thai binh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thái Bình

Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Phòng 70 km về phía tây nam. Thái Bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở phía bắc, Hưng Yên ở phía tây bắc, Hải Phòng ở phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở phía tây và tây nam. Phía đông là biển Đông (vịnh Bắc Bộ).

Chính trị và hành chínhBí thư tỉnh ủy

Nguyễn Hạnh PhúcChủ tịch HĐND

Nguyễn Hạnh PhúcChủ tịch UBND

Phạm Văn SinhĐịa lýTỉnh lỵ

Thành phố Thái BìnhMiền

Bắc BộDiện tích

1.542 km²Các thị xã / huyện

7Nhân khẩuSố dân (2009)
 • Mật độ
 • Nông thôn
 • Thành thị

1.780.954 người
1.155 người/km²
86%
14%Dân tộc

Việt, Tày, Mường, HoaMã điện thoại

36Mã bưu chính

33ISO 3166-2

VN-20Website

[1]Biển số xe

17 Hành chính

Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc là:

Thành phố Thái Bình (tỉnh lỵ) 10 phường và 9 xã * 10 phường là: Bồ Xuyên, Phú Khánh, Kỳ Bá, Tiền Phong, Quang Trung, Trần Lãm, Lê Hồng Phong, Đề Thám, Trần Hưng Đạo, Hoàng Diệu.

* 9 xã là: Đông Hòa, Vũ Chính, Vũ Phúc, Phú Xuân, Tân Bình, Vũ Đông, Vũ Lạc, Đông Thọ, Đông Mỹ. Các xã Phú Xuân, Tân Bình, Vũ Lạc, Vũ Đông sẽ được đô thị hoá nhanh để đủ tiêu chuẩn lên Phường vào năm 2012.

Đông Hưng (sáp nhập 2 huyện Đông Quan và Tiên Hưng) 1 thị trấn và 43 xã

Thị trấn Đông Hưng (huyện lị) · Xã: An Châu · Bạch Đằng · Chương Dương · Đô Lương · Đông Á · Đông Các · Đông Cường · Đông Dương · Đông Động · Đông Giang · Đông Hà · Đông Hoàng · Đông Hợp · Đông Huy · Đông Kinh · Đông La · Đông Lĩnh · Đông Phong · Đông Phương · Đông Quang · Đông Sơn · Đông Tân · Đông Vinh · Đông Xá · Đông Xuân · Đồng Phú · Hoa Lư · Hoa Nam · Hồng Châu · Hồng Giang · Hồng Việt · Hợp Tiến · Liên Giang · Lô Giang · Mê Linh · Minh Châu · Minh Tân · Nguyên Xá · Phong Châu · Phú Châu · Phú Lương · Thăng Long · Trọng Quan

Hưng Hà (sáp nhập 2 huyện Hưng Nhân và Duyên Hà) 2 thị trấn và 33 xã.

Lịch sử: Huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình được thành lập từ 1969 trên cơ sở sáp nhập 2 huyện Duyên Hà - Hưng Nhân và 5 xã của huyện Tiên Hưng cũ. Huyện nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Thái Bình, cách Thành phố Thái Bình khoảng 27 km. Phía Bắc tiếp giáp huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam, phía Nam giáp huyện Vũ Thư, phía Đông giáp huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng. Tổng diện tích đất tự nhiên là 20.041,9 ha, huyện Hưng Hà 33 xã và 2 thị trấn:

Trấn Hưng Hà( Huyện lị). Thị Trấn Hưng Nhân Xã: Bắc Sơn · Canh Tân · Chí Hòa · Chi Lăng · Cộng Hòa · Dân Chủ · Duyên Hải · Điệp Nông · Đoan Hùng · Độc Lập · Đông Đô · Hòa Bình · Hòa Tiến · Hồng An · Hồng Lĩnh · Hồng Minh · Hùng Dũng · Kim Chung · Liên Hiệp · Minh Hòa · Minh Khai · Minh Tân · Phúc Khánh · Tân Hòa · Tân Lễ · Tân Tiến · Tây Đô · Thái Hưng · Thái Phương · Thống Nhất · Tiến Đức · Văn Cẩm · Văn Lang

Kiến Xương (tách ra từ phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định (cũ). Sau Cách mạng Tháng Tám gọi là huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình) 1 thị trấn và 36 xã

Thị trấn Thanh Nê (huyện lị) · Xã: An Bình · An Bồi · Bình Định · Bình Minh · Bình Nguyên · Bình Thanh · Đình Phùng · Hòa Bình · Hồng Thái · Hồng Tiến · Lê Lợi · Minh Hưng · Minh Tân · Nam Bình · Nam Cao · Quang Bình · Quang Hưng · Quang Lịch · Quang Minh · Quang Trung · Quốc Tuấn · Quyết Tiến · Thanh Tân · Thượng Hiền · Trà Giang · Vũ An · Vũ Bình · Vũ Công · Vũ Hòa · Vũ Lễ · Vũ Ninh · Vũ Quý · Vũ Sơn · Vũ Tây · Vũ Thắng · Vũ Trung

Quỳnh Phụ (sáp nhập 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực) 2 thị trấn và 36 xã

Thị trấn Quỳnh Côi (huyện lị. Thị trấn An Bài Xã: An Ấp · An Cầu · An Đồng · An Dục · An Hiệp · An Khê · An Lễ · An Mỹ · An Ninh · An Quý · An Thái · An Thanh · An Tràng · An Vinh · An Vũ · Đông Hải · Đồng Tiến · Quỳnh Bảo · Quỳnh Châu · Quỳnh Giao · Quỳnh Hải · Quỳnh Hoa · Quỳnh Hoàng · Quỳnh Hội · Quỳnh Hồng · Quỳnh Hưng · Quỳnh Khê · Quỳnh Lâm · Quỳnh Minh · Quỳnh Mỹ · Quỳnh Ngọc · Quỳnh Nguyên · Quỳnh Sơn · Quỳnh Thọ · Quỳnh Trang · Quỳnh Xá

Thái Thụy (sáp nhập 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh)1 thị trấn và 47 xã:

Gồm thị trấn Diêm Điền và 47 xã là: Thị trấn Diêm Điền (huyện lị) · Xã: Hồng Quỳnh · Mỹ Lộc · Thái An · Thái Đô · Thái Dương · Thái Giang · Thái Hà · Thái Hòa · Thái Học · Thái Hồng · Thái Hưng · Thái Nguyên · Thái Phúc · Thái Sơn · Thái Tân · Thái Thành · Thái Thịnh · Thái Thọ · Thái Thuần · Thái Thượng · Thái Thủy · Thái Xuyên · Thụy An · Thụy Bình · Thụy Chính · Thụy Dân · Thụy Dũng · Thụy Duyên · Thụy Dương · Thụy Hà · Thụy Hải · Thụy Hồng · Thụy Hưng · Thụy Liên · Thụy Lương · Thụy Ninh · Thụy Phong · Thụy Phúc · Thụy Quỳnh · Thụy Sơn · Thụy Tân · Thụy Thanh · Thụy Trình · Thụy Trường · Thụy Văn · Thụy Việt · Thụy Xuân

Thị trấn Diêm Điền (huyện lị) · Xã: Hồng Quỳnh · Mỹ Lộc · Thái An · Thái Đô · Thái Dương · Thái Giang · Thái Hà · Thái Hòa · Thái Học · Thái Hồng · Thái Hưng · Thái Nguyên · Thái Phúc · Thái Sơn · Thái Tân · Thái Thành · Thái Thịnh · Thái Thọ · Thái Thuần · Thái Thượng · Thái Thủy · Thái Xuyên · Thụy An · Thụy Bình · Thụy Chính · Thụy Dân · Thụy Dũng · Thụy Duyên · Thụy Dương · Thụy Hà · Thụy Hải · Thụy Hồng · Thụy Hưng · Thụy Liên · Thụy Lương · Thụy Ninh · Thụy Phong · Thụy Phúc · Thụy Quỳnh · Thụy Sơn · Thụy Tân · Thụy Thanh · Thụy Trình · Thụy Trường · Thụy Văn · Thụy Việt · Thụy Xuân


Tiền Hải 1 thị trấn và 34 xã

Thị trấn Tiền Hải (huyện lị) · Xã: An Ninh · Bắc Hải · Đông Cơ · Đông Hải · Đông Hoàng · Đông Lâm · Đông Long · Đông Minh · Đông Phong · Đông Quý · Đông Trà · Đông Trung · Đông Xuyên · Nam Chính · Nam Cường · Nam Hà · Nam Hải · Nam Hồng · Nam Hưng · Nam Phú · Nam Thanh · Nam Thắng · Nam Thịnh · Nam Trung · Phương Công · Tây An · Tây Giang · Tây Lương · Tây Ninh · Tây Phong · Tây Sơn · Tây Tiến · Vân Trường · Vũ Lăng

Vũ Thư (sáp nhập 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì) 1 thị trấn và 29 xã

Thị trấn Vũ Thư (huyện lị) · Xã: Bách Thuận · Đồng Thanh · Dũng Nghĩa · Duy Nhất · Hiệp Hòa · Hòa Bình · Hồng Lý · Hồng Phong · Minh Khai · Minh Lãng · Minh Quang · Nguyên Xá · Phúc Thành · Song An · Song Lãng · Tam Quang · Tân Hòa · Tân Lập · Tân Phong · Trung An · Tự Tân · Việt Hùng · Việt Thuận · Vũ Đoài · Vũ Hội · Vũ Tiến · Vũ Vân · Vũ Vinh · Xuân Hòa

Tỉnh Thái Bình có 287 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 268 xã

 Điều kiện tự nhiên

Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.

Địa hình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1-2 m trên mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam.

Thái Bình có bờ biển dài 52 km.

Tỉnh này có 4 con sông khá lớn chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh với lưu lượng lớn và hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều và lượng phù sa không đáng kể khiến nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền từ 15-20 km.

Diện tích: 1.542 km²

Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.800 mm

Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C

Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ

Độ ẩm tương đối trung bình: 85-90%

Tọa độ: 20°17′đến 20°44′độ vĩ bắc, 106°06′đến 106°39′độ kinh đông. Dân số

Năm 2004, Thái Bình có 1.842.800 người với mật độ dân số 1.195 người/km².

Dự báo dân số năm 2010 là 1.902.400 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giai đoạn 2006 -2010 là 0.86 %/năm.

Thành phần dân số

Nông thôn: 86 %

Thành thị: 14 %

Phấn đấu đạt tỉ lệ đô thị hoá 22,3% năm 2015, đến năm 2020 tỉ lệ đô thị hoá đạt khoảng 40%, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%.

 Lịch sử

Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỉ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên.

Tỉnh Thái Bình được thành lập vào năm thứ hai niên hiệu Thành Thái nhà Nguyễn (1890), từ hai phủ Kiến Xương và Thái Bình của tỉnh Nam Định và lấy thêm huyện Thần Khê của phủ Tiên Hưng thuộc tỉnh Hưng Yên. Huyện Thần Khê lúc đó được nhập vào phủ Thái Bình, sau đó phủ này được đổi tên thành Thái Ninh. Đến năm 1894, hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà, phần còn lại của phủ Tiên Hưng cũng được nhập về tỉnh Thái Bình từ Hưng Yên, và phủ Tiên Hưng được tái lập trực thuộc tỉnh Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình có 3 phủ là: Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng, trong đó bao gồm 12 huyện:

Vũ Tiên, Thư Trì, Tiền Hải, Trực Định (Chân Định) thuộc phủ Kiến Xương (sở lị phủ kiêm huyện lị huyện Trực Định, đặt ở xã Động Trung)

Đông Quan, Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Vân (Thụy Anh), Thanh Quan thuộc phủ Thái Ninh (sở lị phủ kiêm huyện lị huyện Thanh Quan)

Hưng Nhân, Duyên Hà, Thần Khê thuộc phủ Tiên Hưng (sở lị phủ kiêm huyện lị huyện Thần Khê)

Sau đó, đơn vị hành chính cấp phủ bị loại bỏ, các huyện có sở lị phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng.

Tỉnh lị tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lị của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lị Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình.

Kinh tế

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2010 đạt gần 12.500 tỉ đồng (chỉ số giá năm 1994),nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006 - 2010 bình quân 11%.Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,3% so với năm 2009 là tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao thứ 3 ở khu vực đồng bằng sông Hồng

Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ phấn đấu năm 2010: 37% - 33 % - 30%

GDP bình quân phấn đấu năm 2010 là 16.8 triệu/người Giá trị sản xuât Công nghiệp 2010 ước đạt trên 20.000 tỷ .Hiện nay các khu Công nghiệp trên toàn tỉnh thu hút được 127 dự án, đã có 102 dự án hoàn thành đầu tư đi vào sản xuất với tổng số vốn thực hiện đầu tư là 4280.3 tỉ đồng thu hút 31.514 lao động. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn năm 2009 là 310 triệu USD , năm 2010 dự kiến sẽ là 430triệu USD Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hôi tới 2010 là 27.550 tỉ đồng Thu ngân sách năm 2010 ước đạt 2000 tỷ đồng Thành lập Khu Kinh tế Biển tại 2 huyện Tiền Hải và Thái Thụy rộng 20.000 Ha , phấn đấu năm 2020 Thái Bình trở thành Tỉnh Công Nghiệp .http://www.baothaibinh.com.vn/1/2662/Mien_dat_vuon_ra_bien.htm Trung tâm thương mại Thái Bình Dream tọa lạc tại vị trí trung tâm của tỉnh Thái Bình (Ngã tư An Tập - Số 355 Lý Bôn, TP Thái Bình) bao gồm Khách sạn Thái Bình Dream đủ chuẩn 3 sao (+84 36 3644828)và Siêu thị G*mart (nơi mua sắm sầm uất nhất Thái Bình)thuộc Geleximco Thái Bình. Trung tâm Điện lực Thái Bình tại xã Mỹ Lộc - Huyện Thái Thụy với vốn đầu tư 2.1 tỉ USD, diện tích 254ha. Dự án có công suất 1800 MW, dự kiến Nhà máy 1 sẽ hoàn thành vào năm 2013 - 2014 và Nhà máy 2 hoàn thành vào năm 2015. Tập đoàn dầu khí quốc gia sẽ triển khai 15 dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trên địa bàn Thái Bình : Dự án Trung tâm Điện Lực, dự án khoan thăm dò dầu khí, dự án xây dựng kho xăng dầu tại Xã Hoà Bình - Vũ Thư quy mô chứa 6000m³, dự án xây dựng hệ thống trạm kinh doanh nhiên liệu, dự án xây dựng văn phòng đại diện Công ty dầu khí Sông Hồng, dự án Trung tâm thương mại Thành Phố Thái Bình, dự án Khách sạn 4 sao (thay thế KS Giao Tế cũ), dự án dây truyền cán thép... Các khu Công nghiệp của Tỉnh Thái Bình Khu Công nghiệp Phúc Khánh, diện tích 300ha

Khu Công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, diện tích 102ha

Cụm công nghiệp Phong phú (Nằm trên địa phận Phường Tiền Phong), diện tích 56ha

Khu Công nghiệp Tiền Hải, diện tích 128ha

Khu Công nghiệp Cầu Nghìn, diện tích 100ha

Ngoài các khu Công nghiệp trên, Chính phủ đã chấp nhận cho phát triển các khu Công nghiệp:

Khu Công nghiệp An Hoà, diện tích 400ha

Khu Công nghiệp Gia Lễ, diện tích 100ha

Khu Công nghiệp Đồng Tu, diện tích 50ha

Khu Công nghiệp Thanh Nê, diện tích 50ha

Khu Công nghiệp Diêm Điền, diện tích 100ha

Khu Công nghiệp Mỹ Xuyên, diện tích 100ha

Các điểm Công nghiệp tại các huyện, diện tích 235ha

Công ty Bất động sản Dầu khí đang lập kế hoạch đầu tư Khu Công Nghiệp Minh Hoà với diện tích 500ha và 40ha đô thị kèm theo chia làm 2 giai đoạn. Hiện nay đã hoàn thành quy hoạch 1/2000, năm 2010 triển khai hạ tầng, năm 2011 thu hút đầu tư

Tài nguyên

Các khoáng sản chính:

Khí mỏ: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác hàng năm vài chục triệu m³ khí thiên nhiên. Tháng 5, 6 năm 2003, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã tiến hành nổ địa chấn 3D lô 103/107 vịnh Bắc Bộ trữ lượng ước tính 7 tỷ m³.

Nước khoáng: Mỏ Tiền Hải ở độ sâu 450 m có trữ lượng khoảng 12 triệu m³, đã khai thác từ năm 1992, sản lượng 9,5 triệu lít với các nhãn hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải.

Nước khoáng nóng: Đã thăm dò và phát hiện ở xã Duyên Hải huyện Hưng Hà mỏ nước nóng 57 °C ở độ sâu 50 m và nước nóng 72 °C ở độ sâu 178 m đang đầu tư khai thác phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh. Than: Có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng với trữ lượng 210 tỉ tấn (lớn gấp 20 lần trữ lượng than tại Quảng Ninh). Hiện nay Tập đoàn than khoáng sản và Tỉnh Thái Bình đã kí kết thoả thuận phối hợp chỉ đạo và thực hiẹn một số nội dung quan trọng: Giai đoạn 2010 - 2015 triển khai địa chất 24 lỗ khoan, giai đoạn 2015 - 2020 khoan thăm dò địa chất 3600 lỗ khoan. Từ 2010 đầu tư thử nghiệm một số dự án khai thác than bằng công nghệ ngầm dưới lòng đất hoặc công nghệ hàm lò tại Tiền Hải và Thái Thụy, mỗi dự án có quy mô công suất 6 triệu tấn/năm. Công ty dầu khí Sông Hồng bắt đầu khoan thăm dò khai thác khí than tại giếng khoan Tiền Hải C-08 tại Xá Tây Ninh - Tiền Hải, giếng có độ sâu 1100m.  Giao thông

Đường bộ: Quốc lộ 10 sang Nam Định, quốc lộ 39 nối Hưng Yên - Diêm Điền và Hải Phòng; đường 217 (Quốc lộ 37) sang Hải Dương.

Đường thuỷ: Cảng Diêm Điền là cảng quốc gia, đang đầu tư xây dựng để tàu 1000 tấn có thể ra vào. Khởi công xây dựng Cầu Hiệp nối 2 tỉnh Thái Bình và Hải Dương, chiều dài cầu 542.5 m, khổ rộng 12m, tổng mức đầu tư 245.425 tỉ đồng, dự kiến hoàn thành năm 2010 Dự án xây dựng Cầu vượt sông Hồng và tuyến đường bộ nối 2 tỉnh Thái Bình, Hà Nam với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (khởi công ngày 25/1/2010). Giai đoạn 2 của dự án nối quốc lộ 10 với đường ven biển Tiền Hải - Thái Thuỵ và Quốc lộ 37) Dự án tuyến đường ôtô cao tốc ven biển đang được chính phủ nghiên cứu khả thi, dự án tại Thái Bình qua 2 huyện: Thái Thụy và Tiền Hải Đường 39B (TL458) nối Thành Phố Thái Bình - Kiến Xương - Tiền Hải - Cảng Diêm Điền (Thái Thuỵ) Đường 39B nối thị trấn Thanh Nê với Thị Trấn Diêm Điền dài 28.9 km http://thaibinhtv.vn/chinh-tri/UBND-tinh-Thai-Binh-to-chuc-le-khoi-cong-Du-an-cai-tao,-nang-cap-duong-39B.html?p=86&id=2981  Văn hóa-xã hội

 Giáo dục

Năm 2004, Thái Bình có 295 trường mầm non, 293 trường tiểu học, 276 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học. Học sinh ba cấp tương ứng là: 140.967 - 141.004 - 58.848.

Top 100 trường PTTH hàng đầu Việt nam, Thái Bình có 3 trường: Trường Chuyên Thái Bình xếp hạng 21. Trường THPT Nguyễn Du xếp hạng 78, Trường Nguyễn Đức Cảnh xếp hạng 87 (số liệu năm 2007).

Một số trường THPT nổi tiếng của tỉnh Thái Bình: THPT Chuyên Thái Bình

THPT Lê Quý Đôn

THPT Nguyễn Đức Cảnh

THPT Bắc Đông Quan

THPT Nguyễn Du

THPT Đông Thụy Anh

THPT Tây Thụy Anh

THPT Thái Ninh

THPT Nguyễn Trãi

THPT Bắc Duyên Hà

THPT Quỳnh Côi Ngoài ra còn có trường đại học: 1 Đại học Y Thái Bình Thành lập ngày 23/7/1968 theo QĐ 114 / CP.Trường có 409 cán bộ giảng viên và trên 4000 sinh viên/năm. 2 Đại học Công nghiệp TPHCM - cơ sở phía Bắc (Thuộc địa phận xã Tân Bình - Thành Phố Thái Bình ) 3 Cao đẳng: sư phạm,Văn hoá nghệ thuật, Y tế, Sư phạm mầm non, Kinh tế kĩ thuật 4 Trung cấp và dạy nghề: Nông nghiệp (Quỳnh Côi), công nhân kĩ thuật, công nhân xây dựng, trường đóng tàu... Văn hóa truyền thống

Có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nước làng Nguyên Xá (Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư) v.v.

Phát triển mạnh du lịch văn hoá gắn với các lễ hội, giỗ tổ Đền Trần, tham quan chùa Keo, đền Đồng Bằng, đền Tiên La, du lịch sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng nghề (Đồng sâm, Nam Cao - Kiến Xương ...), du lịch biển (Đồng Châu - Tiền Hải)

- Từ ngày 14 tháng 10 đến ngày 16 tháng 10 năm 2009, tại Quảng trường 14 tháng 10 Thành phố Thái Bình diễn ra Ngày hội VHTT và DL các tỉnh đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất

 Di tích lịch sử

Đền nhà Trần (Hưng Hà)

Chùa Chành

Chùa Keo được xây dựng từ thế kỉ 11 triều nhà Lý

Đền Tiên La

Đền Đồng Bằng

Từ đường Bùi Quang Dũng

Từ đường Họ Bùi Văn (còn có tên là: Bùi Tộc - Hoa Nam)

Từ đường Nguyễn Tông Quai

Từ đường Lê Quý Đôn

Từ đường Ngô Quang Bích

Từ đường Bùi Viện

Đình Nhân Thanh (còn có tên là: Khải Ba Tự)

Chùa Đoàn Túc (còn có tên là: Hoàng Kim Tự)

Chùa Bồ Xuyên

Chùa Linh Thanh (Lục Bắc - Thái Xuyên - Thái Thụy - Thái Bình)

Đình Từ(Lục Bắc - Thái Xuyên - Thái Thụy - Thái Bình)

Đền Hét (Thái Thượng - Thái Thụy - Thái Bình)

Đình Đông (Lũng Đầu - Thái Xuyên - Thái Thụy - Thái Bình)

Các đền thờ, lăng mộ, nơi phát tích của nhà Trần tại huyện Hưng Hà.

Ngoài ra còn có các nhà thờ đạo thiên Chúa từ thờ Pháp (nhà thờ Bắc trạch tiền hải,  Danh nhân

Hoàng Văn Triệu (huyện Đông Hưng) là người đưa công nghiệp về Thái Bình.

Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm tên thật là Nguyễn Văn Cẩm(8/10/1874 - 1929),quê ông là làng Ngọc Đình, phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên, nay là xã Văn Cẩm huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.Vì ông có tiếng thông minh từ bé, và tương truyền chính vua Tự Đức cũng khen ngợi ông là Kỳ Đồng (đứa trẻ thông minh kỳ lạ), nên tục gọi ông là Kỳ Đồng. Ông lại được cha là nhà nho giỏi, dạy dỗ. Ông được chính phủ Pháp cấp học bổng sang học Trường trung học Alger, tốt nghiệp tú tài khoa học và văn chương. Ông có lẽ là Người Việt đầu tiên đỗ tú tài Pháp. Sau ngót 10 năm học ở nước ngoài,cuối năm 1896 ông về nước, lúc đó ông 22 tuổi.Nhưng khi đi học về, ông không nhận làm công chức cho Pháp. Lúc bấy giờ có phong trào chống Pháp do Mạc Đình Phúc (tức Khóa Trình) cầm đầu đang dấy lên,được nhân dân quanh vùng tỏ lòng tin tưởng đã tôn ông làm "Quốc sư" tham gia phong trào đó.

Trần Thủ Độ (huyện Hưng Hà) là người có công sáng lập triều Trần.

Nguyễn Tông Quai (trước thường đọc là Nguyễn Tông Khuê, huyện Hưng Hà), là thầy học của Lê Quý Đôn, hai lần đi sứ nhà Thanh.

Lê Quý Đôn (huyện Hưng Hà), Bảng nhãn triều Lê-Trịnh, nhà bác học lớn của Việt Nam, tác giả của Vân Đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục...

Quách Đình Bảo (quê xã Thái Phúc huyện Thái Thụy tỉnh [Thái Bình]). Ông đỗ Hoàng Giáp dưới thời vua Lê Thánh Tông và đóng góp lớn trong việc đi nhà Minh, bàn chuyện Chiêm Thành. Ông được phong Thượng thư bộ Lễ kiêm Tả xuân phường, Tả trung doãn, sau sang Thượng thư bộ Hình. Ông có những đóng góp lớn lao của ông trong chiến lược dùng người tài quốc gia. Ông là một thành viên tích cực và là một trong 28 vì tinh tú của Hội Tao Đàn.

Chu Đình Ngạn (được vua Lê ban họ, nên sử chép là Lê Đình Ngạn, người làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Nhất xã An Ninh huyện Tiền Hải). Tướng quân dưới triều Lê, có công lập ra làng Trình Phố và phong tục họp chợ Giếng vào Tết âm lịch hàng năm (đến nay, tức năm 2006, qua mấy trăm năm, vẫn được tổ chức).

Ngô Quang Bích (sử chép là Nguyễn Quang Bích, người làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Nhất xã An Ninh huyện Tiền Hải). Đỗ Hoàng giáp triều Nguyễn, (là học trò của tiến sĩ Doãn Khuê), Thượng thư bộ Lễ, Hiệp thống Bắc kì quân vụ đại thần, Sơn phòng sứ Hưng Hóa (Phú Thọ). Văn thân chống Pháp tại Phú Thọ, đồng thời là một nhà thơ.

Bùi Viện (người cùng làng với Nguyễn Quang Bích, tức làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Trung xã An Ninh huyện Tiền Hải). Với sự tiến cử của Doãn Khuê, ông đã có công xây dựng Ninh Hải (lúc đó thuộc Hải Dương) thành hải cảng trọng yếu, vào cuối thời Tự Đức, với cái tên mới là Hải Phòng (Hải trấn phòng thủ). Ông là một trong những nhà cải cách xã hội hiếm hoi cuối thế kỉ XIX ở Việt Nam, đặc biệt là trong lực lượng hải quân nhà Nguyễn, ông còn là nhà ngoại giao - sứ thần Việt Nam đầu tiên đến Mĩ.)

Hoàng Văn Thái (huyện Tiền Hải, Đại tướng. Sinh trưởng ở làng An Khang, là làng ở ngay bên cạnh làng Trình Phố nói trên)

Phạm Tuân (huyện Kiến Xương, Anh hùng, người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ, và có công đầu trong việc hạ máy bay B52 của Mĩ. Cựu học sinh trường cấp ba Tây Tiền Hải)

Nguyễn Mậu Kiến (huyện Kiến Xương, Chí sĩ chống Pháp)

Doãn Uẩn (làng Ngoại Lãng, Song Lãng, huyện Vũ Thư, An tây mưu lược tướng, cùng An tây trí dũng tướng Nguyễn Tri Phương đánh thắng Xiêm la (Thái Lan), bình định Cao Miên, giữ yên bờ cõi tây nam, năm 1845. Binh bộ thượng thư, được phong tước Tuy Tĩnh tử, Tổng đốc An Hà (Hà Tiên và An Giang) năm 1847 đến 1850.)

Doãn Khuê (làng Ngoại Lãng, Song lãng, Vũ Thư, em họ của Doãn Uẩn. Ông đỗ tiến sĩ triều Nguyễn năm 1838, Đốc học Nam Định kiêm Doanh điền sứ và Hải phòng sứ, cùng Nguyễn Mậu Kiến, là những người đầu tiên lãnh đạo chống Pháp (năm 1873) trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.)

Vũ Ngọc Nhạ (sinh 30 tháng 3 năm 1928 tại xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư - Một trong 4 nhà tình báo nổi tiếng Việt Nam)

Lâm Đức Thụ (huyện Kiến Xương, tức Nguyễn Công Viễn, là đồng chí hoạt động cùng Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc, mất năm 1949 tại quê nhà)

Nguyễn Thị Chiên (huyện Kiến Xương, Anh hùng tay không bắt sống giặc Pháp)

Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (Tu sĩ, nhà nghiên cứu Hán học và Phật học, tác giả của từ điển nổi tiếng "Từ điển Hán Việt Thiều Chửu", mất trong cách mạng ruộng đất)

Lại Ngọc Cang (nhà nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học Hán Nôm, như Truyện Kiều, Hoa tiên..., ông tự vẫn)

Nguyễn Hữu Đang (huyện Kiến Xương, chiến sĩ cách mạng, là trưởng ban tổ chức ngày tuyên bố độc lập 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau vì liên quan đến vụ án Nhân văn Giai phẩm mà bị treo bút, giam lỏng trong mấy chục năm liền. Nay đã được khôi phục, đánh giá lại trong tinh thần đổi mới).

Nguyễn Đức Tâm (tên khai sinh Nguyễn Đức Kiêm) sinh ngày 28-7-1920, quê quán xã Thượng Hiền, Kiến Xương, Thái Bình; nguyên ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Trung ương Đảng khóa V, VI; nguyên trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng.

Trần Độ (huyện Tiền Hải, Trung tướng, nhà văn, nhà hoạt động dân chủ)

Nguyễn Đức Cảnh (huyện Thái Thụy, chiến sĩ cách mạng)

Đặng Kim Giang (huyện Kiến Xương, Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam. Là chủ nhiệm cung cấp, một trong bốn thành viên của Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên. Chịu trách nhiệm đảm bảo quân lương, súng đạn cho chiến dịch Điện Biên Phủ.)

Tạ Minh Sơn (huyện Thái Thụy, Thái Bình) PGS. Tiến Sĩ Tạ Minh Sơn, Ngày tháng năm sinh: 10/12/1945. ông nguyên lạ viện trưởng Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam

Vua Bếp Nghệ Nhân Đinh Bá Châu (Thái Thuỵ - Thái Bình)ông là người được ví là vua bếp của Việt Nam

Vũ Văn Tiền quê Tiền Hải, Thái Bình được cho là một trong những người giàu nhất Việt Nam hiện nay, ông là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, Tổng Giám đốc Cty XNK thương mại GELEXIMCO

Vũ Quang Hội, ông cũng được cho là một trong những người giàu nhất Việt Nam hiện nay, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh Bitexco, chủ các toà nhà The Manor, The Garden, Tòa nhà Financial Tower...

Hòa thượng Thích Quảng Độ (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1928) xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Phan Bá Vành quê ở làng Minh Giám, nay là làng Nguyệt Lâm, xã Vũ Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình thuở nhỏ nhà nghèo, cha chết sớm phải đi mò cua bán cá giống, lớn lên đi làm thuê cày mướn cho các nhà giàu trong vùng. Ông có một sức khỏe phi thường, lại có tài ném lao.  Đặc sản

 Bánh cáy

Các loại bánh đều có thể làm ra ở các vùng quê khác nhau. Nhưng cũng có những loại bánh được gắn liền với từng vùng quê nơi sinh ra nó như: bánh đậu xanh Hải Dương, mè xửng Huế... Bánh cáy là một loại bánh vốn nổi tiếng ở vùng quê lúa Thái Bình.

Từ thành phố Thái Bình theo quốc lộ 10 tới quốc lộ 39 gặp làng Nguyễn là quê hương của bánh cáy. Làng Nguyễn rất nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề chế biến thực phẩm song đồ quý tiến vua thì chỉ có bánh cáy. Xưa khi quan đại thần triều đình đi kinh lí vùng châu thổ, khi qua làng Nguyễn được dân dâng lên tiến vua vào mỗi dịp tết đến.

Nguyên liệu chính của bánh cáy là gạo nếp và các nguyên liệu phụ: gấc, quả dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn.

Gạo nếp làm bánh được chia làm 2 phần, một phần đồ xôi với nước quả gấc; phần còn lại đồ xôi với nước quả dành dành tạo nên màu vàng tươi. Hai loại xôi này đều được giã bằng chày như làm bánh giầy. Sau khi giã nhuyễn đều, cán mỏng, cắt thành lát như mứt bí rồi sấy khô. Sấy xong cho vào chảo mỡ lợn đang sôi đảo đều tới khi lát bánh thơm giòn.

Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được rang chín ròn, xát bỏ vỏ. gạo nếp hoa vàng được rang nổ bỏng, nở tung, sạch trấu, dậy mùi thơm. Mỡ lợn khẩu muối đường hơn nửa tháng, đem ra thái nhỏ như hạt lựu, xào ngọt lấy độ trong, giòn. Cà rốt xào nước đường, nước gừng, vở quýt tươi được chuẩn bị đầy đủ.

Cho các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với đường mía, hâm nóng trên chảo đến khi đạt tới mùi thơm kỹ thuật thì đưa vào khuôn gỗ được chuẩn bị sẵn có lót vừng bên trong, nhồi nén cho bánh trở nên cứng, sau đó lấy ra cho vào bao bì, ta sẽ được bánh cáy thành phẩm. Bánh không phơi nắng, không sấy qua lửa nhưng để được rất lâu nếu làm đúng kỹ thuật.

Bánh cáy xắt miếng, ăn xong nên uống nước trà xanh nóng.

 Canh cá Quỳnh Côi

Canh cá Quỳnh Côi là món ăn dân tộc, dân dã mang hương vị thơm ngon của vùng quê Quỳnh Côi Thái Bình. Xưa cư dân địa phương chỉ làm canh cá với loại cá rô đồng có màu vàng mượt sống ở vùng có đất sét màu đỏ. Vào tháng 3 hàng năm, cá rô sinh sôi nảy nở. Đến tháng 10 cá ăn hoa lúa nên rất béo và thơm. Cá rô bắt được sẽ dùng làm canh cá. Đi trên con đường chạy dọc từ chân cầu Bo xuống, dù chưa thưởng thức nhưng chỉ nhìn những trái ổi được bày bán là đã có thể cảm nhận được sự thơm ngon của sản vật, từ màu sắc cho đến dáng quả. Nhưng để tìm ra được giống ổi Bo chính hiệu, trồng trên đất nguyên thổ của làng Bo với chất đất phù sa nhẹ tốt thì không phải dễ. Vì ổi Bo chính hiệu Thái Bình mỗi năm chỉ thu hoạch một vụ vào tháng 7. Ngày nay, cá rô tự nhiên không còn nhiều, muốn làm canh cá có thể dùng một số loại cá nuôi khác để thay thế. Trải qua thời gian, tùy theo từng khẩu vị khác nhau, món canh cá Quỳnh Côi có nhiều cách làm khác nhau đôi chút. Thông thường thì cá dùng làm canh phải còn tươi ngon. Cho cá vào bếp nướng, rán hoặc luộc đến vừa chín tới thì đưa ra khỏi bếp. Sau khi khử sạch vẩy, vây và xương thì cắt cá thành miếng hoặc dằm tơi. Tới đây ta có thể để nguyên mà làm thành canh hoặc có thể tiếp tục đưa cá vào chảo hấp hoặc rán với gừng cho miếng cá trở nên cứng, có mùi thơm và vị cay nóng của gừng già.

Cá sau khi được chế biến như trên được dùng làm canh với bánh đa hoặc cháo, nước dùng và gia vị chanh, ớt, mùi tầu, thì là, rau răm. Món canh cá dùng với sợi bánh đa là ngon nhất. Sợi bánh đa dùng làm canh cá phải được làm từ gạo chiêm mùa trước, sợi phải mỏng, mịn và dai thì bát canh cá mới ngon.

Thưởng thức bát canh cá bốc hơi nghi ngút với rau rút vào mùa hè hoặc rau cải cúc vào mùa đông.

 Gỏi nhệch

Ở vùng quê ven biển Thái Thuỵ, ngoài món hải sản nổi tiếng là cá khoai thì còn có món gỏi nhệch. Con nhệch có màu sắc và hình dáng tựa như lươn nước ngọt, chỉ có điều dài hơn một chút. Nhệch càng nhỏ càng tốt cho việc làm gỏi vì xương mềm, thịt mịn và ngọt. Nhệch được làm sạch nhớt bằng tro và lá nhái, sau đó mổ bụng vứt ruột đi, bỏ đầu đuôi, chỉ dùng thân. Thân nhệch được cắt ra nhiều đoạn: mỗi đoạn dài từ 2-3 cm. Mỗi đoạn đó lại được khía làm nhiều khúc nhỏ, không đứt hẳn, sau đó lấy khăn sạch thấm nước và cho vào bát ô tô, rắc bột ngọt, ớt khô, riềng giã nhỏ, thính gạo nếp, chờ dậy mùi là được. Nước dùng chỉ bao gồm 2 vị chua ngọt, vị chua được lấy từ quả cà chua luộc lên mà thành, vị ngọt được tạo nên từ đường. Khi dùng món gỏi nhệch bắt buộc phải có các loại rau như: lá chanh, lá sung, rau húng, tía tô,....

 Sứa Muối

Ở vùng quê ven biển Thái Thụy còn có món hải sản nối tiếng là sứa muối. Sứa là một hải sản đặc trưng của các vùng biển, từ những con sứa này ta có thể chế biến ra rất nhiều các món ăn khác nhau, trong đó có món nộm sứa và sứa muối. Sứa muối được chế biến từ nhưng con sứa tươi, được rửa sạch và cắt khúc thành những tảng nhỏ; sau đó được ngâm vào các bình, chum hoặc vại lớn. Nước muối sứa chua được làm từ quả cây vẹt (cây vẹt là một trong những loại cây nước lợ ven biển). Qua thời gian ngâm chua từ 3-4 tuần. Những miếng sứa ngâp được nhừ rất chua và chuyển màu thành mầu nâu đặc trưng. Đó là lúc ta có món sứa chua (sứa muối). Khi ăn, ta cắt nhỏ những miếng to ra thành các miếng nhỏ đều nhau. Nước chấm sứa muối là mắm tôm pha với chanh, ớt,... Rau ăn kèm là những loại rau như dậu rách, kinh giới, húng chũi,...


 Ổi Bo

Theo những người trồng ổi lâu năm ở làng Bo: để nhận biết trái ổi Bo Thái Bình, thì nhìn bề ngoài, trái phải bé chừng nắm tay nhưng cầm chắc nịch. Rốn quả ổi nhỏ xíu không thể lớn hơn hạt đậu. Và để có những trái ổi Bo thơm ngon, mang tinh tuý riêng của đồng đất và con người Thái Bình không nơi nào sánh được như thế, người làng Bo đã rất cẩn thận và tỷ mỉ từ khâu gieo trồng tới chăm sóc. Đất trồng ổi Bo phải là đất nguyên thổ, chua mặn, không được quá ấm, không được quá khô. Giống ổi Bo tốt thì phải được chọn lấy hạt từ cây mới bói, quả ở cành ngồng, lúc thời tiết có mưa nhiều. Kỳ công hơn là lấy bùn dưới ao đem phơi khô rồi đánh tơi trộn với phân bắc bón cho cây. Có như thế, trái ổi Bo Thái Bình mới tạo ra được những hương vị đặc trưng riêng. Tuy chỉ bé bằng cái chén nhỏ thôi, nhưng khi thưởng thức sẽ thấy được hương vị man mát, thơm giòn của trái ổi. Đầu tiên là vị chát, sau đó là vị chua dịu rồi vị ngọt.

Đã có nhiều người ở tỉnh khác, sau khi được thưởng thức trái ổi Bo đến xin giống về trồng. Nhưng khi gieo trồng xong, đến mùa thu hoạch, trái ổi lại không hội tụ đủ những hương vị thơm ngon như trái ổi Bo được trồng trên đồng đất Thái Bình. Nhiều người nói vui: có lẽ, trái ổi đã trót "nặng lòng" với người làng Bo nên không chịu kết duyên về đất mới.

Hiện nay, để bảo vệ và duy trì giống ổi Bo, Sở Khoa học Công nghệ và Sở NN - PTNT tỉnh Thái Bình phối hợp thực hiện đề tài khoa học "duy trì và giữ gìn gen ổi bo Thái Bình". Khi vùng sinh thái ổi Bo Thái Bình ra đời sẽ là nguồn động lực lớn giúp người dân làng Bo, phường Hoàng Diệu, Thành phố Thái Bình tiếp tục gìn giữ cây đặc sản địa phương. Một thứ quà quê kết tinh từ hồn đất, sông nước và con người quê lúa. "Nguồn : thaibinhtv.vn"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro