Tham Tu Sher

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyen Up By Hieu

Ngôi nhà trống không:

Vào mùa xuân năm 1894, cả thành phố London đều bàn tán xôn xao về vụ ám sát tử tước

Ronald Adair trẻ tuổi. Vụ ám sát xẩy ra trong một bối cảnh khác thường và đầy bí ẩn. Đông

đảo công chúng đều biết đến những tình tiết của vụ án, theo cách đánh giá chủ quan của

cảnh sát. Nhưng vì lý do nào đó, phần lớn những tình tiết phải giấu kín. Mười năm trôi qua,

hiện giờ tôi mới có khả năng bổ sung thêm những mắt xích còn thiếu trong chuỗi sự kiện

đầy bí ẩn kia. Bản thân vụ án đã là một điều lý thú; nhưng những hậu quả không lường

trước được đối với tôi còn quan trọng hơn gấp nghìn lần. Nhưng hậu quả này, làm cho tôi

bàng hoàng, chấn động hơn tất cả những gì mà tôi từng gặp trong đời mình; dù cuộc đời của

tôi nếu không có sự kiện ấy thì cũng đã chứng kiến nhiều cuộc trinh thám ly kỳ. Thậm chí

ngay bây giờ, sau nhiều năm, tôi vẫn còn cảm giác run sợ, khi nghĩ lại câu chuyện xa xưa,

và tôi vẫn bị một nỗi hoài nghi, thảng thốt, vui buồn lẫn lộn bao trùm và xâm chiếm toàn bộ

tâm hồn. Tôi mong các bạn độc giả, vẫn thường quan tâm tới những mẩu chuyện của tôi về

những việc làm và những suy luận của một con người tuyệt vời hãy tha thứ cho tôi, vì việc

tôi không chia sẻ với các bạn điều khám phá của mình. Tôi tự đặt cho mình một nghĩa vụ là

phải báo cho các bạn tất cả sự thật, một khi tôi không còn bị ràng buộc bởi chuyện cấm

đoán xuất phát từ chính ý muốn của bạn tôi. Câu chuyện ngăn cấm được phát ra cũng vừa

mới đây, ngày mồng ba tháng trước.

Trong thời gian tôi và Sherlock Holmes còn gắn bó mật thiết với nhau tôi đã quan tâm

một cách sâu sắc tới những chuyện hình sự. Kể từ khi anh biệt tăm mất tích, tôi trở thành kẻ

thường xuyên theo dõi trên các báo chí tất cả các vụ án chưa được khám phá. Đôi lúc, để

thỏa mãn tính hiếu kỳ, tôi đã có ý định tham gia vào chuyện phá án, tôi sử dụng những

phương pháp, thủ thuật như của bạn tôi thường làm, mặc dù con lâu tôi mới đạt được trình

độ ấy.

Tuy thế, không có vụ án nào lại làm cho tôi hồi hộp, lo âu bằng câu chuyện tang thương

của Ronald Adair. Trong số tài liệu điều tra, có đoạn nói thế này: "Vụ ám sát đã được tính

toán từ trước và do một người hoặc một nhóm người lạ thực hiện". Sau khi đọc xong lời

nhận xét như vậy, tôi càng thấy thấm thía hơn bao giờ hết rằng cái chết của Sherlock

Holmes đã gây cho Tổ quốc chúng ta một tổn thất to lớn biết nhường nào. Trong chuyện

này, nhất thiết phải có những tình tiết làm cho Sherlock Holmes chú ý; và như vậy hoạt

động của cảnh sát sẽ được bổ sung đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có sự giúp sức của

bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của nhà thám tử sành sỏi nhất Châu Âu này.

Sau khi đi thăm bệnh nhân cả ngày về, tôi lại tập trung vào những suy nghĩ làm tôi nhức

đầu, đó là câu chuyện của Adair , nhưng tôi không thể nào tìm ra được một lời giải đáp thỏa

đáng. Tôi đánh bạo lặp lại những gì mà mọi người đã biết, tôi cũng muốn nêu lên những dữ

kiện theo dạng đã được thông báo cho công chúng biết, sau khi kết thúc cuộc điều tra.

Tử tước Ronald Adair là con trai thứ hai của bá tước Maynooth - tổng đốc toàn quyền

một khu vực thuộc địa của người Anh ở Úc. Người mẹ của Adair đã từ Úc đến nước Anh để

3

giải phẫu mắt, cắt bỏ cái vây mọc ở mắt; và đã cùng cậu con trai Adair và cô con gái Hilda

sống ở Park Lane, số nhà 427. Chàng thanh niên thường giao du với những người tốt, và

hình như không có địch thủ nào; cũng chưa làm gì đáng chê trách. Đã có thời chàng đã đính

hôn với tiểu thư Edith Woodley ở Carstairs, nhưng trước khi xảy ra vụ án mạng vài tháng

thì cả chú rể lẫn cô dâu đã quyết định chia tay nhau: không ai hối hận về chuyện này cả. Nói

chung, cuộc đời của chàng thanh niên trai trẻ chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và trong

giới thượng lưu. Tính tình anh ta điềm đạm, thói quen và sở thích không có gì xấu. Thế

nhưng một cái chết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất đã chợp đi một nhà quý tộc trẻ vô tư chuyện

đó xảy ra vào khoảng 22 giờ đến 23 giờ 20 phút ngày 30 tháng 3 năm 1894.

Ronald Adair là một người thích cờ bạc, nhưng chưa bao giờ tỏ ra vượt quá giới hạn. Anh

ta là thành viên của ba câu lạc bộ - Baldwin, Cavendish và Bagatellele. Người ta đã điều tra

và xác định rằng, trong ngày bị giết, sau bữa cơm chiều, Ronald đã chơi một ván bài ở câu

lạc bộ Bagatelle. Thậm chí, trước bữa cơm chiều anh ta cũng có chơi ở đấy rồi. Những

người cùng chơi với anh ta là: ông Murray; ngài John Hardy và đại tá Moran. Adair bị thua

mất 5 bảng. Gia tài của anh ta khá lớn, nên việc thua bạc như vậy không làm cho anh ta bận

tâm chút nào. Anh ta hầu như ngày nào cũng chơi và thường là được bạc. Những lời khai

của các nhân chứng đã làm sáng tỏ thêm một chuyện. Là khoảng một tháng rưỡi trước khi

bị giết, Adair cùng chơi với ngài đại tá Moran, một buổi tối đã ăn của ông Godfrey Milner

và huân tước Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những gì biết được về những tuần cuối cùng

cửa đời anh ta.

Vào buổi tối bất hạnh đó, anh ta từ câu lạc bộ trở về nhà đúng 22 giờ đêm. Mẹ và em gái

anh ta đi vắng: họ đi thăm người quen chưa về. Người hầu gái thề rằng, cô ta đã nghe thấy

anh ta bước vào phòng của mình. Căn phòng ấy nằm trên tầng hai, cửa sổ hướng ra đường

phố, anh dùng làm phòng tiếp khách. Trước khi chàng quý tộc trẻ tuổi về, người hầu gái vừa

nhóm lò sưởi xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, cô ta phải mở toang các cửa sổ để

thoáng khói. Trước 23 giờ 20 phút không hề nghe một động tĩnh nào phát ra từ căn phòng

của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và cô con con gái về đến nhà. Bà Maynooth muốn ghé lại

chỗ cậu con trai để chúc cậu ngủ ngon, nhưng cánh cửa phòng đã được khóa chặt bên trong;

mặc cho người ta gào thét, đập cửa, không một ai lên tiếng. Thấy vậy người mẹ hô hoán lên,

bắt người nhà phải phá cửa. Chàng thanh niên xấu số đang nằm gục dưới sàn nhà, ngay

cạnh chiếc bàn. Đầu anh ta bị một viên đạn súng lục bắn thủng, trông thật khủng khiếp.

Nhưng rất kỳ lạ là trong phòng không thấy một thứ vũ khí nào hết. Trên bàn có 2 tờ ngân

phiếu trị giá 10 bảng và 17 bảng với 10 pence, bằng bạc có, bằng vàng có. Những đồng bạc

được xếp thành từng chồng nhỏ với từng loại giá trị khác nhau. Bên cạnh những đồng bạc là

một tờ giấy có ghi những con số và ngang hàng với những con số đó là tên những người bạn

cùng câu lạc bộ của Adair. Từ dữ kiện này có thể rút ra một nhận xét: Trước khi chết, chàng

trai đã tính toán những ván thua, thắng bạc của mình.

Sau khi nghiên cứu kĩ các dữ kiện, công việc càng trở nên rối rắm, mù mịt hơn. Một điều

làm chúng ta khó hiểu: vì sao chàng trai phải khóa chặt cửa từ bên trong? Thực ra kẻ giết

4

người cũng có thể khóa cửa, rồi trèo qua cửa số để tẩu thoát. Nhưng dưới những cánh cửa

sổ là những bồn hoa hồng lại không hề bị dẫm nát; hơn nữa từ cửa sổ đến mặt đất phải đến

20 feet. Không một cây hoa nào bị giầy xéo, làm nát. Ngay cả lớp đất giữa nhà và con

đường cũng không hề có một dấu vết nào. Rõ ràng là chính Adair đã tự tay khóa cửa.

Nhưng sao cái chết lại đột ngột dội vào đầu anh ta? Cứ giả thiết rằng tên sát nhân đã bắn

qua cửa sổ, thì đó phải là một phát súng rất đặc biệt, vì chỉ bằng một viên đạn súng lục đã

giết chết chàng trai ngay lập tức với một khoảng cách quá xa như vậy thì đâu phải chuyện

dễ dàng? Hơn nữa, Park Lane là một đường phố nhộn nhịp, đông người qua lại; cách nhà

100 yards có một trạm xe ngựa. Không một người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà, có

một người bị ám hại nằm xuống chỉ với một viên đạn súng lục bắn xuyên thủng đầu? Xét

theo vết thương thì chính viên đạn kia là nguyên nhân gây ra tử vong. Bối cảnh vụ án đầy bí

ẩn ở Park Lane là như vậy! Một vụ giết người có ẩn số đầy bí hiểm bởi thiếu hoàn toàn

những nguyên do xác đáng, logic. Anh bạn trẻ Adair không hề có địch thủ, còn tiền nong

cũng như giấy tờ quý giá khác thì không hề suy suyển.

Suốt ngày tôi suy đi, nghĩ lại trong óc tất cả những dữ kiện ấy, với tham vọng cố đặt ra

cho nó một giả thiết có phần nào phù hợp và đủ sức thuyết phục. Tôi cố gắng tìm ra "điểm ít

khả năng bị bác bỏ nhất" điều mà người bạn xấu số của tôi luôn luôn lấy làm kim chỉ nam

cho các công cuộc khám phá. Tôi thành thật thú nhận mình hoàn toàn không đạt được ý đồ

đó. Buổi chiều tôi thơ thẩn, lang thang trong công viên: khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đi đến

góc phố giữa đường Park Lane và đường Oxford không hề có ý định trước. Tôi thấy một

nhóm người vô công rồi nghề đang túm năm tụm ba, nhòm ngó vào một chiếc cửa sổ ngôi

nhà đã xẩy ra vụ án mạng đầy bí ẩn. Một gã đàn ông cao, gầy đeo kính râm to, - tôi nghĩ

chắc là một thám tử giả dạng, - đang thử nêu một giả thiết về án mạng, những người tò mò

bao quanh ông ta chật cứng, chăm chú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại, nhưng khi nghe

loáng thoáng những nhận định, phán đoán ngu xuẩn, tôi có cảm giác kinh tởm và thối lui.

Vô tình tôi đụng phải một ông già gù lưng đứng phía sau, mấy cuốn sách mà ông ta đang

kẹp nách bị rơi ra. Trong lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sách cho ông lão, tôi chợt đọc

thấy một tên sách "Sự ra đời và việc sùng bái cỏ cây". Tôi thoáng nghĩ: thật là một con mọt

sách tội nghiệp; chắc vì để kiếm sống, hoặc vì yêu thích nghệ thuật, nên đã cố sưu tầm

những cuốn sách quý hiếm. Tôi định nói vài câu xin lỗi cho sự vô tình của mình đã làm rơi

những vật mà chủ nhân của nó nâng niu, trân trọng; nhưng ông già càu nhàu, tức tối và

khinh khỉnh quay đi. Chỉ một loáng cái lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc trắng của ông đã

lẩn vào đám đông.

Những quan sát ở ngôi nhà 427 phố Park Lane đã giúp tôi được chút ít trong công việc

khám phá lời giải đáp mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cách với đường phố bằng một

bức tường thấp, trên tường có chăng dây thép. Dây thép cao chưa đến 5 feet. Mọi người dễ

dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa số thì khó thực hiện được, vì không có ống

thoát nước, không hề có một cái gờ nào nhô ra, cho nên ngay cả một nhà thể thao điêu luyện

nhất cũng không thể trèo lên theo bức tường được. Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố

5

Kensington để về nhà. Tôi bước vào phòng mình chưa đầy 5 phút thì người hầu gái đã báo

với tôi là có một người khách muốn gặp tôi. Tôi thật sửng sốt và ngạc nhiên, vì đó không

phải ai xa lạ, mà chính là ông già gù gù, thích sưu tầm sách quý tôi gặp lúc chiều. Bộ tóc

bạc phau, trùm gần kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt của ông. Ông kẹp ở nách có đến

một tá những cuốn sách loại quý:

- Chắc ngài rất ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi? - Ông ta hỏi với giọng the thé rất kì dị.

Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.

- Ngài thấy không, tôi là một người lịch sự. Tôi lững thững đi theo con đường mà ngài đi,

tôi chợt thấy ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ với mình là cần ghé lại gặp con người

lịch thiệp kia để xin lỗi. Nếu tôi có thô thiển lố bịch với ngài, thì thú thật tôi cũng không có

ý định làm cho ngài bực dọc. Tôi mang ơn ngài rất nhiều, vì ngài đã hạ cố cúi nhặt giúp tôi

những cuốn sách.

- Chuyện nhỏ nhặt ấy, không nên bận tâm làm gì, - Tôi đáp. - Ngài cho phép tôi được hỏi,

làm sao ngài biết được tôi là người như thế nào?

- Tôi cũng xin mạnh dạn nói với ngài rằng là hàng xóm láng giềng với ngài. Tiệm sách bé

nhỏ của tôi nằm ở góc phố Church, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé lại chơi. Có lẽ ngài

cũng là người ham mê sách? Tôi xin giới thiệu với ngài đây là cuốn "Những giống chim ở

Anh", "Catullus", "Cuộc chiến tranh thần thánh". Ngài mua đi, tôi sẵn sàng bán giá rẻ. Năm

tập này, vừa vặn đủ lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá

sách của ngài không được đẹp mắt lắm thì phải, thưa ngài?

Tôi ngoái cổ để nhìn lại giá sách, khi quay lại thì tôi không thể tin ở mắt mình được nữa:

Sherlock Holmes đang đứng ngay bên chiếc bàn của tôi và đang cười. Tôi khuỵu xuống vài

giây. Tôi ngơ ngác nhìn anh, và sau đó thì, có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng,

tôi đã bị ngất. Tôi chỉ mang máng nhớ là có một đám mây xám đang nhập nhoà trước mắt.

Khi đám mây tan biến đi, tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và tôi ngửi thấy thoang

thoảng mùi rượu brandy. Holmes vẫn đứng đấy trên tay cầm chai rượu, đầu hơi cúi xuống.

- Watson thân mến! - Một giọng nói khá thân thuộc cất lên, - nghìn lần tớ xin lỗi cậu. Tớ

không ngờ cái ấy lại gây cho cậu một xúc động mạnh như vậy.

Tôi nắm lấy tay anh.

- Holmes! - Tôi thốt lên. - Có phải thật cậu không? Chẳng lẽ cậu vẫn còn sống ư? Không

thể nào tin được, làm sao cậu vượt lên được cái thác nước khủng khiếp ấy?

- Hãy đợi chút đã. - Anh nói. - Không biết cậu đã bình tĩnh lại chưa? Rõ ràng sự xuất hiện

quá đường đột của tớ đã làm cho cậu choáng váng.

- Tớ đã bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú thật với cậu, tớ không còn tin vào mắt mình nữa. Thật

hú vía! Chẳng lẽ chính cậu đấy ư? Không phải ai khác đang đứng trong phòng tớ đấy chứ?

Tôi lại nắm lấy cánh tay anh và bóp nắn cánh tay gân guốc.

- Đúng rồi, chính là cậu rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, - Tôi tiếp. - Bạn yêu mến của tôi

ơi! Tớ hạnh phúc biết bao khi được gặp lại cậu! Hãy ngồi xuống cái đã, và hãy kể vắn tắt

cho tớ nghe, bằng cách nào cậu thoát khỏi vực thẳm kia?

6

Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với dáng điệu quen thuộc như xưa, anh lấy thuốc ra

châm hút. Anh vẫn đang mặc chiếc áo đã sờn với dạng của người bán sách cũ, nhưng những

thứ dùng để cải trang như bím tóc bạc, túi đựng sách cũ... đã nằm trên bàn. Tôi có cảm giác

anh gầy hơn xưa, cái nhìn của anh có vẻ sắc sảo hơn. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt của

anh chứng tỏ trong thời gian qua, anh đã nếm nhiều khổ cực, đã trải qua một chặng đường

đời khắc khổ không có lợi cho sức khoẻ.

- Watson, được duỗi thẳng người ra thật khoan khoái! - Anh lên tiếng, - Một người cao

lớn như tớ, không dễ dàng gì mà rút đi một foot; và bắt buộc giữ tình trạng đó suốt mấy

tiếng đồng hồ. Bây giờ, chúng ta sẽ đề cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng... Tớ

muốn cầu cứu sự giúp đỡ của cậu, nếu cậu không phản đối. Cả hai chúng mình sẽ phải thức

trắng suốt đêm nay với một công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt nhất, nên để chuyện

cuộc phiêu lưu của tớ đến lúc công việc kia giải quyết xong xuôi.

- Nhưng tớ đang cháy ruột, cháy gan vì tò mò. Holmes, tớ nóng lòng được cậu kể ngay

bây giờ.

- Cậu có đồng ý đi với mình đêm nay không?

- Đi bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy cậu.

- Hoàn toàn như ngày xưa. Chúng ta vẫn còn kịp giải lao cho thư thả trước lúc lên đường.

Nào, bây giờ tớ bắt đầu câu chuyện về cái thác nước. Nguyên nhân đơn giản làm cho tớ lên

được khỏi vực thẳm, là tớ chưa hề bị rơi xuống đó.

- Cậu không bị rơi xuống vực à!

- Đúng thế, Watson ạ, không hề bị rơi. Thế nhưng, mẩu thư tớ viết cho cậu hoàn toàn là

sự thật. Khi bóng dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất hiện trên lối mòn chật hẹp, chặn

ngăn con đường giải thoát duy nhất của tớ, lúc ấy nghĩ, mọi chuyện đối với tớ như vậy đã

chấm dứt. Trong đôi mắt màu nâu của hắn, tớ đọc được quyết định không thể nào lay

chuyển nổi về số phận của tớ. Tớ trao đổi với hắn vài ba câu, hắn lịch sự cho phép tớ được

viết một mẩu tin ngắn ngủi, cậu đã nhận được bức thư. Tớ để lá thư cùng hộp thuốc và cây

gậy lại, còn tự mình đi theo lối mòn tiến về phía trước. Moriarty đi theo sau tớ từng bước

một. Khi đến đoạn cuối cùng của lối mòn, tớ dừng lại, bởi có đi tiếp cũng không còn đường

nào hết. Hắn không thèm lấy ra một thứ vũ khí gì, vội lao vào tớ và hắn dùng đôi tay dài

ngoằng của mình chộp lấy tớ. Hắn biết, cuộc đời của hắn đã tới số, hắn chỉ cần thực hiện

một việc là trả thù tớ. Không thèm buông ra, tớ với hắn giằng co ngay bên mép vực thẳm.

Nhưng, nhờ tớ biết vài miếng võ Nhật Bản, khoản này đã giúp tớ không ít trong công việc,

tớ kịp thoát ra khỏi người hắn. Hắn thét lên nghe thật man rợ, loạng choạng vài giây, hai tay

chới với trong không trung. Mặc dù hắn cố gắng hết sức, nhưng vẫn không thể giữ nổi thăng

bằng và ngã xuống. Đứng trên bờ vực thẳm, tớ nhìn theo rất lâu xem hắn bị rơi xuống vực

như thế nào? Tớ thấy hắn va vào gờ của một tảng đá và chìm nghỉm dưới nước.

Tôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô cùng. Còn anh vẫn thản nhiên, vừa kể

vừa thả khói thuốc một cách khoan thai.

7

- Nhưng còn các vết chân! - Tôi thốt lên. - Chính tớ, bằng mắt mình đã trông thấy rõ rành

rành hai dãy bước chân cùng đi lên theo lối mòn, dấu quay lại không hề có.

- Chuyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây phút, khi giáo sư Moriarty rơi xuống vực; tớ

hiểu rằng, vận may đã đến với tớ một cách không ngờ. Tớ biết rằng không phải chỉ có một

mình Moriarty đang tìm cách giết tớ. Ít nhất phải có ba tên đồng bọn, cái chết của thủ lĩnh

sẽ đốt cháy trong tim bọn nó một sự khao khát trả thù. Đó là một lũ người cực kỳ nguy

hiểm. Trong tương lai, sẽ có một tên nào đó trong bọn chúng thực hiện mưu đồ làm hại tớ.

Nếu chúng nghĩ rằng tớ đã chết, thì chúng sẽ hành động trắng trợn hơn, ít đề phòng và dễ

dàng để lộ tung tích, lúc ấy, sớm hay muộn rồi tớ cũng có ngày tiêu diệt được chúng nó. Chỉ

đến lúc này, tớ mới thông báo cho mọi người biết tớ vẫn còn sống! Bộ não của con người

làm việc rất nhanh, Moriarty chưa kịp xuống tới đáy của vực nước Reichenbach tớ đã nghĩ

xong kế hoạch đối phó rồi.

Tớ đứng lên và quan sát bức tường đá sừng sững ở sau lưng. Trong đoạn miêu tả về cái

chết tang thương của tớ, mà tớ rất thú vị đọc sau đó vài tháng, cậu cho rằng: bức tường đá

hoàn toàn dựng đứng và trơn tuột. Không phải đúng hết như vậy. Trên tảng đá có vài chỗ gờ

nhô ra, có thể đặt chân, bám vào được. Ngoài ra dựa vào các dấu hiệu, tớ tin sẽ có một cái

hốc nào đấy ở trên cao... Mỏm đá khá cao, rõ ràng không thể nào trèo lên đỉnh được, và

cũng không thể đi theo lối mòn ẩm ướt mà không để lại dấu vết. Thực ra tớ cũng có thể

mang giày cho gót lộn ngược cũng được, như tớ đã từng làm trong những trường hợp tương

tự; nhưng ba dấu giày cùng đi theo một hướng, không thể tránh khỏi sự nghi ngờ rằng cố ý

đánh lừa được. Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này không phải là dễ, thác nước

đang réo ầm ĩ phía dưới. Tớ có cảm giác tiếng nói của Moriarty đang gọi tớ từ đáy vực thẳm

vọng đến bên tai. Đôi lúc, khi một nắm cỏ nằm lại trên bàn tay, hoặc bàn chân bị trượt theo

cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tớ nghĩ rằng mọi việc đã kết thúc. Nhưng tớ vẫn tiếp tục bò lên,

cuối cùng tớ bò lên chỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu xanh. Ở đây, tớ có thề nằm duỗi tay,

duỗi chân mà không sợ ai nhìn thấy, tớ nghỉ một lát cho sảng khoái. Tớ đã nằm ở đấy, trong

lúc đó, cậu và những người được cậu mời tới, đã hoài công dựng lên bức tranh về cái chết

của tớ.

Cuối cùng, sau khi đã rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm về những diễn biến đã xẩy ra, cậu

quay về khách sạn, còn tớ nằm lại một mình. Tớ hình dung cuộc phiêu lưu của tớ đã kết

thúc, nhưng một việc khá bất ngờ đã xảy ra, chứng tỏ là có một chuyện không kém phần ly

kỳ đang chờ đợi tớ. Có một hòn đá to vỡ ra chợt bay vèo qua đầu tớ, rơi xuống lối mòn rồi

rơi xuống vực. Lúc đầu tớ cứ nghĩ đó là một chuyện tình cờ. Nhưng, sau khi nhìn lên trên,

tớ trông thấy một cái đầu của người đàn ông in trên nền trời đang tắt dần nắng. Đúng giây

phút ấy, một hòn đá khác bay tới ngay sát cái hõm mà tớ đang nằm, cách đầu tớ chỉ vài

inch. Tình thế đối với tớ đã quá rõ. Moriarty không phải chỉ đến một mình. Tên đồng bọn

của hắn cũng khá nguy hiểm, thằng này chắc đứng cảnh giới, khi thằng Moriarty xông vào

tấn công tớ. Từ xa, hắn đã chứng kiến cái chết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù của hắn đã

thoát nạn. Sau khi chờ đợi một lúc, hắn chạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan

8

thực hiện việc mà Moriarty đã không thành công. Watson, tớ suy tính chuyện này rất nhanh.

Sau khi nhìn quanh, tớ lại trông thấy bộ mặt dữ tợn của hắn và hiểu rằng, hắn là kẻ đã ném

thêm viên đá nữa. Tớ quyết định bò xuống đến lối mòn. Tớ không biết, trong trạng thái bình

thường, tớ có làm nổi chuyện ấy hay không? Tuột xuống khó gấp cả nghìn lần lúc leo lên.

Nhưng không hơi đâu mà đắn đo, suy tính. Khi đó tớ đang treo người, hai tay bám vào mép

của khe đá. Một viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt được nửa đường, bỗng tớ trượt chân

một cái, nhưng dẫu sao, tớ cũng đã đến lối mòn. Người bị rách bươm, thấm đầy máu, ba

chân bốn cẳng tớ cắm đầu cắm cổ chạy. Trong đêm tối tớ chạy xuyên rừng, xuyên núi 10

dặm và một tuần sau tớ có mặt ở Florence và tin chắc rằng: không một người nào trên đời

này biết được số phận của tớ.

Chỉ một người biết được bí mật, đó là anh trai tớ - Mycroft. Nghìn lần xin lỗi cậu,

Watson. Nhưng tớ bắt buộc phải làm như vậy, cứ để mọi người tưởng tớ chết thật là được

rồi. Nếu không, không bao giờ cậu có thể viết lên những điều khẳng định chắc chắn về cái

chết của tớ, nếu cậu tin rằng đó là sự thật. Trong ba năm ấy, đôi lần tớ định viết thư cho cậu,

nhưng mỗi lần như vậy, tớ đành phải dằn lòng, vì sợ rằng mối mật thiết quá ư chặt chẽ giữa

cậu và tớ sẽ dễ làm cho cậu có sơ suất, và sẽ lộ điều bí mật của tớ. Vì sao chiều nay tớ phải

tránh mặt cậu, khi cậu làm rơi sách của tớ? Tớ thật liều lĩnh, nếu như cậu kêu lên vì kinh

ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người sẽ nhìn chằm chằm vào tớ chuyện đó sẽ dẫn đến hậu quả

không thể cứu chữa được. Còn phải nói cho anh Mycroft, thì cực chẳng đã tớ mới thú thật

mà thôi, bởi tớ rất cần một món tiền để tiêu xài.

Công việc ở London giải quyết rất tệ, tệ hơn là tớ mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng

của Moriarty, còn hai tên đang nằm ngoài vòng pháp luật. Đó là hai tên cướp rất nguy hiểm,

cả hai thằng đều là kẻ tử thù của tớ. Vì thế, tớ đã đi chu du trong hai năm ở vùng Tibet, và

đến thăm thành phố Lhassa, thậm chí còn bỏ cả mấy ngày để đến thăm các Lạt ma. Có lẽ

cậu đã đọc bài báo nói về vụ chấn động lớn của một người Na Uy, mang tên Sigerson,

nhưng cậu làm sao có thể nghĩ rằng, bài ấy là của bạn mình. Tớ còn đi thăm vài nơi ở vương

quốc Arập, chuyến đi thăm do tớ đề nghị lên ngài Bộ trưởng Ngoại giao.

Sau khi quay về Châu Âu, tớ ở lại thăm nước Pháp vài tháng, ở đây tớ tham dự vào công

cuộc nghiên cứu, phân tích những chất lấy từ một vùng than đá. Việc này tớ làm ở một

phòng thí nghiệm thuộc miền nam nước Pháp - Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp thí

nghiệm và biết được hiện nay ở London chỉ còn sống sót một kẻ thù không đội trời chung

của tớ, tớ suy tính chuyện trở về. Lúc đó tớ nghe tin vụ ám sát đầy bí ẩn ở phố Park Lane và

nóng lòng ra đi. Tớ cũng đã nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp số của vụ án mạng sẽ giúp tớ

thực hiện ý định của riêng mình. Thế là, tớ vội vã quay về London. Tự tớ đến phố Baker, và

đã làm cho bà Hudson bị một phen hoảng sợ, lên cơn thần kinh. Anh trai tớ vẫn trông nom

căn phòng và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tớ ra đi. Ngày hôm nay, lúc 14 giờ, tớ đã

ghé vào căn phòng cũ của mình, ngồi vào chiếc ghế bành thân quen, và chỉ mong ước một

điều duy nhất là làm sao cho người bạn cũ Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong

một chiếc ghế bành khác mà anh ta vẫn thường ngồi.

9

Câu chuyện kinh hoàng tôi đã được nghe trong buổi tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó

lòng tin đó là sự thật. Mặc dù chính mắt tôi đã trông thấy thân hình cao, gầy và khuôn mặt

thông minh, cương nghị của người bạn mà tôi nghĩ rằng, không bao giờ tôi còn gặp lại.

Không biết bằng cách nào, Holmes đã rõ cái chết của vợ tôi, sự thương cảm được thể hiện

trong giọng nói của anh:

- Làm việc! Đó là cách tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau khổ, Watson yêu quý - Anh động

viên an ủi tôi - Khuya hôm nay, có công việc đang chờ chúng mình. Người có diễm phúc

hoàn thành sứ mệnh một cách tốt đẹp có thể mạnh dạn tuyên bố rằng, anh ta đã sống một

cuộc đời không phải là uổng phí, vô ích.

Tôi đã mất công để thuyết phục anh giải thích cho rõ.

- Đến sáng mai, cậu sẽ được nghe, được thấy đầy đủ, - Anh đáp. - Còn bây giờ không cần

nói tới chúng ta còn khối chuyện để tâm sự. Cậu biết đấy, đã ba năm rồi chúng mình không

được nhìn thấy nhau. Hy vọng chúng ta sẽ tâm sự đến 21 giờ 30, rồi sẽ lên đường, đón nhận

một cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong một ngôi nhà bỏ trống.

Như ngày xưa, khi tôi ngồi cùng với anh trong một cỗ xe đúng giờ đã định, tôi sờ soạng

khẩu súng ngắn nằm trong túi, tim đập liên hồi vì hồi hộp đón chờ những sự kiện chưa

lường trước được. Holmes thì trầm ngâm, đăm chiêu suy nghĩ. Khi ánh sáng của ngọn đèn

đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ của anh, tôi thấy anh khẽ ngước đôi lông mày, còn cặp

môi mỏng thì mím chặt, chứng tỏ anh đang suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi không biết, chúng

tôi đang săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng rậm của thế giới tội phạm tại

London. Nhưng tất cả dáng điệu của một người thợ săn đầy lão luyện như báo cho tôi rằng,

cuộc trinh thám này sẽ là cuộc trinh thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa mai

thường xuyên xuất hiện trên gương mặt đăm chiêu của bạn tôi không hứa hẹn một điều gì

tốt đẹp cho con thú chúng tôi đang săn đuổi.

Tôi đinh ninh rằng, thế nào chúng tôi cũng ghé về phố Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh

cho người xà ích dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe, anh cẩn thận

quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc ngách; kiểm lại xem có cái đuôi nào bám sau không.

Chúng tôi bước vào một cái ngách trông rất lạ. Holmes luôn luôn làm cho tôi thán phục về

sự hiểu biết tường tận khá nhiều góc hẻm ở London. Anh ung dung tự tin bước vào một góc

tối đầy chuồng ngựa, đi qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa; tôi không thể tin sự tồn tại

có mặt của những thứ ấy. Cuối cùng chúng tôi lọt vào một cái hẻm chật hẹp, có hai dãy nhà

cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này dẫn chúng tôi ra phố Manchester, rồi đến phố

Blandford. Holmes nhanh nhẹn nhảy sang một lối hẹp khác, đi qua một hộc cửa bằng gỗ, lọt

vào cái sân vắng vẻ. Anh dùng chìa khóa mở cửa sau một ngôi nhà. Chúng tôi bước vào,

ngay lập tức anh khóa trái cửa lại.

Dù trời rất tối, nhưng tôi hiểu ngay là ngôi nhà này không có người ở. Nền nhà không lót

thảm, kêu lên răng rắc, lạo xạo dưới chân, tôi vô ý chạm phải những bức tường, nhiều tờ

giấy dán tường bị bong ra treo trên đầu chúng tôi. Những ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes

bóp chặt bàn tay tôi, anh dẫn tôi theo một hành lang dài, cuối cùng trước mắt chúng tôi hiện

10

ra một cái vòm cửa sổ nửa cong, nửa thẳng đứng kín đáo, nằm trên chỗ cửa ra vào. Bỗng

dưng Holmes quay về bên phải, và chúng tôi lọt vào một căn phòng hình vuông rộng lớn

nhưng bị bỏ hoang; các góc, xó hoàn toàn tối om, nhưng ở giữa phòng thì được lờ mờ ánh

sáng ngọn đèn đường. Cạnh cửa sổ không có một ngọn đèn nào, còn tấm kính trên cửa sổ

thì bị một lớp bụi dày bao phủ. Chúng tôi nhận ra nhau khá chật vật. Holmes đặt tay lên vai

tôi, và cúi sát môi vào tai tôi.

- Cậu có biết chúng ta đang ở đâu không? - Anh thầm thì hỏi.

- Dường như trong phố Baker, - Tôi vừa nhìn vào tấm kính mờ đục vừa nói.

- Đúng như vậy, chúng ta đang đứng ở nhà Camden, đối diện với căn buồng trước kia của

chúng mình.

- Chúng mình đến đây làm gì?

- Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia. Không biết có nên tiến sát vào

cánh cửa sổ không? Nhưng hãy thật thận trọng, đừng để ai phát hiện ra cậu. Cậu thử nhìn

vào cửa sổ của buồng cũ chúng mình đi, nơi đó đang mở ra những cuộc trinh thám đầy thú

vị. Cậu thử xem, tớ đã mất khả năng làm cậu kinh ngạc chưa, sau ba năm trời phiêu bạt?

Tôi nhẹ nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào khung cửa sổ vô cùng thân thuộc...

Bỗng nhiên tôi thốt lên một tiếng kinh ngạc, bức rèm được buông xuống, đèn sáng rực rỡ,

có một người ngồi trên chiếc ghế bành kê ở giữa phòng, hắt bóng rất rõ lên nền sáng của

cánh cửa sổ. Từ đầu, đến đôi vai rộng, cho đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay

nghiêng, tạo nên một dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thích được vẽ kiểu ấy... Không còn

gì nghi ngờ, đấy chính là một bản sao hoàn hảo chính xác con người Sherlock Holmes. Tôi

kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ vào người anh để khẳng định anh vẫn đứng bên cạnh

tôi. Holmes cười không thành tiếng.

- Thế nào? - Anh hỏi.

- Chuyện này khó tin được! - Tôi thì thầm nói.

- Dường như, năm tháng không cướp đi khả năng sáng tạo của mình, còn thói quen cũng

không vì thế bị khô mòn, - Anh nói.

Tôi cũng bắt gặp trong giọng nói anh một niềm vui sướng, kiêu hãnh của nhà họa sỹ đang

thưởng thức công trình tuyệt tác của mình.

- Cậu thấy có thật giống mình không?

- Tớ nghĩ rằng, đây chính là cậu đang ngồi.

- Vinh dự này thuộc về ngài Meunier ở Grenoble. Ông ta đã tạc tượng tớ trong vòng có

vài ba ngày. Nó được làm bằng sáp. Những phần còn lại tớ tự sắp đặt khi tớ quay về hẻm

Baker sáng sớm hôm nay.

- Nhưng cậu làm thế nhằm mục đích gì?

- Tớ có nguyên nhân chính đáng. Tớ muốn một số người nào đó cứ đinh ninh là tớ đang

ngồi ở nhà, trong khi ấy, thực tế tớ lại ngồi ở một nơi khác.

- Có nghĩa là cậu nghĩ rằng, có một bọn nào đó đang rình mò căn hộ ư?

- Tớ biết, có kẻ đang rình mò căn nhà.

11

- Kẻ đó là ai?

- Những kẻ thù của tớ. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ lĩnh đã vĩnh viễn nằm chôn vùi

dưới đáy thác nước Reichenbach. Cậu biết đấy, chỉ có bọn nó mới biết chính xác là tớ vẫn

còn sống. Chúng nó tin chắc, dù sớm hay muộn rồi tớ cũng quay về căn phòng cũ của mình.

Tụi nó chưa chịu từ bỏ ý định theo dõi rình rập để hại tớ. Sáng nay chúng đã thấy tớ quay về

nhà.

- Làm sao cậu đoán được điều đó?

- Trong lúc nhìn qua cửa sổ, tớ nhận ra một thằng thám thính của chúng. Tên của hắn là

Parker, chuyên ăn cướp, giết người, đồng thời còn là một nhà tổ chức thiên tài. Tớ chú ý

đến thằng này ít thôi. Một thằng khác làm cho tớ chú ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là thằng

núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ thân cận nhất của tay Moriarty. Chính hắn đã dùng đá

ném tới tấp vào tớ từ ngọn núi đá. Hắn là một tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy

hiểm nhất hiện nay ở London. Chính hắn đêm nay sẽ đi săn tớ, và hắn đâu ngờ rằng, chúng

ta lại săn hắn.

Kế hoạch của Holmes dần dần làm cho tôi sáng tỏ. Từ chỗ ẩn nấp thuận tiện này, chúng

tôi có khả năng theo dõi tất cả những ai có ý đồ theo dõi chúng tôi. Dáng dấp bóng người

thấp thoáng bên cửa sổ là một miếng mồi, còn chúng tôi là những tay thợ săn. Vai kề vai,

chúng tôi đứng lặng im trong bóng tối chăm chú ngắm nhìn những bóng người lượn qua

lượn lại. Đêm ấy, thời tiết rất xấu, trời trở lạnh tê tái, gió thổi dọc theo dãy phố một cách dữ

dội, gay gắt. Người đi lại ngoài đường khá đông, hầu như ai bước đi cũng rất vội, họ đều cố

kéo cổ áo hoặc mũ che kín mũi cho đỡ lạnh.

Tôi có cảm giác một người nào đó cứ đi qua đi lại sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm

cho tôi nghi ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió, nên bước vào một cánh cổng cách chúng

tôi không xa. Tôi định bụng sẽ báo cho Holmes biết, nhưng anh trả lời tôi với một giọng

bực bội rồi tiếp tục theo dõi động tĩnh ngoài đường. Thỉnh thoảng anh đổi chân cho đỡ mỏi

hoặc lấy ngón tay gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy anh có vẻ không vui, hình như sự việc xảy

ra không hoàn toàn đúng như kế hoạch. Trời chuyển về khuya, đường phố tĩnh mịch vắng

vẻ Holmes đi lại trong phòng, anh bồn chồn lo lắng, hồi hộp. Vừa máy miệng định nói một

điều gì nhưng tôi lại một lần nữa sửng sốt, kinh ngạc.

- Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.

Rất rõ, bóng hình kia quay về phía chúng tôi, không phải bên hông, mà là quay hẳn lưng

lại. Năm tháng không làm cho tính cách của Holmes thay đổi chút nào, anh vẫn là người

điềm đạm, nhẫn nại, luôn thể hiện trí thông minh, đầu óc suy luận sắc sảo, nhìn nhận rất tinh

tế.

- Phải làm như thật, - Anh đáp. - chẳng lẽ tớ lại là một kẻ ngu ngốc không có bộ não hay

sao? Đặt trong phòng một hình nộm bất động không xua được ruồi thì quả là rất lộ liễu, phải

chăng nhờ nó mà có thể đánh lừa được những kẻ ranh ma nhất Châu Âu ư? Chúng mình thu

lu trong xó xỉnh này đã hai giờ đồng hồ, trong lúc đó bà Hudson đã thay đổi vị trí bức tượng

12

tám lần. Cứ mười lăm phút một lần, với điều kiện là bà sẽ không để in bóng mình cho người

ngoài trông thấy.

Bỗng nhiên anh im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem, tôi trông thấy anh dướn cổ lên

trong tư thế chờ đợi rất căng thẳng.Đường phố đã hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ, hai tên đứng

nấp trong hẻm vẫn còn. Nhưng tôi không tài nào nhìn thấy chúng. Xung quanh tôi một màn

đen và sự im ắng bao trùm. Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được chiếu sáng

rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa phòng, càng nổi bật rõ nét. Không gian im ắng

đáng sợ, tôi nghe thấy tiếng thở khò khè của Sherlock, chắc anh rất hồi hộp cho kế hoạch

của mình. Bỗng nhiên anh ấn sâu tôi vào góc căn phòng, chỗ tối nhất, và lấy tay bịt miệng

tôi lại, bằng cách này anh muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi thấy những

ngón tay của anh run run. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến anh bị kích động, căng thẳng

đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn tạnh ngắt, yên ả không có gì xẩy ra hết. Bỗng nhiên, tôi

nghe thấy một âm thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai tôi, âm thanh mà đôi tai cực nhậy của

Holmes đã nghe thấy trước. Tiếng động không phải phát ra từ phố Baker, mà chính trong

ngôi nhà chúng tôi đang nấp. Cửa ra vào được mở ra, rồi đóng lại. Có tiếng bước chân rón

rén vang lên khe khẽ ngoài hành lang. Người đi cố giữ cho bước chân khỏi kêu to, nhưng

trong căn nhà hoang này nó vẫn dội lên những âm thanh khá to.

Holmes đứng dựa sát vào tường, tôi cũng làm theo và nắm chặt khẩu súng ngắn, căng

mắt nhìn vào bóng tối. Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng một người đàn ông, bóng đen hơi sẫm

hơn so với tấm khung hình chữ nhật của cánh cửa đã mở. Hắn đứng im ở đó chừng một

phút, rồi nhẩy xuống và rón rén tiến về phía trước. Mọi cử chỉ hành động của hắn đều chứa

đựng một mối đe dọa. Thân hình dữ tợn của hắn đứng cách chúng tôi có ba bước. Tôi lên

gân cốt, chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công. Nhưng hắn không hề biết có chúng tôi ở đây.

Hắn đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng, suýt nữa thì chạm phải nhau. Hắn rón rén tiến đến

gần cửa sổ rất thận trọng không hề một tiếng động, hắn nhấc cánh cửa lên cao nửa foot. Khi

hắn trèo lên để mở chốt cửa, ánh sáng đèn đường hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi rõ bộ mặt

hắn, một bộ mặt dễ làm cho chúng ta kích động cao độ. Cặp mắt cháy lên một cách man rợ,

nét mặt biến dạng kinh khủng.

Hắn không còn trẻ trung gì nữa, có một chiếc mũi quặp như mỏ diều hâu, trán hói khá

cao, bộ râu bạc trắng rất dài. Mũ của hắn được kéo xuống tận gáy, chiếc áo bành tô hở cúc,

để hở ra một khoảng trắng trước ngực, chiếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng, đen đủi hằn

đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay hắn cầm một vật đại loại như cây batoong, nhưng

khi hắn đặt xuống nền nhà, nó phát ra một tiếng kêu "keng" của kim khí. Hắn lôi từ trong túi

ra một vật gì đó khá lớn: hắn loay hoay với đồ ấy chừng vài phút; cho đến khi một âm thanh

kim khí phát ra, có lẽ, hắn kéo một chiếc lò xo hay cái then chốt. Ngồi bằng đầu gối, hắn

tiến về phía trước và với tất cả sức nặng của bản thân, hắn đè lên một đòn bẩy. Chúng tôi

nghe thấy một âm thanh dài dữ dội, có phần kêu to hơn lúc trước. Hắn đứng thẳng người

lên, tôi trông thấy trong tay hắn không phải cái gì xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái báng kỳ

lạ, xấu xí. Hắn mở khoá, kéo cò bấm và đặt một vật gì vào bên trong xong cài chốt lại. Hắn

13

quỳ xuống, đặt đầu nòng súng lên bệ cửa sổ, bộ râu dài của hắn chấm sát tận nòng, cặp mắt

hắn long lanh dữ tợn. Hắn đặt súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái: tấm bia đang đứng

trước mặt hắn - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen đen soi rõ trên nền sáng. Hắn lưỡng lự một lát

sau đó đặt tay lên cò súng, một tiếng "vù" là lạ phát ra, tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng

xoảng.

Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như một con hổ, anh chộp ngay lưng kẻ vừa bắn và

quật hắn ta úp mặt xuống sàn. Nhưng một giây sau, kẻ bị quật ngã đã đứng dậy được, với

một sức mạnh không ngờ hắn tóm lấy cổ Holmes. Tức thì, tôi dùng báng súng nện mạnh

vào đầu kẻ hành hung, hắn ngã xuống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes thổi còi. Ngoài

đường một tốp người đã chạy tới, có hai cảnh sát quân phục đầy đủ, cùng một vị thám tử, từ

cổng chính bước vào phòng.

- Có phải Lestrade đó không? - Holmes hỏi.

- Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình sẽ giải quyết việc này. Rất vui mừng lại

được gặp ngài ở London.

- Sự giúp đỡ nhỏ mọn, không đáng kể của chúng tôi chắc không cản trở các ngài? Trong

một năm có ba vụ án mạng không được phát hiện, cũng hơi nhiều đấy Lestrade ạ. Nhưng

câu chuyện bí mật ở Molesey, ngài tiến hành không đến nỗi nào... nghĩa là ngài giải quyết

vụ ấy không đến nỗi tồi.

Chúng tôi đứng lên. Còn tên hung thủ thì thở hổn hển trong cánh tay của hai viên cảnh

sát lực lưỡng. Một đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài đường. Holmes tiến đến

bên cửa sổ, đóng lại. Lestrade châm hai ngọn nến vừa mang tới, còn các vị cảnh sát thì bật

công tắc đèn pin bỏ túi. Tôi có dịp quan sát kẻ sát nhân kỹ càng hơn.

Hắn có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét. Vầng trán như một triết gia, cái cằm như

của một người thích nói những lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đó, chứng tỏ con người

hắn cũng có một khả năng làm những điều tốt lành, cũng như làm những điều ác độc.

Nhưng cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm cái nhìn trâng tráo, chiếc mũi quặp ác

thú và những nếp hằn sâu trên trán đã tự tố cáo lên bản chất của hắn, những dấu hiệu báo

trước cho xã hội biết những dã tâm nguy hiểm. Hắn không thèm nhìn lên bất cứ người nào

trong số chúng tôi. Cái nhìn của hắn như cắm chặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes,

hắn nhìn với một sự kinh ngạc và hằn học.

- Con quỷ! - Hắn lẩm bẩm. - Một con quỷ ranh ma, xảo quyệt!

- Đại tá, - Holmes nói, và sửa lại cổ áo bị nhàu, - Những người bạn chí cốt lại gặp nhau,

như lời người xưa thường nói. Tôi chưa có dịp gặp lại ngài sau lần ngài đã theo dõi tôi một

cách trắng trợn. Ngài hẳn còn nhớ, khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác nước

Reichenbach.

Ngài đại tá có lẽ đang bị thôi miên, hắn không thể nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock

Holmes.

- Con quỷ, con quỷ có thật! - Hắn cứ lặp đi, lặp lại câu nói đó.

14

- Tôi chưa kịp giới thiệu cho các vị - Holmes lên tiếng. - Các vị biết không, đây là ngài

đại tá Sebastian Moran, một cựu sĩ quan trong đội quân của hoàng gia đóng ở Ấn Độ, và là

một thợ săn thú dữ tài ba, có một thời nổi tiếng oanh liệt ở những vùng thuộc địa Đông

phương. Tôi nghĩ, tôi không nhầm ngài đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, hiện nay

ngài đang giữ kỷ lục phải không?

Tên tù binh thật vất vả lắm mới kìm được cơn phẫn nộ, hắn tiếp tục nín thinh. Chính hắn

cũng đã giống một con hổ rồi, cặp mắt của hắn long lên dữ tợn, ria mép cũng xù lên.

- Tôi rất ngạc nhiên vì sự đánh lừa quá ư đơn giản đã đưa một thợ săn dày dạn kinh

nghiệm vào tròng, - Holmes tiếp tục, - Đối với ngài điều này đâu còn là mới mẻ. Chẳng lẽ,

chưa bao giờ ngài buộc một con dê dưới một gốc cây, còn ngài thì leo lên cây rậm rạp với

khẩu súng săn hoặc carbine trong tay, để chờ con cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi

nhà bỏ trống này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi. Tôi nghĩ rằng, đôi khi ngài

cũng phải dùng những phát đạn dự trữ trong trường hợp, cùng một lúc có nhiều con hổ xuất

hiện, hoặc hãn hữu cũng có đôi lúc ngài bắn trượt chứ. Mấy vị này, - Anh nói và chỉ vào

chúng tôi, - là những phát súng dự phòng của tôi. Sự so sánh của tôi chính xác đấy chứ?

Bất thình lình, đại tá Moran tức tối chồm lên phía trước, nhưng hai người cảnh sát đã kịp

giữ hắn lại. Bộ mặt của hắn thể hiện nỗi hằn học, nhìn vào đó chúng tôi thấy kinh khủng,

gớm ghiếc.

- Thú thật, ngài đã mang đến cho tôi một món quà nho nhỏ, - Holmes tiếp tục công kích. -

Tôi không ngờ, chính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này, quả thật thuận lợi.

Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành động từ ngoài phố, ở đấy có anh bạn Lestrade của tôi cùng

những thủ hạ của anh ta đã đợi chờ ngài sẵn. Trừ chi tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển

đúng như tôi dự định.

Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.

- Không kể những cái ấy, ngài có đủ chứng cớ, cơ sở để bắt tôi, hay là ngài không có đủ

cơ sở? - Hắn ta nói, - Tôi không thể nào chịu đựng nổi những lời lẽ nhạo báng của con

người kia. Nếu tôi ở trong tay luật pháp, thì cứ để pháp luật giải quyết.

- Điều này công bằng thôi, - Lestrade nhận xét. - Trước khi chúng tôi ra về, ngài còn

muốn nói điều gì nữa không, thưa ngài Holmes.

Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên, và quan sát cơ cấu của khẩu súng.

- Khẩu súng có một không hai này mới tuyệt làm sao - Anh thốt lên. - Bắn không nghe

tiếng kêu, nhưng có sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi biết một nhà cơ khí người Đức,

tên là Von Herder. Ông ta đã thiết kế khẩu súng này theo đơn đặt hàng của ngài giáo sư

Moriarty. Từ lâu tôi đã nghe tiếng tăm khẩu súng, nhưng chưa bao giờ có vinh dự được cầm

nó trên tay. Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này, và cả cách nạp đạn cho nó nữa, thưa

ngài Lestrade.

- Ngài không phải bận tâm, thưa ngài Holmes, chúng ta còn dịp quay lại vấn đề này. -

Khi tất cả mọi người tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade đáp - Đó là tất cả những gì ngài

muốn nói?

15

- Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội gì?

- Còn tội gì nữa, thưa ngài? Chẳng hạn như tội mưu sát ngài Sherlock Holmes.

- Ôi! Không phải như vậy đâu! Tôi không muốn dính líu vào vụ này. Chỉ có ngài mới

được lãnh trọng trách làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài đã tốn công sức đề tiến hành.

Xin chúc mừng ngài Lestrade! Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và lòng

quả cảm, đầy mưu lược, cuối cùng ngài đã bắt được kẻ kia.

- Người kia là ai vậy? Hắn ta là ai, thưa ngài Holmes.

- Người mà, cả ngành cảnh sát đã hoài công tìm kiếm, truy nã. Đại tá Sebastian Moran,

kẻ mà vào đêm 30 tháng trước đã bắn chết ngài Ronald Adair bằng khẩu súng hơi, bắn qua

cửa sổ tầng hai ngôi nhà 427, phố Park Lane. Chúng ta cần lời buộc tội như vậy... Còn bây

giờ, Watson, nếu cậu không sợ gió lùa từ cánh cửa sổ bị vỡ kính, thì chúng ta sẽ cùng nhau

ngồi trong phòng tớ, và hút với nhau điếu thuốc. Tớ hy vọng sẽ làm cho cậu khuây khỏa

phần nào.

* * *

Sự quan tâm thường xuyên của anh Mycroft Holmes và sự chăm sóc tận tụy của bà

Hudson, căn hộ của chúng tôi vẫn như xưa, không hề có gì thay đổi. Thú thật, khi bước vào,

tôi lấy làm ngạc nhiên vì sự tươm tất hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết đều nằm ở vị trí

cũ. Ở góc dành riêng cho những thí nghiệm hóa học, một chiếc tủ bằng gỗ thông vẫn như

xưa, vẫn những vết ố do acide mạnh. Trên giá những chồng sách tra cứu, những mẩu tin cắt

từ các tờ báo vẫn được sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi chỉ muốn ném hết những thứ

chết tiệt kia vào lửa cho rảnh! Khi tôi nhìn hết một lượt, thì những bản biểu đồ, hộp đựng

đàn violone, chiếc hộp Ba tư đựng thuốc lá lại hiện lên trước mắt tôi. Hai người có mặt

trong phòng. Một là bà Hudson chạy vồn vã đón mừng chúng tôi với nụ cười lấp láy trên

môi. Người thứ hai, người mặc đồ màu cũ kĩ, đã đóng một vai rất quan trọng trong những

sự kiện đêm hôm qua. Đó là bức tượng bằng sáp của bạn tôi, đã được tô màu, được tạc thật

khéo léo do một bàn tay điêu luyện nhào nặn, trông giống như thật. Bức tượng được đặt trên

một chiếc ghế đẩu không cao, được khoác chiếc áo bành tô cũ của Sherlock Holmes trông

rõ khéo, từ ngoài đường nhìn vào thì khó ai tưởng đó là tượng.

- Bà đã thực hiện tất cả chỉ dẫn của tôi một cách tuyệt vời. - Holmes nói.

- Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như ngài chỉ bảo thưa ngài.

- Tốt, bà đã làm việc đó không thể chê vào đâu được Bà có thấy viên đạn đâm vào đâu

không?

- Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng đẹp đẽ của ngài. Nó xuyên qua

đầu và cắm vào tường. Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.

Holmes chìa cho tôi xem đầu đạn.

- Đầu đạn súng lục mềm mại, Watson, cậu hãy nhìn xem. Thật là cự phách! Có ai dám

nghĩ viên đạn này lại được bắn ra từ khẩu súng hơi? Rất tuyệt, bà Hudson, xin cảm ơn bà vì

sự giúp đỡ... Còn bây giờ, Watson, cậu hãy ngồi vào vị trí cũ của mình như thuở nào. Tớ

muốn tâm sự với cậu đôi điều.

16

Anh cởi chiếc áo khoác ra, rồi lấy chiếc áo choàng trên bức tượng khoác vào. Trước mặt

tôi lại xuất hiện một Sherlock Holmes ngày xưa.

- Thần kinh của người thợ săn già vẫn còn vững, cặp mắt vẫn còn tinh. - Anh nói và cười,

vừa nhìn cái sọ của bức tượng bằng sáp bị bắn thủng. - Bắn trúng chính giữa gáy và làm

chảy não. Đúng là một tay thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tớ nghĩ rằng, ở London

này địch thủ của hắn không phải là nhiều. Trước kia cậu có bao giờ nghe tên hắn hay chưa?

- Không, tớ chưa từng nghe.

- Ừ nhỉ, thế mà tớ quên! Cách đây không lâu, cậu đã thú nhận, thậm chí cậu còn chưa

nghe đến tên giáo sư James Moriarty, đó là một bộ óc của thế kỷ chúng ta. May quá, cậu lấy

giúp cặp đựng tài liệu theo dõi tiểu sử...

Sau khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái trong chiếc ghế bành và khoan khoái thở

ra từng đụn khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang giấy.

- Vần chữ "M", tớ có một bộ sưu tầm khá hoàn chỉnh, - Anh nói. - Chỉ một cái tên

Moriarty, cũng đủ làm cho vần "M" trở nên nổi tiếng. Còn cái tên Morgan là một tên ghê

tởm. Tên Merridew, có một trí nhớ khó ai sánh kịp. Tên Mathews - chính là tên làm gẫy

chiếc răng nanh bên trái của tớ ở phòng đợi nhà ga Charing Cross. Còn đây là anh bạn của

chúng mình ngày hôm nay.

Anh đưa cho tôi tập tài liệu, tôi đọc:

"Moran Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ trong trung đoàn biệt kích số một ở

Bangalore. Sinh năm 1840 tại London. Con trai của ngài Augutus Moran người - được

thưởng huân chương Banhi, từng công tác tại dinh toàn quyền Anh tại Persia. Tốt nghiệp

trường trung học Eton và đại học tổng hợp Oxford. Từng tham gia các chiến dịch Jowaki,

Afghan, Charasiab, Sherpur, Cabul. Là tác giả của các cuốn sách "Cuộc đi săn mãnh thú ở

miền Tây Himalayas" (1881); và "Ba tháng sống trong rừng nhiệt đới" (1884). Địa chỉ Phố

Conduit. Tham gia các câu lạc bộ: Anh - Ấn, Tankerville, câu lạc bộ chơi bài Bagatelle".

Ngoài lề được ghi bằng nét chữ của Holmes:

"Một tên nguy hiểm nhất của London, đứng sau Moriarty".

- Thật kỳ lạ! - Tôi lên tiếng, và đưa trả Holmes cặp tài liệu. - Dường như cuộc đời của

hắn là bước đường của một người lính trung thành.

- Cậu nói đúng. - Holmes đáp. - Trước kia hắn không hề làm việc gì xấu xa. Hắn là con

người có bộ thần kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây giờ vẫn lưu truyền một huyền thoại kể

rằng: Hắn ta đã bò trong lòng một con sông cạn, đã cứu thoát một người khỏi những móng

vuốt của một con hổ bị thương. Có những cây gỗ, lúc đầu mọc, phát triển bình thường, rồi

đến một độ cao xác định nào đó, bỗng nhiên phát hiện trong quá trình phát triển của mình

một sự biến đổi kỳ quặc so với mức bình thường. Đối với con người cũng xẩy ra điều tương

tự. Theo thuyết của tớ, mỗi cá nhân trong quá trình phát triển, đều lặp lại lịch sử phát triển

của tất cả tổ tiên. Tớ cho rằng, mỗi một biến động bất ngờ về phía lương thiện hay độc ác

đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan tác động rất mạnh; muốn biết được quá khứ của

17

một người, cần phải lục xem trong gia phả người ấy; và suy luận rộng ra, tiểu sử của một

con người, đó như là một mẩu nhỏ trong tiểu phẩm cả tiểu sử của toàn bộ gia đình.

- Thôi được, nhưng tớ thấy cái, thuyết lý của cậu hơi viển vông.

- Tớ sẽ chấm dứt câu chuyện. Có những nguyên nhân này, hoặc nguyên nhân khác, đã

đẩy đại tá Moran đi theo con đường ngu xuẩn. Khi còn ở Ấn Độ có một kẻ đê tiện đã dựng

lên câu chuyện nào đó gây căng thẳng cho ông ta, nhằm chống ông ta một cách kịch liệt,

đến nỗi ông ta không thể nào ở lại được nữa. Ông ta xin về hưu, trở lại đất London, và tại

đây ông ta đã bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư Moriarty đã phát hiện ra ông ta, trong

một thời gian dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty. Thằng giáo sư này cung cấp tiền

nong cho ngài đại tá tiêu xài một cách phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu mới cần tới sự

giúp đỡ của hắn. Chỉ trong hai hoặc ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình

thường không thể đảm đương nổi. Có lẽ, cậu còn nhớ cái chết kỳ quặc của bà Stewart ở

Lauder năm 1887? Không nhớ à? Tớ chắc chắn chuyện này không thể không có tay Moran

nhúng vào, mặc dù không có chứng cớ để buộc tội hắn ta. Ngài đại tá có nghệ thuật giấu

mình một cách tài tình. Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết, thì chỉ riêng hắn là không làm

sao lôi cổ ra tòa được.

Watson, cậu còn nhớ buổi tối, khi tớ đến chỗ cậu, tớ phải kéo rèm cẩn thận không? Tớ sợ

phát súng bắn ra từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ cậu cho tớ là kỳ quặc, nhưng tớ biết

mình cần phải làm gì. Tớ đã nghe nói về khẩu súng đặc biệt kia rồi. Hơn nữa, tớ biết khẩu

súng đang nằm trong tay một nhà thiện xạ. Khi tớ với cậu đi sang Thụy Điển, Moran và

Moriarty đã đuổi theo chúng ta, và chính hắn đã làm cho tớ bàng hoàng trong mấy phút ở

khe lở của thác Reichenbach.

Cậu biết không, khi còn ở bên Pháp tớ vẫn thường xuyên theo dõi tin tức trên báo chí

Anh, tớ hy vọng sẽ tìm ra đầu mối nào đó để bắt hắn ta phải ngồi vào lồng sắt. Khi hắn còn

nhởn nhơ dạo chơi trên đất London thì tớ chưa thể tính chuyện về được. Cả ngày lẫn đêm,

mối đe dọa kia cứ ám ảnh tớ, dứt khoát hắn sẽ tìm mọi cách để giết tớ. Tớ phải làm gì?

Chẳng lẽ gặp trực tiếp và bắn chết hắn? Tớ không thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, chính tớ

sẽ bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đến báo với tòa? Không ích lợi gì, vì tòa sẽ không đủ

chứng cớ để xét xử, chẳng lẽ xử hắn bằng những vấn đề nghi vấn? Tớ bất lực hoàn toàn,

không có cách nào để giải thoát được. Tớ đã trải qua một quá trình kiên trì không mệt mỏi

theo dõi hắn bằng tin tức các vụ án, bởi tớ tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tớ

cũng phanh phui ra hắn.

Vụ ám sát đầy bí ẩn anh chàng Ronald Adair đã dẫn đến sự chín muồi của những ngày

kiên trì mong đợi, giờ khởi hành đã đến. Không biết tớ có dám khẳng định Moran đã bắn

chết chàng Ronald hay không? Hắn ta đã cùng chơi bài với chàng thanh niên, và bám gót

anh ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn chết chàng trai quá cửa sổ đã mở. Đúng, không còn

nghi ngờ gì nữa. Chỉ một đầu đạn, cũng đủ chứng cớ để ngài đại tá Moran chui vào giá treo

cổ. Ngay lập tức tớ quay về London. Tên cận vệ của Moran đã phát hiện ra tớ, hắn kịp thời

thông báo cho Moran. Thằng này thế nào cũng biết mối liên hệ giữa vụ án mạng và sự quay

18

về của tớ, hắn sẽ lo lắng mất ăn mất ngủ. Tớ tin, hắn sẽ khử tớ ngay lập tức, không chậm

trễ. Chắc chắn hắn sẽ dùng thứ vũ khí giết người độc đáo - khẩu súng hơi. Tớ phải chuẩn bị

đón hắn, thế là bức tượng bằng sáp được ra đời không chê vào đâu được. Tớ báo trước cho

bên cảnh sát, để họ giúp một tay (với con mắt tinh ranh cậu đã phát hiện ra hai viên cảnh sát

thấp thoáng chỗ cổng ra vào). Tớ chọn địa điểm rất thuận tiện cho việc quan sát, nhưng thú

thật tớ không ngờ đối thủ của tớ cũng chọn đúng vị trì ấy để tấn công. Tất cả chỉ có thế,

Watson. Chắc cậu đã hiểu mọi chuyện.

- Chưa hết, - Tôi nói. - Cậu chưa giải thích cho tớ chuyện vì sao ngài đại tá Moran lại bắt

buộc phải thủ tiêu anh chàng Adair ?

- Anh bạn của tôi ơi, chúng ta lại rơi vào lĩnh vực đoán mò rồi, trong lĩnh vực này chỉ có

logic không thì quả là quá ít ỏi. Mỗi người có thể xây dựng riêng cho mình một giả thuyết,

dựa trên cơ sở những dữ kiện đang tồn tại. Giả thuyết của cậu cũng có khả năng trùng với

giả thuyết của tớ.

- Có nghĩa là, cậu đã nghĩ ra giả thuyết?

- Theo tớ nghĩ, giải thích những dữ kiện đã có không khó. Qua điều tra, người ta đã xác

lập là trước lúc xảy ra vụ án không lâu, đại tá Moran và anh chàng Adair đã cùng ở một hội

chơi bài và ăn được một món tiền khá lớn. Nhưng Moran đã chơi không trung thực. Từ lâu,

tớ được biết hắn là một tay cờ bạc gian lận. Có lẽ, trong ngày xảy ra vụ án, Adair đã cảnh

cáo Moran vì những trò gian lận. Anh chàng Adair đã giáp mặt với đại tá, chắc có dọa sẽ tố

cáo hắn, nếu như hắn không tự nguyện rời bỏ câu lạc bộ và từ nay về sau không được chơi

cái trò ma cô ma cậu nữa. Một chàng trai miệng còn hơi sữa như Adair , lại dám công khai

dọa tố cáo buộc tội một con người đáng tuổi cha chú của anh ta, hơn nữa đang chiếm một

địa vị sang trọng trong xã hội! Có lẽ, đúng hơn, anh ta đã nói riêng với Moran, không có

người làm chứng. Nhưng với Moran, một con người chuyên sống bằng bạc bịp, nếu bị khai

trừ ra khỏi câu lạc, bộ thì khác nào bị cắt đường sinh sống? Đó là nguyên nhân để hắn giết

Adair, và giết vào chính thời điểm anh chàng trai trẻ chưa kịp sử dụng kết quả cuộc chơi

không trung thực; chưa kịp tính phần thắng của anh ta là bao nhiêu và anh ta cần phải trả lại

những người thua cuộc là bao nhiêu. Anh ta đã khóa chặt cửa lại để không muốn mẹ và em

gái thấy anh ta đang tính toán và thắc mắc về những cái tên ghi trong tờ giấy và những

chồng tiền đặt trên bàn. Sao, theo cậu, lời giải thích của tớ có phù hợp hay không?

- Tớ cho rằng, cậu đã nói trúng tim đen hắn.

- Cuộc điều tra xét hỏi sẽ chứng minh cho lời giải thích của tớ đúng hay sai. Từ đây đại tá

Moran không còn là mối lo ngại cho chúng ta, và khẩu súng hơi kỳ diệu của Von Herder sẽ

trang điểm cho bộ sưu tập của Viện bảo tàng Scotland Yard. Từ nay, không còn ai quấy rầy

ngài Sherlock Holmes tham gia vào công việc giải quyết những câu chuyện bí ẩn, nhưng

đầy lý thú. Cuộc sống phức tạp ở London trở nên phong phú và bình yên, êm ả hơn.

Hình nhân nhảy múa

Holmes ngồi vài giờ một cách lặng lẽ, chăm chú với các phản ứng hóa học để điều chế ra

một chế phẩm có mùi rất khó chịu. Cái lưng dài và cong, cái đầu như được cắm vào ngực,

trông Holmes giống như một con chim khổng lồ màu xám.

- Này Watson, - anh nói một cách thình lình, - Anh không định đầu tư mạo hiểm vào

Nam Phi sao?

Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Tuy tôi không lạ gì những suy luận của Holmes, nhưng cái cách

thâm nhập bất thình lình vào cả những suy nghĩ của tôi thì tôi không thể nào hiểu nổi.

- Làm sao anh biết được vậy? - Tôi hỏi.

Holmes quay lại, chiếc ống nghiệm bốc khói vẫn cầm trên tay, đôi mắt lóe lên một ánh

tinh nghịch.

- Watson, hãy thú nhận là anh bị giật nảy người.

- Tôi?

- Tôi nghĩ là anh nên xác nhận trên giấy về hiệu ứng đó.

- Tại sao?

- Bởi vì chỉ trong năm phút nữa anh sẽ nói rằng nó đơn giản một cách vô lý.

- Tôi hứa là tôi sẽ không nói điều đó.

- Anh thấy đấy, Watson thân mến của tôi - Holmes đặt chiếc ống nghiệm vào cái giá, và

bắt đầu tư thế thuyết trình như một giáo sư ở trong lớp học - Thật ra không khó lắm để xây

dựng một chuỗi gồm các suy luận có liên quan đến cái trước nó và sự đơn giản bên trong

nó. Khi làm như vậy, điều đơn giản đánh đổ tất cả các suy luận, liên kết giữa yếu tố bắt đầu

và kết thúc có thể sản sinh, thậm chí có thể gây ra một sự bất ngờ. Như lúc này, thật không

khó lắm, với một dấu vết nhỏ giữa ngón trỏ và ngón cái của bàn tay trái, tôi có thể suy luận

chắc chắn là anh không định đầu tư khai thác vàng.

- Tôi không nhìn thấy sự liên hệ nào cả.

- Có vẻ là như vậy. Nhưng tôi có thể nhanh chóng cho anh thấy một liên hệ gần gũi.

Những đoạn thiếu của chuỗi móc xích rất đơn giản. 1. Anh có vết phấn giữa ngón trỏ và

ngón cái bàn tay trái khi anh trở về từ câu lạc bộ tối qua. 2. Anh chỉ có vết phấn ở đó khi

anh chơi billiards. 3. Anh không bao giờ chơi billiards, trừ khi với Thurston. 4. Bốn tuần

trước anh có kể tôi nghe Thurston có một cơ hội đầu tư ở Nam Phi trong một tháng sau và

anh ta muốn anh cùng hùn vốn. 5. Quyển séc của anh bỏ trong ngăn kéo của tôi, khóa lại,

nhưng anh đã không hỏi về chìa khóa. 6. Anh không định đầu tư vào lĩnh vực này.

- Đơn giản vậy thôi sao! - Tôi kêu lên.

- Đúng vậy đó! - Holmes nói với một chút giễu cợt - Mọi vấn đề trở thành rất trẻ con khi

nó đã được giải thích với anh. Đây là một vấn đề chưa được giải thích. Xem thử anh có thể

làm gì với cái đó, bạn Watson thân mến.

Holmes cầm mảnh giấy trên bàn đưa cho tôi rồi quay lại với công việc phân tích hóa học.

Tôi ngạc nhiên thấy tờ giấy được vẽ những chữ tượng hình.

72

- Chú nhãi nào vẽ thế !

- Ý kiến của anh vậy à?

- Cái này là cái gì?

- Ông Hilton Cubitt ở Riding Thorpe Manor, hạt Norfolk cũng muốn biết đó là cái gì.

Ông đã chuyển nó cho chúng ta ngay từ chuyến thư đầu tiên, còn ông sẽ đến đây bằng tàu

hỏa. Anh có thấy chuông reo không? Có lẽ ông ta đến đấy.

Tiếng những bước chân nặng nề vang lên ở cầu thang. Lát sau, một người cao lớn, bảnh

bao, má ửng hồng bước vào phòng. Sau khi bắt tay chúng tôi, ông định ngồi xuống ghế. Ðột

nhiên ông chú ý ngay đến mảnh giấy có những ký hiệu ngộ nghĩnh tôi mới xem xong và đặt

trên bàn.

- Ông nghĩ sao về cái này, ông Holmes. Người ta nói rằng ông là người ưa thích những

chuyện bí ẩn.

- Ðây thực sự là những hình vẽ rất bí ẩn. Thoạt nhìn có thể coi nó là trò nghịch ngợm của

trẻ con. Người lớn nào có thể vẽ những hình người nhảy múa rời rạc như vậy? Thế nhưng vì

sao ông lại cho rằng mảnh giấy quái đản này có một ý nghĩa quan trọng?

- Tôi sẽ không gán cho nó một ý nghĩa nào cả, nếu không có chuyện vợ tôi. Nàng đã chết

ngất khi nhìn thấy nó.

Holmes khẽ nâng tờ giấy lên. Ðó là một mảnh giấy được xé ra từ một cuốn sổ tay. Những

hình ảnh như thế này được vẽ bằng bút chì trên mặt giấy. Holmes chăm chú xem tờ giấy,

thận trọng gập lại và cất vào trong ví.

- Câu chuyện hứa hẹn nhiều điều bí ẩn khác thường. Trong thư, ông đã kể rồi, song xin

ông vui lòng kể lại chuyện ấy cho người bạn của tôi, bác sĩ Watson đây nghe.

- Trước hết, tôi xin nói là tôi không phải là một người giàu có, dù dòng họ của tôi được

coi là dòng quý tộc danh tiếng nhất ở Norfolk từ 5 thế kỷ nay. Năm ngoái, khi đi dự hội ở

London, tôi trọ lại trong một ngôi nhà trưng bày đồ gỗ ở quảng trường Russel và vị linh

mục của địa phương chúng tôi cũng dừng chân tại đó. Một cô gái trẻ người Mỹ là Elsie

Patrick, cũng sống trong ngôi nhà này. Chúng tôi nhanh chóng trở nên thân nhau. Chưa đầy

một tháng tôi đã yêu nàng. Chúng tôi làm phép cưới ở nhà thờ rồi cùng nhau đến sống tại

Norfolk. Với tôi, nàng rất thành tâm và thẳng thắn. Elsie nói rằng tôi có quyền từ chối lễ

cưới nếu tôi muốn:

"Cuộc đời trước đây của em có nhiều chuyện thật không vui. Em muôn quên đi tất cả.

Em không muốn trở lại quá khứ của mình. Nếu lấy em thì có nghĩa là anh lấy một người

đàn bà chưa hề làm điều gì đáng phải hổ thẹn cả. Anh hãy tin vào lời em nói, và cần cho

phép em không đả động gì tới quãng đời quá khứ của em. Nếu không được như vậy, anh

hãy quay trở về Norfork đi ! Em sẽ tiếp tục sống cô độc như trước đây".

73

Nàng đã nói với tôi như vậy vào hôm trước lễ cưới. Tôi đã đồng ý. Chúng tôi thành vợ

chồng được một năm nay. Thời gian trôi đi thật êm đềm. Thế nhưng cách đây một tháng,

vào cuối tháng 6. Vợ tôi nhận được một lá thư gởi từ Mỹ. Mặt nàng xanh tái. Nàng đọc

xong lá thư rồi ném vào lửa. Nàng không nhắc lại chuyện đó, và tôi cũng không hỏi, vì tôn

trọng lời hứa của mình! Có điều, từ đấy trở đi, nàng không bình tâm được lấy một phút.

Gương mặt nàng luôn tỏ ra khiếp đảm. Có thể thấy rõ rằng nàng đang mong đợi cái gì đó.

Rồi cách đây gần một tuần, tôi đã nhìn thấy trên bậu cửa sổ những hình nhảy múa như trên

mảnh giấy này. Chúng được vẽ bằng phấn. Tôi nghĩ cậu bé làm ở tàu ngựa đã vẽ chúng.

Nhưng cậu ta thề thốt rằng cậu không biết gì cả. Chúng xuất hiện vào ban đêm. Tôi lau sạch

đi, và vô tình nhắc tới chúng trong một lần nói chuyện với nàng. Nàng yêu cầu tôi chỉ cho

nàng coi, nếu tôi lại trông thấy những hình nhân như thế. Suốt một tuần liền, không thấy

chúng xuất hiện. Thế rồi sáng hôm qua, tôi nhặt được mảnh giấy này trên chiếc đồng hồ mặt

trời ngoài vườn. Tôi chỉ cho nàng coi và lập tức nàng ngất xỉu đi. Từ giờ phút ấy, nàng sống

chập chờn như trong mơ. Ðôi mắt nàng tràn đầy nỗi khiếp sợ. Còn tôi thì khác, ông sẽ nói

cho tôi biết cần phải làm gì. Tôi không giàu có, nhưng sẵn sàng tiêu đến đồng xu cuối cùng

để bảo vệ nàng.

Tình yêu thương và lòng chung thủy với vợ được ghi lại trên từng nét mặt nhỏ nhất của

khuôn mặt ông. Holmes nghe hết câu chuyện với sự chăm chú sâu sắc. Sau đó anh trầm

ngâm hồi lâu. Cuối cùng, anh nói:

- Ông không thẳng thắn yêu cầu vợ ông nói hết ra những bí ẩn hay sao, thưa ông Cubitt?

Hilton Cubitt lắc lắc cái đầu đồ sộ của mình:

- Lời hứa ông Holmes ạ! Nếu Elsie muốn, thì nàng đã kể cho tôi nghe rồi. Còn nếu không

muốn, tôi không ép nàng.

- Nếu vậy, tôi sẽ hết lòng giúp ông. Hãy nói cho tôi biết có người nào ở nơi khác đến

sống cạnh gia đình ông không?

- Không.

- Tôi biết ông sống ở một nơi rất hẻo lánh. Sự xuất hiện của bất kỳ người lạ nào không

thể không để lại dấu vết.

- Nếu có người lạ mặt nào ở ngay cạnh nhà tôi, tất nhiên tôi đã biết. Có điều, cách không

xa từ chỗ chúng tôi có vài làng ven biển với những bãi tắm lớn. Các điền chủ đã cho những

người từ xa đến thuê các phòng nghỉ khang trang.

- Trong những hình vẽ kỳ quái này chắc chắn ẩn chứa một ý nghĩa nào đấy. Theo ý tôi,

ông cần trở lại Norfolk, chú ý theo dõi tất cả những gì diễn ra chung quanh. Còn khi ông

phát hiện ra ở nơi nào đó những hình nhân nhảy múa mới, thì ông cần chép y lại một cách tỷ

mỉ nhất. Ðáng tiếc là ông đã không sao lại những hình người được vẽ bằng phấn trên bậu

cửa! Hãy dò xét tất cả những người quen biết xuất hiện ở cạnh nhà. Và khi nhận ra được

một chút gì mới, ông hãy đến ngay chỗ tôi. Nếu thấy cần thiết, tôi sẵn sàng đến chỗ ông...

Sau cuộc gặp gỡ nói trên, Holmes thường hay trầm ngâm suy nghĩ. Nhiều lần tôi trông

thấy anh chăm chăm xem những hình người ngộ nghĩnh được vẽ trên đá. Tuy nhiên, chỉ sau

74

hai tuần, anh lại bắt đầu trò chuyện với tôi về chuyện này. Lúc tôi sửa soạn bước ra khỏi

nhà, anh đột nhiên ngăn tôi lại:

- Tốt hơn là anh hãy ở nhà.

- Vì sao?

- Sáng nay tôi nhận được điện của Hilton Cubitt. Ông ấy có ý định đi London vào lúc 10

giờ. Chỉ vài phút sau nữa, ông ta sẽ đến đây. Theo bức điện, tôi hiểu rằng ông đã có những

tin tức cực kỳ quan trọng.

Chúng tôi chờ đợi không lâu thì vị điền chủ đã từ sân ga phóng thẳng đến chỗ tôi. Mặt

ông ta lộ rõ vẻ âu lo.

- Câu chuyện khiến tôi bực mình, ông Holmes ạ! - Ông ta buông mình xuống ghế bành và

nói. - Thật là quá khổ tâm khi ta cảm thấy bị những người xa lạ vô hình toan đẩy ta vào một

hiểm họa nào đấy, còn khủng khiếp hơn nữa khi nhận ra rằng từ ngày này qua ngày khác,

những con người đó dần dần hủy diệt người thân của ta. Nàng đã giấu tôi?

- Bà ấy đã nói với ông điều gì phải không?

- Không nói điều gì cả. Có lúc nàng như muốn kể cho tôi nghe hết thảy, chúng tôi không

đủ cương quyết. Tôi toan giúp nàng, thì tôi vụng về đến mức chỉ làm nàng sợ hãi thêm.

Nàng bắt đầu hay nói về chuyện chúng tôi thuộc một dòng họ lâu đời như thế nào, mọi

người trong dòng họ kính trọng tôi ra sao, chúng tôi tự hào về lương tâm trong sạch của

mình như thế nào. Lần nào cũng vậy, tôi cảm thấy nàng muốn nói thêm một điều gì, nhưng

rồi lại thôi.

- Ông có phát hiện ra cái gì không?

- Rất nhiều, ông Holmes ạ Tôi đưa đến cho ông hàng đống những hình nhân nhảy múa

mới đây. Nhưng quan trọng nhất là cái này.

- Ai vẽ chúng thế.

- Tôi nhìn thấy nó sau giờ làm việc. Nhưng hãy cho phép tôi kể theo trình tự. Sau khi từ

chỗ ông trở về, ngay sáng hôm sau, tôi đã tìm thấy những hình người nhảy múa mới. Chúng

được vẽ bằng phấn trên cánh cửa sổ màu đen của kho chứa củi nằm cạnh bãi cỏ. Tôi sao

chép lại tất cả. Ðây, chúng đây!

Ông ta rút tờ giấy, mở ra và đặt lên bàn. Những chữ tượng hình như thế này được vẽ trên

mặt giấy.

- Tuyệt vời! Thật tuyệt vời! Hãy tiếp tục đi!

- Khi vẽ lại xong, tôi xóa chúng. Thế mà hai ngày sau, trên cánh cửa ấy lại xuất hiện hàng

mới. Chúng đây!

75

Holmes bật cười vì vui sướng:

- Tài liệu của chúng ta được tăng lên mau chóng.

- Sau 3 ngày, trên chiếc đồng hồ mặt trời lại xuất hiện một lá thư nhỏ nằm ở dưới một

viên đá. Chúng đây! Ông thấy không, những hình vẽ ở trên đó chính là hình vẽ ở lá thư đầu

tiên. Thế là tôi quyết định rình người đã vẽ. Suốt từ một đến hai giờ khuya, tôi cầm súng

lục, ngồi ở cạnh 1 cửa sổ và nhìn ra khu vườn đầy ánh trăng. Tôi nghe thấy tiếng những

bước chân sau lưng mình. Ngoái cổ lại, tôi nhận ra vợ tôi trong bộ quần áo dài mặc ở nhà.

Nàng năn nỉ tôi trở vào giường nằm. Tôi thành thực nói với nàng rằng tôi muốn xem ai là

người làm trò tinh nghịch ấy. Nàng nói rằng đây chỉ là một trò đùa vớ vẩn, không đáng quan

tâm đến.

- Nếu chuyện đó làm anh bực bội như thế, thì chúng ta hãy cùng ra đi. Khi ấy sẽ không

một ai quấy rầy chúng ta nữa.

- Sao kỳ vậy? Nếu làm vậy, cả dòng họ sẽ chế nhạo chúng ta.

- Hãy đi nghỉ thôi! Sáng mai chúng ta sẽ bàn tiếp chuyện đó vậy. - Nàng nói.

Tự nhiên khuôn mặt nàng tái xám đi (tôi nhận ra điều này thậm chí ngay cả dưới ánh

trăng). Bàn tay nàng bám chặt vào vai tôi. Có một cái gì động đậy trong bóng tối của kho

chứa củi. Một bóng đen gập người từ góc vườn trườn ra rồi ngồi lại trước cửa. Tôi giật lấy

khẩu súng lục, chạy lao người về phía trước. Nhưng vợ tôi đột nhiên ôm chầm lấy tôi, giữ

tôi đứng lại. Tôi càng cố giẫy ra, nàng càng bám lấy tôi táo tợn hơn. Cuối cùng, tôi dứt được

ra. Song lúc đẩy cửa chạy tới kho chứa củi thì bóng đen đã biến mất. Tôi lùng sục khắp

vườn vẫn không tìm ra dấu hắn. Sáng hôm sau, tôi lại xem xét cửa kho củi thì dưới hàng

chữ mà tôi đã có dịp nhìn thấy, lại xuất hiện thêm vài hình người mới.

- Ông có chép lại không?

- Có chứ!

Ông ta lại cho chúng tôi coi một mảnh giấy khác. Những hình người nhảy múa mới có

dáng vẻ như sau.

- Những hình người này được vẽ thêm vào hàng chữ trước đây hay được vẽ riêng ra? -

Holmes hỏi, vẻ xúc động.

- Chúng được vẽ trên thang gỗ, phía dưới cánh cửa.

- Thật tuyệt. Ðiều này đối với chúng ta hệ trọng hơn tất cả. Nó gieo niềm hy vọng. Ông

Hilton Cubitt, ông hãy tiếp tục câu chuyện lý thú này!

- Tôi rất giận vợ tôi vì nàng đã ngăn không cho tôi lùng bắt tên vô lại. Tôi muốn nhờ năm

sáu chàng trai rình trong bụi cây, chờ dịp nện cho nó một trận nên thân.

- Căn bệnh quá trầm trọng sẽ không được chữa khỏi bằng thứ thuốc thông thường đâu.

Ông có thể lưu lại London trong bao lâu? - Holmes hỏi.

- Tôi phải trở về ngay hôm nay. Nàng rất lo và đã yêu cầu tôi quay về càng sớm càng tốt.

76

- Ông hoàn toàn có lý. Song, giá như ông có thể ở lại thì sau một hoặc hai ngày gì đó, tôi

sẽ cùng đi với ông. Dầu sao cũng phải để những mảnh giấy này lại cho tôi.

Theo thói quen nghề nghiệp, Holmes gắng tỏ ra thật bình tĩnh. Nhưng tôi nhận thấy anh

đang xúc động. Ðôi vai rộng của Hilton Cubitt vừa khuất sau cánh cửa, anh bạn tôi đã chạy

bổ đến bàn, trải các mảnh giấy ra. Trong vòng hai tiếng, anh đã viết hết từ tờ này đến tờ

khác la liệt những con số và chữ cái. Công việc này cuốn hút anh tới mức hình như anh

quên mất sự có mặt của tôi trong phòng. Cuối cùng, anh hài lòng kêu lên, nhổm phắt dậy,

vừa xoa xoa hai tay vừa chạy khắp phòng. Sau đó anh chuyển đi một bức điện dài.

- Có lẽ sáng mai tôi và anh sẽ cùng đi Norfolk. Chắc chắn cuốn sách của anh sẽ phong

phú thêm nhờ có câu chuyện ly kỳ này.

Óc tò mò hành hạ tôi, nhưng tôi biết Holmes chỉ nói khi nào thấy cần thiết. Thế là tôi nén

lòng chờ đợi. Thế nhưng không có điện trả lời. Suốt hai ngày liền, Holmes phập phồng lắng

nghe từng tiếng chuông reo. Chiều ngày thứ hai chúng tôi nhận được thư của Hilton Cubitt.

Ông ta cho biết ở chỗ ông tất cả đều yên tĩnh nhưng sáng nay, trên giá đỡ của chiếc đồng hồ

mặt trời đã xuất hiện hàng chữ dài nhất. Bản sao chép chính xác dòng chữ này được đính

kèm lá thư. Hàng chữ được kẻ như thế này.

Holmes gập người trước bản vẽ kỳ quái. Bất thình lình anh nhổm phắt dậy, kêu lên ngạc

nhiên và giận dữ. Khuôn mặt lo âu của anh trở nên cau có:

- Chúng ta đã để cho công việc đi quá xa mất rồi! Buổi chiều có chuyến tàu nào đi tới

North Walsham?

Tôi liếc nhìn vào bảng giờ tàu đầu tiên.

- Vậy sự có mặt của chúng ta ở đó là rất cần thiết. Người khách hàng của chúng ta đang

sa vào mạng lưới cực kỳ nguy hiểm!

Chúng tôi vừa mới xuống North Walsham thì người xếp ga đã chạy hỏi:

- Các ông là những thám tử từ London tới?

- Sao ông lại nghĩ vậy?

- Bởi vì viên thanh tra Martin cũng từ Norwich qua đây. Các ông là bác sĩ? Bà ta vẫn còn

sống, các ông sẽ còn kịp để cứu bà ta...

Holmes cau có và lo ngại:

- Chúng tôi sẽ đến Ridling Thorpe Manor. Nhưng chưa rõ chuyện gì đã xảy ra ở đó?

- Một chuyện khủng khiếp - Người xếp ga nói - Ban đầu bà ta bắn ông ấy, rồi sau đó tự

bắn mình. Những người hầu gái kể như vậy. Ông ta đã chết và bà ấy cũng sẽ chết. Than ôi!

Holmes nhảy lên xe ngựa. Anh hoàn toàn im lặng trong suốt cuộc hành trình. Tôi ít có

dịp thấy anh rơi vào một tâm trạng âu sầu đến thế. Ngay từ đầu, tôi đã thấy anh hết sức lo

ngại lúc xem qua những tờ báo buổi sáng. Thế nhưng lúc này, khi những nỗi lo sợ tồi tệ

nhất của anh đã được xác nhận thì anh như hóa đá. Anh ngồi ngả người về phía sau, đắm

77

mình trong những ý tưởng buồn bã. Trong khi ấy, chúng tôi đi qua một trong những nơi kỳ

thú nhất của nước Anh. Cư dân trong vùng sống thưa thớt. Nhưng theo mỗi bước chân đi

nổi bật lên trên cánh đồng xanh mướt là những chiếc tháp cao, to, xác nhận niềm vinh

quang của miền Ðông nước Anh xưa kia. Cuối cùng, bác xà ích dùng roi chỉ cho chúng tôi

coi hai mái nhà nhọn đầu giữa thôn quê:

- Thái ấp Ridling Thorpe đấy!

Ðến gần ngôi nhà, tôi để ý thấy phía trước có một cái kho chứa củi màu đen nằm sau cái

sân um tùm và chiếc đồng hồ mặt trời đặt trên bệ. Một người lanh lợi với bộ ria tỉa tót cẩn

thận vừa nhảy từ xe hai bánh xuống. Ðó là viên thanh tra Martin. Ông ta kinh ngạc khi trông

thấy người bạn tôi.

- Thưa ông Holmes, tội ác đã được thực hiện vào lúc 3 giờ sáng. Do đâu mà ông biết

được và đã đến đây cùng một lúc với chúng tôi?

- Tôi đoán ra và đi đến để ngăn chặn tội ác.

- Ông có những tài liệu mà chúng tôi không có.

- Tôi chỉ có những tin tức nhận được từ những hình người nhảy múa. Tôi đã đến muộn,

không ngăn chặn được nó. Ông có cần tiến hành điều tra cùng với tôi không? Hay ông thích

để tôi tự tìm hiểu lấy?

- Ðược tiến hành cùng với ông là một vinh dự lớn đối với tôi, ông Holmes ạ. - Viên thanh

tra thành thật trả lời.

- Trong trường hợp này, tôi muốn lắng nghe những lời khai của các nhân chứng, và tận

mắt xem hiện trường.

Thanh tra Martin thông minh đến mức cho phép Holmes xử sự theo cách riêng của mình.

Bác sĩ địa phương, vừa ở trong phòng bà Hilton Cubitt bước ra. Ông nói rằng sức khỏe của

bà chưa hết hy vọng, viên đạn chỉ mới sượt vào não. Về câu hỏi bà ta tự bắn vào người hay

do một người nào khác bắn thì ông không dám quyết đoán. Ở bất kỳ trường hợp nào, phát

súng cũng được bắn từ một cự ly rất gần. Người ta chỉ tìm thấy trong phòng một khẩu súng

ngắn và hai vỏ đạn. Ông Hilton Cubitt bị bắn thẳng vào tim. Có thể giả thiết rằng trước tiên

ông ta bắn vợ và sau đấy bắn mình. Cũng có thể giả thiết chính bà vợ gây tội ác đầu tiên, vì

khẩu súng ngắn nằm trên vạt áo của bà.

- Ông khám xét nạn nhân chưa? - Holmes hỏi.

- Chưa. Chúng tôi chỉ mới nâng bà lên và chuyển đi.

- Ông ở đây lâu chưa, bác sĩ?

- Từ 4 giờ sáng.

- Có ai khác ngoài ông ở đây không?

- Có. Giám định viên.

- Ông đã hành động một cách thận trọng. Ai gọi ông đến?

- Chị hầu phòng Saunders.

- Chị ta là người đầu tiên báo động phải không?

- Chị ấy và bà King, người nấu bếp.

78

- Bây giờ họ ở đâu?

- Có lẽ ở trong bếp.

- Chúng ta sẽ bắt đầu nghe các lời khai của họ.

Gian phòng cũ kỹ được ghép bằng gỗ sồi với những cánh cửa cao biến thành phòng điều

tra. Holmes ngồi xuống ghế, mặt lạnh lùng. Tôi đọc trong ánh mắt của anh ý chí kiên quyết,

nếu cần có thể hiến cả cuộc đời mình để con người kia được toại nguyện. Trong phòng,

ngoài tôi ra còn có thanh tra Martin, ông bác sĩ và một cảnh sát nông thôn.

Lời khai của hai người đàn bà chính xác ở mức độ cao: Tiếng súng đã đánh thức họ dậy.

Sau chừng một phút, họ nghe phát súng thứ hai. Bà King đã chạy bổ tới chỗ cô Saunders.

Họ cùng xuống cầu thang. Cửa phòng bị mở toang, cây nến chiếu sáng trên bàn. Chủ nhân

nằm úp mặt xuống nền nhà ở giữa phòng, tắt thở. Vợ ông đang quằn quại cạnh cửa sổ, đầu

tựa vào tường. Máu đỏ khắp nửa mình. Bà ta vẫn thở, nhưng không thể nói được. Ngoài

hành lang cũng như trong phòng đều có khói và phảng phất mùi thuốc súng. Cửa sổ bị đóng

lại bằng chốt phía trong. Cả hai người đàn bà đều hoàn toàn khẳng định điều này. Ngay lập

tức, họ đi gọi bác sĩ và cảnh sát. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của người coi ngựa và chú bé làm ở

chuồng ngựa, họ đưa bà chủ bị thương sang phòng bà. Bà mặc bộ áo quần dài. Còn người

chồng thì mặc đồ trong nhà, phía ngoài choàng áo ngủ. Vợ chồng họ không bao giờ to tiếng

với nhau. Mọi người cho họ là cặp vợ chống thân ái nhất.

Trả lời thanh tra viên Martin, hai người phụ nữ nói rõ rằng tất cả song cửa sổ đều bị khóa

lại từ phía bên trong, rằng không một ai có thể thoát ra khỏi nhà. Khi trả lời Holmes, hai

người đều nhớ lại rằng họ ngửi thấy mùi thuốc súng ngay sau khi chạy ra từ phòng mình ở

lầu hai. Holmes nói với ông thanh tra:

- Chúng ta hãy chú ý tới sự việc này; còn bây giờ, cần xem xét căn phòng đã diễn ra tội

ác.

Ðó là một căn phòng rất bé. Các giá sách choán hết ba phía tường, bàn làm việc đặt cạnh

cửa sổ quay ra vườn. Chúng tôi để ý trước tiên đến thi thể kẻ bất hạnh nằm sóng soài trên

nền, áo quần xộc xệch, chứng tỏ ông đã bị dựng dậy từ giường một cách vội vã. Viên đạn

xuyên qua trái tim, kẹt lại trong người. Trên bộ quần áo cũng như hai bàn tay không có dấu

tích của thuốc súng; bác sĩ nói rằng trên người ông Cubitt, chỉ có dấu vết của thuốc súng ở

mặt, chứ không có trên bàn tay.

- Việc không có dấu vết của thuốc súng ở bàn tay chẳng chứng tỏ điều gì, nhưng sự hiện

diện của nó trên mặt lại chứng minh tất cả: Anh sẽ không làm vấy bẩn bàn tay khi anh bắn.

Bây giờ, có thể đưa thi thể ông Cubitt ra được rồi. Bác sĩ, có lẽ ông sẽ không tìm được các

viên đạn bắn bà Cubitt. - Holmes nói.

- Muốn vậy, buộc phải tiến hành một ca mổ nghiêm túc. Trong khẩu súng còn 4 viên đạn,

ngoài này có 2 phát súng và 2 vết thương. Thật ra không khó khăn gì khi xác định số phận

của từng viên đạn.

- Xin làm ơn xác định giùm số phận của viên đạn xuyên qua rìa khung cửa sổ kia kìa!

79

Anh đột nhiên quay người lại và dúng ngón tay chỉ vào lỗ thủng ở thanh nối phía dưới

của khung cửa sổ. Viên thanh tra kêu lên:

- Tài thật ông phát hiện ra cái đó bằng cách nào vậy?

- Tôi tìm ra vì tôi có ý đi tìm nó.

- Tài tình thật! - ông bác sĩ nói - Ông hoàn toàn có lý, nghĩa là phát súng thứ ba, và đã có

người thứ ba. Nhưng hắn là ai? Hắn đã biến đi đâu?

- Ông thanh tra, các nữ hầu nói rằng lúc chạy ra từ phòng mình, họ đã ngửi thấy mùi

thuốc súng và tôi đã nói với ông rằng ra cần lưu ý đến điều đó.

- Tôi nhớ. Nhưng tiếc thay tôi không nắm được ý của ông.

- Ðiều đó chứng tỏ cả cửa ra vào lẫn cửa sổ đều bị mở toang. Nếu không, khói thuốc

không thể lan tỏa khắp nhà với một tốc độ nhanh như thế. Chỉ có gió lùa mới thổi khói

thuốc bay xa đến như vậy. Trong phòng này, các cửa vào lẫn cửa sổ được mở ra trong

khoảnh khắc.

- Tại sao?

- Bởi vì ngọn nến này hãy còn sáng.

- Ðúng vậy - Viên thanh tra kêu lên.

- Khi biết chắc vào thời gian xảy ra vụ án, các cửa sổ bị mở ra, tôi đã kết luận rằng có

người thứ ba tham dự vào: Người đó đứng ở phía ngoài và bắn qua cửa sổ. Còn viên đạn

nhắm bắn vào người thứ ba thì có thể đã ghim vào khung cửa sổ. Tôi đã nhìn thấy và thực tế

đã tìm ra dấu tích của viên đạn.

- Nhưng cửa sổ được đóng lại bằng cách nào?

- Chắc chắn người đàn bà đã đóng lại, đóng lại một cách vô ý thức... Nhưng cái gì thế

này?

Trên bàn có một chiếc ví phụ nữ. Chiếc ví nhỏ nhắn làm bằng da cá sấu được ngăn bằng

một lớp bạc lộng lẫy. Holmes mở ví, trút các thứ lên bàn. Trong đó có tất cả 20 phiếu tín

dụng, 50 bảng Anh.

- Hãy cầm lấy! Những thứ này sẽ được chuyển tới trong phiên tòa. - Holmes nói và

chuyển cho viên thanh tra. - Bây giờ cần làm sáng tỏ viên đạn thứ ba hướng tới người nào?

Lỗ thủng ở khung cửa sổ cho thấy người ta bắn tới từ phòng này. Tôi muốn thảo luận lại với

bà King... Bà nói rằng phát súng nổ lớn đã đánh thức bà dậy. Ý bà muốn nói phát súng đầu

nổ to hơn phát thứ hai phải không?

- Tôi đang ngủ, cho nên tôi khó mà bàn luận được. Tôi chỉ cảm thấy tiếng nổ rất to.

- Bà không cho rằng cả hai phát súng hầu như nổ cùng một lúc chứ?

- Tôi không thể phân tích được điều đó.

- Tôi tin là đúng như vậy. Ông thanh tra, trong căn phòng này, chúng ta không biết gì hơn

được nữa đâu. Nếu các ông đồng ý, chúng ta sẽ cùng ra ngoài vườn và sẽ cùng xem xét ở

đấy có điều gì thú vị không.

Ngay phía dưới cửa sổ căn phòng có một bồn hoa, khi đến đó, chúng tôi cùng kêu to lên.

Hoa bị xéo nát. Những vết chân in hằn lên trên mảnh đất xốp rất rõ. Ðó rõ ràng là những vết

80

chân đàn ông to bè rất dài và sắc. Holmes chân lướt trên cỏ, trên lá như chó săn lùng sục

chim bị thương. Ðột nhiên anh kêu lên sung sướng. Anh cúi xuống và nhặt lên một khối trụ

nhỏ bằng đồng.

- Tôi biết mà! Ðây chính là viên đạn thứ ba.

Vẻ sửng sốt in hằn trên nét mặt ông thanh tra. Rõ ràng ông thán phục tốc độ và tài nghệ

của Holmes. Lúc đầu ông ta bảo vệ ý kiến của mình, thế nhưng chẳng bao lâu ông thực sự

thích thú vì đã bị Holmes chinh phục hoàn toàn.

- Ông nghi ai? - Viên thanh tra hỏi.

- Còn chờ một chốc nữa thôi, sau đấy tôi sẽ giải thích cho ông rõ hết thảy.

- Ông Holmes, chỉ mong sao kẻ sát nhân không được thoát.

- Mọi mối liên hệ của tội ác này đã nằm gọn trong tay tôi. Thậm chí nếu bà quý tộc không

bao giờ tỉnh lại nữa, chúng ta vẫn khôi phục lại được tất cả những gì đã xảy ra vào đêm hôm

qua và giành được công lý. Trước hết, tôi muốn biết cạnh đây có khách sạn nào tên là Elrige

không?

Người ta lấy khẩu cung các gia nhân trong nhà, nhưng không một ai nghe thấy tên một

khách sạn như vậy. Chỉ có chú bé làm ở tàu ngựa đột nhiên nhớ tới một người có họ là

Elrige ở gần East Ruston, cách đây vài dặm.

- Trang trại của ông ta rất biệt lập à?

- Vâng, rất biệt lập.

- Có lẽ ở đó người ta chưa biết chuyện gì đã xảy ra ở đây?

- Có lẽ thế, thưa ông.

Holmes ngẫm nghĩ, và trên khuôn mặt anh bỗng xuất hiện một nụ cười tinh quái:

- Thắng yên ngựa đi, chú bé tài giỏi! Tôi muốn chú chuyển thư đến điền trang Elrige.

Anh rút túi ra vài mảnh giấy có những hình người nhảy múa. Anh ngồi xuống bàn, trải

rộng chúng ra trước mặt, rồi mải miết với công việc. Cuối cùng anh trao bức thư cho cậu bé.

Yêu cầu cậu chuyển đến tận tay người có tên trong địa chỉ, và không được phép trả lời bất

kỳ câu hỏi nào. Tôi liếc nhìn địa chỉ. Nó được viết bằng chữ cong queo, thiếu chính xác,

không giống chút nào với nét chữ rõ ràng lúc bình thường của Holmes. Bức thư chuyển cho

ông Abe Slaney trang trại Elrige, East Ruston ở Norfolk.

- Ông thanh tra, tôi cần chuyển điện cho đoàn hộ tống. Bởi, nếu điều tôi suy nghĩ đúng,

thì ông sẽ phải áp tải một tên tội phạm cực kỳ nguy hiểm đến nhà tù. Chú bé có thể chuyển

luôn bức điện của ông. Còn chúng ta, Watson ạ, chúng ta sẽ trở lại thành phố bằng chuyến

tàu sau bữa ăn trưa, vì vào chiều hôm nay tôi cần phải kết thúc một sự phân tích hóa học kỳ

thú. Công việc hiện đang đi nhanh tới kết thúc.

Khi cậu bé đưa thư phi ngựa đi Sherlock Holmes cho triệu tập gia nhân lại. Anh cho biết,

ai muốn viếng thăm bà Hilton Cubitt thì mau chóng rời khỏi phòng khách và không được

báo cho bà biết những gì đã xảy ra ở đây. Anh đòi hỏi thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh.

Sau đấy anh trở vào phòng khách và nói thêm rằng, lúc này mọi chuyện sẽ được tiến hành

không có sự tham gia của chúng tôi, chúng tôi chỉ ngồi và chờ xem con thú nào sẽ sa vào

81

bẫy mà thôi. Người bác sĩ lui tới chỗ bệnh nhân của mình. Chỉ có tôi và viên thanh tra ở lại

với Holmes.

- Tôi sẽ giúp các ông dùng một giờ chờ đợi này một cách lý thú và bổ ích.

Holmes vừa nói vừa kéo ghế lại gần bàn và trải rộng ra trước mặt nhiều mảnh giấy với

những hình người nhảy múa khác nhau.

- Anh Watson ạ, tôi cần phải chuộc lỗi lầm của mình, tôi đã gợi trí tò mò của anh đến thế.

Còn đối với ông, ông thanh tra, việc này là một bài học nghề nghiệp tuyệt vời. Trước hết,

tôi cần kể cho ông nghe cuộc gặp gỡ của tôi với ông Hilton Cubitt tại nhà tôi.

Thế rồi anh kể vắn tắt cho viên thanh tra nghe những việc mà chúng ta biết.

- Trước mắt chúng ta là những bức vẽ ngộ nghĩnh. Có thể chúng sẽ gợi ra những nụ cười,

nếu chúng không phải là những dấu hiệu báo trước một bi kịch. Hầu như tôi đã biết tất cả

những loại chữ viết bí mật. Tôi là tác giả một bản chuyên khảo, trong đó tôi phân tích 160

hệ thống các chữ viết khác nhau, nhưng tôi phải thú nhận rằng hệ thống các chữ viết này

hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Nhưng kẻ phát minh ra hệ thống chữ viết này chắc hẳn muốn

cho người ta có cảm giác rằng đó chỉ là những hình vẽ trẻ con. Tuy nhiên, tôi chắc rằng

những hình vẽ này là ký hiệu của những chữ cái, tôi áp dụng những quy tắc thường dùng để

đọc các chữ viết bí mật.

Nhìn hình (1), tôi chưa hiểu được gì ngoài cái điều này: Ký hiệu được vẽ kế bên đây, là

một chữ E. Thật vậy, bạn vui lòng nhớ kỹ cho: hình người đứng, hai bàn chân áp sát mặt

đất, đôi tay đưa lên trời, na ná như hình vẽ bên đây, là chữ E. Như các bạn đã biết, E là chữ

được dùng nhiều nhất trong bảng chữ cái của tiếng Anh: ngay cả trong một câu ngắn, người

ta cũng thường gặp nó. Trong số 15 ký hiệu của hình (1) tôi đã thấy có tới 4 ký hiệu gần

giống nhau. Ðó là các con chữ thứ 4 , thứ 6 , thứ 9 và thứ 14. Vậy việc suy diễn 4 ký hiệu

đó là chữ E, là một điều hợp lý. Sự thật là trong vài trường hợp, hình vẽ có mang một lá cờ,

trong những trường hợp khác thì không. Nhưng, nhìn cách phân phối những hình nhân cầm

lá cờ, tôi thấy dường như chúng được dùng để phân biệt những-cụm-con-chữ của một câu,

nghĩa là những hình nhân lá cờ làm nhiệm vụ của một dấu chấm câu vậy. Như vậy chúng ta

có hình nhân này thay cho chữ E.

Nhưng đến đây tôi bắt đầu đụng phải một điều khó khăn: sau chữ E, các chữ khác trong

bảng chữ cái rất khó xếp hạng về sự xuất hiện nhiều hay ít trong tiếng Anh. Trên nguyên

tắc, thứ tự ưu tiên đó được xếp hạng đại khái như nhau: T trước, rồi tới A và kế đó là O, I,

N, S, H, R, D và L. Nhưng T, A, O và I thường được dùng nhiều như nhau. Nếu tôi cố gắng

thử phối hợp chúng với nhau theo nhiều cách cho đến khi nào thấy được bức hình nhảy múa

có một ý nghĩa, thì tôi sẽ tốn khá nhiều thời gian. Vậy tôi phải chờ đợi có thêm nhiều câu

khác: trong các hình (2), (3) và (4) toàn là những câu ngắn. Ðặc biệt hình số (4) có 5 con

chữ mà tôi cho rằng nó chỉ là một từ (vì lẽ không có lá cờ).

Khi nhìn kỹ các hình thân này, tôi thấy có 2 hình nhân là chữ E. Ðó là hình thứ nhì và thứ

tư. Một từ có 5 con chữ mà trong đó có 2 chữ E nằm ở vị trí thứ nhì và tư, là từ nào? Nó có

thể là:

82

SEVER (phân chia) .

LEVER (đòn bẩy)

NEVER (không bao giờ)

Không còn nghi ngờ gì nữa, vì lẽ đây là một câu trả lời: chữ NEVER (Không bao giờ) là

chữ có thể đúng nhất. Và trong trường hợp này, chúng ta có thể nghĩ rằng đây là một câu trả

lời do bà Cubitt viết.

Ðể kiểm tra lại các suy đoán của mình, tôi bèn cho rằng nếu 5 con chữ của hình (4) là

NEVER thì 3 con chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm phải lần lượt là N, V và R. Nhưng khó

khăn vẫn còn nhiều. May mắn là tôi nảy ra một ý nghĩ giúp tôi nắm được chìa khóa của

nhiều chữ cái khác. Tôi nghĩ rằng những lời kêu gọi này xuất phát từ một người trước kia đã

từng có liên hệ mật thiết với bà Cubitt. Một từ gồm 2 con chữ E cách nhau bởi ba con chữ

cái khác như trong hình (3) thì từ đó rất có thể là chữ ELSIE, nhất là từ này nằm ở cuối một

câu. Vậy, đó có thể là một lời kêu gọi bà Elsie. Thế là tôi nắm thêm được những ký hiệu của

những chữ cái L, S và I.

Nhưng lời kêu gọi này có thể có ý nghĩa gì? Từ đi trước từ "Elsie" chỉ có 4 con chữ và

tận cùng bằng con chữ E. Từ này chắc phải là "Come" (hãy đến). Ðể kiểm tra xem có đúng

như thế không, tôi thử tất cả những thế khác gồm có 4 con chữ đều tận cùng bằng E, nhưng

không có chữ nào phù hợp với ý nghĩa của câu này. Vậy là tôi nắm được ký hiệu của những

chữ cái C, O và M. Tới đây tôi có thể đọc bức hình (1). Tôi phân chia nó ra thành từng từng

chữ và thay thế những dấu chấm vào các hình nhân chưa biết. Tôi đạt được kết quả như sau:

.M .ERE ..E SL.NE.

Con chữ đầu tiên phải là chữ A thì mới có nghĩa. Nó trở thành: AM HERE A.E SLANE.

Ðây quả là một khám phá rất quý báu, bởi vì ký hiệu này xuất hiện đến 3 lần trong câu ngắn

này. Tôi thay thế những chữ cái vào chỗ các hình chưa biết thì có

AM HERE ABE SLANEY

Bây giờ tôi nắm được ký hiệu của rất nhiều chữ cái và có thể bắt đầu đọc đến hình (2).

Tôi có được: A. ELRI.ES. Câu này chỉ có thể có một ý nghĩa nào đó, nếu tôi lần lượt thay

chữ T và một chữ G vào chỗ của hai dấu chấm và tôi có "AT ELRIGES"; đây chắc hẳn là

một ngôi nhà hay một cái quán, nơi tác giả của câu văn đang ở.

Thanh tra Martin và tôi, cả hai cùng há mồm nghe những lời giải thích của Holmes,

những lời giải thích đã giúp anh vượt qua được tất cả những khó khăn.

- Rồi sao nữa, thưa ông? - Viên thanh tra hỏi.

- Tôi có đủ lý do để cho rằng tên Abe Slaney này là một người Mỹ, bởi vì Abe là tên Mỹ,

và tất cả bi kịch đều bắt nguồn từ một lá thư bên Mỹ gởi sang. Tôi cũng có những lý do

mạnh mẽ để tin rằng tất cả vụ này xoay quanh một bí mật tội lỗi. Việc người đàn bà nói

bóng gió đến quá khứ của bà và việc bà từ chối không cho chồng biết cái quá khứ, để cho

tôi kết luận như thế. Tôi bèn gởi một bức điện tín cho ông bạn Wilson Hargreave của tôi,

thuộc sở cảnh sát New York, hỏi ông ta có biết cái tên Abe Slaney là ai không. Câu trả lời

là: "Tên lưu manh nguy hiểm nhất ở Chicago". Ngay trong buổi sáng ngày mà tôi nhận

83

được câu trả lời đó, ông Cubitt đã đến, cho tôi xem "tấm hình nhảy múa" cuối cùng của

Slaney. Thay thế những hình nhân bằng những con-chữ-cái đã biết, tôi có được câu này:

ELSIE .RE.ARE TO MEET THY GO.

Chỉ có hai chữ P và một chữ D mới bổ sung được câu này một cách có ý nghĩa:

ELSIE PREPARE TO MEET THY GOD.

Ðó là lý do vì sao tôi tức tốc đi ngay đến Norfolk cùng với ông bạn Watson.

- Thật là có lợi vô cùng khi được làm việc với ông! - Thanh tra Martin nói bằng một

giọng đầy phấn khởi - Tuy nhiên, nếu tên Abe Slaney này đã bỏ trốn trong khi tôi đang ngồi

ở đây chắc chắn tôi sẽ bị nhiều chuyện rắc rối lớn.

- Ông đừng sợ: hắn không trốn đâu.

- Làm sao ông biết?

- Nếu hắn trốn là hắn sẽ tự thú nhận là mình có tội.

- Vậy chúng ta đi bắt hắn.

- Chốc nữa hắn sẽ đến đây.

- Tại sao hắn lại đến?

- Tại vì tôi viết thư mời hắn.

- Nhưng không thể được, ông Holmes. Tại sao hắn lại chịu đến đây chỉ vì có lời yêu cầu

của ông?

- Lá thư tôi viết sẽ có hiệu quả. Kìa, hắn đã đến kìa!

Một người đàn ông tiến theo lối đi đưa đến cửa lớn. Thân hình cao lớn, vạm vỡ, nước da

sạm nắng, trên gương mặt của hắn nổi bật một hàm râu đen xồm xoàm và một chiếc mũi

quặp to lớn. Hắn đi một cách hiên ngang như thể ngôi nhà này đã thuộc về hắn rồi, một cây

can quơ qua quơ lại trong không khí.

- Này các ông - Holmes nói bằng giọng bình tĩnh - Chúng ta nên thủ thế sẵn đằng sau

cánh cửa. Với một tên cướp như thế này, chúng ta phải hết sức cẩn thận. Ông thanh tra, xin

vui lòng để tôi ra tay trước.

Cánh cửa mở ra, hắn bước vào. Ngay lúc đó, Holmes dí súng dưới mũi hắn và Martin

còng tay hắn lại. Ðộng tác này diễn ra quá bất ngờ và quá nhanh chóng khiến Slaney chưa

kịp phản ứng gì. Hắn nhìn chúng tôi bằng đôi mắt giận dữ rồi cất lên một tràng cười chua

chát:

- Thế là tôi rơi vào bẫy của các ông. Nhưng các ông hãy nghe đây, tôi đến đây là vì lá thư

của bà Hilton Cubitt. Các ông đừng nói với tôi là bà ấy tiếp tay với các ông để làm ra cái

bẫy này.

- Bà Hilton Cubitt bị thương rất nặng, có thể nguy đến tính mạng.

Tiếng thét rùng rợn của Slaney vang dội khắp cả ngôi nhà:

- Ai đã làm cho Elsie bé nhỏ của tôi bị thương? Tôi có đe dọa nàng. Nhưng không bao

giờ tôi đụng đến một sợi tóc xinh đẹp của nàng! Các ông hãy thú thật rằng nàng không bị

thương?

- Người ta đã thấy bà bị thương rất nặng bên cạnh tử thi của chồng bà.

84

Tên tội phạm rơi xuống ghế tràng kỷ, vừa rên vừa đưa hai bàn tay bị còng lên ôm lấy đầu,

im lặng trong năm phút. Rồi hắn ngẩng đầu lên, gương mặt đượm một vẻ tuyệt vọng, lạnh

lùng:

- Nếu tôi có bắn vào người đàn ông thì hắn cũng có bắn vào tôi, vậy không có vấn đề ám

sát. Nhưng nếu các ông nghĩ rằng tôi đã bắn vào người đàn bà, thì rõ ràng các ông không

hiểu tôi, cũng như không hiểu nàng. Tôi xin thề với các ông rằng trên thế giới này không có

tình yêu nào mãnh liệt hơn tình yêu của tôi đối với nàng! Trước đây, nàng đã hứa hôn với

tôi. Tên người Anh kia là ai? Tại sao hắn lại chen vào giữa nàng và tôi? Chỉ có tôi mới có

quyền hạn đầu tiên đối với nàng, và tôi đến đây là chỉ để đòi lại người yêu của tôi thôi.

- Bà ấy đã trốn ông, khi bà ấy biết ông là hạng người như thế nào. - Holmes nói bằng một

giọng nghiêm khắc- Bà ấy đã trốn khỏi nước Mỹ, để không gặp ông nữa, và bà ấy đã kết

hôn tại nước Anh, với một người đàn ông lương thiện. Ông đã tìm ra được dấu vết của bà

ấy, bắt buộc bà ấy đi theo ông. Hành động của ông đã đưa đến cái chết cho một người đàn

ông cao quý và làm cho vợ ông ta phải tự sát. Ông Abe Slaney, ông sẽ phải chịu trách

nhiệm trước pháp luật!

- Nếu Elsie chết, tôi cóc cần những gì ở trên đời này nữa!

Abe Slaney đáp, vừa mở lòng bàn tay ra để cho chúng thấy một miếng giấy nhàu nhỏ

đang nằm trong đó.

- Các ông hãy nhìn xem cái này! - Hắn kêu lên, đôi mắt thoáng hiện một vẻ nghi ngờ -

Các ông không làm cho tôi sợ đâu, các ông biết chứ! Nếu Elsie đang ở trong tình trạng như

các ông vừa nói thì ai đã viết thư này?

Hắn ném miếng giấy lên bàn.

- Tôi. Chính tôi đã viết bức thư đó - Holmes đáp.

- Ông ư? Trên thế giới không có ai ngoài băng chúng tôi biết được bí mật của những hình

nhân nhảy múa. Làm sao ông viết được lá thư này?

- Những gì một người đã phát minh ra được thì một người khác cũng có thể khám phá ra

được. - Holmes đáp - Ðây là một chiếc xe sẽ đưa ông đến Norwich, ông Slaney. Nhưng

trước đó, ông còn có đủ thì giờ để sửa chữa phần nào tội lỗi mà ông đã làm. Ông có biết

rằng bà Hilton Cubitt đang bị nghi ngờ đã ám sát chồng bà không. Nếu tôi không có ở đây,

nếu tôi không may mắn tìm ra được điều bí mật của ông, bà ấy sẽ bị buộc vào tội sát nhân.

Ðiều tối thiểu mà ông có thể làm được cho bà ấy là xác minh bà ấy không có trách nhiệm gì

cả, trực tiếp hay gián tiếp, về cái chết bi thảm này.

- Tôi không đòi hỏi gì hơn. - Slaney đáp - Hơn nữa, sự thật hoàn toàn sẽ là lời biện hộ tốt

nhất cho tôi.

- Tôi có bổn phận báo trước cho ông biết rằng những điều mà ông sẽ nói có thể được sử

dụng để buộc tội ông! - Thanh tra cảnh sát Martin kêu lên.

Slaney nhún vai:

- Vì nàng, tôi bất chấp tất cả. Tôi với cô ấy quen biết nhau từ thuở nhỏ. Lúc ấy, chúng tôi

gồm có 7 người trong một băng ở Chicago; ông già nàng là đại ca của chúng tôi. Ông già

85

Patrick là một người thông minh! Chính ông ấy đã phát minh ra lối chữ viết bí mật này, một

lối chữ viết mà mới nhìn qua, người ta cứ tưởng là một trò chơi trẻ con. Elsie có biết vài

phương pháp làm việc của chúng tôi, nhưng nàng không thể cùng đi với chúng tôi được.

Nàng có một bản chất lương thiện nên nàng chống lại lối sống bất lương của chúng tôi. Vì

vậy, nàng đã rời bỏ chúng tôi và đến London.

Nàng là người yêu bé nhỏ của tôi và được hứa gả cho tôi. Tôi tin rằng sẽ làm cho nàng

thay đổi ý nghĩ nếu tôi chuyển qua nghề khác. Nhưng nàng vẫn lẩn tránh tôi. Chỉ sau khi

nàng kết hôn với tên người Anh này, tôi mới biết nàng đang ở đâu. Tôi đã viết thư cho nàng,

nhưng nàng không trả lời. Sau đó, tôi đến đây, và khi những lá thư đã trở nên vô ích, tôi đã

đặt những thông báo này ở những nơi nàng có thể đọc thấy.

Tôi ở vùng này đã được một tháng. Tôi thuê một căn phòng ở tầng một của nông trại

Elrige, nơi tôi có thể ra vào hàng đêm mà không ai trông thấy, cũng không ai hay biết. Tôi

đã làm đủ mọi cách để thúc đẩy Elsie ra đi với tôi. Tôi biết nàng có đọc những lời nhắn của

tôi, bởi vì có một lần nàng đã ghi câu trả lời "Không bao giờ" ở bên dưới. Cơn tức giận nổi

lên, tôi bắt đầu đe dọa nàng. Nàng bèn gửi cho tôi một lá thư năn nỉ tôi, yêu cầu tôi rời khỏi

vùng này, bảo rằng nàng sẽ vô cùng đau đớn nếu danh dự của chồng nàng bị ô uế vì một vụ

tai tiếng. Nàng bảo rằng nàng sẽ xuống dưới nhà vào lúc 3 giờ sáng, khi chồng nàng ngủ

say, và sẽ nói chuyện với tôi đằng sau chiếc cửa sổ, nếu tôi hứa sau đó sẽ ra đi. Nàng đã đến

đúng hẹn, đứng đằng sau cánh cửa sổ và mang theo một túi tiền. Nàng muốn dùng tiền bạc

để buộc tôi phải ra đi. Ðiều này đã làm cho tôi nổi điên lên. Tôi liền nắm lấy tay nàng, gắng

hết sức kéo nàng ra ngoài cửa sổ. Ðúng lúc đó, chồng nàng từ trên lầu chạy xuống, tay cầm

súng lục. Elsie đã ngã xuống sàn nhà, chỉ còn lại hai chúng tôi đối diện với nhau. Tôi rút

khẩu súng của tôi ra với ý định làm cho ông ta phải để cho tôi chạy thoát. Nhưng ông ta đã

nổ súng. Tôi liền bắn trả lại gần như cùng một lúc. Ông ta ngã gục xuống và tôi bỏ chạy

băng qua khu vườn. Tôi nghe có tiếng cửa sổ đóng lại phía sau tôi. Thưa các ông, đó là sự

thật hoàn toàn và tôi không biết gì hơn nữa, ngoại trừ sau đó có một cậu bé cưỡi ngựa đến

nông trại trao cho tôi bức thư bảo tôi đến đây. Và tôi đã rơi vào tay các ông, như một thằng

ngốc.

Một chiếc xe đã đến cùng với hai cảnh sát vận sắc phục, trong khi Slaney thuật lại câu

chuyện. Viên thanh tra đứng lên, nói với kẻ phạm tội.

- Nào, chúng ta hãy đi. Ðã đến giờ rồi.

- Tôi có thể gặp nàng một chút được không?

- Không. Bà ấy hiện đang hôn mê. Thưa ông Sherlock Holmes, nếu trong tương lai tôi có

một vụ quan trọng nào khác phải điều tra, tôi sẽ rất sung sướng được có ông ở bên cạnh!

Ðứng trong khung cửa sổ, chúng tôi nhìn theo chiếc xe mỗi lúc một xa dần. Khi quay đầu

lại, tôi trông thấy miếng giấy nhỏ mà Slaney đã ném lên bàn lúc nãy. Ðó là bức thư mà

Holmes đã gởi cho anh ta.

- Anh hãy thử đọc nó đi, Watson! - Holmes mỉm cười nói với tôi.

Bức thư chỉ có một hàng hình nhân nhảy múa:

86

- Nếu bạn sử dụng cái chìa khóa những ký hiệu mà tôi đã giải thích với bạn, - Holmes nói

tiếp, - bạn sẽ thấy câu này có nghĩa là "Come here at once". Tôi tin chắc hắn ta không thể từ

chối lời kêu gọi này, bởi vì hắn không thể nghi ngờ câu này do một người nào khác viết,

ngoài người phụ nữ đó. Và thế là chúng ta đã biến những con người nhảy múa, trước kia

phục vụ cho tội ác, nay trở thành những kẻ phục vụ cho luật pháp. Chuyến xe lửa sẽ khởi

hành lúc 3 giờ 40. Tôi muốn ăn tối tại nhà mình.

Vụ này thế là đã được Holmes giải quyết một cách tài tình. Tưởng cũng nên biết số phận

của hai kẻ còn sống sót trong tấn bị kịch: Abe Slaney bị tòa đại hình Norwich kết án tử

hình, nhưng sau đó được giảm xuống thành khổ sai chung thân, bởi vì Hilton Cubitt bắn

trước. Về phần bà Hilton Cubitt, bà đã được cứu sống, và sau một thời gian thì bình phục.

Bà không tái giá, hiến dâng đời mình cho những công cuộc từ thiện, và chăm lo quản trị gia

sản của chồng.

Cô gái đi xe đạp:

Chúng tôi đã làm quen với cô Violet Smith vào ngày thứ Bảy, ngày 23-4-1895. Chuyến

tới thăm của cô đã làm cho Holmes phật ý, bởi vì vào lúc đó anh đang bị ngập trong một

vấn đề rắc rối của vụ John Vincent Harden, nhà triệu phú thuốc lá nổi tiếng. Anh luôn muốn

tập trung giải quyết vụ án, không bị xao lãng bởi những việc khác. Nhưng cô gái cho biết

chỉ có vũ lực mới có thể đuổi cô ra khỏi căn hộ chúng tôi, trước khi cô nói ra tất cả. Holmes

đành mời cô ta ngồi xuống.

- Cô tới đây không phải vì vấn đề thuộc về sức khỏe. Một người đi xe đạp như cô hẳn

phải có thừa sức mạnh.

Ngạc nhiên, cô kiểm tra lại thân mình từ đầu đến chân.

- Tôi thấy chỗ sần sùi nhẹ ở một gót chân, gây ra bởi sự chà sát với bàn đạp.

- Vâng, tôi đi xe đạp nhiều, và điều này có liên quan tới việc đã đưa tôi tới đây.

Bạn tôi nắm lấy bàn tay đã tháo bao tay của cô gái và quan sát nó với vẻ chăm chú.

- Cô tha lỗi cho. Nhưng đó là điều thuộc phạm vi công việc của tôi - Anh nói, buông bàn

tay cô ra - Suýt nữa thì tôi lầm cô với một thư ký. Cô không đánh máy, cô là nhạc sĩ. Anh

thấy chứ, Watson, đầu ngón tay giống như cái bay? Ðó là một nét chung cho tất cả mọi

nghề. Nhưng lại có tính tinh thần - Anh nói thêm khi dịu dàng nâng bàn tay về phía có ánh

sáng - Tiểu thư đây là một nhạc sĩ.

- Vâng, thưa ông Holmes. Tôi là cô giáo dạy nhạc...

- ...Ở nông thôn, xét theo nước da mặt cô.

- Vâng, ở gần Farnham, hạt Surrey.

- Một vùng tuyệt đẹp và lý thú. Anh còn nhớ chứ, Watson? Nhưng, thưa cô Violet,

chuyện gì đã xảy ra?

- Cha tôi đã mất. Tên ông là James Smith, nhạc trưởng của nhà hát Imperial cổ xưa. Mẹ

tôi và tôi không có một bà con thân thuộc nào còn sống, ngoại trừ chú tôi, ông Ralph Smith,

là người bỏ sang châu Phi 25 năm trước và từ đó bặt tin. Khi cha tôi mất, chúng tôi rất

nghèo khó. Nhưng một bữa, người ta báo cho chúng tôi biết là có một lời nhắn tin, đăng trên

tờ Times, tìm địa chỉ của chúng tôi. Chúng tôi vội vã đến ngay văn phòng luật sư được đăng

trong lời nhắn tin. Ở đó, chúng tôi gặp lại ông Carruthers và ông Woodley là hai người vừa

từ Nam Phi trở về. Họ bảo rằng chú tôi là bạn họ, ông đã chết vài tháng trước đó trong cảnh

nghèo khó và trước phút lâm chung, ông có yêu cầu họ tìm kiếm những người bà con, xem

họ có túng bấn không. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên là ông chú đó, trong lúc còn sống,

chẳng bao giờ quan tâm tới chúng tôi nay sao lại ân cần đến thế, ông Carruthers giải thích

rằng chú tôi chỉ mới hay tin về cái chết của ông anh và rằng chú ấy cảm thấy có bổn phận

đối với mẹ con tôi.

- Xin lỗi - Holmes ngắt lời - Cuộc nói chuyện đó xảy ra từ bao giờ?

- Từ tháng 12 năm ngoái. Cách nay 4 tháng.

- Xin vui lòng kể tiếp.

109

- Ông Woodley cho chúng tôi cái cảm tưởng về một nhân vật xấu. Ông ta luôn luôn nháy

mắt với tôi... Ðó là một người trẻ tuổi, bộ mặt phì nộn có một hàng ria màu đỏ, mái tóc ép

sát, chải một đường ngôi ngay chính giữa. Tôi dám nói là anh Cyril chẳng ưa gì khi thấy tôi

gặp ông ta.

- Ờ, thế ra ý trung nhân của cô tên là Cyril - Holmes cười, nói.

Thiếu nữ đỏ mặt, rồi bắt đầu cười.

- Vâng, Cyril Morton, kỹ sư điện. Chúng tôi sẽ làm lễ thành hôn vào cuối mùa hè. Ông

Woodley là một người gây ác cảm một cách thảm hại, nhưng ông Carruthers thì dễ ưa hơn.

Ông ta lớn tuổi hơn, tóc nâu, không để râu và rất kín đáo. Ông ta có những thái độ lịch sự và

một nụ cười dễ thương. Ông ta hỏi về cuộc sống của chúng tôi, mời tôi dạy nhạc cho cô con

gái của ông. Tôi trả lời là tôi không muốn xa mẹ tôi. Ông nói rằng tôi có thể trở về nhà vào

cuối tuần. Ông đề nghị thù lao hàng năm là một trăm đồng bảng. Tôi đồng ý và tới nhà ông

ta, ở Chiltern Grange, cách Farnham chừng 6 dặm.Ông Carruthers góa vợ, nhưng có một bà

quản gia luống tuổi là bà Dixon, coi sóc công việc trong nhà. Con gái ông thật duyên dáng.

ông rất yêu âm nhạc. Mỗi cuối tuần, tôi đều về thăm mẹ. Nhưng rồi gã Woodley ria đỏ tới

sống với ông trong một tuần. Tuần đó đối với tôi dài như ba tháng. Hắn tán tỉnh tôi, khoe

khoang của cải, bảo rằng nếu tôi ưng lấy hắn, thì tôi sẽ có những viên kim cương đẹp nhất

London. Sau cùng, khi nghe trả lời rằng tôi không muốn có quan hệ gì với hắn thì hắn đã

ôm chặt lấy tôi, thề sẽ không buông ra chừng nào tôi chưa hôn hắn. Lúc đó, ông chủ tôi vào

phòng và giật tôi ra khỏi vòng tay con quỷ đó. Gã lưu manh quay lại xô chủ nhà ngã xuống

và đánh ông bị thương. Ngày hôm sau, ông Carruthers tới ngỏ lời xin lỗi tôi và hứa rằng sẽ

không bao giờ để xảy ra chuyện tương tự như vậy. Kể từ đó, tôi không còn gặp lại con quỷ

ấy nữa.

Thưa ông Holmes, tuần nào cũng vậy, trưa thứ Bảy tôi đạp xe về tới nhà ga Farnham để

đáp chuyến tàu 12 giờ 22 đi London. Từ Chiltern Grange đến Farnham có đoạn đường

khoảng 1 dặm là trảng cỏ, nằm giữa cánh rừng vây bọc lâu đài Charlington. Không thể nào

tìm thấy ở bất cứ nơi đâu một khúc đường hoang vu hơn nơi này. Không có một ai ở xung

quanh đó cho đến đoạn đồi Crooksbury. Hai tuần trước, khi qua đó, lúc tình cờ quay đầu lại,

tôi thấy một người đi xe đạp ở cách sau tôi chừng 200 yard. Đó là một người đàn ông trung

niên và có râu ngắn. Tôi quay nhìn trở lại trước khi tới Farnham, nhưng người đó đã biến

mất. Khi đi làm vào ngày thứ Hai, tôi lại thấy người đi xe đạp đó trên cùng đoạn đường ấy.

Tuần vừa qua, tôi còn ngạc nhiên hơn nữa vì tôi lại thấy người đó vào trưa thứ Bảy và sáng

thứ Hai. Chắc chắn là ông ta luôn luôn đạp sau tôi một khoảng cách nào đó. Thật là kỳ lạ!

Tôi kể chuyện cho ông Carruthers nghe, ông tỏ ra quan tâm và sau đó bảo tôi rằng ông đã

đặt mua một con ngựa và một cỗ xe độc mã nhẹ, để sau đó, tôi không còn đi trên những con

đường hoang vắng mà không có người đi theo.

Lẽ ra con ngựa và cỗ xe phải có trong tuần này rồi nhưng không rõ lý do gì mà hàng lại

chưa được giao và tôi vẫn phải đạp xe đi tới nhà ga. Sáng hôm nay, khi tới ngang đoạn có

cái khoảng trống, người đi xe đạp đã có mặt! Ông ta đứng cách tôi một khoảng khá xa,

110

khiến tôi không thể nào phân biệt được rõ nét mặt ông ta. Nhưng tôi tin chắc đó là một

người mà tôi chưa từng quen biết. Ông ta mặc đồ đen, đội mũ cát bằng da. Cái tôi trông thấy

duy nhất là bộ râu đen của ông ta. Ngày hôm nay tôi không sợ hãi và bị óc tò mò thôi thúc.

Tôi đạp chậm, ông ta cũng đạp chậm. Tôi ngừng lại, ông ta cũng ngừng lại. Tới một khúc

quanh trên đường thình lình tôi đạp hết tốc lực, rồi ngay khi vừa qua khúc đường cong, tôi

phanh gấp, xuống xe và chờ đợi. Nhưng ông ta không xuất hiện. Tôi quay trở lại và nhìn

sang phía bên kia khúc quanh. Trải ra trước mắt tôi, trên 1 dặm đường, nhưng chẳng thấy

ông ta đâu. Điều kỳ lạ hơn hết, chính là không có con đường phụ nào để ông ta trốn vào

đó...

Holmes cười rúc rích và xoa hai bàn tay vào nhau.

- Thú vị thật! Từ lúc cô đi tới khúc quanh và lúc đứng nhìn con đường hoang vắng chừng

mấy phút?

- Hai hoặc ba phút.

- Vậy thì người đó không thể bỏ trốn trên đường mà lại không bị trông thấy. Cô tin chắc

rằng không có con đường phụ nào, không có chỗ rẽ nào?

- Chắc chắn như vậy.

- Vậy thì người đó đã theo một lối mòn ở bên phải hoặc bên trái con đường.

- Chắc chắn không ở bên phía trảng cỏ, tôi ắt hẳn đã phải trông thấy ông ta.

- Vậy thì theo phép loại suy, chúng ta đi tới kết luận là ông ta đã đi về hướng lâu đài

Charlington nằm bên trong một thửa đất biệt lập ở phía bên kia con đường. Không có gì

khác nữa chứ?

- Không.

Holmes giữ im lặng trong chốc lát.

- Vị hôn phu của cô ở đâu?

- Anh ấy làm việc tại Midland Electrical Company ở Coventry.

- Ngẫu nhiên, có lần nào anh ấy tới thăm cô bất ngờ không?

- Ồ, nếu có, thì tôi phải nhận ra anh ấy chứ!

- Trước đó có nhiều người "để ý" tới cô không?

- Trước khi tôi quen với Cyril, thì có?

- Và từ đó đến nay?

- Chỉ có cái con người thô bỉ nọ.

- Không ai khác nữa sao?

Cô gái lúng túng.

- Ai? - Holmes hỏi.

- Ồ, có thể là tôi hình dung ra những điều... không có thật. Dường như là... ông chủ tôi.

Ông ấy quan tâm nhiều tới tôi. Buổi tối, tôi chơi đàn và tôi đệm cho ông ấy. Ông ấy không

bao giờ thổ lộ điều gì. Nhưng đàn bà luôn đoán thấy...

- A! - Holmes nói với một vẻ mặt nghiêm trọng - Ông ta làm gì để mưu sinh?

- Ông ấy rất giàu có.

111

- Không xe không ngựa mà?

- Ít ra ông ta cũng sung túc. Mỗi tuần, ông ấy đi London hai hoặc ba lần, ông quan tâm

nhiều tới những cổ phần mỏ vàng ở Nam Phi.

- Cô cứ cho tôi biết rõ tất cả những yếu tố mới trong việc của cô. Lúc này, tôi rất bận,

nhưng tôi vẫn cố gắng giúp cô. Trong khi chờ đợi, muốn làm điều gì, cô cần báo cho tôi biết

trước. Xin chào, thưa cô.

Khi cô ta đi rồi, Holmes bập từng hơi dài trên cái tẩu thuốc suy tư của mình.

- Một cô gái xinh đẹp như vậy tất phải có nhiều người theo đuổi. Nhưng tại sao người ấy

chỉ theo đuổi trên một đoạn đường hoang vắng. Ðây hẳn là một mối tình thầm lặng.

- Ðiều kỳ lạ chính ở chỗ người theo đuổi lại chỉ xuất hiện trên một đoạn đường duy nhất.

- Chính thế. Chúng ta phải tìm hiểu xem ai ở trong tòa nhà Charlington, quyền lợi nào để

kết hợp Carruthers với Woodley, bởi vì hai người đó khác nhau như hai thái cực. Cũng cần

khám phá xem vì sao họ tỏ ra quá chăm chú đến cô gái. Và còn điều này nữa, làm sao người

ta dám trả cho một cô giáo dạy nhạc gấp đôi số thù lao bình thường, mà người đó lại không

có xe, cũng không có ngựa, trong lúc nhà hắn cách nhà ga tới 6 dặm! Kỳ cục. Rất kỳ cục!

- Anh đi tới đó chăng?

- Không phải tôi, mà là anh. Rất có thể đây chỉ là một mối tình đầu thầm vụng, chẳng có

tầm lợi ích nào, mà tôi thì đang dở dang công việc. Thứ Hai, anh sẽ tới Farnham rất sớm,

nấp gần bên cái trảng, đích thân quan sát và anh sẽ hành động theo ý anh. Sau khi đã thu

lượm tin tức về những người ở tòa nhà Charlington, anh sẽ trở về nói cho tôi biết.

Sáng thứ Hai cô gái sẽ trở về bằng chuyến tàu rời Waterloo vào lúc 9 giờ 50. Vậy là tôi

đáp chuyến tàu 9 giờ 13. Xuống ga Farnham, tôi đi tới trảng cỏ, con đường ngoằn ngoèo

trên cái trảng rất quang đãng và một hàng rào những cây thông vây quanh một công viên

tuyệt đẹp. Có một lối vào chính bằng đá, hai cây cột được đặt trên những biểu tượng huy

hiệu đã xơ xác. Ngoài cái cổng cho xe ra vào này, tôi quan sát thấy nhiều chỗ trống giữa

hàng rào từ đó mở ra nhiều lối mòn. Từ đường nhìn xuống thì không thấy ngôi nhà, nhưng

dãy nhà phụ thì đã bị đổ nát.

Cái trảng phủ đầy những bụi kim tước nở hoa rực rỡ dưới nắng sớm. Tôi đứng sau một

bụi cây, từ đó, tôi có thể canh chừng cái cổng và một dải đường dài cả hai bên. Con đường

hoang vắng. Nhưng một lát sau, tôi thấy một người đi xe đạp đến từ đường đối nghịch với

đường mà tôi đã tới. Người đó mặc đồ đen, bộ râu đen. Khi ông ta tới đầu khu đất nhà

Charlington thì xuống xe và dắt xe chui qua một lỗ hổng ở hàng rào, tôi không còn thấy ông

ta nữa.

Khoảng 15 phút sau, một xe đạp khác hiện ra. Cô gái đến từ hướng nhà ga. Khi tới gần

hàng rào, cô ngó nhìn chung quanh. Một lát sau, người đàn ông ló ra khỏi chỗ ẩn nấp, nhảy

lên xe đạp và bám theo cô gái. Trong cái phong cảnh mênh mông, chỉ có hai bóng người

chuyển động. Cô thiếu nữ ngồi thẳng trên xe và gã đàn ông đằng sau cô, còng lưng trên tay

lái xe và mỗi cú nhấn lên bàn đạp có một cái gì lén lút. Thình lình cô gái quay ngược lại. Cô

giảm bớt tốc độ. Người đàn ông chạy chậm. Cô ngừng lại, ông nọ cũng ngừng lại. Lúc đó

112

cô gái quay ngược xe lại và đâm thẳng vào ông ta. Người đàn ông cũng nhanh nhẹn như cô

và bỏ chạy hết tốc lực. Ngay sau đó, cô lại ngược lên con đường, đầu ngẩng cao, chẳng còn

bận tâm tới con người thầm lặng theo dõi cô. Ông ta cũng quay trở lại, vẫn giữ cùng khoảng

cách như trước, và khúc quanh của con đường che khuất hai người... Tôi nán lại trong chỗ

ẩn nấp. Lát sau, người đàn ông lại hiện ra, ông đạp chậm chạp, đi ngang qua cái cổng rồi

nhảy xuống xe, ở giữa những thân cây, bàn tay như đang nắn lại cái cà vạt, rồi lại leo lên xe

và bỏ đi qua ngả dẫn đến ngôi nhà. Tôi chạy qua bên đường và núp vào tấm màn cây. Ðằng

xa tôi nhận ra mơ hồ một ngôi nhà cổ xưa màu xám tua tủa những ống khói kiểu cổ. Lối đi

vào băng ngang một lùm cây rậm rạp. Người đi xe đạp đã mất dạng.

Tôi ra ga Farnham, lòng thanh thản. Nhà đại diện địa ốc ở địa phương không cho tôi biết

một tin tức nào về tòa nhà Charlington và ông ta bảo tôi tới một công ty rất nổi tiếng ở Pall

Mall. Trước khi trở về nhà, tôi ghé qua công ty đó và được nhân viên đón tiếp một cách lịch

sự. Họ nói tôi tới muộn mất một chút, tòa nhà Charlington đã được ông Williamson thuê từ

một tháng nay. Nhân viên cáo lỗi khi không thể cho tôi biết gì nhiều hơn về những công

việc của thân chủ không dính dáng gì đến họ.

Sherlock Holmes chăm chú nghe bản báo cáo, không nói một lời khen ngợi nhỏ bé nào.

Trái lại bộ mặt anh càng lúc càng tối sầm lại theo đà câu chuyện kể.

- Lẽ ra anh phải nấp đằng sau hàng giậu, như vậy anh đã thấy rõ cái nhân vật đáng chú ý

đó. Thế nhưng anh lại đứng cách xa người đó cả trăm yard và anh cũng chẳng cho tôi biết gì

hơn cô Smith. Cô gái tưởng người đó xa lạ đối với cô... Tôi tin chắc rằng cô biết rõ người

đó. Nếu không, tại sao người đó lại cố ý không cho cô xáp tới gần. Người đó gò mình trên

tay lái là để dấu cái mặt của mình! Anh Watson, anh đã xoay xở một cách thật là tồi. Lạ

chưa! Người đó đi vào trong tòa nhà Charlington, rồi vì muốn biết người đó là ai, anh đã đi

tới gặp một đại lý địa ốc tại London.

- Ðúng ra tôi phải làm gì? - Tôi kêu lên với vẻ bực bội.

- Phải tới quán rượu gần nhất. Ở đó người ta ba hoa đủ thứ trên đời và người ta kể cho

anh biết tất cả những cái tên, từ tên người chủ nhà cho tới tên cô hầu rửa chén. Williamson!

Cái tên ấy chẳng cho tôi biết gì hết. Nếu ông ta có tuổi thì ông ta chẳng thể chạy nước rút

khi một thiếu nữ đuổi theo ông ta. Chuyến đi của anh chỉ là sự xác nhận những lời kể của cô

gái. Có một mối liên hệ giữa người đi xe đạp và tòa lâu đài Charlington chăng? Xem nào,

xem nào, đừng có tỏ ý giận dỗi như vậy! Từ nay đến thứ Bảy, chúng ta sẽ thu nhận được

khá hơn, tôi sẽ đích thân mở vài cuộc điều tra nhỏ...

Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được thư của cô gái thuật lại vắn tắt những sự việc mà tôi

đã chứng kiến. Nhưng tầm lợi ích của tờ giấy lại trong khoản tái bút.

"Thưa ông Holmes, ông chủ tôi đã ngỏ lời cầu hôn với tôi óng ấy đã tiếp nhận lời từ chối

của tôi với sự đứng đắn và tử tế. Nhưng tình huống đã hơi căng thẳng".

- Cô gái nhỏ bé của chúng ta đã bị lún trong những làn nước sâu. - Holmes bình thản nói

với vẻ ngẫm nghĩ - Vụ này dám triển khai khác hẳn với dự đoán ban đầu của tôi. Tôi đi tới

đó.

113

Holmes trở về nhà vào lúc tối khuya với một cái môi bị dập và trên trán có một cục u.

Anh tươi cười:

- Tôi đã tìm thấy cái quán ăn đó, và tới ngồi bên quầy rượu, tay chủ quán bép xép đã cho

tôi biết tất cả những tin tức mà tôi muốn có Williamson là người có bộ râu trắng và ông

sống một mình với vài gia nhân trong tòa lâu đài Charlington. Người ta nói rằng ông ấy đã

từng là hoặc đang là mục sư. Nhưng kể từ khi ông tới đó, một hai việc xảy ra đã khiến cho

thiên hạ nghi ngờ cái tính chất thầy tu của ông. Tôi có dò hỏi ở một tổ chức tăng lữ thì được

biết đã có một người mang tên đó được thụ phong, nhưng đã bị lột áo từ lâu. Ngoài ra, chủ

quán còn cho tôi biết, cứ cuối tuần lại có những người khách tới tòa nhà ("những kẻ ham

mê, thưa ông") và đặc biệt một ông có bộ ria màu đỏ, sống luôn ở đó. Chúng tôi đang nói

tới khúc quanh thú vị của câu chuyện thì có người tới quầy rượu. Chính "gã ria đỏ". Hắn ta

uống bia ở phòng trong và đã nghe cuộc đối thoại của chúng tôi.

- Anh là ai? Anh muốn gì? Tại sao anh lại đặt những câu hỏi đó.

Gã có một lối nói thật nhanh, văn vẻ, đầy những tính thật kịch liệt. Gã chấm dứt tràng

chửi rủa bằng một cú đánh tạt bằng mu bàn tay mà tôi không né kịp. Những phút tiếp theo

sau đó là "quyền Anh chính thống" chống lại gã tiều phu đánh đấm loạn xạ. Tôi đã thoát ra

như anh thấy đó. Còn gã Woodley thì phải về nhà bằng xe.

Tối thứ Năm, chúng tôi lại nhận được một lá thư của thân chủ chúng tôi.

"Thưa ông Holmes, tôi đã nghỉ dạy đàn nhà ông Carruthers. Những số lương cao không

bù được cho những phiền muộn. Thứ Bảy này, tôi sẽ về London luôn. Sau cùng, ông

Carruthers đã có chiếc xe nhỏ nhờ thế mà tôi sẽ bớt gặp nguy hiểm hồi đi đường. Cái lý do

đích thực của sự bỏ việc là sự tái xuất hiện của gã Woodley ấy. Ông ta vẫn xấu xa đến gớm

ghiếc, nhưng giờ đây ông ta còn khủng khiếp hơn nhiều. Thiên hạ đồn rằng ông ta đã gặp

một tai nạn, mặt mày bị làm biến dạng. Tôi chỉ thoáng thấy ông ta qua khuôn cửa, ở quanh

quẩn trong vùng, bởi vì ông ta không ngủ ở đây, ấy thế mà sáng nay tôi nhìn thấy ông ta lẻn

vào trong lùm cây. Tôi sẽ thích hơn nếu như có một con cọp được thả vào trong đó. Tôi

không hiểu vì sao mà một người như ông Carruthers lại có thể chịu đựng nổi hắn một phút?

Tóm lại, mọi nỗi phiền muộn của tôi sẽ chấm dứt vào thứ Bảy này."

- Tôi hy vọng như thế, Watson ạ. - Holmes nói với vẻ nghiêm trọng - Một rắc rối đang

vờn chung quanh cô gái đó, chúng ta nhất định không để cho ai làm hại cô trong chuyến đi

cuối cùng này. Watson, chúng ta phải có mặt ở đó vào sáng thứ Bảy để có thể ra tay kịp

thời.

Cho tới lúc đó, tôi vẫn không coi câu chuyện này là quan trọng. Ðây đâu phải là lần đầu

tiên mà một người đàn ông bám theo một thiếu nữ, và nếu người đó không đủ can đảm để

ngỏ lời với cô gái, mà cũng chẳng dám xuất hiện trước cô ta thì đó không phải là kẻ đáng

sợ. Tuy nhiên hắn chưa hề dùng bạo lực đối với cô gái, thậm chí hắn đã tới nhà Carruthers

mà vẫn không lộ mặt ra để làm phiền cô ta. Người đàn ông đi xe đạp chắc chắn ở trong

thành phần những người say mê "buổi cuối tuần" như lời người chủ quán đã nói. Nhưng

ông ta là ai? Ông ta muốn gì? Cái bí mật là ở đó. Tuy nhiên, sự nghiêm túc trong thái độ của

114

Holmes, cũng như việc anh nhét một khẩu súng vào trong túi trước khi đi Farnham, khiến

cho tôi nghĩ rằng có thể một thảm trạng sắp xảy ra.

Ðêm qua trời có mưa. Buổi sớm mai rực rỡ. Cái trảng dài mút tầm mắt bên một phía

đường, rất đẹp, với những bụi kim ngân đang nở rộ hoa. Holmes và tôi vừa đi vừa hít sâu

những ngụm lớn không khí trong lành. Trên một sườn đồi cao, nổi lên giữa đám cây sồi là

một tòa nhà. Holmes chỉ tay về con đường đất màu đỏ, chạy ngoằn ngoèo giữa cái trảng

màu nâu và cánh rừng màu xanh. Từ xa, một vết đen hiện ra, một cỗ xe chạy về hướng

chúng tôi, Holmes thốt ra một tiếng reo sốt ruột:

- Nếu đó là cỗ xe độc mã nhẹ, thì cô gái hẳn đã đáp một chuyến tàu sớm hơn. Watson, tôi

e rằng cô ấy đã vượt qua cái góc nguy hiểm trước khi chúng ta gặp cô.

Trong lúc leo lên triền dốc, chúng tôi không còn trông thấy cỗ xe ở mé dưới, nhưng

chúng tôi tiến bước rất nhanh. Tôi đã bị tụt lại đằng sau Holmes. Anh đã bỏ xa tôi khoảng

100 yard khi anh chợt đứng sững lại, vung nắm đấm lên trong một cử chỉ đau đớn và tuyệt

vọng. Cùng lúc đó hiện ra một cỗ xe độc mã trống rỗng do một con ngựa chạy nước kiệu,

với những dây cương kéo lê dưới đất, đi ra khúc quanh và chạy nhanh về phía chúng tôi.

- Muộn quá! Muộn mất rồi! - Holmes kêu lên khi hổn hển bước tới bên tôi - Tôi đã không

đi chuyến tàu trước. Ðây là một vụ bắt cóc! Một vụ giết người! Chặn đường! Ghìm ngựa

lại! Nhảy lên!

Holmes cho ngựa quay đầu lại, bồi cho nó một cú roi thật mạnh và chúng tôi lao trên

đường. Khi ra khỏi khúc quanh, khoảng giữa tòa nhà và cái trảng dài trước mặt chúng tôi,

tôi nắm lấy cánh tay Holmes la lớn.

- Người đó kìa!

Một người đi xe đạp chạy về hướng chúng tôi như một tay đua. Bất chợt ông ngửng bộ

mặt nhiều râu lên, và cặp mắt long lanh, nhìn chúng tôi chằm chặp.

- Hãy dừng lại! - Ông ta kêu lên khi đặt ngang cái xe đạp như muốn chặn đường chúng

tôi - Hãy ngừng lại! - Ông ta hét lên khi rút trong túi ra một khẩu súng lục - Hãy ngừng lại!

Nếu không, tôi sẽ bắn chết con ngựa!

Holmes quăng dây cương cho tôi, nhảy xuống xe, hỏi ngay:

- Cô Violet Smith đâu?

- Ông đang ở trong cỗ xe của cô ấy ông hẳn phải biết cô ấy đang ở đâu. - Người có râu trả

lời.

- Chúng tôi đã gặp chiếc xe này trên đường đi. Không có ai trên đó cả. Chúng tôi đã quay

lại để tìm cách giúp cô ấy.

- Làm sao bây giờ? - Người lạ kêu lên với vẻ tuyệt vọng. - Chúng bắt cô ấy, cái tên cướp

Woodley và con người đê tiện kia? Lại đây ông bạn, lại đây! Chúng ta sẽ đi cứu cô ấy.

Như một con thú bị hoảng hốt, ông ta chạy vùn vụt tới một lỗ hổng trong hàng giậu.

Holmes theo sau ông và tôi theo sau Holmes.

- Chúng đã đi qua lối này. - ông nói, tay chỉ vào dấu của những bàn chân in trên con

đường mòn lầy. Ô, ô! Hãy dừng lại! Ai ở trong bụi cây này?

115

Một chàng trai trạc 17 tuổi, ăn vận như một cậu giữ ngựa với quần đùi bằng da và chân đi

ghệt, nằm co gập lại, trên đầu có một vết chém. Cậu ta bị ngất đi, nhưng còn sống. Tôi xem

xét vết thương, cú chém chưa chạm tới xương.

- Ðây là Peter. Chú ấy đưa cô ấy ra ga. Những tên cướp này đã chặn xe lại và đã đánh cậu

ấy. Hãy để cậu ấy ở đây. Vết thương nhẹ, không sao đâu. Cần phải cứu cô ấy. - Người có

râu đen nói.

Chúng tôi vội chạy xuống con đường mòn ngoằn ngoèo giữa những thân cây, khi đã tới

lùm cây bao quanh ngôi nhà thì Holmes ngăn chúng tôi lại.

- Họ không vào nhà. Những dấu chân của họ quay sang hướng trái... Ở đây, bên cạnh

những cây nguyệt quế.

Trong khi anh nói, tiếng kêu xé tai của một phụ nữ thoát ra từ một khu rừng trước mặt

chúng tôi. Tiếng kêu bị làm cho tắt đột ngột.

- Qua ngả này. Qua ngả này. Bọn chúng đang ở trong sân. - Người lạ kêu lên khi xông

vào những lùm cây. - Quân chó má! Bọn hèn mạt! Hãy theo tôi. Quý ông! Muộn mất rồi!

Mẹ kiếp!

Chúng tôi đột ngột nhập vào một khoảng rừng trống. Ở đầu đằng kia, dưới bóng một cây

sồi già, có ba người đang tụ lại. Một thiếu nữ tái mét, miệng bị một tấm khăn bịt kín. Trước

mặt cô là một gã côn đồ có hàm ria đỏ, hai chân đứng xoạc cẳng, một tay chống nạnh, tay

kia vung vẩy một cái roi ngựa. Ðứng giữa hai người là một ông già râu xám, có choàng một

cái áo lễ, chắc chắn là vừa làm xong nghi lễ kết hôn, bởi vì khi chúng tôi tới thì ông ta nhét

cuốn kinh Thánh vào trong túi; ông vỗ tay nhiều lần thật mạnh lên lưng chàng rể.

- Họ đã được làm lễ cưới - Tôi ấp úng.

- Lại đây! - Người hướng dẫn chúng tôi kêu lên - Các ông hãy lại đây!

Ông ta nhào vào trong chỗ rừng thưa, Holmes tôi bám theo sát gót. Cô gái lảo đảo vào

thân cây, tìm một chỗ dựa. Mục sư Williamson cúi chào chúng tôi với thái độ mỉa mai và

Woodley tiến lên phía trước, buông ra một tràng cười hớn hở.

- Ðằng ấy có thể gỡ bộ râu ra, Bob. Tớ nhận ra đằng ấy. Ðằng ấy và mấy bồ của đằng ấy

đến đúng lúc để tớ giới thiệu bà vợ tớ.

Câu trả lời của người hướng dẫn thật là kỳ lạ. Ông gỡ bộ râu đen ra, ném nó xuống đất,

chĩa khẩu súng vào tên cướp trẻ vừa bước lại gần ông vừa vung vẩy cây roi ngựa.

- Phải. Ta là Bob Carruthers. Mi thừa biết là ta sẽ làm gì nếu mi ngược đãi cô ấy.

- Muộn mất rồi, Bob. Cô ấy đã là vợ tôi.

- Không, cô ấy là vợ góa của mi!

Ông nổ súng một vết máu hiện ra trên áo gilet của Woodley. Hắn xoay tròn người, thốt ra

một tiếng kêu và té bật ngửa xuống, mặt tái xanh. Ông mục sư tuôn ra một tràng chửi rủa

thô tục và rút ra một khẩu súng lục, nhưng nòng súng của Holmes nằm trên gáy ông ta,

trước đó một phần trăm giây.

116

- Ðủ rồi - Holmes nói, giọng lạnh lùng - Hãy buông súng xuống. Phiền anh Watson lượm

nó lên! Và dí sát đầu lão. Cám ơn ông Carruthers, hãy đưa khẩu súng cho tôi. Coi nào, hãy

đưa đây!

- Ông là ai?

- Tôi là Sherlock Holmes.

- Chúa ơi!

- Tôi đại diện cho cảnh sát tới lúc họ đến đây. Lại gần đây, anh kia...

Holmes gọi một người sai vặt ngơ ngác vừa ló đầu ra bên bờ khu rừng thưa.

- Hãy lại đây. Hãy phi nước đại mà đem tờ giấy này tới Farnham.

Anh viết nguệch ngoạc vài chữ trên một tờ giấy xé trong cuốn sổ tay ra.

- Chú hãy đưa tờ giấy này cho một sĩ quan ở ty cảnh sát, tôi phải giữ quý khách này cho

tới khi cảnh sát đến.

Williamson và Carruthers khiêng Woodley vào trong nhà. Tôi đến đỡ cô gái đang kinh

hoàng, rồi đến khám cho tên ria đỏ.

- Y sẽ sống!

- Thế nào - Carruthers kêu lên, nhảy ra khỏi ghế - Tôi lên gác kết liễu mạng sống của nó

để cô thiếu nữ này, vị thiên thần này, khỏi bị ràng buộc suốt đời với tên vô lại.

- Không bao giờ cô ấy là vợ của Woodley. Trước hết Williamson tiến hành một lễ cưới

"không hợp lệ".

- Tôi đã được thụ phong - "Mục sư" kêu lên.

- Nhưng sau đó, ông đã hoàn tục...

- Một ngày làm mục sư, trọn đời là mục sư.

- Không ai nghĩ như thế. Lại còn giấy phép?

- Nó hiện đang ở trong túi tôi.

- Vậy là ông đã xoay ra một tờ giấy giả. Dầu sao đi nữa, một cuộc hôn nhân mà bị cưỡng

ép thì không là một cuộc hôn nhân. Ðây là một hành vi phản bội rất nghiêm trọng như ông

sẽ thấy. Ông sẽ có thời gian để suy tư về việc đó trong 10 năm, nếu như tôi nhớ đúng. Về

phần ông, ông Carruthers, ông nên giữ yên khẩu súng ở trong túi.

- Tôi bắt đầu tin như vậy, thưa ông Holmes. Nhưng tôi yêu cô ấy. Ðây là lần đầu tiên mà

cũng là lần cuối cùng tôi biết thế nào là tình yêu... Tôi trở nên điên cuồng trước ý nghĩ là cô

bị rơi vào tay tên vô lại nhất Nam Phi, kẻ bại hoại nhất từ Kimberley đến Johannesburg. Kể

từ khi cô gái này vào giúp việc cho tôi thì tôi đã không dám để cô đi ngang ngôi nhà, nơi tôi

biết hai tên cướp này đang trú ẩn. Tôi ngồi xe đạp đi theo để bảo vệ và giữ khoảng cách xa

và tôi phải mang râu giả để cô không nhận được ra tôi.

- Nhưng sao ông không báo cho cô ấy biết trước về nỗi nguy hiểm đang đe dọa cô ấy?

- Tôi sợ cô ấy bỏ đi luôn. Dù cô ấy không yêu tôi, nhưng hàng ngày được nhìn thấy cô ở

trong nhà, được nghe giọng nói của cô, thì tôi cũng đã hạnh phúc lắm rồi.

- Ông gọi thứ tình cảm đó là tình yêu à? Ðó là lòng ích kỷ.

117

- Có thể là cả hai cùng một lúc. Mặt khác, với tụi vô lại đang ở kế bên, tất nhiên cô ấy cần

có một người bảo vệ trên đoạn đường vắng. Nhưng tới khi hai bức điện được gửi đi thì tôi

biết là tôi buộc phải làm một cái gì đó.

- Bức điện nào?

Carruthers rút trong túi ra một bức điện tín.

- Nó đây!

Bức điện thật ngắn và rõ: "Lão già đã chết".

- Hừm! - Holmes nói - Giờ đây thì tôi đã rõ mọi việc diễn tiến ra làm sao, vì sao bọn

chúng buộc phải ra tay gấp sau khi có bức điện này. Nhưng trong lúc chờ đợi cảnh sát tới,

có thể ông nói cho tôi biết thêm chăng?

Lão thầy tu hoàn tục, vẫn còn khoác áo lễ, la lớn.

- Bob, nếu tố giác, tao sẽ giết mày. Nếu mày bán đứng bạn bè cho cái tên cớm mặc

thường phục này, thì mày có thể đánh dấu cái ngày hôm nay bằng một chữ thập đen.

- Ðừng có nổi nóng, thưa ngài mục sư. - Holmes ngắt lời trong lúc mồi một điếu thuốc lá.

- Những điểm liên quan tới ngài đều đã sáng tỏ, tôi chỉ hỏi vài chi tiết để thỏa mãn óc tò mò

mà thôi. Nhưng nếu ngài thấy khó trả lời, thì chính tôi sẽ kể lại câu chuyện. Thoạt đầu ba

người trong bọn mấy người từ Nam Phi về đây để chơi trò vừa rồi. Ba người là Williamson,

Carruthers và Woodley.

- Hãy gạt tên tôi ra! - Lão già nói - Tôi chỉ quen biết hai người này từ hai tháng nay và

chưa bao giờ tôi đặt chân sang Nam Phi cả. Hãy nhét cái đó vào trong tẩu của ông và hút nó

đi, thưa ông bạ-gì-cũng-can-thiệp-vào.

- Gã đã nói sự thật. - Carruthers xác nhận.

- Các anh đã biết ông Ralph Smith bên Nam Phi. Và biết ông ta không còn sống được bao

lâu nữa. Các ông đã tìm ra cô cháu gái ông ấy, là người sẽ được thừa hưởng gia tài... Ðúng

thế không?

Carruthers gật đầu, Williamson chửi thề.

- Cô ấy là bà con gần với ông ta hơn cả, và các anh biết là ông già đó không làm bản chúc

thư nào cả.

- Ông ấy không biết đọc mà cũng không biết viết - Carruthers thì thào.

- Thế là hai anh đi tìm người thừa kế gia tài. Các anh muốn rằng một trong hai người sẽ

thành hôn với cô gái đó và người kia cũng sẽ được chia phần. Tôi không hiểu lý do nào mà

Woodley lại được chỉ định làm người chồng.

- Chúng tôi đã đánh bài trong chuyến đi. - Carruthers nói.

- Ông đã thuê cô gái vào làm công trong nhà và Woodley phải cố tán tỉnh cô. Nhưng cô

gái rất ghét anh ta. Mặt khác, thỏa hiệp của hai ông lại có phần khập khiễng, do việc ông si

tình cô giáo. Ông không thể nào chịu đựng được cái ý nghĩ rằng tên côn đồ kia trở thành

chồng cô ta.

- Ðúng vậy!

118

- Ðã xảy ra một cuộc cãi vã giữa hai người. Woodley đã bỏ ông mà đi, và y dàn dựng

nhưng kế hoạch nóng mà không cho ông biết.

- Phải. Từ đó, hễ khi nào có hắn là có tôi. Hắn đã thu thập được cái tên thầy tu hoàn tục

này. Và tôi biết hai đứa đã thuê căn nhà này, bởi vì nó ở gần con đường mà cô gái phải đi

qua để tới nhà ga. Chính vì thế nên tôi đã canh chừng cô gái. Ngày hôm kia, Woodley tới

thăm tôi với bức điện là Ralph Smith đã qua đời. Hắn hỏi tôi có còn ý định giữ nguyên lời

hứa của bản giao kèo không. Tôi trả lời: không. Hắn hỏi tôi có ý định kết hôn với cô gái và

chia cho hắn cái phần cướp được không. Tôi trả lời là cô gái không chịu lấy tôi. Hắn bảo

tôi: Trước hết, phải làm cho cô ta kết hôn, rồi sẽ tính sau. Tôi nói rằng không ai được dùng

bạo lực đối với cô gái. Hắn bỏ đi, miệng không ngớt chửi thề. Tôi vội vàng đi lấy xe ngựa

để đưa cô ra ga, nhưng vẫn đạp xe theo sau. Nhưng, cô đã vượt trước tôi và sự bất hạnh đã

xảy ra.

Holmes đứng lên, ném tàn thuốc vào lò sưởi.

- Anh Watson, tôi đã thật xuẩn ngốc! Khi báo cáo, anh đã chỉ cho tôi thấy rằng anh đã

trông thấy người đi xe đạp nắn lại cái cà vạt trong lùm cây, thì lẽ ra tôi phải thấy vấn đề

ngay tức khắc. Tuy nhiên, chúng ta có thể khen ngợi lẫn nhau rằng mình đã đi đến kết quả

cuối cùng của một vụ không kém tầm thường. Kìa, ba cảnh sát địa phương đang đi trong lối

vào và có cả chú bé đánh xe ngựa nữa. Anh Watson, anh có thể khám sức khỏe cho cô

Smith và bảo cô rằng chúng ta sẽ đưa cô về nhà mẹ cô. Một bức điện gửi cho một kỹ sư trẻ

ở Midland là môn thuốc rất hữu hiệu. Về phần ông Carruthers, ông đã làm những gì có thể

làm để chữa lại những tội lỗi của mình.

- Ðây là danh thiếp của tôi, nếu như lời làm chứng của tôi mà có thể giúp ích cho ông

được đôi phần trong vụ xử, thì tôi sẵn lòng tới.

Cô Violet Smith đã được thừa kế một tài sản lớn, và giờ đây cô là bà Cyril Morton, phu

nhân của người hùn vốn thứ nhất trong công ty Morton & Kenedy. Sau phiên tòa,

Williamson ôm "bảy cuốn lịch", còn Woodley lãnh mười cuốn. Trong nhà đá, chúng có đủ

thời giờ nhìn từng tờ giấy bay đi và suy ngẫm về các việc mình đã làm. Còn về Carruthers,

tuy không có ghi lại, nhưng với việc tấn công Woodley, kẻ vô lại có tiếng, thì một án phạt

nhẹ cũng là đủ để thực hiện công lý.

Câu chuyện ở kí túc xá:

Tấm danh thiếp của Thorneycroft Hustable vừa được đưa đến trước vài giây, theo sau nó

là một người cao lớn xuất hiện. Cánh cửa chưa kịp đóng lại sau lưng, ông đã với tay về phía

bàn, đứng sững lại trên nền nhà, và ngã sóng soài lên trên tấm da gấu trước lò sưởi. Chúng

tôi nhổm phắt dậy, Holmes kê gối ngồi xuống dưới đầu cho ông, còn tôi thì đưa ly brandy

kề môi ông.

- Ðiều gì xảy đến với ông ta vậy, Watson? - Holmes hỏi.

- Kiệt sức. Có lẽ vì đói và mệt.

- Vé khứ hồi đến Mackleton, phía bắc nước Anh - Holmes rút ra một tấm vé đường sắt từ

trong chiếc túi nhỏ đựng đồng hồ của ông ta, và nói: - Bây giờ chưa đến 12 giờ. Ông ta phải

ra đi từ rất sớm.

Mí mắt hơi tấy lên của vị khách khẽ động đậy, thế rồi đôi mắt xám của ông dán vào

chúng tôi bằng một cái nhìn vô nghĩa. Lát sau, tiến sĩ Huxtable khó nhọc đứng dậy, mặt đỏ

lên vì xấu hổ:

- Hãy thứ lỗi cho tôi, ông Holmes, Cơn ngất này là hậu quả của một sự chấn động thần

kinh. Không, xin cảm ơn ông. Chỉ cần cốc sữa với bánh biscuit thì tất cả sẽ qua khỏi thôi

ông Holmes, tôi đến đây mời ông đi cùng với tôi.

- Ðể khi nào ông hoàn toàn hồi sức đã.

- Tôi thấy dễ chịu rồi ông Holmes, tôi khẩn khoản mời ông đi Mackleton ngay.

Holmes lắc đầu:

- Chúng tôi rất bận. Tôi đã nhận tiền trước cho việc điều tra khác rồi. Lúc này chỉ một

việc cực kỳ quan trọng mới có thể buộc tôi rời khỏi London.

- Cực kỳ quan trọng! - Vị khách của chúng tôi vung tay lên - Lẽ nào ông không biết gì về

vụ bắt cóc người con trai duy nhất của công tước Holdernesse?

- Sao? Cái ông cựu bộ trưởng đấy à?

- Phải, Chúng tôi đã dốc hết sức mình để chuyện đó không lên mặt báo. Thế nhưng, hôm

qua có một tờ báo đã loan tin. Tôi nghĩ những tin này đã bay đến ông.

Holmes với lấy tập sách chỉ dẫn trên giá, tìm đến chữ H.

- "Holdernesse... Công tước thứ sáu,... Nam tước Beverley, Bá tước Carston, chà, một

danh sách dễ sợ! Hầu tước Hallamshire từ 1900. Cưới Edith, con gái ngài Charles

Appledore, 1888. Họ chỉ có 1 con và là người thừa kế duy nhất, Huân tước Saltire. Chủ sở

hữu 250.000 mẫu Anh lãnh địa trong vùng Lancashire và xứ Wales. Địa chỉ: Carlton House

Terrace; Holdernesse Hall, Hallamshire; lâu đài Carston, Bangor, Wales. Lãnh đạo Bộ Hải

quân năm 1872; Tổng thư ký Hội đồng... Ðây là con người nổi tiếng, và là một trong những

người nổi tiếng nhất của Hoàng gia...".

- Một trong những người nổi tiếng nhất, và có thể còn là một trong những người giàu có

nhất nữa, Ông Holmes, xin cho phép được nói rằng: Ngài hứa sẽ trao tấm séc 5.000 bảng

cho người nào chỉ ra nơi cất giấu con ngài, và 1.000 bảng cho ai chỉ ra kẻ bắt cóc đứa bé.

137

- Quả là hào phóng! - Holmes nói. - Watson! Chúng ta sẽ đi theo tiến sĩ. Còn ông, tiến sĩ

Huxtable, hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.

Vị khách nốc cạn cốc sữa, rồi nói:

- Tôi là người sáng lập và là hiệu trưởng khu học xá Huxtable's Sidelights ở Horace. Khu

học xá dành cho học sinh của tôi là một trường học tốt nhất nước. Huân tước Leverstoke,

Bá tước Blackwater, ngài Cathcart Soames... Rất nhiều gia đình quý tộc đã gửi con đến

đây. Nhưng 3 tuần tước, công tước Holdernesse đã nhờ ông James Wilder, thư ký của ngài,

đưa huân tước Saltire, người con trai 10 tuổi và là người thừa kế duy nhất của Ngài, đến học

ở chỗ chúng tôi. Không ngờ đây lại là điểm bắt đầu vận rủi nhất của đời tôi.

Cậu bé đến vào ngày 1 tháng 5. Chẳng bao lâu, cậu bé đã quen dần với nề nếp của chúng

tôi. Cần lưu ý rằng trước đó, ở tại nhà, cậu bé sống không được thoải mái, hai ông bà không

còn sống chung với nhau, nữ công tước đã dọn đến miền Nam nước Pháp, còn đứa con thì

hướng về người mẹ. Lần cuối cùng người ta trông thấy cậu là vào tối ngày 13 tháng 5. Căn

phòng dành cho cậu ở gác ba, còn căn phòng lớn bên cạnh có hai cậu bé khác ngủ. Vào cái

đêm đó, hai cậu bé này không nhìn thấy, cũng như không nghe thấy gì cả. Thật ra cậu bé

không rời khỏi phòng bằng cửa chính. Cửa sổ ở chỗ cậu ta mở toang, cây thường xuân với

những nhánh rất rậm rạp quấn quanh tường. Trên mặt đất chúng tôi không tìm thấy dấu vết

nào, nhưng chắc chắn là cậu đã bò qua cửa sổ.

Sáng ngày 14 tháng 5, lúc 7 giờ, người ta phát hiện ra chuyện này. Giường của cậu không

trải chăn. Trước lúc đi, cậu ta còn kịp mặc bộ đồng phục học sinh. Không có ai vào phòng

cậu ban đêm. Còn nếu như từ đó vọng ra những tiếng kêu hay những âm thanh vật lộn thì

chắc người học sinh lớn hơn ở phòng ngủ bên cạnh tất sẽ nghe thấy. Ngay sau đó tôi triệu

tập tất cả ký túc xá lại. Ðến lúc đó chúng tôi tin rằng cậu bé không đi một mình. Ông

Heidegger, giảng viên tiếng Ðức đã vắng mặt, căn phòng của anh ở chái nhà đối diện với

gác ba. Cửa sổ của căn phòng cũng trông ra ngoài bãi cỏ. Giường chiếu của anh ta không

được dọn dẹp, áo sơ mi và đôi tất chân của anh để bừa bãi trên sàn nhà. Ông ta bò qua cửa

sổ bíu vào những nhánh thường xuân, tụt xuống dưới.

Ông giáo sư này vào trường tôi hai năm trước đây, do sự tiến cử đáng tin cậy nhất.

Nhưng ông ta là một người trầm lặng, hay cau có và không gây được cảm tình của mọi

người.

Hôm nay là ngày 16 tháng 5. Từ ngày 13 tháng 5, chúng tôi đã không còn tin tức nào về

kẻ chạy trốn. Ðầu tiên tôi liên lạc với công tước, hiện đang ở Holdernese Hall, cách trường

vài dặm, hy vọng vì nhớ nhà mà huân tước Saltire đã trở về với cha. Thế nhưng cậu ta

không có ở đấy. Công tước vô cùng lo ngại. Ông Holmes, tôi van ông, hãy hiến toàn bộ sức

lực cho vụ này.

Sherlock Holmes rút cuốn sổ tay từ túi ra, và ghi vào đấy một điều gì đó để cần được ghi

nhớ.

138

- Ông đã phạm một sai lầm lớn là không đến đây ngay. - Holmes thốt lên nghiêm khắc -

Ðiều này sẽ gây nhiều rắc rối cho cuộc điều tra, chẳng hạn bãi cỏ và dây thường xuân trên

tường đều có thể cho ta biết nhiều điều quan trọng.

- Công tước đã gắng giữ kín việc này. Ngài sợ những nỗi bất hòa trong gia đình mình trở

thành đầu đề cho những lời đàm tiếu.

- Nhà chức trách địa phương tiến hành điều tra chưa?

- Rồi, nhưng không đem lại kết quả.

- Có lẽ công việc điều tra hiện trường vẫn chưa được tiến hành đến nơi đến chốn?

- Tự nhiên cảnh sát ngừng cuộc điều tra!

- Như thế nghĩa là ba ngày đã trôi qua một cách vô ích. Ðiều này thật đáng buồn.

- Ông rất có lý.

- Dẫu sao tôi vẫn sẵn lòng bắt tay vào việc. Ông đã xác định mối quan hệ giữa cậu bé và

người giáo viên chưa?

- Không có mối quan hệ nào giữa họ cả.

- Ông ta có dạy cậu ta không?

- Không.

- Các xe đạp đều không bị đụng đến sao?

- Không.

- Ông tin chắc vậy à?

- Phải.

- Ông có nghĩ rằng người thầy dạy tiếng Ðức đã ra đi bằng xe đạp với cậu bé?

- Cố nhiên, không.

- Vậy lúc ấy ông giải thích chuyện đó ra sao?

- Có thể họ lấy xe để đánh lạc hướng. Sau đấy họ giấu xe đạp vào một nơi nào đấy, còn

chính họ lại đi bộ.

- Cũng có thể. Nhưng đó là cách đánh lạc hướng kỳ quái. Các xe đạp vẫn ở trong kho

chứa à?

- Vâng.

- Phải chăng ông ta đi bằng xe đạp rồi sau đó giấu xe đạp đi, chứ ông ta không đi bộ?

- Ông hoàn toàn có lý.

- Không, lý luận này có chỗ chưa ổn. Song, việc mất một chiếc xe có thể là khởi điểm

cho sự điều tra. Chỉ còn một câu hỏi này nữa: Có ai đến thăm cậu bé trước ngày cậu mất

tích không?

- Không.

- Có thể có lá thư gửi cho cậu ta?

- Có một lá thư.

- Ai gửi?

- Cha cậu ta.

- Ông mở hộp thư của học sinh chứ?

139

- Không.

- Thế tại sao ông cho rằng lá thư là của cha cậu ta?

- Trên phong bì có gia huy và địa chỉ được viết bằng chính nét chữ nguệch ngoạc của

công tước. Ngoài ra chính công tước cũng nhớ là đã viết thư cho con.

- Cậu bé nhận được các lá thư khi nào?

- Những ngày sau cùng không có lá thư nào gửi cho.

- Từ Pháp có ai gửi cho cậu ta không.

- Không. Một lần cũng không.

- Tất nhiên ông hiểu tôi đang hướng tới cái gì rồi: Hoặc là người ta dùng sức mạnh để

cướp cậu ta hoặc là cậu ta tự đi theo ý muốn của mình. Còn nếu không một ai đến chỗ cậu ta

thì sự tác động chính là ở lá thư. Tôi coi trọng việc biết ai là người liên lạc thư tín với cậu

bé.

- Chỉ có người cha viết thư cho cậu ta thôi.

- Bức thư của người cha đến đúng vào ngày cậu bé chạy trốn. Mối quan hệ giữa cha và

con ra sao? Có tồi không.

- Ngài bị cuốn hút vào những công việc quốc gia đại sự, nhưng Ngài quan hệ với người

con cũng không đến nỗi tồi. Tuy vậy, trái tim của đứa trẻ hoàn toàn hướng về người mẹ.

- Bản thân cậu bé có nói như thế không?

- Không.

- Vậy ai nói? Công tước nói chăng?

- Ồ, tất nhiên là không.

- Thế thì do đâu ông biết được điều đó?

- Tôi phải trò chuyện với viên thư ký của công tước, James Wilder. Ông ta đã tiết lộ với

tôi về tâm trạng của huân tước Saltire.

- Hiểu rồi. Nhân tiện xin hỏi luôn, bức thư cuối cùng của công tước đã được tìm thấy

trong phòng của cậu bé sau khi cậu bé mất tích phải không?

- Không, cậu ta cầm theo người. Ông Holmes, có lẽ đã tới lúc chúng ta cần ra ga rồi.

- Bây giờ tôi phái người đi gọi xe. Sau 4 giờ nữa, chúng tôi sẽ sẵn lòng giúp ông. Ông

tiến sĩ, nếu ông có ý định đánh điện về nhà thì hãy làm sao cho mọi người nghĩ rằng cuộc

điều tra vẫn còn đang tiến hành ở Liverpool, trong thời gian đó, tôi sẽ yên ổn làm một cái gì

đó ở ngay cạnh trường ông.

Khi chúng tôi đi tới cạnh trường thì trời đã tối hẳn. Một tấm danh thiếp nằm trên bàn ở

phòng chờ. Người hầu phòng thì thầm với ông hiệu trưởng. Và thế là ông ta quay trở lại chỗ

chúng tôi với một vẻ thật xúc động. Ông ta nói:

- Công tước đang ở đây. Công tước và ông Wilder hiện đang chờ tôi trong phòng làm

việc. Chúng ta cùng vào đi. Tôi sẽ giới thiệu các ông với công tước.

Tôi có biết người hoạt động nhà nước danh tiếng này qua các bức ảnh. Nhưng con người

thật của ông thì không giống các bức ảnh. Ông trông nhợt nhạt như xác chết. Ðứng cạnh

ông là người thư ký riêng Wilder. Ðó là một chàng trai có vóc người tầm thước, bộ mặt linh

140

hoạt, đôi mắt thông minh. Anh ta bắt đầu câu chuyện bằng một giọng rất quả quyết, thậm

chí cay độc.

- Tiến sĩ Huxtable! Tôi đã ở chỗ ông ngay từ sáng nay. Song, đáng tiếc là tôi đến muộn

và đã không thể ngăn cản chuyến đi của ông. Như mọi người cho biết thì ông đến chỗ thám

tử Sherlock Holmes để ủy thác cho ông ấy điều tra vụ này. Công tước tỏ ra ngạc nhiên khi

ông chưa xin ý kiến Ngài mà đã dám hành động như vậy!

- Khi cảnh sát đã không đưa tới cái mà...

- Công tước không hề tin vào điều đó.

- Nhưng, thưa ông...

- Ông tiến sĩ! Công tước không muốn chuyện này lan rộng ra để dễ dàng khắc phục tình

trạng này.

Tiến sĩ hoảng sợ, lúng túng nói.

- Ông Sherlock Holmes có thể trở về London bằng chuyến tàu sáng.

- Tôi không có ý định như vậy đâu, tiến sĩ ạ. - Holmes cười một cách nhã nhặn - Vòm trời

phương Bắc sảng khoái và xinh đẹp nên tôi quyết định nghỉ ngơi một vài ngày trên những

bình nguyên này. Tôi sẽ tiêu khiển trong những điều kiện cho phép tại vườn nhà ông, hay ở

khách sạn nông thôn. Ðiều này cố nhiên chỉ tùy thuộc vào ông.

Nhưng, đúng lúc ấy giọng nói trầm trầm của viên công tước đã kịp thời vang lên, cứu

thoát ông tiến sĩ.

- Tiến sĩ Huxtable! Ðáng lẽ ông cần trao đổi với tôi thì hơn. Tuy nhiên, nếu ông đã thổ lộ

tất cả công việc này với ông Holmes thì chối từ sự giúp đỡ của ông ấy là một hành vi ngu

ngốc. Ông Holmes, ông chẳng việc gì phải tới khách sạn. Tôi sẽ vui lòng đón ông về nghỉ

ngay tại nhà chúng tôi.

- Xin cảm tạ Ngài! Nhưng theo yêu cầu của công việc, tôi cần phải ở lại đây, ngay tại nơi

đã xảy ra biến cố.

- Tôi không muốn ép buộc ông đâu, ông Holmes ạ. Song nếu ông thấy cần thu thập

những tin tức nào đó ở tôi hay ở ông Wilder, chúng tôi rất sẵn lòng.

- Có lẽ tôi phải đến thăm Ngài tại lâu đài Holdernesse. Còn bây giờ, tôi chỉ muốn biết

Ngài giải thích việc biến mất một cách đầy bí ẩn của con Ngài như thế nào?

- Thật khó trả lời quá, thưa ông.

- Xin lỗi Ngài, nếu tôi đụng phải vấn đề khiến Ngài cảm thấy khó chịu. Thế nhưng không

còn cách nào hơn. Ngài có cho rằng nữ công tước đã lôi kéo cậu bé không?

Viên cựu bộ trưởng chần chừ rồi nói:

- Không, tôi không nghĩ như vậy!

- Thế thì có thể có kẻ nào bắt cóc cậu bé để chuộc tiền chăng?

- Không, thưa ông.

- Còn một câu hỏi nữa, thưa ngài. Tôi được biết: Ngài đã viết thư cho con trai Ngài vào

đúng cái ngày mà cậu bé biến mất, phải không?

- Không, chuyện đó xảy ra vào ngày hôm trước.

141

- Hoàn toàn chính xác. Có điều cậu bé đã không nhận được thư vào chính ngày hôm đó?

- Phải.

- Trong lá thư đó chắc không có điều gì có thể làm cậu bé xúc động hoặc đem lại cho cậu

ta ý nghĩ chạy trốn chứ?

- Tất nhiên không, thưa ông!

- Chính tay Ngài chuyển lá thư, phải không?

Viên thư ký ở phía sau công tước bực tức trả lời:

- Công tước không có thói quen tự mình chuyển thư từ cho người nhận. Lá thư ấy được

lưu lại trên bàn, cùng với những lá thư khác trong phòng làm việc. Và tôi đã nhét tất cả vào

thùng bưu chính.

- Ông có tin chắc là trong số các lá thư ấy chắc chắn có bức thư chuyển cho cậu bé

không?

- Tất nhiên! Tôi đã nhìn thấy nó.

- Ngài đã viết bao nhiêu lá thư vào ngày hôm ấy, thưa công tước?

- Hai mươi hoặc ba mươi gì đấy. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta đã phần nào đi ra ngoài

thực chất của công việc rồi đây!

- Không. Tại sao như thế được? - Holmes nói.

- Chính tôi đã khuyên cảnh sát hướng sự điều tra xuống phía Nam nước Pháp - Công tước

tiếp tục - Xin nhắc lại, tôi không cho rằng nữ công tước có khả năng đẩy con trai tới hành

động kỳ lạ ấy được. Nhưng do tính bướng bỉnh, cộng với sự xúi bậy và hỗ trợ của anh

chàng người Ðức, đứa bé có thể chạy tới chỗ mẹ mình. Còn bây giờ, tiến sĩ Huxtable, xin

được phép từ biệt ông.

Tôi cảm thấy Holmes còn muốn hỏi một vài câu nữa song viên công tước đã kết thúc câu

chuyện, hình như ông ta e ngại rằng mỗi câu hỏi mới sẽ lại soi rọi ánh sáng không thương

tiếc vào phần cuộc đời được ông che đậy kỹ lưỡng.

Ngay sau khi họ đi khỏi, Holmes liền bắt tay vào việc. Sự quan sát căn phòng của cậu bé

không đem lại kết quả gì ngoài kết luận dứt khoát là cậu ta chạy trốn qua phía cửa sổ. Trong

phòng của người giáo viên cũng không tìm thấy gì mới. Dây trường xuân phía dưới cửa sổ

không chịu nổi sức nặng của cậu bé. Soi đèn trên bãi cỏ, chúng tôi nhận ra ở đó có những

vết giày hằn sâu, cỏ bị xéo nát: đó là bằng chứng duy nhất về cuộc chạy trốn ban đêm.

Ðể tôi ở lại một mình, Sherlock Holmes bỏ đi, và anh trở về khoảng 12 giờ đêm. Anh thu

được tấm sơ đồ địa phương ở đâu đó. Anh trải nó trên giường rồi đặt cây đèn vào chính giữa

và bắt đầu xem xét. Thỉnh thoảng anh dùng chiếc tẩu thuốc chỉ cho tôi coi những điểm cần

lưu ý.

- Tôi muốn anh chú ý tới một vài chi tiết có thể mang ít nhiều ý nghĩa trong quá trình

điều tra. Hãy nhìn vào tấm sơ đồ này! Ô chữ nhật có nét gạch chéo này là trường học.

Chúng ta sẽ cắm kim găm vào đó. Còn đây là đường nhựa. Nó chạy qua khu trường theo

hướng đông - tây. Trong khoảng một dặm không có những con đường nhánh từ đây đi các

hướng khác. Nếu họ đi bằng dường bộ thì không thể không đi qua con đường này.

142

- Ðúng vậy!

- Còn chỗ này, từ 12 giờ đêm đến 6 giờ sáng có cảnh binh túc trực: đây là ngã ba đầu tiên

ở hướng đông của con đường. Người cảnh binh không rời trạm gác lấy một chút. Anh ta

khẳng định rằng chắc chắn anh ta sẽ nhận ra người đàn ông và cậu bé nếu họ có đi qua đấy.

Tôi đã nói chuyện với anh ta hồi tối và theo tôi, chúng ta có thể tin vào lời của anh ta. Thế

nghĩa là về phía đông của con đường được loại trừ ra. Còn bây giờ chúng ta xem tình hình ở

phía tây xem sao. Ở đó có khách sạn "Bò Mộng". Nữ chủ nhân đang bị bệnh. Bà phái người

đi Mackleton để mời bác sĩ. Nhưng vị bác sĩ này lại đang đi thăm một bệnh nhân khác. Mãi

đến sáng sớm hôm sau, ông ta mới tới được chỗ bà. Vậy là ở khách sạn, trong khi chờ đợi

bác sĩ, suốt đêm mọi người không ngủ được. Thỉnh thoảng người ta nhìn ra ngoài đường

xem bác sĩ đã đến chưa. Theo lời của người này thì không một ai đi qua khách sạn cả. Nếu

tin theo lời của họ thì phần đường phía tây sẽ không còn làm chúng ta nghĩ ngợi gì nữa. Vì

vậy, những người chạy trốn đã chọn một con đường khác.

- Họ đi bằng xe đạp chăng? - Tôi hỏi.

- Ðúng vậy! Nếu những kẻ chạy trốn không đi trên đường cái, thì họ hoặc là đi theo

hướng bắc, hoặc là đi theo hướng nam của ngôi trường. Vậy chúng ta thử cân nhắc hai giả

thiết này xem sao. Phía nam khu trường có một cánh đồng rộng lớn. Cánh đồng bị phân

cách thành những mảnh nhỏ. Mỗi mảnh được ngăn với mảnh khác bởi hàng rào xây bằng

đá. Không có khả năng qua đó bằng xe đạp. Vậy cần loại trừ giả thiết này. Chúng ta sang

phía bắc. Ở đây, chúng ta trông thấy một cánh rừng nhỏ, được gọi là "Mũi dao lệch". Phía

sau khu rừng chừng 10 dặm có một cánh đồng hoang kéo dài, càng về hướng bắc càng

nhiều gò đống. Chênh chếch phía trái cánh đồng là lâu đài Holdernesse: theo đường cái đến

nơi này phải mất 10 dặm, còn theo đường chim bay mất chừng 6 dặm. Cánh đồng này hiu

quạnh và vắng vẻ. Vài trại chăn nuôi trâu bò nằm rải rác trên đó. Cừu, bò và chim đầm lầy,

đó là cư dân duy nhất của vùng này. Xa hơn còn có một đường nhựa chạy qua. Dọc theo

con đường này có chừng hai, ba biệt thự, một nhà thờ và một khách sạn. Phía sau là những

quả đồi cao và dốc. Tôi tin là cần phải hướng sự tìm kiếm của chúng ta về phía đó.

- Nhưng còn xe đạp? - Tôi nhắc lại.

- Những người đi xe đạp cừ khôi không chỉ đi trên đường cái. Hơn nữa ở cánh đồng lại

có những con đường mòn. Vả lại, đêm hôm đó trăng lại rất sáng. Vậy còn có gì khó đâu?

Có tiếng gõ cửa khẩn cấp, tiến sĩ Huxtable bước vào phòng ông cầm chiếc mũ cát màu

xanh với phù hiệu trắng trên lưỡi trai, ông ta reo lên:

- Thật là may mắn! Thế là chúng ta đã lần ra dấu vết của cậu bé.

- Các ông tìm thấy ở đâu?

- Ở chỗ những người du mục. Bọn bắt cóc lưu lại trong trại du mục trên cánh đồng. Hôm

nay, cảnh sát bất thình lình ập tới chỗ họ, lục soát trong xe. Và họ tìm thấy cái này.

- Nó rơi vào tay họ bằng cách nào vậy? Họ nói những gì?

- Họ thề rằng đã tìm thấy chiếc mũ trên cánh đồng vào sáng ngày 14 tháng 5. Không,

quân vô lại ấy đã bị tống giam cả rồi.

143

Tiến sĩ bước ra khỏi căn phòng.

- Thế là được rồi, ở đây nếu cảnh sát không bắt được những người du mục thì họ không

làm được gì cả. Hãy nhìn vào sơ đồ này, Watson. Con suối này chảy qua cánh đồng. Ở

khoảng giữa khu trường và lâu đài nó hóa thành đầm lầy. Tiết trời bây giờ hanh khô, vậy

việc tìm kiếm dấu vết sẽ không khó lắm. Có thể còn lưu lại một cái gì đó giữa đầm lầy.

Ngày hôm sau khi thức giấc vào lúc mờ sáng, tôi nhận ra bóng dáng cao gầy của Holmes

cạnh giường tôi. Anh mặc áo quần tề chỉnh.

- Tôi đã khảo sát bãi cỏ và kho để xe đạp. Sau đó tôi đi dạo ở khu rừng "Mũi dao lệch".

Hãy dậy đi, Watson! - Gương mặt bạn tôi ửng đỏ, đôi mắt sáng lên như vẫn thường thấy ở

những người mong mỏi bắt tay vào công việc ưa thích.

Lòng tràn đầy hy vọng, chúng tôi đi đến cánh đồng than bùn. Ở đó có rất nhiều con

đường ngang dọc bị đàn cừu giẫm mòn. Chẳng bao lâu chúng tôi đi tới cánh đồng cỏ đã hóa

thành đầm lầy ngăn cách chúng tôi với tòa lâu đài. Nếu chạy về nhà, thì cậu bé không thể đi

qua cánh đồng này được! Tại đây tất cả phải lưu lại những dấu vết của cậu và những dấu vết

của ông giáo người Ðức. Nhưng chúng tôi không thấy những dấu vết như vậy. Holmes đi

dọc theo bên rìa của cánh đồng cỏ. Anh chăm chú quan sát từng vệt sần trên bề mặt cánh

đồng. Ở đây có rất nhiều vết chân cừu. Ði tiếp vài dặm nữa chúng tôi thấy vết móng chân bò

cái.

- Bế tắc rồi! - Holmes buồn bã đưa mắt nhìn quanh cánh đồng - Tại đây còn có những bãi

lầy và giữa bãi lầy này có một lối đi hẹp. Hãy nhìn kìa! Cái gì thế này?

Chúng tôi bước vào lối mòn có in hình một dải đen đen. Những vết bánh xe đạp in rõ trên

lối mòn ẩm ướt.

- Xe đạp đây rồi! - Tôi reo lên.

Nhưng Holmes lắc đầu.

- Một chiếc xe đạp nào đấy chứ không phải chiếc xe đạp chúng ta đang tìm. Tôi biết tới

42 lốp xe đạp khác nhau. Vết lốp này là của hãng "Dunlop" và lại còn có miếng "ghệt" nữa.

Lốp xe của ông giáo người Ðức do hãng "Palmer" sản xuất, có những đường vạch dọc kia.

Một giảng viên dạy toán đã nói cho tôi biết điều đó. Cho nên, không phải giáo viên người

Ðức mà là một người khác đã qua đây.

- Nghĩa là chính cậu bé?

- Ôi!. Giá như cậu bé có xe đạp? Người ta cam đoan với chúng ta là cậu bé không có xe.

Những dấu vết này, được bắt đầu từ khu trường.

- Hay là ta theo hướng tới trường.

- Không phải!. Vết bánh xe sau luôn sâu hơn vì nó phải chịu trọng lượng lớn hơn. Ðây

này!? Ở một vài chỗ, vết bánh xe sau đã xóa lấp vết bánh xe trước. Không người đi xe đạp

chắc phải đi ra từ khu trường. Cũng có thể người này không có quan hệ gì với sự truy tìm

của chúng ta. Song, chúng ta hãy cứ theo dấu vết này mà đi ngược lại vậy.

Chúng tôi đã làm như thế. Khi tới chỗ con đường mòn rẽ ngoặt từ vạt đất bị hóa lầy, đột

nhiên vết lốp xe đạp biến mất. Con suối nhỏ cắt ngang lối mòn, và ở bờ bên kìa, vết xe đạp

144

lại xuất hiện, mặc dầu có những con bò cái đã xéo lên chúng. Sau đấy, con đường mòn ăn

sâu vào cánh rừng "Mũi dao lệch". Cánh rừng hầu như tiếp liền ngay với tòa nhà của

trường, rõ ràng người đi xe đạp đã xuất phát từ cánh rừng này. Holmes ngồi xuống một tảng

đá, tay chống cằm. Anh ở trong thế hoàn toàn bất động. Cuối cùng, anh nói:

- Thôi được! Một kẻ có đầu óc phòng xa cố nhiên có thể thay bánh xe đạp để đánh lẫn

dấu vết. Ta hãy tạm gác vấn đề nan giải này lại và hãy quay lại chỗ đầm lầy.

Chúng tôi tiếp tục xem xét tỉ mỉ phần đất lầy lội của cánh đồng. Chẳng bao lâu chúng tôi

nhận ra còn một lối mòn khác nữa. Holmes đi tới gần lối mòn và vui sướng reo lên. Những

vết mảnh chạy dài ở phía giữa lối mòn. Ðó là dấu lốp xe đạp của Palmer.

- Ông giáo người Ðức đã qua đây! - Holmes thốt lên xúc động.

- Xin chúc mừng anh !

- Thế nhưng còn lâu nữa mới tới được kết quả cuối cùng, đừng bước vào lối mòn. Hãy đi

theo vết này. Có lẽ chỉ chốc lát nữa thôi nó sẽ đột ngột kết thúc.

Tuy vậy ở phần này của cánh đồng vẫn luôn gặp phải những chỗ sình lầy. Và mặc dầu

lốp xe đạp thỉnh thoảng bị biến mất nhưng sau đó chúng tôi lại tìm thấy nó. Holmes nói:

- Anh hãy để ý xem ở đây, người đi xe đạp vào pédale không. Ðiều này thật dễ thấy. Anh

nhìn vào những vết lốp xe trước và sau mà coi, chúng đều rõ như nhau. Ðó là do người đi xe

đã dồn trọng lượng về phía trước như những tay đua vẫn thường làm. Trời! Anh ta ngã kìa!

Trên lối mòn có một vệt loang dài và rộng. Xa hơn một chút thấy có những vết giày, và sau

đó vệt lốp xe đạp lại xuất hiện.

Holmes nhặt một cành cây có hoa bị gãy từ dưới đất lên. Những bông hoa màu vàng bị

vấy vệt đỏ. Trên lối mòn trong bụi cây, những vết máu khô thẫm lại.

- Công việc tồi quá! Rất tồi! Thôi Watson, không đi về hướng này nữa. Hãy lui về phía

kia vậy. Nào, xem ta có thể tìm được gì ở đây nào? Anh ta ngã, bị thương... đứng dậy... Rồi

lại ngồi lên xe... tiếp tục đi. Có một đàn bò đi qua lối mòn này, nhưng không phải bò đực đã

húc anh ta? Có điều không gặp những vết khác ở đây. Ði lên phía trước Watson. Những vết

máu, những vết lốp xe đạp. Hãy cứ theo những dấu vết này.

Sự truy tìm của chúng tôi không kéo dài. Vết xe đột nhiên bắt đầu rẽ theo lối mòn bóng

lên vì ẩm ướt. Tôi đưa mắt về phía trước. Bất thình lình những ánh kim loại lóe lên ngay

trước mặt tôi. Chúng tôi lôi từ lùm cây ra một chiếc xe đạp của hãng "Palmer". Một pédale

bị uốn cong, tay lái và bánh trước bê bết máu. Cách không xa có một chiếc giày trồi lên trên

cỏ. Chúng tôi chạy bổ đến đó và nhìn thấy người lái xe đạp bất hạnh: người cao, để râu, đeo

kính. Mắt kính phải bị vỡ. Một quả đấm trời giáng vào sọ là nguyên nhân gây ra cái chết.

Sau khi bị thương anh còn có thể đi xe đạp được vài yard nữa. Anh ta không mang tất, còn

sau lần áo vét, chúng tôi nhận ra chiếc áo ngủ. Không còn hoài nghi gì nữa. Ðây là giảng

viên người Ðức. Holmes thận trọng xoay thi thể trở lại để xem xét. Cuối cùng, Holmes lo

âu, nói:

145

- Thú thật, tôi không rõ bây giờ chúng ta phải làm gì. Sự tìm kiếm đã kéo dài đến mức

không thể mất thời giờ thêm nữa, chúng ta cần báo cho cảnh sát. Lẽ nào lại có thể để người

bất hạnh nằm ở đây được!

- Hãy viết vài chữ cho tôi.

- Nhưng thiếu sự trợ giúp của anh, tôi không thể tiến hành công việc được. Kìa! Có ai

đang gạt than bùn kia kìa! Hãy nhờ người ấy đi mời cảnh sát tới đây.

Tôi thực hiện ngay yêu cầu của Holmes, và anh nhờ người chủ trại ấy chuyển giấy cho

tiến sĩ Huxtable.

- Thế đó, Watson ạ. Sáng nay chúng ta đã tìm được hai dấu vết. Dấu thứ nhất là lốp xe

đạp hãng Palmer, nó dắt chúng ta tới nạn nhân. Dấu thứ hai là lốp xe đạp bì "ghệt" của hãng

Dunlop. Trước khi tìm hiểu dấu vết thứ hai này, chúng ta hãy lưu ý rằng cậu bé đã tự ý bỏ

chạy. Cậu ta bò qua cửa sổ và lẻn đi một mình hoặc cùng với người báo tin cho mình.

- Có lý.

- Cậu bé đã có chuẩn bị để chạy trốn, nên ăn mặc đầy đủ. Nhưng ông thầy người Ðức

mặc áo quần vội vã nên đã bỏ chạy mà không kịp mang tất chân.

- Chắc chắn như vậy.

- Cái gì buộc ông ta nhảy qua cửa sổ? Chính là việc ông ta nhìn thấy cậu bé chạy trốn.

Ông muốn đuổi kịp và đưa cậu bé trở lại. Ông ta vớ lấy xe đạp của mình, đuổi theo cậu bé

và chết trên đầm lầy.

- Rất có lý.

- Rượt theo cậu bé, một người đàn ông chỉ cần chạy theo là đủ rồi. Thế mà ông thầy

người Ðức, theo ý kiến của tiến sĩ Huxtable, là một tay đi xe đạp cừ khôi, lại làm khác? Ông

ta chạy vào kho lấy xe đạp của mình. Từ đó có thể rút ra kết luận thế này: Ông ta nhận thấy

cậu bé sử đụng một phương tiện di chuyển ưu việt hơn đôi chân của ông ta. Nói cách khác,

cậu bé đã lấy xe đạp của một ai đó phải không? Chúng ta hình dung kết cục của cuộc tẩu

thoát ấy như thế này: Ông thầy người Ðức chết cách ngôi trường 5 dặm. Cần lưu ý là ông ta

chết vì quả đấm của một người có đôi tay rắn khỏe. Nghĩa là cậu bé có người bạn dường và

họ đào tẩu nhanh tới mức một tay lái xe đạp cừ khôi chỉ đuổi kịp họ ở dặm đường thứ năm.

Tại nơi xảy ra tấn thảm kịch, chúng ta chỉ tìm thấy những dấu vết của móng bò cái và chỉ có

vậy thôi? Tôi đi một đường vòng rộng chừng 50 bộ vẫn không tìm thấy một lối mòn nào

khác. Người lái xe đạp thứ hai không có liên quan gì tới vụ giết người, và ở đây không có

vết chân người.

- Này Holmes! Ðiều đó thật khó tin!

- Hoan hô! Kết luận thật chí lý! Trong sự trình bày các sự kiện của tôi có một cái gì đó

thật khó tin. Ðúng thế, tôi có sai lầm. Song, trong suốt thời gian điều tra, anh luôn ở bên tôi

và chính mắt anh đã nhìn thấy tất cả. Vậy tôi sai lầm ở chỗ nào?

- Có thể anh ta bị thương vào đầu trong khi ngã.

- Ở giữa đầm lầy này sao?

- Tôi rối trí mất rồi, Holmes ạ.

146

- Chúng ta đã từng giải đáp được những câu hỏi còn hóc búa hơn thế. Chỉ cần vận dụng

chúng một cách khôn khéo nữa thôi... Nào, hãy tiếp tục đi Watson! Chiếc lốp xe hãng

"Palmer" đã nói hết cho chúng ta rồi đấy Giờ thử xem chiếc lốp xe "ghệt" hãng Dunlop sẽ

đưa chúng ta đến đâu?

Chúng tôi đi theo vết này. Nhưng chẳng bao lâu những quả đồi thoai thoải phủ những

lùm cây thấp đã giăng dài trước mặt chúng tôi. Con suối đã ở lại đằng sau. Ði tiếp sẽ không

có ý nghĩa gì cả, bởi vì những vết lốp xe hãng Dunlop có thể dẫn đến lâu đài Holdernesse

với những chiếc tháp to nhô tên về phía trái, hoặc có thể đưa tới những túp nhà màu sáng

thấp lè tè mà sau lưng có con đường cái chạy qua.

Lúc chúng tôi chỉ còn cách quán trọ "Gà Chọi" chừng vài bước, đột nhiên Holmes kêu

lên một tiếng, nắm lấy vai tôi cho khỏi ngã, làm như một chân bị sái. Anh cà nhắc bước đến

trước cửa khách sạn, nơi có một người đàn ông đang ngồi.

- Xin chào ông Reuben Hayes! - Holmes nói.

- Ông là ai? Sao biết tên tôi? - ông ta hỏi, sau khi ném ra một cái nhìn hằn học và ngờ

vực.

- Tên ông được ghi ở tấm biển ngay trên đầu ông kia kìa. Xin cho chúng tôi biết ông có

chiếc xe ngựa nào không?

- Không.

- Tôi không thể bước nổi nữa.

- Nếu không bước nổi, thì đừng có bước.

- Vậy tôi di chuyển bằng cách nào được?

- Bằng nạng vậy!

Cái gã Reuben Hayes thật bất lịch sự. Thế mà Holmes đã chịu đựng được. Anh nói:

- Hỡi ông chủ đáng mến! Xin hãy nghe đây, ông không thấy điều gì rủi ro đã xảy ra với

tôi ư? Chúng tôi phải đến nơi chúng tôi cần. Vậy bao giờ chúng tôi mới đến được?

- Bao giờ đến à? Tôi không quan tâm đến chuyện đó.

- Tôi đến đấy vì một việc quan trọng. Hãy cho tôi mượn xe đạp của ông, tôi sẽ đền ơn

trọng hậu.

Chủ nhà vểnh tai nghe.

- Ông cần đi đâu?

- Ðến lâu đài Holdernesse.

- Không phải đến thăm công tước chứ?

Chủ khách sạn hỏi, vừa chế nhạo vừa nhìn vào bộ áo quần cáu bẩn của chúng tôi.

Holmes phá lên cười thân thiện:

- Công tước sẽ đón tiếp chúng tôi một cách niềm nở.

- Tại sao?

- Vì chúng tôi có những tin tức tốt về đứa con của Ngài.

Gã đàn ông giật mình:

- Phải chăng các ông đã tìm thấy?

147

- Từ Liverpool, người ta đã cho biết rằng cậu ta hiện đang ở đấy. Thế đó, rồi sẽ tìm được

thôi!

Một bóng đen chợt thoáng qua bộ mặt lởm chởm râu của ông ta. Và ông ta tự nhiên trở

nên tốt bụng:

- Tôi từng là người đánh xe ngựa cho công tước. Rồi đột nhiên Ngài ngược đãi tôi. Rồi

Ngài thanh toán tiền cho tôi và không dùng tôi nữa. Song dầu sao tôi cũng rất vui, bởi huân

tước trẻ tuổi đã được tìm thấy ở Liverpool. Thôi được, tôi sẽ giúp các ông chuyển tin tức

này tới lâu đài.

- Xin cám ơn! Chúng tôi sẽ ăn tối, rồi ông cho chúng tôi mượn xe đạp chứ?

- Tôi không có xe đạp.

Holmes nhìn người chủ khách sạn đầy ngụ ý.

- Tôi nói với ông là tôi không có xe đạp. Các ông sẽ đi bằng xe ngựa vậy? - Chủ quan trọ

nhấn mạnh.

- Thôi được! Ông cho chúng tôi ăn cái đã rồi sẽ bàn chuyện đó sau.

Khi chúng tôi còn lại một mình trong nhà bếp, chân Holmes tự dưng hết đau. Ðã chiều

tối, chúng tôi cảm thấy đói mà vẫn không rời khỏi bàn. Ðắm chìm trong ý nghĩ của mình,

một vài lần Holmes yên lặng đi đến gần chiếc cửa sổ trông ra phía sau ngập ngụa rác rưởi.

Ở một góc sân, chỗ đóng móng ngựa, một thiếu niên lem luốc đang làm việc. Còn góc sân

khác là chuồng ngựa. Sau một lần đi tới cửa sổ như thế. Holmes ngồi xuống bàn và đột

nhiên nhổm phắt dậy, kêu to:

- Rõ rồi Watson! Tôi đã tìm ra rồi! Anh có nhận ra các vết móng bò cái sáng nay không.

- Có ở đâu?

- Khắp nơi! Trên đầm lầy và cạnh chỗ người bị giết.

- Ðúng.

- Còn bây giờ, ở đây có nhiều bò cái không?

- Tôi không thấy một con nào cả.

- Kỳ lạ thật. Khắp mọi nơi đều có vết móng bò cái, mà ở đây không có một con nào cả.

- Vâng, đúng vậy!

- Bây giờ anh hãy cố nhớ xem anh đã trông thấy những vết này trên lối mòn như thế nào?

- Tôi chưa hiểu.

- Hãy nhớ lại xem. Ðôi lúc nó như thế này... - Anh bắt đầu xếp những mẫu vụn bánh mì

trên bàn. - và đôi lúc lại như thế này... Ở một chỗ khác lại như thế này... Anh có nhớ không?

- Không.

- Còn tôi thì nhớ và sẵn lòng đưa tay lên thề. Tuy vậy chúng ta sẽ còn quay trở lại và sẽ

kiểm tra lại ngay tại chỗ. Tôi có quẫn trí không nếu tôi không rút ra được những kết luận

thỏa đáng từ điều đó.

- Những kết luận gì?

- Những kết luận như thế này: bò cái mà lại đi y như ngựa nước kiệu, nước đại và nước

một. Mưu chước quỷ quyệt này lẽ nào không phải của tên chủ quán kia? Ngoài sân không

148

có ai cả, trừ cậu bé ở xưởng đóng móng ngựa. Chúng ta thử đột kích, xem tình hình ở đó ra

sao.

Trong chuồng có hai con ngựa bẩn thỉu, lông bù xù đang đứng, Holmes nâng chân sau

của một con lên và cười lớn:

- Những cái móng thì cũ nhưng được đóng cách đây không lâu. Những cái móng cũ, còn

đinh đóng thì lại mới. Bây giờ ta sẽ quan sát xưởng đóng móng ngựa xem sao.

Cậu thiếu niên bận bịu với công việc của mình nên không chú ý đến chúng tôi. Holmes

nhanh nhẹn nhìn quanh khu xưởng ngập đầy sắt vụn và dăm bào. Bất thình lình có những

bước chân vọng lại từ phía sau. Quay lại, chúng tôi nhìn thấy người chủ nhà. Ðôi lông mày

ông ta giao vào nhau thành một đường kẻ dài, đôi mắt lóe lên những tia sáng độc ác. Ông ta

cầm lăm lăm một chiếc dùi cui bịt sắt tiến về phía chúng tôi với vẻ hăm dọa đến mức tôi rút

khẩu súng lục từ trong túi ra.

- Quân chó đẻ! - ông ta kêu lên - Bọn bay làm gì ở đây?

- Hãy rộng lòng tha thứ, ông Reuben Hayes! - Holmes điềm tĩnh nói - Phải chăng ông sợ

chúng tôi tìm ra một cái gì đấy liên quan tới công việc đó?

Ông ta trấn tĩnh lại, cong môi lên trong một nụ cười giả tạo.

- Hãy tìm đi, xin mời. Tìm thấy cái gì, đó là việc của các anh. Nhưng tôi không thích thấy

người lạ tự ý sục sạo khắp sân nhà tôi. Vì vậy, hãy trả tiền và tránh xa đây càng nhanh càng

tốt.

- Chớ giận chúng tôi, ông chủ. Quả thực chúng tôi chỉ muốn nhìn những con ngựa của

ông thôi. Vậy mà có lẽ chúng tôi phải đi bộ đến lâu đài. Từ đây tới đó không xa lắm thì

phải?

- Ðúng hai dặm đường. Ði theo con đường kia kìa! Nhớ rẽ trái!

Ông ta tiễn chúng tôi ra khỏi sân bằng một cái nhìn u ám. Chúng tôi đi theo con đường ấy

không xa, bởi vì Holmes dừng lại ở chỗ rẽ đầu tiên khi biết chắc là bây giờ không một ai

còn nhìn thấy chúng tôi.

- Cuộc đón tiếp vừa rồi thật là nồng nhiệt. Càng rời xa khách sạn, tôi càng cảm thấy lạnh

lẽo hơn.

- Không, đi khỏi đây bây giờ là quá sớm?

- Tôi cho rằng cái lão chủ khách sạn ấy biết tất cả.

- Tôi chưa từng thấy một bộ mặt nào hung ác hơn thế. Một kẻ ác độc thực sự? Còn những

con ngựa và xưởng đóng móng ngựa thì thế nào? Thật là một nơi đáng lưu ý, cái "con gà

trống ưa ẩu đả" ấy? Nào chúng ta hãy quan sát xem cái gì đã xảy ra ở đây. Phải bí mật và

thận trọng.

Quả đồi thoai thoải ở phía sau chúng tôi rắc đầy những tảng đá xám. Lúc bắt đầu trèo lên

phía trên sườn đồi, để nhìn về phía lâu đài, bất chợt tôi trông thấy một người đi xe đạp đang

lao nhanh trên đường.

- Hãy cúi thấp xuống, Watson- Holmes kêu lên, sau khi lấy bàn tay nặng trịch ấn vào vai

tôi.

149

Chúng tôi vừa kịp ẩn mình vào sau tảng đá thì người đó đã lao vút qua. Một khuôn mặt

tái mét thấp thoáng trước mặt tôi. Mỗi nét nhỏ của khuôn mặt anh ta đều lộ vẻ kinh hãi:

mồm há rộng, cái nhìn chết cứng của đôi mắt trợn trừng một cách man dại. Ðó chính là bức

biếm họa kỳ quặc của James Wilde mà chúng tôi mới biết hôm qua.

- Viên thư ký của công tước! - Holmes nói nhỏ - Hãy nhanh lên! Chúng ta xem anh ta

làm gì ở đây.

Nhảy lên trên một tảng đá, chúng tôi men theo sườn dốc đi lên. Từ đó chúng tôi nhìn thấy

cửa quán trọ. Chiếc xe đạp của Wilder dựng tại cạnh tường ở trong nhà, không một ai nhìn

qua các cửa sổ. Mặt trời khuất sau các đỉnh tháp cao của lâu đài. Hoàng hôn buông xuống

cánh đồng. Chẳng bao lâu, trong bóng đêm dày đặc của khách sạn, một chiếc xe đạp hai

bánh với những cây đèn thắp sáng ở bên cạnh được đẩy ra từ tàu ngựa. Chỉ một phút sau,

ngựa đã phi như bay qua chúng tôi, hướng về phía Chesterfield.

- Như thế là thế nào? - Holmes thầm thì.

- Tựa như cuộc tẩu thoát vậy.

- Trên xe chỉ có một người đi thôi! Tôi nhìn thấy rõ mà. Nhưng người đó không phải

Wilder, bởi vì anh ta đang ngồi kia kìa!

Bóng dáng người thư ký in rõ giữa khung cửa sáng bừng. Anh ta rướn cổ về phía trước,

nhìn vào bóng đêm, rõ ràng đang ngóng chờ ai đó. Vài phút trôi qua. Cuối cùng, trên đường

có những bước chân vọng lại. Trong ánh sáng đổ xuống từ những cánh cửa ra vào, thấp

thoáng bóng của một người khách nào đó nữa. Rồi cánh cửa khép lại. Toàn bộ quán trọ lại

chìm vào trong bóng tối. Thế rồi, ở một trong những cửa sổ phía trên, ngọn đèn bàn được

thắp sáng.

- Có khách lạ tới thăm quán "Gà Chọi". - Holmes nói.

- Vào quán từ một hướng khác?

- Ðúng rồi. Cả hai đều là khách mời của ông chủ. Ông James Wilder cần gì trong cái sào

huyệt này, lại vào thời gian muộn màng như vậy. Ông ta hẹn gặp ai ở đây chăng? Hãy mạnh

dạn lên, Watson! Chúng ta sẽ quan sát họ gần hơn một chút nữa.

Chúng tôi tụt xuống đường, nhẹ nhàng tới gần những cánh cửa của khách sạn. Xe đạp của

Wilder vẫn đứng tựa vào tường như trước. Holmes quẹt diêm và soi vào bánh sau của xe

đạp. Tôi nghe thấy tiếng kêu khe khẽ đầy vẻ ngạc nhiên của Holmes khi ánh lửa soi vào

mảng "ghệt" trên lốp xe đạp của hãng Dunlop. Cửa sổ có đèn sáng ở ngay trên đầu chúng

tôi.

- Cần ghé nhìn trong đó dù chỉ thấy chút ít thôi Watson! Giá anh đứng tựa vào tường

công kênh tôi lên.

Một thoáng sau, Holmes đã đứng trên vai tôi ngay và tức khắc lại tụt xuống dưới.

- Ði thôi, bạn thân mến. Ngày hôm nay thế là đủ rồi? Chúng ta đã làm tất cả những gì có

thể làm được. Chúng ta về trường ngay.

Suốt quãng thời gian chúng tôi lê bước chậm chạp theo cánh đồng, hầu như Holmes

không hé răng nói lấy nửa lời. Không rẽ vào khu trường, chúng tôi đến thẳng ga để chuyển

150

điện. Sau đấy, tôi thấy Holmes đang an ủi ông tiến sĩ. Ông ta bị sửng sốt bởi cái chết bi

thảm của người giáo viên: "Rất khuya, tôi vẫn còn trông thấy anh trong phòng mình".

- Mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp. Tối mai chúng ta sẽ có lời giải đáp - Holmes nói với

tôi.

Sáng hôm sau, lúc 11 giờ, chúng tôi đã ở trên con đường trồng cây nổi tiếng của lâu đài.

Người hầu phòng ra đón và dẫn chúng tôi vào phòng làm việc của công tước. James Wilder

đã đứng ngay trước mặt chúng tôi. Anh ta rất khiêm tốn và lịch sự, nhưng trong đôi mắt né

tránh của anh ta thoáng hiện nỗi khiếp sợ.

- Các ông muốn thăm công tước phải không. Ngài không được khỏe. Ngài bị đau bởi tấn

thảm kịch mà ông tiến sĩ đã báo cho chúng tôi biết.

- Ông Wilder, tôi cần gặp công tước.

- Nhưng Ngài không rời khỏi phòng mình được.

- Vậy tôi sẽ đến chỗ Ngài!

- Ngài đang trên giường.

- Dù thế nào tôi cũng xin được tiếp kiến Ngài!

Giọng điệu lạnh lùng không cho phép phản đối của Holmes đã khiến viên thư ký tin rằng

đôi co với con người này chỉ bằng thừa.

- Thôi được ông Holmes, tôi sẽ báo có ông đến.

Ðôi mắt của công tước hõm sâu hơn, hai tay khuỳnh khuỳnh của ông lộ vẻ thiếu cương

quyết, ông như già hơn so với ngày hôm qua. Với vẻ lịch sự đến tao nhã, ông cúi chào

chúng tời và ngồi xuống ghế bành.

- Tôi nghe đây, ông Holmes!

Thế nhưng Holmes lại nhìn chằm chằm vào viên thư ký đang đứng cạnh chủ nhân.

- Sự có mặt của ông Wilder khiến tôi bị ít nhiều gò bó, thưa ngài!

Mặt viên thư kí tái ngắt đi. Anh ta ném vào Holmes một cái nhìn thật độc ác.

- Nếu ngài muốn...

- Ðược, được, cứ để chúng tôi ở đây... Ðược rồi ông Holmes! Ông có điều gì muốn nói

với tôi, phải không?

Holmes khép cửa lại đằng sau viên thư ký, rồi mới nói:

- Thưa ngài! Theo lời của tiến sĩ Huxtable, tôi và bác sĩ Watson được biết ngài có hứa sẽ

trả tiền thù lao cho công việc mà ngài đang quan tâm. Tôi muốn trực tiếp được nghe Ngài

nói điều đó.

- Có.

- Người ta nói là Ngài sẽ trả 5.000 bảng cho ai chỉ ra nơi con trai Ngài đang ở.

- Phải.

- Và 1.000 bảng cho ai chỉ ra kẻ đang giam giữ huân tước.

- Vâng.

- Cố nhiên, điều này ngụ ý rằng không chỉ là kẻ bắt cóc mà còn là kẻ có âm mưu bắt cóc.

151

- Ðúng, đúng! - Không kìm được lòng mình, công tước thốt lên - Ông Holmes, nếu ông

làm sáng tỏ bí mật này, ông sẽ không than phiền về tính keo kiệt của tôi.

Holmes cọ cọ hai tay vào nhau một cách thèm thuồng. Ðiều này khiến tôi ngạc nhiên vì

trước đó tôi hiểu anh như một người có những đòi hỏi bình thường nhất.

- Tập séc của Ngài đang ở trên bàn thì phải. Xin Ngài ghi cho tôi tấm séc 6.000 bảng

Anh. Ngân phiếu xin chuyển vào tài khoản vãng lai của tôi tại chi nhánh ngân hàng Capital

& Counties ở phố Oxford.

Công tước ưỡn thẳng người trong ghế bành, dò xét bạn tôi bằng cái nhìn lạnh như tiền.

- Ông đùa đấy à, ông Holmes. Ðây không phải là đề tài thích hợp cho sự bông đùa.

- Thưa ngài! Tôi luôn luôn nghiêm túc.

- Ðiều đó có nghĩa thế nào?

- Ðiều đó có nghĩa là tôi biết nơi trú chân của con trai ngài và cũng biết một người đang

lưu giữ cậu.

- Con tôi đâu?

- Trong quán trọ "Gà Chọi", cách cổng lớn của công viên Ngài hai dặm. Ít ra cậu nhà đã

ở đó vào ngày hôm qua.

Công tước ngả người vào ghế bành.

- Vậy ông kết tội ai? Holmes bước nhanh về phía trước, đụng tay vào viên công tước.

- Tôi kết tội Ngài! Còn bây giờ, thưa Ngài, xin ngài làm ơn đưa cho tôi tấm séc 6000

bảng Anh.

Từ ghế bành, công tước nhổm phắt dậy, thế rồi đột nhiên hai tay ông chới với tựa như

ông đang gắng đứng vững bên bờ vực thẳm. Sau đó, bằng sức mạnh của ý chí sắt đá và bằng

sự trợ giúp của tính kiềm chế quý tộc, ông ta lại ngồi xuống ghế, tay ôm lấy mặt. Một phút...

rồi một phút nữa trôi qua...

- Hãy nói thẳng ra, ông biết gì nào? - Con người bất hạnh ấy hỏi, không hề cất đầu lên.

- Tối hôm qua, tôi trông thấy Ngài và cậu nhà.

- Ngoài bạn ông ra, còn có ai biết chuyện đó nữa không?

- Tôi chưa nói cho ai biết cả.

Năm ngón tay run rẩy của viên công tước mở tập séc ra rồi cầm lấy bút.

- Tôi không bội ước đâu, ông Holmes ạ. Mặc dầu số tiền này chỉ để trả cho những tin tức

mà thôi, ngoài nỗi cay đắng ra, chúng không mang lại cho tôi điều gì khác nữa. Nhưng khi

đưa ra lời ban thưởng, tôi đâu có thể ngờ là các sự kiện lại xoay chuyển như thế! Tuy vậy,

tôi hy vọng ông và bạn ông là những người biết điều.

- Tôi chưa hiểu ngài muốn nói gì, thưa ngài?

- Ðược, tôi sẽ nói trắng ra vậy ông Holmes ạ, nếu những tình tiết của việc này không một

ai biết, ngoài hai ông ra, thì số tiền không chỉ có thế. Tôi phải cho ông 12.000 bảng Anh.

Không đúng vậy sao?

Nhưng Holmes mỉm cười và lắc đầu:

152

- Ồ! Thưa Ngài! Không thể dễ dàng thu xếp chuyện đó. Một ai đó phải trả lời về cái chết

của người thầy giáo.

- Thế nhưng James không can dự vào đấy. Giết người, đấy là công việc của tên bạo chúa.

- Tội còn lại thì nhìn nhận như thế này, thưa ngài: Khi một người đứng trước con đường

dẫn đến tội ác, thì anh ta cần phải gánh lấy trách nhiệm đạo đức do những hậu quả hành

động của mình gây ra.

- Trách nhiệm đạo đức? Ðúng! Nhưng đừng bắt anh ta phải trả lời trước pháp luật. Không

thể khép một người vào tội sát nhân nếu anh ta không có mặt vào lúc giết người; cũng

không thể khép người ấy vào tội sát nhân khi việc giết người đã khiến anh ta công phẫn

chẳng kém gì ông. Sau khi biết chuyện đó, anh ta không chịu nổi sự day dứt của lương tâm

và thú nhận ngay với tôi tất cả. Sau đấy, anh ta tuyệt giao với kẻ sát nhân, ông Holmes! Hãy

cứu anh ta! Hãy cứu đi! Tôi van ông đấy!

Tính kiềm chế quý tộc của viên công tước biến mất. Với bộ mặt méo xệch, viên đại thần

chạy loang quăng khắp phòng, đôi tay ông vung vẩy một cách mạnh mẽ. Cuối cùng, ông tự

trấn tĩnh lại, ngồi xuống và nói:

- Tôi đánh giá cao việc ông đã đến đây. Nào, ít ra ta cũng bàn bạc xem cần áp dụng

những biện pháp nào để giúp tôi khỏi bị lăng nhục.

- Nhưng chỉ khi chúng ta đã cởi mở với nhau đến tận cùng. Tôi sẽ làm tất cả những gì có

thể làm được nếu tôi biết chính xác các chi tiết của công việc này. Ngài khẳng định rằng

ông James Wilder không phải là kẻ giết người?

- Ðúng, kẻ giết người đã lẩn trốn.

Holmes lạnh lùng mỉm cười:

- Thưa Ngài! Hôm qua, vào lúc 11 giờ đêm, Reuben Hayes đã bị bắt tại Chesterfield theo

chỉ thị của tôi. Viên chỉ huy cảnh sát ở đấy đã báo tin cho tôi vào sáng nay trước lúc tôi đến

đây.

Công tước ngả người ra sau ghế, ngạc nhiên nhìn bạn tôi.

- Khả năng của ông liệu có giới hạn không, ông Holmes? - ông ta thốt lên - Thế nghĩa là

Reuben Hayes đã bị bắt. Thôi được có thể đó là điều mừng. Nhưng liệu việc hắn ta bị bắt có

ảnh hưởng gì tới số phận của James không?

- Tới viên thư ký của ngài?

- Không, tới con tôi.

Lần này Holmes thật sự ngạc nhiên:

- Thưa Ngài! Ngài có thể giải thích chi tiết tất cả chuyện đó được không?

- Ông nói đúng. Chỉ có lòng thành mới có thể làm giảm nhẹ tình trạng căng thẳng mà

James đã đặt cả hai chúng tôi vào đó. Lúc còn trẻ, tôi ngỏ lời cầu hôn với người đàn bà yêu

dấu, nhưng nàng cự tuyệt vì lo ngại rằng cuộc hôn nhân như thế sẽ hủy hoại con đường

công danh của tôi. Nếu nàng còn sống thì tôi đã không lấy một người nào khác. Nhưng nàng

đã mất và để lại cho tôi một đứa con trai. Ðó là James. Tôi nuôi nấng cháu và không công

khai thừa nhận mình là cha. Tuy nhiên, cháu đã được giáo dục tốt nhất. Khi đã lớn khôn,

153

cháu vẫn thường xuyên sống cùng chúng tôi. Tình cờ cháu biết được bí mật của tôi và từ

đấy cháu gắng lạm dụng quyền làm con của mình bằng mọi cách. Ðiều này đẩy tôi vào tình

trạng lo ngại bị tố giác. Sự hiện diện của cháu ở lâu đài đã là nguyên nhân của sự tuyệt giao

giữa tôi và vợ tôi. Và điều sau đây mới thật nặng nề. Ngay khi nhìn đứa bé, từ ngày đầu

tiên, cháu đã căm ghét Arthur, tức huân tước Saltire, người thừa kế hợp pháp của tôi, một

cách dữ dội nhất. Chắc ông sẽ hỏi tại sao do những chuyện ấy mà tôi vẫn tiếp tục giữ James

ở nhà mình. Câu trả lời của tôi sẽ thế này: Vì khi nhìn nó, tôi trông thấy bóng dáng của mẹ

nó, một hình bóng không thể xóa nhòa trong tôi. Từ biệt cháu ư? Tôi không đủ sức làm việc

đó nhưng cuối cùng, tôi bắt đầu lo sợ cháu sẽ gây ra một chuyện gì đấy với huân tước

Saltire. Và thế là tôi chuyển đứa bé đến ký túc xá của tiến sĩ Huxtable.

James tiến hành mọi công việc của tôi, do vậy cháu biết Hayes, người đã từng là tá điền

của tôi chúng đã kết bạn với nhau. Sau khi quyết định bắt cóc huân tước Saltire, cháu biến

tên này thành kẻ đồng lõa của mình. Ông còn nhớ là tôi đã viết một bức thư cho Arthur

trước ngày nó chạy trốn? James đã mở phong bì ra, bỏ vào đó mẫu thư yêu cầu Arthur gặp

mình ở cánh rừng "Mũi dao lệch" cách không xa khu trường. Thằng bé đã đi đến đó vì thư

có vẻ như được viết theo yêu cầu của vợ tôi. James đến khu rừng thưa bằng xe đạp. Sau đấy

chính cháu đã làm Arthur tin rằng bà mẹ đang buồn phiền vì huân tước, rằng bà cách đây

không xa, rằng nếu huân tước đi tới khi rừng này vào lúc nửa đêm thì người dẫn đường và

ngựa sẽ chờ ở đó. Thằng bé bất hạnh bị sa vào bẫy đúng giờ hẹn, cậu đi đến khu rừng thưa

và nhận ra Hayes ở đấy.

Hayes cưỡi một con ngựa và Arthur ngồi lên yên một con ngựa Poney rất nhỏ con.

Nhưng Hayes phát giác có người đang đuổi theo. Hắn dùng dùi cui đánh vào người đuổi

theo vài lần. Anh ta đã chết vì thương tích. Hayes đưa Arthur tới khách sạn của mình, Nhốt

cậu bé ở trên lầu, bắt bà Hayes, một người đàn bà phúc hậu nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào

người chồng, coi giữ đứa bé.

James hành động như vậy là vì mù quáng, vì căm phẫn. Cháu cho rằng tất cả thái ấp của

tôi cần được chuyển giao cho cháu, rằng cháu không thể bình tâm để bàn về quyền thừa kế

tài sản đang tồn tại ở chỗ chúng tôi. Cháu yêu cầu tôi để cho cháu quyền thừa kế thái ấp.

Chỉ có như vậy cháu mới trả Arthur lại cho tôi. Cháu biết rất rõ là không đời nào tôi lại giao

cháu cho cảnh sát. Nhưng những sự kiện đã đảo lộn nhanh tới mức cháu không thể thực

hiện kế hoạch của mình. James hoảng sợ khi biết người thầy giáo đã chết. Chúng tôi biết

chuyện đó vào ngày hôm qua do tiến sĩ báo. Bức điện đã đẩy James vào tình trạng lo sợ. Tôi

kết tội cháu thẳng thừng. Cháu thành thật nhận lỗi nhưng cố van nài tôi trì hoãn hai ngày để

tên tòng phạm được cứu thoát. Tôi đã nhân nhượng như đã từng nhân nhượng cháu trong

mọi trường hợp. Khi đó James lao đến quán trọ, báo cho Hayes biết trước và giúp hắn chạy

trốn. Tôi không thể đi đến đấy lúc còn sáng, tôi chờ tối hẳn mới đến chỗ Arthur. Thằng bé

vẫn bình an vô sự. Nhưng vụ giết người đã gieo một ấn tượng khủng khiếp xuống đứa bé.

Nhớ lời hứa bất đắc dĩ tôi phải để Arthur ở lại quán trọ chừng ba ngày. Bởi vì không thể báo

154

những điều này cho cảnh sát mà lại không tố giác kẻ giết người, và khi Hayes bị bắt thì sẽ

khốn khổ, ông Holmes, tôi đã nói hết sự thật, giờ mong ông rộng lượng giúp tôi.

- Ðược, thưa Ngài. Trước pháp luật, tình trạng của Ngài là cực kì nghiêm trọng. Ngài

giúp kẻ giết người chạy trốn, vì James Wilder đã lấy tiền từ túi Ngài giúp cho hắn tẩu thoát.

Viên công tước nghiêng đầu im lặng.

- Ðúng, tình trạng rất nghiêm trọng.

- Thế nhưng dưới con mắt của tôi thì cách cư xử của Ngài với cậu bé còn đáng lên án

hơn. Ngài đã để cậu bé sống trong cái nhà gian phi suốt ba ngày!

- Chúng đã cam đoan với tôi là...

- Lẽ nào lại tin vào lời thề của hạng người ấy. Nếu chúng giấu biệt cậu bé vào một nơi

nào đó thì sao? Chiều ý đứa con trai tội lỗi, Ngài đã buộc đứa trẻ vô tội phải chịu cảnh nguy

hiểm. Không, không thể biện hộ cho hành động của Ngài được!

Viên đại thần kiêu hãnh vốn không quen nghe những lời chống đối như thế, nhất là ngay

trong dinh thự của mình. Mặt ông ta đỏ lên, song lương tâm buộc ông ta phải câm lặng.

- Tôi sẽ giúp ông nhưng với điều kiện: Hãy gọi người hầu lại đây và yêu cầu anh ta thực

hiện mệnh lệnh của tôi.

Không nói lấy một lời, công tước đưa tay ấn nút chuông điện. Một người đầy tớ bước vào

phòng.

- Huân tước Saltire đã được tìm thấy! - Holmes nói với người hầu - Công tước ra lệnh

hãy mau chóng đưa một cỗ xe ngựa đến quán trọ "Gà Chọi" rước huân tước về. Còn bây giờ

- Holmes nói khi người hầu đã chạy ra khỏi phòng làm việc, mặt rạng rỡ lên vì sung sướng.

- Chúng ta có thể đối xử một cách khoan dung với dĩ vãng. Tôi không thấy cần thiết báo cho

chính quyền về tất cả những gì tôi đã biết. Còn Hayes thì đấy là chuyện khác. Giá treo cổ

đang chờ hắn. Tôi sẽ không nhúng tay để cứu mạng sống của hắn. Còn việc hắn có tiết lộ bí

mật của Ngài hay không, tôi không biết. Tuy nhiên, Ngài có thể gợi ý để hắn nói những điều

vô nghĩa ngoài trách nhiệm của hắn. Ở sở cảnh sát người ta sẽ kết án hắn bắt cóc chú bé để

nhận tiền chuộc. Nếu ở đó người ta không dò xét gì sâu hơn thì họ sẽ không đến đây. Có

điều việc ông James Wilder vẫn còn lưu lại ở nhà Ngài là việc không tốt.

- Cháu sẽ vĩnh viễn rời khỏi lâu đài và sẽ lên đường sang nước Úc!

- Thưa Ngài, Ngài không cố gắng hòa giải với công tước phu nhãn và thu xếp ổn thỏa

cuộc sống gia đình hay sao?

- Sáng nay tôi đã viết thư cho nữ công tước rồi?

- Nếu vậy, - Holmes vừa nói vừa đứng dậy - Tôi và bạn tôi có thể xin chúc mừng Ngài.

Chỉ còn một vấn đề tôi chưa được rõ lắm. Những con ngựa của Hayes được đóng móng thế

nào để người ta có thể lầm lẫn vết móng của nó với vết móng của bò cái? Ai đã mách hắn

làm chuyện đó? Không phải ông Wilder chứ?

Ðôi lông mày của công tước nhíu lại ông im lặng đến một phút. Thế rồi, ông mở cửa

phòng bên cạnh hiện đang được dùng làm bảo tàng của gia đình ông. Ông dẫn chúng tôi đến

155

gần chiếc tủ trưng bày ở góc của căn phòng, chỉ cho chúng tôi xem những hàng chữ dưới

tấm kính.

"Những chiếc móng ngựa sắt này đã được tìm thấy trong các cuộc khai quật tại một khu

vực thuộc vùng Holdernesse. Chúng được dùng cho ngựa nhưng người ta đã rèn chúng dưới

hình thức móng bò cái được tách đôi ra. Rõ ràng, vào thời trung cổ, các quan đại phu phong

kiến khi đi cướp bóc đã sử dụng biện pháp này nhằm đánh lạc hướng những người đuổi

bắt".

Holmes nâng nắp kính lên rồi lấy tay xoa vào một trong những cái móng ngựa. Bàn tay

anh dính vết bẩn đen thẫm: bùn đầm lầy vẫn chưa kịp khô hẳn.

- Cám ơn Ngài. Ðấy là điều thứ hai ở chỗ Ngài khiến tôi đặc biệt quan tâm.

- Thế còn điều thứ nhất?

Holmes gập tấm séc làm đôi, thận trọng đặt nó vào giữa cuốn sổ của mình.

- Tôi là người không thật giàu có lắm!

Anh nói và nhét cuốn sổ tay sâu hơn vào trong túi trong...

Tên tống tiền ngoại hạng:

Một ngày mùa đông. Trời băng giá. Khi Holmes thắp đèn, ánh sáng chiếu lên một tấm

danh thiếp đặt trên bàn. Anh cầm lấy và với một lời than thở, anh liệng nó xuống đất. Tôi

lượm lên:

"Charles Auguste Milverton

Appledore Towers Hampstead

Đại lý kinh doanh"

- Ai vậy?

- Kẻ đồi bại nhất trong thủ đô - Holmes trả lời, ngồi xuống và duỗi đôi chân dài ra trước

ngọn lửa. Mặt sau tấm thiếp có viết gì không?

Tôi lật thiếp lại:

- Có Sẽ tới vào hồi 7 giờ 30.

- Hừm! Gần đến giờ rối. Trong cuộc đời, tôi từng đụng đầu với năm mươi tên sát nhân;

nhưng kẻ tồi tàn nhất trong bọn đó cũng chưa bao giờ gây cho tôi một sự ghê tởm bằng gã

này trong nghề nghiệp, tôi buộc lòng phải gặp hắn: thật ra hắn sắp tới đây theo lời mời của

tôi.

- Nhưng hắn là ai vậy?

- Hắn là vua của những tên chuyên đe doạ để tống tiền. Tội nghiệp thay cho người đàn

ông và nhất là người đàn bà nào bị rơi vào trong tay của hắn. Với một nụ cười thật hiền, hắn

sẽ vắt, sẽ vắt mãi cho tới khi nào trái chanh chỉ còn là cái vỏ. Hắn hành động như thế này:

Hắn dùng số tiền thật lớn để mua những lá thư làm "liên luỵ'' đến cuộc đời của những người

giàu sang hoặc có danh vọng trong xã hội thượng lưu. Hắn nhận những món hàng đó không

những từ các đầy tớ, các bà hầu phòng mà còn ở những tên vô lại đã chinh phục được các

thiếu nữ cả tin... Có lần hắn đã trả bảy trăm đồng bảng cho một người phục vụ ở khách sạn

để lấy một tờ giấy chỉ vỏn vẹn có hai dòng chữ. Thế rồi một gia đình đã không ngóc đầu lên

nổi. Trong cái thành phố này, hàng trăm và hàng trăm người tái mặt khi nghe nhắc tới tên

hắn. Hắn giữ kỹ một tấm danh thiếp trong nhiều năm và sau cùng hắn đem nó ra đặt trước

mặt khổ chủ và đòi một số tiền gấp mấy chục lần số vốn đã bỏ ra.

- Nhưng sau cùng chắc gã phải sa vào lưới của nhà pháp luật chứ? - Tôi hỏi.

- Theo lý thuyết. thì như thế. Nhưng thực tế thì chẳng bao giờ. Ví dụ, một người đàn bà

sẽ có lợi ích là khi làm cho y bị kiện vài tháng tù, rồi sau đó bà bị phá sản và tiêu tan danh

dự. Những nạn nhân của hắn không dám trả đòn. Cần. phải có những vũ khí khác mới hạ

được hắn.

- Vậy tại sao anh mời hắn tới?

- Một nạn nhân đã nhờ tôi giải quyết trường hợp đáng thương của cô. Cô là E-va, cô gái

sẽ làm lễ thành hôn với bá tước Đô-vơ rên, tên vô lại này có trong tay một vài lá thư, những

lá thư chỉ do không thận trọng mà thôi. Cô đã viết những thư đó cho một điền chủ trai trẻ ở

nông thôn. Nhưng với một người ghen tuông, lá thư đó đủ làm tan vỡ cuộc đính hôn. Gã

219

Mil-vơ hứa sẽ gửi những lá thư đó đến ông bá tước, nếu trước đó hắn chưa nhận được một

món tiền chuộc. Tôi được giao phó cho việc mua lại lá thư với giá thấp.

Có tiếng ngừng xe và móng ngựa từ dưới đường phố vọng lên. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy

một cỗ xe đủ tiện nghi, do hai con ngựa kéo. Người hầu mở cánh cửa xe. Một người nhỏ,

khoẻ, mặc áo măng-tô may bằng da lông thú bước xuống, đi lên nhà chúng tôi. Tên lưu

manh Mil-vơ này trạc năm mươi tuổi. Ông ta có một cái đầu oai nghiêm và thông minh. Bộ

mặt tròn trĩnh và hồng hào, không có râu, trên đôi môi luôn nở một nụ cười. Cặp mắt xám

soi mói lấp lánh đằng sau cặp kính bằng vàng. Giọng nói cũng ngọt ngào và êm ái như thái

độ của ông ta. Holmes không thèm bắt cái bàn tay nhỏ bé phì nộn và nhìn vào ông khách

với vẻ mặt sắt đá. Nụ cười của Mil-vơ nở rộng. Ông ta nhún vai, cởi cái áo lông ra, gấp lại

hết sức cẩn thận trên thành ghế và ngồi xuống.

- Còn ông này? - Hắn nói với một cử chỉ bâng quơ phác về hướng tôi - Có kín đáo

không?

- Bác sĩ đây là bạn và là người hợp tác với tôi.

- Thưa ông Holmes. Chính vì quyền lợi của thân chủ ông mà tôi đã đặt ra câu hỏi đó. Vụ

này thật là quá tế nhị...

- Bác sĩ Watson có nghe nói về chuyện đó.

- Ông nói ông là người đại diện cho công nương E-va. Cô ấy có thuận cho ông theo

những điều kiện của tôi không?

- Điều kiện của ông như thế nào?

- Bảy ngàn bảng.

- Nếu không?

- Nội trong ngày 14 mà không có tiền thì đám cưới chắc sẽ không được cử hành vào ngày

18.

Cái nụ cười nhã nhặn hơn bao giờ hết. Holmes suy nghĩ rất nhiều, sau cùng anh nói:

- Tôi có cảm tưởng là ông coi vụ này chắc ăn lắm. Tuy nhiên tôi sẽ khuyên cô ấy thổ lộ

tất cả câu chuyện với người chồng, rồi tự đặt mình dưới lòng độ lượng của phu quân.

Mil-vơ khảy một tiếng cười nhỏ..

- Ông không biết gì về ông bá tước?

- Có điều gì xấu xa trong những lá thư đó? - Anh hỏi.

- Chúng có tính bốc đồng... rất bốc đồng? - Mil-vơ mỉm cười, trả lời - Công nương đúng

là người viết thư nhiều tài trí. Nhưng tôi có thể khẳng định với ông rằng, bá tước Đô-vơ sẽ

không tán thưởng chút nào cái phong cách bông lơn như trong những lá thư đó. Tuy nhiên,

vì ông phán xét theo cách khác, chúng ta hãy dừng lại đây.

Hắn đứng lên và gỡ lấy cái áo choàng lông. Holmes bị làm nhục, mặt tái xám vì giận dữ:

- Hãy khoan? ông đi mau quá. Tất nhiên là chúng tôi mong muốn được tránh mọi tai

tiếng trong vụ này, chúng tôi có thể cố gắng...

Mil-vơ lại buông mình xuống ghế.

- Tôi tin chắc là ông sẽ nhìn vụ việc dưới góc độ đó?

220

- Nhưng, công nương E-va lại không giàu có gì. Số tiền mà ông đòi vượt quá khả năng

của cô. Vậy thì tôi mong ông hãy giảm những đòi hỏi xuống. Xin hãy tin tôi, 2000 bảng là

giá cao nhất mà cô ấy có thể trả.

Nụ cười của Mil-vơ lại nở rộng và hắn nháy mắt với chúng tôi một cách ranh mãnh.

- Tôi biết ông nói thật về của cải của công nương E-va. Nhưng mặt khác, ông sẽ nhìn

nhận rõ rằng đám cưới của một mệnh phụ là một cơ hội mơ ước cho những bạn bè và gia

đình của cô dâu. Tôi tin rằng họ sẽ ưng thuận một cố gắng nhỏ cho vinh dự của cô. Hãy để

cho tôi nói với họ rằng những lá thư nhỏ bé này sẽ được đón nhận nồng hậu hơn là tất cả

những cây đèn nến và tất cả những lọ đựng bơ ở Luân Đôn?

- Không thể được!

- Chúa ơi, rủi ro biết mấy! - Mỉl-vơ kêu lớn khi hắn rút từ trong túi ra một cuốn sổ tay lớn

- Hãy nhìn cái này coi. - Hắn giơ ra một tờ giấy nhỏ có hình các huy hiệu trên phong bì. -

Cái này thuộc về... úi chà, thật không tử tế khi nói ra cái tên trước buổi sáng ngày mai!

Nhưng sáng mai, lá thư này sẽ lọt vào tay ông chồng một mệnh phụ phu nhân. Và sở dĩ có

chuyện đó vì bà không chịu đem đổi những hạt kim cương thật lấy những viên kim cương

giả. Hẳn ông còn nhớ vụ cô Mi-lê và đại tá Đô-ki đây chứ? Chỉ hai ngày trước khi cử hành

hôn lễ, nhật báo Bưu điện Buổi sáng đã đăng một mục nhỏ loan tin cuộc hôn nhân bất

thành. Tại sao vây nhỉ? Một ngàn hai trăm bảng hẳn đã dàn xếp ổn thoả? ông làm tôi ngạc

nhiên thật đấy. ông Holmes ạ.

- Tôi đoán chắc với ông rằng công nương E-va không thể nào gom góp đủ tiền theo ý

ông. Chắc chắn là ông sẽ có lợi khi nhận số tiền thiết thực mà tôi đề nghị, còn hơn là phá

huỷ sự nghiệp một người đàn bà. Sự phá hoại ấy chẳng đưa đến cho ông gì cả.

- Ông đã lầm to rồi, thưa ông Holmes. Sau một vụ tai tiếng tôi sẽ thu lợi nhiều hơn nữa?

Tôi hiện đang có tám hoặc mười vụ tương tự. Nếu có lời đồn đại rằng "Không dễ gì lay

chuyển được ngài Charles Auguste Milverton trong vụ công nương E-va", thì sau đó tôi nói

bao nhiêu người ta cũng phải nghe, không ai dám cò kè với tôi, ông thấy rõ quan điểm của

tôi chứ?

Holmes nhảy ra khỏi ghế.

- Tôi đứng sau lưng hắn, Watson! Đừng để cho hắn ra khỏi đây! Giờ đây, chúng ta hãy

coi cuốn sổ này có những gì.

Mil-vơ đã chuồn như một con chuột tới đầu phòng bên kia và đứng dựa lưng vào tường.

- Ông Holmes - Hắn nói, sau khi lật cái áo lông lại và chìa ra một cái báng khẩu súng lục

lớn - Việc này đã xảy ra cả ngàn lần và chẳng bao giờ đưa ra một lối thoát tốt đẹp nào. Tôi

đoán chắc với ông rằng tôi được vũ trang tới tận răng và tôi sẵn sàng nổ súng, tôi có luật

pháp bênh vực Vả chăng tôi không bao giờ lại mang theo những lá thư trong cuốn sổ này.

Giờ đây, thưa quý ông, tôi còn có nhiều cuộc hẹn khác trong tối nay và con đường đi tới

Hampstead thì còn xa.

Hắn tiến lên, mặc áo choàng vào và không quên hườm sẵn khẩu súng, rồi đi ra cửa. Tôi

nắm lấy một cái ghế, nhưng Holmes lắc đầu và tôi đặt ghế xuống. Sau một tiếng chào, một

221

nụ cười và một cái nháy mắt, Mil-vơ đi ra. Lát sau, có tiếng cánh cửa đập lại. Và tiếng

những bánh xe lăn trên đường.

Holmes ngồi gần lò sưởi, hai tay thọc sâu trong túi quần, cằm gục xuống ngực, đôi mắt

chăm chú nhìn lên những cục than đang tàn. Trong nửa tiếng đồng hồ, anh ngồi yên lặng và

bất động. Rồi thì, với cử chỉ của một người đã có một quyết định, anh đứng lên và bỏ sang

phòng riêng. Một lát sau, từ trong đó bước ra một chú công nhân thư thái, có râu rậm và

bước đi với dáng điệu "ta đây". Trước khi xuống phố, anh mồi cái tẩu bằng đất vào ngọn

đèn.

- Tôi sẽ về, anh Watsoni.

Anh biến vào trong bóng đêm. Tôi biết rõ là anh đã tuyên chiến với tên tống tiền ngoại

hạng này.

Trong vài ngày, Holmes đi về vào bất cứ giờ giấc nào dưới lớp giả trang đó. Ngoài một

câu giúp tôi hiểu là anh đã tiêu thì giờ ở vùng Hampstead và thì giờ đó đã không phí phạm,

còn thì tôi không biết gì hơn. Tuy nhiên, sau cùng vào một buổi tối có một cơn phong ba dữ

dội, với tiếng gió gào thét và giông gió mạnh, anh trở về, gỡ bỏ bộ quần áo ra, tới ngồi trước

ngọn gió lửa và cất tiếng cười.

- Anh sẽ không thấy tôi lấy vợ, phải thế không, anh Watson?

- Chắc chắn rồi.

- Nhưng hôm nay, tôi đã hứa hôn...

- Bạn thân mến, tôi có lời chúc mừ.ng.

- ... với cô hầu phòng của Mil-vơ.

- Trời đất thánh thần ơi... Holmes!

- Tôi cần thu thập tin tức mà!

- Anh đi quá lố rồi đấy

- Đó là một chặng đường cần thiết. Tôi là thợ đặt ống. Tôi có một cơ sở làm ăn đang phất.

Tôi tên là Êch-cô. Tối nào tôi cũng dạo phố với cô ta và chúng tôi tán gẫu. Chúa ơi, thật là

kịch biết mấy! Tuy nhiên, tôi đã biết rõ về ngôi nhà của Mỉl-vơ như lòng bàn tay tôi.

- Thế còn cô hầu phòng, Holmes?

Anh nhún vai.

- Cần phải chơi những lá bài của mình một cách tốt nhất. Tuy nhiên tôi thật sung sướng

được nói rằng tôi có một tình địch oán ghét và sẽ tới thế chỗ tôi một cách có lợi ngay khi

nào tôi quay lưng lại. Đêm tuyệt vời, phải không

- Anh ưa thích thời tiết này sao?

- Nó thuận lợi cho những ý đồ của tôi. Đêm nay tôi sẽ tới đào tường khoét ngạch nhà

Mil-vơ.

Tôi ngạc nhiên. Một cơn lạnh chết người luồn dọc theo xương sống tôi. Tôi chợt thấy một

lượt những kết quả theo sau cái hành động đó: người ta khám phá ra anh, người ta bắt bớ

anh, và sự nghiệp vẻ vang của anh chấm dứt.

- Holmes ơi! Anh hãy suy nghĩ về việc đó!

222

- Tôi đã suy nghĩ nhiều. Chúng ta hãy xem xét vấn đề thật bình tĩnh. Lấy trộm một cuốn

sổ tay để cứu nhiều gia đình... là làm một việc tốt, nhưng dầu sao nó cũng là ăn trộm. Anh

Watson thân mến, tôi đoán là anh vẫn bênh vực quan điểm này của tôi.

Tôi suy nghĩ.

- Phải. Việc đó có thể biện bạch về mặt đạo đức, với điều kiện là anh không lấy đi những

đồ vật khác hơn là những thứ mà y định dùng cho một ý đồ tồi tệ.

- Đúng thế. Bởi vì nó được biện bạch về mặt đạo đức, cho nên tôi chỉ còn phải xem xét

khía cạnh thuộc nguy cơ nghề nghiệp. Một người quân tử không được chần chừ lâu, khi mà

một phụ nữ đặt lòng cầu mong được giúp đỡ.

- Nhưng anh liệu có chắc ăn không?

- Không có cách nào khác để thu hồi những lá thư. Công nương E-va thì không có đủ tiền

và cũng không có ai trong gia đình để mà thổ lộ tâm tình. Ngày mai là thời hạn cuối cùng.

Nếu trong vài chục giờ đồng hồ nữa, chúng ta không có những lá thư, thì tên vô lại kia sẽ ra

tay tàn độc Như vậy cái thế phải lựa chọn là như sau: hoặc bỏ mặc thân chủ cho số phận của

cô, hoặc chơi lá bài sau chót này. Đây là một cuộc quyết đấu tay đôi đẹp mắt giữa tên bất

lương đó và tôi.

- Tôi không ưa thích điều đó! Nhưng ta đành phải làm thôi. Chừng nào lên đường?

- Ồ, không có anh?

- Nếu anh không để cho tôi chia sẽ nỗi nguy hiểm của anh thì tôi sẽ chạy tới đồn cảnh sát

gần nhất và báo cho họ biết chuyện này.

- Anh không giúp được tôi điều gì đâu.

- Làm sao anh biết được? Ai có thể nói điều gì sẽ xảy ra?

Holmes có vẻ khó chịu nhưng mặt anh rạng rỡ và anh đặt một bàn tay lên vai tôi:

- Được, như vậy cũng được. Từ vài năm qua chúng ta sống chung trong một mái nhà.

Thật là thích thú nếu chúng ta cùng chung một xà lim! Hãy coi đây... - Anh mà ngăn kéo lấy

ra một cái bao da, mở bao và đưa cho tôi coi vài dụng cụ bóng láng. - Đây là đồ nghề lủng

củng mới nhất của một tên trộm: một cái nạy cửa mạ kền, một con dao có mũi kim cương

để cắt kính, những chìa khoá vạn năng, dây, cái đèn ló. Tất cả đều gọn gàng. Anh có đôi

giày đi êm ái không

- Tôi có đôi giày đánh quần vợt đế cao su.

- Tốt lắm! Và một cái mặt nạ?

- Tôi có thể chế ra với một đôi tất lụa.

- Vậy hãy chế biến đi. Chúng ta ăn đồ nguội trước khi đi. Bây giờ là 9 giờ rưỡi. Tới 11

giờ, chúng ta sẽ đi và bắt tay vào việc trước lúc nửa đêm. Mil-vơ luôn luôn đi ngủ vào hồi

10 giờ rưỡi. Với một chút cơ may, chúng ta hẳn phải quay trở về nhà lúc 2 giờ với những lá

thư của công nương E-va.

Chúng tôi mặc kiểu giống với những người đi xem hát trở về nhà. Trong đường Oxford,

chúng tôi lên một cỗ xe ngựa. Khi gần tới nơi, chúng tôi trả tiền xe và cài cúc cổ những tấm

áo choàng rồi cuốc bộ tới nhà Mil-vơ.

223

- Những tài liệu đó được chứa trong một cái két sắt kê ở trong văn phòng của hắn, và cái

văn phòng đó lại được dùng làm phòng đợi bên cạnh phòng ngủ của hắn. Mặt khác, hắn là

một người ngủ say dễ sợ. Vị hôn thê của tôi, đã nói rằng giấc ngủ của ông chủ là một đề tài

khôi hài không bao giờ cạn. Hắn có một người thư ký suốt ngày không rời khỏi văn phòng.

Bởi thế nên chúng ta mới tấn công vào ban đêm. Hắn cũng có nuôi một con chó dữ như quỷ,

đêm đêm đi dạo trong vườn. Giờ đây cô ta đã nhốt con chó đó rồi. Nhà đây này? Đó là ngôi

nhà xây lớn bên trong khu đất này. Chúng ta hãy vượt qua hàng rào. Rẽ phải, ở phía sau

những cây nguyệt quế. Bây giờ đeo mặt nạ vào. Anh thấy đó, không một cửa sổ nào được

chiếu sáng. Tất cả đều tuyệt vời.

Chúng tôi đi về phía ngôi nhà im lìm. Một hàng hiên lợp ngói chạy dài bên một phía, với

nhiều khuôn cửa sổ và hai cánh cửa ra vào.

- Đây là phòng ngủ của hắn - Holmes thì thầm - Cửa này mở vào văn phòng hắn.. Nó có

cài then. Thôi, đi vòng qua đây.

Một nhà kiếng mở lối vào phòng khách. Holmes lấy dụng cụ ra khoét một vòng tròn trên

mặt kính và xoay cái chìa khoá ở bên trong. Một lát sau, anh đã đóng cửa lại. Holmes nắm

lấy bàn tay tôi trong bóng tối và dẫn tôi băng nhanh qua phía bên kia những bồn hoa trồng

những cây nhỏ có nhiều cành lá vươn ra quét vào mặt chúng tôi. Vẫn luôn luôn nắm chặt

lấy tay tôi, Holmes mở một cánh cửa và tôi có cảm tưởng mơ hồ rằng chúng tôi vào trong

một căn phòng có người vừa hút xì-gà. Anh mò mẫm giữa những đồ đạc, mở một cánh cửa

khác rồi khép lại. Tôi vươn một bàn tay ra và nhận thấy có nhiều quần áo treo sát tường: tôi

biết là mình đang ở trong một hành lang.

Chúng tôi đi dọc theo hành lang. Holmes nhẹ nhàng mở một cánh cửa khác bên tay phải.

Một cái gì đó lao vào chúng tôi và run bắn lên, nhưng đó là con mèo. Một ngọn lửa đang

lịm dần trong phòng và bầu không khí cũng nặng mùi thuốc hút. Holmes nhón gót đi vào

trong, chờ tôi, đoạn không gây tiếng động, anh đóng cửa lại. Chúng tôi đang ở trong phòng

của Mil-vơ. Tại đầu phòng bên kia, một rèm cửa che khuất lối vào phòng ngủ của hắn.

Ngọn lửa vẫn soi sáng rõ căn phòng. Gần bên cửa ra vào, tôi thấy một công tắc lóng lánh

nhưng không cần thiết bật nó lên. Trên một bên lò sưởi có kéo tấm ri-đô dày, phủ lên cái lỗ

cửa gắn kính mà chúng tôi đã trông thấy từ bên ngoài. Phía bên kia có cánh cửa chúng ra

hàng hiên. Một bàn giấy nằm ngay giữa phòng với một cái ghế bọc da màu đỏ. Trước mặt,

một tủ sách lớn bên trên có đặt bức tượng nữ thần Minerve tạc bằng đá hoa cương. Trong

góc giữa tủ sách và bức tường, có một tủ sắt lớn ánh sáng của ngọn lửa lò sưởi phản chiếu

trên mặt tủ nhẵn bóng.

Holmes băng ngang và kiểm tra căn phòng. Đoạn anh trườn tới bên cánh cửa và đứng bất

động nghiêng đầu, lắng nghe. Không một tiếng động. Giữa lúc đó, tôi chợt nảy ra cái ý là

chúng tôi nên tìm một đường tháo lui qua ngả cửa phía bên ngoài và tôi quan sát nó. Nó

không khoá chốt mà cũng không cài then. Tôi đụng vào cánh tay Holmes và anh xoay bộ

mặt che mặt nạ về cái hướng mà tôi đã chỉ cho anh. Tôi thấy anh giật nảy mình. Rõ ràng là

anh cũng ngạc nhiên như tôi, nói thật khẽ:

224

- Có thấy. Anh hãy đứng kế bên cửa ra vào. Nếu nghe thấy có người lại gần, anh hãy cài

chốt bên trong và chúng ta bỏ đi như đã tới. Như họ đến từ phía bên kia thì chúng ta sẽ bỏ đi

qua lối cửa ngoài, nếu chúng ta đã làm xong việc; nếu không, thì chúng ta sẽ núp đằng sau

những tấm ri-đô này. Rõ chứ?

Tôi gật đầu xác nhận rồi tới đứng bên cửa ra vào. Cảm tưởng sợ hãi đã biến mất và giờ

đây tôi còn bị kích thích nhiều hơn là khi chúng tôi bảo vệ luật pháp. Tôi chẳng cảm thấy là

mình phạm tội, tôi hớn hở trước ý nghĩ về những mối nguy hiểm mà chúng tôi đang trải.

Với lòng khâm phục, tôi nhìn Holmes mở các dụng cụ ra và bình tĩnh chọn lấy món đồ thích

ứng; anh giống như bác sĩ ngoại khoa đang chuẩn bị cho một cuộc giải phẫu tế nhị.

Holmes đã đặt cái áo khoác trên mặt ghế dựa, xắn vạt áo lớn lên, lấy ra hai mũi khoan,

một cái nạy cửa và nhiều chìa khoá nhỏ. Tôi đứng bên cửa, hai mắt mở rộng và giữ tư thế

sẵn sàng. Trong nửa tiếng đồng hồ, Holmes thao tác nhanh gọn và khéo léo, đặt món đồ này

xuống, lấy món khác lên. Sau cùng, tôi nghe một tiếng "cạch". Cánh cửa nặng nề mở ra.

Bên trong tủ sắt có nhiều xấp giấy; mỗi xấp được cột lại, gắn niêm phong với một hàng ghi

chú. Holmes rút ra một xấp nhưng thật khó mà đọc dưới ánh sáng của ngọn lửa đang lịm

dần. Anh rút cái đèn ló ra, nhưng bật điện lên sẽ là quá nguy hiểm. Bất chợt, tôi thấy anh

giỏng tai lên, trong thoáng chốc, anh khép cánh cửa sắt lại, quơ lấy tấm áo choàng, nhét vội

các dụng cụ vào trong một túi, rồi tới núp đằng sau tấm ri-đô che cửa sổ và ra dấu cho tôi

hãy làm theo anh.

Sau khi đã tới đứng nấp bên anh, tôi hết sức thán phục cái thính giác nhạy bén của anh.

Đâu đó trong ngôi nhà có một tiếng động. Trong chốn xa xôi có tiếng cánh cửa đẩy mạnh.

Đoạn một tiếng rì rào khó phân biệt, rồi những bước chân nặng nề đang tới gần. Bước chân

đi trong hành lang, ngừng lại một lát trước cửa. Cánh cửa mở ra. Có một tiếng cạch: người

ta bật điện. Cánh cửa đóng lại. Mùi xì-gà loại nặng lảng vảng trước mũi chúng tôi Những

bước chân lại tiếp tục. Có người đi tới, đi lui; và lại đi lui, đi tới. Tất cả sự đi lại đó chỉ cách

chúng tôi có vài mét. Sau cùng, cái ghế bành kêu răng rắc và tiếng bước chân ngừng lại. Rồi

một chìa khoá được nhét vào trong ổ khoá và tôi nghe tiếng giấy kêu xào xạc nhè nhẹ. Tôi

nhẹ nhàng vén tấm ri-đô ra. Vai Holmes tựa vào vai tôi và tôi đoán anh cũng đang quan sát

Ngay sát trước mắt chúng tôi, phô ra tấm lưng rộng tròn của tên vô lại. Chúng tôi đã sai

lầm: hắn chưa vào phòng chơi bi-da. Hắn ngồi ngả lưng vào cái ghế bành bọc da, hai chân

duỗi dài và một điếu xì-gà ló ra ngoài một bên mép. Hắn cầm một tài liệu, đọc với dáng uể

oải trong lúc miệng vẫn nhả ra những vòng tròn khói thuốc. Thái độ thoải mái và tư thế bình

thản đó không để lộ cho thấy trước dấu hiệu là hắn sắp bỏ đi.

Tôi cảm thấy bàn tay Holmes lùa vào bàn tay tôi và anh siết lấy nó để làm tôi yên lòng,

như để cho tôi thấy là anh thật bình thản. Tôi không biết anh có thấy cái mà tôi đã thấy hay

không? Đó là cánh cửa sắt chưa được đóng chặt; bất cứ lúc nào gã Mil-vơ cũng có thể nhận

ra điều đó. Tôi quyết định trong đầu, rằng nếu tên vô lại khám phá ra điều này, thì tôi sẽ

nhảy vọt ra, làm cho hắn nghẹt thở dưới tấm áo măng-tô trói chặt hắn lại và để cho Holmes

225

lo việc còn lại. Nhưng Mil-vơ không hề ngước mắt lên. Hắn say sưa đọc trang này tiếp trang

khác. Khi đọc xong và vừa vứt điếu xì-gà, thì một biến cố bất ngờ xảy ra.

Trước đó, nhiều lần tôi nhận thấy Mil-vơ xem đồng hồ. Một lần y đứng lên, rồi lại ngồi

xuống với một cử chỉ mất kiên nhẫn. Và bây giờ khi nghe thấy một tiếng động nhẹ vọng tới

từ hàng hiên mé ngoài, Mil-vơ buông rơi xấp giấy và ngồi thẳng lên. Tiếng động lặp lại và

rồi có người gõ nhẹ lên cửa. Hắn đứng lên và tới mở cửa.

- Bà đã đến muộn tới nửa tiếng đồng hồ - Hắn đột ngột nói.

Vậy ra đó là lời giải thích về sự thức khuya của Mil- vơ. Tôi nghe thấy tiếng sột soạt nhẹ

của tà áo đàn bà. Tôi khép tấm ri-đô lại, bởi vì Mil-vơ quay đầu về phía chúng tôi Nhưng

rồi tôi lại đánh liều khẽ hé nó ra. Hắn đã ngồi xuống, miệng vẫn ngậm điếu xì gà. Trước mặt

hắn là một phụ nữ cao, tóc nâu, mảnh mai, mặt che mạng, áo măng tô kéo lên tới cổ. Hơi

thở bà ngắn, nhanh. Bóng dáng bà run lên vì một sự xúc động mãnh liệt.

- Thế nào? Bà đã làm tôi mất một đêm nghỉ ngơi ngon lành. Tôi hy vọng là bà sẽ đền bù

cho tôi. Bà không thể đến vào một giờ nào khác hả?

Người đàn bà lắc đầu.

- Tốt thôi. Nhưng làm sao mà bà lại run rẩy đến như thế Coi nào, hãy bình tĩnh lại? Và

bàn công chuyện làm ăn? - Hắn lấy ra một tờ giấy và nói tiếp: - Bà nói là bà có năm lá thư

có thể gây liên luỵ cho bà bá tước An-be. Bà muốn bán? Tôi sẵn lòng mua. Việc còn lại là

định giá. Tôi muốn được xem nhưng lá thư đó. Nếu quả thật chúng là những miếng ngon...

Lạy Chúa tôi, thì ra là bà đấy ư?

Không một lời, người đàn bà gỡ tấm mạng che mặt ra và buông cổ áo măng tô xuống.

Một khuôn mặt sẫm tối, đẹp, thanh nhã, đương đầu với bộ mặt xấu đến gớm ghiếc của Milvơ.

- Chính tôi đây? Tôi, người đàn bà mà ông đã phá hại cuộc đời.

Mil-vơ bắt đầu cười, nhưng sự sợ hãi run lên trong giọng nói:

- Bà đã quá ương ngạnh. Tôi đã ra một cái giá hoàn toàn nằm trong khả năng của bà. Thế

mà bà không chịu xuỳ tiền ra!

- Thế là ông đã gửi những là thư đó cho chồng tôi. Và chồng tôi... Cõi lòng nhà tôi đã bị

tan nát và ông ấy đã chết vì buồn phiền... Ông còn nhớ chứ, cái đêm mà xuyên qua cánh cửa

của ông, tôi đã van xin ông, ông đã cười chế giễu vào mặt tôi cũng như ông đang cố cười

vào lúc này đây Có điều là trái tim hèn hạ của ông đã không ngăn được môi ông run lên.

Phải, ông nghĩ sẽ không bao giờ còn gặp lại tôi nữa, nhưng chính cái đêm hôm đó đã dạy

cho tôi biết cách gặp ông. Vậy thì, Mil-vơ, ông có còn gì để nói nữa không?

- Đừng có hòng làm tôi lo sợ - Hắn nói, sau khi đứng lên - Tôi chỉ cần cất cao giọng là

toàn thể gia nhân ào ra bắt giữ bà. Nhưng tôi tha lỗi cho cơn giận dữ tự nhiên đó. Hãy rời

khỏi phòng này ngay và tôi sẽ không nói gì hết.

Người đàn bà giấu một tay trong vạt áo. Bà vẫn luôn luôn phô ra cùng một nụ cười chết

chóc trên đôi môi mỏng.

226

- Ông sẽ không còn phá hoại những gia đình khác như ông đã phá hoại gia đình tôi. Hãy

nhận lấy cái này, đồ súc sinh nhơ nhớp. Và cái này! Thêm cái này Và còn cái này nữa?

Bà vừa nói vừa trút đạn vào Mil-vơ. Hắn muốn bỏ trốn, nhưng lại ngã nhào lên mặt bàn,

miệng ho một cách mãnh liệt và tay níu lấy mớ giấy tờ. Đoạn y lại đứng lên, nhận thêm một

viên đạn nữa và lăn xuống sàn nhà. Người đàn bà nhìn kỹ hắn với cặp mắt mở rộng và dùng

gót giày đạp lên đầu hắn. Sau đó bà còn nhìn hắn một lần nữa. Tôi nghe thấy một tiếng sột

soạt nhẹ. Không khí ban đêm tràn vào trong căn phòng nóng nực. Người đàn bà bỏ đi.

Vào lúc mà người thiếu phụ trút đạn, tôi đã chực lao ra, nhưng Holmes đã kéo tôi lại. Sau

khi người đàn bà ra khỏi phòng, Holmes đã lao tới cánh cửa và khoá lại. Ngay sau đó khắp

nhà vang lên những tiếng nói và những bước chân. Holmes chạy lên bên két sắt, quơ lấy

từng xếp giấy tờ rồi quăng vào ngọn lửa. Trong một thoáng, cái két sắt trống trơn. Trong

hành lang, người ta xoay cái then cài cửa người ta đấm lên cửa. Holmes liếc nhìn quanh. Lá

thư hãy còn ở trên bàn, vấy đầy náu. Holmes ném nó vào giữa tờ khác đang cháy rồi bình

thản mở cánh cửa thông ra vườn, đẩy tôi ra trước rồi khoá cửa lại từ phía ngoài. -

Qua ngả này. Theo ngả này sẽ leo qua bức tường ngoài vườn.

Cuộc báo động lan thật nhanh. Cả ngôi nhà tràn ngập ánh sáng. Cửa trước đã mở rộng, lố

nhố những hình người chen lấn trong lồl vào chính. Vườn đầy nhóc những người. Khi

chúng tôi rời khỏi hàng hiên, có ai đó kêu lên một tiếng và lao mình đuổi theo. Holmes như

biết rõ địa thế trong từng chi tiết nhỏ. Anh len lách qua một khu trồng các cây nhỏ. Tôi theo

anh. Người ta đuổi theo sát gót chúng tôi. Bức tường cao một mét rưỡi, Holmes rướn mình,

chống tay nhảy vọt qua tường. Tôi đang bắt chước anh thì một bàn tay đàn ông níu lấy chân

tôi. Tôi vùng thoát và nhảy vọt qua tường. Ra tới ngoài, tôi rơi đầu xuống trước, lăn vào

giữa những bụi cây. Holmes đỡ tôi đứng lên và cùng nhau chạy băng qua Hampstead. Tôi

tin rằng chúng tôi đã chạy trong ba cây số. Sau cùng, Holmes dừng lại, lắng tai lên nghe

ngóng. Đằng sau chúng tôi hoàn toàn yên lặng.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi ngồi hút tẩu thuốc đầu tiên thì Lestrade đến.

- Xin chào, thưa ông Holmes. Xin chào... Xin mạn phép được hỏi thăm lúc này ông có

bận rộn không?

- Còn đủ thời giờ để nghe ông nói.

- Ông có thể giúp chúng tôi trong vụ vừa xảy ra đêm qua ở Hampstead.

- Có chuyện gì vậy?

- Một vụ ám sát bi thảm và đặc biệt. Từ lâu chúng tôi canh chừng ông Mil-vơ... Chúng tôi

biết hắn có nắm giữ một số giấy tờ mà hắn dùng để hăm doạ tống tiền. Đêm qua các giấy tờ

đó đã bị mấy tên sát nhân đốt hết. Không một đồ vật đắt tiền nào bị mất. Rõ ràng những kẻ

sát nhân thuộc xã hội thượng lưu và không có ý đồ nào khác hơn là ngăn chặn một vụ gây

tai tiếng công khai.

- Những kẻ sát nhân? Như vậy là có nhiều người à?

- Có ít nhất là hai người. Một người suýt bị bắt quả tang. Một trong bọn tỏ ra khá nhanh

nhẹn, nhưng tên thứ hai bị người làm vườn tóm được, và hắn thoát thân sau một cuộc vật

227

lộn kịch liệt. Đó là một người tầm thước, vạm vỡ, vai rộng, hàm rộng, cổ dài, một bộ ria và

mặt nạ che lấy mặt...

- Người đó sao giống Watson quá vậy? - Holmes nói.

- Hứ? Quả là rất giống bác sĩ Watson - Lestrade cười nói.

- Tôi cũng biết cái tên Mil-vơ đó. Tôi đã coi y như một trong những người nguy hiểm

nhất ở Luân Đôn. Thiện cảm của tôi nghiêng về kẻ phạm tội hơn là đối với nạn nhân. Vậy là

tôi không can thiệp vào vụ này.

Suốt buổi sáng, Holmes không hé với tôi một lời nào về tấn thảm trạng. Chúng tôi dùng

bữa cơm trưa xong thì anh nhảy cẫng lên mà kêu:

- Anh Watson. Đi với tôi.

Holmes vội vã đi vào trong đường Oxford, tới gần một hiệu buôn lớn trưng bày nhiều

hình ảnh của những nhân vật danh tiếng và những ngôi sao thời sự. Bất thình lình, cặp mắt

Holmes khựng lại. Theo tia nhìn của anh, tôi thấy chân dung một mệnh phụ oai vệ, đích

thực thuộc hoàng gia, mặc áo triều phục, với một vương miện cao, dắt kim cương quanh

một cái đầu quý phái. Tôi ngắm kỹ cái sống mũi cong một cách tế nhị, cặp lông mày dài, cái

miệng thẳng bên trên một cái cằm kiên quyết. Tôi nghẹn thở khi đọc tên và tước vị của nhà

quý tộc nổi tiếng mà cô gái là phu nhân. Cặp mắt tôi bắt gặp mắt Holmes. Anh đặt một ngón

tay lên môi. Và rồi chúng tôi bỏ đi.

Ba sinh viên:

Trong năm 1895, Sherlock Holmes và tôi tới ngụ tại một thành phố lớn có nhiều trường

đại học. Lúc đó chúng tôi trọ trong một nhà cho thuê có đồ đạc, gần một thư viện, để

Holmes nghiên cứu một đề tài mà anh thích. Một buổi tối, chúng tôi tiếp ông Hil-tơn, thầy

giám học và giáo sư diễn giảng tại trường trung học Saint Luc.

- Thưa ông Holmes, một chuyện rất khổ tâm vừa xảy ra ở Saint Luc. Và nếu không có sự

may mắn đưa ông tới đây thì không biết xoay sở ra sao.

- Tôi đang bận, và mong không bị mất tập trung. Tôi thật lòng muốn ông nhờ tới cảnh sát

thì hơn.

-Không. Không thể được! Khi luật pháp đã khởi động thì chẳng có cách gì làm cho nó

ngừng lại. Mà nhà trường thì không muốn bị mang tai mang tiếng. Ông là người duy nhất có

thể giúp chúng tôi, thưa ông Holmes.

Tính nết Holmes đã không khá hơn kể từ khi anh rời bỏ bầu không khí quen thuộc của

con đường Baker. Không có những cuốn sách to lớn, những cuộc phân tích hoá học, sự bừa

bộn quen thuộc của anh, thì anh không được thoải mái. Vả chăng anh đã nhún vai để bày tỏ

một sự không đồng ý. Ngay đó người khách không ngừng tuôn ra những câu nói hối hả.

- Thưa ông Holmes, ngày mai bắt đầu cuộc thi lấy học bổng. Tôi là một trong số các

giám khảo về môn tiếng Hy Lạp. Tôi chọn đề thi là một bài dịch khá dài mà chưa một thí

sinh nào dịch qua. Bản văn được đem đi in. Tất nhiên là thí sinh nào biết được và chuẩn bị

bài làm thì sẽ có nhiều hi vọng hơn. Chính vì thế mà chúng tôi luôn luôn giữ thật kỹ. Hôm

nay, vào lúc ba giờ, các bản in thử được nhà in gửi đến tôi. Tôi phải đọc lại thật cẩn thận để

bản văn được hoàn toàn đúng ngữ pháp. Tới bơn giờ rưỡi, tôi vẫn đọc chưa xong. Thế mà

tôi lại bận đi dự tiệc ở bên ngoài trường. Tôi để các bản in thử trên bàn giấy và vắng mặt

khoảng một tiếng đồng hồ. Những cánh cửa ở trường là cửa kép: bên ngoài làm bằng gỗ sồi

và bên trong là lớp thảm bồi. Khi trở về, tôi ngạc nhiên khi thấy có chìa khoá gắn trong ổ.

Thoạt đầu tôi ngỡ là mình để quên chìa khoá! Nhưng tôi lục tìm trong các túi, chìa khóa của

tôi vẫn ở trong túi. Cái chìa khoá thứ hai do người hầu của tôi, tên là Ba-ni giữ. Ông này đã

sống với tôi suốt mười năm và là người ngay thẳng. Chìa khoá đó, đúng là chìa khoá của

ông ta. Ông ta đã vào phòng tôi để xem tôi có muốn uống trà không, và khi đi ra, ông đã để

quên... Ba-ni hẳn đã vào trong phòng vài phút sau khi tôi đã đi ra ngoài. Trong bất cứ ngày

nào khác, sự việc đó không có gì quan trọng. Nhưng hôm nay, thì nó rất là thảm hại.

Nhìn lên bàn giấy, tôi thấy ngay là đã có người lục lọi giấy tờ của tôi. Những bản in thử

in trên ba tờ giấy dài. Tôi đã để chúng cùng một chỗ. Và giờ đây tôi thấy ba tờ nằm ba nơi:

tờ thứ nhất nằm trên sàn nhà, tờ thứ hai ở gần cửa sổ và tờ thứ ba nằm ở vị trí cũ. Trong một

lúc lâu, tôi tự nhủ là Ba-ni đã tự tiện xem giấy tờ của tôi. Ông ta đã đoan chắc với tôi là

không. Vậy thì có ai đó, khi đi ngang trước cửa phòng tôi, thấy cái chìa khoá và đoán rằng

tôi đi ra ngoài nên người đó bước vào xem các bản in thử. Ba-ni gần như ngất đi khi chúng

273

tôi khám phá ra rằng những bản in thử bị đổi chỗ. Tôi đã cho ông ta uống vài giọt cô-nhắc

và tôi để ông ta ngồi xuống ghế rồi khám xét thật tỉ mỉ căn phòng. Trên cái bàn nhỏ gần cửa

sổ, tôi tìm thấy những miếng gỗ vỏ bút chì được gọt. Còn có một mẩu ruột bút chì bị gãy.

Rõ ràng là kẻ ranh mãnh đã chép vội chép vàng bài thi. Vì luống cuống y đã làm gấy cây

bút chì và đã gọt lại.

- Tuyệt vời. Ông đã gặp may! - Holmes kêu lên.

- Chưa hết. Tôi có một cái bàn rất mới, được phủ bằng lớp da màu đỏ rất đẹp. Mặt bàn

thật trơn và sạch. Thế mà tôi đã bắt gặp một vết đứt dài sáu centimet; không phải là vết

xước mà là một vết đứt; ở trên mặt bàn có một cục bột đen nhỏ, trong đó có vài hạt nhỏ

giống như là mạt cưa. Tôi tin chắc là những dấu vết đó do kẻ chép đề thi để lại. Tôi không

thấy dấu chân nào mà cũng chẳng thấy dấu vết nào khác có thể tìm ra đó là ai. Giữa lúc tôi

hoàn toàn nản chí thì sực nhớ ra ông đang ở trong thành phố này. Xin hãy giúp tôi. ông

Holmes? Cuộc thi sẽ phải bị hoãn lại cho đến khi nào các đề thi mới được in xong. Tất

nhiên tôi phải giải thích lý do bằng cách khai ra sự thật. Như vậy một vụ tai tiếng sẽ nổ ra.

Tôi mong muốn được dàn xếp công việc theo cách kín đáo nhất?

- Tôi rất sung sướng được lo vụ này - Holmes nói, đứng lên và mặc áo choàng ngoài vào

- Có ai tới thăm ông sau khi những bản in thử được đem tới không?

- Có. Chàng trai Đô-lát, một sinh viên người Ấn ở cùng trong một cầu thang; anh ta đã

vào phòng và hỏi tôi vài chi tiết về cuộc thi.

- Anh ta là thí sinh?

- Vâng.

- Lúc đó các tờ giấy để trên bàn giấy của ông?

- Nó còn được quấn thành cuộn.

- Nhưng người ta có thể đoán ra đó là những bản in thử?

- Chắc chắn là như vậy.

- Không có người nào khác vào phòng ông hay sao?

- Không.

- Có ai đoán biết là các đề thi dang có tại đó?

- Không một ai, ngoại trừ nhà in.

- Ông Ba-ni cũng không biết chứ?

- Phải. Tất cả mọi người đều không biết!

- Bây giờ Ba-ni ở đâu?

- Ông ta bị bệnh. Tôi để ông ta lại trong ghế bành. Tôi vội vàng đi tới đây.

- Ông để cửa mở à?

- Tôi cất giấy tờ vào trong ngăn tủ có khoá.

- Nếu người sinh viên Ấn Độ mà không đoán biết cuộn giấy đó là những bản in thử thì

người đụng tới đề thi là người đã tình cờ bắt gặp, mà trước đó, họ không hề biết là đề thi có

mặt ở đó.

- Dường như vậy.

274

Holmes cười một cách khó hiểu. Anh nói:

- Vậy thì, hãy tới nhà ông xem sao.

Căn phòng được dùng làm văn phòng của ông giáo có một cửa sổ thấp, gắn lưới sắt, nó

nhìn ra cái sân cũ của trường. Một cửa ra vào mở ra trên cầu thang đá. ông giám học ở tầng

một. Ba sinh viên ở các tầng trên, mỗi người một tầng. Khi chúng tôi tới hiện trường, gần

như đã vào đêm. Holmes quan sát kỹ khuôn cửa sổ từ mé ngoài. Anh đứng nhón chân,

nghển cái cổ dài ra mà ngó vào trong phòng.

- Hắn đã vào trong phòng qua ngả cửa chính. Màng lưới sắt của cửa sổ ắt hẳn đã không

cho y đi xuyên qua đây - Ông giám học nói.

- Thật vậy sao? - Holmes nói khi ném một tia nhìn kỳ lạ về phía thân chủ - Thế thì chúng

ta nên vào trong xem xét tiếp.

Ông giám học mở cửa chính ra và dẫn chúng tôi vào trong văn phòng. Chúng tôi đứng lại

trên ngưỡng cửa trong lúc Holmes quan sát tấm thảm, anh nói:

- Ở đây chúng ta chẳng tìm ra được dấu vết nào.

- Trời quá khô ráo! Ông Ba-ni dường như đã bình phục.

- Ông đã để ông ấy lại trong ghế bành. Cái ghế nào?

- Cái ghế gần bên cửa sổ.

- Giờ đây các ông có thể vào được rồi - Holmes nói.

Tôi đã xem xong tấm thảm. Trước hết chúng ta hãy quan sát cái bàn nhỏ. Hiển nhiên là

người nọ đã lấy những bản in thử, tờ này tiếp tờ kia. Người đó ngồi vào cái bàn nhỏ gần bên

cửa sổ, bởi vì từ đó, hắn có thể canh chừng việc trở về qua ngả cửa chính mà bỏ trốn.

- Sự thật thì hắn không thể làm thế. Bởi vì tôi trở về qua ngả cửa nhỏ, phía bên kia.

- A, đó là điều rất hay! Xin hãy cho tôi xem ba tờ giấy thi. Không có dấu vết ngón tay.

Không Thoạt đầu hắn lấy tờ giấy này và đã chép. Hắn cần phải mất bao nhiêu thời gian để

làm công việc này? Tối thiểu cũng mất một khắc. Đoạn hắn vứt tờ giấy đã chép xong xuống

đất, rồi lấy tờ thứ hai. Hắn hẳn đã chép được một nửa của tờ giấy thứ hai thì thấy ông về,

nên hắn phải bỏ trốn, rất hấp tấp, bởi vì hắn không kịp xếp lại các tờ giấy này như cũ. ông

không nghe thấy những tiếng chân hối hả trên cầu thang khi ông trở về qua ngả cửa ngoài

sao?

- Không.

- Hắn đã viết hết sức vội vã nên làm gãy đầu bút chì, và hắn phải vót lại. Điều này rất

đáng chú ý, Watson. Cây bút chì này có một chiều dài bình thường và ruột bút chì thật

mềm. Vỏ bên ngoài màu xanh đậm. Tên nhà sản xuất được khắc bằng chữ nhũ màu bạc. Cái

mẩu còn lại dài gần năm phân. Thưa ông giám học. Hãy tìm một cây bút thuộc loại đó, và

ông sẽ tìm ra được người cần tìm. Tôi còn dám nói rằng hắn có một con dao nhíp lớn, rất

cùn.

Ông giáo sư hơi bị choáng ngợp trước dòng thác những thông báo đó.

-Tôi theo kịp ông về một số điểm, nhưng về cái chiều dài thì ...

275

Holmes đưa cho ông ta coi một mẩu vỏ bút chì trên có những chữ NN mà không có bất

cứ một chữ nào khác tiếp theo sau.

- Ông thấy chứ?

- Không ngay đến giờ đây cũng chưa ...

- Anh Watson, những chữ NN này có thể là gì? Hai chữ cuối của một từ. Anh đã biết rằng

Johann Faber là nhà sản xuất bút chì. Cây bút chì còn lại một khúc ngắn tiếp theo chữ

Johann. - Anh nghiêng cái bàn nhỏ dưới ánh sáng đèn điện. - Nếu người đó viết trên giấy

mỏng thì tôi sẽ tìm thấy dấu vết kiểu chữ của y trên cái mặt phẳng nhẵn bóng này. Nhưng

không, tôi không thấy gì hết. Hãy thử xem cái bàn giấy của ông. Tôi đồ chừng đám nhỏ này

là đống chất đen lợt mà ông đã nói với tôi. Hình chóp và rỗng. Ông nói đúng, những hạt mạt

cưa ở bên trong. Điều này thật là đáng chú ý! Và vết đứt, đúng là một vết rách, bắt đầu bằng

một vết xước mỏng và chấm dứt bằng một cái lỗ rách xơ ra. Cánh cửa này dẫn tới đâu?

- Vào phòng ngủ của tôi.

- Kể từ lúc xảy ra câu chuyện, ông có vào trong phòng đó lần nào không?

- Không. Ngay tức khắc, tôi tới đằng nhà ông.

- Tôi mong muốn được xem qua. Căn phòng thật duyên dáng, với cái kiểu kiến trúc cổ

này! Chờ một chút, để tôi quan sát cái sàn nhà này... Tôi không thấy gì cả. Còn tấm ri-đô

này? Ông treo quần áo ở đằng sau. Nếu ai đó muốn nấp trong căn phòng này thì y sẽ trốn

vào đây, bởi cái giường thì quá thấp và phòng vệ sinh thì không đủ rộng. Chẳng có ai đâu,

chắc vậy?

Theo cái cách mà Holmes nhấc tấm ri-đô lên, tôi hiểu là anh sẵn sàng ứng phó với mọi

sự. Thật ra, góc nhà đó không chứa đựng cái gì khác hơn là vài bộ quần áo treo trên những

cái mắc áo. Holmes xoay gót và bất thình lình cúi xuống.

- Này! Cái gì đây nhỉ? - Anh reo lên.

Đó là một cái tháp nhỏ chất đen, giống hệt với cục nhỏ mà chúng tôi đã thấy trên bàn ở

văn phòng. Holmes nhặt lên và quan sát nó.

- Người khách của ông đã để lại những dấu vết ở trong phòng ngủ cũng như văn phòng

ông đây này.

- Hắn vào đây để làm gì?

- Ông quay về theo một ngả mà hắn không tiên liệu được, và hắn chỉ được báo động khi

ông đến trước cánh cửa. Hắn bèn quơ lấy tất cả những gì có thể tố giác hắn và hối hả chui

vào phòng ngủ của ông đế trốn.

- Vậy trong suốt thời gian tôi nói chuyện với Ba-ni trong văn phòng, người đó đã ở trong

phòng ngủ của tôi hay sao? Thưa ông Holmes, liệu có khả năng nào khác được khi ông chưa

quan sát cửa sổ phòng tôi.

- Những ô vuông hình thoi, sườn bằng que chỉ, ba miếng kính rời, một xoay trên những

bản lề khá lớn đủ cho một người có thể lách mình qua.

276

- Đúng vậy. Và nó mở ra một góc sân. Người đó đã vào phòng qua ngả cửa sổ, để lại

những dấu vết trong phòng mà y đã đi qua, đoạn bỏ theo cửa chính để ngỏ mà ra ngoài.

Holmes lắc đầu nói:

- Ông đã bảo với tôi rằng có ba sinh viên sử dụng cái cầu thang này và thường hay đi

ngang trước cửa phòng ông?

-Vâng.

- Và cả ba đều dự thi?

- Vâng.

- Ông có nghi ngờ người nào không?

- Đây là một vấn đề rất tế nhị. Tôi chẳng muốn phát biểu chút nào khi chưa có chứng cớ.

Tầng lầu một là anh Gi-ri, một người hoàn hảo và là một lực sĩ đẹp. Anh ta chơi trong đội

bóng bầu dục và khúc côn cầu của nhà trường, là tay vô địch môn chạy vượt rào và nhảy xa.

Thân phụ anh là một nhà quý tộc bị phá sản trên các trường đua ngựa. Người con trai đó

nghèo. Nhưng làm việc chăm chỉ và thông minh. Tầng lầu hai là nơi Đô-lát cư ngụ. Người

Ấn Độ này rất trầm tĩnh và kín đáo. Anh học tập tốt, nhưng tiếng Hi-lạp thì yếu. Anh chăm

học và có phương pháp. Tầng lầu chót có Mi-lê. Anh ta rất siêng học, một trong những học

sinh sáng suốt nhất của trường. Nhưng anh ta lại thất thường, nghịch ngợm, vô nguyên tắc.

Trong năm thứ nhất, anh ta suýt bị đuổi học vì một vụ đánh bài. Trong suốt quý này, anh ta

đã đi chơi rong và ắt hẳn anh phải nhắm tới kỳ thi với nỗi kinh hoàng.

- Vậy là ông nghi anh ta?

- Tôi không dám đi xa tới thế. Nhưng một người có hành vi như thế sẽ dễ bị người khác

nghi ngờ.

- Giờ đây, tôi muốn gặp ông Ba-ni.

Đó là một người bé nhỏ, trạc năm mươi tuổi: Nước da trắng, không râu; tóc hoa râm, mặt

tròn trịa, có thoáng qua những chứng giật gân mặt và các ngón tay cứ luôn luôn bắt chéo

vào nhau rồi lại buông ra.

- Chúng tôi đang điều tra về cái vụ không may mắn đó, Ba-ni! - Chủ ông ta nói.

- Vâng, thưa ông.

- Hẳn ông đã để cái chìa khoá lại trên cửa? - Holmes hỏi ông ta.

- Vâng thưa ông.

- Phải chăng là sự khác thường, khi ông lơ đễnh đúng vào cái ngày mà những tài liệu lại

để ở trong phòng?

- Thật hoàn toàn đáng tiếc, thưa ông.

- Ông vào đây lúc mấy giờ?

- Khoảng bốn giờ rưỡi, giờ chủ tôi dùng trà.

- Ông ở lại trong bao lâu?

- Khi thấy ông chủ không có ở đây, tôi bỏ đi ngay.

- Ông có nhìn vào các giấy tờ để trên bàn không?

- Không, thưa ông.

277

- Làm thế nào mà ông lại có thể để cái chìa khoá ở trong ổ khoá?

- Tôi đang bưng khay trà. Tôi tự nhủ là sẽ quay lại lấy chìa. Thế rồi tôi quên luôn.

- Cánh cửa bên ngoài có một bộ phận đóng tự động không?

- Không, thưa ông!

- Thế là nó vẫn mở suốt trong thời gian đó.

- Vâng.

- Bất cứ ai từ trong phòng cũng có thể đi ra bằng cửa đó.

-Vâng.

- Khi ông chủ trở về và cho gọi ông, thì ông rất bối rối?

- Vâng. Tôi hầu hạ ở đây đã lâu và một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra. Tôi gần như bị

ngất xỉu.

-Tôi biết. Ông ngồi tại đâu khi ông bắt đầu cảm thấy khó thở?

- Ở đây gần bên cánh cửa.

- Thật là kỳ cục. Ông tới ngồi trong cái ghế bành đằng kia, trong góc này. Tại sao ông

không ngồi ở những cái ghế khác?

- Đối với tôi điều đó không có gì là quan trọng. Miễn sao tôi được ngồi xuống...

- Tôi thật sự tin là anh ta không dính dấp vào vụ này, thưa ông Holmes - Giám học nói.

- Ông vẫn ngồi đó khi chủ ông đã bỏ đi?

- Chỉ trong một hay hai phút. Đoạn tôi đóng cửa lại rồi leo lên phòng tôi.

- Cám ơn, thế là đủ - Holmes trả lời - Ồ, còn một điều này nữa: ông không nói với một

trong ba sinh viên rằng có một biến cố vừa xảy ra chứ?

- Tôi không nói một lời nào.

- Rất tốt. Giờ đây, chúng ta hãy đi dạo trong chốc lát ngoài sân.

Ba ô vuông màu vàng lấp lánh ánh sáng ở phía trên chúng tôi.

- Ba con chim của ông đều đang ở trong tổ - Holmes nói khi ngước lên nhìn - Này chuyện

gì xảy ra vậy? Một trong ba người tỏ ra khá dao động?

Đó là người sinh viên Ấn Độ chợt hiện ra trên bức mành cửa. Anh ta đi đi lại lại trong

phòng.

- Tôi muốn được nhìn thấy họ gần hơn một chút - Holmes nói.

- Dạ được. Mấy phòng đó nằm trong cái phần cổ xưa nhất của nhà trường và thỉnh thoảng

chúng tôi đưa khách tới đó tham quan. Các ông hãy cùng đi với chúng tôi.

- Cần nhất là đừng có gọi tên! - Holmes thì thầm khi chúng tôi gõ cửa phòng Gi-ri.

Một thanh niên to con, dong dỏng cao, mái tóc màu gai, mở cửa và ngỏ lời chúc mừng

khi được biết mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Phòng anh không thiếu những di

tích của lối kiến trúc xưa. Holmes bị lôi cuốn mãnh liệt bởi một trong những di tích đó,

khiến muốn anh vẽ lại trên cuốn sổ tay; anh làm gẫy bút chì, hỏi mượn chủ nhà một cái bút

chì và sau cùng hỏi mượn một con dao nhíp dể gọt lại. Việc đó xảy ra trong phòng của

người sinh viên Ấn Độ. Nhưng mưu toan thứ ba của chúng tôi bị thất bại. Cánh cửa không

mở ra và chúng tôi chỉ nhận được một tràng những lời lẽ kém nhã nhặn.

278

- Tôi cóc cần biết các ông là ai! Đi chỗ khác mà xem! Tôi bận học thi, các ông nghe rõ

chưa?

- Một người không vui tính - Người hướng dẫn chúng tôi nói, trong lúc xuống cầu thang -

Tất nhiên anh ta không biết tôi là người đã gõ cửa. Tuy nhiên anh ta cư xử một cách bất lịch

sự và đáng nghi ngờ.

Câu trả lời của Holmes lại khá bất ngờ:

- Ông có thể cho tôi biết chiều cao đích xác của anh ta không?

- Anh ta cao hơn người Ấn Độ nhưng thấp hơn Gi- ri? Tôi nghĩ là một mét bảy mươi...

- Điều đó rất quan trọng. Và giờ đây, thưa ông giám học xin chúc ông một đêm an lành -

Holmes nói.

Người hướng dẫn chúng tôi bày tỏ nỗi ngạc nhiên và lòng tuyệt vọng của ông.

- Lẽ nào ông lại bỏ rơi ông một cách đột ngột đến thế. Ngày mai thi rồi. Tối nay tôi buộc

phải làm một cái gì đó minh bạch, dứt khoát. Tôi không thể giữ nguyên kỳ thi nếu người ta

đã đụng vào những bản in thử đó.

- Hãy cứ giữ nguyên. Sáng mai tôi sẽ đến đây thật sớm và chúng ta sẽ bàn lại vấn đề. Rất

có thể là lúc đó tôi đã nắm được những yếu tố mới, khả dĩ giúp ông thoát ra khỏi cảnh ngộ

này. Từ đây tới đó, ông đừng thay đổi gì cả.

- Được lắm, thưa ông Holmes.

- Ông cứ yên tâm. Tôi đem về hai cục hình chóp đen cùng những mẩu vỏ bút chì. Xin

chào ông

Khi ra tới sân, chúng tôi quan sát những khuôn cửa sổ một lần nữa. Người Ấn Độ vẫn

tiếp tục sải bước trong phòng. Hai người kia thì không nhìn thấy. Khi ra tới đầu đường,

Holmes hỏi:

- Anh Watson, một trò chơi ba người. Anh hãy chọn lựa đi! Người nào?

-Cái nhân vật thô bạo ở trên cao. Anh ta là người "có tiếng" hơn cả. Cái anh chàng Ấn Độ

cũng khéo vờ vĩnh. Tại sao anh ta lại cứ sải bước trong phòng.

- Rất nhiều người đi bách bộ để thử cố học thuộc lòng một cái gì đó.

- Anh chàng đã nhìn chúng ta với sự chán ghét...

- Nếu có một bọn người lạ đột nhập vào phòng anh vào buổi tối trước ngày thi, anh sẽ có

thái độ như thế nào?

- Cái bút chì, con dao nhíp, tất cả đều được hết. Duy gã nọ là bắt tôi phải suy nghĩ.

- Gã nào?

- Ba-ni. Ông ta chơi trò gì?

- Tôi có cảm tưởng rằng ông ta rất thật thà.

- Cả tôi cũng thế. Và đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao một người lương

thiện đến thế mà lại...? Đây là một cửa hàng giấy bút lớn: Chúng ta tìm kiếm từ nơi này.

Trong thành phố chỉ có bốn cửa hàng giấy bút lớn.

Holmes đưa những mẩu vỏ bút chì ra và hỏi mua thứ bút đó. Lần nào người ta cũng đưa

ra một thứ bút mà Holmes tìm kiếm. Bạn tôi nhún vai với một cử chỉ nhẫn nhục vui vẻ.

279

- Không may rồi. Chúng ta chẳng đi tới đâu cả. Chín giờ rồi bạn ơi.

Sau bữa ăn tối muộn màng, Holmes không đã động gì tới vụ đó nữa. Tám giờ sáng, anh

vào phòng tôi.

- Tới giờ đi Saint Luc rồi. Anh có thể bỏ bữa điểm tâm được không?

- Được thôi, có gì mới không?

- Có.

- Anh rút ra được những kết luận gì?

- Tôi đã giải quyết xong vấn đề. Tôi ra khỏi giường hồi sáu giờ, làm việc cật lực trong hai

tiếng đồng hồ và đi bộ tám cây số để đi tìm một cái gì đó. Anh hãy coi cái này!

Trên lòng bàn tay Holmes có ba cái chóp nhỏ bằng đất sét đen, sền sệt.

- Ngày hôm qua chỉ có hai thôi mà?

- Và sáng hôm nay, có thêm một cái nữa. Nơi xuất phát của cái thứ ba cũng là nơi xuất

phát của hai cái kia. Nào, chúng ta hãy đi gặp ông bạn giám học.

Ông thầy đáng thương đang ở trong một tình trạng bồn chồn trong phòng ngủ của ông.

Chỉ còn vài giờ nữa là cuộc thi bắt đầu và ông còn đang tự hỏi không biết nên giải thích tất

cả hay cứ để mặc cho kẻ phạm tội dự thi. Ông nhạy ùa về phía Holmes với hai cánh tay

dang thẳng, nói:

- Tôi sợ ông nản chí. Cuộc thi có tiến hành không?

- Cứ tiến hành.

- Nhưng, tên vô lại đã..?

- Hắn sẽ không dự thi.

- Ông biết hắn là ai?

- Biết. Bởi vụ này cần phải được giữ kín, nên chúng ta sẽ lập ra một thứ như "toà án quân

sự đặc biệt". Mong ông ngồi đây, Watson ngồi vào đây. Tôi ngồi vào ghế bành của ông ở

chính giữa. Chúng ta đủ oai nghiêm để làm cho một tâm hồn phạm tội phải sững người vì sợ

hãi? Xin ông vui lòng gọi chuông.

Ba-ni vào phòng và suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước cảnh đó. Holmes nói

với Ba-ni:

- Mong ông vui lòng đóng cánh cửa đó lại. Giờ đây, ông hãy nói về việc đã xảy ra hôm

qua.

Ba-ni tái mét tới tận chân tóc:

- Tôi đã thưa tất cả rồi.

- Ông không còn gì để nói thêm sao?

- Không, thưa ông.

- Trong trường hợp này, tôi phải gợi ra với ông vài ý kiến. Ngày hôm qua khi ngồi trên

cái ghế bành này, có phải ông đã chọn cái chỗ đó cất để ý che giấu một đồ vật có thể tiết lộ

người đã vào phòng này không.

Bộ mặt Ba-ni tím ngắt.

- Không, thưa ông.

280

- Đó chỉ là một gợi ý? - Holmes nói với giọng ngọt ngào - Tôi không có khả năng chứng

minh điều đó. Nhưng có điều chắc chắn là ngay khi ông giám học vừa xoay lưng đi, thì ông

đã đưa người trốn trong phòng ngủ ra ngoài.

Ba-ni liếm cập môi khô:

- Không có ai cả, thưa ông.

- A! Thật đáng tiếc! Cho tới giây phút này, ông vẫn có thể nói ra sự thật, nhưng tôi biết là

ông đã nói dối.

Bộ mặt của Ba-ni chỉ còn bộc lộ một sự thách thức buồn bã.

- Không có ai cả, thưa ông.

- Coi nào, ông Ba-ni.

- Không, thưa ông, không có ai cả.

- Thôi được, ông hãy tới đứng gần bên cửa ra vào phòng ngủ. Bây giờ, ông giám học, tôi

mong ông leo lên phòng chàng trai Gi-ri, yêu cầu cậu ta xuống đây.

Một lát sau, ông thầy cùng với cậu sinh viên bước vào Đó là một thanh niên đẹp trai, lực

lưỡng, mảnh và cao, mềm mại, dáng đi linh hoạt, vui mắt, anh ta có bộ mặt cởi mở. Cặp mắt

xanh của anh chăm chú nhìn chúng tôi trước khi đặt lên Ba-ni với một dáng vẻ rụng rời.

- Hãy đóng cửa lại - Holmes nói - Giờ đây, ông thấy là chúng ta hoàn toàn tách biệt với

bên ngoài. Không một ai nghe chúng ta nói chuyện. Vậy thì chúng ta có thể nói chuyện với

tất cả lòng thẳng thắn. Chúng tôi muốn biết, làm thế nào mà ông, một người trọng danh dự,

lại phạm vào một lỗi lầm như trong ngày hôm qua?

Chàng thanh niên lảo đảo và ném lên Ba-ni một tia nhìn oán trách.

- Nhưng, thưa ông Gi-ri. Tôi đã không nói gì hết - Người đầy tớ kêu lên.

- Nhưng bây giờ thì ông đã nói - Holmes trả lời - Coi nào, chàng trai! Sau cái điều vừa

thoát ra khỏi cổ họng Ba-ni địa vị của ông hẳn là bớt đẹp. Ông chỉ còn có một cơ may:

Thành thật nhận lỗi.

Trong một lúc, Gi-ri giờ một bàn tay lên thử chế ngự mối cảm xúc và bất thình lình anh

ta quỳ gối xuống bên cạnh bàn, vùi mặt vào trong hai bàn tay và khóc nức nở. Holmes dịu

dàng nói:

- Coi nào, coi nào. Lỗi lầm là bản chất của con người, có thể anh thích để cho tôi nói thay

anh? Anh sẽ đính chính nếu tôi bị lầm lẫn. Anh đồng ý chứ? Tốt. Thưa ông giám học, kể từ

lúc ông nói rằng không có ai biết những bản in thử ở trong văn phòng ông, thì vụ này đã

làm cho tôi thích thú. Chúng ta có thể gạt bỏ người thợ in, bởi vì nếu muốn, anh ta có thể

chép những bản văn đó ngay trong nhà mình. Tôi cũng loại bỏ người Ấn Độ: Nếu những

bản in thử còn quấn thành cuộn, anh ta không thể đoán được rằng, đó là cái gì. Mặt khác, có

thể có sự trùng hợp như thế này: Một người nào đó đã vào trong văn phòng ông và tình cờ

nhìn thấy đề thi đang nằm ở trên bàn! Tôi cũng gạt bỏ luôn giả thiết đó. Cái người vào đây

phải là người đã biết nơi này đang có bản in thử. Vì sao người ấy biết được? Khi tôi tới gần

bàn giấy của ông, tôi quan sát khung cửa sổ. Ông đã làm tôi cười khi ông tin rằng có một ai

đó đã lẻn vào văn phòng bằng ngả đó. Một giả thiết như thế thật là phi lý. Tôi đã tính chiều

281

cao cần thiết mà người đó có thể đi ngang cửa nhà này và người ấy phải biết trước loại giấy

tờ nào đang nằm trên bàn ông. Tôi cao hơn một mét tám và chỉ cần hơi gắng sức là tôi đã

trông thấy xấp giấy trên bàn. Vậy, nếu một trong ba sinh viên của ông, người có thân hình

thật cao, là mục tiêu của sự tìm kiếm. Tuy nhiên, lúc đứng trong văn phòng, tôi không rút ra

được điều gì, nhưng ông đã mô tả với tôi rằng Gi-ri là một nhà vô địch chạy vượt rào và

nhảy xa. Thế là tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi cần có những chứng cớ xác minh.

Chàng thanh niên này đã tập nhảy suốt buổi chiều trên sân thể thao. Anh trở về, mang

theo đôi giày nhảy, là thứ có gắn những mũi nhọn, như ông đã thấy. Khi đi ngang qua cửa

phòng ông, nhờ thân hình cao, anh đã trông thấy nhưng bản in thử đó để trên bàn, còn trên

cánh cửa thì có chìa khoá để quên. Một sự thôi thúc đẩy anh vào phòng và để xem coi đó có

phải là đề thi của ngày hôm sau không? Nếu bị bắt gặp, anh có thể nới rằng anh tới để hỏi

ông thầy một câu gì đó. Khi thấy đó đúng là đề thi, thì anh đành chịu thua sự cám dỗ. Anh

để đôi giày có gắn mũi nhọn lên bàn. Thế anh đã để cái gì lên trên cái ghế bành kê gần bên

cửa sổ này?

- Đôi bao tay - Chàng trai trả lời.

Holmes nhìn Ba-ni với tư thế của người thắng cuộc.

- Anh đặt đôi găng tay lên thành ghế và lấy từng tờ giấy để chép lại. Anh nghĩ rằng ông

thầy sẽ trở về qua lối cổng chính, và anh sẽ trông thấy. Thế nhưng ông thầy lại trở về qua

cổng nhỏ. Bất thình lình, anh nghe thấy tiếng gõ của thầy ở đằng sau cánh cửa. Anh vội

vàng quơ lấy đôi giày nhảy và bỏ trốn trong phòng ngủ, bỏ quên đôi bao tay trên thành ghế.

Vết khắc trên mặt bàn in nhẹ ở một bên, nhưng lại hằn rõ trong hướng đi tới phòng ngủ.

Điều đó cho thấy thủ phạm đã trốn trong phòng. Đất bám chung quanh một mũi nhọn vương

lại trên bàn, một mẩu đất thứ hai tuột ra và rơi xuống trong phòng. Sáng nay tôi đã tới sân

nhảy và thấy hố đó đầy thứ đất đen dính chắc này. Tôi mang về một ít và tôi cũng ghi nhận

rằng người ta đã rắc mạt cưa lên trên mặt đất để các lực sĩ khỏi bị trượt chân. Tôi nói có

đúng không, ông Gi-ri?

Chàng sinh viên đứng lên.

- Đúng, thưa ông.

- Nhưng anh không có gì để nói thêm sao? - Ông giám học kêu lên.

- Có, thưa thầy. Tôi có nhiều điều để nói thêm. Nhưng sự khám phá ra đó đã làm tôi kinh

ngạc. Tôi có một lá thư gửi thầy. Tôi viết vào giữa một đêm mà lương tâm không yên ổn.

Thư đó đây. Đây là câu đầu tiên: "Tôi quyết định không dự thi; người ta đã đề nghị với tôi

một chỗ là trong sở cảnh sát ở Rhodésia; tôi sẽ sang Nam Phi ngay tức khắc".

- Tôi thật sung sướng được biết anh không có ý định lợi dụng một sơ sót của tôi. Nhưng

tại sao anh lại đổi ý?

Gi-ri chỉ vào Ba-ni nói:

- Đây là người đã đưa tôi trở lại con đường ngay thẳng.

- Coi nào, Ba-ni! - Holmes kêu lên - Sau điều tôi vừa giải thích, ông hiểu rõ rằng chính

ông đã để cho chàng trai này đi ra khỏi phòng, bởi ông đã ở lại một mình trong phòng và

282

ông đã khoá cửa lại sau khi bỏ đi. Ông có muốn cho chúng tôi biết tại sao ông hành động

như vậy không.

- Thưa ông, một thời, tôi đã phục vụ như người quản gia nơi nhà thân phụ của chàng trai.

Khi cụ bị phá sản, tôi trở thành nhân viên thuộc trường này, nhưng tôi không bao giờ quên

được ông chủ cũ. Tôi đã chăm sóc con trai cụ hết sức mình để tưởng nhớ một thời êm đềm

xa xưa. Hôm qua, khi tôi vào trong văn phòng này, cái đầu tiên mà tôi trông thấy, đó là đôi

bao tay của cậu đặt trên ghế bành. Tôi biết, nếu ông giám học cũng trông thấy chúng, là cậu

bị phát hiện Thế nên tôi bèn "ngất xỉu" trên cái ghế bành này và không gì có thể làm tôi

động đậy, mãi cho tới khi ông giám học ra đi. Người chủ trẻ của tôi đã rời khỏi chỗ ẩn nấp

và thú nhận với tôi. Thuở xưa, tôi đã từng đặt cậu ấy ngồi trên đầu gối tôi. Về phần tôi, thật

là tự nhiên khi tôi làm đủ mọi cách để cứu cậu ấy? Mặt khác, tôi nói với cậu rằng chẳng nên

làm như thế. Ông có chê trách tôi không, thưa ông Holmes.

Holmes đứng lên nồng nhiệt nói với Ba-ni và ông giám học rằng vấn đề đã được giải

quyết êm đẹp. Quay sang chàng trai, Holmes tiếp:

- Về phần anh, người bạn trẻ, tôi tin chắc rằng ở một chân trời xa xôi kia, một tương lai

xán lạn đang chờ đón anh.

Cái kẹp kính vàng:

Những ngày cuối tháng 11-1894. Buổi tối thật buồn. Holmes đang dùng kính lúp để cố

đọc những gì còn sót lại của một câu văn viết trên da cừu, trong lúc tôi say mê đọc một cuốn

chuyên luận về phẫu thuật. Bên ngoài gió gào rú, mưa dông mạnh. Tôi tới bên cửa số nhìn

xuống đường phố vắng tanh. Những ngọn đèn đường chiếu sáng một mặt đường bùn lầy.

Một chiếc xe ngựa chạy tới, làm nước văng tung toé. Holmes đặt kính lúp xuống và gấp

mảnh da cừu lại:

- Thật may mắn là bọn mình không phải đi ra ngoài. Tôi đã ngán cái trò tìm đoán này:

thật tội nghiệp cho đôi mắt! Ồ, có chuyện gì thế?

Nổi bật trên tiếng gió vù vù, tiếng móng ngựa đập đôm đốp dọc theo nhà rồi tiếng bánh

xe ngừng lại, kêu cọt kẹt khi cọ vào vỉa hè. Chiếu xe ngựa đậu lại trước nhà chúng tôi.

- Ông này muốn gì đây? - Tôi kêu lên khi thấy một người đàn ông từ trên xe bước xuống.

- Muốn gì à? Người đó muốn chúng ta. Và chúng ta muốn những cái áo choàng ngoài,

những khăn choàng cổ, những đôi giày cao su và tất cả những gì mà loài người đã phát

minh ra để bảo vệ trước thời tiết xấu. Hãy chạy xuống dưới, và mở cửa ra mau, bởi vì vào

giờ này tất cả những người có đạo đức đều đi ngủ cả rồi!

Khi ánh sáng ngọn đèn trong gian tiền sảnh chiếu rõ người khách, tôi nhận ra ngay đó là

Stanley Hopkins, một thanh tra trẻ tuổi.

- Ông ấy có nhà không? - Anh ta ném cho tôi câu hỏi khi đi ngang qua.

- Hãy lên đi! - Holmes trả lời từ phía trên - Chắc đêm nay anh không ấp ủ những ý đồ đen

tối chống lại chúng tôi?

Viên thanh tra leo vội lên cầu thang, từng bốn bậc một. Nước trên áo mưa của anh ta

chảy ròng ròng. Tôi giúp anh ta cởi nó ra, trong lúc Holmes khơi cao ngọn lửa.

- Hãy đến gần ngọn lửa mà sưởi ấm đôi chân. Đây là một điếu xì-gà. Bác sĩ sẽ sẵn lòng

làm một chén thuốc, trong có nước sôi và một quả chanh. Có chuyện gì quan trọng lắm nên

luồng gió độc địa này mới thổi anh tới đây?

- Ông đã đọc tin giờ chót của các báo chưa? Về vụ án Yoxley đó mà.

- Anh nói đi!

- Được. Đó là bản tin vắn, đầy rẫy những sai lầm. Chuyện đó xảy ra trong vùng Kent,

cách Chatham 7 dặm và cách đường xe lửa 3 dặm. Người ta báo cho tôi bằng điện tín vào

lúc 3 giờ 15, tôi tới Yoxley Old Place vào hồi 5 giờ. Tôi đã mở cuộc điều tra, rồi quay trở về

Charing Cross bằng chuyến xe lửa cuối cùng và đi thẳng tới đây.

- Vậy là anh chưa thấy rõ vụ này? - Holmes hỏi.

- Đây là vụ rối rắm nhất trong tất cả những vụ mà tôi đã đảm trách. Không có động cơ

gây ra tội ác; có người bị chết, nhưng không sao hiểu được tại sao có người muốn giết anh

ta?

Holmes mồi một điếu xì-gà và ngồi nép vào trong ghế bành.

- Chúng tôi nghe anh đây.

299

- Cách đây vài năm, một người đứng tuổi, giáo sư Coram đến mua một căn nhà ở vùng

quê Yoxley Old Place. Ông ta đau ốm, tàn tật, một nửa thời gian nằm liệt trên giường, nửa

thời gian còn lại chống gậy đi quanh nhà. Ông được láng giềng yêu quý. Họ thường tới

thăm ông và coi ông như nhà thông thái. Đám gia nhân gồm có người quản gia lớn tuổi, bà

Marker, và người hầu gái Susan Tarlton. Đó là hai phụ nữ trung hậu. Ông giáo sư khởi công

viết một cuốn sách. Năm vừa qua, ông thuê một thư ký. Hai người đầu không làm được

việc, người thứ ba là một thanh niên tốt nghiệp đại học, đã đáp ứng được những mong muốn

của giáo sư. Mỗi sáng, anh ghi chép lại những gì ông chủ đọc; và buổi chiều, anh đọc kỹ

những câu trích dẫn có quan hệ với công việc ngày hôm sau. Không thể nào tìm ra được

một điều gì đó chống lại anh chàng Willoughby Smith này, hoặc là lúc anh ta hãy còn nhỏ,

hoặc là lúc anh ta theo học ở đại học. Tôi đã xem các bằng cấp và những lá thư tiến cử. Anh

ta luôn luôn là người trầm tĩnh, siêng năng, thật thà và đứng đắn. Ấy thế mà anh đã bị giết

sáng nay trong văn phòng của giáo sư và những tình huống đã chỉ dẫn một cách dứt khoát

rằng đây là một vụ ám sát.

Gió vẫn gào thét bên cửa sổ. Chúng tôi ngồi sát gần ngọn cửa, trong lúc viên thanh tra

khai triển câu chuyện.

- Trong khắp nước Anh, chúng ta sẽ không gặp một ngôi nhà nào cách biệt và thoát ra

khỏi những ảnh hưởng bên ngoài như căn nhà đó. Nhiều tuần lễ đã qua mà không một người

lạ nào vượt qua hàng rào sắt quanh nhà. Ông giáo sư bị cuốn hút vào trong công việc Chàng

thanh niên không quen biết ai trong lối xóm, nghĩa là anh ta sống y như ông chủ. Hai người

đàn bà không bị một mối quan hệ nào lôi họ ra khỏi nhà. Người làm vườn là một quân nhân

về hưu tên là Mortimer. Ông ta không ở trong nhà, nhưng sống trong một căn nhà nhỏ ba

gian ở đầu đằng kia khu vườn.

Người hầu gái khai rằng, sáng nay, trong khoảng từ 11 đến 12 giờ, bà đang treo những

tấm màn trong căn phòng ở trên cao, mé trước nhà. Giáo sư còn ngủ. Bà quản gia thì đang

bận rộn tận cuối căn nhà. Willoughby Smith đã đi tới phòng ngủ mà anh dùng như là văn

phòng riêng. Nhưng bà ta lại nghe tiếng bước chân anh đi ra, bước dọc theo hành lang và đi

xuống văn phòng ở ngay mé dưới, nơi bà đang làm việc. Bà không trông thấy anh, không

nghe thấy tiếng cánh cửa văn phòng đóng lại, nhưng ít lâu sau, một tiếng kêu kinh hoàng đã

vang lên trong căn phòng phía dưới. Một tiếng thét chói tai và quá khác thường khiến cho

bà không phân biệt được là tiếng của đàn ông hay đàn bà. Cùng lúc đó có tiếng té ngã vang

lên, làm rung chuyển cả ngôi nhà, rồi sau đó hoàn toàn im lặng. Bà ta sững người, nhưng

sau đó lấy lại can đảm và chạy xuống nhà dưới. Cánh cửa văn phòng đóng kín. Bà mở ra.

Anh chàng Willoughby Smith nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên bà không thấy một vết

thương nào; nhưng khi bà thử đỡ ông lên thì có máu chảy ở dưới cổ. Vết thương thật nhỏ

nhưng cái động mạch nhánh đã bị cắt đứt. Hung khí là một con dao nhíp loại nhỏ, dùng để

cắt xi gắn niêm phong, một loại dùi mà thỉnh thoảng người ta còn bắt gặp trong những căn

phòng cổ xưa có cán bằng ngà và một cái lưỡi sắc. Nó là một trong những vật dụng văn

phòng của giáo sư. Thoạt đầu bà ta tưởng Willoughby Smith đã chết, nhưng khi bà lấy nước

300

trong một cái bình rưới lên đầu anh thì anh mở mắt ra; anh thì thào: "Giáo sư! Chính là bà ta

đó!". Nói xong, anh chết. Bà hầu phòng quả quyết rằng chính tai bà nghe rõ câu nói đó.

Giữa lúc ấy, bà quản gia cũng tới nơi xảy ra tội ác. Bà này đã để người hầu gái ở lại bên

cạnh xác chết và bà vội vàng chạy lên phòng ông chủ để báo tin. Ông giáo sư đang ở trong

phòng, ngồi dậy, bị dao động một cách khủng khiếp. Bà Marker làm chứng rằng giáo sư vẫn

còn mặc quần áo ngủ và ông không thể mặc quần áo được, nếu không có sự phụ giúp của

người làm vườn. Ông giáo sư khai rằng ông đã nghe thấy tiếng kêu, nhưng ông không biết

gì khác. Ông không thể nào giải thích được những lời nói sau cùng của người thư ký trẻ:

"Giáo sư! Chính là bà ta đó!". Ông cho rằng đó là do tác dụng của sự mê sảng. Ông tin rằng

chàng thanh niên không có kẻ thù nào. Giáo sư phái người làm vườn đi trình cảnh sát địa

phương.

Một lát sau, viên cảnh sát trưởng đã triệu tôi tới. Không có cái gì bị dời chỗ. Những mệnh

lệnh nghiêm ngặt đã được ban ra để không cho một ai đi lại trên những lối đi trong vườn

dẫn tới nhà. Thưa ông Holmes, đây là cơ hội mơ ước để ông đem ứng dụng những lý thuyết

của ông, nó tuyệt đối không thiếu một thứ gì...

- Chỉ thiếu có ông Sherlock Holmes. - Bạn tôi nói trong một nụ cười gần có phần chua

chát - Được, chúng tôi xin nghe phần tiếp theo. Vậy anh đã làm gì?

- Trước hết, tôi mong ông liếc qua cái sơ đồ này.

Anh ta mở bản phác họa và trải nó ra trên đầu gối Holmes. Tôi đứng lên và quan sát nó

qua bạn tôi.

- Nó rất sơ sài. Sau này ông sẽ tự mắt quan sát phần còn lại. Giờ đây, điểm thứ nhất: Nếu

kẻ sát nhân đã vào trong nhà, thì y đi qua lối nào? Chắc là đi qua lối vào trong vườn (A) và

qua cánh cửa dành cho người giúp việc (B), từ đó đi thẳng tới văn phòng (C). Tất cả mọi

ngả đường khác đều đưa ra những khó khăn lớn. Lối y bỏ trốn cũng được thực hiện qua ngả

đó, bởi vì trên hai lối ra khác của căn phòng, một bị chặn bởi Susan đang chạy tới (D) và lối

kia dẫn thẳng vào phòng của giáo sư (E). Vậy là tôi chú tâm vào lối đi trong vườn, bị làm

nhão bởi một cơn mưa. Tôi không tìm thấy một dấu chân nào trên lối đi. Ngược lại, có ai đó

đã men theo lối đi bằng cách bước trên cỏ khiến cho không để lại những dấu vết. Tôi đã

không thế tìm ra một dấu chân rõ ràng nào, nhưng cỏ bị rạp xuống: hẳn là cỏ bị bàn chân

của kẻ sát nhân đạp lên, bởi vì người làm vườn cũng như hai bà già kia, không ai đi dạo

trong vườn vào buổi sáng và còn ban đêm thì trời đã đổ mưa.

- Lối đi này dẫn tới đâu? - Holmes hỏi.

- Tới con đường.

- Chiều dài là bao nhiêu?

- Gần 100 yard.

- Ở cái chỗ mà lối đi đụng vào hàng rào, ắt hẳn anh thu thập được những dấu vết?

- Ở đó, lối đi lại được lát đá.

- Thế còn trên con đường, phía bên kia hàng rào?

- Đúng là một vũng bùn.

301

- Tốt. Hãy trở lại với những dấu vết trên cỏ: chúng đi về hướng nào?

- Không thể nói được. Không có những đường viền.

- Một bàn chân lớn hay một bàn chân nhỏ?

- Không thể nào xác định được!

Holmes thở dài, mất kiên nhẫn:

- Vấn đề này còn khó hiểu hơn là đọc trên miếng da cừu! Thế rồi, anh đã làm gì?

- Tôi biết chắc là có một ai đó từ bên ngoài đã vào trong nhà. Sau đó tôi quan sát cái hành

lang (F) có lót một tấm lác đan bằng sợi dừa: không một dấu vết nào. Cuộc khám xét đó đã

đưa tôi vào ngay trong căn phòng. Đồ đạc chính là một cái bàn lớn đặt trên hai chồng ngăn

kéo được nói liền với nhau bằng một thứ như tủ buýp-phê. Các ngăn kéo đều mở, cái tủ

buýp-phê bi khoá. Dường như những ngăn kéo không bao giờ đóng lại và chúng không

chứa những đồ vật đáng giá nào. Trong tủ buýp-phê có vài tờ giấy quan trọng, nhưng dường

như người ta đã không đụng tới và ông giáo sư khai với tôi là không một giấy tờ nào bị mất

cả. Chắc chắn là không có vụ trộm nào xảy ra. Thi hài của chàng trai gần bên cái tủ. Vết

thương ở bên tay phải gần cổ và trổ từ sau ra trước; khó mà kết luận rằng đây là một vụ tự

tử.

- Ngoại trừ trường hợp mà anh ta bị ngã xuống trúng con dao. - Holmes nói.

- Rất đúng! Nhưng chúng tôi lại tìm thấy con dao ở cách thi hài khá xa, vậy là giả thiết đó

không đứng vững. Vả lại còn có những lời trăn trối của nạn nhân. Và sau chót, đây là bằng

chứng rất quan trọng mà người chết đã nắm chắc trong bàn tay phải co quắp lại.

Stanley Hopkins rút từ trong túi ra một cái hộp nhỏ. Anh ta mở rộng tờ giấy và trưng ra

một cái kính kẹp mũi bằng vàng với hai mẩu dây bằng lụa đen đang đong đưa. Anh nói

thêm:

- Willoughby Smith có một thị lực hoàn hảo! Vậy cái kính kẹp mũi này đã được giật ra từ

trên mặt hoặc trên người của kẻ sát nhân.

Holmes cầm lấy và quan sát nó chăm chú. Anh đặt kính lên mũi, thử đọc, đi tới bên cửa

sổ và nhìn xuống đường phố, đoạn anh gỡ nó ra và đặt dưới ánh đèn. Sau cùng, anh bật ra

một tiếng cười nhỏ, đến ngồi vào bàn và viết vài hàng trên một tờ giấy rồi dưa cho Stanley

Hopkins.

- Đây là cái mà tôi có thể làm cho anh. Chúng ta sẽ thấy là nó có ích hay không.

Viên thanh tra ngạc nhiên, cất cao giọng, đọc tờ giấy:

"Người ta tìm kiếm một bà có dáng vẻ lịch thiệp, ăn vận thanh lịch. Bà có cái mũi dày

một cách dị thường và hai mắt ở sát gần hai bên mũi. Bà có vầng trán nhăn, hai bờ vai đã

còng. Chắc chắn là trong những tháng gần đây bà đã đến hiệu kính ít nhất hai lần. Vì những

tiệm kính không nhiều lắm, ắt hẳn không khó khăn gì dể tìm ra dấu vết của bà".

Holmes cười trước cái vẻ ngơ ngác của Hopkins. Anh nói:

- Cặp kính kẹp mũi rất dễ cho ta suy diễn. Về việc cái kính là của một phụ nữ, tôi suy

diễn từ sự mảnh dẻ của cái kính và từ những lời nói sau cùng của nạn nhân. Về điều dáng vẻ

thanh tao và lịch thiệp: cái kính này làm bằng vàng, cho thấy chủ nó giầu sang, tất nhiên bà

302

phải ăn mặc thanh lịch. Hai cái kẹp của kính quá rộng, chứng tỏ rằng cái mũi của bà này rất

nở ở dưới đáy. Tôi có một khuôn mặt hẹp, dài, ấy thế mà tôi không thể nhìn vào chính giữa

hoặc gần trung tâm những tròng mắt này. Vậy thì đôi mắt của bà ta được đặt sát bên sống

mũi. Một phụ nữ mà thị lực đã bị suy giảm đến như thế suốt đời, thì chắc chắn có chăng nét

đặc trưng về cơ thể hợp với thị lực đó, như là một vầng trán nhăn, và những bờ vai bị còng.

- Đúng! Tôi theo dõi rất sát những suy diễn của anh, ngoại trừ một điều: làm thế nào mà

anh biết bà ta đã hai lần đi tới tiệm kính? - Tôi hỏi.

Holmes cầm cặp kính kẹp mũi trong bàn tay.

- Những cái kẹp được viền bằng những vòng nhỏ xíu bằng bần, ngõ hầu làm dịu sức ép

trên mũi. Một trong những cái vòng đó bị phai mầu và hơi cũ, nhưng cái kia thì mới. Vậy là

một cái đã bị rơi và bà đã thay cái khác. Theo ý tôi, cái vòng cũ hơn cũng không lâu tới quá

vài ba tháng. Và bởi chúng giống y như nhau, tôi suy luận ra rằng bà đó đã trở lại lần thứ

hai ở cùng một nơi.

- Ông thật tuyệt vời! - Hopkins kêu lên, miệng há hốc vì khâm phục - Tôi có trong tay tất

cả những sự hiển nhiên đó mà tôi chẳng hề suy luận ra một điều nhỏ.

- Bạn thân mến, bạn còn có điều gì khác để nói với chúng tôi không?

- Không. Ông cũng đã biết như tôi... Và có thể còn nhiều hơn tôi nữa. Chúng tôi đã điều

tra về sự có mặt có thể có của một người đàn ông hoặc một người đàn bà xa lạ; hoặc ở trên

con đường, hoặc ở tại nhà ga: không có kết quả! Điều làm tôi băn khoăn là sự thiếu những

động cơ gây ra tội ác.

- À! Chỗ đó, tôi không có khả năng giúp được anh. Nhưng ngày mai, chúng ta gặp nhau

tại hiện trường, được không?

- Ta tới Yoxley Old Place từ 8 đến 9 giờ.

- Chúng ta sẽ đáp chuyến tàu đó. Này, Hopkins, cũng gần một giờ sáng rồi. Cái trường kỷ

kê trước lò sưởi thuộc quyền sử dụng của anh đó.

Sáng hôm sau chúng tôi xuống tàu ở một ga xép cách Chatham vài cây số. Thời gian

thắng một con ngựa vào đôi càng xe độc mã đủ để chúng tôi quất một bữa điểm tâm xoàng

xĩnh. Khi tới Yoxley Old Place chúng tôi làm việc ngay. Một cảnh sát viên đón chúng tôi ở

hàng rào quanh vườn.

- Thế nào, có gì mới không Wilson?

- Không, thưa ông.

- Người ta vẫn chưa báo gì về một người lạ trong xứ à?

- Không, thưa ông. Ở dưới ga, họ tin chắc là không có một người lạ nào đã tới hoặc đã đi.

- Anh đã điều tra trong các quán ăn và các nhà trọ?

- Tất cả mọi người đều theo đúng luật lệ với những lý do vắng mặt đều chấp nhận được

và đã kiểm tra.

- Từ đây đi Chatham không xa lắm. Bất cứ ai cũng có thể xuống đó và đáp tàu mà chẳng

bị ai để ý tới... Đây là lối đi trong vườn mà tôi đã nói với ông, thưa ông Holmes

- Ở phía nào có những dấu vết ở trên cỏ?

303

- Qua đây! Trong cái dải chật hẹp giữa lối đi và những khoảng đất trồng hoa trong vườn.

- Đúng, đúng! Có một ai đó đã đi qua ngả này. Người đàn bà xa lạ của chúng ta hẳn đã

bước đi rất thận trọng, bởi vì phía này bà hẳn để lại một dấu vết trên lối đi và trên phía bên

kia một dấu vết còn rõ hơn nữa, trên khoảng đất trồng hoa thật mềm, phải không?

- Bà ta phải là người điềm tĩnh một cách khác thường.

Bất thình lình Holmes tập trung tư tưởng.

- Anh nói là bà ta đã đi ra qua ngả này?

- Vâng, không có một lối đi nào khác.

- Trên cái dải cỏ này à?

- Chắc chắn rồi.

- Hừm! Vậy đúng là một kỳ tích rất đáng chú ý... Rất đáng chú ý! Thôi! Chúng ta hãy đi

xa hơn. Cái cánh cửa vườn này thường được mở rộng, tôi đoán thế. Vậy là bà khách chỉ có

việc vào. Vì nghĩ về một vụ ám sát không có trong đầu bà ta; nếu không, thì bà đã mang

theo một vũ khí nào đó thay vì sử dụng con dao nhíp trên bàn giấy. Bà ta đã đi trong hành

lang, không để lại dấu vết khi đi qua trên cái chiếu dệt bằng sợi dừa. Rồi thì bà ta tới trong

văn phòng này... Bà ta đã ở nơi đây bao lâu?

- Chừng 15 phút thôi. Bà Marker khẳng định như vậy.

- Người đàn bà xa lạ đi vào trong văn phòng này và làm gì? Bà ta đi tới cái tủ. Tại sao?

Không phải để tìm một cái gì đó trong những ngăn kéo. Nếu trong ngăn kéo mà có một cái

gì quan trọng thì ắt hẳn chúng đã được khóa lại. Không, bà ta đã tìm một cái gì đó trong tủ

buýp-phê bằng gỗ này. Coi này, thế còn cái vết xước này, đây này. Này Watson, hãy đánh

cho tôi một que diêm. Tại sao anh lại không nói với tôi về cái vết xước này, Hopkins?

Cái vết mà Holmes quan sát bắt đầu từ mặt đồng hồ bên mé phải có khóa và nó kéo dài

khoảng 4 inch trên nước véc-ni.

- Tôi đã thấy nó. Nhưng luôn luôn chúng ta thấy chung quanh một có khóa có những vết

xước giống như vết này.

- Vết này hoàn toàn mới... Rất mới. Anh hãy nhìn xem chỗ bị cào xước này, màu đồng

mới bóng làm sao. Một vết xước cũ hẳn đã lấy lại màu của mặt có khóa. Hãy dùng kính lúp

của tôi mà coi. Chúng ta nhận thấy lớp véc-ni ở chỗ này, giống như đất ở mỗi bên của một

luống cày. Bà Marker có ở đây không nhỉ?

Một bà đứng tuổi, có nét mặt ủ ê, bước vào.

- Sáng hôm qua bà có quét bụi cái bàn giấy này không?

- Có.

- Bà có để ý thấy cái vết xước này không?

- Không, tôi không thấy nó.

- Ai giữ chìa khoá tủ này?

- Ông giáo sư gắn nó trong sợi dây đeo đồng hồ của ông.

- Đó có phải là một cái chìa thông thường không?

- Không, chìa khóa hiệu Chubb.

304

- Tốt lắm bà Marker, bà có thể về. Thế là chúng ta đã tiến được chút đỉnh. Người nữ

khách của chúng ta vào trong phòng, tiến lại gần bàn giấy, và mở ra hoặc thử tìm cách mở

tủ ra. Trong lúc vội vã rút cái chìa khoá ra, bà đã gây nên vết xước trên cánh cửa.

Willoughby Smith tóm lấy bà, nhưng bà quơ lấy món đồ đầu tiên nằm trong tầm tay, tình cờ

lại là con dao nhíp, và đâm vào anh ta để anh buông bà ra. Không ngờ cú đâm lại làm chết

người. Willoughby Smith gục xuống và bà bỏ trốn: có thể bà đã lấy được món đồ hoặc chưa

lấy được. Thế còn bà hầu phòng Susan có ở đấy không? Bà Susan ơi, có thể nào có ai đó lại

có thể ra khỏi cửa này sau khi bà đã nghe thấy tiếng kêu không?

- Không thể nào được. Khi họ xuống cầu thang, tôi ắt hẳn đã trông thấy ai đó trong hành

lang. Hơn nữa, người ta đã không mở cửa ra, nếu mở cửa ra thì tôi đã nghe thấy rồi.

- Thế là giải quyết dứt một điểm. Không còn nghi ngờ chút nào về việc người đàn bà đó

đã bỏ đi bằng cùng một con đường mà bà ta đã vào. Cánh cửa dẫn thẳng tới phòng của giáo

sư à? Không có lối nào qua ngả phòng của giáo sư sao?

- Không, thưa ông.

- Vậy thì chúng ta hãy theo lối đó và tới làm quen với ông giáo sư. Ồ, Hopkins! Đây là

điều rất quan trọng: Hành lang dẫn vào phòng giáo sư cũng được trải chiếu đan bằng sợi

dừa phải không?

- Phải, nhưng có gì là quan trọng.

- Tôi thấy chi tiết đó rất là đáng chú ý. Anh hãy vào và giới thiệu tôi.

Đằng cuối của dãy hành lang có vài bậc thềm dẫn đến một cánh cửa. Người hướng dẫn

chúng tôi gõ cửa, rồi chúng tôi đẩy nhau vào trong phòng của ông giáo sư.

Đây là một căn phòng rất lớn, sách chất đầy trên các kệ và nằm chồng đống trong tất cả

mọi xó góc, hoặc xếp chồng dưới những tầng giá dọc theo căn phòng. Cái giường kê chính

giữa. Chủ nhà ngồi dựa lên những cái gối. Một bộ mặt trơ xương, nhìn nghiêng như chim

đại bàng hướng về chúng tôi, cặp mắt đen sắc sảo nép mình trong những hốc mắt sâu và

được che chở bởi đôi lông mày rậm sệ xuống. Mái tóc và bộ râu ông đều bạc phơ như tuyết,

chỉ khác là râu chung quanh miệng bị vàng khè một cách kỳ lạ. Một điếu thuốc lá đang tàn

dần giữa cái mớ lông trắng đó và không khí trong phòng thật ngột ngạt vì khói thuốc. Ông

chìa một bàn tay ra bắt tay Holmes: những ngón tay ông cũng bám đầy chất nicotine.

- Ông hút thuốc chứ, thưa ông Holmes? - ông nói bằng một thứ tiếng Anh không chê vào

đâu được dẫu rằng có ẩn tàng một âm tiết xa lạ - Tôi xin mời ông hút một điếu. Còn ông,

thưa ông? Thuốc hút và công việc, đó là tất cả những gì còn nơi tôi.

Holmes đã mồi điếu thuốc và anh ném những tia nhìn lén qua khắp căn phòng.

- Thuốc hút và công việc của tôi, nhưng giờ đây chỉ còn lại có thuốc hút. Than ôi, sự đứt

đoạn mới nguy hại làm sao! Nào ai có thể ngờ một tai họa như vậy? Một thanh niên xứng

đáng được quý mến đến thế! Tôi đoán chắc với ông là chỉ sau vài tháng khởi công, anh ấy

đã trở thành một cộng sự viên đáng phục. Ông nghĩ sao về chuyện này, thưa ông Holmes?

- Tôi chưa nghĩ gì.

305

- Tôi sẽ mang ơn ông rất nhiều, nếu như ông làm sáng tỏ được vụ này. Với một người tàn

phế ham chuộng sách như tôi, vụ này làm tôi bị tê liệt luôn: tôi tin rằng tôi đã bị mất ngay

cả đến năng lực suy nghĩ. Nhưng ông là chuyên gia phá án những vụ bí mật, ông có khả

năng giữ được thế quân bình trong bất kỳ tình huống nào. Chúng tôi thật may mắn có ông ở

gần bên!

Trong lúc ông giáo sư nói, Holmes đi đi lại trong một phần căn phòng. Tôi nhận thấy anh

hút thuốc nhanh chóng khác thường.

- Đây là một vố quá nặng nề! - ông nói tiếp - Đây là tác phẩm lớn của đời tôi, cái chồng

giấy mà ông trông thấy xếp trên mặt bàn cạnh đó, tôi đã phân tích những tài liệu tìm thấy

trong các tu viện giáo phái Coptic ở Syrie và ở Ai Cập; tác phẩm của tôi sẽ làm đảo lộn các

nền móng của tôn giáo đã được phát hiện. Giờ đây, xét vì sức khoẻ suy nhược và sự mất

mát người cộng sự, tôi tự hỏi không biết rồi ra tôi có thể hoàn tất được nó hay chăng. Chúa

ơi, ông Holmes, thế là ông hút thuốc còn nhiều hơn tôi nữa?

- Tôi là một người sành điệu! - Holmes nói, khi lấy một điếu thuốc thứ tư trong hộp và

nối vào cái mẩu còn cháy của điếu thuốc trước - Thưa giáo sư, tôi tin rằng vào giờ xảy ra tội

ác, ông đang nằm trên giường và rằng ông không biết gì cả. Tôi chỉ muốn nêu ra với ông

một câu hỏi: theo ý ông, người thanh niên đã muốn nói gì trước khi trút hơi thở cuối cùng

qua câu: Giáo sư... Chính là bà ta đó.

Ông giáo sư lắc đầu.

- Susan là một người đàn bà quê mùa và ông thừa biết sự ngốc nghếch của loại người đó.

Tôi nghĩ rằng trong cơn mê sảng, anh chàng tội nghiệp đã thì thầm vài từ rời rạc và rằng chị

ta đã dựa vào đó mà tạo ra một câu chẳng có ý nghĩa gì cả.

- Ông không có một lời giải thích riêng tư nào để đề xuất với chúng tôi hay sao?

- Có thể là một tai nạn. Có thể là... Có thể là một vụ tự tử. Mấy người trẻ tuổi giữ kín

những mối lo âu và những nỗi khổ đau của họ... Một chuyện yêu đương lỡ làng.

- Nhưng còn cặp kính kẹp mũi?

- A! Tôi chỉ là một nhà trí thức. Một người chỉ biết nghiên cứu và mơ mộng. Tôi không

có khả năng giải thích những sự việc thực tiễn của đời sống. Nhưng ít ra chúng ta cũng biết

rõ rằng những bằng chứng của tình yêu có thể có những hiện tượng bề ngoài thật lạ lùng.

Dù thế nào đi nữa, xin ông hãy dùng thêm điếu thuốc nữa. Thật là thích thú khi gặp người

biết thưởng thức chúng đến thế. Một cây quạt, một đôi găng tay, cặp kính đeo mắt... Ai biết

được là một người sắp chấm dứt cuộc sống ràng buộc cho món đồ nào một giá trị tượng

trưng? Ông đây đã xác nhận với tôi là có những dấu chân trên cỏ: dù sao, trên một chi tiết

tương tự, một sự nhầm lẫn luôn luôn là điều có thể xảy ra! Còn về con dao nhíp, nó có thể

bị kẻ bất hạnh ném đi, khi anh ta ngã xuống. Có thể là các ông thấy tôi là ấu trĩ, nhưng cứ

theo tôi thấy, thì Willoughby Smith đã tự sát.

Holmes dường như bị ngạc nhiên về cái lý thuyết mà anh vừa nghe. Anh tiếp tục sải bước

trong gian phòng, vừa suy nghĩ vừa hút hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Sau cùng,

anh nói:

306

- Thưa giáo sư, xin cho tôi biết ông cất giữ cái gì trong phần chính giữa bàn giấy ông?

- Chẳng có gì có thể gợi lòng tham của kẻ trộm. Những giấy tờ của gia đình, những lá thư

của bà vợ... Những bằng cấp mà nhiều viện Đại học đã trao tặng cho tôi. Đây là chìa khoá,

ông hãy tự mình xem lấy.

Holmes đón lấy cái chìa khoá và quan sát nó trong một lát. Đoạn anh giao trả cho người

giữ.

- Không! Tôi không tin là nó có thể giúp ích cho tôi được điều gì nhiều. Tôi ưa thích

được xuống dưới vườn một cách bình thản để suy nghĩ về tất cả nội vụ, ngõ hầu có thể rút

ra được một điều gì từ cái lý thuyết về sự tự sát mà ông đã triển khai. Tới hai giờ trưa,

chúng tôi sẽ quay lại và chúng tôi sẽ tường trình với ông về tất cả những gì có thể xảy ra.

Holmes tập trung tư tưởng một cách lạ lùng. Chúng tôi im lặng đi bách bộ trong vườn, rồi

thì tôi không thể ngăn mình hỏi xem anh có một hướng điều tra nào không.

- Cái đó tuỳ thuộc vào những điếu thuốc lá mà tôi vừa hút. Có thể là tôi bị lầm.

- Làm thế nào mà...?

- Rồi anh sẽ thấy. Nếu tôi bị lầm thì cũng chẳng có gì là tai hại lắm. Đương nhiên, chúng

ta vẫn còn cái hướng tiệm kính, nhưng tôi theo những hướng đi tắt, mỗi khi tôi thấy có con

đường đó. A! Đây là bà Marker tốt bụng Chúng ta hãy nói chuyện với bà.

Không đầy hai phút, anh đã chinh phục được người đàn bà này, anh tán chuyện với bà cứ

y như anh đã quen biết bà từ nhiều năm qua.

- Vâng, đúng như ông nói đó. Cụ chủ hút thuốc thật là kinh khủng Suốt ngày và đôi khi

suốt đêm. Buổi sáng, tôi đã thấy phòng cụ... Tội nghiệp ông Smith đáng thương, ông cũng

là một người hay hút thuốc nhưng không hút nhiều như giáo sư. Sức khoẻ của cụ.... Nói

thật, tôi không biết là cụ khoẻ hay yếu hơn!

- Nhưng hút thuốc nhiều thì đâu còn ăn ngon miệng được?

- Vậy thì tôi chẳng hiểu gì hết.

- Tôi đoán chừng rằng ông giáo sư ăn ít?

- Ồ, cái đó cũng còn tùy?

- Tôi cam đoan là sáng nay cụ đã không dùng bữa điểm tâm và cụ cũng chẳng ăn thật thà

trong bữa, sau những điếu thuốc mà tôi thấy cụ đã hút.

- Ông bị lầm rồi! Sáng nay, cụ đã ăn rất nhiều, cụ dặn bữa trưa dọn một dĩa lớn món sườn

non! Tôi là người đầu tiên ngạc nhiên, bởi vì kể từ hôm qua, sau lúc tôi trông thấy ông

Smith nằm sóng soài trên đất, thì tôi không đụng tới bất cứ nón ăn nào. Úi cha, thế gian phải

có người thế này người thế khác chứ, đúng vậy không? Cho nên cụ giáo sư đã không vì thế

mà ăn mất ngon.

Suốt buổi sáng, chúng tôi đi thơ thẩn trong vườn. Stanley Hopkins xuống dưới làng để

kiểm tra một lời đồn đại về một người đàn bà lạ mặt mà sáng nay lũ trẻ đã trông thấy trên

con đường từ Chatham tới. Về phần Holmes, tôi chưa bao giờ thấy anh thờ ơ trước một vụ

như vụ này. Ngay cả cái tin mà Hopkins đem về cho biết rằng cảnh sát đã thẩm vấn những

đứa trẻ và rằng mấy em đó đã trông thấy một người đàn bà có nhận dạng giống hệt với

307

người mà Holmes đã miêu tả, cũng không lôi anh ra khỏi sự lãnh đạm. Ngược lại, anh dỏng

tai lên nghe bà Susan, trong lúc hầu bàn, báo cho anh biết rằng buổi sáng trước ông Smith

đã đi ra khỏi nhà và chỉ trở về chừng nửa tiếng đồng hồ trước khi xảy ra thảm trạng. Bất

thình anh, Holmes đứng lên và xem đồng hồ, rồi nói:

- Hai giờ rồi! Chúng ta phải lên gặp giáo sư.

Ông già vừa dùng xong bữa trưa và cái đĩa đựng thức ăn trống trơn, chứng tỏ sự ngon

miệng mà bà Marker đã ghi nhận. Điếu thuốc lá đang phì phèo trong miệng ông. Ông đã

thay quần áo và ngồi trong ghế bành ở một góc bên ngọn lửa.

- Thế nào, ông Holmes, ông đã làm sáng tỏ được sự bí ẩn được chưa?

Ông đẩy cái hộp thuốc lá lại phía Holmes. Cùng lúc đó, Holmes cũng duỗi tay ra. Hai tay

của hai người đã làm đổ tung cái hộp. Trong một lúc lâu, tất cả chúng tôi đều quỳ xuống đất

để nhặt những điếu thuốc lá đã văng vào trong những xó góc rất khó tìm. Khi đứng lên, tôi

thấy đôi mắt Holmes long lanh và cặp má anh đã hồng lên: anh đang giương ra lá cờ quyết

đấu. Anh trả lời câu hỏi của ông chủ nhà:

- Có, tôi đã làm sáng tỏ được điều bí ẩn.

Stanley Hopkins và tôi chăm chú nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Trên những nét khổ hạnh

của ông giáo sư có thoáng qua một cái gì như một nét cười ngạo.

- Đúng vậy ư? Trong vườn à?

- Không, ở đây.

- Ở đây? Bao giờ?

- Ngay lúc này!

- Chắc chắn là ông đang đùa cợt rồi, vụ này quá nghiêm trọng, nên không hợp với sự đùa

cợt.

- Tôi đã rèn và đã thử từng mắt một trong sợi xích của tôi, thưa giáo sư; và tôi tin chắc

rằng sợi xích đó vững chắc. Vì động cơ nào mà giáo sư tuân theo, hoặc giáo sư thủ một vai

trò nào trong tấn thảm kịch này, thì tôi chưa có khả năng để nói rõ. Trong vài phút nữa, chắc

chắn là tôi sẽ được chính miệng giáo sư nói ra. Trong khí chờ đợi, tôi sẽ lặp lại những sự

việc theo ý giáo sư, để giáo sư biết là tôi còn cần được chỉ bảo thêm điều nào.

Ngày hôm qua, một người đàn bà đã vào trong văn phòng giáo sư, Bà ấy đã tới với ý định

lấy một số tài liệu ở trong bàn giấy. Bà ấy có một chìa khoá riêng. Cái chìa khoá của giáo sư

không phải là chiếc chìa khóa dã tạo ra một vết xước trên mặt đánh véc-ni của ổ khóa. Vậy

giáo sư không phải là một tòng phạm. Bà nọ đã tới để đánh cắp tài liệu của ông và ông

không hay biết gì về những ý định của bà ta.

Ông giáo sư thả khỏi cặp môi một đám mây khói thật dày:

- Điều đó cũng là lý thú như là bổ ích! Ông không có gì để thêm vào sao? Bởi vì ông đã

theo dõi người đàn bà tới đó, ông có thể nào cho chúng tôi biết là bà ta đã ra sao không?

- Thoạt đầu, bà ta bị người thư ký của ông tóm bắt và bà ta đã đâm anh ta để bỏ trốn. Tôi

nghiêng về việc coi cái thảm hoạ này như một việc rủi ro, bởi vì tôi tin chắc rằng người đàn

bà này không có ý định gây ra một vết thương trầm trọng đến thế. Nếu là kẻ sát nhân thì họ

308

phải có khí giới. Kinh hoàng về việc mà bà đã làm, bà bỏ trốn như một người điên. Nhưng

trong lúc giành giật, bà ta bị mất cái kính kẹp mũi. Vì bị cận thị quá nặng, bà đã đi lầm

đường. Bà đi theo một hành lang mà cứ tưởng rằng đó là hành lang đã đưa bà vào đây. Cả

hai hành lang đều được lót chiếu đan bằng sợi dừa. Và khi bà nhận ra sự sai lầm thì đã quá

muộn và bà hiểu rằng lối rút lui của bà đã bị chặn. Bà không thể quay gót trở lại. Bà cũng

không thể đứng mãi một chỗ. Bà phải tiếp tục tiến lên phía trước, tiến lên trong hành lang,

leo lên một cầu thang đẩy một cánh cửa ra: bà thấy mình lọt vào trong phòng ông.

Ông già miệng há hốc nhìn Holmes. Sự sửng sốt và sự sợ hãi trộn lẫn trên gương mặt.

ông cố gắng buông ra một tràng cười lớn và nhún vai.

- Hoàn hảo, thưa ông thầy bói! Nhưng rất lấy làm tiếc, bên trong cái "mu rùa" của ông có

một khuyết tật nhỏ: tôi ở trong phòng này suốt cả ngày.

- Tôi biết điều đó, thưa giáo sư. - Holmes đáp.

- Và ông muốn hỏi vì sao tôi nằm ở đây mà không nhận thấy người đàn bà đã bước vào

phòng tôi?

- Giáo sư đã nói chuyện với người đàn bà đó. Ngài đã nhận ra bà ta. Ngài đã giúp bà ta ẩn

mặt.

Lần nữa, ông giáo sư lại phá ra cười. Ông đã đứng hẳn lên. Đôi mắt lấp lánh như hai cục

than hồng, kêu lớn lên:

- Ông Sherlock Holmes, ông điên rồi! Ông nói toàn những điều tầm bậy tầm bạ! Tôi mà

lại giúp cho bà ta trốn thoát ư? Thế thì bây giờ bà ta ở đâu?

- Bà ấy ở đây này! - Holmes nói, tay chỉ vào một tủ sách cao kê trong một góc phòng.

Tôi thấy ông già giơ hai cánh tay lên. Một sự co giật kinh khủng làm cho mặt ông ta biến

dạng. Ông buông mình xuống ghế bành. Cùng lúc đó, cái tủ sách mở tung và một người đàn

bà từ bên trong vọt ra.

- Ông đã có lý! - Bà ta kêu lên với một âm tiết xa lạ - Ông đã nói đúng! Tôi đây!

Mặt bà dơ dáy. Nhưng, trông bà ta có một cái gì đó nó toát lên sự kính trọng và sự cảm

phục! Stanley Hopkins đã đặt một bàn tay lên cánh tay bà ta và bắt giữ bà, nhưng bà gạt anh

ta ra một cách nhẹ nhàng với vẻ mặt nghiêm khắc khác thường. Ông già ngồi khuỵu xuống

trong ghế bành, nhìn bà với đôi mắt tuyệt vọng. Bà già nói:

- Thưa ông, tôi là tù nhân của ông! Từ chỗ ẩn nấp, tôi đã nghe tất cả và tôi biết là quý ông

đã hiểu được sự thật. Chính tôi đã giết chàng trai đó. Nhưng như ông đã nói, đó là do rủi ro.

Tôi còn không biết là trong tay mình có một con dao, bởi vì trong lúc tuyệt vọng, tôi đã

chốp lấy vật đầu tiên mà tôi thấy trên bàn.

- Thưa bà, tôi tin chắc sự việc là như vậy. Tôi thấy bà không được khoẻ trong người.

Bà ta đã tái xanh, dưới lớp bụi bặm, mặt bà trắng bệch. Bà ngồi xuống trên mép giường,

trở lại bình tĩnh:

- Tôi chỉ còn có một chút thời gian. Nhưng tôi muốn cho quý ông biết rõ sự thật. Tôi là

vợ của người đàn ông này. Ông ta không phải là người Anh. Ông ta là người Nga. Nhưng

tôi sẽ không nói tên ông ta.

309

Lần đầu tiên ông già cựa quậy, kêu lên:

- Chúa sẽ ban phước lành cho em, Anna!

Bà nhìn ông, khinh bỉ:

- Tại sao phải bám víu cuộc đời khốn khổ hả Sergey. Nó đã làm hại những người tốt, chứ

đâu chỉ riêng ông? Tôi không làm thay đổi được gì, nhưng tôi đã có được sự thanh thản khi

tôi bắt đầu bước quá ngưỡng cửa của cái nhà đáng ghét này. Nhưng tôi sẽ nói hoặc sẽ là quá

muộn. Tôi chính là vợ của người đàn ông này. Khi chúng tôi lấy nhau, ông ta đã 50 tuổi,

còn tôi là một thiếu nữ xuẩn ngốc. Chuyện đó xảy ra bên nước Nga, trong một trường đại

học... Mà tôi sẽ không nêu tên ra!

- Chúa ban phước lành cho em, Anna! - Lão già lặp lại trong một tiếng thì thầm.

- Lúc đó, chúng tôi là những nhà cách mạng: ông ấy, tôi và nhiều người khác nữa. Khi

một sĩ quan cảnh sát đã bị giết chết thì liền đó có nhiều vụ bắt bớ. Để cứu mạng mình và để

lĩnh một món tiền thưởng lớn, chồng tôi đã phản bội ngay chính vợ mình và các đồng chí

của mình. Vậy là tất cả chúng tôi đã bị bắt theo sự chỉ điểm của chồng tôi. Một vài người

trong chúng tôi bị đưa lên đoạn đầu đài và nhiều người khác bị đày sang Sibérie. Tôi ở trong

đám những người đó, nhưng tôi không bị tù chung thân. Chồng tôi tới định cư tại nước Anh

với số tiền dơ bẩn. Nhưng ông ta biết rõ rằng nếu tổ chức của chúng tôi biết nơi cư trú của

ông thì công lý sẽ được thực thi ngay.

Ông lão vươn tay ra, rút lấy một điếu thuốc:

- Em tùy ý sử dụng số phận đời anh đó, Anna! Em luôn luôn tốt với anh mà!

- Trong số các đồng chí thuộc tổ chức, có một người đã từng là bạn trai tôi. Anh ấy cao

thượng, vô tư và gắn bó: tất cả những cái mà chồng tôi không được như thế. Anh ấy ghét bỏ

bạo lực. Anh ấy đã viết thư cho tôi để thuyết phục tôi đứng về "phe ôn hòa". Chồng tôi đánh

cắp lấy những lá thư của anh ấy và cuốn sổ nhật ký của tôi.ông đã đem giấu chúng đi, tìm

cách làm cho chàng trai đó bị xử bắn. Nhưng Alexey chỉ bị lưu đầy sang Sibérie, hiện đang

lao động trong một hầm muối. Hãy nghĩ tới việc đó, tên hèn nhát! Ngày hôm nay, vào cái

giờ mà ta đang nói đây, con người cao đẹp kia đang sống như một nô lệ. Còn ta, ta là người

nắm giữ mệnh mi trong tay, thế mà ta lại để cho mi được sống.

- Em luôn luôn là một tâm hồn cao thượng, Anna! - Lão già kêu lên, khi rít trên điếu

thuốc lá.

Bà đứng lên, nhưng lại ngã về phía sau với một tiếng kêu đau đớn nhỏ:

- Tôi cần phải nói cho xong. Khi mãn hạn tù, tôi bắt đầu đi tìm cuốn sổ tay và những lá

thư mà một khi nó tới được chính phủ Nga, chắc chắn anh ấy sẽ được trả tự do. Tôi đã biết

lão già này sang nước Anh. Sau nhiều tháng truy lùng, tôi tìm ra nơi trốn tránh của y. Tôi đã

biết là y vẫn còn giữ cuốn sổ tay, bởi vì trong lúc tôi còn bị lưu đày ở Sibérie, tôi đã nhận

được một lá thư của y đầy những lời trách móc và những câu trích dẫn rút ra từ trong cuốn

nhật ký. Nhưng y là một người hèn hạ, chắc sẽ không trả lại cho tôi. Vậy thì tôi phải đích

thân đi lấy lại thôi. Với mục đích đó, tôi thuê một thám tử tư vào trong nhà này làm thư ký

riêng. Đó là người thư ký thứ hai của mi đó, tên tồi? Cái người đã rời bỏ mi thật vội vã. Anh

310

ta đã biết những giấy tờ đó được cất giữ trong phần giữa của bàn giấy mi và anh đã lấy cái

dấu chìa khoá. Anh ta không muốn đi xa hơn. Anh ta thông báo cho ta biết sơ đồ căn nhà và

bảo ta rằng buổi sáng, trước lúc giữa trưa, văn phòng luôn luôn trống vắng vì người thư ký

sẽ phải làm việc tại trong phòng này cùng với mi.

Tôi đã thu hết can đảm đi lấy lại cuốn sổ. Tôi vừa lấy lại được những giấy tờ và đóng cái

tủ lại thì người thanh niên nắm lấy tay tôi. Tôi đã từng gặp anh ta buổi sáng. Chúng tôi đã

gặp nhau trên đường và tôi đã xin anh cho biết giáo sư ở đâu. Lúc đó tôi không biết anh ta

làm việc ở đây.

- Đúng thế! - Holmes nói - Người thư ký đã quay về nhà và đã nói với ông chủ về người

đàn bà mà anh vừa gặp. Rồi thì, trong hơi thở sau cùng, anh đã cố đưa tin rằng chính bà là

người đàn bà mà anh ta vừa nói với ông chủ.

- Hãy để cho tôi nói hết! - Bà ta nói với một giọng khẩn thiết trong lúc mặt bà co lại một

cách đau đớn - Tôi vùng vẫy và anh ta ngã xuống, lập tức tôi vội chạy ra khỏi phòng, nhưng

tôi đã đi lạc vào trong phòng của tên hèn này. Y đe doạ là sẽ tố giác tôi. Tôi nói nếu y làm

thế, mạng sống của y sẽ bị chấm dứt. Nếu y bỏ rơi tôi lại cho luật pháp thì tôi sẽ bỏ rơi y

cho tổ chức. Y buộc lòng phải che chở cho tôi. Y ném tôi vào trong cái chỗ trốn lánh tối tăm

này. Y dùng bữa trưa trong phòng, ngõ hầu có thể nuôi tôi. Y thoả thuận rằng khi cảnh sát

rời khỏi nhà, thì y sẽ để cho tôi trốn đi trong ban đêm với điều kiện là tôi không trở lại nữa.

Nhưng ông Holmes đã ngăn trở dự định của chúng tôi... - Bà rút từ trong vạt áo ra một gói

nhỏ và nói thêm: - ...Và giờ đây, đây là cái sẽ cứu Alexey. Tôi xin gởi gắm gói này vào

lòng tôn trọng danh dự và lòng yêu công lý của ông. Hãy cầm lấy, và trao lại cho toà Đại sứ

nước Nga. Giờ đây, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, và...

- Ngưng lại! - Holmes kêu lên. Anh đã nhảy chồm tới và giật ra một cái lọ nhỏ.

-Muộn quá rồi! - Bà thì thầm khi lăn xuống giường - Quá muộn rồi! Tôi đã uống thuốc

độc trước khi ra khỏi nơi trú ẩn. Đầu tôi quay cuồng! Tôi chết đây! Hãy nhớ đến cái gói.

Trên đường về London, Holmes giải thích cho chúng tôi biết rằng nếu chàng trai không

tóm bắt được cái kính kẹp mũi thì không biết bao giờ chúng tôi mới tìm ra đáp số. Anh nói:

- Nhìn những tròng kính, tôi biết chủ cặp kính bị cận thị nặng, như thế khi mất kính thì bà

ta dễ lạc đường. Khi anh bảo tôi hãy tin là bà đã đi trên một dải cỏ hẹp mà không để lại dấu

chân, tôi trả lời rằng việc đó hẳn là một kỳ tích. Tôi thật sự nghĩ rằng kỳ tích đó không thể

nào thực hiện nổi; nếu không, thì bà ta phải có một cặp kính thứ hai. Vậy là tôi phải xem xét

nghiêm túc cái giả thiết theo đó bà ta chưa ra khỏi nhà. Khi nhận thấy hai dãy hành lang

giống hệt nhau, tôi nghi bà có thể bị lầm đường và trong trường hợp này bà đã vào phòng

ông giáo sư. Do đó tôi đi theo giả thiết này.

Tôi đã kiểm tra rất kỹ căn phòng khi hy vọng tìm ra một nơi trú ẩn. Tấm thảm được chải

kỹ và liền một tấm nên tôi đã bỏ ý nghĩ về một cánh cửa mở xuống hầm. Có thể có một nơi

kín đáo đằng sau các cuốn sách. Như các anh đều biết, điều đó thường gặp trong những thư

viện xưa. Mặt khác, tôi thấy những cuốn sách được xếp thành đống trên sàn gác, ngoại trừ

trước một tủ sách. Sự dọn dẹp gọn ghẽ đó có thể tạo ra một lối đi vào. Tôi không thấy một

311

dấu vết nào để hướng dẫn tôi, nhưng tấm thảm màu sẫm nên tôi đã hút thật nhiều thuốc lá

rồi vung vẩy tàn thuốc xuống trước cái tủ sách bị nghi ngờ. Đó là một mánh khoé đơn giản

nhưng lại tỏ ra hữu hiệu. Tôi đi xuống dưới nhà, tìm cách thu thập tin tức. Thật may bà giúp

việc cho tôi biết giáo sư đã ăn rất nhiều, đó là điều phải nghi ngờ trong trường hợp ông nuôi

một người thứ hai. Sau đó chúng ta lên phòng và sau khi lật đổ cái hộp đựng thuốc lá, tôi có

cơ hội khám xét cái sàn ván. Lúc đó, căn cứ theo những dấu vết để lại trên tàn thuốc lá, tôi

nhận thấy rõ, rằng trong lúc chúng ta vắng mặt, người nữ tù đã ra khỏi nơi trú ẩn... Vậy thì,

Hopkins, chúng ta đã tới ga công trường Charing Cross và tôi có lời khen anh đã thành công

trong vụ án này. Chắc hẳn là anh về Scotland Yard? Này Watson, về phần chúng ta, chúng

ta hãy thuê xe ngựa đi tới toà đại sứ Nga.

Một trung vệ bị mất tích:

"Xin vui lòng chờ tôi. Bất hạnh kinh khủng. Mất trung vệ cánh phải. Cần thiết cho ngày

mai. Overton - Bưu ấn từ Strand. Giờ gửi: 10 giờ 36 phút"

Holmes nói, sau khi đã đọc bức điện tin.

- Thần kinh ông Ô-vơ bị căng thẳng lắm nên mới viết văn bản rời rạc như vậy. Mấy ngày

nay nhàn rỗi quá, bất cứ một vấn đề nhỏ nào cũng sẽ được hoan nghênh.

Ðó là một người trẻ tuổi, to con, mạnh khỏe với cả tạ xương và cơ bắp, hai bờ vai của

ông đụng sát hai bên khung cửa ra vào. Ông lần lượt nhìn chúng tôi với một vẻ lo âu:

- Thưa, ông là Sherlock Holmes? Holmes chào người khách.

- Tôi vừa từ Scotland Yard ra. Ông thanh tra Hopkins khuyên tôi tới gặp ông. Ông ấy nói

rằng việc này thích hợp với ông hơn.

- Ông hãy ngồi xuống. Và cho tôi biết đó là chuyện gì.

- Godfrey Stauton... Chắc chắn là ông đã có nghe nhắc đến anh ta? Anh ta là cái bản lề

của toàn đội. Khi anh ta chuyền bóng, dù anh ta móc bóng, dù anh ta dắt bóng, không một ai

có thể cản được. Vả chăng, anh ta còn có đầu óc. Bên cạnh anh, chúng tôi đều là những đứa

trẻ. Tôi phải làm sao đây? Nếu ông không giúp tôi tìm cho ra Tô-tân thì chúng tôi chắc chắn

bị thua.

Khi người thanh niên dứt lời, Holmes duỗi tay, lấy bộ sưu tập ra, nhưng anh không tìm

thấy tên Tô-tân. Tới lượt người khách của chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Coi nào, thưa ông Holmes, tôi cứ tưởng là ông đã biết anh ta chứ. Nếu ông chưa từng

nghe nhắc tới Tô-tân thì ông cũng chẳng biết ai là Ô-vơ.

Với tâm trạng vui vẻ, Holmes ra dấu là anh cũng không biết.

- Kinh khủng thật - Nhà lực sĩ gầm lên - Tôi là người chỉ huy đội bóng nhà trường. Tôi

chẳng là cái thá gì cả. Nhưng tôi không thể ngờ được là tại nước Anh lại có người không

biết đến Tô-tân, nhà vô địch trong các trung vệ, tay cừ của Cambridge, của Blackheath, 5

lần đoạt giải quốc tế. Nhưng thưa ông Holmes, ông đã sống ở đâu vậy?

Holmes phá ra cười trước vẻ ngạc nhiên ngây thực của chàng trai khổng lồ trẻ tuổi.

- Chúng tôi không cùng sống trong một vũ trụ, thưa ông Ô-vơ. Ông sống trong một thế

giới lành mạnh hơn, thú vị hơn tôi. Nhưng mà này ông bạn tốt bụng, hãy ngồi xuống và nói

một cách từ tốn về chuyện gì đã xảy ra.

Ô-vơ để lộ sự bối rối của một người quen sử dụng những cơ bắp hơn là trí tuệ. Giữa vô số

những câu nói lặp đi lặp lại, anh đã trình bày chi tiết câu chuyện kỳ lạ như sau:

- Tôi là người điều khiển đội bóng bầu dục của đại học Cambridge và Tô-tân là cột trụ

của đội. Ngày mai chúng tôi sẽ đấu với đội của đại học Oxford. Hôm qua chúng tôi đến

Luân Ðôn và ở một khách sạn. Lúc mười giờ, tôi đảo qua một vòng các phòng để xem các

bạn đồng đội đã đi ngủ chưa. Tôi trao đổi vài câu nói với Tô-tân trước khi anh lên giường.

Tôi thấy anh xanh xao, có vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh vì sao. Anh trả lời là anh rất khỏe, chỉ hơi

nhức đầu thôi. Nửa tiếng đồng hồ sau, người gác cửa tới cho tôi hay là có một người có râu,

332

đem một lá thư tới cho Tô-tân. Vì Tô-tân chưa ngủ, người gác cổng đã cầm thư đó lên trao

tận tay anh. Ðọc xong, anh ta xỉu xuống cái ghế dựa, tựa hồ như anh đã bị quất một dùi cui.

Người gác cổng kinh hoàng, muốn đi tìm tôi nhưng Tô-tân đã ngăn lại, anh đã uống một cốc

nước lớn, mặc quần áo rồi đi xuống, nói vài lời với người đợi dưới gian tiền sảnh, rồi cả hai

ra đi. Sáng nay, căn phòng của Tô-tân trong tuềnh, chăn nệm vẫn còn y nguyên, đồ đạc

cũng vẫn nguyên. Tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại anh nữa ?

- Anh đã làm những gì? - Holmes hỏi.

- Tôi điện về Cambridge để xem coi có tin tức gì về anh không. Cambridge điện trả lời là

"Không một ai trông thấy anh ta cả". Liệu anh ta có thể trở về Cambridge được không.

- Có một chuyến tàu chót vào hồi 11 giờ 15. Nhưng, theo tin tức của anh, thì anh ta

không đáp chuyến tàu đó?

- Vâng, không ai thấy anh ấy ở Cambnridge cả.

- Thế rồi sau đó anh làm gì?

- Tôi đánh điện cho huân tước James.

- Tại sao lại gửi cho huân tước.

- Tô-tân là trẻ mồ côi, và huân tước James là bác ruột của anh.

- Ðiều đó soi sáng nội vụ một cách đặc biệt. Huân tước James là một trong những người

Anh giàu có nhất.

- Tô-tân đã nói với tôi như vậy.

- Và bạn anh là người thừa kế di sản của ông James.

- Vâng, ông già đã tám mươi tuổi, và lại mắc bệnh nữa. Ông chưa bao giờ cho Tô-tân một

xu. Ðó là một người cực kỳ hà tiện, nhưng rồi tất cả gia tài sẽ về tay anh ấy một ngày gần

đây thôi.

- Anh có nhận thư trả lời của huân tước không?

- Không.

- Tại sao bạn anh lại đi tới nhà huân tước?

- Tối hôm qua, có một cái gì đó làm cho anh ấy lo lắng. Nếu đó là một vấn đề tiền bạc, có

thể anh đã đi tới nhà ông ấy.

- Ðược. Tôi sẽ chăm lo vụ này. Tôi không biết nói gì hơn là khuyên anh nên chuẩn bị cho

cuộc thi đấu mà đừng có trông mong gì vào chàng trai đó nữa. Chắc chắn phải có một việc

gì cực kỳ quan trọng mới khiến anh ta bỏ đi như vậy. Có thể điều quan trọng đó đã giữ anh

ta lại. Chúng ta hãy tới khách sạn và nói chuyện với người gác cổng.

Holmes mau chóng làm thân với người gác khách sạn và thu được nhiều tin tức:

- Người đem tin ăn mặc không hẳn đàng hoàng mà cũng không hẳn là một người thợ.

Ông ta thuộc loại "trung gian". Một người trạc năm mươi tuổi, có bộ mặt xanh xao, tóc hoa

râm. Bàn tay ông ta run lên khi ông lấy lá thư ra. Tô-tân đã nhét lá thư vào túi, không bắt

tay người đó. Họ đã nói chuyện rất ngắn, rồi cả hai vội vàng bỏ đi. Lúc đó là 10 giờ rưỡi.

- Anh là người gác cổng ban ngày, phải thế không?

- Vâng. Tôi hết phiên vào lúc mười một giờ.

333

- Có lẽ người gác cổng ban đêm đã không thấy gì.

- Vâng. Một toán người đi xem hát về muộn. Không có ai khác.

- Hôm qua, anh gác suốt ngày?

- Vâng.

- Anh đã được tin nhắn gửi cho ông Tô-tân.

- Có. Một bức điện.

- Lúc mấy giờ?

- Khoảng 6 giờ.

- Lúc đó ông Tô-tân ở đâu?

- Tại đây.

- Anh có mặt ở đây khi ông ấy đọc bức điện?

- Vâng. Tôi chờ đợi để xem có trả lời không.

- Thế là có điện trả lời phải không?

- Vâng. Ông ấy đã viết một bức điện trả lời.

- Anh có cầm lấy bức điện đó không?

- Không. Chính ông ấy mang đi.

- Nhưng ông ấy đã viết trong lúc anh có mặt ở đây?

- Vâng. Khi ông ấy viết xong ông bảo tôi: "Tốt lắm, anh bạn? Tôi sẽ đích thân lo liệu việc

này".

- Ông ấy viết bằng gì?

- Ngòi bút.

- Ông ấy đã dùng một trong những tờ giấy in sẵn để trên bàn này à?

- Vâng. Viết trên tờ giấy thứ nhất.

Holmes đứng lên, cầm lấy mẫu in sẵn, đem tới bên cửa sổ và quan sát kỹ lưỡng tờ bên

trên.

- Ðáng tiếc là anh ấy không viết bằng bút chì. Bút chì thường để lại bên dưới một dấu.

Tuy nhiên, tôi vui mừng là anh ta đã viết bằng một cây bút có ngòi lớn, mực nhiều và có thể

còn vết tích trên tờ giấy thấm... Ðây rồi?

Anh giật lấy một tờ giấy thấm trên có những nét chữ ngược. Ô-vơ tỏ ra sôi động, kêu lên:

- Hãy đặt ngược nó trước tấm gương.

- Không cần - Holmes nói - Tờ giấy thấm này mỏng, cứ nhìn vào mặt sau là chúng ta có

thể đọc được.

Anh lật ngược tờ giấy thấm lại và chúng tôi đọc:

"Ðừng bỏ rơi chúng tôi, vì lòng kính Chúa!".

- Ðó là cái đoạn chót của bức điện tín mà Tô-tân đã gửi vài tiếng đồng hồ trước khi anh ta

biến mất. Ít ra cũng có sáu từ chúng ta đã không đọc được, nhưng mấy chữ còn lại: "Ðừng

bỏ rơi chúng tôi, vì lòng kính Chúa" chứng tỏ rằng chàng trai này đã thấy một mối nguy

hiểm kinh khủng đang tới gần, và một ai đó có thể che chở được anh. Danh từ "chúng tôi"

cho thấy có một người khác nữa bị dính líu vào.

334

- Cần phải tìm hiểu xem bức điện đã được gửi cho ai. - Tôi nói.

- Ðúng vậy. Nhưng nếu anh vào một nhà bưu điện để yêu cầu được đọc cái cuống của sổ

biên nhận thì các nhân viên sẽ tỏ ra ít sẵn lòng làm vừa lòng anh. Trước sự hiện diện của

ông, ông Ô-vơ, tôi muốn được coi qua những giấy tờ mà Tô-tân đã để lại trên bàn.

Holmes kiểm tra cẩn thận các thư từ, biên lai và cuốn sổ tay.

- Không có gì trong này cả. Nhân đây, tôi thấy là bạn ông có một sức khỏe thật tốt đấy

chứ? Anh ta không có những trở ngại vụn vặt về sức khỏe chứ?

- Anh ấy vững như bàn thạch?

- Ông có thấy anh ấy bị đau ốm bao giờ không?

- Không một ngày nào?

- Có thể là anh ấy không được khỏe như ông nghĩ.

- Tôi thiên về việc tin rằng anh ấy có những sự buồn phiền bí mật.

- Nếu được ông cho phép, tôi sẽ đem theo hai hoặc ba tờ giấy, để đi điều tra tiếp.

- Xin chờ một chút - Một giọng ảo não kêu lên.

Chúng tôi quay lại và thấy một ông già nhỏ bé trên ngưỡng cửa. Ông ăn vận đồ đen màu

gỉ sắt, đội một cái mũ cao, thành có vành rộng, trang điểm một cái cà-vạt trắng, thắt vụng

về.

- Ông là ai mà lại đụng tới giấy tờ của người vắng mặt.

- Tôi là một thám tử tư và tôi thử tìm cách giải thích sự biến mất của ông Tô-tân.

- Ai thuê ông làm việc đó?

- Ông này đây, bạn của Tô-tân.

- Ông là ai?

- Tôi là Ô-vơ, người dìu dắt đội bóng.

- Vậy ra ông là người đã gửi điện cho tôi đây. Tôi là huân tước James. Như vậy là ông đã

nhờ tới một thám tử?

- Vâng.

- Mà ông sẵn lòng chi trả các phí tổn.

- Anh Tô-tân sẽ chi trả, khi chúng tôi tìm ra anh ấy.

- Nhưng nếu người ta không tìm ra nó, thì ai trả tiền.

- Trong trường hợp đó, chắc chắn rằng gia đình Tô- tân sẽ...

- Ðừng trông mong gì - ông già hét lên. - Ðừng trông mong ở tôi, dù chi một xu! Một xu,

ông nghe chứ? Thưa ông thám tử. Về phần nhưng giấy tờ mà ông đang tự ý cầm trong tay

đó, ông phải tường trình cho tôi biết một cách nghiêm túc?

- Ðược lắm - Sherlock Holmes nói. - Trong lúc chờ đợi, tôi xin mạn phép hói xem ông có

ý nghĩ nào về sự mất tích của cháu ông?

- Tôi chẳng có một ý nghĩ nào hết. Anh ta đã trưởng thành, vậy anh ta hãy tự chăm sóc

lấy mình và nếu anh ta đi lạc như một đứa trẻ, thì tôi không chịu tốn tiền để tìm kiếm anh ta.

- Tôi hiểu quan điểm của ông - Holmes trả lời với một ánh mắt tinh nghịch. - Nhưng có

thể ông lại chưa hiểu quan điểm của tôi. Tô-tân là một người nghèo. Nếu như anh ta bị bắt

335

cóc, thì chắc chắn đó không phải là người muốn cướp một món của cải nào của anh. Nhưng

danh tiếng của ông thì lừng lẫy khắp toàn cầu, thưa huân tước, rất có thể một toán trộm

cướp đã bắt cóc cháu ông với hy vọng sẽ khai thác được những tin tức về ngôi nhà của ông,

những thói quen của ông, những của cải của ông.

Gương mặt người khách trở nên trắng bệch.

- Chúa ơi, chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Nhưng Tô-tân là một chàng trai dũng cảm,

sẽ không bao giờ phản bội người bác ruột của mình. Ngay chiều nay, tôi sẽ đem các đồ bằng

bạc gửi vào ngân hàng. Trong lúc chờ đợi. Thưa ông thám tử, ông hãy xem xét kỹ từng hòn

đá. Còn về tiền bạc... Coi nào, cho tới con số là 5 bảng, chúng ta cứ nói là 10 bảng đi, ông

có thể tin cậy nơi tôi!

Ngay khi đã dịu đi, ông già keo kiệt cũng không thể cho chúng tôi một tin tức gì, bởi lẽ

ông ta biết rất ít về đời sống của người cháu ông. Vậy thì hướng điều tra duy nhất nằm trong

cái mẫu điện tín này. Holmes chép lại nội dung bức điện, chúng tôi bắt tay ông già Ô-vơ bỏ

đi, để tham khảo ý kiến các bạn đồng đội về cách ra quân của đội bóng. Holmes và tôi đi

đến bưu cục gần nhất. Ðến trước cổng, chúng tôi dừng lại, anh nói:

- Với một trát tòa thì chúng ta có thể đòi hỏi được xem cái cuống điện báo, nhưng chúng

lại không phải là cảnh sát chính thức. Tuy vậy chúng ta cứ thử xem.

- Tôi rất tiếc phải làm phiền bà - Anh nói một cách lễ độ với một thiếu phụ ngồi sau ghisê.

- Nhưng hẳn phải có một sự sai lầm về bức điên tín mà tôi đã gửi đi ngày hôm qua. Tôi

đã không nhận được điện trả lời, và tôi e là mình đã quên ghi tên ở cuối bức điện. Bà có thể

nào kiểm tra lại giùm được chăng?

Người thiếu phụ lật cuốn sổ ra xem.

- Ông đã gửi đi hồi mấy giờ?

- Sau sáu giờ một chút.

- Bức điện gửi cho ai?

Holmes đặt một ngón tay lên môi và thì thầm với giọng tâm sự.

- Những chữ chót là "Vì lòng kính Chúa". Người đàn bà gỡ ra một cái cuống điện báo.

- Nó đây, ông đã không đề tên ông- Bà ta nói khi bày bức điện ra trên quầy.

- Chính vì thế mà tôi không nhận được hồi âm. - Holmes reo lên - Ô, tôi mới thật dại dột

làm sao. Xin trả bà, và xin cám ơn bà nhiều.

Anh phát ra một tiếng cười nhỏ trong cuống họng và xoa hai bàn tay vào nhau ngay khi

chúng tôi ra tới phố. Tôi hỏi:

- Thế nào?

- Tốt. Tôi đã hình dung ra bảy mánh khóe để có thể liếc nhìn qua bức điện đó, thành công

ngay trong mánh khóe đầu tiên.

- Anh đã thấy gì?

- Ði ra ga công trường King- Anh kêu lên với người xà ích mà anh đã gọi xe.

- Chúng ta đi du lịch à?

336

- Phải, chúng ta phải đi tới Cambridge. Anh hẳn đã thấy sự mất tích này xảy ra trước một

trận đấu quan trọng, và rằng người cầu thủ đó lại là cột trụ của đội bóng. Có thể đó chỉ là

một sự trùng hợp, nhưng nó thật đáng quan tâm. Thể thao tài tử không có những vụ đánh cá

lớn, nhưng tổng số tiền đánh cá rải rác trong quần chúng cũng không nhỏ, và rất có thể là

một ai đó có lợi khi bắt cóc một cầu thủ trong vài ngày, như một tên cướp cá ngựa đã bắt

cóc những con ngựa nòi. Ðó là một lối giải thích. Một lối thứ hai cũng có thể chấp nhận vì

chàng trai đó là người thừa kế một tài sản lớn.

- Những giả thiết đó không tính đến bức điện tín!

- Rất đúng. Chính vì muốn tìm hiểu một điều gì đó về bức điện tín mà chúng ta mới đi

Cambridge.

Khi chúng tôi mới tới nơi thì trời đã sẩm tối. Holmes thuê xe ngựa ở nhà ga và đưa ra địa

chỉ của bác sĩ Lê-li. Vài phút sau cỗ xe dừng lại trước một ngôi nhà lớn trên đường phố

chính. Chúng tôi bước vào, và sau một hồi chờ đợi khá lâu, chúng tôi gặp một bác sĩ ngồi

đằng sau cái bàn trong phòng mạch: bác sĩ Lê-li. Ông cầm tấm danh thiếp của Holmes và

nhìn chúng tôi với một dáng vẻ kém nhã nhặn.

- Tôi có biết danh ông, thưa ông Sherlock Holmes, và tôi biết ông làm nghề gì: một trong

những nghề mà tôi chê bai.

- Sự đánh giá đó được chia sẻ bởi những kẻ phạm tội - Holmes trả lời một cách bình thản.

- Cái chỗ mà ông dễ bị chỉ trích đó là việc ông lục lọi vào trong những bí mật của các cá

nhân, đào bới những việc riêng tư của người khác và làm mất thời giờ của những người còn

bận rộn hơn ông nữa. Chẳng hạn như vào lúc này đây, tôi đang soạn thảo một bản chuyên

luận thay vì ngồi nói chuyện với ông.

- Tất nhiên rồi. Nhưng cuộc nói chuyện này có thể còn quan trọng hơn bản chuyên luận

của ông. Tuy vậy, tôi có thể nói với ông rằng chúng tôi cố gắng để tránh đưa ra công luận

những việc riêng tư... Tôi tới đây để nói với ông về ông Tô-tân.

- Về việc gì?

- Ông biết ông ấy mà.

- Ðó là một người bạn thân của tôi.

- Anh ta đã bị mất tích.

- A, vậy sao...?

Gương mặt ông bác sĩ vẫn bình thản.

- Ðêm vừa qua, anh ấy rời khách sạn. Từ đó. bặt vô âm tín.

- Ngày mai là cuộc đấu lớn giữa hai đội Oxford - Cambridge. Tôi không có thiện cảm với

những trò trẻ con đó. Nhưng số phận của chàng trai thì khiến tôi quan tâm một cách sâu xa.

- Vậy thì tôi xin ông dành mối thiện cảm cho cuộc điều tra về số phận của ông Tô-tân.

Ông biết anh ấy ở đâu không?

- Không.

- Hôm qua, ông không gặp anh ta.

- Không.

337

- Ông Tô-tân có được mạnh khỏe không?

- Sức khỏe toàn hảo.

- Ông chưa bao giờ thấy anh ấy bị đau ốm sao?

- Chưa bao giờ.

Holmes đặt một tờ giấy trước mặt bác sĩ:

- Vậy thì ông giải thích như thế nào về tờ biên nhận mười ba đồng ghi-nê do Tô-tân trả

cho bác sĩ Lê-li trong tháng trước. Tôi đã thấy tờ giấy này trong số những tờ giấy khác của

anh ta.

Ông bác sĩ đỏ mặt tía tai.

- Tôi không cần giải thích với ông, thưa ông Holmes.

Holmes nhét tờ biên nhận vào trong ví.

- Chẳng lẽ ông thích giải thích trước công chúng. Tôi đã thưa với ông rằng tôi sẽ giữ im

lặng. Người ta sẽ khôn ngoan biết bao khi thổ lộ riêng với tôi.

- Tôi không biết gì cả.

- Ông có nhận được tin gì của Tô-tân từ Luân Ðôn không?

- Không!

- A! Nhà bưu điện này kỳ cục thật - Holmes thở dài - Một bức điện khẩn đã do Tô-tân

đánh đi từ Luân Ðôn vào hồi 6 giờ 15 chiều hôm qua... Một bức điện có liên quan tới sự mất

tích của anh ta. Ấy thế mà người nhận lại không nhận được. Tôi sẽ tới bưu điện làm đơn

khiếu nại.

Bác sĩ Lê-li nhảy cẫng lên. Mặt ông chuyển sang màu đỏ sẫm.

- Tôi ra lệnh cho ông ra khỏi nhà tôi - ông ta kêu lên - ông có thể nói với ông chủ của

ông, huân tước James rằng tôi không có việc gì cần giải quyết với ông ta cả, cũng như với

những nhân viên của ông ta. - Ông nhấn chuông một cách giận dữ. - John, hãy đưa hai ông

này về.

Một người quản gia oai vệ đẩy chúng tôi ra cửa. Ra tới ngoài đường, Holmes phá ra cười:

- Anh Watson, thế là chúng mình bị thất bại ở hiệp thứ nhất. Ta đấu tiếp nhé. Cái lữ quán

nhỏ kia, ngay trước mặt căn nhà của Lê-li rất thích hợp với các nhu cầu của chúng ta. Anh

chịu phiền tới đó hỏi thuê một phòng trọ ở mé trước, tôi đi lo vài việc lặt vặt.

Holmes trở về lữ quán trước chín giờ tối. Anh mệt mỏi, ủ rũ, bụi bậm bám đầy người.

Một bữa ăn nhẹ được dọn trên bàn. Sau khi ăn xong, anh mồi tẩu thuốc nhưng lúc đó tiếng

động của một cỗ xe khiến anh đứng lên và ngó ra ngoài khung cửa sổ. Một cỗ xe và một cặp

ngựa lông xám đang đứng bất động trước cửa nhà bác sĩ.

- Cỗ xe này đã ra đi vào lúc 6 giờ rưỡi, bây giờ đã hơn 9 giờ. Sau 3 tiếng đồng hồ đi và

về. Vậy nơi ông ta đến cách đây 15 hoặc 18 cây số. Và ông ta đi như vậy mỗi ngày một lần,

có khi tới hai lần.

- Ðiều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với một y sĩ có đông thân chủ.

338

- Nhưng Lê-li không có thân chủ. Ðó là một diễn giả, một thầy thuốc tham vấn, ông ta ít

chịu trị bệnh, cốt để không bị phân tâm trong lúc viết sách. Tại sao ông ta lại ra đi như thế.

Ði để gặp ai?

- Gã xà ích của ông. Tôi có ngỏ lời với hắn, nhưng gã mất dạy đó đã thả chó ra. May mắn

là không có con chó nào chịu nổi cây can của tôi. Nhưng một người địa phương đã cho tôi

biết những thói quen và chuyến đi hàng ngày của ông ta.

Giữa lúc chúng tôi đang nói chuyện thì cỗ xe lại ra đi.

- Anh không thể theo dõi chiếc xe à?

- Hoan hô, anh thật là chói lọi. Hồi chiều tôi đã làm như anh vừa nói: tôi tới tiệm bán xe

đạp, thuê một chiếc theo sau xe, cách khoảng chừng một trăm thước cho tới khi chúng tôi

rời xa thành phố. Khi đi vào con đường lớn thì cỗ xe dừng lại. Tôi cũng dừng lại, ông bác sĩ

xuống xe và đi nhanh tới tôi. Ông ta nói rằng con đường chật hẹp quá và mong muốn cỗ xe

của ông không làm cản trở cho việc đạp xe của tôi. Ngay đó tôi vượt qua xe ngựa, tôi đạp

trong nhiều cây số rồi dừng lại ở một nơi thích hợp để chờ xem cỗ xe có đến không. Xe

không đi qua chỗ đó, nó đã rẽ sang một trong những con đường phụ. Tôi chạy ngược lại,

nhưng không thấy cỗ xe. Nhưng vì ông ta đã nói rằng ông ta nhất quyết không cho một ai

theo dõi ông, nên việc này là quan trọng và tôi quyết lôi nó ra ánh sáng. Ngày mai chúng ta

sẽ theo dõi ông ta. Tôi đã gửi điện cho Ô-vơ, nhờ anh ta cho biết là ở đây có phương tiện

nào kín đáo để đi theo dõi không. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải theo dõi bác sĩ Lê-li: ông

ta biết chàng trai đó ở đâu, tên ông có trên cái cuống điện báo.

Ngày hôm sau, vào giờ ăn điểm tâm, người ta đem đến cho chúng tôi một lá thư:

"Thưa ông, ông chi phí thì giờ khi theo dõi tôi. Tôi có một tấm hình gắn sau cỗ xe ngựa.

Nếu ông muốn đi trong 30 cây số mà cuối cùng nó sẽ dẫn ông về điểm khởi hành, thì ông cứ

việc bám theo tôi. Ngoài ra, tôi báo cho ông biết rằng không phải cứ tò mò theo tôi mà ông

sẽ tìm thấy ông Tô- tân. Trái lại, ông hãy trở về Luân Ðôn mà tìm, đồng thời báo cho ông

chủ của ông biết rằng ông đã không thành công tại nơi này. Chắc chắn là tại đây, ông chỉ

phí thì giờ mà thôi. Người tận tâm với ông.

Bác sĩ Leslie Amstrong."

- Một đối thủ trung thực, thẳng thắn, ông ta kích thích óc tò mò của tôi và tôi muốn làm

quen với ông ta - Holmes nói.

- Cỗ xe của ông ta giờ đây đang đứng trước cửa, ông ta đang lao xe vào kìa. Tôi thấy ông

liếc nhìn về khuôn cửa sổ của chúng ta. Anh có muốn tôi thử cầu may với cái xe đạp không?

- Tôi nói.

- Anh Watson, tôi không tin là anh ngang tầm với ông ấy, Tôi hy vọng từ giờ tới tối, tôi

sẽ thuật lại với anh một vài tin tức.

Thêm một lần nữa, bạn tôi lại trở về, đầy chán nản.

- Tôi đã theo cái hướng mà ông đã đi cả ngày hôm nay, tôi đi thăm từng thôn xóm nhỏ ở

bên phía Cambridge, tôi đã tán gẫu với các chủ quán và các bà nội trợ. Tôi đã thám hiểm mà

339

không thành công. Trong cái vương quốc của những người uể oải này, chẳng ai buồn để ý

đến sự xuất hiện của một cỗ xe do hai con ngựa kéo.

- Ông bác sĩ lại ghi thêm một điểm nữa.

- Một bức điện cho tôi à!

- Phải: "Hãy hỏi Pom-pê của ông Di-xơn. Trinity Col1ege". Tôi chẳng hiểu gì hết.

- Ồ, nó khá rõ mà! ông bạn Ô-vơ trả lời cho tôi thấy.

- Tôi sẽ viết ít hàng gửi ông Di-xơn và cơ may của chúng ta có cơ xoay chiều. Nhân đây,

đã có kết quả trận đấu bóng chưa?

- Rồi, Oxford đã thắng một bàn. Những câu chót viết: "Sự thất bại của một đội mặc đồ

xanh là do thiếu cầu thủ Tô-tân".

- A. Những dự đoán của anh bạn Ô-vơ đã thành sự thực. Chúng ta hãy đi ngủ sớm, bởi vì

ngày mai sẽ có những biến chuyển lớn.

Lúc thức giấc, tôi thấy Holmes đang ngồi bên ngọn lửa.

- Tôi vừa làm một cuộc dạo chơi nho nhỏ và tất cả đều thuận lợi. Anh hãy ăn một bữa

điểm tâm cho chắc bụng, bởi vì chúng ta sẽ không ăn khi theo tới tận cái hang của ông ta.

- Vậy, ta mang theo bữa điểm tâm, bởi vì cỗ xe đã đậu trước cửa nhà ông ta rồi kìa.

- Không sao. Cứ để cho ông ấy đi. Khi anh đã ăn xong, tôi sẽ giới thiệu anh với một nhà

thám tử lỗi lạc.

Tôi gặp Holmes trong sân chuồng ngựa; anh ta mở cửa một cái chuồng chó và dắt ra một

con chó béo lùn, có đôi tai thõng xuống, lông trắng và vàng. Holmes nói bạn Pom-pê là

niềm kiêu hãnh của giống chó săn. Anh dẫn nó tới cửa nhà ông bác sĩ. Con chó đánh hơi

chung quanh nó một lúc, rồi với một tiếng lào thào bị kích động, nó chạy nhanh xuống

đường phố, lao về phía trước. Trong gần nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi đã rời khỏi thành phố

và chúng tôi đã đi vội trên con đường nông thôn. Holmes nói:

- Sáng nay tôi đã đi dạo trong sân nhà bác sĩ và tôi đã dùng ống tiêm phun dầu hồi vào

bánh sau cỗ xe. Một con chó săn tài giỏi sẽ đuổi theo một hướng có mùi dầu hồi cho tới tận

chân trời góc biển. Ồ, thằng cha ranh mãnh! Ðây là lối mà hắn đã thoát đi vào tối hôm

trước.

Bất chợt, con chó bỏ con đường lớn để lao vào trong một lối mòn có cỏ.

- Như vậy là con đường mòn này dành để bỏ rơi chúng ta. Bên tay phải chúng ta hẳn là

làng Trumpington. À, kìa là cỗ xe ngựa đang đổ ra khúc quanh. Mau lên, Watson! Tới lúc

quyết định rồi.

Anh lao vào trong một chỗ trống trong cánh đồng. Kéo theo Pom-pê đang bực bội. Chúng

tôi vừa kịp núp vào sau hàng giậu thì cỗ xe vượt qua. Trong xe có bác sĩ Lê-li, ông còng hẳn

xuống, đầu gục trong hai bàn tay. Bộ mặt của Holmes cũng trở thành nghiêm trọng:

- Cuộc điều tra sẽ có một kết quả bi thảm. Nào ta đi, Pom-pê! Có một biệt thự trong cánh

đồng.

Pom-pê buông ra những tiếng càu nhàu ở bên ngoài hàng rào sắt, nơi mà những dấu xe

ngựa hãy còn thấy rõ. Một lối đi dẫn vào trong biệt thự, Holmes cột con chó vào hàng rào,

340

và chúng tôi vội vã bước vào Holmes gõ lên cánh cửa nhiều lần mà không có ai trả lời. ấy

thế mà ngôi biệt thự không hoang vắng, bởi vì có một tiếng động bị nghẹt, vọng tới tai

chúng tôi: một thứ tiếng rên rỉ tuyệt vọng, một thứ tiếng rầm rì buồn bã một cách kinh

khủng. Holmes dừng lại, ngó lại phía sau chúng tôi. Trên con đường mà chúng tôi vừa đi,

một cỗ xe ngựa lại hiện ra. Holmes reo lên.

- Ông bác sĩ lại trở lại, vậy là giải quyết xong tất cả một lần. Chúng ta buộc phải xem

chuyện gì xảy ra nơi đây trước khi ông ta tới.

Anh mở cửa ra và chúng tôi bước vào trong gian tiền sảnh. Tiếng rì rầm nổi bật lên, nó từ

trên cao vọng xuống. Holmes leo lên và tôi theo anh. Anh đẩy một cánh cửa hé mở. Chúng

tôi đứng bất động, sửng sốt vì cảnh tượng hiện ra trước mắt: một phụ nữ, trẻ và đẹp, nằm

dài trên giường, đã chết. Dưới chân giường, một chàng trai đang khóc nức nở. Anh ta chỉ

ngẩng đầu lên khi Holmes đặt một bàn tay lên vai anh.

- Có phải ông là Tô-tân.

- Phải... Nhưng quý ông đã đến muộn mất rồi. Cô ấy đã chết.

Kẻ bất hạnh bị bối rối đến nỗi đã lầm chúng tôi với những thầy thuốc được mời tới khám

bệnh. Holmes chưa kịp nói vài lời an ủi thì tiếng bước chân trên cầu thang và cái bóng khắc

khổ của bác sĩ Lê-li hiện ra nơi ngưỡng cửa. Bác sĩ nói:

- Vậy là, quý ông đã tới đích. Trước mặt người chết, tôi xin thề là nếu như tôi còn trẻ, thì

thái độ quái gở của quý ông chắn chắn sẽ bị trừng trị.

- Xin bác sĩ thứ lỗi. Tôi tin là có sự hiểu lầm! - Holmes nói, giọng trang nghiêm - Nếu

bác sĩ vui lòng xuống dưới chúng ta sẽ hiểu lẫn nhau.

Chúng tôi ngồi trong phòng khách ở tầng trệt.

- Xin mời! - ông bác sĩ nói.

- Tôi không phải là người làm công cho huân tước James và trong vụ này, những thiện

cảm của tôi không hề dành cho nhà quý tộc đó. Khi có một người bị biến mất, tôi có nhiệm

vụ tìm hiểu số phận của anh ta ra sao. Tôi đã tìm thấy. Vậy là công việc của tôi đã xong.

Nếu sự mất tích này không kéo theo những điều gì phạm pháp, thì ông có thể tin cậy ở sự

kín tiếng của tôi.

Bác sĩ Lê-li tiến lên một bước và bắt tay Holmes:

- Ông là một người dũng cảm. Tôi đã hiểu lầm ông. ông đã biết nhiều: nhưng tôi cũng xin

được nói thêm đôi câu: Cách đây một năm, Tô-tân tới sống ở Luân Ðôn và yêu say đắm cô

gái con bà chủ nhà. Anh cưới cô ta. Cô ấy đẹp, thông minh và tốt bụng. Nhưng Tô-tân lại là

kẻ thừa kế ông già quý phái kia, và tin báo về đám cưới chắc chắn sẽ làm tiêu tan tất cả

"những hy vọng thừa kế của anh ta". Tôi biết rõ chàng trai đó. Tôi yêu thương anh ta vì anh

ta có nhiều phẩm chất lớn. Chúng tôi đã cố che giấu đám cưới với mọi người. Nhờ ở ngôi

biệt thự cách biệt này và cũng nhờ ở sự kín tiếng riêng, Tô-tân đã thành công cho tới nay.

Nhưng bất thình lình cô gái bị bệnh lao phổi ác tính. Chàng trai gần như điên lên vì buồn

rầu. Anh ta buộc phải tới Luân Ðôn, nơi anh phải tham dự trận đấu. Việc rời bỏ hàng ngũ

trong giờ quyết đấu sẽ làm lộ hết mọi chuyện. Tôi đã trấn an anh ta bằng một bức điện, và

341

anh ta đã trả lời bằng một bức điện, van nài tôi hãy làm hết sức mình. Ðó là bức điện mà

dường như ông đã đọc bằng cách nào đó tôi không sao hiểu nổi. Tôi đã không hề nói rõ về

căn bệnh của cô gái; nhưng tôi có viết thư nói rõ cho ông già vợ anh ta, và ông đó, quá đỗi

vụng về, đã tìm cách báo tin cho Tô-tân biết. Kết quả là anh ta đã bỏ trận đấu, quay về đây

trong một trạng thái gần như điên loạn. Từ khi về đây, anh ta luôn luôn ngồi ở chỗ đó, quỳ ở

bên giường. Nhưng sáng nay, thần chết đã hoàn thành công việc. Ðó là tất cả, ông Holmes?

Tôi tin chắc rằng tôi có thể hoàn toàn tin cậy vào sự kín tiếng của ông và của bạn ông.

Holmes siết chặt bàn tay bác sĩ, rồi nói:

- Anh Watson, chúng ta đi thôi.

Chúng tôi buồn bã rời khỏi ngôi nhà có đám tang.

VỤ án tại Abley Grange:

Vào một buổi sáng lạnh lẽo và buốt giá của mùa đông năm 1897, tôi bỗng thức giấc vì có

ai lay mạnh vai tôi. Hóa ra là Holmes. Ngọn nến trên tay anh soi rõ gương mặt hăm hở, mà

chỉ thoáng nhìn qua cũng biết ngay là có chuyện vừa xảy ra.

- Đi thôi, Watson, đi thôi! - anh giục - Đừng hỏi han gì cả! Mặc ngay quần áo vào, rồi lên

đường!

Mười phút sau, hai chúng tôi đã ngồi trên một chiếc xe ngựa và lóc cóc băng qua những

đường phố yên tĩnh đến ga Charing Cross. Ánh bình minh yếu ớt của một ngày đông bắt

đầu ửng lên, nên thỉnh thoảng chúng tôi có thể thấy được bóng dáng lờ mờ của một người

thợ đi làm sớm. Sau khi chúng tôi uống mấy chén trà nóng ngoài ga và được yên vị trên

chuyến tàu đi Kent, anh mới thấy đủ ấm người lên để nói, còn tôi thì mới đủ tỉnh trí để nghe

được câu chuyện. Holmes rút trong túi ra một mảnh giấy và đọc to lên:

"Abbey Grange, Marsham, Kent, 3.30 sáng

Ông Holmes thân mến. Tôi sẽ rất lấy làm sung sướng, nếu ông vui lòng trợ lực cho tôi

ngay lập tức trong việc điều tra một vụ án nhiều điều thú vị. Vụ này rất hợp với sở thích của

ông. Ông sẽ thấy tôi vẫn giữ nguyên hiện trường, đúng như lúc tôi được mời đến. Chỉ xin

ông đừng bỏ lỡ thời gian.

Người bạn trung thành của ông.

Stanley Hopkins".

- Hopkins đã bảy lần mời tôi và lần nào cũng rất thích đáng. - Holmes nói - Tôi nghĩ

chúng ta sẽ có một buổi sáng thú vị. Vụ án mạng xảy ra lúc 12 giờ đêm qua.

- Căn cứ vào đâu mà anh có thể nói chắc như thế?

- Vào giờ tàu và cách tính thời gian. Đầu tiên họ phải mời cảnh sát địa phương. Tiếp đó

mới trình báo với Scotland Yard. Rồi Hopkins phải đến tận hiện trường, sau đó mới có thể

đánh điện cho tôi. Phải mất trọn một đêm mới làm dược chừng đó việc. À, ga Chislehurst

kia rồi. Mọi chuyện rồi sẽ sớm ngã ngũ thôi.

Vượt qua quãng đường vài dặm trên một hương lộ hẹp, chúng tôi đến trước cổng một khu

vườn. Người gác cổng già vội mở cổng cho chúng tôi. Một lối đi rộng vắt ngang khu vườn,

chạy giữa hai hàng cổ thụ, dẫn đến trước một tòa nhà rộng và thấp. Phần chính tòa nhà rất

cổ kính, ẩn mình dưới những dây trường xuân sum suê, nhưng những khung cửa sổ rộng

cho thấy chủ nhân đã cho sửa sang lại theo kiểu dáng hiện đại. Một bên trái xem ra mới làm

thêm. Đón chúng tôi trước cánh cửa mở rộng là viên thanh tra Stanley Hopkins, dáng trẻ

trung, gương mặt lộ rõ vẻ nôn nóng.

- Ông Holmes, rất mừng là ông đã đến Và cả ông nữa, bác sỹ Watson. Thực ra giá được

biết sớm, chắc tôi chẳng dám làm phiền ông. Từ khi tỉnh lại, phu nhân đã cho chúng tôi biết

về vụ này một cách rành rọt đến nỗi chúng ta có lẽ chẳng còn bao nhiêu công việc để làm

nữa. Ông chắc còn nhớ băng trộm ở Lewisham?

- Sao? Băng ba cha con nhà Randall phải không?

361

- Đúng vậy. Ông bố với hai thằng con. Rõ ràng là bàn tay của chúng. Tôi không còn hồ

nghi chút nào. Chúng mới ra tay ở Sydenham cách đây hai tuần. Người nhà ở đấy đã nhận

diện được chúng. Thật kỳ lạ là chúng lại dám tiến hành một vụ nữa sớm như vậy. Nhưng

đây chính là băng đó, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Lần này thì nhất định chúng khó lòng

thoát khỏi giá treo cổ. Ngài Eustace Brackenstall, một trong những người giàu có nhất ở

Kent, đã bị sát hại. Chúng đã dùng chính thanh cời than trong phòng đập vỡ sọ ông. Phu

nhân Brackenstall hiện đang nằm trong phòng tiếp khách buổi sáng. Tội nghiệp cho phu

nhân, bà đã phải một phen hãi hùng. Bà gần như chết khiếp khi tôi vừa đặt chân đến đây.

Tôi nghĩ, hai ông nên gặp phu nhân, để được nghe chính bà kể lại đầu đuổi vụ này. Sau đó,

chúng ta sẽ cùng xem xét phòng ăn.

Phu nhân Brackenstall quả là một người phụ nữ phi thường. Mái tóc bà vàng óng, mắt

xanh, dáng người thanh tú, dung nhan thật diễm lệ. Ngay phía trên một bên mắt là một vết

bầm tím, sưng vù, trông chẳng đẹp chút nào. Bà hầu của phu nhân đang dùng nước chườm

vết thương. Còn phu nhân thì mệt mỏi nằm dài trên đi-văng, người khoác một chiếc áo

choàng rộng màu xanh điểm ngân tuyến.

- Ông Hopkins, tôi đã kể hết mọi chuyện với ông rồi. - bà nói, giọng mệt nhọc - Ông

không thể thay tôi thuật lại được sao? Ấy, nếu ông thấy cần, tôi đành kể lại lần nữa với các

quý ông mới tới này. Hai vị ấy đã vào phòng ăn chưa?

- Tôi nghĩ tốt hơn cả là nên để hai ông đây nghe phu nhân kể trước đã.

- Tôi hy vọng các ông có thể dàn xếp được mọi việc. Thật khủng khiếp khi nghĩ đến cảnh

nhà tôi vẫn còn nằm nguyên đó.

Phu nhân rùng mình, đưa tay che mặt một lát. Khi bà đưa tay lên, ống tay áo rộng hạ

xuống tận khuỷu. Holmes thốt lên:

- Ồ, thưa phu nhân, phu nhân còn bị mấy vết thương trên tay nữa kìa! Sao thế này?

Hai vệt đỏ ửng nổi bật trên cánh tay trắng muốt tròn trĩnh của phu nhân. Bà vội kéo ống

tay áo xuống che đi.

- Ồ, không có gì đâu. Mấy cái vệt này chẳng dính dáng gì đến vụ đêm qua cả. Nếu ông và

các bạn ông chịu phiền ngồi xuống, tôi xin kể hết những gì tôi biết được.

Tôi là vợ huân tước Eustace Brackenstall. Chúng tôi kết hôn với nhau được gần một năm

nay. Cuộc hôn nhân chẳng lấy gì làm êm thấm. Có lẽ một phần là tại tôi. Tôi lớn lên trong

khung cảnh của miền nam nước Úc, vốn tự do hơn và ít lễ nghi hơn, nên tôi không thích lối

sống ở Anh quốc.Nhưng lý do chính mà ai cũng biết là ông Eustace nhà tôi là một người

nghiện rượu thâm căn cố đế. Sống với một con người như vậy thì dù chỉ một giờ cũng

chẳng được thế nào là tình cảnh tôi, một phụ nữ nhạy cảm, lại bị trói chặt cả ngày lẫn đêm

với một người như thế?

Tôi xin kể với các ông chuyện đêm qua. Tất cả người hầu kẻ hạ trong nhà này đều ở

trong dãy nhà dọc mới xây. Toàn bộ tòa nhà chính được phân thành những phòng khách;

còn sau lưng là nhà bếp. Ông nhà tôi cho bố trí phòng ngủ của hai chúng tôi trên lầu. Người

hầu gái của tôi, bà Theresa, thì ngủ trong một căn phòng ngay bên trên phòng chúng tôi.

362

Ngoài bà ta ra trên lầu không còn một ai; nên không một tiếng động nào có thể vọng xuống

đám gia nhân ở dưới kia. Bọn kẻ trộm chắc hẳn biết rõ điều đó; nếu không, nhất định chúng

đã không dám hành động như thế.

Tối qua, ông Eustace nhà tôi lui về phòng riêng lúc 10 giờ rưỡi. Đám gia nhân cũng đều

lui về phòng của họ. Chỉ còn một mình bà Theresa vẫn thức trên phòng mình, ở tầng trên

cùng tòa nhà, chờ xem tôi có cần sai bảo gì không. Tôi ngồi tại căn phòng này đến quá

mười một giờ, mê mải đọc sách. Rồi tôi đảo một vòng quanh nhà, để xem mọi thức đã ngăn

nắp chưa, trước lúc lên gác. Tôi luôn tự mình cáng đáng việc này, vì như tôi đã nói, không

phải lúc nào tôi cũng có thể cậy vào nhà tôi. Tôi xuống nhà bếp, ghé phòng viên quản gia,

lên phòng khách, rồi cuối cùng là phòng ăn. Vừa đến gần khung cửa sổ có che một tấm màn

dày, tôi hiểu rằng cửa sổ để ngỏ. Tôi kéo tấm rèm sang một bên thì thấy mình đang đứng

đối mặt với một gã đàn ông to ngang, đứng tuổi, vừa đặt chân vào phòng. Cái cửa sổ đó là

thứ cửa sổ cao, kiểu Pháp, có thể dùng như một cửa ra vào thông ra vườn. Nhờ ánh nến từ

phòng ngủ tôi hắt ra, tôi thấy còn có hai tên nữa theo vào sau lưng gã kia. Tôi lùi lại, nhưng

gã đàn ông xông vào tôi ngay. Mới đầu gã chộp cổ tay tôi tiếp đến chẹn chặt cổ. Tôi mở

miệng định kêu, nhưng hắn đã đánh rất mạnh vào trán tôi ngay bên trên mắt, khiến tôi

khuỵu xuống. Tôi ngất đi, chắc phải một lát sau mới tỉnh lại, lúc bấy giờ tôi thấy bọn chúng

đã giật đứt một sợi dây kéo chuông và trói tôi vào chiếc ghế mức không thể cựa quậy được,

rồi một chiếc khăn tay bịt quanh miệng tôi làm cho tôi không còn cách nào kêu la. Đúng lúc

đó, người chồng bất hạnh của tôi bước vào phòng. Chắc ông ấy nghe thấy những tiếng động

khả nghi nên đã chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó. Ông ấy mặc áo ngủ và quần dài, tay cầm

chiếc gậy ưa thích. Ông ấy lao đến một gã trong băng trộm, nhưng một gã khác, gã đứng

tuổi, đã kịp cúi xuống nhặt cái thanh cời than trong lò sưởi ra, và giáng mạnh một vồ khi

ông ấy đi ngang qua trước mặt gã. Nhà tôi gục ngã, không còn rên nổi một tiếng, và nằm bất

động không bao giờ còn dậy nữa. Tôi lại ngất đi, nhưng cũng chỉ trong vài phút. Lúc tỉnh

lại, tôi thấy bọn chúng đã vơ hết từ trong tủ buýp phê ra mấy bộ đồ dọn ăn bằng bạc, mở

một chai rượu cũng lôi từ đó ra. Mỗi tên cầm một cốc. Như tôi đã nói, một gã trong bọn đã

đứng tuổi, có râu; hai đứa kia còn trẻ măng. Chắc chúng là ba bố con. Chúng trò chuyện với

nhau khe khẽ. Xong, chúng tới chỗ tôi, xem tôi đã bị trói chặt chưa. Cuối cùng, chúng

chuồn ra ngoài, không quên đóng chặt cửa sổ. Mất 15 phút, tôi mới gỡ được chiếc khăn khỏi

miệng. Nhờ thế, tôi mới la lên được, gọi bà hầu gái tới giúp tôi. chúng tôi cho người đến

báo cho cảnh sát đại phương. Họ lập tức báo lên London. Đó là tất cả những gì tôi có thể kể

cùng quý ông, và tôi hy vọng sẽ không phải nhắc lại câu chuyện đau lòng này nữa.

- Ông có hỏi gì không, ông Holmes? - Hopkins hỏi.

- Tôi không muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn và thời giờ của phu nhân Brakenstall nữa. -

Holmes nói. Rồi anh đưa mắt về phía bà hầu gái - Trước lúc sang phòng ăn, tôi muốn được

nghe câu chuyện của bà.

- Tôi đã trông thấy bọn chúng trước lúc chúng vào nhà. - bà nói - Khi ngồi bên cửa sổ

trong phòng ngủ, tôi thấy ba người đàn ông hiện ra bên cổng dưới ánh trăng, nhưng lúc đó

363

tôi không nghĩ bọn chúng là kẻ trộm. Hơn một tiếng sau, tôi bỗng nghe thấy tiếng bà chủ

kêu, tôi mới chạy xuống và thấy bà chủ lâm vào tình cảnh đúng như bà ấy vừa kể; còn ông

chủ thì nằm dưới sàn. Cảnh đó quá đủ dể làm cho một người phụ nữ mất vía, nhất là khi bị

trói chặt. Nhưng phu nhân tôi không bao giờ thiếu can đảm cả. Quý ông hỏi bà chủ tôi lâu

quá rồi đó ạ, nên bây giờ xin quý ông cho tôi đưa bà chủ về phòng nghỉ vì mệt mỏi quá rồi.

Như một người mẹ hiền, bà hầu phòng vòng tay qua lưng chủ, đỡ bà về phòng.

- Bà ta quấn quít với phu nhân từ nhỏ tới giờ. - Hopkins nói - Chăm chút phu nhân từ khi

còn là một hài nhi cho tới lúc sang Anh, khi lần đầu tiên họ rời Úc cách đây một năm rưỡi.

Tên bà ấy là Theresa Wright. Ông Holmes, mời ông đi lối này.

Vẻ hào hứng biến mất trên gương mặt sinh động của Holmes, và tôi hiểu ra rằng vụ này

chẳng còn lôi cuốn anh chút nào nữa vì đã hết tính chất bí ẩn ly kỳ. Một người thầy thuốc

từng trải được mời tới chữa một ca cảm lạnh thông thường cũng sẽ có cảm giác giống hệt

như vậy thôi. Nhưng cảnh tượng trong phòng ăn tại Abbey Grange đủ kỳ lạ để khơi dậy sự

chú ý của anh.

Phòng này rất rộng, trần cao, ghép bằng những tấm gỗ sồi có chạm trổ, trên bốn vách

tường trưng bày la liệt cả một bộ sưu tập tuyệt vời những gạc nai và vũ khí kiểu cổ. Trong

góc xa nhất của căn phòng kể từ cửa ra vào là cánh cửa sổ kiểu Pháp mà chúng tôi đã được

nghe kể. Ba khung cửa sổ nhỏ hơn bên tay phải làm cho căn phòng tràn ngập ánh nắng lạnh

lẽo của mùa đông. Phía bên trái là một cái lò sưởi rộng, xây sâu vào tường, với những súc

gỗ sồi nguyên khối viền quanh. Cạnh lò sưởi có đặt một chiếc ghế bành gỗ sồi dáng nặng

nề. Luồn qua một lỗ nhỏ trên những hoa văn chạm trổ trên chiếc ghế bành ấy là một sợi

thừng đỏ, được cột chặt ở cả hai bên. Khi cởi trói cho phu nhân, người ta nới rộng sợi dây,

nhưng những chỗ thắt nút vẫn chưa được tháo hẳn. Tuy vậy tâm trí chúng tôi bị thu hút

hoàn toàn vào cái vật khủng khiếp, đang nằm dài trước mặt lò sưởi: xác của ông chủ nhà.

Nạn nhân là một người đàn ông cao lớn, thân hình cân đối, tuổi trạc tứ tuần. Ông ta nằm

ngửa, cằm nghếch lên, hàm răng trắng lộ rõ phía dưới hai mép hơi nhếch lên sau bộ râu đen

xén ngắn. Hai bàn tay nắm chặt đang ở tư thế còn giơ cao quá đầu. Một chiếc gậy nặng trịch

nằm vắt ngang qua giữa hai bàn tay. Trên gương mặt đẹp trai, ngăm đen hằn rõ một vẻ căm

thù ghê gớm. Chắc ông đang ngả lưng trên giường khi nghe tiếng động, vì trên người vẫn

còn mặc nguyên áo ngủ, và phía dưới gấu quần còn thấy rõ đôi chân đi đất. Đầu ông bị một

vết thương khủng khiếp.Cạnh đó nằm chỏng chơ chiếc thanh cời than bị cong lại vì cú giáng

mạnh vào đầu. Holmes xem kỹ thanh sắt và xác nạn nhân.

- Lão kia hẳn phải có sức lực phi thường, lão Randall bố ấy. - anh nhận xét.

- Đúng thế! - Hopkins đáp - Chúng tôi đã thu thập được một vài thông tin về lão và biết

rõ lão là kẻ hết sức cộc cằn.

- Tóm cổ lão ta, chắc đối với ông sẽ chẳng có gì khó khăn.

- Không khó chút nào. Chúng tôi đã theo dõi lão từ lâu, vì lão đã tính chuồn sang Mỹ.

Bây giờ, biết bọn chúng còn ở đây, tôi nghĩ bọn chúng chỉ còn cách mọc cánh mới hy vọng

trốn thoát. Chúng tôi đã cho yết thị nhân dạng bọn chúng tại tất cả các hải cảng, và định

364

chiều nay thì công bố giải thưởng cho ai tóm được. Tôi thật không thể hiểu nổi tại sao bọn

chúng lại làm một chuyên điên rồ như vậy, vì chúng thừa biết sẽ bị phu nhân tả lại diện

mạo, và nhất định chúng tôi sẽ nhận ra chúng.

- Đúng vậy. Tôi rất lấy làm lạ sao chúng không bắt phu nhân vĩnh viễn im lặng một thể.

- Tôi dự đoán có lẽ chúng không biết là phu nhân đã tỉnh lại. - tôi nói.

- Có lẽ thế. Vì phu nhân xem ra đã bị ngất xỉu, nên chúng không thấy cần giết. Thế còn

ông chủ tội nghiệp này thì sao, ông Hopkins? Tôi nhớ hình như có nghe đồn một số chuyện

kỳ quặc về ông ta.

- Khi tỉnh rượu, ông ta là người tốt bụng, nhưng hễ quá chén rồi, thì hóa thành một con

quỉ dữ. Vào những lúc như vậy, ông ta có thể làm đủ mọi chuyện. Có lần, ông ta đã gây nên

một chuyện rắc rối: ông ta tẩm dầu hỏa khắp người một con chó rồi châm lửa đốt, mà đó lại

chính là con chó của phu nhân, mới lôi thôi chứ, và người ta phải chật vật lắm mới giữ kín

được vụ này. Về sau, ông ta còn ném cả một cái chai vào bà hầu phòng Theresa Wright.

Chuyện này lại gây nên rắc rối. Nhìn chung, cái này tôi nói riêng với ông thôi, giá không có

ông ấy thì cả nhà sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Ông đang nhìn gì vậy?

Holmes đang quỳ gối xuống sàn hết sức chăm chú xem xét những nút thắt trên sợi thừng

đỏ dùng để trói phu nhân. Tiếp đến, anh xem kỹ chỗ đầu dây sờn bị đứt ra khi bọn trộm giật

sợi thừng xuống.

- Khi chúng giật sợi dây này, cái chuông dưới bếp hẳn phải vang lên rất to.- Anh nhận

xét.

- Không một ai nghe thấy cả. Nhà bếp nằm ngay sau nhà.

- Do đâu mà kẻ trộm biết được là sẽ không có ai nghe thấy tiếng chuông? Sao hắn lại

dám liều lĩnh giật sợi dây như vậy nhỉ?

- Đúng thế, ông Holmes, đúng thế. Ông nêu lên chính câu hỏi mà tôi vẫn tự hỏi đi hỏi lại

nhiều lần. Không còn ngờ vực gì nữa, kẻ đó phải biết rõ nhà này và thói quen sinh hoạt của

những người đang ở đây. Chúng phải hiểu cặn kẽ tất cả gia nhân đều đang ngủ và không

một ai ở dưới bếp để có thể nghe được tiếng chuông cả. Như vậy là hắn phải quen biết rõ ai

đó trong đám gia nhân. Chuyện này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong nhà chỉ

có tám gia nhân, và hạnh kiểm của họ đều rất tốt.

- Bình thường ra - Holmes nói - người mà tôi nghi sẽ chính là kẻ bị ông Eustace ném vỏ

chai rượu vào mặt: bà Theresa Wright. Tuy nhiên, nếu thế thì bà lại là kẻ phản chủ, người

chủ mà bà ta hình như đã hầu hạ hết sức tận tụy. Thôi được, đó chỉ là chuyện nhỏ nhặt. Câu

chuyện phu nhân kể rõ ràng là rất chính xác, nếu căn cứ vào những gì mà chúng ta đang

thấy trước mắt. - Anh tiến về phía khung cửa sổ kiểu Pháp, và đẩy cả hai cánh ra - Chỗ này

chẳng có dấu vết gì, vả lại mặt đất lại cứng như sắt nên tôi không có hy vọng tìm thấy dấu

vết. Theo tôi, những ngọn nến trên mặt lò sưởi lúc đó đã được thắp sáng.

- Đúng thế, chính nhờ những ngọn nến đó và mấy ngọn nến trong phòng ngủ của phu

nhân mà bọn trộm thấy đường.

- Thế bọn chúng đã lấy đi những gì?

365

- Chẳng bao nhiêu. Mấy bộ đồ đã trong tủ buýp-phê. Phu nhân Brackenstall nghĩ rằng

chắc bọn chúng đã hốt hoảng với cái chết của ngài Eustace. Nếu không, chắc chúng đã sục

sạo khắp nhà.

- Đúng thế thật. Nhưng tôi thấy chúng đã ung dung uống rượu.

- Chắc để tự trấn tĩnh thôi.

- Đúng thế. Ba chiếc cốc trên bàn chắc chưa ai động tới thì phải.

- Chưa. Cả chai rượu vẫn để nguyên như khi bọn chúng bỏ lại.

- Nào, để ta xem thử. Ồ, cái gì thế này?

Ba chiếc cốc để trên bàn nằm cạnh nhau. Một chiếc vẫn còn ít cặn dưới đáy. Chai rượu

đặt bên cạnh, chỉ vơi hết một phần ba, và nằm bên cạnh là cái nút chai dài ngấm rượu rất

sâu. Thái độ của Holmes bỗng đổi khác, và tôi lại thấy cặp mắt sâu và tinh của anh ánh lên

vì hào hứng. Anh giơ cao cái nút chai lên ngắm nghía rất kỹ.

- Bọn chúng mở nút chai rượu bằng cách nào nhỉ? - anh hỏi.

Hopkins chỉ vào cái ngăn kéo đang mở nửa chừng, bên trong có vài chiếc khăn trải bàn

vải lanh và một cái mở nút chai.

- Phu nhân Brackenstall có nói tới chuyện chúng dùng cái mở nút chai này không?

- Không. Ông không nhớ à, phu nhân đã bị ngất xỉu khi chúng mở chai rượu.

- Nhớ chứ. Thực ra cái mở nút chai này đã không được dùng đến. Chúng mở chai rượu

bằng một cái mở nút loại bỏ túi, có lẽ nằm trong một con dao nhíp, và không dài quá 1 inch

rưỡi. Nếu ông quan sát phần trên của cái nút thì ông sẽ thấy ngay rằng cái mở nút chai của

bọn chúng đã phải xoáy vào ba lần mới mở được chai rượu. Còn nếu dùng cái trong ngăn

kéo kia thì chỉ cần một lần xoáy là được. Khi tóm được gã nọ, các ông sẽ phát hiện được

rằng hắn có một con dao nhíp.

- Tuyệt! - Hopkins nói.

- Nhưng, thú thực, ba cái cốc này lại khiến tôi băn khoăn. Phu nhân Brackenstall đã từng

tận mắt ba gã nọ uống rượu phải không?

- Có. Phu nhân đã kể rõ rồi còn gì.

- Vậy là câu chuyện đã kết thúc. Còn biết nói gì nữa kia chứ? Nhưng ông phải thừa nhận

rằng ba cái cốc này rất đáng để ý, thưa ông Hopkins. Sao, ông không nhận thấy gì sao? Thôi

được, không sao cả. Dĩ nhiên, mấy cái cốc này chỉ là chuyện ngẫu nhiên thôi. Thôi, chào

ông Hopkins. Tôi không nghĩ rằng tôi có thể giúp ông được gì, vì với ông, vụ này coi như

đã rõ cả rồi. Khi nào ông bắt được Randall, ông nhớ báo cho tôi biết, và cũng xin ông cho

biết những gì có thể xảy ra sau đó nữa. Tôi hy vọng sẽ sớm được chúc mừng ông kết thúc

vụ án thắng lợi.

Trên đường về, qua nét mặt của Holmes, tôi có thể thấy rõ là anh vẫn bị dằn vặt vì một

điều gì đó mà chính mình vừa quan sát được. Cứ mỗi lần như vậy anh lại cố gạt bỏ những ý

nghĩ ấy đi và trò chuyện như thể vụ án đã rõ cả rồi. Nhưng sau đó, mối người vực lại ám

ảnh anh, và vẻ mặt anh cho thấy anh lại đang mải nghĩ về căn phòng ăn lớn rộng tại Abbey

366

Grange. Cuối cùng, đúng vào lúc sắp sửa rời ga, anh bỗng nhảy phắt xuống và kéo tôi

xuống theo.

- Anh Watson thân mến ạ, anh thứ lỗi cho tôi nhé. - anh nói trong khi chúng tôi nhìn theo

những toa cuối cùng của đoàn tàu khuất sau một khúc quanh. - Tôi rất lấy làm tiếc là gây

phiền phức cho anh, nhưng thực tình tôi không thể để yên vụ án trong tình trạng như thế

này. Mọi bản năng trời cho ở trong tôi đều lên tiếng phản đối việc đó: không ổn rồi, sai to

rồi. Tôi dám quả quyết rằng mình đã đi chệch hướng, xác nhận của bà hầu phòng cũng rất

đầy đủ. Mọi chi tiết đều rất chính xác. Vậy tôi lấy gì để bác lại? Ba cái cốc, chỉ có vậy thôi.

Nhưng sự thể ra sao, nếu ta không tin hoàn toàn vào những chuyện ấy? Nếu ta cứ tự xem

xét sự việc một cách thận trọng, như lẽ ra ta phải làm trong trường hợp phu nhân

Brackenstall không nói gì hết? Lúc bấy giờ, chẳng lẽ ta không tìm được một cái gì cụ thể

hơn để điều tra tiếp hay sao? Dĩ nhiên là được. Ngồi xuống đi, Watson! Trong lúc chờ

chuyến tàu quay lại Chislehurst tôi sẽ trình bày cho anh thấy những bằng chứng. Chúng ta

không nên tin vào bất cứ điều gì mà bà hầu phòng hoặc cô chủ ba ta đã nói. Đừng để cho cái

nhân cách khả ái của phu nhân Brackenstall tác động đến những nhận định của chúng ta.

Chắc chắn là trong câu chuyện của phu nhân có những chi tiết mà nếu xem xét lại, ta sẽ thấy

rất đáng nghi.

Băng trộm này vừa làm một vụ gây xôn xao cách đây hai tuần. Một số hành tung và diện

mạo của bọn chúng đã được báo chí đăng tải, nên bất cứ ai muốn dựng lên một câu chuyện

trộm cắp tưởng tượng cũng đều nghĩ đến chúng. Thực ra, những bọn kẻ trộm vừa được một

vố béo bở thì thường chỉ thích ngồi yên tận hưởng món "chiến lợi phẩm" nọ, chứ không dại

gì lại tiến hành một vụ mạo hiểm mới. Việc chúng đánh một người đàn bà để buộc bà ta

câm miệng cũng thật lạ đời, bởi lẽ theo tôi nghĩ, đó chính là cách chắc chắn nhất để khiến

bà ta kêu ầm lên. Cũng lạ đời và việc gì chúng phải giết một mạng người trong khi bọn

chúng thừa sức bắt ông ta ngồi im mà không cần gây án mạng. Cũng lạ đời là tại sao bọn

chúng lại mãn nguyện chỉ với vài món dọn đồ ăn bằng bạc, trong khi chúng có thể vơ vét

được nhiều hơn thế nhiều. Và điều lạ đời cuối cùng là tại sao bọn chúng lại chịu vứt lại chai

rượu mới uống có một ít. Tất cả những điều vừa nói đó không khiến anh ngạc nhiên sao,

Watson thân mến?

- Toàn bộ, những điều đó gộp lại thì rõ ràng là rất đáng lưu ý, nhưng nếu xét từng điểm

một thì thấy chẳng có gì là lạ.

- Và bây giờ ta nói đến điều đáng chú ý nhất: mấy cái cốc uống rượu.

- Mấy cái cốc đó thì có gì là lạ?

- Người ta khai với chúng ta là cả ba đều đã uống rượu. Anh có tin lời khai đó không?

- Sao lại không? Vết rượu vẫn còn nguyên trong cả ba.

- Đúng. Nhưng chỉ một là còn thấy cặn rượu dưới đáy. Anh nên để ý chi tiết đó. Anh giải

thích thế nào về chi tiết này?

- Chiếc cốc có cặn là chiếc rót sau cùng.

367

- Ồ, không, không. Chai rượu còn đầy, nên không thể có chuyện rượu ở hai cốc đầu thì

trong, còn cốc thì ba thì không. Có hai khả năng giải thích, và chỉ có thể có hai thôi. Khả

năng thứ nhất: rót xong hai cốc đầu, bọn chúng đã lắc mạnh chai, rồi mới rót cốc thứ ba, nên

cặn chỉ lắng xuống cốc thứ ba. Nhưng khó có chuyện đó lắm. Phải, phải. Tôi tin chắc mình

hoàn toàn đúng.

- Vậy thì anh lý giải thế nào?

- Họ chỉ dùng có hai chiếc cốc, và đổ những giọt cuối cùng trong hai cốc này sang cốc

thứ ba để tạo cho người ngoài cái ấn tượng là đã có ba người cùng uống với nhau. Chính vì

vậy, nên cặn rượu chỉ thấy có ở đáy chiếc cốc cuối cùng, đúng không? Phải, tôi quả quyết

sự việc đã diễn ra đúng như thế. Nhưng nếu quả như vậy được, thì có nghĩa là phu nhân

Brakenstall và bà hầu phòng của phu nhân cố tình nói dối chúng ta. Không một lời nào

trong câu chuyện họ kể còn có thể tin cậy được cả. Họ phải có những lý do hết sức nghiêm

trọng để che giấu kẻ thủ phạm đích thực, và chúng ta chỉ còn cách phải tự mình dựng lại vụ

án, chứ đừng hy vọng vào bất cứ sự giúp đỡ nào từ phía họ. Đó chính là sứ mạng mà ta phải

gánh vác kể từ giờ phút này, và kìa, Watson tàu đi Chislehurst đã tới kia rồi.

Những người sống ở Abbey Grange rất sửng sốt khi thấy chúng tôi quay lại. Stanley

Hopkins đã về gặp thượng cấp để báo cáo kết quả, nên Sherlock Holmes chiếm ngay lấy

phòng ăn, khóa trái cửa lại và dành trọn hai giờ đồng hồ để khám xét cẩn thận mọi thứ. Tôi

thì ngồi xuống một chiếc ghế kê ở góc phòng, hệt như một sinh viên chăm chỉ theo dõi thầy

giáo thao diễn, và cố theo sát từng bước một tiến trình của cuộc khám phá thú vị kia. Khung

cửa sổ, mấy tấm rèm, chiếc thảm, chiếc ghế, rồi sợi dây - tất cả đều lần lượt được xem xét tỉ

mỉ. Thi thể huân tước Eustace đã được mang đi rồi, nhưng mọi thứ vẫn còn được giữ

nguyên như chúng tôi đã thấy sáng nay. Thế rồi, trước sự ngạc nhiên của tôi, Sherlock

Holmes trèo lên mặt cái lò sưởi rộng. Trên đầu anh lủng lẳng một đoạn dây giật chuông

màu đỏ, dài chừng vài phân, vẫn còn buộc chặt vào sợi dây thép nối liền với cái chuông treo

dưới nhà bếp. Sherlock Holmes ngắm nó hồi lâu, rồi để vươn người lên cho gần thêm chút

nữa, anh tì hẳn gối vào một đường gờ bằng gỗ áp trên tường. Nhờ vậy tay anh chỉ còn cách

đầu sợi dây thừng vài phân, nhưng việc đó không khiến anh chú ý bằng cái rầm chìa trên

tường. Xong xuôi, anh nhảy xuống, miệng khẽ reo lên một tiếng tỏ ý mãn nguyện.

- Ổn cả rồi, Watson ạ. - anh nói - Chúng ta đã khám phá được một trong những vụ án thú

vị nhất trong bộ sưu tập của chúng ta. Nhưng tôi thật tối dạ, vì suýt nữa phạm phải một sai

lầm tệ hại nhất đời mình! Bây giờ tôi nghĩ chỉ còn thiếu vài khâu bị mất nữa là tôi đã có

trong tay hầu như toàn bộ chuỗi sự kiện.

- Anh đã dò ra được các hung thủ?

- Chỉ một thôi, Watson, một hung thủ thôi. Một thôi, nhưng là một kẻ đáng gờm. Hắn

khỏe như gấu - cái thanh cời than bị bẻ cong kia là một minh chứng. Cao lớn, nhanh như

sóc, khéo tay kinh khủng. Ngoài ra, còn tinh khôn rất mực, vì chính hắn đã dàn dựng nên

toàn bộ vở kịch tài tình này. Có điều trên sợi dây kéo chuông kia, chính hắn đã để lại dấu

vết của riêng mình, giúp chúng ta có được một đầu mối để loại bỏ hết mọi ngờ vực.

368

- Thế cái đầu mối đó nằm ở đâu?

- Thế thì anh nghe đây, Watson. Nếu anh giật sợi dây chuông thì anh thử liệu xem nó sẽ

đứt ở đoạn nào? Rõ ràng nó sẽ đứt ở chỗ nối với sợi dây thép. Vậy thì sao nó lại đứt ở cách

chỗ ấy tám phân như anh đã thấy?

- Vì chỗ đó bị sờn?

- Đúng. Đầu dây này, như chúng ta đã xem xét, quả có bị sờn thật. Và gã nọ quả đã đủ

tinh quái, nên hắn mới dùng dao để làm cho sợi dây có vẻ như bị sờn. Nhưng đầu ở trên kia

thì không. Đứng đây, anh không thể thấy được đâu, nhưng nếu anh trèo lên lò sưởi, anh sẽ

thấy rõ nó đã bị cắt, chứ chẳng có dấu hiệu nào cho thấy là bị sờn cả. Bây giờ, anh có thể tự

mình tái lập được mọi diễn tiến. Hung thủ cần một sợi dây. Hắn không thể giật xuống vì sợ

chuông rung, đánh động mọi người. Hắn phải làm gì? Trèo lên lò sưởi, nhưng vẫn không

với tới, nên phải tỳ đầu gối vào đầu rầm chìa, anh sẽ thấy dấu vết in lại trên lớp bụi ngoài

đó, vì từ chỗ tôi còn thấp hơn ít nhất 3 inch nữa. Bởi vậy, hắn phải cao hơn tôi ít nhất 3

inch. Này bây giờ anh thử nhìn xem vết gì trên mặt chiếc ghế bành gỗ sồi? Vết gì?

- Vết máu.

- Đúng là vết máu. Chỉ riêng chi tiết này thôi cũng đủ cho thấy: câu chuyện của phu nhân

Brackenstall là chuyện bịa. Nếu bà ta đã bị trói vào đó trước lúc hung thủ giết ông chồng.

Ước gì tôi được trò chuyện ngay bây giờ với bà vú nuôi Theresa. Chúng ta phải thật thận

trọng, nếu chúng ta muốn thu thập được những thông tin mình muốn.

Bà ta, bà vú nuôi người Úc nghiêm nghị ấy, quả là một nhân vật đáng chú ý. Bà ta đa

nghi và ít thiện ý, nên thái độ hòa nhã của Holmes phải mất một thời gian mới chiếm được

thiện cảm của bà. Bà chẳng hề giấu giếm lòng căm ghét cả bà đối với ông chủ quá cố.

- Vâng, thưa ngài, quả tình ông ấy có ném cái vỏ chai vào tôi thục. Tôi thấy ông ấy lăng

mạ bà chủ tôi, nên tôi bảo thẳng với ông ta rằng giá anh trai bà chủ có mặt ở đây thì ông ta

đừng hòng ăn nói như thế. Vậy là tôi bị ông ấy ném thẳng cái vỏ chai vào mặt. Ông ấy

thường xử tệ với phu nhân Brakenstall, mà bà chủ tôi vốn kiêu hãnh, không bao giờ than

phiền. Bà ấy thậm chí cũng không kể cho tôi nghe những cách hành hạ của ông ta đối với

bà. Ngay cả những vết bầm trên tay mà ông thấy sáng nay cũng vậy, như tôi biết rõ chính là

vết đinh ghim mũ. Ông ấy tỏ ra hết sức dịu dàng hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu chỉ mới

cách đây có mười tám tháng. Nhưng cả hai chúng tôi lại cảm thấy mười tám tháng ấy dài

chẳng khác nào mười tám năm. Hồi đó, bà chủ tôi vừa chân ướt chân ráo tới London. Vâng,

đó là lần xa nhà đầu tiên, chứ trước đó phu nhân chưa bao giờ đi đâu cả. Ông ấy đã dùng

tước vị, tiền bạc và cả thủ đoạn giả dối để chiếm đoạt bà chủ. Lấy ông ta, bà ấy đã phạm

một sai lầm, và bà ấy đã trả giá xong cho sự sai lầm ấy. Ông hỏi: chúng tôi gặp ông ấy hồi

tháng nào, đúng không ạ? Thế thì xin thưa là chúng tôi gặp ông ta ngay sau ngày đến: chúng

tôi sang hồi tháng 6, và gặp ông ta hồi tháng 7. Ông ấy cưới bà chủ tôi vào tháng Giêng năm

ngoái. Vâng bà chủ vẫn đang nằm nghỉ dưới phòng khách, và dĩ nhiên sẽ vui lòng gặp ngài.

Nhưng xin ngài đừng gạn hỏi bà ấy nhiều, vì bà ấy vừa phải chịu đựng hết thảy những gì ít

người phàm trần đủ sức kham nổi.

369

Phu nhân Brakenstall vẫn nằm trên chính chiếc đi-văng đó, nhưng trông đã đỡ thất sắc

hơn hồi sáng, bà hầu phòng cũng theo vào cùng chúng tôi; và bắt tay vào thay tấm khăn

chườm lên trán cô chủ.

- Tôi hy vọng - phu nhân lên tiếng - rằng ông đến đây không phải để thẩm vấn tôi lần

nữa?

- Ồ, không, - Holmes đáp, giọng hết sức lịch sự - Tôi sẽ không quấy rầy bà thêm nữa đâu,

thưa phu nhân Brakenstall. Tôi chỉ muốn cất đỡ gánh nặng cho phu nhân thôi.

- Vậy ông muốn tôi phải làm gì?

- Kể hết sự thật.

- Ông Holmes!

- Ồ, không, không, phu nhân Brakenstall làm như vậy hoàn toàn vô ích. Tôi biết chắc

rằng câu chuyện của phu nhân kể là hoàn toàn sai sự thật.

Cả phu nhân Brakenstall lẫn bà hầu phòng đều chằm chằm nhìn Holmes, mặt tái đi, ánh

mắt lộ vẻ sợ hãi.

- Ông thật là thô lỗ! - bà Theresa kêu lên - Ông muốn ám chỉ bà chủ tôi đã nói dối?

Holmes đứng ngay dậy.

- Phu nhân không có gì để kể với tôi sao?

- Tôi kể hết với ông rồi còn gì.

- Mong phu nhân nghĩ lại, phu nhân Brakenstall. Chân thật, tôi nghĩ, sẽ tốt hơn nhiều.

Một thoáng lưỡng lự lướt qua gương mặt kiều diễm của phu nhân. Nhưng rồi một quyết

định mới khiến khuôn mặt ấy cứng lại như thể đeo mặt nạ.

- Tôi đã kể hết với ông những gì mình biết.

Holmes cầm lấy mũ, nhún vai.

- Tôi rất lấy làm tiếc. - anh nói.

Rồi không thốt thêm một lời nào nữa, chúng tôi rời khỏi phòng, ra về. Trong khu vườn có

một cái ao, và bạn tôi lôi tôi đi về phía đó. Mặt ao đóng băng gần hết, và chỉ còn chừa một

khoảnh nhỏ dành làm nơi trú đông có một con thiên nga cô độc. Holmes nhìn chòng chọc

vào vũng nước nhỏ đó một lúc, rồi đi tiếp về phía cổng vườn. Dừng chân bên cổng, Holmes

viết vội một mẩu tin ngắn, trao cho người gác cổng, nhờ chuyển lại cho ngài Stanley

Hopkins.

- Chúng ta có thể hoặc trúng đích, hoặc chệch mục tiêu, nhưng đằng nào cũng phải làm

được một chút gì giúp ông bạn Hopkins, dù chỉ để thanh minh cho chuyến viếng thăm thứ

hai. - anh nói - Tuy vậy tôi vẫn chưa dám tiết lộ hết bí mật với ông ấy. Tôi nghĩ, bây giờ nơi

kế theo mà ta cần đến để điều tra vụ này là văn phòng của Hãng Hàng hải Adelaide -

Southampton.

Qua viên Giám đốc, Holmes nhanh chóng thu thập được mọi thông tin mà anh cần biết.

Vào tháng sáu năm 1895, hãng chỉ có duy nhất một con tàu cập bến Anh quốc. Đó là chiếc

"Rock of Gibraltar", con tàu lớn và đẹp nhất hãng. Bản danh sách hành khách cho thấy: cô

Fraser xứ Adelaide cùng bà hầu của cô đã đi chuyến này. Hiện thời con tàu đang chạy

370

ngang qua một nơi thuộc mạn nam kênh Suez, trên hải trình sang úc như lệ thường. Thành

phần sĩ quan trên con tàu vẫn giống hệt như hồi năm 1895, ngoại trừ một điều: viên phó

thuyền trưởng, ông Jack Croker, đã được đề bạt lên cấp thuyền trưởng và chuyển sang chỉ

huy con tàu mới của hãng, chiếc "Bass Rock", hai ngày nữa sẽ rời Southampton. Viên sĩ

quan này hiện sống tại Sydenham, nhưng sáng nay anh ta có lẽ sẽ đến đây, và nếu chúng tôi

muốn thì có thể chờ gặp anh ta. Tuy nhiên, Holmes lại không có ý định gặp mà lại hỏi thêm

về lý lịch và hạnh kiểm của anh ta.

Lý lịch của anh ta tuyệt hảo. Trong hạm đoàn, không một sĩ quan nào được đánh giá cao

như thế. Còn về hạnh kiểm, tuy anh ta là một người ngông cuồng, liều lĩnh khi lên bờ, nóng

nảy, dễ bị kích động, nhưng lại là một sĩ quan đáng tin cậy lúc thi hành phận sự, cương trực,

chân thành và tốt bụng. Nắm được những thông tin dó, chúng tôi rời văn phòng hãng

Adelaide - Southamton, và vòng tới sở điện tín Charing Cross. Holmes gửi một bức điện,

rồi chúng tôi lại quay về phố Baker.

Gần tối, viên thanh tra Staley Hopkins ghé thăm chúng tôi. Công việc của ông rõ ràng

chẳng mấy suôn sẻ.

- Ông Holmes, ông quả là một pháp sư. Thỉnh thoảng tôi nghĩ thầm ông có một sức mạnh

siêu phàm. Này, nhờ đây mà ông biết được những bộ đồ bằng bạc bị đánh cắp đó chúng đã

vứt xuống đáy ao?

- Thật vậy sao? Thế mà tôi không biết đấy.

- Nếu vậy thì tại sao ông lại dặn tôi thử mò đấy ao?

- Ông đã vớt lên được rồi chứ gì?

- Phải, đúng thế.

- Tôi rất lấy làm mừng là đã giúp được ông.

- Nhưng ông có giúp gì tôi đâu! Ông làm cho vụ án rắc rối thêm thì có. Làm gì có thứ kẻ

trộm cố vơ vét đồ đạc bằng bạc, lại đem vứt xuống cái ao gần nhất?

- Quả là một hành vi khá kỳ quặc. Tôi chỉ có ý là chỗ đồ bạc lấy đi chỉ để đánh lạc hướng

chúng ta. Vì thế, dĩ nhiên, bọn chúng chỉ muốn vứt bỏ nó đi cho nhanh.

- Nhưng tại sao ông lại đi đến ý nghĩ đó?

- Ồ, tôi nghĩ đó là chuyện có thể có được. Khi chúng tẩu thoát qua cái cửa sổ kiểu Pháp,

ngay trước mặt chúng đã hiện ra một cái ao. Trên mặt ao lại có một chỗ nước chưa đóng

băng đầy sức quyến rũ. Tìm đâu ra một nơi cất giấu tốt hơn thế?

- À, một nơi cất giấu! Hay quá! - Stanley Hopkins reo lên - Vâng, vâng, giờ thì tôi hiểu

hết cả rồi! Dọc đường sẽ có người, chúng sợ chạm trán với họ giữa lúc đang mang mấy bộ

đồ ăn bằng bạc, nên chúng vội tẩu tán tang vật xuống ao, chờ dịp thuận tiện sẽ quay lại lấy

lên. Tuyệt quá, ông Holmes ạ. Ý tưởng này đắc địa hơn ý tưởng lúc đầu. Nhưng tôi vẫn

vướng phải một trở ngại lớn.

- Trở ngại?

- Đúng thế, ông Holmes ạ. Băng Randall vừa bị bắt sáng nay tại New York.

371

- Trời ơi, ông Hopkins! Vậy thì rõ ràng giả thuyết của ông về việc bọn này gây ra vụ án

mạng tại Kent tối qua đã hoàn toàn đổ vỡ.

- Ông Holmes, đó quả là một đòn chết người, thực sự chết người. Tuy vậy, chắc là còn có

nhiều băng trộm khác, ngoài bọn Randall, cũng gồm ba tên, hoặc có một băng mới nào đó

nữa, mà cảnh sát chưa hề nghe nói.

- Có lẽ thế. Rất có thể là đúng thế thật. Nếu vậy thì ông còn phải điều tra tiếp?

- Vâng, ông Holmes. Tôi còn chưa được nghỉ ngơi chừng nào vẫn chưa làm sáng tỏ ngọn

ngành vụ này. Tôi hy vọng ông sẽ vui lòng gợi cho tôi một ý tưởng nào hay hay?

- Thì tôi đã mách cho ông rồi đấy thôi.

- Mách gì kia?

- Phải, tôi đã nói với ông là bọn chúng cố đánh lạc hướng.

- Nhưng để làm gì, ông Holmes, để làm gì?

- À, dĩ nhiên, đó chính là vấn đề. Nhưng ông có thể thấy là có một cái gì trong đó. Ông

không thể ở lại dùng cơm với chúng tôi à? Vậy thì xin tạm biệt ông, và nhớ cho chúng tôi

biết kết quả cuộc điều tra.

Ăn tối xong, Holmes châm một tẩu thuốc, rồi đưa chân lại gần ánh lửa đang reo vui trong

lò sưởi. Thình lình anh liếc nhìn đồng hồ.

- Tôi đang chờ một sự việc nữa xảy ra, Watson ạ.

- Bao giờ?

- Chỉ vài phút nữa thôi. Chắc lúc này anh đang nghĩ rằng tôi đã đối xử không phải với

Stanley Hopkins đúng không?

- Tôi tin vào sự phán đoán của anh.

- Một lời đáp thật tế nhị. Watson, anh phải nhìn sự việc theo cách sau đây: những gì tôi

biết chỉ mang tính chất riêng tư, còn những gì ông ta biết lại là chuyện công vụ. Tôi có

quyền phán đoán theo cách của riêng tôi; còn ông ta thì không thể. Ông ta phải phơi bày hết

thảy mọi chuyện, nếu không sẽ bị xem là không làm tròn công vụ. Trong một vụ còn nhiều

ngờ vực, tôi không thích đẩy ông ta vào một tình thế khó xử, và vì vậy, tôi phải giữ kín mọi

thông tin cho tới lúc nội vụ đã được làm sáng tỏ.

- Nhưng đến bao giờ thì mới sáng tỏ?

- Sắp rồi. Anh sắp được chứng kiến màn chót của một vở kịch nhỏ đặc sắc.

Có tiếng chân lên cầu thang, rồi cửa mở và một người đàn ông trẻ tuổi, cao lớn xuất hiện.

Khách là một chàng trai để ria vàng, mắt xanh, da rám nắng. Anh đóng cửa lại, rồi đứng

yên, hai tay nắm chặt lại như đang cố nén một cảm xúc mãnh liệt nào đó.

- Mời ông ngồi, thuyền trưởng Croker. Chắc ông đã nhận được bức điện?

Khách gieo phịch người xuống chiếc ghế bành, rồi đưa cặp mắt dò xét hết nhìn tôi lại

nhìn Holmes.

- Tôi vừa nhận được bức điện, và đến đúng giờ ông đã chỉ định trong bức điện. Tôi nghe

nói ông có đến đằng văn phòng. Thật chẳng có cách nào lẩn tránh được ông. Tôi sẵn sàng

372

nghe những lời phán xử tồi tệ nhất. Ông định xử lý với tôi thế nào đây? Bắt tôi? Ông nói đi!

Chứ đừng ngồi đó mà đùa giỡn với tôi như mèo vờn chuột.

- Tôi sẽ không ngồi đây phì phèo tẩu thuốc trước mặt ông nếu tôi cho ông là một tên tôi

phạm, ông có thể tin chắc như vậy.- Holmes nói - Hãy thành thực với tôi, thì ông và tôi sẽ

có thể làm một việc gì tốt đẹp. Còn nếu ông định giở trò lừa gạt tôi, thì tôi sẽ triệt hạ ông

ngay.

- Xin ông cho biết: ông muốn tôi làm gì?

- Thuật lại một cách trung thực cho tôi nghe những gì đã diễn ra tại Abbey Grange tối

qua, không thêm, không bớt. Tôi đã biết đủ tới mức nếu ông kể sai sự thật dù chỉ một chút,

là tôi sẽ gọi cảnh sát, và thế là vụ này sẽ vĩnh viễn vuột khỏi tầm tay tôi đấy.

Chàng thuyền trưởng đăm chiêu một lúc, rồi nắm chặt bàn tay to, rám nắng giáng mạnh

một cái xuống đùi.

- Thôi, đành liều vậy. - anh thốt lên - Tôi tin ông là người trọng lời hứa, nên xin kể cho

ông nghe hết câu chuyện. Nhưng trước tiên, tôi phải nói điều này. Tôi chẳng ân hận, mà

cũng chẳng sợ hãi bất cứ điều gì. Ví thử phải làm lại từ đầu, tôi cũng sẽ làm đúng như vậy,

sẽ lấy làm tự hào vì đã làm như thế. Nhưng hễ nghĩ tới chuyện mình sẽ gây rắc rối cho

Mary Fraser, là lòng tôi lập tức thấy hãi hùng. Tôi sẵn sàng đổi mạng sống của mình để

được nhìn thấy gương mặt thân yêu của nàng một nụ cười tươi vui.

Tôi phải kể lùi câu chuyện lại một chút. Ông hình như đã biết hết mọi chuyện; vì vậy, tôi

nghĩ ông đã biết tôi gặp nàng khi nàng là một hành khách, còn tôi là phó thuyền trưởng trên

tàu "Rock of Gibraltar". Ngay từ lần đầu gặp nàng, nàng đã trở thành người phụ nữ duy

nhất của đời tôi. Và càng ngày, tôi càng yêu thương nàng hơn trong suốt cuộc hành trình đó.

Tôi thường quỳ trong bóng tối và hôn lên boong tàu, vì tôi biết rằng chân nàng đã đi qua đó.

Nàng chẳng bao giờ có tình cảm đặc biệt với tôi. Nàng cư xử với tôi tử tế, như bất cứ người

đàn bà nào cũng có thể đối xử với một người đàn ông. Tôi không có điều gì phải trách cứ

nàng. Về phía tôi là một tình yêu toàn tâm, còn về phía nàng chỉ là thiện cảm và tình bằng

hữu. Khi chúng tôi chia tay nhau, nàng vẫn là một cô gái tự do; còn tôi thì không bao giờ

còn có thể thấy mình tự do được nữa.

Sau ngày trở về từ chuyến đi kế tiếp, tôi được tin nàng đã lấy chồng. Ồ, sao nàng lại

không được quyền lấy người nàng yêu kia chứ? Tôi chẳng đau buồn gì về cuộc hôn nhân

đó. Tôi không phải là một kẻ vị kỷ. Tôi chỉ mừng vì hạnh phúc đã mỉm cười với nàng, và

khỏi chứng kiến cảnh nàng phải gắn bó đời mình với anh chàng thủy thủ nghèo khổ. Tôi

yêu Mary Fraser say đắm đến thế đấy! Ồ, tôi không bao giờ nghĩ là mình sẽ được gặp lại

nàng. Nhưng rồi tôi bỗng được thăng chức sau chuyến đi mới đây. Con tàu mới chưa được

hạ thủy; vì vậy, tôi phải về nhà ở Sydenham vài tháng trong lúc chờ đợi. Một hôm, đang đi

dạo trên đường làng, tôi bỗng gặp Theresa Wright, bà hầu già của nàng. Bà ta kể cho tôi

nghe về nàng, về lão ta, về mọi chuyện. Thưa quý ngài, tôi phải cho quý ngài hay rằng tôi

suýt phát điên, khi biết gã chó chết nghiện ngập đó đã dám đánh nàng, thiên thần của tôi!

373

Tôi gặp lại bà Theresa. Rồi gặp chính Mary, rồi lại gặp nàng lần thứ hai. Sau đó, nàng

không cho tôi gặp nữa. Nhưng gần đây tôi có nhận được một thông báo: một tuần nữa tôi sẽ

phải lên đường. Vì thế, tôi quyết định phải gặp lại nàng lần nữa. trước ngay rời Anh quốc.

Tôi bao giờ cũng coi bà Theresa như bạn, vì bà cũng yêu Mary và cũng căm ghét cái lão

hung ác nọ chẳng thua kém gì tôi. Qua bà ấy, tôi biết rõ đường đi lối lại trong nhà. Mary

thường ngồi đọc sách trong căn phòng nhỏ của nàng ở tầng trệt. Tối qua, tôi đi vòng qua đó,

rồi cào vào cửa sổ ra hiệu. Thoạt tiên nàng không mở cửa. Nhưng tôi biết bây giờ nàng đã

thầm yêu tôi và không nỡ để tôi phải đứng trong bóng tối giá rét. Nàng thầm bảo tôi hãy

vòng ra cánh cửa sổ lớn ở phía trước. Tôi thấy cửa đã mở sẵn, để tôi có thể trèo vào phòng

ăn. Vâng, thưa quý ngài, tôi đang đứng với nàng bên cửa sổ thì lão ta lao vào, như một

thằng điên. Lão chửi nàng một câu thậm tệ, rồi giơ cao chiếc gậy đang lăm lăm trong tay,

lão vụt vào mặt nàng. Tôi chồm tới, vớ lấy thanh cời than và giữa hai chúng tôi đã nổ ra một

cuộc đọ sức sòng phẳng. Ông nhìn đây, trên tay tôi vẫn còn nguyên dấu vết chiếc gậy của

lão, vì lão ra đòn trước. Tôi không chút ân hận. Bởi lẽ đây là chuyện một mất một còn; hoặc

là lão, hoặc là tôi. Và hơn thế nữa: hoặc là tính mạng của lão ấy, hoặc là tính mạng của

nàng, vì làm sao tôi có thể phó mặc nàng cho cái lão điên rồ ấy? Tôi đã giết lão như vậy

đấy. Tôi có sai trái không? ấy, thử hỏi hai ông thì hai ông sẽ làm gì, nếu ở vào địa vị tôi?

Nàng đã thét lên khi bị lão đánh, nên bà Theresa nghe thấy vội chạy xuống. Thấy trong tủ

buýp-phê có một chai rượu, tôi liền lấy ra, mở nút, đổ vài giọt vào miệng Mary, vì nàng

đang bất tỉnh do bị choáng. Rồi cũng uống một hớp. Bà Theresa thì bình tĩnh như không, và

cách khai báo với cảnh sát chính là do tôi và bà ta nghĩ ra. Chúng tôi buộc phải làm cho

người ta tưởng vụ án mạng do bọn trộm gây nên. Trong lúc tôi trèo lên cắt sợi dây chuông,

thì bà Theresa cứ nhắc đi nhắc lại cho Mary thuộc lòng câu chuyện bịa đặt kia. Sau đó, tôi

trói nàng vào chiếc ghế, làm xơ dầu dây cho có vẻ tự nhiên. Nếu không người ta sẽ phải tự

hỏi: làm cách nào mà tên trộm có thể leo lên tận đó? Rồi tôi vơ vội một vài bộ ấm chén, thìa

đĩa bằng bạc, làm ra vẻ đây là một vụ trộm. Tôi để Mary và bà Theresa ở lại, dặn họ chỉ hô

hoán sau khi tôi đã rời khỏi nhà mười lăm phút. Tôi vứt những bộ đồ ăn bằng bạc xuống ao

và về lại Sydenham, lòng mãn nguyện vì đã làm một việc tốt thật sự. Đó là sự thật, ông

Holmes ạ, dù tôi có phải trả giá cho nó bằng tính mạng của tôi chăng nữa.

Holmes trầm ngâm hút thuốc và im lặng hồi lâu. Rồi anh tiến đến bắt tay viên thuyền

trưởng.

- Tôi biết mỗi lời ông nói ra đều đúng sự thật, - anh nói - vì ông không cho tôi biết thêm

một điều gì mới lạ cả. Ngoại trừ một thủy thủ không một ai có thể thắt được những nút buộc

chặt đến thế khi trói phu nhân Brackenstall vào chiếc ghế bành. Mà phu nhân thì chỉ mới

gặp dân thủy thủ đúng một lần hồi bà đáp tàu sang Anh. Và người đó ắt phải cùng giai tầng

với bà; vì bà đã cố che chở, và điều này cho thấy bà rất yêu con người đó. Ông thấy đấy, tôi

đã dễ dàng tìm ra dấu vết ông, một khi tôi đã đi đúng đường.

- Tôi nghĩ rằng cảnh sát sẽ không bao giờ phát hiện được sự thật qua câu chuyện chúng

tôi bày ra.

374

- Và quả nhiên họ đã không phát hiện được, và tôi không tin là họ sẽ phát hiện được.

Thuyền trưởng Croker, vụ này rất nghiêm trọng, tuy tôi sẵn lòng thừa nhận ông đã hành

động như một trang quân tử. Tôi rất có thiện cảm với ông, cho nên nếu ông chọn phương án

là sẽ rời khỏi Anh quốc sau hai mươi bốn tiếng nữa, tôi xin hứa ông sẽ không bị một ai cản

trở.

- Sau đó ông sẽ báo cho cảnh sát?

- Dĩ nhiên.

Sắc mặt viên thuyền trưởng vụt ửng đỏ vì phẫn nộ.

- Sao ông lại đề nghị với tôi kỳ cục như vậy? Tôi biết rõ luật pháp nên thừa hiểu Mary sẽ

bị bắt vì tội đồng lõa. Ông tưởng tôi sẽ bỏ mặc nàng để tẩu thoát một mình sao? Ồ, không,

thưa ông. Cứ để mặc họ muốn làm gì tôi thì làm, nhưng ông Holmes, xin ông vì Chúa, hãy

nghĩ cách giúp Mary tội nghiệp của tôi khỏi phải ra tòa.

Holmes lại chìa tay lần nữa cho viên thuyền trưởng.

- Tôi chỉ thử lòng ông vậy thôi. Được rồi, tôi xin nhận cái trọng trách ông trao cho tôi,

nhưng tôi đã cho Hopkins một lời gợi ý rất đáng giá, và nếu ông ấy không biết khai thác cái

ý đó, thì tôi không thể làm gì hơn. Nào, thuyền trưởng Croker, bây giờ chúng ta sẽ làm đúng

thể thức của tòa án. Ông là bị cáo, còn Watson, anh là bồi thẩm đoàn, tôi không thấy ai

thích hợp hơn anh để đảm nhận vai này. Tôi là chánh án. Vâng, thưa các vị trong bồi thẩm

đoàn, các vị đã nghe lời khai, các vị thấy bị cáo có tội hay vô tội?

- Vô tội! - tôi nói.

- Vậy ông được trắng án, thuyền trưởng Croker ạ. Và trong khi luật pháp chưa tìm được

một con mồi nào khác, thì ông được hoàn toàn bình yên vô sự từ phía tôi.

Vết máu thứ hai:

Một buổi sáng của mùa thu, trong căn hộ chúng tôi xuất hiện hai người nổi danh khắp

châu Âu. Người thứ nhất mũi cao, mắt diều hâu, có cái nhìn trịch thượng, trông nghiêm

khắc và kiêu kỳ. Ðó là huân tước Bê-li, người hai lần giữ chức Thủ tướng. Người thứ hai

tóc đen, hơi thấp, có khuôn mặt cân đối. Người ông ta toát ra một vẻ lịch thiệp, trang nhã.

Ðó là Trê-la, bộ trưởng đặc trách các công việc của châu Âu. Hai vị khách ngồi cạnh đivăng.

Ðôi tay gầy gò của Thủ tướng bóp chặt lấy cái cán dù.Ông ta hết nhìn Holmes lại nhìn

tôi, buồn rầu và lo ngại. Bộ trưởng đặc trách các công việc châu Âu thì gãi gã những đồ

trang sức trên dây đồng hồ.

- Ông Holmes, tôi đã bị mất cắp. Tôi báo cho Thủ tướng và Ngài muốn gặp ông.

- Ông không báo cảnh sát sao?

- Không - Thủ tướng lên tiếng - Không báo và sẽ không báo. Báo cho cảnh sát nghĩa là

công bố sự việc. Mà chúng tôi muốn né tránh việc này.

- Vì sao, thưa Ngài?

- Tài liệu quan trọng tới mức nếu công bố nó, thì có thể dẫn đến một cuộc xung đột có

tính quốc tế. Có thể nới rằng vấn đề chiến tranh và hòa bình phụ thuộc vào tài liệu này. Nếu

đi truy tìm mà không giữ bí mật thì không nên truy tìm.

- Tôi hiểu. Còn bây giờ, ông Trê-la, tôi sẽ rất biết ơn ông, nếu ông kể cho tôi nghe tài liệu

bí mật mất trong trường hợp nào.

- Ðó là bức thư của quốc vương nước ngoài đến cách đây sáu ngày. Bức thư có ý nghĩa

hệ trọng đến nỗi tôi quyết định không cất nó trong cái tủ chống cháy của chính phủ. Chiều

đến tôi mang nó về nhà cất trong cái tráp, đặt ở trong phòng ngủ của tôi. Tráp này chuyên

dùng để cất giữ những tài liệu quan trọng. Chiều hôm qua, lá thư vẫn nằm ở đấy. Khi mặc

quần áo đi ăn trưa, tôi lại mở tráp ra và tài liệu vẫn còn nguyên. Thế mà sáng nay nó biến

mất. Suốt đêm, cái tráp được đặt ngay cạnh giường trên bàn rửa mặt của tôi. Tôi ngủ rất

tỉnh, vợ tôi cũng vậy. Cả hai chúng tới thề rằng không một ai vào phòng ban đêm cả.

- Ông ăn tối lúc mấy giờ?

- 7 giờ 30.

- Ông đi ngủ khi nào?

- Nhà tôi đi xem hát. Tôi chờ cô ấy. Gần 12 giờ chúng tôi đi vào phòng ngủ.

- Nghĩa là trong khoảng gần bốn giờ đồng hồ tráp không được một ai bảo vệ.

- Không một ai được phép vào phòng ngủ ngoài nữ hầu phòng người hầu và vợ tôi. Tuy

nhiên, cả hai người này đều là những gia nhân đáng tin cậy. Hơn nữa họ không hề biết trong

tráp đựng thứ gì.

- Ai biết có lá thư này?

- Trong nhà tôi, không một ai biết cả.

- Thế nhưng, bà nhà biết chứ?

396

- Không, thưa ông! Sáng hôm nay, khi không tìm thấy lá thư, tôi cũng không nói gì với

nhà tôi cả.

Thủ tướng gật đầu tán đồng:

- Tôi biết ông luôn có một ý thức trách nhiệm rất cao.Trong công việc này, ý thức đó còn

cao hơn nữa, ngay cả với gia đình...

Ông bộ trưởng cúi chào.

- Thật vậy, thưa ông! Sáng hôm nay, tôi không hề nói một lời về lá thư với nhà tôi.

- Bản thân bà nhà liệu có đoán ra không?

- Không, cô ấy không thể đoán được. Thêm vào đó, không thể có ai đoán được.

- Trước đây, có khi nào ông bị mất tài liệu không?

- Không, thưa ông.

- Có ai ở nước Anh biết lá thư này không.

- Các thành viên của nội các đã được thông báo về lá thư. Nhưng việc yêu cầu giữ bí mật

được Thủ tướng nhấn mạnh bằng lời cảnh cáo nghiêm khắc. Nhưng ai mà ngờ rằng chỉ vài

giờ sau đó, chính tôi đã làm mất nó.

Sự tuyệt vọng đã làm cho khuôn mặt của ông bộ trưởng thay đổi nhiều. ông vò đầu ân

hận. Trong khoảnh khắc hiện ra trước chúng tôi là những tình cảm chân chính của một con

người bồng bột, nhiệt thành. Tuy nhiên, ngay sau đó cái nét kiêu kỳ lại hiện lên trên khuôn

mặt ông ta. Với giọng điềm tĩnh, ông tiếp:

- Ngoài các thành viên của nội các còn có hai hoặc ba quan chức của bộ biết sự hiện diện

của bức thư. Còn ngoài ra, trong cả nước Anh, không một ai biết.

- Thế còn ở nước ngoài?

- Ở nước ngoài, tôi cũng tin là không một người nào biết lá thư, trừ tác giả của nó. Ngay

cả bộ trưởng của nhà vua cũng không biết.

Holmes ngẫm nghĩ ít phút rồi nói:

- Bây giờ, tôi cần biết cái gì ở đằng sau tài liệu? Vì sao việc lấy lá thư sẽ đem tới những

hậu quả nghiêm trọng?

Hai nhà hoạt động chính trị nhìn nhau rất nhanh. Thủ tướng chau mày:

- Bức thư nằm trong phong bì màu xanh da trời, dài và hẹp. Dấu đóng trên xi màu đỏ có

hình sư tử đang ở thế tiến công. Ðịa chỉ được viết bằng những nét cứng và đậm...

- Những chi tiết này tất nhiên là rất thú vị và quan trọng - Holmes ngắt lời Thủ tướng -

Có điều tôi cần biết về nội dung của lá thư. Lá thư nói về chuyện gì?

- Ðó là bí mật quốc gia. Tôi e không thể trả lời ông được hơn nữa, tôi chưa rõ điều ông

hỏi cần thiết ở chỗ nào. Nếu bằng tài năng hiếm thấy như người ta thường nói về ông, thì

ông sẽ có thể tìm được chiếc phong bì cùng với lá thư ở trong đó. Ông sẽ xứng đáng với

lòng biết ơn của đất nước, và sẽ nhận bất kỳ phần thưởng nào mà khả năng chúng ta cho

phép.

Holmes mỉm cười và đứng dậy:

397

- Tất nhiên Ngài là một trong những người bận rộn nhất nước. Nhưng nghề nghiệp đã

tước mất khá nhiều thời gian của tôi. Rất tiếc là trong công việc này, tôi không hữu ích cho

Ngài, và tôi coi sự tiếp xúc trò chuyện giữa chúng ta là sự tiêu phí thời giờ vô ích.

Thủ tướng nhổm phắt dậy. Trong đôi mắt sâu của ông lóe lên một ngọn lửa:

- Tôi không quen... Thưa ông! - ông ta bắt đầu nói.

Tuy nhiên sau khi tự trấn tĩnh được, ông lại ngồi xuống. Chúng tôi ngồi im lặng đến một

phút. Sau đó ông siết chặt lấy vai mình

- Ông Holmes ! Ông hoàn toàn đúng. Thật là vô lý nếu chờ đợi sự giúp đỡ của ông mà

chưa tin ông.

- Tôi tán thành với Ngài! - Nhà ngoại giao trẻ tuổi nói:

- Ðược, tôi sẽ nói cho ông nghe tất cả. Tôi tuyệt đối trông cậy vào lòng trung thành và

lòng yêu nước của các ông.

- Ngài có thể hoàn toàn tin vào chúng tôi.

- Chuyện thế này, đó là bức thư của một quốc vương nước ngoài. Ông ta tỏ ra lo ngại bởi

sự mở rộng thuộc địa gần đây của nước ta. Bức thư được viết vào giây phút bực bội. Sự tìm

hiểu tin tức đã chỉ rõ rằng các bộ trưởng của ông cũng không hay biết gì về lá thư. Lời lẽ

trong thư rất gay gắt, một vài câu mang tính khiêu khích. Vì vậy, nếu lá thư được công bố,

dư luận sẽ xao động, đất nước chúng ta sẽ bị cuốn hút vào một cuộc chiến tranh lớn.

Holmes viết tên một người trên mảnh giấy và đưa cho Thủ tướng coi.

- Ông ta đấy. Bức thư có khả năng cuốn theo nó những chi phí khổng lồ, sự hủy diệt hàng

trăm nghìn người - Thủ tướng nói.

- Ngài đã báo tin cho người viết lá thư chưa?

- Báo rồi. Bức thư viết bằng mật mã và được chuyển đi..

- Nhưng rất có thể ông ta đã tính đến chuyện công bố lá thư?

- Không. Chúng tôi có cơ sở để tin rằng ông ấy đã hiểu được tính thiếu thận trọng và sự

bồng bột của mình.

- Việc công bố lá thư là quả đấm mạnh sẽ giáng vào ông ta Nếu vậy, người ta đánh cắp

nó để làm gì?

- Ông Holmes, thế là ông buộc tôi phải nói tới tình hình chính trị thế giới. Ông đã thấy

châu Âu là một trại lính được vũ trang. Có hai liên minh cân bằng về lực lượng đang tồn tại.

Nước Anh thi hành chính sách trung lập. Nếu chúng ta bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh

với một liên minh thì liên minh kia sẽ có ưu thế hơn. Hơn thế, điều này không phụ thuộc

vào việc liên minh thứ hai có tham gia hay không tham gia vào cuộc chiến...

- Vậy là những kẻ thù của ông vua này (những người muốn thấy có sự hiềm khích giữa

ông ta với chúng ta) rất quan tâm đến lá thư?

- Ðúng vậy.

- Nếu tài liệu rơi vào tay đối phương thì ai có thể chuyển nó đến bất cứ chính phủ nào ở

châu Âu. Rất có thể hiện giờ bức thư đang lao đi với tốc độ chỉ có tàu thủy mới đuổi kịp?

398

Ông bộ trưởng đứng cúi đầu với một tâm trạng nặng nề. Thủ tướng nhẹ nhàng đặt tay lên

vai ông ta:

- Nỗi bất hạnh đã xảy ra với ông bạn của tôi. Không ai có ý định kết tội ông đâu. Chúng

ta sẽ áp dụng mọi biện pháp để phòng ngừa - Bây giờ, ông khuyên chúng tôi nên làm gì?

Holmes lắc đầu buồn rầu:

- Thưa Ngài? Nếu tài liệu này không được hoàn lại thì chiến tranh sẽ xảy ra?

- Chắc chắn như vậy!

- Nếu vậy, hãy chuẩn bị cuộc chiến thôi?

- Ðây là những lời tàn nhẫn, ông Holmes.

- Hãy chú ý đến sự thật, thưa Ngài. Tôi không tin là bức thư bị mất sau mười hai giờ

khuya đâu. Vì từ lúc ấy cho đến khi phát hiện ra, ông bộ trưởng và phu nhân đều ở trong

phòng ngủ. Thế nghĩa là tài liệu bị mất vào tối qua trong khoảng từ 7 giờ rưỡi tới 12 giờ, bởi

kẻ cắp khi biết bức thư ở đâu, tất nhiên hắn sẽ gắng đoạt lấy nó sớm nhất. Còn nếu tài liệu

bị mất vào hôm qua thì hiện giờ nó ở đâu? Kẻ cắp đã nhanh chóng chuyển cho người đang

quan tâm. Vậy thì chúng ta còn có cơ hội nào để tóm được hắn hoặc lần ra dấu vết của hắn

trên đất nước của chúng ta.

Thủ tướng đứng dậy:

- Ông lập luận rất lô gích. Tôi thấy quả thực không nên làm gì ở đây nữa.

- Ví như chúng ta cho rằng người hầu của ông bà bộ trưởng ăn cắp tài liệu?

- Họ là những gia nhân quen thuộc và đáng tin cẩn.

- Phòng ngủ ở gác ba và không có lối riêng ăn thông ra ngoài phố. Vậy thì không ai có

thể trèo lên cửa trước của căn phòng mà không bị để ý. Nghĩa là có một người nào đó ở

trong nhà đã phạm tội. Kẻ cắp có thể chuyển nó cho ai? Chỉ có thể chuyển cho một trong

những điệp viên quốc tế mà tôi biết rõ tên của họ. Ba người có thể nói là cầm đầu bọn này.

Tôi sẽ bắt đầu tìm xem một trong số ba người đó. Nếu một người nào đó trong bọn họ đã đi

khỏi thành phố và nhất là đã ra đi vào chiều hôm qua thì chúng ta sẽ biết tài liệu này biến đi

đâu.

- Vì sao người đó phải ra đi- Bộ trưởng hỏi - Hắn có thể mang bức thư tới một đại sứ

quán nào đó ở Luân Ðôn chứ?

- Các điệp viên này thường có những quan hệ rất căng thẳng với các đại sứ quán.

Thủ tướng gật đầu khẳng định điều đó:

- Tôi nghĩ ông rất có lý. Hắn sẽ tự tay mình mang lá thư. Kế hoạch hành động của ông,

tôi cảm thấy tuyệt đối chính xác.

- Tuy nhiên, ông bộ trưởng, ông đừng vì chuyện này mà quên đi những trách nhiệm khác

của chúng ta.

Các vị khách cúi chào rất trân trọng rồi rời khỏi căn phòng. Holmes bắt đầu im lặng. Thời

gian trối đi. Anh mê mải với những suy tưởng của mình. Tôi giở các báo buổi sáng đọc bài

nói về một tội ác vừa xảy ra vào chiều hôm trước. Ðột nhiên, bạn tôi nhổm phắt dậy, đặt tẩu

thuốc lên lò sưởi, kêu lên:

399

- Ðúng. Tình thế rất căng thẳng nhưng chưa hết hy vọng. Bây giờ cần biết ai là kẻ ăn cắp.

Suy cho cùng, chỉ có tiền mới làm bọn hắn quan tâm. Ngân khố của nhà nước sẽ giúp tôi.

Nếu hắn bán, tôi sẽ mua... Rất có thể hắn còn giữ bức thư. Hắn cần biết ở đây người ta trả

giá bao nhiêu trước khi đem bán ở nước ngoài. Chỉ ba người có khả năng dự vào trò chơi

này. Ðấy là Ô-bê, Rô-thi, và Lu-ca. Tôi sẽ tới thăm họ. Tôi liếc vào tờ báo buổi sáng.

- Lu-ca ở đường Godolphin phải không?

- Ðúng rồi.

- Anh không thể tới thăm ông ta được?

- Tại sao?

- Ông ấy bị giết rồi.

Holmes sửng sốt, dán mắt vào tôi, vẻ hoài nghi. Sau đó anh giật lấy tờ báo.

"Vụ giết người ở Westminster.

Chiều hôm qua, tại ngôi nhà số 16 đường Godolphin, đã xảy ra một án mạng. Ðường

Godolphin là một trong những con đường yên tĩnh trải dài giữa dòng sông và tu viện

Westminster. Phần lớn những ngôi nhà ở đây được xây vào cuối thế kỷ XVIII. Ông Lu-ca

nổi tiếng trong xã hội như một người dễ mến, một trong những giọng hát nam cao được ưa

chuộng nhất. Ông đã sống nhiều năm liền tại một biệt thự nhỏ trên phố này. Ông 34 tuổi,

chưa lập gia đình. Ðầy tớ của ông gồm người quản gia, bà nội trợ Pơ-rin và người hầu Mitôn.

Người nội trợ thường không làm vào buổi chiều. Bà ta lên phòng mình ở gác thượng rất

sớm. Còn chiều hôm đó, người hầu đi thăm một người bạn ở Hammersmith. Từ 10 giờ, ông

Lu-ca ở một mình trong ngôi nhà.

Cho tới bây giờ, chưa ai rõ chuyện gì đã xảy ra trong thời gian ấy. Nhưng lúc 12 giờ kém

15, ông Ba-re đi qua đường Godolphin, thấy cửa ngôi nhà số 16 bị mở toang. Ông gõ cửa,

nhưng không có tiếng, ông bước vào hành lang và gõ cửa một lần nữa. Vẫn không có ai trả

lời. Khi đó ông đẩy cửa bước vào.

Căn phòng rất hỗn độn. Tất cả đồ gỗ bị xê dịch về một phía, một chiếc ghế nằm lỏng

chỏng ở ngay giữa nhà. Chủ nhà nằm cạnh chiếc ghế. Ông bị giết bằng một nhát dao xuyên

thẳng vào tim. Vũ khí giết người là con dao găm Ấn độ được lấy từ bộ sưu tập vũ khí

phương Ðông trang trí trên một bức tường của căn phòng. Kẻ giết người không phải với

mục đích ăn trộm, bởi vì toàn bộ đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên vẹn.

Ông Lu-ca là một người danh tiếng. Cái chết này đã gây ra nỗi đau xót cho các thân hữu

của ông".

- Anh Watson! Anh nghĩ gì về chuyện này?

- Một sự trùng hợp kỳ lạ.

- Một trong số ba người có khả năng tham dự vào tấn kịch này đã bị chết. Thật là một sự

trùng hợp kỳ lạ! Không. Hai sự việc này chắc chắn có liên quan với nhau, chúng ta phải tìm

cho ra mối liên hệ này.

- Nhưng rồi cảnh sát sẽ biết tất cả.

400

- Không. Họ chỉ biết những gì mà mọi người đều biết ở đường Godolphin thôi? Chỉ có

chúng ta mới rõ cả hai trường hợp. Có một điểm làm cho tôi nghi ngờ Lu-ca. Ðường

Godolphin nằm cạnh Whitehall Terrace vài bước đi bộ. Những điệp viên khác thì sống ở

cuối Wesdend. Cho nên, Lu-ca dễ nhận được tin từ nhà ông bộ trưởng hơn những người kia.

Ðây là điểm nhỏ, nhưng nếu tính đến sự khai triển với tốc độ nhanh thì nó có thể biến thành

điểm chủ yếu. A! Lại có điều gì mới chăng!

Bà Hudson xuất hiện, mang chiếc khay trên có một tấm danh thiếp phụ nữ. Holmes nhìn

bà, nhíu lông mày và chuyển cho tôi.

- Hãy mời khách vào - Holmes nói.

Chỉ một thoáng sau, một phụ nữ đẹp nhất Luân Ðôn bước vào căn hộ chúng tôi. Tôi

thường nghe nói về vẻ đẹp của người con út của công tước Ben-ni, nhưng không một sự mô

tả nào có thể truyền đạt được vẻ duyên dáng của bà. Tuy nhiên, vào buổi sáng mùa thu này,

vẻ đẹp của bà có một nét gì khang khác; khuôn mặt bà lấp lánh, nhưng ánh mắt đỏ như đang

lên cơn sốt. Cái miệng tình tứ khép chặt lại. Bà đang cố gắng tự trấn tĩnh.

- Nhà tôi đã ở chỗ ông, phải không, ông Holmes?

- Vâng.

- Ông Holmes, tôi van ông, ông đừng nói cho nhà tôi biết là tôi đã đến đây.

Holmes cúi chào lạnh nhạt:

- Vẻ lộng lẫy của bà đặt tôi vào một tình huống rất khó xử. Mời bà ngồi xuống đây và nói

cho tôi biết bà cần gì. Song đáng tiếc là tôi không thể đem lại những lời hứa - Holmes nói.

- Ông Holmes. Tôi biết là ở tại nhà chúng tôi có một tài liệu nào đó đã bị thất lạc. Nhưng

vì nó đụng đến vấn đề chính trị nên nhà tôi không nói gì với tôi. Tôi van ông, ông giải thích

cho tôi biết cái gì đã xảy ra và hậu quả nó như thế nào?

- Bà đã đòi hỏi ở tôi cái điều vượt quá khả năng của tôi.

Bà ta thở dài rồi lấy tay ôm mặt.

- Bà cần hiểu tôi hơn, thưa bà! Nếu ông nhà không cho bà biết việc này thì bà tìm hiểu

làm chi? Thậm chí bà cũng không nên hỏi nơi tôi. Bà nên hỏi chồng bà.

- Tôi đã hỏi anh ấy. Thôi, nếu ông không muốn nới thì thôi Nhưng mong ông vui lòng trả

lời một câu hỏi khác.

- Câu hỏi như thế nào.

- Do vụ này, sinh mạng chính trị của chồng tôi có bị tổn thất không?

- Nếu công việc không được thu xếp ổn thỏa thì nó sẽ dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng.

Bà thở dài.

- Những hậu quả ấy như thế nào?

- Tôi không đủ sức trả lời câu hỏi này.

- Nếu thế, tôi sẽ không làm phí thời giờ của ông nữa. Tôi thực lòng muốn chia sẻ sự lo

lắng với chồng tôi. Một lần nữa, yêu cầu ông đừng nói với nhà tôi về chuyện gặp gỡ hôm

nay.

401

Ðến ngưỡng cửa, bà ngoảnh đầu lại và một lần nữa tôi nhìn thấy khuôn mặt đẹp, xúc

động, đôi mắt lo sợ và cái miệng xinh xắn mím chặt lại. Sau đó bà biến mất.

- Anh Watson, phái đẹp là một phần của cuộc đời anh - Holmes vừa cười vừa nói khi

cánh cửa được đóng mạnh lại và tiếng sột soạt của váy phụ nữ đã im bặt - Người đàn bà này

muốn gì đây?

- Bà ta lo sợ cho chồng là điều dĩ nhiên.

- Hãy hình dung lại khuôn mặt bà ta: nỗi lo sợ mất bình tĩnh và lòng kiên nhẫn.

- Ðúng, bà ấy rất lo lắng.

- Ðồng thời bà đã cố gắng thuyết phục chúng ta tin rằng bà ta hành động chỉ xuất phát từ

lợi ích của chồng mình, và vì vậy bà ta cần biết hết thảy mọi chuyện. Qua việc đó bà ta

muốn nói gì? Có lẽ anh cũng nhận ra là bà đã cố ý ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Bà

không muốn để chúng ta nhìn thấy rõ mặt bà.

- Ðúng vậy, bà ấy đã ngồi chính chỗ này.

- Nói chung, đàn bà thật khó hiểu. Rất nhiều điều được che đậy ở đằng sau các hành vi

bình thường nhất của đàn bà mà thôi. Chào Watson nhé!

- Anh đi à?

- Vâng. Tôi đi tới Sở cảnh sát về vụ Lu-ca. Anh hãy tiếp khách giùm tôi.

Suốt ngày hôm đó và hai ngày tiếp theo, Holmes im lặng như những hạt gạo. Anh đi, rồi

lại về, hút thuốc liên miên, kéo vi-ô-lông với những giai điệu du dương, hay trầm ngâm suy

nghĩ, ăn bánh săng-uých bất kỳ lúc nào và trả lời nhát gừng các câu hỏi của tôi. Tôi hiểu anh

chưa đem lại kết quả. Anh không hề kể cho tôi nghe về điều gì.

Chỉ qua báo chí, tôi mới được biết người ta bắt giữ Mi-tôn, gia nhân của người quá cố.

Cuộc điều tra đã xác minh đây là vụ giết người có chủ tâm từ trước. Thế nhưng vẫn chưa

tìm ra thủ phạm. Trong phòng có nhiều vật dụng giá trị, nhưng không mất một thứ nào.

Giấy tờ của người quá cố cũng không bị đụng đến. Người ta xem xét chúng tỉ mỉ và xác

nhận người quá cố rất quan tâm đến tình hình thế giới. Ông quen biết những nhà hoạt động

chính trị danh tiếng của một vài nước. Có điều trong các tài liệu chất đầy ngăn bàn ông,

không tìm thấy cái gì đáng quan tâm. Ðối với phụ nữ, ông quen nhiều nhưng không yêu một

ai. Cái chết của ông còn là một câu hỏi bí ẩn. Ðiều gì liên quan tới người hầu Mi-tôn.

Vào chiều hôm đó, Mi-tôn đi thăm bạn bè. Anh về tới nhà lúc 12 giờ. Và đã thực sự xúc

động trước tấm thảm kịch bất ngờ. Mi-tôn luôn có quan hệ thân tình với chủ nhà. Một vài

vật dụng của người quá cố - ví như hộp dao cạo râu - được tìm thấy trong va-li của người

hầu, nhưng anh nói rõ đấy là quà của ông chủ. Người nội trợ Pơ-rin cũng đã khẳng định

điều này. Mi-tôn phục vụ trong nhà Lu-ca được ba năm. Ðáng lưu ý là Lu-ca không bao giờ

cho Mi-tôn cùng đi với mình ra nước ngoài. Ðôi khi ông sống liên tục ở Paris suốt ba tháng

liền, thế mà vẫn để Mi-tôn ở lại trông nom nhà cửa.

Theo báo chí thì đã ba ngày rồi, các bí mật vẫn còn nguyên. Mặc dầu Holmes biết nhiều

hơn báo chí, song anh vẫn không kể cho tôi nghe điều gì cả. Chỉ có một lần, nhân câu

chuyện hàng ngày, anh có nói rằng thám tử Lestrade đã đưa anh vào thực chất của vấn đề.

402

Do vậy tôi hiểu anh đã nắm bắt được nhiều tin tức mới. Bước sang ngày thứ tư, có một bức

điện dài từ Paris chuyển đến:

Tờ báo lớn "Trung tâm Ðiện tín Daily Tétégraph" viết:

"Cảnh sát Paris đã vén bức màn bí mật về cái chết của ông Lu-ca. Bạn đọc còn nhớ rằng

thi thể của ông được phát hiện ra trong căn phòng cùng với con dao găm, rằng mối ngờ vực

đã đổ xuống đầu người hầu phòng, song anh ta đã chứng minh được tình trạng ngoại phạm

của mình. Hôm qua, gia nhân của bà Phu-na, người đang sống ở Paris, tại đường Auterlitz,

đã nói với cảnh sát rằng bà chủ của mình bị điên. Các khám nghiệm đã chứng tỏ rằng bà ta

thực sự mất trí. Trong lúc điều tra, cảnh sát xác minh là vào thứ ba vừa rồi, bà ta trở về sau

chuyến đi tới Luân Ðôn. Có nhiều cơ sở cho rằng chuyến đi này có liên quan đến án mạng

tại Westminster. Sự đối chiếu các bức ảnh cho phép khẳng định chồng bà Phu-na và ông

Lu-ca chỉ là một, và không rõ vì sao người quá cố đã sống hai cuộc đời ở Luân Ðôn và ở

Pans. Bà Phu-na xuất thân trong một gia đình theo chủ nghĩa thực dân. Bà mắc chứng động

kinh và do vậy không hoàn toàn làm chủ được mình.

Sáng thứ ba, có một người đàn bà rất giống bà ta đứng trên sân ga Charing với vẻ mặt rồ

dại và những hành vi quái đản. Cho nên, rất có thể chồng bà chết là do bà gây ra trong cơn

điên loạn, hoặc cái chết ấy đã tác động đến bà, khiến bà bị mất trí, vẫn chưa có hy vọng bà

sẽ khỏi bệnh. Có nhiều tin tức cho hay rằng vào chiều thứ hai có một người đàn bà nào đó -

có thể là bà Phu-na, - đã đứng quanh ngôi nhà trên đường Godolphin chừng vài tiếng đồng

hồ...".

Tôi đọc bức điện cho Holmes nghe khi anh dùng xong bữa điểm tâm.

- Anh Watson, anh là người kiên nhẫn vô cùng. Ba ngày vừa rồi tôi chưa kể điều gì cho

anh nghe, chỉ vì không có gì để kể. Ngay bây giờ các tin tức từ Paris vẫn chưa giúp chúng ta

bao nhiêu.

- Thế nhưng cái chết của người ấy hiện giờ đã hoàn toàn được sáng tỏ.

- Cái chết ấy chỉ là một phần rất nhỏ so với nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta phải tìm cho

được bức thư và cứu châu Âu ra khỏi thảm họa chiến tranh. Trong ba ngày vừa qua, chỉ có

một sự kiện đáng lưu ý là: chưa có cái gì xảy ra cả. Khắp châu âu chưa có dấu hiệu bất an.

Lẽ nào bức thư bị thất lạc. Nếu nó chưa bị thất lạc thì hiện giờ nó ở đâu? Tại sao người ta lại

cất giữ nó? Phải chăng Lu-ca bị giết đúng vào cái buổi tối bị mất lá thư. Nói chung, bức thư

có ở chỗ ông ta hay không. Nếu có, thì vì lẽ gì lại không tìm thấy nó. Tại sao người vợ điên

loạn của Lu-ca lại không mang nó theo mình? Nếu bà ta mang lá thư đi thì vì lẽ gì nó không

có ở chỗ bà tại Paris? Tôi có thể tìm nó ở đấy mà không làm cho cảnh sát Pháp nghi ngờ

được chăng? Nếu như tôi thành công trong việc này thì nghề nghiệp của tôi sẽ kết thúc một

cách hiển hách... Ở đây rồi. Cái tin tức mới nhất từ những cảnh sát tiên phong - Anh liếc

nhanh vào mẫu thư chuyển cho anh - A ha? Hình như Lestrade đã tìm ra một điều gì thú vị

sao đó Watson, chúng ta cùng đi đến Westminster.

403

Trước tiên, chúng tôi đến nơi xảy ra án mạng. Ðó là ngôi nhà cao, mặt tiền hẹp, trông

không đẹp lắm. Khuôn mặt Lestrade lấp ló qua cửa sổ. Người giúp việc mở cửa ra và ông ta

thân mật chào chúng tôi.

Căn phòng chúng tôi bước vào chính là nơi Lucas bị giết, có điều giờ đây dấu tích của tội

ác không còn nữa, ngoài vết máu hiện rõ trên tấm thảm. Chiếc thảm là một miếng nỉ dày,

hình vuông. Bộ sưu tập vũ khí nổi tiếng treo lơ lửng trên lò sưởi.

- Ông đã được nghe những tin tức mới từ Paris chưa? - Lestrade hỏi.

Holmes gật đầu.

- Lần này các bạn Pháp đã nói trúng cái điều cần thiết. Vụ giết người tất nhiên đã diễn ra

đúng như họ trình bày. Vợ ông ta gõ cửa. Ông ta đưa bà vợ vào nhà. Bà ấy đã kể cho ông ta

nghe là đã tìm thấy ông ta bay bướm như thế nào, rồi sau đó mắng sa sả vào mặt chồng. Sau

đấy, nhân có con dao găm trong tay, bà nhanh chóng đi đến kết thúc. Mọi chuyện diễn ra cố

nhiên phải ngay một lúc vì tất cả chiếc ghế được chất thành đống. Một chiếc ghế nằm trong

tay ông ta, hình như ông ta có dùng chiếc ghế này để tự vệ.

Holmes nhướn lông mày:

- Ông có tin tức gì cho tôi đấy?

- Ồ, đây là chuyện khác, một chuyện đáng khả nghi.

- Chuyện gì?

- Sau khi được báo tin, chúng tôi đến đây, cẩn thận canh giữ hiện trường; đồ đạc được giữ

nguyên như cũ. Sáng hôm nay, sau khi người chết đã được mai táng và việc xem xét căn

phòng này đã kết thúc, chúng tôi cho thu dọn đồ đạc trong phòng, xếp lại cho nó ngăn nắp.

Và tấm thảm này nó không được dính chặt xuống nền nhà mà chỉ đặt sơ sài trên đó. Vô tình

chúng tôi nâng nó lên và tìm thấy...

- Thấy? - Thấy cái gì?

Sự quan tâm hiện rõ trên khuôn mặt Holmes.

- Ồ! ông có nhận ra vết máu trên tấm thảm này không? Quả thật phải có một lượng máu

đáng kể mới thấm qua tấm nỉ như thế này.

- Phải.

- Hãy hình dung rằng trên sàn ván, ở chỗ ngay tấm thảm đặt lên mà lại không có một dấu

máu nào.

- Không có dấu máu? Sao vậy? Phải có chứ?

- Ðúng như ông nghĩ. Vậy mà nó không có, mới là kỳ lạ ông ta khẽ nâng rìa tấm thảm

lên. Và chúng tôi thận thấy trên sàn ván (nơi tiếp xúc với tấm thảm không có vết máu.

- Thế nhưng, mặt dưới của tấm thảm cũng bị vấy náu nhiều như ở mặt trên kia mà. Phải

có một mặt nào đó lưu lại dấu vết trên sàn nhà chứ!

Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của người chuyên gia nổi tiếng. Lestrade cười hì hì khoái trá:

- Vết máu trên sàn ván cũng có đấy, nhưng nó không nằm ở vị trí đó. Hãy nhìn coi?

Vừa nói, ông ta khẽ lật phía điểm khác của tấm thảm lên. Quả thật trên những ô vuông

sáng bóng của sàn ghép gần phía cánh cửa, chúng tôi nhìn thấy một vệt đỏ loang lổ.

404

- Ông nói gì về điều này, ông Holmes? Ở đây mọi chuyện thật đơn giản. Hai vết máu vẫn

hoàn toàn trùng lên nhau. Nhưng tấm thảm đã bị lật trở lại Vì rằng tấm thảm hình vuông và

không được ghìm chặt xuống nền nhà nên chuyện đó là rất dễ, ông Holmes.

- Chuyện đó hoàn toàn hiển nhiên. Nếu đặt tấm thảm y vào vị trí cũ thì vết bẩn (một ở

mặt trên tấm thảm và một ở trên sàn ván) bắt buộc phải chồng lên nhau. Còn tôi xin hỏi

ông: Ai đã lật tấm thảm lên? Và người ấy lật lên để làm gì?

Holmes cố gắng kiềm chế nỗi xúc động đang xâm chiếm lấy mình.

- Ông Lestrade! Người cảnh sát đứng ở hành lang luôn luôn trực ở đây, phải không?

- Vâng.

- Tôi khuyên ông thế này vậy: Hãy hỏi hắn đến nơi đến chốn. Nhưng chúng tôi sẽ không

chứng kiến. Chúng tôi chờ ở đây. Hãy nói vì sao hắn dám cả gan cho một người nào đó vào

đây và để cho người ấy ở lại một mình trong phòng này. Hãy nói với hắn là ông đã biết rõ

như vậy. Hãy đe dọa hắn. Hãy nói rằng chỉ có sự thú thực mới có thể giúp hấn chuộc lỗi

lầm.

- Tôi thề là tôi sẽ ép hắn đến cùng.

Ông chạy vào phòng bên cạnh. Chỉ sau một phút, chúng tôi đã thấy tiếng quát tháo ầm ĩ.

- Mau lên. Watson mau lên - Holmes cuống quít.

Tất cả sức lực siêu nhiên trong người Holmes đột ngột trỗi dậy. Anh lật tấm thảm lên,

quỳ xuống bắt đầu lần từng ô vuông gỗ lát sàn dưới chân mình. Một ô vuông đã văng ra. Ðó

là một nắp hộp nhỏ, phía dưới có một lỗ tối om. Holmes thọc tay vào đó. Thế nhưng, sau

khi lôi chiếc hộp ra, anh bắt đầu rên lên vì buồn bực và thất vọng, chiếc hộp trống không.

- Nhanh lên Watson! Hãy đặt nó vào chỗ cũ!

Chúng tôi vừa kịp giấu chiếc hộp và đặt tấm thảm lên thì đã nghe thấy giọng của Lestrade

ở ngoài hành lang.Khi ông ta bước vào, Holmes đã tựa vào lò sưởi với vẻ ngạo mạn, phớt

đời.

- Xin lỗi, không biết điều gì đã giữ chân ông ở lại đây, ông Holmes ! Tôi thấy những

chuyện này đã làm ông ngán đến tận cổ rồi. Cuối cùng hắn phải thú nhận! Vào đi, Mắc!

Một cảnh sát to lớn, mặt đỏ ửng rón rén bước vào căn phòng.

- Chiều hôm qua một người đàn bà trẻ tuổi rẽ vào đây. Bà nói bà bị lầm nhà. Chúng tôi có

trò chuyện với nhau một chốc. Suốt ngày đứng một mình ở đây quả có buồn thật.

- Ðược rồi Vậy chuyện gì đã xảy ra?

- Bà ta muốn coi tận mắt vụ giết người mà báo chí đã đưa tin. Ðó là một người đàn bà trẻ

trung và đứng đắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng sẽ không có gì xấu xa, nếu tôi đưa bà ta vào xem.

Nhưng sau khi trông thấy vết bẩn trên tấm thảm, bà ta đã ngã quỵ xuống, nằm bất động như

một người chết. Tôi chạy ùa vào bếp, mang nước ra, thế nhưng vẫn không làm sao cho bà

ấy tỉnh lại; tôi lại chạy ra góc phố, mua một chai cô-nhắc. Nhưng lúc tôi bước vào phòng thì

bà ta đã tỉnh dậy và đi ra. Có lẽ bà xấu hổ khi gặp lại tôi.

- Thế không có ai đụng vào tấm thảm chứ?

405

- Khi tôi quay lại, tấm thảm có bị xê dịch chút xíu, bởi vì bà ta ngã lên nó mà. Thêm vào

đó, tấm thảm lại không được đóng chặt xuống nền nhà. Sau đấy, tôi đặt nó ngay ngắn trở

lại.

- Ðó là bài học cho ông đấy ông Mắc, không lừa nổi tôi đâu. - Lestrade nói với vẻ quan

trọng - Chắc ông nghĩ rằng việc đó sẽ không bị phát hiện. Thế mà tôi chỉ cần ném một cái

nhìn vào tấm thảm là tôi lập tức hiểu ngay là đã có một ai đó rẽ vào căn phòng này. Thật

may cho ông, là đã không mất gì cả ông chỉ phải mang tiếng xấu thôi! Ông Holmes, rất tiếc

là tôi gọi ông tới đây vì cái trò nhảm nhí này. Thế nhưng tôi cho rằng cái vết máu thứ hai cái

vết không trùng lên vết thứ nhất sẽ khiến ông thích thú.

- Cố nhiên...

- Ông Mắc, người đàn bà ấy vào đây chỉ một lần thôi sao?

- Vâng chỉ một lần.

- Tên bà ta là gì.

- Tôi không biết. Bà ta nói là đi tìm việc làm, nhưng nhầm số nhà. Bà ta rất lịch thiệp và

thoải mái.

- Bà ấy có cao không? Có đẹp không?

- Vâng bà ta hơi cao. Cũng có thể nói là bà ta đẹp, thậm chí rất đẹp. "ôi! ông sĩ quan, xin

hãy cho phép tôi liếc nhìn một chút xíu thôi!". Phong thái bà ta dễ coi và dễ thương như thế

nên tôi khó lòng từ chối.

- Bà ấy ăn mặc ra sao?

- Áo choàng dài phủ đến tận gót.

- Chuyện đó xảy ra từ lúc mấy giờ?

- Khi tôi từ tửu quán quay trở lại, thì đèn phố đã được bật sáng.

- Rất tiếc? Ta đi thôi, Watson?

Chúng tôi bước ra, Lestrade ở lại trong phòng. Mắc chạy ra, mở rộng cửa cho chúng tôi

với vẻ hối hận. Holmes quay lại, đứng ở ngưỡng cửa, đưa ra một cái gì đó. Mắc chăm chú

nhìn.

- Trời ơi? Ông ta kinh ngạc kêu lên.

Holmes đặt ngón tay lên môi rồi nhét vật đó vào túi. Anh cười khanh khách, khi chúng

tôi bước ra ngoài đường.

- Thật tuyệt vời. Ta đi nào! Bức màn đang được vén lên. Chiến tranh sẽ không thể xảy ra

được. Danh vọng chói lọi của huân tước sẽ không bị lu mờ. Quốc vương thiếu cẩn trọng kia

sẽ ngủ ngon, Thủ tướng sẽ không phải tháo gỡ tình hình phức tạp ở châu Âu. Lòng tôi tràn

ngập niềm khâm phục đối với con người đáng khâm phục này.

- Anh đã giải bài toán ra sao?

- Bây giờ thì chưa. Chúng ta sẽ đi thẳng tới Whitehall Terrace và sẽ kết thúc công việc.

Khi đến nhà ông bộ trưởng, Holmes nói rõ là anh muốn gặp bà.

- Ông Holmes - Bà ta nói, mặt ửng hồng lên vì giận dữ - ông không cao thượng chút nào.

Tôi đã nói là tôi muốn giữ bí mật chuyến viếng thăm của tôi, kẻo nhà tôi nghĩ rằng tôi

406

nhúng tay vào công việc của anh ấy. Bằng việc đến đây, ông đã làm tổn hại thanh danh của

tôi.

- Rất tiếc là tôi không thể làm gì khác, thưa bà? Người ta bảo tôi phải tìm cho ra tài liệu.

Tôi đề nghị bà trao nó cho tôi.

Người đàn bà đứng phắt dậy. Ðôi mắt của bà mờ đi. Bà ta dao động dữ dội, tôi có cảm

giác bà sắp ngất xỉu đi. Nhưng không, bà ta có một nghị lực thật phi thường. Bà ta giận dữ,

quát:

- Ông đã xúc phạm đến tôi.

- Xin hãy nghe đây, thưa bà Hil-đa! Giận dữ cũng vô - ích. Hãy đưa bức thư cho tôi.

Bà ta lăng xăng chạy tới máy điện thoại.

- Người quản lý sẽ đưa tiễn ông.

- Ðừng gọi. Nếu bà làm như vậy thì mọi ý định chân thành của tôi nhằm giúp bà sẽ vô

ích. Hãy trả lại bức thư cho tôi thì mọi chuyện sẽ được ổn thỏa. Còn nếu bà không nghe,

buộc lòng tôi phải tố giác bà.

Bà ta đứng trước chúng tôi, uy nghi và kiêu hãnh, tay không rời khỏi máy điện thoại,

nhưng vẫn chưa gọi.

- Ông không cao thượng đâu, ông Holmes ạ. Ông nói là ông biết một điều gì đó, vậy ông

biết điều gì?

- Thưa bà Hil-đa, xin bà hãy ngồi xuống. Bà sẽ bị thương nếu bà ngã. Tôi sẽ không nói

chừng nào bà chưa ngồi. Vâng, xin cám ơn bà!

- Ông Holmes, tôi cho ông năm phút.

- Chỉ một phút thôi. Tôi biết bà đến gặp ông Lu-ca, đưa lá thư cho ông ta. Tôi cũng biết

chiều hôm qua, bà lại vào căn phòng của ông ta, lấy lại lá thư bên dưới tấm thảm.

Mặt bà Hil-đa trở nên tái mét. Bà không dám nhìn Holmes. Hơi thở bà nghẹn lại, không

nói một lời.

- Ông quẫn trí rồi, ông Holmes... Ông quẫn trí mất rồi? - Cuối cùng bà kêu lên.

Holmes rút từ túi ra một mảnh các-tông nho nhỏ.

- Ðây là tấm ảnh của người đàn bà. Tôi cầm lấy nó vì tôi cho rằng nó có thể sẽ hữu ích. -

Anh nói - Cảnh sát đã nhận ra bà?

Bà ta thở dài một cách khó nhọc, đầu bà ngã xuống lưng ghế.

- Thưa bà. Bà đang giữ bức thư. Tôi không muốn làm bà phiền muộn. Nhiệm vụ của tôi

sẽ chấm dứt khi tôi hoàn lại lá thư cho ông nhà. Hãy nghe lời khuyên nhủ của tôi.

Cho tới lúc đó, bà vẫn chưa chịu thua.

- Ông Holmes, tôi xin nhắc lại với ông rằng ông đang bị một thứ tưởng tượng nào đấy

điều khiển.

Holmes đứng dậy khỏi ghế.

- Thật đáng tiếc. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để cứu giúp bà. Nhưng thôi.

Tùy bà.

Anh bấm chuông. Viên quản lý bước vào.

407

- Ông bộ trưởng có ở nhà không?

- Sau mười lăm phút nữa.

Holmes liếc nhìn đồng hồ:

- Rất tốt, tôi sẽ chờ.

Ðúng lúc viên quản lý khép cửa lại, bà Hil-đa dang rộng hai tay, phủ phục dưới chân

Holmes giàn giụa nước mắt.

- Hãy lượng thứ cho tôi, ông Holmes. Xin đừng nói với anh ấy! Tôi yêu anh ấy! Tôi đau

lòng nếu làm cho anh ấy nhiều phiền muộn.

Holmes nâng bà dậy.

- Xin cám ơn bà. Thế là vào phút chót, bà đã nghĩ lại. Không nên mất một giây nào nữa.

Bức thư đâu?

Bà ta lao đến bàn giấy, mở khóa và rút ra tấm phong bì dài, màu xanh da trời.

- Nó đây, ông Holmes...

- Chúng tôi cần cho nó vào chỗ cũ. Mau lên! Mau lên! Cái tráp đựng tài liệu đâu?

- Trong phòng ngủ.

- Mau lên!

- Hãy để nó vào đấy.

Một phút sau, bà xuất hiện với cái tráp dẹt.

- Bà có chìa khóa thứ hai không? Mở đi?

Bà Hil-đa rút ra từ trong người chiếc chìa khóa nhỏ. Tráp được mở. Trong đó, đầy giấy

tờ. Holmes đặt chiếc phong bì vào chính giữa, kẹp vào những tài liệu khác. Tráp được khóa

và được trở lại phòng ngủ.

- Bây giờ chúng ta chuẩn bị tiếp ông nhà - Holmes nói - Chúng ta còn mười phút nữa. Tôi

sẽ che chở cho bà, bà Hil-đa? Trong thời gian còn lại, bà hãy kể cho tôi nghe câu chuyện

này đi.

- Ôi! ông Holmes! Chặt cánh tay phải của tôi còn dễ hơn là để cho anh ấy đau khổ, dù chỉ

một phút thôi. Khắp Luân Ðôn này, không thể có người đàn bà nào yêu chồng mình hơn tôi.

Tuy vậy, nếu nhà tôi biết rằng tôi phải làm cái điều bắt buộc phải làm, anh ấy vẫn không thể

tha thứ cho tôi. Hãy giúp tôi, ông Holmes!

Trước lúc xây dựng gia đình, tôi có viết một lá thư dại dột và thiếu thận trọng. Ðó là thư

của một cô gái đa cảm đang yêu. Trong thư, không có điều gì xấu xa cả, vậy mà nhà tôi sẽ

coi hành vi này là tội lỗi. Nếu như nhà tôi đọc lá thư đó, chắc chắn anh ấy sẽ không còn tin

tôi. Nhiều năm đã trôi qua. Tôi ngỡ rằng "chuyện lá thư" đã rơi vào quên lãng. Thế nhưng,

đột nhiên Lu-ca báo cho tôi biết là lá thư đã rơi vào tay ông ta và ông ta có ý định chuyển

cho nhà tôi coi. Tôi van nài ông ta, xin ông ta hãy buông tha cho tôi. Ông ta hứa sẽ hoàn lại

lá thư nếu tôi mang đến cho ông ta một tài liệu ông ta nói tài liệu này hiện nhà tôi đang cất

trong tráp đựng các công văn khẩn. Ông ta biết về tài liệu này. Lu-ca cam đoan với tôi là

điều đó không làm tổn hại chút nào tới nhà tôi. Nếu ông ở đó vào địa vị của tôi, ông sẽ làm

gì.

408

- Kể tất cả cho ông nhà nghe.

- Ôi! không thể làm như vậy được Tôi đã đánh cắp, ông Holmes à. Tôi lấy khuôn chìa

khóa và Lu-ca làm được chiếc chìa khóa thứ hai. Tôi mở tráp, lấy tài liệu và mang tới

đường Godolphin.

- Rồi tại đó, chuyện gì đã xảy ra?

- Tôi gõ cửa vào giờ hẹn. Lu-ca ra mở cửa. Tôi đi theo ông ta vào phòng. Cửa được khép

hờ. Tôi nhớ rằng khi tôi bước vào nhà thì ở ngoài đường có một người đàn bà nào đó đang

đứng. Hai lá thư nhanh chóng được trao nhau. Ðúng lúc đó, tôi nghe có tiếng động mạnh ỏ

cạnh cửa và tiếng bước chân vang lên ở hành lang. Lu-ca nhanh chóng lật tấm thảm lên,

nhét tài liệu xuống đó, rồi đặt tấm thảm vào như cũ. Tiếp theo, tôi trông thấy một bộ mặt

xám đen ngây dại và nghe giọng đàn bà quát mắng bằng tiếng Pháp: "Sự chờ đợi của tao

quả không vô ích. Cuối cùng tao đã bắt gặp mày với nó". Tôi nhìn thấy ông ta cầm chiếc

ghế, còn trong tay bà ta lấp loáng một con dao găm. Tôi lao ra khỏi nhà vì khiếp đảm. Chỉ

vào sáng hôm sau, nhờ đọc báo, tôi mới biết về vụ giết người đó. Tối hôm ấy tôi rất mừng

vì đã đốt xong lá thư thời xa xưa. Nhưng sáng hôm sau, tôi biết một tai họa khác sắp đổ

xuống đầu tôi. Khó khăn lắm tôi mới không quỳ lạy anh ấy. Sáng hôm sau, tôi đến chỗ ông,

và đã thấy rõ rằng tình hình nghiêm trọng. Từ giây phút đó, tôi luôn nghĩ là phải hoàn lại tài

liệu cho nhà tôi. Tài liệu đang nằm ở chỗ Lu-ca cất giấu. Nếu bà ta không xuất hiện, tôi

không bao giờ biết được nơi cất giấu tài liệu. Phải đột nhập vào căn phòng đó. Nhưng bằng

cách nào? Tôi theo dõi ngôi nhà suốt hai ngày, nhưng cánh cửa không được mở lấy một lần.

Mãi tới chiều hôm qua, tôi mới thành công. Tôi đem tài liệu về nhà, quyết định tiêu hủy nó,

và sẽ không kể cho anh ấy nghe chuyện gì xảy ra. Bởi vì tôi không biết cách hoàn lại lá thư

cho nhà tôi. Ôi? Tôi đã nghe thấy tiếng chân của anh ấy ở ngoài cầu thang rồi.

Ông bộ trưởng chạy bổ vào phòng, kêu lớn:

- Có gì mới không, ông Holmes? Có gì mới?

- Có hy vọng?

- May quá - Nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên - Thủ tướng đang ăn sáng với tôi. Có thể chia sẻ

nỗi hân hoan với Ngài được không? Thần kinh của Ngài rất vững. Vậy mà Ngài hầu như

không ngủ được, từ khi xảy ra vụ này. Ja-cốp! Hãy mời Thủ tướng đến đây. Có gì liên quan

tới mình đâu, hỡi em yêu quý!

Cứ theo ánh mắt của Thủ tướng, cứ theo sự cử động dồn dập của đôi tay ông, tôi thấy ông

đang chia sẻ nỗi xúc động với ông bộ trưởng.

- Ông Holmes, tôi rất hiểu là ông muốn báo cho chúng tôi biết một điều lành?

- Sau khi thăm dò tất cả những nơi tôi có điều kiện thăm dò, tôi tin rằng chúng ta không

còn gì phải lo ngại.

- Nhưng quả là không đầy đủ, ông Holmes. Chúng ta không thể sống mãi trên núi lửa

được. Chúng ta cần biết một cách rõ ràng.

- Tôi hy vọng sẽ tìm ra bức thư, vì vậy tôi mới đến đây. Càng nghĩ về công việc này, tôi

càng tin rằng bức thư không bao giờ vượt ra khỏi ranh giới của ngôi nhà này!

409

- Ông Holmes!

- Nếu quả thật nó đã bị mất thì cố nhiên người ta đã công bố nó từ lâu, từ rất lâu rồi.

- Nhưng vì sao có thể cho rằng bức thư được cất giấu trong ngôi nhà này?

- Chúng tôi không tin có kẻ đã lấy nó.

- Vậy nó biến mất từ tráp làm sao được?

- Tôi cũng không tin là nó đã ra khỏi cái tráp.

- Ông Holmes! Bây giờ không phải là lúc để đùa cợt. Tôi cam đoan với ông là trong đó

không có lá thư.

- Thì ta hãy nhìn lại một lần nữa, xem sao?

- Không. Ðiều đó hoàn toàn vô ích?

- Có thể ông không để ý đến nó.

- Không đời nào có chuyện ấy cả.

- Ai mà biết được? Những chuyện tương tự như thế vẫn thường xảy ra. Vì ở đây có lẽ còn

có những tài liệu khác nữa. Bức thư có thể bị lẫn trong số tài liệu đó.

- Bức thư nằm ở trên cùng.

- Có thể một ai đấy xóc nó lên và bức thư đã bị dịch chuyển.

- Không, Không? Tôi đã lấy tất cả ra rồi!

- Nhưng có thể dễ dàng kiểm tra lại điều đó, ông Trê-la - ông Thủ tướng nói - Hãy lệnh

mang tráp lại đây?

Ông bộ trưởng ấn nút chuông.

- Ja cốp. Hãy mang cái tráp đựng giấy tờ của tôi ra đây! Chúng ta sẽ phí thì giờ, nhưng

nếu điều đó làm ông hài lòng thì... Chúng tôi sẽ kiểm tra lại. Cám ơn Ja-cốp, hãy đặt nó

xuống đây... Chìa khóa tôi luôn để tráp dây đeo đồng hồ. Ðây mọi giấy tờ đây? Ông coi đi.

Bức thư của huân tước Mê-rô, báo cáo của ngài Hát-đy, bị vong lục từ Belgrade, các tài liệu

về thuế lúa mì Ðức- Nga, bức thư từ Madrid, bản báo cáo của huân tước Flô... Trời ơi? Cái

gì thế này.

Ông Thủ tướng giật lấy tấm phong bì màu xanh da trời từ tay ông bộ trưởng.

- Ðúng, nó đấy! Và bức thư còn nguyên vẹn... Xin chúc mừng ông, ông Trê-la!

- Cám ơn Ngài. Xin cám ơn Ngài! Một sức nặng ghê gớm đã trút khỏi vai tôi ! Thế nhưng

không thể hiểu nổi... Ông Holmes, ông là phù thủy! Do đâu ông biết được tài liệu ở đây?

- Bởi vì tôi biết rằng đối với nó không ở đâu tốt hơn là ở đây cả.

- Tôi không thể tin vào đôi mắt của mình nữa rồi! - Ông lao vút ra khỏi phòng - Vợ tôi

đâu rồi? Hil-đa! Hil-đa!

Chúng tôi nghe rõ giọng nói của ông vang lên ở ngoài cầu thang. Ông Thủ tướng nheo

nheo đôi mắt, rồi nhìn vào Holmes.

- Hãy nghe đây, ông Holmes - ông ta nói - Ở đây ẩn giấu một điều gì đó. Bức thư trở lại

trong tráp bằng cách nào vậy?

Holmes mỉm cười quay lưng lại để lẩn tránh cái nhìn từng trải của Thủ tướng.

- Chúng ta còn có những bí mật xã giao của mình nữa.

410

Holmes nói, và sau khi cầm lấy mũ, anh bước ra phía cửa...

Cung đàn sau cuối

Đêm kinh hoàng tại điền trang Wisteria

"Thưa ông Holmes,

Tôi vừa dự một cuộc phiêu lưu hoàn toàn khó tin và kỳ lạ. Tôi muốn tham khảo ý kiến

ông!

Scott Eccles.

Hộp thư lưu trữ, Charing Cross".

- Tác giả của bức điện này là đàn ông hay đàn bà?

- Chắc là đàn ông! Một phụ nữ đánh điện không bao giờ trả cước hồi âm! Ông ta sẽ thân

hành tới.

- Anh sẽ tiếp ông ta?

- Tôi đã thất nghiệp sau ngày đưa đại tá Carruthers vào tù. Tôi giống như một cái máy

của xe đua: xe sẽ bị rỉ sét nếu nó không làm nên chiến tích.

Tiếng bước chân vang đều đều trên cầu thang. Rồi một nhân vật cao, lực lưỡng, râu mép

um tùm bước vào, khuôn mặt nặng nề và tự mãn. Đôi dép và cái khung kính gọng vàng cho

thấy ông ta là một người bảo thủ, ngoan đạo, có ý thức công dân cao độ. Người khách đi

thẳng vào vấn đề:

- Thưa ông Holmes, chưa bao giờ tôi lâm vào một tình huống như vậy! Thật là tủi nhục!

Tôi cần được giải thích....

Trong cơn giận dữ, mặt ông ta xệ xuống, hơi thở hổn hển. Holmes cố gắng xoa dịu:

- Mời ông ngồi. Trước hết, tôi xin phép hỏi tại sao tôi hân hạnh được ông nhờ vả?

- Thưa ông, chuyện này hình như không thuộc thẩm quyền cảnh sát. Tôi không hề có cảm

tình với thám tử tư, nhưng có nghe nói về ông...

- Xin cảm ơn! Nhưng xin được hỏi câu thứ hai: Tại sao ông không đến ngay?

- Ông muốn nói gì?

Holmes nhìn đồng hồ:

- 2 giờ 15. Điện được đánh lúc 1 giờ. Chỉ nhìn qua cách ăn mặc của ông, tôi cũng hiểu

rằng ông gặp chuyện không may ngay từ lúc vừa thức dậy.

Người khách vuốt mái tóc rối rồi mân mê cái cằm xồm xoàm.

- Đúng vậy. Tôi quên rửa mặt. Trước khi đến đây, tôi có tới dịch vụ cho thuê nhà và được

biết tiền thuê biệt thự Wisteria đã được thanh toán sòng phẳng.

- Này ông bạn! - Holmes vừa cười vừa trách nhẹ - Ông bạn giống y bác sỹ Watson của tôi

đây: quen bắt đầu bằng cái đuôi của câu chuyện. Mong ông bạn kể cho có lớp lang.

Người khách cau mày:

- Thưa ông, tôi sẽ tường thuật ngọn ngành câu chuyện dị thường này và ông sẽ thấy rõ tại

sao tôi mất bình tĩnh đến thế!

Nhưng câu chuyện chưa bắt đầu được, vì chúng tôi nghe có tiếng náo động ở bên ngoài

và bà Hudson vừa mở cửa, đưa vào hai người lực lưỡng, dáng dấp cảnh sát tuy mặc thường

435

phục. Một trong hai người là thanh tra Gregson của Scotland Yard. Ông bắt tay chúng tôi

rồi giới thiệu người bạn đồng hành là thanh tra Baynes thuộc Sở cảnh sát Surrey.

- Chúng tôi cùng săn một con mồi đang đi về hướng này - Nhìn người khách của chúng

tôi, Baynes hỏi đột ngột - Ông là John Scott Eccles, thường trú tại Popham House, hạt Lee?

- Vâng!

- Chúng tôi đi tìm ông từ sáng.

- Đầu mối của các bạn là bức điện tín? - Holmes hỏi.

- Vâng. Chúng tôi kiếm ra đầu mối tại bưu điện Charing Cross và bây giờ hiện diện tại

đây.

- Sao hai ông lại tìm tôi? Các ông cần gì?

- Chúng tôi muốn biết về cái chết của ông Aloysius Garcia tại biệt thự Wisteria gần Esher

đêm qua.

Người khách sửng sốt, mở to đôi mắt, mặt trắng bệch.

- Ông ấy đã chết à?

- Vâng.

- Chết cách nào? Tai nạn?

- Án mạng.

- Ồ! Ông không muốn nói rằng... Ông không cho rằng tôi có liên can chứ?

- Chúng tôi tìm thấy lá thư của ông ở trong túi nạn nhân, nên chúng tôi biết rằng đêm qua

ông đã ngủ tại nhà đó.

- Vâng, đêm qua tôi ngủ ở đó.

Các sổ công vụ được rút ra.

- Chậm một chút, ông Gregson! - Holmes xen vào - Ông muốn lấy lời khai đầy đủ chứ

gì?

- Và tôi báo trước rằng lời khai đó có thể buộc tội ông Scott Eccles.

- Một phút trước đây, ông này sắp sửa nói hết cho tôi nghe thì nhị vị bước vào. Tôi đề

nghị với bác sỹ Watson, hãy cho ông Eccles một ly brandy pha sô đa... Giờ đây, yêu cầu

ông Eccles tiếp tục câu chuyện.

Người khách đã uống ly rượu, hai mắt đỏ ngầu liếc về phía các quyển sổ và bắt đầu nói:

- Tôi độc thân và có nhiều bạn. Trong số này, tôi thân với ông Melville ở Albemarle

Mansion, hạt Kensington. Vài ngày trước đây, chính trong một bữa cơm tại nhà của

Melville, tôi đã kết thân với ông Garcia, người gốc Tây Ban Nha. Ông Garcia nói tiếng Anh

rất đúng giọng, người thanh lịch, khiêm tốn. Hai ngày sau, ông ta tới thăm tôi tại Lee. Sau

một hồi chuyện trò, Garcia mời tôi về chơi vài ngày ở biệt thự Wisteria. Biệt thự này nằm

trên đường đi từ Esher tới Oxshott. Và hôm qua, tôi đã tới Esher. Sau đó, dùng xe ngựa đến

lâu đài Wisteria.

Một người phục vụ gốc Tây Ban Nha nói tiếng Anh ra rước hành lý của tôi. Ngoài ra,

trong nhà còn có một đầu bếp có hai dòng máu, bộ dạng rất lạ lùng. Biệt thự khá lớn, bề

ngoài có vẻ già cỗi, nằm ở cuối một đại lộ có cây to bóng mát. Khi xe ngừng trước cổng, tôi

436

bỗng tự hỏi mình có nên sống vài ngày tại nhà một người mới quen hay không? Đích thân

Garcia ra mở cổng và nồng nhiệt chào đón tôi. Sau đó, anh ta gọi người hầu nhỏ con, da

ngăm, mặt buồn, xách valy và đưa tôi về phòng. Tiếc thay! Trong ngôi nhà này, việc gì

cũng làm tôi chán chường.

Trong bữa cơm, tuy Garcia cố làm cho tôi vui nhưng tâm trí anh ta như để đâu đâu. Anh

ta nói năng lung tung, dùng ngón tay gõ nhẹ trên bàn rồi cắn móng tay. Tóm lại, các dấu

hiệu bực dọc mỗi lúc một tăng. Bữa cơm thì rất tồi, cả về thức ăn lẫn cách phục vụ. Sự hiện

diện của người phục dịch câm lặng càng làm cho bầu không khí càng thêm u tịch. Trong

đêm qua, nhiều lần tôi muốn quay trở về Lee.

Cuối bữa cơm, người làm trao cho Garcia một phong thư. Sau khi đọc xong, Garcia ngồi

lặng thinh, hút thuốc liên tục. Khoảng 11 giờ, chủ nhà mời tôi đi ngủ. Một lát sau, anh ta hé

cửa bước vào (phòng tôi tối đen như mực), hỏi xem tôi có bấm chuông không. Tôi trả lời là

không. "Xin lỗi vì đã đánh thức anh vào lúc 1 giờ khuya như vầy". Sau đó tôi ngủ lại.

Khi tôi thức giấc thì đã 9 giờ sáng. Tôi ngạc nhiên vì người ta đã quên đánh thức tôi lúc 8

giờ theo lời tôi dặn. Tôi đứng lên và bấm chuông. Không ai trả lời. Tôi cho là chuông hư,

bèn hối hả mặc quần áo và đi xuống cầu thang để xin nước nóng. Căn nhà vắng tanh. Tôi

kêu to ngoài hành lang. Không một hồi âm. Tôi chạy từ phòng này sang phòng nọ. Tất cả

đều im lặng. Tôi đến gõ cửa phòng ngủ của Gar. Vẫn không có tiếng trả lời. Tôi vặn cửa

bước vào. Phòng trống rỗng. Họ đã bỏ đi hết: Gar, người đầy tớ và gã đầu bếp; cả ba đã

biến mất trong đêm. Chuyến đi đến biệt thự Wisteria của tôi đã kết thúc như thế đó.

Sherlock Holmes xua tay và cười nhẹ:

- Anh Watson, anh hãy thêm câu chuyện kinh hoàng này vào trong bộ sưu tập những

chuyện dị thường của anh đi!

- Đây là một cuộc phiêu lưu độc nhất vô nhị. Ông vui lòng cho tôi biết ông làm gì sau đó

- Tôi hỏi Eccles.

- Tôi xách vali, giận dữ đóng cửa và đi bộ về Esher. Tôi dừng chân tại cơ quan làm dịch

vụ cho thuê nhà và được biết chính họ đã cho thuê biệt thự đó. Tôi nghĩ rằng họ dàn dựng

cảnh này để trốn nợ. Cuối tháng 3 mà, gần phải trả tiền nhà quý I rồi. Nhưng người ta cho

tôi biết rằng tiền thuê nhà đã được trả rồi. Tôi bèn lên thủ đô, tới tòa đại sứ Tây Ban Nha.

Tại đây, không ai biết anh chàng Garcia cả. Tôi lại đến nhà người đã giới thiệu tôi với

Garcia. Khốn thay, Melvillelại còn lù mù hơn tôi nữa. Cuối cùng, nhận được hồi âm của

ông Holmes, tôi vội chạy tới đây ngay, vì tôi tin rằng ông Holmes có thể giải đáp được.

Nhưng giờ đây, thưa ông thanh tra, tôi biết thêm rằng câu chuyện không chấm dứt tại đó và

được tiếp nối bằng một thảm kịch. Tôi đã khai báo hết sự thật. Tôi hoàn toàn không biết gì

về những việc xảy ra cho chàng trai đó. Ý muốn độc nhất của tôi là tận tình tiếp tay với luật

pháp.

- Tôi tin điều đó, thưa ông Eccles! - Thanh tra Gregson đáp một cách khả ái - Lời khai

của ông phù hợp với các dữ kiện mà chúng tôi thu lượm được, như bức thư mà Garcia nhận

được vào bữa cơm tối. Ông có để ý thấy Garcia làm gì với lá thư đó?

437

- Garcia vo tròn và quăng vào lửa.

- Baynes, anh nghĩ sao?

Viên thám tử địa phương to con, má đỏ, gương mặt to tròn, có đôi mắt sáng rực, rút trong

túi ra một mảnh giấy xếp đã phai màu.

- Nhờ cái lưới sắt có móc, đương sự quăng quá cao nên cục giấy rớt đằng sau lưới. Nó

còn nguyên vẹn đây.

Holmes dành cho Baynes một nụ cười của người rành việc:

- Phải sục sạo lắm mới moi ra cục giấy này!

- Thưa ông Holmes, tôi tìm ra nó theo thói quen mà! Thưa ông Gregson, tôi xin phép đọc

nó.

Viên thanh tra thủ đô gật đầu đồng ý.

- Thư viết trên một góc tư tờ giấy màu kem thường, cắt bằng hai nhát kéo lưỡi cụt, xếp lại

ba lần, khằn đỏ nguệch ngoạc và được ấn xuống bằng một vật dẹp và bầu dục. Thư gửi ông

Garcia, biệt thự Wisteria. Nó chỉ có mấy hàng: "Màu sắc của chúng ta là lục và trắng. Màu

lục được mở, màu trắng bị đóng lại. Cầu thang lớn, hành lang thứ nhất, thứ bảy, phía tay

mặt cửa có đệm. Chúc may mắn - D". Đó là tuồng chữ của đàn bà, sử dụng một ngòi chuốt

kỹ, nhưng địa chỉ được ghi bằng một ngòi khác, hoặc bởi một người nào khác, tuồng chữ to

hơn, dầy đặc hơn.

- Một bức thư kỳ lạ - Holmes nhìn mẩu giấy và tiếp - Tôi nhiệt liệt ca ngợi anh, anh

Baynes ạ. Tôi xin nêu thêm vài điểm lặt vặt có thể bổ sung cho các nhận xét của anh. Cái

đầu bầu dục chắc chắn là một nút áo vì không có vật nào khác có dạng giống như thế! Cây

kéo được sử dụng ở đây là một cây kéo cắt móng tay, mũi cong. Tuy các đợt cắt ngắn,

nhưng vẫn thấy rõ ràng có độ cong.

Viên thanh tra Surrey cười nhẹ.

- Tôi đã trình bày hết các điểm chủ yếu của sự việc. Tuy nhiên, tôi phải thú nhận rằng lá

thư này chẳng giải thích được điều gì khác hơn là có một việc sẽ xảy đến và kẻ chủ mưu là

một người đàn bà.

Suốt cuộc đàm thoại này, ông Eccles ngồi không yên trên ghế, ông nói:

- Tôi quá mừng trước sự kiện ông tìm được bức thư. Nhờ đó, lời khai của tôi được xác

nhận phần nào. Tuy nhiên, tôi xin phép lưu ý là tôi không hề biết điều gì đã xảy ra cho ông

Garcia và hai người làm kia.

- Về phần ông Garcia - Gregson nói - Câu giải đáp rất đơn giản. Sáng nay, người ta phát

hiện ông ấy đã chết tại đồng cỏ Oxshott, cách nhà khoảng 1 dặm. Cái đầu nát ngướu vì bị

đập bằng bao cát hay một vật gì cùng loại. Hiện trường là một nơi hoàn toàn hoang vắng,

nhà gần nhất cách đó cũng phải tới ¼ dặm. Có thể ban đầu, ông bị đập từ phía sau và kẻ tấn

công tiếp tục đập khá lâu, sau khi ông ta đã chết! Không một dấu chân, không một vết tích

giúp ta nhận dạng kẻ sát nhân.

- Nạn nhân có bị mất gì không?

- Không, tuyệt nhiên không có dấu vết cướp bóc.

438

- Thật là đau đớn và khủng khiếp - Ông Eccles nói, giọng run run - Tuy nhiên cũng là

một điều phiền phức đối với tôi. Tôi liên can gì đến cuộc du ngoạn ban đêm đó? Tại sao tôi

lại dính vào một vụ quái dị như vậy?

- Dễ hiểu thôi - thanh tra Baynes đáp - Lá thư độc nhất tìm được trong túi nạn nhân là của

ông, nó cho tôi biết rằng ông là khách mời trong đêm đó. Chính phong bì của bức thư giúp

chúng tôi nhận dạng xác chết. Chúng tôi đến đó sau 9 giờ, tuyệt đối không có ai quanh đó.

Trong lúc lục soát biệt thự Wisteria, tôi đã đánh điện cho ông Gregson để truy tầm ông ở

London. Sau đó, tôi đi gặp ông Gregson và cuối cùng cả hai chúng tôi đến đây.

- Giờ đây, tôi trộm nghĩ - Gregson vừa nói vừa đứng dậy - ông Eccles nên đi theo chúng

tôi về sở cảnh sát để chúng tôi lấy lời khai bằng văn bản.

- Đương nhiên, tôi đi ngay thôi. Nhưng ông Holmes, tôi xin ông giúp đỡ.

Holmes quay qua viên thanh tra cảnh sát địa phương.

- Tôi hy vọng rằng hai ông sẽ không thấy có gì trở ngại nếu có sự cộng tác của tôi.

- Nếu được như vậy, tôi vô cùng hân hạnh.

- Tôi xin phép được hỏi xem hai ông có suy đoán được nạn nhân bị giết lúc nào không? -

Holmes hỏi.

- Nạn nhân ra đi từ 1 giờ sáng, lúc mưa bắt đầu rơi và án mạng xảy ra trong cơn mưa.

- Không thể nào như thế được, ông Baynes ạ! - Người khách hàng của chúng tôi thét lớn -

Giọng nói của Garcia dễ nhận ra lắm. Tôi sẵn sàng thề độc rằng chính Garcia nói chuyện

với tôi hồi 1 giờ khuya tại phòng ngủ của tôi.

- Một sự trùng hợp dị thường, nhưng có thể hiểu được - Holmes vừa thì thầm vừa cười.

- Căn cứ vào đâu? - Gregson hỏi.

- Thoạt nhìn, sự việc không phức tạp lắm, tuy nó có vài đặc điểm kỳ dị. Nhưng trước khi

đưa ra một ý kiến dứt khoát, tôi cần nghiên cứu dữ kiện một cách sâu sắc hơn. Nhân tiện xin

hỏi ông Baynes, ông có thu lượm được cái gì khác, khi lục soát căn nhà không?

Viên thanh tra địa phương nhìn Holmes một cách ngạc nhiên:

- Có hai hay ba điều lý thú. Sau khi xong việc tại sở cảnh sát, đề nghị ông đến và góp ý

về các chi tiết đó.

- Tôi sẵn sàng - Holmes đáp và nhấn chuông - Bà Hudson, bà vui lòng sao lại bức điện

này và nhờ ai đi gửi gấp! Nhớ bảo họ đóng 5 shillings cho hồi âm.

Khi khách đã ra về hết, chúng tôi vẫn ngồi lặng thinh. Holmes rít chiếc tẩu thuốc, trầm

ngâm, nét mặt sa sầm trong một lúc lâu. Thình lình, anh quay về hướng tôi:

- Nào, Watson, ý kiến của anh ra sao?

- Tôi không thể nào hiểu vì sao Eccles bị lừa.

- Tôi muốn nói về cái chết của Garcia kia!

- Có gì đâu! Hai người hầu đã đào tẩu. Có thể chúng là hung thủ.

- Đó là một giả thiết dễ chấp nhận. Tuy nhiên, chính anh cũng thắc mắc tại sao chúng

phải chờ tới cái đêm nhà có khách. Ra tay đêm nào lại chẳng được!

- Thế thì tại sao chúng trốn?

439

- Đấy là một câu hỏi lớn! Còn có một câu hỏi lớn khác nữa: cuộc phiêu lưu không bình

thường của Eccles? Chúng ta phải giải đáp hai câu hỏi lớn đó. Ngoài ra, nếu giải thích được

bức thư với câu cú lạ lùng thì ta có thể xem nó là giả thiết tạm thời. Nếu các dữ kiện mới lại

phù hợp thì giả thiết đó trở thành giải đáp.

- Nhưng giả thiết gì?

Holmes tựa lưng vào ghế, lim dim đôi mắt:

- Giả thiết đây là một trò đùa sẽ không thể nào đứng vững. Việc Garcia mời Eccles đến

biệt thự Wisteria là có chủ đích!

- Để làm gì?

- Ta lần lượt xét từng khâu. Trước hết, tôi thấy tình hữu nghị giữa Garcia và Eccles

không bình thường tí nào. Nguyên nhân bắt nguồn từ người Tây Ban Nha. Garcia lặn lội

đến nhà Eccles để mời mọc. Y muốn gì nơi Eccles? Tôi thấy Eccles chẳng có gì quyến rũ

đặc biệt. Thông minh? - Không! Có tính chất linh hoạt đặc biệt? - Không! Thế mà tại sao

Garcia lại tuyển chọn Eccles trong vô vàn những bạn hữu khác? Có phải vì Eccles là một

người Anh mà chúng hằng mong ước để gây cảm xúc nơi một người Anh khác? Anh có để

ý cả hai viên thanh tra không ai ngờ vực lời khai của người khách hàng, mặc dù nó khá dị

thường.

- Nhưng người này làm chứng cho cái gì?

- Không làm chứng cho cái gì hết, nếu căn cứ theo các sự kiện tiếp diễn. Nhưng đó là

mấu chốt, nếu nhìn sự việc diễn tiến cách khác.

- Tóm lại, Eccles có thể đã được dùng làm cái cớ để che tội ác.

- Đúng vậy. Đó là cái cớ để che đậy tội ác! Giả sử bọn tôi tớ tại biệt thự Wisteria là thủ

phạm. Và, còn nữa... Công việc của Garcia phải hoàn tất trước 1 giờ sáng. Do đồng hồ bị

vặn sai giờ, nên Eccles được mời đi ngủ sớm. Khi Garcia nói với ông ta là 1 giờ sáng thì

thực tế chưa quá 12 giờ đêm. Nếu Garcia có thể thực hiện công việc và trở về nhà đúng giờ

thực tế thì y có thể thoát ra khỏi mọi lời cáo buộc. Người khách trọ kia có thể thề thốt nặng

lời rằng bị cáo không rời khỏi nhà vào giờ đó. Một đảm bảo dự phòng!

- Tốt! Nhưng sự tan biến của bọn tôi tớ thì sao?

- Tôi chưa có đủ dữ kiện. Hãy chờ có thêm các thông tin mới.

- Còn bức thư?

- "Màu sắc của chúng ta là lục và trắng"... Liên quan tới một cuộc đua ngựa chăng? "Màu

lục được mở, màu trắng bị đóng lại...". Rõ ràng là một tín hiệu. "Cầu thang lớn, hành lang

thứ I, thứ 7 phía tay mặt, cửa có đệm...". Là nơi hẹn hò. Có thể chúng ta sẽ tìm ra một ông

chồng ghen tuông. Bà ta đã không thêm hai tiếng "MAY MẮN" nếu không phải là chuyện

dâm bôn. Chữ "D" viết hoa có giúp ta được gì không?

- Garcia là người Tây Ban Nha, có thể nào "D" hoa là DOLORES viết tắt, một tên nữ

được dùng nhiều của Tây Ban Nha.

- Giỏi, Watson rất giỏi. Nhưng trật lất. Một người đàn bà Tây Ban Nha nói chuyện với

một người đàn ông Tây Ban Nha sẽ sử dụng tiếng Tây Ban Nha. Còn tác giả của bức thư

440

dùng chấm chấm thì phải là phụ nữ Anh. Ta hãy kiên nhẫn chờ viên thanh tra khả ái! Thôi,

ta hãy cảm ơn thần may mắn giúp ta thoát khỏi vài giờ nhàm chán.

Trước khi Baynes quay lại, Holmes nhận được hồi âm của bức điện. Anh cầm đọc và khi

chuẩn bị xếp nó vào sổ con, nhìn thấy nét mặt của tôi, anh liền trao nó cho tôi và cười:

- Thư trao vào bữa cơm tối là một giấy hẹn hoặc một giấy mời. Theo tôi, bức thư cho biết

để đi đến điểm hẹn, hoặc phải leo lên cầu thang chính, kiếm cái cửa thứ bảy trong một hành

lang. Như vậy, ngôi nhà phải to rộng thênh thang và chắc chắn nhà này cách Oxshott không

quá hai hay ba trăm mét, vì Garcia đã đi bộ về hướng này và hy vọng quay về biệt thự trước

1 giờ sáng. Vì số lượng căn nhà to lớn gần kế Oxshott không nhiều, tôi đã gửi một điện tín

cho dịch vụ địa ốc địa phương mà Eccles nêu tên, yêu cầu họ cung cấp danh sách. Nè, cái

đầu kia của cuộn chỉ rối chắc chắn nằm trong danh sách này.

Lúc chúng tôi cùng với thanh tra Baynes thuê xong một phòng đầy đủ tiện nghi tại khách

sạn Bò Mộng thì đã gần 6 giờ. Sau đó, ba chúng tôi lại lên đường đi tới biệt thự Wisteria.

Hôm đó, là một buổi chiều tháng 3 năm 1892, không gian u ám và giá buốt, mưa đầy trời,

hoàn toàn phù hợp với không khí trong thảm kịch. Đi khoảng 3 cây số, chúng tôi đến trước

một cái cổng cao mở ra một đại lộ âm u, hai bên có trồng cây dẻ. Đại lộ này đưa đến một

ngôi nhà thấp, tối tăm, tựa hồ một cục than đen nổi bật trên nền trời xám. Đằng sau một cửa

sổ nằm về bên trái của cái cửa lớn, le lói một vệt ánh sáng nhỏ. Baynes nói:

- Có một cảnh sát viên đang canh gát tại đó. Để tôi ra hiệu.

Ông băng qua một bãi cỏ nhỏ và gõ vào kiếng. Qua cửa kiếng mờ sương, tôi thấy một

người đàn ông nét mặt kinh hoàng, nhảy dựng khỏi ghế đặt gần lò sưởi, và tiếp đó là một

tiếng la chói tai trong gian nhà. Một phút sau, người cảnh sát mặt tái mét, tay cầm đèn cầy,

thở hổn hển ra mở cửa đón chúng tôi.

- Chuyện gì vậy Walters? - Baynes cất giọng.

Viên cảnh sát lấy khăn lau trán và thở dài nhẹ nhõm:

- Ông trở lại, tôi mừng muốn chết. Tôi không dè rằng thần kinh của tôi rắn chắn như vừa

rồi.

- Thần với chả kinh? Té ra anh cũng có dây thần kinh?

- Thưa ông, trước hết là cái căn nhà cô tịch này; sau đó là cái chuyện lạ lùng trong nhà

bếp. Do đó, khi ông gõ vào kiếng, tôi tưởng là chuyện kinh hoàng đó lại tái diễn.

- Chuyện đó là chuyện gì?

- Con quỷ, thưa ông. Nó ở tại cửa sổ.

- Cái gì ở tại cửa sổ và hồi nào?

- Một con quỷ đứng tại cửa sổ. Lúc trời chạng vạng, tôi đang ngồi đọc sách trên ghế này.

Tôi không biết tại sao tôi lại ngước mặt lên, nhưng rõ ràng tôi thấy một cái đầu nhìn tôi qua

khung kiếng phía dưới. Một cái đầu quái dị!

- Tại sao anh nhát quá vậy?

- Thưa ông, tôi ý thức lắm chứ! Tôi quả có hoảng hốt nhưng ông buộc tôi phủ nhận thì

không thể được. Không phải là một cái đầu người da đen, mà cũng không phải là một cái

441

đầu người da trắng, cũng không phải cái đầu với màu sắc quen thuộc. Đó là một cái đầu

bằng đất sét có những vệt trắng. Dáng vóc của nó thì gấp đôi ông. Còn cái nhìn của nó? Hai

con mắt to tổ bố sáng rực. Còn bộ răng của nó? Trắng tinh như răng thú đói thịt. Lúc đó, tôi

cuống cuồng chạy ra ngoài, lục soát các bụi rậm, nhưng không thấy nó.

- Vì biết rõ trước đây anh là người dũng cảm, bằng không tôi sẽ cho anh điểm xấu. Theo

tôi, đó chỉ là ảo giác hoặc là kết quả của một sự căng thẳng thần kinh.

- Các giải pháp cho vấn đề là dễ thôi - Holmes phát biểu và cầm cây đèn cầy chiếu xuống

bãi cỏ - Đúng rồi, cỡ giày 48. Nếu tầm vóc của gã này ứng với cỡ giày thì đương nhiên đây

là một tên khổng lồ.

- Nó trốn về hướng nào?

- Có lẽ giữa đám bụi rậm kia, sau đó, nó ra ngoài đường cái.

- Được - viên thanh tra thì thầm, vẻ mặt trầm ngâm - Dù với lý do gì đi nữa, hắn cũng đã

biến mất rồi. Ông Holmes, chúng ta cùng đi giáp vòng ngôi nhà.

Quan sát kỹ, Holmes thấy họ còn bỏ lại một số lượng lớn áo quần mang nhãn hiệu của

công ty Marx. Đánh điện hỏi thì cửa hàng không biết gì về người khách hàng này. Ngoài

việc người này đã thanh toán bằng tiền mặt. Đồ vật riêng của Garcia không có vật gì đáng

giá, vài cái tẩu thuốc, vài cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Tây Ban Nha, một khẩu súng lục đã

cũ, một cây đàn guitare.

- Không có gì có ý nghĩa - Baynes nói sau khi cầm nến sục sạo trong phòng - Giờ đây

chúng ta nên đặc biệt lưu tâm đến nhà bếp.

Nhà bếp nằm phía sau, tuy trần cao nhưng rất âm u. Trong một góc, một cái đệm rơm

được dùng làm giường. Trên bàn còn la liệt nhiều đĩa thức ăn bỏ dở và dĩa dơ! Vết tích của

bữa ăn đêm qua.

- Nhìn kìa! Ông nghĩ thế nào? - Baynes nói

Viên thanh tra giơ cao ngọn nến chiếu sáng một vật kỳ dị đặt sau tủ ăn: đầy vết nhăn, co

rút, khô đét đến nỗi khó nhận dạng. Chỉ biết có màu đen, có vẻ bằng da và lờ mờ dáng của

một thằng lùn. Nhìn lần đầu, tôi cho đó là một đứa trẻ sơ sinh da đen ốm đói; nhìn lần sau,

tôi liên tưởng tới một con khỉ, và nhìn kỹ, tôi không còn biết đấy là con thú hay con người!

- Hay lắm! Còn gì nữa? - Holmes nói

Baynes lặng thinh, đưa chúng tôi đến bồn rửa chén và chiếu ngọn nến vào. Chân, cánh và

thân xác một con chim lớn màu trắng không nhổ lông bị chặt khúc, bỏ tứ tán trong đó.

Holmes chỉ cái mào trên đầu:

- Một con gà trống trắng! Cực kỳ lý thú và quái dị!

Baynes tiếp tục lặng thinh, cúi xuống bồn, lấy ra một cái xô đựng máu rồi đến bàn lấy cái

tô đựng một mớ tro và cốt vụn.

- Chúng đã giết và thiêu một cái gì đó. Pháp y sáng nay cho biết không phải là tro người.

Holmes xoa tay, cười:

- Xin khen ông thanh tra. Tài năng của ông vượt trội tầm vóc của công tác ông được giao

phó.

442

Đôi mắt tí tẹo của thanh tra Baynes nhấp nháy:

- Ông có lý, ở tỉnh lẻ dễ bị chột tài. Một vụ tầm cỡ như vầy cho tôi một cơ may. Ông nghĩ

gì về mớ cốt này?

- Có lẽ là một con cừu con hoặc một con dê con.

- Còn con gà trống trắng?

- Kỳ quái! Có một không hai!

- Nhà này chứa những người quái dị. Một trong bọn đã chết: bạn đồng hành của anh ta đã

theo đuổi và ám sát anh ta? Trong trường hợp này, chúng ta phải truy tầm chúng, khắp nơi

đều đã được thông báo. Nhưng tôi có quan điểm khác!

- Một quan điểm trái ngược?

- Một quan điểm dẫn đường cho tôi, ông Holmes ạ. Chỉ có tôi mới có cái nhìn này và tôi

sẽ ra công tìm kiếm chúng. Ông đã nổi danh. Sau này tôi sẽ hãnh diện rằng chính tôi đã tự

lực giải quyết bài toán không có tiếp sức của ông.

Holmes cười vui vẻ:

- Tốt thôi, ông thanh tra! Chúng ta, mỗi người theo một con đường riêng. Các kết quả của

tôi luôn luôn để phục vụ ông. Tất cả những gì cần xem tại nhà này, tôi đã xem xong, nhưng

các nơi khác chắc cũng cần biết đến. Tôi xin kiếu từ. Chúc ông may mắn!

Về phần tôi, tôi tin chắc rằng Holmes đang đi trên con đường chông gai. Thái độ bớt lãnh

đạm, ánh mắt suy tư của anh cho tôi biết anh đã có dấu vết con mồi. Theo thói quen, anh ta

câm lặng suốt ngày và tôi tuyệt đối tôn trọng sự câm lặng này. Holmes lên thủ đô vào một

buổi sáng và tình cờ tôi biết anh có đến viện Bảo tàng Anh Quốc. Ngoài ra, hết thời gian

còn lại, anh đi dạo một mình, cũng có khi dừng lại, nói chuyện đôi điều với dân làng.

- Watson, chúng ta nên đi nghỉ một tuần ở miền quê để ngắm nhìn hàng rào trổ nụ xanh

và hoa dẻ.

Trong chuyến đi đó, tình cờ chúng tôi gặp Baynes. Baynes không nói nhiều tới vụ án

nhưng căn cứ vào khuôn mặt hồng hào, những lời nói sơ sài, chúng tôi suy ra rằng ông ta

khá hài lòng về công việc của mình. Một buổi sáng kia, tôi điếng người khi mở tờ báo, gặp

một số tựa to: "Những điều bí mật tại Oxshott. Đã bắt người tình nghi là hung thủ". Holmes

nhảy dựng lên khi tôi báo tin:

- Baynes đã bắt người sao?

- Đúng thế!

Và tôi đọc cho anh nghe:

"Một chấn động đã xảy ra tại Esher khi có tin rằng khuya hôm qua cảnh sát đã bắt một

người có liên quan tới án mạng tại Oxshott. Chúng ta còn nhớ rằng ông Garcia, ngụ trong

biệt thự Wisteria, được phát hiện đã chết tại đồng cỏ của xã Oxshott. Thi thể ông mang dấu

vết bị hành hung. Ngay trong đêm đó, bọn tôi tớ cũng biến mất, chứng tỏ chúng có nhúng

tay vào vụ án mạng. Người ta nói rằng, kẻ quá cố đứng sở hữu nhiều của cải quý giá nên đã

cám dỗ lòng tham của bọn gian phi. Thanh tra Baynes tin rằng họ không đi đâu xa mà đang

ẩn nấp tại một nơi an toàn được chuẩn bị trước. Ngay từ đầu, người ta tưởng rằng việc nhận

443

ra chúng sẽ dễ dàng vì theo lời khai của vài thương nhân, người đầu bếp có cái bề ngoài rất

dị thường của một người lai đen với khuôn mặt vàng lợt và dáng dấp châu Phi. Ngay trong

đêm đó, y bị một viên cảnh sát nhận dạng và bị săn đuổi. Sau vụ án mạng, y lại cả gan lẩn

quẩn quanh biệt thự Wisteria. Thanh tra Baynes suy đoán y sẽ quay lại, và ông ra lệnh canh

gác cẩn mật ngôi biệt thự, đồng thời bố trí người nằm phục kích ngoài rừng. Bị lọt bẫy,

hung thủ đã bị bắt sau một hồi chống trả quyết liệt. Một cảnh sát viên bị y cắn một cách tàn

tệ. Chúng tôi tiếp tục chờ các diễn biến quan trọng sẽ tiếp nối".

- Ta nên đi gặp Baynes ngay - Holmes nói lớn và đội mũ ra đi.

Chúng tôi tới nơi đúng lúc Baynes rời khách sạn.

- Holmes! Ông có đọc báo chứ? - Baynes hỏi và đưa ra một tờ.

- Có chứ! Cho phép tôi lưu ý ông.

- Lưu ý tôi? Tôi đã nghiên cứu sự việc khá kỹ.

- Tôi không tin rằng ông đang đi đúng hướng. Tôi mong rằng ông đừng lao vào quá sâu.

- Cám ơn ông.

- Tôi nói vì lợi ích của ông.

Tôi có cảm giác khuôn mặt lạnh lùng của Baynes đang lay động nhẹ.

- Chúng ta đã giao ước với nhau rằng mỗi bên đi một hướng và tôi đang thực hiện giao

ước này.

- Ồ đúng thế - Holmes thốt lên - Xin ông đừng giận.

- Không! Tôi tin chắc rằng ông chỉ muốn giúp tôi thôi. Nhưng tất cả chúng ta đều có

phương pháp riêng. Ông Holmes, chúng ta nên bỏ qua chuyện này. Lúc nào tôi cũng sẵn

sàng trao đổi thông tin với ông. Thằng lai Phi châu thiệt là dã man, nó mạnh như trâu. Nó

cắn gần đứt ngón tay cái của một đàn em tôi. Nó ục ục như heo chứ có biết tiếng Anh đâu!

- Và ông tin rằng ông nắm bằng chứng nó giết chủ nó?

- Tôi không bao giờ nói thế cả. Tôi đang thử các phương pháp của tôi.

Khi từ giã Baynes, Holmes nhún vai:

- Không thể nói chuyện với Baynes được! Tôi có cảm giác rằng hắn ta sẽ trượt ngã mà

thôi. Tuy nhiên có một cái gì đó còn bí ẩn trong thanh tra Baynes.

Khi quay về khách sạn Bò Mộng, Holmes mời tôi ngồi vào ghế bành.

- Tôi sắp sửa cho anh biết tình hình, có lẽ đêm nay tôi cần sự tiếp tay của anh. Chúng ta

hãy quay trở lại bức thư mà Garcia nhận được đêm hôm ấy. Hãy gạt bỏ cái ý tưởng của

Baynes cho rằng tôi tớ của Garcia dính líu vào nội vụ. Bằng chứng ư? Chính Garcia dự mưu

dựa vào sự hiện diện của Eccles. Garcia thiết lập kế hoạch và đấy là kế hoạch tội ác. Tôi nói

tội ác vì chỉ có người dự định tội ác mới tìm cách chạy tội. Nhưng ai giết y? Chắc chắn là

đối thủ của kế hoạch. Về việc bọn tôi tớ, chúng ta có thể giải thích rằng chúng nó đều là

đồng phạm. Nếu thành công trong tội ác thì Garcia đã quay trở lại biệt thự Wisteria; sự làm

chứng của Eccles sẽ giúp y khỏi bị nghi ngờ và tất cả sẽ trót lọt êm xuôi. Nếu Garcia không

về vào giờ G, điều đó có nghĩa là y đã thất bại và đã mất mạng rồi. Do đó, theo giao ước

444

trước, hai đệ tử sẽ ẩn trốn tại một nơi dự định để thoát khỏi sự tầm nã của cảnh sát. Giả thiết

này giải thích trọn vẹn các dữ kiện chứ gì?

- Nhưng tại sao một trong hai thằng đó lại trở lại?

- Ta có thể giả thiết rằng, chúng nó bỏ quên một cái gì đó quý giá hoặc thằng lai muốn

tìm một vật riêng của nó. Hành động đó giải thích sự cứng đầu của nó.

- Rồi sao nữa?

- Rồi đến bức thư! Bức thư chứng tỏ rằng đầu kia của sợi dây còn có một tòng phạm

khác. Đầu kia là ở đâu? Chắc chắn nó nằm trong một ngôi nhà lớn ở vùng này. Số nhà lớn

tại vùng này không phải là vô hạn. Những ngày đầu tiên tới đây, tôi đã đi dạo và nghiên cứu

thực vật học. Thời gian dư thừa cho phép tôi đi về phía các ngôi nhà lớn kia thăm hỏi. Chỉ

có một ngôi nhà lôi cuốn sự chú ý của tôi. Đó là lâu đài High Gable nổi tiếng xây dựng từ

thời vua James I ở cách Oxshott khoảng 1dặm và cách hiện trường nửa dặm. Các ngôi nhà

khác là của những người bình thường. Còn đối với Henderson (chủ lâu đài High Gable) thì

mọi người cho là một nhân vật lạ thường.

Tôi đã xoay xở để gặp chủ nhà với một cái cớ khá vững, nhưng không qua được đôi mắt

của ông ta. Đó là một người khoảng 50 tuổi, mạnh khoẻ, linh hoạt, tóc màu xám thép, lông

mày đen cứng, bệ vệ như một ông vua. Một con người dữ tợn, che giấu đằng sau khuôn mặt

nhăn nheo một ý chí sắt đá. Hoặc ông là người nước ngoài, hoặc ông đã sống nhiều tại miền

nhiệt đới vì nước da vàng vọt và khô đét, nhưng rắn chắc. Một người bạn thân kiêm thư ký

của ông, là ông Lucas thì chắc chắn là người nước ngoài, da nâu, quỷ quyệt, nhưng nói năng

ngọt xớt. Tóm lại, chúng ta có tới hai băng người nước ngoài, một ở biệt thự Wisteria, một

ở lâu đài High Gable. Hai người đàn ông sống trong lâu đài High Gable luôn chia ngọt xẻ

bùi với nhau. Tuy nhiên, còn có một người khác còn quan trọng hơn nữa. Henderson có hai

cô gái, 13 và 11 tuổi. Vú già là cô Burnet, một người đàn bà Anh, khoảng 40 tuổi. Ngoài ra

còn có thêm một số tôi tớ tin cẩn. Cái nhóm nhỏ này tạo thành một gia đình thực sự bởi vì

hễ di chuyển là toàn bộ đều đi. Henderson đi đây đi đó nhiều nơi, ông ta mới đi High Gable

cách đây vài tuần, sau một năm vắng mặt. Ông ta giàu nứt đố đổ vách. Còn về tùy tùng, gia

nô, bồi bếp thì đông vô kể.

Tôi biết được các điều trên qua các cuộc nói chuyện với dân làng và may nhất qua tin tức

của một người đầy tớ bị đuổi việc. Chính cái phương pháp riêng của tôi đã giúp tôi gặp may

tìm ra ông John Warner, người làm vườn của lâu đài High Gable. Ông này có những thâm

giao trong đám tôi tớ. Một đám người dị thường Watson ạ! Lâu đài có hai cánh: nhóm gia

nhân và nhóm gia đình. Người liên lạc giữa hai cánh là một đệ tử ruột của Henderson.

Henderson không bao giờ ra khỏi nhà một mình. Người thư ký theo chân ông ta như bóng

với hình. Đám gia nhân xì xầm rằng ông chủ họ rất sợ một cái gì đó.

"Chắc chắn y đã bán linh hồn cho quỷ dữ để lấy tiền" Warner nói. "Do đó, ông ta chờ đợi

ông quỷ chủ để đòi hồn. Nguyên quán, tên tuổi của hắn không ai biết. Hắn rất hung bạo. Đã

hai lần Henderson đánh đập tàn nhẫn một gia nhân, nhưng chính nhờ bỏ nhiều tiền đền bù

nên khỏi bị truy tố."

445

Giờ đây, chúng ta hãy nhận định tình hình theo các tin tức mới này. Chúng ta có thể giả

thiết rằng bức thư phát xuất từ ngôi nhà lạ thường này. Ai viết? Một người đàn bà trong lâu

đài. Còn ai nữa, nếu không phải là vú già, cô Burnet? Tất cả tin tức của chúng ta đều hội tụ

về hướng này. Dù sao đây cũng chỉ là giả thiết và xét các hậu quả đương nhiên của nó. Tuổi

tác và tính khí của cô Burnet phá tan ý tưởng cho rằng có mối tình trong vụ án này. Vì cô là

người viết bức thư nên có thể cô là bạn thân và là đồng lõa của Garcia. Cô sẽ làm gì khi hay

tin Garcia chết? Nếu Garcia là nạn nhân của một sự phản bội, đương nhiên cô ta sẽ im bặt.

Nhưng không có nghĩa là cô không căm thù bọn sát nhân và do đó, cô sẽ tận tình tiếp sức

với những ai chịu ra tay phục thù giùm. Vậy ta hãy tìm cách gặp cô ta? Nhưng không biết

cô còn sống không? Kể từ đêm xảy ra án mạng, cô đã chết hay chỉ bị giam giữ? Đấy là cái

điểm mà chúng ta cần làm sáng tỏ.

Anh Watson, anh đã thấy được mức độ khó khăn của tình hình rồi chứ. Lấy gì làm cơ sở

để xin trát bắt giam? Nếu chúng ta nói ra những suy diễn này cho một thẩm phán thì ông ta

sẽ cười ngất. Trong lâu đài quái dị này, ai cũng có thể vắng mặt trong một tuần, vậy thì sự

vắng mặt của người vú có gì phải bận tâm. Nhưng rõ ràng giờ này, tính mạng cô ấy có thể

đang lâm nguy. Tôi chỉ có thể canh chừng tòa nhà và đặt Wa gác ngoài cổng sắt. Tình

huống này không thể kéo dài được. Nếu luật pháp bó tay thì chúng ta phải liều.

- Anh định làm gì?

- Tôi biết phòng cô ấy. Ta có thể qua mái ngói của một nhà phụ mà vào phòng. Tối nay

hai anh em mình cùng bí mật leo vào.

Trong khi Holmes lý luận, có một cái gì đó không cho phép tôi từ chối. Tôi siết chặt tay

anh. Nhưng định mệnh không muốn chúng tôi liều lĩnh như thế. Khoảng 5 giờ, bóng đêm

bắt đầu lan rộng, một người cục mịch thở hổn hển bước vào căn hộ của chúng tôi.

- Họ đã ra đi. Chuyến xe lửa chót. Cô ấy trốn thoát và được tôi đưa đến đây bằng xe

ngựa. Cô ấy đang đứng dưới nhà.

- Hoan hô, ông Warner! - Holmes la lớn và hết sức vui mừng - Anh Watson, các lỗ trống

tự động lấp lại thật là nhanh!

Trong xe ngựa có một người đàn bà gần như thiếp đi. Khuôn mặt hốc hác, còn mang dấu

vết của thảm kịch vừa xảy ra. Đầu cô gục xuống ngực, nhưng khi cô ngẩng lên và quay về

hướng chúng tôi, tôi thấy đôi mắt cô lờ đờ, mất thần: cô ấy bị gây mê bằng thuốc phiện.

- Tôi đứng gác ngoài cổng. Khi xe ngựa ra, tôi đi theo cho tới nhà ga. Cô ấy giống người

mộng du. Khi họ muốn đưa cô lên xe lửa thì cô tỉnh lại và kháng cự. Tôi cướp cô, và đưa cô

tới đây. Tôi chưa quên cái đầu của người nọ đứng ở cửa toa. Con quỷ da vàng đó. - Warner

nói.

Chúng tôi đặt cô ấy nằm trên tràng kỷ. Hai tách cà phê đậm giải được thuốc mê. Thanh

tra Baynes được mời tới.

- Hay quá! Ông cung cấp cho tôi chính người chứng mà tôi cần! - Viên thanh tra vừa nói

vừa siết mạnh tay Holmes - Ngay từ đầu, tôi đi cùng một hướng với ông.

- Ủa, ông cũng theo dõi Henderson à?

446

- Nghe đây, ông bạn! Trong lúc ông len lỏi trong các rừng thưa quanh lâu đài High

Gable, thì tôi ngồi ngất nghểu trên cây cao, quan sát ông.

- Thế tại sao ông lại bắt thằng lai đen?

Baynes phì cười:

- Tôi bắt thằng lai đen là để cho y tưởng rằng chúng ta không để ý đến hắn nữa. Tôi biết

rằng hắn sẽ chuồn và như thế chúng ta có cơ may gặp cô Burnet.

Holmes để tay trên vai viên thanh tra:

- Ông đã vươn cao trong nghề nghiệp! Ông có bản năng và trực giác.Baynes khoái chí đỏ

mặt:

- Tôi đã đặt một nhân viên mặc thường phục đứng canh tại nhà ga từ đầu tuần. Bất cứ

một người nào trong lâu đài đi đâu, anh ấy đều không bỏ qua. Tuy nhiên, anh ấy quýnh

quáng khi cô Burnet đào thoát. Chúng ta không thể bắt con mồi, nếu không có được lời

chứng của cô ấy.

- Cô ta đang tỉnh dần - Holmes vừa nói vừa nhìn người phụ nữ - Nhưng ông à, Henderson

là ai vậy?

- Henderson là Don Murillo, trước kia có biệt danh là "Con cọp vùng San Pedro" - viên

thanh tra đáp.

- "Con cọp vùng San Pedro"! Tôi nhớ mồn một lịch sử của con người này. Y có biệt danh

này vì trước đây y là nhà độc tài khát máu. Sức mạnh uy quyền đầy trong tay, nhưng rất tán

tận lương tâm, y đã tròng cái ách thống khổ lên một dân tộc. Tên của y gieo rắc sự kinh

hoàng trong toàn vùng châu Mỹ. Cuối cùng, một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ lên để lật đổ

y. Nhưng bọn chúng rất xảo quyệt. Y, hai con gái, viên thư ký đưa báu vật xuống thuyền vũ

trang và trốn thoát. Kể từ đấy, y biệt tích và báo giới châu Âu nhiều lần thắc mắc, không

biết y đang ẩn núp nơi nào.

- Đúng thế! Don Murillo là con cọp vùng San Pedro. Chắc anh còn nhớ rằng cờ của San

Pedro gồm màu lục và màu trắng! Các màu sắc trong bức thư, Holmes ạ! Y đổi tên là

Henderson, nhưng không qua được mắt tôi. Tôi đã theo dõi dấu vết của y khi thuyền y cập

vào Barkercelona năm 1886, sau khi ghé qua Madrid, Rome và Paris. Từ lâu, các nạn nhân

truy tầm y để phục thù nhưng y chỉ bị phát hiện gần đây thôi.

- Cách đây một năm - Cô Burnet nãy giờ theo dõi câu chuyện, ngồi dậy nói xen vào - Có

một lần y bị mưu sát, và hình như y được một con quỷ sứ che chở nên đã thoát nạn. Nhưng

một âm mưu này thất bại với một người anh hùng phải hy sinh thì lại có một âm mưu khác

tiếp diễn cho tới khi nào tên khát máu đó đền tội mới thôi. Chắc chắn ngày mai mặt trời

phải mọc.

Hai bàn tay của cô nắm chặt lại và khuôn mặt hốc hác của cô trắng bệch dưới cơn bão

của sự hận thù.

- Nhưng vì sao lại có một người đàn bà Anh trong vụ này, cô Burnet - Holmes hỏi.

- Tôi phải dấn thân, bởi vì đó là phương cách duy nhất để công lý được thực thi. Guồng

máy tư pháp của nước Anh đâu có để ý đến các suối máu cuồn cuộn chảy tại San Pedro

447

hoặc đến chiếc thuyền đầy ngọc ngà châu báu mà tên cướp đó đã vơ vét? Dưới mắt các ông,

đó là những tội ác xảy ra ở một hành tinh khác. Còn chúng tôi, chúng tôi tận mắt mục kích

các tội ác đó! Chúng tôi biết rõ nỗi khổ của đau của một dân tộc. Đối với chúng tôi, ở địa

ngục cũng không có con quỷ nào tàn ác hơn Don Murillo.

- Quả có như thế - Holmes đáp - Tôi có nghe nói về các hành động của y. Nhưng bản

thân cô nếm mùi bạo tàn bằng cách nào?

- Thằng ăn cướp đó có chính sách ám sát. Bất cứ ai có tài hoặc có thể trở thành địch thủ

của y thì đều nằm trong danh sách bị thủ tiêu. Tôi là bà Durando! Chồng tôi làm đại sứ của

San Pedro tại London. Chúng tôi quen nhau tại London. Chồng tôi có một tâm hồn cao đẹp.

Khốn thay, Murillo ghen ghét sự cao cả ấy, nó triệu hồi anh ấy về và giết chết anh ấy. Tài

sản của anh ấy bị tịch biên. Tôi trở thành góa bụa, lòng tan nát, sống lây lất trong cơ cực.

Cuối cùng, y bị lật đổ, và phải lẩn trốn như các ông biết. Tất cả những kẻ bị y tàn phá cuộc

đời hoặc có bà con bị chính y áp bức, đều quyết tâm bắt y đền nợ máu. Khi phát giác rằng

hắn muốn trốn đi dưới tên Henderson, tôi lãnh công tác phục dịch y rồi thông báo cho các

đồng chí mọi sự xê dịch của y. Đó là nguyên nhân tôi làm bà vú già tại nhà y. Y không bao

giờ ngờ rằng người đàn bà ngồi trước mặt y vào mỗi bữa cơm chính là người đàn bà có

chồng bị y giết chết. Tôi tươi cười với y, tôi chuyên cần lo cho con y để chờ giờ hành động.

Một mưu toan đã xảy ra tại Paris, nhưng thất bại. Hắn phải đưa cả gia đình đi khắp châu Âu,

lộ trình ngoằn ngoèo để đánh lạc hướng những kẻ săn đuổi và cuối cùng trở về lâu đài này.

Nhưng tại đây cũng thế, những người "thế thiên hành đạo" đã chờ đợi y. Biết rằng sớm

muộn gì Murillo cũng quay lại High Gable, cho nên Garcia (con trai của một viên chức cao

cấp cũ của San Pedro) dọn nhà đến ở gần, với hai đồng chí trung kiên gốc gác khiêm

nhường, nhưng cả ba đều cùng khát khao phục hận. Ba người dũng cảm này không thể làm

gì được giữa ban ngày, bởi vì Murillo luôn luôn thận trọng tối đa. Không bao giờ hắn đi ra

ngoài mà không có sự tháp tùng của thằng Lucas (tên thật là Lopez). Về đêm, y ngủ một

mình, y luôn luôn lo âu nên luôn luôn thay phòng ngủ. Tôi phải canh chừng sao để mở các

cửa lớn và cho tín hiệu bằng ánh sáng hoặc lục lạc trắng tại cửa sổ để báo động hay chỉ dẫn

cuộc đột kích. Đêm ấy, đã được giao ước trước, tôi gửi mật thư cho Garcia.

Nhưng kế hoạch bị trục trặc. Lopez ngờ vực tôi. Y bắt tôi ngay khi tôi hoàn tất bức mật

thư. Y cùng với chủ y lôi kéo tôi vào phòng. Họ muốn giết tôi nhưng lờ mờ thấy khó né

tránh hậu quả của tội ác. Sau khi thảo luận khá lâu, họ kết luận rằng giết tôi quá nguy hiểm.

Nhưng đối với Garcia, họ quyết định thanh toán dứt khoát. Tôi bị nhét giẻ vào miệng và bị

bẻ quẹo tay cho tới khi tôi phải khai ra địa chỉ của Garcia. Tôi thề nếu tôi biết trước rằng lời

khai của tôi là án tử hình thì tôi đã không khai. Lopez chép địa chỉ, đóng khằn bằng cái nút

măng sét rồi sai người đem thư đi. Chúng giết Garcia như thế nào, tôi không biết. Tôi chỉ

biết anh ấy chết do tay của Murillo, bởi vì Lopez vẫn đang ở cạnh tôi để canh phòng. Tôi

cho là y phục kích trong các bụi rậm hai bên đường. Lúc đầu, y có dự định để Garcia vào

lâu đài rồi mới giết như giết một tên ăn trộm bị bắt quả tang. Nhưng họ suy nghĩ rằng hễ kẹt

448

vào một cuộc điều tra tư pháp thì hình tích của họ bị lộ, rất nguy hiểm. Theo họ, cái chết

của Garcia sẽ làm cho những kẻ âm mưu chùn bước.

Mọi chuyện có lẽ đã êm đẹp nếu tôi không hay biết những chuyện chúng làm. Tôi biết

chắc chắn rằng cuộc đời tôi chỉ là chỉ mành treo chuông. Chúng nhốt tôi trong phòng.

Chúng thốt ra những lời đe dọa khủng khiếp nhất và dành cho tôi những đối xử tệ hại nhất,

bằng chứng là vết thương trên vai và vết bầm trên hai cánh tay tôi. Có một lần, tôi thử kêu

cứu qua cửa sổ thì tôi bị nhét giẻ vào miệng. Suốt 5 ngày, tôi bị bỏ đói. Hôm nay, họ cho tôi

ăn cơm nhưng vừa mới nuốt một chút tôi hiểu ngay rằng tôi bị đánh thuốc mê. Trong cơn

mê, tôi cảm thấy như có lúc được dẫn đi, có lúc ngồi trong xe, sau rốt, tôi được đẩy lên xe

lửa. Khi tàu lăn bánh, tôi hơi tỉnh lại nên đã nhảy d ựng lên. Chúng nó ấn tôi xuống, và nếu

không nhờ người đàn ông dũng cảm này thì tôi không bao giờ tẩu thoát được.

Chúng tôi ngồi im lặng nghe câu chuyện thương tâm này. Chợt Holmes lên tiếng:

- Con đường chông gai của chúng ta còn dài lắm. Công tác cảnh sát đã chấm dứt. Công

tác pháp lý bắt đầu.

- Đúng thế - Tôi tán đồng - Một luật sư giỏi biến một tội sát nhân thành một hành động tự

vệ chính đáng. Cho dù tiền tích của nghi can là cả trăm án sát nhân, nhưng chỉ có thể xử độc

nhất cái án này.

Thanh tra Baynes phát biểu một cách hồ hởi:

- Tất cả chúng ta sẽ hoan hô khi chúng ta truy tố bọn chủ lâu đài High Gable ra trước tòa

đại hình.

Tuy nhiên, con cọp vùng San Pedro cùng bọn đồng hành qua mặt viên cảnh sát đang theo

đuổi bằng cách chui vào một căn nhà có cửa sau. Kể từ đấy, họ biệt tăm tại Anh. Sáu tháng

sau, báo chí đăng tên hầu tước Montalva và viên thư ký Rulli bị ám sát tại khách sạn

Escurial ở Madrid. Tội ác được gán ghép cho phái Hư vô chủ nghĩa và bọn hung thủ không

bao giờ bị bắt. Thanh tra Baynes đến thăm chúng tôi tại đường Baker, mô tả khuôn mặt sôcô-

la của viên thư ký và những nét kẻ cả với đôi mắt đen và bộ lông mày đen cứng của

người chủ. Lúc đó, chúng tôi không còn nghi ngờ nữa, công lý đã thưởng phạt nghiêm

minh.

- Anh Watson, đây là một vụ án hỗn độn. Anh khó mà trình bày một cách mạch lạc đúng

theo thói quen cố hữu của anh. Địa bàn nội vụ nằm trên hai lục địa, nội dung là sự kình địch

giữa hai nhóm người bí hiểm, kết cấu được tăng phần rối rắm do sự hiện diện của ông bạn

Eccles của chúng ta. Chính sự lôi cuốn Eccles vào mới làm nổi bật cái óc sáng tạo và cái

biệt tài nói chuyện của Garcia. Còn có chi tiết nào làm bận trí anh không?

- Tại sao chàng trai lai da đen quay về biệt thự Wisteria?

- Để tìm cái vật kỳ lạ trong nhà bếp. Đó là một thổ dân trong rừng San Pedro. Khi chạy

trốn, chàng trai ấy không thể nào rời xa linh vật của mình nên hôm sau, anh ta quay về và bị

bắt. Còn thắc mắc nào không, anh Watson?

- Còn con chim bị chặt khúc, cái xô máu, mớ xương bị thiêu rụi và toàn bộ màn huyền bí

trong cái nhà bếp dị kỳ?

Holmes mỉm cười rồi kiếm trong sổ tay:

- Tôi đã dành một buổi sáng để tới Viện bảo tàng Anh quốc tham khảo tài liệu. Sau đây là

một đoạn văn trích dẫn lấy từ Eckermann: "Bất cứ làm điều gì hệ trọng họ đều cúng kiến để

xin quỷ thần phù hộ. Có khi còn giết người để tế rồi sau đó ăn cỗ thịt người. Vật hy sinh

thường là một con gà trống trắng bị chặt lúc còn sống hoặc một con dê đen bị cắt cổ và

thiêu xác". Người bạn da đen của chúng ta theo đạo ma, có tín ngưỡng kỳ cục, phải không

Watson? - Holmes bổ sung rồi từ từ xếp cuốn sổ lại.

Vòng tròn đỏ:

- Bà Warren ạ, bà không có lý do chính đáng để ưu tư, và về phần tôi, tôi đang lưu tâm

đến nhiều công việc nghiêm trọng hơn - Sherlock Holmes nói xong, tiếp tục cúi đầu xuống

quyển album lớn.

Tuy nhiên bà chủ nhà vẫn bám riết:

- Năm ngoái, ông đã thu xếp công việc cho một trong mấy người thuê nhà tôi, cái ông

Fairdale Hobbs ấy!

- Vâng, một việc không đáng kể.

- Ông ấy nhắc luôn về lòng tốt của ông và về cái cách mà ông biết "làm cho ánh sáng

phát sinh từ bóng tối". Tôi nhắc lại lời của ông ấy. Tôi biết rằng hễ ông muốn là được...

Holmes nhạy cảm trước những lời "nói khéo" và cũng xúc động trước nhưng lời kêu gọi

sự hảo tâm của mình. Anh thở dài, ngẩng mặt lên, kéo lui cái ghế.

- Ðược, bà Warren. Tôi lắng nghe bà đây. Xin phép bà cho tôi hút thuốc... Cám ơn anh,

Watson! Nếu tôi không lầm thì bà đang lo lắng vì người mướn nhà cứ ở riết trong phòng.

Có gì đâu, nếu tôi mướn phòng của bà, bà cũng không thấy tôi xuất hiện mỗi ngày!

- Có thể lắm, nhưng đây là chuyện khác. Tôi sợ, thưa ông Holmes, sợ đến nỗi mất ngủ.

Nghe tiếng bước đi nhanh của ông ấy từ sáng tới khuya, nhưng không bao giờ thấy mặt ông

ấy. Chồng tôi cũng bực dọc như tôi, nhưng anh ấy đi làm suốt ngày. Còn tôi, căng quá. Tại

sao ông ấy giấu mặt? Ngoài cô gái giúp việc, ở nhà không còn ai...

Holmes nghiêng ra phía trước để đặt các ngón tay mảnh mai của anh trên vai bà chủ nhà.

Dường như anh có khả năng xoa dịu mọi trường hợp băn khoăn. Sự sợ hãi biến khỏi đôi mắt

của thân chủ: bà bình tĩnh trở lại.

- Nếu tôi chăm lo vụ này thì bà phải kể ra tất cả các chi tiết. Bà cứ thoải mái suy nghĩ, và

nhớ lại tất cả đi? Bà có nói rằng người ấy dọn vào nhà cách nay 10 ngày và đã thanh toán

tiền ăn, ở đủ 15 ngày.

- Thưa ông, ông ấy có hỏi về các điều kiện tôi đề nghị 50 shilling một tuần cho bộ xalông

nhỏ trong một phòng ngủ đủ tiện nghi trên gác.

- Rồi sao nữa?

- Ông ấy đáp: "Tôi sẽ trả cho bà 5 bảng một tuần, nếu bà chấp thuận các điều kiện của

tôi". Ông ta trao cho tôi một tờ 10 bảng, và nói: "Bà sẽ nhận hai tuần một lần, nếu bà chấp

thuận, còn không thì thôi, xin kiếu từ!".

- Ðiều kiện như thế nào? - Holmes hỏi.

- Ðưa cho ông ta một chìa khóa nhà. Ðâu có sao phải không ông? Nhưng ông ta lại căn

dặn thêm: khỏi phải bận tâm, và đừng bao giờ quấy rầy tôi.

- Các điều kiện như vậy không có gì bất bình thường cả!

- Ðúng lý thì không. Nhưng ông ấy ở đã 10 ngày rồi. Vợ chồng tôi và cả cô gái giúp việc

đều không gặp ông ấy. Chúng tôi chỉ nghe tiếng bước chân lui tới, tới lui, sáng, trưa, chiều,

tối. Trừ buổi tối đầu tiên, ông ấy không bao giờ ra khỏi nhà.

476

- Ủa, ông ấy có ra khỏi nhà vào buổi tối đầu tiên?

- Ðúng thế, thưa ông, và về rất khuya. Sau khi trả tiền, ông ấy cho tôi hay trước rằng ông

sẽ đi vắng và dặn tôi đừng gài cửa. Nửa đêm tôi có nghe ông ấy về.

- Còn các bữa ăn?

- Ông ấy có dặn: Khi nào ông ấy nhấn chuông, chúng tôi phải mang cơm lên, đặt trên cái

ghế trước cửa phòng. Rồi nghe tiếng thứ hai thì dọn sạch. Khi cần điều gì, ông ấy sẽ kẻ chữ

in trên một mảnh giấy để trên ghế.

- Kẻ chữ?

- Ðúng thế, kẻ chữ in bằng bút chì, chỉ ghi các từ cần thiết, không dư, không thừa: hoặc

"XÀ PHÒNG" hoặc "BAO DIÊM", hoặc "TỜ DAILY GAZETTE". Mỗi sáng tôi mang

điểm tâm và tờ báo lên.

- Anh Watson! - Holmes nói lớn rồi tò mò nghiên cứu các miếng giấy con con - Tự giam

hãm trong nhà, điều đó không có gì lạ. Nhưng kẻ chữ in là một việc khác mọi người? Anh

nghĩ gì về cái tật kỳ cục này?

- Hắn muốn giấu nét chữ.

- Tại sao? Người chủ nhà trọ biết nét chữ của mình thì có sao đâu? Ngoài ra, tại sao lại

viết cụt ngủn như thế?

- Tôi cũng thắc mắc!

- Một đề tài lý thú! Chữ được viết bằng bút chì tím, to đầu, loại thường. Này, để ý, giấy

bị xé tại đây, ngay sát chữ, đến nỗi chữ "X" của "XÀ PHÒNG" gần như biến mất. Cần suy

nghĩ, phải không anh Watson?

- Một sự thận trọng chăng?

- Ðương nhiên! Chắc chắn có dấu tay, dấu của ngón cái, có thể làm lộ căn cước của

người viết. Này bà Warren, bà đã nói rằng ông ta là một người có râu, tầm vóc trung bình,

da nâu. Bà đoán xem ông ấy bao nhiêu tuổi?

- Thưa ông, không quá ba mươi.

- Bà có thể cố gắng moi trí nhớ để cung cấp thêm những chi tiết khác không?

- Ông ta nói tiếng Anh rất giỏi. Theo giọng nói thì hình như là người nước ngoài.

- Ăn mặc ra sao?

- Rất đàng hoàng. Một người thượng lưu. Quần áo màu sẫm, không có gì đặc biệt để lưu

ý.

- Ông ta không cho bà biết tên à?

- Không, thưa ông.

- Và không thư từ hay khách khứa gì sao?

- Không, thưa ông.

- Buổi sáng, bà hay cô gái giúp việc vào phòng đó?

- Không, ông ta tự quét dọn.

- Ðấy là chuyện rất lạ. Ông ta có hành lý không?

- Chỉ có một cái bị to màu nâu. Thế thôi.

477

- Vậy là không có bất cứ một thứ gì đưa ra khỏi phòng.

Bà chủ nhà trọ lấy trong xách tay một phong bì. Từ đó bà rút ra những que diêm đã cháy

và một tàn thuốc để lên bàn.

- Mới sáng nay. Ðể trên mâm điểm tâm. Tôi cất giữ nó vì tôi nghe nói ông có thể suy

đoán một ngàn chuyện từ những cái vô cùng vặt vãnh.

Holmes nhún vai:

- Không có nghĩa gì cả. Ðương nhiên. Diêm đã đánh để châm thuốc. Căn cứ theo phần

cháy. Phải một que thì mới đốt được ống tẩu hoặc một điếu xì-gà. Mà... này! Anh chàng có

râu quai nón, râu mép, bà có nói thế, phải không?

- Ðúng, thưa ông.

- Lạ lùng? Chỉ có người cạo râu nhẵn nhụi mới hút cái điếu thuốc này. Nhìn này, Watson!

Dù khéo léo đến đâu, bộ râu mép của anh ta cũng sẽ bị cháy!

- Có lẽ y hút qua cán.

- Không đâu. Cái đầu điếu còn chất keo rõ ràng. Tôi đoán rằng người này ăn rất ít, phải

không, bà Warren?

- Ðúng ông ta ăn ít đến nỗi tôi không biết làm sao anh ta sống được!

- Hừm. Có lẽ phải chờ thêm yếu tố mới. Nói cho cùng, bà không có cớ để kêu ca. Bà đã

nhận tiền cho thuê phòng, mặt khác, ông ta có gây phiền hà gì đâu. Ðó chỉ là người khách

trọ bình thường. Chúng ta không có quyền xâm phạm sự ẩn dật đó, trừ phi ta có cơ sở để

quyết đoán rằng đó là cách trốn công lý. Tôi sẽ theo dõi kỹ. Bà hãy báo cho tôi tất cả những

sự kiện mới và bà có thể tin cậy nơi tôi.

Khi bà chủ quán trọ ra về, Holmes suy nghĩ.

- Nội vụ rõ ràng có những chi tiết kỳ thú. Có thể đây chỉ là một trường hợp lập dị, cũng

có thể là một câu chuyện có chiều sâu mà thoạt nhìn không thể chất. Cái ý tưởng đầu tiên

xuất hiện trong trí tôi là người hiện trọ không phải là người trả tiền thuê nhà.

- Do đâu mà anh nghĩ như vậy?

- Chuyện quái lạ là cái lần độc nhất mà người trọ đi ra ngoài ngay sau khi gửi phòng. Ông

ta trở về? Ông ta hay là một kẻ khác? Khi mà tất cả mọi người đều ngủ. Ngoài ra, người

thanh toán tiền nói tiếng Anh giỏi, còn người này thì viết. Lối hành văn cụt ngủn có thể

nhằm che giấu kiến thức rất nghèo nàn về tiếng Anh. Tôi vẫn thắc mắc rằng ở đây có sự

"tráo người trọ".

- Ðể làm gì?

- Ðấy là vấn đề. Chúng ta sẽ đi theo hướng này...

Holmes lấy cuốn sổ lớn trong đó chữa các mục nhắn tin đăng trên các báo lớn của

London.

- A! - Vừa lật sổ Holmes vừa thốt lên - Quả là một bản hợp xướng rên la than khóc! Một

sọt rác chuyện tạp nham! Thằng cha này cô độc, nó không thể nhận thư tín vì sợ lộ bí mật.

Vậy bằng cách nào mà tin tức vào nhà được? Ðương nhiên phải qua mục nhắn tin, đây Cái

nhắn tin cắt trong Daily Gazette lúc 15 giờ này: "Người đàn bà có con trăn đen tại câu lạc

478

bộ trượt băng Hoàng Tử". Mẫu khác: "Ðương nhiên Jimmy không muốn làm mẹ đau khổ".

Hai cái này có lẽ không dính dáng gì tới người vô danh của chúng ta. "Người đàn bà ngất

xỉu trên xe buýt đi, Brixton..." cũng chả ăn nhập gì. "Mỗi ngày tim tôi thổn thức... rên

khóc". Anh Watson ơi. Rên khóc một cách vô liêm sỉ! À, đây "Nhẫn nại sẽ tìm ra cách liên

lạc an toàn. Chờ đợi ở mục nhắn tin này - G". Tin ngày nào? Sau ngày đến của người trọ tại

nhà bà Warren hai ngày. Nghe xuôi tai không? Người vô danh đọc và hiểu tiếng Anh, dù

viết không tốt. Xem coi có gì nối tiếp không? Có đây: Ba ngày sau: "Tôi chuẩn bị để thành

công. Nhẫn nại và thận trọng. Mây mù sẽ tan - G". Rồi bặt hẳn một tuần. Nhưng giờ đây có

chuyện chính xác hơn: "Ðường đi đã trống. Nếu tôi có dịp liên lạc bằng dấu hiệu, thì vẫn

theo quy ước cũ - G". Ðó là trong tờ báo hôm qua. Còn hôm nay thì không có gì cả, tất cả

đều không thể ăn khớp hoàn toàn với người trọ tại nhà bà Warren? Ðợi một thời gian ngắn

nữa, tôi tin chắc rằng nội vụ sẽ trở nên dễ hiểu hơn.

Holmes đã đoán đúng. Sáng hôm sau, tôi thấy anh đứng quay lưng vào lò sưởi, mặt hớn

hở.

- Anh nghĩ gì về cái nhắn tin này, Watson? - Holmes vừa hỏi vừa lấy tờ báo trên bàn. -

"Tòa nhà lớn màu đỏ có phủ đá trắng. Tầng ba. Cửa sổ thứ nhì bên trái. Sau hoàng hôn - G".

Cái tin này thì khá chính xác. Tôi đề nghị sau khi ăn sáng, chúng ta sẽ đi thám sát trong

vùng nhà của bà Warren... A, chào bà Warren! Sáng nay, bà đem đến cho chúng tôi tin tức

gì đấy?

Vẻ mặt giận dữ của bà báo trước là có chuyện mới và chấn động.

- Phải cho cảnh sát biết thôi, ông Holmes à. Tôi không chịu đựng nổi, phải tống hắn ra

khỏi nhà. Tôi muốn hỏi ý kiến ông trước. Tôi không thể nhịn được nữa! Ông nghĩ xem, ông

chồng già của tôi bị tấn công?

- Chồng bà bị đánh đập?

- Dù sao họ cũng đã mạnh tay với ông ấy!

- Ai mạnh tay?

- Chính tôi rất muốn biết điều này, nhà tôi làm nhân viên bấm giờ tại công ty Morton và

Waylights ở phố Tottenham Court. Ông phải rời nhà trước 7 giờ sáng. Sáng nay chồng tôi

chưa đi được mười bước thì hai người đàn ông từ sau đi đến, lấy một cái măng-tô phủ đầu

ông, ném ông lên một xe ngựa chờ sẵn bên lề đường. Chúng chở ông đi lòng vòng trong

một giờ rồi mở cửa xe, đạp ông xuống đường. Lồm cồm ngồi dậy, chồng tôi thấy mình đang

ở phố Hampstead Heath. Ông liền lên xe buýt và hiện thời đang nằm dài ở nhà. Tôi tức tốc

đến đây báo cáo.

- Rất hấp dẫn. Ông ấy có quan sát bọn đó không? Chúng ra làm sao? Ông ấy có nghe

chúng nói chuyện không.

- Không, khi hồn vía đang lên mây thì còn biết gì? Ông cho rằng ông bị bùa, và nhớ

mang máng có hai ba người đàn ông trong xe.

- Bà cho rằng việc tấn công này có liên quan đến người bí mật cư ngụ trong nhà bà?

479

- Chúng tôi sống tại đó đã 15 năm rồi, có bao giờ xảy ra câu chuyện như thế. Tôi chán

ngấy hắn rồi. Tiền bạc đâu có giải quyết được mọi chuyện. Tôi sẽ tống khứ hắn trước tối

nay.

- Bà hãy chờ một chút. Tôi bắt đầu thấy nội vụ có thể quan trọng hơn rồi đó. Rõ ràng là

người trọ nhà bà đang bị đe dọa, kẻ thù của ông ta đang rình rập gần nhà, lầm lẫn chồng bà

với ông vì sương mù buổi sáng, khi biết đã lầm, họ mới thả ông nhà ra. Nếu không lầm, thì

họ đã làm gì nào?

- Vậy thì tôi phải hành động ra sao? - Bà Warren hơi bình tĩnh lại.

- Tôi rất muốn gặp người khách trọ ở nhà bà - Holmes nói.

- Tôi không biết quý vị làm thế nào mà gặp ông ta, trừ khi phá cửa. Tôi luôn luôn nghe

ông ta khóa cửa sau khi tôi mang điểm tâm lên và đi xuống lầu.

- Ít ra ông ấy cũng phải ra cửa để bưng mâm vào. Chúng tôi ngồi rình ở đâu đó.

Bà chủ nhà trọ suy nghĩ.

- Thưa ông, đàng trước có cái kho cũ. Tôi sẽ bố trí một cái gương, đề nghị quý ông nấp

sau cánh cửa.

- Hay quá! Mấy giờ thì ăn trưa?

- Khoảng 1 giờ.

- Vậy thì bác sĩ Watson và tôi sẽ đến đó đúng giờ. Kính chào bà Warren!

Lúc 12 giờ 30, chúng tôi đến. Căn nhà cao bằng gạch màu vàng, nằm tại phố Great

Howe, có một đường nhỏ đâm vào mặt đông bắc của viện bảo tàng. Vị trí gần ngã ba của

nó, giúp nó nhìn bao quát con đường cùng các nhà xa hơn của đường này. Holmes cười nhẹ

đưa tay chỉ về một trong các nhà nguy nga: nó nhô ra và dễ chú ý đến.

- Thấy không Watson. Toà nhà lớn màu đỏ có phủ đá trắng. Ðó là điểm hẹn. Chúng ta

biết chỗ, lại biết mật mã thì nhiệm vụ sẽ dễ dàng. Trên cửa sổ có một tấm bảng đề hai chữ

"cho thuê" . Rõ ràng là một căn hộ trống và kẻ tòng phạm có thể chui vào. Nào bà Warren,

có gì mới mẻ?

- Tất cả đã sẵn sàng. Quý vị có thể lên, tôi đưa đường.

Bà đã thu xếp một chỗ nấp tuyệt hảo. Ngồi trong bóng tối, chúng tôi cũng thấy rõ cái cửa

đối diện. Chúng tôi vừa an vị và bà Warren vừa rời khỏi chỗ chúng tôi ẩn thì một tiếng leng

keng văng vẳng báo cho chúng tôi biết rằng người khách trọ kỳ lạ đã kéo chuông. Một

thoáng sau, bà Warren xuất hiện với cái mâm. Bà đặt nó lên cái ghế cạnh cửa, rồi nặng nề

bước xuống cầu thang.

Ngồi chồm hổm trong góc cửa ép vào nhau, chúng tôi nhìn đăm đăm vào cái gương. Ðột

ngột, sau khi tiếng bước chân của bà Warren xa dần, chúng tôi nghe chìa khóa khua lách

cách, nắm đấm cửa xoay, hai bàn tay mảnh mai đưa ra bưng mâm cơm. Lập tức mâm được

trả về chỗ cũ và tôi thấy trong khoảnh khắc, một khuôn mặt hoảng hốt nhìn cái cửa kho hé

mở. Rồi cửa lại đóng, chìa khóa lại khua lách cách. Tất cả lại yên tĩnh. Holmes lay tay áo

tôi, và chúng tôi rón rén xuống cầu thang.

480

- Tôi chúng tôi sẽ quay lại. - Holmes nói với bà chủ trọ đang chạy lại hỏi thăm. - Watson

à, về nhà chúng ta sẽ thảo luận thoải mái hơn.

Ngồi vào ghế bành, Holmes nói:

- Ðúng như tôi dự đoán, đã có sự thay thế người ở trọ. Ðiều không dự đoán được đó là

một người đàn bà.

- Bà ấy đã thấy chúng ta?

- Ồ, chắc chắn bà ấy có thấy một cái gì đó nên mới hoảng hốt. Câu chuyện trở nên dễ

hiểu, phải không? Một cặp vợ chồng kiếm chỗ tị nạn tại London, để tránh một hiểm họa vừa

khủng khiếp vừa gần kề. Chúng ta có thể đo lường cái hiểm họa theo độ nghiêm ngặt của

các cách đề phòng. Người chồng vì cần làm cho kỳ được một cái gì đó, nên muốn rằng

trong lúc đó, vợ ông ta phải được an toàn tuyệt đối. Bài toán không dễ, nhưng đã được giải

quyết một cách hữu hiệu đến nỗi bà chủ nhà trọ hàng ngày mang thức ăn tới mà không biết

gì cả. Các mảnh giấy kẻ bằng chữ in, rõ ràng là để giấu chữ viết của một người phái nữ, vì

sợ bị bại lộ. Do không thể liên lạc trực tiếp được, ông ta phải dùng mục nhắn tin trên báo.

Tối nay thì mọi sự đều đơn giản.

- Nhưng mà cái gốc của câu chuyện là cái gì?

- Câu hỏi khôn ngoan quá. Anh quả là người luôn luôn thực tế. Gốc rễ của toàn câu

chuyện là gì? Cái bài toán mà bà Warren đặt ra mỗi lúc một lan rộng, và càng tiến xa càng

để lộ những dữ kiện đen tối hơn. Kể từ phút này, ta có thể khẳng định rằng: một là, sự vụng

trộm ái tình bình thường. Bạn đã thấy nét mặt của người đàn bà khi cảm thấy có hiểm họa.

Hai là đã có một sự tấn công lầm lẫn, mà ông chủ nhà trọ là nạn nhân. Các sự báo động

cùng với nhu cầu tối thiết về bí mật cho thấy tính sinh tử của vấn đề. Mặt khác sự tấn công

lầm đã cho ta thấy rằng kẻ thù không hay biết có sự tráo người trọ. Rất là kỳ lạ, và phức tạp!

- Tại sao anh lại bận tâm đến nó làm gì? Ðược lợi lộc gì?

- Nghệ thuật vị nghệ thuật mà? Tôi đã biết rằng đôi khi anh cũng hành nghề y mà không

được lời một xu?

- Ðể học hỏi.

- Phạm vi của học vấn là bao la. Phải học mãi, và bài học cuối cùng mới là bài quan

trọng. Cho nên trước một trường hợp có lợi cho học vấn, thì tuy sẽ chẳng được lợi gì về tiền

bạc hoặc tiếng tăm ta cũng phải tham dự thôi. Ðêm nay, cuộc điều tra sẽ tiến một bước khá

dài.

Khi chúng tôi trở lại nhà bà Warren, ánh sáng lù mù của một đêm đông càng dày đặc

thêm, ngả thành màu xám xịt, lốm đốm vàng do các cửa sổ và đèn đường. Chúng tôi vào

phòng khách của bà chủ trọ. Ðèn tắt, chúng tôi nhìn ra ngoài, xuyên qua cửa kính, bất chợt

ở bên kia đường với một ánh sáng lấp lánh trong bóng đêm.

- Ai đó đang xê dịch trong phòng. - Holmes thì thầm dán chặt cái đầu xương xẩu và nhọn

hoắt vào cửa kính. - Ðúng thế, tôi thấy rõ cái dáng của người ấy. Hắn cầm nến trên tay. Hắn

quan sát bên này đường. Có lẽ hắn muốn biết chắc rằng bà ấy đang chờ đợi. Kìa hắn bắt đầu

đánh tín hiệu kia kìa. Watson, anh cũng nên ghi các tín hiệu, để chúng ta so kết quả. Chỉ lóe

481

sáng một lần... chắc chắn là chữ A. Nè... bao nhiêu lần Watson, 20 chăng? Tôi cũng thế, vậy

là chữ T... AT khá dễ hiểu... Một chữ T khác. Chắc chắn đấy là khởi đầu của cái từ thứ nhì.

TENTA chấm. Chẳng lẽ hết rồi sao? ATTENTA? Không có nghĩa gì cả. Hoặc giả là AT,

TEN, TA? Cũng không rõ gì hơn, trừ khi TA là hai chữ cái của tên ai đó. Kìa, hắn lại tiếp

tục Cái gì nhỉ? ATTE... Sao? Vẫn một lối mật mã? Lạ kỳ, Watson à, vô cùng lạ kỳ. Lại

dừng. Không.Hắn tiếp tục AT... sao? Hắn lặp lại lần thứ ba? ATTENTA, ba lần? Hắn sẽ còn

đánh lại bao nhiêu lần nữa. Không, hình như xong rồi. Hắn rời cửa sổ rồi. Anh nghĩ sao

Watson?

- Một điệp văn mật mã.

Holmes đột ngột cười ép tiếng, biểu lộ sự thông hiểu.

- Mật mã không tối tăm lắm đâu. Tiếng Ý đấy! Chữ A đầu có nghĩa là điệp văn được gửi

cho một người đàn bà. Với chữ này, hắn nói: "Coi chừng! Coi chừng! Coi chừng!". Ðúng

thế.

- Phải là một điệp văn rất khẩn cho nên hắn mới lặp lại ba lần. Chờ xem kìa, hắn quay lại

cửa sổ.

Lại một lần nữa chúng tôi thấy rõ dáng dấp lờ mờ của một người đàn ông. Các tín hiệu

được gửi tiếp nhưng nhanh hơn, nhanh đến nỗi khó theo dõi.

- PERICOLO! Pericolo là gì, Watson? Pericolo là hiểm nguy chứ là gì. Ðúng rồi, đó là

một tín hiệu báo động. Y lặp lại: PERI... Chuyện gì vậy? Ánh sáng đột ngột tắt, toàn tầng

lầu chỉ còn là một băng đen bao quanh cao ốc. Tiếng báo nguy bị cắt ngang? Ai cắt và cắt

bằng cách nào.

Cùng một ý tưởng nảy sinh trong đầu chúng tôi và Holmes nhảy dựng lên.

- Nghiêm trọng rồi, Watson ơi. - Anh la lớn - Một màn gian ác đang diễn ra. Tại sao bức

điện văn bị gián đoạn đột ngột? Ta phải báo cho Scotland Yard. Nội vụ diễn tiến dồn đập.

- Anh muốn tôi đi tìm cảnh sát.

- Có lẽ nên chờ cho tình hình rõ nét hơn. Có thể có một điều gì đó rất rắc rối. Nào

Watson, chúng ta băng qua đường và quan sát cặn kẽ hơn.

Trong khi chúng tôi nhanh chân hướng về phố Howe, tôi quay lại nhìn ngôi nhà chúng tôi

vừa rời. Ðằng sau cửa sổ trên cao hiện lờ mờ bóng của một cái đầu, một người đàn bà đứng

lặng nhìn chòng chọc vào bóng đêm. Có lẽ đang chờ cái điệp văn bị đứt đoạn. Trước cổng

tòa nhà ở phố Howe, một người đàn ông, cổ áo choàng kéo cao đang dựa vào song sắt. Khi

ánh sáng của đại sảnh rọi vào mặt chúng tôi, ông nhảy dựng.

- Holmes! - ông la lớn.

- Ủa, Gregson? - Holmes kêu to và bắt tay người thám tử của Scotland Yard - Ðồng thanh

tương ứng, đồng khí tương cầu phải không Gregson? Việc gì vậy?

- Cùng một việc thôi, nhưng sao lại có anh can dự vào?

- Qua nhiều mối chỉ, khác biệt với các đầu mối của ông nhưng thuộc cùng một cuộn.

Tình cờ tôi bắt gặp các tín hiệu.

- Tín hiệu?

482

- Ðúng thế, từ cái cửa sổ kia. Nửa chừng thì bị cắt đứt. Chúng tôi băng qua đường để tìm

hiểu lý do. Nhưng ông đang thụ lý, tôi không còn lý do để tiếp tục cuộc điều tra.

- Chờ một chút! - Gregson nhiệt tình kêu lên - Anh Holmes, tôi thú thật rằng, hễ mỗi khi

có anh tham gia thì tôi cảm thấy hăng hái hơn. Tòa nhà này chỉ có một cửa duy nhất, do đó

nó chạy không thoát đâu.

- Ai vậy?

- Ha! Ha! Lâu lắm chúng tôi mới ghi một bàn thắng.

Viên thám tử lấy gậy dộng trên đất. Người xà ích, tay cầm roi ngựa, rời xe tứ mã bước

qua.

- Tôi xin phép giới thiệu ông với ông bạn Sherlock Holmes - Gregson nói với người xà

ích - Ðây là ông Leverton, thuộc dịch vụ cảnh sát Pinkerton của Hoa Kỳ.

- Tôi hân hạnh được biết ông! - Holmes nói.

Người Hoa Kỳ với khuôn mặt trẻ, không râu, mảnh khảnh, điềm đạm nói:

- Tôi nghe danh ông đã lâu. Chỉ chờ bắt được thằng Gorgiano này...

- Sao? Gorgiano của Vòng Tròn Ðỏ.

- À, té ra hắn ta cũng nổi tiếng tại Âu châu. Tại Hoa Kỳ, chúng tôi đều biết rõ bản mặt

hắn. Hắn chủ mưu khoảng 50 vụ án mạng, nhưng chúng tôi chưa nắm được một bằng chứng

cụ thể nào. Tôi đã bám sát hắn từ New York. Một tuần nay, tôi theo hắn sát gót. Tôi chỉ còn

chờ một cái cớ để thộp cổ. Gregson và tôi đã thấy hắn lẩn trốn trong tòa nhà này. Chỉ có

một cửa ra, hắn sẽ chạy không thoát đâu. Từ lúc hắn vào, ba người đã đi ra, nhưng không

phải là hắn.

- Ông Holmes có nói với tôi về các tín hiệu - Gregson nói - Tôi tin rằng như thường lệ,

ông ấy sâu sắc hơn chúng ta.

Holmes trình bày ngắn gọn. Người bạn Hoa Kỳ bực dọc, xoắn hai bàn tay vào nhau.

- Chúng ta bị phát hiện rồi! - Leverton la lớn.

- Căn cứ vào đâu?

- Hắn đang gởi một điệp văn cho một tòng phạm. Bè lũ chúng ở London này đông lắm.

Chính vào cái lúc hắn đang báo động thì đột ngột bị gián đoạn. Ðiều đó có nghĩa gì, nếu

không phải là thình lình hắn thấy bọn chúng mình đứng ngoài đường, hoặc hắn đột ngột biết

có một hiểm nguy đang đe dọa nên hắn phải ngừng ngay tức khắc. Ông nghĩ sao, ông

Holmes?

- Theo tôi, chúng ta nên leo lên liền và sẽ quyết định.

- Nhưng chúng ta không có trát bắt giam hắn?

- Hắn ở tại khu nhà bỏ trống trong những điều kiện khả nghi - Gregson đáp. - Tạm thời

thì bấy nhiêu cũng đủ. Khi bắt hắn rồi, chúng ta sẽ chờ New York tiếp tay để chúng ta nhốt

hắn. Phần tôi, tôi nhận trách nhiệm bắt hắn ngay tức khắc.

Các thám tử của nhà nước đôi khi thiếu trí tưởng tượng, nhưng rất thừa dũng cảm.

Gregson leo lên gác, nhẹ nhàng như lúc leo lên cái cầu thang lớn của sở Scotland Yard.

483

Leverton đi trước, nhưng Gregson đã mạnh tay gạt anh ta qua một bên. Những hiểm nguy

của London phải là đặc quyền của người London.

Cánh cửa của căn phòng ở phía trái của tầng ba, lúc đó đang hé mở, Gregson mở toang

nó ra. Tối đen và im lặng. Tôi bật diêm, châm đèn xách tay của viên thám tử. Khi ngọn lửa

đã sáng tỏ, chúng tôi đồng loạt kêu lên vì ngạc nhiên. Trên sàn nhà, những dấu chân máu

chảy dài từ một căn phòng cửa đóng kín. Gregson dùng vai tung mạnh cửa, và đưa đèn lồng

lên. Chúng tôi nhón chân, nhìn chăm chăm qua vai ông.

Chính giữa căn phòng trống, xác của một người khổng lồ nằm dài trong vũng máu. Mặt

hắn nhẵn nhụi, sạm nắng, méo mó kỳ lạ. Ðầu gối co lại, hai bàn tay xòe ra và đưa cao trong

sự co giật trong lúc chết. Ở cổ, một cán dao màu trắng cắm sâu vào đó. Cạnh bàn tay mặt

của hắn một dao găm cán sừng lưỡi đôi nằm gần một chiếc bao tay da dê đen.

- Ðúng là Gorgiano Ðen! - Viên thám tử Hoa Kỳ la to - Ai đó đã nhanh tay hơn chúng ta.

- Còn đây, cây nến cạnh cửa sổ, anh Holmes - Gregson cười đùa. - Anh làm cái trò quỷ gì

đó?

Lúc đó, Holmes cầm cây nến cháy đưa qua đưa lại ngay trước cửa sổ rồi nhìn vào đêm

tối. Cuối cùng, thổi cây nến và quăng nó xuống đất.

- Tôi tin tôi sẽ đóng góp một điều ích lợi. - Holmes nói khẽ rồi đứng lặng thinh.

Trong lúc hai thám tử nhà nghề khám nghiệm tử thi, Holmes nói tiếp:

- Trong lúc các anh chờ dưới đường có thấy ba người đã ra khỏi tòa nhà này? Các anh

thấy rõ không?

- Rõ.

- Các anh có để ý một anh chàng khoảng 30 tuổi, không cao, râu quai nón đen?

- Có. Hắn ra sau cùng.

- Ðó là hung thủ. Tôi có thể cung cấp dấu hiệu đặc biệt của hắn vì chúng ta có dấu chân

rõ ràng của hắn. - Vậy là đủ rồi chứ gì?

- Chưa đủ, ông Holmes, London có tới mấy triệu người mà.

- Quả là chưa đủ. Do đó, tôi đã mời bà này tới tiếp tay.

Tất cả chúng tôi đều quay lại. Trong khung cửa lớn xuất hiện một người đàn bà cao lớn,

rất đẹp. Ðó là người trọ tại nhà bà Warren. Bà từ từ bước vào, mặt tái xanh vì sợ sệt. Ðôi

mắt hoảng hốt nhìn đăm đăm vào kẻ nằm sõng soài trên sàn nhà.

- Các ông đã giết nó! - Bà thì thầm - Ồ, các ông đã giết nó?

Tôi nghe bà hít không khí thật sâu, rồi nhảy tung lên và vui mừng. Bà chạy quanh phòng,

vừa múa vừa vỗ tay. Hàng ngàn lời cảm thán bằng tiếng Ý.

- Nhưng mà quý vị? Quý vị là cảnh sát phải không? Quý vị đã giết Giuseppe Gorgiano

phải không?

- Chúng tôi là cảnh sát, thưa bà.

Bà nhìn ngơ ngác sục sạo quanh gian phòng, hỏi:

484

- Còn Gennaro đâu? Anh ấy là chồng tôi, Gennaro Lucca. Tôi là Emilia Lucca, cả hai

chúng tôi đều có nguyên quán tại New York. Gennaro đâu? Anh ấy vừa gọi tôi từ cửa sổ

này, và tôi chạy sang ngay mà?

- Chính tôi vừa gọi bà - Holmes nói.

- Ông? Làm sao kỳ vậy?

- Mật mã đâu có gì khó khăn. Sự hiện diện của bà tại đây rất cần. Tôi thấy chỉ cần đánh đi

cái từ "VIENI" bằng mật mã là bà ra ngay.

Người đàn bà Ý nhìn thẳng vào Holmes với một ánh mắt lo âu.

- Tôi không hiểu vì sao ông biết được mật mã đó! Anh ấy đã... - Bà ngừng ngang và thình

lình mặt bà sáng đẹp vì kiêu hãnh và hân hoan. - À, Tôi hiểu rồi! Anh Gennaro đẹp và diệu

kỳ của tôi đã che chở tôi khỏi các nguy biến. Chính anh ấy đã giết con quái vật này! Ôi, anh

Gennaro, anh thật là xuất chúng,

- Thưa bà Lucca. - Gregson kêu lên vừa đặt bàn tay lên vai bà ta một cách lạnh lùng như

cách đối xử với các tên du côn. - Hiện tại tôi không hiểu rõ bà nói gì, nhưng bà đã nói đủ để

tôi có cơ sở đưa bà về Scotland Yard.

- Chờ một chút, ông Gregson. Tôi tin rằng bà này sẽ rất nhiệt tình cung cấp mọi tin tức

mà chúng ta cần. Thưa bà, bà vui lòng hiểu cho rằng chồng bà sẽ bị bắt, sẽ ra tòa vì tội giết

người. Tất cả những gì bà nói có thể được xem là lời khai của nhân chứng. Nếu bà nghĩ rằng

ông nhà đã hành động vì những lý do chính đáng thì bà nên khai đầy đủ.

- Giờ đây thằng ác ôn này đã chết, chúng tôi còn gì phải sợ đâu. - Bà đáp - Nó là một con

quỷ, một con quái vật. Không một ông tòa nào phạt chồng tôi.

- Vậy thì, - Holmes đề nghị - Chúng ta hãy đóng cửa này lại để hiện trường vẫn y nguyên

và trở về phòng bà, nghe bà nói.

Nửa giờ sau, cả bọn chúng tôi ngồi trong cái xa-lông nhỏ. Bà nói tiếng Anh lưu loát

nhưng không chuẩn lắm.

- Tôi sinh tại Posilippo, gần thành phố Naples của nước Ý. Tôi là con gái của Augusto

Barelli, trước đây là đệ nhất thẩm phán kiêm dân biểu của vùng. Gennaro là nhân viên của

cha tôi và tôi yêu anh ấy. Anh ấy không có nhiều tiền, cũng không có cái gì ngoài thân hình

đẹp, sức mạnh và tính cương nghị. Cha tôi không bằng lòng cho chúng tôi lấy nhau. Cả hai

chúng tôi thoát ly gia đình, đám cưới được tổ chức tại Bari, Ý. Sau đó, tôi bán hết nữ trang

để có đủ tiền đi Hoa Kỳ. Chuyện đó xảy ra cách nay 4 năm. Từ đó, chúng tôi liên tục ngụ tại

New Yord.

Lúc đầu chúng tôi gặp may. Nhờ chống trả một vài thằng du thủ du thực, chồng tôi được

lòng và được sự bao bọc của một nhà quý tộc Ý có thế lực. Tên ông ấy là Tito Castalotte,

người góp vốn chính trong công ty lớn Castalotte & Zamba, chuyên nhập khẩu trái cây lớn

nhất tại New Yord. Ông Zamba là một người tàn tật nên ông Castalotte độc thân xem

Gennaro như con. Ðáp lại, vợ chồng chúng tôi cũng thương yêu ông ấy như cha đẻ. Chúng

tôi đã thuê và sắm sửa một ngôi nhà tại Brooklyn. Tương lai của chúng tôi có vẻ vững vàng

thì bỗng có một đám mây đen bay tới.

485

Một tối nọ, Gennaro đưa về nhà một người đồng hương, tên Gorgiano, cũng sinh quán tại

Posilippo. Hắn là một tên khổng lồ, quý vị đã nhìn thấy. Trong cái thân xác khổng lồ đó là

cả một con người lố bịch, hãi hùng. Trong căn nhà nhỏ bé của chúng tôi, tiếng của hắn vang

rền như sấm và có lẽ hắn chỉ cần huơ tay một cái là tất cả đều nát vụn. Khi bị hắn nhìn, đối

tượng sẽ mất hồn như bị thôi miên. Thật là một con người khủng khiếp. Cũng may là, hôm

nay hắn đã chết. Hắn tới lui nhiều lần. Cứ mỗi lần hắn tới thì mặt mày của Gennaro biến

sắc. Người chồng đáng thương của tôi luôn tái mét và câm lặng ngồi nghe hắn nói điên nói

sảng về chính trị và xã hội. Gennaro không nói gì, tuy nhiên tôi là bạn tri âm của anh ấy, tôi

thấy có các dấu hiệu lạ thường. Lúc đầu tôi tưởng đó chỉ là một sự căm giận. Nhưng dần dà

tôi hiểu rằng nó là một cái gì nặng nề hơn. Ðó là sự sợ hãi: một sự sợ hãi sâu xa, kín đáo, rối

loạn thần kinh.

Một đêm tôi ôm cổ anh và khẩn khoản nài nỉ anh giải thích cho tôi biết sự việc. Chồng tôi

thổ lộ rằng trong lúc chao đảo trước các sự bất công của xã hội, anh đã gia nhập vào băng

nhóm Vòng Tròn Ðỏ ở Naples, trực thuộc tổ chức Carbohari. Các lời thề và những bí mật

của cái băng này thật khủng khiếp. Mắc vào đó rồi thì không có cách nào thoát ra được. Khi

chúng tôi qua Hoa Kỳ, những tưởng vĩnh viễn trốn khỏi gọng kìm. Nhưng một hôm, chồng

tôi gặp lại chính con người đã kết nạp anh tại Naples, thằng khổng lồ Gorgiano, giết người

như ngóe với biệt danh "tử thần" ở miền Nam Ý. Gorgiano chạy đến New Yord để trốn

cảnh sát. Nhưng tại đây, hắn lại thành lập một chi nhánh của cái tổ chức quái đản đó.

Gennaro đã thổ lộ hết với tôi và cho tôi xem một tờ giấy. Trên đầu tờ giấy có vẽ một vòng

tròn đỏ. Ðó là giấy mời anh dự họp băng vào ngày giờ nào đó.

Tôi có để ý mấy lúc gần đây cứ mỗi lần tới nhà, tên khổng lồ thường bắt chuyện với tôi

và khi hắn nói chuyện với chồng tôi, đôi mắt khủng khiếp của hắn như cú vọ nhìn tôi đăm

đăm. Một đêm nọ, hắn tâm sự với tôi rằng hắn yêu tôi. Tôi ở nhà một mình, Gennaro chưa

về, hắn đến gần tôi, siết tôi bằng sức gấu, hôn tứ tung và nài nỉ tôi ra đi với hắn. Tôi đang

vẫy vùng thì chồng tôi về. Anh nhảy bổ tới, nhưng gã súc sinh quật anh ấy ngã quỵ rồi tháo

chạy. Ðương nhiên, hắn không bao giờ tới nhà chúng tôi nữa. Nhưng từ đó, chúng tôi đã có

một kẻ thù không đội trời chung. Vài ngày sau thì tổ đảng họp, chồng tôi về nhà với vẻ mặt

cực kỳ buồn bã. Quỹ của băng đảng bắt nguồn từ những cuộc tống tiền những người Ý giàu

có. Chống lại là chết!

Castalotte, bạn thân và ân nhân của chúng tôi nhận được giấy mời. Ông ta không nao

núng mà còn báo cảnh sát nữa. Tổ đảng quyết định trừng phạt. Ông ấy sẽ bị mưu sát và nhà

cửa sẽ bị đặt chất nổ. Một cuộc rút thăm chỉ định người thi hành án. Tên khổng lồ mỉm cười

khi thấy chồng tôi thọc tay vào túi thăm. Gennaro rút ra cái lệnh giết người có đóng triện

vòng tròn đỏ. Thế là chồng tôi hoặc phải đi giết người bạn tốt nhất hoặc phải chịu hình phạt

của băng đảng. Suốt đêm đó, chúng tôi ôm lấy nhau, an ủi nhau trước những thách đố hãi

hùng đang chờ đợi. Giờ ra tay đã được ấn định vào hôm sau. Nhưng tới giữa trưa, vợ chồng

tôi xuống tàu đi London. Tất nhiên chúng tôi đã báo tin cho vị ân nhân và cho cảnh sát để

họ bảo vệ sinh mạng cho ông ấy.

486

Phần còn lại, thưa quý vị, quý vị đã rõ. Chúng tôi biết chắc rằng kẻ thù bám sát chúng tôi.

Tên cướp này quyết báo thù, nhưng chúng tôi biết rõ các trò xảo quyệt của hắn. Chồng tôi

đã khẩn trương thu xếp một chỗ trốn an toàn cho tôi. Phần anh ấy, anh muốn liên lạc với

cảnh sát Ý và Hoa Kỳ. Chính tôi cũng không biết anh ấy ở đâu, và làm gì. Tất cả những gì

tôi hay biết điều qua mục nhắn tin trên báo. Nhưng có một lần nhìn qua cửa sổ, tôi thấy có

hai người Ý rình rập nên tôi biết rằng tên gian ác đã tìm ra nơi lẩn trốn của chồng tôi. Cuối

cùng chồng tôi nhắn tin cho tôi rằng anh ấy sẽ gửi tín hiệu cho tôi từ một cửa sổ. Nhưng khi

tín hiệu được phát ra, tôi chỉ thấy toàn là những lời cảnh giác rồi đột ngột bị gián đoạn. Vậy

là anh ấy đã biết mình bị thằng khốn nạn bám sát. Hiện thời, thưa quý vị, vợ chồng tôi

không còn gì phải sợ. Về phía luật pháp, tòa án có kết tội chồng tôi hay không?

- Này, ông Gregson - Viên thám tử Hoa Kỳ hỏi. - Tôi không biết quan điểm của người

Anh, chứ ở New York thì tôi chắc chắn chồng bà này sẽ được mọi người khen ngợi.

- Bà ấy phải đi theo tôi và gặp ông giám đốc sở. - Gregson trả lời. - Nếu cảnh sát được sự

xác nhận về bản tường trình của bà ấy, thì tôi tin rằng hai vợ chồng bà đều không có gì để

sợ cả. Nhưng có điều tôi không thể hiểu nổi, anh Holmes à, ma quỷ nào đưa anh vào vụ này

vậy.

- Vì muốn học hỏi, ông Gregson! Chúng ta khát khao học hỏi mà! Này Watson, anh lại có

thêm một mẩu chuyện bi thương và kỳ dị để làm phong phú thêm bộ sưu tập. Nhân tiện,

chưa tới 8 giờ và người ta đang tấu nhạc tại công viên Covent, đề nghị chúng ta đến đó

ngay.

Hai lỗ tai trong hộp carton:

Hôm đó, một ngày của tháng 8, trời nóng khủng khiếp. Phố Baker giống như một lò lửa.

Sự phản chiếu của ánh nắng trên bức tường gạch vàng của ngôi nhà trước mặt làm nhức

mắt. Các bức mành đều kéo lên phân nửa. Holmes nằm cuộn tròn trên trường kỷ, đọc đi,

đọc lại một bức thư mới vừa nhận hồi sáng. Vì Holmes có vẻ quá suy tư, tôi bỏ tờ báo

xuống và dựa lưng vào ghế, nhìn anh. Im lặng và nóng bức! Bất thình lình, Holmes lên

tiếng, cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi:

- Đúng đấy, Watson! - anh nói - Đó quả thật là một điều phi lý.

- Rất phi lý! - Tôi tán đồng.

Bất chợt tôi nhận ra là Holmes đã hiểu được điều tôi đang suy nghĩ. Tôi nhỏm dậy và

ngạc nhiên nhìn anh.

- Điều này có nghĩa là gì hả Holmes? Nó vượt ra ngoài những gì tôi có thể tưởng tượng!

Holmes cười thân mật với cái vẻ lúng túng của tôi.

- Anh còn nhớ không, lúc trước, khi tôi có nói về lối suy diễn trong một tác phẩm của

Poe, mà trong đó nhân vật có thể suy diễn được cách suy nghĩ của bạn anh ta. Khi đó, anh

đã cho rằng đó chỉ là sự tưởng tượng của tác giả. Theo nhận xét của tôi, dựa trên thói quen

của anh, tôi biết anh đang hoài nghi.

- Ồ, không đâu!

- Có thể theo anh nói là như vậy, Watson thân mến, nhưng đôi lông mày của anh lại biểu

thị ngược lại. Như khi anh bỏ tờ báo xuống và bắt đầu suy tư, tôi đã bắt đầu quan sát và đi

theo anh, căn cứ trên những thói quen của anh mà tôi biết.

Nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn về câu trả lời này.

- Như trong câu chuyện mà anh kể với tôi, người đó suy diễn từ những hoạt động của

người mà anh ta quan sát. Nếu tôi nhớ không lầm thì hình như người đó vấp cục đá, ngước

nhìn sao trời v.v... Nhưng còn tôi thì ngồi yên trên ghế? Vậy anh thấy được những gì?

- Anh không để ý đấy thôi! Những đặc tính đó thường gắn liền với mỗi người và biểu thị

chính xác cảm xúc của người ấy.

- Tức là anh đọc được luồng suy nghĩ của tôi dựa trên những đặc tính của tôi?

- Đôi mắt của anh đã nói tất cả! Nó đã thể hiện ra tất cả những điều suy nghĩ của anh.

- Tôi đâu có!

- Tôi sẽ kể cho anh nghe nhé! Sau khi anh đặt tờ báo xuống, anh nhìn tôi trong khoảng

nửa phút mà không suy nghĩ điều gì. Nhưng sau đó, đôi mắt anh nhìn thấy bức ảnh của

tướng Gordon và tôi thấy là anh bắt đầu luồng suy nghĩ. Nhưng ý nghĩ đó chỉ thoáng một

chút. Mắt anh lại hướng nhìn vào bức ảnh của Henry Ward Beecher trên đầu quyển sách của

anh. Rồi anh nhìn lên tường, và ý nghĩ bắt đầy nảy sinh. Anh nghĩ rằng cái bức ảnh đó nên

đặt ở đối diện, tương xứng với bức của Gordon.

- Anh chính xác đến mức tôi ngạc nhiên đấy! - Tôi kêu lên.

504

- Đến khi đó thì tôi đã khó có thể lạc đường. Nhưng khi anh bắt đầu nghĩ về Beecher, về

những tính cách của ông ta. Đôi mắt anh thì giãn ra, nhưng anh lại nhìn bức ảnh và mặt anh

thì lộ vẻ suy nghĩ, ắt hẳn anh đang nghĩ đến những sự kiện quan trọng trong sự nghiệp của

Beecher. Tôi biết chắc, vì khó có thể anh làm điều này mà không nghĩ về sự kiện mà ông ta

đã làm ở miền Bắc trong thời kỳ nội chiến, mà nếu tôi nhớ không lầm thì anh đã từng biểu

thị sự căm phẫn của anh đối với sự kiện này. Anh đang rất khỏe mạnh, vì vậy tôi biết rằng

anh không thể nghĩ về Beecher không liên tưởng đến điều đó. Sau một lúc, tôi lại thấy mắt

anh không hướng về bức ảnh nữa và tôi nghi ngờ rằng anh đang suy nghĩ về cuộc nội chiến.

Tôi thấy môi anh mím lại, mắt anh nhấp nháy và bàn tay anh thì siết lại với nhau. Tôi cho

rằng anh đang nghĩ về sự can đảm trong hoàn cảnh giống nhau mà hai người phải chiến đấu.

Nhưng rồi mặt anh lại ngơ ngẩn, đầu khẽ lắc lư; anh đang buồn bã và kinh hãi về sự chán

ngán của cuộc sống. Tay anh sờ vào vết thương cũ và anh chợt mỉm cười cho tôi thấy sự ổn

định của tình hình quốc tế đang chiếm lĩnh suy nghĩ của anh. Đến đây thì tôi đồng ý với anh

về sự phi lý của chiến tranh. Và tôi mừng vì những suy diễn của tôi là đúng.

- Tất nhiên rồi! Và bây giờ anh hãy giải thích đi! Thú thật là lúc đó tôi rất kinh ngạc...

- Nó chỉ là bề nổi thôi, Watson ạ. Trong tay tôi còn có một vấn đề nhỏ mà có thể tỏ ra

khó hơn là những suy nghĩ tôi đọc được ở anh. Anh có nghe tin về gói bưu kiện gởi cho bà

Susan Cushing ở phố Cross, Croydon không?

- Tôi chưa biết gì về chuyện đó.

Holmes đưa tôi một tờ Daily Chronicle. Tôi cầm lấy và đọc:

"Một gói hàng ma quái!

"Bà Susan Cushing, ngụ tại phố Cross, Croydon, là nạn nhân của một trò đùa thô lỗ. Hồi

2 giờ chiều hôm qua, bưu tá phát cho bà một bưu kiện nhỏ, được gói bằng giấy nâu. Bên

trong là cái hộp bìa cứng chứa đầy muối hột. Khi đổ muối ra, bà kinh hoàng thấy có hai lỗ

tai người còn khá mới.

Cái hộp này gởi từ Belfast vào buổi sáng. Người gởi không ghi tên. Bà Cushing năm nay

50 tuổi, sống độc thân và ẩn dật, gần như không bao giờ có thư tín. Tuy nhiên, cách đây vài

năm, hồi còn ngụ tại Penge, bà có cho ba sinh viên y khoa ở trọ, nhưng sau đó phải lấy

phòng lại vì họ làm ồn ào và đi về bất thường. Cảnh sát đoán rằng trò đùa này là của một

trong ba sinh viên đó. Các sinh viên này có nguyên quán tại Belfast. Hiện nay ông Lestrade

đang mở cuộc điều tra".

- Tạm gác tờ báo qua một bên. - Holmes nói, sau khi tôi đọc xong mẩu tin - Chúng ta hãy

nói chuyện về ông bạn Lestrade. Sáng nay tôi mới nhận được thư ông ấy, ông ấy viết: "Ông

Holmes, tôi nghĩ rằng vụ này hợp với sở thích của ông. Cảnh sát chúng tôi cũng tin là sẽ

làm sáng tỏ được vấn đề bí hiểm. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cảm thấy có một vài khó khăn

khi tìm một đầu mối để khởi động. Chúng tôi đã điện cho bưu điện Belfast, nhưng hôm đó

có quá nhiều bưu kiện và không ai nhớ riêng cái bưu kiện này, giả thiết cho rằng tác giả là

một sinh viên y khoa là đáng tin nhất. Nếu ông có dư thời gian để hoang phí, tôi rất hân

505

hạnh được gặp ông. Tôi có mặt tại nhà bà Cushing hoặc tại sở suốt ngày". Nghĩ sao đây,

Watson? Anh cảm thấy đủ sức chịu nắng và cùng tôi xuống Croydon không?

- Tôi chỉ đợi có bấy nhiêu?.

- Hãy gọi một xe ngựa và bỏ thêm xì-gà vào hộp.

Lestrade đón chúng tôi tại ga. Ði bộ năm phút, chúng tôi đến phố Cross. Con đường rất

dài, hai bên có nhà gạch hai tầng xinh xắn và sạch sẽ, bậc thang nào cũng trắng tinh. Ở các

ngưỡng cửa những mụ lắm mồm mặc tạp-dề ngồi nói xấu thiên hạ. Ði thêm một đoạn,

Lestrade dừng lại và gõ cửa. Một cô gái trẻ ra mở cửa cho chúng tôi. Bà Cushing đang ngồi

trong phòng. Bà có khuôn mặt điềm tĩnh, đôi mắt to, dịu hiền, tóc lốm đốm bạc, cuộn thành

lọn trên đầu. Một lưới bao tóc đan dang dở để trên đầu gối, bên cạnh chiếc ghế đẩu là một

cái giỏ đầy ắp lụa đủ màu.

- Ðồ quái quỉ đó đang ở ngoài kia chứ. - Bà nói với Lestrade, khi chúng tôi bước vào -

Tôi ước mong quý ông mang chúng đi càng sớm càng tốt.

- Chắc chắn như vậy, thưa bà. Tôi còn chờ ông bạn Holmes đến quan sát trước sự hiện

diện của bà.

- Tại sao cần phải có mặt tôi?

- Phòng khi ông ấy hỏi này nọ.

- Còn hỏi gì nữa? Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần rằng tôi chẳng biết tí gì.

- Ðương nhiên, thưa bà. - Holmes lấy giọng xoa dịu, can thiệp - Tôi hiểu rất rõ rằng bà vô

cùng bực bội.

- Ông nói không sai, thưa ông. Tôi là một phụ nữ thích sống ẩn dật. Quả là một cái gì

hoàn toàn mới mẻ với tôi khi bị nêu tên trên báo đấy, ông Lestrade. Nếu quý ông muốn xem

xin mời ra ngoài đó.

Lestrade chui vào chái sau vườn, lấy ra một cái hộp bằng bìa vàng, một miếng giấy màu

nâu và một đoạn dây. Chúng tôi ngồi xuống trên một ghế dài ở cuối lối đi. Holmes ngắm

nghía từng vật một.

- Đoạn dây rất đáng lưu ý! - Holmes nhận xét và đưa ra chỗ sáng rồi đưa lên mũi ngửi -

Ông nghĩ gì về đoạn dây này, ông Lestrade?

- Nó bị thấm dầu hắc.

- Ðúng như vậy. Một đoạn dây thấm dầu hắc? Có lẽ anh đã để ý rằng bà Cushing đã cắt

nó bằng kéo, nó bị tưa ở hai đầu. Ðiều này quan trọng.

- Tôi không thấy được sự quan trọng này. - Lestrade lắc đầu.

- Cái thắt nút còn nguyên và khá đặc biệt.

- Nút thắt rất khéo tay, tôi đã chú ý điểm này - Lestrade đáp một cách tự mãn.

- Về đoạn dây đủ rồi, - Holmes nói - Chúng ta hãy nhìn qua tờ giấy gói. Giấy nâu bốc

mùi cà phê, anh không ngửi thấy sao? Tôi tin rằng điều này không ai tranh cãi. Ðịa chỉ được

ghi hơi nguệch ngoạc: "Bà S. Cushing, phố Cross, Croydon" bằng ngòi viết to. Chữ y trong

danh từ Croydon, lúc đầu được viết chữ "i", sau đó được sửa thành "y". Tuồng chữ của một

người đàn ông học vấn hạn chế, vì chưa quen thuộc lắm với thành phố Croydon. Tốt rồi!

506

Cái hộp màu vàng dùng để đựng nửa cân thuốc lá, không có gì đặc biệt trừ hai vệt do móng

tay cào ở góc trái. Hộp đựng muối hột, loại thường dùng để muối da sống và da thuộc thỏ.

Giữa hộp muối là hai vật dị kỳ của hồ sơ chúng ta.

Vừa nói, anh vừa lấy hai lỗ tai, đặt chúng trên một miếng ván để trên đầu gối, rồi tỉ mỉ

khám nghiệm. Lestrade và tôi đứng hai bên, lần lượt nhìn khuôn mặt căng thẳng của

Holmes. Sau cùng, anh bỏ chúng vào muối trở lại và ngồi lặng thinh một lúc.

- Hai lỗ tai này không phải của cùng một người! - Holmes nói.

- Vâng, tôi có thấy. Tuy nhiên, nếu là trò đùa của sinh viên thực tập trong phòng mổ thì

tai một người hay hai người đâu có gì quan trọng.

- Quả vậy! Nhưng đây không phải là trò đùa.

- Chắc chắn không?

- Chắc chứ! Tại nhà thương, sinh viên thực tập trên các xác chết. Hai lỗ tai này còn tươi.

Chúng bị cắt bằng một vật cùn, trong khi các sinh viên luôn luôn sử dụng con dao mổ rất

bén. Ngoài ra, người có chút ít kiến thức y khoa sẽ nghĩ tới chất formol hoặc cồn để ngâm,

không ai dùng muối thô. Tôi nhấn mạnh rằng đây không phải là trò đùa mà là một vụ án

hình sự nghiêm trọng.

Tôi hơi lạnh xương sống khi nghe mấy từ này và nhất là khi nhìn các đường nét rắn rỏi

trên khuôn mặt Holmes. Lestrade lắc đầu:

- Một giả thiết về trò đùa thì có nhiều khe hở. Tuy nhiên, giả thiết của ông cũng có những

khe hở to tướng. Cảnh sát chúng tôi biết rằng từ 20 năm qua, người phụ nữ này sống một

cuộc đời rất kín đáo, đáng kính, tại Penge cũng như tại đây. Không bao giờ bà ta vắng mặt

lâu hơn một ngày. Thế thì tại sao kẻ sát nhân lại gởi cho bà ta các bằng chứng tội ác của

hắn?

- Ðó là một bài toán mà ta phải giải đáp. - Holmes trả lời - Phần tôi, tôi cho rằng lý luận

của tôi đúng và phải có nhũng án mạng xảy ra. Nhỏ, mảnh mai, có lỗ đeo bông thì phải là lỗ

tai của đàn bà. Cái kia là lỗ tai đàn ông, sạm nắng, phai màu nhưng vẫn có lỗ để đeo khoen.

Hai người này có lẽ đã chết, nếu không, thì chúng ta đã nghe nói về họ. Hôm nay là thứ sáu.

Cái bưu kiện được gởi vào sáng thứ năm. Như vậy thì thảm kịch xảy ra vào thứ tư hoặc thứ

ba hoặc sớm hơn. Nếu hai người này đã bị ám sát thì chính hung thủ đã gởi đến cho bà

Cushing như là một bằng chứng về tội ác đó. Thế thì người gởi bưu kiện là đối tượng của

chúng ta. Nhưng sao lại gởi cho bà Cushing? Lý do gì? Có thể để cho bà ta hay rằng tội ác

đã hoàn tất, hoặc có thể để dày vò bà ấy. Trong trường hợp thứ nhì, thì bà ta biết hung thủ là

ai. Bà ta có biết hay không? Tôi tin là bà ấy biết. Nếu bà ta biết là ai, tại sao bà lại báo cho

cảnh sát? Nếu bà đem chôn hai lỗ tai, thì chỉ có Chúa mới biết. Nhưng nếu bà ta ấy không

muốn che giấu, thì bà đã tiết lộ danh tánh của hắn rồi. Thật là một múi chỉ rối?

Holmes vừa nói vừa nhìn vu vơ. Thình lình anh nhảy dựng lên nói.

- Tôi cần hỏi bà Cushing đôi điều.

- Vậy tôi xin kiếu từ. Tôi còn phải theo dõi một vụ khác. Theo tôi, thì ta chả moi móc

thêm được gì nơi bà Cushing. Các anh nên tìm tôi lại sở. - Lestrade nói.

507

- Trên đường ra ga, chúng tôi sẽ ghé. - Holmes đáp.

Một lát sau, chúng tôi trở lại căn phòng của cô gái già, bà để cái lưới bao tóc đang đan

dang dở xuống đầu gối, nhìn chúng tôi bằng đôi mắt xanh, sắc sảo nhưng khá thành thật.

- Thưa ông, tôi tin chắc rằng - Bà nói với chúng tôi - Ðó là một lầm lẫn. Tôi đã nói đi nói

lại với anh chàng Scotland Yard, nhưng anh ta chỉ cười. Tôi không có một kẻ thù nào trên

đời này. Tại sao tôi bị giễu cợt như thế này?

- Tôi đồng ý hoàn toàn với bà. - Holmes lấy ghế ngồi bên cạnh và nói - Tôi tin chắc chắn

rằng...

Bỗng anh dừng lại. Tôi thấy anh nhìn chòng chọc cái hình nghiêng của bà Cushing nhưng

khi bà ngạc nhiên quay lại thì anh thản nhiên trở lại. Lúc đó, tôi bắt đầu chú ý bộ tóc xẹp

xuống và hoa râm của nữ chủ nhân, cái mũi nhỏ, đôi bông tai của bà, cái diện mạo bình thản

của bà và thấy không có gì có thể làm cho Holmes xúc động cả.

- Có vài điều thưa ông, tôi phát ngấy các câu hỏi. - Bà Cushing bực dọc la lớn.

- Bà có hai em gái?

- Làm sao ông biết?

- Khi vào phòng này, tôi để ý tấm hình ba người phụ nữ treo trên lò sưởi: một người là

bà, còn hai người kia giống bà lắm.

- Ông nói đúng! Ðấy là hai em gái Sarah và Mary của tôi.

- Còn đây đúng là một tấm hình khác của em út của bà đứng cùng với một người đàn ông

chụp tại Liverpool. Dựa trên y phục thì đó là nam tiếp viên hàng hải. Vào lúc đó, có lẽ họ

chưa làm đám cưới.

- Ồ, ông có thiên khiếu quan sát khá cao?

- Nghề nghiệp của tôi!

- Ừ, ông nói đúng. Nhưng vài ngày sau, chúng lấy nhau. Khi ấy Jim Browner đang phục

vụ tuyến đi Nam Mỹ khi chụp hình. Nhưng mê vợ đến nỗi không thể xa vợ lâu ngày, nên

chuyển qua phục vụ trên một chiếc tàu Liverpool - London.

- À, chiếc Conqueror?

- Không, chiếc May Day. Jim có đến thăm tôi một lần tại đây trước khi hắn nhậu nhẹt trở

lại. Sau đó, hắn say bí tỉ mỗi khi lên bờ. Hễ có tí rượu vào là quậy như một thằng điên.

Buồn thay cho cái ngày hắn bắt đầu nhậu trở lại. Trước hết hắn coi thường tôi rồi gây gổ với

Sarah và giờ đây, vì Mary không liên lạc thư tín với tôi nữa nên tôi chả biết chúng nó sống

ra sao.

Rõ ràng là bà Cushing được dịp tuôn hết nhưng ấm ức trong lòng ra. Như các người sống

ẩn dật, bà ta tỏ ra rụt rè lúc đầu, nhưng sau đó thì tỏ ra cực kỳ thèm khát bày tỏ tâm sự. Bà

cung cấp cho chúng tôi nhiều chi tiết về người em rể, rồi đến mấy sinh viên y khoa mướn

nhà. Bà kể cho chúng tôi nghe các tật xấu của họ, tên tuổi của họ và nơi họ làm việc.

Holmes chú ý nghe tất cả, thỉnh thoảng chận lại để đặt một câu hỏi.

- Về em thứ của bà là Sarah, tại sao hai bà đều độc thân mà lại không sống chung với

nhau?

508

- Ôi, rõ ràng là ông không biết tính của Sarah. Khi mới dọn về Croydon, chúng tôi ở

chung với nhau. Nhưng cách đây hai tháng, chúng tôi phải chia tay. Tôi không muốn nói

xấu em gái tôi, nhưng nó cực kỳ khó tính, lại hay xen vào chuyện của mọi người.

- Bà nói rằng hai cô em đã cãi lộn với nhau ở Liverpool?

- Ðúng thế. Tuy nhiên, có một lúc hai đứa nó thân thiết nhất trên đời này. Nó tự động lên

trên đó sống chung với vợ chồng Mary. Nay thì Sarah luôn luôn chống đối Jim Browner.

Khi xuống đây, Sarah vẫn mãi nói về tật say sưa, tính tình thô bạo của im. Tôi nghĩ rằng Jim

không chịu nổi việc Sarah xen vào gia đình của mình.

- Cám ơn bà. - Holmes nói, rồi đứng dậy cúi chào - Bà vừa nói rằng bà Sarah ngụ tại phố

New ở Wallington. Thôi xin tạm biệt, và thành thật chia buồn với bà.

Khi chúng tôi vừa ra, thì một xe ngựa chạy ngang. Holmes chặn nó lại:

- Wallington có xa đây không?

- Khoảng hơn một dặm, thưa ông.

- Tốt lắm, lên xe đi, anh Watson, chúng ta phải đập sắt khi nó còn nóng. Tuy nội vụ đơn

giản, nhưng vẫn còn cần vài chi tiết. Này anh xà ích, khi chạy tới bưu điện thì dừng lại nhé?

Holmes gởi một bức điện ngắn. Xe lại lên đường, anh dựa lưng vào thành xe, mũ kéo sụp

để tránh nắng. Xe ngừng trước một ngôi nhà khá giống căn nhà của bà Susan Cushing.

Holmes bảo xe chờ. Khi anh gõ cửa thì một người đàn ông dáng điệu trầm ngâm, trang phục

đen, đội mũ láng bóng, bước ra.

- Bà Cushing ngụ tại đây? - Holmes hỏi.

- Bà Sarah Cushing hiện đau rất nặng. Từ hôm qua, bà bị kích động trầm trọng. Với tư

cách y sĩ, tôi không thể cho phép ông vào thăm. Yêu cầu ông ghé lại 10 ngày sau.

Ông ta đóng cửa lại, và đi xuống đường.

- Có sao đâu, không thì không. - Holmes nói một cách hồ hởi.

- Có gặp được, cô ấy cũng không muốn nói chuyện nhiều với anh.

- Tôi cũng chả cần cô ấy nói nhiều. Tôi chỉ muốn nhìn cô ấy thôi - Anh quay qua người

lái xe - Anh hãy đưa chúng tôi tôi đến một quán ăn đàng hoàng một chút. Anh Watson, cơm

trưa xong, chúng ta đi tìm ông bạn Lestrade.

Cả hai chúng tôi đều ăn cơm khá ngon. Holmes chỉ nói về âm nhạc. Anh hào hứng kể lại

cái cách nào mà anh mua cây đàn Stradivarius với 55 shilling trong lúc trị giá tối thiểu là

500 guineas tại một tiệm cầm đồ Do Thái. Cao hứng, anh nói tới nhạc sĩ vĩ cầm người Ý là

Paganini. Trong suốt một giờ, anh mê say kể các giai thoại về con người phi thường này. Xế

chiều, khi nắng hơi dịu, chúng tôi đến sở cảnh sát. Lestrade đợi chúng tôi tại cửa.

- Có một bức điện cho ông, ông Holmes à.

- À, có hồi âm rồi?

Anh mở bức điện, liếc qua, rồi nhét vào túi.

- Mọi chuyện đều êm xuôi - Anh nói.

- Ông đã tìm ra được cái gì? - Lestrade hỏi.

- Tôi đã tìm ra tất cả.

509

- Cái gì? Ông đùa à? - Lestrade trố mắt nhìn Holmes.

- Tôi nói rất nghiêm túc. Một tội ác đê tiện đã xảy ra và tôi tin rằng hiện tôi đã nắm được

mọi chi tiết.

- Còn hung thủ?

Holmes hí hoáy vài chữ sau lưng một danh thiếp của anh rồi đưa cho Lestrade.

- Ðó là danh tích của nó. Anh không thể bắt nó trước chiều mai. Yêu cầu anh đừng nêu

tên tôi trong vụ này vì vấn đề này tầm thường thôi?

Hai chúng tôi ra ga trong lúc Lestrade hân hoan ngắm nghía tấm danh thiếp.

Trong lúc chúng tôi vừa tán gẫu vừa hút xì-gà, Holmes nói với tôi rằng vụ án này cần phải

đi ngược từ hậu quả tới nguyên nhân.

- Tôi đã viết thư yêu cầu Lestrade cung cấp các chi tiết mà chúng ta còn thiếu. Ông ấy sẽ

kiếm ra sau khi bắt được hung thủ. Chắc chắn sẽ bắt được bởi vì ông ta rất kiên trì khi hiểu

rõ mệnh lệnh, chính bản tính này giúp ông ta thăng tiến trong Scotland Yard.

- Hồ sơ của anh chưa xong à?

- Gần xong. Chúng ta biết ai là người chủ động trong cái vụ thô bạo này. Nhưng ta chưa

biết được danh tánh của một nạn nhân.

- Tất nhiên, anh đã rút ra kết luận của riêng anh rồi chứ? Tôi đoán rằng anh nghi anh

chàng Jim Browner.

- Nặng hơn là nghi!

- Tuy nhiên tôi chỉ thấy lờ mờ thôi!

- Ngược lại là khác, quá sáng tỏ. Chúng ta đã tiếp cận vấn đề. Lúc khởi sự, chúng ta đã

thấy gì? Một cô gái già bình dị, đáng kính và một cái ảnh tiết lộ cho tôi biết rằng cô ấy có

hai em gái trẻ hơn. Ngay tức khắc, tôi nghĩ rằng bưu kiện đã được gởi cho một trong hai

người đó, chớ không phải gởi cho người chị cả. Tôi đã để cái ý tưởng này qua một bên, tự

nhủ rằng phải kiểm nghiệm và phản bác nó. Rồi chúng ta đã khám nghiệm cái hộp nhỏ màu

vàng.

Dây buộc thuộc loại dùng cột buồm, nhuốm mùi thơm của gió biển. Khi tôi để ý rằng nút

được thắt theo lối của thủy thủ, bưu kiện được gửi từ một hải cảng và lỗ tai người đàn ông

thì có lỗ và đeo vòng theo thói quen của giới thủy thủ, thì tôi tin chắc chắn rằng các diễn

viên của tấn kịch thuộc giới đi biển.

Khi tôi xem địa chỉ của bưu điện, tôi thấy người nhận là S. Cushing. Ðương nhiên cả hai

người cùng có họ là Cushing và chữ đầu của tên hai chị em đều là chữa S hoa. Vậy chữ S

hoa này có thể là Susan Cushing mà cũng có thể là Sarah Cushing. Trong trường hợp này

thì phải tiếp tục điều tra thêm. Khi tôi sắp khẳng định với cô gái già rằng chắc chắn có một

sự nhầm lẫn, thì tôi đột ngột ngưng lại, anh còn nhớ chứ. Là một bác sĩ, hẳn anh thừa biết

rằng: không có lỗ tai nào giống hệt lỗ tai nào. Không hề có hai lỗ tai giống hệt nhau. Trong

số báo "Nhân loại học" năm ngoái, tôi có viết hai chuyên luận ngắn về đề tài này. Khi nhìn

bà Cushing, và thấy tai bà ta khá giống với một cái tai trong hộp: đường đinh ốc cùng một

độ mỏng, tai trên cùng một độ cong, cái sụn bên trong cùng một độ ngoằn ngoèo. Trên căn

510

bản, hai lỗ tai rất giống nhau. Tất nhiên, tôi nhận rõ tức khắc tầm quan trọng lớn lao của

nhận xét này. Rõ ràng nạn nhân là một người cùng họ với bà Cushing. Tôi hỏi bà Cushing

về gia đình của bà thì được nghe các chi tiết mà anh vẫn còn nhớ đó.

Trước tiên, em gái kế của bà tên là Sarah. Hai người đã sống chung với nhau cho tới

những ngày gần đây! Ðó chính là sự nhầm lẫn về địa chỉ trên bưu kiện. Tiếp đến, chúng ta

được nghe về James Browner , lấy cô út, chúng ta được biết rằng có một dạo bà Sarah dọn

nhà đến sống chung với gia đình Browner. Cách đây vài tháng, họ đã cắt đứt mọi liên lạc

đến nỗi khi cần liên hệ với bà Sarah, Browner đã phải gởi đến địa chỉ cũ.

Ðến đây chúng ta thấy rõ vì sao anh chàng Browner dám từ bỏ mọi việc làm lương hậu

để được sống gần vợ, lại thỉnh thoảng say túy lúy. Chúng ta có đủ lý do để tin rằng vợ ông

ta đã bị giết cùng với một người đàn ông. Ghen tuông có thể là động cơ chính của vụ giết

người. Nhưng tại sao kẻ giết người lại gởi bằng chứng tội ác đến cho cô Sarah Cushing? Có

lẽ vì khi sống tại Liverpool, bà ta đã xen vào các biến cố. Anh nên để ý tuyến hải hành có

dừng lại tại Belfast, Dublin và Waterford. Nếu Browner phạm tội ngay trước khi lên tàu

May Day, thì Belfast là điểm đầu tiên mà hắn có thể gởi các bưu kiện quỷ quái.

Tới giai đoạn này, rõ ràng chúng ta phải đưa ra một giả thiết thứ hai, dù tôi nghĩ rằng nó

không vững lắm. Một kẻ si tình bị xua đuổi có thể đã giết ông bà Browner và lỗ tai đàn ông

là của người chồng và lỗ tai đàn bà là của người vợ. Do đó, tôi đánh một bức điện cho bạn

thân tôi là Algar, thuộc sở cảnh sát Liverpool, yêu cầu ông ấy kiểm lại xem bà Browner có ở

nhà không, và ông Browner có lên tàu May Day không. Kế đó chúng tôi đi Wallington để

viếng thăm bà Sarah. Tôi hăm hở muốn biết xem bà này có cái lỗ tai giống chị mình không.

Ngoài ra, bà ấy có thể cung cấp cho chúng ta vài tin tức quan trọng.

May mắn thay, hồi âm bưu điện cho biết ba ngày nay, nhà bà Browner đóng cửa và

những người láng giềng cho biết bà xuống miền Nam thăm hai người chị, trong khi đó sở

hàng hải xác nhận rằng ông Browner đã xuống tàu May Day và chiều mai tàu này sẽ đến

sông Thames. Khi đến nơi, hắn sẽ bị Lestrade thộp cổ. Khi đó chúng ta sẽ có đủ mọi chi tiết

cần thiết.

Hai ngày sau, Holmes nhận được một phong bì lớn đựng một bức thư của viên thám tử và

một tài liệu đánh máy gồm nhiều trang.

- Lestrade chộp hắn rồi! - Holmes nói - Có lẽ anh cần biết thư nói gì? Tôi đọc cho anh

nghe.

"Ông Holmes thân mến.

Thi hành kế hoạch mà chúng ta đã đề ra để kiểm chứng các giả thiết của chúng ta...(hai

chữ "chúng ta" nghe ấm áp làm sao, phải không Watson?), tôi đến bến Albert chiều qua lúc

6 giờ và leo lên tàu May Day. Sau khi dò hỏi, tôi phát hiện rằng trong thủy thủ đoạn của

một nam tiếp viên tên là James Browner. Trong chuyến đi, người này xử sự bất bình

thường. Tôi xuống phòng hắn, và gặp hắn đang ngồi trên cái rương, hai tay ôm đầu, thân

hình ngã tới ngã lui. Ðó là một người to cao, lực lưỡng, không râu, da sạm nắng. Hắn nhảy

dựng lên khi nghe tôi đọc lệnh bắt hắn. Tôi đã đưa còi lên môi để cầu viện thì hắn sụm

511

xuống rồi lặng lẽ đưa tay cho tôi còng. Chúng tôi nhốt hắn vào xà lim tại sở, và có tịch thu

cái xắc của y, trong đó chỉ có một con dao to, theo thói quen của thủy thủ. Lời khai của hắn

được ghi bằng tốc ký và được đánh máy thành ba bản. Chúng tôi gởi đến ông một bản.

Như tôi đã thấy ngay từ đầu, nội vụ đơn giản như trò chơi trẻ con, tuy nhiên đa tạ ông về sự

giúp đỡ quý báu dành cho tôi.

Trân trọng kính chào.

G. Lestrade"

- Hừ - Holmes nói - Nội vụ đơn giản như trò chơi trẻ con, nhưng chắc chắn ông ta đã

không thấy như vậy lúc đến nhờ vả ta. Cũng chả sao. Bây giờ ta hãy xem Jim Browner khai

cái gì.

"Tôi thú nhận rằng tôi không sao nhắm mắt ngủ được nữa. Thỉnh thoảng tôi thấy cái đầu

của hắn, nhưng cái đầu của cô ta thì xuất hiện thường hơn. Tôi không bao giờ còn cô độc

nữa, họ luôn ở bên cạnh tôi. Hắn thì ủ dột và nhăn nhó, còn cô ta thì luôn có cái nhìn kinh

ngạc. Tôi không muốn chạy tội đâu. Nhưng tất cả đều do lỗi của Sarah, chị ruột của nàng.

Họ có ba chị em. Chị cả là người đàng hoàng, tử tế. Người thứ nhì là một con quỷ sứ. Cô

em út là một thiên thần. Sarah 33 tuổi. Mary thì 29 khi lấy tôi. Vợ chồng chúng tôi sống

hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố Liverpool. Một ngày kia, vợ tôi mời Sarah đến ở một

tuần rồi một tháng và cuối cùng thì ở luôn với vợ chồng chúng tôi. Lúc đó, tôi không uống

rượu. Chúng tôi sống tiết kiệm và tương lai của vợ chồng chúng tôi sáng như một đồng

dollar mới. Mỗi cuối tuần tôi đều ở nhà. Khi nào tôi ra khơi trễ vì chờ chất hàng thì tôi nằm

nhà cả tuần và tôi có dịp sống gần với chị vợ hơn. Ðó là một người đàn bà đẹp, cao lớn, tóc

nâu, linh hoạt, hung ác, với đôi mắt sáng quắc như lửa. Nhưng khi có Mary một bên thì tôi

chỉ còn biết có một mình nàng. Tôi long trọng thề như thế. Ðôi khi tôi có để ý và thấy rằng

Sarah muốn ở một mình với tôi, hoặc muốn tôi đưa đi chơi. Một đêm nọ, tôi từ tàu trở về

nhà và vợ tôi đi vắng, chỉ có Sarah ở nhà.

- Mary đi đâu? - Tôi hỏi.

- Ồ, cô ấy đi trả tiền gì cho ai đó.

Tôi bồn chồn, đứng ngồi không yên.

- Dượng không thể cảm thấy hạnh phúc trong năm phút khi Mary đi vắng sao?

- Tốt lắm!

Tôi cả nể, đưa tay ra cho chị ta. Tức thì chị ta ôm chặt lấy nó trong hai bàn tay bừng bừng

sinh khí. Tôi nhìn chị ta chòng chọc và chúng tôi hiểu hết, khỏi cần nói thành lời. Chị ấy

đứng sát tôi, không nói gì, rồi để tay trên vai tôi.

- Có sao đâu Jim! - Chị ta nói với một nụ cười giễu cợt, rồi tung tăng khắp phòng.

Khốn nạn là kể từ ngày đó. Sarah ghét cay ghét đắng tôi. Tôi thề là không nói ngoa. Tôi

đã ngu xuẩn để chị ấy tiếp tục sống chung với chúng tôi. Ðúng thế, tôi quả là một thằng

ngu! Tuy nhiên tôi không nói gì với Mary. Sinh hoạt của chúng tôi vẫn diễn tiến như cũ.

Nhưng sau một thời gian, tôi nhận thấy Mary thay đổi, trước kia nàng rất ngây thơ, hoàn

toàn tin tưởng vào tôi. Giờ đây nàng trở nên kỳ dị, đa nghi. Nàng muốn biết tôi đã đi đâu,

512

làm gì, nhận thư của ai, có gì trong túi và nàng đã giở một nghìn linh một trò xuẩn động

khác. Càng ngày, nàng càng quái dị, khó chịu hơn. Vợ chồng cãi vã ồn ào chỉ vì một chuyện

vớ vẩn. Tôi chả hiểu gì cả. Bấy giờ, Sarah thường tránh mặt tôi, nhưng hai chị em nàng thì

gắn bó như bóng với hình. Giờ đây tôi mới hiểu rằng lúc đó Sarah đầu độc vợ tôi, mưu phá

gia đình tôi. Tôi buồn, bắt đầu nhậu trở lại.

Thế là Mary có thêm một cái cớ để trách móc tôi và cái hố cách biệt giữa hai vợ chồng

càng ngày càng sâu thêm. Rồi sự xuất hiện của thằng thủy thủ Alec Fairbairn đã làm cho sự

việc trở nên trầm trọng hơn nữa. Hắn có tài kể chuyện. Hắn thường xuyên đến nhà chúng

tôi. Tuy nhiên, một ngày nọ, một biến cố nhỏ làm tôi nghi ngờ và kể từ đấy tôi mất hắn sự

an tâm.

Hôm đó, tôi đột ngột trở về nhà. Khi đẩy cửa vào phòng khách, tôi thấy mặt vợ tôi đầy

nét hân hoan. Nhưng khi biết người bước vào nhà là tôi, thì nàng sa sầm mặt lại, im lặng,

quay đi một cách thất vọng. Thế là đã quá rõ, chỉ có Alec Fairbairn mới có bước đi giống

tôi. Nếu gặp hắn lúc đó, tôi sẽ giết hắn ngay. Nhìn thấy ngọn lửa giận hờn trong cặp mắt của

tôi, Mary chạy tới để tay lên vai tôi:

- Ðừng, Jim, đừng.

- Sarah đâu rồi? - Tôi hỏi.

- Dưới bếp.

- Sarah! - Tôi nói lớn bước vào bếp - Từ nay thằng Fairbairn không được phép bước vào

nhà tôi nữa.

Con quỷ cái Sarah kinh ngạc nhìn tôi:

- Tại sao?

- Không được hỏi! Ðó là lệnh của tôi!

- Ồ, nêu các bạn thân của tôi không xứng đáng vào nhà này, thì cả tôi cũng không xứng

đáng.

- Chị muốn làm gì thì tùy ý, nhưng nếu thằng đó mà vào đây một lần nữa, tôi sẽ gởi cho

chị một cái lỗ tai kỷ niệm.

Ngay đêm đó, Sarah rời nhà tôi. Nhưng chị ta dọn ra cách nhà tôi không bao xa và cho

giới thủy thủ mướn phòng. Fairbairn tới đó đều đặn và Mary qua lại đó với chị mình. Vợ tôi

đến đó bao nhiêu lần, tôi không biết. Có một lần, tôi rình theo và khi tôi bước vào nhà thì

Fairbairn, trèo tường thoát thân. Tôi nói với vợ tôi rằng tôi sẽ giết chết nàng nếu nàng tái

phạm. Sau đó, tôi dẫn nàng về nhà. Mary khóc nức nở, mặt trắng như giấy. Từ đó Mary lại

càng ghét tôi. Sự tuyệt vọng khiến tôi càng uống rượu nhiều và nàng càng kinh miệt tôi.

Ðúng vào lúc đó, Sarah quay về sống chung với chị cả tại Croydon. Thời gian êm ả trôi qua

cho tới tuần rồi là lúc khởi đầu sự đổ nát.

Tôi lên tàu May Day để đi một tuần. Nhưng vì tàu trục trặc, tôi phải trở về cảng trong 12

giờ. Tôi về nhà hy vọng thấy Mary tươi cười. Nhưng khi tôi quẹo vào đường tối, tôi gặp

một chiếc xe ngựa chạy ra và vợ tôi ở trong đó, bên cạnh có Fairbairn. Cả hai người đùa to

tiếng, chúng không ngờ tôi đang quan sát chúng từ bên kia đường. Tôi thú thật rằng từ lúc

513

đó, tôi mất hẳn sự tự chủ. Tôi chạy bộ đuổi theo chiếc xe ngựa, trên tay là một khúc gỗ sồi.

Nhưng trong khi chạy, tôi nghĩ ngợi và giảm tốc độ để quan sát đôi gian phu dâm phụ.

Chúng dừng lại tại ga. Ở các ghi-sê người ta chen nhau. Tôi có thể chen vào gần mà chúng

không hay. Chúng mua vé đi New Brighton. Tôi cũng đi. Tôi leo lên toa thứ ba sau toa của

chúng. Tại Brighton, chúng đi dạo trên bờ biển. Tôi theo sau chúng vài trăm yard. Cuối

cùng tôi thấy chúng thuê một chiếc tàu, có lẽ chúng đi hóng mát. Trời có sương mù nhẹ.

Cách nhau vài trăm yard cũng không thấy nhau. Tôi cũng thuê một chiếc xuồng và chính tôi

chèo lấy. Theo làn nước, tôi thấy xuồng của chúng tách bến. Khi ra khỏi bờ khoảng hơn một

dặm, sương mù phủ kín, chỉ có ba chúng tôi giữa biển cả mênh mông.

Tôi không bao giờ quên khuôn mặt của chúng khi nhận ra người chèo xuồng sát bên.

Mary thét lên. Anh chàng chỉ chửi thề như thằng điên và toan dùng chèo đập tôi. Tôi né

được và nện cho y một chèo nát đầu. Tôi chừa cô ấy ra, dù cô ấy dâm loạn. Nhưng khi ả ôm

lấy thằng dâm phu, kêu lên: "Alec!", thì tôi điên người, nện cho ả một chày. Cô ả gục bên

cạnh. Như một con thú dữ say máu, tôi rút dao ra...

Vậy đó, tôi khai báo khá đủ. Tôi cảm thấy một niềm hân hoan man dại khi tôi nghĩ tới lúc

Sarah nhận món quà phục thù thâm độc của tôi. Rồi tôi cột hai xác chết vào xuồng, gỡ một

miếng ván ở đáy thuyền chờ cho đôi gian phu dâm phụ chìm sâu xuống đáy biển. Tôi dự

đoán rằng chủ xuồng sẽ cho là chúng đi lạc trong sương mù và phiêu dạt đâu đó ngoài đại

dương. Tôi lau chùi, chèo vào bờ, trở về tàu. Ðêm đó tôi chuẩn bị cái bưu kiện gởi cho

Sarah Cushing. Xong rồi! Tôi đã nói hết sự thật. Ông có thể treo cổ tôi ngay! Tôi đang đau

khổ, vì cứ mỗi lần nhắm mắt là trông thấy hai khuôn mặt đó. Họ nhìn tôi với những cặp mắt

hốt hoảng, như lúc họ chợt thấy tôi trong sương mù. Tôi đã giết họ nhanh chóng, nhưng họ

lại giết tôi từ từ. Lại một đêm nữa. Tôi sẽ chết hoặc phát điên trước khi trời sáng. Lạy các

ông đừng để tôi một mình trong xà lim."

- Ý nghĩa của toàn câu chuyện này là gì vậy, anh Watson? - Holmes để xấp tài liệu xuống

bàn, rồi trịnh trọng hỏi tôi. - Cái vòng lẩn quẩn của bạo lực và sự sợ hãi. Nó phải được chấm

dứt. Nhưng cái nào sẽ chấm dứt trước? Bao nhiêu năm nhân loại mà người ta vẫn chưa tìm

được câu trả lời.

Các bản vẽ của tàu ngầm Bruce-Partinhton:

Trong tuần lễ thứ ba của tháng 2 năm 1895, một làn sương mù vàng dày đặc phủ lên

London. Từ thứ hai cho tới thứ năm, đứng tại các cửa sổ của đường Baker không thể nào

thấy dãy nhà trước mặt. Holmes đã sử dụng ngày đầu tiên của tuần đó để tham khảo một số

tài liệu và hai ngày sau được dành cho đề tài: "Âm nhạc thời Trung cổ". Nhưng vào ngày

thứ tư, sau điểm tâm, anh thấy rằng liên tiếp mấy ngày qua, các cuộn sương mù nhớp nhúa

xám xịt nặng nề đang lửng lơ trên đường phố, vẫn còn đọng lại thành từng giọt nhờn nhợt

trên các cửa kính, thì cái tính dễ nổi nóng của anh bộc phát. Anh bước sải trong phòng

khách nhỏ bé, cắn móng tay, vấp chân vào đồ gỗ, nguyền rủa sự rảnh rỗi.

- Báo chí không có tin gì hả Watson?

Tôi thừa biết rằng đối với Holmes, hai chữ "tin gì" có nghĩa là "tin về hình sự". Hôm đó

có đăng tin về một cuộc cách mạng, về một cuộc chiến có thể bùng nổ, về các lời đồn đại

rằng chính phủ sẽ đổ. Các tin tức loại này nằm ngoài phạm vi của Holmes. Ở mục tin vặt,

không mẩu tin nào đáng được lưu ý. Holmes than thở rồi tiếp tục sải bước qua lại.

- Bọn tội phạm hình sự ở London thật là ngu. Anh Watson, hãy nhìn qua cửa sổ mà xem.

Ðâu thấy mặt người rõ ràng? Trong sương mù dày đặc này, một thằng ăn cướp hay một

thằng giết người có thể đi ngang dọc tại thủ đô như cọp giữa rừng già nhiệt đới. Con mồi chỉ

hay biết sau khi đã nằm trong nanh vuốt.

- Có nhiều vụ trộm vặt. - Tôi nói.

Holmes hít hít một cách miệt thị:

- Cái sân khấu vĩ đại với ánh sáng bệch bạc, thuận lợi cho những vở kịch hay hơn ngàn

lần. Xã hội có diễm phúc khi tôi không có tính cướp bóc.

- Quả thật là một diễm phúc.

- Thí dụ tôi là một trong đám giang hồ tứ chiếng thì London chết với tôi. Chỉ cần tung ra

một giấy mời giả, hoặc một câu hẹn láo là xong. May mắn sao các xứ Ý, Tây Ban Nha, Bồ

Ðào Nha... nơi mạng người được xem như cỏ rác, không có nạn sương mù này, chắc ta sẽ

thoát khỏi cái đơn điệu chết người này.

Người làm bước vào với một bức điện tín. Holmes mở ra và cười lớn:

- Ngày của những phép lạ - Holmes nói - Anh Mycroft sẽ đến.

- Sao lại gọi là phép lạ?

- Tại sao ư? Như thể bạn gặp một xe lửa điện chạy trên một đường mòn ở đồng quê.

Mycroft có đường ray riêng mà anh ấy không bao giờ rời chúng. Cái căn hộ tại Pall Mall,

cái câu lạc bộ Diogène, Văn phòng nội các là các tuyến xe lửa điện của anh. Chỉ có một lần

anh ấy đến đây. Hôm nay tai họa gì đã khiến anh ấy tới đây?

- Anh ấy không giải thích sao?

Holmes đưa cho tôi bức điện tín. "Muốn gặp em về vụ Cadogan West. Anh sẽ đến,

Mycroft".

- Cadogan West? Cái tên này gợi lên cho tôi điều gì?

533

- Ðối với tôi cũng chả gợi lên tý gì cả. Nhưng trước sự kiện Mycroft phá lệ, anh có thấy

tôi rối bời không? Thực ra, anh có biết Mycroft là ai không?

- Tôi có biết anh ấy khi chúng ta giải quyết vụ "Người thông ngôn Hy Lạp". Anh có nói

rằng Mycroft có một chức vụ nhỏ trong guồng máy nhà nước.

Holmes mỉm cười:

- Lúc đó tôi chưa quen anh nhiều, nên phải giữ miệng. Anh đúng khi tin rằng anh ấy là

viên chức. Nhưng anh cũng không sai khi nói rằng lúc ấy bản thân Mycroft là Nhà nước

Anh quốc.

- Khiếp thật!

- Mycroft lĩnh lương 450 bảng một năm, là người tuyệt đối không có tham vọng gì.

Mycroft không chức tước gì, nhưng lại là người rất cần thiết cho đất nước.

- Bằng cách nào?

- Vị trí của Mycroft là vô song. Trên đời này, anh ấy đặc biệt có bộ nhớ phi phàm. Các

kết luận của các Bộ được đệ trình mỗi ngày. Anh ấy là bộ phận đầu não điều tiết, tổng hợp

các thông tin đó. Một ông bộ trưởng cẩn nhận xét một thông tin liên quan tới hải quân Ấn

Độ, Canada? Với tài liệu cung cấp chỉ có Mycroft mới có khả năng nhìn tổng thể và giải

thích ngay sự tác động của các yếu tố. Sơ khởi anh ấy được sử dụng như một công cụ để tiết

kiệm thời gian. Nhưng hiện thời anh ấy đã trở nên tối cần. Trong đầu anh ấy, mọi việc được

xếp theo thứ tự hẳn hoi. Khá nhiều việc phải chờ ý kiến của anh ấy rồi mới quyết định. Anh

ấy sống trong chính giới. Anh ấy không hề phân tâm vào chuyện nào khác trừ phi để đấu trí

cho vui. Thỉnh thoảng anh ấy cũng xen vào vài vấn đề lặt vặt của tôi. Hôm nay là ngày

Thượng đế giáng trần, không biết Mycroft cần gì ở tôi? Cadogan West là ai? Liên quan gì

đến Mycroft?

- Tôi biết rồi! - tôi kêu lên sau khi lục lọi chồng báo - Ðúng rồi, chính y. Cadogan West là

chàng thanh niên đã chết sáng thứ ba trong xe điện ngầm.

Holmes sững người, lắng nghe.

- Chắc chắn là chuyện quan trọng, Watson à. Một cái chết, buộc anh tôi phải thay đổi thói

quen thì tất nhiên không thể là cái chết bình thường. Chắc nó có liên quan với anh ấy. Nội

vụ là tầm thường, nếu tôi nhớ không lầm. Anh chàng từ xe điện ngầm ngã xuống. Không hề

bị mất mát gì, nên không có lý do để ngờ vực có chuyện đen tối, đúng không Watson?

- Một cuộc điều tra đã tiến hành và đã phát hiện thêm những dữ kiện mới mẻ. Xem kỹ lại

thì thấy đó là chuyện khá lạ kỳ - Tôi đáp.

- Căn cứ vào tác động của nó đối với anh tôi, tôi đồng ý rằng nó không phải là chuyện vặt

vãnh. - Holmes thu mình lại trong ghế bành. - Nào Watson, các dữ kiện mới là những gì?

- Arthur Cadogan West, 27 tuổi, độc thân, thư ký tại xưởng hải quân Woolwich.

- Viên chức? Hèn chi liên quan tới Mycroft.

- Anh ta đột ngột rời Woolwich vào tối thứ hai. Cô Violet Westbury, vị hôn thê của anh

ta, là người gặp anh ta cuối cùng. Anh ta từ giã cô ấy một cách đột ngột lúc 7 giờ 30 trong

534

sương mù. Họ không hề cãi nhau. Hiện cô ấy chả hiểu ra làm sao cả, chỉ biết rằng xác anh ta

được một công nhân xe điện ngầm phát hiện gần ga Aldgate.

- Hồi mấy giờ?

- Xác được phát hiện vào 6 giờ sáng thứ ba, nằm bên trái, xa đường sắt, tuyến phía đông

gần xe, ở nơi kết thúc đường hầm. Ðầu bị vỡ, có thể do bị ngã. Nếu xác được khiêng trong

đường phố gần đó ra, thì nó đã phải đi qua cửa người bấm vé đứng, điều này khá rõ.

- Rất tốt. Chuyện khá rõ. Xô ngã hoặc bị quăng xác từ tàu xuống. Cứ tiếp tục?

- Các tàu chạy gần đó từ Tây sang Ðông có chuyến thuộc loại nội thành, có chuyến từ

Willesden hay ngoại thành vào. Có thể đoán chắc rằng khi rơi xuống, anh chàng này đi

hướng Tây Ðông vào lúc khá khuya. Tuy nhiên khó xác định anh ta lên tàu lúc mấy giờ.

- Thì xem trên vé.

- Anh ta có vé đâu?

- Không có vé? Ðó mới là điều cực kỳ dị thường. Không ai có thể vào bến xe điện ngầm

mà không có vé. Như vậy thì rất có thể anh chàng này có vé đàng hoàng, nhưng bị lấy đi để

che giấu tên ga mà anh ta lên tàu. Ðó là một giả thiết. Anh ta đã làm rơi trên toa, đó là giả

thiết thứ hai. Nhưng có một chi tiết lạ, hình như anh ta không bị lấy cắp gì phải không?

- Không, đây là danh sách đồ vật tìm thấy trong người nạn nhân: cái ví với 2 bảng 15,

một cuốn chi phiếu do chi nhánh Woolwich của Nân hàng Capital & Counties phát hành.

Chính nhờ cuốn chi phiếu này mà nhận diện được. Còn có hai vé hát của đêm đó là một gói

tài liệu kỹ thuật.

Holmes lớn tiếng biểu lộ sự hài lòng:

- Chúng ta có tất cả. Nhà nước Anh, hải quân công xưởng Woolwich, tài liệu kỹ thuật,

anh Mycroft của tôi. Dây chuyền khép kín. Nhưng anh ấy đã tới kia, nếu tôi không lầm.

Một giây đồng hồ sau, chúng tôi đón Mycroft Holmes to lớn và oai phong, có cái trán kẻ

cả, đôi mắt sắt thép linh hoạt, đôi môi thật là cương nghị. Theo gót ông là thám tử Lestrade.

Chẳng nới chẳng rằng, viên thám tử bắt tay chúng tôi. Mycroft Holmes cởi áo choàng và thả

mình trên ghế bành.

- Một vụ vô cùng bực bội, Sherlock à. Anh không thích thay đổi thói quen. Tuy nhiên anh

thấy cần phải đến đây? Chưa bao giờ anh thấy Thủ tướng bối rối đến thế. Còn tại Bộ tư lệnh

hải quân họ cãi nhau như mổ bò. Chú đã đọc báo chứ?

- Vừa đọc xong. Mà tài liệu kỹ thuật gì vậy?

- À, cái chết là ở chỗ đó. May thay, chưa tiết lộ chính xác. Nếu biết, báo chí đã làm om

sòm. Tài liệu ở trong túi người thanh niên là các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Pardington.

Mycroft Holmes đã nói với giọng trịnh trọng để nhấn mạnh tầm quan trọng của tài liệu.

- Các bản vẽ này có tầm quan trọng sinh tử trong tất cả các bí mật của Nhà nước. Cách

đây hai năm, một số tiền kếch xù được trích từ ngân sách quốc gia để mua độc quyền sáng

chế. Mọi biện pháp đã được áp dụng để giữ bí mật cho công việc. Các bản vẽ cực kỳ rắc rối,

được để trong một tủ sắt vô cùng chắc chắn trong một văn phòng gần công xưởng hải quân;

các cửa lớn và cửa sổ đều bất khả xâm phạm. Với bất cứ lý do nào, các bản vẽ này đều

535

không được rời văn phòng đó. Dù kỹ sư trưởng của hải quân có muốn tham khảo, cũng phải

tới văn phòng này tại Woolwich. Nhưng dù kỹ lưỡng đến thế, các tài liệu đó vẫn bị lọt vào

túi một thư ký trẻ. Về phương diện Nhà nước, chuyện này quả là nhục nhã.

- Lấy lại được rồi mà?

- Không! Ðâu có lấy lại được. Trong 10 bản vẽ bị trộm tại Woolwich có 7 cái trong túi

của Cadogan West. Còn ba cái quan trọng nhất thì mất hút. Sherlock à, chú phải dẹp mọi

chuyện để lo việc này! Suy đoán vặt vãnh các vấn đề linh tinh đâu có lý thú gì. Chú phải

giải đáp câu hỏi tại sao Cadogan West ăn cắp các bản vẽ? Các bản vẽ bị thiếu bây giờ ở

đâu? Hắn chết trong trường hợp nào? Xác hắn được đưa tới điểm đó bằng cách nào? Hãy

giải đáp các câu hỏi đó! Tổ quốc sẽ ghi công chú.

- Tại sao anh không tự giải quyết lấy? Anh có tầm nhìn xa hơn em.

- Có thể, nhưng trước tiên phải thu gom các yếu tố chi tiết. Chú cung cấp cho tôi các tin

tức này. Tôi sẽ ngồi tại ghế bành mà tổng hợp. Chạy đây, chạy đó, thẩm vấn các công nhân,

nói năng lộn xộn, bò sát mặt đất, khám nghiệm này nọ bằng kính lúp... không phải là nghề

của anh. Chú là người độc nhất có thể xoay xở để giải quyết vụ này. Rất có thể, chú sẽ có

tên trong bảng phong tước quý tộc kỳ tới...

Holmes mỉm cười và lắc đầu:

- Nếu em tham dự trò chơi này, thì chỉ vì thích nó, vì đầu đề của bài toán do anh đề ra có

những dữ kiện lý thú. Em sẵn sàng đảm nhận, anh vui lòng cho thêm vài yếu tố phụ.

- Trên tờ giấy này có vài yếu tố thiết yếu, cũng có kèm theo địa chỉ cần dùng. Người quản

lý các tài liệu này là ngài James Walter. Ông có thâm niên cao, lại là một nhà quý tộc được

trọng vọng tại thủ đô. Lòng ái quốc thì không ai nghi ngờ được. Ông là một trong hai người

có chìa khóa tủ sắt đó. Tôi có thể nói thêm rằng các bản vẽ chắc chắn nằm trong văn phòng

vào giờ làm việc từ sáng thứ hai và ngài James quay về London khoảng 3 giờ, mang theo

chìa khóa. Suốt buổi tối hôm bị đánh cắp, ông lưu lại nhà đô đốc Sinclair ở quảng trường

Barclay.

- Sự kiện có được kiểm chứng không?

- Có! Ðại tá Valentine Walter, em ruột của ngài James, đã làm chứng cho việc ông rời

khỏi Woolwich. Còn đô đốc Sinclair thì làm chứng cho đêm ở London. Ngài James không

còn là một yếu tố trực tiếp trong vấn đề.

- Ai giữ cái chìa khóa kia?

- Ông Sidney Johnson, thư ký cao tuổi nhất chuyên về vẽ. Bốn mươi tuổi, có vợ, 5 con, ít

nói, khó chịu, nhưng được xem là một công chức mẫu mực. Ðồng nghiệp không ưa có lẽ vì

ông làm việc rất nghiêm. Ông ấy đã khai và lời khai này chỉ được xác nhận bởi vợ ông, rằng

ông không rời khỏi nhà vào tối thứ hai, sau khi từ văn phòng về và chìa khóa của ông đã

không hề rời khỏi dây đeo đồng hồ.

- Anh hãy nói về Cadogan West.

- Thâm niên 10 năm và được tiếng tốt. Anh ta nổi tiếng là người sôi động và nóng nảy,

nhưng được tiếng là người chính trực và thanh liêm. Chúng tôi không phiền trách gì về anh

536

ấy. Tại văn phòng, anh ấy là phụ tá của Sidney Johnson. Mỗi ngày anh ta phải đích thân sắp

xếp các bản vẽ, không một người nào khác được phép động tới chúng.

- Tối hôm đó ai đã cất các bản vẽ trong tủ sắt?

- Sidney Johnson.

- Như vậy thì nói tên người ta ăn trộm đâu phải là chuyện khó. Tài liệu được tìm thấy

trong người của Cadogan West, điều đó có vẻ là dứt khoát rồi phải không? - Holmes nói.

- Ðúng. Nhưng giả thiết này bác lại nhiều điều trong bóng tối. Trước hết, tại sao hắn ăn

cắp chúng? - Mycroft nói.

- Vì tiền, đúng không?

- Hắn có thể kiếm ra mấy ngàn bảng Anh một cách dễ dàng.

- Anh có thể đưa ra cho em một giải thích khác không?

- Không.

- Vậy thì phải chọn giả thiết của em: Cadogan West đánh cắp tài liệu, bằng cách sử dụng

một chìa khóa giả.

- Như vậy phải dùng nhiều chìa khóa giả. Vì phải mở cả cửa tòa nhà, cửa phòng nữa.

- Như vậy là y có nhiều chìa khóa đôi. Y ăn cắp tài liệu, đem lên London bán cái bí mật

của đề án, rồi thu hồi, đem trả về tủ sắt vào sáng sớm hôm sau, để không ai hay biết . Chúng

ta giả thiết rằng trên đường đi về Woolwich, hắn bị giết và bị ném khỏi toa.

- Ga Aldgate là nơi ta tìm thấy xác hắn. Ga này nằm chệch xa ga London Bridge trên lộ

trình bình thường để đi Woolwich.

- Chúng ta có thể tưởng tượng một ngàn lý do khiến y bỏ qua ga London Bridge. Thí dụ y

có thể say sưa nói chuyện với một người ngồi cùng toa: một cuộc nói chuyện có kết cục đưa

tới cái chết, có thể y có mưu toan rời khỏi toa, bị ngã ra khỏi tàu và người đối thoại đóng

cửa lại. Sương mù dày đặc nào ai trông thấy gì đâu.

- Dựa vào những gì chúng ta đang có, không có lối giải thích hay hơn. Tuy nhiên,

Sherlock, chú hãy suy nghĩ lại xem, chú có bỏ sót yếu tố nào không. Có thể, vì cần thảo

luận sâu thêm, anh chàng Cadogan West quyết định mang mớ tài liệu đó lên London. Tất

nhiên hắn đã có cuộc hẹn với một điệp viên người nước ngoài. Ðằng này hắn có hai vé xem

hát, cùng đi với vị hôn thê được nửa lộ trình, rồi mới biến mất .

- Ðó là hắn ngụy trang. - Lestrade nói xen vào, tỏ ra bồn chồn trước cuộc thảo luận giữa

hai anh em.

- Một sự giả đò khá dị thường, tôi đã đưa ra nhận xét thứ nhất. Và đây là nhận xét thứ

hai: nếu như anh ta có đến London và có gặp điệp viên nước ngoài, thì anh ta phải thu hồi

các bản vẽ trước sáng hôm sau, nếu không thì bị bại lộ. Anh ta đã lấy cắp mười, nhưng chỉ

còn có bảy cái trong túi. Vậy ba cái kia đâu? Chắc chắn anh ta không dễ dãi trước sự mất

mát này. Ngoài ra tiền thưởng đâu? Lẽ ra phải có một số tiền kếch xù trong túi hắn.

- Ðối với tôi thì mọi sự đều sáng tỏ như ban ngày. - Lestrade nói. - Hắn đánh cắp bản vẽ

để bán, đã gặp điệp viên. Hai bên mặc cả chưa xong, hắn bỏ đi nhưng điệp viên nước ngoài

537

lại đi theo. Trên xe điện, người này ám sát hắn, cướp lấy các tài liệu quan trọng nhất và ném

hắn khỏi toa xe. Giả thiết này giải thích êm xuôi nhất.

- Tại sao anh ta không có vé lên tàu?

- Vé sẽ tiết lộ tên cái ga gần nhà điệp viên nhất. Do đó người ta lấy và thủ tiêu rồi!

- Giỏi, Lestrade rất giỏi - Holmes khen - Giả thiết của anh đứng vững đó. Nhưng nếu giả

thiết đó đúng thì nội vụ được xếp lại. Tên phản bội đã chết, và các bản đồ của tàu ngầm

Bruce Pardington có lẽ hiện nằm bên kia bờ biển Manche. Ta còn làm cái gì nữa?

- Còn các hành động! - Mycroft la lớn và đứng dậy. - Trực giác của tôi bác bỏ giả thiết

trên. Chú hãy vận dụng cái biệt tài của chú. Hãy ra hiện trường! Hãy hỏi thăm các nhân

chứng. Trong suốt đường danh vọng của chú, chưa bao giờ chú có một cơ hội tốt hơn để

phục vụ đất nước!

- Ðược! - Holmes nói và nhún vai - Bọn em sẽ lên đường ngay. Còn Lestrade, ông vui

lòng đi theo chúng tôi. Trong một hoặc hai giờ, chúng ta sẽ bắt đầu thăm ga Aldgate. Tạm

biệt Mycroft. Em sẽ gửi cho anh một báo cáo vào tối nay, nhưng em nói trước, đừng hy

vọng nhiều.

Một giờ sau, Holmes, Lestrade và tôi đứng trên đường xe điện ngầm, tại đó nó ra khỏi

đường hầm, ngay lối vào ga Aldgate. Một ông lão lễ độ thay mặt cho công ty tiếp chúng tôi.

Ông nói:

- Ðây là chỗ tử thi nằm. Anh ta không thể từ trên kia rơi xuống được, bởi vì có tường cao

mà. Chỉ có thể rơi từ tàu và theo chúng tôi đoán là chuyến tàu 12 giờ đêm thứ hai.

- Các toa đã được khám nghiệm chưa. Có vết tích của sự ẩu đả không?

- Không có vết tích đánh đấm gì cả, cũng không tìm ra vé tàu của anh ta.

- Có thấy một cửa lớn hãy còn mở không?

- Không!

- Sáng nay có thêm một nhân chứng mới. - Lestrade nói - Một hành khách đi chuyến tàu

ngang qua Aldgate lúc 11 giờ 40 tối thứ hai, khai rằng ông ta có nghe một tiếng "bịch" do

một vật nặng rơi như xác người rơi xuống đất ngay trước khi tàu đến ga. Ngay lúc ấy, vì

sương mù dày đặc nên không thấy được gì. Ông ấy chả khai báo gì cả. Nào, ông nghĩ gì đó,

ông Holmes?

Holmes đang nhìn đăm đăm đường ray vòng cung khi ra khỏi đường hầm. Tuyến đi

Aldgate là một cái nhánh nên có bộ phận bẻ ghi. Giờ đây cái nhìn soi mói của anh chăm

chăm vào cái bộ phận bẻ ghi. Trên khuôn mặt nhọn và nhạy cảm của anh, tôi thấy miệng

anh co lại, lỗ mũi run nhẹ, trán nhăn. Anh nói thật khẽ.

- Bộ phận bẻ ghi. Hừm, bộ phận bẻ ghi.

- Sao? Ông nói gì?

- Hình như trên tuyến này không có nhiều bộ phận bẻ ghi?

- Ðúng, ít lắm.

- Ðồng thời là một khúc quanh. Vừa có bẻ ghi vừa có khúc quanh. Khá đơn giản.

- Sao, ông Holmes, ông đã thấy gì?

538

- Một ý tưởng thôi. Tuy nhiên nội vụ trở thành hấp dẫn tột độ, độc nhất vô nhị! Quả vậy,

tại sao lại không có vết máu trên đường.

- Gần như là không!

- Nhưng nó là vết thương trầm trọng mà!

- Xương vỡ, nhưng vết thương bên ngoài thì không đáng kể.

- Dù sao, tôi vẫn đoán phải có vết máu. Ta xem qua cái toa?

- Không được đâu, ông Holmes à. Ðoàn tàu đã tháo ra, các toa đã phân phối qua các tàu

khác.

- Ông Holmes, - Lestrade xen vào - Các toa đã được khám nghiệm kỹ lưỡng rồi. Tôi thân

hành giám sát mà.

Holmes có cái khuyết điểm lớn là anh chịu đựng không được khi thấy người khác không

sâu sắc bằng mình.

- Có lẽ là như vậy. Không phải tôi muốn nhìn qua các toa đâu. Watson, thôi đi. Chúng ta

không còn việc gì ở đây. Ông Lestrade, tôi cho rằng cuộc điều tra của chúng tôi sẽ tiếp tục

tại Woolwich.

Tại London Bridge, Holmes thảo một điện tín cho Mycroft. Anh đưa cho tôi xem trước

khi gửi: "Một ánh sáng lập lòe trong đêm đen, nhưng có thể tắt. Trong khi chờ đợi, yêu cầu

sai người làm cho em bản danh sách đầy đủ các điệp viên ngoại quốc nổi tiếng tại Anh cùng

với các địa chỉ đầy đủ của họ. Sherlock". Khi ngồi trên xe lửa đi Woolwich, anh ấy nói với

tôi:

- Watson à, dù việc gì xảy ra đi nữa, chúng ta cũng phải cảm ơn Mycroft đã cho chúng ta

tham dự vào một vụ hứa hẹn có nhiều hấp dẫn.

Cái khuôn mặt nhọn của Holmes thể hiện một năng lực cao độ khi một yếu tố mới kích

thích trí thông minh của anh. Tôi nghĩ đến con chó trong chuồng: tai xẹp, đuôi quặp. Vậy

mà nó chạy trên đường săn mồi thì mắt sáng quắc, các thớ thịt dài, căng phồng. Kể từ sáng

nay, một sự thay đổi đã diễn ra trong Holmes. Anh nói:

- Có chất liệu, có phạm vi hoạt động. Tôi quả ngu dại vì đã không thấy ngay các khả năng

của nội vụ.

- Cho tới giờ này, tôi chả thấy gì cả.

- Nên nhớ là tôi chưa thấy toàn bộ đâu, nhưng tôi hiện đi trên một đường mòn đầy triển

vọng. Người thanh niên bị giết ở một nơi khác, và xác chết nằm trên mui tàu.

- Trên mui ư?

- Lạ lắm phải không. Có phải ngẫu nhiên mà xác chết được phát hiện ngay chỗ tàu

chuyển mình và hơi nghiêng vì đang đi vòng tại bộ phận bẻ ghi? Có phải đó là nơi dễ dàng

nhất để một vật gì đó trên mui tàu phải rơi xuống? Qua vấn đề các vết máu, nếu xác bị mất

máu ở chỗ khác, thì tất nhiên không còn đủ máu để rơi rải trên đường ray. Một yếu tố tự

một mình nó cũng đã có nhiều ý nghĩa, phải không? Kết hợp nhiều cái như vậy lại, chúng

càng có nhiều ý nghĩa hơn.

- Chúng cũng giải thích sự thiếu vắng của vé tàu? - Tôi nói lớn.

539

- Ðúng thế! Rất ăn khớp với nhau.

- Dù vậy, chúng ta cũng chưa thấy gì sáng tỏ. Lời giải thích của anh làm cho các sự việc

trở nên dị thường hơn.

- Có thể lắm! - Holmes đồng ý, vẻ mặt đăm chiêu.

Holmes rơi vào một trạng thái trầm cảm cho tới khi tàu ngừng lại ga Woolwich. Anh gọi

một xe ngựa rồi rút trong túi ra tờ giấy của Mycroft.

- Chiều nay chúng ta phải đi thăm vài nơi. Người đầu tiên là ngài James.

Viên chức nổi tiếng này ngụ trong một biệt thự đẹp có bồn cỏ chạy dài xuống tận sông

Thames. Khi chúng tôi đến, thì sương mù tan và ánh sáng yếu ớt của mặt trời đã chiếu rạng.

Một quản gia ra mở cửa.

- Ngài James đã từ trần sáng nay.

- Chúa ơi! - Holmes kinh ngạc nói lớn. - Ông ấy chết như thế nào?

- Kính mời ông vào nhà gặp người em của ngài, đại tá Valentine.

- Vâng.

Chúng tôi được đưa vào một phòng khách không sang lắm. Một lúc sau, chúng tôi được

tiếp chuyện với một người khoảng 50 tuổi, cao lớn đẫy đà, cằm được tô điểm bằng một

vòng râu đỏ hoe! Ðó là người em út của ông kỹ sư vĩ đại. Ðôi mắt hung tợn, đôi má lởm

chởm những râu cạo xát, đầu tóc không chải, biểu lộ sự đau đớn đã giáng xuống cái gia đình

này. Ông nói đứt đoạn:

- Tại vụ tai tiếng ghê tởm đó. Anh tôi có ý thức danh dự bén nhạy nên không thể trây mặt

lâu hơn. Tim ông tan nát, ông luôn hãnh diện vì sự phục vụ của mình, ông không chịu nổi

sự chấn động.

- Trước đây, chúng tôi hy vọng ông ấy có thể cung cấp cho vài chỉ dẫn giúp giải quyết

câu chuyện.

- Tôi tin chắc rằng anh ấy cũng chẳng hiểu gì nhiều, cũng như ông và tất cả mọi người.

Anh ấy đã thông báo cho cảnh sát tất cả những gì anh ấy biết. Tất nhiên anh ấy tin chắc rằng

Cadogan West có tội. Phần còn lại hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết của anh ấy.

- Ông không thể cung cấp cho chúng tôi một tin tức nào đem thêm ánh sáng mới cho nội

vụ?

- Tự thân tôi không biết gì, ngoài những gì đã đọc hoặc nghe. Tôi xin lỗi, xin ông thông

cảm cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Tôi xin phép được coi cuộc nói chuyện này chấm

dứt tại đây.

Trên đường về bằng xe ngựa, Holmes nói với tôi:

- Ðây là một diễn biến hoàn toàn bất ngờ. Tôi không biết rằng đây có phải là cái chết tự

nhiên hay ông này đã tự sát. Trong trường hợp thứ nhì, chúng ta có thể suy đoán rằng ông

ấy hối hận vì đã sơ sót. Ngay bây giờ, chúng ta hãy qua gia đình Cadogan West.

Ở ven ranh thành phố, một ngôi nhà bé nhỏ tươm tất che chở một bà mẹ lâm cảnh tang

tóc. Bà cụ bất hạnh này chả giúp đỡ chúng tôi được gì cả. Cạnh bà có cô gái mặt tái xanh, tự

giới thiệu là Violet Westbury, hôn thê của chàng trai và là người cuối cùng đã gặp nạn nhân.

540

- Tôi chả hiểu gì cả, ông Holmes ạ. Kể từ khi thảm kịch xảy ra, tôi có chợp mắt được đâu.

Tôi chỉ suy nghĩ ngày lẫn đêm. Cadogan West là người trung thực, nghĩa hiệp và ái quốc

nhất trên đời. Anh ấy có thể tự chặt tay mặt hơn là bán một bí mật quốc gia. Tất cả những ai

quen biết anh ấy đều cho rằng nghi ngờ anh ấy là điều phi lý.

- Nhưng mà các dữ kiện sờ sờ ra đó, thưa cô Westbury.

- Tôi không thể hiểu được?

- Ông ấy cần tiền?

- Không đâu, anh ấy thanh đạm nên tiền lương kể như thừa thãi. Anh ấy đã tiết kiệm đến

mấy trăm bảng và chúng tôi sẽ định kết hôn vào dịp năm mới này.

- Ông ấy không có biểu lộ triệu chứng rối loạn tâm thần. Nào, cô hãy tuyệt đối thành thật

đi.

Con mắt sâu sắc của Holmes đã phát hiện một thay đổi nhỏ trong các cử chỉ của cô ta. Cô

hổ thẹn, rồi ngập ngừng.

- Dạ có. - Cuối cùng cô khai thật - Tôi có cảm giác rằng anh ấy đang lo lắng về một

chuyện gì.

- Từ hồi nào?

- Khoảng một tuần, anh ấy đăm chiêu, lo lắng. Tôi có hỏi lý do. Anh ấy nhìn nhận có ưu

tư, nhưng liên quan tới công vụ. "Quá nghiêm trọng để tiết lộ, dù là đối với em". Anh ấy nói

với tôi và tôi không thể biết nhiều hơn.

Holmes làm ra vẻ rất nghiêm nghị:

- Hãy nói tiếp, dù rằng cô thấy cô phản bội anh ấy. Hiện tại tất cả chúng ta đều đang bí

mà.

- Một đôi lần, tôi có cảm giác anh ấy muộn tiết lộ điều gì đó Một tối nọ, anh ấy nói về

tầm quan trọng của một tài liệu bí mật và tôi nhớ có nghe nói rằng gián điệp ngoại quốc

chắc chắn trả nhiều tiền.

Gương mặt Holmes trở nên nghiêm nghị hơn.

- Chỉ có bấy nhiêu?

- Anh ấy nói rằng chúng ta cẩu thả đối với những chuyện cùng loại. Bọn phản bội trộm

tài liệu dễ ợt!

- Anh ấy chỉ mới tâm sự mới đây thôi ư?

- Vâng, rất mới.

- Cô hãy nói về cái đêm cuối cùng.

- Chúng tôi dự định đi xem hát. Sương mù dày đến nỗi chúng tôi thấy rằng đi xe ngựa

cũng vô ích. Chúng tôi đi bộ. Ðang đi qua văn phòng của anh ấy, thình lình anh ấy nhảy bổ

vào trong sương mù.

- Không nói năng gì cả?

- Chỉ kêu lên một tiếng thôi. Tôi đợi, nhưng anh ấy không trở về. Tôi bèn về nhà. Sáng

hôm sau, sau giờ mở cửa công sở, người ta tới thẩm vấn tôi. Khoảng 12 giờ, chúng tôi hay

tin dữ. Ồ, thưa ông Holmes, nếu có khả năng, ông hãy cứu lấy danh dự của anh ấy.

541

Holmes lắc đầu một cách buồn thảm:

- Nào, Watson. Chúng ta qua nơi khác, qua văn phòng, nơi mà các bản vẽ bị đánh cắp.

Khi ngồi vào xe, Holmes nói thêm:

- Tất cả đã khá bất lợi cho chàng thanh niên và các cuộc điều tra của chúng ta chỉ củng cố

thêm cái cảm giác không hay này. Dự định làm đám cưới là động cơ của tội ác. Ðương

nhiên, hắn cần tiền, hắn bị ám ảnh, nên đã nói ra. Hắn gần như đã biến cô bé thành đồng

phạm khi tâm sự với cô ấy về các kế hoạch của mình.

- Dù sao cái tính khí cũng đóng một vai trò đáng kể.

- Tại sao hắn bỏ người vợ ở ngoài đường và nhảy bổ đi làm chuyện phi pháp?

- Có những cái phản bác đáng kể. Ðây là vụ vô cùng khó gỡ.

Ông Sidney Johnson, viên chánh thư ký tiếp chúng tôi tại văn phòng với sự tôn kính. Ðó

là một người đeo kính, gầy, cau có, không thể đoán tuổi được, má đã hóp, đôi tay run run.

- Thật là khủng khiếp, ông Holmes.

- Ông có hay rằng ông sếp đã chết?

- Chúng tôi từ đằng đó tới đây.

- Tất cả đều tan vỡ: sếp chết, Cadogan West chết, tài liệu bị đánh cắp. Khi chúng tôi đóng

cửa vào tối thứ hai, sở này vẫn hoạt động như tất cả các sở khác của Chính phủ, Chúa ơi!

Nghĩ tới thật đáng tởm, thằng Cadogan West cả gan làm việc tày trời.

- Như vậy là ông cho rằng anh ta có tội?

- Tôi không thấy có giải pháp thứ hai. Tuy nhiên tôi tin cậy y như tin cậy vào chính bản

thân tôi.

- Sở đóng cửa vào mấy giờ tối thứ hai?

- Hồi 5 giờ.

- Chính ông đóng?

- Tôi luôn là người sau cùng rời khỏi sở.

- Lúc bấy giờ thì các bản vẽ ở đâu?

- Trong tủ sắt này. Ðích thân tôi để vào.

- Có người bảo vệ nào chịu trách nhiệm về tòa nhà này?

- Có chứ, nhưng ông ấy đồng thời canh chừng các tòa nhà khác nữa, ông ta là một chiến

sĩ cao niên, hoàn toàn đáng tin cậy. Ông ta không thấy gì xảy ra cả. Ðêm đó sương mù dày

đặc.

- Giả dụ Cadogan West muốn vào tòa nhà sau giờ đóng cửa, y phải cần đến ba chìa khóa

mới lấy được giấy tờ trong tủ sắt, phải vậy không.

- Ðúng thế, chìa khóa cửa ngoài, chìa khóa phòng và chìa khóa của tủ sắt.

- Ngài James có phải là một người rất cẩn thận hay không?

- Phải, về các chìa khóa đó, ông luôn luôn móc nó vào cùng một vòng, tôi thường thấy

như vậy.

- Và ông ấy luôn luôn mang chùm chìa khóa về London?

- Ông ấy nói với tôi như thế!

542

- Còn cái chìa khóa của ông thì không bao giờ rời khỏi ông chứ?

- Không bao giờ.

- Vậy, nếu Cadogan West là thủ phạm, hắn đã phải thuê làm những chìa khóa đôi. Tuy

nhiên chúng tôi không thấy chìa nào trong xác của y. Ngoài ra, nếu một thư ký trong sở này

muốn bán bản vẽ, chuyện giản dị là sao chép, chứ ai lại đánh cắp các bản chính như đã xảy

ra?

- Ðể sao đúng các bản vẽ, phải có trình độ kỹ thuật cao.

- Tôi suy đoán rằng: ngài James hoặc ông, hoặc Cadogan West, các ông đều có kiến thức

kỹ thuật này?

- Tất nhiên, nhưng tôi yêu cầu ông đừng mưu kéo tôi vào nội vụ, thưa ông Holmes. Thảo

luận dông dài như thế này có ích lợi gì khi mà các bản vẽ đều được tìm thấy trong người của

Cadogan West.

- Chịu rủi ro khi ăn cắp các bản chính trong khi có thể sao chép một cách an toàn! Quả là

chuyện lạ!

- Lạ thật... Tuy nhiên y đã làm điều lạ lùng đó.

- Trong vụ này, càng đi sâu càng thấy thêm khó hiểu. Còn thiếu vắng ba bản vẽ. Theo tôi

được biết, thì đấy là ba bản chính yếu?

- Ðúng thế!

- Vậy là ông đồng ý rằng người sở hữu ba bản vẽ đó, tuy thiếu bảy bản vẽ kia, vẫn có thể

đóng một tàu ngầm Bruce Pardington?

- Chính đó là điều tôi đã khai tại Bộ tư lệnh Hải quân. Nhưng hôm nay sau khi suy nghĩ

lại, tôi không còn quả quyết như trước nữa. Những cái van đôi với đường rãnh ăn khớp với

nhau được vẽ trong một bản vẽ nằm trong mình Cadogan West. Nếu không tự chế ra những

cái van này, người nước ngoài không thể đóng chiếc tàu ngầm đó được Tất nhiên đó không

phải là một trở ngại không thể vượt qua.

- Dù sao ba cái thiếu vắng là những cái quan trọng nhất?

- Ðúng thế!

- Tôi xin phép đi tham quan một vòng, vì thấy không cần hỏi ông nữa.

Holmes khám nghiệm ổ khóa của tủ sắt, cửa lớn của căn phòng và sau cùng quan sát các

cánh sắt của cửa sổ. Chỉ khi chúng tôi quay về bồn cỏ, Holmes mới hồ hởi trở lại. Ngoài cửa

sổ có cây nguyệt quế mà nhiều nhánh có dấu vết bị bẻ quẹo hoặc bị gãy. Holmes khám

nghiệm các dấu vết này bằng kính lúp, đồng thời cũng quan sát dấu tay lờ mờ trên đó. Cuối

cùng, sau khi yêu cầu ông chánh thư ký đóng các cánh sắt của cửa sổ, Holmes lưu ý tôi rằng

chúng không sít sao lắm và cho thấy từ ngoài, người ta có thể theo dõi những gì đang xảy ra

bên trong.

- Các dấu vết đã hư hỏng vì chúng ta đến trễ tới ba ngày, có thể chúng chả có ý nghĩa gì

cả. Nào Watson, có lẽ không còn gì quan trọng để tìm hiểu tại Woolwich. Kết quả thật là

mỏng manh, có lẽ về London sẽ gặt hái được khá hơn.

543

Tuy nhiên, trước khi rời Woolwich, chúng tôi gặp một người bán vé tàu quả quyết rằng

có thấy Cadogan West, mà ông ta quen mặt, đi London Bridge bằng chuyến tàu 8 giờ 15. Ði

một mình với vé hạng ba. Nét mặt bực dọc, anh ta rối trí đến nỗi rất vụng về. Khi nhận tiền

thừa trả lại, chính ông đã phải giúp đỡ anh ta. Dò lại trên bảng chỉ dẫn, chúng tôi nhận thấy

rằng chuyến tàu 8 giờ 15 là chuyến tàu đầu tiên mà Cadogan West có thể đi, sau khi rời

người vợ sắp cưới khoảng 7 giờ 30.

- Chúng ta hãy ôn lại. - Holmes nói, sau nửa giờ im lặng suy tư - Chưa bao giờ ta gặp một

vụ khó như thế này. Mỗi lần bước thêm một bước, lại gặp thêm một bức tường. Cuộc điều

tra của chúng ta tại Woolwich đi đến một kết luận không thuận lợi cho lắm. Các dấu vết thu

lượm tại cửa sổ sẽ khớp với một giả thiết kém ảm đạm hơn. Thí dụ, một điệp viên nước

ngoài có tiếp xúc với y. Cuộc tiếp xúc này có thể đã diễn theo các cách thức nào đó mà y

thấy khó tiết lộ. Tuy vậy, y cũng khá bạo để xì ra một chút với vị hôn thê của mình. Giờ

đây, trên đường đi xem hát với cô gái, y thấy qua sương mù, cũng chính người điệp viên đó

đi về hướng văn phòng. Tính tình nóng nảy, y quyết định ngay và đặt nhiệm vụ là trên tất

cả, y theo dõi qua cửa sổ, thấy tài liệu bị ăn cắp, nên rình đuổi kẻ trộm. Vậy là ta giải quyết

được cái khúc mắc giữa ăn trộm tài liệu hay sao chép Người lạ mặt đó phải ăn cắp tài liệu vì

y không thể sao chép chúng tại chỗ. Tới đây, thì tất cả đều ăn khớp với nhau.

- Rồi sau đó?

- Sau đó, vì tình huống đặc biệt, chàng thanh niên đã phải bắt kẻ trộm và báo động.

- Tại sao y đã không làm.

- Có thể tại vì kẻ trộm là một trong các thượng cấp của y. Giả thiết này giải thích cách xử

sự của Cadogan West. Hoặc giả rằng trong sương mù, anh ta đi lạc và đã lên đường đi

London ngay để tìm kiếm kẻ trộm tại nhà nó. Giả thiết rằng anh ta biết địa chỉ của nó.

Chuyện phải là khẩn cấp lắm, bởi vì anh ta đã bỏ cô bé đứng một mình trong sương mù. Tới

đây lối đi tẻ lạnh trở lại và một lỗ hổng to tướng nằm chắn giữa giả thiết của tôi. Dữ kiện

rằng xác của Cadogan West cùng với bảy bản vẽ trong túi được đặt trên mui một xe điện

ngầm? Trực giác buộc tôi khởi sự từ đầu kia của sợi chỉ. Có lẽ ta nên nhận dạng đối tượng

của ta và đi theo hai lối, thay vì một.

Tất nhiên có một điệp văn chờ chúng tôi tại đường Baker. Một tổng thư văn đã trao đến.

Holmes nhìn qua rồi trao cho tôi.

- Bọn gián điệp nhãi nhép này nhung nhúc, nhưng kẻ có khả năng làm chuyện phi thường

thì không nhiều đâu. Các tên đáng lưu ý là Adolph Meyer ở số 15 phố George Đại Đế,

Westminster; Louis La Rothiere, Campden Mansions, Notting Hill và Hugo Oberstein, số

13 Caulfield Gardens, Kensington. Anh chàng này có mặt tại London vào thứ hai, nhưng

người ta đoán chắc rằng y không còn ở đây nữa. Vui mừng khi hay tin rằng các chú có thấy

một tia sáng. Nội các nóng lòng chờ báo cáo của chú. Ðã có những lời khiển trách từ giới

rất cao gửi xuống. Tất cả quyền lực của quốc gia đều đặt dưới quyền sử dụng của chú nếu

có yêu cầu. Mycroft".

544

- Tôi ngại rằng - Holmes cười và nói - Toàn thể kỵ binh và bộ binh của Nữ hoàng cũng

chả giúp gì được tôi trong vụ này.

Holmes trải một bản đồ lớn của London rồi cúi xuống nhìn.

-... À, à! - Sau đó, Holmes nói với vẻ hài lòng. - Sự việc xoay theo một chiều thuận lợi

hơn, anh Watson à! Tôi tin chắc rằng ta sẽ gỡ rối được.

Holmes vỗ vai tôi và đột ngột cười to tiếng:

- Tôi sẽ ra ngoài để thám sát qua loa. Tôi sẽ không làm điều gì quan trọng nếu thiếu anh.

Anh ở lại đây: chắc chắn tôi sẽ quay lại trong một hay hai giờ. Nếu thấy quá lâu thì lấy giấy

bút và bắt đầu tường thuật việc anh em mình đã cứu nguy đất nước như thế nào.

Tôi chờ suốt đêm, mỗi lúc một bồn chồn hơn. Cuối cùng khoảng sau 9 giờ, một sứ giả

đến với tờ giấy này:

"Tôi ăn tại quán Goldini Gloucester, Kensington. Yêu cầu anh tới gặp tôi ngay. Nhớ

mang theo kìm nạy cửa của bọn ăn trộm, một đèn ló, một cây kéo và một súng lục - S H".

Tôi nhét tất cả các thứ lỉnh kỉnh vào trong áo choàng và bảo xe đưa tôi đến địa chỉ trên.

Trong cái quán cũ Ý sang trọng, Holmes đang ngồi trước một bàn tròn nhỏ.

- Ðã ăn gì chưa? Vậy thì uống cà phê với tôi, hay nhâm nhi một cốc ca-cao. Hãy hút một

điếu thuốc của chủ hiệu. Có mang theo dụng cụ không?

- Có!

- Hoan hô! Tôi sẽ tóm tắt những gì tôi đã làm và nói qua về việc chúng ta sẽ làm. Chắc

chắn anh chưa đồng ý với tôi về việc xác chết được vứt lên mui toa. Tôi quả quyết như thế,

chứ không phải bị vứt ra từ cửa toa.

- Không phải từ cầu rơi xuống mui toa?

- Không thể được! Nếu khám nghiệm các mui xe, anh sẽ thấy rằng chúng hơi cong, lại

không có bờ ngăn. Anh cứ tin chắc rằng xác chết được vứt lên mui toa.

- Bằng cách nào?

- Chỉ có một giải thích đúng đắn mà thôi. Anh biết tàu chạy giữa trời xuyên qua vài chỗ

của khu West End. Tôi nhớ lờ mờ rằng, một ngày nọ khi tôi đi tàu điện ngầm, tôi thấy

những cửa sổ ngay trên đầu tôi. Nếu tàu điện ngừng ngay dưới một trong các cửa sổ này, thì

vứt xác lên mui xe là chuyện dễ như trở bàn tay.

- Không thể như vậy được?

- Chúng ta bắt buộc phải nghĩ rằng khi các khả năng khác đều không hợp với thực tế, thì

cái còn lại dù quái dị đi nữa, vẫn là sự thật. Các giải thích khác đều sai hết rồi. Khi tôi phát

hiện tên điệp viên quốc tế sừng sỏ, hiện vắng mặt tại London lại ở tại một ngôi nhà trông

xuống đường xe điện ngầm thì nỗi hân hoan bừng hẳn lên như anh đã ngạc nhiên.

- Chính vì thế...

- Vâng, chính vì thế mà Hugo Oberstein, số 13 Caulfield Gardens trở thành đối tượng của

tôi. Tôi đã bắt đầu làm việc tại ga Gloucester. Một nhân viên dễ thương đã đưa tôi ra đường

tàu điện ngầm và đã giúp tôi thấy rõ chẳng những cầu thang của cao ốc Caulfield Gardens

545

ngó ra đường tàu mà tôi còn biết thêm một sự kiện quan trọng hơn là gần đó đường tàu điện

gặp đường sắt, nên các đoàn tàu điện phải đậu lại vài phút.

- Thật kỳ diệu, Holmes ạ! Vậy là anh đã giải bài toán.

- Chưa hẳn. Ta có tiến tới, nhưng mục tiêu hãy còn xa. Sau khi ngắm nghía các bức tường

phía sau của cao ốc Caulfield Gardens, tôi đã quan sát mặt tiền và đã kiểm chứng rằng con

mồi của ta đã bay thật sự. Nhà của y mênh mông, các tầng trên, theo tôi thì không có đồ gỗ.

Oberstein sống tại đó với một gia nô độc nhất, có lẽ là một đồng phạm được sự tin cậy hoàn

toàn. Ta phải nhớ rằng: Oberstein đi vào lục địa là để thanh toán cái chiến lợi phẩm vừa rồi

chứ không phải để chạy trốn. Y không có lý do để sợ một trát bắt giam hoặc một trát lục

soát. Y không bao giờ dự kiến sẽ có một anh chàng nghiệp dư vào khám nhà.

- Hay là xin một cái trát để hợp pháp hóa việc làm của chúng ta.

- Ðâu có bằng cớ cụ thể!

- Lục soát để kiếm được cái gì?

- Có thể là tìm một bức thư lý thú.

- Tôi không thích điều đó, Holmes à!

- Watson à, anh canh ngoài đường. Còn tôi thì tự dành cái vai tội đại hình. Không phải là

lúc để chúng ta bàn tán. Hãy nghĩ tới Mycroft tới Bộ tư lệnh Hải quân, tới nội các, tới viên

chức cao cấp đang đợi tin. Chúng ta phải hành động thôi.

Ðể trả lời, tôi đứng lên:

- Anh có lý! Chúng ta phải hành động thôi.

Holmes cũng đứng lên bắt tay tôi:

- Tôi biết chắc rằng anh không bao giờ bỏ rơi tôi vào phút nguy nan.

Trong chớp nhoáng tôi đọc trong mắt anh một tình cảm gần như sự trìu mến. Ngay sau đó

anh lấy lại sự tự chủ và tỏ ra thực tế.

- Chỉ cách đây khoảng nửa dặm thôi, chúng ta cứ đi thong thả thôi. Anh nhớ đừng có bỏ

quên dụng cụ. Việc anh bị cảnh sát bắt sẽ là một rắc rối đáng tiếc.

Tới nơi, Holmes thắp đèn lồng để chiếu sáng cái cửa đồ sộ.

- Trở ngại đáng kể. Nó chắc chắn được phòng vệ bằng song sắt và được đóng chốt kỹ. Ta

sẽ thoải mái hơn nếu ở ngoài sáng, có một cái vòm thấp hơn một chút để dự phòng trường

hợp một cảnh sát viên quấy rầy chúng ta.

Một lát sau, cả hai chúng tôi trèo qua bức tường nhỏ, lọt vào cái sân trong nhà. Vừa đến

góc có nhiều bóng tối nhất, chúng tôi nghe bước đi của một cảnh sát viên ngay trên đầu

chúng tôi. Khi ông ta đi xa rồi, Holmes cúi xuống và đập mạnh vào cánh cửa dưới thấp cho

tới khi cửa mở. Chúng tôi lọt vào một hành lang tối om và đóng cửa lại. Holmes đi trước để

leo lên một cầu thang bằng đá trần. Ðèn lồng chiếu ánh sáng màu vàng vào một cửa sổ thấp.

- Chắc chắn là cái cửa sổ này.

Holmes đẩy mạnh. Cùng lúc đó chúng tôi nghe tiếng gầm nhỏ, thô, dần đà lớn dần, trở

thành tiếng gào thét: đó là đoàn tàu điện ngầm chạy bên dưới chúng tôi trong đêm tối.

546

Holmes chiếu sáng dọc bệ cửa đầy khói đen dày từ đầu máy phun lên. Diện tích vệt đen này

có chỗ bị quệt nguệch ngoạc hoặc bị xóa hẳn.

- Anh thấy chỗ chúng đặt tử thi chưa. À Watson, cái gì kia? Một vệt máu, chắc chắn mà.

Anh chỉ cho tôi những chỗ nhạt màu trên bệ cửa sổ.

- Kìa, một vệt máu khác trên đá cầu thang. Chúng ta hãy ở lại đây chờ một đoàn tàu khác

ngừng.

Không phải đợi lâu, đoàn kế tiếp gào rống khi ra khỏi đường hầm giống hệt đoàn trước

rồi tiếng thắng ken két rít lên và đoàn tàu ngừng lại ngay bên dưới chúng tôi. Chỉ cách

khoảng 4 bộ giữa bệ cửa sổ và cái mui của toa. Holmes nhè nhẹ đóng cửa sổ lại.

- Thực tế ăn khớp với giả thiết. Anh nghĩ sao, Watson?

- Một kiệt tác, chưa bao giờ anh nhận xét hay đến thế!

- Ngay khi tôi nghĩ rằng tử thi rơi xuống từ mui. Một suy nghĩ rõ ràng là không dở. Và

mọi việc sẽ được suy ra từ đó. Nhưng sự khổ nhọc của chúng ta chưa dứt đâu. Có thể tại đây

chúng ta sẽ gặp một vài điều hữu ích.

Chúng tôi leo cầu thang nhà bếp, lọt vào hành lang nối liền các văn phòng của tầng hai.

Một căn phòng ăn, giản dị tới mức khắc khổ. Căn thứ nhì là phòng ngủ cũng chả đem lại

yếu tố nào mới mẻ. Căn cuối có vẻ hứa hẹn hơn, do đó Holmes ra công khám nghiệm nó

một cách lớp lang. Ðầy dẫy sách báo của một nơi được dang làm văn phòng, Holmes nhanh

chóng khám xét mỗi ngăn kéo, mỗi tủ. Nhưng sau một giờ lục soát, không kiếm ra được gì.

- Con chó tinh khôn này đã xóa dấu vết trên đường nó đi. Ðây là cái may mắn chót của

chúng ta.

Chỉ còn cái hộp nhỏ bằng sắt trắng để trên bàn giấy. Holmes mở nó bằng một cái kéo.

Bên trong có nhiều cuộn giấy đầy số và tính. Có cuộn giấy chữ được lặp lại liên tục: "sức ép

của nước", "sức ép trên một inch vuông". Có thể chúng liên quan tới một tàu ngầm? Bực

bội, Holmes vứt chúng qua một bên. Còn lại trong phong bì chứa vài mẫu cắt trong báo.

Anh để chúng ra bàn, bỗng khuôn mặt của anh sáng ra.

- Có ý nghĩa gì đây, Watson. Nè, một loạt điệp văn trong cột nhắn tin ở góc phải trên của

trang báo không ngày tháng, có lẽ là tờ Daily Telegraph. Các điệp văn khớp nhau.

Ðây là cái đầu tiên: "Tôi đợi tin tức sớm hơn. Ðồng ý về các điều kiện. Viết thư qua địa

chỉ trên thiếp. PIERROT."

Cái kế tiếp: "Quá rắc rối không mô tả được, cần phải làm báo cáo tường tận. Tiền trao,

cháo múc. PIERROT.".

Rồi đến bức điện văn này: "Cấp bách lắm rồi, tôi phải rút lại đề nghị, nếu hợp đồng

không được thực hiện. Hãy cho cái hẹn bằng thư. Tôi sẽ xác nhận lại bằng cách nhắn tin.

PIERROT.".

Cuối cùng là: "Tối thứ hai. Gõ hai tiếng, sau 9 giờ. Chỉ có chúng ta mà thôi. Ðừng nghi

ngại quá. Tiền mặt khi giao hàng. PIERROT.".

- Sự việc gần như trọn vẹn, Watson à. Phải chi thộp được thằng ở đầu kia.

Gõ nhẹ trên bàn, Holmes suy nghĩ trong giây lát.

547

- Suy cho cùng, có lẽ không khó đâu. Chúng ta chả còn gì để làm tại đây. Ta phải đi tới

báo Daily Telegraph và xứng đáng kết thúc một ngày công tác tốt đẹp.

Sáng hôm sau, Mycroft và Lestrade mau mắn đi tới điểm hẹn. Holmes tường thuật

chuyện đêm qua. Viên thám tử chuyên nghiệp lắc đầu khi nghe việc phá cửa, đục tường của

chúng tôi.

- Trong ngành cảnh sát - Lestrade thì thầm - Chúng tôi không thể làm những điều tương

tự. Ðó là lý do vì sao ông thành công nhiều hơn chúng tôi. Tuy nhiên một ngày nào đó, ông

đi quá xa và sẽ gặp rắc rối đó.

- Vì Anh quốc, vì Tổ quốc, vì cái đẹp, phải không Watson. Hai con vật hy sinh trên bàn

thờ Tổ quốc. Còn anh Mycroft, anh nghĩ sao?

- Tuyệt Sherlock, đáng phục! Nhưng rồi đi tới đâu nữa?

Holmes cầm tờ Daily Telegtaph đang nằm trên bàn.

- Mấy anh chưa đọc cái nhắn tin của hôm nay à?

- Sao? Lại nhắn tin?

- Ðúng thế.

Ðây là nội dung:

"Tối nay gõ 2 tiếng. Chỗ hẹn cũ. Giờ cũ. Tối quan trọng. Sự an toàn của bạn lâm nguy.

PIERROT."

- Chúa ơi! - Lestrade la lớn - Y tới, ta thộp thôi.

- Ðó là điều tôi nghĩ, khi tôi thuê đăng cái nhắn tin. Nếu ông vui lòng, mời ông đến gặp

lại chúng tôi khoảng 8 giờ tại Caulfield Gardens. Giải đáp đã gần kề.

Khoảng 9 giờ, tất cả chúng tôi đều ngồi trong văn phòng của tên điệp viên ngoại quốc,

nhẫn nại chờ con mồi. Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa, lúc 11 giờ, khi chuông nhà thờ kế

cận ngân vang, chúng tôi tưởng hy vọng đã tiêu tan Lestrade và Mycroft bồn chồn trên ghế,

cứ hai phút lại nhìn đồng hồ một lần, Holmes thì ngồi như phỗng đá, mắt nửa nhắm, mắt

nửa mở, cảnh giác cao độ. Thình lình anh ngẩng đầu.

- Nó đến! - Holmes nói.

Một người rón rén đi qua cửa. Ðứng lại rồi quay ra sau, chúng tôi nghe những bước đi

chậm và hai tiếng động cửa. Ngoài lan can, đèn lồng đã được vặn thấp xuống. Holmes mở

cánh cửa trông ra đường: một bóng đen lọt vào bên trong. Anh khép cửa lại rồi gài chốt.

Chúng tôi nghe anh nói nhỏ: "Ði lối này!".

Ngay sau đó, con mồi đứng trước mặt chúng tôi. Holmes đi sau nó. Khi nó quay lại thốt

lên một tiếng la ngạc nhiên và sợ sệt thì đã bị Holmes tóm cổ, ấn và trong phòng. Sau khi

tên tù lấy lại bình tĩnh thì cửa đã đóng lại và Holmes tựa lưng vào cửa. Tên tù nhìn quanh,

lảo đảo rồi ngã bất tỉnh xuống sàn nhà. Cái mũ rộng vành của nó tung ra, xuất hiện các

đường nét thanh tú và chòm râu quai nón đỏ hoe của đại tá Valentine Walter. Holmes thốt

ra một tiếng huýt sáo nhỏ vì ngạc nhiên.

- Lần này thì anh có thể liệt tôi vào hạng con lừa, Watson. Ðâu phải con mồi mà tôi dự

kiến.

548

- Ai hả? - Mycroft háo hức hỏi.

- Em trai của ngài James Walter.

Chúng tôi dã khiêng cái xác ngất xỉu để lên tràng kỷ. Lát sau hắn ngồi dậy nhìn quanh

với khuôn mặt méo mó vì kinh hoàng và lấy tay sờ nhẹ lên trán như một người không tin

vào giác quan mình.

- Nghĩa là sao? Tôi tới đây để nói chuyện với ông Oberstein mà?

- Tan vỡ hết rồi, đại tá ơi! - Holmes đáp - Tôi thú thực không hiểu tại sao một bậc trượng

phu Anh quốc có thể xử sự như vậy. Tất cả liên lạc thư tín giữa ông với Oberstein, chúng tôi

đã nắm hết. Và các tình huống về cái chết của Cadogan West đã cho phép chúng tôi đưa ra

một lời khuyên: hãy lấy lại một chút uy tín bằng sự ăn năn và thú tội thành thật. Chúng tôi

cần chính ông cho thêm vài chi tiết.

Hắn rên rỉ và lấy tay che mặt, câm miệng.

- Chúng tôi biết ông cần tiền cấp bách. Ông thuê làm chìa khóa giả từ các chìa do anh

ông giữ và ông quan hệ với Oberstein. Người này trả lời cho ông qua cột nhắn tin của tờ

Daily Telegraph. Chúng tôi biết ông tới văn phòng trong sương mù vào buổi tối thứ hai.

Ông bị Cadogan West phát hiện và theo dõi, người thanh niên cao đẹp này có cơ sở để theo

dõi ông từ trước. Cadogan West đã chứng kiến màn ăn trộm nhưng không thể báo động vì

còn cho rằng có thể ông tuân lệnh anh ông đến lấy bản đồ. Quên hẳn người yêu, Cadogan

West bám sát ông trong sương mù cho tới tận nhà này. Tại đây, Cadogan West lộ mặt và bị

ông giết.

- Không! Trước mặt Chúa, tôi thề rằng tôi không giết nó! - Người tù của chúng tôi kêu

lớn.

- Vậy thì ông cho chúng tôi biết Cadogan West đã chết như thế nào trước khi bị vứt xác

trên mui tàu điện ngầm.

- Tôi xin thú thật mọi chuyện đã diễn ra đúng như ông trình bày. Tôi phải trả một món nợ

vì chơi chứng khoán. Oberstein đề nghị đưa tôi 5000 bảng Anh, cứu tôi khỏi sự khánh kiệt.

Tuy nhiên về cái tội giết người tôi hoàn toàn vô tội.

- Yêu cầu ông nói rõ hơn.

- Mấy lúc gần đây, West nghi ngờ tôi và theo dõi tôi nhưng tôi không hay biết trước khi

anh ta tới nhà này. Sương mù bữa đó dày đặc, cách ba yard có thấy gì đâu. Tôi gõ hai lần và

Oberstein ra mở cửa. Từ cánh cửa hé mở, West nhảy bổ tới, hỏi chúng tôi lấy bản vẽ làm gì.

Oberstein liền cầm cái dùi cui đập vỡ đầu West, ném xác người thanh niên ra ngoài hành

lang. Chúng tôi không biết phải làm sao thanh toán cái xác này, chính lúc đó Oberstein mới

nghĩ tới các chuyến tàu đậu dưới cửa sổ sau nhà. Trước tiên, Oberstein xem xét các bản vẽ

tôi mang tới. Hắn nói:

- Ba bản này rất quan trọng, phải để lại đây.

- Không được đâu, sẽ náo loạn khủng khiếp tại Woolwich nếu tôi không mang trả lại!

- Tôi phải giữ lại, bởi vì chúng quá rắc rối, không có thời gian để sao chép.

- Tất cả đều phải được trả lại ngay trong đêm - Tôi nói.

549

Hắn suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Thôi được, tôi giữ lại ba bản, còn mấy bản kia, ta bỏ vào túi anh chàng này. Khi xác

chết bị phát hiện thì nó lãnh đủ hết.

Vì không thấy có giải pháp khác, chúng tôi làm như hắn gợi ý: chúng tôi rình rập nửa giờ

tại cửa sổ chờ một chuyến tàu dừng lại. Sương mù dày đặc. Do đó chúng tôi dễ dàng vứt

xác của Cadogan West lên mui xe. Ðối với tôi, công việc chấm dứt tại đấy.

- Còn anh của ông?

- Anh tôi không nói gì với tôi, dù có lần bắt gặp tôi cầm mấy cái chìa khóa của ông. Tôi

tin rằng ông ngờ vực tôi. Qua mắt ông, tôi nghĩ rằng ông biết tôi là thủ phạm. Như các ông

biết, ông không bao giờ nhìn mặt tôi nữa.

Sự yên lặng ngự trị căn phòng.

- Ðề nghị ông hãy làm nhẹ lương tâm và giảm thiểu hình phạt của mình - Mycroft nói.

- Tôi phải làm gì?

- Oberstein cùng với các bản vẽ hiện ở đâu?

- Tôi không biết.

- Thằng khốn đó không cho ông địa chỉ ư?

- Hắn có dặn, nếu cần thì viết thư cho hắn tại khách sạn Le Louvre ở Paris.

- Như vậy là được rồi - Holmes nói.

- Tất cả những gì thuộc phạm vi khả năng của tôi, tôi sẽ làm hết. Hắn là nguyên nhân của

sự suy sụp của tôi.

- Ðây là giấy bút, ngồi xuống viết theo lời tôi đọc: "Thưa ông, có lẽ ông đã nhận thấy ông

còn thiếu một chi tiết thiết yếu. Tôi còn giữ một bức vẽ bổ sung toàn bộ. Tuy nhiên, tôi xin

thêm 500 bảng Anh nữa. Tôi không gửi qua bưu điện, tôi chỉ nhận vàng hoặc giấy bạc ngân

hàng. Tôi sẵn sàng đi nước ngoài để gặp ông, nhưng sự xuất ngoại của tôi chắc chắn sẽ gây

ra tiếng ồn ào. Tôi đề nghị được gặp ông 12 giờ trưa thứ bảy tại quán ăn của khách sạn

Charing". Xong rồi, có chết nó cũng tới mà.

Hắn chạy tới. Ðó là một điểm lịch sử, lịch sử gián điệp có khi còn hấp dẫn hơn lịch sử

công khai. Oberstein vì háo hức muốn hoàn tất sự nghiệp của đời mình, đã lọt vào bẫy và bị

15 năm tù. Trong va li của hắn, có các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Pardington. Hắn chuẩn bị

bán đấu giá cho các hải quân châu Âu. Ðại tá Walter chết trong tù. Còn Holmes quay về

cuộc nghiên cứu âm nhạc. Tác phẩm được phát hành bằng vốn tư, người sành nhạc khen nó

là một công trình có giá trị.

Vài tuần sau, tình cờ tôi hay tin rằng Holmes đã đến thăm cung điện Windsor. Anh mang

về một viên ngọc bích tuyệt đẹp gắn trên kẹp cà vạt. Khi tôi hỏi, anh trả lời rằng, đó là quà

tặng của một mệnh phụ phu nhân kiều diễm. Tôi biết rõ đấng mẫu nghi đó là ai và tôi tin

rằng cái kẹp cà vạt đó luôn luôn nhắc nhở anh nhớ tới chuyến đi tìm bản vẽ của chiếc tàu

ngầm Bruce Pardington.

Serlock holmes hấp hối:

Bà Hudson, chủ nhà trọ của Sherlock Holmes là người cực kỳ kiên nhẫn. Chẳng những

căn hộ của Holmes lúc nào cung đày ấp những người quái dị, mà Holmes lại lôi thôi lếch

thếch cực cùng, sự ghiền nhạc vào giờ ngủ của mọi người, thói quen tập bắn súng lục trong

phòng, các cuộc thử nghiệm hóa học vừa kỳ lạ, vừa hôi thối, các thô bạo và nguy hiểm bao

quanh biến anh thành người thuê nhà bê bối nhất tại London. Tuy nhiên anh thanh toán tiền

thuê nhà một cách vương giả. Tôi chắc chắn rằng với tiền thuê căn hộ đó trong mấy năm thì

bằng với số tiền mua toàn bộ ngôi nhà của bà Hudson. Bà này kính trọng và sợ anh; không

bao giờ bà dám làm mất lòng anh. Bà cũng thương mến anh, bởi vì đối với phái yếu,

Holmes cực kỳ dễ thương và lễ phép. Vì tôi biết rõ mức độ tận tuỵ của bà Hudson, nên tôi

chăm chú nghe câu chuyện bà kể tại nhà riêng của tôi trong năm thứ hai sau khi lấy vợ.

Chuyện liên quan đến tình trạng đáng thuong của nhà thám tử tư tài ba này.

- Ông gần chết rồi, thưa bác sỹ! - Bà báo như thế - Ông suy sụp cách đây 3 ngày, ngày

nào tôi cũng tưởng ông không qua khỏi. Ông không muốn đi mời bác sỹ. Sáng nay tôi thấy

xương của ông gần như đâm thủng da mặt. Trong cơn sốt, ông nhìn tôi bằng đôi mắt rực

lửa, tôi nổi nóng: 'Ông có cho phép hay không cũng mặc, tôi đi mời bác sỹ ngay bây giờ.'

Ông ấy đáp: 'Trong truờng hợp đó, tôi muốn bà mời anh Watson'. Tôi chạy vắt giò lên cổ

tới đây ngaỵ Bác sỹ hãy đến đó mau để còn kịp vuốt mắt ông Holmes.

Tôi kinh hoàng. Trong lúc ngồi xe ngựa tới phố Baker, tôi hỏi chi tiết, thì đuợc bà chủ

nhà trả lời như sau:

- Tôi không biết gì nhiều. Ông ấy đi điều tra ở phía dưới khu Rotherhithe, gần sông

Thames và mang bệnh này về. Ông nằm liệt giường vào ngày thứ tư và không ngồi dậy nổi.

Ba ngày nay không ăn uống gì cả.

- Sao bà không mời bác sỹ?

- Ông ấy đâu có chịu. Ông dư biết ông khó tính mà. Tôi đâu dám cãi lời. Ông không còn

sống mấy phút nữa đâu, chỉ nhìn sơ cũng đoán được.

Quả thật một cảnh tượng nát lòng đang chờ đợi tôi. Dưới ánh sáng lờ mờ của một ngày

sương mù tháng 2, căn phòng đã ảm đạm thê lương lại thêm cái khuôn mặt xương xẩu cạn

kiệt từ trên giường đang nhìn tôi, càng làm tôi lạnh người. Đôi mắt bốc lửa của cơn sốt, má

đỏ au, những vẩy đen dán chặt vào môi, đôi tay run lập cập, tiếng rên rỉ, co giật từng cơn.

Khi tôi vào, Holmes nằm bất động hoàn toàn. Khi nhìn thấy tôi, một ánh chớp thoáng qua

trong cái nhìn của anh:

- Anh Watson, tôi đang trải qua một giai đoạn ngặt nghèo, phải không? - Holmes nói với

giọng yếu ớt.

- Anh Holmes! - Tôi la lớn và bước tới.

- Lui, lui ngay! - Holmes hùng hổ ra lệnh cho tôi - nếu anh tới gần, tôi sẽ mời anh ra khỏi

nhà!

- Tại sao?

577

- Đó là ý muốn của tôi

Rõ ràng bà Hudson không nói ngoa. Anh ấy không dễ tính tí nào. Tuy nhiên, nhìn tình

trạng đó, tôi vô cùng ái ngại.

- Thật sao, Holmes?

Sự nghiêm khắc của anh tan biến.

- Anh không giận tôi chứ? Đó là vì quyền lợi của anh, Watson à! - Holmes nói rõ từng

tiếng.

- Quyền lợi của tôi ư?

- Tôi biết bệnh của mình. Đó là một bệnh thường xảy ra trong giới phu ở Sumatra; căn

bệnh mà người Hà Lan rành hơn chúng ta. Nhưng cho tới nay, họ cung phải bó taỵ Có một

điều chắc chắn là, nó truyền nhiễm khủng khiếp và ai mắc bệnh thì phải chết.

Holmes nói năng một cách cuồng vội. Hai bàn tay gầy gò run rẩy, ra lệnh cho tôi đứng

yên.

- Bệnh lây lan qua sự sờ mó, Watson à. Đúng rồi qua xúc giác. Đứng xa thì không sao.

- Vậy tôi phải dừng bước sao? Làm sao tôi có thể tránh né nhiệm vụ với bạn cố tri?

Tôi bước tới nhưng Holmes lại giận dữ.

- Nếu anh đứng yên tại đó, thì tôi tiếp chuyện với anh. Bằng không thì anh về đi.

Tôi tôn kính các biệt tài của Holmes đến nỗi tôi không bao giờ dám coi thường lệnh anh,

kể cả những lệnh mà tôi không hiểu. Nhưng hôm đó tất cả bản năng nghề nghiệp của tôi đều

trỗi dậy. Trong tất cả các phạm vi khác, anh ấy là chủ tôi; nhưng trong căn phòng này và

người bệnh này, tôi lại là chủ của anh ấy.

- Holmes à, một người bệnh chỉ là một trẻ thơ. Anh chịu hay không cũng mặc, tôi sẽ

khám bệnh và chữa trị cho anh.

Anh ấy nhìn tôi đăm đăm.

- Nếu bị bắt buộc, tôi phải đuợc điều trị bởi một thầy thuốc mà tôi tin tưởng.

- Anh không tin vào tài năng của tôi?

- Vào tình bạn của anh thì tin chứ, nhưng nghĩ cho kỹ, anh chỉ là một bác sỹ tổng quát,

kinh nghiệm rất hạn chế và học vị rất tầm thường. Thật xót xa phải nói như thế. Anh không

cho tôi chọn lựa. Tôi đau xót lắm.

- Nói năng như thế là bất xứng, Holmes à. Chính cái cách nói năng của anh đã cho tôi

thấy tình trạng tâm thần của anh. Nhưng nếu anhkhông tin tôi thì tôi sẽ đi tìm các danh y

của thủ đô này.

- Anh quá tốt bụng! - Holmes thốt ra, vừa gầm gừ vừa rên xiết - Anh muốn trình diễn sự

ngu tối của anh à? Anh biết gì, anh biết gì về sốt Tapannuli? Anh biết gì về sự nhiễm độc

đen Formosa.

- Tôi chưa bao giờ nghe nói tới!

- Ở phương Đông có nhiều bệnh lạ lắm... - Anh ngừng để thở. - ...Tôi biết đuợc khá nhiều

qua những cuộc nghiên cứu y khoa hình sự. Do các nghiên cứu đó mà tôi bị mắc bệnh. Anh

không làm đuợc gì đâu.

578

- Có thể. Tôi đuợc biết rằng bác sỹ Ainstree, cuốn tự điển sống về bệnh nhiệt đới, hiện có

mặt tại London này. Đừng bảo thủ quá. Tôi đi tìn ông ấy ngay bây giờ.

Tôi cương quyết quay về hướng cửa. Bỗng tôi giật mình hoảng hốt. Chỉ trong một giây

đồng hồ, người đang hấp hối nhẩy bổ ôm chặt lấy tôi, và tiếng chìa khóa kêu cái cách trong

ổ khóa. Anh ấy chập chững đi rồi ngã đùng xuống giường, cạn kiệt, thở hổn hển.

- Tha lỗi nhé. Lỡ đến đây rồi phải ngồi đó chờ ngẫu hứng của tôi thay đổi. - Anh nói đứt

quãng, luôn xen kẽ những giây phút ngừng để thở. - ...Anh luôn lo cho tôi, tôi biết rõ. Tôi sẽ

nhượng bộ anh, nhưng cho tôi thời gian để lấy lại sức cái đã. Bây giờ thì chưa được đâụ

Mới có 4 giờ, đến 6 giờ anh đuợc ra về.

- Đó là sự xuẩn ngốc Holmes à.

- Chỉ hai giờ mà thôi, Watson! Tôi hứa rằng tôi sẽ cho anh về lúc 6 giờ. Gắng chờ đi.

- Tôi tin rằng tôi không có tự do chọn lựa.

- Đúng thế, Watson à cám ơn! Tôi không cần người trải drap giường đâu. Hãy đứng ra

xa, Watson à. Ngoài ra tôi cần đưa thêm một điều kiện khác. Anh sẽ đi cầu viện: nhưng

không phải người anh nêu tên, mà người tôi chỉ định.

- Tùy anh.

- Đó là hai tiếng hay nhất. Anh có thể đọc mớ sách kia để giải khuây. Tôi hơi mệt. Lúc 6

giờ, chúng ta sẽ nói chuyện trở lại.

Nhưng định mệnh buộc chúng tôi nói chuyện trở lại. Vài phút đầu, tôi ngồi nhìn đăm đăm

cái hình dạng người nằm trơ trơ trên giường. Tấm ra che phủ gần hết khuôn mặt và hình

như anh đang ngủ. Rồi vì không thể đọc đuợc gì, tôi chậm rãi đi giáp phòng, nhìn chân dung

các tên sát nhân nổi tiếng trang hoàng nơi các bức tường. Cuối cùng, tôi tới trước lò sưởi.

Một mớ hổ lốn gồm có ống vố, bao da đựng thuốc sợi, ống tiêm, dao nhỏ, vỏ đạn súng lục

nằm la liệt trên kệ... Ở ngay giữa một hộp nhỏ bằng ngà voi, có nắp, có khe trượt. Thấy một

đồ vật đẹp nên tôi thò tay cầm lấy thì...

- Đừng!

Anh la lên một tiếng vang rền như sấm, ngoài đuờng cũng nghe đuợc. Tôi nổi da gà, tóc

dựng đứng. Tôi quay lại và hoảng vía trước cái nhìn hoang dại trong khuôn mặt nhăn nhó.

- Để nó xuống ngay tức khắc! Tức khắc!

Đầu Holmes rơi lại xuống gối và anh thở phào nhẹ nhõm khi tôi đã để cái hộp trên lò

sưởi trở lại.

- Tôi không thích người ta sờ vào đồ đạc của tôi. Anh biết mà, anh làm tôi giận quá mức.

Bác sỹ chọc bệnh nhân phát điên. Ngồi yên ông bạn, và để tôi nghỉ ngơi!

Biến cố này không làm tôi vui tí nào. Sự nóng nảy thô bạo và vô cớ của Holmes, tỏ rõ sự

rối loạn thần kinh. Trong các sự sụp đổ, sự sụp đổ của tâm trí siêu việt thì rất là bi thương.

Tôi ngồi tuyệt vọng, câm như hến, chờ thời hạn quy định trôi qua. Hình như anh cũng canh

giờ một cách sít sao, vì trước 6 giờ một chút, anh bắt đầu nói với giọng bực dọc.

- Anh Watson, có tiền trong túi không?

- Có.

579

- Bao nhiêu đồng silver?

- Khá đủ.

- Bao nhiêu đồng nửa crown.

- Năm.

- À, quá ít, bỏ vào hầu bao. Còn tiền khác bỏ vào túi trái của quần dài. Cám ơn, làm vậy

có quân bình hơn.

Một sự mê sảng xuẫn động, anh ấy run lập bập, thốt ra từng tiếng giữa cơn ho thổn thức.

- Giờ thì vặn ga lên. Canh sao khóa không bao giờ đuợc xoay quá nửa vòng. Cám ơn,

đúng vậy. Đừng! Khỏi hạ bức sáo. Giờ thì vui lòng để thư từ sách báo trên bàn này vừa tầm

tay tôi. Cám ơn! Giờ thì mang lại đây vài thứ trong mớ hổ lốn trên lò sưởi. Tốt lắm. Có một

cái kẹp gắp đuờng, vui lòng dùng nó để cầm cái hộp nhỏ bằng ngà đem về ở đây, giữa các

tờ báo. Đuợc, giờ thì anh đi tới ông Culverton Smith, số 13 phố Hạ Burke.

Nói thật, lòng tôi không còn muốn đi kêu đồng nghiệp nữa vì Holmes mê sảng đến nỗi tôi

sợ không dám bỏ anh ấy một mình. Tôi thấy anh ta có vẻ thích đuợc gặp người vừa nêu tên.

- Tôi chưa bao giờ nghe đến tên đó - Tôi đáp.

- Có thể lắm. Có thể anh sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, người rành về bệnh này không phải

là một bác sỹ mà là một chủ đồn điền. Ông Culverton là một nhà trồng trọt nổi danh tại đảo

Sumatra. Hiện nay, ông ta đang có mặt ở London. Trước đây, một bệnh dịch hoành hành

trong đồn điền của ông, sự tách biệt với mọi tiếp cứu y khoa buộc ông phải đích thân nghiên

cứu nó và ông đã đạt đuợc những kết quả khả quan. Do đó anh đến trước 6 giờ thì chắc chắn

anh không gặp. Nếu anh thuyết phục đuợc ông ấy đến đây và chia sẻ với chúng ta cái kinh

nghiệm hiếm có của ông thì tôi hy vọng sẽ đuợc cứu sống.

Tôi ghi lại lời nói của Holmes như không biết những lần ngắt đoạn để thở hoặc bởi sự co

giật của đôi tay, sức khỏe của anh càng tồi tệ hơn kể từ khi tôi tới thăm. Má đỏ hơn, mắt có

quầng rực lửa hơn, trán nhễ nhại mồ hôi lạnh.

- Anh cho ông ấy biết tình trạng của tôi - Holmes căn dặn - Anh mô tả cho ông ấy cảm

giác chính xác của anh về tình trạng đang chờ chết và hôn mê của tôi. Thực vậy, tôi đang

thắc mắc tại sao toàn cái sàn đại dương không là một khối rắn chắc làm bằng vỏ sò, vì vỏ sò

thì hằng sa số mà. À, tôi đang nói sảng, óc chi phối óc, chuyện thiệt lạ. Tôi vừa nói gì thế,

Watson?

- Tôi phải làm gì khi gặp ông Culverton?

- Ừ, đúng rồi, tôi nhớ ra rồi! Mạng sống của tôi tùy thuộc vào cuộc gặp gỡ này. Cố gắng

năn nỉ, nghe Watson! Giữa ông ấy và tôi có chuyện hiềm khích đó. Cháu trai của ông ấy,

Watson ạ. Tôi thấy có sự bất nghĩa nghiêm trọng. Tôi giải thích cho ông ấy, thằng bé chết,

một cái chết thê thảm. Ông ấy ghét tôi. Anh dỗ ngọt ông ấy, Watson, bằng mọi cách, hãy

đua ông ấy tới đây. Ông ấy có thể cứu tôi, chỉ có ông ấy mà thôi.

- Tôi sẽ đua ông ấy tới đây bằng xe ngựa, dù phải sử dụng vũ lực.

- Đừng! Đừng làm như thế! Thuyết phục thôi, và anh phải về đây truớc khi ông ấy tới.

Đặt điều nói láo sao đó để về trước. Đừng quên, anh chưa bao giờ thật hiểu về tôi đó. Hiển

580

nhiên là có sự tương sinh tương khắc để hạn chế sự tăng truởng của muôn loài. Tôi và anh

mỗi đứa chúng ta đã đóng vai trò của mình. Thế giới sẽ bị xâm lăng bởi sò huyết không?

Không đâu, vì sẽ khủng khiếp lắm. Truyền đạt cho ông ấy tất cả những gì anh nghĩ về tôi.

Tôi ra đi, tâm trí nghi vẫn vơ về cảnh một trí thông minh siêu quần bạt chúng nói năng,

ngớ ngẩn như một đứa con nít đần độn. Anh đã trao chìa khóa cho tôi. Tôi mang chìa khóa

đi để anh ấy không tự nhốt mình. Bà Hudson đứng đợi ngoài hành lang, run lập cập và nước

mắt đầm đìa. Khi tôi xuống cầu thang, tôi nghe tiếng cao vót và chói tai của Holmes hát một

bài điên loạn. Khi tôi gọi xe ngựa thì một người đàn ông băng qua đuờng trong sương mù.

- Ông Holmes ra sao, thưa ông?

Đó là một người quen biết lâu năm: thanh tra Morton thuộc Scotland Yard, mặc thường

phục.

- Ông ấy đau nặng lắm!

Viên thám tử nhìn thẳng vào mặt tôi một cách kỳ di.. Tôi thấy rõ vẻ mặt hả dạ của ông ta.

- Tôi có biết - Ông ta thì thầm.

Chúng tôi chia tay. Tới nơi, tôi xuống xe. Phố Hạ Burke hai bên có nhà đẹp nằm trong

một khu giữa Notting Hill và Kensington. Nhà tôi tìm có bề ngoài hùng vĩ với các balcony

bằng sắt, cửa lớn đồ sộ với hai cánh tay nắm bằng đồng bóng loáng. Cảnh đuợc bổ sung một

cái hài hòa bằng một quản gia đứng trên thềm, dưới ánh sáng màu hồng phát sinh từ một

đèn điện để ở đằng sau.

- Vâng, ông Culverton có ở đây. Bác sỹ Watson ư? Vâng, tôi sẽ trình danh thiếp của ông.

Học vị và danh tính khiêm nhường của tôi hình như không tác động gì đến ông

Culverton. Xuyên qua cánh cửa hé mở, tôi nghe một tiếng nói lớn, giọng hùng hổ, gây hấn:

- Ai? Muốn gì? Trời ơi! Staples, đã bao lần tôi nói với anh rằng tôi không muốn bị Quấy

rầy trong những giờ nghiên cứu.

Một tiếng nói nhỏ nhẹ của người quản gia.

- Nhưng mà tôi không tiếp y. Tôi không để công việc của mình bị gián đoạn. Này, nói

rằng tôi vắng nhà. Bảo ông ấy trở lại vào một buổi sáng, nếu quả thật cần gặp tôi.

Lại có tiếng thì thầm van lơn.

- Không, không, cứ chuyển lời của tôi. Phải đến vào buổi sáng. Không thì thôi, tôi không

muốn ai quấy rầỵ

Tôi nghĩ tới Holmes đang nằm trên giường bệnh và có lẽ đang chờ sự giúp đỡ từng giây.

Mạng sống của Holmes tùy thuộc vào sự lanh lẹ của tôi. Trước khi người quản gia kịp xá

trước xá sau, tôi đã gạt y qua bên và lọt vào trong phòng. Một tiếng thét lên giận dữ! Một

người đàn ông đứng lên khỏi ghế bành, gần lò sưởi. Tôi thấy khuôn mặt to tướng màu vàng,

da mỡ và thô, cằm đôi nặng trịch, mắt xám, cau có, nhấp nháy dưới đôi chân mày rậm rạp.

Chênh vênh trên một góc đầu cao, hói, một cái mũ chỏm bằng nhung đỏ đuợc đặt một cách

xinh xinh. Cái sọ đồ sộ. Tuy nhiên khi nhìn xuống, ta kinh ngạc thấy người này lùn tịt.

- Cái màn gì đây? -Ông ta la lớn - Sao lại đột kích vào đây nhu vậy? Tôi đã bảo sáng mai

tôi mới tiếp mà.

581

- Tôi vô cùng hối tiếc - Tôi nói - Công chuyện quá khẩn cấp! Ông Sherlock Holmes!

Tên của Holmes đã tạo ra một hiệu quả phi thường. Tất cả vết tích giận dữ biến khỏi

khuôn mặt người đàn ông nhỏ con. Diện mạo trở nên căng thẳng, ngóng tin:

- Ông Holmes nhờ ông tới đây?

- Tôi mới rời ông ấy.

- Ông ấy ra sao?

- Trong tình trạng tuyệt vọng. Đó là lý do khiến tôi tới đâỵ

Chủ nhà chỉ cho tôi cái ghế, rồi quay lưng lại ngồi xuống. Nhìn trên cái kính soi để trên

lò sưởi, tôi thấy rõ mặt ông, một nụ cười ác độc, ghê tởm rực sáng. Nhưng khi ông ta quay

về hướng tôi, thì các đuờng nét của ông hoàn toàn bình thản:

- Tôi rất buồn trước cái tin này - Ông chậm rãi nói - Tôi chỉ quen ông Holmes qua một

vài công việc phải hợp tác với nhau. Tôi vô cùng kính trọng tài năng và tính tình của ông

ấy. Ông ấy thích nghiên cứu tội ác, y hệt như tôi thích nghiên cứu về bệnh. Kia là những

nhà tù của tôi - Ông chỉ tay về một dãy chai lọ trên mỗi cái bàn ngang - Vài thằng trong

đám sát nhân của thế giới đang thọ hình trong các lọ đó.

- Do kiến thức đặc biệt của ông mà ông Holmes ước mong đuợc gặp ông. Ông ấy coi ông

là một danh tài và nghi rằng ông là ngườì duy nhất có thể cứu sống ông ấy.

Người đàn ông nhỏ con nhảy dựng lên và cái mũ chỏm rơi xuống thảm.

- Sao? Tại sao ông Holmes cho rằng tôi có thể cứu sống ông ấy?

- Tại vì ông rành về các bệnh ở Đông phương.

- Nhưng do đâu ông ấy cho rằng bệnh của mình là bệnh Đông phương.

- Vì trong một cuộc điều tra hình sự, ông có làm việc với một công dân Trung Hoa tại

bến tàu.

Ông Culverton cười khoái trá, cúi nhặt cái mũ chỏm.

- A! Đấy là nguyên nhân, đúng thế ạ? Tôi hy vọng rằng bệnh không đến nỗi nghiêm trọng

như bạn đoán. Từ bao lâu rồi?

- Ba ngày.

- Hôn mê không?

- Thỉnh thoảng thôi.

- Ừm, ừm! Có vẻ nghiêm trọng. Không đáp lời kêu cứu là vô nhân đạo. Nhưng tôi rất

ghét bị quấy rầy lúc đang làm việc, bác sỹ Watson à! Nhưng việc này có tính đặc biệt. Tôi

đi theo ông ngay.

Nhớ lời Holmes dặn....

- Tôi còn một cái hẹn khác. Tôi xin khiếu từ.

- Đuợc thôi, tôi sẽ đi một mình. Tôi có địa chỉ của ông Holmes, ông yên tâm. Trong vòng

nửa giờ hay hơn một chút, tôi sẽ có mặt tại đằng đó.

Tôi buớc vào phòng của Holmes, lòng nặng trĩu. Có thể có chuyện không lành xảy ra

trong lúc tôi vắng mặt. Tôi nhẹ nhõm khi biết rằng khả quan hơn. Holmes vẫn còn dáng con

582

ma, nhưng không còn nói bậy nữa. Vẫn nói năng yếu ớt, nhưng sự sáng suốt và sự rạch ròi

chưa giã từ anh ta.

- Sao, gặp đuợc ông ấy không?

- Có, ông ta sẽ đến.

- Tuyệt, Watson! Tuyệt! Anh là một sứ giả tài ba.

- Ông ấy muốn đi theo tôị

- Ý, đừng. Không thể đuợc! Ông ấy có hỏi tôi bệnh gì không?

- Tôi có nói với ông ấy về người Trung Hoa ở khu Esat End.

- Đúng như thế! Anh đã làm tất cả những gì mà một người bạn tốt phải làm. Giờ đây, anh

phải tạm rời khỏi sân khấu.

- Tôi phải chờ để nghe ý kiến của ông ấy.

- Đuong nhiên! Nhưng ý kiến của ông ta sẽ thành thật và có giá trị hơn nhiều nếu ông ấy

không thấy có ngưới thứ ba. Có đủ chỗ để anh nấp sau đầu giường tôi.

- Thế nào?

- Đâu có chỗ nào khác đâu! Chỗ khác sẽ bị lộ. Nhưng tại chỗ đó, ngay tại chỗ đó, tôi tin

là đuợc mà....

Thình lình, Holmes ngồi dậy và khuôn mặt hốc hác lộ vẻ hung hăng.

- Kìa có tiếng bánh xe, Watson. Nhanh lên, nếu anh thương tôi, và nhớ ngồi im dù có

việc gì xảy ra... dù có việc gì xảy ra, nghe chưa? im lặng tuyệt đối. Không đuợc cựa quậy,

chỉ nghe thôi.

Chỉ giây lát, cái sức mạch cố hữu đột ngột tan biến hẳn rồi cái giọng chỉ huy nhường chỗ

cho những lời thì thầm vô nghĩa của một người đang hôn mê. Từ nơi ẩn nấp, tôi nghe tiếng

bước chân đi lên cầu thang và cửa mở rồi đóng lại. Tiếp đó, lạ lùng thay, một sự yên lặng

dài ngự trị. Thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi tiếng rên rỉ và hơi thở nặng trịch của người bệnh.

Tôi tưởng tượng rằng khách đang đứng gần giường và quan sát Holmes. Cuối cùng sự im

lặng nặng nề đó chấm dứt.

- Holmes! - Ông khách la lớn - Holmes! - Tiếng ông giống tiếng một ai đó đánh thức một

người ngủ mê - Ông không nghe đuợc tiếng tôi gọi hay sao, Holmes?

Có tiếng sột soạt, như thế ông khácg đang lay mạnh đôi vai của bệnh nhân.

- Là ông đấy ư.... ông Smith ....? - Holmes thì thào - Tôi đâu ... dám ... hy vọng ông đến.

Khách cười lớn tiếng.

- Cũng là bất ngờ đối với tôi nữa. Tuy nhiên, ông thấy không, tôi đã có mặt tại đâỵ

Than hồng, Holmes à! Than hồng.

- Ông quả là hào hiệp .... Tôi thán phục các kiến thức đặc biệt của ông.

Người khách cười nửa miệng.

- Ông thán phục chúng nó. May thay ở London này chỉ có ông thán phục chúng nó. Ông

có biết bệnh ông là bệnh gì không?

- Cùng một bệnh thôi - Holmes đáp.

- A, ông nhận ra các triệu chứng của nó à?

583

- Tôi quá rành.

- Tôi không ngạc nhiên khi thấy các triệu chứng giống nhau. Như vậy là tàn đời ông rồi.

Thằng Victor đáng thương thì chết vào ngày thứ tư, tuy nó trẻ và can đảm. Như ông đã nhận

xét, là nó đã mắc một bệnh phương đông khá hiếm ngay giữa lòng London. Một bệnh mà

tôi lại là người độc nhất nghiên cứu kỹ. Một sự trùng hợp kỳ lạ, hả ông Holmes?

- Tôi dư biết ông là tác giả.

- Ồ ông biết thật sao? Nhưng ông không thể chứng minh đuợc đâu. Ông nghĩ sao về một

người dám rêu rao như vậy về tôi, để rồi phảỉ bò lê dưới đất van xin tôi cứu giúp khi lâm

bệnh?

Tôi nghe hơi thở hổn hển của người bệnh.

- Cho tôi uống nước. - Holmes thì thào.

- Gần đi đứt rồi, ông bạn à. Nhưng tôi không muốn ông chết trước khi chúng mình có

một cuộc nói chuyện ngắn. Đó là lý do tại sao tôi đưa nuớc cho ông nè. Coi chừng đổ! Tốt!

Ông có hiểu tôi muốn nói gì không?

Holmes càu nhàu.

- Vui lòng giúp tôi - Holmes hổn hển nói - Tôi thề rằng tôi sẽ quên những gì tôi đã nói.

Chữa lành cho tôi thì tôi sẽ quên điều đó.

- Quên cái gì?

- Trường hợp cái chết của Victor. Ông mớí nhìn nhận rằng ông đã giết nó. Tôi sẽ quên

chuyện đó.

- Ông quên hoặc nhớ tùy thích. Tôi sẽ không thấy ông trong hàng ngũ nhân chứng đâu.

Thay vào đó, tôi sẽ thấy ông trong một hàng ngũ khác, ông bạn thân yêu. Việc ông biết cháu

tôi chết cách nào, điều đó không còn quan trọng đối với tôi. Chúng ta không nói chuyện về

nó mà nói chuyện về chính ông.

- Đúng thế!

- Thằng cha tìm đến tôi... Tôi quên tên y rồi... Y nói với tôi rằng ông mắc bệnh tại khu

East End trong giới thủy thủ.

- Tôi tin như vậy!

- Ông hãnh diện về cái óc của ông phải không, Homles? Ông tưởng rằng ông khôn lắm,

phải không? Vậy thì hiện giờ ông đã gặp một người khôn hơn ông, duy nhất một lần! Giờ

đây ông hãy cố gắng hồi tưởng chuyện cũ. Ông không thấy trường hợp khác trong đó ông

có thể mắc bệnh?

- Tôi không nghĩ ra, tâm trí tôi sút kém rồi. Tôi van ông giúp tôi nhớ lại.

- Vâng, tôi sẽ giúp ông. Tôi sẽ giúp ông hiểu một cách dễ dàng tình trạng hiện nay của

ông và tại sao ông lâm vào tình trạng này? Tôi cho ông biết điều này trước khi ông chết.

- Hãy cho tôi một cái gì đó để giảm đau.

- Đau nhói phải không? Đúng rồi. Bọn cu-li thét lên lúc gần chết! Đau nhói như bị rút

gân, tôi chắc chắn mà?

- Đúng, đúng! Gân tôi đang bị rút!

584

- Này! Nghe đây! Ông có nhớ một biến cố bất thường xảy ra không bao lâu trước khi có

các triệu chứng này?

- Không, không nhớ gì cả.

- Suy nghĩ lại xem?

- Bệnh gần chết mà suy nghĩ cái gì?

- Tôi cố gắng giúp ông, ông có nhận đuợc một vật gì gởi qua bưu điện không?

- Qua bưu điện?

- Đúng, một cái gói, có không nào?

- Tôi mệt quá rồi, tôi không nói nữa đâu!

- Nghe đây, ông Holmes.

Có một tiếng động như thể y lay động người sắp chết và tôi phải tự kìm mình để không

chạy ra.

- Ông phải nghe tôi, ông có nhớ một cái hộp? Một cái hộp bằng ngà voi? Nó đến hôm thứ

tư, ông đã mở nó ra... ông nhớ không?

- Vâng, tôi có mở nó ra, có một lò xo nhọn đầu bên trong. Một trò chơi khăm...

- Không phải trò đùa đâu. Đến chết mới biết! Đồ ngu ngốc, tự chuốc lấy cái chết! Ai bảo

ông cản đuờng tôi? Nếu ông để tôi yên, tôi hại ông làm gì?

- Tôi nhớ ra rồi - Holmes bập bẹ - Cái lò xo ... nó đâm tôi chảy máu. Cái hộp kia ... trên

bàn đó.

- Đúng cái này. Chúa ơi! Tôi sẽ bỏ túi đem về. Như vậy là đâu còn bằng cớ gì nữa. Giờ

đây, ông đã biết sự chết và đừng có ân hận nhé! Ông biết quá nhiều về cái chết của Victor

Savage. Tôi đã giúp ông đi theo nó. Gần kề rồi Holmes à. Tôi sẽ ngồi đây chờ ông chết.

Tiếng nói của Holmes bây giờ quá nhỏ không thể nghe đuợc.

- Cái gì? - Culverton nói - Hết ánh sáng sao? À, bóng đèn của âm ti bắt đầu buông xuống,

phải chăng? Đúng thôi. Tôi sẽ thắp đèn sáng choang để nhìn thấy rõ lúc ông chết ...

Ông băng qua căn phòng và đèn rực sáng căn phòng

- Ông bạn thân còn cần sự giúp đỡ nhỏ mọn nào khác?

- Một điếu thuốc và một que diêm!

Suýt chút nữa thì sự mừng rỡ và kinh ngạc xô tôi ra khỏi nơi trú ẩn. Holmes nói với âm

thanh bình thường, tuy còn yếu. Nhưng tôi nhận rõ tiếng của anh ấy. Một sự yên lặng kéo

dài, và tôi đoán rằng Culverton trố mắt tròn xoe nhìn người bệnh.

- Thế nghĩa là gì? - Y nói một cách cụt ngủn và chát chúa.

- Cách tốt nhất để diễn xuất - Holmes nói - Là phải nhập vai. Ông có tin rằng đã ba ngày

nay tôi không ăn uống gì, trừ cốc nước mà ông có lòng tốt mới đưa cho. Nhung đối với điếu

thuốc thì quả khó khăn hơn! À, có thuốc đây.

Tôi nghe thấy tiếng diêm quẹt.

- Tôi khỏe nhiều rồi. Hay quá! Bước chân của một người bạn thân chăng?

Những bước chân vang dội đằng xa lại. Cánh cửa mở, thanh tra Morton xuất hiện.

- Đâu vào đó cả rồi. Đây chính danh là thủ phạm! - Holmes nói.

585

Viên cảnh sát nói lên vài sáo ngữ cần thiết rồi kết luận:

- Tôi bắt ông về tội giết một người tên Victor Savage.

- Và ông còn có thêm một tội danh mưu sát một ngườì mang tên Sherlock Holmes nữa -

Holmes vừa nhận xét vừa cười nhẹ - Ngoài ra trong túi măng-tô của tù nhân còn có một cái

hộp nhỏ mà ta nên lấy lại. Nó sẽ hữu ích vào lúc tòa xử.

Có một tiếng động của sự xô đẩy nhẹ, tiếng va chạm của đồ sắt và một tiếng kêu đau.

- Cựa quậy chỉ làm ông đau đớn hơn mà thôi! - Viên thanh tra của sảnh sát nói - Vui lòng

đứng yên.

Tôi nghe tiếng lách cách của đôi còng khóa lại.

- Gài bẫy hay thật - Tiếng nói giọng cao thốt lên - Chính ông Holmes mới là người ra tòa

chứ không phải tôi; ông ấy mời tôi đến chữa bệnh, nên tôi mới đến. Giờ đây ông cứ nói láo

đi, nói láo tùy thích ông đi Holmes ạ! Tuy nhiên lời nói của tôi vẫn có giá trị hơn lời nói của

ông.

- Chúa ơi - Holmes nói lớn - Tôi quên hẳn đi chứ. Ông bạn Watson thân yêu! Anh ra đây!

Tôi xin lỗi anh 1000 lần! Tôi không giới thiệu anh với ông Culverton vì hai người đã gặp

nhau lúc đầu hôm. Có xe ngựa bên dưới không? Tôi sẽ xuống sau, xin phép thay quần áo!

Tôi cũng sẽ có ích phần nào cho quý vị tại sở cảnh sát.

Trong lúc nốc một cốc rươụ vang, ăn bánh biscuit và mặc quần áo, Holmes nói với tôi:

- Chưa bao giờ đói như hôm nay. Như anh biết, tôi không đều đặn lắn về ăn uống, do đó

đối với tôi, sự nhịn đói không tác động mạnh như đối với nhiều người khác. Tuy nhiên tôi

cần dàn cảnh để bà Hudson tưởng lầm mà đi báo động với anh, và tới phần anh thì thông

báo cho Culverton Có phiền anh không, anh Watson? Nên nhớ rằng trong các biệt tài của

anh, sự ngụy trang không có chỗ đứng. Nếu anh không bị tôi bịp thì anh không có khả năng

thuyết phục Culverton đến đuợc. Do biết tính khí thú vật của y, tôi chắc rằng y sẽ tới để

chiêm ngưỡng kiệt tác của mình.

- Còn cái vẻ bề ngoài. Holmes! Khuôn mặt thây ma?

- Nhịn ăn, nhịn uống ba ngày liền thì làm sao còn đẹp trai đuợc, Watson. Ngoài ra lấy

khăn lau thấm nước quẹt một cái là xong thôi. Một ít vaseline trên trán, cà dược trong mắt,

son trên má và vấn mảnh sáp trên môi là khá đạt. Trang điểm là một đề tài mà tôi thường có

ý muốn viết ra một lược thảo. Nói lung tung về đồng nửa crown, về sò huyết hoặc bất cứ cái

quái dị sẽ làm cho ngườì ta lầm tưởng mình đang nói sảng.

- Nhưng tại sao anh không muốn tôi đến gần, bởi vì đâu có rủi ro truyền nhiễm?

- Còn phải hỏi! Bộ anh tưởng tôi coi nhẹ tài năng y khoa của anh à? Cho anh đến gần, để

anh nhận ra màn kịch này sao? Đứng xa bốn thước thì gạt anh đuợc. Nếu không gạt anh

đuợc thì ai sẽ đi thuyết phục Culverton tới nạp mình? Còn cái hộp, đụng tới nó đâu đuợc.

Nhìn nó, anh sẽ thấy một cái lò so nhọn đầu có thể bung ra như lưỡi rắn lục. Chính bằng

một dụng cụ tương tự mà thằng bé Victor đáng thương bị giết chết. Thư từ của tôi như anh

biết khá tạp nham, nên tôi luôn thận trọng khi nhận các bưu kiện. Tôi ngụy trang có tài tình

không? Khi làm việc xong tại sở cảnh sát, ta đi chén nhé.

\

Quý bà mất tích:

- Đúng kiểu Thổ phải không? - Holmes bất chợt hỏi trong khi nhìn chằm chằm vào đôi

giày bốt của tôi.

Tôi đang chống một cây gậy, và tôi nghĩ là nó đã thu hút ý nghĩ của anh ấy.

- Đồ Anh đó chứ! - Tôi hơi ngạc nhiên - Tôi mua nó ở tiệm Latimer, phố Oxford.

Holmes mỉm cười, với một vẻ kiên nhẫn mệt mỏi.

- Ý tôi nói là cái nhà tắm hơi kiểu Thổ! Tại sao anh lại đến đó, vừa đắt vừa không thoải

mái bằng nghỉ ngơi ở nhà.

- À, mấy hôm trước tôi cảm thấy hơi bị nhức mỏi. Tắm hơi kiểu Thổ, theo y học, sẽ là

một cuộc vệ sinh toàn diện nhất. Mà Holmes này! Tôi không nghi ngờ gì về mối liên hệ

logic giữa đôi giầy bốt với các nhà tắm Thổ, nhưng anh có thể nói rõ và chi tiết hơn được

không?

- Bài học về suy luận anh cũng đã biết rồi mà - Holmes nói, với một chút giễu cợt trong

ánh mắt - Tôi sẽ minh họa cho anh thấy rõ hơn nếu anh liên tưởng đến việc anh đi bằng

chiếc xe ngựa nào lúc sáng nay.

- Tôi không thích anh minh họa. Anh có thể giải thích được không - Tôi bắt đầu cáu.

- Bravo, Watson! Một lời khuyên rất logic. Rồi, đầu tiên tôi biết được gì. Trước hết là

chiếc xe ngựa. Anh có để ý là trên tay và vai áo choàng bên trái của anh có vệt nước bị bắn

lên không? Nếu anh ngồi giữa chiếc xe ngựa thì sẽ không bị điều này! Rõ ràng là anh ngồi

một bên! Và điều đó có nghĩa là có người ngồi cạnh anh.

- Điều đó hiển nhiên.

- Nhìn chung, không có điều gì vô lý.

- Nhưng còn đôi giầy ống và cái nhà tắm?

- Cũng dễ như ăn kẹo. Anh có thói quen đi giày theo một cách nhất định. Tuy nhiên tôi

nhìn thấy cách buộc giày không giống với cách thường làm của anh. Anh đoán ra điều gì rồi

chứ? Có người buộc giày cho anh. Chỉ có thể là thợ đóng giày hoặc chú nhóc phục vụ ở nhà

tắm. Nhưng không thể là thợ đóng giày trong khi đôi giày anh gần như mới nguyên. Như

vậy chỉ còn lại cái nhà tắm. Có điều gì vô lý không? Nhưng, cho tất cả cái đó, cái nhà tắm

Thổ đã phục vụ một mục đích khác.

- Ý anh nói sao?

- Anh nói là anh làm vậy vì anh cần một sự thay đổi. Cho phép tôi gợi ý rằng anh một ý

nhé. Tại sao ở Lausanne làm thế, Watson thân mến? Những vé hạng nhất và những chi tiêu

hoang phí?

- Sự sang trọng! Nhưng sao?

Holmes tựa lưng vào ghế và rút sổ tay ra.

- Một trong các hiểm nguy lớn trong xã hội là người đàn bà cô đơn đi du lịch. Bà phiêu

bạt từ nơi này sang nơi khác, sống tại khách sạn hoặc tại các nhà trọ tư nhân. Bà giống như

601

một chú gà con đi lạc giữa bầy chồn cáo. Khi bị nhốt rồi thì ít ai hay biết. Đó là trường hợp

mà tôi nghi là đã xảy ra cho quý bà Frances Carfax.

- Ðó là bà nào vậy? - Tôi hỏi.

- Quý bà Frances, là người duy nhất còn sống của gia đình cố hầu tước De Rufton. Bà

được thừa kế nhiều của cải gồm đồ nữ trang Tây Ban Nha rất xưa bằng bạc hoặc bằng kim

cương mài rất khéo. Những kim cương mà bà gắn bó đến nỗi không chịu gửi cho ngân

hàng, trái lại bà mang theo mình đi khắp thế giới.

- Chuyện gì đã xảy đến cho bà vậy?

- À, chuyện gì ư. Bà còn sống hay đã chết. Ðó là bài toán của chúng ta. Bà có những thói

quen đều đặn. Từ 4 năm nay, cứ 15 ngày là viết thư cho bà Dobney, người quản gia già ở

Camberwell. Chính bà Dobney đến gặp tôi. Gần 5 tuần rồi, chả có tin tức gì của bà ta cả.

Bức thư cuối cùng được viết từ khách sạn National ở Lausanne. Hình như vị mệnh phụ kia

rời khách sạn mà không để lại địa chỉ. Gia đình giàu có này đang rất lo lắng, những số tiền

vô cùng lớn lao đặt dưới quyền sử dụng của chúng ta để làm sáng tỏ vấn đề.

- Bà Dobney có phải là nguồn tin tức độc nhất hay không. Quý bà Frances chắc chắn còn

có những người nhận thư khác?

- Chỉ có một người nhận thư độc nhất, đó là ngân hàng. Các sổ chi phiếu của họ là những

nhật ký gọn gàng. Ngân hàng của bà ấy là ngân hàng Sylvester. Tôi có kiếm tra lại tài khoản

của bà. Cái chi phiếu áp chót bà ký để thanh toán tiền khách sạn ở Lausanne. Kể từ đấy, bà

chỉ ký thêm một chi phiếu.

- Ký cho ai và ký từ đâu?

- Cho cô Marie Devine, nhưng không thấy ghi nơi ký. Tiền được ghi tại ngân hàng Credit

Lyonnais ở Montpellier cách nay chưa tới ba tuần. Ðó là một chi phiếu 50 bảng Anh.

- Marie Devine là ai?

- Người hầu của bà ta. Chúng ta hiện chưa biết tại sao cô ta được chi phiếu này? Tuy

nhiên các sự tra cứu của anh chắc chắn sẽ làm sáng tỏ cái bí mật này.

- Sự tra cứu của tôi?

- Anh biết rằng, tôi chưa có thể rời London khi mà lão già Abrahams vẫn còn sống trong

kinh hoàng. Lại nữa, cơ quan Scotland Yard sẽ cảm thấy bị bỏ rơi nếu tôi đi vắng và sự

vắng mặt của tôi sẽ làm cho giới sát nhân cựa quậy. Vậy là anh Watson, anh phải đi, và nếu

cần hỏi ý kiến của tôi thì tôi sẵn sàng trả lời, dù ngày hay đêm. Tôi chỉ lấy giá rẻ là 2 penny

cho một lời khuyên.

Hai ngày sau, tôi tới khách sạn National ở Lausanne. Nơi đây tôi được ông Moser đón

tiếp nồng hậu. Vị giám đốc này cho tôi biết quý bà Frances ở tại khách sạn nhiều tuần lễ và

được nhiều người ái mộ. Bà vẫn đẹp, có thể lúc còn trẻ, bà là một hoa khôi. Ông Moser

không biết gì về số nữ trang của bà. Nhưng các nhân viên thì có để ý tới cái rương nặng

trịch trong phòng của bà luôn được khóa kỹ. Cô hầu Marie Devine cũng được yêu mến như

bà chủ. Cô ấy vừa hứa hôn với một nam bồi phòng tại khách sạn nên tôi xin địa chỉ của cô

602

dễ dàng. Cô ngụ tại số 2 Rue de Trajan, tỉnh Montpellier của Pháp. Tôi ghi chép kỹ lưỡng

và tự hào rằng dù cho Holmes có ở đây anh cũng không thu lượm tin tức nhiều hơn.

Còn một điểm vẫn mù mờ. Tôi không thu lượm được chi tiết nào giải thích sự ra đi đột

ngột của bà mệnh phụ ở Lausanne, bà rất sung sướng. Mọi người tin rằng bà sẽ ở lại suốt

mùa này trong căn hộ xa hoa, ngó ra hồ. Bà ra đi vào một ngày đẹp trời, không hề báo

trước, bỏ hẳn một tuần lễ tiền khách sạn. Jules Vibart, vị hôn phu của cô hầu là người độc

nhất đưa ra một giả thiết. Anh cho rằng sự ra đi đột ngột này có liên hệ với sự thăm viếng

trước đó một hay hai ngày của một anh chàng to con, râu quai nón đen.

- Một thằng mọi! Một thằng mọi thật sự - Jules Vibart nói với tôi. - Ông ta ở đâu đó trong

thành phố. Người ta thấy y nói chuyện một cách say đắm với bà mệnh phụ trong một cuộc

đi dạo trên hồ, rồi y có đến khách sạn. Bà ấy từ chối gặp y.

Ðó là một người Anh, không ai biết tên. Ngay sau đó mệnh phụ dọn nhà. Vị hôn thê của

Jules Vibart cũng chú ý đến mối tương quan giữa cuộc viếng thăm và sự dọn nhà. Jules

Vibart không đưa ra được cái động cơ khiến Marie bỏ bà chủ. Nếu muốn biết, tôi phải đi

Montpellier hỏi ngay cô ta. Chương đầu các điều tra của tôi kết thúc như thế.

Tôi dành chương hai cho nơi mà quý bà Frances Carfax, sau khi rời Lausanne. Trong

chiều hướng này, tôi vấp phải một bí ẩn. Nếu bà ta giấu lộ trình, tại sao hành lý được ghi rõ

ràng là đi Baden? Và cả bà lẫn hành lý cũng đi tới cái thành phố nước khoáng này, theo một

lộ trình rất ngoằn ngoèo. Tôi được biết điều này qua ông giám đốc công ty du lịch địa

phương. Do đó tôi lên đường đi Baden sau khi gửi cho Holmes một bản tường trình. Tôi đã

nhận một hồi âm ca ngợi đượm mùi hài hước.

Tại Baden, tôi tìm ra vết tích của bà không khó lắm. Bà ta ở khoảng 15 ngày tại

Englischer Hof. Trong khi lưu ngụ tại đó, bà làm quen với ông bà tiến sĩ Shlessinger: đó là

một gia đình truyền giáo từ Nam Mỹ về. Giống như nhiều người đàn bà cô đơn khác, người

đàn bà này tìm quên nỗi buồn trong tôn giáo. Nhân cách của tiến sĩ, lòng mộ đạo và sự tận

tụy của ông, cộng với việc ông đang tĩnh dưỡng sau một cơn bệnh mà ông vướng phải trong

khi đi truyền đạo, tạo ra một cảm giác rất tốt đẹp nơi bà. Theo tường thuật của giám đốc

khách sạn thì sáng nào ông cũng ngồi phơi nắng trên ghế dài ngoài hàng hiên mỗi bên một

người đàn bà canh chừng.

Sau khi bình phục, ông cùng vợ lên đường đi London và quý bà Frances Carfax cũng rời

khách sạn để đi theo họ. Chuyện đó xảy ra cách đây ba tuần và kể từ đó, ông giám đốc

không có tin tức gì nữa. Về phần cô nữ hầu, cô đã ra đi vài ngày trước, khóc như cha chết

và báo cho các nữ bồi phòng khác rằng cô rời bà chủ một cách vĩnh viễn. Trước khi cô đi,

tiến sĩ Shlessinger đã thanh toán tiền lương cho toàn nhóm. Ðã kết luận, ông giám đốc còn

tiết lộ rằng ông không phải là người duy nhất lo lắng cho số phận của quý bà Frances

Carfax.

- Cách đây khoảng một tuần, có một người khác tới đây hỏi tôi những câu hỏi tương tự.

- Ông ấy có tiết lộ danh tánh không? - Tôi hỏi.

- Không. Nhưng tôi biết là người Anh, một người Anh hơi khác thường.

603

- Một thằng mọi, phải không? Tôi vừa nói vừa ra dấu theo cách thức của ông bạn nổi

tiếng của tôi.

- Ðúng thế. Ðó là cái từ rất tương xứng với y. Ông hãy tưởng tượng một con người đồ sộ,

râu ria xồm xoàm, da đồng. Ðúng ra, y nên ngụ tại một quán trọ đồng quê hơn là tại một

khách sạn danh tiếng. Một người cứng cáp và hung hãn. Một người mà tôi không bao giờ

dám dậm chân.

Bí mật dần dà lộ rõ từng đường nét, y hệt một dáng đi từ từ thoát ra khỏi sương mù, một

người đàn bà mộ đạo bị săn đuổi bởi một anh chàng ma quái và kiên gan. Bà ấy sợ y, bằng

không thì bà đâu có trốn khỏi Lausanne. Y đã đuổi theo bà ta. Chóng chầy cũng đuổi kịp.

Kịp rồi chưa? Có có phải là lý do khiến bà im bặt. Các người khổ ải tháp tùng bà có khả

năng che chở bà khỏi sự hung bạo của thằng mọi thô lỗ? Ý đồ gớm ghiếc nào làm động lực

cho cuộc săn lùng này? Ðó là bài toán tôi phải giải đáp.

Tôi viết thư cho Holmes, thông báo sự nhanh chóng và nghiêm túc mà tôi đã vận dụng để

đi vào cội rễ của nội vụ. Ðáp lại tôi nhận được một lá thư bảo tôi mổ xẻ lỗ tai trái của tiến sĩ

Shlessinger. Holmes có tật hay pha trò, đôi khi lố bịch, nên tôi không bận tâm với cái trò

giễu cợt sai chỗ này. Nói cho đúng, khi tôi vừa đến Montpellier và đang đi tìm cô hầu Marie

thì thư của Holmes đến nơi.

Tìm lại và khai thác cô này là không khó đối với tôi. Là một người tận tình, cô gái này

chỉ rời chủ sau khi biết chắc rằng chủ không có gì nguy hiểm và cũng vì gần ngày lấy

chồng. Cô tâm sự rằng chủ của cô có tỏ ra cáu kỉnh với cô lúc ở Baden. Có lần cô đã hỏi bà

chủ xem có ngờ vực sự lương thiện của mình không. Chính sự việc này góp phần làm dễ

dàng sự chia tay. Mệnh phụ Frances có cho cô 50 bảng Anh làm quà đám cưới.

- Tôi nghi ngờ kẻ vô danh kia đã khiến bà chủ tôi bỏ Lausanne qua Baden. Chính tôi thấy

y nắm cổ tay của bà chủ tôi một cách lộ liễu trong cuộc du ngoạn trên hồ. Y có vẻ hung hãn,

dữ tợn.

Cô còn cho rằng vì sợ y mà mệnh phụ Frances phải tháp tùng theo vợ chồng tiến sĩ

Shlessinger qua London. Không bao giờ bà tiết lộ tí gì với cô cả. Tuy nhiên qua nhiều dấu

hiệu, cô hầu biết rằng bà chủ mình đang sống trong tình trạng sợ hãi. Nói tới đó, cô đột ngột

đứng dậy, khuôn mặt bấn loạn vì ngạc nhiên và sợ hãi.

- Nhìn kìa! - Cô kêu lên - Thằng khốn đang đi săn mồi. Nó là người mà tôi vừa nói đến.

Qua cửa sổ của phòng khách nhỏ, tôi thấy một người cao lớn, râu đen ưỡn ra trước, chầm

chậm đi xuôi theo đường phố, mắt nhìn các số nhà. Rõ ràng, y đang tìm cô hầu. Tôi nhảy bổ

ra và kè y ngay.

- Ông là người Anh?

- Thí dụ là thế đi. - Y gầm gừ.

- Tôi có thể biết được quí danh?

- Không được?

Tôi cụt hứng, nhưng vẫn dõng dạc hỏi:

- Bà Frances Carfax hiện ở đâu?

604

Y trố mắt nhìn tôi, hỏi lại:

- Ông đã làm gì bà ấy? Tại sao ông săn đuổi bà ấy. Tôi yêu cầu được trả lời.

Anh ta gào thét lên vì giận dữ rồi vồ lấy tôi. Tôi đấm đá không tệ, nhưng y mình đồng da

sắt, lại hung hăng như cọp. Y thộp cổ tôi và tôi sắp ngã thì một công dân Pháp râu ria lởm

chởm trong đồng phục xanh, từ quán rượu chạy ra, tay cầm cây gậy ngắn, đập mạnh vào

cánh tay trước của hung thủ. Y buông tôi ra, đứng im nhìn tôi trừng trừng và muốn vồ lấy

tôi một lần nữa. Thình lình y cười chế nhạo, bỏ tôi lại và đi vào cái biệt thự tôi vừa chạy ra.

Tôi quay lại, cám ơn người cứu mạng đứng cạnh tôi trên lề đường.

- Nào, Watson! - Người này nói - Anh quậy rối bời, làm ơn quay về London với tôi bằng

chuyến tốc hành đêm nay.

Một giờ sau, Sherlock Holmes với trang phục thường nhật ngồi trong phòng khách sạn

của tôi. Anh giải thích cho tôi sự có mặt bất ngờ và đúng lúc của anh. Anh rời London, hóa

trang thành công nhân, ngồi trong quán rượu chờ tôi.

- Anh Watson, anh đã tiến hành một cuộc điều tra lớp lang một cách kỳ diệu. Tôi không

thấy anh có một sơ hở nào cả. Tuy nhiên, tất cả hoạt động của anh có thể được tóm tắt như

vầy: anh đã báo động tứ tung để chẳng kiếm ra được cái gì cả.

- Có thể anh đã hơn tôi? - Bị chạm tự ái, tôi đáp.

- Không phải "có thể" mà là "chắc chắn". Ðây là bá tước Philip Green, một đồng hương

và hiện đang ngụ cùng một khách sạn với anh. Chính ở ông, tôi chờ đợi một khởi điểm cho

một cuộc điều tra tốt hơn.

Trong một cái mâm nhỏ, một bản đồ được trình lên cho chúng tôi. Người mang mâm là

nhân vật râu ria xồm xoàm mới đánh tôi ngoài đường. Ông này nhảy dựng lên khi thấy tôi.

- Nghĩa là sao, ông Holmes. Nhận được lời nhắn của ông, tôi tới đây ngay. Nội vụ có gì

hên quan tới cái ông này?

- Tôi xin giới thiệu cùng ông, người bạn cố tri và cộng tác viên của tôi, bác sĩ Watson, đã

tiếp tay với chúng ta trong vụ này.

Người lạ đưa bàn tay đồ sộ, sạm nắng và thốt ra vài lời xin lỗi.

- Tôi hy vọng đã không làm ông bị thương. Khi nghe ông cáo buộc tôi quấy phá bà ấy, tôi

điên tiết, lúc đó tôi không tự chủ được. Thôi, điều trước tiên tôi muốn rõ là vì sao ông biết

được sự dính líu của tôi.

- Tôi có tiếp xúc với bà nữ quản gia của mệnh phụ.

- Bà lão Susan Dobney đội cái mũ nhỏ? Tôi nhớ rõ lắm!

- Bà ấy nhớ ra ông trong những ngày xa xưa đầy thú vị, lúc ông chưa đi Nam Phi.

- À, vậy là ông hiểu câu chuyện của tôi. Tôi không còn phải che giấu ông điều gì. Tôi thề

với ông, ông Holmes à, trên đời này chưa có người đàn ông nào thương một người đàn bà

hơn mối tình tôi dành cho Frances. Lúc đó tôi là một thằng mọi con, tôi biết. Nhưng tôi

không tệ hơn nhiều đứa cùng tuổi. Nhưng cô ấy có tâm trí thuần khiết như tuyết, nên cô hay

biết vài tội lỗi của tôi lúc thiếu thời, cô không muốn nói chuyện với tôi nữa. Tuy vậy cô ấy

thương tôi: đó là cái kỳ diệu? Cô thương tôi đủ để cô mãi mãi sống độc thân. Thời gian sau,

605

khi tôi đã làm nên sự nghiệp tại Barbeton, tôi đi tìm lại cô ta và năn nỉ. Tôi được biết cô

chưa lấy chồng. Tôi gặp cô ta tại Lausanne và cố gắng thuyết phục. Con tim cô ấy đã hơi

xiêu lòng, nhưng ý chí của cô vẫn sắt đá. Khi tôi muốn gặp cô trở lại thì cô đã rời bỏ thành

phố. Tôi tới Baden và biết được rằng cô hầu của cô ấy ở lại Montpellier này. Tôi thô bạo vì

tôi sinh trưởng trong một môi trường thô bạo, nên khi nghe bác sĩ Watson hỏi tôi không tự

kiềm chế được. Nhưng vui lòng cho tôi biết Frances đã ra sao rồi?

- Phải đoán mò thôi - Sherlock Holmes đáp - Về London, ông ngụ tại đâu, thưa ông

Green?

- Tại khách sạn Langham.

- Vậy tôi đề nghị ông quay về London và hãy sẵn sàng đón nhận mọi tình huống. Tôi

không dám nuôi nhưng hy vọng hão huyền, nhưng ông nên vững tin rằng, tất cả những gì có

thể làm được sẽ được làm cho mệnh phụ. Hiện giờ tôi không thể nói gì hơn. Watson chuẩn

bị va-li đi. Tôi đã điện cho bà Hudson để sẵn đĩa nhỏ, đĩa lớn, chuẩn bị đón hai lữ khách đói

khát sẽ về đến vào sáng mai, lúc 7 giờ 30.

Một điện tín chờ chúng tôi tại đường Baker. Sau khi đọc xong, Holmes trao cho tôi. Nó

chỉ có mấy chữ: "Bị răng cưa hay rách. Xuất xứ từ Baden".

- Nội dung gì lạ vậy?

- Có lẽ anh còn nhớ câu hỏi của tôi về cái lỗ tai trái của nhà truyền giáo. Anh đâu có trả

lời.

- Tôi đã rời Baden, làm sao dò hỏi được?

- Ðúng thôi. Chính vì lẽ đó mà tôi đặt câu hỏi với viên giám đốc khách sạn Englischer

Hof và được trả lời như thế.

- Nó báo việc gì?

- Nó cho biết rằng chúng ta đang đương đầu với một anh chàng xảo quyệt và nguy hiểm.

Tu sĩ, tiến sĩ Shlessinger, nhà truyền đạo tại Nam Mỹ, tên thật của hắn là Holy Peters, một

trong các thằng ăn cướp táng tận lương tâm nhất mà đất Australia đã sinh ra. Biệt tài của

hắn là dụ dỗ các cô, các bà cô đơn bằng tín ngưỡng. Vợ của hắn là một người Anh tên

Fraser. Bọn họ nồi nào úp vung nấy. Hắn có cái tai dị hình do bị cắn trong một cuộc ẩu đả

vì rượu. Như vậy thì mệnh phụ đáng thương đã lọt vào tay cặp vợ chồng yêu quái này.

- Chết cũng là một giả thuyết!

- Nếu bà ấy chưa chết, thì chắc chắn bị nhốt kỹ đến nỗi không thể viết thư cho bà Dobney

hoặc cho các bạn bè khác. Có thể bà ấy chả bao giờ đến London?

- Có thể bà ấy chỉ đi ngang qua thôi. Chúng hiểu rằng một người ngoại quốc như chúng

khó bịp được cảnh sát Anh. Nhưng cũng có thể bọn này biết rõ rằng London là nơi tốt nhất

để nhốt một ai đó! Bản năng của tôi bảo tôi rằng bà ấy ở London. Cho tới giờ này, vì chưa

có phương cách để biết rõ địa điểm, chúng ta đành phải chờ. Ðêm nay tôi sẽ đi một vòng và

thông báo cho ông bạn Lestrade hay.

Nhưng cả cảnh sát lẫn nhóm của Holmes cũng không đủ sức làm sáng tỏ sự bí ẩn. Giữa

mấy triệu người dân London thì việc kiếm ba người đó chẳng khác nào mò kim đáy biển.

606

Thử nhắn tin trên báo: vô hiệu? Theo đuổi chăng đi tới đâu. Canh chừng các sào huyệt của

giới sát nhân: vô ích.

Nhưng một tuần sau, ánh sáng đã lóe lên. Một món nữ trang bằng bạc và một vài viên

kim cương kiểu cổ ở Tây Ban Nha được đem đến cầm thế tại đường Westminster. Người

đem cầm, theo người ta trình bày với chúng tôi, có dáng cao, to, cạo râu nhẵn nhụi, ra vẻ là

nhà tu. Tên và địa chỉ y cho, chắc chắn là giả. Người ta không để ý đến cái lỗ tai, đại để thì

sự mô tả tương ứng với các đặc điểm của Shlessinger. Lúc 3 giờ, người bạn râu quai nón

xồm xoàm ngụ tại khách sạn Langham lại tới thăm để lấy tin: đó là lần thứ ba trong một giờ

sau khi có chỉ dẫn mới. Ông ta tiều tụy vì âu lo.

- Phải chi tôi được giao phó một nhiệm vụ gì đó? - Ông ta cứ than thở liên tục như thế.

Cuối cùng Holmes xoa dịu:

- Nó đã đi cầm nữ trang, chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ chộp được thôi?

- Ðiều đó có nghĩa là Frances chả có gì nguy hại, phải không.

Holmes nghiêm túc lắc đầu:

- Nếu chúng nhốt bà ấy từ hôm đó đến nay, thì đương nhiên chúng không thể thả bà ấy ra.

Tàn đời chúng còn gì! Do đó chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận sự tệ hại nhất.

- Tôi có thể làm gì?

- Chúng quen mặt ông không?

- Không.

- Có thể nó sẽ lại ra hiệu cầm đồ. Trong trường hợp đó, chúng ta lại bắt đầu làm việc.

Hơn nữa, tại hiệu cầm đồ cũ, người ta không tò mò, hỏi han gì, nên nếu nó thiếu tiền, nó sẽ

quay lại đó. Tôi sẽ giới thiệu ông với hiệu này và họ sẽ để cho ông ở lại cửa hiệu của họ.

Nếu con mồi dẫn xác đến, ông theo nó về nhà. Nhưng phải kín đáo và nhất là không được

hung bạo. Tôi muốn ông lấy danh dự thề rằng sẽ không làm gì nếu chưa được phép của tôi.

Trong hai ngày, bá tước Philip Green (ông ta vốn là con của một vị đô đốc danh tiếng,

người chỉ huy hạm đội biển Azof trong cuộc chiến Crimé) không mang tin tức gì về. Tối

ngày thứ ba, ông chạy xống xộc vào phòng khách của chúng tôi, mặt tái xanh, mọi bắp thịt

trong cơ thể đồ sộ đều run rẩy.

- Có kết quả, có kết quả.

Trong niềm phấn chấn, ông ấy nói năng không đầu đuôi. Holmes xoa dịu vài câu rồi mời

ngồi vào ghế bành.

- Nào, vui lòng truyền đạt tin tức cho chúng tôi theo thứ tự hẳn hoi.

- Bà vợ đến, cách đây chưa đầy nửa giờ. Lần này là bà vợ, nhưng cái đồ đeo ở cổ đem đi

cầm, lần này cũng giống cái trước. Bà ấy cao lớn, tái xanh, với đôi mắt láu lỉnh.

- Ðúng là con mẹ ấy.

- Nó rời cửa hiệu, tôi đi theo. Nó ngược phố Kenstington, vào một cửa hiệu mai táng?

- Rồi sao nữa? - Holmes hỏi với tiếng nói run run.

- Con mụ ấy đang nói chuyện với người đàn bà ngồi sau bàn giấy thì tôi bước vào.

"Muộn rồi đó", tôi nghe con quỷ cái nói đại loại như thế. Người đàn bà trong cửa hiệu năn

607

nỉ: "Ông ấy sẽ về kịp. Chút nữa thôi ông ấy có xin thêm thời gian, bởi vì đây là cái kiểu rất

đặc biệt". Cả hai mụ đều ngừng nói và nhìn tôi. Tôi giả vờ hỏi giá cả này nọ rồi cáo từ.

- Tốt lắm, rồi sao nữa?

- Mụ ấy cũng đi, tôi ẩn nấp sau một cái cổng. Tôi nghĩ rằng mụ ta có ngờ vực nên mụ có

nhìn quanh, rồi lên xe ngựa. May mắn là tôi cũng gọi được một cái xe để đuổi theo. Mụ ấy

xuống tại số 3 quảng trường Poultney. Tôi núp vào một góc và nhìn kỹ căn nhà.

- Có thấy ai không?

- Cửa sổ không được thắp sáng, trừ một cái ở tầng dưới. Bức mành được kéo xuống, do

đó tôi chả thấy gì bên trong. Tôi đứng đó, chưa biết phải làm gì thì một xe thùng có phủ mui

ngừng lại; bên trong có hai người. Họ leo xuống, khiêng một cái hòm ra khỏi xe, leo lên bực

thềm. Con mụ vợ mở cửa. Tôi đứng không xa lắm. Mụ thấy tôi và tôi tin rằng mụ ấy nhận ra

tôi. Tôi thấy mụ ta giật mình rồi lật đật đóng cửa lại. Tôi nhớ lời đã hứa với ông, nên trở về

báo cáo.

- Nhiệm vụ của ông hoàn thành mỹ mãn. - Holmes nói và nguệch ngoạc vài chữ trên một

tờ giấy. - Chúng ta không thể làm gì nếu không có trát tòa. Ông phục vụ chính nghĩa của

chúng ta bằng cách mang giấy này tới nhà cầm quyền và xin trát tòa. Sẽ có khó khăn đó!

Tuy nhiên tôi nghĩ rằng sự bán nữ trang là cũng đủ bằng cớ, Lestrade sẽ lo chi tiết.

- Nhưng trong khi chờ đợi, chúng có thể giết cô ấy. Cái hòm nghĩa là thế nào? Mua cho

ai? Nếu không phải là cho bà ấy?

- Chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể làm được. Ông bạn, chúng ta không để mất một

giây phút nào. Hãy tin cậy nơi chúng tôi. Giờ đây, Watson à! - Holmes nói, sau khi người

khách hàng của chúng tôi xuống cầu thang. - Ta vận dụng lực lượng chính qui. Phần chúng

ta, như thường lệ là những người không chính qui, thi hành chương trình hành động riêng.

Tình huống ngặt nghèo đến nỗi chúng ta phải sử dụng những biện pháp liều lĩnh. Ði mau

đến quảng trường Poultney.

Trong lúc xe ngựa chạy nhanh dọc tòa nhà Quốc hội rồi vượt cầu Westminster, Holmes

ôn lại sự nối tiếp của các sự kiện.

- Bọn cướp này lường gạt người đàn bà khốn khổ, đưa về London sau khi thuyết phục bà

ấy cho cô bồi phòng nghỉ việc. Nếu bà ấy có viết thư thì thư bị giữ lại. Qua trung gian của

một đồng phạm, chúng mua một cái nhà có đồ đạc. Tới nơi, chúng cầm tù mệnh phụ và đoạt

lấy nữ trang. Chúng đã bắt đầu bán và cho là an toàn vì tin rằng có ai mà để ý tới số phận

của bà ấy! Nếu chúng thả bà ra, bà sẽ tố cáo chúng. Vậy là phải nhốt bà ấy. Vì không thể

nào nhốt mãi mãi được, nên phải giết chết.

- Rõ ràng là vậy.

- Tuy nhiên, hãy lý luận hướng khác. Giờ đây chúng ta không khởi đầu từ người đàn bà

mà từ cái hòm. Màn này chứng tỏ rằng, người đàn bà bất hạnh đã chết. Nó cho thấy một

đám ma hợp lệ, có giấy phép chôn đàng hoàng. Trong trường hợp chúng đã giết mệnh phụ,

chúng đã vùi xác đâu đó ngoài vườn. Ðằng này tất cả đều hợp lệ, công khai. Tại sao? Chắc

608

chắn là tại vì chúng đã làm bà ấy chết một cách có thể gạt pháp lý, có lẽ bằng thuốc độc.

Nhưng chúng không khờ dại để một y sĩ tới gần bà ta, trừ khi đó là một tòng phạm.

- Giả thuyết này khó tin lắm?

- Chúng làm giấy giả được không?

- Nguy hiểm cho chúng lắm. Không, tôi không tưởng tượng chuyện đó bao giờ. Dừng lại,

bác xà ích! Ðây là cửa hiệu mai táng, vì chúng ta vừa đi qua tiệm cầm đồ. Anh vào đi,

Watson. Dáng dấp anh gây tin tưởng hơn. Hỏi xem mấy giờ ngày mai thì động quan.

Bà chủ nhà đáp mau mắn là 8 giờ ngày mai.

- Thấy không, Watson. Ðâu có gì bí hiểm! Sáng như ban ngày! Họ không sợ gì cả. Tôi

không thấy có giải pháp nào hay hơn là tấn công ngay. Anh có vũ khí không?

- Một cây gậy!

- Chả sao, chúng ta đủ sức mạnh mà. Kẻ có chính nghĩa mạnh gấp ba. - Holmes nói. -

Chúng ta không thể chờ cảnh sát. Bà xà ích, cho chúng tôi xuống. Bây giờ chúng ta cũng

thử thời vận như đã từng làm đôi lần trong quá khứ.

Anh giật chuông tại cửa ngôi nhà lớn tăm tối. Cửa mở liền. Một người đàn bà cao lớn và

tái xanh xuất hiện dưới ánh sáng yếu ớt của hành lang.

- Các ông cần gì? - Mụ nói cộc lốc và nhìn kỹ chúng tôi trong bóng tối.

- Tôi muốn gặp tiến sĩ Shlessinger - Holmes đáp.

- Ở đây không có ai tên như vậy cả.

Mụ ấy đáp, định đóng cửa, nhưng Holmes đã lọt vào trong cái cửa hé mở.

- Tốt thôi. Vậy thì chúng tôi muốn nói chuyện với người đàn ông ngụ tại nhà này, dù y

mang tên giả nào đi nữa. - Holmes nói một cách cương quyết.

Mụ ấy lưỡng lự rồi mở toang cửa ra.

- Mời vào! Trên đời này, chồng tôi chả sợ ai cả.

Mụ ta ra đóng cửa lại và đưa chúng tôi vào một xa-lông nhỏ bên trái, mụ ta vặn thêm gas

cho đèn sáng trước khi vào nhà trong.

- Chút nữa, ông ấy sẽ ra. - Mụ ta nói.

Chúng tôi vừa mới nhìn quanh cái căn phòng bụi bặm bị mối đục thì cửa mở, đưa vào

một người đàn ông cao lớn, đầu sói, không râu. Khuôn mặt đồ sộ, hơi đỏ, má phệ và một vẻ

nhân từ giả trá, ông ta nói giọng nhợt nhạt:

- Quí vị lầm rồi. Tôi tin chắc rằng người ta đã chỉ đường sai. Ðề nghị quí vị xuống sân,

chút nữa...

- Ðủ rồi, chúng tôi không có thời gian - Holmes cắt ngang - Anh là Henry Peters, nguyên

quán ở Adélaide, gần đây thì mang tên tiến sĩ Shlessinger, nguyên quán ở Baden và Nam

Mỹ. Tôi chắc chắn về điều này như 1 với 1 là 2.

Peters nhảy dựng lên, nhìn cay độc vào mặt chúng tôi.

- Ông không là gì cả đối với tôi, ông Holmes à. Ông tới nhà tôi làm gì vậy?

- Tôi muốn biết ông đã làm gì mệnh phụ Frances Carfax, người rời Baden cùng với vợ

chồng ông.

609

- Tôi cũng muốn được ông cho biết bà này hiện ở đâu - Peters vẫn lạnh lùng nói. - Bà nợ

tôi 100 bảng và để trả nợ, bà để lại cho tôi hai món nữ trang mạo hóa mà con buôn không

thèm nhìn. Bà ấy quyến luyến vợ tôi khi chúng tôi ở Baden... Ðúng là lúc đó tôi mang tên

khác. Bà ấy bám sát chúng tôi qua đây. Tôi đã thanh toán giùm tiền khách sạn và chi phí

này nọ. Qua tới đây, bà ấy biến đâu mất? Và như tôi đã nói, bà để lại cho chúng tôi hai món

nữ trang vô giá trị để trừ nợ. Nếu ông tìm ra bà ta, tôi cũng sẽ thưởng tiền cho ông.

- Tôi muốn kiếm bà ấy - Sherlock Holmes nói: - Và tôi sẽ lục nát căn nhà này cho tới khi

tìm ra bà ấy mới thôi.

- Trát tòa đâu?

Holmes đưa khẩu súng lục ra.

- Tạm dùng trát này trong khi chờ cái khác tốt hơn.

- Thế à? Ông chỉ là một thằng ăn trộm trèo tường.

- Nếu ông muốn! - Holmes trả lời một cách vui vẻ - Bạn đồng hành của tôi cũng là một

kẻ cướp nguy hiểm. Và cả hai chúng tôi sẽ viếng thăm nhà ông.

Người đối thoại của chúng tôi mở cửa la to:

- Ði kiếm một cảnh sát, Annie.

Có tiếng chân đàn bà chạy ngoài hành lang. Cửa cổng mở ra rồi đóng lại.

- Thời gian có hạn - Holmes nói với tôi. - Này Peters, nếu ông ngăn cản, ông sẽ gặp

những rắc rối lớn. Cái hòm đâu rồi?

- Hỏi làm gì?

- Có một xác chết trong đó! Tôi muốn xem cái xác đó.

- Không bao giờ, nếu không được sự đồng ý của tôi.

- Vậy thì khỏi cần xin phép.

Bằng một cử động nhanh nhẹn, Holmes đẩy Peters qua bên và đi vào hành lang. Một cửa

đang hé mở, chúng tôi bước vào, đó là phòng ăn. Holmes vặn gas để tăng thêm ánh sáng rồi

giở nắp hòm. Dưới đáy hòm có một hình dạng người hốc hác, ánh sáng chiếu rọi một khuôn

mặt già cỗi nhăn nheo. Không một sự tàn ác nào, không một bệnh nào có thể biến mệnh phụ

Frances ra nông nỗi này. Mặt của Holmes bộc lộ sự ngạc nhiên, nhưng đồng thời cũng chắc

chắn có một sự nhẹ nhõm.

- Cám ơn Chúa! - Anh nói thầm - Ðây là người khác!

- Rõ ràng là ông lại lầm lạc nữa rồi, ông Holmes. - Peters đi theo chân chúng tôi và nói

lớn.

- Người chết này là ai?

- Là vú già của nhà tôi, tên là Rose Spender. Chúng tôi đưa bà cụ từ trạm xá nhà dưỡng

lão Brixton về. Chúng tôi có mời bác sĩ Horsom ở số 13 Firbank Villas... Ghi địa chỉ này

cho kỹ, ông Holmes nhé! Bà cụ được chăm sóc tận tình đúng theo lòng bác ái của Chúa. Ba

ngày sau, bà cụ chết. Giấy cho chôn ghi là do già cỗi, nhưng đó chỉ là ý kiến của bác sĩ. Còn

ông, đương nhiên ông biết nhiều hơn. Chúng tôi giao cho công ty mai táng Stimson đường

Kenmington. Tám giờ sáng mai thì làm lễ. Có cái gì mờ ám đâu, ông Holmes? Ông hố lớn

610

rồi. Phải chi chụp hình được cái bản mặt đáng tức cười của ông khi giở nắp hòm? Ông

tưởng ông sẽ gặp quý bà Frances Carfax, nhưng ngược lại, ông chỉ thấy bà lão 90 tuổi.

Dưới những mũi tên của đối thủ, Holmes giữ được khuôn mặt điềm đạm, nhưng sự co

bóp của hai bàn tay biểu lộ sự bồn chồn:

- Tôi sẽ lục soát nhà ông - Holmes nói.

- A, ông tưởng... - Chủ nhà kêu to trong lúc có tiếng nới đàn bà và những bước đi nặng nề

vang dội ở ngoài hành lang. - Ðể coi! Ði lối này, quý ông! Hai người này dùng vũ lực vào

nhà tôi và tôi đuổi không chịu đi. Xin giúp tôi đuổi họ ra.

Một đội trưởng và một nhân viên cảnh sát đang đứng ở ngưỡng cửa. Holmes đưa tấm

thiệp của mình ra.

- Ðây là tên và địa chỉ của tôi. Còn đây là bạn thân của tôi, bác sĩ Watson.

- Chúng tôi biết ông nhiều. Tuy nhiên, hai vị không thể nán lại đây, nếu không có trát tòa.

- Ðương nhiên tôi biết điều đó.

- Bắt ông ấy đi - Peters la to.

- Chúng tôi biết rõ nhiệm vụ của chúng tôi - Viên đội trưởng uy nghiêm nói. - Ông

Holmes, ông phải rời khỏi nơi đây.

- Vâng.

Giây lát sau, chúng tôi đã ra tới đường. Holmes đã lấy lại sự bình tĩnh, nhưng tôi thì sôi

sục vì giận và nhục. Viên đội trưởng tháp tùng chúng tôi.

- Rất tiếc, thưa ông Holmes. Ðó là luật.

- Ðúng thôi, ông đội ông không thể làm khác.

- Tôi tin ông có lý do vững vàng khi vào đó. Tôi có thể giúp gì cho ông?

- Một người đàn bà mất tích, ông thượng sĩ à! Chúng tôi tin bà ấy ở trong nhà đó. Tôi

đang chờ trát, không lâu lắm đâu.

- Tôi sẽ đứng canh, ông Holmes à. Nếu có gì mờ ám, tôi không bỏ qua đâu.

Mới 9 giờ, chúng tôi bắt đầu cuộc săn đuổi. Trước tiên, chúng tôi thuê xe đến viện dưỡng

lão Brixton, và được biết vài ngày trước đây có hai nhà từ tâm đến xin một bà lão đần độn

có thể trước kia là tôi tớ của họ và được cho phép chở bà đi. Cái chết của bà này không làm

cho ai ngạc nhiên cả. Kế đó, chúng tôi qua nhà của y sĩ ông ta đã được mời đến, đã chứng

kiến bà lão chết vì già cỗi; sau đó ông có khám tử thi và ký phép cho chôn. Holmes nói:

- Tôi đảm bảo với quý anh rằng tất cả đều một trăm phần trăm hợp lệ; không có cái gì mờ

ám cả. Trong nhà không có gì khả nghi. Duy có một điều lạ là họ không túng thiếu mà họ

lại không dám thuê gia nhân?

Sau rốt chúng tôi đi tới Scotland Yard. Có những khó khăn về thủ tục xin trát tòa. Không

thể xin được chữ ký của quan tòa trước ngày mai. Cái ngày hôm đó kết thúc như vậy, trừ

một chuyện này: Khoảng 12 giờ đêm, viên thượng sĩ báo cho biết rằng ông có thấy đằng sau

cửa sổ của cái nhà đáng nghi ngờ ấy một ánh lửa lập lòe đi qua lại, nhưng không ai ra vào

cả. Chúng tôi chỉ biết phải nhẫn nại chờ. Sherlock Holmes quá cáu kỉnh và bực dọc. Tôi đi

ngủ, mặc anh ta kéo thuốc liên tục. Cặp chân mày rậm của anh đã nối liền nhau thành một

611

đường thẳng. Mấy ngón tay dài nhạy cảm của anh gõ nhẹ trên tay ghế bành. Anh đang tìm

tất cả các giải pháp có thể cho các bí ẩn. Nhiều lần trong đêm, tôi nghe bước chân anh đi

qua lại trong căn hộ. Cuối cùng sau khi tôi thức dậy, anh nhảy bổ vào phòng tôi.

- Mấy giờ thì động quan. Tám giờ phải không? Bây giờ là 7 giờ 20 rồi. Watson à! Tôi đã

sử dụng ra sao cái óc tí xíu mà trời ban cho! Nhanh lên, nhanh lên! Một vấn đề sống chết,

và cơ may để chết là một trăm trên một. Nếu ta tới muộn, tôi sẽ không tha thứ cho tôi về

chuyện đó.

Năm phút sau, chúng tôi ngồi trong xe ngựa. Mặc dù tài xế đánh ngựa tới tấp, khi đi

ngang đồng hồ Big Ben, cây kim chỉ 8 giờ kém 25 và đổ vang 8 giờ khi chúng tôi xuống xe

ở Brixton. Tuy nhiên mọi người cũng đều đi trễ. Lúc 8 giờ 10 xe tang còn đậu trước cổng

nhà. Khi con ngựa sùi bọt mép của chúng tôi ngừng lại, ba người khiêng quan tài đã ra đến

ngưỡng cửa. Holmes ào ào chạy tới trước mặt họ để cản đường.

- Lui lại. - Anh la lớn vào bọn đạo tì rồi đặt tay trên vai người gần nhất. - Ðem quan tài

trở vào nhà tức khắc?

- Ông muốn gì nữa? Tôi hỏi ông một lần nữa? Ông có trát tòa không? - Peters thét lên

giận dữ.

- Trát trên đường đi tới đây, cái hòm này sẽ ở lại trong nhà cho tới khi có trát tòa tới.

Tiếng nói của Holmes đầy quyền uy đến nỗi các đạo tì khựng lại. Peters lẩn trốn vào nhà.

Họ tuân theo lệnh Holmes. - Nhanh lên, Watson tuộc-nơ-vít đây - Holmes thét lên khi hòm

được đặt trên bàn

- Còn đây một cái tuộc-nơ-vít khác cho bạn. Thưởng một bảng nếu nắp được mở trong

vòng một phút! Không ngập ngừng gì hết Ra tay! Tốt! Một cái nữa! Một cái nữa. Cùng

nhau kéo nó lên. Tốt. À, hay lắm.

Kết hợp sức mạnh, chúng tôi giở được nắp hòm. Từ trong bốc ra mùi thuốc mê nồng nặc.

Một xác được trải dài, đầu bịt băng thấm nhựa thuốc phiện. Trong nhấp nháy, Holmes gỡ

hết, để lộ một khuôn mặt cứng đơ của một người đàn bà đẹp, cỡ 40 tuổi. Anh lấy tay dựng

đứng phần thân và duy trì nó ở thế ngồi.

- Bà ấy sống không, Watson. Còn tồn tại tia sinh lực nào không? Chúng ta đã đến quá trễ.

Trong nửa giờ, chúng tôi có cảm giác là trễ, do hiệu quả của thuốc mê hoặc do bị làm

ngạt thở thật sự, mệnh phụ Frances có thể đã tới mức không còn hy vọng gì nữa. Cuối cùng

nhờ hô hấp nhân tạo, chích ê-te và nhờ tất cả những gì mà khoa học có thể có. Một làn

sương nhẹ trên kính và sự nhấp nháy của mi mắt báo cho chúng tôi biết rằng sự sống từ từ

trở lại. Một xe ngựa ngừng trước nhà. Holmes kéo sáo lên.

- Lestrade cầm trát tòa tới. - Holmes loan báo - Ông ấy sẽ kiếm bắt các con mồi đang lẩn

trốn và đây...- Những bước đi nặng nề ngoài hành lang. - Và đây là một người có nhiều

quyền hơn chúng ta, để chăm sóc mệnh phụ này. Kính chào ông Green. Tôi nghĩ rằng ta nên

chở mệnh phụ đi nhà thương càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi, bà lão vẫn có thể đi tiếp

con đường tới nơi an nghỉ cuối cùng. Anh Watson, có lẽ anh nên ghi thêm câu chuyện này

vào mớ hồ sơ của anh. Nó minh họa sự sơ sót tạm thời mà dù cái tâm trí quân bình nhất trên

612

đời cũng mắc phải. Những sơ hở tương tự thường xảy ra cho mọi người. May mắn cho kẻ

nhận ra kịp và kịp thời sửa chữa. Tôi có quyền kiêu hãnh về điều này. Ðêm trước, tôi cứ

thắc mắc rằng, đâu đó một chỉ dẫn, một câu nói lạ tai, một nhận xét kỳ dị đã đến với tôi

nhưng tới đã gạt bỏ chúng. Rồi thình lình trong ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh, các lời

đó trở lại trong ký ức tôi. Ðó là nhận xét của bà chủ cửa hàng mai táng, như Philip Green

tường thuật lại. "Bà ấy nói: - Ông ấy sẽ về đến ông ấy có xin thêm thời gian, bởi vì cái kiểu

đặc biệt." Bà ấy nói về cái hòm, như vậy là kích thước vượt ra ngoài lệ thường. Tại sao? Tại

sao? Thình lình tôi nhớ đến chiều sâu của nó và cái hình người bé nhỏ khô đét bên trong.

Tại sao một cái hòm rộng mênh mông mà chỉ để chứa một cái xác tí tẹo, nếu không phải để

chứa thêm một cái xác thứ hai? Hai xác sẽ được chôn với một giấy phép độc nhất. Rõ như

ban ngày, thế mà đầu óc tôi rối mù? Quả là một may mắn nhỏ nhoi nếu tìm ra bà ta trong

tình trạng còn sống, nhưng cuối cùng quả có may thật. Theo tôi biết, mấy người đó không

dám tự mình cầm dao cầm súng giết ai. Họ có thể chôn bà mệnh phụ mà không ai hay biết tí

gì. Anh Watson, anh có thể dựng lại quang cảnh một cách dễ dàng. Anh đã quan sát cái xó

hãi hùng trên gác, nơi mà mệnh phụ bị nhốt lâu ngày? Họ cho bà ấy ngửi thuốc mê tối đó,

đưa bà ấy xuống, cho thêm thuốc mê vào hòm để chắc chắn rằng bà không thể tỉnh lại, rồi

vặn ốc cái nắp hòm. Mưu chước tinh vi thật? Một mưu chước mới mẻ trong lịch sử tội ác.

Nếu cái nhà cựu truyền giáo này không bị Lestrade còng tay thì chắc chắn sau này ta sẽ

nghe thêm những chiến tích kinh rợn hơn!

iem

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#datfgehy