Tham quyen hanh chinh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương IV

THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ MỘT SỐ DỊCH VỤ CÔNG, ĐĂNG KÝ KINH DOANH, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

I. QUAN NIỆM CHUNG VỀ THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH TRONG DỊCH VỤ CÔNG

1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại dịch vụ công ở Việt Nam

a. Khái niệm

Có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ công, chẳng hạn, có thể hiểu dịch vụ công là[1]: 1. Sự tham gia vào đời sống xã hội; hành động tự nguyện vì cộng đồng của một người nào đó. 2. Việc làm cho Chính phủ, toàn bộ người làm của một cơ quan quyền lực, toàn bộ công nhân viên chức trong khu vực công cộng của quốc gia. 3. Việc mà chính quyền làm cho cộng đồng của mình: sự bảo vệ của cảnh sát, thu dọn rác,v.v. 4. Một cơ sở công ích địa phương. 5. Nghĩa vụ của một người đối với Nhà nước.

            Tại Việt Nam, từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX, trong bối cảnh cải cách nền hành chính Nhà nước, xác định chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, Chính phủ, bộ máy hành chính, vấn đề dịch vụ công đã trở thành một chủ đề được giới thiệu nghiên cứu, xây dựng chính sách và cả đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm. Trong đó, “dịch vụ công” là một khái niệm được dùng để chỉ một lĩnh vực hoạt động gắn với vai trò và chức năng của Nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ cụ thể. Khái niệm dịch vụ công được dùng chính thức lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII (khóa VIII) năm 1999 nhưng nội dung chưa thật rõ, sau đó được sử dụng trong văn kiện Đại hội IX và Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 (Điều 8 và Điều 22). Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X sử dụng khái niệm “dịch vụ công cộng”, và “đơn vị cung ứng dịch vụ công”[2] .

 “Dịch vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được nhà nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội”[3].

b. Đặc điểm

Dịch vụ công bao gồm một số loại dịch vụ khác nhau, thậm chí rất khác nhau về tính chất. Tuy nhiên, các dịch vụ này có các đặc điểm chung như sau: tính xã hội; hàng hóa đặc biệt; quan hệ thị trường không đầy đủ.

 Thứ nhất, dịch vụ công có tính xã hội, với mục tiêu chính là phục vụ lợi ích cộng đồng đáp ứng nhu cầu của tất cả công dân, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội và bảo đảm công bằng và ổn định xã hội, mang tính quần chúng rộng rãi. Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ công với tư cách là đối tượng phục vụ của Nhà nước. Trong trường hợp Nhà nước ủy nhiệm việc cung ứng các dịch vụ này cho khu vực tư nhân thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt nhằm bảo đảm sự công bằng trong phân phối, bảo đảm khả năng tiếp cận bình đẳng cho mọi công dân, nhất là với các dịch vụ cơ bản, khắc phục các khiếm khuyết của thị trường. Từ đó có thể thấy tính kinh tế, lợi nhuận không phải là điều kiện tiên quyết chi phối hoạt động dịch vụ công.

 Thứ hai, dịch vụ công cung ứng loại hàng hóa không phải bình thường mà là hàng hóa đặc biệt do Nhà nước cung ứng hoặc ủy nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện, đáp ứng nhu cầu toàn xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện vật.

Thứ ba, việc Nhà nước cung ứng dịch vụ công thường không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ.  Người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay đúng hơn là đã trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách Nhà nước. Cũng có những dịch vụ công mà người sử dụng phải thanh toán một phần hoặc toàn bộ chi phí; tuy nhiên, trong mọi trường hợp, Nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này không nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.

c. Phân loại dịch vụ công ở Việt Nam

Ở Việt Nam, dịch vụ công được phân loại dựa trên tính chất và tác dụng của dịch vụ công, bao gồm ba nhóm dịch vụ chủ yếu:

Một là, nhóm dịch vụ hành chính công, các dịch vụ thuộc nhóm này hầu hết là dịch vụ công cộng thuần túy.

Đây là  các dịch vụ thực thi pháp luật chủ yếu do các cơ quan hành chính thực hiện để giải quyết các công việc cụ thể của người dân. Ví dụ: cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu văn hoá phẩm, cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép đặt Chi nhánh của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo nước ngoài. Chúng là những dịch vụ phục vụ chung cho mọi người dân (dù không phải mọi người đều có nhu cầu cùng lúc), cung cấp các giấy tờ hành chính, tư pháp như giấy chứng nhận kiểm dịch, giấy phép xuất nhập khẩu... theo quy định của pháp luật, do các cơ quan công quyền thực hiện, giúp cho tổ chức và công dân làm ăn sinh sống bình thường.

Hai là, nhóm dịch vụ sự nghiệp công (còn được gọi là dịch vụ xã hội cơ bản hay  dịch vụ xã hội thiết yếu), đây là những dịch vụ công cộng không thuần túy, phần lớn chỉ thỏa mãn tiêu chí không cạnh tranh trong tiêu dùng (ví dụ: giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa...). Những dịch vụ này do các tổ chức sự nghiệp thực hiện trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, lao động, việc làm, an sinh xã hội.

Đây là loại dịch vụ cung cấp các hàng hóa dịch vụ về giáo dục đào tạo, đào tạo theo đơn đặt hàng, hợp đồng; đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực; điều tra, dự tính, dự báo: thiên tai, dịch bệnh, thị trường, thống kê; kiểm định chất lượng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thú y; nghiên cứu chuyển giao công nghệ do các cơ quan chuyên môn công lập (hay sự nghiệp theo cách gọi truyền thống ở Việt Nam) cung cấp, không thu tiền hoặc có thu tiền một phần nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận.

Loại dịch vụ công này được hầu hết các Chính phủ quan tâm vì nó liên quan tới việc phát triển về thể chất, tinh thần, trình độ...không chỉ cá nhân con người mà của cả quốc gia dân tộc; liên quan tới vị trí của quốc gia dân tộc trên thế giới.

Ba là, nhóm dịch vụ công ích bao gồm những dịch vụ cung ứng các hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng, nó gắn liền với việc cung ứng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản, chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện. Ví dụ: dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; cung cấp thông tin; bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe; dịch vụ vật tư, công nghệ mới; nuôi giữ giống gốc, gen, vật nuôi; lưu giữ nguồn gen động vật, thực vật; phòng chống thiên tai dịch bệnh, phòng chống lụt bão, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.

Dch vụ công ích có vai trò quan trọng đối với xã hội. Chất lượng của dịch vụ công ích là một trong những yếu tố thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi quốc gia. Càng phát triển các dịch vụ công ích càng đặt ra một cách rõ ràng và đòi hỏi các quốc gia phải quan tâm nhiều hơn tới dịch vụ này, nhất là các loại dịch vụ liên quan đến những vấn đề về bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống, bình đẳng trong hưởng thụ các sản phẩm vật chất mà xã hội đạt được.

Các loại dịch vụ công ích thường được các Chính phủ quan tâm thực hiện, bao gồm: Dịch vụ phục vụ phát triển sản xuất bền vững;dịch vụ vệ sinh môi trường; dịch vụ cung cấp nước sạch; dịch vụ giao thông vận tải công cộng; dịch vụ cung cấp điện và chiếu sáng công cộng; dịch vụ bưu chính viễn thông; dịch vụ công viên, cây xanh.

2.Khái niệm thẩm quyền hành chính trong quản lý dịch vụ công

Theo Khoản 4 Điều 8 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định Chính phủ: “Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công”. Điều 22 của Luật này quy định: “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước, quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật”.

Nghị định số 178/2007/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, tại Điều 8 quy định về quản lý nhà nước các tổ chức thực hiện dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

Trên cơ sở quy định của các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về thẩm quyền của các cơ quan trong quản lý dịch vụ công, cũng như quan niệm chung về thẩm quyền hành chính (đã nêu trong chương I), thì thẩm quyền hành chính trong quản lý dịch vụ công được hiểu là quyền hạn của Chính phủ, các Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân trong việc quản lý dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách do pháp luật quy định.

            II. THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ MỘT SỐ LĨNH VỰC DỊCH VỤ CÔNG

1. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực văn hóa

a. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Về di sản văn hoá: Cấp phép thăm dò, khai quật khảo cổ; đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài, tam bản sao di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia thuộc các bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành; quản lý việc cấp phép cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam.

- Về nghệ thuật biểu diễn: Hướng dẫn việc cấp thẻ hành nghề và cấp phép biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp; Quy định việc thẩm định, cấp phép, chương trình, tiết mục, vở diễn của các tổ chức, cá nhân Việt Nam đi biểu diễn ở nước ngoài và của các tổ chức, cá nhân nước ngoài biểu diễn tại Việt Nam.

- Về điện ảnh: Quy định việc cấp phép phổ biến phim.

- Về quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật: Hướng dẫn nghiệp vụ bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và quyền liên quan cho các ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và công dân.

- Về thư viện: Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới thư viện sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Quy địa điều kiện thành lập và hướng dẫn hoạt động thư viện.

- Về quảng cáo: Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép đặt Chi nhánh của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo nước ngoài; Chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành thông tư liên tịch quy định về thủ tục cấp phép quảng cáo, về thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm.

- Về văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc và tuyên truyền cổ động: Chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra; giám sát việc thực hiện chính sách văn hóa dân tộc; Ban hành Quy chế tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng, tổ chức hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá nơi công cộng; Ban hành Quy chế, hướng dẫn và chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, hoạt động tuyên truyền phổ biến văn hóa ở cơ sở và tổ chức lễ hội; Quyết định phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền trong lĩnh vực văn hóa ; Cấp phép cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tổ chức các hoạt động văn hoá ở Việt Nam; cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu văn hoá phẩm theo quy định của pháp luật; Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các hành vi mê tín, hủ tục, văn hoá phẩm đồi truy và các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa ; Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực văn hoá theo quy định của pháp luật; Ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của ngạch viên chức thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ được phân công, phân cấp quản lý sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Nội vụ; xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của ngạch công chức thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ được phân công, phân cấp quản lý để Bộ Nội vụ ban hành; ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ cụ thể của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ quản lý thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xây dựng và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật chuyên ngành, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao và du lịch.

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch thuộc thẩm quyền của Bộ; thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện phân cấp quản lý ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ[4].

b. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực văn hóa của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

Trong lĩnh vực văn hoá Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hoá theo quy định của pháp luật; tổ chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp về văn hoá của tỉnh;

- Tổ chức hoặc được uỷ quyền tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ, sinh hoạt văn hoá quốc gia, quốc tế trên địa bàn tỉnh;

- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác bảo vệ, trùng tu, bảo tồn các di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh, công trình văn hoá, nghệ thuật theo thẩm quyền; hướng dẫn xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá;

- Kiểm tra, ngăn chặn việc kinh doanh, lưu hành sách báo, văn hoá phẩm phản động, đồi trụy[5].

c. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực văn hóa của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Thứ nhất, về di sản văn hóa:

- Tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tại địa phương sau khi được phê duyệt.

- Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích thuộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt.

- Tổ chức điều tra, phát hiện, thống kê, phân loại và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể thuộc địa bàn tỉnh.

- Hướng dẫn và lập thủ tục cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh cho tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

- Tổ chức thực hiện kiểm kê, phân loại, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh thuộc địa bàn tỉnh.

- Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích.

- Tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do tổ chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật.

- Đăng ký và tổ chức quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong phạm vi tỉnh; cấp giấy phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc bảo tàng tỉnh và sở hữu tư nhân.

- Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử tại địa phương.

Thứ hai, về nghệ thuật biểu diễn:

- Hướng dẫn và tổ chức thực hiện phương án sắp xếp tổ chức các đơn vị nghệ thuật biểu diễn thuộc phạm vi quản lý của địa phương phù hợp với quy hoạch phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

- Tổ chức thực hiện quy chế tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn về nghệ thuật biểu diễn do địa phương tổ chức trên địa bàn tỉnh.

- Thẩm định, cấp phép công diễn chương trình, tiết mục, vở diễn, chương trình biểu diễn thời trang ở trong nước và có yếu tố nước ngoài cho các đối tượng:

+  Đơn vị nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp, đơn vị có chức năng tổ chức biểu diễn nghệ thuật, biểu diễn thời trang thuộc địa phương.

+ Các tổ chức kinh tế xã hội khi tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp không bán vé tại nhà hàng, vũ trường.

+ Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không có chức năng tổ chức biểu diễn nghệ thuật có nhu cầu tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp có doanh thu nhằm mục đích phục vụ công tác xã hội, từ thiện ở địa phương.

+ Tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam đặt trụ sở chính tại địa phương.

- Cho phép các đoàn nghệ thuật, diễn viên thuộc địa phương quản lý ra nước ngoài biểu diễn, các đoàn nghệ thuật, diễn viên nước ngoài đến biểu diễn nghệ thuật tại địa phương theo quy định của pháp luật; cấp phép tổ chức các cuộc thi hoa hậu tại địa phương sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Tổ chức thực hiện việc cấp thẻ hành nghề cho nghệ sĩ và diễn viên biểu diễn chuyên nghiệp theo phân cấp của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Thứ ba, về điện ảnh:

- Cấp, thu hồi giấy phép phổ biến phim truyện do cơ ở điện ảnh thuộc địa phương sản xuất hoặc nhập khẩu theo quy định của pháp luật về điện ảnh.

- Kiểm tra việc phổ biến phim ở rạp, phim chiếu lưu động, phim phát trên các phương tiện khác tại các điểm hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí công cộng.

- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy định về kinh doanh băng đĩa phim và các hoạt động điện ảnh khác tại địa phương.

Thứ tư, về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm:

- Cấp, thu hồi, điều chỉnh giấy phép, kiểm tra và hướng dẫn hoạt động triển lãm mỹ thuật, triển lãm ảnh, nghệ thuật sắp đặt, trình các loại hình nghệ thuật đương đại và các triển lãm khác thuộc phạm vi quản lý của ngành Văn hóa, tổ chức các cuộc thi ảnh nghệ thuật, liên hoan ảnh; quản lý việc sao chép tác phẩm mỹ thuật tại địa phương theo các quy chế do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành.

- Thẩm định, cấp phép thể hiện phần mỹ thuật đối với các dự án xây dựng hoặc tu bổ, tôn tạo tượng đài, tranh hoành tráng, công trình liên quan đến tôn giáo trên địa bàn tỉnh theo ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh và phân cấp của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Thứ năm, về quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật

- Tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện trên địa bàn tỉnh các quy định về cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm, quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và chế độ nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.

- Thẩm định quyền tác giả, quyền liên quan khi có tranh chấp theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Thứ sáu, về thư viện:

- Hướng dẫn việc đăng ký hoạt động thư viện trong tỉnh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đăng ký hoạt động đối với thư viện tỉnh theo quy định.

- Hướng dẫn các thư viện trong tỉnh xây dựng quy chế tổ chức hoạt động trên cơ sở quy chế mẫu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Thứ bảy, về quảng cáo:

- Thẩm định hồ sơ cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo tại địa bàn tỉnh trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép quảng cáo trên bảng, biển, panô, màn hình đặt nơi công cộng, vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể động khác và các hình thức tương tự treo, đặt, dán, dựng ở ngoài trời hoặc tại nơi công cộng trên địa bàn tỉnh.

Thứ 8, về văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc và tuyên truyền cổ động:

- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy hoạch thiết chế văn hóa cơ sở ở địa phương sau khi được UBND tỉnh phê duyệt.

- Hướng dẫn xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh trên cơ sở quy chế mẫu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

- Hướng dẫn tổ chức các lễ hội; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang; xây dựng gia đình, thôn, khu phố, cơ quan, đơn vị văn hóa trên địa bàn tỉnh.

- Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể chỉ đạo và hướng dẫn phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, chịu trách nhiệm thường trực Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

- Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chính sách văn hóa dân tộc, bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của cộng đồng các dân tộc cư trú trên địa bàn tỉnh.

- Hướng dẫn và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động tuyên truyền cổ động phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quy hoạch hệ thống cổ động trực quan trên địa bàn tỉnh.

- Tổ chức hội thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng, thi sáng tác tranh cổ động, cụm cổ động; cung cấp tài liệu tuyên truyền, tranh cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh.

- Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Quy chế quản lý Karaoke, vũ trường; Quy chế tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng và các hoạt động văn hóa khác tại địa phương.

- Quản lý hoạt động sáng tác và phổ biến tác phẩm văn học theo quy định của pháp luật.

d. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực văn hóa của Ủy ban nhân dân cấp huyện

Trong lĩnh vực văn hóa, Ủy ban nhân dân huyện thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Xây dựng các chương trình, đề án phát triển văn hóa trên địa bàn huyện và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

- Quản lý các công trình công cộng được phân cấp; hướng dẫn các phong trào về văn hóa, hoạt động của các trung tâm văn hóa - thông tin, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh do địa phương quản lý[6].

Phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về văn hóa. Quản lý bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, di tích văn hóa, quản lý các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, lễ hội.

e. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực văn hóa của Ủy ban nhân dân cấp xã

Trong lĩnh vực văn hóa, Ủy ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn:Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn hóa; tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ở địa phương theo quy định của pháp luật[7]

2. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực giáo dục

a. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo[8]

Thứ nhất, lập quy trong lĩnh vực quản lý của Bộ gồm:

- Ban hành chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên; chương trình khung đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học; khung ch­ương trình, khối l­ượng kiến thức đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ;

- Ban hành danh mục ngành đào tạo đối với các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học, học viện, đại học; quy định quy trình, điều kiện, hồ sơ đăng ký mở ngành đào tạo mới và mở ngành đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ cho các trường đại học, học viện, đại học, mở ngành đào tạo tiến sĩ cho các viện nghiên cứu khoa học.

- Ban hành điều lệ, quy chế trư­ờng mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, tr­ường trung học phổ thông, tr­ường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, cơ sở giáo dục thường xuyên, tr­ường trung cấp chuyên nghiệp, trường dự bị đại học, trư­ờng cao đẳng và các cơ sở giáo dục khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; quy chế đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; ban hành quy định tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia mầm non, phổ thông.

- Ban hành tiêu chí phát triển giáo dục; tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở; quy định về công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục; chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra thực hiện phổ cập giáo dục theo quy định của pháp luật.

- Quy định việc biên soạn, thẩm định, duyệt, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; chỉ đạo việc xây dựng giáo trình điện tử, th­ư viện điện tử, cơ sở dữ liệu cấp quốc gia; tổ chức biên soạn, xét duyệt các giáo trình sử dụng chung cho các tr­ường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học theo các khối, ngành, chuyên môn.

- Ban hành các quy chế thi và tuyển sinh, chế độ cử tuyển; tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng giáo dục; quy định về đánh giá và kiểm định chất l­ượng giáo dục; quy định về điều kiện thành lập, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; quy định chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục ở từng cấp học và trình độ đào tạo thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; chỉ đạo kiểm định chất lượng giáo dục.

- Quy định điều kiện xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học; điều kiện, trình tự, thủ tục cấp văn bằng, chứng chỉ trong hệ thống giáo dục quốc dân; quy định về mẫu văn bằng, chứng chỉ; quy định về việc in và quản lý cấp phát, thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ; quy định việc công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục n­ước ngoài cấp cho người Việt Nam.

- Ban hành các quy chế quản lý học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh Việt Nam học tập tại nước ngoài (bao gồm: học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh Việt Nam đi học bằng các nguồn ngân sách nhà nước và đi học tự túc); quy chế quản lý chuyên gia giáo dục của Việt Nam tại nước ngoài; các quy chế quản lý học sinh, sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh, nhà khoa học là người nước ngoài nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại Việt Nam;

- Quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện thành lập, đình chỉ, giải thể và quy chế tổ chức, hoạt động đối với các tổ chức dịch vụ và tư vấn cho người Việt Nam đi học tại nước ngoài;

- Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về hợp tác đào tạo với nước ngoài và các tổ chức quốc tế;

- Thống kê, xây dựng dữ liệu thông tin, cung cấp thông tin về lĩnh vực đào tạo với nước ngoài;

- Tổ chức các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ việc liên doanh, liên kết giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam với các cơ sơ giáo dục và đào tạo của nước ngoài; giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của nước ngoài với các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam.

- Xây dựng, công bố theo thẩm quyền tiêu chuẩn cơ sở hoặc xây dựng và đề nghị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ công bố tiêu chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất, thiết bị trường học và vệ sinh học đường phù hợp với yêu cầu của giáo dục và đào tạo; xây dựng, công bố theo thẩm quyền tiêu chuẩn cơ sở hoặc xây dụng và đề nghị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ công bố tiêu chuẩn quốc gia về đồ chơi trẻ em đảm bảo phù hợp với yêu cầu giáo dục và tâm sinh lý lứa tuổi trẻ em; quản lý cơ sở vật chất, thiết bị trường học, đồ chơi cho trẻ em trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;

Thứ hai, về kiểm tra, thanh tra:

- Hướng dẫn và kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;

- Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo quy định của pháp luật;

- Kiểm tra việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non, phổ thông đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiểm tra việc thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đối với các cơ sở giáo dục thường xuyên, các trung tâm tin học, ngoại ngữ thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước; thanh tra, kiểm tra các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học, học viện, đại học trong việc thực hiện chương trình và quy chế đào tạo do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; thanh tra, kiểm tra các cơ sở đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong việc thực hiện quy chế đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiểm tra các trường, cơ sở giáo dục trong việc trang bị, quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị trường học, đồ chơi cho trẻ em trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo quy định của pháp luật.

   b. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Quản lý nhà nước đối với các loại hình trường, lớp được giao trên địa bàn tỉnh; trực tiếp quản lý các trường cao đẳng sư phạm, trường trung học chuyên nghiệp, trường trung học phổ thông, trường bổ túc văn hoá; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong tỉnh từ trình độ cao đẳng sư phạm trở xuống; cho phép thành lập các trường ngoài công lập theo quy định của pháp luật;

- Quản lý và kiểm tra việc thực hiện về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và việc cấp văn bằng theo quy định của pháp luật;

- Thực hiện thanh tra, kiểm tra công tác giáo dục, đào tạo trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật[9]

c. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực giáo dục của Sở Giáo dục và Đào tạo

Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình và các nội dung khác về giáo dục và đào tạo sau khi được phê duyệt; tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo thuộc phạm vi quản lý của Sở.

Hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với các đơn vị trực thuộc Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo về thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch và các hoạt động giáo dục và đào tạo khác theo quy định của pháp luật và của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Quản lý công tác tuyển sinh, thi cử, xét duyệt, cấp văn bằng, chứng chỉ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác quản lý chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo của địa phương.

-  Hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ cập giáo dục trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và quy định của pháp luật.

- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các ngành học, cấp học trong phạm vi quản lý của tỉnh; hướng dẫn và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Tổ chức ứng dụng các kinh nghiệm, thành tựu khoa học- công nghệ tiên tiến trong giáo dục; tổng kết kinh nghiệm, sáng kiến của địa phương; quản lý công tác nghiên cứu khoa học- công nghệ trong các cơ sở giáo dục trực thuộc Sở; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ được giao.

- Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo; xây dựng và nhân điển hình tiên tiến về giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh.

- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách về xã hội hóa giáo dục; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục trên địa bàn tỉnh.

- Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân có liên quan đến lĩnh vực giáo dục ở địa phương; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của các hội, tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực giáo dục ở địa phương theo quy định của pháp luật.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc thẩm định các điều kiện, tiêu chuẩn để trình cấp có thẩm quyền cấp giấy phép, thủ tục có sự tham gia đầu tư của tổ chức, cá nhân nước ngoài; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra hoạt động giáo dục của các cơ sở giáo dục có sự tham gia đầu tư của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật.

- Cấp và thu hồi đăng ký hoạt động của các tổ chức dịch vụ đưa người đi du học tự túc ở nước ngoài ở các trình độ phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở; kiểm tra hoạt động của các tổ chức này theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của pháp luật; thống kê, tổng hợp người đi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở trên địa bàn tỉnh, báo cáo cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

- Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, tài chính của các đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo trực thuộc Sở theo phân cấp quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh và quy định của pháp luật.

- Xây dựng, tổng hợp kế hoạch biên chế sự nghiệp giáo dục và đào tạo của địa phương hàng năm; phân bổ chỉ tiêu biên chế sự nghiệp giáo dục công lập đối với các đơn vị trực thuộc Sở sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và tổ chức thực hiện việc tuyển dụng viên chức sự nghiệp giáo dục hàng năm trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.

- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm theo thẩm quyền về việc thực hiện chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án và các quy định của cấp có thẩm quyền trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân liên quan đến lĩnh vực giáo dục thuộc thẩm quyền quản lý của Sở; thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí theo phân cấp của Ủy ban nhân dân tỉnh và quy định của pháp luật.

d. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp huyện

Trong lĩnh vực giáo dục, Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây :

- Xây dựng các chương trình, đề án phát triển giáo dục trên địa bàn huyện và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt 

- Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phổ cập giáo dục, quản lý các trường tiểu học, trung học cơ sở, trường dạy nghề; tổ chức các trường mầm non; thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục trên địa bàn; chỉ đạo việc xóa mù chữ và thực hiện các quy định về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử[10].

 Phòng giáo dục tham mưu, giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện chức năng quản lý giáo dục trong phạm vi địa phương mình.

e Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã

Trong lĩnh vực giáo dục, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với trường học huy động trẻ em vào lớp một đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc văn hóa, thực hiện xóa mù chữ cho những người trong độ tuổi;

- Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp trên quản lý trường tiểu học, trường trung học cơ sở trên địa bàn[11].

3. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực y tế

a. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực y tế của Bộ Y tế

Thứ nhất, về y tế dự phòng:                                                     

- Trình cấp có thẩm quyền quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền việc tổ chức thực hiện các biện pháp đặc biệt để phòng, chống dịch bệnh;

- Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia trình cấp có thẩm quyền công bố và ban hành các quy định phân tuyến kỹ thuật, các quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các lĩnh vực: phòng, chống bệnh truyền nhiễm, HIV/AIDS, bệnh xã hội, bệnh không lây nhiễm, bệnh nghề nghiệp, tai nạn thương tích; sức khoẻ môi trường, sức khỏe trường học, vệ sinh và sức khoẻ lao động; dinh dưỡng cộng đồng; kiểm dịch y tế biên giới; hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế;

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành danh mục các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động và vệ sinh lao động, danh mục các bệnh nghề nghiệp;

- Cấp, đình chỉ, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký lưu hành hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế theo quy định của pháp luật;

- Thẩm định nội dung chuyên môn đăng ký quảng cáo hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế;

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thực hiện các quy định chuyên môn, các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lĩnh vực y tế dự phòng trong phạm vi cả nước;

Thứ hai, về khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng:

- Ban hành các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, thành lập, sáp nhập, tổ chức lại, giải thể các cơ sở khám, chữa bệnh;

-  Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia trình cấp có thẩm quyền công bố và ban hành các quy định phân tuyến kỹ thuật, quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh, điều dưỡng, phục hồi chức năng, giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần;

- Thẩm định, quyết định cho phép ứng dụng các kỹ thuật mới trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, điều dưỡng, phục hồi chức năng theo quy định của pháp luật;

-  Cấp, đình chỉ, thu hồi chứng chỉ hành nghề y tư nhân và giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y tư nhân đối với hình thức Bệnh viện tư nhân và các cơ sở hành nghề y tư nhân có vốn đầu tư của nước ngoài theo quy định của pháp luật;

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện các quy định chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

Thứ ba, về y dược cổ truyền:

- Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách thực hiện việc kế thừa, bảo tồn, phát triển, hiện đại hoá y dược cổ truyền và kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại;

- Ban hành các quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lĩnh vực y dược cổ truyền;

- Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các chính sách, pháp luật về y dược cổ truyền, kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại;

- Cấp, đình chỉ và thu hồi chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y dược cổ truyền tư nhân đối với bệnh viện y học cổ truyền tư nhân và cơ sở hành nghề y học cổ truyền tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, về dược và mỹ phẩm:

- Ban hành các quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dược, mỹ phẩm; ban hành Dược điển Việt Nam và Dược thư quốc gia;

- Cấp, đình chỉ, thu hồi: chứng chỉ hành nghề dược cho cá nhân đăng ký hành nghề dược có vốn đầu tư nước ngoài; giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc đối với các cơ sở sản xuất thuốc, cơ sở làm dịch vụ bảo quản thuốc, dịch vụ kiểm nghiệm thuốc; giấy phép lưu hành thuốc; giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu thuốc; giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP), thực hành tốt phòng kiểm nghiệm thuốc (GLP), thực hành tốt bảo quản thuốc (GSP), thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng, thực hành tốt nuôi trồng, thu hoạch dược liệu; giấy phép đăng ký hoạt động về thuốc tại Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp thuốc vào Việt Nam theo quy định của pháp luật;

- Quản lý chất lượng thuốc và mỹ phẩm; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công bố chất lượng mỹ phẩm; phòng, chống sản xuất, lưu thông thuốc, mỹ phẩm giả, kém chất lượng và phòng, chống nhập lậu thuốc, mỹ phẩm;

- Thẩm định nội dung chuyên môn đăng ký thông tin, quảng cáo thuốc;

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan quản lý nhà nước về giá thuốc, sử dụng các biện pháp bình ổn giá thuốc trên thị trường; tổ chức thực hiện và quyết định việc sử dụng dự trữ lưu thông thuốc;

- Chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn việc sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả;

- Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực dược, mỹ phẩm.

Thứ năm, về vệ sinh an toàn thực phẩm:

- Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền công bố tiêu chuẩn quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm; ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

- Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn quốc gia và các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm; Ban hành các danh mục và quy định điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với: thực phẩm có nguy cơ cao; thực phẩm được bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ và giới hạn liều chiếu xạ; thực phẩm sử dụng công nghệ gien; phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm và các thực phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ;

- Ban hành các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến, sử dụng thực phẩm và vệ sinh ăn uống đối với nhà hàng, khách sạn, siêu thị, bếp ăn tập thể, thức ăn đường phố;

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc ban hành giới hạn các chất gây ô nhiễm sản phẩm thực phẩm (các vi sinh vật gây bệnh, các hoá chất ảnh hưởng đến sức khoẻ con người). Phân tích và đánh giá nguy cơ ô nhiễm thực phẩm; phòng ngừa, khắc phục ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm;

- Cấp, đình chỉ, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh về: thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung, phụ gia thực phẩm, nước khoáng thiên nhiên, thuốc lá điếu; giấy chứng nhận y tế đối với sản phẩm thực phẩm xuất khẩu;

- Xác nhận bản công bố tiêu chuẩn sản phẩm đối với các sản phẩm: nước khoáng thiên nhiên đóng chai, thuốc lá điếu, thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung và sản phẩm nhập khẩu là phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến, nguyên liệu hoặc sản phẩm đã qua xử lý nhiệt độ cao theo quy định của pháp luật; thừa nhận, chứng nhận hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP), thực hành phòng thí nghiệm tốt (GLP), thực hành vệ sinh tốt (GHP) và các vấn đề khác liên quan đến thực phẩm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;

- Tiếp nhận và thẩm định nội dung chuyên môn đăng ký quảng cáo đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm do Bộ Y tế tiếp nhận hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; kiểm tra, thanh tra và xử lý các thông tin về vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan đến sức khoẻ;

- Quy định tiêu chí và thẩm định công nhận phòng thí nghiệm đủ điều kiện để kiểm tra, thử nghiệm, thực hiện các phép thử liên quan về vệ sinh an toàn thực phẩm;

- Chủ trì, phối hợp với các bộ quản lý chuyên ngành để quản lý sản phẩm thực phẩm nhập khẩu, chỉ định cơ quan kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm nhập khẩu hoặc phòng kiểm nghiệm được công nhận để thực hiện các phép thử liên quan;

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các quy định cuả pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm; thực hiện thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm;

Thứ sáu, về trang thiết bị và công trình y tế

- Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền công bố tiêu chuẩn quốc gia về trang thiết bị y tế. Ban hành các quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về trang thiết bị y tế;

- Ban hành danh mục trang thiết bị chuẩn cho các đơn vị, cơ sở y tế;

- Cấp, đình chỉ, thu hồi giấy phép nhập khẩu trang thiết bị y tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ theo danh mục của Bộ Y tế; tiếp nhận hồ sơ công bố chất lượng sản phẩm trang thiết bị y tế; thẩm định nội dung chuyên môn đăng ký thông tin, quảng cáo trang thiết bị y tế theo quy định của pháp luật;

-  Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về trang thiết bị y tế;

-  Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn thiết kế - thiết kế mẫu các công trình y tế;

- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

Thứ bảy, về bảo hiểm y tế

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo hiểm y tế;

- Ban hành các quy định, quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bảo hiểm y tế;

- Ban hành danh mục thuốc, vật tư y tế, danh mục dịch vụ kỹ thuật được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán;

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các cơ sở y tế, các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.

Thứ tám, về đào tạo nhân lực y tế:

- Chỉ đạo việc xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo nhân lực y tế, trong hệ thống đào tạo thuộc lĩnh vực y tế với các loại hình chính quy, không chính quy và đào tạo liên tục; Quản lý nội dung, chương trình giảng dạy theo quy định của pháp luật;

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức y tế và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy nhân lực y tế ở trung ương và địa phương;

- Quản lý đào tạo chuyên khoa sau đại học đặc thù của ngành y tế gồm: chuyên khoa 1, chuyên khoa 2, bác sĩ nội trú. Hướng dẫn xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo và tổ chức giám sát việc thực hiện đào tạo theo quy định của pháp luật;

- Quản lý các trường đại học y, đại học dược và các trường thuộc khối ngành khoa học sức khỏe theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Thứ chín, về khoa học, công nghệ:

- Xây dựng các quy chế chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thẩm định, đánh giá, nghiệm thu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ trong ngành y tế; các quy định thử nghiệm lâm sàng thuốc, trang thiết bị y tế và đạo đức trong nghiên cứu y sinh học;

- Xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn và chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, tổ chức quản lý và chính sách y tế;

- Xây dựng, chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch và các quy định về ứng dụng phát triển công nghệ thông tin y tế; quy định điều kiện hoạt động công nghệ thông tin y tế trên môi trường mạng;

Thứ mười, quản lý các ngạch viên chức chuyên ngành y tế theo quy định của pháp luật:

- Trình cấp có thẩm quyền ban hành và hướng dẫn thực hiện các chế độ, chính sách đặc thù về tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, viên chức y tế;

-  Tổ chức thi nâng ngạch viên chức chuyên ngành y tế từ ngạch Bác sĩ, Dược sĩ và tương đương lên ngạch Bác sĩ chính, Dược sĩ chính và tương đương và từ ngạch chính lên ngạch cao cấp theo quy định của pháp luật;

- Ban hành tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ các chức danh, các ngạch viên chức và cơ cấu ngạch viên chức chuyên ngành y tế sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Nội vụ.

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý và tiêu hủy chất thải y tế, công tác bảo vệ môi trường trong các cơ sở của ngành y tế và bảo vệ môi trường trong hoạt động mai táng theo quy định của pháp luật.

- Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các hội và tổ chức phi Chính phủ tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước đối với hội, tổ chức phi Chính phủ, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của hội, tổ chức phi Chính phủ theo quy định của pháp luật.

Thứ mười một, về thanh tra, kiểm tra:

Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ đối với các tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước. Thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của Bộ. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân liên quan đến các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tổ chức tiếp công dân theo quy định của pháp luật.

b. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực y tế của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

- Quản lý hoạt động của các đơn vị y tế thuộc tỉnh và cấp giấy phép hành nghề y, dược tư nhân;

- Chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức thực hiện biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân; bảo vệ, chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình;

- Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện chính sách ưu đãi, chăm sóc và giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước;

- Thực hiện kế hoạch, biện pháp về sử dụng lao động và giải quyết các quan hệ lao động; giải quyết việc làm, điều động dân cư trong phạm vi tỉnh;

- Thực hiện chính sách bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân; hướng dẫn thực hiện công tác từ thiện, nhân đạo; phòng, chống các tệ nạn xã hội và dịch bệnh ở địa phương[12].

c. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực y tế của Sở Y tế

- Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm về việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án y tế đã được phê duyệt; công tác truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

- Về y tế dự phòng:

+ Trình UBND tỉnh quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để thực hiện công tác y tế dự phòng và phòng, chống dịch bệnh tại địa phương; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.

+ Quyết định những biện pháp để điều tra, phát hiện và xử lý dịch, thực hiện báo cáo định kỳ theo quy định. Trường hợp phải huy động các nguồn lực để dập tắt dịch vượt quá thẩm quyền phải trình Chủ tịch UBND tỉnh quyết định; chủ trì phối hợp với các sở, ban, ngành tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống và khắc phục hậu quả của dịch bệnh, tai nạn thương tích và thiên tai thảm họa ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân xảy ra trên địa bàn tỉnh.

+ Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các hoạt động về sức khỏe môi trường, sức khỏe học đường, sức khỏe lao động, vệ sinh nguồn nước ăn uống, quản lý bệnh nghề nghiệp và dinh dưỡng cộng đồng trên địa bàn tỉnh.

- Về khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng:

+ Trình UBND tỉnh quy hoạch mạng lưới khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám định trên địa bàn tỉnh để UBND trình HĐND tỉnh quyết định theo thẩm quyền;

+ Quy định các điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật về khám, chữa bệnh, chăm sóc, điều dưỡng, phục hồi chức năng, giám định, chỉnh hình, thẩm mỹ, chăm sóc sức khỏe sinh sản và thực hiện dịch vụ kế hoạch hóa gia đình trên cơ sở quy định, hướng dẫn của Bộ Y tế theo phân cấp và theo phân tuyến kỹ thuật;

+ Cấp, đình chỉ và thu hồi chứng chỉ khám, chữa bệnh; chứng nhận đủ điều kiện hành nghề cho các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân theo phân cấp và theo quy định của pháp luật.

- Về y dược học cổ truyền:

+ Trình UBND tỉnh chương trình, kế hoạch phát triển y dược học cổ truyền trên địa bàn tỉnh và chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện sau khi được phê duyệt;

+ Quyết định theo thẩm quyền các biện pháp kế thừa, phát huy, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong phòng bệnh, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng; đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học và sản xuất, chế biến dược học cổ truyền tại địa phương;

+ Cấp, đình chỉ và thu hồi chứng chỉ hành nghề y, dược học cổ truyền tư nhân (hành nghề khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền và hành nghề thuốc y học cổ truyền); chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y, dược học cổ truyền tư nhân trên địa bàn tỉnh theo phân cấp và theo quy định của pháp luật.

+ Chịu trách nhiệm, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm trong việc thực hiện các quy định, quy trình chuyên môn về y, dược học cổ truyền trên địa bàn tỉnh.

-Về thuốc và mỹ phẩm:

+  Tổ chức thực hiện, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện các quy định, quy trình chuyên môn về thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế và mỹ phẩm lưu hành trên địa bàn tỉnh.

+ Cấp, đình chỉ, thu hồi chứng chỉ hành nghề; chứng nhận đủ điều kiện hành nghề dược, vắc xin, sinh phẩm, y tế tư nhân; giấy phép lưu hành, giới thiệu thuốc, mỹ phẩm trên địa bàn tỉnh theo phân cấp và theo quy định của pháp luật.

-Về an toàn vệ sinh thực phẩm:

+ Hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật;

+ Xác nhận công bố tiêu chuẩn sản phẩm thực phẩm; cấp chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm cho các cơ sở, doanh nghiệp có cơ sở sản xuất thực phẩm đóng trên địa bàn theo phân cấp và theo quy định của pháp luật.

- Về trang thiết bị và công trình y tế: Hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện các quy định, quy trình, quy chế chuyên môn về trang thiết bị y tế theo quy định của pháp luật.

- Về đào tạo cán bộ y tế: Quản lý đào tạo cán bộ y tế theo sự phân công của UBND tỉnh; chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định về chương trình đào tạo cán bộ y tế theo quy định của pháp luật.

- Về thanh tra, kiểm tra: Chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện các quy định, quy trình về chuyên môn, nghiệp vụ đối với các đơn vị sự nghiệp y tế thuộc lĩnh vực quản lý của Sở.

d. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực y tế của Ủy ban nhân dân cấp huyện

- Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế; quản lý các trung tâm y tế, trạm y tế; chỉ đạo và kiểm tra việc bảo vệ sức khỏe nhân dân; phòng, chống dịch bệnh.

- Kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động của các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân[13]. 

Phòng Y tế tham mưu, giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ý tê tại địa phương mình

e. Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực y tế của Ủy ban nhân dân cấp xã

- Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với trường học huy động trẻ em vào lớp một đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc văn hóa, thực hiện xóa mù chữ cho những người trong độ tuổi;

- Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp trên quản lý trường tiểu học, trường trung học cơ sở trên địa bàn[14].

4.Thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực công chứng chứng thực

a. Khái niệm công chứng, chứng thực

   Khái niệm công chứng, chứng thực hiện nay thực tế về mặt lý luận vẫn chưa được làm rõ, mà quan niệm về công chứng, chứng thực mới chỉ được tiếp cận theo hướng các văn bản pháp lý thực định. Trước kia,  Bộ Tư Pháp đã ban hành Thông tư số 574/QLTPK, ngày 10/10/1987, theo đó công chứng, chứng thực được xác định là: hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân cơ quan ,tổ chức lập và xác nhận các văn bản ,sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó ,làm cho các văn bản,sự kiện đó có hiệu lực thực hiện.

Ở đây hoạt động công chứng, chứng thực được coi là hoạt động của Nhà nước với mục đích xác nhận các văn bản hoặc sự kiện nào đó có ý nghĩa pháp lý trên thực tế, nên quan niệm về công chứng và  chứng thực chưa được quy định một cách cụ thể mà nó được đồng nhất cả về chủ thể, đối tượng và ý nghĩa pháp lý nên công chứng được hiểu là hoạt động của Nhà nước do Nhà nước trực tiếp đảm nhận. Với quan niệm này, công chứng ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình phòng công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, Nhà nước bảo đảm toàn bộ  cơ sở vật chất cho hoạt động công chứng,điều này đã không phù hợp với nền kinh tế thị trường, gây nhiều bất cập và phiền nhiễu cho công dân , dẫn đến sự quá tải ở các phòng công chứng như trước đây.

Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm tăng nhanh cả về số lượng  quy mô các giao lưu dân sự ,kinh tế, thương mại. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra với hoạt động công chứng, chứng thực ngày càng cao. Do đó trong vòng gần hai mươi  năm (1991- 2009), Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về công chứng , chứng thực như: Nghị định 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước;Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực. Luật Công chứng ngày 29 tháng 6 năm 2006; Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại các quận huyện và phường xã; nhiều thông tư của Bộ Tư Pháp như: Thông tư 03 /2008 ngày 25/8/2008 về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 79/CP…

Các văn bản này đã ngày càng đổi mới về cách tiếp cận cũng như quan niệm về công chứng ,chứng thực theo hướng tách rõ đây là hai hoạt động độc lập nhau do các chủ thể khác nhau thực hiện.

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, đưa ra khái niệm công chứng được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực, văn bản này đã  xác định một cách khoa học hơn, tiếp cận một cách gần hơn so với quan niệm chung của thế giới về công chứng “ Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự , kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác ( sau đây gọi là hợp đồng , giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này” ( khoản 1 Điều 2)

Khái niệm chứng thực được đưa ra (khoản 2 Điều 2)  “là việc UBND cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của các cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của nghị định này”.

 Ở đây Nghị định 75/2000/NĐ- cP cũng đã thay đổi từ “Phòng  công chứng nhà nước” ở các văn bản pháp lý trước đó thành “Phòng công chứng” từ đó đã tạo tiền đề quan trọng để tiến tới chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa và xã hội hóa nghề công chứng ở Việt Nam.

 Quan  niệm công chứng, chứng thực đã có sự phân biệt về từ ngữ "Công chứng" và "Chứng thực", nhưng đó mới chỉ là phân biệt mang tính hình thức về mặt chủ thể thực hiện hành vi (hành vi công chứng được dùng cho Phòng Công chứng, hành vi chứng thực được dùng cho Uỷ ban nhân dân). Trên thực tế vẫn diễn ra sự không thống nhất giữa hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực nên dẫn đến tình trạng các Phòng Công chứng cũng thực hiện các việc mang tính chất hành chính như chứng thực: bản sao giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ ,ngược lại các Uỷ ban nhân dân (cấp huyện và cấp xã) cũng chứng thực các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu.

   Để bảo đảm sự hài hòa, phù hợp với quan niệm của thế giới về công chứng, chứng thực đồng thời tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, ngày 29 tháng 11 năm 2006,  tại  kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI  đã thông qua  Luật công chứng, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Luật Công chứng ra đời đã đánh dấu bước phát triển về lĩnh vực công chứng nói riêng và hoạt động xã hội hóa các dịch vụ công nói chung.

Trong điều 2 Luật công chứng quy định “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” Như vậy công chứng hiện nay được coi là hoạt động bổ trợ tư pháp, một loại hình dịch vụ công nên Nhà nước không nhất thiết phải giao cho công chức nhà nước thực hiện như trước đây, mà Nhà nước giao cho công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, các giao dịch nhằm phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật đồng thời cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra .

Khái niệm này đã chỉ ra chính xác chủ thể của hoạt động công chứng đó là Công chứng viên trong các tổ chức hành nghề công chứng bao gồm hai hình thức là: Phòng công chứng do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp có trụ sở , tài khoản và con dấu riêng. Hình thức thứ hai là Văn phòng công chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh.

Trong nội dung của Luật công chứng đã có nhiều điểm khác biệt cơ bản so với các văn bản trước đây  coi công chứng là hoạt động của xã hội, với vai trò làm chứng nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan của các khế ước, các văn tự được lập như: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng cho thuê nhà , di chúc thừa kế…Cùng với sự tinh thông nghề nghiệp, bằng việc tư vấn, soạn thảo, chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ, công chứng viên chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng giao dịch, tính hợp pháp của nội dung hợp đồng. Như vậy hoạt động công chứng đã cung cấp dịch vụ bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân và các tổ chức khi tham gia các giao dịch dân sự kinh tế, thương mại. Việc công chứng nội dung các hợp đồng, giao dịch còn giúp Nhà nước kiểm soát được hoạt động của các giao dịch và ngăn chặn được những hợp đồng, giao dịch có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội .

   Về khái niệm chứng thực hiện nay được hiểu theo Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc , chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại các quận huyện và phường xã  thì hoạt động chứng thực được hiểu là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc  xác nhận, sao y giấy tờ , hợp đồng giao dịch và chữ ký của các cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ được nhà nước quy định cũng như yêu cầu và sự tự nguyện của họ. Công chứng và chứng thực là hai loại hoạt động khác nhau về tính chất, do hai loại cơ quan, tổ chức khác nhau thực hiện. Công chứng là hoạt động chuyên môn thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp, do công chứng viên thực hiện; quan hệ xã hội trong hoạt động công chứng là quan hệ mang tính chất dịch vụ công. Đối tượng của hành vi công chứng là các hợp đồng, giao dịch (đặc biệt là các hợp đồng, giao dịch về bất động sản). Để thực hiện hành vi công chứng công chứng viên phải thực hiện một chuỗi các thao tác như: Xác định tư cách chủ thể của các bên trong hợp đồng, giao dịch; xác định đúng đối tượng của hợp đồng, giao dịch; giúp các bên trong hợp đồng, giao dịch thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng, chính xác, đúng pháp luật; chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch công chứng chứng nhận các hành vi, thỏa thuận đã và đang xảy ra . Ví dụ: Đối với các tài sản mà pháp luật yêu cầu phải đăng ký sở hữu, sử dụng  như nhà, đất, xe Ô tô... hai bên đã thỏa thuận chuyển nhượng tài sản ,nay yêu cầu công chứng để làm thủ tục sang tên cho bên mua tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền .

   Trong khi đó chứng thực là hoạt động hành chính, do người đại diện cơ quan hành chính công quyền thực hiện; quan hệ xã hội trong hoạt động chứng thực là quan hệ mang tính chất hành chính nhà nước. Đối tượng của hành vi chứng thực chủ yếu là các giấy tờ như: chứng thực bản sao các giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ ... Vậy hành vi chứng thực là hành vi chứng nhận một sự thật  đã xảy ra .Ví dụ: chứng nhận việc ông A đã sinh sống tại địa chỉ H từ ngày tháng năm này đến ngày tháng năm kia, hay chứng nhận tính xác thực của giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ...do đó hoạt động này không mang tính làm chứng hay chứng nhận các hành vi tự nguyện thỏa thuận của các bên như hoạt động công chứng mà chỉ đơn giản là hoạt động thị thực hành chính trong quá trình thực hiện hoạt động hành chính nhà nước của công chức viên chức.

Như vậy công chứng và chứng thực được hiểu như sau:

 Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc pháp luật không quy định phải công chứng nhưng cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên trong các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật.

 Chứng thực là việc các cơ quan quản lý nhà nước xác nhận, sao y  giấy tờ hợp đồng, giao dịch và chữ ký của các cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ hoặc theo quy định của pháp luật phải chứng thực hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu .

Công chứng là hành vi của công chứng viên  phòng công chứng hoặc văn phòng công chứng, còn chứng thực là hành vi của công chức, viên chức nhà nước như: Trưởng phòng tư pháp, Phó trưởng phòng tư pháp; Chủ tịch; Phó Chủ tịch UBND cấp xã; viên chức lãnh sự; viên chức ngoại giao của cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài ...Về mặt tính chất, đây là hai hoạt động hoàn toàn độc lập, do các chủ thể với những tư cách pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau luật định để thực hiện các hành vi công chứng và hành vi chứng thực một cách riêng biệt.Nên thẩm quyền quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng, chứng thực có sự khác nhau: 

       - Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp mang tính chuyên môn nghiệp vụ cao do công chứng viên thực hiện. Hoạt động này có thể bị khiếu nại khi công chứng viên từ chối công chứng mà không có cơ sở pháp lý,còn các tranh chấp khác liên quan đến giá trị văn bản công chứng hay hoạt động công chứng đều do Toà án giải quyết.

- Hành vi chứng thực không mang tính làm chứng mà chỉ là sự xác nhận tính thực tế của giấy tờ, nhiều khi là sự cho phép hay không cho phép của các cơ quan nhà nước để cá nhân tổ chức thực hiện một hành vi, một giao dịch. Đây là hoạt động mang tính hành chính nên hoạt động này có thể bị khiếu nại, khiếu kiện theo con đường hành chính hoặc bị khởi kiện ra tòa hành chính.

Như vậy thẩm quyền công chứng, chứng thực được phân chia theo tính chất quan hệ quản lý nhà nước, quản lý các dịch vụ mà chính các cơ quan hành chính có nghĩa vụ bảo đảm bằng việc quản lý các dịch vụ công do các cá nhân, tổ chức cung ứng cho công dân hoặc các cơ quan hành chính cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu của công dân .

            b. Thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng

* Thẩm quyền chung

    -   Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất có chức năng quản lý nhà nước về mọi mặt, trong đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công chứng.Chính phủ có trách nhiệm trước những báo cáo tổng kết của Bộ tư pháp trong các hoạt động phát triển chính sách công chứng như: các văn bản quy phạm pháp luật  về công chứng, khung đào tạo nghề công chứng, hợp tác quốc tế về công chứng…

  -  Bộ Tư pháp  thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng và có trách nhiệm báo cáo trước Chính phủ về các hoạt động của mình trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về lĩnh vực công chứng sau:

 +  Xây dựng và trình Chính phủ chính sách phát triển công chứng;

 + Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công chứng;

+ Quy định chương trình khung đào tạo nghề công chứng, quản lý việc tổ chức, đào tạo nghề công chứng; ban hành quy chế tập sự hành nghề công chứng; ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên; cấp thẻ công chứng viên;

+ Hướng dẫn nghiệp vụ công chứng; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng;

+ Quản lý, thực hiện hợp tác quốc tế về công chứng.

-  Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện công chứng của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (gọi chung là cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài) và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện công chứng.

- Bộ Tài chính và Bộ tư pháp phối hợp trong việc ban hành chế độ tài chính: các khoản phí công chứng, phí dịch vụ, phí chứng thực.

* Thẩm quyền riêng

.-  Bộ trưởng Bộ Tư pháp  quy định về chương trình khung của khoá đào tạo nghề công chứng và quy định việc công nhận đào tạo nghề công chứng ở nước ngoài ,ngoài ra còn được  bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên cấp thẻ công chứng viên

-    UBND cấp tỉnh

    +  Ra quyết định thành lập Phòng công chứng. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng Phòng công chứng là công chứng viên người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng

     + Văn phòng công chứng được thành lập trên cơ sở hồ sơ của công chứng viên gửi UBND tỉnh. xem xét, quyết định cho phép thành lập. Trong trường hợp UBND tỉnh từ chối việc cho phép thành lập thì phải thông báo bằng văn bản cho bên yêu cầu thành lập và nêu rõ lý do từ chối. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.

-  Sở Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng, đồng thời Sở tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan Công an cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi Văn phòng công chứng đặt trụ sở biết  việc cho phép Văn phòng công chứng hoạt động.

Sở Tư pháp có thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ hành nghề công chứng đối với công chứng viên thuộc một trong các trường hợp:

+  Không còn đủ tiêu chuẩn công chứng viên theo quy định của Luật công chứng 2006.

+ Bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

+ Kiêm nhiệm công việc khác;

+ Không hành nghề công chứng kể từ ngày được bổ nhiệm công chứng viên từ hai năm trở lên hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ một năm trở lên;

+ Đã bị xử phạt hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc;

+ Công chứng viên đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

 Sở Tư pháp cũng có quyền quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ hành nghề công chứng đối với công chứng viên không còn thuộc các trường hợp quy định trong các trường hợp nêu trên và một số trường hợp khác như:

  +  Có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc khi có bản án đã có hiệu lực của Toà án tuyên không có tội;

  + Không còn bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm giải quyết khiếu nại nhưng không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại về việc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Trưởng Phòng công chứng.

Với tư cách là người quản lý duy nhất trong lĩnh vực công chứng nên Nhà nước đã xây dựng thể chế ,tạo môi trường pháp lý ,bảo đảm quyền tự do kinh doanh, môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng. Đây là một giải pháp quan trọng làm cho bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, tiết kiệm ngân sách nhà nước,đồng thời làm cho hệ thống công chứng gần dân hơn,phục vụ kịp thời các nhu cầu về công chứng hiện nay.

c. Thẩm quyền quản lý nhà nước về chứng thực

* Thẩm quyền chung:

Đối với việc quản lý nhà nước về chứng thực, thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký quy định trong Nghị định 79 CP không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực được quy định như sau:

-  Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký

- Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

* Thẩm quyền riêng:

-. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, tổng  kết, báo cáo Chính phủ về công tác quản lý nhà nước trong việc thực hiện quản lý nhà nước về chứng thực như: Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện, chỉ đạo việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;

-  Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện nhiệm vụ.

- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (gọi là Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài) đại diện là Viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt hoặc tiếng nước ngoài, chữ ký người dịch trong các bản dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài của Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện chứng thực các việc theo thẩm quyền và đóng dấu của Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

- Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện việc quản lý nhà nước về chứng thực tại địa phương  trong thẩm quyền sau:

+  Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã về chứng thực

 + Kiểm tra, thanh tra hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện;

+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo về chứng thực

+ Tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực  trong địa phương gửi Bộ Tư pháp theo định kỳ 6 tháng và hàng năm.

- Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về chứng thực có thẩm quyền sau:

+ Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Ủy ban nhân dân cấp xã về việc chứng thực;

+ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc  chứng thực

+ Tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực để báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo định kỳ 6 tháng và hàng năm.

-    Phòng Tư pháp cấp huyện có thẩm quyền chứng thực đối với một số lĩnh vực sau:

+ Các giấy tờ, văn bản chỉ bằng tiếng nước ngoài hoặc chủ yếu bằng tiếng nước ngoài có xen một số từ bằng tiếng Việt ví dụ: Văn bằng, chứng chỉ do cơ quan, tổ chức nước ngoài cấp cho người Việt Nam trong đó có ghi tên người Việt Nam bằng tiếng Việt

+ Phòng tư pháp có trách nhiệm trong việc lưu trữ bản sao tối thiểu là 2 năm để làm căn cứ đối chiếu khi cần thiết.

- Người yêu cầu chứng thực được lựa chọn chứng thực tại Phòng Tư pháp cấp huyện hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã trong các trường hợp như:

 + Các giấy tờ, văn bản có tính chất song ngữ ví dụ: Hộ chiếu của công dân Việt Nam, chứng chỉ tốt nghiệp của các trường đại học Việt Nam liên kết với trường đại học của nước ngoài... trong đó có ghi đầy đủ bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài.

 +  Trong trường hợp một tập hồ sơ, tài liệu mà vừa có giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt vừa có giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài thì để thuận tiện, cho người yêu cầu chứng thực có thể lựa chọn một trong hai nơi có tư cách pháp lý: Phòng Tư pháp cấp huyện chứng thực giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài còn Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt hoặc  Phòng Tư pháp cấp huyện chứng thực cả hai loại giấy tờ trên(văn bản bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài).

Đối với huyện đảo chưa có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì ngoài thẩm quyền chứng thực của Phòng Tư pháp cấp huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 5 của Nghị định số 79, Phòng Tư pháp cấp huyện còn có thẩm quyền chứng thực tất cả các việc thuộc thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã như chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong  các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt,

-    Uỷ ban nhân dân cấp xã- đại diện là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền thực hiện chứng thực như sau:

+ Chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong  các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt như bằng Đại học ở Việt Nam, giấy phép lái xe…

+  Các giấy tờ, văn bản chỉ bằng tiếng Việt hoặc các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam cấp bằng tiếng Việt, có xen một số từ bằng tiếng nước ngoài như : Giấy chứng nhận kết hôn của người Việt Nam và người nước ngoài, trong đó có ghi tên, địa chỉ của người nước ngoài bằng tiếng nước ngoài.

III. THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ KINH DOANH

Kinh doanh là hoạt động cơ bản nhất của đời sống kinh tế. Ở bất kỳ quốc gia nào, thời kỳ nào, kinh doanh luôn hàm chứa sự đa dạng, phức tạp. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở VIệt Nam hiện nay, hoạt động kinh doanh ở nước ta cũng không nằm ngoài quy luật này. Điều này càng thể hiện rõ nét khi mà nước ta đang trong giai đoạn quá độ, các quan hệ kinh tế còn nhiều điều mới mẻ, cơ chế kinh tế còn nhiều chỗ chưa được hoàn thiện, ý thức pháp luật của xã hội còn hạn chế…Có thể khẳng định, hoạt động kinh doanh ở nước ta hiện nay là hết sức phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Điều này đặt ra những câu hỏi lớn đối với nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nói riêng. Trong đó, câu hỏi lớn nhất là làm thế nào để những tác động của nhà nước vừa là “bệ đỡ”, tạo thuận lợi cho các quan hệ kinh doanh, vừa đảm bảo sự quản lý hiệu quả đối với hoạt động này. Lời đáp cho câu hỏi này được thể hiện trong nhiều quy định của nhà nước mà một trong số đó là các quy định về thẩm quyền hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh. Phạm trù kinh doanh ở nước ta hiện nay được pháp luật quy định là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động kinh doanh liến quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các chủ thể trong xã hội, đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, hoạt động này cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo dõi, quản lý.

 Đăng ký kinh doanh chính là hành vi của chể kinh doanh đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và nếu họ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật thì cơ quan nhà nước phải cấp giấy phép đăng ký kinh doanh cho họ. Ở các nước trên thế giới, việc giao cho cơ quan nhà nước nào có quyền xem xét cấp đăng ký kinh doanh là không giống nhau. Có nhiều nước giao thẩm quyền này cho Toà án hành chính (như CHLB Đức…), nhưng cũng có những nước lại giao cho cơ quan hành chính nhà nước, đây là hướng mà pháp luật Việt Nam áp dụng. Cụ thể là, trên cơ sở Luật Doanh nghiệp 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2006/ NĐ- CP năm 2006, quy định chi tiết các nội dung về đăng ký kinh doanh. Theo đó, cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, bao gồm:

            Ở cấp tỉnh là Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Riêng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là những nơi có nhiều tổ chức kinh tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh sôi động…thì có thể thành lập thêm 1 hoặc 2 cơ quan đăng ký kinh doanh.

            Ở cấp huyện, thành lập Phòng Đăng ký kinh doanh nếu có số lượng hộ kinh doanh và hợp tác xã đăng ký thành lập mới hàng năm trung bình từ 500 trở lên trong 2 năm gần nhất. Trường hợp không thành lập Phòng Đăng ký kinh doanh thì Phòng Tài chính - Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đăng ký kinh doanh.

1. Thẩm quyền và thủ tục thực hiện thẩm quyền đăng ký kinh doanh của UBND cấp tỉnh

            a . Về thẩm quyền

            Cơ quan đăng kinh doanh cấp tỉnh thực hiện những nội dung công việc sau đây:

            - Trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh; xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp.

            - Phối hợp xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống thông tin về đăng ký kinh doanh trong phạm vi địa phương; cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh trong phạm vi địa phương cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Cục thuế địa phương, các cơ quan có liên quan và Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo định kỳ, cho các tổ chức, cá nhân có yêu cầu.

            - Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo tình hình kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp; đôn đốc việc thực hiện chế độ báo cáo hàng năm của doanh nghiệp.

            - Trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ đăng ký kinh doanh; hướng dẫn doanh nghiệp và người thành lập doanh nghiệp về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh.

            - Yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khi phát hiện doanh nghiệp không có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

            - Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp trong các trường hợp đã quy định tại Luật Doanh nghiệp, cụ thể là:

            + Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh là giả mạo;

            + Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp thành lập(ví dụ: cán bộ, công chức, sĩ quan, quan nhân chuyên nghiệp…);

            + Không đăng ký mã số thuế trong thời hạn 1 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;

            + Không hoạt động tại trụ sở đã đăng ký trong thời hạn 6 tháng liên tục, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính;

            + Không báo cáo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh trong 12 tháng liên tục;

            + Ngừng hoạt động kinh doanh 1 năm liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh;

            + Doanh nghiệp không gửi báo cáo về tình hình kinh doanh đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản;

+ Kinh doanh ngành, nghề bị cấm.

(Theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì các ngành, nghề bị cấm bao gồm:

Kinh doanh vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của quân đội, công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng; Kinh doanh chất ma túy các loại; Kinh doanh hóa chất bảng 1 (theo Công ước quốc tế); Kinh doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách; Kinh doanh các loại pháo; Kinh doanh các loại đồ chơi, trò chơi nguy hiểm, đồ chơi, trò chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự an toàn xã hội; Kinh doanh các loại thực vật, động vật hoang dã, gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến, thuộc Danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác, sử dụng; Kinh doanh mại dâm, tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em; Kinh doanh dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức; Kinh doanh dịch vụ điều tra bí mật xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; Kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài;  Kinh doanh dịch vụ môi giới nhận cha, mẹ, con nuôi, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Kinh doanh các loại phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường; Kinh doanh các loại sản phẩm, hàng hoá và thiết bị cấm lưu hành, cấm sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành và hoặc sử dụng tại Việt Nam; Các ngành, nghề cấm kinh doanh khác được quy định tại các luật, pháp lệnh và nghị định chuyên ngành).

            - Đăng ký kinh doanh cho các loại hình khác theo quy định của pháp luật.

            Tóm lại, theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay, nội dung chủ yếu thuộc thẩm quyền đăng ký kinh doanh của cấp tỉnh bao gồm:

            * Đăng ký kinh doanh;

   * Đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh;

  * Đăng ký bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh;

  * Đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;

  * Đăng ký đổi tên doanh nghiệp;

  * Đăng ký thay đổi thành viên hợp danh;

  * Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH, công ty cổ phần;

  * Đăng ký thay đổi vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân;

  * Đăng ký thay đổi vốn điều lệ công ty;

  * Đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập công ty cổ phần;

  * Đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH 2 thành viên trở lên;

  * Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, đăng ký hoạt động theo quyết định của Toà án.  

b - Về thủ tục

            Hoạt động đăng ký kinh doanh cần chặt chẽ để đảm bảo sự quản lý của nhà nước, đồng thời cũng cần “thông thoáng”, nhanh chóng, kịp thời phục vụ yêu cầu chính đáng của chủ thể kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển. Điều này được thể hiện rõ nét trong thủ tục đang ký kinh doanh. Đối với cấp tỉnh, thẩm quyền đăng ký kinh doanh được thực hiện thông qua những thủ tục chính sau đây:

            Bước 1: Chủ thể kinh doanh lập và gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh đến cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, nộp lệ phí đăng ký kinh doanh.

            Hiện nay, tại UBND cấp tỉnh đang tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo hướng “một cửa” liên thông trong cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nên Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì Sở Kế hoạch và đầu tư chuyển hồ sơ đó đến Sở quản lý chuyên ngành để xem xét cấp Giấy phép kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.

            Theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay, hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm nhiều loại giấy tờ, tuỳ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh hay công ty TNHH 1 thành viên…). Về cơ bản, hồ sơ gồm có các loại giấy tờ chủ yếu sau:

            - Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định;

            - Dự thảo điều lệ công ty;

            - Danh sách thành viên công ty (kèm theo 1 trong các giấy tờ chứng thực cá nhân, ví dụ như: giấy CMND đối với công dân Việt Nam; thẻ thường trú đối với người nước ngoài thường trú ở Việt Nam…) ;

            - Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định (ví dụ như: mức vốn pháp định đối với ngành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ mà chủ thể là tổ chức, cá nhân trong nước là 2 tỷ đồng…);

            - Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề (ví dụ như: đối với hoạt động in xuất bản phẩm thì trong hồ sơ phải có bản sao, có công chứng văn bằng, chứng chỉ đã được bồi dưỡng kiến thức quản lý về in do cơ sở đào tạo chuyên ngành văn hoá thông tin cấp).

            - Và một số giấy tờ khác (ví dụ như trong hồ sơ cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh vũ trường thì ngoài các giấy tờ được quy định chung như trên, còn phải có:

            + Giấy xác nhận quyền sở hữu hợp pháp mặt bằng kinh doanh (nếu là thuê phải có hợp đồng sử dụng mặt bằng kèm theo và có xác nhận của UBND cấp xã);

   + Hợp đồng giữa người xin Giấy phép kinh doanh với người điều hành hoạt động trực tiếp tại phòng khiêu vũ, kèm bản sao có giá trị pháp lý văn bằng của người điều hành;

  + Biên bản thẩm định phòng;

  + Giấy kê khai phương tiện, thiết bị chuyên dùng;

  + Bản cam kết thực hiện các điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định của ngành Công an)…

Bước 2: Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh. Việc tiếp nhận hồ sơ phải được vào sổ.

Bước 3: Hồ sơ được chuyển cho Phòng đăng ký kinh doanh. Phòng đăng ký kinh doanh có trách nhiệm trao giấy biên nhận về việc nhận hồ sơ cho người nộp hồ sơ thông qua bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.

Bước 4: Phòng đăng ký kinh doanh sẽ xem xét, đối chiếu các giấy tờ trong hồ sơ có đầy đủ và đúng với quy định pháp luật hay để quyết định cấp hay không cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh cho cho chủ thể xin đăng ký trong thời hạn pháp luật quy định (10 ngày làm việc).

Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Phòng đăng ký kinh doanh sẽ chuyển cho các Sở chuyên ngành để xem xét. Sau khi xem xét, Sở chuyên ngành sẽ quyết định có cấp giấy phép đăng ký kinh doanh hay không, đồng thời Sở chuyên ngành phải chuyển quyết định đó cho Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư để trả lời cho người xin đăng ký trong thời  hạn  pháp  luật  quy định (ví dụ như: ngành, nghề kinh doanh mua bán thuốc bảo vệ thực vật sẽ do Chi cục bảo vệ thực vật thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thông xem xét, quyết định; ngành, nghề khắc dấu sẽ do Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội thuộc Công an tỉnh xem xét, quyết định…)

Bước 5: Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

Doanh nghiệp sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định.

Trường hợp hồ sơ không hợp lệ hoặc tên doanh nghiệp đặt không đúng theo quy định (ví dụ như: đặt tên trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác, tên doanh nghiệp sử dụng các từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc…), Phòng đăng ký kinh doanh phải thông báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ.

Kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh ngành, nghề phải có điều kiện.

2. Thẩm quyền và thủ tục thực hiện thẩm quyền đăng ký kinh doanh của UBND cấp huyện

            a. Về thẩm quyền

            Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện thực hiện những nội dung công việc sau:

            - Trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh; xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh;

            - Phối hợp xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống thông tin về hộ kinh doanh hoạt động trên phạm vi địa bàn; định kỳ báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, cơ quan thuế cấp huyện về hộ kinh doanh và doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn;

            - Trực tiếp kiểm tra hộ kinh doanh theo nội dung trong hồ sơ đăng ký kinh doanh trên phạm vi địa bàn; phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp; xác minh nội dung đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, chi nhánh và văn phòng đại diện trên phạm vi địa bàn theo yêu cầu của Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh;

            - Yêu cầu hộ kinh doanh báo cáo tình hình kinh doanh khi cần thiết;

            - Yêu cầu hộ kinh doanh tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khi phát hiện hộ kinh doanh không có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật;

            - Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh theo thẩm quyền Nghị định này;

            - Đăng ký kinh doanh cho các loại hình khác theo quy định của pháp luật.

            Đối tượng đăng ký kinh doanh tại UBND cấp huyện hiện nay là các hộ kinh doanh và các hợp tác xã.

            Thứ nhất, đối với hộ kinh doanh

            Thẩm quyền của UBND cấp huyện bao gồm:

            - Đăng ký kinh doanh;

            - Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh;

            - Đăng ký tạm ngừng kinh doanh;

            - Cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;

            - Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

            Thứ hai, đối với hợp tác xã

            Thẩm quyền của UBND cấp huyện bao gồm:

            - Đăng ký kinh doanh;

            - Đăng ký lập chi nhánh, văn phòng đại diện trực thuộc hợp tác xã;

            - Đăng ký thay đổi, bổ sung ngành, nghề kinh doanh của hợp tác xã;

            - Đăng ký thay đổi nơi đăng ký kinh doanh của hợp tác xã;

            - Đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính của hợp tác xã;

            - Đăng ký thay đổi số lượng xã viên, người đại diện theo pháp luật, danh sách Ban quản trị, Ban kiểm soát hợp tác xã;

            - Đăng ký thay đổi vốn điều lệ hợp tác xã;

            - Đăng ký Điều lệ hợp tác xã sửa đổi;

            - Đăng ký kinh doanh hợp tác xã sau khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập;

            - Đăng ký thông báo tạm ngừng hoạt động;

            - Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

            b - Về thủ tục

            Một là, đăng ký đối với hộ kinh doanh

            Bước 1: Cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình gửi Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh và kèm theo bản sao Giấy chứng minh nhân dân của cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình đến cơ quan Đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đặt địa điểm kinh doanh; nộp lệ phí đăng ký kinh doanh.

            Nội dung Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh gồm:

            - Tên hộ kinh doanh, địa chỉ địa điểm kinh doanh;

            - Ngành, nghề kinh doanh;

            - Số vốn kinh doanh;

            - Họ, tên, số và ngày cấp Giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ nơi cư trú và chữ ký của cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình.

            Đối với những ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề, thì kèm theo các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này phải có bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình.

            Đối với những ngành, nghề phải có vốn pháp định thì kèm theo các giấy tờ nói trên phải có bản sao hợp lệ văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

            Bước 2: Bộ phận “1 cửa” của UBND cấp huyện tiếp nhận Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh và vào sổ, sau đó chuyển tới cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện.

            Bước 3: Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện tiếp nhận Giấy đề nghị và trao giấy biên nhận cho cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình.

            Bước 4: Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện xem xét, đối chiếu Giấy đề nghị với các quy định của pháp luật, quyết định cấp hay không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh trong thời hạn pháp luật quy định (5 ngày làm việc).

            Cá nhân, hộ gia đình sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi có đủ các điều kiện sau đây:

            Ngành, nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh;

            Tên hộ kinh doanh dự định đăng ký phù hợp quy định của pháp luật;

            Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định.

            Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn 5 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập hộ kinh doanh.

            Bước 5: Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

            Hộ kinh doanh có quyền tiến hành hoạt động kinh doanh sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành nghề kinh doanh phải có điều kiện.

            Hai là, đăng ký kinh doanh đối với hợp tác xã

            Bước 1: Hợp tác xã lập và nộp hồ sơ tại cơ quan đăng ký kinh cấp huyện (theo quy định của Luật hợp tác xã 2003, các hợp tác xã có thể lựa chọn nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc cấp huyện nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính, tuỳ theo điều kiện cụ thể của hợp tác xã; trên thực tế, các hợp tác xã thường đăng ký kinh doanh ở cấp huyện); nộp lệ phí đăng ký kinh doanh. Hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã bao gồm:

            - Đơn đăng ký kinh doanh theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Dầu tư quy định;

            - Điều lệ hợp tác xã;

            - Số lượng xã viên, danh sách Ban Quản trị, Ban Kiểm soát hợp tác xã hoặc danh sách hợp tác xã thành viên, Hội đồng quản trị đối với liên hiệp hợp tác xã;

            - Biên bản đã thông qua tại hội nghị thành lập hợp tác xã.

             Hợp tác xã cũng có thể gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh qua địa chỉ hộp thư điện tử (Email) của cơ quan đăng ký kinh doanh nhưng sẽ phải nộp bản chính thức khi đến nhận Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để cơ quan đăng ký kinh doanh đối chiếu và lưu hồ sơ.

            Bước 2: Bộ phận “1 cửa” của UBND huyện nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã và vào sổ, sau đó chuyển tới cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện.

            Bước 3: Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện tiếp nhận hồ sơ và trao giấy biên nhận cho đại diện của hợp tác xã thông qua bộ phận “1 cửa” của UBND.

            Bước 4: Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện xem xét, đối chiếu hồ sơ với các quy định của pháp luật và quyết định cấp hay không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã trong thời hạn pháp luật quy định (15 ngày làm việc).

            Cơ quan đăng ký kinh doanh phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã khi hợp tác xã đó có đủ các điều kiện gồm:

            - Hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ;

            - Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh không bị pháp luật cấm;

            - Tên gọi của hợp tác xã phù hợp với các quy định của pháp luật;

            - Có vốn điều lệ. Đối với hợp tác xã đăng ký kinh doanh ngành, nghề mà quy định phải có vốn pháp định thì vốn điều lệ hợp tác xã không được thấp hơn vốn pháp định;

            - Nộp đủ lệ phí đang ký kinh doanh theo quy định.

            Bước 5: Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hợp tác xã có tư cách pháp nhân, được khắc dấu và đi vào hoạt động.

3. Một số nội dung khác có liên quan đến hoạt động đăng ký kinh doanh

            a - Các nguyên tắc

            - Chủ thể thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật;

            - Nghiêm cấm cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan khác gây phiền hà đối với tổ chức, cá nhân trong khi tiếp nhận hồ sơ và giải quyết việc đăng ký kinh doanh và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh;

            - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp không được ban hành các quy định về đăng ký kinh doanh áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình.

            b - Về quyền khiếu nại của chủ thể kinh doanh

            Để đảm bảo nguyên tắc pháp chế, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, pháp luật nước ta quy định chủ thể kinh doanh có quyền khiếu nại nếu cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan nhà nước khác không tuân thủ đúng các quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh.

IV. THẨM QUYỀN TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Yêu cầu đối với các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước:

- Tạo cơ hội cho những cơ quan nhà nước sửa sai những quyết định hành chính do mình ban hành, những hành vi hành chính do cán bộ, công chức cơ quan mình thực hiện nếu vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân;

- Tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền. Từ đó tạo tiền đề cho việc giải quyết khiếu nại không bị tồn đọng, kéo dài;

- Hạn chế việc quy định có quá nhiều cấp giải quyết khiếu nại dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại kéo dài do phải qua nhiều cấp giải quyết, không hiệu quả, không quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong giải quyết khiếu nại;

- Giải quyết khiếu nại nhanh chóng, kịp thời bằng cách phải có quy định về thời hạn, thời hiệu rõ ràng, cụ thể cho việc giải quyết khiếu nại.

Trên cơ sở những yêu cầu trên, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại với một số nội dung cụ thể như sau:

a. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND các cấp

-  Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp xã

Theo quy định của pháp luật hiện hành[15], Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.

- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện

Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định[16] Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền:

+ Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình;

+ Giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại.

-  Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp tỉnh[17]

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) có thẩm quyền:

+ Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình;

+ Giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại;

+ Giải quyết khiếu nại mà Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giải quyết khiếu nại giữa các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình.

b. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh, cấp huyện

- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện:[18]

Thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban  nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.

-  Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương[19]

Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.

- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Giám đốc sở và cấp tương đương[20]

Giám đốc sở và cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền:

+ Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp;

+ Giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại.

c. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng các cơ quan ở trung ương

- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ[21]

Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.

-. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ[22]

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:

+ Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp;

+ Giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại;

+ Giải quyết khiếu nại có nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của bộ, ngành mình mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại.

Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giải quyết khiếu nại giữa các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình.

d. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của cơ quan Thanh tra

- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Tổng thanh tra[23]

Tổng thanh tra có thẩm quyền:

+ Giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại;

+ Giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để chấm dứt vi phạm, xem xét trách nhiệm, xử lý đối với người vi phạm.

- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chánh thanh tra các cấp, các ngành[24]

Chánh thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp.

Luật 1998 quy định UBND cấp tỉnh, cấp huyện uỷ quyền giải quyết khiếu nại cho Chanh thanh tra cấp tỉnh, huyện là chưa phù hợp. Quy định này làm cho một số nơi chính quyền địa phương đùn đẩy, né tránh trách nhiệm giải quyết khiếu nại. Mặt khác, mặc dù Chánh thanh tra được uỷ quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại nhưng người khiếu nại thường cho rằng quyết định này chưa phải là quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND nên khiếu nại tiếp đến UBND, dẫn đến hiệu quả thi hành các quyết định giải quyết của Chánh thanh tra không cao, phát sinh tình trạng khiếu nại tràn lan, không có điểm dừng. Điều quan trong là pháp luật không quy định Chánh thanh tra cấp huyện, cấp tỉnh được quyền bổ sung, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định hành chính bị khiếu nại, nên quyết định giải quyết khiếu nại được uỷ quyền của Chánh thanh tra cấp huyện, tỉnh thiếu tính khả thi.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 1 của Luật 2004 thì Chánh thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm "xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp". So với trước đây, thẩm quyền của Chánh thanh tra các cấp, các ngành có thay đổi:

- Bỏ việc giải quyết khiếu nại theo uỷ quyền của Chánh thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện với mục đích là tăng cường trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tránh tình trạng cơ quan hành chính trốn tránh việc giải quyết khiếu nại thông qua việc tuỳ tiện uỷ quyền cho cơ quan thanh tra.

- Chánh thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm tham mưu với Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc giải quyết khiếu nại: Tức là có nhiệm vụ xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Như vậy trong quá trình giải quyết khiếu nại, thủ trưởng cơ quan hành chính là người ra quyết định giải quyết khiếu nại và chịu trách nhiệm về quyết định đó.

e. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Thủ tướng[25]

- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền:

+ Lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp;

+ Xử lý các kiến nghị của Tổng thanh tra quy định tại khoản 2 Điều 26 của Luật khiếu nại, tố cáo.

- Thủ tướng Chính phủ giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giải quyết khiếu nại giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Như vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì Thủ tướng không phải là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là để tránh tình trạng có quá nhiều cấp xét xử cũng như việc khiếu nại dồn hết về cấp giải quyết cao nhất trong hệ thống hành chính, không đề cao được trách nhiệm giải quyết của UBND các cấp và các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương. Ngoài ra quy định này cũng giúp Thủ tướng không phải giải quyết những khiếu nại cụ thể mà tập trung vào việc lãnh đạo, hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, nâng cao hiệu quả hoạt động của cấp hành chính cao nhất, đồng thời phát huy trách nhiệm giải quyết khiếu nại của các cấp hành chính ở cấp tỉnh và cấp bộ.

2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo

a. Nguyên tắc giải quyết tố cáo[26]

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

b. Trách nhiệm giải quyết tố cáo[27]

- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền; trong trường hợp cần thiết thì giao cho cơ quan Thanh tra hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo.

- Chánh thanh tra các cấp có thẩm quyền:

+ Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan cùng cấp khi được giao;

+ Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà thủ trưởng cơ quan cấp dưới trực tiếp của thủ trưởng cơ quan cùng cấp đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

- Tổng Thanh tra có thẩm quyền:

+ Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao;

+ Xem xét, kết luận về nội dung tố cáo mà Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

- Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc giải quyết những tố cáo có nội dung đặc biệt phức tạp; quyết định xử lý tố cáo mà Tổng Thanh tra đã kết luận, kiến nghị.

3. Phân định thẩm quyền giữa cơ quan hành chính với tòa án nhân dân trong việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện

Nhà nước đặt ra nhiều phương thức bảo đảm khác nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu chung là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trong chỉnh thể đó các phương thức luôn quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, bổ sung cho nhau và không thể khẳng định phương thức này cần hơn phương thức kia.

Hiện nay, trên thế giới kể cả những nước có nền tài phán phát triển và hoạt động xét xử hành chính đã đi vào nề nếp thì việc giải quyết khiếu nại theo cấp hành chính vẫn được coi trọng. Có những nước cho phép công dân lựa chọn hoặc khiếu nại đến cơ quan hành chính hoặc kiện thẳng ra Tòa án hành chính, nhưng cũng có những quốc gia coi việc khiếu nại đến các cơ quan hành chính là điều kiện bắt buộc trước khi kiện ra Tòa án hành chính. Và dù ở các mức độ khác nhau nhưng thể thức khiếu nại theo cấp hành chính vẫn luôn chiếm được một vị trí quan trọng trong hệ thống các phương thức bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, bởi những lý do sau đây:

Một là: khiếu nại hành chính tạo ra khả năng cho phép công dân có quyền yêu cầu cơ quan giải quyết khiếu nại không những xem xét về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính mà còn xem xét cả về tính hợp lý của chúng. Trong khi đó thẩm quyền của Tòa án hành chính chỉ được xác định trong phạm vi về tính hợp pháp của các quyết định hành chính và hành vi hành chính.

Hai là: trong nhiều trường hợp đối tượng chịu tác động của quyết định hành chính và hành vi hành chính không có đầy đủ thông tin cần thiết để xác định về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính nên mặc dù các quyết định và hành vi đó là đúng pháp luật nhưng họ vẫn khiếu nại. Nếu được giải thích và cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết, nhận thấy yêu cầu của mình là không hợp lý thì có thể họ sẽ tự nguyện rút đơn khiếu nại.

Ba là: hoạt động quản lý rất phức tạp và đa dạng nên các cơ quan quản lý khó có thể tránh khỏi những sai lầm khi ban hành các quyết định của mình, do đó việc tạo điều kiện cho chính các cơ quan này xem xét lại và sửa chữa những sai lầm của mình là cần thiết.

Từ sự phân tích nói trên có thể thấy rằng mặc dù Tòa án hành chính đã xuất hiện nhưng việc giải quyết khiếu kiện hành chính theo cấp hành chính vẫn không thể không có. Nhưng một vấn đề đặt ra là làm thế nào để tránh tình trạng cùng một vụ khiếu kiện mà cả Tòa án hành chính và cả cơ quan hành chính đều tham gia giải quyết? Do vậy, pháp luật cần phải đặt ra những quy định cụ thể trong việc phân định thẩm quyền giải quyết của Tòa án và các cơ quan khác của nhà nước trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính.

Ở nước ta, vấn đề đề này được quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006. Theo đó, một khiếu kiện hành chính trước hết phải được giải quyết theo cấp hành chính, trong trường hợp khiếu nại hành chính không được giải quyết hoặc hết thời hạn giải quyết nhưng không được giải quyết, hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì họ có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền.

Thực tế, có nhiều trường hợp do nóng lòng nhận được sự giải quyết về khiếu kiện của mình, người khiếu kiện đã đồng thời vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền. Từ đó, sẽ dẫn đến tình trạng xung đột về thẩm quyền giải quyết vì một khiếu kiện hành chính có hai cơ quan cùng tham gia giải quyết theo những thủ tục khác nhau. Pháp luật về tố tụng hành chính ở nước ta hiện nay phân định thẩm quyền giải quyết đối với những trường hợp nói trên, như sau:[28]

- Trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức không được giải quyết hoặc đã được giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý mà khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền thì phân biệt thẩm quyền như sau:

+ Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền;

+ Trường hợp có nhiều người mà họ vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai hoặc trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Đối với trường hợp này, nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung.

[1] Từ điển về Chính quyền và Chính trị Hoa Kỳ (2002), tr 722

[2] Văn kiện Đại hội X, NXB CTQG, H, 2006, tr 104, 106

[3] Viện khoa học tổ chức nhà nước, Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 15.

[4] Xem thêm Nghị định số 185/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ngày 25 tháng 12 năm 2007.

[5] Theo Điều 89 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[6] Theo khoản 1 và 3 Điều 102 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dâm năm 2003.

[7] Theo khoản 4 Điều 114 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[8] Xem thêm theo Nghị định số 32/2008/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2008 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo

[9] Ttheo Điều 88 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[10] theo khoản 1 và 2 Điều 102 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[11] Theo khoản 1 và 2 Điều 114 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[12] Theo Điều 90 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[13] Theo khoản 4 và 5 Điều 102 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[14] Theo khoản 1 và 2 Điều 114 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[15] Điều 19 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[16] Điều 20 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004,2005)

[17] Điều 23 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004,2005)

[18] Điều 19 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004,2005)

[19] Điều 21 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[20] Điều 22 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[21] Điều 24 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[22] Điều 25 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[23] Điều 26 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[24] Điều 27 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[25] Điều 28, 29 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[26] Điều 59, 60 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[27] Điều 61, 62, 63,64 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)

[28] Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro