Thái Cực Quyền

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Luyện tập Thái Cực Quyền có ích lợi gì ?

Ích lợi của việc luyện tập Thái Cực Quyền rất nhiều. Mỗi động tác của Thái Cực Quyền hầu như là sự vận động của toàn thân, làm cho mỗi bộ phận trong thân thể chúng ta có dịp hoạt động. Trong khi luyện tập cần phải kết hợp động tác với sự hô hấp một cách tự nhiên, để làm phát triển cơ quan hô hấp và tăng gia lượng hoạt động của phổi.

Lượng vận động tuy lớn nhưng không kịch liệt, làm cho huyết dịch tuần hoàn suông sẻ, phát triển cơ năng tim, làm cho tim đập một cách hòa hoãn nhưng khoẽ khoắn, làm giãm thiểu hiện tượng ứ máu và bệnh cứng động mạch.

Ðồng thời việc thay cũ đổi mới các tế bào (hiện tượng chuyễn hóa hay còn gọi là tân trần đại tạ) được xúc tiến luôn, các phế vật trong cơ thể được bài trừ mau mắn. Sự luyện tập còn làm cho bao tử và ruột co thắt tốt hơn, thích ăn hơn, ngoài ra còn làm mất đi bệnh táo bón nữa.

Việc luyện tập Thái Cực Quyền còn đòi hỏi "tâm tĩnh". Việc nội liễm tinh thần và tập trung tinh thần là một cách phát triển đại não rất tốt. Hơn nữa trong sự vận động mà các động tác vốn dĩ đã phức tạp lại nối với nhau một cách hoàn chỉnh, thì bộ phận đại não phải làm việc hết sức. Như vậy cũng chính là gây nên một tác dụng huấn luyện tốt đối với hệ thống trung khu thần kinh, phát triển cơ năng cũa hệ thần kinh, tăng cường một cách tự nhiên tác dụng điều tiết đối với các bộ máy, khí quản trong toàn thân, làm tăng gia tính thích ứng của thân thể đối với ngoại giới. Thí dụ như khả năng thích ứng với trời nóng nực hay giá lạnh và lực đề kháng với bệnh truyền nhiễm đều có thể tăng gia một cách tương ứng. Cho nên nếu kiên trì luyện tập Thái Cực Quyền, thì rõ ràng đó là một cách rèn luyện thân thể, tăng cường sức chống chọi, và ngay cả kéo dài tuổi thọ nữa.

Ngoài ra việc luyện tập Thái Cực Quyền còn giúp ta rèn luyện được phẩm cách tốt đẹp như: trầm tĩnh, thanh thãn, kiên nghị, nhẫn nại, mẫn cảm và tập trung ý chí.

Ngày nay, mục đích của chúng ta khi luyện tập Thái Cực Quyền không phải đơn thuần xem nó như một môn võ thuật, mà chủ yếu xem nó là phương pháp rèn luyện thân thể, khu trừ bệnh tật, làm chúng ta luôn luôn gín giữ tinh lực được sung túc.

(Sưu tầm)

doviet

29-03-2004, 05:01 PM

2. Có phải ai ai cũng có thể luyện tập Thái Cực Quyền không?

Luyện tập Thái Cực Quyền có những ích lợi như vậy, thế thì có phải ai cũng có thể tập nó chăng? Ðúng vậy, hễ là người bình thường (không kể tuổi tác, gái trai) đều có thể tập (nhưng đối với người bệnh thì khác, như bệnh lạc huyết, bệnh tim ở thời kỳ nghiêm trọng). Còn như trẻ em khoẽ mạnh mà tập thì cũng không có gì trở ngại. Ðây chính là tính cách phổ biến của Thái Cực Quyền vì nó thích nghi với mọi người có thể chất, thể lực khác nhau. Chẳng qua, các huấn luyện viên cần chú ý đến trạng huống sức khoẽ của người học mà tùy nghi dạy quyền, như về mặt thời gian dài ngắn, số lượng động tác nhiều ít, vv. Ðó là tùy người mà dạy và dạy một cách linh động. Những lúc luyện tập một mình cũng nên chú ý đến điểm này.

Giới người thích nghi nhất với việc tập Thái Cực Quyền, có thể chia ra như sau:

1. Từ trung niên đến lão niên, những ai không thể hoặc không muốn tập các môn vận động khác.

2. Thể chất suy nhược hoặc có bịnh mạn tính, như huyết áp quá cao, viêm khớp xương có tính phong thấp, phổi mới kết hạch, thần kinh suy nhược, cho đến bệnh kinh nguyệt không đều hòa ở phụ nữ. (Tốt nhất là nên đi khám bác sĩ xem tình trạng sức khoẽ).

3. Công chức, giáo sư, y sĩ, vv. Giới này vốn có nếp sinh hoạt an tỉnh, không ham thích những vận động kịch liệt (dữ dội), nên rất dễ thích nghi với việc tập TCQ.

4. Các bà các cô nội trợ, bất luận trung niên hoặc lão niên, đều có thể tập TCQ.

Như vậy giới thanh niên không thích hợp ới TCQ chăng? Căn cứ vào giá trị và hiệu dụng của sự vận động TCQ, thì không có gì là không thích hợp cả. Nhưng căn cứ vào đặc điểm của sự vận động của TCQ là mềm mại, hòa hoãn cùng với tính cách của thanh niên thì không thích hợp lắm; bởi vì thể chất và thể lực của thanh niên phát triển rất nhanh, thanh niên thường có tính hiếu động, ham thích những vận động kịch liệt như điền kinh, cac bộ môn bóng, hoặc các môn quyền thuật và khí giới khác.

Nhưng nếu giới thanh niên có người thấy hứng thú việc tập TCQ thì dĩ nhiên là vô hại.

Có người cho rằng TCQ chỉ là một hình thức trị liệu đối với những người suy nhược vì bệnh. Ðiều này không đúng. Trên thực tế, chúng ta thấy rất nhiều người không bệnh hoạn mà tập TCQ thì tinh lực của họ vượng hơn, thịnh hơn, lòng dạ cởi mở tươi tắn hơn. Như vậy, môn quyền thuật này không phải dành cho những người bệnh nhược, mà đối với người không bệnh cũng có tác dụng dưỡng thân không kém.

(Sưu tầm)

doviet

29-03-2004, 05:01 PM

3. Hai chữ "Thái Cực" trong Thái Cực Quyền có ý nghĩa gì?

Tại sao môn quyền thuật này được gọi là Thái Cực Quyền?

Trước hết chúng ta hãy liễu-giải khởi-nguyên và ý nghĩa của hai chữ "Thái Cực". Thái Cực là danh từ được dùng đầu tiên ở kinh Dịch. Quyển kinh này quan niệm rằng lúc Trời Ðất chưa hình thành là Thái Cực (còn gọi là Thái Sơ, Thái Nhất nữa). Sau đến đời nhà Tống, có Chu Ðôn Di vẽ ra một bức Thái Cực đồ, có thuyết minh kỹ càng, nhằm giải thích ý nghĩa hàm ngụ và sự biến hóa phát triển của ý niệm Thái Cực.

Nghĩa đen của hai chữ Thái Cực: Thái là lớn lao, Cực là trạng thái ban sơ hoặc cao cấp nhất của sự vật. Bởi vì ngày xưa không có ai biết vũ trụ , lúc quả đất chưa xuất hiện , thực sự như thế nào, thời gian ấy dài bao nhiêu triệu năm? cho nên cổ nhân mới đành đặt gọi cái vũ trụ lúc bấy giờ là Thái Cực, hoặc là Vô Cực. Trong Thái Cực đồ khuyết của Chu Ðôn Di, câu đầu tiên là "Vô Cực Nhi Thái Cực" (Nhi ở đây có nghĩa "tức là", nghĩa là Vô Cực tức là Thái Cực, chớ không phải là từ Vô Cực mà sinh ra Thái Cực). Ý niệm này còn được mô tả trong câu "Thái Cực bản Vô Cực" (Thái Cực vốn là Vô Cực).

Do đó, việc mệnh danh môn TCQ có nguồn gốc nhất định.Chúng ta có thể biện giải một cách giản đơn như sau:

1. Mỗi động tác của TCQ đều đi theo đường tròn giống như là các đường tròn được biểu thị trong Thái Cực dồ. Trong các động tác đường tròn này có chứa rất nhiều sự biến hóa, như hư thực, động tĩnh, cương nhu, tấn thối, vv.

2. Luyện TCQ, ta thấy các ý niệm động trung cầu tĩnh, tĩnh trung cầu động, dụng ý bất dụng lực, giống như điều thường gọi là vô trung sinh hữu ( thực ra không phải là từ không mà sinh ra có, mà là "cái không" phát triển dần dần thành "cái có", giống như cái lẽ Vô Cực mà Thái Cực).

3. Ðộng tác trong TCQ, từ khai thức đến thâu thức hoàn toàn liên tục, không một chổ nào đứt đoạn, giống như một vòng tròn hoàn chĩnh, không thể tìm được đầu mối; đó chính là cái lẽ "Thái Cực vốn là Vô Cực".

(Sưu tầm)

doviet

29-03-2004, 05:30 PM

4. Tại sao Thái Cực Quyền còn gọi là Trường Quyền hoặc Thập Tam Thế?

TCQ vốn có hai bộ phận: một bộ phận gọi là Trường Quyền, một bộ phận gọi là Thập Tam Thế. Trước đây có người cho rằng Trường Quyền và Thập Tam Thế là một, điều này sai. Nếu xét về mặt quyền lộ, thì Trường Quyền dài hơn là Thập Tam Thế, đúng với điều mà trong Thái Cực Quyền Luận (do Vương Tông Nhạc đời vua Càn Long viết) định nghĩa "Trường Quyền như sông dài biển rộng, chảy mãi không dứt".

Nguồn gốc danh xưng của Thập Tam Thế là như sau. Căn cứ vào thuyết cũ, Thập Tam Thế hàm chứa quan niệm Ngũ Hành Bát Quái ở trong. Ngũ Hành là: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, được ví với năm loại bộ pháp. Bát Quái là: Càn, Khôn, Khãm, Ly, Chấn, Ðoài, Cãn, được ví với tám loại thủ pháp của TCQ.

Năm hình thức bộ pháp của TCQ là: tiền tấn, hậu thối, tả cố, hữu phán và trung định.

Dụng pháp của tay có tám loại: băng (quen đọc là bằng), lý, tê, án, thái, liệt, trửu, kháo, phân phối cho tám hướng: Ðông , Tây, Nam, Bắc, Ðông Bắc, Tây Bắc, Ðông Nam, Tây Nam. Bát phương này và ngũ bộ nói trên hợp lại gọi là Thập Tam Thế. Như vậy ý nghĩa của Thập Tam Thế chỉ là mười ba hình thái vận động của tay chân, chớ bảo là mười ba thức (tư thức) là lầm lẫn vậy.

(Sưu tầm)

doviet

29-03-2004, 05:57 PM

5. Khởi Nguyên Của Thái Cực quyền Như Thế Nào ?

Về nguồn gốc phát sinh Thái Cực Quyền (TCQ), có nhiều thuyết khác nhau mà cho đến nay chưa có thuyết nào đưa ra được kết luận xác thực. Căn cứ vào một số thuyết cũ, đều cho rằng người sáng chế ra môn này là Trương Tam Phong, người ta chưa xác quyết được là đã có một Trương Tam Phong thực hay không ? Quê quán ở đâu ? Có biết vũ thuật không ? Phát minh ra TCQ như thế nào ? Trong các loại thư tịch cổ (sách, bản văn, hành chính, v.v...) cũng không có sự ghi chép thống nhất; có loại thư tịch mà nội dung vẫn là thần thoại, không thể tin cậy.

Tiên sinh Ðường Hào, một bậc tiền bối trong giới võ thuật, cũng nhận định : "Các thuyết cũ bảo TCQ được sáng chế bởi Trương Tam Phong vào thời kỳ suy vi của triều Bắc Tống (mà cũng có thuyết bảo là Trương Tam Phong thời Nguyên mạt Minh sơ). Nhận định nầy không đúng, tại vùng Trần Gia Câu không hề có truyền thuyết gì về một Trương Tam Phong nào cả. Căn cứ vào kết quả tìm tòi được ở Trần Gia Câu, người ta phát hiện TCQ ở đó có đại bộ phận động tác (gọi là thức tử) rút ra từ môn "Quyền Kinh" được tập đại thành bởi một tướng lãnh trứ danh nhà Thanh là Thích Kế Quang mà môn "quyền kinh" của Thích Kế Quang lại dựa vào 16 loại quyền pháp trong dân gian mà biến thành. Do đó mà có thể nói : TCQ bắt nguồn từ dân gian, trãi qua sự phát triển liên tục mà thành vậy".

"TCQ của vùng Trần Gia Câu bắt đầu xuất hiện vào đầu triều nhà Thanh. Hoàng đế Sùng Trinh của triều nhà Minh mạt niên từng khuyến khích văn nhân luyện võ, vào thời ấy có Trần Nguyên Bình là người văn võ kiêm toàn. Nghiên cứu quyển kinh Hoàng Ðình của Ðạo gia (quyển kinh này nói về thuật hô hấp) , và tham chiếu môn quyền kinh của Thích Kế Quang, cho đến đầu đời nhà Thanh, sáng tạo xong TCQ Trần Gia Câu. Thế rồi về sau TCQ của Trần Gia Câu được một người họ Dương học lại, đem đi truyền thụ tại vùng Hà Bắc và dựng nên TCQ Dương gia rất nổi tiếng."

(Sưu tầm)

doviet

30-03-2004, 07:09 AM

6. Hiện Nay Có Bao Nhiêu Phái TCQ ? Mỗi Phái Có Ðặc Ðiểm Nào ?

Các hệ phái TCQ rất là phức tạp. Nếu lấy sự lớn nhỏ của chiêu-thức (dáng, hình thức di chân múa tay) mà phân biệt thì có thể chia làm ba phái chính. Nếu căn cứ vào nội dung quyền thức và nguồn gốc khác nhau thì có thể chia làm bảy nhà.

A. Ba Hệ Phái

1. Ðại Giá Thức :

Do Dương Trừng Phủ làm đại biểu. Loại quyền giá này được truyền thụ bởi cha ông là Dương Kiện Hầu, và đến ông thì có sửa đổi lại đôi chút. Quyền thức mở rộng, nhẹ nhàng, trầm trọng (trầm ổn), thường gọi là Dưong phái.

2. Trung Giá Thức :

Do Ngô Giám Tuyền làm đại biểu. Giá thức không lớn không nhỏ (không rộng, không hẹp) mà vừa vừa, nổi bật ở sự nhu hóa. Nguồn gốc của loại quyền giá này như sau: Cha của Ngô Giám Tuyền là Ngô Toàn Hựu, đầu tiên học đại giá thức với Dương Lộ Thiền, rồi lại học tiểu giá thức với Dương Ban Hầu (con của Dương Lộ Thiền), và truyền cả hai môn này lại cho con mình là Ngô Giám Tuyền. Giám Tuyền bèn dung hợp chiết trung , tự mình thành một phái, gọi là Ngô phái.

3. Tiểu Giá Thức :

Do Vũ Vũ Tương làm đại biểu. Họ Vũ vốn người huyện Vỉnh Niên, phủ Quảng Bình, Tỉnh Trực Lệ, đến Ôn Châu Hà Nam, theo học với Trần Thanh Bình. Học được bộ thứ hai của tân giá tử, rồi tự mình cải tiến. Quyền thức khéo léo, khít khao, kín đáo, thân pháp thì thấp. Tự dựng thành một phái, gọi là Vũ phái.

B. Bảy Nhà Giá Thức :

1. Trần Thị Lão Giá : (Quyền phổ nhà họ Trần)

Truyền bởi Trần Trường Hưng thuộc Trần Gia Câu, Ôn Châu, Hà Nam. Quyền thức là đại giá thức của lão giá nhà họ Trần.

2. Trần Thị Tân Giá :

Truyền bởi Trần Hữu Bản của Trần Gia Câu, quyền thức thuộc bộ đầu trong tân giá của nhà họ Trần, cũng thuộc đại giá.

3. Trần Thị Tiểu Giá :

Truyền bởi Trần Thanh Bình ở làng Siêu Bảo (gần Trần Gia Câu), quyền thức thuộc bộ thứ hai trong tân giá của nhà họ Trần, thuộc tiểu giá.

4. Dương Thị Ðại Giá :

Truyền bởi Dương Trừng Phủ (Hà Bắc). Ông nội của Dương Trừng Phủ là Dương Lộ Thiền, vào khoãng các năm Hàm Phong đời vua Văn Tông triều Thanh (tức là từ 1851 trở đi), đem TCQ đến Hà Bắc, sau đó cha con Dương Kiện Hầu, Dương Trừng Phủ cải tiến mà thành.

5. Vũ Thị Tiểu Giá :

Truyền bởi Vũ Vũ Tương, người huyện Vỉnh Niên, sau truyền cho Hác Vi Trinh và ông này đem truyền ở Bắc Kinh.

6. Ngô Thị Trung Giá :

Do cha con Ngô Toàn Hựu, Ngô Giám tuyền truyền bá, như đã nói trên.

7. Tôn Thị Tiểu Giá :

Truyền bởi Tôn Lộc Ðường (Bắc Kinh) , họ Tôn học với Hác Vi Trinh rồi cải tiến, tự dựng thành một nhà.

Những điều trình bày ở trên chỉ cứ vào các tài liệu đích thực và xác thực, và phân biệt một cách đại cương thành ba phái bảy nhà; còn nếu muốn phân biệt tường tận hơn thì vấn đề rất phức tạp, nhà nào cũng có ưu điểm riêng, người học tùy theo thể chất, tuổi tác và sở thích mà chọn lựa cho mình.

(Sưu tầm)

doviet

30-03-2004, 07:11 AM

7. TCQ Có Ðặc Ðiểm Chủ Yếu Nào ?

TCQ là một loại vận động rất đặc thù, không những khác với các môn thể thao thường mà ngay cả đến những bộ bộ môn quyền thuật khác của Trung Hoa nó cũng có phong cách riêng biệt. Về vấn đề đặc điểm, sách này có đề cập từng điểm dưới một chuyên đề. Ở đây chỉ giới thiệu các đặc điểm chủ yếu :

1. Ðộng tác nhu hòa hoãn mạn : (Ðộng tác mềm mại, buông lơi, thong thả)

TCQ đòi hỏi người tập "Dụng ý bất dụng lực" , tuyệt không được gồng cứng các cơ, toàn thể các khớp xương phải lỏng (tung khai), bất kỳ động tác nào cũng phải mềm mại, buông lơi, thong thả, tốc độ không nhanh mà chậm chạp, như Quyền Luận có nói "Vận kình như trừu ty" (vận kình như kéo tơ), "Mại bộ như miêu hành" (bước chân như mèo đi), thời gian đi một bài quyền thường mất 15 đến 20 phút.

2. Ðộng tác nào cũng là hoạt động toàn thân :

Ở mõt số bộ môn thể thao, thường phân chia vận động của tay, vận động của chân,v.v... Một số quyền thuật cũng thế, trước là đấm một quyền rồi đá một ngọn,v.v... Nhưng luyện tập TCQ thì khác, TCQ đòi hỏi sự chuyển động của toàn thân thể, hễ động một thì không chổ nào không động "Nhất động vô hữu bất động", hễ tĩnh một thì không nơi nào không tĩnh "Nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh" , "Thượng hạ tương tùy, nội ngoại tương hợp" . Nếu như luyện TCQ mà không luyện được toàn thân hoạt động, mà có bộ phận trong người đứng chết trân, thì đó là một đại khuyết điểm vậy.

3. Mỗi động tác cần kết hợp hô hấp với vận động một cách tự nhiên :

TCQ cũng còn khác với các loại vận động thường thấy ở điểm này nữa. Có người bảo rằng : Trong khi tập các loại vận động khác, có bao giờ ngưng hô hấp đâu ? Tại sao TCQ lại cho hô hấp là một đặc điểm của mình ? Lý do là như thế này : sự hô hấp trong TCQ là có quy luật, khi nào hít vào, khi nào thở ra, đều được thực hiện nghiêm túc, chớ không phải là hít thở một cách tự nhiên mà bình thường người ta thường không chú ý tới, mà cũng không phải là miễn cưỡng (gắng gượng) dồn nén hơi thở. Sự hô hấp phải làm sao đạt đến tình trạng "Thâm, trường, quân, tĩnh, khai thoát tự nhiên" (sâu, dài, đều, im, thoải mái tự nhiên). Còn đối với người mới học, chỉ cần hít thở bình thường tự nhiên là được rồi.

4. Khi vận động cần phải "Tâm Tĩnh" :

"Tâm tĩnh" tức là tâm thần an tĩnh, tinh thần nội liễm, không hoang loạn, không tâm viên ý mã, hồ tư loạn tưởng (không suy nghĩ lung tung viễn vong), cốt làm sao cho vỏ ngoài đại não êm dịu lại một cách từ từ, tuyệt đại bộ phận đi vào trạng thái bị khống chế tức là có nhiều dịp nghĩ ngơi. Ngoài ra lượng hô hấp tăng nhiều, huyết dịch tuần hoàn mau chóng, giúp cho đại não thu được nhiều dưỡng liệu và dưỡng khí, điều này có tác dụng rất tốt đối với việc nâng cao và tăng trưởng cơ năng, và mực độ làm khõe mạnh bộ phận cao cấp của hệ thống trung khu thần kinh. Năng lực hoạt động của hệ thống thần kinh được mạnh mẻ, thì có ảnh hưởng rất tốt đến việc điều tiết, sự phối hợp hoạt động của các hệ thống khí quan trong cơ thể. Do đó chúng ta có thể nói, sự yêu cầu "tâm tĩnh" của TCQ có cơ sở sinh lý học vững chải, và cũng là đặc điểm quan trọng nhất của TCQ.

(Sưu tầm)

namhongson

27-01-2005, 08:22 PM

8. Các nguyên tắc và nguyên lý của Thái Cực quyền

Trầm Kiên Trụy Trửu

Trầm kiên là hai khớp xương vai phải tung khai (lõng lẻo), không khẩn trương (căng thẳng), tự nhiên rũ xuống mà không hướng cao lên; trụy trửu là hai chỏ phóng tung (chìm xuống).

Người mới học hay phạm vào lỗi so vai (tung kiên hay đoạn kiên), lộ chỏ (dương trửu hay phiên trửu). Cái hại là hai vai so cao, không thể làm cho khí hạ trầm, tức là khiến cho khí không tụ về đan điền. Như vậy nghịch với nguyên lý của TCQ là "trầm khí, vận khí". Hơn nữa, trọng tâm thân thể không ổn cố.

Nếu không thõng chỏ thì hai chỏ nâng cao, mà hễ chỏ nâng cao thì làm cho vai so cao lên. trong lúc tập thôi thủ với bạn , dễ bị bạn khống chế , bạn ta chỉ cần lợi dụng lúc chỏ ta nâng cao để lộ trống nách và sườn thì tấn công vào đó liền . Do đó, về mặt kỹ thuật mà nói , thõng chỏ có tác dụng bảo hộ thân thể .

Khi tập các thức Lãm tước vĩ. Ðơn tiên , Cao thám mã , v.v.... người tập hay mắc phải lỗi tung kiên , dương trửu , nên chú ý rằng không nên gắng dùng sức ở vai và chỏ , mà cần buông lõng thì vai , chỏ tự nhiên chìm thông .

"Hư Linh Ðỉnh Kình" và "Ðỉnh Ðầu Huyền"

Trên phương diện ngôn ngữ thì 'Hư linh đỉnh kình' và 'Ðỉnh đầu huyền' khác nhau , nhưng nội dung mà chúng muốn diễn tả thì chỉ là một.

Ðỉnh kình trong hư linh đỉnh kình theo tự nghĩa mà giải thích là ở trên đầu giống như có một dòng kình lực hướng lên thượng đỉnh , nhưng thật ra không có cái gọi là "kình" mà chỉ là tác dụng của tinh thần mà thôi . Lý thuyết TCQ có nói "Thần quán ư đỉnh", thì chữ "Thần" này chính là ý chỉ về tinh thần vậy. Mà tinh thần là ý niệm trừu tượng cho nên mới gọi là hư linh dỉnh kình vậy.

Về đỉnh đầu huyền có hai giải thích: thứ nhất cho là đỉnh đầu huyền là đỉnh đầu được một sợi dây tưởng tượng treo lên (giống như trong đồ của chơi trẻ em có loại búp bê vải con con có dây treo trên đầu vậy) , thứ hai cho là giống như là trên đầu có đặt một vật gì đó mà không được để cho nó rớt xuống . Cả hai lối giải thích đều có lý cả.

Hư linh đỉnh kình và đỉnh đầu huyền đòi hỏi đầu phải được giử cho ngay ngắn, không cúi trước ngửa sau , không méo trái lệch phải . Ðầu là chủ tể của thân, nếu đầu không được ngay ngắn thì tất ảnh hưởng đến sự chính xác của tư thức và sự linh hoạt của động tác. Gặp khi chiến đấu thật sự dễ mất trọng tâm do đó dễ bị người chế ngự.

Người mới học nếu lần tập nào cũng không thực hiện được sự yêu cầu nêu trên thì dễ mắc phải bệnh cổ cứng đờ không linh hoạt, nếu chỉ chú ý giử cho đầu được ngay thẳng thì quên trầm khí đan điền, hoặc mắc phải các lổi lầm khác, cho nên người mới học nên ghi nhớ cẩn thận điều này, nên chú ý thường xuyên .

Hai yêu cầu của đỉnh đầu huyền và vĩ lư trung chính có quan hệ mật thiết trong hoạt động của thân thể, nếu giử cho đỉnh đầu được như treo (như chỉ mành treo chuông) thì xương vĩ lư sẽ ngay ngắn ; mà ngược lại nếu xương vĩ lư không ngay thì cũng khó mà giữ cho đỉnh đầu như treo được .

"Hàm Hung Bạt Bối"

Khi thực hiện mỗi động tác của TCQ, phải giử cho ngực hơi hơi ngậm lại (nơi hàm), nên gọi là hàm hung; trong lúc hàm hung, cơ lưng hơi nổi lên tiện cho việc hành khí dụng chiêu , nên gọi là bạt bối .

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, trước tiên cần phải nói rõ sự cấu tạo của ngực.

Thể xoang của con người có thể chia làm hai bộ phận. Trên hoành cách mô là xoang ngực, dưới hoành cách mô là xoang bụng. Trong xoang ngực lại chia làm ba xoang: xoang giữa chứa đựng tim là vi tâm xoang, hai xoang trái phải chứa hai lá phổ, tức là phế xoang. Xương sườn của con người cong xuống như hình cung. Nếu như xương nhục ở trong vùng xương sườn co rút lại , thì xương sườn nổi lên , đồng thời ngực lòi ra , xoang ngực sẽ nở to hơn , phổi nở lớn ra , và là lúc hít vào . Ngoài ra hoành cách mô co rút xuống dưới sẽ làm cho xương ngực nở thêm mà hít hơi vào. Trên đây là cách hít thở chủ yếu của lối hít thở bằng ngực (hung thức hô hấp). Còn sau đây là chủ yếu của lối hít thở bằng bụng (phúc thức hô hấp). Ðể tăng cao phế hoạt lượng, nghĩa là nâng cao sức khỏe , TCQ đòi hỏi phải phát triển lối hô hấp bằng bụng .

Trong vận động TCQ , ý nghĩa hàm hàm hung bạt bối có ba điểm:

1. Ðộng tác của TCQ vốn là động tác kết hợp với hô hấp. lại còn phải thường thường hàm hung , tức là làm cho hoành cách mô hạ xuống , làm cho phổi nở nang , phát triển lối hô hấp bằng bụng , tăng gia phế hoạt lượng .

2. Lúc mà ta hàm hung, chính là lúc hoành cách mô hạ xuống, lại còn thêm vào đó ảnh hưởng của sự kết hợp hô hấp với vận động, thì phúc áp (cái áp lực của các cơ bụng và hoành cách mô đối với nội tạng của bụng) luôn luôn biến đổi, làm sự trở về tim của máu được nhanh chóng , cải tiến sự tuần hoàn của máu .

3. Lúc tập thôi thủ với bạn, trong vài động tác nào đó cũng cần phải giử hàm hung bạt bối , Thí dụ như để hóa giải một đòn tay của đối phương từ chính diện tới , nếu như không hàm hung thì không dễ dàng hóa giải ; từ chính diện nếu muốn thực hiện động tác "phát" đối phương (trong thuật ngữ TCQ , hễ ném văng đối phương ra thì gọi là "phát" hay "phóng") . Nếu không hàm hung thì không thể dễ dàng "phát" được. Khi nên hàm hung mà ta lại không , thì ngực dễ có khuynh hướng ươn lồi ra , thế thì hoành cách mô đi lên , khí nổi lên , không trầm xuống đan điền , khí không trầm xuống thì thân nổi lềnh bềnh , hạ chi vô lực , kết quả là dễ bị "phát" ra xa .

Ðây là trạng thái được hình thành một cách liên tục và nhất quán. Do đó trong vận động TCQ, hàm hung là một vấn đề quan trọng.

Thực hiện hàm hung bạt bối rất đơn giản, ta giử làm sao cho ngực đừng có ưởn ra , vênh ra , mà lại hơi hóp vào . Bạt bối thì tương ứng với hàm hung, các bắp thịt lưng hơi hơi nổi lên, nhô ra. Cùng lúc ấy, khi hít thở một hơi dài thì bụng dưới sẽ hơi hơi đập.

Hai điểm sau đây cần phải được chú ý:

1. Trong TCQ không phải bất cứ động tác nào cũng cần phải giử hàm hung bạt bối . Chỉ ở các động tác mà thân pháp hạ giáng (như Hải đề châm , Ðơn tiên hạ thức chẳng hạn) , hoặc ở các động tác thôi , án của tay (như thế án ra của Lãm tước vĩ , thế đẩy của tay phải ở thức Ðơn tiên chẳng hạn) , mới cần giử hàm hung bạt bối mà thôi . Nếu như mỗi động tác đều đòi hỏi giử yêu cầu này thì hóa ra lại hạn chế đi sự phát triển của xoang ngực , gây ảnh hưởng không tốt tới sự nẩy nở của thân thể .

2. Yêu cầu hàm hung bạt bối ở TCQ tương phản với với yêu cầu điển hung hoặc thiển hung (ngực đầy đặn) ở một số môn quyền thuật khác. Ðiển hung là ngực để nở ra , ưởn ra . Và cũng khác với yêu cầu của Thông bối quyền; hấp hung là làm cho ngực thóp vào tới mức có thể thóp được . Ðiển hung , hấp hung , và hàm hung là ba tác pháp hoàn toàn khác nhau . Khi luyện tập TCQ, hãy nhớ không nên hàm hung quá độ mà biến thành hấp hung mất .

Cũng như có người hiểu sai rằng : bạt bối là làm cho eo lưng cong ra sau ; nếu luyện quyền như thế lâu ngày thì thân sẽ bị tật lưng khòm . Trong TCQ không có động tác nào đòi hỏi eo phải cong ra sau cả . Cần nên nhớ là , bạt bối và vĩ lư trung chính , tuy hai mà một , không có gì mâu thuẩn . Người học TCQ nên lưu tâm thể nghiệm .

Ðan Ðiền? "Khí Trầm Ðan Ðiền"

"Ðan điền", là danh từ thường thấy trong thư tịch của Ðạo gia hay trong y thư cổ đại Trung Hoa . Nội dung của nó nói lên quan điểm luyện tĩnh dưỡng sinh . Theo luận thuyết của Ðạo gia : dưới lổ rốn khoảng ba tất (hoặc một tất mấy phân) có khoảng không gian trong bụng gọi là đan điền . Ðây là nơi tu luyện nội đan nên gọi là đan điền .

Ðan điền còn được phân biệt thượng , trung , hạ . Dưới rốn là hạ đan điền , dưới tim là trung đan điền , khoảng giửa hai đầu lông mày là thượng đan điền . Nhưng thông thường các môn quyền thuật khi nói đến đan điền thì ý ám chỉ là hạ đan điền.

Lý thuyết về đan điền có đúng không ?

Khoa giải phẩu học cho thấy rằng trong xoang bụng ở dưới rốn, ngoài tiểu trường, đại trường , bì niệu sinh thực khí , thì không còn vật gì khác . Như thế phải chăng đan điền chỉ là sự tưởng tượng của cổ nhân, không có tính cách khoa học ?

Về chữ "khí" trong "khí trầm đan điền" thì khí ở đây là cái gì ? Tuyệt đối không phải là không khí do sự hô hấp . Bởi vì không khí do sự hô hấp chỉ có thể thông qua khí quản , thanh quản và xoang mũi mà ra vào phổi , tuyệt không thể vào xoang bụng . Hiển nhiên, lý thuyết này cũng không có tính khoa học .

Thế thì, làm thế nào mà ý niệm "đan điền" phát sinh được ? Nguyên nhân chính là : Trong lúc hít thở sâu , vì hoành cách mô hạ xuống , bụng phồng ra ; phần bụng dưới rốn tương đối nở rõ hơn , và do sự luyện tập lâu ngày , cơ năng thần kinh phát triển mạnh . Dưới sự khống chế của hệ thần kinh , các cơ bụng có thể căng thẳng một cách cực độ , đàn tính rất cao , thậm chí không sợ đấm đá nữa . Các bậc Ðạo gia khi xưa không hiểu rõ sinh lý học , gọi chổ đó là đan điền , họ nghĩ rằng khí có thể chìm xuống đan điền . Ðiều này rõ ràng là không phù hợp với khoa học ngày nay .

"Khí trầm đan điền" là thuật ngữ thường dùng của giới quyền thuật , cho nên quyển sách này cũng nương theo đấy mà dẫn dụng , mượn nó để làm sáng tỏ vấn đề . Chúng ta nên thẳng thắn phê phán những lý thuyết sai lầm , và mặt khác xiển minh những nhận định đúng đắn , mà có thể gồm lại trong ba đìểm sau đây:

1. Hít thở sâu khi vận động , kết hợp hô hấp với vận động , hạ hoành cách mô xuống một cách có ý thức , tất cả đưa đến các kết quả là khoáng đại phế hoạt lượng , thay đổi phúc áp , xúc tiến sự tuần hoàn của máu , tăng gia cơ hội hoạt động của các khí quan trong cơ thể .

2. Bất luận lúc đi đứng hay nghỉ ngơi , lúc nào cũng ý thức về bụng dưới (đan điền) . Như vậy làm cho tinh thần nội liểm , tránh được tâm viên ý mã , hồ tư loạn tưởng , tầng ngoài đại não có thể nghỉ ngơi một cách cục bộ . Lợi dụng lúc được nghỉ ngơi ấy , thông qua hệ thần kinh tương ứng với các cơ quan nội tạng , làm cho cơ năng của nội tạng được điều hòa và cải tiến và do đó mà dần dần nâng cao mức sức khõe toàn diện của cơ thể , nói văn hoa hơn là thực hiện được cái đạo lý "bồi dưỡng nguyên khí" . Kỳ thực chính là tạo ra một ảnh hưởng quyết định đối với sự hoạt động của hệ thần kinh cao cấp , có thế mới làm thân thể tráng kiện .

3. Hễ khí trầm xuống (tức là hoành cách mô hạ xuống) thì trọng tâm đi xuống , như thế bàn chân mới ổn cố , đến khi cùng bạn tập thôi thủ , mới không bị daođộng trọng tâm mà té ngã .

Người học nên chú ý: Luyện tập TCQ không phải là trầm khí đan điền từ đầu đến cuối , mà tùy theo sự vận động , tùy sự thay đổi của hô hấp , để cho hoành cách mô lúc lên lúc xuống . Khi thì khí nổi , khi thì khí trầm , đều là tự nhiên nhi nhiên , hình thành một cách hữu ý vô ý . Có như vậy mới khiến cho thân thể nổi chìm và biến hóa hư thực . Trải qua sự luyện tập bền bỉ , mới có thể nâng cao tính linh hoạt của động tác và hiệu quả của sự vận động .

Ở phần trên đã nói rằng lý thuyết về đan điền không phù hợp với cái nhìn khoa học , nó chỉ là một thiết tưởng của người xưa . Ngày nay chúng ta không tin suông thuyết củ một cách mù quáng mà nhìn một cách soi mói . Bản thân của thuyết đan điền có được cái sắc thái bền bỉ . Là vì xưa khoa học chưa phát triển , người ta mượn nó để gán vào cái mục đích tập tĩnh dưỡng sinh . Nay , trên khía cạnh sinh lý học mà nhìn , tuy nó thiếu khoa học tính nhưng còn có chổ dùng tích cực nhất định . Còn cái gọi là "luyện đan" của Ðạo gia , thực sự chỉ là thần bí hóa vấn đề , làm nhận thức của người khác thêm mơ hồ .

"Tung Yêu"

Tung yêu ( Lỏng eo ) trong TCQ là eo không dụng lực căng thẳng , không mảy may kình cương mà eo phải tung , nhuyển , linh hoạt , thuận cho sự biến hóa của động tác và sự biến hóa hư thực .

Ðể hiểu rõ vấn đề này , trước hết cần nói vế sự cấu tạo của eo . Thông thường mà nói , eo là khoảng giửa của hai bên lưng và thân . Giửa lưng là một cột xương sống . Cột xương sống do nhiều đốt xương tạo thành . Trong mỗi đốt xương sống này có một lớp nhuyển cốt . Lớp nhuyển cốt này mềm dai và có tính đàn hồi , nhờ đó mà cột xương sống có tính chất dẻo dai , linh hoạt . Các nhóm cơ ở eo chủ yếu gồm có : yêu đại cơ , yêu phương cơ , yêu bối cân mô . Các cơ này dính với xương cốt , cơ thể , hình thành sự vận động . Ðặc tính của cơ là có thể co duỗi , và dưới sự khống chế của hệ thần kinh các cơ ấy hoạt động một cách có quy luật - ý muốn căng thẳng hay buông lơi thì các cơ ấy sẽ co thắt căng thẳng hay buông lỏng . Khi các cơ ở eo căng thẳng thì các cơ ở tứ chi cũng căng thẳng lên , như vậy nếu thịt xương ở eo mà căng thẳng thì sự chuyển động không còn linh hoạt nữa ; ngược lại nếu thịt xương ở eo được buông lỏng , các quan tiết lỏng lẻo , trong bắp thịt lỏng , các bộ phận như tứ chi sẽ vận dụng một cách tự nhiên . Buông lỏng eo trong TCQ là như vậy .

Tại sao phải buông lỏng eo ? Ít nhất là có hai lý do:

1. Như đã nói trên , có buông lỏng eo thì thân mới linh hoạt , không ngạnh kình ( cứng ngắc ) , mới không gây ảnh hưởng trên sự hoạt động của chân tay .

2. Có buông lỏng eo mới dụng ý được . TCQ chủ trương dụng ý bất dụng lực , mà cái động của ý do eo thể hiện trước tiên , đó là ý nghĩa câu :Mệnh ý nguyên đầu tại yêu tế " , chính vì eo là chủ tể của thân , chỉ khi nào eo tung nhuyễn linh hoạt mới có thể khống chế các bộ phận khác của thân thể , mới có thể biến hóa hư thực dễ dàng .

Cũng nên nói rõ thêm một chút , tung yêu có phải là eo hoàn toàn mềm lỏng (tung nhuyễn) không sức hay không ? Hiểu như vậy là hoàn toàn sai lầm ! Bởi vì "sự buông lỏng" (tung) eo ở đây là sự buông lỏng dưới tác dụng của ý thức , chứ tuyệt không phải là cái eo thực sự vô lực như ở eo của một số người yếu đuối mềm nhũng không có chút lực nào . Cũng cần nên biết rằng kình trong TCQ được vận dụng một cách cương nhu tương tế (cứng mềm đắp đổi) , lúc cương lúc nhu , lúc thì buông lỏng mềm mại , lúc thì quyết liệt . Yêu cầu về "Kình" là "Cực nhu nhuyễn nhi hậu cực kiên cương" có đạt được mới là thỏa đáng vậy .

Cách thực hiện tung yêu là như sau:

1. Trước hết , eo và toàn thân không được kình cương , nếu còn kình cương tức là chưa được tung yêu .

2. Trong một số động tác , bắt buộc phải tung yêu , như : lúc hướng trước mại bộ (thả chân đạp một bước) , ở Lâu tất ảo bộ cần phải tung yêu , ở Ban lan trùy và Phiến thông bối , lúc quyền hoặc chưởng duỗi ra cần phải tung yêu ; lúc thực hiện sự lên xuống ở Ðơn tiên hạ thức , Ðề thủ thượng thức cần phải tung yêu .

3. Ðồng thời với tung yêu , thân phải giử cho trung chính an thư , vì lư trung chính , đỉnh đầu huyền , hàm hung bạt bối , nếu không thì cố thử thất bỉ (giử được đìểm này mà không giử được điểm kia) .

"Phân Thanh hư thực" và "Kỵ sự song trọng"

Trong khi luyện tập TCQ , sự hoạt động của hạ chi lúc nào cũng phải ở vào tình trạng hư thực phân minh (ngoài hạ chi ra , thượng chi và các bộ phận khác của cơ thể cũng có chia hư thực) . Sự phân minh hư thực là một đặc điểm chính của TCQ . Ở đây chỉ bàn riêng về sự phân minh hư thực của hạ chi mà thôi .

Hư thực là cái gì ? Ở hạ chi , hư thực là như thế này : Nếu chân trái gánh chịu trọng lượng của toàn thân thì chân trái được gọi là thực , còn chân phải là hư , và ngược lại . Hễ chân nào thực , dù phải gánh chịu thể trọng , không được mảy may dao động , còn chân kia thì di động một cách nhiệm ý .

Thế nào là "thực" ? Thực ở dây có ngụ ý kiên thực (vững thật) , sự dụng kình của chân thực có quy luật hẳn hoi , không trệ sáp (không rối rít) , mà cũng không cương ngạnh không linh hoạt . Thế nào là "hư" ? Hư hàm ý linh hoạt , tung nhuyễn , chớ đừng nghĩ theo theo ý hư không hoặc hư vô . Hư thực trong sự vận động của TCQ đều là sự biến hóa nhân vi cả . Hư là sự chuẩn bị cho thực và ngược lại .

Sự phân Thanh hư thực có ba ý nghĩa như sau:

1. Thuận tiện cho sự vận động , tức là thuận với sự biến hóa của tư thức và sự di động của bộ pháp .

2. Làm cho chi đứng được vững vàng . Hai chân được rèn luyện khi hư khi thực làm cho chân thực ổn cố bất động , chân hư khinh linh tiện cho sử dụng . Lúc thôi thủ song phương , sự công thủ đều thuận lợi .

3. Do sự phân chia hư thực mà lượng vận động tăng gia theo . Bình thường , hai chân cùng gánh chịu thể trọng ; khi tập TCQ thì chỉ còn có một chân gánh chịu , tức là làm tăng thêm động tác co duỗi , và lượng vận động như vậy tăng lên ít nhất là gấp đôi . Hiệu quả của sự vận động theo đó mà được nâng rất cao .

Lúc vận dụng bộ pháp hư thực, cần phải để ý các điểm sau:

1. Mại bộ (chân bước đi) không được quá xa , quá lớn ; nếu khoảng cách hai chân quá xa thì sự đổi bộ không được linh hoạt mà dễ trệ sáp , và sẽ phạm lỗi song trọng một cách dễ dàng .

2. Trong mỗi động tác, hạ chi thường biến đổi hư thực , thức là đem thể trọng dồn về một chân ; nhưng đối với các động tác khó phân hư thực như Thập tự thủ , Ðơn tiên , thì càng nên chú ý .

3. Mại bộ cần phải khinh linh, ổn cố mà lại hữu lực , tức là lúc mại bộ , một chân đạp thực vững vàng rồi mới đi tiếp một bước khác , sao cho "mại bộ như miêu hành" .

Song trọng là gì? Là để thể trọng lên cả hai chân, không chia làm hư với thực . TCQ rất kỵ lổi này , vì nếu cả hai chân song trọng thì cất bước sẽ nặng nề , sự di chuyễn sẽ không được nhẹ nhàng linh động , dễ bị khống chế , làm giảm đi hiệu quả của sự vận động .

"Xứ xứ quân hữu nhất hư thực"

Phần trên đã nói về sự phân chia hư thực của hai chân , nhưng trong TCQ ngoài hạ chi ra còn có thượng chi và thân thể với các bộ phận của nó cũng được phân chia hư thực . Ðó chính là ý nghĩa của câu "xứ xứ quân hữu nhất hư thực". Ðây là một đặc điểm của TCQ.

Sự lý giải hư thực ở hai chân tương đối dễ dàng , còn ở hai tay và thân thì làm thế nào biết đâu là hư đâu là thực ? Ở đây hư thực là do "Ý", ý đến đâu thì nơi đó là thực. Nơi nào ý không đến thì nơi đó là hư. Thí dụ như:

1. Trong động tác Ðơn tiên, tay trái là thực , tay phải là hư , bởi vì lúc này ý đặt tại tay trái , đây mới chỉ là sự phân chia hư thực sơ bộ ; nếu ta xem tay trái là một thì cườm chưởng trái là thực , các phần khác của tay trái là hư , đây là sự phân chia hư thực bước thứ hai . Cho nên nếu xem động tác của Ðơn tiên là một , thì ta đã có hư thực , rồi tay trái của Ðơn tiên lại được chia hư thực . Thì đây chẳng phải là ý nghĩa của câu "xứ xứ quân hữu nhất hư thực" ư ?

2. Cung tiễn bộ trong động tác Ðơn tiên cũng được chia hư thực . Trong Thiếu Lâm quyền , Cung tiễn bộ hình thành bởi hai chân đều gánh chịu thể trọng . Nhưng trong TCQ thì lại khác ; ở Ðơn tiên , chân trái là thực , chân phải là hư . Ðây là hư thực ở hạ chi.

Về hư thực ở các bộ phận khác của thân thể , người học cần hiểu rằng , tình trạng hư thực không ổn định nếu trên phương diện vị trí mà xét , và tình trạng hư thực rất ngắn ngủi nếu trên phương diện thời gian mà xét . Sự hư thực này biến hóa theo sự biến hóa của tư thức , cho nên Vương Tông Nhạc triều Thanh viết Thái Cực quyền luận có nói : " Tả trọng tắc tả hư , hữu trọng tắc hữu yếu , ngưỡng chi tắc di cao , phủ chi tắc di thâm " , mà đạt được tình trạng này là do vận dụng được sự biến hóa hư thực . Muốn vận dụng hư thực vào trong mỗi động tàc tư thức của TCQ không phải là dể dàng đâu , mà cần phải có thời gian luyện tập lâu dài mới nắm được yếu lý và vận dụng tương đối khá . Nay nêu ra ở đây vài điểm theo thứ tự để người học dần dần thể nghiệm mà hiểu ra:

1. Ở mỗi động tác , trước hết phải phân chia hư thực ở hai chân .

2. Biết dụng ý bất dụng lực , phải biết ở mỗi động tác "ý" đặt ở đâu , sau đó mới vận dụng sự biến hóa , hư thực trong suốt các động tác liên tiếp với sự điều khiển của ý .

3. Sau khi luyện tập thuần thục rồi , luyện tiếp đến thôi thủ , nên lưu tâm đến sự biến hóa và tác dụng của hư thực trong động tác thôi thủ , cho đến khi đạt đến cảnh giới tùng tâm sở dục , ấy mới là thành công vậy .

Dụng y bất dụng lực

Khi Luyện TCQ, không nên gây căng thẳng ở cơ nhục, mà tinh thần phải hết sức chủ ý , như thế gọi là 'Dụng ý bất dụng lực" .

"Ý" là cái gì? Theo nghĩa chữ mà nói thì ý hàm ngụ cái nghĩa ý niệm , ý thức , tâm ý , tuy gần gủi với quan niệm ý của TCQ nhưng không lột tả được hết . Cái gọi là "ý" trong TCQ chỉ là tác dụng của tinh thần . Nói cụ thể hơn , trong quá trình luyện tập TCQ , tiểu não và trung khu vận động của đại não bì tằng (hai bộ phận này có liên hệ mật thiết tới sự hoạt động của thân thể) , đối với các hoạt động của các bộ phận trong thân thể , tăng gia sự khống chế một cách có ý thức , như vậy TCQ gọi là dụng "ý" .

"Lực" là cái gì ? Sức lực của thân thể phát sinh từ sự co thắt của cơ , gân , sụn . Người có bắp thịt nở nang , thì sức lực nggười ấy tương đối nhiều ; những người lao động chân tay , những vận động viên , tương đối có sức khõe hơn người bình thường (sự co thắt của bắp thịt cũng chịu sự chi phối của hệ thống thần kinh mới tạo lực được) .

Thế thì tạo sao TCQ lại yêu cầu phát triển tác dụng của ý mà không phát triển lực ? Ðó là bởi vì:

1. Ðộng tác của TCQ phải khinh linh , rất kỵ dùng chuyết kình ( kình lực vụng về ) làm cho cơ nhục căng thẳng . Ðể ngừa sự căng thẳng của cơ nhục nên phải dụng ý .

2. Vận động thân thể cốt để xúc tiến sự tuần hoàn của máu, nếu làm cơ nhục quá căng thẳng thì chướng ngại sự tuần hoàn của máu, cho nên khi dụng lực đến mức quá đáng dễ sinh ra hiện tượng ứ huyết , trong khi đó động tác TCQ thì nhu hòa hoãn mạn , lại phối hợp với nguyên tắc dụng ý bất dụng lực nên không hề sinh ra các bệnh kể trên .

3. Kết quả của sự dụng ý là tác dụng cải tiến cơ năng hệ thần kinh. Vì sự phức tạp của các động tác của TCQ nên đại não bị đặt trong tình trạng căng thẳng để hoàn thành các động tác đó , tức là gián tiếp gây tác dụng huấn luyện hệ thống trung khu thần kinh , kích thích sự hoạt động có tính cách cơ năng của các khí quan và hệ thống ; nếu kiên trì luyện tập lâu năm , sẽ có thể dần dần làm cho cốt cách cứng cỏi , cơ nhục mềm mại , cảm giác linh mẩn ; sự xử dụng kình lực sẽ tùy ý chí mà di chuyển , năng thâu năng phóng , năng tùng tâm sở dục , và khi chiến đấu hễ mới chạm là đã phát . Ðây là ý nghĩa của sự dụng ý bất dụng lực.

Ðể đạt được yêu cầu dùng ý bất dụng lực, cần chú ý vài điểm sau:

1. Khi luyện tập TCQ, không được dụng lực ở bất kỳ những động tác nào; những động tác phải viên hoạt tung nhuyễn ; khi dùng quyền thì không nắm chặc quyền , khi đã quyền không được dùng mãnh kình ; khi dụng cước cũng từ từ nhè nhẹ treo chân và từ từ đá ra , không dùng sức không cầu thắng , chỉ cầu tinh thần quán chú vào lòng bàn chân , tức là đặt ý tại đó .

2. Ý tùy theo động tác mà di động. Sự di động của ý có liên hệ mật thiết tới sự tuần hoàn của máu. Như ở động tác Ðơn tiên , ý từ tay phải thông qua lưng mà qua tay trái , tức là đem máu ở tay phải trở về tim , đồng thời , một phần máu do động mạch thông qua vai , chỏ , cổ tay mà đến bàn tay trái , và lúc tay trái duỗi ra ắt có cảm giác các đầu ngón tay trương ra , nở ra , chính là máu chảy đến . Trong TCQ sự đáo đạt (sự đến nơi) của ý ở bất kỳ động tác nào cũng thế cả.

3. Lúc luyện tập thôi thủ, cũng cần phát huy tác dụng của ý , bởi vì sự dụng ý có được thỏa đáng hay không có quan hệ mật thiết với sự đắc thắng hay không .

Thượng Hạ Tương Tùy

Khi luyện tập TCQ , bất luận làm động tác nào cũng phải làm cho sự vận chuyển của các bộ phận thân thể cùng với thượng , hạ chi ăn khớp , phối hợp với nhau. Sự vận chuyển ăn khớp này gọi là thượng hạ tương tùy .

Trong quyển Thái Cực Quyền Luận có nói : " Kỳ căn tại cước , phát ư thối , chủ tể tự yêu , hình ư thủ chỉ , do cước nhi thối nhi yêu tổng tu hoàn chỉnh nhất khí " ; câu này muốn nói rằng khi luyện tập , chân như là rể của cây cối , có thể làm cho thân vững vàng , mà tính vững vàng này lại do đùi phát xuất , rót đến tận dưới gót chân ; còn eo là chủ tể của thân , vì nó là cái trục quay trung ương , kình lực phát ra do eo đi xuống dưới thì qua đùi mà đến bàn chân , đi lên trên thì qua vai và cánh tay mà rót đến ngón tay . Do đó trong bất cứ động tác nào , đều phải làm cho toàn thân là một khí hoàn chỉnh , mới là thượng hạ tương tùy .

Theo Thái Cực Quyền luận: "...Hướng tiền thối hậu , nãi nâng đắc cơ đắc thế , hữu bất đắc cơ đắc thế , thân tiện tán loạn ..." Ý muốn nói : Thượng hạ tương tùy giúp cho sự tiến thối được cơ được thế , thân pháp mới không tán loạn . Do đó có thể phân tích trên hai mặt:

1. Trên mặt vận động :

Mỗi động tác TCQ đều là hoạt động của toàn thân , đều là hoạt động toàn diện , cả trong lẩn ngoài , cả trên lẩn dưới , do đó chúng ta thấy ngay rằng thương hạ tương tùy trên phương diện sinh lý vận động cốt là làm cho thân thể vận động toàn diện .

2. Trên mặt Kỹ kích : (Sử dụng trong chiến đấu)

Có thượng hạ tương tùy mới chiếm được thế cơ , thân pháp hoàn chỉnh nhất khí nên tiến thoái mới thuận lợi , thôi thủ mới chiếm phần thắng . Nếu như thân pháp tán loạn, chân tay không thể hợp tác , khí như áo rách tả tơi , sẽ bị người ta chế ngự .

Ðể thực hiện được thượng hạ tương tùy, nên chú ý mấy điểm sau đây:

1. Khi luyện tập TCQ , bất luận đối với động tác nào , đều phải làm cho tay chân nhất trí với nhau , không được chia ra trước hay sau . Thông thường là ta hay mắc phải lổi là chân tới trước rồi tay mới tới sau , tức là mại bộ thì nhanh còn thủ thế thì chậm ; thứ đến là các động tác khuất thối tọa yêu ( rùn chân buông eo ) cũng không di chuyển một lượt với thân . Sửa thế nào đây ? TCQ Luận có nói : " Hữu bất đắc cơ đắc thế xứ , thân tiện tán loạn , kỹ bệnh tất ư yêu thối cầu chi " , tức là các bệnh (lổi) này đều do eo và chân gây ra cả , cho nên nếu muốn khắc phục thì nhắm ngay vào eo và chân . Phải thường chú ý luôn mới mong giử được thượng hạ tương tùy . Như ở động tác Ðảo niên hầu , lúc tay phải co rút thu về thì chân phải cũng lui về , lúc chân trái lui ra sau thì đồng thời tay trái cũng rút về sau , mới là thượng hạ tương tùy ; đồng thời lấy eo làm trục thì chuyển động mới linh hoạt .

2. Trong lúc tập thôi thủ , có thể phát triển thêm một bước cái ưu đìểm của thương hạ tương tùy , như lúc hai người đang hoạt bộ thôi thủ , thủ pháp và bộ pháp phải nhất trí , tiến thì tê , thối thì lý ; không được chậm trể mảy may ; nếu trái lại ắt phải bị khống chế .

Nội Ngoại Tương Hợp

" Nội " là tinh thần , mà tinh thần là cái gì vô hình , sự lành mạnh hay không của tinh thần là do thân thể biểu hiện , mà mỗi động tác của thân thể được hình thành dưới sự chi phối của hệ thống thần kinh - tức là vỏ đại não . Khi não ở trạng thái hưng phấn thì tinh thần sung túc sãng khoái ; khi não bị ức chế thì tinh thần ủy mị . Yêu cầu nội ngoại tương hợp của TCQ có quan hệ mật thiết với trạng thái của vỏ đại não là như vậy .

"Ngoại " là tứ chi bách hải của thân thể . Bất luận sự hoạt động toàn bộ hoặc cục bộ của thân thể , dù là hoạt động vi tiểu đến đâu , cũng phải chịu sự chi phối của thần kinh mới hoàn thành được , cho nên trong các tình huống thông thường , hoạt động nhục thể và tác dụng của thần kinh là không thể phân ly .

Ðã như thế thì tại sao khi luyện tập TCQ còn đòi hỏi nội ngoại phải tương hợp ? Xin thưa sự đòi hỏi này chỉ là sự nhấn mạnh có tính cách cưỡng điệu hóa cái tác dụng chủ đạo của vỏ đại não , chiếm địa vị chủ soái trong lúc vận động , và sai khiến sự hoạt động của toàn thân . Vậy chúng ta có thể định nghĩa nội ngoại tương hợp như sau : Sự dung hợp của tác dụng tinh thần và vận động nhục thể . Vận động của TCQ có hiệu quả tốt , có hiệu năng y liệu là do tác dụng trọng yếu của tương hợp nội ngoại vậy .

Muốn làm được nội ngoại tương hợp , thì trước khi khai thức cần làm cho tinh thần trầm tĩnh xuống , sau khai thức thì nội liễm tinh thần , tập trung tư tưởng , trong mỗi một động tác hành khí làm sao , dụng ý ở đâu đều phải được phối hợp một cách nghiêm mật .

Tương Liên Bất Ðoạn

Gọi là " Tương liên bất đoạn " khi sự dụng ý và vận kình từ chiêu thức này sang chiêu thức nọ đều liên tục không gián đoạn (có khi kình đoạn nhưng ý không đoạn) .

Sự vận động của TCQ là sự vận động mà từ khai thức tới thâu thức , thức này nối thức kia , đều liên tục bất đoạn , đồng thời với sự liên tục của khí .Các loại vận động bất đoạn liên hoán này có thể xúc tiến sự phát triển ở cơ năng của các khí quan trong thân thể . Tỷ như bộ máy tiêu hóa của chúng ta không được tốt , thì sau một thời gian luyện tập TCQ , cơ năng tiêu hóa tốt lại , chúng ta trở nên thích ăn uống nhiều hơn , cho nên động tác của TCQ , tuy nhu hoà hoãn mạn , nhưng được thực hiện liên tục và bền bĩ , sẽ nâng cao tình trạng sức khõe .

Sự dụng ý ở TCQ tùy thuộc vào sự biến hóa của động tác . Phàm ý vận hành ở bộ phận nào trong cơ thể thì khí huyết đến nơi đó . Ý có thể đi khắp toàn thân nên khí huyết cũng chu lưu khắp cơ thể . Nếu trong người có chổ nào bị bệnh (như viêm các quan tiết , thần kinh suy nhược , v.v...) thì do ảnh hưởng của sự vận hành khí huyết trong cơ thể , sau một thời gian nào đó các bộ phận ấy sẽ lành mạnh trở lại .

Về mặt chiến đấu , nguyên tắc tương liên bất đoạn có giá trị nhất định của nó . Như trong lúc thôi thủ , do sự dụng ý và vận kình một cách tương liên bất đoạn , mới có thể phòng thủ nghiêm mật , không để hở chổ nào cho địch thủ có thể tấn công .

Phương pháp để đạt tương liên bất đoạn như sau:

1. Bình thường khi đi quyền không nên gây gián đoạn . Những người mới học nên chia thành những động tác đơn để tập luyện thì mới nắm được động tác . Ðiều quan trọng là khi hiểu được dộng tác rồi phải biết diễn luyện liên tục từ thức này sang thức khác , không một lúc nào ngưng nghỉ .

2. Khi thực hiện các động tác , cái gọi là kình có thể gián đoạn nhưng ý thì không được gián đoạn . Ý bất đoạn chính là tinh thần thủy chung quán chủ , không một sát-na nào không quán chủ . Chổ nào ý cần phải đến , phải thực sự đưa ý đến hẳn hoi . Muốn nắm được điểm tâm lý này cần phải để tâm nghiên cứu .

Ðộng Trung Cầu Tĩnh

Ðộng trung cầu tĩnh trong TCQ là trong cái động của các động tác từ hoãn ( chậm chạp mềm mại) , tâm thần một mực bình ổn , điềm tĩnh . Ðó là giử cái trầm tĩnh trong cái hoạt động vậy .

" Ðộng " hàm ngụ các ý niệm vận động ... có cái động bên ngoài của cơ thể là cái động tay chân . Có cái động bên trong như hô hấp , máu tuần hoàn , tế bào sinh hóa (hiện tượng tân trần đại tạ) . Ý niệm "động" ở TCQ bao hàm hai phương diện ấy .

" Tĩnh " hàm ngụ các ý nghĩa an tĩnh , bình ổn . Thực ra trong vũ trụ không có sự vật nào tuyệt đối ở trong trạng thái tĩnh chỉ, từ cái nhỏ như nguyên tử, phân tử, đến cái lớn như địa cầu, hệ thái dương đều ở trạng thái động hằng cửu. Người ta là một thể hửu cơ hoạt dộng, dù trong lúc ngủ, các hiện tượng sinh lý vẫn liên tục xảy ra . Cho nên , cái tĩnh trong TCQ là tương đối , là cái tĩnh ở một trình độ nhất định nào đó .

Theo mặt sinh lý mà nói, động tác hoãn mạn nhu hòa làm cho sự hô hấp của phổi sâu và dài , làm cho nhịp tim đập chậm mà có sức , làm cho khí huyết đi khắp mọi nơi và đi đến nơi đến chốn . Vận động như vậy sau một thời gian dài , cơ năng các khí quan sẽ tiến triển . tức là thể chất và thể lực tăng triển . Nói một cách cụ thể nếu học viên nào ủ rũ vì thần kinh suy nhược hay tinh thần lờ đờ lúc ban ngày , mất ngủ lúc ban đêm , nếu trải qua một thời gian luyện tập TCQ nào đó , thì tinh thần có thể chuyển biến tốt hơn và ba tháng sau không còn bị mất ngủ nữa . Do nguyên nhân nào vậy ? Bởi vì TCQ tự nó là một phương pháp vận động có tính cách nghỉ ngơi tích cực . Sự đòi hỏi tĩnh khiến cho những ai lo lắng buồn rầu phải xua đuổi tạp niệm , làm cho đại não có cơ hội nghĩ ngơi nhiều hơn , tức là làm cho thần kinh não chuyển biến từ suy nhược đến mạnh khõe .

Trên phương diện tâm lý , làm thế nào giử cho " tĩnh " ?

Ðây là sự trấn tĩnh trên phương diện tinh thần . Vỏ đại não là cơ sở vật chất của hoạt động tâm lý . Khi luyện quyền , ta bắt buộc phải nội liễm tinh thần , tập trung tư tưởng , trong não không nghĩ ngợi gì cả cho đến mức mục vô sở thị , nhỉ vô sở văn , tuy vận động mà vẫn y nhiên thản nhiên tâm thần thơ thới . Ðó chính là trạng thái mà Ðạo gia gọi là "nhập tĩnh" hay "hư vô" . Chính trong trạng thái này, đại bộ phận của võ đại não bị đặt vào tình trạng ức chế , làm phát sinh tác dụng phản xạ có ích ở các khí quan nội tạng . Do ảnh hưởng của sự vận công liên tục , bệnh tình của bệnh nhân giảm và hết đi . Ðồng thời, trạng thái nhập tĩnh còn có tác dụng huấn luyện đối với hệ thống trung khu thần kinh , cơ năng của hệ thống này mạnh mẻ lên lại điều chỉnh và kích thích cơ năng của các hệ thống khí quan của nó . Vì vậy trên phương diện vận động sinh lý , nguyên tắc động trung cầu tĩnh có giá trị rất lớn .

Người mới học rất khó thực hiện động trung cầu tĩnh vì động tác tư thức chưa được thuộc làu còn nhớ này quên kia . Nhưng không thể không biết yêu cầu này , biết để mà từ từ thử nghiệm .

Tâm , Ý , Thần , Khí

TCQ là một loại vận động kiện thân (làm thân thể sống mạnh), nhưng rất chú trọng đến tác dụng của tinh thần . Nói chung tinh thần có tác dụng hiệu quả của sự vận động TCQ về nhiều mặt, và phần lớn đã được đề cập ở các mục chuyên biệt ở trên.

Nhưng có người cho rằng tác dụng của tinh thầ được gói ghém trong bốn chữ : Tâm Ý Thần Khí , còn gọi là bốn chữ mật quyết . Thực ra bốn chữ này không nói hết lên được . Ý nghĩa của bốn chữ này không thể căn cứ vào mặt chữ mà giải thích , vì chúng có nghĩa rộng hơn .

Chữ " Tâm " ở đây không có nghĩa là tâm trạng (trái tim) mà là sự hoạt động của thần kinh cao cấp của đại não . Chữ " Ý " ở đây có thể nói là ý niệm , là một loại tác dụng của tinh thần , như ta nói dụng ý bất dụng lực. Chữ " Thần " chính là hoạt động của thần kinh , chủ yếu là hoạt động của đại não . Chữ " Khí " có hai mặt ý nghĩa là nuôi khí và luyện khí .

Dĩ tâm hành khí , vụ lệnh trầm trước : túc là lấy tinh thần khống chế sự vận hành của huyết khí , một mực phải trầm trọng lặng lẻ , thì mới đạt hiệu quả cao .

Dĩ khí vận thân , vụ lệnh thuận toại , nãi năng tiện lợi tùng tâm : Trong lúc vận khí đi khắp nơi trong cơ thể , cần một mực vận hành một cách tự nhiên , không được gắng gượng dùng sức , rồi trải qua sự tập luyện lâu ngày mới được như ý muốn , dẫn khí đi khắp thân thể .

Thân thư thế tĩnh , khắc khắc tại tâm : Thần là tinh thần , chủ yếu là vỏ đại não , cần phải trầm tĩnh thư sương , tư tưởng tập trung ; thế tĩnh là muốn nói trong cái động giử cái tĩnh , khắc khắc tại tâm là bất luận ở động tác tư thức nào , tinh thần đều phải chuyên nhất , không được có một chút tạp niệm nào .

Tâm vi lệnh, khí vi kỳ: Câu này muốn nói rằng dưới sự khống chế của hệ thần kinh , khí huyết được đưa đi khắp thân .

Các mật quyết tương tự còn rất nhiều, nhưng ý nghĩa thì đại đồng tiểu dị , không cần nói chi cho rườm . Tóm lại , Tâm Ý Thần Khí ám chỉ tác dụng của tinh thần , không thể phân biệt được một cách rành rọt , có tác dụng chủ đạo trong vận động TCQ , có ý nghĩa trọng yếu đối với hiệu quả vận động và mực độ sức khõe .

"Thập Lục Quan Yếu"

Các nhà quyền thuật cận đại đã quy nạp những điều cần thiết khi tập TCQ thành 16 điểm quan trọng , gọi là Thập lục quan yếu . Ðó là:

1. Hoạt bát ư yêu

2. Linh cơ ư đỉnh

3. Thần thông ư bối

4. Lưu hành ư khí

5. Hành chi ư thối

6. Ðắng chi ư túc

7. Vận chi ư chưởng

8. Quán chi ư chỉ

9. Liễm chi ư tủy

10. Ðạt chi ư thần

11. Ngưng chi ư nhĩ

12. Tức chi ư tỵ

13. Hô chi ư phúc

14. Túng chi ư tất

15. Phát chi ư mao

16. Hồn ngạc nhất thân

Cụ thể:

1. Hoạt bát ư yêu: Cái eo chiếm một địa vị trọng yếu trong TCQ. Một cái eo buông lỏng linh hoạt hoặc vụng về cương ngạnh có ảnh hưởng rất lớn đối với thân và tứ chi. Sự khinh linh viên hoạt của động tác TCQ chỉ có được trên cơ sở là cái eo linh hoạt. Ðó là ý nghĩa của hoạt bát ư yêu.

2. Linh cơ ư đỉnh: Về điểm này chỉ có hai giải thích:

a. Tức là hư linh đỉnh kình.

b. Tức là cái động cơ linh hoạt phát xuất từ đỉnh đầu điều khiển sự hoạt động đáp trái ứng phải của toàn thân, tức là sự hoạt động của đại não có thể khống chế toàn thân. Trong khi luyện quyền , tinh thằn càng tập trung cao độ thì tác dụng của sự hoạt động của hệ thần kinh cao cấp càng được phát huy .

3. Thần thông ư bối: Ở đây, bối (lưng) là tích bối (vùng lưng dọc cột xương sống) . Trên thân thể , lưng chiếm một địa vị trọng yếu , lên trên là đầu , qua trái và phải thì thông qua hai vai mà đạt đến cánh tay , đi xuống thì qua eo , háng mà đạt đến chân , cho nên tích bối , đối với thân thể , là chổ giao thông rất thuận lợi (tứ thông bát đạt) ; thần (tích tủy và thần kinh) thông qua bối mà đi khắp châu thân ; nhưng muốn đạt được mục đích thần thông ư bối , phải thực hiện dưới tác dụng của tinh thần một cách có ý thức , làm cho thần đi khắp toàn thân ; như dụng ý , vận kình , đều có thể thông qua tích bối mà đến khắp tứ chi .

4. Lưu hành ư khí: Ý muốn nói khí lưu hành khắp thân. Làm thế nào để khí huyết lưu hành khắp thân? Ðiều này thì trong lúc luyện quyền, chú ý đến việc kết hợp hô hấp và sự dụng ý bất dụng lực.

5. Hành chi ư thối.

6. Ðắng chi ư túc.

7. Vận chi ư chưởng.

8. Quán chi ư chỉ.

Bốn điều quan yếu này muốn nói rằng trong lúc luyện TCQ , tinh thần và khí huyết đạt đến các bộ phận trên thân thể như thế nào ; thông qua thối và tý ( đùi và tay ) , vận đến thủ chưởng ( bàn tay ) và túc chích ( bàn chân ) , sau cùng rót đến đầu ngón tay và đầu ngón chân .

9. Liễm chi ư tủy.

10. Ðạt chi ư thần.

Trước đây có nói rằng khi luyện quyền phải nội liểm tinh thần . Nội liểm có nghĩa là nội thâu . Lúc luyện quyền , không chú ý bất cứ sự vật gì của hoàn cảnh , mà chỉ chú ý tới một điều là dụng ý bất dụng lực , như vậy tinh thần không những nội liểm mà còn đạt đến cốt tủy , nên gọi là liểm chi ư tủy . Thật ra đây chỉ là thu liểm tinh thần vào trong một cách hoàn hảo ( tập trung tinh thần một cách hoàn hảo ) . Lâu ngày , tạo ảnh hưởng tốt cho hệ thần kinh , nhất là vỏ đại não , làm cho vỏ đại não được bồi dưỡng , nên gọi là đạt chi ư thần .

11. Ngưng chi ư nhĩ: TCQ đòi hỏi động trung cầu tĩnh, tránh ngoại vật kích thích. Như thế tức là đòi hỏi tai mắt phải ra sao? Về vấn đề nhãn thần, đã có nói qua ở trên. Còn ở đây chỉ nói về thính giác. Ngưng chi ư nhĩ là làm cho cái công năng của tai , tức là thính giác , ngưng tĩnh lại , không còn nghe âm thanh nữa , để mà tập trung tinh thần .

12. Tức chi ư tỵ: Tức là hít thở bằng mũi, cũng có khi thở ra bằng miệng nhưng không được hít vào bằng miệng

13. Hồ chi ư phúc: Về phương thức hô hấp, có hai cách: hung thức và phúc thức. Người ta bình thường hô hấp bằng ngực, còn TCQ thì đòi hỏi phải thở sâu, dài, đều, im, nên chủ trương thở bằng bụng.

14. Túng chi ư tất : Ðầu gối là quan tiết trọng yếu của hạ chi , và trong các quan tiết , nó tương đối nhu nhược dễ bị bệnh , như các bệnh viêm quan tiết và dây chằng bị thương , chủ yếu là do khí huyết không thông . Cho nên, túng chi ư tất trong TCQ là làm sao cho huyết khí rút đến quan tiết đầu gối.

15. Phát chi ư mao: Lông tóc con người, sinh từ trong da ,đầu dưới của lông là gốc lông , trong gốc lông có huyết quản vi ti vận chuyễn chất dinh dưỡng và oxygen ; lúc tuổi thanh niên khí huyết thịnh vượng thì lông mọc nhiều dài và nhanh , lúc tuổi già thì khí huyết suy nhược , lông tóc dần dần rụng rơi và ngã sang màu bạc . Luyện tập TCQ là để tăng cường thể chất , thể lực . Nhờ vận hành khí huyết đến tận gốc lông nên lông mọc dài, giảm thiểu sự rụng và biến màu. Phát chi ư mao biểu hiện một kết quả cụ thể của sự vận động TCQ.

16. Hôn ngạc nhất thân: Thuật ngữ này muốn nói rằng trong lúc đi quyền, xử dụng ý và và vận kình tại khắp thân thể là một khí hoàn chỉnh. Nhân thể là một thể hoàn chỉnh thống nhất, hoạt động của các cơ quan khí quan hệ mật thiết với nhau, dưới sự chi phối của hệ thần kinh . TCQ là thứ vận động phát triển cơ thể một cách điều hòa : " Nhất động vô hữu bất động , nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh " , " Kỳ căn tại cước , phát ư thối , chủ tể ư yêu , hình ư thủ chỉ ; do cước nhi thối nhi yêu , tổng tu hoàn chỉnh nhất khí " . Như vậy bằng sự vận động này mà thân thể phát triển toàn diện.

Thôi thủ và điều gọi là "Ðổng kính"

Thôi thủ, còn gọi là đáp thủ hoặc kháo thủ, là phương pháp luyện tập cách dụng chiêu khi cận chiến với đối thủ Bất luận môn phái quyền thuật nào cũng có phương pháp thôi thủ riêng cho mình .

Ý nghĩa của thôi thủ là gì ? Ở TCQ thôi thủ nhằm mục đích luyện việc đổng kính , tức là tăng cường năng lực cảm giác . Trong khi hai người thôi thủ , do sự tiếp xúc của tay hay bộ phận thân thể nào của đối phương với thân thể của mình , thì ta cảm giác được ngay đường đi nước bước kình lực của đối phương , khinh trọng hư thực ra sao , sau mới có thể triêm hoặc niêm tay của đối phương không để cho thoát , và khéo hơn nữa là dùng kình lực của đối phương trả lại đối phương , giử vững thế chủ động của ta , và tùy ý đẩy đối phương ngã nhào . Như vậy mới là luyện được "Ðổng kính " . Ý nghĩa của thôi thủ chính là đổng kính vậy .

TCQ Luận có nói : " Ðổng kính hậu dũ luyện dũ tinh " , tức là chỉ sau khi tri hành được đổng kính , mà càng luyện tập thì công phu càng tiến bộ rất nhanh , bấy giờ chiêu pháp mới xử dụng được một cách trọn vẹn .

Có nhiều phương pháp thôi thủ , các phương thức thường thấy dùng gồm có :

1. Ðơn đáp thủ pháp: hai người đứng đối diện nhau , mỗi người đạp thực chân phải hoặc trái về phía trước một bước , dùng tay phải hoặc trái niêm nhau ở lún cổ tay , đẩy tới đẩy lui .

2. Song đáp thủ pháp: Tay phải và bộ pháp giống như trên, nhưng mỗi người dùng chưởng tâm trái của mình đở lấy cùi chỏ đối phương, bốn cánh tay cùng đáp , tạo thành một đường tròn .

3. Ðơn thủ bình viên thôi thủ pháp: Tức là mỗi bên dùng một tay đáp nhau ( chạm nhau ) nhưng đẩy đưa theo đường tròn .

4. Lý án thôi thủ pháp : Hai người thôi thủ , chỉ làm hai động tác lý và án .

5. Ðơn thủ lập viên thôi thủ pháp: Mỗi người chỉ dùng một tay đáp nhau , đẩy đưa thành đường tròn theo phương thẳng .

6. Lý tê thôi thủ pháp : hai người chỉ dùng hai động tác lý và tê .

7. Ðơn áp thôi thủ pháp : Mỗi người dùng một tay đưa đẩy mà làm động tác nén cổ tay (áp cản động tác) .

8. Áp cản án trửu thôi thủ pháp : bốn cánh tay cùng đáp nhau , làm động tác áp cản và án trửu .

9. Tứ chính thôi thủ pháp : luyện bốn động tác Bằng , lý , tê , án (chia làm hai cách , định bộ và hoạt bộ) .

10. Tứ ngưng thôi thủ pháp : (thường gọi là đại lý) : luyện bốn động tác thái , liệt , trửu , kháo . Vì bề ngoài giống như chỉ là động tác lý mở rộng , cho nên gọi là đại lý .

Thế nào là Triêm, Niêm, Liên, Tùy? Những lỗi lầm nào dễ phạm khi tập Thôi Thủ? Thế nào thì biết là Ðổng Kính thật sự ?

Trong khi thôi thủ , phải tuân thủ nguyên tắc triêm , niêm , liên , tùy , tức là làm sao cho bàn tay và cánh tay ta cùng với tay của đối phương luôn luôn duy trì sự tiếp xúc , bất luận động tác biến hóa ra sao , không được rời ra . Bốn chữ triêm , niêm , liên , tùy , được định nghĩa như sau :

* Triêm : Có nghĩa là nâng lên , nhổ lên . Trong lúc đáp thủ với đối phương , bằng vào kỹ thuật thôi thủ của mình mà dẩn khởi thủ tý của đối phương , làm đối phương phải bật gót , mục đích là để hất té đối phương .

* Niêm : Bất luận thủ pháp và thân pháp của đối phương biến hóa ra sao , thủ tý của ta không bao giờ rời thủ tý của đối phương , giống như đeo đuổi một cái gì vậy .

* Liên : Cần phải biết làm cho lực của mình liên tiếp với lực của đối phương một cách có ý thức , để hóa giải lực của đối phương .

* Tùy : Cùng đối phương đáp thủ , khi đối phương muốn thoát , ta theo liền tức thì , và đây chính là cơ hội để thủ thắng .

Lúc mới học thôi thủ , chưa thể Ðổng kính được và trong lúc này người học dễ mắc phải các lổi sau :

* Ðình : Hễ khi kình lực đối phương phát sinh là lập tức có phản ứng đề kháng , tức là để xúc ( tiếp xúc có đề kháng ) .

* Kháng : so với xúc thì trầm trọng hơn , tức là luôn luôn có phản ứng đề kháng kình lực của đối phương .

* Biển : động tác không kịp thời , mất liên , mất tùy .

* Ðâu : không những không kịp thời , mà còn tách rời tay của đối phương , mất niêm .

Muốn đạt được tình trạng đổng kính thực sự , phải trải qua một thời kỳ tập luyện , lúc bấy giờ mới đi thôi thủ theo hình thức cố định sang thôi thủ không câu nệ hình thức , có thể tùy ý mà biến hóa động tác ; bất luận tiến thoái chuyển hoán , lên xuống nhanh chậm đều có thể tùng tâm sở dục , thuận lợi , cơ hồ như bộ phận nào của thân thể cũng đều sẳn sàng tiếp ứng với hai tay .

Có Bao Nhiêu Động Tác Thôi Thủ?

Nội dung của thôi thủ có tám động tác : băng , lý , tê , án , thái , liệt , trửu , kháo . Thường được phân biệt làm tứ chính thôi thủ bao gồm bốn động tác đầu, và tứ ngưng thôi thủ gồm bốn động tác sau.

1. Băng (quen đọc là bằng): Có ý nghĩa nâng lên trên, lúc đáp thủ, phát kình nghịch đối phương, làm kình lực đối phương không thể đi xuống, gọi là bằng , nếu làm đúng phép có thể làm đối phương bay bổng lên .

2. Lý: Lúc đáp thủ, nếu đối phương dùng thế bằng hoặc thế tê đối với ta, thì ta thuận thế mà lý về đàng sau bên dưới; nếu làm đúng thế có thể làm đối phương ngã nhào về đàng trước .

3. Tê: Lúc đáp thủ ta dùng bàn tay hoặc cánh tay ngăn đẩy đối phương, làm đối phương không thể động thủ , rồi sau đó đẩy đối phương ra .

4. Án: Lúc đáp thủ, nếu đối phương dùng thế tê đối với ta, thì ta liền dùng tay hạ án phá thế tê.

5. Thái: Lúc đáp thủ, hễ nén (chế) đối phương, nắm bắt (thái: hái lấy) lực của đối phương ngay sát thân của đối phương, đều gọi là thái. Người giỏi dùng thế thái không kể lực của đối phương công kích tới như thế nào chăng nữa, đều có thể thái mà phá giải, và chọn chổ nhược của đối phương mà phản công lại.

6. Liệt: Có nghĩa là làm xoay chuyển (nửu chuyển) ; lúc đáp thủ nếu ta dời được , hóa giải được lực của đối phương và tấn công đối phương , gọi là liệt , mà trong lực học gọi là phân giải lực lượng đối phương , rối từ trắc diện tấn công thì có thể châu chấu đá voi .

7. Trửu: Là quan tiết ở giữa cánh tay. Trong TCQ, dùng chỏ đánh địch gọi là dùng thế trửu.

8. Kháo: Dùng vai và mé ngoài của lưng đánh địch gọi là kháo; lúc tiếp cận thân địch chính là cơ hội thích hợp để dùng kháo, chớ xem thường.

(Trên đây là những khái niệm căn bản, cốt lõi của Thái Cực Quyền được trích từ cuốn "Thái Cực Quyền Vấn Đáp" của Dịch Giả Đàm Trung Hòa)

namhongson

27-01-2005, 08:23 PM

9. Thái Cực Quyền Luận (tác giả: Vương Tông Nhạc)

Thái cực giả , vô cực nhi sinh , động tĩnh chi cơ , âm dương chi mẫu dã . Ðộng chi tắc phân , tĩnh chi tắc hợp . Vô quá bất cập , tùy khúc tựu thân . Nhân cương ngã nhu vị chi tẩu , ngã thuận nhân bối vị chi niêm . Ðộng cấp tắc cấp ứng , động hoãn tắc hoãn tùy. Tuy biến hóa vạn đoan nhi lý vi nhất khí . Do trước thục nhi tiệm ngộ đống kính , do đống kính nhi giai cập thần minh ; nhiên phi dụng lực chi cứu , bất năng khoát nhiên quán thông yên , Hư linh đỉnh kình , khí trầm đan điền , bất thiên bất ỷ , hốt ẩn hốt hiện . Tả trọng tắc tả hư , hữu trọng tắc hữu yểu . Ngưỡng chi tắc di cao , phủ chi tắc di thâm ; tiến chi tắc dũ trường , thối chi tắc dũ xúc . Nhất vũ bất năng gia , đăng trùng bất năng lạc . Nhân bất tri ngã, ngã độc tri, nhân , anh hùng sở hướng vô địch , cái do thử nhi cập dã . Tư kỹ bàng môn thậm da ; tuy thế hữu khu biệt, khái bất ngoại hồ tráng khi nhược , mạn nhượng khoái nhĩ . Hữu lực đả vô lực , thũ mạn nhượng thủ khoái ; thị giai tiên thiên tự nhiên chi năng , phi quan học lực nhi hữu vi dã , Sát tứ tượng bát thiên cân chi cú , hiển phi lực thắng ; quan mạo điệt năng ngư chúng chi hình , khoái hà năng vĩ . Lập như bình chuẩn , hoạt tự xa luân . thiên trầm tắc tùy , song trọng tắc trệ . Mỗi kiến sổ niên thuần công bất năng vận hóa giả , suất tự vi nhân chế , song trọng chi bệnh vị ngộ nhĩ , Nhược dục tỵ thử bệnh , tu tri âm dương . Niêm tức thị tẩu, tẩu tức thị niêm . Âm bất ly dương , dương bất ly âm ; âm dương tương tế , phương vi đống kính . Ðống kính hậu dũ luyện dũ tinh , mặc thức suỷ ma , tiệm chí tùng tâm sở dục . Bản thị xả kỹ tùng nhân , đa ngộ xả cận cầu viển . sở vị sai chi hào ly , mậu chi thiên lý . học giả bất khả tưởng biện yên . Thử luận cú cú thiết yếu , tịnh vô nhất tự phu diễn bồi sấn , phi hữu tức tuệ , bất năng ngộ dã . Tiên sư bất khẳng vọng truyền , phi độc trạch nhân , diệc khủng uổng phí công phu nhĩ . Thị vi luận .

Trường quyền giả , như trường giang đại hải , thao thao bất tuyệt dã . Băng , lý , tê , án , thái , liệt , trửu , kháo thử bát quái dã . Tấn bộ , thối bộ , tả cố , hữu phán , trung định , thử ngũ hành dã , Băng , lý , tê , án , túc, khãm , ly , chấn , đoài , tứ chính phương dã . Thái , liệt , trửu , kháo tức càn , khôn , cấn , tốn, tứ tà giác dã . Tấn , thối , cố , phán , định , tức kim , mộc ,thủy , hỏa , thổ dã . Hợp chi tắc vi thập tam thế dã .

(Dịch Giả Đàm Trung Hòa)

namhongson

27-01-2005, 08:24 PM

10. Thập tam thế Hành Công Tâm Giải (tác giả: Vũ Vũ Tương)

Dĩ tâm hành khí , vụ lệnh trầm trước , nãi năng thu liễm nhập cốt . Dĩ khí vận thân , vụ lệnh thuận toại , nãi năng tiện lợi tùng tâm . Tinh thần năng đề đắc khởi tắc vô trì trọng chi ngu sở vị đỉnh đầu huyền dã . Ý khí tu hoán đắc linh , nãi hữu viên hoạt chi diêu (cbc: thú ) , sở vị biến chuyển hư thực dã . Phát kính tu trầm trước tung tịnh , chuyên chú nhất phương . Lập thân tự trung chính an thư , chi sanh bát diện . hành khí như cửu khúc châu , vô vi bất đáo (cbc: vô vãn bất lợi) (khí biến thân khu chi vị dã) . Vận kính như bách luyện cương , vô kiên bất tồi . hình như bát thố chi cốt, thần như bộ thử chi miêu. Tĩnh như sơn nhạc , động nhược giang hà . Súc kính như khai cung , phát kính như phóng tiển . Khúc trung cầu trực , súc nhi hậu phát . Lực do tích (cbc: bối) phát , bộ tùy thân hoán . Thâu tức thị phóng , phóng tức thị thâu , đoạn nhi phục liên . Vãng phục tu hửu triệu điệp (cbc: triệt điệt) , tiến thoái tu hữu chuyển hoán . Cực nhu nhuyễn nhi hậu cực chuyên cương . Kiên cương . Năng hô hấp , nhiên hậu năng linh hoạt . Khí dĩ trực dưỡng nhi vô hại , kính dĩ khúc súc di hữu dư . Tâm vi lệnh , khí vi kỳ , yêu vi đạo . Tiên cầu khai triển , hậu cầu khẩn trăn,

Hựu viết : Tiên tại tâm hậu tại thân. Phúc tung tịnh , khí liềm nhập cốt . Thần thư thể tĩnh , khắc khắc tại tâm . Thiết ký nhất động vô hữu bất động , nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh . Khiên động vãng lai , khí thiếp bối nhi liễm nhập tích cốt , nội cố tinh thần , ngoại thị an dật . Mại bộ như miêu hành , vận kính như trừu ty . Toàn thân ý tại tinh thần , bất tại khí ; tại khí tắc trệ . Hữu khí giả vô lực ; vô khí giả thuần cương . Khí như xa luân , yêu tự xa trục . Hựu viết : bĩ bất bất động , kỹ bất động ; bĩ vi động , kỹ tiên động . Kính tự tung phi tung , tương triển vị triển , kính đoạn ý bắt đoạn .

(Dịch Giả Đàm Trung Hòa)

namhongson

27-01-2005, 08:24 PM

11. Thập Tam Thế ca quyết (tác giả vô danh)

Thập tam tổng thế , mạc khinh thị

Mệnh ý nguyên đầu tại yêu tế

Biến chuyển hư thực tu lưu ý

Khí biến thân khu bất thiểu trệ

Tĩnh trung xúc động , động do tĩnh

Nhân địch biến hóa thị thần kỳ

Thế thế tồn tâm quỉ dụng ý

Ðắc lai toàn bất phí công phu

Khắc khắc lưu tâm tại yêu giang

Phúc nội tung tịnh , khí đằng nhiên

Vĩ lư trung chính thân quán đĩnh

Mản thân khinh lợi , đĩnh đầu huyền

Tử tế lưu tâm hướng suy cầu

Khuất thân khai hợp tính tự do

Nhập môn dẫn lộ tu khẩu thụ

Công phu vô tức , pháp tự tu

Nhược vấn thể dụng hà vi chuẩn ?

Ý khí quân lai cốt nhục thần

Tường suy dụng ý chung hà tại ?

Ích thọ diên niên bất lão xuân

Ca hề ca hề chấp tứ cú

Tự tự chân thiết ý vô di

Nhược bất hướng thử suy cầu khứ

Uổng phí công phu di thán tức .

(Dịch Giả Đàm Trung Hòa)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro