Than dieu hiep lu 101-104

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

101. BINH LỬA DẬY TƯƠNG DƯƠNG

Kim Luân Pháp Vương dắt Quách Tường chạy ra ngoài mười trượng, đột nhiên phát sanh một độc kế.

Mắt ông nhìn thấy hai sợi dây thừng cột chặt vào hai cây đại thọ, ông muốn chặt đứt hai sợi dây này để cho mọi người xuống hang lúc nãy kẹt chết hết dưới hang sâu.

Suy nghĩ xong, ông quay trở lại dùng hết nội lực bứt bỏ hai sợi dây nầy. Quách Tường cả kinh chạy đến bên ông, dùng nội lực đánh vào uyên hạ duyệt của Pháp Vương thực mạnh.

Pháp Vương vừa thoát được đại nạn, không mảy may đề phòng Quách Tường, nên bị điểm trúng huyệt đạo khá nặng, làm cho toàn thân ông đã bị têbuốt, thân thể mất cả sức lực.

Quách Tường lại dùng song chưởng đánh mạnh vào lưng ông và quát to:

-Cũng tại ngươi hết cả! ác hóa thượng! Ngươi chết chẳng oán than!

Pháp Vương tuy bị trúng huyệt khá nặng, nhưng ông cố vận nội lực hóa giải và giả bộ cười to:

-Ngươi có bao nhiêu công lực mà dám kình chống ta?

Quách Tường lúc bấy giờ đã biết kính sợ Pháp Vương. Nàng biết rằng Pháp Vương chưa hóa giải hết huyệt đạo nên nàng cố vận dụng song chưởng, đánh bình, bình vào lưng Pháp Vương. Nàng lại vươn tay điểm vào mười bảy mười tám huyệt đạo, cố ý làm cho ông ta té nhào xuống hang sâu, không thể chuyển vận được kinh phái mà hóa giải cho kịp.

Nàng lại chạy ra gành đá trước mặt và quay đầu lại nói:

-Ta không như mẫu thân ta chịu chết ở đây đâu.

Nói xong nàng băng mình chạy thật xa. Pháp Vương cả kinh, hớp vài luồng chân khí để hóa giải huyệt Uyên dạtÕ, mà không kịp chặt đứt dây thừng, tung mình rượt theo Quách Tường đã chạy xuống gành núi khá xa.

Địa thế ở Đoạn trường nhai rất cổ quái, cây cối rất kỳ lại mới thấy Quách Tường từ hướng Đông, ông vừa đuổi tới đã thấy nàng qua hướng Tây.

Thân thể của Pháp Vương to lớn mà đường xá ngoằn ngoèo, ông thở hồng hộc vẫn không đuổi theo kịp Quách Tường. Nàng nhỏ mình nên len theo kẽ lá cành cây thoăn thoắt. Kẻ chạy người đuổi suốt ngày mà Pháp Vương vẫn không theo kịp Quách Tường.

Ông cả giận tung mình lên không theo môn pháp Bình sa nhạc lạc mà bay lơ lửng cản đầu Quách Tường. Khi hạ xuống bên nàng, ông đưa tay ra chộp mạnh.

Quách Tường vừa thoát ra khỏi cơn khủng hoảng tinh thần nay vừa định tỉnh đã bị Pháp Vương chộp bắt, làm cho nàng hốt hoảng kêu to:

-Mẹ ơi ! Mẹ!

Pháp Vương vội vã đưa tay bụm chặt miệng Quách Tường. Bây giờ lại nghe tiếng của Hoàng Dung từ xa đưa lại:

-Bé Quách Tường đã đi đâu?

Pháp Vương lẩm bẩm:

-Uổng ! Uổng quá ! Ta bỏ lỡ một cơ hội!

Nói xong ông điểm vào huyệt á khẩu để cho Quách Tường câm lặng, bế xốc nàng lên rồi chạy như gió.

Thực ra Pháp Vương bỏ mất cơ hội không chôn được bọn Hoàng Dung dưới đáy hang.

Lục Vô Song bước lên trước, không thấy Quách Tường đâu, nàng dáo dác đi nhìn khắp phía mà không gặp.

Tuy vậy, nàng không dám đuổi theo, vì đã một lần nguy hiểm, nàng như chim sợ ná, chỉ còn chờ đợi Hoàng Dược Sư và Nhất đăng đại sư lên mới trình bày tự sự.

Trong phút chốc Hoàng Dược Sư đã lên tới, Lục Vô Song liền thuật câu chuyện Quách Tường bị Kim Luân Pháp Vương dẫn đi.

Hoàng Dược Sư ở dưới hang quan sát rất tỉ mỉ cũng không tìm ra vết tích của Dương Qua, mọi người đều cho chàng đã gặp họa rồi, nên họ xúm lại bàn luận tính kế hoạch khác.

Lên đầu là Lục Vô Song, kế đến Trình Anh và bà Anh Cô. Trong lúc mọi người đang tiếp tục lên bờ thì nghe Trình Anh kêu réo om sòm:

-Bé Quách Tường, bé Quách Tường, ngươi ở đâu?

Hoàng Dung đ lên tới đất, nhìn thấy Quách Tường và Kim Luân Pháp Vương mất tích, bà liền đưa mắt nhìn Hoàng Dược Sư , Nhất Đăng, Châu Bá Thông, Anh Cô tỏ vẻ khẩn cầu.

Mọi người hội ý vội vã chia nhau đi lục soát khu Tuyệt Tình cốc, cũng không thấy bóng của hai người đâu cả, chỉ gặp chiếc giầy của Quách Tỉnh để rơi lại.

Trình Anh cầm chiếc giầy nói: Theo ý của tiểu muội, thì Tường nhi chẳng có sao cả, sư tỉ chớ khá lo sầu. Theo dấu tích này có lẽ Pháp Vương và nó đi về hướng nam. Tường nhi thông minh cố ý làm rơi chiếc giầy để mẫu thân an lòng mà theo dõi. Tôi dám quả quyết nó không có việc gì đến đỗi.

Hoàng Dung nghĩ lại lời nói Pháp Vương lúc nãy là ông muốn thâu nhận Quách Tường làm đồ đệ truyền y bát, thì đối với số vận Quách Tường không có gì đáng ngại, nên bà bớt đi một phần lo lắng.

Đoàn người này lên đường xuôi nam. Vừa đi vừa hỏi tin tức, nhưng Pháp Vương và Quách Tường chẳng để lộ tông tích gì hết. Đi được vài ngày, bỗng nghe lời khách qua đường đồn đại: Quân Mông Cổ kéo hai đạo quân từ hướng Bắc đến vây thành Tương Dương thật muôn phần nguy cấp.

Hoàng Dung hốt hoảng bảo:

-Quân xâm lăng Mông Cổ vây thành Tương Dương thế rất ngặt ngèo! Chúng ta hãy trở lại cứu thành! Công việc Tường nhi hãy tính sau.

Hoàng Dược Sư , Châu Bá Thông và Nhất Đăng Đại Sư là những người xuất thế, xa lánh ngoại vật, chuyện đời không còn ràng buộc tới nữa, nhưng đối với việc thành Tương Dương là ải địa đầu của giang san nhà Tống, không lẽ ngồi khoanh tay mà trông cảnh nước non bị giầy xéo, chà đạp dưới gót xâm lăng. Tất cả đều nghe theo lời thỉnh cầu của Hoàng Dung trở lại Tương Dương thành.

Hoàng Dược Sư , Nhất Đăng và Hoàng Dung đã đem hết diệu thủ khinh công chạy như bay về thành Tương Dương. Chỉ chọn một ngày, họ đã đến ngoài thành.

Mọi người đứng xa xa nhìn thấy đoàn quân Mông cổ phô trương thanh thế, họ cũng e ngại vô cùng. Hoàng Dung bình tĩnh nói:

-Địch quân tuy đông, nhưng chúng ta võ phu chí dũng không có gìđáng ngại, chúng ta hãy đến thành, thừa đêm tối sẽ tiến vào thành.

Bây giờ trong bọn bảy người, ai ai cũng lộ vẻ lo lắng, duy có Châu Bá Thông luôn luôn cười hềnh hệch. Họ rút vào rừng lên lỏi đi về hướng thành Tương Dương, đợi đêm tối hành sự.

Vào khoảng canh hai Hoàng Dung dẫn đầu, xâm nhập vào doanh trại địch quân.

Bảy người khinh công đến mức cao diệu, nhưng đoàn quân Mông Cổ trùng trùng điệp điệp, lớp đứng, lớp ngồi, họ chỉ đi được một đoạn đường dài là đồi tuần đoàn Mông Cổ trông thấy. Chúng thổi còi lên báo hiệu. Chiêng trống nổi vang dội trời đất.

Lập tức có ba trăm đội túc trực kéo ra vây hãm bảy người. Còn lính gác giữ doanh trại không thấy chúng náo loạn hay tỏ vẻ gì lo lắng cả.

Hoàng Dung cảkinh nói.

-Quân xâm lăng Mông Cổ lịnh nghiêm minh, hèn chi đánh đâu thắng đấy. Hôm nay chúng bủa vây thành, việc giải vây rất khó thập bội.

Châu Bá Thông nhanh tay chộp lấy hai thanh trường kiếm vung lên loáng loáng để mở lối tiền phong. Hoàng Dược Sư và Nhất đăng mỗi người đoạt một thanh trường thương đi đoạn hậu, còn bốn người phụ nữ đi đoạn giữa phụ lực mở lối.

Quân Mông cổ vì sợ tổn thương đến nhơn mã , nên chúng không bắn tên vào nhóm người này. Nếu chúng xạ tên thì Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng có ba đầu sáu tay chống trả cũng không nổi. Vả lại môn cung xạ là một môn đặc biệt nhứt của giống nòi Thành Cát Tư Hãn.

Bảy người càng đánh càng tiến dần. Nhưng trước mắt họ gươi giáo chơm chởm, khí giới như rừng khó mà tiến thêm được.

Châu Bá Thông, Hoàng Dược Sư liền vung chưởng đánh gãy mấy lớp trường thương. Nhưng lệnh của quân Mông cổ rất nghiêm, tên nầy ngã , tên khác thế, vững chắc như vách đá tường đồng, không một người thối bộ.

Châu Bá Thông bỗng nhiên cười to bảo:

-Hoàng lão tà! Chúng ta hãy liều ba cái mạng này để bảo vệ cho bốn con nhãi ranh khỏi nạn, thoát khỏi vòng vây.

Bà Anh Cô hừm một tiếng to, nói:

-Người già mà ăn nói hồ đồ hỗn độn Lão Thái bà là ta mà ngươi dám bảo nhãi ranh ư ? Ta thề sẽ chết nơi đây, bảo vệ cho ba cô gái mặt hoa da ngọc.

Hoàng Dung nghe hai người nói nghĩ thầm:

- Lão Ngoan Đồng trời chẳng sợ, đất chẳng kiêng, mà hôm nay nói toàn những lời bi quan, thật là một việc đại bất thường! Tình hình thật không kém phần nguy hiểm.

Trong khi bà đang suy nghĩ thế thì đoàn quân Mông Cổ càng lúc càng đông vây hãm không còn một kẽ hở. Tất cả đều đem hết sức bình sanh ra chống trả.

Hoàng Dung vừa đánh vừa đưa mắt quan sát, bà ngó thấy phía tây có hai phía doanh trại đen huyền. Bà nhớ lại lúc đi theo Thành cát Tư hãn chinh Tây; hễ doanh trại đen là kho chứa lương thực. Nên bà nảy ra một kế, hướng vào chỗ này đánh mạnh ra. Bà lừa một tên Mông cổ cầm đuốc, giật mạnh và phá vòng vây lần đến doanh trại nầy.

Hoàng Dung tiến đến gần trại, ném bó đuốc vào nóc trại trữ lương thực. Lửa cháy phừng phừng loang cả doanh trại. Phút chốc, ánh lửa như Trùng Dương cung thu nào!

Châu Bá Thông khoái trá nhảy múa tưng bừng. Kho lương thực trong phút chốc, ngọn lửa đã cháy ngất trời. Châu bá Thông khóai chí, quăng cây trường kiếm và giật mạnh mấy bó đuốc ném túi bụi. Ông rủi vô ý quăng nhầm yên ngựa làm cho con ngựa này nhẩy lên trên mình con ngựa kia la hí vang trời. Thực là cảnh hỗn loạn.

Thừa cơ hội, họ cướp được năm con người mã cưỡi lên mình xáp chiến với địch.

Quách Tỉnh ở trong thành Tương Dương nghe ngoài thành tiếng quân reo dậy đất, lật đật leo lên thành quan sát, nhìn thấy khói bốc ngất trời ngựa hí vang dậy, quân binh Mông cổ hỗn loạn, lật đật điểm hai ngàn binh mã , phái Võ Tu Văn, Võ Đôn Nho đem quân ra ngoài thành tiếp chiến.

Hai anh em họ võ ra khỏi thành độ chừng nửa dặm, nhìn thấy bẩy người cỡi năm con ngựa. Hoàng Dược Sư đỡ Lục Vô Song nằm ngay lưng ngựa, Nhất Đăng thì đỡ Châu Bá Thông phi ngựa tới gấp.

Hai anh em họ võ lật đật xua quân bày trận thế, đem cung nỏ xạ vào địch quân, bảo vệ Hoàng Dung từ ngoài thành chạy vào.

Quách Tỉnh đứng lên thành thấy nhạc phụ và hiền thê, Nhất đăng đại sư và Châu bá thông đều đến đông đủ, lòng mừng rối rít, khiến quân binh mở rộng cửa thành nghinh tiếp.

Khi đoàn người vào trong thoạt thấy Châu Bá Thông bị trúng phải ba mũi tên sau lưng, tóc bị thiêu trụi còn Lục Vô Song trúng phải một mũi giáo dài ngang bụng. Hai người thương tích quá nặng.

Hoàng Dung, Trình Anh và Anh Cô tuy bị trúng tên độc, nhưng không trúng vào yếu huyệt.

Riêng Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư không có vết thương nào. Hai ông là người lão thông y dược, khi xem xét vết thương của Lục Vô Song và Châu bá thông, cũng phải cau mày không nói ra lời.

Châu Bá Thông chua chát nói:

-Đoàn Hoàng Gia! Hoàng lão tà! Hai ông chẳng nên buồn cho tôi. Lão Ngoan đồng máu nóng tựa dầu sôi khó mà chết sớm được. Xin hai ông hãy để tâm lo lắng giúp đỡ và chữa trị cho được Lục Vô Song đi. Lão Đồng chẳng hệ gì đâu.

Hoàng Dược Sư nghe Châu Bá Thông nói mỉm cười, coi ông này hy hữu, ngó Nhất Đăng tỏ vẻ cầu xin và kính trọng. Trong cái kính trọng còn pha thêm sợ sệt, e dè.

Tuy Nhất Đăng xuất gia đầu Phật rất lâu, nhưng mỗi lần đến ông, lão Ngoan Đồng luôn luôn xưng hôlà Đ oàn Hoàng Gia.

Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư thấy lão Ngoan đồng đang bị thương tích hành hạ mà vẫn không mất nụ cười nên hai ông lấy làm cảm động bồi hồi.

Còn Lục Vô Song thì hôn mê bất tỉnh. Trình Anh ngồi kế bên giường nhìn thấy thương tích quá nặng, bất giác hai dòng lệ rơi lã ch ã.

Qua ngày thứ hai, mới vừa sáng tinh sương đã nghe ngoài thành tiếng còi thúc quân càng lúc càng dồn dập.

Quan trấn thủ là Lữ Văn Hoán đốc suất quân mã tăng cường cho bốn cửa thành.

Quách Tỉnh, Hoàng Dung lên mặt thành xem xét, thấy đoàn quân Mông cổ tràn ngập núi rừng, không đoán được bao nhiêu, từng làn sóng người dồn dập kéo tới bốn cửa thành.

Quách Tỉnh là tham mưu hành quân của Mông cổ một thời khá lâu, ông biết hết chiến lược công thành của chúng, nên ông ra lệnh phòng bị đầy đủ.

Địch quân dùng cung tên, hỏa pháo đá nhọn thang mây công thành, đều bị Tống quân loại ra hết.

Hai bên giao chiến với nhau từ sáng đến chiều. Tống quân dưới sự điều khiển của Quách Tỉnh đã sát hại trên hai ngàn nhơn mã của Mông cổ. Đoàn quân Mông, bị tổn thất quá nặng, nên vội vã lui ra xa đóng doanh trại để bàn mưu lược tấn công nữa.

Trong thành Tương Dương bây giờ gần hai mươi binh sĩ còn có mười muôn bá tánh trẻ già, người người đều biết, nếu thành bị phá vỡ ắt khó tránh được cái chết thêthảm. Do đó, họ phân từng đoàn, trai tráng thì gươm đao, dao mác ra trận, còn già nua thì khuân đá nấu cơm, giúp những người trai tráng giết giặc giữ thành.

Trong thành, ngoài thành, tiếng reo hò giết giặc vang dậy cả trời đất. Quách Tỉnh tay cầm trường kiếm, làm đốc tướng chỉ huy binh mã đứng lên mặt thàh. Hoàng Dung đi theo một bên giúp ý kiến.

Bình minh đã ló dạng, báo hiệu máu sắp đổ. Ngoài thành, đoàn kị binh Mông cổ phi ngựa như bay, trùng trùng điệp điệp.

Nhìn lại Quách Tỉnh thấy ông như một vị thiên thần, mặt mày nghiêm trang lẫm liệt, binh sĩ và dân chúng đều tỏ vẻ ái mộ vô cùng.

Quách Tỉnh, Hoàng Dung đứng lên trên thành đốc quân một lượt chẳng lìa nhau.

Hôm nay bị địch quân áp bức, hai người thề trước binh sĩ một bước chẳng lùi.

Hoàng Dung nghĩ thầm. Tỉnh ca kết nghĩa vợ chồng trên ba mươi năm dài đăng đẳng, bao nhiêu tâm cơ khí huyết đều do thành Tương Dương nung nấu. Bây giờ hai người hiệp sức chống địch, dầu máu đổ thịt rơi trên mặt thành cũng không tiếc.

Bà lại quay nhìn Quách Tỉnh thấy râu tóc ông bây giờ đã ngả mầu đen bạc, bất giác bà than:

-Nếu địch quân vây mãi như vầy, thì mỗi đêm Quách Tỉnh lại bạc trắng một phần râu tóc.

Hoàng Dung đang nghĩ ngợi miên man, bỗng nghe tiếng reo hò của quân Mông cổ:

-Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Tiếng reo hò từ xa tiếp đến gần như sóng của đầu gành, sấm rền vang dậy, vì cảmột doàn hai mươi muôn binh đều hô một loạt.

Lại thấy một cây cờ mao chín tua giơ lên cao. Kế đó là con ngựa ô chùy, yên vàng khớp bạc. Ngồi dưới ngựa là Hoàng Đế Mông cổ. Một cây lọng vàng cực to che phụ cảngười lẫn ngựa.

Quân Mông cổ thấy nhà vua đến, vội phân đội ngũ rất chỉnh tề tiếp giá, và kịch liệt. Chúng xông vào phía cửa Bắc.

Mỗi lần Hòang đế ngự giá thân chinh, thì Hoàng đế đi trước kế đó là quốc sư và các tướng theo sau.

Đó là một dịp để cho binh sĩ trổ tài đánh giặc, chúng hăng say tử chiến.

Quách Tỉnh đưa hai tay tới trước gọi đám thân binh và đám dân chúng hô to:

-Hỡi anh em! Hôm nay Hoàng đế Mông cổ xâm lăng đến đây cốt ý xem khí phách của người trai đại tống.

Ông vận hết nội lực phát ra âm thanh nên tiếng nói, truyền đi thật xa, khiến mỗi người nghe rõ mồn một.

Binh sĩ trên thành giao chiến hơ n nửa ngày, sức lực đã mệt, nay nghe tiếng hô hào của Quách Tỉnh, làm mọi người hăng chí trở lại.

Họ quyết liều thân tử chiến Nhìn ra ngoài thành, thấy thi thể của quân Mông cổ nằm chồng chất, càng lúc càng cao. Tốp binh sĩ hậu tập tràn lên như nước vỡ bờ, giầy đạp lên những thân đồng đội, cốt ý tiến về phía trước để công thành.

Hoàng đế Mông cổ lại truyền cho đám kị binh điều động thêm binh tới truớc để công thành.

Màn đêm bao phủ, quanh cảnh chiến trường càng thêm ảm đạm thê lương.

Giữa lúc giao tranh thì trong thành ngoài nội hàng muôn bó đuốc đốt lên sáng rực cả một góc trời.

Vị sứ quân thủ thành là Lữ văn Hóan nhìn thấy thanh thế của địch mạnh như cuồng phong, thác lũ, không có một sức mạnh nào cản nổi, khiến ông thối chí bi quan cực độ.

Gương mặt xám ngắt như mẩu đất. Ông bước đến bên Quách Tỉnh nói nhỏ:

-Quách, Quách đại hiệp! Theo tôi thì không thể nào giữ được thành Tương Dương, vậy chúng ta hãy mở cửa nam mà rút quân.

Quách Tỉnh cau mày, mặt giận hầm hầm nói như quát:

-Chớ nên thốt lời như thế! Tương dương còn là chúng ta còn. Tương dương mất là chúng ta phải thác.

Hoàng Dung biết Lữ Văn Hoán bị khủng hoảng tinh thần e lão hạ lịnh thâu quân thì khốn khổ cho mọi người, làm nản lòng binh sĩ, nên bà rút thanh kiếm đưa ngay trước mặt Lữ Văn Hoán, nói:

- Nếu ông còn nói thêm một lời thối quân, thì trước nhất tôi chặt ông ra làm ba để ngăn ngừa binh sĩ.

Lữ Văn Hoán có bốn tên cận vệ bên mình, thấy Hoàng Dung vô lễ với chủ tướng, lật đật bước lên trước mặt bà cản đỡ.

Hoàng Dung quét mạnh một đá làm cho bốn tên cận vệ xiểng niểng, té lăn xuống dưói thành.

Quách Tỉnh lại nói :

- Làm trai giúp nước, là lúc nước nhà điên đảo, chứ mỗi khi thấy giặc là chùn chân, chưa đánh đã đau, đâu xứng đáng là hàng nam tử tu mi ?

Ông dùng lời khiển trách chủ tướng, và cố ý khích động tinh thần binh sĩ, nên quân sĩ đều hăng hái đổ xôlên mặt thành hết sức chống địch.

Lại nghe quan xướng ngôn của quân Mông Cổ truyền lịnh :

- Tất cả quan binh sĩ tốt hãy nghe đây ! Hoàng thượng truyền chỉ, người nào lên được thành trước tiên thì người ấy được phong làm trấn thủ thành này.

Quân Mông Cổ nghe lời truyền, đua nhau trèo lên vách tường đông như kiến cỏ. Chúng bất kể sống chết, chạy theo những vị cầm cờ đỏ xung phong lên mặt thành.

Quách Tỉnh thấy thế của giặc dữ, liền rút ngay chiếc cung ra khỏi vai, đặt lên mũi tên răng sói, nhằm ngay tướng tiên phong mà xạ một phát mãnh liệt.

Mũi tên xuyên qua cổ họng, tên tướng này ngã xuống đất giãy đành đạch. Kế đó ông nhằm ngay tên quan xướng ngôn xạ một phát ngay mặt, làm cho con mắt của viên quan này bắn ra ngoài, té xuống ngựa chết tươi.

Bao nhiêu ý chí chiến đầu của địch quân bị chùn bước hai nguời tiên phong. Qua mấy phút sau, lại có một đoàn quân cảm tử leo lên thành lần nữa

Gia Luật Tề tay cầm trường thương, chạy đến bên Quách Tỉnh cúi đầu thưa :

- Nhạc phụ ! Nhạc mẫu ! Quân Mông Cổ chẳng chịu lùi, vậy nhạc phụ cho phép tiểu tế ra ngoài thành đánh với chúng một trận.

Quách Tỉnh vui vẻ bảo :

- Được ! Ngươi hãy lĩnh ba ngàn nhân mã ra thành khai chiến, nhưng nhớ đề phòng cẩn thận.

Gia Luật Tề liền chạy xuống thành, gióng trống tập binh. Chàng mang theo một ngàn tên Khất Cái và hai ngàn binh ra thành chiến đấu.

Cửa Bắc thành Tương Dương là một trong các cửa bị tấn công rất ngặt, quân Mông Cổ đang ồ ạt công thành, bỗng thấy cửa thành mở toang, hàng ngàn dũng sĩ trào ra như nước lũ. Đám binh sĩ nhà Tống còn khỏe khắn, lại hăng say, ùa nhau giết vô số địch quân. Đoàn quân Mông Cổ cuốn vó chạy dài. Bỗng nhiên trong doanh trại nổi lên ba tiếng pháo lệnh, hai đạo binh thiết mã ào ra như thác lũ, vây hãm Gia Luật Tề và ba ngàn binh sĩ vào giữa.

Đoàn quân của Gia Luật Tề cốt cán là một ngàn Khất Cái, mỗi người đều võ nghệ tinh thông, kiêu hùng thiện chiến. Tuy bị vây hãm nhưng họ vẫn không lộ vẻ gì lo sợ, càng đánh càng say.

Quách Tỉnh, Hoàng Dung và Lữ Văn Hoán ba người đứng trên thành quan sát thế trận, thấy ba ngàn quân của Gia Luật Tề đội ngũ chỉnh tề, tới lui có trật tự, lấy một mà cự với mười, nên ba người cổ võ hoan hô vang dậy. Mỗi cây đuốc, mỗi ngọn đao loang loáng tụa như con rắn khổng lồ, đang vưon mình giao chiến.

Viện binh Mông Cổ càng lúc càng đến tiếp viện, có trên hai muơi muôn binh thiết kỵ đã bao vây Gia Luật Tề và ba ngàn quân Tống dày kịt.

Quách Tỉnh thấy Gia Luật Tề dàn binh án ngữ, cản đội quân công thành của Mông Cổ, liền nảy ra một kế, sai hai anh em họ Võ đem hai ngàn tinh binh, phục kích ngay cửa, chỗ quân Mông Cổ tiến quân lên thành, và lén sai người đến truyền lệnh cho Gia Luật Tề đánh rốc về phía trước.

Trong khoảnh khắc, quân Mông Cổ đã tấn công lên đầu thành đến hơn ngàn tên.

Lữ Văn Hoán thấy quân địch đã lên đến đầu thành, đang hùng hổ giao chiến với quân Tống, làm cho mặt của Lữ Văn Hoán như gà cắt tiết, tay chân run lập cập.

Ông cất giọng run run :

- Quách đại hiệp ! Nếu để như vậy giặc vào thành thì sao ?

Quách Tỉnh làm ngơ không đáp, chỉ đứng yên như pho tượng gỗ. Lúc ông nhìn thấy trăm ngàn binh lính Mông Cổ đã đầy dẫy trên đầu thành, mới đưa cờ vàng ra phất mạnh ba cái, tức thì từ hang hốc nhô lên vô số binh gia tướng sĩ của anh em họ Võ, kế đó có Chu Tử Liễu cùng Võ Tam Thông xuất lãnh 10 đội quân hợp với binh sĩ của Võ Tu Văn và Võ Đôn Nho bao vây thật chặt cánh quân Mông Cổ.

Bấy giờ ngòai thành thì quân Tống bị bao vây, trên đầu thành thì năm ngàn quân Mông Cổ bị kẹt.

Ba cửa thành Đông, Tây, Nam gây ra một trận đánh vô cùng khốc liệt. Những tiếng rú phát ra hãi hùng.

Hoàng đế Mông Cổ từ trên lưng tuấn mã trên một gò cao chỉ huy quân sĩ công thành.

Đoàn giáp binh Mông Cổ người chết kẻ bị thương, chỉ còn năm mươi tên máu thấm giáp sắt, tựa hồ như họ mang hồng giáp.

Hoàng đế Mông Cổ là người Vạn thắng chí tôn, thân thể rất trọng, ông đưa mắt nhìn đám quân nhà đang gục không biết bao nhiêu, khiến cho ông nơm nớp lo sợ và nghĩ:

"Nghe người ta đồn quân Nam là phường vô dụng, kỳ thật họ không phải nhu nhược, mà anh dũng vô cùng.

Bấy giờ đêm đã canh ba, vầng trăng non vừa khuất núi, để lại vòm trời một giải ngân hà và muôn ngàn vì sao lấp lánh.

Trận đại chiến kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm, đôi bên đều tổn hại quá nhiều, kẻ chết, người bị thuơng.

Tống quân chiếm được phần địa lợi, quân xâm lăng Mông Cổ không vì nhiều người mà háo chiến lâu.

Bỗng nghe tiếng còi thâu quân, quân Mông Cổ vừa đánh vừa thối lui, thì hai đạo quân hậu tập của Tống triều kéo đến hợp lực với đội tiên phong đuổi quân Mông Cổ về hướng gò cao chỗ hoàng đế đang ở.

Hoàng đế Mông Cổ thấy khí thế quân Nam quá mạnh, vội hạlệnh bắn đạn vào đoàn quân này, để đạo quân của ông dễ bề rút lui. Hoàng đế Mông Cổ ngồi trên ngựa cao nhìn xuống thấy trong đội hậu tập của Tống quân có một vị trung niên cưỡi ngựa to, tay cầm trường thương tảxung hữu đột, oai phong lẫm liệt như Triệu Tử Long đánh trận Đương Dương, bao nhiêu mũi lang nha tiễn bắn vào người mà không một mũi nào phạm đuợc than thể.

Hoàng đế Mông Cổ lấy làm lạ, đưa tay vẫn một tên quân già đang đánh trống hỏi :

- Ngươi có biết tên dũng tướng kia là ai không ?

Tên lính già đầu bạc hoa râm nói :

- Khải tấu bệ hạ, người này là Quách Tỉnh ! Ngày trước đức Thái tổ Cao hoàng đế phong cho gã làm Kim đao phò mã , đã từng theo Thái tổ chinh tây, lập nhiều chiến công hiển hách cho nước ta.

Hoàng đế Mông Cổ kinh ngạc :

- A ! Chính là gã sao ? Thật là dũng tướng Tống triều, tiếng đồn chẳng sai.

Những tên dũng tướng thấy nhà vua khen ngợi địch quân, làm giảm oai phong của mình, trong lòng căm tức, miệng hét vang lừng, múa đao vun vút, tiến lên giao chiến với Quách Tỉnh.

Quách Tỉnh nghe tiếng hét như sấm, tiếp thấy có 4 tên võ tướng người cao vạm vỡ, cưỡi 4 con ngựa thật to, mỗi người cầm mâu dài, giáo nhọn, tiến đến !

Ông vội thúc ngựa nghênh địch. Bốn tên dũng tướng xông ra một lượt tấn công, đứa thì xà mâu đứa thì đao bén, thương dài, mỗi người cầm một binh khí khác nhau, tấn công Quách Tỉnh tới tấp.

Quách Tỉnh ung dung chống đỡ được 10 hiệp, bỗng hét to một tiếng như sấm nổ, làm cho hai tên dũng tướng thất kinh té xuống ngựa.

Còn hai tên cố chống cự với Quách Tỉnh, bị mỗi đứa một mũi tên vào bụng. Nhờ chúng mặc giáp sắt nên khỏi lủng bụng, nhưng sức mạnh nhu thiên thần của Quách Tỉnh chúng không sao chịu nổi, cả hai ôm bụng rơi xuống ngựa.

Mấy tên thân binh cận tướng của Mông Cổ thấy 4 người võ nghệ tuyệt luân còn phải bại dưới tay Quách Tỉnh, tuy có mặt Hoàng đế, nhưng không có một cận tướng nào dám cậy tài ra đấu với Quách Tỉnh nữa.

Còn những tên xạ thủ sững sờ quên cả xạ tiễn. Quách Tỉnh liền thúc ngựa tiến lên gò, thấy vô số thương, mâu bỏ trước mặt Hoàng đế. Vì chúng đã hoảng sợ liệng khí giới mà chạy.

Quách Tỉnh bị các chướng ngại cản đường nên phi ngựa đến bên Hoàng đế không được.

Bỗng con ngựa của ông hí lên một tiếng vì trúng phải hai mũi tên lút vào bụng, nó lảo đảo ngã quỵ.

Quách Tỉnh không nao núng, nhảy xuống ngựa nhắm ngay một tên kỵ binh đâm tới một thương. Trong khi bất ý, tên này chẳng biết chống trả làm sao chỉ kịp kêu "ái" một tiếng rồi té xuống ngựa.

Quách Tỉnh cướp được ngựa, cố giết thêm mười mấy tên cận tướng của Hoàng đế Mông Cổ.

Hoàng đế Mông Cổ nhìn thấy quân mình rất đông mà không cản trở được Quách Tỉnh, bất giác nhíu mày nói to :

- Hỡi ba quân tướng sĩ ! Ai giết được Quách Tỉnh sẽ được thưởng mười ngàn lạng vàng, thăng quan ba cấp !

Nghe tiếng trọng thưởng, đoàn thân binh Mông Cổ đổ xô đến như bầy ong vỡ tổ.

Quách Tỉnh thấy tình thế nguy cấp nên đưa trường thương đánh vẹt quân Mông Cổ, đoạn giương cung, đặt tên nhắm ngay Hoàng đế Mông Cổ bắn tới.

Mũi tên bay vun vút, hai tên thân binh hộ giá thấy thế, vội nhảy đến trước chắn ngay trước mặt Hoàng đế cản tên.

"Vút" một cái, mũi tên xuyên qua ngực tên thứ nhất. "Vút" một tiếng thứ hai xuyên qua bụng tên thứ hai. Quách Tỉnh buông hai mũi lang nha tiễn kế tiếp xâu hai tên binh thành một, đứng như cột chân trước mặt Hoàng đế.

Hoàng đế thấy việc nguy, mặt mày biến sắc, lật đật thúc ngựa chạy xuống gò

Bấy giờ trong đạo binh Mông Cổ hỗn loạn, tiếng giáo mác rộn lên, binh Tống đến tiếp viện. Đi đầu là tướng trung niên tay múa đôi thiết trường kiếm, chính là Tứ Thủy Ngư ẩn đến tiếp tay với Quách Tỉnh theo lời truyền của Hoàng Dung.

Đạo quân Mông Cổ thấy Hoàng đế rút lui, nên trong lòng rối loạn, trận thế mất cả hàng ngũ, chực chạy trốn.

Hoàng Dung trên thành thấy đội ngũ giặc rối loạn liền bắc loa gọi to :

- Gia gia phát binh ra trận, đã giết chết Hoàng đế Mông Cổ rồi !

Binh sĩ nhà Tống reo hò tở mở :

- Hoàng đế Mông Cổ chết rồi, anh em ơi !

Quân trong thành Tương Dương đã cầm cự với quân Mông Cổ rất lâu, ai nấy đều học đuợc ít nhiều Mông ngữ. Bấy giờ dùng tiếng "cô lô ca la" nói vang trời dậy đất

Binh Mông Cổ nghe tiếng la hét của binh Tống, muôn mắt đổ dồn về phía Hoàng đế, thấy đức vua họ ngồi sững trên lưng ngựa, vẻ mặt như kẻ đã chết rồi. Chúng không phân biệt thực hư mà chỉ đinh ninh vua đã bỏ mạng, làm cho tất cả bọn binh sĩ Mông Cổ mất hết tinh thần chiến đấu. Không ai bảo ai, chúng ồ ạt thối lui ra sau.

Hoàng Dung hạ lệnh đuổi theo, mở toang cửa Bắc xuất ba ngàn tinh binh theo truy nã .

Ba ngàn quân của Gia Luật Tề thừa thế đánh giết không biết bao nhiêu quân Mông Cổ

Quân Mông Cổ rất thạo về chiến đấu, tuy rút lui nhưng cũng để lại mấy ngàn quân thiện chiến cản hậu. Vì thế mà Tống quân truy nã không được.

Hoàng Dung và Gia Luật Tề rút quân vào thành, kiểm điểm lại số tử thi của địch để lại trên năm ngàn ngưòi.

Hoàng Dung cho người nhặt xác đem chôn. Bốn cánh quân bao vây ở bốn cửa thành đều rút sạch. Trời rạng sáng, mọi người nhìn lại cảnh chiến trường chỉ thấy thịt rơi máu chảy, gươm dao kiếm kích còn đầy dẫy trên chiến địa rải rác trong vòng mười dặm.

Khi kiểm điểm tổn thất, quân Mông Cổ thiệt hại từ ba muôn, thành Tương Dương tổn thất một muôn ba ngàn binh sĩ và dân chúng.

Từ khi đạo quân Mông Cổ cất bước xâm lăng đến nay ít khi bị thảm bại như vậy.

Hoàng đế Mông Cổ sau khi rút quân khỏi thành Tương Dương 40 dặm mới an doanh hạ trại, nhớ lại chuyện vừa qua làm ông nửa say nửa tỉnh, ngồi thất thần trên án thư .

Hoàng đệ Hốt Tất Liệt liền đi đến ngự dinh hỏi thăm tình hình chiến sự. Hoàng đế phán :

- Ngự đệ ! Thủa trước phụ hoàng khen tặng Quách Tỉnh là anh hùng, hôm nay qủa nhân mới thấy tận mắt, thật là danh bất hư truyền.

Nguyên vua Mông Cổ và hoàng đệ Hốt Tất Liệt là con của Đà Lôi ! Lúc Quách Tỉnh ở xứ này đã kết nghĩa an đáp với Đà Lôi, 2 người đối đãi với nhau rất thân. Bấy giờ vì nhiệm vụ mà thủ thành chống địch, trên chiến trường không thể nhận mặt nhau.

Hốt Tất Liệt gật đầu không đáp, vẫy tay gọi tên thị vệ đến bảo :

- Ngươi đi triệu mời Tuyên Quốc Sư

* * *

Mặc dầu thành Tương Dương thắng trận, đẩy lui được kẻ địch, nhưng nhà nhà trong thành đều nghe tiếng khóc bi ai. Mẹ khóc con ! Vợ khóc chồng !

Quách Tỉnh, Hoàng Dung không kịp cởi áo giáp nghỉ ngơi đã lo việc đi tuần soát khắp thành, ủy lạo các binh sĩ. Vợ chồng Quách Tỉnh đến thăm Châu- bá- Thông và Lục Vô Song xem thương tích có thuyên giảm chút nào không. Khi thấy cả hai đều bình phục, vợ chồng Quách Tỉnh mới ra vườn hoa trở về phủ.

Buổi sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc, thì Quách Tỉnh và Lữ Văn Hoán đang ngồi trong phủ đàm đạo mưu lược diệt trừ quân xâm lược. Bỗng một tên thám báo chạy vào nói :

- Có một đạo binh Mông Cổ trên muôn người từ hướng Bắc đến

Lữ Văn Hoán kinh hãi hỏi :

- Đạo quân Mông Cổ đã rút xa rồi kia mà ?

Quách Tỉnh xốc kiếm đứng dậy, lên mặt thành quan sát. Thấy đạo quân này cách thành khoảng 3 dặm, quân số uớc dư ba môn, đứng bày thế trận, nhưng không tấn công thành.

Trong vài giờ sau, chúng đã đốn cây cất một cái đài gỗ cao trên 10 trượng.

Bấy giờ trên mặt thành có cả Nhất-đăng đại sư , Hoàng Dược Sư , Chu Tử Liễu và Hoàng Dung đứng quan sát địch tình.

Khi thấy chúng dựng lên một cái đài cao, mọi người đều không hiểu gì cả.

Chu Tử Liễu nói :

- Quân man rợ, không biết chúng cất ngôi đài cao này để làm gì? Chẳng lẽ cất lên để quan sát tình hình trong thành. Điều này rất vô lý. Nếu chúng muốn vậy,đâu có cất xa đến thế ? Vả lại, quân ta có thể bắn tên lửa đốt đi thì xây cất làm chi cho tốn kém ?

Hoàng Dung cau mày nghĩ không ra lẽ. Không rõ dụng ý của địch quân làm gì.

Khi đài vừa dựng lên xong, thì thấy trên hàng trăm quân Mông Cổ áp tải đến đây cả một đàn ngựa cả trăm con. Mỗi con ngựa có chở trên lưng củi, chà, rơm, cỏ khô. Chúng chất đầy quanh đài. Mọi người thấy thế lấy làm lạ.

Chu Tử Liễu lại nói :

- Không lẽ bọn man di này lấy thành không được cất đài để tự thiêu ? Hay là chúng muốn bày trò quỷ mị để ếm đối chúng ta ?

Hoàng Dung lắc đầu bảo :

- Chẳng bao giờ có chuyện tà quái ấy. Tôi ở tại đất Mông Cổ rất lâu, nhưng không thấy chúng làm những chuyện dị đoan.

Trong lúc mọi người nói chuyện, thì thấy cả ngàn binh sĩ, kẻ đào người cuốc xung quanh đài thành một cái hào, bùn đất vét lên để dựa bờ hào thành bức tường thành nho nhỏ.

Hoàng Dung cả giận nói :

- Đất Tương Dương là quê hương của Gia Cát Võ Hầu đời Tam Quốc, quân rợ Mông Cổ vô lễ, trước cửa vị đại hiền mà dám bày trò khuấy rối, không coi người Tống ra sao cả.

Bấy giờ bỗng có tiếng còi thổi ba hiệp, trống to trống nhỏ đánh "bồng bồng". Hai đạo quân chia hai, mỗi đạo trấn một bên . Trước mặt đài một muôn, sau đài một muôn, tất cả bốn muôn binh vây phủ ngôi đài.

Mỗi đạo dùng mỗi khí giới khác nhau. Chúng đều cầm trường thương, giáo nhọn, siêu đao, cung tên ná lẫy, tựa hồ như có một nhân vật tối quan trọng ở bên trong.

Lại nghe một hồi còi lệnh, tiếng trống ngưng bặt, mọi người đứng yên phăng phắc.

Từ ngoài xa có hai người kỵ mã đi tới mặt đài. Cả hai đều nhảy xuống ngựa và đi tuốt lên đài. Vì cách quá xa, mọi người không nhận rõ mặt mũi hai người này, nhưng cũng rõ một người đàn ông và một thiếu nữ.

Mọi người càng ngạc nhiên không đoán đuợc sự tình. Hoàng Dung nhìn trân trối, đoạn kêu lên một tiếng "a", mặt mày bà xám lại, đầu óc choáng váng muốn té ngã . May nhờ mọi người ra tay đỡ kịp, nhưng bà ngất xỉu rất lâu.

Mọi người lo cấp cứu cho bà tỉnh dậy, hỏi dồn dập :

- Chuyện gì thế ? Tại sao thế ?

Hoàng Dung mặt mày nhợt nhạt, nghẹn ngào nói :

- Người thiếu nữ kia chính là con ta Tường nhi ! Mọi người cả kinh đưa mắt nhìn nhau.

Chu Tử Liễu lại hỏi :

- Quách phu nhân, bà có nhận đúng không ?

Hoàng Dung nghẹn ngào nói :

- Tuy ta nhìn không rõ mặt mày nó, nhưng thấy tay áo và vạt áo rách nát, thì chính là nó chẳng sai. Thật quân Mông Cổ dã man không lường đuợc. Chúng đánh không thắng nổi, mới bày ra gian kế bắt con ta làm vật hy sinh. Thật là quân xâm lược bạo tàn.

Hoàng Dược Sư , Chu Tử Liễu nghe Hoàng Dung nói họ đã hiểu cái độc kế thế nào rồi. Cả hai mặt mày biến sắc.

Quách Tỉnh ngây người không hiểu gì cả, nên hỏi :

- Tường nhi à ? Vô lý. Tường nhi đi đâu lên đài này chứ ? Còn quân Mông Cổ bày kế gì?

Hoàng Dung đứng thẳng người lên và nói :

- Tỉnh ca ca ! Tường nhi rủi lọt vào tay quân giặc nên chúng đem nó lên đài mà đốt, buộc ông phải hàng phục, nếu ông không hàng phục thì cha con vĩnh viễn lìa xa, tâm trí mờ tối, đâu có ý chí mưu lược để chống lại chúng ?

Quách Tỉnh ca ûgiận la lớn :

- Dung nhi ! Ngươi ở đâu mà lại để Tường nhi đi lọt vào tay quân giặc ?

Hoàng Dung trả lời :

- Mấy ngày qua tình thế rất ngặt nghèo, tôi sợ ông bối rối nên không dám nói cho ông nghe.

Hoàng Dung liền kể lại đầu đuôi Quách Tường bị Kim Luân Pháp Vương bắt tại Tuyệt Tình Cốc.

Quách Tỉnh nghe Dương- Qua còn ở dưới hang sâu tại Tuyệt Tình Cốc, lật đật gạn hỏi đầu đuôi tỏ ra lo lắng cho Dương- Qua còn hơn cả Quách Tường.

Võ Tam Thông, Tứ Thủy Ngư ẩn, Chu Tử Liễu ba người này gật gù khen thầm :

- Quách đại hiệp thấy con gái sắp bị thảm tử, hoàn cảnh nguy cấp hiểm nghèo, mà không nghĩ tới việc giải cứu, lại lo sự mất còn của Dương- Qua, thật là người nhân hiệp, ít ai bì kịp.

Quách Tỉnh nghe Hoàng Dung nói xong, ông nhíu mày :

- Dung nhi ! Em làm như thế là sai rồi. Qua nhi sống chết chưa biết, sao em nỡ bỏ đi ?

Quách Tỉnh là người rất kính yêu vợ, không khi nào ông nặng lời với vợ trước đám đông, hôm nay ông lỡ lời trách cứ khiến cho Hoàng Dung sượng mặt.

Nhất-đăng đại sư lên tiếng bào chữa cho Hoàng Dung :

- Quách phu nhân đã lặn xuống bờ hồ, tuyết đóng đầy mặt, lục soát khắp nơi mà không gặp Dương- Qua. Lúc Quách tiểu cônương lọt vào tay tên ác tăng, chính lão vầy đoàn với Quách phu nhân đi tìm, mà chẳng gặp. Quách đại hiệp không nên trách cứ Quách phu nhân.

Nghe Nhất-đăng đại sư nói thế, Quách Tỉnh không trách vợ nữa, thở dài nói :

- Chuyện của Quách Tường không can hệ bằ ng đại sự quốc gia. Tôi muốn để quân Mông Cổ thiêu nó thành tro cho rồi.

Hoàng Dung không nói một lời, lặng lẽ bước xuống đài, chọn một con tuấn mã phi nước đại ra ngoài cửa Bắc.

Mọi người nghe Hoàng Dung đơn thân độc m ra khỏi thành, ai cũng lo lắng.

Nhất-đăng đại sư , Hoàng Dược Sư , Quách Tỉnh, Chu Tử Liễu lật đật lên ngựa đuổi theo.

Khi họ chạy đến gần đài cao này thì nhìn thấy trên đài có hai người, một lão hòa thượng mặc áo bào vàng, và một cô bé gái còn trẻ, hai tay bị cột vào giữa đài. Đó chính là Kim Luân Pháp Vương và Quách Tường.

Quách Tỉnh tuy cho việc Quách Tường là nhỏ, nhưng phụ tử tình thâm, làm cho ông không khỏi chua xót n o nề. Ông vội vã gọi to :

- Tường nhi ! Có cha mẹ đến cứu con đây ! Nội lực của Quách Tỉnh quá sung mãn, nên tiếng nói của ông vang đi ở bên đài nghe rất rõ.

Quách Tường bị trói tại đây, vì bị tia nắng chiếu vào mặt làm lòa cả mắt. Khi nghe tiếng cha gọi, nàng vội kêu to :

- Cha mẹ ! Mau đến đây ! Cha mẹ !

Nàng bị trói trên cột trụ cao, nói vọng xuống rất nhỏ, Quách Tỉnh và Hoàng Dung không nghe được tí nào.

Kim Luân Pháp Vương đắc chí cười to :

- Quách đại hiệp ! Việc phóng thích lệnh ái rất dễ ! Không biết đại hiệp nghĩ sao ?

Quách Tỉnh càng nghĩ ngợi càng buồn ! Đứng vào hoàn cảnh này thật khó xử. Nghe Pháp Vương nói, ông tức giận vô cùng, hét :

- Pháp Vương ! Ngươi muốn đưa ra vấn đề gì, hãy nói thẳng ra !

Kim Luân Pháp Vương cười ngất, nói :

- Nếu ngươi vị tình phụ tử, muốn đem lệnh ái về thì khó khăn gì đâu, ngươi hãy lên đài trói tay vào cột trụ, một người đổi một người.

Pháp Vương biết ý Quách Tỉnh là người cang trường đại nghĩa, đâu vì đứa con nhỏ mà bỏ bá tánh trong thành Tương Dương. Do đó Pháp Vương mới dùng lời nói khích, đánh vào lòng cương dũng của Quách Tỉnh để Quách Tỉnh lọt vào mưu kế của mình.

Không ngờ Quách Tỉnh chẳng mắc mưu của lão, từ tốn trả lời :

- Không thể được. Rợ Mông ! Nếu chúng bay không sợ ta thì đâu có đem con gái ta ra để dọa nạt.

Pháp Vương cười lanh lảnh nói :

- Người ta nói Quách đại hiệp võ công trác tuyệt, kiêu dũng khôn lường, ta ngờ đâu lại là một kẻ tham sống sợ chế, nỡ bỏ con mình.

Dù cho Pháp Vương có nói khích đến mức nào, Quách Tỉnh cũng cố nhịn. Sứ mạng bảo vệ thành Tương Dương là trọng hơn, cho nên Quách Tỉnh chỉ im lặng không đáp.

Mấy lời nói xúc phạm đến danh dự của Quách Tỉnh làm cho Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu nổi giận, kẻ song trùy, người song thương vùn vụt phi ngựa lên trước.

Quân Mông Cổ đã dàn sẵ n cung nỏi chỉ chờ hai người đến bên đài thì hàng ngàn mũi lang nha tiễn bắn ra.

Nhất-đăng đại sư thấy tình hình nguy ngập, sợ mấy người này làm hỗn mà hư việc, vội vã nhảy xuống ngựa, chạy đến trước đầu ngựa của hai người cản lại.

Ông giơ tay áo phất mạnh, hai con ngựa bị sức mạnh của luồng kình phong dừng hẳn lại. Ông quát to :

- Chúng bay hãy trở về ngay !

Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu sẵn mang trong người bầu nhiệt huyết, họ cũng biết đến đây là không còn mạng trở về. Khi thấy sư phụ bước đến cản, hai người chẳng dám trái lời, quay ngựa trở lại.

Quan binh Mông Cổ thấy lão hòa thượng chạy đuổi kịp đôi tuấn mã , không ngớt lời ca tụng và thán phục vô cùng.

Pháp Vương nói :

- Quách đại hiệp ! Lệnh ái thông minh lanh lợi, lão rất lấy làm hoan hỉ. Thâm ý của lão muốn thu nói làm đệ tử để truyền hết võ học của mình. Nhưng thánh chỉ đã hạ lệnh nếu ta không quy hàng được Tống quân thì cho đốt lửa thiêu đài. Không phải một mình ngươi thống khổ, mà lão tăng cũng phiền muộn vô cùng.

Quách Tỉnh xì một tiếng, đưa mắt nhìn bốn bên, thấy trên mười tên dũng sĩ tay cầm đuốc đỏ rực, chỉ chờ lệnh Pháp Vương là châm vào cỏ khô. Dưới đài, bốn muôn binh mã đã dàn trận.

Quách Tỉnh đau buồn nghĩ đến khi ngọn lửa bốc cháy, biết liệu cách nào để cứu được Quách Tường ?

102. CÁCH BIỆT TRÙNG PHÙNG

Quách Tỉnh ngước lên thấy Quách Tường mặt mày tiều tụy, chua xót vô cùng. Ông đã ở trong các doanh trại quân Mông Cổ rất lâu. Chính ông đã tường tận những cảnh tàn nhẫn của chúng gây ra môt khi phá vỡ thành địch. Chúng giết sạch đàn bà con trẻ rất tàn khốc.

Nếu chúng phóng hỏa đốt cháy Quách Tường, bất quá như chúng giết một con kiến chẳng gớm tay. Ông nghiến răng trợn mắt, nói to với Quách Tường :

- Tường nhi ! Cha mẹ một lòng vì nước, thân sống chết chẳng cần ! Con là con dân nước Đại Tống, vì đại nghĩa mà bị khổ hình ! Con hãy can đảm lên, đừng sợ hãi. Nếu cha mẹ không cứu được con ngày hôm nay thì ngày nào đó cha mẹ cũng sẽ giết tên ác tăng để rửa hận cho con ! Hãy can đảm lên Tường Nhi! Nhớ lời cha dặn !

Quách Tường nước mắt chảy ròng ròng, gật đầu đáp lại :

- Cha mẹ hãy yên lòng mà lo việc nước ! Thân con dù chết cũng không sao !

Quách Tỉnh vui vẻ hô to :

- Như thế mới xứng đáng là con ta !

Nói xong ông lắp cung tên, nhắm ngay ba tên quân cầm đuốc phía dưới đài. Ba mũi tên răng sói vun vút cắm mạnh vào bụng chúng, làm cả ba ngã lăn xuống đất.

Quách Tỉnh từng nổi danh xứ Mông Cổ về tài bách bộ xuyên dương, lại thêm 10 năm khổ luyện, tài xạ thủ của ông nhờ đó vượt đến mức siêu phàm.

Sau khi thấy ba tên quân té nhào, chúng binh Mông Cổ đổ ào tới vây phủ Quách Tỉnh và bắn ra muôn ngàn mũi tên độc.

Quách Tỉnh vội quay ngựa cùng Hoàng Dung chạy về thành. Hoàng Dung vừa về đến thành đã vội lên mặt thành trông về hướng đài cao, lòng như kim châm xát muối.

Hoàng dược Sư thấy vậy gọi bà vào dinh hỏi :

- Theo ta nghĩ, Dung nhi, con hãy bày ra trận Nhị thập bát tú mà đấu với chúng một phen.

Hoàng Dung nói lẩm nhẩm :

- Dù thắng chúng thì cái đài cao chúng cũng thiêu ra tro, chẳng ích lợi gì!

Quách Tỉnh nói :

- Theo tôi nghĩ, chúng ta hãy dốc toàn lực mà giết địch. Tánh mạng của Tường nhi phó mặc cho trời đất. Nhạc phụ ! Xin nhạc phụ cho biết phương pháp bày cách lập trận này.

Hoàng dược Sư cười lớn nói :

- Nhị thập bát tú trận, ta phỏng theo Bắc đẩu trận của phái Toàn chân mà biến hóa cho lợi hại hơ n. Ta đã khổ luyện và tập dượt hơn mười mấy năm, muốn đem nhị thập bát tú trận này mà đấu với các đạo sĩ phái Toàn Chân một phen, nhưng chưa có dịp.

Nhất Đăng đại sư nói :

- Hoàng lão tà ! Thuật kỳ môn ngũ hành là một môn pháp vô song trong thiên hạ, dẫu Vương Trùng Dương còn sống cũng khó lòng thắng nổi ! Vả lại Nhị Thập Bát tú trận là một môn pháp ngũ hành rất kỳ ảo.

Hoàng dược Sư trầm ngâm giây lát rồi nói :

- Theo thế trận của tôi, chỉ dùng muời người võ lâm cao thủ cũng có thể chiến thắng một ngàn binh địch. Cứ thế mà biến hóa ra hai mươi tám thế. Nhưng tiếc thay lại thiếu một người và một cặp chim Điêu.

Nhất Đăng đại sư hỏi :

- Xin cho biết tường tận !

Hoàng dược Sư đáp :

- Nếu cặp chim điêu không bị tên ác tăng giết chết, ta sẽ thừa lúc trận pháp đang giao động, lén thả cặp song điêu đến đài cao mà cứu Quách Tường thì hay lắm. Vả lại trận Nhị thập Bát tú lấy theo sanh khắc của ngũ hành mà chế ra, phải có năm vị cao thủ làm chủ trận.

Theo đó bốn vị trấn ngôi Đông, Nam, Bắc và Trung ương, nhưng lại thiếu hướng Tây !

Tây Độc Âu Dương Phong đã chết, còn Châu- bá- Thông lại bị thương, không có ai kế vị. Nếu như có Dương Qua ở đây thì tốt quá. Gã này rất tinh linh cổ quái, võ công không kém gì Âu Dương Phong mà bây giờ gã đi mất hút, biết đi đâu mà tìm ? Người chủ tướng giữ hướng Tây phải là một tay võ lâm cao diêu, vì phải phí rất nhiều nội lực công phu.

Quách Tỉnh hướng mặt về phía Bắc, nói lẩm bẩm một mình :

- Qua nhi ! Không biết sống chết lẽ nào, làm ta vẫn nhớ nhung mến tiếc.

* * *

Nhắc lại lúc Quách Tường gặp Dương Qua tại hang Tuyệt Tình Cốc, mà Hoàng Dung đi tìm mãi không gặp. Tại sao chỉ có một hôm mà tông tích Dương Qua mất hút như thế ?

Nguyên ngày ấy Dương Qua biết rằng mình không thể nào gặp mặt Tiểu Long nữ nữa, nên tung mình nhảy xuống hang sâu. Chàng đinh ninh thế nào cũng tan xương nát thịt, bỗng nhiên lại lọt xuống một cái đầm nước.

Vì từ trên cao rơi xuống, nhưng bị sức nước ép quá mạnh, đẩy vọt chàng lên mặt nước.

Ngay lúc đó, Quách Tường tại rơi xuống hồ. Bây giờ, Dương Qua không kịp nghĩ ngợi gì nữa, chỉ chờ Quách Tường nổi lên mặt nước là cứu Quách Tường lên bờ.

Sau khi nàng hồi tỉnh, Dương Qua hỏi :

- Tiểu muội ! Tại sao tiểu muội té xuống đây ?

Quách Tường đáp nhanh không nghĩ ngợi :

- Tôi thấy đại ca nhảy xuống đây thì tôi cũng vội nhảy xuống đây.

Dương Qua lắc đầu :

- Quá sức ! Quá sức ! Ngươi không sợ chết sao ?

Quách Tường đáp:

- Đại ca không sợ chết, thì tôi há lại sợ hay sao ?

Dương Qua rung động nhủ thầm :

- Cô bé mới ngần này tuổi đầu mà chân tình đến thế ?

Nghĩ đến đây, Dương Qua nghe chân tay run rẩy vì cảm xúc bồi hồi. Quách Tường lấy ra một cây trâm vàng giao cho Dương Qua và nói :

- Đại ca ! Lúc trước tôi đưa đại ca ba cây trâm vàng, giao mỗi cây trâm vàng xin đại ca đáp ứng một chuyện, thì đại ca đã làm tròn. Hôm nay tiểu muội giao cho đại ca cây trâm vàng thứ ba để thỉnh cầu một điều tâm nguyện là Nếu Long tỉ tỉ không bằng lòng gặp lại đại ca, thì muôn ngàn lần đại ca nghe lời tiểu muội mà không được đi tìm cái chết nữaÕ

Dương Qua đưa mắt nhìn cây trâm vàng trong lòng bàn tay cô bé, đoạn nói :

- Ngươi ở Tương Dương đến đây chỉ nói với ta có bao nhiêu đó thôi ư ?

Quách Tường mừng rỡ nói tiếp :

- Chỉ có bấy nhiêu thôi ! Kẻ trượng phu lời nói ắt trọng, tín nghĩa ắt giữ. Nay đại ca hữa với tiểu muội là sẽ bằng lòng đi.

Dương Qua thở một hơ i dài chua chát. Chàng nhớ lại đoạn đời mình vào sinh ra tử, cái chết đối với chàng không quan trọng, nhưng muốn làm cho chết cũng là chuyện khó khăn.

Chàng nhìn lại Quách Tường, thấy quần áo ướt loi ngoi, hàm răng đánh vào nhau cầm cập, nhưng vẻ mặt lộ ra tia mừng hớn hở.

Chàng thấy vậy vội đi tìm một ít que củi khô, nhưng không có lửa lấy gì mà nhóm lên để sưởi ?

Chàng lại nghĩ hai người đều ướt hết, biết liệu làm sao, do đó Dương Qua mới nói :

- Tiểu muội ! Ngươi hãy vận lại phần nội công, kẻo hơ i lạnh xâm nhập vào ngũ tạng mà sinh bệnh tật.

Quách Tường nói :

- Vậy thì đại ca cũng luyện nữa chứ ?

Dương Qua gật đầu, ngồi kế bên Quách Tường điều hòa chân khí. Dương Qua lúc nhỏ đã ngồi trên giường Hàn Ngọc luyện tập nội công, cho nên khí lạnh không thể xâm nhập vào tim. Chàng đưa tay áp nhẹ lên lưng Quách Tường ngay Ngọc đường huyệt. Một luồng khí êm ấm chạy dần vào cơ thể của Quách Tường, chẳng mấy chốc Quách Tường nghe khoan khoái trở lại.

Dương Qua đợi Quách Tường hơi thở điều hòa, tinh thần khỏe lại, chàng mới bắt đầu hỏi Quách Tường đến Tuyệt Tình Cốc có chuyện gì?

Quách Tường nhất nhất kể cho Dương Qua nghe. Sau khi nghe xong, Dương Qua giận nói :

- Kim Luân Pháp Vương thật là đứa quái ác ! Hãy để ta lên đập cho nó một trận cho hết cái thói mục hạvônhân.

Dương Qua vừa dứt lời, bỗng thấy trên không có một con bạch điêu rất to rơi xuống mặt hồ. Nó trồi lên hụp xuống chứng tỏ con Bạch điêu này bị thương nặng.

Quách Tường thấy thế kêu to :

_ Chính là con Bạch điêu ở nhà muội ! Bỗng con bạch điêu trống từ trên bay xuống, và chở con Bạch điêu mái bay lên miệng hang

Trong phút chốc con bạch điêu lại bay xuống một lần thứ hai nữa. Dương Qua vội bế Quách Tường đưa lên lưng bạch điêu. Chàng tưởng bạch điêu lại trở xuống lần nữa để đưa chàng lên, nào giờ mải mê chờ đợi mà bạch điêu vắng bóng không trở lại.

Chàng có biết đâu con bạch điêu trống này đã vì tình mà chết. Dương Qua thất vọng thẫn thờ nhìn xem phong cảnh dưới hang, bốn bề vách đá chập chùng, có một cây đại thọ rất lớn.

Trên cành cây có mười tổ ong mật, mỗi tổ to hơn những tổ ong thường gấp bội.

Chàng quan sát con ong thấy hình dáng hơi giống loài Ngọc Phong mà Tiểu Long nữ nuôi ở Cổ Mộ.

Dương Qua chợt nghĩ ra điều gì, kêu lên một tiếng và đứng sững sờ như người mất trí.

Trong khoảng khắc, chàng bước đến gần ổ, trông kỹ lại một lần nữa, chỉ thấy mấy tổ ong này kết đóng rất vụng về, không phải do loài ong làm ra.

Theo ý chàng nhận xét thì có lẽ do bàn tay người nào đó kiến tạo, vì phía dưới bầu vật có tô lên một lớp đất bùn thật dày.

Ôi ! Đúng là bàn tay của Tiểu Long nữ. Dương Qua cúi đầu nghĩ ngợi đoạn thầm nói :

- Chắc là Long nhi năm xưa cũng lâm vào hoàn cảnh như mình hiện tại, rồi nàng chọn chỗ này làm chỗ cố cư .

Chàng đưa mắt nhìn xem, thấy vách đá chập chùng. Ngước mắt nhìn lên trời, thấy trời cao thăm thẳm, vòm trời như gom nhỏ lại, làm chàng sực nhớ đến câu châm ngôn ếch ngồi đáy giếng thấy lao năm trờiÕ.

Bất giác chàng mỉm cười một mình. Qua vài phút sau, Dương Qua đứng dậy bẻ một cành cây lớn đi gõ chung quanh vách đá, hầu tìm xem có gì khác lạ nữa không.

Chỉ thấy những vỏ cây bị người ta phạt thật nhiều cũng như những trái bị nguời ta chẻ lấy hột hết cả.

Dương Qua nhất định là có người trú ngụ nơi đây làm chàng nửa mừng nửa lo. Chàng run lên vì hồi hộp.

Chàng nhất định là có Tiểu Long nữc trú tại đây, ròng r ã16 năm trời, tấm thân ngọc ngà phải ẩn thân chốn này không người biết tới.

Dương Qua không tin có quỷ mị, nhưng gặp tình thế này chàng cũng phải cố bám víu vào sự cao cả thiêng liêng. Sau khi chàng quỳ xuống đất, chắp hai tay trước ngực khấn thầm :

- Cầu ơn trời phật phù hộ cho con là Dương Qua sớm gặp lại được Tiểu Long nữ.

Chàng khấn vái một hồi, đoạn đưa mắt tìm kiếm khắp nơ i, cũng không thấy tông tích của Tiểu Long nữ.

Sau rốt, chàng đi gần lại gốc cây đại thọ, ngồi xuống nghĩ thầm :

- Nếu Tiểu Long nữcó chết tại đây ắt nắm xương tàn cũng phải còn lưu lại, trừ khi hài cốt của nàng đã chìm xuống đáy hồ.

Nghĩ đến đây, chàng đứng dậy cất tiếng hét to :

- Ta nhầm rồi ! Ta nhầm rồi ! Nước chảy đá mòn ! Có lẽ xương cốt của nàng đã chìm sâu dưới đáy hồ, nếu nàng đã chết.

Dương Qua nhảy xuống hồ và cố lặn xuống đáy sâu. Càng lặn xuống sức lạnh càng tăng, tựa hồ như tuyết đóng.

Tuy Dương Qua không sợ lạnh, nhưng xuống càng sâu, sức nước ép càng mạnh, nếu chàng không giỏi nội công có thể bị bể ngực, máu trào ra chết tức khắc.

Chàng cố gắng lặn thêm vài trượng nữa, vẫn không xuống được đáy hồ. Bấy giờ chàng ngồi trên mặt hồ, tìm một hòn đá thật to, ôm chặt vào lòng nhảy xuống hồ một lần nữa.

Lần này lại khác hơn lần trước ! Khi nghe một luồng nước chảy mạnh, đưa chàng đi như chong chóng, tay chân không thể nào kềm hãm được nữa. Giữa lúc đó, Dương Qua nghe sóng vỗ vào gành đá. Chàng vội vàng bỏ phiến đá trồi lên trên mặt nước. Chàng thấy ánh sáng nhưng không thấy mặt trời. Một mùi hương trăm hoa bay ra tỏa ra nực mũi, thực là cảnh trí thơ mộng thần tiên.

Dương Qua vội bước lên bờ, đưa mắt quan sát thấy nơ i đây trồng đủ các loại hoa, cỏ xanh mượt, như thể hoa viên của kẻ hào phú. Nhưng lại vắng tanh không một bóng người hay tiếng chim kêu.

Chàng nửa mừng nửa sợ, vội bước lần đến chừng 10 trượng, bỗng thấy vài gian nhà cỏ thấp le te.

Dương Qua liền đứng lại hít một luồng chân khí vào, đoạn sửa soạn như khách thừa lương, bước thật chậm chạp đến trước mấy ngôi nhà này.

Chàng lại suy nghĩ :

- Ta sẽ vào nhà hỏi thăm tin tức của Long nữ, may ra họ biết nàng hạlạc nơi nào.

Chàng đi đến sân, ngần ngại không dám bước tới nữa. Chẳng phải Dương Qua sợ người ta không tiếp mình, mà chỉ sợ hy vọng của mình tan nh bọt nước khi nghe chủ nhà trả lời.

Do đó Dương Qua bước nhẹ qua chái nhà sau, nghiêng tai nghe ngóng. Bốn bề vắng lặng, không một tiếng động nhỏ, chỉ nghe tiếng vo ve của đàn ong đang hút mật.

Dương Qua đánh bạo hỏi vào :

- Dương mỗ mạo muội đến đây, xin ra mắt gia chủ.

Nói đến hai ba lần, tuyệt nhiên không có tiếng đáp từ. Dương Qua vội bước nhẹ đến trước, đưa tay đẩy khẽ cánh cửa, bước vào trong nhà.

Khi bước ngang qua ngưỡng cửa, thấy các vật bên trong làm cho chàng rúng động.

Bên trong nhà trần thiết rất đơn giản, nhưng sạch sẽ vô cùng, giữa nhà kê một cái bàn và một cái ghế, cách thức trang hoàng giống hệt như gian phòng của chàng ở tại Cổ Mộ, chỉ hơi khác là Cổ Mộ bàn ghế và Hàn Ngọc sàng làm toàn bằng đá, cònưở đây dùng toàn cây gỗ.

Chàng lại thấy phía cửa song treo lủng lẳng một áo nhỏ, tết bằng các sớ da cây rất khéo, nhưng tương tự như lúc ở Cổ Mộ Tiểu Long nữ kết tơ làm áo.

Dương Qua thấy những cảnh quen, bất giác hai dòng lệ chảy ràn rụa. Chàng cảm thấy hình như có bàn tay mềm dịu đưa lên vuốt mấy sợi tóc bạc ! Lại một giọng êm như gió thỏang :

- Qua huynh ! Việc đã qua là hết ! Thống khổ ích lợi gì?

Chàng nhớ lại ngày nào cũng một giọng nói hiền lành êm dịu của Tiểu Long nữan ủi chàng khi buồn rầu thất chí.

Bỗng chàng nghe sau lưng có tiếng một người con gái khẽ kêu lên một tiếng thảng thốt, Dương Qua vội quay phắt người lại, thấy trước mặt chàng một cô gái mặc toàn đồ trắng, mặt ngọc da ngà, đứng yên như pho tượng thần Nữ Oa, đẹp hơn tiên nga miền ha ïgiới.

Chính là người mà chàng phải ngày đêm mơ tưởng suốt mười sáu năm trường. Mắt chàng mờ lên, như người trong mộng gặp tình nhân theo câu hát của một nhà thơ nổi tiếng :

Nửa đêm nằm mộng gặp người thương Má đỏ au lên, đẹp lạ thường Bàn tay mềm mại nên thơ quá Tà áo tung bay mờ tựa sương Chính là Tiểu Long nữ, người yêu của Dương Qua đang đứng đấy trong thực tại mà chàng cứ ngỡ như trong mơ, chàng vội đưa tay lên dụi mắt xem có phải mình đang hoa mắt hay chăng.

Hai người đứng yên nhìn nhau sửng sốt, họ chỉ kêu lên một tiếng a rồi ôm nhau nức nở nghẹn ngào.

Như đôi bạch yến khắn khít, như đôi oanh líu lo. Trong thực tế thơ mộng. Câu chuyện 16 năm dài đằng đẵng làm sao nói hết bây giờ ? Một lúc lâu, Dương Qua mới nói đuợc :

- Long nhi ! Diện mạo của nàng không khác thủa xưa, còn ta thì đã già đi mất rồi.

Tiểu Long nữ chớp làn mi đẹp, nhìn chàng nói :

- Không già đâu Qua huynh ! Ngày nay Qua huynh đã trưởng thành hơn thủa nọ, vì đã nhuộm nhiều phong sương.

Tiểu Long nữ vốn lớn hơn Dương Qua sáu tuổi, nhưng thủa nhỏ nàng ở tại Cổ Mộ luyện công học theo phương pháp của sư phụ, dứt bỏ mọi lo nghĩ muộn phiền, do đó nàng vẫn giữ được nét xuân của người đồng trinh xử nữ.

Còn Dương Qua lúc nhỏ côi cút, cô đơn, buồn nhiều hơn vui, khổ nhiều hơn sướng, nên chàng già trước tuổi. Vì thế lúc thành hôn hai người thoạt nhìn thì tuổi tác rất tương xứng với nhau.

Cái ngày mà Dương Qua vào Cổ Mộ, hai người đã gần nhau rất lâu, cảm nghĩ sanh tình, những chuyện không nói không làm và không vui không giận dần dần buông lỏng, không kìm chế nổi, và nàng đã sa vào bể ái, tình trường.

Sau ngày lễ thành hon lại phải ly biệt nhau 16 năm trời. Dương Qua phải chịu đựng phong trần, phiêu bạt, mặt rám nắng, tóc nga ûmàu, còn Tiểu Long nữ ở nơi u tịch, tuy nàng bị nỗi tương tư làm khổ mình, nhưng có được cứu cánh là yên tĩnh, cho nên dần dần nàng hết lo, hết tưởng, hết muộn, hết phiền, ở một mình cô quạnh dưới hang sâu, lòng nàng cũng nguội lạnh theo thời gian.

Không ngờ 16 năm cách biệt, nay được trùng phùng, nàng trẻ hơn Dương Qua gấp bội.

Tiểu Long nữ một mình cô quạnh suốt 16 năm không hề nói chuyện với ai, bây giờ gặp Dương Qua tuy lòng hớn hở, nhưng những lời nói ra có lẽ ngập ngừng, chưa được đầm ấm như trước.

Hai người mắt nhìn nhau, như trao đổi muôn lời. Họ chỉ mỉm cười ! Dương Qua nghe máu nóng sôi trào, muốn ôm sát Tiểu Long nữ vào lòng cho thỏa dạ. Nhưng chàng chưa kịp cử động thì Tiểu Long nữ đã đưa tay nắm lấy tay chàng run rấy, và kéo chàng đứng dậy đi ra cửa, đoạn nói :

- Qua huynh ! Tôi vẫn mạnh khỏe đấy chứ ?

Tiểu Long nữ liền leo lên cây đại thọ chuyền thoăn thoắt. Dương Qua cũng ra sức đuổi theo. Hai người đùa giỡn rất lâu, mà Dương Qua thủy chung vẫn đuổi không kịp Tiểu Long nữ.

Mồ hôi trên trán chàng chảy lấm tấm. Tiểu Long nữ thấy chàng có vẻ mệt, nên nàng quay lại, đưa tay áo lên lau cho chàng.

Dương Qua nắm chặt tay nàng, nhìn kỹ cái áo nàng đang mặc được dệt bằng sớ cây đại thọ rất dày.

Chàng chua xót nghĩ đến nàng đã chịu khổ sở như vậy suốt 16 năm qua. Chàng vội đưa tay lên vuốt nhẹ mái tóc của nàng, đoạn nói nhỏ nhẹ :

- Long nương ! Vì tôi mà nàng đã chịu khổ suốt mười mấy năm trời.

Tiểu Long nữ thở nhẹ và nói :

- Nếu tôi chẳng sinh trưởng trong phái Cổ Mộ, thì đâu còn sống đến giờ này ?

Lời nói này đúng lắm. Nếu Dương- Qua ở vào hòan cảnh của nàng, một thân một bóng, không có một món gì có thể dùng, mặt dầu võ công chàng cao siêu, cũng không sống nổi đến hai năm.

Tiểu Long nữ sinh trưởng ở Cổ Mộ, không tiếp xúc với ai. Lúc nhỏ thì có sư phụ và Tôn bà nuôi dưỡng, đến sau khi gặp Dương- Qua bầu bạn. Bởi vậy nàng quen nếp sống tự lập, mà không cần chuyện vãn với ai. Nhờ đó nàng mới sống nổi dưới hang sâu một mình, tưởng trên đời này không còn người nào trẻ như nàng mà có thể chịu đựng nổi như thế. Hai người ngồi trên phiến đá kề vai tâm sự. Dương- Qua nóng lòng muốn biết cảnh sinh hoạt của nàng như thế nào, hỏi liên miên.

Tiểu Long nữ thở một hơi dài, thuật lại câu chuyện mình lưu lạc thế nào, trong vòng 16 năm biến cố ra sao, cho Dương- Qua nghe. Dần dần tiếng nói của nàng trong thanh trở lại, mất hẳn giọng ngường ngượng ban đầu.

Nguyên ngày trước Dương- Qua ném lọ Tuyệt Tình đơn xuống hang sâu, Tiểu Long nữ hiểu chàng đã biết mình trúng độc không trị được, nên chàng không muốn sống một mình.

Nàng đã nghĩ thiên phương bách kế, chỉ có cách là nàng phải rời xa Dương- Qua mới mong chàng bỏ ý định tự tử.

Do đó, nửa đêm nàng lần ra Đoạn Trường Nhai lấy mũi kiếm vạch vài hàng lên đá, một là để Dương- Qua yên lòng phục dược, hai là với thời gian 16 năm dài, sự thương nhớ dần dần loãng đi theo ngày tháng.

Quả nhiên Dương- Qua cố sống cho đến ngày nay. Dương- Qua lại thở dài hỏi :

- Tại sao Long nương lại hẹn đến 16 năm sau, mà không hẹn bảy tám năm thôi có được không ?

Tiểu Long nữ đáp :

- Tôi biết Qua huynh đối với tôi ân nghĩa thâm trọng, thì thời gian sáu bảy năm quá ngắn, chưa thể hủy diệt được nhớ nhung. Ôi ! Ai ngờ 16 năm qua, chàng vẫn một lòng thương tưởng.

Dương- Qua nói :

- Thật là con tạo xoay vần ! Trời không phụ lòng nguyện ước. Giả như tôi đến Đoạn Trường Nhai chờ đợi không gặp chỉ khóc lên vài tiếng rồi bỏ đi, thì trọn đời không được gặp lại Long nương nữa.

Hai người ngồi trò chuyện rất lâu, vẫn chưa thỏa mãn với cuộc trùng phùng này. Tuy chẳng nói ra mà trong tâm hai người không quên tạơn trời đất. Hai người ngồi yên lặng một lúc lâu, Dương- Qua lại hỏi :

- Long nương ! Sau khi em té xuống đầm, rồi câu chuyện ra sao ?

Tiểu Long nữ đáp :

- Khi tôi nhảy xuống hang sâu, thì tâm thần mờ ám, kể chắc đã chết, nhưng làn nước bạc đưa tôi đến chỗ triền đá cao. Khi nước hạxuống, tôi dần dần tỉnh lại. Lúc mới bước chân lên đây chỉ có cây cối mọc ngổn ngang, không một tiếng chim kêu, không một loài dã thú. Nhưng có rất nhiều nước ngọt, trái lành quanh năm ăn uống không hết, chỉ thiếu có vải để mặc. Lúc ấy tôi lột vỏ cây bện lại thành chiếc áo này đây.

Dương- Qua lại hỏi :

- Lúc bấy giờ em trúng phải Băng Phách Ngân Trâm của Quách Phù, chất độc ấy đã lâm vào tận kinh phái, trên đời này không có thuốc gì chữa được thì làm sao em sống bình yên vô sự dưới hang này ?

Tiểu Long nữ đáp :

- Lúc đến đây được vài ngày, chất độc bỗng dưng hành hạ, toàn thân nóng như lửa, đầu óc như dần. Tôi sực nhớ lúc ở Cổ mộ, cái đêm động phòng hoa chúc của chúng ta, chàng có dậy tôi cách vận chuyển nghịch các huyệt đạo và kinh phái mà chúng ta đã ngồi trên giường Hàn ngọc. Nhưng ở đây làm gì có giường Hàn ngọc để ngồi vận chuyển kinh mạch ? Tôi liền tìm ra một khối băng muôn đời ở trên mặt nước kia, và ngồi lên đó chuyển nghịch các kinh mạch. Sự đau đớn bớt dần. Rồi một ngày nọ, tôi thấy từ trên miệng hang bay xuống một con Ngọc Phong đúng là của Lão Ngoan đồng lúc đem đến Tuyệt Tình Cốc chúng lạc đàn ở lại đây.

Khi thấy Ngọc Phong, tôi tưởng như vừa gặp bạn tốt, lập tức tết trúc làm cho chúng một cái tổ, sau đó ong đến ngày càng nhiều, tôi mới lấy mật của nó mà dùng.

Thật lạ thay, bao nhiêu đau đớn tan biến ! Mật ong chính là môn thuốc khử độc rất công hiệu. Tôi uống mật mỗi ngày. Lúc đầu mỗi ngày đau hai lần, kế là mỗi ngày đau một lần, và sau một tháng đau một lần, đến lần cuối là sáu năm mới đau một lần. Rồi từ đó đến sau là hết tuyệt.

Dương- Qua cả mừng tiếp lời :

- Hễ có lòng tốt, ắt hưởng sự lành ! Nếu năm xưa em không cho Lão Ngoan đồng một bầy Ngọc Phong, thì lấy ai mang mật đến Tuyệt Tình Cốc để em có cơ hội chữa bệnh?

Tiểu Long nữ lại nói :

- Sau khi hết bệnh, tôi lại nhớ đến chàng. Như ngã ở dưới hang sâu biết lấy ai để thông tin tức. Tôi cũng không biết lên bằng cách nào, vì vách đá thẳng tắp lại trơn tuột. Do đó tôi mới bắt mấy con ong lấy gai nhỏ xăm vào đôi cánh mấy chữ "Tôi tại Tuyệt Tình Cốc đáy", hy vọng mấy con ong này có người trông thấy. Trong mấy năm qua tôi xăm trên cánh có hàng ngàn con. Nhưng hy vọng của tôi trở thành thất vọng, vì không ai ngó ngàng đến. Mỗi độ xuân về là lòng tôi lại rạo rực u buồn, tôi buồn là nghĩ chắc trọn đời không thấy ánh nắng mặt trời, không thấy người trần thế, không gặp lại được chàng !

Dương- Qua vỗ đùi, chàng hối hận :

- Mỗi năm vào ngày hẹn ước, tôi đều đến Tuyệt Tình Cốc cốt ý tìm em. Thực ta vô ý không suy xét. Ta có thấy đàn ong bay lảng vảng mỗi lần đến đây, mà không để ý nhìn xem những chữ này để cho em phải đau khổ suốt mười mấy năm nay.

Tiểu Long nữ mỉm cười nói :

- Trong lúc Qua huynh đau khổ thì còn để ý đến việc gì nữa ? Vả lại có ai ngờ trên con ong bé bỏng như thế mà lại có chữ ở trên cánh. Dẫu nó có bay hàng trăm con qua trước mắt, chàng cũng không thể nhìn thấy được. Trừ khi có con ong nào vô phúc bay vô dính vào mạng nhện trước mặt chàng lúc đó chàng thấy vật nhớ người, may ra đưa tay ra cứu nó thì mới có dịp quan sát.

Tiểu Long nữ không ngờ người thấy chữ trước tiên lại là Lão Ngoan đồng Châu- bá- Thông. Nhưng ông lại chỉ cho đó là do tạo hóa sinh ra và không nghĩ xa xôi. Ông chỉ đùa giỡn hay đem khoe khoang là một kỳ quan của loài ong mật.

Duy có Hoàng Dung trí tuệ hơn người, biết rõ không phải do tạo hóa sinh ra. Nhưng bà có ẩn ý là xong chuyện nhà rồi mới đem ra bàn vớí mọi người đi tìm Tiểu Long nữ.

Dương- Qua và Tiểu Long nữ ngồi đàm đạo suốt nửa ngày mới thấy vợi bớt nỗi niềm tâm sự.

Dương- Qua thấy đói, bèn ngỏ ý với Tiểu Long nữ. Chàng và nàng bước vào nhà, thì nàng đã nướng vài con cá và mang ra trái cây, mật ong, nước suối để đãi Dương- Qua.

Cá nướng này tuy nhỏ mà thịt thơm, nước suối mát lạnh, trái cây chua, mật ong ngọt. Tuy không có hương vị đầy đủ, song Dương- Qua ăn một bữa ngon lành.

Chàng vừa ăn vừa kể những biến chuyển của mình trong 16 năm lưu lạc. Chàng sống một thời hoạt động không ngừng, nào là uy hiếp quần hùng, nào là giúp người khốn khó.

Còn nàng thì trái lại, sống với thời gian lặng lẽ cô đơn, chỉ bầu bạn cùng đàn ong mật. Hai nếp sống khác biệt rất xa.

Tiểu Long nữ không hề nghĩ đến thế sự nhân tình, nàng chỉ cầu sao gặp lại Dương- Qua là đủ. Hôm nay trời xui hai người hội ngộ khiến lòng nàng rộn rã như cánh én giữa mùa xuân. Tiểu Long nữ chẳng biết nói gì hơn chỉ mỉm cười mãn nguyện. Dương- Qua lại hỏi đến những tiểu tiết như : làm sao bắt cá, làm sao cất nhà, làm sao lột vỏ cây dệt áo...

Tiểu Long nữ kể rõ từng chi tiết. Mặc dù chỉ có đôi bàn tay mềm mại nàng cũng tạo được sự nghiệp cơ đồ, thật là một kỳ công trong thiên hạ.

Hai người tâm sự suốt đêm, đến lúc trời gần sáng họ mới đi ngủ. Khi tỉnh giấc thì trời đã đứng bóng, Dương- Qua lại nói :

- Này Long nương ! Chẳng lẽ mình giam hãm suốt đời dưới hang sâu hay sao ? Theo tôi nghĩ, mình nên tìm cách trở về sống với thế giới loài người chứ ?

Tiểu Long nữ muốn sống một cuộc đời lặng lẽ, thái bình. Nàng không muốn sống với cuộc đời phiền tóai. Nhưng nàng biết Dương- Qua vốn ưa cuộc đời náo nhiệt phồn hoa nên nàng đáp lại :

- Vậy Qua huynh hãy tìm cách lên mặt đất ! Nếu không được thì... tìm cách khác, cũng có ngày về đuợc với xã hội loài người.

Tiểu Long nữ muốn nói "ở lại đây", nhưng sợ phật lòng người yêu. Thế là hai người chui qua phiến đá tiếp, vào một cái khe nhỏ, lội qua lên bờ hồ.

Một cảnh tượng bày ra trước mắt, họ thấy một sợi dây lớn từ trên miệng hang thòng xuống tới đáy, xung quanh bờ đầm có rất nhiều dấu chân người, lại có một đống củi cháy lỡ dở.

Dương- Qua cả mừng kêu lên :

- A ! Có người xuống ! Không chừng họ còn lẩn quất đâu đây !

Dương- Qua và Tiểu Long nữ đi vòng quan sát, lại thấy trên cây vạn thọ có người dùng kiếm khắc mấy chữ như sau "Nhất đăng, Châu- bá- Thông, Anh Cô, Hoàng Dung, Trình Anh, Lục Vô Song và Hoàng Dược Sư có đến tìm Dương- Qua nhưng không gặp, tất cả đều trở về"

Dương- Qua cảm động nói :

- Vậy ra cũng có người cảm nghĩ đến Dương- Qua này ư ?

Tiểu Long nữnói :

- Có ai lại quên được chàng ?

Dương- Qua lại nói :

- Họ đã xuống tận đây mà không tìm ra lối vào chỉ vì một tảng đá chặn khuất lối đi. Họ không ngờ lại có ngách. Nếu ta xuống đây bằng dây cũng không chắc đã tìm được nàng.

Tiểu Long nữ nói :

- Vạn vật đều do tiền định, tạo hóa đã an bài số phận cho mỗi người.

Dương- Qua lắc đầu nói :

- Không hẳn như vậy ! Người đời thường vì "có công mài sắt, có ngày nên kim". Hết sức mình mới đổ mạng trời.

Nói xong chàng đưa tay nắm sợi dây giật mạnh, thấy sợi dây thật vững chắc, có thể nhờ nó mà lên mặt đất được.

Dương- Qua lại nói :

- Để tôi lên trước xem Kim Luân Pháp Vương có còn đấy không ? Nhưng đã có Nhất-đăng đại sư , Hoàng Dược Sư , Châu- bá- Thông thì ác tăng cũng đã cao bay xa chạy rồi.

Chàng lại hỏi :

- Long nương ! Võ công của em có kém sút phần nào không ?

Tiểu Long nữ mỉm cười nói :

- Mười sáu năm qua tuy không rèn luyện chiêu thức nào nhưng cũng còn đủ sức.

Dương- Qua quay đầu lại, nắm sợi dây giật thử lần nữa rồi bám lấy leo lên. Nhưng hiềm vì chỉ có một tay không thể leo được, chàng liền dùng đôi chân chỏi vào vách dá, leo thoăn thoắt như vượn, chẳng mấy chốc đã lên khỏi hang.

Tiếp đến Tiểu Long nữ nắm dây phăng lên miệng hang . Hai người kề vai đi lên trên gành đá cao của Đoạn Trường Nhai.

Họ đưa nhau đi xem lại vết tích mấy hàng chữđ khắc mười mấy năm về trước. Tuy thời gian mưa sa tuyết phủ, hàng chữvẫn còn rõ ràng, không bị hao mòn vì gió mưa bão táp.

Dương- Qua nhìn Tiểu Long nữ mỉm cười, có cảm tưởng như 16 năm qua mau như trong khoảnh khắc.

* * *

Nói về Kim Luân Pháp Vương đã xây dựng mộc đài ngoài thành Tương Dương, phóng hỏa đốt Quách Tường buộc Quách Tỉnh về đầu hàng.

Hoàng Dược Sư đã nói về trận "Nhị thập bát tú", quyết bày ra để tranh hùng sống chết với quân Mông Cổ.

Quách Tỉnh liền xin tướng lịnh của Tống triều sứ quân Lữ Văn Hoán, giao cho Hoàng Dược Sư khiển tướng điều binh.

Bấy giờ những người tham dự Anh hùng đại yến buổi nọ đã về phân nửa, trong thành chỉ còn một phần.

Hoàng Dược Sư thỏa thuận và bảo họ phải tuân theo quân lệnh. Giữa một cuộc hội thảo tại võ trường, Hoàng Dược Sư nói to :

- Quân Mông Cổ dùng bốn muôn binh vây bọc hỏa đài, theo ta nghĩ muốn thắng chúng phải cần bốn muôn binh sĩ thật giỏi. Lấy một chống một, theo binh thư đã dạy, thì không còn gì đáng ngại nữa.

Nói xong ông trở lại đứng trên đài hô to :

- Theo trận "Nhị thập bát tú" gồm năm ngôi "ngũ hành" án theo ngũ phương

Ông vẫy tay mời các tướng lãnh đến nghe ông giải thích từng chi tiết đại cương. Và ông nói thêm :

- Thế trận này biến hóa khôn lường, không phải một lúc mà giảng hết độn giáp ngũ hành được. Cho nên hôm nay ta mời năm cao thủ võ học đứng trấn năm ngôi ngũ hành, được quyền điều khiển binh tướng. Vậy tất cả mọi người hãy nghe theo hiệu lệnh của họ.

Mọi người dều cúi đầu vâng lệnh. Hoàng Dược Sư nói tiếp :

- Trung ương mồ kỷ, thuộc thổ, sắc vàng, trấn áp bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi do Quách Tỉnh đứng chỉ huy. Quách Tỉnh phải lãnh tám ngàn quân mã đem đến trấn tại trung ương. Tất cả binh gia tướng sĩ của ngươi chỉ lo một việc là cứu Quách Tường không được đánh nhau với địch. Binh sĩ của ngươi phải đem theo một bị đất vàng, khi đến dưới thành hãy lấy đất đắp mà dập lửa, và triệt hạ đài.

Quách Tỉnh vâng mạng, lui ra ngoài lo điểm binh. Hoàng Dược Sư nói tiếp :

- Nam phương đơn tăng, thuộc sắc hỏa, trấn áp bốn cung Bính, Đinh, Tý, Ngọ, xin phiền Nhất-đăng đại sư lãnh chỉ huy, mang theo tám ngàn quân. Chiết ra một ngàn để bảo vệ chủ tướng, còn lại bảy ngàn chia ra làm bảy đội. Giao cho Chu Tử Liễu, Võ Tam Thông, Tứ Thủy Ngư ẩn, Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn, Gia Luật Yến và Hoàng Nhan Bình đứng ra chỉ huy 7 đội ứng theo 7

ngôi sao trên càn trượng. Bảy ngôi sao này thuộc hỏa trấn Nam phương.

Nhất-đăng đại sư , Chu Tử Liễu chờ lãnh lệnh đi diểm binh mã . Hoàng Dược Sư truyền lệnh nói :

- Bắc phương Ngươn lăng, thuộc thủy, màu đen, trấn áp bốn cung Nhâm, Quý, Hợi, Tý, do Hoàng Dung chỉ huy, lãnh tám ngàn quân, chiết ra một ngàn để bảo vệ chủ tướng, còn lại bảy ngàn chia ra làm bảy đội. Giao cho Lương trưởng lão, Gia Luật Tề, Quách Phù với trưởng lão Khất Cái chia ra chỉ huy mỗi đội. ứng theo 7 ngôi sao trên trời, 7 ngôi sao này thuộc thủy trấn.

Hoàng Dung cúi đầu lãnh mạng. Nhóm này dùng toàn chủ lực của Cái Bang.

Hoàng Dược Sư tự điểm cho ông tám ngàn binh và nói :

- Đông Phương ở Thanh Lăng, thuộc mộc, màu xanh, trấn áp bốn cung Giáp, ất, Dần, Mẹo. Đạo quân này do ta chỉ huy và lãnh tám ngàn quân.

Mọi người nghĩ Hoàng Dược Sư điều binh khiển tướng rất tài, Đông phương chủ tướng là Đông Tà, Nam phương là Nam đế, Bắc phương chủ tướng là Bắc Cái, trung ương chủ tướng là đệ tử của Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, Quách Tỉnh, giữ ngôi trung ương mới cứu được Quách Tường, nhưng còn hướng Tây là ai ?

Bỗng nghe Hoàng Dược Sư nói tiếp :

- Riêng về lão, đệ tử đều chết sạch. Cô Ngốc không có ở đây, chỉ có Trình Anh.

Ông liền chọn 6 vị anh hùng có tham dự Anh hùng đại yến và Trình Anh đến bảo rằng:

- Hướng Đông, tám ngàn quân, chia ra làm tám đội, một đội ở lại bên chủ tướng, còn bảy đội giao cho Trình Anh và sáu vị chỉ huy, ứng theo ngôi càn trượng, bảy vị tinh tú dóng hướng Đông.

Khi kiểm điểm quân xong, Trình Anh và sáu vị anh hùng lãnh mạng ứng hầu.

Còn đạo quân hướng Tây là chấm dứt, Hoàng Dược Sư nói :

- Tây phương Kim Lăng, thuộc kim, sắc trắng, trấn áp bốn cung Canh, Tân, Dậu, Thân, do Toàn Chân chưởng giáo Lý Chí Thường...

Mọi người đều ồ lên kinh ngạc, vì họ rõ Lý Chí Thường là tân trưởng giáo còn trẻ và yếu đuối.

Bỗng nghe một tiếng nạt rất to phát ra :

- úy ! Hoàng lão tà ! Ngươi bỏ quên thằng già này à ?

Mọi người nhìn lại thì ra là Lão Ngoan đồng Châu- bá- Thông Hoàng Dược Sư mỉm cười nói :

- Châu huynh ! Tôi tính để Châu huynh giữ hướng Tây, nhưng bịnh trạng của Châu huynh cần tịnh dưỡng. Nếu làm quá sức thì vết thương trên lưng sẽ đau lại, cho nên...

Châu- bá- Thông vươn hai tay múa máy và nói to :

- Sá gì! Sá gì vết thương nhỏ bé này ! Hoàng lão tà, hãy để ta lãnh trấn hướng Tây được không ? Này Lý Chí Thường, ngươi dám cùng ta tranh tài cao thấp không ?

Lý Chí Thường vòng tay đáp :

- Đệ tử đâu dám !

Châu- bá- Thông vỗ tay cuời đắc ý nói :

- ấy đấy ! Ta vẫn biết là ngươi không dám !

Nói xong ông thò tay chộp lấy cây lệnh tiễn trên tay Lý Chí Thường. Lý Chí Thường vẫn tôn kính Châu- bá- Thông nên không lấy đó làm phiền lòng.

Hoàng Dược Sư lại nói :

- Nếu Châu huynh nhận lãnh, hãy đề phòng cẩn thận. Hướng Tây chủ tướng là Châu- bá- Thông, lãnh tám ngàn binh sĩ, một ngàn giao cho Anh Cô bảo vệ chủ tướng, còn bảy ngàn giao cho Lý Chí Thường cùng đệ tử Toàn Chân Phái thống lãnh, theo bảy ngôi sao thiên trượng mà đi theo lộ Tây.

Hoàng Dược Sư điểm tướng xong, liền đốc thúc binh sĩ nên đem theo những vật dụng cần thiết. Đoạn ông phất cờ lịnh tiến quân.

Bốn muôn binh chia làm 5 đạo, Đông, Tây, Nam, Bắc và trung ương, đi như nước vỡ bờ.

Hoàng Dược Sư cất giọng bảo to :

- Ngày xưa hai mươi tám tướng đuợc đài mây mở rộng, ứng theo Nhị thập bát tú đã phù tá vua Quang Võ trùng hưng. Theo ta nghĩ Nhị Thập Bát tú trận không dám sánh với thanh thế Quang Võ gia, nhưng giặc đ tới nhà, thìnước mất nhà tan, kẻ tiền phong lãnh đạo, đạo chân chánh là đệ tử danh gia, nếu đã hưởng tấc cỏ ngọn rau, nên vìlòng trung quân ái quốc. Chư quân, hãy theo lệnh chủ tướng, thề quyết tử cùng bọn Mông Cổ xâm lăng.

Tất cảquan binh đều hô:

- Hãy quyết liều mình tử chiến

Tiếng hô vang dậy. Ba tiếng pháo hiệu nổ lên, cả năm đạo quân bước đi như gió lốc, làm cho cát bụi bay rợp trời.

Trận Nhị thập bát tú vô cùng kỳ ảo, biến hóa vô cùng. Đạo binh Đông mỗi người mang trên lưng một cây nọc đến hướng Đông hỏa đài. Một ngàn quân xạ thủ bắn vãi ra, để bảy ngàn quân mang cây nọc đến công thành. Trong phút chốc, bảy ngàn cây nọc được cắm theo hình bát quái vây chặt ngôi đài hai hướng Đông Tây.

Đạo binh Tây, tất cả đệ tử phái Toàn Chân đều cầm trường kiếm, bảo đao, chĩa mũi về phía trước. Bảy người một hàng ngang, cả đoàn gồm bốn mươi chín người, tay tả cầm nọc, tay hữu cầm kiếm, tiến ồ ạt như ong vỡ tổ.

Bỗng nghe tiếng hò hét vang trời, đạo quân hướng Bắc do Hoàng Dung thống suất tràn đến. Tất cả Khất Cái bang đều rành về thuật phóng độc trâm, chúng ào ào như nước vỡ bờ, xáp lại bên quân Mông, đua nhau xạ độc phóng trúng vào nhức nhối khôn tả.

Bọn Mông Cổ chống cự không nổi, ùa nhau thối lui. Cửa Bắc thành công phần nào.

Hướng Nam, cánh quân của Nhất-đăng đại sư ra lệnh bắn hỏa chân và thổi khói, làm cho quân Mông Cổ sợ cháy tóc tai, quần áo nên chạy vào trung ương.

Quách Tỉnh thống lãnh đạo trung binh, tiến chậm vào giữa đài, thấy thế giặc hỗn loạn, không đuổi theo hay giết hại, mà thúc quân đánh nhanh vào trung ương.

Nguyên vị soái cầm quân Mông Cổ là kẻ cơ trí, đã đào lỗ cá nhân cho binh sĩ mai phục quanh đài, mà đạo binh phục kích này có dư muôn người.

Quách Tỉnh hành quân chẳng kém, khi thấy đạo binh Mông Cổ đột nhiên biến đi, ông đưa mắt nhìn về phía đài cao thấy rải rác vài ba tên quân, thì biết rõ đám quân chủ lực còn mai phục.

Mặc dầu Hoàng Dược Sư căn dặn không được giết hại đối phương mà chỉ kéo rốc vào trung ương mồ kỳ, nhưng Quách Tỉnh nhận rõ địch tình bên trong có mai phục không dễ gì vào, còn bên ngoài địch quân làm loạn không dễ làm ngơ.

Bấy giờ tiếng trống giục quân "bồng bồng" liên tiếp, binh Tống và binh Mông Cổ xáp chiến với nhau vang trời dậy đất.

Phía trên đài hàng ngàn cung nỏ xạ tiễn như mưa.

Quách Tỉnh vội vàng buớc đến múa trường kiếm đỡ vẹt muôn ngàn mũi tên. Hai đạo quân đấu với nhau cát bụi bay ngất trời, tiếng reo hò vang dậy đất. Cả giờ qua mà hai bên vẫn chưa phân thắng bại.

Hoàng Dược Sư giơ cao thanh kỳ phất mạnh, bỗng thấy đạo quân Đông chạy sang Nam, đạo quân Tây chạy sang Bắc, trận bắt đầu chuyển động, quân Mông Cổ hàng ngũ rối loạn chạy tứ tán

103. NHỊ THẬP BÁT TÚ TRẬN

Trận nhị thập bát tú lấy âm dương ngũ hành mà chế hóa. Nhất Đăng đại sư tay cầm cờ đỏ phất mạnh, chạy về trung ương mồ kỷ. Quách Tỉnh phất ngọn cờ vàng rút về hướng Tây. Chậu Bá Thông phất cờ trắng chạy về hướng Bắc. Hoàng Dung cầm cờ đen chỉ về hướng Đông, tất cả Khất Cái Bang chạy về hướng này. Hoàng Dược Sư vẫy ngọn cờ xanh chỉ về hướng Nam.

Trận Ngũ Hành biến ra thế sanh vượn là hoả năng sanh thổ, thổ năng sanh kim, kim sanh thuỷ, thuỷ sanh mộc, mộc sanh hoả.

Binh Tống chỉ có bốn muôn, nhờ có trận pháp tinh diệu, lại nhờ người chỉ huy lại là tay cao thủ võ lâm hạng nhứt ra điều khiển nên đám binh Tống quyết hy sinh để cứu con Quách Tỉnh.

Quân Mông Cổ nhiều gấp đôi cũng phải thua liểng xiểng. Trận chiến kéo dài rất lâu, Hoàng Dược Sự liền rúc ra hồi còi dài, biến trận Ngũ Hành ra thế khắc bại, ông đưa cây cờ xanh vẫy quân rút lui vào Trung Ương mồ kỷ, cờ đỏ vẫy quân về hướng Tây, cờ vàng đánh về hướng Bắc, cờ trắng xuyên quanh hướng Đông, cờ đen huy động binh sĩ rút về hướng Nam. Ngũ hành khắc bại là môn khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, y học văn tài là Hoàng Dược Sư !

Trận thế mới biến hoá có hai lần mà tên chủ tướng chỉ huy hoả đã thấy mắt hoa, đầu choáng váng, thấy quân Tống lúc ở trước, lúc ra sau, khi quay tả, vượt qua hữu không biết điều quân cách nào để truy cản.

Kim Luân Pháp Vương thấy thế trận kỳ ảo cũng bối rối vô cùng. Ông không rõ binh Tống dùng chiến thuật gì?

Một lần ông đã bị cô bé Hoàng Dung đã bầy thổ trận vây hãm, ông không biết lối nào thoát thân, huống hồ gì Hoàng Dược Sư , bụng chưá đầy thực học, giỏi hơn con gái gấp bội.

Vả lại, trận Nhị thấp bát tú gồm có năm vị võ lâm cao thủ đương thời đứng ra chỉ huy bảo sao chẳng linh động sao được.

Pháp Vương khen thầm:

Đất Trung Nguyên thực lắm kỳ nhơn cao thủ mà đất nước ta lại kémÕ Ông thấy đạo quân Mông lớp lớp bị thương càng lúc càng nhiều thêm, cây cờ càng lúc càng nhiều thêm, cây cờ vàng trên tay Quách Tỉnh lay động bay phấp phới tiến gần đến bên đài. Ông đem bé Quách Tường ra trói giữa đài với dụng ý là uy hiếp cho Quách Tỉnh đầu hàng, chớ thực ra ông không cố ý thiêu nàng.

Ông liếc xem thấy Quách Tường bị trói hai tay vào cột, chỉ còn thừa cái đầu quay qua quay lại thôi, nhưng vẻ mặt cô bé vẫn vui tươi mỉm cười không lộ một chút sợ hãi, buồn lo.

Pháp Vương liền bảo:

-Bé Quách Tướng, ngươi hãy gọi phụ thân ngươi từ một đến mười tiếng, bảo gã phải quy hàng, nếu phụ thân ngươi chẳng quy hàng thì ta cho đốt ngươi ra tro.

Quách Tường cười nói:

-Một cũng không chứ đừng nói đến mười. Ta không gọi đâu? Ông thử đếm xem?

Pháp Vương giận giữ nói:

- Bé Quách Tường! Ngươi tưởng ta không dám đốt ngươi hay sao?

Quách Tường cười lanh lảnh:

- Tôi thấy tình cảnh ông đáng thương thật.

Pháp Vương trợn mắt quát:

- Ta đáng thương về việc gì?

Quách Tường nói:

- Này nhé! Ông đánh không lại phụ thân tôi, đánh không lại ngoại tôi, đánh không lại Nhất Đăng đại sư , đánh không lại Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông, và khong thể đánh lại Dương Qua đại ca, chỉ còn cách là trói tôi lên cột, tôi đối với thành Tương Dương là một điều tốt vô dụng, trường hợp của ông như thế không đáng thương hay sao? Pháp Vương, tôi có một câu muốn khuyên ông, Ông nghĩ sao?

Pháp Vương hỏiÕ

- Ngươi khuyên ta cái gì?

Quách Tường đáp:

- Những người như ông, sống ở trên đời nầy cũng vô vị, chi bằ ng nhẩy xuống đài tự tử cho rồi?

Lúc bấy giờ Quách Tường đã vào sanh ra tử, không còn biết sợ gì nữa, nên mới dám nói thao thao bất tuyệt không kể đến hậu quả ra sao. Nhứng lời nói này, như một gáo nước sôi hắt vào mặt Pháp Vương, làm ông giận run hét to:

-Bớ Quách Tỉnh! Ngươi hãy nghe đây, ta đếm từ một đến mười tiếng mà ngươi không hàng phục, thì ta phóng hoả đốt con bé Quách Tường.

Quách Tỉnh nói:

- Ngươi thấy Quách Tỉnh là một loại người dễ đầu hàng lắm sao?

Hoàng Dược Sư tiếp lời nói:

- Kim Luân Pháp Vương hãy nghe đây. Thân làm tể tướng, ngươi không biết thế địch động tĩnh như thế nào , như vậy là bất trí, bức bách đứa bé yếu đuối là bất nhân, không dám lấy binh đao, sức lực, trí hoá để chiến thắng là bất dũng. Con người mà mất cả trí, dũng, thắng thì ai gọi là lão anh hùng hảo hán được! Ngươi ở tại Tuyệt Tình cốc bị ta cấm giữ, ngươi tham sống sợ chết, đi khẩn cầu một đứa bé mười bẩy mười tám tuổi đầu xin dung mạng! Than ôi! Vị quốc sư của nước Mông Cổ vĩ đại mà hèn như thế ư ?

Nói cầu khẩn Quách Tường tha mạng sống là chuyện không có, nhưng Hoàng Dược Sư cố ý bịa chuyện nói to lên để làm cho Pháp Vương xấu hổ trước ba quân tướng sĩ.

Tất cả quân Mông Cổ đều tôn ông như thánh sống và người Mông Cổ tư chất thực thà, dễ nghe dễ bảo, nay nghe Hoàng Dược Sư nói như vậy làm chúng xám mặt. Tất cả tướng sĩ đều ngước mặt nhìn lên đài, làm cho Pháp Vương thẹn đỏ mặt hét to:

-Quách Tỉnh! Quách Tỉnh!! Ngươi nghe cho rõ, ta bắt đầu đếm một đến mười nếu ngươi không đầu hàng thì ta sẽ xuông lệnh phóng hoa ûđốt đài. Nào bắt đầu một hai ba

mỗi tiếng ông ngưng một giây phút cố ý làm cho Quách Tỉnh xốn xang mà lui hàng hoặc tim kế ho n binh, thìông xẽ vơi được nhiều bực tức.

Bây giờ dưới đài, Quách Tỉnh, Nhất Đăng, Hoàng Dược Sự, Châu Bá Thông và Hoàng Dung đều nghe rõ Pháp Vương đang đếm từng tiếng một.

Bên đài hàng trăm cây đuốc sáng rực, chờ Pháp Vương đếm số mười là châm vào bội cỏ khô đánh dưới chân đài.

Mọi người thấy tình trạng cấp bách, xua quân đánh rốc đến dưới đài, hầu cứu Quách Tường. Nhưng một giàn cung nỏ được lệnh bắn ra như mưa truy cản đoàn quân Tồng, làm cho Chu Tử Liễu, Lương trường lão, Võ Tu Văn và Tứ Thuỷ Ngư ẩn đều bị trúng tên. Bốn danh các thủ Khất Cái của phái Ûba vịÕ đã trúng tên vào chỗ nhược chết. Còn năm tên đàu lãnh Bang Khất Cái toàn quốc cũng trúng tên bỏ mạng.

Hoàng Dược Sư lúc trước đã giao cho Hoàng Dung chiếc áo trúc giáp, bà lại nhường cho Quách Phù hay gặp hoàn cảnh này phải cần có nó để mang mới cứu Quách Tường được.

Hoàng Dược Sư lại sợ nữ nhi vì thương tâm khổ hận mà liều mình, nên chẳng muốn con mình xông xáo vào giữa rừng tên mũi giáo.

Ông lại cởi chiếc giáp trúc choàng lên mình Châu Bá Thông, bởi vì vết thương của Châu Bá Thông chưa thuyên giảm mà vì đứa cháu gái của minh, nên ông không nỡ để lão Ngoan Đồng xả thân vì cháu mình.

Châu Bá Thông thấy bao nhiêu tên bay đến mình đều rơi lã chã , làm cho ông vô cùng vui vẻ, xông xáo đến trước đôi tay vung song chưởng đánh những tên cầm đuốc té giẫy đành đạch.

Lại nghe tiếng đếm to của Pháp Vương:

Tám chín mười tốt lắm! Phóng hoả mau lên.

Tức thì những ngọn đỏ rực trời được châm vaà rơm cỏ, làm cho đám cỏ bổi khônày bốc cháy dữ dội.

Tám ngàn quân cờ vàng hò hét vang trời, mỗi tên quân lấy ra một bao đất mang trên lưng xuống, nhưng không ném tới trước dược vì đứng xa đến hai ba trăm năm thước, chỉ còn đứng bên ngoài hò hét mà thôi.

Hoàng Dung đứng dưới đài nhìn thấy ngọn lửa, sắc mặt xám nhợt, run rẩy muốn té ngã .

Gia Lụât Tề vội chạy đến đỡ nhạc mẫu nói:

- Nhạc mẫu! Hãy đứng sau lưng tôi, vì tôi biết tính mạng không còn chịu đựng bao lâu nữa, nên liều thân cứu Tường muội.

Bây giờ ngọn lửa càng lúc càng cao, tiếng reo hò đắc thắng của quân Mông Cổ vang dậy. Hàng vạn bình giáp sắt thương dài đưa nhau tấn công tới tấp làm cho binh sĩ Tống triết chết thối vô số.

Lại nghe quân Mông Cổ hô to:

- Vạn tuế! vạn tuế! Thì một đoàn quân Mông kéo như thác lũ. Chính giữa đạo trung quân một cái cờ mao chí tụi giơ cao ấy là hiệu kỳ của Hoàng đế Mông Cổ.

Đạo quân này không phải đến chi viện Pháp Vương mà đến tấn công thành Tương Dương.

* * *

Tinh binh dõng tướng đều do Hoàng đế Mông Cổ chỉ huy phá thành. Quách Tỉnh tay tả cầm kích, tay hữu cầm thương, múa như vũ bão. Ông tả xung hữu đột như Triệu Tử phá trận Đương Dương, không một mũi tên nào phạm vào người.

Cách đấy chứng ba trăm thước, thấy đạo binh của Hoàng đế Mông Cổ đến tấn công thành, ông kinh hai than thầm:

Ôi chao! Ta mắc kế điệu hổ ly sơn của Mông Cổ. Lư Van Hoán làm sao điều khiển tướng cho được, rồi đây cả hai đều thất bại:

Trận Nhị Thập Bát Tú của quân Tống đã xua hết bốn muôn Mông Cổ. Lúc Quách Tỉnh và Hoàng Dung ra khỏi thành thì đã xếp đặt cách phòng bị rất chu đáo, tuy vậy ông vẫn lo ngại Sử Văn Hoán đối địch cho nổi.

Quách Tỉnh nghĩ thầm:

Việc cứu con là nhỏ, giữ thành là đại sự quốc giaÕ.

Ông hô to:

- Nhạc phụ! Hãy bỏ việc Tưởng nhi mà lo lui quân cứu thành.

Hoàng Dược Sư thấy ngọn lửa bốc lên cao sắp đến mặt đài, Pháp Vương bước xuống đài, chỉ còn một mình Quách Tường trên đài sắp sửa bị lửa hồng đốt cháy, ông đang phân vân giữa hai con đường phải giải quyết gấp. Một là cứu Quach Tường, hai là cứu thành Tương Dương. Quách Tường chỉ có một người, nếu có chết đi cũng chẳ ng quan hệ gì. Còn thành Tương Dương là vận mệnh của đất nước, lại có hàng muôn nhận mạng đang nguy ngập, ông quyết chọn con đường về cứu thành Tương Dương.

Ông buông thõng câu:

- Thôi đành vậy!

Nói xong, ông đưa cao ngọn cờ xanh phất mạnh, điệu quân trở về hướng Nam.

Quách Tường ở trên đài thấy ngoại công và nhạc mẫu không có giải pháp tiến đến bên đài, nên nàng kể chắc mình phải chết ra tro.

Lúc đầu Quách Tường sợ chết, nhưng nơi sự chết đã đến nơi lòng nàng phấn khởi lạthường. Nàng liền quay đầu nhìn về hướng Bắc nhìn thấy xa xa một dãy bình nguyên màu bích thuỷ, nằ m dưới ngọn đồi xanh, lòng nàng rộn lên một niềm vui và nghĩ rằng:

"Non xanh cũng biết cảnh thiêng liêng, thân ta nếu chết đi rồi cũng vui lòng, nhưng chẳng biết hiện giờ Duơng đại ca ở nơi nào ?"

Nàng đưa mắt nhìn một dãy núi xanh, nhớ lại ngày nào đ gặp Dương Qua ở đấy. Tuy không hẹn ngày tái ngộ, nhưng Dương- Qua đã đáp ứng cho nàng 3 điều tâm nguyện. Ba điều ấy cũng đủ làm cho nàng toại chí rồi.

Tuy nàng đang ở trong cảnh thập tử nhất sinh nhưng chỉ nghĩ đến Dương Qua, không biết chàng sống chết ra sao dưới Tuyệt Tình Cốc.

Bỗng nhiên nàng nghe một tiếng hú ngân dài, làm rung động cả núi rừng. Đúng là tiếng của Dương- Qua lúc ở Vạn Thú Sơn trang. Lập tức nàng quay đầu về tiếng hú, thì thấy hai người một nam, một nữ chạy như bay biến về phía hỏa đài.

Phía trước mặt hai người là một con điêu cực lớn, giang đôi cánh rộng chạy như bay. Bao nhiêu mũi tên của quân Mông Cổ bắn vào mình nó, gặp sức mãnh liệt của chưởng phong đều bị đẩy rơi tán loạn.

Mặc dầu muôn mũi tên bay như gió, nhưng cũng không sao cản được bước tiến của Thần Điêu.

Quách Tường cả mừng, giương mắt to nhình hai người. Người đàn ông đầu chít khăn xanh, mặc áo màu vàng sậm, chính là Dương- Qua. Còn người thiếu nữ mặc y phục toàn màu trắng, tà áo bay phất phơ không rõ thiếu nữ này là ai.

Cả hai đều cầm trường kiếm, múa như vũ lộng, biến đường gươm thành một vòng tròn, bao bọc thân mình họ nên không mũi tên nào bắn trúng được.

Thần Điêu chạy trước, Dương- Qua, Tiểu Long nữ theo sau hướng vào phía đài cao.

Quách Tường gọi to :

- Dương đại ca, có phải là Long tỉ tỉ chăng ?

Phần ở trên cao nói xuống, phần thì Dương- Qua ở cách chỗ nàng cả ba trăm bước nên Dương- Qua không nghe tiếng Quách Tường.

Chính thật là Dương- Qua và Tiểu Long nữ đang đến cứu nàng.

Tuy Thần Điêu là một thiên sanh thần vật, nhưng có thể cũng da thịt xương máu, cho nên thấy tên bay đến càng nhiều, Thần Điêu quạt cánh càng dữ dội.

Quân Mông Cổ thấy con quái điêu này quá hung ác, vội phi ngựa đuổi theo, dùng trường thương đâm vào nó.

Dương Qua và Tiểu Long Nữ dùng trường thương gạt phăng hai cây thương này, làm cho hai tên Mông Cổ té nhào xuống ngựa. Hai người, một điêu, tương trợ lẫn nhau, phút chốc đã đến trước mặt đài.

Dương Qua kêu lớn:

- Tiểu muội! Có ta đến cứu! Tiểu muội đừng sợ.

Nói xong chàng chạy nhanh leo lên cái thang lửa chưa cháy kịp. Đi được nửa chừng, bỗng nghe một luồng gió mạnh giáng xuống đất, chính là Kim Luân Pháp Vương từ trên sàn đài giáng xuống một chưởng.

Dương Qua vận lực vào trường kiếm đẩy lên cao một chưởng cực mạnh. Binh binhÕ hai tiếng nổ kinh hồn, làm cho cả hai lắc lư thân hình. Ca ûhai kinh hãi và đòng nghĩ như nhau

ÛMười sáu năm gặp lại, công lực của nó vượt bậc thật!

Dương Qua thấy tình thế quá nguy ngập, vội đưa kiếm lia mạnh lên trên, và dùng hết nội lực đẩy lên trên làm thành một trận cuồng phong. Chưởng phong rất dữ dội.

Kim Luân Pháp Vương đứng trên sàn đài chỉ có việc giữ và đỡ, chớ không đánh được Dương Qua, vì ông chỉ có bánh xe vàng quá ngắn, không thể đưa tới công đả đói phương.

Nhờ đó mà Dương Qua vọt mạnh lên mặt đài. Chàng vung kiếm chém mạnh vào lưng đối phương. Pháp Vương không quay đầu lại, mà ông đã lấy một bánh xe vàng đưa trái ra sau lưng đỡ lưỡi kiếm.

Sau khi đỡ vẹt lưỡi kiếm của Dương Qua, Pháp Vương quay mặt lại giáng xuống mặt chàng một bánh xe vàng.

Dương Qua hét to:

- Tặc đầu đà! Ta sẽ quật ngươi xuống đài.

Vừa hét, chàng vừa né mình một bên đưa ra một thế kiếm gạt mạnh bánh xe vàng. Chàng đã dùng hết sức làm cho lưỡi kiếm lẫn bánh xe rời khỏi tay, cả hai văng xuống đài.

Pháp Vương và Dương Qua loạng choạng suýt té. Cả hai dùng chưởng lực đánh với nhau. Dương Qua dùng hết tuyệt kỹ võ công, vung ra cốt ý hạPháp Vương ở chiêu đầu, không ngờ ông lại đưa ra một chưởng chống trả, hai sức chưởng gặp nhau kêu bùng một tiếng, làm cho cánh tay Dương Qua rúng động.

Chàng nghĩ:

Không rõ lão trọc này học ở đâu thế chưởng kỳ lạnh thế? Chưởng lực của ta cũng khá, thế mà bị đánh bạiÕ.

Chính Kim Luân Pháp Vương cũng kinh ngạc không rõ thế chưởng của Dương Qua là thế chưởng gì? Ông liền rút ra hai bánh xe vàng nữa vung ra đả kích Duong Qua. Tiếng kim khí của lão vung ra kêu u, u, o, o như rồng gầm, tượng rống.

Dương Qua lại rút cây trường kiếm còn lại đem chống đỡ, Chàng đưa ra một thế ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng. Pháp Vương sử dụng thế Long Tượng Bang Khổ Công đẩy mạnh bánh xe vào trường kiếm phát ra tiếng kêu Ûlách cáchÕ.

Cây kiếm của Dương Qua gãy làm ba đoạn thoát khỏi tay, rơi xuống đài. Đôi bánh xe của Pháp Vương chịu không nổi chưởng lực ám Nhiên Tiêu Hồn vụt khỏi tay, rơi xuống đài, chúng vào đầu ba tên xạ thủ vỡ sọ chết tươi.

Ca hai đã một phen loạng choạng, đôi tay họ cảm thấy tê rần. Pháp Vương lại đưa tay vào bọc lấy ra hai bánh xe đồng vung ra một chiêu long tượng nữa.

Dương Qua hiện giờ trong mình không còn tấc sắt nào, tay tả đưa ra phong lực, tay hữu đưa ra chưởng lực quây quần mình Pháp Vương.

Quách Tường thấy vậy kêu to:

- Đại hòa thượng, tôi nói có đúng không? Chính ông đánh không lại Dương Qua đại ca ta? Chính ông đã tự phụ là võ nghệ tuyệt luân, mà tay cầm binh khí đánh với đại ca ta, còn đại ca ta chỉ có một cánh tay không?

Pháp Vương xì một tiếng, không đáp lời Quách Tường mà vũ lộng hai bánh xe đồng đánh Dương Qua tới tấp.

Hoàng Dược Sư , Quách Tỉnh, Hoàng Dung vừa lui binh về cứu thành Tương Dương thì thấy Dương Qua, Tiểu Long Nữ và Thần Điêu đến làm tinh thần họ phấn khởi trở lại.

Hoàng Dược Sư phất mạnh cờ lệnh, gọi năm đạo binh Đông, Tây, Nam, Bắc và trung ương hợp lại mỗi đạo bốn ngành binh thành hai muôn, để triệt hạhai muôn quân Mông trấn giữ trước mặt đài để cứu viện Dương Qua.

Quân Tống tuy bị thiệt hại hơn phân nửa, nhưng chúng thấy Dương Qua đã đến được trận đài, nên tất cả đều đem hết sức mình liều thân tử chiến.

Quân Mông Cổ thấy chủ tướng mình bị bức bách và đoàn quân Tống quay lại, nên không còn đủ sức chiến đấu, vì thế càng lúc đạo binh Tống càng tiến đến gần bên đài.

* * *

Nói về đạo quân Mông kéo đến công phá thành Tương Dương dưới sự đốc binh của Hoàng Đế, nên tên nào cũng hăng hái đánh phá rất mạnh, nên viên quan trấn thủ là Lữ Văn Hoán chẳng giám leo lên mặt thành, ông khoác áo giáp sắt đi với hai cô thiếp đến bờ lũy nhỏ hầu nguyện ơn thoát chết.

Hai tên tiểu thiếp lại ưỡn ẹo, mơn trớn với viên quan. Nói toàn những câu nồng nàn, âu yếm.

Đoàn thám báo đến trước mặt họ bẩm to:

- Cửa đông quân Mông hàng vạn yểm trợ, cửa bắc chúng ào đến vây hàng muôn, xin Tổng trấn định đoạt.

Lữ Văn Hoán không biết nói gì, sắc mặt càng nhợt nhạt, lão rên rỉ hỏi:

- Quách hiệp chưa về ư ? Tại sao lại chẳng lui binh Mông Cổ?

Bây giờ Dương Qua đã dùng Xích Thủ Không Chưởng, chỉ có một tay mà chống lại bánh xe đồng của Pháp Vương.

Hai người giao đấu với nhau trên bốn trăm chiêu, mà không thắng nổi, vì mỗi người luyện công một cách không giống nhau.

Bỗng nhiên Dương Qua nhìn thấy Pháp Vương ném mạnh bánh xe vào mặt Quách Tường. Cô bé này bị trói chặt vào cột cây làm sao né tránh.

Dương Qua cả kinh tung mình nhảy lên cao, phất mạnh tay áo gạt rơi bánh xe đồng.

Pháp Vương thừa lúc chàng đang lơ lửng trên không, đánh vào bắp chân chàng một bánh xe đồng.

Chàng không tài nào tránh kịp, chỉ kêu a một tiếng, bắp thịt nơi vế xẻ một đường máu tuôn xối xả.

Chàng chưa kịp đứng vững thì Pháp Vương đánh vào Quách Tường một bánh xe đồng nữa, Dương Qua vội cử chưởng đánh.

Quách Tường kinh hãi kêu lớn:

- Dương đại ca! Đừng nghĩ đến tôi nữa. Hãy giết lão tăng Tây Tạng mà rửa hận cho tôi.

Lại nghe Dương Qua kêu a một tiếng, vai trái bị bánh xe đồng đánh vào. Chỉ một lúc bị hai vết thương quá nặng, Dương Qua không thể nào chịu đựng nổi chực ngã xuống đài.

Tuy vậy chàng cũng gắng gượng chống trả kịch liệt, Quách Tỉnh thấy vậy không biết cách nào cứu giúp cho chàng, chỉ có Hoàng Dung lanh trí hơn, bà đưa tay rút lưới gươm đeo trên mình Gia Luật Tề giáo chỏ Quách Tỉnh và nói:

- Tỉnh ca! Ném lên cho Qua nhi.

Quách Tỉnh ước độ từ chỗ đứng đến đài cách xa trên ba bốn chục bước mà đài thìcao trên trăm trượng, khó ném đến, ông với thấy cây thiết huyền cung ra khỏi vai, đặt lưỡi kiếm vào, giương thẳng cánh bắn lên đài. Mũi kiếm như một luồng bạch quang loang loáng thẳng lên đài.

Trường kiếm kêu vù vù hướng sau lưng Dương Qua bay tới. Cánh tay áo Dương Qua phất mạnh, thanh kiếm bị giữ chặt.

Đựơc khí giới, Dương Qua vội chống trả mãnh liệt với Pháp Vương. Phía dưới đài, Tiểu Long Nữ, Thần Điêu và Châu Bá Thông hợp sức tấn công đoàn xạthủ Mông Cổ.

Tiểu Long Nữ và Châu Bá Thông nhìn thấy cầu thang bắc lên đài đã cháy hết nửa, muốn lên cứu, nhưng không biết làm sao?

Dương Qua ở trên đoán chắc mình sẽ bỏ mạng nơi đây vì mấy trăm thế chưa hạnổi Pháp Vương, nên chàng hướng xuống đài nói to:

- Long nương, hãy mau về đi, hãy bảo trọng lấy thân.

Bấy giờ bánh xe đồng của Kim Luân Pháp Vương đã đánh vào mạng môn của Dương Qua, chỉ còn cách trong ba gang tấc. Dương Qua lớp tinh thần mỏi mệt, lớp mang thương tích nặng, nên đầu óc chàng nóng ran.

Khi thấy bánh xe đồng tới bên mình, tay áo phất mạnh đỡ tay tả đưa ra một chưởng vào ngực Pháp Vương.

Bỗng nghe giọng nói của Châu Bá Thông vang lên:

- Tốt nhất là Trì NêĐái Thủy. Đấy là một chiêu trong ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng ông bị Dương Qua đánh ở Vạn Hoa Cốc.

Dương Qua vô tình thủ bại, quên hẳn các chiêu tuyệt luân trong ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng, nên khi nghe Châu Bá Thông nhắc tới, chàng liền tung ra liên tiếp, nào là Trì NêĐái Thủy, Hồn Bất Thủ Xá, Đảo Hành Nghịch Thi. Nội ba chiêu chưởng này làm cho Pháp Vương rụng rời, tránh không kịp.

Dương qua thấy mình thắng thế, vội vận hết mười thành lực cho vào chưởng phong, đẩy một chiêu Hành Thế, Đẩu Phục, đánh ngay Đàn Trung Huyệt của Pháp Vương.

Pháp Vương vì quá mất tinh thần trước mấy chiêu thế khốc liệt, ông không chống đỡ kịp, chỉ u lên một tiếng, miệng phun ra mấy búng máu tươi, rớt xuống đài.

Tất ca ûquân sĩ hai bên đều không hẹn mà kêu Ûai daÕ kinh sợ. Chúng đã nhìn rõ mọi việc. Quân Tống kêu lên mừng rỡ, còn quân Mông Cổ kêu lên ai bi.

Bấy giờ ngọn lửa cháy lan tràn, tiếng kêu răng rắc, cái đài đã cháy hết cột.

Dương Qua nghĩ không thể nào mở trói cho Quách Tường kịp, chỉ còn cách ôm chặt nàng và cột cây, vì cột trụ đã cháy gần đến chân Quách Tường. Dương Qua vận nội lực hô to:

- Điêu huynh! Điêu huynh! Hãy tiếp tôi. Chàng vừa nói đến đây là cây cột gãy kìa.

Thần Điêu tuy bay không được, chứ nhảy rất cao, có thể cao hơn mấy trượng. Nghe Dương Qua kêu, Thần Điêu tung mình kên cao trên ba trượng vừa kịp lúc Dương Qua ôm Quách Tường và gốc trụ thừa thế nhầy mạnh lên lưng Thần Điêu và hạ dần xuống đất.

Pháp Vương bị Dương Qua đánh rơi xuống đài, tuy không đến nỗi phải chết, nhưng đau đớn ê chề. Ông cố chịu đựng, toan đứng dạy để chạy, bỗng một giọng cười ha hả nổi lên, một vòng tay cứng như sắt ôm chặt ngang lưng Pháp Vương. Pháp Vương giật mình quay lại thì ra đó là lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông.

Lão Ngoan Đồng biết Pháp Vương rất lợi hại, nên giở hết ra siết chặt mình Pháp Vương và ôm ông này chạy như gió vào đống lửa. Pháp Vương bị thương nặng, bất thần lão chưa chuẩn bị để chống chế thì đã bị lão Ngoan Đồng ném mạnh vào biển lửa.

Thế mới biết những kẻ ngậm máu phun người dơ miệng mìnhÕ. Lão tăng Tây Tạng cốt ý hại Quách Tường chưa thành thì hỏa đài do ông tạo ra đã đốt thân ông.

Hoàng Dung thấy con mình thoát chết, lòng vui vẻ bồi hồi, bà ngó qua Dương Qua với tia trìu mến biết ơn.

Trong lúc gấp rút bà không biết nói gì để cảm tạ chỉ biết chạy nhanh đến bên Quách Tường mở trói cho Quách Tường.

Quách Tỉnh, Hoàng Dược Sư , Nhất Đănng đại sư và Quách Phù tất cả đều mừng rỡ vô cùng. Đạo quân Mông Cổ thấy chủ tường mình đã thác, chúng ùa chạy tán loạn. Năm đạo quân nhà Tống được dịp đánh giết túi bụi.

Quách Tỉnh thấy vậy ho âto:

- Tất ca ûtướng sĩ! Chúng ta hãy về thành Tương Dương giết luôn vị hoàng đế xâm lăng.

Quân Tống nghe lệnh, tất cả đều quay đầu trở về Tương Dương. Họ hướng vào đám quân hậu tập của Hoàng Đế Mông Cổ tiến tới.

Tiểu Long Nữ xé vạt áo buộc vết thương nơi đùi cho Dương Qua, nàng đau đớn mà chả nói nên lời.

Dương Qua gượng chịu đau, mỉm cười bảo:

- Lúc ta giao chiến trên đài, Long nương ở phía dưới có lo lắng không?

Tiểu Long Nữ má ửng hồng không đáp. Lại nghe tiếng reo hò đắc thắng của quân Tống vang dậy, ào ạt đuổi theo đạo quân Mông.

Dương Qua hết đau nhức vì Tiểu Long Nữ có đưa thuốc cho chàng uống. Khi khỏe lại, Dương Qua đứng dạy nhìn về đạo quân Mông đang phá thành Tương Dương, quân mã đông bắc mười đạo quân Mông Cổ, đội ngũ rất chỉnh tề, còn đạo quân Tống ào ạt như nước lũ không hàng ngũ đầu đuôi gìcả.

Dương Qua nói với Tiểu Long Nữ:

- Long nương! Tên đại gian ác tuy đã chết, nhưng quân địch chưa bại. Ta nghĩ nên đánh nữa, Long nương! Em có lo lắng không?

Câu nói của Dương Qua nửa muốn nửa không vì sợ nàng phật lòng. Tiểu Long Nữ hiểu ý mỉm cười, nói

- Qua huynh! Anh muốn đánh thì đánh.

Bỗng nghe tiếng nói trong trẻo của cô gái phát ra, hướng vào Dương Qua và Tiểu Long Nữ:

- Đại ca ca! Tôi thật không ngờ Long tỷ tỷ đẹp như tiên nga trên thượng giới.

Tiểu Long Nữ quay lại nhìn Quách Tường mỉm cười:

- Tiểu muội ! Đa tạ người đã cầu chúc cho cuộc trùng phùng của chúng tôi. Đại ca người đã nói hết mọi việc cho tôi nghe, cho nên tôi bảo đại ca đưa tôi đến thành Tương Dương để gặp mặt muội muội.

Quách Tường thở nhẹ nói :

- Thật là tỉ tỉ xứng với đại ca của tôi !

Tiểu Long nữ nắm tay nàng tỏ ra thân thiện và trìu mến. Tiểu Long nữ có tính kỳ quặc, đối với bất cứ ai lanh lợi thì nàng không thích. Nhưng nàng được Dương- Qua kể rõ về tình cảm của Quách Tường và khen nàng có nhân có nghĩa, bấy giờ chính mắt Tiểu Long nữ đã trông thấy cô bé này tuổi còn nhỏ mà gan da ïcó thừa, tuy ở trong sự nguy nan mà không tỏ vẻ gì sợ hãi, nên Tiểu Long nữ đã thấy mến ngay.

Dương- Qua thấy mấy con ngựa chết chủ, đứng ngơ ngác, liền bắt một con, đoạn nói :

- Ta đi trước mở đường, cả hai có theo không ?

Nói xong chàng nhảy lên ngựa tung vó đi trước. Tiểu Long nữ và Quách Tường mỗi người một con ngựa đuổi theo DươngQua.

Ba người giục ngựa về hướng Nam. Họ nhìn về phái thành Tương Dương thấy hàng trăm đám mây cuồn cuộn bay, đó là cát bụi giữ a chiến trường bốc lên.

Binh Mông Cổ như muôn ngàn con kiến bò bám lên vách thành. Cả ba vội giục ngựa lên gò cao quan sát. Họ đưa mắt nhìn tứ phía, bỗng thấy bhốn ngàn truy binh Mông Cổ đang vây hãm Gia Luật Tề và ba trăm quân Tống. Đạo quân Mông Cổ cầm toàn giáo dài, mâu lớn, mỗi cây giáo dài ngót một thức dư , vung ra loang loáng. Đám tùy tướng của Gia Luật Tề lần lần rơi rụng, lớp chết lớp bị thương.

Quách Phù thống lãnh một đạo quân, xông vào trùng vây để cứu chồng, nhưng bị hai ngàn binh Mông Cổ cản trở, vợ chồng chỉ lấy mắt nhìn nhau mà không thể đến gần được.

Quách Phù vội thối lui ra nhìn vào trùng vây, thấy sĩ tốt của chồng mình càng lúc càng ít, biết rằng không thể thoát được, dù võ công cao diệu đến bực nào cũng đành bó tay trước cả ngàn đội binh Mông Cổ.

Quách Phù cất tiếng khóc òa Dương- Qua đứng cách nàng độ ba mươi thước, thấy vậy liền cất tiếng kêu rằng :

- Quách đại cô nương ! Hãy cúi đầu lạy ta ba lạy, ta sẽ xông vào trùng vây mà cứu chồng ngươi !

Chàng tưởng rằng Quách Phù vốn tính kiêu hãnh, thà chết chứ không chịu lạy ai, cho nên mới kiếm lời trêu nàng như thế. Ngờ đâu trái với sự tưởng tượng của Dương- Qua, Quách Phù nóng ruột không suy nghĩ gì cả, nàng giục ngựa đến gò cao chỗ Dương- Qua đứng, nhảy xuống ngựa quỳ mọp lạy lia lịa.

Dương- Qua cả kinh, vội nhảy xuống ngựa đỡ nàng dậy và vội nói :

- Tôi nói chơi mà cô nương làm thiệt sao ? Gia Luật huynh với tôi là bạn, không lẽ tôi đứng yên mà chẳng cứu ?

Chàng liền giục ngựa xuống gò. Trên chiến trường những con ngựa mất chủ đứng rải rác trước mặt chàng. Chàng liền gom chúng lại, kết chặt dây cương. Mười sáu con ngựa chia ra làm hai đội cột chặt bên tả hữu, đoạn hét lên một tiếng, làm cho đoàn ngựa hỏang chạy về hướng Mông Cổ.

Ngày trước nhà Tống cũng có bày trận này gọi là Liên hoàn giáp mã pháp để vây đánh Lương Sơn Bạc. Nhờ có Liên Hoàn mã trận đó mới đẩy lui đuợc bọn anh hùng Tống Giang Thủy Hử.

Dương- Qua giật mạnh hai sợi liên hoàn cương, chia mười sáu con ngựa ra làm hai đạo tiến nhanh về phía quân Mông Cổ, theo binh pháp gọi là "Tiểu liên hòan mã ".

Quân Mông Cổ thấy Dương- Qua xua ngựa về phía chúng, làm chúng ngơ ngác không hiểu chàng đang dùng kỹ thuật gì? Bấy giờ 16 con ngựa ồ ạt như nước lũ, càn đạp lên quân Mông. Chúng có giáo nhọn, gươm dài cũng không cản trở được đoàn quân mã kỵ của Dương- Qua.

Hai tướng Mông Cổ tiến đến cách Gia Luật Tề chừng ba bước, toan cử giáo giết chàng. Dương- Qua vội đưa ra một chiêu "ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng đẩy mạnh về phía chúng khiến hai tên này té nhào xuống ngựa.

Vòng vây được nới rộng, vì binh sĩ Mông Cổ thối lui để tránh bầy ngựa. Dương- Qua kêu lớn :

- Gia Luật huynh ! Hãy thoát ra mau lên !

Gia Luật Tề cướp được cây đại kỳ, quay ngựa chạy theo Dương- Qua thoát khỏi vòng nguy hiểm.

Gia Luật Tề nói :

- Dương thế huynh ! Đa tạngười cứu mạng ! Cả thuộc hạ đều bị vây, tôi đã định liều chết với chúng.

Dương- Qua bỗng nảy ra một kế liền bảo :

- Gia Luật huynh ! Hãy đưa cây đại kỳ cho tôi !

Gia Luật Tề liền đ a cây cờ cho Dương- Qua. Chàng lấy lửa đốt cháy ngọn cờ, đoạn nhảy lên lưng ngựa

Gia Luật Tề hội ý nói :

- Thật là diệu kế !

Chàng thúc ngựa, nhặt lên một cây đại kỳ, dùng lửa đốt cháy, đoạn thúc ngựa theo Dương- Qua.

Hai người hét to một tiếng, giục ngựa chạy nhanh như gió. Ngọn hỏa kỳ quạt mạnh trên đầu quân Mông Cổ, khiến chúng tóc tai cháy xém, trán phỏng, mặt nám. Quân Mông Cổ đại loạn, cuốn vó chạy dài.

Gia Luật Tề kiểm điểm lại tàn binh, ba trăm quân chỉ còn sống sót chừng năm sáu mươi người. Chàng kéo lên đồn trú trên gò cao nghỉ ngơi.

Quách Phù tiến đến bên Dương- Qua, vòng tay cúi lạy hai lạy nói :

- Dương đại ca ! Tôi cư xử với đại ca thật bất nghĩa, nhưng đại ca khoan nhân đại độ, lấy ân trả oán, lại cứu ...

Đến đây nàng nghẹn ngào, nói chẳ ng nên lời, chỉ ôm mặt khóc sướt mướt. Dương- Qua thấy nàng biết ăn năn nên mãn nguyện, vội bước đến nâng Quách Phù dậy nói :

- Phù muội ! Theo ta nghĩ, lúc nhỏ ai chẳng thế ! Nhưng biết lỗi mà sửa, đó là chuyện rất hay, ít người làm được. Phù muội ! Dù sao chúng ta cũng còn nghĩa huynh muội, không nên khách sáo làm gì. Ta chỉ mong từ nay muội tử tế với người khác, đấy là điều ta mong ước.

Quách Phù ngây người, hồi tưởng lại những việc xảy ra từ 20 năm về trước, bất giác lòng hối hận dâng trào lên khóe mắt. Gương mặt nàng lúc đỏ lúc nhợt, nhiều ý nghĩ kỳ lạnổi lên khuấy động tâm tư .

Dương- Qua, Tiểu Long nữ, Gia Luật Tề và Quách Tường đứng yên như tượng, đưa mắt nhìn về phía thành Tương Dương khói lửa ngập trời.

Họ thấy Quách Tỉnh và Hoàng Dược Sư đang xua quân đánh vào đoàn quân hậu tập của Mông Cổ, nhưng thế của quân Tống rất mỏng manh, không hy vọng gì chiến thắng đuợc.

Vì quân Mông Cổ rợp trời, dưới ngọn cờ mao chín tụi, chúng tràn như bầy kiến đen ngập cả bốn mặt thành.

Quách Tường hốt hỏang :

- Dương đại ca ! Tính sao đây ?

Dương- Qua nghĩ thầm :

- Ta và Long nhi hội ngộ thật là trời đất ban ơn, dù hôm nay ta có chết đi cũng không oán hận gì. Người trai sinh ra ở đời lấy việc quốc gia làm trọng, chết giữa chiến trường là vinh quang !

Lòng nghĩ như thế, tâm cơ huyết quản của nguời trai sôi lên sùng sục, chàng quay sang bảo Gia Luật Tề :

- Gia Luật huynh ! Chúng ta hãy tiến về thành Tương Dương, đánh với chúng một trận. Gia Luật huynh nghĩ sao ?

Gia Luật Tề nói :

- Như vậy thì hay lắm !

Tiểu Long nữ cùng Quách Tường vội lên tiếng :

- Cho chúng tôi cùng theo với !

Dương- Qua mỉm cười nói :

- Tốt lắm ! Ta đi tiền phong mở lối, ai có thương dài cho ta mượn.

Gia Luật Tề nghe thế liền vẫy đám thủ hạmang đến mỗi người ba bốn cây trường thương cho Dương- Qua sử dụng

104. TIẾNG NÓI SAU CÙNG

Dương- Qua tay cầm trường mâu, giục ngựa chạy như bay tới trước, Thần Điêu cũng giở hết sức lực chạy theo bên chân ngựa.

Tiểu Long nữ, Gia Luật Tề, Quách Phù, Quách Tường bốn người nối gót chạy theo sau. Dương- Qua nhắm ngay cây cờ mao chín tụi chạy như bay đến. Gia Luật Tề kinh hãi, chàng biết rõ dưới cây cờ mao là chỗ Hoàng đế Mông Cổ ngự, dõng tướng cận vệ trên muôn, tả phù hữu bật toàn là những người cừ khôi cự phách, không lẽ Dương- Qua muốn tự sát hay sao ? Trái lại sanh mạng của mình là do Dương- Qua cứu sống, nếu gã đi vào biển lửa, dù sao mình cũng không nỡ bỏ đi cho đành.

Họ chạy rất nhanh, chỉ phút chốc đã rời xa mấy dặm, đến gần duới chân thành Tương Dương.

Bọn tùy tướng của Hoàng đế Mông Cổ thấy Dương- Qua xông đến lướt giáo ngay chỗ đức vua ngự, chúng vội chia quân ra cản trở.

Dương- Qua vũ lộng cây trường mâu nhắm ngay tên cận tướng Mông Cổ đâm một nhát từ trước bụng xuyên ra sau lưng thì Gia Luật Tề cũng vừa phi ngựa đến tận bên chàng, thuận tay Dương- Qua với chộp cây thương trên tay Gia Luật Tề, vì cây mâu của chàng mắc cứng trong thi thể tên cận tướng, kế đó Dương- Qua phóng mạnh vào tên tùy tùng thứ hai, khi cây thương rút ra khỏi xác, máu phun có vòi, tên cận tướng thứ hai cũng nhào lăn chết nốt. Bọn cận tướng còn đang ngơ ngác thì Dương- Qua đã luớt qua trận. Chúng thân binh sợ Dương- Qua phạm đến Hoàng đế, nên chúng chạy như ong, phân gươm đao giáo mạc ra truy cản Dương- Qua.

Chúng có biết đâu cánh tay trái của Dương- Qua có một sức mạnh trầm khiếp, chịu nổi muôn cân vì chàng đã dùng kiếm gỗ luyện nội lực suốt mười năm trời dưới làn sóng triều cuồng nộ, bao nhiêu nội lực truyền vào trường thương, dù cho đá cây cũng phải tan nát thì xương thịt con người chịu sao cho thấu. Cho nên cây truờng thương bay đến đâu là đầu rơi máu đổ đến đấy, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã giết chét trên mười mấy tên thân binh Mông Cổ.

Dương- Qua đã lạc giữa rừng gươm, nhưng chàng đi như vào chỗ không người, chỉ phút chốc chàng đã mở một con đường máu đến gần Hoàng đế Mông Cổ. Hai tên tả phù, hữ u bật vội nhảy đến trước mặt Hoàng đế làm bia đỡ giáo sắt của Dương- Qua. Dương- Qua hớp vào một luồng chân khí, tay vung ra cây trường thương gạt mạnh làm cho chúng ngã nhào xuống ngựa chết tốt. Hoàng đế Mông Cổ hồn vía lên mây, vội kéo cương con tuấn mã quay sang một bên, chạy dài.

Con ngựa của vua Mông Cổ là một loại Thần mã , cổ điểu lưng rộng, tiếng hí như sấm, bốn vó như phong, có tên là "Phi vân mã ", tương đương với con Hãn huyết bảo mã của Quách Tỉnh cưỡi. Dương- Qua nhìn thấy Hoàng đế Mông Cổ giục ngựa chạy như bay biến, chàng biết loại ngựa mà vua cưỡi, nếu không phải Long Câu thì cũng là Thần mã , nên giục ngựa đuổi nhanh, nhưng càng đuổi nhanh thì con tuấn mã của vua Mông Cổ càng lúc càng xa. Dương- Qua sợ mất mồi, vội tung mình xuống ngựa chạy lẹ hơn gió, phút chốc đã đến sau lưng Hoàng đế Mông Cổ, chàng vung trường thương loang loáng nhắm ngay lưng Hoàng đế đâm tới, những tên thân binh hầu cận rụng rời đưa mắt nhìn nhau, lại thấy con Phi vân mã quay đầu lại rất nhanh, cây trường thương của Dương- Qua chỉ cách lưng Hoàng đế trong gang tấc, cây trường thuơng mất đà văng ra ngoài.

Quân Tống ho âto : "Hỏng rồi !" Quân Mông Cổ cả mừng la vang : "Vạn tuế ! Vạn Tuế !" Lúc bấy giờ phía sau lưng Dương- Qua có Nhất-đăng đại sư , Hoàng Dược Sư , Quách Tỉnh, Hoàng Dung đuổi theo rất gấp, nhưng họ đã giục ngựa buông cương. Đàn ngựa này cũng không theo kịp con Phi Vân Mã của vua Mông Cổ, thành ra họ muốn đến trợ giúp cho Dương- Qua cũng không được.

Hoàng đế Mông Cổ có cơ hội thoát nạn, phi ngựa chạy như bay, khi quay đầu lại thấy Dương- Qua còn cách mình khá xa, trong lòng hoan hỉ vô cùng, giơ cao cây trường mâu và kéo một muôn quân đi về hướng Tây. Đạo quân này thấy Hoàng đế mình thoát nạn, cất tiếng hò reo vang trời dậy đất. Dương- Qua bản lãnh cao cường như thế mà không đả thương đuợc Hoàng đế Mông Cổ, chàng tức giận bồi hồi, vùa giở hết nội lực khinh công chạy như bay đuổi theo, vừa chạy vừa nghĩ thầm :

- Cây trường mâu này khá nặng, khó phóng xa được, tại sao ta không dùng đá nhỏ ?"

Nghĩ đoạn, Dương- Qua lấy ra hai hòn đá nhỏ, thi triển môn Đàn chỉ thần công, phi một viên vào đôi chân Phi Vân Mã , làm cho con ngựa đau quá hí lên một tiếng to, nhảy dựng đứng hai chân trước, nhưng không quăng đuợc Hoàng đế Mông Cổ rơi xuống đất đuợc. Bởi vì Hoàng đế Mông Cổ từ thủa bé thơ đến nay chuyên cưỡi ngựa bắn cung, nối chí tổ phụ là Thành Cát Tư hãn và theo sự chỉ dạy của phụ hoàng là Đà Lôi cho nên ngồi trên lưng ngựa có thể ăn, uống, nghỉ ngơi, dù cho biến cố thế nào cũng khó rơi ngã ngựa đuợc. Khi con Phi vân mã vừa nhảy dựng lên là ông rút loan cung ra, đặt vào một mũi tên dài nhắm ngay Dương- Qua bắn tới.

Dương- Qua cúi đầu tránh khỏi, thuận tay vung ra mấy viên đá to, nhỏ, theo chỉ pháp Đàn chỉ thần công bắn ngay ngực Hoàng đế Mông Cổ.

Hoàng đế Mông Cổ không tài nào tránh kịp đòn sát thủ lợi hại này, trúng ngay một thạch chưởng như cả ngọn núi đổ tới, làm cho xương ngực bể tung, máu huyết bắn ra rất ghê sợ, không kịp la lên tiếng nào đã té xuống ngựa chết tốt.

(Tác giả Kim Dung viết theo Nguyên sửÕ trong quyển thứ ba có viết rằng : OĐười vua Hiến Tông tên húy là Mông Ca, kế vị Hoàng đế Đà Lôi ... Đời Hiến Tông thứ chín vào tháng hai Bính Tý, Hoàng đế ngự giá thân chinh công thành Tương Dương bên Trung Nguyên. Công phá lúc thắng lúc bại... đến ngày Quý Hợi, đế băng... không để lại di ngôn nào ...

Theo tài liệu của Tục thông giám, ... Hiến Tông hoàng đế là vị vua cương minh hùng tráng...đốc quân công thành... không ngờ... chúa tể đã thăng hà... Sử Thiên Trạch với quần thần chịu tang nơi đất Bắc...

Tài liệu Tục thông giám khả o dị chép : Nguyên hoàng đế Hiến Tông hành quân đ lâu... ngày Quí Hợi... bị xạthạch, đế băngÕ.

Tác giả dựa theo lịch sử mà viết ra đúng theo Nguyên sử chứ không thêm bớt, có chăng là đề cao tinh thần quốc gia Trung Nguyên mà thôi)

Đoàn binh Mông Cổ thấy nhà vua rơi xuống ngựa, tất cả đều kinh hoàng, chúng xúm lại vực hoàng đế lên và rút lui. Quách Tỉnh thừa thế đuổi theo truy kích.

Chúng binh Mông Cổ thấy tường tận nhà vua bị trúng thương súyt té ngựa hai lần, và bấy giờ Hoàng đế lại băng hà làm cho chúng tiêu tan tinh thần chiến đấu. Hai tên phụ bật vội giựt xác nhà vua chạy thoát hiểm.

Quách Tỉnh thừa thế rượt theo, quân trong thành cũng mở toang cửa ùa ra như nước vỡ bờ. Hoàng dược Sư , Hoàng Dung, Quách Tỉnh đồng huy động nhị thập bát tú trận tàn sát quân Mông Cổ chết vô số kể. Quân Mông Cổ đạp lẫn nhau chạy trối chết về hướng Bắc.

Quách Tỉnh đang đuổi theo, bỗng thấy một đạo quân hàng ngũ rất chỉnh tề, trong quân đưa đến có cờ mao chín tụi, chính là Hiệu kỳ của Hoàng đế Hốt Tất Liệt, đoàn bại binh thấy cứu tinh đến liền xếp thành hàng gia nhập vào đoàn quân của Hốt Tất Liệt.

Tuy Hốt Tất Liệt trị quân rất nghiêm, nhưng bị đoàn bại binh nhập vào và đồn rầm lên là Hoàng đế đã băng hà. Hốt Tất Liệt thấy tình thế rất nguy ngập, vội xuất vài trăm quân đi đoạn hậu để mấy muôn tàn binh rút lui. Quách Tỉnh truy đuổi theo trên ba mươi dặm mới trở về theo sự triệu hồi của biên thủ thành Lữ Văn Hoán, quân Tống ca khúc khải hoàn trở lại thành Tương Dương.

Đêm ấy trong thành Tương Dương bày yến tiệc linh đình để khao ba quân tướng sĩ. Quách Tỉnh bỗng nhiên cảm thấy lòng chua xót, nhớ lại ơn sâu của sư phụ Hồng Thất Công.

Mông Cổ Hoàng đế thân bị tan nát dưới thành Tương Dương nên quân Mông Cổ rút cả về Bắc. Bá tánh trong thành ngoài quận, nhà nhà treo đèn kết hoa làm lễ ăn mừng.

Tuy họ phải chịu cả như cha xa con, vợ mất chồng, nhưng họ rất vui, vì gia đình mình đã đem xương máu bảo vệ ngọn rau tấc đất, sống làm tuớng, chết làm thần.

Đêm nay trong dinh quan trấn thủ Lữ Văn Hoán bày tiệc yến để khánh hạ. Lữ Văn Hoán thấy Dương Qua đã lập được công đầu nên nài nỉ chàng ngồi ghế chủ tọa bữa tiệc. Dương Qua nhất định chối từ. Mọi người nhường chỗ cho nhau rất lâu, sau cùng Nhất Đăng đại sư ngồi ghế đầu, tiếp đến là Hoàng dược Sư , Châu- bá- Thông. Dương Qua, Tiểu Long nữ và Gia Luật Tề ngồi sau. Lữ Văn Hoán trong lòng chẳng vui vì nghĩ : Hoàng đảo chúa, hòa thượng Nhất Đăng tướng mạo rất hiền từ nhưng võ nghệ cao siêu đáng trọng, chỉ có lão Châu- bá- Thông là không được đứng đắn lắm, mà để ngồi trên sao coi được ? Tất cả quần hùng ăn uống luận bàn, ai cũng khoe chiến quả của mình, duy có Lũ Văn Hoán thẹn thùng không nói được nửa câu.

Rượu được vài tuần, từ quan viên, đại tướng, đến thân binh lần lượt đến chúc tụng Quách Tỉnh và Dương Qua. Họ tán dương ca tụng hai người, nào là tài ba lỗi lạc, võ nghệ siêu quần, cừ khôi cự phách, đại hào kiệt, đại anh hùng, làm cho Quách Tỉnh và Dương Qua nhắm ít rượu của mỗi người mà muốn say.

Quách Tỉnh nhớ đến công ơn của sư phụ, bèn nói :

- Sở dĩ Quách mỗ lập được kỳ công, là nhờ Toàn Chân giáo chủ Khưu Xứ Cơ, với bả y vị ân sư từ xa lặn lội đến Mông Cổ, và công ơn lớn là của Hồng Thất Công nuôi dạy mới có được ngày nay. Hôm nay quý vị hoan hô chúc tụng, tôi xin dâng lên anh hồn của các vị ân sư , trừ ra Kha ân sư là người danh tiền ! Theo tôi nghĩ chúng ta nên tưởng niệm anh hồn những người đã khuất.

Nhất Đăng biết rõ việc này, nên tỏ vẻ chia sẻ tâm tình với Quách Tỉnh. Riêng viên sứ quân Lữ Văn Hoán là một văn quan bổ nhiệm, có óc khinh người, lại thêm tự tôn tự đại, nên ông nghĩ thầm :

- Bọn thảo mãng này thật không biết kính trọng là gì. Thực là phường cỏ dại, hoa đường không biết lễ phép, đang khi vui vầy khánh chúc, nó lại đem người chết ra tán tụng, thật vô lễ hết sức.

Quách Tỉnh lại nói :

- Bây giờ đại sự đã yên, tôi muốn ngày mai chúng ta lên đỉnh Hoa Sơn mà tảo mộ cho ân sư .

Dương Qua nói tiếp :

- Chính tôi cũng muốn nói câu này, vậy chúng ta đi cùng một lượt được chăng, Quách bá bá ?

Nhất Đăng, Hoàng dược Sư ,Châu- bá- Thông ngồi yên đợi mọi người tưởng niệm các vị lão hữu đã tạ thế, cũng tán đồng ý kiến của Quách Tỉnh, Dương Qua. Đêm nay quần hùng họp nhau ăn uống chuyện trò đến nửa đêm mới đi nghỉ.

Sáng hôm sau, họ tụ tập nhau lại trước dinh của Lữ Văn Hoán để chia tay, quan quân và dân chúng đều cảm ơn Quách Tỉnh và quần hùng, nên hợp thành đoàn đưa ra khỏi cửa Bắc trên dặm dường mới trở lại, đoàn người thẳng hướng Hoa Sơn tiến tới.

Riêng Châu- bá- Thông, anh em họ Võ, Lục Vô Song và Tứ Thủy Ngư ẩn thương thế chưa lành, nên cả đoàn phải cho ngựa đi chậm để chờ mấy người này. Lúc bấy giờ không còn việc gìquan hệ, nên quần hùng thong thả, đi rất chậm độ 10 dặm đường mỗi ngày.

Không đầy mười ngày sau, đoàn người đ đi đến chân núi Hoa Sơn, những người bị thương nhờ dưỡng sức lúc đi đường cho nên đến nơi họ đã thuyên giảm rất nhiều.

Từng người một leo lên núi. Dương Qua đưa Quách Tỉnh đến nơi phần mộ của Âu Dương Phong và Hồng Thất Công,

Hoàng Dung thìở dưới chân núi mua cải tươi, gà béo để làm cỗ, vì lúc sanh tiền Hồng Thất Công rất thích món gà hấp cải nên Hoàng Dung làm cúng để tưởng niệm.

Tất cả quần hùng đều bái lễ trước mộ phần của Hồng Thất Công, riêng Quách Tỉnh do dự không muốn lạy vì ngôi mộ của Hồng Thất Công nằm ngay kế mộ của Âu Dương Phong Tây Độc là người thù không đội trời chung của Quách Tỉnh. Lúc Âu Dương Phong còn sống đã giết chết các ân sư của ông là Châu Thông, Hàn Tiểu Oanh, Hàn Bửu Câu. Tuy đó là chuyện đã qua, nhưng Quách Tỉnh vẫn chưa quên mối đại thù, cho nên ông đứng xéo qua một bên để lạy mộ Hồng Thất Công. Chỉ có Dương Qua và Tiểu Long nữ nhớ đến cựu tình của Âu Dương Phong là cha nuôi nên đến trước mộ Âu Dương Phong lễ bái.

Châu- bá- Thông cũng đến trước mộ Âu Dương Phong xá vài cái và kêu lớn :

- Lão độc vật ! Bớ lão độc vật ! Lúc sanh tiền ngươi tạo ác đa đoan, lúc chết lại xui cho ngươi được nằm bên lão Hồng, khiến cho người không muốn nhìn, cũng phải lạy ngươi, thực là tam sanh hữu hạnh cho ngươi. Hôm nay mọi người đều quỳ bái lão Hồng mà không ái ngó ngàng đến mồ mả của ngươi. Chỉ có vợ chồng thằ ng nhãi con Dương Qua là nó cúi đầu trước mộ ngươi, vậy hồn ngươi có linh thì về mà chứng chiếu!

Nói xong ông giả bộ khóc hu hu, làm mọi người đều cười ầm lên. Mọi người bày rượu cải gà ra ăn uống trước mộ. Xảy nghe từ sau núi đưa đến những tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng, nghe rõ thật là có tiếng hò hét đánh nhau.

Châu- bá- Thông lật đật quăng chén đũa chạy ra sau núi xem, vài người cũng bỏ dỡ cả ăn uống chạy theo Châu- bá- Thông, khi chạy qua khỏi hai ngọn đồi nhỏ, họ thấy một nhóm người tụ hội trên mặt đá phẳng, già có, trẻ có, cao có thấp có, cả tăng lẫn tục, cả nữ lẫn nam, mỗi người đều cầm trên tay một thanh kiếm hoặc đao.

Mọi người đang đánh kịch liệt, nhìn thấy Nhất Đăng, Hoàng dược Sư , Quách Tỉnh đến, đều cho là khách du sơn không ai thèm ngó tới. Lại thấy một tên đại hán thân thể như hộ pháp cất tiếng nói to :

- Chúng ta không nên đánh nhau để làm trò cười cho thiên hạ. Chỉ có cãi nhau về danh hiệu Thiên hạđệ nhất cao thủ mà nỡ đánh nhau ư ? Hôm nay hảo hán các nơi kéo về đây tụ hội, thì chúng ta hoặc đao kiếm, hoặc chưởng cước, hãy đem ra tranh hùng. Để xem ai thắng ai bại, chừng nào chúng ta khâm phục thực sự, thì hãy tôn người ấy lên làm Đệ Nhất Cao Thủ, phải vậy chăng ?

Lão già râu dài, vung kiếm múa loang loáng nói :

- Đúng đấy ! Lão có nghe các giới võ lâm đồn đại, trên đỉnh Hoa Sơn có câu chuyện Hoa Sơn luận kiếm, thì chúng ta cũng nên ngồi luận bàn lại, để xem kẻ anh hùng đuơng thời hiện ở đâu.

Bọn họ đều ho âto Ûđ ồng ýÕ, tất cả đều ngưng lại không đánh nhau nữa. Một người có vẻ cao nhất bọn, chống kiếm hô to :

- Có vị nào dám tỉ thí với ta ? Hãy vào đây !

Vừa nói vừa nhìn sang nhóm người của Đông Tà, Nam Đế như khiêu khích.

Châu- bá- Thông, Hoàng dược Sư và Nhất Đăng tất cả nhìn bọn này, không biết một người nào cả.

Lần thứ nhất luận kiếm Hoa Sơn, thì Quách Tỉnh vẫn chưa ra đời, chỉ có Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái và Trung Thần Thông năm người họp nhau tranh quyền làm chủ quyển Cửu Âm Chân Kinh, họ ước hẹn tại đỉnh Hoa Sơn để đấu võ, người nào võ nghệ cao nhất sẽ được quyền giữ Cửu Âm Chân Kinh, kết quả Vương Trùng Dương Trung Thần Thông chiến thắng cả bốn người, được tôn xưng là Thiên hạ đệ nhất cao thủÕ.

Đến hai mươi lăm năm sau, Vương Trùng Dương đã tạthế. Lần này Hoàng dược Sư mở cuộc luận kiếm tại Hoa Sơn, vẫn còn đủ Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, nhưng vẫn thiếu một vị thế vào ngôi Trung Thần Thông. Lúc ấy có Châu- bá- Thông, Cừu Thiên Nhận và Quách Tỉnh ba người sau tham dự, tuy mỗi người đều là tay cự phách nhưng chẳ ng ai thắng nổi các phương vị Đông Tây Nam Bắc, cho nên cái chức Thiên hạ đệ nhất cao thủÕ không về tay ai cả. Không ngờ ngày hôm nay tình cờ lại thấy một cuộc luận kiếm thứ ba, không ưước hẹn. Hoàng dược S lấy làm ngạc nhiên lắm, nếu bọn này mở cuộc luận kiếm Hoa Sơn thì ít ra trong nhóm người này ông cũng biết được một hoặc hai chứ, có lẽ nào lại phù hợp với câu :

Trường Giang hậu lăng suy tiền lăng Nhứt bối tâm nhân thắng cựu nhân

Dịch :

Sông Trường Giang sóng sau đè sóng trước, nguời mới thắng người xưa ?

Có lẽ nào ta là Hoàng dược Sư mà lại là hạng người ếch ngồi đáy giếng ? Lại thấy trong nhóm người này, có sáu người cầm gươm đao giáo mác nhảy ra đánh túi bụi. Qua vài thế võ, Hoàng dược Sư , Châu- bá- Thông nhìn thấy tức cười nôn ruột, chính đại sư Nhất Đăng là người ôn hòa thuần hậu, nghiêm nghị từ bi cũng nhịn không được, mỉm cười chúm chím.

Vài phút sau, Châu- bá- Thông, Hoàng dược Sư , Dương Qua, Hoàng Dung, Quách Tỉnh tất cả đều người cười khúc khích, người cười hi hí, chỉ có Châu bá- Thông cười lên ha hả.

Nguyên mấy người này mới học đâu đuợc vài thế võ Thần đồng tấn nhứtÕ, ÛMai hoa quyền thực là hạng bét của võ lâm, nếu đem ra so sánh thì sẽ thua xa hai chị em Quách Phù, hoặc anh em họ Võ. Vậy mà chúng dám đại ngôn lên Luận kiếm Hoa Sơn để tranh chức Thiên hạ đệ nhất cao thủÕ, tuy chúng thuộc vào hàng tiểu bối hạ thừa, nhưng múa máy trông rất ngoạn mục. Sáu người này đang đánh nhau say sưa, họ thấy Châu- bá- Thông ôm bụng cười dài, tức giận không đánh nhau nữa mà hét to :

- Không biết sống chết ất giáp gì mà cười à ? Lão già đang tỉ võ luận kiếm hay sao chứ ? Tất cả các ngươi hãy xuống núi tức khắc nếu không chúng ta làm hại đến tính mạng thì chớ than !

Dương Qua chẳng nói gì, vận nội lực dồn vào ngũ tạng, đoạn cất tiếng cười ha hả vang dội, rúng động cả gió núi mây ngàn, lúc đầu chàng cười có vẻ vui tươi, kế đến là một tràng cười điên dại, tiếng cười nặng nề làm cho cây rừng rung chuyển, tiếng cười tựa sấm động núi băng, tiếng cười nghe rầm rầm rộ rộ như muôn binh thao luyện ! Tiếng cười o o vu vu như muôn mũi tên bay. Tiếng cười của Dương Qua làm sáu tên này run cầm cập, bao nhiêu vũ khí binh đao rớt nhào xuống đất. Dương Qua thấy vậy bước lại nói :

- Ta sẽ lãnh giáo tất cả ! Cả bọn mười người lớp lết, lớp bò, ngổn ngang như cua, không dám lượm võ khí hay quay đầu lại, chỉ la lên :

- Chạy mau ! Chạy mau ! Thần Điêu Đại hiệp giá lâm !

Trong khoảnh khắc chúng chạy xuống núi mất dạng. Bà Anh Cô, Quách Tường và Quách Phù cười nôn ruột nói chẳng ra lời. Bọn háo danh doạ người, chúng không dè trước mặt chúng là những người đã Luận kiếm Hoa Sơn từ lần đầu tiên.

Châu- bá- Thông trịnh trọng nói :

- Ngày trước trong thiên hạ có Ngũ Bá, bây giờ Tây Độc, Bắc Cái, Trung Thần Thông đã khuất núi, hôm nay trong võ lâm chỉ còn hai người làm sao xưng được Võ lâm ngũ bá ?

Hoàng Dung mỉm cười nói :

- Nhất Đăng đại sư và gia gia võ công trác tuyệt quần hùng, thì vẫn còn giữ lại hai ngôi Đông và Nam. Hôm nay muốn lập lại Ngũ Bá thì cũng chẳng khó khăn gì. Như tiểu điệt Hoàng Dung đây có thể gọi là nối chí cho Bắc Cái là một, và Dương Qua tuy tuổi còn trẻ, nhưng võ công trác tuyệt, thống lãnh quần hùng, lại là con nuôi của Âu Dương Phong, có thể nối chí Tây Độc.

Châu- bá- Thông lắc đầu nguầy nguậy nói :

- Không được ! không được !

Hoàng Dung hỏi :

- Tại sao không được ?

Châu- bá- Thông nói :

- Âu Dương Phong xưng là Tây Độc, tâm tính độc địa ! Còn Dương Qua hiền lành, lại độc thủ, gọi là Tây Độc nghe không ổn, và không xác nghĩa.

Hoàng Dung cười nói :

- Nếu vậy thì chúng ta cải lại các danh hiệu thì mới ổn. Gia gia không cần phải cải danh hiệu nữa, cứ xưng là Đông Tà như cũ là được. Nhất Đăng đại sư không còn là Hoàng đế mà là hòa thượng, gọi là Nam đế không được, nên đổi lại là Nam Tăng. Còn Qua nhi, theo tôi nên đặt cho nó một chữ ÛCuồng là hạp nhất ! Vậy Lão Ngoan đồng nghĩ xem : Đông Tà, Nam Tăng, Tây Cuồng có ổn chăng ?

Hoàng dược Sư nói nhanh :

- Hay lắm, hay lắm ! Đông Tà, Tây Cuồng, một già một trẻ, là hợp ý ta nhất. Danh hiệu này ta đồng ý lắm. Qua nhi, ngươi thấy sao ?

Dương Qua khiêm tốn nói :

- Tôi tuổi trẻ tài sơ, đâu dám cùng quý vị tiền bối sánh vai ?

Hoàng dược Su nói :

- Tốt lắm, người bạn nhỏ ! Người bằng lòng nhận chữ Tây Cuồng đi ! Vì cuồng mà không dại thì đã sao ? Phải nói là hôm nay danh dự của ngươi đã khá cao, võ công lại tuyệt giỏi, có thể hơn Lão Ngoan đồng một phần.

Sở dĩ Hoàng dược Sư nói thế là thấy Hoàng Dung không đề cập đến Lão Ngoan đồng, biết là con gái mình muốn kiếm chuyện khích cho lão tức giận chơi, nên ông kiếm chuyện nói ra.

Dương Qua đã rõ ý Hoàng Dung, nên ngó Tiểu Long nữ mỉm cười và bảo :

- Chữ Cuồng thực hợp với ta lắm.

Châu- bá- Thông ngó Hoàng Dung châm bẵm, nói :

- Bé Dung, ngươi đã cải Đông Tà, Nam Tăng, Tây Cuồng, còn Bắc Cái không cải hiệu hay sao ?

Chu Tử Liễu nói :

- Hào kiệt đương thời, ai ai cũng suy tôn Tỉnh huynh là Quách đại hiệp, đã mười năm bảo quốc an dân, cố thủ thành Tương Dương, thực xứng với danh hiệu hiệp sĩ lắm. Theo tôi nghĩ ít có người bì kịp. Vậy ta nên cải lại là Bắc Hiệp, ắt mọi người sẽ cảm phục.

Nhất Đăng và Võ Tam Thông đều vỗ tay đồng ý. Hoàng dược Sư nói :

- Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, vậy là đủ và hợp danh nghĩa lắm. Chỉ có Trung ương còn thiếu một vị, không rõ nên chọn ai và cải danh hiệu thế nào ?

Châu- bá- Thông ngó Hoàng dược Sư trân trối, chỉ thấy lão ngó lại ông mỉm cười và nói :

- Dương phu nhân là Tiểu Long nữ là người đệ tử chính tông của Cổ Mộ phái, là ái đồ của Lâm Triều Anh nữ hiệp, oai trấn giang hồ, nàng có thể nối chí được Vương Trùng Dương chân nhân. Vả lại, phái Cổ Mộ còn di truyền môn Ngọc Nữ Tố Tâm Kiếm Pháp. Hôm nay anh hùng nữ hiệp họp nhau ở Hoa Sơn đỉnh để luận kiếm, chứ không phải chỉ có việc đổi danh hiệu. Dương tiểu huynh đệ lại học được võ công từ phu nhân, tất nhiên gọi vợ là thầy, không lẽ đệ tử nổi danh trong Ngũ Bá mà lại không đề cập đến thầy hay sao ? Vậy theo ý tôi nên chọn Tiểu Long nữ vào Trung ương để nối chí Trung Thần Thông là nhất với chữ Thiên ha ïđệ nhất cao thủÕ!

Tiểu Long nữ cả cười nói :

- Việc này muôn ngàn lần tôi không dám dự !

Hoàng dược Sư cố tình trêu chọc Châu- bá- Thông nên nói tiếp:

- Nếu Dương phu nhân không nhận thì để cho Dung nhi vậy ! Quách phu nhân võ công quán chúng, mưu lược xuất thần, từ xưa đến nay lấy trí thắng lực, có thể liệt nó vào hàng Võ Lâm Ngũ Bá, nối chí Vương Trùng Dương mà an vị ngôi Trung ương !

Châu- bá- Thông vỗ tay cười nói :

- Hay lắm ! Hay lắm ! Ta nói thật chứ Hoàng lão tà hay Quách đại hiệp ta cũng không phục đâu. Ta chỉ phục con bé Dung là có thể đứng vào hàng võ lâm ngũ bá, xứng đáng chữ Thiên hạđệ nhất cao thủÕ, lão đồng ý, đồng ý !

Mọi người đều ngơ ngác, không ai ngờ lão lại nói thế. Chính ra Hoàng dược Sư và Nhất Đăng biết Châu- bá- Thông xứng đáng đứng trong ngũ bá, nhưng sở dĩ Hoàng dược Sư không đề cập đến lão, cố tình đưa Hoàng Dung lên làm chức vị Trung ương là muốn trêu chọc khích nộ lão cho vui. Không ngờ lãa lại không nghĩ tới điểm gì về vấn đề này, thật là một người xứng đáng trọng vọng, thiên tính hiền hòa, không ham danh háo lợi, quyết không nghĩ đến mình thuộc hàng tiền bối cao nhân.

Hoàng Dược sư nói :

- Lão Ngoan đồng ! A ! Lão Ngoan đồng ! Thực chỉ có Châu huynh mới xúng dáng được nể trọng hơn ai cả ! Ta Hoàng lão ta danh hiệu đạm bạc, Nhất Đăng đại sư danh hiệu Hảo, chỉ có Châu huynh tấc lòng trong sạch, không bợn chút bụi đời, vả lại cái danh hiệu Ngoan đồng rất phù hợp. Vậy thì ta nên đặt lại danh hiệu ngũ bá như thế này : Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan đồng. Trong hàng ngũ bá, Châu huynh đứng đầu phải chăng ?

Mọi người nghe võ lâm ngũ bá xưng danh Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan đồng, cái danh hiệu nghe qua rất quái gở, ai cũng bắt tức cười.

Sau khi phân chọn xong, môĩ người đi xuống núi Hoa Sơn dạo xem phong cảnh.

Dương Qua đưa tay chỉ ngọn đồi Ngọc nữ và bảo Tiểu Long nữ :

- Long nương ! Em có Ngọc nữ kiếm pháp, tại sao chúng ta không đến dạo chơi đồi Ngọc nữ ?

Tiểu Long nữ cả cười nói :

- Nên đi chứ !

Hai người nắm tay nhau đi lên đồi Ngọc Nữ, dọc theo đường lên đồi hai bên lộ hoa cỏ xinh tươi, hương hoa của núi rừng bay bát ngát, khi đến ngọn đồi thấy một tòa miếu nhỏ, trước miếu có một con ngựa đá đứng chầu vào. Nhìn lên tấm hoành treo trước miếu có đề Ngọc Nữ TừÕ, bước vào trong thất bên hữu của ngôi miếu có một hòn đá lõm sâu chứa một vũng nuớc xanh biêng biếc. Lúc Dương Qua ở Hoa Sơn có nghe Hồng Thất Công kể lại, liền day qua bảo Tiểu Long nữ :

- Đây là nơi gội đầu của Ngọc nữ, quanh năm nước không cạn.

Tiểu Long nữ nói :

- Vậy chúng ta nên vào chánh điện để lạy cầu chư vị thần linh !

Hai người bước vào chính điện, nhìn thấy tượng thần Ngọc Nữ đã phai màu vàng mạ, nhưng dung nhan cực kỳ diểm lệ, mắt phượng mày ngài, mũi thẳng, mồm hoa, oai phong lẫm liệt, thực giống tượng Lâm Triều Anh ở Cổ Mộ. Cả hai đều kinh ngạc nói :

- Không lẽ đây là tượng của Sư tổ ?

Dương Qua nói :

- Lâm sư tổ thủa xưa hành hiệp khắp thiên hạ có nhiều người mộ ân mến đức, lập miếu mạo để thờ, cũng có lẽ miếu này thờ Lâm sư tổ !

Tiểu Long nữ ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói :

- Chắc hẳn là thế. Nếu là vị tiên cô thường thì ai lại tạc thạch để thờ, chỉ có Lâm sư tổ suốt đời hành hiệp, tung vó ngựa khắp nơi, mới có tạc thạch ghi công đức người anh thư nữ kiệt.

Họ đứng một lúc lâu, cả hai vì lòng sùng kính họ cúi xuống khấn thầm :

- Xin tổ sư chứng giám cho chúng tôi được bền duyên tơ tóc đến trăm năm !

Khấn xong hai người đứng dậy bước đến gần thần tượng để chiêm ngưỡng. Bỗng có tiếng chân động nhẹ sau lưng, hai người quay lại thì thấy Quách Tường.

Dương Qua vui mừng nói :

- Tiểu muội tử, hãy cùng đi du ngoạn với chúng tôi nhé !

Quách Tường nói :

- Được vậy thì còn gì bằng !

Dương Qua đi trước, Tiểu Long nữ nắm tay Quách Tường theo sau. Khi ba người đi ra khỏi điện thờ độ mười bước, họ thấy một hòn đá to nằm về phía hữu, cả ba đi lại xem thấy khuất sau hòn đá này là một cửa hang. Quách Tường nhìn vào trong, cảm thấy một luồng gió lạnh hắt vào mặt, cả ba vội bước vào trong. Thấy hang này sâu không kém cái hang ở Tuyệt Tình Cốc, nhưng có lối đi lần xuống rất dễ, cả ba đã quen nguy hiểm nên không còn biết sợ là gì, vẫn bước xuống hang sâu. Tiểu Long nữ nắm chặt tay Dương Qua và Quách Tường nói :

- Hãy cẩn thận !

Dương Qua nói :

- Chẳ ng lẽ cái hang này đi không ra sông Hoàng Hà hay sao ? Hoặc nó ăn thông xuống Thủy phủ ? Đời Đuờng Huyền Tông có hạn ở phương Bắc, vua Đường viết thư cầu mưa, đem thả xuống sông Hoàng hà để mong thư này được đưa xuống Thủy phủ ?

Quách Tường nói :

- Vậy sông Hoàng hà đáng ngại lắm sao ?

Dương Qua nói :

- Ta nghe lời truyền tụng của mấy bô lão chứ chưa đi đến nơi này, không rõ sông Hoàng hà có đi thông xuống địa phủ chăng ?

Quách Tường nói :

- Lúc Đường Huyền Tông hạ chiếu đồ thư , chắc là có Duơng Quý Phi ở bên cạnh. Vậy chiếu chỉ của Hoàng đế gửi đi có cầu được mưa không ?

Dương Qua cười nói :

- Tiểu muội hỏi ta, ta chẳng biết trả lời sao. Những việc của nhà trời làm sao ta biết ! Trời muốn mưa là mưa, muốn không là không, đã là trời thì đâu cần nghe lời Hoàng đế.

Quách Tường nhìn xuống hang sâu tỏ vẻ buồn, nói :

- Đến như Hoàng đế Vạn Thắng Chí Tôn, cũng không chắc mọi việc đều vừa lòng.

Dương Qua nghe nàng nói vậy, lòng chàng suy nghĩ, toan dùng lời an ủi cho cô bé vui lòng. Chàng toan mở lời an ủi thì nghe Tiểu Long nữ suỵt một tiếng và nói khẽ :

- Có người đi lại ! Ba người vội lần lên miệng hang, đưa mắt quan sát thì thấy từ phía gành đá co hai người bò thoăn thoắt trên thảm cỏ tựa hồ như cặp rắn. Hai người có võ lực khinh công thật cao, họ bò thoăn thoắt như tên bay, không gây tiếng động mạnh. Dương Qua nói khẽ :

- Hai người này làm ma quỷ gì thế ? Võ công chẳng yếu mà làm ra vẻ núp lén sợ sệt thế kia ? Họ lên núi Hoa Sơn ắt hẳn có duyên cớ gì chớ, chúng ta hãy nom theo xem chúng giở trò gì?

Thế là cả ba người núp sau phiến đá dưới tàng cây đại thọ chờ đợi. Trong phút chốc bọn chúng đã đến gần. Lúc bấy giờ khí trời bắt đầu lạnh vì màn đêm kéo đến đã lâu, nửa vành trăng non lơ lửng trên nền trời xanh ngắt. Quách Tường đứng bên Tiểu Long nữ, nàng không quan tâm đến hai người lạ, chỉ nhìn theo bóng Dương Qua mà nghĩ thầm : Nếu trọn đời ta được như thế này, theo mãi bên Dương đại ca và Long tỉ tỉ thực không có gì bằ ng !

Nàng thấy cả như tượng này rất hạnh phúc, nhưng thời gian không thể kéo dài, cho nên vẻ mặt của Quách Tường in rõ một nỗi buồn man mác. Tiểu Long nữ nhìn theo làn sương mờ, liếc thấy nơi khóe mắt Quách Tường đẫm ướt đôi dòng lệ, Tiểu Long nữ lại nghĩ : Cô bé này cảm tình rất lạ, không hiểu nó có tâm sự gì mà chẳng tiện nói ra. Ta và Dương lang hãy dò hỏi xem nó có cần giúp đỡ gì, thì hãy giúp cho tròn để nói không âu sầu nữa.

Ôi, Tiểu Long nữ có ngờ đâu, trong đời này lại có nhiều chuyện éo le, mà không ai có thể giúp đỡ được.

Hai người lạ len lỏi đến gần hòn đá, chúng đứng núp sau phiến đá to, trong giây phút một người nói :

- Tiêu Tương huynh, núi Hoa Sơn rừng dày cây rậm, lão trọc đầu thần thông quảng đại đến bực nào cũng không thể biết chỗ mà tìm. Chúng ta hãy chờ ít hôm nữa, nếu không thấy lão trọc đầu lai vãng đến, chúng ta hãy lên đường trở về Tây Vực.

Dương Qua không nhìn rõ mặt mũi hai người nhưng nghe qua tiếng nói của hai người thì chàng độ là Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử. Bởi lẽ rất dễ hiểu là người này gọi người kia là Tiêu Tương huynh, thì chắc là Tiêu Tương Tử chứ gì. Dương Qua nghĩ thầm :

- Chư võ sĩ giúp Mông Cổ, giúp kẻ ác như Kim Luân Pháp Vương và Ni ma Tinh đều bị tiêu diệt, Đạt Nhĩ Ma và Mã Quang Tổ làm ác chẳng nhiều nên chúng đã trở về xứ sở, chỉ còn lại hai tên ác đồ là Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử, hai tên ác tặc này đã mấy lần ta tha mạng sống nhưng ác tính vẫn còn, không rõ hôm nay chúng đã tạo ra chuyện tác tệ gì nữa đây ?

Tiếng Tiêu Tương Tử nhỏ như hơi thở :

- Doãn huynh chớ vội mừng, lão trọc nếu không kiếm ra chúng ta thì sẽ xuống núi ngồi rình theo đường cái. Đợi chúng ta xuống dưới là lão tóm liền/.

Doãn Khắc Tây nói :

- Tiêu Tương huynh mưu cao kế thâm, sự lo xa này hợp lý lắm. Vậy Tiêu huynh có kế gì hay không ?

Tiêu Tương Tử đáp :

- Tôi có một kế như thế này : Trên núi Hoa Sơn có một ngôi chùa cao von vót kia, chính là chỗ chúng ta có thể ẩn thân được. Vậy chúng ta hãy lên quan sát ngôi chùa, bất luận là chùa Phật hay Âm tiên, trụ trì là Hòa thượng hay Đạo sĩ, chúng ta hợp nhau giết chết trụ trì, chiếm lấy ngôi chùa mà ẩn thân. Lão trọc không lẽ ỏ năm này tháng kia chầu chực mãi hay sao? Lão có giỏi lắm là chịu đuợc 2 tháng, lúc ấy lão sẽ nghĩ chúng ta bị hùm tha sấu nuốt rồi, lão sẽ ngã lòng mà trở về.

Doãn Khắc Tây cả mừng nói :

- Tiêu Tương huynh, kế hoạch này rất hay !

Doãn Khắc Tây mừng quá nói rất to. Tiêu Tương Tử hỏang hồn nói :

- Suỵt ! Nói khẽ chứ !

Doãn Khắc Tây điềm nhiên nói :

- Phả i đó, tôi hoan hỉ quá nên quên để ý !

Theo lời hai ngưòi này nói, Dương Qua đã hiểu mọi việc. Chàng lấy làm lạ nghĩ thầm : ÛHai tên ác đồ này lại sợ lão hoà thượng, không rõ chúng sợ vấn đề gì? Theo công phu của chúng, trừ ra Hoàng dược Sư , Quách bá bá, đại sư Nhất Đăng, chưa dễ gì có người chống lại với chúng, và lai chúng liên kết với nhau thì sức lực càng mạnh hơn, tại sao lại sợ lão hòa thương ?

Vậy lão hòa thượng là ai ? Chàng lại suy nghĩ Nếu hai tên này giết người cướp chùa, ta há lại khoanh tay đứng nhìn hay sao ?Õ

Lại nghe từ xa vọng đến tiếng kêu của Quách Phù :

- Dương đại ca ! Dương đại tẩu ! Nhị muội ! Mau về ăn cơm !

Dương Qua quay đầu nhìn Tiểu Long nữ và Quách Tường xua tay ra hiệu bảo đừng lên tiếng. Quách Phù lại kêu một hồi nữa rồi ngừng bặt. Tiếp theo đấy là một giọng trầm trầm trỗi lên :

- Kẻ trộm sách, mau hiện hình lên, để chúng ta bàn lại ! Hỡi kẻ trộm sách !

Theo giọng nói của người này đúng là một tay võ công cao trọng, nội lực phi phàm, có thể ngang bằng tiếng hú của Dương Qua.

Dương Qua cả kinh nghĩ :

- Ta không dè trên đời này lại còn kẻ cao diệu đến thế ?

Dương Qua lẻn nhẹ ra ngoài nhìn cho tường tận. Chàng lắng nghe rõ là tiếng chân của hai người, một vị tăng gia mặc áo thụng màu nâu và môt chú tiểu tuổi vừa đôi tám. Chính lão tăng này đi tìm Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử. Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây hai người nằm mọp xuống đất không dám thở một làn hơi nhẹ. Dương Qua thấy hình dáng và lời nói của lão tăng, chàng lấy làm lạ nghĩ thầm :

- Ta và Tiểu Long nữ khinh công và võ thuật chưa hẳn bằ g lão tăng này, đi trên sườn núi mà đeo theo chú tiểu chạy như bay, thật là ít người sánh kịp. Chính Hoàng dược Sư , Quách Bá bá và Nhất Đăng đại sư chưa hẳ n địch lại lão. Tại sao trên chốn giang hồ chưa nghe tên tuổi của lão ?

Hai thầy trò lão tăng đi như gió, lùng kiếm xục xạo khắp chốn vẫn không thấy tung tích hai nguời, liền đi sang hướng Tây. Dương Qua thấy vậy phất tay áo đúng dậy. Quách Tường nhịn không được liền hô to :

- Bớ hòa thượng, hai người đó ở tại đây !

Tiếng nói Quách Tường vừa dứt, bỗng nghe tiếng gió veo veo, hai mũi ám khi nhắm ngay óc Quách Tường bắn tới. Dương Qua lanh mắt trông thấy liền giũ tay áo gạt phăng hai mũi ám khí. Quách Tường võ công không thâm hậu nên tiếng kêu léo nhéo, hai thầy trò lão tăng không rõ, càng đi thật mau về hướng Tây. Quách Tường cả kinh nói với Dương Qua :

- Đại ca ! Hãy kêu phụ tôi với !

Dương Qua liền cất tiếng ngâm lớn :

- Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ Vô duyên đối diện bất tương phùngÕ Tiếng ngâm vang dội cả núi rừng, làm cho hai thầy trò lão hòa thượng đã đi đến sườn non bỗng dừng lại, lão hòa thượng quay đầu lại hỏi :

- Nhọc công người chỉ lối mê tân !

Dương Qua cao giọng ngâm tiếp :

Đạp phá thiết hài vô mịch xứ Đắc lại toàn, bất chí công phu (Trổi gót sắt đi tìm cùng khắp Khi đựoc rồi chẳng uổng công phu) Hai thầy trò lão tăng mừng rỡ, quay gót trở lại nhắm hướng Dương Qua thẳng tới.

Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử cũng nghe rõ mồn một. Lúc trước Ni ma Tinh và Doãn Khắc Tây đã khiếp vía trước tiếng la của Dương Qua, bây giờ được nghe lại hồn vía đã rụng rời, vội kéo Tiêu Tương Tử chạy thóat thân. Dương Qua nhìn thấy lão hòa thượng đi rất nhanh, nhưng bị các chướng ngại vật là gai cỏ lỗ hang ở triền Hoa Sơn cản trở, nếu để hai tên ác đồ này thoát thân thì biết lối nào tìm ra chúng, vì bóng đêm đã dày mịt, bởi vậy Dương Qua nhắm ngay hướng Tiêu Tương Tử đã ném ám khí hại Quách Tường lúc nãy, mà đưa ra một loạt hai đàn chỉ thần công. Tiếng Ûtình tangÕ nổi lên nhẹ hướng vào Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây xạ tới. Dương Qua không rõ hai tên ác đồ đã phạm tội khinh trọng ra sao, cho nên chàng chỉ làm cho chúng biết tay để chúng sợ không dám trốn thoát. Hai người bị Dương Qua ra mặt cản trờ, liền ra khỏi chỗ núp dựa lưng vào vách đá. Chúng biết khó thoát khỏi tay chàng độc thủ, nên cả hai vội rút binh khí hộ thân. Một người tay cầm gậy khốc tang, một người cầm roi kim long thủ thế đứng chờ. Hai thầy trò lão tăng đã đến nơi, chỉ thấy Doan Khắc Tây và Tiêu Tương Tử mà không thấy kẻ hỗ trợ mình, nên chỉ biết vòng tay thi lễ và nói :

- Tiểu tăng pháp danh là Giác Viễn, môn phái Thiếu Lâm Tự kính tạc sĩ giúp đỡ.

Dương Qua liếc nhìn thấy lão tăng này thân hình tao nhã , cốt cách phi phàm, tiếng nói tựa chuông ngân, nếu ông không có đầu tròn áo vuông, thực là một vị tướng công sang cả. Nếu đem ra so sánh lão tăng với Hoàng dược Sư , thì Hoàng dược Sư lại kém hơn ông ở dáng điệu hào hoa phong nhã , nếu đem so sánh với Chu Tử Liễu thì lại hơn Chu Tử Liễu cái tác phong kim mã ngọc đường, có vẻ triều đình quý phái.

Giác Viễn đại sư , tuối quá năm mươi, nhưng thư sách, thi phú, trù tụng, kinh pháp đều lầu thông hết cả, thật là một người thâm nho bác học.

Dương Qua chẳng dám chậm trễ, vội vã bước ra vòng tay thi lễ :

- Tiểu tử là Dương Qua, xin bái kiến đại sư !

Chàng vừa nói vừa suy nghĩ :

- Nơi chùa Thiếu Lâm, ta đã quen thủ tọa Lạt Ma đường, võ công của ông này lại kém xa Giác Viễn đại sư . Tại sao trưởng lão Đạt ma chẳng đề cập đến Giác Viễn đại sư kìa ?

Giác Viễn đại sư tỏ vẻ cung kính, nói tiếp :

- Tiểu tăng nghe danh của Dương cư sĩ, nay hội ngộ thật là may mắn,

ói xong ông quay sang bảo chú tiểu :

- Lệnh đồ ! Hãy bái kiến Dương cư sĩ.

Tiểu hòa thượng cúi đầu bái lễ. Dương Qua vòng tay đáp lại, Tiểu Long nữ và Quách Tường vội bước ra bái kiến Giác Viễn đại sư , cả hai tỏ vẻ tôn kính vô cùng. Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử đứng lặng như trời trồng, vì chúng biết khó mà thoát khỏi tay thầy trò lão tăng, bây giờ lại thêm Thần Điêu Đại hiệp nữa, dễ gì mà chạy thoát, nên cả hai quét cặp mắt căm hờn nhìn Dương Qua và Giác Viễn đại sư .

Dương Qua nói :

- Sáu năm về trước, tại hạ có đến lễ phật tại Thiếu Lâm Tự theo lời mời của Thiên Minh thiền sư . Tại hạ còn có duyên được Đạt Ma Viện trưởng là Vô Sắc thiền sư , cùng quý vị trong bửu tự đã tiếp đãi hết sức nồng hậu, vô duyên thay đệ tử lại không được gặp đại sư để bái kiến !

Thần Điêu Đại hiệp vang danh thiên hạ, mọi người lớn bé trẻ già đều biết, thì Giác Viễn đại sư há chẳng biết hay sao ? Nhưng Giác Viễn chỉ điềm đạm trả lời :

- Làn thay ! Dương cư sĩ đã được Vô Sắc sư huynh, Vô Tướng Sư huynh và Thiên Minh sư thúc biết qua. Rất tiếc là tiểu tăng ngày đêm lo sắp xếp và viết lách trên Tàng Kinh Các, trên ba mươi năm, chưa ra khỏi gác một bước, chỉ biết mặt giấy trắng mực đen, nên lúc Dương cư sĩ đến chùa tiểu tăng không hay để tiếp kiến.

Dương Qua nói thầm :

- Thật là trời đất bao la, kỳ nhân dật sĩ vẫn còn ẩn thân nơi thảo dã . Giác Viễn đại sư võ công cao diệu, nhưng cố giấu mọi người, đến ngay Vô Sắc và Vô Tướng thiền sư cũng không hay biết, nếu họ biết bao giờ họ lại lặng im chẳng nói qua.

Dương Qua đứng trên núi nói xuống, Giác Viễn đứng phía dưới nói lên, cả hai nói chuyện thường mà làm cho núi rừng rung chuyển, Hoàng dược Sư và Nhất Đăng nghe rõ, vội cùng mọi người chạy túa ra ngoài xem sự thế ra sao ?

Hoàng dược Sư , Nhất Đăng, Châu- bá- Thông, Quách Tỉnh, Hoàng Dung, tất cả những người này danh dương thiên hạ ai cũng biết rõ.

Thế mà Giác Viễn đại sư chỉ lấy mắt nhìn qua vòng tay thi lễ mọi người, và bảo tên tiểu đồ bái kiến. Mọi người thấy Giác Viễn đại sư , uy nghi đạo mạo, cốt cách trang nghiêm, tất cả đều tỏ lòng kính trọng.

Giác Viễn thi lễ với mọi người xong, đoạn vòng tay vào Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử nói :

- Tiểu tăng là quản thủ Tàng kinh các, đã bị mất hết vài mảnh giấy, tiểu tăng phải chịu tội với Phương Trượng. Vậy hai vị cư sĩ có lấy xin hoàn trả, tiểu tăng cảm ơn sâu!

Dương Qua nghe rõ đoán biết là hai tên ác đồ này ăn cắp của lão, lão tăng đã không trách mắng còn tỏ vẻ khiêm tốn ôn hòa, thật là trên đời hiếm có người như thế.

Chỉ thấy Doãn Khắc Tây cười hì hì, nói :

- Đại sư nói sai rồi, chúng tôi đều gặp điều bất hạnh đã được đại sư cứu thoát, đã không trả ơn thìchớ, lẽ nào trộm sách làm chi ? Vả lại chúng tôi không phải là phật tử, tín đồ, thì lấy kinh Phật để làm gì?

Doãn Khắc Tây là gã lái buôn, mồm mép lanh lợi, lời nói cuả gã mới nghe qua thật là chí lý không thể bắt bẻ vào đâu.

Nhưng Dương Qua đã biết chúng quá rõ, chàng đoán thầm là hai tên ác ôn này đã đánh cắp kinh sách, ắt không phải loại kinh sách tầm thường, mà là những loại thiên về võ thuật như kiếm phổ, hoặc chưởng kình. Nếu Dương Qua ở vào hòan cảnh của Giác Viễn đại sư , chàng sẽ nhảy lên đánh cho chúng mỗi đứa một chưởng cho tan thây, mà lấy lại bộ sách, chứ hơi đâu nói chuyện với chúng cho uổng lời.

Lại nghe Giác Viễn đại sư nói rất êm :

- Tiểu tăng nói những chuyện xảy ra để quý vị bình luận xem, tiểu tăng chẳng dám nói vu cho người.

Quách Tường tính tình sảng khoái, nhịn không được nên lên tiếng nói to

- Đại hòa thượng ! Hơi sức nào mà nói với hai tên này, chính tôi đã nghe chúng bàn với nhau định giết người chiếm tự, để cho ông không tìm ra chúng. Nếu chúng chẳng hung hăng làm gì có ác tâm loạn ý như vậy ?

Giác Viễn đại sư nói :

- Tội nghiệp ! Hai vị cư sĩ đã tạo điều oan nghiệt, cầu xin ơn trên trời Phật độ trì cho hai vị sớm cải hối ăn năn.

Mọi người thấy việc ông làm cũng như lời ông nói, mỗi điểm đều từ bi chí thiện, không có vẻ lưu ý đến thế sự nhân tình, đối với hai tên ác ma đạo tặc mà cầu xin cho chúng cải hối ăn năn thật là một việc phi phàm. Mọi người tức cuời muốn nôn ruột, nhưng cố dằn xuống làm cho họ đỏ mặt tía tai.

Doãn Khắc Tây thấy Giác Viễn đại sư không động thủ thì gã đoán thầm lời biện bạch của gã có ít nhiều hy vọng, lại nghe thiền sư nói tiếp :

- Có một hôm tiểu tăng soát lại mớ văn thư ỏ Tàng kinh các bỗng nghe sau núi có tiếng reo hò đánh nhau, rồi có tiếng kêu cứu vang dậy. Tiểu tăng liền lần ra xem, thì thấy hai vị cư sĩ đây quỳ dười đất, bị bốn tên quan binh Mông Cổ đánh trối chết, tiểu tăng lòng lành không nỡ để thấy cảnh đau thương, bức bách người, liền lên tiếng khuyên cả bốn tên quan viên Mông Cổ, chúng nghe lời tiểu tăng bỏ về, lúc ấy thì hai vị cư sĩ đây bị thương rất nặng, nên tiểu tăng vực vào Tàng kinh các nghỉ ngơi. Xin hỏi hai vị lời nói của tiểu tăng có đúng không?

Doãn Khắc Tây đáp :

- Đúng đấy ! Công việc có xảy ra như thế, cho nên cả hai chúng tôi luôn cảm kích ơn này.

Dương Qua xì một tiếng nói :

- Khéo đóng kịch, với võ công của hai ngươi, đừng nói là bốn tên quan binh Mông Cổ, dù cho bốn mươi tên, bốn trăm tên cũng không làm gì được hai người. Giác Viễn đại sư rất đáng tôn kính mà các ngươi dám giở trò dối gạt.

Giác Viễn nói tiếp :

- Tiểu tăng đã chăm sóc suốt một ngày, vì nơi Tàng Kinh Các lại không có hậu liêu, chỉ để hai vị đây nằm trên giường kế cận phòng đọc sách, theo lời hai vị yêu cầu. Tiểu tăng chuyên lo hoàng hóa Phật pháp, thấy người ham chuộng đạo, tiểu tăng lấy làm hoan hỉ vô cùng nên có cho hai vị cư sĩ mượn vài bộ kinh để đọc, không ngờ một đêm nọ hai vị cư sĩ thừa lúc tiểu tăng đang tham thiền nhập định, lấy bốn quyền Kiết dà kinh của tiểu đồ Trương Quân Bảo đang đọc, mà ra đi không một tiếng cáo từ, hành động của hai vị hơi kém quang minh, vậy tiểu tăng xin hai vị vui lòng trả lại.

Nhất Đăng đại sư Phật học tinh thâm và Chu Tử Liễu cũng nghiên cứu rất nhiều sách Phật, nghe lời nói của Giác Viễn thiền sư làm cho hai người kinh ngạc vô cùng. Nhất Đăng nghĩ thầm :

- Hai người này đánh cắp kinh thư của Thiếu Lâm Tự, tưởng đâu là chúng trộm lấy chưởng kinh thư kiếm để luyện võ, ai ngờ chúng đánh cắp bốn quyển Kiết dà kinh. Kiết dà Kinh là một bộ Phật luật rất cao do Đạt ma tổ sư truyền lại, bộ này nói về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, phân tích rất rõ ràng nghiệp duyên của nguời đời, học được sẽ minh tâm kiến tánh, và đạo pháp sẽ lên đến mức thượng thừa. Kiết dà kinh không quan hệ mảy may đến võ thuật, tại sao chúng đánh cắp làm gì? Vả lại, Kiết dà kinh đầy rẫy trong các chùa chiền, nơi nào cũng có, thì đâu có gì quan trọng hay bí mật ! Tại sao Giác Viễn đại sư khổ công đi tìm như thế, ắt là có điều bí ẩn ?

Lại nghe Giác Viễn nói :

- Bộ Kiết dà kinh này nguyên bản của Đạt Ma Tổ sư mang đến Trung Nguyên, viết bằng toàn tiếng Phạn ngữ, nhị vị không biết tiếng Phạn có lấy được cũng chẳng dùng vào đâu, nhưng đối với tiểu tăng thì đó là kỷ niệm rất quý báu của tổ sư để lại.

Mọi người nghe nói vỡ lẽ, nguyên đó là di vật của tổ sư , thảo nào Giác Viễn đi tìm.

Doãn Khắc Tây cười ha hả nói :

- Chính chúng tôi không biết Phạn ngữ, lấy kinh ấy cũng không làm gì. Tuy nói là di vật quý báu, nhưng bỏ tiền ra mua thiếu gì? Mấy bậc cao tăng Phật học, chức thiếu gì người có nghiên cứu và lưu giữ nó ? Chỉ vì đại hòa thượng thân không mảnh vật, thì đào đâu ra tiền để mua, nên bảo nó quý trọng chứ gì?

Mọi người nghe Doãn Khắc Tây nói đều lộ vẻ tức giận. Giác Viễn vẫn giữ vẻ điềm nhiên, không mảy may tức giận. Ông nói tiếp :

- Cư sĩ nhầm rồi ! Bởi vì Kiết dà kinh có bốn quyển chú thích bằ ng Hán văn, nhưng giờ chỉ còn ba bộ :

1) Vào đời Lưu, Tống triều có Vệ đà la chú thích, đặt tên là Kiết dà. Vệ đà la bảo kinhÕ chia ra bốn quyền, người đời quen gọi là ÛTứ quyển Kiết dà

2) Vào đời Nguyên Ngụy có Bồ Đề Lưu Chi chú thích, lấy tên là Nhập kiết dà kinh công lại với mười quyển gọi là Thập quyển Kiết dà.

3) Vào đời Đường có A Nam Đà chú thích lấy tên là Đại thừa nhập Kiết dà kinhÕ, cộng lại thành bảy quyển gọi là Thất quyển Kiết dàÕ.

Ba loại chú thích chỉ có bảy quyền Kiết dà kinh là rất rõ ràng, tiểu tăng có mang đến đây, nếu cư sĩ có lòng mộ đạo, tiểu tăng xin kính tặng nhị vị. XIn nhị vị đem bốn quyền Kiết dà kinh chữ Phạn đổi lại, tiểu tăng hết sức cảm tạ.

Nói xong ông thò vào tay áo lôi ra bảy quyển Kiết dà kinh đưa cho chú tiểu bảo đem cho Doãn Khắc Tây.

Dương Qua nhủ thầm :

Thực là đạo hạnh của một nhà tu chân chính, hiếm có nhất trần gian, không rõ vì sao là một bậc kinh luân võ học, lại bị hai tên ác đồ này trộm sách mà chẳng hay ?

Lại nghe chú tiểu nói :

- Nếu hai vị không có gian ý tại sao lại dùng võ lực khủng bố chúng tôi. Hình như hai vị cho rằng Thiếu Lâm tự không có kẻ nào biết võ nghệ sao ? Hai vị có thể lợi dụng được lòng từ bi của sư phụ tôi, nhưng không thể qua mặt được các cao thủ ở đây đâu. Đừng ngụy biện vo âích.

Châu- bá- Thông đắc chí cười ha hả nói :

- Tốt lắm, ngươi hãy đứng cho vững mà nghe đây : Tân Võ lâm ngũ bá bao gồm : Đông Tà, Tây Cuồng, Nam tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan đồng. Trong năm vị, Lão Ngoan đồng đứng vào hạng nhất. Ta bảo các ngươi đã lấy trộm kinh sách của đại hòa thượng, nếu các ngươi cất giữ trong mình thì hãy lập tức mang ra trả cho đại hòa thượng, nếu các ngươi muốn diên trì, ta xẻo mỗi đứa một lỗ tai rồi nói chuyện sau.

Lão Ngoan đồng cố vận nội lực để nói ra một giọng thật hùng hậu. Sau khi nói xog, lão xắn tay áo bước lên toan đánh hai người.

Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử cau mày, chúng tự biết mình có lỗi, mà kẻ buộc tội lại là tay võ công siêu phàm, khó mà tránh khỏi.

Bỗng nghe Giác Viễn nói tiếp :

- Châu cư sĩ nhầm rồi ! Chuyện đời phải hỏi cho rõ lý do. Hai vị cư sĩ đây nếu nhỡ có lỗi thì cũng ngoài ý muốn của họ. Nếu hai vị cư sĩ đây có lỗi thật sự thì họ phải nói ra rõ ràng, giao trả lại bốn bộ kinh là đủ rồi.

Châu- bá- Thông cười :

- Đại hòa thượng nghĩ sao vậy ? Họ nhất định là có lỗi rồi, cần gì phải phân biện dài dòng vô ích. Đại hòa thượng, tôi nói rõ cho ông nghe : không bao giờ ta đoán nhầm đâu, nếu bốn cuốn có mất thật thì tôi sẽ áp tải hai đứa này về Cao Sơn Thiếu Lâm Tự để làm lại cái trò ăn cắp của chúng cho mọi người thấy, như vậy là rõ ràng và hợp lý lắm, dù không có trộm cũng là kẻ trộm.

Giác Viễn đại sư nghe Lão Ngoan đồng nói một thôi dài toàn lời buộc tội cả hai, nên ông vội tiếp lời :

- Lời nói của Châu cư sĩ không hợp với đạo lý nhà Thiền. Phật có dạy rằng : Sắc tức thị không, không tức thị sắc, hai sự có và không có. Chẳng nên lấy sức mạnh mà phân giới hạn, hai tiếng trộm sách sẽ làm cho họ tủi lòng. Dù thật sự có như vậy, chẳng qua ngoài ý muốn mà thôi, nếu ngoài ý muốn ta buộc tội nặng sao phải ?

Mọi người nghe Giác Viễn đại sư giằng co mãi với hai tên trộm ai ai cũng bực tức vô cùng. Dương Qua nhịn không được hỏi thẳng :

- Đại hòa thượng ! Hai tên này tội ác đầy rẫy, chúng đã làm sai đạo lý luân thường, dắt đường cho quân Mông Cổ xâm phạm quốc gia lãnh thổ Trung Nguyên, tội chết cũng vừa lắm rồi. Hôm nay có Nhất Đăng và Giác Viễn đại sư ở đây, nếu tôi ra tay giết chúng thì hai vị sẽ bất nhẫn và tôi cũng là kẻ vô lễ. Vậy hiện giờ chỉ có hai con đường, do chúng tự lựa chọn, một là giao trả bốn bộ kinh cho đại sư , rồi lập tức quay về Trung thổ. Hai là mỗi đứa lãnh một chưởng của tôi, dù chúng có vận nội lực cũng khó toàn mạng.

Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử cả hai đều bị tay Dương Qua đánh sống dở chết dở, nên chẳng dám mở lời biện hộ. Chúng lượng sức, một chưởng của Dương Qua chắc là chịu không nổi, Doãn Khắc Tây nghĩ thầm : Chỉ vài ngày sau thôi, ta sẽ luyện thành thần công, ta sẽ quay trở lại trả thù cái nhục ngày hôm nay. Nhìn lại chỉ có hòa thượng là người tốt không cố ý buộc tội mình, chỉ có bọn ma vương ác quỷ này là rắc rối!

Cho nên Doãn Khắc Tây nói :

- Dương đại hiệp ! Câu chuyện tôi với đại hiệp sẽ bàn sau. Võ công của đại hiệp hơn tôi đến vạn lần nhưng tôi có lỗi gì với đại hiệp đâu ? Cho đến việc có trộm hay không trộm kinh thư thì việc này nên để cho Giác Viễn đại sư nói rõ ngọn ngành, và câu chuyện này chẳng liên can đến Dương đại hiệp.

Dương Qua chưa kịp trả lời thì Giác Viễn đại sư đã gật đầu nói :

- Đúng thế ! Đúng thế ! Doãn cư sĩ nói đúng lẽ !

Dương Qua tức muốn bể ngực vì tánh gàn dở của lão, chàng quay đầu lại thì thấy Trương Quân Bảo đôi mắt trợn trừng , toan nhảy vào hạ thủ hai người.

Dương Qua láy mắt ra hiệu cho chú tiểu bảo cứ ra tay đi, có chàng phụ lực. Trương Quân Bảo hiểu ý, cất tiếng quát to :

- Doãn cư sĩ, bữa ấy ta đang ngồi đọc sách dưới mái hiên, thì ngươi lén đến sau lưng điểm huyệt ta, rồi đoạt bốn quyển Kiết dà kinh ra đi, vậy chuyện này có hay không ?

Doãn Khắc Tây nham nhở cười nói :

- Nếu ta thích đọc thì mượn coi, chứ cần gì phải điểm huyệt làm chi ? Ta hỏi mượn sư cụ vẫn đuợc kia mà ?

Giác Viễn đại sư nói :

- ừ, nếu mượn ta vẫn cho ...

Trương Quân Bảo nói to :

- Nếu hai vị lỡ tay mượn tạm hay không có mượn, thì hãy để ta lục sóat khắp mình mới rõ được.

Giác Viễn đại sư lắc đầu đáp :

- Không thể như vậy, xét người giữa công chúng là việc vô lễ, chúng ta không thể làm vậy. Việc này tiểu tăng không nhìn tường tận, nếu hai vị cư sĩ có lòng tốt nên giao trả lại thì hay hơn cả nếu quý vị lỡ mượn

Doãn Khắc Tây muốn đem lời ngụy biện để nói ra, thì Dương Qua lại hỏi :

- Giác Viễn đại sư , hai tên đạo tặc này nhất định là không có Phật tâm, phật tánh gì cả, thì không thể nào chúng lấy cắp kinh sách này, trừ khi trong 4 quyển Kiết dà kinh có chứa đựng điều gì quái lạ, thì may ra...

Giác Viễn đại sư thành thật nói :

- Kẻ tu hành không vọng ngữ, lời nói của Dương cư sĩ đúng phần nào, bộ kinh Kiết dà bên trong do tổ sư Đạt Ma viết ra với tựa đề là Cửu Dương Chân Kinh...

Bốn chữ Cửu Dương Chân Kinh vừa thoát ra khỏi cửa miệng lão làm cho mọi người đều xám mặt. Ngày trước trong nền võ thuật bỗng xuất hiện quyển Cửu Âm Chân Kinh đã làm đổ máu không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, ai cũng giành quyền độc chiếm, đến sau cùng mới rơi vào tay Ngũ bá, năm vị này họp nhau tại Hoa Sơn đỉnh luận kiếm để tranh chức vô địch và đọc quyền giữ quyển sách này. Cửu Âm chân kinh sau lọt vào tay Vương Trùng Dương. Nhưng Vương Trùng Dương lại là nhà cách mạng, không hay lo việc tư riêng, nên chẳng ham danh vị hão huyền. Khi được làm chủ bộ Cửu Âm Chân Kinh, khác hơn người là ông không sờ mó đến nó. Ông chia làm hai phần chôn giấu dưới đất, sợ rằng truyền lại cho người đời nó sẽ gây họa không nhỏ. Đến sau Đào hoa đảo chủ Hoàng dược Sư đuổi hết đệ tử, Châu- bá- Thông bị cầm tù, Âu Dương Phong phát điên, Đoàn Hoàng gia bỏ ngôi đi tu hành, tất cả những việc này đều có liên hệ đến quyển Cửu Âm Chân Kinh, quyển sách do Đạt Ma Tổ Sư trước tác, về sau Đạt Ma Tổ sư có trước tác quyển Cửu Dương Chân Kinh oai lực càng dũng mãnh hơn. Mọi người nghe đến tên Cửu Dương Chân Kinh đều kinh ngạc. Hoàng dược Sư , Nhất Đăng, Quách Tỉnh, Hoàng Dung, Châu- bá- Thông, Dương Qua, Tiểu Long nữ, tất cả những người đã biết sơ về uy lực của Cửu Âm Chân Kinh đều xúc động vô cùng, vẻ mặt mọi người lúc đỏ lúc nhợt. Giác Viễn đại sư rất thành thật không để ý tới sự thay đổi đó nên ông tiếp tục nói :

- Vì tiểu tăng giữ chức quản thủ Tàng Kinh Các cho nên mỗi quyển sách đều có đọc qua ít nhiều. Tiểu tăng tưởng mỗi bộ kinh Phật đều dậy sự giác mê, hành thiện, danh ngôn, tiểu tăng không ngờ rằng quyển Cửu Dương Chân Kinh không dậy về Phật pháp mà lại dạy về cách làm cho thân thể cường tráng, mạnh khỏe sống lâu. Tiểu tăng mỗi ngày mỗi tập trên 10 năm nay, không có bịnh hoạn gì cả. Mấy năm gần đây tiểu tăng lại truyền dạy cho Trương Quân Bảo, quyển Cửu Dương Chân Kinh bất quá truyền dạy cách bảo vệ thân thể để sống lâu. Vả lại, quyển kinh này truyền dạy cho Quân Bảo đang dở dang, nay mất đi rồi thì lấy gì cho tiểu đồ học tập ? Nhị vị cư sĩ lại không thông Phạn ngữ, nhỡ mượn quyển Kiết dà kinh thì vui lòng hoàn trả để tiểu đồ tiếp tục học hành.

Dương Qua nói lẩm bẩm :

- Cửu Dương Chân Kinh là tinh hoa của võ thuật, thế ra đại hòa thượng này không hiểu võ nghệ nên lầm tưởng nó là một cuốn sách dùng để phòng trừ bệnh. Thật là một chuyện hi hữu, thảo nào hai vị thiền sư Vô Sắc và Vô Tướng đã ở cùng trên 10 năm chẳng rõ nơi thiền viện có một bậc vĩ nhân.

Chỉ một mình Nhất Đăng hiểu ý gật đầu :

- Theo vị sư huynh này Cửu Dương Chân Kinh bất quá chữa trị bị phủ nội tạng. Thật là một người thâm ngộ về Phật pháp. Theo học thuật phái Thiền Tông, chỉ cầu cho minh tâm kiến tánh, nhưng Cửu Âm Chân Kinh hay Cửu Dương Chân Kinh theo nghĩa nhà Thiền là tập dần cho đến chỗ kiến tánh minh tâm, nên sư huynh này chẳng hiểu là phải, tuy vậy luyện được 10

năm thì công lực cũng xuất quỷ nhập thần rồi, mà chính lão có biết đâu

Doãn Khắc Tây giũ tay đứng dậy, cả cười nói :

- Tại hạ thân mình trơ trọi, có món gì trong người đâu ?

Tiêu Tương Tử mặc áo bào dài, gã cũng đứng dậy nói :

- Tôi cũng không có gì nốt.

Trương Quân Bảo bỗng quát to :

- Để ta xét lại thử coi !

Nói xong cậu bé chạy đến trước mặt Doãn Khắc Tây toan lúc xét, Doãn Khắc Tây đưa ra một chưởng nhẹ đánh vào người Trương Quân Bảo cốt ý đẩy cậu bé thối lui.

Giác Viễn đại sư cả kinh nói lớn :

- ối da ! Quân Bảo, chẳng đỡ được đâu. Ngươi hãy dồn nguyên khí xuống sơn căn, lấy sức giữ mình cho thẳng, xem chúng làm gì được ngươi ?

Câu bé nói to :

- Xin vâng ! Và làm theo lời dạy của thày tiến đến bên mình Doãn Khắc Tây lục sóat. Mọi người lấy làm hoan hỉ khi nghe Giác Viễn đại sư chỉ điểm võ học cho đệ tử, nên họ nghĩ thầm :

- Chúng ta nghĩ không ra vị quân tử hòa thượng này, lão đợi đến giờ phút chót mới nhắc nhở đệ tử !

Sự thật không hẳn thế, vì Giác Viễn là bậc thông minh xuất chúng, thấy đệ tử mình không sao trong chưởng phong đầu, thì ông hiểu ra Cửu Dương Chân Kinh là sách dạy võ thuật, nên ông đành liều nói thử ra một thế vững chắc nhất trong lúc luyện tập mà bảo đệ tử.

Mọi người thấy Doãn Khắc Tây tung ra một chưởng thật lợi hại để giết chết cậu bé, không ngờ cậu bé đã y lời thày dặn vận chân khí điều hòa để chống lại Doãn Khắc Tây. Nào ngờ chưởng phong của Doãn Khắc Tây khi tới đẩy mạnh cậu bé ngã quỵ xuống đất.

Doãn Khắc Tây cuời ha hả nói :

- Tiểu sư phó, không cần hành đại lễ !

Câu bé thẹn đỏ mặt. Giác Viễn đại sư ôn tồn nói :

- Ta nhầm lẫn cách gã vừa sử dụng là hư , phải lấy khôngÕ để thắng có. Tại ngươi không chủ tâm vận khí, này nhé, ngươi hãy vận chân lực, mà không chờ ngoại khí. Kìa ngươi hãy xem ngọn đồi kia ..

Vừa nói ông vừa đưa tay chỉ về hướng ngọn đồi và giảng tiếp :

- Nó nằm yên như thế cả ngàn năm. Gió mạnh từ Đông lại, bão lớn từ Tây qua, dồn dập gió sưong, nó vẫn bất động. Vậy ngươi hãy cố ý làm như thế xem sao.

Trương Quân Bả o thông minh đĩnh ngộ, nghị lực dồi dào. Khi nghe sư phụ chỉ đến đâu là hiểu đến đấy, nên gật đầu nói :

- Sư phụ, con nhớ kỹ rồi, vậy con làm lại.

Nói xong cậu bé đến trước mặt Doãn Khắc Tây. Dương Qua thấy cậu bé hai lần quá vội vàng, sau khi nghe Giác Viễn chỉ dạy nên làm liều lại thất bại, nên chàng nghĩ thầm :

- Hai thày trò lão hòa thượng học đã quán thông quyển Cửu Dương Chân Kinh nên nội lực cao siêu thấy sợ. Hiềm vì không biết rõ làm sao khắc địch chế thắng, nên khi bị tấn công là không biết làm gì, nếu nội lực của cậu bé này chẳng dồi dào ắt phải tan xác dưới tay của Doãn Khắc Tây.

Dương Qua vội đưa mắt theo dõi, thấy Doãn Khắc Tây tay hữu quét một chưởng, chặn bước tiến của Trương Quân Bảo, tay tả đẩy một chưởng vào bụng cậu bé. Vì cao thủ đứng như rừng chung quanh Trương Quân Bảo nên Doãn Khắc Tây chỉ dám dùng một thành lực , cố ý đánh cho cậu bé đau điếng mà thôi. Trương Quân Bảo thấy vậy kêu lên :

- Sư phụ, có nên đánh lại không ?

Luông chưởng phong của Doãn Khắc Tây đến trước bụng cậu bé đã biến mất, làm cho Doãn Khắc Tây kinh ngạc vô cùng, gã vội vươn tay ra chụp mạnh vào vai Trương Quân Bảo, nhưng cậu bé vẫn đứng trơ như tượng gỗ bất động. Trương Quân Bảo đã thắng thế, cậu bé cố chịu đựng cho Doãn Khắc Tây đánh đông đánh tây, công tả phạt hữu một hồi vẫn không suy xuyển gì cả.

Doãn Khắc Tây cười gượng nói :

- Thôi, tiểu sư phó ! Tôi cũng không cần đánh nhau với tiểu sư phó làm gì. Quân tử nên dùng lời nói là phải hơn., dùng chân tay chẳng ích gì, vậy tiểu sư phó lui ra ngoài, chúng ta sẽ thảo luận.

Miệng nói như vậy nhưng gã cố vung chưởng lực đánh bao nhiêu, Trương Quân Bảo càng đứng yên bấy nhiêu, không biết phải chống lại thế nào. Cuối cùng Quân Bảo nói to :

- Đau quá ! Sư phụ, gã đánh mãi, thầy mau tiếp tay với đệ tử !

Doãn Khắc Tây nói :

- Ngươi nói gì lạ thế ? Ta đứng cách ngươi bốn thước, làm sao mà đánh được ngươi, chỉ có ngươi nhào vô đánh ta trước mà thôi.

Doãn Khắc Tây nói thế là dụng ý làm cho Giác Viễn phân vân vì ông đâu biết chưởng phong và võ thuật.

Giác Viễn đại sư lắc đầu khổ não, nói :

- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Doãn cư sĩ nói chẳng sai. Đời Đường, đại đức Sanh Công thuyết pháp, hỏi tượng đá cũng gật đầu. Hai vị cư sĩ dầu có ngu ngoan đến bực nào, cũng không cứng rắn như đá được, thì chuyện gì phô trương võ nghệ. Ai da, ta bênh là không bênh, nhưng người nên nhớ nẻo hư và thật cho rõ ràng, một điều hư có kèm theo một sự thật, chuyện gì cũng do hư thật mà ra. Ngươi hãy nhớ lời ta nói : Hơi người như trống sấm, tinh thần là nội kiếm. Không đi đường khuyết hãm, chẳng vào lối gồ ghề, không nên có điều đoạn tục

Trương Quân Bảo nghe lời thầy nói vụt tỉnh ngộ. Theo phái Thiền Tông của Thiếu Lâm Tự, thầy trò đều phải chịu theo giới luật nhà chùa, là cầu cho tinh thần quy tựu, xóa bỏ những điều mắt thấy tai nghe, để trở nên một vị cao tăng cùng khổ, chừng ấy mới giác ngộ được Phật pháp nhiệm màu. Trương Quân Bảo lúc vào chùa mới mười mấy tuổi đầu, ngày đêm ở bên Giác Viễn đại sư trên Tàng Kinh các lo quét dọn, châm trà. Giác Viễn đem Cửu Dương Chân Kinh ra truyền cho cậu bé, chính ông cũng luyện cho nhuần thêm, tuy học đã lão thông nhưng chẳng ai biết mình đang học được một môn võ tối thượng thời bấy giờ. Còn tất cả tăng chúng thấy Giác Viễn là một bạch diện thơ sanh không cần đi đâu mà phải chỉ dạy chưởng lực, mặc dù chưởng lực là môn võ oai trấn giang hồ chỉ có Thiếu Lâm Tự là xưa nay giữ địa vị độc tôn. Vả lại, tính tình thầy trò Giác Viễn lại không thích dòm ngó đến ngành võ, mỗi lần tăng chúng luyện tập võ nghệ thì cả hai lẻn đi lên Tàng Kinh Các. Cho đến bây giờ Giác Viễn vẫn đinh ninh là hai thầy trò ông chỉ biết giấy trắng mực đen và thầm tiếc không học lấy mấy thế võ phòng thân. Trương Quân Bảo có căn cơ thông tuệ, cho nên khi nghe lời thầy nói : Không đi đường khuyết hãm, chẳng vào lối gồ ghề, không nên có điều đoạn tục... Tuy cậu bé chẳng sử dụng đúng mực nhưng cũng đủ chống trả lại sự đau nhức của chưởng phong mà Doãn Khắc Tây đã đả kích, cậu vẫn an nhiên như người khỏe mạnh la ïthường, lúc này cậu lại nhảy vào Doãn Khắc Tây.

Dương Qua, Tiểu Long nữ, Châu- bá- Thông, Quách Tỉnh đứng cách chỗ Do n Khắc Tây và Tiêu Tương Tử chừng mươi trượng cho nên Doãn Khắc Tây dù hung ác đến đây cũng không dám hạ độc thủ đánh cậu bé. Hai người đánh với nhau trông rất chênh lệch, tuy vậy họ đánh với nhau rất lâu. Trương Quân Bảo bàn tay nhỏ bé, cánh tay quá ngắn nên đánh không trúng người Doãn Khắc Tây, trái lại Doãn Khắc Tây mình to lớn, hai tay vạm vỡ, dài nhưng không đánh trúng cậu bé một cái nào, vì cậu bé bộ pháp lẹ như cheo. Dương Qua và mọi người cười rộ, làm Tiêu Tương Tử đứng bên ngoài sượng mặt.

Quách Tường bỗng kêu to :

- Tiểu huynh, sao không đánh cho nó một trận mà tránh né làm gì?

Giác Viễn đại sư nói to :

- Không nên ! không nên! Đừng giận, đừng phiền, đừng mắng, đừng đánh.

Quách Tường nói to :

- Tiểu huynh cứ đánh thẳng tay, có tôi trợ giúp cho !

Trương Quân Bảo đáp :

- Đa tạ cô nương !

Nói xong Trương Quân Bảo nhảy tới tấn công quyết liệt vào người Doãn Khắc Tây.

Giác Viễn lắc đầu than :

- Nghiệp chướng, nghiệp chướng, lòng người khi nổi giận thì ác quả sẽ dấy lên từ đấy.

Dương Qua, Hoàng Dung, Chu Tử Liễu cũng nói lên hưởng ứng giúp Trương Quân Bảo, làm cho cậu bé hứng khởi hăng hái đánh nhanh hướng Đông. Giác Viễn đọc lên một câu cổ ngữ : Tẩu thất kỳ lộc, thiên ha ïcông toại chíÕ, cậu bé hiểu nghĩa câu này, liền vươn tay ra đánh ngay ấn đường Doãn Khắc Tây nhanh như chớp, gã này không kịp phòng bị té nhào xuống đất hết cựa quậy.

Mọi người hô lên cổ võ :

- Hay quá ! Hay quá ! Lộc tẩu thùy thủ rất tuyệt diệu !

Trương Quân Bảo hạđược đối phương liền nhảy ra một bước vòng tay nói :

- Đắc tội !

Nói xong cậu bé lại bên mình Doãn Khắc Tây lục xét, cũng không tìm ra tung tích 4 quyển Kiết dà kinh.

Trương Quân Bảo quay đầu lại nhìn Tiêu Tương Tử, gã này hiểu ý cậu bé muốn khám người mình, nhưng Tiêu Tương Tử đã suy nghĩ biết làm mình không thể cao hơn Do n Khắc Tây, nếu đánh lại với nó mà thua thì nhục nhã vô cùng, dù có thắng thì các cao thủ võ lâm cũng chẳng tha cho, nên gã đứng dậy giũ quần áo và nói :

- Thân ta không có giấu sách vở gì cả, ta nghĩ nên hẹn nhau ngày khác thì hơn !

Nói xong gã phóng mình sang hướng Tây nam chạy như bay. Giác Viễn phất mạnh tay áo, nhảy đến trước mặt Tiêu Tương Tử cản lại.

Tiêu Tương Tử nổi giận đứng lại, hớp một luồng chân khí bổ sung cơ thể, đoạn đưa ra một chưởng Trường sanh công đánh ngay bụng Giác Viễn đại sư .

Môn Trường Sanh Công hắn đã luyện trên 10 năm, chịu không biết bao nhiêu khổ sở, nên chưởng lực vô cùng lợi hại.

Quách Tỉnh, Châu- bá- Thông, Dương Qua thảy đều biến sắc kêu to :

- đạI sư , hãy cẩn thận !

Khi tiếng nói của mấy người này vừa dứt thì nghe hai tiếng bình bìnhÕ nổi lên, chưởng phong đã đánh trúng ngực Giác Viễn đại sư , mọi người kêu to :

- Chết ! Chết mất !

Nhưng trái lại đại sư không ngã , mà Tiêu Tương Tử văng ra xa mấy trượng, nằm co ro như con cuốn chiếu. Giác Viễn vẫn đứng trơ như đá, vững như trồng.

Nguyên Giác Viễn đại sư không biết tí gìvề võ thuật, nên chưởng phong của Tiêu Tương Tử kề đến mà ông chẳng biết làm thế nào né tránh, chỉ đành đứng yên mà gánh chịu cái đòn ác liệt này. Nhưng mọt việc mà chính ông không ngờ là ông đã luyện 10 năm công lực trong Cửu Dương Chân Kinh, cho nên thân thể ông có một luồng dịch khí lưu thông không dứt, muốn yếu là yếu, muốn mạnh là mạnh, chưởng phong Trường sanh công vừa chạm phải người ông, như chạm phải vách sắt tường đồng, dội ngược lại Tiêu Tương Tử làm gã này mang thương tích rất nặng.

Giác Viễn đại sư vội niệm :

- A di đà Phật !

Trương Quân Bảo chạy đến bên mình Tiêu Tương Tử lục lại cũng không thấy bộ kinh.

Dương Qua nói :

- Ta đã nghe rõ hai tên này nói chuyện, ta đóan chắc là chúng đã trộm sách, mà không rõ chúng giấu nơi nào.

Võ Tu Văn bảo :

- Có khó gì đâu, căng hai đứa ra tra khảo một trận thì ra manh mối chứ gì?

Giác Viễn lắc đầu chắp tay nói :

- Mô Phật ! Tội lỗi, tội lỗi lắm, không nên đâu, cư sĩ ạ!

Hoàng Dung mỉm cười :

- Hai tên gian manh ác đạo này, dù chặt một tay một chân nó cũng không nói, nữa là tra khảo làm chi vo âích.

Trong lúc ấy, bỗng nghe từ ngọn đồi phía Tây có tiếng vượn hú từng chập, mọi người quay lại nhìn thấy Thần Điêu của Dương Qua đang đuổi theo một con vượn già, vươn đôi cánh trụi ra đánh túi bụi vào con vượn. Mọi nguười nhìn kỹ con vượn thì thấy hình vóc nó rất to, cao lớn bằng con người, trên đầu lốm đốm trắng chứng tỏ nó đã già lắm. Tuy cao lớn hơn Thần Điêu song nó không dám chống trả, chỉ chạy qua Đông xuyên qua Tây, cất tiếng hú rất thêthảm bi ai .

Quách Tường thấy vậy thương hại vội chạy đến nói :

- Điêu huynh ! Điêu đại ca hãy tha cho nó đi !

Thần Điêu xếp cánh đứng lại nhình vẻ rất uy mãnh. Con vựon già hết chạy đến chỗ Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử, nó lại nắm tay hai người này tỏ ra thương mến lạ! Đoạn nó kéo hai người chầm chậm đi xuống núi. Mọi người thấy tình cảnh như thế lấy làm cảm động bồi hồi nên không đuổi theo Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử nữa.

Quách Tường quay lại thấy Trương Quân Bảo vết thương trên đầu máu chảy rỉ ra bèn lấy chiếc khăn tay chậm máu. Trương Quân Bảo cảm động muốn thốt lời cảm tạ, bỗng thấy đôi mắt Quách Tường đỏ hoe, và có vẻ thương tâm sầu hận. Bỗng Dương Qua nói:

- Cuộc hội ngộ hôm nay, đến đây đã đủ ! Trời dài đất rộng, trên chốn giang hồ còn ngày gặp lại. Hiện giờ chúng ta hãy tạm biệt tại đây !

Nói đến đây tay áo Dương Qua phe phẩy mạnh, dìu Tiểu Long nữ cùng Thần Điêu đi dần xuống núi.

Vành trăng sáng in rõ trên nền trời ! Một luồng gió động, lá vàng rơi lác đác. Tiết trời thu man mác buồn.

Quách Tường hai dòng lệ lăn trên má, nhìn theo.

Thu phong thanh, thu nguyệt minh Lạc diệp tụ hòan tán Hàn nha tẩy phục kính Tương tư tương kiến tri hạ nhật Thử thời thử dạnan vi tình

Dịch :

Thu đến hoàng hôn, gió quyện nhiều Xót tình lũ quạ gọi hoang liêu Tả tơi lá úa rơi ngàn cánh Vằng vặc trăng thu tỏa một chiều Cám cảnh bồi hồi lòng tráng sĩ Tình sầu lay động khóm vân tiêu Tương tư một giấc năm canh mộng Thôi nói làm chi đến chữ yêu !

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fiction