Than dieu dai hiep hoi21-40

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 21

Cưỡi trâu tiếp viện

Nghe lọt hai tiếng Cổ-mộ Dương-Qua "á" lên một tiếng rồi lắng tai nghe nữa.
Người khàn khàn hỏi:

- Cổ-mộ là môn phái nào, nghe xa lạ quá vậy?

Cơ Thanh-Hư đáp:

- Theo Triệu sư-thúc cho biết thì đệ-tử phái này ít khi xuất hiện giang hồ nên không mấy người biết rõ. Tuy nhiên có một sự lạ là chính Hàn-trại chủ đây cũng không biết rõ?

Người trại chủ họ Hàn đáp:

- Thôi chả nên bàn đến việc đó nữa làm gì. Chỉ nên xem thử sáng mai đối phương có bao nhiêu mạng, tài lực ra sao, mình đối phó như thế nào đây.

Cơ Thanh Hư nói:

- Triệu sư-thúc giao hẹn sẽ gặp con bé tại cửa hang Sài-Lang đúng giờ ngọ ngày mai để so tài, còn bọn họ bao nhiêu người thật cũng chưa biết rõ.

Hàn Trại chủ hỏi:

- Hang Sài-Lang ở đâu, về hướng nào?

Cô Thanh-Hư đáp:

Hang Sài Lang cách đây bốn mươi dặm về phía Tây-Nam. Bọn ta đã được Hàn Trại-chủ, thêm quyền sư họ Trần giúp nó còn sợ gì nữa.

Có tiếng ông già nói:

- Thôi được chúng ta sẽ gặp nhau nơi đây, đúng ngọ ngày mai, bây giờ mình đi, đi đệ.

Cô Thanh Hư tiễn hai người ra cửa còn dặn tiếp theo.

- Chỗ này không xa Trùng-Dương cung là bao nhiêu, nên làm sao cho cuộc đấu ngày mai đừng đến tai các vị Mã, Khưu, Vương biết được thì lôi thôi lắm, cần giữ kín nhẹm nhé.

Hàn trại chủ cười to bảo:

- Các người là môn đệ của Mã Ngọc và Khưu-xứ-Cơ, ta đây là kẻ ngoại phái việc gì phải sợ.

Lão sư họ Trần nói:

- Ngươi cứ yên lòng, nói thế chứ chúng ta không để cho ai biết đâu mà ngại.

Dương-Qua bực quá nghĩ bụng:

- Bọn này quyết tâm hạ thủ Long cô nương của mình nên tìm cách đấu nhẹm không cho Trùng-Dương cung biết. Nhưng sao chủ quan thế? Đã chắc ai hơn ai chưa mà sớm tự phụ lắm vậy.

Khi ấy, bốn người vừa đi vừa chuyện trò, bước luôn ra đường cái.

Dương-Qua thừa dị nhảy phắt qua cửa sổ, chui vô phòng của hai người lục soạn.

Mới nhìn vào đã thấy trên bàn có hai gói bạc, ước chừng vài chục lạng, chàng mừng rỡ nghĩ bụng:

- Thật "buồn ngủ gặp chiếu manh" "đói lòng gặp cơm nguội". Sẵn đây ta lấy đỡ để tiêu xài.

Vừa cất bạc vào lưng, chàng nhìn bên cạnh có một cái bao da dài, mở ra thấy có hai thanh trường kiếm.

Dương-Qua vận sức bẻ gãy thanh kiếm bốn khúc rồi cẩn thận đặt vào bao như cũ. Đoạn, hắn vén quần tiểu vãi lên áo quần, mền chăn của hai đạo sĩ rồi mới rút lui về phòng mình trùm chăn nằm giả bộ ngủ kỹ.

Bỗng có tiếng người phi thân qua tường và nhảy phịch xuống đất. Nghe bước chân đi nặng nề, chàng biết hai đạo sĩ khinh công còn quá non nớt nên chẳng thèm để ý nữa. Tuy nhắm mắt nhưng tai vẫn áp gần vách lắng tai nghe.

Hai đạo sĩ còn bàn tán thêm về cuộc chiến đấu ngày mai trước khi sửa soạn đi ngủ.

Thình lình Bì-thanh-Huyền hét lớn:

- ủa, sao ướt hết cả như vậy?

Kế nghe tiếng hít hơi mấy cái rồi một giọng bực dọc khó chịu thốt lên vang phòng:

- ồ, khai quá, khai không chịu được! Cơ sư huynh đã trót đái dầm sao! Nếu có thì nói trước để chi tệ vậy?

Cơ-thanh-Hư nạt lớn:

- Đừng nói xàm. Có lẽ mèo, chuột hay con gì đái đấy. Ta đâu có làm chuyện bậy bạ như vậy.

Bì-thanh-Huyền cãi:

- Mèo chuột gì mà ướt nhẹp cả chăn mền như thế này được.

Bỗng Cơ-Thanh-Hư hốt hoảng hỏi:

- ủa, hai gói bạc đâu mất rồi? Thế là cả hai vội vàng lục soạn khắp phòng để tìm gói bạc, may ra chuột mèo bỏ xó nào chăng?

Dương-Qua nghe hai người bàn bạc cãi lẫy, thích chí cười sằng sặc một mình.

Bỗng Bì-thanh-Huyền gọi lớn:

- Ông chủ ơi, ông chủ? Nơi đây là hắc điếm hay ổ trộm mà có người vào đây cắp hai gói bạc của ta đi rồi.

Tiếng gọi của hai người khiến bọn bồi phòng thức dậy chạy đến.

Bì-thanh-Huyền túm ngực người thủ-quỷ mắng lớn:

- Bọn bây rước trộm về đây lấy hết tiền bạc của ta. Muốn tốt phải giao hoàn lại lập tức. Nếu không ta phá điếm ngay bây giờ.

Khách trọ nghe ồn ào cũng thức giấc chạy đến xem, đứng xung quanh đen nghịt, Dương-Qua cũng thừa dịp trà trộn vào đám đông xem thử.

Người thủ-quỷ cãi lại:

- Quý khách có tiền nhiều sao không gửi chúng tôi, để hỏng hẻo mất mát, làm sao trách chúng tôi được. Tiệm này vốn lương thiện xưa nay, chưa một khách trọ nào than phiền mất một cái gì. Hôm nay hai ông kiếm chuyện sanh sự thật là lần đầu tiên mới có.

Hai đạo-sĩ nghe nói cường lý không biết đối đáp ra sao. Sau cùng Bì-thanh-Huyền tiếc của quá chịu không được, tát vào tai người thủ-quỷ một cái thật mạnh.

Người này nổi nóng, cầm ghế đập nhầu, miệng hô lớn:

- Bà con ơi, có cướp!

Người trong tiệm ùa ra, kẻ cây người gậy xúm lại bao vây hai đạo sĩ đánh nhầu.

Cả hai cố sức đỡ gạt. Tuy nhiên vì bên này quá đông người nên hai người đã rơi vào thế bị động, phải đứng đâu vai vào nhau mà chống cự cầm chừng.

Dương-Qua thích chí quá chạy về phòng leo lên giường trùm chăn cười khúc khích.

Đánh một chập, cự đương hết nổi, hai đạo sĩ vội rút lui vào phòng gài cửa lại.

Sáng sớm ngày sau, Dương-Qua thức dậy ngay từ khi trời còn mờ sương chưa sáng hẳn, gọi hai tô mì ăn điểm tâm.

Chàng để ý thấy các người giúp việc kẻ bưu đầu, người rách áo ai cũng càu nhàu nguyền rủa hai tên đạo sĩ.

Dương-Qua khơi chuyện hỏi:

- Rõ hai đạo sĩ thật quá ngang ngược. Bạc tiền cất giấu trong hồ bao, ít nhiều chẳng ai biết, bỗng dưng hô mất rồi còn làm phiền đến chủ tiệm nữa.

Người tửu bảo tức quá lên tiếng phân bua:

- Quả thật quân ăn cướp, đạo sĩ gì, tu hành chi thứ ấy! Ăn ở không trả tiền, lại kiếm cách phao vu giá họa, gây chuyện đủ điều. Câu chuyện này tức quá, chúng tôi sẽ đi khiếu nại tận Trùng-Dương Cung. Trên ấy người ta đàng hoàng giữ đúng phép tắc lắm! chưa có ai xằng bậy như thế bao giờ. Bao nhiêu đạo sĩ trên núi Chung-nam chưa có một ai ngang tàng như hai tên ấy.

Dương-Qua trả tiền rồi ra phòng tìm đường đi đến hang Sài-Lang

Chẳng bao lâu chàng đã vượt quá hai chục dậm đường. Hang Sài-lang đã hiện ra phía xa xa, đàng trước.

Ngó bóng mặt trời chỉ vào khoảng mười giờ thìn, còn sớm chán. Chàng muốn tìm chỗ mát mẻ kín đáo nghỉ chân dưỡng sức để xem thử cuộc đấu ra sao.

Để gây thích thú cho Cô nương, Dương-Qua tìm cách "cải trang" làm một trai cày. Chớ lúc xô xát hai bên, chạy ra để đem sự ngạc nhiên và thích thú cho Tiểu-long-Nữ.

Nghĩ đến việc cải trang, chàng nhớ lại ngày nào đã giả dạng một lần để phỉnh Hồng-lăng-Ba, bây giờ phải làm sao cho thật khéo léo để sư phụ lầm cho vui.

Dương-Qua rảo bước đi vào một nhà nông dân cạnh đó, xem có phương tiện nào để cải trang hóa dạng chăng.

Qua khỏi sân, vào vườn sau, nhìn vào chuồng thấy có một con trâu rất lớn đang nhơi cỏ, cọ sừng nhìn ra như muốn đòi đi.

Vừa thấy bóng Dương-Qua, con trâu trừng mắt, dừng tại nhìn sững.

Dương-Qua bỗng có ý định:

- Hay là mình cải dạng làm đứa bé chăn trâu. Cô nương chắc không thể nào nhận ra được.

Nghĩ xong, chàng xăm xăm bước vào nhà. Trước sân có mấy đứa bé đang ngồi vọc đất chơi nghịch, nhưng thấy dáng điệu chàng hùng hổ, chúng khiếp sợ chẳng dám nói gì hết.

Vào nhà ngó lên vách đất có treo sẵn một bộ áo quần ngắn nhà nông, phía dưới có để một đôi giày cỏ hơi nhục nhục.

Chàng cởi quần áo mình, lấy bộ đồ này mặc thử thấy vừa vặn quá, mà đôi giày cỏ cũng đúng cỡ chân mình.

Chàng vói lên cao lấy một cây roi mây rồi rảo bước lên nhà trên. Khi đi qua nhà cầu, thấy có treo một cây sáo trúc của các mục đồng thường thổi, đưa tay lấy sáo, đội một nón mê, thắt một dãy nịt bằng cỏ, ngắm nghía một chặp rồi đi luôn ra chuồng trâu.

Con trâu thấy người lạ, trừng mắt nhìn, sịt mũi kháng cự lại.

Khi cổng chuồng vừa mở nó đã lồng lên bức dây xông tới định húc Dương-Qua.

Dương-Qua đưa tay điểm trên đầu trâu rồi tung người nhảy lên lưng nó.

Con trâu lực lưỡng, mạnh phi thường, thấy người lạ ngồi trên lưng không chịu, lồng lộng nhảy lên muốn hất Dương-Qua xuống.

Dương-Qua thích chí bảo:

- Thôi, đừng lồng nữa mệt sức. Ta đã có cách trị mi bây giờ.

Chàng dùng tay vỗ nhẹ vào mông, con trâu chịu không nổi, quỵ bốn vó nằm yên. Một chập sau, Dương-Qua thu hồi chưởng lực trâu hết đau đứng dậy, nhưng lần này đã hiền khô, hết còn trở chứng tùy ý chàng điều khiển muốn đi đâu cũng được.

Chàng kịp chân giục mạnh, con trâu phóng đi nước kiệu vừa lên vừa mau không thua gì một con tuấn mã.

Trâu sải đi một hồi, xuyên qua một cánh rừng rậm rồi đến một vùng bao la, bốn bề đá dựng chập chồng thẳng đứng. Xa xa núi non trùng điệp, cao thẳng mây xanh. Trên sườn núi, cây mọc lưa thưa, cành lá xanh tươi mát mẻ, phía dưới thảm cỏ như nhung che kín, phong cảnh vô cùng u nhã ngoạn mục.

Dương-Qua nhìn thấy cảnh rất đẹp, rừng núi hùng vĩ thâm u, chợt nghĩ:

- Tại sao một chốn nên thơ như vầy lại đặt tên là "Sài Lang cốc". Tiếc thay tạo hóa đặt để những cảnh đẹp ở những nơi hiểm bí hoang u nên chẳng mấy người được thưởng thức.

Chàng thả trâu gậm cỏ non bên sườn núi, còn mình nằm dài trên tảng đá dưới gốc cây to, lim dim đôi mắt đợi chờ Tiểu-long-Nữ.

Chẳng bao lâu mặt trời đã đứng bóng. Dương-Qua hồi hộp, đầu óc miên man, chẳng biết chừng nào cô nương mới đến chỗ hẹn.

Bốn bề núi rừng u tịch, ngoài tiếng chim kêu lảnh lót trên sườn đồi!

Dương-Qua đang nằm mơ màng suy nghĩ miên man, thình lình ở phía sau có tiếng nhiều luồng chưởng bị chạm nhau, từ đồi xa vọng lại.

Chàng vội lồm cồm ngồi dậy ngó quanh rồi rón rén bò sang và đưa mắt nhìn, thấy dạng ba đạo sĩ là Cơ-Thanh-Hư, Bì-Thanh-Huyền và một người vào khoảng năm mươi tuổi, hơi lùn, có lẽ là Triệu sư-thúc.

Dương-Qua đang ngờ ngợ nhìn thế cùng khi ấy có hai người nữa từ sau hóc núi đi ra. Người đi trước thân hình hiên ngang vạm vỡ, đó là một ông lão râu tóc trắng như tuyết, ngoài lão quyền sư họ Trần, chắc không còn ai nữa.

Năm người gặp nhau yên lặng chẳng nói một lời, chỉ chắp tay lễ phép chào nhau rồi cũng đứng thành hàng chữ nhứt hướng mặt về phía Tây.

Dầu bóng mặt trời đứng bóng chói lọi quá gay gắt, Triệu sư-thúc không dám sơ ý, vẫn đưa mắt nhìn thẳng lên.

Trông thấy dáng điệu hắn, Dương-Qua suy nghĩ:

- Tài nghệ ra sao chưa biết nhưng trông qua lão này có vẻ thận trọng không coi thường địch thủ.

Ngay lúc đó, từ phía bên kia cửa hang, có tiếng vó câu vang dậy, năm cặp mắt nhìn theo thì bỗng thấy bóng một nữ lang mặc toàn đồ trắng hiện ra trên lưng một con lừa màu đen.

Nàng phi đến mau như gió lốc, chưa nhìn rõ mặt mày. Dương-Qua vừa thấy cõi lòng đã rộn rã, nghĩ thầm:

- Nàng có phải là Cô nương của mình chăng? Nếu quả đúng thì cố nhiên ta phải ra tay tiếp sức.

Nữ lang bạch y dưng lại, cách bọn này chừng bảy tám trượng, ngồi yên trên lưng lừa đưa mắt nhìn sang, vẻ mặt điềm nhiên hình như quá coi thường, chẳng gì đáng lo ngại về bản lãnh của họ.

Cơ Thanh-Hư quát lớn:

- Cô bé học Lục, khá khen đã có gan giữ đúng lời hẹn ước. Bây giờ có đồng bọn nào giúp sức, cứ gọi hết ra đây, chúng ta sẵn lòng tiếp đón.

Nàng cười nhạt đáp:

- Cần gì phải có người giúp sức.

Nàng nói vừa dứt lời, rút dao vung lên một vòng, dưới ánh mặt trời ban trưa sáng rực như muôn ngàn ngân quan, trông chói cả mắt.

Cơ Thanh-Hư nói:

- Mi làm sao chống nổi với năm anh em bọn ta?

Nàng cầm dao chỉ vào mặt hắn nạt lớn:

- Một mình cô nương cũng đủ sức hạ năm đứa bay rồi, cần gì phải thêm người tiếp sức nữa.

Nói xong nàng vung dao tiến tới, xé gió rít lên những tiếng rợn người.

Binh khí của sáu người chạm nhau rang rảng nghe nhức óc. Nàng lanh lẹ như con chim phượng trắng đang bay nhảy tung tăng khắp bốn mặt, chống cự năm người hăm hở như cọp dữ giành mồi.

Nhìn nữ lang bạch y tuy mặt mày xinh đẹp đáng yêu, nhưng không phải là Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua thở dài thất vọng.

Vừa buồn rầu, vừa xúc động, chàng bụm mặt, ngồi sụp xuống đất khóc òa.

Cả sáu người vội dừng tay lại, đưa mắt nhìn xem thử kẻ nào vừa khóc. Khi thấy đó chỉ là một chú bé mục đồng, ai cũng đoán có lẽ thằng bé này bị chủ hà khắc, chịu không nổi mới lùa trâu ra đây ngồi than khóc một mình, nên không thèm quan tâm đến nữa.

Muốn làm rủn chí đối phương bằng lối phô trương lực lượng phe mình, Cơ-Thanh-Hư bèn trỏ Hàn Trại chủ long trọng giới thiệu:

- Đây là Hàn Trại chủ, đã lừng danh Tân Tấn!

Rồi ngó Trần lão quyền sư nói:

- Đây là đại võ sư về quyền cước Trần-tiểu-Sinh, một trong tam hùng khét tiếng miền Hà-sóc!

Sau cùng hắn chỉ vào Triệu sư thúc, long trọng nói:

- Còn đây là Đạo trưởng họ Triệu chuyên môn huấn luyện cho hào kiệt võ lâm, môn "Long ngân kiếm".

Mặc cho tán tỉnh đủ điều, nàng ấy vẫn phớt tỉnh như không thèm quan tâm đến và cũng không hề lộ vẻ sợ hãi nể nang gì ráo.

Nàng đưa cặp mắt lạnh lùng ngó mấy đối thủ, nét mặt khinh khi chẳng đáp một lời.

Triệu-bất-Phàm dịu giọng nói:

- Chúng ta đông người không thèm ra tay đánh một mình có em. Vậy để cho em một thời gian năm mười hôm tìm thêm bốn người nữa rồi đây tranh tài cũng được.

Nữ lang áo trắng "xì" một tiếng đáp:

- Đối với bọn giá áo túi cơm như chúng bay, ta đâu cần nhờ ai giúp sức làm gì. Vậy cứ ra tay cho rồi.

Triệu-bất-Phàm nổi lòng tự ái, tuy vậy cũng cố dằn tâm suy nghĩ:

- Ranh con thật quá tự hào, nhìn người nửa mắt. Chưa rõ tài nghệ của hắn ra sao mà lớn lối quá vậy.

Hắn ôn tồn hỏi thêm:

- Cô em có phải môn đồ phái Cổ-Mộ đấy chăng?

- Muốn đúng cũng được, mà không cũng được.

Lão đạo sĩ nổi nóng dằn không được bảo họ Triệu:

- Mình đâu có ngán con ranh này mà phải nhiều lời vô ích. Thôi cứ đánh đi cho rồi, đừng dài giòng thêm mất thời giờ nữa Triệu-ca!

Triệu-bất-Phàm vốn sẵn tánh ý thận trọng và trầm tính, thấy nữ lang đơn độc chỉ một mình nhưng vẫn lớn lời khinh miệt bọn mình nên đoán chắc có âm mưu hay biệt tài ám khí gì đây chăng. Nên lão vẫn ôn tồn nói:

- Cô nương, thường ngày môn phái chúng tôi chưa ai dám vô lễ hay làm điều gì không phải cùng cô nương. Không hiểu vì sao cô nương nỡ nặng tay đả thương người của chúng tôi. Hôm nay xin cô nương vui lòng cho biết hết nguyên nhân. Nếu quả chúng tôi có lỗi xin sẵn lòng đến tạ tội cùng quý phái.

Trái lại, nếu chỉ là một việc làm rồ dại không có lý do xác đáng thì cô nương chớ trách sao chúng tôi thiếu lễ độ.

Nữ lang cười mũi rồi đáp:

- Chẳng hiểu vì sao bọn ấy cả gan dở thói khinh người, nên bên cô nương mới cho nó vài đòn để sửa mình về sau. Từ nay hãy chừa cái thói khinh người như thế đó nhé.

Triệu-bất-Phàm tuy kiên nhẫn nhưng thấy đầu óc cũng xốn với thái độ ngông cuồng của nàng. Trần lão quyền sư chịu không nổi nữa nhảy vọt ra thét lớn:

- Ranh con, sao dám trịch thượng trước mặt các võ lâm tiền bối. Muốn yên thân, lập tức xuống lừa tạ tội cho rồi.

Nói chưa dứt lời lão đã phi thân đến cạnh lừa, đưa tay níu vai nàng định vít cho nhào xuống.

Bận cầm đao nơi tay mặt, người con gái không kịp xoay trở ứng phó với đòn này. Nhưng tài nghệ nàng không đến nỗi bị hạ ngay về ngón ấy.

Nàng chỉ khẽ xoay bàn tay một cái, tức thì hai vừng sáng bạc lấp loáng từ tay áo vun vút lao ra ngay ngực và đầu ông lão.

Trần lão sư hoảng hốt vội nhảy lui mấy bước, tay vung đao lên gạt hai lưỡi diệp dao, miệng la lớn:

- Con a đầu vô lễ thật. Phen này đừng đem lòng oán hận lão gia nhé!

Nói rồi lão huơ dao chém như mưa bấc.

Hàn Trại chủ phía sau, Triệu bất Phàm đứng bên cạnh cũng đồng thời kẻ múa roi, người loang kiếm, nhất tề tấn công một lượt.

Cơ-Thanh-Hư, Bì-Thanh-Huyền cũng múa kiếm xông vào trợ chiến. Nhưng bỗng có hai tiếng leng keng ngân lên, đôi tay cầm kiếm của hai người như tê dại hẳn, và hai thanh kiếm đã bị một vật gì vô hình chạm phải gãy đôi rơi xuống đất. Hai người hết hồn, đưa mắt nhìn quanh vừa bỡ ngỡ vừa lo âu, không dám xông tới nữa.

Nguyên do vì Dương-Qua muốn ra trợ giúp cho nữ lang bạch y đỡ bớt vài đối thủ nên đã lẹ tay phóng hai ám khí đánh gãy kiếm của hai đạo sĩ này.

Nữ lang áo trắng đang tung hoành chống đỡ cùng ba người, bỗng nghe có tiếng động và nhìn thấy kiếm của hai gã gãy đôi thì thích chí cười lên một hồi, rồi đánh mạnh hơn nữa.

Thấy nàng vui vẻ cười to, Dương-Qua cũng thấy hân hoan mừng lấy và phút chốc quên hết âu sầu, cười theo dòn dã.

Thình lình nữ lang xoay bàn tay, một lưỡi diệp dao xé gió vun vút về phía Bì-Thanh-Huyền. Hắn vội vàng cúi đầu né tránh, nhưng đã chậm rồi. Lưỡi diệp dao phớt qua đầu hắn, đã thiến đứt ngon một vành tai rơi xuống đất, máu chảy dầm dề.

Mấy người kia cũng kinh hãi cho tài nghệ về môn ám khí của nữ lang, trong bụng có phần e dè. Nhưng vì đinh ninh phe mình đông người sẽ thắng thế, nên vẫn yên lòng bao vây tấn công ráo riết.

Nói rằng nhiều người cùng tấn công, như hai gã họ Cơ và họ Bì chỉ nắm hai thanh gươm gãy để đánh cầm chừng chứ không có tài dụng gì mấy.

Lợi dụng nhược điểm ấy, nữ lang thét một tiếng lớn, vung tay gạt phắt các môn binh khí ra, giật cương giục lừa nhảy phóc ra xa hai trượng. Cả bọn hè nhau chạy theo bám riết không chịu rời.

Hàn Trại chủ đuổi theo vừa kịp tung thiết-chùy đánh ra một đòn cực kỳ dũng mãnh, nữ lang vung gươm gạt trúng thấy rung động cả cánh tay, thất kinh vội nghĩ:

- Tên này bản lĩnh không phải tầm thường. Cần thận trọng đề phòng hắn mới được.

Nàng giật cương cho lừa né qua một bên tránh được.

Hàn Trại chủ thừa thế vung chùy đánh luôn mấy cái liên tiếp.

Riêng quyền sư họ Trần bình sinh chuyên môn về quyền, nên kém về môn đao kiếm, huống chi tay đã bị thương nên lực lượng không có gì đáng ngại. Nhưng Triệu-bất-Phàm thì quả là một cao thủ, kiếm pháp tinh vi, cho nên mỗi thế kiếm của hắn tung ra là cả một thể tuyệt diệu kinh hồn làm đối phương phải kiêng nể.

Cuộc đâm chém mỗi lúc càng kéo dài, hai bên một đông một ít nhưng mải mê chiến đấu chưa ngã ngũ về bên nào. Dương-Qua thừa dịp ngắm nhìn mặt mày của nữ lang áo trắng.

Chàng thấy nàng rất đẹp. Mặt trái xoan, da dẻ hồng hào, mũi thẳng, mày thanh, môi tươi, có lẽ lớn hơn mình đôi ba tuổi, chàng nghĩ bụng:

- Xem sắc diện cô ta cũng na ná như mình, hèn chi tên tửu-bảo nói nàng là chị mình cũng phải.

Da nàng tuy cũng trắng, nhưng đậm hơn của Tiểu-long-Nữ. Nhìn đao pháp của nàng cũng lạ lùng kỳ ảo nhưng vì phải chống với nhiều người nên chưa giữ được phần thắng lợi.

Theo lối xuất thủ thì rõ ràng là người của phái Cổ-mộ rồi. Phải chăng nàng là đệ tử của Lý-mạc-Thu sư bá?

Lúc mới đánh nhau, Dương-Qua thấy năm người xông ra đánh một nữ lang nên trong lòng bất phục.

Nhưng xét lại thấy mấy người kia bản lãnh tầm thường thì dầu có đông cũng chưa hẳn thắng nổi.

Sau này nhận xét ra nàng là học trò của Xích-Luyện Tiên-tử Lý-mạc-Thu thì chàng đã sanh ra ác cảm nên nghĩ thầm:

- Dầu nàng hay mấy đạo sĩ thắng cũng không có gì can hệ đến ta, thôi chả cần quan tâm làm chi nữa.

Nghĩ xong chàng vếch chân nằm dài trên tảng đá nhìn mây, nghe gió, chẳng để ý đến mấy người.

Mười hiệp sau, nữ lang đã dần dần chiếm lại ưu thế. Nàng ngồi trên lừa tả xông hữu đột, vung kiếm loạn xạ buộc năm người phải lo chống đỡ và từ thế công đã rơi dần vào thế thủ.

Lúc ấy Cơ-Thanh-Hư nhớ lại mình chẳng giúp ích được gì, mới nói cùng Bì-Thanh-Huyền:

- Bì sư-đệ, gươm chúng ta đã gãy, dẫu đánh cho đông cũng chẳng lợi ích gì thiết thực. Chi bằng đôi ta tạm rút lui ra ngoài, kiếm một nhánh cây hay khúc gỗ nào chắc chắn, vừa tay, vào làm côn đánh nhau có lẽ hơn đấy nhỉ?

Bì-Thanh-Huyền cũng đồng ý.

Cả hai chạy luôn ra rừng bên cạnh tìm được một cây gỗ khá cứng rồi trở vào.

Cơ-Thanh-Hư bảo:
- Cây này vừa tay lắm. Nếu đánh hắn không được thì tấn công lừa nó càng thuận tiện hơn.
Thế rồi cả hai hè nhau xông lại cứ nhè bốn chân lừa đập túi bụi.

Nữ lang áo trắng, mãi lo đánh đỡ các đường kiếm vô cùng hiểm ác của họ Triệu, đâu để ý đến thâm ý này. Bỗng nhiên con lừa đen rống lên một tiếng, nhảy dựng lên rồi ngã quỵ xuống què hẳn mất một chân vì ngọn côn của Cơ-Thanh-Hư.

Tiếp đến, Bì-Thanh-Huyền cũng phang trúng một đèn nữa vào chân kia, con lừa chịu không nổi nằm bẹp luôn. Nữ lang buộc lòng phải nhảy xuống đất đánh bộ.

Nàng tung mình lanh lẹ né tránh cả kiếm chùy của địch đánh tới tấp vào đầu, rồi đưa tay chém ngang một nhát lộng gió vù vù, đúng ngay khúc cây trên tay Bì-Thanh-Huyền đứt tiện thành hai khúc.

Nhưng vì đang mải lo chém vào phía Bì-Thanh-Huyền nàng sơ hở bị lão quyền sư họ Trần thừa thế đâm một nhát trúng nơi chân.

Dương-Qua thấy nàng đã thọ thương hốt hoảng la lên:

- úy, nàng nguy mất rồi!

Động lòng nghĩa hiệp chàng muốn xông ra cứu giúp nhưng chợt suy nghĩ:

- Ta cùng cô nương đang chung sống êm đềm trong Cổ-mộ đài chỉ vì con nghiệt súc Lý-mạc-Thu dẫn học trò vào tác quái, làm xáo trộn cả cuộc đời chúng ta. Ngày nay cô nương ta lưu lạc hà phương, và thân ta bây giờ một mình một bóng cũng chưa biết nên về xứ nào, nghĩ càng thêm căm tức. Thôi cuộc đời mặc người lo liệu, hơi đâu nhúng tay vào để gây thêm ân oán cho phiền lòng.

Nghĩ xong chàng làm ngơ không đếm xỉa đến nữa.

Nhưng tiếng reo hò hỗn loạn, tiếng gươm kiếm chạm nhau loảng xoảng lại kéo Dương-Qua trở lại thực tại, không thể làm ngơ, chàng ngó lại thì trận thế đổi khác. Nàng áo trắng đã có bề thất thế, bị bọn này vây hãm càng lúc càng lúng túng, chỉ đánh đỡ cầm chừng và giờ phút bại trận đã gần đến.

Thình lình một ánh sáng xẹt qua, cả nửa mái tóc và cây trăm cài đầu của nàng đã theo một làn gươm bay xuống cỏ. Nàng thẹn đỏ mặt, uất hận tràn trề, bặm môi trừng mắt cố sức múa đao đánh hăng thêm.

Dương-Qua nhìn nàng, lẩm bẩm:

- Lúc này nàng tức giận, sao mà giống hệt như Long Cô-Nương như đúc. Ta không thể thờ ơ mà cần ra tay cứu nàng mới được.

Nữ lang đã đuối lắm rồi, tay cầm đao chỉ đánh qua loa hời hợt như không còn sức lực nữa. Thần sắc có vẻ hoang mang, dáng điệu đã có phần luống cuống.

Chợt Triệu-bất-Phàm lên tiếng hỏi:

- Nàng kia, nàng là người chí của Xích-Luyện Tiên-tử Lý-mạc-Thu. Hãy nói rõ cho ta nghe, nếu không đứng trách ta vô tình đấy nhé.

Nàng ấy không đáp lại, thừa lúc Triệu-bất-Phàm vô ý, vung đao chém mạnh vào giữa lưng. Lão quyền sư thất kinh gọi lớn:

- Hãy xem chừng kẻo nguy đấy.

Nếu Cơ-Thanh-Hư không lanh tay vung còn ra đỡ hộ thì chắc hắn sẽ bị lủng lưng dưới làn gươm ấy rồi.

Triệu-bất-Phàm nghĩ bụng:

- Cứ theo ta đoán thì nàng này nhất định phải có liên hệ mật thiết cùng Lý-mạc-Thu. Phen này nếu để hắn thoát được, rủi đến tai Lý-mạc-Thu, thì bọn mình khó bảo toàn tánh mạng. Cho nên thế nào cũng giết hắn để giữ nhẹm chuyện hôm nay.

Cả bọn năm người cùng hè nhau đánh hăng hơn trước.

Triệu-bất-Phàm nắm chặt đốt gươm, liều mạng xông vào quyết ra tay hạ sát.

Dương-Qua thấy nàng đã lâm vào trạng thái cực kỳ nguy hiểm không thể chậm trễ nữa, bèn nhảy phóc lên mình trâu, vận chưởng lực phổ vào giúp nó hăng sức hơn nữa, giục chạy thẳng về phía sáu người đang hỗn chiến.

Trâu vừa chạy, Dương-Qua càng la thêm như thúc đẩy:

- Trâu ơi, chạy mau lên để cứu người, trâu ơi!

Trong nháy mắt con trâu mộng đã xông vào trận đấu.

Sáu người đang mải mê chiến đấu, bỗng thấy một người cưỡi trâu xông vào, thất kinh dừng tay nhảy qua một bên để né tránh.

Dương-Qua ngồi trên mình trâu, hoa chân múa tay, hò hét luôn mồm, khi trâu chạy tới cạnh hai gã Bi, Cơ, chàng vội lanh tay điểm vào huyệt ở sau lưng hai người. Đây là thuật điểm huyệt "phượng nhỡn" một tuyệt kỳ công phu, chỉ một mình chàng làm được. Hai đạo sĩ bị điểm huyệt, toàn thân cứng đờ không cử động được. Dương-Qua đưa hai tay túm hai người vắt cạnh sừng trâu mang đi vun vút.

Hai đạo sĩ vừa thốt tiếng cầu cứu thì con trâu đã lao thẳng đến sườn đồi. Dương-Qua bỏ hai người nằm đó rồi quày trâu trở lại.

Thật ra bản lãnh của sáu người so với Dương-Qua còn sút kém xa lắm. Khi trâu chạy tới, rồi kế đến lại xảy ra những chuyện bất ngờ gần như ảo thuật, thì ai nấy đều lạ lùng đứng nhìn trân trối, quên cả đánh nhau.

Dương-Qua cho trâu đến gần Hàn Trại chủ và Trần lão quyền sư.

Hàn Trại chủ thấy vậy vung chùy nhắm đầu con trâu bổ xuống. Nhưng Dương-Qua đã lanh tay điểm vào huyệt "Tương đại" rồi xoay qua điểm luôn huyệt "Tĩnh xúc" của Trần lão quyên sư.

Cả hai bị điểm huyệt nơi lưng và giữa bụng đã loạng choạng muốn ngã nhào, nhưng Dương-Qua đã chộp được đầu, kéo luôn để vắt ngang mình trâu rồi giục luôn lên đồi vứt bên cạnh hai đạo sĩ trước.

Nữ lang áo trắng và Triệu-bất-Phàm định xáp lại đánh một trận cuối cùng quyết định ăn thua, nhưng thấy sự việc xảy ra quá lạ lùng nên đứng trố mắt nhìn mãi, lòng ai cũng phân vân, từ cái lạ này qua cái lạ khác.

Khi thấy trâu từ trên vườn đồi phi xuống lần thứ ba, và trên lưng chú mục đồng hoa chân múa tay, miệng la ó om sòm.

Biết mối nguy đã đến phần mình, nên Triệu-bất-Phàm đề phòng vung gươm nhắm đầu trâu vừa đâm vừa chém loạn xạ.

Nhưng lạ quá, gươm tuy bén nhưng đâm hoài không thấy sờn một tý da trâu. Chú mục đồng ngồi vắt vẻo trên mông trâu, tay chỉ cầm một chiếc sáo trúc dài mấy tấc, gạt ngang một cái mà lưỡi kiếm đã cong vòng như một móc câu.

Triệu-bất-Phàm nhằm thế không xong, phi thân tung mình nhảy vút qua khỏi đầu trâu, muốn phóng về phía sau tẩu thoát. Nhưng thân hình lão đang lơ lửng nửa chừng. Bỗng một sức mạnh vô hình níu lại, rơi xuống ngay giữa sừng trâu. Con trâu cứ giữ nguyên như vậy, ngay đuôi giõng thắng một mạch lên sườn đồi rồi hất xuống.

Dương-Qua ném hắn bên cạnh bốn tên kia rồi lại thúc trâu trở lại ngay hướng nàng áo trắng đang đứng nhìn ngơ ngác.

Nàng nhìn tận mắt thấy con trâu đã hạ luôn trong chốc lát cả năm người trong tay có vũ khí, bất giác cũng đem lòng lo sợ và nghi ngờ.

Nàng nghi ngờ vì chưa tin rằng một con trâu mà có tài lạ lùng đến mức đó.

Đang suy nghĩ bâng quơ thì con trâu đã xồng xộc chạy lại, dừng ngay trước mặt mình, mồm đầy nước dãi, mồ hôi ướt cả lòng. Nàng thất kinh vung gươm ra chém. Nhưng Dương-Qua đã hét lớn:

- Xin đừng chém trâu tôi! Vừa la vừa vung tay gạt gươm đỡ đòn cho trâu rồi ghì trâu đứng lại.

Chàng nhảy xuống đất ngó nữ lang nói:

- Xin cô tha cho nó, đừng giết tội nghiệp!

Con trâu đứng yên lặng mũi thở khì khì, đuôi ngoe nguẩy, không có vẻ gì hung tợn.

Nàng thấy trâu không còn hung hăng hại mình như bọn kia nên vội băng người chạy bay lên núi.

Dương-Qua than nhỏ:

- ồ, nàng quyết theo hạ sát bọn này rồi! Phải cứu họ mới được.

Chàng cúi xuống lượm năm viên đá nhỏ, liệng luôn về phía năm người.

Võ công chàng đã đạt tới mức kỳ diệu, có thể đẩy xa hàng mười mấy trượng, liệng năm viên đá giải huyệt cho năm người không sai viên nào.

Cả bọn năm người đang nằm im toàn thân tê liệt, không cử động nổi, bỗng nhiên có vật gì chạm nhẹ vào thân rồi cảm thấy đầu óc sáng suốt và tay chân cử động trở lại như trước. Ai nấy cũng đều đoán có lẽ một dị nhân đã núp đâu đây ra tay cứu mạng cho mình. Nhìn thấy nữ lang đang xách dao chạy thẳng lại đấy, ai nấy cũng tưởng chính nàng này giải cứu nên cùng ngẫm nghĩ:

- Nàng đã tài ba như vậy, thử còn tranh chấp làm sao nổi nữa, chi bằng tẩu thoát đi cho rồi.

Thế rồi mạnh ai nấy tìm đường phân tán cả.

Bì-Thanh-Huyền vừa tỉnh dậy, thấy các bạn chạy, cũng lật đật chạy càn, bất ngờ đúng vào phía nữ lang đang đi tới.

Cơ-Thanh-Hư thất kinh gọi lớn:

- Ô kìa, sao sư đệ chạy về phía đó? Hãy tránh mau nơi khác kẻo nguy hiểm lắm đấy.

Bì-thanh-Huyền lật đật quay mình rẽ sang phía tả, nhưng đã muộn rồi. Người con gái đã đến ngay trước mặt, múa dao chém sả xuống.

Trong lúc tâm thần rối loạn, khí giới không có, Bì-Thanh-Huyền lúng túng, xoay trở không kịp chạy quanh chạy quẩn, đến đâu cũng thấy dao bay lóe mắt. Hắn không tránh đỡ được bị một nhát đứt ngon một cánh tay.

Tuy bị thương nhưng vì quá hoảng hốt, hắn chưa biết đau, cứ lo chạy cuống cuồng tìm lối trốn tránh.

Vừa khi đó, Triệu-bất-Phàm đã đến kịp, vung gươm chặn cô gái lại.

Biết Triệu-bất-Phàm đâu phải tay vừa, nàng không dám tham chiến, kế đó nhìn về phía xa thấy dáng Cơ-Thanh-Hư đang cõng Bì-Thanh-Huyền chạy ra sau núi, nàng thấy hài lòng nhưng suy nghĩ:

- Bọn này đã được người nào giải khai huyệt đạo rồi. Biết đâu kẻ ấy còn ẩn nấp mai phục đâu đây, nếu mình háo thắng e gặp nguy hiểm. Tốt hơn là ta phải đi tìm cho ra sự thật là ai.

Nàng lăm lăm cây gươm trong tay chạy khắp xung quanh đồi, lục lạo hết các bụi lùm, hóc đá để tìm, nhưng chẳng thấy một bóng dáng người nào hết.

Khi trở lại chỗ cũ thì thấy tên mục đồng đang ngồi dưới đất sụt sùi khóc lóc.

Nàng ngạc nhiên hỏi lớn:

- Tại sao lại khóc lóc như vậy, hả chú mục đồng?

Dương-Qua gạt nước mắt bệu bạo đáp:

- Con trâu này trái chứng chạy lồng trong rừng, cọ vào đá rụng lông, e về nhà chủ tôi đánh đòn nên phải khóc.

Nàng đưa mắt nhìn qua con trâu đang gặm cỏ, thấy lông hắn vẫn láng mượt không trầy tróc chỗ nào, nên an ủi:

- Không hề chi đâu. Có xây xát chút ít chăng nữa chủ mi cũng không nhìn thấy được đâu mà sợ.

Trâu này đã giúp cho ta được việc, ta biếu mi ít tiền gọi là đền ơn nhé.

Nói rồi nàng đưa tay vào túi lấy ra năm lạng bạc ném ra đấy, chắc chắn thế nào chú mục đồng cũng hết sức mừng rỡ và tạ ơn mình ngay. Không ngờ sự thật khác hẳn. Hắn vẫn đứng yên, mặt mày ủ đột, không thèm ngó đến bạc.

Nàng nổi giận mắng:

- Đồ ngu, sao chẳng lấy bạc cất đi cho rồi?

Dương-Qua mếu máo đáp:

- ít quá tôi đâu thèm.

Cô gái lấy luôn một gói lớn hơn ném luôn xuống đất nhưng hắn vẫn đứng nhìn, lắc đầu mãi, không thèm lấy.

Nàng tức quá đỏ mặt tía tai, nguýt hắn một cái và mắng:

- Thật quả đồ ngốc. Chưa thấy ai như mày. Ngốc ơi!

Mắng rồi quay mình bỏ đi luôn.

Dương-Qua để ý thấy mỗi khi nàng nổi giận, giống Tiểu-long-Nữ những lúc mắng mình, như hai giọt nước, nên nghĩ bụng:

- Bây giờ chưa tìm được cô nương. Ta cố giữ cô này, để thỉnh thoảng nhìn cho đỡ nhớ.

Nghĩ xong vội vàng chạy theo nắm lấy chân phải của nàng miệng nói lớn:

- Hãy đứng lại, đừng đi đâu hết!

Cô gái cố gỡ ra, nhưng hắn cứ giữ chặt không chịu buông.

Nàng trừng mắt nạt lớn:

- Bỏ ra lập tức, mi không muốn sống nữa hay sao?

Nhìn nàng giận dữ nét mặt hay quá. Dương-Qua càng thích chí cố nài nỉ:

- Cô nương thương tôi và giúp đỡ dùm. Tôi không dám trở về nhà nữa. Thà cô giết tôi chứ về nhà chắc cũng không sống nổi với ông chủ.

Nàng dịu giọng hỏi:

- Nhà mi ở đâu?

Hắn đáp:

- Tôi quên mất nẻo đi rồi. Cô nương cho tôi theo với nhé.

Nàng thấy thằng này ương gàn và ngơ ngác quá, vung dao lên chém. Dương-Qua vội vàng xách giò của nàng đưa lên để đỡ nhát dao ấy.

Nàng nổi nóng giật phắt chân lại rồi bồi thêm một dao nữa mạnh vô cùng.

Dương-Qua lẹ làng bước qua một bên tránh được rồi luôn mồm la lớn:

- Cứu tôi, cứu tôi với bà con ơi!

Thấy thái độ của hắn như vậy nàng cũng thừa hiểu chẳng phải tay vừa, nên bỗng ôn tồn bảo:

- Thôi đừng la nữa, lại đây chị bảo.

Dương-Qua hỏi:

- Đến gần để cô giết tôi sao?

Nàng mỉm cười:

- Không, ta chẳng giết đâu. Cứ lại đây mà em.

Dương-Qua ngầm vận khí dồn huyết vào trong người khiến nước da trở nên tái xanh lợt lạt như một thây ma, rồi giả bộ sợ sệt rón rén bò lại cạnh nàng.

Nữ lang đưa chân hất gói bạc về phía chàng bảo nhỏ:

- Thôi cầm lấy rồi cút đi cho rồi, thằng ngốc! Ta còn phải đi tìm con lừa đen một tý. Chẳng biết lúc nào đánh nhau, nó bị hai gậy thất kinh chạy đi đâu mất biệt chưa trở lại.

Nàng vừa bước đi thì Dương-Qua bỏ tiền vào bọc, giắt trâu chạy theo gọi lớn:

- Cô ơi, cô đi đâu cho tôi cùng theo với.

Nàng bừng bừng nổi giận trợn mắt nhìn hắn rồi triển khai khinh công lao mình đi mau như gió, trong bụng nghĩ thầm:

- Mày có giỏi thì chạy theo xem có kịp không cho biết?

Phi thân đi một hồi lâu, bỗng có tiếng của hắn gọi cách đó không xa:

- Cô ơi, chờ tôi với cô ơi! Sao đi mau thế cô?

Nàng tức quá dừng chân lại, múa đao chém nhầu, miệng hét lớn:

- Cút ngay, thằng ranh!

Dương-Qua giả bộ hoảng sợ, vừa la vừa tìm đường lẩn trốn. Nàng không thèm đuổi theo, cất đao, quay mình phi thân theo đường cũ lao đi thật mau.

Được một chập, bỗng nghe tiếng trâu rống và chân chạy thình thịch đằng sau, nàng ngạc nhiên nhìn lại thấy Dương-Qua cưỡi trâu đi cách mình độ ba, bốn chục thước mà thôi.

Nàng bặm môi dừng chân đứng chờ.

Dương-Qua cũng gò trâu ngừng lại không tiến tới nữa.

Nàng lại rảo bước đi nữa. Trâu lại bước theo. Cứ đi đi, ngừng ngừng như vậy, không biết mấy lần. Nàng tức giận quá sức nhưng chẳng biết nói sao.

Lúc bấy giờ chim rừng đã ríu rít gọi nhau về tổ, ánh tà dương le lói sắp tàn. Sương chiều bay phủ khắp đầu non và màn đêm cũng vừa sụp xuống.

Nữ lang chưa tìm được cách nào để gỡ cho khỏi tên mục đồng kỳ quái cứ cố tình bám riết bên lưng, nên suy nghĩ:

- Thằng này đi mau chạy lẹ không thua gì kẻ có biết khinh công. Có lẽ vì ở miền rừng núi leo trèo đã quen nên chân tay dẻo dai nhặm lẹ. Chi bằng dụ nó lại gần, điểm cho một huyệt bại bớt cặp giò thì hết còn đi theo quấy rầy nữa.

Tuy chẳng nói ra, nhưng dự đoán của nàng đều bị Dương-Qua nhận xét qua mặt và điệu bộ mà biết trước, vì so sánh, bản lãnh của nàng còn thua sút hắn quá nhiều.

Thấy cô ta như thế, Dương-Qua cũng đã có cách để làm nàng khỏi nghi ngờ nữa.

Một chập sau, nàng thấy hai chân mỏi rã rời, dừng bước chờ hắn lại gần nói lớn:

- Này em, bây giờ ta bằng lòng cho em cùng đi theo, nhưng cần nghe lời ta một việc nhé.

Dương-Qua mừng quá vội đáp:

- Cô cho thật sao? Thế thì hay quá! Nhưng thật không cô?

Nàng đáp:

- Thật chứ. Bây giờ ngươi leo lên lưng trâu đi, và để ta cùng ngồi phía trước nhé.

Dương-Qua hân hoan dắt trâu đến gần.

Thấy mắt nàng liếc qua liếc lại sắc như dao hình như đã có một âm mưu gì đây, Dương-Qua vội nghĩ:

- Nàng lại tìm cách hại ta! Chờ xem nàng còn thi thố cái gì nữa đây.

Hắn điềm nhiên nhảy lên ngồi phía mông trâu, nhường phía trước cho nàng.

Cô gái nghĩ bụng:

- Bây giờ lừa đã chạy mất, thì ngồi trâu tạm đỡ chân cũng tốt.

Nàng thúc chân vào sườn, đau quá trâu lồng lên phóng nước đại.

Nàng thừa dịp, đưa tay ra sau điểm mạnh vào mỏ ác Dương-Qua nơi "kỳ môn huyệt" Dương-Qua rú lên một tiếng té nhào ra sau.

Nàng chẳng thèm nhìn lại, mồm mắng nhỏ:

- Đáng kiếp cho mày, từ nay đừng phá rối nữa.

Rồi nàng dùng ngón tay ấn mạnh vào cổ trâu. Con trâu tung bốn chân sải đi như ngựa phi nước đại, cát bụi tung mịt mù!...

Hồi 22

Cô gàn gặp tay thằng ngốc

Nhưng bỗng có tiếng kêu réo nheo nhéo đằng sau. Nàng quay lại xem thấy hắn đã tóm chặt đuôi trâu, chân bỏng đất tòn teng lơ lửng như chiếc diều, cát bụi đóng đầy mình, mặt mày lem luốc, nước mắt ràn rụa, vừa thút thít vừa kêu nàng.
Nữ lang tức không chịu được rút dao toan chặt vào cặp tay hắn cho rồi, nhưng khi ấy gặp chỗ chợ đông, thiên hạn ngồi đầy đường trâu đi không được nữa và buộc lòng nàng phải thu dao lại.
Dương-Qua cố tình trêu ngươi để chọc nàng một mẻ nên kêu rối rít:
- Cô đánh chết tôi sao được? Miệng tôi còn kêu được tôi cầu cứu bà con. Bà con ơi, cứu tôi với, cứu tôi với!
Bà con thiên hạ trong chợ thấy lạ ùn ùn kéo nhau lại xem, bao vây xung quanh lớp trong vòng ngoài, có kẻ hỏi nguyên nhân sự việc.
Nàng mắc cỡ cố lẩn vào đám đông chạy trốn nhưng Dương-Qua đã níu được chân la lớn:
- Trốn đi đâu, trốn sao được với tôi phen này!
Một người đứng tuổi hỏi:
- Hai người tại sao dằng co như vậy?
Dương-Qua đáp:
- Người này là chị dâu tôi đấy. Chị ấy ghét tôi nên cứ đánh đập tôi hoài.
Nàng tức quá, mắt phượng tròn xoe, mày liễu dựng ngược, đưa chân đạp mạnh một nhát vào mông Dương-Qua lăn cù trên mặt đất.
Ngay lúc ấy có một đại hán vừa đến, trông thấy nổi giận hét:
- Con bé này, sao nhẫn tâm khốn nạn như vậy hử?
Vừa nói, đại hán vung quyền ra đỡ hộ cho hắn.
Nàng lại vung dao ra chém luôn.
Người ấy tung người lên cao để tránh rồi la lối om sòm. Tức thì sáu bảy người to lớn cùng chạy lại xông vào can thiệp.
Nhìn thấy tình hình có vẻ gay cấn bất lợi cho mình, nàng suy nghĩ:
- Ta muốn dứt bỏ hắn mà không được. Bây giờ đông người quá, nếu cứ thẳng tay e có hại vì làm sao đối phó với số người tại chốn chợ đông. Chi bằng nên dỗ ngọt hắn cho xong, rồi sau sẽ hay.
Nghĩ vậy, nàng dịu lời bảo:
- Thôi đừng khóc nữa, lại đây cùng chị đi về.
Dương-Qua đáp:
- Nhưng chị đừng đánh tôi nữa nghe chưa?
Nàng cười giả lả:
- Thôi, chị chả đánh em nữa đâu.
Thấy hai nàng đã thuận thảo, chị em hết xung đột nên thiên hạ trong chợ cũng dần dần giải tán và nhường đường cho Dương-Qua dắt trâu đi.
Cả hai bước đi đã khá xa, nhưng phía sau còn vọng lại những lời bàn tán ồn ào về câu chuyện mình khi nãy.
Khi ấy Dương-Qua lại khơi mào nói chuyện:
- Tại sao cô có ác ý xô tôi xuống đất chiếm đoạt trâu của tôi?
Nàng ta đỏ mặt tía tai, nạt lại:
- Thằng ranh con, ai là chị dâu của mày mà đi nhìn càng như vậy?
Nói rồi tuốt gươm chém luôn.
Dương-Qua thụt lùi ra sau né tranh, miệng năn nỉ:
- Thôi, xin cô đừng giận nữa, về sau tôi thề không dám nói ẩu nữa đâu.
Nàng hét lớn:
- Xem mặt mày như ma lem mà lại gọi ta là chị dâu. Chỉ có quỷ dạ xoa mới xứng là chị của mày.
Dương-Qua chẳng cãi lại, cứ cười hì hì cho qua chuyện.
Đêm tối xuống dần, nhưng hai người vẫn còn ở giữa cánh đồng không hiu quạnh. Đưa mắt nhìn vào phía xa xa, trong xóm có le lói ánh đèn. Người con gái nói:
- Bây giờ đã đói bụng lắm rồi, mi đi vào xóm ấy xem có thứ gì ăn được mua ăn đỡ dạ chứ.
Dương-Qua nhìn nàng lắc đầu nói:
- Đâu được! Tôi chẳng đi đâu hết.
Nàng hỏi:
- Vì sao mi không chịu đi?
Dương-Qua đáp:
- Tôi đi rồi cô bỏ đi nơi khác tôi biết đâu mà tìm nữa. Cô đừng lừa tôi vô ích.
Nàng nghiêm mặt nói:
- Ta đã quả quyết không đi đâu cả, mi cứ tin ta. Ai đi lừa mi làm gì.
Nhưng Dương-Qua vẫn lắc đầu tỏ vẻ không tin lời nàng nói.
Nàng nổi nóng vung quyền thoi đại. Dương-Qua lật đật nhảy ra sau né tránh. Nàng tuy võ nghệ cao cường, khinh công cũng có hạng, nhưng vì chân có tật một bên đi khập khễnh nên đuổi theo không kịp hắn.
Thấy sai khiến không xong, đánh cũng không trúng, nữ lang buồn lòng suy nghĩ:
- Mình mang danh biết võ nghệ mà không điều khiển được, biết làm sao bây giờ. Thật chán quá!
Suy nghĩ xong nàng làm thinh lững thững bỏ đi. Dương-Qua dắt trâu bước theo. Cả hai cứ theo đại lộ đó mãi. Nàng vừa đi vừa nghĩ bụng:
- Ta cứ giả vờ tự nhiên cho hắn im rồi xuất kỳ bất ý cho hắn một dao là xong việc chứ gì!
Đi mãi vừa khoảng chín một nồi cơm, bóng tối đen dần, không trông thấy xa được nữa. Bỗng hai người gặp bên đường có một miễu đá, cửa đóng then gài, có vẻ rêu phong cổ kính và đã bị hoang phế lâu ngày rồi.
Nàng suy nghĩ:
- Hay là mình rủ hắn vào ngủ trong miễu này. Thừa dịp hắn ngủ mê sẽ cho một nhát gươm là rảnh nợ.
Dự định xong, nàng đẩy cửa nhìn vào. Miễu bị bỏ phế lâu ngày bụi bám nhện giăng, mùi mốc bay lên nồng nặc. Chạy quanh đó tìm ít nhánh cây khô, nàng dùng làm chổi quét dọn trên bàn đất, ghé ngồi nghỉ chân.
Không thấy Dương-Qua vào, nàng cất tiếng gọi:
- Mày còn đứng ngoài ấy làm chi sao chưa chịu bước vào cho rồi, hở ôn con?
Nhưng tư bề vắng lặng không có tiếng đáp lại. Nàng sực nghĩ:
- Hay là nó đoán được ý ta, không dám vào, sợ mình giết đi chăng. Nếu hắn tự ý bỏ đi càng tốt.
Nàng ngồi dựa lưng vào vách trầm ngâm suy nghĩ. Thình lình một trận gió thoảng qua, đưa vào mũi nàng một mùi thịt nướng thơm ngào ngạt. Nàng ngạc nhiên bỏ chạy ra nhìn. Dưới ánh sao mờ mờ, bên cạnh đống lửa hồng cháy hực hỡ, Dương-Qua đang ngồi chồm hỗm, gặm một khút thịt nướng còn lên hơi nghi ngút. Trên đống lửa có mấy gắp thịt nữa đang cháy xèo xèo, mùi khói cuồn cuộn bay lên thơm phứt.
Đang gậm thịt ngon lành, thấy nàng bước ra, Dương-Qua cười hề hề, dồn dã hỏi:
- Cô nương xơi thịt không? Ăn một miếng cho đỡ dạ nhé?
Miệng nói tay đưa cho nàng một gắp thịt.
Nàng tiếp lời, đưa lên ăn thử. Có lẽ thịt nai? Tuy chẳng được ướp muối mắm, gia vị gì, nhưng thịt tươi, bụng đói ăn ngon miệng quá. Nàng thấy hay hay, cũng ngồi luôn bên cạnh, hơ lại gắp thịt rồi ăn không chút e dè.
Nàng ăn hết gắp ấy. Dương-Qua đưa thêm gắp khác.
Được ăn ngon, ngồi bên đống lửa ấm cúng, nàng thấy vui vui bèn gợi chuyện hỏi Dương-Qua:
- à quên, cậu em tên là gì nhỉ?
Dương-Qua vừa gặm thịt vừa nhìn nàng đáp ấm ớ:
- Suốt ngày nay cô đã gọi tôi là thằng ranh, thằng ngốc quả đúng tên tôi rồi, chứ hỏi làm chi nữa. Cô giả vờ hay thật đấy?
Nàng tức cười hỏi tiếp:
- Vậy cậu em tên Ngốc thật sao? Cha mẹ em còn đầy đủ cả chứ?
Dương-Qua thở dài đáp:
- Cha mẹ tôi đều mất sớm cả rồi. Còn cô, tên họ là gì nhỉ?
Nàng đáp:
- Ta quên đi mất rồi. Mà em hỏi có ích chi đâu?
Dương-Qua thấy nàng muốn giấu nên nghĩ bụng:
- à, mi cố tình giấu ta, thì ta cũng chọc tức một hồi xem mi có nói ra không cho biết.
Nghĩ rồi cười lớn nói:
- Dầu cô không muốn nói, tôi cũng biết từ lâu, nhưng chưa muốn gọi mà thôi. Nói ra cũng chả ích gì.
Cô gái ngạc nhiên hỏi:
- Mi biết ta tên gì, nói thử xem nào.
Dương-Qua nhìn nàng, ranh mãnh đáp:
- Tên cô là "Trứng Ngốc", có lẽ vì tên đẹp quá, cô không muốn phô bày ra chứ gì?
Nàng ta tái mặt vì quá giận, vùng đứng lên cốc vào đầu hắn một cái và quát lớn:
- Mày cả gan khinh miệt ta là "Trứng Ngốc"? Chỉ có mày là Ngốc rồi cũng tưởng ai nấy đều giống họ nhà Ngốc cả sao!
Dương-Qua ôm đầu bệu bạo nói:
- Cô gán cho tôi tên "Thằng Ngốc. Tôi hỏi tên cô là gì cô chẳng nói. Tôi tạm gọi như vậy để dễ kêu, vì Ngốc và Trứng Ngốc cũng họ hàng với nhau cả. Sao cô cứ ỷ thế hà hiếp đánh đập tôi mãi thế. Vô lý quá!
Nàng nói:
- Ta ghét mi nên chẳng thèm nói tên: Muốn lắm thì ta cho biết một phần nào. Ta vốn họ "Lục", còn tên ta là gì, để mi đoán ra cho được.
Nguyên cô gái này là Lục-vô-Song hái sen bên hồ, đã thuật hồi đầu chuyện. Nàng cùng chị dâu là Trình-Anh và anh em họ Võ đi hái hoa, rủi té gãy xương chân. Tuy được Võ Tam Nương buộc thuốc ghép lại hộ nhưng sau đó vì có sự nghi ngờ và xô xát giữa Võ Tam Nương và cha nàng là Lục Lập Đỉnh cho nên việc ghép xương chưa được hoàn toàn, Võ Tam Nương bỏ nhà ra đi. Vì vậy nên Lục-vô-Song mang tật phải đi tập tễnh.
Nàng có màu da bánh mật, tuy không trắng lắm nhưng có duyên, mặt mũi cũng xinh đẹp, nhưng hiềm vì mang tật nơi chân, bước đi không tự nhiên nên bị một phần lớn ảnh hưởng cho nhan sắc nàng, cũng đáng thương hại.
Khi Xích-Luyện Tiên-Tử Lý-mạc-Thu đến hạ sát toàn gia họ Lục định giết nàng thì nhìn thấy trên lưng có mảnh khăn hồng, khiến cho nàng nghĩ đến cựu nghĩa cùng ông nàng là Lục-tiểu-Nguyên, động lòng không nỡ hạ thủ và bắt đem đi.
Lục-vô-Song tuy ít tuổi nhưng rất lanh lẹ thông minh. Thừa hiểu số phận mình đang ở trong nanh vuốt quân thù, không biết lúc nào mất mạng, cho nên cố sức tìm cách ăn ở thật mềm mỏng khéo léo để mua lòng. Nhờ đó mà ý định giết nàng, ngày càng phai nhạt, Lý-mạc-Thu thỉnh thoảng có nhớ lại cựu thù thì đưa nàng ra mắng nhiếc cho hả dạ chứ không hại đến tánh mạng.
Muốn cho Lý-mạc-Thu không quan tâm đến mình nữa, nàng cố để cho đầu bù tóc rối, mặt mũi lem luốc, chân đi khập khễnh càng cố làm khập khễnh nhiều hơn, và thỉnh thoảng ra bộ điệu vớ vẩn ngẩn ngơ như người mất trí.
Lý-mạc-Thu thấy con người tàn phế chẳng có gì đáng kể hay lo ngại nữa nên để ở trong nhà sai vặt như một đứa ở.
Lục-vô-Song ấp ủ mãi trong lòng mối cựu thù của song thân, không bao giờ lộ cho ai biết.
Thỉnh thoảng Lý-mạc-Thu thử ý hỏi đến tên cha hay tên mẹ thì nàng cũng giả vờ ngu ngu dại dại, nói bậy bạ chẳng trúng vào đâu hết. Nhờ vậy nên Lý-mạc-Thu không quan tâm đề phòng nữa.
Hàng ngày Lý-mạc-Thu rèn luyện võ nghệ cho Hồng-lăng-Ba thì Lục-vô-Song đứng hầu để sai vặt, hoặc múc nước, đưa khăn, thu dẹp bàn ghế hoặc xếp vũ khí.
Trước kia cũng đã có chút ít căn bản võ nghệ, nên nàng chú ý học lỏm nhiều ngón rồi thừa lúc vắng vẻ tìm nơi kín đáo để tập luyện lại.
Đối với Hồng-lăng-Ba thì nàng hết lòng chiều chuộng, bợ đỡ, luôn luôn tán tỉnh, khiêm nhường cho nên được Hồng-lăng-Ba thương mến, thỉnh thoảng gặp lúc Lý-mạc-Thu vui tính, Hồng-lăng-Ba tìm lời nói giúp cho nên Lý-mạc-Thu cũng bằng lòng chỉ bảo cho nàng.
Cứ như vậy tập luyện suốt mấy năm trời về cái môn quyền thuật, Lục-vô-Song lại tỏ ra có nhiều tiến bộ khiến cho Lý-mạc-Thu lại đem lòng nghi ngờ nên không tiếp tục truyền dạy võ nghệ cho nữa.
Trái lại, Hồng-lăng-Ba đã sẵn mến nàng cho nên đem lòng thương hại, thỉnh thoảng dấu sư phụ, đem cái môn bí truyền về đao kiếm, khinh công hay quyền cước đã học được truyền thụ lại cho nàng.
Nhờ vậy mà chẳng bao lâu Lục-vô-Song cũng có một bản lãnh khá cao có thể sánh với nhiều tay cự phách trong võ lâm thời bây giờ.
Trong dịp Lý-mạc-Thu cùng Hồng-lăng-Ba tái nhập Cổ-Mộ đài để tìm cách lấy trộm "Ngọc nữ tâm kinh" ở quá lâu, Lục-vô-Song chờ mãi không thấy về nên có ý muốn tìm cách trở về đất Giang-Nam để thăm quê hương và dò la tin tức của cha mẹ.
Ngày còn thơ ấu, khi Lý-mạc-Thu đến Lục gia trang, nàng chỉ được nghe cha mẹ bị Lý-mạc-Thu đánh trọng thương chứ không biết sống hay đã chết rồi. Vì vậy nên nàng cố nuôi hy vọng kiếm tìm, may ra còn có ngày được sum họp lại.
Trên đường về Giang-Nam nàng có gặp hai đạo sĩ lạ mặt. Hai người này thấy nàng đi tập tễnh đem lời chọc ghẹo. Tuy cố sức làm ngơ nhưng hai đạo sĩ càng tỏ vẻ thô bạo quá đáng nên nàng nổi nóng đem cắt tai một người cho hả giận.
Vì vậy nên người kia mới thách nàng và hẹn trưa hôm sau ra Sài Lang Cốc để thí võ, nên mới gặp lại Dương-Qua.
Ngày còn nhỏ, nàng và Dương-Qua đã có dịp gặp nhau, khi nàng vừa bị Lý-mạc-Thu bắt cóc đem đi. Nhưng thời gian qua, cả hai lớn lên, thân hình dáng điệu mỗi người cùng thay đổi quá nhiều cho nên tuy gặp lại vẫn không nhìn ra được.
Lục-vô-Song ăn hết ba gắp thịt của Dương-Qua đưa, thấy đã no lắm rồi. Trong người cảm thấy khoai khoái dễ chịu lắm.
Riêng Dương-Qua cứ ngồi nhìn đám lửa hồng thả hồn mơ mộng đâu đâu.
Chàng nghĩ đến Tiểu-long-Nữ và chép miệng than thầm:
- Chẳng biết giờ này cô nương ta phiêu dạt nơi đâu. Có nhớ đến mình chăng? Giá thử nàng này là cô nương ta, cùng ngồi hơ lửa ăn thịt, thì thú vị biết bao nhỉ?
Càng nghĩ càng mơ màng, mắt đăm đăm nhìn nàng không chớp.
Lục-vô-Song chợt thấy Dương-Qua nhìn mình như ngây dại nên phát ngượng, muốn đứng lên bỏ đi nơi khác bỗng nghe tiếng ho nho nhỏ từ đàng xa và một người lê đôi giép đến gần.
Người ấy vừa đưa mũi hít lia, vừa cất tiếng trầm trầm, tiến lại gần nói:
- ồ, thơm quá, thịt nướng ngon lành quá!
Lục-vô-Song để ý thấy người này ăn mặt rách rưới, quần áo chằn vá khắp nơi, dáng điệu quả là một chàng ăn mày chính cống.
Hắn bước thảng lại đống lửa ngồi kề bên cạnh Dương-Qua chẳng thèm hỏi han một lời, lấy que củi khều than ra gắp một miếng thịt đưa lên miệng nhai nhồm nhoàm, khen ngon rối rít.
Dương-Qua cứ điềm nhiên ngồi ngó không nói một lời.
Lục-vô-Song người thấy mùi hôi hám từ người này xông ra khó chịu quá. Hơn nữa thái độ của y lại vô lễ thô tục khiến nàng bực mình, phủi áo đứng dậy, ngoay ngoảy đi vào trong.
Người ấy nhìn theo tủm tỉm cười rồi như có vẻ vừa khiêu khích nữa. Cười xong, hắn cúi đầu ăn nữa.
Lục-vô-Song bực mình quá nhịn không nổi nữa, quay phắt lại trỏ mặt người ấy quát:
- Tên kia, mi cười cái gì?
Người ăn mày nghếch mặt một cách tư thị đáp:
- Ta cười mặc ta, có can hệ chi đến cô mà hỏi?
Lục-vô-Song muốn nhảy đến chém cho một dao bay đầu, nhưng sợ làm cho chú chăn trâu hoảng sợ chạy mất nên cố nén bụng làm ngơ rồi lẳng lặng đi vô.
Nàng vừa đến hiên miếu, bỗng nghe người ăn mày hỏi Dương-Qua:
- Chị của chú đấy à? Trông cũng khá đẹp đấy chứ! Nhưng nóng nổi là chân đi cà thọt khó coi quá nên chẳng còn đáng bao nhiêu.
Mấy lời ấy như muối xát vào lòng Lục-vô-Song. Nàng vừa nghe và thấy nóng bừng cả má, nóng cả tai. Bao nhiêu năm sống chung quả phụ Lý-mạc-Thu, nàng phải nhẫn nhục chịu đựng tất cả sự đè nén khinh khi, áp bức. Ngày nay đã ra đời tự do thế mà một tên ăn mày dám đương nhiên chế diễu khinh miệt mình ra mặt thì làm sao dằn lòng cho nổi nữa.
Lập tức nàng rút gươm nhảy lại chém mạnh vào đầu tên ăn cướp.
Người này cũng là một tay có hạng trong bang hành khất, cho nên võ nghệ cũng vào bậc khá.
Bang này do Hồng-thất-Công lãnh đạo gồm đủ ăn mày tứ phương, khắp cầu đường xóa chợ, từ thành thị đến thôn quê, chỗ nào cũng có mặt.
Hôm nay giữa đồng hoang vắng, tình cờ gặp Dương-Qua ăn mặc cùng bẩn thỉu rách rưới, hắn lầm tưởng là bạn đồng nghiệp cho nên thấy thịt cứ sa vào ăn, chẳng cần hỏi han khách sáo gì hết.
Thấy Lục-vô-Song tỏ ý không thích bỏ đi vào, hơn nữa nhìn nàng đi tập tễnh, hắn hiến kỳ hỏi thăm cho biết và sẵn dịp cũng buông đưa vài câu cho đậm chuyện, đâu ngờ lại xảy ra cớ sự như thế này.
Khi thấy nàng đưa dao chém mình, người ấy vội vàng "ủa" một tiếng rồi phi thân nhảy ra một bên tránh né, miệng la lớn:
- ồ, sao nóng nảy vậy cô! Tôi mới ăn góp với em chồng cô vài miếng thịt đã là bao mà cô lại đối xử như vậy. Nếu cô không bằng lòng, tôi sẽ trả đủ cho mà.
Lục-vô-Song đâu phải tiếc thịt. Nàng chỉ căm thù kẻ vào đây nhạo báng sự tàn tật của mình cho nên nàng chẳng nói gì thêm, vung dao chém tiếp thêm nhát nữa.
Người ăn xin lanh chân lánh mình tránh né được hết, rồi nhìn nàng như muốn khiêu khích để chém thêm vài nhát nữa.
Lục-vô-Song càng giận thêm, tiến sát gần bên, chém vun vút vào làm đứt tung một mảnh áo, người ăn mày hãi kinh nghĩ bụng:
- ồ, con bé này cũng là tay hữu hạng, đâu phải tầm thường.
Hắn rút ra một cây roi sắt để tiếp đánh.
Độ mười hiệp, người ăn mày thấy cô gái càng đánh càng hăng nên chột dạ suy nghĩ:
- Ta với nàng có thù oán gì mà đánh nhau nữa. Chi bằng bỏ chạy cho rồi. Nàng bị thọt chân chắc đuổi theo mình không kịp.
Hắn vung roi quất mạnh vào chân đau của nàng, cười một tiếng rồi xoay mình bỏ chạy.
Lục-vô-Song vội vàng đưa dao đỡ ngọn roi ấy, nhưng lúc thấy người ăn mày vụt chay đi thì nổi tức lên thét lớn:
- Thằng chó chết, mày tưởng ta không đuổi kịp hay sao?
Thế rồi nàng múa lộng lưỡi dao lên mấy vòng, lộng gió vi vu rồi phóng theo người ấy đang chạy về hướng Bắc.

Dương-Qua cứ mải miết nướng thịt vừa ăn vừa xem hai người đánh nhau. Thấy người ăn mày cự không nổi cô gái, chàng thích chí cười hoài.
Thình lình có tiếng đao rít vi vu nghe ớn xương sống, chàng đưa mắt nhìn lại thấy Lục-vô-Song đang vũ lộng một thanh đao cong như vành cung, lưỡi mỏng như lá lúa phóng theo người ăn mày.
Lưỡi đao vòng cung đã phóng trúng lưng, người ăn mày la lên một tiếng té nhào xuống đất.
Lục-vô-Song bay tới rút đao toan hạ sát, nhưng người ấy đã lanh chân chờ dậy và kiếm đàng chuồn mất.
Lục-vô-Song chạy theo ít trượng đã thấy người ăn mày hiện đâu mất tìm chẳng được.
Nàng quay lại bảo Dương-Qua:
- Mi đi lại chỗ ấy lấy lưỡi phi đao mang lại đây cho ta.
Dương-Qua trố mắt hỏi:
- Phi đao nào, biết đâu mà lấy.
Lục-vô-Song nói:
- Lưỡi phi đao của ta vừa phóng ghim trúng giữa lưng hắn đấy, ngươi chẳng thấy sao?
Dương-Qua ngớ ngẩn đáp:
- Nó chạy mua như vậy, làm sao theo kịp mà lấy.
Nói rồi chàng khoát tay, lắc đầu quầy quậy.
Lục-vô-Song chán quá nghĩ rằng:
- Hơi nào đi cãi nhau với thằng khùng, vừa lười, vừa vô dụng, cho mất công.
Nàng đứng dậy vào trong leo lên bực nằm xuống nghỉ lưng, gối đầu trên lưỡi đao mà ngủ, bụng nghĩ thầm:
- Thôi, mất lưỡi phi đao, còn con đao này cũng đủ hạ sát hàng trăm kẻ địch.
Đến nửa đêm Lục-vô-Song thức dậy, rón rén bước ra ngoài.
Bên đống lửa đã tàn, nhưng Dương-Qua nằm chèo queo ngủ mê như chết. Nhìn lên trời, trăng đã xế non Tây, le lói, chiếu ánh sáng bạc màu xuống đồng mênh mông hiu quạnh. Mấy hàng cây đứng rọi bóng trên thảm cỏ xanh ướt đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng vài tiếng chim đêm kêu văng vẳng nghe rờn rợn.
Nàng nắm chặt thanh đao, xăm xăm về phía Dương-Qua đang nằm, vung lên chém xuống một nhát thật mạnh.
Một tiếng "choeng" nổi lên, nháng lửa sáng lòe như chém phải sắt đá, bàn tay nàng tê rần, thanh đao muốn rơi xuống đất.
Nàng thất kinh muốn bỏ chạy đi vì sợ hãi và tự nghĩ:
- Không biết thằng này tập luyện cách nào mà đã trở thành mình đồng da sắt! Hắn thức dậy, biết rõ âm mưu mình, chắc không yên thân với hắn.
Chạy được mấy trượng vẫn không có tiếng đuổi theo, và nhìn lại thấy Dương-Qua vẫn nằm im ngủ kỹ dường như không hề hay biết.
Lục-vô-Song ngập ngừng một chút rồi lên tiếng gọi lớn:
- Ngốc ơi ngốc! Thức dậy bớ ngốc.
Gọi mãi mấy lần mà không thấy hắn dậy, nàng bước lại gần, định thần nhìn lại thì thấy không phải Dương-Qua, kinh như chỉ một thứ gì bên trong có phủ manh áo của hắn bên ngoài.
Nàng lấy can đảm đến gần đưa tay hất manh áo lên thì đó chỉ là một tảng đá xanh dài dài.
Nàng ngạc nhiên đứng nhìn sững sờ một chập và băn khoăn nghĩ mãi chẳng biết thằng ranh con này nghi trang hòn đá để đi đâu rồi.
Chờ một chập chẳng thấy tăm dạng, nàng gọi lớn:
- Ngốc ơi, đâu rồi! Ngốc ơi!
Nhưng mặc dầu nàng đã gọi đều lạc giọng vẫn chẳng có tiếng đáp lại.
Tứ bề vắng lặng đến rợn người. Thỉnh thoảng một vài giọt sương rơi lộp bộp trên cành lá điểm nhịp cùng tiếng côn-trùng rỉ rỉ suốt canh thâu, và tiếng gió lộng phần phật vào mấy lá chuối phía sau tòa cổ miếu.
Lục-vô-Song mỏi miệng quá, ngồi trên phiến đá nghỉ xả hơi. Bỗng bên trong có tiếng ngáy của ai vọng ra.
Nàng ngạc nhiên rón rén đi vào thì rõ ràng Dương-Qua đang nằm trên bực đất của nàng ban nãy xây mặt ra ngoài, ngủ say như chết.
Đang bực tức vì mấy lần bị gạt, Lục-vô-Song không do dự nữa, nhảy luôn lên bục, nắm đầu hắn, vung dao chém phập vào ngay lưng một nhát.
Tiếng "phập" vừa dứt, nàng định thần nhìn lại, thấy rõ ràng đã chém trúng ngay giữa lưng, nhưng Dương-Qua vẫn nằm ngủ mê mệt và không có một tý máu me gì hết.
Nàng bặm môi, chém thêm một nhát nữa, và cũng không thấy máu.
Tức quá Lục-vô-Song cứ chém mãi liên hồi vào chỗ ấy, nhưng Dương-Qua vẫn cứ ngủ mê hơi ngáy đều đều không đứt quãng.
Đang bàng hoàng ngơ ngác chưa hiểu vì sao, bỗng Dương-Qua cựa mình ú ớ mê sảng nói lảm nhảm:
- Ai đi trên lưng đó... nhột quá. Hãy bỏ ra đi.
Lục-vô-Song sợ đến tái mặt không còn tý máu, răng đập vào nhau cồm cộp, miệng lẩm bẩm:
- Trời, quỷ hay người mà dễ sợ quá như thế này?
Muốn quay mình trốn đi nơi khác nhưng cặp giò như rã rời không nhích nổi nữa, đứng sững sờ như pho tượng.
Dương-Qua lại mê sảng nói nữa:
- Ai cứ sờ vào lưng mãi thế! ồ con chuột thật bự, tha đùi thịt nai mất rồi!...
Hết nói mơ, lại nghiêng qua một bên vén áo gài sồn sột, làm một đùi thịt nai để bên mình rơi luôn xuống đất.
Lục-vô-Song mới hiểu, nguyên nhân vì đùi nai cài sẵn bên lưng cho nên đao chém mấy lần không phạm được vào người hắn được. Thế mà nàng hoảng sợ gần điến hồn.
Vì nhiều lần cố chém không kết quả, phen này nàng quyết tâm hạ cho kỳ được để hắn khỏi trêu ngươi nữa.
Sau một phút đắn đo, nàng vung đao đâm mạnh vào bụng. Nhưng vừa lúc ấy, Dương-Qua bỗng nằm nghiêng qua một bên, mồm lảm nhảm mê sảng nữa. Lưỡi dao đâm hụt ghim xuống bực sâu hơn ba tấc.
Lục-vô-Song bặm môi rút mạnh lưỡi dao rồi trợn mắt đâm nữa.
Dương-Qua ú ớ la hoảng:
- Chuột ớ kìa, chuột tha đùi nai rồi!
Ngay lúc đó, Dương-Qua duỗi chân trái điểm ngay huyệt "Khúc tử" và chân phải điểm huyệt "Khiêm tĩnh", hai trọng huyệt nơi đùi và vai của Lục-vô-Song, khiến cho nàng bủn rủn cả thân hình đứng không vững, té nhào vào đùi chàng bị kẹp chặt lại.
Tuy toàn thân đã mềm rã, cử động không được nữa, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo như thường. Nàng vội kêu lớn:
- Mau nới đùi ra không, quỷ sứ. Đồ gì mà hôi như heo. Chịu không nổi nữa.
Mặc nàng la lối, mắng chưởi, Dương-Qua vẫn khép đùi kẹp chặt và nằm yên ngủ mãi.
Lục-vô-Song tức quá rán ngóc đầu lên phun nước bọt vào mặt Dương-Qua. Hắn nghiêng mình, chìa ngón chân vào huyệt "tý nho" khiến nàng á khẩu luôn, hết nói hay há miệng ra được.
Nàng nằm yên toàn thân bất lực, trong khi ấy xú uế trong quần của Dương-Qua bốc ra muốn ngạt mũi, không thể nào thở nổi.
Nằm mãi như thế gần nửa giờ, dần dần đã thấy quen, hết thấy hôi hám, Lục-vô-Song tức mình nghĩ bụng:
- Mai đây, huyệt đạo thông suốt trở lại, ta thề sẽ bằm mi ra làm trăm mảnh cho hả giận.
Trêu đùa đã nư, bấy giờ Dương-Qua mới duỗi chân, uốn mình từ từ thả nàng ra, rồi quay mặt ngó xuống.
Tuy ánh trăng tàn chỉ le lói nhưng Dương-Qua cũng đủ nhìn thấy đôi mắt nàng quắt lên sáng rực và mặt nàng hầm hầm đầy sát khí.
Thấy nàng càng tức giận, sắc mặt càng giống Tiểu-long-Nữ quá chừng. Dương-Qua đắm đuối nhìn hoài không nháy mắt.
Lúc ấy đêm đã hầu tàn, trăng gần gác núi, chênh chếch, xiên qua cửa sổ dọi thẳng vào bục chỗ hai người nằm, thấy rõ như ban ngày.
Lục-vô-Song thấy Dương-Qua cứ nhìn mình đắm say, đôi mắt lờ đờ như si như dại, trên môi điểm một nụ cười thích thú, khiến nàng giật mình nghĩ bụng:
- Hay là hắn điểm huyệt mình để làm điều tồi bại và hiếp đáp mình chăng? Nguy quá.
Vì quá sợ, mồ hôi toát ra đầm mình.
Vừa khi ấy Dương-Qua lại đưa mắt nhìn thẳng ra phía cửa. Nàng vội ngó theo thì thấy có ba cái bóng đen đang chầm chậm bước vào, mỗi bóng đều có sẵn khí giới cầm tay.
Lục-vô-Song tái mặt nghĩ thầm:
- Phen này thêm nguy biến nữa đây. Thằng chăn trâu xem vậy mà tài cao quá cỡ. Nó cứ giả ngây ngơ, ngốc ngác, không ngờ bản lĩnh quá kinh người.
Hắn đã điểm huyệt ta rồi, bây giờ làm thế nào để đối phó với ba tên này cho được.
Bước vào đến cửa, người đi đầu đã hét lớn:
- Con tiện tỳ đâu rồi, mau ra đây nộp mạng cho rồi để khỏi nhọc công các lão gia ra sức.
Người thứ hai nói tiếp theo:
- Các ông chẳng thèm giết mi làm gì, chỉ cần lấy một tai xẻo mũi và hớt một cánh tay cũng đủ đền tội rồi.
Dương-Qua lẩm bẩm:
- Tưởng ai té ra bọn đạo sĩ khi ban ngày. Chẳng biết làm sao bọn hắn tìm ra chỗ này được.
Kế đó người thứ ba nói.
- Các lão gia đang chờ đợi để tiếp mi đây, cứ ra đi, mau hiến dâng ba vật đó là xong.
Thế rồi ba người lùi ra sau chia nhau đứng ba phía thành hình rẽ quạt, cầm vũ khí lăm lăm chờ đón nữ lang.
Lục-vô-Song kinh hãi quá, không cử động được mà muốn nói cũng chẳng nên lời.
Dương-Qua rỉ tai nàng nói nhỏ:
- Mấy lão đạo sĩ này, chuyện gì mà la lối om ròm lúc ban đêm chẳng để cho người ta yên nghỉ. Cô nương chịu khó bước ra cho chúng một bài học để chừa thói khinh người, hỗn láo.
Nói xong, chàng se sẽ gạt áo nàng lên, điểm nhẹ qua các huyệt đạo, trả lại công lực cho nàng.
Lục-vô-Song cảm thấy tinh thần sảng khoái, chân tay đã mạnh các huyệt đạo hết đau nhức nữa, lồm cồm chổi dậy nắm đao nhìn ra.
Dưới ánh trăng vằng vặc, ba tên đạo sĩ vẫn đứng bao trước cửa, múa may thách thức.
Lục-vô-Song phi thân nhảy ra, cử đao chém mạnh vào người đứng bên tả.
Người ấy vội đưa roi lên đỡ. Roi vừa chạm làn đao chém quá mạnh kêu chát một tiếng, đội ngược lại và sút tay rơi luôn xuống đất.
Dương-Qua thấy vậy khen thầm:
- Kỳ này khá lắm, lối ra tay quả đúng theo võ thuật chân truyền của phái Cổ-Mộ.
Vừa lúc ấy, Lục-vô-Song tiếp bồi cho một nhát nữa, lão đạo sĩ la hoảng một tiếng, nhảy lùi ra sau trốn tránh.
Lục-vô-Song thấy phấn khởi tinh thần, vung đao chém luôn vào người đạo sĩ cầm dáo.
Người đạo sĩ lùn lùn bảnh lãnh rất cao, cùng người cao xúm lại tấn công vào ráo riết, đánh toàn những ngón đòn hiểm ác khốc liệt.
Càng lâu, Lục-vô-Song càng bết dần và trở nên lúng túng. Có nhiều lần thất thế suýt bị thương. Trong khi đó người đạo sĩ bị văng roi cũng đã hết ê tay, nhảy lên, chỉ mặt nàng thét lớn:
- Nhãi con, phen này đừng hòng thoát khỏi tay ta.
Nói xong, hắn lao đầu vào đúng ngay lưng nàng. Lục-vô-Song có cảm giác như đụng phải chàng đá, toàn thân đau dần, tâm thần rối loạn, đứng lảo đảo muốn ngã quỵ.
Thấy một mình nàng không cự nổi ba mạng và đã lãnh một đòn nơi lưng, Dương-Qua vội thét:
- Nguy tai!
Vừa lúc đó lưỡi dao của lão đạo sĩ lùn đã loang loáng chém xuống lưng nàng, đồng thời ngọn roi của người đạo sĩ nọ cũng đang bay vút vào trước bụng.
Dương-Qua lập tức lượm hai viên đá, khẽ vung tay, tức thì một viên trúng tay lão lùn đau quá rơi đao, còn viên kia chạm ngay ngọn roi của đạo sĩ rớt xuống đất.
Tuy vậy nhưng lão đạo sĩ vẫn không chút e dè. Mất vũ khí hắn bỗng vung quyền dùng thế "Liên-hoàn song kích" lăn sản vào dùng tay tả đấm trúng ngay bụng nàng dội ngược ra sau nằm không động đậy. Dương-Qua hoảng quá la lớn:
- Nàng nguy rồi. Phải cứu ngay mới được.
Lập tức chàng cầm "tiểu chu thiên" ném mạnh vào, lanh như gió.
Với sức mạnh gần ba trăm cân, Tiểu-chu-thiên ồ ạt bay tới đánh mạnh người đạo sĩ văng ra sau xa hơn ba trượng.
Thấy đối phương vô cùng dũng mãnh, người lùn và tên đạo sĩ kia vội vàng khiêng bạn bị thương chạy mất.
Dương-Qua bước lại nhìn, thấy Lục-vô-Song nằm bất tỉnh trên cỏ, mặt vàng như thoa nghệ, hơi thở rất yếu, thương tích có vẻ trầm trọng.
Chàng đỡ nàng ngồi dậy, thấy toàn thân mềm nhũn, xương cốt kêu lắt rắt thỉnh thoảng nấc lên mấy lần và nhăn mặt rên nho nhỏ hình như quá đau đớn vì ngọn đòn vừa rồi.
Dương-Qua hỏi:
- Sao, có đau lắm không cô?
Lục-vô-Song đau quá, hạn xuất đầm mình. Nghe chàng hỏi, nàng sẽ mở mắt lườm một cái và khẽ gắt: - Thế mà cũng hỏi. Không đau mà thân hình như vầy sao. Hãy bồng ta vào trong đi.
Dương-Qua luồng tay dưới lưng bồng lên. Nhưng thân nàng quằn xuống, xương chuyển động nghe sào sạo, đau quá, nàng lại trách.
- Ngốc ơi, sao lại thế? Ba thằng kia đã đánh ta bị thương rồi, mi còn hành hạ thân xác ta đau thêm nữa sao?
Dương-Qua mỉm cười đáp:
- Bọn chúng ngỡ cô chết rồi không quan tâm nữa bỏ đi cả rồi.
Lục-vô-Song mừng rỡ thấy nhẹ cả người, đưa mắt háy một cái và nói:
- Sướng lắm sao mà cười. Mi muốn ta đau cho nhiều để thích thú phải không Ngốc.
Dương-Qua thấy mỗi lúc nàng giận, mắng thì vẻ mặt giống y như Tiểu-long-Nữ, cho nên chẳng hề giận mà còn vui nữa. Ngày xưa chung sống trong "hoạt tử mộ đài" thỉnh thoảng Tiểu-long-Nữ cau có, mắng nhiếc nhưng Dương-Qua lại sung sướng cho rằng, sở dĩ cô nương có yêu mới mắng, có lo cho mình mới rầy la.
Ngày nay Tiểu-long-Nữ lưu lạc phương nào chưa tìm được may gặp Lục-vô-Song, tuy có tánh ương gàn nhưng nhiều nét giống cô nương. Chi bằng lưu nàng cùng ở một bên để thỉnh thoảng nhìn nàng khi giận hờn trách móc đỡ nhớ Tiểu-long-Nữ. Trên đường phiêu bạt, tìm sư phụ cũng được một bạn đồng hành cho đỡ bớt nỗi cô đơn.
Dưới áng trăng soi, Lục-vô-Song nhìn thấy rõ mặt Dương-Qua vẫn vui vẻ không có gì bực tức hay phiền hà về cái lời nói trách móc, lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi thì cảm thấy chột dạ và nghĩ thầm:
- Hắn chỉ là một đứa mục đồng bẩn thỉu nhưng tâm hồn cao thượng, thân thể cường tráng, còn ta mang thân một thiếu nữ có nhan sắc, sao trời nỡ khiến mang tật nguyền để người đời chế riễu, thật là bất công.
Thằng này lúc nào cũng tự cao tự đại, ương gàn, ngốc nghếch dễ ghét quá. Sao ta không tìm cách giết hắn đi cho đỡ gai mắt.
Trí vẩn vơ suy nghĩ, quên bớt đau đớn, mỗi khi trở mình thấy như bị ai dần khắp đầu xương nên không ngớt kêu la và rên rỉ như bị thương quá nặng.
Dương-Qua thương hại hỏi:
- Nếu có đau lắm, hãy bằng lòng để tôi dùng thuật "tiếp cốt" chữa cho nhé!
Nàng gay gắt mắng:
- Khéo kiếm chuyện đặt bày theo lối chăn trâu càn dở? Làm gì có chuyện "tiếp cốt" mà bày đặt đến để chọc ta nữa.
Dương-Qua cười hề hà đáp:
- Hồi nhỏ tôi đã học được phép này. Hễ ai bị chó cắn, heo ủi dầu bị thương nặng nhưng cứ tiếp cốt cho một chập là mạnh liền.
Nàng cãi lại:
Chó heo khác, võ thuật quyền cước đả thương là một chuyện khác. Làm sao dùng cách này chữa bệnh nọ.
Dương-Qua đáp:
- Thì cô cứ để làm thử, hiệu nghiệm hay không sẽ rõ, cãi cọ làm gì.
Lục-vô-Song suy nghĩ:
- Thằng này có nhiều chuyện lạ đời lắm. Biết đâu nó chữa được bệnh mình cũng nên. Nếu cứ để mãi như thế này, đau đớn quá chịu không nổi e chết mất. Nơi đây làm gì có thầy lang hay thuốc men gì để cứu chữa. Nhưng nếu hắn buộc mình phải bỏ hết áo quần để xoa bóp nắn chữa thì ngượng quá chịu sao nổi.
May ra khỏi được, sau này mặt mũi nào ngó hắn nữa. Nhưng nếu câu chấp để kéo dài, bỏ mạng chẳng ai thương. Hay là ta cứ bằng lòng cho hắn tự do cứu chữa. Nếu lành rồi, sẽ tìm cách giết đi là xong chuyện, còn đâu nữa mà thẹn với thuồng!
Thật ra Lục-vô-Song vốn bản chất hiền lành nhưng từ nhỏ có tật ương gàn nghịch ngợm. Suốt thời gian sống chung với Lý-mạc-Thu lại nhiều tánh ác độc nên hành động cũng trở nên ác độc, háo sát như vậy.
Nàng dịu giọng bảo:
- Cậu em hãy cẩn thận chữa thử xem sao. Nhớ nhẹ tay kẻo đau lắm.
Thấy cô gàn đã thuận cho chữa, Dương-Qua bỗng có ý nghĩ:
- Bây giờ ta nên thừa dịp làm khó, ghẹo nàng một mẻ, kẻo còn cơ hội nào nữa.
Chàng mỉm cười bảo:
- Xưa kia có một ái nữ của một phú ông trong vùng rủi bị heo cắn rất nặng. Gia đình nàng có mời tôi đến chữa, tôi không đòi hỏi tiền bạc, lễ lộc gì hết mà chỉ buộc nàng một điều kiện duy nhất để chứng tỏ người ta có lòng thành cố tâm muốn được cứu chữa hay không.
Lục-vô-Song hỏi:
- Điều kiện gì, có khó không?
Dương-Qua cười đáp:
- Dễ lắm! Tôi buộc nàng gọi luôn một trăm lần câu này:
"Người anh yêu quý của em ơi!". Gọi xong tôi mới chịu nữa. Bây giờ có muốn lành bịnh cũng phải kêu như vậy mới được.
Lục-vô-Song điên tiết hét lớn:
- Khỉ khô, khỉ khô! Mặt mày dơ dáy bẩn thỉu như trâu, ai mà thương cho vô mà đèo bòng kia nọ.
Dương-Qua cười khà khà nói:
- Cô không bằng lòng cũng tốt. Tôi khỏi bận trí nữa. Thôi cô nằm đây nghỉ, tôi đi về nhà nhé. Sau này có dịp sẽ gặp nhau lại.
Nói rồi đứng dậy đi luôn ra cửa.
Lục-vô-Song suy nghĩ:
- Nếu hắn bỏ đi thiệt, thế ai săn sóc chạy chữa. Chẳng lẽ ta đành nằm chết khô nơi đây sao.
Nghĩ rồi cố nén giận gọi theo:
- Đi đâu mà nôn nóng vậy. Hãy nán lại một chút, ta có chuyện muốn nhờ mi.
Dương-Qua dừng bước quay lại nói:
- Không cần đến thì tôi đi chứ ở đây làm gì. Phàm người khác, gọi một trăm câu sẽ được tôi cứu chữa. Cô nương chẳng gọi mà còn chưởi mắng tôi nữa. Bây giờ muốn chuộc lại thì ít nhất cũng phải gọi một ngàn câu tôi mới nhận chữa cho.
Lục-vô-Song túng quá không biết làm sao hơn nên suy nghĩ:
- Ta nên làm theo ý muốn hắn cho rồi.
Chừng nào khỏi bệnh sẽ có cách đối phó sau .
Sắp đặt xong nàng gọi lớn :
- Anh yêu quý , anh yêu quý của em ơi ! Anh yêu quý ơi , cứu dùm cho em đi anh yêu quý ...
Nghe gọi , Dương Qua thích chí và cũng buồn cười nên vui vẻ nói :
- Thôi được rồi . Biết nghe lời thì tôi cũng chữa cho để khỏi đau đớn tội nghiệp . Còn lại chín trăm mấy chục lần nữa thì tạm cất một bên để dành . Sau này lúc cần sẽ đem ra gọi nhé .
Nói rồi cúi xuống mở cúc áo định cởi hết xiêm áo của nàng .
Lục vô Song mắc cỡ quá nạt lớn :
- Thôi đi , làm gì lạ thế ?
Dươn Qua dừng tay , nhìn mặt nàng đáp :
- Có khám kỹ mới tìm ra chứng bệnh . Nhìn bên ngoài làm sao biết được mà hòng chữa với chuyên . nếu không chịu cho cởi thì tôi cũng không thể nào chữa nổi .
Lục vô Song gượng cười nói :
- Thôi tuỳ ý , muốn cởi thì cởi đi .
Loay hoay một lúc lâu vẫn chưa xong , nàng mắc cỡ quá hỏi nhỏ :
- Sao , chữa được không mà rị mò hoài , lâu thế ?
Dương Qua lắc đầu bảo :
- Sao nôn nóng vậy . Đã chữa phải chu đáo chứ đâu hấp tấp sao được .
Nga lúc đó bên ngoài có tiếng xì xào . Một người nói lớn :
- Thế nào con ấy cũng ẩn nấp trong khu vực này . Hãy chịu khó tìm thêm latý nữa ắt sẽ gặp .
Nhận thấy qua giọng nối của Xích luyện Tiên tử Lý mạc Thu nên Lục vô Song sợ quá , mặt mày xanh lét , mát ngó láo liên , mồ hôi xuất đầy mình . Nàng quên đau nắm tay Dương Qua hỏi nhỏ :
- Làm sao bây giờ . Sư phụ đã đến tìm ta đó . Nguy quá !
Dương Qua cũng ngại lắng tai nghe nữa .
Kế đó có tiếng người đàn bà khác nói tiếp :
- Cứ nhìn con dao cong vòng ghim trên lưng hắn thì đích thị là con dao của sư phụ rồi , không còn nghi ngờ gì nữa .
Đó là tiếng của Hồng lăng Ba .
Nhắc lại thầy trò Lý mạc Thu khi tìm cách thoát được khỏi Cổ Mộ đài thì về ngay Xích hà trang . Đến nới thấy Lục vô Song đã trốn mất thì Lý mạc Thu cũng chẳng them quan tâm mấy
nhưng sau khi xem xét lại đồ đạc thấy mất tập " Ngũ độc bí truyền " thì Lý mạc Thu rụng rời lo lắng . Sở dĩ tren võ lâm , anh hùng thiên hạ nể sợ nàng là do môn " Ngũ độc thần chưởng " và môn " Băng hồn ngân châm " chứ đâu phải vì võ công cao siêu hay vì bản lĩnh của nàng . Trong sách này có ghi chép tất cả bí thuật của hai môn độc đáo kia . nếu chẳng may để lọt vào tay kẻ khác họ sẽ đem ra truyền cho dạy các phái , rồi thiên hạ mọi người đều biết ngay cả những môn giải độc cũng không còn bí mật nữa . Chừng ấy danh tiếng của Xích luyện Tiên tử có ra gì nữa đâu .
Lý mạc Thu đã luyện sách này tinh thục rồi đem cất giấu nới Xích hà trang , chẳng may Lục vô Song biết được , ăn cắp mang đi mất thì quả là một mối tai hoạ vô cùng to lớn đối với nàng .
Lý mạc Thu giận quá lập tức cùng đệ tử Hồng lăng Ba đuổi theo truy nã .
Nhưng ngại vì Lục vô Song đã trốn đi từ lâu , biết đâu mà tìm . Vì vậy nên hai thầy trò phải chịu khó lạn lội khắp chỗ để dò la thăm hỏi , tốn không biết bao nhiêu công phu tiền bạc mướn thuê , từ đô thị đến thôn quê nhưng vẫn chưa gặp .
Một chiều ảm đạm , sương trắng phủ đầu non ,ánh tà dương vừa khuất núi . chim rừng cũng ríu rít kêu nhau vè tổ thì thầy trò Lý mạc Thu vừa đến một vùng gần ải Đông Quan .
Cả hai thầy trò cũng nhau đi tìm một quán trọ nghỉ tạm một đêm , ngày mai đi tìm nữa .
Cơm nước xong xuôi , hai thầy trò ngồi nơi quán trọ nhìn ra đường . Thấy ở phía góc chợ có một nhóm ăn xin đang tập trung về , tranh nhau chỗ ngủ .
Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:
- Bọn ăn xin ở rải rác khắp nơi, chỗ nào cũng đến, tất nhiên biết được nhiều người, nghe được nhiều chuyện, ta thử đến hỏi thăm, may hỏi ra tung tích của hắn cũng chưa biết chừng.
Hai thầy trò rảo bước lại gần bọn ăn xin nghe ngóng.
Vừa đến nơi bỗng thấy đàng xa có một người ăn xin cõng trên lưng một đồng nghiệp khác đang bị thương, xăm xăm về hướng này, xung quanh có trên mười tên khác đi theo hộ vệ, người nào cũng mang bị và chống gậy.
Lý-mạc-Thu đưa mắt nhìn thấy trên lưng người ấy có ghim một lưỡi dao mỏng, lưỡi cong vòng như vành cung, chính là con dao của nàng do Lục-vô-Song lén cắp mang đi.
Lý-mạc-Thu chạy lại gần thì người ăn mày ấy phân bua cùng các bạn đồng nghiệp:
- Tôi vừa bị một con bé thọt chân phóng đao này vào lưng đấy.
Nghe được manh mối, Lý-mạc-Thu mừng quá, bảo đệ tử:
- Nếu vậy thì hắn vẫn còn lẩn quẩn gần đây chưa đi đâu xa. Mau mau đi tìm, nhất định phải gặp.
Thế rồi không kể đêm tối, hai thầy trò cùng nhau đi kiếm ngay.
Khi đến tòa cổ miếu, nhìn trước sân có một đống lửa đã tàn chỉ còn leo lét một vài đom đóm, thoáng đâu đấy có mùi máu tanh tanh.
Dưới bóng dáng lờ mờ, Lý-mạc-Thu thấy trên mặt đất có một vài vũng máu khô rơi rớt, do cuộc đánh nhau vừa lưu lại.
Thế là hai thầy trò cùng nhau đi thẳng vào tòa miếu cổ, gươm cầm tay, để ý nhìn quanh khắp nơi quyết tìm cho ra phen này.

Hồi 23

Thoát nạn ăn mày gặp lại Lý-mạc-Thu

Trong miếu, Lục-vô-Song đang nổi cơn đau gắt, bỗng nghe tiếng nói bên ngoài rõ ràng là của sư-phụ cùng sư tỷ nàng thất kinh hồn vía than thầm:
- Thôi, phen này chắc chết không tránh khỏi nữa!
Thình lình nghe soạt, một bóng vàng loang loáng từ cửa sổ bay vào. Lục-vô-Song ngước lên nhận rõ là Sư-tỷ Hồng-Lăng-Ba. Xưa nay Lục-vô-Song đối với Hồng-lăng-Ba một niềm kính trọng cho nên khi trông thấy không dám bỏ lễ, gắng gượng đứng lên vái chào. Hồng-lăng-Ba thấy Lục-vô-Song đã phạm kỷ luật sư môn, gây thành tội lớn, không thể nào nương tay được, cho nên quyết sát hại cho rồi. Nàng vừa vung kiếm lên định đâm một nhát đổ ruột tên học trò phản bội thì bỗng nghe "choeng" một tiếng, thanh gươm bị Lý-mạc-Thu gạt ngang rơi xuống đất. Hồng-lăng-Ba đang ngơ ngác thì Mạc-Thu đã mỉm cười bảo:
- Khoan giết đã, ta có chuyện cần hỏi nó.
Rồi đưa mắt nghiêm nghị ngó Lục-vô-Song khẽ hỏi một cách dịu dàng:
- Sao ngươi không làm lễ chào sư-phụ?
Lục-vô-Song thừa rõ tánh tình Lý-mạc-Thu vô cùng ác độc, phen này dù van xin khóc lóc cũng không hy vọng được hắn dung tha, cho nên quắc mắt nhìn lên trả lời:
- Mi là kẻ thù muôn đời đã sát hại cả gia đình ta, đâu có thầy trò gì mà hòng chào hỏi?
Lý-mạc-Thu chiếu cặp mắt sáng như gươm, lạnh như tiền, quét lên mặt Lục-vô-Song, chẳng hề lộ vẻ giận hờn hay bực tức. Hồng-lăng-Ba đứng một bên nhìn sư muội mà đem lòng thương hại, nhưng chẳng dám thốt lời gì.
Lục-vô-Song trừng mắt nhìn lại, luôn luôn giữ thái độ cương ngạnh không hề hoảng sợ.
Ba người trừng trừng ngó nhau không nháy mắt. Không khí căng thẳng, nặng nề, khó thở.
Một lúc sau, Lý-mạc-Thu chậm rãi hỏi:
- Sách của ta đâu, mi hãy giao nộp lại cho ta.
Lục-vô-Song đáp gọn mấy tiếng:
- Sách ấy bị một đạo sĩ cướp mất rồi.
Lý-mạc-Thu nghe nói rụng rời, băn khoăn lo ngại:
- Sách "ngũ độc bí truyền" mà để lọt vào tay một kẻ khác thì làm sao chiếm lại được. Thế là bao nhiêu điều bí mật bị chúng khám phá ra rồi còn chi nữa? Thật vô cùng nguy hiểm!
Lục-vô-Song thấy Lý-mạc-Thu chẳng trả lời, cười lạt một tiếng mặt lạnh như băng, thì biết hắn đang toan tính hại mình đây cho nên lăm le tìm mọi cách để tẩu thoát.
Tuy vậy nàng vẫn nghĩ tới Dương-Qua:
- Lúc này mạng ta như chỉ mành treo chuông, chết sống kể từng giây từng phút. Còn thằng Ngốc, không biết hắn trốn tránh xó nào rồi. Biết đâu hắn có mưu hay giải thoát cho mình được cũng nên.
Đang phân vân với điểm hy vọng cuối cùng như ánh đom đóm giữa đêm khuya, thình lình có tiếng bồm bộp rộn lên, và một con trâu to lớn bên ngoài hùng hổ lao vào như gió lốc.
Lý-mạc-Thu giật mình dòm lại thấy một con trâu mộng to lớn sừng trái có buộc một thanh đao sáng quắc, sừng phải có buộc một bó đuốc đang cháy rực rỡ, ầm ầm xông vào cúi đầu lia cặp sừng vào phía hai thầy trò, dáng điệu vô cùng dũng mãnh.
Hai người vội phi thân nhảy ra một bên né tránh.
Con trâu được thế lồng lên chạy quanh một vòng rồi trở lộn lại đâm sầm ra cửa lẹ làng như tên bắn.
Trong phút chốc trâu đã đi xa mất dạng chỉ còn le lói một điểm sáng sáng trên sừng.
Thấy con trâu dị kỳ như vậy, Lý-mạc-Thu cũng ngạc nhiên không hiểu trâu của ai, vì sao có đao va đuốc cột trên sừng và nguyên nhân nào đến đây một tý rồi lại quay đi ngay?
Khi trở lại chỗ cũ, hai người cùng kinh ngạc và đồng la lên một tiếng. Lục-vô-Song đã mất dạng từ bao giờ rồi.
Tức thì cả hai tung mình chạy ra ngoài nhảy lên nóc miếu, lùng khắp bụi cây nhưng vẫn không tìm thấy.
Lý-mạc-Thu đoán có lẽ con trâu tác quái vừa rồi là nguyên nhân của sự biến đổi nầy cho nên hai thầy trò nhắm hướng đó, nhìn ánh đuốc chập chờn le lói đàng xa mà phi thân theo miết.
Vừa chạy theo vừa suy nghĩ:
- Nhờ có ánh sáng ngọn đuốc ta thấy quả trên lưng trâu không có người ngồi. Hay là có kẻ nào tinh ý, cho trâu chạy vào gây náo loạn để mình sơ ý rồi giải cứu Lục-vô-Song đi một nẻo khác chăng?
Nàng gia tăng tốc độ mau hơn, quyết theo kịp con trâu xem thử. Trong phút chốc đã theo kịp, dùng khinh công lao vút lên mình trâu rồi đưa mắt quan sát trước sau, trên dưới không thấy một bóng hình ai hết.
Lý-mạc-Thu bực mình, nhảy xuống đất hú lên một hơi dài để ra dấu hiệu gọi Hồng-lăng-Ba lại.
Hai người giáp mặt, Lý-mạc-Thu bày tỏ ý nghĩ của mình cho đệ tử nghe và nói rõ ý định mới:
- Bây giờ chúng ta phân công, người đi một phía. Ta đi Bắc sang Nam và mi từ Đông sang Tây, thế nào cũng tìm được hắn.
Nguyên do lúc thầy trò Lý-mạc-Thu vừa bước chân vào miếu, Dương-Qua đã lẹ làng phóng qua cửa sổ nhẹ nhàng như tàu lá rụng, núp đó nhìn vào. Chàng lo lắng cho số mạng của Lục-vô-Song, phen này chắc Lý-mạc-Thu không tha thứ được. Nếu không cứu thoát kịp thời thì không thể nào sống nổi với thầy trò con ác phụ.
Trong lúc đang băn khoăn lo nghĩ, Dương-Qua thấy bóng con trâu đang cúi đầu gặm cỏ ngoài xa xa, bèn nghĩ ra một kế, buộc đao và đuốc lên đôi sừng. Truyền chân lực thêm cho nó rồi giục thẳng vào miếu.
Chàng dùng thuật sà hình bám sát dưới bụng trâu, trong bóng tối mơ hồ không thể nào nhận thấy nổi.
Nhân lúc ấy thày trò Lý-mạc-Thu tránh qua một bên cho trâu lồng trong miếu, Dương-Qua đã lẹ làng kẹp Lục-vô-Song theo rồi giục trâu chạy ra cửa tẩu thoát.
Về sự việc xảy ra quá bất ngờ và cấp bách cho nên một kẻ tinh tế như Lý-mạc-Thu cũng không đề phòng nổi.
Trâu chạy một đỗi, đến một vùng hẻo lánh rậm cây. Dương-Qua bồng Lục-vô-Song nhảy vào một đám cỏ cao để trốn, con trâu cứ mang đuốc tiếp tục giông đi như cũ. Nhờ vậy cho nên Lý-mạc-Thu đuổi kịp cũng không trông thấy người nào cả.
Lục-vô-Song trải qua một cơn kinh hoàng đã mê man không biết gì hết. Một chập sau nàng cựa mình mờ mắt ú ớ muốn nói.
Dương Qua vội vàng bụm miệng nói nhỏ vào tai:
- Lặng im ... đừng nói ... nguy lắm .
Ngay lúc ấy có tiếng chân người giẫm lên cỏ khô xào xạc , có tiếng Hồng lăng Ba nói lớn ;
- Lạ quá, đệ tử tìm khắp nơi mà không thấy gì hết .
Bỗng đằng xa có tiếng Lý mạc Thu vọng lại :
- Chắc bọn nó chạy trốn xa rồi . Thôi chúng ta đi nơi khắc tìm kiếm vậy .
Lắng nghe tiếng chân Hồng lăng ba đi xa dần rồi mất hẳn . Rừng đêm lắng đọng dưới màn sương âm u cô tịch như cũ .
Lục vô Song đã hồi tỉnh , tình thần sáng suốt , mở mắt nhìn trăng , thở dài một tiếng não ruột .
Dương Qua vội vàng đưa tay bụm miệng ra dấu bảo giữ im lặng .
Lục vô Song dáo dác ngó quanh , thấy mình nằm gọn trong lòng Dương Qua thì thẹn quá vội vàng đưa tay đẩy chàng ra lồm cồm toan đứng dậy . Dương Qua khẽ nói nhỏ vào tai nàng :
- Nằm im , không cực cựa , sư phụ cô sắp đến đây ngay bây giờ .
Kế đó có tiếng Lý mạc Thu vàng lên rõ rệt cách đó không bao xa :
- ủa , cũng chẳng có nó ở đây , lạ quá !
Lục vô Song hết hồn nghĩ :
- Nếu thằng Ngốc này không tinh ý thì mạng mình nguy rồi .
Thì ra Lý mạc Thu vốn con người ranh mãnh xảo quyệt vô cùng . Miệng thì bảo đệ tử đi nơi khác nhưng kỳ thật nàng thì triển tài khinh công lướt trên mặt cỏ đảo lại mấy vòng để tìm nữa .
Chỉ một ly nữa là Lục vô Song lầm quỷ kế của nàng , nếu không được Dương Qua che đậy và ngăn cản kịp lúc .
Lúc bấy giờ Dương Qua đưa mắt nhìn quanh thật kỹ , lắng tai nghe ngóng thêm lần nữa , chắc chắn thầy trò Lý mạc Thu đã đi xa rồi mới thôi bịt miệng Lục vô Song rồi phủi tay áo đứng dậy vừa cười vừa bảo :
- Thoát nạn rồi , hú vía !
Lục vô Song nguýt chàng và nũng nịu nói :
- Sao không ôm nữa đi ? Rõ khéo thừa cơ !
Dương Qua mỉm cười đáp :
- Bấy giờ cô để cho tôi " tiếp cốt" để chữa lành vết thương , ngày mai còn đi trốn . Lỡ hắn đến tìm nữa làm sao trốn thoát được . Bằng lòng không ?
Nàng gật đầu ưng chịu .
Dương Qua ngại nếu dùng thuật "tiếp cốt " hơi đau , lỡ nàng la lên động đến Lý mạc Thu nghe được tìm lại thì nguy lắm , nên dùng cách điểm huyệt " ma nhuyễn " thay thế .
Chàng suy tính xong đưa tay cởi áo bày ngực nàng rồi tháo luôn lớp vải băng ngang nơi vúi , miệng lẩm bẩm :
- Ngàn vàng chưa quý bằng đôi quả tuyết lê của mỹ nhân .
Khi hai nhũ hoa của Lục vô Song vừa lộ ra , Dương Qua bỗng thấy tim đập từng hồi , tai run , mặt nóng , ngồi thần thờ như người mất trí , không cử động gì đựoc nữa .
Lục vô Song chờ mãi không thấy chàng làm gì thêm sẽ hé mắt nhìn thử , thấy mặt mày Dương Qua ngơ ngác như người mất trí , mắt mở mày dựng , hình như đang suy tính một điều gì vô cùng quan trọng nên e ngại vội nhắm mắt không ngó nữa .
Trong giấy phút yên lặng huyền ảo thiêng liêng ấy , Dương Qua cảm thấy từ thân hình nàng có một mùi hương thơm ngát toả ra thoảng như mùi hoa lài khiến tâm hồn chàng đê mê muốn thoát tục . Chàng lẩm bẩm :
- Phải chăng đây là hương thơm trinh nữ , ta mới thưởng thức lần đầu ?
Toàn thân chàng rạo rực như nhắp ly rượu mạnh . Lục vô Song cũng thấy cõi lòng xao xuyến, đôi mắt lờ đờ ngước nhìn lên hỏi nhỏ :
- Xong chưa ? Sao lâu vậy ?
Hỏi xong , nàng nhắm mắt lại ngay , nghiêng đầu qua nới khắc , mắt lim dim .
Nghe nhắc , Dương Qua sực tỉnh vội vàng đưa tay gạt tấm bắng lụa . Tay vừa chạm trúng thớ thịt hồng hồng trên làn ngực trắng phau của nàng trinh nữ , chàng bỗng cmả thấy như một luồng điện giật nên rụt lại ngay .
Lục vô Song nằm ngửa , phơi ngực dưới trăng . Làn gió mát mơn man thoáng qua khiến nàng có cảm giác như bàn tay ai đang mơn trớn , hé mắt ra nhìn nữa . Thấy Dương Qua cứ ngồi yên , đôi mắt ngơ ngác nhìn ngực mình như phỗng đá không làmgìcả , nàng bực mình quá khẽ gắt :
- Làm gì mà đờ người ra như vậy hở Ngốc ?
Dương Qua giật mình , lấy cam đảm , đưa tay lấy tấm dải trắng lên rồi xoa bóp nắn lại các khớp xương cho nàng .Tay chàng xoa đến đâu hình như da nàng toát ra một luồng điệm âm ấm dịu dịu khiến chàng phải e dè không dám bóp mạnh .
Khi bóp lần xuống dưới , Lục vô Song nói :
- Thôi đi .Mắc cỡ quá , chịu không được . Hay là ... nhắm bớt mắt đi để ... ta cởi bớt phía dưới , kỳ quá ...
Thẹn qúa , nói đây nàng xúc động nấc lên khóc rấm rứt .
Dương Qya lo lắng vội an ủi :
- Cô nín đi , tôi xin nhắm mắt lại để cô được tự nhiên .
Thấy chàng thật tình chặt nhắm đôi mắt , ngước mặt nhìn lên trăng , Lục vô Song vội vàng co đùi lên trút hết y phục phía dưới ra tạm giữ một mảnh xiêm che từ rốn đến đầu gối và thúc gục :
- Rồi đấy , mau len chứ !
Dương Qua định tĩnh tâm thần , lại bụi gần đấy bẻ bốn cành láa . Hai cành che nơi bụng , hai cành lót bên dưới lưng rồi dùng vỏ cây xoa bóp khắp người nàng cho nóng , nắn lại hết mấy đầu xương rồi đưa tay điểm vào huyệt đạo .
Lục vô Song khẽ mở mắt nhìn thử . Dưới ánh trăng tá sáng bạc mặt Dương Qua lồ lộ rất tuấn tú khôi ngô . Hai mắt chang sáng trưng , đôi má hồng hào , môi cắn chỉ, tươi như son , luồng nhỡn tuyến quét lên người nàng như hai ánh điện . Nàng có cảm giác đê mê thích thú và nhìn thấy chàng có vẻ dễ yêu mến hơn là một thằng ngốc như mình thường gọi .
Nàng nhắm mắt lại , lắng tai nghe máu chảy rần rật thịt xương bốc nóng , chuyển động khắp châu thân , có lúc tăng tăng như kiến bò , có khi đau nói như ong cắn , sinh lực bỗng trở lại dồi dào hơn , tay chân cảm thấy khẻo hơn , những sự mỏi mệt đau nhức lúc trước dần dần tiêu tan hết .
Lục vô Song thấy hối hận :
- Thằng Ngốc này có bản lĩnh vô cùng cao sieu tinh diệu . nếu không có hắn thì mạng ta đã mất mấy lần rồi chứ đâu sống sót tới giờ phút này được . Một tay phi thường như vậy mà mình cứ một ngốc , hai ngốc , hết mi đến ta thật là lố bịch .
Nghĩ xong , nàng dịu dàng hỏi :
- Này cậu , bây giờ cuậ định đi về đâu đây ?
Dương Qua hỏi :
- Cô muốn hỏi gì ?
Lục vô Song đáp :
- Cậu định đi nơi khác , về một chốn nào ?
Dương Qua đáp :
- Còn cô , cô định đi về đâu chưa ?
Lục vô Song đáp :
- Tôi muốn về Giang Nam thăm quê nhà nên không thể đi quá xa được .
Lục vô Song rầu rầu đáp :
- Như vậy , cậu cứ đi đi , tuỳ ý . Còn về phần tôi , để tôi nằm chết nơi đây cũng được .
Lời nói em đềm , vừa lẩy vừa trách khiến Dương Qua cảm động , chưa biết đối đáp hay xử trí thế nào cho hợp . Liếc mắt nhìn nàng thấy vẻ mặt u sầu , đượm đầy nước mắt , môi mím , mắt nhắm tỏ vẻ dỗi hờn giận dữ . Sắc diện nàng lúc này giống hệt như Tiểu long Nữ khiến Dương Qua cảm thấy cõi lòng rào rạt , không đành dứt khoát bỏ đi .
Trong giây phút phân vân bỗng chàng có ý nghĩ ;
- Hay là mình cứ đưa nàng đến Giang Nam . biết đâu làm ơn cho người rồi trời sẽ nhỏ phước khiến xui gặp được Tiểu Long Nữ cũng nên . Cũng có thể lúc này cô nương mình đi về xứ Giang Nam rồi càng thuận tiện .Tuy nghĩ thế Dương Qua cũng chứa dám tự ý đưa chân vào một cuộc phiêu lưu không cần thiết trong lúc mình ra đi đã có một định hướng nhất định là tìm Tiểu Long Nữ.
Nhưng trước lời nài nỉ thiết tha của Lục-vô-Song chàng cũng không thể từ chối được.
Sau một lúc phân vân, tranh chấp chàng lắc đầu thở ra một cái rồi cúi xuống bồng nàng đứng dậy.
Lục-vô-Song ngơ ngác hỏi:
- Bây giờ cậu định bế mình đi đâu đây.
Dương-Qua cười đáp:
- Đi sang Giang Nam về thăm quê nhà chứ còn đi đâu nữa.
Lục-vô-Song cười lớn đáp:
- Từ đây đến Giang Nam xa cách lắm bế đi sao nổi.
Tuy miệng nói thế nhưng thâm tâm nàng vẫn muốn chàng cứ bế mãi mình vào lòng.
Vì ngại thầy trò Lý-mạc-Thu bắt gặp nên cứ bồng Lục-vô-Song theo nẻo đường vắng vẻ đi hoài. Chàng trổ tài khinh thân chạy lướt trên mặt đất mau hơn ngựa sải, nhưng Lục-vô-Song vẫn thấy nằm êm ru không bị dằn xốc đau đớn tí nào.
Lục-vô-Song lơ đễnh nhìn hai bên đường thấy cây cối xua nhau chạy dặt về phía sau liên tiếp, hai bên tai gió lộng vù vù. Nếu so với Lý-mạc-Thu, khinh công của chàng không kém sút tý nào. Bất giác nàng tự nhủ:
- Không ngờ chàng ngốc mà bản lãnh khinh người như vậy?
Hắn còn trẻ lắm mà làm sao đã có một nghệ thuật quá ư siêu phàm như vậy nhỉ. Âu cũng là một sự tình cờ may mắn cho mình, mới gặp được một tay điêu luyện dường ấy.
Lúc bấy giờ phương Đông đã ửng đỏ, vừng Thái dương sắp mọc, ánh ban mai đã dần dần le lói trên cành cây. Chim rừng đã kêu nhau ríu rít.
Lục-vô-Song hé mắt nhìn lên thấy Dương-Qua tuy bị sạm đi vì nắng gió phong trần, nhưng mày thanh, mắt sáng, mũi cao, cằm vuông, trán rộng, rõ ràng là một trang anh tuấn nam nhi, càng trông càng đẹp. Nàng bỗng thấy một cảm giác dìu dịu chuyền khắp cơ thể rồi từ từ nhắm mắt ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay.
Khi mặt trời lên cao độ một sào, Dương-Qua cũng vừa đến một gốc cây cao tàn lá mát mẻ, nên dừng lại se sẽ đặt nàng nằm trên bãi cỏ rồi ngồi khích một bên nghỉ sức.
Lục-vô-Song mắt nhìn chàng, mỉm cười hỏi:
- Anh có đói không, tôi thấy đói quá.
Dương-Qua đáp:
- Đói chứ! Thôi, để chúng ta cùng đi một vòng nơi đây thử may ra có hàng quán nào tìm thức ăn đã dạ nhé.
Không cần nàng đáp, chàng đứng dậy liền. Vì phải bồng suốt đêm, tay đã mỏi, nên lần này Dương-Qua để nàng ngồi trên vai mình rồi bước đi.
Lục-vô-Song ngồi trên vai Dương-Qua, một chân trước, một chân sau như cỡi ngựa. Nàng tung tăng đôi chân, vui vẻ cười vang và hỏi lại:
- Anh ơi, tên họ là gì, cho biết đi để tiện xưng hô, chẳng lẽ nơi chỗ đông người cứ thằng ngốc mà réo thì nghe sao cho được.
Dương-Qua đáp:
- Tôi chỉ có tên "Ngốc", ngoài ra không còn họ tên nào khác nữa. Xưa nay thiên hạ đã gọi "Ngốc" quen rồi, đâu phải chỉ một mình cô dâu mà e ngại.
Lục-vô-Song thấy chàng cố giấu tên cũng bực mình nhưng chẳng biết nói sao, hỏi thêm:
- Anh không muốn nói tên, giấu họ cũng được. Nhưng Sư phụ của anh là ai, có cho biết được không?
Xưa nay Dương-Qua kính trọng nhất là Sư phụ. Vừa nghe Lục-vô-Song nhắc tới danh từ thiêng liêng khả kính ấy, dạ chẳng vui nhưng vẫn đáp cộc lốc:
- Sư phụ tôi là Cô nương tôi chứ ai?
Lục-vô-Song suy nghĩ:
- à, sư phụ chàng là một người đàn bà! Nếu vậy võ nghệ của môn phái này phải tinh diệu lắm.
Nàng hỏi thêm:
- Cô nương của anh thuộc môn phái nào vậy?
Dương-Qua chỉ đáp vớ vẩn cho qua chuyện.
Sư-phụ tôi không khi nào đi đâu xa và cũng không rõ thuộc môn phái nào hết.
Lục-vô-Song thấy cứ đáp lần khần mãi, phát cáu lên gắt:
- Ngốc ơi, sao giấu mãi thế, sở dĩ ta muốn hiểu môn phái chàng là vì thấy võ công chàng kỳ diệu quá.
Dương-Qua cũng gắt lại:
- Tôi học ai kệ xác tôi, hỏi mãi ích gì? Tôi học cây học đá đấy!
Lục-vô-Song không bực tức nữa mà suy nghĩ:
- Chàng này giả bộ ngơ ngốc, chứ người bản lãnh như vậy làm sao ngốc được, vì đã ngốc làm sao học được võ công? Cứ xem riêng thuật điểm huyệt cũng có thể đoán chàng đã được danh môn chính phái chân truyền võ thuật không sai.
Nàng ôn tồn hỏi thêm:
- Này cậu, còn chuyện này, đừng quanh co dối ta nữa nhé. Ta muốn biết tại vì sao cậu lại tận tình giúp đỡ và cứu ta mấy lần như vậy?
Dương-Qua cũng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi. Nghĩ suy một chập rồi trả lời:
- Vì Cô nương tôi bảo vậy nên tôi mới phải cứu giúp cô tận tình.
Lục-vô-Song ngạc nhiên quá hỏi nữa:
- Vậy cô nương cậu là ai, tên gì?
Dương-Qua đáp:
- Tôi đã nói rõ cô nương tôi là Cô nương mà sao cứ hỏi đi hỏi lại hoài như vậy?
Lục-vô-Song ngán quá, chỉ biết thở dài rồi làm thinh, vẻ mặt rầu rầu.
Dương-Qua hỏi:
- Tại sao cô có vẻ buồn bã vậy?
Lục-vô-Song chép miệng rồi làm thinh.
Dương-Qua hỏi nữa:
- Sao buồn vậy cô?
Lục-vô-Song gắt:
- Người ta không muốn nói mà cứ hỏi hoài. Ta chẳng có gì buồn hết. Hỏi làm chi?
Mỗi lần nàng nóng giận thì đẹp lắm và giống Tiểu-long-Nữ quá. Chàng muốn ngắm một tý cho thỏa lòng, nhưng chẳng lẽ ngửa người lên mà nhìn cho nên đành làm thinh ngó xuống đất bước đi hoài.
Chẳng bao lâu đến thị trấn nhỏ. Mọi người thấy một trai một gái vác nhau đi lạ đời quá nên tò mò kéo nhau lại xem, bàn tán om cả lên.
Hai người làm lơ đi thẳng vào một quán ăn, gọi hai phần cơm và ngồi đối diện nhau để ăn. Lục-vô-Song ngửi mùi hôi hám từ trong người Dương-Qua bốc ra khó chịu quá nên bảo chàng:
- Này cậu, qua bên bàn kia ăn riêng đi. Để đây mặc ta.
Dương-Qua lẳng lặng bưng bát cơm và một tô canh sang bàn bên cạnh ngồi ăn.
Thấy Dương-Qua cứ chập chập lại nhìn mình say đắm. Lục-vô-Song thấy ngượng quá nói thêm:
- Cậu đi lại bàn xa kia kia. Ngó ra ngoài mà ăn. Nhìn hoài ai nuốt cho trôi.
Dương-Qua cười và làm theo.
Chàng lẳng lặng ngồi ăn, nhìn thẳng ra cửa sổ.
Lục-vô-Song thấy miệng đắng quá nuốt không vô, ngồi để đũa ngó mông ra ngoài.
Bỗng đau có tiếng ăn xin thưa bẩm rối rít ở phía trước:
- Nhờ bà con bố thí cho chút cơm cặn, canh thừa để đỡ đói.
Rồi lại có tiếng nói:
- Xin Cô nương ra ơn bố thí cho một bữa ăn.
Ngay trước tiệm ăn, có bốn người ăn xin, vai mang bị, tay xách gậy hướng vào phía nàng xin nữa.
Lục-vô-Song nhớ lại trước đây đã dùng lưỡi dao vành cung đâm vào lưng một lão ăn mày. Hôm nay lại gặp chúng, thế nào họ cũng nhận diện ra, nên chưa biết tìm cách nào để lẩn trước.
Đang lúc phân vân, bỗng tên cao nhất đứng giữa nói lớn:
- à, hắn đây rồi. Phen này mi đừng hòng trốn thoát khỏi tay bọn ta.
Người phía sau hết cũng nói tiếp:
- Nơi đây lên trời không được, xuống đất cũng không xong, con ơi!
Nàng đưa mắt nhìn thấy người nào cũng kè kè sáu cái túi, tay lăm lăm một cây gậy to tướng với một cái bát xin cơm. Ai nấy cũng hầm hầm đều bước sấn tới.
Khi xưa, Lục-vô-Song đã có lần được Hồng-lăng-Ba kể chuyện trong Cái Bang và phân tách tài nghệ từng loại ăn xin. Những kẻ mang đến 6 túi đã thuộc vào hạng cao, có bản lãnh khá lắm.
Khi ấy trong tiệm có vẻ xôn xao. Người chủ tiệm thấy bốn vị cao cấp trong phái "Sáu túi" cùng đến đây gây sự, biết chuyện chẳng lành, vội đưa mắt ra hiệu cho bọn tửu bảo tìm cách chiều chuộng đừng khiêu khích họ làm gì.
Lục-vô-Song còn đau chưa mạnh, sức lực đâu chống cự lại với bốn người nên chỉ lo tìm kế thoát thân. Nếu cùng lắm, nàng chỉ trông cậy vào tài lực của Dương-Qua may ra cứu thoát được mình chăng.

Dương-Qua điềm nhiên ăn uống như chẳng có việc gì xảy ra. Thỉnh thoảng nhìn sang hỏi:
- Cô nương ăn đi chứ, sao có vẻ bơ phờ vậy? Cá ngon lắm ăn đi cô!
Lục-vô-Song chẳng đáp lại, cố cúi mặt nhìn xuống mâm cơm như để tránh thoát tám con mắt xoi bói của bốn người ăn mày sáu túi đang chiếu thẳng vào mình và nói lớn:
- Sao, cô nương không bố thí cho một bát cơm hay tô canh? Nếu không thì xin Cô nương một lưỡi dao cũng được.
Lục-vô-Song thấy đáp không tiện mà làm thinh cũng chẳng yên thân.
Một tên khác nói:
- Bọn ta tuy mang danh ăn mày nhưng xử sự lúc nào cũng đường đường chánh chánh chứ không bao giờ ỷ đông hiếp ít đâu. Vậy để tùy cô liệu định trước.
Lục-vô-Song biết bọn này đã cố tình gây chuyện, chẳng lẽ cứ làm thinh hoài nên gắng gượng đứng dậy thủ thế phòng chúng tấn công.
Ngay lúc đó Dương-Qua bước lại hỏi lớn:
- Chuyện gì vậy cô?
Bốn tên ăn mày nhất tề vung gậy xáp đến. Dương-Qua chúm miệng, phì ra một cái, cả nắm xương cá từ miệng chàng bắn tung vào đúng huyệt "khúc trì" của bốn người ăn mày.
Bị điểm huyệt bất ngờ, cả bốn người cảm thấy toàn thân tê tái tay chân rời rã, buông rớt cả gậy lẫn bát đứng không vững, lảo đảo tìm chỗ để bám khỏi ngã.
Dương-Qua lập tức bồng Lục-vô-Song để lên vai nói gấp:
- Chạy mau, kẻo nguy lắm!
Lục-vô-Song run run hỏi ngập ngừng:
- Bây giờ... biết chạy đâu... đây?
Khi Dương-Qua để nàng lên vai, phi thân chạy đi Lục-vô-Song quay đầu nhìn lại thì lạ quá cả bốn tên ăn mày đã đi đâu mất chỉ thấy bốn chiếc gậy và mấy cái bát bể nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Nàng vội hỏi Dương-Qua:
- Bọn họ đi đàng nào mất rồi?
Dương-Qua đáp:
- Có lẽ họ đánh cô không được đã kiếm ngõ khác đi rồi, hoặc gọi thêm đồng bọn cũng chưa biết chừng.
Nàng ngẫm nghĩ mãi không hiểu vì sao, bèn đưa một đinh bạc cho Dương-Qua bảo:
- Hay chúng mình tìm mua cho một con lừa đi đỡ chân, chả lẽ cứ cõng nhau hoài họ bàn tán khó chịu quá.
Mua được lừa rồi, trả tiền cơm cho tiệm, Dương-Qua bảo nàng lên lưng lừa ra đi.
Lục-vô-Song gượng đau trèo lên lưng lừa, mặt mày nhăn nhó.
Dương-Qua nói:
- Tiếc vì người tôi hôi hám dơ dáy quá chừng, nên không tiện ngồi phía sau để đỡ cô được.
Lục-vô-Song gắt lớn:
- Thôi đi, lúc này đừng nói lắm chuyện nữa.
Nói rồi giật cương cho lừa chạy.
Con lừa chưa thuần tánh, tung bốn vó nhảy tới, hất nàng lăng xuống đất.
Lục-vô-Song còn đau bỗng bị té bất ngờ rêm cả mình mẩy giận quá nạt:
- Ta té mi thích lắm sao, cứ đứng ngó không thèm lại đỡ hộ.
Dương-Qua cười nói:
- Tôi dơ dáy, hôi hám lắm, đâu tiện đứng gần cô mà nâng với đỡ?
Nàng tức quá nên phải dịu giọng:
- Thôi phủi hộ áo quần ta đi.
Dương-Qua cười cười, bước lại phủi.
Lục-vô-Song lại nói:
- Đỡ hội ta lên lưng lừa chứ.
Dương-Qua bồng nàng đặt lên yên. Con lừa thấy có người ngồi lại dợm chân muốn chạy lồng như lần trước.
Nàng nhìn xuống bảo:
- Thôi, dắt hộ nó đi cho rồi.
Dương-Qua đáp:
- Tôi lại gần sợ nó đá lắm.
Lục-vô-Song bực trí quá nhưng cũng tức cười, nghĩ thầm:
Thằng này quá quắt lắm chứ có ngu ngốc tý nào đâu. Hắn muốn trả đũa mình xua đuổi khi nãy đây mà.
Phải ngọt với hắn mới được.
Nàng bảo nho nhỏ:
- Thôi cậu lên ngồi chung với tôi vậy.
Dương-Qua lắc đầu đáp:
- Tôi cũng muốn lắm. Nhưng vì mình mẩy hôi hám quá, e rồi cô không bằng lòng, lại xua đuổi nữa xấu hổ lắm.
Lục-vô-Song giả lả:
- Thôi mà, đừng làm bộ nữa. Sao mà lắm lời thế, ta đã yêu cầu mà còn xua đuổi gì nữa. Sao mà giận dai quá.
Dương-Qua nhoẻn miệng cười rồi nhảy phóng lên phía sau, hai tay ôm nơi vai Lục-vô-Song, đôi chân thúc nhẹ vào hông lừa, khiến nó tung vó chạy nước kiệu mau như gió.
Ngồi trên lưng lừa, Dương-Qua hỏi Lục-vô-Song:
- Bây giờ cô muốn đi về xứ nào đây?
Lục-vô-Song thừa hiểu hễ đi về phía Đông đến ải Đồng-Quan rồi đi theo đại lộ tiến về hướng Nam dễ dàng yên ổn lắm. Ngặt vì lối này bị mấy tên ăn xin chận đường phá rối, nếu bây giờ đi theo đường cũ tất nhiên bè đảng của hắn sẽ chận đường gây sự khó bề đối phó được.
Thà đi theo tiểu lộ qua Trúc-lâm-quan, đến Long-cầu trại rồi theo lối Tử-kinh-quan về thẳng phía Nam cũng được. Lối này tuy phải đi vòng, đường xa thêm mấy đoạn, nhưng không ngại bọn ăn mày đón đường phá rối thuận tiện hơn.
Vì vậy nên nàng đáp:
- Chúng ta nên đi về hướng Đông-Nam thì hơn.
Dương-Qua giục lừa bon bon chạy về phía ấy.
Lừa đến một chỗ chợ đang họp, thình lình có một đứa bé có vẻ con nhà nông dân, đứng chực sẵn đầu đường, đưa tay đón lừa lại, đon đả nói:
- Lục cô nương. Có thư của người gửi cho cô nương đây này.
Nói xong hắn tung lên một bó hoa tươi.
Lục-vô-Song bỡ ngỡ đưa tay đón lấy bó hoa, thì đứa trẻ cũng kiếm đường lánh mất. Nàng nhìn lại thấy bó hoa gồm một số hoa thông thường, chính giữa có cài một bức thư.
Nàng vội bóc ra thấy bên trong viết trên một mảnh giấy vàng, đề vội mấy dòng chữ:
"Tôn-Sư sẽ đến ngay bây giờ.
Hãy tìm lối lánh đi, Gấp lắm".
Chữ viết vô cùng sắc sảo, nét bén như gươm, có lẽ do một bàn tay cự phách văn chương chứ chẳng phải tầm thường.
Xem xong, Lục-vô-Song bồi hồi lo sợ run lập cập nghĩ thầm rằng:
- Vì sao đứa bé này biết được họ của ta? Vì sao kẻ viết thư chắc chắn sư phụ ta sắp đuổi đến?
Thật hết sứ huyền hoặc lạ lùng!
Nàng băn khoăn hỏi Dương-Qua:
- Cậu có biết đứa bé vừa rồi con cháu mà ai, hay là người của cô nương cậu sai đến chăng?
Nãy giờ ngồi sau, Dương-Qua nhìn qua vai nàng đã đọc xong bức thư rồi. Chính chàng cũng hết sức ngạc nhiên về hành tung của đứa bé và lời lẽ trong phong thư. Chàng suy nghĩ:
- Thằng bé xem có vẽ lam lụ chất phác, có lẽ do kẻ nào thuê hay mượn và dặn nó đưa thư dùm chứ không can hệ chi cùng người viết thư. Còn người viết thư thì thật hoàn toàn bí mật. Kể ra họ cũng có hảo tâm mách dùm. Nếu quả thật Lý-mạc-Thu sắp đến đây thì cũng nguy hiểm lắm. Biết tính sao đây cho ổn.
Mặc dầu Dương-Qua đã học được bộ đệ nhất kỳ thư của võ Lâm là "Ngọc nữ tâm kinh" và "Cửu âm chơn kinh" nhưng ngặt vì thời gian quá ít chưa tập luyện được thuần thục thành thử nếu bây giờ có gặp thì hẳn vẫn chưa phải là đối thủ của Xích-luyện Tiên tử.
Vừa suy tư, bỗng nghe Lục-vô-Song gạn hỏi. Dương-Qua đáp liền:
- Tôi không hề quen biết hắn. Chắc hắn không phải là người của cô nương tôi đâu.
Trong lúc đang nghĩ ngợi chưa biết làm gì cho đúng, thình lình có tiếng ca nhạc, sáo đàn từ xa vọng lại. Phía trước lô nhô một đám đông trên mấy chục người, ăn mặc tề chỉnh, cũng rước một cỗ kiệu hoa từ từ đi đến. Có lẽ đây là một đám cưới của nhà ai, đang rước dâu đón rễ gì đây.
Cứ nghe tiếng đàn tấu thì chỉ những bản thông thường trong các đám rước bình dân chẳng có những bài du dương réo rắt của những đám rước xa hoa của các hạng phong lưu quý phái. Tuy nhiên nhạc điệu trầm bổng nghe cũng rất trang nhã êm tai. Kẻ qua đường ai cũng dừng chân đứng lại để nghe.
Dương-Qua thấy trong lúc ban ngày, thanh thiên bạch nhật chốn đồng hoang đường vắng, nếu Lý-mạc-Thu đến đây, biết chỗ nào ẩn nấp cho tiện.
Bỗng chàng nảy ra một sáng kiến và quay sang hỏi nhỏ Lục-vô-Song.
- Lục cô nương, hay là cô tạm chun đỡ vào kiệu cô dâu lánh mặt đi nhé!
Lục-vô-Song đang băn khoăn lo lắng chưa biết tính sao, bỗng nghe hỏi đột ngột có vẻ nửa đùa nửa thật thì phát cáu gắt:
- Ngốc, sao hay đùa bậy bạ vậy.
Dương-Qua cười bảo:
- Không bậy đâu. Tôi thiết nghĩ nếu cô thay đổi áo cưới của cô dâu, may ra sẽ che mắt được Sư-phụ Lý-mạc-Thu. Ngoài ra không còn cách nào hay hơn nữa.
Lục-vô-Song suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Ta giả cô dâu, còn mi trốn đi đàng nào cho người ta khỏi nghỉ?
Dương-Qua khúc khích đáp:
- Tôi sẽ cải trang làm chú rể.
Lục-vô-Song nghĩ:
- Hắn tinh như vậy mà hay đấy, không ngờ thằng ngốc mà có lắm mưu mẹo hay đáo để!
Nghĩ rồi ôn tồn hỏi lại:
- Nhưng làm sao cải trang giả dạng thành cô dâu chú rể bây giờ?
Dương-Qua lặng thinh không đáp. Giục lừa bước mau về phía ấy.
Phàm những con đường làng phần nhiều chật hẹp. Đám rước có kiệu kềnh càng người lại đông, chen lấn nhau đi thành hàng dài, không thể bước qua hai bên vì có nhiều bụi gai, hốc đá. Thấy lừa xăm xăm chạy về hướng ấy, mọi người hết sức sợ hãi vội kêu lớn:
- Xin nhị vị dừng bớt lại kẻo nguy hiểm lắm.
Dương-Qua chẳng đáp, cứ cho lừa đi mau hơn nữa.
Bỗng có hai người tráng đinh vạm vỡ xông đến nắm chặt dây cương thì lừa lại.
Dương-Qua đưa chân đá cho mỗi người một đá té ngửa bên đường xa mấy thước, rồi chạy thẳng tới trước, miệng bảo Lục-vô-Song.
- Tôi cải trang làm chú rể đây này.
Độ mươi thước, chàng gặp một thanh niên tác độ 17, 18 tuổi ăn mặc áo quần mới, đội mũ có kết hoa vàng, ngồi trên con bạch mã vừa chờ tới.
Dương-Qua đưa tay nắm lấy, ném bổng lên cao hai trượng chờ rơi xuống hứng lấy đặt đứng một bên lề. Mọi người hoảng kinh thất vía. Tuy có nhiều trai tráng vạm vỡ nhưng nhìn thấy sức lực và bản lĩnh của Dương-Qua quá cao siêu nên chẳng một ai dám hó hé lời nào. Trong đám có mấy vị bô lão mặc áo rộng xanh vội vàng chạy đến trước mặt chàng chắp tay vái dài thưa rằng:
- Tâu đại-vương, nếu Đại-vương cần dùng bao nhiêu bạc vàng hay của cải, chúng tôi xin dâng nạp để Đại-vương lòng tha cho chú rể một phen.
Dương-Qua ngước mặt lên trời cười ngất và nói với Lục-vô-Song:
- Cô thấy không? Họ gọi tôi bằng Đại-vương. Tôi có làm vua to, chúa lớn nào đâu mà họ gọi thế nhỉ?
Lục-vô-Song lộ vẻ lo âu bảo khẽ:
- Thôi, cậu đừng đùa nữa, tính điều gì thì làm phúc cho mau tiếng nhạc "Loan-linh" trên cổ lừa của Lý-mạc-Thu đã reo vang có lẽ cũng gần đến đây trong chốc lát.
Dương-Qua đứng yên, lặng tai nghe thử. Quả thật đã nghe tiếng nhạc "Loan linh" trên cổ lừa Lý-mạc-Thu reo lên văng vẳng. Xưa nay chỉ có lừa của Xích-luyện Tiên tử mới có buộc loại lục lặc này mà thôi. Chàng cũng thất kinh, bắt đầu lo ngại.
Nguyên Lý-mạc-Thu vốn hay tự cao tự đại cho mình là tay võ nghệ tuyệt luân, trên đời không ai cự lại. Hễ nàng muốn hạ sát kẻ nào chỉ cần in trước một bàn tay máu để cảnh cáo rồi đương nhiên đến giết sau, không thể nào thoát nổi. Để áp đảo tinh thần nạn nhân, nàng dùng máu bôi trên vàng, đúc thành những lục lạc đặt tên "Loan-linh" tiếng kêu lảnh lót, vang đi rất xa, ai nghe tiếng cũng biết nàng sắp đến. Đối thủ của nàng nghe tiếng nhạc "Loan-linh" reo lên chẳng khác nào nghe tiếng hú của tử thần, nên hồn phi phách lạc.
Dương-Qua nghe nhạc rung nghĩ thầm:
- Quả đúng là hắn đã đến gần tới nơi rồi!
Tuy vậy chàng vẫn giữ nét mặt tỉnh khô, cười cười nói đùa cùng nàng:
- Nhạc chi đâu? Chẳng qua tiếng chuông reo của bọn bán kẹo chứ có gì mà lo ngại.
Dương-Qua nhìn mấy cụ già nghiêm nghị nói:
- Ta có một việc yêu cầu. Nếu các người đồng ý thì mọi việc đều yên. Nếu không thì cứ xem đây mà làm gương.
Lập tức chàng đưa tay nắm hai giò chú rể quăng tuốt lên trời rồi đưa tay hứng bắt như khi nãy. Lúc được đặt xuống đất đứng run như cầy sấy, mặt không còn chút máu, rồi sụp xuống lạy cố mạng.
Mấy cụ già, bọn phù dâu phù rể đứng sắp hàng trước mặt chắp tay thưa:
- Đại-Vương cần sai khiến điều gì xin cứ chỉ dạy, chúng con xin tuyệt đối tuân theo.
Dương-Qua cười lớn rồi đưa tay chỉ Lục-vô-Song nói:
- Chị ta đi ngang qua đây thấy đám cưới linh đình, cô dâu chú rể có vẻ đầy đủ hạnh phúc, nên có ý muốn giả dạng thử xem thế nào.
Lục-vô-Song vội gắt:
- Thằng Ngốc, cứ nói bậy hoài. Dương-Qua không thèm cãi, cứ nói tiếp:
- Các cô hãy đem y phục cô dâu mặc vào cho nàng, mau lên. Còn ta thử đóng vai chàng rể xem thế nào.
Cả bọn tuy khiếp sợ nhưng cũng thấy lạ lùng, cùng suy nghĩ:
- Xưa nay chỉ có trẻ em con nít mới giả làm chú rể cô dâu để cùng nhau nô đùa. Ngờ đâu bọn ăn cướp mà cũng thích đóng tuồng này, lạ thực. Chắc chắn họ có dụng ý gì đây.
Họ chẳng biết chuyện đùa hay thật, cứ đứng nhìn trân. Hơn nữa thấy đôi nam nữ, người nào cũng xinh tươi duyên dáng, quả xứng lứa vừa đôi, nếu mặc áo cô dâu chú rể thật quả là đôi vợ chồng lý tưởng.
Nhưng chẳng hiểu hai người muốn đóng kịch để làm chi.
Ai nấy cứ đứng trố mắt ra nhìn, thì tiếng nhạc rung cũng gần sắp đến.
Dương-Qua lật đật nhảy xuống, xách chú rể đặt lên lưng lừa, bỏ Vô-Song coi chừng đó rồi chạy đến kiệu hoa vẹt màn kéo nàng dâu ra.
Cô dâu cũng hoang mang bỡ ngỡ chưa rõ chuyện gì nhưng vì thấy mọi người yên lặng cũng ríu rít đi theo không một lời chống cự. Tấm khăn hồng vừa kéo xuống lộ ra vẻ mặt phúc hậu, đầy đặn của một thiếu nữ khá đẹp.
Thấy Dương-Qua bước lại nhìn mình cười cười miệng khen đẹp đẹp, xinh xinh. Cô dâu sợ quá run rẩy, chẳng dám hở môi.
Dương-Qua bảo:
- Muốn bảo toàn tánh mạng, mau mau cởi cho mượn bộ y phục cô dâu ngay lập tức.
Lục-vô-Song càng nghe nhạc "Loan-Linh" reo gần tới, dạ nóng như bốc lửa, mà thấy Dương-Qua cứ đứng cà rà đùa dỡn mãi cũng nổi tức vội hét lớn:
- Mau lên chứ ngốc!
Mọi người chẳng hiểu nàng nạt ai là Ngốc, thảy đều lo sợ vội vàng thúc cô dâu:
- Cởi áo ra mau dâng cho Đại-Vương đi con.
Chưa đợi nàng dâu cởi xong, một vị bô lão xáp lại cởi gấp chiếc áo gấm đem đưa cho Lục-vô-Song liền.
Dương-Qua lột hết áo quần chú rể mặc vội mặc vàng vào người miệng thúc hối Vô-Song:
- Mau sang ngồi trên kiệu đi chứ.
Lục-vô-Song vội vàng leo lên kiệu ngồi yên, buông rèm xung quanh xuống.
Dương-Qua định gọi bảo thay luôn đôi hài nữa nhưng vì nghe nhạc reo quá gần đâu đây rồi, nhắm chẳng kịp nữa nên thét bọn phu kiệu:
- Cứ tự nhiên khiên về phía Đông-Nam, đờn sáo cứ lên như thường lệ, ai lo phận nấy tự nhiên như thường. Nếu tên nào hó hé lộ tình ý gì khác, đừng trách ta độc ác đây nhé.
Nói rồi phóc lên mình bạch mã, đủng đỉnh theo phía sau kiệu.
Mọi người từ mấy cụ già, cô bác đôi bên, các cô phù dâu, mấy chú phụ rể nghe lệnh thảy răm rắp làm theo.
Kiệu đổi hướng đi được một đoạn đường. Bỗng tiếng nhạc "Loan-Linh" đã tới nơi, có hai nữ lang kẻ mặc đồ trắng, người mặc áo vàng, cỡi ngựa đi tới và vượt qua phía trước.
Lục-vô-Song ngồi trong kiệu hoa, nghe nhạc Loan-Linh rung dòn bên tai ruột gan muốn rã rời, thần trí muốn bấn loạn trong dạ nghĩ thầm:
- Phen này thật khó thoát nổi.
Dương-Qua giả bộ thẹn thùng ngồi trên ngựa cúi gầm đầu xuống đất, tay mân mê bờm ngựa.
Lý-mạc-Thu hỏi lớn:
- Mấy người có gặp một cô gái thọt chân đi khập khễnh qua lối này không?
Mấy ông lão cùng vòng tay lễ phép đáp:
- Thưa cô nương không ạ.
Nàng hỏi tiếp:
- Các người cũng không thấy có thiếu nữ nào, nước da ngâm ngâm, mặt đẹp, cỡi lừa đi ngang đây không?
Mấy cụ cũng đồng thanh đáp:
- Dạ, thưa không thấy nốt. Chúng tôi không gặp một người nào hết.
Lý-mạc-Thu giục lừa muốn vượt qua kiệu hoa, bỗng tò mò dừng lại đưa cán phất trần khều bức rèm vẹt ra đưa mắt nhìn vào rồi à một tiếng lớn.
Dương-Qua thất kinh, vội thúc ngựa gần, định bụng nếu rủi chuyện bị lộ sẽ ra tay trước.
Dương-Qua thất kinh, vội thúc ngựa gần, định bụng nếu rủi chuyện bị lộ sẽ ra tay trước.
Nhưng Lý-mạc-Thu chỉ à một tiếng và khen lớn:
- Cô dâu đẹp quá!
Rồi nhìn lại phía Dương-Qua, tươi cười nói:
- Chàng rể khéo đường tu mới được một cô vợ phúc hậu như vậy. Ta có lời mừng cho đấy.
Dương-Qua giả dò e lệ, cuối gầm mặt xuống, mân mê tà áo gấm.
Khi lắng tai nghe tiếng nhạc rung xa, Dương-Qua lạnh lùng tự hỏi:
- ủa, sao không có Lục-vô-Song trong kiệu, nếu có sao hắn nhận diện chẳng ra?
Nghĩ xong giục ngựa chạy tới, kéo rèm nhìn trong kiệu.
Chàng hoảng hốt mặt mày tái xanh, run run nhìn cô dâu đang bỡ ngỡ ngó mình, còn Vô-Song đi đâu mất, chàng gọi:
- Cô đâu rồi?
Có tiếng cười khúc khích, phía dưới chân cô dâu đống áo quần rung động, Vô-Song ló đầu lên, vừa cười vừa đáp:
- Ta đây nè! Thế mà không thấy, dở quá!
Thì ra lúc Lý-mạc-Thu đang hỏi chuyện, Lục-vô-Song biết ý hắn vô cùng tinh tế, không bao giờ chịu bỏ đi ngay cho nên chun dưới chân cô dâu, dùng áo quần che lên trên thật kín.
Nghe nàng thuật lại, Dương-Qua cười hì hì khen có tài tháo vát, đoạn bảo cô dâu:
- Thôi cô em xuống đây dùng lừa đỡ một khúc đường nhé.
Lục-vô-Song cũng xã giao nói thêm:
- Chị vui lòng hy sinh một tý cho trót nhé.
Cô dâu ngoan ngoãn tuân theo chẳng dám nói lời nào, chạy lại leo lên lừa ngồi chung phía trước chú rể.
Đám rước dâu với hai cặp dâu rể cứ hướng cũ thẳng tiến, chẳng bao lâu mặt trời đã xế bóng.
Mấy ông già vội vàng chạy tới trước mặt Dương-Qua lễ phép thưa:
- Xin Đại-Vương tha cho để hai cháu về nhà làm lễ tơ hồng kẻo trễ giờ mất.
Dương-Qua trợn mắt hét:
- Không được kêu nài gì hết, im mồm!
Ai nấy thất kinh nín thin thít.
Ngay lúc đó, Dương-Qua thấy trước mặt loang loáng một cái bóng đen nhảy vụt ra rồi chạy thật mau vào khu rừng kề đó.
Giục ngựa đuổi theo gần kịp, thấy đó là một tên ăn xin, áo quần rách rưới.
Dương-Qua nghĩ bụng;
- Chẳng hiểu bọn này lại muốn kiếm chuyện gây rối gì nữa đây? Mặc kệ hắn, mình nên trở lại tốt hơn.
Quay ngựa về đến gần kiệu hoa, Lục-vô-Song đã vén rèm thò đầu nhìn ra hỏi gấp:
- Có chuyện gì lạ không?
Dương-Qua nói đùa:
- Có chứ, tại cô vô ý mà hỏng cả chuyện rồi, có lẽ hắn đã biết bọn mình rồi cũng nên.
Lục-vô-Song thất sắc hỏi dồn dập;
- Lỗi ta chỗ nào, nói mau.
Dương-Qua nghiêm mặt nói:
- Phàm cô dâu mới về nhà chồng phải âu sầu, khóc lóc sụt sùi tỏ vẻ thương nhớ mẹ cha, chứ cô mặt mày lúc nào cũng tươi rói như người được ăn cỗ. Như thế bảo người ta, nhất là hắn, không hoài nghi sao được.
Lục-vô-Song nguých chàng một cái mắng khẽ:
- Im mồm đi, Ngốc!

Hồi 24

Cải trang đạo sĩ gạt Lý-mạc-Thu

Đoàn người cứ đi mãi, chẳng bao lâu đến một vùng rừng núi thâm u hiểm trở. Đường đi hẹp dần, thêm gồ ghề mà giốc nữa. Những phu khiêng kiệu phải đi chầm chậm, gặp những chỗ giốc quá phải lấy tay níu vào cây cỏ mà lên. Ai nấy đều mệt bùng tai, mồ hôi nhễ nhại, nhưng vì sợ oai Dương-Qua cứ bặm môi đi mãi chẳng dám nói một lời. Thế là một đêm qua.
Nhìn từng đàn quạ đen bay lượn trên đầu đèo hóc núi, cô dâu chú rể thở dài mến tiếc một đêm qua. Đáng lẽ cái đêm đầu tiên đầy hạnh phúc bắt đầu cuộc tình duyên son trẻ, nào ngờ lại một đêm vất vả phải lội núi băng rừng.
Nhưng dầu sao họ vẫn mừng thầm vì bọn cướp này không hề xâm phạm đến người hay tiền của. Đoàn đám cưới vừa vượt qua khỏi đèo, thình lình trong hốc núi có tiếng người vang lên:
- Cô nàng hãy dừng lại. Muốn đi qua phải biếu lại một mũi hay một cái tai mới được.

Lục-vô-Song giật mình xanh mặt than thầm:

- Lại bọn ăn mày đến sanh sự nữa đây.

Tức thì có ba người cao lớn vạm vỡ từ trong ấy bước ra đón đường, so với bọn hôm trước có vẻ hùng dũng mạnh bạo hơn nhiều.

Dương-Qua để ý thấy người nào bên vai cũng có đeo bảy cái túi. Cứ như số túi nhiều hơn, chắc bọn này phải lợi hại hơn và quyết đến đây ăn thua với bọn mình một phen nữa.

Đoàn người sửng sốt nhìn ba người chẳng biết xử ra sao. Một người trong số phu kiệu, cầm cây gõ nhẹ vào đầu một tên bảo nhỏ:

- Hãy tránh ra cho mau.

Người nọ chẳng hề né tránh, đưa tay chụp lấy chiếc cây, đập một cái, làm người phu kiệu té nhủi đập mặt xuống đất chảy máu mũi đỏ lòm.

Ai nấy cũng muốn xông lại đánh cho bọn ăn mày một trận nên thân, nhưng vì nhớ lại trận Dương-Qua làm dữ nên lo ngại không hiểu bọn này ra sao, có phải cùng bọn với Đại-Vương kia chăng.

Vì vậy không ai bảo ai, cùng lùi ra sau mấy bước nhìn.

Một đứa trong ba người ăn mày nói:

- Bà con có chuyện vui mừng, xin bố thí cho chúng tôi một bữa ăn.

Lục-vô-Song nói nhỏ với Dương-Qua:

- Này cậu, ta đang bị đau chưa lành, cậu làm ơn ra tay giúp hô nhé.

Dương-Qua gật đầu, thúc ngựa trờ tới hét lớn:

- Bọn ăn mày, khôn hồn mua tránh ra xa cho người ta đưa đâu, nếu cãi lệnh thì không toàn tánh mạng.

Ngày hôm qua, bọn sáu túi có bị Dương-Qua phun xương điểm huyệt nhưng chúng không ngờ, cứ đinh ninh là do Lục-vô-Song, vì vậy nên lôi về báo cáo lại với các sư thúc và sư bá cấp bảy túi không nói về tài nghệ của Dương-Qua.

Một tên xốc tới bất thình lình khiến con ngựa của chàng hoảng sợ nhảy thụt lùi ra sau. Dương-Qua giả vờ lúng túng muốn té, một chập mới gượng ngồi lại được.

Bọn ăn mày thấy chú rể nhút nhát quá nên tránh ra xa hơn.

Nguyên những tên ăn mày trong Cái bang tuy đi ăn xin nhưng hành động rất quang minh quân tử, chuyên cứu khổn phò nguy chứ không bao giờ hà hiếp kẻ yếu. Hôm nay họ đến đây là cốt gây chuyện cùng Lục-vô-Song chứ không có ác ý cùng Dương-Qua hay những người khác.

Thấy Dương-Qua tay không, chẳng có khí giới, lại có vẻ nhút nhát hoảng sợ ngồi lảo đảo muốn té nên họ bước lại đỡ họ.

Dương-Qua hỏi:

- Mấy người cần tiền ta sẽ cho tiền, chứ tại sao đi cản đường ngăn nẻo như vậy?

Rồi chàng ném cho mấy đồng tiền.

Ba người theo lệ của Cái Bang cúi xuống lấy và tỏ lời cám ơn.

Dương-Qua thích chí nói với Lục-vô-Song:

- Tôi đã vâng lời cô dẹp đường yên rồi đấy.

Lục-vô-Song gật đầu rồi nhìn ba người ăn xin hỏi lớn:

- Các người tại sao cứ đi theo ngăn đường ta mãi như vậy?

Một người đáp:

- Anh em trong bang chúng tôi được biết cô nương bản lãnh cao cường nên phái chúng tôi lại xin lãnh giáo vài ngón tuyệt diệu của phái Cổ-Mộ.

Lục-vô-Song đáp:

- Hiện nay ta chẳng may bị nội thương nặng, tay chân đau nhức không cử động mạnh được. Nếu các ngươi muốn thử sức xin chờ một dịp khác, khỏi đau rồi ta sẽ lãnh giáo ít hiệp. Ta nghĩ rằng, theo tôn chỉ tốt đẹp của bang Khất Cái xưa nay, có lẽ các ngươi cũng không bao giờ đi bức bách một phụ nữ đang lúc bị thương chưa khỏi tin rằng những người có địa vị trong Cái Bang sẽ hành động theo đường lối quân tử.

Tuy là ăn xin, nhưng cả thảy là những người khá trong bang, biết điều xử sự. Khi nghe Lục-vô-Song phân trần, họ cũng cho là hữu lý nên cùng suy nghĩ.

Một người nói:

- Được, ta bằng lòng chờ nàng hết đau sẽ hay.

Nhưng một người khác ngăn lại nói:

- Khoan đã! Cô nói đau nhưng biết cô quả thật đau hay chỉ là lấy cớ để thoái thác. Chúng ta muốn được chứng minh cụ thể hơn. Nếu quả thật ta sẽ tha cho lần này.

Thật ra hắn không biết Lục-vô-Song bị thương nơi bụng nên mới yêu cầu vô ý như vậy.

Lục-vô-Song đã sẵn có tật nên khi nghe hắn nói thì nổi xung giận tím mặt, phát run cả tay chân, nhưng cố gắng nén cơn tức, một lát mới nói được:

- Người đời thường ca tụng Cái-Bang là một hội quang minh chính đại, người của Cái-Bang ai cũng là xử thế một cách anh hùng, nhưng không ngờ hôm nay ta mới được thấy rõ chỉ là lời đồn huyễn hoặc và bọn người chỉ là phường vô liêm sỉ.

Ba người ăn mày thấy Lục-vô-Song mắng đùa cả bọn mình, xúc phạm đến toàn thể Cái-Bang thì nổi giận vội vàng vung gậy đập nhầu vào kiệu hoa.

Dương-Qua thấy bọn chúng hành hung vội chạy ra trước kiệu dùng lời giả lả:

- Tôi thấy các ông toàn những người đàn ông, tướng mạo đàng hoàng đáng được kính nể, chẳng hiểu vì sao lại hùa nhau đi ăn hiếp một người đàn bà như vậy. Không sợ người đàn bà cười chê là phương thiếu giáo dục hay sao.

Lời chàng nói cũng nặng nhưng xét cũng hạp lý cho nên cả ba chưa biết đối đáp như thế nào.

Sao đó một người trong bọn mới phân trần:

- Anh em chúng tôi muốn gọi nàng ra cho thưởng thức một vài ngón võ tinh diệu của phái Cổ-Mộ, nàng lại nặng lời sỉ vả nên chúng tôi mới có thái độ vừa rồi chứ đâu phải cậy thế hiếp cô mà người gọi là phường thiếu học?

Nói rồi hắn đưa tay điểm một huyệt, Dương-Qua la ối một tiếng thật to rồi lăn ra đất ôm tay nhăn nhó rên siết dường như đau lắm.

Khi ấy trời đã nhá nhem nên ba người ăn mày không thấy rõ được vết thương của chàng nặng hay nhẹ. Hơn nữa theo quy tắc của Cái-Bang nhất thiết cấm không cho đánh một người không hiểu biết võ nghệ. Vì vậy nên người ấy bối rối lo đỡ dậy để an ủi.

Dương-Qua vừa rên vừa nói:

- Ba lão ăn mày sao mà ngang ngược như thế. Nếu muốn nói chuyện với người ta, họ mắc cỡ không đáp thì tìm cách khác hoặc nhờ ta nói lại chứ có lý đâu đi bức bách đàn bà như vậy.

Ba gã ấy cũng nghĩ bụng:

- Thằng này có dáng điệu ngốc ngốc tàn tàn, như lý sự không ngốc tý nào hết.

Người nhỏ tuổi nhất bước lại hỏi:

- Này, cô gái họ Lục nàng là đau thật hay đau giả vậy?

Thấy hắn nín thinh người lớn hơn nổi nóng trợn mắt hỏi:

- Sao mày có trả lời hay không?

Người thứ ba hỏi thêm:

- Mi và cô gái họ Lục có liên hệ gì với nhau không chú Ngốc?

Dương-Qua giả vờ ngớ ngẩn hỏi lại:

- ủa lạ nhỉ! Sao các ông lại biết rõ tôi đây tên Ngốc mà gọi như vậy?

Người lớn nhất nóng hét:

- Bọn ta đến đây không có mục đích gì hơn là hỏi bọn bây cho biết thế võ gì dùng để phóng lưỡi dao vành cung vào lưng của đồng bọn của ta.

Lục-vô-Song không muốn để Dương-Qua cãi lẫy dằng dai với họ nên thuận miệng đáp lớn:

- Thế võ ấy gọi là "Điêu Thuyền bái nguyệt".

Dương-Qua lớn tiếng cãi:

- Không phải đâu. Thế võ ấy không dài dòng mà chỉ có một tiếng mà thôi. Xem đây này.

Nói chưa dứt lời chàng vung tay đấm luôn mỗi đứa một đấm như búa bổ. Cả ba tên bất ngờ không đề phòng, lãnh mỗi người một thoi ngã bật ngửa ra sau. Lồm cồm đứng dậy, ba người vừa thẹn vừa tức hét lớn:

- ủa, thằng rể này can chi lại bênh hắn, đánh chúng ta?

Tên nóng tính nhất múa gậy xông vào nói:

- Mi muốn sanh sự, ta cho mi nếm miếng đòn cho biết.

Dương-Qua đáp:

- Các ngươi nằn nằn xin lãnh giáo chị dâu ta. Chị ấy đang bị bệnh thì ta đây thay thế để dạy bay vài ngón cũng được rồi. Thật ra ta đâu có bênh ai và cũng chẳng biết chi về câu chuyện nàng hết.

Người ấy nạt lớn:

- Chị dâu mày hay mày cũng được.

Dương-Qua cười cười quay về phía chiếc kiệu hỏi Lục-vô-Song:

- Chị ơi, bây giờ dạy cho chúng thế nào trước đây?

Lục-vô-Song thừa biết bản lãnh của Dương-Qua tuyệt vời đủ sức hạ ba đứa đó, nhưng nàng cũng muốn nhân dịp lòe với bọn chúng nên đáp lại:

- Chú cứ dạy trước thế "Điêu Thuyền chào trăng" đi.

Dương-Qua "vâng ạ" một tiếng rồi xoay mình lại. Lập tức một bàn tay đã vung ra lẹ như chớp đập mạnh vào giữa lưng của tên đứng xa nhất.

Cả ba tên ăn mày ngơ ngác trước lối xuất thủ thần tình của Dương-Qua nên cùng vũ lộng binh khí xông vào vây đánh một lượt.

Dương-Qua đứng yên không nhúc nhích dùng hai tay đưa ra đỡ gạt.

Lục-vô-Song nhìn thấy thế đỡ của hắn thất kinh nghĩ bụng:

- ủa, ai dạy thằng này mà hắn xuất thủ quả đúng theo nghệ thuật của phái "Cổ-Mộ" rồi.

Nàng nhắc thêm:

- Bây giờ dùng thế "Tây Thi ôm bụng" mà tấn công đi.

Dương-Qua dạ lớn rồi quay mình phóng tay nghe "bịch" một tiếng ngay miệng một tên té nhào ra xa gần hai trượng.

Hai đứa khác thấy chàng lợi hại quá nên cố sức tấn công lanh hơn nữa.

Dương-Qua vừa đánh vừa hỏi nữa:

- Chị ơi, còn thế nào nữa, chỉ mau lên chứ!

Lục-vô-Song đáp:

- Đánh luôn thế "Chiêu Quân quá ải" và tiếp theo thế "Tiên cô chúc thọ".

Dương-Qua vòng cánh tay như đang ôm đàn, rồi xòe cả năm ngón tay phải điểm nhẹ vào huyệt nơi thái dương bên trái khiến cho một tên ăn mày ngã nhào ra, toàn thân bủn rủn, không cử động được nữa.

Xong thế "Chiêu quân quá ải" chàng bước sang bên phía mặt, hai tay nắm chặt vào nhau sụp ngồi xuống thật nhanh, nhoài người ra phía trước hất mạnh một đòn ngay hạ bộ của tên ăn mày đang đứng phía ấy bay bổng lên cao, cách đất gần hai trượng rồi cười lớn bảo:

- Cho mi nếm sơ sơ thế "Tiên cô chúc thọ". Ta nhơn đức nương tay chứ nếu đánh đúng miếng thì mi đã theo ông bà rồi.

Nguyên tất cả các thế võ này đều do Lâm-Triều-Anh sáng chế riêng cho giới đẹp để truyền cho phái Cổ-mộ. Tất cả đệ tử phái Cổ-Mộ đều là đàn bà cho nên cái thế võ cũng phải có tên đẹp, lối múa uyển chuyển dịu dàng hợp với bản chất người đẹp.

Những thế ấy không bao giờ truyền cho đàn ông. Nhưng vì Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua trung thành với mình cho nên mới đặc biệt đem ra dạy cho chàng.

Dương-Qua đem mấy ngón ra cốt để biểu diễn cùng Lục-vô-Song và thị uy với ba người trong Khất Cái chứ không hề có ác tâm. Vì vậy cho nên các tên ăn mày tuy bị đánh trúng nhưng không ai bị thương nặng.

Nhưng họ nào rõ dụng tâm của Dương-Qua, cứ đinh ninh rằng chàng chưa đủ sức nên có ý xem thường cứ lăn sả vào đánh ráo riết.

Dương-Qua giả bộ nhảy đông nhảy tây, lánh né lăng xăng, miệng la ó:

- Chị ơi, sao lặng thinh mất rồi? Muốn ở góa hay sao mà không chịu nhắc cho vài thế nữa để chống cự với người ta.

Lục-vô-Song bảo:

- Hãy dùng thế "Văn quân hơ tay" và "Quý phi say rượu" đi.

Dương-Qua đưa tay lên cao như người đang rót rượu, chọi trúng đầu tên nóng tính rồi ngồi xụp xuống thấp tung luôn hai đòn liên tiếp vào giữa bụng tên thứ hai.

Cả ba vừa lo sợ vừa bực tức và hổ thẹn, đem hết tàn lực ra đánh ráo riết nhưng cũng không thể nào động được một đòn nào vào mình của Dương-Qua.

Dương-Qua lách mình tránh né các đòn của ba người như trò đùa, thỉnh thoảng khẽ đập vào chúng như để chọc ghẹo cho vui chứ không làm đau hay gây thương tích.

Lục-vô-Song thấy chàng biểu diễn tất cả các ngón một cách quá sức tài tình thì khoái chí quá, nhắc luôn hai thế "Lộng ngọc thổi tiêu" và "Thần nữ vượt sóng". Nói đến đâu Dương-Qua biểu diễn đến đó một cách hoàn toàn, khiến cho nàng phải đem lòng thán phục.

Sau cùng muốn thử tài chàng đúng mức, nàng nhắc đến một thế thật khó "Võ-hậu buông rèm".

Chẳng ngờ nàng vừa nói dứt lời Dương-Qua đã vận sức vào hai tay xỉa tới trước vẹt ra như vén màn, gạt cả ba đối thủ văng ra xa lắc.

Lục-vô-Song phục quá sức, hứng chí nói thêm:

- Diễn luôn thuật "Cười dòn dã" xem thử thế nào?

Nguyên thuật này cho phái Cổ mộ đặc biệt chế biến ra theo câu "người đẹp cười nghiêng nước đổ thành" nếu luyện đến chỗ tinh vi, sẽ khiến cho địch thủ vỡ mật ngã quay ra đất. Đó là một nghề tuyệt diệu một phần dựa theo "Ngọc nữ tâm kinh" và một phần theo "Cửu-âm chơn-kinh".

Dương-Qua vận sức đầy đủ cất tiếng cười khan. Lúc đầu giọng cười như nước chảy ngọc reo, dần dần đổi khác như ma gào quỷ ré, tiếng cười lộng kêu như xoáy vào màng nhĩ khiến cho ba cao thủ bảy túi của Cái Bang chịu không nổi, bay hồn mất vía, nhào lăn ra đất cả.
Lục-vô-Song bước lại đỡ họ dậy.
Dương-Qua vừa dứt tiếng cười, ba người ăn xin cũng hoàn hồn hoảng kinh tìm đường chạy mất.
Tất cả mọi người trong đám cưới thấy cặp này tài ba lỗi lạc, bản lãnh cao cường quá nên càng sợ hơn nữa, nhất nhất nghe theo ý muốn chẳng dám cãi lại.
Cả đoàn nghỉ ngơi một chặp rồi tiếp tục đi lại. Qua canh hai đêm đó vừa tới một thị trấn có vẻ sầm uất.
Dương-Qua cho đoàn đám cưới về làng rồi cùng Lục-vô-Song bước vào một quán rượu, gọi thức ăn.
Vừa ngồi lại bàn định ăn, bỗng có một bóng đen chạy vụt vào. Nhưng vừa thấy hai người thì bóng ấy vội chạy ra rồi biến mất.
Dương-Qua ngạc nhiên phi thân đuổi theo.
Ra khỏi cửa ngõ một chặp, thấy có hai người đạo sĩ dáng điệu quen quen. Hai đạo sĩ vừa nhìn thấy mặt Dương-Qua vội bỏ chạy trốn. Dương-Qua sực nhớ lại hai tên đạo sĩ này quả là Cơ-Thanh-Hư và Bì-Thanh-Huyền đã cùng bọn Triệu Hàn... vây đánh Lục-vô-Song tại Sài-Lang cốc bữa nọ.
Chàng đứng suy nghĩ:
- Tại sao bọn này cứ theo dõi mình hoài. Hay chúng có dự mưu gì đây chẳng sai. Ta nên nói lại và bàn cách đối phó cùng Lục-vô-Song mới được.
Chàng chạy vào tiệm ghé tai thuật lại cho Lục-vô-Song nghe. Thuật chưa hết chuyện lại thấy bóng hai đạo sĩ thấp thoáng phía trước nữa.
Kế đó có tiếng nhạc Loan linh reo vang cách quán chẳng bao xa. Hai tên đạo sĩ nghe tiếng nhạc bỗng lộ vẻ đớn đác lo sợ, vội vàng chạy vào phòng bên đóng cửa lại.
Dương-Qua thấy thái độ ấy cũng lấy làm lạ, tự nghĩ:
- Hai đứa này có liên hệ gì Lý-mạc-Thu hay sao mà xem bộ hớt hải sợ sệt tìm đường trốn tránh như vậy?
Lục-vô-Song thì buồn buồn, gục đầu nghĩ kế chẳng ra, ngước mắt hỏi Dương-Qua:
- Sư phụ ta đã đến nữa đây. Chúng mình phải xử trí bằng cách nào bây giờ?
Dương-Qua điềm nhiên đáp:
- Nếu cần ta cũng cứ đánh chứ sợ gì nữa?
Tiếng lạc reo vang phía cửa trước, có tiếng Lý-mạc-Thu nói:
- Ba con, con hãy lên đứng trên nóc nhà xem chừng đi.
Tiếp đó người chưởng quỳ lễ phép thưa:
- Kính thưa lão gia, có phải có kẻ nào vừa vô lễ làm xúc phạm đến quý thể nên lão gia muốn tìm bắt để trị chăng?
Lý-mạc-Thu tự cho mình còn trẻ và đẹp lắm. Vì vậy nàng rất kỵ và oán hận những kẻ nào gọi mình là "gia" hay dùng danh từ "lão" để gọi mình.
Hôm nay nghe tiếng "lão gia" từ miệng người chưởng quỹ thốt ra, nàng phừng phừng nổi giận khẽ dùng phất trần phẩy nhẹ trên đầu, khiến hắn ngã lăn ra chết tốt.
Tên Tiểu-nhị lấm lét đứng đầu phòng nhìn ra thấy nàng chỉ phẩy sơ một cái giết một mạng người, hồn vía đều bay lên mây, hết đứng tại chỗ.
Lý-mạc-Thu hỏi hắn:
- Mi thấy có một đứa con gái thọt chân vào trong tiệm này không?
Tiểu-nhị điếng hồn đứng há miệng ấp úng mãi nói chẳng ra lời.
Lý-mạc-Thu hự một tiếng rồi rảo bước đi thẳng vô phòng bên cạnh ở mé phía Tây. Phòng này là nơi ẩn nấp của bọn đạo sĩ.
Dương-Qua cho rằng nếu lúc này đi trốn là thuận tiện nhất. Nếu cỡi ngựa đi ra quán, Hồng-lăng-Ba đứng trên mái ngói sẽ trông thấy ngay. Nhưng với tài nghệ của hắn cũng không ngại lắm.
Chàng hỏi Lục-vô-Song:
- Bây giờ bọn mình nên trốn ngay là hơn, cô nghĩ sao?
Lục-vô-Song liếc mắt nhìn ra bên ngoài, lòng chưa dám quyết định ra sao cả và nghĩ thầm:
- Nếu mi lại giải thoát cho ta thêm lần nữa thì quả là ơn sâu như trời cao biển rộng.
Trong khi hai người còn phân vân bàn kế thoát thân thì có một bóng người từ phòng phía Tây chạy vụt qua, đến cạnh bàn nói nho nhỏ đủ nghe:
- Hai người mau mau theo tôi để chạy trốn.
Vừa dứt câu, người ấy đã vụt lao mình vào đêm tối.
Dương-Qua chưa nhìn được mặt người ấy, chỉ nghe tiếng nói có vẻ thanh tao nhưng cương nghị, bóng người thanh thanh không cao không thấp, nhỏ hơn Lục-vô-Song chút ít, mặc áo rộng tay màu xanh biên biếc.
Ngay khi ấy , tiếng nhạc lại reo vang , Dương Qua hoảng hốt đưa tay kéo Lục vô Song chạy gấp về hướng Bắc.
Bỗng đâu có tiếng Hồng lăng Ba báo động từ trên mái ngói vọng cuống :
- Có người đang cưỡi lừa chạy về hướng Bắc đấy , sư phụ ơi !
Lục vô Song quýnh lên , bảo nhỏ :
- Trời ơi , chạy mau lên , nguy quá rồi .
Nhưng Dương Qua lại nghĩ khác :
- Đối với một kẻ có tài khinh công tuyệt thế , đời này mấy kẻ dám sanh tày thì việc chạy trốn không có gì bảo đảm .
Huống chi ngay sau khi Hồng lăng Ba gọi , đã có một bóng trắng lấp loáng đuổi theo từ phía xa xa . Nếu Lý mạc Thu chạy theo thì nhất định không thoát khỏi , hơn nữa Lục vô Song lại bị tật , tập tễnh nơi chân phải dùng kế khác mới được .
Nghĩ xong , chàng kéo Lục vô Song chạy qua hướng Tây , chui vào một căn phòng .
Trong phòng này bọn Cơ thanh Hư và Triệu bất Phàm dang ngồi cạnh vách tường , mặt mày láo liên không còn chút máu . Cơn sợ hãi đã lên tới cực độ .
Trong lúc gấp rút quá , Dương Qua chẳng nói một tiếng , lẹ làng điểm luôn mấy huyệt , hai người ngã quay ra liền . Đoạn chàng kéo Lục vô Song chạy thằng vào phòng gài cửa cẩn thận và hối Lục Vô Song rối rít :
- Mau mau cởi hết quần áo ra !
Lục vô Song mắc cỡ quá , nạt nhỏ :
- Bảo gì lạ vậy hở Ngốc ?
Dương Qua vội vã nói luốn :
- Cô bằng lòng cởi hết không tùy ý , tôi lo cởi phần tôi cho rồi . Gấp lắm , gấp lắm !
Vừa nói hán lanh lrj tuột hết áo quần rồi lấy y phục của Triệu bất Phàm mặc lên người .
Lục vô Song trông thấy nghĩ thầm :
- ồ hay quá ! Thật là diệu kế !
Nàng khẽ đá vào Cơ thanh Hư bảo :
- Hãy nhắm mắt lại đừng nhìn ta nhé . Bọn bay không nghe ta giết ngay .
Cơ thanh Hư và Triệu Bát Phàm đã bị điểm huyệt toànd thân bất ôộng nhưng trí não vẫn còn sáng suôts . Thấy nàng bảo và đe dọa cũng sợ nên cả hai vâng lời nhắm kỹ mắt lại .
Lục vô Song quay lại bảo Dương Qua :
- Chú mi cũng vậy , hãy quay mặt vô tường một tý cho ta thay áo quần chứ .
Dường Qua cười hì hì đáp :
- Còn lạ lùng gì nữa mà kiêng . Hôm dùng thuật " tiếp cốt " tôi cũng đã ... đã hiểu qua cả rồi , cô còn ngại ngùng chi nữa .
Tuy nói vậy nhưng chàng cũng tự xét thiếu đứng đắn nên không nói nữa và quay mặt vào vách ngay .
Lục vô Song nguýt một cái , lấy tay khẽ dí đầu Dương Qua vào tường rồi thay quần áo .
Dương Qua liếc qua , thấy thân hình nàng lồ lộ , bỗng liên tưởng đến Tiểu long Nữ , lòng tràn gập một niềm vui cảm xúc quá mạnh nên gục xuống tường .
Lục vô Song ngỡ mình xô đầu chàng quá mạnh nên gục như thế bèn lấy tay xoa đầu chàng mấy cái hỏi :
- Tôi lỡ tay đầy . Đau lắm không ? Đừng buồn nhé !
Dương Qua cười khì khì rồi ngước mắt lên nhìn .
Lục vô Song thấy nóng ran cả người nhưng cũng cố nói cho đỡ mắc cỡ :
- Cậu xem ta có giống đạo sĩ tý nào không ?
Dương Qua đáp :
- Có thấy đâu mà biết được .
Nàng bảo :
- Thì cứ thử nhìn đi .
Dương Qua quay lại ngẫm nghĩ : Lục vô Song thân hình nhỏ bé nên bộ đồ vừa rộng vừa dài , mặc xùng xình xem tức cười lắm . Định nói mấy câu pha trò cho vui bỗng nàng hót hoàng đưa tay chỉ lên nóc nhà .
Nhìn lên phía ấy Dương Qua thấy rõ ràng là Bì thanh Huyền , tên đạo sĩ cùng đánh nhau với Lục vô Song ở Sài Lang Cốc độ nọ đang lom khom nhìn xuống .
Lục vô Song nổi giận nói :
- Quả đồ khốn nạn ! Thằng này đã núp sẵn từ lâu , cứ nhìn ta thay quần áo . Ta quyết ...
Vừa nói đến đây nàng nín bặt vì nghe tiếng nhạc " Loan lịch " của Lý mạc Thu đến gần quá rồi .
Cả hai hốt hoảng nhìn nhau . Dương Qua bỗng nghĩ một cách , vội bồng Cơ thanh Hư đặt nằm vào lò sưởi . Nguyên vùng này trời lạnh lắm , nhà nào cũng có lò sưởi riêng để chụm lửa cho ấm mới chịu nổi sức lạnh của mùa đông . Lò sưởi này hiện không dùng nhưng khá rộng , đầy cả tro và than .
Cơ thanh Hư bị đặt vào đấy , mặt mày lem luốc , quần áo cũng dính cả tro than .
Tiếng nhạc reo lên trước cửa , Dương Qua khẽ bảo :
- Cô nương cũng tạm thời nằm vào đây lánh thân nghe .
Lục vô Song nhăn mặt vùng vằng :
- Bọn này hôi hám dơ dáy quá nằm một bên chịu sao nổi .
Chàng cười hì hì dỗ ngọt ;
- Chịu khó tạm một chốc thôi mà !
Miệng nói , tay bồng luôn cả Triệu bất Phàm đặt vào lò sưởi , để chỗ cho Lục vô Song nằm .
Rồi chàng cũng leo lên nằm ké một bên ngáy lớn , giả bộ đang ngủ say .
Thỉnh thoảng có một mùi thơm thoang thoamngr từ thân hình nàng bốc ra làm cho Dương Qua thấy khoan khoái vô cùng , muốn trò kịch này cứ kéo dài lâu thêm mãi .
Lý mạc Thu xuống lừa bước vào phòng , nhìn lò sưởi thấy hai đạo sĩ chan nhau nằm , mặt mày lem luốc trông rất tức cười và trên giường có hai đạo sĩ khác nằm đấu lưng vào nhau ngủ mê chứ không thấy hình dáng Lục vô Song đâu cả .
Lục vô Song thấp thỏm trong lòng lo sợ quá mức . đến lúc Lý mạc Thu bỏ đi , nàng mới thấy nhẹ cả người và thầm phục mẹo hay của Dương Qua cứ mình một lần nữa .
Suốt đêm đó , thấy trò Lý mạc Thu lùng khắp các nhà , các nẻo trong thị trấn để tìm Lục vô Song . Trái lại Lục vô Song điềm nhiên ngủ trên giường tại quán trọ một cách ngon lành .
Dương Qua nằm bên cạnh Lục Vô Song , nghe tiếng chó sủa vang rân xong xóm , lòng thấy khoan khoái mừng thầm . thỉnh thoảng mùi thơm trong người nàng cứ toát ra khiên chàng không thể nào ngủ được .
Lục vô Song cũng cảm thấy cõi lòng xao xuyến rạo rực . Nằm bên Dương Qua , bao nhiêu ý nghĩ vừa vừa thú vị cứ quay cuôpngf trong óc mãi .
Chàng này đâu phải ngốc . Có ngốc chằng cũng do chàng cố ý tạo ra mà thôi . với tài nghệ tuyệt luân , với bộ óc thông mình nhiều sáng kiến mưu mô kỳ diệu , chàng phải là một kẻ phi thường . Những hành động của chàng đượm nhiều tánh chất tuy ương gàn nhưng nhân hậu , đôi khi khùng khùng nhưng nhiều tình cảm thiết tha . Lạ một điều là đã lắm lần thân tựa vai kề , hoa gần bên bướm nhưng bướm chẳng thiết hoa , gái gần trai nhưng trai hờ hững mãi .
Đến đây nàng cảm thấy một luồng nhiệt khí từ mình chàng toát ra chuyền vào người nàng như sưởi ấm .
Nàng run run nhưng thấy thích thú , muốn nhích lại gần hơn . Nghĩ lại thêm thẹn , cố nghìm cơn bồng bột bằng cách cắn mạnh nơi môi thật đau để lấy lại mức bình tĩnh của lòng mình .
Sáng hôm sau , Dương Qua thức dậy sớm lắm . nhìn vào lò sưởi thấy Cơ thanh Hư nằm ngủ mê man , nhó lại một bên , Lục vô Song đưa mặt ra ngoài ngáy đều . Chàng ngắm kỹ thấy đôi mát nàng nhắm kín dưới hai hàng mi cong như vòng nguyệt trên chiếc mũi cao dọc dừa . Hai làn má phính phính ửng hồng như đôi chiếc bánh mật , làn môi tươi thắm như san hô .
Dương Qua thấy tim hồi hộp , lòng rạo rực một cảm giác mới lạ , muốn đưa tay rờ thử xem nàng có biết hay chăng .
Là một trai tơ đang lúc sung sức , nằm bên một cô gái đào non hơ hớ , nhất là giữa lúc bình minh vừa lên , xuân tình của nam giới cực thịnh , chàng thấy cõi lòng rào rạt , bao nhiêu sự ham muốn yêu đương cuộn dâng hơn cả lúc đang " tiếp cốt " cho nàng trong khu rừng vắng .
Dương Qua cố bặm môi ngó đi nơi khác và dùng nghị lực chống lại dục tình đang trào lên bồng bột .
Nhưng lửa tình đang lên khó bề kiềm hãm nổi . Toàn thân chàng như bốc chay , tay chân mất cả tự nhiên , cặp mắt trừng trừng nhìn sát mặt Lục vô Song đang nằm như đoá hoa hàm tiếu . Không dằn tâm được , chàng muốn đặt sẽ trên đôi môi đỏ mọng một chiếc hôn như thình lình một ám khí của ai vừa phóng ra bay vút qua đầu đem chàng trở vè thực tại .
Dương-Qua giật mình nhìn ra thấy tấm vách cửa bị ai phá tung một khoảnh và có một vật gì nửa quỷ, nửa người vừa mới thụt ra biến mất.
Chàng tung người nhảy lại, đưa đầu nhìn qua lỗ hổng chẳng thấy gì hết. Muốn phóng ra ngoài đuổi theo xem thử, nhưng e ngại trúng kế "điệu hổ ly sơn" của quân địch nên chẳng dám đuổi theo, chàng quay trở vào trong quan sát xem có gì lạ chăng.
Thấy trong góc nhà có một cuộn giấy nhỏ, bóc ra xem có mấy chữ:
"Liệu hồn, chớ bày trò khốn nạn mà chết!"
Lục-vô-Song vừa thức giấc, cũng vội chạy lại nhìn xem.
Tuồng chữ ghi trên mảnh giấy, giống y những chữ đã viết trong bức thư do đứa bé kèm vào bó hoa trao dọc đường hôm nọ.
Dương-Qua đọc xong thấy thẹn thùng và xấu hổ. Chàng đoán có lẽ đây là một nhân vật nào có hảo ý đeo đuổi giúp đỡ mình và cũng cảnh cáo mình để khỏi làm điều bậy bạ.
Càng nghĩ càng xấu hổ, mặt mày đỏ gay, đứng lặng người không nói năng gì hết.
Lục-vô-Song thấy vậy hỏi:
- Sao đứng thừ người như vậy, cậu có phải bị cô nương quở trách gì chăng?
Dương-Qua không đáp suy nghĩ:
- Người này nhất định không phải cô nương ta, vì nét chữ không phải của nàng. Theo dáng điệu kỳ quái, nửa quỷ nửa người hiện trên lỗ hổng, chưa hiểu đây là kẻ nào, quen hay lạ, gái hay trai. Thật là khó đoán.
Đang ngẩn ngơ suy tính lại có tiếng nhạc "loan linh" từ phía Tây Bắc vọng lại nữa.
Lý-mạc-Thu tìm không ra Lục-vô-Song đã bỏ đi nơi khác, nhưng lúc nào cũng lo nghĩ về cuốn "Ngũ độc bí truyền" đang còn ở trong tay Lục-vô-Song chưa lấy lại được cho nên nóng lòng sốt ruột, ăn chẳng được ngủ chẳng yên.
Sau khi tìm các chỗ khác không có, nàng quày lừa trở lại kiếm nữa.
Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:
- Hắn đi một đêm qua, nay trở lại nữa, chả nghi ngờ bọn mình còn ở nơi đây nên cố tìm nữa. Vì cô còn mang thương tích nặng, nếu không chỉ cần chọn hai con ngựa hay chạy đi là thoát nạn.
Lục-vô-Song giận dỗi nói:
- Cậu có ỷ mạnh thì cứ đi một mình cho khỏe. Ta bị thương cứ để ở lại đây mặc ta, cần gì phải lo cho mệt.
Dương-Qua thấy nàng hay gắt gỏng vô lý nên nghĩ bụng:
- Nếu nàng ưa gắt gỏng giận hờn, ta làm cho nàng gắt luôn cho đã nư.
Đoạn chàng nói:
- Vậy cô không định về Giang-nam nữa sao? Tôi có vất vả cũng vì cô cần đến, nếu không, tôi tội gì mang cực vào thân như thế này.
Lục-vô-Song tức quá trợn mắt thét lớn:
- Chẳng cần mi nữa đâu! Muốn đi đâu bước đi cho khuất mắt, chết sống mặt kệ thân ta.
Dương-Qua không muốn chọc thêm, sợ nàng quá tử liền có hại nên chỉ cười hề hà rồi đi thẳng lại phía bàn giấy của người chưởng quỹ bưng nghiên mực chạy lại bôi lên khắp mặt nàng.
Vì bôi bất ngờ không tránh kịp. Lục-vô-Song bị mực dính lấm lem nổi giận hét lớn:
- Thằng quỷ, sao mi bôi lọ vậy?
Dương-Qua làm thinh không đáp, điềm nhiên thấm mực bôi luôn vào mặt mình nữa.
Lúc ấy Lục-vô-Song mới chợt hiểu: Té ra hai người ăn mặc áo quần đạo sĩ chỉ có thể che mắt người ngoài, chứ đối với Lý-mạc-Thu, thứ bản mặt mày gạt hắn sao được. Vì vậy nên Dương-Qua cầm lấy mực thoa đen cho khác đi, may ra tránh thoát được.
Cải trang xong xuôi, Dương-Qua lại bên lò sưởi đưa tay giải huyệt. Hai đạo sĩ lồm cồm ngồi dậy ngó quanh rồi tìm ngỏ cút mất.
Lục-vô-Song thấy nghệ thuật giải huyệt của chàng rất thán phục, nghĩ thầm:
- Tài ba của hắn thật là xuất chúng, thế mà mình cứ gọi là ngốc thật quá vô lý. Cũng lạ là hắn cũng không tỏ ý gì giận mình.
Đến nay thương tích của Lục-vô-Song đã khỏi hẳn, nên chàng cỡi riêng một con ngựa khác.
Hai người cỡi ngựa một lừa, song song đi về hướng Đông-Nam.
Ngồi trên lưng ngựa, Dương-Qua cứ phân vân thắc mắc nghĩ về hàng chữ trên bức thư, chẳng biết kẻ viết cho mình hai bận là ai?
Lục-vô-Song thấy chàng tư lự chẳng nói năng gì nên hỏi:
- Sao có vẻ buồn rầu như vậy Ngốc?
Dương-Qua đột nhiên vỗ đùi hoảng hốt nói:
- Nguy quá, ta hồ đồ quá, có lẽ hỏng mất!
Lục-vô-Song hỏi:
- Chuyện gì mà nguy hiểm, hồ đồ?
Dương-Qua đáp:
- Ba tên đạo sĩ đã thấy bọn ta cải trang rồi. Nếu chúng đem mặt lại cùng Lý-mạc-Thu thì nguy mất.
Lục-vô-Song đáp:
- Tưởng gì chứ vụ ấy đâu đáng lo. Bọn chúng tuy trông thấy ta cải trang làm đạo sĩ nhưng đâu biết ta đi về hướng nào mà điểm chỉ. Hơn nữa đã chắc chi bọn chúng còn nhớ.
Dương-Qua cười hì hì đáp với một giọng đùa cợt:
- Sao không nhớ? Bọn chúng đã nhìn thấy một việc lạ lùng ngay trước mắt, dẫu ngàn năm cũng khó quên được.
Lục-vô-Song biết Dương-Qua nhạo mình thay áo quần để cho bọn đạo sĩ nhìn thấy nên thẹn đỏ mặt, chỉ hứ một tiếng và nguýt dài.
Ngay khi ấy con lừa của nàng nhảy lồng lên rồi dậm chân hí lớn.
Ghìm cương lại được, Lục-vô-Song nhìn thấy có mấy người ăn xin đang đứng chận mất lối đi.
Dương-Qua đưa mắt ngó sang bên kia đồi thấy thấp thoáng bóng của hai người, rõ ràng là Cơ-Thanh-Hư và Triệu-Bất-Phàm. Chàng nổi giận nghĩ bụng:
- Thật đáng ghét cho bọn đạo sĩ khốn nạn. Chúng đã đi khách với bọn hành khất. Cái Bang tìm đến phá rối mình nữa đây.
Nghĩ xong chàng nhảy xuống ngựa, đến trước mặt mấy người ăn mày, chắp tay nói:
- Các bạn đi xin khách thập phương bố thí, còn bần đạo đây cũng sống về sự giúp đỡ của đồng bào, làm gì có dư cơm dư tiền chia cho các bạn mà đi đón nhau rầy rà như vậy.
Một đứa trong bọn cất tiếng sang sảng đáp lớn:
- Bọn mi đâu phải là kẻ tu hành, đừng khoát áo cà sa mà xưng là hòa thượng, không che nổi mắt bọn ta đâu.
Muốn yên lành thì mau mau bó tay theo anh em ta đi yết kiến Bang chủ cho rồi.
Nghe nói, Dương-Qua nghĩ thầm:
- Theo Cô nương và Tôn bà ngày còn sanh tiền kể lại, thì Bang Khất-cái có một vị Bang chủ là Cửu-chỉ Thần-cái Hông-thất-Công, võ nghệ có một không hai, trên đời không ai sánh kịp. Bọn này tuy chẳng ra gì, nhưng nếu Bang-chủ của họ là Hồng-thất-Công có mặt nơi đây thì làm sao trốn thoát nổi.
Nhìn kỹ hai người ăn mày mang tám túi, thuộc cấp bực cao hơn và bản lãnh cũng trội hơn những bọn đã gặp trước. Hai người này thấy Dương-Qua còn trẻ tuổi nhưng đã có tài cao đánh bị được cả mấy người hạng bảy túi nên có kiêng nể chưa dám ra tay vội.
Hai bên đứng đối diện nhìn nhau chờ dịp ra tay thì từ phía Bắc lại văng vẳng vang lên tiếng nhạc "loan linh" của Lý-mạc-Thu sắp tới nơi.
Lục-vô-Song lo sợ quá nghĩ rằng:
- Tuy ta đã cải trang nhưng bỗng dưng bị bọn ăn mày chận lại thì làm sao dấu nổi được sư phụ, nguyên do cũng vì ta quá nông nổi gây thương tích cho một tên, đến nay bọn chúng cứ bám theo báo đời hoài, bây giờ nghĩ ăn năn cũng đã muộn.
Nhạc "loan linh" mỗi lúc càng đến gần.
Dương-Qua nghĩ:
- Nếu chờ Lý-mạc-Thu đến đây mới trở tay sẽ không kịp nữa. Chi bằng ta tìm cách tẩu thoát ngay từ bây giờ may ra được.
Tuy e ngại lo lắng, nhưng ngoài mặt vẫn làm tỉnh như chẳng có việc gì bận trí, hai chân lướt tới miệng hỏi:
- Sao, bây giờ chư vị có bằng lòng nhường đường cho đạo hay vẫn quyết tâm cản trở.
Nhìn lối bước của Dương-Qua xông tới quá nhanh nhẹn lẹ hai người thừa rõ đây là một tay có bản lãnh phi phàm, tuy nhiên họ vẫn gan lỳ đứng yên, đưa tay ngăn lại.
Dương-Qua đưa tay gạt ngang qua thật mạnh. Cả ba cánh tay bám chặt vào nhau như ba con rắn quấn nhau. Nhưng chỉ trong nháy mắt, Dương-Qua đã đẩy hai người lùi qua một bên trên mấy bước.
Hai người này vốn thuộc hạng 8 túi, công phu luyện tập trên vài chục năm, ai cũng có dõng lực ghê gớm, và trên giang hồ không dễ gì có người chống cự nổi với họ.
Mặc dầu công phu họ có phần lớn hơn nhưng về căn bản võ thuật Dương-Qua học được nhiều. Hồng-thất-Công, Bang chủ khất cái, tuy võ nghệ quán quân, tài năng tuyệt diệu, nhưng tánh ông ta ưa ăn uống nhậu nhẹt nên ít thì giờ truyền dạy lại cho học trò. Đệ tử đắc ý nhất đã được Hồng-thất-Công chân truyền vũ thuật là Đại hiệp Quách-Tỉnh.
Sau khi đẩy lui được hai người, Dương-Qua muốn thừa cơ thoát chạy nhưng cả hai vẫn cố tình bám riết không rời.
Thế rồi sáu mắt nhìn nhau lườm lườm như ba mãnh hổ giành mồi chỉ chờ dịp là tấn công nữa.
Vừa lúc ấy Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba đi đến nơi, dừng chân lại xem.
Hồng-lăng-Ba cất tiếng hỏi thăm:
- Này các người, ở đây có thấy một người con gái thọt một chân đi tập tễnh qua đường này không?
Hai người ăn mày đang lo đánh nhau với Dương-Qua thấy có kẻ lạ mặt xen vào làm rộn, thì trong bụng đã ghét rồi, tuy nhiên họ vẫn cố nén bụng làm thinh, vì theo luật của cái Bang không cho phép được vô cớ để gây chuyện cùng kẻ khác.
Họ chẳng đáp chỉ lắc đầu ra dấu không thấy.
Lý-mạc-Thu nhìn dáng điệu của Dương-Qua và Lục-vô-Song thấy có nhiều nét quen quen hình như đã gặp đâu đôi lần rồi nhưng nghĩ không ra.
Định bước ra đi, nhưng thấy ba người đứng ngó gờm nhau giữ miếng để tranh tài hơn thua, Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:
- Hay là ta nán lại xem bọn chúng đánh nhau một chặp thử tài hai tên ăn mày tám túi ra sao, và hai cậu đạo sĩ trẻ tuổi này thuộc môn phái nào cho biết.
Thấy Lý-mạc-Thu đứng lại xem đấu, Dương-Qua nghĩ bụng:
- Hắn cố tìm hiểu gốc gác sư muội mình đây. Ta phải làm lạc hướng hắn mới được.
Thế rồi chàng chạy thẳng lại phía Hồng-lăng-Ba lễ phép cúi đầu chào và nói:
- Xin kính chào đạo hữu.
Hồng-lăng-Ba tuy ngạc nhiên nhưng cũng phải chắp tay đáp lễ cho đúng phép xã giao.
Dương-Qua lễ phép nói:
- Bần đạo tình cờ đi qua chốn này, bỗng nhiên gặp hai người ăn mày đón đàng sinh sự. Chỉ vì bần đạo không màng theo khí giới tùy thân nên mong đạo hữu bẩm lại cùng bề trên cho bần đạo tạm mượn thanh kiếm dùng đỡ để thử tài cùng bọn ấy.
Hồng-lăng-Ba thấy người đạo sĩ trẻ tuổi tuy mặt mày đen đúa xấu xa nhưng nói năng có lễ độ chẳng lẽ chối từ. Hơn nữa trong phép xã giao trên võ lâm, khi người ta nhớ đến mình phải tận tình giúp đỡ.
Nàng rút kiếm khỏi vỏ đưa mắt nhìn sư phụ để thỉnh ý.
Thấy Lý-mạc-Thu gật đầu đồng ý. Hồng-lăng-Ba trao thanh kiếm cho Dương-Qua.
Dương-Qua nhận kiếm cúi đầu bái lễ tạ ơn và thưa nhỏ:
- Nếu rủi vì tài hèn sức mọn không cự nổi với bọn chúng, xin đạo hữu nghĩ tình cùng đạo phái vui lòng giúp đỡ một tay thật là vạn hạnh.

Hồi 25

Dương-Qua làm Hoa Bang khất cái

Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn chàng, tằng hắng một tiếng rồi nín thinh không đáp.
Dương-Qua quay lại Lục-vô-Song bảo:
- Khỏi cần sư đệ giúp sức, để một mình ta tranh tài cùng bọn này để làm rạng rỡ danh dự cho phái Toàn-Chân một phen. Vậy Sư-đệ cứ đứng ngoài lược trận và làm trọng tài luôn thể nhé.
Lý-mạc-Thu thấy vậy lẩm bẩm:
- ủa, té ra hai đạo sĩ trẻ tuổi này là môn đệ của Trùng-dương-Cung. Xưa nay bang Khất Cái và phái Toàn-Chân giao tình rất hậu, chẳng hiểu vì sao bọn đệ tử lại trở mặt gây sự cùng nhau đến nỗi xung đột đánh chém quyết liệt như thế này.
Dương-Qua thấy nếu để chần chờ e hai người ăn xin nói ra làm tiết lộ hình tích của Lục-vô-Song nên vội vung kiếm tấn công ngay.
Chàng xông tới, miệng réo, tay múa:
- Này hai bạn, một mình ta chấp cả hai, hãy liệu hồn mà chống cự đấy nhé.
Lục-vô-Song thấy Dương-Qua bày vẽ nhiều chuyện cũng phát bực, rủa thầm trong bụng:
- Thật thằng ngốc này khéo ba hoa, tự nhiên nhận mình là đồ đệ của phái Toàn-Chân. Sư phụ ta đâu có lạ gì kiếm pháp quyền thuật của Toàn-Chân phái mà hòng nói khoát. So qua vài thế cũng đủ cho bà nhận xét và phác giác ra chân tướng của nàng cho mà xem.
Nguyên dưới thời Nam Tống lúc bấy giờ có rất nhiều đảng phái, nhưng các giáo phái có tiếng tăm cũng không có được bao nhiêu Phái Toàn Chân là một trong chín phái quan trọng, tiếng tăm đang lừng lẫy đương thời. Nhưng nếu kể về số đông và phạm vi hoạt động thì Bang-Khất-Cái do Trương-Thiên-Sư chỉ đạo lớn hơn nhiều. Trụ sở chính của "Chính Khất-Cái" đóng tại núi Long Hổ thuộc tỉnh Giang Tây.
Giữa Toàn Chân phái và Khất-Chính-Cái có nhiều giao tình liên hệ rất mật thiết, môn đệ đôi bên rất nể nhau.
Vì vậy nên khi vừa nghe Dương-Qua tự xưng môn đệ Toàn-Chân phái, cả hai người hành khất thảy giựt mình, trong bụng đã nao núng, vội hỏi lớn:
- Mi thuộc Toàn Chân phái, nhưng ở trong Chi-Bộ nào.
Dương-Qua e rằng nếu để nói giằng dai sợ làm lộ tẩy Lục-vô-Song nên chẳng đáp nữa, dùng một ngón độc vung trường kiếm chém ngang một nhát rồi đổi thế khác đâm xóc vào bụng hai người.
Thấy đòn xuất thủ của đối phương rõ ràng là phương thức chân truyền của Trùng-Dương kiếm pháp, cả hai nghĩ thầm:
- Hai đứa mình dẫu sao cũng là hai nhân vật cao cấp của hạng tám túi, lẽ nào hùa nhau đi hiếp đáp một đạo sĩ còn non nớt theo loại đàn em hay sao?
Đang lúc phân vân tìm cách đối phó cho đứng đắn, bỗng Dương-Qua vũ động thanh kiếm, dùng toàn những thế ác liệt chém đâm tới tấp, hai người không thể nào đứng yên phải lật đật tung thiết bổng ra chống đỡ.
Nhìn bề ngoài, hai cây Thiết bổng có vẻ nhẹ nhàng nhưng thật ra rất nặng vì cây nào cũng đúc toàn bằng thép lọc vô cùng cứng rắn, trui luyện năm bảy lần.
Thế là hai cây thiết bỗng lộng lên như đôi thần long vờn sóng, thanh trường kiếm tung hoành như một đám bạch quang, soắn chặt lấy nhau, phát gió vùn vụt, rít lên nghe nhức óc, dùng toàn những thế tuyệt diệu phi thường, khiến cho những kẻ đứng xem phải bồi hồi thán phục.
Đánh một hồi lâu, hai thiết bảng dần dần yếu thế, bị lưỡi trường kiếm áp đảo rõ rệt. Hai người ăn mày vừa đánh vừa thối lui ra sau.
Dương-Qua hứng chí, dùng tư thế "liên thinh nhị cửu nhứt bái" tấn công ráo riết. Cứ một đường kiếm vừa tung ra đã biến thành hai thế, và chín đường biến thành mười tám thế, liên miên trường tận, kỳ ảo vô cùng. Đấy là một kiếm pháp tuyệt kỳ của Toàn-Chân phái được mệnh danh là "Nhất khí hóa tam thanh".
Với thế võ này, một người có thể ứng phó dễ dàng cùng ba đối thủ. Vì vậy nên hai người ăn xin không thể nào đương cự nổi, càng lúc càng lúng túng và sụt lùi ra rất xa, muốn tìm cách tẩu thoát.
Lý-mạc-Thu theo dõi trận đấu, thấy Dương-Qua xuất thủ rất tinh điệu, kiếm pháp biến ảo vô cùng phải chột dạ và nghĩ bụng:
- Toàn-Chân kiếm pháp quả danh bất hư truyền. Ngay một đạo sĩ còn nhỏ tuổi, thời gian tập luyện chưa bao nhiêu mà đã có một bản lĩnh ghê gớm như thế này thì sau đây được truyền thụ đúng mức hắn sẽ tiến bộ đến đâu nữa. Trong vòng năm mười năm nữa, tài này thế nào cũng giữ tay chương giáo Toàn-Chân và chừng ấy ta đây cũng chưa xứng là đối thủ của hắn.
Hồng-lăng-Ba và Lục-vô-Song cứ đứng ngẩn người mà nhìn theo không biết nói lời gì nữa. Dương-Qua vừa đánh vừa nghĩ thầm:
- Nếu ta để cho hai thằng này rảnh tay, chúng sẽ nói chuyện rồi vô tình phát giác chuyện bí mật cho Lý-mạc-Thu biết được thì nguy lắm. Âu là ta phải tấn công cho thật gắt để chúng không hở tay thốt được lời gì.
Chàng tung vút người ra phía sau hai đối thủ, vẹt phăng đôi thiết bảng, nhắm lưng đập tới.
Hai người thất kinh vội vàng ngồi sụp xuống tránh né. Nhưng Dương-Qua đã nhảy qua một bên tấn công liền. Chàng dùng khinh công nhảy nhót bốn phía như bươm bướm, đâm tả chém hữu, khi thiệt khi hư, khiến hai người hoa cả mắt hết thấy đường chống đỡ, mệt thở muốn hụt hơi.
Đây là lối khinh công đặc biệt luyện theo lối "Hỏa hầu" trong thế trận "Thiên cang Bắc đẩu" của Toàn-Chân phái.
Lối đánh đỡ, tấn công các mặt, dùng theo kiếm pháp Toàn-Chân, nhưng về lối thở hút, vận công thì Dương-Qua lại áp dụng theo "Ngọc-nữ tâm-kinh" của phái Cổ Mộ.
Với lối nội công và khinh công ảo điệu của Cổ Mộ phái thân pháp của Dương-Qua biến chuyển không cùng cho nên hai đối thủ càng lúc càng cảm thấy bất lực, chỉ lăm le tìm dịp để thoát thân.
Nhưng khốn nỗi làn kiếm quang của Dương-Qua loang loáng bám sát không chỗ nào hở, hai cây thiết bảng hình như bị một sức mạnh vô hình hút lấy, muốn thu lại để chạy cũng không được nữa. Cả hai thì thầm, phen này cũng đành liều với định mạng.
Một chập sau hai người ăn mày cảm thấy mắt hoa đầu váng, trời đất quay cuồng, đứng không vững nữa.
Lý-mạc-Thu thấy vậy động lòng mách nước hộ:
- Tại sao hai ngươi không đâu lưng nhau để chống cự.
Nghe nói, hai người sực nhớ lại, vội vàng xây lưng cùng nhau mà cầm cự.
Dương-Qua nghĩ:
- Con ác phụ cũng giỏi mách nước đấy. Bây giờ ta không nhảy lung tung nữa, xem bọn bay đối phó cách nào.
Nghĩ xong chàng đứng im một chỗ vung kiếm chém liên hồi.
Hai người ăn mày lâm ngay vào thế bị động, không thể nào chống cự nổi nữa bèn quay mình trốn chạy.
Dương-Qua khẽ nhún chân một cái đã đứng sát ngay bên lưng họ, cả hai cảm thấy một lần lãnh khí phía sau lưng, hình như cả thanh kiếm thép nằm ngang trên da thịt mình, hoảng hốt cuống cuồng. Nhưng Dương-Qua chỉ đuổi theo cho họ sợ chứ không dụng tâm sát hại. Chàng chỉ dùng lưỡi kiếm áp trên vai và lưng mỗi người mà thôi chứ không chém.
Biết đối phương không muốn giết mình nên hai người ăn mày mừng rỡ và yên trí dùng khinh công lao vút về phía xa, không bao lâu đã cách Lý-mạc-Thu hơn hai dặm.
Dương-Qua phi thân bay theo chận lại cười cười nói:
- Thôi đừng chạy nữa, mình là bạn với nhau cả mà.
Hai người vung thiết bảng đánh nữa. Nhưng Dương-Qua đã dùng kiếm gạt rồi đưa tay trái giật một cây ném ra phía sau. Còn cây thứ hai vừa bổ tới đã bị chàng quất mạnh một kiếm sút tay rơi xa mấy trượng. Bị mất hết vũ khí, cả hai thất kinh đành đứng lặng yên nhìn nàng.
Dương-Qua cười hề hà kiếm lời an ủi:
- Sư môn của bần đạo cùng quý Bang đã có tình giao hảo từ trước đến nay, không thể nào chỉ vì một sự nông nổi hiểu lầm nhau mà đi làm sứt mẻ hòa khí của đôi bên. Ngay giờ phút này kẻ thù nguy hiểm của quý Bang là Lý-mạc-Thu, một con ác phụ của phái Cổ Mộ đang đứng trước mặt đó, sao chúng ta không hợp nhau để trừ khử có hơn không?
Hai người tuy có nghe danh Xích-Luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu nhưng chưa rõ mặt mày ra sao, nay nghe Dương-Qua mách cũng hỏi lại:
- Có thật là hắn không? Đạo huynh đừng dối chúng tôi nhé.
Dương-Qua đáp:
- Bần Đạo đâu dấu liệt vị. Chính Bần Đạo cũng đang bị hắn bức bách không biết lối nào thoát được, phải dùng kế ra đây để cùng liệt vị bàn tính cách đối phó.
Chàng chạy lại nhặt hai cây thiết bảng, hai tay trao cho mỗi người có vẻ thân mật và kính cẩn lắm rồi nói thêm:
- Xích-Luyện-Tiên-Tử có một bảo bối vô cùng ác liệt mà khi nào hắn cũng mang theo bên mình, quý vị có biết là thứ gì không?
Một người suy nghĩ một tý và đáp:
- Theo tôi đoán có lẽ là cây "phất trần" của hắn, xâu nhạc "loan linh" trên cổ lừa, và chiếc áo "hoàng sam" có phải chăng?
Dương-Qua cười dài và nói:
- Không phải đâu! Ba món ấy đâu có gì là lợi hại, mà món bảo bối nguy hiểm nhất của hắn là lưỡi phi dao mỏng, hình cánh cung mà đệ tử của hắn dùng để phóng vào lưng một người trong quý Bang đó.
Hai người nghe nói cùng "à" một tiếng, suy nghĩ thêm một chập rồi đồng nói:
- Phải rồi, lưỡi phi đao ấy quả là lợi hại. Bây giờ chúng ta có những ba người, nên thừa dịp là lại tấn công hắn cho rồi, có gì đâu mà sợ.
Người kia cũng phụ họa theo. Nhưng Dương-Qua khoát tay nói:
- Phải bình tĩnh mà trù liệu không nên hấp tấp nông nổi mà hư việc.
Người ăn mày cãi lại:
- Tại sao lại hư việc được?
Dương-Qua nghiêm giọng từ từ nói:
- Xích-Luyện-Tiên-tử là tay lợi hại, đã lừng danh xưa nay, trên giang hồ ai cũng chạy mặt. Liệt vị tuy có bản lãnh, nhưng chưa hẳn là đối thủ của nó. Ngay như người bạn của liệt vị cũng vì ỷ tài mà bị đệ tử của hắn phóng đao gây trọng thương đấy. Cần phải cẩn thận đề phòng cho lắm mới được.
Bị Dương-Qua nói khích, người ăn mày nóng tính nổi giận vung cây thiết bảng, trợn mắt đỏ mặt hét:
- Dầu nó là Xích-Luyện-Tiên-Tử hay thứ chi chi đi nữa ta cũng quyết thử một trận cho biết sức.
Nói rồi quay mình toan bước đi.
Người kia có vẻ thận trọng hơn nghĩ bụng:
- Chỉ có một đạo sĩ trẻ tuổi này mà cả hai đứa còn cự địch không xuể huống chi là Xích-Luyện-Tiên-tử Lý-mạc-Thu! Nóng nảy hấp tấp chi gây nên tai họa cho mình mà thôi.
Việc này cần phải bàn tính thật chu đáo mới được. Nghĩ ngợi xong, người ấy kéo áo bạn lại nói:
- Không nên hấp tấp, phải tính toán kỹ đã.
Nói rồi hắn chấp tay lễ phép hướng về phía Dương-Qua nói:
- Xin đạo hữu cho biết phương danh quý tánh.
Dương-Qua đáp:
- Bần đạo họ Tát tên Hoa-Tư.
Chàng đáp rồi chắp tay bái hai người nói tiếp:
- Giờ đây xin tạm biệt, hẹn gặp nhau vào một dịp sau.
Dương-Qua vừa đi khuất dạng thì người ăn xin cúi đầu, lẩm bẩm mãi cái tên Tát-Hoa-Tư và nghĩ thầm:
- ồ, con người có cái tên xa lạ quá, nhưng bản lãnh quả thật cao cường, tài không đợi tuổi!
Hắn cố moi trong ký ức tìm xem cố nhớ lại cái tên này nhưng vẫn hoàn toàn xa lạ.
Đang lẩm bẩm một mình bỗng có người vỗ mạnh trên vai nói lớn:
- Sao mà ngây thơ vậy. Chuyện gì cứ lẩm nhẩm như người đọc kinh thế?
Người ăn mày thấy bạn phá rối câu chuyện mình đang suy nghĩ phát cáu, nhăn mặt nói:
- Cứ phá người ta hoài. Tại sao lại gọi là ngây thơ được?
Người nọ đáp:
- Chẳng phải ngây thơ sao? Kẻ tử thù đang đứng trước mặt không lo giải quyết cho rồi, để đi lẩm nhẩm một cái tên không hề quen biết. Chả ngây thơ sao?
Tuy cãi vã nhau hăng lắm nhưng rốt cuộc chẳng người nào dám đả động đến Lý-mạc-Thu.
Dương-Qua bỏ đi, nghĩ buồn cười cho hai chàng ăn mày bất tài mà nói dốc, miệng lớn lối mà nhát gan hơn thỏ. Nhớ đến Lục-vô-Song chàng bỗng lo lắng cho nàng, không biết có xảy ra điều gì bất trắc hay không.
Khi về đến nơi thấy nàng vẫn bình yên ngồi trên mình ngựa mắt hướng về phía mình có vẻ trông đợi lung lắm.
Vừa gặp nhau, Lục-vô-Song vội giục lừa chạy lại gần. Thấy chàng lộ sắc mặt vui vẻ, nàng cũng mừng vội hỏi:
- Làm gì lâu quá, để ta chờ thật sốt ruột. Sao, êm thấm tốt đẹp cả đấy chứ?
Dương-Qua mỉm cười gật đầu rồi cầm thanh trường kiếm đi lại phía Hồng-Lăng-Ba lễ phép nói:
- Đa tạ đạo hữu đã có lòng tốt cho mượn gươm để đánh bại kẻ thù.
Hồng-Lăng-Ba đưa tay tiếp nhận thanh gươm tra vào vỏ.
Thấy Dương-Qua sắp quay lưng trở lại, Lý-mạc-Thu cất tiếng nói:
- Khoan đã. Hãy chờ ta nói tý việc cần.
Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua bản lãnh cao cường, ngại về sau trở thành một cao thủ võ lâm, nàng không thể nào địch nổi. Chi bằng nhân lúc tài nghệ hắn chưa phát triển đúng mức, ra tay trừ phứt cho rồi để khỏi hậu họa.
Nghe hai chữ "khoan đã" Dương-Qua đoán biết cuộc sóng gió sắp xảy ra trên đầu mình, nhưng vẫn bình tĩnh đứng dừng lại, cách xa Hồng-Lăng-Ba chừng mấy thước.
Thấy chàng cố ý đứng xa mình hơn, Hồng-Lăng-Ba cười lớn nói:
- Đạo hữu bản lãnh cao kỳ mà óc nhận xét cũng tinh tường lắm.
Lý-mạc-Thu muốn thừa thế đánh cho Dương-Qua một phất trần rồi mạng, nhưng nghĩ lại mình như thế này mà đi đánh bất ngờ một đứa trẻ trong tay không binh khí thì quả là hèn hạ, nên cất phất trần vào lưng rồi hỏi:
- Trong Toàn-Chân phái, ai là sư phụ của ngươi?
Dương-Qua vừa cười vừa đáp ngay, không một chút ngập ngừng hay do dự:
- Thưa, tôi là đệ tử của Vương-Trùng-Dương chân nhân.
Dương-Qua thừa rõ Lý-mạc-Thu không thân mật mà cũng chẳng nể vì một nhân vật nào trong Toàn-Chân phái. Ngay như Khưu-xứ-Cơ đạo trưởng, có võ nghệ tuyệt luân đạo hạnh hơn người, mà nàng cũng chẳng xem ra gì huống hồ chi Xích-đại-Thông, hay Triệu-chí-Kính!
Vì nhờ Vương-trùng-Dương có nhiều liên hệ với phái Cổ-mộ và hơn nữa chính người là kẻ đã lưu truyền "Cửu âm chơn kinh" cho mình nên Dương-Qua mới nhận ẩu như vậy cho qua chuyện.
Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:
- Thằng này tuổi chưa bao lăm, nếu xét theo lứa ấy chỉ đáng là đệ tử của bọn Doãn-chí-Bình hay Triệu-Chí-Kính, chẳng hiểu vì sao mà võ thuật quá ư tinh điệu? Cứ xem lối đánh đỡ của nó thì quả thật là từ Toàn-Chân phái xuất thân rồi.
Thấy Lý-mạc-Thu đăm chiêu suy nghĩ, Dương-Qua bỗng sực nhớ lại ngày nào mình đã cải trang chọc ghẹo Hồng-lăng-Ba, mấy phen đấu cùng Lý-mạc-Thu nữa. Nếu đứng nói chuyện lâu e bọn chúng nhận diện ra được thì phiền lắm, chi bằng kiếm cách chuồn đi cho rảnh nợ.
Nghĩ xong chàng cúi đầu bái tạ rồi nhảy lên lưng ngựa toan đi.
Nhưng Lý-mạc-Thu đã lẹ làng chuyển mình chận ngay trước mặt bảo:
- Khoan đi, ta có việc cần hỏi thêm.
Dương-Qua ngó lên nói:
- Phải cô muốn hỏi thêm tôi có gặp cô gái thọt chân, mang sách chạy về phía nào đấy chứ gì?
Lý-mạc-Thu ngạc nhiên quá, gật đầu đáp:
- Quả đúng thế. Tại sao mi đoán giỏi như vậy. Thật đáng khen. Vậy mi có thể cho biết hắn mang sách đi đâu rồi không?
Dương-Qua thong thả kể chuyện:
- Cách đây không lâu, hai anh em tôi ngồi nghỉ chân bên đường có trông thấy một cô bé chân đi khập khễnh cùng đánh nhau kịch liệt với ba tên ăn mày. Nàng đã dùng "ngân hồ phi đao" phóng trúng lưng một người. Nhưng sau đó thất bại nàng đã bị mấy tên bắt được đem đi mất rồi.
Lý-mạc-Thu vốn là người hiểm độc và bình tĩnh. Đối với nàng dầu việc gì quan trọng đến long trời lở đất vẫn cứ giữ vẻ điềm nhiên không hề cảm động. Nhưng lần này khi được biết tin Lục-vô-Song bị bọn ăn mày bắt được, cuốn "ngũ độc bí truyền" lọt vào tay Cái Bang thì nàng thấy bàng hoàng cả người, nỗi ưu tư lộ ra trên nét mặt.
Thấy mặt nàng đã tái, Dương-Qua biết câu chuyện của mình đã làm cho nàng tư tưởng xao động nên kể thêm
- Hai người có lục soát trong người nàng thấy một cuốn sách nàng nhất định giành lại, nhưng sức yếu không làm gì được. Sau đó tên cao lớn hơn chiếm sách mang đi.
Lục-vô-Song nghe chàng kể lể ngon lành như chuyện thật cũng ngắn cho tài nói láo của chú Ngốc này. Nàng nghĩ:
- Hắn quả con người có lợi khẩu hèn chi lúc đầu hắn muốn lừa gì mình cũng lầm hết!
Liếc thấy vẻ mặt Lục-vô-Song lộ vẻ ưu tư, Dương-Qua tìm cách trêu chơi:
- Này sư đệ, nghĩ cũng đáng giận nhỉ! Mình vô tình mà chứng kiến việc này, còn cô nương đây quyết tâm tìm kiếm mà tìm chẳng ra, để đến nỗi phải lê gót đi khắp bốn phương, tốn biết bao nhiêu công của mà chẳng ích gì cả.
Lục-vô-Song sợ quá chẳng dám nói gì, chỉ gắng gượng "vâng" nhỏ một tiếng rồi cúi mặt xuống ngay.
Vừa lúc đó từ phía sau núi có tiếng ngựa hí quân reo vang dậy, một đoàn quân rất đông đang rầm rập tiến về phía này, cờ xí rợp trời, cát tung đầy đất.
Đó là một đoàn quân Mông Cổ do một viên quan điều khiển đang đi về vùng này thị sát. Lúc này quân Kim không còn nữa mà quân Mông Cổ đã thay thế để cai trị toàn cõi đất Bắc.
Lý-mạc-Thu mãi lo theo dõi câu chuyện của Lục-vô-Song và cuốn sách, nào thèm quan tâm đến đám quân này. Nàng đứng tránh qua một bên nhường đường cho đoàn người ngựa kéo đi.
Đoàn kỵ binh phi như gió, cát bụi mịt mù. Bao nhiêu quân binh ủng hộ một viên quan văn nhưng cỡi ngựa cũng tài tình lắm.
Đoàn kỵ binh qua khỏi, áo quần nàng bị bụi đóng một lớp rất dày, Lý-mạc-Thu bèn dùng cây phất trần phủi bụi trên mình.
Lục-vô-Song lấm lét đứng nhìn. Cứ mỗi lần thấy chiếc phất trần giơ lên là nàng tái mặt và tưởng tượng hình như nó sắp bổ vào đầu mình.
Phủi sạch bụi xong, Lý-mạc-Thu hỏi:
- Rồi sao nữa kể thêm đi?
Dương-Qua đưa tay chỉ về phía Bắc, miệng nói tiếp:
- Mấy người ấy bắt nàng đem đi theo hướng này. Theo họ bàn tán định dẫn về Đồng Quan thì phải.
Nghe xong Lý-mạc-Thu gật đầu có vẻ bằng lòng và tươi cười nói:
- Cám ơn chú lắm. Chính ta là Lý-mạc-Thu, sư phụ của cô gái ấy đây. Thiên hạ thường gọi ta là Xích-Luyện Tiên-Tử hoặc Xích-Luyện Mã-đầu. Chú em có nghe danh hiệu ấy bao giờ chưa?
Dương-Qua giả bộ suy nghĩ một chặp rồi lắc đầu nói:
- Dạ chưa hề nghe bao giờ. Nhưng có một điều tôi không phục là vì như tôi thấy Cô-nương đẹp lắm.
Danh từ-tiên-tử dùng để gọi cô thì thật là xứng đáng. Nếu dùng tiếng mã-đầu quả không đúng một tý nào hết.
Xưa nay Lý-mạc-Thu vẫn chú trọng việc giữ gìn thân thể và sắc đẹp, vì vậy cho nên tuy tuổi đã quá năm mươi, nhưng da dẻ nàng vẫn hồng hào, thân hình đầy đặn, nét mặt xinh tươi đẹp đẽ không kém một phụ nữ ba mươi. Chính Lý-mạc-Thu cũng tự hào nhan sắc của mình đã giúp mình trẻ gần một nửa số tuổi đã có.
Nay được Dương-Qua tán dương mình đẹp thật chẳng khác nào đã gãi nhắm chỗ ngứa, cho nên nàng khoái chí lắm và có cảm tình cùng chàng ngay.
Nàng vui vẻ hân hoan vô cùng, tay cầm chiếc phất trần phẩy nhẹ một cái và hỏi Dương-Qua.
- Chú em xưng mình là đệ tử Vương-trùng-Dương chân nhân lẽ ra ta cho nếm một cây phất trần để bỏ bớt tánh nói dóc, nhưng ta cũng thương tình tha cho một bận. Tuy nhiên ta muốn dùng phất trần để chỉ điểm cho chú vài ngón, có bằng lòng không?
Dương-Qua lắc đầu lia lịa đáp:
- ồ, không nên đâu. Bình sinh bần đạo không bao giờ muốn tranh chấp với bọn hậu bối như cô.
Lý-mạc-Thu nổi giận nói:
- Thằng này hết muốn sống sao mà dám gọi ta là hậu bối?
Dương-Qua đáp:
- Sư phụ tôi là Vương-Trùng-Dương chân nhân, cùng vai vế với Sư-Tổ của cô là Lâm-Triều-Anh, như vậy so với tôi, cô há chẳng phải là kẻ hậu bối hay sao?
Lý-mạc-Thu căm giận cành hông nhưng cố giữ vẻ điềm tĩnh bảo Hồng-Lăng-Ba:
- Mi cho hắn mượn lại thanh kiếm.
Dương-Qua vội gạt đi:
- Khỏi cần, khỏi cần mượn!
Nhưng Hồng-Lăng-Ba đã rút gươm ra. Thình lình nghe rắc một tiếng khô khan, lưỡi gươm đã gãy lìa làm đôi nằm nguyên trong vỏ, chỉ còn một cái cán không trên tay mà thôi.
Hồng-lăng-Ba ngạc nhiên quá nhưng cũng đoán được là Dương-Qua chơi nghịch bấm trước vào lưỡi gươm khiến cho khi rút mạnh bị gãy hai làm nàng không có vũ khí để sử dụng nữa.
Thấy Lý-mạc-Thu giận tái cả mặt, Dương-Qua nhanh nhảu nói:
- Này, thật tâm bần đạo không bao giờ muốn hạ thể đi đánh nhau với bọn hậu bối. Nhưng thấy hai thầy trò người thiết tha van nài, bần đạo đồng ý chỉ dùng tay không cho người đánh thử ba phất trần.
Nếu sau ba ngón đó mà không làm gì bần đạo được thì phải rút lui đi cho rảnh mắt. Hễ đánh thêm một cái thứ tư nữa thì bần đạo không thể tha thứ được đâu nhé.
Dương-Qua muốn dùng đòn tâm lý, lấy lời lẽ đạo mạo nói chuyện để cho nàng nể nang mà rút lui đi chăng. Không ngờ Lý-mạc-Thu tự tin nơi tài nghệ mình và cho rằng chỉ một vài cái phất trần cũng đủ hạn hắn rồi, đâu cần phải ra tay đến lần thứ ba nữa.
Nghĩ vậy nên nàng nói lớn:
- Hay lắm, nếu tiền bối đã muốn như vậy, hậu bối xin ra tay trình bày tài mọn.
Dương-Qua nói:
- ừ, cứ tự nhiên, không sao.
Thế là một luồng sáng bạc vung lên, không biết bao nhiêu là phất trần loang loáng đập vào mình chàng như bươm bướm.
Lý-mạc-Thu đã dùng ngay thuật "Võ khổng bất nhập", một tuyệt ký lợi hại nhất trong lối đánh phất trần. Cứ một ngón đánh ra, liền thành muôn ngàn ngón khác, bao phủ khắp người địch thủ, không biết đâu mà chống đỡ nữa. Ngoài ra, nàng còn nhắm điểm luôn cả ba mươi sáu yếu huyệt của Dương-Qua.
Thì ra trong lúc đứng ngoài xem chàng đánh nhau với hai tên ăn mày tám túi, Lý-mạc-Thu đã ngán cái bản lãnh cao cường của Dương-Qua rồi, không dám coi thường chàng nữa. Khi ra tay nàng đã dùng thế võ hiểm ác nhất để hạ sát ngay cho rồi.
Dương-Qua tiền khai khinh công tránh né nhưng lanh lẹ mấy cũng không kịp nữa. Nhảy bên trái thì bị trúng bên phải, bước tới trước bị điểm sau lưng, trong nháy mắt đã bị điểm trúng nhiều yếu huyệt, thân thể tê rần, tay chân rúng động.
Chàng hoảng kinh, vội vàng lộn đầu xuống đất đưa chân lên trời theo phương pháp "trồng chuối" của dưỡng phụ Âu-dương-Phong đã truyền thụ. Hai tay chống đi lanh như tên bắn.
Nhờ lối này nên máu chảy lộn ngược, các đường huyệt đạo tự động khai phúng, thân thể trở lại bình thường như trước.
Lúc cảm thấy trong người hết tê tái vận động được tự nhiên. Dương-Qua đứng dậy như cũ.
Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua đã bị điểm huyệt nhưng không hề bị ảnh hưởng tý nào thì ngạc nhiên quá. Nhưng nàng nghĩ bụng:
- Mày đã giỏi, ta sẽ điểm luôn cả bảy mươi hai yếu huyệt khắp người xem mày có khỏi chết được không?
Thừa lúc nàng đang do dự, Dương-Qua bất ngờ đưa tay điểm "ủy trung" của nàng.
Lý-mạc-Thu vội vàng né tránh và nghĩ bụng:
- Theo thuật điểm huyệt "tam vô tam bất thủ" của ta vừa dùng thì địch thủ nhất định phải bị mù mắt, nghẹn họng và bủn rủn tứ chi, chẳng hiểu vì sao thằng oắt con này vẫn không bị ảnh hưởng gì hết cũng lạ.
Thật ra Lý-mạc-Thu ngạc nhiên là đúng. Vì trong đời nàng đã trải qua biết bao nhiêu lần tranh tài cùng các võ lâm cao thủ, sát hại biết bao nhiêu mạng, bách chiến bách thắng, làm chấn động quần hùng, không ngờ hôm nay thế võ hiểm ác nhất lại vô hiệu lực đối với một đạo sĩ tuổi chưa quá hai mươi.
Đang lúc Lý-mạc-Thu đang hoang mang ngơ ngẩn như vậy, Dương-Qua đã xuất thần vận dụng nội công há miệng dùn mình một cái lanh như chớp đứng thẳng người lên lao lại đớp ngay cây phất trần vào miệng, giật phắt khỏi tay nàng.
Thật là một chuyện bất ngờ hi hữu.
Nguyên thuật này vốn của Âu-dương-Phong truyền lại. Ngày xưa trong dịp luyện kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, Âu-dương-Phong đã áp dụng thuật này cắn đứt ngón tay của Hoàng-dược-Sư.
Hôm nay Dương-Qua cũng nhờ ngón ấy cướp được cây phất trần của Xích-Luyện-Tiên-Tử khiến cho bao nhiêu thành tích chiến thắng trước đây của nàng đã tiêu tan theo mây khói.
Thật là một điều ngoài sức tưởng tượng của mọi người! Hồng-lăng-Ba thất kinh la lên một tiếng, lúng túng chưa biết nên xử sự ra sao thì Lý-mạc-Thu vẫn giữ bình tĩnh tung Xích-luyện thần chưởng ra để cướp lại cây phất trần.
Trong lúc sắp tung thần chưởng Lý-mạc-Thu bỗng "ồ" lên một tiếng, rồi la lớn:
- Té ra là mi! Còn sư phụ của mi đâu rồi?
Trong lúc đánh nhau, mồ hôi ra nhiều làm trôi hết mực và cát bụi trên mặt của Dương-Qua, nên Lý-mạc-Thu nhìn thấy nhận diện được ngay.
Đồng thời Hồng-lăng-Ba cũng nhận ra Lục-vô-Song và la lớn:
- Sư muội đây rồi, sư phụ ơi!
Dương-Qua lanh như chớp, dùng khinh công phóc lên lừa của Lục-vô-Song ngồi ngay phía sau lưng nàng rồi vung tay phóng mấy mũi ngọc phong châm vào lừa của Hồng-lăng-Ba.
Lý-mạc-Thu giận lắm xông đến tấn công ngay.
Dương-Qua nhẹ nhàng nhảy xuống đất, dùng cây phất trần phe phẩy về phía sau gọi lớn:
- Cô hãy chạy theo tôi mau.
Miệng nói, tay giắt lừa chạy tới.
Khi lừa chạy có trớn rồi, Dương-Qua lại tung mình nhảy lên ngồi lại chỗ cũ. Lục-vô-Song giật cương, lừa tung bốn vó phi đi như bay, Dương-Qua cứ dùng phất trần hươi về phía sau, nửa để tự vệ, nửa để trêu tức.
Thuật khinh công của Lý-mạc-Thu đã đến mức cao siêu, dẫu xa cách một vài dặm đường cũng có thể đuổi kịp trong chốc lát. Hôm nay vì sự việc xảy ra quá bất ngờ khiến cho nàng rủ chí, hết tin tưởng nên chẳng muốn làm gì hơn là đuổi theo cầm chừng cốt để thu hồi được cây phất trần lại mà thôi.
Con lừa của Hồng-lăng-Ba vừa bị trúng ngọc phong châm đau quá lồng lên đạp đá lung tung rồi đến ngay trước mặt Lý-mạc-Thu cất bốn vó lên trời mồm rống lên rất quái gở.
Lý-mạc-Thu phát cáu trợn mắt nạt Hồng-lăng-Ba:
- Bây giờ mi lại làm cái trò gì lạ vậy?
Hồng-lăng-Ba thưa:
- Chẳng hiểu vì sao hắn trở chứng lồng lên la hí như thế này, đệ tử đã ghìm cương hết sức mà không được.
Nói xong nàng vội nắm cả bờm nó ghì lại. Con lừa nhảy tung lên mấy cái rồi ngã đùng trên mặt đất ném Hồng-lăng-Ba nhào theo.
Bị té bất ngờ, Hồng-lăng-Ba gọi lớn:
- Sư phụ ơi, xin chờ con với.
Lý-mạc-Thu phải dừng lại chờ. Nhờ phút rắc rối này. Dương-Qua cùng Lục-vô-Song đã chạy thoát được một đoạn khá xa.
Cứ chạy mãi một hồi lâu nữa hai người quay đầu nhìn lại chẳng thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đuổi theo cũng hơi yên bụng.
Lục-vô-Song hỏi:
- Này cậu, ta lo quá, không biết có tẩu thoát được lần này nữa không?
Dương-Qua làm thinh nhảy xuống lừa, áp tai trên mặt đất nghe ngóng rồi đáp:
- Không nghe thấy vó ngựa đuổi theo nữa, bây giờ mình có thể đi chậm hơn, khỏi lo lắm.
Hai người cứ buông cương cho lừa đi nước kiệu đều đều.
Lúc bấy giờ Lục-vô-Song mới hỏi:
- Ngốc giỏi quá! Làm sao mà cướp được cả cây phất trần của sư phụ mình như vậy?
Dương-Qua cười hì hì đáp:
- Tôi cứ làm cho nàng sướng mê lên rồi bất ngờ cướp lấy chứ có gì khó đâu!
Lục-vô-Song ngạc nhiên hỏi nữa:
- ô, sao lại có thuật làm cho người ta sướng mê lên được. Hay quá nhỉ. Vì cậu đẹp trai chăng?
Nàng hỏi xong thấy nóng bừng cả mặt, đôi má đỏ hây hây.
Dương-Qua khoác tay đáp:
- Bí mật không nói. Thật ra tôi chỉ biết cô nàng cứ ngó sững mình hoài. ấy chết, nói nữa e có kẻ nổi ghen lên bây giờ.
Lục-vô-Song đấm vào đùi chàng nói:
- Cóc khô! Ai thèm! Bộ ngon lắm sao?
Cho lừa đi chầm chậm một chập để dưỡng sức, hai người sợ Lý-mạc-Thu đuổi theo nữa nên cho phi nhanh trở lại.
Chẳng bao lâu núi rừng đã chìm đắm trong màn sương chiếu trắng đục, ánh hồng chỉ còn le lói trên ngọn cây, chim rừng kêu nhau về tổ, bóng hoàng hôn sắp trùm lên vạn vật.
Dương-Qua nói:
- Bây giờ trời đã tối, miệng đã khô, bao tử trống trơn, cửa nhà không có, tính liệu sao đây?
Lục-vô-Song đáp:
- Cậu muốn gì cứ nói ra chứ hỏi làm gì cho lắm chuyện.
Dương-Qua nói:
- Nếu không bận tâm về chú lừa này, bọn mình tìm bụi nào kín đáo ngủ đỡ một đêm cũng xong.
Lục-vô-Song đáp:
- Chỉ có bọn mọi man rợ mới đi ngủ núi nằm rừng mà thôi.
Dương-Qua làm thinh. Hai người cứ cho lừa đi bước một trong đêm tối. Chẳng bao lâu tới một thôn trang nhỏ, ngay ở đầu thôn có buộc một đoàn ngựa rất nhiều, có hàng trăm con. Ngựa này của quân Mông Cổ vừa đi ngang vùng này ban sáng và hình như tạm nghỉ chân lại một vài hoom.
Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:
- Cô tạm ở đây coi chừng lừa, tôi vào xóm xem xét tình hình thế nào rồi ra ngay nhé.
Nói rồi xăm xúi đi thẳng vào làng.
Nơi phía đầu làng có một tòa nhà rất lớn, tuy đóng cửa, bên trong đèn đuốc thắp sáng, chiếu ra ngoài qua các khe cửa.
Dương-Qua rón rén lại gần, nhón chân ghé mắt nhìn qua kẽ hở của cánh cửa sổ, thấy bên trong có một viên quan Mông Cổ ngồi xây lưng ra ngoài, chàng nghĩ bụng:
- Ta bắt cóc người này lợi hơn là đoạt ngựa.
Vừa khi ấy viên quan nọ đứng dậy đi đi lại lại trong phòng hình như đang suy nghĩ điều gì quan trọng.
Nhìn nét mặt thì y hãy còn trẻ lắm, tuổi độ ba mươi thôi, nhưng xem dáng điệu và lối ăn mặc, thì có vẻ một vị quan lớn lắm.
Chờ cho người ấy ngồi lại chỗ cũ xoay lưng về phía mình, Dương-Qua chuyển lực vào hai cánh tay bẻ cong mấy thanh sắt nơi cửa sổ rồi phóng người vào, đưa tay chụp lấy lưng hắn.
Vị quan này tuy nhỏ tuổi nhưng cũng có bản lãnh. Vừa nghe tiếng gió phía sau hắn đã cúi sạp mình tới trước né tránh, khiến cho Dương-Qua chụp hụt vào không khí, hắn bỗng xoay mình lại, xòe hai bàn tay như cặp vuốt chim ưng, chộp lấy Dương-Qua.
Thấy y xuất thế "thần ưng vỗ kiếm" một thế võ lợi hại, Dương-Qua vội vàng nghiêng qua một bên và trong bụng khen thầm chẳng ngờ một viên văn quan mà cũng khá thạo về võ nghệ.
Viên quan ấy bước tới chụp luôn mấy cái nữa nhưng không kết quả gì.
Nguyên lúc còn thơ ấu, viên quan này có gặp một dị nhân dạy cho thế võ "thần ưng vỗ kiếm" nên lấy làm tự hào, dùng đó làm món nghề hộ thân. Chẳng ngờ hôm nay đưa ra ngón một mà chụp hoài không trúng được đối phương nên y lộ vẽ lúng túng, đứng yên một chỗ đưa mắt nhìn người lạ mặt lộ vẻ sợ hãi.
Dương-Qua thấy y cứ loay hoay và dùng mãi chỉ có một thế võ đó nên phi thân lên trên cao, đưa tay nắm trúng bả vai viên quan, trừng mắt bảo:
- Hãy im lặng. Muốn sống quỳ xuống ngay.
Viên quan cảm thấy trên vai nặng chĩu như có một tảng đá nặng ngàn cân, buộc lòng phải quỳ xuống theo lệnh của đối phương nhưng lòng căm tức muốn ói mật.
Dương-Qua xem sắc diện y tái mét lộ vẻ căm phẫn cực độ, e rằng có thể vì quá phẫn uất lên mà chết mất, nên đưa tay điểm nhẹ một huyệt cho máu huyết lưu thông.
Viên quan cảm thấy trong người đã thư thái nhẹ nhàng, dễ chịu hơn trước nên đứng thẳng dậy, mắt nhìn trừng trừng vào Dương-Qua, nghiến nàng hỏi:
- Ngươi là ai, dám vào nơi đây hành hung như vậy?
Thấy người này nói giọng Hán rất trôi chảy, không ngượng nghịu líu lo như phần đông người Mông-Cổ khác nên cười khà khà hỏi lại:
- Còn chú mi tên chi, hiện đang giữ chức vụ gì, từ đâu lại đây?
Người ấy nổi nóng xung tới thoi nhầu vào ngực Dương-Qua. Chàng chỉ sẽ đưa tay gạt qua một bên rồi ôn tồn nói nhỏ:
- Chú ni đã thọ thương nơi vai rồi, phải liệu lấy, đừng làm phí sức khỏe lắm mà chết không kịp ngáp.
Người ấy trợn mắt đáp:
- Mi đừng nói nhảm, ta mạnh khỏe như thường, chẳng bị thương tích nào cả.
Dương-Qua nói thêm:
- Mi chưa cảm thấy đó thôi. Nhưng bây giờ vai đã bắt đầu ê ẩm rồi đó.
Quả nhiên viên quan ấy thấy hai đầu vai đã tăng tăng như bị kiến cắn, biết không phải chuyện nói đùa nên lật đật trật áo ra xem thử nơi mỗi vai có một vết đỏ ửng như bị kim châm.
Y đoán chắc người này đã dùng ám khí chém nơi vai mình khi nãy, nên bốc giận phừng phừng nhưng không dám nặng lời, chỉ hỏi lại:
- Ngươi dùng loại ám khí gì đâm ta như vậy? Có độc lắm không?
Dương-Qua mỉm cười đáp:
- Té ra chú mi chẳng hiểu tý gì về ám khí cả sao? Như thế mà cũng xưng võ nghệ với ai? Chú mi há chẳng nghe tục ngữ trong võ lâm thường nhắc: "ám khí nặng không độc, ám khí nhỏ mới có nhiều chất độc", nguy lắm chứ.
Nhìn thấy nét mặt của viên quan trẻ tuổi từ hồng hào sang tái xanh, môi mép lợt lạt, Dương-Qua biết y sợ hãi đến cực độ nên dùng cây bút lấy trên bàn khẽ chỉ vào hai vết đỏ mà giải thích thêm:
- Hai đấu này là do kim châm của ta đã điểm vào khi nãy. Cứ một ngày chất độc lan ra bám đen thêm một tấc. Cứ thế mãi, đúng sáu hôm, chất độc sẽ thấm vào tim, thế là hết sống.
Viên quan thất kinh hồn vía, muốn lạy dài nhờ ơn cứu mạng nhưng vốn bản chất quan liêu còn quá nặng không chịu nhún mình năn nỉ, đưa tay chỉ mặt chàng nói rằng:
- Nếu ta bỏ mạng thì quyết không để mi sống sót. Thà cả hai cùng thác một lần, phen này ta quyết thí mạng cùng mi.
Nói rồi xông đến toan hành hung.
Vừa lúc ấy một giọng quát lanh lảnh từ bên ngoài vọng vào:
- Thằng Mông-Cổ khốn nạn Gia-luật-Tấn kia, quan gia chi mi mà múa mỏ. Biết điều mau mau ra đây nộp mạng cho rồi.
Viên quan ấy vừa nghe gọi tên mình vừa quay đầu ngó ra bỗng đâu có từng loạt ám khí từ ngoài cửa sổ bắn vào ào ào như mưa tuôn gió thổi.
Trước một cơn mưa ám khí ào ạt bay mau như chớp nhoáng viên quan này dẫu có tài giỏi bao nhiêu cũng khó bê tránh khỏi.
Tức thì Dương-Qua vung tay áp dụng thuật "mưa hoa khắp trời" một tuyệt kỹ trong "Ngọc nữ tâm kinh" đánh bạt bao nhiêu ám khi rơi xuống đất leng keng như một đám đinh, cứu thoát được mạng hắn.
Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người nói:
- Khá lắm, các hạ tài nghệ quá đáng phục, vậy xin hẹn gặp gỡ một ngày gần đây. Bây giờ xin tạm biệt.
Kế đó có tiếng lanh lảnh của một nữ lang bảo nhỏ:
- Thôi chúng ta đi cho rồi.
Dương-Qua cười lớn:
- Kẻ nào có giỏi thì vào đây, xuất đầu lộ diện, trình bày tên họ xem nào. ẩn nấp như vậy đâu phải là hào hiệp.
Chẳng có tiếng người đáp lại, kế đó trên mái ngói nghe rào rào, hình như có ba người từ cửa sổ phi thân lên nóc nhà chạy đi nơi khác.
Dương-Qua lắng tai nghe tiếng chân bước trên mái ngói có vẻ nặng nề, nên nghĩ bụng:
- Đây là những hạng tầm thường võ công còn thấp kém, chẳng thèm để ý làm chi cho bận lòng.
Cũng nên nói thêm về thuật "mưa hoa khắp trời". Đó là một phương pháp tuyệt diệu dùng ám khí. Người giỏi thuật này có thể đồng thời tung ra thật nhiều ám khí để đánh rơi những ám khí của đối phương. Đây chỉ là một ngón bí truyền trong "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương-Qua đã học được trên võ lâm chưa một kẻ nào biết đến.
Ngoài ra, Dương-Qua đã luyện đến mức tinh diệu hơn là một tay phóng ra, một tay có thể thu hồi ám khí trở lại được.
Mấy lúc nay tuy đã tập luyện tinh thục nhưng Dương-Qua chưa bao giờ đem ra thực hành. Hôm nay vì thấy đối phương ném vào quá nhiều ám khí nên chàng phải buộc lòng thí nghiệm lần đầu tiên. Không ngờ kết quả đạt được đã ngoài sức tưởng tượng.
Tuy thích chí về sự thành công của thuật này nhưng Dương-Qua sực nghĩ lại và trong lòng rất áy náy. Chàng nghĩ.
- Quan quân Mông Cổ đứa nào cũng là phường hại dân cướp nước. Hôm nay có người muốn giết nó thì kẻ này nếu không người đông đạo, ít ra cũng là hạng yêu nòi thương nước. Ta vì hăng hái nhất thời đã đánh lại người đồng ý chí để cứu bọn Mông Cổ, quả thật là bậy.
Viên quan này đâu biết ám khí của ai, thấy Dương-Qua vung tay thì cứ đinh ninh rằng chàng cố hạ mình nên tức giận cúi xuống lượm những mũi phi tiêu, tên sắt, đạn, rơi rớt khắp nền nhà, nhắm người Dương-Qua liệng đại.
Dương-Qua khinh thường không tránh né, ngồi yên đưa tay bắt hết không sót một mũi nào. Khi Gia-luật-Tấn dừng tay, chàng hét lớn:
- Hãy coi chừng kẻo chết đấy.
Tức thì hàng mấy chục thứ ám khí đủ loại như phi đao, thiết tiễn, thiết đạn, kim tiêu, loang loáng như sao sa, bay vun vút về phía Gia-luật-Tấn, chỗ nào cũng có.
Gia-luật-Tấn quá hoảng hốt lật đật co giò nhảy trái ra sau, va lưng vào vách một tiếng ầm, đứng khựng lại đó không cử động nổi. Y len lét đưa mắt nhìn lại thấy bao nhiêu ám khí đếm ghìm chặt vào vách, sát bên da mình, nên kinh hoàng vội nghĩ:
- Trời ơi, người này tài quá! Nếu va cố tình giết ta thì đâu có khó gì. Chỉ xem vị trí các ám khí cũng đủ thấy mạng mình tùy thuộc nơi va rồi.
Nghĩ xong, y để nguyên mũ áo, sụp xuống sáp đất lạy dài, miệng nói:
- Người thật là bậc anh hùng quán thế. Tôi xin hoàn toàn bái phục.
Dương-Qua tuy bản lãnh cao cường, nhưng từ bé đến lớn trải qua nhiều cảnh đoạn trường, chỉ bị hà hiếp bức sách hơn là được ca ngợi tán tụng. Hôm nay bỗng nhiên được một quan viên cao cấp lay mình sát đất và ngỏ lời khen tặng thì thấy phơi phới trong lòng, cất tiếng cười khoan khoái lắm.
Gia-luật-Tấn lễ phép hỏi:
- Xin đại nhân cho biết quý tánh đạo danh để nhớ ơn muôn thuở.
Dương-Qua đáp:
- Tôi họ Dương tên Qua. Ông có phải tên thật là Gia-luật-Tấn hay không? Hiện nay ông đang giữ chức tước gì của triều đình Mông-Cổ.
Nguyên Gia-luật-Tấn là con trai của Gia-luật-Sở-Tài, đương kim Thừa tướng của vua Mông Cổ.Gia-luật-Sở-Tài đã có công giúp vua Thái-Tồ nhà Nguyên là Thành-Cát-Tư-Hãn, và sau giúp vua Nguyên-Thái-Tôn là Oa-Khoát-Thai, thứ nam của Thành Cát-Tư-Hãn, chiến công hiển hách, vang danh thiên hạ suốt hai trào.
Gia-Luật-Tấn nhờ oai danh của phụ thân cho nên mặc dầu còn trẻ tuổi đã được làm chức Biện-Lương Kinh-Lược-Sử. Hôm nay Gia-Luật-Tấn lên đường đi Biện-Lương, thuộc xứ Nam-Hà để phó nhiệm.
Y lần lượt kể hết gốc tích của mình cho Dương-Qua nghe.
Dương-Qua xuất thân hàn vi, từ nhỏ đến lớn trong núi học võ, đâu có am hiểu ngoài đời, cho nên chẳng hiểu chức Biện Lương Kinh-Lược-Sứ là chức chi, lớn hay nhỏ, nhưng vẫn làm bộ thạo đời, gật gù lia lịa, miệng khen:
- Hay lắm, tốt lắm!
Gia-Luật-Tấn lễ phép hỏi:
- Thưa Dương anh-hùng, chẳng hay kẻ hạ quan này có làm điều chi xúc phạm đến Dương anh-hùng, xin vui lòng chỉ dạy cho.
Dương-Qua cười dài đáp:
Chẳng có gì xúc phạm hết.
Nói dứt lời đã lao mình qua khung cửa sổ đi mất.
Gia-Luật-Tấn vội vàng chạy theo kêu với thật lớn:
- Dương anh-hùng sao mà gấp vậy?
Nhưng tiếng gọi vang đi không lời đáp lại. Hình bóng Dương-Qua đã biến mất trong bóng tối của màn đêm.
Gia-Luật-Tấn vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, băn khoăn suy nghĩ:
- Người này đi đâu không chừng, gốc gác chẳng rõ, không biết vì sao đến đây? Bây giờ bỏ đi rồi, làm sao chữa cho hết chất độc của kim châm đang thấm vào cơ thể của mình đây. Thật là nguy hiểm quá!
Đang vẩn vơ lo nghĩ bỗng có hai bóng hiện ra trên cửa sổ. Dương-Qua đã trở lại, có dắt thêm một người nữa.
Gia-Luật-Tấn mừng như người bắt được của, hớn hở nói:
- May quá ngài đã trở lại. Tôi đang nóng ruột chờ ngài đây.
Dương-Qua chỉ Lục-vô-Song giới thiệu:
- Đây là người chị dâu của tôi. Ông xem có hạp nhãn không?
Lục-vô-Song xấu hổ nạt lớn:
- Sao ăn nói bậy bạ vậy?
Vừa nói nàng vừa đưa tay tát mạnh vào miệng Dương-Qua.
Chàng không tránh né, đứng yên hứng nhận cái tát nghe bốp một tiếng, in dấu bàn tay rõ ràng lên mặt.
Gia-luật-Tấn chưa biết giữa hai người ai hơn ai kém, nhưng có lẽ nàng này có bản lãnh hơn nên mới hành động lỗ mãng như vậy. Y cứ đứng nhìn hai người không dám nói năng một lời nào.

Hồi 26

Mối thù oan gia giữa hai họ

Dương-Qua thản nhiên như không, đưa tay vuốt lại nếp áo rồi cười cười bảo Gia-luật-Tấn!
- Ông bị thuốc độc của kim châm, chỉ còn ba giờ nữa là mất mạng. Nếu ông thuận tình nghe tôi một việc tôi sẽ cứu cho.
Gia-luật-Tấn chấp tay nói:
- Bình sinh hạ quan vốn ngưỡng mộ những bậc anh hùng hiệp sĩ như quý Ngài, hôm nay tình cờ được gặp thật cũng thỏa lòng mong ước. Dương anh hùng thương tình cứu cho thì thật là may phước. Nếu không, dẫu phải bỏ mạng hạ quan cũng vui lòng vì đã hân hạnh được chết vì bàn tay của một hảo hán. Chết như thế là một danh dự chứ đâu phải điều nhục nhã mà buồn.
Bao nhiêu lời tâng bốc, khéo nói của Gia-luật-Tấn khiến cho Dương-Qua hứng chí như bay tận mây xanh nên chàng lộ vẻ hân hoan trên nét mặt.
Dương-Qua từ tấm bé có khi nào tiếp xúc được với giới quan trường nên đâu có hiểu thấu những mánh lới tán dương quỵ lụy của họ đối với các bậc bề trên, mỗi khi họ cầu van nài một ân huệ gì đặc biệt. Vì vậy nên những lời tán dương của Gia-luật-Tấn, Dương-Qua hoàn toàn tin là lời lẽ chân thật. Huống chi hắn ăn nói đã nhỏ nhẹ, điệu bộ lại khúm núm nên chàng vừa ý hết sức.
Nguyên người Mông-Cổ bản chất mộc mạc thô lỗ nghĩ đâu nói đấy. Nhưng Gia-luật-Tấn nhờ sinh trưởng ở Trung nguyên lại thuộc giòng danh gia quý tộc cho nên sự nói năng khôn khéo không thể chê được.
Dương-Qua vỗ vai Gia-luật-Tấn nói:
- Thôi, ông khỏi cần nói nhiều, để tôi cứu chữa cho.
Nói xong chàng thò tay vào bọc lấy ra một viên đá "nam châm" hút sắt đặt lên vết thương trên vai Gia-luật-Tấn. Tức thì hai cây "Ngọc phong châm" theo sức hút của viên đá vọt ra ngoài. Dương-Qua lấy thuốc xoa vào vết thương bớt ê ẩm ngay.
Lục-vô-Song chưa bao giờ được thấy "Ngọc phong kim châm" nay thấy hai mũi kim tý hon, mỏng manh như hai sợi lông, thả vào nước nổi lềnh bềnh thì nghĩ bụng:
- ám khí gì mà lạ vậy. Thứ này lấy ra gió thổi bay mất ngay, làm sao mà phóng đi được!
Nàng cười mãi, bảo Dương-Qua:
- Mang danh nam tử phải hành động thế nào cho quan minh chính đại chứ lẽ nào đi chế ám khí hại lén người ta thì đâu phải con người khí phách!
Dương-Qua nghe nói chỉ cười lạt, chẳng trả lời, quay sang hỏi Gia-luật-Tấn:
- Chị em chúng tôi muốn được đại nhân kết nạp làm gia nhân sai vặt trong dinh, chẳng hay có được không?
Gia-luật-Tấn thất sắc vội đáp:
- Dương anh hùng thích vui nói đùa như vậy, chứ hạ quan đâu dám nhận. Bây giờ đại nhân muốn cần dùng việc gì cứ thật tình nói thẳng ra, hạ quan sẽ xin hết sức làm vừa lòng đại nhân.
Dương-Qua nói:
- Tôi muốn thật đấy, không nói đùa đâu. Chúng tôi muốn được làm kẻ hầu cận cho đại quan, chứ không giả ngộ như đại quan đã lầm tưởng.
Gia-luật-Tấn thấy chàng quả quyết như vậy, nghĩ thầm:
- Có lẽ hai người muốn được ta tấn cử để có quan to chức trọng, nhưng không tiện nói thật, tìm cách nói khéo ra như vậy, mình là kẻ thức thời, tất nhiên phải hiểu lấy chứ.
Nghĩ rồi y chậm rãi nói:
- Nếu nhị vị đã quyết lòng, hạ quan đâu dám cãi ý. Cứ như tài năng của nhị vị, nếu tiến cử đến Hoàng-Thượng, chắc chắn sẽ được trọng dụng ngay.
Dương-Qua biết y đã hiểu lầm mình nên cười rồi đáp:
- Ông đã hiểu lầm chúng tôi rồi. Hai đứa tôi đâu có ý nghĩ làm quan hay được chức tước. Sở dĩ vì bị kẻ thù đuổi gấp, mà chống cự không nổi, buộc lòng phải xin ông nhận tạm, cho giả làm gia nhân để che mắt chúng mà thôi. Ngoài ra tuyệt nhiên không có một hậu ý gì khác nữa.
Gia-luật-Tấn ngỡ ngàng quá, thở dài một cái, gượng nói:
- Cứ như bản lãnh siêu phàm của nhị vị thì kẻ thù nào dám bức sách nổi, hoặc giả nếu chúng ỷ thế đông người, hạ quan sẽ cho quân lính tiếp tay cùng nhị vị để đối phó, được không?
Dương-Qua đáp:
- Đối với người thù của chúng tôi, dầu bao nhiêu quân mà cũng chẳng làm chi hắn nổi. Tốt hơn là đại nhân cứ cấp cho hai bộ đồ thị vệ là xong chuyện.
Nghe câu nói tuy đơn giản nhưng có vẻ nghiêm trọng và quả quyết nên Gia-luật-Tấn phải luôn miệng vâng dạ rồi truyền cho đi lấy hai bộ đồ "thị-vệ" mang lại ngay.
Dương-Qua tiếp nhận, chia cho Lục-vô-Song một bộ rồi cùng qua phòng kế bên thay đổi.
Lục-vô-Song thay đồ xong đứng trước gương ngắm nghía thấy mình đã hiển nhiên biến thành một chú thị vệ Mông-Cổ rất bảnh trai!
Bắt đầu đêm đó cả hai ở luôn trong tư dinh của Gia-luật-Tấn và chẳng có việc gì lạ xảy ra.
Rạng ngày sau, đoàn quân Mông Cổ lại lên đường. Dương-Qua và Lục-vô-Song mỗi người ngồi trong một chiếc kiệu có bốn người khiêng, còn Gia-luật-Tấn cưỡi ngựa đi theo sau.
Đoàn quân đi mãi đến gần đứng bóng, thình lình có tiếng nhạc Loan-Linh reo vang lảnh lót, nhưng một chặp sau tắt hẳn không còn nghe nữa.
Lục-vô-Song được nằm trong kiệu êm, được kẻ hầu người hạ bốn phía lấy làm thích chí nghĩ thầm:
- Bây giờ ta cần gì phải đi nữa cho vất vả, cứ nằm lỳ nơi đây cho chúng khiêng đi, khi nào về tới Giang-Nam sẽ hay.
Đi mãi hai ngày sau, không còn nghe tiếng nhạc Loan-linh nữa mà bọn hành khất cũng không ai hay biết để đón đường phá rối. Vì vậy nên Lục-vô-Song cũng thấy vững bụng bớt lo.
Đến ngày thứ ba, đoàn quân đến trại Long-câu, một vị trí quan trọng, sầm uất phồn thịnh, người ở đông đúc và cũng là địa điểm trọng yếu trên trục giao thông giữa Tân-Hoài và Biện-Lương.
Gia-luật-Tấn ra lệnh cho quân lính dừng lại nghỉ chân và ăn uống.
Chiều đó, sau khi cơm nước xong xui, Gia-luật-Tấn vào phòng gặp Dương-Qua nói chuyện và ngỏ ý muốn được chàng chỉ vẽ cho một vài ngón võ tùy thân.
Nhờ y khéo tán tỉnh nên Dương-Qua vui vẻ nhận lời.
Dương-Qua chỉ vẽ cho y một vài thế võ thô sơ, chàng giảng lý thuyết trước rồi biểu diễn từng lối đánh đỡ thật chu đáo.
Gọi là vài thế thô sơ, nhưng đối với Gia-luật-Tấn thì toàn là những thế tuyệt diệu chưa hề biết nên rất thích thú và chăm chú đem hết tâm trí để học.
Đang say mê học tập, thình lình thị vệ vào bẩm:
- Kính bẩm đại nhân, có người mang thư của Cụ Cố từ Kinh đô đem về.
Gia-luật-Tấn mừng quá hỏi:
- ồ, hay quá, mi dặn hắn chờ một tý ta sẽ ra ngay bây giờ.
Nói rồi, y đứng dậy xin lỗi tạm cáo biệt Dương-Qua để ra ngoài đón người đem thư, nhưng bỗng y đổi ý nghĩ thầm:
- Hay là ta cứ ở đây tiếp tục học tập và bảo hắn mang thư thẳng lại đây cũng được.
Nếu ta bỏ đi e Dương anh hùng buồn ý, cho là không thiết tha với việc học tập rồi chẳng truyền dạy cho nữa.
Nghĩ xong y bảo người thị vệ:
- Nhà ngươi bảo người mang thư đem ngay lại đây cho ta xem.
Người thị vệ biến sắc, ấp úng một chập và thưa:
- Bẩm đại nhân... bẩm... bẩm...
Gia-Luật-Tấn gắt:
- Bẩm, bẩm gì mà lôi thôi mãi thế, làm như có điều gì quan trọng lắm. Cứ bảo hắn đem lại đây ngay, đừng bẩm dai nữa.
Tên thị vệ lấy lại bình tĩnh thưa:
- Bẩm ngài, chính Cụ Cố đã thân hành đến thăm, chứ không phải gửi thư.
Gia-Luật-Tấn không tin, đứng yên suy nghĩ:
- Vô lý, có chuyện gì đến nỗi phụ thân ta phải đến tận nơi đây?
Ngay lúc đó, bức màn cửa vén lên một cụ già tóc râu như tuyết, ung dung bước vào, vừa cười vừa nói:
- Con, chắc con không ngờ rằng cha đến thăm con tại đây phải không?
Gia-Luật-Tấn vừa trông thấy mặt cha, vừa mừng vừa sợ, vội vàng sụp lạy thưa rằng:
- Kính lạy phụ thân, thật con không ngờ phụ thân đến để ra đón mừng. Xin phụ thân tha tội bất hiếu.
Ông cụ vẫn tươi cười đáp:
- Cha cũng muốn cùng đi với con cho vui.
Ông lão chính là Gia-luật-Sở-Tại, cha của Gia-Luật-Tấn. Đại-Thừa-Tướng của dương trào Mông-Cổ. Theo quan chế của triều Nguyên thì gọi Thừa Tướng là "Trung thư lệnh".

Tuy biết ông cụ là cha của Gia-Luật-Tân, nhưng Dương-Qua chưa hiểu quyền uy tột bực của ông như thế nào, và cũng không ngờ, trong khắp thiên hạ trên toàn cõi Trung-hoa, ông chỉ thua sút có một mình đương kim Hoàng-Đế mà ngồi trên mấy trăm triệu người cả Hán lẫn Mông-Cổ.
Nhìn thấy ông Cụ rất phương phi quắc thước, đầu tóc bạc phơ, râu dài uốn lóng lánh như cước, trán rộng, mắt sáng, da dẻ hồng hào, uy nghi đường bệ, thoạt trông thấy cũng phải đem lòng kính nể. Quả thật là một Cụ già quý tướng.
Chàng tự nhiên có một cảm giác vừa kính vừa yêu từ trong lòng phát ra.
Ông Cụ vừa ngồi xuống ghế thì ngoài cửa có hai người nữa cùng bước vào, thì lễ cùng Gia-Luật-Tấn và gọi bằng anh cả.
Đó là một người con trai và một người con gái. Trai độ 25 tuổi, gái vào khoảng hai mươi, cỡ tuổi của Dương-Qua mà thôi.
Chào hỏi xong xuôi, Gia-luật-Tấn hỏi hai em:
- Hai em cùng đi với thân phụ đến đây phải không?
Thì ra người thanh niên là con thứ của Gia-luật-Sở-Tài, tên là Gia-luật-Tề và người thanh nữ là Gia-luật-Yên, gái út của ông Cụ.
Gia-luật-Tề dáng người thanh thanh cao cao, trán rộng, cằm vuông, nhìn điệu bộ cử chỉ thật là uy nghi dũng mãnh.
Người mới gặp chàng lần đầu không biết rõ thân thế, chỉ nhìn quan dáng điệu cũng có thể đoán là công tử của một danh gia quý tộc.
Gia-luật-Yên thì mặt đẹp như hoa, da trắng như trứng gà bôi, mắt phượng mày tầm, thân hình mảnh mai nhưng không có vẻ quá lả lướt. Trong cái đẹp vẫn ẩn tàng một nét uy nghi của con người cân quắc nữ lưu.
Nghe anh hỏi, Gia-luật-Yên hé cặp môi đỏ mọng như san hô cười dòn dã, toan trả lời thì Gia-luật-Tấn đã bước lại gần thân phụ hỏi nhỏ:
- Có việc gì trọng đại mà phụ thân lại bất ngờ mang cả hai em con cùng ra đây. Hay đã có điều gì xảy ra tại Kinh-đô chăng?
Gia-luật-Sở-Tài vuốt râu đáp:
- Quả đúng như vậy. Nhưng con nên cho bọn thị vệ ra hết cả rồi cha sẽ thuật lại cho mà nghe.
Gia-luật-Tấn ra lệnh cho các thị vệ giải tán ngay. Nhưng đối với Dương-Qua thì xem y như bậc bề trên chẳng dám đả động tới. Tuy nhiên Dương-Qua cũng hiểu ý, mỉm cười rồi lẳng lặng bước ra ngoài.
Gia-Luật Sở-Tài quả con người mẫn thiệp có mắt tinh đời, chỉ ngó qua đã nhận thấy Dương-Qua có những cử chỉ khác hẳn bao nhiêu người khác. Trong lúc bao thị vệ lễ phép sụp lạy mình thì chàng vẫn đứng im nhìn với cặp mắt thản nhiên không chút nể sợ, vì vậy nên ông hỏi Gia-luật-Tấn:
- Người mới vừa bước ra sau cùng là nhân vật nào vậy?
Gia-luật-Tấn tự xét không tiện đem lai lịch và sự việc của Dương-Qua ra trình bày cho cha và hai em biết để rồi có thể hiểu lầm mình thích giao du với bọn búa đao lạc lõng mất thể diện một phụ mẫu chi dân. Vì vậy nên y tìm cách nói lệch đi:
- Bẩm phụ thân, đó là một ông thầy tướng số. Lần này phụ thân về Giang-Nam chắc có chuyện gì cần thiêt hay bất ngờ chăng?
Gia-Luật Sở-Tài thở dài một cái và rầu rầu đáp:
- Ta đi phen này có hai mục đích, một là đi lánh nạn cho mình hai là để tìm cách cứu vãn để nghiệp muôn đời cho tiên đế.
Gia-luật-Tấn yên lặng ngồi nghe và thấy cả hai em cũng nín thinh với vẻ mặt đăm chiêu buồn bã.
Nguyên từ ngày Nguyên Thái-Tổ là Thành-Cát-Tư-Hãn băng hà, con thứ là Oa Khoát Thai lên ngôi kế vị chưa được bao lâu cũng qua đời truyền lại cho con là Quí-Do. Quí-Do cũng chết non nên Hoàng-Hậu của Quí-Do chấp chánh theo lối "thùy liêm thính chính" nghĩa là rủ màn nghe việc trào đình.
Hoàng-Hậu có tánh ưa nịnh ghét trung, thích nghe những bọn tiểu nhân dèm siểm, đố kỵ những văn quan võ tướng có công lớn với đương triều. Vì thế cho nên công việc trong trào lộn xộn chia rẽ chưa lúc nào tệ như vậy.
Gia-luật Sở-Tài là một tay "khai quốc công thần" đã ba đời vua có công hạn mã, được ba vua yêu mến nể vì. Thấy Hoàng hậu hay tin cậy những bọn không ra gì lại hay bày trò đâm loạn ngay trong cung cấm nên đã nhiêu lần đem lời ngay thẳng can gián.
Vì nhiều lần bị Thừa Tướng cản ngăn và chỉ trích việc làm của mình, Hoàng hậu có ý bất bình ra mặt, tuy nhiên vì Gia-Luật Thừa Tướng là vị đệ nhất Công Thần của tiên đế nên chưa làm chi được, song trong bụng vẫn lăm le kiếm dịp để sát hại cho khuất mắt.
Sở dĩ cái việc làm của Gia-luật Sở-Tài lúc nào cũng đường đường chính chính nên mặc dầu Hoàng hậu hay bọn nịnh thần có ghét cũng không có cách nào buộc tội được.
Gia-luật-Sở-Tài thừa rõ ý ấy nhưng ông nghĩ rằng:
- Ta đã cao niên dầu có chết đi cũng không tủi nữa. Sống ngày nào ta quyết không để cho sự nghiệp của tiên hoàng Thành Cát Tư Hãn bị hư nát vì tay một người đàn bà.
Vì vậy cho nên mỗi khi thấy có việc gì không đúng, lão thần thẳng thắn cản ngăn cho tới kỳ cùng. Lắm khi hai bên tranh chấp gay go và khi tan chầu, cả hai có vẻ không vui và giận lẩy.
Là người thông minh xuất chúng, liên việc như thần Thừa Tướng Gia-Luật-Sở-Tài cũng biết rõ ràng đi đối đầu với Hoàng hậu là một điểm quá ư nguy hiểm và ngày nay mạng mình cũng lung lay như ngọn đèn treo trước gió, chưa biết sẽ phục tắc lúc nào. Nhưng mỗi khi nghĩ đến cơ nghiệp của Tiên-Hoàng Thành-Cát-Tư Hãn và lời ủy thác của người lúc băng hà thì ông lại quyết tâm bảo vệ cho đến cùng, tìm cách củng cố lại công việc trào chánh.
Một ngày kia Thừa Tướng bỗng nghĩ ra một kế nên lúc vào chầu có dâng cho Hoàng hậu một bản điều trần rằng xứ Hà-nam hiện có nhiều tham quan ô lại những lạm dân nghèo nên xin đảm nhận trọng trách đích thân ra đó để thanh tra và tìm cách bổ cứu.
Đọc biểu chương Hoàng hậu cả mừng vì lúc nào Thừa Tướng ở tại triều không khác nào một cái đinh trước mắt, nay người đi càng xa, càng đỡ bận trí bấy nhiêu, mong cho người ở ngoài đó càng lâu càng tốt, và mỗi ngày đỡ phải nghe những lời ngăn can phiền phức nhức óc.
Vì vậy nên Hoàng-hậu đặt bút chuẩn phê ngay.
Để ra ơn lấy lòng đối với một lão thần đã có công to cùng triều đình nên Hoàng-hậu hạ chiếu cấp cho Thanh "thượng phương bảo kiếm" và ủy quyền cho Thừa tướng có thể "chém trước tấu sau", với quyền uy tuyệt đối thay mặt cho vua quyết định mọi việc ở phương xa.
Về đến tư dinh, Thừa-Tướng cho mời tất cả các vị công thần đã có công hạn mã cùng hai trào Tiên-đế Thành-Cát-Tư-Hãn và Oa-Khoát-Thai dựng lên đế nghiệp, vào bàn luận.
Nghe tâm sự của Thừa Tướng mọi người đều khen phải.
Trong đêm ấy, Gia-Luật Thừa Tướng thức khuya đọc bộ "Tư tri thông giám" đến đoạn "Trương-Giám-Chi truất phế Võ-tắc-Thiên hoàng hậu lập vua Trung-Tôn nhà Đường thì trong lòng nảy ra một ý tưởng muốn noi gương ấy áp dụng cho Trào chánh hiện nay, nhưng ông suy nghĩ:
- Ta muốn noi chí tiền nhân làm sao phế bỏ mụ đàn bà này củng cố lại đế-nghiệp của Tiên-Vương, nhưng nếu không kịp nhẹm lỡ đổ bể ra thì chắc con dâm phụ sẽ thừa dịp gán cho mình vào tội phản loạn.
Muốn thực hiện mưu này ta nên chuẩn bị khi ra đến Hà-Nam sẽ dâng biểu xui đem binh dẹp loạn. Chắc chắn thế nào Hoàng hậu cũng sẽ chuẩn y. Lúc ấy ta sẽ thừa dịp chấn chỉnh lực lượng. Khi nào có đầy đủ binh hùng tướng mạnh sẽ hưng binh về trào, lập một vị minh chúa lên ngôi, truất phế Hoàng-hậu xuống.
Hiện nay trong những người trong hoàng tộc chỉ còn Mông-Kha, cháu của Thành-Cát-Tư-Hãn vốn người thông minh đạo đức, bản chất anh minh thuần hậu khẳng khái hơn người, được hầu hết các văn võ bá quan mến chuộng. Nếu lập Mông-Kha lên ngôi Hoàng-Đế chắc chắn mọi người thảy đều hoan-nghinh.
Sau khi bọn thị vệ rút lui rồi, cha con Gia-luật-Sở-Tài mới đem câu chuyện này ra bàn luận.
Gia-luật-Tấn bồi hồi mừng lo lẫn lộn vì y nghĩ rằng:
- Nếu việc này thành công thì quả là công đức phi thường với quốc dân, xây dựng lại được đế nghiệp, nhưng nếu rủi ro bị thất thì nhất định phải mang trọng tội và bị tiêu diệt toàn gia.
Trong khi bốn cha con trù tính kế hoạch trong phòng thì ở phòng kế bên, Dương-Qua lắng tai nghe ngóng. Vốn đã biết được phép "thiên nhãn thông" "thiên nhĩ thuật" nên Dương-Qua có thể nghe được rõ ràng mặc dầu họ nói rất nhỏ và đôi bên bị cách vách.
Kẻ nào đào luyện hai phép này đến chỗ tuyệt kỹ cao siêu sẽ có thể thấy được những gì mà người thường không trông thấy, nghe được những gì mà thiên hạ không nghe ra.
Lục-vô-Song ở cách buồng của Gia-luật-Tấn một căn nhà nhỏ. Những điều của bốn người bàn luận trong phòng, Lục-vô-Song không hề hay biết, nhưng trái lại Dương-Qua thì nghe không sót một câu nào.
Đối với Dương-Qua, chỉ có những chuyện có liên hệ đến mình mới đáng để ý, ngoài ra bao nhiêu việc khác dầu quan trọng đến đâu cũng chả nghĩa lý gì.
Lục-vô-Song thấy Dương-Qua lặng yên ngồi xếp bằng tròn, mắt nhắm kỹ không khác nào một nhà sư đang tham thiền nhập định gần nửa ngày không nhúc nhích thì ngạc nhiên vỗ vai hỏi:
- Làm gì mà ngồi lặng yên như ông sư nhập định vậy ngốc?
Trong khi ấy Dương-Qua đang tập trung mọi ý chí lắng nghe câu chuyện của cha con Gia-luật-Sở-Tài phòng bên nên không hay biết gì về câu hỏi của Lục-vô-Song.
Lục-vô-Song hỏi lại lần nữa nhưng Dương-Qua vẫn ngồi yên không đáp. Nàng nổi giận đưa tay đập mạnh hai cái vào lưng và gắt:
- Ta hỏi mi có nghe không mà làm thinh mãi vậy hở ngốc?
Dương-Qua bị đập mạnh vào người mở choàng mắt, nhảy tung ra phía trước rồi nói nhỏ:
- Có kẻ nào đang rình trên mái nhà gần đây.
Lục-vô-Song ngơ ngác nhìn quanh chẳng thấy gì hết, đáp khẽ:
- Đâu có, không thấy bóng dạng một người nào hết.
Dương-Qua bảo:
- Nhất định có! Nhưng hắn đang nấp trên nóc phòng thứ năm đàng kia chứ không có ở đây.
Lục-vô-Song không tin, cười chế nhạo:
- Làm gì có ai đâu? Mi ngồi ngủ mê, chiêm bao nói sảng đấy.
Dương-Qua thấy nàng ngoan cố bèn nắm áo nàng kéo luôn ra ngoài và bảo:
- Cô chẳng tin thì ra đây mà xem. Biết đâu không phải là Sư phụ của cô đang dò xét để tìm cô!
Nghe tiếng Sư-phụ, Lục-vô-Song giật mình lo sợ, ngoan ngoãn bước theo, ra đến mái hiên, phủ phục phía sau tấm bao lớn đưa mắt nhìn lên trên trời.
Theo tay của Dương-Qua chỉ về phía Tây, Lục-vô-Song trông thấy quả nhiên có một bóng đen lù lù hình như một người đang nằm nấp trên nóc nhà thứ năm.
Đêm nay thuộc hạ tuần cuối tháng không trăng sao, tư bề tối đen như mực, đứng xa không tài nào nhận được những vật trước mắt chớ đừng nói ở trong nhà mà đoán sự việc xảy ra bên ngoài.
Lục-vô-Song càng cảm phục tài nghệ của Dương-Qua, nàng nghĩ bụng:
- Thằng Ngốc quả thật tài tình đúng mức. Tuy nhiên nhất định người này không phải sư phụ của ta đâu. Bất cứ ngày hay đêm lúc nào sư phụ ta cũng mặc y phục trắng hay màu vàng nhạt, chứ không bao giờ mặc đồ đen hay màu nào khác.
Nàng đang đứng lặng thinh suy nghĩ bỗng Dương-Qua ghé miệng kề tai nói nhỏ:
- Người này không phải là Sư-phụ cô đâu, cứ yên chí nhé.
Ngay khi ấy, bóng đen vươn mình đứng dậy nhảy xuống đất chạy thoăn thoắt lại phía nhà của Gia-luật-Tấn, bước tới cửa, đẩy nhẹ ra tay vung một ngọn đoản đao tóe ánh thép loang loáng sáng ngời miệng thét lớn:
- Gia-Luật-Sở-Tài, hôm nay mi đã đến ngày tận số rồi.
Quát vừa dứt câu, người ấy đã bước lọt vào trong nhà. Tiếng nói lảnh lót giống giọng đàn bà. Thân hình nàng tầm thước thon thon, dáng đi đứng có vẻ lẹ làng mạnh dạn lắm. Thấy vậy Dương-Qua có ý lo ngại và nghĩ rằng:
- Cứ theo dáng điệu nàng này thì bản lãnh cao hơn Gia-Luật-Tần một bực rất xa. Phen này cha con hắn khó chống cự nổi.
Lúc ấy Lục-vô-Song nhắc:
- Chúng mình cũng nên lại gần xem thử ra sao chứ!
Thế là cả hai phi thân nhẹ nhàng như đôi bướm đứng ngay phía ngoài cửa sổ đưa mắt nhìn vào gặp lúc Gia-luật-Tấn đang múa một cây gậy ngăn trước đỡ sau chống lại với lưỡi đao của nàng ấy đang vung lên nghe vùn vụt, xé gió vo vo.
Nàng áo đen có một bản lãnh khá cao, đao pháp có vẻ tinh thục lắm. Nàng vũ lộng thanh đao lấp lánh như hoa lê, chém vun vút vào người của Gia-luật-Tấn làm cho cây gậy bỗng sắp bị chặt gãy, càng lâu càng lúng túng.
Biết mình đã đuối sức không thể cự đương lâu nữa, y vội gọi lớn:
- Phụ thân, xin tìm đường lánh đi cho mau.
Rồi y thét lớn:
- Quân bay đâu rồi, hãy đến tiếp tay cùng ta, mau lên!
Thấy nếu cứ để kéo dài cuộc tranh chấp, e bọn thị vệ kéo vào đông quá bất lợi, nên nữ lang áo đen chuyển mình phóng ra một ngọn cước.
Ngọn đá tung ra mau quá, Gia-luật-Tấn né tránh không kịp bị trúng ngay giữa lưng dội tới trước, ngã sắp xuống nền nhà.
Lập tức nàng ấy phóng tới, vung đao nhắm ngay đầu chém xuống thật mạnh.
Dương-Qua thấy tình hình quá nguy ngập miệng la "nguy quá"! rút ngay một mũi "Ngọc Phong Châm" định tung ra để giải cứu nhưng bỗng có bóng một người con gái nhảy ra quát lớn:
- Tiện tỳ, chớ vô lễ!
Người ấy chính là Gia-Luật-Yên, gái út của Gia-Luật-Sở-Tài.
Miệng nói tay trái tát ngay mặt nữ lang áo đen, tay mặt dùng thế "tay không đoạt đao" cướp lấy thanh đoản đao đang chém xuống đầu anh mình.
Thế là hai bên dằng co, kẻ trì người kéo, trông như hai con vượn giành mồi. Cả hai hành động hết sức lanh lẹ, biến thế liên tiếp khi sang tả lúc sang hữu, cây diệp đao lúc ở tay người này khi lại lọt vào tay nàng nọ, nhưng ai cũng cố nắm lấy đằng cán, không người nào chịu nắm đàng lưỡi.
Dương-Qua bèn nhìn Lục-vô-Song nói nhỏ để chọc tức nàng:
- Xem tài nghệ hai nàng này có vẻ cao cường hơn cô một bực.
Trong lúc ấy bọn thị vệ đã vũ lộng binh khí hè nhau xông vào định vây đánh nữ lang, nhưng Gia-Luật-Tề cản lại nói:
- Các ngươi cứ để yên. Tam-Tiểu-Thư khỏi cần các ngươi đánh giúp.
Lục-vô-Song nghe Dương-Qua nói khích, nổi nóng đấm thùm thụp mấy cái vào lưng chàng.
Dương-Qua cười hề hề ghẹo nữa:
- Cô cứ xem đấy không phải sao? Tôi nói không bao giờ sai. Họ xuất thủ toàn những ngón rất tinh diệu, nhất định phải là đệ-tử của cao nhân. Cô bì sao được.
Gia-luật-Tấn đứng qua một bên nghỉ sức và cả cha con đều ngạc nhiên trố mắt ra nhìn, cùng suy nghĩ:
- Xưa nay Gia-Luật-Yên có tập luyện võ nghệ bao giờ đâu mà hôm nay lại tài giỏi như thế này?
Thế rồi hai người hồi hộp đứng nhìn trân trối.
Hai cô cứ tranh nhau quyết giựt cho được lưỡi đoản đao. Người nào cũng quyết túm lấy cán cố rút khỏi tay kẻ địch. Giằng co qua lại, đẩy tới kéo lui, chạy quanh co khắp phòng chưa ai đạt được ý muốn.
Thấy cứ kéo dài mãi, Gia-luật-Tấn nóng ruột đứng dậy nói:
- Tam muội, em hãy lui ra, để cho anh tiếp nàng vài ngón xem sao.
Vừa dứt lời, chàng lanh chân bước vào tung ra liên tiếp ba quyền như búa đập.
Gia-Luật-Yên bước trái qua một bên, miệng nói:
- Đây, anh ra tay bắt sống hắn cho em nhé.
Dương-Qua mỉm cười, chắp tay sau lưng, đứng xem Gia-Luật-Tề và nữ lang áo đen tranh tài cùng nhau.
Đánh một chập lâu, Gia-Luật-Tề bỗng đứng nguyên một chỗ, tay trái giấu sau lưng, tay phải đưa ra phía trước muốn cướp lấy thanh đao, nhưng chưa động thủ. Người con gái áo đen cũng đứng lại thủ thế không dám tấn công nữa.
Dương-Qua buột miệng khen nhỏ:
- Thế võ của chàng này quả nhiên lợi hại!
Lục-vô-Song chế nhạo:
- Bản lãnh của hắn trội hơn chú gấp mấy lần, không lợi hại sao được.
Dương-Qua lặng thinh không đáp, giả bộ như không nghe câu ấy.
Bỗng Gia-Luật-Tề gọi em gái nói:
- Tam muội, hãy xem, anh điểm huyệt cho hắn mềm cả gân cốt, không còn đủ sức nằm vững thanh đao. Em chuẩn bị để đoạt lấy nhé!
Nàng áo đen giận quá hét lớn:
- Súc sinh đừng phách lối, quả là quân khốn kiếp óc đầy cuồng vọng chủ quan.
Gia-Luật-Tề không đáp lại, đưa tay lẹ như chớp điểm ngay vào người cô gái. Cô gái áo đen cảm thấy như muôn ngàn mũi kim châm vào các thớ thịt, chân tay bủn rủn, thanh đoản đao đã rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng lớn.
Mọi người xung quanh thảy đều thán phục Gia-luật-Tề nói đâu có đó, tài nghệ tuyệt vời.
Gia-luật-Tề cúi xuống lượm thanh đoản đao nhìn Gia-luật-Yên nói:
- Tam muội, bây giờ hắn không còn binh khí nữa, em có muốn thử sức thì cứ xông vào, nhưng phải để ý đề phòng song cước của hắn nhé.
Nữ lang bị mất khí giới chỉ còn hai bàn tay không, nét mặt có vẻ hốt hoảng vì kinh sợ.
Bọn thị vệ nghĩ thầm:
- Công tử mình đã đoạt khí giới mà không ra tay hạ sát là có ý muốn tha chết cho nàng, sao nàng không chịu tẩu thoát đi cho mau, cứ đứng hoài như vậy làm gì nữa.
Gia-luật-Yên tiến lên hai bước, đưa tay chỉ ngay mặt nữ lang áo đen, nghiêm nghị nói:
- Hoàng-nhan-Bình, đã hai phen anh em ta rộng lòng tha chết sao mi chẳng biết thân cứ mang mặt đến đây làm dữ mãi. Hôm nay đừng trách chúng ta độc ác nhé.
Dương-Qua nghe gọi tên nữ lang thì nghĩ bụng:
- Bọn này có nhiều tên họ quá ư kỳ lạ, ít khi nghe gọi quá.
Thật ra chàng đâu biết rằng giòng họ Gia-Luật là quốc tính của nước Đại-Liêu, cũng như giòng họ "Hoàng nhan" là quốc tính của nước Kim. Hai họ này đều là Hoàng-Tộc của hai nước. Nước Kim tiêu diệt nước Liêu, và sau này nước Kim lại bị nước Mông Cổ tiêu diệt lại.
Ngày nay cả hai họ "Hoàng-Nhan" và "Gia-Luật" đều là giòng dõi Hoàng phái bị vong quốc.
Bị Gia-luật-Yên trách mắng, Hoàng-nhan-Bình đứng yên không đáp lại.
Gia-luật-Yên hỏi luôn:
- Nếu mi muốn cùng ta tranh tài cao thấp thì cứ ra tay đi.
Nói rồi múa quyền đánh nhau.
Hoàng-nhan-Bình bước lùi ra sau né tránh rồi nói nho nhỏ, giọng rầu rầu:
- Mi hãy giao trả thanh đạo lại cho ta.
Gia-luật-Yên nghe nói suy nghĩ:
- Sở dĩ anh ta đoạt lấy đoản đao của ngươi là muốn cho ngươi tay không cùng ta tranh tài cao thấp. Nay mi cứ nằng nặng đòi lại đao ấy, không hiểu với mục đích gì đây?
Tuy vậy nhưng nàng vẫn có tính hào hiệp không hề cân chấp, ngó một tên thị vệ bảo:
- Ngươi thưa với anh ta xin nhận lại thanh đoản đao để trả cho nàng này.
Một phút sau, tên thị vệ cầm đao ra, hai tay đưa cho nàng và hỏi thêm:
- Bẩm cô nương, cô nương có cần đến vũ khí nào không?
Gia-luật-Yên lắc đầu đáp:
- Khỏi cần, ta không muốn dùng vũ khí.
Rồi nàng ngó Hoàng-nhan-Bình trao thanh đao cho nàng và nói:
- Ta dùng tay không đánh với mi, tuy chắc thua, nhưng ta vẫn cố gắng để mi được thỏa lòng.
Hoàng-nhan-Bình nét mặt tái lợt, đôi mắt rầu rầu chớp lia, nhìn về phía Gia-luật-Sở-Tài, òa lên khóc lớn và nói qua giòng nước mắt:
- Mi đã giúp quân Mông-Cổ sát hại song thân ta, ngày nay ta không đủ sức báo thâm cừu, xin hẹn gặp nhau dưới suối vàng để rửa hận lớn.
Dương-Qua thấy đôi mắt vô cùng chán nản và tuyệt vọng của nữ lang đã đoán hiểu ý định của nàng nên kêu lớn:
- Cô nương, cô nương! Chớ nên!
Ngay lúc ấy Hoàng-nhan-Bình trở ngược lưỡi dao đâm vào cổ họng để tự vận.
Gia-luật-Tề xông vào đoạt mất thanh đao rồi điềm đạm nói:
- Việc gì nàng phải làm như vậy?
Mọi người quá ngạc nhiên, cùng kêu lên một tiếng vì hốt hoảng, do đó chẳng ai để ý đến tiếng kêu của Dương-Qua.
Lục-vô-Song nghe được, nhìn chàng hỏi nhỏ:
- Chú gọi nàng là Cô nương? Vậy nàng là sư-phụ của chú sao?
Dương-Qua lắc đầu và ấp úng đáp:
- Không phải... không phải Cô nương tôi đâu.
Nguyên nhân vì trong khi Hoàng-nhan-Bình quyết tâm tự tử, nét mặt và khóe mắt nàng chứa chất tất cả niềm đau đớn thất vọng, mới nhìn thấy giống hệt như nét mặt ủ rũ của Tiểu-long-Nữ lúc nhìn chàng lần chót nói lời vĩnh biệt. Vì vậy nếu trong giây phút quá cảm xúc, chàng cứ đinh ninh đó là Tiểu-long-Nữ của mình, nên hốt hoảng gọi Cô nương.
Lục-vô-Song thấy nét mặt Dương-Qua rầu rầu đăm chiêu và nghiêm nghị không giống như thái độ thường ngày nên cũng e dè không dám hỏi thêm nữa.
Khi ấy Gia-luật-Sở-Tài cất tiếng nói:
- Hoàng-Nhan cô nương đến đây nay đã ba lần cô nương đến tìm lão phu để hành thích nhưng không làm được như ý. Lão phu muốn hỏi cô nương một câu này: Luôn luôn cô nương oán hận lão phu đã làm Tể-tướng cho Đại Mông-Cổ rồi giết hại song thân mình. Cô nương có biết kẻ nào đã giết hại tổ phụ của lão phu không?
Hoàng-nhan-Bình lắc đầu đáp:
- Tôi không rõ điều ấy được.
Gia-luật-Sở-Tài nói tiếp:
- Tổ phụ của lão phu là Hoàng tộc của nước Đại-Liêu, mà nước Đại-Liêu đã bị nước Kim tiêu diệt. Con cháu họ Gia-Luật của Đại-Liêu đã bị người họ Hoàng-Nhan của nước Kim giết chết rất nhiều. Cũng vì vậy mà ngay từ khi còn niên thiếu, lão phu mới quyết tâm phò Mông-Cổ để nhờ thế lực Mông-Cổ mà tiêu diệt lại họ Hoàng-Nhan của Kim quốc. Than ôi! Nếu ngày nay con cháu đôi bên cứ lấy oán trả oán thì oán nọ sẽ liên miên, đời đời kiếp kiếp cứ lo thù qua giết lại, biết bao giờ dứt được.
Nói đến đây, người lão thành đáng kính mơ màng đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, như muốn tìm thấy cảnh núi xương, sông máu. Tưởng tượng hình ảnh thảm sát đã diễn ra trong dĩ vãng và sẽ tiếp tục về sau muôn đời bất tuyệt! Bao nhiêu hình ảnh ghê rợn ấy cũng chỉ do một động cơ chính là hai chữ "oán thù"!
Hoàng-nhan-Bình nghe nói có vẻ suy tư, trầm ngâm đôi phút rồi nhớ tại thực tại, tức mình không tự nhủ được, trợn mắt nhìn Gia-luật-Tề thách lớn:
- Tôi hổ thẹn tài hèn sức kém đã ba lần đi báo thù cho song thân nhưng đều thất bại, chẳng muốn sống làm gì nữa. Tại sao mi nhúng tay vào cản ngăn tôi?
Gia-luật-Tề mỉm cười nói bông đùa:
- Bây giờ cô nương cứ tự cho mình không đủ sức để trả thù nữa thì tự nhiên ý chí cũ sẽ tiêu tan hết.
Hoàng-nhan-Bình uất hận quá nhưng không cử động gì nữa, hét lên một tiếng, đôi mắt nhìn Gia-luật-Tề trừng trừng như muốn moi mật ăn gan.
Gia-luật-Tề vội vàng quay cán đao giải huyệt cho nàng.
Sở dĩ chàng không dùng ngón tay mà lấy đao giải huyệt cho Hoàng-nhan-Bình là để giữ cho nàng không muốn trước mắt mọi người sờ mó vào mình một phụ nữ đang tê liệt và cũng là một lối để giữ câu phương châm "nam nữ thọ thọ bất tương thân".
Giải huyệt xong rồi, chàng lễ phép hai tay cầm thanh đoản đao trao trả.
Hoàng-nhan-Bình do dự một hồi lâu mới đưa tay tiếp nhận và điềm đạm nói:
- Đã ba lần công tử tha tội không giết, lại đối đãi hết sức tốt. Tôi đâu phải sắt đá mà không thấy rõ điều ấy. Tuy nhiên mối cựu thù giữa hai họ sâu hơn biển, cao hơn núi, không thể vì chút cảm tình mà dẹp bỏ đi được.
Gia-luật-Tề cúi đầu suy nghĩ:
- Nàng có một bản lãnh khá cao siêu mà lúc nào cũng cương quyết phục thù cho cha mẹ. Chẳng lẽ ta phải ở luôn bên cạnh phụ thân để bảo vệ mãi sao? Hay là bây giờ ta tìm cách khích nàng để quỵ hết mối thâm thù ấy vào bản thân ta cho yên chí.
Nghĩ như vậy rồi chàng nói lớn:
- Tôi hết sức thán phục lòng hiếu thảo của cô nương, lúc nào cũng quên mình để nghĩ đến mối thù của cha mẹ. Nhưng giữa thân phụ của tôi đều là những bậc tiền bối, phải để cho họ tự lo liệu, giải quyết cùng nhau vì họ chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Ngày nay cô nương và tôi là phận làm con, cùng vai vế, cùng địa vị như nhau. Vậy tôi ước mong rằng chúng ta sẽ cùng nhau thanh toán món nợ máu. Cô nương nghĩ sao?
Hoàng-nhan-Bình chẳng suy nghĩ đáp ngay:
- Hiện nay tài nghệ của ta còn thấp kém thua mi nhiều, ta chưa phải là đối thủ của mi. Nếu muốn như thế cũng được, nhưng phải chờ một cơ hội khác trong tương lai.
Nói xong nàng xoay mình nhảy ra ngoài biến mất.
Gia-luật-Tề thấy vậy ngại rằng nàng sẽ phẫn chí đi tìm chết nên vội vàng phi thân đuổi theo và kêu nói:
- Cô nương họ Hoàng, cô nương quả là con người quá ư nông nổi và cạn tính. Hãy ngừng lại, tôi phân tỏ vài lời.
Hoàng-nhan-Bình nghe nói dừng chân quay lại hỏi:
- Tại sao nhà ngươi bảo ta là nông nổi?
Gia-luật-Tề cả cười đáp rằng:
- Tôi cũng đồng ý là hiện nay võ công của tôi cao hơn cô một bậc. Nhưng tại sao cô nương không chịu khó đi tìm một danh sư để học hỏi thêm, chừng nào xét có đủ bản lãnh sẽ tìm lại cùng tôi so tài rửa hận? Chúng ta thảy đều trẻ tuổi, thời gian còn dài lắm, có gì mà phải hấp tấp như vậy kia.
Hoàng-nhan-Bình lắng tai nghe cũng nhận là hữu lý nên gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Gia-luật-Tề nói tiếp:
- Trong những lần qua, tôi chỉ sử dụng một cánh tay phải để đối phó với cô nương. Sau này tôi nhất định chỉ dùng một cánh tay ấy mà đối địch nữa. Nếu tôi sai lời dùng đến tay trái, thì tôi nguyện sẽ chịu chết bởi lưỡi gươm của cô nương. Nói như thế không phải tôi có ý tự phụ hay muốn khinh miệt cô nương mà thật tình vì tôi nghĩ, nếu dùng cả hai tay thì tánh mạng cô nương khó nỗi bảo toàn. Vì tánh thương người nên tôi đã đưa ra lời cam kết ấy, và tôi xin lấy danh dự để bảo đảm không hề nói ngoa.
Sở dĩ Gia-luật-Tề đưa ý kiến này ra là muốn Hoàng-nhan-Bình nuôi hy vọng thắng được mình để bỏ ý định tự tử đi. Chàng biết rằng sở dĩ con người đi tự tử vì đã quá tuyệt vọng. Nếu có hy vọng không khi nào họ tự tử bao giờ.
Hoàng-nhan-Bình nghe xong ngẫm nghĩ:
- Mi tự cho mình tài cao hơn người nên đã quá tự phụ nên ra điều kiện ấy. Tự mi đã buộc nợ cho mi, chứ ta nào có biết.
Mi đã thách như vậy, ta cũng bằng lòng đi tìm thầy học thêm để trở về đấu lại lần nữa.
Nghĩ rồi nàng gật đầu nói:
- Ta bằng lòng, và mong ngươi phải giữ lời đã hứa. Người quân tử đã nói như dao khắc cột, không thể làm khác được nữa.
Gia-luật-Tề đáp:
- Gia-luật-Tề này đã nói, dầu đến chết vẫn không quên.
Hoàng-nhan-Bình thở dài, đưa mắt rầu rầu nhìn quanh một bận rồi phi thân biến mất trong bóng đêm.
Bọn thị vệ thấy công tử đã tha cho nàng rồi mới yên chí, quay lại vấn an cụ cố Tể-tướng.
Trong khi sự việc xảy ra quá ư gây cấn nhưng Gia-luật-Tấn thấy Dương-Qua vẫn điềm nhiên không thi thố tài năng cũng lấy làm ngạc nhiên lắm. Gia-luật-Yên hỏi Gia-luật-Tề:
- Vì lẽ gì mà anh cứ tha cho cô bé ấy mãi như vậy.
Gia-luật-Tề cười đáp:
- Nếu muốn giết hắn thì lúc nào giết cũng được cần gì phải nôn nóng.
Gia-luật-Yên mỉm cười ranh mãnh đáp:
- Có lẽ anh muốn em gọi cô ta là chị dâu chăng? Nếu có thể cứ nói thật đi.
Gia-luật-Tề nghiêm giọng nói:
- Em đừng bông đùa nhàm nhở không được.
Thấy anh đã giận, Gia-luật-Yên không nói dỡn nữa.
Dương-Qua đứng ngoài cửa sổ đã nghe rõ mọi việc, khi nghe Gia-luật-Yên hỏi anh muốn bảo mình gọi là chị dâu thì nghĩ rằng:
- Cô này có ý nghĩ cũng ngộ nghĩnh lắm. Gia-luật-Tề hành động có vẻ quân tử đại lượng lắm. Nhưng hắn vẫn còn trẻ tuổi nhiều tình cảm, đâu phải nhà sư mà tránh khỏi nanh vuốt của ái tình.
Chàng nghĩ càng mến phục Gia-luật-Tề, nhưng sực nhớ lại khóe mắt của Hoàng-nhan-Bình lúc long lanh cảm động giống hệt như đôi mắt đẹp của Cô nương Tiểu-long-Nữ. Liên tưởng đến hai người chàng cũng công nhận quả xứng đôi vừa lứa.
Đang suy nghĩ xa gần thình lình có một bóng đen vụt bay từ nóc nhà phía Đông qua hướng Tây Nam. Dương-Qua khẽ bảo Lục-vô-Song:
- Đứng chờ đây một chốc. Tôi đi có tý việc cần, sẽ về ngay.
Lục-vô-Song vội hỏi:
- Chuyện gì vậy, ở đâu thế?
Chàng nín thinh băng mình như làn khói, mờ dần trong bóng đêm về hướng Đông.
Bóng đen ấy là Hoàng-nhan-Bình. Nàng có bản lãnh và khinh công cũng khá, nhưng đối với Dương-Qua đâu có nghĩa lý gì. Vì vậy không bao lâu chàng đã theo kịp và thấy nàng sà xuống một túp nhà nông dân trong xóm.
Nàng tằng hắng một tiếng rồi khoan thai bước vào nhà. Dương-Qua cũng từ từ hạ xuống, nhè nhẹ lướt theo sát gót, nhưng nhờ tài khinh thân quá tinh dịu nên Hoàng-nhan-Bình chẳng hề hay biết.
Khi bước vào trong, Dương-Qua đứng nấp ngoài tường nghe ngóng.
Một chập sau từ căn nhà gần bên có ánh đèn le lói, trong đó có tiếng thở dài vô cùng não ruột.
Dương-Qua cũng thấm thía với tiếng thở dài căm hờn như nức nở ấy nên bất giác cũng thở dài theo.
Hoàng-nhan-Bình hình như nghe được tiếng thở dài ấy, nên cả sợ, vội vàng thổi tắt ngọn đèn trên bàn rồi rón rén bước lại đặt tai vào vách tường nghe ngóng.
Một chặp sau vẫn thấy tư bề vắng lặng như tờ, nàng khẽ hỏi:
- Ai đó?
Dương-Qua cũng se sẽ đáp lại:
- Vì cảm thông cùng cảnh ngộ đau lòng nên tôi cũng thở dài để trút bớt phần nào phiền não xin miễn chấp.
Thấy kẻ này không có gì ác ý, Hoàng-nhan-Bình vững bụng hỏi thêm:
- Xin cho biết người là ai?
Dương-Qua chậm rãi nói:
- Ngày xưa, cổ nhân quyết chí báo thù đến nỗi phải "nằm gai nếm mật" hay "ăn than sơn mình" trải bao nhiêu gian khổ chẳng sờn lòng. Lạ gì mới thất bại một vài lần mà cô nương đã nản chí đâm ra tự tử, không hổ thẹn với tiền nhân ư?
Nguyên ngày ở Đào-Hoa-Đảo, được Hoàng-Dung dạy văn, Dương-Qua có đọc được sách biết Câu-Tiễn nằm gai nếm mật và Dự-Nhượng sơn mình nuốt than để nuôi ý chí phục thù, nên mới đem ra làm ví dụ để nói chuyện cùng Hoàng-nhan-Bình cho có điển tích.
Thình lình đèn sáng trưng, cửa phòng mở rộng, Hoàng-nhan-Bình ló đầu nhìn ra rồi chắp tay vái dài, lễ phép nói:
- Kính mời các hạ bước vào trong nầy cho tôi được hầu chuyện.
Khi Dương-Qua bước vào phòng, dưới ánh đèn dầu, Hoàng-nhan-Bình thấy một thanh niên mặt mày xinh đẹp, y phục theo lối Mông-Cổ thì rất ngạc nhiên, vội hỏi:
- Nghe những lời các hạ vừa dạy thật quả chí lý, vậy xin các hạ vui lòng cho biết quý danh quý tánh để thỏa lòng ngưỡng mộ.
Dương-Qua không đáp theo câu hỏi, đứng thẳng người, vòng tay trước ngực nói:
- Tên Gia-luật-Tề thật là một đứa tự phụ và khoác lác. Hắn dám xưng chỉ dùng một tay đánh thắng cô được. Lối ấy đâu có gì khác lạ mà khoe khoang?
Hoàng-nhan-Bình chưa hiểu Dương-Qua thuộc thành phần nào, theo phe ai nên còn e dè, chưa dám tán thành hay phản đối.
Dương-Qua nói tiếp:
- Tôi có thể chỉ cần dạy cho cô vài thế võ để buộc Gia-luật-Tề phải sử dụng cả hai tay. Nếu cô chưa tin, cứ thử rồi biết. Tôi cam đoan không dùng đến thế thứ tư đâu.
Hoàng-nhan-Bình vẫn ngạc nhiên và bỡ ngỡ lắm. Nàng nghĩ bụng:
- Anh chàng này là ai? Sao tự nhiên đến đây chưng tài, hay có dụng ý gì đối với mình chăng?
Thấy nàng còn do dự, Dương-Qua nói tiếp:
- Nếu nàng muốn thử thách để tin vào lời nói của tôi, xin cứ dùng gươm chém tôi đi sẽ có chứng minh cho mà xem. Nếu tôi nói dóc bị chết bỏ mạng không oán trách được ai.
Hoàng-nhan-Bình nói:
- Khỏi cần đấu gươm đao. Tôi chỉ cần quyền chưởng để thử sức thôi. Nếu các hạ né tránh được cũng đã cao siêu lắm rồi.
Dương-Qua lắc đầu đáp:
- Không được đâu. Cô phải dùng đao kiếm, nếu không, thì đời nào cô thấy được sự thật để phục tài tôi chứ?
Thấy người này nói năng có vẻ thật tình chứ không phải đùa cợt hay phỉnh phờ, Hoàng-nhan-Bình nói:
- Nếu quả vậy thì các hạ thật là một kẻ tài ba xuất chúng, tôi không bao giờ ngờ đến một chuyện như vậy được. Vậy xin các hạ xem chừng ngay nhé.
Nói xong nàng múa đao chém lia vào vai Dương-Qua như bằm chuối.
Dương-Qua thản nhiên khoanh tay đứng nhìn, hình như không đếm xỉa gì hết. Khi lưỡi đao sắp chạm vào da, chàng chỉ lắt mình nhẹ một cái là tránh được rất dễ dàng.
Hoàng-nhan-Bình muốn chặt ngay vào đầu nhưng vẫn do dự, vừa vung ra đã thụt lại ngay.
Dương-Qua bảo:
- Cô cứ chém thật tình đi, chớ ngại ngùng gì hết.
Hoàng-nhan-Bình nghĩ:
- Chẳng lẽ y là yêu ma hay thần thánh gì mà nói có vẻ lớn lối tài tình quá vậy.
Nàng bặm môi chém vút một đao thật mạnh, định chặt đôi thân hình chàng làm hai đoạn.
Nhưng ánh đao vừa vung lên, Dương-Qua hình như đã đoán trước bảo rằng:
- Với thế đao ấy, tôi chỉ cần nằm rạp xuống là chém hụt ngay, cô đừng dùng ngón này vô ích.
Hoàng-nhan-Bình đem hết tinh thần và sức lực dồn vào cánh tay chém vù vù khắp bốn mặt, nhưng Dương-Qua vẫn nhởn nhơ cứ nghiên qua lật lại sơ sơ cũng đủ tránh được trong đường tơ kẽ tóc.
Hoàng-nhan-Bình thán phục quá, đang phân vân chưa biết nên đổi cách nào để chém cho trúng thì Dương-Qua đã bảo:
- Bây giờ tôi đã rõ tài chém của cô rồi. Nhưng tôi chưa biết tài phóng đao của cô ra sao, xin hãy thi thố xem thử.
Hoàng-nhan-Bình gật đầu, bước lui ra sau một tý rồi vung tay phóng luôn lưỡi điệp đao bay thẳng lại chàng như tên bắn. Dương-Qua khẽ đưa tay bắt được, thảy lại cho nàng và bảo:
- Hãy phóng mạnh hơn xem thử.
Hoàng-nhan-Bình khiếp quá, đứng nhìn trân, chưa tin là sự thật.
Dương-Qua nói tiếp:
- Thôi được rồi, bây giờ đến phiên tôi nhé. Cô cứ múa đao cho kỹ và giữ gìn cẩn thận đấy. Chỉ trong ba ngón là tôi đoạt được lưỡi đao ngay, cô giữ cách nào cũng không thể được.
Hoàng-nhan-Bình tuy đã phục chàng quá sức với những ngón vừa mới thi thố, tuy nhiên vẫn chưa dám tin rằng chỉ trong ba thế mà có thể tay không đoạt được đao mình.
Tay nắm chặt cán đao, nàng bảo:
- Xin các hạ xem đây!
Nói xong nàng vung lên múa đao theo thế "Vân hoành Tần Lĩnh" (mây bay trên đỉnh non Tần) chém phạt ngang một nhát. Dương-Qua khẽ cúi đầu thấp xuống tránh được, thuận tay hất nhẹ vào sống đao khiến con đao rời ngay khỏi tay nàng, quay một vòng kêu vo vo rồi rớt trên mặt đất.
Hoàng-nhan-Bình mất đao đứng ngẩn người trố mắt nhìn chàng, phục quá!
Dương-Qua mím miệng vận khí thổi phù một hơi, thanh đao bay bổng lên rơi lại gần chân Hoàng-nhan-Bình như người ta thổi một mảnh giấy con.
Hoàng-nhan-Bình chưa biết nói sao mặt mày ngơ ngác suy nghĩ, bỗng Dương-Qua cười cười nói tiếp:
- Bây giờ tôi cho cô nương xem lối ném đao bằng môi, đỡ dao bằng lưỡi nhé.
Vừa nói xong chàng vận khí hút một cái, thanh đao bay lên dính giữa đôi môi rồi thổi phù ra một hơi, thanh đao bay vút lên trên cao rồi từ từ rơi xuống. Chàng thè lưỡi nhẹ nhàng đỡ lấy sống đao rồi ngậm chặt trên miệng. Một lát chàng nhả đao rơi xuống đất rồi cười hà hà nhìn nàng không nói gì hết.
Hoàng-nhan-Bình quá sức kinh ngạc, cảm phục sát đất, miệng lẩm bẩm mãi:
- Trời! Quả thật là lạ lùng, kỳ diệu quá sức.

Hồi 27

Cảm nghĩa kết thâm tình

Dương-Qua nhìn nàng đứng ngơ ngẩn và nghĩ bụng:
- Sau thuật tránh đao, cướp đao, bây giờ cũng nên cho nàng nếm mùi điểm huyệt một chút.
Nghĩ xong đưa tay khẽ điểm vào "khúc trì huyệt" của Hoàng-nhan-Bình.
Bị điểm đúng yếu huyệt, Hoàng-nhan-Bình bủn rủn cả tứ chi, mắt long lên vì căm giận, miệng cứng đờ chẳng nói năng gì được, chỉ đưa mắt nhìn chàng loang loáng như van lơn như thán phục lẫn căm hờn.
Thấy đôi mắt đen huyền đưa qua liếc lại sao giống mắt Tiểu-long-Nữ quá, Dương-Qua thấy cảm động vô cùng và nghĩ hối hận:
- Mình có muốn cầu thân cùng nàng, nhưng vì sao lại đi đối xử tệ bạc như vậy nhỉ? Ta nỡ nào vì muốn chưng sơ tài nghệ đến nỗi khiến cho nàng phải chịu đựng sự đau đớn hay sao?
Nghĩ vậy chàng thấy hối hận cầm đao lại gần trao trả.
Hoàng-nhan-Bình thấy toàn thân rũ riệt, cặp giò run lên đứng hết muốn vững, tay rã rời, môi miệng cứng hết, chẳng động đậy gì được cứ nhìn chàng với cặp mắt cảm phục nhưng đượm vẻ hằn học.
Dương-Qua nghĩ thầm:
- Gia-luật-Tề là thù nhân mà còn dùng cử chỉ lễ độ nhã nhặn đối xử cùng nàng thay, huống chi ta, tại sao kém cỏi và vô lý như vậy, thật không xứng đáng với tư cách của một bậc tượng phu.
Vì vậy nên chàng vội lại gần đưa tay giải huyệt liền.
Hoàng-nhan-Bình, cảm thấy sinh lực hồi phục, tinh thần sảng khoái, tay chân thơ thới cử động được như cũ thì mừng rỡ vô cùng, vội sụp quỳ xuống làm lễ và thiết tha nói:
- May mắn được gặp gỡ bất ngờ, xin sư phụ ngỏ lòng xót thương, truyền thụ cho vài ngón võ để có thể báo được mối thù cho song thân, ơn đức này tiện nữ xin đời đời ghi tạc.
Dương-Qua cuống cuồng vội đưa tay nâng nàng đứng dậy nói:
- Tôi đâu có đủ điều kiện làm sư phụ cô được. Tuy nhiên tôi có thể chỉ vẽ hộ cho Cô nuơng vài miếng võ đủ giết chết được Gia-luật-Tề mà thôi. Cô bằng lòng chứ?
Hoàng-nhan-Bình sáng rực đôi mắt hân hoan reo lên:
- Trời ơi, như thế thì còn gì bằng. Nếu hạ sát được Gia-luật-Tề thì anh em hắn đâu phải là đối thủ của tôi nữa. Chừng ấy tôi có thể tự do hạ sát cha mẹ hắn để trả thù cho song thân.
Vừa nói tới đây bỗng nàng có ý nghĩ:
- Nếu ta học võ nghệ cho đến ngày vượt hơn Gia-luật-Tề, nghĩa là phải một thời gian quá lâu chứ đâu phải một ngày một tháng gì mà xong, thì lão già Gia-luật-Sở-Tài có thể còn sống sót đến ngày ấy chăng.
Nếu hắn chết trước thì dầu có tài giỏi đến đâu cũng không thể trả thù cho cha mẹ được. Như thế, chẳng hóa ra tốn công vô ích quá sao?
Dương-Qua đoán được thâm ý của nàng, cả cười nói:
- Có lẽ cô nương muốn giết ngay lão già ấy trong một vài hôm gần đây chứ gì?
Hoàng-nhan-Bình vui mừng đáp:
- Dạ đúng vậy. Lòng tôi chỉ ước mong được trả thù sớm chừng nào hay chừng ấy. Lão già ấy tuổi tác đã quá cao, e không theo được bao nhiêu ngày nữa.
Dương-Qua quả quyết nói:
Muốn giết Gia-luật-Tề không có gì khó khăn hết. Tôi có thể dạy ngay cho cô để có đủ sức giết được hắn nội trong đêm nay mà thôi.
Hoàng-nhan-Bình tuy mừng rỡ nhưng cứ phân vân cân nhắc mãi.
- Ta đã bao phen giết hụt lão già cũng vì tài nghệ của Gia-luật-Tề cao siêu hơn ta có mấy bậc. Sau mấy lần bị đánh bại, ta cảm thấy phải lâu lắm mới bằng được một phần bản lãnh của hắn. Người này trông tài nghệ kỳ diệu thật nhưng chưa chắc đã thắng được Gia-luật-Tề một cách dễ dàng. Vì dầu y có giỏi hơn Gia-luật-Tề một bậc cũng không thể nào chỉ dạy mình ba thế võ mà hạ sát ngay hắn trong đêm nay được. Lời nói y tuy quả quyết nhưng có vẻ hoang đường quá, chắc chắn mười mươi là không thể nào làm được.
Tuy nghĩ vậy nhưng nàng không có can đảm nói thật, nên chỉ nhìn Dương-Qua với cặp mắt buồn buồn có vẻ thất vọng, thiếu tin tưởng.
Dương-Qua đã đoán rõ được tâm trạng nàng nên dùng lời an ủi:
- Cô cứ yên tâm, tôi không khi nào nói khoác để lừa phỉnh cô làm gì. So tài nghệ của tôi cùng hắn chưa hẳn tôi giỏi hơn. Nếu đôi bên cùng giao đấu, tôi cũng không dám chắc thắng hắn được dễ dàng. Tuy nhiên tôi đã có cách, một cách kỳ diệu và thần tỉnh, chỉ dạy cho cô ba thế để hạ sát được nó. Tôi dám quả quyết cùng cô điều này, xin chớ nghi ngại nữa. Nhưng chỉ có một điều tôi còn đang phân vân là đã ba phen hắn rộng lượng tha chết cho cô, e rằng ngày nay lúc giết được, cô sẽ không nỡ ra tay hạ thủ!
Hoàng-nhan-Bình đã tin tưởng rồi và chính nàng cũng công nhận ý kiến chót của Dương-Qua là đúng, trong lòng thấy băn khoăn. Tuy nhiên nàng vẫn cứng cỏi đáp:
- Tuy hắn đã lấy độ lượng quân tử tha chết cho tôi nhiều lần. Tuy nhiên tôi cũng không thể chỉ vì cảm tình riêng mà quên được phụ mẫu chi cừu.
Dương-Qua nói:
- Thôi được rồi! Tôi sẽ truyền cho cô ba thế võ ấy ngay bây giờ. Nhưng nếu khi cô có thể giết hắn được mà cô không giết thì sẽ tính sao đây?
Hoàng-nhan-Bình đáp:
- Nếu tôi không giết hắn thì xin tùy ân sư xử phạt cách nào tôi cũng xin nhận chịu.
Dương-Qua cười thầm trong bụng:
- Nàng này ăn nói cũng hay đấy! Thù của cô mà cô không muốn trả, có can hệ gì tới ta mà bảo ta xử phạt. Xử phạt bằng cách nào. Đánh mắng nàng ư. Mà xử phạt như vậy để có lợi gì cho mình chứ?
Nghĩ xong chàng tươi cười bảo:
- Thật ra ba thế võ này không có gì khó, cô đã thuộc cả rồi, nhưng vì không biết cách áp dụng cho đúng lúc đúng chỗ mà thôi. Tôi sẽ bày vẽ cho cô cách để thực hiện được ước nguyện.
Nói rồi chàng cầm đao chém ngang một nhát từ phải sang trái rồi vút trở lại, miệng nói:
- Đây là ngón "Vân hoành Tân lãnh" chắc cô cũng biết rồi.
Hoàng-nhan-Bình nghĩ thầm:
- Tưởng ngón nào cao siêu kỳ lạ, chứ ngọn "Vân hoành Tần lãnh" mình vừa dùng chém hắn khi nãy là một thế nhập môn sơ đẳng, lúc vừa học võ ai lại không biết?
Đang suy nghĩ chưa trả lời, bỗng lưỡi đao bay vút lại phía mình nàng vừa nghiêng mình né tránh thì Dương-Qua bất ngờ đã đưa tay ra nắm chặt cổ tay mặt của nàng, miệng nói:
- Thế thứ hai này gọi là "Khô đằng chiền thụ" (tức là dây khô quấn cây), chắc cô cũng đã học rồi trong khi luyện "Thiết chưởng".
Hoàng-nhan-Bình nghĩ bụng:
- Tưởng gì chứ lối "mở và nắm" trong mười tám thế sử dụng Thiết chưởng thì cần gì phải dạy nữa. Chẳng hiểu lúc này ngươi chỉ ta thế ấy để làm gì?
Nắm cổ tay nàng mềm mại và mát rượi Dương-Qua thấy thích thú lắm cười cười bảo:
- Cô chưa học thế "mở bôi tay ngọc" mà đã học thế "nắm mở bàn tay" thì có ích gì mấy!
Tuy biết chàng nói đùa nhưng Hoàng-nhan-Bình cũng mỉm cười hỏi:
- Cái tên "mở bôi tay ngọc" nghe là lạ và hay hay đấy nhỉ. Tôi chưa được học thế ấy bao giờ.
Nguyên phép sử dụng bàn tay sắt (thiết chưởng) phải dùng cả khinh công và chưởng pháp phối hợp chặt chẽ thì công dụng mới lợi hại.
Thế này chỉ có "Cửu-âm-chân-kinh" mới thu thập được hết cả những tinh hoa vũ thuật, các phái biến chế cho nên vô cùng lợi hại. Luyện thế ấy theo "Cửu-âm-chân-kinh" thì dầu bị địch nắm chặt đến đâu cũng giải thoát được dễ dàng. Trái lại nếu phối hợp được môn pháp Thiết-chưởng theo "Cửu-âm-chân-kinh" thì một khi đã nắm được tay ai chẳng khác nào kềm sắt, không thể nào vùng vẫy nổi.
Hoàng-nhan-Bình thấy tay chàng nắm tay mình thật chặt, đưa đi đưa lại, nhưng không đau đớn. Có lúc siết mạnh, có lúc mơn trớn trên làn da, nên chẳng hiểu vì ý gì.
Thấy lối nắm mở bàn tay chàng dũng mãnh lợi hại hơn mình rất nhiều, nên Hoàng-nhan-Bình rất cảm phục, tuy nhiên chờ lâu quá không thấy dạy thế khác nàng nhìn chàng ngẫm nghĩ:
- Ưng bụng cứ bóp hoài! Còn một thế thứ ba nữa sao chẳng dạy người ta cho rồi! Mình đã biết qua hai thế đầu đều là những ngọn thông thường của vũ thuật vỡ lòng chẳng có gì mới lạ hết. Có ngón thứ ba ra sao, có lẽ kỳ diệu tinh xảo lắm nên mới có đủ oai lực giết được Gia-luật-Tề.
Lúc bấy giờ Dương-Qua mới đĩnh đạc ra lệnh:
- Bây giờ chuẩn bị học thế chót để quyết định đây! Hãy nhìn đây.
Vừa nói xong chàng đưa mũi đao dí thẳng vào cổ mình.
Hoàng-nhan-Bình thất kinh la lớn:
- ủa, anh làm gì lạ thế. Sao kỳ vậy?
Tay phải nàng bị Dương-Qua nắm chặt không vẫy vùng được, nàng phải buộc lòng dùng tay trái đằng lưỡi dao ra, lúc nắm được thanh đoản đao rồi mới yên chí hỏi lại:
- Tại sao anh dùng đao để tự tử như vậy?
Dương-Qua buông tay nàng ra, nhảy lùi về phía sau cười lớn đáp:
- Bây giờ cô đã học đủ ba thế rồi đó. Chừng đó đã đủ rồi.
Hoàng-nhan-Bình thấy Dương-Qua thọc đao vào họng tự tử đang lo sợ bàng hoàng chưa rõ lý do vì sao, thấy chàng bảo như vậy, lạ lùng không hiểu gì hết cứ nhìn trừng trừng không biết nói lời gì nữa.
Dương-Qua bèn giải thích:
- Này nhé, đêm nay cô cứ tìm Gia-luật-Tề để tỷ thí. Sau khi dùng thế "Vân hoành Tần lãnh" chuyển ngay thế "khô đẳng chiền thụ" để lanh tay nắm chặt tay mặt của hắn lại rồi quay sang thế chót là đâm ngược lưỡi đao vào họng tự tử. Chắc chắn thế nào hắn ta cũng phải dùng tay trái ra dằng lấy lưỡi đao để cứu cô. Như vậy vô tình hắn đã phạm lời thề nên phải để cho cô tự ý giết hại mà không oán trách gì nữa. Chắc cô cũng còn nhớ Gia-luật-Tề đã long trọng cam kết chỉ dùng một tay đấu cùng cô nếu dùng thêm tay trái sẽ chịu chết về tay cô. Kế hoạch này xem có được không?
Hoàng-nhan-Bình bấy giờ mới hiểu rõ nghĩ bụng:
- ồ, chú này xem không bao nhiêu tuổi mà nhiều mưu kế hay tuyệt. Phương pháp này quả thật là bí hiểm và chắc ăn lắm.
Dương-Qua nói tiếp:
- Nếu cô cứ đem đúng ba thế đó ra áp dụng trong một lần mà không đoạt được kết quả mong muốn thì tôi cam đoan để cô đem đầu tôi ra mà chặt.
Hoàng-nhan-Bình gật đầu nói:
- Tôi cũng tin tưởng vào kế này lắm, nhưng ngại một nỗi, nếu hắn không chịu dùng tay trái để giật đao thì xử trí làm sao bấy giờ?
Dương-Qua cười lớn:
- Nếu hắn thông dùng tay trái thì cô cứ vụng gươm chém đầu hắn đi là xong chuyện. Đơn giản quá mà!
Hoàng-nhan-Bình mừng quá, chắp tay nói:
- Thành thật cám ơn anh đã có lòng giải thích tôi biết được đường đi nước bước khỏi nghĩ bậy và hành động vô ý thức. Hơn nữa đã giúp tôi kế hoạch để trả thù cho cha mẹ, ơn đức ấy tôi nguyện đời đời ghi sâu vào tâm khảm. Giờ đây, xin anh vui lòng cho biết anh là ai, quý danh là gì.
Dương-Qua chưa kịp đáp bỗng có một giọng nói lanh lảnh từ ngoài cửa vọng vào:
- Hắn tên thằng Ngốc đấy! Cô đừng nghe theo hắn mà lầm.
Tiếp theo đó là một chuỗi cười dòn dã. Dương-Qua chỉ mỉm cười không đáp lại vì biết người ấy là Lục-vô-Song rồi.
Hoàng-nhan-Bình lao mình ra cửa sổ thấy có một cái bóng đen vừa vụt đi mau như gió. Nàng định đuổi theo thì Dương-Qua bảo:
- Thôi, cô đừng nhọc lòng đuổi theo vô ích. Cô ấy là một người bạn đồng hành với tôi chứ không ai xa lạ đâu.
Hoàng-nhan-Bình đưa mắt dịu dàng nhìn Dương-Qua một chập rồi nhỏ nhẹ nói:
- Em xin hoàn toàn tin theo lời anh đã dặn, vì thâm tâm em nghĩ rằng chẳng bao giờ anh nỡ dối em.
Dương-Qua tuy có tánh can trường nhưng ưa nói ngọt. Nhưng ai đối với chàng hỗn láo, dối trá lừa gạt thì dầu chết cũng không bao giờ khuất phục. Trái lại ai đối cùng chàng có cảm tình, nhỏ nhẹ thì muốn gì chàng cũng cố làm cho vừa ý. Nhìn Hoàng-nhan-Bình xinh như hoa, đôi mắt bồ câu lóng lánh, êm êm như mặt nước hồ thu, nét mặt sáng rực, lúc nào cũng đượm nét u buồn man mát, đôi má đầy đặn khi tái khi hồng hào tươi thắm, lời lẽ lại ngọt ngào, thỏ thẻ như oanh kêu, khiến cho chàng vô cùng cảm xúc, bèn bước lại gần đưa tay nắm lấy vai nàng cùng ngồi kề nhau bên cạnh giường, âu yếm nói:
- Anh họ Dương tên Qua. Cũng như em, cha mẹ anh thảy đều khuất bóng, trên đời này anh chỉ có một thân trơ trọi, không cửa không nhà.
Hoàng-nhan-Bình nghe những lời thấm thiết bỗng xúc động cang tràn, đôi mắt lệ chan hòa, ngồi làm thinh thút thít khóc mãi, nói chẳng nên lời.
Dương-Qua cũng xúc động không kiềm được hai giòng lệ, uất lên khóc lớn. Hai người lẳng lặng nắm tay nhau, cảm thông một hoàn cảnh xấu số như đôi chim lạc loài mới tìm được bạn mới. Hoàng-nhan-Bình đưa tay ôm ngang lưng chàng ghì sát vào mình. Dương-Qua áp má vào tóc nàng ngồi không nhúc nhích. Cả hai cứ kéo dài mãi nửa giờ phút thiêng liêng này để sưởi ấm cõi lòng giá lạnh.
Dương-Qua đê mê tận hưởng vị thơm tho từ làn tóc của nàng bốc ra thoang thoảng.
Hai tâm hồn như cùng lắng xuống để chung hòa nhạc điệu mê ly cảm động, hồi tưởng lại thân thế gia đình mình, cha mẹ chết hết, sống côi cút trên đời nên quá cảm xúc lệ tuôn rào rạt.
Bỗng Hoàng-nhan-Bình nhìn chàng mỉm cười:
- Anh định để em khóc đến bao giờ mới thôi đây?
Dương-Qua gạt lệ hỏi nhỏ:
- Năm nay em được bao nhiêu tuổi?
Hoàng-nhan-Bình đáp:
- Mười tám tuổi. Còn anh?
Dương-Qua đáp:
- Anh cũng mười tám tuổi như em.
Rồi chàng nghĩ ngay:
- Nếu cùng một tuổi, ta không nên để nàng nói sanh già tháng hơn để xưng chị với mình, ta phải giữ vai làm anh mới được.
Nghĩ xong chàng nói tiếp:
- Anh sanh hồi thượng tuần tháng giêng. Chắc em sanh sau anh mấy tháng. Vậy từ nay em gọi anh là "Anh hai" và anh gọi em là "em bé" nhé.
Hoàng-nhan-Bình hân hoan mừng thầm, đôi má đỏ hây hây. Nàng thấy Dương-Qua ăn nói chắc thiệt, phân tách rành mạch, không có vẻ gì lừa bịp hay hiểm ác nên gật đầu tỏ ý bằng lòng.
Được thêm một cô em bé xinh tươi, Dương-Qua nghĩ bụng:
- Mình không cha mẹ, cô nương chưa biết ở nơi nào, được thêm bạn thân kể cũng đỡ hiu quạnh cô đơn. Tuy nhiên, thế nào rồi đây Lục-vô-Song cũng ganh ghét kiếm lời kia nọ. Nhưng mặc kệ, ta cứ lờ đi như không để ý. Miễn vui thầm trong bụng cũng thích rồi. Thấy Hoàng-nhan-Bình xinh tươi đẹp đẽ, lại gặp phải cảnh ngộ éo le kể cũng đáng thương hại. Lạ một điều hai mắt nàng quá đẹp, lại giống y mắt của Cô nương mình như hệt.
Chàng ngắm nhìn nàng một chặp tưởng tượng thêm:
- Nếu nàng bỏ bộ đồ đen, mặc y phục trắng vào, thì nàng sẽ giống hệt như Tiểu-long-Nữ. Cô nương không sai một nét.
Chàng cứ vẩn vơ suy nghĩ, nhìn nàng mãi, đến nỗi đôi mắt lờ đờ, vẻ mặt ngẩn ngơ, mới nhìn thấy hình như một kẻ khát tình đang mơ ước dục vọng, lộ ngay trên nét mặt.
Hoàng-nhan-Bình thấy chàng hơi thở dồn dập, mặt đỏ ửng, mắt lờ đờ như si dại, sẽ vỗ vào lưng chàng nói nhỏ:
- Nhìn gì lạ vậy?
Ai đã thu hồn đớp vía anh mất mà ngồi ngay ra như vậy.
Dương-Qua bừng tỉnh lại như kẻ vừa qua cơn ác mộng, ngượng quá, nhưng cũng hỏi gượng cho đỡ mắc cỡ:
- Sao em không đi tìm kẻ thù để hạ sát cho rồi.
Nàng nũng nịu nói:
- Em sẽ đi liền bây giờ đây. "Anh Hai" có theo giúp em không?
Dương-Qua định gật đầu bằng lòng nhưng chợt nghĩ lại:
- Nếu ta đi theo, e nàng ỷ lại không đem hết tinh thần ra chiến đấu và lúc giả tự tử không tự nhiên, khiến cho Gia-luật-Tề sanh nghi thì hỏng hết mưu kế đã bài trí.
Nghĩ thế, chàng trả lời:
- Em cứ đi một mình cho tự nhiên. Anh theo giúp sức không tiện đâu.
Nghe chàng đáp Hoàng-nhan-Bình rất thất vọng, nét mặt lộ vẻ u buồn thảm đạm, nhìn chàng không nói gì hết.
Dương-Qua mủi lòng muốn đổi ý nhận lời, nhưng nàng đã đứng dậy nói nhỏ:
- Thôi anh Hải ở lại, em bé đi đây nhé. Xa nhau lần này có lẽ không còn dịp tái ngộ nữa.
Dương-Qua ngỡ ngàng ấp úng hỏi:
- Tại sao em nói thế? Sở dĩ... tôi...
Nàng lanh lẹ lấy một nén bạc đặt trên bàn để trả tiền quán trọ rồi tung mình dùng khinh công lao vút ra ngoài mất dạng ngay.
Dương-Qua ra cửa sổ trông theo gật đầu khen nhỏ:
- Khinh công của nàng cũng khá lắm. Tội nghiệp!
Ngoài trời một bóng đen xé màn đêm lao vút đến nhà trọ của gia đình Gia-luật-Tấn. Khi ấy cha con Gia-luật-Sở-Tài đang sửa soạn đi ngủ.
Hoàng-nhan-Bình dừng lại trước ngõ, đưa tay gõ cửa và bảo quân thị vệ:
- Nhờ các cậu vào thưa, có Hoàng-nhan-Bình muốn gặp mặt Công-tử Gia-luật-Tề.
Bốn tên thị vệ không muốn phá rầy công tử trong giờ đi ngủ, xông ra chận lại, nhưng vừa khi ấy Gia-luật-Tề mở cửa nhìn ra hỏi:
- Chẳng hay Hoàng-nhan cô nương có điều gì cần dạy bảo?
Hoàng-nhan-Bình đáp ngay:
- Tôi muốn được công tử chỉ giáo cho một vài ngón võ để học thêm.
Gia-luật-Tề ngạc nhiên ngẫm nghĩ:
- Quả nàng này ương gàn, không biết tự lượng sức mình. Ta đã tha chết mấy phen, đã không biết thẹn, còn mang xác đến đây đòi thử sức nữa.
Nhưng chàng vẫn ân cần mời:
- Xin mời cô nương quá bộ vào trong này.
Hoàng-nhan-Bình bước theo, vào đến giữa phòng nàng đã tuốt gươm ra, múa lên vùn vụt quyết đem ba thế võ ra ứng dụng xem sao.
Bắt đầu nàng tấn công bằng thế "Lục chiêu thiết chưởng" để Gia-luật-Tề nghênh chiến và chuẩn bị thực hiện dự định của mình đã sắp đặt.
Gia-luật-Tề giữ đúng lời cam kết, tay trái buông thõng xuống, chỉ vũ động tay mặt để chống đỡ mà thôi.
Mặc dầu Hoàng-nhan-Bình dùng thế "Tam đảo lục chưởng" ra thi thố nhưng cánh tay của Gia-luật-Tề đưa ra bắt đao quá mạnh và lanh lẹ như một vòi voi, bao nhiêu thế võ của nàng bị phá hỏng hết.
Thật tình Gia-luật-Tề muốn đưa ra những ngón đòn thật hại để thị oai, khiến nàng hoảng sợ tự ý rút lui chứ trong thâm ý không muốn tấn công sát hai nàng.
Hai người đang mải mê đánh nhau chưa phân thắng bại Hoàng-nhan-Bình định đưa mấy đòn "tuyệt kỷ" của Dương-Qua ra thi thố thình lình có tiếng đàn bà từ ngoài cửa gọi vào:
- Gia-Luật công tử hãy khá đề phòng. Nàng ấy cố ý lừa công tử phải dùng đến tay trái để đánh nhau đó. Đừng lầm gian kế đấy nhé.
Đó là tiếng nói của Lục-vô-Song.
Gia-luật-Tề để ý thấy Hoàng-nhan-Bình dùng thế "Vân hoành Tần lĩnh".
Khi chàng vừa nghiêng mình cho ánh đao chém hụt qua một bên thì Hoàng-nhan-Bình lẹ như chớp đem thế "khô đắng chiền thụ" chộp lấy tay mặt của chàng niếu xuống, rồi tay kia trở ngược mũi đao đâm vào cổ họng để tự tử.
Gia-luật-Tề hoảng hốt muốn ra tay giải cứu nhưng tay mặt đã bị nàng nắm chặt. Nếu đưa tay trái ra tiếp cứu, lại phạm vào điều cam kết, có hại đến mạng sống của mình. Nhưng chàng lại chép miệng nghĩ thêm:
- Ta là đại trương phu, xem cái chết nhẹ như lông hồng. Nếu thấy một người đàn bà sắp chết mà điềm nhiên không cứu thì còn gì là danh dự. Mặc dù mất mạng ta, nhưng phải cứu người trước đã.
Vừa rồi được Lục-vô-Song nhắc khéo, Gia-luật-Tề cũng liên tưởng lại lời thề khi trước, tuy nhiên vốn tay anh hùng hào kiệt, trọng danh dự hơn tính mạng, cho nên dầu biết ra tay cứu người sẽ mất mạng, nhưng chàng vẫn mạnh dạn làm không do dự.
Sau một giây phút tranh chấp Gia-luật-Tề vội đưa tay trái giựt thanh đoản đao ném luôn xuống đất.
Sau đó cả hai người đến thối lui ra sau, cách nhau mấy bước.
Gia-luật-Tề đưa chân vích thanh đao bay đến trước mặt Hoàng-nhan-Bình bảo lớn:
- Cô nương, nàng đã bắt buộc được tôi phải sử dụng hai tay kiếm, tôi thua cuộc và giữ đúng lời cam kết cũ tôi bằng lòng để cho nàng quyết định về mạng sống của tôi, nhưng trước giờ phút nhắm mắt tôi muốn yêu cầu cô nương một chuyện.
Hoàng-nhan-Bình rất cảm động trước thái độ hiên ngang chính đại của Gia-luật-Tề, nên run run hỏi:
- Công ử muốn yêu cầu điểm gì xin cứ nói ra.
Gia-luật-Tề nhìn thẳng vào mắt nàng nói từng tiếng một:
- Tôi chỉ xin Cô nương đừng giết hại phụ thân tôi.
Hoàng-nhan-Bình không đáp, bặm môi múa đao xông lại để chém.
Dưới ánh đen thắp sáng như ban ngày, Gia-luật-Tề điềm nhiên đứng yên không cử động, đợi chờ giây phút cuối cùng của mình, không hề cảm xúc, khí sắc hiên ngang rực rỡ như một vị thiên thần.
Hoàng-nhan-Bình vốn là một nữ lang đa cảm, thấy thái độ Gia-luật-Tề quá ư cao thượng, bỗng nảy ra ý tưởng vừa thương hại, vừa thán phục. Nàng suy nghĩ:
- Người ta đã ba lần dừng gươm tha ta thoát chết. Nay chỉ vì chữ tính người ta hiên ngang khứng nhận cái chết lẽ nào mình nằng nàng đi lợi dụng sự khí khái của người ta mà ra tay hạ sát một "chân chính hảo hán", sao?
Nét mặt uy nghi đằng đằng sát khí của nàng bỗng dịu xuống. Nàng buông rơi thanh đao xuống đất, lắc đầu mấy cái rồi quay mình chạy ra khỏi cửa.
Trong lúc thần hồn bất định, Hoàng-nhan-Bình cứ cắm đầu chạy mãi, không biết đi về hướng nào, và không biết chạy để làm chi nữa. Chạy một hồi lâu đến một con suối nước sâu thăm thẳm, nàng mới dừng chân đứng lại, đến gần bờ nhìn xuống đáy. Đêm khuya đen nghịch, vài ánh sáng lóng lánh chiếu xuống giòng suối như những con đom đóm; suối rộng, nước sâu không thể nào dượt qua nổi. Nàng do dự đứng nhìn, tâm thần thác loạn khó tới khó lui, vẩn vơ nhìn trời mây, nghe gió rì rào thổi, buồn ơi là buồn! Bất giác nàng thở dài một tiếng như xé lòng.
Thình lình sau lưng nàng cũng có một tiếng thở dài đáp lại.
Tiếng thở dài vang lên trong bầu không khí vắng lặng giữa cánh đồng không, bên bờ suối thẳm nghe lành lạnh rợn người. Hoàng-nhan-Bình cảm thấy như có một luồng băng giá chảy qua xương sống. Nàng có cảm giác như quỷ ghẹo ma trù lơ láo đưa mắt nhìn ra phía sau.
Cách nàng vài thước có một bóng đen đứng đấy từ bao giờ, nhìn lại là Dương-Qua.
Nàng đổi sợ làm mừng chỉ kịp kêu lên hai tiếng "Anh Hai - rồi ngồi xụp xuống đất, hai tay bưng mặt thổn thức.
Dương-Qua bước lại đỡ vai nàng đứng dậy miệng an ủi:
- Em Bé, tại em nông nổi hấp tấp quá! Thờ cha mẹ là việc vô cùng trọng đại, đâu phải trò đùa mà có thể làm được trong một ngày một bữa như em như em đã tưởng.
Hoàng-nhan-Bình len lén nhìn chàng hỏi nhỏ:
- Có lẽ anh đã hiểu qua đầu câu chuyện rồi chứ?
Dương-Qua lặng thinh gật đầu.
Hoàng-nhan-Bình nắm tay chàng nói se sẽ như thở than, oán trách:
- Anh Hai! Em thừa biết ý chí kém cỏi, tài nghệ cũng không ra chi nên không thể nào báo thù cho song thân được. Em có nhờ anh giúp đỡ thì anh lại ngơ đi thì làm sao nên công việc được.
Dương-Qua nắm tay nàng chậm rãi đến một gốc cây ngồi trên bãi cỏ, hai vai kề nhau, dịu dàng an ủi:
- Em không nên nóng lắm càng dễ hỏng việc. Em học võ công cho nhiều, bản lãnh cao siêu tới đâu cũng vô ích nếu em không thấy được ai là kẻ thù chính. Ngay như anh đây, cả cha mẹ đều chết trong những trường hợp vô cùng bi đát, chẳng minh bạch, mà ngày nay anh chưa dò xét ra manh mối. Ngày anh chào đời, cha anh đã chết cho nên lớn lên, anh chưa hề biết được mặt cha mình, cũng chẳng biết ông chết ra sao. Hoàng-nhan-Bình ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao vậy hở anh.
Dương-Qua buồn rầu kể lể:
- Anh mồ côi cha ngay từ khi còn trong bào thai. Khôn lớn lên lắm lúc có hỏi mẹ vì sao cha chết và ai đã giết cha mình, nhưng mẹ anh chỉ nhìn anh lắc đầu và khóc mãi, không chịu nói. Vì sợ gợi lại nỗi đau buồn cho mẹ, anh không dám hỏi thêm.
Anh cứ đinh ninh có lẽ chờ khi khôn lớn mẹ sẽ thuận lại rõ ràng, chẳng ngờ vài năm sau, mẹ anh bị rắn độc cắn sắp chết. Trong giờ phút hấp hối của mẹ, anh có hỏi lại chuyện này nhưng mẹ anh chỉ đáp:
- Cha con làm những điều không đứng đắn dầu chết cũng đáng đời. Người giết cha con là một nhân vật rất tốt, bản lãnh cao siêu, có địa vị rất cao trên xã hội và trong võ lâm nữa. Thôi để cho cha con chết cho yên thân, con chẳng nên đề cập tới hai chữ báo thù làm gì nữa.
Dương-Qua muốn đem chuyện mình ra làm điển hình mong làm dịu lòng cô em út, chàng bỗng nghĩ đến tiếng đời thường nhắc lại lời nói của tiểu nhân:
- Người giết cha mình là kẻ thù số một, không đội trời chung. Đứa con không lo báo phục thù là đại bất hiếu.
Nhưng trong trường hợp chàng, biết ai là kẻ thù mà hòng trả oán? Nếu cứ làm thinh cho oán thù rơi trong dĩ vãng của thời gian thì mình đâu xứng đáng là người con trai của thế hệ, có sống cũng chỉ làm bia miệng cho người đời phỉ nhổ.
Nhưng muốn báo thù một kẻ vô danh, thì làm sao cho tròn nổi!
Suy nghĩ đến đây chàng lại cảm thấy xót xa cho thân phận.
Hoàng-nhan-Bình hỏi:
- Cha anh chết trước, mẹ anh cũng chết khi anh còn bé. Vậy anh nhờ ai nuôi nấng cho đến ngày nay?
Dương-Qua đáp:
- Thân anh kể ra thật muôn cay ngàn đắng. Ngày mẹ anh bất hạnh qua đời, anh lang bạt rày đây mai đó, không cửa không nhà, đói thì xin ăn, ngủ nơi xó chợ đầu đường. Lắm khi xin ăn không có, bao tử hành hạ, phải lẻn vào vườn người hái trộm trái dưa quả mít đỡ lòng. Rủi ro bị chủ túm được họ thẳng tay đánh đập không chút thương tình. Vì vậy nên mình anh chỗ nào cũng đầy cả vết thương và sẹo.
Miệng nói, tay chàng vén quần, xăng áo, chỉ cho Hoàng-nhan-Bình xem thử.
Trong bóng tối lờ mờ xem không rõ, Hoàng-nhan-Bình lấy tay rờ theo các chỗ, thấy thịt chỗ lồi chỗ lõm quả như lời chàng nói.
Vốn có tánh đa sầu đa cảm, một bệnh chung của giới quần thoa, Hoàng-nhan-Bình sờ đúng những vết thẹo to lòng thấy xót xa như bị xát muối và tự nghĩ:
- Thân ta tuy nổi trôi bềnh bồng do cảnh nhà tan nước mất nhưng nhờ tiền của còn nhiều, gia đình đông đúc, nhiều người thân yêu, nếu so với số phận chàng, ta còn hạnh phúc hơn gấp mấy lần.
Hai người mải nắm tay nhau trong im lặng như lắng nghe tiếng động của đôi tim ,Hoàng nhan Bình ghé tai Dương Qua khẽ hỏi:
- Anh võ nghệ cao siêu mà đầu phục bọn Mông Cổ , chúng phong anh được chức phận gì ?
Dương Qua cười hà hà đáp :
- Tôi ăn vận như thế này cốt để cải trang che mắt một kẻ thù lợi hại đang tìm kiếm chứ đâu có phaỉ người của Mông Cổ .
Hoàng nhan Bình không giấu được nỗi vui mừng đang bồng bột trào dâng , nhảy tung lên vỗ tay hô lớn :
- ồ , hay quá , may quá ! Thật không có gì sung sướng cho bằng .
Dương Qua trố mắt hỏi :
- ủa , em làm chi lạ vậy ?
Hoàng nhan Bình thấy mình hơi lố lăng , mắc cỡ đỏ hồng đôi má rồi lẽn bẽn đáp :
- Trên đời này , quân Mông Cổ là kẻ thù số một của em . Em chỉ lo ngại nếu anh là tay chân của bọn chúng thì ...
Nàng nói đến đây tắt lời vì quá cảm động .
Dương Qua mân mê bàn tay của nàng vừa mềm mại vừa mát mẻ , cõi lòng nao nao rạt rào tình thương mến , bỗng nhiên thấy mất cả tự nhiên thường lệ , vội gợi chuyện cho đỡ ngượng :
- Nàh em , giá anh làm quan to của nước Đại Kim chắc em cưng chiều , quý trọng lamứ phải không ?
Hoàng nhan Bình ngay từ phút gặp gỡ đã dành nhiều cảm tình cùng anh chàng vui tánh xinh trai lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mình . Qua mấy lần nói chuyện nàng đã có lòng thầm yêu trộm nhớ đến chín phần mười , khi được hiểu rõ thân thế long đong càng thương cảm hơn gấp bội . Nay biết chàng hợp ý với mình càng mừng hơn nữa nên thở dài , rầu rầu đáp :
- Nếu phụ thân em còn sống , anh muốn gì cũng được hết . Rủi phụ thân em đã qua đời , em hết chỗ nương tựa , đâu còn có gì nữa . Nhắc lại chỉ làm cho lòng thêm chua xót .
Dương Qua thấy nàng quả hết lòng thương yêu mình , nói năng thật thà chất phát , lời lẽ ôn hoà , cảm động lắm đưa tay nắm đôi vai tròn rồi vuốt nhẹ đôi má ửng hồng của nàng , ghé gần tai nói nhỏ :
- Em bé , em của anh ... anh muốna ... xin em một ... điều thôi .
Hoàng nhan Bình cũng cảm thấy sóng tình rào rạt , đầu óc nóng bừng , tâm thần bất định . Nàng cũng đoán trước được phần nào ý muốn của Dương Qua nên khẽ siết bàn tay chàng , gật đầu nói :
- Anh muốn gì cũng được . cứ nói thẳng đi đừng e ngại úp mở gì hết .
Dương Qua thì thầm qua lời nói e thẹn thiếu tự nhiên :
- Anh chỉ cần xin được hôn .. hôn vào đôi ... mắt đẹp của em . Ngaòi ra anh cam đoan không dám đòi hỏi hay động chạm gì đến chỗ khác nữa .
Khi moí nghe lời chàng cầu xin lúc đầu , nàng đoán có lẽ chàng muốn cầu xin đính ước cầu hôn . Khi đưa tay sờ vào người chàng thấy châu thân nóng ran , gân cốt giật lên rần rật như chạm phải luồng nhiệt điện , nàng lại e rằng chàng sẽ nài ép chuyện mây mưa trắng gió ngay tại đây . Nàng đinh ninh nếu quả vậy sẽ chống cự đến cùng mặc dầu trong thâm tâm nàng cũng bị xâm chiếm bơỉ một sự ham muốn rạo rực . Nhưng lúc sờ vào người chàng lại thấy có một luồng hơi âm ấm chuyển sang khiến cho nàng đờ người ngẩn ngơ mất hết nghị lực hay phản ưmngs , cố ghì lấy vai chàng như chờ đón một câu nài ép ái ân để mà ... nhận lời , tránh bớt sự đòi hỏi của thể xác đang tràn nhựa sống .
đến khi nghe chàng cầi xin hôn vào đôi mắt , Hoàng nhan Bình chưng hửng và chán nản quá , nghĩ bụng :
- Sao có chuyện tréo cẳng ngỗng như thế này ! Quả là thằng Ngốc , người đời đặt tên không sai !
Nàng cứ thẫn thờ , có bực bội , lòng rối như tơ vò .
Nàng chớp chớp như muốn ứa lệ vì tức bực , vừa thẹn thuồng và thất vọng , chỉ tức một điều là không biết làm sao tỏ bày thật ý mình mong muốn .
Dương Qua nhìn vào những giọt lệ trên vành mi của Hoàng nhan Bình lóng lánh như ngọc trai , bỗng nhớ đến đôi mắt đẹp của Tiểu long Nữ tha thiết nhìn mình trước khi từ biệt nên lửa lòng bốc lên ngùn ngụt , tay lại như hùm dữ , ôm chầm nàng , ghì thật chặt vào lòng , đắm đuối hôn hoài đôi mắt không biết chán .
Hoàng nhan Bình bị chàng siết mạnh quá muốn ngộp thở , trong lòng hoang mang chưa đoán được chàng sẽ làm việc gì nữa đây nên không tiện hỏi .
Ngày cùng chúng sống với Tiểu long Nữ tại Mộ Đài , Dương Qua chỉ nhìn đôi mắt đẹp như sóng nước mùa thu của cô nương mà quên cả mọi vật trên đời , tuy vậy chàng chỉ cảm thấy vui thích sung sướng ấm lòng chứ không có tà tâm .
Tiểu long Nữ ra đi như chim trời bạt gió , góc biển chân mây . Dương Qua chỉ biết nhớ lại hình bóng nàng thương nhớ thiết tha . Từ ngày đưụng chạm cọ xát cùng Lục vô Song , chàng moí cảm thấy những niền rung cảm huyền diệu mê ly của đôi trai gái . Giờ phút này được hôn những hạt lệ nóng hổi trên mi mắt người tình , chàng mới cmả thấy cái hương vị thơm tho , mặn nồng của tình ái .
Buông Hoàng nhan Bình ra , Dương Qua ngây ngất , nghĩ lại những ngày qua , biết bao lần Tiểu long Nữ đã liếc mắt đưa tình mở đường cho chàng đi tới nhưng chỉ vì quá khờ khạo thật thà không nắm được cơ hội khiến cho bao nhiêu dịp tốt trôi qua mất .
bây giừo chàng mới nhớ lại và thông cảm những lời nói cuối cùng của tiểu long Nữ và nghĩ bụng :
- Cô nương đã thật tình thương yêu ta , đem chuyện vợ con bàn cùng ta thế mà ta cứ ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng biết một tý gì đến nỗi nàng buồn ý thất vọng bỏ núi ra đi . Ngày nay ăn năn việc đã muộn rồi , muốn gặp lại cô nương còn đâu nữa .
Lòng bị xâu xé bở một niềm ân hận , bực tức Dương Qua muốn đập đầu vào gốc cây tự vẫn cho rồi nhưng một trận gió nhẹ toàng qua , mùi thơm của da thịt Hoàng nha Bình lại phảng phất vào mũi , chàng lại ôm nàng vào lòng hô nữ , quên cả ý muốn tự tử vừa rồi .
Hoàng nhan Bình lim dim đôi mắt nằm gọn trong đôi cánh tay chacứ nịch của Dương Qua đang quàng vongf quanh chiêcss lưng thon . Nàng cảm thân thể như muốn bốc cháy dưới những cía hôn nồng nàn kéo dài vô tận . Mặc cho chàng nâng niu ô mấp , tóc ngọc thưởng hoa , nàng cảm thấy tâm hồn chơi vơi trong sóng tình dào dạt , tận hưởng bao nhiêu hương vị ngây ngất của men tình .
Hoàng nhna Bình nhám nghiền đôi mắt , đôi môi hé mở , đê mê mà chờ đợi nhưng nàng chỉ cảm thấy đôi môi nóng bỏng của chàng hết ở mắt này lại sang mắt kia , không có một động tác nào khác nữa .
Nàng thấy bực bội nên cũng khen thầm :
- Chú Ngốc quả đứng lời đã hứa ! Không biết hôn mắt thú vị làm sao mà ham lắm vậY ?
Thình lình Dương Qua buông nàng ra cất tiéng gọi :
- Cô nương , cô nương .
tiếng kêu thật thiết tha cảm động , bao hàm tất cả sự thành thật của con tim . Nghe giọng chàng thật nặng nề đau khổ , hònh như đang gọi một kẻ thân yêu cách biệt ngàn trùng xa xăm biền biệt và sau đó đã thất vọng vì nhận lầm người khác .
Nàng muốn hỏi chàng gọi ai nhưng chưa kịp mở lời bỗng có tiếng nói thanh thanh của một thiếu nữ :
- Xin chào anh chị .
Cả hai người ngơ ngác bàng hoàng vì quá ngượng , vội buông nhau ra , đưa mắt nhìn thấy có bóng người áo xanh đang thấp thoáng dưới một gốc cây lớn cách đó mười bước .
Dương Qua vội vàng đứng dậy chắp tay vái chào :
- đã mấy lần được ngwoif có lòng chiếc cố giúp đỡ , ơn này không bao giờ dám quên .
Người ấy cũng chắp tay bái lại và nói :
- Dương lang quả thật con người đào hoa tốt số . Mải lo hú hí voí người yêu mới mà quên hẳn người bạn đồng hành đã bao lần cùng sống chết rồi chăng ? Chắc bao nhiêu hứa hẹn thề nguyện bảo vệ cho nàng trong giây phút theo mây gió theo gió hết .
Dương Qua vừa mắc cỡ và lo lắng ấp úng hỏi :
- ủa , cô ... cô ... bảo ai vậy ?
Người ấy rầu rầu đáp :
- Lục vô Song chứ ai ! Nàng đã bị Lý mạc Thu bắt đi rồi .
Dườn Qua giật bán người hỏi lớn :
- Trời thật sao ? Cô nhìn được tận mắt chứ ?
Người con gái nói :
- Nàng đã bị Lý mạc Thu bắt đi ngay trong lúc hai người đang mê ly âu yếm yêu đương dưới gốc cây này .
Dương Qua ngơ ngác hỏi thêm :
- Nàng bị bắt lâu chưa , vào khoảng giờ nào ?
Người ấy đáp :
- Không lâu, mới đây vài khắc mà thôi. Lục-vô-Song khai rằng bộ sách "ngũ độc bí truyền" đã bị bọn ăn mày Cái Bang chiếm đoạt rồi, nên Lý-mạc-Thu bắt nàng đi tìm để chỉ. Tôi e rằng tánh mạng nàng không thoát được lần này nếu không giải cứu kịp thời.
Dương-Qua vội nói:
- Vậy tôi phải đi ngay bây giờ tìm cứu nàng mới được.
Nữ lang lắc đầu nói:
- Dương-Qua có võ công linh diệu lắm, tuy nhiên vẫn chưa phải đối thủ của Xích-luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu. Tôi chỉ e rằng làm hấp tấp rồi sa luôn vào tay hắn thì uổng mạng mà chẳng đem lại một kết quả nào.
Mặc dầu trong đêm tối, nhưng mắt Dương-Qua tinh tế lạ thường nhìn rõ hết mọi vật. Chàng trông thấy cô gái áo xanh mặt mũi quá sức xấu xa gớm ghiếc, có lẽ chưa có ai xấu xí hơn nàng.
Thật không ngờ một con người có nhiều hảo ý, tâm địa tốt quá mà mặt mũi lại xấu đến bực ấy.
Chàng hỏi thêm:
- Chúng tôi chưa có cái hân hạnh được quen biết cô nương nhưng chẳng hiểu vì sao được cô nương có lòng tốt nhiều phen cứu giúp như vậy. Xin cô nương vui lòng biết họ tên gọi là làm quen và để nhớ ơn mãi mãi.
Nàng đáp:
- Tên họ của tôi chẳng có gì đáng để ý. Sau này có dịp Dương huynh sẽ biết ngay. Giờ phút này, cấp bách nhất là đi cứu Lục-vô-Song, xin Dương huynh phải lo liệu gấp mới khỏi chậm trễ.
Nàng nói âm điệu dịu dàng, nhỏ nhẹ nhưng rất thanh tao, ai nghe cũng mến. Lạ một điều là khi nàng nói bao nhiêu sớ thịt trên mặc không hề rung động. Hình như tiếng nót phát ra từ một thây ma.
Dương-Qua gật đầu đáp:
- Quả đúng như vậy. Theo ý cô nương, bây giờ chúng ta cứu nàng bằng cách nào tiện nhất? Xin cô nương vui lòng chỉ bảo cho.
Cô gái đáp:
- Kể về tuổi tác, kinh nghiệm các thứ, Dương huynh đều hơn tôi. Vậy Dương huynh cứ tùy nghi định đoạt, khách sáo làm gì. Tôi sẵn sàng giúp sức nếu cần đến.
Dương-Qua rất cảm mến thái độ ôn hòa và khiêm tốn của nàng và nghĩ bụng:
- Nếu cứ xem mặt đoán người như thường lệ thì chắc ai cũng hiểu lầm nàng này ngay.
Nghĩ xong nói nhỏ:
- Vậy thì tôi đi ngay bây giờ và thề cứu nàng cho được. Cô nương có thể giúp sức được chăng.
Nàng ấy đáp:
- Tôi xin sẵn lòng. Cô nương Hoàng-nhan-Bình, thế nào, có cùng đi với chúng tôi không?
Dương-Qua nghe nói trong bụng khen thầm nàng có tư cách mẫn thiệp lắm và trả lời thay cho Hoàng-nhan-Bình:
- Hoàng-nhan-Bình thế nào cũng nhận giúp một tay rồi, khỏi cần hỏi nữa.
Nàng ấy bước lại trước mặt Hoàng-nhan-Bình chắp tay thi lễ và nói:
- Cô nương là người lá ngọc cành vàng, nên phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định công việc này vì Lý-mạc-Thu vô cùng lợi hại. Trên đời này Xích-luyện ma đầu đã nổi danh là con người ác độc nhất. Chúng tôi thì không sao, chứ cô nương thì cần cân nhắc kỹ trước khi nhận lời đấy nhé.
Câu nói có vẻ khiêm nhường và có thiện ý, nhưng cũng bao hàm sự khích lệ thử thách.
Hoàng-nhan-Bình lễ phép đáp:
- Đối với tôi, Dương đại ca là một ân nhân, nên việc của chàng cũng như việc của tôi. Tôi có bổn phận phải tiếp sức. Tiểu thư là bầu bạn mà đã có lòng giúp đỡ thì cả ba chúng ta cùng đi cho vui.
Người ấy bước đến năm tay Hoàng-nhan-Bình ân cần nói:
- Thật hân hạnh được gặp nhau hôm nay. Chị lớn hơn tôi cứ gọi bằng em cho tiện và thân mật hơn.
Trong đêm tối Hoàng-nhan-Bình đâu nhìn rõ gương mặt xấu xí của nàng. Chỉ nghe giọng nói dịu dàng trong trẻo, bàn tay mát mẻ mềm mại, Hoàng-nhan-Bình đoán thế nào cũng một tuyệt sắc giai nhân, mặt mày xinh đẹp lắm nên rất vui mừng hỏi:
- Năm nay chị mấy tuổi?
Nàng cười đáp:
- Lúc này chưa phải lúc tâm sự để tìm hiểu tuổi tác tên họ nhau. Dương huynh, sao chẳng lên đường gấp cho kịp, chần chờ hoài không nên, việc cứu người như chữa lửa.
Dương-Qua gật đầu đáp:
- Cô nương quả chí lý. Vậy xin đi trước chỉ đường cho.
Nàng đáp:
- Tôi thấy Lý-mạc-Thu bắt Lục-vô-Song đưa về hướng Đông Nam, có lẽ đi về Kinh tử quan thì phải.
Thế rồi cả ba triển khai khinh công nhắm phía ấy lao đi vùn vụt nhanh như ba cái bóng.
Kể về tài khinh công thì phái Cổ-mộ luyện theo bí quyết của "Ngọc nữ tâm kinh" đã chiếm bậc nhất trong các môn phái thời bấy giờ.
Hoàng-nhan-Bình vốn là môn đệ của Thiết-chưởng-Bang và bang chủ là Cửu-Can-Điêu, cứ theo biệt danh "Thiết chưởng thủy thượng phiêu" (bàn tay sắt nổi trên nước) cũng đủ rõ tài nghệ khinh công kỳ diệu là dường nào rồi.
Nàng áo xanh tuy không nhanh lắm nhưng lúc nào cũng đi bén gót Hoàng-nhan-Bình. Hoàng-nhan-Bình đi mau thì nàng đi mau, đi chậm thì nàng cũng đi chậm. Vì vậy nên chưa rõ mức tuyệt đỉnh tối đa của nàng là đến đâu.
Dương-Qua thầm nghĩ:
- Không biết nàng này thuộc môn phái nào mà khinh công có vẻ trội hơn cả Hoàng-nhan-Bình nữa.
Phàm bản chất đàn bà ưa hiếu thắng, hay là mình nên nhường cho hai cô đi trước để họ vui lòng.
Nghĩ vậy chàng chậm bước đi ra sau.
Khi trời vừa rựng sáng, nàng áo xanh lấy lương khô trong bọc đem chia cho mọi người lót dạ.
Dương-Qua để ý nhìn chiếc áo xanh của nàng. Tuy áo bằng vải bố tầm thường nhưng đường kim mũi chỉ thật nhặc, lối cắt may vô cùng sắc sảo, ôm vừa vặn thân hình trông rất đẹp.
Mọi thứ cần dùng, từ túi cơm khô, bầu đựng nước và các vật lặt vặt đều sắp đặt ngăn nắp gọn gàng trong một cái bao xách đeo bên mình. Bấy nhiêu đó cũng chứng tỏ được nàng này rất chu đáo trên mọi vấn đề.
Nhờ trời đã sáng, Hoàng-nhan-Bình nhìn thấy mặt nàng áo xanh xấu quá, chép miệng than rằng:
- Con người nói năng dễ thương, tánh tình chu đáo, nhưng sao xấu tệ như vậy! xưa nay ta chưa hề thấy một kẻ nào xấu như cô ấy.
Chờ ai nấy ăn xong, nàng áo xanh thu xếp đồ đạc rồi trước khi mọi người tiếp tục theo hướng cũ, nàng hỏi Dương-Qua:
- Dương huynh, có lẽ Lý-mạc-Thu nhận diện anh dễ lắm phải không?
Dương-Qua đáp:
- Hắn gặp tôi nhiều phen, có lẽ đã biết mặt rõ lắm.
Nàng thò tay vào bọc rút ra một chiếc khăn mỏng dệt bằng tơ, trao cho và dặn thêm:
- Trong khăn này có gói một cái mặt nạ bằng da người. Dương huynh hãy đeo vào, tự nhiên không kẻ nào nhận ra anh nữa đâu.
Dương-Qua mở ra thấy có một miếng da rất mỏng và mềm mại, phía trên có hai lỗ mắt, và mũi mồm giống y như người thiệt, chỗ cao chỗ thấp trông rất lạ.
Dương-Qua mừng lắm, tỏ lời cảm ơn.
Nhìn chàng mang chiếc mặt nạ vào đã đổi ngay hình dạng, mặt mày xấu xa như quỷ sứ, Hoàng-nhan-Bình chợt nghĩ ra một chuyện, vỗ vai nàng con gái áo xanh hỏi:
- Cô em mang mặt nạ mà tôi không để ý. Nãy giờ tôi cứ đinh ninh cô em mặt mày xấu xí, thật ngốc quá!
Nàng ấy cả cười đáp:
- Dương huynh thật đẹp trai mà đeo mặt nạ vào trông thấy ngay. Đố ai nhận diện ra nổi. Riêng phần em thì có đeo hay không cũng không thay đổi bao nhiêu vì sự thật mặt mày em cũng không hơn gì cái mặt nạ.
Hoàng-nhan-Bình tò mò nài nỉ:
- Xấu đẹp gì cũng được, cô em cho chị xem bộ mặt thiệt một chút thôi mà.
Dương-Qua cũng sẵn tính háo kỳ nghe Hoàng-nhan-Bình nói như vậy, cũng vội bước lại gần để xem thử.
Nhưng thiếu nữ mỉm cười đáp:
- Em chẳng tiếc gì chị. Nhưng xét bây giờ chưa phải lúc để biểu lộ hình tích nhau ra, e không có lợi mà còn hại là khác. Xin chờ dịp sau vậy.
Thấy nàng chẳng bằng lòng, Hoàng-nhan-Bình cũng không nài ép nữa.
Mãi đến trưa, mặt trời đứng bóng, ba người đến một thị trấn nhỏ, đưa nhau tìm một tửu quán nghỉ chân và ăn uống.
Tiểu-Bảo thấy Dương-Qua ăn mặc theo lối Mông-Cổ nên chẳng dám coi thường lo hầu hạ săn đón tươm tất lắm.
Vừa khi đó thầy trò Lý-mạc-Thu dẫn Lục-vô-Song cũng bước vào trong quán.
Dương-Qua rất thông minh và lanh lẹ. Chàng đoán chắc nhờ chiếc mặt nạ này, Lý-mạc-Thu không thể nào nhận ra mình nữa. Nhưng cần phải làm sao cho hắn đừng có một điểm nào nghi kỵ mới phải.
Suy nghĩ xong chàng không nhìn lên hay ngó qua ngó lại, cứ cúi mặt xuống ăn uống, thỉnh thoảng liếc lên xem chừng bọn hắn làm gì hoặc có bàn tán gì cùng nhau chăng.
Lục-vô-Song dĩ nhiên không nói năng một lời. Nhưng Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba cũng cứ cặm cụi ăn uống không bàn luận gì cả.
Một chặp sau, gần xong bữa ăn, Hoàng-nhan-Bình
khẽ đưa chân hất nhẹ vào gót Dương-Qua để nhắc nhủ chàng hành động kẻo chậm trễ.
Dương-Qua đã hội ý nhưng suy nghĩ:
- Nếu đem cả tài nghệ của ba đứa, hoặc nếu thêm luôn cả cô chị dâu đang bị nạn kia, cũng chưa chắc đã làm gì xuể nổi Lý-mạc-Thu. Như vậy nếu đấu lực không lợi mà cần phải dùng trí đối phó thì hơn.
Nghĩ vậy chàng ngó nàng láy mắt rồi tay cầm chiếc muỗng khoát khoát mấy cái ngụ ý bảo chậm chậm đừng nôn nóng.
Vừa ngồi vào bàn ăn, Lý-mạc-Thu để ý nhìn theo Lục-vô-Song, thấy đôi mắt nàng long lên sáng ngời chưa biết con bé này dự định việc gì đây. Quan sát khắp xung quanh, Lý-mạc-Thu chỉ thấy ba người đang ngồi chăm chú ăn uống, và Lục-vô-Song cũng không để ý tới bọn này, nên không lưu tâm đến nữa.
Dương-Qua cố ngồi yên không nhúc nhích nhưng dồn hết tinh thần nghe ngóng, vì vậy nên Lý-mạc-Thu cũng không nghi ngờ tí nào.
Trong bầu không khí yên lặng có lảng vảng một sự nặng nề khó thở. Ngay khi đó có tiếng chân đi rộn rịp từ phía cầu thang và hai người xuất hiện.
Hoàng-nhan-Bình đưa mắt xem thử cặp ấy là anh em Gia-luật-Tề và Gia-luật-Yên.
Hai người gặp Hoàng-nhan-Bình ngồi đây, rất ngạc nhiên nhưng cũng cúi đầu chào hỏi, xong lại ngồi một bàn ở phía trước.
Lý-mạc-Thu thấy đôi nam nữ vừa bước vào vô cùng xinh đẹp, trai như phan an tái thế, gái như ngọc nữ giáng trần, thật đáng một đôi trai tài gái sắc. Nàng đâu ngờ đó là hai anh em một, cứ tưởng là cặp tình nhân đang rủ nhau đi uống rượu.
Số là sau khi Hoàng-nhan-Bình đã chạy rồi, anh em Gia-luật-Tề đoán chắc nàng không trở lại nữa nên xin phụ thân đi xem phong cảnh vùng này và ghé vào đây giải khát, không ngờ oan gia lại gặp oan gia.
Lý-mạc-Thu chưa thu hồi được quyền "Ngũ độc Bí truyền" thì luôn luôn đem lòng lo lắng, ăn chẳng ngon ngủ chẳng yên. Vào bàn ăn, nàng chỉ nuốt qua loa vài miếng rồi lại bên cửa sổ, tỳ tay vào lan can nhìn xuống đường tiêu khiển.
Bỗng phía đầu đường có hai người ăn mày bảy túi đang cùng nhau nói chuyện, chỉ trỏ huyên thiên rồi sắp sửa đi nơi khác có vẻ hấp tấp lắm.
Lý-mạc-Thu bỗng nhớ ra một việc, đưa tay ngoắc hai người và lớn tiếng gọi:
- Này hai vị anh hùng trong Cái-bang, kính mời hai vị vào đây nhậu chơi. Tôi có một việc muốn nhờ nhị vị về thưa lại cùng Bang chủ.
Sở dĩ thấy thái độ của họ đang hoảng hốt sắp bỏ đi đâu đó, nếu gọi lại để cho tiền như lúc thường e họ không lại, vì vậy nên Lý-mạc-Thu lấy cớ là nhờ nói chuyện với Bang chủ. Hai người sẽ nghĩ có chuyện rất quan trọng mới liên hệ đến Bang chủ nên buộc lòng phải lên.
Lục-vô-Song theo dõi thấy sư phụ gọi hai người ăn mày trong bụng dự đoán có lẽ sư phụ sẽ chất vấn về cuốn "ngũ độc bí truyền" nên đau lòng lo sợ, mặt mày tái mét, tim đập đồm độp.
Gia-luật-Tề đã từng nghe danh Cái-Bang là một tổ chức to lớn có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng trong nước. Bang chủ là một nhân vật siêu quần, tài cao xuất chúng. Nay có một đạo cô hãy còn non tuổi mà gọi hai người ăn mày nhắn lời muốn nhờ chuyển lên Bang chủ thì không hiểu nàng thuộc hạng người nào nên ngừng lại theo dõi xem thử sự việc xảy đến ra sao.
Hai người ăn mày chống gậy lộp cộp vào tiệm đến trước mặt Lý-mạc-Thu hỏi:
- Kính xin tiên cô cho biết có điều gì chỉ dạy?
Chào hỏi xong, hai người đưa mắt nhìn xung quanh, vừa thấy Lục-vô-Song ngồi bên cạnh, mặt người đã biến sắc vì tức giận. Y nhớ lại Lục-vô-Song đã đón đánh mình độ nọ, chẳng biết vì sao lại ngồi đây, cho nên trong lòng hậm hực, chỉ muốn ăn gan nuốt sống.
Lý-mạc-Thu mỉm cười và dịu dàng nói:
- Quý vị đừng nóng nảy vô ích, cứ xem lại mu bàn tay rồi sẽ biết.
Cả hai giật mình vội lật úp bàn tay xem lại. Trên mu bàn tay mỗi người in rành rành một dấu bàn tay son đỏ đậm có đủ năm ngón.
Hai người đến tái mặt vì sợ hãi và kinh dị, tự hỏi:
- Không biết hắn hạ độc thủ hồi nào dấu vết "ngũ độc thần chưởng" đã khắc rõ trên tay mà không hề hay biết.
Thật ra không riêng gì hai gã ăn mày không biết mà chính bọn Dương-Qua, Gia-luật-Tề cũng chẳng ngờ được Lý-mạc-Thu hành động quá mau lẹ đến mức đó.
Thế là hai người ăn xin đồng thanh rú lên:
- Trời ơi, vậy Tiên-Cô là Xích-luyện Tiên-tử rồi còn chi nữa?
Lý-mạc-Thu làm thinh không đáp. Nàng điềm nhiên bưng ly rượu lên dùng tay xoay một vòng. Bao nhiêu rượu thoát ra ngoài biến thành một vòng tròn quay tít trên không. Nàng đưa tay khẽ phẩy một cái bao nhiêu rượu lại thu hồi vào chén như cũ không rơi một hột nào.
Đây là một thế trong công phu thượng thừa của Cổ Mộ đài. Dương-Qua cũng có học qua nhưng vì đào luyện còn non, chưa được tinh diệu bằng Lý-mạc-Thu.
Sau khi trổ tài để dằn mặt hai gã ăn mày, Lý-mạc-Thu từ từ bảo:
- Ta cảm phiền hai người về thưa lại với Bang chủ rằng xưa nay Lý-mạc-Thu này cam phận nước sông, chưa hề lan tràn vào nước giếng và lúc nào cũng hâm mộ oai danh của Đại Bang Khất Cái. Như vậy thì quý Bang cũng không nên vô cớ để sát hại lẫn nhau nghe chưa?
Hai người lấm lét nhìn nhau rồi lén nhìn Lý-mạc-Thu. Lời nói của nàng sao mà dịu dàng thanh nhã như vậy, mà hành động lại quá hiểm ác. Chẳng hiểu bọn mình đã làm gì xúc phạm mà nàng nỡ hạ độc thủ.
Lý-mạc-Thu đoán biết tư tưởng của họ nên nói tiếp:
- Các ngươi đã trúng "Ngũ độc thần chưởng" nơi tay rồi. Mau mau về thưa lại cùng Bang chủ đem cuốn sách trả lại xong, ta sẽ giải độc cho.
Hai người ngạc nhiên hỏi:
- Sách gì vậy. Chúng tôi không hề biết?
Lý-mạc-Thu tươi cười và ôn tồn nói:
- Cuốn sách ấy đã cũ kỹ và rách nát lắm rồi. Nhưng nếu sợ mất một trang thì một trăm mạng người cũng không bù được nổi.

Hồi 28

Nữ lang áo đỏ với cặp thần điêu.

Tuy biết mình đã bị độc chưởng nhưng hai người vẫn chưa thấy đau đớn hay có gì khác lạ trong người. Đến khi nghe Lý-mạc-Thu nói giọng hăm dọa thì giựt mình, xem lại mu bàn tay thấy dấu đỏ càng lúc càng lan rộng thêm. Lúc bấy giờ cả hai mới bàng hoàng và không còn mơ hồ gì nữa. Độc thủ của Xích luyện thần chưởng đã nhiễm vào người đúng sự thật một trăm phần trăm rồi.
Thấy Lý-mạc-Thu hăm giết hàng trăm mạng để đổi cuốn sách ấy thì cả hai càng lo âu hơn nữa, nhắm phải về thưa lại Bang chủ ngày không còn trì hoãn được nữa.
Thế rồi họ ngầm đưa mắt láy nhau ra ám hiệu và chạy luôn ra ngoài không một lời bái biệt.
Nhìn theo hai người ăn mày khuất dạng ngoài đầu phố, Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:
- Chúng bay đã trúng "ngũ độc thần chưởng" rồi thì không một danh sư nào có thể chữa nổi. Suốt gầm trời này, chỉ trừ một mình Nhất-Đăng Đại-Sư, không có một kẻ nào, hay một phương tiện nào có thể cứu chữa được nữa. Nếu Bang chủ bây muốn cứu mạng hai đứa, phải đem trả cuốn "Ngũ độc bí truyền" may ra ta sẽ ra ơn mới khỏi chết.
Nhưng bỗng nhiên nàng sạm mặt vì một ý nghĩ khác:
- Tất cả bí truyền của "ngũ độc thần chưởng" và phương pháp cứu cấp đều có ghi rõ trong cuốn "ngũ độc bí truyền". Sách này hiện đang nằm trong tay ban Khất-Cái. Bọn chúng chỉ cần học theo đó mà giải cứu chứ cần gì nhờ đến mình nữa.
Nghĩ đến đây nàng toát mồ hôi ướt áo, vội vàng phi thân bay vút theo để bắt hai người ấy lại.
Trong phút chốc, nàng đã đuổi theo kịp và đưa tay nắm đầu lôi lại.
Hai người đang đi bỗng nghe gió lộng đàng sau, một ánh vàng thấp thoáng vừa đến thì một cánh tay của một người đã bị túm chặt kéo ngược trở lại.
Vì sức kéo quá mạnh, xương tay hắn gãy lìa răn rắt.
Người kia vội vàng xáp lại cố đánh để giải thoát cho bạn. Nhưng Lý-mạc-Thu khẽ lách qua một bên thoát khỏi đường quyền, vung bàn tay trái ra giả đập vào mặt. Người ấy cả sợ cúi đầu xuống tránh. Tức thì nàng xòe tay chém sả xuống một nhát gãy tiện xương vai.
Trong chớp mắt cả hai người đều bị trọng thương. Tuy cố gắng vùng vẫy nhưng vẫn không thoát khỏi và bị nàng lôi luôn về tiệm nước.
Đến nơi, Lý-mạc-Thu xô hai người trên mặt đất cười bảo:
- Hai ngươi tạm ở đây dưỡng bệnh. Chừng nào Bang chủ đem sách đến trả ta sẽ cho đổi mạng hai đứa mang về.
Nàng điềm nhiên kêu thêm rượu rồi ngồi xây lưng về phía hai người để uống.
Hai người dáo dát nhìn nhau rồi muốn tìm cách chạy thoát. Hình như Lý-mạc-Thu đã biết rõ thâm ý ấy nên quay lại cười lớn nói:
- Hai ngươi đã sả vai gẫy tay rồi. Nếu biết thân ở lại đây điều dưỡng thì được yên thân, tìm cách tẩu thoát sẽ gãy thêm chân nữa đấy nhé.
Nói xong nàng ngồi quay ra ngoài, ung dung rót rượu uống hình như không cần đếm xỉa gì đến kẻ khác.
Hồng-lăng-Ba động lòng bèn nói:
- Sư phụ, bọn chúng đã bị thương nặng. Sư phụ không tha cho khuất mặt để ở đây có ích gì đâu.
Lý-mạc-Thu hứ một tiếng đáp:
- Hôm nay sao cô giầu lòng nhân đạo vậy?
Nói rồi nàng đứng dậy xăm xăm bước đến gần hai người ăn mày.
Hai người này uất ức quá, đôi mắt trừng trừng nhìn thẳng vào mặt Lý-mạc-Thu, muốn ăn gan uống máu. Dẫu đã bị thương, nhưng nếu nàng còn ra tay hành hạ nữa, hai người sẽ thí mạng không tiếc.
Anh em Gia-luật-Tề nãy giờ ngồi ngoài nhìn xem sự việc xảy ra, ai nấy đều bất nhẫn và căm hờn thái độ kiêu căng, hành động quá ác của Xích-luyện Tiên-Tử.
Gia-luật-Tề bảo nhỏ em gái:
- Hiền muội hãy kiếm đường tạm lánh xa đi, con ác phụ này hung bạo lắm.
Gia-luật-Yên hỏi:
- Còn anh thì sao?
Chàng nói nhỏ:
- Chờ anh trừ được con ác phụ rồi sẽ ra sau. Thôi em đi đi để khỏi nguy hiểm.
Thật ra Gia-luật-Yên lúc nào cũng quý mến anh, đời nào nàng để Gia-luật-Tề ở lại với sự hiểm nghèo và lánh đi ra ngoài một mình cho yên thân được.
Vì vậy cho nên tuy không dám cãi, nàng vẫn bần dùn chưa biết nên ở hay đi.
Ngay lúc ấy Dương-Qua phi thân bay vút qua gần Gia-luật-Tề khẽ bảo:
- Đại huynh, chúng ta cùng ra tay một lượt thì hay hơn. Cứu nạn cho kẻ yếu đâu phải phần việc của riêng ai.
Gia-luật-Tề thấy người này ăn mặc y phục Mông-Cổ nhưng mặt mày quá ư xấu xí, có lẽ từ xưa đến nay chưa có một thanh niên nào xấu xa bằng. Chàng suy nghĩ:
- Người này là ai, bản lãnh như thế nào chưa rõ. Hắn ngồi chung bàn cùng Hoàng-nhan-Bình, chắc nàng biết rõ, tông tích, nhưng chẳng lẽ đi gạn hỏi bây giờ. Đành rằng việc cứu khốn phò nguy là nhiệm vụ của kẻ cầm gươm. Nhưng Xích-Luyện Tiên-Tử Lý-mạc-Thu đâu phải tay vừa. Ta làm sao chống cự nổi hắn. Người này dầu tài giỏi cũng chưa chắc hơn ta, nếu cả hai cùng nông nổi e mất mạng vô lối.
Trong khi ấy, Lý-mạc-Thu cũng nhận được tiếng quen quen của Dương-Qua. Nhìn mặt chàng quá xấu xa và hoàn toàn xa lạ nhưng nghe tiếng nói thì nhất định có tiếp xúc hay tranh tài nhiều bận tại một nơi nào rồi, nhưng nghĩ chưa ra.
Lúc đó Dương-Qua nói tiếp cùng Gia-luật-Tề:
- Đại huynh chờ tôi đi mượn gươm đã, vì tôi không có vũ khí.
Nói rồi chàng xoay mình bay sát bên Hồng-lăng-Ba đưa tay nắm gươm nàng và nói nhỏ:
- Nương-Tử xin vui lòng cho mượn tạm thanh kiếm nhé!
Hồng-lăng-Ba chưa kịp đối đáp ra sao thì gươm đã bị đoạt mất rồi.
Dương-Qua nắm gươm trong tay rồi xông ra đứng sừng sững giữa Lý-mạc-Thu và hai người ăn xin.
Thấy thân pháp người này vô cùng lanh lẹ, Lý-mạc-Thu cảm thấy chột dạ, để ý xem chừng. Riêng Gia-luật-Tề được biết tài năng của người bạn lạ thì lòng mừng vô hạn, cùng bước đến gần khẽ hỏi:
- Xin Đại-huynh vui lòng tỏ bày quý tánh cao danh để tiện bề xưng hô.
Dương-Qua đáp:
- Tôi họ Dương!
Nói rồi chàng vung gươm lên, nhưng bỗng hoảng hốt buột miệng nói:
- ấy chết, ta mượn lầm thanh gươm gãy rồi.
Vừa nghe được câu ấy, Hồng-lăng-Ba vụt nhớ ra và gọi lớn:
- Sư phụ, lại hắn nữa rồi. Chính thằng bé đấy sư phụ ạ!
Biết không tiện che đậy nữa, Dương-Qua đưa tay vuốt chiếc mặt nạ xuống và lễ phép nói:
- Đệ tử Dương-Qua xin kính chào Sư-bá. Xin chào mừng liệt vị.
Nghe lối xưng hô "Sư-bá" của Dương-Qua, Gia-luật-Tề hoảng kinh nghĩ bụng:
- ồ té ra họ cũng một phái với nhau cả, phen này quả thật mình đã sa chân vào cạm bẫy đầy chông gai và rắn độc.
Lục-vô-Song cũng lẩm bẩm:
- Nhất định là chú Ngốc rồi chứ ai nữa. Nếu không phải hắn thì sao xưng hô như vậy?
Lý-mạc-Thu cất tiếng rang rảng lảnh lót hỏi:
- Mi đó hả? Sư phụ mi mạnh giỏi chứ?
Nghe nhắc đến sư phụ, Dương-Qua thấy đau nhói trong tim, mắt đỏ ngầu ngấn lệ.
Lý-mạc-Thu nói thêm, nửa đùa nửa thật:
- Tiểu-long-Nữ cũng có mắt tinh đời, khéo chọn đệ tử lắm. Thày trò mi quả thật vừa lứa xứng đôi!
Dương-Qua bỡ ngỡ đứng yên chưa biết nói sao.
Nguyên từ khi gặp lại Dương-Qua lần thứ nhì, Lý-mạc-Thu hết sức ngạc nhiên thấy tài nghệ chàng tăng tiến rõ rệt vì vậy nên hôm nay thấy chàng cùng xuất hiện với nhiều người lạ cũng đem lòng e ngại. Nàng muốn tìm cách ly gián và nói chọc tức để thủ thắng.
Nàng chậm rãi nói tiếp:
- Mi đi đâu lại trôi dạt về xứ này?
Dương-Qua chưa hiểu dụng ý của hắn ra sao, chắp tay bái một cái và nói:
- Sư phụ tôi có lời kính chào Sư-bá!
Lý-mạc-Thu hỏi:
- Mấy lâu nay chị em ta không có dịp gặp nhau, nên đem lòng tưởng nhớ. Hiện nay Sư phụ mi ở đâu rồi.
Dương-Qua đáp:
- Sư phụ tôi cũng ở gần đây, lát nữa sẽ đến gặp Sư-bá đấy.
Dương-Qua cũng thừa rõ sức mình, ngay có cả anh em Gia-luật-Tề cũng chưa thế thủ thắng được ác phụ. Chàng cố đặt điều lấy oai cô nương để lòe cho Lý-mạc-Thu sợ đừng bức sách mình lắm, hoặt rút lui đi ra khỏi đánh nhau cho đỡ khổ.
Lý-mạc-Thu lạnh lùng đáp:
- Ta chỉ hỏi cho biết thầy trò mi làm gì, chứ đâu có cần gặp mặt.
Dương-Qua nói:
- Sư phụ tôi định gặp Sư-bá để cầu xin Sư-bá rộng lòng tha tội cho Lục-sư-muội. Chẳng lẽ Sư-bá còn giận hờn không chịu tiếp ư?
Lý-mạc-Thu cười lạt nói:
- Mày đã cùng Sư-phụ mày làm những chuyện loạn luân, quả tệ hơn loài cầm thú. Hôm nay trước mặt ta còn giả ơn giả nghĩa, thầy thầy trò trò quả không biết xấu hổ.
Nghe Lý-mạc-Thu nhục mạ, Dương-Qua tức muốn điên người. Xưa nay chàng tôn sùng kính mến Tiểu-long-Nữ hơn ai hết. Hôm nay Lý-mạc-Thu chẳng những vu khống cho mình mà còn trắng trợn bêu xấu Sư-phụ nữa, quả là một điều không thể chịu nổi. Chàng trợn mắt nhìn, rồi vung gươm xông vào chém loạn xạ.
Lý-mạc-Thu né sang một bên cười trêu nói thêm để chọc tức:
- Ta tưởng bọn thú vật đã có gan làm việc loạn luân như mi thì chẳng biết gì liêm sỉ nữa. Thế mà cũng biết giận hờn, xấu hổ sao?
Dương-Qua làm thinh không đáp nữa. Sử dụng thế "Liên hoàn kiếm" của Trùng-dương-Cung tấn công liên tiếp.
Thấy thế kiếm cực kỳ ác liệt, Lý-mạc-Thu chẳng dám xem thường vội múa phất trần chống cự.
Hai người cùng nhau tranh tài một chập lâu, Lý-mạc-Thu nhận thấy kiếm pháp của Dương-Qua vô cùng tinh thục, càng đánh càng hăng, càng múa càng dẻo, tất cả những thế của mình đều bị hắn đoán trước khắc chế được hết, giá mình không dày công rèn luyện khó bề cự địch nổi.
Càng nghĩ càng oán thầm Sư-phụ mình quá thiên vị, không truyền dạy cho mình tất cả những bí quyết của vũ thuật sư môn, để đến bây giờ một đệ tử của Sư-muội mình biết nhiều thế võ mà mình chưa được học.
Một chập sau, nàng thấy tay chân có phần lúng túng bèn hét lên một tiếng, nhảy vọt lên không trung là là sa xuống, đặt một chân trên miệng ly còn chân kia co lên không cử động. Nếu một kẻ khác thì cái ly phải bể tan dưới sức nặng của thân hình ngay. Lý-mạc-Thu triển khai khinh công tuyệt kỹ nhón ngón chân khẽ đứng trên mép ly mà vững như đinh đóng, toàn thân không xao động, rượu trong ly cũng không đổ ra một giọt nào.
Đứng yên nàng mỉm cười hỏi:
- Sao, tình nhân mi có dạy cho mi được khinh công như vậy chưa?
Dương-Qua trợn mắt chỉ mặt Lý-mạc-Thu hét:
- Mi chớ nói càng, ai là tình nhân của ta mà hỏi bậy như thế?
Lý-mạc-Thu cất tiếng cười vang rồi nói lớn:
- Long Sư-muội đã có lời phát thị, nếu Thủ-cung-Sa chưa mất, không bao giờ rời khỏi Cổ-Mộ đài. Hôm nay mi o bế quyến rũ như thế nào đến nỗi hắn thuận theo mi hạ san một cách ngoan ngoãn. Như thế không phải là tình nhân thì là gì nữa hử?
Dương-Qua nổi giận đến cực độ, nhưng chẳng biết lấy câu gì biện bạch cho tiện, chàng cũng phi thân nhảy lên và dùng khinh công đặt chân trên một miệng bát. Tuy mức khinh công của chàng cũng khá điêu luyện, cái bát lớn mười lần chiếc ly nhưng chàng vẫn bị loạng choạng mấy cái rồi mới giữ thăng bằng lại được.
Lý-mạc-Thu cười cười dùng cán phất trần điểm nhẹ vào sống kiếm và nói lớn:
- A, thế ra hắn cũng dạy cho mi khinh công khá lắm. Vậy mi phải cố ăn ở cho vẹn tình để đáp lại thâm ân sư phụ nhé.
Dương-Qua tức giận gần lộn ruột, đỏ mặt tía tai quát lớn:
- Hỡi con điếm Lý-mạc-Thu. Mi quả thật là thú vật nên mở miệng nói ra những lời bậy bạ như thế ấy.
Nói xong, lưỡi gươm đã vun vút chém tới, lấp loáng ánh hào quang.
Lý-mạc-Thu vẫn ung dung đỡ và chậm rãi nói với giọng kẻ cả:
- Muốn người ta đừng bêu xấu thì chính mình đừng làm điều tồi bại! Ta không ngờ phái Cổ-Mộ lại sanh ra hai đứa bay, đến nỗi làm thương luân bại lý, xấu hổ tông môn, thật đáng lấy mo che mặt để thiên hạ khỏi nhìn thấy mà chê cười.
Mỗi câu nói châm chọc của Lý-mạc-Thu như một mũi dao nhọn đâm vào tim của Dương-Qua, khiến chàng thấy tâm thần bấn loạn vì uất khí đang trào dâng ngùn ngụt.
Hai anh em họ Gia-Luật, Hoàng-nhan-Bình, Lục-vô-Song lặng thinh đứng nghe, không biết thật hay giả, chẳng nói một câu nào.
Ai nấy cũng đồng nghĩ bụng:
- Có tích mới dịch ra tuồng, nếu chẳng lửa thì làm sao có khói! Chuyện này nếu không hoàn toàn ắt cũng phải có mấy phần đúng. Và hành vi như vậy quả là một việc làm đáng khinh bỉ.
Thế là ai ai cũng đinh ninh Dương-Qua là một thanh niên thiếu tư cách.
Trong khi Dương-Qua dùng kế nghi binh đem Tiểu-Long-Nữ ra chọc Lý-mạc-Thu, trái lại Lý-mạc-Thu ngán tài nghệ của Dương-Qua lại sợ Tiểu-long-Nữ ra tiếp ứng không đủ sức đánh lại nên đem những chuyện xấu xa phóng đại thêm để bêu xấu. Nếu Tiểu-long-Nữ nấp đâu gần đây chắc sẽ xấu hổ mà cút luôn. Thật là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.
Dương-Qua bản chất ngay thật, xưa này sùng kính Sư-phụ như một vị thầy bất khả xâm phạm, thế mà hôm nay bị kẻ thù công nhiên phỉ báng không có lời bào chữa được nên uất khí xông lên, đầu óc bấn loạn, hét lên một tiếng té nhào xuống ngất xỉu luôn.
Lý-mạc-Thu cả mừng, huơ phất trần đập mạnh vào đầu Dương-Qua.
Gia-luật-Tề thấy tình trạng quá cấp bách, chẳng biết làm sao giải cứu kịp, vội cầm hai ly rượu trợn mắt lia mạnh vào Lý-mạc-Thu nhằm vào hai yếu huyệt "Chi Dương" và "Dương Quan" mà điểm.
Lý-mạc-Thu nghe có tiếng gió vù vù sau lưng đoán có ám khí, bèn vận dụng nội công bế tắc cả các huyệt đạo để chịu đựng, đồng thời dùng phất trần đập luôn vào sọ Dương-Qua để hạ sát cho rồi.
Nhưng nàng bỗng giật mình vì thấy hai ly chưa chạm vào người mà mùi rượu đã thấm vào hai huyệt đaọ "Dương-Quan" và "Chi Dương". Như vậy kẻ ném ly phải là một tay cao thủ đáng ngại. Đó là cái vạ bên lưng cần phải trừ trước. Còn thằng ranh này sẽ giết sau cũng được.
Nghĩ rồi nàng quay phắt cây phất trần gạt mạnh đôi ly. Phất trầm chạm vào ly, chấn động cả cánh tay, Lý-mạc-Thu thất kinh suy nghĩ:
- Chà, nội lực ghê lắm! Hay là con A đầu Tiểu-long-Nữ đã đến rồi chăng?
Sau khi định thần nhìn lại thì không phải Tiểu-long-Nữ, mà là một thanh niên tuấn tú ăn mặc theo lối Mông-Cổ. Nàng ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Bọn trẻ ranh sao lắm đứa lợi hại như vậy nhỉ?
Lúc đó Gia-luật-Tề tuốt trường kiếm, cất giọng sang sảng nói:
- Cô nương võ nghệ tuyệt luân, xin chỉ giáo cho tiểu sinh vài đòn.
Lý-mạc-Thu ngán tài ném ly của người này, nhưng thấy bước chân đi còn nặng nề thì biết rằng công phu chưa đáng kể mấy nên yên chí nạt rằng:
- Các hạ là người ở đâu, đệ tử của vị nào, tự nhiên lại xen chân vào công việc của kẻ khác như vậy?
Gia-luật-Tề đáp:
- Tiểu sinh là Gia-luật-Tề, đệ ử của Toàn-Chân giáo phái.
Ngay khi tấy Dương-Qua sực tỉnh lại. Chàng đang mơ hồ nhìn xung quanh để nhớ lại những việc vừa xảy ra, thình lình được nghe Gia-luật-Tề tự xưng môn đệ của Toàn-Chân phái thì giựt mình sợ hãi.
Lý-mạc-Thu hỏi tiếp:
- Tôn-Sư của ngươi là ai? Mã-Ngọc hay Khưu-xứ-Cơ?
Gia-luật-Tề đáp:
- Hai vị đó đều không phải là Sư-phụ của Tiểu-sinh.
Lý-mạc-Thu nói thêm:
- Có lẽ là Vương-Xứ-Nhất chăng?
Gia-luật-Tề đáp:
- Thưa, cũng không phải.
Lý-mạc-Thu cả cười rồi đưa tay chỉ về phía Dương-Qua nói lớn:
- Thằng bé kia cũng xưng là người của Toàn-Chân phái, đệ tử của Vương-Trùng-Dương đó! Vậy ngươi và hắn có quen biết nhau không?
Gia-luật-Tề đáp:
- Chính tôi đây và người ấy chưa hề quen biết. Nếu theo mức tuổi ấy thì làm sao có thể là đệ tử của Vương giáo chủ được.
Lý-mạc-Thu cầm phất trần điểm mặt chàng nói:
- Bọn đệ tử Toàn-Chân chúng bay đều là bọn man trá, ăn nói bậy bạ, chẳng có chút gì thành thật, làm sao mà tin nổi. Thôi chuẩn bị đỡ đây.
Nàng đưa phất trần đập luôn mấy nhát liên tiếp.
Gia-luật-Tề vũ lộng tay trái cầm kiếm gạt ngang, chân trái dang ra, tay mặt phóng ngầm một mũi "định phong châm" bay vung vút về phía Lý-mạc-Thu.
Nguyên thuật ném Định phong Châm vốn là môn bí tuyển chính tông của Toàn-Chân-Phái. Muốn ngọn châm phóng đi đúng đích phải tập trung đầy đủ "Thần hoàn, khế túc", "với bốn tác kinh, công, lực, thức" dầu xa mấy cũng trúng, dày mấy cũng phủng.
Phàm đệ tử nào được bí truyền thuật này phải có thiên tư xuất chúng công lực siêu phàm chứ không phải bất cứ kẻ nào cũng học được.
Ngày còn ở Trùng-dương-Cung, Dương-Qua có hiểu hết sự huyền diệu của môn Định phong Châm. Sau này chàng cũng có học qua, nhưng vì phải trau luyện nhiều môn nên không được chu đáo và điêu luyện bằng kẻ đã chuyên tập riêng môn ấy nhiều năm như Gia-luật-Tề.
Nghe tiếng chân lao đi xé gió, Lý-mạc-Thu biết không phải tầm thường, hơn nữa trong lòng đã e dè tài nghệ của Gia-luật-Tề, nên vội vàng múa tít cây phất trần để chống đỡ bốn mặt.
Nhưng kỳ quặc thay cho mũi châm lúc nào cũng bám sát theo cây phất trần, lúc bên tả, lúc bên hữu, đảo lộn không ngừng, rít lên vo vo nghe rất dễ sợ, hở có một tý là bỏ mạng ngay!
Gia-luật-Tề còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu, xưa nay chưa gặp tay nào có lợi hại như thế này, vì vậy nên đem hết tài năng ra thi thố. Lý-mạc-Thu trái lại đã sành sỏi quá nhiều nên lúc đấu chí đành đỡ tránh né cầm chừng để nhận xét, tìm ra nhược điểm của đối phương để dễ bề hạ thủ.
Sau khi thu hồi "định phong châm" về Gia-luật-Tề vũ lộng thanh trường kiếm như muôn ánh sao sa, biến thành một vầng hào quang sáng trắng bao phủ khắp người, thỉnh thoảng lao ra những ngọn mạnh như vũ bão.
Lý-mạc-Thu vừa đánh vừa khen thầm:
- Phái Toàn-Chân sao có nhiều cao thủ lắm vậy. Cậu bé này tuy chưa có danh tiếng trên giang hồ nhưng xem tài nghệ cũng không kém gì những tay hữu hạng như Tôn-Bất-Nhị, Xích-Đại-Thông của Toàn-Chân phái.
Một chập sau, Lý-mạc-Thu đánh đỡ có vẻ uể oải, hình như đã đuối sức. Gia-luật-Tề mừng rỡ, vội xông lên chém xả vào người một kiếm thật hiểm ác. Nhưng chàng đâu có ngờ đó là nghi kế của địch. Vì vậy nên Lý-mạc-Thu đã lách qua một bên, tung cước đá trúng cánh tay một cái tưởng như gãy xương, lưỡi kiếm văng ra xa lắt.
Tuy vậy, Gia-luật-Tề vẫn không rối loạn, kiếm vừa mất đã lập thế nhập nội, dùng tay trái cướp lấy cây phất trần khiến Lý-mạc-Thu phải thối lui buột miệng khen lớn:
- ồ, khá lắm, khá lắm!
Khi ấy Dương-Qua đã tỉnh hẳn. Thấy Gia-luật-Tề đang lâm nguy chàng đã nạt lớn:
- Con tiện tỳ chớ lên mặt ỷ tài. Ta không còn xem mi là sư bá nữa đâu nhé.
Lý-mạc-Thu nhìn chàng cười nhạt và nói nữa:
- Phải rồi ngày nay mi là chồng của Sư phụ mi rồi thì ta đâu còn là Sư bá được nữa. Bây giờ cùng vai vế, mi có gọi ta Sư tỷ cũng được vậy.
Miệng nói tay vung phất trần phảy nhẹ một cái, thanh kiếm của Gia-luật-Tề hình như bị một mãnh lực vô hình phăng lên lao vút vào ngực giữa Dương-Qua.
Lục-vô-Song, Hoàng-nhan-Bình thất sắc cùng rú lên một tiếng vì sợ hãi.
Lý-mạc-Thu dùng thuật "phóng kiếm" để hạ Dương-Qua. Nhưng nàng đâu rõ trong khi còn ở trong Cổ-Mộ, Dương-Qua đã rèn luyện môn bắt kiếm và phóng kiếm cực kỳ tinh diệu, có lẽ còn cao siêu hơn Lý-mạc-Thu một bực nữa.
Vì vậy chàng khẽ đưa tay trái thu kiếm một cách rất nhẹ nhàng như trò chơi. Thế rồi tay kiếm tay gươm, cùng Gia-luật-Tề tấn công Lý-mạc-Thu không ngớt.
Quang cảnh tửu điếm thật là hỗn độn. Bàn ghế ngã nghiêng, chén bát đổ hết. Bao nhiêu thực khách hoảng sợ rút lui hết, ngay cả bọn tửu bảo và tên Chưởng-Quỳ cũng kiếm đường trốn tránh không dám đứng gần.
Từ ngày theo thầy học đạo và cũng xuất thân trên giang hồ Hồng-lăng-Ba thấy Sư phụ chưa bại một trận nào, vì vậy nên mặc dầu có hai người cùng tấn công Lý-mạc-Thu, nàng vẫn điềm nhiên đứng ngó, không vào tiếp ứng.
Thình lình Lý-mạc-Thu vận khí ép hơi thành gió tung ra một chưởng rất mãnh liệt. Gia-luật-Tề và Dương-Qua bị làn chưởng phong đẩy tới quá mạnh, lảo đảo đứng không vững nữa.
Hoàng-nhan-Bình và Gia-luật-Yên hè nhau nhảy vào tiếp chiến.
Nhưng tài nghệ của hai nàng chưa cao siêu lắm cho nên không thể cứu vãn tình thế. Loay hoay mấy đòn, Gia-luật-Yên đã lãnh một phất trần vào đùi ngã ngồi xuống đất ôm chân rên rỉ.
Gia-luật-Tề thấy em bị thương nóng ruột, hoang mang, tay chân luống cuống đỡ không kịp cũng bị một đòn khá mạnh té nhào ra đất.
Nữ lang áo xanh vội vàng nhún chân phi thân vào vòng chiến bồng Gia-luật-Yên mang ra.
Lý-mạc-Thu tuy bận đánh cùng nhiều người nhưng vẫn giữ bình tĩnh nhận xét đủ bốn phương tám hướng, chủ động tình hình. Vừa thấy lối nhảy của nữ lang áo xanh rất nhẹ nhàng thanh thoát nàng cũng chột dạ nghĩ thầm:
- Nàng này là ai nữa mà tài nghệ cũng rất cao siêu. Xem lối phi thân của nàng cũng đủ biết đã được chánh phái chân truyền không sai.
Nàng quay lại phía nàng áo xanh, khẽ vung phất trần hỏi lớn:
- Nàng là ai, sư phụ tên gì, bỗng dưng đến đây gây hấn cùng ta?
Hai người tuy đứng cách xa nhau gần hai trượng nhưng cái phẩy nhẹ của cây phất trần đã lộng một luồn gió mạnh, thổi tốc vào mặt nữ lang, khiến nàng phải bước qua một bên, và dung tay áo rút ra một món binh khí đối địch lại.
Lý-mạc-Thu nhìn thấy món binh khí ấy rất lạ lùng, giống như một ống tiêu, bề dài chừng ba thước, óng ánh như ngọc. Nàng rất ngạc nhiên không biết nàng thuộc chánh phái nào mà sử dụng loại vũ khí này.
Lý-mạc-Thu vũ lộng phất trần tấn công dồn dập, nàng áo xanh chống đỡ có phần yếu thế. Dương-Qua và Gia-luật-Tề thấy vậy cùng nhau xông vào đánh giúp.
Lý-mạc-Thu vẫn không nao núng, điềm nhiên múa cây phất trần đánh bốn mặt, thỉnh thoảng vận dụng chưởng lực đánh bồi vào khiến cả ba người đã dần dần lâm thế hạ phong rõ rệt.
Dương-Qua vừa đánh đỡ cầm chừng vừa nghĩ bụng:
- Nếu cứ để đánh kéo dài mãi, thế nào cũng có người tán mạng.
Vì vậy chàng bỗng gọi lớn:
- Con nữ tặc này lợi hại và ác độc vô cùng, xin bốn chị em hãy tìm đường rút lui gấp, đừng chần chờ nữa mà mất mạng đấy.
Bốn nàng nghe nói cũng nhận thấy tình thế quá nguy cấp, tuy nhiên không ai nỡ bỏ ra đi. Nhưng mỗi lúc Lý-mạc-Thu càng tăng gia áp lực, thấy không thể nào nấn ná được nữa nên Lục-vô-Song băng mình chạy xuống lầu trước tiên.
Hoàng-nhan-Bình phụ lực cùng nữ lang áo xanh dìu Gia-luật-Yên đi theo.
Hai người ăn mày thấy hai thanh niên xinh đẹp kịch đấu cùng Lý-mạc-Thu một trận vô cùng ác liệt, muốn xông lên giúp sức, nhưng hiềm nỗi kẻ bị gãy tay, người bị gãy vai, thương tích trầm trọng nên không thể nào đánh nhau được. Tuy nhiên cả hai cũng quyết tâm cùng ở lại, quyết không chịu bỏ đi nơi khác lánh thân.
Gia-luật-Tề, Dương-Qua cố đem hết tâm lực đánh cầm chừng cùng Lý-mạc-Thu, chờ các cô chạy trốn được xa rồi sẽ thừa dịp tẩu thoát.
Lý-mạc-Thu tuy chiếm phần ưu thế nhưng trong lòng vô cùng phiền muộn vì nghĩ rằng:
- Xưa nay được một cây phất trần tung hoành trên thiên hạ không nhượng một kẻ nào, muốn giết ai thì giết, hễ đánh đâu là thắng đó. Không ngờ hôm nay chỉ có hai thằng nhãi con, miệng còn hôi sữa mà đánh nhau cả buổi không thắng được, để cho Lục-vô-Song tự do trốn thoát. Như vậy còn đâu là oai danh lừng lẫy của "Xích Luyện Tiên Tử" nữa?
Trận đấu vẫn tiếp diễn vô cùng khốc liệt, đôi bên dồn hết sức, đem hết ngón ruột ra để tranh thắng lợi về mình.
Từ trong tiệm ăn, họ đưa nhau dần dần ra sân rồi kéo luôn ra lộ để đánh nữa. Cứ đuổi tới, chạy lui quần nhau một hồi, cả ba đã kéo nhau ra giữa đường, đánh vùi không ngớt.
Dương-Qua vừa đánh vừa lớn tiếng hò la thúc các cô tẩu thoát. Gia-luật-Tề cứ bặm môi đánh mãi không hé miệng nói một lời nào.
Dương-Qua lẹ như cheo, vừa đánh vừa nhảy tung tăng thoạt trước thoạt sau luôn luôn thay đổi thế đánh. Gia-luật-Tề lúc nào cũng giữ nét mặt uy nghiêm trầm tĩnh đánh ra nhiều đòn thật mãnh liệt khiến Lý-mạc-Thu đôi khi cũng thấy lúng túng.
Đánh mãi nhưng không thấy Tiểu-long-Nữ ra mặt giúp sức, lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu mới yên chí và phấn khởi tinh thần tấn công gắt hơn trước. Hai chàng thanh niên dần dần thấm mệt, trán đẫm mồ hôi, hơi thở đã dồn dập.
Lý-mạc-Thu mừng lắm và đinh ninh thế nào cũng bắt sống được cả hai trong phút chốc.
Bỗng nhiên từ giữa chín từng mây vọng xuống tiếng chim kêu lảnh lót như tiếng hạt reo, mỗi lúc lớn dần. Rõ ràng là tiếng chim điêu.
Hai con chim điêu xuất hiện giữa lưng trời, cánh xòe ra như bốn chiếc buồm, lông trắng xóa như tuyết, dáng điệu đẹp đẽ và hùng mạnh không tả xiết.
Vừa trông thấy, Dương-Qua đã nhận ra đây là cặp thần điêu của Quách-Tỉnh nuôi từ lâu, mà chàng đã từng quen thuộc khi còn sống trên Đào-Hoa-Đảo.
Nhận ra đôi chim điêu, Dương-Qua thoạt nghĩ:
- Hễ có chim tất nhiên sẽ có người. Thế nào Quách-Tỉnh cũng ở gần đâu đây. Ta đã phụ lòng ủy thác của ông, náo loạn Trùng-dương-Cung, cũng không nên để ông ấy gặp mặt lại thêm rắc rối.
Nghĩ thế chàng lấy chiếc mặt nạ mang vào mặt.
Đôi thần ưng bay xuống là là gần đất, đôi cánh vĩ đại quạt mát cả một vùng làm cho cát bụi bay lên mù mịt. Chúng đảo lên, sà xuống lượn mấy vòng rồi mỗi con một bên cùng xông vào mổ mắt Lý-mạc-Thu.
Thì ra đôi thần ưng còn nhớ và nhận ra con người đã phóng "Băng phánh châm" làm chúng nhiễm độc gần chết, nhờ Quách-Tỉnh tận tình cứu chữa rất lâu mới khỏi. Hôm nay vừa thấy Lý-mạc-Thu, chúng đã nổi lòng căm phẫn sà xuống tấn công trả thù.
Chúng cũng thừa biết Lý-mạc-Thu có băng châm vô cùng lợi hại cho nên luôn luôn để ý đề phòng. Hễ Lý-mạc-Thu đưa tay phất ra là chúng đã vút tận mây xanh để tránh né. Một chặp sau lại bay xuống tấn công vào đầu hay cổ.
Gia-luật-Tề thấy đôi thần điêu quá ư to lớn và khôn ngoan thì rất lạ lùng trong lòng có ý mến cảm, nhưng chàng cũng đoán rằng chúng không thể nào thắng nổi Lý-mạc-Thu.
Nghĩ rồi, chàng gọi Dương-Qua nói:
- Dương huynh, bây giờ chúng mình cùng xông vào, tấn công luôn bốn phía, xem con ác phụ chống đỡ cách nào!
Dương-Qua gật đầu. Hai người sửa soạn xông ra, bỗng nhiên có tiếng vó câu dồn dập từ xa vọng lại mỗi lúc một gần.
Một con ngựa vừa hiện ra, mình thon cẳng cao, màu lông đỏ như lửa phi đi rất mau. Vừa thoáng nghe tiếng nhạc reo mà nháy mắt ngựa đã đến ngay trước mặt.
Mọi người hết sức thán phục tài chạy mau của con thần mã và càng ngạc nhiên hơn nữa là một thiếu nữ cũng mặc toàn màu đỏ ngồi trên mình ngựa. Cả người và ngựa cùng màu, đàng xa không phân biệt được. Lúc đến gần mới nhận ra nàng có một khuôn mặt trắng như tuyết lồ lộ như tiên nga.
Nữ lang ghì cương. Con hồng mã đang phi như bay biến, bỗng đứng dừng lại toàn thân không nhúc nhích, bốn chân không xao động, nữ lang ngồi êm ru như trên phản gỗ, quả là điều hiếm có của một con ngựa quý.
Gia-luật-Tề vốn người Mông-Cổ, một xứ chuyên nuôi và cỡi ngựa. Chàng đã cỡi và thấy không biết bao nhiêu là ngựa quý, nhưng lúc nhìn con ngựa đỏ của nữ lang Hồng-y, chàng phải phục là con ngựa vô cùng quý báu, xưa nay chưa từng thấy con nào đẹp và hay như vậy.
Con ngựa hồng này vốn là con thần mã do Quách-Tỉnh bắt được trên sa mạc Mông-Cổ ngày trước, thuộc giống "Hàn huyết bảo câu", thứ ngựa thần rất hiếm có trên thiên hạ.
Con thần mã này chỉ chịu để cho vợ chồng Quách-Tỉnh và con gái là Quách-Phù cỡi được mà thôi.
Nữ lang hồng y quả là Quách-Phù, ái nữ của Quách đại hiệp.
Đã lâu lắm không gặp Quách-Phù, hôm nay vừa thấy mặt, Dương-Qua bỗng nhớ lại những cử chỉ kiêu căng ngang ngạnh của nàng đối với mình ngày còn thơ ấu, bất giác thở dài suy nghĩ:
- ờ chóng quá! Thật mới ngày nào mà nàng đã lớn lên và xinh đẹp như thế này rồi! Trông nàng chẳng khác gì một đóa hoa hồng mới nở giữa mùa xuân!
Quách-Phù dừng ngựa, trán lốm đốm mồ hôi, đôi má phấn phản chiếu màu đỏ của y phục càng tăng vẻ hồng hào trông thật lộng lẫy.
Nàng đưa mắt nhìn theo đôi thần ưng rồi quay lại ngó qua Gia-luật-Tề và Dương-Qua.
Thấy mặt mày Dương-Qua xấu xa cổ quái lại mặc y phục Mông-Cổ nên nàng bĩu môi khinh bỉ cho là giống man di mọi rợ.
Ngày còn thơ ấu giữa Dương-Qua và Quách-Phù có nhiều sự xung đột do tánh ý khác nhau, hôm nay vừa gặp lại nàng có thái độ kiêu căng khinh khỉnh, làm cho Dương-Qua bực mình thấy lòng tự ái dâng trào bồng bột. Chàng ngẫm nghĩ:
- Tại sao mi có thái độ khinh bạc hợm đời như vậy? Mi xem thường ta thì ta đâu có trọng mi. Mi đã quá ỷ lại vào cha mi là một trang đại hiệp võ nghệ trùm đời, mẹ mi là vị Bang chủ nữ hiệp, ông ngoại mi là một tiền bối trong võ lâm ngũ bá, suốt mấy đời nhà mi được thiên hạ nể vì tôn trọng! Ta đây trái lại đã gặp mọi cảnh trái ngang điêu đứng. Cha chết từ ngày còn trong bào thai, mẹ làm nghề bắt rắn rồi bỏ mạng vì rắn độc. Song thân ta đã như thế nên ta bị người đời xem rẻ. Như vậy chưa đủ sao mà mi còn muốn khinh miệt và sỉ nhục ta thêm nữa. ở đời nếu đừng kể đến ảnh hưởng của gia phong thì há dễ ai lại hơn ai, đối với mi ta đâu chịu thua sút. Thực chất của điều vinh nhục phải do chính mình tạo nên mới đáng quý chứ!
Càng ngẫm nghĩ, Dương-Qua càng đau lòng cho thân thế hẩm hiu và nghĩ thêm:
- Thiên hạ mông mênh, đất trời lồng lộng, chưa có một kẻ nào hiểu mình và thật tình thương yêu mình.
Đời ta chỉ có một người duy nhất đã tỏ lòng mến ta thật tình. Người ấy là Tiểu-long-Nữ. Nhưng ngày nay nàng lại bỏ ta ra đi không biết phiêu dạt phương nào, ngày hội ngộ thật là mơ hồ khó đoán.
Chàng đang vẩn vơ suy nghĩ, than cho mình, trách cho người lại nghe có tiếng ngựa phi mau tới nữa. Kế đó có hai người cỡi hai con ngựa vàng và xanh, đàng xa phi nhanh lại. Hai ngựa này cũng cao lớn, xinh đẹp thuộc loại báu câu hiếm có.
Lại gần, Dương-Qua thấy đó là hai chàng thiếu niên mặc áo màu vàng.
Quách-Phù đưa tay ngoắc hai người, liến thoắn nói lớn:
- Võ ca, anh có nhận ra con ác phụ chưa?
Hai thiếu niên áo vàng vừa cỡi ngựa đến sau không ai khác là hai anh em ruột Võ-đôn-Nhu và Võ-tu-Văn. Lý-mạc-Thu đã sát hại cả nhà họ Võ thì đối với hai anh em này quả là kẻ thù số một.
Bao năm qua hai anh em họ Võ lúc nào cũng nhớ đến mối thù của song thân, hằng nuôi ý chí phục thù rửa hận, nhưng chưa gặp dịp, không ngờ tình cờ hôm nay lại gặp oan gia. Lập tức cả hai đều nhảy xuống ngựa vung gươm đồng xông vào tấn công Lý-mạc-Thu.
Quách-Phù cũng la lớn:
- Tôi cũng xin giúp hai anh một tay nhé!
Nàng vừa nói vừa rút một thanh gươm đang cài bên yên ngựa, tung người nhẹ nhàng nhảy xuống đất rồi lăn sà vào vòng chiến.
Lý-mạc-Thu rất ngạc nhiên chẳng hiểu vì sao kẻ thù mình mỗi lúc một đông. Nàng nhìn sắc diện hai chàng thiếu niên này, mặt mày hùng hổ, miệng mím, mắt trợn như nẩy lửa, cố tâm ăn thua đủ với mình, mà võ công của người vào cũng có vẻ vô cùng điêu luyện quả là đệ tử của danh môn chính phái.
Kế đến cô gái áo đỏ, mặt đẹp như hoa, múa thanh gươm báu hào quang chói mắt, ánh sáng lập lòe, mặc dầu lối đánh đỡ còn thô sơ nhưng lối sử dụng kiếm pháp thì vô cùng vững chắc, đúng quy tắc nghề võ, chứng tỏ có một căn bản tập luyện rất công phu.
Lý-mạc-Thu nhìn nàng một chập bỗng nhớ lại và buột miệng gọi lớn:
- à, Cô nương họ Quách đây rồi!
Quách-Phù loan gươm một vòng, phi thân nhảy vụt lên cao rồi cả cười nói lớn:
- Té ra mi cũng nhận ra ta sao?
Nói xong nàng sà xuống, chân vừa chấm đất đã vung gươm đâm luôn hai nhát liên tiếp.
Lý mạc Thu cầm phất trần gạt phăng đi và nghĩ bụng:
- Con bé hãy còn nhỏ tuổi mà đã kiêu căng , thật ra mi có tài cán gì bao nhiêu mà hợm mình như vậy . Nếu ta không nể mặt cha mi thì đã cho nếm một cây phát trần cho bỏ xác .
Nghĩ xong , Lý mạc Thu muốn thừa cơ chiém đoạt thanh gươm báu nhưng ngay lúc đó anh em họ Võ đã nhất tề vung kiếm tấn công một lượt , mạnh như vũ bão .
Anh em họ Võ cùng Quách Tỉnh truyền phép đánh kiếm từ khi còn ở trên Đào Hoa Đảo . Cả ba cùng nau luyện tập sớm chiều , biết dùng phép phối hợp rất chặt chẽ . Cứ một người lui thì hai người tiến , kẻ thủ thế người tấn công , tới lui qua lại rất quy củ mạch lạc . Vì vậy tuy không phải là một trận pháp nhưng nhờ lối đánh ấy đã tăng lên áp lực rất nhiều cho đối phương . Huống chi lối múa cũng như cách đánh phối hợp lại do một đại võ sư là QuáchTỉnh chân truyền nên mỗi thế đánh ra vô cùng lợi hại .
Ba người một gái hai trau và thêm hai con thần điêu cùng nhau vây đánh một mình Lý mạc Thu rất kịch liệt .
Cả ba tuy có bảnh lãnh khá nhưng dù sao cũng chỉ là những tay mới , công phu còn non nớt , kinh nghiệm chiến đấu chưa bao nhiêu còn Lý mạc Thu thì võ công đã già dặn , công lực dồi dào , hơn nữa nếu nàng chú tâm hạ được một người thì tự nhiên hai người còn lại sẽ bại ngay .
Tuy nhiên Lý mạc Thu thấy phía địch ngày càng đông thêm , bọn Dương Qua , Gia luật Tề cũng lăm le xông đến . Hơn nữa ,chưa biết vợ chồng Quách Tỉnh sẽ xuất hiện lúc nào . Nếu y cũng đến đây thì làm sao cự cho lại , chi bằng cách chuồn sớm thì hay hơn .
Suy nghĩ xong , Lý mạc Thu múa tit cây phất trần cười ha hả nói lớn :
- Ta cho các người thưởng thức ngón " Võ hầu múa bông " nhé !
Thế là cây phất trần vũ lộng lên vo vo ,xé gió vùn vụt , đập tung bốn bề khiến ba người bị dồn lần ra xa , không thể nào đánh đỡ nổi . Anh em họ Võ bị áp lực của cây phất rần đánh dạt ra , lảo đảo đứng không vững nữa . Do đó thế liền hoàn phối hợp của ba thanh kiếm cũng mất hết hiệu lực , không còn thi thố được nữa .
Lý mạc Thu co một chân , đứng một chân , nhìn xa giống như một con vượn đang múa cành bông , quay cuồng như chong chóng .
Trong lúc đối phương đang chăm chú nhìn xem lối múa của mình , Lý mạc Thu khẽ bảo Hồng lăng Ba :
- Lăng Ba , chúng ta đi thôi !
Hai thầy trò dắt nhau chạy như tên bắn về phía Tây Bắc .
Quách Phù hét lớn :
- Đừng để hắn tẩu thoát . Hãy cố đuổi theo mau lên Võ ca .
Nói xong , cả ba cùng vung kiếm phi thân đuổi theo vùn vụt .
Lý mạc Thu triển khai khinh công dắt Hồng lăng Ba chạy mau như gió thoảng .
Vì sức khinh công của thầy trò Lý mạc Thu lẹ gấp đôi ba người cho nên phút chốc đã bỏ rơi khá xa , chỉ còn đôi thần điêu vỗ cánh tung bay theo và thỉnh thoảng sà xuống để mổ hay đưa vuốt ra chộp.
Thấy khinh công của mình còn sút kém , anh em họ Võ than rằng :
- Thôi đành bỏ dở dịp này vậy .
Than rồi huýt còi gọi đôi chim điêu ba trở lại .
Bọn Gia luật Tề ngại ba người lầm kế Lý mạc Thu nên vội vàng phi thân chạy theo đề phòng tiếp sức nếu cần .
Chạy một đỗi gặp ba người trở lại , đôi bên chào hỏi thân mật và vui vẻ lắm . Cùng là tuổi trẻ đang háo thắng , hơn nữa ai cũng tự hào vừa đánh bại được Xích luyện Tiên tử Lý mạc Thu cho nên câu nói tiếng cươì dòn dã , không tiéc lời ca tụng lẫn nhau .
Bỗng nhiên Gia luật Tề hoảng hốt hỏi :
- ủa , còn Dương huynh đâu rồi .
Hoàng nhan Bình đáp :
- Cách đây hơn một giờ tôi thấy anh ấy chạy đi một lối khác , tôi có hỏi đi đâu nhưng anh ấy chẳng trả lời và cứ đi mãi .
Nói xong nàng rầu rầu nhìn xuống đất , nét mạt suy tư như tiếc một cái gì quý báu đã mất .
Gia luật Tề vội chạy thẳng lên ngọn đồi cao , phóng mắt nhìn khắp nơi chỉ thấy đồng nội xanh rì , cỏ cây man mác , ngoài Lục vô Song và nữ lang Thanh Y đang nắm tay nhau đi đi lại lại trò chuyện , không thấy hình bóng Dương Qua đâu cra .
xa xa chân trời trắng đục , rừng núi bao la , chim ngàn tung cánh lẫn trong mấy xám . Gia luật Tè buồn rầu đưa mắt nhìn khắp cánh đồng bao la bắt ngát mà cố nhân đã vắng bóng biền biệt nơi nào ? Chàng cảm thây một nỗi u buồn xâm chiếm cõi lòng như mới mất đi một người bạn tri kỷ .
Tuy mới gặp Dương-Qua chưa được bao lâu, nhưng tình đã thắm thiết, ý hiệp tâm đầu, hình như đã quen biết từ mười năm trước.
Chàng bồi hồi suy nghĩ:
- Dương-Qua tuy tuổi trẻ mà tài cao, tánh tình vô cùng hào hiệp mới gặp nhau mà ta đã thấy mến ngay. Mặc dầu Lý-mạc-Thu xỉ vả y về câu chuyện bậy bạ cùng nữ sư-phụ, nhưng đó là một vấn đề hoàn toàn riêng tư đâu có liên hệ chi đến tình bè bạn. Không kết bạn được cùng chàng thật quả một điều đáng ân hận. Trên đời này dễ gì tìm được một thanh niên như chàng. Nếu chàng còn ở đây, chung sống cùng nhau, ta sẽ giúp chàng được nhiều ý kiến hay để trở nên con người chính đáng, gọt rửa hết những chuyện không hay đã xảy ra.
Nhất định một người như Dương-Qua sẽ trở thành một trang hảo hán đầy nghĩa khí. Chẳng hiểu vì sao Dương-huynh lại dứt áo ra đi không lời từ biệt. Thật tiếc cho ta đã mất một người bạn tốt.
Nhắc lại Dương-Qua, khi trông thấy bản lãnh của anh em họ Võ và Quách-Phù cũng đủ sức cầm cự được với Lý-mạc-Thu nên đã yên bụng được phần nào. Hơn nữa, chàng thừa biết Lý-mạc-Thu kiên oai Quách-Tỉnh chắc không khi nào dám hạ thủ bọn này, và có lẽ hắn sẽ tìm cách lánh đi để khỏi mua oán chuốt thù cùng gia đình Quách Đại-Hiệp.
Nghĩ đến đây chàng lại liên tưởng đến phận mình. Từ ngày được Quách-Tỉnh đem lên ký thác cho các bạn trên Chung-Nam-Sơn, đã thấy Quách-Tỉnh đánh bại hết mấy trăm đạo sĩ của Toàn-Chân phái, sau bao năm qua chắc võ nghệ của ông phải tăng tiến gấp mấy lần khi trước.
Chàng bỗng nhớ lại khi ở Đào-Hoa-Đảo, bị anh em họ Võ ỷ thế hà hiếp đánh đập, vết thương trên mình nay còn đó, đến nỗi phải chạy trốn suốt đêm trong hang đá. Chàng nhớ thêm việc Hoàng-Dung chỉ đem sách vở bắt chàng học mà không chịu dạy võ công, đến sau, Quách-Tỉnh lại đem mình giao cho bọn đạo sĩ độc ác của Trùng-dương-Cung hành hạ đủ điều. Càng nhớ, Dương-Qua càng thấy căm hờn cực điểm.
Lòng dạ đang chất đầy thù hận, bỗng thấy các người đẹp Hoàng-nhan-Bình, Lục-vô-Song, Gia-luật-Tề và Nữ-Lang thanh y cứ len lén nhìn mình có ý khinh bỉ về câu chuyện loạn luân mà Lý-mạc-Thu đã vu khống, khiến chàng không chịu đựng được nổi và suy nghĩ:
- Bọn bay đã khinh miệt ta, ta đâu thèm sống chung cùng bay nữa. Thôi, đi xa cho khuất mắt.
Thế rồi chàng băng mình ra đi, không lời từ biệt, cứ nhắm mắt chạy bừa, qua rừng qua núi, chẳng kể đường sá gì hết.
Chàng cứ thất thểu chạy hoài, tâm hồn như nổi sóng, miệng lúc nào cũng lẩm bẩm:
- Ta đi mãi, xem gầm trời này có kẻ nào hiểu thấu được lòng ta!
Chàng cố ý tìm những chốn hoang vu hẻo lánh để ẩn mình không muốn gặp gỡ một "con người" nào, vì theo chàng nghĩ, loài người chứa đựng toàn sự xấu xa ác độc. Sống với chúng sẽ chịu đựng tất cả những điều vu không và khinh khi mà thôi.
Trí não hoang mang, tâm hồn bất định, Dương-Qua cứ xuyên qua rừng không kể phương hướng, suốt một tháng trường, hễ đói ăn trái cây, khát uống nước suối, mệt nằm ngủ trong hang đá hay trên cành cây, mình mẩy ốm tong, áo quần như xơ mít.
Một ngày kia Dương-Qua đến một dãy núi cao sừng sững, cây lá um tùm, đỉnh khuất trong mây xanh, vô cùng hiểm trở.
Thấy núi cao trước mặt, Dương-Qua đưa mắt nhìn lên rồi than nhỏ:
- Dương-Qua đâu có ngại núi cao sông lớn. Dẫu núi này có hiểm trở đến đâu cũng không sờn lòng, quyết vượt qua cho được.
Đây là núi Hoa-Sơn thuộc dãy Ngũ-Nhạc.
Thế rồi chàng cứ thẳng lên núi vượt càng. Mặc dầu có khinh công cao điệu, nhưng vì dãy Sơn-Hoa vô cùng hiểm trở, đá dựng chập chồng cho nên đã trèo liên tiếp mấy ngày, Dương-Qua cũng chỉ mới đến lưng chừng núi.
Đến đây, khí trời lạnh buốt, suốt ngày mây đen bủa vây vần vũ, gió lốc ào ào, từng trận mưa tuyết rơi xuống trắng xóa, bao phủ tất cả đá, cây, mọi vật!
Trước cảnh hoang vu kinh khủng, trước sức mạnh vô biên của tạo hóa, Dương-Qua vẫn không chút sờn lòng, chẳng thèm tìm hang hóc để tránh tuyết, hay trốn gió, cứ ngang nhiên níu đá túm cành, thoăn thoắt leo lên đường dốc dựng đứng, tuyết phủ trơn như mỡ. Chỉ một cái sẩy tay hay trượt chân thì nhất định sẽ té nhào xuống vực sâu thăm thẳm.
Chàng cứ leo, leo hoài lên quên cả mưa tuyết, mệt nhọc, hiểm nguy.
Đang cặm cụi leo, Dương-Qua bỗng nghe phía sau có tiếng kêu "kìn kịt" như có tiếng chân người hay chân thú bước trên tuyết giá.
Lúc quay đầu nhìn lại, không thấy gì hết.
Dương-Qua nhìn nhiều lần không gặp thứ gì cả mà tiếng động vẫn còn vang lên nho nhỏ. Chàng để ý nhìn xuống dưới, thấy bên cạnh dấu chân mình, có lờ mờ dấu chân một kẻ nào nhẹ in trên nền tuyết.
Chàng ngạc nhiên cúi xuống xem kỹ thì rõ ràng là vết chân người, nhưng nhìn ra sau lại không thấy gì hết.
Bực tức quá, không biết đây là quỷ hay người lại đi trêu chọc mình như vậy.
Lẩm bẩm chưởi thề vài tiếng, Dương-Qua cặm cụi leo nữa.
Leo thêm chừng vài bước lại nghe tiếng "kìn kịt" y như hồi nãy, rõ ràng bước chân người nghiến trên mặt tuyết, thế mà ngoảnh lại vẫn không thấy hình bóng một kẻ nào hết.
Giữa chốn rừng hoang tuyết lạnh tịch mịch như hư vô, cảnh tượng này có thể làm khiếp đảm những người to gan lớn mật. Thế mà Dương-Qua vẫn lầm lì không chút hoảng sợ, cố tìm cách khám phá cho ra.
Vì tánh tò mò giúp chàng quên cả sợ hãi và suy nghĩ tính toán:
- Nơi đây không bụi cây, tư bề toàn là tuyết phủ. Phía trong là vách đá sững tận mây xanh, bên ngoài là hố sâu thăm thẳm, không chỗ nào ẩn nấp được. Nếu bền gan rình rập ắt cũng phải tìm ra kẻ này. Chỉ trừ khi nào họ có cánh như chim, hay có phép tàng hình mới không bắt gặp.
Nghĩ rồi chàng tiếp tục leo lên, nhưng mặt cứ thỉnh thoảng ngoảnh lại sau xem thử.
Một chập sau lại có tiếng động nữa. Dương-Qua nghĩ:
- Kẻ này chắc là một tay khinh công thượng đẳng nên ẩn hiện như bóng ma, ta phải làm thế nào chứ hễ quay lưng lại ắt không nào thấy nổi. Ta đã có cách, không cần xoay mặt mà vẫn trông thấy xem hắn có lánh được hay không.
Liệu tính xong chàng khom lưng trèo lên, đầu hạ thấp xuống, vừa đi vừa nhìn qua hai chân mình ngó ra phía sau. Phương pháp này áp dụng theo phép luyện công của Âu-dương-Phong đã dạy chàng lúc trước cùng một dịp với tư thế đi ngược đầu. Hôm nay đem ra áp dụng thật là phải lúc.
Bỗng thoáng qua một cái, có một bóng người vừa hiện ra đã biến mất lanh như điện chớp, ngay vào phía hang núi cạnh vách đá dựng.
Dương-Qua mừng quá, nhưng lòng cũng kinh hãi vì thấy tài khinh công của người này mau lẹ ngoài mức tưởng tượng.
Chàng chú mục nhìn ngay vào hang đá, bỗng thấy thoáng một người, bụng rất phập phồng không biết người ấy có ác ý muốn hãm hại mình chăng.
Chỉ thấy người này đưa tay vẽ một hình tròn trước mặt, tự nhiên cả thân hình nhẹ hàng bốc lên như làn khói, cách mặt đất có mấy trượng cao.
Chàng suy nghĩ:
- Vừa rồi có lẽ người này đã áp dụng lối ấy để đùa mình đấy mà!
Nhìn thấy người ấy chỉ khoanh một vòng tròn mà toàn thân bốc tung lên như chiếc pháo thăng thiên, muốn bay đi đâu cũng được, Dương-Qua đoán chắc bản lĩnh của y phải thuộc vào hạng siêu nhân, khinh công đã biết vào hạng thượng thừa.
Trí nghĩ, bụng mừng, lòng bỗng cảm phục hết sức, tự nhiên chàng quỳ xuống, chắp tay phủ phục sát đất thưa rằng:
- Kẻ đệ tử hành tâm ngưỡng mộ, xin cao nhân hiện ra cho đệ tử được hân hạnh bái yết.
Người đó cất tiếng cười vang. Tiếng cười rung động cả núi rừng, làm những tảng tuyết bám trên vách đá phải rớt xuống ào ào như động đất.
Người ấy đưa tay vòng một cái nữa, thân hình bay lên, nhẹ nhàng rơi đến trước mặt Dương-Qua như một tàu lá rụng.
Người ấy nhìn Dương-Qua đang quỳ mọp dưới đất vừa cười vừa mắng lớn:
- Mi là ai, có phải là bè đảng của bọn "ngũ quỷ" ác ôn ở nơi này cứ thừa dịp đêm hôm tăm tối đi phá làng hại dân hay không?
Giờ này mi đến đây để giở trò ma quái gì nữa đây?
Dương-Qua sửng sốt, chẳng hiểu vì sao lại bị trách mắng. Nghĩ mình vô duyên xấu số, suốt tháng nay vất vả lầm than không gặp một bóng người. Hôm nay mới gặp một kẻ đầu tiên là bị lời nặng nề oan uổng. Nghĩ tủi cho số phận vô duyên chàng bỗng mủi lòng ôm mặt khóc ngất.
Càng khóc càng chạnh lòng cho cái mạng mình xấu số hẩm hiu, một đời gặp toàn những chuyện đớn đau để cho mọi người khinh khi đày đọa. Ngay như Tiểu-long-Nữ là người được mình kính mến nhất đời cũng hiểu lầm đến nỗi chán ghét mình, bỏ đi biền biệt như lá lìa rừng. Bây giờ tứ cố vô thân, hễ gặp một cái gì cũng toàn là sự bẽ bàng uất hận. Phải chăng hóa công đã sanh ra mình để chịu đựng tất cả những cái gì đớn đau buồn thảm nhất! Càng nghĩ càng thấm thía, chàng càng khóc rống lên, khóc nức nở, thật thiết tha thảm não.
Có lẽ chàng muốn khóc một lần để trút sạch những cái gì đau khổ nhất đang tàng ẩn trong tim cho neen càng lúc khóc càng to, khóc như mưa như gió.
Lúc chàng mới khóc người này hình như không quan tâm mấy, nhưng một lát sau thấy khóc thảm thiết quá, nghe muốn khô héo cả ruột gan. Người ấy bỗng ngửa mặt cười dài.
Một người khóc như đưa ma, một người cười như sấm động, cười đến nỗi vang chuyển cả núi rừng! Khóc cười lẫn lộn tạo thành một hòa âm kỳ quái làm huyên náo cả một sườn núi Hoa-Sơn tuyết phủ.

Hồi 29

Cuộc ác chiến cuối cùng giữa Hồng-thất-Công và Âu-dương-Phong.

Dương-Qua vừa khóc vừa lắng nghe thấy người ấy cứ hả miệng cười hoài, liên miên bất tận, bỗng nổi giận gắt lớn:
- Tại sao ông cười lâu quá vậy?
Người ấy vẫn cười, hỏi lại:
- Còn chú tại sao khóc dai dữ vậy?
Dương-Qua nghe giọng nói của người ấy sang sảng như chuông ngân, âm thanh chuyển động cả màng nhĩ, biết là một bậc dị nhân nên vội vàng đổi giận làm vui, cung kính lạy hai lạy rồi thưa rằng:
- Tiểu tử Dương-Qua xin kính cẩn làm lễ tham kiến lão tiền bối.
Người ấy mỉm cười cầm cây gậy khẽ lăn trên vai Dương-Qua. Chàng có cảm tưởng hình như cả một quả núi đè trên vai, muốn đưa tay xô ra nhưng không nhắc tay lên nổi. Lật đật dùng lối chổng chân ngược đầu theo phép "Hàm mô công" của dưỡng phụ đã dạy, mới thấy trong người khoan khoái như trút được gánh nặng.
Dương-Qua cũng không ngờ đó là một lối điểm huyệt tài tình đặc biệt của dị nhân này mà tình cờ phương pháp "Hàm mô công" đã giải thoát được một cách quá ư kỳ diệu. Ngay người này cũng hết sức ngạc nhiên không ngờ một thằng bé tuổi chưa bao nhiêu mà có biệt tài như vậy nên nghĩ thầm:
- Tài nghệ tiểu-tử này, chưa chắc Lý-mạc-Thu và Khưu-xứ-Cơ đã qua mặt nổi?
Bụng khen miệng hỏi:
- Tại sao ngươi khóc?
Dương-Qua đưa mắt nhìn thấy một ông cụ đầu râu trắng xóa, áo quần rách nát tả tơi và chằm trăm mối, bên vai mang một chiếc hồ lô màu đỏ. Tuy trời đã nhá nhem nhưng vẫn nhìn rõ thần thái uy nghi, mặt mày đường bệ quắc thước, mới trông qua đã đem lòng kính phục, nên đáp rằng:
- Thưa lão bá, cháu gặp nhiều cảnh đoạn trường cay đắng, dầu có sống cũng không còn sinh thú gì nữa, chỉ muốn chết cho yên thân, nhưng không chết được, vì vậy nghĩ lại tủi thân xót phận mà khóc.
Ông cụ già nghe nói hình như có lòng thương xót, ôn tồn hỏi thêm:
- Gia đình người dâu, kẻ nào cả gan khinh thường hiếp đáp, ngươi cứ nói thực ra cho ta rõ.
- Cha tôi bị giết chết từ ngày tôi còn trong bụng mẹ. Kẻ thù giết cha tôi là ai, mãi đến nay vẫn chưa được rõ. Mẹ tôi nghèo khổ sống theo nghề bắt rắn nuôi tôi, sau bị rắn cắn bỏ mình, còn lại một thân một bóng, tôi sống lẻ loi, mồ côi, cô độc, không bạn bè thân thuộc. Cuộc đời tôi cơ cực, đầy cả chuyện đau buồn!
Ông cụ chép miệng thở dài và gật gù nói:
- Đời ngươi quả thật đáng thương! Sư phụ của ngươi là ai. Tên họ chi?
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Nếu cứ theo danh nghĩa mà nói thì Quách Bá mẫu nhận làm sư phụ đầu tiên của ta nhưng người có daỵ cho ta được đường quyền miếng võ nào đâu? Bọn đạo sĩ Toàn-Chân phái toàn là những kẻ ác nghiệt đáng ghét, đáng thù đâu thể gọi là sư phụ. Người có công nâng niu chỉ dạy ta tận tình là Tiểu-long-Nữ cô nương, nhưng điều này không thể tiết lộ ra cho kẻ khác hay biết được. Ngoài ra những kẻ đã lưu lại kinh sách, lý thuyết võ thuật trong Cổ-Mộ như Lâm-triều-Anh, Vương-trùng-Dương cũng có thể xem như sư-phụ được. Tính ra thì thật nhiều, nhưng không hẳn ai là sư phụ một cách công nhiên.
Nghĩ suy lui tới một hồi, chàng thấy cõi lòng rào rạt buồn buồn tủi tủi nên buông mặt khóc nữa rồi nói qua giọng nức nở:
- Thưa, tôi không... không có sư phụ.
Ông cụ già bảo:
- Thôi, nếu ngươi thấy không tiện nói ra cũng được, chẳng sao.
Dương-Qua vừa khóc vừa phân trần:
- Không phải cháu không chịu nói. Nhưng thật ra là cháu không có ai là sư phụ chính thức hết.
Ông cụ lắc đầu nói:
- Điều đó không có gì quan hệ cả. Nhưng tại sao ngươi cứ khóc hoài như vậy. Sở dĩ nơi đây núi rừng hoang tịnh, ngươi đến làm chi, nếu không phải là bè đảng của bọn "ngũ quỷ" giết người cướp của. Nếu không phải ta sẽ kết nạp ngươi làm đồ đệ.
Nguyên ông cụ ăn mặc rách rưới này không ai xa lạ, chính là Cửu-chỉ Thần-cái Hồng-thất-Công, cùng vai vế với các vị khét tiếng trong võ lâm là Đông tà, Tây-độc và Nam-đế, biệt danh của cụ là Bắc-cái. Từ ngày nhường chức Bang-chủ ăn mày lại cho Hoàng-Dung, Hồng-thất-Công xếp bỏ mọi việc đi ngao du khắp thiên hạ, thưởng thức những cảnh đẹp và các món ngon vật quý.
Khi đi đến tỉnh Quảng-Đông thấy thời tiết ôn nhuần, cảnh vật xinh tươi, ông rất hài lòng nên ở mãi nơi đây trên mười năm không trở về Trung-Nguyên nữa. Bao nhiêu bạn bè và các người trong bang Khất Cái cứ đinh ninh rằng ông đã lớn tuổi nên qua đời rồi.
Thật không ai có thể ngờ rằng đến nay ông vẫn ung dung sống vùng này, ngày ngày bắt rắn rết, ếch chuột để ăn độ nhật không thèm tiếp xúc với đời.
Lúc bấy giờ có năm tên ăn cướp cạn dùng căn cứ bên kia đỉnh núi để cướp bóc dân chúng vùng lân cận.
Thỉnh thoảng ông có gặp đôi lứa, muốn ra tay hạ sát cho rồi nhưng lại sợ rằng, nếu giết một vài đứa sẽ động ổ làm mấy đứa khác tìm đường trốn mất. Như thế không trừ được hết mối họa cho dân lành. Vì vậy mà ông cứ nấn ná ở lại trong dãy Hoa-Sơn này chờ cơ hội, hễ có dịp gặp đủ năm tên sẽ giết luôn một lượt.
Trong lúc đi theo dõi một tên đang nấp trên chỗ này, Hồng-thất-Công tình cờ lại gặp Dương-Qua trong đêm bão tuyết ngập trời.
Trước kia Hồng-thất-Công chỉ nhận Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung làm đồ đệ. Lần này nghe Dương-Qua thuật lại thân thế thấy cũng đáng thương hại nên muốn thu nhận làm đồ đệ, ông chắc chắn thể nào Dương-Qua cũng mừng rỡ nhận ngay. Nhưng không ngờ lại khác hẳn điều dự đoán.
Vì thâm tâm lúc nào cũng tưởng nhớ Tiểu-long-Nữ mà chàng cho là vì sư phụ duy nhất của đời mình, cho nên khi nghe Hồng-thất-Công ngỏ ý muốn thu làm đệ thì nghĩ rằng:
- Tuy ông tài cao hơn sư phụ tôi thật, nhưng tôi chẳng thể nhận thêm một ông thầy thứ hai nữa.
Thế rồi chàng lắc đầu đáp:
- Xin đa tạ lão bá, thật tình chẳng thể nhận lão bá làm sư phụ được.
Hồng-thất-Công nghe nói vừa tức giận vừa ngạc nhiên, vội hỏi:
- Tại sao thế? Nếu ngươi không khứng nhận ta sẽ có cách buộc ngươi phải nhận.
(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 3 trang)
Dương-Qua lẽo đẽo bước theo, bụng nghĩ:
- Chẳng lẽ ông cụ này lại ăn thịt rết! Nhưng xem bộ tịch ông ấy không có vẻ gì lòe mình cả. E ông ấy ăn thịt cũng nên!
Về đến cửa hàng thấy nồi nước đã sôi lên sùng sục. Hồng-thất-Công đặt cái túi xuống, bắt từng con ném vào nồi nước. Con nào cũng quẫy một cái rồi chết luôn.
Hồng-thất-Công nói:
- Gặp nước sôi, rết bắn hết chất độc trong mình ra trước khi chết. Vì vậy nên nước trong nồi này độc không tả.
Ông bới một lỗ tuyết cạnh đó, bưng nồi nước đổ ụp vào. Không bao lâu cả nồi nước sôi cũng đong lại hết.
Đoạn, ông thò tay vào bọc rút ra một con dao nhỏ, bắt đầu từng con rết, chặt đuôi rồi bóc vỏ ra, bày thịt trắng hồng hồng như thịt tôm trông rất ngon lành.
Dương-Qua nhìn thịt rết nghĩ bụng:
- Xem bộ ngon lành quá, có lẽ ăn được thật đấy.
Hồng-thất-Công lại bóc tuyết bỏ vào nồi cho tan ra, bỏ đống thịt rết vào rửa đi rửa lại mấy lần thật sạch rồi mở bao rút ra một gói nhỏ bày trên tuyết. Nào là hành, tiêu, tương, ớt, gia vị đủ thứ. Ông bỏ hết vào nồi, cho thêm tý muối, xào lên, mùi thơm bốc ra ngạt mũi.
Nghe mùi thơm xông lên, Dương-Qua thấy cái hạch nước miếng căng lên, bụng cồn cào, thèm lắm, nhưng vẫn e dè suy nghĩ:
- Thịt có vẻ ngon lành lắm nhưng không rõ còn độc hay không?
Chàng bỗng nực cười cho tính háo đói của mình, ngồi nhìn mãi.
Hồng-thất-Công trộn đi chiên lại, tiếng kêu xèo xèo, khói bốc lên thơm ngát. Một chập sau gia vị thấm vào, miếng thịt oăn lại, vàng khè trông ngon lành quá. Ông bốc một miếng đưa vào mồm nhai rau ráu, chắp chắp mấy cái, đôi mắt lim dim để tận hưởng tất cả những cái ngon thơm của món thịt rết!
Thấy đã vừa ăn rồi, ông bê nồi đặt giữa hai người và bảo Dương-Qua:
- Cứ ăn tự nhiên, đừng ngại ngùng khách sáo gì hết.
Dương-Qua lắc đầu đáp:
- Tôi ăn không được.
Hồng-thất-Công ngước mặt cười lớn:
- Ăn đi, không hề gì cả. Biết bao anh hùng hảo hán, võ nghệ đầy mình, giết người không gớm tay thế mà không có gan cùng ta nếm miếng thịt rết! Chú mi nếu không có gan thì cũng không nên ăn làm gì.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Ông ấy ăn được tại sao mình lại sợ? Dầu có độc cũng rán nuốt một vài miếng kẻo người ta khinh, chịu không nổi.
Hồng-thất-Công thấy sắc diện chàng đã đoán được ý nên dặn thêm cho vững bụng:
- Có sợ cứ nhắm mắt mà nuốt mau. Đừng có ngập ngừng ngậm trong miệng rồi chập sau e ngại nhổ ra, làm trôi mất thanh danh anh hùng hảo hán đấy nhé.
Dương-Qua cười nhạt và nói:
- Thưa lão bá, chẳng lẽ chỉ ăn được thịt rết độc mới là hảo hán anh hùng sao?
Hồng-thất-Công nói:
- Lắm kẻ tự xưng hảo hán anh hùng, nhưng đến khi nếm một miếng thịt rết lại rùng mình sợ chết rồi tìm mọi cách để tự bào chữa mà không biết xấu. Lão muốn nhắc cho ngươi để ý đến cái hèn kém của bọn ấy mà thôi.
Dương-Qua suy nghĩ:
- Cứ ăn đại vào, tới đâu hay đó. Nghĩ xong chàng gắp một miếng bỏ vào mồm, nhai ngấu nghiến và nuốt luôn.
Vừa nhai và nuốt xong, chàng cảm thấy cả hàm răng như được thắm mùi ngon của chất mỡ béo, nước miếng chảy ra, và một hương vị vừa thơm vừa ngọt xông lên ngát mũi.
Chàng ngẫm nghĩ:
- ồ, ngon thật, từ bé chưa hề ăn món nào ngon bằng thứ "ngô công" xào này.
Thế rồi không còn e dè nữa, chàng gắp hết miếng này sang miếng nọ, vừa nhai vừa trầm trồ "ngon, ngon tuyệt"!
Hồng-thất-Công thấy Dương-Qua đã thưởng thức được món ăn đặc biệt do mình đã tìm ra và nếu lấy thì khoái chí lắm.
Thế rồi cứ bác một miếng, cháu một miếng, thi tài gắp một loáng, nồi thịt rết đã hết trơn. Còn tý nước Hồng-thất-Công cũng húp luôn.
Dương-Qua đề nghị:
- Để tôi đem con gà lên chôn lại, câu thêm mớ rết nữa, xào bữa khác.
Hồng-thất-Công lắc đầu nói:
- Không được đâu. Con gà này đã hết cả hơi ngọt, hơn nữa bao nhiêu rết lớn vùng này mình đã tóm hết rồi còn đâu nữa mà câu.
Nói xong ông há miệng ngáp, uốn mình mấy cái rồi nói:
- Suốt bảy tám ngày đêm nay ta chưa ngủ được, nay được bữa thịt rất no nê rồi, cần phải ngủ luôn một giấc ba ngày liên tiếp mới đã sức. Trong lúc ta đang ngủ, ngươi đừng gọi ta nhé.
Nói xong ông đưa tay gạt tuyết qua một bên, đặt lưng xuống, ngáy liền.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Ông già này có nhiều hành vi thật quái gở. Ngủ gì một hơi những ba ngày đêm! Hiện nay ta cũng không biết đi đâu nữa. Thôi, nán lại đây ít ngày, chờ ông ta thức dậy sẽ hay.
Thịt tuy rất ngon nhưng tánh hàn.
Dương-Qua ăn xong thấy lạnh bụng, vội vàng tìm một hóc đá kín đáo ngồi núp gió cho ấm.
Ngồi dựa lưng vào vách đá, Dương-Qua nhìn ngoài trời thấy tuyết rơi trắng xóa khắp nơi, như đám bụi lông thiên nga rải rát đầy cả. Không bao lâu khắp mình Hồng-thất-Công, đều bị tuyết phủ một lớp tựa hồ như có một tấm lụa trắng đắp lên, chỉ trừ có cái mặt không hề có tuyết.
Dương-Qua ngạc nhiên nhưng suy nghĩ một chặp đã hiểu, sở dĩ lúc ngủ, ông già đã vận dụng nội công, dồn hết sức nóng trong người lên mặt khiến cho tuyết không thể đông nổi. Công lực như thế này tưởng đã tột bực rồi, ngay như Vương-trùng-Dương tái sanh cũng chưa chắc hơn nổi.
Dương-Qua ngồi yên thả hồn về dĩ vãng. Chàng nhớ lại mấy mươi năm xưa Hồng-thất-Công và Vương-trùng-Dương đã cùng nhau so kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, tuy Vương-trùng-Dương thắng, nhưng không bao lâu ông đã qua đời. Từ ấy đến nay trải thêm bao nhiêu luyện tập, mức tiến bộ của Hồng-thất-Công ngày nay thế nào cũng phải vượt cao hơn Vương-trùng-Dương hồi đó nhiều.
Mải suy nghĩ vẩn vơ mà trời đã sáng từ lúc nào không biết. Chàng nhìn lại chỗ Hồng-thất-Công nằm ngủ thấy tuyết phủ kín mít mới trông như một nấm mộ bằng bông, không có một mình áo hay sợi tóc.
Đưa mắt nhìn khắp nơi, bầu trời cũng chỉ toàn một màu trắng xóa, gió lộng từ hồi, thật là ảm đạm.
Thình lình có chân ai đang bước mau từ phía Đông-Bắc tiến lại.
Chàng định thần nhìn kỹ thấy đàng xa có năm bóng người thoăn thoắt đi trên tuyết thật mau, chứng tỏ người nào cũng có bản lãnh khá cao.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Không biết đây có phải bọn ngũ quỷ mà Hồng-thất-Công có nói ngày hôm qua đó chăng! Nếu quả thật bọn ấy thì hay biết mấy.
Chàng vội tìm một kẽ đá ẩn thân và lén theo dõi hành động chúng.
Không bao lâu cả năm người đã đến trước hang đá, ngó láo liên một chốc, cùng ồ lên một tiếng, một đứa nói:
- Lão ăn mày ở đây rồi. Đồ đạc của hắn đây chắc hắn cũng ẩn nấp trong hang hóc nào gần đây chứ không xa.
Cả năm đứa lộ vẻ sợ hãi, kéo nhau ra phía ngoài, xúm đầu lại bàn tán thầm thì rồi phan tán đi tứ phía để tìm kiếm.
Vì đường núi chật hẹp nên chẳng bao lâu một đứa trong bọn đạp trúng chỗ nằm của Hồng-thất-Công.
Nghe có vật gì mềm bập bềnh dưới chân, tên đó vội cúi xuống bới tuyết ra xem. Bốn đứa kia cũng xúm lại xem.
Chúng thấy Hồng-thất-Công nằm ngửa trong tuyết, chân cẳng cứng đờ hình như đã chết từ mấy hôm rồi.
Cả bọn hớn hở reo vang. Một tên lấy tay sờ trên ngực và đặt trên mũi, thấy toàn thân lạnh buốt như băng, chẳng còn chút hơi thở nào nữa.
Một đứa nói:
- Lão già ăn mày đã chết rồi. Ai khiến mi cứ mò mẫm theo chân chúng ta làm gì đến nỗi bỏ thây trong tuyết như vầy.
Một tên khác thận trọng hơn nói:
- Lão này võ nghệ tuyệt luân, tài ba xuất chúng, không dễ gì chết được đâu, không khéo mình trúng kế của hắn thì nguy lắm.
Tên khác ra mặt thạo đời cãi lại:
- Có lý nào võ giỏi cứ lột da sống hoài không chết được sao? Theo tôi đoán có lẽ hắn đã quá già, gặp lạnh bị cóng, máu đông rồi chết như thế này.
Mấy đứa kia cùng tán thành nói:
- Thật quả là may. Nếu thiên tào không dũ số nó đi thì bà con mình cũng phải điêu đứng mãi với hắn.
Tên gặp đầu tiên đưa ý kiến:
- Bây giờ anh em chúng ta đâm hắn mỗi người một nhát để cho hắn mang danh đệ nhất cao thủ võ lâm mà chết chẳng toàn thây.
Dương-Qua nấp sau một tảng đá lớn, mắt lom lom nhìn ra, tay lăm le mũi "ngọc phun châu" và nghĩ bụng:
- Bọn nó những năm tên, chưa chắc ta đương cự nổi. Chi bằng ra tay trước, tỉa dần vài đứa. Còn mấy đứa sau sẽ tuần tự giải quyết tiếp có lẽ hay hơn.
Tuy đã dự liệu như vậy nhưng vì tuổi trẻ tánh nóng còn nhiều nông nổi không kềm hãm được lòng mình, cứ lăm le muốn xông ra. Khi nghe bọn này bàn tính mỗi đứa đâm ông một dao vào người thì Dương-Qua càng cuống quít vội vàng quát lên một tiếng, từ phía sau hòn đá phi thân nhảy vọt ra, mỗi tay cầm một khúc cây bẻ sẵn để làm vũ khí.
Vừa hạ chân xuống tuyết, Dương-Qua đã lẹ tay điểm luôn mấy huyệt vào năm người. Cũng may vì nghe tiếng thét của chàng, ngũ quỷ kịp thời phòng bị, vận nội công bế kín các huyệt vì vậy nên chàng điểm không còn hiệu nghiệm nữa. Giá không thét trước có lẽ ít nhất cũng có ba tên bị ngã với ngón đòn đầu tiên của chàng.
Mỗi tên trong ngũ quỷ đều sử dụng một thanh đao to bản sống dầy, hơn nữa nghệ thuật cùng học một thầy cho nên lúc xuất thủ rập cùng nhau một lượt, khí thế vô cùng hiểm ác.
Vừa tránh khỏi trận đòn điểm huyệt đầu tiên, ngũ ác quỷ vội quay mặt nhìn xem kẻ ấy là ai.
Khi trông thấy Dương-Qua là một thiếu niên còn nhỏ tuổi, thân hình ốm tong, tay cầm 2 nhánh cây làm binh khí thì bọn ấy đã có vẻ khinh thường không thèm quan tâm cho mấy.
Tên đầu đảng trợn mắt hét lớn:
- Thằng oắt con, mi là tay sai của lão ăn mày này phải không? Sư phụ mày đã chết ngoẻo lâu rồi, nếu mày không muốn về Tây phương chầu Phật cùng nó thì mau mau quỳ xin tạ lỗi.
Vừa nghe hắn dứt lời, Dương-Qua chắp tay cúi đầu đáp:
- Dạ, kẻ hèn xin kính chào ngũ vị.
Chàng tiến lên hai bước, hai tay gạt ngang qua theo thế "mở cửa nhìn trăng" phang hai khúc cây vào đầu năm đứa.
Thế này vô cùng lợi hại, năm tên tránh đỡ chẳng kịp nên hai đứa nhào bên tả, ba đứa ngã bên hữu.
Ba đứa bên mặt bản lãnh khá hơn, cho nên vừa nhào xuống đã tung mình đứng dậy được, rút dao xông đến chém nhau.
Đứa xông vào đầu tiên bị Dương-Qua gạt trái một gậy, tét cả hổ khẩu, thanh đao sút tay, văng đi xa lắc. Tức thì chàng hạ xuống phang mạnh vào hai ống chân, tuy chưa đến nỗi gãy xương nhưng đau đớn rên la ầm ỹ và nằm luôn không ngồi dậy nổi.
Bốn tên kia nổi nóng xông lại bủa vây tứ phía tấn công chàng dồn dập.
Bốn thanh đao to bản vung lên chém xuống xé gió ào ào muôn phần nguy hiểm. Nhưng Dương-Qua lẹ chân né tránh được hết, khi lách đông lúc ẩn tây, khiến cho bọn chúng chỉ chém vào không khí.
Một chập sau, tên bị ngã cũng thấy bớt đau, vội vàng gượng dậy, lượm lưỡi dao nhảy vào trợ chiến để trả thù ngón đánh vào giò vừa rồi.
Dương-Qua đã học được những ngón bí truyền trong Ngọc Nữ tâm kinh, hơn nữa tài khinh công chàng cao hơn năm tên này mấy bậc, nếu cần bỏ chạy thoát thân thì quá dễ dàng, nhưng chàng e rằng nếu mình chạy thoát bọn chúng sẽ đâm chém Hồng-thất-Công ngay. Vì vậy nên chàng quyết tâm ở lại đánh để bảo vệ cho ông lão còn đang nằm ngủ như chết trên mặt tuyết.
Đánh thêm một chập, Dương-Qua nảy ra một kế bèn phi thân bỏ chạy, tức thì năm đứa cùng đuổi theo, ba tên khinh thân khá hơn chạy tới trước còn hai tên kém hơn chạy chậm mãi tận sau xa.
Thừa lúc bọn chúng đang cắm cổ đuổi theo, chàng dùng thế "tia sáng xuyên rừng" lao mình như một bóng ma vụt lại phía Hồng-thất-Công đang nằm, đưa tay sờ thử vào ngực thấy toàn thân lạnh toát như băng. Chàng ngạc nhiên thầm nghĩ:
- Trời ơi, lối ngủ gì mà khác đời như thế này. Hay là ông đã chết cóng rồi cũng nên. Nếu ngủ thì nãy giờ náo động cũng phải giật mình thức để tiếp cứu cho mình chớ lý đâu cứ để mặc mình bị bọn này vây khổn như vậy.
Chàng kề miệng vào tai ông gọi lớn:
- Lão trượng tiền bối ơi! Lão tiền bối, tỉnh dậy.
Nhưng Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ như xác chết không cục cựa.
Nghe tiếng chàng kêu réo, năm tên cướp kia cũng quày lại, xúm vây xung quanh đánh nữa.
Nhưng lần này đứa nào cũng ngán tài Dương-Qua nên chỉ vây cầm chừng, đứa nào cũng lấm lét nhìn nhau chứ không dám mạo hiểm lại gần sợ lãnh đủ.
Dương-Qua bèn bỏ bọn chúng quay mình theo đường dốc chạy mãi lên cao. Cả bọn cùng hét lớn:
- Mày có chạy lên trời cũng không thoát khỏi.
Năm người hè nhau đuổi theo, nhưng cũng không dám chạy gần, thong thả đi sau cách xa hơn mấy trượng.
Dốc càng cao, đường càng hẹp, địa thế hiểm trở vô cùng, khi đến một mỏm núi cheo leo, tứ bề toàn vực thẳm, nhìn xuống sâu hun hút ngó muốn chóng mặt, bên cạnh thì vách đá đứng thẳng tắp, láng như mỡ.
Con đường hẹp băng qua mỏm đá này cheo leo như một chiếc cầu thiên tạo, chỉ đủ cho một người đi mà thôi.
Dương-Qua thấy địa thế quá hiểm trở bỗng nghĩ đến câu: "nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai" (nghĩa là một người giữ ải, muôn người khó đánh nổi) chính chỗ này là nơi dụng võ thuận lợi nhất.
Chàng nghĩ bụng:
- Bây giờ ta cứ án ngữ tại eo đá này. Bọn chúng dầu đông nhưng không thể hùa nhau tấn công một lần được. Nếu một đứa vượt qua, ta sẽ tỉa liền. Ráng cầm cự với chúng cho qua ngày thứ tư. May ra đúng kỳ hẹn, Hồng-thất-Công tỉnh dậy sẽ ra tay hạ sát cả năm tên "ác quỷ". Nếu rủi ông chết thật thì ta sẽ chôn ông dưới tản đá này trước khi rời đánh Hoa-Sơn.
Ngay lúc đó năm tên cướp đuổi vừa đến.
Dương-Qua đứng ngay giữa cầu ưỡn ngực quát lớn:
- Chúng bay khôn hồn dừng chân lại. Đứa nào qua đây ta sẽ đẩy xuống vực sâu làm mồi cho rắn rết hoặc đập đầu vào đá nhọn cho rồi.
Thấy con đường độc đáo quá hiểm trở, tên đi đầu phải dừng lại. Cả bọn thất kinh cũng không dám bước chân tới nữa.
Đứng bên đầu cầu trên cao, Dương-Qua đưa mắt nhìn qua bên kia sườn núi thấy tuyết đã tan dần, ánh chiều dương vừa lóe sáng chiếu vào những cây quỳnh và vô số thảo mộc kỳ lạ mọc rải rác khắp nơi. Những mảnh tuyết chưa tan hết còn dính rơi rớt trên các cành cây, phản chiếu thành những chòm lấp lánh như muôn ngàn hạt minh châu cực kỳ xinh đẹp. Cảnh rừng núi hoang vu, do bàn tay tạo hóa đã bày ra không khác nào một bức tranh thiên nhiên vĩ đại.
Nhìn cảnh chán rồi, Dương-Qua liếc xuống xem bọn cướp, thấy cả năm đứa đang xúm xít bên đầu cầu, cách xa chàng non mươi trượng, lên thì không dám, bỏ đi lại không đành. Chúng cứ ngập ngừng, bị tranh chấp giữa hai cảm giác: tiếc và sợ.
Dương-Qua thò tay vào túi lấy chiếc mặt nạ da người đeo lên mặt rồi hét lớn:
- Bọn xú quỷ, bây tuy xấu, nhưng chưa xấu bằng ta đâu nhé!
Cả năm tên trực ngó lên thấy mặt mày chàng đã đổi khác kỳ dị vô cùng thì thất kinh hồn vía đứa nào cũng tự hỏi:
- Thằng này là người hay ma mà thay hình đổi dạng lạ lùng như thế này?
Thấy dáng điệu chúng nháo nhác Dương-Qua tự bảo.
- Quân này miệng hùm gan sứa, chẳng làm nên trò trống gì đâu ta cứ thị uy cho chúng sợ, sẽ không dám bén mảng đến đây nữa.
Nghĩ rồi chàng lui ra giữa cầu, co chân mặt lên, đứng một chân trái theo thế "kim kê độc lập" tay chỉ lên trời toàn thân cứng đờ không lay động. Đứng xa nhìn vào không khác nào một thiên thần hay hộ pháp đang giữ của.
Bọn ngũ quỷ đã rung động, không dám bước tới vì nghĩ rằng:
- Bản lãnh thằng này cao siêu lắm, chỉ có thể dùng số đông áp đảo chứ nến một xáp một thì bị hắn hạ sát liền. Vì con đường quá chật hẹp, cả bọn nghĩ kế luân phiên nhau canh chừng đầu bên này. Trong một vài ngày, chờ Dương-Qua đói lả sẽ qua bắt sống.
Lập mưu xong bọn chúng sai một tên đi lấy lương thực, còn tên đứng dàn thành hình chữ nhất ám ngữ bên này đầu cầu để canh phòng.
Hai bên cứ xem chừng nhau suốt nửa ngày. Dương-Qua không thể xuống mà bọn này cũng không thể lên được.
Vừa đúng ngọ Dương-Qua đã mỏi chân không đứng theo lối kim kê độc lập nữa mà chỉ ngồi dựa bên đường để dưỡng sức.
Qua ngày thứ hai, bọn chúng mang cơm và thức ăn đem bên đầu cầu vừa ăn vừa nhem thèm Dương-Qua.
Dương-Qua đang đói cào cả gan ruột, lại hít phải mùi thơm của cơm, mùi béo của thịt nướng từ đầu cầu theo gió bay tạt vào mũi khiến chàng thấy lòng nóng như lửa đốt. Chàng liếc mắt nhìn về phía Hồng-thất-Công đang nằm, bụng nghĩ:
- Giấc ngủ gì kỳ lạ quá! Không biết ông lão ngủ thật hay đã chết cóng rồi. Nếu ông chết thì uổng công mình canh giữ nơi đây mà nhịn đói luôn mấy ngày trường. Nếu cứ tiếp tục chờ ông ấy thức dậy, bụng đói thêm còn hơi sức đâu để đánh nữa. Chi bằng mình tấn công ngay bây giờ mới mong còn đủ sức thoát thân.
Nhưng lúc sắp nhảy xuống, chàng bỗng nhớ lại:
- Trước khi ngủ, Hồng-thất-Công có dặn sẽ ngủ đúng ba ngày. Nếu lời ông nói đúng, thì cũng không còn bao lâu nữa. Ta rán chờ thêm, không nên bỏ ông ấy tội nghiệp.
Thế rồi Dương-Qua nhất quyết chịu đói, nhắm mắt không thèm dòm chúng ăn và vận nội công nín thở không ngửi mùi thơm của đồ ăn bay qua.
Qua ngày thứ ba, Hồng-thất-Công vẫn nằm yên không cục cựa. Dương-Qua thấy vậy than rằng:
- Thế là ông đã chết thật sự rồi. Nếu ta cứ chần chờ mãi, trong ngày nay khí lực kiệt quệ, dầu bọn chúng không đánh ta cũng chết đói.
Đói quá, chàng bốc một bụm nước tuyết bỏ vào mồm nhai và nuốt, cảm thấy trong lòng có phần khoan khoái dễ chịu hơn nhiều.
Chàng lẩm bẩm:
- Thôi, đã hai ngày qua, mình cũng hết lòng cùng lão tiền bối. Bây giờ phải ra tay chứ để kéo dài nguy hiểm lắm.
Nhưng Dương-Qua không thể cất bước nhảy qua cầu được vì lương tâm vẫn không cho phép.
Chàng tự nhủ lòng mình:
- Ta không thể thi thố chữ trung với nước và không giữ được tận hiếu với mẹ cha, cũng không có anh em bà con ruột thịt để vẹn tình "hiếu dễ". Lẽ nào chỉ một chữ "tín" mà cũng không giữ được hay sao? Làm trai như vậy đâu đáng mặt làm trai nữa.
Ngày xưa chàng Vỹ-Sinh ước hẹn cùng tình nương sẽ gặp nhau dưới chân cầu. Khi người tình chưa đến mà nước thủy triều đã dâng lên. Vỹ-Sinh đã cam lòng ôm lấy cột cầu, nước lên ngập đầu chết đuối, cho vẹn chữ tình cùng bạn lòng. ở đời đối xử với thiên hạ, ai cũng lấy chữ tình ra để đo lường chân giá trị của con người.
Dương-Qua, mày sinh ra đã bị người đời ghét bỏ khinh khi, nếu ngày nay mày còn thất ước bỏ người cho kẻ khác sát hại, thì còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa. Thôi, dầu phải chết đói, ta cũng quyết giữ trọn lời hứa, chờ đủ ba ngày như Hồng lão tiền bối đã dặn trước.
Nghĩ vậy chàng kiên gan nhịn đói luôn một ngày một đêm nữa.
Sáng ngày thứ tư, Dương-Qua thấy không có gì thay đổi, Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ trên tuyết. Chàng chắp tay hướng về xác của Hồng-thất-Công lâm dâm khấn vái:
- Kính lão tiền bối, đã ba ngày ròng rã, tiểu niên cố chịu đựng với lạnh lẽo đói khát để giữ vẹn lời tiền bối đã dặn. Tiếc vì lão tiền bối đã vô phần nhắm mắt lìa trần nên đệ tử không thể nào chịu đựng hơn nữa được. Đệ tử xin đem thi hài tiền bối táng vào thạch động để khỏi bị lũ quân gian ác ra tay phũ phàng.
Lão tiền bối có linh thiêng xin chứng minh và phò hộ!
Khấn xong chàng lìa vị trí chạy qua cầu xuống phía dưới.
Vừa thấy Dương- Qua chạy xuống năm tên xú-quỷ đoán chàng không chịu nổi đói khát định đến cướp thực phẩm đỡ lòng nên cùng đứng dậy và đưa mắt ra hiệu cùng nhau để chận lại.
Tên đầu đảng nói lớn:
Dẫu mạnh khỏe như voi mà nhịn đói luôn ba ngày đêm cũng không còn hơi sức nữa huống chi thằng này. Chúng ta cứ ra tay bao vây để bắt sống hắn. Kẻ nào để hắn chạy thoát phải thế mạng vào đấy nhé.
Hắn vừa nói dứt câu, thình lình phía sau có tiếng cười ha hả và một giọng nói vang lên rang rảng:
Chà! ngủ một giấc đã quá! ủa mà bọn bây làm thứ gì vậy?
Dương-Qua nghe rõ ràng là tiếng nói của Cửu chỉ Thần Cái Hồng-thất-Công nên trong lòng mừng không thể tả.
Năm tên xú-quỹ thất kinh hồn vía, mặt mày tái mét vì quá sợ, muốn tìm đường chạy trốn nhưng hai chân đã quýnh lại như không còn một tý gân sức nào nữa, rồi đầu óc tối xầm, cả năm đều ngã quay trên tuyết bò lê bò càng xem rất thảm hại.
Dương-Qua hết sức ngạc nhiên không ngờ chưởng lực của ông này lại quá ư kỳ diệu, vì chàng thấy ông ta chỉ khẽ phất tay có một tý mà năm tên xú quỷ đã ra tình trạng như thế này. Thật đáng khiếp đáng phục.
Hồng-thất-Công đưa tay điểm mặt bọn xú quỷ nạt lớn:
Năm tên ác quỷ, quân bây đã gây bao nhiêu tội ác cho dân lương thiện vùng này hôm nay gặp phải tay ta, đâu phải bỏ mạng cũng không có gì oán trách nữa.
Bọn ngũ quỷ vừa sợ vừa tức, lồm cồm ngồi dậy, đứa muốn bỏ chạy, đứa muốn liều mạng xông vào tấn công, nhưng vì đã bị ảnh hưởng của ”giáng long thập bát chưởng“ gân cốt rũ riệt, không thể ngồi dạy được. Năm tên chỉ lăn qua lộn lại bò lê bò càng trên mặt đất, hơi thở hào hễn như năm con trâu vừa mới kéo cày xong.
Ngay lúc ấy có tiếng động lao xao trên tuyết, và một bóng người đầu chổng xuống đất, chân dựng lên trời, đi tới mau như tên bắn.
Người ấy quả là Âu-dương-Phong Tây-Độc.
Dương-Qua mừng quá gọi lớn:
Cha, cha ơi... Dưỡng phụ!
Âu-dương-Phong làm lơ không đáp, cứ di chuyển ngay về phía ngũ quỷ, dùng chân khẽ đá vào lưng mỗi đứa một cái, tức thì cả năm tên xú quỷ đã trở lại bình thường, mà sức mạnh còn dồi dào hơn trước.
Hồng-thất-Công đang ngạc nhiên vì sự xuất hiện quá đột ngột của Âu-dương-Phong, lại nghe Dương-Qua gọi bằng dưỡng phụ càng thêm lạ lùng hơn nữa. Ông tự hỏi:
Té ra hai đứa này là cha con với nhau sao? Thật là một chuyện không thể ngờ được.
Nghĩ xong, ông hỏi lớn:
Tôi thấy năm tên xú quỷ này đã làm nhiều tội ác, hãm hại lương dân nên định trừng trị chúng. Tại sao đạo huynh đi giải cứu cho chúng?
Âu-dương-Phong cười ha hả đáp:
Hễ ác lai thì ác báo, chúng giết người sẽ phải đền tội, nhưng trước khi hành hình cũng nên giáo hóa chúng đã. Được rồi, ta xin trả chúng lại với tình trạng như trước.
Nói xong y dùng chân trái, khẽ điểm vào lưng mỗi đứa.
Bị áp lực giữa chưởng lực của hai cao thủ, tên nào cũng cảm thấy toàn thân đau đớn như dần, chợt tỉnh chợt mê, khi lạnh khi nóng, lăn lộn trên tuyết trông rất thảm thương.
Từ ngày luận kiếm Hoa Sơn lần thứ nhì đến nay đã quá mười năm chẵn, Âu-dương-Phong và Hồng-thất-Công chưa có dịp gặp nhau lần nào. Trong thời gian này, Âu-dương-Phong cố sức luyện theo Cửu âm chân kinh nên bản lãnh có phần tiến bộ hơn trước.
Hồng-thất-Công tuy được nghe Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đọc lại tất cả các đoạn trong kinh này, nhưng không chịu đào luyện thế nên mức tăng tiến không vượt qua Âu-dương-Phong được.
Trong cuộc so tài ngày trước, hai người vẫn chưa phân thắng bại. Vì vậy nên lòng họ vẫn đinh ninh sẽ cùng nhau đấu lại một phen nữa để rõ tài cao thấp.
Hôm nay là lần gặp gỡ thứ ba nên thế nào cũng thi tài mới được.
Hồng-thất-Công thử đưa ra vài ngọn nặng có, nhẹ có, nhưng Âu-dương-Phong đã hòa giải được hết.
Thấy đối phương chỉ dùng chân mà tài nghệ rất lợi hại, Hồng-thất-Công nhất định thử thách đến kỳ cùng.
Ông bèn lùi ra sau mấy bước dồn công lực vào tay, định tấn công.
Năm tên xú quỷ thấy hai tay cao thủ sắp choảng nhau mà bọn mình nắm giữa để làm vật hy sinh thì thất kinh hồn vía năn nỉ khóc lóc cầu xin tha mạng.
Hồng-thất-Công nghiêm giọng bảo:
Ngũ quỷ, mạng căn chúng bay vẫn chưa đến ngày tận số, nên ta rộng lòng tha thứ cho lần chót. Phải mau mau cải tà quy chánh từ nay không được theo nghề cũ sát hại dân lành, nghe chưa?
Nói rồi ông phất tay giải huyệt.
Cả bọn vui mừng được thoát chết, sụp lại tạ ơn rồi rủ nhau xuống núi.
Từ đó về sau, nhân dân vòng này không còn nạn ngũ quỷ phá hại nữa.
Lúc ấy Âu-dương-Phong đã đứng lại trên hai chân, quét mắt nhìn Hồng-thất-Công hỏi bâng quơ:
Thằng kia xem quen quá, chẳng biết tên gì, võ nghệ ra sao, hãy nói nghe thử?
Hồng-thất-Công thấy Âu-dương-Phong cặp mắt láo liên, tâm thần bất định, khi tỉnh khi say thì biết là chứng bệnh điên điên của hắn gần mấy chục năm nay vẫn chưa dứt được.
Ông cả cười nói đùa:
Ta là Âu-dương-Phong đây, còn mi là ai?
Lúc này thần trí Âu-dương-Phong đang bấn loạn, vừa nghe ba tiếng ”Âu-dương-Phong“ thấy quen lắm, chưa biết tên mình hay tên ai, chỉ lắc đầu đáp:
Âu-dương-Phong à! Tên quen lắm. Còn ta, ta tên... gì... như... quên mất rồi!
Hồng-thất-Công cười ngất nói:
Chỉ có cái tên của mình mà không nhớ, thì đấu võ làm sao được, hãy về nhà suy nghĩ lại, chừng nào nhớ được sẽ trở lại đây.
Âu-dương-Phong nổi giận trừng mắt nạt:
Thế thì mi có nhớ không? Hay nói hộ cho ta nghe thử.
Hồng-thất-Công đáp:
Tên mi là ”Cáp-Mô“, nhớ không?
Nghe hai chữ cáp mô, Âu-dương-Phong cũng thấy quen quen nhưng chưa dứt khoát đúng hay không đúng. Lòng cứ phân vân, chợt quên, chợt nhớ rồi đứng thừ người ra nghĩ nữa.
Nguyên Hồng-thất-Công là đối thủ số một của Âu-dương-Phong. Hai người xem nhau như kẻ tử thù. Mỗi lúc tánh ngây ngây nổi lên thì quên tất cả, nhưng hễ tỉnh trí lại, nhớ đến Hồng-thất-Công là lửa giận bốc lên muốn đánh nhau liền.
Hồng-thất-Công để ý theo dõi thấy Âu-dương-Phong đang ngơ ngơ ngác ngác, bỗng nhiên đôi mắt trừng lên lộ vẻ hung quạu thì biết y đã tỉnh lại nên thủ thế đề phòng.
Âu-dương-Phong vừa bớt cơn mê, nhớ lại kẻ thù, hét lên một tiếng, vung quyền tấn công liền.
Hồng-thất-Công liền đưa Giáng long thập bát chưởng ra chống cự, phá tan những ngón quyền của đối phương. Quyền cước vung lên vùn vụt, gió lộng ào ào. Mỗi khi chưởng lực xuất ra là tuyết rơi đá chạy, rung động cả núi rừng. Cả hai người quấn chặt vào nhau, dùng toàn những đòn bí hiểm thượng thạng, chỉ sơ ý một tý là lăn đùng xuống hang sâu vực thẳm. Chừng ấy dầu xương sắt da đồng cũng không thoát chết.
So với hai kỳ đọ kiếm tại Hoa-Sơn khi xưa, cuộc tranh tài lần này có vẻ gay go nguy hiểm hơn nhiều do địa hình quá hiểm trở và cheo leo.
Kể về võ thuật thì người nào cũng thuộc về tuổi cao tác lớn, ai cũng đến ngày gần đất xa trời cho nên công lực đã hao mòn, so với ngày còn trẻ, không thể nào bì kịp.
Trong trận này ai cũng quyết giành thắng thế nên trận đấu không còn tánh chất so tài thử sức như xưa mà lại là một trận quyết định tử sanh.
Dương-Qua đứng ngoài nhìn xem, thấy hai bên đều cố đem chưởng lực ra ăn thua chứ không đem so tài hay võ nghệ.
Dương-Qua thấy trận đấu ngày càng ác liệt hiểm nghèo. Có lúc Hồng-thất-Công suýt té nhào xuống vực sâu, cũng có lúc Âu-dương-Phong bị áp lực đẩy vào đá, chỉ trong gang tấc là tan xương nát thịt. Chàng băn khoăn lo nghĩ:
- Âu-dương-Phong là dưỡng phụ của ta, còn Hồng-thất-Công tuy mới gặp gỡ, nhưng là một nhân vật lỗi lạc, quang minh chính đại rất đáng mến phục, ai thua cũng đem lại sự đau lòng cho ta hết vì vậy cần phải làm sao chấm dứt trận đấu càng sớm càng hay.
Chàng đứng nhìn xem chăm chú, định có dịp là nhảy vào phân giải xin giảng hòa đôi bên.
Không bao lâu trận đấu đã trên hai trăm hiệp. Dương-Qua đứng nhìn say sưa thấy bên nào cũng áp dụng đúng như những từ chương của Cửu âm chơn kinh đã chỉ dạy. Vì áp dụng quá đúng cho nên họ có thể giải thoát được nhiều thế bí, tưởng nguy đến tánh mạng một cách linh điệu phi thường.
Nhiều lúc chàng không thể ngờ được chỉ có một câu quá đơn giản nhặt trong kinh mà lúc đem ra áp dụng thật là biến ảo khôn lường.
Trận đấu càng kéo dài càng gây cấn, chỉ trong nửa ngày đã hơn một ngàn hiệp. Cả hai chưa đem sử dụng hết những thế hay của mình nhưng vì tuổi cao bụng đói nên vị nào cũng có vẻ mệt lả, hơi thở dồn dập, tay chân bớt phần linh hoạt.
Nhân cơ hội này Dương-Qua gọi lớn:
- Nhị vị đánh nhau quá nửa ngày rồi. Xin khá dừng tay để ăn uống và xả hơi chút đỉnh chứ!
Nghe được hai tiếng ăn uống là Hồng-thất-Công hoan nghênh ngay nên nhảy ra ngoài vòng gật đầu nói:
- Ăn uống đã, tốt lắm!
Dương-Qua thấy bọn ngũ quỷ còn bỏ lại rất nhiều thực phẩm, nào cơm trắng thịt gà, giò heo, rượu nữa. Chàng thu góp đem lại dọn ngay trên tuyết để khoản đãi.
Hồng-thất-Công rất tự nhiên và thật tình nên vừa dừng tay la thò tay lấy một khúc gà thật bự đưa lên mồm nhay rau ráu nghe dòn tan, nuốt luôn cả xương và da.
Dương-Qua lấy một góc con gà khác đưa cho Âu-dương-Phong, miệng nói:
- Cha dùng đi. Thật không ngờ ngày nay được gặp lại cha nơi chốn này.
Âu-dương-Phong đã lấy lại sự bình tĩnh, nhìn Dương-Qua rồi dịu dàng nói:
- Mấy lúc nay cha cố ý đi tìm con. Vì vậy nên mới đến đây, thật là may mắn.
Nghe nói Dương-Qua cảm động vô cùng và suy nghĩ:
- Không ngờ ông lại thương yêu và thiết tha tới mình như vậy. Lòng ta cũng được an ủi và đỡ cô độc vì vẫn còn được người tưởng đến để vượt núi đi tìm.
Chàng lại gần nắm tay dưỡng phụ ân cần năn nỉ:
- Thưa cha, Hồng-thất-Công tiền bối quả là người rất tốt. Xin cha đừng chống đối và đánh nhau với cụ ấy nữa, cha nhé.
Âu-dương-Phong nghiêng tai nghe nói rồi quay lại điểm mặt Hồng-thất-Công hét lớn:
- Thằng kia, mày là Âu-dương-Phong đấy sao? Hạng mày là đồ xả rác, đâu đáng cùng ta so tài.
Hồng-thất-Công ngửa mặt cười ha hả rồi điểm mặt Âu-dương-Phong đáp:
- Đúng rồi! Âu-dương-Phong là đồ xả rác, đáng đánh chết vứt xác xuống hố cho rồi.
Dương-Qua thấy cha nuôi đã loạn trí trở lại, khó bề khuyên can giảng hòa gì nữa.
Khi ấy Âu-dương-Phong cứ trợn mắt đỏ ngầu, nhìn trừng trừng vào Hồng-thất-Công rồi đến Dương-Qua, thần trí bất định, như đã loạn óc trở lại rồi. Có lúc ông ngó nghiêng nghiêng hình như cố lắng tai để nghĩ lại một việc gì đã quên lãng nhưng nghĩ hoài không ra.
Dương-Qua đưa cơm, thịt cho Âu-dương-Phong xong, đến trước mặt Hồng-thất-Công chắp tay kính cẩn thưa rằng:
- Hồng lão tiền bối, ông này quả là dưỡng phụ của cháu, hiện nay đã mất trí nên tỉnh mê không biết lúc nào. Kính xin Hồng-Lão tiền bối niệm tình cháu, đừng thèm chấp nên nghĩa phụ, coi ông ấy như người đang điên rồi bệnh hoạn, bỏ qua hết mọi điều đi cho.
Hồng-thất-Công vốn người quảng đại vô cùng, nghe Dương-Qua tỏ bày các lời trung hậu chí thiết thì hài lòng lắm, đưa tay vuốt tóc chàng, mỉm cười khen:
- Cháu ít tuổi nhưng có nghĩa và biết điều lắm. Ta rất mến những kẻ ăn ở thủy chung.
Nhưng vừa lúc ấy Âu-dương-Phong, đứng dậy mắt trừng miệng quát:
- Này Âu-dương-Phong, nãy giờ quyền cước chả ăn thua. Bây giờ ta cùng mi sử dụng vũ khí xem ra sao nào?
Hồng-thất-Công nhìn Dương-Qua ái ngại lắc đầu đáp:
- Thôi, đừng đánh nhau nữa. Ta nhường cho mi thắng đấy.
Âu-dương-Phong nói:
- Không được. Mi nhường hay nhận thua ta cũng không để mi sống sót được đâu.
Nói xong đưa tay bợ một cành cây thật lớn, suốt hết lá, vung lên, nhắm Hồng-thất-Công đánh đại.
Xưa nay Âu-dương-Phong đã nổi tiếng về lối dùng gậy cho nên mặc dầu chỉ một nhánh cây, nhưng mỗi lúc lão múa lên đã lộng gió ù ù, rúng động cả một vùng rộng lớn. Dương-Qua đứng gần cũng thấy sức ép vô cùng mãnh liệt, khó thở vô cùng.
Chàng vội bước qua một bên né tránh và trong lòng lo ngại cho Hồng-thất-Công quá sức.
Nhưng Hồng-thất-Công vẫn ung dung thứ thái hình như không quan tâm đến, đưa tay bẻ một nhành cây khác, làm "đoản bổng" để chống lại.
Lối đánh bổng của Hồng-thất-Công đã chấn động giang hồ thế gian có một. Vì đã lâu ẩn tịch ít thi thố nên không còn ai nhắc lại.
Cuộc đấu quyền vừa rồi tuy dữ dội nhưng cuộc tranh tài về trượng bổng lần này càng ghê rợn hơn gấp bội.
Cây trượng múa lên như rồng thiêng uốn khúc, đoản bổng quay cuồng như rắn độc vây mình, hai món binh khí soắn tít vào nhau, như chong chóng lộng gió rít vo vo, làm chuyển động cả một vùng tuyết văng tứ hướng.
Dương-Qua đứng ngoài say sưa theo dõi mà hồn phách như dại như ngây bởi những thế võ vô cùng kỳ diệu. Chàng vừa xem mê mẩn, vừa hồi hộp lo lắng cho cả hai người.

Hồi 30

Dự "Anh hùng Yến".

Trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Côn qua bổng lại, gió lộng, tuyết bay, đánh mãi đến chiều tối không biết bao nhiêu hiệp, hai người cũng không chịu ngừng tay.
Dương-Qua đưa mắt nhìn quanh thấy đầu non tuyết phủ trắng xóa một màu, bao nhiêu ngọn cây, hóc đá, hầm hố bụi bờ đều bị bao bọc bởi một lớp tuyết thật dày cho nên không biết chỗ nào lành nơi nào nguy hiểm nữa.
Chàng lo ngại hai người tuổi cao sức đã kém, nếu cứ đấu hoài thế nào cũng phải kiệt quệ, rủi có bề nào thật là đáng ân hận.
Chàng vội vàng lớn tiếng yêu cầu hai vị tạm ngừng trận đấu, nhưng đôi bên mãi mê say đánh, mặc kệ cho van nài chẳng thèm đếm xỉa mà càng đánh hăng thêm.
Sực nhớ đến cố tật của Hồng-thất-Công, chàng nghĩ ra một kế:
- Ta phải tìm món gì thật thơm, đem nướng nơi đầu gió, xông vào mũi ông ấy may ra mới dụ được ngừng tay.
Chàng chạy luôn xuống dưới khe suối, hái mấy thứ cây và cỏ thơm mang lên, đem lại phía mỏm đá ở trên gió, chụm lửa để đốt.
Mùi "cam thảo, hoắc hương" nướng cháy, khói tỏa ra mùi thơm ngạt mũi. Hồng-thất-Công đánh hơi thèm quá nhịn không được bảo Âu-dương-Phong:
- Lão Cáp-Mô hãy tạm dừng một chút, ta có việc cần.
Nói xong ông kiễng đầu quay ra sau, chạy lại phía Dương-Qua lấy mấy khúc cam thảo nướng đưa vào miệng vừa nhai vừa chắp và khen Dương-Qua:
- Cháu bé chu đáo lắm!
Âu-dương-Phong chờ một chập không thấy Hồng-thất-Công trở lại bèn vung nhánh cây nhảy lại đập nhầu.
Hồng-thất-Công né xong, cầm khúc cam thảo nướng đi vào mồm Âu-dương-Phong bảo:
- Hãy nuốt đi cho ấm bụng. Thơm quá.
Âu-dương-Phong ngạc nhiên ngần ngừ một chút nhưng cũng đưa tay nhận lấy và nhai ngon lành, quên cả chuyện đánh nhau.
Nhai xong mớ cây thuốc, cả ba cùng vào hang đã nghỉ ngơi.
Đêm đã xuống, âm u rùng rợn làm sao! Đỉnh Hoa-Sơn như chìm đắm trong màn đêm dày đặc. Ngoài hang gió lộng từng cơn, tuyết đổ ào ào đập vào vách đá như tiếng gào thét của rừng xanh. Dương-Qua nằm không ngủ được, to nhỏ đem những chuyện ngày xưa hỏi lại Âu-dương-Phong nhưng ông chỉ ngơ ngẩn nói không trúng vào đâu hết, có nhiều lúc chỉ làm thinh không trả lời.
Khi bị hỏi vặn, Âu-dương-Phong vỗ tay vào trán để suy nghĩ mãi không ra, mặt mày lộ vẻ băn khoăn quá sức rồi ngẩn người lộ vẻ âu sầu bực tức lắm.
Dương-Qua sợ hỏi mãi ông lão sẽ nổi cơn điên gây sự thì nguy hiểm lắm nên ân cần dỗ ngọt để cha nuôi ngủ đi cho rồi.
Khi cả hai ông lão đã ngủ mê, tiếng ngáy đều đều, Dương-Qua lồm cồm ngồi dậy, rảo bước đi ra ngoài hang.
Chàng nhớ lại bao nhiêu thế quyền khi sáng hai cụ đã thi thố quả thật vô cùng kỳ diệu. Thế rồi chàng đứng lên tập luyện một mình để nhớ lại những thế hiểm ác nhất mà mình đã tận mắt nhìn xem đôi bên thi thố.
Tập một hồi thấm mệt, chàng vào hang ngủ lại.
Rạng ngày sau, khi ánh mặt trời le lói dọi vào hang, Dương-Qua thức giấc, đã nghe phía ngoài cửa hang có tiếng chân dẫm trên tuyết rào rạo và chưởng lực chạm vào nhau rầm rập. Chạy ra xem thấy Hồng-thất-Công và Âu-dương-Phong đã đem nhau ra đồng để đấm đánh từ lúc nào rồi.
Dương-Qua chép miệng than thầm:
- Hai ông cụ đã già, gần đất xa trời nhưng còn háo thắng, tranh nhau như con nít, thật ngán!
Chàng ngồi trên một tảng đá nhìn xem hai người đấu nhau, hết bằng quyền thì đến côn bổng.
Các đòn tấn công của Hồng-thất-Công hiểm ác vô cùng, nhưng Âu-dương-Phong đâu chịu sút kém, dùng ngón khác phá được ngay rồi phản công lại.
Cuộc chiến đấu đôi bên cứ kéo dài suốt sáu ngày ròng rã, cứ ngày đánh, đêm nghỉ, chẳng ai chịu thua ai, mà cũng không người nào nắm phần thắng thế.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Nếu để cục diện kéo dài, giữa hai người thế nào cũng có một kẻ bị thương nặng. Đêm hôm ấy, chờ Âu-dương-Phong ngon giấc, Dương-Qua thưa nhỏ cùng Hồng-thất-Công:
- Xin mời Hồng-Lão tiền bối ra cửa động, cháu có tý việc muốn trình bày.
Khi hai người ra khỏi động ít trượng, Dương-Qua bỗng sụp xuống lạy dài không nói một tiếng.
Hồng-thất-Công nhìn thấy ngạc nhiên nhưng bỗng nghĩ lại:
- Có lẽ cậu này thấy cha nuôi bị bệnh nên muốn van nài xin ta nhân nhượng cho chăng?
Ông ngước mặt cười dài rồi nói:
- Ta đã hiểu ý muốn của ngươi rồi.
Nói dứt lời, ông cầm khúc cây ngắn phi thân bay luôn xuống núi.
Nhưng ông vừa đi chưa được vài trượng, thình lình nghe gió lộng từ phía sau, có tiếng ai nạt lớn:
- Thằng già ăn mày, định trốn đi đâu đó?
Té ra Âu-dương-Phong vừa thức dậy trông thấy, vội cầm gậy ngắn phi thân đuổi theo, chận lại.
Hồng-thất-Công đã có ý định nhận lời cầu khẩn của Dương-Qua, cố nhẫn nhịn, tìm đường chạy thoát cho xong chuyện.
Nhưng Âu-dương-Phong lầm tưởng ông hoảng sợ cố ý lánh mình nên càng làm già đuổi riết. Y vung gậy ngắn đánh đập tứ phương quyết ngăn đường cản lối.
Phàm khi nghênh chiến cùng một địch thủ ngang tài phải giữ miếng ngay từ giờ phút đầu. Nếu để thua sút một đòn cũng đã bất lợi, huống chi Hồng-thất-Công đã tránh né nhường nhịn luôn mười ngón thì lúc cần lấy lại thế quân bình không phải dễ.
Đã hai ba lần suýt lâm nguy với cây gậy của Tây-Độc Âu-dương-Phong, Hồng-thất-Công không dám nhân nhượng nữa, phải tận lực múa bổng chống cự lại để cứu vãn tình thế.
Thình lình Âu-dương-Phong phóng một gậy đâm thẳng vào bụng dưới nếu lôi thôi sẽ lủng ruột ngay, nên Hồng-thất-Công vội vàng né qua một bên rồi múa bổng gạt mạnh một cái.
Nhưng lúc bỗng chạm phải gậy, Hồng-thất-Công có cảm giác như một cái roi đập phải bức tường sắt. Cây gậy của Âu-dương-Phong đứng sững nặng có ngàn cân. Hồng-thất-Công biết y đã vận chuyển toàn nội lực phổ vào ngọn cây để áp đảo mình. Nếu không cấp bách tận dụng hết khả năng nội công ứng phó thì nguy đến sinh mạng như chơi.
Thế là từ võ thuật, hai bên đã đem nội lực ra đấu nhau.
Đối với hai quái kiệt này bản lãnh đã đến mức linh diệu tuyệt kỹ, nếu kẻ nào chỉ sơ hở trong đường tơ kẽ tóc thì không bỏ mạng cũng mang tật suốt đời.
Từ quyền cước, đến côn bổng bây giờ qua nội lực, người nào cũng hiểu rõ quá nhiều công phu tài nghệ của đối phương cho nên không dám coi thường vì hễ chủ quan, nó mất một ly là chết liền.
Sau bảy ngày tranh tài về võ thuật thấy không qua mặt được Hồng-thất-Công, sáng nay Âu-dương-Phong nhất định đem nội lực ra đối chọi.
Suốt mấy chục năm qua, Hồng-thất-Công ghét cay ghét đắng bản chất hung bạo tàn ác của Âu-dương-Phong. Hễ có dịp là ra tay hạ sát mới đả giận. Nhưng càng võ gia, tâm tánh càng thuần hậu, lòng háo thắng cũng chẳng còn. Hơn nữa vì Dương-Qua đã hết lòng van xin cầu khẩn, nên Hồng-thất-Công không muốn ra độc thủ, chỉ đánh cầm chừng, có thủ nhưng không muốn tấn công, chờ hắn hở cơ là tẩu thoát.
Không dè Âu-dương-Phong lại vận chuyển nội lực hùng hậu như sóng cồn, thác chảy, khiến Hồng-thất-Công phải giật mình kinh hãi.
Suốt đời Hồng-thất-Công chú trọng khổ luyện về công lực cho nên tuy về già nhưng không đến nỗi tệ. Vì vậy nên cố vận hết nội công đối chọi. Cả hai bên cứ giữ mãi cái thế quân bình, không hơn không kém.
Dương-Qua để ý nhìn thần sắc hai người có vẻ khẩn trương, đem hết tâm lực vào cuộc so tài. Tuy hai người đứng yên không cử động nhưng cả hai cùng dồn hết nội lực như hai quả núi đang choảng nhau, nếu người nào sút một ít sẽ bị đè bẹp hay bị nội thương ngay.
Chàng lo ngại cho tánh mạng của Âu-dương-Phong, muốn thừa cơ phóng ám khí hay tập kích sau lưng Hồng-thất-Công để tiếp sức cho dưỡng phụ. Nhưng nhìn vẻ mặt hiền hậu đầy chánh khí hiên ngang của ông lão, Dương-Qua bỗng thấy thẹn cho cảm nghĩ thiếu đứng đắn của mình và nghĩ thầm:
- Hồng-Lão tiền bối quả là một bậc trượng phu đáng kính, ta không thể nào dùng thủ đoạn ám muội để hãm hại ông được.
Thình lình Âu-dương-Phong hét lên một tiếng vang trời, vụt quay đầu xuống đất, chổng cẳng lên trời, nội lực ngùn ngụt phát ra nghe vo vo, mà Hồng-thất-Công vẫn đứng trụ vững như pho tượng đồng không hề chuyển động tý nào.
Từ đầu đến gót chân của Âu-dương-Phong phát tiết một làn hơi trắng, ngùn ngụt bốc ra, cuộn khắp người của Hồng-thất-Công.
Hồng-thất-Công tăng gia nội lực để đánh tan luồng bạch khí này. Hình như ông chỉ muốn đối phó bằng cách chống đỡ chứ không muốn phản công lại như những lần trước.
Thế rồi hai bên cứ tận dụng toàn thể nội lực áp đảo nhau, cầm cự dằng dai từ giờ thìn đến cuối giờ ngọ. Hồng-thất-Công có vẻ kém sức, mà trái lại công lực Âu-dương-Phong cứ cuồn cuộn trào dâng như nước thủy triều.
Hồng-thất-Công than thầm trong bụng:
- Thằng Tây-Độc càng điên khùng càng lợi hại, ta đây tuổi càng cao, nội lực cũng kém sút, không khéo phen này ta bị nguy mất.

(Xin lỗi bạn đọc truyện bị thiếu 1 trang)

Hồng Thất Công đắn đo một chập rồi mới nói thêm :
- Ta có một món võ bí truyền của Cái Bang vô cùng kỳ diệu, muốn đem truyền lại cho con. Theo quy luật của Cái Bang thì môn võ này chỉ có thể độc truyền lại cho vị bang chủ kế vị để cầm giềng mối vạn mạng của bổn bang , tuyệt đối không dạy cho một kẻ nào khác, dầu vợ chồng con cái cũng vậy. Nay vì dưỡng phụ con có chọc tức nói khích, ta chịu không được mới đem dạy cho con đó.
Dương Qua mừng rỡ không xiết kể nhưng vẫn từ chối lấy lệ :
- Thưa lão tiền bối, nếu theo quy luật của Cái Bang, võ công ấy chỉ có thể truyền lại cho Cái Bang bang chủ mà thôi thì con đâu dám học. Vả lại dưỡng phụ con đang lúc điên điên khùng khùng, nói năng không đúng chỗ, hơi đâu mà chấp nệ những lời ông ấy nói. Dầu có truyền lại cho con rồi chưa chắc gì ông ấy thấu hiểu nổi.
Hồng Thất Công nói :
- Phàm những tuyệt kỹ võ công có hai phần : "tư thế" và "quyết khiếu". Phải biết cả hai chuyện mới đến chỗ hoàn toàn. Hôm nay ta dạy cho ngươi cái tư thế để sử dụng chân tay trong "Đả cẩu bổng pháp" chứ không truyền lại cái phép về "quyết khiếu" thì đâu có vi phạm quy luật mà hòng ngại.
Dương Qua nghĩ thầm :
- Đả cẩu bổng pháp là môn võ thuật trấn môn, quý báu nhất của Cái Bang đã duy trì uy danh của Bang này trên mấy mươi đời nay, chắc gì dưỡng phụ mình hiểu. Hôm nay Hồng lão tiền bối muốn dùng mình để biểu diễn thị uy cùng cha nuôi đây chứ gì.
Hồng Thất Công thấy Dương Qua lộ vẻ nghĩ ngợi cũng hiểu được những điều mà chàng đang thắc mắc nên nói cùng Âu Dương Phong :
- Này chú Tây Độc, thằng con nuôi của ngươi nó cũng thừa hiểu ngươi không thể nào sánh nổi với "Đả cẩu bổng pháp" của ta nên do dự không dám nhận biểu diễn vì sợ mất mặt cha nuôi đấy.
Âu Dương Phong tự ái nổi đầy bụng, trợn mắt nói :
- Này Qua nhi, con cứ làm theo ý hắn muốn đi. Sau khi con hiểu xong mấy cái thế võ quèn của lão rồi, ta sẽ chỉ cho con một vài bí quyết vô cùng ảo diệu mà hắn nhất định không bao giờ hiểu thấu nổi.
Thấy cả hai vị đều thúc ép, Dương Qua thấy khó nỗi chối từ đành lại trước mặt Hồng Thất Công chờ ông chỉ bảo.
Hồng Thất Công bảo chàng đi bẻ một nhánh cây nhỏ làm bổng rồi bắt đầu dạy tỷ mỷ từng ly từng tý tư thế trong "Bổng đả song khuyển" ( tức là một gậy đánh hai chó ).
Vốn được trời phú tư chất thông minh lanh lợi, học đâu hiểu đấy và nhớ kỹ càng, nên Dương Qua cầm bổng đứng lên biểu diễn được ngay.
Âu Dương Phong trông thấy đường bổng pháp quả nhiên kỳ diệu. Nếu mấy ngày qua mà lão ăn mày đem ngón này ra dùng, chắc mình chống đỡ không thể nổi.
Vì vậy, ông gọi Dương Qua để gỡ gạc lại phần nào danh dự :
- Được rồi, bây giờ con lại đây, cha dạy cho con phép "Nhất trượng sát song hùng" cho lão xem để mở rộng thêm tầm mắt của lão đôi chút.
Dương Qua lại gần, Âu Dương Phong tay chân múa máy, mồm giảng giải từ động tác cơ bản đến cái lối đánh đỡ, biến thế dọc ngang nhất nhất rành rẽ từng ly từng tý.
Dương Qua học xong, biểu diễn lại không sai một chút nào.
Hồng Thất Công gật đầu khen :
- Hay lắm, khá lắm đấy !
Thế rồi Hồng Thất Công lần lượt dạy cho Dương Qua cả 36 đường trong "Đả cẩu bổng pháp", phân tích những lối biến hoá kỳ diệu không biết đâu mà lần.
Đáp lại, Âu Dương Phong cũng đem ra dạy tất cả các bí quyết về "Công thủ" khiến Hồng Thất Công phải tấm tắc khen thầm.
Hai bậc lão anh hùng thi nhau đem tất cả các môn ruột bí truyền của mình dạy hết cho Dương Qua để biểu diễn lại trong suốt ba ngày liền. Đến cuối ngày thứ ba, Hồng Thất Công mới đem môn "đục biến" của môn múa bổng dạy nốt cho Dương Qua. Đây là một thế tối hậu của mọi bí quyết, có cả lối "bạt thảo tầm xà" ( vạch cỏ tìm rắn ) vô cùng kỳ ảo.
Dạy xong, Hồng thất công nhìn Âu Dương Phong nói :
- Ta có thể nói, đây là môn võ công tinh diệu nhất, dầu có thánh cũng không thể nào phá giải được. Mi cứ thử xem nào ?
Âu Dương Phong cứ đứng nhìn hoài, tìm mãi không biết cách nào để khắc chế nên cứ làm thinh suy nghĩ mãi.
Suốt đêm ấy, Âu Dương Phong không ngủ, nằm thao thức lăn lộn cố tìm cách phá giải và đến gần cuối canh hai mới tìm ra được cách, gọi Dương Qua thức dậy bảo :
- Ta đã có cách phá cái thế "Bạt thảo tầm xà" rồi. Mi đem trượng lại đây ta dạy cho ngay bây giờ.
Nghe tiếng nói của nghĩa phụ thay đổi khác giọng nói thường ngày , Dương Qua ngạc nhiên nhìn kỹ thì thấy tất cả râu tóc của Âu Dương Phong đã bạc phếch, sắc diện già đi hơn người mấy tuổi. Ghê thay cho tác dụng của một đêm lao tâm suy nghĩ.
Dương Qua khiếp hãi, định lại năn nỉ cùng Hồng Thất Công xin bãi bỏ lối thi đâu này đi, nhưng chàng chưa kịp làm thì Âu Dương Phong đã mở miệng thét vang gọi Hồng Thất Công ra đấu.
Hồng Thất Công đang ngủ trên ổ cỏ, nghe gọi bèn ngồi dậy bước ra liền.
Dương Qua ngại nguy hiểm cho dưỡng phụ vội nắm áo kéo Âu Dương Phong lại nhưng toàn thân của lão đứng sững như cột đá, vững như trời trồng không thể nào lay chuyển nổi. Chẳng biết làm sao hơn, chàng đành đứng phía sau canh chừng mọi sự bất trắc.
Thấy Âu Dương Phong đã tìm ra lối phá, Hồng Thất Công cười ha hả nói:
- Âu Dương lão trượng, nhà ngươi quả là bậc kỳ tài mới tìm ra được lối phá thế võ ấy. Ta hoàn toàn cảm phục và xin có lời thành thực khen ngợi người đấy nhé .
Âu Dương Phong võ nghệ cao siêu thật, nhưng tuổi cao, sức yếu, lại thêm dùng tận lực đấu nhau suốt mấy ngày liền, còn phải trải qua một đêm suy nghĩ quá sức nên đã hoàn toàn kiệt quệ.
Vừa nghe Hồng Thất Công nhắc đến hai chữ Âu Dương ông tự nhiên nhớ lại, trí óc như bừng sáng, tư tưởng như được mở rộng, ký ức nhớ lại bao chuyện đã qua trong dĩ vãng rõ ràng như một tấm gương soi, bất giác thích chí cười lên một tràng dài rồi thét lớn ;
- à ! Đúng là tên Âu Dương Phong. Tên ta là Âu Dương Phong rồi, đúng lắm, đúng lắm !
Tiếng của lão rống lên như tiếng chuông ngân, âm thanh rùng rợn vang dội bên tai như tiếng cười đắc chí của tử thần.
Hồng thất Công cũng thích chí vụt ngồi dậy ôm chầm lấy Âu Dương Phong. Hai ông lão cứ ôm lấy nhau cười ngất, tiếng cười kéo dài mỗi lúc một to, rồi nhỏ dần và cuối cùng thì tắt hẳn.
Hai thân hình cứ ôm nhau mãi không cử động.
Dương Qua sợ hãi liền kêu lớn :
- Dưỡng phụ, dưỡng phụ ! Hồng lão tiền bối ! Hồng lão tiền bối !
Tiếng gọi của chàng như rơi vào hư vô, vang bên sườn núi rồi tắt hẳn không lời đáp lại.
Thân hình hai ông lão cứ đứng sát vào nhau, trơ như hai bức tượng đá, như muốn nhắc lại cho người đời nhớ rằng : "đời người lắm chuyện bạc đen, không thèm nghe, chẳng thèm ngó gì nữa. Chết là giải thoát !"
* *
*
Rừng sâu vắng lặng hình như còn rơi rớt dư âm của chuỗi cười cuối cùng của hai nhà đại hiệp khách, suốt mấy mươi năm lừng lẫy giang hồ.
Dương Qua không thấy ai đáp lại, đến sờ vào lưng Hồng Thất Công thì thấy lạnh như băng , đặt thử tay lên ngực Âu Dương Phong cũng thấy không còn hơi thở nữa. Nhưng nhìn sắc diện hai người thấy vẫn tươi nhuận và bình thản như đang ngủ một giấc êm đềm .
Thiên hạ muôn đời về sau nghe lại chuyện này đều băn khoăn suy nghĩ :
Hai đại anh hùng võ lâm Bắc Cái và Tây Độc đã từng sống qua cuộc đời chém giết, làm lưu huyết biết bao nhiêu người. Họ xem nhau như thù số một , vậy mà lại cùng ôm nhau cưòi đến chết ngay trên đỉnh núi Hoa Sơn này .
Chẳng biết họ cười nhau là ngu ngốc hay kém cỏi, hay cười để xoá tan bao ngày hận thù chồng chất. Thật khó hiểu cho cái cười kỳ lạ, mà cũng không ai ngờ đến cái chết của hai quái kiệt võ lâm.
Dương Qua không ngờ được cái chết quá ngẫu nhiên và đột ngột như thế này. Chàng chỉ lầm thầm khấn vái mong sao đây chỉ là một cuộc chết giả cũng như ngày trước đây Hồng Thất Công đã chết giả trong ba ngày ba đêm liên tiếp. Biết đâu lần này ông cũng giả chết để khỏi có sự tranh chấp với dưỡng phụ mình.
Cầu khấn xong chàng ẵm hai người đem đặt tại giữa hang và ngồi ngay ở giữa để xem chừng ra sao.
Cứ để yên liên tiếp 7 ngày 7 đêm, Dương Qua thấy hai thây ma đã bắt đầu đổi sắc và có mùi nên chắc chắn là chết thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng ôm mặt khóc lóc một hồi rồi đào hai cái huyệt để an táng hai quái kiệt võ lâm, nằm song song bên cạnh nhau muôn đời trên núi tuyết.
Chàng loay hoay vác đá lên đắp thành hai cái mồ thật cao, rồi bước ra nhìn lại. Trên mặt tuyết vẫn in rành rành dấu chân của hai vị đã giẫm lên trong lúc cùng nhau kịch chiến.
Dương Qua âu sầu than nhỏ :
-" Dấu chân trên tuyết nay còn đó
Hình bóng người thân đã mất rồi "
Than xong, chàng lẳng lặng bước tới nhìn hai nấm mồ rồi đặt chân mình vào dấu chân của người quá cố, bất giác cảm thấy nỗi nhớ thương tràn ngập, thổn thức can tràng.
Nhớ lại hai người, chàng đau lòng hoài niệm :
- Suốt đời tung hoành dọc ngang, uy danh chấn động giang hồ, tiếng tăm cho lắm, tranh tài cho lắm rồi bất quá cũng vùi thây dưới ba thước đất cho tuyết dập sương pha, lúc sinh tiền họ đã giết chết bao nhiêu người, khuất phục bao nhiêu tài danh thiên hạ, thế mà ngày nhắm mắt lìa đời không có một manh chiếu bọc thân, cũng không tránh nổi thây sình xác rữa. Ôi ! đời người sống tham nhiều chết càng thối lắm ! Cuộc đời phải chăng là một giấc mộng, mới thấy đó đã mất liền. Thế mà ai cũng ham sống để tranh danh đoạt lợi, theo cái bả phù hoa .
Nghĩ vẩn vơ hồi lâu, chàng đứng tần ngần nhìn lại lần chót, cúi sụp lạy bốn lạy rồi quay mình xuống núi.
Xuống núi lần này, Dương Qua tuyệt nhiên không có một tham vọng chi hết, lòng lâng lâng như thoát tục, thản nhiên cất bước thẳng về phía trước, chẳng cần lựa chọn phương hướng, và cũng không có chủ định đi về đâu.
Trong thâm tâm chàng lúc nào cũng nghĩ :
- Cái thân cô độc này, dầu có đi đến nơi nào trên khắp bầu trời cũng chưa tìm được chốn định đậu. Biết đâu là nhà, là thân tộc ? Thà cứ đi lang thang cho đến ngày mãn phần hết số là yên thân.
Trong thời gian nửa tháng trên đỉnh Hoa Sơn tuyết phủ, Dương Qua có cảm giác như trải qua nhiều năm giữa thị trấn đông người.
Sống giữa chốn hoang sơn không có ai khinh, người trọng, chẳng bận rộn đến chuyện đời, chẳng oán hận giận hờn, mọi việc đều xem như đám phù vân lơ lửng, mới đó rồi tan mất ngay.
Chàng tự nhủ thầm ;
- Cuộc đời nhan nhản cả điều ngang trái, giàu trọng khó khinh, bao nhiêu tiền bạc hạnh phúc đều nằm trong tay một bọn quyền thế, dân nghèo thì cơ khổ cho đến mãn đời cũng chỉ có bàn tay trắng. Như vậy thì cuộc đời đâu có gì đáng thiết tha và bận tâm đến. Ta chỉ cần biết trọng những kẻ quý ta và khinh kẻ muốn hại ta.
Ngày nọ, chàng đặt bước đến xứ Thiểm Nam, nơi đây có cả một cánh đồng bao la, mênh mông bát ngát. Chàng ngừng chân phóng tầm mắt quan sát tận chân trời thấy toàn là cây khô lá úa, cỏ mọc lơ thơ, có vẻ vô cùng cằn cỗi. Mỗi luồng gió thổi qua lá vàng theo cát bụi bay mịt trời.
Thình lình từ phía Tây nổi lên nhiều tiếng sấm, rồi từng đám mây đen bao kín khắp bầu trời. Một đàn ngựa đông đen có vài trăm con chen nhau chạy gấp từ đằng xa lại, tiếng vó giậm vang lên rầm rập, cách chỗ chàng đứng độ một dặm thì dừng lại. Con nào con nấy đều có vẻ ngơ ngác, hình như đang lo sợ một kẻ nào đó. Dương Qua thấy đoàn ngựa rừng chạy lồng trên đồng hoang thì thích chí lắm, nghĩ thầm :
- Con ngựa có khớp yên cương vào, xem oai vệ đẹp đẽ lắm, nhưng đâu được tự do chạy nhảy như mấy chú ngựa rừng này.
Cũng như trên đời này biết bao nhiêu kẻ tự cao tự đại, xêng xang với mũ cao áo dài, oai nghi chốn thềm vàng điện ngọc, nhưng trên đầu họ có biết bao nhiêu sự ràng buộc áp bức, đâu có được thảnh thơi tự tại như ta đây. Cái thằng Dương Qua với mảnh áo xơ mướp, manh quần rách ống nhưng muốn dọc ngang tuỳ ý.
Bọn giàu sang co tiền bạc cho nhiều , có lụa là gấm vóc cũng chỉ cố che đậy cái xác thân dơ bẩn, tâm hồn ghẻ lở lúc nào cũng háo hức của ngon vật lạ, lăm le hãm hại lẫn nhau. Ngày nay ta sống với trái rừng nước suối, bạn với cảnh đẹp bao la, cõi lòng hồn nhiên thích sống cạnh thiên nhiên.
Đang trầm ngâm suy nghĩ về cuộc đời phù phiếm, nhân tình thế thái , Dương Qua nghe từ đằng xa có một giọng ngựa hý rất buồn bã. Chàng quay lại nhìn, thấy trên con đường gồ ghề đầy sạn đá, một con ngựa ốm nhom, lưng bày xương, ỳ ạch lôi một chiếc xe to tướng, chất đầy củi tiến về phía này.
Dương Qua thấy dáng điệu con ngựa ốm quá ư thiểu não, thật hợp với tiếng hý buồn bực vừa nghe. Chàng nhìn con ngựa nghĩ thầm :
- Có lẽ ngựa này thèm khát cái không khí tự do của mấy trăm đồng loại, xót cho phận mình éo le phải ỳ ạch kéo xe mà không có ai cùng cảnh ngộ để chia sẻ bớt số kiếp hẩm hiu chăng ?
Chàng mải suy tư mà con ngựa ốm đã kéo chiếc xe củi đi ngang qua trước mặt.
Con ngựa này tuy gầy ốm có lẽ vì thiếu ăn, lại phải làm việc quá sức, nhưng nom kỹ thì tầm vóc rất cân đối, chân cao, mình dài. Tội nghiệp cho nó, vì mình ốm gầy xương nhô lên rõ ràng từng cái một, lông rụng lơ thơ, ghẻ mọc khắp nơi, mới nhìn cũng phát ớn.
Trên chiếc xe chất củi đầy nhóc, một gã đại hán ngồi chễm chệ ngay phía trước, cứ mỗi lần con ngựa đi chậm một chút là thẳng tay nện tới tấp.
Dương Qua đã thấm thía với cuộc đời hẩm hiu bị thiên hạ giày xéo, khinh miệt, nay trông thấy con ngựa ốm bị chủ hành hạ tàn nhẫn quá nên cảm thấy đau lòng và liên tưởng số phân nó và số phận mình cũng chẳng khác gì nhau.
Vì thương tâm cho con ngựa khốn khổ, chàng cảm thấy đầu óc nóng bừng, lòng dạ xót xa, nước mắt chực trào ra nên đứng né sang một bên đường và tức quá không dằn được quát lớn ;
- Tên kia,ngươi không có lương tâm hay sao mà nỡ hành hạ con ngựa quá lắm vậy ?
Người ấy quắc mắt nhìn lại, thấy một chàng trai trẻ, quần áo lam lũ rách rưới như ăn xin, chực đứng ra can thiệp vào chuyện của mình nên giơ roi nạt lớn :
- Bé con tránh ra cho mau, không tao cho một roi võ sợ liền bây giờ .
Dương Qua bước tới một bước hét lớn ;
- Ngươi đánh nó một roi nữa, ta giết ngươi ngay lập tức.
Gã đánh xe không đáp lại, giơ roi thẳng tay quất mạnh vào đầu Dương Qua.
Dương Qua đưa tay nắm lấy ngon roi, giật mạnh rồi quất luôn vào người hắn mấy cái. Tên đánh xe đau quá té nhào xuống xe rên la lăn lộn, mặt mũi dính đầy đất, sưng bầm nhiều chỗ.
Con ngựa ốm nhìn thấy xấu nhưng khôn ngoan vô cùng. Nó biết kẻ hành hạ nó bị đánh đau nên cất cổ hý vang, dường như hả dạ lắm, rồi đến gần cọ đầu vào đùi Dương Qua như tỏ ý cảm ơn.
Dương Qua cảm động tháo bỏ dây cương cho nó rồi đưa tay hất nhẹ chiếc xe qua bên đường, xem bộ nhẹ nhàng như ném một chiếc hộp quẹt rồi đưa tay chỉ vào đàn ngựa hoang vừa mới phi ngang qua hãy còn lưu lại một đám bụi trắng và bảo
- Ta cho mi được tự do đi theo các bạn ngươi phi về hướng đó.
Con ngựa hình như hiểu biết ý chàng, cất tung hai vó trước lên cao, hý một tràng dài như để cảm ơn rồi chạy ngay về phía đó.
Không ngờ, vì nhịn đói lâu ngày và bị buộc mãi giữa hai gọng xe , bốn chân cóng quá, nên mới loạng choạng được mấy chục trượng đã té nằm dài, đưa bốn vó lên cao không đứng dậy nổi.
Dương Qua thương hại quá, vội chạy lại nâng nó lên xem nhẹ như nâng một con mèo rồi vỗ nhẹ vào cổ nó như để an ủi.
Gã đánh xe ngồi dậy trố mắt nhìn, thấy chàng thiếu niên xách chiếc xe như bó củi, nâng con ngựa như nâng con mèo thì biết chàng có dũng lực phi thường, không dám chọc nữa, vội vàng tìm đường chạy trốn.
Nhưng khi chạy độ nửa chặng đường, hắn bỗng dừng lại dậm chân la lớn :
- Ôi bà con ơi, có cướp, có cướp . Quân này đã cướp mất con ngựa của tôi rồi, Bà con ơi !
Dương Qua chỉ mỉm cười chẳng chút quan tâm, chạy lại lề đường bứt mấy đám cỏ non đút cho con ngựa ăn. Thấy con ngựa bị hành hạ khổ sở giống như hoàn cảnh của mình nên Dương Qua chạnh lòng thương mến nó lắm.
Khi ngựa ăn cỏ đã no, chàng vỗ nhẹ vào lưng nó nói nhỏ :
- Mi khỏi đi đâu xa nữa, từ nay cứ đi theo ta nhé.
Rồi chàng ung dung dắt ngựa đi chầm chậm, qua thị trấn mua lúa cho ăn thật no, rồi dẫn nó ra khe tắm rửa thật sạch.
Qua hôm sau ngựa đã bình phục, sức khoẻ tăng lên gấp mấy lần. Dáng điẹu không còn quá thiểu não như ngày hôm qua nữa. Lúc bấy giờ chàng mới cưỡi nó đi từng bước một.
Lúc đầu nó chạy còn ngập ngừng, nhưng một chập sau mau hơn và mỗi lúc càng chạy thật khoẻ.
Liên tiếp bảy tám ngày, Dương Qua cho ngựa ăn no nê, tắm rửa thường xuyên nên lông lá đã láng, mụn ghẻ không còn nữa và dáng điệu trông đẹp lắm .
Chàng thấy vậy mừng rỡ, càng chăm sóc con ngựa chu đáo, cho ăn uống no nê, bất cứ đi đến chỗ nào cũng buộc ngựa luôn một bên.

Một hôm, vào một thôn trang nọ, Dương Qua tìm quán trọ và kiếm thức ăn đỡ lòng. Bỗng thấy con ngựa nghênh mũi nhìn vào một hũ rượu gần đó, miệng hý vang như muốn đòi uống.
Dương Qua thấy lạ bèn gọi tửu bảo đem ra một hồ đổ vào bát, đặt ngay trước mặt nó. Con ngựa cúi xuống uống một hơi cạn ráo không còn một giọt.
Thấy vậy Dương Qua thích chí cười vang, cho là một chuyện hy hữu. Chàng bảo tửu bảo đem thêm. Con ngựa uống thêm cả mứòi bát thật lớn, mũi thở khịt khịt vẫn tỏ ý muốn uống nữa.
Dương Qua muốn thử thách tửu lượng của nó đến mức nào nên bảo tửu quán đem thêm rượu ra thêm nữa.
Tên tửu bảo thấy chàng ăn mặc rách rưới như ăn mày, sợ không đủ tiền trả nên nói khéo ;
- Tiệm tôi hết cả rượu rồi .
Dương Qua lặng thinh không nói một lời, móc túi trả tiền cơm, tiền rượu rồi nhảy lên ngựa đi liền.
Con ngựa có thấm hơi men, hừng nóng da thịt, tung bốn vó sải như bay,cây cối hai bên đường thi nhau lao ngược về phía sau như đèn kéo quân.
Nhiều lúc đang kiệu thật êm, nó bỗng nổi chứng, búng hai giò sau cao vút lên không rồi từ từ rơi xuống, khi chân vừa chạm đất thì bốn vó lại cất đều như đánh nhịp dòn tan trên đất cứng. Nếu người cưỡi ngựa hơi yếu nhất định phải té nhào gãy cổ trẹo chân hay trẹo xương sống ngay.
Dương Qua thì khác hẳn. Hễ ngựa càng lồng bao nhiêu thì chàng càng thích thú bấy nhiêu, và cho rằng ngựa hay phải có tật dữ.
Chàng đoán rằng :
- Sở dĩ con thiên lý câu có tánh bất thường, tinh nghịch, hễ gặp bất cứ con vật nào trên đường cũng phi vút qua đầu và đá hậu lại là vì trong người nó đã có sẵn tính ngang tàng, bất khuất của một con tuấn mã. Huống chi tron g thời gian qua nó chịu đoạ đày dưới làn roi của một đứa lái xe vũ phu quê kệch, bây giờ được thảnh thơi nên muốn tận hưởng những cái gì có thể tận hưởng được của không khí tự do. Khi trước người ta cho nó ăn ít mà làm nhiều, tài năng bị giảm sút, bây giờ được chủ biết tài, chăm sóc mến chuộng, nó cũng tỏ ra ngang tàng để bù lại những khi bị áp chế hành hạ quá đáng.
Thời may tính ngang tàng của con ngựa lại hợp với bản tính của Dương Qua cho nên chàng rất quý mến nó. Từ đó về sau, người và ngựa quyến luyến nhau như một đôi tri kỷ.
Vốn còn trẻ tuổi, ưa tinh nghịch hay đùa cho nên trên đường trường, Dương Qua để cho nó mặc tình rong ruổi đúng sức mà còn khuyến khích chạy mau hơn nữa.
Cứ theo đường mòn chạy mãi, chưa mấy hôm đã quá Lam Kiều, khỏi Thương Huyện rồi qua Long Câu trại.
Dừng lại Long Câu trại mấy hôm nghỉ dưỡng sức, rồi người ngựa lại lên đường nhắm hướng Kinh Tử quan.
Ngồi trên mình ngựa chẳng có việc gì làm, Dương Qua hồi tưởng những lúc đùa cợt Lục Vô Song và chọc tức Lý Mạc Thu rồi thích chí cười sằng sặc một mình.
Mặt trời vừa đúng Ngọ, Dương Qua bỗng gặp một bọn ăn mày. Cứ nhìn qua dáng điệu bên ngoài chàng có thể đoán được đây cũng là những tay cao thủ có hạng.
Nghĩ lại chuyện rắc rối cũ, chàng tự hỏi mình :
- Không hiểu Lục Vô Song có điều gì liên hệ trước kia với bọn này mà nuôi mãi hận thù đến nay, hễ gặp nhau là hậm hực.
Hay là bọn này có tiền cừu cùng Lý Mạc Thu , nên bất cứ người nào có liên hệ cùng Lý Mạc Thu , tất thảy đều là kẻ thù của họ nên quyết tìm cách thanh toán đấy chăng ?
Thấy ăn mày tụ hội đông quá, chỗ nào cũng có tụm năm, tụm bảy những chàng bị gậy quần áo lươm tươm nên chang để tâm theo dõi.
Đang lúc phân vân chưa hiểu ra sao , chàng bỗng nhớ đến Hồng Thất Công.
- Hồng Thất Công là cựu bang chủ Cái Bang. Tuy ta chưa hiểu rõ tôn chỉ mục đích của Cái Bang ra sao, nhưng chỉ cần nhìn thái độ uy nghi đại độ, quang minh chính đại của Hồng lão tiền bối thì cũng có thể đoán trước rằng bang Khất Cái phải là một bang có nhiều đức tính, hành vi chính đáng. Ta cũng nên lân la làm quen với họ, trước để hiểu thêm những người này, sau là để báo tin Hồng bang chủ đã qua đời cho họ rõ.
Được biết Dương Qua quen với Hồng bang chủ, ăn mày từ các nẻo kéo về , bị gậy cùng đường, ai ai cũng có lòng kính nể đối với chàng. Nhưng có một điều lạ mà mọi người đều phân vân tìm hiểu:
- Cứ theo lối ăn mặc bẩn thỉu rách rưới của Dương Qua thì có vẻ đúng là ăn mày rồi. Nhưng lạ một nỗi là ăn mày mà còn cưỡi ngựa ?
Nếu đi ăn xin mà cưỡi ngựa thì sang quá rồi, ai thèm bố thí cho nữa.
Dương Qua vô tình đâu biết điều tối kỵ đó nên cứ nhởn nhơ ngồi trên ngựa đi rong ruổi khắp phố phường.
Bỗng đâu có tiếng chim điểu kêu lớn, và từ không trung một đôi thần điêu từ từ sà xuống.
Một chú ăn mày đứng bên đường nhìn đôi chim điêu lẩm bẩm :
- Hoàng bang chủ lại sắp đến rồi đấy. Chiều nay có cuộc họp bất thường ở Cửu Thành.
Người bên cạnh nói :
- Không rõ có Quách đại hiệp đến dự không nhỉ ?
Người kia đáp :
- Điều đó chưa ai dám chắc được .
Khi ấy một người khác chột mắt, đứng nhìn Dương Qua cưỡi ngựa đi qua, đôi mắt lườm lườm, tỏ ý bất bình nhưng chưa nói ra.
Dương Qua nghe nhắc tới Quách Tỉnh và Hoàng Dung trong lòng đã hơi e ngại .
Ngày này đã lớn rồi, tính tình chàng không lất khất nông nổi như xưa kia nữa, cho nên bề ngoài vẫn giữ được vẻ điềm nhiên và nghĩ bụng :
- Ngày xưa ta sống dưới mái nhà họ Quách thật đã đổi bát mồ hôi để lấy bát cơm, thế mà từ lớn đến nhỏ nhà ông đều khinh thường áp chế ta mãi. Nhưng vì sức yếu và còn nhỏ dại, ta phải cam tâm chịu đựng. Ngày nay ta đã thoát ly ra ngoài ảnh hưởng gia đình này, bốn phương đâu cũng là nhà thì còn bận tâm đến họ làm gì cho mệt xác. Nếu họ còn ngược đãi khinh khi ta nữa, ta nhất định sẽ có phản ứng lại liền.
Chàng dự định giả một kẻ tứ cố vô thân đến xin nương tựa xem họ đối xử với mình ra sao.
Dự mưu xong, chàng tìm nơi vắng vẻ, lấy bùn đất bôi mặt, vò tóc cho rối bù lên, đưa tay tự đấm vài thoi vào mặt , khiến cho lưỡng quyền sưng vù như bị ai đả thương. Trên trán cũng cào xước luôn mấy đường như bị gai cào.
Nhìn Dương Qua lúc bấy giờ mặt mày sưng húp, trán xước mấy lằn rớm máu, quần áo đã rách rưới bẩn thỉu mà chàng còn lăn lộn dưới đất vài vòng nên càng lem luốc tàn tệ hơn nữa. Thật quả là một kẻ ăn xin chinh cống cuối chợ đầu đình.
Thay hinh đổi dạng xong, chàng dắt ngựa lững thững trở lại chen vào đám đông chứ không cưỡi nữa.
Có một người hỏi chàng ;
- Sao, cậu có đi dự "Đại yến" không ?
Dương Qua chẳng hiểu gì để trả lời, đành cứ ngơ ngác đứng ngó.
Thình lình cả sóng người xô lên, tràn vào lấn Dương Qua lọt ra phía sau chẳng nói năng gì được nữa.
Cả sóng người lần lượt kéo nhau đi như trảy hội. Trời về chiều, bóng hoàng hôn cổ miếu có mấy cây cổ thụ cành là sum suê, hai con thần ưng đang đậu trên cành cao nhất. Hai anh em họ Võ đang loay hoay xắt thịt cho đôi chim ăn.
Bữa nọ , Dương Qua lo nhìn Quách Phù mà không để ý đến anh em họ Võ. Nay có dịp, chàng cố ý nhìn , thấy hai người này cũng có ve oai nghi đường bệ, đáng mặt anh hùng. Võ Đôn Nho có vẻ cứng rắn mực thước, mỗi hành vi cử chỉ đều cẩn thận đắn đo, còn Võ Tu Văn thì lanh lẹ liến thoắng, hay xem chỗ này, đi chỗ nọ, ít khi điềm tĩnh như anh.
Võ Đôn Nho mặc áo bào tím, Võ Tu Văn mặc áo bào lam, cả hai đều buộc dây đơm gâm thêu hoa, trông có ve phong lưu tiêu sái, phong nhã hào hoa.
Dương Qua bước lại trước mặt hai người, cúi đầu chào, ngập ngừng một chút rồi nói :
- Kính chào nhị vị .... tôn huynh, mấy lúc nay nhị vị đều mạnh giỏi cả chứ ?
Ngay lúc ấy khắp nơi, xung quanh toà cổ miếu nhan nhản những người ăn mày bị gậy, quần áo rách tả tơi. Dương Qua ăn mặc cũng rách rưới, tiều tuỵ như mọi người nên không bị ai để ý.
Võ Đôn Nho cũng nhã nhặn vòng tay chào lại, đưa mắt nhìn Dương Qua nhưng không nhận ra được nên trả lời :
- Xin lỗi , nhân huynh là ai mà tôi quên mất ?
Dương Qua đáp :
- Tên họ của tại hạ chẳng có gì đáng làm rườm tai đại huynh. Tại hạ chỉ muốn được vào diện kiến Hoàng bang chủ thôi.
Ngay lúc đó, đằng xa có một giọng nói thanh tao như tiếng ngọc reo :
- Võ đại ca, em muốn gặp anh ngay. Việc mình không lo sao cứ đi lo chuyện thiên hạ mãi thế. Mau lên đi.
Võ Đôn Nho vừa nghe gọi, vội vàng quay đi ngay, chưa kịp trả lời cùng Dương Qua .

Dương Qua quay lại nhìn theo, thấy từ trong miếu có một nữ lang tuyệt đẹp , mặc áo màu hồng nhạt, thoăn thoắt đi ra. Nàng mặt đẹp như hoa, đôi mi vòng nguyệt, mũi thẳng mày cao, môi tươi như hoa hàm tiếu cười xuân, thân hình nở nang cân đối. Rõ ràng là Quách Phù , ái nữ của Quách Tỉnh đại hiệp.
Nàng không trang sức loè loẹt như bao nhiêu cô gái con nhà khuê các khác. Trên cổ nàng chỉ đeo một chuỗi hạt châu , lóng la lóng lánh, chiếu sáng ngời làm cho vẻ mặt hoa càng tăng thêm phần lộng lẫy diễm lệ.
Nhìn nàng rực rỡ như tiên nữ, Dương Qua nhớ lại thân mình áo quần như xơ mướp , bẩn thỉu lem luốc nên chạnh lòng quay đi nơi khác không nhìn nàng nữa.
Nàng vừa tới, hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cùng chạy lại xoắn xít một bên truyện trò vồn vã lắm. Võ Đôn Nho thì có ve mặt kiêu kỳ tự phụ, còn Võ Tu Văn thưa dạ luôn mồm ra vẻ một kẻ nịnh đầm thiện nghệ.
Vừa bước đi, Võ Đôn Nho bỗng sực nhớ lại câu chuyện Dương Qua hỏi mà mình chưa kịp đáp, quay lại nhìn chàng hỏi :
- Tôn huynh đến đây để dự "Anh hùng yến" phải không ạ ?
Dương Qua đâu hiểu "Anh hùng yến" là gì, do ai tổ chức để làm chi nhưng cũng buột miệng dạ ẩu cho rồi.
Võ Đôn Nho bèn đưa tay ngoắt một người ăn xin gần đó lại dặn :
- Nhờ anh tiếp đãi ông bạn này cho chu đáo rồi mời sang Kinh tử quan nhé .
Người ăn xin được lệnh đến gần Dương Qua lễ phép hỏi :
- Xin quý khách vui lòng cho biết rõ tên họ !
Dương Qua cho biết tên họ thật của mình. Chú ăn mày chỉ là một người vô danh tiểu tốt trong giới hành khất đâu có biết Dương Qua là ai nên không để ý đến
Khi Dương Qua hỏi lại họ tên thì người ăn xin trình bày lại lý lịch, cấp bậc của mình trong giới hành khất ;
- Tôi họ Vương, đứng hàng 13 trong hạng 2 túi của Cái Bang. Võ công tôi còn kém cỏi , nhưng được cái miệng mồm lanh lẹ hoạt bát nên được thượng cấp giao cho lo liệu việc tiếp tân.
Khai lý lịch rồi , hắn hỏi thêm :
- Dương huynh từ đâu về đây ?
Dương Qua đáp :
- Tôi từ Tây Bắc lại .
Người ấy vội hỏi :
- Như vậy chắc Dương huynh là môn đệ của phái Toàn Chân chăng ?
Chàng bực mình khi nghe nhắc lại ba chữ Toàn Chân phái nên lắc đầu đáp ngay :
- Không phải !
Vương thập tam bèn đem lời tán khéo :
- Như vậy chắc Dương huynh được mời đến dự "Anh hùng yến" , Dương huynh có mang thiếp mời theo đó chứ ?
Dương Qua đáp :
- Tiểu đệ chẳng qua chỉ là một kẻ phiêu bạt giang hồ, chưa có chi trên thiên hạ nên đâu có cái vinh dự được mời dự yến này. Trước kia tiểu đệ có quen cùng Hoàng bang chủ , nhân dịp đến đây, muốn gặp mặt để xin ít tiền lộ phí về quê. Sự thật là thế .
Vương thập tam tỏ vẻ bất bình, cau mày suy nghĩ một chặp rồi đáp :
- Hiện nay quan khách quá đông, Hoàng bang chủ đang bận tiếp đãi các bạn anh hùng bốn phương về dự "Anh hùng yến" nên không có thì giờ để tiếp Dương huynh.
Mục đích của Dương Qua là cố làm ra vẻ rách rưới tồi tệ để cho thiên hạ khinh khi, nên vừa nghe Vương thập tam nói thật đúng ý mình thì thích chí lắm và giả vờ than thở thêm :
- Xưa nay Hoàng bang chủ vẫn lừng danh con người hào hiệp không trọng phú khinh bần. Hơn nữa bao nhiêu người trong bang hành khất đều là những kẻ bần cùng đâu có giàu sang hơn ai, nhưng người nào cũng theo tôn chỉ cứu nạn phò nguy, phục vụ cho các thành phần khốn khổ. Tôi đoán chắc không khi nào bang chủ đi xem thường một kẻ bần cùng như tôi để chỉ hướng về những kẻ giàu sang quyền quý như Vương huynh tưởng .
Nghe giọng nói của chàng có vẻ bi thiết và tâng bốc Cái Bang mình nên Vương thập tam dịu giọng nói :
- Thôi, ông bạn cứ theo tôi ăn cơm đã. Mai đây về Kinh Tử quan sẽ nhờ vị công tử lúc nãy chuyển lời lên Bang chủ, còn việc được tiếp hay không tôi không dám quả quyết được .
Sở dĩ lúc đầu Vương thập tam tâng bốc "Dương huynh" là vì tưởng chàng được thiệp mời dự "Anh hùng yến" . Nhưng sau này được biết là không phải nên hắn đổi cách xưng hô ngay thấy Dương Qua tuổi kém thua mình .
Dương Qua đồng ý , tỏ lời cám ơn rồi bước theo Vương thập tam vào miếu dọn cơm rau ra đãi.
Theo quy luật của Cái Bang thì các bang chúng thực thụ dầu có được thiết tiệc, khách tiệc, rượu thịt phủ phê sang trọng đến đâu cũng phải ăn trước một vài món cơm thừa canh cặn để khỏi mang tiếng "vong bổn" rồi sau đó muốn ăn gì cũng được. Tuy nhiên đối với khách thì lúc nào cũng phải thết đãi đàng hoàng chứ không giữ thủ tục ấy.
Dương Qua đang ngồi ăn bỗng thấy một bóng trắng lướt qua trước mặt. Quách Phù đã đi đến, từ ngoài bước vào , vừa đi vừa nói chuyện luôn mồm như bắp rang. Nàng lo chuyện trò liến thoắng cùng anh em họ Võ nên không để ý đến Dương Qua đang ngồi ăn cơm bên cạnh tượng Phật.
Nàng nói :
- Nếu chúng mình đi ngay chiều nay thì chỉ trong một đêm là đến Kinh Tử quan chứ gì . Để tôi bảo bọn nó đưa đôi hồng mã của hai anh đến nhé.
Ba người cứ chuyện trò rồi đi lần ra hậu viện, lấy hành lý và khi sắp đặt trên ngựa xong rồi cùng đi ra khỏi miếu.
Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, xa dần rồi không nghe nữa.
Ngồi nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một nhỏ, Dương Qua đưa đũa quấy bát canh thừa, thấy đắng cay cho phận mình và ngẫm nghĩ :
- Thật đáng phiền cho lũ người kiêu kỳ xa hoa, lúc nào cũng coi thường người đói rách thản nhiên tiến qua cửa số để hợm đời. Nhân tình thế thái thật đáng nguyền rủa.
Chàng thấy nóng bừng trên mặt, muốn lên ngựa đuổi theo, xuất lộ hình tích coi lũ này đối xử ra sao để cho một vố cho hả lòng căm tức, nhưng đưa mắt nhìn phía trên có tấm biển chạm hai chữ "từ bi" , chàng thấy bao nhiêu căm hận đã tiêu tan và trở lại với tâm hồn hiền lành thủ phận và lẩm bẩm hai chữ "sắc không" .
Màn đêm đen kịt, cả bầu trời ảm đạm không một vì sao. Từ toà cổ miếu cho đến cái nhà to lớn trong miếu đều chìm ngập trong bóng đêm dày đặc. Chàng lại nghĩ đến một chuyện rồi mỉm cười lẩm bẩm :
- "Tắt đèn, nhà ngói như nhà tranh" , xã hội loài người có bình đẳng chăng cũng chỉ trong đêm tối,kẻ sáng người mù cũng như nhau, kẻ giàu người nghèo cũng không có gì để phô trương và chỉ cùng chung một định luật.
Nghe tiếng trùng khóc đêm khuya rì rầm , Dương Qua nghĩ thầm :
- Hoá công sanh làm chi voi to trùng nhỏ, đêm đêm trùng khóc có phải là để than thân trách phận hay phàn nàn cái bất công của tạo hoá đây chăng ? Nghĩ phận voi to và loài trùng dế nhỏ cũng chẳng có gì hơn nhau.
Nghĩ vẩn vơ rồi chàng thiếp ngủ từ lúc nào không biết.
Sáng sớm hôm sau, Vương thập tam gọi Dương Qua thức dậy để lên đường lên Kinh Tử quan.
Trên đường đi , hàng đoàn ăn mày cũng kéo nhau đi lũ lượt.
Chốc chốc, có một vài người trong các môn phái khác , trẻ già có đủ hình dạng cũng chen chân vào đám đông. Có lẽ họ đi xem hội hay được mời dự "Anh hùng yến" .
Dương Qua nhắc đi nhắc lại ba chữ "Anh hùng yến" mà không hiểu ý nghĩa gì. Chàng muốn nhờ Vương thập tam giải thích hộ nhưng ngại hắn từ chối nên làm thinh giả bộ ngây ngô không biết gì hết và cứ lầm lũi đi hoài.
Khi mặt trời sắp chen núi thi Dương Qua và Vương thập tam cũng vừa đến Kinh Tử quan.
Kinh Tử quan là vị trí trọng yếu nhất giữa hai tỉnh Phụng Thiên và Dự Châu, địa thế vô cùng hiểm trở, dân cư trù mật, chợ búa đông đúc hơn tất cả các địa điểm khác.
Chàng bước theo Vương thập tam đi khỏi thị trấn hơn 7 dặm thì đến một nơi có mấy trăm cây hoè cùng mấy hàng cổ thụ mọc quanh một trang viện cực kỳ to lớn, anh hùng hào kiệt từ các nơi lũ lượt kéo về đông như kiến cỏ.
Trong trang viện không biết bao nhiêu là phòng trại được dựng lên la liệt, nhiều quá đếm không xuể. Theo ước lượng của Dương Qua thì bao nhiêu phòng trại này có thể dung nạp trên hai ngàn người.
Vương thập tam đã biết phận mình hèn kém không thể nào dám gặp bang chủ trong lúc đang bận rộn nhiều khách này để xin cho Dương Qua được gặp mặt và xin tiền lộ phí. Vì vậy cho nên sau khi tìm được chỗ ăn nằm cho Dương Qua rồi thì lẻn ra ngoài tán chuyện cùng bạn bè.
Phòng của Dương Qua cũng khá rộng. Chàng ăn uống xong đứng tựa cửa nhìn quanh thấy phòng nào cũng đầy cả người, kẻ hầu người tiếp chạy qua chạy lại lăng xăng,cảnh tượng thật quá nhộn nhịp.
Chàng lạ lùng suy nghĩ :
- Chẳng biết chủ nhân trang viện này là ai, làm chức phận gì mà có một cơ nghiệp quá ư đồ sộ như vậy.
Chàng mải nhìn ngó vẩn vơ, lòng đang thắc mắc thì bỗng có tiếng phát loa nói lớn :
- Xin để ý ! Ai ở đâu ngồi đấy, chớ nên lộn xộn, ông bà Trang chủ sắp ra tiếp khách.
Tiếng loa vừa dứt, ba tiếng pháo lệnh nổ lớn "Đùng, đùng,đùng" như long trời lở đất. Tiếp theo đó bọn nhạc công đang đứng hai hàng dài ngoài sân từ cửa viện ra tận cổng, cử bài nhạc chào mừng thật là trọng thể.
Phía sau hai hàng tráng đinh là các vị quan khách anh hùng và các anh em trong giới bị gậy.
Vừa lúc ấy có hai người sánh vai nhau từ trong cửa viện bước ra, một người đàn ông và một thiếu phụ trạc độ bốn mươi.
Người đàn ông mình cao lớn, nước da hồng hào, lơ thơ vài sợi râu, mặc áo gấm thêu hoa thật là hiên ngang, oai phong lẫm liệt, tướng đi có vẻ là một tay đại thủ lãnh .
Người thiếu phụ da dẻ cũng hồng hào, mặt mũi phúc hậu, cốt cách phi thường, đáng mặt một phu nhân mệnh phụ, xuất thân con nhà quyền quý.
Trong đám tân khach có tiếng xầm xì trầm trồ :
- Lục trang chủ và Lục phu nhân !
Bước sau lưng vợ chồng Lục Trang chủ là một cặp vợ chồng khác , vừa trông thấy, Dương Qua thấy nóng bừng cả mặt, thần trí phân vân, đó chính là Quách Tỉnh và vợ là Hoàng Dung bang chủ Cái Bang.
Đã bao nhiêu năm xa cách không thấy mặt hai người, ngày nay gặp lại, Dương Qua cũng không thấy có gì thay đổi khác trước. Quách Tỉnh vẫn hiên ngang, phúc hậu và trầm tĩnh. Hoàng Dung thì đẹp như hoa, trên môi lúc nào cũng điểm một nụ cười tươi, lôi cuốn được cảm tình của ngay cả những người khó tính nhất.
Quách Tỉnh mặc áo dài vải thô, Hoàng Dung đã là bang chủ Cái Bang tuyệt đối không được ăn mặc quần áo loè loẹt, hoa hoè nên chỉ mặc một chiếc áo tía màu lợt lợt.
Nối theo sau Hoàng Dung là Quách Phù , tiếp đó là anh em họ Võ.
Trong đại sảnh, đèn đuốc thắp lên sáng rực, soi rực rỡ từ trong ra ngoài.
Nếu đứng ngoài nhìn vào, ai ai cũng phải thán phục cho lối trưng bày lộng lẫy của trang viện và náo nức trầm trồ các cặp nam nữ quý phái này, người nào cũng hiên ngang đẹp đẽ, trai anh hùng khí phách, gái yểu điệu diễm kiều. Dưới ánh đèn, mọi người đều lộ nét mặt vô cùng hân hoan sung sướng.
Mấy người tân khách ở mé trái đưa tay chỉ trỏ trầm trồ :
- Vị anh hùng đứng giữa chính là Quách đại hiệp. Người đứng kế là nữ hiệp Hoàng Dung, bang chủ Cái Bang . Còn nữ lang nào xinh đẹp như hoa đang đứng cạnh Hoàng nữ hiệp đấy ?
Người kế bên có vẻ thạo hơn, nói khẽ :
- Còn ai xa lạ nữa, nàng ấy quả là ái nữ của Quách đại hiệp rồi.
Người khác cãi lại :
- Không phải là con gái đâu. Nàng và hai thanh niên đi sau thảy đều là môn đệ của Quách đại hiệp đấy.
Dương Qua không muốn cho vợ chồng Quách Tỉnh trông thấy mặt mình nên đứng ra phía sau lưng của một người ăn mày, thân hình cao lớn, thập thò nhìn ra đằng trước....

Hồi 31

Đại Hội Cái Bang.

Ban nhạc cử lên nhiều bài khi hùng tráng, lúc mê ly, khi dồn dập như sấm động, lúc thoảng qua như gió mùa xuân.
Dương Qua đứng nghe tiếng nhạc lòng mê say với giọng sáo tiếng kèn, óc ngẩn ngơ suy nghĩ những chuyện xa vời.
Vừa lúc đó cửa ngoài có bốn vị đạo nhân từ từ bước vào.
Thoạt trông thấy mấy người này, chàng cảm thấy tấm thân xao xuyến nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh.
Người đi đầu mặt đỏ hồng hào, tóc râu trắng phau như tuyết , quả là Quang Minh Tử Hách Đại Thông, một trong bảy vị cao thủ phái Toàn Chân- Toàn Chân thất tử.
Người đi kế theo là một lão đạo cô ,cả tóc mi cũng trắng bạc, xưa nay Dương Qua chưa gặp mặt lần nào nên không rõ danh tánh.
Hai người đi sau rốt không ai xa lạ , chính là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, sánh vai nhau đi thong thả, vừa bước vừa chuyện trò.
Vợ chồng trang chủ từ trong đại sảnh bước ra bái chào làm lễ tham kiến và gọi lão đạo cô là sư phụ.
Kế đến là vợ chồng Quách Tỉnh, con gái là Quách Phù và hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cũng lần lượt chạy ra kính cẩn lạy chào đón tiếp.
Tuy trong rừng người , kẻ bàn tán ồn ào nhưng Dương Qua vẫn thính tai nghe được những lời đối đáp của đôi bên.
Chàng thấy một ông lão đứng bên mặt chỉ mấy vị và giới thiệu cho một người bạn biết :
- Vị lão đạo cô này là một vị nữ kiếm khách lừng danh của Toàn Chân phái tên là Tôn Bất Nhị đó.
Người kia nói :
- A, té ra là nữ hiệp Tôn Bất Nhị đã lừng danh Nam Bắc. Tôi đã từng nghe tiếng tăm vang dậy nhưng đến nay mới được gặp mặt lần đầu.
Ông lão nói thêm :
- Ngài là sư phụ của Lục phu nhân trang chủ. Còn Lục trang chủ thì không thọ giáo cùng lão đạo cô.
Lục trang chủ là Lục Quán Anh, con của Lục Thừa Phong. Xưa kia Lục Thừa Phong là đệ tử của Hoàng Dược Sư đảo chúa Đảo Đào Hoa, phụ thân của Hoàng bang chủ. Nếu tính theo vai vế thì Lục Thừa Phong và Quách Tỉnh ngang nhau, mà Lục Quán Anh thì dưới một bậc.
Vợ của Lục trang chủ tên là Trình Dao Ca, đệ tử của lão đạo cô Tôn Bất Nhị. Ngày trước hai vợ chồng trang chủ sống chung với cha là Lục Thừa Phong tại Quy Vân trang trên bờ Thái Hồ. Sau đó Âu Dương Phong đến đánh phá, đốt trụi cả Quy Vân trang. Lục trang chủ không đủ sức chống cự phải dời về Kinh Tử Quan là cơ sở ngày nay đây.
Thời còn niên thiếu, Trình Dao Ca gặp nhiều nỗi truân chuyên hoạn nạn , may nhờ có Quách Tỉnh và Hoàng Dung mấy phen cứu thoát, vì vậy cho nên đối với vợ chồng Hoàng Dung nói riêng và Cái Bang nói chung, Lục phu nhân vẫn mang một cái ơn rất lớn.
Lần này nhân dịp toàn thể Cái Bang họp đại hội và toàn thể anh hùng khắp nơi cũng được thiếp mời về dự "Anh hùng yến" nơi đây, tất thảy đều do vợ chồng Lục trang chủ bao hết mọi phí tổn. Số người quá đông, lẽ dĩ nhiên sự chi tiêu phải vô cùng tốn kém, có thể lên đến gần một nửa gia sản của chủ nhân. Tuy nhiên hai vợ chồng Lục Trang chủ là người hào phóng, trọng nghĩa khinh tài, vẫn không nề hà chút nào cả.
Khi ấy Quách Tỉnh mời Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị cùng bước vào đại sảnh để gặp mặt chư vị anh hùng.
Hách Đại Thông đưa tay vuốt chòm râu bạc, cất giọng sang sảng nói :
- Tất cả các huynh Mã , Khưu , Lưu, Vương đều có nhận được thiếp mời của Hoàng bang chủ , ai nấy cũng đã chuẩn bị để lên đường đi dự "Anh hùng yến" . Không ngờ vào giờ chót, Lưu sư huynh bị bệnh nên các vị sư huynh khác buộc lòng phải ở lại để lo săn sóc và tìm thầy thuốc men chạy chữa. Vì vậy nên bốn vị sư huynh có nhờ lão chuyển lời cáo lỗi cùng Hoàng bang chủ và Quách đại hiệp.
Hoàng Dung đáp lại :
- Không dám, xin nhị vị lão tiền bối đừng khách sáo. Được nhị vị niệm tình chiếu cố đến dự hôm nay cũng là một vinh dự cho Cái Bang lắm rồi. Chúng tôi chẳng còn đòi hỏi gì hơn nữa.
Tuy Hoàng Dung còn trẻ tuổi nhưng đã là Bang chủ của một tổ chức quan trọng nhất, nên Hách Đại Thông nể vì trọng vọng lắm.
Còn Quách Tỉnh và Doãn Chí Bình vốn đã quen biết và thân với nhau ngay từ ngày còn niên thiếu, do đó hôm nay gặp lại thì tay bắt mặt mừng chuyện trò vui vẻ lắm.
Lục Quán Anh nhân danh chủ yến, sai gia nhân dọn tiệc và mời chư vi anh hùng cùng vào ngồi dự.
Trong đại sảnh đèn đuốc sáng rực rỡ, bàn ghế la liệt, người đông như kiến, nói nói cười cười vô cùng náo nhiệt.
Tuy đã ngồi vào bàn nhưng Doãn Chí Bình cứ đưa mắt láo liên nhìn khắp chỗ, hình như cố tìm kiếm một kẻ nào đó. Triệu Chí Kính biết ý chàng , cười thầm trong bụng rồi ghé tai nói nhỏ :
- Sư đệ có gặp Long đạo hữu về dự tiệc hay không ?
Doãn Chí Bình thất sắc, chỉ nhìn lại, không nói gì hết.
Quách Tỉnh lắng tai nghe hai người nhắc đến vị đạo hữu họ Long thì cũng ngờ là một vị nào trong môn phái chứ không ngờ Triệu Chí Kính ám chỉ Tiểu Long Nữ.
Ông cũng vui cẻ góp lời :
- chắc nhị vị đang chờ một vị đạo hữu nào họ Long nhưng đến muộn phải không ?
Triệu Chí Kính cười hóm hỉnh và nói kháy :
- Thưa, vị ấy là bạn thân của Doãn sư đệ đấy. Bần đạo đâu dám đèo bòng đến.
Quách Tỉnh thấy thái độ hai người có ve khách sáo thiếu tự tin, đoán có lẽ giữa đôi bên có ẩn tình gì đây, nhưng không tiện hỏi thêm, quay sang nói chuyện với khách.
Chợt Doãn Chí Bình thấy Dương Qua đang ngồi lẫn lộn giữa đám đông thì trong lòng hồi hộp mất tự nhiên, sắc mặt tái đi trông thấy rõ. Chàng nghĩ thầm :
- Dương Qua có mặt thì thế nào Tiểu Long Nữ cũng đến đây và có lẽ sớm muộn gì rồi cũng xuất đầu lộ diện.
Nhìn mặt mày Doãn Chí Bình tái mét, Triệu Chí Kính và Quách Tỉnh cũng đều hết sức ngạc nhiên, vội nhìn ngay về hướng đó thì thấy có Dương Qua. Quách Tỉnh mừng quá lật đật chạy đến nơi nắm tay chàng ôn tồn nói :
- Qua nhi,chẳng hay con đến từ lúc nào. Sở dĩ vì đường sá quá xa xôi nên ta không biên thiếp mời con, ngại con đi vất vả. Con cùng đi với sư phụ sao không vào ngay mà cứ để sự phụ con nhọc công đi tìm kiếm con từ nãy đến giờ ?
Nguyên Quách Tỉnh ở Đào hoa đảo cách phái Toàn Chân quá xa xôi, hơn nữa lúc bấy giờ giao thông liên lạc rất khó khăn nên việc xung đột giữa Dương Qua và Toàn Chân phái ông vẫn chưa hề hay biết. Lần này đi dự Anh hùng yến , Triệu Chí Kính định đưa ra nói lại cho ông nghe nhưng chưa kịp. Chẳng ngờ lại gặp Dương Qua ở đây mà Quách Tỉnh lại ân cần đón hỏi, Triệu Chí Kính sợ rằng Dương Qua đưa ra nói trước. Khi nghe thấy Quách Tỉnh nói thế hắn mới biết Quách Tỉnh cũng chưa nắm rõ được tình hình nên buộc miệng nói :
- Bần đạo đâu có tài năng và diễm phúc được nhận Dương Qua làm đệ tử !
Quách Tỉnh nghe nói lạ lùng quá hỏi lại :
- ủa, tại sao Triệu sư huynh lại nói như vậy. Hay là Qua nhi đã có làm điều chi vô lễ xúc phạm đến sư huynh, hoặc chẳng nghe lời dạy bảo chăng ?
Triệu Chí Kính đưa mắt nhìn lên thấy trên đại sảnh anh hùng hào kiệt qua đông, ngại rằng nếu đưa việc này ra nói thì quả là dài dòng mà còn làm thương tổn đến danh dự của phái Toàn Chân nên phải dằn lòng cười nhạt một tiếng không nói gì hết .
Quách Tỉnh đưa mắt nhìn kỹ Dương Qua thì thấy mặt mũi sưng vù, trên má có bị nhiều vết trầy như bị ai cào, quần áo rách tả tơi, thân hình ốm o tiều tuỵ thì đoán có lẽ chàng đang sống trong một hoàn cảnh bi đát, nên chạnh lòng thương xót, đưa tay ôm choàng vào lòng vỗ nhẹ lên lưng như để an ủi vỗ về .
Dương Qua thấy bị Quách Tỉnh ôm chặt vào mình chưa rõ dụng ý gì nên vội vàng vận dụng nội công chống đỡ .
Quách Tỉnh thật lòng thương xót cháu, chẳng quan tâm đến sắc diện của chàng, ngó Hoàng Dung hỏi :
- Em có nhận ra ai đây không ?
Hoàng Dung đưa mắt nhìn Dương Qua từ trên xuống dưới và hỏi một câu để lấy lòng Quách Tỉnh :
- Hay quá, cháu về đây từ lúc nào đấy ?
Dương Qua không đáp lại, chỉ lấy tay gỡ tay Quách Tỉnh ra khỏi mình và nói nhỏ :
- Thân hình tôi dơ dáy bẩn thỉu lắm, xin lão trượng buông ra để khỏi làm lấm quần áo quý.
Câu nói đơn giản chân thật nhưng bao hàm nhiều nỗi cay chua đau đớn khiến cho Quách Tỉnh chạnh lòng thương xót nghĩ thầm :
- Tội nghiệp cháu tôi, không cha không mẹ, làm sao sung sướng được.
Ông âu yếm nắm tay Dương Qua kéo lại ngồi bên mình.
Dương Qua ghe xuống ghế và nói nhỏ nhẹ :
- Dạ,cháu ngồi đây được rồi. Xin bá bá đừng bận tâm , cứ lo tiếp các quan khách đi.
Quách Tỉnh nhận thấy chàng nói đúng vì nhìn xung quanh chư vị anh hùng đã tề tựu đủ cả. Ông cúi xuống vỗ vào lưng và bóp nhẹ vào vai chàng để tỏ ý thông cảm rồi trở lại ghế cũ rót rượu mời mọi người.
Qua ba tuần rượu, Hoàng Dung đứng dậy nghiêm trang lên tiếng :
- Thưa liệt vị , ngày mai mới là ngày chính thức của Anh hùng yến. Hôm nay còn nhiều vị ở xa chưa về kịp. Vậy kính mời liệt vị cứ ăn uống no say, rồi ngày mai chúng ta uống nữa.
Mọi người nâng chén vui vẻ nói :
- Chúng tôi xin vâng lời, Bang chủ chớ bận tâm.
Tiếp theo đó bọn tráng đinh khiêng các món ăn và đủ thứ đặt lên các bàn , nào thịt heo, thịt dê , bê thui, ... mỹ tửu không thiếu thứ gì. Bàn nào cũng la liệt đầy cả các món ăn.
Tiệc xong các vị anh hùng đều được hướng dẫn về phòng riêng nghỉ ngơi.
Khi ấy tại đại sảnh, Triệu Chí Kính lại gần Hách Đại Thông thưa nhỏ vài câu.
Hách Đại Thông nghe xong gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Thưa xong, Triệu Chí Kính chạy lại phía Quách Tỉnh, chắp hai tay lại vái dài một lễ và nói:
- Xin Quách đại hiệp rộng lòng tha thứ cho, bần đạo đã phụ lòng uỷ thác của đại hiệp.
Quách Tỉnh cũng chắp tay đáp lễ rồi nói lại :
- ủa , sao Triệu sư huynh lại nói như vậy. Hay là cháu nó đã có gì thất lễ cùng sư huynh chăng. Vậy xin mời các vị cùng vào trong để tôi gọi cháu nó ra la rầy ít câu dạy hắn ít bớt cái tính ngang ngạnh bướng bỉnh đi.
Quách Tỉnh nói lớn tiếng nên mặc dầu ở xa, Dương Qua vẫn nghe rõ từng tiếng một. Chàng tức mình nghĩ bụng :
- Nếu người mắng ta một câu ta sẽ bỏ đi ngay, tội gì ở lại đây để nghe những lời vô lối như vậy . Nếu người đánh ta thì dẫu tài mọn sức kém, ta cũng quyết tâm chống lại, không thèm nhẫn nhịn nữa .
Vì có dự định thái độ trước nên chàng thản nhiên chờ đợi không chút nào phân vân lo ngại như lúc ban đầu.
Quách Tỉnh đưa tay ngoắc chàng lại bên mình.
Trong lúc ấy, Quách Phù và anh em họ Võ ngồi ăn chung một bàn ở căn phòng bên cạnh.
Khi thấy cha mẹ nhận ra Dương Qua , Quách Phù cũng nhớ ra liền. Nàng sực nhớ lại anh chàng này lúc bé đã cùng sống chung với mình trên đảo Đào Hoa, vui đùa thân thiết lắm, chẳng ngờ chưa bao lâu mà đã thay đổi khá nhiều, lúc gặp lại nhận không ra.
Nàng bỗng băn khoăn suy nghĩ thêm :
- Phàm còn trẻ tuổi ai cũng lớn mau như thổi. Chỉ cách nhau vài ba tháng, khi gặp lại đã thấy khác liền, huống chi hắn cùng ta đã xa nhau bao nhiêu năm trời thì làm sao khỏi quên cho được.
Nàng bỗng nhớ thêm :
- à, không rõ anh chàng này còn nhớ câu chuyện tranh chấp nhau hồi trên đảo không ? Nếu còn nhớ thì chắc hẳn là oán hận mình lắm.
Nàng thấy Dương Qua ăn mặc quá tồi tàn, rách rưới thì đem so sánh với anh em họ Võ và suy nghĩ có vẻ khoái chí lắm :
- Nhìn hai anh em họ Võ xinh trai, đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng bao nhiêu thì trông anh chàng Dương Qua dơ dáy, rách rưới như ma lem thật quả là hai thái cực trái ngược nhau.
Nhưng chàng lại thương hại ngay và quay sang hỏi nhỏ Võ Đôn Nho :
- Ngày trước phụ thân em đích thân đem Dương Qua gửi cho Toàn Chân phái, không biết đến nay đã học hỏi tới đâu rồi, có giỏi hơn bọn mình không nhỉ ?
Võ Đôn Nho tỏ vẻ khinh thường nhướn mắt đáp :
- Quách sư phụ là đệ nhất anh hùng trên thiên hạ. Quách bá mẫu đã được ngoại tổ và Hồng Thất Công lão bang chủ truyền lại nhiều thế võ công tuyệt diệu. Hai vị đã hết lòng truyền thụ cho chúng ta thì hắn không thể nào bì nổi. Trên thế gian này làm sao tìm ra một bậc sư phụ ngang tài cùng Quách sư phụ và Quách sư mẫu. Vì vậy, chắc chắn tài nghệ của chúng ta phải vượt hơn hắn xa lắm.
Quách Phù gật đầu tỏ vẻ tán đồng và nói thêm :
- Xưa kia hắn đã tỏ ra là người thiếu căn bản, ngày nay dù cố gắng cũng chưa chắc tiến bộ được là bao nhiêu. Nếu hắn có bản lĩnh khá, đâu đến nỗi lang thang tiều tuỵ như vậy được.
Vừa lúc ấy nghe Quách Tỉnh cất tiếng cười , Hách Đại Thông và mọi người vào phòng để hỏi tội Dương Qua , Quách Phù bỗng nổi tánh hiếu kỳ đứng dậy nói :
- Chúng ta thử nấp phía ngoài nghe thử mọi việc xem sao.
Võ Đôn Nho e ngại nếu sư phụ biết sẽ trách phạt thì Võ Tu Văn đã lẹn miệng đáp :
- Hay đấy, mình đến rình thử cho biết !
Thấy Võ Đôn Nho còn ngập ngừng không nói , Quách Phù đã bước ra bỗng dừng chân lại nói gằn :
- Sao, anh không đi phải không ?
Nghe giọng nói của nàng có vẻ gay gắt, Võ Đôn Nho nghĩ dầu có từ chối cũng chẳng xong nên gượng cười đứng dậy đi theo .
Ba người đứng ngoài, ghé mắt nhìn qua khe cửa thấy trong phòng có đủ mặt vợ chồng Quách Tỉnh , Hách Đại Thông , Tôn Bất Nhị , Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính.
Khi ai nấy ngồi xong rồi, Quách Tỉnh bảo Dương Qua :
- Con ngồi xuống đi !
Dương Qua lắc đầu, ngước mắt nhìn ông đáp :
- Con không dám ngồi, sợ rằng như thế sẽ vô lễ với sư thúc, sư bá.
Miệng nói, mắt nhìn xung quanh một lượt, thấy toàn là những cao thủ võ lâm, kẻ nào cũng vẻ mặt lạnh lùng, khiến cho Dương Qua cũng thấy rờn rợn trong lòng .
Quách Tỉnh xưa nay rất trọng các vị trong phái Toàn Chân , đối với Dương Qua thì ông lúc nào cũng xem như hàng con cháu. Ông không muốn căn vặn nhiều e mang tiếng hạch sách áp chế trẻ con nên chỉ la rấy lấy lệ :
- Tại sao cháu to gan lớn mật, chẳng biết kính nể kẻ bề trên ?
Mắng sơ rồi ông quay sang thưa cùng các vị trong phái Toàn Chân :
- Kính thưa sư phụ , sư thúc, xưa nay thánh nhân đã dạy con người phải biết kính trọng ba ngôi Quân , Sư , Phụ. Học trò lúc nào cũng phải tuyệt đối tuân theo lời thầy chỉ dạy, xem thầy như cha , thế mà ngày nay tình sư đệ trong võ lâm mỗi lúc càng lỏng lẻo, chẳng qua là vì chúng ta cưng chiều bọn hậu bối quá nên chúng đâm ra lớn mật .
Ông nói năng từ tốn, ôn tồn không hề quát tháo nặng lời hay hạch sách như bao nhiêu ngừoi khác .
Triệu Chí Kính cười lạt rồi đứng dậy nói :
- Xin Quách đại hiệp đừng dạy vậy mà bần đạo càng thêm hổ thẹn. Bần đạo đâu dám nhận làm sư phụ Dương tiểu gia đây. Ngay tất cả anh em trong Toàn Chân giáo đây cũng không một ai dám ngỏ lời buộc lỗi ai, xin đại hiệp đừng nói nặng lời cùng "tiểu anh hùng" trước đám đông mà không phải .
Rồi hắn nhìn Dương Qua nói :
- Dương anh hùng hãy tha thứ cho bọn già có mắt không ngươi này nhé. Chúng tôi bất tài, đâu có đủ tư cách làm sư phụ ai !
Quách Tỉnh và Hoàng Dung thấy thái độ của Triệu Chí Kính có vẻ quá đáng , càng nói càng lộ vẻ căm hờn , thấy có điều khác lạ và suy nghĩ :
- Phàm học trò có lỗi , làm thầy rầy la đánh mắng là chuyện bình thường xưa nay. Tại sao y nói năng có vẻ móc ruột và bực tức như vậy nhỉ ?
Hoàng Dung lanh trí hơn, đã dự đoán được phần nào câu chuyện nên vội dùng lời khoả lấp đôi bên :
- Triệu huynh không cần phải giận dỗi xa xôi làm gì cho mệt trí. Cháu nó dại khờ, nhân có đủ mặt mọi người ,cứ vạch tội của hắn cho rõ ràng, tự nhiên hắn sẽ biết lỗi mà chừa ngay.
Triệu Chí Kính cười nhạt và lớn tiếng nói :
- Triệu Chí Kính này bất tài thiếu đức , đâu dám làm sư phụ ai, nói ra người ta sẽ phỉ nhổ vào mặt tôi đấy .
Hoàng Dung có vẻ không bằng lòng thái độ của Triệu Chí Kính nên nghĩ thầm :
- Gia đình ta cũng Toàn Chân giáo cũng chẳng có thân tình bao nhiêu. Trước đây bọn Toàn Chân thất tử bày trận Thiên cang Bắc đẩu vây khốn phụ thân ta là Hoàng Dược Sư, sau nhờ Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ đứng ra dàn xếp cùng Quách Tỉnh mới yên. Ngày nay nhớ lại chuyện này lòng ta vẫn còn bực tức. Nhưng nghĩ vì mọi việc đều thay đổi với thời gian , ta chẳng thèm quan tâm đến nữa. ấy vậy mà nay chú đạo sĩ này lại to tiếng lớn lời có vẻ vô lễ quá, thật không thể nào nhẫn nhịn được nữa .
Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị đã hiểu thấu được nỗi bực mình của Triệu Chí Kính nên không chấp nhất về sự to tiếng lớn lời của Triệu Chí Kính . Tuy nhiên hai người cũng đồng ý là thái độ ấy không phải là thái độ của một kẻ tu hành.
Nghĩ vậy nên Tôn Bất Nhị bảo Triệu Chí Kính :
- Nếu có điều gì hắn không phải thì cứ thẳng thắn trình bày cho vợ chồng Quách đại hiệp biết rõ và giải quyết, không nên hồ đồ như vậy, không xứng đáng là kẻ tu hành .
Tuy là đàn bà nhưng Tôn Bất Nhị là kẻ bề trên mà tính tình lại vô cùng nghiêm khắc nên đệ tử ai cũng kính nể. Vì vậy nên sau mấy lời ấy, Triệu Chí Kính không dám cãi lại , phải cúi đầu vâng dạ rồi rón rén trở về chỗ cũ .
Lúc bấy giờ Quách Tỉnh nghiêm giọng nói :
- Dương Qua ! Chắc con cũng nhận thấy thái độ khiêm cung lễ độ của sư phụ đối với bề trên . Sao con không noi theo gương ấy mà ăn ở cho đúng đắn và có lễ độ ?
Triệu Chí Kính định cải chính mình không phải là sư phụ của Dương Qua , nhưng Tôn Bất Nhị đã trừng mắt không cho phép nên vội làm thinh ngay và ngồi xuống .
Ngờ đâu Dương Qua vùng thét lớn :
- Hắn đâu phải là sư phụ tôi !
Câu nói quá đột ngột ,chẳng những làm cho Quách Tỉnh và Hoàng Dung ngạc nhiên mà Quách Phù và hai anh em họ Võ đang nấp ngoài cửa cũng kinh hồn vì không ai có thể ngờ trước được.
Quách Tỉnh nghĩ bụng :
- Phàm cổ nhân có câu "Nhất tự vi sư, chung thân như phụ" , một ngày là thầy, suốt đời cũng coi như cha đẻ. Hơn nữa trong quy luật võ lâm, nghĩa thầy trò được xem trọng lắm. Mình đây ngày còn niên thiếu đã lạy thờ Giang Nam thất quái làm thầy, nhờ công ơn dạy dỗ nên người . Sau được Hồng Thất Công truyền dạy cho nhiều thế võ công thượng thặng trùm thiên hạ, lúc nào ta cũng xem tình thầy trò nặng như núi , sâu như biển. Thế mà không ngờ ngày nay thằng này quá ngỗ nghịch chẳng xem thầy ra cái quái gì hết ?
Nghĩ tới đây, Quách Tỉnh tức quá, xanh mặt trợn mắt điểm mặt Dương Qua thét lớn :
- Sao, mày .... muốn ... nói sao ?
Hoàng Dung xưa nay chưa thấy chồng giận dữ đến mức đó bao giờ, nay thấy vậy lật đật dùng lời nhỏ nhẹ khuyên nhủ cho dịu bớt :
- Quách ca , đừng nóng giận lắm. Gặp thằng cháu ngỗ nghịch dạy không được thì cứ cho nó một quyền xong đời, hơi đâu mà bận lòng nhọc trí đến như vậy .
Dương Qua lúc đầu cũng e dè lo ngại, chừng nghe Hoàng Dung nói như vậy, lòng tự ái dâng lên, sinh liều nghĩ bụng :
- Bọn bay có cậy đông , ỷ lớn hiếp người , ta cũng quyết chống lại đến cùng, rủi mất mạng thì thôi chứ có chi đâu mà sợ ?
Nghĩ xong, chàng không kể gì nữa , oang oang quát lớn :
- Ta vốn là đứa bé bất lương, mất dạy, không có hân hạnh được học võ công của mấy người . Nhưng ta cũng có một điều hết sức ngạc nhiên là chẳng hiểu vì sao các người mang danh anh hùng hiệp nghĩa, bản lãnh siêu quần, thế mà nỡ mang tâm đi dùng thủ đoạn bất lương để lừa đảo một đứa bé khốn khổ mồ côi cha mẹ ...
Nhắc đến bốn chữ "mồ côi cha mẹ" chàng bỗng xúc động tâm tình, nước mắt tuôn trào như suối, nhưng cũng cố bặm môi cố dằn cơn nức nở nghĩ thầm :
- "Phen này dầu chết thì thôi, ta cũng quyết không để sa lệ trước mặt bọn này để cho chúng đem lòng khinh miệt".
Quách Tỉnh nổi giận nói :
- Vợ ta và sư phụ mi đã hết lòng dạy mi võ nghệ chỉ vì niệm tình ngày trước đã giao du cùng cha mi, ai lại cố tâm lừa đảo mi làm gì mà mi lại mở miệng nói những câu vô hậu như thế hả ?
Dương Qua mỉm cười mỉa mai đáp :
- Riêng Quách bá bá hết lòng thương tôi, nghĩa ấy tôi không thể quên được .
Hoàng Dung cũng nói trước để bào chữa cho mình :
- Nếu Quách bá mẫu có điều gì sơ thất cùng cháu, cháu đem lòng oán hận cũng phải đấy.
Dương Qua nổi nóng đáp lớn :
- Dầu Quách bá mẫu có không tử tế với ta, ta cũng đâu thèm oán hận. Nhưng ta thử hỏi bà đã dạy võ nghệ cho ta từ bao giờ, được môn nào. Hay chỉ dạy vớ vẩn mấy câu sách , để đọc như đọc vẹt, phòng sau này đi luồn cúi thiên hạ tìm những cái hư danh hay chăng ?
Nói đến đây lòng uất hận tràn lên bồng bột, Dương Qua chỉ thẳng vào Triệu Chí Kính và Hách Đại Thông gằn lên từng tiếng một :
- Còn hai cái hận máu này, thế nào ta cũng lấy máu để đòi nợ máu trong một ngày gần đây.
Quách Tỉnh quá đỗi ngạc nhiên vội hỏi :
- ủa , cái gì mà lạ thế ? Cháu muốn nói sao ?
Dương Qua càng to tiếng nói :
- Lão đạo sĩ họ Triệu kia, ngươi xưng danh sư phụ ta, chẳng hay ngươi đã dạy cho ta một ngón võ, một thế quyền nào chưa. Điều đó ta cũng chưa trách lắm. Nhưng ta thử hỏi , ta đã có tội tình gì mà người manh tâm gọi những tên đạo sĩ khác hùa nhau để giết ta ? Dầu cho Quách bá mẫu không dạy ta một miếng võ nào, bọn Toàn Chân không hề chỉ cho ta một đường kiếm , nhưng nếu bọn ngươi có tiểu tâm áp bức đánh ta, ta cũng sẵn sàng nghênh địch, dù cho đến chết cũng chẳng cần đâu .
Chàng chỉ luôn vào mặt Hách Đại Thông trợn mắt hỏi lớn :
- Thằng già họ Hách kia, tại sao ngươi nỡ đang tâm hạ sát một lão bà chỉ vì bà ta có lòng thương xót đùm bọc cho một đứa bé mồ côi ? Mang danh một đạo sĩ tu hành, tại sao có những hành vi ác độc như vậy ? Mi hãy tự vấn lương tâm về việc làm của mình xem có đúng hay không hả ?
Nhớ đến cảnh tượng Tôn bà bị chết thảm thương quá, Dương Qua uất hận tràn trề, nhảy tới thoi đại vào mặt Hách Đại Thông .
Kể về võ công và đạo đức , thì Quang Minh Tử Hách Đại Thông là một trong những người hữu danh nhất trong Toàn Chân thất tử, được người đời ca tụng tặng cho bốn chữ "cực cao cảnh giới" . Từ khi lỡ tay giết chết Tôn bà ngày nọ, ông vẫn thường ân hận mãi về hành đông nông nổi của mình. Ngày nay nghe Dương Qua nhắc lại, ông bỗng chạnh lòng, hồi tưởng hình ảnh Tôn bà bị ngã gục trước mặt mình, máu tuôn lai láng nên từ từ đứng dậy, rút thanh gươm đang cài sau lưng Triệu Chí Kính , nhìn thẳng vào Dương Qua .
Mọi người đinh ninh ông sẽ dùng gươm này để trừng trị cái tội hỗn láo của Dương Qua .
Quách Tỉnh dự định đứng ra can thiệp.
Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy ông trở chuôi gươm trao cho Dương Qua, từ tốn nói :
- Mi nói đúng lắm . Mấy năm nay lúc nào Hách Đại Thông này cũng ăn năn mãi về hành động sát nhân của mình. Vậy hôm nay tuỳ ý mi sử trí, lão chẳng hề kháng cự tý nào đâu. Cứ nhận gươm và ra tay rửa hận cho Tôn bà đi.
Sự việc diễn ra quá đột ngột, ngoài sức tưởng tượng và ước đoán của mọi người.
Quách Tỉnh sợ Dương Qua giật gươm làm bậy nên vội lớn tiếng nói :
- Qua nhi, không được vô lễ đấy !
Dương Qua tự xét thấy trước mặt có Quách Tỉnh và Hoàng Dung , không dễ gì mình báo thù được cho Tôn bà nên lạnh lùng mỉa mai nói :
- Phải lắm. Ngươi đã già kinh nghiệm nên xử sự phải lắm. Ngươi thừa biết Quách bá bá và Quách bá mẫu đời nào để cho ta được tự do giết mi nên mới làm ra vẻ anh hùng trao gươm cho ta để loè thiên hạ. Nếu không, đời nào ngươi dám làm như vậy .
Hách Đại Thông vốn là một bậc võ lâm tiền bối , nay bỗng nhiên bị một thiếu niên như Dương Qua sỷ nhục trước mặt mọi người , làm sao chịu đựng nổi . Lưỡi gươm đưa ra không được, thu lại cũng không xong, ông uất quá, thét lớn một tiếng , bẻ thanh gươm làm hai đoạn vứt trên mặt đất và kêu lớn :
- Thế là hết , hết rồi !
Nói xong phi thân khỏi thư phòng rồi mất dạng.
Quách Tỉnh vội vàng chạy ra giữ nhưng không kịp nữa .
Ông trở vào đưa mắt nhìn Dương Qua , Tôn Bất Nhị và mọi người, lặng người suy nghĩ :
- Cứ xem thái độ thằng này thì có lẽ nó không nói bậy. Chắc việc này phải có nhiều uẩn khúc mà nó là kẻ chịu đựng phần thiệt thòi đau khổ nên nó mới có những cử chỉ như thế này.
Nghĩ vậy ông hỏi Dương Qua :
- Nếu trong mấy năm qua , các vị trong Toàn Chân giáo không truyền võ nghệ cho con thì ta hỏi con ở đâu và làm công việc gì, tại sao thân hình quá ư tiều tuỵ như vậy ?
Nghe câu hỏi này, lòng Dương Qua đã lắng dịu phần nào nên đáp :
- Ngày Quách bá bá lên Trùng Dương cung đánh bại mấy trăm đạo sĩ rồi ra về, bọn này đã cố tâm hành hạ đánh đập tôi đến chết đi sống lại nhiều lần. Họ xem tôi là kẻ tử thù chứ có dạy cho tôi một miếng võ nào đâu. Bao nhiêu năm qua tôi đã sống những ngày cơ cực lầm than nhất đời, những tưởng không bao giờ nhìn thấy thiên hạ, hưởng ánh sáng mặt trời và cũng không ngờ ngày nay còn được gặp Quách bá bá nữa.
Nói đến đây chàng cảm động quá đứng lặng yên.
Thấy Quách Tỉnh có vẻ tin lời Dương Qua nói nên Triệu Chí Kính đứng lên cướp lời nói lớn :
- Tất cả huynh đệ trong Toàn Chân giáo đều là những người trọng nghĩa khinh tài, hành vi lỗi lạc, khi nào lại có những hành động vô lý như mi đã đặt điều nói láo. Ai đi hành hạ mi đâu ?
Quách Tỉnh vốn bản chất trung hậu, ngay thẳng, nghe Dương Qua nói là tin ngay. Hoàng Dung lanh lẹ trí trá hơn nhiều, khi nhìn thấy nét mặt của Dương Qua luôn luôn thay đổi , thỉnh hoảng len lét nhìn mình có vẻ e dè, thì đoán bên trong vẫn còn điều gì uẩn khúc nữa, chứ chưa nhất thiết như lời hắn đã thuật lại.
Nghĩ xong Hoàng Dung hỏi :
- Theo như mi nói, thì mấy năm qua mi làm việc không công cho Toàn Chân giáo phải không ?
Nói xong Hoàng Dung bất chợt vung tay, vận chưởng đập mạnh vào đỉnh đầu Dương Qua một cái, bàn tay xoè ra điểm luôn vào huyệt Bách hội và huyệt Thượng Tỉnh là hai huyệt quan trọng nhất trong người, nếu bị trúng phải là chết ngay tức khắc.
Quách Tỉnh thất sắc gọi lớn :
- Dung em , không nên như vậy !
Miệng kêu tay vung ra đỡ đòn. Nhưng Hoàng Dung xuất thủ theo thế "Lạc Anh Chưởng" lanh lẹ quá mức, hễ đánh ra là trúng ngay nên không đỡ kịp nữa .
Dương Qua muốn tránh nhưng nghĩ thầm :
- "Với bản lãnh của Hoàng Dung, mình né tránh làm sao nổi. Nếu đỡ được , bà tiếp tục thế khác cũng không xong. Biết đâu bà muốn thử xem quả thực mình không biết võ công như đã nói chăng ? "
Nghĩ vậy, chàng cứ đứng yên lặng nhận đòn không hề né tránh. Nếu ra tay thật tình thì Dương Qua không tài nào tránh né hay chịu được đòn này, nhưng đây chỉ là một thế thử thách của Hoàng Dung , nên chiêu thức đưa ra tuy mau lẹ nhưng chỉ đánh khẽ mà thôi .
Thấy Dương Qua không phản ứng gì mà vẻ mặt có vẻ lo sợ, Hoàng Dung mới tin chàng chưa được truyền thụ võ công nên mỉm cười nói :
- Mi chưa được học võ nghệ là một điều may mắn lắm đấy !
Tuy miệng nói như vậy nhưng trong thâm tâm Hoàng Dung vẫn chưa tin chắc là Dương Qua lại chưa học võ công của Toàn Chân giáo vì bà chợt nhớ lại :
- Có lẽ mình cũng lầm gian kế của thằng ranh này rồi. Ngay từ lúc trên Đào Hoa đảo hắn đã dùng được thế "Hàm mô công" để đánh người , như thế hắn đâu phải hoàn toàn không biết võ nghệ. Ta cần phải thử thách thêm một lần nữa mới chắc được .
Dương Qua nghe Hoàng Dung nói vậy chỉ yên bụng được phần nào, chứ trong lòng dự đoán là vẫn còn nhiều thủ đoạn nữa sẽ được thi thố. Vì vậy nên lúc nào chàng cũng luôn để ý đối phó để khỏi bị lật tẩy.
Khi đó Hoàng Dung hết nhìn Dương Qua đến Triệu Chí Kính, bỗng nghĩ ra một kế, mỉm miệng cười thầm .
Triệu Chí Kính thấy Hoàng Dung đánh thử, Dương Qua ranh mãnh làm bộ không chịu tránh né nên Hoàng Dung đã tin lời và ngó mặt mình mỉm cười mỉa mai nên nổi nóng nghĩ bụng :
- Thằng nhóc con này thật lắm cơ mưu , xảo quyệt đến nỗi Hoàng Bang chủ cũng phải lầm kế. Ta phải khám phá và vạch mặt hắn ra mới được.
Nghĩ xong hắn điểm mặt Dương Qua nạt lớn :
- Ranh con, nếu mi quả tình không biết võ công cứ nói thẳng ra đây trước mặt mọi người, nếu không ta quyết không tha mạng . Sống chết tuỳ nơi mi cả đấy, hãy lựa chọn lấy mà nói thật đi .
Triệu Chí Kính thừa biết Dương Qua võ công cao hơn mình một bậc nên quyết tâm nói khích để chàng lộ chân tướng ra , cho mình khỏi mất mặt cùng Quách Tỉnh. Nếu Dương Qua cứ khăng khăng đóng vai người không biết võ nghệ thì mình cứ hạ sát cho rồi .
Vì vậy nên miệng nói, tay y đã vung lên đập mạnh vào ngừoi Dương Qua mạnh như búa bổ.
Quách Tỉnh sợ nguy đến tính mạng Dương Qua vội gọi lớn :
- Hãy ngừng tay lại, sao nóng nảy vậy ?
Ông định ra tay can thiệp , nhưng Hoàng Dung đã đưa tay níu lại nói nhỏ :
- Mặc kệ chúng nó thử xem sao ?
Sở dĩ Hoàng Dung ngăn cản chồng đừng can thiệp vì đoán rằng trong lúc Triệu Chí Kính đang nóng giận thế nào cũng dùng những chiêu thức hiểm độc để hạ thủ. Lẽ cố nhiên Dương Qua phải dùng những thế võ đã học hỏi được ra chống cự để tự vệ và sẽ lộ liễu sự dối trá ra liền .
Quách Tỉnh tuy chẳng hiểu đầu đuôi sự việc ra sao. Ông chỉ đoán rằng trong việc này thế nào cũng có uẩn khúc chi đó và có lẽ Hoàng Dung lanh lợi hơn đã biết rồi . Ông cũng nghe theo đứng im để xem và định bụng nếu Dương Qua không biết võ công thật hoặc nếu bị bức bách quá đáng thì sẽ ra tay giúp đỡ .
Triệu Chí Kính đưa tay thoi ra một quyền, nhưng Dương Qua không né đỡ, cứ điềm nhiên chịu trân nên tức giận vô cùng quay về phía Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình phân trần :
- Sư thúc và sư đệ cũng đã thấy rõ ràng, thằng ranh này quá sức xảo trá. Hắn muốn đóng kịch giả vờ không biết võ để lừa dối thiên hạ, lãnh phần phải về mình và chọc tức tôi mãi. Phen này tôi quyết đánh chết hắn để trừ một phần tử gian manh quỷ quyệt. Sau này xin nhờ nhị vị trình lại Giáo chủ giúp dùm tôi.
Tôn Bất Nhị thừa biết Dương Qua phản bội Toàn Chân giáo và cố tình trêu tức Triệu Chí Kính nên bảo rằng :
- Quân lừa thầy dối bạn ấy cũng nên xử đi cho rồi, để làm chi nữa.
Nguyên Tôn Bất Nhị là một vị lão ni đạo đức hiền lành, không khi nào có dụng ý sát nhận nhưng vì đã hiểu rõ tài nghệ của Dương Qua nên giả bộ nói câu ấy khích chàng nổi tức đánh lại, hoặc cũng không dám tiếp tục giả bộ ngây ngô để nhận đòn.
Triệu Chí Kính được sư thúc tán đồng ý kiến nên càng thấy yên chí, dùng chân phải đạp một đạp thật mạnh vào bụng Dương Qua theo thế "Thiên sơn phi độ" . Thế này bao gồm cả âm, dương, mềm cứng, mới trông vào thì rất dũng mãnh nhưng thực ra thì không nguy hiểm bao nhiêu.
Toàn Chân giáo đem thế này để huấn luyện các đệ tử mới nhập môn, tuy lợi hai với những tay mới chứ Dương Qua thì đâu có xem ra gì .
Theo lệ thường trong Toàn Chân giáo , mỗi khi dạy thế "Thiên sơn phi độ" thì dạy luôn thế "Thoái mã " để tránh đòn. Sở dĩ Triệu Chí Kính dùng thế này là để cốt nhử cho Dương Qua theo thói quen tự nhiên lùi ra sau để né tránh. Như thế sẽ có đủ bằng cớ là chàng có thọ giáo với võ thuật của Toàn Chân giáo .
Nhưng Dương Qua ranh mãnh đoán được mưu ấy nên không hề thoái bộ né tránh mà chỉ đưa tay ôm bụng rồi ngồi xuống nhăn nhó la đau.
Triệu Chí Kính tức giận điên người , vận sức vào chân đạp thêm một cái nữa, sức mạnh có thể phá vách bể tường , nhưng Dương Qua đã đề phòng, một mặt cố sức chịu đựng, một mặt dùng tay trái ôm chân Triệu Chí Kính rồi điểm nhẹ vào huyệt "Thái cốc"
Phép điểm huyệt của Dương Qua đặc biệt ở chỗ là chàng không xỉa thẳng ngón tay vào huyệt đạo mà chỉ giả vờ xô nhẹ vào chân địch thủ, tự nhiên huyệt "Thái cốc" chạm vào ngón tay. Triệu Chí Kính bị chồn chân mất thăng bằng té nhào trên mặt đất.
Quá xấu hổ vì bị té bất ngờ, Triệu Chí Kính lồm cồm bò dậy, mặt mày đỏ gay, bẽn lẽn đứng nhìn mọi người. Doãn Chí Bình nín thinh không nói gì hết. Tôn Bất Nhị đứng dậy khen lớn :
- Chú bé tài thật ! Tài thật !
Từ xấu hổ đến tức giận, từ tức giận trở nên liều lĩnh . Triệu Chí Kính từ từ đứng dậy, mắt trừng trừng nhìn vào Dương Qua, dùng tay trái giả đập vào hàm mặt của Dương Qua rồi bất thình lình trong ống tay tống một đòn thật mạnh từ dưới lên trên móc vào quai cằm. Dương Qua đâu có ngán những thế võ này. Chàng ngấm ngầm vận dụng nội công của "Ngọc nữ tâm kinh" để chịu đựng, thành thử mấy đòn của Triệu Chí Kính tuy trúng được mục tiêu nhưng chẳng làm chàng đau đớn chút nào.
Không muốn để cuộc xung đột kéo dài mãi bất tiện, Quách Tỉnh bèn đứng ra hoà giải và dàn xếp đôi bên. Ông nhìn Tôn Bất Nhị lễ phép nói :
- Bây giờ cũng đã xế chiều, cần phải lo coi thu dọn nơi ăn chốn ở để sư thúc và chư vị anh hùng nghỉ ngơi đêm nay. Còn câu chuyện của Dương Qua xin tạm gác lại một bên. Khi nào thuận tiện sẽ đưa ra bàn bạc lại. Kính mời sư thúc về phòng an nghỉ. Dương Qua , bá bá nhờ cháu thay mặt ra ngoài xem xét dùm công việc , đừng để bê bối mà thất lễ với chư vị anh hùng nhé !
Nói xong ông nắm tay Dương Qua bước ra khỏi phòng ngay.
Vừa đi, ông vừa ghé tai nói nhỏ, vừa để khuyên răn, vừa để an ủi :
- Qua nhi , phàm người anh hùng lúc nào cũng lấy đức trả oán , cháu đừng nên bận tâm nhiều đến câu chuyện của Triệu Chí Kính làm gì. Ngoài trang viên có hàng trăm hạng người . Biết đâu trong số đông không tìm được một vài người có khí tiết để làm quen mà kết thành bạn tốt. Nhân dịp này cháu nên trà trộn vào đó, tìm hiểu và kết bạn với những người ý hợp tâm đầu.
Dương Qua chẳng biết nói sao, cúi đầu vâng dạ rỗi lững thững ra ngoài.
Thấy Dương Qua đi rồi, Quách Tỉnh lại nói chuyện với Triệu Chí Kính :
- Dương Qua nó còn nhỏ dại chưa hiểu đời , có những cử chỉ nông nổi, xin đừng quan tâm phiền trách làm gì cho mệt trí . Hôm nay trong buổi tiệc , sư đệ nên quên hết mọi chuyện , uống một bữa cho thật say để thoả tình hội ngộ. Chuyện cũ cứ để cho nó trôi qua trong quên lãng.
Vừa lúc ấy bọn tráng đinh đã bưng lên nhiều mâm trái cây tươi, rất nhiều món ăn lạ và rược ngon hảo hạng. Chén đũa cũng toàn là đồ quý giá, trông hoa cả mắt.
Nhìn trên bàn tiệc nhan nhản cả sơn hào hải vị , không thiếu gì của ngon vật lạ , Doãn Chí Bình vui vẻ nói với Hoàng Dung :
- Giàu có sang trọng đến bực này, hèn chi nhà chứa thực phẩm của Lục trang chủ có treo hai câu đố mà tiểu đệ dám chắc dầu là các bậc vương hầu khanh tướng cũng chưa chắc dám treo.
Hoàng Dung mỉm cười hỏi :
- ủa, sư đệ xuống phòng đấy hồi nào mà xem được hai câu đối ấy ?
Doãn Chí Bình đáp :
- Tiểu đệ vừa mới đi ngang qua đấy, thấy nét chữ quá sắc sảo, tiểu đệ mới chú ý nhìn xem cho biết . Tay nào đã viết ra hai câu đối ấy , chắc hẳn cũng là một bậc tài hoa xuất chúng, chữ nghĩa đầy mình .
Tôn Bất Nhị lắng tai nghe hai người nói chuyện cũng động tánh hiếu kỳ xen vào hỏi :
- Hai câu đối ấy như thế nào , hãy đọc lại cho ta nghe thử .
Doãn Chí Bình vâng lời đọc :
" Sơn hào hải vị tàng vô tận
Dã vị lâm cầm vẫn hữu dư "
Tạm dịch là :
" Miếng ngon vật lạ kho không thiếu
Dê béo chim rừng hỏi có ngay "
Chàng vừa đọc vừa kéo dài giọng ngâm nga ca kệ theo lối mấy cụ đồ ngâm thơ, khiến cho bao nhiêu quan khách trong buổi tiệc cũng đều tức cười và cùng vỗ tay tán thưởng .
Lúc bấy giờ Quách Phù và hai anh em họ Võ đã rời chỗ nấp đi ra phòng khách. Còn Dương Qua thì len lỏi vào đám đông tìm lại Vương Thập Tam nói chuyện cho vui nhưng tìm mãi không gặp .
Chàng lần đi vào nhà tiếp tân ăn năm ba miếng dằn bụng rồi rảo bước ra tìm thăm chừng con ngựa của mình còn đó hay là đi tìm cỏ để gặm rồi .
Vừa ra khỏi sân được vài bước , Dương Qua bỗng thấy dưới bóng cây hoè có hai người ăn xin đang nằm gối đầu trên bị gậy , quần vén tận háng, vừa nói cười tay gãi sồn sột, ra bề tương đắc lắm .
Dưới ánh sao chiếu mờ mờ, Dương Qua nhận thấy một người đã già và một chàng trai trẻ.
Người đã già có râu quai nón mọc rậm bao quanh hàm, che kín cả miệng. Ngừoi trẻ còn thanh niên , vẻ mặt tao nhã dễ ngó.
Nếu không có bị và gậy dưới đất , chắc cũng không ai có thể ngờ đó là đệ tử của Cái Bang hành khất.
Người già râu rậm nói :
- Sáng hôm qua ta đi ngang qua Dự châu, có đứa bé con gái đứng trong tiệm nhìn ra, nhạo ta hai câu thơ nghe cũng ngồ ngộ, cậu muốn biết không ? Để ta đọc lại và nhân thể nhờ cậu nhận xét thử ý nghĩa như thế nào nhé ? Có lẽ cũng sâu xa và thâm thuý lắm đó , hay câu thơ đó như vầy :
" Bất thức khẩn âm hà xứ đạo
Chỉ văn mạo lý hữu thanh tuyền"
Người thanh niên cười sằng sặc đáp :
- Hai câu thơ ấy tôi có nghe đọc một lần rồi . Kể ra chẳng có gì sâu xa hiểm hóc nhưng có vẻ hài hước chút ít. Nhưng có một điểm đáng trách là nó cả gan vô lễ mắng đại huynh là kẻ thiếu mồm .
Người già nhiều râu có vẻ bực tức nói :
- Chỉ có bọn ngu si dại dột mới nói như vậy . Chú mày thử nghĩ , nếu thiếu mồm thì làm sao nói năng ăn uống để sống chứ ? Hẳn là đàn bà chẳng biết gì. Cũng do nơi chú bàn xa tán rộng để mỉa mai ta mà thôi. Có phải thế không ?
Người thanh niên ôn tồn đáp :
- Đời nào đệ lại dám đi mỉa mai nhạo báng đại huynh. Hiện nay tiểu đệ tứ cố vô thân , hỉ co một hình một bóng , chuyện gì cũng nhờ cậy vào một mình đại huynh che chở đùm bọc, đời nào đệ lại đi xuyên tạc kẻ bề trên ân nhân của mình ! Đại huynh không để ý đấy chứ, trên đời hiếm chi người văn hay chữ nhiều , nếu đại huynh không tin cứ nhờ người ta giải thích hộ xem họ có nói như tiểu đệ hay không ? Bây giờ tiểu đệ xin giảng lại cho đại huynh nghe nhé :
Cứ theo câu trên " Bất thức khẩu âm hà xứ tại " có nghĩa là "chẳng biết mồm ông ở chốn nào ? " . Còn câu dưới là "Chỉ văn mạo lý hữu thanh truyền " có nghĩa là "chỉ nghe tiếng nói phát ra từ đám lông" . Muốn cho văn vẻ đôi chút thì tiểu đệ xin tạm dịch là :
" Mồm lão nơi đâu tìm chẳng thấy
Chỉ nghe tiếng nói tại chòm lông"
Giảng giải đến đây, chàng ta tức cười quá nhịn không được ré lên cười hăng hắc , khiến lão già râu rậm nổi giận nạt lớn :
- Cười gì mà lãng nhách , vo duyên lạ . Con bé đã nhạo ta chú lại còn thêm dầu giấm tô đậm thêm cho mặn mà để cười cho sướng cổ. Thôi từ đây có lên dốc xuống đèo , qua rừng lội suối , hãy cố mà lo liệu lấy, đừng có phá rày đến lão không mồm nãy nữa nhé.
Chàng thanh niên sợ hãi vội đứng dậy chắp tay bái luôn mấy cái khẩn khoản nói :
- Đại huynh, tiểu đệ trẻ người non dạ, vì nông nổi theo câu văn nói càng thiếu suy nghĩ đến nỗi xúc phạm đến đại huynh thật là đắc tội. Vậy xin đại huynh niệm tình tha thứ, đừng chấp nê tội nghiệp tiểu đệ .
Người già nghiêm giọng nói :
- Chú ăn nói hồ đồ , quả thật đáng trách lắm . Trong lúc này mà huynh đệ còn đùa cợt trêu chọc người ta được thì quả là vô ý thức. Ta đây dốt chữ, chỉ biết dùng sức mạnh giết quân thù xây dựng đất nước , cứu vãn dân tộc. Sở dĩ chưa tung hoành được là chưa có cơ hội tốt mà thôi. Ta muốn nhờ chú mày có chút căn bản học hành , mong một ngày mai tươi sáng cùng dìu dắt nhau hiến tài cho đất nước , không ngờ chú mày quá trẻ con chỉ nghĩ đến chuyện cười đùa cho thoả thích , đâu có nghĩ gì đến tình yêu đất nước giống nòi.
Bị mắng đậm, người thanh niên mủi lòng sụt sùi khóc nói :
- Từ ngày vua Cao Tông dời đô về Lâm An , giữ lại miền Nam Tống, bỏ rơi miền Bắc Tống vào tay bọn rợ Kim cướp nước, bao nhiêu công lao hạng mã Tống Thái Tổ gây dựng ngày xưa đã trôi theo dòng nước, kẻ có chút ít tâm huyết ai chẳng đau lòng. Em đâu phải hạng người tim sắt đá mà hững hờ với cảnh đất nước ngửa nghiêng. Ngày nay ta đã tạm dời cư sang Nam, em chỉ mong chờ một ngày nào thiên quang vân tạnh để đưa thân này hiến cho đất nước , đánh đuổi bọn xâm lăng. Nhưng buồn nỗi từ vua đến quan triều đình nhà Tống chỉ thủ phận cầu an, ai cũng muốn tích cực sống riêng giữ lấy hạnh phúc gia đình. Có kẻ tự cho có chút bản lãnh lại đứng lên xưng hùng xưng bá. Quan địa phương bất lực, bọn chúng càng tung hoành, không ai làm gì nổi. Ngày nay bao nhiêu ăn mày cùng chung sức trong tổ chức Cái Bang cũng chỉ mong có cơ hội tìm lại vinh quang cho đất nước. Em tự xét tài hèn sức yếu phải chờ đợi thời cơ. Những lúc buồn lòng, muốn dùng câu thơ ngâm nga cho tiêu sầu giải muộn, nào ngờ quá trớn xúc phạm đến đại huynh làm cho đại huynh buồn ý, thật ân hận vô cùng.
Dương Qua lắng tai nghe hai người nói chuyện có nhiều khí phách anh hùng nên vội rảo bước tới gợi chuyện làm quen .
Chàng vồn vã nói :
- Nơi đây chùa đất có Phật vàng , thật không ngờ hôm nay được nghe những lời tâm huyết . Tình cờ nghe câu chuyện của nhị vị, tiểu đệ mới biết được mục đích của Cái Bang và hiểu rõ nghĩa trắng đen của câu nói " Đói cơm, rách áo mới đi ăn mày "
Nghe nói ông già liếc mắt nhìn chàng, ánh mắt sáng như sao băng.
Tuy ban đêm nhưng Dương Qua chú mục nhìn kỹ cũng nhận ra được ông lão da dẻ hồng hào, dáng độ vô cùng hiên ngang quắc thước, râu nửa đỏ nửa đen mọc rậm xung quanh hàm như râu Châu Thương đời nhà Hán, người thanh niên cứ ngồi yên một chỗ , không nói một lời , hình như y không hề quan tâm đến mình.
Ông già hỏi :
- Chú là ai ? Đến đây làm gì ?
Dương Qua đáp :
- Tôi về đây dự đại hội Cái Bang .
Ông lão hỏi tiếp :
- Chú thuộc hàng mấy túi ?
Dương Qua đáp luôn :
- Tôi chưa thuộc dạng nào mà cũng chưa có túi nào hết.
Ông ta cất tiếng cừoi ha hả và nói :
- A, thế ra chú mày cũng như bọn này , đều thuộc vào loại "ăn mày bất đắc dĩ" nên chưa được cấp túi sắp hạng chứ gì ?
Lúc ấy người ăn mày trẻ mời nhìn lại nói ra vẻ dạy đời :
- "Ninh khả chính nhi bất túc, bất khả tả nhi hữu dư" . Thà cứ làm việc để chịu nghèo còn hơn là làm điều bậy để mong giàu sang. Chức phận trong Cái Bang lợi đâu mà phải ước mơ ? Chú còn nhiều việc quan trọng phải làm tròn, hãy về mà lo liệu cho xong, sáng mai đến đây hãy gặp lại bọn ta nói chuyện lại.
Nói xong cả hai nằm lăn ra ngủ liền, không mấy chốc đã ngáy vang như xay lúa.
Thấy đứng mãi cũng chướng nên Dương Qua lẳng lặng rút lại về phòng trọ, trong lòng hơi cảm thấy tức về thái độ thiếu lịch sự của hai người ăn mày.
Canh càng khuya đêm càng vắng lặng. Bốn bề vẳng tiếng kêu ri rỉ như khóc như than khiến cho Dương Qua chạnh lòng thao thức mãi, không nhắm mắt được và nghĩ bụng :
- Hai người ăn mày một già một trẻ, khẩu khí cũng có vẻ anh hùng mã thượng , biết yêu nước thương nòi , chắc cũng ẩn tàng một bản lãnh siêu quần xuất chúng, mưu lược hơn người . Chẳng hiểu sao người thanh niên lại quả quyết là ta đang còn nhiều việc quan trọng chưa làm xong ? Hay sáng nay bọn Triệu Chí Kính còn kiếm chuyện gì rắc rối nữa chăng ?
Gió đêm thoảng mát, chàng bỗng nhớ lại những lúc cùng Lục Vô Song kề vai cọ vế và nhớ xa hơn nữa , đến chuỗi ngày thơ mộng vô tư lự cùng Tiểu Long Nữ trong cổ mộ đài, bao nhiêu nỗi nhớ nhung thiết tha dồn dập, khiến cho chàng thấy một niềm nhớ nhung tràn ngập tâm tư, phải kêu lên cho vơi bớt :
- Cô nương ơi ! Cô nương ! Giờ đây cô nương phiêu bạt nơi nào, cô nương ơi !
Lời kêu vô cùng thiết tha đến tận cõi lòng , tràn ngập tiếc thương như tiếng kêu của con nhạn lạc bầy trong đêm vắng.
Trằn trọc vẩn vơ suốt tàn canh, chàng thiếp đi lúc nào không hay biết.
Sáng tinh sương, tiếng thần điêu ríu rít trên ngọn cây tùng trước sân làm Dương Qua giật mình thức dậy.
Chàng dụi mắt , vươn tay mấy cái cho đỡ mỏi , lại ra ao rửa mặt, định vào sảnh đường để cáo biệt Quách Tỉnh rồi ra vườn dắt ngựa lên đường đi tìm Tiểu Long Nữ.
Quách Tỉnh đang đứng nơi đại sảnh, vừa trông thấy Dương Qua đã ân cần vui vẻ hỏi :
- Suốt đêm qua chắc con đã suy nghĩ điều hơn lẽ thiệt rồi, vậy con nên gặp Triệu sư phụ chịu nhận lỗi đi cho rồi .
Dương Qua từ tốn đáp :
- Thưa Quách bá bá, ở đời có hai điểm cần phải nhớ ơn : nhớ ơn người giúp mình khi đói rét, nhớ ơn kẻ dạy dỗ mình nên thân . Đối với người này tôi không hề chịu ơn gì hết. Hắn không giúp đỡ an ủi tôi một câu, chẳng dạy tôi một ngón võ nào, vậy thì tại sao tôi phải gọi hắn là sư phụ và buộc phải nhớ ơn hắn ?
Triệu Chí Kính đứng phía sau, nghe nói thẹn quá, nổi giận lôi đình đưa tay điểm vào "Hậu khê huyệt" của chàng.
Lối điểm huyệt này chỉ dùng bàn tay phớt qua trên ngón tay của địch thủ. Dương Qua đã biết trước nên vận khí vào ngón tay chờ sẵn và điểm ngay vào yếu huyệt trên tay y, Triệu Chí Kính đau quá tung chân đạp thật mạnh...

Hồi 32

Đôi lứa gặp nhau trong bẽ bàng.

Dương Qua vờ kêu lên :
- Xin đừng giận dữ và bạo động như vậy !
Vừa nói vừa chuyển mình dùng tay trái gạt vào lưng Triệu Chí Kính cách bả vai độ hai tấc năm phân.
Ngọn cước của Triệu Chí Kính đưa mạnh quá, sức mạnh dồn hết vào đòn độc đó, nên hai huyệt "chiếu hải" và "Thái khê" trong mình trống trơn, bị Dương Qua phản công lại, không sao gượng kịp, đành té xỉu xuống đất.
Tôn Bất Nhị thấy vậy vội đứng dậy nâng Triệu Chí Kính lên dùng ngón tay giải huyệt đạo cho Triệu Chí Kính .
Dương Qua thấy hành động của Tôn Bất Nhị , biết vị này võ công cao hơn Triệu Chí Kính một bậc, nên có vẻ ái ngại, lùi lại mấy bước rồi tránh sang một bên.
Tôn Bất Nhị là người luyện võ công nhiều năm, sự hiểu biết rất tinh vi nên thấy Dương Qua có lối đánh đỡ thần tốc đó thì tự nghĩ rằng :
- Dầu mình có giao đấu với hắn cũng chưa chắc đã giành được phần thắng .
Nghĩ như thế nên Tôn Bất Nhị nói với Triệu Chí Kính:
- Chạy đi thôi ! Chạy đi thôi !
Vừa nói vừa phẩy tay áo, lẹ làng tung mình qua cửa sổ như một cánh chim không kịp từ biệt Hoàng Dung và Quách Tỉnh lấy một lời .
Từ nãy đến giờ , Doãn Chí Bình như người mất trí, toan đến chất vấn Quách Tỉnh mấy câu , song Triệu Chí Kính khoa tay bảo :
- Thôi ! Còn mong mỏi làm gì nữa cho hoài hơi uổng tiếng.
Dứt lời , Triệu Chí Kính nắm áo Doãn Chí Bình kéo băng qua cửa sổ , phi thân đuổi theo Tôn Bất Nhị .
Quách Tỉnh và Hoàng Dung không trông thấy Dương Qua dùng tay chân điểm huyệt , mà sao Triệu Chí Kính lại bị xỉu xuống đất, nên cả hai đều lấy làm ngơ ngác nhìn nhau nghĩ thầm :
- Chắc có người thứ ba nào núp đâu đây ám trợ cho Dương Qua thì phải .
Quách Tỉnh vội vã nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn theo , nhưng không trông thấy một bóng người nào cả.
Hoàng Dung chợt bắt gặp đôi hài xanh của Quách Phù bỏ rơi gần lối ra vào , bèn cất tiếng gọi :
- Quách Phù con ! Con ở nơi nào vậy.
Quách Phù chạy ra , cười hì hì nũng nịu :
- Con đang xem sách với hai anh con trong phòng này .
Hoàng Dung vốn đã rõ tánh nết của ba đứa trẻ đó có bao giờ để ý đến sách vở đâu. Hôm nay chúng vờ xem sách chỉ là để nghe trộm câu chuyện của mình.
Tuy vậy, Hoàng Dung cũng bỏ qua không hỏi gì thêm.
Quách Tỉnh nhìn qua cửa sổ, không thấy một bóng ai. Với bản tính thật thà, Quách Tỉnh phỏng đoán :
- Nếu không có kẻ ám trợ Dương Qua thì làm sao sự việc lại xảy ra như thế được. Có lẽ Triệu Chí Kính muốn giết thằng bé Dương Qua , nhưng sau nghĩ thế nào lại thôi, rồi giả cách bị trúng huyệt rồi bỏ chạy.
Hoàng Dung trái lại không nghĩ thực thà như Quách Tỉnh . Bà cho rằng Dương Qua đã dùng bí thuật nào đây để ngầm hại Triệu Chí Kính , nhưng bà không trông kịp , vì lúc đó bà đứng phía sau lưng Dương Qua.
Điều thắc mắc của vợ chồng Quách Tỉnh không có gì là lạ vì cả hai đều chưa biết trên đời lại có "Ngọc nữ tâm kinh".
Chính nhờ "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương Qua đã dự liệu được những hành động của đối phương và vì thế Toàn Chân giáo mới mang thảm bại.
Vợ chồng Quách Tỉnh đang ngấm ngầm nghi hoặc về sự chạy trốn của Tôn Bất Nhị và Triệu Chí Kính thì bỗng có một đệ tử Cái Bang chạy vào bẩm cáo :
- Thưa Bang chủ, có một vị khách ở xa đến xin yết kiến !
Hoàng Dung đưa mắt nhìn Dương Qua từ đầu đến chân rồi lặng lẽ theo Quách Tỉnh ra đón khách .
Trước khi cất bước, Quách Tỉnh quay lại dặn anh em họ Võ :
- Anh Dương Qua đây vốn là bạn với các cháu hồi nhỏ . Các cháu mời anh ấy vào trò chuyện cho vui.
Hai anh em họ Võ từ nhỏ tánh đã không hợp với Dương Qua , nay lại thấy Dương Qua quần áo lôi thôi, hình dáng tiều tuỵ thì có ý khinh khi, bèn gọi một gia nhân đến bảo dọn cho Dương Qua một chỗ để nghỉ ngơi rồi hai anh em trở ra tìm Quách Phù để hàn huyên tâm sự.
Nhưng Quách Phù lúc này lại săn đón Dương Qua hơn lúc nào hết . Nàng thấy Dương Qua có thái độ hững hờ không vui liền hỏi :
- Anh Dương Qua ơi ! Sao sư phụ anh lại không nhận anh nhỉ ?
Dương Qua thản nhiên đáp :
- Việc đó có gì khó hiểu . Chẳng qua vì tôi dốt nát, sư phụ tôi dạy mãi không được gì , nhất là tôi không biết chiều chuộng sư phụ tôi nên sư phụ tôi oán ghét tôi.
Anh em họ Võ nghe Dương Qua nói như chọc vào tai.
Võ Tu Văn không dằn được lòng bực tức gắt gỏng nói :
- Anh nói sao ?
Dương Qua vẫn nói với giọng cay đắng, đáp :
- Tôi nói là tôi vụng về, không làm vừa lòng sư phụ nên sư phụ bỏ tôi chứ sao ?
Quách Phù với nụ cười vô tư đon đả nói :
- Sư phụ anh là một nhà đạo sĩ mà tại sao lai có cái tính như đàn bà con gái, hay giận hay hờn như thế ?
Dương Qua đưa mắt nhìn Quách Phù thấy nàng cười tươi như hoa, vẻ đẹp kiều diễm không sao tả xiết. Cái đẹp của nàng là một cái đẹp hồn nhiên, không như những cái đẹp bóng loáng của các cô gái lầu hồng.
Trông thấy vẻ đẹp trang nhã thơ ngây ấy, Dương Qua có cảm giác là mình đang đứng trước một đoá hoa phù dung đang ướm nhuỵ.
Quách Phù thấy tự nhiên anh em họ Võ tỏ thái độ bất bình trước mặt Dương Qua thì lẫy làm lạ lắm. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc , linh tính của nàng đã cho nàng biết rằng chỉ vì mình có thái độ thân thiện với Dương Qua nên anh em họ mới có thái độ ấy.
Dương Qua quay mặt sang phía khác , không hề để ý đến tâm trạng của Quách Phù và anh em họ Võ lúc bấy giờ.
Tuổi Dương Qua tuy chẳng hơn anh em họ Võ và Quách Phù bao nhiêu, song nhờ chàng dấn thân trên bước giang hồ, phiêu lưu đây đó nên sự hiểu biết già dặn hơn.
Quách Phù thấy Dương Qua mơ màng đưa mắt nhìn sang phía khác mà nghĩ chuyện đâu đâu , liền dịu giọng nói :
- Dương đại ca ! Bây giờ đã tối rồi. Vậy Dương đại ca hãy vào phòng an nghỉ. Sáng mai chúng ta sẽ cùng trò chuyện.
Dương Qua sẽ gật đầu, không đáp, bước theo gia đinh vào phòng ngủ.
Nhưng chưa vào khỏi phòng, Dương Qua nghe Quách Phù nói với hai anh em họ Võ :
- Sao tôi thấy quý mến và thích nói chuyện với Dương đại ca quá. Nếu Dương đại ca võ nghệ sút kém, tôi sẽ yêu cầu phụ thân tôi rèn luyện cho Dương đại ca.
Lẽ ra đợi xem anh em họ Võ phản ứng trước câu nói này của Quách Phù thế nào, Dương Qua không thèm để ý, bước thẳng vào phòng, cởi hài trèo lên giường nằm ngay tức khắc.
Sau khi thẫn thờ suy nghĩ đó đây một lúc, Dương Qua ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết. Đến khi thức dậy , chàng thấy trời đã sáng, vội bước ra rửa mặt rồi lên đại sảnh dùng điểm tâm .
Vừa dùng điểm tâm xong, Dương Qua đã thấy Quách Phù đứng nơi hoa viên vẫy tay gọi :
- Dương huynh, hãy ra đây !
Dương Qua thấy hai anh em họ Võ cũng đã có mặt nơi đó nhưng cả hai đều đượm vẻ rầu rầu.
Dương Qua vừa cười , vừa chạy đến cất tiếng hỏi :
- Cô gọi tôi có việc gì thế ?
Quách Phù nói :
- Có chứ ! Tôi muốn anh và tôi, hai chúng ta cùng nhau dạo chơi trước cánh đồng này để anh có dịp kể lại cho tôi nghe những gì trong mấy năm qua mà anh vắng mặt.
Dương Qua chép miệng nghĩ thầm :
- "Ôi chao ! Kể lại chuyện cũ trong mấy năm thì biết bao giờ mới hết. Nhưng ta dại gì đem chuyện đời mình kể cho cô ta nghe "
Tuy nghĩ vậy nhưng Dương Qua vẫn tản bộ nối gót theo Quách Phù .
Đi được một lúc, Dương Qua ngoảnh lại thấy anh em họ Võ cùng lẽo đẽo theo sau.
Quách Phù vẫn biết anh em họ Võ theo mình, nhưng nàng làm như không hay biết, không để ý đến, cứ chuyện trò với Dương Qua một cách thân mật.
Dương Qua được thế khoa chân múa tay, nói trời nói đất làm cho Quách Phù cười như nắc nẻ. Tuy nhiên có nhiều chuyện Quách Phù cũng biết là Dương Qua đặt điều, song những câu chuyện bịa ấy rất duyên dáng và lý thú , ít người nghĩ ra được.
Hai người thong thả từng bước một , vừa đi vừa chuyện trò. đến một gốc hoè kia, cành lá rườm rà, thấy thoáng có bóng con ngựa ốm, lông lá xồm xoàm.
Anh em họ Võ bỗng ré lên cười lớn , chạy đến bên cạnh Quách Phù , trỏ tay vào con ngựa nói với Dương Qua bằng giọng chế diễu :
- Dương huynh mua con "Thiên lý mã" này ở đâu thế ? Chắc là quý lắm ! Khi nào gặp Dương huynh mua dùm tiểu đệ một con.
Võ Đôn Nho bĩu môi, xen vào :
- Đây là giống ngựa quý ở bên "Đại tư" chỉ có Dương huynh mới sắm nổi. Chúng mình làm gì có nhiều tiền mà mong ước.
Quách Phù ngắm con ngựa ốm tong, lại nhìn Dương Qua quần áo rách rưới , đầu tóc bù xù, không nhịn được , phá lên cười lớn .
Dương Qua cũng cười theo và nói :
- Tôi xấu thì tất nhiên con ngựa cũng xấu. Tục ngữ nói " Thầy nào tớ ấy" có gì mà phải lấy làm lạ. Tôi chắc rằng ngựa của anh em Võ huynh phải là những con "Thần câu, tuấn mã".
Võ Tu Văn ngắt lời nói :
- Anh em chúng tôi cũng không có con ngựa nào hơn con ngựa của Dương huynh. Chỉ có Quách muội đây được con ngựa hồng rất quý. Chắc Dương huynh còn nhớ được con ngựa đó trước đây ở Đào hoa đảo chứ ?
Dương Qua làm ra vẻ ngạc nhiên :
- Thì ra Quách bá bá đem con ngựa hồng ấy tặng cho cô nương rồi sao ! Tôi đâu có rõ...
Bốn người đang cười đùa vui vẻ , chợt Quách Phù chỉ tay về phía Tây nói :
- Mẫu thân tôi đang dạy phép "đánh bổng" kia mà !
Dương Qua ngẩng đầu lên, thấy Hoàng Dung đang cùng một ông lão trong Cái Bang ở tận chân núi thao diễn, người nào cũng cầm trong tay một cây bổng.
Võ Tu Văn nhướn mày nhìn ông lão một lúc rồi nói :
- Lỗ trưởng lão đã già, tinh thần suy kém, trí óc đã mờ, học đến bao giờ mới thuộc được "đả cẩu bổng pháp" đây.
Dương Qua nghe nói đến bốn tiếng "Đả cẩu bổng pháp" lòng bỗng nhiên bồi hồi . Tuy nhiên , chàng cố giữ lấy vẻ điềm tĩnh vờ như không để ý, ngoảnh mặt sang phía khác vờ ngắm cảnh đẹp núi non.
Quách Phù nói :
- Thân mẫu tôi thường nói môn "đả cẩu bổng pháp" là bảo vật của Cái Bang dùng để trấn áp trong bang và làm áp lực với bên ngoài. Phép ấy lợi hại lắm, không thể học trong mười ngày hai nửa tháng mà đạt được . Các anh chớ khinh khi ông lão đó .
Võ Đôn Nho thở dài nói :
- Nghe nói phép đó huyền diệu lắm, tiếc rằng chỉ được truyền cho ai làm Bang chủ mà thôi, không truyền cho người ngoài.
Quách Phù nói :
- Nếu mai kia anh được đề cử làm Bang chủ thì sẽ được Lỗ trưởng lão truyền lại cho chứ lo gì. Môn đánh bổng ấy chính phụ thân tôi còn chưa biết mà.
Võ Đôn Nho nói :
- Bọn hèn như mình làm gì được chức Bang chủ . A này, khi truyền dạy "Đả cẩu bổng pháp" cho Lỗ trưởng lão , có phải sư mẫu muốn truyền Lỗ trưởng lão thay thế chức Bang chủ phải không ?
Quách Phù nói :
- Sang năm nay, thân mẫu tôi sẽ giao hết tất cả mọi việc trong bang cho Lỗ trưởng lão. Tôi thường nghe thân mẫu tôi nói trong bang già trẻ không thiếu gì người , song phần nhiều là những hạng ham ăn, tham uống , những phường hữu thực vô danh, chỉ có Lỗ trưởng lão là khá hơn hết. Chờ khi nào lão học được "Đả cẩu bổng pháp" thành thạo, lão sẽ được chính thức làm Bang Chủ .
Võ Tu Văn nói :
- Cô đã được xem lối đánh bổng theo phép "Đả cẩu bổng" chưa ?
Quách Phù nói :
- Tôi chưa bao giờ được xem . Vả lại cũng không ai cho tôi xem .
Võ Tu Văn nói :
- Thế mà tôi xem rồi đấy !
Dứt lời, Võ Tu Văn cúi xuống lượm một cành cây ngắn quất nhẹ vào vai Võ Đôn Nho , nói :
- Đây này ! Phép "đánh chó" đây này !
Võ Đôn Nho quát lớn :
- A ! Ngươi dám bảo ta là chó sao ?
Quách Phù cười ngất nói :
- Thôi , chư huynh chớ tranh hơn thua. Tôi có ý kiến này ...
Võ Tu Văn nói :
- Được , cô có ý kiến gì thì cứ giãi bày ra.
Quách Phù nói :
- Chúng mình lén đến xem thuật "Đả cẩu" như thế nào, để hiểu tại sao môn võ đó lại là một bí quyết lợi hại.
Võ Tu Văn vỗ tay khen :
- Hay lắm ! ý kiến của cô rất hợp lý.
Võ Đôn Nho lắc đầu , nhún vai nói :
- Không được ! Chúng ta đến xem lén, rủi sư mẫu biết được thì chết cả lũ.
Quách Phù thấy Võ Đôn Nho trái ý mình , nói giận dữ, mặt đỏ gay :
- Các anh muốn hiểu phép "đả cẩu" mà không đi xem lén thì làm sao mà biết được ! Tôi muốn xem ,các anh có đi theo tôi không thì mặc .
Võ Đôn Nho thấy Quách Phù giận dữ , không dám trái ý, đứng lặng thinh.
Quách Phù quay qua nói với Võ Tu Văn :
- Đây là buổi thao diễn môn võ công vào bậc nhất thiên hạ. Dầu chết cũng phải đi xem cho sướng mắt, huống hồ bọn ta đều là con cháu trong nhà, thân mẫu tôi có bắt gặp chẳng lẽ lại đem giết chết đi hết hay sao mà sợ ?
Dứt lời, Quách Phù quay sang hỏi Dương Qua :
- Thế nào ? Dương huynh cũng vui lòng đi với chúng tôi chứ ?
Dương Qua giả cách mải mê ngắm cảnh không nghe lời nói của Quách Phù nên không đáp lại.
Quách Phù hỏi lần nữa, Dương Qua mới làm bộ ngơ ngác quay lại hỏi :
- Cái gì nhỉ ? Đi đâu vậy ? Xa hay gần hả Quách cô nương ?
Quách Phù nói :
- Anh này hay thật! Nãy giờ chúng tôi tranh luận anh không để ý hay sao ? Thôi chẳng dài dòng, chúng tôi đi đâu anh theo đó là đủ .
Võ Đôn Nho ra vẻ cẩn thận , nói với Quách Phù :
- Cô rủ Dương huynh cùng đi e bất tiện .Dương huynh vốn quê kệch, không lanh lẹ, rủi sư mẫu trông thấy thì nguy cả lũ .
Quách Phù nói :
- Hai anh chớ lo . Hai anh đi trước, tôi và Dương huynh đi sau. Tôi đảm bảo mọi trách nhiệm.
Bốn người cùng cất bước.
Hai anh em họ Võ tuy chiều ý Quách Phù nhưng lòng không vui vì Quách Phù đi kèm một bên Dương Qua , làm cho anh em họ Võ thấy khó chịu.
Mặc dầu thế , anh em họ Võ chẳng bao giờ dám làm trái ý Quách Phù , sợ làm phật lòng nàng , nàng hờn dỗi mười bữa, nửa tháng không chuyện trò thì càng buồn hơn nữa.
Qua đến ngã rẽ, Quách Phù chỉ tay với anh em họ Võ :
- Hai huynh đi vòng đường này đến ẩn núp vào bụi cây cành lá rườm rà đó. Còn tôi và Dương huynh đi vòng đường này cũng đến đó luôn.
Anh em họ Võ đều gật đầu đồng ý .
Quách Phù nhìn ngắm Dương Qua thấy quần áo rách nát như kẻ ăn xin , thương hại nói :
- Để lát nữa về tôi nói với thân mẫu tôi may cho Dương huynh vài bộ quần áo để thay đổi. Ăn mặc thế này thì khó thương quá.
Dương Qua mỉm cười hỏi :
- Thế tôi ăn mặc thế này cô không thích à ?
Quách Phù nói ;
- Không phải không thích . Nhưng người của anh thế kia mà ăn mặc như thế thì khó coi quá. Nếu anh ăn vận đàng hoàng , lành lặn thì có lẽ thiếu nữ nhiều cô phải để ý đến !
Nói dứt câu, Quách Phù đỏ bừng mặt lên, e thẹn vì biết mình nói lỡ lời .
Dương Qua thấy vẻ e thẹn của Quách Phù làm cho nàng đẹp hơn lên rất nhiều. Hai má ửng hồng , làn mi thon thon, khoé mắt long lanh như mặt nước hồ thu, thật là một tuyệt thế giai nhân. Đem nàng so sánh với Lục Vô Song, Hoàng Nhan Bình, Gia Luật Yến thì nàng còn đẹp hơn gấp bội lần.
Dương Qua tự nhiên thấy lòng rạo rực vì men tình mới chớm bốc, bèn nói :
- Tôi hiểu nỗi buồn rầu của cô rồi.
Quách Phù cũng cười nói :
- Thật thế sao ? Dương huynh biết nỗi lòng của tôi sao ? Vậy thử nói ra xem sao.
Dương Qua nói :
- Tâm sự của cô lúc này là buồn phiền vì hai anh em họ Võ. Hai người ấy để ý thương cô mà cô chẳng bằng lòng ai cả ? Có đúng như vậy không ?
Quách Phù thấy Dương Qua hiểu rõ tâm sự của mình, tự nhiên bối rối, nghĩ thầm :
- " Tâm sự của mình mà anh chàng này hiểu được. Nếu anh ra đem niềm riêng của mình nói ra cho mọi người làm cho các trấn quan nha đồn đãi anh em họ Võ bất bằng, thân phụ ta mà biết được thì xấu hổ lắm. Chi bằng nói thiệt với anh ta và dặn anh ta đừng thổ lộ với ai thì hơn!"
Nghĩ như thế , Quách Phù toan tỏ thật với Dương Qua nhưng ú ớ mãi mà nàng không đủ can đảm để tỏ bày. Và e thẹn của người con gái lại tràn ngập cả tâm tư.
Bỗng hai mắt nàng rớm lệ, rồi những giọt lệ đọng lại từ từ lăn trên hai gò má của cô bé.
Dương Qua thấy người đẹp đến lúc mủi lòng , liền tấn công thêm vài đòn tâm lý :
- Tôi thấy anh em họ Võ một người thì nho nhã phong lưu, một người thì kiêu hùng khí tượng. Người nho nhã phong lưu thì có thể cung cấp đủ yêu thương tình cảm, còn người khí tượng kiêu hùng thì có thể đem lại sự nghiệp vĩ đại trong đời, như vậy đâu có phải là bậc thường tình trong trong thế sự. Tôi chỉ tiếc cô nương không thể hoá thân thành hai để thụ hưởng hai tài năng khác biệt đó thôi.
Quách Phù nghe nói nghĩ thầm :
- Mình ta mà cả hai anh em họ Võ đều mến chuộng, ta phải làm sao để có thể làm vừa lòng cả hai người được ?
Nàng hỏi Dương Qua :
- Theo ý anh thì nên giải quyết ra sao ?
Dương Qua nhìn sắc diện và nghe hơi thở của Quách Phù thì biết nàng đã xiêu lòng thực sự trước những lời tâm huyết của mình, nên lầm bầm :
- Thế thì bỏ quách anh em họ Võ mà lấy tôi chứ khó gì !
Tuy nhiên câu nói ấy chàng không dám nói ra tiếng. Chàng chỉ ậm ừ để kéo dài giây phút đợi chờ của Quách Phù.
Không thấy Dương Qua trả lời, Quách Phù giục :
- Thế nào , Dương huynh thấy hai anh em họ Võ người nào khá hơn ?
Sở dĩ Quách Phù dám đường đột hỏi Dương Qua như vậy là vì hai người từ khi còn bé đã quen thân nhau, nay lớn lên, trai đương độ, gái đương thì, lời nói ấy vừa thực lòng vừa dối lòng để thử lòng nhau. Qua cử chỉ thân mật của Dương Qua, Quách Phù cũng phần nào cảm thấy lòng cảm mến của Dương Qua đối với nàng. Nhưng nàng cũng không quên anh em họ Võ từ tấm bé đến giờ sống chung với nàng, chiều chuộng nàng hết mực mà cũng nhiều phen vì nàng mà rầu rĩ, vì nàng mà vui tươi. Nhân cớ ây, nàng thử xem Dương Qua có vì sự thân mật của anh em họ Võ đối với nàng mà phản ứng chăng...
Quả nhiên, Dương Qua nghe Quách Phù hỏi , đáp ngay :
- Tôi xem hai anh chàng họ Võ đều là phương bất hảo cả!
Quách Phù làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi : - Sao ? Họ bất hảo ở chỗ nào ?
Dương Qua nói liền :
- Nếu họ không phải là kẻ bất hảo thì Dương Qua này còn hy vọng gì nữa ?
Dứt lời, Dương Qua phá lên một trận cười lớn để che lấp cái vẻ lì lợm của mình.
Quách Phù đưa mắt nguýt Dương Qua một cái rồi chẳng nói gì nữa.
Từ đó , hai người sát cánh nhau, vừa đi vừa cười đùa vui vẻ, ríu rít như đôi chim đã tìm ra tổ ấm. Tuy nhiên, đối với Dương Qua chàng chỉ cốt đùa vui ngoài mặt chứ không có tà ý gì khác .
Qua một lúc, bỗng Dương Qua nín lặng không nói năng gì với Quách Phù nữa.
Quách Phù tự thấy làm khó chịu, nắm tay Dương Qua níu lại hỏi :
- Sao anh lại đờ người ra như thế ?Không tươi tỉnh hơn lên !
Quách Phù từ thưở bé vốn là một đứa con cưng. Chỉ có nàng giận hờn người khác chứ người khác chưa bao giờ dám giận nàng.
Dương Qua hiểu lẽ đó, làm ra vẻ nghiêm trọng nói :
- Gần đến nơi rồi . Phải cẩn thận chứ ! Cô nương không sợ dư luận ư ?
Quách Phù như vừa tỉnh cơn mộng, gật đầu , rồi dùng khinh công leo núi, băng qua lối mòn, thoăn thoắt như thỏ vượt rừng hoang, chạy về phía sau núi.
Nàng bỏ Dương Qua đến hơn một dặm.
Dương Qua thững thờ như chợt nhớ lại một điều gì trong trí óc. Chàng lẩm bẩm :
- "Ta đuổi theo ba đứa này làm gì nhỉ ? Sao ta không nhân lúc này tránh xa chúng đi ? "
Nghĩ như vậy, chàng thong thả đi từng bước một và xem xét lại cử chỉ của anh em họ Võ đối với Quách Phù.
Anh em họ Võ xem Quách Phù như một tiên nữ giáng trần, người nào người nấy lúc nào cũng lo sợ không biết nàng tiên ấy có để bụng mình chăng ! Ôi, sống giữa cái đời nước mắt nhà tan mà thân trai chỉ biết đem thờ phụng ái tình thì còn gì là danh dự. Dương Qua lần lần tản bộ theo lối khác , không đi theo hướng của Quách Phù .
Quách Phù chạy một lúc ngoảnh đầu lại không thấy Dương Qua đâu, đoán là Dương Qua không thạo khinh công nên không theo nàng kịp, nàng liền phóng người quay lại tìm kiếm. Nàng trở lại một đoạn đường bắt gặp Dương Qua, nhưng thấy Dương Qua không đi theo mình mà lại đi theo một hướng khác, lấy làm lạ tự hỏi :
- Anh chàng này sao ngu ngốc thế nhỉ ?
Quách Phù vận dụng hết sức lực của mình chạy lên đón đầu Dương Qua, hỏi :
- Sao không đi với tôi mà lại rẽ hướng khác /
Dương Qua thản nhiên đáp :
- Quách cô nương, xin cô làm ơn bẩm hộ với lệnh tôn đường là tôi xin phép đi phương khác.
Quách Phù ngạc nhiên, nhìn đăm đăm vào mặt Dương Qua hỏi :
- Tại sao anh có ý định bỏ đi một cách hấp tấp như thế ?
Dương Qua cười nhạt nói :
- Do sự bất ngờ mà tôi đến đây, nay xét ra tôi ở lại cũng vô ích, nên lại xin ra đi một cách bất ngờ như khi đến vậy !
Quách Phù lúc này đối với Dương Qua đã có ý cảm mến, tuy chưa tỏ ý cho Dương Qua biết. Nay Dương Qua định bỏ đi, làm sao nàng không quyến luyến.
Nàng buồn bã nói :
- Dương huynh, anh em ta lâu ngày xa cách nhau, còn nhiều việc tâm sự, sao Dương huynh đã vội dứt dây thân ái.
Dương Qua lầm lì nét mặt không đáp .
Quách Phù tìm cách để giữ Dương Qua lại, nói tiếp :
- Đại ca ơi ! Đêm nay mới khai mạc Anh hùng yến, các tay hảo hán đều tụ họp nơi đây đủ mặt, sao đại huynh không ở nán lại dự hội cho vui ?
Dương Qua cười nhạt nói :
- Tôi đâu phải là anh hùng mà dự Anh hùng yến . Nếu ở lại đây các vị anh hùng thấy mặt cười cho thì mang xấu .
Quách Phù lâu nay sống trên đảo , ít tiếp xúc với ai nên lời nói cũng không thận trọng . Nàng vụt miệng nói :
- Trong trang viện họ Lục thiếu gì người không biết võ công. Vậy anh hãy lưu lại lo việc trông nom sai bảo bọn gia đinh lo cơm nước , nhân đó xem hội luôn.
Tuy Quách Phù không có ý khinh Dương Qua mà chỉ cốt nói sao cho Dương Qua ở lại, nhưng nàng vụng về đến nỗi như khing người.
Dương Qua nghe Quách Phù nói mấy câu ấy, lòng hậm hực vô cùng, song cũng nén giận nghĩ thầm :
- Nếu nàng khinh ta, ta sẽ ở lại để cho nàng biết ta như thế nào !
Nghĩ như vậy, Dương Qua nói :
- Được vậy rhì còn gì hơn!
Quách Phù thấy Dương Qua nhận lời mình thì vui vẻ nói :
- Thôi, chúng ta tiến lên mau kẻo trễ mất. Thân mẫu tôi diễn xong môn võ ấy thì hết cả thú vị.
Nói xong, nàng quay người cất bước . Dương Qua cố làm ra vẻ chậm chạp tiếp bước theo sau.
Khi gần đến chỗ Hoàng Dung dạy võ thì đã thấy anh em họ Võ đang vắt vẻo ngồi trên một cành cây rậm rạp, um tùm ngó đầu nhìn ra.
Quách Phù nhún mình một cái, nhảy lên một cành, rồi đưa tay xuống kéo Dương Qua. Dương Qua nắm lấy tay nàng thấy mềm mại và man mát, cũng có đôi phần rạo rực, lòng chàng có ý nghĩ :
- "Cô ta tuy đẹp thật, song cái đẹp của cô ta đâu bằng Tiểu Long Nữ "
Quách Phù kéo Dương Qua lên đến một cành cây, quay lại hỏi anh em họ Võ :
- Thân mẫu tôi đã khai diễn chưa ?
Võ Tu Văn chỉ tay về phía trước nói thấp giọng :
- Lỗ trưởng lão đang tập luyện kia kìa. Còn sư mẫu và sư phụ vừa nói rủ nhau đi đâu, chẳng biết là có việc gì !
Quách Phù vốn sợ cha nên nghe nói có mặt Quách Tỉnh ở đây thì lấy làm ái ngại. Nàng nhìn ra thấy Lỗ Hữu Cước đang cầm một đoạn tre múa đông đánh tây, chẳng có pháp thuật nào ra vẻ lợi hại mà người ngoài phải sợ cả.
Nàng thì thầm :
- Đánh múa như thế mà gọi là "Đả cẩu bổng pháp" ư ?
Võ Đôn Nho nói :
- Đã lâu rồi, sư mẫu dạy cho lão đánh múa hay lắm, nhưng vừa rồi sư phụ gọi sư mẫu đi chỗ khác nói chuyện riêng, nên lão mới tập dượt một mình đó.
Quách Phù xem Lỗ Hữu Cước mua thêm mấy đường bổng nữa, không nhận thấy có gì gọi là huyền diệu, bèn bảo mọi người :
- Lỗ trưởng lão chắc học không thuộc nên múa bậy bạ xem chán mắt quá. Thôi, chúng ta đi là hơn.
Tuy nhiên dưới mắt của Dương Qua , chàng thấy lối múa của Lỗ trưởng lão giống hệt lối đánh đỡ mà Hồng Thất Công đã truyền dạy cho chàng nơi núi Hoa Sơn. Chàng tủm tỉm cười , nói một mình :
- Bọn chúng ngu dốt chẳng hiểu gì mà cứ tự phụ !
Bỗng có tiếng chân người sột soạt dẫm trên cỏ khô từ phía đằng xa vọng lại. Cả bọn nhìn xuống thì thấy Quách Tỉnh đang cùng với Hoàng Dung đi tản bộ gần đó.
Quách Tỉnh vừa đi vừa nói :
- Việc chung thân của Quách Phù, mình không thể coi thường được. Dương Qua còn trẻ người non dạ, chúng ta không nên chấp trách chuyện lầm lỡ của nó. Ta nên gầy dựng cho nó mới phải !
Hoàng Dung nói :
- Ông nghĩ đến tình xưa giữa hai nhà họ Dương và họ Quách cũng phải, song tôi thấy tánh nó giống cha nó quá, nên tôi phân vân không muốn gả Quách Phù cho nó .
Cả Dương Qua, Quách Phù lẫn anh em họ Võ đang núp trên cây , nghe vợ chống Quách Tỉnh bàn như thế đều lấy làm kinh hãi.
Anh em họ Võ nghĩ thầm :
- "Chẳng biết giữa họ Dương và họ Quách trước kia đã toan tính như thế nào mà sư phụ mình lại muốn gả Quách Phù cho Dương Qua nhỉ ?"
Cả ba chàng trai đang nấp trên cây, nghe câu chuyện đó ai cũng cho là chuyện hệ trọng có liên quan đến cuộc đời của mình nên tất cả đều chăm chú theo dõi.
Quách Tỉnh nói :
- Nghĩa đệ Dương Khang lưu lạc sang nước Kim, tính đột nhập vào Vương phủ , không ngờ bị trúng kế của giặc phải chết một cách thảm thương, đầu một nơi, thân một nẻo, thịt da chôn vào bụng quạ. Nếu Dương huynh đệ chịu nghe theo lời thúc phụ Dương Thiết Tâm dạy bảo thì đâu đến nỗi !
Hoàng Dung thở dài, than :
- Cứ nghĩ việc ấy xảy ra ở Gia Hưng Vương miếu thuở nào mà tôi lại rùng mình kinh sợ.
Nói đến đây, Hoàng Dung hạ thấp giọng thì thầm :
- Việc đã lỡ rồi thì biết làm sao ?
Dương Qua từ tấm bé đến giờ chưa được rõ thân thế, cảnh ngộ của mình ra sao. Chàng chỉ biết cha chàng chết sớm vì bị người ta giết. Còn bị giết tại đâu ? Chết bằng hình phạt gì ?thì chẳng được ai nói lại cả. Ngay như mẹ chàng lúc sinh thời cũng chẳng nói cho chàng hay việc ấy.
Nay nghe Quách Tỉnh nói đến việc cha mình lưu lạc đến nước Kim, đột nhập vào Vương phủ trúng kế giặc. Lại nói cha chàng chết không toàn thây, đầu một nơi, người một nẻo, thịt da chôn vào bụng quạ. Chàng lấy làm kinh sợ, toàn thân run lên, mặt tái mét.
Quách Phù thấy nét mặt Dương Qua biến đổi lạ lùng, chẳng hiểu ra sao, nói nhỏ :
- Dương huynh sợ quá ư ? Đừng sợ gì cả, cứ bấu chặt vào cành cây kẻo rơi xuống bây giờ.
Dương Qua chỉ ấm ớ không nói.
Bấy giờ vợ chồng Quách Tỉnh dắt nhau đến ngồi dưới một gốc cây tùng gần đó. Quách Tỉnh nhìn Hoàng Dung âu yếm nói :
- Từ ngày phu nhân mang thai đến nay, ta thấy sức khoẻ của phu nhân không còn tốt như ngày xưa nữa. Vậy nên giao việc Cái Bang cho Lỗ trưởng lão để phu nhân có thì giờ nghỉ ngơi.
Hoàng Dung nói ;
- Việc trong Cái Bang không làm cho tôi bận rộn bằng việc chung thân của Quách Phù. Việc này đã làm cho tôi phải lo nghĩ nhiều.
Quách Tỉnh nói :
- Phái Toàn Chân đã không thu nhận Dương Qua, vậy ta phải nuôi nấng dạy dỗ nó . Tôi xem nó thông minh hơn người, nếu mình đem hết khả năng rèn luyện cho nó thì chắc ở dưới suối vàng cha nó cũng vui mừng là trên đời này đã có người bạn tốt chăm sóc, bảo vệ cho nó.
Nghe đến đây, Dương Qua mới biết Quách Tỉnh là bạn chí thân của cha mình. Ba tiếng "Quách bá bá" mà chàng thường gọi hàng ngày chính là đã bao hàm một ý nghĩa trọng đại.
Nghĩ như thế, Dương Qua cảm động đến ứa hai dòng lệ...
Trong lúc Quách Tỉnh đang trầm ngâm thì Hoàng Dung nói :
- Tôi chỉ ngại nó thông minh quá mà hại đời nó. Vì vậy , trước đây tôi định dạy cho nó học đọc sách, không học võ nghệ, cốt hy vọng sau này nó trở thành một người rõ nghĩa lý, đường đường một trang nam nhi trong học giới, rồi sẽ gả Quách Phù cho nó,. Như vậy là đẹp đôi. Ai ngờ ...
Quách Tỉnh mỉm cười ngắt lời vợ :
- Phu nhân xem tôi không thông minh ư ? Thế nào, thông minh không làm hại được tôi. Vả lại Quách Phù có một hình dáng "anh thư", lại năm ba môn võ công, bắt nó làm vợ một thư sinh yếu đuối thì làm sao nó bằng lòng. Vợ chồng như vậy không thể sống trong hạnh phúc được.
Hoàng Dung nghĩ một lúc rồi nói :
- Việc mình thu nhận Dương Qua không khó, chỉ khó là đối xử với anh em họ Võ làm sao cho đẹp ý. Theo nhận xét của Tỉnh ca thì trong hai anh em họ Võ, người nào khá hơn?
Nghe câu này, anh em họ Võ và Quách Phù lòng nóng như lửa đốt. Còn Dương Qua thì cho là không can hệ gì đến mình. Tuy nhiên, chàng cũng để ý nghe để tìm hiểu xem sự phê phán của vợ chồng Quách Tỉnh như thế nào ?
Quách Tỉnh trầm ngâm rồi thở phào ra một hơi, nói :
- Tài năng con người ta không thể nói trước được, chờ khi nào lâm sự, ai hơn, ai kém mới biết rõ.
Giọng nói êm dịu của Quách Tỉnh như rót vào tai người nghe.
Hoàng Dung chưa kịp tỏ ý thì Quách Tỉnh đã nói tiếp :
- Quách Phù còn nhỏ tuổi, việc đôi lứa kéo dài thêm vài năm cũng chưa muộn.Mà như vậy mình có đủ thì giờ để xét đoán việc hơn thiệt. Mình làm cha mẹ không nên vội vã làm hỏng việc trăm năm của con gái. Tôi xem mấy hôm nay phu nhân phải dạy võ thuật đánh bổng cho Lỗ trưởng lão, trong người chắc không được khoẻ khoắn. Vậy chúng ta hãy gác việc này lại, bàn vào dịp khác.
Dứt lời, Quách Tỉnh đứng dậy, rảo bước về trang trại.
Hoàng Dung ngồi một mình trên tảng đá, thỉnh thoảng hít mạnh khí vào như để điều hoà huyết quản.
Một lúc sau, Hoàng Dung gọi Lỗ Hữu Cước đến diễn lại thuật đánh bổng mà nàng đã truyền dạy.
Lúc này, Lỗ Hữu Cước đã gần thuộc ba mươi sáu thế trong "đả cẩu bổng pháp". Lão múa để trình diễn. Tuy nhiên, những bí quyết quan trọng trong mỗi đường lão chưa hiểu đến đâu cả.
Hoàng Dung lần lượt giảng cho lão từng bí quyết một để luyện tập.
Môn võ "đả cẩu bổng pháp" này là môn võ công thật là cao siêu huyền bí mà bí quyết của nó thì còn thần diệu hơn nữa. Thật vậy, chỉ cần một đoạn tre mà có thể dùng làm vật trấn thủ quý báu của Cái Bang.
Xem như Âu Dương Phong lợi hại là thế mà cũng phải nghĩ ngợi suốt một đêm mới khám phá ra được ít nhiều.
Lỗ Hữu Cước được Hoàng Dung chỉ dạy phép đánh bổng được gần một tháng nay.Lúc này ông ta được dạy thêm về cách biến hoá của các chiêu thức,các bí quyết trong các ngón tân kỳ . Nếu Lỗ Hữu Cước không phải là người thông minh thì không thể nào lãnh hội được.
Hai anh em họ Võ và Quách Phù không hiểu gì cả, nên thấy Lỗ trưởng lão múa máy linh tinh thì cho là chuyện thường, chứ có biết đâu trong mỗi thế đều có biến thế từ một đến mười tám rồi từ mười tám đến ba mươi sáu, đủ cả công thủ.
Vì cho rằng những thế đánh đỡ của Lỗ Hữu Cước đang luyện tập chỉ là những miếng đánh đỡ của trẻ con nên anh em họ Võ và Quách Phù không muốn xem nữa, định tụt xuống ra về, nhưng vì sợ Hoàng Dung trông thấy nên cả ba đành nằm bẹp xuống, chờ cho Hoàng Dung về sớm để thoát thân.
Tuy nhiên, trái với ý muốn của anh em họ Võ và Quách Phù, Hoàng Dung không về vội, vì sợ đêm nay trong đại hội "Anh hùng yến" , Hoàng Dung phải trao quyền Bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, do đó Hoàng Dung phải dạy cho Lỗ Hữu Cước thuộc lòng môn "đả cẩu bổng pháp" theo đúng quy luật của Cái Bang đã định.
Chỉ phiền một nỗi là Lỗ Hữu Cước lúc này đã già, sức yếu, hơn nữa trí óc đã lụt, nên nhiều chỗ Hoàng Dung phải dạy đi dạy lại nhiều lần ông ta mới lãnh hội được.
Hoàng Dung năm mười sáu tuổi đã quen biết Quách Tỉnh nên bà chịu ảnh hưởng rất nhiều ở tính cách của Quách Tỉnh. Sự trầm lặng và kiên nhẫn có thừa. Chính vì thế nên khi truyền dạy võ công có gặp những học trò dốt nát, chậm trễ, bà cũng không hề cáu gắt mà cứ dạy đi dạy lại cho đến khi biết hết thì thôi.
Theo quy luật của Cái Bang, phép "đả cẩu bổng pháp" chỉ được truyền miệng , không được ghi ra thành sách vở. Vì thế nên người dạy rất vất vả . Đôi khi , chỉ có một chiêu thế nhưng Hoàng Dung phải giảng giải đến hàng ba bốn canh giờ.
Nhưng thời gian kéo dài càng lâu bao nhiêu thì càng có lợi cho Dương Qua bấy nhiêu.
Trước kia, Dương Qua ở trên đỉnh Hoa Sơn được Hồng Thất Công truyền thụ mấy thế trong "đả cẩu bổng " nhưng toàn là chiêu thức chân tay, chứ không có khẩu quyết biến hoá của các thế. Bởi lẽ Hồng Thất Công cho rằng :"Dẫu có truyền dạy cho Dương Qua các chiêu thức đánh đỡ mà không truyền thụ cho nó khẩu quyết biến hoá thì nó cũng chẳng làm gì được và như thế thì Hồng Thất Công ta cũng chẳng vi phạm quy luật của Cái Bang".
Không ngờ trời xui đất khiến thế nào mà Dương Qua lại gặp dịp dể ghi nhận lại toàn bộ của "Đả cẩu bổng pháp". Dương Qua bản tính thông minh gấp hàng trăm lần Lỗ trưởng lão nên mỗi thế chàng chỉ nghe qua là thuộc làu làu, không sai một chữ.
Còn Lỗ Hữu Cước thì có khi phải nhắc đi nhắc lại đến ba bốn lần mà vẫn chưa thuộc.
Hoàng Dung đang mang thai, lại phải chỉ dạy cực nhọc nên chỉ mới nửa ngày, bà đã thấm mệt, không gượng được nữa, phải ngồi nghỉ trên tảng đá, nhắm mắt để bồi bổ tinh thần.
Một lúc sau, Hoàng Dung cất tiếng gọi :
- Phù nhi ! Cả Văn, Nho , Qua nhi nữa ! Các con xuống đây cả đi.
Cả bốn người đang nấp trên cành cây rậm rạp, nghe kêu đích danh, thất sắc nhìn nhau nói thầm :
-"Ôi chao ! Sao Hoàng sư mẫu tài tình đến thế nhỉ ? Làm thế nào mà bà có thể phát hiện được chúng ta núp ở nơi đây nhỉ ? "
Quách Phù nhanh nhẩu chạy xuống trước, tìm lời nũng nịu :
- Mẫu thân ơi ! Sao mà mẫu thân tài tình đến thế ? Biết chúng con ở đây ư ?
Dứt lời nàng dùng thế "Nhũ yến đầu lâm" phóng mình đến trước mặt Hoàng Dung, anh em họ Võ cũng nhảy xuống đứng hầu một bên, duy chỉ có Dương Qua làm bộ ngờ nghệch, hai tay vịn cành cây chuyền xuống rất nặng nề chậm chạp.
Khi đã đủ mặt bốn người , Hoàng Dung lên giọng mắng :
- Các con tài nghệ chưa vào đâu, giang hồ chưa từng trải, sao lại đến ẩn núp nơi đây làm gì ?
Quách Phù lấy thân tình mẹ con, vừa cười vừa nói :
- Thưa mẫu thân, việc này là do con rủ ba anh ấy, lỗi ở con cả mà. Con muốn xem "Đả cẩu bổng pháp" như thế nào vì nghe nói môn võ này nổi danh thiên hạ , nhưng lúc đến xem Lỗ trưởng lão luyện tập thì thấy môn võ này tầm thường quá, thực chất chẳng có gì là lợi hại cả.
Hoàng Dung nghe Quách Phù nói, vừa cười vừa lấy đoạn tre ở tay Lỗ trưởng lão , hăm :
- A ! Con dám chê môn võ này không hay sao ? Vậy giữ lấy thân, ta sẽ "đả cẩu" cho mà xem này !
Quách Phù chăm chăm nhìn tay Hoàng Dung, định bụng đoạn tre kia ném tới, nàng sẽ nhảy lên né tránh .
Nhưng thoáng một cái, đoạn tre kia đã bay vù đến hai ống chân nàng, Quách Phù thất kinh kêu lên :
- Thôi thôi ! Con xin má ! Để con thủ thế đã.
Hoàng Dung rút cây bổng lại , rồi cười và hỏi :
- Con thủ thế gì bây giờ ?
Suy nghĩ một lúc, Quách Phù bảo anh em họ Võ :
- Hai anh đứng hai bên, tôi đứng chính giữa, xoạc hai chân ra và nắm lấy tay nhau thì vững như núi Thái Sơn.
Hai anh em họ Võ liền làm theo lời Quách Phù.
Khi đã thủ thế xong, Quách Phù nói :
- Bây giờ mẫu thân "đả cẩu" đi. Chúng con đứng thế này thì dẫu có dùng "Giáng long thập bát chưởng" cũng chẳng thể làm gì nổi !
Hoàng Dung cười nụ , cầm cây bổng lướt qua mặt ba người. ba người thấy như bị một luồng gió tạt mạnh vào mặt, người nào cũng lùi để né tránh và nhanh như chớp, cây bổng luồn vào chân ba người làm ba người té lăn ra đất.
Cả ba vội đứng lên , Quách Phù nói :
- Mẫu thân ơi ! Ngón đánh đó gọi là gì mà lợi hại thế ?
Hoàng Dung nói :
- Đây là thuật "Đả cẩu bổng pháp" Nhưng chỉ là một thế thường trong ba mươi sáu thế mà ta mới truyền dạy cho Lỗ Trưởng lão chứ chưa phải là các ngón bí quyết của thế võ. Nếu muốn thòng lọng bắt các con, ta sẽ buộc vào đầu cây gậy này một đoạn dây, đoạn dây sẽ mắc vào cổ các con không thể nào giãy giụa nổi. Với môn võ này , thì cho dù các con có " Giáng Long Thập Bát Chưởng" cũng đành bó tay. Thật là một môn võ siêu đẳng trong thiên hạ .
Những lời giảng giải trên , Dương Qua nghe đến đâu thì gật đầu đến đấy, chàng cảm thấy sung sướng vì mình đã gặp vận may.
Còn anh em họ Võ và Quách Phù thì bỡ ngỡ, chẳng hiểu vào đâu cả, vì chúng chưa rõ căn nguyên của diệu pháp.
Hoàng Dung lại giảng giải tiếp :
- Phép sử dụng "đả cẩu bổng" của Cái Bang có chỗ khác biệt với các môn phái khác ở chỗ : tuy học được chiêu thức thì cũng chưa thể dùng được khi chưa biết được các khẩu quyết của các thế. Các bí quyết ấy dầu người thông minh đến đâu cũng không thể nào lần ra được. Nói tóm lại, những bí quyết khẩu truyền ngoài ta ra không ai có. Vì vậy cho dù có nhìn trộm, học lén cũng chẳng có ích gì !
Quách Phù cười rồi nũng nịu nói :
- Môn võ lợi hại thế mà sao mẫu thân lại không truyền lại cho đứa con cưng của mẫu thân ?
Hoàng Dung rất cưng cô con gái này. Tuy nhiên, với đòi hỏi đó, Hoàng Dung chỉ mỉm cười nói :
- Con cùng hai anh đi chơi đâu đó đi !
Đoạn bà quay sang bảo Dương Qua :
- Qua nhi! Ta có việc cần hỏi, con ở lại một chút.
Khi anh em họ Võ và Quách Phù đã dắt tay nhau đi khỏi, Hoàng Dung nói với Lỗ Hữu Cước :
- Lão hãy còn chậm chạp lắm ! Hôm nay ta mệt, vậy hãy tạm để ngày mai học tiếp.
Lỗ Hữu Cước tuân lệnh, cầm cây bổng theo chân Quách Phù và anh em họ Võ trở về trang viện.
Dương Qua còn lại một mình, chàng thấp thỏm nghĩ thầm :
- Không lẽ riêng mình ta chịu tội xem trôm thế võ "đả cẩu" chăng ?
Nhưng không, Hoàng Dung thấy Dương Qua thần sắc không được tự nhiên, bèn cầm tay chàng dắt đến một phiến đá, bảo ngồi một bên và nói :
- Dương Qua con, con còn có những khúc mắc gì , ta đâu có biết ? Dầu ta có hỏi , chắc con cũng chẳng nói thật. Ta lúc tuổi trẻ, tính tình nhiều khi quái ác. Nhưng từ khi gặp được Quách bá bá con , tánh tình ta chịu ảnh hưởng rất nhiều ...
Nói đến đây, Hoàng Dung thở ra một hơi dài não ruột, bà lại tươi tỉnh mỉm cười nói tiếp :
- Ta không dạy con võ nghệ là dụng ý muốn con là một người tốt, ngờ đâu, vì ý nghĩ của ta mà gây cho con biết bao đau khổ đoạ đày.
Ngừng một lúc, bà nhìn Dương Qua nói với giọng thân mật :
- Qua nhi ! Quách bá bá của con thương yêu ta lắm. Tình thương ấy sâu như biển cả , há ta chẳng đáp đền ư ? Quách bá bá con lại để ý đến con, mong tác thành cho con làm thế nào để con sau này trở thành một trang tuấn kiệt. Vì cảm tình của Quách bá bá con, ta muốn dạy dỗ con để người được toại nguyện. Con đừng nghĩ quanh co đến những việc đã qua mà làm phật lòng Quách bá bá của con như thế . Con nghĩ sao ?
Lời ngọt ngào êm dịu đầy vẻ yêu thương thành thực và ánh mắt của Hoàng Dung lúc đó hiện ra những nét chân thành khiến cho Dương Qua cảm động quá. Bất giác chàng nức nở khóc.
Hoàng Dung vỗ nhẹ vào đầu Dương Qua nói :
- Qua nhi ! Đây là những lời thành thực phát ra từ đáy lòng ta. Trước kia, chỉ vì ta không ưa cha con mà ghét lây đến con. Từ nay trở đi, ta thề sẽ thương con hết mức, đợi đến khi ta sanh nở xong xuôi, ta sẽ đem hết võ công truyền dạy cho con.
Hoàng Dung càng nói, Dương Qua càng khóc, cái khóc cởi mở của một đứa bé đã cô đọng nhiều khúc mắc trong tiềm thức.
Được một lúc , Dương Qua sụt sùi nói :
- Quách bá mẫu, trăm sự nhờ ở tình thương của bá mẫu.
Hoàng Dung vuốt đầu Dương Qua nói :
- Hôm nay ta mệt mỏi lắm. Đợi vài hôm nữa ta sẽ nói hết cho con nghe cũng chẳng muộn gì ! Có điều cần làm là con ăn ở cho phải đạo trời đất là ta mừng rồi. Đợi đến khi xong đại hội Cái Bang, con sẽ thấy lòng ta đối với con là thực hay hư ảo.
Dương Qua nghĩ đến việc Hồng Thất Công qua đời, chàng muốn nhân đại hội Cái Bang này đem việc ấy trình bày cho mọi người rõ, nên chàng ưng thuận ở nán lại.
Cả hai chuyện trò dưới gốc cây, thổ lộ tất cả các suy nghĩ của mình. Bao nhiêu sự bất mãn trước đây đều xoá nhoà trong trí nhớ, và quyện theo mây khói thời gian.
Phá tan được thù hận , ngờ vực, Dương Qua vui mừng lắm. Từ ngày cùng Tiểu Long Nữ cách biệt đến nay, có lẽ hôm nay Dương Qua mới thấy lòng mình có hy vọng về tương lai...

Hồi 33

Bọn Mông Cổ xuất hiện phá Anh Hùng Yến.

Trò chuyện được một chập, Hoàng Dung cảm thấy trong bụng chuyển đau dần dần, nên uể oải đứng dậy bảo Dương Qua :
- Thôi, chúng ta nên về đi là vừa !
Nói xong, Hoàng Dung nắm tay Dương Qua dắt đi bách bộ thong thả trên con đường về, Gió chiều nhè nhẹ thổi, nhiều cánh bướm bay chập chờn trên các bụi cây hai bên đường, cảnh sắc đượm vẻ êm đềm thơ mộng.
Bước theo Hoàng Dung, Dương Qua dự định đem câu chuyện Hồng Thất Công đã chết trên đỉnh Hoa Sơn để thuật lại cho bà nghe. Chàng nói :
- Quách bá mẫu ...
Trong lúc này, cơn đau bụng của Hoàng Dung lại gắt hơn trước. Nhiều lúc cơn đau tăng quá, bà phải cố vận công chịu đựng, hơi thở bị đứt quãng. Nghe Dương Qua nói, bà nhăn mặt nhìn chàng rồi lắc đầu đáp :
- Bây giờ ta đang đau bụng quá, có chuyện gì chờ sáng mai hãy nói !
Dương Qua nhìn mặt Hoàng Dung thấy nước da tái mét. Mồ hôi đổ lấm tấm trên trán và nơi cổ, đôi mắt lờ đờ, mới nhìn như một thây ma, không còn chút sắc khí. Nắm tay bà thấy lạnh buốt như nước mùa đông.
Chàng vội vàng nắm chặt bàn tay bà rồi vận công chuyển nội lực sang người Hoàng Dung.
Lối truyền nội công này là một công phu thượng thặng trong "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương Qua đã cùng Tiểu Long Nữ luyện tập khi còn ở trên Chung Nam Sơn lúc trước.
Vốn đã có một căn bản nội công thâm hậu, nay lại được Dương Qua truyền thêm nhiệt lực vào, Hoàng Dung cảm thấy một luồng hơi ấm từ lòng bàn tay thâm nhập vào khắp cơ thể, trong người trở nên sảng khoái, và không bao lâu cơn đau đã biến mất, hơi thở điều hoà trở lại, đi đứng được tự nhiên như cũ.
Xưa kia, tại Lâm An, trong hoàng cung vua Tống, Quách Tỉnh đã bị Âu Dương Phong dùng chưởng lực Hàm mô công đánh trọng thương. Hoàng Dung phải cõng Quách Tỉnh về trốn trong mật thất tại Ngưu gia thôn, áp dụng phương pháp luyện công trong Cửu Âm Chân Kinh , ấp hai bàn tay cũng nhau truyền nội lực , tĩnh dưỡng trong suốt bảy ngày bảy đêm liền mới chữa hết vết âm thương.
Hôm nay, thấy Dương Qua nắm tay mình truyền nội lực, chỉ trong chốc lát đã thấy khoan khoái và sức lực mạnh hơn trước gấp mấy lần, cơn đau cũng đã tiêu tan đi mất, da dẻ hồng hào trở lại, Hoàng Dung rất ngạc nhiên và nghĩ bụng :
- Thật không ngờ thằng bé này mà luyện được nội công thâm hậu như thế này, Cứ như công lực nó đã truyền cho ta, thì mấy vị trong Toàn Chân thất tử vị tất đã theo kịp.
Tuy nghĩ bụng nhưng Hoàng Dung không nói ra, chỉ dịu dàng nhìn Dương Qua mỉm cười tỏ ý khen ngợi.
Bà muốn nói chuyện cảm ơn và hỏi thăm thủ thuật này là do ai truyền dạy cho Dương Qua , thì bỗng đâu từ đằng xa, bóng Quách Phù đang tung tăng chạy lại. Khi vừa đến nơi, nàng liến thoắng hỏi ngay :
- Mẫu thân, con đố mẫu thân biết ai là người đến dự hội đầu tiên ?
Hoàng Dung cười xoà nói :
- Hôm nay là ngày hội ngộ của các anh hùng trong thiên hạ, ai ai cũng tề tựu về đây, kẻ trước ngừoi sau, làm sao ta biết rõ được ai là người đến trước được !
Vừa đáp xong, bà chợt nghĩ lại và nói tiếp :
- Sư thúc và sư bá của nhị Võ lâu lắm chưa lại đây, chắc thế nào cũng nóng lòng gặp gỡ hơn những người khác . Có phải hai vị này đã đến đây trước tiên phải không ?
Thấy mẹ đoán trúng phóc, Quách Phù vỗ tay tán thưởng và khen lớn :
- Mẫu thân thông minh và liệu việc như thần, đáp đúng quá. Con xin chịu thua.
Hoàng Dung mỉm cười xoa đầu Quách Phù nói :
- Có gì đâu mà không đoán ra. Hai anh em nhà họ Võ lúc nào cũng đi theoc cạnh con như hình với bóng. Hôm nay con chỉ đi tìm mẹ có một mình, không thấy bóng của hai đứa nó thì mẹ biết ngay là chúng phải ở nhà tiếp người thân rồi. Có thế thôi, phải không ?
Dương Qua xưa nay vẫn tự cho mình là lanh lẹ thông minh hơn người, hôm nay thấy Hoàng Dung nhận xét và quyết đoán công việc mau lẹ và chính xác như thế thì chàng phục bà hết sức và công nhận Hoàng Dung còn thông minh hơn mình một bậc xa.
Hoàng Dung nhìn Quách Phù tười cười bảo :
- Phù nhi ! Mẹ mừng cho con sắp học thêm được một môn võ công thượng thặng đấy nhé!
Quách Phù ngạc nhiên hỏi mẹ :
- Võ công nào mà thượng thặng hả mẹ ?
Hoàng Dung chưa kịp đáp thì Dương Qua đã buột miệng nói hớt :
- Thuật "Nhất dương chỉ" !
Quách Phù càng thêm lạ lùng hơn, bỡ ngỡ hỏi nữa :
- Anh bảo sao, em chưa hiểu ? Mẹ ơi, anh Dương Qua vừa bảo thuật gì nghe lạ quá hả mẹ?
Hoàng Dung mỉm cười nói :
- Anh Dương Qua con đã hiểu rõ, con cứ hỏi thêm, anh ấy sẽ nói thêm cho mà nghe !
Quách Phù phụng phịu nói tiếp :
- Mẹ lừa con rồi .Có lẽ mẹ đã bày cho anh ấy biết trước rồi phải không ?
Nghe câu nói quá ngây thơ, cả Hoàng Dung và Dương Qua đều cười tủm tỉm nhưng không nói gì cả.
Trong khi ấy, Hoàng Dung chợt nghĩ :
- Dương Qua là đứa thông minh tài trí, lanh lẹ tuyệt vời. Anh em nhà họ Võ làm sao bì kịp hắn. Còn Quách Phù thì trẻ con và hời hợt quá, co biết gì đâu. Thuật "Nhất Dương chỉ" là một môn công phu tuyệt đỉnh của Nhất Đăng đại sư tức là Đoàn Nam Đế luyện thành công. Quách Tỉnh tuy cũng được học qua nhưng do một người khác chỉ dạy lại chứ không phải là do chính Nhất Đăng đại sư đích thân chân truyền, kể ra cũng uổng. Ngày nay , hai vị sư thúc bá của anh em họ Võ tới thăm, thế nào cũng nghĩ xót tình hai cháu mồ côi mồ cút mà truyền lại thuật này cho. Tuy nhiên, hai đứa ấy tài nghệ trí óc quá nông cạn, làm sao thụ huấn được cho nổi, kể ra cũng đáng tiếc.
Trong khi Hoàng Dung đang phân vân suy nghĩ về vấn đề này Quách Phù thắc mắc trong bụng :
- Mẹ ta có thuật hay như vậy mà không truyền dạy cho ta, lại đi dạy cho anh Dương Qua là nghĩa lý gì nhỉ ?
Nguyên Nhất Đăng đại sư , tức Đoàn Chấn Hưng - Đoàn Nam Đế, một trong ngũ bá võ lâm ngày trước , có cả thảy bốn đại đồ đệ là Ngư , Tiều, Canh,Độc. Sau này Võ Tam Thông , cha của hai anh em họ Võ được đứng vào hàng đệ tử thứ năm của người.
Võ Tam Thông giao đấu cùng Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Thu bị trọng thương, sau đó mất tích giang hồ, chưa biết lưu lạc về đâu, đã chết hay còn sống ?
Trước kia, trong lúc Hoàng Dung được Quách Tỉnh cõng lên núi Đào nguyên cầu Nhất Đăng đại sư chữa bệnh, có gặp bốn người Ngư , Tiều ,Canh ,Độc , đấu võ và đấu trí cả bốn người đều thua cặp Quách Hoàng. Hôm nay, trong bốn vị có hai người là Tiều và Độc đến phó hội dự "Anh hùng yến" , còn Ngư, Canh có lẽ ở nhà bế môn dạy anh em họ Võ thuật "Nhất dương chỉ".
Qua ngày hôm sau, khi ăn cơm trưa xong, tất thảy mọi người trong Cái Bang đều tụ hội tại một khu rừng rộng lớn phía bên ngoài, cạnh Lục gia trang để chuẩn bị dự lễ.
Lễ bàn giao giữa nhị vị Tân và Cựu bang chủ là nghi lễ quan trọng bậc nhất của Cái Bang, cho nên tất cả các trưởng lão và bang chúng bị gậy ở khắp nơi, dù là phương nào cũng đều về tụ hội đủ mặt. Riêng anh hùng hào kiệt võ lâm cũng nghe tiếng và được giấy mời về tham dự. Tất cả các võ phái quan trọng đều cử người đại diện về.
Suốt mười năm qua, Hoàng Dung bận công việc riêng trên Đào Hoa đảo , giao cho Lỗ Hữu Cước xử lý thường vụ công việc trong Cái Bang. Vốn là công minh chính trực nên Lỗ Hữu Cước được toàn thể bang chúng kính nể và cả hai phe "áo bẩn" và "áo sạch" đều thảy kiêu vì. Nhờ vậy mà uy tín ông đã tăng nhiều, và công việc trong phát triển khả quan lắm.
Lễ bàn giao hôm nay là một dịp để hợp pháp hoá nhiệm vụ mà Lỗ Hữu Cước đảm nhận từ lâu để điều khiển Cái Bang với danh chính ngôn thuận. Vì vậy nên cần phải tổ chức lại thật trọng thể và đúng theo nghi thức của Cái Bang xưa nay.
Sau khi Hoàng Dung tuyên bố trước mọi người quy luật của Cái Bang xong, tự tay mình trao cho Lỗ Hữu Cước cây "đả cẩu bổng" do các vị Bang chủ đã lưu truyền hàng trăm năm nay để làm bảo vật trấn bang, và lưu truyền mãi mãi từ vị Bang chủ này đến vị Bang chủ khác.
Sau khi nghe tuyên bố nội quy xong, tất cả mọi người xúm lại khạc đờm nhổ vào người, đầu, mình của vị Tân Bang chủ. Khi nào khắp người của Bang chủ đã dính đầy đờm dãi, chừng ấy mới chính thức xem như đã cáo thành.
Dương Qua đứng ngoài nãy giờ theo dõi những thủ tục vô cùng kỳ dị của Cái Bang, chàng cảm thấy buồn cười nhưng chàng cố gắng bấm bụng chịu đựng không dám cười ra tiếng sợ mang tiếng thất lễ với bề trên. Tuy nhiên, chàng nghĩ :
- Có lẽ bao nhiêu đệ tử Cái Bang phải nhổ vào mặt vị chúa tể của mình để nhắc nhở vị ăn mày chúa lúc nào cầm cân nảy mực cũng phải đúng mực công bằng. Làm lớn phải nghĩ đến con em, đừng giành riêng phần mình no đủ. Ngay bây giờ họ phỉ nhổ trước rồi mới hoan hô sau, làm như thế thì việc hoan hô càng tăng thêm giá trị. Sau này nếu gặp một Bang chủ tham lam, gian lận thì cũng đã phỉ nhổ xong rồi, phải chịu vậy chứ sao?
Trong lúc đang mải mê suy nghiệm ngấm ngầm về cổ tục trong nghi lễ Tấn phong Bang chủ Cái Bang, Dương Qua muốn đem chuyện cựu Bang chủ Hồng Thất Công đã qua đời loan báo cho mọi người biết thì thình lình có một người đứng tuổi, có lẽ cũng thuộc hàng chức sắc cao cấp trong Cái Bang , tung mình nhảy lên một tảng đá cao, tay cầm một cái hồ lô màu đỏ đưa cao lên cho mọi người xem.
Dương Qua ngạc nhiên hết sức khi vừa trông thấy chiếc hồ lô này. Vì quả là chiếc hồ lô do Hồng Thất Công dùng để đựng rượu luôn luôn mang theo mình từ trước đến nay và cũng là vật báu di truyền từ đời Bang chủ này sang đời Bang chủ khác.
Chàng quá ngạc nhiên tự hỏi :
- Ô kìa , sao lạ quá vậy nhỉ ? Khi mình gặp Hồng lão tiền bối trên đỉnh Hoa Sơn thì rõ ràng là ông có mang theo cái Hồ Lô đỏ nọ toòng teng bên hông, Sau khi ông thất lộc , chính tay mình đã mai táng thi hài ông và cũng chính tay mình đã đem vùi cái Hồ Lô này bên huyệt. Tại sao hôm nay Hồ Lô lại rơi vào tay cái anh chàng kia thì cũng lạ thiệt ! Chẳng lẽ trên đời này lại có hai cái Hồ Lô giống nhau như đúc sao ?
Chàng cứ suy nghĩ mông lung, tinh thần rối loạn, chưa biết hư thiệt ra sao , bỗng nghe tiếng hoan hô vang dậy náo động cả khu rừng , nghe như tiếng sấm động.
Lão ăn mày này chờ cho tiếng vỗ tay và hoan hô lắng xuống mới lớn tiếng nói :
- Lão Bang chủ Hồng đại gia truyền lệnh cho tôi đến gặp các bạn hôm nay để truyền lại cho Lỗ Bang chủ.
Rừng người lại hoan hô náo động một lần nữa và lần này thì kéo dài như vô tận.
Nguyên nhân, toàn thể đệ tử Cái Bang ai nấy đều kính mến Hồng Thất Công, xem lão như vị cha già, nhưng suốt mười năm qua, Hồng Thất Công đi đâu biệt tích, không ai được gặp nên ngày nay nghe tin về Hồng Thất Công thì ai nấy đều hết sức vui mừng, xem như một tin đại hỷ.
Bỗng từ trong rừng có một ngừoi lớn tiếng nói :
- Toàn thể đệ tử Cái Bang thành tâm cầu chúc cho Hồng Bang chủ trường thọ , luôn luôn mạnh khoẻ !
Tiếng hoan hô và vỗ tay lại nổi lên ầm ầm như sấm đông lần nữa.
Suốt đời Hồng Thất Công luôn giữ được tấm lòng nghĩa hiệp can trường, xứng danh trang anh hùng hào kiệt đầu đội trời, chân đạp đất, khiến cho bao nhiêu anh hùng hảo hán dù hắc hay bạch đạo đều hết thảy kính ngưỡng, khâm phục tài đức của ông. Còn bao nhiêu vạn bang chúng trong làng bị gậy thì ai ai cũng xem ông như cha.
Tiếng hoan hô hoà lẫn với những tràng vỗ tay như pháo xuân cứ kéo dài luôn mấy khắc , âm thanh vang đi xa mấy dặm. Dương Qua để ý nhìn kỹ, thấy có nhiều kẻ vì quá cảm động mừng rỡ mà chảy cả nước mắt.
Thấy ai ai cũng hân hoan tin tưởng là vị chúa tể thân yêu hãy còn sống khoẻ mạnh, Dương Qua không tiện đem chuyện ông đã chết nói ra lúc này, vi sợ gieo sự đau buồn cho mọi người và có thể người ta sẽ không thèm nghe mình là khác.
Đang phân vân suy nghĩ, bỗng lão ăn mày vừa rồi la lớn tiếp :
- Trước đây ba hôm, tôi đã có dịp được bái yết Hồng lão bang chủ tại quận Long câu...
Dương Qua ngạc nhiên quá sức, nghĩ thầm :
- Lạ thật ! Rõ ràng Hồng Thất Công đã chết và do tay mình chôn cất trên đỉnh Hoa Sơn. Thế tại sao người này lại quả quyết là mới tiếp kiến người cách đây ba hôm thôi ?
Nỗi thắc mắc cứ vương vấn mãi chưa tìm ra manh mối. Dương Qua vẫn đang ngẩn người suy nghĩ thì lão ăn mày lại nói tiếp :
- Hồng lão bang chủ cũng biết rõ ngày hôm nay Hoàng Bang chủ làm lễ trao lại quyền bang chủ cho Lỗ trưởng lão và được toàn thể mọi người trong bang đồng ý tấn phong Bang chủ. Người có bảo cũng tại hạ rằng người cũng rất tán thành và hoàn toàn tín nhiệm Lỗ trưởng lão.
Nghe tới đây, Lỗ Bang chủ vội vàng quỳ sụp xuống đất khấu đầu nói lớn :
- Được Hồng Bang chủ có lòng xót thương , đệ tử nguyện xả thân hy sinh vì lợi ích chung cho Bang ta, dù phải nhảy vào lửa đỏ dầu sôi cũng không dám nề hà.
Thấy Lỗ hữu Cước tân Bang chủ Cái Bang quỳ thưa, người ăn mày nhắm mình thân phận thấp hèn, không biết nói năng sao cho phải lễ và khỏi mang tiếng là phạm thượng, nên vội vàng đưa tay lúc lắc chiếc Hồ Lô đỏ , biểu hiện của Hồng Thất Công.
Lỗ Hữu Cước kính cẩn nhắm chiếc hồ lô lạy luôn mấy lạy.
Người ăn mày dõng dạc nói thêm , giọng sang sảng :
- Hồng lão bang chủ có dạy rằng :" Quốc gia xã tắc đang lâm cảnh loạn ly, thiên hạ đang lầm thân vì quan tham vô lại và nạn ngoại xâm. Giặc Mông Cổ đang đặt gót sắt lên đất nước theo kiểu "tằm ăn rỗi" với ý đồ thôn tính toàn bộ giang sơn Đại Tống trong một thời gian ngắn gần đây. Vậy tất cả các đệ tử Cái Bang , từ trên xuống dưới phải dốc lòng hiệp nghĩa, đem gan óc đền nợ núi sông, chúng ta phải hy sinh xương máu chống giặc đến giọt máu cuối cùng.
Cả rừng người đồng thanh hô lớn :
- Đệ tử xin tuân lệnh, tuân lệnh ...
Người ăn mày già nói tiếp :
- Hiện nay triều chánh đang mục nát thối tha, , bao nhiêu quyền hành quốc gia đều nằm trong tay bọn mua quan bán tước. Chúng ta cần phải tiêu diệt trước bọn này để tẩy uế cho dân tộc, tránh cho đại chúng khỏi một cái ách bên trong rồi mới phấn khởi chống với cái nạn bên ngoài.Chúng ta trừ được nạn ô quan vô lại thì dân chúng mới tin tưởng và quên mình trả nợ nước. Ngày nay, lão Bang chủ đang dầm sương gội gió nơi miền cực Bắc để lo cho hoàn thành một sứ mạng vô cùng trọng đại. Vì vậy người không tiện về đây để chứng kiến và họp mặt cùng anh em được. Người sai tôi vượt ngàn dặm về đây cùng anh em và dặn tôi truyền đạt lại cho mọi người phải luôn luôn ghi tạc trong tâm hai chữ "Trung nghĩa" để bồi đắp mối nợ ấy của dân tộc, của quốc gia.
Người ấy nói vừa dứt câu thì rừng người lại hô lớn :
- Xin tuân lệnh Hồng Bang chủ, Hồng Bang chủ muôn năm...
Trước lòng nhiệt thành của hàng vạn bang chúng Cái Bang , triệt để tin tưởng vào mệnh lệnh của một vị Bang chủ, Dương Qua chạnh lòng suy nghĩ :
- Từ nhỏ mình không được học văn chương, chữ nghĩa nên chẳng quán thông cho hết ý nghĩa tốt đẹp của hai chữ trung, nghĩa ? Tuy nhiên, cứ nhìn hàng vạn người trong Cái Bang , tuy khoác chiếc áo ăn xin, tay gậy vai bị nhưng trong tâm hồn chất chứa đầy những chính khí thật đáng khâm phục. Thế mà xưa kia vì không hiểu rõ mục đích tôn chỉ của Cái Bang, mình đã nhiều lần đùa cợt với đệ tử của Cái Bang, quả thật là không phải.
Vừa hối hận với những việc mình đã làm khi trước, Dương Qua chợt nghĩ lại câu chuyện thắc mắc :
- Lạ quá, chính tay mình đã an táng thi hài Hồng Thất Công lão tiền bối. Tạo sao lão ăn mày này lại dám quả quyết rằng lão vừa yết kiến Hồng Thất Công trước đây ba bữa ? Bảo rằng lão mạo lệnh của Hồng Thất Công thì cũng không đúng. Vì hiệu lệnh toàn những lời nghĩa khí chính đại quang minh, không có ẩn ý gì vụ lợi hay hại ai cả . Nếu là kẻ tầm thường nhất định không thể nào thốt lên được bao nhiêu lời vang ngọc như thế được.
Trong lòng cứ băn khoăn ngờ vực không yên, cuối cùng Dương Qua nghĩ tới biện pháp chót :
- Để rồi ta hỏi lại Hoàng Dung Bang chủ vậy. Chắc là bà có ý kiến hay và đúng đắn !
Vì là việc của Cái Bang cho nên những người ngoài cuộc không ai muốn xen vào bàn cãi hay góp ý. Vì vậy, sau khi lễ tấn phong kết thúc, các anh hùng hảo hán đều cáo từ ra về.
Khi ấy , bóng chiều cũng dần dần phủ xuống non sông. Hồi chuông công phu vang lên trong bầu không khí, từ ngồi chùa cổ vọng ra, dội tận mé núi xa xa. Đoàn thợ rừng nghe tiếng chuông vội vàng thu xếp dụng cụ ra về. Những nông dân đang làm rẫy cũng ngước mắt nhìn ánh tà dương rồi ung dung về nhà. Chim rừng đã ríu rít gọi nhau về tổ.
Từng đàn chim lớn đậu đĩnh đạc trên ngọn cây cổ thụ đứng sừng sững trên khu rừng, đưa mắt nhìn từng đàn chim bé nhỏ đang chíu chít xôn xao tìm chỗ ngủ.Từ đằng xa , nhiều tiếng cò đang vỗ cánh bay từng đàn vượt qua triền núi cao về nơi chân trời khuất trong những đám mây xám xịt.
Nhìn những con chim bé nhỏ đang tìm chốn ngủ, Dương Qua nổi nóng bảo thầm trong bụng :
- Cây rừng đất núi đâu phải là dành riêng cho chúng bây mà chúng bây lại ỷ mạnh hiếp yếu, hiếp đáp bầy chim non như vậy. Ta phải cho bây biết mùi kẻ mạnh để chừa bớt thói bắt nạt kẻ yếu hơn.
Nghĩ xong, chàng cúi xuống toan lượm mấy viên sỏi giết chết bầy chim này, nhưng chàng chợt nghĩ lại :
- ấy chết, sao ta lại ác như vậy ? Sách thánh hiền đã dạy :" Làm ác gặp ác, làm thiện gặp thiện" ,. Hoá công đã sanh có chim nhỏ và bầy chim lớn chắc có định sẵn một quy luật sinh sống cho bọn chúng rồi, hơi đâu mà lo cho mệt xác. Ta ném bọn chim to, nhưng biết đâu bứt dây động rừng, nắm sỏi ném ra có thể gây náo loạn trong khu rừng này khiến bầy chim non thêm sợ hãi bay toán loạn để tối nay không có chỗ ngủ cũng tội. Thôi thây kệ chúng vậy. Bọn ác điểu sẽ có quyền hoá công xử phạt...
Màn đêm dần dần bao bọc khắp đó đây. Dương Qua thơ thẩn bước ra về vừa tới trước cổng trang viện nhà họ Lục
Chàng đưa mắt nhìn qua, thấy từ bên trong ra tới tận cổng, đâu đâu cũng có treo đèn kết hoa vô cùng lộng lẫy, chắc có lẽ đang có đại yến chi đây ?
Từ toà đại sảnh lớn giữa trang viện cho tới phía sau , hai bên tả hữu bàn ghế sắp la liệt . Trên những dãy bàn dài thẳng tắp có sắp sẵn hơn hai trăm thôi, mỗi thôi có mười người ngồi, để tiếp đãi anh hùng hào kiệt khắp bốn phương.
Dương Qua suy nghĩ :
- Từ trong đến ngoài, quá nửa là tân khách từ phương xa về dự. Bình sinh ta chưa khi nào gặp được một buổi đại tiệc vĩ đại và sang trọng như thế này ! Chủ nhân ngoài là một đại cự phú, tất nhiên còn phải là một tay trọng nghĩa khinh tài, nức tiếng giang hồ, được nhiều người ngưỡng mộ, cho nên ngày nay mới mời được quá đông người hưởng ứng như thế này !
Trong lúc này vợ chồng Quách Tỉnh, Hoàng Dung và con gái Quách Phù đang bận rộn tiếp khách nơi đại sảnh.
Hoàng Dung chỉ cho Dương Qua một chỗ ngồi ngay bên cạnh mình, còn Quách Phù và hai anh em họ Võ lại để ngồi ở một bàn khác cách bà khá xa .
Thấy Dương Qua được mẫu thân ưu đãi, Quách Phù thắc mắc trong bụng :
- Thằng ngốc Dương Qua không biết qua chút võ nghệ nào, chẳng hiểu vì sao mẫu thân lại trọng đãi nó, đưa nó lên ngồi chiếu trên trong đại yến dành riêng cho các bậc anh hùng hảo hán trong võ lâm như vậy nhỉ ?
Nhưng nàng bỗng nghĩ thêm:
- Hay là phụ thân có ý định đem mình gả cho chàng, nên mẫu thân mới đặc biệt đãi chàng như vậy chăng ? Như thế thì mẫu thân cũng ưng thuận rồi sao ?
Xưa nay Quách Phù vốn được cha mẹ nuông chiều đã quen . Ngày nay thấy Dương Qua đã chiếm mất sự ưu ái đó , trong bụng bỗng dưng sang tự ái, bực dọc. Khi thấy Hoàng Dung vỗ vai Dương Qua nói chuyện ra vẻ thân mật , hình như coi chàng là con đẻ, chính nàng xưa nay cũng chưa bao giờ được hưởng những cử chỉ đó, Quách Phù thấy sự căm tức tràn lên tận cổ, suy nghĩ :
- Phụ thân chỉ nói sơ như vậy mà mẫu thân đã vội thương nó ngay mà chẳng thèm nói với mình một tiếng .Đã vậy, ta quyết phá đám cho vui.
Bũng nghĩ như vậy, nét giận đã lộ ra trên đôi mắt. Nàng cứ nhìn trừng trừng về phía Dương Qua.
Thấy thái độ của Quách Phù như vậy, Võ Tu Văn mừng rỡ như bắt được báu vật, thừa dịp mở đường nói khích :
- Này Quách muội, hãy nhìn xem cái thằng nhãi con họ Dương kia kìa . Hắn là hạng nào, tài nghệ đáng bao nhiêu mà dám ngất ngưởng ngồi ngay tại chiếu trên dành cho các bậc anh hùng hào kiệt đương thời ?
Như được gãi đúng chỗ ngứa, Quách Phù vội phụ hoạ theo liền :
- ừ ! Quả thật tức muốn chết lên được. Anh có cách gì làm nhục hay tống cổ hắn đi cho khuất mắt không ?
Từ lúc nấp trên cây cao nghe trộm , biết Quách Tỉnh định đem Quách Phù gả cho Dương Qua, thì hai anh em họ Võ vô cùng bực tức và đã nuôi lòng ganh ghét Dương Qua từ lúc ấy. Từ chỗ ganh tỵ đến chỗ căm thù , xem nhau như tình địch có bao xa ?
Vừa nghe Quách Phù nói tỏ ý bực tức Dương Qua và yêu cầu như vậy, Võ Tu Văn nghĩ :
- Ta cũng nên thừa dịp này làm vừa lòng Quách Phù, cho tên Dương Qua này nhục một phen cho bõ ghét. Một khi hắn đã bị công khai bêu xấu giữa công chúng thì còn khi nào dám nhận làm rể quý của gia đình này nữa chứ ? Quách sư mẫu xưa nay chỉ thích và trọng những ai có võ công cao cường và nhiều tinh thần mã thượng mà thôi .
Nhân vừa học được một chút ít về thuật Nhất Dương chỉ, Võ Tu Văn muốn đem ra thi thố xem sao, trước để cho Quách Phù phục mình, sau làm đẹp lòng Sư bá đã có lòng rèn luyện cho mình.
Nghĩ thế nên Võ Tu Văn đáp ngay :
- Bất tài mà dám tự xưng anh hùng thì cũng đáng tống đi cho khuất mắt. Nếu không sẽ có ảnh hưởng không tốt đến bọn ta. Tôi đã có cách đối phó với hắn.
Nói xong, Võ Tu Văn rót đầy một ly rượu đứng dậy hăm hở bước lại cạnh Dương Qua tươi cười mời :
- Dương đại ca ! Em có ly rượu, xin chúc mừng anh đây !
Dương Qua vốn bản chất thông minh tuyệt vời, Võ Tu Văn không thể nào so sánh kịp. Nay tự nhiên thấy Võ Tu Văn đem rượu đến ân cần mời mọc, chàng đã có ý nghi ngờ. Hơn nữa, mắt Võ Tu Văn luôn liếc về phía Quách Phù, nên Dương Qua đoán việc này thế nào cũng có ác ý và bọn này dự mưu định hãm hại mình rồi !
Tuy trong lòng nghi ngờ ly rượu có bỏ độc nhưng Dương Qua vẫn tươi cười đứng lên tiếp lấy uống một hơi cạn ráo .
Võ Tu Văn thừa lúc Dương Qua đang uống, lén điểm ngay vào huyệt "Tiếu yêu" phía sau lưng chàng.
Nếu người thường mà bị điểm vào huyệt này thì tất nhiên sẽ nổi lên cười lăn cười lóc, cười hoài không thể nào ngưng được cho đến khi ra nước mắt và ngất xỉu mà thôi. Võ Tu Văn muốn điểm huyệt này để khiến Dương Qua cười hoài ngay giữa bữa tiệc, gây sự vô lễ trước mặt các vị anh hùng làm mất mặt Hoàng Dung, thì cố nhiên là sẽ mất vợ. Chừng ấy Quách Phù nhất định phải thuộc về mình.
Nhưng cách dự liệu này làm sao qua được con mắt tinh tế của Dương Qua. Chàng đã khám phá ra và lưu ý theo dõi từng cử chỉ nhỏ của Võ Tu Văn ngay từ lúc đầu rồi.
Nếu là một kẻ khác, hay trong một dịp nào không có mặt đông đủ quần hùng thì Dương Qua đã trả đũa lại ngay. Nhưng nơi đây thấy rằng dù sao mình cũng không nên gây rối loạn làm phiền lòng Quách bá mẫu, huống chi Võ Tu Văn là học trò của hai vị, dù ghét đệ tử thì cũng nên nghĩ đến thầy. Vì vậy nên chàng điềm nhiên như không hề hay biết, chỉ dùng phép nghịch chuyển các huyệt đạo mạch máu trong thân thể theo phương pháp mà dưỡng phụ Âu Dương Phong đã truyền thụ cho khi trước. Nhờ phương pháp này nên cho dù Võ Tu Văn có điểm trúng huyệt đạo "Tiếu yêu" thì chàng vẫn không bị ảnh hưởng gì hết.
Đây là một thuật đặc biệt do Âu Dương Phong sáng tạo ra, khiến cho thần kinh và mạch máu trong cơ thể nghịch chuyển và làm cho tất cả các yếu huyệt trong châu thân thay đổi phương vị. Vì trong trường hợp này, Dương Qua không thể chổng chân lên trời , chúc đầu xuống đất nên không lâu sau bao nhiêu mạch máu lại vận chuyển lại bình thường và các huyệt đạo lại trở lại vị trí cũ.
Võ Tu Văn điểm mạnh vào đúng ngay huyệt Tiếu yêu của Dương Qua , nhưng Dương Qua chỉ cười khẽ một tiếng rồi điềm nhiên ngồi yên như cũ, không có tác dụng nào khác nữa, nên trong lòng ngạc nhiên hết sức. Võ Tu Văn lẳng lặng trở về chỗ ngồi nói nhỏ cùng Võ Đôn Nho :
- Thuật điểm huyệt Nhất Dương chỉ của sư bá dạy anh em mình không có hiệu lực gì cả. Em đã điểm hắn trúng ngay huyệt đạo mà hắn vẫn không sao cả .
Võ Đôn Nho hỏi lại :
- Tại sao, chắc là vì lối dạy không hiệu nghiệm chăng ?
Võ Tu Văn đem việc mình vừa ngấm ngầm điểm huyệt Dương Qua mà kể đầu đuôi lại.
Võ Đôn Nho mỉm cười chưa đáp, Quách Phù đã bĩu môi nói :
- Tôi xem cái thuật Nhất Dương chỉ chẳng có gì đặc biệt, chỉ khiến cho thiên hạ buồn cười mà thôi, đừng thi thố làm gì cho xấu mặt !
Võ Đôn Nho tức ứa gan, nhưng không nói gì, lẳng lặng rót một ly rượu đầy, bưng lại trước mặt Dương Qua lễ phép nói :
- Kính thưa Dương đại ca, anh em chúng ta xa cách lâu ngày nay được gặp lại, không biết lấy gì, chỉ xin lấy chén rượu mừng đại ca lấy thảo. Xin chớ chối từ !
Dương Qua nghĩ bụng :
- A ! Té ra thằng em không làm gì được, bây giờ tới phiên thằng anh tới quyết hạ độc thủ đây mà. Bọn bay chỉ là bọn giá áo túi cơm, muốn hại ta thế nào nổi. Tài nghệ ngươi cũng như thằng em người chứ có hơn chút nào đâu mà hòng ?...
Nghĩ thế , chàng đứng dậy, tay phải gắp một miếng thịt trâu thật lớn trên mâm, tay trái bưng ly rượu, tươi cười đáp :
- Đa tạ, đa tạ !
Xuất kỳ bất ý, Võ Đôn Nho dùng tay phải che rồi đưa tay trái điểm thật nhanh vào huyệt "tiếu yêu" trên lưng Dương Qua.
Lần này, Dương Qua không cần phải dùng thuật nghịch chuyển huyệt đạo, chỉ thò tay ra đằng sau đặt miếng thịt trâu ngay trên huyệt "tiếu yêu" của mình.
Ngay lúc đó, Võ Đôn Nho đưa tay điểm tới, xuyên mạnh qua miếng thịt trâu.
Dương Qua đặt đũa xuống bàn, cười hề hề nói :
- Uống cạn ly này rồi được tặng miếng thịt trâu để nhắm thì còn gì thú vị bằng . Hì hì ...
Võ Đôn Nho rụt tay về , dính luôn cả miếng thịt trâu thui trên đầu ngón tay, máu chảy nhểu xuống đất từng giọt. Võ Đôn Nho luống cuống, bỏ ra thì chứớng, nắm lại thì càng xấu mặt hơn, nên chàng ta đứng sững sờ một lúc rồi đoạn lườm Dương Qua một cái rồi nắm luôn cả miếng thịt lầm lũi bước về chỗ cũ.
Quách Phù thấy Võ Đôn Nho cầm cả miếng thịt trâu to tướng còn dính đầy máu đem về thì ngạc nhiên lắm, vội hỏi :
- ủa ! tại sao vậy ? Bàn này thiếu gì thịt trâu mà phải lấy trộm nơi khác mang về =, không sợ thiên hạ cười cho hay sao ? Anh cũng nên nhớ hôm nay là ngày đãi tiệc anh hùng trong thiên hạ, làm như vậy không thấy thẹn với người ta hay sao ?
Võ Đôn Nho thẹn quá đỏ mặt, chỉ cúi xuống, không biết đối đáp ra sao.....
Trong lúc Võ Đôn Nho đang lúng túng chưa biết gỡ gạc ra sao thì một cụ già đi rót rượu từng bàn và mời từng tân khách. Cụ già ấy chính là Lỗ Hữu Cước , tân Bang chủ Cái Bang.
Sau khi rót rượu giáp vòng đủ cả các tân khách , Lỗ Hữu Cước trịnh trọng cất giọng nói sang sảng :
- Xin liệt vị tân khách vui lòng giữ yên lặng cho lão thưa qua một việc .... Vị chúa tể Cái Bang là Hồng Thất Công lão bang chủ có truyền lại một điều : Hiện nay quân Mông Cổ từ phương Bắc đang xâm lấn nước nhà. Phàm là công dân đất nước, trong lúc nước nhà gặp cơn nguy biến , bất luận già trẻ gái trai, ai ai cũng phải đem hết tài lực ra chặn đứng làn sóng ngoại xâm, quyết đem cái chết đáp đền nợ nước. Dám chắc bao nhiêu anh hùng liệt vị có mặt trong đại yến hôm nay người nào cũng nghĩ đến hai chữ "trung, nghĩa" làm đầu. Vì vậy, chúng tôi mong muốn quý vị ai có ý kiến nào hay có thể ngặn chặn được vết chân ngựa Hồ xâm lăng khỏi vượt qua sông tiến về phía Nam, để đem đến cái hoạ lớn khiến cho mọi người cõng vợ , bồng con đi chạy giặc thanh niên trai tráng chết la liệt ngoài đường như năm nào hồi đời Tỉnh Khang khi trước nữa.
Lời nói của Lỗ Hữu Cước vừa dứt, bỗng nhiều tiếng xôn xao của nhiều người muốn lên tiếng đáp một lúc, nghe không rõ ràng. Sau đó một người đứng dậy nói lớn :
- Chúng ta phải đồng tâm hiệp lực chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước !
Hầu hết tân khách, ai ai cũng mang một bầu nhiệt huyết, lúc nào cũng có lòng thành với non sông, cho nên ai nấy đều nhận thấy cái họa Mông Cổ xâm lăng đất nước cũng giống như lửa cháy mày, đòi hỏi phải có sự đồng tâm nhất trí của anh hùng hào kiệt bốn phương để chống lại.
Một vị đầu bạc như tuyết, râu trắng như sương bước ngay ra giữa đại sảnh cất tiếng rổn rảng như chuông đồng, nói lớn :
- thưa liệt vị, phàm trời sinh rắn phải có đầu, binh phải có tướng, chúng ta dù có đông tới đâu nhưng không người điều khiển, lãnh đạo thì ai cũng như ai, mỗi người một ý , làm sao hiệp lực để hoàn thành việc lớn ? Liệt vị nghĩ vậy có phải không ?
Mọi người thét vang như sấm động :
- Hiện nay quần hùng chưa có người lãnh đạo, chúng tôi bằng lòng suy tôn lão trượng là người có tuổi tác đáng kính, nhận trọng trách lãnh đạo cho chúng tôi làm theo !
Ông lão cả cười đáp :
- Thân già này đã gần đất xa trời, không biết đến lúc nào chầu Diêm Vương, trí thiển tài hèn trong hành khất, làm sao có đủ tư cách đảm nhiệm trọng trách ấy. Ngày nay trong giới võ lâm giang hồ chỉ có bốn vị là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái là những bậc có võ công thượng thặng và Vương Trùng Dương là đệ nhất hào kiệt võ lâm e ra mới có đủ khả năng lãnh đạo công việc này. Hiện giờ Vương Trùng Dương đã sớm chầu trời, còn lại Đông tà, Tây Độc không phải là người trong phái chúng ta, còn Nam đế thì ở tận quốc gia Đại Lý quá xa vời. Như thế người có thể làm Minh chủ võ lâm chỉ còn lại có một mình Bắc Cái Hồng Thất Công là đáng mặt hơn cả .Xưa nay, Hồng Thất Công được các giới trong võ lâm sùng kính, mến chuộng, trọng vọng như Bắc đẩu, Thái Sơn và thảy toàn dân đều ngưỡng mộ.
Ngay lúc đó từ trong rừng người có tiếng nói :
- Hồng Bang chủ quả xứng mặt là lãnh tụ quần hùng, tuy nhiên, một mình người cũng chưa đủ. Chúng ta cần chọn một người tài đức gồm đủ để làm phó thủ lĩnh thì công việc lãnh đạo mới được hoàn thành.
Tiếng nói rổn rảng như tiếng chuông ngân, âm thanh như xói thủng màng tai, nhưng mọi người không thấy người đó đâu hết .
Mọi người đưa mắt nhìn về phía phát ra âm thanh tìm kiếm, mãi một hồi lâu mới tìm ra một vị thân hình lùn tịt, bị mọi người xung quanh che khuất nên mặc dù người đó đã nhón gót đứng dậy nhưng mọi người vẫn không trông thấy diện mạo được.
Có kẻ yêu cầu :
- Vị nào vừa phát biểu ý kiến , xin vui lòng xuất đầu lộ diện cho anh em nhìn thấy !
Từ đám đông, một người nhảy vút lên đứng trên mặt sàn giữa sảnh. Quần hùng nhìn thấy người đó trạc độ bốn mươi tuổi, thân hình thấp lùn, cao chỉ chừng mấy thước nhưng mặt mũi khôi ngô, đôi mắt sáng quắc như hai ngọn đèn.
Vừa trông thấy thân hình quá ư thấp bé, nhiều người đã cười khúc khích. Nhưng khi thấy người đó đưa đôi mắt sáng như điện loang loáng đảo khắp nơi, đầy vẻ hào khí , nên cảm thấy khiếp sợ, vội vàng nín miệng không dám cười nữa.
Một chập sau , ngưòi lùn nói :
- Mặc dù Hồng Thất Công lão tiền bối đạo đức cao thâm, bản lãnh hơn người , nhưng đã ngót mười năm qua, ngừoi không xuất đầu lộ diện . Nếu chúng ta bầu người làm Minh chủ thì ngay lúc này lấy ai đứng ra điều khiển quần hùng một cách thiết thực cho được ? Mặc dù chúng ta kính trọng, quý mến người nhưng việc làm cần thực tế mới được !
Ai nấy đều gật gù ngẫm nghĩ :
- Gã nói như vậy thật là có lý !
Người lùn nói tiếp :
- Công cuộc của chúng ta hiện nay dốc lòng tận trung báo quốc, đâu phải chuyện riêng tư của một người nào hay của một nhóm nào ? Chúng ta cần bầu một vị Minh chủ thứ hai, thay mặt Hồng Thất Công lão tiền bối điều hành đại cuộc chống ngoại xâm. Liệt vị nghĩ sao, xin cho biết ý kiến ?
Một tràng vỗ tay vang lên như sấm nổ, tán thành ý kiến đó.
Bây giờ bắt đầu mục đề cử.
Một người nói lớn :
- Tôi xin đề nghị đại hiệp Quách Tỉnh !
Một người khác cất tiếng theo :
- Tôi xin đề cử Lỗ Bang chủ !
Nhóm khác thét to :
- Xin bầu cho Lục Trang chủ là người xứng đáng hơn cả.
Từ phía trước lại nhao nhao lên :
- Chúng tôi xin đề cử Mã Giáo chủ Toàn Chân giáo. Nếu không thì xin bầu Bang chủ Thiết chưởng Bang làm đệ nhị Minh chủ võ lâm !
Mỗi người một tiếng, mỗi nhóm một ý, tiếng hò hét vang lên khắp nơi, vô cùng nhộn nhịp. Mãi một lúc sau, Quách Tỉnh phải chật vật lắm mới giữ được trật tự .
Mọi người đang phân vân chưa biết chọn người nào cho xứng đáng, bỗng từ bên ngoài, bốn lằn đen lướt vào như bốn luồng khói. Ai nấy cùng định nhãn nhìn kỹ thì thấy bốn ngừoi đó đang dùng thuật khinh công tiến vào phía sau đại sảnh. Người đi đầu là Hách Đại Thông, tiếp theo là Tôn Bất Nhị, kế tới là Triệu Chí Kính và sau cùng là Doãn Chí Bình.
Vừa thấy bốn người này trở lại, Dương Qua đã e ngại trong lòng không hiểu vì lý do gì .
Quách Tỉnh cùng Lục Quán Anh trang chủ cùng vội vàng bước ra niềm nở đón tiếp rồi ân cần đón tiếp vào trung quân, mời ngồi chiếu trên và nói :
- Khắp thiên hạ, ai ai cũng biết Toàn Chân giáo là Bắc đẩu võ lâm . Cho nên trong cuộc anh hùng đại yến hôm nay vắng mặt quý vị quả thật là một khiếm khuyết quá lớn. Chúng tôi đang âm thầm lo ngại và mong chờ. Không ngờ được liệt vị chiếu cố đến vừa đúng lúc quá. Thật là vạn hạnh.
Hách Đại Thông ghé vào tai Quách Tỉnh nói nhỏ :
- Vì có bọn kình địch sắp lại đây phá rối nên chúng tôi tới trước báo tin cùng đại hiệp biết để chuẩn bị đối phó. Vậy đại hiệp nên thu xếp đề phòng ngay bây giờ là vừa.
Quách Tỉnh nghe xong nghĩ bụng :
- Quảng Ninh tử Hách Đại Thông là một kiếm khách lỗi lạc trên giang hồ, trong võ lâm ai nấy đều kính nể. Nay người đích thân đến đây báo cho ta biết tin này, tất nhiên kẻ địch phải là hạng người đáng ngại lắm !
Nghĩ vậy, Quách Tỉnh hỏi :
- Thưa , có phải là Tây Độc Âu Dương Phong hay không ?
Hách Đại Thông đáp :
- Không phải ! Chính là bọn Mông Cổ. Chúng tôi đã cùng chúng đối địch mấy lần rồi !
Thấy không phải là Âu Dương Phong, Quách Tỉnh cảm thấy yên dạ được phần nào và suy nghĩ thêm :
- Nếu vậy có lẽ là bọn Hoắc Đô Vương tử . Và chắc cũng chỉ có nó mà thôi !
Quách Tỉnh định hỏi lại Hách Đại Thông xem có phải là đúng như lời mình đoán hay không . Hách Đại Thông chưa kịp trả lời thì bỗng từ bên ngoài đã có tiếng tù và rúc lên từng hồi liên tiếp , rồi kế theo đó là tiếng trống, thanh la và cả đàn sáo lẫn lộn. Cảnh tượng Lục gia trang trở nên xao xuyến hỗn độn hơn trước rất nhiều.
Lục Quán Anh đứng lên nhắc mọi người :
- Có quý khách sắp tới ! Xin quý vị chuẩn bị đón tiếp .
Nói vừa dứt lời , đã có trên hai chục người nhảy vào đại sảnh .
Quần hùng đang mải mê nói chuyện, bỗng thấy nhóm người lạ mặt xuất hiện quá đột ngột , ai nấy đều ngạc nhiên và đoán có lẽ là những người được mời dự Anh hùng yến nhưng đến muộn.
Toàn thể quan khách có ý thử nhìn xem có ai quen biết hay không. Nhưng một chập sau vẫn không nhận thấy kẻ nào quen thuộc.
Vì vậy nên quần hùng không để ý nữa .
Quách Tỉnh ghé tai Hoàng Dung bảo nhỏ :
- Bọn mới vào, ngừoi nào cũng có vẻ hiên ngang ngạo ngược. Chúng ta cần lưu tâm phòng bị mới được.
Dặn xong, hai người cũng chạy ra đón tiếp ....
Quách Tỉnh nhận thấy người đi đầu mặt mũi sáng sủa, khôi ngô, mình mặc áo cẩm bào màu đỏ, đầu đội mão có đính Kim hoa. Kẻ ấy không ai xa lạ, chính là Hoắc Đô Vương tử , một người trong Hoàng tộc Mông Cổ . Đi kèm theo là một người thân hình mảnh khảnh nhưng khoẻ mạnh, một vị chưởng giáo phái Mật Tông ở bên Tây Tạng tên Đạt Nhĩ Ma.
Quách Tỉnh đã chạm trán cùng hai người này tại Trùng Dương Cung ngày trước cho nên về mặt võ nghệ cũng không thấy gì đáng ngại.
Đi cạnh hai người này lại có một vị tăng, vừa gầy, vừa cao, đầu đội nón "tu lờ" , mặc áo bào đỏ thẫm, trán rộng, bóng nhoáng và nhô lên trông rất dữ tợn.
Quan sát xong, Quách Tỉnh và Hoàng Dung cùng suy nghĩ :
- Xưa kia, có lần được nghe Hoàng Dược Sư kể lại bên Tây Tạng có một phái Mật tông có võ công rất cao kỳ tinh diệu, vì phải luyện tập rất công phu. Nếu họ là những người này thì cũng đáng lo cho mình đấy !
Bụng nghĩ như vậy, nhưng hai người vẫn điềm nhiên cúi đầu thi lễ :
- Hôm nay được liệt vị chiếu cố tới đây, chúng tôi vô cùng hân hạnh. Vậy kính thỉnh liệt vị vào trong mời ngồi chiếu trên để tỏ lòng ngưỡng mộ.
Lục Quán Anh đưa tay ra hiệu, bọn tráng đinh vội vàng thay chén đũa và dọn tiệc mới.
Anh em Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn lúc ấy cũng theo sư phụ và sư mẫu ra đón khách. Võ Tu Văn lanh chân lẹ miệng nên hối thúc bọn tráng đinh kê bàn dọn chén rất mau, không bao lâu tiệc đã bày xong tươm tất, mời tân khách vào an toạ.
Quách Phù nhìn lại thấy Dương Qua vẫn ngồi yên chỗ cũ thì nghĩ thầm :
- Ngươi sao không biết thân phận, cứ ngồi chỗ này hoài trông chướng mắt quá chừng ! Mi mà cũng xưng anh hùng hảo hán ư ? Hoạ chăng bao nhiêu anh hùng hảo hớn trên thiên hạ này chết hết rồi mới tới phiên mi được gọi là anh hùng !
Nàng đưa mắt liếc nhìn Võ Tu Văn rồi lại nhìn Dương Qua nguýt một cái , bĩu môi ra vẻ khinh bỉ .
Võ Tu Văn biết ý, và muốn được lòng ý trung nhân nên chạy lại cạnh Dương Qua nói :
- Dương đại ca, đây không phải là chỗ dành cho anh ngồi đâu !
Nói dứt lời, chẳng đợi Dương Qua cho biết ý kiến, Võ Tu Văn ra lệnh cho gia đinh dọn chén đũa của Dương Qua xếp vào xó nhà.
Dương Qua giận sôi lên trong lòng, nhưng cũng cố nén nhịn và chỉ cười nhạt, không nói gì hết.
Vừa lúc đó, tại tiệc giữa, Hoắc Đô Vương tử chắp tay nói với vị tăng nhân người Tây Tạng :
- Kính bẩm sư phụ, có phải sư phụ đưa đệ tử đến đây hôm nay để gặp mặt các vị anh hùng hào kiệt trong Trung Nguyên không ạ ?
Nghe thế, Quách Tỉnh chột dạ suy nghĩ :
- Té ra vị này là sư phụ của Hoắc Đô Vương tử.
Vị tăng nhân Tây Tạng chỉ gật đầu hai cái, chớp mắt mà không nói gì. Một chập sau nhắm mắt lại hình như không để ý đến mọi việc xung quanh.
Hoắc Đô Vương tử đứng lên giới thiệu :
- Bẩm sư phụ, vị này vốn là Tây chinh nguyên soái trong quân lực Mông Cổ , tên là Quách Tỉnh, một đại hiệp trong Trung Nguyên, ai ai cũng nể sợ oai danh.
Rồi chỉ Hoàng Dung nói tiếp :
- Còn đây là Cái Bang Hoàng Bang chủ
Khi nghe đến mấy chữ Tây chinh nguyên soái Mông Cổ, vị tăng nhân Tây tạng bỗng mở choàng đôi mắt sáng rực nhìn soi mói từ đầu tới chân Quách Tỉnh rồi nhắm mắt lim dim nhập định như cũ.Còn đối với Hoàng Dung lão vẫn cứ nhập định như thường, hình như không hề để ý tới.
Hoắc Đô Vương tử tiếp tục giói thiệu luôn :
- Thánh tăng đây biệt hiệu là Kim Luân Pháp Vương , vốn là người Tây Tạng , hiện nay được đức Hoàng thái hậu đại Mông Cổ sắc phong làm Hộ Quốc Đại Pháp Sư.
Nghe lời giới thiệu này , toàn thể quần hùng thảy đều ngạc nhiên, nhìn nhau nghĩ thầm :
- Chúng ta đang cùng nhau bàn bạc tìm cách chống quân Nguyên Mông xâm lược, cớ sao tụi Mông Cổ lại kéo nhau tới đây làm gì nhỉ ? Trong số này lại có cả vị quốc sư Mông Cổ , một nhân vật khá quan trọng của quân địch .
Quách Tỉnh vốn tính chậm chạp, không biết nói sao cho văn vẻ và hợp lòng người nên chỉ rót chung rượu mời bọn người mới tới :
- Quý vị không ngại đường sá xa xôi, quá bộ tới đây chiếu cố cho, chúng tôi rất lấy làm hân hạnh tiếp đón. Vậy đây có chén rượu tẩy trần , xin liệt vị nhận cho !
Uống rượu được ba tuần, Hoắc Đô Vương tử từ từ đứng dậy, phe phẩy cái quạt có vẽ mấy đoá hoa mẫu đơn hàm tiếu, cất tiếng dõng dạc nói :
- Thầy trò chúng tôi không được thiệp mời lại đường đột tới đây như thế này thì kể ra cũng vô lễ thật. Tuy nhiên, cứ suy nghiệm cho kỹ thì không mấy khi có cuộc đoàn tụ quần hùng đông đủ như thế này, nên cứ câu chấp không đến thì cũng uổng. Chúng tôi không muốn theo lối cổ tục thông thường "không mời không đến" cứ đường đột lại đây hôm nay, chẳng qua cũng chỉ vì vấn đề võ lâm Minh chủ. Hôm nay thầy trò chúng tôi muốn được cùng quần hùng đề cử ra một vị xứng đáng chỉ huy hào kiệt thiên ha, vậy chư vị nghĩ sao, xin cho biết ?
Ông già lùn khi nãy lên tiếng nói :
- Không được đâu, Vương gia nói thế sao được. Chúng tôi đã đồng thanh cử Hồng Thất Công lão tiền bối làm Minh Chủ rồi ! Hiện nay chỉ cử ra người làm phó mà thôi, vậy các vị có ý kiến gì về việc bầu phó Minh chủ hay không ?
Đạt Nhĩ Ma, trưởng giáo Mật Tông đứng lên cười nhạt nói lớn :
- Hồng Thất Công chết đã xanh cỏ từ lâu rồi , ai lại suy tôn một người đã chết làm Minh Chủ bao giờ. Bọn ta đâu phải cô hồn dưới âm ty ?
Câu nói ấy đã làm bao nhiêu người bất mãn, tiếng xôn xao huyên náo laị nổi lên, co người đã quát tháo cho là vô lễ không biết phép lịch sự.
Nhưng Đạt Nhĩ Ma vẫn không thèm đếm xỉa, nói lớn :
- Nếu quý vị bảo Hồng Thất Công chưa chết thì xin thỉnh ra đây cho mọi người diện kiến ngay bây giờ ?
Lỗ Hữu Cước nổi nóng, vung cây gậy trúc nói lớn :
- Hồng Lão Bang chủ ngài đang đi chu du thiên hạ , nay đây mai đó, hành tung không nhất định. Người muốn gặp mặt không phải là một chuyện dễ dàng !
Đạt Nhĩ Ma nói lớn :
- Ví dù Hồng Thất Công có còn sống và có mặt nơi đây thì cũng không đáng được ta bầu cử lên chức vị đó. Vì Hồng Thất Công so với sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương còn thua sút quá xa, kể cả đức độ và võ công cũng như thế. Như thế thì chư vị anh hùng nên theo lời đề nghị của ta tôn Kim Luân Pháp Vương làm Minh chủ võ lâm là xứng đáng hơn cả. Dưới tầm mắt của ta thì hiện nay trên võ lâm không còn một ai xứng đáng hơn Kim Luân Pháp Vương cả !
Sau mấy lời tuyên bố ấy, toàn thể quần hùng đều đã hiểu rõ thâm ý của bọn Mông Cổ. Bọn chúng hiểu rõ quần hùng Trung Nguyên đang bầu người giữ chức Minh chủ võ lâm nên kéo nhau về đây để tranh giành, hầu giữ phần lợi về mình. Nếu chức vị này thuộc về tay một cao thủ Mông Cổ thì người Hán không còn ai lãnh đạo nữa , võ lâm Trung Nguyên không khác gì rắn không đầu , hành động không thống nhất , sau này bọn chúng có thể thừa cơ tiêu diệt dần dần không một chút khó khăn. Chừng ấy lực lượng kháng Mông Cổ không còn nữa, trên dải đất Trung Nguyên gấm vóc tha hồ cho bọn chúng thao túng áp bức và đè đầu cưỡi cổ dân lành.
Tuy biết được thâm ý của Đạt Nhĩ Ma nhưng quần hùng chưa ai lên tiếng, vì mọi người đang chờ ý kiến của Hoàng Dung. Xưa nay trong võ lâm Trung nguyên, ai ai cũng biết là Hoàng Bang chủ là người đa mưu túc trí hơn cả.
Tuy nhiên mọi người đều yên chí vì ai cũng nghĩ rằng :
- Bọn chúng cho dù tài cao đến đâu nhưng với vài chục người cũng không thể nào chống lại với lực lượng hàng mấy nghìn con người đang hiện diện hôm nay nổi. Nếu mười ngưòi đánh một thì không chết cũng bị thương, huống hồ chi trăm người đánh một thì làm sao không nắm được phần thắng thế ?
Vì vậy nên mọi ngưòi lẳng lặng chờ nghe ý kiến của Hoàng Dung bang chủ.
Thấy mọi người đang chờ nghe ý kiến của mình, Hoàng Dung nghĩ bụng :
- Cứ như tình thế này, hôm nay chỉ có dùng võ lực mới giải quyết được vấn đề mà thôi, dùng lời lẽ không thấm vào đâu với bọn này được !
Nghĩ xong, bà lên tiếng dõng dạc nói :
- Anh em quần hùng Trung nguyên thảy đều bầu cử Hồng lão tiền bối làm MInh chủ võ lâm .Trái lại, chưởng giáo lại muốn suy tôn Kim Luân Pháp Vương làm Minh Chủ. Nếu lúc này có mặt Hồng Thất Công lão tiền bối thì công việc sẽ được giả quyết một cách đơn giản, vì trong một trận so tài sẽ biết ngay ai hơn, ai kém. Tiếc thay, Hồng lão tiền bối đang mải theo thú vui hạc nội mây ngàn, khi ẩn khi hiện như thần long nấp bóng, biết đâu mà tìm ? Đáng tiếc hơn nữa là Hồng lão tiền bối chúng tôi không biết hôm nay có quý vị giá lâm để chuẩn bị về đón tiếp cho đúng lễ ... Bây giờ tôi xin đề nghị một biện pháp là đưa đẹ tử của Hồng Lão tiền bối ra tranh đấu cùng đệ tử của Kim Luân Pháp Vương. Hai bên đại diện cho nhị vị sư phụ ra tranh tài cao thấp , rồi căn cứ theo đó mà quyết định ngôi Minh chủ võ lâm cũng tiện. Như vậy có được không, mong trưởng giáo cho biết ? ...
Toàn thể anh hùng Trung Nguyên thời bấy giờ ai ai cũng biết rõ Quách Tỉnh,đệ tử của Hồng Thất Công là một tay võ công tuyệt đỉnh, công lực dồi dào, ngay nếu Hồng Thất Công nơi đây cũng chưa chắc gì hơn được Quách Tỉnh nữa. Như thế thì trong cuộc thử sức này cùng đệ tử Kim Luân Pháp Vương, phần thắng chắc chắn sẽ về tay Quách Tỉnh .
Tin tưởng vào thắng lợi chắc chắn cho phe mình, toàn thể đệ tử Cái Bang và quần hùng có mặt nơi đây tất thảy đều mừng rỡ, cùng đưa tay múa chân reo hò tưng bừng, tiếng vang rền khắp một vùng, khiến cho mái ngói cũng lao xao chuyển động.
Mọi người đồng thanh la lớn :
- Hoàng Bang chủ nói phải lắm ! Xin cho đệ tử của hai bên giao đấu cùng nhau để lấy kết quả quyết định !
Phe Kim Luân Pháp Vương thấy mình ít hơn nên đứng im chưa nói một lời nào .
Hoắc Đô Vương tử từ ngày đụng độ cùng Quách Tỉnh tại Trùng Dương Cung đã biết tài của đại hiệp và tự lượng sức mình không thể nào cự lại được cùng Quách Tỉnh. Dù đưa Đạt Nhĩ Ma ra cũng không thể nắm được phần thắng lợi ! Nhưng nếu không theo lời đề nghị của Hoàng Dung thì làm sao phân biệt được chân tài để tranh ngôi Minh chủ ? Vì vậy nên bao nhiêu mâu thuẫn tranh chấp trong trí óc Hoắc Đô mãi chưa tìm ra một giải pháp nào cho thuận.
Giữa lúc Hoắc Đô đang phân vân thì Kim Luân Pháp Vương cất tiếng truyền lệnh :
- Hoắc Đô , con hãy thử ra tranh đấu cùng đệ tử Hồng Thất Công xem sao ?
Giọng nói của Kim Luân Pháp Vương bao gồm đầy vẻ hằn học và nặng nề, bao hàm tất cả tin tưởng quyết thắng và thắng gấp. Vì mãi sống ở Tây Tạng , Kim Luân Pháp Vương cho rằng võ công của Hoắc Đô đã đến chỗ tuyệt đỉnh cao siêu rồi, trên võ lâm chắc gì có kẻ nào chống lại nổi. Nếu có thì may ra chỉ là các tay cao thủ hào kiệt như Đông Tà, Tây Độc... mà thôi. Thật ra Kim Luân Pháp Vương chưa hề biết trong dịp đụng độ cùng Quách Tỉnh tại Trùng Dương Cung, Hoắc Đô đã bị Quách Tỉnh hạ thủ một cách quá dễ dàng.
Tuy nghe sư phụ ra lệnh nhưng Hoắc Đô chỉ dạ một tiếng lấy lệ rồi đứng nguyên một chỗ, suy nghĩ thêm chứ chưa ra giáp chiến.
Lặng yên một chút, hắn trầm giọng thưa rằng :
- Bẩm sư phụ, đệ tử của Hồng Thất Công rất đông, lại lắm người tài ba lỗi lạc, con chưa chắc đã đủ sức hạ gục bọn chúng. Nếu rủi ro mà con bị thua, chẳng những làm mất danh sư phụ, mà còn thương tổn đến uy danh của Triều Đình đại Mông Cổ nữa !
Kim Luân Pháp Vương nghe nói chỉ hừ một tiếng rồi nói :
- Người đã đấu với bọn chúng lần nào chưa mà bảo rằng bọn chúng tài cao ? Cứ ra tay liền xem thế nào , lẹ lên ?
Hoắc Đô vô cùng phân vân nên tự trách mình :
- Vì ta không trình bày trước cho sư phụ biết rõ các nhân vật Trung Nguyên , để ông ta cứ đinh ninh rằng mình tài cao hơn hết. Trong dịp này ông quyết thúc đẩy ta ra tranh tài cùng Quách Tỉnh dể tranh ngôi Minh chủ võ lâm. Quả thật việc tính một đường, chỉ sơ suất một chút mà đi xa muôn dặm. Nếu vâng lời sư phụ ra thi tài cùng Quách Tỉnh nghĩa là nắm lấy phần thất bại về mình một trăm phần trăm rồi còn gì ?
Trong lúc đang phân vân chưa biết giải quyết thế nào , bỗng có một người mặc y phục Mông Cổ chạy lại gần, ghé tai thì thầm mấy câu. Nghe xong, Hoắc Đô lộ vẻ mừng rỡ.
Y khoan thai bước ra đứng trước mặt quần hùng , tay phe phẩy cây quạt rồi cất tiếng dõng dạc nói :
- Tôi được nghe thiên hạ đồn, Hồng Bang Chủ có một pho võ công đặc biệt vô cùng kỳ diệu mệnh danh là "Đả cẩu bổng pháp" . Sở dĩ Hồng Thất Công được nổi danh trên giang hồ võ lâm cũng là nhờ có thiên võ công đó. Hôm nay, tôi muốn đem tài múa quạt ra thi thố cùng môn "Đả cẩu bổng pháp" của quý bang. Nếu tôi được thì xem như Hồng Thất Công thua cuộc và ngôi Minh chủ võ lâm sẽ đương nhiên thuộc về tay sư phụ tôi là Kim Luân Pháp Vương.
Lúc đầu, Hoàng Dung chú ý thấy một người ghé tai nói chuyện cùng Hoắc Đô nhưng không thèm quan tâm tới. Nhưng sau khi Hoắc Đô đưa ra ý kiến gạt được Quách Tỉnh ra vòng ngoài thì nàng vô cùng ngạc nhiên, không biết kẻ này là ai mà mưu kế cao diệu vô cùng.
Sau khi nàng định thần nhìn kỹ lại ngừoi ấy thì bà thất sắc bàng hoàng cả người. Kẻ đó không ai xa lạ mà lại là một vị chức sắc cao cấp trong Cái Bang , tức là Bành Trưởng lão đó !
Hoàng Dung nhìn trời than thầm :
- Thật không ngờ rằng bọn chó săn này lại tham vàng bỏ nghĩa ! Hắn nỡ vì chút công danh lợi lộc mà bán rẻ đất nước, đem thân phục vụ cho quân cướp nước., quên cả nòi giống dân tộc, dám công nhiên cải trang thành lính Mông Cổ để bày mưu lập kế cho quân thù, xúi chúng giết hại anh em bà con mình. Chắc chắn thế nào cũng do lão già này mật tấu cùng bọn Mông Cổ biết được môn võ công trấn bang "Đả cẩu bổng pháp" của Cái Bang chỉ truyền từ đời Bang chủ này sang đời Bang chủ khác . Dù Quách Tỉnh có là đệ tử thân yêu cũng không thể học được bổng pháp này., còn Lỗ Hữu Cước tuy có học nhưng chưa thành thục lắm. Hắn cố bày mưu để ép ta ra trận giao chiến đây mà !
Phần Quách Tỉnh lại suy nghĩ khác :
- "Đả cẩu bổng pháp" là món ruột của Hoàng Dung. Nàng áp dụng thuật này thì nhất định thế nào cũng thắng Hoắc Đô dễ như bỡn. Nhưng ngặt nỗi hiện nay Hoàng Dung đang mang thai gần đến ngày sinh nở. Mấy tháng nay khí huyết không điều hoà, thường chóng mặt và mệt nhọc, công lực giảm sút rất nhiều, e rằng không đủ sức ra giao đấu được. Phen này cứ liều để bà ra đánh nhau với bọn này thế nào cũng lành ít, dữ nhiều, có khi nguy đến tính mạng nữa.
Nghĩ xong, ông chững chạc bước ra chính giữa nói lớn :
- Thưa liệt vị, "Đả cẩu bổng pháp" là bảo pháp trấn Bang của Cái Bang, không thể nào vì một lẽ không xác đáng mà mang ra thi thố được. ... Nếu các ngài muốn tranh tài, xin cứ việc thi thố cùng môn "Giáng Long Thập Bát Chưởng của Quách mỗ cũng có thể tranh tài cao thấp được .
Nghe Quách Tỉnh tuyên bố, lời nói sang sảng, Hoắc Đô giật mình nhìn lại, thấy ông đứng tấn vững như núi Thái Sơn, vô cùng kiêu dũng, nên trong bụng lo ngại nghĩ thầm :
- Tay này quả nhiên quá lợi hại. Ta phải tìm cách tránh đi chứ không thể đương nhiên chạm trán cùng hắn được đâu.
Nghĩ vậy, Hoắc Đô cười xoà :
- Xưa kia, trên Trùng Dương Cung tại Chung Nam Sơn, tiểu vương đã có hân hạnh gặp gỡ cùng các hạ. Hôm ấy, các hạ đã nhận là môn đệ của Mã Ngọc và các vị trong Toàn Chân, cớ sao hôm nay lại nhận là đệ tử Hồng Thất Công nữa ?
Quách Tỉnh chưa kịp trả lời giải thích ra sao thì Hoắc Đô lại nói tiếp :
- Một học trò học hai ba thầy, chuyện ấy thế gian có thường, nhưng hôm nay là vấn đề đặc biệt, đệ tử Hồng Thất Công đua tài cùng đệ tử của Kim Luân Pháp Vương . Các hạ tuy là một tay võ công tuyệt đỉnh, tuy nhiên không thể nào các hạ thao diễn được đúng mức tất cả các tinh diệu của các môn võ công bí truyền của Hồng Thất Công được đâu !
Lời nói của Hoắc Đô cũng có phần hợp lý, Quách Tỉnh là người chất phác, tối dạ, không tài lợi khẩu, ít mồm mép cho nên không biết biện bác thế nào cho ổn, đành đứng yên một chỗ không đáp được.
Nhưng quần hùng nhao nhao phản đối kịch liệt :
_ Nếu có tài thì cứ ra tranh hùng cùng Quách đại hiệp mấy keo xem sao ? Quách đại hiệp là đệ tử chính tông của Hồng Bang chủ, thì so tài với người quả nhiên là hợp lý hết sức. Vương tử có gan thì nếm trước môn "Giáng Long Thập Bát Chưởng " của Hồng Bang chủ, rồi nếu còn thừa sức thì sẽ nếm "Đả cẩu bổng pháp" sau cũng được !
Hoắc Đô Vương tử chỉ ngước mặt lên trời cười tỏ vẻ khinh khi quần hùng. Rồi y không thèm đáp, chỉ điềm nhiên vận nội công xương cốt vang lên những tiếng răng rắc , át cả tiếng nói của quần hùng.
Y vận khi mạnh đến nỗi công phu phát ra khiến mái ngói trên nhà bị xô đẩy kêu rào rào như gặp cơn giông bão.
Toàn thể anh hùng có mặt trong sảnh thảy đều kinh hoàng và không ai ngờ một con người mặt mày non choẹt và tao nhã như thế lại có một công lực kinh người như thế ấy ? Vì vậy ai nấy đều đứng lặng im không nói một lời. Không khí nặng nề bào trùm cả một vùng đông nghẹt cả bóng người.
Hoắc Đô quay sang thưa với Kim Luân Pháp Vương :
- Bẩm sư phụ, thầy trò chúng ta cũng ngỡ anh hùng Trung Nguyên có nhiều tay khá nên không nài hà ngàn dặm đến đây. Không ngờ chỉ là phường tham sanh uý tử, vậy thì chúng ta nên bỏ về cho sớm còn hơn. Nếu chúng ta cứ ở lại đây, dù sau này có giữ được chức Minh Chủ võ lâm cũng sẽ mang tiếng là đứng đầu một phường vô dụng, giá áo túi cơm mà thôi. Như thế chẳng những làm hạ thể diện của sư phụ mà cũng giảm cả uy tín của đệ tử nữa.
Hoắc Đô nói những lời này là để khích Hoàng Dung ra thi đấu cùng mình.
Nghe y nói những câu khinh thường võ lâm Trung Nguyên, xem người bằng nửa con mắt, toàn thể quần hùng nổi giận căm gan, trừng trừng nhìn y đến tím cả mặt.
Lỗ Hữu Cước không nhịn nổi với câu nói mục hạ vô nhân ấy của Hoắc Đô, vung gậy trúc xông ra nói lớn :
- Lão phu vừa được tấn phong Bang chủ Cái Bang. Bằng phép đả cẩu mới học mười phần chưa thuộc một, tuy nhiên cũng không thể nào chịu để cho người khinh thị võ lâm Trung Nguyên. Ta sẵn sàng ra đây cùng ngươi hầu tiếp vài ngón xem sao ?
Lỗ Hữu Cước tuy chưa tinh thục "đả cẩu bổng pháp" nhưng về võ công cũng là người có hạng. Nay thấy Hoắc Đô tuổi trẻ mà lớn giọng khing thường bao nhiêu anh hùng thiên hạ nên không chịu nổi phải xông ra trước để bảo vệ thanh danh võ lâm trong nước mình, sau đỡ nhọc cho Hoàng Dung, vì lão thừa biết Hoàng Dung đang gần ngày sinh nở, khí huyết hao mòn, công lực giảm sút không thể nào chiến đấu được.
Phần Hoắc Đô thì chỉ sợ có một mình Quách Tỉnh mà thôi. Ngoài ra bất cứ kẻ nào y cũng không thèm quan tâm tới. Vì vậy nên khi nghe Lỗ Hữu Cước nói , y vội khom lưng bái một cái nói lớn :
- Kính chào Lỗ bang chủ. Tiểu Vương hân hạnh được hầu Lỗ bang chủ một vài keo cho biết .
Trong khi ấy, bọn gia đinh trong Lục gia trang đã dọn hết bàn ghế, lắp thèm đèn đuốc sáng rực trên một khoảng trống trên phạm vi bảy tám trượng để tiện bề dụng võ.
Giữa rừng người, một vùng rộng lớn , thảy đều sáng như sao sa, rực rỡ như ban ngày.
Hoắc Đô Vương tử đứng giữa thủ thế rồi nói tiếp :
- Xin Lỗ bang chủ cẩn thận, tại hạ ra tay đây !
Nói vừa dứt lời, y dùng quạt tấn công luôn mấy cái.
Tức thì một làn gió mạnh thổi phốc lại phía Lỗ Hữu Cước toả ra mùi hương thơm ngào ngạt, nghe thoang thoảng như mùi hoa nhài.
Ngại có mê hồn hương, Lỗ Hữu Cước vội nghiêng mình sang một bên để né tránh. Ngay khi đó, Hoắc Đô thừa dịp xếp quạt lại như cây bút dài độ tám tấc, điểm huyệt đối phương.
Nếu như đối phương là tay mơ thì phép điểm huyệt này vô cùng nguy hiểm. Nhưng Lỗ Hữu Cước đã biết trước nên ông múa tít ngọn bổng che kín phía trước ngực bao phủ cả bên sau, bước lùi ra sau mấy bước lấy trớn rồi nhún mình vọt luôn tới trước để tấn công Hoắc Đô.
Nhìn thấy địch thủ lùi ra sau, Hoắc Đô tiến theo. Vừa khi hắn tới đúng tầm ngọn bổng , Lỗ Hữu Cước tạt ngang một đòn "phát cỏ" xuống hạ bàn, trúng ngay mắt cá nghe "bốp" một tiếng.
Quần hùng đứng ngoài trông thấy vỗ tay tán thưởng và reo hò nói lớn :
- Chó nhỏ đã trúng đòn rồi. Phen này cho mi biết lợi hại của "đả cẩu bổng pháp" của Cái Bang nhé !
Bị chế nhạo, Hoắc Đô thẹn quá , đỏ mặt, hắn vội vàng xoay mình qua nhanh như điện chớp. , đưa tay trái phóng ra một chưởng tấn công Lỗ Hữu Cước.
Lỗ Hữu Cước bình tĩnh phóng mình sang một bên, vung tít cây bổng trúc theo tư thế "loạn đả tàn vân" khiến cây bổng xoay tít như một bầy rắn dữ đang vờn trên mặt sóng, đánh bật chưởng phong của Hoắc Đô ra ngoài và phá giải hoàn toàn chưởng thế của hắn.
Hoắc Đô thất kinh vội nghĩ :
- Chà, Đả cẩu bổng pháp" quả thật là tinh diệu phi thường,xưa nay tiếng đồn thiên hạ quả là không sai ! Ta cần phải cẩn trọng để khỏi bị thảm bại về tay lão.
Nghĩ xong, hắn đem hết tinh thần vào cuộc chiến đấu, quyền cước tung ra dồn dập, áp dụng theo đúng mười hai lối biến hoá vô cùng linh động, tấn công tới tấp vào người Lỗ Hữu Cước.
Vì chưa học hết tinh tuý của "đả cẩu bổng pháp" nên trong lúc đánh đỡ, Lỗ Hữu Cước đã có nhiều sơ hở vụng về đáng tiếc, khiến Quách Tỉnh và Hoàng Dung đứng ngoài trông thấy phải chắt lưỡi hít hà than thở :
- Kém quá, Lỗ Hữu Cước còn kém quá. Nếu cứ như thế này mãi thì tất nhiên phải nguy ngập rồi !
Trận chiến càng kéo dài, Lỗ Hữu Cước càng lộ nhiều sơ hở.
Dương Qua ngồi đằng xa thấy lối đánh của Lỗ Hữu Cước cũng tức mình dậm chân nhăn mặt, đứng ngồi không yên.
Cũng may, ngay từ lúc mới giáp chiến, Hoắc Đô đã bị một đòn vào chân, tinh thần dao động, không dám tấn công mạnh nữa vì sợ nhầm kế của đối phương, nếu không thì Lỗ Hữu Cước đã bị thảm bại từ lâu rồi.
Thấy tình thế ngày càng bất lợi, Hoàng Dung dự định cất tiếng gọi Dương Qua, bỗng nhiên Lỗ Hữu Cước thừa dịp đánh được một đòn "phang ngang lưng chó" trúng mạnh vào cạnh sườn Hoắc Đô thật mạnh.
Tuy bị đánh khá đau, nhưng vì cơn giận bốc lên ngùn ngụt quên cả đau đớn, Hoắc Đô chuyển hết thần lực kẹp chặt ngọn bổng rồi xông tới giáng một đòn thật mạnh, trúng ngay má Lỗ Hữu Cước nghe đánh "chát một tiếng, rồi thuận chân đạp luôn vào ống chân Lỗ Hữu Cước nghe "rắc một tiếng nữa, ống quyển gãy đôi. Lỗ Hữu Cước la "ối một tiếng miệng hộc máu tươi lăn đùng ra đất.
Lập tức hai đệ tử Cái Bang hạng tám túi xông ra khiêng Lỗ Hữu Cước đem vào trong buộc thuốc và chuyên chữa.
Quần hùng trông thấy Hoắc Đô tàn nhẫn và hung bạo quá, tất thảy đều nổi giận sôi gan, nghiến răng căm tức nhưng chưa ai nói câu nào.
Hoắc Đô cầm cây gậy trúc màu xanh biêng biếc trên tay, hiu hiu tự đắc, huyênh hoang tuyên bố :
- Té ra vật này là bảo vật trấn bang của Cái Bang . Ta tưởng có gì kỳ diệu, té ra cũng quá tầm thường !
Nói xong, hắn dùng hai tay định bẻ gãy cây gậy thành hai khúc.
Thình lình, có một luồng sáng bạch thoáng qua trên đầu, rồi có tiếng lanh lảnh của một thiếu phụ quát mắng theo giọng của kẻ bề trên :
- Hãy coi chừng và liệu hồn đấy !
Thiếu phụ ấy chính là Hoàng Dung. Bà vừa cất tiếng quát, đã đưa tay giật lấy chiếc gậy trúc.
Hoắc Đô bất thình lình bị Hoàng Dung cướp cây gậy trong tay lẹ như tia chớp nhoáng, nhanh như vũ bão thì giật mình kinh sợ.
Nguyên phép đoạt gậy này gọi là "giật gậy từ miệng chó", cũng chính là một tư thế vô cùng tuyệt diệu trong "đả cẩu bổng pháp" . Trước đây, trong đại hội Cái Bang trên núi Quân Sơn, Hoàng Dung cũng đã sử dụng chiêu này ba phen cướp gậy trong tay Dương Khang, cha của Dương Qua , dễ như lấy đồ trong túi.
Hôm nay, cũng một tư thế này, Hoàng Dung lấy lại cây gậy trong tay Hoắc Đô không chút gì khó nhọc cả.
Từ trên thềm cao và khắp xung quanh, quần hùng vỗ tay hoan hô dậy một gầm trời, Hoàng Dung nắm cây gậy ung dung trở về chỗ ngồi , sắc thái vô cùng tự nhiên, trong khi Hoắc Đô còn ngơ ngẩn nhìn theo, chưa tin rằng đó là sự thật. Hắn ngơ ngác nhìn theo Hoàng Dung , vẻ mặt bẽn lẽn thẹn thùng, nghĩ bụng :
- Hoàng Dung có tà thuật gì mà lấy gậy quá lẹ như vậy ? Tuy nhiên, trước mặt sư phụ ta, Hoắc Đô này nhất định không để cho một kẻ nào có thể làm nhục được !
Nghĩ xong, y cất tiếng nói lớn :
- Hoàng Bang chủ, tôi đã có hảo ý trao trả cây gậy cho bà để giữ tình hoà khí. Bây giờ bà có dám cùng tôi so tài mấy hiệp hay không ?
Câu nói vừa điêu ngoa, vừa kiểu cách như chọc vào ruột người nghe, làm cho Quách Phù tức không nhịn được. Nàng nghĩ :
- Bình sinh ta chưa hề thấy kẻ nào dám vô lễ với mẫu thân như tên này. Hắn đã dám ngang nhiên chọc tức, cần phải cho hắn nếm mùi lợi hại của cô nương một phen mới được !
Nghĩ thế, nàng liền vung kiếm xông ra/ Nhưng Võ Tu Văn vội ngăn lại bảo :
- Phù muội, hãy để hắn cho tôi trừng trị cho !
Võ Đôn Nho cũng lên tiếng nói theo :
- Đã có tôi tiếp sức, xin cô nương chớ bận lòng.
Cả hai cùng phi thân ra đấu trường, đồng thanh mắng lớn :
- Này tên rợ Mông Cổ kia, một người cao sang quý phái như sư mẫu ta đâu thèm đua tranh với những hạng như ngươi. Hãy cũng anh em chúng ta so tài cũng được.
Vừa trông thấy hai chàng tuổi trẻ mà thân hình mau lẹ như chim bay, Hoắc Đô đã đoán ra là hạng đệ tử của danh môn chính phái nên nghĩ thầm :
- Chúng ta tới đây là để quyết tranh ngôi Minh chủ võ lâm cùng một tay quái kiệt nhất trong Cái Bang, chứ nào phải để so tài theo bè với bọn chúng. Vì nếu chia bè để đánh thì bên ta ít, bên địch quá đông, làm sao cự cho lại ?
Nghĩ như vậy, hắn lớn tiếng nói :
- Xin chư vị anh hùng nghe Tiểu Vương trình bày một ý kiến. Xem hai chú con nít này, miệng còn hôi sữa, tài sức đáng bao nhiêu mà dám ra so tài cùng ta. Nếu ta ra tay thì làm sao tránh được tiếng ỷ lớn ăn hiếp trẻ con, nếu không ra tay thì cũng mang tiếng là sợ hãi lũ trẻ. Vậy ta nêu ra một điều kiện sau :"Keo vừa rồi tôi tuy thắng Lỗ Bang chủ Lỗ Hữu Cước nhưng tôi sẵn lòng bỏ qua không tính tới. Bây giờ , bắt đầu từ giờ phút này, tôi sẽ cùng người trong quý bang đấu luôn ba trận, bên nào thắng hai trận sẽ được xem như là thắng cuộc và được giữ ngôi Minh Chủ ! Các vị nghĩ sao ?
Câu nói bao hàm giọng bề trên nhưng cũng có lý. Quách Tỉnh và Hoàng Dung bàn nhỏ :
- Chúng ta nên phân công như thế này may ra thủ thắng được. Trước tiên cho một đệ tử của Nhất Đăng đại sư ra đấu cùng Hoắc Đô . Hách Đại Thông chuẩn bị đấu cùng Đạt Nhĩ Ma. Quách Tỉnh chờ đó để tiếp chiến cũng Kim Luân Pháp Vương . Tuy nhiên, lúc nào Quách Tỉnh cũng phải đề phòng xem chừng Kim Luân Pháp Vương có thể xông vào tiếp sức cho bọn đệ tử thì hỏng hết cả kế hoạch.
Tuy nhiên, mọi người kẻ bàn ra, người tán lại cũng vẫn chưa ngã ngũ ra sao hết. Bỗng Hoàng Dung nghĩ ra một kế và nói ngay :
- Tôi xin đề cử một người, và phần thắng nhất định phải nghiêng về phía chúng ta.
Quách Tỉnh nghe nói mừng quá, định hỏi thử là ai cho biết. Nhưng ông chưa kịp hé môi, bỗng từ phía dưới thao trường, tiếng vũ khí đã khua vang rang rảng nghe rợn cả người. Mọi người đưa mắt nhìn xuống thì thấy hai anh em họ Võ đã tấn công Hoắc Đô Vương tử...

Hồi 34

Giữa thao trường, Tiểu Long Nữ gặp Dương Qua.

Dương Qua ngồi tận sâu xa, vừa trông thấy anh em họ Võ xông ra đánh với Hoắc Đô thì cười thầm trong bụng :
- Không biết hai anh em này liều thân ra đánh với Hoắc Đô Vương tử là vì nòi giống Hán tộc hay là để làm hài lòng một giai nhân là Quách Phù cô nương ? Bảo rằng bọn bay vì nòi giống mà ra tay thì không thể nào mà tin được ! Vì trên đời này không có gì to tát hơn mối thù giết cha giết mẹ ( ? ) . Nếu hai anh em bây có chút khí khái thì đã đi tìm Lý Mạc Thu mà trả thù rồi, có lý nào ở đây đóng vai trò nô bộc để làm vừa lòng ý trung nhân ? Trên thiên hạ biết bao nhiêu kẻ khoác áo nhân nghĩa , lợi dụng mục đích phục vụ dân tộc để âm mưu làm lợi riêng cho mình ! Chẳng hiểu hai anh em nhà ngươi có khi nào thầm nghĩ mà tủi thẹn với hai cái tên đẹp đẽ "Đôn Nho" và "Tu Văn" hay không ? Mang danh Văn, Nho mà cứ cam tâm đi làm tôi đòi cho một cô gái còn hơn cả cha mẹ mình. Huống chi cả hai anh em ruột mà cùng yêu thương một cô gái thì thật quả là vô luân. Nếu họ không loạn luân một cách công nhiên thì cũng ít ra đã loạn luân về mặt tư tưởng và tinh thần rồi . Thật đáng trách và cũng thật đáng phàn nàn vậy !
Trong lúc Dương Qua trầm ngâm suy nghĩ về mục đích và tư cách của anh em họ Võ thì Quách Tỉnh, Hoàng Dung và bao nhiêu anh hùng trong đại yến thảy đều quan tâm đến cục diện trận chiến dang diễn ra phía dưới.
Nguyên trong khi đối đáp, anh em họ Võ thấy Hoắc Đô mằng mình là bọn con nít, miệng còn hôi sữa thì trong lòng đã oán hận và thẹn thùng vì lời nói thốt ra trước mặt người đẹp. Hơn nữa, vừa rồi thấy Hoàng Dung đoạt cây gậy trúc trong tay Hoắc Đô một cách quá dễ dàng, thì cả hai đinh ninh rằng gã này tài nghệ cũng không bao nhiêu, nên trong lòng cũng đã có ý khinh thường rồi. Huống chi cả hai đã mang danh là môn đệ của Quách Tỉnh đại hiệp, lúc này cùng nhau hợp lực tấn công hắn, cho dù không thắng nổi cũng thể để bại được.
Phàm trâu nghé chưa biết sợ cọp, nên hai người vung gươm tấn công Hoắc Đô Vương tử. Nhưng phàm ở đời có tiếp xúc với thiên hạ mới biết rõ tài năng của mình, chứ quanh năm cứ quanh quẩn trong nhà để so sánh với Quách Phù và bao nhiêu người mới nhập môn thì lúc nào cũng chủ quan tự cho mình là tài giỏi hơn ai hết. Hôm nay chạm trán với Hoắc Đô cũng là một dịp để nhìn xa hơn chút nữa.
Sau vài chiêu đánh đỡ, hai thanh trường kiếm của anh em họ Võ đã dần trở nên vụng về chậm chạp, không giữ vững được bình tĩnh như trước, thỉnh thoảng lại bị rối loạn. So với hai người, tài nghệ của Hoắc Đô cao hơn một bậc rất xa.
Hoắc Đô cũng muốn nhân dịp này trổ tài cho quần hùng trông thấy, nên giả vở luống cuống sơ hở, để Võ Tu Văn đâm vào một kiếm, rồi xuất kỳ bất ý, y cầm quạt điểm ngang vào thanh trường kiếm kêu "keng một tiếng rất to, thanh trường kiếm đã gãy thành hai đoạn .
Hai anh em họ Võ hoảng hốt, mất cả bình tĩnh. Võ Tu Văn sợ hãi vội bước lùi ra sau. Võ Đôn Nho sợ em bị tập kích theo nguy tới tánh mạng , nên vội đưa trường kiếm ra ngăn cản Hoắc Đô, không cho đuổi theo.
Lập tức Hoắc Đô vung quạt hất mạnh lên nhằm ngay thanh kiếm.
Võ Đôn Nho cảm thấy hình như có một luồng điện mạnh làm tê rền cả tay. Thanh trường kiếm bị đánh tung lên trên không như một lằn điện xẹt, văng tuốt ra đằng sau rất xa.
Tuy sợ hãi, nhưng quá uất ức và thẹn thùng, anh em họ Võ quyết không bỏ chạy, cố đứng lại dùng quyền cước đấu cùng Hoắc Đô.
Võ Đôn Nho dùng tay trái án ngữ trước bụng , còn tay phải quay ra sau lưng, tung một chưởng trong "Giáng Long Thập Bát Chưởng" tấn công Hoắc Đô. Còn Võ Tu Văn thì dùng tay trái che trước ngực, chìa ngón trỏ thẳng về phía trước, tay phải cũng vòng ra phía sau lưng, áp dụng thuật "Nhất Dương chỉ" để đối phó.
Thấy cả hai đã mất hết binh khí mà vẫn còn hiên ngang dùng quyền chưởng chống đỡ, Hoắc Đô không dám xem thường, chú ý dùng những đòn tuyệt kỹ để nghênh chiến, trong lòng suy nghĩ :
- Ta thắng chúng quá rõ rệt rồi, và thắng một keo cũng đủ rồi, cần gì phải đi đến nước cuối cùng cho nhọc thân vô ích.
Nghĩ vậy, y chắp tay vái một cái rồi cười ha hả nói lớn :
- Xin mời hai vị về nghỉ ngơi dưỡng sức. Chúng ta đấu cùng nhau cốt để thử tài cao thấp chứ nào phải phường đạo tặc mà hòng giết chóc lẫn nhau như thế ?
Lời nói thốt ra có vẻ từ tốn dịu dàng, nhưng bao hàm một ý nghĩa mỉa mai khinh miệt và khí phách.
Hai anh em họ Võ quá xấu hổ, nóng bừng cả tai, trong lòng muốn ra đánh nữa cho hả giận, nhưng không tiện ra tay vì thiếu binh khí. Muốn dùng chưởng lực, điểm huyệt thì Hoắc Đô lại không chịu xáp lại gần. Vì vậy cả hai đành lẳng lặng rút về chỗ khác chứ không trở lại chỗ Quách Phù lúc trước nữa.
Quách Phù cảm thấy thương hại, bèn chạy lại bên cạnh an ủi :
- Thôi, hai anh đừng buồn nữa. Hãy hợp sức cùng em, ba chúng ta cùng tấn công hắn để giành thắng lợi về mình.
Quần hùng chăm chú theo dõi hành động của ba người, không ai nói gì hết.
Nói xong, Quách Phù tuốt kiếm nhảy ra nói lớn :
- Anh em chúng ta quyết tâm sống mái một trận cuối cùng với tên Hung Nô Mông Cổ này.
Nhưng Quách Tỉnh đã thét lớn :
- Phù nhi ! Không được vỗ lễ, chớ làm huyên náo như thế !
Quách Phù lúc nào cũng kính nể cha, cho nên khi Quách Tỉnh vừa quát mắng, nàng đã sợ hãi rút lui ra sau, tra gươm vào vỏ ngay, nhưng đôi mắt phượng vẫn gườm gườm nhìn thẳng về phía Hoắc Đô Vương Tử.
Thấy một nữ lang xinh đẹp chăm chú nhìn mình, Hoắc Đô vui vẻ gật đầu mấy cái rồi cười mơn nói :
- Nếu cô nương không thoả mãn lúc ban ngày ban mặt, không phải lỗi về phần tôi đâu nhé. Vậy xin chờ đêm tới, Tiểu Vương sẽ xin hầu tiếp cô nương.
Quách Phù tức quá, trợn mắt nhìn hắn rồi nhổ nước miếng trên cỏ tỏ vẻ khinh bỉ rồi quay đầu bỏ đi.
Bị đại bại trước Hoắc Đô, anh em họ Võ chỉ ngại Quách Phù nhạo báng. Nhưng khi thấy nàng không những không có cử chỉ nhạo báng mà còn có ý ủng hộ thì cả hai yên tâm hơn, quên cả thất bại vừa rồi.
Hoắc Đô phe phẩy chiếc quạt nói :
- Bên tôi có cả thảy ba thầy trò. Sư phụ, sư huynh và tôi đang chờ một trận tranh tài xứng đáng. Mấy trận vừa qua chẳng qua chỉ là một dịp qua quít cho vui, không có gì đáng kể, xin bỏ qua cũng được. Bây giờ xin Quách đại hiệp vui lòng chọn người xứng đáng để ra thử tài cao thấp, kẻo để tình trạng như từ nãy đến giờ thì chán quá.
Quách Tỉnh sực nhớ lại vừa rồi Hoàng Dung nói là sẽ đề cử một ngừoi có đủ khả năng chiến thắng thì đoán là vợ mình đã tìm ra kế hay cho nên yên tâm tin tưởng, lớn tiếng nói :
- Được rồi, chúng tôi sẽ đề cử người xứng đáng ra tranh tài, ai thắng sẽ được giữ ngôi Minh chủ võ lâm, khỏi cần thúc hối làm gì.
Hoắc Đô Vương tử nghĩ bụng :
- Cứ xem lực lượng bên ấy thì chỉ có Quách Tỉnh là người đáng sợ hơn hết. Nhưng y đối với sư phụ ta chắc không thấm vào đâu. Hoàng Dung thì thân pháp cũng có vẻ kỳ diệu lắm, nhưng bà ta đang trong thời kỳ thái nghén, sức khỏe chẳng đầy đủ, thành thử không đáng quan tâm lắm. Trừ hai mạng này ra, ta xét thấy không còn tay nào đáng kể nữa.
Đoán ngầm thấy chắc ăn, Hoắc Đô lớn giọng nói :
- Xin quý vị khỏi nhọc công lo lắng chọn lựa nữa cho tốn thời giờ. Nếu bên ấy nhắm theo không được thì xin cứ chịu thua và nhường chức MInh chủ võ lâm lại cho chúng tôi thì hơn, mà còn giữ được tình hoà khí.
Toàn thể quần hùng thấy Hoắc Đô vừa đánh bại Lỗ Hữu Cước nặng nề và hạ luôn cả hai anh em họ Võ thì đã có phần kiêng nể nên ai nấy thảy đều chờ mệnh lệnh của Hoàng Dung chứ không lên tiếng như trước nữa.
Hoàng Dung quay sang hỏi Hoắc Đô :
- Có phải túc hạ ra điều kiện là keo thứ nhất túc hạ so tài , keo thứ hai đến phiên lệnh sư huynh, và keo chót là do lệnh Tôn sư, có phải như vậy không ?
Vừa thắng luôn hai keo, Hoắc Đô đã có ý xem thường phe địch nên Hoắc Đô điềm nhiên đáp :
- Đúng như vậy,.Tôi muốn theo lệ mới là để cao đấu với cao, thấp đấu với thấp cho xứng vai xứng vế, và cũng không ai phiền trách chỗ nào được, dù được hay thua cũng công bằng hết. Chừng ấy đôi bên không bên nào được oán hận.
Nghe nói xong, Hoàng Dung thấp giọng nói với quần hùng :
- Nếu như vậy thì phe mình ăn chắc đi rồi, xin anh em cứ tin tưởng....
Quách Tỉnh vội hỏi :
- Căn cứ vào đâu mà em dám chắc chắn là sẽ nắm phần thắng lợi như vậy ?
Hoàng Dung ghé tai ông nói nhỏ :
- Dùng ngựa hay của ta đua với ngựa thường của họ. Sau đó đem ngựa thường của mình đua với ngựa kém của người ta. Đó là phương pháp đua ngựa mà xưa kia Điền Kỵ đã áp dụng để thắng vua Tề đoạt giải ngàn vàng đó !
Quách Tỉnh không phải là người học rộng về văn chương điển tích, còn ngẩn ngơ chưa hiểu ý ra sao, thì Hoàng Dung lại ghé vào tai ông nói tiếp :
- Ông vốn là người tinh thông binh pháp, há lại quên chuyện Tôn Tẫn chân nhân dạy về diệu pháp rồi sao ?
Vừa nghe vợ nói, Quách Tỉnh bỗng sực nhớ lại lúc thiếu thời nghiên cứu Võ mục di thư có một đoạn ghi rằng :"Đại tướng nước Tề là Điền Kỵ đua ngựa với vua Tề,đánh cuộc ngàn vàng. Điền Kỵ tới thỉnh kế Tôn Tẫn chân nhân thì người dạy rằng : Lúc đầu đem ngựa kém đua với ngựa giỏi của vua. Như vậy vua thắng keo đầu nhưng phải thua hai keo sau. Ta thua một thắng hai tức là đã thắng rồi. Như thế làm sao không ăn giải được ?"
Khi nghe Hoàng Dung nhắc lại, ông chợt nhớ ra câu chuyện đó, bèn vỗ đùi khen hay và trong bụng đinh ninh thế nào vợ mình cũng có mưu kế để thắng bọn Hoắc Đô Vương tử.
Lúc bấy giờ, Hoàng Dung quay sang bên phải nói :
- Chu sư huynh, với thuật " Nhất dương chỉ", nhất định sư huynh phải thắng đứt tên Hoắc Đô vương tử rôi phải không ?
Nguyên Chu Tử Liễu là một thư sinh nước Đại lý, trước đây thi đỗ Trạng nguyên làm quan phò Đoàn Nam Đế nước Đại Lý, sau lên tới chức quan Tể Tướng, tột phẩm công thần. Vốn là bậc quân tử tài ba, kiến thức hơn người. Khi mới nhập môn cùng Nhất Đăng đại sư , ông đứng hàng thứ năm, sau Ngư, Tiều, Canh, Độc. Nhưng cách mười năm sau, ông đã vượt lên đứng hàng thứ hai. Càng ngày, võ công của ông càng tiến bộ bao nhiêu thì ông lại càng ôn hoà thuần hậu bấy nhiêu, chứ không bao giờ ỷ mình giỏi mà khinh thường người khác. Vì có đặc tính đó mà Nhất Đăng đại sư tín cẩn thương mến, dốc lòng truyền hết võ công "Nhất dương chỉ" cho.
Về thuật "Nhất dương chỉ " Quách Tỉnh và Hoàng Dung chẳng những kém hơn Chu Tử Liễu mà ngay cả bọn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông ... là những võ lâm tiền bối cũng còn thua xa.
Vốn là người lòng dạ ngay thẳng chất phác, nên khi nghe Hoàng Dung nói, Quách Tỉnh đã gật đầu đáp luôn :
- Cứ so sánh tài nghệ thì Chu sư huynh có thể ăn đứt Hoắc Đô , phần tôi thì cũng có thể đánh bại được Đạt Nhĩ Ma, nhưng điều đáng ngại là không biết Hách sư thúc có cự nổi với Kim Luân Pháp Vương hay không ? Chúng ta nên thận trọng mới được.
Hách Đại Thông xưa nay vốn là người hào khí nghĩa hiệp, biết rõ cuộc đấu võ hôm nay sẽ quyết định tới vận mệnh quốc gia, dân tộc, chứ không phải là một cuộc so tài bình thường trong võ lâm. Nếu phe mình để ngôi Minh chủ rơi vào tay Kim Luân Pháp Vương thì bao nhiêu anh hùng Hán tộc sẽ bị chúng nó tiêu diệt dần dần hết. Như thế còn thể nào nói tới chuyện kháng Mông Cổ cứu quốc nữa.
Suy nghĩ xong, ông vuốt râu khẳng khái nói :
- Nếu việc này có lợi cho nước nhà , dân tộc thì dù thân già này có bị ác tăng bằm làm muôn mảnh ta cũng sẵn sàng hy sinh không hề tiếc.
Hoàng Dung nói :
- Như kế đã định sẵn, chúng ta chỉ cần thắng hai keo mà thôi, cho chúng nó thắng một keo cũng chẳng sao. Cứ theo tôi thì keo thứ ba không quan hệ mấy.
Quách Tỉnh nghe nói mừng quá cười lớn bảo :
- Hay quá, mưu kế quả là hay tuyệt !
Chu Tử Liễu tươi cười nói :
- Trong ba keo này, chỉ keo của tôi là nặng nề nhất. Nếu phen này mà không thắng nổi Vương tặc Mông Cổ thì đời sau thiên hạ phỉ nhổ lên thân xác, và không còn mặt mũi nào nhìn anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.
Hoàng Dung tìm lời trấn an :
- Xin sư huynh đừng bi quan quá, không có chuyện chi đáng ngại hết. Vậy sư huynh cứ yên tâm ra chiến đấu đi !
Chu Tử Liễu khoan thai bước xuống vái Hoắc Đô Vương tử rồi lễ phép nói :
- Theo sự phân công trong nội bộ thì hôm nay tại hạ được hân hạnh lãnh giáo điện hạ keo này. Kẻ hèn này tên Tử Liễu, họ Chu, người ở Côn Minh thuộc xứ Vân Nam, vốn là đệ tử của Nhất Đăng đại sư. Bình sinh vốn ham mê văn chương thi phú, võ nghệ không tinh thông bao nhiêu. Vì vậy, hôm nay trong cuộc so tài cùng điện hạ , nêu có điều gì sơ suất, xin điện hạ vui lòng miễn chấp cho. Kẻ hèn này xin có lời cảm tạ trước.
Nói xong, ông rũ tay áo lấy ra một cây bút , cầm tay đưa thẳng lên trời vẽ luôn mấy vòng, rõ ràng là tác phong của một nhà nho không khác.
Hoắc Đô nghe giọng nghĩ bụng :
- Kẻ này nói năng lễ độ từ tốn khiêm cung, chắc bản lãnh phải cao siêu, tài ba xuất chúng. Ta cần phải để phòng mới được.
Nghĩ vậy, y vòng tay đáp lễ và nhỏ nhẹ nói :
- Tiểu Vương chưa có dịp được tiếp kiến và học hỏi lão tiền bối, không hiểu lão tiền bối quen sử dụng loại binh khí nào ?
Chu Tử Liễu cười ha hả nói :
- Mông Cổ là nước man di thiếu chữ nghĩa, văn chương, nên nhân tiện đây ta muốn dùng văn chương chữ nghĩa mà chỉ điểm cho một ít.
Hoắc Đô nghe nói, trong lòng giận sôi, suy nghĩ :
- Quân này láo thật. Hắn muốn dùng danh từ kiêu ngạo để mạ lỵ Đại Mông Cổ ta, Sự xáo láo này không thể tha thứ được. Phen này ta phải kết liễu mạng sống của hắn cho bọn này biết tay mới được !
Tuy nhiên, hắn cũng dằn lòng nói nhỏ nhẹ :
- ý tôi muốn biết ông sử dụng loại đao kiếm gì chứ đâu có hỏi văn chương chứ nghĩa mà ông bảo như vậy ?
Chu Tử Liễu múa tít cây bút lên trời mấy vòng rồi cười lớn đáp :
- Kẻ hèn xuất thân trong hàng nghiên bút, nào có biết đao kiếm là gì đâu. Những kẻ chuyên dùng đao búa chỉ là những bọn lòng lang dạ thú, chỉ chuyên ỷ mạnh hiếp người, xem sinh mạng con người như cỏ rác, có khi nào nghĩ đến nhân nghĩa, nhiều khi còn làm những điều thương luân bại lý nữa là đằng khác.
Hoắc Đô đưa mắt nhìn cây bút, thì thấy cán bằng trúc, đầu bút bằng lông dê, trên đầu có nhúng ướt mực cũng như muôn ngàn cây bút khác, chứ không phải là loại bút các nhà võ thuật thường dùng để điểm huyệt.
Y toan lên tiếng vặn hỏi thì thình lình có một bóng trắng bay qua lạnh như làn khói, mờ mờ trông như hình ảnh một nữ lang.Người này vừa sa xuống đã liếc mắt nhìn vào đám đông, hình như để tìm kiếm một kẻ nào vậy.
Quần hùng đang chăm chú nhìn vào trận đấu sắp diễn ra của Chu Tử Liễu và Hoắc Đô không hề để ý đến mọi việc bên ngoài. Nhưng bỗng nhiên có một bóng nữ lang bạch y vừa xuất hiện một cách quá ư đột ngột thì ai nấy tất thảy đều ngạc nhiên nhìn kỹ lại.
Dưới ánh đèn đuốc sáng rực như ban ngày, nư lang có nước da trắng xanh, hình như trong người đang mang bệnh, tuy nhiên hình dung vô cùng xinh đẹp. Trông nàng phảng phất như một tiên nữ, từ khuôn mặt cho đến dáng điệu thật vô cùng diễm lệ, hình như tất cả những nét gì tinh tuý nhất của vũ trụ này tất thảy đều tập trung để kết hợp lại thành nàng. Nàng đẹp đến nỗi chẳng biết dùng danh từ nào để tả, để gọi cho đúng. Mọi người có cảm tưởng đây là một tiên nữ vừa giáng trần !
Không ai hẹn mà cùng ồ lên một tiếng và cùng trầm trồ khen "quả thật là đẹp, đẹp như tiên nữ giáng trần"
Vừa trông thấy cô gái này, Dương Qua mừng rỡ như điên cuồng, vụt đứng thẳng dậy,chạy vụt ra khỏi chỗ chàng đang đứng, tay vung miệng reo :
- Cô nương ... Trời ơi, cô nương !
Nữ lang đó quả đúng chính là Tiểu Long Nữ.
Từ khi cùng Dương Qua chia tay mỗi người một ngả, Tiểu Long Nữ một mình trở lại Cổ mộ đài, sống những ngaỳ cô độc buồn bã, ngày đêm cô tịch, một bóng một đèn.
Hai mươi năm trước kia, nàng đã từng sống trong Cổ Mộ Đài hiu quạnh, cuộc đời như mặt nước hồ thu, không bao giờ buồn chán.
Nhưng từ khi gặp Dương Qua, hai người cùng nhau chung sống với nếp sống bình dị hồn nhiên trong Cổ Mộ đài, đôi khi nàng tự nhiên thấy cõi lòng xao xuyến như hồ thu gợn sóng. Tuy vậy, nàng vẫn cố tâm kìm hãm và vẫn giữ được tuyết sạch, giá trong, cả hai không bao giờ để lửa tình chi phối.
Khi trở về Cổ Mộ Đài lần sau, Tiểu Long Nữ cố nén lòng quên hết dĩ vãng và mọi nếp sống đã qua cùng chàng để tìm lại nếp sống bình thản trong cảnh hoang vu u tịch, nhưng không thể nào được nữa.
Lắm khi đang ngồi trên giường Hàn ngọc, nàng chợt nhớ tới hình ảnh Dương Qua đang nằm ngủ say sưa trên chiếc giường này, cà cũng chính trên cái bàn cạnh đấy, hàng ngày chàng lo rót nước bưng lại hầu mình. Bao nhiêu hình ảnh đó luôn luôn xâm chiếm tâm hồn nàng , khiến cho Tiểu Long Nữ không thể nào chăm lo tu luyện được nữa. Nàng đã trải qua cả ngày dài ngồi suy nghĩ vẩn vơ, thương hình nhớ bóng, bỏ cả ăn ngủ, kéo dài cuộc sống chập chơn như cơn ác mộng.
Cảnh thác loạn trong ngôi Cổ Mộ cứ keo dài ngày này sang ngày khác, không bao lâu đã được một tháng trường.
Tiểu Long Nữ không chịu đựng được nữa và một ngày kia, nàng quyết tâm đi tìm Dương Qua.
Suốt đời từ tấm bé sống trong Cổ Mộ, nàng đâu hiểu gì về cuộc sống bên ngoài, từ nhân tình thế thái đến quan niệm nhân sinh,cái gì nàng cũng thấy mờ mờ mịt mịt như chú Mán về đồng. Từ bé, nàng chỉ được sư phụ dạy cho phương pháp luyện phép "bài trừ thất tình lục dục" khiến nàng có thể trở thành một con người không bị xúc động vì ngoại vật, không hờn, không giận và không để mọi vật chi phối. Vì vậy, cái gì đối với nàng cũng đều mờ mịt, mỗi bước đường đều hoàn toàn bỡ ngỡ, ngơ ngẩn.
Đối với một người không bao giờ chung sống cùng xã hội bên ngoài mà phải vượt núi trèo đèo đi tìm Dương Qua giữa nhân thế bao la thì có khác chi là "mò kim đáy bể"
Bước ra khỏi Cổ Mộ, không biết là nên đi về hướng nào, nàng cứ đánh liều đi về phía trước mãi, tới đâu hay tới đó.
Trên đường đi gặp ai nàng cũng cứ tưởng họ đều quen biết Dương Qua nên thật thà hỏi : - Ông, bà có gặp Dương Qua đi về hướng nào hay không ?
Người nào nghe nàng hỏi cũng đều buồn cười, chỉ nhìn nàng lắc đầu, biết đâu mà chỉ ?
Thân gái dặm trường, đường đời không định hướng, nàng đánh liều cất bước, hễ đói bụng thì ghé nhà người ta, gặp cơm thì ngồi lại ăn, chứ không hề biết là ăn thì phải trả tiền, hoặc nếu không có tiền thì cũng phải hỏi chủ đồng ý trước mới được. Với tánh quá ư hồn nhiên và ngơ ngẩn của nàng khiến cho nhiều người phải cười nôn cả ruột.
Cũng may là nhờ nàng có nha sắc vô cùng xinh đẹp, nên ai ai trông thấy cũng đều có cảm tình ngay, ngoài ra còn có kẻ nghĩ rằng nàng là tiên nữ giáng trần để thử lòng nhân thế nên ai cũng hết lòng chiều chuộng dễ dãi cùng nàng. Không một người nào có ý ngăn trở hay làm khó khăn cho nàng từ bữa ăn tới chỗ ngủ.
Một ngày ka, nàng đang ngồi nơi quán trọ, chợt nghe thiên hạ bàn tán nơi Lục gia trang tại Kinh tử quan có tổ chức "Anh hùng yến" . Tiểu Long Nữ chợt nghĩ :
- Cứ nghĩ võ công của Dương Qua cũng đáng mặt anh hùng. Có lẽ hắn có tên dự Anh hùng yến cũng nên. Ta cứ đến đó may ra sẽ gặp.
Nghĩ vậy rồi nàng quyết tâm dò đường tìm tới Kinh Tử quan và hỏi trang viện họ Lục.
Hàng ngàn quan khách bốn phương về dự Anh hùng yến, nhưng trừ Hách Đại Thông, Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính là biết nàng còn bao nhiêu người khác không ai có thể ngờ được nàng là Tiểu Long Nữ. Tuy nhiên, mọi người thảy đều ngạc nhiên về dung nhan cực kỳ diễm lệ của Tiểu Long Nữ và đoán đây cũng là một dị nhân kỳ nữ.
Vừa nhận được nàng, Doãn Chí Bình giật mình kinh sợ tái mét cả mặt mày. Triệu Chí Kính theo dõi nhận thấy như vậy chỉ bĩu môi cười thầm.
Quách Tỉnh và Hoàng Dung nhìn cử chỉ của hai người thì lấy làm ngạc nhiên không hiểu vì sao, nên trong lòng rất nghi hoặc.
Nghe giọng nói quá ư tha thiết mừng rỡ của Dương Qua, Tiểu Long Nữ cảm động quá, run run giọng nói :
- Qua nhi ! Sao người đi đâu để ta mất công tìm kiếm vậy ?
Dương Qua đôi mắt đẫm lệ, sụt sùi một hồi lâu mới nói lên được :
- Sao, cô nương ... , cô nương có ... bị lạc đường không vậy ?
Tiểu Long Nữ lắc đầu đáp :
- Không đâu ! Ta đi tới đâu cũng hỏi thăm người ta nên không bao giờ bị lạc lối cả !
Dương Qua mừng quá nói dồn dập :
- Tôi định đi tìm kiếm cô nương, thời may cô tìm tới đây, may quá, mừng quá !
Hàng ngàn tân khách theo dõi cử chỉ của hai người đều ngạc nhiên hết sức. Giữa đám đông thiên hạ mà hai người cùng nhau trò truyện hình như đang ở trong phòng riêng, không chút ngại ngùng và xem như xung quanh không có một người nào nhìn họ.
Tiểu Long Nữ cầm chặt tay Dương Qua, lòng tràn ngập cả hoan hỷ lẫn sầu thương.
Hoắc Đô Vương tử trông thấy Tiểu Long Nữ đẹp quá cũng đứng sững ra nhìn chứ không biết là ai. Y không ngờ rằng đây là người đẹp Tiểu Long Nữ mà xưa kia y đã đến cầu hôn thất bại nơi Chung Nam Sơn.
Trông thấy người đẹp lại xoắn sít bên cạnh một anh chàng mặt mày lem luốc, áo quần rách vá trăm mảnh thì y có lòng ganh tỵ bèn mắng lớn :
- Đây là chốn anh hùng tranh tài cao thấp, đâu phải là chốn để cho trai giá tự tình ? Biết điều thì hãy tránh đi cho khuất mắt .
Dương Qua không thèm đáp lại, nắm tay Tiểu Long Nữ kéo nàng ra mé ngoài hiên ngồi bên nhau kể hết nỗi nhớ niềm thương trong những ngày xa cách .
Thấy hai người đã đi xa rồi, Hoắc Đô quay sang Chu Tử Liễu :
- Nếu ông không biết sử dụng binh khí thì chúng ta dùng quyền cước so tài cùng nhau cũng được.
Chu Tử Liễu cười lớn đáp :
- Đâu được ! Nước Trung Hoa là một nước văn hiến, lấy lễ nghĩ làm căn bản, lấy văn chương mà cầu hiền, dùng bút nghiên mà chọn bạn, đâu phải như phưỡng dã man mọi rợ như quân Mông Cổ chúng bay, chỉ biết lấy sự chém giết làm lẽ sống ?
Hoắc Đô nổi giận thét lớn :
- Ta cũng không cần dùng đến gươm giáo đâu !
Nói xong, y xoè quạt quạt liền mấy cái.
Chu Tử Liễu bước ngang qua một bên tránh né rồi dùng bút vẽ luôn mấy cái về phía Hoắc Đô.
Hoắc Đô thấy đối phương vừa xuất thủ lanh lẹ phi thường đã đem lòng kính nể không dám coi thường, hết sức thận trọng cố ý dò xét xem thuộc môn phái nào để tiện bề đối phó, hoặc tấn công phòng thủ.
Chu Tử Liễu thấy Hoắc Đô có vẻ ngán mình trong bụng mừng thầm bèn doạ lớn :
- Chỉ cần một nét bút của ta có thể vẽ tan một ngàn quân Mông Cổ đấy. Vậy điện hạ hãy cẩn thận đề phòng cho kỹ đấy nhé !
Nói vừa dứt lời, ông vun g bút điểm luôn mấy cái liên tiếp .
Hoắc Đô Vương tử tuy học tại Tây Tạng, chưa hề lăn lộn giang hồ, nhưng sự hiểu biết của Kim Luân Pháp Vương rộng như biển hồ, bao nhiêu võ công chốn Trung Nguyên ông ta đều biết qua hết cả. Biết rằng Hoắc Đô cần học mình tất cả những kinh nghiệm để uy hiếp quần hùng Trung Nguyên, nên Kim Luân Pháp Vương sẵn sàng đem hết tuyệt học của mình ra truyền thụ. Nhưng ngờ đâu, Chu Tử Liễu xuất thủ cầm bút điểm luôn mấy cái mà y vẫn chưa nhận định được là thuộc môn phái nào. Mỗi khi múa bút lên trời ý không biết chữ gìm, tác dụng ra sao, mà lạ thay, cứ mỗi lần Chu Tử Liễu đảo bút là y lại thấy rung chuyển cả các đại huyệt trong người.
Nguyên Chu Tử Liễu là một văn nhân nổi tiếng phương Nam, sau này theo học võ công nhưng không bao giờ xao nhãng nghiệp văn chương. Võ công càng tinh thục, văn pháp cũng được trau dồi, ông chú tâm phối hợp cả hai môn theo Thư Pháp Nhất Dương Chỉ thành một môn tuyệt kỹ. Đây là môn thư pháp do ông tự sáng chế. Nếu người khác muốn học lại cũng rất khó vì cần phải giỏi cả ba thứ : văn hay, võ giỏi và thuật Nhất Dương chỉ nữa mới được.
Thuật thư pháp này gọi là "Văn trung hữu võ, võ trung hữu văn" nghĩa là trong văn có võ, trong võ có văn, cần phải kiêm tài văn võ.
Theo quan niệm của Hoắc Đô thì bọn nhà văn chỉ là những nhà hữu nho, chỉ chuyên đọc Tứ thư, Ngũ Kinh, chuyên về thi phú, ngâm vịnh,trói gà không chặt, chẳng làm nên trò trống gì. Không ngờ hôm nay trước mặt y, một thư sinh trổ tài điểm huyệt bằng bút, mỗi nét bút tung ra là một đòn điểm huyệt vô cùng thần bí. Lạ hơn nữa là lối điểm bút liên miên bất tận, theo lối viết chữ loang loáng như thảo thư, ánh bút phấp phới như ánh sáng chói loà không biết đâu đề phòng hay né tránh cả.
Thấy lối hươi bút điểm huyệt của Chu Tử Liễu quá ư tinh diệu thần bí, Hoắc Đô Vương tử nghi nghi hoặc hoặc, nhìn trân trối chẳng biết nên tới hay nên lui.
Quách Tỉnh tuy không thạo về văn chương cho lắm nhưng cứ nhìn theo lối múa bút của họ Chu cũng phải gật gù thầm phục là kỳ diệu.
Còn Hoàng Dung thì ngay từ nhỏ đã được cha là Hoàng Dược Sư dạy học nhiều loại kinh pháp văn chương nên bà là một người cả văn võ đều thạo. Cho nên trông thấy thư pháp của Chu Tử Liễu biểu diễn với một lối lạ lùng, bà cũng thầm phục hết sức.
Quách Phù chạy lại gần mẹ, thỏ thẻ hỏi :
- Mẫu thân, Bác Chu dùng bút vẽ ngang vẽ dọc những gì mà có vẻ huyền diệu tài tình quá như vậy. ?
Hoàng Dung đang bận theo dõi nên không tiện giải thích lâu dài, chỉ đáp suông một câu :
- Đó là bút pháp của Phòng Huyền Linh.
Quách Phù không biết hỏi thêm :
- Phòng Huyền Linh là ai vậy, mẫu thân ?
Hoàng Dung giải thích đơn sơ cho con nghe :
- Phòng Huyền Linh là một vị đại thần đời Đường, ông ta có lối chữ viết như rồng bay phượng múa, nét chữ già dặn sắc sảo, tinh anh. Vì vậy nên thiên hạ bái phục và gọi ông là "giai thư linh phẩm".
Miệng thì nói chuyện với con gái, nhưng mắt bà không rời khỏi cuộc đấu giữa hai người.
Lúc bấy giờ, Chu Tử Liễu say mê với cuộc đấu , vứt bỏ cả mũ, hình thái không khác nào một kẻ điên khùng hay say rượu cả, vung tay viết những nét bút vừa mạnh, vừa dài, xem qua như rắn bò, rồng cuốn.
Quách Phù ngạc nhiên quá vội hỏi thêm Hoàng Dung :
- Mẫu thân, bác này có lẽ say rượu hay là nổi cơn điên rồi chăng ?
Hoàng Dung cười đáp :
- Không điên đâu. Nếu cho ông ấy uống thêm vài cốc mỹ tửu, ông ta càng viết đẹp hơn nữa đấy con ạ !
Nói dứt lời, Hoàng Dung xách bầu rượu lại gần nói lớn :
- Chu đại ca, hãy nếm vài ngụm rượu cho ấm lòng và thêm hứng thú !
Miệng nói, tay rót một chung đầy trao cho Chu Tử Liễu . Mùi rượu thơm phức xông ra ngào ngạt, nghe thoảng như mùi quế hương. Đây là loại rượu hảo hạng đặc biệt do Hoàng Dung mang từ đảo Đào Hoa về, tất cả quần hùng ở đây ai cũng công nhận là "thiên hạ đệ nhất mỹ tửu".
Chu Tử Liễu bước lùi ra sau mấy bước, đưa tay tiếp lấy chung rượu, uống một hơi cạn hết.
Hoàng Dung lại rót thêm chung thứ hai, Chu Tử Liễu cũng uống cạn luôn. Qua chung thứ ba thì Chu Tử Liễu đã cảm thấy đầu óc nóng bừng, tinh thần hứng thú, hình như được Phật bà ban cho nước cam lộ. Vì vậy nên ông bưng chung thứ ba uống từng ngụm nhỏ để kéo dài sự hứng thú.
Hoắc Đô nhìn thấy đối phương trong lúc đang chiến đấu cùng mình mà còn khề khà nhắm rượu có ý khinh thường thì nổi nóng dùng quạt định đập bể chung rượu, nhưng Hoàng Dung đã đoán biết từ trước nên kịp thu tay về ngay.
Chu Tử Liễu không thèm để ý tới Hoắc Đô, chỉ cúi đầu cảm tạ Hoàng Dung đãi rượu.
Hoàng Dung tươi cười nói :
- Đại ca, sau khi uống rượu vào rồi, chắc hẳn đại ca viết và múa đẹp lắm đấy !
Chu Tử Liễu vừa cười vừa đáp lời Hoàng Dung và cũng gián tiếp nói chuyện với Hoắc Đô:
- Gia Cát Khổng Minh xưa kia lâm trận, dù bên mình có hàng vạn tinh binh cũng vẫn giữ được thần trí vô cùng bình tĩnh thư thái an nhàn, không bao giờ nôn nóng hấp tấp. Kẻ hèn này ngày nay chỉ đua tài cùng một kẻ dưới tay, lòng dạ không hơn gì lang sói, thì cần gì phải nói gấp đến chuyện hơn thua ?
Nhìn trời cười thêm một lúc nữa, ông nói tiếp :
- Sẵn có tửu hứng, tôi xin viết theo lối bút pháp của Trương Húc thời xưa để Hoàng Bang chủ thưởng thức nhé. Chu Tử Liễu này tuy không hơn nhiều kẻ trượng phu Trung Nguyên, nhưng cũng không đến nỗi bị thịt như bọn man rợ nơi đây đâu !
Nói xong, ông ta hươi bút viết luôn bài "Thánh tảo" ( nghĩa là chữ viết đẹp như thánh ) của Trương Húc cho Hoàng Dung và quần hùng xem.
Kim Luân Pháp Vương tuy ngồi nhắm mắt tham thiền, nhưng vẫn chú ý theo dõi cuộc tranh tài giữa đôi bên. Khi thấy bên này đưa ra một nhà nho múa bút ba hoa để kéo dài thời giờ thì bực mình gọi Hoắc Đô :
- Ai Cổ Tư Kim con, sao con mê muội lắm vậy ? Còn thuật "thất nhi thất nhi" đâu rồi không dùng tới ?
Quần hùng nghe nói chẳng hiểu y muốn gì cả. Duy có Hoắc Đô Vương tử đã chợt nghĩ ra :
- Sư phụ không muốn mình chậm trễ kéo dài thì giờ và muốn mình dùng thuật gió lốc để tấn công đối phương chứ gì ?
Nghĩ vậy, y dung nội lực, chúm môi thổi phù một cái, tiếp đo tay trái phất mạnh , tay phải quạt lia, khiến cho một cơn gió lốc thật mãnh liệt thổi phụt về hướng Chu Tử Liễu.
Trận cuồng phong xuất phát từ ống tay áo và cánh quạt của Hoắc Đô ào ào thổi tới như một cơn lốc. Sức gió phạt ngang qua một chút mà nhiều kẻ trong quần hùng không đứng vững phải ngã lăn ra như có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn theo và xô đẩy.
Hùa theo luồng gió lốc, Hoắc Đô còn chúm môi hú lên những tràng dài nghe rất rùng rợn như ma kêu quỷ rống để áp đảo tinh thần đối phương.
Hoắc Đô còn dùng quạt quạt lia lịa để tăng thêm cường lực cho trận quái phong. Đây là một thuật thổi gió phun sấm của Mông Cổ, một thuật đặc biệt dùng để khống chế tinh thần địch. Trần cuồng phong mạnh đến nỗi làm tróc cả mấy tảng đá to ở ngoài hoa viên, và nhiều người phải lật đật đứng sang một bên để khói bị luồng gió thổi té. Lắm kẻ hoảng sợ chạy ra đằng sau nấp vào tường nhà hay nhảy luôn xuống giếng.
Hoàng Dung thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đang ngồi sát vai nhau trên thềm đá gần đó, cách đấu trường hơn một trượng, đúng ngay vào đầu luồng gió đang thổi cuốn tới. Mặc cho gió cuốn, cả hai vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra, vẫn nói chuyện như thường. Cả một trận cuông phong xô nhà bứng đá, làm dạt cả cây cối, thế mà đối với hai người không khác nào là một cơn gió chiều hè, không thèm tránh né và cũng không thèm quan tâm đến trận chiến giữa Hoắc Đô và Chu Tử Liễu.
Hoàng Dung ngạc nhiên vô cùng. Từ đó bà chú ý theo dõi Dương Qua và Tiểu Long Nữ hơn là trận đấu của hai người. Bà nghĩ bụng :
- Cô gái này có vẻ lạ lùng, và nhất định là võ công phải rất cao siêu tuyệt đỉnh. Nàng rất thân mật và thắm thiết cùng Qua nhi. Chẳng hiểu nàng thuộc môn phái nào mà xưa nay ta chưa từng quen biết.
Lúc bấy giờ Tiểu Long Nữ đã ngoài hai mươi tuổi. Vì từ nhỏ sống trong Cổ Mộ, không mấy khi tắm ánh nắng mặt trời nên nước da nàng hơi xanh mét, tuy nhiên vẫn mịn màng như nhung. Vì tập luyện nhiều nên nàng già đi hơn mấy tuổi. Thoạt nhìn qua nàng có vẻ như một nữ lang trạc chừng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi.
Ngày còn sống trong Cổ Mộ, chưa gặp Dương Qua, lòng nàng thảnh thơi không vương vẫn chút tình cảm, vui, buồn, mừng, giận thì nàng trẻ hơn tuổi mình có đến mấy năm, nghĩa là khi đó nàng chỉ phỏng chừng mười hai, mười ba tuổi mà thôi.
Từ lúc gặp Dương Qua , bị tình cảm chi phối, và nhất là sau thời gian cách biệt , ngày đêm nhớ nhung trông đợi, thất tình lục dục đã dày vò tinh thần, thể xác, nàng như bị bệnh tương tư, nên đã già đi rất nhiều. Kinh nghiệm với bệnh tương tư suốt thangsg trong Cổ Mộ đài, lúc bấy giờ Tiểu Long Nữ mới nghĩ lại lời giáo huấn của sư phụ là đúng. Nàng tự thấy, nếu mình dốc lòng tu luyện , đừng để hương vị yêu đương lung lạc thì dẫu thọ tới trăm tuổi cũng vẫn còn trẻ như người năm chục tuổi mà thôi, chứ không đến nỗi bị già trước tuổi như hiện tại.
Nhưng dưới mắt của Hoàng Dung thì Tiểu Long Nữ có nhiều cử chỉ hết sức hồn nhiên , thanh nhã, sắc diện phúc hậu. Đem so sánh với con mình thì không khác gì bao phấn với bì vôi, con mình không thể nào sánh kịp, từ sắc đẹp cho đến nét duyên dáng.
Mải mê nhìn ngắm và suy xét về người con gái đang ngồi tâm sự cùng Dương Qua, Hoàng Dung bỗng nghe Chu Tử Liễu thét lớn :
- Thôi, đừng hòng dùng ma thuật để lung lạc ta. Trận quái phong của mi đâu có lợi hại gì, hãy mở to mắt ra xem bút pháp của ta đây !
Nói xong, ông dùng bút hươi mạnh thành những nét dọc ngang như mạng nhện giăng khiến cho Hoắc Đô đâm ra hoảng hốt sợ hãi nghĩ :
- Té ra thuật thổi gió phun sấm của mình chẳng có nghĩa lý gì với tên thầy đồ này !
Y đang ngẩn ngơ chưa biết tính lẽ nào thì bỗng Kim Luân Pháp Vương nói lớn :
- Mã mễ bát mễ, cổ tư hắc tư...
Toàn thể quần hùng không ai hiểu rõ ý nghĩa của tám chữ này nên thảy nhìn nhau ngơ ngác, sững sờ.
Riêng Chu Tử Liễu khi nghe Kim Luân Pháp Vương mách nước cho Hoắc Đô thì tự nghĩ:
- Mặc kệ cho bọn bay bày vẽ lẫn nhau. Bây giờ bày trò gì ta cũng phá được. Ráng mà thi thố cho hết tài, chưa biết kẻ nào thắng, kẻ nào thua đấy nhé ?
Nghĩ xong, ông đổi hẳn bút pháp. Lúc bấy giờ ông không hươi bút viết thành chữ như lúc trước mà dùng cán bút đâm vào như một người thợ đá đang đục gọt để làm tượng.
Quách Phù thấy kỳ lạ quá, vỗ vai mẹ hỏi :
- Mẫu thân, sao bác ấy lại khắc chữ vào đá để làm gì vậy ?
Hoàng Dung mỉm cười đáp :
- Sao con kém thông minh thế ? Bác Chu khắc bia đá theo lối chữ triện thời xuân thu đã khắc vào bia đá đó. Con có đọc được chữ gì không ?
Quách Phù chú mục vào nhìn theo, thấy nét ngang nét dọc rối rít như một bức địa đồ, không phân biệt được chữ gì hết. Nàng nhìn lên hỏi mẹ :
- Bác ấy đang viết chữ gì vậy ? Sao mà khó đọc quá !
Hoàng Dung cười đáp :
- Đây là lối chữ triện cổ, khó đọc lắm, ngay như mẹ đây còn khó khăn , lúng túng huống chi là con, đọc sao ra nổi ?
Quách Phù vỗ tay nói lớn :
- Nếu mẫu thân mà đọc còn khó khăn thì cái thằng rợ Mông Cổ này làm sao mà đọc cho được ?
Hoắc Đô Vương tử nghe Quách Phù ngạo mình là thằng rợ Mông Cổ thì nổi giận và nghĩ bụng không biết Chu Tử Liễu đem loại chữ này ra thi thố để làm gì vậy ? Y bèn xáp lại, vung quạt quạt phẩy mấy cái vào người Chu Tử Liễu.
Thật ra Hoắc Đô đâu biết được rằng , cứ mỗi nét bút của thuật "Nhất Dương Chỉ" có thể phát huy lên tất cả sức mạnh trong người. Vì vậy cho nên mặc dù y cố sức quạt mạnh, nhưng đối với Chu Tử Liễu không hề bị ảnh hưởng. Ngoài ra, y quạt càng mạnh, thì họ Chu càng viết lanh lẹ và đẹp hơn là đằng khác. Trong lúc xuất kỳ bất ý, Chu Tử Liễu lanh tay viết luôn mấy chữ lên quạt của Hoắc Đô nữa.
Hoắc Đô vội vàng rút tay lại và hỏi lớn :
- Vì sao nhà ngươi lại viết chữ "võng" và chữ "lưới" trên quạt của ta như vậy ?
Chu Tử Liễu cười ha hả đáp :
- Ngu quá, đó là chữ "nhĩ" chứ đâu phải là chữ "võng" như mày nói !
Rồi thuận tay, ông viết thêm luôn một chữ khác nữa.
Hoắc Đô hỏi :
- Thế chữ này có phải là chữ " nguyệt" là mặt trăng không ?
Chu Tử Liễu lắc đầu đáp :
- Không phải đâu ! Chữ đó là chữ "nãi nghĩa là thẹn đó
Hoắc Đô nổi nóng và thẹn thùng, vội vàng giằng quạt ra không cho viết nữa, nhưng Chu Tử Liễu cũng đã viết được hai chữ khác .
Hoắc Đô nổi nóng vùng mắng lớn :
- Đồ man rợ !
Chu Tử Liễu cất tiếng cười ha hả nói lớn :
- Phải, mi là đồ man rợ chứ còn ai nữa !
Bao nhiêu quần hùng dều oán hận quân Mông Cổ đã xâm lấn Trung Nguyên, giày xéo Hán tộc, ai ai cũng nuôi chí phục thù rửa hận, nên nay nghe Chu Tử Liễu mắng tên Hoắc Đô Vương tử Mông Cổ là đồ man rợ thì rất lấy làm hả hê, mát lòng mát dạ vô cùng.
Nãy giờ bị Chu Tử Liễu dùng thuật "chân, thảo, triện, lệ" trong "Thư pháp Nhất Dương Chỉ" ra áp đảo, Hoắc Đô không thể nào thi thố được tài năng sở trường nên trong lòng rất căm tức. Hắn nổi nóng dùng quạt đập liên tiếp vào khắp nơi trên người của Chu Tử Liễu quyết tâm hạ độc thủ.
Không ngờ y càng ra tay mạnh chừng nào thì càng lộ nhiều sơ hở để Chu Tử Liễu áp dụng thuật điểm huyệt theo "Nhất Dương chỉ pháp liên hoàn" . Bị trúng đòn, Hoắc Đô cảm thấy đầu óc choáng váng, mặt mũi tối tăm, hai tai nóng bừng rồi ngã ra ngất xỉu.
Hai anh em họ Võ thấy sư bá dùng thuật Nhất Dương chỉ hạ được Hoắc Đô Vương tử thì trong lòng hân hoan vô hạn, muốn chạy ào ra đấu trường để tung hô bác lên cao cho thiên hạ anh hùng trông rõ, đồng thời cũng là một dịp để ra oai với Quách Phù.
Nhưng hai người chưa kịp lại gần bỗng nghe Chu Tử Liễu la ối lên một tiếng thất thanh rồi ngã quay ra mặt đất. hai chân giãy lên đành đạch.
Thấy Chu Tử Liễu bất ngờ bị thương nặng, quần hùng thảy đều ngạc nhiên nhưng chưa biết nguyên nhân tại vì sao, nên khắp nơi đã nổi lên những lời bàn tán xôn xao náo nhiệt.
Nguyên trong khi thấy Hoắc Đô bị trúng đòn ngã lăn ra đất, Chu Tử Liễu động lòng từ tâm không muốn hạ độc thủ và bước lại gần phất tay áo để giải huyệt cho hắn. Khi được giải huyệt rồi, Hoắc Đô đã không biết cảm ơn mà còn manh tâm quyết hại Chu Tử Liễu bằng một đòn độc thủ hèn hạ. Hắn lập tức xoay cán quạt lại, hướng về phía Chu Tử Liễu rồi bấm nút kín khiến cho bốn cây đinh tẩm độc từ trong quạt bắn ra nhanh như tên lao thẳng vào mình họ Chu.
Cứ theo quy luật võ lâm thì khi kẻ nào đã bị thua, không được dùng ám khí để hại lén. Vì đinh ninh vào quy luật ấy nên Chu Tử Liễu đã đến gần giải huyệt cho Hoắc Đô mà không đề phòng trước. Khi vừa giải huyệt xong, họ Chu đứng quá gần Hoắc Đô cho nên lúc bốn mũi kim độc lao ra, Chu Tử Liễu không thể nào tránh né cho kịp. Trên bốn mũi độc đinh này có tẩm sẵn một loại nhựa của một giống côn trùng từ bên ngoài Tây Tạng, rất nguy hiểm nếu đã thấm vào máu. Vì vậy nên Chu Tử Liễu bị thuốc độc hành giãy giụa như hổ phải tên.
Nhận thấy Hoắc Đô dùng thủ đoạn hèn hạ ngầm hại người chiến thắng, quần hùng nhao nhao lên phản đối, lắm kẻ còn chỉ thẳng vào mặt y mắng lớn :
- Thật là đồ tiểu nhân vô liêm sỉ, đã thua rồi mà còn dùng ám khí hại người !
Hoắc Đô cười hềnh hệch đáp rất tự nhiên :
- Đó chỉ là phương pháp chuyển bại thành thắng chứ có lạ gì đâu mà la lối như vậy ? Nếu Chu huynh dùng ám khí hại Tiểu Vương này, chắc các vị cũng bằng lòng lắm chứ ? Hơn nữa, trước khi giao đấu không thấy nói rõ về điểm này bao giờ.
Quần hùng thấy y mặt dày mày dạn như thế, già miệng cãi chày cãi cối nên không ai thèm tranh luận nữa
Quách Tỉnh vội vàng bước lại bồng Chu Tử Liễu lên, thấy cả bốn mũi đinh độc ghim khắp chỗ xung quanh miệng, và mặt mày Chu Tử Liễu đã thất sắc, cười không ra cười, mếu không ra mếu nữa.
Biết loại đinh này có tẩm độc nặng lắm nên Quách Tỉnh dùng thuật điểm huyệt , điểm luôn vào các đại huyệt trên người Chu Tử Liễu khiến cho máu độc không thể chảy vào tim được nữa rồi quay sang hỏi Hoàng Dung :
- Bây giờ nên tính sao bây giờ ?
Hoàng Dung cúi đầu suy nghĩ :
- Muốn có thuốc giải độc thế nào cũng phải cầu đến Kim Luân Pháp Vương hay Hoắc Đô vương tử. Chỉ hai người này có thể trừ được độc dược, tuy nhiên, cầu được họ không phải là một chuyện dễ.
Vì còn đang do dự chưa biết dùng cách nào nên Hoàng Dung đứng lặng thinh không đáp. vẻ mặt đăm chiêu buồn buồn.
Ngư Nhân trông thấy sư đệ thọ độc nặng nề , trong lòng vừa lo vừa giân, liền xắn tay áo định chạy lại tấn công Hoắc Đô ngay.
Nhưng Hoàng Dung chợt nghĩ :
- Quân Mông Cổ đã thắng một trận rồi. Nếu để Ngư Nhân ra đấu, rủi thua thêm nữa thì hư việc lớn. Hơn nữa, sức ông này đâu có thể chọi được với Đạt Nhĩ Ma.
Nghĩ vậy, bà gọi lớn :
- Ngư huynh, xin hãy thong thả, đừng nóng nảy quá như thế !
Ngư Nhân dừng chân nhìn bà nói :
- Thưa, Hoàng Bang chủ có điều gi dạy bảo ?
Hoàng Dung nhỏ nhẹ nói :
- Xin đại huynh hãy thong thả, chúng ta cần bàn tính lại cho chu đáo trước khi hành động. Mình đã thua một keo rồi. Nếu keo này không trù liệu cho kỹ, rủi thua chúng lần nữa thì đại cuộc hỏng hết.
Ngư Nhân cho là Hoàng Dung nói có lý nên cố dằn tâm không xông ra gây sự nữa.
Hoắc Đô dùng ám khí hạ được Chu Tử Liễu rồi, tự cho là thắng thế, vênh mặt nhìn quanh bốn phía, hiu hiu tự đắc, tưởng như nơi đây không ai có thể đương cự cùng mình.
Đang hứng chí nhìn quanh khắp mặt quần hùng, chợt ngó ra mái hiên, thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đang ngồi sánh vai nhau trò chuyện. Hai người vừa nói vừa bứt những lá cây xung quanh khẽ xoa lên mặt đất, không thèm để ý đến mọi sự xung quanh. Hoắc Đô sinh lòng ganh tỵ và cảm thấy chướng mắt , cơn giận dâng lên ngùn ngụt, cầm quạt trỏ hướng đó mắng lớn :
- Quân súc sinh vô liêm sỉ, nơi đây không phải là chỗ để tình tự trai gái. Muốn yên thân thì xéo đi cho khuất mắt ta ngay bây giờ.
Dương Qua từ khi gặp được Tiểu Long Nữ thì trong lòng hân hoan sung sướng tới cực độ. Đối với chàng, ngoài Tiểu Long Nữ ra không còn điều gì đáng quan tâm nữa. Vì vậy nên chàng mải mê chuyện trò cùng nàng mà không cần để ý đến trận đấu giữa Hoắc Đô và Chu Tử Liễu. Trong lúc này dù thiên hạ có giết nhau, trời nghiêng đất lở thì cả hai cũng chẳng quan tâm.
Dương Qua nghĩ :
- Bao nhiêu năm chung sống trong Cổ Mộ , Tiểu Long Nữ đã xem mình như ý trung nhân, dám cùng nhau sống chết, thật cũng đã chí tình. Hèn chi có một dạo nàng ngỏ ý hỏi muốn làm vợ mình có được chăng, nhưng vì câu hỏi này quá bất ngờ nên mình phân vân chưa biết đáp sao cho phải, do đó nàng nổi giân cất bước ra đi biệt tăm không tìm ra tông tích. Những tưởng bóng hồng đã mất theo ngàn mây cỏ nội, không bao giờ hội ngộ để giáp mặt trao lời. Ngờ đâu nàng vẫn nặng tình thương nhớ, chẳng nài ngàn dặm lặn lội tìm ta, chắc không ngoài mục đích hỏi lại câu hỏi :"có thể làm vợ ta được chăng ?" .Nhưng suy nghĩ cho kỹ, nàng là sư phụ mình,lẽ nào ta dám vượt vòng lễ giáo để đi lấy cô nương làm vợ ?
Trong thời gian cùng chung sống trong Cổ Mộ, không biết tình yêu nảy nở từ lúc nào, nhưng cả hai người đều cố dùng hết nghị lực để kìm hãm và che đậy. Mãi đến khi sắp từ biệt không ngờ cô nương lại bồng bột biểu lộ tâm sự thầm kín trong lòng đem diễn tả ra bằng một câu hỏi vừa ngây thơ, vừa chân thật,chẳng chút ngại ngùng,
Bao nhiêu những niềm suy tư che đậy trong lòng, Dương Qua đem ra thổ lộ hết cùng Tiểu Long Nữ.
Trước kia Tiểu Long Nữ đã khắc chế được thất tình lục dục , không bao giờ nghĩ đến yêu đương, và cũng không hề yêu ai. Lòng nàng khi nào cũng bình thản như mặt nước hồ thu không gợn sóng, chẳng bao giờ giận hay bực tức ai cả . Hơn nữa, trong Cổ Mộ đâu có ai có thể khiến cho nàng phải giận hờn hay nhung nhớ đâu.
Nhưng từ khi gặp Dương Qua , không hiểu tình yêu từ lúc nào đã nảy nở, càng khống chế, nó càng thêm bồng bột, muốn quên cũng không quên được, muốn rứt cũng rứt không ra. Đối với nàng, lúc này, càn khôn đều là nhỏ bé, chỉ có tình Dương Qua là lớn mà thôi.
Đang khát vọng tình yêu, nay bỗng gặp nhau nên Dương Qua chẳng cần xem thiên hạ ra gì, mà Tiểu Long Nữ cũng không nề hà lễ nghi của thế tục.Cả hai cùng một ý tưởng :
- Yêu nhau, nay mới được gặp nhau là thoả mãn lắm rồi, cần chi tới tiếng đời thị phi hơn thiệt. Mình chỉ làm theo ý mình, khách bàng quan không quan hệ lắm. Vì vậy nên mặc cho hàng ngàn người đang có mặt xung quanh đây., mặc cho cục diện căng thẳng đáu tranh một còn một mất , hai người vẫn thản nhiên kề vai sát má trò chuyện cho phỉ tình.
Mải mê với câu chuyện tâm tình, Dương Qua không nghe được những lời quát tháo vô lễ của Hoắc Đô Vương tử. Đối với tất cả mọi người khi đang ngụp trong bể tình ái thì đâu có kể gì nhân tình thế thái bên ngoài. Vì vậy nên mặc cho hắn hò hét, trợn mắt ra oai , Dương Qua và Tiểu Long Nữ vẫn không có một lời đáp lại.
Thấy hai người không thèm đếm xỉa tới lời nói của mình, Hoắc Đô càng bực tức hơn nữa, định xông tới đá cho mấy cái. Nhưng vừa lúc đó , Kim Luân Pháp Vương dùng tiếng Tây Tạng bảo :
- Hoắc Đô , con đã thắng được một keo rồi, hãy tiếp tục luôn keo khác đi thôi !
Nghe lời thầy nói, Hoắc Đô không dám cãi, chỉ nguýt Dương Qua một cái rồi nhìn khắp quần hùng lên tiếng :
- Tiểu Vương này đã thắng được keo đầu. Qua keo thứ hai sẽ do sư huynh Đạt Nhĩ Ma đảm nhận. Vậy bên đó xem ai có đủ tài năng xin đề cử ra tranh tài cao thấp.
Hoắc Đô tuyên bố vừa dứt câu, thì Đạt Nhĩ Ma vận áo cà sa màu đỏ, tay cầm một thứ binh khí lạ lùng, hùng dũng bước ra giữa đấu trường hiên ngang đợi đối thủ.
Mọi người chú ý vào món vũ khí của y thì thấy đó là một loại vũ khí mà Phật giáo thường gọi là "Kim cương giáng ma chữ" bề dài trên bốn thước, sức nặng ngàn cân, trên đầu có miệng loa ra, toàn thân bóng loáng như làm bằng vàng khối.
Đạt Nhĩ Ma nhìn hướng về phía quần hùng chào tay làm lễ mười cái rồi quay lại múa cây chày giáng ma chữ lên trời.
Cây chày Kim cương giáng ma chữ bị tung vút lên cao đụng phải nóc nhà khiến cho ngói gỗ xô xác nghe rào rào rồi từ trên nóc lao xuống cắm sâu vào lòng đất, ngập trên hai thước.
Với thân hình mảnh dẻ, cây gậy nặng nề mà chỉ tung nhẹ một cái đã có oai lực chừng ấy, quả là y có một công lực phi thường. Chỉ có một đòn ra oai dằn mặt của Đạt Nhĩ Ma đã khiến cho quần hùng kính nể.
Hoàng Dung nghĩ :
- Cứ như tài nghệ và sức lực của tên này thì Tỉnh ca thừa sức chế ngự. Nhưng nếu Tỉnh ca xuất trận , sau này ai có đủ sức chống lại Kim Luân Pháp Vương ? Thôi thì dù sao ta cũng liều một phen thử xem sao !
Nghĩ vậy, bà vung cây gậy trúc đả cẩu xông ra tiếp chiến.
Quách Tỉnh trông thấy thất kinh, vội đưa tay ra ngăn cản :
- Bà đang còn yếu lắm, không nên liều lĩnh. Không thể nào đánh với hắn được đâu.
Bị chồng ngăn cản, Hoàng Dung suy nghĩ :
- Nếu phen này thua nữa thì nguy hiểm lắm. Nhưng thấy bọn chúng khinh thường quá không thể nào chịu nổi.
Trong khi bà đang lưỡng lự chưa biết nên giải quyết thế nào thì Ngư Nhân, đệ tử của Nhất Đăng đại sư bước lại nói :
- Thưa Hoàng Bang chủ, để tôi ra chiến đấu cùng tên ác tăng này để rửa hận cho sư đệ tôi và đồng đạo võ lâm Trung Nguyên.
Không còn cách nào để từ chối, Hoàng Dung đành gắng gượng nhận lời, nhưng bà dặn thêm :
- Xin sư huynh hãy cẩn thận cho lắm kẻo ...
Bà chưa nói hết câu thì hai anh em họ Võ đã mang cặp thiết tương ( cây chèo bằng sắt ) dâng lên. Ngư Nhân cầm lấy rồi tung người ra giữa trung quân, hai mắt toả hào quang, tay vung tít đồi thiết tương lộng gió ào ào.
Đạt Nhĩ Ma vội cầm chày đưa lên đỡ.
Chèo sắt giáng xuống , chày vàng hất lên, hai món vũ khí chạm nhau nghe xoảng một tiếng chát tai khiến quần hùng thất sắc. Cả hai đối thủ đều thối lui mấy bước , hổ khẩu đều toét , máu chảy đầm đìa.
Cả hai đều ngán tài và sức lực của nhau nên chẳng ai dám xem thường đối phương, đứng cách xa nhau mấy bước trợn mắt nhìn nhau trừng trừng.
Đạt Nhĩ Ma dùng tiếng Mông Cổ chủi thề, Ngư Nhân cũng dùng tiếng Đại lý chủi ại.
Một chặp sau, cả hai lại xông vào vòng chiến nữa.
Trận đấu diễn ra vô cùng ác liệt, dùng toàn những thế độc quyết hạ nhau chứ không khinh thường và cười cợt như trận đấu trước giữa Chu Tử Liễu và Hoắc Đô.

Hồi 35

Dương Qua trổ tài.

Ngày còn hầu hạ dưới trướng sư phụ Nhất Đăng, Ngư nhân còn mãng biệt danh là "điểm thương ngư ẩn" ngày ngày dùng đôi chèo sắt bơi thuyền đi ngược dòng sông. Mặc dù luồng nước chảy ngược như thác lũ nhưng ông vẫn xem thường, hai tay chèo đưa con thuyền vượt sóng vùn vụt, như một động cơ, không thấy gì là mệt nhọc,
Cũng nhờ cái sức mạnh như cọp ấy mà ông được Nhất đăng đại sư yêu mến vô cùng, bản chất thẳng thắn và cương trực , không phải như Chu Tử Liễu chỉ chuyên về thơ phú văn chương, ông là biểu hiện của sức mạnh, nên trong trận này giao chiến cùng Đạt Nhĩ Ma quả thật là xứng tài vừa sức.
Xưa nay, Đạt Nhĩ Ma tự cho mình là người dõng lược vô cùng, không ngờ ngày nay gặp phải vị thần dõng lược của Đại lý cũng vô cùng mạnh mẽ, cho nên cả hai cảm thấy cùng phấn khởi, hăng say tấn công tới tấp, không ai chịu nhường ai cả.
Trong keo đầu giữa Chu Tử Liễu và Hoắc Đô thì trong trận đấu có phát ra luồng gió mạnh, khiến quần hùng phải tránh xa, thì nay trong trận đấu này tuy không có luồng gió nhưng không ai dám đứng gần và cũng đều đưa tay bịt tai lại vì cũng không ai chịu nổi với những tiếng binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc.
Dưới ánh sáng của muôn vàn ngọn đuốc, cầy chày Kim cương của Đạt Nhĩ Ma quay tít như rồng vàng uốn khúc tung hoành giữa không trung , trong lúc đôi chèo sắt của Ngư Nhân như hai làn khói mờ bao quyện lấy xung quanh khi ẩn, khi hiện vô cùng ảo diệu.
Hai người càng đánh càng hăng trận đấu mỗi lúc một căng thẳng , ác liệt khiến cho quần hùng phải nín thở và hồi hộp để theo dõi từng giây phút . Từ xưa tới nay, chưa có một trận đấu nào xứng sức và ác liệt như trận đấu này.
Bỗng trong đám đông có người buột miệng nói rằng :
- Không biết xưa kia Dực Đức dạ chiến cùng Mạnh Khởi có được hào hứng và kịch liệt như trận đấu này không nhỉ ?
Quách Tỉnh và Hoàng Dung theo dõi, tinh thần căng thẳng, mồ hôi ướt cả mình. Quách Tỉnh hỏi vợ :
- Bà thử xem bên ta có hy vọng thắng được không ?
Hoàng Dung nói :
- Chưa thể đoán ngay bây giờ được đâu ?
Thật ra trong thâm tâm Quách Tỉnh cũng biết rõ là lúc này chưa thê nào đoán ra được thắng bại về tay ai, tuy nhiên ông cứ hỏi Hoàng Dung và hy vọng bà sẽ trả lời là Ngư Nhân thắng cho đỡ hồi hộp.
Trận đấu kéo dài thêm vài chục hiệp nữa nhưng sức lực hai người vẫn không giảm sút, tinh thần còn có vẻ hăng hơn trước nữa.
Ngư Nhân vừa đánh vừa gầm gừ, có lúc hò lên như bò kêu, cọp rống.
Đạt nhĩ Ma lấy làm lạ hỏi :
- Mi nói cái gì thế ?
Vì Đạt Nhĩ Ma hỏi bằng tiếng Tây Tạng nên Ngư Nhân nghe không hiểu gì hết, bèn hỏi lại :
- Mi hỏi cái gì vậy ?
Đạt Nhĩ Ma cũng không hiểu tiếng Trung Nguyên .Hai người hỏi qua hỏi lại, một chặp sau nổi đoá chửi nhau ầm ỹ. Chửi đã rồi xuất hết tất cả các đòn hiểm độc để cố gắng chiếm phần thắng lợi.
Đấu trường bây giờ đã mở rộng chứ không ở trong phạm vi hẹp như trước nữa. Gặp lúc chiến đấu quá ác liệt gay go, hai người đuổi nhau chạy khắp nơi, bao nhiêu bàn ghế đổ gãy lung tung, chén bát bể văng tung tứ phía. Cả một toà đại sảnh và một hoa viên mênh mông đã biến thành thao trường, lắm lúc khiến những người đứng xem phải lanh chân chạy ra xa để khỏi phải mang hoạ bất ngờ vì tên bay đạn lạc.
Nghe tiếng binh khí chạm nhau mỗi lúc một lớn,Kim Luân Pháp Vương hé mắt ra nhìn , trong lòng lo ngại :
- Nếu cứ để đấu mãi như thế này , dù Đạt Nhĩ Ma có thắng ắt cũng phải trọng thương.
Suy nghĩ xong, ông ta dự định cất tiếng gọi đệ tử, nhưng thấy hai bên đang dấu hăng quá nên lại thôi đi.
Hai người quyết chiến càng lúc càng dữ dội, càng quyết liệt không khác gì hai con cọp giành mồi. Hai món binh khí xoắn tít vào nhau như cặp mãng xà đang quyện lấy nhau và quay tít, nhìn không kịp.
Dưới ánh đuốc, bóng chày vàng của Đạt Nhĩ Ma loé ra chói mắt trông tựa như một con kim xà. Đôi mái chèo sắt của Ngư Nhân vờn lên như cặp thuông luồng đen , trông rất ngoạn mục.
Trong lúc đang hăng say chiến đấu, bỗng choeng một tiếng rùng rợn, và cả hai cùng thét lên một tiếng vì hoảng hốt. Quần hùng nhìn kỹ thì một mái chèo đã bị cây Kim Cương đập gãy làm hai khúc văng bổng lên cao, lộn luôn mấy vòng rồi nhắm phía Tiểu Long Nữ đang ngồi bay tới.
Tiểu Long Nữ đang mải mê chuyện trò cùng Dương Qua không để ý. Thình lình khúc chèo văng tới xắng xuống đất, chạm phải mấy ngón chân cuả nàng.
Nàng giật mình la ối một tiếng , rồi đứng dậy , đưa tay bóp chân miệng xuýt xoa.
Dương Qua vội hỏi :
- Cô nương bị thương chỗ nào ? Có đau lắm không ?
Tiểu Long Nữ nhăn mặt đưa tay chỉ xuống chân, xuýt xoa mãi.
Dương Qua thấy vậy tức sôi lên, quay lại phía đấu trường cố tìm xem kẻ nào đã ném thanh sắt này trúng chân cô nương bị thương. Ngay trong khi đó, Ngư nhân đang cầm một nửa mái chèo cãi lý cùng Đạt Nhĩ Ma :
- Tôi đâu có thua, dù sao tôi cũng còn có một mái chèo và thừa sức tiếp tục chiến đấu.
Đạt Nhĩ Ma lắc đầu lia lịa :
- Không được, vũ khí gãy rồi thì cũng tính như là đã thua, cãi lý làm chi nữa.
Đạt Nhĩ Ma biết địch thủ là tay lợi hại , nếu để trận đấu kéo dài, chưa chắc mình đã thắng nổi nên hắn cố tình già miệng để giành phần thắng cho xong.
Hoắc Đô Vương tử cũng thừa dịp chạy lại hô lớn :
- Như thế trong ba keo, thì chúng tôi đã thắng hai rồi. Vậy chức Minh Chủ võ lâm phải thuộc về sư phụ tôi. Các ngươi không thể ...
Hắn nói chưa dứt lời thì Dương Qua đã sấn tới trước mặt Ngư Nhân sừng sộ bảo :
- Chúng ta vô can vô cớ, tại sao ngươi dám dùng mái chèo sắt ném trúng chân cô nương ta làm bị thương hả ?
Ngư nhân ngạc nhiên ấp úng đáp :
- Tôi .. tôi ... đâu có ...
Nhưng Dương Qua đã nạt lớn :
- CHính vũ khí của ngươi đã làm cô nương ta bị thương nơi ngón chân đấy. Biết điều thì lại xin lỗi ngay lập tức.
Ngư Nhân trông thấy Dương Qua còn trẻ tuổi, cho rằng "ngựa con chưa biết sợ cọp nên làm thinh không cãi lại.
Dương Qua điên tiết, xông lại giật đôi chèo, tay kéo Ngư nhân, miệng bảo :
- Muốn sống thì phải lại xin lỗi ngay, nếu không sẽ mất mạng ngay bây giờ.
Hoắc Đô thấy thằng bé chưa bao nhiêu tuổi đầu đã tới xen vào làm rộn chuyện của mình thì nổi nóng mắng lớn :
- Đồ ranh con, đứng có hỗn láo mà mất mạng !
Dương Qua hươi cây chèo hỏi lại :
- Súc sinh, mày bảo ai là ranh con hả ?
Rồi chàng cười lớn nói :
- Thằng chó chết mà dám bảo mình là ranh con,hay quá nhỉ ?
Chư vị anh hùng đứng ngoài nhìn vào, thảy đều buồn cười nên cùng cười lớn. Tuy nhiên khi trông thấy Hoắc Đô hầm hầm sấn tới thì biết việc không xong. Ai nấy có ý lo giùm tính mạng Dương Qua .
Hoắc Đô cầm cây quạt lại định bước tới đánh xuống đầu Dương Qua.
Hầu hết những người đến dự tiệc đều là những người có tinh thần nghĩa hiệp, nên khi thấy Hoắc Đô vung quạt định hại Dương Qua, ai nấy thảy đều tái mặt bất bình nhao nhao la lớn :
- Này tên mọi kia , đừng ỷ lớn hiếp người, không được đâu.
Quách Tỉnh xông lại , đinh đưa tay giật cây quạt trong tay Hoắc Đô.
Nhưng Dương Qua đã nhanh như điện chớp, cúi đầu hạ thân mình xuống một chút chui qua vòng tay của Hoắc Đô rồi thừa cơ vung cây chèo gãy, theo tư thế "hồi mã bổng" trong "đả cẩu bổng pháp" xắng mạnh vào ống quyển của hắn.
bị một đòn bất ngờ vào ống chân, Hoắc Đô Vương tử đau quá điếng cả người . Cũng may y được công phu luyện tập khá cao, nếu như kẻ nào khác thì tất đã phải té nhào xuống đất ôm chân rên rỉ rồi. Lập tức y nhịn đau, vận dụng nội công tung mình lên cao, lùi ra sau hơn năm thước, bặm môi nhịn đau, đứng không nói nên lời.
Quách Tỉnh vội hỏi Dương Qua :
- Qua nhi , có sao không ?
Dương Qua tươi cười đáp lại :
- Thưa bá phụ,con chẳng hề gì, nhưng trái lại con đã cho tên này nếm "đả cẩu bổng pháp" của Hồng lão tiền bối rồi,chắc cùng thấm thía lắm.
Quách Tỉnh ngạc nhiên quá hỏi lại :
- Làm sao con biết được thế đó ? Ai dạy cho con vậy ?
Dương Qua tìm lời tráo trở :
- Có khó gì đâu, chính con nhìn theo lối đánh của Lỗ Bang chủ vừa đấu cùng hắn mà học lỏm được đấy ạ.
Quách Tỉnh vốn là người thật thà và chất phác, nghe Dương Qua trả lời như vậy đã tin ngay và nghĩ bụng :
- ồ , thằng bé này thông minh quá cỡ. Trên đời này chưa chắc có được kẻ nào thông minh hơn nó.
Hoắc Đô bị một đòn vào ống chân đau điếng hồn, tuy nhiên hắn vẫn đinh ninh trong lúc mình vô ý không đề phòng mới bị đánh trúng chứ không thể tin một thiếu nên chưa đầy hai mươi tuổi như Dương Qua mà đã có võ công cao siêu như vậy. Y cho rằng trong lúc này, vấn đề quan trọng nhất là tranh ngôi Minh chủ võ lâm, còn chuyện chấp nệ trẻ nít chưa cần thiết lắm, nên bỏ qua không thèm nói nữa....
Bỏ Dương Qua đứng đó, Hoắc Đô lại gần bảo Quách Tỉnh :
- Kính thưa Quách đại hiệp, cứ theo hai trận đấu vừa rồi, bên tôi đã thắng hết, như thế thì theo lời ước hẹn , ngôi Minh chủ Võ lâm phải thuộc về sư phụ tôi là Kim Luân Pháp Vương rồi. Nhờ Quách đại hiệp công bố với quần hùng được rõ. Kể từ nay ngôi minh chủ võ lâm đã thuộc về tay sư phụ tôi Kim Luân Pháp Vương . Vậy có ai chưa bằng lòng hoặc phản đối nữa không ?
Y nói chưa dứt lời, Dương Qua đã phi thân đến sát một bên vung quyền đánh luôn hai đường liên tiếp , một đòn vào lưng, một đòn vào đùi, rồi thét lớn :
- Ta không bằng lòng, ta phản đối đó !
Bị đánh hai đòn bất ngờ vào lưng và đùi đau quá, Hoắc Đô la "ối" một tiếng rồi đứng nhăn mặt xuýt xoa rên rỉ.
Toàn thể anh hùng xung quanh thích chí cười ầm cả lên . Thật không ai có thể ngờ một cậu bé lại bạo gan ương ngạnh như thế, và cũng không ngờ một người như Hoắc Đô lại nếm luôn mấy đòn liên tiếp một cách quá ư dễ dàng.
Bị đánh luôn hai lần nữa, phen này Hoắc Đô không dằn lòng nhẫn nhịn nữa, tuy nhiên hắn vẫn chưa tin Dương Qua có bản lãnh cao siêu nên nghĩ bụng :
- Thằng bé này thật hỗn xược, phen này ta phải cho nếm một bạt tai cho biết thân. Chỉ cần một bạt tai của ta, mi cũng đủ về chầu tiên tổ.
Nghĩ vậy, y thuận tay tát luôn Dương Qua thật mạnh.
Quách Tỉnh thừa rõ bên Tây Tạng có một lối tát tay rất đặc biệt, gồm có cả cương lẫn nhu, vô cùng lợi hại, nếu gặp sắt cũng phải vỡ, gặp bùn cũng phải nhô. Đó là thuật "Tích hoa chưởng" của phái võ Tây Tạng, Dương Qua chắc không thể nào chịu đựng nổi. Vì vậy nên ông xông lại, nắm hai bàn tay Hoắc Đô ngỏ lời năn nỉ :
- Trẻ nít cạn nghĩ và có hành động dại khờ nông nổi.Xin điện hạ bỏ qua đừng chấp nệ nó làm gì cho mệt óc.
Bị Quách Tỉnh khoá hết tay chân không làm gì được, Hoắc Đô tức giận vô cùng, vội cố sức vùng cho thoát khỏi vòng kiềm chế của ông.
Ngay khi đó, Dương Qua cầm nửa khúc chèo sắt chạy lại đánh thêm một đòn vào đùi hắn và mắng lớn :
- Thằng man di súc sinh, đừng hỗn láo để bận lòng người bề trên của ta !
Quách Tỉnh vội nạt lớn :
- Qua nhi ! Con không được vô lễ !
Toàn thể anh hùng hào kiệt thích chí cười ầm rộ cả lên.
Bọn tuỳ tùng Mông Cổ thấy ba người đang giằng co, đồng hét lớn :
- Tại sao hai người lại xáp đánh một người như vậy ? Như thế đâu còn lẽ công bằng nữa. Nơi đây là nơi thí võ tranh tài cao thấp chứ có phải cuộc đánh lộn đâu mà kéo nhau hùa lại như vậy, không thấy nhục sao ?
Quách Tỉnh sực nhớ , lại thấy mình làm không đúng, vội vàng bỏ Hoắc Đô ra.
Hoàng Dung đứng phía sau để ý theo dõi, thấy Dương Qua xuất thủ đòn nào cũng đúng theo quy tắc của "Đả cẩu bổng pháp" nên nghĩ thầm trong bụng :
- Không biết Dương Qua đã được ai truyền dạy "Đả cẩu bổng pháp" mà có vẻ tinh thục như vậy kìa ? Chẳng lẽ chỉ nhìn lén trong lúc ta dạy cho Lỗ Hữu Cước mà đã thông thạo đến mức này hay sao ? Nếu vậy thì nó thật là thông minh xuất chúng , hay lắm !
Theo nhận xét của bà thì Dương Qua có thừa sức chiến đấu cùng Hoắc Đô nên bà cất tiếng gọi lớn :
- Xin mời Quách đại hiệp lên đây, mặc cho đôi bên tranh tài cao thấp, đừng nên can thiệp vào làm gì cả !
Nghe Hoàng Dung nói, Quách Tỉnh đoán vợ đã có mưu kế gì hay nên nghe theo, bước lại đứng bên cạnh bà.
Hoắc Đô nổi nóng vung tay múa chân đấm đá loạn xạ trên người Dương Qua, nhưng chàng đã trổ thuật khinh công tránh né tài tình khiến cho Hoắc Đô không đánh trúng đòn nào hết.
Sau khi để Hoắc Đô đánh gió một hồi, Dương Qua từ từ nói :
- Ta đánh vai mi đây !
Miệng nói, vừa dứt câu, thì tay chàng đã đập trúng vào vai y một mái chèo. Chàng nói tiếp luôn :
- Xem chừng trúng đùi đây này !
Và tiếp theo đó, Hoắc Đô lại lãnh thêm một chèo vào đùi ngay.. . Rồi cứ như vậy, nói trước đánh sau, nhưng nói đâu đánh trúng phong phóc. Hoắc Đô mặc dù được báo trước nhưng cũng không thể nào tránh kịp.
Hoắc Đô không dùng quyền cước nữa vì thấy không công hiệu với Dương Qua . Y bèn dùng quạt vụt túi bụi vào người chàng.
Nhưng Dương Qua lẹ làng tránh né và đỡ gạt tất cả, không để một đòn nào trúng mình. Nhưng cứ sau một cái gạt là chàng điểm một đòn trả lại vào đùi hay vào lưng Hoắc Đô ngay.
Quần hùng đứng ngoài nhìn vào thấy Dương Qua đánh trúng liên tiếp, nhưng chàng chỉ dụng ý đánh lấy có chứ không có ý hạ độc thủ, thành thử các đòn không có gì là nguy hiểm hay đau đớn cả.
Hai người quần nhau kẻ tới người lui chập chờn trong đại sảnh, có khi ra tận ngoài hoa viên, khiến cho bao nhiêu người đứng xem thảy đều thích thú như đang xem một trận múa rồi chứ không phải là một trận quyết đấu.
Một cảnh tượng đáng buồn cười nhất là Dương Qua thì ăn mặc quần áo rách rưới như xơ mướp, còn Hoắc Đô thì áo mão cân đai vô cùng sang trọng , rõ ràng là hai thái cực. Dương Qua thì trẻ măng như một thư sinh, còn Hoắc Đô thì uy nghi đường bệ như một viên đại tướng.
Dương Qua thì nhẹ nhàng nhảy nhanh như vượn, còn Hoắc Đô thì hùng hổ như cọp săn mồi, hai bên cứ quấn nhau mãi chưa ai hơn ai. Khách bàng quan đứng xem ai cũng thầm ước trận đấu cứ kéo dài mãi để xem cho thoả thích.
Bên cạnh đó, Ngư Nhân và Đạt Nhĩ Ma đã thủ sẵn binh khí trong tay, người nào người nấy hầm hầm trợn mắt nhìn đối thủ, chực xông vào tái đấu, nhưng ngặt vì chưa có lệnh trên, nên cả hai cùng phải đứng yên chờ đợi không động thủ được,
Đạt Nhĩ Ma đứng hoài chờ thấy Hoắc Đô đánh mãi không hạ thủ được một đứa thiếu niên thì trong lòng bực dọc vô cùng . Nay lại thấy địch thủ của mình vỗ tay reo hò tán thưởng có bề thích thú thì nổi nóng cất tiếng chửi bâng quơ. Nhưng vì y chửi bằng tiếng Tây Tạng líu lo, Ngư Nhân không nghe được, nên dùng bút hươi lên không khí mấy chữ :
- "Mi chửi ta thì gió thổi bay lên trời"
Hoắc Đô đem hết tài năng múa quạt ra tấn công nhưng mãi không trúng được Dương Qua một đòn nào.
Y tức giận lắm, nhưng không biết tính sao hơn. Cuối cùng y nghĩ ra một kế, xếp quạt bỏ chạy, định lừa Dương Qua đuổi theo sẽ quay trở lại đâm một nhát vào huyệt "Hoàn khiêu"
Đây là một thuật điểm huyệt vô cùng lợi hại . Nếu đối phương bị điểm trúng đùi tất nhiên sẽ phải quỵ xuống và không thể cất bước đi nổi nữa, toàn thân sẽ bị tê liệt ngay.
Dương Qua tuy còn trẻ tuổi, nhưng kinh nghiệm chiến đấu khá nhiều,hơn nữa, con người chàng vốn thông minh ranh mãnh , cho nên thấy đối thủ đang đánh tự nhiên bỏ chạy, biết ngay là có gian kế chi đây, nên chàng lại không đuổi theo, chỉ cười và nói lớn :
- Sá gì cái trò trẻ con ấy mà cũng định mang ra lừa ta được sao ? Nãy giờ ăn đòn khá nhiều rồi, nếu biết lẽ thì phải chịu thua phứt đi cho rồi.
Nếu so về sức mạnh thì Dương Qua không thể bằng Hoắc Đô, nhưng về tài lanh lẹ, mánh lới thì Hoắc Đô không thể nào bì được với Dương Qua.
Quần hùng nghe Dương Qua nói đều thích chí cười rộ lên.
Hoắc Đô thấy mưu kế của mình bị khám phá rồi, chẳng biết tính sao, tinh thần có phần rối loạn, e rằng trước mặt hào kiệt thiên hạ mà bị thua về tay một thiếu niên thì còn mặt mũi nào nữa. Trí óc hoang mang, lòng mất tự tin, y không dám tấn công nữa, chỉ đánh cầm chừng chờ thời cơ mà thôi.
Hoàng Dung theo dõi trận đấu, lúc bấy giờ mới vỡ lẽ ra rằng Dương Qua đã được cao nhân truyền võ nghệ, bản lĩnh phi thường, ít kẻ dám sánh. Tuy nhiên, nếu thế trận giằng dai, Dương Qua thiếu kinh nghiệm sẽ bị Hoắc Đô dùng ý chí hãm hại thì bỏ phí mất một dịp may hiếm có.
Nghĩ thế, Hoàng Dung cất tiếng gọi lớn :
- Qua nhi ! Giữa con và điện hạ nên xử hoà đi là hơn, đừng kéo dài làm gì nữa !
Nghe Hoàng Dung bảo, Dương Qua dừng tay lại bảo Hoắc Đô :
- Sao, mi muốn nghỉ hay muốn đánh nữa ? Có gan tiếp tục không ?
Hoắc Đô vốn là tay xảo quyệt, mưu mô cũng giảo hoạt lắm nên nghĩ bụng :
- Dù sao mình cũng đã thắng hai keo rồi, bây giờ kéo dài trận này làm gì nữa cho thêm rắc rối !
Nghĩ vậy , y trả lời :
- Này tiểu súc sanh, nếu nhà ngươi nhận thua và bằng lòng suy tôn sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương làm Minh chủ võ lâm, thì ta còn kéo dài trận đánh làm chi nữa ?
Vừa nghe hắn tuyên bố, tất cả anh hùng hào kiệt đều nhao nhao phản đối kịch liệt.
Thấy vậy, Hoắc Đô lớn tiếng phân bua :
- - Trước khi đấu, hai bên đã cam kết "Trong ba keo, ai thắng hai là được cuộc " . Điều kiện đã quá rõ ràng, bây giờ tại sao các vị đã vội quên lời ước hẹn mà phản đối tôi như vậy ?
Từ trong đám đông có người quát lớn :
- Đừng có xảo ngôn, mi thắng chúng ta chỗ nào ? Chính mi bị người đánh ngã rồi, đến khi người ta lẫy lòng nhân từ đến giải cứu cho thì mi lại cắn trộm, dùng ám khí hại ngầm. Như thế là thắng hay sao ? Còn keo thứ hai, thì khí giới người ta bị gãy, nhưng người ta vẫn còn đủ sức tiếp tục thi đấu, tại sao mi lại già mồm bảo người ta thua. Trước đó có ai đặt điều kiện là hễ bị hỏng khí giới là phải thua đâu ? Như vậy mà mi dám bảo là thắng luôn hai trận, thật không biết ngượng mồm !
Dương Qua cướp lời nói trước :
- Thôi xin đừng tranh chấp làm gì cho mệt. Còn lão hoà thượng già kia có tài cán gì đặc biệt mà dám huênh hoang đòi làm bá chủ thiên hạ ? Thấp kém nhỏ tuổi như tôi mà cũng không phục , huống chi là các hào kiệt võ lâm!.....
Hoắc Đô đỏ mặt tía tai quát lớn :
- Đồ ranh con, đừng lớn tiếng . Hãy gọi sư phụ mi ra đây giao chiến cùng ta cho biết tài cao thấp !
Dương Qua ngước mặt lên trời cười ha hả rồi đáp :
- Như sư phụ ta mới đáng mặt Minh chủ võ lâm chứ như lão hoà thượng sư phụ mi có tài cán gì mà hòng ? Còn phần mi thì kém quá, ai cũng thấy rõ rồi, xin đừng lớn lối.
Hoắc Đô trợn mắt nói :
- Sư phụ mi là ai đâu ? Hãy mời ra đây xem thử.
Dương Qua trả lời :
- Theo lời hẹn ước từ trước, thì cuộc đấu tài tranh ngôi Minh chủ hôm nay, chỉ có đệ tử thay mặt sư phụ ra đấu với nhau mà thôi có phải không ?
Hoắc Đô đáp :
- Quả đúng như vậy.Chính ta đây thay mặt sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương tranh tài và đã thắng luôn hai keo rồi, như thế thì ngôi Minh chủ phải về tay sư phụ ta chứ còn giông dài gì nữa ?
Dương Qua bèn chuyển qua lẽ cãi khác :
- Nãy giờ mi thắng phái khác chứ có thắng phái của ta đâu mà hòng giành ngôi Minh chủ. Trong võ lâm có biết bao nhiêu là môn phái chứ nào phải chỉ có một mà thôi đâu !
Hoắc Đô ngạc nhiên hỏi :
- ủa, mi ở môn phái khác sao ? Vậy sư phụ mi là ai hả ?
Dương Qua cười lớn rồi vỗ tay reo lên :
- Trời ơi ! Sao có hạng người ngu ngốc quá như thế này nhỉ ? Sư phụ ta tức là người đã dạy ta nên tài để đấu cùng mi và ta cũng chưa hề thua mi bao giờ. Việc gì mà phải hỏi ?
Anh hùng hào kiệt nghe Dương Qua nói vòng vo để trêu chọc Hoắc Đô, thảy đều tức cười, không ai bảo ai, toàn thể đều cười reo để tán thưởng.
Dương Qua nghiêm giọng bảo :
- Bây giờ đến phiên ta ra điều kiện . Chúng ta hãy đấu cùng nhau ba keo. Nếu bọn mi thắng ta hai keo , ta sẽ bằng lòng nhận lão hoà thượng già kia làm Minh chủ võ lâm . Trái lại, nếu ta thắng , mi phải tôn sư phụ ta làm Minh chủ, như thế mi có bằng lòng không ?
Nghe Dương Qua nói, toàn thể quần hùng ai cũng đinh ninh sư phụ chàng cũng là một bậc tiền bối có tên tuổi trong võ lâm. Hôm nay, Kim Luân Pháp Vương đang tranh ngôi Minh chủ cùng Hồng Thất Công Bắc Cái, nếu thêm một vị thứ ba có đủ tài đức để đại diện cho Hán tộc tranh tài cùng bọn Mông Cổ thì còn gì hay bằng.
Vì vậy nên mọi người đồng thanh nháo nhào nói :
- Hay lắm ! Tiểu anh hùng nói có lý lắm. Hoắc Đô phải thắng được tiểu anh hùng thì mới mong nói tới chuyện tranh ngôi Minh chủ võ lâm. Nếu không thì đừng hòng. Võ lâm Trung nguyên ta hiếm gì Bắc đẩu tài cao, bọn người không nên vội xem người bằng nửa con mắt như vậy !
Hoắc Đô suy nghĩ :
- Bên bọn chúng ta đã có hai tay giỏi nhất, và bên đó đã có hai đứa nếm mùi thất bại rồi, còn ai đáng ngại nữa. Tuy nhiên ta cũng cần đề phòng kẻo bị tụi nó ỷ đông, áp dụng chiến thuật xa luân chiến thì bất tiện cho phe mình lắm. Nếu thắng tên này, đứa khác lại nhảy ra, rồi cứ thế mãi thì biết chừng nào mới xong việc ?
Nghĩ ngợi một lúc, y cất tiếng hỏi lại :
- Nếu quý tôn sư muốn ra tranh tài cũng được, và đề nghị của tiểu huynh cũng có lý lắm. Tuy nhiên, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ rất nhiều, chưa chắc đã tụ họp đông đủ nơi đây hôm nay. Nếu trong trận đấu sắp tới , chúng ta giải quyết xong rồi, nay mai có những kẻ vắng mặt ngày hôm nay đến đòi thử tài thử sức nữa, chừng ấy biết bao giờ mới giải quyết xong ?
Dương Qua nhìn thẳng vào mặt hắn, hiên ngang đáp :
- Nếu là người khác ra tranh đoạt ngôi Minh chủ, ta không bao giờ ra tranh chấp. Nhưng nếu là lão hoà thượng sư phụ ngươi thì ta quyết tranh cho tới kỳ cùng !
Hoắc Đô thừa dịp hỏi vặn lại :
- Nhưng quý tôn sư là ai, hãy giới thiệu ra xem thử ! Hay là tiểu huynh đệ đóng vai tranh hộ người ta mà thôi ?
Dương Qua cười ha hả đáp :
- Sư phụ ta đang đứng ngay trước mặt ngươi mà ngươi không thấy hay sao ? Để ta kêu sư phụ ta ra cho ngươi xem mặt nhé !
Nói xong, Dương Qua quay lại gọi :
- Cô nương ơi, cô nương ! Bọn chúng đòi được yết kiến cô nương, mời cô nương ra đây cho bọn chúng được gặp !
Tiểu Long Nữ đằng hắng một tiếng , đứng thẳng người nhìn Hoắc Đô , khẽ gật đầu chào.
Thật là câu chuyện không ai có thể ngờ trước được , Bao nhiêu anh hùng hào kịêt thảy đều ngạc nhiên, vừa buồn cười, vừa suy nghĩ :
- Nàng này xem ra còn trẻ măng, không hơn tuổi Dương Qua là bao nhiêu mà chẳng lẽ lại là sư phụ y hay sao ?Có lẽ Dương Qua kiếm cớ để đùa nghịch cùng Hoắc Đô chăng ?
Trong số đông chỉ có Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình và Hách Đại Thông là công nhận Dương Qua nói thật mà thôi
Hoàng Dung thấy Dương Qua bản lãnh cao cường, trong bụng đã đinh ninh là thế nào cũng do một dị nhân truyền dạy võ công. Hôm nay thấy chàng bảo sư phụ là một cô gái trẻ măng, xinh đẹp, hình dáng lả lướt mảnh mai như Tiểu Long Nữ thì ngạc nhiên hết sức . Bà cứ phân vân không biết Tiểu Long Nữ có tài chi đặc biệt mà được Dương Qua tôn làm sư phụ.
Còn Hoắc Đô Vương tử thì tức đến đỏ bừng mặt , trợn mắt thét lớn :
- Thằng oắt con, mi ranh mãnh vừa vừa chứ. Mi nên biết rằng hôm nay đại hội quần hùng tranh ngôi Minh chủ võ lâm, đồng thời bàn nhiều việc quan trọng chứ không phải là một cơ hội để bọn chăn trâu, chăn bò , quần manh áo túm như bọn mi giỡn cợt đâu nhé ! Muốn bảo toàn được mạng sống thì hãy cút đi cho khuất mắt ta.
Dương Qua cười dài nói :
- Mi hãy xem lại và nhận xét cho kỹ nhé. Sư phụ mi đã già lại đen , nói năng líu lo như vượn kêu, khỉ réo ai mà hiểu được ? Như thế mà mi cho là xứng đáng. Còn sư phụ ta thì xinh đẹp, thanh tao, mi lại bảo rằng không xứng đáng. Chẳng lẽ bậc Minh chủ võ lâm lại cần phải chọn những người mặt như trôn chảo, đầu trọc như gáo dừa, da nhăn mắt lõm như lão thầy chùa kia mới được sao ?
Tiểu Long Nữ xưa nay chưa từng tiếp xúc với đời, nên không có một ý thức nào khác. Nay thấy Dương Qua đem mình ra so sánh , lại khen mình xinh đẹp thì thích chí nhoẻn miệng cười .
Nàng hé môi cười tươi như hoa hồng mới nở, đẹp như ngọc san hô, khiến cho toàn thể quần hùng thảy đều xúc động và ai ai cũng công nhận vẻ đẹp của nàng quả thật là nghiêng nước, khuynh thành không bút mực nào tả xiết được.
Mọi người thấy Dương Qua cứ gan lỳ châm chọc Hoắc Đô thảy đều vừa ý. Nhưng những bậc lão thành lại có ý lo ngại, vì sợ Hoắc Đô nổi nóng giết mất Dương Qua đi chăng ?
Lúc bấy giờ, Hoắc Đô không còn nhẫn nại được nữa. Hắn gầm lên một tiếng vang trời rồi quát lớn :
- Chính thằng ranh con này gây hoạ trước, xin chư vị anh hùng tha lỗi cho tiểu đệ hạ sát hắn cho rồi, nếu cứ để kéo dài mãi thì chẳng còn thể thống gì nữa!
Nói xong, y cầm quạt đập vào huyệt Thiên linh cái của Dương Qua.
Dương Qua nào có chịu thua, trợn mắt thét lại :
- Xin chư vị anh hùng niệm tình thứ lỗi cho phép tiểu sinh hạ sát tên Hung nô này. Quả nhiên hắn cố tâm gây hoạ trước chứ không phải lỗi tại nơi tôi. ở đời có khi nào chim chích lại đi trêu chọc bồ nông ?
Mọi người khoái chí khi nghe Dương Qua nói câu này. Tiêng cười la reo hò vang lên náo động cả một góc trời. Ngay lúc ấy, Dương Qua đã múa tít cây chèo gãy, vừa đỡ, vừa tấn công tới tấp.
Hoắc Đô thận trọng né tránh. Tay y cầm quạt cứ lừa cho Dương Qua chống đỡ rồi thừa cơ vận dụng hết công lực vào tay trái tung chưởng đánh tạt vào Thái dương chàng .
Đây là thuật "Thập thành lực" một bí quyết về chưởng pháp vô cùng kỳ diệu và lợi hại. Dù cứng rắn như sắt đá mà bị chưởng lực này đánh trúng thì cũng nát bể ngay.
Nhưng Dương Qua tinh ý và lanh lẹ phi thường. Khi nghe tiếng gió lộng ào ào thốc mạnh vào Thái dương, chàng nhảy sang một bên tránh né, đồng thời cầm chiếc bàn vuông tung lên chống đỡ. Chỉ nghe "ầm" một tiếng vang trời, cả chiếc bàn vuông bằng gỗ lim đã bị chưởng lực đánh nát tan thành muôn mảnh.
Thấy khí thế và chưởng lực của Hoắc Đô vô cùng hùng hậu, quần hùng thảy đều khiếp sợ, lo giùm cho tính mạng của Dương Qua.
Dùng chưởng không kết quả, Hoắc Đô nổi đoá tung người bay lên không, dùng cước phóng luôn mấy đạp liên tiếp .
Mặc dù có học qua "Đả cẩu bổng pháp" nhưng dù sao cũng chỉ là học lỏm, hơn nữa tập luyện chưa thành thục nên Dương Qua có nhiều chỗ sơ hở. Không bao lâu, chàng bị Hoắc Đô tấn công tới tấp và dồn vào một chỗ, chống đỡ có phần chậm chạp hơn trước.
Hoàng Dung thấy Dương Qua biết nhiều phép lạ trong "Đả cẩu bổng pháp" nhưng vì chưa thuần thục, hơn nữa dùng cây chèo gãy không hợp với thuật đánh bổng nên không được thuận tay, đánh đỡ có phần lúng túng.
Thấy đối phương quyền cước lanh lẹ phi thường, Dương Qua không dám khinh địch. Chàng cố đem hết những thế mà trước kia Hồng Thất Công đã truyền dạy cho, phối hợp với các bí quyết mà Hoàng Dung đã dạy cho Lỗ Hữu Cước đem ra áp dụng. Thuật đánh đỡ đã tinh diệu, thêm nhiều bí quyết kỳ ảo vô cùng, từ ngôn trường đến ngôn đoản phối hợp chặt chẽ, cho nên mỗi một đòn của Dương Qua đánh ra mãnh liệt và lợi hại vô cùng, nhiều khi khiến cho Hoắc Đô phải bối rối...
Hoàng Dung cầm gậy trúc xông vào giữa trận đấu nói lớn :
- Xin đôi bên tạm dừng tay, tôi có chuyện muốn nói !
Thấy hai người vừa đứng yên, bà quay sang ngó Dương Qua bảo :
- Muốn đánh chó thì phải dùng gậy đánh chó chứ.
Nói rồi, bà trao cây bổng cho chàng, miệng nói lớn :
- Đây này, ta cho mượn tạm.Khi nào hạ nó xong thì phải trả lại ngay nhé !
Nguyên cây Đả cẩu bổng là báu vật của Cái Bang, chỉ một mình Bang chủ là có quyền sử dụng mà thôi. Vì vậy nên Hoàng Dung phải tuyên bố là cho Dương Qua tạm mượn để quần hùng và nhất là các vị chức sắc trong Cái Bang khỏi thắc mắc và chất vấn lôi thôi .
Dương Qua được cây bổng thì mừng rỡ quá sức, vội vàng đưa hai tay đón nhận . Hoàng Dung trao bổng cho chàng, thuận miệng bảo nhỏ :
- Nhớ buộc hắn phải đưa thuốc giải độc nhé !
Khi Chu Tử Liễu đánh với Hoắc Đô bị ám khí của hắn rồi, Dương Qua đang mải mê nói chuyện cùng Tiểu Long Nữ nên không hề hay biết. Nay nghe Hoàng Dung bảo, chàng chẳng hiểu gì hết, định lên tiếng hỏi thuốc giải độc gì, để dùng vào việc chi, nhưng chàng chưa kịp hỏi thì Hoắc Đô đã dùng quạt tấn công liến tiếp.
Dương Qua vung bổng gạt phăng cây quạt, rồi thuân thế đâm mạnh vào ngực Hoắc Đô.
Cây bổng đã vừa tầm thước, cầm xứng tay, hơn nữa lại hợp với các bí quyết trong "Đả cẩu bổng pháp" , cho nên Dương Qua thấy phấn khởi và đánh đỡ rất linh động , công lực do đó tăng lên gấp bội phần.
Hoắc Đô tung chưởng đập mạnh vào Thái Dương của Dương Qua. Chàng trầm mình né tránh , rồi thuận đà phóng bổng đâm thẳng vào dưới rốn của hắn nhưng Hoắc Đô cũng lanh lẹ bước qua một bên né được.
Vừa thoát khỏi một đòn yếu huyệt "Quản nguyên", Hoắc Đô vô cùng kinh hãi, không ngờ đối phương lại rất thành thạo về môn điểm huyệt , nghĩ thầm :
- Thằng bé này võ công cao cường,bản lãnh cao siêu lắm, không thể khinh thường nó được. Trước đây mình cũng tưởng hắn là tay mơ, giờ mới biết là tay đáng nể, có lẽ không thua gì mình đâu !
Suy nghĩ như vậy, hắn cẩn thận bước lùi ra sau, dùng quạt che kín trước bụng thủ thế.
Dương Qua nói lớn :
- Này, hãy thong thả nói chuyện đã. Cứ đánh nhau như thế này mãi thì chán quá. Cần phải có một giải gì đánh cuộc cùng nhau cho vui chứ !
Hoắc Đô đáp ngay :
- Được lắm, nếu mi thắng được ta, ta sẽ cúi đầu gọi mi bằng "ông nội" ba lần liên tiếp .
Dương Qua giả bộ không nghe, ngơ ngác hỏi lại :
- Sao, gọi bằng gì ?
Mọi người xung quanh ai cũng hiểu rõ dụng ý giả vờ ngờ nghệch của Dương Qua. Nhưng Hoắc Đô vốn là người Mông Cổ chất phác, đâu hiểu được những thâm ý xảo quyệt và trẻ con ấy của Dương Qua , nên thấy chàng hỏi lại, hắn lại đáp lớn :
- Kêu là "ông nội" !
Dương Qua nhắc lại theo giọng cười đùa , kẻ cả của kẻ bề trên :
- Ông nội hả ? Hay quá, khá quá, cháu tôi khá lắm ! Hà hà ...
Lúc bấy giờ Hoắc Đô mới biết mình bị mắc lừa chú bé nên đỏ mặt tía tai vì ngượng ngập, tay phải cầm quạt, tay trái vung chưởng đánh ra một lượt , khiến cho gió lộng ầm ầm tấn công Dương Qua dồn dập .
Dương Qua bình tĩnh đánh đỡ rồi lớn tiếng nói :
- Bây giờ thì tới phiên ta ra điều kiện . Nếu mày thua ta thì phải trao thuốc giải độc ngay đấy nhé !
Hoắc Đô nói :
- Ranh con, đừng lớn lối. Đời nào ta lại thua một thằng như mi mà hòng như vậy hả ?
Dương Qua múa tít cây bổng tấn công Hoắc Đô tới tấp.
Lại nhắc đến hai anh em họ Võ và Quách Phù . Khi Dương Qua và Tiểu Long Nữ dắt nhau ra ngoài tình tự, cả ba cũng đã quên lãng câu chuyện xích mích không nói tới nữa. Không dè một chặp sau, Dương Qua tự nhiên xông vào sanh sự cùng Hoắc Đô . Hai anh em họ Võ thấy vậy thảy đều mừng rỡ , vì hai người đinh ninh thế nào Dương Qua cũng bị Hoắc Đô giết chết phen này. Thật là nhờ tay giặc giết chết một tay kình địch lợi hại, cũng là một điều may mắn cho bọn họ.
Nhưng thực tế đã khiến cho ba người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác . Tài nghệ của Dương Qua đối với Hoắc Đô cũng tương đương, kẻ tám lượng, người nửa cân. Lắm lúc, Hoắc Đô cũng phải lúng túng và nếu không lanh tay đánh đỡ thì có thể mất mạng như chơi.
Sau này, thấy Hoàng Dung lấy cây Đả cẩu bổng giao cho Dương Qua thì Võ Đôn Nho thất vọng than thầm :
- Khổ quá, trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng ? Một tình địch lợi hại dường này thì ta tranh sao nổi ?
Nhưng Võ Tu Văn chủ quan hơn , nghĩ bụng :
- Thằng này bất quá cũng liếng láo vài keo đầu mà thôi, trước sau rồi thì cũng bị Hoắc Đô hạ sát mà thôi. Hắn có tài giỏi thế nào cũng không thể hơn được Chu Tử Liễu bá bá cơ mà !
Riêng Quách Phù, nàng lại có ý tưởng khác.Khi nghe anh em họ Võ nói dèm, nàng nghĩ trách sao cha mẹ mình quá vội vã, nỡ đem một đứa con gái xinh như mộng, đẹp như hoa gả cho một tên bất tài khố rách áo ôm, trông chẳng khác gì một tên ăn mày. Việc này hệ trọng tới chung thân đời mình, thế nào cũng phải phản đối kịch liệt, chẳng lẽ mình chịu sống trăm năm với một kẻ như thế này ư ?
Nhưng trận quyết đấu cùng Hoắc Đô , thấy Dương Qua trổ tài khiến cho Hoắc Đô phải nhiều phen lúng túng tránh né, thì Quách Phù lại suy nghĩ và tự trách :
- Cha mẹ mình cao kiến, nhìn xa trông rộng thật. Quả nhiên ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng, xem trời bằng vung, không có kinh nghiệm ở đời, chỉ biết đánh giá anh hùng bằng tấm áo bên ngoài mà thôi. Thế mới biết cha mẹ ta được thiên hạ nhận xét là anh tài, chọn người tài ba quả nhiên vô cùng tuyệt diệu. Có gặp những trường hợp như thế này ., mình mới thấy cảm phục cặp mắt tinh đời của bậc phụ mẫu. Như ta đây chỉ chuộng cái mã bề ngoài, suốt đời sống trong tơ lụa gấm vóc giàu sang nên cho dù có mắt cũng như người mù, có thấy đâu ra chân giá trị của kẻ anh hùng hào kiệt.Suýt chút nữa ta đã hiểu lầm một đấng trượng phu tài ba xuất chúng, chỉ biết nhận xét qua bộ cánh bên ngoài. Cha mẹ nhìn xa, thấy rộng cho nên nhân duyên là chuyện hệ trọng , từ đây cha mẹ đặt đâu, ta cứ ngồi đấy là xong !
Quách Phù cùng hai anh em họ Võ cứ suy tư mỗi người theo một dòng tư tưởng riêng của mình, thì giữa đấu trường, Hoắc Đô và Dương Qua càng lúc càng đưa ra nhiều đòn quyết tử, vô cùng ác liệt quyết chiến cùng nhau.
Thấy Dương Qua đã dần dần đuối sức, Hoắc Đô trong bụng mừng thầm và cố vận dụng hết công lực vào cây quạt và song chưởng, đem hết tài năng ra tấn công liên tiếp.
Nhiều ngón quạt đập mạnh quá làm cho không khí xung quanh phải rung động vì sức gió quá mạnh. Nhiều ngọn chưởng tạt ra gió lộng ầm ầm như núi lở, đá lăn khiến không ít quần hùng hoảng sợ, phải tránh ra xa.
Dương Qua cố đem hết tinh thần, sử dụng tất cả những ngón kỳ diệu nhất trong "Đả cẩu bổng pháp" ra ứng phó. Tuy nhiên, do vừa mới học sơ qua, và một phần chỉ là học lỏm, ít dịp rèn luyện, chưa thành thạo bao nhiêu nên chàng chưa vận dụng được tới cảnh giới tuyệt diệu của các tuyệt chiêu trong Đả cẩu bổng pháp. Do đó, chàng thỉnh thoảng bị Hoắc Đô tấn công, chỉ lo đỡ gạt , vừa đỡ chưởng, vừa đỡ quạt của hắn, tư thế có phần luống cuống. Thấy vậy, hai anh em họ Võ cùng mắng nhỏ :
- Đồ khốn nạn, không biết xét mình, tài nghệ chưa bao nhiêu mà đã phách lối.Phen này cho mày chết đáng đời.
Quách Phù nghe nói cự liền :
- Chính con người đó thừa can đảm và dõng lược mới có gan ra gánh vác việc đời, lo việc lớn cho quốc gia dân tộc, đâu phải như ai cứ ăn no ngủ kỹ, ngồi mát ăn bát vàng, chỉ đợi thiên hạ làm sẵn cho mình thừa hưởng. Những hạng người này mới đáng chết và cũng đáng cho thiên hạ phỉ nhổ !
Nghe Quách Phù nói, như kim châm vào ruột, anh em họ Võ tức mình nhưng mắc cỡ không dám nói lại, chỉ đứng yên, mặt mày đỏ lên vì xấu hổ.
Khi ấy, Dương Qua đã bị đối phương dồn vào thế bí, lắm khi tưởng là đã trúng đòn . Nếu trúng phải những đòn của Hoắc Đô thì không gãy cẳng thì cũng mang thương tật nặng nề.
Trong lúc trận đấu thập phần nguy cấp, chàng đưa mắt liếc sang một bên, thấy Tiểu Long Nữ đã bước lại gần, mắt chăm chú theo dõi trận đấu, hình như khuyên nhủ chàng yên tâm, lúc nào cũng có nàng ở bên để yểm trợ.
Dương Qua bèn trổ thần lực vụt mạnh một bổng , khiến cho Hoắc Đô phải tháo lui, rồi thừa dịp tung mình nhảy vút ra sau lưng Tiểu Long Nữ.
Hoắc Đô nổi nóng gầm lên như cọp rống :
- Mày đừng hòng thoát khỏi tay tao !
Miệng thét, chân phóng đi vun vút, quyết hạ sát Dương Qua cho bằng được.
Tiểu Long Nữ chờ cho hắn lướt qua , vừa khỏi, nàng bỗng dùng ngón chân cái khẽ húc vào huyệt "Côn luân" ở bên phải của Hoắc Đô và điểm luôn vào huyệt "Dũng tuyền" ở gót bên trái nữa.
Vừa trông thấy nàng chuyển gót sen điểm nhẹ tới, Hoắc Đô đã biết nguy rồi. Nếu là kẻ khác thì khó có thể tránh né cho kịp, nhưng Hoắc Đô vốn là một người nhiều kinh nghiệm chiến đấu, trong lúc bất ngờ, hắn vẫn giữ được bình tĩnh . Y nhận thấy tiến cũng bị mà thoái cũng gặp đòn, Hoắc Đô bèn đánh liều tung mình lên cao để né tránh.
Dương Qua đã liệu trước phản ứng của đối phương, cho nên không chờ cho Hoắc Đô đặt chân xuống đất, chàng đã dùng bổng quét ngang trên đấu hắn một đòn rất mạnh.
Hoắc Đô lật đật tung quạt đỡ được rồi nhảy phóc ra xa, mắt gườm gườm nhìn Tiểu Long Nữ trong lòng hoảng sợ nghĩ thầm :
-Tại sao võ lâm Trung nguyên có nhiều nhân tài lắm vậy ? Chỉ có hai đứa trai gái này cũng đã ngán xương lắm rồi !
Dương Qua thừa thắng thế, tung bổng tấn công liền.
Vì vừa mất tinh thần qua một đòn của Tiểu Long Nữ. Hoắc Đô lúng túng đỡ gạt trong ba hiệp đầu. Nhưng đến hiệp thứ tư thì y đã lấy lại được bình tĩnh, bắt đầu dồn Dương Qua về thế thủ. Qua hiệp thứ năm thì hắn bắt đầu phản kích tới tấp .
Hoàng Dung theo dõi trận đấu, thấy Dương Qua không nhớ được khẩu quyết chiêu thứ tư trong "Đả cẩu bổng pháp" nên bà buột miệng nhắc luôn :
- "Bổng hồi lược địa thì diệu thủ, Hoành đả song ngao mạc hồi đầu" ( nghĩa là : lẹ làng rút bổng để chiếm đất, rồi đánh tạt ngang đầu chó , chớ bước lùi )
Đây là một trong các phép lạ trong "Đả cẩu bổng pháp" , Dương Qua có học rồi nhưng trong lúc chiến đấu lúng túng quên mất hết cả. Nay nghe Hoàng Dung mách nước, chàng bỗng nhớ lại ngay, lập tức múa bổng tấn công theo thế ây, không bước lùi ra sau nữa.
Thật không ngờ phép đánh quái lạ ấy lại quá ư tinh diệu , kỳ quái như vậy. Cây quạt trong tay Hoắc Đô đang hùng dũng quét ngang dưới đất, bỗng chạm trúng đường bổng, suýt nữa sút khỏi tay bay mất.
Hoắc Đô kinh hãi vội vàng nắm chặt cán quạt rồi bước ngang sang một bên tránh né, không dám khinh thường xông xáo như trước nữa.
Thấy địch thủ tránh né, Hoàng Dung bèn nhắc thêm một câu khác :
- " Cẩu cấp khiêu tường như hà đả. Kích cầu dồn hề, tý cầu vỹ " ( nghĩa là : Khi chó nhảy qua tường, nên đánh vào chân hơn là đánh vào đuôi nó )
Đây là một thế khẩu truyền trong Cái Bang về phép đả cẩu, truyền từ đời Bang chủ này sang đời bang chủ khác . Người ngoài không học tới, nghe qua, dù tài giỏi đến đâu cũng không thể lãnh hội nổi. Chỉ có những ngừoi đã luyện tập qua rồi mới hội ý được. Mọi người đứng ngoài xem, thấy Hoàng Dung đọc những câu lạ, có xen vào những chữ "cẩu" , thì cũng ngờ rằng là bà đang mắng nhiếc Hoắc Đô là đồ chó má, chứ có ngờ đâu bà đọc khẩu quyết để mách nước cho Dương Qua.
Những khẩu quyết này , nếu không phải là người sắp kế vị chức Bang chủ thì không bao giờ được học tới. Nhưng Dương Qua đã được Hồng Thất Công dạy qua rồi , hơn nữa đây là một cuộc so tài vô cùng hệ trọng cho đại cuộc đôi bên, cho nên Hoàng Dung chẳng nề hà quy luật của Cái Bang để làm hỏng việc lớn của nước nhà, nen mới đem khẩu quyết ra đọc bày vẽ cho Dương Qua đánh với Hoắc Đô Vương tử.
Dương Qua vốn là tay thông minh, lanh lẹ tuyệt vời. Chỉ thoáng nghe qua đã hiểu ngay và ghi nhớ được liền, cho nên chàng trổ hết tài năng đánh đúng theo tư thế đã được mách nước, khiến cho Hoắc Đô luống cuống chống đỡ không kịp nữa.
Tiếp luôn mấy hiệp nữa, Hoắc Đô đã lộ vẻ thua sút rõ rệt, đang tìm cách lẩn trốn.
Quần hùng trông thấy vậy reo hò vang dậy dể giúp cho Dương Qua phấn khởi thêm lên.
Hoắc Đô dùng quạt đánh mạnh mấy cái liên tiếp vào người Dương Qua rồi la lớn :
- Hãy khoan, dừng tay lại nói chuyện đã.
Dương Qua định bộ, nhìn hắn cười lớn hỏi :
- Sao, đã chịu thua rồi chứ ?
Hoắc Đô nghiêm giọng bảo :
- Này, ta hỏi đây . Nhà ngươi bảo quyết tranh đấu giật ngôi Minh chủ võ lâm cho sư phụ ngươi, tại sao lại dùng toàn "Đả cẩu bổng pháp" của Hồng Thất Công mà chiến đấu cùng ta như thế ? Nếu đấu cho phe Hồng Thất Công thì bên đó đã bại hai keo rồi, chuyện gì ta phải tốn công chiến đấu nữa !
Hoàng Dung nhận thấy lời nói của hắn cũng có lý, muốn dùng lời hùng biện để lấn át, cãi ẩu cho phe mình. Nhưng bà chưa kịp lên tiếng thì Dương Qua đã nói :
- Cháu nói, ông nghe cũng có lý lắm. "Đả cẩu bổng pháp" này vốn là thuật bí truyền của Hồng Thất Công. Nếu hôm nay, "nội"đem ra để tranh đấu, khiến cho cháu bị thua thì cháu ấm ức cũng phải. Nhưng cháu há quên rồi sao ? Trong khi nội chỉ dùng một thế võ mượn tạm của người ta mà cháu đã thất điên bát đảo rồi, nếu nội dùng võ công của chíng tông bổn môn do sư phụ truyền dạy, thì cháu đã về chầu ông bà bên Mông Cổ từ lâu rồi còn chi nữa ?
Hoắc Đô nổi nóng, trợn mắt lên gần rách, thét lớn :
- Thằng con nít , tuổi mi đáng làm em út ta, sao cả gan xấc xược xưng ông nội với ta.
Dương Qua mỉm cười giải thích :
- Phàm con người từ Vương tử đến khanh tướng, ai cũng phải lấy hai chữ "thành tín" làm đầu . Không giữ được chữ tín thì con người không còn giá trị nữa. Khi nãy, cháu đã hứa là nếu kém sức thì tôn ta làm ông nội mà. Sở dĩ ta xưng hô như vậy là để giữ chữ tín cho cháu mà thôi. Tại sao cháu vừa nói đã nuốt lời ngay như vậy. Thật quả là quân chó ngựa chứ nào có phải là con người hào kiệt đâu ? Nếu cháu kém tư cách như thế , thì ông nội cũng chẳng thèm nhìn cháu làm gì nữa cho mang tiếng xấu lây.
Hoắc Đô thấy Dương Qua giải thích như vậy cũng có lý, không biết đối đáp ra sao, chỉ làm thinh, mặt mày đau khổ tím đen bầm cả lên.
Dương Qua khẽ liếc mắt nhìn Tiểu Long Nữ và nghĩ bụng :
- Cũng may thằng mọi này nhắc đến , nếu không ta cũng quên lửng mất rồi. Nếu trong trân này, ta chỉ áp dụng thuật "Đả cẩu bổng pháp" thì làm sao có dịp phát huy được các thế võ ảo diệu trong võ công của cô nương. Không khéo cô nương lại cho rằng Dương Qua này đã theo người ta mà quên cả gốc gác của mình đi chăng ?
Thật ra lúc này, Tiểu Long Nữ chỉ mải mê theo dõi sắc diện xinh tươi, thân thể cường tráng của Dương Qua mà quên đi tất cả mọi chuyệ. Ngay tới câu chuyện thắng bại cũng không màng, và Hoàng Dung đọc khẩu quyết mách nước cho Dương Qua nàng cũng không lưu ý tới.
Khi nghe Dương Qua đáp như vậy, Hoắc Đô thầm nghĩ :
- Sở dĩ mi cầm cự được và kéo dài trận đấu như vậy là nhờ sự tinh diệu của "Đả cẩu bổng pháp" mà thôi. Nếu không có môn võ công này, chỉ trong mười hiệp, ta sẽ hạ sát mi ngay !
Nghĩ vậy, y mỉm cười nói :
- Nếu là như vậy, ta xin lãnh giáo võ công của quý phái một phen.
Khi còn trong Cổ Mộ, Dương Qua chuyên học môn đánh gươm nhiều nhất, nên hôm nay chàng quyết đem sở trường của mình ra để thi thố cùng Hoắc Đô.
Dương Qua quay về phía quần hùng lớn tiếng hỏi :
- Có vị nào mang sẵn gươm, xin vui lòng cho tiểu sinh mượn tạm.
Trong số hàng ngàn người có mặt hôm nay đang đứng xung quanh, có hơn hai trăm người đeo gươm. Khi nghe Dương Qua hỏi, ai nấy cũng đều tuốt gươm ra khỏi vỏ đồng thanh nói :
- Có đây, có đây !
Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị là hai vị đại hiệp kiếm khách, được Vương Trùng Dương rèn luyện , thấm nhuần ý thức yêu nước thương nòi. Vì vậy nên trong dịp này, cả hai đều hăng hái có lòng muốn giúp cho Dương Qua .
Đành rằng trước kia, khi Dương Qua gây sự chống đối với Toàn Chân giáo nên hai người có ý chán ghét chàng, nhưng hiện nay thấy Dương Qua có lòng nhiệt thành ra gánh vác công việc của nước nhà , làm rạng danh cho dân tộc, giống nòi, nên việc tư thù tạm gác sang một bên để cùng chung sức giúp nước nhà cùng chàng.
Tôn Bất Nhị là người có võ công tương đối thua sút nhất trong Toàn Chân thất tử nên Vương Trùng Dương đem thanh gươm quý báu nhất để tặng cho bà để bù đắp chỗ yếu điểm.
Khi thấy Dương Qua hỏi mượn gươm để chống giặc, Tôn Bất Nhị sốt sắng lẹ làng nâng thanh kiếm báu, nước thép xanh lè, hào quang sáng rực, hơi lạnh toả cả ra ngoài, khẽ nói :
- Xin tiểu huynh đệ dùng tạm thanh gươm này cũng được !
Dương Qua liếc thấy ánh gươm sáng loà thì biết ngay là thanh bảo kiếm, nếu dùng để đánh với Hoắc Đô thì tiện lợi vô cùng. Nhưng khi nhìn qua chiếc đạo bào rộng thùng thình của Tôn Bất Nhị, Dương Qua bỗng nhớ lại ngày nào ở Trùng Dương Cung bị người nhục mạ, lại thêm cái cảnh Tôn bà bị Hách Đại Thông hạ sát, máu me đầm đìa cả người, thì chàng cảm thấy máu hận bốc lên ngụt đầu, làm lơ không thèm nhận thanh kiếm quý ấy, và quay sang một bên nhận thanh gươm tầm thường của một đồ đệ Cái Bang . Đây là một thanh gươm rèn tầm thường bằng thép đen đủi xấu xí.
Chàng vừa nắm lấy thanh kiếm, vừa ân cần nói với người ấy :
- Đại ca vui lòng cho tiểu đệ mượn tạm một chặp nhé !
Tôn Bất Nhị bị Dương Qua đối xử khiếm nhã trước mặt bao nhiêu anh hùng thiên hạ, mặc dù là người tu hành nhưng trong lòng bà cũng cảm thấy xốn xang, khó chịu, toan ngỏ lời oán trách , nhưng sau đó bà chợt nghĩ lại :
- Tánh tình hắn còn trẻ con nông nổi, ta không nên trách móc làm gì, nhất là trong lúc này. Mọi việc tranh chấp dù ít, dù nhiều thảy đều có lợi cho quân địch.
Suy nghĩ như vậy, bà lẳng lặng rút lui vào đám đông biến mất.
Dương Qua thật ra cũng vì tánh con nít ương ngạnh cố chấp, phải chi lúc này , chàng ôn hoà đối xử phải chăng để nối lại tình giao hảo cùng Toàn Chân giáo thì hay biết mấy ?
Hoắc Đô thấy Dương Qua từ chối một thanh bảo kiếm để lấy một thanh gươm tầm thường thô kệch thì nghĩ bụng :
- Có lẽ y tự hào về bản lĩnh cao siêu của mình, không cần đến báu kiếm cũng hạ được ta nên mới làm như vậy. Âu đây cũng là một chuyện may mắn cho ta !
Nghĩ vậy, y vội dùng cây quạt vung lên định thách thức Dương Qua quyết đấu.
Không chờ cho y hé môi, Dương Qua đã chĩa mũi kiếm vào cây quạt, chỗ Chu Tử Liễu ghi bốn chữ khi trước rồi cười lớn bảo :
- Ai cũng biết nhà ngươi là đồ man di mọi rợ, cần chi phải trương quạt ra để khoe bảng hiệu nữa ?
Hoắc Đô nghe Dương Qua nhạo báng, đỏ mặt hổ thẹn nhưng không biết đáp sao, chỉ hứ lên một tiếng rồi xếp cây quạt lại, điểm ngay vào trọng huyệt nơi vai chàng, đồng thời tung chưởng tấn công ngay một lúc.
Từ ngày sống trong Cổ Mộ, Dương Qua đã chịu khó kiên trì học hết những môn ảo diệu nhất của Cổ Mộ phái rồi. Trong khi Lâm Triều Anh sáng chế ra "Ngọc nữ tâm kinh" , thì kiếm pháp của bà còn có phần điêu luyện hơn cả kiếm pháp của Trùng Dương Cung. Nhưng Dương Qua đã học thêm được những bí quyết của Cửu Âm Chân Kinh và đem phối hợp cả hai môn võ công tuyệt đỉnh này dung hoà khiến cho kiếm pháp của chàng biến ảo phi thường, tưởng trên thế gian này không có một kẻ nào có thể theo kịp.
Khi Lâm Triều Anh sáng chế và phối hợp kiếm pháp rồi, bà không hề rời khỏi Cổ Mộ, chỉ đem những chiêu thức thần bí đó truyền lại cho Liễu Hoàn. Sau này, Liễu Hoàn truyền lại cho Tiểu Long Nữ. Cả ba đều chưa khi nào đặt chân lên chốn giang hồ võ lâm nên thiên hạ chưa một ai hay và thưởng thức kiếm pháp của Cổ Mộ phái ở Chung Nam Sơn.
Trong số đệ tử của Cổ Mộ có Lý Mạc Thu đã xuất thân giang hồ.Nàng là sư tỷ của Tiểu Long Nữ, tuy nhiên do thấy tính nết của nàng không được đoan trang, không nhân hậu cho nên sư phụ không chịu truyền hết tất cả những môn tuyệt đỉnh của kiếm pháp Cổ Mộ phái cho.
Khi Dương Qua trổ tài đem các ngón đánh và đỡ theo lối Cổ Mộ phái ra biểu diễn thì toàn thể quần hùng đều trầm trồ khen ngợi là hay và tinh diệu vô cùng, tuy nhiên trừ Tiểu Long Nữ ra, không ai có thể hiểu kiếm pháp này bắt nguồn từ đâu.
Kiếm pháp này do một người đàn bà sáng tạo ra, và sau đó truyền lại cho hai đời nữ đệ tử, cả thảy đều thuộc phái yếu cho nên trong lối đánh đỡ, khai triển không có vẻ hùng mạnh, chỉ mềm mại lả lướt và đẹp mắt mà thôi.. Sau này , Tiểu Long Nữ đem truyền lại cho Dương Qua. Tuy là đàn ông, nhưng Dương Qua cũng đã quen lối đánh của sư phụ và chàng múa kiếm cũng uyển chuyển lắm.
Trong những phút nhàn rỗi, Dương Qua đã đem tất cả những điều đã học hỏi được với đủ các tư thế căn bản, đem tự biên thành những thế khác nhau riêng biệt và thích hợp với con người và sức lực của chàng, cho nên lối đánh đỡ của chàng vừa hùng dũng, vừa bay bướm, mỗi khi múa ra linh động bay bổng vô cùng.
Cứ kể về sự lanh lẹ thần tốc thì trong các đường kiếm của Cổ Mộ phái, thật trên đời chưa có môn phái nào hơn.
Dương Qua đứng trước đại sảnh, biểu diễn những đường kiếm loang loáng, khi chém bên tả, khi vớt bên hữu, ánh kiếm bao phủ khắp toàn thân như hoa lê, trong phút chốc chỉ thấy đầy trời toàn ánh kiếm bay , không còn thấy bóng người đâu nữa. Tiếng gươm chém không khí như gió xé, rít lên những tiếng vi vu rùng rợn cả người, lộng thành trận gió làm phất phơ tà áo của bao người đứng xung quanh, khiến cho ai nấy thấy đều phải lắc đầu lè lưỡi, thầm khen kiếm pháp tinh diệu vô cùng.
Lối múa quạt của Hoắc Đô cũng vô cùng thần tốc. Đây là món trọng kỹ trong các môn võ từ bên Tây Tạng, lối đánh vừa mềm mại, vừa nguy hiểm. Tuy nhiên, các đường kiếm của Dương Qua quá ư mãnh liệt, khiến cho Hoắc Đô không thi thố tài năng được. Hơn nữa, mỗi khi quạt ra lại để lộ ra mấy chữ "man di" của Chu Tử Liễu đã đề lúc trước, khiến quần hùng reo cười chế nhạo, cho nên y đành xếp quạt lại để đánh. Vì vậy cho nên cây quạt trong tay Hoắc Đô Vương tử cũng trở nên vô dụng, chẳng thi thố được gì.
Lúc ấy Quách Phù và cả hai anh em họ Võ cũng trố mắt nhìn mê man, không ai thốt lên được tiếng nào nữa.
Toàn thể quần hùng ai nấy đều sững sờ mừng rỡ, nhất là Quách Tỉnh có lẽ là người sung sướng nhất, ông nghĩ rằng :
- Huynh đệ ta đã có một đứa con trai tài ba quán chúng, võ nghệ tuyệt luân như thế này, cũng đủ an ủi , được ngậm cười nơi chín suối.
Ông đăm đăm nhìn theo Dương Qua, cố ôn lại những chuỗi ngày khi trước và mối cảm tình thắm thiết giữa hai gia đình họ Quách và họ Dương khi xưa.
Hoàng Dung liếc mắt nhìn sang, thấy Quách Tỉnh tươi cười hân hoan thì đã đoán biết được phần nào tâm tư của chồng rồi. Bà đưa tay vuốt nhẹ nhẹ lên tay chồng ngỏ ý thông cảm và chia vui cùng ông.

Hồi 36

Quyết chiến thầy trò Kim Luân Pháp Vương.

Hoắc Đô đưa mắt nhìn Dương Qua biểu diễn những đường gươm kỳ diệu, đẹp như tung hoa trước gió, chập chờn như chớp giật lúc mưa đông, cũng tự nhận là mình còn kém xa, trong thâm tâm lo lắng suy nghĩ :
- Không ngờ hôm nay lại gặp thằng oắt con tuổi nhỏ tài cao lung lạc, chịu bề thua sút một cách nhục nhã như thế này ! Từ nay về sau còn xưng danh cùng ai được nữa để hòng xây dựng cơ đồ Vương bá nữa !
Trong lúc đang ngẩn ngơ đưa mắt nhìn theo đường gươm của Dương Qua phô diễn, bất thình lình thấy một lưỡi gươm phóng mạnh về phía hông mình ba nhát liên tiếp. Hoắc Đô thất kinh hồn vía, vội vã phi thân nhảy lùi ra đằng sau mấy bước rồi xoè quạt ra chống đỡ.
Giằng co được chừng ba hiệp, Hoắc Đô chợt nghĩ :
- Xem tài nghệ hắn có vẻ cao cường lắm, nếu cứ để giằng co mãi thì sẽ bất lợi cho mình, âu là ta dùng ám khí hại hắn cho rồi.
Dự định như vậy, Hoắc Đô bất thình lình hét lên một tiếng như sấm động, xoè quạt ra quạt liên tiếp không ngừng, áp dụng thuật "cuông phong lôi công" để mở đường cho cuộc tấn công Dương Qua.
Cứ tay phải quạt lia lịa, tay trái dùng tay áo rộng phất lên từng hồi tạo thành một trận cuồng phong đánh thốc về phía Dương Qua như bão táp, đồng thời, những phi tiễn trong tay áo phóng ra liên tiếp. Thuật ném ám khí này là điều cấm kỵ trong võ lâm, môn phái nào cũng phản đối, nhất là trong khi đang tranh đấu cũng những người trẻ tuổi dưới tay mình. Nhưng đối với Hoắc Đô trong lúc này, điều cần thiết nhất là giành được thắng lợi về mình, còn câu chuyện danh dự hay quy tắc võ lâm hắn không cần đếm xỉa đến. Không nói riêng gì về phi tiễn, mà nếu có cách ám toán nào nguy hiểm hơn , cho dù hèn hạ y cũng không nài hà.
Nhưng lạ một điều là mặc dù gió thổi, sấm động, phi tiễn lao ra vun vút nhưng Dương Qua vẫn bình thản đứng yên một chỗ, vung gươm che hết thân mình, biến thành một làn hào quang sáng loà bao bọc hết châu thân, dù cho múc nước tạt vào cũng khó mà ướt nổi. Những đường kiếm tung ra như chớp giật, cản hết bao nhiêu luồng quái phong và phi tiễn. Tuy lưỡi kiếm luân chuyển vun vút như mây, nhưng thái độ của chàng tỏ ra rất nhàn nhã chứ không hề tỏ ra cuống quít hay hấp tấp. Đó là thuật "Mỹ nữ kiếm pháp" trong "Ngọc nữ tâm kinh" .
Có một điều đẹp mắt nhất là làn kiếm cuốn gió thổi tung những mảnh áo rách phất phơ như muôn ngàn cánh bướm, lắm lúc bay phần phật như những bầy ếch trắng đang nhảy nhót đùa trăng.
Trong nháy mắt, Dương Qua đã áp dụng thuật "Mỹ nữ kiếm pháp" hoá giải thuật "Cuồng phong lôi công" và ám tiễn của Hoắc Đô.
Thấy mưu kế của mình bất thành, Hoắc Đô lồng lộn như nổi cơn điên,đánh liều xông tới vung rộng cánh quạt tấn công dồn dập như một con hổ đói đang bắt mồi, với các thế võ ngày càng ác liệt và công lực ngày càng tăng thêm.
Dương Qua thì trái lại, dần dần đã giảm sút sức tấn công.
Là những tay kiệt liệt trong giang hồ, kinh nghiệm có thừa nên Hoàng Dung , Quách Tỉnh vô cùng lo lắng khi thấy Dương Qua đã yếu sức dần dần. Cả hai không biết làm sao, chỉ biết đứng xuýt xoa, nhăn mặt giùm cho chàng.
Trong khi ấy, ngoài việc dùng quyền cước, Hoắc Đô còn áp dụng thuật "tất phong phi sa" thổi thành trận cuông phong, bốc tung thành đám cát bụi mờ mịt , bao vây xung quanh.
Vợ chồng Quách Tỉnh không hẹn mà cùng hô lớn :
- Nguy quá, nguy quá ...
Ngay trong lúc đó, Dương Qua vung gươm loé lên và hét lớn :
-Hãy cẩn thận , xem ám khí của ta đây !
Hoắc Đô đã dùng ám khí hại Chu Tử Liễu, nay nghe Dương Qua hô to như vậy cũng giật mình lo ngại. Y đoán thế nào trong lưỡi gươm cũng chứa sẵn ám khí như cây quạt của mình.
Liệu đoán như thế nên y hơi trầm mình, cẩn thận đề phòng.
Dương Qua thừa dịp ấy, tung người bay bổng lên cao, vung gươm đập mạnh vào người Hoắc Đô, nhưng chàng chỉ đập bằng bề sống chứ không phải là đập bằng bề lưỡi.
Bị một đòn đau điếng người, nhưng không thấy ám khí đâu hết, Hoắc Đô nổi giận thét lớn :
- Thằng oắt con, chỉ phách lối.
Dương Qua trợn mắt hỏi lại :
- Thằng mọi, mày mắng ai thế hả ?
Hoắc Đô lặng thinh không đáp, áp dung thuật "Tất phong phi sa" thổi cát bụi mù mịt lên như cũ.
Dương Qua vung tay trái lên rồi dặn lại lần nữa :
- Ta phóng ám khí đây này, báo trước cho mà liệu hồn !
Hoắc Đô vội vàng lách mình sang bên phải, ngay lúc đó Dương Qua vung lứõi gươm từ tay phải chém sạt ngang qua một nhát, mũi gươm rạch luôn mấy lần vải , làm cho đứt tung cả dây thắt lưng của Hoắc Đô.
Tất cả quần hùng đứng ngoài cùng ồ lên một tiếng tỏ ý tiếc nuối, nhiều người lên tiếng :
- Uổng quá, sao không ghim luôn giữa ngực hắn cho rồi. Tiếc thật, chỉ còn một ly nữa mà thôi.
Bọn Mông Cổ thấy Hoắc Đô bị Dương Qua đâm rách áo thì người nào cũng tỏ vẻ thẹn thùng, lo sợ và bực tức.
Bị một đòn suýt chết, Hoắc Đô thấy lạnh cả xương sống, từ đó không dám khinh thường tấn công nữa.
Dương Qua hô tiếp :
- Bây giờ ta phóng ám khí đây nhé. Nói thật đấy, không phải đùa đâu.
Hoắc Đô cúi đầu né tránh nhưng không thấy gì hết, y vừa thẹn vừa tức tối thét lớn :
- Quân khốn kiếp, mi ...
Nói chưa dứt câu, đã thấy hai luồng sáng bạc loé lên chập chờn trước mắt. Không còn cách nào khác để né tránh, Hoắc Đô chỉ còn biết nhảy vọt lên cao để tránh né, may ra thoát khỏi. Nhưng cũng đã muộn rồi. Y cảm thấy hai bên đùi tê buốt, nhưng ám khí có vẻ không có gì ác độc cả, nên tuy bị trúng cả nhưng không lấy làm đau đớn lắm.
Hoắc Đô điên tiết, định dùng độc đinh phóng lại để hạ sát Dương Qua cho rồi. Y chuẩn bị mấy mũi tên sắt như loại đã dùng để ném hại Chu Tử Liễu rồi dịnh vung quạt phóng ra.
Trong khi ấy, Dương Qua đã cười khanh khách và nói lớn :
- Này, cậu Vương tử, ta rất tiếc một người như ngươi, có đầy triển vọng mà ngày nay đành cam chiu bỏ mạng ở chốn Kinh Tử Quan này, kể ra cũng đáng phàn nàn lắm. Bây giờ mi đã sắp đến giờ chết rồi, còn định phóng đinh độc làm gì nữa, ta đâu có sợ !
Nghe nói dứt câu, quả nhiên Hoắc Đô cảm thấy hai bên đùi đã dần dần tê buốt, không chịu nổi nữa. Đau quá, không chịu nổi, y cầm cây quạt xoa nhẹ vào hai vết thương và có cảm giác như chất độc đang chạy rầm rập trong mạch máu, chuyển lên tim, tay chân bủn rủn, y la "ối" một tiếng, mặt mày tái mét, rồi ngã lăn ra đất, ngất xỉu tức thời.
Nguyên món ám khí mà Dương Qua dùng để phóng ra là "ngọc phong châm", một món bảo bối chân truyền của phái Cổ Mộ. Cây ki này nhỏ hơn sợi tóc, có tẩm nọc độc của loài ong trắng. Khi phóng ra không thấy đau đớn lắm. Nhưng sau đó , khi nọc ong đi vào máu thì cả người tê tái và ngất xỉu ngay tức khắc. Dù một cây cũng đủ bất tỉnh , huống chi Hoắc Đô lại bị trúng luôn mấy cây liên tiếp thì làm sao mà gượng cho nổi.
Quần hùng đứng ngoài trông vào thấy Hoắc Đô tự nhiên té ra bất tỉnh thì ngạc nhiên vô cùng vì không một ai trông thấy chàng đánh một đòn gì hay phóng ra một món ám khí nào hết. Như vậy không hiểu chàng hạ đối phương bằng cách nào ?
Trong khi mọi người đang ngẩn ngơ chưa tìm ra duyên cớ thì Đạt Nhĩ Ma vội chạy lại bồng Hoắc Đô đem đặt vào lòng sư phụ Kim Luân Pháp Vương rồi quay lại trừng mắt bảo Dương Qua :
- Này tên súc sinh, ta quyết thi tài cùng mi phen này.
Dương Qua nghe không hiểu, chàng đoán là Đạt Nhĩ Ma có ý khiêu chiến với mình, liền chắp tay nói :
- Bạch đại đức, việc gì mà đại đức nóng tính nói thế,tiểu sinh đây đâu có dám.
Đạt Nhĩ Ma không nói tiếp, vung chày Kim Cương đập mạnh một đòn, sức mạnh như di sơn đảo hải.
Dương Qua bình tĩnh bước ra sau hai bước, khiến cây chày đánh hụt phớt qua một cái vụt. Đạt Nhĩ Ma thuận tay đẩy luôn một thế, đấm mũi chày vào ngực Dương Qua.
Bị một đòn tấn công bất ngờ, Dương Qua dùng gươm đánh vụt chày ra rồi tung mình nhảy vọt lên cao né tránh.
Không đợi chàng rơi xuống, Đạt Nhĩ Ma trợn mắt, phồng miệng thét lớn :
- Mày có bay lên tận trời xanh cũng không thoát khỏi.
Miệng hét, chân y phóng tới, quyết đuổi theo cho bằng được.
Dương Qua đang bay lơ lửng trên không , thấy y tấn công gấp quá, không tiện đặt chân xuống đất, bèn liều mình từ trên cao xông xuống níu lấy đầu chày của Đạt Nhĩ Ma mà giật mạnh.
Nếu sức lực tương đương, thì trong tư thế như thế này, Dương Qua đoạt chày dễ như chơi. Nhưng vì sức lực Đạt Nhĩ Ma mạnh hơn Dương Qua nhiều nên chàng không thể nào giật nổi. Thấy không giật được, Dương Qua vội cắm đầu chạy thẳng.
Mặc dầu không đoạt được khí giới của đối phương, Dương Qua đã né được ngọn đòn ác hiểm của Đạt Nhĩ Ma và chạy thoát được. Quần hùng ai nấy đều thở phào, mừng giùm cho chàng...

Nhìn thấy Dương Qua bản lãnh khinh công cao tuyệt, võ công cao cường, Đạt Nhĩ Ma hỏi lớn :
- Này tiểu tử, ta xem mi bản lãnh cũng khá, vậy sư phụ của mi là ai vậy hả ?
Đạt Nhĩ Ma nói bằng tiếng Tây Tạng nên Dương Qua nghe chẳng hiểu gì cả. Chàng tự nghĩ :
- Có lẽ hắn chửi mình đây chứ gì ! Hắn chửi mình thì mình cũng dùng lời ấy chửi lại cho bõ ghét !
Chàng nhái y hệt như câu nói của Đạt Nhĩ Ma vừa nói. Vốn là con người thông minh tuyệt đỉnh cho nên tuy chỉ nghe qua mà chàng cũng đã nhớ rõ và nói lại đúng y như vậy, không sai một từ nào cả.
Đạt Nhĩ Ma lắng tai nghe xong, tưởng Dương Qua muốn hỏi thăm sư phụ mình là ai nên đáp ngay, tất nhiên là vẫn bằng tiếng Tây Tạng :
- Sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương. Ta là một đại hoà thượng , tại sao mi lại gọi là tiểu tử hả ?
Dương Qua nghe nói cũng chẳng hiểu gì cả. Chàng tin rằng lần này hắn cũng chửi mình nữa, nên cứ theo kiểu cũ, nhái y lời ấy để chửi lại. Chàng nghe ở tai, nhắc lại nơi miệng không khác nào một cái máy thu và phát thanh, không hề sai một tiếng nhỏ.
Đạt Nhĩ Ma nghe xong, lạ lùng hết sức, ngó quanh ngó quất xem chẳng có ai khác, bụng phân vân suy nghĩ :
- Rõ ràng thằng bé này đáp lại chứ còn ai khác lạ nữa đâu ? Không hiểu tại sao hắn cỡ chừng ấy tuổi mà cũng đã tự xưng là Đại hoà thượng ? Mà vì sao hắn cũng nhận sư phụ ta Kim Luân Pháp Vương là sư phụ hắn ?
Không giải đáp được, hắn ngó thẳng Dương Qua, ôn tồn bảo :
- Ta là đệ tử đứng bậc nhất của sư phụ Kim Luân Pháp Vương , còn ngươi là đệ tử thứ mấy hả ?
Dương Qua cũng nhắc lại y nguyên câu ấy.
Đạt Nhĩ Ma nghe nói kinh hãi rụng rời, không biết tính sao, chỉ đứng ngẩn người ra suy nghĩ mãi, không biết phải làm sao.
Nguyên những người tu hành đạo phái Lạt Ma bên Tây Tạng khi nào cũng tin tưởng mãnh liệt vào thuyết luân hồi. Họ tin rằng con người tuy chết nhưng linh hồn không tan và có thể đầu thai qua kiếp sau để làm người trở lại. Tất cả người trong môn phái này ai ai cũng tin như vậy.
Ngày xưa, khi Kim Luân Pháp Vương còn trẻ, ông ta đã thu nhận một đệ tử. Nhưng khi vừa tới hai mươi tuổi, người ấy chẳng may chết sớm. Tuy Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ma chưa được gặp mặt người ấy, nhưng cả hai cũng đã nghe sư phụ nhắc nhở tới luôn.
Trong buổi tiếp xúc hôm nay, Đạt Nhĩ Ma thấy Dương Qua nói tiếng Tây Tạng quá rành, thì hắn nghĩ có thể người đệ tử khi trước của sư phụ mình đầu thai vào chăng , vì dù sao, người Trung nguyên không bao giờ nói tiếng Tây Tạng rành như thế được cả.
Đoán như thế nên trong bụng y đã e dè.Đứng suy nghiệm một lúc, nhìn sững Dương Qua rồi bỗng nhiên vứt cây chày vàng xuống đất, cúi đầu nhắm Dương Qua làm lễ như tế sao.
Dương Qua trông thấy lấy làm lạ và ngẩn ngơ suy nghĩ :
- Lão này chửi mình đã đời, bị mình chửi lại, nay đã chịu thua nên lạy ta để xin lỗi chứ gì ?
Toàn thể quần hùng càng ngạc nhiên hơn nữa. Vì không ai có thể biết hai người đối đáp với nhau những gì mà bỗng nhiên Đạt Nhĩ Ma lại lạy Dương Qua như vậy.
Duy chỉ có Kim Luân Pháp Vương thì đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện. Ông ta theo dõi câu chuyện giữa hai người và cũng hiểu rõ nội tình học trò mình nên biết rằng Đạt Nhĩ Ma vì quá trực tính nên đã hiểu lầm như vậy.
Ông ta bèn dùng tiếng Tây Tạng bảo lớn :
- Đạt Nhĩ Ma, thằng bé đó không phải là sư huynh của con đầu thai lên đâu ! Con đừng e dè gì hết, cứ thật tình giáp chiến với hắn đi.
Đạt Nhĩ Ma kinh ngạc nói :
- Bẩm sư phụ, theo sự nhận xét của con, thì tiểu tử này nhất định phải do sư huynh con tái sinh nên mới có bản lãnh cao siêu trong khi đang còn quá trẻ tuổi. Hơn nữa, hắn là người Hán nhưng nói tiếng Tây Tạng quá rõ ràng.
Kim Luân Pháp Vương bảo :
- Không phải đâu, sư huynh con có võ công cao cường hơn nhiều. Tài nghệ của tiểu tử này kém xa, chưa bằng nổi con thì làm sao gọi là sư huynh con được ?
Đạt Nhĩ Ma chưa dám quả quyết, còn dùng giằng chưa chịu nghe lời thầy.
Kim Luân Pháp Vương thấy vậy bèn thúc giục :
- Con phải nghe lời thầy dạy, không nên quá thực thà do dự nữa. Con cứ đấu với nó qua vài ba hiệp thì tự khắc biết ngay sự thực mà. Đừng quá tin bậy mà làm hư hỏng việc lớn đó !
Xưa nay Đạt Nhĩ Ma tuyệt đối phục tùng mọi ý kiến của sư phụ. Bất cứ lời nào của sư phụ phán dạy, hắn xem như là lời phán của thần linh, cứ cúi đầu làm theo, không bao giờ cãi lại. Hôm nay tuy trong lòng còn phân vân nghi hoặc, nhưng nghe Kim Luân Pháp Vương đã dạy như vậy , y phải tin rằng người này không phải là sư huynh của mình đầu thai, cần vâng lời quyết đấu để biết rõ hư thực.
Trong lòng đã có chủ ý, y đưa tay phân bua cùng Dương Qua :
- Bây giờ hai ta cứ việc đấu thử vài hiệp xem ai hơn ai kém !
Trông thấy đối phương nói chuyện tuy líu lo nhưng có vẻ trịnh trọng, ôn tồn hơn trước, chẳng biết hắn nói gì, tuy nhiên Dương Qua cũng cứ lặp lại y nguyên câu ấy.
Thấy chàng cũng bảo vậy, biết chàng đã đồng y nên Đạt Nhĩ Ma nói tiếp :
- Xin người anh em nhẹ tay với nhau thôi nhé !
Quách Phù đứng trên đại sảnh, thấy hai người đối đáp với nhau những câu nói líu lo, chẳng hiểu gì hết, nên vội vàng đến bên mẹ hỏi :
- Mẫu thân, hai người đó nói với nhau cái gì vậy ?
Hoàng Dung biết rõ rằng Dương Qua chỉ nhái lại những câu nói của Đạt Nhĩ Ma đã nói, nhưng không hiểu nguyên nhân vì sao mà Đạt Nhĩ Ma lại chắp tay làm lễ với chàng như thế. Nghe Quách Phù hỏi, bà cũng gượng đáp cho qua chuyện :
- Họ chỉ đùa với nhau thôi mà .
Tại thao trường, Đạt Nhĩ Ma bắt đầu dùng chày kim cương tấn công Dương Qua bằng những đòn mạnh như búa bổ.
Dương Qua phải dùng sức lanh lẹ né nhiều hơn là dùng gươm đỡ gạt.
Tuy vâng lời sư phụ ra chiến đấu, nhưng Đạt Nhĩ Ma vẫn chưa bỏ lòng tin của mình. Trong lúc đang xáp chiến, hắn vẫn có mặc cảm tự ti và luôn nghĩ bụng :
- Dù sao sư huynh ta cũng đã được truyền dạy lâu ngày, nên võ công có lẽ phải hơn mình nhiều lắm. Có lẽ anh ấy thương tình tương nhượng cho mình mà thôi.
Bị ám ảnh bởi đức tin "Dương Qua là sư huynh tái thế" cho nên trong lòng Đạt Nhĩ Ma e dè, chỉ đánh cầm chừng chứ chưa dám mạnh tay chiến đấu.
Dương Qua đoán biết đối phương chỉ dùng thế thủ chứ không tấn công. Chàng thừa dịp đó vũ lộng hết tất cả các tinh hoa trong Ngọc nữ tâm kinh kiếm pháp, múa kiếm loang loáng, đánh Đông, chém Tây vùn vụt, có khi uyển chuyển như vũ nữ đang múa bông, có khi lẹ làng xoay tròn như chong chóng, khiến cho bao kẻ đứng ngoài càng xem càng tỏ lòng kính phục.
Đạt Nhĩ Ma tuy giữ thế thủ nhưng hết sức thận trọng,chú ý từng đường đi nước bước. Kim Luân Pháp Vương bực mình quá sức, cất tiếng bảo :
- Đạt Nhĩ Ma, thầy đã bảo hắn không phải là sư huynh con đâu, con chớ ngại, cứ việc tấn công mạnh lên đi !
Thật ra tài nghệ của Đạt Nhĩ Ma cao diệu hơn Dương Qua nhiều nhưng vì trong lòng e ngại nên mười phần chỉ đánh được năm. Trái lại, Dương Qua tuy kém sút hơn, nhưng nhờ trong lòng nhiều tin tưởng và phấn khởi nên càng đấu càng thắng thế hơn.
Kim Luân Pháp Vương thấy Dương Qua càng đánh càng thắng thế, trái lại Đạt Nhĩ Ma càng đánh càng lui vào thế thủ thì nổi giận, vùng quát lớn :
- Đạt Nhĩ Ma, phải tấn công ngay lập tức !
Tiếng quát của Kim Luân Pháp Vương vang lên như sấm khiến cho bao nhiêu người nghe phải ù tai, và Đạt Nhĩ Ma nghe nói không dám e dè nữa, phải đưa cây chày kim cương ra phản công tới tấp.
Trong lúc Đạt Nhĩ Ma tấn công Dương Qua chỉ còn cách chống đỡ, không sao có cách xoay xở nữa. Một chặp sau, chàng đã lúng túng, phút nguy biến đã gần rõ rệt.
Dương Qua càng lúng túng , Đạt Nhĩ Ma càng vụt mạnh hơn nữa. Cây chày kim cương đã nặng nề, mà sức vụt càng mạnh thêm, khiến cho Dương Qua vừa vung gươm ra đỡ bị vụt mạnh quá toét cả hổ khẩu, thanh gươm gãy đôi văng mất, chỉ còn chiếc cán trong tay.
Đạt Nhĩ Ma mừng quá hô lớn :
- Ta đã thắng rồi !
Nói xong, hắn cầm cây chày lùi lại năm bước. Theo quy luật phái Lạt Ma trong khi đối thủ rơi vũ khí hay ngã ngựa cần phải tạm ngưng chứ không được bức chiến.
Nhưng Dương Qua cũng nói bằng tiếng Tây Tạng :
- Ta đã thắng rồi !
Nghe nói, Đạt Nhĩ Ma ngạc nhiên hết sức, hắn nghĩ bụng :
- Hắn thắng chỗ nào mà cũng dám tuyên bố như vậy nhỉ ?
Còn đang phân vân, chưa tìm ra được nguyên cớ thì Dương Qua đã chắp tay tung mình phi thân nhảy vụt đến trước mặt.
Nguyên trọng khi còn ở Cổ Mộ, Dương Qua được Tiểu Long Nữ dạy cho thuật "chính tước phi thường" ( nghĩa là : một chim sẻ bay nhảy) chỉ dùng hai bàn tay, vận dụng chưởng lực tung ra cũng cầm chân được hàng tám chục con chim sẻ không ra lọt.
Đây là chưởng pháp độc nhất vô nhị của Lâm Triều Anh sáng chế ra. Dùng chưởng này , dù chỉ hai tay không , nhưng sức mạnh và nguy hiểm có khi còn hơn cả dùng gươm giáo hay vũ khí sắc bén.
Thấy Dương Qua đánh liều dùng tay không xông vào tấn công, Đạt Nhĩ Ma vũ lộng cây chày vàng phát ra tiếng vu vu đập mạnh vào người chàng, nhưng lạ một nỗi là hắn đập không biết bao nhiêu lần mà không trúng được lần nào cả. Dương Qua đã dùng tài lanh lẹ né tránh hết. Lắm lúc hình như cây chày Kim cương còn như bị Dương Qua lấy mất.
Thế là một người có vũ khí, một người tay không, cuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Kẻ có chày đập tả hữu như một vòi voi, kẻ tay không chụp tả hất hữu không khác gì mãnh hổ vồ mồi, thật là một trận đấu độc nhất vô nhị, thế gian chưa từng có.
Nhờ bền gan luyện tập trên giường hàn ngọc và nhảy nhót suốt ngày này sang ngày khác trong Cổ Mộ nên khing công của Dương Qua đã đạt đến mức tuyệt diệu, lúc đem ra sử dụng chính xác vô cùng , cho nên Đạt Nhĩ Ma dù đã cố gắng hết sức cũng không làm sao đánh trúng được Dương Qua đòn nào.
Tiểu Long Nữ đứng cạnh đó theo dõi, thấy Dương Qua đánh hoài không thắng được bèn thò tay vào trong bọc rút ra một đôi bao tay dệt bằng bạch kim tung cho Dương Qua, miệng nói :
- Qua nhi ! Hãy cầm lấy mà dùng !
Đôi bao tay bạch kim này dệt rất mềm mại, xinh xắn, nhưng chất bạch kim vô cùng chắc chắn, có thể chịu đựng được các loại bảo kiếm hay vũ khí hạng nặng.
Vừa trông thấy đôi bao tay tung lên sáng ngời, Hách Đại Thông đã khiếp sợ đến run người lên.Khi còn ở tại Trùng Dương Cung, chính Tiểu Long Nữ đã dùng đôi bao tay này để bẻ gãy trường kiếm của ông, khiến ông chút nữa phải tự sát mà chết. Hôm nay vừa trông thấy vật cũ, lòng ông đã xao xuyến vì quá cảm xúc.
Tiếp được đôi bao tay, Dương Qua bước lùi ra sau hai bước , mang bao tay vào đành hoàng rồi lấy đà nhảy vụt ra phía trước, áp dụng quyền thuật "mỹ nữ quyền" của phái Cổ Mộ ra để đối phó cùng Đạt Nhĩ Ma.
Thuật đánh quyền này có vẻ lả lướt, nhẹ nhàng uyển chuyền như người mỹ nữ đang múa lượn, có khi mềm mại như cô gái du tiên. Từ cái vung tay cho tới ngọn cước lúc nào cũng bay bướm như ong vờn hoa, lúc dồn dập mau vun vút, khi nghiêm nghị đoan trang, mỗi lúc một vẻ khác nhau, mỗi vẻ có một cái đẹp riêng.
Bao nhiêu anh hùng hào kiệt đứng ngoài thấy vậy đều lấy làm thán phục và ai cũng đều công nhận là cho dù một người con gái cũng chưa chắc có được một dáng điệu mềm mại ẻo lả như của Dương Qua trong lúc này.
Bỗng nhiên Dương Qua đổi ngay thế đánh chuyển sang thế "Hồng Ngọc đánh trống" , hai tay chàng vung về phía trước mặt. Khi Đạt Nhĩ Ma đưa chày ra đỡ, chàng chuyển ngay thành thế "Vung lửa đi đêm", thừa lúc xuất kỳ bất ý, xáp vào sát người Đạt Nhĩ Ma,
Đạt Nhĩ Ma vung chày định dập xuống, nhưng Dương Qua đã theo thế "Ném ngọc qua lầu" dùng cả hai tay chộp vào người Đạt Nhĩ Ma tung bổng lên không trung.
Đạt Nhĩ Ma không ngờ đối phương lại mạo hiểm và lanh lẹ đến dường ấy nên sinh ra lúng túng , vội vàng nhảy sang một bên né tránh, nhưng Dương Qua đã dùng thế "Văn cơ về Hán" dùng hai tay giữ lại.
Đạt Nhĩ Ma cố sức vẫy vùng, nhưng không sút ra được, phần vì do hai bao tay bằng bạch kim có sức hút mãnh liệt nên hai bên giằng co quyết liệt.
Cố sức vẫy vùng bốn phía để đoạt lại cây chày, từ Đông sang Tây, từ trái qua phải. Đạt Nhĩ Ma cảm thấy toàn thân mệt nhoài, hơi thở hổn hển như trâu rống.
Kim Luân Pháp Vương thấy Đạt Nhĩ Ma không phải thua tài kém sức mà chỉ vì tâm thần bất định, hoảng hốt mà sinh ra lúng túng, bị đối phương uy hiếp nên nhắc lớn :
- Tại sao con không dùng phép "Vô thượng đại lực" mà tấn công ?
Đạt Nhĩ Ma nghe mách nước, mừng rỡ "dạ" lớn một tiếng rồi theo lời sư phụ giật phăng được vũ khí, liền lập tức múa cây chày kim cương vụt tới tấp.
Lúc đang còn cầm chày bằng một tay mà sức mạnh đã ghê hồn, huống chi bây giờ, Đạt Nhĩ Ma dùng cả hai tay và vận dụng gân sức cả hai dồn vào cây chày nên gió lộng vù vù, thật là thần sầu, quỷ khốc.
Nguyên phép "Vô thượng đại lực" này mới xem qua thì rất đơn giản vì chung quy chỉ có mấy đường ngang tám gậy, đường dọc tám gậy, rồi từ mười sáu gậy ấy phối hợp thành những chiêu thế khác, cấu tạo thành vô số đòn khác, biến hoá phi thường, có khi kín đáo như có khiên che chở, có khi hùng hổ như sư tử vồ mồi. Dương Qua chỉ còn cách né gạt để khỏi phải trúng đòn chứ không còn sức đâu để đánh đỡ hay tấn công lại nữa.
Ngư Nhân đứng ngoài nhìn theo cuộc đấu, trong lòng vẫn không phục Đạt Nhĩ Ma, vì thật ra ông chỉ bị gãy mái chèo chứ chưa thua sút một đòn nào cả. Ông quyết tâm chờ đợi cơ hội để xông ra đấu thêm keo nữa quyết định hơn thua cùng Đạt Nhĩ Ma mới hả dạ.
Lúc này thấy Đạt Nhĩ Ma dùng phép "Vô thượng đại lực" để áp đảo Dương Qua, thì ông mới giật mình tự nghĩ :
- Xem thế thì hắn quả nhiên là tài giỏi và dũng lược hơn mình thật. Nếu khi nãy mà chưa thua thì bây giờ cũng phải chịu thua vì làm sao mà chịu được với lối tấn công lợi hại như thế này !
Đạt Nhĩ Ma càng múa gậy tấn công , thì Dương Qua càng phải trổ tài né tránh. Cây chày kim cương múa lên quá mau, lộng gió làm tắt phụt hết bốn ngọn đuốc thắp trong đại sảnh.
Dương Qua đem hết tâm thần nhảy lẹ như con sóc, lo tránh những đòn như trời giáng của Đạt Nhĩ Ma chứ không còn lòng dạ nào để trả đòn nữa. Xung quanh đấu trường, từ đại sảnh đến ngoài hoa viên, quần hùng lẳng lặng theo dõi trận đấu, người nào người nấy đều hổi hộp lo lắng như một đàn chim non đang đứng trước một con diều hâu hung tợn. Còn phía Mông Cổ thì tiếng reo hò cổ vũ vang dậy, tên nào tên nấy cũng lộ vẻ hân hoan khoái chí lắm.
Dương Qua nhận thấy "Mỹ nữ quyền pháp" của mình không đủ hiệu lực để chống lại địch thủ nên chàng suy nghĩ cách khác để phản công.
"Vô thượng đại lực" của Đạt Nhĩ Ma ngày càng gia tăng áp lực, người hầm hầm như cọp dữ, chày vung lên sầm sập như núi lở đá lăn. Lúc bấy giờ, Đạt Nhĩ Ma đã hăng tiết, không còn e dè lo ngại gì về việc "sư huynh tái sinh", chỉ còn cố tâm làm sao giết cho bằng được Dương Qua mới hài lòng. Thấy Dương Qua thối lui vào một góc nhà, hắn trợn mắt vung chày chận đường thét lớn :
- Mày mất mạng phen này rồi tiểu tử ạ !
Miệng hét, hai tay vung chày đập xuống một đòn như trời giáng.
Trong lúc thập tử nhất sinh ấy, Dương Qua chỉ có cách tung người qua đầu để né tránh.
Thế nhảy vọt này là một thế vô cùng kỳ diệu trong Cửu Âm Chân Kinh , do Vương Trùng Dương đã ghi rõ trên đỉnh toà nhà đá trong Cổ Mộ. Trong lúc nhàn rỗi, Dương Qua thường chú tâm luyện tập một mình. Vì không có ai giảng dạy hay có đối thủ để thí nghiệm hay thử thách cho nên tuy học được đã lâu nhưng chưa bao giờ chàng biết được kết quả ra sao. Hôm nay, trong lúc thập tử nhất sinh,thập phần nguy hiểm, chàng đánh liều đưa ra áp dụng cầu may, không ngờ lại kiến hiệu đến như vậy, và chàng đã tránh thoát ngọn đòn quái ác của Đạt Nhĩ Ma một cách dễ dàng. Bao nhiêu anh hùng chứng kiến trận đấu thảy đều thất kinh và thán phục lối khinh công kỳ diệu của chàng trai trẻ tuổi này.
Trong lúc ấy, Quách Tỉnh không ngờ rằng Dương Qua có thể tránh được ngọn đòn ấy, nên ông nghĩ nếu như chậm trễ, ngọn chày kim cương sẽ đập nát óc chàng ngay lập tức. Vì vậy ông vội vàng tung người nhảy ra phía sau lưng Đạt Nhĩ Ma, đưa tay định chộp lấy cây chày kim cương cứu nguy cho cháu.
Nhưng khi ông vừa cất nhấc chân nhảy ra, bỗng thoáng có một bóng áo đỏ đứng sừng sững chắn ngang trước mặt, dùng chưởng lực tấn công mình, không cho tiếp viện Dương Qua.
Người đó chính là Kim Luân Pháp Vương.
Quách Tỉnh hoảng hốt, vội dùng thế "Kiến Long Tại Điền" , một thế kỳ diệu trong mười tám thế "Giáng Long Thập Bát Chưởng" đánh lại.
Cả hai đều là tay quái kiệt võ lâm, tài cao,công lực siêu phàm cho nên thế chưởng xuất ra hùng mạnh không sao tả xiết.
Hai chưởng chạm nhau nghe một tiếng vang trời. Quách Tỉnh thối lui hai bước, còn Kim Luân Pháp Vương thì vẫn đứng yên vị.
Tuy về công lực, thì Kim Luân Pháp Vương có phần thâm hậu hơn Quách Tỉnh, nhưng về chưởng lực thì Quách Tỉnh lợi hại hơn một bậc và lanh lẹ hơn nhiều .
Sở dĩ Quách Tỉnh thối lui hai bước , không phải là vì sút kèm mà chính vì quá cẩn thận, muốn lùi lại để thủ thế, đề phòng đối phương đánh tiếp đòn khác. Nhưng Kim Luân Pháp Vương thấy vậy, tưởng rằng Quách Tỉnh không đủ sức chịu đựng ngọn đòn của mình nên toan xông tới tấn công luôn một đòn nữa. Không ngờ ông ta cảm thấy trong ruột bị đau nhói, hình như đã bị nội thương nên sợ hãi, thất kinh không dám động thủ, vẫn đứng yên thủ thế.
Mới tung ra một đòn đầu, chưa biết ai thắng ai bại, tuy nhiên cả hai đều trông thấy Dương Qua đã thoát khỏi ngọn đòn của Đạt Nhĩ Ma dễ như bỡn rồi. Quách Tỉnh trong lòng mừng vô hạn, còn Kim Luân Pháp Vương hối tiếc thấy học trò mình đã lỡ mất một dịp may.
Cả hai không tấn công nhau nữa, mà cùng về vị trí cũ tiếp tục theo dõi trận đấu.
Đạt Nhĩ Ma đinh ninh thế nào ngọn đòn này cũng kết liễu tính mạng Dương Qua rồi, không ngờ chàng lẹ làng tung mình né tránh dễ dàng , và xem ngọn chày trong tay mình không ra gì cả, thì lòng bực tức không tả xiết....

Sau khi thấy áp dụng lối né tránh của Cửu Âm Chân Kinh đã có hiệu lực, Dương Qua cứ nhởn nhơ như thế mà thoát hết mọi ngọn đòn của đối phương một cách dễ dàng.
Hoàng Dung trông thấy lối tránh né của Dương Qua như vậy thì ngạc nhiên quá, vội quay sang hỏi Quách Tỉnh :
- Tại sao Dương Qua nó lại biết các thế võ trong Cửu Âm Chân Kinh ? Ông đã dạy nó hồi nào thế ?
Sở dĩ bà hỏi chồng như vậy là bà nghĩ trong lúc đưa Dương Qua lên Chung Nam Sơn, có thể là Quách Tỉnh đã nghĩ đến tình cố cựu cùng cha hắn là Dương Khang ngày xưa, nên đã đem Cửu Âm Chân Kinh mà truyền dạy lại cho Dương Qua chăng ?
Nhưng Quách Tỉnh lắc đầu đáp :
- Không, tôi có dạy hắn bao giờ đâu ? Nếu tôi có dạy thì đã nói rõ cho bà biết rõ từ lâu rồi chứ !
Hoàng Dung nghe nói vậy thì nín thinh ngay vì bà biết chồng mình không bao giờ nói dối cả.
Bà chăm chú nhìn Dương Qua nhảy nhót như chim én tránh đòn của Đạt Nhĩ Ma,. Trong những lúc nguy hiểm,chàng áp dụng các phép trong Cửu Âm Chân Kinh mà thoát được dễ dàng. Tuy vậy, vì luyện tập chưa được tinh tế cho lắm nên nếu để kéo dài thì thế nào cũng để thua ngay.
Hoàng Dung nghĩ :
- Thằng bé Dương Qua này thông minh và tài lắm. Chẳng qua vì không được học tới nơi, tới chốn mà thôi. Nếu hắn học ta trong thời gian chỉ cần nửa năm, ta sẽ truyền hết thuật "Đả cẩu bổng pháp" và "Cửu Âm chân kinh" cho chu đáo, thì hạng những lão hoà thượng này nó có xem vào đâu .
Trong lúc đang phân vân nghĩ ngợi luyến tiếc, Hoàng Dung bỗng thấy thoáng một bóng ...

( Xin lỗi các bạn, truyện bị mất hai trang. Bạn nào có thì xin bổ sung hộ . Cảm ơn nhiều )

... nghị, Hoàng Dung mừng rỡ quay sang nói với Quách Tỉnh :
- Dương Qua quả nhiên là một thiên tài xuất chúng, tài nghệ phi thường. Ngày còn niên thiếu, ông đã có được bản lãnh của nó như lúc này chưa ?
Quách Tỉnh cũng hớn hở gật đầu, công nhận và chịu rằng khi mình bằng tuổi ấy thì không có được tài nghệ như Dương Qua bây giờ.
Trong thuật "Di hồn đại pháp" thì căn bản là sự cảm ứng của tinh thần để chống đối phương. Nếu đối phương giữ được tinh thần trong suốt, không hề bị ngoại cảnh hay điều gì bên ngoài chi phối , thì thuật này không có hiệu lực lắm. Cũng như đêm tối chỉ có tác dụng nhiều với những người nhút nhát hay sợ ma. Trong lúc này, Đạt Nhĩ Ma vẫn còn nghi ngại Dương Qua là Đại sư huynh của mình tái sinh đầu thai lại, nên trong lòng đã kinh nghi sẵn, điều đó thuật di hồn này có tác dụng hơn. Âu cũng là một dịp rất may để Dương Qua cứu vãn tình thế lúc này.
Trong khi Đạt Nhĩ Ma mê mê như người trong mộng, ngây người đứng yên một chỗ nhìn sửng sốt đối phương, thì Dương Qua dùng các thế trong "mỹ nữ quyền pháp" để biểu diễn. Có khi chàng đi theo bộ pháp "Bộ bộ sinh liên" ( cứ mỗi bộ sinh một bông hoa sen ) với những dáng điệu vô cùng uyển chuyển , ẻo lả , thướt tha, làm cho Đạt Nhĩ Ma càng tê tái tâm thần hơn nữa.
Mọi người xung quanh thảy đều buồn cười, nhưng cũng rất thán phục.
Quách Phù ngạc nhiên quá ,chẳng hiểu vì sao, liền đập tay mẹ hỏi :
- Mẫu thân, anh Dương Qua sao có lắm tài như vậy ? Mẫu thân cũng am hiểu những thế này mà không chịu dạy cho con à !
Hoàng Dung mỉm cười, xoa đầu Quách Phù đáp :
- Đó là thuật di hồn. Nếu con học được phép này thì nổi danh thiên hạ thực đó. Nhưng trái lại, cũng sẽ có những hậu quả vô cùng tai hại. Phàm sinh con gái trong gia đình khuê các phải lo giữ gìn sao cho vẹn câu hiếu thuận cùng cha mẹ. Khi con lớn lên, lại phải theo chồng. Chừng ấy, bổn phận của con là rất nặng nề là phải làm tròn vai trò của một người nội tướng, quán xuyến được bao quát những điều thờ chồng nuôi con, phụng dưỡng gia đình nhà chồng . Nếu người nội tướng giỏi thì gia đình thịnh, nếu ngừoi nội tướng kém thì gia đình chồng sẽ suy. Bao nhiêu nhiệm vụ đó đã nặng nề lắm rồi. Con còn ham học võ công cho giỏi để làm chi nữa hả ? Con đọc sách đã nhiều, xưa nay có người đàn bà nào giỏi võ công mà khiến cho gia đình hưng thịnh được đâu mà ham lắm vậy !
Quách Phù cãi lại :
- Nếu mẹ dạy như vậy thì phụ nữ chúng con không nên tham gia trong việc binh đao hay sao ?
Hoàng Dung đáp :
- Phải rồi, trời đất sinh người con gái cũng như các loại hoa xinh cỏ lạ, chỉ để tô điểm cho vườn cây xinh tươi chứ có phải là để thay thế cho các cây ăn trái được đâu ? Phàm cây ăn trái không có hoa xinh thì lại có trái ngon nuôi sống, còn cây có hoa đẹp thì bao giờ lại có được trái ngon. Mỗi người có một biệt tài, mỗi thứ có một công dụng riêng. Việc gươm đao trận mạc chẳng qua là vạn bất đắc dĩ phải dùng tới. Vì vậy , ngày xưa, khi Khổng Phu Tử sang thăm nước Vệ, vua Linh Công có hỏi thăm về binh thư trận mạc, ngài không hề trả lời, chỉ nói là :"Tôi chưa học tới" ,Còn đức Mạnh Tử sang nước Lương, vua Huệ Vương có hỏi những biện pháp làm lợi cho nước, thì ngài chỉ khuyên nhà vua dùng nhân nghĩa để thu phục nhân tâm. Nếu vua chỉ nghĩ tới lợi thì, toàn dân cũng chỉ mong về lợi thì đất nước sẽ rối beng về tranh chấp lợi quyền, làm sao mà cường thịnh được... Ngay như Khổng, Mạnh là hai bậc thánh nhân ngày trước cũng chỉ dạy người về đạo đức để kết hợp và thu phục nhân tâm chứ không bao giờ lấy binh đao làm cứu cánh cả. Cũng vì vậy mà thiên hạ khi nào cũng trọng văn hơn võ. Có gì quý báu đâu mà con ao ước lắm vậy ?
Nói dứt lời, Hoàng Dung chỉ tay xuống đấu trường nói thêm :
- Con cứ nhìn xem anh Dương Qua của con đang thắng hay bại, và việc thắng bại đó cũng vô cùng gay go, đánh giá cả mạng sống của con người , nguy hiểm lắm, không nên ham chuộng làm gì !
Quách Phù đưa mắt nhìn theo tay mẹ chỉ, trông thấy Dương Qua cười thì Đạt Nhĩ Ma cũng cười theo, mà Dương Qua làm nghiêm thì Đạt Nhĩ Ma cũng nghiêm nghị theo một chặp.
Quách Phù trông thấy, ngạc nhiên quá tự nghĩ :
- Thuật di hồn sao mà lợi hại quá như thế này. Nếu mình không được học thì cũng nên đến gần xem tận mắt cho biết mới được.
Nghĩ vậy, nàng dợm chân muốn phóng đi, nhưng Hoàng Dung đã nắm tay kéo lại, bắt nằm gục trong lòng, trong phút chốc, Quách Phù đã ngủ mê man trong lòng mẹ.
Tại thao trường lúc này, Dương Qua đã dùng thuật "di hồn" khống chế hoàn toàn Đạt Nhĩ Ma từ cử chỉ nhỏ. Chàng xuất hai chiêu "Tây Thi ôm bụng" rồi tiếp theo thế "Đông Thi nhăn mặt". Đạt Nhĩ Ma nhìn theo và cũng bắt chước diễn lại không sai một chút nào cả.
Dương Qua lại diễn chiêu "Tào Thực cắt mũi", một tay đưa lên giữ mũi, một tay đánh liên hồi vào mặt mình không ngớt. Thế này diễn ra theo câu chuyện vợ của Tào Thực tên là Lệnh, khi chồng chết, nàng Lệnh tự cắt bỏ mũi đi, tỏ ý chí quyết tâm thủ tiết chờ chồng, không bao giờ đi lấy chồng khác.
Lúc biểu diễn thì Dương Qua chỉ giả bộ đánh hờ vào mũi mình, nhưng Đạt Nhĩ Ma làm theo thì thật hết sức mạnh. Phải biết công lực của y mạnh đến mức nào, một cái tát nặng có đến trăm cân không ít. Vì vậy nên khi tát tới cái thứ mười hai, Đạt Nhĩ Ma đau quá không chịu nổi, té lăn ra đất, bất tỉnh.
Bao nhiêu anh hùng hảo hán đứng xung quanh trông thấy Đạt Nhĩ Ma ngất xỉu, thảy đều mừng rỡ đồng thanh hò lớn :
- Bên ta thắng tiếp keo thứ hai rồi. Như vậy ngôi Minh chủ nhất định phải thuộc về phe ta. Bên đó còn có ai tài giỏi thì xin ra đấu tiếp cho rồi.
Ngay lúc bấy giờ có hai tên võ sĩ Mông Cổ xông ra bồng Đạt Nhĩ Ma đem vào trong chữa thuốc.
Kim Luân Pháp Vương thấy đồ đệ của mình bị một thiếu niên đánh bại không phải vì tài nghệ mà vì một phương pháp mờ ám, nên trong lòng ông ta vừa buồn, vừa bực tức, ông ngồi trên ghế gọi lớn :
- Tiểu tử, sư phụ mi là ai ?
Kim Luân Pháp Vương là một tay lỗi lạc, học rộng hiểu nhiều nên ông ta dùng tiếng Hán nói rất rõ ràng.
Dương Qua đưa tay chỉ vào Tiểu Long Nữ đáp lớn :
- Vị này là sư phụ của tôi đấy. Ông xem thử sư phụ tôi có xứng đáng làm Minh chủ Võ lâm hay không ?
Kim Luân Pháp Vương nhìn theo, thấy Tiểu Long Nữ là một thiếu nữ xinh đẹp ẻo lả, thân hình mảnh mai, nét mặt trẻ măng, có khi còn trẻ hơn cả Dương Qua nữa, thì trong lòng nghi hoặc nghĩ thầm :
- Bọn Trung Nguyên các ngươi lắm mưu, nhiều kế, xảo quyệt vô cùng, nhưng không thể qua mặt ta nổi đâu !.....

Vì thắc mắc ấy nên ông ta không nói gì, tung mình nhảy xuống đấu trường, rút trong bọc ta một chiếc vòng đúc bằng vàng khối.
Chiếc vòng tuy bằng vàng khối nhưng trong ruột lại rỗng, có đựng chín cái hột bằng trái đào, cho nên mỗi khi rung lên, các trái này chuyển động phát ra những âm thanh nghe vô cùng rùng rợn. Đối phương chưa chiến đầu, chỉ cần nghe những tiếng này cũng đã mất tinh thần rồi.
Tay cầm vòng vàng, Kim Luân Pháp Vương khoan thai bước lại trước mặt Tiểu Long Nữ cất tiếng hỏi :
- Có phải cô nương muốn làm Minh Chủ võ lâm không ? Nếu quả thực như vậy, cô chỉ cần đấu với tôi mười hiệp. Nếu qua được mười hiệp, cô cự nổi với chiếc vòng vàng nảy của tôi thì tôi bằng lòng tôn cô nương làm Minh chủ võ lâm ngay.
Dương Qua gạt ngang nói lớn :
- Lệ ước đã đặt ra rồi. Bên tôi thắng luôn hai trận thì ngôi ấy phải thuộc về phe chúng tôi chứ. Chính bên ông đã ra điều kiện lại đi nuốt lời, xem ra sao được !
Tiểu Long Nữ vốn là người hiền lành chất phác. Nàng không biết Kim Luân Pháp Vương là ai và cũng không hề biết ông ta là người có công phu võ nghệ trùm đời, khiến cho bao nhiêu anh hùng võ lâm phải kiêng nể. Ngoài ta, nàng cũng không hiểu chức Minh chủ võ lâm là chức vị gì, đặt ra để làm chi nữa. Nàng chỉ thấy Kim Luân Pháp Vương hỏi với giọng hách dịch,thách đấu với mình trong mười hiệp với chiếc vòng vàng này thì thản nhiên đáp lại ngay :
- ừ , nếu ông muốn thử sức thì cứ đấu xem sao.
Kim Luân Pháp Vương hỏi lại :
- Cô nương đã nghe kỹ và bằng lòng đấu thử rồi đấy chứ ?
Tiểu Long Nữ điềm nhiên đáp :
- Hễ bằng lòng là đấu thử, còn không thì thôi, có gì đâu mà hỏi mãi !
Từ bé Tiểu Long Nữ đã luyện được thần sắc thản nhiên trước mọi việc, bất kỳ giận hơn hay vui mừng cũng không hề để lộ ra mặt. Vì vậy nên lúc trả lời Kim Luân Pháp Vương , nàng vẫn giữ một thái độ bình thường như không có chuyện gì xảy ra hết.
Bao nhiêu anh hùng Trung NGuyên nghe nàng đối đáp như vậy thì mỗi người có một cách nghĩ khác nhau.
Có kẻ thì nghĩ rằng :
- Cô này có lẽ là một tiên nữ cho nên mới dạy cho Dương Qua biết pháp thuật lạ mê hoặc Đạt Nhĩ Ma . Lúc này Kim Luân Pháp Vương cũng muốn dùng pháp thuật để phục thù cho đệ tử đây.
Có người thì lại nghĩ khác :
- Nàng này đẹp như tiên nữ giáng trần. Có lẽ, Kim Luân Pháp Vương cũng xiêu lòng với vẻ đẹp của nàng , nên đưa vòng vàng ra loè để thách đấu cùng nàng. Nếu quả thật ông ta muốn tranh tài cao thấp thì cứ đấu cùng Dương Qua là người thắng trận chứ cớ gì lại đi khiên chiến nữ sư phụ ?
Vì có những ý kiến dự đoán trái ngược nên trong đại sảnh và dưới đấu trường vang lên những tiếng bàn tán qua lại như giữa đám chợ đông.
Chính Kim Luân Pháp Vương cũng nghi ngờ Tiểu Long Nữ có nhiều phép thuật, nên ông ta đề phòng, niệm chú bằng tiếng Tây Tạng.
Ông ta đọc những câu chú trong bài "mật tôn chú" , đoạn "hàng yêu phục ma".
Dương Qua đứng gần đấy, nghe Kim Luân Pháp Vương đọc chú, không hiểu gì hết . Nhưng chàng đoán có lẽ ông hoà thượng này cố tình mằng chửi cô nương mình nên chàng cố tâm học hết các câu chú không sai một chữ nào.
Đọc xong mấy câu thần chú, Kim Luân Pháp Vương quát lớn :
- Tiểu tử, hãy tránh ra cho ta quyết đấu.
Dương Qua nghiêm mặt nói :
- Đánh nhau một ngày một đánh, chuyện chi phải chộn rộn lắm thế nhỉ ? Hãy nghe ta đọc đây này !
Nói xong, chàng đọc lại những câu thần chú vừa rồi không sai một mảy may. Khi ấy Đạt Nhĩ Ma vừa tỉnh dậy, trừng mắt nhìn thấy sư phụ mình đang cầm vòng vàng định đấu cùng bên địch thủ, còn Dương Qua đang đọc những câu chú quyết trong "mật tôn chân ngôn" trong đoạn "hàng yêu phục ma" , hắn ngạc nhiên quá, nghĩ thầm trong bụng :
- Lạ quá, chú này là một điều pháp bí mật của phái Tây Tạng, không bao giờ truyền ra cho người khác phái. Tại sao tiểu tử này lại thuộc như vậy. Như thế quả nhiên y là đại sư huynh mình tái sinh rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu không phải đại sư huynh thì làm sao lại thuộc làu làu như vậy được ? Sư phụ ta trong lúc nóng nảy không nghĩ tới việc này, ta cần phải can gián người hổi tâm mới được.
Nghĩ như vậy, y nhảy xổ ra, phục trước mặt Kim Luân Pháp Vương, lạy luôn bốn lạy, thưa lớn :
- Bẩm sư phụ, theo con nhận xét, nhất định người này là sư huynh của con đầu thai rồi. Xin sư phụ hãy dung thứ cho y.
Kim Luân Pháp Vương nghe nói nổi đoá, thét lớn :
- Đừng có nói sàm. Sao hôm nay con mê muội làm vậy ?
Đạt Nhĩ Ma lại phủ phục làm lễ lần nữa và thưa tiếp với một giọng vô cùng thành khẩn :
- Xin sư phụ xét lại. Con quả quyết chuyện này ngàn lần không sai đâu. Mong sư phụ chấp nhận lời cầu khẩn của con, kẻo sau này lại hối hận .
Kim Luân Pháp Vương thấy y không chịu tuân lời, còn lằng nhằng cản trở thì nổi nóng, đưa tay chộp lấy lưng Đạt Nhĩ Ma vứt ra xa mấy trượng.
Đạt Nhĩ Ma nặng có trên trăm cân, thế mà Kim Luân Pháp Vương chỉ khẽ nắm lưng ném nhẹ đã bay đi như người ra ném một con gà nhỏ, không lộ vẻ gì mệt nhọc cả.
Quần hùng đã chứng kiến Đạt Nhĩ Ma chiến đấu cùng Ngư Nhân, sức khoẻ như hùm thiêng, thế mà lúc này, Kim Luân Pháp Vương chỉ khẽ ra tay nhấc bổng y lên như một con ếch, cũng đủ thất kinh và đoán rằng sức lực của ông ta ít ra cũng mạnh gấp mười lần Đạt Nhĩ Ma.
Vì vậy nên người nào cũng lo ngại dùm cho Tiểu Long Nữ, với thân hình mảnh mai ẻo lả, làm sao nàng chống đỡ lại được với ông ta.
Bọn Mông Cổ đã thừa biết Kim Luân Pháp Vương sức mạnh địch muôn người,dõng lược đánh nổi chín trâu. Tiểu Long Nữ dù có phép tà thuật hay bùa ngải gì cho lắm cũng chưa phải là đối thủ của ông ta được. Vì vậy cho nên bọn chúng chủ quan xem thường, hiu hiu tự đắc, cùng nhau bấu véo đùa cợt cho qua thì giờ.
Dương Qua đọc xong mấy câu thần chú bằng tiếng Tây Tạng rồi chạy lại bên Tiểu Long Nữ thấp giọng nói thầm :
- Lão hoà thượng này vô cùng lợi hại, cô nương cần lưu tâm cẩn thận cho lắm đấy nhé !
Kim Luân Pháp Vương lắng tai nghe Dương Qua đọc hết mấy câu thần chú không sai một mảy may cũng phải buộc lòng khen thầm là một người thông minh xuất chúng, nhưng ông ta mỉm cười ngó chàng :
- Cậu bé giỏi lắm , đáng khen đấy. Nhưng ráng mà liệu hồn đấy nhé !
Nhưng Dương Qua nào có chịu sút, đáp lại ngay :
- Hoà thượng hãy cố giữ mình đấy nhé. Phải coi chừng cẩn thận.
Kim Luân Pháp Vương trợn mắt hỏi :
- Mi bảo ta phải coi chừng cái gì ?
Dương Qua đáp :
- Hôm nay ra đua tài cùng sư phụ tôi, hoà thượng cần coi chừng cẩn thận. Vì sư phụ tôi là bồ tát tái sinh, am hiểu việc trên trời, dưới đất, có biệt tài phục hổ hàng long. Như vậy cho nên tôi bảo trước để cho hoà thượng biết mà đề phòng cho lắm !
Dương Qua thừa biết Kim Luân Pháp Vương là tay lợi hại phi thường nên cố bày chuyện đặt điều lung lạc lung tung, mong áp đảo tinh thần đối phương phần nào để có thể lợi cho sư phụ mình trong cuộc chiến này.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương là một tay kiệt liệt trên đời, đệ nhất võ công trên xứ Tây Tạng và Mông Cổ, tài kiêm văn võ, thường ngày ông vẫn than thầm là chưa bao giờ gặp được đối thủ cho xứng đáng. Vì vậy nên không bao giờ ông ta lại đi tin những điều mộng mị viển vông.
Khi nghe Dương Qua nói, ông "hừ" một tiếng rồi nghiêm mặt bảo :
- Cứ đua tài một vài hiệp rồi sẽ biết nhau, cần gì phải căn dặn trước làm gì cho bận óc hả ?
Nói xong, ông ta quay sang hỏi Tiểu Long Nữ :
- Thế nào, cô nương chuyên dùng loại binh khí gì, cứ lấy ra đi là vừa !
Tiểu Long Nữ điềm nhiên rút trong bọc ra một vuông lụa trắng tinh như tuyết, phất lên một cái, chiếc khăn theo gió bay phấp phới, ở đầu khăn có cột một quả cầu tròn màu vàng. Trong lòng quả cầu trống rỗng nên mỗi lúc vung lên, gió lộng vào quả cầu rít lên những tiếng vu vu như sáo diều.
Dương Qua đem đôi bao tay bằng bạch kim trao lại cho Tiểu Long Nữ rồi đứng lui ra đằng sau xem.
Toàn thể quần hùng đứng xem, vừa trông thấy hai món vũ khí lạ đời của hai bên đưa ra thì ai nấy đều lấy làm lạ lùng hết sức. Người nào cũng băn khoăn tự hỏi không biết hình thái hai món vũ khí này dài ngắn, nặng nhẹ khác nhau một trời một vực, hỏi họ sẽ làm sao để chiến đấu ? ...

Hồi 37

Đại chiến Kim Luân Pháp Vương.

Cái vòng vàng do Kim Luân Pháp Vương sử dụng có nhiều tác dụng phi thường mà các anh hùng Trung Nguyên chưa mấy kẻ được rõ. Vòng này có tính chất hút kim khí, cho nên bất luận gươm , giáo, kích, côn, búa, chuỳ hay loại binh khí nào làm bằng kim khí đến gần đều sẽ bị chiếc vòng này hút mạnh khỏi tay.
Vì vậy nên bao nhiêu đấu thủ tầm thường xưa nay chưa đấu cùng ông qua ba hiệp đã bị cái vòng vàng này hút mất vũ khí.
Xưa nau Kim Luân Pháp Vương nổi tiếng là võ lâm đệ nhất cao thủ, ít khi ông ta dùng đến vũ khí để đánh với ai, nhưng cũng không kẻ nào đương cự nổi. Thế mà hôm nay, ông đã đem binh khí tuỳ thân ra sử dụng, và Tiểu Long Nữ chỉ dùng một vuông lụa mỏng thì làm sao có thể đương cự được nổi ? Vì vậy nên trong trận này, ông ta có thể bảo Tiểu Long Nữ không thể chống cự quá mười hiệp cũng không phải là điều nói ngoa vậy.
Từ ngày rời Tây Tạng sang Trung Quốc, Kim Luân Pháp Vương chưa hề gặp một đối thủ nào có thể chống cự quá ba hiệp. Lần này tuy xem thường Tiểu Long Nữ nhưng ông ta vẫn cẩn thận đề phòng vì trông thấy đệ tử của nàng là Dương Qua quả là một tay lợi hại và có nhiều mánh khoé bất ngờ.
Hai người vừa nhìn nhau thì Tiểu Long Nữ đã tung khăn lụa ra tấn công trước.
Kim Luân Pháp Vương không biết đây là vũ khí của tà ma hay tiên thánh, liền đưa tay chộp lấy liền.
Thấy tấm lụa trắng vô cùng uyển chuyển và linh động,Kim Luân Pháp Vương đoán trước là sẽ có nhiều sự biến hoá ly kỳ nên trong lòng đã có ý thận trọng, miệng lâm râm đọc thần chú trấn áp đủ năm phương tứ hướng trên đầu, đề phòng thật chặt chẽ.
Tiếng leng keng từ quả cầu vòng buộc nơi đầu giải lụa trắng phát ra những tiếng như tiếng chuông thu hồn, nghe rợn cả gáy và tiếng lụa rít gió vo vo đánh mạnh vào huyệt "trung chữ" nơi cánh tay của Kim Luân Pháp Vương .
Kim Luân Pháp Vương lẹ làng như chớp nhoáng, phi thân sang một bên rồi đưa tay lên đón bắt nữa.
Tiểu Long Nữ khẽ xoay tay một vòng , trái cầu tròn lộn qua rồi lao mạnh tới đánh thẳng vào hổ khẩu của Kim Luân Pháp Vương, ngay huyệt "hợp cốc" .
Kim Luân Pháp Vương vận dụng chưởng lực đánh trả lại rồi dùng hai ngón tay như hai gọng kìm sắt, kẹp chặt lại.
Tiểu Long Nữ tiến tới hai bước, tung vòng cầu vào ngay huyệt "khúc trạch" nơi bả vai Kim Luân Pháp Vương nhưng ông ta đã đề phòng tràn qua một bên né khỏi.
Thế là liên tiếp ba đòn của Tiểu Long Nữ thảy đều bị Kim Luân Pháp Vương phá giải hết. Dương Qua đứng ngoài nhìn trận đấu, miệng đếm lia lịa :
- Một, hai, ba, bốn, năm ....
Đến đây, chàng hô lớn :
- Đã được năm hiệp rồi đấy nhé. Nếu chưa ai thủ thắng được thì tính hoà đấy nhé !
Thật ra Kim Luân Pháp Vương có thách thức Tiểu Long Nữ đấu luôn mười hiệp, nhưng vừa đánh đến ba hiệp thì Dương Qua đã đếm đến năm rồi để trận đấu mau kết thúc, vì chàng ngại sư phụ mình không đủ sức đương cự cùng Kim Luân Pháp Vương. Trong trường hợp này chỉ còn cách ăn gian cho xong chuyện rồi sau đó sẽ tính mưu kế khác.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương là bậc võ sư thượng thặng, ông ta không cần đối đáp hay cãi lẫy cùng Dương Qua . Khi thấy Tiểu Long Nữ đã tấn công đủ ba chiêu, ông ta bắt đầu tấn công lại.
Kim Luân Pháp Vương vừa vung tay lên, Tiểu Long Nữ đã nghe tiếng leng keng rít lên rợn người, từng loạt hào quang chói loà lấp lánh thốc mạnh vào mặt khíên cho tâm thần rối loạn, không nhận định được đâu là Kim Luân Pháp Vương, đâu là chiếc vòng vàng để tránh né hay chống cự nữa.
Thấy tình thế trở nên nguy ngập không có lối thoát, Tiểu Long Nữ chỉ còn cách tung mình vút lên không trung để tránh khỏi ảnh hưởng của chiếc vòng vàng rồi tung sợi lụa trắng, phóng quả cầu nhắm ngay huyệt "phong trì" của Kim Luân Pháp Vương .
Mặc dầu là một lối tránh né để thoát thân, đồng thời cũng là một đòn tấn công hiểm hóc, vì huyệt "phong trì" nằm ở ngay phía sau lưng con người, vồn là một huyệt trọng yếu, nếu đối thủ không né tránh kịp thời thì tính mạng không còn. Ngoài ra, nếu lôi thôi thì cả hai bên đều càng nguy ngập hơn nữa.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương nào phải là tay vừa. Khi vừa trông thấy dáng điệu của Tiểu Long Nữ, ông đã đoán trước được và cúi rạp mình xuống đất để né tránh. Vừa thoát khỏi, ông ta đã lăn qua một vòng, đứng thẳng dậy tấn công liền.
Nhân khi Kim Luân Pháp Vương lăn mình, Tiểu Long Nữ nhảy phóc ra sau hơn một trượng để né tránh, nhưng ác thay, mặc dù đã đi xa, nhưng tiếng vòng vàng leng keng vẫn như xé vào màng tai, cứ liên tiếp đuổi theo như mũi tên đang tìm tới đích. Tiểu Long Nữ càng lùi, vòng vàng càng tiến tới không rời một ly, một tấc.
Trong hoàn cảnh thập tử, nhất sinh, Tiểu Long Nữ mặt mày tái xanh tái xám, chỉ còn cách vận dụng khinh công để lẩn tránh mà thôi. Nàng luôn luôn như cánh bướm nhảy nhót khắp nơi, tránh né, nhưng chiếc vòng vàng vẫn không buông tha, cứ một mực bám riết như bóng với hình.
Dương Qua đứng ngoài cứ lớn tiếng đếm mãi :
- Sáu, bảy, tám, chín, mười ...
Khi đếm đến mười rồi, chàng nhảy xổ ra đấu trường thét lớn :
- Đủ rồi, theo lời ước hẹn, chỉ đấu trong vòng mười hiệp, sao đủ số rồi, ông lạ nuốt lời, cứ ép cô nương tôi đấu mãi thế ?
Trong lúc cùng nhau giao đấu, Kim Luân Pháp Vương đã lượng được khả năng của Tiểu Long Nữ rồi. Nếu cứ bình thường chiến đấu, ông ta có thể thắng được nàng rồi. Ngặt một nỗi là tên tiểu tử Dương Qua cứ hò đếm bên ngoài, phá rối làm ông tức muốn lộn ruột, nhưng không làm được chi, ông ta định bụng :
- Mặc kệ hắn ! Để cho nó nói gì thì nói, ta thanh toán con bé này trước rồi sẽ nói chuyện với hắn sau cũng được, không hơi đâu đi lý sự với cái thằng già mồm này !
Nghĩ như vậy, ông ta tung vòng, phất tay áo đập mạnh tới .
Dương Qua đứng ngoài vẫn luôn miệng đếm lớn :
- Mười một, mười hai, mười ba, mười bốn ...
Nhưng chàng không ngừng chú ý đến cuộc chiến giữa hai người đang diễn ra như thế nào.
Bị đánh đòn thứ hai, Tiểu Long Nữ đã thấy ngán và rung động cả người rồi. Bây giờ tới đòn thứ ba thì còn hơi sức đâu mà chống đỡ nữa. Nàng chỉ còn áp dụng thuật khinh công kỳ diệu của phái Cổ Mộ , ẩn hiện vô chừng để lẩn tránh, đồng thời tung giải lụa trắng phóng quả cầu vi vu tấn công lại để hộ thân.
Vuông lụa trắng như dòng sương mù màu trắng đục, khi dài, khi ngắn, khi uốn lượn, cuộn khúc như sóng cồn. Quả cầu vòng xen kẽ với ánh vàng của chiếc vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương khiến anh hùng đứng xung quanh nhìn sững.
Tiếng leng keng của chiếc vòng vàng hoà lẫn với tiếng vi vu của giải lụa bạch và tiếng động của quả khí cầu, khi bổng, khi trầm, lúc nhạt, lúc khoan, không khác gì một bản nhạc "vũ lân" , vừa êm tai, nhưng cũng vừa rùng rợn.
Mọi người đứng xem thảy đều hồi hộp lo lắng giùm cho tính mạng của nàng thiếu nữ xinh đẹp.
Từ ngày thơ ấu, Tiểu Long Nữ đã có khiếu ham thích âm nhạc. Trong khi nhàn rỗi, trong Cổ Mộ, nàng được bà LIễu Hoàn và sư bá dạy cho phép đánh đàn, nhờ đó nàng rất sành nghe nhạc điệu. Vì vậy, khi luyện tới phép phóng chiếc cầu, nàng nghiên cứu biến những tiếng động trong quả cầu thành những nhạc điệu , khi nào múa, các tiéng động đó phát ra đúng theo kỳ âm pháp của đàn. Với môn vũ khí này, trong võ lâm đã có thêm một điệu nhạc tân kỳ nữa.
Trong khi bị Kim Luân Pháp Vương đàn áp, Tiểu Long Nữ không thể công khai chính diện chống đối, mà chỉ tung cầu ra để tìm cách né tránh. Tuy nhiên, mỗi lần quả cầu tung ra đều có một điệu nhạc phổ kèm theo, nghe rất thâm trầm, khi dồn dập, khi hùng tráng, khi rời rạc mê ly. Bao nhiêu anh hùng đứng xem thảy đều kích động theo điệu nhạc kỳ lạ này.
Thuật khinh công của Cổ Mộ phái tuy cao siêu, nhưng trong võ lâm, không phải là hoàn toàn vô địch. Kim Luân Pháp Vương cũng vận dụng tài khinh công thượng thặng để đuổi theo truy kích, nếu là chốn đồng bằng rộng rãi thì có lẽ trận chiến đã kết thúc rồi, nhưng nhờ nơi đây địa thế chật hẹp, bàn ghế vướng chân vướng tay, Tiểu Long Nữ khéo léo lợi dụng địa hình địa thế ấy để tránh né và ẩn nấp kéo dài trận đấu nên chưa đến nỗi bị thất bại. Nhờ sống trong Cổ Mộ chật hẹp đã quen với lối đi vướng vít nên nàng đã nhanh chân lướt mình qua các cột nhà , hẻm hóc trong sảnh mà tránh thoát được tất cả các đòn ác hiểm của Kim Luân Pháp Vương .
Đuổi mãi đến mệt nhừ mà không bắt được Tiểu Long Nữ , hơn nữa, nghe tiếng nhạc thoát ra từ quả cầu nghe có âm điệu hay hay, Kim Luân Pháp Vương cũng thấy có hứng thú, bèn dừng chân lại, lắng tai nghe rồi cùng vung chiếc vòng vàng kêu leng keng, phát ra những âm điệu cũng khá nhịp nhàng.
Một trận đấu xô xát như vũ bão, trong phút chốc đã biến thành một cuộc hoà nhạc. Những tiếng vi vu, êm ái thanh tao từ trong giải lụa và trái cầu phát ra, hoà lẫn với tiếng leng keng chói ráy như đinh tai từ chiếc vòng vàng vang lên từng điệu nhịp nhàng và kéo dài không ngớt.
Hoàng Dung và Quách Tỉnh cùng nghe tiếng âm điệu này, bỗng chợt nhớ lại ngày nào trên Đào Hoa Đảo, cả ba vị kiệt liệt võ lâm là Hồng Thất Công , Âu Dương Phong và Hoàng Dược Sư đã dùng âm thanh của các nhạc cụ như đàn, tiêu,... kịch đấu với nhau. Nghĩ tới đó, hai ông bà bỗng cùng thở dài than rằng :
- Thật mới ngày nào đây, mà giờ này nghĩ lại , hình như đã xa vời như bao nhiêu thế kỷ. Trong trận đấu này, hai người tuy nội lực cũng khá, nhưng so với ba vị Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái ngày xưa vẫn còn thua kém nhiều lắm.....

Trong lúc đó, Dương Qua vẫn không dừng đếm, chàng cứ oang oang tiếp tục đếm luôn miệng " một trăm, một trăm sáu, một trăm tám,.... " Tức thì Kim Luân Pháp Vương lại khởi thế công sát phạt nữa.
Tiểu Long Nữ tự xét mình yếu hơn nên không dám công nhiên tiếp chiêu, chỉ dùng khinh công để lẩn tránh. Kim Luân Pháp Vương dù tấn công ồ ạt nhưng cũng vẫn chưa đánh trúng được đòn nào.
Quách Phù bấy giờ đang ngủ trong lòng mẹ, bị tiếng leng keng của chiếc vòng vàng làm cho tỉnh giấc. Nàng ngáp dài, vươn vai ngồi dậy, nét mặt buồn buồn , kế đó, nàng dùng hai tay bịt tai lại vì tiếng leng keng dội lên nghe khó chịu lắm.
Kim Luân Pháp Vương vừa đánh vừa suy nghĩ :
- Ta mang danh đệ nhất cao thủ Tây Tạng, nay chỉ đánh với một đứa con gái chưa được bao nhiêu tuổi mà mất đến cả ngày không thắng được thì còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ và các tay hào kiệt võ lâm nữa. Cần phải giải quyết ngay trận đấu, nếu không cứ để giằng dai, dù sau có thắng được cũng không còn vẻ vang nữa !
Nghĩ vậy, ông ta tung chiếc vòng tấn công sang bên tả, rồi bỗng đổi hướng đập sang bên hữu, cố sức hạ thủ cho gấp mới nghe.
Tiểu Long Nữ tận lực chống đỡ, nhưng trong lúc này Kim Luân Pháp Vương tấn công theo lối ngũ hành, phát chưởng lực ra bao vây khắp các mặt không phía nào sơ hở, từ đấu đến chân, lúc nào cũng bị tấn công tới tấp.
Tiến lùi không xong, quay sang tả hữu cũng không thoát được, Tiểu Long Nữ đâm liều. Nàng dùng giải lụa trắng múa tít thành một vòng tròn như một tràng hoa trắng che phía dưới chân rồi tung người vọt lên trên không .
Kim Luân Pháp Vương thừa thế chộp trúng giải lụa. Nếu là khí giới thường thì nhất định Kim Luân Pháp Vương chiêm đoạt ngay. Nhưng ngại vì giải lụa vừa dịu, vừa mềm, trong khi Kim Luân Pháp Vương cố sức kéo lại thì nó bỗng mềm nhũn ra như giấy ướt , không thể nào giật được nữa.
Kim Luân Pháp Vương nổi nóng, giật mạnh một cái, miệng hét :
- Lần này nhất định phải được !
Nhưng Tiểu Long Nữ vẫn thoát thân như thường.
Mọi người đang lo ngại nàng bị tóm được, nên thảy đều vui mừng khi thấy nàng thoát khỏi. Tuy nhiên , Kim Luân Pháp Vương vẫn bám riết, không chịu rời nàng một bước, quyết tâm đuổi theo mãi.
Tiểu Long Nữ hoảng hốt , vội cúi đầu lòn xuống phía dưới nách ông ta chạy ra phía sau trốn thoát. Lập tức Kim Luân Pháp Vương quay người lại như chớp, đưa hai tay chộp nữa.
Tiểu Long Nữ không dám tung chiếc khăn lụa có vòng cầu chống đỡ mà chỉ dùng khinh công nhảy vọt lên cao trốn tránh.
Chộp trật mấy cái liên tiếp, Kim Luân Pháp Vương nổi đoá hét lớn :
- Mày giỏi dùng thuật khinh công thì ta cũng có phép trị !
Thét xong, ông ta vung chiếc vòng đập xuống . Tiếng leng keng từ chiếc vòng phát ra như tiếng thét của tử thần, khiến cho Tiểu Long Nữ lạnh gáy , toát mồ hôi , hết đường trốn tránh vì quá cận kề.
Quần hùng trông thấy hoảng quá, có kẻ không dám mở mắt để nhìn cảnh tượng sắp xảy ra.
Trước tình thế quá nguy cấp, Dương Qua không chịu được nữa, bất thình lình chàng giật ngay chiếc chày vàng trong tay Đạt Nhĩ Ma xông lại phang mạnh vào chiếc vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương . Một tiếng "choeng" đinh tai nhức óc vừa nổi lên, cái vòng vàng bị rơi xuống đất.
Vì nhát đập quá mạnh, cả hổ khẩu của Dương Qua đã bị toét ra, chảy máu đầm đề.
Tiểu Long Nữ thấy chiếc vòng vàng ác hại đã rơi trên mặt đất thì biết nguy cơ đã qua đi, nàng vội vàng tung giải lụa có cầu vồng ra rồi nhảy lên nấp bên cột trụ trên nóc đại sảnh để đề phòng Kim Luân Pháp Vương dung "Ngũ đỉnh khai sơn chưởng" tấn công nữa.
Trong lúc đang tràn trề hy vọng sẽ hạ được đối phương, bất ngờ bị Dương Qua tấn công phá rối khiến cho đòn bị hụt và rơi cả vũ khí, nên Kim Luân Pháp Vương nộ khí xung thiên, gầm lên như cọp dữ. Xưa nay, chưa khi nào ông ta bị ai làm như vậy. Tức thì ông ta tập trung chưởng lực vào tay phải, tung một đòn như thiên lôi bổ ngay mình Dương Qua. Vì hai người chi cách nhau một trượng nên Dương Qua không tài nào né tránh nổi. Chàng đinh ninh thể nào cũng mất mạng dưới ngọn đòn ấy.
Quách Tỉnh đang đứng ngoài theo dõi, thấy Kim Luân Pháp Vương bực tức mặt mày bầm đen thì biết thế nào ông ta cũng sẽ tung ra một đòn ác liệt,. Khi trông thấy Kim Luân Pháp Vương vung chưởng đập tới, Quách Tỉnh chỉ kịp kêu một tiếng "nguy quá" rồi tung "Giáng Long Thập Bát Chưởng " ra ngăn cản ngay.
Nhờ chưởng lực của Quách Tỉnh mà Dương Qua thoát được đại nạn. Chàng nương thế "Phi long tại thiên" nhảy vọt lên cao rồi nhắm ngay đầu Kim Luân Pháp Vương giáng xuống một chưởng.
Nếu chỉ có một xáp một như thế thì như khi bình thường, Kim Luân Pháp Vương cũng có thể hạ được Dương Qua dễ dàng. Nhưng lần này vì bận tâm chống đỡ cùng Quách Tỉnh, trước sức tấn công ồ ạt như sóng cồn của Giáng Long Thập Bát Chưởng , Kim Luân Pháp Vương không thể nào sơ hở được, chỉ "hự" lên một tiếng, nghiêng mình né tránh đường chưởng của Dương Qua rồi chú ý đến chiến đấu cùng Quách Tỉnh.
Đây là trận đấu thứ nhì của hai vị đại võ sư trong võ lâm. Quách Tỉnh luôn luôn biến động, khi lao mình lên cao, khi sà ngang sát đất, tấn công ồ ạt, còn Kim Luân Pháp Vương không xê dịch nửa bước, bám lấy vị trí cũ mà chống đỡ.
Quách Tỉnh thấy không tiện đương nhiên giao đấu cùng Kim Luân Pháp Vương nên chỉ tấn công mấy đòn rồi bỗng chuyển sang thế thủ.
Bị Dương Qua đánh hụt mấy đòn liên tiếp, nên Kim Luân Pháp Vương cũng ngán. Vì vậy nên mặc dù Quách Tỉnh lùi ra sau để giữ thế thủ, ông ta cũng không dám xông tới bức chiến. Hai người chỉ đứng yên vị trí đánh nhau cầm chừng.
Hai tay đại võ sư quyết đấu được độ vài mươi hiệp, Kim Luân Pháp Vương có tiến lên vài bước, nhưng bỗng nghĩ thầm :
- Ta không nên khinh địch bước vào trọng địa, nếu đối phương cho người ra tiếp cứu thì nguy to.
Nghĩ vậy, ông ta vận dụng công lực đứng nguyên một chỗ, mím môi ngậm miệng ra sức chiến đấu chứ không tấn công như trước nữa.
Dương Qua cúi xuống nhặt chiếc vòng vàng đang nằm dưới đất, chạy lại chỗ Tiểu Long Nữ hỏi nhỏ :
- Sao, cô nương có hề chi không ?
Tiểu Long Nữ mỉm cười lắc đầu tỏ ý bình yên.
Dương Qua mừng quá, cầm tay nàng siết mạnh, tỏ ý cảm thông cùng Tiểu Long Nữ.
Sau đó, Dương Qua đem chiếc vòng vàng mắc lên đầu chày kim cương, và hô lớn trước mặt bọn Mông Cổ :
- Hỡi các người trong bọn Mông Cổ hãy lắng tai nghe đây; Cả hai thứ binh khí tuỳ thân của hai tên cao thủ nhất trong đám các người xứ Mông Cổ đã lọt vào tay ta rồi. Như vậy còn mặt mũi nào đi tranh chức Minh Chủ võ lâm nữa. Nếu các ngươi có chút danh dự thì hãy cút đi cho rồi.
Bọn võ sĩ Mông Cổ không bằng lòng, nhao nhao phản đối :
- Đâu được, bên ngươi, cô gái này đã thua trước đến nỗi hai người xáp lại đấu một và cuối cùng thì chú mày cũng gần bỏ mạng, nếu không có ông già họ Quách kia cứu ứng kịp thời. Thử hỏi xem, ba người đánh một mà gọi là thắng sao cho phải. Như thế mà không biết xấu, mà còn đi rêu rao lên nữa. Cái vòng vàng kia của Kim Luân Pháp Vương đã vứt đi rồi, mi lượm mót chứ mi đã đoạt được hồi nào ?
Một người khác trong bọn họ la lớn :
- Nếu có anh hùng thì hãy đấu một chọi một xem thế nào ?
Tiếp tới có kẻ nói thêm :
- Ê, ở đây không thể hùa nhau để kéo bè đánh lén như thế. Có gan thì hãy ra đấu lại xem nào ?
Một tên khác vừa cười, vừa nói nhạo thêm :
- Thầy đánh thua, chạy như chuột nhắt mà trò thì đi rêu rao nói dóc, thật không biết ngượng mồm.
Tiếng hò hét, ồn ào vang lên như vỡ chợ, nhưng họ nói toàn tiếng Mông Cổ nên quần hùng không ai nghe hiểu gì ráo.
Đối với các anh hùng có mặt hôm nay, ai nấy cũng đều công nhận là nếu so với tài lực của Tiểu Long Nữ còn kém xa Kim Luân Pháp Vương . Nhưng nếu đem chức Minh Chủ võ lâm mà nhường cho ngưòi Mông Cổ thì nhất định không thể được vì nhiều lẽ :
1. Võ lâm anh hùng Trung Nguyên sẽ bị mất thể diện. Hơn nữa, nơi đây chưa phải đã tập trung đông đủ hết anh hùng Trung Nguyên.
2. Nếu nhường chức Minh Chủ cho người Mông Cổ thì sẽ làm nhục ý chí của tất cả những lực lượng yêu nước đang quýết tâm chiến đấu với quân Mông Cổ.
Cả bọn anh hùng hào kiệt Trung Nguyên thấy bọn võ sĩ Mông Cổ hò hét la rống om sòm thảy đều nổi nóng, cùng đứng phăng cả dậy, xông lại hỏi :
- Này bọn man di mọi rợ xâm lược, bọn bay muốn đánh nhau hay không mà có những thái độ hỗn xược như vậy hả ?....

Dương Qua để chiếc vòng trên đầu chày kim cương vác lại trước mặt Kim Luân Pháp Vương trợn mắt hỏi lớn :
- Này, phen này nhà ngươi đã nhận thua chưa, xin cứ nói toẹt ra cho thiên hạ nghe một chút xem sao nào ? Đấu với người ta mà để mất vũ khí rành rành trước mặt mà bây giờ còn già họng cãi bướng hay sao ?
Nói xong. chàng nhìn quần hùng phân bua với một giọng hài hước mỉa mai :
- Có đời nào để cho người ta giật mất vũ khí trên tay mà lại đòi làm Minh Chủ võ lâm như vậy . Như thế mà không biết ngượng. Tôi như các người thì về chùa mà gõ mõ cho kêu, thỉnh chuông cho bền để tìm xôi chuối cho đỡ lòng còn hơn.
Lúc ấy, Kim Luân Pháp Vương ngồi lặng thinh để vận công và định thần, sức mạnh vững bền như núi Thái Sơn . Với công lực của ông ta, khi đã vận dụng đầy đủ thì dù rừng gươm biển giáo cũng không sờn, hàng vạn người cũng không di chuyển nổi. Ông ta định chịu đựng trong giây lát, đến khi nào mọi người kiệt sức không chịu nổi nữa sẽ lần lượt hạ từng người một.
Vì bận phải vận dụng nội lực nên tuy tai nghe Dương Qua nói mà Kim Luân Pháp Vương cũng không thể trả lời, vì hễ chỉ mở miệng ra nói là công lực sẽ theo tiếng nói mà thoát đi hết.
Dương Qua cũng thừa hiểu như thế nên chàng nghĩ thầm :
- Nếu ta để hắn vận dụng nội lực đầy đủ thì có khác nào đưa đầu cho hắn chặt ? Chi bằng tìm cách phá giải trước đi là xong.
Nghĩ vậy, chàng nói lớn cho mọi người cùng nghe :
- Xin toàn thể anh hùng hảo hán Trung Nguyên và Mông Cổ hãy nghe ta nói đây! Trước mặt chư vị anh hùng, tôi xin hỏi lại Kim Luân Pháp Vương ba lần, nếu ông ta không trả lời thì xem như là đã mặc nhiên thừa nhận là chịu thua đấy nhé !
Nói rao xong rồi ., Dương Qua quay lại nhìn Kim Luân Pháp Vương hỏi lớn :
- Ngài đã chịu thua rồi phải không ?
Thấy ông ta làm thinh, chàng hỏi tiếp :
- Ngài hết tham vọng giành ngôi Minh chủ võ lâm rồi đấy chứ ?
Thấy Kim Luân Pháp Vương vẫn làm thinh, Dương Qua hỏi câu cuối :
- Có lẽ ngài quá ngượng nên không tiện trả lời phải không ? Không sao đâu, việc lặng thinh của ngài là đã mặc nhiên thừa nhận rồi đó !
Lúc ấy Kim Luân Pháp Vương đã vận dụng nội công được tám thành, nên ông ta cố tâm nín thinh để cho đầy đủ mười thành thì sẽ nói chuyện luôn thể.
Nhưng Dương Qua đã lanh lẹ đoán ra thâm ý đó của Kim Luân Pháp Vương, cướp lời nói tiếp :
- Hay lắm, một khi ngài đã nín thinh không đáp và đã mặc nhiên thừa nhận là thua rồi, chúng tôi hứa là không bao giờ gây khó dễ gì cả. Ngài cũng như các chư vị đồ đệ cứ ung dung ra về,chúng tôi xin chịu trách nhiệm về sự an ninh của toàn thể quý vị trong phạm vi hai chục dặm trong vùng này.
Nói xong, chàng cầm chiếc vòng và chiếc chày vàng trao cho Quách Tỉnh, lễ phép thưa :
- Thưa Quách đại hiệp, đây là chiến lợi phẩm ta tịch thu được của địch trong cuộc tranh tài hôm nay. Xin Đại hiệp hãy cất giữ làm kỷ niệm cho võ lâm Trung Nguyên.
Kim Luân Pháp Vương nghe tới đây tức quá, dằn tâm không nổi nữa, thở phào ra một tiếng, bao nhiêu công lực vận dụng tới đây đã theo hơi thở thoát đi mất hết.
Ông ta tức quá, mặt mày đỏ như gấc, muốn ra tranh tài đánh nữa thì lại ngại có Quách Tỉnh không phải là tay vừa, huống chi trong tay không còn binh khí và bên quần hùng Trung Nguyên số lượng đông hơn phe mình đến mười lần thì làm sao đương cự cho nổi.
Nghĩ vậy, ông ta cố dằn tâm, đáp bằng một giọng khàn khàn vì quá tức tối :
- Bọn Trung Nguyên các người quả thật tinh quái và xảo quyệt hết sức, lại có dã tâm ỷ đông hiếp người cô thế, như vậy đâu có đáng mặt anh hùng ?
Nói xong, ông ta phát ống tay áo ra lệnh cho các võ sĩ Mông Cổ rồi bảo lớn :
- Thôi, anh em Mông Cổ chúng ta quay về thôi !
Ra lệnh cho thuộc hạ xong, Kim Luân Pháp Vương quay lại chào Quách Tỉnh rồi nói lớn:
- Thưa Quách Tỉnh đại hiệp và Hoàng Bang chủ, hôm nay chúng tôi hân hạnh được hầu liệt vị đôi ba đường gọi là làm lễ sơ kiến. Vậy xin tạm biệt và hẹn gặp lại vào một dịp khác.
Nói xong, ông ta nghiêm giọng nói hằn từng tiếng một :
- Thiên địa tuần hoàn, nước non còn đó, bọn hèn này thế nào cũng có dịp tái ngộ cùng chư vị anh hùng !
Quách Tỉnh vốn là người thuần hậu trọng nghĩa, thấy đối phương ăn nói lễ độ, khiêm tốn, vội vàng chắp tay chào nói :
- Đại sư quả là tay võ công tuyệt luân, khiến cho chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Trước khi từ giã, xin hoàn lại các món binh khí của quý hiền đồ và đại sư !
Nói xong, ông đưa hai tay cầm chiếc vòng vàng và chày kim cương đưa ra trao cho Kim Luân Pháp Vương.
Nhưng Dương Qua đã thét lớn :
- Ôi , một người như Kim Luân Pháp Vương chẳng lẽ lại mặt dày mày dạn đến nỗi đi tiếp nhận lại các vật này hay sao ?
Quách Tỉnh nghiêm mặt bảo :
- Dương Qua con ! Con không nên quá thất lễ cùng người lớn tuổi !
Kim Luân Pháp Vương lặng thinh quay mình bước ra khỏi cửa không nói lại một lời.
Dương Qua nói theo :
- Đệ tử của ngài là Hoắc Đô đã bị trúng Ngọc Phong Châm của tôi, nếu không có thuốc giải độc thì tôi xin biếu lại này.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương tự cho mình là có đủ y pháp thần thông trị được mọi chứng độc nên vẫn lặng thinh không nói, lặng lẽ bước cho mau.
Ra khỏi cửa, ông ta cúi đầu đi thẳng .
Hoàng Dung nhìn Chu Tử Liễu, thấy hai mắt nhắm thiêm thiếp, hơi thở đều đều như người ngủ say thì lo lắng suy nghĩ :
- Ông này bị trúng độc , nếu không tìm được thần y thì có lẽ không sao cứu thoát được. Mình muốn điều đình cùng lão hoà thượng lấy thuốc giải độc trao đổi với nhau, nhưng lão lại tự ái quá thì đành chịu vậy, phải tìm phương kế khác thôi.
Bà thở dài nhìn Chu Tử Liễu, thần sắc chẳng được vui.
Lúc đó, từ đại sảnh cho đến ngoài hoa viên đâu đâu cũng vang lên những lời bàn tán ca ngợi của quần hùng, tiếng reo hò như sấm động. Ai nấy đều hân hoan khi thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đã chíên thắng được thầy trò Kim Luân Pháp Vương một cách vô cùng oanh liệt.
Hàng trăm người xúm lại bao quanh hai người mà ca tụng.
Có người bảo :
- Dương Qua dùng chày của Đạt Nhĩ Ma đánh rơi vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương, quả thật là dùng gậy ông đập lưng ông. Nếu không có thứ binh khí nặng nề như chày kim cương thì chắc không thể nào đánh rơi nổi chiếc vòng vàng !
Có người thì trầm trồ về tài di hồn đại pháp của Dương Qua . Chính nhờ cái thuật ấy mà chàng đã chế phục được Đạt Nhĩ Ma một cách dễ dàng.
Có người khen Tiểu Long Nữ có thuật khinh công rất là tuyệt diệu, khiến cho bao nhiêu đòn của Kim Luân Pháp Vương đều trở thành vô dụng.
Kẻ bàn qua, người tán lại một câu, tiếng nói ầm ầm như tiếng chợ đông.
Lục trang chủ ra lệnh cho tráng đinh thết tiệc ăn mừng chiến thắng.
Từ nhỏ đến nay, Dương Qua bị người đời ruồng bỏ, sống cô độc một mình trong cảnh quạnh hiu. Hôm nay, bỗng nhiên lập được công lớn giữa ngàn tai mắt võ lâm , ai ai cũng trầm trồ khen ngợi , nên chàng hân hoan sung sướng vô cùng.
Còn Tiểu Long Nữ xưa nay vốn sống cách biệt với thê giới bên ngoài, không hề bị tinh cảm chi phối và cũng không hiểu chi tình tiết trong xã hội . Nàng chỉ nhìn nơi Dương Qua , thấy chàng hân hoan sung sướng thì mình cũng cảm thấy hạnh phúc lây. Tình cảm của nàng hiện nay hoàn toàn phụ thuộc nơi tình cảm của Dương Qua vậy.
Trong khi dự tiệc, Hoàng Dung mời Tiểu Long Nữ ngồi bên cạnh mình, vui vẻ nói chuyện từ vấn đề này sang vấn đề khác , đậm đà thắm thiết như tình cảm ruột thịt.
Tiểu Long Nữ nhìn lại Dương Qua , thấy chàng ngồi cạnh Quách Tỉnh và Ngư Nhân dằng phía cuối phòng, bèn đưa tay vẫy và gọi lớn :
- Qua nhi, sao không qua đây ngồi cạnh ta cho có bạn, ngồi chi xa quá vậy ?
Dương Qua vốn đã thạo đời và biết lễ nghi phong tục, không nhận lối trai gái chung chạ, ngừoi phải chăng thì ăn ở cũng phải đứng đắn, riêng biệt. Vì vậy nên chàng đã dụng ý lại ngồi bên Quách Tỉnh để tránh sự quyến luyến trước công chúng , thiên hạ không tốt.
Không ngờ Tiểu Long Nữ lại không để ý đến khía cạnh ấy, buộc chàng phải tới ngồi gần bên mình.
Nghe nàng gọi, Dương Qua bẽn lẽn nhìn lại, mặt đỏ gay vì mắc cỡ, ngó nhìn mọi người xung quanh rồi nhìn nàng mỉm cười khẽ lắc đầu mấy cái rồi ngồi yên chỗ cũ.
Tiểu Long Nữ bực mình gọi lớn :
- Qua nhi, sao không lại đây ngồi với ta ?
Dương Qua trả lời :
- Cô nương để tôi ngồi cạnh Quách bá bá xem người có điều chi dạy bảo chăng ?
Tiểu Long Nữ cau mày gắt nói :
- Ta yêu cầu Qua nhi lập tức lại đây ngồi với ta ngay bây giờ !
Dương Qua thấy mặt nàng đã lộ vẻ tức giận, bực dọc, mắt trừng, môi mím và nói dằn từng tiếng thì biết nàng đã giận tới cực điểm rồi, thầm nghĩ :
- Ngày ta đi tìm cô nương, thấy Lục Vô Song hao hao giống nàng mà ta đã không nào thiên khổ vạn nan để theo đuổi mãi. Huống chi ngày nay đã được gặp lại cô nương rồi, tại sao không vượt qua các nghi lễ tầm thường để làm vừa lòng nàng. Đối với ta hiện nay, cô nương là tất cả lẽ sống, bao nhiêu vịêc khác có ý nghĩa gì đâu ? Nếu ta câu nệ tiểu tiết không tuân theo ý nàng, nàng nổi giận bỏ đi lần nữa thì biết đâu mà tìm ?
Nghĩ vậy, chàng đứng dậy chạy lại chỗ Tiểu Long Nữ...

Hoàng Dung thấy thái độ của hai người có vẻ đặc biệt khác thường, đã có bụng nghi ngờ, muốn dò xét xem sao, tuy nhiên bà vẫn sai tráng đinh thu dọn chỗ ngồi cho Dương Qua .
Ngồi xong, Hoàng Dung quay sang hỏi Dương Qua :
- Qua nhi, con học võ công của ai mà giỏi như vậy?
Dương Qua chỉ vào Tiểu Long Nữ đáp :
- Thưa bá mẫu, đây là sư phụ con, bá mẫu không tin lời con hay sao ?
Hoàng Dung thừa biết Dương Qua là ngưòi lắm cơ trí, trái lại Tiểu Long Nữ thì thật thà chất phác, nghĩ sao nói vậy nên không bao giờ khách sáo, nên bà quay sang hỏi Tiểu Long Nữ :
- Hiền muội,có phải chính em đã truyền dạy võ công cho Qua nhi không ?
Tiểu Long Nữ vui vẻ đáp, trong câu nói bao hàm cả sự hãnh diện :
- Thưa, quả đúng là như vậy. Em dạy như vậy, phu nhân xem có được hay không ?
Hoàng Dung nức nở khen vùi :
- Ô, hiền muội khá lắm. Vậy hiền muội học võ công của ai thế ?
Tiểu Long Nữ đáp :
- Dạ, sư phụ em đã khuất bóng lâu rồi.
Hoàng Dung hỏi thêm :
- Vậy tôn sư danh hiệu là gì ?
Tiểu Long Nữ đáp :
- Em chỉ biết sư phụ là sư phụ, còn tên họ của người thì thật tình là em cũng không biết ?
Thật ra, việc không biết tên họ của người dạy võ công cho mình chỉ là việc thường tình trong võ lâm, không có gì uý kỵ cả. Nhưng sở dĩ, Tiểu Long Nữ không muốn nói lộ ra vì nàng nghĩ sư phụ mình chẳng qua là một người a hoàn của Lâm Triều Anh , nếu giới thiệu cái tên Liễu Hoàn cũng không tốt đẹp gì nên nàng mới tìm cách nói trá đi như vậy .
Trong tiệc rượu hôm nay, tất cả mọi người thảy đều hướng về Dương Qua, Tiểu Long Nữ và Hoàng Dung, ai ai cũng hết lời khen ngợi ,ca tụng và mời mọc uống rượu,vì họ xem cặp này là những người có công lớn nhất trong việc đuổi đánh thầy trò Kim Luân Pháp Vương, giải nạn lớn cho võ lâm Trung nguyên.
Phần Quách Phù thì từ trước tới nay, khi nào cũng được mọi người thiết tha coi trọng, vồn vã tiếp đãi. Hôm nay thấy mình bị thiên hạ bỏ rơi, chẳng ai hỏi tới thì trong bụng đã ấm ức thầm, mặc dù anh em họ Võ đã đua nhau ân cần mời mọc ca tụng đủ điều nhưng nàng vẫn không được vui. Nhìn qua bên cạnh thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ được mọi người tha thiết săn đón mời mọc ân cần, nghĩ lại phận mình bị lãng quên, Quách Phù chán ngán tủi thân, nói với anh em họ Võ :
- Tiệc này đâu phải dành cho chúng mình, hơn nữa mình cũng không biết uống rượu, ngồi đây mãi cũng vô ích . Chúng ta hãy bước ra ngoài hứng gió giải trí đi !
Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn cũng đang ngượng ngập và cảm thấy bẽ mặt cùng Dương Qua nên lấn cấn chưa biết đi hay ở. Nay được Quách Phù đề nghị thì có khác chi là được quạt vào lòng, vui vẻ tán thành ngay. Cả ba người cùng đứng dậy bước ra ngoài.
Nhưng mới đi được mấy bước , Quách Tỉnh đã gọi :
- Phù nhi, đi đâu đấy, lại đây cha bảo !
Quách Phù nhìn vào thấy cha đã đến ngồi bên bàn mẹ bao giờ rồi, tay đang rót rượu và miệng nói vui vẻ lắm.
Nàng vội chạy lại hỏi :
- Cha, mẹ ...
Nói xong, nàng dựa người vào bên cạnh mẹ.
Quách Tỉnh tươi cười nói với Hoàng Dung :
- Xưa nay bà có thành kiến cùng Dương Qua, cho nó là đưa kém tài, thiếu tư cách không có bản lãnh thua sút con bà Quách Phù. Hôm nay, trước mặt quần hùng bà cũng thấy rõ khí tiết và tài nghệ của Qua nhi như thế nào rồi. Vậy bà đã công nhận là sự nhận xét của mình từ trước đến nay là sai lạc cả không ?
Hoàng Dung vui vẻ gật đầu :
- Thật tôi vụng về lẩm cẩm quá, có mắt cũng như không. Hôm nay được chứng kiến cháu nó có biệt tài và khí khái, tôi mừng hết sức.
Quách Tỉnh thâý vợ cũng đồng ý khen Dương Qua thì đoán là Hoàng Dung đã mặc nhiên tán thành việc mình đề nghị hứa hôn Quách Phù cùng Dương Qua hôm nọ rồi. Ông mừng quá vội hướng về phía Tiểu Long Nữ hỏi :
- Thưa Long cô nương, nhân tiện hôm nay tôi muốn nói để cô nương được biết , phụ thân của Dương Qua , đồ đệ yêu quý của cô nương, trước kia với tôi giao du như ruột thịt ,hai gia đình "Dương, Quách" đã mấy đời thân thiện cùng nhau. Hai vợ chồng tôi hiếm hoi chỉ sanh hạ được một cháu gái, mặt mày cũng không đến nỗi xấu, võ công cũng không tệ lắm ...
Thấy Quách Tỉnh thật thà quá và đã nói toẹt chuyện ra như vậy, Hoàng Dung bèn cười lớn ngắt lời ông :
- Này, ông khen con gái mình như vậy, không sợ Long muội chê cười chúng ta hợm mình hay sao ?
Quách Tỉnh cười nói :
- Thâm tâm chúng ta đã định đem con gái gả cho Dương Qua, đệ tử yêu của cô nương. Nhưng ngặt nỗi là hiện nay cha mẹ của Dương Qua thảy đều đã qua đời, thì người thay mặt chỉ có cô nương , vì lẽ thầy cũng ngang quyền cha mẹ. Vậy xin cô nương đồng ý đứng ra tác thành duyên nợ cho hai đứa nó. Nhân bữa tiệc hôm nay, có đầy đủ anh hùng thiên hạ, tôi muốn nhờ một vị nào cao niên, nhiều đức độ, có lòng thương tưởng , đứng ra làm mai mối để chọn ngày lành tháng tốt làm lễ đính hôn cho hai con trẻ. Vậy cô nương có bằng lòng hay chăng ?
Theo tục lệ Trung nguyên, thì vấn đề hôn nhân khi nào cũng phải có mai mối trước và được cha mẹ đôi bên ưng thuận mới được, chứ đôi trai gái dù yêu nhau cũng không thể tự tiện lựa chọn , Sở dĩ Quách Tỉnh đưa ra đề nghị này là tuân theo ý muốn của cha là Quách Khiếu Thiên và cha của Dương Khang là Dương Thiết Tâm ngày trước. Hai vị này đã hứa hôn cùng nhau ngày khi còn mang thai Quách Tỉnh và Dương Khang trong bụng. Nhưng vì Quách Tỉnh và Dương Khang đều là con trai cho nên chỉ kết nghĩa kim lan, thành anh em với nhau. Ngày nay, Quách Tỉnh muốn hứa hôn cho Quách Phù cùng với Dương Qua để giữ lời ước hẹn cũ của cha mẹ đôi bên ngày xưa.
Nói dứt lời, Quách Tỉnh nhìn con gái và Dương Qua mỉm cười, trong bụng đinh ninh thế nào Tiểu Long Nữ cũng đồng ý mà tán thành ngay.
Quách Phù xâú hổ quá, không biết nói sao, chỉ biết úp mặt vào lòng mẹ.
Tiểu Long Nữ nghe nói xong, mặt đã đổi sắc, chưa biết nên trả lời ra sao thì Dương Qua đã đứng dậy, bước hướng tới chỗ Quách Tỉnh và Hoàng Dung, vái mỗi người một cái và thưa lớn :
- Công ơn dưỡng dục của Quách bá bá và Quách bá mẫu nặng như non cao, biển cả, con chưa có dịp đền đáp. Con tự thấy gia thế, thân phận mình hèn kém, tài đức còn kém cỏi, phận con không thể nào cùng sánh với Quách tiểu thơ là một trang thiên kim tiểu thư, tài sắc vẹn toàn...
Quách Tỉnh nghe nói hết sức ngỡ ngàng. Lúc đứng ra công bố ý kiến của mình, ông đinh ninh vợ chồng mình tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, con gái mình vừa đẹp, vừa có tài, có thể nói trên thế gian ít người sánh kịp, chỉ cần mở lời ra thì Dương Qua sẽ mừng rỡ nhận lời ngay, đâu có ngờ hôm nay nó đứng ra cự tuyệt như vậy ...
Một chặp sau, ông lại nghĩ tiếp :
- Có lẽ nó còn trẻ người non dạ, chỉ từ chối lấy lệ đây chăng ?
Nghĩ vậy, ông cười lớn, an ủi :
- Qua con, gia đình con và gia đình bác nào phải là nơi xa lạ gì mà có điều cách biệt như vậy. Đây là việc trăm năm, không nên lấy làm xấu hổ.
Dương Qua quỳ xuống đập đầu lạy mấy cái rồi thưa tiếp :
- Thưa bá bá, bá bá cũng như cha cháu, muôn sai khiến điều gì, dù là bước qua đao kiếm, nhảy vào lửa đỏ cháu cũng không bao giờ từ nan. Nhưng về việc hôn nhân này thì cháu không thể nào tuân lệnh được !
Quách Tỉnh thấy Dương Qua trịnh trọng làm lễ và thưa rõ ràng quả quyết như vậy thì ngạc nhiên vô cùng, chưa biết giải quyết ra sao, chỉ quay lại nhìn Hoàng Dung để dò ý kiến vợ.
Hoàng Dung nghĩ bực mình vì chồng quá chủ quan và ngay thẳng, không chịu thăm dò ý kiến chúng nó trước khi tuyên bố . Nay ông đã nói trắng ra trước mặt thiên hạ đến nỗi bị nó từ chối, thiệt là mất mặt vô cùng. Bà thấy như đang ngồi trên chông và thầm trách Quách Tỉnh :
- Dù con mình có chửa hoang cũng không đến nông nỗi như ông vậy !
Nhìn lại Tiểu Long Nữ và Dương Qua, bà có cảm nghĩ :
- A, hai đứa này đã có tình ý với nhau, qua mắt ta sao nổi. Bên ngoài bay mượn tiếng thầy trò để rồi bên trong lại làm điều thương luân , bại lý. Nếu là kẻ như vậy thì đâu xứng đáng gì nữa mà còn làm cao hả ?
Theo cổ tục Trung nguyên hồi nhà Tống, quan hệ giữa thầy và trò cũng như cha mẹ và con cái, nếu sinh chuyện bậy bạ thì sẽ bị trừng phạt theo trọng tội loạn luân.
Trong bụng đã bực bội, vừa tức tối, vưa hổ thẹn, Hoàng Dung bèn đỡ lời cho chồng, quay lại hỏi Dương Qua :
- Qua con, Tiểu Long Nữ cô nương có phải là sư phụ của con không ?
Dương Qua lễ phép đáp :
- Thưa bá mẫu, đúng thế !
Hoàng Dung hỏi :
- Vậy là con đã làm lễ bái sư trước khi học chứ ?
Dương Qua ngạc nhiên hỏi lại :
- Chẳng hay vì sao bá mẫu lại hỏi con điều này ?
Miệng thì trả lời, nhưng đôi mắt liếc nhìn Tiểu Long Nữ, cả hai đều trìu mến nhìn nhau, chứng tỏ một niềm yêu thương đậm đà tha thiết.
Không riêng gì Hoàng Dung, mà tất cả mọi ngừoi trong tiệc thảy đều trông thấy và ai ai cũng công nhận mối quan hệ của hai người này quả thật có điều chi mờ ám.
Hoàng Dung bèn quay sang nói với chồng :
- Tỉnh ca, Quách Phù của chúng ta hãy còn nhỏ tuổi, việc hôn nhân không lẽ nào lại làm hấp tấp đến như vậy. Hôm nay là đại hội anh hùng yến, hãy giành thời gian để bàn chuyện quốc gia đại sự, còn chuyện hôn nhân của con , xin hãy gác lại khi khác sẽ nói tới cũng được.
Quách Tỉnh thấy ý kiến của vợ rất hay và ông cũng công nhận không nên nghĩ việc riêng trước công việc chung của đất nước, ông nhìn Tiểu Long Nữ nói :
- Long cô nương, hôm nay chúng ta nên nói chuyện chung về đại cuộc, vấn đề hôn nhân của bọn trẻ thì để khi khác vậy !
Không ngờ Tiểu Long Nữ quá thật thà, nàng lắc đầu nói :
- Tôi đã có ý định làm vợ Dương Qua từ lâu. Có lẽ anh ấy không thể nhận lấy con gái của ngài nữa đâu .
Câu nói tuy bất ngờ nhưng quá rõ ràng ràng mạch, từ trong đến ngoài, từ trên xuống dứoi trong tiệc mọi người đều nghe rõ. Quách Tỉnh có cảm giác như mình đã nghe lầm, vì không khi nào ông ngờ được một chuyện quá lạ lùng và đột ngột như vậy được. Trước mặt mọi người, họ đã công khai âu yếm nhau, tưởng như thế đã quá lắm rồi, đâu ngờ rằng ....

Quách Tỉnh ngượng ngập hỏi lại :
- ủa, nó không phải là học trò của cô sao ?
Tiểu Long Nữ hé miệng cười tươi như hoa anh đào mới nở, nói :
- Anh ấy là học trò của tôi chứ còn ai nữa. Lúc đầu tôi dạy võ công cho anh ấy, và sau này thành tài , võ nghệ anh ấy cũng đã ngang với tôi , lúc bấy giờ tôi có lòng thương anh ấy, trước đây tôi cứ ngờ là ....
Nàng ngập ngừng một lát rồi nói luôn :
- Tôi cứ ngờ là anh ấy không yêu tôi và không muốn nhận tôi làm vợ nên tôi buồn rầu bỏ đi một thời gian khá lâu. Trong thời gian xa cách , cả hai chúng tôi đều thương nhớ tha thiết tới nhau. Bây giờ gặp lại, tôi hiểu anh ấy cũng một lòng yêu thương tôi, vì vậy nên tôi ... nên tôi ....
Hàng ngàn cặp mắt trong tiệc đang chăm chú theo dõi, trong đại sảnh không một tiếng người. Ai ai cũng ngạc nhiên khi nghe Tiểu Long Nữ thành tâm thổ lộ tâm tình, và cũng thầm nghĩ :
- Lạ quá, con người trông xinh đẹp như hằng nga, mặt mày lanh lợi như thế mà sao lại chất phác đến thế này cơ chứ ? Dù rằng trai gái yêu nhau thắm thiết là chuyện thường tình trên thế gian không ai tránh khỏi con đường tình ái. Tại sao nàng lại đem đầu đuôi , gốc ngọn , kẽ tóc chân tơ ra khai báo cùng vợ chồng Quách Tỉnh là người không có liên hệ gì với tình yêu của nàng ?
Sở dĩ Tiểu Long Nữ là ngừoi chân thật, hơn nữa, vì chưa bao giờ tiếp xúc, giao thiệp với đời nên nàng không ngần ngại, e dè giữ gìn gì hết. Hôm nay thấy cần nói ra để cho mọi người nghe, hiểu ý mình và cũng nói để Dương Qua biết nên nàng nói chứ không hề câu chấp gì hết.
Dương Qua nghe Tiểu Long Nữ thành thật thổ lộ chân tình thì trong lòng rất cảm động. Chàng liếc mắt nhìn qua mọi người thấy ai ai cũng chú ý nghe nhưng có nhiều người bĩu môi ra vẻ khinh miệt cô nương mình, cho rằng nàng quá thật thà, ngu độn, ăn nói thiếu giữ gìn. Chàng bực mình nghĩ thầm :
- Cô nương ta nghĩ sao nói vậy, đâu có phải tụi gian manh vô loại như các người. Chúng mày chẳng qua là bọn người thấy ăn thì tìm tới, thấy khó thì bỏ đi, hay đâu chúc đó, miệng nói nghĩa nhân nhưng lòng hiểm độc hơn lang sói. Như vậy mà cũng vác xác tới đây để dự Anh hùng yến .
Nghĩ như vậy, chàng chán nản đến nói nhỏ với Tiểu Long Nữ :
- Cô nương, chúng ta đi thôi, ở lại nơi đây có ích gì đâu ?
Tiểu Long Nữ hân hoan nói :
- Phải đấy, chúng ta đi thôi !
Hai người bảo nhau xong rồi cùng len lỏi bước ra đại sảnh .
Thật ra trong số người dự anh hùng yến hôm nay, Tiểu Long Nữ chẳng ngó ngàng tới ai ngoài Dương Qua là người bạn tri kỷ mà thôi.
Thấy hành động quá ư kỳ quặc của hai người, Quách Tỉnh, Hoàng Dung cùng ngó nhau chứ không biết nói gì cả. Thật ra từ xưa tới nay, hai người chưa bao giờ chứng kiến cảnh nào ương gàn kỳ cục như vậy cả. Thật không ngờ lại có những hành động quái dị như thế !
Hoàng Dung cất tiếng nói theo :
- Long cô nương, hiện nay cô nương đang là Võ lâm minh chủ, bao nhiêu anh hùng trong thiên hạ đều trông chờ vào cô nương, tại sao lại bỏ đi một cách quá ư đột ngột như vậy ? Xin cô nương hãy suy nghĩ lại, đừng để phụ lòng các anh hùng hào kiệt nơi đây !
Tiểu Long Nữ quay đầu lại nhìn Hoàng Dung cười nói :
- Xưa nay tôi không thích danh tước chức vị gì đâu. Minh chủ với cả Minh tớ, đối với tôi không có gì quan hệ hết, xin chớ dây dưa tới tôi làm chi. Nếu phu nhân muốn, tôi xin nhường lại liền.
Hoàng Dung đáp :
- Không được đâu. Nếu cô nương không muốn thì xin nhường lại cho Hồng Thất Công lão tiền bối, vì người mới xứng đáng với chức vị này.
Tiểu Long Nữ lắc đầu nói :
- Xin bà tuỳ tiện thu xếp thế nào được thì thôi, chứ tôi chẳng biết gì hết đâu !
Nói xong, nàng dắt tay Dương Qua rảo bước ra ngoài rồi chạy như bay biến mất.
Ngay lúc đó, một bóng đen thoáng qua vù vù, một người đã phi thân xông tới cản lộ.
Dương Qua nhìn lại biết kẻ đó là Triệu Chí Kính, đạo sĩ của Toàn Chân giáo. Chàng chưa kịp hỏi gì thì Triệu Chí Kính đã mắng lớn :
- Dương Qua súc sinh, mày là đứa bỏ tổ phản tông, đâu phải là hạng người đáng sống trên thế gian này nữa. Hôm nay mày lại công khai làm chuyện loạn luân như loài cầm thú, bêu xấu giữa võ lâm, ta không thể nào tha thứ cho mày được nữa !
Dương Qua không muốn gây chuyện lôi thôi cùng hắn tại chốn này nên cố dằn tâm bảo :
- Hãy tránh đường cho ta đi !
Triệu Chí Kính trợn mắt quát lớn :
- Đi đâu được , hãy nghe đây. Này Doãn sư đệ, sư đệ hãy lên đây kể lại câu chuyện chúng mình bất ngờ gặp hai đứa nó trần truồng trên núi Chung Nam, đã trần truồng ăn nằm với nhau như thế nào, hãy kể lại cho mọi người cùng biết !
Doãn Chí Bình đứng dậy giơ bàn tay trái lên .
Mọi ngưòi để ý nhìn thấy cả ngón tay út và ngón tay vô dang của Doãn Chí Bình đã bị chặt cụt mất rồi, mà mặt mày y tái mét đang đứng lặng thinh run run nên chẳng ai hiểu gì hết. Người nào người nấy cũng nghĩ bụng :
- Trong việc này thế nào cũng có điều chi kỳ bí đây !
Nguyên trước đây tại Chung Nam Sơn, Tiểu Long Nữ và Dương Qua thoát y luyện Ngọc Nữ tâm kinh trong bụi hoa hồng, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình tình cờ đến ngay lúc ấy. Dương Qua đã buộc Triệu Chí Kính phải tuyên thệ giữ kín chuyện này mới tha chết cho hắn. Không ngờ hôm nay tại chốn đông đảo quần hùng thiên hạ này, hắn lại đem câu chuyện này nói toẹt ra, lại thêm điều vu khống để làm nhục hai người. Dương Qua giận quá,quát lớn :
- Mi đã cam đoan thề không bao giờ nói chuyện này cho kẻ thứ năm biết, tại sao hôm nay lại nuốt lời như vậy hả ?
Triệu Chí Kính cười lớn đáp :
- Ta đâu có quên lời thề cũ. Mi cũng nhớ ta cam đoan không đem chuyện này nói lại với người thứ năm biết . Nhưng hôm nay, trước mặt quần hùng thiên hạ, hàng trăm hàng ngàn người là một vấn đề khác hẳn đi rồi. Ta đâu có nói với người thứ năm, mà nói với hàng ngàn người cơ mà. Hơn nữa bọn bay đã làm bậy thì bọn ta có quyền bảy tỏ trước mọi người chứ !
Sự thật và câu chuyện mà Triệu Chí Kính vạch ra đêm nay hoàn toàn khác xa nhau. Đêm đó, Triệu Chí Kính gặp hai người loã thể nấp mỗi người một nơi trong rừng hoa hồng để luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh, một môn võ công thượng thừa trong Cổ Mộ phái. Chính y đã thừa rõ việc này. Hôm nay, Triệu Chí Kính cố tình nói qua lối khác không ngoài mục đích hạ nhục và chôn vùi danh dự của Dương Qua và Tiểu Long Nữ .
Tiểu Long Nữ bỗng nghĩ lại đêm nào bản thân mình đã bị một người nào đó làm điều ô nhục, không biết có phải là Dương Qua hay không, khiến nàng tức giận đến trảo cả máu miệng. Hôm nay, chính miệng hắn lại thêu dệt để nói xấu mình trước mặt quần hùng nữa thì trong lòng ức quá, không dằn tâm được chỉ thẳng vào mặt hắn nói lớn :
- Mi còn dám mở mồm nói chuyện bậy bạ nữa hay sao ?
Miệng thì nói, nhưng nàng vận nội công vào ngón tay, điểm vào huyệt theo thuật điểm huyệt trong Ngọc Nữ Tâm Kinh , phát ra vô hình vô tích, nhưng hiệu nghiệm vô cùng.
Triệu Chí Kính cảm thấy nguy cơ vội đưa tay ra đỡ gạt nhưng không thể được, bị điểm ngay vào huyệt đạo nơi bả vai.
Lúc đầu chưa thấy đau đớn chi, y xem thường, cười nhạt khinh khỉnh nói :
- Cô này định làm gì đấy ? Hay lại muốn giở trò bậy bạ như cái đêm nào trên Chung Nam sơn nữa sao ? Ta ...
Nhưng hắn chưa thốt hết câu thì bỗng đôi mắt trợn ngược, té sấp trên mặt đất, nằm giãy tê tê.
Triệu Chí Kính đã bị trọng thương rồi.
Tôn Bất Nhị và Hách Đại Thông thấy sư điệt bị trọng thương vội vàng đỡ dậy.
Triệu Chí Kính đôi mắt nhắm nghiền, mồm hộc máu tươi đầy đất. Toàn thân lả đi như người say rượu.
Tôn Bất Nhị cười gằn nói :
- Phái Cổ Mộ muốn gấy hấn cùng Toàn Chân giáo hay chăng ?
Nói xong, bà ta tuốt kiếm ra định xông tới đánh với Tiểu Long Nữ .
Quách Tỉnh từ trên đại sảnh lao vút xuống đứng giữa can ngăn :
- Chúng ta thường dặn nhau, anh em cùng trong nhà không nên đánh nhau. Cớ sao hôm nay quý vị lại hành động như vậy ?
Nói xong, ông nhìn Dương Qua nói :
- Qua con, cả hai đều là tôn sư con cả, con nên mời cả hai vị vào bên trong bàn chuyện ổn thoả với nhau đi.
Tiểu Long Nữ từ nhỏ tới lớn sống trong Cổ Mộ với một nếp sống hồn nhiên mộc mạc, không bao giờ động chạm đến bên ngoài nên ít khi nếm phải các thủ đoạn điêu ngoa quỷ quyệt của người đời. Nay gặp liên tiếp mấy chuyện, trong lòng nàng chán ngán quá, không chịu nổi nữa. Nàng quay sang bảo Dương Qua :
- Qua nhi, chúng ta nên đi cho khuất mắt để khỏi phải nhìn thấy bọn đểu giả này nữa !
Dương Qua gật đầu, nắm tay nàng cùng bước đi ra ngõ.
Tôn Bất Nhị vung trường kiếm thét lớn :
- Chúng bay đánh người bị trọng thương rồi, định vứt lại đây để chạy trốn chăng ?
Thấy hai bên lại xô xát, Quách Tỉnh nghiêm giọng dằn từng tiếng một bảo Dương Qua :
- Qua con, nếu con biết điều thì nên ở lại giải quyết cho ổn thoả. Nếu không, ta không còn nể tình nữa đâu. Con có biết tại sao tên con lại đặt là "Qua"không ? Luôn tiện ta cũng giải thích cho mà biết. Chữ "Qua" tức là "Quá" gọi theo lối miền bắc đấy ! Quá có nghĩa là "Lỗi", con đã hiểu rõ căn nguyên chưa ?
Nghe nói tới đây, trong lòng Dương Qua thấy sôi lên một niềm uất hận. Chàng thầm nhớ lại cuộc sống điêu linh phiêu bạt từ ngày còn bé. Chưa bao nhiêu tuổi đầu đã nếm mùi khổ đau đắng cay . Bây giờ Quách Tỉnh giải thích khiến chàng thầm nghĩ :
- Ông ta muốn đưa tên ta ra giải thích lúc này chắc là để làm nhục ta đây ! Ta cố dò xét xem sự thật ra sao rồi sẽ tuỳ cơ ứng biến !
Nghĩ vậy, chàng dừng lại để nói chuyện cùng Quách Tỉnh và trong thâm tâm muốn nhân dịp này để tìm ra nguồn gốc của song thân mình và tìm ra nguyên nhân cái chết của cha chàng khi trước. Suốt thời gian qua chàng vẫn cố tâm tìm hiểu, nhưng sự việc vẫn bị bao phủ trong màn đen bí mật...

Hồi 38

Trên đường về gặp lại Kim Luân Pháp Vương.

Quách Tỉnh lúc nào cũng xem Dương Qua như con cháu trong nhà. Khi thấy chàng trổ tài trước mặt quần hùng vì nghĩa lớn thì oong thương yêu chàng như con ruột của mình.
Cũng do tình thương ấy mà ông không ngần ngại tỏ ý định gả Quách Phù cho chàng để thực hiện theo phương châm "Dâu hiền hơn gái, rể thảo hơn trai " . Không ngờ Dương Qua lại gạt đi và nguyên nhân sự từ chối này lại xuất phát từ một hành động loạn luân giữa hai thầy trò nam nữ. Vì vậy ,ông nhắc lại chuyện cũ, nghiêm giọng quở trách :
- Sở dĩ trước khi mẹ con từ trần, người có nói lại cho ta chuyện này nên ta mới hiểu chữ "Qua" tức là "Quá" như ta đã nói.
Dương Qua nhớ lại lờ mờ trong ký ức, ngày mình còn thơ ấu, thỉnh thoảng mẫu thân cũng có nêu lại câu chuyện này nhưng khi ấy còn nhỏ tuổi quá, ngây thơ, chỉ nghe thoáng qua rồi quên mất chứ không hiểu được rành mạch
Nghĩ vậy, chàng ngước mắt lên nhìn Quách Tỉnh nói :
- Thưa Quách bá phụ, hay là bây giờ gọi bằng cách khác được không ?
Quách Tỉnh nói :
- Qua con, tên của con là do mẹ con đích thân đặt cho, không thể gọi khác được. Hơn nữa, nó cũng sẽ thường xuyên nhắc nhở con không nên gặp phải những sai lầm đáng tiếc trong cuộc đời đó !
Dương Qua nổi tức không dằn được nữa, cãi lại :
- Như thế thì Quách bá bá cho rằng một khi người ta có lỗi thì không bao giờ có thể sửa chữa được hay sao ?
Quách Tỉnh đổi giọng ôn tồn, hoà nhã nói :
- Qua con, con người ta trong đời ai tránh được mắc phải lỗi lầm. Khi có lỗi mà biết sửa đồi thì còn gì quý hoá bằng. Xưa nay thánh hiền vẫn khuyên chúng ta có từng ấy mà thôi. Con đã hiểu như vậy, tạo sao đối với sư phụ lại không tôn trọng, còn giở những trò hèn hạ như thế ?
Dương Qua cãi lại :
- Con có lỗi, con tự khắc sẽ sửa, có chuyện gì liên quan tới y ?
Chàng trỏ tay vào Triệu Chí Kính và nói tiếp :
- Chính hắn đã đánh đập hành hạ tôi đủ điều, làm sao tôi có thể nhận hắn làm thầy được ? Còn đối với cô nương tôi, trên biết thương dưới, chúng tôi đối xử với nhau quang minh chính đại, không điều gì trái với lương tâm, có Trời cao soi xét. Tôi hết lòng kính mến yêu thương cô nương tôi, như thế có gì gọi là lỗi lầm đâu ?
Dương Qua biện luận từ lời nói sang sảng rành mạch, nghe qua rất có lý. Quách Tỉnh không biết nói gì hơn để bắt bẻ nữa. Hơn nữa, ông vốn là người chất phác, không ưa mồm mép thì làm sao cãi lại được với Dương Qua. Huống chi việc bất chính của chàng và Tiểu Long Nữ cũng chưa có gì chứng minh rành mạch để đưa ra buộc tội chàng được.
Hoàng Dung bước lại gần nhẹ nhàng nói dỗ dành :
- Qua con, hai bác vì thương yêu cháu nên mới có lời khuyên can, con nên hiểu rõ điều đó nhé !
Nghe Hoàng Dung nói lời lẽ dịu dàng, mềm mỏng, đối xử với mình, Dương Qua thấy cõi lòng xao xuyến, cảm động, thấp giọng nói :
- Quách bá bá rất tốt đối với cháu, cháu biết rõ điều này chứ !
Nói tới đây, chàng xúc động quá, nước mắt trào ra dàn giụa.
Hoàng Dung lại ôn tồn an ủi thêm :
- Bác thương cháu nên muốn đưa điều hơn thiệt, lẽ phải trái để bày tỏ cùng cháu. Cháu không nên hiểu lầm bác, tội nghiệp nghe !
Thấy Dương Qua lặng thinh không nói gì, bà ôn tồn nói thêm :
- Thế ra cháu vẫn không nhận thấy lỗi lầm của mình hay sao. Chẳng lẽ bác lại đi vu khống cho cháu à ?
Nghe tới đây, Dương Qua thấy bực trong lòng, suy nghĩ :
- Ông bà có lòng tốt với tôi, lẽ dĩ nhiên là tôi phải đáp lại bằng hành động biết ơn, nhưng ép tôi làm một chuyện khác thì không khi nào tôi cam chịu đâu !
Nghĩ vậy, chàng căm tức đứng mím môi lặng thinh không nói nữa.
Hoàng Dung bèn nói thẳng ra :
- Được lắm, cháu đã muốn nói thẳng thì bác cũng nói luôn ra đây. Nghe xong, cháu đừng có loanh quanh chối cãi nữa nhé ! Long cô nương đây là bậc tôn sư của cháu, cháu phải xem người như bậc cha mẹ, tại sao lại có tư tình nam nữ, như vậy xem sao được ?
Thật ra trong khuôn khổ lễ nghi thì Tiểu Long Nữ chưa hiểu rõ ràng về quy tắc "thầy, trò" cho lắm, chỉ biết một cách mờ mịt mà thôi. Còn Dương Qua thì đâu phải ngu đần gì mà không hiểu được vấn đề này. Tuy nhiên, chàng thường nghĩ rằng :
- Cô nương dạy ta võ công, ta cần phải kính trọng người như dạy chữ nghĩa văn chương, vì dù sao một chữ cũng là thầy, một đường võ cũng là thầy, đời nào ta có mơ ước đi lấy nàng làm vợ. Ta tự xét lại hành động của mình xưa nay chưa bao giờ có điều chi vượt ngoài vòng lễ giáo, quá nghĩa thầy trò cả. Không hiểu tại sao những người này cứ nằng nặc buộc cho ta cái tội loạn luân đến như vậy ? Ta không làm bậy mà họ cũng không tin, cứ gán cho ta là kẻ phạm lỗi, biết tính sao đây. Thôi, họ đã gán như vậy thì ta cứ nhận bừa cho xong, khỏi phải tranh luận lôi thôi. Lòng ta tự biết việc của ta làm, và có trời đất soi xét lòng ta là đủ lắm rồi !
Nghĩ xong, chàng quả quyết đáp :
- Long cô nương chỉ dạy võ công chứ không dạy sách vở văn chương, có luật lệ nào cấm tôi lấy nàng làm vợ ? Hai bác có kề gươm vào cổ thì tôi vẫn công nhận Long cô nương là vợ của tôi mà thôi !
Câu trả lời đột ngột của Dương Qua khiến cho bao nhiêu người nghe thảy đều kinh ngạc, ai ai cũng nhìn nhau, chép miệng lắc đầu, không nói gì hết.
Cũng có những người lớn tuổi đạo mạo than rằng :
- Nước nhà đã đến hồi suy nhược, bị quân Mông Cổ xâm lăng gần hết, vỏn vẹn chỉ còn một giải đất miền Nam này, nay lai thêm chuyện gái trai bậy bạ,thầy trò loạn luân như thế này thì còn mong gì cất đầu lên được, khôi phục lại mảnh đất thân yêu miền Bắc đang nằm trong tay địch. Có thể rồi đây miếng đất nhỏ phương Nam này cũng sẽ lọt vào tay chúng. Thế hệ thanh niên chỉ mải mê câu chuyện tửu sắc vô luân thì còn ai chịu hy sinh tính toán điều đại sự cho nước nhà . Trai như thế, gái như thế, hễ quân Mông Cổ đem chút vàng bạc, vinh hoa ra nhử, thì dù cho có quật mồ ông cha lên để nộp cho chúng, họ cũng chẳng từ nan!
Xưa nay Quách Tỉnh vốn trọng chữ luân lý, kính mến sư phụ như cha mình . Nay thấy Dương Qua mở miệng thốt lên những lời nói vô luân, đồi phong bại tục, thì máu giận nổi lên đùng đùng. Ông muốn nắm cổ Dương Qua và Tiểu Long Nữ quăng phứt ra ngoài cửa sổ như một con vật đáng kinh tởm để khỏi làm bẩn mắt mọi ngừoi.
Tiểu Long Nữ hoảng sợ, muốn phi thân lánh trốn nhưng không kịp nữa, Quách Tỉnh đã túm được tóc nàng quăng luôn ra cách đó mấy trượng . Đoạn ông quay lại phía Dương Qua điểm ngay vào huyệt "Thiên Đột" rồi mắng rằng :
- Thằng súc sinh, thật ta không ngờ mày lại mở miệng thốt ra những lời vô luân thối tha như vậy !
Dương Qua bị điểm huyệt, hơi sức không còn nữa , nhưng vẫn cố cãi :
- Cô ấy yêu tôi, tôi yêu lại là chuyện thường , có hại tới ai đâu. Quách bá phụ muốn giết thì cứ giết chứ cháu không thể nào thay đổi ý kiến được đâu !
Quách Tỉnh trợn mắt hét lớn :
- Nếu mày mà là con đẻ của ta thì ta đã bóp cổ chết từ lâu rồi chứ không để nói tới giờ này nữa đâu !
Dương Qua vẫn gượng nói cố :
- Tôi cũng xét là không có lỗi gì hết. Vì tôi không hại ai, cũng không can hệ đến công việc của một người nào khác thì chuyện gì lại bắt tội tôi.
Những lời này thốt ra từ miệng Dương Qua nghe rang rảng, tất cả anh hùng đều nghe rõ mồn một. Có lắm người xúm lại bàn tán riêng :
- Cặp trai gái này yêu thương nhau như vậy, tại sao lại không tìm một nơi hoang vu xa lạ, non nước xa xôi để cùng nhau kết tóc hưởng trọn hạnh phúc , lại dẫn thân chi đến những chốn này để cho thiên hạ cười chê, đạo lý buộc tội ?
Nghe Dương Qua nói như vậy, Quách Tỉnh đưa chưởng lên cao thét lớn :
- Dương Qua , mày cũng đã biết thừa tính ta rồi. Thà ta giết mày còn hơn là để mày nói và làm những điều tồi bại như vậy. Mày nghĩ sao ?
Dương Qua thầm nghĩ, nếu không thận trọng lời nói trong lúc này thì mất mạng như chơi. Thường nhật, chàng là một người giảo hoạt tráo trở vô cùng, nhưng không hiểu sao lúc này lại nảy sinh gàn bướng. Mặc dù biết như vậy nhưng vẫn nói càn :
- Tôi tự xét lương tâm không làm diều chi có lỗi. Còn bá bá muốn giết hay muốn tha thì tuỳ lượng bá bá !
Quách Tỉnh không dằn được nữa, đưa tay phải lên cao , vận chưởng lực định đập vào thiên linh cái Dương Qua cho rồi .
Quần hùng đứng xung quanh thảy đều thất kinh, ai ai cũng đinh ninh là thế nào Dương Qua cũng bị đập vỡ sọ mà chết. Lắm người không nỡ nhìn, nhắm tịt mắt lại.
Khi đinh đánh xuống, Quách Tỉnh nhìn vào mặt Dương Qua, thấy chàng mím môi nhắm mắt cam tâm chịu đòn, giống hệt nghĩa đệ mình Dương Khang ngày nào như tạc thì ông bỗng thở dài không đành dạ, rút tay lại ,thở dài bảo :
- Dương Qua con hãy suy xét hành động như vậy có đáng mặt nam nhi hay không ?
Nói xong, ông buồn buồn bước về bàn tiệc , ngồi lặng thinh không nói gì nữa.
Tiểu Long Nữ đứng ngoài vẫy tay gọi Dương Qua :
- Qua nhi, thôi chúng ta đi cho rồi . Không hơi đâu lý luận mãi với mấy ông già ngang như cua ấy được .
Dương Qua nghe nàng bảo, thấy chữ ngang như cua của Tiểu Long Nữ diễn tả rất hợp ý mình , bèn lồm cồm bò dậy, nắm tay nàng cũng đi về phía trang viện, tìm con ngựa ốm đang ăn cỏ gần đâu đó rồi cả hai cũng nhảy lên cưỡi.
Toàn thể anh hùng cùng đưa mắt nhìn theo , kẻ phục tài, người khinh bỉ, có kẻ thì xuýt xoa thương hại, mỗi người suy nghĩ và nhận xét theo một cách khác nhau.
Ngựa chạy gập ghềnh được một quãng xa thì trời vừa tối. Dương Qua, Tiểu Long Nữ cùng bước xuống đi bộ dắt ngựa theo sau vì đường xá vừa đen tối, vừa gập ghềnh khó đi. Nhờ công phu luyện tập nhiều,cả hai đều có cặp mắt nhìn trong đêm tối rõ như ban ngày cho nên bước đi cũng không có khó khắn vất vả mấy. Cả hai sánh vai nhau cùng nhẹ bước trên con đường đá sạn, không nói một lời, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Kể từ khi gặp được nhau, chưa chuyện trò được mấy chốc đã phải đánh nhau, có khi gần mất mạng. Hết đánh nhau thì lại tới hổi tranh luận gay go, ai cũng đè ép mình làm nên tội lỗi. Trong thời gian rất ngắn mà đã tiếp xúc không biết bao nhiêu là hạng người, vương tôn công tử có, cao tăng đạo sĩ có, anh hùng hào kiệt có, chúa ăn mày và bọn hành khất ,... thành phần nào cũng có. Thế nhưng không có kẻ nào thành thực và trung tín cho đúng cái ý nghĩa của nó. Họ chỉ bám lấy cái hư danh bên ngoài để vơ lấy danh lợi, và rốt cuộc ai ai cũng dối mình, khách sáo để dối cả đời. Trong xã hội không thấy gì tinh tuý mà chỉ toàn là cảnh trái tai gai mắt, quả đúng với hai chữ "tục luỵ" không sai !
Suy nghĩ miên man, không bao lâu hai người đã đi tới một gốc cây tùng khá lớn . Cả hai cùng ngồi lại nghỉ chân, thả cho con ngựa đi lại tự do gặm cỏ .
Gió đêm thổi nhè nhẹ xung quanh tĩnh mịch không một bóng người , chẳng một tiếng động . Vì mỏi mệt,cả hai cùng tựa vào gốc tùng ngủ quên lúc nào không biết.
Bỗng tiếng ngựa hý vang rân, hai người chợt tỉnh giấc thì vầng thái dương đã lên cao lắm rồi.
Hai người cũng nhìn nhau mỉm cười. Qua một đêm ngủ ngon giữa chốn núi rừng hoang vu thanh tịnh, không vướng mùi tục luỵ, không mảy may lo chuyện đời, cả hai cùng cảm thấy trong tâm hồn thư thái , chẳng còn tý buồn lo .
Dương Qua hỏi :
- Cô nương, bây giờ chúng ta nên đi về đâu ?
Tiểu Long Nữ trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi ngước mắt lên đáp :
- Thôi , chúng ta hãy về Cổ Mộ trước đã.
Sở dĩ nàng bảo thế là vì nàng đã đắn đo suy nghĩ kỹ.
Kể từ lúc hạ sơn , đặt gót chân qua không biết bao nhiêu làng mạc thị trấn mà người ta gọi là chốn phồn hoa đô hội, nhưng đâu đâu cũng chỉ gặp những chuyện bận tâm buồn phiền, không chỗ nào thanh cao như như Cổ Mộ.
Nàng tự nghĩ :
- Gọi là chốn phồn hoa đô hội nhưng tại sao có những người quá giàu sang phú quý, món ngon vật lạ bỏ đi không hết, nhưng trái lại có những người đầu tắt mặt tối mà vẫn không có bữa cháo no lòng. Có kẻ mập mập như trâu trương, một bước ra đường là võng kiệu, kẻ hầu người hạ, có người thì ốm tong chỉ còn bộ xương bọc da, không đủ miếng cơm manh áo.Cùng sinh ra con người, xã hội lại đặt ra những điều quy định trói buộc người hèn hạ ngu dại, suốt đời chỉ đóng vai trò nô bộc nuôi thân. CHi bằng hãy trở lại Cổ Mộ, tháng ngày tiêu dao với rừng núi , ung dung tự tại, khỏi phải đụng chạm với những gì rắc rối phiền toái ở đời !
Nghĩ lại nhà Tống,từ khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn sáng nghiệp, được đức Thế Tông nhà Chu truyền ngôi, đã trải qua cả thảy chín đời nối nghiệp,tính đến nay đã được đến một trăm sáu mười lăm năm, suốt thời gian ấy, biết bao nhiêu là kẻ hưởng ơn vua, lộc nước , mũ cao áo dài, thế mà từ khi Mông Cổ xâm chiếm hết một nửa giang sơn gấm vóc , nào có kẻ nào đứng lên dựng cờ kháng Mông đương nhiên chống lại giặc ? Nếu có chăng, chỉ có một vài môn phái mượn danh Tống chống Mông, thống nhất san hà, để lập nên môn nọ phái kia, ăn trên ngồi trước. Ngay như Quách Tỉnh xưng là đại hiệp, Hoàng Dung là chúa ăn mày, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có công nghiệp thực tế gì với núi sông.
Dương Qua thấy Tiểu Long Nữ trầm ngâm lo lắng thì đoán rằng :
- Có lẽ cô nương mình muốn trở về sống lại với cảnh đời thiên nhiên trong sạch, lánh xa thế tục con người, để khỏi trông thấy những chuyện trái tai gai mắt cười gượng khóc thầm của nhân thế.
Nghĩ thế rồi, chàng tự nhủ :
- Còn riêng ta, cũng không mong gì hơn là được sống mãn đời trong Cổ Mộ với con người thực dạ yêu ta. Từ khi ta rời Cổ Mộ dấn thân vào cuộc đời chỉ gặp toàn những chuyện giả dối và ngán nhất là những lý thuyết cổ điển về những luân lý lỗi thời và câu chấp, luôn ràng buộc con người một cách vô lý và bất công.
Lòng nghĩ mông lung, nhưng chân vẫn bước đi đều đều. Cả hai đi bộ một chặp rồi cùng lên ngựa cho sải nước kiệu chạy về hướng Bắc.
Trên đường đi xa, hai người mải chuyện trò, nhắc lại những chuyện vui trong dĩ vãng hoặc kể lại những mẩu chuyện trong lúc xa nhau, nhớ nhung và gặp lại nhau.
Trong hành trình chỉ có hai người và con ngựa, trên có trời, dưới có đất, nhưng hai người vẫn xưng hô theo đúng lễ phép, nghĩa là lúc nào Dương Qua cũng gọi Tiểu Long Nữ là cô nương, mà Tiểu Long Nữ vẫn gọi Dương Qua là Qua nhi hay anh Qua chứ không bao giờ dùng danh từ nào khác nữa.
Đi mãi, mặt trời đã đứng bóng. Hai người bắt đầu bàn lại về võ công của thầy trò Kim Luân Pháp Vương.
Khi bàn tới thầy trò Kim Luân Pháp Vương, cả hai người trầm trồ khen ngợi ông ta đã đạt tới cảnh giới "siêu quần tuyệt luân" , trên thiên hạ không ai sánh kịp.
Trong khi đang chuyện trò, Tiểu Long Nữ bỗng nhớ lại một chuyện rồi vội kêu với Dương Qua :
- Qua này, chương cuối cùng của Ngọc Nữ Tâm Kinh còn một đoạn cuối cùng đã lâu quá chúng mình không luyện tập rồi, bây giờ Qua còn nhớ không ?
Dương Qua đáp :
- Cũng còn nhớ, nhưng mấy lúc nay tôi tập chỗ ấy có vẻ hững hờ sao ấy, không thấy hứng thú tí nào cả. Hay là vì chỉ tập một mình nên buồn tẻ như vậy chăng ?
Tiểu Long Nữ nói :
- Chính ta cũng không nhớ hết được. Nhưng hôm qua khi chiến đấu cùng lão đạo cô đó mấy đường, thấy kiếm pháp của bà ta , đối chiếu lại mới thấy phần luyện tập của mình có chỗ không đúng lắm !
Dương Qua sốt sắng hỏi :
- A, phải rồi, hôm qua thấy lão bà Tôn Bất Nhị múa mấy đường kiếm pháp giống như đoạn cuối trong Ngọc Nữ Tâm Kinh.Họ là ngưòi của Toàn Chân giáo mà còn thạo biết mấy ngón này, huống chi là mình lại không lo luyện cho chu đáo .
Nguyên trước kia sư tổ của phái Cổ Mộ là Lâm Triều Anh đối với Vương Trùng Dương giáo chủ Toàn Chân giáo có một mối tình rất tha thiết. Trong khi sống trong Cổ Mộ, soạn ra Ngọc Nữ Tâm Kinh , Lâm Triều Anh luôn luôn tưởng nhớ tới Vương Trùng Dương, vì vậy cho nên trong đoạn chót của thiên võ công này, bà có sáng chế ra một đoạn "song vũ", nghĩa là một trai một gái cùng nhau song đấu. Trong khi ấy, bà vẫn nuôi hy vọng sau này hai ngưòi kết hợp thành vợ chồng sẽ cùng tập pho võ công này để sát cánh cùng nhau chống lại bao nhiêu tay võ công kỳ tài trong thiên hạ . Vì vậy nên chương này gồm có tất cả các thế võ cao siêu nhất của Trùng Dương Cung , pha trộn với những đường gươm bí truyền trong Ngọc Nữ Tâm Kinh. Cứ hai người cùng nhau sát vai chiến đấu thì một người đánh một người đỡ, phối hợp cả thế thủ lẫn thế công , khiến cho địch thủ dù tài ba đến đâu cũng không tài nào chống lại nổi.
Ngay sau đó, Dương Qua và Tiểu Long Nữ mỗi ngưòi bẻ một nhánh đào cùng nhau luyện lối đánh "song vũ" . Tiểu Long Nữ đánh theo Ngọc Nữ Tâm Kinh, còn Dương Qua đánh theo kiếm pháp Toàn Chân giáo.
Nhưng lạ một điều là hai người đánh võ có vẻ quá rời rạc, không ăn khớp vào đâu hết.
Tiểu Long Nữ nói :
- Có lẽ chúng ta đã quên lý thuyết nên tập không thấy hào hứng chút nào cả. Để lúc trở về Cổ Mộ xem lại các bài khắc trên vách đá để học cho thật thuần rồi mới cùng múa xem sao!
Dương Qua chưa kịp đáp, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập. Một con ngựa phi vút tới nơi rồi thoáng một cái đã bay vút qua rất lẹ ....

Đó là một con ngựa màu lông đỏ như máu, trên lưng, một nữ lang cỡi mặc y phục cũng màu hồng. Vừa trông thoáng qua cả người và ngựa đã biến dạng trong đám cát bụi mù mịt đàng xa như một ánh lửa đỏ đang tắt dần trên không.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Con thần mã này chính là Tiểu-Hồng mã của Hoàng-Dung đây rồi.
Vì không muốn gặp lại vợ chồng Quách-Tỉnh và những người trong gia đình của ông ta nên Dương-Qua bèn bàn cùng Tiểu-Long-Nữ:
- Con ngựa hồng vừa rồi chính là bảo câu tiểu hồng mã của Hoàng-Dung. Không hiểu tại sao có người cỡi tới chốn này, hay là để tìm kiếm bọn mình chăng? Tốt hơn là chúng mình tìm cách lánh mặt để khỏi phải gặp họ. Cô nương có bằng lòng chăng?
Lúc bấy giờ Tiểu-Long-Nữ chỉ đóng vai thầy dạy võ nghệ còn bao nhiêu việc khác đều do theo ý kiến của Dương-Qua cả. Vì vậy nên đề nghị này được nàng tán thành ngay. Cả hai dẹp ngay chuyện luyện kiếm đi xuyên vào rừng rậm để tránh mặt những người trong gia đình Quách, Hoàng có thể đuổi theo tìm kiếm.
Hai người đang vẩn vơ giữa rừng xanh, bỗng nghe văng vẳng có tiếng chuông thu không của một ngôi chùa nào gần đây.
Tiểu-Long-Nữ mừng rỡ nói:
- May quá, phía đàng kia có tiếng chuông chùa, chắc đêm nay chúng ta khỏi nằm rừng rồi đấy. Vậy nên tìm lẹ lên kẻo trời sắp tối rồi.
Dương-Qua cười nói:
- Cô chán cảnh phồn hoa rộn rịp, muốn ẩn thân vào chốn cô tịch hoang vu, há lại ngại chuyện ngủ rừng nằm núi hay sao?
Tiểu-Long-Nữ nói:
- Rừng núi là chốn dung thân của cọp beo rắn rết. chúng mình không nên tranh chỗ với chúng làm gì. Ngoài ra chúng ta cũng không nên khiến cho chúng nghi kỵ rằng mình là bọn thợ rừng săn bắn phá hại bọn chúng.
Dương-Qua lại cười dòn hơn:
- Nếu vậy thì chùa là nơi trú ngụ của các nhà sư, chúng mình cũng không nên làm bận rộn làm gì. Mình không nên làm mất cảnh thanh tịch của Phật đường, huống chi sự hiện diện của Cô nương có thể khiến cho một vài vị sư kém đường tu nghĩ tới chuyện phá giới, hoặc biết đâu cũng có vài vị ni cô, vì Dương-Qua này mà để tóc trở về trần tục.
Tiểu-Long-Nữ thấy ý kiến này cũng ngồ ngộ nên cười xòa rồi hỏi:
- Thế ra cậu muốn ngủ rừng hay sao? Ngủ rừng có thú vị chi mà ao ước. Mà hễ ao ước thì có ngay chứ có khó chi đâu. Bọn chúng ta đang đứng tại trung tâm rừng già đây mà. Hèn chi mấy ông sư Tây-Tạng thảy đều ngán cậu là tay láu cá thật quả không sai.
Cô nương quả thật Mán rừng về thành thị, nên chả hiểu gì hết thảy. Đố cô nương có đoán được vì sao tôi đề nghị ngủ rừng đêm nay không?
Tiểu-Long-Nữ nói:
- Có lẽ cậu muốn tìm một vài cặp nhung nai hay phô trương tài bắn cọp chứ gì?
Dương-Qua cười nói:
- Không đúng rồi. Nếu Cô nương đáp được, em nguyện cõng Cô nương từ đây về tận Cổ mộ, dù phải đi hàng tháng hay hàng tuần cũng không bao giờ than thở.
Tiểu-Long-Nữ nói:
- Chịu thôi ai mà đoán được thâm tâm của anh chàng láu cá!
Dương-Qua cũng cười lớn nói đùa lại;
- Người ta láu cá còn hơn những kẻ hay hờn mát và nhõng nhẽo.
Tiểu-Long-Nữ nói:
- Người ta hay hờn mát là bản chất của người ta. Còn nhõng nhẽo cũng là quyền tự do của con người, biết vậy sao còn đi tìm người ta làm gì? Này, hãy coi chừng đàng này vẫn còn uy quyền của một vị sư phụ, nghĩa là lúc cần có thể dùng roi để dạy chú học trò vô lễ đây nhé.
Dương-Qua nói:
- Làm thầy cũng sướng thiệt, đối với học trò có thể sử dụng được hai quyền.
Tiểu-Long-Nữ đỏ mặt hỏi:
- Quyền chi vậy, kể ta nghe thử xem chú láu cá?
Dương-Qua cười cười đáp:
- Cô nương chịu nhận tôi là Sư phụ thì tôi mới giải thích.
Tiểu-Long-Nữ nói:
- Sao lại đòi làm sư-phụ? Người bắt bẻ những cái sai của mình mà lại đòi làm sư phụ.
Dương-Qua đáp:
- Cô nương há quên câu "nhất tự vi sự" rồi sao? Thánh nhân còn công nhận nguyên tắc một chức cũng thầy, nửa chữ cũng thầy, huống chi tôi dạy cho Cô nương thêm được một lẽ khôn ngoan ở đời, lại không đáng gọi là thầy hay sao?
Tiểu-Long-Nữ gật đầu nói:
- ừ, thôi giảng đi, nếu xuôi nghĩa ta nhận là sư phụ, nếu không xuôi sẽ bị phạt đấy nhé. Làm thầy có hai quyền gì mà vinh hạnh lắm vậy?
Dương-Qua nói:
- Này nhé: người đời thường nói "yêu thương thì cho roi cho vọt" khi cô nương yêu thương tôi Cô nương mới đánh. Nhưng lòng tôi tin rằng một người đẹp như cô nương thì dù đánh mạnh cũng không thấy đau.
Tiểu-Long-Nữ hỏi:
- Còn chuyện thứ hai ra sao?
Dương-Qua giải thích tiếp:
- Quyền thứ hai thì trái lại. Phàm ghét thì cứ để mặc. Khi cô nương ghét tôi thì cô nương cho tôi được chơi. Chơi thích thật, nhưng cũng hại lắm, nếu quá say mê thì có thể hỏng cả cuộc đời phải như vậy không? Chịu chưa?
Tiểu-Long-Nữ lắc đầu nói:
- Trước kia, khi còn sống trong Cổ-mộ, cậu chỉ xảo quyệt một phần, nhưng từ khi lìa khỏi Cổ-mộ, mức xảo quyệt và láu cá của cậu đã tăng lên gấp trăm phần. Thế mới biết trường đời là chỗ dạy khôn dạy láu cá và dạy ba xạo cả.
Dương-Qua thừa biết Tiểu-Long-Nữ bản chất rất ghét tánh láu cá và dối trá như ghét của dơ, nên vội vàng bào chữa bằng cách pha trò:
- Thôi trăm chuyện xin Cô nương đại xá cho để vui vẻ cùng nhau. Nếu Cô nương nổi nóng lại tách bước ra đi phen nữa thì chim trời cá nước biết đâu em tìm. Chung quy cũng khổ cái thân em mà thôi.
Tiểu-Long-Nữ nghiêm giọng hỏi:
- Nếu cậu không nói nguyên nhân vì sao cậu thích ngủ rừng thì trời sập ta cũng không cho cậu đi theo hay là cùng đi với cậu nữa đâu.
Dương-Qua thích chí cười hề hà và nói cù lần:
- Có khó chi đâu mà không tìm ra nguyên nhân. Chẳng qua... là vì... như thế cả...
Tiểu-Long-Nữ gay gắt hỏi:
- Là gì nữa? Trời đã tối rồi còn đứng đó mà kê với cà. Mau mau giải thích để rồi còn tìm nơi trú ngụ chứ, chẳng lẽ cứ đứng đóng trò giữa rừng già như thế mãi sao?
Dương-Qua nín cười chậm rãi đáp:
- Em muốn sống trong cảnh thiên nhiên của núi rừng để tìm chân lý của tình yêu. Có chi mà Cô nương lại nóng nảy lắm vậy.
Tiểu-Long-Nữ nói gằn lại gay gắt hơn:
- Chân lý tình yêu đâu cần phải tìm kiếm trong rừng già này. Cậu đã tiếp xúc với cuộc đời giả dối quá nhiều, nên ý nghĩ có nhiều chuyện rắc rối phức tạp, lúc nào cũng bao hàm những chuyện xa xôi xảo quyệt. Biết như thế này ta cứ sống yên thân trong Cổ mộ, đâu có hoại công đi tìm những cái bực mình vào thân nữa.
Nói xong, nàng quay mình định chạy.
Nhưng Dương-Qua đã nắn lấy tay nàng kéo lại năn nỉ:
- Xin Cô nương đừng bỏ em bơ vơ một mình lẻ bóng nơi góc biển chân trời như xưa nữa, tội nghiệp mà.
Tiểu-Long-Nữ giật tay ra nói:
- Thôi, cứ buông tôi ra cho yên thân. Tôi đi đâu mặc kệ thân tôi. Chỉ có cái lý do vì sao thích ngủ rừng mà không nói. Như vậy làm sao gọi là tình thày trò bè bạn nữa chứ?
Tuy giật ta, nhưng nàng không kéo về hẳn lại đặt trên vai Dương-Qua. Chợt để ý đến cử chỉ ấy, nàng tự trách mình:
- Chính ta cũng lẩn thẩn thật. Đã giật tay rồi còn đặt trên vai hắn, thì làm sao hắn không lớn mình được?
Trong khi ấy cả hai cùng đứng lặng yên trong rừng thẳm, không nói năng một lời nào, mỗi người đeo đuổi một cảm nghĩ khác nhau.
Tiểu-Long-Nữ băn khoăn suy nghĩ tự trách mình không dứt khoát thái độ để cho Dương-Qua đùa cợt, xem như người cùng vai vế chứ không còn thái độ trọng vọng của một người đệ tử đối với Sư phụ như những ngày trước nữa.
Phần Dương-Qua cũng tự trách mình sao không có đủ can đảm và nghị lực để bày tỏ tình yêu mà cứ bày chuyện viển vông như vấn đề ngủ trong rừng để giằng co cãi lẫy nữa. Dù sao nơi đây cũng chỉ có hai người có ai xen vào đâu mà hòng e lệ nữa.

Suy nghĩ tới đó, chàng quả quyết, vỗ nhẹ vai Tiểu-Long-Nữ nói:
- Bây giờ xin cô nương vui lòng cho phép tôi trình bày lý do vì sao muốn ngủ lại trong rừng nhé.
Tiểu-Long-Nữ đáp:
- Thì cứ nói ra đi xem nào. Ta cũng đang chờ nghe có chừng ấy thôi. Việc gì mà phải xin phép tắc lắm chuyện thế?
Dương-Qua nghiêm giọng nói tiếp:
- Tuy ngày còn nhỏ tôi có học và nghe được nhiều câu ca dao bóng bẩy. Nhưng khi còn sống trong Cổ mộ tôi chẳng hề quan tâm hay hiểu tý gì về ý nghĩa của các câu ấy. Nhưng kể từ ngày xa cách Cô nương vì lòng mong tưởng nhớ thương, và sau khi trải qua nhiều gian nan nguy hiểm cùng nhau tôi mới thấm thía đến ý nghĩa xa xôi bóng bẩy nhưng rất thâm thúy của các câu ấy, đại khái như hai câu này:
"Yêu nhau chẳng nại chiếu giường,
Chỉ cần mảnh lá che sương cũng tình".
Vì vậy tôi mong muốn sao đêm nay thực hiện thử, giữa chốn rừng hoang thâm u này, chúng ta hãy ngủ thử một đêm để xem kẻ đặt ra câu ca trên có sành về tâm lý Nam Nữ hay không?
Nói tới đây, Dương-Qua hứng chí cất tiếng cười rang rảng, âm thanh vang vội trong rừng vắng khiến mấy con chim đang ngủ trên cành cây gần bên giật mình thức dậy dập dình kêu quang quác như tỏ lời oán trách hai người đi phá đám cảnh yên tĩnh của chúng.
Tiểu-Long-Nữ nói:
- Đó, cũng vì mình muốn tìm chân lý mà làm động chạm đến cuộc sống êm đềm của bao con chim rừng trong tổ ấm. Chúng ta không nên vì thú riêng của mình mà phạm tới tự do của bao sinh vật khác mà đắc tội. Thôi, hãy cố đi về phía trước xem có nhà ai xin tạm nghỉ đỡ một đêm vậy.
Hai người mò mẫm giắt nhau đi trong đêm tối. Một chập sau thấy phía trước xa thấp thoáng ánh đèn le lói. Cả hai mừng rỡ và chắc rằng có ánh lửa tất nhiên phải có nhà người ở.
Khi tới nơi thì thấy rằng nơi đây là một xóm nhỏ, rải rác có đôi nóc nhà của những người thợ rừng hay thợ săn. Dương-Qua bước vào một nhà nhỏ ở đầu thôn xin tá túc. Khi được chủ nhà nhận lời rồi, chàng chạy ra sau rửa mặt mày sạch sẽ rồi trèo lên một chõng nhỏ nơi nhà cầu. Còn Tiểu-Long-Nữ tạm nằm trên chiếc võng mắc ngoài mái hiên.
Mặc dù cả hai đinh ninh sau này sẽ cùng nhau kết nghĩa vợ chồng nhưng trong khi còn trôi nổi đó đây, vẫn giữ theo nếp sống như ngày nào còn trong Cổ mộ. Dù sao cả hai cũng đã vui mừng và yên tâm về câu chuyện trăm năm, và từ đây chỉ chuyên lo trau dồi về võ nghệ mà thôi, khỏi bận lòng điều chi nữa.
Ngủ qua đêm ấy hai người sáng sớm thức dậy trả tiền trọ cho chủ nhà. Trước khi đi chủ nhà đem dọn mấy củ khoai cho hai người lót dạ. Trong khi đang ăn, Tiểu-Long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Phen này chúng ta cứ theo đại lộ màđi, khỏi cần đi theo đường mòn làm chi cho vất vả nhé.
Hai người sánh vai nhau đi mãi tới trưa vừa gặp một thị trấn khá náo nhiệt đông đúc.
Dương-Qua đem Tiểu-Long-Nữ vào một khách trọ lớn để ăn cơm.
Khi vừa bước khỏi thang lầu, cả hai đều giật mình trông thấy Hoàng-Dung cùng hai anh em họ Võ đang ngồi ăn uống nơi một chiếc bàn phía trong.
Dương-Qua nghĩ rằng, chẳng lẽ quen nhau mà lại đi lánh mặt.
Vì vậy nên chàng tự nhiên bước lại trước mặt Hoàng-Dung chào hỏi:
- Chẳng hay Quách Bá Mẫu sang đây có chuyện chi cần thiết?
Hoàng-Dung rầu rầu đáp:
- Con có thấy Quách-Phù đi ngang qua đây không?
Dương-Qua ngạc nhiên đáp:
- Thưa không ạ. Con tưởng Quách tiểu thư lúc nào cũng ở cạnh Quách Bá-Mẫu chứ tại sao lại mất tích như vậy?
Hoàng-Dung chưa kịp trả lời, bỗng nghe từ phía dưới có tiếng chân người bước đi rầm rập, tiếp tới có mấy người cao lớn đi vào. Nhìn kỹ người đi đầu chính là Kim-Luân Pháp-Vương chứ không ai xa lạ.
Dương-Qua lẹ làng ra hiệu cho Hoàng-Dung đừng nói và bước mau lại phía Tiểu-Long-Nữ khẽ bảo:
- Cô nương hãy quay mặt vào phía kia cho bọn chúng đừng trông thấy phiền phức.
Nhưng đã muộn rồi, Kim-Luân Pháp-Vương, mắt sáng như điện, ngay từ lúc mới bước vào quan sát quanh một vòng đã nhận diện ra tất cả mọi người không sót một ai.
Vừa trông thấy xong, ông ta cười hề hề rồi kéo ghế ngồi lại một bàn cách đó không xa.
Dương-Qua giả bộ không trông thấy, ngồi ngay mặt đi hướng khác.
Nhưng bỗng nhiên Hoàng-Dung nghẹn ngào cất tiếng gọi:
- Phù nhi, con đi đâu khiến mẹ tìm mãi không ra.
Chàng quay đầu nhìn lại thì thấy quả nhiên Quách-Phù đang ngồi cùng bàn với bọn Kim-Luân. Nàng sửng sốt nhìn mẹ nhưng không dám bỏ chỗ chạy lại.
Nguyên từ khi bị thảm bại Kim-Luân Pháp-Vương bực tức bỏ ra đi, trong bụng đinh ninh thế nào cũng tìm cơ hội chuyển bại thành thắng.
Không ngờ Hoắc-Đô Vương-Tử bị trúng ngọc phong châm vết thương càng sưng nhẩy lên, hành hạ mãi không thuốc nào chữa được. Vì vậy nên qua mấy hôm sau các thầy trò vẫn còn quanh quẩn mãi gần Lục-gia-trang.
Rủi thay hôm ấy Quách-Phù cỡi con Tiểu hồng mã đi dạo bỗng tình cờ gặp lại Kim-Luân Pháp-Vương, không khác nào gà tìm tới miệng chồn.
Kim-Luân đời nào bỏ qua một dịp may hiếm có nên thừa cơ hội Quách-Phù đi một mình, ông bắt ngay để làm con tin. Công con Tiểu hồng mã vốn loại ngựa thần, khôn ngoan đúng mức, nên khi tiểu chủ bị bắt rồi, nó phi ngay về trang trại đứng ngay cổng hý vang để báo tin bất thường.
Quách-Tỉnh biết con mình lâm nạn nên vội phân bổ người đi khắp tứ phương tìm kiếm.
Mặc dù đang có mang gần ngày, nhưng vì tình mẹ thương con quá nặng Hoàng-Dung không thể ở nhà, vội cỡi con Tiểu-Hồng-mã đi tìm con. Giữa đường bà gặp hai anh em nhà họ Võ, đưa nhau vào khách sạn ăn cơm kể gặp Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ rồi tình cờ run rủi gặp Kim-Luân Pháp-Vương cũng dẫn Quách-Phù đi vào luôn.
Vừa thấy mặt con gái yêu, Hoàng-Dung mừng mừng tủi tủi vội cất tiếng kêu. Nhưng khi thấy Quách-Phù chỉ nhìn lên chứ không đáp và không chạy lại, bà đã biết rõ con mình đang bị địch quản thúc. Vốn người nhiều mưu trí, nên Hoàng-Dung điềm tĩnh ngồi chống tay trên bàn cố tìm cách giải thoát cho con gái, khỏi tay bọn ác tăng Mông-cổ.
Trong lúc bà đang phân vân đắn đo tìm kế, hai tay gõ chiếc đũa trên mặt bàn thì Kim-Luân bỗng cất tiếng gọi lớn:
- Hoàng bang-chúa, nàng này có phải là lệnh ái hay không. Hôm nào đấu võ nơi Lục gia trang, tôi để ý tháy nàng đứng bên cạnh Hoàng Bang-chúa, mặt mày vô cùng xinh đẹp.
Hoàng-Dung làm thinh thở dài không đáp lại.
Võ-tu-Văn đứng lên đáp lời:
- Tôi không ngờ một người như ông, dù sao cũng một vị Pháp vương Tây-Tạng, lại đi ra tay bắt cóc con gái người ta, thật không biết thẹn.
Hình như không cần đếm xỉa tới những lời trách móc của Võ-tu-Văn Kim-Luân lớn tiếng nói cùng Hoàng-Dung:
- Thưa bang chúa, xin người vui lòng cho người giải độc hộ cho Hoắc-Đô Vương-Tử để chúng có dịp thử lại tài nghệ xem bên nào cao thấp. Chừng ấy mới sáng tỏ kẻ nào xứng đáng giữ ngôi Minh chủ Võ-Lâm.
Nghe lão nói xong, Hoàng-Dung chỉ "hừ" một tiếng chứ không trả lời.
Võ-tu-Văn lại nói:
Trước hết xin ông hãy giao trả Quách Cô nương lại cho chúng tôi. Sau đó chúng tôi sẽ xin giao thuốc giải độc cứu Vương-Tử, còn chuyện tỷ thí tranh tài cao thấp sau này sẽ bàn lại cũng không muộn, Hoàng-Dung liếc mặt nhìn Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ trong dạ băn khoăn suy nghĩ:
- Thuốc giải độc chỉ có hai người kia mới có. Nhưng kông biết họ có bằng lòng cho giúp nếu Kim-Luân nhận lời đề nghị của Tu-Văn hay không.
Nhưng Kim-Luân cười khà khà đáp lại:
- Thuốc độc thì ai lại không có. Nếu đàng ấy không giao ra thì ta cũng có thuốc độc để khiến cho gái cưng của người cũng nếm thử cho biết mùi. Nếu bên ấy giao thuốc thì ta sẽ chữa cho cô bé này khỏi đau khổ. Còn câu chuyện trao trả người đâu có thể đơn giản như thế được.
Hoàng-Dung nhìn qua sắc diện con gái biết Quách-Phù chưa bị thuốc độc, tuy nhiên tình mẫu tử vô cùng sâu đậm, bà không thể nào ngồi yên trong khi con gái mình còn đang ở trong tay quân địch. Bà cố tìm mưu kế nhưng nghĩ mãi chưa ra.
Vừa lúc đó nhà hàng bưng đồ ăn ra dọn không biết bao nhiêu là món ngon vật lạ. Bọn Kim-Luân ung dung đánh chén, riêng Quách-Phù không ăn chỉ ngồi lặng yên nhìn mẹ mà rưng rưng hai hàng nước mắt.

Trước cảnh tượng đau lòng ấy, Hoàng-Dung cũng nước mắt chạy quanh, lòng đau như cắt. Và cũng trong lúc ấy bà cảm thấy trong bụng quặn đau từng cơn dữ dội. Thật là phước bất trùng lai họa vô đơn chí! Có lẽ vì đi ngựa nhiều nên bị động thai.
Ăn uống xong, Kim-Luân chạy lại gần Hoàng-Dung nói:
- Kính mời Hoàng Bang chúa hãy đi theo chúng tôi.
Hoàng-Dung nghe nói hoảng kinh nghĩ bụng:
- Tại sao hắn mời ta đi? Đã bắt cóc con gái ta, nay hắn còn muốn bắt ta đi nữa sao? Một mình ta, lại lên cơn đau bụng làm sao chống cự bây giờ. Còn hai anh em họ Võ thì võ nghệ còn non kém đối với Kim-Luân đâu có nghĩa lý gì.
Nghĩ tới đây Hoàng-Dung hoảng sợ lộ ra nét mặt tái xanh.
Kim-Luân nhìn bà nói tiếp:
- Xin Hoàng-Bang chúa đừng lo sợ, Hoàng-Bang chúa là người có địa vị quan trọng trong Võ lâm Trung nguyên, không bao giờ chúng tôi dám bạc đãi cùng Bang chúa đâu. Miễn sau khi chúng ta bàn cãi xong câu chuyện Minh-chủ Võ-Lâm rồi, thì có xin đưa Bang-chúa trở về Nam ngay.
Nguyên từ khi bước vào trong tiệm, trông thấy Hoàng-Dung ngồi đó Kim-Luân lòng mừng vô hạn nghĩ thầm rằng:
- Thật rõ ràng là may mắn hết sức. Mụ này có một địa vị quá ư quan trọng trong võ lâm Trung-nguyên. Chỉ cần bắt cóc được mụ thì bao nhiêu anh hùng Trung quốc thảy đầu khoanh tay không dám bạo động chừng ấy ta muốn chi không được. Được mụ này còn quan trọng gấp mấy mươi lần cô Quách-Phù.
Hai anh em họ Võ thấy Kim-Luân bức sách và nhục mạ sư phụ mình thì trong lòng căm tức vô hồi, nhưng xét lại bọn mình chưa phải là đối thủ của hắn. Hơn nữa trước mặt hai người ý trung nhân là Quách Phù đang ngồi nét hoa ủ đột, khiến cho hai anh em càng thêm bối rối.
Tuy nhiên vì sĩ diện hai anh em cũng phải đứng lên tuốt kiếm định xông ra liều mạng.
Nhưng Hoàng-Dung vội bảo nhỏ:
- Không được đâu, hãy vượt qua cửa sổ, chạy gấp về báo tin cho sư phụ biết. Các con không đánh lại hắn đâu.
Hai anh em họ Võ lấm lét nhìn sau không ai dám nhảy ra trước, sau lại lén nhìn Quách-Phù, mãi hồi lâu mới chạy ra khỏi quán.
Hoàng-Dung bực mình lẩm bẩm:
- Thứ gì mà hèn nhát và chậm chạp quá rùa, cứ như thế thì biết chừng nào đi về tới nơi để báo tin cho kịp.
Không ngờ hai người vừa bước ra khỏi cửa, Kim-Luân chỉ phóng ra một cái đưa tay tóm ngay lại cặp hai bên hông như diều hâu cặp đôi gà giò.
Hai anh em hoảng kinh vội buông gươm để khỏi đâm trúng vào người nhau.
Kim-Luân nhấc bổng hai người lên ném tung ra ngoài xa hơn mấy trượng miệng quát:
- Thứ vô dụng này, đừng hòng làm vướng chân bản Sư.
Quăng hai anh em họ Võ xong, Kim Luân quay sang phía Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ bảo lớn:
- Chúng bây không phải bà con giòng họ chỉ với Hoằng-Bang chủ và Quách-Tỉnh, hãy đi cho rồi, không nên chen tay vào công việc của ta.
Thật ra không phải Kim-Luân có thiện ý gì với bọn Tiểu-Long-Nữ nhưng y muốn dùng thủ đoạn ly gián để phân tán lực lượng của đối phương. Ông cũng khôn ranh mà biết rằng:
- Trong ba người Hoàng-Dung, Dương-Qua, và Tiểu-Long-Nữ, nếu đấu một sáp một thì không thể bằng mình, nhưng nếu cả ba cùng hợp sức chống lại thì e mình khó thoát tay bọn chúng chứ không mong gì bắt cóc Hoàng-Dung.
Kim-Luân muốn dùng mưu cơ này mở lối thoát cho Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ thoát đi cho rồi. Còn Hoàng-Dung hiện nay có mang gần ngày, chỉ trong mấy hiệp ông cũng có thể áp đảo được ngay không khó.
Tiểu-Long-Nữ lúc này chỉ mong sao sớm về tới Cổ-mộ để cùng Dương-Qua sống cuộc đời bình thản vô tư và tránh hết những cái gì trái tai gai mắt của xã hội loài người cho nên nàng quay sang bảo Dương-Qua:
- Lão Trọc này cũng vô cùng lợi hại, không hơi đâu mình trêu tay cho mất công. Thôi chúng ta đi đi cho rồi.
Thấy Dương-Qua do dự, nàng thúc thêm:
- Hơi đâu ách giữa đàng đem mang vào cổ. Chúng mình về Cổ-mộ càng sớm càng hay.
Dương-Qua đáp:
- Xin Cô-nương chờ em tính tiền ăn rồi sẽ hay.
Trả tiền xong, Dương-Qua đứng lên cùng đi ra.
Bước chân xuống thang lầu chàng nghĩ bụng:
- Chuyến nầy về tới Cổ-mộ, chắc không bao giờ ta gặp lại Quách Bá-mẫu.
Nghĩ xong, chàng lấm lét đưa mắt nhìn Hoàng-Dung.
Chàng trông thấy Hoàng-Dung một tay ôm bụng dưới, một tay vỗ ngực, mặt mày nhăn nhó, mồ hôi hột chảy ròng ròng, có lẽ đang lên cơn đau lắm.
Xưa nay Dương-Qua có tánh thích làm theo ý mình hơn nữa trong quyết quản có sẵn giòng máu hiệp nghĩa, nay trông thấy tình cảnh Hoàng-Dung như vậy chàng bỗng nghĩ:
- Tuy Quách Bá-mẫu không bằng lòng cho ta yêu Long Cô-Nương là vì theo đạo lý cổ hủ của Trung-nguyên, điều đó ta không thể trách bà được. Ngày nay thấy Quách Bá-mẫu đang bị nạn mà ta nỡ nào làm ngơ bỏ đi sao đành. Xem bản lãnh lão này ta không đấu lại, nhưng ta cũng có thể đi báo tin cùng Quách bá bá tới để giải cứu kịp thời. Như vậy có lẽ đắc sách hơn.
Nghĩ xong chàng đưa mắt láy Hoàng-Dung tỏ ý kiến ấy. Hoàng-Dung gật đầu tỏ vẻ ưng ý.
Chàng liền giắt Tiểu-Long-Nữ khoan thai đi xuống thang lầu.
Bỗng một tên Võ sĩ Mông-Cổ nhảy xổ tới trước mặt Hoàng-Dung trợn mắt thét lớn:
- Này, hãy đứng dậy đi ngay.
Nói xong hắn chộp vai bà lôi đi như một tên tử tội.
Suốt mười năm nay giữ ngôi vị Bang-Chúa Cái-Bang, Hoàng-Dung dù có bị sa cơ cũng không khi nào chịu để cho một tên vũ phu man rợn làm nhục như thế được. Cho nên khi tên Mông-Cổ vừa đưa cánh tay thô lỗ đầu lộng ra chộp lấy vai, bà né sang một bên, dùng vạt áo lót tay rồi nắm cánh tay hắn vặn trái một cái xách bổng lên ném tuốt qua cửa sổ như một gói giẻ rách. Tên võ sĩ Mông-Cổ bị ném té dài trên mặt đất, mặt mày đầy máu, nửa chết nửa sống không còn cục cựa nữa.
Bao nhiêu quan khách trên lầu theo dõi sự việc thấy hai bên lúc đầu đấu khẩu kết tới tên Võ sĩ Mông-Cổ bị tóm cổ quăng tuốt khỏi lầu thì ai nấy đều hốt hoảng đứng lên nhốn nháo cả lên.
Kim-Luân Pháp-Vương trông thấy cười nhạt nói:
- Hoàng Bang-chúa quả là tay võ nghệ tuyệt luân.
Nói xong lão vận nội công trầm trầm bước tới. Hoàng-Dung biết trước thế nào hắn cũng dùng đòn độc hạ mình nên bước lùi sau thủ thế chống cự lại.
Dương-Qua đang bước xuống lầu, bỗng thấy tiếng khách hàng xôn xao nhốn nháo thì biết rằng bọn Mông-Cổ đang làm nhục Hoàng-Dung. Máu anh hùng trong tim chàng sôi lên sùng sục không chịu được nữa, chàng bèn quay lại, quên cả hiểm nguy chết sống, rút thanh gươm trong lưng Võ-Đôn-Nho đâm thẳng vào lưng Kim-Luân, miệng mắng lớn:
- Quân mọi rợ, thừa lúc người ta đau bệnh cô thế mà bức sát thì đâu phải anh hùng. Sao mi không biết nhục?
Kim-Luân quả là tay võ nghệ tuyệt luân; mặc dù không quay đầu nhìn lại nhưng cũng đoán biết được làn gươm, chỉ cần kim chặt mạnh nghe "choang" một tiếng lớn, thanh gươm Dương-Qua gãy hai rơi xuống đất.
Dương-Qua cảm thấy cả cánh tay tê buốt do sự đụng chạm này, vội vàng phóng mình ra sau mấy bước để tránh đòn thủ thế.
Kim-Luân nhìn chàng mắng lớn:
- Súc sinh, tài nghệ của mi còn non kém lắm chưa đủ tranh đấu cùng ta đâu. Hãy chịu khó về tập luyện thêm một vài năm nữa rồi sẽ tính tới chuyện ăn thua. Nếu bây giờ liều mạng vào đây sẽ bỏ mạng dưới chiếc vòng vàng của ta, chừng ấy trách ta sao không nói trước.
Thật ra, trong thâm tâm Kim-Luân Pháp-Vương ghét Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua như điếu đổ vì Dương-Qua đã đánh chiếc vòng vàng và làm mất ngôi Minh-chủ của ông trước hàng ngàn anh hùng Trung-nguyên. Tuy nhiên lúc này Kim-Luân Pháp-Vương phải giả ơn giả nghĩa dùng đủ mọi lẽ phải chăng để Dương-Qua đi cho rồi vì chính ông không muốn đâú với hai địch thủ trong khi chưa bắt được Hoàng-Dung chắc chắn. Cứ một việc này cũng đủ chứng tỏ Kim-Luân Pháp-Vương là một lợi hại, ngoài bản lĩnh kinh người, cũng có mọi thủ đoạn của người mưu sĩ, chứ không phải là loại vũ phu chỉ chuyên dùng sức mạnh hiếp người.
Câu nói của Kim-Luân vừa có vẻ bề trên ngạo mạn, lại có vẻ khuyên răn nữa. Dương-Qua nghe nói tươi cười bảo:
- Pháp-Vương cũng không nên quá khách khí và lưu tâm tới tiểu sinh lắm như vậy. Học được thành tài như Pháp-Vương đâu phải chuyện dễ, mà cũng không phải vấn đề một vài năm mà được. Tuy nhiên, Hoàng Bang-chúa đối với tiểu sinh có công lao dưỡng nuôi từ tấm bé, hôm nay mà bị tai nạn, không thể nào tiểu sinh lại đành lòng bỏ đi cho được. Nếu lúc này Bà không đau bụng thì võ công của Pháp-Vương chưa chắc đã thắng được bà đâu. Nếu Pháp-Vương không tin xin cứ chờ một vài ngày, Bà khỏe mạnh rồi sẽ biết.

Trong khi thốt ra câu này, Dương-Qua muốn khích khí Kim-Luân Pháp-Vương. Nếu ông ta có tinh thần thượng võ chắc không mặt mũi nào đi bức sách Hoàng-Dung nữa.
Nhưng trong thâm tâm Kim-Luân thì nghĩ khác. Ông ta sợ cả ba người Hoàng-Dung, Tiểu-Long-Nữ
và Dương-Qua cùng tấn công mình thì không thể nào chống lại nổi, vì vậy nên cố tình tìm cách nói cho cặp trẻ đi cho rồi. Không ngờ nghe Dương-Qua nói vậy, lão chú ý xem lại Hoàng-Dung thấy quả thật sắc khí bà bơ phờ, mặt mày tái xanh đang đứng nhăn nhó thì biết là bà đang đau thật, nên nghĩ thầm:
- Nếu con người đầu não đã mang bệnh thì hai đứa kia đâu có nghĩa gì mà phải sợ.
Nghĩ xong, ông bĩu môi bảo:
- Thế ra bọn bay cũng muốn ở lại đây chiến đấu phải không?
Ngay lúc đó, Tiểu-Long-Nữ đang đứng tại cầu thang chờ Dương-Qua, thấy Kim-Luân Pháp-Vương đang ngăn trở chàng thì nói với lên:
- Này lão Hòa-thượng, hãy tránh đường cho người ta đi, sao gây khó dễ như vậy?
Kim-Luân nhìn xuống hai mặt lộ xung quanh, vung tay đánh xuống một chưởng mạnh như trời giáng. Với lợi thế từ trên đánh xuống lão chắc chắn thế nào Tiểu-Long-Nữ cũng bị bể đầu ngay, hoặc có giỏi nó cũng phải nhào lăng xuống tầng dưới gãy tay hay cụt cẳng. Thấy đối phương từ trên cao giáng xuống một đòn lén, nàng vận dụng khinh công thượng thặng của phái Cổ-mộ tung người bay vọt lên trên, lòn qua đường chưởng lực, đứng ngay cạnh Kim-Luân. Trong khi thân hình nàng đang bay lơ lửng qua đầu: Kim-Luân thừa dịp đánh theo một đòn quét mạnh vào chân, nhưng cũng trật luôn. Kim-Luân phải buộc miệng khen thầm:
- Con Bé này khinh công tuyệt diệu, ta cũng không sánh kịp tài lanh lẹ của hắn.
Dương-Qua trao lưỡi gươm của Võ-Tu-Văn bỏ rơi trên sàn lầu và nói khẽ:
- Lão Hòa-thượng này vô lễ và khinh thường thiên hạ quá chúng ta hãy cùng nhau cho nó một trận nên thân.
Bỗng nghe tiếng leng keng vang lên. Kim-Luân rút trong bọc một chiếc vòng khác, kích tấc y như cái vòng vàng hôm trước, chỉ khác một điều là chiếc vòng này đen nhánh như huyền.
Nguyên Kim-Luân Pháp-Vương xử dụng cả thảy năm chiếc vòng làm bằng đủ loại kim khí vàng, bạc, đồng, sắc và chì. Khi nào gặp tay lợi hại ông tung hết năm chiếc một lần, nhưng gặp tay tầm thường thì chỉ cần dùng một hay hai chiếc mà thôi.
Xưa nay chỉ một chiếc vòng vàng, Kim-Luân đã hạ sát không biết bao nhiêu là anh hùng cao thủ võ lâm. Do đó, ông được thiên hạ suy tôn biệt danh là Kim-Luân Pháp-Vương cũng vì lẽ đó (nghĩa là ông vua có biệt tài dùng vòng vàng), bốn chiếc vòng khác bằng bạc, đồng, chì và sắt, chưa thấy ông đem ra sử dụng khi nào.
Trong khi tranh tài tại Lục-Trang-Viện, chiếc vòng vàng đã bị Dương-Qua dùng chày kim cương đánh rơi và méo mó chưa thể chữa lại được nên hôm nay Kim-Luân mới mang chiếc vòng sắt ra giao chiến.
Trong tay nắm sẵn chiếc vòng đen, Kim-Luân hướng về hai người rồi nhìn Hoàng-Dung hỏi lớn:
- Thưa Hoàng Bang-chủ, ngài có bằng lòng chiến đấu hay không?
Kim-Luân biết Hoàng-Dung tuy bị bệnh nhưng ngại bà cũng còn đủ sức chống đỡ và gây rắc rối cho mình nên mới dùng lời nói khích Lão muốn trịnh trọng nêu chữ "Hoàng Bang-chủ" ra để nhắc khéo Hoàng-Dung nhớ rằng: nếu không đầy đủ sức khỏe, đừng đánh gượng làm gì, rủi bị thất bại mang tiếng xấu với đời và làm ô danh Chúa tể của Cái-Bang. Nếu Hoàng-Dung hội ý không đánh, thì còn hai người Dương-Qua Tiểu-Long-Nữ sẽ dễ thủ thắng hơn.
Nhưng Dương-Qua đã cướp lời nói:
- Hoàng Bang-chúa đâu thèm đánh cùng ngươi mà hòng hỏi lại.
Nói xong chàng quay sang phía Hoàng-Dung thưa lớn:
- Xin Quách bá-mẫu cứ tự ý đưa em Phù về nhà đi, cho thằng Trọc ngã mặn này, cứ để cho con xử trí.
Thật ra Dương-Qua cũng thừa hiểu dù cả hai người, mình và Tiểu-Long-Nữ cũng không đấu lại Kim-Luân, cho nên chàng muốn Hoàng-Dung đem Quách-Phù để báo tin cho Quách-Tỉnh biết, còn mình và Tiểu-Long-Nữ ở lại cầm cự trong thời gian rồi cũng tìm cách chuồn luôn cho tiện.
Nói xong, chàng vung tròn cây trường kiếm như một vòng bạch quang lóe lên, xong vào tấn công Kim-Luân. Tiểu-Long-Nữ cũng múa gươm tiếp sức.
Kim-Luân Pháp-Vương tung chiếc vòng đen ra chống cự lại với hai đường gươm lợi hại. Vì thân hình to lớn dềnh dàng, dụng võ trong nhà có nhiều bàn ghế đồ đạc vướng víu tay chân nên Kim-Luân xoay trở có phần khó khăn. Ông vừa múa móc đánh đỡ, vừa tung cước đá bay các bàn ghế dồn dập vào một xó cho rộng chỗ để hoạt động hơn.
Dương-Qua vừa đánh vừa suy nghĩ:
- Kể về dòng lực thì mi thắng ta, nhưng tính theo mưu mô thì ta có thể hơn mi lắm. Phen này ta thử cho mi nếm mùi thủ đoạn của tuổi trẻ và ngã mặn một chuyến cho đã đời.
Trong khi hai bên quyết đấu, Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ nhờ thân hình bé nhỏ, nhẹ nhàng lẩn tránh lanh như cặp sóc khi bay sang Đông lúc phóng sang Tây, cùng tấn công tới tấp, Kim-Luân thân hình to lớn thêm chỗ đấu chật hẹp xoay trở có phần khó khăn nên chống đỡ cũng chật vật.
Dương-Qua vừa né vừa đâm vừa nhảy nhót xung quanh, vớ được thứ gì trên bàn, bất cứ bình mắm, xì dầu, lọ tương, bình rượu hoặc bát thị cũng đem ném tưới vào người Kim-Luân. Mặc dù giỏi tránh né, nhưng các thức ăn, mắm muói văng tung tóe không tài nào tránh cho xuể. Thành thử không bao lâu, từ đầu tới chân Kim-Luân chỗ nào cũng bê bết cả tương, mắm, dầu mỡ các thứ. Dương-Qua luôn mồm nói thêm:
- Xin thành tâm cung phụng cho Hòa-thượng những món ăn mặn của thế gian để ra sức giúp quân Mông-Cổ xâm lược giết dân vô tội của chúng tôi.
Kim-Luân giận không thể tả, trợn mắt bậm môi cố bám theo Dương-Qua để đánh.
Nhưng khi hắn quay sang Dương-Qua thì làn gươm của Tiểu-Long-Nữ loang loáng tấn công liền, buộc lòng phải xoay lại chống đỡ.
Dương-Qua rảnh tay liếng thoắng chế nhạo:
- à, nhà sư này có lẽ lâu ngày không gần phụ nữ nên dẻo dai và bền sức lắm. Từ trước tới nay tôi cũng gặp nhiều nhà Sư, miệng thì niệm Phật nhưng sức lực lại đem vung phí khắp nơi, vì vậy nên đấu chỉ vài hiệp mà đã thở dốc như bò rống. Những bọn nhà Sư ấy, dầu giết chết cũng đáng đời lắm lắm. Trong thời buổi loạn ly này, biết bao nhiêu người khoác áo nhà Sư nhưng lúc thử thách mới rõ chỉ là bề ngoài mà thôi.
Tiểu-Long-Nữ cũng góp ý thêm:
- Sư chính hay tà, việc ấy ta không biết, ta chỉ tìm bọn nhà Sư chuyên đánh giặc mướn cho bọn Mông-cổ xâm-lược mà thôi.
Lúc ấy Hoàng-Dung đã lại bên bàn đưa tay giắt Quách-Phù trở lại chốn cũ. Trong khi ấy thì bên Mông-Cổ cũng có mấy tên cao thủ như Hoắc-Đô đang bị độc ngọc phong châm, nằm rên la trăn trở, Đạt-nhĩ-Ma bị thuật di hồn chưa hóa giải còn ngơ ngác như kẻ mất trí ngoài ra một số võ sĩ hầu cận thì bản lãnh không bao nhiêu nên Bà đưa Quách-Phù đi không bị trở ngại. Nhìn tháy xương một tên bị bà nắm quăng qua cửa lầu lúc nãy, không còn tên nào dám hó hé cản ngăn.
Dương-Qua trông thấy Hoàng-Dung đã giắt được Quách-Phù về ngồi chỗ cũ bèn lên tiếng nói:
- Quách bá-mẫu nên về ngay đi, tại sao còn chần chờ mãi như vậy?
Hoàng-Dung liếc mắt thấy hai người tuy nhờ sức lanh lẹ nhảy tránh được tuy nhiên lực lượng giữa đôi bên còn chênh lệch quá nhiều, nếu trận đấu kéo dài mà Kim-Luân dùng độc thủ, đôi trai gái sẽ thất bại ngay. Vì vậy nên bà nghĩ thầm:
- Họ còn trẻ tuổi nhưng không ngại gian nguy xả thân cứu mẹ con ta, thì ta là người lớn lẽ nào bỏ họ mà đi sao đành.
Vì vậy nên bà đứng ngoài hiên nhìn cuộc đấu, không bỏ đi.
Anh em họ Võ thấy vậy giục:
- Xin bá-mẫu hãy trọng lấy quý thể mau mau đem Cô Phù lánh khỏi chốn này sớm chừng nào hay chừng ấy. Nếu lỡ ra có...
Hoàng-Dung bực mình gắt:
- Làm người phải hiểu chữ nghĩa. Đã học võ phải có tánh khí nghĩa hiệp, nếu không thì biết võ làm chi? Như thế không còn xứng đáng sống trên cõi đời nữa. Các con hãy xem anh Dương-Qua còn trẻ tuổi mà hào khí phi thường, gan liều nghĩa lớn, sao không theo đó mà bắt chước, chỉ bo bo giữ lấy phần lợi cho mình. Các con còn kém xa quá.
Thấy Hoàng-Dung chỉnh khéo và xem thường bọn mình, hai anh em họ Võ hổ thẹn nín thinh.
Quách-Phù bẻ một chân bàn khá lớn rồi đưa mắt bảo hai anh em họ Võ:
- Chúng ta nên xông vào tiếp chiến đánh cho hắn một trận.
Hoàng-Dung đưa tay cản lại nói:
- Tài cán con còn thấp kém lắm, xông vào sẽ mất mạng mà thôi.
Quách-Phù tuy tuân lời mẹ nhưng trong bụng vẫn không tin vì nàng nhìn xem Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua đánh đỡ cũng không có ngọn đòn nào kỳ diệu lắm. Nhưng Quách-Phù đâu biết Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua tài nghệ hơn nàng có mười lần, trong lúc này cả hai đang vận dụng hết những ngón tuyệt kỷ trong Ngọc-nữ Tâm-kinh ra chống đỡ lại những đòn ác liệt của Kim-Luân.
Kim-Luân Pháp-Vương bị bao nhiêu bàn ghế do Dương-Qua đẩy ra ngổn ngang khắp phòng trở ngại, thấy hai người nhảy nhót thoăn thoắt né tránh như đôi chim cắt thì căm tức vô cùng. Ông bèn vận dụng công lực vào cặp chân xuống tấn như đôi chày sắt dẫm mạnh trên số bàn ghế gãy nghe răng rắc. Bước chân ông bước tới đâu, bàn ghế bị đạp nhẹp xuống thành những mảnh gỗ vụn. Không bao lâu tất cả số bàn ghế chỉ còn là đống gỗ vụn, lẫn lộn với số ly chén văng khắp nơi thành thử trong phòng không còn bừa bãi như trước, đấu trường trở nên dễ xoay trở hơn.

Kim-Luân Pháp-Vương bắt đầu trổ tài tấn công mãnh liệt. Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua buộc lòng phải đâu lưng vào nhau để chống đỡ vừa bảo vệ lẫn nhau.
Hai người bèn áp dụng phương pháp "song-vũ" ra đánh. Hễ Dương-Qua chém trên thì Tiểu-Long-Nữ tấn công phía dưới, hễ người này thủ thì người nọ tấn công ngay, theo đúng phương thức đã dạy trong đoạn chót của Ngọc-nữ Tâm-kinh mà hai người vừa luyện xong trong thời gian gần đây.
Kim-Luân Pháp-Vương thấy hai người bỗng nhiên đổi thế đánh bình tĩnh chiến đấu có quy củ không còn hấp tấp như trước mà những đòn đưa ra ngón nào cũng vô cùng ác liệt, nếu không khéo tránh né sẽ bị mất mạng như không. Xung quanh ông lúc nào cũng có một màn gươm vô cùng chặt chẽ phủ vây từ trên xuống dưới. Ông bèn nhảy sang bên trái tung cước đạp Tiểu-Long-Nữ một đòn rồi tung vòng đen định tròng vào cổ Dương-Qua giật tới.
Dương-Qua sụp đầu xuống phía trước, cầm gươm chĩa thẳng ra rồi lao mạnh về phía trước ngay vào bụng đối thủ.
Lưỡi gươm ghim ngay vào giữa ngực Kim-Luân, nhưng lạ quá hình bên trong có mang sẵn giáp sắt nên lưỡi gươm vừa chạm vào bị trượt qua một bên.
Thấy đâm không thủng được bụng địch thủ, Dương-Qua vội nhảy lùi ra phía sau để né đòn. Nhưng Kim-Luân đã hự lên một tiếng, tung cái vòng tròn ra xoay tít trên đầu chàng rồi từ từ ép xuống nặng như tảng đá ngàn cân, còn hai tay rảnh không thì Kim-Luân vung ra túm lấy Tiểu-Long-Nữ lẹ như chớp giật.
Cùng một lúc vừa tung vòng đè người, vừa phóng tay chộp đối phương đây là một thế đánh vô cùng thần diệu xưa nay chưa hề thấy.
Thấy cả hai đang lâm nguy, Hoàng-Dung thất kinh định nhảy xông vào tiếp chiến để giải thoát, nhưng Dương-Qua đã lẹ làng tránh sang một bên rồi quay ngược lưỡi gươm đâm thẳng vào lưng Kim Luân, khiến lão phải quay mình nhảy vọt qua một bên, không chộp được Tiểu-Long-Nữ. Đây là một thế kỳ áo "Vây Tề cứu Triệu" trong Ngọc-nữ Tâm-kinh, giúp Dương-Qua vừa tránh được đến mình, vừa giải thoát cho đồng bọn. Thế này phối hợp với thế "én hồng đớp mồi", lao mình là trên mặt đất để đâm địch, là một thế lợi hại của Toàn-Chân phái.
Bị đòn bất ngờ, Kim-Luân kêu "à" một tiếng, nhảy qua một bên, đưa mắt nhìn theo chiếc vòng đen đang xoay tít còn đang lơ lửng trên không trung.
Thấy chiếc vòng đen quay tít phát ra những tiếng vu vu ghê rợn ập ngay đầu mình, Dương-Qua không chút ngán sợ, đưa thế "bạch hồng kình thiên" (nghĩa là cầu vòng trắng vắt ngang trời) của Toàn-Chân phái ra phá.
Bị đánh bất ngờ, chiếc vòng sắc vẫn xoay tít đảo lại về hướng Kim-Luân, luôn luôn phát ra gió vù vù nhắm ngay đầu chủ chộp xuống.
Quách-Phù đứng ngoài nhìn thấy thích chí quá vỗ tay hoan hô om sòm.
Sở dĩ Kim-Luân Pháp-Vương quá chủ quan, tin tưởng vào tài nghệ của mình, đinh ninh một đòn này có thể hạ sát được cả hai địch thủ nên mới mạo hiểm quăng vũ khí ra đánh, chỉ còn hai tay không mà thôi. Không ngờ bị Dương-Qua đập lại quá mạnh, chiếc vòng phản chủ quay lại tấn công ông suýt nữa bị nguy biến tới thân.
Kim-Luân điên tiết, vận dụng công lực vào cách tay nắm chiếc vòng sắc ném mạnh một cái. Cái ném nào quá ư mãnh liệt, sức nặng ngót ngàn cân, khiến chiếc vòng quay tít mau quá, các viên đạn bên trong không, kịp phát ra tiếng kêu leng keng mà chỉ nghe rít "vút" một cái như chiếc đĩa bay.
Dương-Qua vội vàng đưa gươm đỡ bật lại một cái, nghe choeng thật lớn, cây gươm cong vòng như một cánh cung rơi ngay xuống đất.
Thấy đối phương đã mất vũ khí, Kim-Luân xông tới vung hai tay định bắt sống. Tiểu-Long-Nữ thấy Dương-Qua bị nguy, bèn xoay người lại vung ra một đường gươm. Nhát gươm bay không có vẻ hấp tấp, chỉ tà tà như chiếc hoa rơi, tư thái của nàng vô cùng khoáng đạt, đứng xa nhìn vào không khác nào một nàng tiên. Đây là một trong những tuyệt thế trong đời của Ngọc-nữ Tâm-kinh.
Hoàng-Dung cũng như Quách-Phù trông thấy phải cùng luôn miệng khen lớn:
- Tuyệt quá, đẹp quá, đường gươm kỳ ảo này thật tuyệt vời có một không hai.
Kim-Luân Pháp-Vương buộc lòng phải nắm thật chặt chiếc vòng sắc để chống đỡ lại đường gươm kỳ ảo lợi hại của Tiểu-Long-Nữ.
Dương-Qua nhân cơ hội này, cúi xuống lượm thanh gươm lên và thoát qua tai nạn.
Tuy thoát chết rồi, nhưng Dương-Qua vẫn không mất bình tĩnh chút nào. Chàng đứng yên suy nghĩ:
- Vừa rồi chúng ta chỉ đánh theo Ngọc-Nữ Tâm-Kinh kiếm pháp thành thử không thắng nổi nó. Bây giờ cần phải thay đổi chiến thuật bằng cách phối hợp giữa hai lối kiếm pháp. Ta thì đánh theo Toàn chân phái còn Cô-nương thì theo các thuật trong Ngọc-Nữ Tâm-Kinh, may ra mới áp đảo được lão Hòa-thượng này.
Suy nghĩ xong tự cho là hữu lý nên chàng gọi lớn:
- Cô nương, chúng mình mãi lo luyện tập mà quên hết việc quan trọng. Bây giờ tôi đã trực nhớ lại rồi. Từ lúc này cô tấn công theo thuật "lãng tích thiên nhai" đi nhé?
Tiểu-Long-Nữ đang băn khoăn chưa biết nên đối phó bằng cách nào, bỗng nghe Dương-Qua nhắc tới bốn chữ "lãng tích yên nhai" thì sực nhớ lại như ánh chớp trong đêm đông, nàng yên chí vung rộng đường kiếm đánh đúng theo phương thức đã dạy trong đoạn chót của Ngọc-Nữ Tâm-Kinh.
Còn Dương-Qua thì bình tĩnh áp dụng theo đúng kiếm pháp của Toàn-chân phái.
Lúc bấy giờ hai người mới bắt đầu thực hiện đúng đắn phép "song kiếm hợp bích". Hai đường gươm thi đua nhau múa loang loáng như điện nháng, lanh lẹ và nguy hiểm phi thường, khiến cho Kim-Luân Pháp-Vương phải đem hết sức lực đỡ gạt mà cũng không xuể, phải nhảy lùi ra sau mấy bước.

Hồi 39

Bày thạch trận vây khốn Kim-Luân.

Hai đường gươm xuống qua rất mạnh, nhưng nhờ có mã giáp sắt hộ thân nên mũi kiếm chỉ trượt qua đứt sơ sơ, tuy có ra máu nhưng không nguy hiểm mấy.
Mặc dù không bị trọng thương nhưng Kim-Luân Pháp-Vương cũng đã kinh hồn hoảng vía vì hai đường gươm ấy, lật đật nhào lộn ra sau tránh các đòn khác, đang dồn dập phóng mạnh vào người ông.
Dương-Qua thừa thế reo to:
- Cô nương, lúc bấy giờ nen đánh theo thế "nguyệt hạ hoa tiền" (dưới trăng trước hoa) thì hơn.
Miệng hò reo, tay vung gươm lia lịa chém trên đâm dưới vun vút, đứng ngoài nhìn vào không khác chi một luồng bạch tuyết đang bao vây cả thân hình Kim-Luân.
Lúc bấy giờ lưỡi gươm của Tiểu-Long-Nữ cũng rít lên xào xạt, xé gió ào ào lộng lên kết thành những đốm trắng linh động, không khác nào muôn ngàn đóa bạch hoa đang bay trước gió, có lúc uốn khúc như hàng đàn rắn bạc, làm cho Kim-Luân hoa cả mặt không còn biết nơi nào né tránh nữa. Ngay chỗ địch thủ đứng cũng không phân biệt được rõ ràng, thì làm sao còn chống cự cho được. Vì vậy e phải lùi ra sau múa vòng chống đỡ cầm chừng, thái độ vô cùng lúng túng.
Thấy địch thủ đang lùi dần để tìm một lối thoát, Dương-Qua lại thét lớn:
- Bây giờ nên theo thế "thanh ẩm tiểu chước" (vừa rót uống) để tấn công thì vừa.
Nói vừa dứt lời, chàng chống gươm như người đang say rượu còn Tiểu-Long-Nữ lại quay ngược mũi gươm lên tựa như người đang bưng ly rượu để uống vậy.
Kim-Luân trông thấy hai người vừa đánh vừa đỡ ăn khớp cùng nhau chặt chẽ không khác gì hai người máy, mà đường gươm nào cũng rất lợi hại, vừa kỳ ảo vừa biến hóa phi thường không thể nào chống đỡ cho kịp thì trong lòng đã hoảng sợ, nghĩ bụng:
- Trời đất mênh mông, anh tài phát sinh ngày càng lắm. Hai người còn trẻ măng mà kiếm pháp lợi hại dường này, thật bên Tây Tạng chưa có ai bì kịp. Không ngờ đất Trung-nguyên lại lắm nhân tài như thế. Xưa nay ta chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, không chịu mở mắt nhìn hết anh hùng trên thiên hạ. Bây giờ sáng mắt ra thì kể cũng hơi muộn.
Thật ra, với tài nghệ của Kim-Luân Pháp-Vương, có thể gọi được là thiên hạ vô địch. Ngay như cả hai người Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ cùng hiệp sức chiến đấu cũng không thắng nổi. Tuy nhiên nhờ cả hai đã biết khéo léo áp dụng kiếm pháp "song kiếm hợp bích" của bà Lâm-Triều-Anh sáng chế nên ông mới chịu thua sút và tránh đỡ không kịp. Kiếm pháp này tưởng trên thế gian cũng chưa có môn phái nào cao siêu bằng.
Theo kiếm pháp này, cứ mỗi chiêu số phải có một đường thuận và một đường nghịch cho trai đánh gái đỡ, hoặc gái đánh trai đỡ ăn khớp lạ thường, đối phương không thể nào dự đoán trước được. Hơn nữa, mỗi thế đều có đặc một cái tên vô cùng bóng bẩy khả ái như "cầm sắc tương hòa" (sắc cầm cùng hòa tấu), "tùng hạ đối địch" (đánh cờ dưới bóng cây tùng), "tảo tuyết phanh trà" (quét tuyết mở trà) hay "tri biện điệu hạc" (giặc hạc bên hồ). Tên gọi càng êm tai thì lối đánh đỡ càng đẹp mắt bấy nhiêu.
Nguyên Lâm-Triều-Anh là một bậc thiên tài, âm thạo cả cầm kỳ thi họa, từ ngày bị thất tình vì Vương-Trùng-Dương trở về ẩn thân trong Cổ-mộ đài đã đem hết tài năng sở trường ra sáng chế nên pho võ công này. Thật ra, Lâm-Triều-Anh biên soạn và sáng chế ra không ngoài mục đích tiêu khiển để quên những nỗi buồn lắng đọng trong tâm tư. Chính bà cũng không ngờ rằng kiếm thuật này, mười năm sau đã giúp cho một đôi nam nữ thiếu niên của phái Cổ-mộ đã áp đảo được một cường địch lợi hại nhất võ lâm hiện thời.
Có một điểm đặc biệt là, cũng đồng thời song đấu, nhưng phải là một đôi nam nữ đang yêu nhau tha thiết, có thể sống chết cùng nhau thì cuộc đấu mới thêm phần lợi hại và tuyệt diệu, diễn tả được tất cả sự huyền diệu của cặp thư hùng. Lúc đầu vì chưa hiểu hết những sự thâm thúy của kiếm thuật, hai người tập luyện có vẻ hời hợt ít hứng thú, nhưng khi gặp một kình địch lợi hại, càng đẩy càng thấy những cái hay ho tuyệt diệu của các thế kiếm đã dạy.
Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ là đôi bạn tình mới bắt đầu yêu thương nhau tuy chưa chung chăn gối, nhưng hai tâm hồn như một, cùng hòa hợp một niềm rung cảm như nhau, không khác nào Lâm-Triều-Anh trong lúc đang cảm xúc ngồi soạn thảo ra Ngọc-nữ Tâm-kinh. Cho nên cả hai càng đấu càng nhớ thêm kiếm quyết, càng đánh càng thông suốt thêm những cái tinh diệu của đường gươm, không khác gì người xe tơ đã gỡ dần ra sợi rối.
Hoàng-Dung đứng ngoài nhìn xem trận đấu, vừa chú ý theo dõi thái độ của hai người. Bà thấy Tiểu-Long-Nữ đôi má đỏ hây hây, chốc chốc nhoẻn một nụ cười e lệ liếc sang. Dương-Qua thì mắt đưa mày liếc mỗi cử chỉ đều quan tâm tới dáng điệu và cảm xúc của người yêu, hình như lúc nào cũng muốn chứng tỏ cho cô nương mình biết rằng, dù cho biển cạn non mòn, gươm dao kề cổ cũng không quên nàng.
- Mặc dù chống cự với một cường địch vô cùng hung ác, nhưng hai người vẫn không hề nao núng và luôn luôn giữ một thái độ dịu dàng của một trai gái đang biển hạn non thề, bất chấp cả đến thiên hạ.
Hình ảnh của hai người khiến cho Hoàng-Dung chợt nhớ lại hồi nào mình cùng Quách-Tỉnh quen nhau, yêu nhau rồi cùng sánh nhau bao nhiêu năm trường trên cuộc đời gian nguy gió bụi. Bao nhiêu đó cũng đủ sưởi ấm được cõi lòng bà đang chua xót vì hoàn cảnh đang lâm nguy của thực tại.
Nhờ phúc chí tâm linh, Dương-Qua cùng Tiểu-Long-Nữ càng đấu càng nhớ ra những thế hay và cùng sáng chế ra lắm thế kỳ diệu ác liệt hơn nữa, khiến Kim-Luân Pháp-Vương đánh đỡ gần muốn đứt hơi.
Bị dồn vào thế bí, lúc bấy giờ Kim-Luân Pháp-Vương mới hối tiếc:
- Phải chi lúc nãy ta đừng dẫm nát các bàn ghế thì bây giờ đã có nơi ẩn nấp thuận tiện rồi. Thôi, không còn cách nào hơn là tìm cách nhảy theo cầu thang xuống phía dưới thoát nạn cho rồi.
Nghĩ vậy rồi ông lùi dần lại phía cầu thang. Khi tới nơi, ông vừa đánh vừa bước xuống từng bước một.
Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ tự nhiên được chiếm ưu thế từ trên đánh xuống. Cả hai cùng có một ý nghĩ:
- Chuyến này chúng ta đã có thể trục xuất mày ra khỏi khách sạn cho mà xem.
Hoàng-Dung đứng nhìn trận đấu, thấy Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ đã khéo phối hợp lối đánh "song kiếm hợp bích" trong ngọc nữ-tâm kinh đuổi được Kim-Luân Pháp-Vương thì trong lòng rất mừng. Nhưng khi thấy lão tìm cách rút lui dần thì bà ngại rằng, nếu để hắn thoát khỏi và tìm được cách đối phó thì nguy hiểm lắm. Phải chi hai người cố gắng diệt được hắn thì quân Mông-Cổ không khác nào rắn đã mất đầu đỡ được một gánh nặng cho anh hùng Trung-nguyên và đỡ được hậu họa.
Vì vậy nên bà vội nói vọng xuống cho hai người cùng nghe:
- Qua nhi, trừ cỏ phải bứng sạch gốc, không nên để sau này nó mọc lại thì nguy hiểm lắm nhé.
Dương-Qua cũng muốn làm theo lời dạy của Hoàng-Dung. Nhưng có một điều đáng tiếc là khi sáng chế ra kiếm pháp này, Bà Lâm-Triều-Anh chỉ có dụng ý phô trương những ngón lợi hại của võ công mình chứ không có ý sát hại ai. Vì vậy nên hai người chỉ có thể làm cho đối phương lúng túng chịu thua chứ không có những đòn hiểm yếu hạ sát được địch thủ.
Kim-Luân càng ngày càng bị áp lực của hai đường kiếm, vừa đánh vừa rút lui, trong bụng lo lắng không thoát khỏi chết. Gần tới đất, ông co gio đạp mạnh gãy luôn ba nấc thang rồi phóng luôn xuống đất.
Dương-Qua muốn nhảy theo nhưng không kịp.
Đặt chân xuống đất, Kim-Luân đưa chiếc vòng ra thủ thế phía trước rồi nói lớn:
- Hôm nay được nếm mùi võ công của Trung-nguyên, tôi rất lấy làm thán phục. Vậy xin liệt vị vui lòng cho biết môn kiếm kỳ diệu này mệnh danh là chi?
Dương-Qua vừa cười vừa đáp lại với giọng đùa cợt:
- Võ nghệ Trung-nguyên chỉ có hai môn võ tuyệt tác, ấy là "dùng bổng đánh chó" và "dùng gươm đâm lừa".
Kim-Luân nghe lạ tai quá, lập lại:
- Dùng gươm đâm lừa! Môn võ công có cái tên cũng ngồ ngộ nhỉ?
Dương-Qua ngước mặt cười to và nói luôn:
- Lừa trọc ấy chứ còn thứ nào nữa? Ngộ lắm phải không?
Lúc bấy giờ Kim-Luân mới biết ra là chàng mượn cớ để mắng mình, xem như đồ lừa đồ chó! Tụi này không bao nhiêu tuổi mà xấc láo thật!
Nghĩ đến đây, Kim-Luân giận điên lên mắng lớn:
- Súc sinh miệng còn hôi sữa. Một ngày gần đây ta sẽ cho mi nếm đòn của ta.
Nói xong ông tung vòng kêu leng keng rồi phi thân biết mất.
Dương-Qua có biết đâu rằng chỉ vì những phút bồng bột nóng nổi nói những câu châm biếm móc họng đến nỗi gây thành thù hận. Về sau biết bao nhiêu thù hận liên tiếp xảy ra nguyên do cũng vì hậu quả của lối đối xử vô lễ ngày hôm nay.
Thấy Kim-Luân Pháp-Vương chỉ nhún vai một cái đã bay đi mất dạng thì biết rằng muốn đuổi theo cũng không kịp nữa nên quay mình trở lại lên lầu.
Lúc bấy giờ Đạt-nhĩ-Ma đang ôm Hoắc-Đô ngồi trên lầu cạnh bàn ăn trông thấy Dương-Qua xách kiếm bước vào đứng ngay dậy hỏi nhỏ:
- Sao, tiểu huynh định hạ sát anh em tôi chăng?
Xưa nay Dương-Qua có tánh ưa đùa cợt ngạo nghễ người lớn hơn, chứ không có ác ý hay muốn sát hại người. Nay thấy tình cảnh hai người đang ở trong vòng nguy biến đáng thương hại thì lòng không nỡ, nên quay sang thưa cùng Hoàng-Dung:
- Thưa Quách Bá Mẫu, ý con muốn tha bọn này, bá mẫu có bằng lòng chăng?
Hoàng-Dung gật đầu tán thành.
Dương-Qua rút trong người ra một cái ống nhỏ đặt vào vết thương của Hoắc-Đô cho hút hết nọc ong ra rồi đưa thuốc bảo xoa vào chỗ ấy.

Hoắc-Đô và Đạt-nhĩ-Ma mừng quá vội dùng tiếng Mông-cổ tỏ lòng cám ơn. Sau đó, Hoắc-Đô vội lấy ra một gói thuốc bột trao cho Dương-Qua mà nói rằng:
- Vị tiền bối hôm nọ múa bút bị mấy mũi đinh độc của tôi chắc nay chưa hết. Xin cứ dùng thuốc này mà thoa tự nhiên khỏi ngay.
Xong đâu đấy, Đạt-nhĩ-Ma nghiêng mình tạ ơn Dương-Qua một lần nữa rồi cõng sư đệ lên lung bước ra khỏi khách sạn.
Quả nhiên y có sức khỏe như thần, tuy cõng một người to lớn trên lưng nhưng bước đi không thấy tỏ ý gì là nặng nhọc hay lán cấn.
Cả bọn võ sĩ Mông-cổ cũng lẳng lặng theo hai người bước xuống lầu.
Dương-Qua cầm gói thuốc giải độc trước mặt Hoàng-Dung rồi lễ phép thưa rằng:
- Kính thưa Quách Bá-mẫu, cháu xin gửi thuốc chữa cho Chu lão tiền bối và kính lời từ biệt. Cháu nhờ Bá-mẫu chuyển lời của cháu kính thăm Quách bá bá.
Hoàng-Dung hỏi:
- Cháu định đi đâu bây giờ?
Dương-Qua đáp nho nhỏ:
- Thưa bá mẫu, cháu định cùng Cô nương đây tìm nơi hoang vắng xa xôi ẩn dật, nguyện không bao giờ chung đụng với đời để làm hại đến thanh danh của bá mẫu.
Hoàng-Dung suy nghĩ:
- Dương-Qua không nệ tử sanh, liều mình giải cứu mẹ con ta thì ơn này rất trọng. Nay vì tuổi trẻ để cho chữ tình làm mê muội mai một cuộc đời anh kiệt. Ta lẽ nào làm ngơ mà không tìm cách giác ngộ được nó ra khỏi bến mê?
Nghĩ xong bà nói lớn:
- Đi một ngày một đi, làm chi mà tội thế cháu? Hôm nay là ngày đoàn tụ vui mừng của bác cháu và anh em trong gia đình. Vậy cháu hãy ráng ở lại với bác một vài hôm rồi sẽ đi không muộn.
Thấy Hoàng-Dung đã lùng lời lẽ thắm thiết để lưu mình, chẳng lẽ chối từ mãi, nên đành phải nhận lời.
Hoàng-Dung lấy tiền ra bồi thường cho khách sạn về chi phí ăn uống cùng những đồ đạc bàn ghế bị hư hao trong cuộc chiến đấu vừa qua, rồi bảo dọn phòng nơi quán trọ gần đó tạm nghỉ.
Cơm chiều vừa xong, bà sai Quách-Phù và hai anh em họ Võ mời Tiểu-Long-Nữ sang trò chuyện.
Khi Tiểu-Long-Nữ vừa tới bà tươi cười nói:
- Tôi có vật này, muốn tặng Cô em để lưu làm kỷ niệm của buổi gặp gỡ hôm nay.
Tiểu-Long-Nữ hỏi:
- Bà có lòng thương tặng món gì vậy?
Hoàng-Dung kéo Tiểu-Long-Nữ lại sát bên mình, lấy lược chải tóc cho nàng như một người em gái.
Mái tóc nhung của nàng xõa xuống ngang vai óng ánh như tơ trông vừa ngây thơ vừa ngộ nghĩnh.
Sau khi chải chuốt xong xuôi bới tóc gọn gàng, bà lấy một chiếc trâm bằng vàng đem cài lên mái tóc của nàng rồi nói:
- Chị muốn tặng cô em chiếc trâm này dùng để cài tóc nhé.
Chiếc trâm này là một món bảo vật quý giá vô cùng. Toàn thân giống như một cành hoa hòa chạm trổ rất tinh xảo, có những đóa hoa hàm tiêu dính ở đầu trâm, khiến ai mới trông qua cũng phải trầm trồ là mỹ thuật. Càng xem lâu càng thấy những cái quý giá trong nét chạm và lối trình bày.
Chiếc trâm này nguyên lai do phụ thân Bà là Hoàng-Dược-Sư, Chúa đảo Đào-Hoa, chuyên môn sưu tầm những bảo vật của thiên hạ, sau này lựa những viên ngọc thật quý và vàng ròng đem chạm thành chiếc trâm này cho con gái. Xem thế cũng đủ biết trâm này giá trị là dường nào.
Từ lúc nhỏ, Tiểu-Long-Nữ chỉ cài bằng nữ trang tầm thường, bằng sừng hoặc xương hoặc kết bằng cỏ. Nay được Hoàng-Dung tặng một chiếc trâm bằng vàng dát ngọc quý báu thì mừng lắm, cám ơn luôn mồm.
Sau khi cài trâm trên tóc nàng rồi, Hoàng-Dung thủ thỉ nói chuyện luôn mồm ra chiều tương đắc lắm.
Qua những câu chuyện hàn huyên, Hoàng-Dung nhận thấy Tiểu-Long-Nữ bản chất thành thật, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy và cuộc đời chẳng có một tý kinh nghiệm nào hết. Mặt nàng tươi như hoa phù dung buổi sáng, thân hình óng ả kiều diễm, càng ngó càng đẹp.
Thấy nàng quá xinh, Hoàng-Dung suy nghĩ:
- Nếu như nàng cùng Dương-Qua không có nghĩa thầy trò, hai đứa lấy nhau quả xứng đôi vừa lứa, gái sắc trai tài, thế gian chắc không đôi nào sánh kịp.
Suy nghĩ xong bà dịu giọng hỏi nhỏ:
- Này cô em, quả em có thật tình yêu thương Dương-Qua hay chỉ nói đùa cho vừa lòng nó?
Tiểu-Long-Nữ cười tươi như hoa và nói:
- Dạ thương thật chứ. Nhưng tại sao bà lại hỏi như vậy, chẳng hay có điều gì can hệ chăng?
Nghe Tiểu-Long-Nữ trả lời một cách thẳng thắn và hồn nhiên. Hoàng-Dung bỗng chạnh lòng nhớ lại ngày còn niên thiếu. Hồi ấy bà và Quách-Tỉnh yêu thương nhau tha thiết, nhưng cha mình lại không chịu gả cho chàng, ngoài ra bọn Giang nam Thất quái, sư phụ của Quách-Tỉnh cũng không bằng, lòng họ xem nàng là yêu nữ và buộc Quách-Tỉnh phải xa lánh nhất thiết không cho gần mình. Cả hai người phải trải qua trăm cay ngàn đắng, vào tử ra sinh, nhưng rốt cuộc rồi cũng lấy nhau làm chồng vợ có con có cái cho tới ngày nay.
Liên hệ tới cặp này bà suy nghĩ:
- Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ đã thật tình yêu nhau tha thiết, có khác nào chúng mình xưa kia. Vậy thì mình nỡ nào đi chia rẽ họ cho đành lòng. Ngặt một nỗi là hai đứa đã mang danh thày trò quá rõ rệt trên dưới phân minh, nếu để xảy ra chuyện bướm ong bậy bạ sao khỏi mang tiếng loạn luân. Cả hai đều tài nghệ tuyệt vời, tương lai đầy hứa hẹn, nếu vương phải tội lỗi này thì cũng như chôn cả cuộc đời rồi còn mặt mũi nào nhìn anh hùng trong thiên hạ nữa.
Suy đi nghĩ lại xong, bất giác Bà chiếp miệng thở dài não ruột, rồi quay sang Tiểu-Long-Nữ nhỏ nhẹ nói:
- Long cô-nương này, em còn thiếu kinh nghiệm chưa hiểu việc đời mấy. Chị dù sao cũng đã từng trải hơn nhiều, tuy không tài chỉ hơn em nhưng cũng có thể thấy được nhiều chuyện lạ, cái hay thì theo, cái bậy nên tránh. Sở dĩ con người hơn được thú vật là vì biết điều phải trái và không để ái tình làm ngu muội. Nếu làm người mà mải mê theo tình ái quên cả lý chí thì thiên hạ cho là "thú tính" nghĩa là không hơn chi loài súc vật. Chị chỉ ngại rằng, nếu sau này em lấy Dương-Qua sẽ bị thiên hạ chê cười khinh khi và không ai thèm nhìn tới mặt hai người nữa đấy.
Tiểu-Long-Nữ nghe nói đã buồn lòng, nhưng vẫn cười gượng đáp:
- Thiên hạ nhìn hay không, đối với chúng tôi có can hại gì đâu.
Nghe nói như vậy, Hoàng-Dung suy nghĩ:
- Cô bé này không phải hạng muốn xem thường dư luận, nhưng có lẽ từ bé chí lớn, sống trong Cổ-mộ, không giao thiệp với xã hội bên ngoài, chỉ chuyên về võ nghệ nhưng không am hiểu mấy về lễ nghi, đạo đức. Cũng như ngày nay, tại các nhà trường, mấy thầy giáo chỉ chú trọng dạy viết chữ thật đẹp, làm văn cho thật hay, chứ mấy ai lưu tâm tới chuyện luân thường đạo lý, đào luyện đạo đức cho con em? Thật đáng ngán thay cho những hạng thày giáo chỉ nhắm về bát gạo nồi cơm. Nếu thiên hạ chỉ toàn những hạng như thế này thì xã hội còn nhiều sự đảo lộn xấu xa hơn nữa.
Suy nghĩ xong bà nói tiếp:
- Cô em không cần tới họ đã đành, nhưng còn Dương-Qua chẳng lẽ cũng như thế sao?
Tiểu-Long-Nữ đáp:
- Xin bà chị chớ lo điều đó. Nay mai hai chúng em sẽ trở về Cổ-mộ, sống ẩn tích mai danh, xa rời xã hội loài người, có cần gặp gỡ hay tiếp xúc với ai nữa đâu?
Hoàng-Dung giả bộ ngơ ngác hỏi tiếp:
- Thế ra một khi đã về Cổ-mộ rồi cả hai sẽ vĩnh viễn ly khai với xã hội loài người hay sao?
Tiểu-Long-Nữ quả quyết đáp:
- Dạ đúng như vậy. Bà chị cũng thừa hiểu trong xã hội không biết bao nhiêu là hạng người điêu ngoa xảo trá, tiếp xúc với họ chỉ thêm bực mình mà thôi.
Nàng vừa nói vừa lăng xăng đi đi lại lại trong phòng hình như để cởi mở bớt những nỗi bực trí đang tràn ngập trong tâm hồn.
Hoàng-Dung bắt đầu gợi lại câu chuyện:
Dương-Qua sống cuộc đời phiêu bạt từ thuở bé, nay đây mai đó không khác nào cánh chim trời tung mây lướt gió.
Tiểu-Long-Nữ cười xòa đáp với giọng đầy tin tưởng:
- Bà chị không cần phải lo nghĩ về điểm đó. Một khi đã có em bên cạnh tự nhiên anh ấy sẽ thấy yêu đời, quên cả bao nhiêu cảnh xảo trá phiền phức bên ngoài ngay. Chừng ấy em chắc chắn anh ấy không buồn chán đâu.
Hoàng-Dung thở dài than nhỏ:
- Lòng người đâu phải sắt đá mà cứ mãi mãi trơ trơ đến muôn đời không thay đổi. Chị ngại rằng trong thời gian ba năm Dương-Qua chưa buồn chán, nhưng sau đó khi cuộc đời vắng lạnh trong Cổ-mộ đã thấy buồn tẻ, thế nào y cũng nhớ lại những cảnh phồn hoa vui vẻ ngoài đời, chừng ấy, em có đủ sức giữ chân y nữa hay không? Chừng ấy, em sẽ đóng vai một góa phụ sống với chuỗi ngày vò võ một thân một bóng trong rừng sâu, và trong những phút cô độc, suy nghĩ lại những lời hôm nay, em sẽ thấy chị là kẻ sành đời, có tài đoán trước được mọi việc. Chừng ấy dù có hối tiếc thì cũng đã muộn rồi. Chi bằng ngay bây giờ, khi bàn tay chưa nhúng phải chàm, em nên đắn đo suy nghĩ lại trước khi hành động.
Nói tới đây bà đổi lại giọng thân mật hơn trước:
- Tục ngữ có nói: "Đàn ông năm bảy tấm lòng, lòng yêu thương vợ, lòng yêu người ngoài". Một khi hoa đã biết bướm thì dù ai có mãnh lực gì đi nữa cũng không thể nào giữ mãi không cho bướm rời hoa đâu nhé.
Nghe Hoàng-Dung nói, dần dần thấy cũng có lý. Tiểu-Long-Nữ đứng lặng yên cắn môi suy nghĩ, bao nhiêu ý nghĩ trái ngược nhau đã bắt đầu tranh chấp và gây sóng gió trong lòng nàng. Một chập sau nàng mới nói:
- Vậy để em tìm cách dò xét ý tứ Dương-Qua xem sao?
Nói xong nàng lẳng lặng bước lanh ra ngoài.

Hoàng-Dung đưa mắt nhìn theo miệng lẩm bẩm khen vùi:
- Con người như nàng quả nhiên xinh đẹp, mặt như hoa phù dung, thân hình mảnh mai như cành liễu yếu. Dáng bước đi không khác gì nàng tiên đang lả lướt bên cánh hoa soi hình dưới bóng nguyệt! Một con người dễ thương như thế này đáng lẽ phải được hưởng chữ hạnh phúc hoàn toàn mới phải. Vì chữ luân lý và lễ nghĩa ta buộc lòng xen vào, làm phá vỡ cuộc tình duyên của hai đứa thật cũng quá tội. Nhưng thôi, thà rằng cực lòng trước để khỏi đau lòng sau.
Nghĩ tới đây bà bỗng chợt nghĩ:
- Tánh nàng thiệt tình như đếm, không biết sẽ dùng lời lẽ chi để dò ý Dương-Qua đây? Ta phải rình nghe cho biết.
Nghĩ xong bà rón rén bước lại cạnh phòng Dương-Qua, áp tai vào vách tường nghe thử.
Lúc ấy phía trong, Tiểu-Long-Nữ đã hỏi Dương-Qua:
- Này Qua nhi, hiện tôi cũng nhận rằng cậu hết tình yêu thương tôi. Nhưng một thời gian qua, mối tình này sẽ chán chê rồi phai lạt đi, chừng ấy cậu sẽ nghĩ sao nhỉ?
Bỗng nhiên thấy Cô nương có ý nghĩ lạ đời như vậy, Dương-Qua lạ lùng vô cùng không biết nguyên nhân vì đâu, nhưng cũng đáp:
- Tại sao cô nương bỗng cố ý tưởng khác đời như thế? Hễ yêu nhau thì yêu mãi cho tới khi đầu bạc răng long, chứ đâu có chuyện nửa chừng rồi chán nản được.
Câu trả lời này khiến cho Tiểu-Long-Nữ cảm động đến ứa lệ, nàng bồi hồi đứng lặng một hồi rồi nói tiếp:
- Được vậy thì có gì hơn. Tôi chỉ sợ nói thì dễ nhưng không giữ được thủy chung đó thôi.
Nói xong nàng rút chiếc trâm trên đầu xuống móc lên tường rồi bảo nhỏ:
- Khuya rồi, chúng ta ngủ đi, sáng sẽ hay.
Dương-Qua nói:
- Vừa rồi nghe Quách bá-mẫu nói đêm nay Cô nương cùng ngủ chung phòng với mẹ con bà, còn tôi ngủ với anh em nhà họ Võ, thế sao cô nương lại về đây để ngủ?
Tiểu-Long-Nữ gay gắt đáp:
- Mặc kệ! Ai lại để cho hai người đàn ông lạ hoắc ngủ chung trong phòng cậu cho được. Ta cứ ngủ đây chứ không đi đâu hết có sao không?
Nàng nói xong thổi ngay ngọn đèn.
- Té ra Triệu-chí-Kính đã nói đúng sự thật. Thì ra hai thầy trò hắn đã bậy bạ cùng nhau lâu rồi. Thôi, trai gái nó ngủ chung phòng nói chuyện nhảm nhí ta hơi đâu nghe ngóng cho mệt và mất thể giá.
Nghĩ xong bà định cất bước đi nơi khác. Nhưng bỗng nhiên trong phòng có tiếng mở cửa kêu kẹt một cái. Bà liền nán lại lắng tai nghe nữa.
Tiếng kẹt đó là do Dương-Qua mở cửa cho gió thổi vào trong phòng. ánh trăng từ cánh cửa lùa vào trong phòng trông rõ hết mọi vật. Bà định thần nhìn lại thì thấy Tiểu-Long-Nữ nằm trên chiếc võng treo tận nóc nhà, còn Dương-Qua thì nằm trên giường kê phía đàng xa. Té ra mặc dù hai người cùng ngủ một phòng nhưng vẫn phân biệt và giữ đúng lễ nghi khuôn phép, không có điều gì tà dạy.
Hoàng-Dung làm thinh, chấp tay sau đích thủng thẳng bước đi ra ngoài, trong lòng phân vân quyết làm sao cho đúng tâm trạng và hành động của cặp này.
Khi bà về tới phòng ngủ bỗng gặp Quách-Phù và hai anh em họ Võ cũng vừa đi lại.
Bà bèn bảo nhỏ:
- Tu-Văn, Đôn-Nho, hai con nên về phòng mà ngủ, không cần phải tới phòng Dương-Qua nữa nhé.
Hai anh em họ Võ cuối đầu tuân lệnh.
Quách-Phù ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao thế mẫu thân?
Hoàng-Dung chỉ trả lời suông một câu:
- Việc không can hệ tới con, chớ hỏi vô ích.
Võ-Tu-Văn đứng gần hơn, nghe nói chế nhạo với một giọng vừa pha trò vừa mỉa mai.
- Có gì mà không hiểu? Bọn này trò không ra trò, thầy chẳng nên thầy, lúc nào cũng có thể ăn chung ngủ lộn, có khác chi đồ súc vật đâu?
Hoàng-Dung hừ một tiếng rồi nghiêm giọng bảo nhỏ:
- Ta cấm không được có những lời lẽ như thế nữa.
Võ-Đôn-Nho nói thêm:
- Nước này mà Sư mẫu còn bên chúng làm chi nữa. Đối với những hạng người vô liêm sỉ, thiếu luân thường như chúng nó, con không thèm trò chuyện cho uổng miệng.
Quách-Phù gạt ngang hỏi:
- Thôi đừng nói nữa. Dù sao họ cũng có công cứu mạng chúng ta. Phải xem họ như những người có ơn lớn và cư xử cho phải phép. Còn chuyện riêng của họ làm sao mặc kệ, chúng ta không nên đinh dự vào mà phê phán. Để có trời đất chừng trị.
Võ-Tu-Văn bỉu bôi ra vẻ anh hùng:
- Ân nghĩa làm chi với bọn người vô luân. Thà để tôi chết về tay của Pháp-Vương Mông-Cổ còn hơn bắt phải chịu ơn cái thằng súc sinh ấy.
Hoàng-Dung không bằng lòng bảo nhỏ:
- Thôi chớ khá lắm lời, hãy đi ngủ cho rồi.
Câu chuyện đối đáp giữa Hoàng-Dung và ba người, trong phòng Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ nghe rõ mồn một, không sót một câu.
Ngay từ lúc nhỏ, Dương-Qua và hai anh em họ Võ đã đối với nhau không hạp ý, và lúc nào chàng cũng xem hai người như hạng tiểu nhân dưới tay, nên tuy nghe nói xấu mình, vẫn không thèm chấp nhặt. Nhưng Tiểu-Long-Nữ thì trái lại. Nàng luôn luôn thắc mắc tự hỏi:
- Tại sao ta cùng Dương-Qua yêu nhau mà họ lại tỏ ý khinh miệt và oán ghét như thế ấy. Tại sao họ dám bảo chúng ta như đồ súc vật?
Nàng suy nghĩ mãi không tìm ra nguyên nhân, và đêm ấy cứ chập chờn mãi không ngủ được.
Đêm càng khuya, tư bề càng tịch mịch. Tiếng dế dun kêu ri ri hòa lẫn với tiếng gió đưa cành lá ngoài hè thành một âm thanh não ruột, càng nghe càng buồn thêm. Tiểu-Long-Nữ trằn trọc mãi không ngủ được, bèn gọi Dương-Qua dậy nói:
- Qua-nhi, ta có câu chuyện muốn hỏi ý kiến cậu. Nên thành thực trả lời cho ta nhé. Đừng nói dối mà đắc tội đấy.
Đang ngủ mơ màng bị đánh thức dậy, Dương-Qua vội hỏi ngay:
- Chuyện gì Cô nương cứ hỏi, không khi nào tôi có điều gì man trá đối với cô nương đâu.

(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 2 trang)

Nghĩ tới đây, chàng đau đớn quá ngất xỉu trên đất.
Một chặp sau, chợt tỉnh dậy, tâm thần thác loạn, Dương-Qua lồng lộng như ác thú bị thương, xô cửa ầm ầm, miệng kêu thảm thiết:
- Cô nương, cô nương ơi!
Vừa nghe kêu, tiểu nhị vội chạy vào hỏi tự sự. Vừa trông thấy tên Tiểu-nhị, Dương-Qua mếu máo hỏi:
- Cô gái áo trắng đã đi ra từ lúc nào và đi ngõ nào rồi. Chú có biết xin làm ơn chỉ dùm.
Tiểu-nhị nào biết ất giáp chi, chỉ đứng lặng thinh, không đáp được.
Lòng rối như tơ vò, Dương-Qua nghĩ bụng:
- Nếu chuyến này không tìm ra thì ngàn đời xa cách mãi.
Nghĩ xong, chàng đi xâm xui ra chuồng ngựa dắt ngựa ra, leo vội lên lưng phóng càn về hướng Bắc.
Khi ấy Quách-Phù vừa thức dậy từ trong bước ra, thấy Dương-Qua phi ngựa chạy đi vội gọi lớn:
- Dương ca ca, đi đâu sớm vậy. Có chuyện gì gấp rút thế?
Dương-Qua không thèm nghe cũng không buồn đáp lại, giơ roi cho ngựa phi mau như gió thổi, chỉ trong nháy mắt đã vượt ra ngoài hai mươi dặm rồi.
Ngồi trên mình ngựa chạy bất kể phương hướng. Dương-Qua kêu gọi như một người tuyệt vọng:
- Cô nương ơi, cô nương! Cô nương đi ngã nào rồi?
Thấy bóng nữ lang nào mặc áo trắng chàng cũng tưởng là Tiểu-Long-Nữ vội vàng chạy tới ngay, khi tới gần nhìn lại không phải. Rồi chàng lại lủi thủi bỏ đi nơi khác.
Lầm lũi chạy thêm một quãng nữa bỗng gặp Kim-Luân Pháp-Vương và bọn tùy tùng đang cỡi ngựa đi về hướng Tây.
Kim-Luân Pháp-Vương nhìn thấy Dương-Qua một người một ngựa chạy như điên không có định hướng, thì ngạc nhiên lắm, vội vàng quay ngựa chạy qua chận đầu.
Trong khi ấy Dương-Qua không một tấc sắc trong tay, lại gặp đại cường địch đón đầu, thật vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên vì đang bận tâm tìm kiếm Tiểu-Long-Nữ không có, chàng bất chấp mọi việc nào khác, và dù thần chết đứng kề bên lưng cũng không thèm đếm xỉa.
Thấy Kim-Luân Pháp-Vương giục ngựa lại chận đường, Dương-Qua đã không lẩn tránh lại còn dừng lại hỏi lớn:
- Này, ông có gặp Sư phụ tôi đi về hướng này hay không?
Kim-Luân Pháp-Vương thấy Dương-Qua không lánh mặt mình đã cho một chuyện lạ lùng, nay thấy chàng hỏi như vậy lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bèn đáp lại:
- Không gặp. Vậy cô ấy không đi cùng lối với người sao?
Vốn là tay thông minh xuất chúng, nên sau mấy câu nói chuyện, Dương-Qua chợt tỉnh ngộ và nhận xét ngay cục diện đã xảy ra như thế nào rồi. Chàng bỗng nghĩ bụng:
- Mình tới đây, trong tay không có binh khí tùy thân, tại sao còn đứng lại nộp mạng cho nó?
Kim-Luân Pháp-Vương thì mừng rỡ nghĩ:
- Nó tới đây một mình, ta không thừa dịp bắt cổ đi, còn chờ khi nào nữa chứ?
Ông bèn xông tới, đưa tay chộp lấy. Ngay khi đó Dương-Qua đã cho ngựa bước lùi ra sau nên chộp không trúng.
Kim-Luân bèn thúc ngựa tiến thêm lên cố bắt cho được.
Lời tục có nói "đường dài biết sức ngựa, nước loạn biết trung thần! Trong lúc này mới biết con ngựa ốm của Dương-Qua là một thần mã.
Vừa thấy Kim-Luân phi tới trước thì nó đã tung bốn vó nhảy vụt qua đầu rồi phi thân phóng xa gần mười trượng mới đặt chân xuống đất lao vút tới như tên bắn. Kim-Luân tuy có ngựa cũng khá hay nhưng cũng không tài nào đuổi theo kịp nữa.
Chạy theo một chặp nhưng không theo kịp, Kim-Luân nghĩ bụng:
- Thầy trò nó đã thất lạc rã rời, ta cần chi phải đuổi theo cho nhọc sức.
Bỗng nhiên ông nghĩ thêm chuyện khác:
- Hắn còn đây, có lẽ mẹ con Hoàng Bang-Chủ cũng còn lẩn quẩn đâu đây chứ chưa đi xa. Chi bằng ta quay lại đi tìm cầu may xem sao.
Nghĩ xong, ông dẫn bọn tùy tùng quay trở lại.

Dương-Qua phi ngựa như bay, chạy hơn hai chục dặm mà không thấy bóng dáng Tiểu-Long-Nữ đâu hết.
Trong lòng nôn nóng hơn lửa đốt, chàng phi ngựa chạy tán loạn, mấy lần suýt té nhà xuống ngựa.
Chàng ôm chặt lấy cổ ngựa, miệng la lớn như nói trong mơ:
- Cô nương ơi, nỡ lòng nào bỏ tôi cho đành? Tôi đã làm gì nên tội mà Cô nương lại đối xử tình tệ như vậy, Cô nương ơi?
Tiếng chàng kêu thật bi ai tha thiết, miệng thì la mà hai hàng nước mắt chảy ra không ngớt.
La một chập mệt quá, chàng ôm cổ ngựa suy nghĩ:
- Hay là tại mình bảo nếu chán Cổ-mộ thì cùng ra ngoài, nên Cô nương cho mình là người không chung thủy nên tức bực ra đi lần nữa chăng?
Nghĩ vậy, chàng lau nước mắt rồi tự nhủ:
- Cô nương nhất định trở về Cổ-mộ chứ không đâu xa. Ta cứ trở về tự nhiên sẽ gặp ngay.
Nghĩ xong chàng giục ngựa nhắm hướng về Cổ-mộ chạy như gió cuốn.
Đường về phương Bắc xa cách nghìn trùng, nhưng trong lòng nôn nóng gặp lại người yêu, nên Dương-Qua bền chí cho ngựa chạy mãi mà không thấy ngán.
Để đỡ buồn, chàng ngồi trên mình ngựa hát nghêu ngao.
Vừa đi vừa hát, không bao lâu đã đúng ngọ. Lúc bấy giờ trong bụng Dương-Qua đã thấy đói. Chàng dừng ngựa ghé lại cái quán nhỏ bên đường mua vài tô mì ăn đỡ dạ.
Khi ăn xong, thò tay vào túi thấy không còn một xu nhỏ. Dương-Qua vừa lo vừa thẹn không biết tính làm sao đây. Cuối cùng chàng đánh liều chờ khi chủ tiệm vô ý nhảy phóc lên ngựa chạy như tên bắn.
Vừa chạy chàng vừa nghe văng vẳng tiếng chủ tiệm chưởi bới om cả lên. Dương-Qua nghĩ thầm:
- Họ chửi cũng đáng lắm.
Chạy mãi mặt trời đã xế bóng và ánh tà dương cũng dần dần sắp tắt. Phía trước mặt là một khu rừng cây cối rậm rạp, có vẻ vắng vẻ hoang vu.
Khi đến cạnh ven rừng, bỗng nhiên từ bên trong có tiếng bình khí chạm nhau leng keng rang rảng, xen vào là tiếng quát tháo om sòm.
Lạ quá, chàng vội giục ngựa tới gần, lắng tai nghe ngóng.
Rõ ràng là tiếng nói của Quách-Phù và Kim-Luân Pháp-Vương.
Dương-Qua đoán chắc thế nào cũng có việc không lành xảy ra cho mẹ con Hoàng-Dung rồi.
Chàng liền buộc ngựa vào gốc cây, len lén bước vào, nhón gót nghểnh cổ nhìn vào. Cách đó hơn mười trượng, ngay phía trước mặt dưới mấy cây cổ thụ cành lá sum suê, hai mẹ con Hoàng-Dung và anh em họ Võ đang chống đối cùng Kim-Luân Pháp-Vương, cạnh nhiều đống đá chập chồng lởm chởm.
Hai anh em họ Võ đã bị thương, mình mẩy đầm đìa cả máu. Hoàng-Dung đầu tóc bơ phờ, quần áo, xốc xếch, tinh thần bối rối trông thấy rõ ràng.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Nếu cục diện kéo dài, bốn người này nếu không bị bắt sống, nhất định cũng phải tán mạng dưới chiếc vòng ác nghiệt của Kim-Luân.
Chàng nghĩ thêm:
- Không có cô-nương, nếu một mình ta nhảy vào chẳng những không đối lại hắn mà nhiều khi còn phải nguy hiểm là khác nữa. Tuy nhiên, trông thấy người quen bị nạn thì cũng không thể làm ngơ cho được.
Trong lúc đang phân vân suy nghĩ chưa biết nên làm gì, thì Kim-Luân đã vung vòng sắt tấn công kịch liệt.
Hoàng-Dung không dám chống đỡ, vội nhảy lùi ra trốn sau một đống đá gần bên.
Dương-Qua nhìn thấy lấy làm lạ vô cùng. Anh chú ý thử Quách-Phù và hai anh em họ Võ làm gì. Khi thấy Kim-Luân Pháp-Vương tung vòng ra đánh, thì cả ba ngồi xuống nấp vào các mô đá chập chùng nhấp nhô.
Bọn Đạt-nhĩ-Ma cùng đứng vây vòng tròn xung quanh đó chứ không chịu xông vào để bắt.
Cứ nhìn thần sắc Quách-Phù và hai anh em họ Võ thì thấy cả ba đều có vẻ tin tưởng và yên chí ở phía sau các đống đá ấy lắm.
Dương-Qua ngạc nhiên vô cùng. Chàng không thể tưởng tượng được những chồng đá tầm thường như thế kia mà lại có phép mầu nhiệm ngăn cản Kim-Luân Pháp-Vương không xâm phạm tới bọn Hoàng-Dung và khiến Bà đã chuyển nguy thành yên.
Suy nghĩ một chập chàng bỗng chợt nhớ ra:
- à, hay là "loạn thạch trận" đây chăng? Như vậy sao anh em họ Võ không nhân cơ hội nầy tẩu thoát đi cho rồi?
Kim-Luân Pháp-Vương cứ đánh mãi nhưng không hạ được hai mẹ con Hoàng-Dung. Còn bao nhiêu bọn võ sĩ Mông-Cổ hễ tên nào hại dân đều bị Quách-Phù đâm chết hết cả. Kim-Luân đoán chắc trong đống đá ngổn ngang này thế nào cũng có điều huyền bí hay Hoàng-Dung đã bố trí mưu thần chước quỷ chi đây. Muốn khỏi lầm mẹo địch, cần phải thận trọng xem xét cho kỹ rồi mới hành động được, lần này làm sao cũng phải tóm cổ cả bọn cho hết mới xong.
Mặc dù không xông ra trận địa, nhưng Kim-Luân vốn là một kẻ nhiều mưu lược, ý nghĩ rằng:
- Mặc dù chúng có chỗ lánh thân, nhưng thân chung không khác gì chim lòng cá chậu, không thể nào trốn thoát đi đâu cho được. Mình cứ bình tĩnh xem xét thật kỹ để hiểu rõ những bí ẩn của nơi này rồi tấn công luôn.
Nghĩ xong cho là đắc sách, Kim-Luân ra lệnh cho đồng bọn rút lui ra sau, và chính bản thân ông cũng lùi xa trận địa mấy trượng.
Bọn Đạt-Nhĩ-Ma và tu võ sĩ Mông-Cổ lùi ra xa hơn, đứng phía sau Pháp-Vương chờ lệnh.
Đứng ngoài nhìn vào Kim-Luân Pháp-Vương suy nghĩ:
- Nếu đây là một trận đồ thì nhất định phải bố trí theo hình "thái cực" biến hóa theo "lưỡng nghi" và "ngũ hành bát quái". Chi bằng ta áp dụng theo phương thức "ngũ hành tương khắc" để phá thì nhất định phải thành công.
Suy nghĩ lại một chặp ông nhìn lại lần nữa, xem hai bên tả chi và hữu dực lại thấy biến hóa khác rồi, thật là kỳ khu, nên ông không biết tính sau cứ đứng nhìn trân như tượng gỗ.
Dương-Qua đứng đàng xa chú mục nhìn theo, thấy Kim-Luân đứng đờ người suy nghĩ. Bỗng nhiên trong ánh mắt của ông lóe lên luồng hào quang sáng rực, hình như ông vừa tìm được cách phá trận này rồi.
Bỗng nhiên Kim-Luân nhún mình phi thân vào giữa trận, đưa tay chộp Quách-Phù kéo ra.
Hoàng-Dung và anh em họ võ kinh hồn hoảng vía, vì ai ai cũng đinh ninh Quách-Phù thế nào cũng bị hạ. Muốn xông ra cứu thì nguy hiểm tới tánh mạng ngay, còn làm ngơ không cứu, thì tình mẫu tử phải cắt đứt phen này.
Thật ra trong lúc chưa nghĩ được cách phá trận, Kim-Luân bèn giả bộ đứng đờ người ra nhìn sững, mục đích đánh lừa mọi người.
Quách-Phù tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, thấy y đứng nhìn sững, tưởng không nguy hiểm nên mon men ra ngoài bìa trận để theo dõi hành động ra sao. Bất ngờ Kim-Luân triển thi khinh công tối thượng, phóng mình lại bắt nàng không thể nào thoát khỏi. Nắm được Quách-Phù rồi. Kim-Luân đã điểm huyệt ngay. Nhưng y dụng ý điểm vào huyệt khiến cho nàng bị tê liệt cả người nhưng vẫn biết đau đớn và kêu la, khiến cho Hoàng-Dung nóng lòng xông ra cho y bắt luôn thể.
Quả nhiên nghe tiếng con gái la khóc, Hoàng-Dung quá đau lòng không thể nào dằn được, bèn phi thân nhảy ra khỏi trận, ôm lấy Quách-Phù, định nhảy trở vào trận đá.
Mừng quá, Kim-Luân lập tức tung vòng sắt ra đập tới. Lúc ấy Dương-Qua đứng ngoài theo dõi thấy Hoàng-Dung vì nóng lòng mắc kế Kim-Luân, trong bụng đã hoảng hốt muốn la lên nhưng không còn kịp nữa. Khi Hoàng-Dung vừa dợm chân nhảy vào thì chiếc vòng sắt đã tung lên và đập tới như núi sập. Dương-Qua lập tức phi thân tới ngay vừa lúc chiếc vòng đánh xuống.
Vì trong tay không có sẵn võ khí, Dương-Qua bèn cúi xuống bê một tảng đá to tướng, sức nặng non ngàn cân, ném mạnh vào chiếc vòng, nghe choang một tiếng điếc ráy. Chiếc vòng bị táng quá mạnh, sút khỏi tay Kim-Luân rơi xuống đất, Hoàng-Dung thừa cơ hội bồng Quách-Phù nhảy vào trận loạn thạch.
Kim-Luân thấy Dương-Qua lại xuất hiện, bất ngờ đánh rơi vũ khí mình thì nổi giận, nhưng mỉm cười bảo:
- Hay lắm, hôm nay lại gặp chú mi. Như thế khỏi nhọc công tìm đâu xa nữa.
Thật ra lần này tay không xông vào vòng chiến, chẳng qua cũng vì lòng nghĩa hiệp, chứ thật tình Dương-Qua đâu có muốn, và chàng cũng chẳng thiết một việc gì hết. Khi đã đứng vào thạch trận, chàng bỗng giật mình suy nghĩ:
- Phen này lâm trận, tức nhiên đã đem thân vào cõi chết. Thôi còn hy vọng nào được tái ngộ cùng Cô nương nữa.
Thấy Dương-Qua đột nhiên cứu được hai mẹ con mình, Hoàng-Dung chép miệng than nhỏ:
- Qua con, đây là lần thứ mấy, con đã liều thân cứu mạng của ta và em Phù?
Dương-Qua thưa:
- Sao bá mẫu lại nói chỉ lời đó. Chẳng qua là bổn phận của con đó thôi, có gì mà ơn đức. Nếu gặp bá mẫu bi nạn mà làm ngơ thì còn đâu là khí tiết của con người hiệp nghĩa.
Hoàng-Dung than tiếp:
- Sao con giàu lòng hiệp nghĩa thế. Mà sao cha con thì... trái lại? Nói tới đây bà bỗng nín bặt.
Dương-Qua cảm động hỏi qua giọng nói run run:
- Thưa bá mẫu, lúc sanh tiền cha con như thế nào? Người có làm hại những ai, và hại nhiều lắm không?
Hoàng-Dung lắc đầu nói:
- Bảo hai nhiều thì khong đúng đâu, nếu con thích nghe bác sẽ kể lại cho.
Nhưng nói tới đây, bà bỗng rú lên thật lớn:
- Con xem chừng, hãy nấp vào đống đá, lão Hòa-thượng Kim-Luân đang đánh lén kia kìa.
Dương-Qua nghe theo ngồi ngay xuống phía sau một đống đá.
Ngồi yên, chàng nhìn lại trận đá thấy huyền bí lạ lùng, trong lòng hết sức thán phục bèn hỏi Hoàng-Dung:
- Bá mẫu, như thế này thì tài trí của bá-mẫu thật thiên hạ ít kẻ dám bì.
Hoàng-Dung chỉ mỉm cười không đáp, bà cúi xuống giải huyệt cho Quách-Phù. Được mẹ giải huyệt xong, Quách-Phù nói:
- Anh biết không? Trận pháp này mẹ em học của ông ngoại em đấy anh có nghe nói về ông ngoại của em chưa?
Khi còn ở Đào-Hoa đảo, Dương-Qua cũng có biết qua Hoàng Dược-sư và chứng kiến tài lực siêu phàm của ông. Ngặt vì lúc ấy hãy còn quá nhỏ nên chàng biết và nhớ chuyện chi. Bây giờ nghe hỏi chàng có vẻ tiếc rẻ nói nhỏ:
- Đời tôi chỉ mong được gặp lại lão trượng. Nếu không thật cũng uổng một đời thanh niên.
Chàng nói vừa dứt lời, thì Kim-Luân Pháp-Vương đã phóng tới, vung vòng sắt tấn công mãnh liệt.
Trong tay không có sẵn binh khí, Dương-Qua vội mượn cây gậy trúc "đả cẩu của Hoàng-Dung để ứng chiến.
Chàng áp dụng theo phép "loạn đả tàn vân" múa tít cây gậy trúc như gió táp mưa sa khắp người như có một đám tường vân bao phủ.

Hai người đang đánh nhau độ vài chục hiệp bỗng nhiên đá chạy cát bay ầm ầm như động đất. Kim-Luân sợ hãi vội vàng tung mình nhảy ra khỏi trận.
Hoàng-Dung bảo con gái và hai anh em họ Võ khiên đá bày lại trận, rồi gọi Dương-Qua lại gần hỏi nhỏ:
- Ai đã dạy con phép đánh theo thuật đả cẩu bổng đấy?
Dương-Qua bèn đem câu chuyện gặp gỡ Hồng-Thất-Công trên Hoa-Sơn, khi chứng kiến cuộc tranh tài giữa Tây độc và Bắc-Cái, được hai người truyền dạy võ nghệ như thế nào thảy đều tường thuật tỷ mỷ không thiếu một chi tiêts, duy có chuyện Hồng-Thất-Công đã chết chàng chưa thuật lại vì sợ khiến bà đau lòng trong lúc này có hại cho sức khỏe.
Nghe thuật lại mọi việc, Hoàng-Dung thở dài nói:
- Được như con thật là thế gian hãn hữu. Trên đời có mấy ai gặp những trường hợp may mắn lạ lùng như thế?
Hình như chợt nghĩ ra điều gì, bà bỗng nói lớn:
- Qua con, con đã có tài thông minh lanh lẹ như vậy, nhân hôm nay chúng ta sẽ nhờ cái tài của con mà thoát được đại nạn nơi đây. Dương-Qua thấy bà nói mà nét mặt tươi hẳn lên, thì chàng vẫn giả bộ ngơ ngác hỏi lại:
- Nếu Bá mẫu được đầy đủ sức khỏe thì hai bác cháu mình hợp sức cũng có thể đánh bại được lão này. Khổ nỗi lúc này Bá mẫu chưa được khỏe lắm, nên để cháu đi tìm Quách Bá phụ tới giải cứu nhé...?
Hoàng-Dung đáp:
- Không được đâu, ta đang đau, đâu phải cảm nóng đâu mà có thể hết ngay trong chốc lát. Hiện nay Bá phụ con đang ở xa, mà cô nương của con cũng đang ở phương nào không biết, làm sao tìm ra ngay cho được. Chi bằng ta có một mẹo hay, để chỉ cho con biết thì có lợi thực tế hơn. Vậy để bác nói nhỏ cháu nghe nhé?
Dương-Qua đáp:
- Có mẹo gì hay, xin bá mẫu cứ nói, nếu làm được, cháu không dám từ thác một việc gì hết.
Hoàng-Dung từ tốn nói:
- Nguyên loạn thạch trận này do phụ thân ta dạy lại, tuy chỉ có chừng ấy đống đá, nhưng sức biến hóa kỳ ảo khôn lường nổi. Bây giờ cháu cứ nghe theo những điều do bác chỉ lại thì thế nào cũng dành phần thắng lợi về mình.
Dương-Qua nghe nói nghĩ thầm trong bụng:
- Học lực của Hoàng Đạo-chúa thật vô cùng cao rộng, thế gian ai ai cũng phải phục. Hôm nay ta lại học thêm một tuyệt kỷ của Võ lâm.
Hoàng-Dung kể tiếp:
- Hồng Sư-phụ của ta chỉ truyền cho con mấy thế cơ bản trong đả cẩu bổng pháp, và sau này, tuy con ngồi trên cây học lén được một mớ nữa nhưng chưa đầy đủ đâu. Hơn nữa đấy chỉ là những phép lạ chứ không phải là phương thế ra áp dụng lúc chiến đấu. Nhân tiện hôm nay Bác muốn dạy lại cho cháu tất cả diệu pháp tinh vi của pháp thụat đả cẩu, vậy cháu có bằng lòng không?
Dương-Qua tuy mừng không chỗ để, nhưng vẫn giả vờ thoái thác nói rằng:
- Phép đả cẩu chỉ ai truyền từ Bang-chủ qua Bang-chủ của Cái-Bang. Tuy Bá-mẫu có lòng thương tưởng, cháu rất đội ơn, nhưng cháu chỉ sợ như thế sẽ có lỗi với quy luật Cái-Bang đi chăng?
Hoàng-Dung thừa biết chàng chối từ lấy lệ, bèn cười bảo:
- Thôi, cháu khỏi cần khách sáo nữa. Phép đả cẩu bổng này, tuy là thuật pháp trấn môn của Cái-Bang, tuy nhiên sư-phụ ta đã đem truyền cho cháu hết ba phần. Cháu nấp trên cây học lóm được hai phần nữa. Nay ta dạy thêm cho cháu ba phần. Còn lại ba phần nữa đủ mười, sau này, nhờ tài lanh lẹ trí thông minh, cháu cũng có thể suy nghiệm mà tìm ra cho hết những bí quyết của nó được.
Theo quy luật Cái-Bang, phép này không thể truyền lại cho một ai ngoài vị Bang-Chủ kế vị. Tuy nhiên trong hoàn cảnh này chúng ta cũng cần phải quyền biện mới được. Nếu ta câu chấp không truyền lại cho cháu, rủi ta chết đi có phải đả cẩu bổng pháp sẽ bị thất truyền đi chăng?
Dương-Qua mừng quá sụp xuống lạy luôn hai lạy rồi thưa:
- Giá khi cháu còn bé mà Quách Bá-Mẫu dạy cho cháu một vài tuyệt nghệ thì lúc này cháu tiến bộ biết mấy? Mà Bác cũng được tiếng tốt nữa.
Hoàng-Dung mỉm cười hỏi:
- Đến nay cháu có còn oán hận bác nữa không?
Dương-Qua đáp:
- Có khi nào cháu lại dám oán bá-mẫu.
Hoàng-Dung lần lượt đem hết các bí quyết đánh đỡ trong đả cẩu bổng pháp ra giảng giải và dạy lại cho Dương-Qua.
Kim-Luân Pháp-Vương, đứng ngoài loạn thạch trận nhìn vào, thấy Hoàng-Dung và Dương-Qua chuyện trò nho nhỏ, sau đó, bà cầm cây gậy trúc đưa ngang đưa dọc, thỉnh thoảng lại cười xòa, hình như tin tưởng vào phép biến hóa của thạch trận không đếm xỉa gì tới mình cả.
Càng nghĩ, Kim-Luân càng tấm tức. Ông bèn cố ý theo dõi và chờ xem hành động của họ ra sao để tìm biện pháp đối phó.
Hoàng-Dung và Dương-Qua được rảnh tay ngồi bàn bạc, thảo luận kỹ càng về một pháp trong đả cẩu bổng pháp, từ giờ Thìn qua giờ Tỵ đã bầy đủ mọi thế không còn sót một đường nào.
Kim-Luân đứng ngoài theo dõi, không biết hai người đang làm gì, ông trông thấy Hoàng-Dung cứ nói nho nhỏ, nét mặt nghiêm nghị, hình như đang giảng giải một võ thuật gì đây. Còn Dương-Qua trái lại thì tươi tỉnh và đem hết tinh thần, chăm chú nghe. Thấy vậy, Kim-Luân e ngại suy nghĩ:
- Có lẽ họ truyền thụ cho nhau những ngón gì hay để hại ta chứ gì. Phen này nếu chiến đấu lại ta cần phải thận trọng cho lắm mới được.
Dương-Qua ôn lại những đoạn sau và hỏi thêm vài điểm khúc chiếc. Hỏi tới đâu, Hoàng-Dung giảng giải thêm rất rành mạch. Khi thấy chàng không còn gì thắc mắc nữa, Hoàng-Dung khen lớn:
- Cháu thật là thông minh đúng mức. Ngay trí nhớ của bác cũng phải thua sút cháu nhiều. Bây giờ cháu đã đủ sức kềm chế và thắng được Kim-Luân rồi. Vậy cháu hãy ra dụ hắn vào đây đánh bắt cho rồi.
Dương-Qua lạ lùng hỏi:
- Làm sao bắt hắn được, mà Bá mẫu lại bảo cháu như thế?
Hoàng-Dung từ tốn giải thích:
- Có khó chi điều đấy. Lúc bấy giờ hai bác cháu mình cùng quyết đấu thì hắn chống cự sao nổi. Chúng ta đã hơn tài mà còn vượt hẳn lão ấy về mưu chước và địa thế nữa.
Bây giờ, bác dạy cho cháu biết qua về sự mầu nhiệm và biến hóa của trận loạn thạch. Vậy cháu hãy nghe và chú ý nhớ kỹ ba mươi sáu chước biến hóa của trận đồ nhé.
Nói xong bà lièn chỉ vẽ cho Dương-Qua thế nào là Thanh-Long biến sang Bạch-hổ, và huyền võ trở thành Châu-tước.
Nguyên trận loạn thạch này chế biến theo đúng cách thức và phương pháp của Gia-Cát Võ hầu. Khi ông vào đất Tây-xuyên đã lập trận bày trên bờ sông để lừa Đại-Tướng Đông-Ngô là Lục-Tốn. Hôm nay Hoàng-Dung cũng theo nguyên tắc ấy để chống lại Kim-Luân Pháp-Vương. Mặc dù sắp đặt hấp tấp nhưng quy tắc không sai chút nào, vì vậy nên Kim-Luân lo sợ không dám xông vào chỉ đứng ngoài lừa thế theo dõi năm người đang ẩn trong trận, cách xa nhau như hai thế giới.
Với ba mươi sáu phép biến hóa vô cùng tinh diệu khiến cho một người thông minh như Dương-Qua mà nghe giảng hai lần cũng chỉ có thể nhớ được hai chục phép mà thôi.
Lúc bấy giờ trời đã xế chiều, ánh mặt trời gần chen sau núi. Kim-Luân đứng ngoài thách đố các người đánh nhau. Hoàng-Dung bảo Dương-Qua:
- Tuy cháu mới học được hai chục thế, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để vây bắt Kim-Luân rồi. Vậy cháu hãy chờ đây, bác ra ngoài này dụ lão vào đây cho cháu nhé. Cháu cứ theo đúng phép biến hóa của đồ trận mà vây bắt hắn.
Dương-Qua mừng rỡ nói:
- Bá-mẫu, sau này về đảo Đào hoa, có thì giờ rồi, bá-mẫu hãy dạy tiếp cho cháu những thế chưa thạo nhé. Việc dẫn dụ Kim-Luân, xin để mặc cháu.
Hoàng-Dung cười xòa bảo:
- ồ, nếu cháu bằng lòng theo bác về Đào hoa đảo, chẳng những bác dạy cho những chỗ thiếu mà ngoài ra còn nhiều phép ly kỳ hơn nữa. Thời gian gần đây cháu đã hai lần xả thân cứu mạng bác và em Phù thì khi về đảo không khi nào bác nỡ lạnh nhạt với cháu như ngày trước nữa đâu. Cháu cứ tin nơi lòng bác.
Nghe Hoàng-Dung an ủi mấy câu, Dương-Qua cởi mở tấc lòng, trong lúc này, giá Hoàng-Dung bảo chàng nhảy vào lửa, chàng cũng không từ chối.
Riêng anh em họ Võ thì chửi thầm trong bụng:
- Thằng súc sinh báo đời, sao không chạy theo con yêu nữ cho rồi còn quay lại làm chi nữa phá rối chúng ta mãi như vậy?
Võ-Tu-Văn, nghe hai người nói chuyện cùng nhau bỗng nói bông lông một mình:
- Phàm người còn nhỏ, điều căn bản và quan hệ nhất là văn chương chữ nghĩa, cần phải lấy đó mà làm căn bản cho việc lập thân về sau, nếu không cần chữ nghĩa mà chỉ lo việc kiếm đao thì cũng có thể sẽ chết về nghiệp lao kiếm.
Đôn-Nho dèm thêm:
- Xưa kia, Quan-Vân-Trường là bậc võ nghệ tuyệt luân của đời nhà Hán, rốt cuộc rồi cũng bị chém bêu đầu. Khỏe mạnh như hạng Võ rồi cùng phải tự cắt đầu trên bến Ô-Giang, làm cho người yêu là Ngu-Cơ phải vì mình mà tử tiết. Trông gương người đời xưa, anh em chúng ta xem thường việc học Võ cũng phải.
Quách-Phù thấy hai anh em nhà này cứ tìm lời châm biếm đay nghiến Dương-Qua thì tức giận quá bèn hỏi lại:
- Các anh xưng như vậy, thế đến nay hai anh đã đọc văn chương tới mức nào rồi?
Tu-Văn đáp:
- Tam giáo, Cửu-Lưu, Bách gia Chư tử sách nào cũng đã học rồi.
Quách-Phù khinh khỉnh nói:
- Thứ học mót mà cũng nói. Phận mình sút kém thì cam chịu cho rồi, chuyện gì cứ đâm thọc, châm biếm người ta mãi vậy?
Trong khi ấy, Dương-Qua đã xách gậy trúc nhảy ra khỏi trận gọi Kim-Luân Pháp-Vương bảo:
- Pháp-Vương, người có dám cùng ta đấu chơi ba trăm hiệp hay không?

Hồi 40

Nữ lang thanh y cứu Dương-Qua.

Kim-Luân Pháp-Vương đang đứng ngoài trông ngóng vào thạch trận suy nghĩ một mình. Bỗng nghe Dương-Qua gọi lớn và xách bổng nhảy ra khỏi trận thách đấu thì ông đáp ngay:
- Ta sẵn sàng chờ mi đây.
Vừa nói dứt lời, ông đã vung chiếc vòng đen tiếng reo leng keng nhảy lại, trong lòng suy nghĩ:
- Nếu Dương-Qua đánh chẳng lại ta, nhảy trở lại vào trận thì làm sao đuổi theo được. Chi bằng ta phải tìm cách chận đứng hắn trước.
Nghĩ xong, ông chỉ đánh hờ đòn rồi bước lùi ra sau nhử Dương-Qua tiến tới. Khi hai người tránh xa loạn thạch trận được hơn hai trượng, Kim Luân lao mình nhảy vút tới chận ngay phía sau lưng không cho Dương-Qua trở vào trận được nữa.
Nhưng lúc này, Dương-Qua đã tiến bộ hơn chứ không kém sút như trước nữa.
Sau khi đã am thạo tất cả những bí quyết trong đả cẩu bổng pháp, cây gậy trúc trong tay Dương-Qua vũ lộng vù vù như rồng thiêng uốn khúc kỳ ảo biến hóa phi thường, khiến Kim-Luân chỉ còn cách đỡ gạt mà đã tối tăm mặt mày rồi.
Trong lúc lúng túng, Kim-Luân bỗng bị trúng một gậy bên đùi trái.
Nhờ công phu luyện tập lâu năm nên gậy này không thể làm ông bị thương, nhưng cũng đau nhói tận xương tủy. Kim-Luân phải xuýt xoa một hồi lâu mới bớt.
Sau khi nếm một đòn, Kim-Luân không còn dám khinh thường nữa, luôn luôn tung vòng sắt ra tấn công kịch liệt, mong chiếm thế thượng phong.
Thật mỉa mai thay, đường đường một đại võ sư, danh vang thiên hạ nay chỉ đấu với một thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi mà không dám sơ hở phút nào, tới lui xông xáo không nổi. Kim-Luân vừa thẹn vừa giận thật xưa nay chưa khi nào ông gặp một địch thủ lợi hại dường ấy.
Dương-Qua cố áp dụng theo đúng bí quyết của đả cẩu bổng pháp, tuy nhiên vì mới học tập luyện chưa được thuần thục lắm, nên không thể nào tránh hết những sơ hở, và cũng vì đó nên chàng chưa dồn được Kim-Luân vào thế bí được.
Hoàng-Dung đứng trong trận nhìn ra thấy vậy bèn nhắc khéo:
- Hãy đưa thế chữ "phong" ra áp dụng.
Dương-Qua sực nhớ lại hai chân nhảy lìa khi qua đông lúc sang Tây, không tiến không lùi, chiến chiếc vòng sắt trở thành vô hiệu lực vì khinh thân chàng kỳ diệu quá.
Kim-Luân Pháp-Vương thấy chàng di động nhiều quá thì mừng thầm và nghĩ bụng:
- Cho mi nhảy nhót cho đã sức. Dù tài giỏi đến đâu, nhảy nhiều lắm rồi cũng phải bét chứ. Chừng ấy ta chẳng cần nhọc sức cũng có thể chộp được dễ dàng.
Nhưng ông có ngờ đâu Dương-Qua luôn luôn nhảy nhót theo hình chữ thổ lệch, cứ mỗi lúc lùi ra sau một chút thì lại kéo sang một bên. Kim-Luân mãi mê sấn tới đuổi theo mà quên cả phương hướng, đến khi bước chân vấp phải mô đá mới giật mình chợt nghĩ:
- Ta đã đi lạc vào trong thạch trận rồi sao?
Thật ra, Dương-Qua đã nghe lời Hoàng-Dung, lừa ông tiến sâu vào cửa kỳ môn của trận loạn thạch. Khi thấy đối thủ bước vào rồi, Dương-Qua chỉ cần thối lui mấy bước, thế trận đã biến hóa ngay, bao nhiêu phương vị đều đổi thay hết, Kim-Luân càng lùi ra bao nhiêu thì trái lại càng đi sâu vào giữa trận bấy nhiêu. Trong trận lúc này tự nhiên tiền biến thành hậu, và hậu đã trở thành tiền. Đến lúc biết mình đã sa cơ, Kim-Luân càng thêm phần hoảng sợ, nhưng biết giải quyết bằng cách nào hơn nữa.
Khi ấy, Hoàng-Dung lanh lảnh ra hiệu lệnh:
- Chu tước tiến về thanh long, Quẻ tôn chuyển sang quẻ Ly, Bất phương trở thành Qui-phương cho mau.
Quách-Phù và hai anh em họ Võ, cứ theo khẩu hiệu của bà, tự khuân những tảng đá đem trấn các nơi, làm bịt lối và vây chặt Kim-Luân vào giữa.
Kim-Luân sợ hãi rụng rời, chỉ nắm chặt chiếc giòng sắt trong tay đưa mắt nhìn khắp bốn phía để nhận lại phương hướng.
Ngay lúc ấy, Dương-Qua, múa tít cây gậy trúc xông vào giáp chiến.
Đối với Kim-Luân, những đòn đả cẩu không có gì đáng sợ. Nhưng lạ một nỗi hai chân ông hình như bị những ống đá bày loạn xạ hút phải mấy lần suýt té vì đứng không vững và bước chẳng ngay đường nữa.
Ông gượng gạo chống đỡ lấy lệ. Xung quanh hình như có không biết cơ man nào là địch thủ đang lâm le chiếm đoạt vũ khí, nếu sơ ý một tý sẽ nhào bất tử ngay.
Trong lúc thập phần nguy biến, ông chẳng biết tính sao, bèn hét lên một tiếng vang trời rồi dẫm bừa trên các đống đá mà chạy càn không kể phương hướng nữa.
Nhưng thế trận biến đổi vô cùng phức tạp, không thể nào chạy được. Càng chạy càng thấy những đống đá ngang dọc bao phủ khắp nơi và sau cùng tâm thần mê loạn, cứ chạy loanh quanh trong trận, và bị giam hãm trong một bức thành đá vô cùng kiên cố.
Trong khi thần hồn nát thần tính tay chân rã rời, bao nhiêu sáng suốt bay hết, Kim-Luân suy nghĩ:
- Thôi phen này nguy hiểm quá, biết làm sao thoát khỏi nơi này được? Có lẽ phải bó tay chờ chết mà thôi.
Đang khi còn than thầm trong bụng, bỗng Dương-Qua lại xuất hiện theo tư thế "vạch cỏ tìm rắn, phang mạnh một gậy phía hạ bàn. Giá Kim-Luân không lanh mắt nhảy vọt lên né tránh thì có lẽ đã gảy tiện ống chân rồi.
Trong lúc thập phần nguy biến Kim-Luân đâm liều, vung chiếc vòng loan tròn dưới chân để tránh đỡ đồng thời bặm môi phóng mạnh ra phía trước, húc đầu vào ngực Dương-Qua tấn công.
Dương-Qua khẽ lách mình qua một bên né tránh. Hai người cùng nhau tranh đấu không bao lâu đã trên hai chục hiệp. Bỗng nhiên trong trận trời đất tối tăm mù mịt, gió lộng ào ào, phi xa tẩu thạch, xung quanh tiếng rít lên từng hồi rùng rợn, như quỷ khóc ma hờn, âm khí vô cùng rùng rợn.
Nếu không phải là một tay nhiều kinh nghiệm và gan liều như Kim-Luân Pháp-Vương, thì bao nhiêu đó cũng khiến cho phải ngất đi vì khiếp đảm. Nhưng Kim-Luân là một kẻ tu hành, tinh thần lúc nào cũng được bình tĩnh, nên dù trong trận có thay đổi cũng không đến nỗi nào. Ông định thần nhìn lại xung quanh, rồi vận dụng nội công vào hai bàn chân đánh mạnh thêm mấy tảng đá tung bổng lên trời hơn mấy trượng. Khi mấy tản đá tung lên cao thì mây đen tan hết, gió lạnh cũng yên ngay.
Hoàng-Dung và đồng bọn kinh hãi vô cùng, vội vàng đưa nhau nấp vào chỗ khác để tránh khỏi bị đá văng đè trúng.
Giá lúc này, Kim-Luân biết thừa cơ nhảy luôn ra trận thì dễ như chơi. Nhưng vì ông muốn thừa dịp tấn công nên không chịu rút lui mà còn đưa tay chộp lấy Hoàng-Dung.
Tức thì Dương-Qua điểm mạch phía sau lưng để giải cứu cho Bà. Hoàng-Dung muốn lùi ra sau để tránh nhưng bỗng nghe có tiếng rít từ không trung lao xuống. Bà lại sợ đá rơi trúng phải nên đánh liều nhảy tới tóm chặt tay Kim-Luân.
Kim-Luân phải buột miệng khen lớn:
- Chà, tài lắm, và can đảm lắm.
Nói vừa dứt lời ông tung chưởng đánh mạnh vào ngực Hoàng-Dung. Nếu là lúc thường thì đòn này đối với Hoàng-Dung không có nghĩa lý gì hết. Nhưng mặt lúc này bà có thai nghén gần ngày, sức khỏe giảm sút quá nhiều nên không gượng nổi, bị té nhào ra đất.
Thấy Hoàng-Dung bị đánh nhào, Dương-Qua thất kinh, không còn kể gì hết, vội vàng nhảy chồm lại ôm chặt lấy cặp giò Kim-Luân vật lộn. Hai người cùng ngã lăn ra đất vật nhau túi bụi. Nhưng Kim-Luân khỏe hơn Dương-Qua gấp mấy lần, nên vừa nhào xuống đã gượng dậy được ngay và tiếp theo một đấm khiến chàng văng ngược ra xa như bó giẻ.
Trong lúc đang bực mình, Kim-Luân đưa chân hất mạnh một tản đá nặng độ vài trăm cân, định xáng vào đầu Dương-Qua. Nhưng vì trong lúc hấp tấp, vích quá mạnh tản đá lộn ngược ra sau rồi rơi thẳng đứng xuống, nhằm ngay đầu Kim-Luân đang lồm cồm chờ dậy.
Bị khối đá gần hai trăm cân rơi trúng đầu, Kim-Luân đau quá nằm vật ra bất tỉnh. Giá người tầm thường thì cũng đủ bể sọ rồi. Nhưng Kim-Luân nhờ tập luyện công phu nội công vững vàng, chỉ bị ngất xỉu mà thôi.
Ba người chủ chốt trong trận đều bất tỉnh nằm liệt, cho nên thạch trận cũng vỡ tan ngay.
Đạt-nhĩ-Ma và bọn võ sĩ Mông-Cổ đứng ngoài trận trông thấy các người nhào lăng bất tỉnh thì hồn vía không còn. Huống bên cạnh còn lại Quách-Phù và hai anh em họ Võ đều thuộc phe địch, nên bọn này lo sợ cho tánh mạng Kim-Luân, vội vàng xông vào để giải cứu.
Với sức khỏe như sư tử của Đạt-nhĩ-Ma lại thêm một số đông tùy tùng Mông-Cổ vạm vỡ giúp đỡ, Quách-Phù và hai anh em họ Võ không làm sao chống cự lại nổi. Vì vậy nên cả hai bên mạnh ai nấy lo giải cứu người phe mình.
Bỗng nhiên Kim-Luân Pháp-Vương lồm cồm tỉnh dậy, ném chiếc vòng sắt xuống đất nghe leng keng rùng rợn cả người. Sau đó, ông ngửa mắt lên trời cười ngất.

Tiếng cười của Kim-Luân Pháp-Vương bao hàm cả niềm bi thương và uất hận.
Bọn người hai phe nghe cười đều ngạc nhiên, trố mắt đứng nhìn, cười xong Kim-Luân nhìn trời than rằng:
- Bình sinh ta chưa khi nào bị ngất xỉu bao giờ. Hôm nay chính tự ta lại đả thương ta, nghĩ cũng đáng buồn cười thật. Nhưng cũng đáng căm hận thật.
Nói xong, ông đưa tay túm lấy chân Hoàng-Dung kéo xềnh xệch về phía mình. Dương-Qua tuy bị thương nặng nơi ngực vừa mới tỉnh dậy nhưng thấy Hoàng-Dung bị bắt và kéo trên đất như một con vật thì uất hận vô cùng, cố gượng tung gậy đả cẩu ra đánh mạnh. Nhưng không ngờ chàng mới bị thương lại dùng sức quá độ nên gượng không nổi nữa ngã vật ra sau, mồm hộc ra một đống máu tươi.
Hoàng-Dung buồn rầu nói:
- Qua con, không nên cố sức lắm có hại. Việc ta làm ta có gan chịu đựng, con nên bảo vệ lấy sức khỏe, liều mạng chẳng ích chi trong lúc này.
Quách-Phù, vung gươm nhảy lại định bảo vệ cho mẫu thân.
Dương-Qua khẽ bảo:
- Phù muội, đừng liều mạng làm gì, hãy đi tìm Quách Bá-Bá mau lên.
Mặc dù tự biết sức yếu tài hèn, nhưng tình mẫu tử quá đậm đà, khi nào nàng nỡ bỏ chạy đi trong lúc mẹ mình đang ở trong tay địch.
Kim-Luân chỉ khẽ chiếc vòng sắc nghe leng keng mấy tiếng thanh trường kiếm của Quách-Phù đã bị đánh văng vào rừng xa lắc.
Kim-Luân định gạt Quách-Phù qua một bên để bắt Hoàng-Dung bỗng có tiếng lảnh lót của một cô gái nạt lớn:
- Hãy khoan, thong thả đã.
Ngay lúc đó từ trong rừng tối một cô gái mặc áo xanh phi thân bay lại lanh như điện chớp.
Kim-Luân định thần nhìn kỹ thấy cô gái thanh y mặt mày xấu xa gớm ghiếc, có lẽ xưa nay chưa có người đàn bà nào xấu xa ghê tởm hơn nữa. Mặt cô ta nửa giống người nửa giống quỷ. Từ bé tới lớn Kim-Luân chưa hề gặp người nào như thế.
Ông hất hàm hỏi lớn:
- Này, cô là ai?
Cô ta điềm nhiên ko trả lời, cúi xuống nhặt lấy mấy tảng đá đặt chắn ngang giữa Hoàng Dung và Kim luân, và hỏi lại:
- Ngài có phải là Kim Luân Pháp Vương bên Tây Tạng ạ?
Tuy mặt mày gớm ghiếc như quỷ dạ xoa nhưng giọng trong như ngọc, dịu dàng ấm áp vô cùng khiến cho Kim Luân nghe qua đã có cảm tình ngay, và hỏi lại:
-Vâng, đúng lắm. Còn cô nương là ai mà bần tăng chưa hề quen biết.
Cô gái thản nhiên đáp:
- Tôi chỉ là đứa bé nơi chốn hoang vu thon dã đâu đáng được giới thiệu ra hôm nay, dù ngài có biết cũn chẳng ích chi đâu.
Miệng nói ta càng sắp một tảng đá thật dài nằm ngay trước mặt. Khi ấy ánh dương đã gác non đoài, chim rừng đã rủ nhau về tổ, gió núi thổi lộng ào ào, nhiều hiện tượng nổi lên hình như động rừng và thoáng như có beo kêu, cọp rống. Thấy hành động cô gái có vẻ khác thường, Kim luân pháp vương hỏi:
- Này cô bé, cô định làm gì đó? Xin cứ để yên các tảng đá, đừng di chuyển đi nơi khác.
Người con gái như ko đếm xỉa tới lời của Kim Luân, chỉ lẩm bẩm 1 mình:
- Phương "Mộc giao" biến sang "Kim Long"...
Quách Phù và 2 anh em họ Võ ngạc nhiên tự hỏi:
-ủa, sao nàng này nói giống y như sư mẫu đã ra lệnh đáp trận loạn thạch vậy nhỉ?
Nghe nàng ra lệnh, tự nhiên cả ba thảy ríu ríu tuân lệnh khiêng đá đặt theo các vị trí đã định. Sau khi vận chuyển mấy phiến đá mà trận pháp đã hoàn toàn biến đổi. Đang chơ vơ vắng lạnh như cảnh rừng hoang, bỗng nhiên trong trận đã có đằng đằng sát khí. Theo dõi tình hình bỗng nhiên có sự thay đổi quá ư đột ngột, Kim Luân vừa giật mình, vừa hoảng sợ vội vàng quát lớn:
- Con bé không được phá rối công chuyện nơi đây. Muốn sống cút ngay lập tức.
Nhưng ng con gái áo xanh vẫn thản nhiên như ko hề nghe tiếng, rồi trầm trầm ra lệnh:
- "Tâm nguyệt hồ" chuyển lại phương vị " phòng nguyệt thố" .
Rồi nói tiếp:
- " Nữ thổ bức" tiến sang " thất hỏa chư" !
Đây là những khẩu lệnh di chuyển phương vị trong nhị thập bát tú của trận bát quái loạn thạch. Những thế này, nếu ko phải là tay tinh tường về thiên văn am thạo ngũ hành thì làm sao mà bố trí cho đúng được?
Thấy nữ lang ra lệnh giống như Hoàng Dung, nên cả ba người Quách phù và 2 anh em họ Võ tin tưởng và tuân lệnh theo răm rắp. Không bao lâu trận loạn thạch đã chuyển động và sát khí phát ra ngùn ngụt, vân vụ lờ mờ, bao vây Kim Luân vào chính giữa. Vừa rồi Kim Luân bị viên đá lớn chọi vào đầu kế bị mấy đòn vào lưng khá nặng, nếu ko phải là tay nội công tinh thục thì ko thể nào đứng vững được nữa. Vì thế nên ông ta rất e dè bảo vệ thân thể ko còn xông xáo như trước đây nữa. Ông chỉ thận trọng đứng ẩn mình sau mấy đống đá lớn. cố tìm cách phá trận. Tuy nhiên ông vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, vì ông biết rằng, rộn ràng trong lúc này là nguy tới tánh mạng như chơi. Chừng ấy ko bắt được Hoàng Dung mà chính bản thân mình sẽ bị chừng tóm cổ. Ngó trước thấy Hoàng Dung nằm mê man trên mặt đất, nếu cần, chỉ bước tới 2 bước là bắt được ngay. Nhưng lúc này Kim Luân ko còn bụng dạ nào nữa, chỉ lo tìm lối thoát thân mà thôi. Ông bèn tung chiếc vòng sắt ra tấn công Võ tu Văn để y hoảng sợ tránh né rồi tìm thế thoát thân. Tu Văn đã bị thương, toàn thân ê ẩm như dần. Lúc này chàng chỉ dùng sức khẽ gạt sơ một cái thì chiếc vòng sắt cũng đủ lìa tay Kim Luân văng đi nơi khác liền. Nhưng vì diện mạo Kim Luân quá ư hùng dũng, hơn nữa Tu Văn ko khác nào con chim đã bị tên, cho nên Kim Luân chỉ cần đưa vòng ra là chàng lẫn trốn ngay.
Thấy vậy, Kim Luan tự nghĩ than thầm:
- Nếu bỏ thoát cơ hội này ta biết chừng nào gặp được dịp tốt. Có lẽ Hoàng Thiên còn phù hộ cho Đại Tống nên khiến ta bại phen này. Than ôi, anh hùng hào kiệt Trung Nguyên càng ngày càng nhiều, toàn là những hạng trai gái mới lớn lên tương lai rực rỡ, bọn hào kiệt Mông Cổ thật ko xứng vào đâu hết.
Nghĩ xong, ông vuốt ngực thở dài rồi quay đầu bỏ chạy. Nhưng chạy chưa mấy bước bỗng nhiên chiếc vòng sắt đã rời tay rơi xuống đất kêu leng keng, và Kim Luân loạng choạng mấy cái rồi ngã sấp phía trước. Đạt nhĩ Ma thấy vậy hoảng hốt vội gọi lớn:
- Sư phụ, sư phụ làm sao thế?
Y vừa gọi vừa chạy lại đỡ Kim Luân dậy và nói gấp:
- Sư phụ có hề chi ko? Tại sao như vậy?
Kim Luân đưa tay vỗ trán thều thào nói:

Tiếc quá, thật đáng tiếc phải bỏ lỡ dịp này. Thôi chúng mình trốn thoát chỗ này đi thôi.
Vì quá kiệt sức nên Kim Luân bị ngất xỉu luôn chặp nữa. Một tên võ sĩ Mông cổ dắt ngựa xáp lại gần, nhưng Kim Luân mệt quá ko còn đủ sức leo lên mình ngựa.. Đạt nhỉ Ma vội vàng bồng sư phụ đặt lên mình ngựa, rồi cả bọn kéo nhau đi về hướng Đông.
Sau khi sắp lại trận thế giải nguy cho bọn Hoàng Dung rồi, nữ lang thanh y vội vàng chạy lại gần Dương Qua. Thấy chàng nhắm mắt nằm mê man ko hay biết gì hết, nàng bèn nắm tay xem mạch và vạch áo tìm thương tích. Đêm đã khuya, tuy nhiên nhờ cặp mắt luyện nhìn trong đêm tối rất tinh vi, nên nào áo xanh trông thấy Dương Qua bị trúng một chưởng nơi ngực, hai mắt trợn ngược, hơi thở khò khè như lợn cắt tiết. Xem xong nàng chép miệng nói:
- Nặng lắm, thương tích nặng vô cùng.
Lúc này Dương Qua đang mê chợt tỉnh. Chàng thấy một cặp mắt sáng quắt mà dịu hiền đang âu yếu chiếu thẳng vào mặt mình đầy vẻ trìu mến thương yêu, thì tưởng rằng đâu là Tiểu long Nữ. Bất giác chàng đưa hai tay ôm lấy cổ nàng miệng rên rỉ:
- Cô nương ơi, Dương Qua đã bị thương nặng lắm. Tại sao cô nương nở bỏ em như vậy?
Bị chàng ôm cổ bất ngờ, nữ lang thanh y vừa thẹn vừa thương hại vội vàng gỡ mạnh tay ra. Bị nàng hất tay quá mạnh, Dương Qua đau quá chịu ko nổi nhăn mặt than lớn:
- Trời ơi! đau quá, sao cô nương nỡ đánh em như vậy?
Nàng áo xanh dịu giọng nói nhỏ:
- Tôi đâu phải cô nương của anh, xin hãy buông cổ tôi ra.
Dương Qua nhìn sững vào đôi mắt dịu hiền sáng quắt của nàng và rên khẻ:
- Cô nương ơi! Dương Qua đang thương nhớ cô nương mà bị bệnh. Cô nương hãy che chở cho em và đừng hất hủi em tội nghiệp nhé.
Cô áo xanh phải phân trần thêm:
- Anh nhìn sai rồi, tôi đây, chứ ko phải cô nương của anh đâu?
Trong khi trời tối quá, nên Dương Qua ko còn trông thấy rõ nét mặt xấu xí của nàng mà chỉ thấy đôi mắt sáng quắt đầy vẻ dịu hiền thiết tha, giống hệt đôi mắt đẹp của Tiểu long Nữ, nên chàng cố giữ lấy tay nàng miệng năn nỉ.
- Đúng rồi, cô nương đừng giấu tôi làm chi nữa. Cô nương còn hờn giận Dương Qua sao?
Bị chàng trai níu kéo cô gái áo xanh thẹn đỏ mặt và toàn thân cảm thấy nóng rực, như có một luồng điện lạ chuyền vào sưởi ấm. Nàng muốn để tay lại thì thẹn, mà giằng ra thì luyến tiếc, vì vậy nàng cứ ngỡ ngàng đứng yên một chỗ ko cử động hay nói nên lời nào. Một chập sau, Dương Qua định thần nhìn kỹ lại thấy ko phải Tiểu long Nữ, thì đã thất vọng bèn buông tay ra rồi ngã vật xuống, ngất xỉu luôn...
Nàng hãi kinh quay về phía sau, thấy hai anh em họ Võ và Quách-Phù đang lo lắng lăng xăng chạy chữa cho Hoàng-Dung, tuyệt nhiên không một người nào quan tâm đến Dương-Qua hết.
Thấy vậy nàng chép miệng than rằng:
- Thương thế trầm trọng quá, nếu không kíp chạy chữa tận tình e không qua khỏi. Nếu ta câu chấp không cứu chữa chàng đúng theo bí quyết của sư phụ đã dạy thì nguy hiểm lắm. Trong lúc quá nguy nan cũng cần sư quyền biến, hơi đâu câu chấp câu "nam nữ thụ thụ bất thân".
Than xong, nàng do dự một chút rồi đứng thẳng dậy, bồng Dương-Qua bước ra khỏi thạch trận.
Thật ra Quách-Phù không đến nỗi thờ ơ với Dương-Qua. Nhưng ngặt vì mẹ nàng là Hoàng-Dung bị Kim-Luân đánh mấy đòn khá nặng đang bất tình không khác gì Dương-Qua, vì vậy nên mẫu tử tinh thâm nàng phải lo lắng cho mẹ trước. Còn hai anh em họ Võ, thì lẽ cố nhiên không bao giờ quan tâm tới Dương-Qua mà họ xem như một tình địch đáng ghét. Nếu Dương-Qua chết đi họ vui mừng là khác nữa.
Nữ lang thanh y bồng Dương-Qua ra khỏi rừng đến chỗ con ngựa ốm đang đứng gặm cỏ. Thấy chủ mình bị nạn, con ngựa hí lên lớn thật rồi bứt giây chạy lại bên cạnh, hai chân đâm liền hồi trên mặt đất tỏ vẻ băn khoăn trìu mến. Cô gái áo xanh đặt Dương-Qua trên lưng ngựa, rồi ngại việc trai gái, nàng không leo lên ngồi chung, mà chỉ đi bộ tay giắt con ngựa chầm chậm, để khỏi làm kinh động tới người bệnh.
Dương-Qua nằm trên lưng ngựa khi tỉnh khi mê. Chàng mơ màng hình như kẻ đi trước giắt ngựa là Tiểu-Long-Nữ nên luôn miệng gọi "cô nương", nhưng trong chốc lát lại mê ngay, thân hình giá lạnh như băng.
Hết mê tới tỉnh, trên hành trình diễn đi diễn lại không biết bao nhiêu lần.
Sau cùng Dương-Qua nghe thoảng qua một mùi thơm nhẹ nhàng dễ chịu khiến cho đầu óc sáng suốt dần và ngũ quan tứ chi cũng thấy khoan khoái thơi thới dần dần. Chàng bèn từ từ mở mắt nhìn quanh. Một khung cảnh lạ hường khiến chàng vô cùng kinh ngạc và tự hỏi:
- Tại sao ta được nằm trên chiếc giường như thế này nhỉ?
Thấy trong người lân lân nhẹ nhõm, chàng muốn chống tay ngồi dậy nhưng vì tay chân đau mỏi như dần, không thể nào ngồi dậy nổi.
Chàng đưa mắt nhìn về phía cửa sổ thấy một nàng áo xanh đang ngồi cạnh bàn, tay cầm bút hình như đang hý hoáy viết chi đó, nhưng vì nàng quay lưng ra phía chàng nằm nên không nhìn thấy mặt và chẳng hiểu nàng đang làm chi.
Tuy nhiên cứ nhìn tấm lưng ong thon thon mảnh mai xinh xắn, chiếc cổ tròn trịa trắng ngần, chàng cũng có thể đoán ra kẻ này rất xinh đẹp, nếu không phải một hoa khôi, ít cũng một tiểu thư con nhà khuê các.
Nhìn lại căn nhà thấy vách đất, mái lợp cỏ, kiến trúc rất sơ sài nhưng trông lối bài trí thật thanh tao trang nhã.
Nơi tường phía đông, có treo một bức ảnh của một thiếu nữ đang hái hoa, hai bên có mấy bức họa sơn thủy rất đẹp.
Trên tường phía Tây có treo một bức liễn chữ viết rất đẹp và hai bên có hai câu đối khác kèm theo.
Trên bức giữa vì chữ nhỏ và tháu quá chàng không đọc được, còn hai câu hai bên có viết:
"Nhứt đẳng nhân, trung thần hiến tử"
"Lưỡng kiện sư, độc thư cánh diều".
Tạm dịch: Con hiếu tôi trung danh tột bực,
Đi cày đọc sách há thua ai.
Đọc xong câu đối, Dương-Qua ngạc nhiên suy nghĩ:
- Chưa biết chủ nhân nhà này là ai nhưng cứ theo khí tiết trong hai câu này theo nhất định cũng là bậc cao nhân ẩn sĩ. Thật không có gì vinh dự cho bằng một người dân trung với nước, một người con hiếu với phu mẫu, còn có gì thanh cao bằng đọc sách và tự do cho bằng cày ruộng. Biết bao nhiêu kẻ lầu son vách tía, chức phận cao sang nhưng anh em chửi bới lẫn nhau, đối với người trên thì nịnh nọt, đối với kẻ dưới lại khinh khi, xem người nửa mắt!
Bỗng nhiên chàng liên tưởng tới cảnh đời trung hiếu, canh độc thật là thanh cao, khí tiết!
Trong khi chàng đang suy nghĩ miên man bỗng đâu đó bốc lên uyển chuyển nhẹ nhàng, tỏa một mùi hương thơm ngào ngạt, rõ ràng là mùi trầm hương quý giá.
Dương-Qua lại suy nghĩ:
- Té ra xưa nay bao nhiêu tao nhân mặc khách mỗi khi gảy đàn đọc sách đều xông trầm để tỏ lòng thanh cao và tưởng nhớ lại các bậc thánh hiền ngày xưa. Thật chẳng bù với những bọn phàm phu tục tử bao nhiêu sách đem ra gói đồ, và hòa nhạc trong một chỗ sặc đầy mùi rượu thịt.
Rồi chàng nghĩ tiếp:
- Tuy nhiên sách hay đàn cũng có nhiều hạng, và tùy theo sở thích của mỗi người mà đánh giá nhân phẩm của họ. Trong thời buổi loạn lỵ không hiếm chi người cố đọc sách để mưu cầu chút lợi danh hoặc tìm phương kế để hãm hại người khác, làm đường tiến thân cho riêng mình. Còn nhạc thì không hiếm chi loại nhạc dâm ô hoặc những điệu đàn ủy mị vong quốc. Nếu bạ sách nào cũng đọc, bạ bản nào cũng đàn thì có lẽ còn hại hơn những người không bao giờ biết đánh đàn đọc sách nữa.
Suy nghĩ vơ vẩn về lối bài trí trong phòng, Dương-Qua sực nhớ lại chuyện riêng mình và ngẫm nghĩ:
- Ta nhớ kỹ đang đánh cùng Kim-Luân Pháp-Vương trong loạn thạch trận tại giữa rừng, bị thương ngất xỉu rồi, thế tại sao lại về được nơi đây? Hay là cô gái áo xanh kia đã cứu ta và đem lên ngựa chở mình về đây chăng?
Trong khi đang trầm ngâm suy nghĩ chưa biết ra sao, bỗng thấy cô gái xoay mình, trông hình dáng thật vô tình thanh tao xinh đẹp.
Trong căn phòng nhỏ mùi trầm hương tỏa ra ngào ngạt, trái hẳn với cái không khí chết chóc sát hại lẫn nhau ngoài thạch trận, khiến Dương-Qua chép miệng than nhỏ:
- Chỉ trong một vòm trời mà đã phân biệt hẳn thành hai thế giới khác nhau.
Chàng dự đoán có lẽ nàng áo xanh đang mãng suy tư theo ý văn hay câu sách nên mặc dù đã tỉnh vẫn nằm im không cử động và cất tiếng hỏi e làm phiền tới nàng chăng? Chàng nằm vắt tay lên trán nín thinh. Trong phòng vắng lặng như tờ, dù con ruồi bay qua cũng nghe tiếng đập cánh.
Chàng ngẫm nghĩ:
- Nàng cùng ta không quen biết họ hàng chi, chẳng hiểu vì sao lại đối xử tốt cùng ta như thế ấy?
Thình lình chàng gọi lớn:
- Chị ơi, có phải chị đã có lòng tốt ra tay cứu giúp cho tôi không, thật quý hóa quá.
Nghe chàng hỏi, người con gái vẫn không ngước lên, tay cứ viết mà miệng đáp nho nhỏ:
- Chính anh đã có lòng nghĩa hiệp xả thân cứu người, vì vậy nếu tôi có cứu được anh cũng không có gì đáng kể.
Dương-Qua nói nhỏ như để phân trần:
- Quách Bá-mẫu đối với tôi có công dày nuôi dưỡng. Vì vậy nên khi bà lâm nạn, bổn phận tôi là phải xả thân cứu Bà để đáp lại một phần nào ăn đức cũ. Nhưng cô nương, quả thật là... là...
Nhưng người con gái đã cắt lời chàng:
- Tôi đâu nói tới chuyện Quách Bá-mẫu mà chỉ nhắc lại câu chuyện xưa kia anh cứu Lục-vô-Song.
Đã lâu ngày, ba tiếng Lục-vô-Song hầu như đã xóa nhòa trong ký ức Dương-Qua, nay bỗng nhiên được nàng nhắc lại Dương-Qua vội hỏi:
- à, hiện nay cô Lục-vô-Song vẫn còn mạnh giỏi chứ. Vết thương của nàng đã lành hết chưa?
Cô gái tươi cười đáp:
- Cảm ơn anh, nàng đã lành mạnh hẳn rồi. Anh có nhớ tới nàng hay không?
Thấy cô ta có vẻ thân mật hẳn rồi với Lục-Vô-Song Dương-Qua hỏi lại:
- Giữa cô và Lục-vô-Song có họ hàng hay bè bạn hay không?
Cô gái nghe chàng nói mỉm cười và suy nghĩ:
- Cái anh chàng này cũng kỳ lạ lắm, ai ai cũng xưng chị với cô, lúc mê sảng thì lại gọi người ta là cô nương mãi. Mình đâu có già bao nhiêu mà chàng cứ xưng hô theo lối ấy mãi?
Nghĩ xong nàng cười nụ hỏi chàng:
- Sao anh không gọi tôi bằng cô nương nữa đi?
Nghe nàng hỏi, Dương-Qua thẹn đỏ mặt và đoán có lẽ trong khi mê sảng hay mơ tới cô nương, cho nên trước mặt mình ai ai cũng là cô nương hết.
Chàng lén nhìn lên một tý rồi nghĩ thêm:
- Cô nàng cũng hay bắt bẻ và nhõng nhẽo lắm, không muốn mình gọi chị hay cô thì muốn mình gọi bằng chị đây cho vừa ý?
Nghĩ thế nhưng không nói ra, chàng chỉ khẽ đáp:
- Trong lúc đau yếu; nếu có điều gì không phải xin chị vui ông châm chước cho.
Nàng cười lớn và đáp:
- Có chi đâu mà lỗi với phải. Thôi xin cứ nằm yên cho chóng mạnh, để rồi còn đi tìm cô nương chứ.
Dương-Qua lắng tai nghe nàng nói một giọng hết sức ngọt ngào êm ái nghĩ bụng:
- Từ xưa tới nay ta chưa hề tiếp xúc với một cô gái nào nói năng êm dịu bằng nàng này. Lục-vô-Song không được hoạt bát, chỉ đóng vai cô vợ hay ghen là giỏi. Quách-Phù nói năng hoạt bát nhưng lại có cánh tay hay nhõng nhẽo. Gia-Luật-Yên là người Mông Cổ, miệng nói có duyên, nhưng giọng nói ồ ề lại có lúc the thé nghe gắt quá, đây chỉ là giọng của loài đàn bà sát phu. Hoàng-nhan-Bình nói năng cũng thanh nhã nhưng thân hình lại thô kệch. Cô-nương Tiểu-Long-Nữ lúc đầu thờ ơ lạnh nhạt không đếm xỉa tới tình ta. Sau này tuy có tỏ ý yêu thương nặng lời thề thốt, nhưng không hiểu bỗng vì sao lại trái chứng như những hạng cực đoan rồi bỏ ta đi biền biệt?

Còn cô gái áo xanh này thì được cả thanh lẫn dáng điệu, tiếng nói êm dịu thân hình khá xinh, tánh ý có vẻ đoan trang duyên dáng, nhưng rất tiếc không hiểu diện mạo ra sao? Có lạ một điều là tại sao nàng biết rõ ta cần tĩnh dưỡng cho mạnh để rồi đi tìm Cô nương?
Suy nghĩ mãi, tánh tò mò thúc đẩy khiến chàng không nín được nữa. Trong khi cô gái mãi mê viết, chàng vùng gọi lớn:
- Chị ơi, xin chị vui lòng cho biết rõ tên họ để tiện xưng hô.
Nàng vẫn cặm cụi viết không ngừng nhìn lên, miệng nói:
- Xin để cho tôi viết xong đã, mà hỏi có ích chi đâu?
Dương-Qua trách:
- Thật cô khinh tôi quá nên không thèm cho tôi biết tên cũng không cho thấy mặt. Tôi tuy quê mùa dốt nát nhưng cũng là kẻ biết ơn nghĩa chút ít. Trong lúc hoạn nạn gặp nhau, tôi mong sự quen biết này sẽ lưu lại nhiều kỷ niệm êm đẹp về sau, và xin chị đừng cho đó chỉ là cuộc gặp gỡ qua đường rồi quên lãng mất.
Nàng đáp:
- Tên tôi chẳng đẹp gì, mà mặt mày tôi càng xấu xa hơn nữa, không nên xem anh à.
Dương-Qua cãi:
- Tôi biết rồi. Chính chị muốn đeo mặt nạ cho xấu đi chứ kỳ thiệt diện mạo củ chị phải hoa nhường nguyệt thẹn.
Nàng cười đáp:
- Nếu trời cho tôi được hoa nhường nguyệt thẹn, hay xinh tươi như Cô-nương của anh, thì việc gì tôi phải dùng mặt nạ mà che đi.
Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:
- ủa, sao chị biết Cô-nương tôi xinh đẹp. Chị gặp cô ấy tại chỗ nào thế?
Nàng đáp:
- Tôi làm gì có hân hạnh gặp cô ấy. Nhưng trong khi anh mê man lúc nào cũng mơ tới cô ấy. Vì vậy tôi đoán một người con gái phải hết sức xinh đẹp mới được người ta thiết tha thương nhớ đến thế. Nàng phải đẹp lắm để lúc tỉnh anh không quên, lúc mê anh mơ tới hoài.
Dương-Qua thờ thẫn nói:
- Nếu chị gặp cô nương tôi, chắc chắn chị phải khen là xinh đẹp.
Nàng cười dòn:
- Đã hẳn thế rồi.
Nói xong nàng cặm cụi viết nữa.
Dương-Qua hỏi nữa:
- Cô vẽ gì đấy?
Nàng đáp:
- Tôi đâu biết vẽ. Tôi đang tập viết đấy mà!
Dương-Qua cười nói:
- Thôi, xin chị đừng khiêm nhường thái quá. Cứ xem lối múa bút của chị tôi cũng đoán biết tài viết của chị như thế nào rồi.
Cô gái cười ngoặc ngoẽo nói:
- Thật sao, anh nói sao mà tài lắm vậy? Hay là anh ngạo tôi đó?
Dương-Qua đáp:
- Có gì lạ đâu. Cứ xem mặt đoán được tài người. Thân hình chị đẹp đẽ mảnh mai, thì nhất định nét chữ của chị cũng phải bay bướm và sắc sảo lắm. Chị có cho tôi xem các tác phẩm vừa rồi có được hay không?
Nàng áo xanh đáp:
- Xin thú thật chữ tôi vụng về xấu xí lắm. Tôi đang chờ khi nào anh khỏi sẽ nhờ anh chỉ thêm đây mà. Hôm nay tôi còn đang tô theo dấu chữ phóng bằng son đỏ chứ đã viết được một mình đâu.
Nghe nàng nói, Dương-Qua thấy hổ thẹn và tự nghĩ:
- Khi còn trên đào hoa đảo giá mình nghe lời Hoàng-Dung tập chữ nghĩa cho khá thì bây giờ cũng có dịp phô trương với người. Tài nghệ mình không đầy lá mít thì còn mong gì dạy lại ai nữa.
Trong lòng chàng đang phân vân tự trách, bỗng nhiên thấy ruột quặn đau. Dương-Qua vội vàng nín hơi vận dụng nội công cho khí huyết chuyển động chống lại cơn đau, rồi chợp ngủ từ lúc nào không hay biết.
Đến khi giật mình chợt tỉnh thì trời đã tối rồi. Cô nàng áo xanh đang loay hoay lo dọn cơm cho chàng ăn.
Chàng gượng ngồi lại bàn ăn, thấy không có cá thịt mà đơn sơ chỉ có mấy đĩa rau tươi, đậu phụng và mấy trứng vịt luộc, tuy nhiên mùi gạo đồng mới gặt, mùi hương thơm ngát, chén bát sạch sẽ tươm tất và gặp lúc đang đói bụng, nên ăn rất ngon lành.
Chàng ăn luôn một hơi bốn năm bát lớn, miệng khen:
- Cơm sốt canh nóng, rau tươi và được bàn tay cô nương nấu nên ăn thật ngon miệng.
Vì có mang nạ da người bên ngoài nên không thể nào đoán được nét mặt của nàng áo xanh cảm xúc ra sao. Tuy nhiên cứ xem qua đôi mắt sáng rực và chớp lia lịa của nàng, Dương-Qua cũng đoán được nàng đang vui vẻ lắm.
Qua ngày hôm sau, thương tích của Dương-Qua đã giảm hết bảy tám phần. Nàng áo xanh bèn nhắc ghế lại ngồi cạnh giường, lấy kim chỉ vá lại những mảnh áo rách cho chàng.
Vá xong các lỗ rách, nàng cầm lên ngắm nghía rồi cười nói:
- Mặt mày anh trông sáng sủa như thế kia, tại sao ăn mặc áo rách rưới như vậy?
Nói xong, chẳng cần Dương-Qua trả lời, nàng chạy luôn vào buồng đem ra một cuộn vải xanh, ướm cắt cho chàng một cái áo mới để thay đổi.
Nhìn nữ lang thanh y nói năng dịu hiền, thái độ thanh nhã từ tốn tuổi chỉ vào khoản mười tám mười chín, nhưng đối với mình hết sức ân cần chu đáo, không khác nào bà chị hiền săn sóc cho đứa em cưng. Từ nhỏ sớm mồ côi cha mẹ, Dương-Qua cảm thấy cuộc đời cô độc không ai âu yếm chăm nom, đến nay thấy nàng áo xanh tận tình chăm sóc mình, nên Dương-Qua cảm động quá, nhỏ nhẹ nói:
- Chị đối với em tốt quá, em biết lấy gì bồi đáp lại cho xứng đáng với tấm thạnh tình này?
Nàng mỉm cười đáp:
- Một mảnh áo vải đâu có gì đáng kể. Biết quên tánh mạng mình, xả thân cứu người khác, đó mới là một hành động đáng kính và đáng quý chứ.
Dương-Qua không biết nói gì hơn, chỉ nhìn nàng, trong lòng thấy dìu dịu và hân hoan khôn tả.
Suốt buổi sáng, trong phòng vắng lặng như tờ, mãi tới trưa, cơm nước vừa xong, nàng áo xanh lại tới bàn cặm cụi viết nữa.
Dương-Qua tò mò muốn biết nàng viết những gì, nhưng hỏi đã nhiều lần nàng vẫn không chịu nói thật.
Cứ mỗi bận viết xong, nàng chăm chú xem lại, và sau một hồi thẫn thờ suy nghĩ, hình như không vừa ý nên vò nát vứt đi. Hết viết rồi xem, hết xem lại vẽ, sau hình như quá chán nàng khẽ thở dài, dẹp đi không viết nữa và hỏi Dương-Qua:
- Anh thích ăn món gì cứ nói thật, tôi sẽ mua về nấu cho mà dùng nhé. Dương-Qua cảm động quá vội đáp:
- ối, ăn uống thề nào cũng được, miễn no bụng thì thôi, cô đừng quan tâm đến chuyện ấy làm gì cho mệt trí.
Nàng đáp:
- Có chi mà mệt. Anh muốn ăn chi cứ nói nhé, chúng ta đừng quá khách sáo không hay và mất vẻ thân mật đi.
Thấy nàng thật tình cùng mình nên Dương-Qua cười bảo:
- Lâu ngày không được ăn xôi cũng thèm thèm. Nếu chị có nếp thổi ít xôi ăn chắc thú vị lắm.
Nàng cười xòa hỏi:
- Tưởng gì chứ xôi thì dễ lắm. Nhưng anh thích xôi ăn với đậu hay với đường?
Dương-Qua đáp:
- Xôi nào cũng được, miễn có ăn thì thôi, đậu cũng ngon mà đường cũng tốt.
Chiều ấy, Dương-Qua được ăn xôi và tráng miệng bằng chè đậu nấu đường. Đặc biệt là món xôi kèm thêm thịt nướng. Lâu ngày ăn lạ miệng Dương-Qua thấy ngon lạ lùng, vừa ăn vừa khen không ngớt.
Thấy chàng ăn uống thật tình, cô gái khen:
- Tình cờ mà tánh anh lại hạp với tánh tôi quá.
Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:
- Hạp nơi chỗ nào?
Nàng đáp:
- Tôi vốn sanh trưởng tại Hồ châu, xứ này có nếp ngon nên nấu xôi dẻo và thơm nhất hạng. Tôi thích ăn xôi nên thỉnh thoảng lại nấu một bữa ăn trừ cơm.
Nghe nàng nhắc lại Hồ-Châu, Dương-Qua bỗng sực nhớ lại ngày nào Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung có đấu với Lý-mạc-Thu tại xứ này, và sau đó gặp Âu-Dương-Phong. Không biết cô gái này là ai, thế nào cũng có gặp qua một lần, và nhất định thế nào nàng cũng biết mình nhưng nghĩ hoài không tìm ra tông tích.
Ăn uống xong, thừa dịp lúc nàng lo thu xếp chén đĩa mang xuống bếp rửa, Dương-Qua bước ngang qua bàn, hết xem mảnh giấy thử nàng ta viết gì. Ngại nàng lên bất ngờ, chàng vội lấy đại một tờ bỏ vào túi đem về giường xem lại.
Ngồi trên giường mở mảnh giấy ra xem, chàng rất ngạc nhiên thấy chỉ vỏn vẹn tám chữ:
Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ"
(Nghĩa là: Đã gặp người quân tử, có chi vui hơn).
Xem lại hai ba lần, Dương-Qua suy nghĩ:
Lạ nhỉ! Đây là một câu trong kinh Thi, nhưng không biết cô ta định nói gì, hay có dụng ý chi đây. Quân tử này là ai? có lẽ là mình chăng?
Suy nghĩ mãi không ra, chàng bèn lại bàn lấy thêm mấy tờ nữa, nhưng tờ nào cũng vỏn vẹn có tám chữ như vậy mà thôi.
Không biết dụng ý của nàng thế nào, Dương-Qua cứ ngồi lặng thinh suy nghĩ mãi.
Bỗng có người đi lên, Dương-Qua lật đật vò nát mấy mảnh giấy rồi vội nhét vào túi cất dấu.
Nàng cũng lượm tất cả các mảnh giấy còn trên bàn và rơi dưới đất đem đốt đi.
Trong lúc nàng đốt giấy ngoài hiên, thì trong giường Dương-Qua suy nghĩ mãi:
- Đã gặp người Quân tử! Quân tử này là ai đây? Hay là nàng muốn nó là mình. Nhưng cũng vô lý thật. Nàng đã nói chuyện với ta câu nào đâu mà nhận định như vậy được. Nếu không thì cũng vô lý. Vì tại chốn này, ngoài ta ra thì không còn một kẻ thứ ba nào nữa.
Lòng vẩn vơ suy nghĩ chàng thấy người con gái lại trở vào, đến bàn tắt phụt ngọn đèn dầu rồi lững thững đến cạnh cửa sổ ngắm nhìn ánh trăng.
Trăng lên cao. ánh trăng xuyên qua cánh cửa mở hé hé, nhìn trông như một giải lụa bạch trải từ ngoài hiên vào trong phòng.
Cảnh vật đẹp đẽ nên thơ làm sao! Chợt Dương-Qua gọi lớn:
- Chị này.
Nhưng nữ lang điềm nhiên như không hay biết bỏ đứng dậy rồi lững thững bước ra ngoài hiên.
Một chặp sau, từ bên ngoài, một giọng tiên sầu lảnh lót réo rắt trong đêm thâu, vọng từ không gian vô tận, lọt qua song cửa, khiến cho tâm hồn Dương-Qua lâng lâng nửa mê nửa tỉnh.
Chàng suy nghĩ:
- Xưa kia ta gặp nàng cầm ống tiêu đánh cùng Lý mạc Thu, nhưng tưởng nàng chỉ có tài múa tiêu chứ ko ngờ nàng lại có biệt tài thổi tiêu hay như vậy?
Khi còn sống trong cổ mộ, Dương Qua đã được Tiểu long Nữ dạy cho đánh đàn vì vậy nên chàng cũng hiểu qua 1 ít về âm điệu của nhạc khí. Hôm nay ngồi lắng nghe nàng áo xanh thổi bài " Vô xạ thương" theo điệu "kù úc" nguyên văn như sau:
" Chim bỉ kỳ úc,
Lục trúc y y
Hữu phỉ quân tử
Như thiết như tha
Như trác như ma"
Đay là 5 câu trich trong đoạn Kinh thi đại ý nói "nhìn 1 bãi sông kỳ trúc xanh tươi đẹp, khen thay cho ng quân tử đức thẳng như ngọc phải năng giũa năng mài. Và muốn gầy dựng nên nghiệp mai sau, việc đầu tiên của ng quân tử là phải gầy đựng nên vợ chồng"
Tiếng tiêu réo rắt cao vút từng mây, khi trầm trầm như lặng tận đáy biển, khi thoảng qua như ngọn gió thu, dồn dập như sấm gào sóng vỗ.
Tiếng tiêu không phải để rửa sầu cho ng lữ khách, mà hình như nhắc ai rằng ngọc lành em đang treo giá, chỉ mong ng quân tử đừng quá hững hờ!
Nghe tiếng tiêu dìu dặt, Dương Qua cảm thấy hứng thú, bèn đứng dậy vói tay lên tường lấy cây đàn bảy dây đã mắc sẵn, so dây thử phiếm rồi tiện tay khảy luôn 1 bài hoà theo đúng âm diệu của tiếng tiêu đang vũ lộng từ mấy tần mây.
Tiêu đàn cùng hoà nhịp , như đôi chim loan cùng gáy, như đôi uyên ương cùng kêu, Rõ ràng ng thục nữ muốn mượn tiếng tiêu gợi lòng quân tử đang lấy dây tơ đáp lại mối thâm tình.
Trong lúc hai bên cùng hoà điệu réo rắt, bỗng nhiên từ bên ngoài tiếng tiêu im bặt. Dương Qua trong phòng cũng ngừng hẵn tiếng đàn, Chàng ngẫm nghĩ:
- Cô nàng mượn tiếng tiêu bày giãi nỗi lòng. Nay thấy mình dùng tiếng đàn đáp lại nên nàng tạm thấy phỉ nguyền, không thổi nữa chăng?
Khi tiếng đàn lẫn giọng tiêu cùng ngừng tấu, im lặng lại bao trùm cả không gian, căn phòng không trở lại nét hoang tịch cô liêu và khu rừng cũng đắm chìm trong hư vô trầm mình dưới ánh trăng bàn bạc.
Nhưng chờ mãi không thấy nàng về chàng nằm mãi 1 mình nóng lòng trong đợi, trằn trọc thâu canh. Mảnh trăng le lói cứ rọ sáng trần gian, và từng tiếng côn trùng rả rít vang lên xé màn đêm tịch mịch...
Dương Qua bực trí nghĩ vẫn vơ và cứ phe phẩy mãi chiếc quạt mo đưởi muỗi.
Đêm khuya lắm, chàng thiếp đi hồi nào không biết.
Bình minh bừng lên, tiếng oanh vàng đã ríu rít ngoài hiên làm chàng chợt tỉnh giấc, vội đưa mắt nhìn ánh chiêu dương đang bao phủ khắp quanh nhà, từng đợt gió ban mai thoảng qua, làm tâm hồn thêm khoái sảng.
Dương Qua lẩm bẩm:
- ồ, không ngờ đêm qua mình ngủ 1 giấc ngon quá.
Rửa mặt xong, chàng lấy chiếc mawt nạ da người đeo vào. Cô gái áo xanh vừa bưng thức ăn điểm tâm lên, trông thấy, lúc đàu hơi bỡ ngỡ, nhưng một lát nàng nghĩ:
- Định nhát ai mà đeo cái thư nợ ấy vào mặt như vậy?
Tuy hỏi vậy, nhưng trong thâm tâm nàng đoán rằng Dương Qua định mang mặt nạ như nàng, để rồi sau này buộc phải gỡ của mình trước rồi mới gỡ của chàng sau. Kể như thế cũng thủ đoạn đấy chứ. Nhưng tánh ta đâu dễ cho kẻ khác bắt bí được.
Hai người cùng ăn xong, nàng thu dọn chén bát, bưng mâm ra ngoài, và suốt ngày ấy 2 người ko nói với nhau 1 câu chuyện gì hết.
Dương qua cảm thấy trong lòng áy náy và suy nghĩ "Hay là nàng giận lây ta chăng? Tại sao ta có thể gây buồn phiền hờn giận cho ng ơn nhu thế được. Chiều nay phải xin lỗi nàng mới phải."
Chiều tối, nàng thu dọn chén dĩa của bữa cơm tối xong, hình như dự tính bỏ đi đâu đấy. Dương qua vội vàng ân cần nói:
- Cô nương thổi tiêu hay quá, xin cho nghe thêm vài khúc nữa được chăng?
Nàng ngập ngừng 1 chút rồi đáp ngay:
- Nếu anh muốn thì cũng được vậy.
Nói xong, nàng đặt mâm chén bát xuống bàn, đi lấy chiếc tiêu bằng ngọc đem ra rồi lại ngồi ngay bên giường Dương Qua thổi.
Nghe giọng điệu vừa trỗi lên, Dương Qua gật gù trầm trồ và hỏi:
- Đây có phải là điệu "nghênh tiên" không?
Nàng vừa thổi vừa gật đầ, và tiếng cứ lảnh lót vọng ra như nỉ non như ai oán. Dù có mặt nạ, nhưng cứ theo âm điệu mê ly của tiếng tiêu, ai cũng có thể đoán được bên sau chiếc mặt nạ có một khuôn mặt xinh xắn tuyệt vời, không thua chi nàng Lộng Ngọc hay Tây Thi tiên tử.
Nàng mải mê sau nắn từng ngoán tay trên ống tiêu, theo đúng cung bậc tuyệt vời, chàng thì lắng tai nghe đê mê, mắt đắm đuối nhìn những ngón tay thon thon trắng nuột như búp măng nhảy tung tăng trên ống ngọc, tâm hồn như chìm đắm trong 1 khung cảnh thần tiên. Lúc bấy giờ trăng đã lên cao, chênh chếch rọi vào nhà sáng rõ như tấm lụa bạch giăng ngang...
Thình lình cô gái áo xanh buông tiêu trợn mắt kêu "ồ" một tiếng đày vẻ kinh ngạc!

Thấy thái độ nàng bỗng nhiên thay đổi quá đột ngột từ mê ly đến rùng rợn thì Dương Qua thắc mawc chưa hiểu vì sao? Chàng quay đầu nhìn theo phía nàng đang dán mắt trân trối, thì thấy trên tường có in đành rành 3 chiếc bàn tay máu đỏ nhu son.
3 bàn bay lại in hẳn trên cao, nếu không phải hạng có khinh công cao kỳ thì không thể nào vói lên để in tới được.
Chàng ngạc nhiên tự hỏi:
- Tại sao trăng sáng như ban ngày mà lại xảy ra hiện tượng lạ lùng dường ấy?
Dương qua lạ lùng hỏi nàng:
Chị biết ai đã in các bàn tay này không?
Cô gái rầu rầu đáp nhỏ:
- Anh ko hiểu kẻ ấy là Xích luyện Tiên tử sao?
Dương qua trố mắt hỏi:
- Lý Mạc Thu à, chết chửa! Vậy hắn tới từ lúc nào vậy?
Nàng đáp luôn:
- Không biết. Nhưng một khi bà đã in dấu ba bàn tay máu là ngụ ý báo trước sẽ giết đủ ba mạng trong nhà này.
Dương Qua hiểu tường tận, nhưng buột miệng hỏi :
- Ba người sao? ai vậy? Tại sao lại ba người?
Nàng điềm nhiêm đáp:
- Quả đúng vậy. Cứ in 3 bàn tay máu là sẽ có ba người chết.
Dương qua hỏi:
- Trong nhà này, trừ 2 chúng ta ra còn người thứ ba nào nữa?
Nàng chưa kịp đáp, bỗng từ ngoài có tiếng con gái vọng vào:
- Người thứ ba là tôi đây.
Ngay lúc đó từ ngoài mái hiên một ng con gái mặc áo màu hoàng yến vừa bước vào. Ng này mới trông qua thấy thân hình mảnh dẻ.. Dương Qua nhìn kỹ rõ ràng con ng quen thuộc cũ: " Lục vô Song".
Lục vô Song tươi cười nhìn chàng hỏi:
- Anh ngốc của em ơi, tại sao bị thương nặng như vậy?
Ngại sự hiềm nghi của nàng áo xanh, Dương Qua dùng giọng nghiêm chỉnh đáp:
- à, té ra là chị dâu của tôi. Chị dâu đi đâu bấy lâu nay mà biệt tin như vậy?
Chàng cố dùng 2 chữ " chị dâu" để giới thiệu cho nàng áo xanh biết giữa 2 người ko hề có chuyện tà tâm, tình ái.
Lục vô Song quay sang nàng áo xanh nói lớn:
- Này dì, vừa tiếp được thư dì, tôi đã vội đến ngay đây để dì bớt chờ mong.
Rồi ngó Dương Qua, nàng nói tiếp:
- Còn chú ngốc, vì sao mà bị thương như vậy?
Dương Qua chưa kịp trả lời, nàng áo xanh đã đưa tay chỉ 3 dấu bàn tay màu đỏ chói in trên tường trước mặt.
Lục vô Song vừa nhìn thấy đã" ối" lên một tiếng hãi hùng như trẻ nhỏ đi đường gặp ma, mặt mày tái mét. Đến đây, Lục vô Song hồi tưởng lại ngày còn thơ ấu, Lý mạc Thu cũng từng in vết tay máu trên tường nhà ở Lăng Hồ thuộc phủ Hồ Châu và ngay đêm đó Lý mạc Thu đã hạ sát toàn gia ko chừa 1 con vật nào, kể cả gà chó.. Nghĩ tới cảnh rùng rợn đẫm máu ấy, nàng sụt sùi muốn troà nước mắt. Nghĩ đi nghĩ lại 1 chập bỗng nhiên nàng đưa tay giật phăng chiếc mặt nạ trên 2 người quăng mất và nói lớn:
- Trong khi đang lâm vào tình trạng nguy biến, thần chết cận kề mà ko biết lo toan giải nguy cơ, cứ lo đeo thứ này vào để nhát ai vậy?
Khi chiếc mặt nạ vừa rớt xuống. Dương Qua liếc nhìn thiếu nữa áo xanh thấy mặt mày nàng vô cùng xinh đẹp, nước da trắng như tuyết, mũi dọc dừa, đôi mắt đen láy, vừa có duyên vừa đằm thắm, tuy sánh với Tiểu long Nữ ko nổi, nhưng cũng là một hạng quốc sắc thiên hương, trên thiên hạ hiếm ng bì nổi.
Cô gái áo xanh, vốn là em họ của Lục vô Song tên gọi Trình Anh. Trước kia Trình Anh bị Lý mạc Thu bắt cóc suýt nữa nguy tới tính mạng, thời may được chúa đảo Đào Hoa là Hoàng dược Sư cứu thoát. Nguyên thân phụ của Hoàng Dung là Hoàng dược Sư về già bèn đi chu du khắp thiên hạ để thưởng thức cho hết những cảnh đẹp của hoá công, lấy bốn bể làm nhà, khi lên rừng khi dạo núi, lê gót khắp sông hồ, cũng có khi về tận hương thôn viếng thăm những ngôi chùa cổ kính. Khi gặp Trình Anh bị bàn tay độc thủ của Lý mạc Thu, ông ra tay giải cứu rồi thương tình mang về Đào Hoa đảo làm đồ đệ. Thấy nàng xinh đẹp ngoan ngoãn thông minh, nên ông thương yêu không khác gì con gái là Hoàng Dung.
Tuy Trình Anh không thông minh bằng Hoàng Dung nhưng lanh lẹ và khôn ngoan cũng hiếm người bì kịp. Hoàng dược Sư bèn đem truyền thụ nhiều môn võ công thượng thặng và chỉ dạy cách bày binh bố trận nữa. Sau một năm trời học tập, thấy bãn lãnh cũng kha khá, Trình Anh bèn xin phép ông hạ sơn tìm người em cô cậu là Lục Vô Song đã lưu lạc từ thuở bé. Sau khi gặp nhau, Lục vô Song và Trình Anh bèn đưa nhau vào cạnh ven rừng lập nên một ngôi nhà nhỏ xinh xinh, tạm trú qua ngày tháng đồng thời cũng để chạy chữa vết thương trong khi cùng đấu với Lý mạc Thu trong quán độ nọ. ít lâu sau Lục vô Song đi theo một người bạn gái ngao du ở cánh rừng bên cạnh rồi mãi không thấy trở về. Trình Anh đi tìm, bất ngờ lại gặp Hoàng Dung đang bị Kim Luân Pháp Vương áp đảo trong trạn loạn thạch. Nhờ trước kia được sư phụ dạy cho những bí quyết lập trận ngũ hành, nên Trình Anh đã trổ tài thiếp lập lại trận loạn thạch, biến nguy thành an, đuổi Khi Luân cứu được mẹ con Hoàng Dung và Dương Qua đem về đây cứu chữa. Âu cũng là một chuyện nhân quả do con tạo đã xếp bày.. Giá trước khi Dương Qua ko giải cứu cho Vô Song thì chuyến này đời nào Trình Anh lại chịu cứu chàng và tận tâm chạy chữa! Thế rồi cả ba người ngồi quây quần trên giường bàn về chuyện Lý Mạc Thu. Sau khi nhắc lại gốc tích ngày xưa, ba người mới rằng xưa kia người nào cũng có sống trên Đào Hoa đảo và Hồ Châu. Sở dĩ Lý mạc Thu bị đui một con mắt và vì con chim hoả điêu của Dương Qua mổ trúng. Sau này vì dám chống đối cùng Hoàng dược Sư nên bị Trình Anh đánh cho bốn bạt tai thật mạnh. Còn Lục vô Song thì bị Lý mạc Thu buộc tội phản sư môn và ăn cắp cuốn " Ngũ độc kỳ thư".
Thế là cả ba đều là những kẻ tử thù của Xích luyện Tiên Tử. Hôm nay gặp nhau lại, tất nhiên phải tận diệt, việc trả thù không thể nào tránh thoát nữa. Sở dĩ Lý mạc Thu gặp Dương Qua bị trọng thương nơi đây như ko chịu giết ngay mà còn giả ơn, giả nghĩa ra dấu hiệu bàn tay máu cảnh cáo trước khi hạ sát vì nàng nghĩ rằng:" Dương Qua đang bị trọng thương ko còn chiến đấu nổi nữa. Lục vô Song với Trình Anh bản lãnh còn non nớt, đối với ta đâu có nghĩa lý gì. Chi bằng ta cứ đương nhiên hành động như trước khia cho ra vẻ anh hùng nghĩa hiệp. Dù sao ba người cũng không thể nào trốn thoát được nổi nữa. Như thế thù xưa đã rửa mà hành động của mình lại có vẻ cao thượng và kể cả hơn.
Trình Anh lo ngại nói:
- Tôi nhớ lại ngày trước hắn vào giết phá nhà chị ngay lúc ban ngày. Lần này có lẽ hắn cũng đến trong buổi sớm mai, vào khoảng cuối giờ mão mà thôi. Hay hơn là chúng ta lợi dụng con ngựa của Dương ca chạy hay cùng nhau tẩu thoát trước cho rồi.
Lục vô Song lắc đầu nói:
- Làm sao được, trong khi anh ngốc đang đau nặng, ko đi được đâu.
Dương Qua than nhỏ:
- Cỡi ngựa mà còn ko đủ sức thì làm sao có thể đánh nhau được nữa. Phen này có lẽ khó thoát khỏi tay Lý mạc Thu.
Lục vô Song đề nghị:
- Hay là em chịu khó cõng Dương huynh chạy về một phía, còn chị thì tìm cách đánh lừa dụ nó đuổi theo đường khác. Như vậy may ra cứu được mạng anh chàng. Trong ba đứa mình chắc nó ít quan tâm đến chị, nên nếu rủi bị bắt chắc có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu. Chứ em và Dương huynh mà bị bắt thì đừng hòng còn sống sót với Lý mạc Thu
Thế là 2 chị em cứ bàn qua tán lại, ai cũng muốn lãnh phần hy sinh chận giặc và nhường cho người kia đem Dương Qua đi trốn. Thấy hai người tuy ít tuổi nhưng có thâm tình cùng mình, Dương Qua cảm động vô cùng và nghĩ bụng:
- Họ tuy nhỏ nhưng nghĩa khí lớn nên trong lúc thập tử nhất sinh mới tranh nhau mạo hiểm vì mình. Như vậy dù ta phải chết vì tay Lý mạc Thu cũng vui dạ, nỡ nào để phiền tới 2 ng mà tìm phương trốn thoát.
Khi ấy Lục vô Song nhìn Dương Qua nói:
- Anh ngốc ơi, sao anh lặng thinh như vậy? Bây giờ anh muốn tôi hay em tôi cõng anh, xin cứ nói thật ra xem sao? Mau lên chứ sắp xếp không còn kịp nữa đấy.
Dương Qua đang ngập ngừng chưa đáp thì Trình Anh đã cướp lời:
- Chị này kỳ quá, lúc này mà còn gọi anh ấy là chàng Ngốc mãi, không sợ anh buồn lòng sao?
Lục vô Song xì một tiếng đáp:
- Dì đã dùng thư từ tỏ ý cùng chàng nên cứ bênh chầm chập. Ta đã biết rõ lắm rồi. Anh Ngốc là người của dì đấy chứ ai có tranh mất đi đâu? Vậy bây giờ dì nhận cõng anh ấy trốn đi nhá.
Trình Anh mắc cỡ hai má ửng hồng, sau mới nói được mấy lời chữa thẹn:
- Anh ấy đã gọi chị là chị dâu, thì bổn phận của chị dâu phải cứu em chứ còn đùa cho ai nữa? Xưa kia Quan Công phò nhị tẩu quá ngũ quan, thì ngày nay nhất tẩu không phò Dương thúc thúc lánh nạn được hay sao?
Lục vô Song nghe Trình Anh nói câu này thẹn quá, mặt mày đỏ như gấc. Nàng dùng tay đẩy mạnh Trình Anh ra xa, nhưng nàng đã lanh chân né được. Cảnh tượng giữa ba người trong phòng lúc này có vẻ hồn nhiên vui nhộn chứ ko có gì là nặng nề nguy hiểm hết. Hai cô gái cứ đùa nhau cười khúc khích mãi, khiến Dương Qua thầm nghĩ:
- Bất tiện quá, nếu để Trình cô nương đem ta đi thì Lục vô Song sẽ nguy khốn, trái lại nếu để Lục cô nương đem ta trốn thì Trình Anh làm sao khỏi chết vì Lý mạc Thu? Đằng nào cũng có một nàng hy sinh vì mình. Như thế không được đâu.
Nghĩ vậy chàng cất tiếng nói:
- Hai cô đối với toi tốt quá, ơn này tôi không dám quên. Vậy bây giờ hai cô cứ tìm đường thoát thân đi, để một mình tôi ở lại đối địch cùng hắn. Lý mạc Thu cùng sư phụ tôi vốn có tình đồng môn, chẳng lẻ y lại ko nghĩ tình sư muội mà giết tôi hay sao?
Nghe chàng nói, Lục vô Song lắc đầu gạt ngay:
- Tôi ko trốn đi đâu hết.
Dương Qua biết cả hai đều có lòng khí khái, nhất định ko người nào bằng lòng bỏ mình lại để thoát thân một mình nên nghiêm giọng nói:
- Thôi, đã thế thì chúng ta cùng ở lại hết, hoặc cùng chạy trốn một lần luôn thể. Nếu hắn đuổi theo, chúng ta sẽ quay lại cùng chiến đấu, sống chết tuỳ số mạng, có chi mà lo.
Lục vô Song tán thành ngay:
- Hay lắm, hay lắm, thà chết cùng nhau còn hơn là sống riêng một mình.
Trình Anh trầm ngâm một lúc rồi đáp:
- Không tiện đâu, Lý mạc Thu chạy mau như gió, mình ko thể nào chạy thoát khỏi tay nó. Nếu bỏ đi, rủi nó bắt gặp dọc đường thì thật là bất tiện, chi bằng chúng ta cứ dưỡng sức nơi đây, chờ nó tới. Như thế thì mình khỏe mà chờ người mệt, chẳng lợi hơn sao?
Dương Qua vỗ tay khen vùi:
- Cô có kiến hay lắm. Cô có tài về ngũ hành độn pháp, ngay Kim Luân Pháp Vương mà còn thua huống hồ chi Lý mạc Thu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro