mà có sự lựa chọn cách phân loại thuế khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay tại nhiều nước người ta chủ yếu dựa vào hai tiêu thức là phương pháp đánh thuế và cơ sở thuế. Tuỳ theo năng lực quản lý thuế của ngành thuế và tâm lý chung của xã hội mà hệ thống thuế ở mỗi nước chú ý đến tầm quan trọng  của từng loại thuế khác nhau. Các nước phát triển thường quan tâm đến hệ thống thuế thu nhập nhất là thuế thu nhập cá nhân. Họ coi thuế thu nhập có nhiều tác động tích cực như tạo được nguồn thu lớn cho chi tiêu công cộng, cải thiện được việc phân phối thu nhập, có khả năng làm ổn định được thu nhập và giá cả thị trường, ngăn ngừa sự phân bố nguồn lực kém hiệu quả do sự lạm dụng thuế gián thu gây ra. Muốn thực hiện tốt hệ thống thuế thu nhập cần có những điều kiện nhất định: nền kinh tế tiền tệ phải chiếm ưu thế; báo cáo kế toán được sử dụng phổ biến và đảm bảo tính trung thực, tin cậy.

Đối với các nước đang phát triển hoặc kém phát triển, thì ít sử dụng đến thuế thu nhập vì các điều kiện trên chưa có hoặc còn hạn chế. Chính vì vậy, các nước này thường coi trọng hệ thống thuế gián thu, bởi vì: Các loại thuế gián thu nói chung là phù hợp với năng lực quản lý còn hạn chế của cơ quan thuế và trình độ hiểu biết của người nộp thuế.; thực hiện thuế gián thu ít gây phản ứng từ người trực tiếp nộp thuế.

Mặc dù, có định hướng lựa chọn hệ thống thuế phù hợp với năng lực quản lý, song ở các nước đang phát triển, tổng số thu về thuế  còn thấp so với khả năng chịu đựng của nền kinh tế quốc dân. Người ta cho rằng nguyên nhân của tình trạng thất thu thuế của các nước trên có thể là: biện pháp thu thuế không được thi hành một cách đúng đắn; bộ máy quản lý thuế thiếu năng lực; tình trạng tham nhũng ở các nước này còn phổ biến.

IV- CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH MỘT SẮC THUẾ:

Thuế thực hiện việc huy động một phần thu nhập thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào Ngân sách Nhà nước thông qua một hình thức biểu hiện cụ thể bằng một sắc thuế. Mỗi sắc thuế đều phải được quy định bằng một văn bản pháp luật có thể là Luật thuế hoặc Pháp lệnh thuế. Trong một sắc thuế thông thường chứa đựng các yếu tố cơ bản sau đây:

1- Đối tượng nộp thuế:

Trong một sắc thuế bao giờ cũng quy định cụ thể chủ thể nào có nghĩa vụ phải nộp thuế. Theo thuật ngữ chuyên ngành về thuế, chủ thể chịu sự điều chỉnh của một sắc thuế thường được gọi là đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế thể hiện phạm vi áp dụng của một chính sách thuế cụ thể. Trong thực tế, có những đối tượng nộp thuế chỉ kê khai và nộp một loại thuế, song cũng có những đối tượng nộp thuế, trong cùng một thời gian phải kê khai và nộp nhiều loại thuế khác nhau.

Đối tượng nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế là thể nhân hoặc pháp nhân có trách nhiệm trực tiếp nộp thuế cho Nhà nước. Người có trách nhiệm nộp thuế theo pháp luật quy định không nhất thiết là người phải chịu thuế. Trong nhiều trường trường hợp người có trách nhiệm nộp thuế cũng chính là người chịu thuế, khi trong sắc thuế đó người nộp thuế không có khả năng chuyển giao nghĩa vụ thuế cho người khác.

2- Đối tượng chịu thuế:

Theo các luật thuế hiện hành của Việt Nam, đối tượng chịu thuế là đối tượng được đưa ra để đánh thuế. Đối tượng chịu thuế thường được xác định là thu nhập, hàng hoá hay tài sản. Mỗi một sắc thuế có một đối tượng chịu thuế riêng, thông thường tên gọi của một sắc thuế bắt nguồn từ đối tượng chịu thuế của sắc thuế đó. Ví dụ: thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.v.v.   Đối tượng chịu thuế thường được tính trên một đơn vị giá trị hoặc một đơn vị vật lý.

3- Căn cứ tính thuế:

Luật thuế quy định mức thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước được xác định trên căn cứ nào. Căn cứ tính thuế đối với một sắc thuế là cơ sở tính thuế và thuế suất. 

3.1- Cơ sở tính thuế:

 Cơ sở tính thuế là số lượng đơn vị (theo giá trị hoặc theo đơn vị vật lý) đối tượng chịu thuế. Mỗi sắc thuế có một cơ sở tính thuế riêng, chẳng hạn như: Thuế tiêu thụ đặc biệt có cơ sở tính thuế là giá tính thuế TTĐB, thuế thu nhập có cơ sở tính thuế là thu nhập chịu thuế, thuế sử dụng đất nông nghiệp có cơ sở tính thuế là diện tích và hạng đất.    

3.2- Mức thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng chịu thuế:

Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối tượng chịu thuế. Theo thuật ngữ chuyên ngành về thuế thì người ta thường gọi mức thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng chịu thuế là thuế suất hay định suất thuế. 

Có thể nói, thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của một sắc thuế, vì nó thể hiện nhu cầu cần tập trung nguồn tài chính cho Ngân sách Nhà nước và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy, việc xác định thuế suất hay định suất thuế trong một sắc thuế phải quán triệt quan điểm vừa coi trọng lợi ích quốc gia, vừa chú ý đến lợi ích thích đáng của người nộp thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong việc sử dụng công cụ thuế.

Tuỳ theo quy định của từng sắc thuế mà  người ta áp dụng các loại thuế suất khác nhau. Trong thực tế có nhiều loại thuế suất, nhưng nhìn chung có các loại sau: 

- Thuế suất thống nhất: là loại thuế suất quy định mức nộp thuế như nhau cho tất cả đối tượng chịu thuế. Loại thuế suất này thường gặp ở thuế thân, nhưng hiện nay loại thuế này ít được áp dụng.

- Thuế suất phân biệt: là loại thuế suất quy định các mức khác nhau cho từng đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế tuỳ theo định hướng phát triển kinh tế của mỗi nước. 

 - Thuế suất đơn vị (hay còn gọi là định suất) là một loại thuế suất được quy định theo đơn vị vật lý của đối tượng chịu thuế. Loại thuế này không phụ thuộc vào giá trị của đối tượng chịu thuế.

- Thuế suất theo giá trị là loại thuế suất quy định tỷ lệ phần trăm huy động trên một đơn vị giá trị đối tượng chịu thuế. Thuế suất theo giá trị các dạng cụ thể sau:

+ Thuế suất theo tỷ lệ là loại thuế suất áp dụng một tỷ lệ (%) cố định không thay đổi trong mọi trường hợp tăng giảm của cơ sở tính thuế.

+ Thuế suất luỹ tiến là loại thuế mà mức thuế tăng (hoặc giảm theo mức tăng (hoặc giảm) của cơ sở tính thuế. Thuế suất luỹ tiến bao gồm thuế suất luỹ tiến toàn phần và thuế suất luỹ tiến từng phần.

Thuế suất luỹ tiến từng phần: áp dụng với mức thuế suất tăng dần theo từng phần tăng lên của cơ sở đánh thuế. Với các sắc thuế áp dụng loại thuế suất này trong biểu thuế suất, cơ sở đánh thuế được chia thành nhiều bậc theo mức độ tăng đàn. Ứng với mỗi phần tăng lên trong từng bậc thuế đó là một mức thuế suất. Số thuế mà đối tượng nộp thuế phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc. Việc tính toán và kiểm tra loại thuế này nhìn chung khá phức tạp, nhưng nó đảm bảo số thuế phải nộp tăng từ từ, không bị đột biến cùng tốc độ tăng của cơ sở đánh thuế. Do đó, đảm bảo được tính công bằng theo chiều dọc và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thu nhập. Chính vì vậy, Thuế thu nhập cá nhân đang được áp dụng trên thế giới và ở nước ta là loại thuế áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần.

Thuế suất luỹ tiến toàn phần: Biểu thuế suất cũng chia làm nhiều bậc với mỗi mức tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế được áp dụng một mức thuế suất chung tương ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn phần cho phép xác định số thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng. Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm là gây ra sự thay đổi có tính chất đột biến về tổng số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế ở những mức thu nhập cận biên giữa hai bậc thuế. Mặc dù gía trị của cơ sở đánh thuế thay đổi không đáng kể, nhưng sự thay đổi về số thuế phải nộp rất đáng kể do phải áp dụng các mức thuế khác nhau trên toàn bộ cơ sở  đánh thuế. Chính vì vậy, áp dụng thuế suất luỹ tiến toàn phần dễ dẫn đến sự phản ứng từ phía các đối tượng nộp thuế và như vậy tất yếu làm giảm vai trò của thuế. Hiện nay, thuế suất luỹ tiến toàn phần rất ít được áp dụng trên thế giới.

+ Thuế suất luỹ thoái: là loại thuế suất có tính chất ngược lại với thuế suất luỹ tiến, tức là mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở đánh thuế lại tăng dần. Ở một số nước trên thế giới, để khuyến khích các công ty vừa và nhỏ phát triển thành những công ty có quy mô lớn hơn, người ta đã áp dụng thuế suất  luỹ thoái (ở Mỹ, theo luật thuế thu nhập công ty năm 1991). Nói chung, thuế suất luỹ thoái là loại thuế suất không được áp dụng phổ biến.

4- Miễn, giảm thuế: 

Một số sắc thuế có quy định cho phép người nộp thuế không phải thực hiện nghĩa vụ nộp toàn bộ số tiền thuế mà người đó phải nộp cho Nhà nước (gọi là miễn thuế) hoặc chỉ nộp một phần số tiền thuế đó (gọi là giảm thuế) . Miễn thuế, giảm thuế chỉ là yếu tố ngoại lệ được quy định trong một số sắc thuế. 

Thông thường, những lý do để người nộp thuế được Nhà nước cho phép miễn thuế, giảm thuế quy định trong các sắc thuế là:

- Do nguyên nhân khách quan mà người nộp thuế gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc bị giảm sút thu nhập.

- Thực hiện một số chủ trương chính sách kinh tế của Nhà nước như: khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề trọng điểm, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn...

Tuy nhiên thực hiện việc miễn giảm thuế cũng có tính hai mặt, nó chứa đựng những yếu tố tích cực, tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, nhưng cũng chứa đựng các yếu tố tiêu cực, có thể làm méo mó những ý tưởng ban đầu khi thiết lập các sắc thuế, không phù hợp với  những tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại.   

V. VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:

1- Thuế là công cụ chủ yếu tập trung nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước:

Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau như: phát hành thêm tiền; phát hành trái phiếu để vay trong nước và ngoài nước; bán một phần tài sản quốc gia; thu thuế.... Trong các hình thức nêu trên thì thuế là công cụ chủ yếu và có vai trò quan trọng nhất. Vì so với các hình thức huy động khác, sử dụng công cụ thuế có những ưu điểm:

- Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn thu nhập nộp thuế.

- Phương thức huy động của thuế là sử dụng phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Chính vì vậy, nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định. 

- Thông qua thu thuế một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước taọ ra đã tập trung vào Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng và thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội.

- Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ khác còn thể hiện ở chỗ: thuế kết hợp hài hoà giữa phương pháp cưỡng bức và kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các đối tượng nộp thuế tới chất lượng sản xuất và hiệu quả kinh doanh.

Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực tài chính cho Nhà nước, nhưng không có nghĩa là Nhà nước có thể quy định mức động viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá mà mức độ động viên thuế chỉ có một giới hạn nhất định.  Nếu Nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho Ngân sách Nhà nước thì phần GDP còn lại dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi cách để trốn thuế.  Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho Ngân sách Nhà nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP được động viên vào Ngân sách Nhà nước. 

Nếu gọi Tm là tổng số thuế tối đa có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì khả năng thu thuế là Tm/GDP. 

Khả năng thu thuế là khái niệm lý thuyết được dùng để chỉ gianh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa đạt tới giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm giảm khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp, do đó làm giảm số thuế thu được trong tương lai.

Trong thực tế công tác quản lý thuế, tổng số thuế thu được hàng năm có thể lại khác xa so với tổng số thuế có khả năng thu được. Để phản ánh tình trạng này, các nhà kinh tế dùng khái niệm nỗ lực thu thuế (tax effort). 

Nếu tổng số thuế thực tế thu được là Tt, thì:

Nỗ lực thu thuế  =  (Tt/GDP) : (Tm/GDP)  =  Tt/Tm

Nếu tỷ lệ trên nhỏ hơn 1, Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp để tăng số thu về thuế mà không làm tổn hại đến quan hệ phân phối thu nhập giữa Nhà nước với doanh nghiệp và cá nhân, vì tiềm năng thu thuế hiện đang được khai thác ở mức độ thấp so với mức chịu đựng của nền kinh tế. Nhưng khi tỷ số trên lớn hơn 1 thì hệ thống thuế hiện tại đã huy động vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế. Cần phải hiểu rằng: Nỗ lực thu thuế cao không nhất thiết đồng nhất với xuất hiện tình trạng bội thu Ngân sách Nhà nước và càng không thể khẳng định rằng nền kinh tế đang tăng trưởng thuận lợi hoặc Nhà nước đang vận hành chính sách kinh tế đúng đắn. 

2- Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước: 

Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những khuyết tật vốn có của nó. Chính đó là lý do biện minh cho sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trường. Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô bằng cách đưa ra những chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên diện rộng và bằng các công cụ đòn bảy để hướng các hoạt động kinh tế - xã hội theo các mục tiêu Nhà nước đã định và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội thực hiện trong khuôn khổ luật pháp.

Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng nhiều biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp và kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế là gốc. Trong các biện pháp kinh tế thì thuế là công cụ quan trọng và sắc bén nhất.

Vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của công cụ thuế được biểu hiện rõ qua các nội dung Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế và phương pháp Nhà nước sử dụng công cụ thuế để đạt được các mục tiêu đã định.

2.1- Những nội dung điều tiết vĩ mô nền kinh tế của công cụ thuế:

 Trên cơ sở mục tiêu và đối tượng Nhà nước cần tác động tới nền kinh tế thì nội dung điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân  bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh thổ; lưu thông tiền tệ; giá cả; tiền lương; phân phối thu nhập; các mối quan hệ kinh tế đối ngoại; bảo vệ môi trường ... Như vậy, nội dung điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm hầu hết các quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới đây là một số nội dung điều tiết cơ bản của thuế đối với nền kinh tế quốc dân: 

2.1.1- Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế: là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sử dụng công cụ thuế điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển theo chu kỳ là điều không thể tránh khỏi. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, Nhà nước đã sử dụng thuế để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện ưu đãi về thuế thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng. Ngược lại, trong thời kỳ phát triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư, Nhà nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra.

2.1.2- Thuế còn góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý theo yêu cầu của từng giai đoạn phát triển nền kinh tế. Bằng việc ban hành hệ thống thuế, Nhà nước sẽ quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó Nhà nước có thể thúc đẩy  sự phát triển của những ngành kinh tế quan trọng hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa chúng, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế.

2.1.3- Điều chỉnh tích luỹ tư bản: là một nội dung quan trọng của điều chỉnh thuế. Một mặt, sản xuất chiếm hữu và tư bản hoá lợi nhuận luôn luôn là mục đích cơ bản của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần sử dụng thuế để điều chỉnh sự tích luỹ đó phù hợp lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế và lợi ích xã hội. Mặt khác, sự phát triển nền kinh tế luôn đòi hỏi phải tăng nhanh vốn đầu tư cơ bản, để phát triển nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ và tích tụ trong các doanh nghiệp, để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay đổi  các chính sách thuế của Nhà nước có thể ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ tích luỹ tư bản, do đó tác động đến quá trình đầu tư phát triển kinh tế.

2.1.4- Thuế có thể được sử dụng để điều tiết việc làm và thất nghiệp. Khi nền kinh tế có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng các khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế cần phải được cắt giảm để tăng tổng cầu và việc làm. Trong thời kỳ nền kinh tế lạm phát thì cùng với việc cắt giảm các khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế lại được gia tăng để giảm tổng cầu và hạn chế sự gia tăng của nền kinh tế.

2.1.5- Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy sự hoà nhập kinh tế trong khu vực và quốc tế. Thông qua điều chỉnh mức thuế xuất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà gây nên áp lực tăng giá hàng nhập khẩu, giảm khả năng cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, từ đó điều chỉnh khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường và đưa vào để thực hiện bảo hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của thị trường nội địa. Mặt khác, tác động đánh thuế nhập khẩu cũng gây nên phản ứng của người tiêu dùng trong nước tạo nên sự lựa chọn  của họ trong tiêu dùng. Ngoài ra người ta còn sử dụng công cụ thuế để kích thích việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hay ít nhất là giảm đến mức thấp nhất tính kém hiệu quả của sản xuất trong nước. Chẳng hạn, trong trường hợp cần hạn chế xuất khẩu những hàng hoá mà giá cả của chúng bị ấn định bởi giá cả bất lợi của thị trường thế giới, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, trường hợp này có thể sử dụng thuế xuất khẩu để kích thích chuyển các nguồn lực từ sản xuất hàng xuất khẩu sang sản xuất hàng hoá tiêu dùng nội địa. 

2.2- Những phương pháp Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế: 

Tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế chỉ đem lại hiệu quả thiết thực khi công cụ thuế được Nhà nước áp dụng theo các phương pháp điều chỉnh thích hợp. 

Phương pháp điều chỉnh của thuế là phương thức tác động của Nhà nước thông qua thuế đến các đối tượng điều chỉnh của thuế để đạt được những mục tiêu đã định. Trong thực tiễn thế giới có rất nhiều phương thức Nhà nước sử dụng công cụ thuế để tác động đến nền kinh tế. 

Dưới đây là một số phương pháp điều chỉnh chủ yếu của thuế :

2.2.1- Xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu:

Tất cả các hình thức thuế đều có thể được phân chia thành thuế trực thu và thuế gián thu. Sự cần thiết áp dụng các loại thuế gián thu và trực thu trong quá trình sử dụng công cụ thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế được quyết định bởi tính đặc thù của mỗi loại thuế cụ thể.

Thuế trực thu hay thuế gián thu đều có những nét đặc trưng riêng, có ưu điểm và nhược điểm riêng của mỗi loại thuế. Vì vậy, tuỳ theo đặc điểm trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như  quan điểm của những người lãnh đạo Nhà nước trong từng thời kỳ mà người ta có thể lựa chọn coi trọng loại thuế gián thu hơn thuế trực thu và ngược lại.

Thông thường thuế gián thu có diện thu nộp thuế rộng và ít bị hạn chế, nên có thể áp dụng thuế suất thấp nhưng tạo nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Áp dụng  thuế gián thu thì khả năng thất thu thuế ít và ít gây tác động tiêu cực hơn thuế trực thu. Bằng việc đánh thuế gián thu, Nhà nước có thể tác động tới nhu cầu tiêu dùng xã hội, qua đó tác động tới sản xuất, kinh doanh. Do đó, vai trò của thuế gián thu không chỉ điều tiết khả năng tiêu dùng mà còn hiệu chỉnh quy mô và tốc độ hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn vai trò của thuế trực thu phụ thuộc chủ yếu vào quy mô và tốc độ hoạt động của nền kinh tế.

Việc điều chỉnh mức độ động viên thuế gián thu dễ dàng mà ít bị dân chúng phản ứng. Hơn nữa thủ tục thu nộp cũng dễ dàng, dễ quản lý và chi phí quản lý thấp hơn so với thuế trực thu. Việc quản lý thuế trực thu rất khó khăn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ và có hiệu lực.

Mặt khác thuế gián thu có tính chất ổn định hơn thuế trực thu vì thuế gián thu đánh vào tiêu dùng nên ngay cả khi kinh tế đi xuống người ta vẫn phải mua sắm và chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu, do vậy Nhà nước vẫn thu được thuế. Còn thuế trực thu đánh vào thu nhập nên thường  bị biến động. Nếu tình hình kinh tế phát triển tốt thu nhập sẽ khá hơn và từ đó thuế trực thu sẽ tăng. Ngược lại, thì sự suy giảm kinh tế có thể làm giảm đi số lượng thu nhập từ thuế trực thu một cách rõ rệt.

Các hình thức thuế trực thu có vai trò khác nhau trong phân phối thu nhập và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Thuế thu nhập cá nhân giữ vị trí quan trọng để điều tiết thu nhập của dân cư. Mặc dù có thể tác động đến hành vi tiết kiệm của người dân nhưng khả năng kích thích hiệu quả đầu tư của thuế thu nhập cá nhân lại rất thấp. Trong trường hợp đó người ta sử dụng thuế thu nhập công ty để ảnh hưởng tới sự tích luỹ tư bản và mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh.

Chính vì vậy, Nhà nước không thể chỉ áp dụng một hình thức thuế nào đó để đạt được các mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế , mà bắt buộc  phải sử dụng nhiều hình thức thuế khác nhau, cũng như kết hợp chặt chẽ giữa thuế trực thu và thuế gián thu. Mối quan hệ giữa thuế trực thu và thuế gián thu hợp thành hệ thống thuế của Nhà nước trong lĩnh vực điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mỗi một tương quan theo tỷ lệ giữa chúng sẽ đáp ứng những mục tiêu, yêu cầu nhất định của Nhà nước trong hoạt động quản lý của mình. Việc xác định một mối quan hệ cụ thể nào đó thông thường phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức thu nhập của dân cư và quy mô tích luỹ của doanh  nghiệp. Tuy nhiên, ý nghĩa của những loại thuế cơ bản trong sự kết hợp của từng nước cũng có sự khác nhau. Trong điều kiện năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh doanh thấp, thu nhập thực tế của dân cư không cao thì thuế thu nhập không thể trở thành nguồn thu chủ yếu cuả Ngân sách Nhà nước. Khi đó nguồn thu chủ yếu của thuế sẽ chuyển từ thuế trực thu sang thuế gián thu. Điều đó đã được minh chứng rằng, trong điều kiện suy thoái kinh tế, không phải ngẫu nhiên mà một vài quốc gia đã áp dụng phương pháp hạ thấp thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập công ty để kích thích đầu tư phát triển nền kinh tế. 

2.2.2- Thay đổi thuế suất : 

Như chúng ta đã biết  thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của mỗi sắc thuế. Thay đổi thuế suất tức là thay đổi mức thu thuế hay đại lượng thu thuế tính trên một đơn vị đối tượng chịu thuế.  Thông qua đó, Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập được tạo ra giữa các chủ thể kinh tế, giữa các ngành, các vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội, làm thay đổi lợi ích kinh tế của họ.

Mục đích của Nhà nước điều tiết đối với nền kinh tế quốc dân là tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế và kích thích tốc độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trước hết phụ thuộc vào mức đầu tư, mà mức đầu tư được quyết định bởi đại lượng tiết kiệm và khối lượng tích luỹ đã đạt đến mức độ nhất định. Rõ ràng, biểu thuế cao hay thấp đã tác động đến hành vi tiết kiệm và tích luỹ, do đó ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ đầu tư.

Nếu Nhà nước sử dụng hệ thống thuế có các mức thuế suất quá cao sẽ cản trở quá trình hình thành những điều kiện cần thiết tạo mức tiết kiệm đủ để đảm bảo cho việc đầu tư trong các thành phần kinh tế. Nếu Nhà nước sử dụng hệ thống thuế có các mức thuế suất thấp sẽ làm tăng thu nhập của dân cư và doanh nghiệp, do đó làm tăng mức tiết kiệm và tích luỹ tư bản.

Thay đổi thuế suất được coi là một phương pháp quan trọng trong quá trình Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế. Thông qua việc quy định đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các ngành nghề, mà Nhà nước tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung, cầu trên thị trường nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô, đảm bảo sự giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. 

Tuy nhiên việc thay đổi thuế suất trong thực tiễn cũng gặp những khó khăn nhất định về kinh tế - kỹ thuật. Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Một trong những điều kiện đó là ổn định biểu thuế. Sự thay đổi thường xuyên hệ thống thuế suất sẽ làm trở ngại đến việc lựa chọn và quyết định đầu tư của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Thứ hai, hệ thống thuế suất thường được xây dựng trên cơ sở xem xét và tính toán có căn cứ khoa học và thực tiễn. Sự thay đổi thậm chí một thuế suất cũng có thể kéo theo sự thay đổi của cả hệ thống. Thứ ba, hệ thống thuế suất chính là thể hiện mức độ động viên một phần tổng sản phẩm xã hội vào Ngân sách Nhà nước, tức là phản ánh thực trạng nền kinh tế và mức độ lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. 

Chính vì những nguyên nhân trên, mà ngoài phương pháp thay đổi thuế suất, Nhà nước  khi sử dụng công cụ thuế để tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế còn sử dụng nhiều phương pháp khác.

2.2.3- Áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế: 

Ưu đãi thuế tức là hình thức cho người nộp thuế được hưởng những điều kiện thuận lợi khi nộp thuế. Thông qua thực hiện ưu đãi thuế, Nhà nước đã điều tiết nền kinh tế một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của cục diện nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Tác dụng kích thích của các hình thức ưu đãi thuế được xem như một hình thức Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm quy mô và mức độ của các ưu đãi thuế để kích thích tăng tích luỹ và tích tụ vốn trong các doanh nghiệp và dân cư.

Các hình thức ưu đãi thuế rất đa dạng: quy định mức thu nhập tối thiểu không phải nộp thuế; cho phép loại trừ một số khoản chi phí trong thu nhập chịu thuế; miễn hoặc giảm một phần hay toàn bộ số thuế phải nộp; cho hoãn nộp thuế; cấp tín dụng thuế để tái đầu tư. Hiện nay, trên thế giới hình thức cấp tín dụng thuế để tái đầu tư được sử dụng rất rộng rãi.

Tuỳ theo phạm vi sử dụng, có thể phân chia các loại ưu đãi thuế thành hai nhóm khác nhau: ưu đãi thuế mang tính chất ngành, vùng lãnh thổ  và ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt.  Việc cấp ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt được sử dụng nhằm giải quyết nhiệm vụ điều chỉnh trong phạm vi hẹp, gắn liền với lợi ích của từng chủ thể kinh doanh. Tuy có những ưu điểm nhất định, nhưng ưu đãi thuế mang tính cá biệt cũng tạo ra sự không công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh tế, gây hậu quả tâm lý xấu đối với người nộp thuế và tạo ra những tiền đề trốn thuế, do đó làm mất tính trung lập của thuế.

Ngoài các phương pháp điều chỉnh của thuế kể trên, trong thực tiễn Nhà nước còn sử dụng một số phương pháp điều chỉnh thuế khác như sử dụng biểu thuế phân biệt, thay đổi hình thức nộp thuế. Mỗi phương pháp điều chỉnh của thuế đều có những ưu, nhược điểm nhất định và giữ vị trí khác nhau trong quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc áp dụng phương pháp này hay phương pháp khác hoặc tất cả các phương pháp là phụ thuộc vào trạng thái kinh tế và mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước. 

3- Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối :

Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị trường càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư. Chính vì vây, Nhà nước cần phải can thiệp vào quá trình phân phối  thu nhập, của cải của xã hội. Thuế là một công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động trực tiếp vào quá trình này.

Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện một phần thông qua thuế gián thu mà đặc biệt là hình thức thuế tiêu thụ đặc biệt. Loại thuế này có đối tượng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cao cấp, đắt tiền. Các hàng hoá, dịch vụ này thông thường chỉ có những người có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng nhiều, qua đó điều tiết bớt một phần thu nhập của họ.

Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng thuế suất luỹ tiến là sắc thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. 

4- Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh:

Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong thực tế. Để đảm bảo thu được thuế và thực hiện đúng các quy định của các luật thuế đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi biện pháp tháo gỡ. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

VI- CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH THUẾ:

1- Khái niệm về chính sách thuế : 

Thuế là một phần thu nhập của các thể nhân và pháp nhân được động viên vào Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, chính sách thuế phải thể hiện được đường lối và phương hướng của Nhà nước trong động viên thu nhập từ nền kinh tế quốc dân thông qua hình thức thuế vào Ngân sách Nhà nước. Chính sách thuế được thiết lập bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật ban hành các loại thuế, trong lĩnh vực nộp thuế, xác định biểu thuế và ưu đãi thuế trong từng giai đoạn phát triển nhất định.Như vậy: 

Chính sách thuế là tổng hợp các quan điểm, phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thu nộp thuế và các phương thức, biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định.

2- Những yếu tố tác động tới chính sách thuế:

Như ở phần bản chất của thuế chúng ta đã phân tích rõ thuế có bản chất chính trị, kinh tế và xã hội sâu sắc. Do đó, thuế chịu sự ảnh hưởng sâu sắc  của các yếu tố chính trị, kinh tế, và xã hội trong những thời kỳ nhất định. 

2.1- Yếu tố chính trị: 

Bản thân thuế là do Nhà nước đặt ra. Mà Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội, do đó chính sách thuế trước hết phải phục vụ cho các mục tiêu do Nhà nước đặt ra và phục vụ cho ý đồ chính trị của giai cấp thống trị. 

Thể chế chính trị  của Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến cơ cấu chính sách thuế và tổ chức bộ máy thu thuế. Nếu thể chế chính trị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước Liên bang thì trong cơ cấu hệ thống thuế thường bao gồm các loại thuế trung ương và thuế địa phương. Bộ máy tổ chức thu thuế thường cũng bao gồm các cơ quan thu thuế trung ương và thuế địa phương riêng biệt nhau. Còn nếu thể chế chính trị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước đơn nhất thì thường chỉ có một  hệ thống chính sách thuế thống nhất cho cả nước. Bộ máy tổ chức thu thuế thường là  tổ chức theo một hệ thống ngành dọc thống nhất từ trung ương đến địa phương.

Yếu tố chính trị có tác động quyết định đến chính sách thuế được thể hiện rõ ngay cả trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các chính sách thuế quan và thuế nội địa của các nước phải sửa đổi lại cho phù hợp với các cam kết quốc tế (như các cam kết gia nhập AFTA, WTO, APEC..) hoặc tuỳ thuộc vào các quan hệ chính trị giữa các nước mà áp dụng thuế trả đũa, thuế chống trợ cấp,  thuế chống phá giá... 

Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố chính trị đến chính sách thuế  để hiểu rõ hơn về bản chất giai cấp của thuế và quán triệt tinh thần xây dựng chính sách thuế phải phù hợp và phục vụ cho những mục tiêu chính trị của Nhà nước. 

Ở nước ta, vấn đề tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế thời gian tới đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng là: “Tiếp tục cải cách Hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, từng bước áp dụng hệ thông thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hoá công tác thu thuế và tăng cường quản lý Nhà nước.” 

2.2- Yếu tố kinh tế:

Điều này, trước hết thể hiện ở chỗ thuế là một phần thu nhập của nền kinh tế quốc dân được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Do đó, kinh tế là cơ sở của thuế. Thuế luôn luôn gắn chặt với sản xuất kinh doanh và  nguồn thu từ thuế chỉ có thể tăng nhiều và nhanh trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và có hiệu quả.

Những yếu tố kinh tế thường tác động đến chính sách thuế là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường, sự biến động của Ngân sách, tỷ giá hối đoái... Điều này đã được chứng minh qua các phân tích về bản chất và chức năng của thuế ở phần trên.. 

Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố kinh tế đối với chính sách thuế để thấy rõ hơn về bản chất kinh tế của thuế và quán triệt quan điểm việc xây dựng chính sách thuế phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế và dựa trên các chính sách phát triển kinh tế- xã hội từng thời kỳ của mỗi quốc gia. 

2.3- Yếu tố xã hội:  

Chính sách thuế do Nhà nước ban hành nhưng những người thực hiện chính sách thuế là các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó các yếu tố xã hội như tâm lý tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, kết cấu giai cấp trong xã hội... đều tác động và ảnh hưởng nhất định đến nội dung của chính sách thuế cũng như quá trình tổ chức thực hiện chúng.

Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố xã hội đến chính sách thuế giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất  xã hội của thuế, qua đó thấy rõ về yêu cầu xây dựng chính sách thuế phải đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu, đễ thực hiện và dễ kiểm tra./. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro