Thần điêu hiệp lữ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người dị khách trên bờ hồ

Giang Nam, một dải đất hữu tình gồm nhiều thắng cảnh mà xưa nay khách giang hồ

đã từng lưu gót, không một ai không quyến luyến. Bốn mùa đều có hoa nở: Xuân có

thuỳ liễu xinh tươi, hạ có anh đào trắng xoá. Nhất là vào đầu thu, trong hồ sen không

ngớt những tiếng hát véo von cũ những thân nhân quý tộc. Họ tiêu khiển bằng thú

chèo ghe hái sen trông rất thanh lịch.

Năm đó, vào thời Nam-Tống, trấn Lăng hồ, phía Bắc trai thanh gái lịch du ngoạn rất

nhiềụ

Một hôm, vào cận tiết Trung thu, dưới hồ sen có một chiếc ghe nhỏ chở năm người

thiểu nữ lơ lửng trên dòng nước như mặt gương. Năm thiếu nữ ấy có ba người tuổi

suýt soát nhau. Họ vừa hái sen vừa cất tiếng hát:

Sen xa hồ, sen khô nhuỵ úa

Hồ không sen nh dải lục đìu hiu

Tình đời mấy kẻ biết yêu

Giữa lúc đó thì hai cô bé kia tuổi mới lên chín, chưa hiểu gì tình tứ của câu hát đó, và

cũng không cần để ý, đưa tay chỉ một ông lão ngồi ở hồ sen cười nức nở.

Một cô bé nói:

-Kìa, đến hôm nay ông lão vẫn còn ngồi đó.

Thật vậy, một ông lão đầu râu mốc xếch, quần áo tả tơi, tóc dài và dựng ngược,

choàng một chiếc áo dàì cũng rách nát, thủng nhiều chỗ, phía dưới là một tấm xiêm

của phụ nữ và có thêu hồ điệp (bớm ) trong trạng thái say sưa và lơi lả. Lão ngồi đó

đã ba hôm nay, tay cầm chiếc trống con con cho trẻ em chơi tết Trung thu, thỉnh

thoảng lại gõ một hồi vào mặt trống, mắt đăm chiêu nhìn vào tận chân trời xạ Không

ai hiểu lão đến từ đâu cả. Mọi người nhìn lão nh một người điên hay một kẻ mất trí.

Hai cô bé trên thuyền là hai chị em họ, hơn nhau chưa đầy nửa tuổị Cô lớn tên Trình

Anh, tính nết đoan trang dịu dàng, tâm hồn chứa đựng đầy tình thương, uỷ mị. Còn cô

nhỏ là Lục Vô Song, trái với chị nàng rất ranh mãnh, liến thoắng và hoạt bát. Bởi vậy,

tuy hai chị em nhưng mỗi người một tâm tư khác nhaụ

Trong lúc mọi nguời đang chú ý nhìn lão già kỳ dị thì Lục Vô Song nhảy dựng trên

thuyền, chỏ miệng về phía ông già nói:

- Các chị ơi, ông lão điên kia ngồi đó đã ba ngày, chắc ông ta đói lắm.

Trình Anh bấm nhẹ vào vai Lục Vô Song bảo:

- ấy chết, biết có phải người ta điên hay không. Nói khẽ chứ nếu ông ta nghe được thì

khốn !

Lục Vô Song vẫn lớn tiếng:

- Nếu không người điên sao mặc tấm xiêm phụ nữ, ngồi đó đánh trống làm gì? Lão

càng giận chúng ta càng được xem vui mắt !

Dứt lời Lục Vô Song phá lên cười rồi cúi xuống mặt hồ ngắt một gương sen ném về

phía ông lãọ

Trình Anh vội đưa tay cản laị

- Hiền muội đừng đùa thế, tội nghiệp người tạ

Nhưng không kịp, chiếc thuyền cách bờ hơn trăm thước, thế mà mặc dù Lục Vô Song

còn nhỏ tuổi nàng đã ném chiếc gương sen trúng ngay đầu ông lãọ Lão già kỳ dị vẫn

ngồi điềm nhiên đánh trống, mắt vẫn hướng về phía trời xa.ï Đợi cho chiếc rơi đến, lão

nhe răng đớp lấy nhai ngấu nghiến.

Ba người thiếu nữ lớn tuổi thấy lão không hề bóc gì cả, nhai ngấu nghiến của xác lẫn

vỏ lấy làm ngạc nhiên lắm lắm. Lục Vô Song lấy làm thú vị, nhặt tiếp một chiếc

gương ném đến. Ông lão chưa nhai xong chiếc gương trước đưa đầu ra hứng. Chiếc

gương sen rơi vào mé đầu lão và nằm đấy. Năm cô thiếu nữ phá lên cười một lượt bảo

nhau:

- Thật là lý thú.

Lục Vô Song lại ném tiếp. Và cứ mỗi lần chiếc gương sen bay vèo đến, ông lão lè

lưỡi ra làm cho chiếc gương sen bay tung lên rồi đưa đầu ra hứng lấy. Gương sen

chồng chất lên đầu lão như những chiếc cổ tháp rất ngoạn mục. Chỉ một lúc, chiếc cổ

tháp đó được xây rất cao, gần đến đọt cây thuỳ liễu.ï Lục Vô Song thấy thế không ném

gương sen nữa, bào mọi người:

- Chúng ta chèo thuyền vào bờ đến gần ông ấy xem sao !

Trình Anh nói:

- Không nên, biết đâu ông ấy đang giận chúng ta

Lục Vô Song nói:

- Tiểu muội xem ông ấy không có ý giận chúng ta đâu.ï Nhưng nếu ông ấy có giận thì

làm gì chúng ta được mà sợ.

Trong lúc năm cô thiếu nữ đang bàn cãi với nhau thì lão già kỳ dị lắc đầu cho từng

cánh sen rơi vào mồm. Và cứ thế nhai cho gần hết chiếc cổ tháp trên đầu lãọ

Trình Anh thấy thế thương tâm, bàn với ba thiếu nữ lớn cho thuyền vào bờ rồi tự mình

bước lên dâng cho ông lão một chung trà ngon và nói:

- LãoTrượng ăn sen như thế chắc khát nước lắm.

Ông lão không nói gì cả, tiếp lấy chung trà và uống một hơị

Trình Anh lại tự tay mình lôi vài chiếc gương sen, lấy hạt đưa vào mồm ông lãọ. Hơi

trà lẫn với vị hương sen khiến ông lão cảm thấy ngọt ngàọ. Và đôi mắt hoang vắng

đang theo đuổi một bóng hình nào ở nơi chân trời dường như dịu lại, ông ta liếc nhìn

Trình Anh chậm rãi và gật đầu tỏ ý cảm ơn.

Nhưng lạ thay, trong lúc ông ta gật đầu xuống mà những chiếc gương sen trên đầu

không rơị. Ngay sau đó bên bờ hồ lại có tiếng kêu của một con chó. Trình Anh quay

lại chỉ thấy một đám trẻ con, đứa cầm gậy, đứa cầm đá đang đuổi theo một con chó

ghẻ chạy xuống cây cầu.ï Con vật ghẻ khốn nạn đó đã từng bị bọn trẻ nghịch ngợm kia

đuổi đánh mấy lần vì nó là con chó hoang vô chủ. Trình Anh động lòng thương nên

mỗi lần gặp con chó ấy nàng vội vã lấy thức ăn đem cho.ï

Đang bị đuổi đánh, bỗng thấy ân nhân mình, con chó liền lao đầu đến bên Trình Anh

có ý cầu cứu.ï

Trình Anh nói với bầy trẻ:

- Thôi! Các em chớ đánh đập nó tội nghiệp. Nó là một con vật bệnh hoạn, vô chủ,

đáng thương hạị

Bọn trẻ thấy Trình Anh là gái, lại không lớn hơn tụi nó là bao nên sì sộ không nghe

lờị Một đứa trong bọn trẻ, vẻ mặt đanh ác nhất xông ra nói:

- Chúng ta đánh chó can gì đến mày mà can thiệp. Hãy đứng dang ra kẻo liên luỵ đến

thân.

Lục Vô Song đứng bên chị, thấy thằng bé hỗn lão bèn bước tới nói:

- Tao bảo chúng bay không được tàn nhẫn với con vật nàỵ..

Lục Vô Song chưa dứt lời, thằng bé đã nhảy chồm tới, đa tay thoi vào mặt. Lục Vô

Song né vội sang một bên làm cho thằng bé mất thăng bằng té nhủi về phía trước.

Thừa thế, cô ta tung chân đạp mạnh vào vai làm cho hắn cắm đầu xuống, mặt va phải

mô đất, gãy mất hai chiếc răng cửa.ï Thích chí, Lục Vô Song đứng vỗ tay cườị Trong

lúc đó Trình Anh thấy thương tâm vội đỡ thằng bé dậy, lau các vết máu trên mặt và vỗ

về:

- Thôi! Em đừng khóc ! Chỉ tại em tánh hung hăng! Em có đau lắm không ?

Nàng vừa nói vừa rút chiếc khăn ra lau những vết máu.ï Nhưng thằng bé không lấy thế

làm lành, đưa tay xô mạnh Trình Anh ra và nguyền rủa:

- Tao không cần chúng bay an ủi taọ. Chúng bay là lũ không cha không mẹ , thua gì

con chó ghẻ vô chủ kia.ï

Lục Vô Song tức giận bước tới, toan đấm vào mặt hắn ta một thoi nữa nhưng Trình

Anh ngăn lại:

- Nó đã bị thương, hiền muội đừng giận nữa!

Thằng bé trố mắt nhìn Lục Vô Song chòng chọc, nhưng nó vừa bị đạp, liệu không đủ

sức chống cự liền xua lũ trẻ bỏ chạy, vừa chạy vừa chửi rủa đủ lờị. Qua đến giữa cầu,

lũ trẻ nhặt đá ném vào chị em Trình Anh tới tấp. Chị em Trình Anh biết võ nghệ nên

tránh né lanh lẹ, chỉ tội nghiệp ba cô thiếu nữ lớn tuổi bị gạch ngói rơi trúng người la

ôi ốị

Bây giờ ông lão cùng đứng bên cạnh chi em Trình Anh và cũng bị gạch ngói ném

trúng, nhưng ông ta vẫn điềm nhiên không hề né tránh, và cũng không hề tỏ ra đau

đớn gì cả. Bọn trẻ cho kỳ lạ, tập trung cả gạch ngói một lượt ném ông lão nhưng ông

ta vẫn như thường. Chúng càng thích thú, càng cố gắng ném gạch đá nhiều hơn. Lục

Vô Song bực tức trước cử chỉ trêu ngươi đó, cô ta hét lên một tiếng, toan nhảy phóc

qua cầu để cùng với bầy trẻ ăn thua một trận. Nhưng ông lão đã kịp thời cản lạị

Ông ta đứng án ngữ trước mặt chị em Trình Anh, gục đầu cho cho hai cánh sen rớt

xuống , dùng lưỡi đưa vào mồm nhai ngấu nghiến. Nhưng lần này ông ta không nuốt,

búng miệng phun vào đám trẻ con. Xác gương sen bay vụt đến trúng vào đứa nào

cũng tỏ ra đau đớn, ù té bỏ chạỵ. Lục Vô Song thích thú cườị. Đồng thời cô ta cũng

ngạc nhiên tự hỏi:

- Xác gương sen nhẹ như bông, ông lão làm sao phun ra xa được. Mà vật nhẹ như thế

dẫu có trúng thì làm thế nào đau đớn được.

Cả chị em Trình Anh cũng đồng kinh ngạc và nghĩ như thế. Thấy bâỳ trẻ rên rỉ chạy

trốn hết, ông lão kỳ dị ngửa mặt lên trời nói:

- Theo ta chăng ?

Nói xong ông ta rảo bước về hướng Tâỵ. Lục Vô Song cầm tay Trình Anh nói:

- Chị ơi, chúng ta theo ông lão này xem thử !

Trình Anh còn trù trừ chưa quyết. Ba cô thiếu nữ lớn tuổi cản lại:

- Thôi, chớ nên đi chơi xa, hãy trở về sớm là hơn. Dì và dượng biết được sẽ rầy la

không ít.

Lục Vô Song thấy Trình Anh do dự, nắm chặt tay nói:

- Nếu chị không đi thì em đi một mình.

Từ bé đến giờ, chị em Trình Anh lúc nào đi chơi đâu cũng có nhau, chẳng lẽ Trình

Anh để cho Lục Vô Song đi một mình. Biết không cản trở được ý định của em, Trình

Anh miễn cưỡng bước theọ. Ba cô thiếu nữ lớn vừa ái ngại vừa sợ sệt đứng nơi bờ hồ

kêu réọ Bóng ông già quái dị và chị em Trình Anh khuất dần trong bãi dâu xanh.

Đi được một lúc, ông già quay đầu lại thấy chị em Trình Anh lẽo đẽo theo sau mình,

ông lão liền dang tay kẹp mỗi người vào mỗi nách, phi thân vùn vụt như baỵ.

Chị em Trình Anh nghe gió tạt vào tai ù ù, và những rặng cây bên đường lướt vun vút,

còn chân ông lão hình như không chấm đất.

Thật vậy! lão già kỳ dị đó đã dùng thuật khinh công bồng chị em Trình Anh đi với tốc

độ phi thường cho đến nỗi Lục Vô Song là cô gái ranh mãnh, bạo dạn nhất cũng có

cảm giác sợ sợ . Cô ta la lớn:

- Thôi thôi! xin lão trượng hãy buông chị em tôi ra.ï Tôi không muốn theo lão trượng

nữạ

Mặc kệ, lão già như không để ý lời nói của Lục Vô Song, lão càng gia tăng tốc độ.

Bị ông lão làm trái ý, Lục Vô Song căn mạnh vào cánh tay của lão mấy cáị. Lão già

hình như đã quá hiểu tính nết của Lục Vô Song nên vẫn xem như không, chẳng hề

tỏ ý giận dữ. Trái lại, Lục Vô Song cảm thấy cánh tay ông lão như sắt đá, hàm răng

nàng vừa cắn vào đã tê buốt, đau thấu tận tâm can.

Qua một lúc dùng thuật phi hành, ông lão dừng chân buông chị em Trình Anh giữa

một bãi tha ma, trước mặt chân trời xa thẳm.

Trình Anh lo lắng ôn tồn thưa:

- Ông ơi, Xin ông cho chị em tôi trở về kẻo tốị. Chúng tôi không muốn ở đây nữạ

ông lão nhìn chòng chọc vào mặt Trình Anh không nói nửa lờị. Cái nhìn của ông chứa

đựng một nỗi buồn thê lương, ảm đạm làm sao, khiến cho Trình Anh, một cô gái mới

lên chín cũng cảm nhận được. Trình Anh phút chốc động lòng trắc ẩn thấy thương hại

vô cùng, và cô lại còn thấỳ nỗi buồn đó gợi vào tâm khảm mình một bi thảm, thiết thạ

Cô ta thỏ thẻ:

- Này ông ơi ! Tôi thấy ông buồn lắm !Ông cần tìm chốn khuyây khoả, vậy ông đưa

hai chị em chúng tôi trở về bờ hồ. Từ nay cứ mỗi chiều chị em chúng tôi sẽ đến đó

làm vui cho ông và hái sen bóc hột cho ông ăn nhé !

Lời nói thực thà của cô bé lên chín làm ông lão thấy cảm động rưng rưng nước mắt.

Ông ta hé răng nói như than:

- Đúng vậy ! Đã bốn mươi năm qua không biết ai để vui buồn cùng lão!

Rồi sự đau đớn trong lòng lão vừa xuất hiện trên nét mặt phút chốc bỗng thay đổị Lão

trở nên giận dữ, hung ác, hét lớn:

- Hà nguyên Quân, Hà nguyên Quân là gì của mày ? Lão chụp lấy Trình Anh, một

tay nắm vai, một tay nắm lưng xốc lên quay một vòng ngược lên trờị.

Lão vừa quay vừa hét: - Hà nguyên Quân, Hà nguyên Quân !

Trình Anh khiếp vía muốn la lên nhưng không ra tiếng. Vàì giọt nước mắt rơm rớm

lăn trên đôi gò má cô bé.

Ông lão lại rít lên:

- Mày khóc hử Mày khóc hử Thì ra đã 40 năm nay mày vẫn thế! Vì sao mày không trốn

theo ta ? Mày chê ta xấu xí ? Mày khóc ! Mày thương hại ta ?

Qua một lúc lão dừng tay nhìn tận mặt Trình Anh.

Trình Anh khiếp sợ rụt rè:

- Không, không! Tôi không khóc ! Tôi không khóc !

Lào già cười chua chát nói:

- ừ, Ta đâu xứng đáng nhận giọt nước mặt của em! Em không bao giờ có thể bố thí

cho ta một giọt nước mắt. Thế thì ta còn sống trên đời này để làm gì.

Dứt lời ông lão xô mạnh Trình Anh ra và gắng lấy sức bình sinh của hai tay, lão lao

vào tấm bia xanh bên cạnh. Tấm bia bằng đá xanh chôn chặt dưới đất, bị sức mạnh

của lão bật tung lên. Còn ông lão cũng nằm sóng sợt bên tấm bia đá nặng hơn ngàn

cân.

Lục Vô Song hốt hoảng, kêu thất thanh:

- Chị ơi, chúng ta đi trốn mau!

Cô bé vừa nói và bước tới nắm tay Trình Anh kéo chạỵ. Trình Anh chạy theo Lục Vô

Song được mấy bước, quay lại thấy ông lão máu me lai láng, nằm ngất lịm nên không

nỡ bỏ đi, nói với Lục Vô Song:

- Hình như ông ấy chết mất. Chúng ta trở lại xem sao!

Lục Vô Song nói:

- Nếu lão chết tất thành quỷ, chúng ta đến gần nguy hiểm.

Trình Anh nghĩ thầm : "Chắc ông này có một dĩ vãng quá đau thương nên mới liều

thân như vậy". Nhưng để cho lão chết lòng cô bé thấy không an. Trình Anh nói với

Lục Vô Song:

- Đừng để ông ta chết tội nghiệp. Chị định chắc ông ta lúc tỉnh dậy sẽ không hung dữ

và điên dại như lúc nãy đâụ

Lục Vô Song nghe lời chị. Hai chị em nắm tay lần bước đến gần. Máu tươi vẫn còn

phụt ra, nhuộm đỏ cả mặt mày và râu tóc ông lãọ

Trình Anh thỏ thẻ gọi:

- Ông ơi !ông có đau lắm không ?

Ông lão rên lên một tiếng, tiếng rên chứa đầy uất hận. Trình Anh bạo dạn, bước đến

lấy chiếc khăn lau máu trên mặt cho ông lãọ. Nhưng máu ra nhiều quá, chiếc khăn cô

bé ướt đẫm mà máu cứ phụt mãi như xốị

Trình Anh thở dài, ngẫm nghĩ một lúc rồi hé răng cắn vào vạt áo, xé ra một miếng cột

nơi vết thương cho ông lãọ.

Lục Vô Song thấy thế nói:

- Chị ơi, chị xé áo như thế lúc về nhà gia gia trông thấy chúng ta không khỏi bị quở

mắng.

Trình Anh buồn bã đáp:

- Gia gia lúc nào chẳng rầy mắng chúng tạ. Việc chị làm chị sẽ chịu cho gia gia

trừng phat.

Vết thương ông lão được rịt lại máu cầm không chảy nữạ. Và ông lão từ từ hồi tỉnh,

nói khẽ qua hơi thở:

- Em lại đến cứu ta hử Không không, em đừng làm thế ! Vì sao em không để ta chết

cho an thân.

Thấy ông lão tỉnh lại Trình Anh mừng rỡ hỏi:

- Ông còn đau lắm không ?

Ông lão lắc đầu nói:

- Ta đau lắm, Ta đau đã 40 năm naỵ Ta không đau ở đầu mà đau ở lòng, em ơị

Trình Anh lấy làm lạ, ngơ ngác tự hỏi:

- Tại sao ông lão chạm đầu vào bia mộ lại không đau ở đầu mà đau ở lòng ? Thật quái

gở!

Nhưng Trình Anh, cô bé lên chín làm sao hiểu nổi cái đau buồn dĩ vãng của con

người sống yếm thế ấỵ

Cô bé cứ triền miên suy nghĩ và lau vết thương ông lão cho đến lúc dịu hẳn. Bây

giờ ông lão hé mắt nhìn Trình Anh, cái nhìn như nuối tiếc, đau thương. Ông ta rên rỉ:

- Em nhứt định không cùng ta hội ngộ ? Chúng ta đành phải chia ly mãi mãi chứ còn

biết làm sao. Trước khi ly biệt em có thể tặng cho ta vài giọt nước mắt chăng?

Giọng rên rỉ như hướng về dĩ vãng và quá bi ai khiến cho Trình Anh chạnh lòng nghĩ

đến kiếp phong trần, suốt đời chỉ tha thiết cầu khẩn một tình thương. Nhưng tình

thương nào đã làm cho ông lão đau đớn điền cuồng đến thế. Thật tội nghiệp !

Đột nhiên Trình Anh rơm rớm nước mắt. Giọt nước mắt trong vắt như hai giọt sương

từ từ lăn trên gò má cộ

Ông lão trông thấy rú lên một tiếng, đôi mắt xoe tròn, hơi thở hổn hển:

- Em đã vì ta mà rơi lệ! Ôi chao! những giọt nước mắt đầm ấm làm sao!

Lão ôm chầm Trình Anh vào lòng mà nức nở. Sự xúc động kích thích vào lòng một

em bé măng tơ, bé nhỏ. Trình Anh quên cả sự thực trước mắt. Cô bé cũng ôm chầm

lấy ông lão khóc sướt mướt như hai kẻ yêu nhau tự thuở nàọ

Lục Vô Song đứng nhìn cảnh tượng quái dị một lúc rồi không thể nhịn cười được cô

bé bật lên tiếng cười thích thú.

Tiếng cười có vẻ chế nhạo trước cảnh thương tâm, khiến ông lão bừng tỉnh, xô Trình

Anh ra đừng phắt dậy, quắc mắt nhìn Lục Vô Song hét:

- à ra mi! Mi vừa thương hại ta, lại vừa chế nhạo tạ. Được, ta sẽ cho mi gặp khổ suốt

đờị

Nhưng, vừa dứt lời, lão già lại tỏ vẻ suy nghĩ. Đôi mắt lão đăm đăm nhìn Lục Vô

Song rồi quay lại nhìn Trình Anh nói:

- Không ! Không ! Em không phải là nó. Thế ra Hà Nguyên Quân là gì của các em?

Tại sao các em lại giống nó thế ?

Hai chị em Trình Anh nhỏ tuổi, song từ diện mạo đến tính tình khác biệt nhaụ. Trình

Anh có nước da trắng mịn nõn nà, có thân hình cân đối, tánh nết ôn hoà; ngược lại

Lục Vô Song có nước da ngâm ngâm màu đỏ, người cao mảnh khảnh, tánh lại liến

thoắng, ngạo nghễ.

Lục Vô Song nghe lão già nói, xen vào đáp:

- Chúng tôi nào có giống ai đâu.ï Sao ông lại bảo giống một người khác.

Lão già trừng mắt nhìn cả hai chị em cô bé, rồi bất thần lấy tay đấm vào đầu như cố

tìm ra một hình ảnh nào trong ký ức. Ông ta nói:

- Thôi rồi! Ta loạn óc rồi! Này tiểu diệt, có phải cháu họ Lục không ?

Lục Vô Song ngạc nhiên đáp:

- Chính tôi họ Lục. Nhưng vì sao ông lại biết?

Lão già không đáp hỏi tiếp:

- Tổ phụ của tiểu diệt là Lục Triển Nguyên phải chăng?

Lục Vô Song gật đầu:

- Đúng vậỵ

Ông lão trầm ngâm một lúc trong yên lặng. Bỗng ông ta với ta bồng xốc Trình Anh

lên không, nhìn vào mặt hỏi:

- Còn tiểu diệt này họ gì? và gọi Lục Triển Nguyên là gì?

Lần này Trình Anh không sợ sệt nữa bạo dạn đáp:

- Tôi họ Trình, tên Anh. Ngoại tôi họ Lục nên mẹ tôi họ Lục.

Ông lão cười khanh khách nói:

- Thôi đúng rồi ! Lục Triển Nguyên và Nguyên Quân sinh đặng một trai một gáị

Đoạn ông quay về phía Lục Vô Song nói tiếp:

- Con trai của Lục Triển Nguyên và Nguyên Quân chính là cha Lục tiểu diệt đấỵ. Còn

con gái của hai người này là mẹ của Trình tiểu diệt đâỵ. Do đó mà hai cháu đều giống

Nguyên Quân. Một cháu thì giống cái dáng yêu kiều, một cháu thì giống cái liến

thoắng, ngang ngạnh.

Trình Anh chẳng hề biết bà ngoại mình tên Hà Nguyên Quân.

Từ bé đến giờ cô ta chỉ biết bà ngoại là bà ngoại mà thôị. Còn Lục Vô Song cũng thế,

chẳng biết đến danh tánh của bà nội mình.

Nghe ông lão nói, hai chị em đinh ninh rằng con người kỳ dị đó hẳn có liên quan gì

đến dòng họ mình trước đâỵ. Bấy giờ ông lão thả Trình Anh xuống đất, ông ta ôn tồn

nói với hai cô bé:

- Các cháu hãy dắt ta đến thăm Lục Triển Nguyên nhé?

Trình Anh thưa:

- Ông ngoại cháu không còn đây nữạ

Ông lão ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao thế ? Ta cùng ông ngoại cháu đã có lời nguyền cùng nhau tương ngộ mà!

Trình Anh nói:

- Ông cháu mất từ mấy tháng nay, ông không thấy chúng cháu đang chịu tang sao?

Ông lão nhìn thấy hai chị em Trình Anh đều thắt lưng gai nên tin lời và tỏ vẻ trầm

ngâm luyến tiếc, lầm bẩm nói một mình: "Thế là bốn mươi năm nay ta đã uổng công

mang xiêm phụ nữ, uổng công tập luyện công phu".

Lão ngửa mặt lên trời cười mấy tiếng thật lớn, tiếng cười vung theo gió làm rùng rợn

cả bãi tha mạ

Lúc ấy mặt trời bắt đầu tốị. Màn đêm rũ trên những cành thùy liễu, bày ra một cảnh trí

hãi hùng.

Lục Vô Song bắt đầu cảm thấy lo sợ, níu áo Trình Anh bảo:

- Thôi, chúng ta về đi ! Chị ơi !

Ông lão bỗng hét lên:

- Trời ơi! Thế thì Hà Nguyên Quân phải đau khổ lắm sao! Hiu quạnh lắm sao! Này

các cháu ơi, các cháu hãy đưa ta về thăm bà cháu đị

Lục Vô Song nói:

- Bà chúng tôi không còn nữạ

Câu nói như một tiếng sét đánh vào tai, ông lão nhảy lồng lên như con vật bị đau, hai

hàm răng nghiến chặt nói:

- Các cháu nói sao ? Các cháu không nói dối lão chứ ? Bà các cháu đã chết ? Chết?

Chết?

Trình Anh thấy cử chỉ ông lão, sợ tái mặt, nói không ra tiếng. Qua một lúc cô bé mới

thỏ thẻ đôi lời:

- Ông ơi, ông làm các cháu sợ quá ! Vâng, bà các cháu chết rồi! Chết cùng một lúc

với ông các cháụ

Ông lão nắm chặt hai bàn tay đấm vào bụng la lớn:

- Hỡi ơi ! Chết rồi sao ? Chết rồi sao ? Thế ta không bao giờ còn gặp mặt nữa ?

Sau phút giận dữ, lão dịu hẳn người lại mếu máo khóc:

- Ta nhớ ngày nào, lúc ly biệt, nàng hứa nhất quyết sống để cùng ta hội ngộ! Thế là

giấc mộng đã tan tành, thế là lời nguyền đã bội ước.

Rồi như quá cảm kích, lão trở thành đau đớn, mất bình tĩnh, la rống lên như một con

hổ. Lão bẻ gãy một cành cây cầm nguyên cả nhánh múa may quay cuồng.

Trình Anh và Lục Vô Song sợ quá, chẳng biết lão còn làm gì nữạ. Hai chị em nắm tay

nhau chờ đợị

Bỗng nhiên lão tung hai cây ra, chạy đến một gốc cây thuỳ dương ôm tận gốc, xây

mấy vòng rồi rên rỉ:

- Em đã hứa cùng ta sao em lại bội ước. Em đã bảo nhất định có ngày tương ngộ kia

mà.

Tiếng rên rỉ của lão vang dội giữa bãi tha ma nghe rất hãi hùng. Đoạn, lão ngồi chồm

hổm xuống, đặt hai bàn tay lực lưỡng bám chặt gốc cây, rống lên một tiếng như sấm:

- Lên!

Gốc thùy dương vĩ đại kia đánh phứt một tiếng, gốc cây trốc lên, lão bẻ ngang giữa

thân cây, cầm cả cành lá múa quay tròn, nhẹ nhàng như cầm một chiếc dù to tướng.

Tiếng gió vùn vụt, cành lá xào xạc. Thật là một sức mạnh không tưởng tượng nổi!

Nhưng thần sắc của lão cũng lần lần lắng dịụ. Lão buông gốc thùy dương ra, lần bước

đến bên chị em Trình Anh nhoẻn một nụ cười, có vẻ thiện cảm nói:

- Lão đã làm các cháu sợ hãi! Lão thật lỗi lầm! Nhưng thôi! Mộ của ông bà các cháu

nơi đâu hãy chỉ cho lão đến đó thăm viếng.

Lục Vô Song bấm tay Trình Anh cố ý chặn trước câu trả lờị. Nhng Trình Anh vốn

thật thà không rõ ý định của nó liền nói:

- Mộ ông bà các cháu chôn gần trang viên, một bên có gốc cây hoè. Ông đem các

cháu trở về các cháu sẽ chỉ chọ

Ông lão nhón mình lên, nhìn phía trời xa như muốn nuốt cả không gian. Lão kẹp hai

cô bé vào mình và tung chân chạy như bay, hướng về phía gốc cây hoè. Lão nhắm

thẳng đường không quan tâm gì đến trở ngạị. Rạch, tường, sông hồ, lão nhảy qua hết

bất kể sâu cạn, rộng hẹp.

Cha mẹ Lục Vô Song vốn là những tay võ nghệ cao cường. Hai cô bé này cũng đã

từng thấy lối khinh công khác thường nhưng so với lão già này thì cha mẹ Lục Vô

Song còn phải nhiều năm tập luyện mới sánh nổị

Trong khoảng khắc lão đã đến trước một gốc cây hoè. Nơi đó, quả nhiên có hai ngôi

mộ nằm song song, trước mỗi ngôi mộ có dựng một tấm bia còn mới, nét chữ đỏ khắc

vào đá chưa phai màu.ï Trên mộ, cỏ non lơ thơ lởm chởm.

Lão đặt hai chị em Trình Anh xúông đất, áp mặt vào hai tấm bia mộ cố đọc hai hàng

chữ trong bóng tối nhá nhem :"Tiên khảo Lục Công Triển - Nguyên chi mộ" và " Tiên

tỉ Lục Man Hà phu nhân chi mộ". Đọc xong, lão trầm ngâm nét mặt không khóc

nhưng nước mắt lão cứ tuôn ra trào trên hai gò má nhăn nheo hốc hác.

Bấy giờ, đôi mắt lão không trông thấy mọi vật xung quanh nữa.ï Lão chỉ thấy hai tấm

bia mộ... Hai tấm bia đang án ngữ trước tâm tư u buồn của lãọ

Bỗng, lão thấy như hai tấm bia đá lay động và biến thành đôi trai tài gái sắc. Nàng là

một thiếu nữ yêu kiều, diễm lệ. Còn chàng là một thanh niên tuấn tú, uy nghị. Họ

nhảy múa trước mặt lão như đôi hồ điệp lả lơi say nắng màu xuân.

Bất giác lão hét lên:

- Ôi, thế này thì quá lắm rồi! Họ dám tặng nhau chiếc xiêm hồ điệp.

Lão vung tay lên, lấy hết sức bình sinh đấm vào trang thanh niên tuấn rú đang ngạo

nghễ truớc mắt lãọ Nhưng cú đấm cuả lão trúng vào chiếc bia mộ Lục Công Triển

phát ra một tiếng "bốp" ghê hồn.

Chị em Trình Anh không hiểu gì cả.

Lão hét lớn:

- Mày trốn đi đâu! Hèn nhát !

Rồi một lần nữa, hai tay lão đấm túi bụi vào tấm biạ. Càng đánh lão càng hăng và lão

rống lên những tiếng nghe rùng rợn.

Cuối cùng, tấm bia đá tan ra từng mảnh. Lão cười một cách khoái trá:

- A ! Mày bị tao đánh nát sọ rồị Thôi, ta còn mặc tấm xiêm hồ điệp này làm gì nữạ

Lão đứng dậy cởi chiếc xiêm hồ điệp của lão đang mặc trong người, xé ra từng mảnh

tan nát, và ném tung lên ngôi mộ Lục Công Triển.

Lão nhìn từ lưng lão xuống đến hai chân, thấy không còn chiếc xiêm phụ nữ mà lão

đã từng mặc trong hơn 40 năm trời, lão thích chí cười khanh khách. Tiếng cười như

điên như dạị Bỗng tiếng cười lão im bặt. Lão đứng lặng yên cảm thấy như có điều gì

chưa thoả. Lão lẩm bẩm:

- Ta không thể không thấy mặt nàng.

Dứt lời, lão cúi xuống xoè hai bàn tay bấu vào ngôi mộ của Hà Nguyên Quân , bới

đất lên từng mảnh. Và cứ thế, lão đào mãi cho đến lúc nắp quan tài lộ ra trước mặt.

Bây giờ hai chị em Trình Anh mặt mày tái nhợt, hai cô bé run rẩy năm tay nhau chạy

trốn. May mà lão già đó mắc đào mả, không chú ý đến nên hai cô bé mới chạy thoát.

Hai cô bé chạy được một lúc, qua khỏi mấy khúc quanh, chẳng còn thấy bóng ông già

đào mả đâu nữa mới yên lòng theo đường trở về Lục gia trang.

Bấy giờ trời cũng vừa tối, Lục Vô Song hấp tấp chạy vào sảnh đường la rối rít:

- Thân phu ơi! Thân mẫu ơi! có người đang đào mả bà nộị

Lục Lập Đỉnh, cha Lục Vô Song lúc đó đang trò truyên với ba người khách lạ.

Lục Lập Đỉnh trước kia vốn được cha mẹ công phu giáo dục theo nề nếp gia phong

của thuở ấỵ Tuy võ nghệ cao cường, song từ nhỏ đến giờ bị cha mẹ cấm tuyệt con

đường giang hồ mã thượng, nên giới hảo hớn chẳng mấy ai biết tên. Lục Lập Đỉnh cố

nhiên không lấy thế làm vui, song muốn tròn chữ hiếu phải tuân lệnh gia nghiêm,

đành cam mãi một tài nghệ trong trấn Lãng hồ, nơi đất Giang Nam ngày naỵ.

Một hôm, Lục Lập Đỉnh đang ngồi suy nghĩ về dĩ vãng của song thân trong đại sảnh,

bỗng nghe ngoài cửa có tiếng ngựa hí và tiếng người kêu:

- Chúng tôi là kẻ hậu bối muốn xin vào yết kiến Lục Lão công.

Lục Lập Đỉnh đoán biết họ là khách lạ tìm đến, vì đất Giang Nam hiểm trở, toàn là

sông rạch. Nếu không có việc gì thì không ai muốn dừng bước.

Không muốn để khách lạ đứng chờ lâu, Lục Lập Đỉnh chạy ra cổng, thấy có ba người

khách tha phương, thân hình lực lưỡng, cỡi ngựa cao, lưng khoác thanh y đầy bụi

trắng, đang đứng chờ.

Thấy Lục Lập Đỉnh cả ba đều xuống ngựa, chắp tay thi lễ và nói:

- Chúng tôi là kẻ ở xa, muốn tìm đến đây ra mắt Lục lão công.

Lục Lập Đỉnh nghe khách nhắc đến song thân mình, long buồn ứa lệ đáp:

- Tôn nghiêm tôi đã thất lộc hơn 3 tháng naỵ. Quý vị là ai xin cho biết danh hiệụ

Ba người khách lạ nghe nói, mặt mày biến sắc, vẻ mặt lo lắng của họ hiện rõ trên

những vầng sám đen và biến thành màu đất. Họ như tán loạn, mất trí, đứng

không nói ra lờị

Lục Lập Đỉnh chưa hiểu gì cả, thấy thế hỏi:

- Xin quý vị cho biết quý vị đến đây tìm phụ thân tôi có việc gì?

Ba người đứng yên không đáp. Một người cất tiếng than:

- Thôi thế là hết! Thế là hết ! Chúng ta không thể nàơ cản được số mệnh.

Ba người cúi đầu chào Lục Lập Đỉnh một cách lễ phép và hấp tấp lên ngựạ. Một người

bước xuống ngựa nói:

- Lẽ nào chúng ta đến đây mà không vào từ đường bái lạy anh linh của lão anh hùng.

Lục Lập Đỉnh vội đỡ lời, nói:

- Thưa, tôi không muốn làm phiền quý vị.

Một người trả lời:

- Không, chúng tôi rất thành kính anh linh của lão anh hùng. vậy xin gia chủ cho

chúng tôi đến từ đường làm lễ lão công.

Lục Lập Đỉnh đáp:

- Vậy tôi xin mời quý vị theo tôị

Cả ba liền xuống ngựa phủi sạch lớp bụi mốc trên vai áo rồi bước theo chân Lục Lập

Đỉnh vào hậu sảnh.

Cả ba đứng chắp tay trước bàn thờ Lục công và phu nhân tỏ ra rất cảm động. Họ đăm

đăm nhìn trên bàn thờ rồi rồi khóc tấm tức như người trong thân thuộc. Lục Lập Đỉnh

cũng động lòng trước cảnh tợng ấy, rưng rưng đôi dòng lệ khóc theọ

Trong ba người có người dáng hơi thấp và béo phệ nói:

- Châu hiền đệ, chúng ta xin cáo biệt gia chủ để lên đường.

Người được gọi Châu hiền đệ đưa tay lau nước mắt, cúi chào Lục Lập Đỉnh nói:

- Thưa Lục huynh, chúng tôi bái lễ xong, lục Huynh cho phép chúng tôi từ biệt.

Lục Lập Đỉnh ân cần mời:

- Xin quý vị hãy cùng tôi ra tiền sảnh uống chén trà cho ấm lòng đã.

Ba người lễ phép, nói:

- Chúng tôi không dám làm phiền gia chủ.

Nói xong ba người liền quay gót bước ra cổng.

Lục Lập Đỉnh thấy dáng điệu của ba người, người nào trông cũng con nhà võ, mà sao

đến cũng hấp tấp, đi cũng hấp tấp nên có ý nghi hoặc nghĩ thầm:

- "Chắc ba người này có điều chi khẩn yếu".

Lục Lập Đỉnh liền bước theo tận cổng.

Ba người đến cổng liền chắp tay chào Lục Lập Đỉnh một lần cuối cùng rồi nhảy phóc

lên lưng ngựạ

Một trong ba người vừa đưa chiếc roi ngựa lên thì vai áo bỗng hất ra để lộ trên da một

vết bầm đỏ ửng.

Lục Lập Đỉnh trông thấy thất kinh, buột miệng kêu:

- Quí hữu đã bị "xích luyện thần chưởng " rồị

Bốn tiếng "xích luyện thần chưởng" như có sức mạnh lôi ba người khách trở lại vơí

Lục Lập Đỉnh. Ba người run lập cập quay ngựa trở lại, đến trước Lục Lập Đỉnh cúi

đầu nói:

- Ôi chao! Chúng tôi kẻ ngu phu, đứng trước núi Thái sơn mà không thấỵ Lục hiệp sĩ

đã biết chúng tôi là bị "xích luyện thần chưởng " vậy xin mở lòng nhau cứu giúp

chúng tôị

Lục Lập Đỉnh khiêm nhường nói:

- Kẻ hèn này võ công chưa rèn luyện được bao nhiêụ Trước kia nhờ thân phụ truyền

dạy nên mới biết đôi chút về chưởng thuật nàỵ

Ba người khách lạ nhưbừng tỉnh, nhảy phóc xuống ngựa, cúi rạp đầu xuống đất nói:

- Trong lúc bối rối, chúng tôi đã quên mất Lục đại huynh là con của Lục lão công lẽ

nào không thừa hưởng cái di sản ấỵ

Lục Lập Đỉnh không nói gì cả bước tới đỡ ba người khách lạ, dắt về đại sảnh để hỏi

thăm duyên cớ. Trong lúc đang nói chuyện thì Lục Vô Song hớt hãi từ ngoài chạy

vào, miệng nói rối rít. Lục Lập Đỉnh bận tiếp khách không đẻ ý đến lời nói của ái nữ,

vội xua đuổi:

- Việc gì mà rối ren thế, chớ có vô lễ, hãy trở về hậu cảnh lập tức.

Lục Vô Song thấy cha mình không để ý đến quan hệ liền thưa:

- Thưa cha, việc này quan hệ lắm, không phải chuyện thường. Có một người đang

quật mả bà nội của con.

Lục Lập Đỉnh ngơ ngác cau mày hét:

- Súc sanh đừng nói bậy! Có ai dám làm chuyện phi thường ấỵ

Lục Vô Song thấy cha mình không tin lời vội cãi lại:

- Quả thật như vậỵ Nếu cha không tin thì ra gốc hoè sẽ thấỵ

Bấy giờ Trình Anh đã về đến nhà và cũng nói y như Lục Vô Song đã nóị

Lục Lập Đỉnh xưa nay vốn biết tánh của Trình Anh không bao giờ đặt điều nói nhảm

nên đem lòng tin hỏi lại từ đâu đuôị. Trình Anh kể chuyện ông lão từ lúc ngồi trên bờ

hồ đến lúc đào mả Hà Nguyên Quân.

Lục Lập Đỉnh nóng lòng, nghe chưa hết câu chuyện đã vội bước vào trong lấy chiếc

đoản dao giắt vào mình và gọi ba người khách lạ nói:

- Xin mời quý hữu theo tôị

Trời lờ mờ tối, bốn cái bóng người lướt nhanh về phía cây hoè. Đến nơi, không thấy

bóng ông già đâu cả, chỉ thấy cái mộ đất đào tung toé, hai chiếc quan tài bị đào lên

khỏi đất và bật nắp trống rỗng.

Những đồ khâm liệm vung vãi ra ngổn ngang. Lục Lập Đỉnh bớc đến dòm vào hai

quan tài thì thấy hai tử thi không còn nữa, chỉ thấy trên nắp in sâu những dấu tay rất

lớn.

Ba người khách lạ nhìn nhau sửng sốt thì thầm:

- Hiện trạng này chứng tỏ lão già chỉ dùng tay không quật mộ và đoạt tử thị Hành

động ấy phải là kẻ có một võ công siêu phàm mới làm được.

Lục Lập Đỉnh cũng nghĩ thế. Ngoài sự khâm phục tài nghệ của kẻ thù, Lục Lập Đỉnh

còn phân vân tự hỏi:

- Lão già này có can hệ gì đến gia đình ta, song thân tạ. Với hành động quái nghiệp

này không phải là một chuyện vô cớ.

Nghĩ như thế, Lục Lập Đỉnh rút chiếc đoản dao lăm le cầm trên tay, từ từ đi quanh

hai ngôi mộ để tìm vết chân cảu kè thù lúc đến và lúc đị. Nhưng tuyệt nhiên, ngoài

những dấu tay in sâu trên chiếc quan tài, lão già không còn để lại vết tích gì nữạ

Lục Lập Đỉnh tức giận hét lên:

- ác tặc ! Mi đã dùng thuật khinh công lui tới nơi nàỵ

Vừa nói Lục Lập Đỉnh vừa lăm lăm lưỡi dao, nét mặt hầm hầm, tiến từng bước về

phía đàng trước như kẻ thù còn ẩn núp đâu đâỵ

Bấy giờ trời đã tối mịt. Bãi tha ma vắng lặng như tờ. Đây đó rải rác những cây thùy

liễu đen ngòm như những con thú dữ rình mồị

Một vài nhát đoản dao của Lục Lập Đỉnh thoáng qua và cành thuỳ liễu rơi tua tủa

phát ra tiếng động rồi lại im lặng. Thỉnh thoảng vài cơn gió thổi lẫn với tiếng côn

trùng ra rỉ nghe rất rùng rợn.

Lục Lập Đỉnh càng tức giận , lòng can đảm càng nhiềụ Chàng vung đoản dao đi vào

các lùm cây rậm, lá cành rơi lả tả. Chẳng biết như thế có làm nguôi cơn giận của

chàng không? Ba người khác lạ đứng đàng xa thỉnh thoảng nghe Lục Lập Đỉnh chặc

lỡi nói một mình:

- Thế này thì chắc hắn phải có thuật khinh công siêu việt.

Nghĩ thế, Lục Lập Đỉnh lại dùng thuật khinh công chạy khắp vùng, ẩn hiện trong

bóng tối chập chờn, hy vọng tìm ra địch thủ. Nhưng vô hiệu, sau khi tìm khắp nơi,

Lục Lập Đỉnh lại trở về trước ngôi mộ ôm mặt khóc sướt mướt.

Ba người khách thấy thế khuyên giải:

- Thưa Lục Huynh! Lục huynh hãy an tâm. Chúng tôi tin chắc rồi đây thế nào cũng

tìm ra ác tặc nàỵ

Lục Lập Đỉnh giương đôi mắt tròn xoe nói lớn:

- Lão già là aỉ Có liên quan gì đến gia đình ta ? Các ngươi đã biết sao các ngươi không

nói ?

Một trong ba người khách thưa:

- Câu chuyện này rất dài dòng và bí hiểm, chúng ta không nên ở đây mà đàm luận.

Xin Lục huynh cùng chúng tôi về đại sảnh, đem hết trí ra xét đoán thế nào cũng tim

ra được duyên cớ.

Lục Lập Đỉnh như hối hận trước cử chỉ quá bồng bột của mình tỏ vẻ ân hân nói:

- Xin quý khách thứ lỗi ! Tôi vì quá đau khổ nên đã thất lễ.

Ba người khách ôn tồn thưa:

- Xin Lục huynh đừng nghĩ thế.

Bốn người trở về Lục gia trang, vào an toạ nơi đại sảnh. Nét mặt Lục Lập Đỉnh vẫn

rầu rầu chưa nguôị Sau một vài chung trà, Lục Lập Đỉnh lui vào hậu đường tim phu

nhân kể lại sự tình. Nhưng lúc nãy giờ, sau khi nghe câu chuyện Lục Vô Song kể lại,

phu nhân xách kiếm ra đi chưa về. Không tìm gặp vợ, Lục Lập Đỉnh quay ra đại sảnh

để cũng khách hàn huyên.

Ba người khách bắt đầu kể lại câu chuyện của họ bị "xích luyện thần chưởng " cho

Lục Lập Đỉnh nghẹ

Họ là những người hộ tống làng hoa thuộc đất Sơn Đông. Một người họ Tô, một

người họ Long và một người họ Thân

Vừa nghe qua tên họ, nghề nghiệp của các vị khách Lục Lập Đỉnh đã bất bình nói:

- Ta xưa nay có bao giờ quen với những người hộ tống. Các ngươi tìm đến nhà ta ý

muốn gì?

Ba người khách lễ mễ đứng dậy chắp tay nói:

- Xin Lục huynh rộng lòng thương cứu mạng mặc dầu chúng tôi là kẻ hèn mọn không

dám được Lục huynh chiếu cố.

Lời rên rỉ ấy làm cho Lục Lập Đỉnh động lòng. Chàng hỏi:

- Thôi, các ngươi hãy đứng dậy và kể cho ta nghe vì sao laị bị "xích luyện thần

chưởng "?

Hai người họ Long và Tô đồng thưa:

- Cả ba chúng tôi đều thụ thương bởi độc thủ "xích luyện thần chưởng ".

Vừa nói họ vừa lật áo đưa vai cho Lục Lập Đỉnh xem.

Thấy những dấu máu tay ửng hồng rùng rợn, Lục Lập Đỉnh hét lên:

- Vì sao cả ba người cũng bị một lần ? Kẻ nào đã dùng ngón độc thủ đấỷ Vì sao các

ngưbơi lại biết thân phụ ta có thể chữa mạng cho các ngươi ?

Người họ Long thưa:

- Các đây bảy hôm chúng tôi có áp tải một chiếc xe từ Sơn Đông đến Phúc Kiến. Khi

đến vùng Dương chân, vì khí trời oi ả nên chúng tôi tạm dừng chân tại một tửu điếm

để giải khát. Bỗng chúng tôi thấy xa xa có một người cỡi ngựa xăm xăm đi tớị. Đến

gần thì ra đó là một đạo cô, khoác chiếc áo hoàng bào, ngồi trên lưng một con lừa

thấp, tuổi vào trạc trung niên nhưng nhan sắc còn cực kỳ diễm lệ. Đạo cô đến trước

quán cho ngựa dừng lại, bước đến gọi tửu điếm pha trà. Trong nhóm chúng tôi có tên

Châu này vốn háo sắc, Nay gặp mỹ nhân khó có thể bỏ quạ. Chàng bước đến giai nhân

vừa cười vừa nói:

- Cô nương đi một người một ngựa, thân gái dặm trường không sợ cường đạo hay sao

? Thôi hãy cũng tôi sớm tối cho có bạn đường , ý cô nương nghĩ thế nào ?

Người đẹp mỉm cười đáp:

- Thưa, tiên nữ nghĩ rằng cường đạo đâu có đáng ngại bằng quí vị hộ tống phiêu xạ

Dứt lời nàng đưa bàn tay ngọc vổ nhẹ vào vai tên Châụ. Lạ thay, chàng Châu đang tươi

tỉnh bỗng mặt mày xanh xám, tay chân run lẩy bẩy, hàm răng đánh vào nhau cầm cập

như bị gió lạnh rồi toàn thân lảo đảo ngã quỵ xuống đất.

Nghe đến đây, Lục Lập Đỉnh nhìn kỹ lại tên Châu từ đầu đến chân và nói:

- Ngón đó gọi là ngón "Cửu do tục thủ". Con quái tắc ấy thật là nham hiểm.

Người họ Long kể tiếp:

- Còn lại tôi và Tô hiền đệ. Cả hai chúng tôi đều hoảng hốt. Tôi bước đến đỡ Châu

hiền đệ , còn Tô hiền đệ nóng nảy xỉ vào mặt đạo cô mà rằng:

- Sao đạo cô nỡ ác tâm dùng tà thuật hại chúng tôi ?

Đạo cô không đáp, chỉ mỉm cười bước đến bên chúng tôi, cũng lấy tay vỗ nhẹ vào vai

tôị Tôi cảm thấy toàn thân như bị lửa đốt, rồi lạnh giá như băng. Chúng tôi lảo đảo

ngã xuống đất. Bọn phu xe thấy thế đứng nhìn trơ trơ như những tượng đá.

Đạo cô nhìn chúng tôi bĩu môi khinh bỉ:

- Tài nghệ của chúng bay chỉ có thế mà dám đảm đương bảo vệ phiêu xa, dám trương

cờ đến đất Giang Nam này thì chúng bay quả cũng to gan thật.

Đoạn đạo cô chỉ vào mặt ba chúng tôi nói:

- Đứa nào muốn tận số hay đến đây ta cho nếm một chưởng nữạ

Tôi sợ đạo cô nổi giận, tặng thêm cho chúng tôi mỗi người vài chưởng nữa thì vong

mạng nên vôi thưa:

- Xin đạo cô tha cho chúng tôi tội thất lễ.

Đạo cô cười với cái cười khinh bỉ nói:

- Thế ra đến bây giờ chúng bây mới biết cái uy của chúng bây sao ?

Chúng tôi tranh nhau nói:

- Thưa, chúng tôi không dám thất lễ nữa, xin bái phục đạo cộ

Đạo cô trở ngược chiếc quạt lông đang trên tay, dùng cán gõ nhẹ vào đầu tôi một cáị

Ôi Chúa! Không biết bao nhiêu luồng tử khí khác thường, vừa nóng vừa lạnh chạy

khắp mình khiến toàn thân bủn rủn và cực kỳ đau đớn. Tôi chắp tay lạy lục nói:

- Muôn lạy đạo cô ! Chúng tôi xác phàm mắt thịt, đứng trước núi Thái sơn mà không

biết, xin đạo cô chớ chấp.

Lời van vỉ của tôi làm cho nét mặt của đạo cô có dịu lại, nàng nói:

- Sư phụ ta chỉ dạy ta thuật đánh người mà không truyền thuật cứu ngườị. Ta cho các

người biết, kẻ nào đã trúng độc của ta thì mạnh lắm cũng chỉ sống được 10 ngày thôị

Nói xong, đạo cô lại nhoẻn miệng cười, phe phẩy chiếc phất trần phủi sạch bụi trên

vạt áo rồi đủng đỉnh bước ra, ung dung lên lưng lừa như một khách thừa lương giục

cương rảo bước.

Bấy giờ nỗi lo sợ chiếm cả tâm hồn tôị. Tôi không còn lưu giữ thể diện trước bọn xa

phu nữa.ï Tôi rán sức chạy theo đạoc ô và quỳ gối van lơn:

- Xin đạo cô hãy thương tình cứu mạng chúng tôị. Được sống chúng tôi nguyện kết cỏ

ngậm vành.

Lục Lập Đỉnh nghe đến đây cau mày làm cho người tên Long hoảng sợ, nói:

- Thưa Lục chủ, chúng tôi đến đây mong được Lục chủ cứu mạng. Sự tình ra sao thế

chúng tôi kể lại thế, không dám thêm bớt.

Lục Lập Đỉnh nói:

- Được, các ngươi cứ kể tiếp cho ta nghẹ

Người tên Long kể tiếp:

- Trong lúc tôi lạy lục cầu xin cứu mạng thì đạo cô quay lại cười nói:

- Thôi được ! Ta chỉ cho các ngươi một con đường sống nhưng con đường nầy hy

vọng mong manh đấỵ. Sống hay không là do ở số mạnh của các ngườị .Vậy các ngươi

hãy đến trấn Lăng Hồ, phủ Hồ Châu, gặp vị lão anh hùng Lục Triển Nguyên may ra

có thể cứu mạng được. Ta nhắn lời hỏi thăm và ta sẽ gặp lãọ

Đôi mày Lục Lập Đỉnh càng cau lại, chàng vừa kinh ngạc vừa băn khoăn tự hỏi:

- Như thế viêc quật mồ song thân ta và việc trên hẳn có liên quan với nhau chăng?

Thật lạ lùng làm sao ?

Người tên Long tha:

- Theo ý kẻ hèn này thì hai việc ắt có gì mật thiết và quan hệ với nhaụ

Lục Lập Đỉnh hỏi:

- Với lời rên rỉ của ngươi, nữ tặc quyết định như thế nào ?

- Tôi những hy vọng lời rên rỉ của tôi sẽ làm mềm lòng đạo cô đó nhưng ngờ đâu,

nàng một mực như đe doạ:

- Đây đến Hồ Châu còn xa, các ngươi còn bao nhiêu thời khắc nữa mà lại phí phạm

vào những hy vọng hão huyền.

Nói xong nàng thức lừa cất vó. Bụi đường tung lên. Trong khoảng khắc chúng tôi

không còn thấy bóng nàng đâu nữạ. Chúng tôi nhìn nhau ngao ngán và không thể

không tin lời của đạo cộ

- Bấy giờ ba anh em chúng tôi, trên vai nào cũng in đậm một vết máu ửng đỏ mang

dấu năm ngón tay của mỹ nữ. Vết hồng chưởng càng ngày càng ăn rộng ra, chúng

tôi còn chỉ có cách đến Lục Gia trang nhờ Lục công cứu mạng. Nhưng đến đây thì

Lục công đã thành người thiên cổ. Chúng tôi tuyệt vọng nghe tin ấy như một bản án

tử hình, chúng tôi không còn đủ trí óc để nghĩ rằng Lục huynh là người thừa kế Lục

Công hẳn thừa hiểu cái bí quyết cứu nhân độ thế. Vậy mong Lục huynh thương tình

cứu mạng, chúng tôi sẽ xin kết cỏ ngậm vành.

Lục Lập Đỉnh ngồi nghe tên Long kể một hồi rồi chậm rãi nói:

- Ta từ nhỏ chỉ biết luyện tập trong sân nhà, chưa bao giờ dấn thân trên các bước

phiêu lưu mạo hiểm. Các ngươi không biết đến ta cũng không lấy làm lạ.

Lời nói của Lục Lập Đỉnh tuy có vẻ khiêm tốn song thực ra còn đượm một nét tự phụ

vô cùng tinh tế.

Chàng đứng dậy đi tới đi lui trong phòng với dáng điệu hiên ngang tự đắc. Trông dáng

điệu ấy ba người khách mừng thầm vì nghĩ rằng Lục Lập Đỉnh có đủ tài năng cứu

mạng.

Xích luyện thần chưởng với mối tình thù

Lục Lập Đỉnh đang thong dong đặt từng bước trước sân nhà bỗng chàng dừng lại, đôi

mắt tròn xoe nhìn đăm đăm vào bức tường trước mặt. Dưới ánh sáng lập loè của chiếc

thiền đăng nơi đại sảnh, bức tường trắng xoá hiện lên chín dấu bàn tay máu. Màu máu

đỏ ửng còn tươi như có người vừa ấn vào. Vết tay in rất có thứ tự. Từ trên trần nhà trở

xuống hai vệt song song. Dưới một chút tiếp theo hai vệt song song nữa. Và cứ thế

chín bàn tay máu kéo dài từ trên xuống dưới, mà ba vết cuối cùng cách mặt đất hơn

một trượng. Ba người khách hộ tống phiêu xa cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn vào bức

tường có bàn tay máu. Bấy giờ nét mặt của Lục Lập Đỉnh không còn ngang nhiên tự

phụ nữa. Chàng lẩm bẩm:

- Con quỉ cái này đến tìm ta làm gì? Giữa ta và hắn có mối thù truyền kiếp gì chăng?

Lục Lập Đỉnh lại nghĩ đến Lục phu nhân vắng nhà, lòng nóng như đốt, không quan

tâm đến ba người khách đang chờ quyết định của chàng, chàng rảo bước ra mé cổng

toan đi tim Lục phu nhân, nhưng lúc đó Lục phu nhân cũng vừa về đến, một tay dắt

Trình Anh, một tay dắt Lục Vô Song đẩy cổng bước vào. Trông thấy chồng, Lục phu

nhân lắc đầu một cách tuyệt vọng.

Lục Lập Đỉnh chưa muốn cho Lục phu nhân biết chín bàn tay máu in trên tường vì sợ

Lục phu nhân xúc động mạnh, bèn đem câu chuyện 3 tên hộ tống phiêu xa kể lại.Lục

phu nhân hỏi:

- Như thế chúng ta có nên cho họ trú lại nhà chăng?

Lục Lập Đỉnh đáp:

- Việc này có quan hệ đến họ đâu.

Lục đại nương đem Trình Anh và Lục Vô Song vào phòng khép cửa cẩn thận rồi mới

trở ra nói với Lục Lập Đỉnh:

- Lạ lùng làm sao! Gia trang chúng ta ngày hôm nay là ngày đại biến.

Lục Lập Đỉnh ngơ ngác hỏi:

- Có việc gì khác chăng ?

Lục đại nương nói :

- Bọn gia đinh đều cho thiếp hay gia súc trong nhà đều chết hết.

Lục Lập Đỉnh trố mắt nhìn vợ hỏi lại:

- Phu nhân nói sao ?

Lục đại nương thưa:

- Thiếp nói tất cả gia súc đều chết tiệt. Ba con chó, bốn con mèo, bảy mươi con heo,

mười con ngỗng, hai mươi con gà đều chết một lượt.

Lục Lập Đỉnh vội vã mở cửa phòng chạy thẳng ra cửa sau thì thấy tên đầy tớ trại đang

đứng khóc mếu máo. Trên sân nào heo, nào chó, nào ngỗng, nào gà nằm la liệt ngổn

ngang, nhưng con vật nào cũng vẫn còn tươi như mới cắt tiết.

Lục Lập Đỉnh hỏi tên đây tớ:

- Vì sao gia súc lại bị chết như vậy ?

Tên đầy tớ vừa khóc vừa đáp:

- Thưa gia chủ, lúc xẩm tối con đang chẻ củi sau nhà, bỗng dưng con cảm thấy trong

nhà sao vắng vẻ khác thường, chó không sủa, gà không kêu... Con bước vội ra chuồng

gà xem thì thấy cả bầy gà trong chuồng đều chết hết. Con chạy lên chuồng heo thì

thấy bảy mươi con heo vừa lớn vừa nhỏ đang nằm yên. Con liền ...

Lục Lập Đỉnh ra hiệu bảo tên đầy tớ đừng nói nữa, mắt đăm đăm nhìn vào con chó A

hoa nằm chết, đầu bị đánh vỡ. Chàng lẩm bẩm

- Thế này thì không phải đám gia súc chết vì ôn dịch.

Lục Lập Đỉnh lại quan sát từng con vật thì thấy con vật nào cũng bị một vết đánh trên

đầu, dấu vết rất nhỏ chứng tỏ kẻ sát hại dùng một cử chỉ rất nhẹ nhàng.

Lục Lập Đỉnh liên tưởng đến cái phất trần của đạọ cô đã dùng hãm hại hạ tên hộ tống

phiêu xa, chàng buột miệng nói một mình:

- Thôi đích thị rồi, không còn lầm lẫn nữa. Chính nó đã đến đây dùng cán phất trần

diệt gia súc của ta trước khi xâm nhập gia trang. Từ xa đến nay, ta chưa hề dấn thân

trên bước giang hồ làm gì có gây thù oán. Thế này thì hẳn con ác quỉ ấy đã nhắm vào

hai vợ chồng ta để rửa một mối hận thù nào đó cho dòng giống. Nhưng hận thù gì?

Chàng còn suy nghĩ vừa thở bước vào đại sảnh, thấy ba người khách vẫn chờ đợi.

Chàng nói:

- Các người đã thấy việc nhà ta không may gặp phải chuyện không hay, chỉ có anh em

em ruột thịt mới lưu trú được.Vậy các người hãy tìm nơi khác nghỉ ngơi.

Ba người khách nghe nói hốt hoảng mặt mày xám nhợt, nói không ra lời, vội tuột

xuống ghế quỳ lạy thở than.

- Lục huynh nỡ nào để chúng tôi thiệt mạng trong lúc Lục huynh có thể cải tử hoàn

sanh.

Tuy trong bối rối, nhưng Lục-lập-Đỉnh không nỡ từ khước lòng nhân đạo, liền vào

phòng trong lấy ra 27 mũi kim vàng, rồi bảo ba người khách cởi cả quần áo, tự tay

mình điểm vào các trọng huyệt. Lạ thay! Mỗi mũi kim dài độ nửa gang tay mà đâm

lút vào người vẫn không thấy đau đớn gì cả.

Sau khi điểm xong mỗi người chín huyệt đạo Lục-lập-Đỉnh nói

- Thôi! Các người hãy đi quanh vùng nầy tìm nơi khác trú ngụ. Quá ba hôm ta mới

biết có cứu được hay không.

Ba người khách cảm ơn và hỏi:

- Kính thưa Lục huynh, Lục huynh vừa nói đến những chuyện không may ở gia trang

nầy chẳng hay đai hoa ấy do đâu, Lục huynh có thể cho chúng tôi biết chăng?

Lục lập Đỉnh không muốn mất thì giờ với những kẻ vô danh tiểu tốt, liền nói thẳng:

- Ba vị đã bị trúng ngón độc thủ xích luyện thần chưởng, chỉ mười ngày là vong

mạng, nay ta đã làm phước điểm cho mọi vị chín huyệt bằng kim vàng để tạm dừng

sự bành trướng của máu độc. Vậy phải chờ quá ba hôm mới biết hiệu quả. Các người

hãy đi đi để ta lo việc của ta đừng làm mất thì giờ ta vô ích.

Ba người khách nói:

- Nếu chẳng may trong thời gian ấy Lục huynh có mệnh hệ naò chúng tôi biết phải

làm sao?

Lục-lập-Đỉnh đảo lộn cặp mắt một vòng, lạnh lùng nói:

- Trên trần thế này, ngoài ta ra không còn ai có thể trị nổi ngón độc thủ ấy. Nếu ta có

mệnh hệ nào tin các người cũng phải chết mà thôi.

Ba người khách còn chần chờ ý nghĩ, Lục lập Đỉnh dựng dậy tiếp lời:

- Các người còn chần chờ gì nữa! Nếu các người còn trì hoãn ở lại đây, con ác quỉ kia

sẽ đến, và lúc đó không còn gì cứu chữa nữa.

Ba người khách nghe nhắc đến đạo cô hoảng vía, chắp tay bái tạ và kéo nhau ra khỏi

Lục gia trang.

Lục lập Đỉnh không còn giữ lễ đưa khách ra cổng nữa, cứ ngồi yên trên ghế, mắt đăm

đăm nhìn chín bàn tay máu in trên vách. Bỗng đằng sau có tiếng gót chân bước nhẹ,

và hai bàn tay nhỏ xíu chạy vào đôi mắt của Lục lập Đỉnh.

Chàng thất kinh hét:

- Ai thế?

Thì ra đó là Lục vô Song, con gái cưng của Lục lập Đỉnh.

Lục Vô Song, đã quen cái trò chơi thân mật này đối với cha mẹ từ thuở lên ba. Cứ

mỗi lần cha mẹ có việc gì lo buồn, cô bé ấy lại giở nhiều trò chơi tiêu khiển.

Nhưng lần này Lục lập Đỉnh ở trong trạng thái vô cùng hốt hoảng, mất bình tĩnh, hét

như sấm, làm cho Lục vô Song cũng khiếp vía.

Thấy cha mình không nhã nhặn như mọi lần, Lục vô Song bất bình nói:

- Con đùa với phụ thân, sao phụ thân nỡ giận?

Lục lập Đỉnh thương hại, nắm tay con chưa kịp tỏ lời thì tên đầy tớ A Căn từ phía

ngoài bước vào thưa:

- Thưa gia chủ, có khách từ xa đến.

Đang bực mình, Lục lập Đỉnh không muốn khách đến quấy rầy mình, liền bảo tên

đầy tớ:

- Mày ra nói với khách rằng tao không có ở nhà, lúc khác sẽ đến.

A Căn nói:

- Người đó là một nữ khách, chẳng phải đến xin gặp gia chủ mà chỉ xin tá túc một

đêm.

Lục lập Đỉnh kinh ngạc hỏi:

- Mày nói sao? Nữ khách nào?

A Căn đáp:

- Khách là một thiếu phụ, có dẫn theo hai đứa bé khôi ngô tuấn tú.

Như có ý nghi ngờ, Lục lập Đỉnh hỏi:

- Thiếu phụ ấy không phải là một đạo cô chứ?

A Căn thưa:

- Không phải đạo cô! Người này ăn mặc ra vẻ một đại nương quí phái.

Lục lập Đỉnh hơi yên lòng, nói:

Thế thì ngươi dẫn họ vào nhà khách dọn cơm cho họ lót lòng và xếp đặt cho họ chỗ

nghỉ ngơi.

A Căn vâng lời bước ra ngoài. Lục lập Đỉnh thủng thẳng theo sau, bụng bảo dạ:

Ta hẵng xem người ấy ra sao?

Nhưng Lục phu nhân lại chạy vào phòng đón chàng lại cau đôi mày nói:

Phu quân bằng lòng cho hai đứa bé trai đó tạm trú nơi đây sao?

Lục lập Đỉnh quay về phía bức tường chỉ vào chín bàn tay máu nói:

Hai đứa bé ấy nếu đã được chỉ định vào con số 9 thì dẫu có trốn nơi đâu cũng không

thoát khỏi độc thủ của đạo cô.

Lục đại nương nhìn kỹ chín bàn tay máu, bỗng đôi mắt hoa lên. Nàng có cảm giác

như chín bàn tay kia lay động, mỗi lúc một lớn hơn và màu đỏ làm xây xẩm cả mặt

mày.

Lục đại nương lảo đảo bước tới đưa tay đấm mạnh vào bức tường. Một tiếp "đốp" rợn

người! Lục Phu nhân hét lên một tiếng rồi ngã xuống ngồi thừ trên chiếc tràng kỷ, đôi

mắt mơ màng lẩm bẩm:

- Vì sao nhà ta chỉ có bảy người mà ở đây lại 9 bàn tay ?

Lục Lập Đỉnh thở dài đỡ vợ dậy ái ngại:

- Phu nhân ơi ! sự việc đã đến nỗi nãy dẫu chúng ta có sợ sệt cũng chẳng ích gì.

Chúng ta cần mạnh dạn để chấp nhận sự thật. Hai bàn tay trên chính là mạng song

thân ta. Hai bàn tay kế tiếp là mạng của chúng ta, rồi đến hai bàn tay nữa là Trình

Anh và Lục Vô Song. Sau hết ba bàn tay cuối cùng là sinh mạng của A Căn và hai

tên tỳ nữ. Đó là lỗi cảnh cáo của con ác tặc hăm doạ tàn sát cả gia đình để không còn

một bóng người, không còn một tiếng vật.

Lục phu nhân hỏi:

- Sao chúng đeo đuổi song thân ta làm gì?

Lục Lập Đỉnh buồn bã đáp:

- Chính ta cũng chẳng rõ nguyên nhân nào ? Chẳng biết con ác quỷ đó với song thân

ta có một mối thù truyền kiếp nào chăng ? Những người đã chết chúng còn quật mồ

cướp thây hẳn có một oan cừu cay nghiệt.

Lục phu nhân hỏi:

- Phu quân đinh ninh rằng lão già kia và con ác quỷ đó sẽ đến đây sao?

Lục Lập Đỉnh mím đôi môi, cay đắng nói:

- Điều đó tất nhiên rồi !

Giữa lúc hai vợ chồng đang bàn luận thì tên đầy tớ A Căn nét mặt hầm hầm bước vào

thưa:

- Thưa gia chủ! Chúng nó chơi đến trò này quá lắm rồi.

Lục phu nhân hỏi dồn:

- Lại chuyện gì xảy ra nữa ? Thật khốn kiếp.

Lục Lập Đỉnh cũng nóng lòng hỏi vội:

- Việc gì đó ? Có quan hệ chăng?

A Căn thưa:

- Thưba, chẳng hiểu kẻ nào chơi nghịch đem xích sắt khoá kỹ chiếc cổng bên ngoài,

kêu gì chúng cũng không mở. Con tức giận xô hoài mà chẳng được.

Cả hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh nghe nói thất sắc, thu hết can đảm tiến về phía cổng

ngoài. Họ đi song song với nhau và cẩn thận từng bước một.

Đến cổng, đôi cánh cửa nặng nề bằng gỗ lim vẫn đóng cứng. Lục Lập Đỉnh vận dụng

hết sức bình sinh, hai tay bấu chặt vào cổng, chun chân dùng thế nhấc bổng lên,

nhưng cánh cổng vẫn nặng như đá không lay chuyển chút nào.

Lục đại nương ngạc nhiên cho là điều quái lạ, dùng chân nhảy phóc lên đầu tường,

đưa mắt quan sát. Bên ngoài không có một bóng người, không có một tiếng động, bốn

bề yên lặng như tờ.

Để khám phá việc lạ, Lục đại nương rút kiếm, cẩn thận nhảy ra phía ngoài tường, men

vào cánh cổng.

Thì ra, kẻ nào đùa nghịch đã đem xích sắt khoá cánh cổng tự lúc nào.

Lục đại nương nổi giận hỏi:

- Bọn này muốn trêu ta sao?

Nàng toan xông đến chém gãy chiếc xiềng xích cho vỡ tan hàng trăm mảnh cho hả

giận. Nhưng bỗng nhiên nàng chùn chân vì phía trên có treo vuông lụa nhuộm chín

bàn tay. Màu máu tươi và đỏ chót.

Lúc đó, Lục Lập Đỉnh cũng đã tung chân nhảy lên đầu tường, thấy vuông lụa máu,

chàng biết ngay địch thủ đã dùng dấu hiệu để cảnh báo và uy hiếp tinh thần.

Không còn sợ sệt, Lục Lập Đỉnh quay về phía phu nhân nói với giọng cương quyết:

- Ngày hôm nay nhà ta phải chịu dồn dập những tai ương. Nhưng đó mới là chuyện

mở màn cho những khốc liệt sau này. Con ác quỷ đó chỉ muốn cái chết của vợ chồng

ta. Nhưng dù có chết chúng ta cũng phải giữ tròn uy danh cho dòng họ Lục.

Lục đại nương nghe chồng nói, lòng tự ái con nhà võ cũng nổi lên. Nàng nghiến chặt

hai hàng răng nói:

- Thưa phu quân, Lời phu quân thật chí lý. Dẫu phải chết thiếp quyết không rời phu

quân.

Hai người nhảy xuống bờ tường trở vào đại sảnh.

Khi vào đến hậu viên, Lục Lập Đỉnh thoáng nghe đâu đây có tiếng động chàng vội vã

đẩy Lục đại nương vào trong còn mình xách kiếm lăm le từng bước một tiến tới.

Chàng thoáng thấy một bóng người! Một bóng người ngồi trên đầu tường ở hoa viên.

Trông kỹ thì đó là một đứa bé trai, tóc đan thành hai bím chổng ngược lên trời, tay

đang vân vê một cánh hoa lang tiêu.

- Hãy cẩn thận nhé ! Không khéo rơi xuống đấy !

Thì ra, Trình Anh và Lục Vô Song trong lúc vợ chồng Lục Lập Đỉnh mắc bận tâm lo

công việc, hai cô bé này đã cũng một đứa bé trai vừa mới đến túc ngụ rủ nhau đi tìm

hoa lăng tiêu sau vườn.

Lục Lập Đỉnh nhủ thầm:

- Ta cứ tưởng hai đứa bé trai đến đây ẩn núp, nào ngờ chúng lại tinh nghịch vậy.

Thằng bé đứng trên đầu tường làm dáng điệu như sắp ném hoa đang cầm nơi tay.

Lục Vô Song kêu lớn:

- Ném cho tôi đi ! Ném cho tôi đi !

Thằng bé nghe kêu mỉm cười tung đoá hoa về phía Trình Anh.

Trình Anh nhanh tay hứng lấy rồi đưa lại cho Lục Vô Song . Lục Vô Song tỏ vẻ bất

bình làm mặt giận , ném đóa hoa xuống đất giẫm chân lên chà nát rồi bĩu môi nói:

- Quí lắm đấy, ta chẳng thèm lấy đâu !

Thấy con và cháu đang đùa nghịch một cách vô tư, chẳng biết gì đến hiểm hoạ đang

bao trùm cả Lục gia trang, Lục Lập Đỉnh thở dài quay gót trở về phòng.

Trình Anh thấy Lục Vô Song không lấy hoa, lại còn tỏ ý hờn giận liền hỏi:

- Sao em khó tánh thế ?

Lục Vô Song đáp:

- Em không thèm lấy hoa của nó. Để tự tay em lấy cho mà xem.

Dứt lời, Lục Vô Song nhún mình nhảy vọt lên cao, níu lấy một cành cây đu qua đầu

tường, chuyển mình sang một cành cây châu ngân quế lanh lẹ như một con sóc.

Thằng bé thấy thế cười khì, thách:

- Có giỏi thì nhảy lại qua đây !

Lục Vô Song đang thòng người lơ lửng trên cành châu ngân quế nghe tiếng thách đố

liền du cả người phóng mạnh về phía thằng bé.

Đứng về phương diện võ thuật, lối nhảy như thế là một lối nhảy vô cùng nguy hiểm,

chỉ có những kẻ tài nghệ cao cường mới dùng thuật khinh công liều lĩnh trong nguy

biến. Thế mà Lục Vô Song chỉ vì không được tặng hoa, chạm lòng tự ái, đã dám lao

mình cho đến đích mà không lường trước được nguy hiểm.

Thằng bé hốt hoảng ré lên:

- Thôi rồi ! Thôi chết rồi !

Cả một khối người rơi đúng chỗ nó. Thằng bé giơ tay lên đỡ. Nhưng Lục Vô Song

miệng thét lên lời trách móc, hai tay xua không cho thằng bé đón lấy mình.

Thật quá kinh ngạc ! Làm sao trong một thế giằng co như thế mà cô bé có thể giữ

được quân hình.

Lục Vô Song miệng kêu thất thanh, liền rơi xuống đất.

Thằng bé thứ hai đứng dưới chân tường thấy thế chạy lại giơ tay đón đỡ nhưng Lục

Vô Song rơi từ chỗ cao quá nên thằng bé không tài nào đỡ nổi. Cả hai đều lăn nhào

trên mặt đất. Lục Vô Song nằm thiêm thiếp còn thằng bé bể gò má, máu me lênh

láng.

Trình Anh và thằng bé kia hoảng vía chạy đến.

Bây giờ thằng bé kia lồm cồm ngồi dậy được, tay ôm má, còn Lục Vô Song bị thương

nơi bàn toạ không đứng dậy nổi. Trình Anh ẵm xốc Lục Vô Song bồng vào nhà,

miệng la lớn:

- Di trượng ơi, Adi ơi, nguy lắm, nguy lắm!

Lục đại nương nghe tiếng kêu lật đật nhảy ra khỏi phòng chạy về hướng hoa viên.

Nhưng chạy được một đoạn thì từ trên mái nhà nghe tiếng một vật ném tới. Lục đại

nương né mình tránh khỏi và xem lại vật ấy là một tử thi.

Không kịp trở vào lấy vũ khí, Lục đại nương phi thân lên mái ngói. Chân nàng vừa đặt

chưa vững thì hai tử thi nữa bị ném vụt đến trước mặt nàng. Lục đại nương bị vướng

chân phải lộn nhào xuống phía sau hoa viên.

Lúc ây, Lục Lập Đỉnh cũng nghe tiếng Trình Anh kêu cứu nên từ đại sảnh bước ra.

Vừa đến nơi, thấy Lục phu nhân bị rớt từ trên xuống, chàng thất kinh liền vận dụng

ngón "Thanh đình tam sao thuỷ" phi thân đến, đưa hai tay đỡ. Lục phu nhân rớt gọn

trên hai cánh tay chàng.

Xem lại thấy Lục phu nhân không bị thương tích gì, Lục Lập Đỉnh an lòng đặt vợ

xuống đất rồi phóng mình lên mái nhà, quay nhìn tứ phía.

ánh trăng vằng vặc, gió rít rì rào. Tuyệt nhiên không có một bóng người. Lập Lục

Đính khinh thân chạy khắp nơi, từ trước ra sau, từ tiền sảnh đến hậu viên, nhìn từ mái

ngói đến thềm hè mà vẫn chẳng thấy gì lạ.

Chàng lẩm bẩm:

- Con ác quỉ này không muốn gặp ta ngay lúc bây giờ thì dẫu có tìm hắn cũng uổng

công.

Nghĩ thế chàng phi thân nhảy về phía giếng nước.

Bỗng chàng gặp một thiếu phụ đến trọ ban chiều một tay bồng Lục Vô Song, một tay

dắt đứa bé bị thương trở về đại sảnh.

Người thiếu phụ không lo cho đứa con mình mà lại lo săn sóc cho Lục Vô Song.

Lục Lập Đỉnh ngỡ là Lục Vô Song vừa bị độc thủ của đạo cô nhưng nhìn kỹ chỉ thấy

thương tích nhẹ nơi bàn toạ nên chàng an lòng, lễ phép hỏi thiếu phụ:

- Thưa nương nương, nương nương không lấy thế làm phiền chứ?

Thiếu phụ mỉm cười lắc đầu:

- Xin Lục gia đừng nghĩ thế.

Lục Lập Đỉnh ra hiệu bảo Lục đại nương săn sóc cho thằng bé con chu đáo.

Lục đại nương thấy thương tích ở má thằng bé khá nặng liền xe toang vạt áo rịt lại vết

thương. Trong lúc đó, người thiếu phụ để ý chăm sóc Lục Vô Song từng li từng tí.

Lục Vô Song, con bé gan dạ ấy bây giờ mới biết đau. Cô ta rên rỉ từng hồi.

Người thiếu phụ tỏ ra một tay châm cứu lành nghề. Nàng chỉ cần điểm huyệt đạo bên

trên vết thương tức khắc Lục Vô Song không còn cảm thấy đau đớn gì nữa.

Lục Lập Đỉnh thấy thế ngạc nhiên hỏi:

- Thưa, huyệt đó là huyệt gì vậy?

Thiếu phụ đáp:

- Thưa, đó là Bích hải huyêt và uy hang huyệt. Điểm trúng hai huyệt đó thì thần kinh

tạm tê liệt, huyết thống điều hoà cho đến khi vết thương được lành hẳn.

Được thiếu phụ giảng giải rành rẽ, lại thấy lối săm sóc thương tích rất tinh vi, Lục

Lập Đỉnh tin chắc người thiếu phụ đó cũng là tay bản lĩnh trong đời, và con nhà danh

giá nên không ngại ngùng hỏi tiếp:

- Thưa nương nương, nương nương là ai ? và nương nương đến đây có việc gì chỉ giáo

cho vợ chồng tôi chăng ?

Người thiếu phụ không trả lời chỉ để tâm đến việc chăm sóc vết thương cho Lục Vô

Song. Nàng dùng một bàn tay thoa cho bàn toạ Lục Vô Song, một tay vẽ trog không

trung những vòng tưởng tượng.

Lục Lập Đỉnh lấy làm lạ tự hỏi:

-Taị sao người này lại có lối chữa vết thươbng nh lỗi cứu chữa thân phụ ta ngày

trước. Thôi đúng rồi ! Nàng này quả là thủ pháp "Nhất dương chỉ".

Chàng rón rén bước ra phía sau lưng thiếu phụ, lấy cả hai bàn tay đánh mạnh vào ót.

Thiếu phụ, tay mặt vẫn thao bóp cho Lục Vô Song, bỗng nghe tiếng gió nàng đưa tay

trái ra đỡ. Hai chưởng lực chạm nhau quá mạnh làm cho Lục Lập Đỉnh đứng không

vững phải bước lùi mấy bước.

Giữa lúc đó từ trên mái nhà xuất hiện một giọng cười trong trẻo, và có tiếng nói vòng

xuống:

- Ta chỉ muốn lấy mạng của chín người trong nhà Lục gia trang. Kẻ nào không liên

quan, hãy sớm rời khỏi đây kẻo mang họa.

Tiếng nói rõ ràng là giọng của một phụ nữ. Lục Lập Đỉnh quay đầu nhìn lên, thấy

bóng một đạo cô chỉnh tề trong bộ võ phục, hai tay chống vào hông ngạo nghễ nhìn

xuống.

ánh trăng rọi vào mặt, soi rõ đạo cô đó có một sắc đẹp vô cùng diễm lệ. Người ta có

cảm tưởng đó là một cô gái măng tơ, tuổi chưa đầy hai tám và tràn đầy nhựa sống của

lứa thanh niên. Nhưng đằng sau vai nàng nhô lên đôi kiếm khiến cho kẻ si tình cũng

phải dè dặt.

Đạo cô buộc vào thắt lưng một dây lụa đào, gió tung phấp phới như hai vệt máu phụt

giữa không trung khiến kẻ thiếu tinh thần cũng phải khiếp sợ.

Tuy trong căm hận nhưng Lục Lập Đỉnh cũng không thể không thừa nhận cái sắc đẹp

uy nghi của đạo cô. Chàng tấm tắc ngợi khen và lẩm bẩm:

- Con ác quỉ đã 10 năm làm chấn động giới giang hồ, không ngờ ngày nay tuổi vẫn

còn son trẻ, sắc đẹp chưa phai mờ.

Bỗng chàng quắc mắt, chỉ tay gọi lớn:

- Này, có phải ngươi đã từ giã "xích luyện" đến đây chăng ? Ta là Lục Lập Đỉnh đây !

Ngươi muốn gì ?

Đạo cô vẫn giữ nụ cười trên môi, ngạo nghễ đáp:

- à! té ra ngươi đang chờ ta đến! Biết điều như vậy cũng tốt lắm. Nhưng tốt hơn nếu

ngươi đem vợ và con cháu ra đây giết hết trước mặt cho ta xem tận mắt, rồi ta cho

ngươi được phép tự sát. Chỉ có thế ngươi mới bảo tồn được uy danh cho dòng họ Lục

và ta cũng khỏi mất công hạ thủ cả gia đình ngươi.

Dứt lời, đạo cô buông một tràng cười khanh khách.

Trước những lời nhục mạ đó, Lục Lập Đỉnh tuy chưa phải là khách giang hồ song

dòng máu con nhà võ cũng sôi lên. Vả lại, đứng trước một thiếu phụ thơ như liễu, yếu

như đào, chàng tưởng như nội cộng chàng có thể bẻ gãy cành phù dung tức khắc.

Chàng rít lên:

- Nữ tặc! Đừng lắm lời! Ta giúp cho mày theo ông bà về chín suối để ăn năn tội lỗi.

Vừa dứt tiếng, Lục Lập Đỉnh phóng người lên mái ngói. Đạo cô nhanh như chớp rút

đôi song kiếm múa xoay tròn như vũ bão. Đôi kiếm long lanh dưới ánh trăng ánh lên

những đường nét tuyệt mỹ.

Lục Lập Đỉnh nhìn những vệt sáng thu hẹp dần, mới cảm thấy tài nghệ mình còn quá

non nớt, không thể đương đầu với đôi tay mềm mại đầy kinh nghiệm chiến đấu đó.

Về phần đạo cô, hẳn nàng cũng quá hiểu tài nghệ của Lục Lập Đỉnh, một kẻ từ thưở

bé sống trong lụa là nhung gấm nên nàng không quan tâm mấy. Nàng chỉ dùng các

thế võ khích lệ để trêu Lục Lập Đỉnh trước khi kết thúc.

Mũi kiếm của đạo cô dần dần siết hẹp vào người Lục Lập Đỉnh, vây quanh lấy mình

và và dồn Lục Lập Đỉnh khắp mọi nơi theo ý muốn.

Cái trò chơi quái ác nầy cuối cùng buộc Lục Lập Đỉnh phải xuôi tay nhắm mát để đợi

nhát kiếm kết liễu của đạo cô.

Nhưng việc phải đến không thể tránh. Nhát kiếm cuối cùng nhắm đầu Lục Lập Đỉnh

chém sả tới với một thế rất mạnh.

Bỗng nhát kiếm dội lên. Một tiếng "kong" rùng rợn.

Thì ra, người thiếu phụ tá túc lúc chiều đã đến kịp thời cứu nguy cho Lục Lập Đỉnh.

Cuộc đấu chiến lại tiếp tục giữa hai thiếu phụ.

Nếu bình tĩnh mà thưởng thức thì trên mái ngói nãy giờ trở nên một đấu trường mà

quang cảnh diễn ra vô cùng đẹp mắt.

Người thiếu phụ phục sức màu tro, còn đạo cô mặc màu hoàng hạnh. Cả hai thứ thay

đổi chỗ ngôi, lúc tiến, lúc thoát, lúc công lúc thủ, lúc nào cũng như vâng theo mọi

đường lối đã định trước.

Cái tuyệt kỷ của đôi bên là vũ khí không bao giờ chạm vào nhau mà tinh thần đôi bên

cũng không lúc nào thay đổi. Người nào vẻ mặt cũng tươi cười như một vũ nữ lúc

trình diễn trước khán giả. Thỉnh thoảng trên mặt họ chỉ thoáng hiện vài nét thần phục

lẫn nhau.

Bỗng đạo cô hét lên:

- Con tiện tỳ kia! Ta vâng mạng sư phụ ta đến đây sát diệt nhà họ Lục, can hệ gì đến

mày mà mày cản trở công việc của ta?

Người thiếu phụ cũng với nụ cười kiêu hãnh đáp lại:

- Sư phụ nhà ngươi có việc với Lục Triển Nguyên đáng lẽ phải sớm tìm Triển Nguyên

mà thanh toán. Nay Triển Nguyên đã ra người thiên cổ sao sư phụ ngươi lại tìm đến

giết hại con cháu. Như vậy đâu phải cử chỉ cao đẹp của người vũ dũng.

Thiếu phụ nói chưa dứt lời, bất thình lình ba chiếc ngân châm từ tay áo đạo cô bắn

ra. Hai chiếc hướng về phía thiếu phụ và một chiếc hướng về Lục Lập Đỉnh.

Nhanh như chớp, thiếu phụ tung kiếm đánh bật hai chiếc ngân châm rơi xuống mái

ngói. Trong lúc đó Lục Lập Đỉnh đưa tay đón chiếc kim châm một cách bất ngờ.

Thấy thế đạo cô cười phá lên rồi tung mình nhảy ra cửa cổng. Trong phút chốc nàng

đã mất dạng.

Thiếu phụ đứng nhìn theo lối khinh công của đạo cô tỏ vẻ thán phục vô cùng.

Khi xuống đến hoa viên, thiếu phụ thấy trong tay Lục Lập Đỉnh còn cầm chiếc kim

châm thất kinh nói:

- Hãy ném đi, ném đi mau!

Bây giờ Lục Lập Đỉnh không còn mảy may ý thức nghi ngờ thiêú phụ nữa nên nghe

nói chàng liền vứt chiếc ngân châm sang một bên, đưa tay lên xem thì thấy bàn tay

chàng tái nhợt.

Qúa khiếp sợ, Lục Lập Đỉnh nói lớn:

- Trời ơi, tôi bị nhiễm độc rồi !

Thiếu phụ nói:

- Đúng vậy. Tôn huynh đã bị nhiễm phải một chất độc tối nguy hiểm. Chẳng những

làm hại ở tay mà còn có thế nguy hiểm đến tánh mạng.

Dứt lời thiếu phụ dùng kiếm cắt ngang vạt áo buộc vào tay Lục Lập Đỉnh không cho

máu độc chảy vào tim rồi móc túi lấy hai viên thuốc gia truyền đưa cho Lục Lập Đỉnh

nhai nuốt.

Lục Lập Đỉnh cảm thấy hai ngón tay giữa như tê liệt và sưng lớn dần.

Bấy giờ, hai người đã đi đến bên Lục đại nương. Người thiếu phụ không hề lu ý đến

bệnh tình Lục đại nương cũng như Lục Vô Song và đứa bé trai mà chỉ lo hai ngón tay

của Lục Lập Đỉnh. Nàng dùng mũi kiếm xẻ sâu vào hai ngón tay của Lục Lập Đỉnh

đến tận xương. Hai dòng máu đen sẫm chảy ròng ròng xuống đất.

Lục Lập Đỉnh kinh hãi, bụng bảo dạ:

- Ta chỉ năm lấy kim ngân mà đã bị nhiễm độc như vậy. Nếu cây kim ấy đâm vào

người thì còn gì là tính mạng.

Sau khi xẻ ngón tay của Lục Lập Đỉnh lấy máu xong, thiếu phụ bước đến đỡ Lục đại

nương lên ghế và kéo xiêm áo lên nhìn thương tích.

Quả nhiên, hai đầu gối của Lục đại nương đều trúng phải ngân châm. Oái oăm thay,

chính kim này là loại kim thường ngày Lục Lập Đỉnh dùng để chữa bệnh.

Lục Lập Đỉnh cảm thấy mầm đại hoạ càng trầm trọng hơn. Các vết thương của vợ con

chưa lành nhưng chàng thấy đáng ngại hơn là những việc sắp xảy ra sau này.

Nhớ đến hai tử thi mà địch thủ đã dùng nó ném vào Lục đại nương, chàng bước vội ra

ngoài xem.

Thì ra ba cái xác ấy chính là ba xác của những người đã bị xích luyện thần chưởng

vừa rồi.

Lục Lập Đỉnh nhìn kỹ mỗi tử thi và rất ngạc nhiên vì những chiếc kim trước đây Lục

Lập Đỉnh châm vào huyệt giải để giúp chúng thoát chết thì nay lại được nằm ở các

huyệt tử.

Chỉ một huyệt tử cũng đủ vong mạng huống hồ nay chín huyệt giải lại được thay đổi

cả vào chín huyệt tử.

Lục Lập Đỉnh than thầm:

- Thật con đạo cô này không còn chút lương tâm nào.

Lục Lập Đỉnh thương tình đến vuốt mặt từng người.

Trong ba người, có tên Long chưa chết hẳn. Lục Lập Đỉnh xoè bàn tay trên mặt, hắn

lấy hết tàn lực nói giọng khàn khàn:

- Lục chủ...! Phần tôi chết... bất hạnh đã dành.., còn Lục chủ cũng nên trốn đi nơi

khác. Tôi thiết tưởng trên đời này chỉ có Lục Triển Nguyên .... mới cứu được.... còn

con của Lục Triển Nguyên dẫu có thương người cũng chẳng làm gì nổi. Gia chủ ơi,

gia chủ hãy trốn đi nơi khác là hay hơn... khỏi phải thiệt mạng. Sớm muộn hắn cũng

trở lại đây...

Hơi nói yếu dần và ngất nghẹn. Cuối cùng hắn cố mở đôi mắt nhìn vào mặt Lục Lập

Đỉnh lần chót.

Và khi thấy Lục Lập Đỉnh đã hiểu rõ ý muốn của hắn, hắn thở phào một hơi và nhắm

mắt bằng lòng chết một cách thanh thản, không ân hận.

Người thiếu phụ rất cảm động trước cái chết của ba tên phiêu xa, thở dài nguyền rủa.

- Con ác quỉ! Con ác quỉ hắn nó không còn chút nhân tâm nào.

Bấy giờ Lục Lập Đỉnh mới có thì giờ để ý dến thiếu phụ, và nhớ đến ơn cứu mạng vừa

rồi. Chàng chấp tay nói:

- Tôi thật kẻ có mắt như mù. Đứng trước núi Thái sơn mà không trông thấy, mong đại

nương dung tha và cho kẻ hàn này được rõ đại danh.

Thiếu phụ đáp:

Thưa, dòng họ thiếp thuộc dòng quan gia, họ Vũ.

Lục Lập Đỉnh giật mình nói:

- Quả nhiên! Kẻ hèn này đoán không sai. Thấy đại nương săn sóc Lục Vô Song kẻ

hèn này đã đoán hiểu đại nương là môn hạ của Đại sư Nhất Đăng, Đại lý đất Vân

Nam. Vậy xin mời đại nương lên sảnh để kẻ hèn này được dâng ít chung trà.

Mọi người theo Lục Lập Đỉnh lên đại sảnh.

Sau khi an toạ, Lục Lập Đỉnh kéo con gái vào lòng nựng nịu. Nét mặt cô bé còn xanh

nhợt. tuy nhiên, cô bé rất can đảm. Dẫu vết thương còn đau mà cô bé không hề rên rỉ

tiếng nào. Cử chỉ ấy khiến Lục Lập Đỉnh phải bận tâm suy nghĩ.

Qua một phút trầm lặng, Vũ tam nương cất tiếng:

- Lục chủ ạ! Chúng ta đang đứng trước một đối thủ rất kiên nhẫn và lợi hại. Vừa rồi

đồ đệ của nó vừa tới thì nó lại thân hành đến ngay lập tức. Thiếp không dám khinh

thường tài nghệ của Lục chủ, song đối với bọn chúng dẫu thiếp có giúp tay đi nữa

cũng khó lòng địch nổi. Vả lại, với bọn này, khi chúng sanh chuyện thì trốn cũng

không bao giờ thoát. Vậy tốt hơn sống chết đã có số trời, chúng ta cùng nhau đương

đầu với chúng từ giờ phút này còn hơn. Thiếp đoán chắc con ác tắc đó thế nào cũng

trở lại.

Người đạo cô áo trắng

Lục đại nương hỏi:

- Con ác tặc đạo cô này là người thế nào? Vì sao đối với dòng họ chúng tôi lại có mối

thâm thù như thế ?

Vũ tam nương nhìn về phía Lục Lập Đỉnh nói:

- Lục chủ có cho phép tôi được giãi bày chăng? Việc này có lẽ Lục chủ đã từng nghe

Lục công kể lại.

Lục đại nương ngắt lời nói:

- Nhạc phụ tôi lúc sinh tiên có nói rằng việc này dính líu đến nhạc mẫu, cho nên dẫu

con cái trong nhà cũng chẳng tỏ tình. Vả lại, hình như nhạc phụ của tôi cũng không

được biết tỏ cho lắm.

Vũ tam nương thở dài, nói:

- Tôi là người ngoài cuộc, có kể lại câu chuyện này cũng chẳng hề chi, nếu Lục chủ

muốn biết rõ.

Lục Lập Đỉnh nói:

- Xin đại nương vui lòng cho chúng tôi biết .

Vũ tam nương nói:

- Tôn ông Lục Triển Nguyên, một lão anh hùng lúc thiếu thời, dáng mặt là một thanh

niên tuấn tú, xứng danh là đệ nhất phong lưu trong giới vũ lâm. Còn con ác quỷ là

Xích luyện Tiên tử tên là Lý Mạc Thu.

Lục Lập Đỉnh nghe đến tên Lý Mạc Thu liền nhắm mắt, thở dài một tiếng.

Vũ tam nương thấy thế ái ngại, kể tiếp:

- Xích luyện Tiên tử ngày nay đã làm cho giới giang hồ kiếm khách thất đởm dường

ấy. Tuy nhiên, trước kia hắn là một thục nữ yêu kiều khả ái vào bậc nhất. Vì vậy, mới

có chuyện oái oăm. Lục Triển Nguyên , trang anh hùng hiệp khách ấy đã say đắm

tính tình và nhan sắc của Lý Mạc Thu. Chẳng biết đôi bên đã ràng buộc nhau bỏi tiền

duyên oan nghiệt nào mà khi mới gặp nhau cả hai đều đem lòng quyến luyến lấy nhau

trong một mối tình tha thiết nồng nàn. Họ đã từng phi ngựa bên nhau suốt ngày bên

sườn núi, họ đã từng trao đổi nhau những lời nguyện ước ba sinh.

Kể đến đây, Vũ tam nương ngừng lại, và thấy vợ chồng Lục Lập Đỉnh đang chú ý

ngồi nghe nàng thở dai một hơi rồi kể tiếp:

- Rồi ... cũng như bao mối tình lãng mạn khác, mối tình giữa đôi trai tài gái sắc này

không được bền vững với thời gian. Sau nhiều biến cố dồn dập, đôi bên không còn cơ

hội gần nhau. Họ sống trong hoàn cảnh xa mặt cách lòng. Bỗng một ngày kia Lục

Triển Nguyên kết bạn trăm năm với Hà Nguyên Quân, một tuyệt sắc giai nhân nổi

tiếng trong một vùng.

Nghe đến đây, Lục Lập Đỉnh đôi mắt u buồn như đang mơ gì trong cõi mộng không

gian.

Hà Nguyên Quân, một đoá hoa sắc nước hương trời, đã cũng với Lục Triển Nguyên,

một phong lưu nghĩa hiệp chung sống. Thế thì cũng không lấy gì làm lạ. Nhưng đã

nói đến Hà Nguyên Quân không thể bỏ qua câu chuyện Chuyết Phu được, mặc dù câu

chuyện này không mấy tốt đẹp.

Từ nhỏ, Lục Lập Đỉnh cũng đã từng nghe cha mẹ nói cho biết gia đình chàng có hai

kẻ thù: một là Xích luyện Tiên tử Lý Mạc Thu, hai là Vũ tam Thông cao đệ của Nhất

Đăng Đại sư đất Vân Nam.

Nhất Đăng Đại sư xưa kia làm đại lý cho Vương quốc Nam chiều đến lúc tịnh vị tu

hành thì có bốn đệ tử theo hầu, mỗi đệ tử chuyên chú một trong bốn ngành: ngư, tiều,

canh, độc.

Vũ Tam Thông lúc thiếu thời vốn làm quan ở nam chiến, sau đó bỏ chức, theo Nhất

Đăng Đại sư làm đệ tử, giữ việc nông tang.

Lục Lập Đỉnh chỉ biết có thế thôi. Còn mối thù giữa song thân với hai thù địch vì đâu

gây oan nghiệt chàng cũng chưa được hiểu rõ.

Lục Lập Đỉnh thấy Vũ tam nương săn sóc vết thương cho Lục Vô Song chàng đã đem

lòng nghi ngờ tự bảo:

- Mình đang tìm cách đối phó với kẻ thù này chưa hết thì kẻ thù kia đã tìm đến.

Sở dĩ Lục Lập Đỉnh nghĩ thế vì chàng cho Vũ tam nương một lòng với Vũ Tam

Thông. Do đó chàng đã ra tay hành động. Không ngờ chính Vũ tam nương lại đương

đầu với Xích luyện Tiên tử để cứu chàng và cả gia đình chàng. Bây giờ, Lục Lập Đỉnh

ân hận không biết phải đối xử thế nào cho hợp lý.

Vũ tam nương vừa săn sóc vết thương trên mặt của con vừa tiếp tục kể:

- Chuyết phu và Hà Nguyên Quân vỗn được gần gũi nhau từ tấm bé và đôi bên chơi

với nhau rất thân mật. Đến lúc lớn, mặc dù tính tình của hai người không hoàn toàn

đồng hợp Chuyết phu vẫn đem lòng yêu Hà Nguyên Quân. Mối tình âm thầm ấp ủ

trong lòng Chuyết phu cho đến lúc Hà Nguyên Quân, người yêu chàng bước lên xe

hoa về chung sống trăm năm với Lục Triển Nguyên. Chàng trai si tình tức giận bèn

đem cả gia đình thuộc hạ lên Đại lý phủ làm quan.

Một ngày kia, hai kẻ tình địch gặp nhau không phải vì ngẫu nhiên mà dọ sự quyết tâm

tìm kiếm của chàng Chuyết phu hận tình.

Cuộc gặp gỡ bằng một cuộc thử tài. Thì ra, lúc đó Chuyết phu mới rõ tài nghệ của

mình chưa phải là đối thủ của Lục anh hùng.

Sau hai lần thất bại trên tình trường, rồi trên vũ trường làm tâm hồn Chuyết phu rối

loạn. Anh chàng si tình kia trở nên ngây dại.

Tuy nhiên, chàng ta chẳng bao giờ quên lời nguyện ước và cũng là lời thách đố với

Lục Triển Nguyên là 15 năm sau sẽ so tài trở lại với tình địch.

Oái oăm thay! Đến lúc Chuyết phu có điều kiện giữ lời thề thì tình địch lẫn người yêu

đã ra người thiên cổ.

Nghe đến đây, Lục Lập Đỉnh nổi giận, cau mày đá tung chiếc ghế lên trời nói:

- Nếu có muốn rửa hận thì cứ tìm thân phụ ta lúc sinh thời mà đọ sức, nay thân phụ ta

quá vãng sao nó lại đến cướp thi thể làm cái chuyện đê hèn nhục nhã như vậy. Hành

động ấy đâu xứng đáng với kẻ anh hùng hảo hớn.

Vũ tam nương than:

- Lục chủ trách như thế cũng phải, song Chuyết phu hiện giờ tâm trí cuồng loạn, cử

chỉ thất thường còn biết là sao. Vả lại, hôm nay thiếp mang hai đứa con đến đây cũng

không ngoài mục đích phòng bị Chuyết phu đến đây làm điều gàn dở. Trên trần

Chuyết phu chỉ e ngại có mình thiếp và hai đứa con nầy mà thôi.

Nói đến đây Vũ tam nương ra hiệu bảo hai đứa bé:

- Các con hãy cúi đầu ra mắt nhị vị Lục gia.

Hai đứa bé ngoan ngoãn vâng theo lời mẹ chấp tay bái lạy vợ chồng Lục Lập Đỉnh.

Lục đại nương ân cần đỡ hai đứa bé dậy hỏi tánh danh.

Đứa bé bị thương ở mặt xưng là Vũ Đôn Nhu, còn đứa kia là Vũ Tu Văn. Hai anh em

suýt soát nhau chừng một tuổi. Đứa lớn 12, đưa nhỏ 11.

Dòng họ Vũ xa kia là dòng danh giá nên con cái đều mang danh tao nhã.

Vũ tam nương thưa:

- Thiếp chắc rằng Chuyết phu và Xích luyện Tiên tử thế nào cũng trở lại đây bởi vì cả

hai không phải là những kẻ vong ân bội nghĩa. Một người đến tìm hương thừa của

người bạn gái, một người đến tìm bóng dáng chàng anh hùng trẻ tuổi đã in sâu trong

con tim từ thưở nhỏ.

Vũ tam nương vừa nói đến đấy thì bỗng trên mái nhà có tiếng gọi:

- Nhu nhi! Văn nhi! Chúng bây hãy ra đây!

Tiếng kêu rõ ràng và kề cận đột nhiên phát xuất. Thật quái lạ, trên mái ngói không

một tiếng động, dẫu một tiếng động nhỏ.

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh kinh hãi đoán biết đó là tiếng gọi của Vũ Tam Thông. Ngay

như Trình Anh và Lục Vô Song cũng nhận ra đó là tiếng nói của ông lão hôm nọ

chúng đã gặp trên bờ hồ.

Trong khoảng khắc, Vũ Tam Thông nhảy xuống đất, đưa hai tay choàng lấy hai dứa

con, mỗi đứa một bên như trước kia đã ôm Trình Anh và Lục Vô Song, rồi phóng mình lên

mái nhà biến mất dạng.

Vũ ôm hai đứa con chạy một mạch đến khu rừng rậm thì dừng lại, thả Tu Văn lại đấy,

chỉ ôm một mình Đôn Nhu chạy riết.

Vũ Tu Văn hoảng sợ hét lên:

-Cha ơi! Cha!

Nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của cha nó đâu cả mà chỉ nghe tiếng vọng

từ xa dội lại:

- Con hãy chờ đấy, cha sẽ trở về ngay.

Vũ Tu Văn vốn biết tính cha nó, lúc điên lúc dại, tuy phải chờ nơi rừng sâu nó cũng

không lấy thế làm ngạc nhiên.

Trời mỗi lúc một khuya và bốn bề vắng ngắt. Thỉnh thoảng vài cơn gió lạnh lùng thổi

đến lắc lư mấy cành dương như những cánhh tay dài thườn thượt của loài ma quái.

Cảnh tình của đứa trẻ quả là đáng ngại. Nhưng Vũ Tu Văn vốn tin vào lời dặn của cha

nên hắn ngồi thừ dới một gốc cây dương chờ đợi.

Mà đợi mãi vẫn không thấy cha hắn trở lại, hắn ngồi buồn vẩn vơ nghĩ đến câu

chuyện mẹ hắn vừa kể lúc nãy và tự hỏi:

- Vì sao trong đời lại có những thiếu phụ si tình đến độc ác thế?

Nó nghi ngờ chẳng biết mẹ nó có đủ tài để đương đầu với con quái tặc ấy chăng.

Còn cha nó, trong cơn điên dại bỏ nó giữa rừng hoang chắc gì đã nhớ lời mà trở lại

đem nó ra.

Nó đứng dậy nghĩ thầm:

- Thôi, mình hãy trở về tìm mẹ.

Nó dấn bước vào rừng dương lần mò tìm đường thoát nạn. Nhưng Giang nam là đất

của rạch hồ, đường sá vô cùng bí hiểm, khách lạc loài dễ đâu tìm được lối đi. Huống

hồ Vũ Tu Văn mới là đứa trẻ thơ bị bỏ rơi trong đêm tối thì hy vọng chỉ là chuyện

mong manh.

Càng đi, Vũ Tu Văn càng tiến sâu vào hoang tịch. Nó cố gắng trèo lên một ngọn đồi

cao nhưng nó chỉ thấy chung quanh bao la một màn đêm dày đặc.

Nó hét lên:

- Cha ơi! Mẹ ơi!

Rồi nó lắng tai nghe chính tiếng nó vọng lại từ bên kia đen tối:

- Cha ơi! Mẹ ơi!

Lặng đi một lúc nó lại nghe tiếng mèo rừng nghêo ngao từ xa thẳm. Tiếng nghêu

ngao buồn bã và rùng rợn làm sao !

Tu-Văn đã được nghe người ta kể về giống mèo rừng ở vùng nầy. Giống mèo rất lớn

con, và rất thích cặp mắt người. Mỗi lần gặp người, dã thú nhất định không để nạn

nhân chết trước khi hắn móc mắt ăn. Hắn cào cấu, xâu xé da thịt nạn nhân đau đớn

phải khóc ra nước mắt. Lúc đó cuộc tiệc của nó mới bắt đầu. Nó nhảy nhót biểu lộ tất

cả mọi hoan lạc rồi lè lưỡi liếm liếm những giọt nước mắt của nạn nhân chảy quanh

mi. Cho đến lúc nạn nhân không còn nước mắt, nó mới móc mắt ra ăn.

Tu-Văn nghĩ đến câu chuyện ấy bằng trí óc tưởng tượng ngây ngô. Thốt nhiên nó thút

thít khóc, và đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má.

Càng khóc, nó càng sợ sệt thêm! Và nó trông thấy xa xa hai điểm sáng lập loè trong

đêm tối. Hai điểm sáng tiến lần đến, càng gần trông càng giống hai ánh đèn trong.

Rồi, một mùi hôi tanh nồng nặc phảng phất. Cuối cùng nó nghe có tiếng hồng hộc,

hai điểm sáng chạy về phía nó như bay.

Thì ra, đó là một con hổ lớn đang phóng mình đến khi thấy mồi.

Tu-Văn hoảng hốt, nhưng vẫn lanh trí. Hắn leo lên một gốc cây cổ thụ tìm một chảng

ba chắc chắn ngồi chễm chệ để xem con hổ làm gì.

Hổ đến nơi, không thấy bóng dáng miếng mồi, tức giận nhảy lồng lộn tìm kiếm, và

banh xé một bụi rậm gần đấy.

Nhưng chỉ một chốc, hổ bắt được mùi, tiến sát đến gần cây nhìn lên.

Khi trông thấy thằng bé, mãnh hổ gầm một tiếng nhảy phốc lên như một mũi tên.

Nhưng cũng may sức mạnh của hổ không làm sao nhảy phốc đến chỗ Tu-Văn ngồi

được.

Tu-Văn thấy thế mỉm cười, nghĩ đến lời mẹ hắn thường nói:

- Hễ vào rừng gặp hổ, phương thế an toàn là leo lên cây ẩn núp.

Hắn an lòng ngồi nhìn con hổ bất lực trước miếng mồi ngon. Thỉnh thoảng hắn lại

thòng chân xuống đất để trêu ghẹo con hổ.

Cái trò chơi ấy khá giải trí, khiến cho Tu-Văn quên mất cả tình cảnh của hắn đang lạc

loài giữa rừng đêm.

Nhưng đùa mãi cũng chán, nó mở dây thắt lưng cột người vào cành cây rồi đánh một

giấc ngon lành. Trong lúc đó con hổ mệt nhoài, thở khì khì ngồi im dưới gốc cây nhìn

lên.

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa lố dạng, Tu-Văn bừng tỉnh mở mắt nhìn xuống vẫn

còn thây con hổ đang ở trong thế đợi chờ.

Nó nhìn kỹ, nhận thấy giữa hai con mắt mãnh hổ có chữ "vương". Nó thất kinh, biết

mình gặp phải con ác thú nguy hiểm nhất trong vùng.

Qua một đêm mệt mỏi, lại bị đói lòng, mãnh hổ quyết chẳng để cho con mồi trốn

thoát. Hắn gầm lên một tiếng, thu thập tất cả sức lực vào mình, nhảy phóc lên.

Nhưng sức hổ có hạn, không thể nào phi thân đến chảng ba, chỗ Tu-Văn ngồi được.

Dẫu biết thế, nhưng mãnh hổ vẫn cứ nhảy chồm lên, hết lần này đến lần khác.

Cuối cùng, với thân hình nặng nề và mệt nhọc, mãnh hổ quỵ vào gốc cây, làm cho

gốc cây lay mạnh, hắn vụt Tu-Văn xuống đất.

Tu-Văn hoảng vía, song vốn là con nhà võ, từ thuở lên ba cha mẹ đã luyện tập cho

hắn ít nhiều, nên bất thần bị rớt xuống mà hắn vẫn như thường, hai chân chấm đất nhẹ

nhàng như con chim đậu vào cành trâm.

Thừa dịp hổ bị lê mất trớn. Tu-Văn cắm đầu chạy. Con hổ sau khi gượng dậy được

nổi giận gầm thét, và không bỏ thoát miếng mồi nên quất đuôi đuổi theo rất nhanh.

Tu-Văn cũng đã biến mất ít nhiều về thuật kinh công, song khốn nỗi tay chân ngắn và

bé xíu không thể nào vận dụng lối phi hành thần tốc được. Hắn chạy được một quãng

thì mãnh hổ đuổi theo kịp. Hắn kinh hãi, đổi hướng chạy rất ngặt, khiến cho con hổ

phải nhiều lần vấp vào các gốc cây, mỏm đá đau đớn gầm thét vang rừng.

Đến một khúc quanh, bất thần Tu-Văn vấp vào một mỏm đá, té nằm sóng sượt.

Chợp được cơ hội, mãnh hổ nhảy bổ đến vồ mồi. Và lần này quyết không còn cách

nào trật được.

Nhưng, Tu-Văn đang chờ đợi nanh vuốt hổ, thì ngay lúc đó, có hai vết đen từ trên trời

hiện xuống. Con mãnh hổ đang lao mình đến thì bị vết đen đó sa xuống đớp lấy và lôi

bổng lên trời.

Tu-Văn ngạc nhiên đến khiếp sợ. Hắn dụi mắt ngơ ngác đoán chừng như nó không tin

tưởng ở đôi mắt nó nữa. Nhưng trước mặt nó rõ ràng hai vết đen kia còn hiện nơi

không trung đang bay lờ lững.

Nó định thần nhìn kỹ, thì ra đó là một con chim ưng khổng lồ, mỏ quặp đang kẹp đầu

con mãnh thú bay đi.

Nó khoái chí, vỗ tay cười, thì một vết đen khác, chẳng biết từ đâu đến, quắp mỏ kẹp

lấy nó bay lên.

Thì ra, một con chim ưng khổng lồ thứ hai lại bắt nó bay theo con chim trước.

Bay được một lúc, chim ưng thứ nhất hé mỏ thả rơi mãnh hổ xuống một khu rừng.

Mãnh hổ đánh ầm một tiếng, xương thịt tan tành.

Tu-Văn thấy thế thất kinh, sợ chim ưng kia thả nó xuống nữa ắt không toàn tánh

mạng, nó đánh liều hai tay ôm chặt vào thân điểu.

Hai con thần điểu bay song song nhau lên vút tận mây xanh, Tu-Văn không biết

chúng sẽ đưa nó về đâu và số mạng nó sẽ ra thế nào.

Cặp chim thần đang bay, bỗng nghe bên dưới có tiếng thanh la gõ lanh lảnh. Hai con

chim như được hiệu lệnh ngoan ngoãn đậu xuống và thả Tu-Văn nhẹ nhàng giữa một

đám thuý liễu xinh đẹp, dưới chân có hoa cỏ muôn ngàn hương sắc. Thật là một cảnh

thần tiên đẹp như thế giới bồng lai mà mẹ nó thường kể.

Dưới một gốc thùy liễu, một đứa bé gái hiện ra, hướng về phía Tu-Văn bái chào, rồi

tiến sát đến bên hai con thần điểu vỗ về khen:

- Thần Ưng! Khá lắm! Giỏi lắm!

Hai con thần điểu tỏ vẻ hoan hỉ, vỗ cánh quấn quít vào mình cô bé.

Tu-Văn nghĩ thầm:

- Hai con chim nầy chắc loại Thần Ưng!

Rồi mãi mê nhìn hai con chim quyến luyến bên cô bé. Tu-Văn quên hẳn việc đầu tiên

là phải cảm tạ cô bé, hắn buột miệng hỏi một cách thân mật:

- Hai con chim này của cô nương nuôi?

Cô bé cau mày tỏ ý khinh thị:

- Ta chưa biết ngươi là ai? Ta không thèm nói chuyện với ngươi!

Dứt lời cô bé tu miệng hút một hơi ra tiếng. Hai con chim hiểu rõ ra lệnh, vội vã đập

cánh bay bổng lên không tiến tới nơi con mãnh hổ bị rơi để hưởng một cuộc tiệc linh

đình.

Tu-Văn nhìn đôi chim thán phục và nói:

- Đôi chim của cô nương quả thật tài tình. Tôi phải nói với phụ thân tôi bắt cho tôi

một đôi mới được.

Cô gái cười, nói:

- Phụ thân của ngươi cũng bắt được chim ?

Tu-Văn lấy làm khó chịu trước câu nói hàm ý mỉa mai, và cũng khinh khi ấy. Hắn trố

mắt nhìn cô bé xem cô ta là người nào mà dám khinh thị hắn.

Nhưng đôi mắt của nó bỗng dịu lại. Vì cô bé kia tuy còn nhỏ, các đường nét chưa nẩy

nở đến độ tuyệt mỹ, mà sắc đẹp đã hứa hẹn một tương lai huy hoàng. Tu-Văn tuy vào

tuổi măng non mà cũng cảm thấy cái gì dìu dịu say say. Bao nhiêu ý tưởng bất bình

đều tiêu tan hết.

Bỗng cô bé cất tiếng hỏi:

- Ngươi tên gì? Vì sao lại chơi một mình nơi hoang vắng? Không sợ cọp vồ mất mạng

?

Tu-Văn đáp:

- Tôi đang đợi thân phụ tôi. Còn cô nương tên là gì?

Cô gái bĩu môi đáp:

- Ta đâu thèm làm quen với đứa bé con nơi thôn dã mà hỏi thăm tên họ.

Dứt lời, cô bé quay mình bỏ đi.

Tu-Văn đứng lặng nhìn một lúc rồi nói lớn:

- Này cô nương! Cô nương chớ hiểu lầm! Tôi đâu phải người thôn dã.

Vừa nói, Tu-Văn vừa chạy theo.

Cô bé nhỏ hơn Tu-Văn ba tuổi, người thấp, chân ngắn, ấy thế mà lại đi mau thoăn

thoắt dị thường. Tu-Văn biết chắc cô biết thuật khinh công.

Đi một đoạn, cô bé dừng lại, ngoảnh đầu nhìn Tu-Văn lểnh mểnh bước theo, tỏ vẻ

ngạc nhiên, nói:

- Ngươi cũng theo kịp ta ? Thôi hãy cố lên!

Tu-Văn nói:

- Dĩ nhiên phải theo kịp.

Cô bé liền bước nhanh hơn nữa rồi tạt sang phía sau một cây cổ thụ nấp chờ tại đấy.

Tu-Văn vẫn cố gắng tiến bước, chẳng ngờ khi đến gốc cây cổ thụ bị cô bé bất thần đá

mạnh vào chân làm cho hắn té lộn nhào, mũi va vào viên đá máu chảy tung toé.

Cô bé thấy thế chẳng biết thương tích trầm trọng đến bậc nào nên tỏ ra bối rối.

Bỗng đằng sau có tiếng gọi:

- Phù nhi! Sao con lại bất nhã như vậy? Con thử xét lại hành động của con xem có

đẹp chăng?

Cô bé không quay đầu lại, buộc miệng hỏi:

- Ai đó? Việc gì quan hệ đến ngươi? Chính nó muốn sinh sự nên nó phải ra thế.

Ngươi đừng nói hồ đồ.

Tu-Văn lồm cồm ngồi dậy, lấy tay chùi máu ở mũi, nhưng chẳng thấy đau đớn gì cả.

Nó nhìn về phía xa, thấy một lão già hiền lành, tay cầm cây thiết trượng, vóc người

gầy ốm song diện mạo rất oai phong.

Ông già cười lớn, hướng về cô bé, nói:

- Con bảo rằng ta không can dự và ăn nói hồ đồ ? Trước đây còn có mặt cậu bé này

làm chứng, con đừng chối cãi nhé?

Cô bé chạy đến ôm chầm lấy ông lão, và nói như hối hận:

- Thưa công công! Công công bỏ qua đừng về mách với phụ thân con nhé! Công công

hãy giúp cậu ấy cầm máu đi.

Ông lão đến bên cạnh Tu-Văn, lấy tay vỗ mấy cái vào trán và điểm vào huyệt văn

hương. Tức thì máu cầm chảy.

Muốn cho vết thương mau lành, ông lão còn tìm trên một huyệt đạo nữa nhưng lão

kẹp Tu-Văn quá chặt, khiến Tu-Văn có cảm giác như ông lão muốn hại mình, hắn

liền dùng thế "Triển cầm nã thủ" để tự vệ. Thế này trước đây mẹ Tu-Văn đã dạy.

Hắn đánh tống một cái làm cho ông lão lảo đảo. Tuy nhiên, chỉ nháy mắt, ông lão giữ

hắn lại được và nói:

- Em đừng sợ! Ta không đánh em đâu. Em họ gì?

Tu-Văn đáp:

- Thưa tôi họ Vũ.

Ông lão trầm ngâm suy nghĩ, rồi hỏi:

- Có phải em nguyên là thuộc hạ của "Nhất Đăng Đại-sư chăng?

Tu-Văn mừng rỡ nói:

- Thế ra ông có quen biết với thân phụ tôi sao? Ông vừa gặp thân phụ tôi phải không?

Tôi đang đi tìm thân phụ tôi, nếu ông thấy xin chỉ giùm. Ôi chao! Ông lại biết chúng

tôi là hoàng gia ?

Nguyên trước kia, Vũ-tam-Thông làm Tổng-quản Ngự-lâm quân cho Đoàn-trí-Hưng,

đến lúc Đoàn-trí-Hưng xuất gia tu hành, lấy pháp danh là Nhất-Đăng thì cả gia đình

họ Vũ đều theo đầu Nhất-Đăng. Vì thế, hai con của Vũ-tam-Thông lầm tưởng mình

thuộc vào hoàng gia, và cứ mỗi lần có người nhắc đến giai đoạn ẩn náu ở Vân-Nam là

hai đứa bé nhớ lại cái tư cách hoàng gia của dòng họ mình.

Ông lão gật đầu nói:

- Đúng rồi! Ta còn nhớ! Thế cha mẹ em hiện giờ ở đâu? Sao em lại đi lạc một mình?

Tu-Văn nghe nói biết ông lão không gặp cha mẹ mình, nên đâm ra hoảng hốt khóc

sướt mướt:

Cô bé bụm miệng cười, trêu chọc:

- Xấu! Đã lớn đầu mà còn khóc.

Tu-Văn nói:

- Ai lại không khóc! Đúng lúc phải khóc thì nín sao được.

Rồi hắn kể lại các việc xảy ra từ lúc ở Lục gia trang đến lúc bị mãnh hổ đe doạ cho

ông lão và cô bé nghe.

Ông lão hỏi:

- Con có biết địch thủ mà mẹ con đang chờ đợi là ai không?

Tu-Văn nói:

- Tôi nghe nói hình như người ấy là Xích-Luyện Tiên-Tử nào đó.

Ông lão nhíu mày, lẩm bẩm:

- Thôi, đích là Lý-mạc-Thu rồi! Nguy hại thật.

Qua một phút băn khoăn, ông ta quay lại nói với hai đứa bé:

- Các con hãy ở đây với nhau cho có bạn. Lão phải đi ngay bây giờ mới được.

Cô bé nũng nịu nói:

- Xin công công cho con cùng đi với.

Tu-Văn cũng nói theo:

- Con cũng xin đi nữa.

Lão già ra vẻ trịnh trọng đáp:

- Không được đâu! Lý-mạc-Thu là con ác tặc hầu như không còn chút nhân tâm. Lão

không còn chắc gì đương đầu với hắn nổi. Nhưng nay giữa tình bằng hữu, lẽ đâu nghe

bạn lâm nạn mà không đến giúp. Các con nên nghe lời lão ở lại đây cho an tâm.

Nói xong, lão vung cây thiết trượng một vòng rồi dùng thuật phi hành lao mình vun

vút trong rừng xanh.

Bấy giờ trời đã sáng rõ, nông phu đã tấp nập ra đồng, trai gái vừa cày bừa vừa ca hát rất

vui vẻ.

Lão già vừa đi vừa hỏi thăm đường, chẳng mấy chốc đã đến lục gia trang.

Tuy cặp mắt của lão đã mờ đi theo tuổi tác, nhưng tại lão tinh anh vô cùng. Lão có

thể nghe được tiếng động từ hàng dặm. Do đó vừa đến cổng Lục gia trang, lão nghe

ngóng một lúc và biết ngay trong trang trại đang trại đang xảy ra cuộc đấu chiến vô

cùng khốc liệt.

Đối với gia đình họ Lục cũng như gia đình họ Vũ, thật ra lão chưa có gia bảo đặc biệt

nào. Tuy nhiên, gặp lúc hai gia đình này đang lâm nguy vì tay Lý Mạc Thu, một tay

chọc trời khuấy nước, lão chẳng nỡ ngồi yên, muốn đem tài hèn sức yếu để phó trợ

những kẻ thế cô.

Lão liền tung mình nhảy vào sân trang trại. Và lão nghe rõ tiếngg khí gíơi chạm nhau

rang rảng trên mái ngói.

Nhìn lên mái ngói, lão thấy bốn người chia làm hai phe, một bên ba, một bên một

đang quần nhau tranh thắng bại. Nhưng xem chừng như phe ba người, mặc dù đông ,

lại bị tay kiếm đơn độc kia tấn công tới tấp.

Nguyên do là lúc Vũ Tam Thông bồng hai đứa bé phi thân mất dạng, vợ chồng Lục

Lập Đỉnh kinh ngạc, chưa biết Vũ Tam Thông có dụng ý gì, thì trái lại, Vũ tam

nương tỏ vẻ hoan hỉ cười sung sớng, nói:

- Chuyết phu lâu nay vốn điên điên, dại dại, thế mà lần này hành động rất chín chắn.

Lục đại nương hỏi:

- Như thế nghĩa là sao?

Vũ tam nương không giãi bãy chỉ trả lời:

- Xin phu nhân chờ rán một tí nữa sẽ rõ.

Lúc ấy trời đã khuya, Lục Vô Song ngồi dựa vào bắp đùi của phụ thân ngủ say, còn

Trình Anh cũng đang mơ màng qua giấc ngủ. Lục đại nương thấy thế đưa tay ẵm hai

đứa bé về phòng.

Vũ tam nương liền nói:

- Chúng ta chỉ chờ trong giây lát nữa thôi.

Quả nhiên trong khoảng khắc, trên mái nhà có tiếng động tiếp theo có tiếng nói rõ

ràng là của Vũ Tam Thông. Con người này có những hành động kỳ quặc khiến cho vợ

chồng Lục Lập Đỉnh không thể nào hiểu nổi.

Vũ Tam Thông gọi lớn:

- Hãy bồng chúng ném lên đây cho toiâ.

Vũ tam nương liền ôm Trình Anh và Lục Vô Song ném cho Vũ Tam Thông. Vũ Tam

Thông đưa tay nhẹ nhàng ôm lấy và biến mình vào trong bóng tối.

Lục Lập Đỉnh ngơ ngác, chẳng biết họ hành động với mục đích gì liền hỏi:

- Các ngươi làm gì thế?

Dứt lời chàng rút kiếm nhảy lên mái nhà, nhưng lạ thay, chỉ trong nháy mắt đã không

thấy tung tích của Vũ Tam Thông và hai đứa bé đâu cả.

Lục Lập Đỉnh toan phi thân đuổi theo thì Vũ tam nương cản lại nói:

- Lục chủ chở phí công vô ích, Vũ Tam Thông đưa hai đứa trẻ đi nơi khác với hảo ý .

Lục Lập Đỉnh nghe nói bớt nghi ngờ hỏi:

- Vũ Tam Thông dụng ý thế nào?

Vũ tam nương kề tai nói nhỏ:

- Chuyết phu muốn giúp Lục chủ đưa hai cháu đi đến nơi khác tránh bàn tay hiểm độc

của ác tặc.

Như chợt hiểu ra, Lục Lập Đỉnh mỉm cười nói:

- Như vậy tốt lắm! Tốt lắm!

Tuy thế, nhưng trong lòng Lục Lập Đỉnh còn in sâu thù hận về việc Vũ Tam Thông

cướp tử thi của song thân nên chưa lấy gì làm tin.

Vũ Tam Thông nói:

- Từ thưở nay Chuyết phu tính không thích con trẻ. Ngay như Vũ Đôn Nhu và Vũ Tu

Văn là hai đứa con ruột mà Chuyết phu cũng thường tỏ ra ít quyến luyến. ấy thế mà

nay mới gặp hai tiểu thư, Chuyết phu lại có cảm tình nồng hậu khác thường. Ôi! Đây

cũng là việc mà Chuyết phu thay đổi trạng thái tâm hồn rất có ý nghĩa.

Nói đến đây, Vũ tam nương thở ra một hơi dài rồi nín lặng.

Qua một lúc, Vũ tam nương tỏ lời khuyên vợ chồng Lục Lập Đỉnh:

- Xin Lục chủ và phu nhân hãy tạm nghỉ ngơi một lúc. Tôi biết con quái tặc này có

tánh tự phụ, ít khi đánh người trong đêm tối. Có lẽ nó chờ lúc thanh thiên bạch nhật

mới động thủ.

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh bây giờ không còn băn khoăn cho tánh mạng hai đứa bé thân

yêu, tin tưởng rằng chúng đã được một nơi trú ẩn an toàn, nên tỏ ra gan dạ hơn trước

và cương quyết xả thân đương đầu mọi hiềm khích, bất cứ do đâu gây nên. Cả hai

kiếm không rời tay lăm le tiếng động là nhảy ra ứng chiến.

Lục Lập Đỉnh và Lục đại nương kết hợp cùng nhau đã trên mười mấy năm trời, sống

trong cảnh sống bình dị đã quen, cha bao giờ nghĩ đến cảnh tang tóc, chia lìa. Bỗng

nay gặp phải cảnh ngộ thù hằn, gia đình mang tai biến, con cháu phải thân ly, vợ

chồng tánh mạng nh sợi chỉ treo chuông, làm sao khỏi buồn tủi. Tuy nhiên đôi vợ chồng

này vốn có dòng máu hào hiệp, quyết không vì thế mà bó tay làm tổn thương dòng

giống.

Với tâm trạng ấy, đôi vợ chồng ngồi nhìn nhau thông cảm, không nói nên lời.

Ngoài xa, tiếng gà gáy văng vẳng vọng lại, Lục Lập Đỉnh nghĩ đến đàn gia súc của

mình bị con ác tặc giết hại, trong nhà không có tiếng chó sủa, lòng bùi ngùi lẩm bẩm:

- Thật đúng là kẻ "khuyển bất lưu".

Trời hừng sáng ! Theo mọi bữa, vào giờ nay nơi Lục gia trang tưng bừng náo nhiệt,

thế mà nay bốn bề lặng ngắt thê lương. Thật là một quang cảnh tràn đầy tử khí.

Bỗng nhiên "ầm" một tiếng! Một hòn đá rất lớn từ bên ngoài ném vào làm cho hai

cánh cửa ngõ mở tung ra.

Mặc dù cánh cửa ngõ đêm vừa rồi bị kẻ lạ mặt dùng xích khoá chặt, tên nô bộc A Căn

cẩn thận đóng then như thường lệ thế mà chỉ một tảng đá, cả xích sắt và then đều gãy

rời ra hết.

A Căn nghe tiếng chạy đến thì thấy trước cổng đã hiện ra một đạo cô cực kỳ diễm lệ,

mình khoác chiếc áo màu trắng tinh như tuyết.

Đạo cô vừa tiến vào chính là Xích luyện Tiên tử Lý Mạc Thu.

Tên A Căn trố mắt nhìn một lúc rồi cất tiếng hỏi:

- Ai đó? Muốn hỏi ai?

Bây giờ Lục Lập Đỉnh cũng vừa chạy đến, thấy đạo cô thất kinh gọi A Căn bảo:

- A Căn, hãy lui vào trong cho mau.

Nhưng đã trễ, Lý Mạc Thu nhanh tay đưa chiếc phất trần đánh nhẹ vào đầu A Căn

một cái khiến tên nô bộc trung thành này nằm lăn ra chết tươi như đàn gia súc vừa rồi.

Lục Lập Đỉnh hầm hầm nét mặt múa kiếm lướt tới. Lý Mạc Thu vẫn điềm nhiên như

không để ý. Nàng lấy phất trần gõ nhẹ vào đầu hai con tỳ nữ đang quét sân, thấy

nàng trố mắt nhìn.

Hai đứa tỳ nữ nằm lăn chết giãy.

Xong. Lý Mạc Thu mới quay lại hỏi Lục Lập Đỉnh:

- Còn hai đứa bé đâu ?

Lục Lập Đỉnh chưa kịp đáp thì đằng sau chàng Lục đại nương và Vũ tam nương đã

kịp thời xông ra tiếp ứng.

Thấy vẻ mặt lạnh lùng, đanh ác của Lý Mạc Thu, mọi người căm tức thấu đến ruột

gan.

Lý Mạc Thu nhìn Vũ tam nương cười mỉm:

- Có người ngoại cuộc muốn tham dự. ở đây không đủ chổ để nghênh chiến, vậy mời

quý vị lên đây.

Dứt lời, Lý Mạc Thu tung chiếc phất trần nhảy gọn lên mái nhà.

Hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh và Vũ tam nương không ngận ngại tung chân nhảy theo.

Lý Mạc Thu ngạo nghễ không cần dùng đến cặp song kiếm, chỉ dùng chiếc phất trần

chống đỡ với ba người mà sắc mặt luôn tươi cười hơn hở nh đang dự một trò giải trí.

Ngược lại, ba đối thủ của nàng thay nhau tấn công tới tập, phí bao nhiêu sức lực mà

vẫn không lay chuyển được mảy may sắc diện ngoạn lộng cuả nàng.

Bỗng nhiên, Lý Mạc Thu quay ngược chiếc phất trần lại, cả ba đối thủ đều bị mất

hung khí. Nàng cười khanh khách nhưng chưa vội hạ thủ. Nàng bắt đầu một trò chơi

mới. Nàng cầm chiếc phất trần lăm le dí vào đầu từng địch thủ. Trong lúc đó, mỗi

địch thủ phải mệt nhọc tránh né một cách hãi hùng.

Trò chơi mèo vờn chuột này tiếp diễn một hồi lâu khiến cả ba địch thủ đều mệt sức và

buộc phải tự thú sự bất lực của mình bằng lời nguyền rủa.

- Tặc nữ, mày cứ giết ta đi còn đợi chừng nào nữa !

Nhưng, sự bỡn cợt của Lý Mạc Thu chưa thoả. Nàng vẫn với chiếc phất trần chơi

trò chơi ngạo nghễ đó.

Bỗng nhiên phía dưới có tiếng động khác thường. Lý Mạc Thu lắng tai nghe rồi bỏ ba

người bại trận nhún mình nhảy xuống sân. Quả nhiên, nàng thấy một ông lão tay cầm

thiết trượng xông đến.

Lý Mạc Thu mỉm một nụ cười kiêu hãnh rồi tung mình nhảy phóc về phía ông già.

Chân nàng chưa chấm đất nàng đã vung chiếc phất trần giáng cuống một đòn rất hiểm

độc.

Với thế đánh này, Lý Mạc Thu thường dùnng trong lúc khẩn cấp mà ít kẻ tránh khỏi.

Lão giã tuy mắt lòa nhưng nghe hơi gió biết ngay gặp phải địch thủ ác hiểm liền vung

thiết trượng nặng ngàn cân về phía đối thủ.

Không thủ được bằng thế độc, Lý Mạc Thu biết mình gặp phải tay cự phách, liền

xoay ngược chiếc phất trần hét lớn:

- Rơi ! Rơi!

Hai sức mạnh gặp nhau ! ông lão ra sức giữ cây thiết trượng không để văng khỏi tay

mình, và cảm thấy không đủ sức giữ vững, bèn nhún người nhảy lên không mới tránh

được ngón võ độc hiểm của Lý Mạc Thu.

Lão già lẩm bẩm:

- Con quái tặc này quả nhiên lợi hại! Tiếng đồn trong giới giang hồ quả thực chẳng

sai.

Lý Mạc Thu lại tung chiếc phất trần lần nữa. Lần này nàng lại hét:

- Văng !Văng !

Nhưng, cây thiết trượng vẫn được ông lão bảo vệ chắc chắn không để rời khỏi tay.

Lý-mạc-Thu kinh ngạc, bụng bảo dạ:

- Ta đã từng dấn thân khắp giang hồ chưa thấy mấy người tránh được ngón đòn này!

Chẳng biết lão là ai mà tài nghệ dường ấy.

Nàng co mình lại, nhảy lui mấy bước, trừng trừng nhìn kỹ vào mặt, thấy cặp mắt ông

lão bị loà, nàng la lớn:

- A! có phải người là Kha-trấn-ác chăng?

Đúng vậy!. Ông lão nầy chính là Kha-trấn-ác, một trong bảy tay quái hiệp nơi đất

Giang-nam.

Nguyên vì sau kỳ luận kiếm ở Hoa-sơn, đôi hiệp khách Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung

được kết làm vợ chồng. Thân phụ của Hoàng-Dung là Hoàng-dược-Sư cùng con rẽ tìm

đến đảo, Đào-hoa để ẩn trú.

Nhưng chẳng bao lâu, Hoàng-dược-Sư lại bỏ đảo ra đi, để lại một bức thư căn dặn con

rể chớ nên tìm kiếm vô ích.

Bởi vì, Hoàng-dược-Sư tuy tuổi già sức yếu vẫn chưa quên được tiếng gọi hải hồ.

Hoàng-Dung biết rõ tánh tình của cha, mặc dầu tha thiết nhớ nhung vẫn đành chịu

biết sao hơn.

Cách mấy tháng. Hoàng-dược-Sư lại nhắn tin về một lần. Rồi từ đó về sau vẫn biệt vô

âm tín, không rõ chết sống nơi nào.

Hoàng-Dung quá nhớ cha nên cùng Quách-Tỉnh dân bước khắp nơi để dò la tin tức.

Nhưng qua mấy tháng trời vẫn biền biệt tăm hơi. Hai vợ chồng Hoàng-Dung lại phải

trở về đảo Đào-hoả để kịp ngày khai huê nở nhuỵ.

Hoàng-Dung tuy là thân gái đào tơ, nhưng vốn dòng hiệp khách nên lấy làm khó chịu

khi phải bó mình trong đảo để chờ ngày tháng sinh thai.

Hoàn cảnh ấy đã làm cho Hoàng-Dung bực dọc, trở nên cau có luôn luôn, kiếm

chuyện gây gổ với Quách-Tỉnh, chồng nàng.

Quách-Tỉnh vốn tánh chất phác, thuần hậu, thấy thế thương tình, đem lòng nể nang,

đón nhận những cái đay nghiến vô nghĩa của Hoàng-Dung.

Chẳng bao lâu Hoàng-Dung sanh đặng một gái, đặt tên là Quách-Phù.

Trong thời gian thai nghén, Hoàng-Dung hay phiền muộn, gắt gỏng. Tính tình đó

không khỏi ảnh hưởng đến Quách-Phù. Do đó, chưa đầy một tuổi, Quách-Phù trở nên

ngang ngạnh.

Quách-Tỉnh nhiều lúc thấy con như vậy đem lòng bực dọc, dạy, răn. Nhưng

Hoàng-Dung lại bênh, khiến cho Quách-Phú càng lớn tuổi thì tánh ngang ngạnh cũng

lớn theo, không thể sửa chữa được nữa.

Lúc Quách-Phú lên ba tuổi, được mẹ cô ta dạy về võ nghệ. Từ đó, trên đảo Đào-hoa,

bất cứ một côn trùng, chim chóc, thú vật nào, hễ Quách-Phú trông thấy là đâm chém,

giết hại, chặt đầu banh lông.

Thú vật trên đảo lần lần tìm nơi khác ẩn thân hết.

Quách-Tỉnh rất buồn phiền về tánh nết của con, nhưng lại nể vợ, không dám rầy la.

Bỗng một ngày kia có khách đến viếng thăm đảo. Khách đó là Kha-trấn-ác, sư phụ

của Quách-Tỉnh.

Kha-trấn-ác những tưởng rằng sau bao năm giang hồ trôi nổi, có thể trở về một nơi

tĩnh mịch vui thú điền viên. Nào ngờ, máu hào hiệp không cho phép ông ta như thế.

Ông ta vẫn phải phiêu lưu đây đó.

Sau khi viếng thăm sáu người bạn xa kia đã cùng lão nổi tiếng là thất-quái ở đất

Giang-Nam, lão lại chạnh lòng nhớ đến người môn đệ là Quách-Tỉnh, lão liền lên

đường tìm đến thăm.

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung gặp lại được sư phụ lấy làm mừng rỡ, lưu lại ở đảo, và

khẩn khoản yêu cầu lão từ bỏ chương trình phiêu lưu để thầy trò an sống.

Kha-trấn-ác nhận lời. Thế là hàng ngày lão cùng Quách-Phù dạo chơi phong cảnh.

Chẳng bao lâu, đôi bạn một già một trẻ trở nên thắm thiết, luôn luôn quấn quít nhau.

Kha-trấn-ác lấy cô bé Quách-Phù làm nguồn tiêu khiển, Quách-Phù lấy Kha-trấn-ác

làm kẻ nuông chiều, để nũng nịu và đòi hỏi những thoả mãn của trẻ con.

Ngày kia, Hoàng-Dung lại nhớ cha, bên cùng Quách-Tỉnh rời đảo đi tìm. Lúc ra đi,

đôi vợ chồng ký thác Quách-Phù cho sự phụ.

Quách-Phù tuổi chưa bao nhiêu, tánh tình vốn ngang ngạnh, trên chẳng sợ trời, dưới

chẳng sợ đất, chỉ chờ lúc vắng mặt mẹ cha là lập tức nằng nặc đòi Kha-trấn-ác dắt nó

đi tìm ông ngoại là Hoàng-dược-Sư.

Nhiều lúc Kha-trấn-ác, nói với Quách-Phù:

- Con còn bé, không nên đi xa! Huống hồ đi tìm ông ngoại là việc khó khăn con

không làm nổi.

Tuy nhiên, cô bé vẫn không từ bỏ ý định kỳ quặc đó.

Một hôm, Quách-Phù phóng mình lội xuống nước, bơi ra xa rồi gọi Kha-trấn-ác nói:

- Được rồi! Nếu công công không dắt cháu đi tìm ông ngoại thì cháu đi một mình.

Cháu bơi ra giữa biển đây nầy!

Kha-trấn-ác xem thấy hoảng hốt. Ông lão không biết lội, lại thấy gió to sóng cả sợ

con bé chết chìm, nói vội:

- Hãy lội vào đây! Đảo nầy cách đất liền có hơn ngàn dặm làm thế nào lội cho được.

Con bé thấy Kha-trấn-ác sợ hãi càng làm già:

- Chẳng thà chết chìm, còn hơn suốt đời bị giam hãm trên hải đảo nầy.

Dứt lời, hắn lại hụp mặt xuống nước hai tay chới với.

Lão già chẳng biết làm sao hơn, đành chịu thua la lớn:

- Thôi cháu hãy lôi vào bờ đi rồi chúng ta cùng bàn chuyện vượt hải đảo.

Quách-Phù vẫn một mực khu khư nói:

- Không, không! Ông bằng lòng hứa dẫn cháu đi tìm ông ngoại thì cháu mới chịu vào.

Kha-trấn-ác nói:

- Được, được! Ông bằng lòng dẫn cháu đi.

Quách-Phù nói:

- Quân tử nhất ngôn! Ông phải giữ lời đấy nhé.

Kha-trấn-ác không do dự, nói:

- Khoái mã nhất tiên.

Đó là câu thề độc mà các giới giang hồ quen dùng trên đất Giang-nam này. Lời nói ấy

xem như danh dự của những ai có máu hào hiệp.

Quách-Phù cười khoái trá lội lên bờ, trong lúc đó Kha-trấn-ác ra dáng lo lắng và suy

nghĩ đủ điều.

Chẳng bao lâu, cả hai sửa soạn hành trang đem theo một đôi chim ưng, dùng thuyền

tiến về phía Tây.

Và ngay ngày hôm đó, hai người đến phủ Hồ-Châu, xin vào tá túc tại nhà một nông

phu.

Trong lúc Kha-trấn-ác còn mệt mỏi vì cuộc hành trình nên ngủ say chưa dậy thì

Quách-Phù đã ra ngoài ngao du, dẫn theo đôi chim ưng lểnh mểnh giữa làn sương

xám.

Chợt thấy Vũ-tu-Văn lâm nạn, Quách-Phù liền ra tay xua đôi chim ưng cứu Tu-Văn

khỏi nanh vút mãnh hổ như đã thuật ở đoạn trên.

Đây, chúng ta trở lại cuộc so tài hào hứng giữa Lý-mạc-Thu và Kha-trấn-ác.

Đôi bên say sưa giao chiến. Mặc dù Kha-trấn-ác vận dụng hết các môn bí quyết mà

cũng không làm sao thắng nổi Lý-mạc-Thu.

Biết vậy, Kha-trấn-ác lui dần về phía ngoài cổng che kín mặt sau để thủ thế.

Lý-mạc-Thu vừa tấn công vừa suy nghĩ:

- Lão già nầy quả là một tay lợi hại trong thất kiệt Giang Nam. Mắt lão mù loà mà

vẫn có thể cầm cự với ta trên mười hiệp. Như vậy danh bất hư truyền.

Bỗng Lý-mạc-thu nghe đàng sau có tiếng động.

Hai vợ chồng Lục-lập-Đỉnh và Vũ-tam-nương vừa chạy đến tiếp tay với Kha-trấn-ác.

Lý-mạc-Thu tự nghĩ:

- Trường hợp nầy ta có nên ra tay hạ sát Kha công chăng?

ý nghĩ của Lý-mạc-Thu không phải quá tự phụ.

Thực vậy, tài nghệ của Kha-trấn-ác tuy quán thông trong giới giang hồ, xứng đáng là

một trong thất quái Giang-nam. Tuy nhiên so với tài nghệ nàng thì chưa thấm vào

đâu. Nàng muốn đánh hạ Kha-trấn-ác lúc nào cũng được. Có điều nàng phân vân là

nàng biết Kha-trấn-ác, sư phụ của đôi vợ chồng Quách-Tỉnh. Giết Kha-trấn-ác tức là

gây vào đôi vợ chồng nầy một mối thù, mà tài nghệ của vợ chồng họ Quách, Lý mạc

Thu không thể khinh thị.

Sở dĩ thế mà Lý-mạc-Thu vừa đánh vừa đắn đo suy nghĩ.

Nhưng rồi cuối cùng nàng cũng phải quyết định, nhất là khi cả ba đối thủ bại trận lại

xông vào trợ lực với Kha công.

Lý-mạc-Thu quyết định tha chết cho Kha-trấn-ác để tránh hậu hoạ.

Nàng đảo lộn chiếc phất trần, đánh vào bụng Kha-trấn-ác, nhẹ nhàng như phất một

cành hoa. Kha-trấn-ác không ngờ cái phất nhẹ nhàng như thế mà lại có sức mạnh vạn

năng. Chiếc thiết trượng của lão vừa đưa ra đỡ liền bị rơi xuống đất. Lão nhanh chân

lùi bước để tránh ngọn độc thủ của đối phương sắp tiếp diễn.

Nhưng Lý-mạc-Thu không tiến về phía Kha-trấn-ác mà lại đảo ngược chiếc phất trần

tập kích Vũ-tam-nương.

Bị đánh bất ngờ, Vũ-tam-nương hét lên một tiếng kinh hoàng. Nàng liều mình xông

tới một mặt tránh ngọn phất trần, một mặt tung kiếm chém ngang hông Lý-mạc-Thu.

Lý-mạc-Thu không đỡ, nép mình tránh lẹ làng và uyển chuyển như một cành sen uốn

cong trước gió.

Chờ đến khi gió đã thoảng qua, cành hoa ấy trở mình dậy quất chiếc phất trần trở

ngược lại Lục-đại-nương.

Tội nghiệp cho Lục-đại-nương với miếng võ ấy, nàng không tài nào đỡ nổi, bị chiếc

phất trần đập trúng ngã chúi xuống đất.

Thấy vợ mình bị hại. Lục-lập-Đỉnh nổi giận, chẳng còn e dè trước tài nghệ quái ác

của đối thủ nữa, chàng xông vào dùng dao chém túi bụi, và trổ hết những đường bí

quyết trước ngọn dao thần tốc.

Lý-mạc-Thu mỉm cười, tiến sát vào người Lục-lập-Đỉnh, khiến cho những đường dao

bí quyết của Lục-lập-Đỉnh trở nên vô dụng. Chàng tức mình hét lên một tiếng, buông

dao, hai tay ôm Lý-mạc-Thu vào lòng.

Thế là tình cờ, tấm thân kiều diễm kia lại nằm gọn vào hai cánh tay của

Lục-lập-Đỉnh, chàng trai trẻ đẹp ấy.

Chẳng biết trong tình thế nguy ngập Lục-lập-Đỉnh có cảm giác gì khi ôm được mỹ

nhân kế sát vào ngực. Riêng Lý-mạc-Thu, từ ngày bị tình phụ, bao nhiêu nữ tính của

nàng đã bị tiêu tan đi mất, nàng chỉ là một thiếu phụ trong bẽ bàng.

Tuy nhiên, khi nhìn tận mắt Lục-lập-Đỉnh, Lý-mạc-Thu lại có cảm giác như nhìn lại

khuôn mặt của người yêu mười năm về trước. Cũng cái khuôn mặt vuông vuông ấy,

cũng với vừng trán cao rộng ấy, cũng với đôi mắt thông minh và tình tự ấy. Chừng ấy

hình ảnh lẽ ra làm tiêu tan mối căm hờn ghen tức trong lòng cô gái bị phụ tình.

Nhưng không, nếu Lục-lập-Đỉnh nhận xét kỹ càng hẳn thấy sắc mặt của Lý-mạc-Thu

thay đổi qua nhiều sắc thái kỳ dị. Nàng siết chặt đôi hàm răng, dồn tất cả mọi căm

hờn, độc ác vào đôi mắt nhìn Lục-lập-Đỉnh, hét:

- Đồ bạc tình! Đồ bội nghĩa!

Rồi nàng vung chiếc phất trần đánh vào Lục-lập-Đỉnh không hề có chút thương tâm.

Tội nghiệp cho Lục-lập-Đỉnh vô oán, vô thù mà phải chịu gánh trả một đòn căm hờn

về tình duyên từ kiếp trước.

Vợ chồng họ Lục, chỉ phút chốc đã bị Lý-mạc-Thu đánh ngã Kha-trấn-ác và

Vũ-tam-nương mặc dù còn sung sức cũng không thể giải cứu kịp những ngón đòn

trong loáng mắt ấy.

Lý-mạc-Thu lại ngạo nghễ hỏi:

- Còn hai đứa bé nữa đâu?

Hỏi đến hai đứa bé, Lý-mạc-Thu muốn nói đến Trình Anh và Lục-vô-Song.

Rồi không đợi cho Vũ-tam-nương kịp mở miệng, nàng phóng mình lục soát khắp mọi

nơi trong trang trại.

Nhưng không tìm đâu ra tung tích hai đứa bé, Lý-mạc-Thu phóng hoả đốt hết trang

viên, lửa khói bốc cháy um tùm.

Đoạn, nàng quay ra nói với Vũ-tam-nương và Kha-trấn-ác:

- Ta vốn cùng Nhất-Đăng Đại-sư và Đào-hoa đảo không thù oán gì. Vậy xin từ biệt

các ngươi.

Dứt lời, nàng toan phi thân. Nhưng Vũ-tam-nương và Kha-trấn-ác là hai kẻ nghĩa

hiệp, đã từng tung hoành khắp giang hồ không thể mặc nhiên đứng nhìn cử chỉ hiên

ngang của Lý-mạc-Thu, liền cùng nhau kẻ thiết trượng, người kiếm đòn Lý-mạc-Thu

lại đánh.

Lý-mạc-Thu buộc lòng phải đưa phất trần ra đỡ, và đánh lại.

Một cái vút nhanh, đã làm cho thanh kiếm của Vũ-tam-nương rơi xuống đất gãy làm

đôi.

Những vị anh hùng trên đảo Đào-Hoa

Vũ-tam-nương bị rơi kiếm vội cúi sát xuống đất để tránh. Mảnh kiếm gãy bắn tung rớt

lên mái tóc của nàng làm cho nàng hốt hoảng hét lên. Kha-trấn-ác nghe tiếng biết việc

chẳng lành liền vung thiết trượng chống đỡ. Chuôi gươm gãy của Vũ tam nương ngay

lúc ấy văng về phía Kha-trấn-ác kịp lúc lão đưa thiết trượng ra, hai vũ khí chạm nhau

nẩy lửa xẹt ra một vệt sáng loè.

Lý-mạc-Thu lại suy nghĩ:

- Nếu ta mặc nhiên tha chết cho Kha công mà không cho biết ý định của ta e lão hiểu

lầm tài nghệ của ta chăng. Chi bằng ta cho lão một phen khiếp vía là hơn.

Nghĩ thế, nàng tung chiếc phất trần quanh mặt Kha-trấn-ác và trở lại trò chơi mèo

giỡn chuột lúc ban nãy. Thỉnh thoảng nàng dùng phất trần phẩy nhẹ trúng thiết trượng

buộc Kha-trấn-ác phải huy động cả sức lực để giữ cho thiết trượng khỏi rơi.

Cứ mỗi lần phất trần chạm vào thiết trượng là mỗi lần toàn thân Kha-trấn-ác phải

dụng vận hết toàn lực. Nhưng ác thay, hết đòn nầy đến đòn khác, khiến cho ông lão

qua một lúc không còn hơi sức nào để chống đỡ nữa. Còn Lý-mạc-Thu nh ưđùa giỡn

vẻ mặt tươi như đoá hoa trong nắng sớm.

Cuối cùng, Kha-trấn-ác không còn đủ sức để cống hiến cho cái trò chơi quái quắt của

Lý-mạc-Thu, lão buông thiết trượng đứng ưỡn ngực, hét lớn:

- ác tặc! Đây nầy! Mi hạ sát ta đi! Đồ khốn kiếp.

Lý-mạc-Thu cười lớn, đưa chiếc phất trần giả vờ đâm vào cái bụng nhăn nheo của lão.

Chiếc phất trần còn cách bụng lão độ vài phân nàng dừng tay lại, rồi vừa cười vừa nói:

- Ta đâu muốn hại tánh mạng lão. Ta đã nói lão là người ngoại cuộc, ta không có thù

oán kia mà!

Nàng vừa dứt lời, bỗng đằng sau có tiếng động. Nàng quay lại thì thấy Vũ tam nương

mặt hầm hầm xông vào cứu mạng Kha-trấn-ác.

Nhanh như chớp Lý-mạc-Thu nhảy phóc người lên không trung rồi thuận tay đánh

vào gò má của Vũ-tam-nương.

Ngón chưởng này nàng thường tung ra trong cơn giận! Nó đột ngột và nặng nề quá

sức làm cho Vũ-tam-nương mất thăng bằng ngã lăn xuống đất.

Đánh xong đòn Xích luyện thần chưởng. Lý-mạc-Thu hét lên:

- Tặc nữ! Ta đã bảo ngươi không phải là kẻ liên can, ta đã tha chết sao còn liều lĩnh.

Dứt lời, nàng phi thân biến mất.

Bị trúng phải thần chưởng. Vũ tam nương nằm bất tỉnh. Còn Kha-trấn-ác lúc đó vẫn

còn có cảm giác như có phiến đá ngàn cân đè nặng trên bụng. Lão thở khò khè toàn

thân mệt mỏi.

Qua một lúc, Vũ tam nương lần lần hồi tỉnh, nghe tiếng răng rắc bên tay, mở mắt nhìn

thấy ngọn lửa tàn phá gia trang đã lần hồi cháy về phía mình. Nàng thất kinh gượng

dậy đỡ Kha-trấn-ác tránh ra xa để khỏi nguy hiểm.

Bấy giờ lão già cơn mệt cũng vừa lắng dịu, nghĩ đến vợ chồng Lục-lập-Đỉnh liền cùng

với Vũ tam nương đến nơi. Nhìn hai cái xác nằm sóng sượt, Vũ tam nương cũng như

Kha-trấn-ác không khỏi bùi ngùi thương xót.

Vợ chồng Lục-lập-Đỉnh chưa chết. Họ vẫn còn trong thoi thóp nhưng không thể nào

sống được lâu.

Kha-trấn-ác và Vũ tam nương đều ở trong tình trạng khó xử.

"Để họ lại ?"

Đã là hiệp sĩ ai lại có thể nhẫn tâm trước những sinh mệnh đang hấp hối!

Nhưng mang họ theo thì sau một cơn kiệt lực, cả hai đều chưa đủ sức cứu lấy mình

còn mong gì cứu lấy người khác.

Trong lúc lương tâm hai người đang giày vò phân vân trước sinh mạng vợ chồng

Lục-lập-Đỉnh thì đằng xa có tiếng gọi:

- Nương tử! Nương tử có hề gì không?

Đúng là tiếng kêu của Vũ-tam-Thông. Vũ tam nương mừng rỡ vô cùng. Càng mừng

hơn nữa khi nàng nghĩ rằng chắc Vũ tam Thông không còn điên khùng như trước nữa

nên mơí biết mà đến trong lúc nguy nan.

Vũ-tam-Thông áo quần tả tơi, hướng về phía lửa cháy, miệng la:

- Nương tử ơi! Nương tử có hề gì không?

Vũ-tam-nương cảm động, chạy ra ôm choàng lấy chồng, kéo về phía vợ chồng họ Lục

đang nằm thoi thóp.

Vũ-tam-Thông không nói rằng gì cả, với tay kẹp mỗi người vào nách rồi cắm đầu

chạy.

Kha-trấn-ác tuy chưa được giới thiệu cùng đôi vợ chồng họ Vũ, song nhận biết họ là

kẻ hào hiệp nên lặng lẽ phi thân theo sau.

Chẳng mấy chốc, Vũ-tam-Thông đã dẫn mọi người lâm nạn ấy đến một sơn động.

Thật ra, phủ Hồ-Châu vốn ít núi non, toàn là đồng bằng phì nhiêu, nên nơi nào có

ngọn đồi cao, có một số hang hố thì ở đấy dân cư gọi là sơn động.

Vừa bước vào sơn động, Vũ-tam-nương đã thấy ngay Vũ-đôn-Nhu, Vũ-tu-Văn,

Trình-Anh, Lục-vô-Song đều có mặt nơi đó. Chúng đều được bình an vô sự và đang

chơi đùa với nhau. Ngoài ra còn một đứa bé gái ra vẻ con nhà trâm anh quyền thế,

trạc tuổi Trình-Anh và Lục-vô-Song sắc diện hiện ngang. Trông cái nhìn của đứa bé

gái ấy, người ta cảm thấy có một sự cách biệt về tính tình, khó hoà mình với các em

bé kia được. Em bé đó chính là Quách-Phù, ái nữ của Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung.

Quách-Phù thấy Kha-trấn-ác bước vào, liền nói:

- Công công ơi! Chẳng biết vì sao đôi chim ưng bay mất tích.

Cháu gọi thế nào nó cũng không về.

Trình-Anh và Lục-vô-Song ôm chầm lấy thi xác của của vợ chồng Lục-lập-Đỉnh vừa

khóc vừa than.

Bỗng Kha-trấn-ác buột miệng hét:

- Không xong rồi! Chúng ta đã vô tình chỉ đường cho con quỉ cái đó đến tìm mồi.

Vũ-tam-nương nghe nói thất sắc nhưng chưa hiểu ra sao.

Kha-trấn-ác giải thích:

- Con ác tặc đó đã thanh toán Lục gia trung chỉ còn hai đứa bé nầy nữa. Nhưng nó

chưa biết hai đứa bé nơi nào thì...

Vũ-tam-nương chợt hiểu ra nói tiếp:

- à! Đúng rồi! Quái thật! hắn dụng ý tha mạng chúng ta để lò la tông tích hai đứa bé.

Vũ-tam-Thông hầm hầm nét mặt, la lớn:

- A! Con ác tặc nầy xem ra lợi hại quá! Ta phải cùng nó một còn một mất mới được.

Dứt lời, lão nhảy phóc ra cửa đứng án ngự như giữ thế và chờ đợi.

Lục-lập-Đỉnh tuy xương đầu đã bị nát vụn nhưng trong lòng còn ấp ủ đôi việc chưa

được nói ra, nên dãy dụa kéo dài thì giờ lâm chung qua một lúc, chàng dốc hết tàn

lực, mở to đôi mắt quay về phía Trình-Anh trối:

- Châu Anh! cháu hãy đỡ cậu dậy! Nơi bụng cậu có một vuông lụa bạch, cháu... hãy

lấy ra...

Tiếng nói mệt nhọc nhỏ dần. Trình-Anh cúi sát dần xuống để nghe cho rõ nhưng chỉ

còn nghe được mấy tiếng thì thào.

Trình-Anh vâng lời vén bụng Lục-lập-Đỉnh lên rút ra vuông lụa bạch, trên vuông lụa

có thêu đoá hoa hồng.

Đoá hoa hồng nầy thật là kỳ dị. Nhìn qua thì cực kỳ diễm lệ, nhưng nhìn kỹ thì cực

kỳ hiểm hóc. Ai nhìn lâu cũng phải rỡn óc.

Lục-lập-Đỉnh nghĩ một lúc rồi cố nói tiếp:

- Cháu Trình-Anh! Cháu hãy buộc vuông lụa nầy vào cổ, và không được giây phút nào

cởi bỏ ra! Cháu nghe rõ chưa?

Trình-Anh tuy nhận ra được câu nói nhưng không hiểu ý nghĩa ra làm sao liền cúi

xuống gần, nhưng Lục-lập-Đỉnh chỉ còn mở to đôi mắt có ý dặn dò, không nói nữa.

Là lời di chúc, Trình-Anh không muốn để phiền lòng người chết, vội gật đầu.

Giữa lúc đó, Lục-đại-nương đang mê man bất tỉnh, thoạt nghe lời trối của chồng,

nàng bừng tỉnh lại, và nói:

- Vì sao chẳng truyền lại cho Vô-Song lại truyền cho Trình-Anh?

Lục-lập-Đỉnh cố nói lời sau cùng:

- Không! Ta không thể phụ lời ký thác của cha mẹ Trình-Anh.

Lục-đại-nương nói tiếp:

- Ông thật lòng dạ sắt đá! Con đẻ không thương lại thương cháu.

Dứt lời, đôi mắt Lục-đại-nương trắng chợt theo khuôn mặt.

Lục-vô-Song nãy giờ khóc than không để ý những lời đối đáp của cha mẹ nó.

Lục-lập-Đỉnh nh chưa hết nỗi nuối tiếc, ngẩng đầu nhìn vợ nói:

- Nếu phu nhân thương con thì hãy để cho nó cùng theo chúng ta về suối vàng là hơn.

Nguyên cái vuông lụa có thêu đoá hoa hồng là vật kỷ niệm đầu tiên của Lý-mạc-Thu

thân tặng cho Lục-triển-Nguyên để thắt chặt mối thâm tình. Khi lâm chung,

Lục-triển-Nguyên đoán biết hai mối tình ngang trái của mình và vợ sẽ đưa đến hai

mối thù oan nghiệt, không thể không đi họa đến con cháu về sau.

Do đó, lúc lâm chung Lục-triển-Nguyên trao vuông lụa cho Lục-lập-Đỉnh và dặn:

"Mối thù của Vũ-tam-Thông nếu hắn tìm đến thì con liệu tránh được thì tránh bằng

không thì đương đầu đấu chiến. Với Vũ-tam-Thông bắn không đến nỗi làm cho con

thiệt mạng. Còn đối với Lý-mạc-Thu, một tay võ nghệ cao cường lại có lòng hiểm

độc, nếu hắn tìm đến thì cách đối phó duy nhất để bảo tồn sinh mệnh là tròng vuông

lụa này vào cổ hắn. Hắn sẽ nhớ lại mối tình đầu mà không đủ can đảm để tàn nhẫn

nữa.

Tuy nhiên, Lục-lập-Đỉnh vốn con người tự phụ, cho đến phút lâm chung, cũng không

sử dụng vuông lụa theo lời trăng trối của người cha, dù là để cứu mạng.

Trình-Anh là cháu ruột của Lục-lập-Đỉnh. Cha mẹ Trình-Anh, từ lúc nhỏ đã ký thác

con cho Lục-lập-Đỉnh nuôi dạy. Thường ngày Lục-lập-Đỉnh cũng tỏ ra nghiêm khắc

với Trình-Anh, nhưng đến lúc lâm chung Lục-đại-nương không ngờ chồng mình có

thâm tình với cháu như thế.

Riêng Trình-Anh, cô ta hiểu nỗi bất bình chính đáng của Lục-đại-nương nên cầm

vuông lụa đưa cho Lục-vô-Song và nói:

- Em hãy giữ lấy của này cho vui lòng mợ.

Lục-lập-Đỉnh nghe lời nói ấy mở vội đôi mắt, với vẻ nghiêm nghị, nói:

- Vô-Song! Con không được giữ vuông lụa nầy.

Vũ-tam-nương thấy việc éo le gay cấn, đề nghị:

- Chúng ta hãy xé vuông lụa làm đôi, cấp cho mỗi đứa một nửa. Như thế mới ổn thoả.

Xin gia chủ vui lòng theo giải pháp đó.

Lục-lập-Đỉnh muốn trả lời song không còn đủ sức nữa. Tiếng nói ngập ngừng rồi

nghẹn trong cổ họng. Cuối cùng Lục-lập-Đỉnh gật đầu.

Vũ-tam-nương liền lấy vuông lụa xé toạc ra làm hai mảnh đưa cho hai em bé mỗi em

một nửa.

Bấy giờ Vũ-tam-Thông đang án ngự ngoài cửa động, nghe tiếng khóc chợt quay vào

thấy trên hai gò má vợ một bên có một vết trắng như bạc, một bên có một vết đen như

lọ, chẳng biết duyên cớ vì đâu, ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao lại thế nầy?

Vũ-tam-nương nghe hỏi nhớ lại độc chưởng của Xích-Luyện Tiên tử, bèn lấy tay xoa

lên hai gò má thì bấy giờ hai gò má đã tê cóng.

Nàng hốt hoảng, than:

- Chết rồi! Thiếp đã bị nhiễm độc của Xích-Luyện thần chưởng:

Bỗng ngoài cửa động có tiếng cười sằng sặc, hỏi vọng vào:

Có hai đứa bé trong đó chăng? Bất luận sống hay chết hãy mau đem ra giao lại cho ta.

Tiếng cười và tiếng nói trong như chuông ngân.

Vũ-tam-Thông xoay người trở lại.

Quả nhiên, Lý-mạc-Thu đứng đấy tự bao giờ với dáng điệu vô cùng ngạo nghễ.

Vũ-tam-Thông nhìn Lý-mạc-Thu ngạc nhiên: Bốn mươi năm trời, từ khi gặp nhau lần

chót, người thiếu phụ này cũng vẫn giữ nguyên nhan sắc, cũng vẫn yêu kiều diễm lệ

như xưa. Vũ-tam-Thông có cảm giác như con đạo cô này thách đố cả thời gian để mãi

mãi tồn tại gieo hoạ vào bao nhiêu thế hệ về sau.

Nhìn thấy Lý-mạc-Thu cầm chiếc phất trần phe phẩy nơi tay Vũ-tam-Thông hiểu rõ

mối nguy cơ đang chờ đợi mọi người, nhưng trong tay lão không có vũ khí.

Bởi vì, vào động tức là thả cho con ác tặc theo vào, còn chống cự biết dùng vật gì

ngăn cản.

Chỉ loáng mắt, Vũ-tam-Thông nhanh trí nhảy đến một cây cổ thụ cạnh cửa động, ôm

chầm gốc cây hô lớn:

- Lên.

Gốc cổ thụ bật lên tận gốc rễ cành lá rườm rà. Vũ-tam-Thông cầm múa tròn, tiến sát

vào người Lý-mạc-Thu mục đích vây Lý-mạc-Thu vào giữa tàng cây rườm rà để mọi

người có đủ thì giờ trốn thoát.

Lý-mạc-Thu hiểu ý, lùi mấy bước, vừa cười vừa nói:

- Vũ công còn mạnh đấy chứ!

Vũ-tam-Thông dừng tay, trả lời:

- Đã bốn mươi năm trời chẳng gặp nhau, nay tôi trông Lý cô nương vẫn còn đẹp lắm.

"Lý cô nương" là một lối gọi mà cách bốn mươi năm về trước không một chàng trai

hảo hớn nào không tìm dịp để được gọi nàng như thế. Nhưng từ khi mối hận tình đã

khiến Lý-mạc-Thu trở thành một đạo cô độc ác thì lối gọi Lý cô nương cũng cùng với

thời gian bị chôn lấp. Vả lại, ngày nay cũng chẳng còn gì dám gọi Lý mạc Thu với

tiếng gọi êm đềm như thế.

Mặc dù Lý mạc Thu con tim đã bị giá lạnh, giá lạnh đến chua chát, bẽ bàng trong dĩ

vãng, nhưng không thể không chạnh lòng khi nghe có người còn nhắc đến tên Lý cô

nương.

Thật vậy! Đã biết bao nhiêu chàng trai phong lưu đua tài tranh nhau gọi "Lý cô

nương".

"Lý cô nương", "Lý cô nương" một âm thanh dung hoà trong cuộc sống đào hoa, hay

tiếng kêu hối hận của một kẻ vong tình đang bị lương tâm cắn xé?

Nhưng nhắc đến ba tiếng "Lý cô nương" Lý mạc Thu lại cảm thấy sống dậy trong

lòng mình ba tiếng "Hà nguyên Quân" ba tiếng tình địch trong đời nàng.

Cảm giác như thế, sắc mặt Lý mạc Thu bỗng cay cú chẳng khác gì đoá hoa hồng trên

khuôn lụa bạch.

Vũ tam Thông cùng với Lý mạc Thu đều là những kẻ không may trên tình trường thì

tâm tánh có khó gì mà không thông cảm.

Cũng như cách đây mười năm sau khi thất tình, một ngày nọ Vũ tam Thông gặp một

đoàn phiên xa gồm có mười người của Hà thị phiêu cục. Chẳng may cho đoàn người

này trong hắn chữ Hà thị phiêu cục sơn trắng phiên xa, chữ Hà to lớn đập mạnh vào

trí óc của Vũ tam Thông khiến cho chàng trai thất tình ấy nhớ lại tên người yêu rồi

nổi cơn điên giết cả mười tên lão phiêu. Tội nghiệp cho những tên này, đến lúc bị tàn

sát cũng chẳng biết nguyên do.

Ngay nay Vũ tam Thông hẳn rõ tâm trạng Lý mạc Thu hơn ai hết. Thấy sắc mặt nàng

thay đổi, Vũ tam Thông hồi hộp cho sinh mạng của Trình Anh và Lục vô Song.

Lý mạc Thu nghiêm sắc mặt, nói:

- Chính ta đã in chín bàn tay máu vào Lục gia trang. Ta chưa hạ thủ được chín mạng

lẽ nào ta chịu dừng tay. Vậy Vũ tam ca hãy vui lòng nhường bước.

Vũ Tam Thông nói:

- Hai vợ chồng Lục công đã chết; vợ chồng Lục lập Đỉnh đã thọ độc vì tay người. Nay

chỉ còn một đứa bé nhỏ, ngươi nỡ nào nhẫn tâm như vậy.

Lý mạc Thu điểm nụ cười trên khuôn mặt lạnh lùng, nói:

- Vũ tam ca! Hãy nói là còn hai đứa bé thì đúng hơn. Nhưng thôi! Hãy nhường lối cho

ta đi.

Vũ tam Thông xoay ngang cây cổ thụ rào kín lối vào động và dằn từng tiếng:

- Này Lý cô nương! Thế thì Lý cô nương quả là trắc dạ lang tâm. Hà nguyên Quân...

Nghe nói đến "Hà nguyên Quân" Lý mạc Thu biến sắc lần nữa, hét:

- Ta phải nói để ngươi rõ. Trước mặt Xích Luyện tổ sư ta đã có lời thề. Nếu trước mặt

ta, kẻ nào nói đến tên "Hà nguyên Quân" thì kẻ đó phải chết, hoặc ta phải chết. Nay

Vũ tam ca tự nhiên bắt ta phải trọng lời thề, vậy ngươi đừng oán ta nhé.

Dứt lời, nàng tung chiếc phất trần đánh vào đầu Vũ tam Thông.

Chiếc phất trần đánh xuống mau như chớp nhoáng. Nhưng Lý-mạc-Thu đã quên rằng

con người điên dại đầu óc bồm xồm kia là cao đệ của Nhất-Đẳng Đại-sư, và

Lý-mạc-Thu còn quên một điều nữa là Vũ-tam-Thông ngày nay đâu phải

Vũ-tam-Thông bị rơi vũ khí trước ngực của Lục-triển-Nguyên bốn mươi năm về trước.

Vận dụng tất cả mọi kinh nghiệm của bốn mươi năm lăn lóc trên vũ trường,

Vũ-tam-Thông dùng hai bàn tay làm bung cây cổ thụ như một chiếc dây cung để đỡ

ngón đòn độc hiểm của Xích-Luyện Tiên-tử.

Lý-mạc-Thu thấy khí thế của Vũ-tam-Thông quả nhiên lợi hại, nàng liền nép mình

theo hướng gió, bay xa khỏi tầm cổ thụ và quan sát từng khe hở của Vũ-tam-Thông để

tấn công cho có hiệu quả hơn.

Lý-mạc-Thu đảo qua đảo lại liền hồi, khiến cho Vũ-tam-Thông không kịp day trở

tàng cây cổ thụ nặng nề ấy.

Nhân lúc đối phương lúng túng, Lý-mạc-Thu nhảy vụt xuống đưa chân đạp vào gốc

cây cổ thụ.

Con người Lý-mạc-Thu mong manh, thơ nhi liễu yếu nhu đào, ấy thế mà sức đạp của

nàng lại nặng nề có đến ngàn cân, khiến cho gốc cây phải lún xuống đất.

Thế là hai đối thủ dằng co nhau một cây cổ thụ. Một bên đè gốc, một bên đè ngọn.

Nhưng Lý-mạc-Thu ghì được ưu thế, lại có vũ khí trong tay, còn Vũ-tam-Thông đã

không có vũ khí, hai tay lại bận giữ ngọn cây.

Lý-mạc-Thu cười khúc khích như để hoan thưởng cái lợi thế của mình. Trong lúc đó,

Vũ-tam-Thông bắt đầu nao núng, mối lo ngại bắt đầu vẩn vơ trong trí óc.

Thật ra, Vũ-tam-Thông không hề lo ngại cho mình, bởi vì từ khi biết tin tình địch lẫn

người yêu đã hoá ra người thiên cổ, ông ta không còn tha thiết đến cuộc sống như đã

thiết tha trong bốn mươi năm qua rèn luyện võ nghệ để rửa hận thù. Nay trước nguy

cơ hăm doạ sanh mạng của con cháu người yêu và của vợ con mình khiến

Vũ-tam-Thông vụt ra ý nghĩ cần phải sống để bảo vệ kẻ thân yêu. Bấy giờ

Vũ-tam-Thông lo mối nguy hại chung hơn là lo cho bản thân.

Trong lúc ông ta đang lo suy nghĩ thì Lý-mạc-Thu vẫn cười ngạo nghễ trong đắc thế.

Nàng đạp chìm gốc cây cổ thụ xuống đất rồi bước lần về phía Vũ-tam-Thông tay lăm

lăm chiếc phất trần như chực kết thúc sinh mạng đối thủ.

Vũ-tam-Thông nhìn con ác tặc lẩn lẩn tiến đến đang chờ đợi một định mệnh khắt khe

cho cả một đoàn người vô tội.

Trong lúc nguy cấp, bỗng từ đàng sau Lý-mạc-Thu từ trên trời, lao xuống hai vệt đen,

tiếp theo những tiếng kêu lạ lùng quái dị.

Vũ-tam-Thông ngạc nhiên thấy đó là hai con chim ưng khổng lồi sà xuống bấu vào

Lý-mạc-Thu chúng dùng mỏ và móng nhưng bấu xé liên hồi, thay phiên nhau tấn

công tới tấp.

Lạ lùng hơn nữa trong động có tiếng the thé của cô bé Quách Phù đang điều khiển

cặp chim:

- Thần ưng! Thần ưng! Hãy mổ xé xác con quái tặc ấy.

Đôi chim ưng vô cùng khôn lanh, lúc bay về phía tả, lúc sà xuống phía hữu, đến như

Lý-mạc-Thu lanh lẹ dường ấy mà cũng phải lúng túng trong lúc tránh né.

Tuy nhiên, qua một lúc, Lý-mạc-Thu lấy ngay được bình tĩnh. Vì qua vài đợt tấn công

nàng đã xác định được giá trị của đôi chim. Nàng tin rằng pháp thuật của nàng có

thừa để đối phó.

Tuy nhiên, đánh hạ đôi chim là việc nàng còn phải suy tính. Bởi vì nàng thừa hiểu chỉ

có đảo Đào-hoa mới có đôi chim ấy. Vậy đương đầu với đôi chim ưng tức là chuốc

lấy hậu quả oan thù với họ Quách, điều mà Lý-mạc-Thu không bao giờ nghĩ đến.

Trong lúc nàng còn lưỡng lự chưa quyết thì đôi chim vẫn hăng say trong lợi thế, cứ áp

đảo luôn hồi.

Bỗng con chim mái bất đồ trúng phải chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu sa xuống đất

kêu một tiếng thất thanh.

Quách-Phù thấy thần ưng bị hạ, từ trong động hô to:

- Thần ưng! Thần ưng! không có gì phải sợ, hãy cắn chết con nữ tặc ấy cho ta.

Lý-mạc-Thu liếc mắt nhìn vào động thấy người ra hiệu lệnh cho đôi chim là một cô

gái nhỏ, sắc mặt lạ lùng. Nàng nhíu mày lẩm bẩm:

- Thôi, đúng rồi! Con bé này phảng phất giống nhan sắc của Quách phu nhân. Đích

thị nó là đứa con gái của đôi hiệp sĩ ở đảo Đào-hoa.

Nghĩ như thế, Lý-mạc-Thu càng phân vân, chỉ đánh cầm chừng.

Vũ-tam-Thông thấy có đôi thần ưng trợ lực, thay đổi chiến thuật. Ông ta nhặt một

tảng đá lớn ở góc động ném vào chậu cây cổ thụ, rồi đỡ nhẹ cây cổ thụ lên kê vào hòn

đá. Đoạn ông ta bất thần dồn hết sức lực đè ngọn cây xuống khiến cho gốc cây bật lên

và tung Lý-mạc-Thu bay vút lên trời.

Đôi chim ưng tởng Lý-mạc-Thu phi thân trốn thoát liền vỗ cánh đuổi theo.

Trong lúc Lý-mạc-Thu lơ lửng giữa không trung không có điểm tựa để sử dụng mảnh

lực chiếc phất trần thì bị đôi chim vây hãm rất ngặt. Nàng túng thế liền tung bửu bối

từ trong tay áo nàng bay ra ba chiếc kim châm hổ phách. Hai chiếc nhắm hướng hai

con chim ng và một chiếc nhắm bụng Vũ-tam-Thông phóng tới.

Ba chiếc kim bắn rất chính xác. Đôi chim bị thương quằn quại bay vút tận mây xanh.

Còn Vũ-tam-Thông chợt thấy một tia sáng xẹt tới ông ta vội nhảy tránh sang một bên.

Nhưng đã trễ, chiếc kim son trúng vào bàn toạ bên trái khiến cho toàn thân lão run lẩy

bẩy ngã xỉu xuống đất dãy đành đạch.

Chỉ chốc lát, Vũ-tam-Thông bất tỉnh.

Quách Phù thấy thế sốt ruột từ trong động cất tiếng lanh lảnh gọi đôi chim ưng:

- Thần ưng hãy trở lại mau! Thần ưng hãy trở lại mau!

Nhưng vô hiệu! Đôi chim ưng bay vút một mạch.

Bấy giờ, Lý-mạc-Thu là đà người xuống vừa cười vừa hỏi:

Này em bé! Có phải em thuộc dòng họ Quách chăng?

Quách-Phù thấy Lý-mạc-Thu tỏ vẻ hiền lành khả ái, bao nhiêu ác cảm trong ngừi

bỗng chốc tiêu tan, nó vội hỏi:

- Thưa cô nương! Em đúng là họ Quách. Còn cô nương là ai?

Lý-mạc-Thu không đáp, chỉ cười rồi nói:

- Em hãy đến đây! Ta dắt em đi chơi! Vui lắm.

Dứt lời, Lý-mạc-Thu lẹ làng bước đến cầm tay Quách-Phù dắt đi.

Kha-trấn-ác từ trong động vác thiết trượng chạy vội ra, chận Quách-Phù lại, và nói:

- Phù nhi! con hãy theo ta trở về.

Lý-mạc-Thu nhín Kha-trấn-ác cười lớn, nói:

- Công công sợ ta ăn thịt con bé nầy sao?

Vừa nói nàng vừa kéo Quách-Phù theo mình.

Quách-Phù ngoảnh lại nói với Kha-trấn-ác:

- Công công để cho cháu đi chơi với cô nương một chốc cháu trở về ngay.

Kha-trấn-ác không biết làm sao đành đứng nhìn con đạo cô quyến rũ Quách-Phù.

Bỗng nhiên đôi chim ưng bay trở về kêu lên những tiếng áo não.

Quách-Phù quay đầu nhìn lại. Kha-trấn-ác hy vọng những tiếng kêu của đôi chim ưng

sẽ làm cho Quách-Phù đổi ý.

Nhưng không, Quách-Phù liền ra hiệu:

- Thần-Ưng! Hãy đến đây cùng ta! Hãy theo ta!

Đôi Thần-Ưng ngoan ngoãn bay theo. Nhưng lạ thay, giữa đôi chim ưng có một con

chim nhỏ màu hồng nằm ngay đỉnh đầu Lý-mạc-Thu đâm bổ xuống.

Hoảng hốt, Lý-mạc-Thu đưa phất trần ra đỡ. Con chim nhỏ khôn ngoan và lanh lẹ vô

cùng. Như một con thoi, nó tránh né chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu rất ngoạn mục.

Lý-mạc-Thu phải một phen kinh hãi. Tuy nhiên, nàng vẫn giữ được bình tĩnh khen:

- ái chà! Con chim nhỏ này hay lắm.

Bỗng phía sau có tiếng động khác thường. Một cậu bé độ 14, 15 tuổi, mình mặc thanh

y, vừa vỗ tay vừa ca hát điệu hành quân lời lẽ rất vô nghĩa. Một đoàn rắn độ ngàn con,

một màu thanh trúc sắp thành hàng ngũ chỉnh tề, ngoan ngoãn vâng theo lời ca tiến

đến trước mặt Lý-mạc-Thu như một dòng nước cuộn.

Đến đây thằng bé ngồi dưới một gốc cây, nhìn con chim màu hồng đang hăng say tấn

công Lý-mạc-Thu. Còn Lý-mạc-Thu vừa đương đầu với con chim, vừa tính toán cách

nào để sẽ phải đối phó với đoàn rắn.

Bỗng như nàng sực nhớ điều gì, liếc nhìn thằng bé lẩm bẩm:

- Thằng bé này diện mạo khôi ngô, mày ngài mắt lớn, môi đỏ, trân tròn, phải chăng

nó là đệ tử của Âu-dương-Phong ở đất Tây-Vục hiệu là Tây-Độc.

Thật vậy, trong giới hảo hớn không ai là không biết! Âu dương Phong, một hiệp sĩ

Giang Nam nổi tiếng một thời, nay về già ẩn trú tại Tây-Vục, lấy thuật nuôi rắn bày

thế trận để tiêu khiển.

Lý-mạc-Thu kiểm điểm những biến cố trong ngày, cho rằng những việc xảy đến

không phải do sự tình cờ. Nhất-Đảng Đại-sư, Đào-hoa-đảo, Bạch-đa-sơn nhất định

không phải vô tình mà phái người đến gặp ta một lúc.

Nghĩ thế, Lý-mạc-Thu chưa vội kết thúc cuộc đấu chiến với con chim nhỏ màu hồng

đó. Nàng kéo dài cuộc chống đỡ để có đủ thì giờ quan sát địch thủ.

- Nầy em bé! Có phải em ở Bạch-đà-sơn chăng?

Đứa bé thấy Lý-mạc-Thu tỏ cử chỉ dịu dàng liền đứng dậy đáp:

Thưa, em họ Dương. Nhưng tại làm sao cô nương bảo em ở Bạch-dầu-sơn?

Thừa cơ hội Lý-mạc-Thu đang nói chuyện, con chim nhỏ đâm bổ vào đầu

Lý-mạc-Thu một đòn rất lợi hại. Nhưng cũng nhanh như chớp, Lý-mạc-Thu đưa bàn

tay trái lên chụp gọn con chim nhỏ vào lòng bàn tay.

Thằng bé sợ Lý-mạc-Thu bóp chết con chim la lớn:

- Cô nương đừng vội giết chết con chim hồng

Lý-mạc-Thu cười:

- A ra con chim nầy của em. Vậy ta trả cho em đây

Nàng trao con chim hồng cho thằng bé.

Bàn tay xinh xắn của Lý-mạc-Thu vừa mở, con chim hồng ngỡ rằng nó đã được tự do,

vội cất cánh bay bổng lên không trung.

Nhưng Lý-mạc-Thu tập trung nhân lực vào đôi mắt hướng về con chim hồng, và xoè

bàn tay ra, vận động mấy ngón tay, tức thì con chim hồng nhỏ kia cảm thấy như có

một sức mạnh đè nặng trên mình nó. Nó không thể tự do hành động theo ý muốn mà

phải lệ thuộc theo sự điều khiển của Lý-mạc-Thu từ dưới đất.

Đó là phép chưởng lực mà chỉ kẻ nào có võ thuật tuyệt luận mới có thể vận dụng nổi.

Chính vì cái tuyệt luận đó đã làm vang danh Xích-luyện thần chưởng trong khắp vũ

lâm bão hoa.

Bấy giờ Vũ tam nương ở trong động nhìn ra lo ngại vì thấy chồng nàng nằm sóng sượt

dưới đất.

Nàng nóng ruột muốn xông ra cứu trợ, nhưng đoàn rắn của thằng bé đã tràn đến nơi,

con nào cũng ngẩng cổ như muốn chực cắn người. Nàng gọi lớn:

Vũ quân! Vũ quân! Có bề chi chăng?

Vũ tam Thông nghe tiếng vợ kêu muốn gượng dậy nhưng không thể nào dậy nổi.

Quách-Phù không ngớt miệng kêu cặp chim ưng, nhưng chúng đã bay mất dạng tự lúc

nào.

Lý-mạc-Thu nghĩ thầm:

- Thế này thì quả nhiên vợ chồng Quách-Tỉnh và Âu dương Phong đã có mặt đâu đây.

Nhưng dẫu sao nhất định họ cũng không thể làm gì ta được.

Lý-mạc-Thu tin tởng ở mãnh lực tuyệt đối của Xích luyện thần chưởng, nên nàng

ngạo nghễ quay gót bước vào cửa động.

Thằng bé thấy thế gọi lại, bảo:

- Hãy đứng yên! Nếu cô nương tiến bước đàn rắn độc sẽ cắn ngay.

Lý-mạc-Thu thâu hồi con chim hồng vào tay trái, dùng tay mặt khoát mấy cái vào

không trung tức thì đàn rắn tán loạn bỏ hàng ngũ bò lảng ra tứ phía.

Lý-mạc-Thu tiến vào động Vũ tam nương liền xách kiếm ra cản lại. Lý-mạc-Thu

dùng phất trần quất mạnh vào thanh kiếm, lưỡi kiếm văng về phía Vũ-tam-Thông

chém sâu vào trán.

Lý-mạc-Thu dõng dạc bước vào động và thả con chim hồng ra. Lần nầy nàng để cho

nó được tự do, không dùng chưởng lực điều khiển nữa, vì nàng mắc bận tìm

Trình-Anh và Lục-vô-Song.

Khi đã thấy mặt hai đứa bé này, Lý-mạc-Thu xốc tới, hai tay cặp nách mỗi đứa bé

mỗi bên rồi uốn mình phi thân ra ngoài. Trình-Anh và Lục-vô-Song dãy dụa thế nào

cũng không nổi.

Bấy giờ thằng bé trông thấy vội nhảy theo ôm chầm lấy thân hình Lý-mạc-Thu kéo

lại.

Hai tay Lý-mạc-Thu bận kẹp hai đứa bé không còn cách nào đối phó với thằng bé nên

để mặc cho nó ôm sát vào thân.

Ngày nay, Lý-mạc-Thu không còn ở tuổi hoa niên, mặc dù nhan sắc bên ngoài vẫn

cha kém sút tí nào, Lúc nàng còn là một thiếu nữ, cái thời nàng dan díu với

Lục-triểu-Nguyên, tuy trong tình nồng thấm đượm, nàng vốn con nhà khuê các trâm

anh lại thêm thừa hưởng gia phong hiệp sĩ, do đó giữa đôi trai gái chưa bao giờ xảy ra

chuyện ong bớm mây mưa. Những lúc lửa tình bừng dậy, đôi bạn trẻ đều nhớ lời

giáo huấn của gia phong nên vẫn kiên nhẫn chờ ngày xe tơ kết tóc.

Nhưng rồi mối hận tình đột xuất, Lý-mạc-Thu những tưởng bao nhiêu mỹ tính của

mình đã bị tan theo mối tình hận ngàn đời. Mãi suốt bốn mươi năm phiêu lưu trên

bước giang hồ, ngày đêm nàng chỉ để tâm hờn oán, không bao giờ con tim bị lay

động.

Nàng có ngờ đâu, con tim cứng cỏi vì uất hận kia cũng có lúc nổi dậy trong khoảnh

khắc vì cảm xúc nhất thời.

Thật vậy, sự cọ xát với thằng bé chưa đến tuổi dậy thì, mà cả thân mình nàng cảm

thấy mềm nhũn. Thằng bé chỉ níu kéo, cốt để cứu thoát hai đứa bé, nó ngờ đâu sự

đụng chạm ấy làm cho Lý-mạc-Thu ngây ngất, toàn thân như bị một sức mạnh vô

hình làm tan biến.

Trước đây cũng đã có lần nhiều tay hiệp lữ giang hồ không cầm lòng được trước sắc

đạp kiều diễm của Xích-Luyện Tiên-tử nên cũng có nhiều kẻ buông lời lả lơi trêu

ghẹo, tỏ ý khêu gợi nhưng những lần ấy Lý-mạc-Thu không hề mảy may đồng tình

mà trái lại nàng đã đem con tim sắt đá nhử mấy gã si tình kia vào con đường chết. Họ

đều chết nhục nhã như mấy tên bảo tiêu.

Tuy nhiên, dẫu con tim Lý-mạc-Thu có thay đổi cũng chỉ phút chốc. Qua một phút

yếu mềm vì cảm giác, nàng tự chủ được ngay lòng tự ái của một Xích-Luyện Tiên-tử

lại nổi dậy xua đuổi cả lầm lỗi của xác thịt, Lý-mạc-Thu trở nên giận dữ thả

Trình-Anh và Lục-vô-Song xuống để đối phó với thằng bé lạ lùng kia. Nàng định ôm

thằng bé quật vào tảng đá cho nát thây, nhưng bỗng nghe tiếng kêu của nó:

- Cô nương! Xin cô nương nhẹ tay.

Tiếng nói của nó hình như có một cái gì nhẹ nhàng quyến rũ khiến Lý-mạc-Thu

không đủ can đảm hành động theo ý định.

Giữa lúc Lý-mạc-Thu đang bị dằng co hai mặt tâm thần, một đằng là thù hận, một

đằng là thiện cảm của ân tình thì bỗng đâu con chim hồng lợi dụng cơ hội ấy, nhanh

như chớp, bay sà xuống mổ vào con mắt của Lý-mạc-Thu.

Than ôi! Thế là nhan sắc kiều diễm của Lý-mạc-Thu đã bắt đầu huỷ hoại! Chỉ vì một

phút yếu mềm của tâm tình mà người mỹ nữ nổi tiếng ở đất Giang-nam đã trở thành

một mắt.

Một dòng máu đỏ loét từ từ chảy xuống trên gò má nõn nà của Lý-mạc-Thu. Nàng

đưa tay chùi vết máu với lòng căm hờn sâu thẳm. Nét mặt nàng trở nên đanh ác phi

thường. Tất cả đối thủ trước mắt, từ Vũ-tam-nơưng trong động, Vũ-tam-Thông dưới

đất, cho đến ba đứa bé thảy đều chờ đợi một cơn bão táp kinh khủng của

Lý-mạc-Thu.

Trước tiên, Lý-mạc-Thu quắc nhìn con chim hồng đang bay lượn trên không. Nàng

tập trung chưởng lục ngửa bàn tay dùng các ngón tay điều khiển. Con chim hồng đang

tung tăng bỗng rơi xuống nằm gọn trong bàn tay Lý-mạc-Thu.

Rồi năm ngón tay nàng bóp lại, thân hình của chim hồng nát bấy như tương, xương

thịt lông lá trộn lẫn.

Nàng chưa hả giận thì bỗng đâu cặp chim ưng lại cùng nhau bay đến, nhắm thẳng vào

đầu Lý-mạc-Thu đâm bổ vào.

Bấy giờ, Lý-mạc-Thu đã trở nên nhanh nhẹn như trước, tránh né mấy lần rồi tung tay

áo phóng vào hai con Thần ưng hai chiếc kim ngân châm. Nhưng lạ thay, kim vừa

phóng ra thì bỗng có một vật cứng ném từ đâu không rõ đánh loạt hai mũi kim rơi

xuống đất.

Lý-mạc-Thu ngạc nhiên nghĩ thầm:

"Quái lạ! Người ném dị vật vào kim châm tất có một sức mạnh phi thường và một tài

năng tuyệt thế mới có thể hạ nổi bửu bối lợi hại nầy."

Đây là lần đầu tiên mà bí quyết gia truyền của môn phái Xích-luyện bị chạm phải một

đối thủ cừ khôi.

Lý-mạc-Thu quyết định nên tạm rút lui khỏi vòng chiến, và trước khi rút lui ít ra nàng

cũng phải thanh toán hai đứa bé Trình-Anh và Lục-vô-Song để kết thúc chương trình

rửa hận đối với gia đình họ Lục.

Nàng nhảy chồm tới, nắm vào lưng Trình-Anh. Nhưng khi bàn tay nàng sắp bóp cổ

con bé thì nàng chợt thấy vuông lụa có thêu hoa hồng, mảnh lụa chính tay nàng đã

tặng cho Lục-triển Nguyên để kỷ niệm mối tình đầu.

Một lần nữa, con tim của Lý-mạc-Thu trở nên mềm yếu. Bao nhiêu tình cảm của thời

hoa niên nổi dậy làm cho tâm hồn nàng ngây ngất, tay nàng không thể hạ thủ nổi

Trình-Anh.

Nàng suy nghĩ:

Thì ra Lục-triển-Nguyên không bao giờ quên ta!

Không kết liễu được sinh mệnh Trình-Anh. Lý-mạc-Thu quay sang Lục-vô-Song và

cũng nắm cổ Lục-vô-Song toan bóp chết. Nhưng nàng cũng lại chợt thấy vuông lụa có

thêu hoa hồng đeo ở cổ con bé. Nàng dừng tay thốt lên một tiếng lạ lùng!

- ủa! Ta chỉ tặng Lục-triển-Nguyên có một vuông lụa, cớ sao nay lại có đến hai. Như

vậy một thật một giả chăng?

Nghĩ thế, Lý-mạc-Thu còn trù trừ chưa quyết. Nàng buông tay xô Lục-vô-Song ngã về

một bên.

Bỗng nghe sau lưng nàng có hơi gió động, nàng đoán biết có chuyện chẳng lành, vội

quay chiếc phất trần ra đón đỡ.

Quả nhiên, có một viên đá từ đâu ném đến, chạm phải cây phất trần rơi xuống.

Lý-mạc-Thu cảm thấy nguy cơ dồn dập, nếu còn ở lại tất khó nổi thoát thân với người

ném đá bí mật nầy. Nàng kẹp Lục-vô-Song vào nách, phi thân biến mất về phía chân

trời.

Trình-Anh thấy Lục-vô-Song bị bắt đem đi, liền cắm cổ chạy theo và la lớn:

- Biểu muội! Biểu muội ôi!

Nhưng Trình-Anh làm sao theo kịp con ác tặc đã đụng lối kinh công thần tốc?

Mặc dầu thế, Trình-Anh vốn có tánh kiên nghị, không bao giờ chịu bỏ dở một ý định

nên vẫn tiếp tục đuổi theo. Cô bé vừa kêu, vừa chạy mãi.

Cho đến mấy dặm đường, Trình-Anh gặp một con suối chảy ngang không thể nào qua

được mới dừng chân lại, lòng ray rứt đau đớn vô cùng.

Nhưng chỉ chốc lát Trình-Anh lại thấy bóng dáng của đạo cô hiệp đến.

Thì ra đó là Lý-mạc-Thu, nhưng bên nách không còn thấy Lục-vô-Song đâu nữa.

Trình-Anh thấy Lý-mạc-Thu trở lại, khiếp sợ, nhưng tình thơng em làm cô ta liều

lĩnh, gào thét:

- Đạo cô! Hãy trả Lục-tiểu-muội cho tôi! Đạo cô giấu Lục tiểu muội nơi đâu?

Lý-mạc-Thu nhìn thẳng vào mặt Trình-Anh thấy phảng phất hình ảnh của tình địch

mình thuở trước, bao nhiêu hờn oán dồn lên tận nét mặt, nàng hầm hầm rút phất trần

tung mạnh vào Trình-Anh. Nhưng lạ thay, chiếc phất trần của nàng bị tung ngược trở

lại như vướng phải một cản trở bất ngờ.

Và, đạo cô cảm thấy cả thân mình cũng bị tung lên cao đến mấy trượng rồi rơi xuống.

Biết gặp phải địch thủ nguy hiểm. Lý-mạc-Thu múa tít chiếc phất trần quanh người để

đề phòng sự công kích bất thình lình.

Bỗng Lý-mạc-Thu thấy bên cạnh Trình-Anh xuất hiện một quái nhân, mặc chiếc

thanh bào, sắc diện lạ lùng không giống người chết mà cũng không giống người sống.

Lý-mạc-Thu đoán biết tài nghệ của người nầy tất phải cao hơn mình. Nhưng tại sao

trong giới võ lâm một tài nghệ như thế mà nàng chưa bao giờ nghe ai nói đến.

Nàng vừa định lên tiếng hỏi, thì quái nhân đã nói với Trình-Anh:

- Cháu ơi! con nữ tặc đó là loài hung ác. Cháu để ta trừ nó đi nhé!

Trình-Anh cản lại, nói:

- Không, không! Cháu sợ lắm! Cháu sợ lắm!

Quái nhân nói:

- Cháu đừng sợ! cháu chỉ cần ừ một tiếng là ta ra tay ngay. Hay là ta để cho cháu

đánh nó cũng được.

Trình-Anh một mực sợ sệt, nói:

- Không không! Cháu không dám.

Vị quái nhân rút trong túi áo một hòn sạn nhỏ ném nhẹ vào phía Lý-mạc-Thu. Hòn

sạn trúng đâu không rõ nhưng Lý-mạc-Thu dừng ngay chiếc phất trần không múa

máy được nữa. Nàng đứng trân trân như một pho tượng.

Quái nhân dắt tay Trình-Anh từ từ tiến sát, khoá tay Lý-mạc-Thu lại, và lấy tay

Trình-Anh đánh mạnh vào đầu vào lưng của con nữ tặc.

Ban đầu Trình-Anh còn rụt rè, e sợ, nhưng thấy đánh mãi mà Lý-mạc-Thu vẫn không

hành động gì được nên cô ta mới an lòng. Trình-Anh nghĩ đến những hình ảnh của

những người thân yêu ở Lục gia trang đã chết vì tay con nữ tặc nên không còn cầm

được lòng căm tức. Cô ta thoi mạnh vào đầu Lý-mạc-Thu mấy cái cho hả dạ.

Lý-mạc-Thu vẫn cầm chiếc phất trần trong tay mà đứng yên để mặc cho Trình-Anh

đánh.

Nỗi nhục nhã tràn trề. Qua một lúc, Lý-mạc-Thu hét lên một tiếng, tung bửu bối ném

về phía quái nhân. Mười chiếc kim châm bất thần phóng ra một lượt, nhưng đều bị

quái nhân tung sạn ném rơi xuống đất. Duy chỉ còn hai chiếc kim châm đâm trúng

vào bụng Trình-Anh.

Thì ra đó là độc kế của Lý-mạc-Thu. Tám chiếc kim nàng phóng về quái nhân chỉ cốt

"dương đông kích tây" giữ tay quái nhân để cho hai chiếc kim độc kia kết liễu sinh

mệnh của Trình-Anh.

Thi hành xong độc thủ, Lý-mạc-Thu phi thân biến mất, lòng vẫn thắc mắc không rõ

quái nhân đó là ai mà dám trêu Xích-luyện Tiên tử nhục nhã đến thế.

Quái nhân áo xanh thấy Trình-Anh biến sắc, biết cô ta trúng phải kim độc liền cấp tốc

kẹp Trình-Anh vào nách rồi phi thân biến về hướng Tây.

Đứa bé lạc loài

Nhắc lại Kha-trấn-ác thấy Lý-mạc-Thu đến cũng đột ngột mà đi cũng đột ngột, rồi hai

đứa bé Trình-Anh, Lục-vô-Song bị mất dạng, lòng áy náy không an, ngồi thừ ra suy

tính.

Thằng bé có chim hồng thấy thế dõng dạc nói:

- Thôi! Ông đừng phiền muộn! Để cháu đi cứu hai em về.

Dứt lời, hắn nhắm phía Lý-mạc-Thu bỏ đi ban nãy đuổi theo.

Chẳng mấy lúc, nó lạc mất phương hướng, bốn bề mênh mông trời đất. Không biết

đâu là đâu nữa cả. Nó cắm cổ chạy một hơi lâu thì may thay nó nghe được tiếng gọi

của Trình-Anh.

- Biểu muội ơi! Biểu muội ơi!

Nhưng nó có cảm giác tiếng gọi càng tắt dần. Ngơ ngẩn, nó tìm một nơi cao nhất,

nhìn quanh tứ phía, nhưng không thấy một bóng dáng ai.

Đang lửng lơ trên đường, bỗng mắt nó thấy một vật sáng chói lấp lánh trên cỏ xanh,

ngay ở gần chân nó.

Nó cúi xuống xem, đó là mười chiếc kim châm dài độ năm phân, chiếc nào cũng có

chạm hoa rất đẹp.

Nó lượm một chiếc cầm nơi tay ngắm nghía. Bỗng nó thấy một con cóc từ đâu nhảy

đến chạm vào một chiếc kim khác rồi lăn ra chết tức thì.

Thấy là lạ, thằng bé tỏ ra khoái chí, nó ngồi chồm hỗm xuống cúi đầu xem, nào kiến,

nào đế, nào ong thay phiên động vào các chiếc kim rồi lăn ra chết.

Xem một hồi, nó đứng dậy bước đi trong tay vẫn giữ chiếc kim đã lượm. Nó suy nghĩ

về đặc tính lạ lùng của chiếc kim thấy một đàn kiến, nó liền lấy kim thử lại, quả nhiên

mỗi lần chiếc kim đến đâu là đàn kiến lăn ra chết như rạ. Thử vào các loại côn trùng

thì thứ nào gặp kim cũng đều ngã ra chết như nhau.

Nó nhảy nhót mừng thầm, tưởng bắt được bửu bối có thể đem về giúp nông dân bảo

vệ mùa màng.

Nhung nhìn lại, nó bỗng thấy tay nó tím bầm, và những ngón tay nó bắt đầu thấy tê

cóng.

Biến sắc, nó thở dài vứt cây kim xuống đất hét lớn:

- Thôi chết rồi! Ta đã nắm phải chiếc kim có chất độc! biết làm sao bây giờ.

Tay nó cứ mỗi lúc lại đen thâm hơn và tê buốt nhiều hơn. Nó khóc thét lên, lấy tay

mài vào cây, vào cỏ, nhưng càng cọ xát thì bàn tay càng đen thâm rất chóng.

Vốn đã sống với rắn độc từ nhỏ, thằng bé hiểu ngay chất độc này có thể dày vò cơ

thể, nó hoảng sợ khóc rống lên thảm thiết.

Bỗng đằng sau lưng nó có tiếng người. Một giọng khàn khàn như phái xuất từ dưới

mặt đất đưa lên. Nó ngoái cổ nhìn lại thì thấy một ông lão! Vâng, đúng là một ông

lão, nhưng lại "đứng" chổng ngược đầu xuống đất hai chân thẳng lên trời.

Thằng bé hoảng sợ, quên mất tai nạn của mình hiện tại, trố mắt nhìn, rồi hỏi:

- Thưa ông! Ông là ai? Tại sao ông không đứng bằng hai chân, lại đứng bằng cái đầu?

Ông lão không nói, nhào lộn mấy vòng rồi vẫn đứng bằng lối chổng đầu xuống đất.

Thằng bé hoảng sợ định bỏ chạy, nhưng với tánh tò mò, nó muốn hiểu ông lão ngược

đời đó là ai nên đánh bạo hỏi:

- Thưa ông, ông là ai?

Ông lão nói:

- Ta là ai? Nếu ta biết là ai thì còn nói gì nữa?

Nghe thế, thằng bé kinh hồn đâm đầu chạy. Nhưng có chạy đến đâu cũng thấy ông

lão ngược đời đó chổng cẳng trước mặt.

Mệt quá! Cuối cùng thằng bé nằm dài úp bụng xuống đất.

Bấy giờ, ông lão mới từ từ nói:

- Con chạy đi đâu cũng vô ích, chất độc đang ngấm vào người con rất gấp.

Đến đấy thằng bé mới nhớ lại nỗi nguy hiểm của mình, nó khóc lên, nói:

- Ông ơi! Ông cứu con với!

Ông lão lắc đầu! Mỗi lần ông ta lắc đầu là toàn thân rung chuyển vì ông ta dùng đầu

làm chân.

Lão nói:

- Khó cứu lắm con ơi! Khó cứu lắm!

Thằng bé chăm chú nhìn ông lão rồi nói:

- Không! Ông có thừa bản lãnh để cứu con! Xin ông thương giùm tánh mạng! Ông

cứu con với!

Giọng nói thiết tha của thằng bé có cái gì dễ mến, ông lão hỏi lại:

- Sao con biết ta có thể cứu con?

Thằng bé nghe ông lão nói biết chừng ông lão đã xiêu lòng nó liền tấn công theo cái

lối "đả xà tuỳ côn" mà nó thường áp dụng để bắt rắn.

- Ông ơi! Con biết chứ! Vì nếu ông lộn ngược lại, đứng bằng chân như mọi người thì

chắc trên trần thế này không ai bằng ông được.

Ông lão cười lớn, bảo đứa bé:

- Này, con hãy lộn ngược lại cho ta xem mặt thử nào.

Thằng bé ngoan ngoãn vâng lời chống hai tay, lộn xuống đất đưa hai chân lên trời như

ông lão.

Ông lão lần đến nhìn tận mặt thằng bé, thấy thằng bé mặt khôi ngô sáng sủa, mày rô

miệng rộng trán cao, xem rất thông minh tuấn tú. Ông lão lẩm bẩm gì không nghe

được, nhưng nét mặt ông ta dần dần như suy nghĩ điều gì.

Thằng bé ngay mà lo sợ ông ta đổi ý kiến, không chịu giải cứu cho nó thì tánh mạng

nó tiêu ma. Nó liền lấy giọng thảm thiết van lơn:

- Ông ơi! Ông thương tình cứu lấy con.

Ông lão mỉm cười;

- Thôi được! Cứu con thực ra chẳng khó khăn gì. Nhưng cốt yếu con phải chịu điều

kiện này mới được.

Thằng bé hỏi:

Ông muốn gì con cũng xin chịu.

Ông lão nói:

- Ông chỉ muốn có điều là ông bảo gì con cũng phải nghe theo.

Thằng bé có ý nghi hoặc, hỏi:

- Sao? Ông bảo gì con cũng nghe ? Thế ông bảo con làm điều trái với danh dự, với

luân thường con cũng phải làm?

Thấy thằng bé do dự, ông lão tỏ ý giận nói:

- Nếu không nghe thì mày chết mặc mày. Ta đi đây.

Nói xong ông lão dùng tay và đầu chạy như bay.

Thằng bé hoảng hốt chạy theo níu lại khẩn khoản:

- Thưa ông đừng vội giận! con hứa sẽ làm theo ý muốn của ông bất cứ việc gì.

Ông lão dừng lại nói:

- ừ! Có thế chứ! Nhưng con phải lấy danh dự thề mới được.

Thằng bé ranh mãnh thưa:

- Vâng, con thề rằng nếu ông cứu con khỏi nhiễm độc ông bảo gì con cũng nghe. Nếu

con bội ước con sẽ chết vì chất độc.

Thề như thế thằng bé nghĩ cũng chẳng làm sao. Nếu lão đã cứu khỏi nhiễm độc rồi thì

làm sao chất độc nhiễm lại mà chết đi được.

Ông lão nhìn nó một lúc rồi lấy tay nắm vào vai nó quay đi quay lại vài lần bỗng

nhiên tay nó có cảm giác bớt tê.

Tiếp đó, ông lão lại nói tiếp:

- Con ôi! Con dễ mến quá!

Thằng bé muốn cho ông lão chữa mau khỏi nên thúc giục:

- Ông ôi! Ông hãy quay mạnh vai của con đi ông.

Ông lão dịu dàng bảo:

- Con ôi! Con hãy gọi ta bằng cha!

Thằng bé phụng phịu, nói:

- Không được! Cha con đã chết rồi làm sao con còn gọi ông bằng cha!

Ông lão nhíu mày, nói:

- à, thế ra ông mới bảo một lần đầu mà con không nghe theo. Con đã quên lời thề rồi

sao?

Thằng bé nghĩ thầm:

- Lão bắt mình gọi lão bằng cha có lẽ lão muốn tìm con nuôi.

Thật ra, thằng bé mồ côi cha từ thuở nhỏ, lòng nó đang khát vọng mối nuông chiều

trong tình cha con. Nó muốn được có cha như mọi đứa trẻ diễm phúc khác. Tuy nhiên

đối với ông lão nầy điên không ra điên, tỉnh không ra tỉnh, thật nó khó lòng nhận làm

nghĩa phụ.

Thấy nó do dự, ông lão nói:

- Được! Nếu con không gọi ta là cha thì có đứa bé khác sẽ gọi. Không thiếu gì đứa

muốn gọi ta bằng cha nhưng ta đâu có bằng lòng.

Đoạn ông lão thốt ra một tràng tiếng lạ lùng chẳng hiểu ý nghĩa ra làm sao cả.

Thằng bé lại sợ ông lão giận bỏ đi nên nó vồn vã:

- Thưa cha! Bấy giờ cha định đi đâu?

Nét hân hoan lộ trên nét mặt nhăn nheo của lão khi nghe đứa bé gọi mình bằng cha,

lão đáp:

- Con cưng của cha! Cha phải dạy con phương pháp trừ độc mới được.

Rồi lão kéo thằng bé vào lòng nói tiếp:

- Con đã trúng phải chất độc trong kim băng phách của Lý-mạc-Thu. Trong thiên hạ

chỉ có hai người trị được độc tinh nầy. Một là vị Hoà thương nhưng vị này cũng phải

hàng chục năm công phu mới chữa nổi, còn hai là cha của con.

Thằng bé hốt hoảng nói:

- Thế thì cha của con nay đã chết rồi biết làm sao?

Ông lão cười xoà, nói:

- Thế con không phải là con của lão ? Từ nay cha đi đâu con phải theo đó nhé.

Giữa lúc đó trên nền trời bỗng xuất hiện hai bóng chim ưng. Hai con chim quần một

hồi rồi từ từ hạ xuống, xa xa có tiếng huýt gió vọng lại, âm thanh trầm bổng như tiếng

tiên.

Ông lão giật mình kinh ngạc nói:

- Chính nó rồi! Ta không thể gặp nó được! Không thể nào gặp nó được!

Dứt lời, lão đăng thân trốn mất để thằng bé lại vừa ngẩn ngơ vừa lo sợ.

Nó kêu thất thanh:

- Cha! Cha ơi!

Bỗng nghe tiếng gió xao động sau lng, nó quay lại thì không phải ông lão mà là đôi

hiệp sĩ một trai một gái vừa phi thân đến và dừng chân dưới một gốc cây. Nam hiệp sĩ

tuổi khoảng ba mươi lăm, thân hình vạm vỡ, mày rậm, mắt to, dáng người khoáng đại.

Còn nữ hiệp sĩ tuổi độ ba mươi, tuy không còn độ thanh xuân, song nhan sắc hoa hờn

nguyệt thẹn.

Hai con chim ưng theo tiếng huýt gió là đà bay quanh đôi hiệp sĩ, và cuối cùng mỗi

con đậu vào vai mỗi người rít lên những tiếng kêu, thé thé như muốn kể lại một việc

gì.

Nữ hiệp sĩ dịu dàng đưa tay vỗ vào cánh chim ưng, trỏ tay về phía thằng bé nói với

người bạn đồng hành:

- Này anh! Anh xem người thiếu niên kia giống ai?

Nam hiệp sĩ không đáp, hỏi:

- Vì sao cặp thần ưng lại đến đây? Chẳng biết ở đảo có việc gì xảy ra chăng?

Hai vị hiệp sĩ nầy chính là Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung. Hai vợ chồng đang đi kiếm

Hoàng-dược-Sư. Họ đi lùng khắp các quận huyện ở Giang-Nam, nhưng đến đâu

Hoàng-công cũng biệt vô âm tín. Hoàng-Dung vốn biết thân phụ mến cảnh

Giang-nam, nên từ Đại-giang ở miền Bắc lần thẳng đến Tiên-Hà ở miền Nam và

không một nơi nào nổi danh thắng cảnh mà vợ chồng nàng không đặt chân tới để tìm

kiếm.

Hôm ấy, nhân đến trấn Lăng-Hồ, phủ Hồ-Châu thì vừa thấy khói lửa ùn ùn nổi lên,

dân trong trấn dắt nhau chạy đi cầu cứu, hỏi ra mới biết Lục gia trang đang bị hoả

hoạn.

Quách-Tỉnh đoán chắc đây là trang thất của Lục-triển-Nguyên, vị lão anh hùng ở trấn

Lăng-Hồ mà trước đây tuy chưa quen biết, Quách-Tỉnh từng nghe danh và hâm mộ.

Hai vợ chồng vụt chạy đến thì quả nhiên lửa đã tàn phá hết trang trại. Từ trong đống

lửa toả ra mùi hôi khó chịu của thây ma người và vật bay khét lẹt.

Hoàng-Dung nhìn phong cảnh tiêu điều nói:

- Anh Quách-Tỉnh! Em nghi trong đám cháy này có điều quái lạ. Lục-triển-Nguyên là

một vị lão anh hùng khét tiếng ở trấn này, còn Lục phu nhân cũng là tay nghĩa hiệp

vậy thì vì sao trong đám cháy tầm thường vợ chồng không thoát thân được, và toàn thể

gia nhân lại phải chết trong đống lửa. Nhất định phải có một bàn tay oán cừu nào

hành động.

Quách-Tỉnh tuy đã trung niên, song máu nghĩa hiệp còn hăng, nhất là việc phó nguy

cứu khổn thì lại càng không thể bỏ qua được, liền nói:

- Em nói đúng đấy! Chúng ta phải tìm cho ra tên thủ phạm mà cật vấn cho biết rõ

nguyên do.

Đôi vợ chồng lùng quanh trang trại nhưng chẳng thấy dấu vết nào của hung thủ. Lúc

trở về đến một bức tượng sắp đổ, Hoàng-Dung chỉ tay la lớn:

- Anh ơi! Hãy xem cái gì lạ kìa!

Quách-Tỉnh nhìn theo tay trỏ của Hoàng-Dung thì thấy trên bức tường có dấu năm

bàn tay ấn vào.

Bức tường đó trước kia Lý-mạc-Thu đã ấn đến chín bàn tay nhưng vì sụp đổ mất hết

bốn dấu, chỉ còn có năm dấu mà thôi.

Quách-Tỉnh kinh ngạc buột mồm la lên:

- Xích luyện Tiên tử!

Hoàng-Dung tiếp:

- Đúng nó rồi! Chính là con ác tặc Lý-mạc-Thu tài nghệ phi thường nhưng cũng độc

ác phi thường chẳng kém gì Tây độc Âu dương Phong. Nó đã đến đất Giang-nam nầy

rồi thì nhất định chúng ta cùng nó có dịp so tài.

Quách-Tỉnh nói:

- Con yêu nữ nầy không dễ gì đánh hạ nó mau đâu. Tốt hơn chúng ta lo đi tìm nhạc

phu trước đã.

Hoàng Dung cười chế diễu:

- Thì ra người ta tuổi càng cao thì gan lại càng nhỏ ?

Quách-Tỉnh điềm đạm nói:

- Lời em nói quả không sai! Anh còn nhớ lúc chúng mình độ tuổi thanh xuân nào có

biết gì trời cao đất rộng, cứ hăm hở băng mình đến núi Hoa-sơn để tranh đoạt cái

danh hiệu hão huyền "đệ nhất vũ công". Với cái tuổi này, dẫu có ai đem võng giá đến

rước cũng chẳng thèm đi.

Hoàng-Dung cười xoà, nói:

- Chà! Quí hoá quá! Đến như đem kiệu rước cũng chẳng đi?

Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ nhưng mắt luôn luôn để ý đến mọi khác lạ

chung quanh.

Bỗng nhiên khi họ bước đến bên hồ vọng nguyệt trông thấy một vết sáng nhấp nhánh.

Thì ra đó là hai chiếc kim châm, một chiếc rơi ngoài đất, một chiếc chìm dưới nước,

cá trong hồ chết nổi lình bình.

Hoàng-Dung liền rút một chiếc khăn túi làm bao tay, nhặt chiếc kim châm lên, cẩn

thận bọc lại và cho vào túi áo.

Hai người tiếp tục cuộc tìm kiếm hướng về phía khu rừng, mỗi người trong óc đang

đuổi theo một ý nghĩ không ai nói với ai câu nào nữa, cho đến lúc họ gặp lại đôi thần

ưng và đứa bé nói trên.

Thấy Quách-Tỉnh đã không trả lời câu hỏi về thằng bé, lại còn lo lắng có việc gì xảy

ra ở đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung tiếc đã không đem Quách-Phù theo cho được yên

tâm, nàng nói:

- Nếu biết mình nhớ con thế nầy trước kia thà đem Quách-Phù theo còn hơn.

Bỗng có một mùi hôi tanh khó chịu phát ra bên cạnh. Hai người tìm tòi khắp nơi

nhưng không thấy mà mùi hôi tanh cứ phảng phất như gần lắm.

Qua một lúc, Quách-Tỉnh mới tìm ra nơi chân đôi chim ưng bị một vết thương lở loét.

Quan sát kỹ thì thấy vết thương khác thường, thịt nơi vết thương đen và thâm tím,

nhưng đôi chim không tỏ vẻ đau đớn gì.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ nói:

- Vết thương gì thế nầy? Vì sao cả đôi chim ưng cùng bị. Chúng là Thần ưng làm sao

có thể đả thương dễ dàng đến thế?

Nhìn lại thằng bé, Quách-Tỉnh chợt thấy nơi tay nó cũng đen thâm.

Chàng buột miệng nói:

- Người thiếu niên kia cũng trúng phải cùng một độc thủ chăng?

Hoàng-Dung liền chạy đến, vén tay áo đứa bé lên, lấy dao rạch vết thương và vuốt cho

maú độc chảy ra. Nhưng lạ lùng làm sao, máu nó vẫn đỏ tươi, lại phảng phất một mùi

thơm phưng phức khiến cho vợ chồng Quách-Tỉnh có cảm giác như hơng thơm của

đêm tân hôn tự thuở nào.

Hoàng-Dung ngơ ngẩn nói:

- Tại sao nó trúng độc mà lại không nhiễm độc?

Lạ lùng thật? Nhưng nàng đâu có biết hắn vừa được dưỡng phụ của hắn cứu chữa.

Hoàng-Dung trầm ngâm suy nghĩ rồi cũng lấy ra một viên thuốc đưa cho thằng bé.

Nó bỏ vào mồm nuốt nghe mát dịu.

Hai con chim ưng cũng được Hoàng-Dung nhét thuốc vào mỏ mỗi con hai viên giống

như thứ thuốc mà thằng bé đã uống.

Thời khắc trôi trong lặng lẽ, ray rứt. Bỗng Quách-Tỉnh đưa tay lên mồm hú lên một

tiếng kinh hồn, khiến cho thằng bé hồn phi phách lạc. Tiếng hú trầm bổng khi lên khi

xuống, lúc khoan thai lúc nhặt nghe như nhịp tiếng của thiên binh vạn mã. Tiếng hú

làm xao động cả rừng cây, chim chóc đang đùa hót đều phải im tiếng, có con quá

khiếp sợ sà xuống đất như một chiếc lá rơi. Tiếng hú ước chừng dội ra xa đến hàng

chục dặm đường.

Hoàng-Dung hiểu ngay đó là tiếng tuyên chiến của Quách-Tỉnh nhắn gởi

Lý-mạc-Thu, bèn đưa tay lên hú theo. Hai tiếng hú quyện nhau, một tiếng trầm trầm

hùng dũng, một tiếng thánh thót như chuông ngân tự hồ đôi chim bằng đang thênh

thang giữa không trung.

Tất cả dân cư trong vùng đều nghe rõ tiếng hú ấy, người nào cũng ngẩng đầu nghe

ngóng tìm hiểu, nhưng dù không tìm ra lời giải thích họ cũng dự đoán có sự khiêu

khích binh đao.

Ông lão già đi ngược đầu nghe tiếng hú lại càng phi thân hơn nữa.

Còn người đạo sĩ áo xanh đang ẵm Trình-Anh nghe tiếng hú liền cười bảo:

- Thế là họ đã đến! Bà con ta cần nên tránh xa.

Lý-mạc-Thu đang cặp nách Lục-vô-Song phi thân về nơi ẩn trú, nghe tiếng hú liền

dừng chân, rút chiếc phất trần ra nghĩ thầm:

- Nghe Quách-Tỉnh là tay anh hùng nghĩa hiệp nổi tiếng trong giới giang hồ hảo hớn,

ta thử đến gặp xem có đúng với lời đồn chăng?

Nhưng rồi nàng lại nghe tiếng hú trong trẻo của Hoàng-Dung. Nàng có cảm giác như

mình bị cô độc trước sự gắn bó của đôi hiệp khách kia, nàng bỏ ý định chưa vội tìm

Quách Tỉnh. Nàng thong thả ôm Lục-vô-Song bỏ đi, trong lòng lo lắng trăm bề.

Lại nhắc đến Vũ-tam-nương sau khi Lý-mạc-Thu biến dạng liền bước tới đỡ chồng

dậy và cùng hai con từ biệt Kha-trấn-ác.

Còn Kha-trấn-ác sau khi bị thất thủ trước Xích-Luyện Tiên-tử, sợ con nữ tặc đến nữa,

ông ta liền dẫn cô bé Quách-Phù đi nơi khác.

Vừa đi được một đoạn đường nghe tiếng hú, Kha-trấn-ác biết vợ chồng Quách-Tỉnh

đến nơi đây liền hướng về phía có tiếng hú ấy.

Quách-Phù nhảy nhót mừng rỡ sắp gặp mặt song thân.

Nhưng khi gần đến nơi, con bé bỗng thừ ra suy tính:

-Ông ơi! Mình tự nhiên bỏ đảo ra đi, nay gặp song thân cháu thế nào cũng bị song

thân con rầy la! Vậy ông nhận giùm rằng ông đưa con đi tìm ông ngoại nhé!

Kha-trấn-ác quắc mắt, nói:

-Con thật quá quắt! Đòi bỏ đảo ra đi bây giờ lại bắt ông nhận lấy lỗi ấy. Lần nầy ông

không nghe theo lời con đâu.

Con bé ranh mãnh níu áo ông lão làm ra bộ hối hận nói:

-Nếu ông không nhận giùm lỗi của cháu, cháu quyết bỏ đi nơi khác không bao giờ

dám gặp song thân.

Kha-trấn-ác biết rõ tánh bướng bỉnh của Quách-Phù sợ nó bỏ đi thật nên lưỡng lự.

Quách-Phù liền chạy núp sau một gốc cây đứng yên. Kha-trấn-ác vì loà mắt không

trông thấy nó vội gọi lớn.

Phù-nhi! Phù-nhi! Hãy trở lại đây! Ông bằng lòng nhận lấy lỗi ấy.

Con bé nhảy ra cười khì, nói:

-Con biết mà! Thế nào ông cũng chịu nhận. Ông cưng con lắm phải không ông? Con

biết ông không nỡ để song thân con quở mắng.

Thế rồi một già một trẻ, tay dắt tay vui vẻ tiến về phía vợ chồng Quách-Tỉnh.

Gia đình gặp nhau mừng rỡ.

Quách-Phù ôm chầm lấy mẹ và nói:

-Ông nhất định dắt con đi tìm cha mẹ và ông ngoại, mẹ có giận chăng?

Hoàng-Dung vốn biết tánh nết của con nên cũng gật đầu tỏ vẻ hân hoan rồi cùng

Quách-Tỉnh đến thỉnh an Kha-trấn-ác.

Quách-Phù lại thấy cha mình trầm lặng không nói đến mình sợ cha quở mắng, liền

kiếm cớ dắt thằng bé đến gần lùm cây, bảo:

- Nầy! Chúng ta cùng đi hái hoa chơi. Anh hái hoa kết vòng cho em mang nhé!

Thằng bé ngoan ngoãn bước theo! Quách-Phù thấy bàn tay đứa bé có một vết bầm,

máu chảy ri rỉ, liền đứng đằng xa, và nói:

- Tay anh sao mà giống tay người sắp chết thế. Em không thèm chơi với anh đâu.

Dứt lời, Quách-Phù bỏ chàng thiếu niên đi chơi chỗ khác.

Thấy hai đứa bé mỗi đứa đi một đường, Quách-Tỉnh ngỡ thằng bé không muốn chơi

với con mình, liền nói:

- Kìa em bé! Vết thương của em chưa khỏi đâu. Hãy ở lại đây chớ vội đi mà nguy

hiểm.

Thằng bé vừa bị lời nói kiêu căng của Quách-Phù, lòng tự ái bị chạm nét mặt dàu dàu,

chẳng còn kể đến ai nữa, cứ tiếp tục lủi thủi ra đi.

Quách-Tỉnh vốn sẵn có cảm tình với thằng bé, vội chạy đến nắm tay nó hỏi:

- Vì sao em bị thương như thế?

Thằng bé bực mình trả lời cộc lốc:

- Can dự gì đến ai mà hỏi.

Rồi nó dằng tay ra, tung chân bước tới.

Quách-Tỉnh thấy mặt mày thằng bé phảng phất giống một người cố tri, liền theo hỏi:

- Này em! Em tên họ là gì?

Thằng bé nghĩ thầm:

"Đã muốn hỏi tên, ta cho một tên giả xem sao". Hắn nói:

- Tôi dòng họ Tần, tên là Tác-Xà.

Lời nói ấy làm cho Quách-Tỉnh thất vọng, nhưng chưa thôi, Quách-Tỉnh còn muốn

hỏi nữa, nhưng thằng bé cứ vùng vằng mãi không chịu đáp lời.

Đằng kia, mẹ con Hoàng-Dung đang tâm sự với nhau. Quách-Phù kể cho mẹ nghe

những biến cố vừa xảy ra từ chuyện gia đình họ Lục đến chuyện đôi chim ưng rồi đến

chuyện con chim hồng mổ vào mắt Lý-mạc-Thu.

Hoàng-Dung nghe đến đó liền hỏi:

- Thế con chim hồng đó có phải đến cùng một lúc với người thiếu niên này chăng?

Quách-Phù gật đầu.

Hoàng-Dung liền dắt con chạy đến bên Quách-Tỉnh và thằng bé, nói:

- Phải em họ Dương tên Qua chăng. Mẹ em là dòng dõi họ Tần phải không?

Chính người thiếu niên đó là Dương-Qua. Khi thấy mình lộ tông tích, Dương-Qua nổi

giận hầm hầm, chất độc trong người thừa cơ hội ngấm vào rất mau làm cho choáng

váng rồi ngã xuống đất bất tỉnh.

Hốt hoảng, Hoàng-Dung đỡ nó dậy, lay mấy lần và điểm luôn mấy huyệt hồi sinh,

nhưng nó vẫn chưa tỉnh. Đôi mắt nó thiêm thiếp, hơi thở thoi thóp trông rất yếu ớt.

Quách-Tỉnh ra dáng suy nghĩ vừa lo mừng. Chàng nói:

- Thôi đúng rồi! Nó là con của Dương-Khang.

Hoàng-Dung thấy tình trạng của Dương-Qua tối nguy ngập, nhiễm độc trầm trọng

không biết cách nào để chữa được giữa nơi hoang vắng, liền tỏ ý kiến:

- Chúng ta phải mau mau mang nó về khách điếm rồi ra phố bổ thuốc mới mong điều

trị.

Quách-Tỉnh theo lời cõng Dương-Qua. Còn mọi ngưbời cũng nhanh chân theo sau

hướng về phía thị trấn.

Đến khách điếm họ đặt Dương-Qua vào phòng an nghỉ rồi lo đi tìm dược liệu;

Hoàng-Dung bươn bả chạy ra phố, nhưng rủi thay phố xá ở đây nhỏ bé, mười vị thuốc

trong toa chỉ tìm được năm vị còn biết làm sao!

Quách-Tỉnh buồn bã vô hạn, bảo vợ:

- Hay là chúng ta đi vào rừng tìm thuốc?

Thấy vẻ băn khoăn của Quách-Tỉnh, Hoàng-Dung rõ tâm trạng của chồng từ khi

Dương-Khang mất, không lúc nào Quách-Tỉnh khuây tình thương nhớ. May gặp được

con của người xưa, những tưởng ít ra cũng được khuây khỏa đôi phần, ngờ đâu

Dương-Qua lại ở vào tình trạng hiểm nghèo ấy.

Tuy không tin tưởng trong rừng có thể tìm được thuốc giải độc cho Dương-Qua,

nhưng Hoàng-Dung cũng chiều theo để an ủi lòng chồng.

Hai người dặn Quách-Phù không được ra khỏi khách điếm và gởi gắm Dương-Qua

cho Kha-trấn-ác xem chừng.

Dương-Qua mê man đến khuya vẫn chưa tỉnh. Kha-trấn-ác thỉnh thoảng vào phòng

xem chừng thấy thế buồn bực vô cùng, song ông ta cũng chẳng dám ở luôn bên cạnh

Dương-Qua, vì sợ cô bé Quách-Phù đang đêm buồn bực bỏ ra ngoài thì khốn.

Dương-Qua mê man như thế chẳng biết đã bao lâu, nhưng đến một chừng nào đó nó

nghe như có người đấm bóp vào ác huyệt, lúc ở bụng, lúc ở vai nó, nó có cảm giác

đau điếng rồi nó dần dần tỉnh lại, trong người sảng khoái. Nó từ từ mở mắt thì thấy

một bóng người vụt ra nơi cửa sổ. Dương Qua dụi mắt, lồm cồm ngồi dậy, lần bước ra

phía cửa sổ, rồi đánh phóc một cái, nó nhảy theo cái bóng người vừa biến đi.

Trên mái ngói, một ông lão, đoạn ông lão cắm đầu xuống đất chổng chân lên trời và

đã bắt nó gọi bằng cha. Đích thị lão già kỳ dị ấy rồi.

Dương-Qua hỏi:

- Có phải ông đó không?

Bóng người trả lời:

- Sao con không gọi bằng cha?

Dương-Qua miễn cưỡng nói:

- Cha đấy ? Thưa cha! Cha từ đâu đến?

Ông già hoan hỉ gọi:

- Con! Con ơi! Con hãy lại đây.

Dương-Qua nhảy lên mái ngói rất gọn gàng đu mình về phía ông già. Tuy nhiên sức

nó còn yếu nên bị ngã quỵ xuống, và la lên một tiếng:

- Chao ôi!

Ông lão vốn đi ngược thân nên hạ mình xuống một cách lẹ làng đưa bàn tay đỡ lấy

Dương-Qua bồng lên trên mái.

Phút chốc, nơi phòng trong có tiếng lao xao, và ánh đèn sáng rực, ông lão sợ mọi

người phát giác tung tích của mình vội vã xốc ngược Dương Qua, và cứ cài đà ngược

thân băng mình phi hành xuất dạng.

Kha-trấn-ác nghe tiếng động nhảy lên mái nhà nhưng không còn kịp nữa. Lão xem

xét bốn bề không còn dấu vết gì nên trở lại phòng riêng.

Lão già kỳ dị chạy ra khỏi thị trấn đến một nơi đồng không mông quạnh, liền dừng

chân, đặt Dương-Qua xuống đất và nói:

- Bây giờ con hãy tiếp tục học tập cách chữa độc.

Dương-Qua thực hành theo lời chỉ giáo của lão, chẳng mấy chốc nó cảm thấy sức lực

bình phục như xa.

Lão già khen:

- Con thật quả thông minh đĩnh ngộ hơn cha hồi nhỏ nhiều. Thật con xứng đáng là

con của cha đó.

Lão già ôm Dương-Qua vào lòng mà trí tưởng tượng như đang ôm đứa con thật của

lão. Hai dòng nước mắt của lão từ từ chảy xuống đôi gò má nhăn nheo của một người

cha đau khổ.

Dương-Qua từ nhỏ bị mồ côi cha, đến lúc lên năm người mẹ bị rắn độc cắn chết, thế

là thằng bé mồ côi phải một mình sống trong khổ cực, nay đây mai đó tìm kế sanh

nhai. Trong cuộc sống lưu linh đó, đã nhuộm cho thằng bé đầy đắng cay tủi nhục.

Trái tim non nớt của nó phải cứng rắn lên và chất chứa đầy ác cảm với xã hội loài

nguời. Đối với lão già kỳ dị xưa nay cha hề quen biết nay phải nhận làm cha, dẫu

rằng cha nuôi nó cũng không thể không nghi ngờ dè dặt. Ai dám bảo lão già kia

không lợi dụng tình phụ tử thiêng liêng để nhử nó vào vòng cạm bẫy. Mặc dầu nó tha

thiết tình gia đình thật, song đời đã bắt nó có nhiều quan niệm ác cảm.

Tuy nhiên, những giọt nước mắt của ông lão làm cho nó cảm động. Nó ôm chặt vào

cổ ông ta sụt sùi nói:

- Cha! Cha!

Nó kêu lên những tiếng "cha" rất tha thiết và thành thật.

Và, đôi già trẻ cùng một nhịp yêu đương. Họ ôm nhau, nhìn nhau với những quan

niệm sống mãi không rời. Người ta tưởng như không có cái gì có thể chia rẽ được mối

tình thiết tha đó.

Đôi mắt lão già ước chừng như muốn nói với Dương-Qua:

- Con ơi con! Từ nay kẻ nào xúc phạm đến tánh mạng của con tức là đã xúc phạm đến

tánh mạng của cha vậy".

Dương-Qua ôm ông lão kêu cha không biết chán.

Trong phút thống thiết, ông lão vui vẻ bảo con:

- Con ơi! Cha sẽ truyền cho con ngón võ đắc ý nhất và lợi hại nhất của đời cha.

Dứt lời, ông lão ngồi chồm hỗm xuống đất, tất cả sức nặng con người chỉ tựa vào

mỏm hai ngón chân, hai ngón tay co rút lại.

Dương-Qua nhìn thấy ông ta giống như một pho thần tượng chạm trong thế bất động

nhưng linh hoạt lạ thường, từ cặp mắt đứng trông như thoát ra hai luồng hào quang

đầy sát khí, khiến cho đối phương phải bị áp đảo ngay lúc ban đầu không kịp đối phó.

Bỗng lão già rống lên mấy tiếng "oạng! oạng! oạng!" như tiếng ễnh trong, toàn thân

tung khỏi điểm tựa như một phát tên, hai tay vụt tung ra đấm một bức tường đất gần

đấy, bức tường tan biến thành khói bụi mịt mờ, và khi khói bụi lắng xuống, ông lão

vẫn y nguyên trong thế cũ, vững chắc như bình địa.

Dương-Qua khâm phục vô cùng, nói:

- Thưa cha, ngón võ ấy gọi là gì mà cao kỳ thế? Con có thể học được chăng?

Lão già đáp:

- Ngón đó gọi là "Hàm mổ công" con chỉ cần chịu khó tập luyện là thành.

Dương-Qua đáp:

- Nếu con học được ngón võ đó nhất định không còn ai dám khinh con nữa.

Lão già nhướng mắt với vẻ tự cao tự đại nói:

- Ai dám khinh con, thì kẻ ấy sẽ bị ta đánh tan xương nát thịt.

Lão già ấy không phải ai xa lạ trong giới võ lâm mà chính là Tây-độc

Âu-dương-Phong. Từ ngày tuân kiêm ở Hoa-Gia bị Hoàng-Dung dùng kế đánh bại

ông ta cầm tức như điên như dại. Đã mười năm qua ông ta không còn biết mình là ai

nữa. Có những lúc trí nhớ trở lại nhưng lờ mờ. Âu-dương-Phong tự hỏi:

- Ta là ai nhỉ?

Nhưng lục soát trong ký ức, Tây-Độc vẫn không sao tìm ra một tia sáng.

Gần đây, Âu-dương-Phong đã khổ công ôn luyện món "Cửu âm chân kinh" nên sức

lực có gia tăng, và trí não cũng có phần sáng sủa đi nhiều. Nhưng có sáng suốt là sáng

suốt với việc đời, còn về dĩ vãng chẳng biết sự tức bực trước kia đến độ nào đã làm

cho ông ta quên bẵng đi cả dĩ vãng. Ông ta vẫn có lúc điên điên dại dại không thể nào

nhớ đuợc những sự tình trong quá khứ.

Và câu hỏi "Ta là ai?" cứ lảng vảng trong trí. Âu-Dương-Phong vẫn không tìm ra câu

giải đáp.

Thế là Âu-Dương-Phong ra công tập luyện cho Dương-Qua ngón võ "Hàm mổ công"

một ngón võ lợi hại biến hoá tinh vi ảo điệu vô cùng, một ngón võ đã từng làm chấn

động giới võ lâm đương thời mà từ trước đến nay ông ta nhất quyết không truyền dạy

cho ai dẫu là con ruột của mình.

Dương-Qua khổ công tập luyện, nhưng khốn nỗi, Dương-Qua căn bản võ công chưa

có bao nhiêu nên không thể nào thu nhận nổi, dẫu cố gắng cũng chẳng đoạt được mức

tinh vi.

Âu-dương-Phong rất bực mình muốn tát vào mặt Dương-Qua mấy cái cho đã giận,

nhưng không nỡ vì Dương-Qua với vẻ mặt hiền lành cương quyết, cố gắng tập luyện.

Dạy mãi mà không được, Âu-dương-Phong chán nản nói với Dương-Qua:

- Thôi, ta hãy tạm nghỉ đến mai sẽ hay.

Dương-Qua vâng lời, nhưng nhớ lại thái độ kiêu căng của con bé Quách-Phù, chê bàn

tay đen nhiễm độc, Dương-Qua không muốn trở về với Quách-Tỉnh nữa. Nó nói:

- Cha ôi! Con theo cha, không muốn trở về với họ nữa.

Tuy Âu-Dương-Phong mơ hồ đối với tình quá khứ, mà việc hiện tại rất minh mẫn dị

kỳ, vì thế ông khuyên Dương-Qua:

- Con hãy nghe cha, trí óc của cha ngày nay bất thường lúc điên, lúc dại, nếu con theo

cha con có thể luỵ vào thân. Thôi, con cứ trở về với họ, lúc nào có cơ hội cha con ta

sẽ trùng phùng, và lúc đó chẳng có một mãnh lực nào có thể xa cách cha con ta được.

Dương-Qua từ khi mất mẹ cha bao giờ được nghe những lời nói thành thực và thống

thiết như vậy. Nó vòng tay thưa:

- Vâng! Con xin nghe theo lời cha chỉ giáo. Nhưng xin cha hãy sớm tìm con nhé!

Âu-dương-Phong gật đầu, nói:

- Con khỏi phải lo. Dù con ở nơi chân trời góc bể, hoặc bất cứ nơi nào cha cũng tìm

được.

Dứt lời, Âu-dương-Phong xốc Dương-Qua phi thẳng đến khách điếm.

Kha-trấn-ác đến phòng lần đầu chẳng thấy Dương-Qua trên giường, vừa lạ lùng vừa lo

lắng. Lúc trở lại lần nữa thì Dương-Qua đã về, hắn nằm sải trên giường. Kha-trấn-ác

định vào hỏi thì bỗng trên mái ngói có tiếng động. Nhờ thính tai, Kha-trấn-ác nhận ra

đó là hành động của đôi hiệp sĩ cao cường vừa về. Ông ta chạy sang phòng bên, đem

Quách-Phù vào giường Dương-Qua rồi vác thiết trượng đứng canh chừng.

Quả nhiên, tiếng động phi hành dần dần tiến gần, và có giọng nói nho nhỏ:

- Em Dung! Em xem có phải chính nó không?

Một giọng khác đáp:

- Kỳ quái thật! Chẳng biết có phải nó không?

Nghe rõ giọng nói đó là giọng nói của vợ chồng Quách-Tỉnh, Kha-trấn-ác yên tâm,

mở cửa mời hai người vào.

Hoàng-Dung hỏi:

- Thưa sư phụ, chẳng hay sư phụ có thấy việc gì vừa xảy ra không?

Kha-trấn-ác đáp:

- Chẳng có việc gì cả.

Hoàng-Dung nói:

- Không lý chúng ta nhìn lầm.

Quách-Tỉnh nói:

- Không! Nhất định là nó!

Kha-trấn-ác hỏi:

- Nó là ai thế?

Hoàng-Dung lấy tay kéo áo Quách-Tỉnh ý không muốn để Quách-Tỉnh trả lời. Nhưng

Quách-Tỉnh đối với sư phụ bao giờ cũng tỏ ra thành kính không giấu giếm một việc gì

dẫu là việc nhỏ mọn, liền thưa:

- Thưa sư phụ, nó chính là Âu-dương-Phong.

Bình sanh Kha-trấn-ác chỉ ngại độc nhất có Âu-dương-Phong, nên khi nghe

Quách-Tỉnh nói đến tên ông ta biến nhẹ, hạ giọng nói nhỏ:

- Âu-dương-Phong? Thế ra nó chưa chết sao?

Quách-Tỉnh nói:

- Chúng con vừa đi kiếm thuốc về bỗng thấy trên mái ngói có một bóng người khả

nghi có lối phi thân đặc sắc. Chúng con liền đuổi theo nhưng không tìm thấy tông tích

gì cả. Từ dáng điệu cho đến lối phi thân, bóng ấy giống hệt Âu-dương-Phong không

khác gì cả.

Kha-trấn-ác vốn biết môn đệ của mình cẩn thận và chín chắn khi nói điều gì thì đã

cân nhắc và suy nghĩ kỹ. Bởi thế, Kha-trấn-ác không còn nghi ngờ gì nữa, và tin chắc

Tây-độc Âu-dương-Phong hiện giờ còn lẩn quẩn đâu đây.

Quách-Tỉnh quay về phía Dương-Qua, thấy sắc diện của thằng bé trở nên hồng hào,

hơi thở điều hoà và đang ngủ say, lấy làm mừng rỡ, gọi vô nói:

- Em Dung ơi! Nó đã tỉnh rồi!

Thật ra Dương-Qua lúc ấy giả ngủ để nghe trộm câu chuyện của mấy người. Được

biết tên nghĩa phụ mình là Âu-Dương-Phong và thấy cả ba hiệp sĩ đều sợ uy danh của

nghĩa phụ nó nên lòng nó rất hoan hỉ.

Hoàng-Dung đến sát bên giường Dương-Qua, xem lại sắc mặt và vết thương ở bàn tay

rồi lấy làm kinh ngạc.

Đôi vợ chồng đã lùng khắp mọi nơi nhưng chưa tìm ra những dược thảo cần thiết,

đành thất vọng trở về không ngờ bệnh nhân không cần thang thuốc mà trở lại trạng

thái bình thường như thế. Sự việc làm cho vợ chồng Quách-Tỉnh thắc mắc không ít.

Thậy vậy, chỉ có phép lạ mới có thể cứu Dương-Qua thoát khỏi tử thần.

Qua ngày sau, mọi người từ biệt khách điếm trở về đảo Đào-Hoa.

Nhưng tối hôm đó, trên đường về họ lại ghé vào một tửu điếm để nghỉ chân.

Kha-trấn-ác và Dương-Qua nghỉ một phòng, còn vợ chồng Quách-Tỉnh và con gái

nghỉ một phòng.

Vào nửa đêm, bỗng nghe trên mái ngói có tiếng động, rồi kế đến nơi phòng bên cạnh

có tiếng la lớn. Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung chồm dậy, phóng mình ra cửa sổ thì thấy

hai cái bóng người đang quần nhau chiến đấu vô cùng kịch liệt. Một lúc, bỗng nghe

một tiếng phịch, rồi một xác người từ trên đỉnh mái nhà rơi xuống.

Mối thâm thù trong cổ miếu

Người ngã từ trên mái nhà xuống hình như đã trúng phải một quả chưởng thôi sơn,

nên thân mềm nhũn, chân tay bụi xụi.

Phàm trong nguyên tắc vũ công một vũ sĩ bị té bất kỳ trường hợp nào, thân hình phải

co lại, tay ôm chặt lấy chân, đều thu gọn vào giữa hai đầu gối, như vậy tai nạn sẽ

được hạn chế mà tính mạng sẽ được bảo đảm.

Nhìn qua lối rơi của người bại trận, bọn người Quách-Tỉnh có cảm giác như người ấy

phải bị một tai họa ghê gớm.

May thay, lúc đó Hoàng-Dung phóng mình ra kịp, đưa tay đỡ. Nạn nhân vừa được

húng đặt xuống đất thì Hoàng-Dung đã bung người nhảy lên mái ngói. Quách-Tỉnh

cũng nhảy theo.

Chỉ trong loáng mắt Hoàng-Dung đã chặn đứng đối phương để so tài sao thấp.

Hoàng-Dung biểu diễn những đường võ cực kỳ lợi hại, đến liên tiếp trong mười hiệp

nàng mới cảm thấy võ công của nàng lúc nầy còn tinh tế hơn cách đây mười năm.

Mà đối thủ của nàng lúc đó không ai xa lạ chính là lão Tây-độc Âu-dương-Phong vậy.

Âu-dương-Phong cũng tỏ ra không kém, quả là danh bất hư truyền. Lão tiến thối công

thủ một mực chín chắn, trầm tĩnh không để lộ một sắc thái nào để cho đối thủ có thể

đo lường được sức lực và chiến thuật của mình.

Hoàng-Dung đánh một lúc bỗng la lớn:

- Âu-Dương tiên sinh:

Tây-Độc nghe tiếng kêu ngơ ngác hỏi:

- Ngươi gọi ta là gì?

Đường quyền của lão trở nên chểnh mảng, lão lui về thế thủ.

Chính vì hai tiếng "Âu-dương" đã nhắc cho lão nhớ mang máng cái gì trong ký ức,

nhưng lão không rõ hai tiếng đó do đâu mà lão có cảm giác quen thuộc.

Vừa chống đỡ những đòn chưởng của Hoàng-Dung, lão vừa hỏi:

- Ngươi vừa gọi ta là gì nhỉ?

Quách-Tỉnh điềm tĩnh chờ Hoàng-Dung trả lời, nhưng Hoàng-Dung biết lão còn trong

điên dại, chưa thoát khỏi việc uất ức phát khởi từ lúc thất bại ở Hoa-sơn, nên nàng

ranh mãnh trả lời:

-Tôi gọi tiên sinh là... Triệu-Tiễn, Tôn-Lý, là Châu-Ngô Trần-Vương.

Hoàng-Dung đọc một tràng tên họ cốt để làm rối loạn thêm tinh thần

Âu-dương-Phong.

Tội nghiệp cho lão đã ngơ ngác lại càng ngơ ngác không hiểu gì cả.

Quách-Tỉnh vốn tánh thuần hậu không nỡ để cho vợ mình tấn công một ông lão còn

đang trong tình trạng bất thường nên xen vào nói:

- Ông lão ơi! Ông nên đi nơi khác! Tốt hơn đừng bao giờ ta gặp nhau nữa.

Giữa lúc đó, bỗng từ đàng sau có tiếng hét lớn:

- Mày chính là tên độc ác nhứt đời, đã một tay sát hại năm vị anh hùng huynh đệ của

đời ta.

Tiếng hét vừa dứt thì bóng cây thiết trượng vừa bổ xuống ngang lưng

Âu-dương-Phong.

Tiếng thét ấy chính là của Kha-trấn-ác, thủ lãnh nhất hùng nổi tiếng đất Giang-nam.

Quách-Tỉnh hoảng kinh vội la lớn:

- Hãy khoan tay! Sư phụ!

Nhưng đã trễ, cây thiết trượng đã bổ nhào xuống lưng Âu-dương-Phong.

Mà lạ thay! Cây thiết trượng vừa đánh xuống lại dội lên rồi văng khỏi tay Kha-trấn-ác

kéo cả người theo.

Chiếc vũ khí nầy vốn nặng ngàn cân, lại bị tung rất mãnh liệt, lúc rơi vào mái nhà phá

tan một lỗ ngói, đến lúc rớt xuống đất trúng phải một khách trú đang mơ màng giấc

điệp, làm cho người khách nầy bị gãy cả hai chân, rên la thảm thiết.

Quách-Tỉnh thấy Kha-trấn-ác cùng vũ khí rơi xuống một lượt, chàng không lo ngại

cho sinh mạng Kha-trấn-ác mà chỉ lo việc Âu-dương-Phong đuổi theo. Chàng liền

nhảy ra nghênh địch, hét lớn:

- Âu-dương-Phong! Hãy xem đây!

Đoạn Quách-Tỉnh múa hai tay thành hai vòng khuyên, thoăn thoắt tới lui vừa thủ thế

vừa khiêu khích.

Đó là ngón võ đắc ý nhất của Quách-Tỉnh, một trong mười tám đường độc đáo gọi là

"Giáng long" mà từ mười năm trước Quách-Tỉnh nhờ nó mới nổi tiếng khi đương cự

với các anh hùng trong thiên hạ.

Âu-dương-Phong vừa vận dụng quá nhiều sức lực để đánh bật Kha-trấn-ác, nên cảm

thấy trong người thiếu hơi thở, lại đứng ngược chiều gió nên càng thấy ngột ngạt khó

chịu.

Trước ngón đòn danh tiếng của Quách-Tỉnh, Âu-dương-Phong không thể khinh địch,

lão liền xoay lại tránh hướng gió, và phóng mình xuống để thi thố ngón "Hàm mô

công". Thế là hai kỳ phùng địch thủ đã đem sở trường của mình để đối chọi với nhau.

Quách-Tỉnh càng tiến sát vào địch thủ thì chưởng lực càng tăng. Mà Âu-dương-Phong

càng chờ đợi thì chưởng lực càng tập trung thêm.

Khi hai bên sắp sáp chiếu, Âu-dương-Phong miệng "ngoạp! ngoạp! ngoạp!" mấy

tiếng, hai tay tung ra như hai lưỡi búa. Nhưng gặp phải chưởng lực "Giáng long" của

Quách-Tỉnh làm cho thân thế hai địch thủ đều tăng lên cao chấn động cả một bầu

không khí.

Đã mười năm qua không gặp nhau lần này quả thật là lần kỳ ngộ giữa đôi anh hùng.

Cuộc đấu của họ ngày nay không phải hào hùng trong đường quyền hay đấu pháp, mà

chính trong nội công chiến đấu. Họ đóng phí sức lực vào những ngón võ tầm thường,

vào chưởng lực để thách thức nhau sức chịu đựng sức tập luyện công phu. Cho nên

mỗi lần chưởng lực gặp nhau là mỗi lần bị sức phản ứng. Sức phản ứng phát ra làm

rung rinh mọi vật, lá cây rơi lác đác, ngói nhà nứt răng rắc.

Cuộc đấu chiến chỉ trong giây lát mà một khoảng mái nhà làm đấu trường chịu không

nổi bị vẹo xuống vỡ lở như một chiếc bành tráng bể. Hai đối thủ cùng bị rơi xuống đất

một lúc. Tình cờ họ lại rơi ngay vào phòng, nơi mà người khách bất hạnh bị chiếc

thiết trượng của Kha-trấn-ác làm gãy chân lúc nãy. Nào ngói, nào gạch, nào cây cối

chôn lấp nạn nhân, chỉ còn nghe tiếng rên siết.

Hai hiệp sĩ đứng trên đống ngói vụn, họ vờn nhau xung quanh một cột trụ trên tiếng

rên thảm thiết của kẻ khốn nạn. Không ai mà cả hai đối thủ đều chẳng dám vận dụng

chưởng lực sợ thân hình của nạn nhân sẽ bị nát bấy dưới mấy bàn chân ta.

Hoàng-Dung vừa nhảy xuống thấy tình thế không lợi cho Quách-Tỉnh vì đối với

Tây-độc Âu-dương-Phong mà chiến đấu ngoài vòng chưởng lực Giáng-long thì khó

mong thắng được.

Như thế, Hoàng-Dung thấy trước cái hại của Quách-Tỉnh nên lanh trí la lớn:

- A! Trương-Ba! Lý-Bôn! Triệu-Năm! Hãy xem đây.

Dứt lời, nàng đánh một chưởng rất nhẹ vào lưng Âu-dương-Phong. Chưởng ấy thuộc

vào loại Lạc-Anh chuởng pháp: một loại chưởng tuy nhẹ nhàng song trúng phải thì dù

gân cốt có luyện tập cường tráng như Âu-dương-Phong cũng phải tê liệt và nội tạng sẽ

bị hoàn toàn rối loạn.

Tuy nhiên, Âu-dương-Phong vừa nghe Hoàng-Dung thốt lên câu nói dị thường, biết

rằng nàng dùng thủ đoạn tâm lý để tấn công bất ngờ nên lão đã chuẩn bị trước.

Quả nhiên, đòn chưởng Lạc-Anh vừa hạ xuống thì bị quả thôi sơn của Tây-độc đánh

bạt đội trúng Quách-Tỉnh văng ra xa còn Hoàng-Dung té xuống đất.

Muốn áp đảo đối phương, Âu-dương-Phong một lúc phải dùng quả thôi sơn đánh ngã

hai đối thủ, nên ông ta cũng lăn lộn, vì ông ta đã đánh phải tấm giáp bào bằng da

nhím của Hoàng-Dung. Chính tấm giáp này đã làm cho Âu-dương-Phong lảo đảo.

Cả ba đấu thủ đều lo lắng sợ phần thất bại về mình. Họ không còn kể gì đến nạn nhân

bị gãy chân rên siết nữa, họ vận dụng hết chưởng lực để một còn một mất trong trận

đấu cuối cùng.

Nhưng chưởng lực họ càng tập trung thì không khí càng ngưng đọng khiến cho hơi

thở của mỗi người dần dần đi đến chỗ ngột ngạt.

Bỗng Quách-Tỉnh và Âu-dương-Phong cùng thổi lên một lượt vừa để ra hiệu khai

chiến, vừa để thu hút một ít không khí dự trữ cho cuộc đấu.

Không khí vốn đã bị ngưng đọng vì chưởng lực tập trung lại bị đốt phá vì âm thanh

của hai tiếng thét cùng phát đi một lúc làm chấn động cả toà nhà mái tường ào ào sập

đổ. Mọi người trong khách điếm tưởng như đến giờ tận thế kéo nhau chạy ra khóc lóc.

Tiếng kêu ơi ới giữa cảnh ngói đổ nhà tan.

Quách-Tỉnh và Âu-dương-Phong hét xong thì người nào cũng bị máu trào ra khỏi

họng, lại gặp lúc tường xiên nhà sập, khói bụi mịt mờ, không còn thấy ai nữa.

Mãi đến lúc vợ chồng Quách-Tỉnh dìu nhau ra khỏi nơi đó thì không còn thấy bóng

Âu-dương-Phong đâu nữa.

Một người a hoàn mách lại rằng nó có thấy bóng một lão già phi thân ngược đầu về

hướng đông.

Hoàng-Dung gặp Kha-trấn-ác đang bế Quách-Tỉnh vào lòng liền nói:

- Thưa sư phụ, nhờ sư phụ trao lại con bé Quách-Phù cho con và cõng Quách-Tỉnh ra

khỏi nơi nầy tìm chốn trú ẩn rồi sẽ hay.

Thế rồi, cả bọn người cõng người dắt cùng nhau tiến về hướng đông.

Bấy giờ, Quách-Tỉnh tinh thần vẫn minh mẫn nhưng không nói được vì chưởng lực

của Âu-dương-Phong đánh trúng vào lưng và cũng vì phí sức quá nhiều vào việc tập

trung chưởng lực.

Nằm trên lưng Kha-trấn-ác lắc lư theo nhịp bước. Quách-Tỉnh lần lần lấy lại sức, hơi

thở điều hoà và chưa được bao nhiêu thì Quách-Tỉnh tỉnh hẳn.

Chàng nói với Kha-trấn-ác:

- Thưa sư phụ, con đã hồi sinh, xin sư phụ để con xuống.

Kha-trấn-ác mừng rỡ hỏi:

- Con đã bình phục sao?

Quách-Tỉnh gật đầu tha:

- Lão Âu-dương-Phong quả thật lợi hại! Giao đấu với hắn chỉ mấy hiệp mà tổn đến

bao nhiêu sức lực.

Rồi Quách-Tỉnh nhìn quanh không thấy Dương-Qua đâu liền hỏi:

- Dương-Qua sao không thấy tung hành?

Kha-trấn-ác không biết Dương-Qua là tên đứa bé nên ngơ ngác nhìn, Hoàng-Dung vội

đỡ lời đáp:

- Anh đừng bận tâm. Chúng ta hãy tìm nơi trú ngụ đã. Còn thằng bé em sẽ đi tìm sau.

Bấy giờ trời đã mờ sáng, vạn vật bắt đầu hiện ra dưới màn sương đục. Quách-Tỉnh

nói:

- Thương tích của anh đã đỡ. Vậy để anh cùng em đi tìm Dương-Qua.

Hoàng-Dung cau mày nói:

- Thằng bé nầy lanh lợi lắm! Hơi đâu mà lo.

Quả thật, Hoàng-Dung vừa dứt lời thì thấy xa xa bên kia đường sau một phiến đá

trắng thấp thoáng bóng một đứa bé. Hoàng-Dung băng đường chạy đến xem thì quả

nhiên là Dương-Qua.

Thằng bé cời hì hì thưa:

- Thưa chú! Thưa thím!

Giọng nói nọ tự nhiên và dịu dàng như đã quen thuộc từ lâu. Và hình như nó đã quen

dùng lối xưng hô thân mật này đối với người xa lạ.

Hắn nói tiếp:

- Con chờ mãi chú thím mới đến.

Hoàng-Dung nghi hoặc nhưng chưa khám phá ra được điều gì khả dĩ đành phải làm lơ

để dò xét. Nàng giả như không quan tâm, nói:

- Thôi, cháu hãy mau theo chúng ta.

Dương-Qua vừa cười, vừa lểnh mểnh chạy theo sau.

Quách-Phù bấy giờ đã tỉnh ngủ, thấy Dương-Qua, mừng rỡ nói:

- Anh đi đâu đến bây giờ mới thấy mặt.

Dương-Qua trả lời:

- Tôi đi bắt dế! Thật vui đáo để.

Quách-Phù bĩu môi hỏi lại:

- Vui gì tuồng chơi dế! Anh thấy vui thế nào?

Dương-Qua kể:

- Trời ơi! Sao lại không vui! Này, một con dế lớn đấu với ba con dế nhỏ, rồi hai con

dế nhỏ nữa phụ lực. Thế là tất cả có năm con dế nhỏ đấu với một con dế lớn. Nhưng

con dế lớn một mình cự cả năm con dế nhỏ, hẩy con này ngã bên này, con kia ngã

bên kia...

Nói đến đây Dương-Qua im bặt, khiến cho Quách-Phù tò mò hỏi:

- Thế rồi sao nữa?

Dương-Qua chẩu miệng nói:

- Bảo rằng chơi dế không vui sao còn hỏi làm gì?

Quách-Phù phật ý không thèm hỏi, cũng chẳng nhìn mặt Dương-Qua nữa.

Hoàng-Dung tinh ý, biết đứa nhỏ nầy không phải quá ngây ngô đơn giản, liền hỏi dò:

- Thế sao cháu bảo là mãi đi tìm chúng ta? Thì giờ đâu mà cháu đi coi đá dế. Chẳng

hay dế ấy của ai vậy?

Dương-Qua không suy nghĩ, trả lời:

- Cháu vừa xem đấu dế, vừa chờ chú thím. Cháu đến đây thì dế đã tản mác hết rồi.

Cả đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, phút chốc đã đến một thôn nhỏ. Họ gõ cửa một

thất viên lớn mà chủ nhân nổi tiếng là người trọng khách.

Thấy Quách-Tỉnh thọ thuơng, chủ nhân sai gia đình dọn dẹp chỗ nghỉ ngơi rồi lo cơm

nước.

Quách-Tỉnh ăn qua loa mấy miếng rồi lên giường an giấc. Còn Hoàng-Dung thấy

chồng ngủ ngon, biết thương tích không đáng kể, liền vào phòng riêng để xem lại

chiếc giáp lông nhím mà nàng dùng làm vật hộ thân. Đó là một bảo vật của Đào-hoa

đảo đã từng cưú mạng Hoàng-Dung nhiều lần. Nhưng khi Hoàng-Dung vừa cởi nó ra

thì thấy sau lưng chiếc giáp đều bấy nát, nàng lấy tay rờ áo thì chiếc giáp rơi ra một

mãnh lớn đúng hình chiếc chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong.

Hoàng-Dung vừa khiếp sợ chưởng lực của Âu-dương-Phong vừa tiếc cho một bảo vật

bị huỷ phá.

Nàng trở lại bên cạnh chồng cầm chiếc quạt phe phẩy cho Quách-Tỉnh ngủ. Đôi mắt

nàng lim dim mà trong trí nàng lại hiện ra hình ảnh của thằng bé Dương-Qua với trăm

ngàn câu hỏi thắc mắc.

Rõ ràng lúc Âu-dương-Phong đánh hạ Vũ-tam-Thông rơi xuống đất, Dương-Qua đã

cùng Quách-Tỉnh nhảy lên mái ngói chứng kiến. Thằng bé lại có mặt lúc các đấu thủ

đấu nhau ở trên đống ngói vụn. Hoàng-Dung lại còn nhớ rõ lúc nàng nhảy xuống lỗ

hổng để bảo vệ Quách-Tỉnh thì nó cũng có mặt bên cạnh. Nhưng lạ thay, nơi nó đứng

cũng không ngoài tầm chưởng lực của Âu-dương-Phong, thế mà sao nó không sợ hãi,

mà vì sao Âu-dương-Phong lại không hạ nó? Rồi đến lúc cả đôi vợ chồng bị đả

thương sao nó lại biến mất giữa cảnh nhà hư đổ nát để rồi xuất hiện đúng lúc tại nơi

đây?

Nhưng nỗi thắc mắc nầy Hoàng-Dung một mình tự tìm lấy câu giải đáp, và nhất cử

nhất động đều để ý đến Dương-Qua.

Đêm hôm ấy, không có gì lạ xảy ra. Kha-trấn-ác và Dương-Qua cùng nghỉ chung một

phóng nhỏ. Vào khoảng nửa đêm, Dương-Qua thức dậy, rón rén mở cửa, nhẹ nhàng

bước ra ngoài. Nhìn lại nó thấy Kha-trấn-ác ngủ say trong mỏi mệt, nó leo qua đầu

tường, vừa định buông người xuống thì hai con chó trông thấy cất tiếng sủa. Nó đã

chuẩn bị trước hai cục xương bò từ bữa ăn chiều, liền quăng ra. Hai con chó được mồi

ngon dành nhau tha chạy mất.

Bấy giờ Dương-Qua cẩn thận nhảy xuống. Và sau khi nhìn sao nó hướng về phía tây

đi thẳng.

Đi được bảy tám dặm đường đến một ngôi cổ miếu, Dương-Qua bước vào đẩy cổng,

gọi nhỏ:

- Cha ơi! cha! Con đến đây!

Có tiếng đáp nhỏ của Âu-dương-Phong. Hắn mừng rỡ chạy vào thấy nghĩa phụ của

hắn đang nằm dài trước một pho tượng, hơi thở mệt nhọc.

ấy vì Âu-dương-Phong đã có tuổi mà đấu với Quách-Tỉnh một đối thủ anh hùng, nên

mất nhiều sức và lâu phục hồi. Còn Quách-Tỉnh trong tuổi thành niên, dẫu mệt nhọc

nhưng dễ mau lại sức.

Dương-Qua ngồi một bên, rút trong túi lấy ra mấy chiếc bánh lột vỏ đút vào miệng

Âu-dương-Phong.

Lão già ăn xong hỏi:

- Bọn chúng bây giờ ở đâu?

Dương-Qua nhất nhất kể lại đầu đuôi mọi chuyện cho Âu-dương-Phong nghe.

Chắc độc giả thắc mắc tại sao Dương-Qua biết Âu-dương-Phong ngụ nơi cổ miếu mà

tìm đến.

Nguyên vì khi Dương-Qua cùng vợ chồng Quách-Tỉnh trú ngụ trong khách điếm thì

vào khoảng nửa đêm Âu-dương-Phong đến tìm, thăm nghĩa tử.

Tình cờ đêm ấy Vũ-tam-Thông sau khi bị Lý-mạc-Thu đả thương cũng đến trú ngụ

cùng một khách điếm. Cả đêm bị vết thương hành, Vũ-tam-Thông không thể nào chợp

mắt được. Bỗng nghe tiếng động trên mái nhà, Vũ-tam-Thông ngỡ Lý-mạc-Thu trở

lại, nên mặc dù đang đau ông ta cũng đăng thân lên mái nhà để nghênh chiến.

Chẳng ngờ trên mái nhà không phải là Lý-mạc-Thu mà lại là Âu-dương-Phong, một

địch thủ đã từng làm đánh gục Vũ-tam-Thông lúc thiếu thời.

Thật ra, Vũ-tam-Thông không có ý đấu với Âu-dương-Phong trong lúc nầy, nhưng đã

gặp tất phải ra tay. Hai bên đánh chưa đầy mười hiệp, Âu-dơng-Phong dùng chưởng

thuật đánh rơi Vũ-tam-Thông xuống đất. Rồi kế đó là cuộc đấu chiến với vợ chồng

Quách-Tỉnh. Mọi việc đều xảy ra trước mắt Dương-Qua cả.

Đến khi cả hai bên đấu thủ đều thọ thương, và nhân giữa cảnh nhà hư bụi đổ,

Dương-Qua thấy không ai chú ý đến mình nhân cơ hội đăng thân theo bóng nghĩa

phụ.

Lão già ban đầu phi thân quá mau, Dương-Qua theo không kịp nhưng về sau dần dần

thương thế trầm trọng, tốc độ giảm dần. Rồi cuối cùng phải nhờ Dương-Qua dìu đi

Âu-dương-Phong mới đến được ngôi cổ miếu để ẩn trú.

Dương-Qua tuy còn bé, song trí óc vô cùng minh mẫn. Nó tự bảo rằng nếu nó không

trở về với bọn Quách-Tỉnh thì nhất định họ sẽ đi tìm và như thế sẽ làm lộ tung tích

của Âu-dương-Phong.

Nghĩ như thế, nó trở ra đường lớn đón chờ nhập bọn để rồi nửa đêm hôm sau nó lại

lén đến cổ miếu để thăm viếng Âu-dương-Phong.

Sau khi ăn mấy chiếc bánh, Âu-dương-Phong thấy hơi khỏe, nói với Dương-Qua:

- Tên họ Quách vừa ăn một quả chưởng của ta, trong bảy ngày nữa chưa chắc nó đã

bình phục hẳn. Nó chưa bình phục thì vợ nó không thể rời. Như thế cha không sợ

chồng nó đến đây. Cha chỉ sợ tên chột mắt thế nào nó cũng tìm đến vì chính tay cha

đã sát hại năm anh em chúng nó nhân cơ hội nầy nó đánh trả thù. Tiếc rằng sức khỏe

của cha chưa hồi phục được...

Âu-dương-Phong nói đến đây thốt ra một tràng ho làm dứt cả tiếng.

Dương-Qua ngồi bên cạnh đưa tay vuốt ngực nghĩa phụ, và trong óc lay hoay tìm cách

đối phó với Kha-trấn-ác.

Được một lúc, hắn lẩm bẩm:

- Tốt lắm! Ta sẽ có kế làm cho lão già mù lòa đến đây phải mang họa.

Nó chạy đến bàn thờ lấy hai chân đèn và chiếc lư hương đổ tro xuống đất bước lại

khung cửa ra vào.

Nó đóng nhẹ cánh cửa lại, leo lên trên đầu cửa, cột lỏng chiếc lư đồng vào đấy; rồi

nhảy xuống tháo hai chân đèn bỏ rải rác ngay ở lối vào.

Bố trí xong, nó leo lên giá chuông nấp ở đấy. Chiếc chuông nầy nặng vào khoảng hai

ba ngàn cân treo lủng lẳng trên không buộc vào giá chuông bằng một sợi dây thừng

rất thô và chắc.

Dơng-Qua vừa leo, lên giá chuông thì bỗng bên ngoài có tiếng vi vút quen thuộc rõ

ràng là chiếc thiết trượng của Kha-trấn-ác đang phi thân đến.

Âu-dương-Phong cũng nghe biết địch thủ sắp đến nơi, liền thu hết tàn lực gượng dậy

để ứng địch.

Trong bóng tối lờ mờ cha con Âu-dương-Phong đang chờ đợi phút kinh khủng sắp

diễn biến.

Kha-trấn-ác tuy mắt đã loà song trí còn minh mẫn lắm. Lão dự đoán thế nào sau một

trận thư hùng với Quách-Tỉnh, Âu-dương-Phong cũng phải kiệt sức, tìm nơi thanh

vắng ẩn thân. Mà trong vùng đó chỉ có cổ miếu là chỗ thanh vắng nhất thời theo lời

dân hàng xóm cho lão biết. Lão quyết tìm đến nơi để thanh toán mối cựu thù. Vì vậy

lão lợi dụng lúc nửa đêm xách thiết trượng ra đi. Trước khi đi, lão khẽ gọi Dương Qua

xem hắn còn thức song chẳng thấy Dương-Qua trả lời, lão ngỡ nó đang say sưa giấc

điệp nên an lòng dời gót. Lão nhẹ nhàng phi thân qua bức tường, đinh ninh với sức

lực mình còn đủ để đương đầu với Âu-dương-Phong một trận tử thù.

Khi đến cổ miếu, lão để ý nghe ngóng xem hơi thở của Âu-dương-Phong trông

thương thế nặng nhẹ thế nào.

Rồi lão lần tay đẩy nhẹ tấm cửa. Bỗng "rầm" một tiếng chiếc lư đồng treo lủng lẳng

rơi xuống va vào trán lão, khiến trán lão máu me lai láng. Quá tức bực, lão quơ cây

thiết trượng múa quanh và lần bước tiến sâu vào.

Thì chân lão đâm phải mấy chiếc chân đèn bỏ lão dưới đất làm cho lão mất thăng

bằng lảo đảo.

Đến lúc giữ lại được thế quân bình, lão thét lớn:

- Âu-dương-Phong! Hãy sẵn sàng đền tội. Ngày nay mày còn khoác lác nữa chăng?

Dứt lời, lão quất mạnh cây thiết trượng nhắm vào lưng Âu-dương-Phong.

Lúc đó, Âu-dương-Phong đã đem hết tàn lực chống lại cây thiết trượng quái ác ấy.

Ông ta quyết định làm cho cây thiết trượng dội lên một phen nữa để cả vũ khí và thân

mình Kha-trấn-ác phải nẩy ngược lên.

Song cả hai đều tính sai cả. Kha-trấn-ác vì quá hậm hực, quyết trả cựu thù nên đánh

xuống quá mạnh làm cho cây thiết trượng trệt sang một bên, không trúng vào

Âu-dương-Phong chỉ làm cho khoảng đất bị vỡ tung nhiều mảnh.

Đánh trật một đòn quyết liệt, Kha-trấn-ác giận dữ, múa chiếc thiết trượng vù vù làm

cho Âu-dương-Phong phải mệt nhọc né tránh mới thoát khỏi:

Âu-dương-Phong đang trong bệnh hoạn, làm thế nào cự với Kha-trấn-ác lâu dài được.

Cuối cùng Âu-dương-Phong mệt sức, để cho thiết trượng đành toạt vào vai máu chảy

đầm đìa.

Đáng lẽ những kẻ tầm thường thì một khi thiết trượng đã trúng phải tất tâm hồn mê

loạn, song Âu-dương-Phong không hề gì, nội tạng vẫn sảng khoái như thường ấy là

nhờ sức nội công của lão đã đến mức siêu việt.

Dương-Qua đứng bên cạnh nhìn thấy nghĩa phụ bị thương tới tấp nó nóng lòng muốn

xông vào trợ lực, nhưng xét lại sức lực nó đối với Kha-trấn-ác chẳng khác nào hạt cát

trong bãi phù sa, nó đành đấm bụng đứng nhìn vậy.

Kha-trấn-ác đánh trúng Âu-dương-Phong một trượng nhưng thấy Âu-dương-Phong

vẫn bình thản, hơi thở vẫn trong tình trạng khỏe khoắn, lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Quái lạ! Cây thần trượng của ta chưa bao giờ mất hiệu lực, sao nay đánh trúng

Âu-dương-Phong mà hắn vẫn còn đủ sức đưương cự được.

Nghĩ như thế, Kha-trấn-ác càng tức giận, vung thiết trượng đánh tới tấp vào đối

phương.

Nhưng lạ thay, lão cảm thấy cây thiết trượng của lão như đánh vào tấm đệm lông

mềm nhũn. Lão dừng tay nghe ngóng thì thấy hơi thở của Âu-dương-Phong vẫn điều

hòa.

Càng tức giận hơn, Kha-trấn-ác quyết tìm đích cho được đầu Âu-dương-Phong bổ

xuống.

Nhưng Âu-dương-Phong vốn tay anh hùng trong thiên hạ, đâu dễ gì chịu bỏ thân dưới

cây thiết trượng kia, lão vươn mình tới ôm chầm vào mình Kha-trấn-ác. Thế là

Kha-trấn-ác không còn cách gì vận dụng cây thiết trượng nữa. Hai bên dằng co nhau.

Kha-trấn-ác chân vừa bị dẫm phải mấy chân đèn nên bị vẹo đứng không vững, bị

Âu-dương-Phong vật ngã nhào xuống đất.

Âu-dương-Phong quyết không thả, hai tay ôm chặt lấy bụng Kha-trấn-ác lăn lộn mấy

vòng, bỗng tay lão chạm phải một vật cứng.

Thì ra đó là một con dao đồ tể trước kia Trương-kha-Sanh thường dùng vào việc hạ

trâu bò tế lễ.

Tuy gọi thế, nhưng thật ra Trương-kha-Sanh chưa bao giờ nhúng lưỡi dao đó vào máu

súc vật mà chỉ dùng nó để làm vật hộ thân. Khi Trương-kha-Sanh lâm trận ở Mông-cổ

dưới thời Đại-Hán bị chết về tay Trần-lập-Phong, thì Kha-trấn-ác lấy làm của mình,

và luôn luôn đeo theo mình để làm vật kỷ niệm. Từ đó, Kha-trấn-ác luôn luôn nâng

niu con dao chẳng bao giờ lìa, xem như một kẻ thân yêu.

Trong lúc vật lộn cùng Âu-dương-Phong, cán dao ló ra ngoài. Âu-dương-Phong bắt

được cơ hội tốt, chợp lấy cán dao rút ra, và đâm vào bụng Kha-trấn-ác.

Kha-trấn-ác kinh hãi, thóp bụng lại, vận nội công chống cự một tay xô địch thủ ra,

một tay thu thiết trượng về đánh bạt lưỡi dao qua một phía, rồi nhắm vào đối thủ múa

tới tấp.

Chiếc thiết trượng lần này trúng vào đầu Âu-dương-Phong, song trong lúc hỗn loạn

Kha-trấn-ác đã cầm ngược vũ khí nên không gây nguy hiểm gì. Mặc dù thế, đòn đó

cũng đã làm cho Âu-dương-Phong hoa mắt, ù tai, chiếc dao đồ tể văng bổng trên

không trung bắn trúng vào cái chuông đồng to lớn, phát ra một tiếng ngân chát chúa.

Tiếng chuông ngân dài và lớn làm át cả hơi thở của Âu-dương-Phong, khiến

Kha-trấn-ác mất hẳn phương hướng của địch thủ. Ông ta chờ tiếng chuông dứt sẽ tấn

công trở lại.

Bấy giờ ánh trăng khuya vừa lên tận giữa miếu, soi rõ hình dạng Kha-trấn-ác đang

trong thế đợi chờ vô cùng rùng rợn. Đầu tóc bồm xồm, cặp mắt mù loà không còn

sinh khí, quần áo rách tả tơi. Một làn máu đỏ từ trên trán nhểu xuống thấm qua thân

áo chảy đến giữa bụng. Lão đợi cho tiếng chuông ngân dứt để tìm nơi có hơi thở của

đối phương mà đánh.

Dương-Qua lanh trí, biết rõ sự chờ đợi của lão già, liền lách mình đến lượm con dao

rồi thoăn thoắt trèo lên giá chuông lấy cán dao gõ mạnh vào.

Tiếng chuông này chưa dứt đã tiếp đến tiếng chuông khác, khiến cho Kha-trấn-ác

hoang mang không thể nào tìm hiểu vị trí của đối thủ.

Tức giận Kha-trấn-ác một lần nữa, múa thiết trượng vù vù. Thiết trượng càng múa bao

nhiêu thì Dương-Qua càng đánh chuông bấy nhiêu. Tiếng chuông kêu vang tai, nhức

óc.

Cuối cùng, Kha-trấn-ác không chịu nổi tiếng chuông dùng tay để nghe ngóng.

Và cũng nhớ thế, Âu-dương-Phong có đủ thì giờ để tìm cách đối phó.

Những tiếng chuông bất thường kia nếu đã giúp cho Âu-dương-Phong tránh được cây

thiết trượng của Kha-trấn-ác thì nó lại cho Âu-dương-Phong mối sợ hãi.

Bởi vì trong đêm vắng, tiếng chuông ngân liên hồi, nếu vợ chồng Quách-Tỉnh hay

được đến tiếp cứu thì tánh mạng Âu-dương-Phong khó bảo toàn. Như thế mối nguy cơ

lại còn trầm trọng hơn.

Âu-dương-Phong nghĩ nên đào tẩu là hơn, bèn lui chân về phía hậu viện.

Kha-trấn-ác tuy mù lòa cũng rất tinh anh, biết rằng đối phương có thể lợi dụng lúc

ông ta dừng tay để thoát thân, nên thiết trượng bất thần vụt về phía hậu môn một cái.

Đang bước lui, bị đòn thiết trượng, Âu-dương-Phong lúng túng phải né sang một bên,

và gây ra tiếng động.

Thế là Kha-trấn-ác lại có dịp theo dõi đối thủ. Lão hét lớn:

- à! Tao biết mày sống dai. Nhưng lần nầy, mày phải tuyệt mạng! Dẫu mày có còn

sống sót đi nữa cũng phải chịu tàn tật như tao.

Nói xong, tiến đến hậu môn, Âu-dương-Phong phải thụt lùi núp vào giá chuông. Và

Kha-trấn-ác cố đuổi theo không bỏ. Hai người vờn nhau chạy xung quanh giá chuông

như hai đứa bé chơi cái trò chơi đuổi bắt.

Dương-Qua đứng trên nhìn xuống thấy tình thế đoán biết nếu cuộc đuổi bắt này kéo

dài thì nhất định nghĩa phụ nó phải kiệt sức, và không thể nào thoát khỏi tay

Kha-trấn-ác.

Một ý kiến đột phá trong trí óc thằng bé tinh khôn. Nó ra hiệu cho nghĩa phụ nó phải

thay đổi chiến thuật và thoát ra khỏi phạm vi của chiếc chuông. Nhưng

Âu-dương-Phong đang chú mục vào Kha-trấn-ác, không để ý đến dấu hiệu của

Dương-Qua.

Dương-Qua không biết làm sao, mà cũng chẳng dám lên tiếng liền leo ra phía ngoài

có ánh trăng chiếu vào. Nó lấy tay ra hiệu Bóng đen của nó nhờ ánh trăng phản chiếu

đã làm cho Âu-dương-Phong lưu ý.

Thấy bóng tay thằng bé khoát qua khoát lại, Âu-dương-Phong tưởng nghĩa tử có dụng

ý bảo mau rời bỏ ngôi miếu, liền lập tức vụt chạy về phía tiền điện.

Kha-trấn-ác rất thính tai. Lúc bấy giờ chuông hết ngân, mọi vật im phăng phắc nên

hướng chân của Âu-dương-Phong lão nghe rõ mồn một.

Lão mừng thầm vì địch thủ đã bước vào tử lộ.

Thật vậy, Âu-dương-Phong thoát ra phía tiền điện chỉ là mớ thoát ra khỏi điện chứ

làm sao có lối thông ra đường.

Kha-trấn-ác trầm tỉnh và thận trọng hướng tai theo tiền điện, nhất định lần nầy đối thủ

không bao giờ có thể thoát thân.

Trong lúc đó, Dương-Qua lẹ làng cởi hài ra, đi chân không, bò nhẹ về phía hậu điện,

rồi bất thình lình đạp xuống đất một tiếng thật mạnh như tiếng động của một người

chạy. Kha-trấn-ác ngạc nhiên không hiểu sao cả. Rõ ràng tai lão nghe có tiếng người

ở hậu điện, và cũng rõ tai lão vừa nghe tiếng người chạy ra phía tiền điện.

Trong lúc Kha-trấn-ác đang trừ trù suy nghĩ, đứng ngay dưới chiếc chuông thì

Dương-Qua nhẹ nhàng nhón chân bước vào, leo lên giá chuông dùng chiếc dao đồ tể

cắt sợi dây thừng buộc chuông.

Chiếc dây thừng cứng quá, mặc dù dao rất bén nhưng úp ngay đầu Kha-trấn-ác.

May thay! Kha-trấn-ác lúc đó chống ngược cây thiết trượng cản hướng về chiếc

chuông, nên chuông rơi nhờ thiết trượng không trúng đầu. Chiếc chuông chạm phải

thiết trượng vang lên một tiếng rơi lật nghiêng sang một phía, úp Kha-trấn-ác vào

trong. Thất kinh, Kha-trấn-ác bò ra khỏi chuông nhưng vừa ra khỏi chưa kịp đứng dậy

thì cây thiết trượng chịu không nổi trọng lượng của chiếc chuông nên gãy làm đôi, và

đè một nửa cây thiết trượng dưới đất.

Cũng may, nếu cây thiết trượng gãy lúc nãy thì tánh mạng Kha-trấn-ác đã quy thiên

rồi.

Chẳng hiểu rõ sự việc ra sao. Kha-trấn-ác nghĩ rằng trong điện hẳn có một con quái

vật theo phá phách ông ta.

Nghĩ thế, lão chỉ còn có cách tạm lánh mình rồi sẽ tính.

Lão bò lần ra phía ngoài và tẩu thoát.

Đứng phía ngoài điện nhìn vào thấy Kha-trấn-ác thoát chết Âu-dương-Phong chép

miệng nói:

- Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc!

Dương-Qua lúc đó mới bò lần từ trên giá chuông xuống, mừng rỡ chạy đến bên

Âu-dương-Phong nói:

- Cha ơi! Lão mù đó nhất định không dám đến đây nữa đâu. Cha cứ lo tịnh dưỡng tâm

thần.

Âu-dương-Phong lắc đầu nói:

- Không đâu con ạ! Cha với nó có mối thù sâu như biển cả. Chẳng qua vì mất thiết

trượng nên nó tạm lánh để tìm phương kế, sớm muộn gì nó cũng trở lại. Hễ còn chút

hơi thở là nó còn phải trả thù.

Dương-Qua nói:

- Hay là cha con ta xa lánh nơi này, tạm tránh những nguy cơ dồn dập.

Âu-dương-Phong buồn bã, nói:

- Không được! Hiện giờ cha mang thương nặng gần kiệt sức không thể nào chạy đi

đâu xa được.

Dương-Qua hỏi:

- Thế thì chúng ta phải làm sao để tránh sự trả thù của lão già mù lòa kia?

Âu-dương-Phong suy nghĩ một hồi, đưa mắt nhìn chiếc chuông, nằm nghiêng trên nửa

cây thiết trượng, nói với Dương-Qua:

- Còn có cách này! Cha sẽ chen mình vào trong chiếc chuông con ở ngoài nắm cây

thiết trượng xeo lên cho chiếc chuông úp cha vào trong. Như thế rất bảo đảm. Cha sẽ

tránh được bàn tay của hắn.

Dương-Qua hỏi:

- Thế rồi lúc muốn ra cha làm sao ra được? Vả lại lúc cha đói bụng con làm sao

chuyền đồ ăn vào?

Âu-dương-Phong trả lời:

- Con đừng lo! Cha chỉ cần được yên ổn ngồi trong chuông độ bảy ngày đêm, không

cần ăn uống gì cả, cha sẽ lấy ngay lại được sức lực như xa. Chừng đó, chẳng những

cha đẩy hỏng chiếc chuông lên một cách dễ dàng mà còn đủ sức để đương đầu với

bọn chúng nữa. Cha chỉ sợ có một điều rủi Kha-trấn-ác đến đây giở chuông lên thì

thiệt mạng.

Dương-Qua nói:

- Lão già ấy cũng đang trong thương thế rất nặng, làm gì mà phá nổi chiếc đại đồng

chung. Nhưng thôi, con sẽ làm theo ý cha để cầu may.

Âu-dương-Phong liền bước đến ngồi gần bên chuông Dương-Qua cột dây vào đầu

thiết trượng hè hụi một hồi, nhờ sức của Âu-dương-Phong phụ vào mới lật úp chiếc

chuông lại được. Âu-dơng-Phong ngồi gọn vào trong.

Dương-Qua kêu nghĩa phụ mấy tiếng không nghe Âu-dương-Phong lên tiếng hắn biết

nghĩa phụ hắn đã được an toàn liền quay gót ra đi.

Nhưng vừa đến cửa, nó lại nẩy ra một ý kiến. Nó quay vào điện lấy con dao rạch máu

độc ở vết thương hoà một ít nước xung quanh chiếc đại đồng chung, nó tin chắc bất

cứ một người nào rờ tới chiếc chuông đó sẽ bị nhiễm độc của Xích-luyện thần

chưởng.

Thi hành xong diệu kế. Dương-Qua băng mình chạy một mạch về khách điếm. Nó chỉ

sợ Kha-trấn-ác về trước biết được sự vắng mặt của nó thì nguy.

Nhưng về đến nơi, thấy cánh cửa sau khách điếm còn mở rộng, Kha-trấn-ác chưa về.

Thế là nó an tâm vào phòng leo lên giường đắp mền giả ngủ để chờ nghe động tịnh.

Lòng nó băn khoăn tự hỏi chẳng biết vì đâu lão già mù lòa đó đến bây giờ vẫn chưa

về đến.

Cho đến gần sáng thì có tiếng gõ cửa. Dương-Qua làm như người vừa mới ngủ thức

dậy, mở cửa ngạc nhiên thấy Kha-trấn-ác trong một trạng thái vô cùng bi đát, đầu tóc

lão bơ phờ, quần áo lam lũ, mặt mày đầy máu đứng giữa ngưỡng cửa đưa hai tay ra

như muốn quờ quạng một cái gì đã mất.

Thấy hai bàn tay của lão đã bị thâm đen, Dương-Qua khi ấy đã trở lại cổ miếu và đã

thử lật chiếc chuông lên để hạ nốt Âu-dương-Phong, nhưng thằng bé làm bộ không

biết gì, la lớn:

- Trời ơi! Ông làm sao thế hở ông? Sao hai bàn tay của ông đen thâm như vậy? Chết

rồi! Ông lại bị mò phải kim độc của Lý-mạc-Thu rồi!

Vợ chồng Quách-Tỉnh nghe lạ chạy đến, thấy thế ngạc nhiên, ông lo lắng, hỏi:

- Thưa sư phụ! Sư phụ vì sao lại thế!

Kha-trấn-ác lắc đầu buồn rầu không trả lời.

Hoàng-Dung chợt thấy hai bàn tay thâm đen của lão, kinh ngạc nói:

- ái chà! Lại con nữ tặc Lý-mạc-Thu nữa rồi!

Dứt lời, nàng hướng về phía Quách-Tỉnh, nói:

- Anh chưa được khỏe hẳn, vậy cứ để một mình em đi tìm nó mà rửa hận! Em sẽ cùng

nó sống mái một phen anh nhé!

Nói xong nàng thoăn thoắt ra đi.

Kha-trấn-ác vội lên tiếng gọi lại:

- Không phải con nữ tặc Lý-mạc-Thu.

Hoàng-Dung dừng bước, quay đầu lại hỏi:

- Thưa sư phụ! vậy nó là ai?

Kha-trấn-ác trầm ngâm im lặng.

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đã thừa hiểu tâm trạng của Kha-trấn-ác. Ông lão không

bao giờ chịu nói tên kẻ chiến thắng mình.

Với một quá khứ oai hùng vẻ vang, dọc ngang trong chốn giang hồ làm sao người

hiệp sĩ già nầy không có dòng máu tự trọng. Khổ nỗi ngày nay trước sức yếu thân tàn,

bệnh tật. Kha-trấn-ác hết thảm bại trước Lý-mạc-Thu lại đến Âu-dương-Phong. Vợ

chồng Quách-Tỉnh biết thế không dám hỏi nữa. Mà có hỏi đến đâu, câu trả lời cũng

chẳng bao giờ đến, chỉ khiêu lên lòng bực tức đau buồn của Kha-trấn-ác mà thôi.

Vợ chồng Quách-Tỉnh đinh ninh rằng lão vừa bị nhục trước một kẻ vô danh tiểu tốt

nào đó.

Hoàng-Dung tỏ ý đưa mọi người trở lại Đào-hoa đảo để có dịp dưỡng bệnh, rồi mình

sẽ ra đi tìm kiếm Xích-luyện tiên tử.

Quách-Tỉnh thấy sư phụ mình trọng bệnh như thế này nên cũng bằng lòng.

Thế là đoàn người thuê thuyền tiến thẳng về đảo Đào-hoa.

Chiều hôm ấy họ neo thuyền ở một ven biển để thổi cơm.

Quách-Phù nguyên đã giận thái độ của Dương-Qua nên suốt cả ngày đường không hề

chuyện vãn. Khi thuyền đậu, Quách-Phù ngồi một mình nhìn ra cửa thuyền ngắm

cảnh trên bờ, chợt ngó thấy dưới gốc cây thùy liễu có hai đứa bé đang ngồi khóc.

Nhìn kỹ, nó nhận ra đó là Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hai đứa con trai của

Vũ-tam-Thông và Vũ-đại-Nương.

Quách-Phù cất tiếng gọi:

- Kìa! Các anh làm gì đấy?

Tu-Văn nín khóc, nhìn Quách-Phù đáp:

- Tao đang khóc, mày không thấy sao mà hỏi.

Quách-Phù hỏi:

- Vì sao lại khóc? Bị mẹ đánh chăng?

Vũ-tu-Văn đáp lời trong nước mắt:

- Mẹ tao mất rồi còn đâu mà đánh.

Hoàng-Dung rõ được tông tích hai đứa bé, ngạc nhiên nhảy vội lên bờ, nhìn thấy

chúng ngồi bên cạnh thây Vũ-tam-nương. Người thiếu phụ nầy thân thể đều bầm đen,

đúng là đã chết vì bất độc của Xích-Luyện thần chưởng.

Hoàng-Dung ôm hai đứa bé hỏi lại sự tình, và hỏi thăm tin tức của Vũ-tam-Thông.

Đôn-Nhu tha:

- Cháu chẳng biết cha cháu hiện giờ trôi dạt nơi đâu.

Tu-Văn nói:

- Cha cháu thấy mẹ cháu mất trí óc đã điên dại lại càng trở nên hỗn loạn. Chúng cháu

gọi thế nào cha cháu cũng bỏ đi, và hiện giờ chẳng biết đi đâu.

Dứt lời, cả hai đứa bé đều nổi lên khóc một lượt.

Hoàng-Dung hỏi:

- Hai cháu có đói không?

Hai đứa bé nghe hỏi mới nhớ lại rằng suốt ngày hôm ấy chúng nó chưa ăn một vật gì

trong miệng. Chúng thôi khóc và vật dần xuống.

Hoàng-Dung thương tình đưa chúng nó xuống thuyền bảo phụ thuyền dọn cơm, và cả

đoàn cùng chung ăn uống.

Ăn xong, Hoàng Dung lo quan quách chôn cất Vũ-tam-nương tử tế, rối sáng hôm sau

lại nhổ sào nhắm đảo Đào-hoa xuôi sông.

Bốn trẻ đồng môn

Chẳng bao lâu thuyền cặp bến đảo Đào-hoa. Trong suốt cuộc hành trình, Quách-Tỉnh

nhờ Hoàng-Dung săn sóc nên thương tích thuyên giảm khá nhiều, vả lại được một thời

gian nghỉ ngơi sức lực chàng bình phục như xưa.

Vợ chồng Quách-Tỉnh không lúc nào quên nghĩ đến Âu-dương-Phong. Họ lấy làm lạ

chẳng biết tại sao đã mười năm qua ông lão anh hùng nầy vẫn còn giữ được sức lực tài

năng và phong độ tự thuở nào, mặc dù tuổi đã về chiều. Thì ra con người kỳ dị ấy bất

chấp cả thời gian.

Đó là vợ chồng Quách-Tỉnh chưa chứng kiến vụ phục thù của Kha-trấn-ác đối với

Âu-dương-Phong nơi cổ miếu. Nếu họ thấy trận phục thù đó họ còn ngạc nhiên sức

dẻo dai của Âu-dương-Phong hơn nữa. Sáng hôm ấy, sau khi bàn bạc cùng nhau,

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung gọi Dương-Qua vào cật vấn về sự việc quá khứ.

Dương-Qua đang cùng con bé Quách-Phù bắt dế, nghe kêu nó đã đoán biết là nó sắp

trả lời những câu hỏi khó khăn nên đã dự ý trước.

Nguyễn Dương-Qua cùng người mẹ là Trần-nam-Ngân trước đây sống về nghề bắt rắn

nơi chân núi Trường-Lĩnh. Nghề bắt rắn vốn không phải là nghề kiếm ăn dư giả,

nhưng cũng nhàn hạ. Ban đêm họ chỉ vất vả mấy tiếng đồng hồ lục lạo ở các ven rừng

ở bờ bụi may ra cũng đủ độ nhật trong một ngày.

Đối với Trần Thị, nghề nghiệp và sinh kế không quan trọng bằng việc giáo dục con.

Ngày nào cũng như ngày nào, người mẹ kiên trinh ấy quyết tâm rèn luyện cho con

mình mong trở thành người lý tưởng.

Những lời giáo huấn môn phong trước đây đã vun đúc vào cho Dương-Qua một tâm

tánh phong nhã. Trần thị lại đem những ngón sở trường trong vũ thuật mà bà đã góp

nhặt trên bước phiêu lưu giang hồ để truyền lại cho Dương-Qua, đứa con duy nhất của

bà.

Từ khi Dương-Qua trí khôn mới bắt đầu thành hình đã tỏ ra thông minh đáo để. Nó

học đâu nhớ đó. Không một quyển sách nào, một lời giáo huấn nào của từ mẫu răn

dạy mà nó không thuộc làu. Đến như việc bắt rắn, nó chẳng học tập gì cả, cứ hàng

đêm xách đèn theo mẹ, ấy thế mà mới vừa lên tám nó đã có nhiều kế hoạch bắt rắn

thông thạo hơn người mẹ là khác.

Những lúc cùng nhau lặn lội dưới chân Trường-sơn để theo dấu vết những con rắn,

người mẹ thường kể cho Dương-Qua nghe là trên đời này chỉ có một người, hay đúng

hơn là một danh nhân lấy việc nuôi rắn để mưu đồ việc lớn. Danh nhân ấy có thể sai

khiến được rắn thành hàng ngũ, lập thành trận thế và điều khiển theo binh pháp. Danh

nhân ấy hiện trú ẩn nơi Bạch-đà-Sơn.

Câu chuyện nầy làm cho Dương-Qua lu ý và thích thú nhất. Có nhiều lúc

Dương-Qua mơ ước được thành danh nhân đó, nên nó tự mình bắt rắn huấn luyện theo

mơ tưởng.

Lần lần Dương-Qua nuôi được một đoàn rắn tinh khôn, biết nghe theo mệnh lệnh của

nó.

Tuy nhiên, nó vẫn chưa thỏa, ước mong sao một ngày nào đó nó gặp được vị danh

nhân để có thể sai khiến theo phép thuật danh truyền.

Mẹ con sống với nhau được mười năm thì một hôm người mẹ rủi ro bị rắn độc cắn,

trong người quên mang theo thuốc giải độc nên ngất lịm, nằm mê mang dưới chân

núi. Dương-Qua vội chạy về nhà lấy thuốc giải độc, nhưng đến nơi, nọc độc đã thấm

vào tim, người mẹ chỉ còn là một cái xác không hồn.

Còn biết làm sao hơn, Dương-Qua khóc lóc một hồi rồi đành nuốt hờn chôn cất người

mẹ, trở về sống cô đơn nơi chân núi với túp lều tranh trên đồi, nó chỉ còn một con

chim hồng và đàn rắn làm bạn.

Song lẽ, đã mất mẹ, người mẹ yêu dấu kia, nó còn thiết gì căn lều ở chân núi Trường

Lĩnh nữa, một hôm nó bỏ nhà đem con chim nhỏ và đàn rắn đi phiêu bạt đó đây, hi

vọng hão huyền sẽ được gặp vị danh nhân Bạch-Đà-Sơn để học thuật luyện rắn.

Chẳng ngờ bước phiêu lưu, tình cờ đã đa đẩy nó gặp gỡ Lý-mạc-Thu để mất cả chim

hồng và đàn rắn khôn, và thân nó bây giờ chỉ trơ trọi một mình không biết đâu nương

tựa...

Bao nhiêu câu chuyện về dĩ vãng nó đem kể lại cho vợ chồng Quách-Tỉnh nghe.

Nghe đến đây, Hoàng-Dung căm tức Lý-mạc-Thu đã sát hại con chim hồng mà chính

con chim ấy trước đây Hoàng-Dung đã từng nâng niu.

Tiếp đó, Hoàng-Dung lại cật vấn đến việc Dương-Qua ở đâu lúc Vũ-tam-Thông và

Âu-dương-Phong đấu nhau. Làm sao Dương-Qua lại quen biết Âu-dương-Phong và

Âu-dương-Phong là ai.

Dương-Qua cảm biết Hoàng-Dung là kẻ linh lợi, một kẽ hở nhỏ cũng đủ để

Hoàng-Dung thấu hiểu sự tình và khai thác hành tung nên nó một mực tỏ ra rất thản

nhiên, một mực tỏ ra thành khẩn để lập lại những điều mà nó đã sắp đặt trước. Thỉnh

thoảng nó kể những mẩu chuyện xen vào ăn khớp với người nầy người kia để đánh

trống lảng.

Nghe thằng bé kể lời lẽ tự nhiên, sự việc hợp tình hợp lý, lại tuổi tác nó còn nhỏ bé.

Hoàng-Dung thật khó lòng nghi ngờ. Tuy nhiên, nàng cũng khó mà tin cậy trước cái

vẻ tinh khôn của nó.

- Cháu ngoan lắm! Thôi cháu hãy ra ngoài chơi với anh em họ Vũ đi.

Dương-Qua ra khỏi phòng, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung tiếp tục bàn bạc.

Quách-Tỉnh nói:

- Này em Dung! Chắc em hiểu rõ lòng anh. Ngày nay anh gặp được cháu Dương-Qua

anh tưởng như cuộc hội ngộ trời cho thật lấy làm vui sướng.

Nguyên vì thuở trước ông thân sinh Quách-Tỉnh cùng ông nội Dương-Qua là đôi bạn

chí thiết. Bấy giờ nhân hai người vợ cùng có thai, đôi bạn thân bèn uớc hẹn cùng

nhau, hễ sanh đồng trai thì cho chúng làm anh em, đồng sinh gái thì cho chúng làm

chị em, nếu sanh một trai một gái thì cho chúng làm vợ chồng. Sau đó mỗi người vợ

đều sinh mỗi người một trai. Bởi vậy Dương-Khang và Quách-Tỉnh theo lời nguyện

ước của song thân kết làm anh em, xem nhau nh ruột thịt mặc dù khác họ.

Về sau Dương-Khang vì mạo nhận giặc cướp làm cho cha già bị chết thê thảm ở miếu

Thiết-Phương Gia-hưng-vương. Từ đó Quách-Tỉnh buồn bã thương nhớ không nguôi.

Nay tình cờ gặp đặng Dương-Qua, con của người anh em, Quách-Tỉnh xiết bao mừng

rỡ.

Hoàng-Dung tuy hiểu rõ tình ý của chồng, song không muốn chồng mình đem tình

cảm đối với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với lời ớc hẹn của phụ thân, Quách-Tỉnh

sẽ buộc gả con bé Quách-Phù cho Dương-Qua mà lòng nàng không thích.

Hoàng-Dung bảo:

- Như thế em không bằng lòng.

Quách-Tỉnh ngạc nhiên nhìn vợ, hỏi:

- Em không bằng lòng điều gì?

Hoàng-Dung đáp:

- Điều rất đơn giản là em không muốn gả Quách-Phù cho Dương-Qua, con một tên

tướng cướp.

Quách-Tỉnh nói:

- Dẫu em cho nó có thành tích bất hảo đi nữa cũng nên nghĩ đến lời thề ước của tiền

nhân. Vả lại Dương-Qua diện mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, tư cách thông minh. Nếu

chúng ta gia công rèn luyện chắc chắn sau này tương lai phải vẻ vang tươi sáng.

Hoàng-Dung lắc đầu, nói:

- Em chỉ ngại nó quá thông minh mà hỏng.

Quách-Tỉnh mỉm cười, nói:

- Thế sao em cũng thông minh và lanh lợi mà không hỏng. Có gì phải e ngại?

Hoàng-Dung cũng mỉm cười:

- Nhưng em nhờ gặp được người chồng tuấn kiệt như anh.

Quách-Tỉnh nhún vai nói:

- Nhưng sao em chắc rằng Dương-Qua không phải là người chồng lý tưởng của

Quách-Phù? Biết đâu khi lớn lên Quách-Phù lặn lội đó đây mà không sao tìm được

người chồng thông minh tuấn kiệt như Dương-Qua.

Hoàng-Dung bĩu môi, nói:

- Chà quí quá!

Sau mấy câu trò đùa, Quách-Tỉnh nghiêm trang nói:

- Lúc sinh tiền thân phụ thường nhắc với anh rằng khi Dương-thúc-Tâm lâm chung,

thúc phụ tỏ ý hy vọng anh có thể giữ trọn lời thề. Nếu nay anh không săn sóc

Dương-Qua coi như con đẻ thì anh đã phụ lòng thân sinh, và chữ hiếu anh không làm

tròn, mà chữ nghĩa cũng chẳng đầy đủ.

Dứt lời, Quách-Tỉnh buông tiếng thở dài.

Tiếng thở dài đầy tình cảm và nhơn nghĩa đã làm cho tâm hồn lẫn lý trí Hoàng-Dung

phải dao động.

Hoàng-Dung hạ thấp giọng nói:

- Em nói thế chứ đôi trẻ còn nhỏ đã gấp gì định đoạt. Ngày sau, nếu Dương-Qua quả

là người tốt thì anh muốn thế nào em xin nghe theo thế ấy, không có gì làm cho anh

băn khoăn.

Quách-Tỉnh liền đứng dậy, hai tay chấp lại trịnh trọng nói:

- Đa tạ nương tử bằng lòng bỉ nhân vô cùng cảm kích.

Hoàng-Dung cũng thủ lễ, chấp tay bái chồng, trịnh trọng thưa:

- Thưa phu quân! Thiếp bằng lòng trong tương lai, nếu Dương-Qua là người tốt.

Quách-Tỉnh nghiêm trang, nói với giọng cương quyết:

- Dương-Khang, cha của Dương-Qua sống trong Vương-phủ Kim-quốc có thể có

những điểm hư hỏng, nhưng Dương-Qua nếu đã được giáo dục trên đảo Đào-hoa

không có lý gì lại không trở nên một chàng trai tuấn kiệt! Điều đó em khỏi lo!

Hoàng-Dung mỉm cười nói sang câu chuyện khác, không bàn luận đến việc

Dương-Qua nữa.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên xét qua đôi tâm hồn non trẻ của Dương-Qua và

Quách-Phù.

Ban đầu, lúc mới gặp nhau, cô bé Quách-Phù vốn có ác cảm với Dương-Qua, không

chịu làm bạn với nhau. Nhưng trẻ thơ dễ quên, chẳng bao lâu Quách-Phù lại rủ

Dương-Qua đi bắt dế ngoài khuê viên. Và bao nhiêu hiềm khích đều quên hết.

Lúc Dương-Qua bị Hoàng-Dung gọi vào chất vấn. Quách-Phù ngồi đợi mãi một lúc

mới thấy Dương-Qua trở ra.

Dương-Qua nghe trong lùm cây có tiếng nói xì xào liền đưa mắt nhìn vào, thấy anh

em họ Vũ ra đấy tự bao giờ, và cũng đang cùng với Quách-Phù bắt dế. Vũ-đôn-Nhu

tay xách một chiếc lồng tre nhỏ, Quách-Phù bưng một cái thẩu lớn, cả hai đang lum

khum nhìn xuống một tảng đá, nơi đấy Tu-Văn đang ra sức lật lên một vừng đất.

Vừng đất vừa lật lên, một con dế rất lớn nhảy phóc ra, Tu-Văn hối hả đuổi theo chụp.

Quách-Phù mừng rỡ, reo lên:

- A! Dế lớn quá! Anh bắt cho em nhé!

Tu-Văn cẩn thận cầm con dế trao cho Quách-Phù, nói:

- Con dế này đẹp lắm, xin biếu cô nương.

Quách-Phù cầm lấy, mở nắp thần bỏ vào. Qua làn thủy tinh con dế quả có một thân

hình vô cùng đẹp đẽ. Màu vàng sẫm, đầu vuông, càng lớn, vế to, chắc chắn nó là một

cự tướng trong làng dế.

Vũ-tu-Văn nói:

- Dế này phải gọi là vô địch đại tướng quân.

Rồi Tu-Văn quay lại nói với Dương-Qua.

-Nầy Dương huynh! Số dế của Dương huynh bắt được có con nào địch lại với con nầy

chăng. Nếu có, đem ra đấu một trận th hùng cho biết sức.

Dương-Qua thấy Tu-Văn có vẻ khiêu khích, tỏ ý bất bình nhưng không nói gì cả, lấy

giỏ dế của mình ra, lựa một con lớn nhất, hùng dũng nhất thả vào bồn đấu.

Con dế lớn màu vàng sẫm thấy bóng địch thủ liền gáy lên một tiếng, giương hai càng

múa râu lên trời trong dáng điệu rất dũng mãnh.

Qua một lúc, nó tung hai chiếc đùi đá lại vào con dế của Dương-Qua một đòn làm

cho con dế của Dương-Qua khiếp quá, quay đầu bỏ chạy.

Quách-Phù vỗ tay reo mừng với sự đắc thắng của con dế mình.

Dương-Qua bực tức, nói:

- Như thế dân đã thắng! Còn nhiều con dế khác nữa chứ!

Nói xong, Dương-Qua đa ra một con dế khác thả vào bồn nhưng ba lần đều bị thất

bại. Lần nào dế của Dương-Qua cũng bị con dế màu sậm kia cắn đá tơi bời sứt cánh,

cong càng, bể bụng.

Dương-Qua bị chạm tự ái, nói lớn:

- Thôi, tôi chẳng thèm chơi dế nữa đâu.

Đoạn nó bỏ đi. Nhưng nó vừa bước được mấy bước. Tu-Văn lắng tai nghe trong lùm

cây có tiếng đổ rào, thanh âm nghe kỳ lạ. Vũ-đôn-Nhu vỗ tay nói:

- Trong bụi nầy chắc còn có một con dế oai hùng không kém.

Rồi nó chạy đến phanh phui bụi cây để thu hồi, nhưng vừa vạch lùm cây, nó bỗng

kinh hãi la lớn nhảy ra đằng sau:

- Ôi chao! Con rắn!

Dương-Qua nghe là rắn liền nhảy đến thì quả nhiên đó là một con rắn độc, thân mình

điểm hoa mai có khoanh tròn dưới bụi cây, đầu ngóc cao và lưỡi lè ra trông dáng điệu

hung hăng lắm!

Như đã biết Dương-Qua vốn sống về nghề bắt rắn cho nên nó không hoảng hốt như

mấy đứa trẻ kia, bình tĩnh tiến sát vào một tay phe phẩy trước đầu rắn, một tay đập

dưới đất.

Con rắn hấp tấp mổ vào tay Dương-Qua chưa trúng đích thì đã bị bàn tay kia của

Dương-Qua tóm vào cổ quật xuống đất chết tươi.

Bọn trẻ khen tài Dương-Qua và đang xúm nhau nhìn xác con rắn thì bỗng nghe có

tiếng dế reo. Rồi một con dế nhỏ từ dưới xác con rắn bò ra, thân mình nó xấu xí đến

kỳ dị, màu đen như than, đôi cánh chẳng có một đốm hoa nào tô điểm.

Quách-Phù nhìn Dương-Qua cợt đùa nói:

- Kìa Dương huynh! Con dế của Dương huynh đó sao chẳng bắt.

Dương-Qua phật ý, song cũng đáp lời:

- Vâng! Thì tôi sửa soạn bắt nó đây.

Dứt lời, Dương-Qua cúi xuống bắt lấy con dế và thả vào chiếc bồn thủy tinh của

Quách-Phù:

Lạ thay, con dế lớn màu đỏ sậm, vừa trông thấy con dế đen liền nép mình khiếp sợ.

Dế đen tiến đến tới đâu là dế đỏ sậm thụt lui đến đó.

Đối với các con dế khác, dế lớn oai hùng, vểnh râu múa càng như thế mà với con dế

đen nhỏ nầy thì lại tỏ ra khiếp nhược chạy tròn theo hình bồn thủy tinh.

Chưa đủ, để tỏ ra nhục nhã hơn nữa, con dế lớn muốn thoát ra ngoài bồn. Nhưng đâu

có được với con dế nhỏ. Nó búng mình nhảy theo cắn ngay vào bụng, dùng hai càng

bật mạnh. Chỉ một đòn thôi, con dế lớn đã vỡ bụng chết ngay.

Thật ra cuộc đấu này không có gì kỳ lạ. Phàm loài dế có những loại sống trong hang

của các loài vật khác thường hay nhiễm lấy màu sắc và độc tính của những loại đồng

cư. Chẳng hạn như dế cùng sống với cóc người ta gọi là dế cóc thì cánh có lốm đốm

hoa: dế cùng sống với rắn thì gọi là dế rắn. Dế này nhiễm độc, cắn vào vật nào thì vật

ấy chết tươi. Nhưng chỉ có giữa loài dế mới phân biệt được.

Con dế Dương-Qua vừa bắt chính là loại dế rắn.

Quách-Phù thấy dế lớn chết, tỏ vẻ không vui, suy nghĩ một hồi rồi nói với

Dương-Qua:

- Anh cho em xin con dế "tiểu hắc quỉ" nầy nhé!

Tiểu hắc quỉ là Quách-Phù muốn ám chỉ con dế vừa nhỏ vừa đen nhưng độc ác.

Dương-Qua được dịp kiêu hãnh đáp:

- Cô nương xin làm gì con vật xấu xí này! Sao cô nương lại nguyền rủa nó là tiểu hắc

quỉ?

Quách-Phù bị chạm tự ái bĩu môi nói:

- Không cho thì thôi! Coi bộ quí lắm đấy.

Dứt lời, Quách-Phù lật úp chiếc bồn xuống, trút con dế đen ra ngoài đất rồi lấy chân

chà nát.

Dương-Qua thấy thế nổi giận mặt đỏ phừng phừng, đưa tay tát vào con bé một cái nên

thân.

Bị cái tát bất ngờ, Quách-Phù xửng vững mặt mày. Cô ta đứng trân chưa kịp suy xét

xem có nên khóc hay nên không thì Vũ-tu-Văn đã tiến đến sừng sộ:

- Đồ vũ phu! Sao lại đánh người ta.

Dứt lời Tu-Văn đấm vào bụng Dương-Qua một thôi.

Vũ-tu-Văn vốn được người mẹ cố công rèn luyện nên đánh rất đúng cách. Dương-Qua

bị đánh bất ngờ, đau quá đưa tay thoi lại. Nhưng Tu-Văn né kịp sang bên rồi thuận để

đánh tới.

Dương-Qua nhảy chồm lên, quyết cùng Tu-Văn một trận kịch chiến. Khốn thay lúc

đó Đôn-Nhu cũng chạy đến kịp đưa chân khoèo vào chân Dương-Qua làm cho

Dương-Qua té nhào dưới đất. Vũ-tu-Văn liền nhảy phóc vào người Dương-Qua, gối

lên bụng, hai đầu gối kẹp vào hông. Rồi hai anh em họ Vũ thi nhau dùng cả bốn tay

thoi Dương-Qua tới tấp.

Dương-Qua tuy lớn tuổi hơn anh em họ Vũ, song không thể một mình đương cự cả

hai. Phần thì võ nghệ Dương-Qua cũng chẳng luyện tập là bao lại ở trong thế bị động

nên không dư sức vận dụng nội công để chiụ những đòn tán loạn đó.

Hai anh em họ Vũ thắng thế vừa cười vừa thoi vào Dương-Qua bình bịch. Nhưng tuyệt

nhiên, chúng không dám động đến mặt mày sợ vợ chồng Quách-Tỉnh biết được thì

khốn.

Quách-Phù thấy anh em họ Vũ đánh Dương-Qua ban đầu lấy làm đắc ý. Nhưng sau

thấy Dương-Qua đau đớn quá cũng động lòng và lo ngại.

Tuy nhiên, cô bé này rờ lên mặt cảm thấy dấu tay của Dương-Qua còn nóng rát trên

vừng má, tức giận nói với anh em Tu-Văn:

- Cứ đánh nữa đi! Đánh nữa đi!

Hai anh em họ Vũ nghe lời cổ võ của Quách-Phù lại càng hăng lên nữa, ráng sức thoi

thật mạnh vào người Dương-Qua.

Dương-Qua bị kẹt dưới sức nặng của Tu-Văn vê hai đầu gối đau đớn, không thể nào

vùng vẫy được, đành nằm im thiêm thiếp chịu đựng những quả đấm liên hồi.

Đến lúc hắn nghe tiếng Quách-Phù cổ võ, bảo anh em Tu-Văn đánh nữa, hắn lẩm

bẩm:

- A! Con bé này độc ác thật. Rồi sau này mày sẽ biết tay tao.

Trong lúc đó hai anh em Vũ-tu-Văn thi nhau đánh vào người nó như đánh vào một bị

gạo. Dương-Qua quá đau đớn, co rút người lại, hai tay quờ quạng dưới đất. Bỗng tay

nó vướng phải một vật gì lạnh buốt. Thì ra đó là xác con rắn chết lúc nãy.

Một ý kiến nảy nở trong óc, Dương-Qua nắm lấy đầu con rắn vung lên. Hai anh em

Vũ-tu-Văn thất kinh, ngỡ con rắn sống lại, vội bỏ Dương-Qua kéo nhau chạy.

Thừa thế, Dương-Qua tung người dậy, đánh vào mũi Vũ-tu-Văn một đòn rất hiểm

độc, rồi bỏ chạy.

Vũ-tu-Văn bị trúng phải, máu mũi vọt ra lai láng. Hai anh em tức giận băng mình

đuổi theo Dương-Qua. Quách-Phù cũng hăng máu, chạy theo rất gấp, miệng la lớn:

- Bắt nó cho được! Hãy bắt nó cho được!

Dương-Qua chạy một hồi quay đầu lại thấy Tu-Văn mặt mày quần áo đều nhuộm

máu. Biết rằng nếu anh em họ Vũ đuổi kịp ắt nó không thoát được hiểm nghèo. Nó

liền nhắm hướng về phía đồi núi chạy một mạch.

Vũ-tu-Văn tay bị đánh trúng mũi song thương tích không lấy gì làm nhục. Nó chỉ tức

giận Dương-Qua đã làm nhục nó trước mặt Quách-Phù mà thôi.

Thấy bị đuổi quá gấp, Dương-Qua liền leo lên đồi núi. Vốn quen sống với đồi núi,

Dương-Qua trèo núi rất nhanh. Chẳng mấy chốc nó leo lên tận đỉnh.

ác hại thay, đỉnh núi ấy phía bên kia dốc đứng thẳng, nếu vượt qua sẽ bị lăn nhào

xuống nát thây.

Tình trạng ấy khiến Dương-Qua bối rối quay đầu nhìn anh em họ Vũ đang lần mò

đuổi đến.

Nó chỉ vào đỉnh núi la lớn:

- Nầy nầy! Nếu chúng mày tiến lên một bước nữa ta nhảy qua bên kia đấy!

Anh em Vũ-tu-Văn nhìn thấy dốc núi ghê sợ, hoang mang không biết có nên đuổi

theo nó nữa chăng.

Qua một hồi suy tính, Vũ-tu-Văn cương quyết nói lớn:

- Mày muốn nát xương thì nhảy qua đó. Chúng tao đâu thèm quan tâm đến sinh mạng

mày.

Dứt lời hai anh em họ Vũ ra sức đuổi nó.

Thấy không thể hăm dọa được anh em Tu-Văn. Dương-Qua phân vân không biết xử

trí cách nào, thì chợt nó trông thấy gần đấy có một tảng đá lắc lư bên sườn núi tựa hồ

như chỉ dựa vào một điểm tựa mong manh.

Dương-Qua chạy đến định núp mình vào tảng đá. Nhưng tay nó vừa mò tới thì tảng đá

bỗng sụt xuống lăn theo sườn núi phát ra những tiếng ầm ầm như sấm, đất bụi tung

lên mịt mù, trông rất khủng khiếp.

Tảng đá lăn xuống đúng vào chỗ anh em họ Vũ.

Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hồn vía không còn, mặt mày xanh nhợt không còn biết

tránh đi đâu, chỉ chờ tảng đá lăn xuống nghiền nát mà thôi.

Trong lúc nguy hiểm, bỗng hai anh em Tu-Văn cảm thấy như mình bay lơ lửng trên

không và thoát dần ra khỏi đám bụi mờ.

Thì ra, hai con thần ưng chẳng biết từ đâu đến cứu đứa bé thoát cơn nguy khốn. Hai

con thần ưng đa hai đứa bé thẳng ra bể khơi.

Hoàng-Dung đang ngồi trong nhà bỗng nghe một tiếng ầm kinh dị, rồi tiếp đến tiếng

kêu của thần ưng. Nàng đoán có việc chẳng lành, liền vụt chạy ra ngoài, thấy cát bụi

bay mịt trời ở nơi sườn núi. Lại thấy Quách-Phù đang ẩn mình trong hốc đá. Nàng hốt

hoảng chạy đến ôm chầm lấy con, đưa ra khỏi chỗ hiểm nghèo.

Hai con thần ưng thấy Hoàng-Dung liền hạ xuống bỏ hai anh em họ Vũ trên đất và

thốt ra những tiếng kêu như muốn tường trình công việc vừa xảy ra.

Hoàng-Dung ôm lấy đứa con gái hỏi:

- Việc gì như thế?

Quách-Phù ngả đầu vào lòng mẹ, sụt sùi kể lại câu chuyện nào Dương-Qua tát vào

mặt nó, nào Dương-Qua thoi vào người Tu-Văn vọt máu, nào Dương-Qua xô đá định

giết anh em họ Vũ. Con bé đề cao việc anh em họ Vũ, bênh vực nó, tuyệt nhiên

không hề nói đến lỗi lầm của anh em họ Vũ đối với Dương-Qua.

Nghe kể, Hoàng-Dung sửng sốt không nói nên lời.

Bấy giờ Quách-Tỉnh cũng chạy đến xem thấy cơ sự trước mắt lấy làm kinh ngạc, lo

ngại vì sợ Dương-Qua trốn mất nên chạy đi tìm.

Quách-Tỉnh đi lùng một hồi lâu trong chân núi chẳng thấy bóng Dương-Qua đâu, liền

đua tay lên miệng làm loa, rống lên một tiếng như sấm động.

- Dương-Qua ơi! Dương-Qua ơi!

Tiếng kêu dội ra hàng chục dặm, nhưng rồi dư âm cũng chìm đắm trong tĩnh mịch

của núi rừng, không có một lời hồi đáp.

Ngỡ là Dương-Qua có thể vượt biển bơi vào đất liền, nên Quách-Tỉnh dùng thuyền bơi

quanh đảo. Nhưng rồi cũng vô hiệu. Trời tối dần, màn đêm bao phủ cảnh vật,

Quách-Tỉnh phải trở về với một mối buồn man mác.

Nguyên lúc Dương-Qua vừa đụng vào tảng đá, tảng đá vừa lăn xuống thì nó cũng mất

thăng bằng rơi xuống một cái hốc lớn. Kế đó nó thấy đôi thần ưng cắp anh em họ Vũ,

rồi đến Hoàng-Dung xuất hiện, nó ái ngại trong lòng, nghĩ rằng nếu nó trở về thế nào

việc chẳng lành cũng xảy ra. Nó liền tìm một khe đá kín đáo hơn lẩn trốn.

Bỗng nó nghe tiếng Quách-Tỉnh gọi, nhưng nó chẳng đáp lại, nép mình nằm im thin

thít đến nỗi dẫu Quách-Tỉnh có đến gần cũng không thể nào trông thấy.

Rồi nó ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Đến khi thức dậy, nó thấy bốn bề quạnh

vắng, màn đêm bao phủ mịt mùng, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rỉ rả trong canh

khuya.

Nó cảm thấy bụng nó đói như cào, nó lần bước ra ngoài khe đá. Gió lạnh lùa vào mặt,

ánh sao vàng nhấp nhánh đầy nỗi cô đơn.

Nhìn xuống chân núi về phía trang trại, nó thấy ánh đèn còn leo lét qua các khe cửa.

Một vài bóng đen thấp thoáng trong sân, nó tưởng tượng đến một khung cảnh ấm êm

trong gia đình với Quách.

Vừa đói cơm vừa khát nước, vừa thèm thuồng cái cảnh đoàn viên, nó muốn quay về

sống chung với họ Quách, nhưng nó lại sợ. Hoàng-Dung, một con người lanh lợi

thông minh không có một điều gì có thể qua mắt được. Nó trù trừ suy tính mãi.

Nhng rồi cuối cùng nó thích cảnh tự do, không muốn đem vào người nó một ràng

buộc nào.

Nó trở lại khe đá đánh một giấc ngon lành cho đến sáng.

Ngày hôm sau, nó vẫn nằm trong khe đá, không dám ló mặt ra ngoài, vì nó biết

Quách-Tỉnh thế nào cũng đang đi tìm kiếm.

Rồi đến lúc chiều tối, nó lại lần ra ngoài, nhìn cảnh tấp nập vui vẻ của trang trại như

muốn khêu gợi lòng khát khao của nó. Tuy nhiên, nó hình dung nét mặt nghi ngờ của

Hoàng-Dung và dáng điệu nham hiểm của Quách-Phù, nhất định nó không trở về.

Sống trong tình trạng đó hai ngày thì người nó lả đi vì đói khát, nó nhất định phải tìm

phương sống. Nó liền trèo qua bên kia đỉnh núi mò đến một con suối bắt nhái ở hai

bên bờ cỏ đánh lửa nướng ăn.

Nhưng khi đánh lửa nó lại sợ vô tình chỉ nơi trú ẩn mình cho Quách-Tỉnh, nên nó rất

cẩn thận. Trước khi mẹ nó thường nói những lúc cần thiết phải thổi lửa mà không

muốn lên khói thì phải dùng những que củi thật khô, bóc hết vỏ. Trường hợp nó xét

thấy cần cẩn thận hơn, nó chỉ dùng hai lõm cây khô để tránh khói.

Đang ăn mấy con nhái nướng ngon lanh, bỗng nó nghe bên sườn núi có tiếng rắn kêu.

Nó rón rén bước ra xem, thì ra một con rắn đang oanh hùng với một con cóc. Con rắn

hổ phóng cổ lên bằng nắm tay, đầu dựng đứng toan áp đảo con cóc vàng.

Cóc ta lấm la lấm lét, chú mục nhìn theo đầu rắn, hai chân trước ghì xuống đất, hai

chân sau tọa lạc trong thế sẵn sàng tung bắn.

Bỗng con rắn hổ đâm vào thân cóc. Nhưng cóc không nao núng ngẩng cao đầu lên để

nghênh địch. Và khi rắn xông vào thì cóc đã phì một đám bọt trắng làm cho rắn tối

mặt mày. Rắn liền cuộn tròn thân hình trong thế thủ, nhưng hình như độc cóc nơi bọt

trắng bắt đầu thấm dần vào mồm mép của rắn, nên rắn dần dần cảm thấy suy yếu,

cuối cùng tự xét mình không đủ sức đương cự, liền bỏ cóc lẩn tránh vào bụi cây.

Đắc thắng, cóc kêu lên mấy tiếng giống như là tiếng kêu của Tây-độc

Âu-dương-Phong lúc đánh thế võ "hàm mổ công" vậy. (Hàm mổ có nghĩa là con cóc,

con nhái).

Dương-Qua kinh ngạc, tự hỏi:

- Phải chăng Tây-độc Âu-dương-Phong đã quan sát lối tấn công kỳ dị của loài cóc để

sáng tạo ra thế võ "hàm mổ công".

Đang suy nghĩ, bỗng từ sườn đồi có tiếng gọi của Quách-Tỉnh, tiếng gọi nghe thiết

tha và cảm mến. Tuy nhiên, Dương-Qua tự nghĩ rằng Quách-Tỉnh là người thù của

nghĩa phụ nó, nếu nó trở về với Quách-Tỉnh không khỏi bị đánh tan xương.

Nghĩ thế nó trở vào khe đá trốn. Nó vật mình nằm xuống phiến đá, bỗng nó thấy từ

bên ngoài, Âu-dương-Phong rón rén bước vào, vỗ nhẹ vào đầu nó, nói:

- Cha trở lại tìm con! Từ nay không còn gì ngăn cách cha con ta nữa. Cha tiếp tục dạy

con võ nghệ để sau này lớn lên con sẽ là một hiệp sĩ vô địch trong thiên hạ.

Nói xong, Âu-dương-Phong dựng nó đứng dậy, và hai cha con mỗi người thủ thế trên

phiến đá như hai võ sĩ đang hờm đấu với nhau.

Lạ thay, Dương-Qua nhận thấy lần này Âu-dương-Phong không có một lời chỉ dẫn về

mỗi động tác của chân tay, mà cứ nhìn nó với cặp mắt đầy sát khí rồi liên hồi tấn

công vào nó như đang tấn công một địch thủ chân chính. Nó có cảm giác như nó đang

đương đầu với một địch thủ và nó thầm bảo có lẽ lần này nghĩa phụ nó đã áp dụng

một phương pháp giáo dục thực tiễn hơn chăng.

Bỗng lão già hô lên những tiếng "ngoạp, ngoạp" chấn động cả khe núi khiến cho nó

nhớ lại cuộc đấu hồi nãy giữa cóc và rắn.

Vì đãng trí nên thiếu đề phòng nó bị một quả chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong

đánh trúng làm cho nó bật ngửa trên phiến đá đau điếng cả người. Nó lấy tay ôm mặt

suýt xoa, nhưng vừa ôm mặt thì bỗng nó tỉnh dậy, đưa mắt nhìn bốn phía, không thấy

Âu-dương-Phong đâu cả. Nó mỉm cười biết rằng nó vừa qua một giấc mộng.

Nó bước ra khỏi khe đá, leo xuống núi để tìm thức ăn thì bắt đầu từ trong một lùm

cây tiếng rống của Quách-Tỉnh vang lên:

-Dương-Qua! Dương-Qua!

Nó bối rối định vụt chạy, nhưng không còn kịp nữa, chân nó lính quýnh vấp vào một

tảng đá ngã xuống và Quách-Tỉnh nhảy đến ôm chầm nó vào mình.

Dương-Qua nhắm mắt lại, tưởng rằng Quách-Tỉnh sẽ nổi giận đánh cho nó một trận

nên thân.

Nhưng không, Quách-Tỉnh vẫn thiết tha, dịu giọng nói:

- Cháu Qua! Sao cháu dại dột muốn bỏ chú mà đi?

Lại thấy nó lả người đi vì đói, Quách-Tỉnh liền vác nó lên đem về trang trại.

Mọi người thấy Dương-Qua trong tình trạng hôn mê liền ra công săn sóc, nào thuốc

men, nào hoa quả. Tuyệt nhiên không một ai đả động đến những sự việc vừa qua.

Chẳng mấy bữa, Dương-Qua được bình phục sức lực như xa.

Vào một bữa ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh cho thiết lập hương án ở sảnh đường,

thỉnh bài vị của Lục-quái Giang-nam, mời sư phụ Kha-trấn-ác đứng làm chủ lễ và tập

họp cả gia đình lẫn gia nhân chứng kiến.

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung mỗi người trịnh trọng đứng vào hai bên bàn án, còn bên

trẻ Quách-Phù, Vũ-tu-Văn. Vũ-đôn-Nhu và Dương-Qua gọn gàng trong bốn bộ y

phục hiệp sĩ quỳ sát trước hương án Lục-quái Giang-Nam.

Giữa bầu không khí trang nghiêm của sảnh đường, tiếng chiêng trống nổi lên vang

dội. Mọi người im phăng phắc.

Chiêng trống vừa dứt, Quách-Tỉnh bước ra, hướng về bức di-họa của Lục-quái bái

mấy bái rồi thưa với Kha-trấn-ác:

- Thưa sư phụ, hôm nay con là Quách-Tỉnh, xin phép sư phụ được nhận bốn trẻ môn

đệ của võ phái Giang-Nam chúng ta. Tre già măng mọc là lẽ đương nhiên của tạo

hoá. Song trong vườn võ nghệ, măng non cần phải được uốn nắn để lúc thành tre mới

hữu dụng.

Đoạn, Quách-Tỉnh quay về phía bốn môn đệ nói:

- Quách-Phù, Vũ-tu-Văn, Vũ-đôn-Nhu, Dương-Qua, các con hãy bái lạy di-họa của

Lục-quái Giang-nam đi. Trước linh hồn của sáu vị anh hùng quá cố, và trước sự chứng

kiến của sư phụ ta, các con hãy thề trở nên những môn đồ xứng đáng, và hãy xem

nhau như ruột thịt.

Lời nói nghiêm trang, đầy thiện chí của Quách-Tỉnh vừa dứt thì bốn trẻ cùng một lúc

cung kính lạy trước hương án, rồi lần lượt xá Kha-trấn-ác, Quách-Tỉnh rồi đến

Hoàng-Dung.

Cuộc lễ xong, Quách-Phù níu áo mẹ nũng nịu:

- Lúc nãy trước bàn thờ vì trang nghiêm quá con không dám nói chứ bắt con kết nghĩa

với Dương-Qua con không bằng lòng đâu.

Hoàng-Dung đang suy nghĩ lời nói của con, chưa kịp trả lời thì Quách-Tỉnh đã quắc

mắt nói:

- Con không được tỏ ra bội ước như vậy! Phàm trong môn phái nhà ta, lời thề là trọng.

Tính mạng có thể mất chứ danh dự nhất định không thể để mờ phai. Nhất là lời thề

trước Thất-quái Giang-nam, sáu chết một còn, lại càng quan trọng lắm. Ta nay còn

phải trọng lời thề mà khắc cốt ghi lòng.

Đoạn hướng về mọi người, Quách-Tỉnh nói tiếp:

- Tính tôi, công phu vũ nghệ học hỏi cũng có thể gọi là khá nhiều, ngoài căn bản do

Thất hiệp truyền thụ, tôi đã từng thao luyện vũ pháp nội công của phái đoàn

Toàn-Chân và của Tâm-Đại-Tông Đông-Nam-Bắc. Nhưng để bắt đầu, tôi xin truyền

dạy cho môn đệ những ngón vỡ lòng mà Kha-sư-phụ đã truyền giáo cho tôi.

Trong lúc Quách-Tỉnh nói, Hoàng Dung để ý vẻ mặt trầm ngâm của Dương-Qua, và

nhớ lại hành tung khả nghi của đứa bé nầy, bụng bảo dạ:

- Cha thằng bé nầy thực ra không phải ta giết, nhưng việc đó ngoài ta ra có ai biết

được. Ai cũng nghĩ rằng ta đã sát hại cha nó. Mà nếu mọi người đều nói như vậy thì

nó không thể nghĩ khác đi được. Nay Quách-Tỉnh lại đem những bí quyết của môn

phái mà truyền dạy tất sau này đi học. Chi bằng...

Nghĩ đến đây, Hoàng-Dung liền nói với chồng:

- Anh ạ! Em nghĩ rằng một mình anh phụ giáo cho cả thì sẽ quá vất vả. Xin anh giao

Dương-Qua để em thay anh giáo dục.

Quách-Tỉnh chưa kịp đáp lời vợ, Kha-trấn-ác tán thành nói:

- Như vậy, rất phải! Thế thì hai con đua nhau dạy bảo để ta xem đồ đệ nào mau tiến

bộ hơn.

Quách-Tỉnh vẫn thường công nhận vợ thông minh lanh lợi hơn mình, nếu Dương-Qua

được vợ chỉ giáo thì thấy không trở ngại, liền nói:

- Tốt lắm! Em sẽ giúp anh trong việc đào tạo chúng nó.

Hoàng-Dung nói:

- Phàm trong nguyên tắc dạy dỗ điều cầu yếu là phải liên tục và duy nhất. Vậy thiết

tưởng chúng ta phải qui định một nhiệm vụ hẳn hoi. Người nào phụ trách môn đồ nào

phải chịu trách nhiệm môn đồ ấy. Anh không cần lo cho Dương-Qua, ngược lại em

cũng không cần để ý đến ba đứa trẻ kia. Mỗi đứa bé có một khả năng, tâm trạng và

hoàn cảnh đặc biệt. Thế thì việc giáo dục không thể đem áp dụng một phương pháp

giống nhau.

Quách-Tỉnh vô tâm, không hiểu được dụng ý của vợ, trả lời:

- Điều đó có gì mà phải phân trần.

Hoàng-Dung liền gọi Dương-Qua lại bảo:

- Qua nhi! Hãy theo ta vào đây.

Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song đã có đủ thông minh để suy luận. Nó hiểu phần

nào dụng tâm của Hoàng-Dung song nó vẫn có ác cảm với ba đứa trẻ kia, không

muốn cùng chung tập luyện, nó hoan hỉ được một mình một trường theo thọ giáo với

Hoàng-Dung.

Hoàng-Dung bắt nó vào thư phòng, đặt nó ngồi trước một án thư, rồi lấy ra mấy

quyển sách cũ kỹ, giảng:

- Từ nay mặc dù theo cuộc lễ chính thức vừa qua, sư phụ của con là Quách-Tỉnh,

song ta được ủy thác để chăm sóc giáo dục con, con phải vâng lời ta dạy bảo. Điều

trước tiên con phải biết dưới sư phụ của con lại có bảy sư phụ danh truyền là

Thất-quái Giang-nam, Kha-Công là đại-sư, còn nhị sư là Châu-Thông có văn tài đặc

biệt. Vậy ta giảng cho con nghe những tuyệt tài trong văn chương của Châu-Công.

Dứt lời, nàng giở quyển thư cổ ra đọc:

- Vở viết: học nhi thời tập chi, bất diệt diệt hồ? Thư bảng tự viễn phương lai, bất diệt

lạc hồ.

Đó là hai câu rút trong Luân ngữ.

Dương-Qua nghe đọc lấy làm kỳ quái, nó thầm bảo:

- Tại sao bảo nó thọ giáo vũ nghiệp mà lại đem mang văn chương ra giảng dạy?

Tuy nhiên, nó chẳng dám nói gì cả cứ cắm đầu suy nghĩ.

Suốt mấy ngày liền, Hoàng-Dung cứ đem sách ra giảng tuyệt nhiên không đả động gì

đến võ nghệ, hết sách này đến sách khác.

Một hôm, sau buổi học, Dương Qua lững thững dạo gót ra ngoài. Cảnh trí núi rừng

trùng trùng điệp điệp, hồ rộng mênh mang nó chạnh lòng nhớ đến nghĩa phụ, người

độc nhất đã cứu vãn tâm hồn nó một mối cảm giác thân yêu.

Để giải buồn, nó đảo thân qua lại, dùng hai tay cắm đầu xuống đất, chổng chân ngưuợc

lên trời, bắt chước theo lối đi của Âu-dương-Phong thuở nọ. Rồi nó ôn lại ngón võ

"Hàm-mô Công" mà Âu-dương-Phong đã truyền dạy lỡ dở từ dạo nào. Nó cũng chua

chân, chong tay, cong mình, y hệt điệu bộ của Tây-độc Âu-dương-Phong. Nó vận

dụng các bắp thịt rồi cũng tung người lên với những tiếng kêu "ngoạp, ngoạp".

Mồ hôi nó toát ra như tắm, và cảm thấy trong người thanh sảng, nhẹ nhàng. Nó có

cảm giác như đã tìm ra bí quyết của ngón võ đó.

Thế là ngay từ lúc hôm ấy, cứ mỗi chiều lúc mãn học, nó ra ven đồi, giữa cảnh rừng

nước bao la, ôn luyện võ nghệ, vừa bồi dưỡng thể chất vừa giải thoát linh hồn.

Ngày tháng êm đềm trôi trên đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung cứ một mực dạy cho nó về

kinh nghĩa. Hết Luận-ngữ đến Manh-tư rồi đến Trung-dung. Thằng bé tỏ ra thông

minh đáo để, nó nhớ làu làu bất kỳ kinh sách nào đã dạy.

Thật ra Hoàng-Dung vốn có thành kiến với văn nghiệp cho nên nàng quan niệm rằng

văn chương chẳng qua là món để đầu độc tư tưởng con người. Dẫu có thông minh trí

tuệ đến đâu cũng chẳng làm được điều gì gọi là anh hùng trong thiên hạ.

Với quan niệm đó, Hoàng-Dung đem áp dụng để ngăn cản bước tiến về võ nghệ của

Dương-Qua. Khi dạy đến Tứ-thư. Ngũ kinh, Hoàng Dung đã sửa soạn cho thằng bé

một tương lai nhìn vũ trụ qua những câu "Tứ viết".

Tuy nhiên, với sức thông minh của nó, Hoàng Dung cũng đã nhiều lần kinh ngạc, tự

bảo:

- Nếu trau dồi nó trong vũ nghiệp, thằng bé sau này hẳn trở nên bậc phi thường.

Còn Dương-Qua, lại có quan niệm khác. Nó bất chấp phân biệt quan niệm văn chương

hay vũ thuật, nó chỉ ước lượng việc cần thiết đối với nó là phải đối phó với

Hoàng-Dung. Nó nghĩ ngợi phương pháp giáo dục của Hoàng-Dung và lúc nào nó

cũng cho Hoàng-Dung đối xử với nó đầy ác ý.

Nó hoài tưởng đến Âu-dương-Phong, một người thân nhất trên đời mà nó còn tin

tưởng được.

Vậy để đối phó với pháp thuật Hoàng-Dung nó nghĩ một cách đơn giản là chỉ việc

dùng pháp thuật của Âu-dương-Phong là có thể chống đối nổi.

Nó không hiểu rằng trong giới hảo hán đương thời môn phái của Âu-dương-Phong

cũng như môn phái của Bạch đà Sơn không được xem là chính thống. Những lối phi

hành lộn ngược những thế võ Hàm mô công chẳng qua là những tà thuật mà hiệp sĩ

chính thống ai cũng xem như trái với võ đạo.

Một chiều, sau khi xem xong quyển Tả truyện, Dương-Qua rời khỏi thư phòng, rảo

bước về phía ven biển với ý nghĩ mong ước được thoát ly khỏi hải đảo. Nó nhìn đàn

hạc trắng bay bổng lên cao, thèm thuồng mọi cái tự do trong cuộc sống. Nó mới được

có đôi cánh như con chim hạc để bay đi tìm nghĩa phụ.

Bỗng đằng sau nó có những tiếng hô và những tiếng thở. Nó nấp sau mỏm đá nhìn

qua kẽ lá, thấy Quách-Tỉnh đang kiên nhẫn dạy hai anh em họ Vũ một miếng võ gia

truyền.

Thật ra, quan sát kỹ lối biểu diễn của Quách-Tỉnh thì miếng võ này tuy lợi hại nhưng

không đến nỗi học tập khó khăn lắm. Thế mà hai anh em họ Vũ tập đi, tập lại năm

lần bảy lượt vẫn chưa đạt được ý muốn của Quách-Tỉnh.

Dương-Qua than:

- Nếu sư phụ trực tiếp dạy mình như thế thì mình đã tiến bộ biết bao. Hai đứa bé ngu

xuẩn nầy tại sao lại may mắn gặp được vũ sư lỗi lạc dường ấy.

Nó tiếc cho nó! Nó tiếc không được trực tiếp thọ giáo với Quách-Tỉnh.

Nhưng một ý nghĩ bỗng đột xuất:

- Vì sao mình lại không học lén? Nếu trong trường văn chương đã có kẻ học lén mà

trở nên thánh hiền thì trong võ thuật mình lại không thể học lén để thành hiệp sĩ sao?

Nghĩ như thế, nó rời khỏi nơi ẩn núp, cởi trần ngay ra và biểu diễn lại ngón võ của

Quách Tỉnh đã dạy cho hai anh em họ Vũ.

Rồi từ đấy mỗi chiều, sau khi rời khỏi thư phòng nó lại bôn ba đến nơi ven rừng để

học lén.

Một hôm, nó ham tập luyện nhiều quá nên trong người mỏi mệt nó nằm trên một

phiến đá cheo leo nơi bãi biển, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.

Bỗng có tiếng sắt chan chát từ mé biển vọng lên làm nó giật mình tỉnh giấc. Nó nhìn

nơi phát ra tiếng động thì thấy có một chiếc thuyền vừa cập bến, đang thả neo.

Bấy giờ trời đang tối mịt, nó phải vận dụng nhỡn quang mới trông thấy hai người ăn

mặc rất gọn ghẽ, mắt đăm đăm quan sát tứ phía rồi nhảy lên bờ. Cả hai bò sát trên

mặt đất, hướng về trang trại.

Dương-Qua cho đó là hai tên đạo tặc, lấy làm tội nghiệp cho chúng đã dại dột dấn

thân vào tử địa.

Thật vậy, Đào-hoa đảo là một sào huyệt hiểm trở mà không có kẻ nào có thể lọt vào

nếu không có người hướng dẫn. Nó thở dài, tiếc cho hai mạng người sắp rơi vào tay

Hoàng-Dung.

Nó lại nhìn sang phía khác và ngạc nhiên nhận thấy dưới gốc cây thúy liễu có bóng

một thiếu nữ vận y phục màu trắng đang đảo thân di động. Thiếu nữ ấy dùng tay dí

ngược đầu xuống đất. Thì ra đó là cô bé Quách-Phù. Có lẽ nó trộm thấy Dương-Qua

tập luyện nên cố tình bắt chước chăng?

Hai tên lạ mặt bò dần tới. Và trong lúc Quách-Phù đang chú tâm lo giữ thăng bằng

cho thân hình đảo ngược, hai tên kia bất thình lình áp đến Quách-Phù trói gô lại, đứa

bịt mồm đứa nắm tay lôi xuống mé biển.

Dương-Qua sửng sốt, chưa biết phải nên hành động thế nào cho có hiệu quả. Nó chờ

xem hai tên lạ mặt kia có những hành động gì.

Hai tên lạ mặt đặt Quách-Phù trong một lùm cây, trói gô chân tay nó lại, lấy áo nhét

mồm, rồi tiếp tục hướng về phía trang trại. Chúng tiến rất nhanh và tỏ vẻ thông thạo

như những ngời đã từng lui tới vậy.

Tuy nhiên, chốc chốc chúng dừng lại, tụm dần vào nhau để bàn bạc những gì không

rõ.

Dương-Qua tự nghĩ:

- Nếu kêu cứu chắc gì Quách-Tỉnh đã ra kịp, trong lúc đó chúng có thể thủ tiêu mất

con bé Quách-Phù thì còn gì.

Trong lúc suy tính nó nhìn con thuyền, nhìn mặt biển, với ý nghĩ thoát ly đột phát

trong óc nó. Có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở giúp cho nó thoát thân.

Thế là nó bỏ hẳn ý định phát giác hai tên lạ mặt. Nó chạy xuống biển với ý định lấy

trộm chiếc thuyền để vượt biển ra khơi, vào đất liền.

Nhưng lúc nó chạy gần đến chiếc thuyền thì bỗng trong khoang thuyền có tiếng lách

tách. Rồi cửa khoang mở một người nhảy lên bờ...

Nó nép mình quan sát sự thể. Hai tên lạ mặt lúc này trở lại, đứa đi trước dáo dáo xem

chừng, đưa đi sau vác Quách-Phù lên vai lểnh mểnh dò từng bước một.

Nhưng lạ thay! Nó lại trông thấy một đứa thứ ba! mà đứa thứ ba nầy chắc chắn không

phải là đồng bọn, vì nó đang nép mình ẩn núp để quan sát như Dương-Qua, đặc biệt

hơn nữa đôi mắt nó chăm chăm gườm vào hai kẻ lạ mặt.

Đợi cho người lạ mặt thứ nhất tiến đến gần, người thứ ba nhảy chồm ra, đưa tay thoi

vào hông rất mạnh. Người lạ thứ nhất ngất xỉu xuống bãi cát không kịp la lên một

tiếng và tên đi sau vác Quách-Phù cũng không kịp trông thấy nữa.

Người lạ mặt thứ hai đem Quách-Phù đặt vào khoang thuyền xong, không thấy bạn

đồng hành đâu, lấy làm lạ lên tiếng hỏi:

- Kìa lão đại! Lão đại còn làm gì nữa mà chưa vào thuyền.

Tên sát nhân vừa rồi vẫn núp bên cạnh Dương-Qua giả giọng khàn khàn đáp:

- Thật kỳ quái! Thật kỳ quái!

Tên lạ mặt thứ hai ngạc nhiên bỏ Quách-Phù dưới thuyền lên khoang thuyền nhảy

nhanh về phía có tiếng nói.

Thừa dịp đó, Dương-Qua nép mình bò ra phía mé biển, lao lên khoang thuyền, nấp

vào bên kia ẩn thân.

Từ chỗ núp Dương-Qua lắng tai nghe những tiếng thình thịch. Nó đoán chắc rằng tên

sát nhân ban nãy đã hạ thủ luôn người lạ mặt thứ hai nữa rồi.

Thật vậy, chỉ chốc lát một nguời co chân nhảy vào thuyền. Người đó là Dương-Qua

nhận đúng là người đã núp bên nó và đã sát hại người lạ mặt đi đầu lúc nãy.

Tuy nhiên, bây giờ người ấy mặt mày lấm tấm máu, quần áo tả tơi, dáng điệu trông

dễ sợ làm sao!

Dương-Qua liền vận dụng thế võ Hàm-mô-công, thân hình cong rúm, chân tay co

quắp, miệng kêu lên mấy tiếng "ngoạp! ngoạp" rồi tung người đâm bổ vào bụng tên

sát nhân.

Bất ngờ bị trúng phải một thế võ sức nặng ngàn cân, tên sát nhân văng bổng người

lên, rơi xuống biển.

Dương-Qua thở khì một tiếng nó không ngờ thế võ nó rèn luyện lâu nay lại đưa đến

một kết quả khả quan như vậy.

Chưa kịp mừng, Dương-Qua đã nghe tiếng Quách-Tỉnh bất thần hỏi.

- Qua nhi! Con học thế vó Hàm-mô-công ở đâu thế? Có phải Âu-dương-Phong đã

truyền dạy cho con chăng? Lão ta bây giờ ở đâu.

Dơng-Qua ngẩng đầu lên thấy Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đồng nhảy xuống thuyền

cùng một lúc.

Rồi không đợi nó trả lời, Quách-Tỉnh nhảy vội xuống nước vời lên sát nhân lên, rồi la

lớn:

- Em Dung ơi! Đây là bạn của ta mà!

Tên sát nhân miệng trào máu, vừa tức giận nắm lấy Dương-Qua hét lên:

- Tại thằng ranh con nầy sanh chuyện.

Bàn tay Hoàng-Dung nắm vào như xé thịt. Dương-Qua cảm thấy đau nhói cả người,

nhưng nó nhất định cắn răng chịu đau không rên rỉ.

Quách-Tỉnh đến bãi cát nhìn mặt hai xác chết thấy trong túi áo một tên có bản đồ

Đào-hoa đảo liền kêu Hoàng-Dung, nói:

- Em Dung, hãy đến xem cái nầy!

Lúc đó Hoàng Dung mới thả Dương-Qua ra, nhảy đến bên Quách-Tỉnh cùng xem bản

họa đồ.

Hai vợ chồng bàn luận trông có vẻ quan trọng lắm. Một hồi lâu, Kha-trấn-ác đến. Cả

ba cùng tiếp tục thảo luận.

Khi mọi người như đã thảo luận xong, cùng nhau về phía Dương-Qua, làm cho

Dương-Qua có cảm giác bối rối lạ lùng. Nó đưa tay chỉ vào khoang thuyền nói:

- Thưa sư phụ, Quách-Phù đang bị chúng nó trói bỏ nơi đây.

Mọi người xúm lại cởi trói cho Quách-Phù và thấy Quách-Phù không bị thương tích gì

nên rất hoan hỉ.

Trên đường về, Quách-Tỉnh bảo Dương-Qua:

- Này Qua nhé! Con không thể ở yên trên đảo này được. Ta phải đưa con đến

Trùng-Dương-cung ở Chung-Nam-Sơn để tìm giáo chủ của phái Toàn-Chân mà xin

thọ giáo võ nghệ mới được.

Dương-Qua nghe nói biết đó là kết quả cuộc bàn bạc quan trọng của vợ chồng

Quách-Tỉnh vừa rồi. Nó im lìm nghe theo chẳng dám tha hỏi gì cả.

Chung-Nam-Sơn, trung tâm của phái Toàn-Chân

Hôm sau, gặp ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh và Dương-Qua chuẩn bị vàng bạc,

hành lý giã từ mọi người rồi dùng thuyền hướng về phía bờ biển Triết-Giang. Đến bờ,

Quách-Tỉnh mua hai con ngựa tốt và dong duổi theo đờng bộ, ngày đi đêm nghỉ, trực

chỉ đến miền Bắc.

Dương-Qua từ tấm bé đến giờ cha hề cỡi ngựa, song nhờ có gan dạ và lanh lợi nên

chẳng mấy chốc đã quen thuộc với lối di chuyển mới lạ này. Một thời gian, hai người

vượt sông Hoàng-Hà vào địa phận Thiểm-Tây. Bấy giờ nhà Đại-kim bị quân Mông-cổ

tiêu diệt, cho nên đất Trung-hoa từ sông Hoàng-hà trở về phía Bắc thiên hạ đều thuộc

về Mông-cổ.

Ngày xưa, lúc thiếu thời, Quách-Tỉnh đã từng làm Nguyên-soái trong quân ngũ của

nhà Mông, từng quen biết khá nhiều nhân vật trong sắc dân nầy nên Quách-Tỉnh sợ lộ

tông tích bèn đổi con tuấn mã, cưỡi con lừa và cải trang làm một nông dân để bạn bè

cũ không thể nhận diện khi đi ngang qua các bộ.

Dương-Qua rất bực mình lối cải trang nầy, vì, nó không muốn sống theo lối giả tạo,

mất cái phong cách tự nhiên. Tuy vậy, nó không dám làm phật ý Quách-Tỉnh nên

cũng mặc áo vải thô quần cộc, cưỡi con lừa cái đi chậm chạp như rùa.

Nhưng rồi hai người cũng lần mò đến Phàn-xuyên.

Phàn-xuyên được khai canh khi nhà Hán quốc do công lao của đại tướng Phân-Hợi.

Vì vậy sau nầy dân cư gọi vùng đất nầy như thế để kỷ niệm người gây dựng đầu tiên.

Đất Phàn-xuyên màu mỡ phì nhiêu, dân cư đông đúc, hai bên bờ sông dâu xanh trùng

điệp, ruộng vườn tươi tốt, cây trái tươi mùa, cảnh trí chẳng khác gì nơi Giang-nam,

khiến Dưương-Qua mang máng nhớ đến Đào-hoa-đảo.

Thật ra Dương-Qua sống ở đảo Đào-hoa chưa được bao lâu, và tâm trạng cũng không

ổn định. Tuy nhiên, không thể vì lòng người thắc mắc mà không cảm mến đến cỏ cây.

Cái đẹp của đảo Đào-hoa không thể không làm cho lòng Dương-Qua quyến luyến.

Dương-Qua thỏ thẻ với Quách-Tỉnh:

- Thưa chú, sao cảnh sắc ở đây lại giống hệt cảnh đảo Đào-hoa của chúng ta nhỉ!

Mấy tiếng "đảo Đào-hoa của chúng ta" làm cho Quách-Tỉnh nhận rõ lòng chân thành

của Dương-Qua. Thì ra, Quách-Tỉnh có cảm giác như mình đã ngộ nhận rằng

Dương-Qua chỉ muốn rời đảo vì bực bội lối sinh hoạt ở đây, theo sự nhận xét của

Quách-Tỉnh trước đây.

Cảm động, Quách-Tỉnh dịu dàng nói:

- Này Qua nhi! Từ đây đến Nam-Chung-Sơn chẳng còn bao xa nữa và cảnh sắc cũng

đẹp đẽ chẳng kém đảo Đào-hoa. Đến đấy con phải rán học tập cho thành tài. ít năm

nữa sẽ về đoàn tụ với chúng ta.

Dương-Qua lắc đầu ra chiều không tin tưởng nói:

- Con chắc phải vĩnh viễn chia lìa không bao giờ có thể trở lại được.

Qua một đoạn đường, Quách-Tỉnh đắn đo một lúc rồi hỏi:

- Có phải con không bằng lòng thím con chăng?

Dương-Qua nhanh nhẩu đáp:

- ấy chết! Xin chú chớ dạy thế. Con có bao giờ dám vô lễ? Con chỉ sợ thím không

bằng lòng con mà thôi.

Quách-Tỉnh lại yên lặng tiến bước. Trong bụi đường chỉ nghe tiếng vó lừa nện trên sỏi

đá.

Trưa hôm đó, hai người đến trước một tòa cổ miếu. Cả hai đều xuống lừa buộc vào

gốc cây rồi cùng nhau vào miếu.

Họ bước vào nhà trai (phòng ăn) xin mỗi người một bát cơm chay rồi bưng ra ngoài

gốc dương liễu ngồi ăn ngon lành.

Trong miếu có hơn bảy tám vị tăng đang ngồi ăn uống, nhưng thấy dáng điệu quê

mùa của Dương-Qua và Quách-Tỉnh nên để ý nhìn chừng.

Đang ăn, Quách-Tỉnh chợt thấy phía sau một gốc tùng có một tấm bia đá để lộ ra hai

chữ "Trường-Xuân".

Trường-Xuân chính là ký hiệu của Khưu-xứ-Cơ, vị giáo chủ phái Toàn-Chân, người

cầm cân nảy mực cho vũ-phụ chính thống đuợc thiên hạ nghiêng mình chiêm ngưỡng

và được khắp trong giới vũ-lâm khâm phục.

Quách-Tỉnh mừng rỡ bỏ bát đũa xuống, chạy đến gốc tùng để xem những gì của Giáo

chủ Toàn-Chân đã ghi tạc vào tấm bia kia.

Thì ra trên tấm bia đó chỉ có một bài thơ, ngụ ý thương dân mến nước, buồn cho dân

tình phải ta thán cách đây mơi năm về nạn can qua.

Quách-Tỉnh chẳng ngờ vị chân nhân của phái Toàn-Chân lại cũng biết rung cảm trước

cái khổ đau của nhân loại.

Quách-Tỉnh vô cùng hân hoan, nhiều hy vọng tràn ngập cõi lòng vì tin tưởng rằng

Dương-Qua nếu được ký thác vào một tài năng có đức độ như Trường-Xuân

Khưu-xứ-Cơ thì tương lai sẽ hữu dụng.

Dương-Qua thấy Quách-Tỉnh bỏ ăn, trầm ngâm suy nghĩ trước tấm bia, liền hỏi:

- Thưa chú, bài thơ nầy có gì mà làm cho chú phải bận tâm.

Quách-Tỉnh đáp:

- Bài thơ này do Khưu-tổ-sư phái Toàn-Chân sáng tác. Khu-tổ-sư lại là sư phụ của

cha con ngày trước. Cha con là người đệ tử được Khu-tổ-sư đẹp ý nhất. Chú tin rằng

lúc con đến với Khưu-tổ-sư, hình ảnh của con sẽ làm cho Tổ-sư nhớ tới tình sư đệ của

cha con mà chăm sóc cho con. Con chỉ cần cố gắng học tập là mai sau được rạng rỡ.

Dương-Qua nghe nhắc đến cha mình vội hỏi:

- Thưa chú, chú có thể cho con biết sự việc nầy chăng?

Quách-Tỉnh trả lời:

- Được! Con muốn gì cứ hỏi. Ngoài tình sư phụ còn là nghĩa kim hằng, giữa chú với

con có gì mà ái ngại.

Dương-Qua nghiêm nghị tha:

- Thua chú, chú có biết cha cháu như thế nào chăng?

Câu hỏi đột ngột của Dưbơng-Qua làm cho Quách-Tỉnh lúng túng, nhớ lại sự kiện xảy

ra trước kia ở Thiết-Thương miếu, toàn thân Quách-Tỉnh run lên.

Dương-Qua hỏi tiếp:

- Thưa chú, ai là người đã sát hại cha con?

Đến đây, Quách-Tỉnh không thể chịu nổi sự nghi ngờ chính đáng của Dương-Qua.

Tuy Quách-Tỉnh là người điềm đạm hay nhịn nhục, nhưng mấy câu hỏi dồn dập đã

làm cho Quách-Tỉnh điên người. Quách-Tỉnh mặt biến sắc, vung tay đấm mạnh vào

tấm bia đá, hét:

- Ai dạy cháu ăn nói hồ đồ như thế?

Trong cơn giận, Quách-Tỉnh không để ý tự nhiên vận dụng toàn thể chưởng lực tập

trung vào cái đấm tay làm cho tấm bia đá tan nát ra từng mảnh, văng tung tóe.

Thấy mặt mày giận dữ của Quách-Tỉnh, Dương-Qua ôn tồn nói:

- Thưa chú, có lẽ cháu nghe lầm, từ nay cháu không dám hồ đồ như thế nữa, xin chú

rộng lòng bỏ qua.

Vốn sẵn có cảm tình với Dương-Qua từ lâu, cái giận của Quách-Tỉnh chẳng qua trong

phút chốc trắc ẩn trong lòng, nên khi nghe Dương-Qua hối lỗi, Quách-Tỉnh tỏ ra

quảng đại bao dung, mặt mày tươi tắn nhìn Dương-Qua trong tình thương mến như

trước.

Giữa lúc đó có tiếng thầm thì sau lưng, Quách-Tỉnh quay lại thì thấy hai vị đạo sĩ trạc

tuổi trung niên, đang chăm chú nhìn vào chiếc bia vỡ, và trao đổi với nhau những lời

không ai nghe rõ.

Quách-Tỉnh xét thấy dáng điệu hai vị đạo sư nầy có vẻ hiên ngang biết ngay họ thuộc

vào phái võ biền, và tài năng cũng không phải tầm thường. Từ đây đến

Chung-Nam-Sơn không bao xa, hai người nầy có thể là những nhân vật của

Trùng-Dương cung và cũng rất có thể họ là hai người trong bảy vị đệ tử trứ danh của

phái Toàn-Chân.

Thật ra, từ ngày Quách-Tỉnh trở về đảo Đào-hoa đến nay thời gian thấm thoát trôi,

Quách-Tỉnh không hề liên lạc với phái Toàn-Chân. Bởi vậy các môn đệ đương thời

làm sao Quách-Tỉnh quen biết được. Vả lại danh tiếng phái Toàn-Chân bay khắp bốn

phương thu hút nhiều anh hùng hào kiệt đến thụ giáo.

Biết vậy, Quách-Tỉnh nghĩ rằng chưa vội làm quen với môn đệ, điều cần thiết là phải

đến yết kiến Khưu-tổ-sư trước đã.

Tuy nhiên hiện nay Quách-Tỉnh cũng chưa biết Khưu-tổ-sư tọa vị nơi nào, mà dẫu có

biết cũng không dễ gì được xin yết kiến. Quách-Tỉnh lại nghĩ rằng tốt hơn nên dò lần

theo chơn hai vị đạo sư này mà đi tìm Khưu-tổ-sư mới được.

Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh rời bỏ cổ miếu, dắt Dương-Qua lần buớc theo hai vị đạo

sư.

Hai vị nầy đi mau thoăn thoắt, Quách-Tỉnh và Dương-Qua vừa ra khỏi cổng thì họ đã

đi xa miếu hàng chục dặm đường, hình người chỉ còn thấy li ti nh hai cái chấm nhỏ

trên con đường trắng xóa bò quanh sườn núi. Họ cặm cụi đi chẳng hề quan tâm nhìn

lại phía sau.

Sợ mất hút hai bóng người, Quách-Tỉnh liền cặp nách Dương-Qua phi thân đuổi theo.

Chỉ một lúc, Quách-Tỉnh đã theo kịp đến sát cạnh và cất tiếng lễ phép thưa:

- Xin nhị vị hãy dừng chân cho chúng tôi hỏi một lời.

Tiếng nói của Quách-Tỉnh vang vang, thế mà hai đạo sư vẫn như không nghe gì cả, cứ

tiếp tục đi mãi.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Có lẽ hai người nầy điếc chăng?

Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh nhanh chân hơn nữa, bắn mình vợt đến trước hai đạo sư,

rồi bất thần đứng lại, thả Dương-Qua xuống đất, chắp tay thi lễ và nói:

Thưa nhị vị, tôi xin phép được thưa truyện cùng nhị vị.

Hai đạo sư dừng chân, trố mắt nhìn Quách-Tỉnh một hồi như để tìm tòi nhận xét, rồi

cất tiếng hỏi:

- Người muốn gì?

Quách-Tỉnh lễ phép tha:

- Thưa nhị vị, tôi vốn là người quen biết của Khưu chân nhân, mong được bái yết vị

đạo trưởng ấy. Xin phiền nhị vị giúp cho tôi được gặp gỡ.

Hai vị đạo sư một người cao mà ốm, một người mập mạp mà lùn.

Người mập và lùn cười nhạt nói:

- Ngươi có việc của ngươi, chúng ta có việc của chúng ta. Hãy tránh ra đừng cản trở

vô ích.

Nói chưa dứt lời, đạo sư ấy đưa tay đấm vào bụng Quách-Tỉnh.

Quách-Tỉnh không kịp tránh né, thì người đạo sư cao và ốm cũng lại đánh bồi thêm

một đấm vào mạng mỡ của Quách-Tỉnh nữa.

Thật ra, hai cú đấm đó Quách-Tỉnh không lạ lùng gì cả. Đã là đồ đệ của môn phái

Toàn-Chân còn lạ gì cặp song chưởng "Đại-quang-môn". Tuy nhiên, Quách-Tỉnh

không đề phòng là vì những đồ đệ của phái Toàn-Chân không bao giờ thì thố cặp

song chưởng đó một cách hạ lưu đến thế.

Cặp song chưởng "Đại-quang-môn" phái Toàn-Chân chỉ dùng trong trường hợp tự vệ,

hoặc trong lúc lâm nguy hay cứu người khác bị áp bức.

Thật ra Quách-Tỉnh không lầm rằng mình đã dự đoán hai đạo sư đó là người của

Trùng-Dương cung, thuộc hạ của Khưu-chân-nhân, song chẳng biết vì sao hai đạo sư

lại có hành động dị kỳ như vậy. Người của Trùng-Dương cung sao lại có hành động

như thế bao giờ? Hoặc giả hai vị nầy lầm lẫn, hoặc giả họ muốn thử thách

Quách-Tỉnh chăng?

Quách-Tỉnh nghĩ thế và không né những quả thôi sơn của hai vị đạo tăng.

Vừa hứng chịu những quả đấm, Quách-Tỉnh vừa lặng thinh, nín thở để đo lường

chưởng lực của hai đạo tăng đến mức nào.

Chưởng lực khá mạnh tỏa đều chạy khắp trên cơ thể Quách-Tỉnh. Tuy nhiên,

Quách-Tỉnh không hề biến sắc, trạng thái vẫn bình thường.

Qua những đòn chưởng độc hiểm, mà Quách-Tỉnh vẫn thư thái, hai vị đạo tăng thấy

thế kinh ngạc. Họ lạ lùng vì thấy một ngón võ thông truyền của phái Toàn-Chân mà

họ phải dày công tập luyện hơn hai mươi năm nay, bỗng nhiên không còn hiệu lực

trước một kẻ lạ mặt. Như thế kẻ đó nếu không phải là tay ma quái thì cũng vào loại tà

đạo.

Hai vị đạo tăng bắt đầu nao núng. Có lẽ họ vì tự ái của môn phái hơn là vì đố kỵ cá

nhân. Cả hai nổi giận, vận tăng chưởng lực đánh nhầu vào Quách-Tỉnh. Bốn chân họ

đá tung lên một lượt.

Quách-Tỉnh vẫn yên lặng chịu đựng, không phản ứng và lạ lùng tự bảo:

- Thất tử Toàn-Chân là những vị điềm đạm, tác phong bao giờ cũng ôn hòa, cớ sao

bây giờ trở nên táo bạo như thế. Hay là sau mười năm say sưa trong ngưỡng mộ của

thiên hạ, nay chính thống đã bắt đầu biến thể?

Quách-Tỉnh nhắm mắt, nghe qua tiếng chân đá cũng biết hai đạo sư đang dùng ngón

võ "san ương ngọc liên hoàn"

Thấy ngón võ nầy cũng không hiệu quả nữa, hai vị đạo sư toát mồ hôi, nhìn

Quách-Tỉnh vẫn đang bình thản suy nghĩ.

Họ liếc nhìn nhau thầm bảo:

- Thật là kỳ quái! hắn là người hay là quái vật! nếu là người thì thuộc phái võ siêu

đẳng nào đây?

Thật ra, nếu về lãnh vực tinh thần, con người đã đạt được trạng thái thánh-linh bằng

cách tham thiền nhập định để chế ngự những gì bên ngoài đột nhập, thì trong lãnh vực

võ nghệ người ta cũng có thể dùng thái độ vô vi để đương đầu với đối thủ vì vô vi của

võ nghệ không khác gì cái vô vi của Lão-Trạng. Nhìn bên ngoài tưởng là thụ động,

nhưng kỳ thực bên trong lại vô cùng tích cực.

Quách-Tỉnh vốn đã sống nhiều năm dưới trường Trung-dương-Cung, đã nắm vững cái

uyên thâm của võ pháp Toàn-Chân, cho nên đã quá hiểu tác động của mỗi thế võ đối

với thân lực và tinh thần của người bị đánh. Quách-Tỉnh thông suốt những đường gân

sớ thịt nào phải chịu đựng, cho nên khi địch thủ ra tay. Quách-Tỉnh có thể không cần

chống đỡ, chỉ việc tập trung thần lực để vận động gân cốt là thừa sức phản công, mà

con làm cho địch thủ phải bị ảnh hưởng nữa.

Do đó, hai vị đạo tăng qua một hồi đấm đá, cảm thấy đau đớn cả mình mẩy. Họ nhìn

nhau tự thú nỗi bất lực của mình trước sự nhẫn nhục phi thường của Quách-Tỉnh. Họ

đứng ngay người không biết phải xử trí ra sao.

Dương-Qua từ lúc nãy đã chứng kiến thái độ hung hăng của hai vị đạo sư, bây giờ

trước thái độ nhường nhịn quá sức của Quách-Tỉnh nó không chịu được, nổi nóng cất

tiếng mắng:

- Đồ súc sinh! Sao dám vô lẽ phạm đến sư phụ ta?

Quách-Tỉnh thấy thế liền đứng phắt dậy, quắc mắt nhìn cháu, nói:

- Qua Nhi! Chớ nên vô lễ, hãy đến bái chào nhị vị đạo sư!

Hai vị đạo sư không kịp đợi cho Quách-Tỉnh dứt lời, họ bất thần rút kiếm ra khỏi vỏ,

người lùn và người mập đâm vào Dương-Qua, người cao và ốm chém vào

Quách-Tỉnh.

Trước thế võ bất ngờ và nguy hiểm, Quách-Tỉnh xét thấy cần phải đối phó để cứu

nguy cho Dương-Qua, nên lẹ tay dây nhẹ vào chuỗi kiếm của đạo sư ốm, chưa kịp

chém tới đã văng ra một bên đánh tạt vào lưỡi kiếm của đạo sư lùn. Và cả hai thanh

trường kiếm chạm nhau nẩy lửa, rồi đồng rơi xuống đất.

Đó là thủ pháp sở trường "dĩ địch công địch" mà Quách-Tỉnh thường dùng trong

trường hợp một mình phải chống với nhiều đối thủ.

Hai vị đạo tăng thấy tài nghệ phi thường của Quách-Tỉnh hoảng hốt, hú lên một tiếng

rồi bỏ chạy. Tiếng hú trầm bổng như biện tù và.

Quách-Tỉnh biết hai người đã dùng đến pháp thuật vận dụng phi kiếm, chàng không

lo cho mình mà chỉ lo cho Dương-Qua. Chàng bối rối vì phải quyết định phương pháp

trong nháy mắt mới mong kịp thời đối phó với bí pháp ấy.

Cái khó của Quách-Tỉnh là vừa phải bảo vệ sinh mạng cho Dương-Qua, vừa phải làm

sao thủ lê với đối thủ mà chàng cho họ là môn đệ của Toàn-Chân.

Quách-Tỉnh tự bảo:

- Đây là bí thuật khai mào cho trân Thiên-cung Bắc-đẩu, nhưng họ chỉ có hai người

thì làm sao có thể hoàn tất được kiếm phép thượng thặng này? Nên mình đối phó thì

tánh mạng hai vị đạo tăng ấy lâm nguy, còn không đối phó thì tánh mạng Dương-Qua

là khó toàn vẹn.

Cuối cùng Quách-Tỉnh nghĩ tốt hơn là tạm thời ôm Dương-Qua vào lòng, tập trung

chưởng lực cho tỏa ra xung quanh để bảo vệ hai người, đồng thời cố gắng thuyết phục

họ.

Quách-Tỉnh nói:

- Thưa nhị vị, tôi vốn là cố tri của Khưu chân nhân nhị vị hãy lơi tay để tôi có lời thưa

gởi.

Vị đạo sư ốm nói:

- Dẫu nhà ngươi có là cố nhân hay cố tri của Mã chân nhân đi nữa cũng chẳng ích gì.

Quách-Tỉnh một mực lễ phép thưa:

- Thua nhị vị, chính Mã chân nhân cũng là người truyền dạy võ nghệ cho tôi.

Vị đạo sư lùn nói:

- Thôi thôi! Chúng ta không muốn lắm lời! Có lẽ nhà ngươi cũng cho sư tổ

Trùng-Dương là cố nhân của nhà ngươi nốt.

Trong lúc đó, hai lưỡi kiếm bay đến vèo vèo, lượn xung quanh mình Quách-Tỉnh và

Dương-Qua, bào quang chói rực. Nhưng tuyệt nhiên không có mãnh lực nào có thể

xâm phạm nổi.

Hai vị đạo tăng ngạc nhiên, thu hồi trường kiếm lại nhìn nhau, rồi lớn tiếng mắng:

- Dâm tặc quả nhiên lợi hại! Thôi chúng ta tạm lui gót rồi sẽ liệu.

Quách-Tỉnh xưa nay vốn tánh điềm đạm và kiên nhẫn, ít khi lưu ý đến lời chửi mắng

của đối phương. Quách-Tỉnh cho rằng chửi mắng chỉ là hiện tượng điên cuồng của kẻ

rối trí trong phút chốc. Thái độ của Quách-Tỉnh bao giờ cũng tỏ ra người quân tử bất

chấp lời cuồng loạn. Tuy nhiên, chẳng hiểu sao hai tiếng "dâm tặc" của hai đạo sư

thóa mạ, đã làm cho Quách-Tỉnh mất hẳn tự chủ.

Mặc dù hai đạo sư đã phi thân trốn tránh, Quách-Tỉnh vẫn ôm Dương-Qua đuổi theo

cho bằng kịp để hỏi cho ra lẽ mới nghe.

Khi đã phi thân đến trước mặt hai đạo sư Quách-Tỉnh chặn đường, hầm hầm hỏi:

- Các nguơi mắng ta như thế nào hãy thử nói lại nghe?

Đạo sư lùn ra dáng e ngại, song không dám làm thinh, cố giữ vẻ hiên ngang đáp:

- Chúng ta nói ngươi đã từng mơ ước con gái của nhà họ Long. Nay ngươi muốn bén

mảng đến Chung-Nam-Sơn để giở trò gì nữa?

Dứt lời, đạo sư lùn sợ Quách-Tỉnh phản ứng, bất thần nên chùn lại bấy bước.

- Ta đã từng mơ tưởng con gái nhà họ Long? Con gái nhà họ Long nhà ai nhỉ? Vì sao

ta lại mơ tưởng đứa con gái đó?

Hai vị đạo su thấy Quách-Tỉnh không hung hăng nữa mà đứng ngây người ra suy

nghĩ, liền thừa cơ dùng ngón "Hoàng-chương-pháp" mỗi người thoi vào Quách-Tỉnh

mỗi cái rồi phi thân bỏ trốn.

Dương-Qua thấy Quách-Tỉnh nhào xuống đất vội đỡ dậy, và nói:

- Chú ơi! Chú tỉnh lại! Chúng nó đã bỏ chạy hết rồi!

Quách-Tỉnh như vừa thoát khỏi cơn mơ, hỏi Dương-Qua:

- Sao? Ta mơ tưởng con gái nhà họ Long? Con gái nhà họ Long là ai vậy cháu?

Dương-Qua thủ thỉ nói:

- Chú chớ quan tâm lời nói ấy! Có lẽ hai thằng giặc kia đã nhận lầm chú ra một người

nào khác chăng?

Quách-Tỉnh như hiểu ra, bật cười nói:

- à! Chắc có lẽ là thế? Nếu không có cháu, chú đã vì tức mà mất sáng suốt. Có bao

giờ cháu nghe nói đến con gái nhà họ Long là ai đâu? Thôi, chúng ta cứ thẳng đường

lên núi.

Dương-Qua nhìn thấy hai thanh trường kiếm của hai đạo sư bỏ lại trong lúc hấp tấp

phi thân thoát nạn, liền nhặt lên trao cho Quách-Tỉnh xem.

Quách-Tỉnh thấy trên lưỡi kiếm có khắc ba chữ: "Trùng-Dương-Cung" thì gật đầu, tỏ

vẻ hân hoan nói:

- Đúng rồi! Chú nhận không lầm. Họ là người của Trùng-Dương-Cung!

Hai người ung dung theo con đường ngoằn ngoèo lên đỉnh núi. Đi một lúc thấy một

cái cổng lớn có ghi ba chữ "Cờ quan tự" và con đường trở nên eo hẹp, cong queo,

chênh vênh trên sườn đồi.

Bấy giờ trời đã tối, mặt trăng hiện ra giữa lưng đồi. Đứng trên đỉnh núi nhìn quang

cảnh thì thấy cực kỳ diễm ảo. ánh trăng trộn sương như ngọc pha châu, cảnh trí rất

nên thơ mộng.

Quách-Tỉnh hỏi Dương-Qua:

- Cháu có mệt chăng?

- Cháu chưa mệt.

Quách-Tỉnh nói tiếp:

- Thế chúng ta cố gắng leo lên nữa!

Hai người cố sức leo lên một đoạn thì thấy sừng sững trước mặt một phiến đá rất lớn

trông như một bà lão đang khom lưng đợi bắt một cái gì.

Dương-Qua cảm thấy ớn lạnh trong người. Nó đang chú ý nghe ngóng thì bỗng đằng

sau vang lên một tiếng thét ghê rợn, tiếp theo bốn vị đạo su xuất hiện.

Mỗi vị đạo sư tay cầm trường kiếm sắp thành hàng một chân lấy lối đi của hai người.

Quách-Tỉnh chắp tay lễ phép nói:

- Tại hạ là Quách-Tỉnh từ Đào-hoa đảo đến đây, ước mong được bái yết Khưu-tổ-sư.

Một vị đạo sư tiến lên một bước, một tay cầm cân, một tay nhìn lưỡi kiếm, nửa như để

chào, nửa như để thủ thế nhìn Quách-Tỉnh cười nhạt nói:

-Quách đại hiệp là kẻ vang danh trong thiên hạ, mà lại là nghĩa lễ của Hoàng lão, chúa

đảo Đào-hoa, đâu phải là kẻ thô lỗ xấu xá như nhà ngươi. Thôi đừng mượn danh anh

hùng đến đây toan làm việc tà dâm. Hãy lui ra mau kẻo mang họa vào thân.

Quách-Tỉnh tự bảo:

- Sao họ lại nhận xét người ở cái bề ngoài như vậy?

Đoạn, chàng lớn tiếng, nói:

- Thưa các ngài! Chính tại hạ là Quách-Tỉnh đây, xin cho tôi được phép diện kiến

cùng Khưu chân nhân thì ngươi sẽ rõ hư thật.

Một vị đạo sư khác đáp lời:

- Súc sinh! Mày dám sử dụng đến tà pháp để quấy động Trùng Dương Cung! Đừng có

lắm lời vô ích hãy xem kiếm thuật của chúng ta đây.

Trong đêm tối, Quách-Tỉnh nghe rõ ràng là tiếng của một trong hai vị đạo sư lúc ban

chiều.

Tiếng nói vừa dứt, nhơ ánh trăng, Quách-Tỉnh thấy đường kiếm loáng bay vù vù, kiếm

pháp "Phàn hoa phất liễu" hướng thẳng vào lưng và vai của Quách-Tỉnh để công kích.

Nhìn đường kiếm, Quách-Tỉnh ngạc nhiên, không hiểu sao kiếm pháp lại thay đổi

toàn bộ quy củ của môn phái Toàn-Chân lúc trước. Phải chăng sau mười năm không

tiếp xúc với Trùng-Dương-Cung vũ thuật của Quách-Tỉnh trở nên lạc hậu đối với sự

tiến bộ đương thời chăng?

Quách-Tỉnh vội ôm Dương-Qua vào lòng giữ thanh trường kiếm bất động mà vẫn

tránh được những đường tấn công tới tấp của đối thủ.

Bốn mũi kiếm của bốn vị đạo sư đua nhau hớng về tim của hai người. Hình như họ

chỉ muốn tấn công ngay vào yếu điểm độc nhất đó mà thôi.

Quách-Tỉnh ôm Dương-Qua vào lòng để tránh, và la lớn:

- Thưa các ngài, tôi đích thị là Quách-Tỉnh đây. Các ngài muốn tôi còn phải nói thế

nào nữa để các ngài mới có thể tin được.

Người đạo sư cao và ốm, lên tiếng:

- Ta chỉ nhìn nhận nhà ngươi khi nhà ngươi đoạt được thanh kiếm của ta.

Dứt lời, lão tung kiếm đâm vào bụng Quách-Tỉnh một nhát. ánh trăng vàng rung rinh

theo lưỡi kiếm màu bạc.

Quách-Tỉnh liền ném ra một viên đạn nhỏ. Viên đạn trúng vào lưỡi kiếm tóe lửa. Tiếp

theo ba tiếng "keng" nữa, bốn lưỡi kiếm đầu lần lượt rơi xuống đất.

Đêm tối, bốn vị đạo sư không rõ Quách-Tỉnh đã dùng vật gì để tung ba lưỡi kiếm đó,

họ lấy làm kinh dị nhìn nhau.

Vị đạo sư ốm la lớn:

- Đúng là tên dâm tặc đó lại dùng tà pháp nữa rồi! Anh em, hãy lánh nạn.

Cả bốn đạo sĩ vụt chạy biến mất trong đêm tối, để lại bốn thanh truờng kiếm nằm

sáng giói dưới đất.

Quách-Tỉnh lần này bị nguyền rủa là "dâm tặc" nữa, nhưng chàng không tức giận lồng

lộn lên như lần trước, mỉm cười bảo Dương-Qua:

- Cháu hãy nhặt bốn thanh trường kiếm lên. Chú đoán chắc thế nào họ cũng còn trở

lại đây nữa.

Dương-Qua vâng lời đến nhặt bốn thanh trường kiếm, sắp thành hàng trên một phiến

đá, với hai chiếc đã nhặt được trước kia là sáu.

Sáu thanh kiếm nhấp nhánh dưới ánh trăng nh sáu vệt dài màu trắng xóa.

Dương-Qua cảm phục tài năng của Quách-Tỉnh đến nỗi không biết phải nói sao cho

vừa, liền quỳ xuống, vòng tay thưa:

- Thưa chú, cháu phải nói rằng chú là bậc đệ nhất tài danh trong thiên hạ. Cháu chẳng

muốn lên núi theo học với bọn đạo sư khả ố kia, chỉ muốn suốt đời theo chú mà thôi.

Quách-Tỉnh mỉm cười, nói:

- Chính tài năng của chú cũng nhờ ở vị tổ sư Trùng-Dương-Cung rèn đúc. Con chớ

nản lòng.

Hai người lại lên đường, tiếp tục lên sườn núi.

Bỗng nghe gần đó có tiếng khí giới cọ nhau sang sảng. Rồi từ trong bụi rậm xuất hiện

bảy vị đạo sư, người nào cũng lăm le thanh trường kiếm trong tay.

Quách-Tỉnh thấy họ phân ra hai toán, bên tả bốn người, bên hữu ba người dàn theo

thế trận "Thiên-Cung Bắc-đẩu".

Điều nghi ngờ đầu tiên mà thành sự thật, Quách-Tỉnh nghĩ rằng muốn thoát khỏi thế

trận này không khó lắm, duy chỉ ngại cho Dương-Qua.

Quách-Tỉnh nói nhỏ:

- Cháu tìm nơi nào tạm lánh mình và không cần lo cho tánh mệnh của chú.

Thằng bé vốn lanh lợi, bèn giả cách sợ sệt khóc và nói lớn:

- Chú ơi! Ma đó! Cháu sợ lắm? Cháu không dám đi với chú nữa.

Dứt lời, Dương-Qua nhảy lui ra đằng sau, đâm đầu chạy liền vào một bụi rậm.

Quách-Tỉnh khen thầm óc thông minh sáng suốt của Dương-Qua và tiếc rằng tính tình

nó không hòa hợp với Hoàng-Dung để có thể trở thành một đồng bọn vô cùng lợi hại.

Vừa khen ngợi cơ xảo của Dương-Qua, Quách-Tỉnh lo phương pháp đối phó với

"Thiên-Cung Bắc-đẩu trân".

Trong đêm trăng mờ, bảy vị đạo sư chỉ là bảy chiếc bóng đen lù lù không trông rõ

mặt; họ tiến thối liên hoàn đúng theo trận pháp cổ truyền. Bóng đen nào cũng như có

tóc dài xõa tận cung, mỗi lần di động là mỗi lần đầu rung rinh như chiếc tàn cây rậm.

Trong bảy bóng đen, một bóng có thân hình mảnh khảnh giống như thân hình của

một đạo cô.

Quách-Tỉnh với trận "Bắc đẩu Thiên cang"

Thấy thế Quách-Tỉnh nghĩ thầm:

- Đúng là Thất tử Toàn-Chân rồi, nhưng chắc có một vị trong bảy người bị thất tịch

nên được thay thế vào một nữ. Đã mười năm qua, việc liên lạc với Trùng Dương Cung

bị gián đoạn nên ta chẳng biết.

Nắm được địch tình, rõ được ý đích, và đoán được địch pháp, Quách-Tỉnh thấy việc

phá trận "Bắc-đẩu Thiên-cang" chẳng khó khăn gì. Theo binh pháp, trận nầy có một

yếu điểm là Bắc đẩu tinh vị, hễ chiếm được yếu điểm đó thì có thể thao túng được

mọi kế hoạch tấn công. Cũng như công dụng của sao Bắc đẩu trên trời lúc ban đêm nó

hướng dẫn chắc chắn cho mọi người dùng đường đúng lối. Tinh vị Bắc đẩu trong thế

trận là chủ não của cuộc chiến, là bản doanh của tham mưu, mà nữ đạo cô đang giữ

trọng yếu.

Và, người ta cũng phải lưu ý ở thế trận nầy là địa vị tối thượng của tinh thần.

Bắc-đẩu-trận không phải ai cũng có thể cho vào làm tinh binh, mà phải có những

người và võ nghệ tuyệt luân, sức điều động tinh thần phải vượt qua sức mạnh của vũ

khí mới có thể làm đúng theo pháp thuật.

Ngược lại, Bắc đẩu trận thường chỉ được bố trí để tấn công những người xuất chúng,

đáng gọi là địch thủ.

Quách-Tỉnh đã rõ thông tài năng của Thất tử Toàn-Chân, lại hiểu rõ cái lợi hại của

trận pháp nên không dám khinh thường, thận trọng từng hành động, cố đừng lầm lộn

lọt vào tầm chi phối của quần tinh lúc di chuyển.

Đột nhiên, bảy đạo nhân như thiếu kiên nhẫn, tung kiếm chuyển từ thế thủ sang thế

công tấn thối qua lại theo luật di chuyển của quần tinh trong trận pháp.

Quách-Tỉnh lợi dụng sự di chuyển trong đêm tối của phương vị, tấn công vào tinh vị

Bắc đẩu, khiến cho đạo cô lọt ra ngoài vòng hệ thống và sáu vì sao kia rối loạn tinh

thần, thiếu phối hợp, mất liên hoàn và người nào người nấy phải sử dụng võ khí để hộ

thân.

Thế là trận pháp tan vỡ, chỉ còn lại vũ tài thuần túy, do sức lực từng người gánh vác

lấy phương vị đã có, rất dễ dàng cho Quách-Tỉnh đối phó.

Đạo cô như rõ tài nghệ của Quách-Tỉnh, liền la lớn:

- Biến trận! Biến trận!

Thế là hàng ngũ bảy vị đạo nhân rối loạn, mỗi người tự mình đông xông tây đột để tự

bảo vệ, không còn tiến thối theo thế liên hoàn của trận pháp nữa.

Trong ánh tối lờ mờ, các chiếc trường kiếm tung tăng lồng lộn. Giữa sự rối rắm của

vũ khí đó, người nào cũng có thể nhầm phương vị mình với đồng bọn.

Quách-Tỉnh cố nhiên nắm vững tình thế, chỉ cần áp dụng thuật tấn công gián tiếp lúc

phối hợp với địch thủ này để phản kích đối thủ kia, lúc vận dụng đường kiếm của đối

phương để chống đỡ lại đối phương.

Mặc dù tiếng thép va chạm liên hồi, mà Quách-Tỉnh không cần phải ra tay, dụng sức.

Vị đạo cô cảm thấy cả bọn đều nằm trong thế "đương kế tựu kế" của Quách-Tỉnh, liền

lớn tiếng ra lệnh, mục đích để củng cố tinh thần sáu vị đạo hữu.

- Giải thác! Giải thác!

Thác có nghĩa là lầm lẫn. Phàm trong qui tắc võ nghệ bấy giờ, khi các cấp chỉ huy hô

lên lệnh "giải thác" có nghĩa là kế hoạch đầu tiên đã hỏng nhưng không phải vô

phương bổ cứu.

Sáu vị đạo sư nghe lệnh hiểu ngay rằng đây mới chỉ là thất bại trong chiến thuật, còn

có kế hoạch mới sắp được thi hành để bổ trợ. Họ lại hăng say cố gắng chiến đấu để

chờ lệnh chỉ huy.

Vị đạo cô sau khi ra lệnh "giải thác" liền rút ra khỏi vòng chiến, để triệu hồi sáu vị

đạo hữu kia ra ngoài, bày bố một kế hoạch mới.

Nhưng lạ thay! Cả sáu vị đạo nhân không người nào rời khỏi vị trí đơực, họ tưởng

chừng như họ bị buộc vào một sợi dây vô hình, quây quần xung quanh đối thủ để rồi

chống đối lẫn nhau, bảo vệ cho đối phương.

Dương-Qua đứng nấp trong một bụi rậm gần đấy, xem xét thế trận lấy làm kỳ dị.

Quách-Tỉnh, một mình đứng giữa bảy đối thủ, sắc mặt vẫn tươi tắn không gợn chút lo

âu. Qua ánh trăng mờ xuyên vào các cành cây kẽ lá. Dương-Qua nhận rõ đôi mắt

Quách-Tỉnh tròn xoe rực hào quang sáng chói, gườm gườm vào đối thủ giống hệt đôi

mắt của một con rắn đang chú mục vào con mồi.

Nếu kẻ nào tinh xảo về trận pháp hẳn thấy rõ Quách-Tỉnh đang vận dụng tinh thần để

trấn áp và điều khiển đối phương.

Bởi vì, thế trận Thiên-cang Bắc-đẩu là một trận thế tinh thần Quách-Tỉnh muốn thắng

tất phải tập trung trí óc. Hơn nữa, Quách-Tỉnh đã chiếm được tinh vị chủ não, cho nên

lại càng phải huy động mãnh liệt toàn bộ hệ thống cân não để làm tê liệt mọi ý phản

công của địch.

Trong lúc đó, sáu vị đạo nhân kiếm vẫn cầm tay, múa tung tăng mà vẫn không sao

tiến đến gần Quách-Tỉnh. Họ chỉ biết gờm vũ khí, đi tròn xung quanh Quách-Tỉnh

như những vệ tinh di chuyển quanh một vì sao chính.

Vị đạo cô vẫn còn ở ngoài vòng chi phối của Quách-Tỉnh, tuy tài nghệ xa hơn đồng

bọn, song nàng vẫn lo ngại chẳng chóng thì chầy, mãnh lực tinh thần của đối phương

sẽ áp đảo trọn bộ.

Mà quả thật không sai, chỉ chốc lát, đạo cô cảm thấy như mình bị vương vấn trong

hành động, đầu nặng trĩu, trí óc cảm thấy lờ mờ thiếu sáng suốt.

Bấy giờ là lúc Quách-Tỉnh chủ động toàn bộ. Quách-Tỉnh rất khoái chí.

Thì ra đây là một cuộc kỳ ngộ bất ngờ đã cho nhà hiệp sĩ đảo Đào-hoa thử lại tài nghệ

mình sau mười năm cư tịnh. Tài nghệ đó đã tỏ ra toàn vẹn, và quý hơn nữa là

Quách-Tỉnh vẫn còn sung sức để đương đầu với một biến hóa khác thường qua mười

năm tiến triển của Trùng-Dương-Cung.

Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn có tánh tự nhiên, chẳng bao giờ dám tự phụ, vì vậy trước

thắng lợi dễ dàng ấy, Quách-Tỉnh tự hỏi phải chăng mình đã gặp phải các đấu thủ non

nớt, chưa nắm vững quy luật và nguyên tắc của trận "Bắc đẩu Thiên-cang".

Không lý gì một tài nghệ hèn mọn của mình rèn luyện qua mười năm lại có thể chiến

thắng những bí quyết nơi Trùng-Dương-Cang một cách dễ dàng như vậy.

Mặc dầu vẫn lo ngại sẽ phải đương đầu với một trận thế mới mẻ và nguy hiểm hơn,

song Quách-Tỉnh vẫn vui lòng vì đã rửa nhục được với những vị đạo nhân ngạo nghễ,

dám ngang nhiên nhục mạ mình với những lời chửi rủa: nào dâm tặc, nào dùng yêu

pháp...

Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh thấy cần phải có đôi hành động hi lộng hơn, liền cất tiếng

gọi Dương-Qua với giọng nói oang oang như sấm:

- Qua nhi! Hãy xem chú sử dụng pháp thuật.

Dứt lời, Quách-Tỉnh nhún mình nhảy tung lên một đỉnh núi chênh vênh gần mé lò. Cả

bảy đạo nhân cảm thấy khó chịu, toàn thân bị bao trùm bởi một mành lưới mà

Quách-Tỉnh đã nắm vững đầu dây.

Theo bí pháp của trận, hễ Bắc vị tinh chuyển về đâu thì cả quần tinh hộ vệ phải

chuyển theo, nếu không sẽ tan vỡ. Mãnh lực chi phối của Quách-Tỉnh vô cùng chặt

chẽ, khiến cả bảy đạo nhân vẫn không sao thoát khỏi. Và muốn được an toàn họ tất

phải hướng theo Quách-Tỉnh.

Thế là cả bọn nhún mình bay lên đỉnh núi. Nhưng chưa định vị trí thì Quách-Tỉnh đã

nhảy tuốt lên ngọn cây và cúi đầu nhìn các đạo nhân rên la đau đớn.

Tinh nghịch, Quách-Tỉnh lại còn ngoái cổ nói xuống với đạo nhân:

- Hãy coi gió lộng đây nầy!

Dứt lời, Quách-Tỉnh phồng ngực thổi một hơi dài, làm rung động xào xạc cả cây lá,

và làm tung bay y phục lướt thướt của các đạo nhân, người nào người nấy mặt mày

trắng nhợt.

Một đạo nhân tức giận nói:

- Thằng quỷ sứ ma đầu này chẳng biết tung tích ở đâu mà pháp thuật cao cường! Phái

Toàn-Chân chúng ta phen nầy không tránh khỏi nhục nhã.

Dẫu tức giận, nhưng ý thức sinh tồn buộc họ phải tìm những cứ điểm trên cây để có

thể nấp tạm trong phạm vi tự phạt của hệ thống Bắc-đẩu.

Quách-Tỉnh thấy thế ái ngại, cảm giác mình đi quá xa trong trò chơi độc, liền dịu

giọng nói:

- Thôi thế cũng vừa đủ. Tại hạ xin xuống vậy...

Nói rồi Quách-Tỉnh nhảy xuống chễm chệ đứng giữa bảy vị đạo nhân, nhưng vẫn

không thoát ra ngoài hệ thống điều khiển, ôn tồn chắp tay thưa:

- Thật ra Tỉnh tôi có lỗi nặng đối với quý đạo huynh, xin quý đạo huynh miễn chấp và

cho phép Tỉnh tôi được vào yết kiến Khưu chân nhân.

Một trong bảy vị đạo nhân tên là Thiên-Quyền, vốn tính tình táo bạo, thấy đối phương

võ nghệ cao cường nhưng lại khiêm nhượng, lòng không thích, hét lớn nói:

- Dâm tặc! Chúng ta vốn là các đạo sĩ của phái Toàn-Chân rất ghét những sự xảo trá.

Nhà ngươi muốn đến Chung-nam-Sơn để giở trò vô sỉ thì nói phứt cho rồi, đừng mượn

kế bái yết người nầy người nọ làm chi.

Quách-Tỉnh tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi:

- Tôi làm điều gì mà bảo là vô sỉ?

Thiên-Quyền nói:

- Cứ xem võ công và yêu pháp của nhà ngươi thì cũng đủ rõ cần gì phải chối cãi? Bần

đạo lấy tình thật khuyên ngươi nên hạ sơn đi là hơn.

Tuy trong căm tức nhưng lời nói của đạo nhân hàm chứa ý thức khâm phục tài nghệ

của Quách-Tỉnh không ít, Quách-Tỉnh liền thưa:

- Tôi từ phương Nam băng ngàn vượt núi đến đây, khổ nhục đã nhiều, chỉ mong được

bái yết Khưu chân nhân, nay nếu đã đến nơi mà phải xuống núi thì công phu đó đạo

huynh không nghĩ tưởng hay sao?

Thấy Quách-Tỉnh vẫn khăng khăng nói ý muốn gặp Khưu chân nhân, Thiên-Quyền

đạo nhân lạnh lùng nói:

- Thế nhà ngươi muốn gặp Khưu chân nhân với dụng ý gì?

Quách-Tỉnh nói:

- Thưa đạo nhân! Tôi từ nhỏ đã thụ đại ân của Mã và Khu chân nhân. Nay mười năm

xa cách tình thầy trò, lòng nhớ nhung lưu luyến, muốn được thăm viếng một phen.

Tuy lời nói của Quách-Tỉnh rất thành thực nhưng không làm sao trấn áp được ác cảm

của các vị đạo nhân đã có thành kiến từ lúc mới gặp. Họ đều nhìn nhau lắc đầu cười

thầm.

Quách-Tỉnh thấy thế lại cố gắng biện bạch thêm một lần cuối cùng, đem câu chuyện

của Ngọc-dương-Tử, Vương-xứ Nhất chẳng quản nguy hiểm đã một lần cứu mạng cho

Quách-Tỉnh lại tại Triệu-vương-phủ, ân nghĩa đó Quách-Tỉnh vốn khắc cốt ghi lòng.

Quách-Tỉnh nói:

- Tôi chắc rằng các đạo huynh đều là môn đệ của Vương chân-nhân, mà tôi là kẻ thụ

ân của Vương chân-nhân. Nếu Vương-chân-nhân có tại nơi nầy thì cuộc trùng phùng

giữa chúng ta thật đáng mừng như cuộc kỳ ngộ hiếm có. Tại sao các đạo huynh lại

khư khư thành kiến để anh em cùng một nhà sát hại lẫn nhau.

Thật vậy, trừ vị đạo cô ra, sáu vị đạo nhân kia đều là môn đệ của Vương-xứ-Nhất.

Song họ nhất định không nhận lời thành thật của Quách-Tỉnh. Họ hầm hầm nổi giận,

tung kiếm vùn vụt, hướng về phía Quách-Tỉnh.

Nhanh nhẹn, Quách-Tỉnh ẩn mình trong phạm vi của tinh vị Bắc-đẩu. Vị đạo cô

chống kiếm đứng yên lặng còn sáu đạo sư kia quay kiếm xung quanh Quách-Tỉnh như

một quần tinh di động.

An toàn trong tinh vị Bắc-đẩu, Quách-Tỉnh hét lên một tiếng thất vọng:

- Tôi là Quách-Tỉnh đây! Các đạo huynh hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa thượng sơn của

tôi. Vì sao quý đạo huynh lại cứ khăng khăng cho tôi là kẻ thù của quý vị? Như thế

tôi biết phải làm sao để quí vị tin?

Thiên-Quyền đạo chân quát:

- Đừng nói vô ích. Người đã đoạt mất sáu thanh trường kiếm của phái Toàn-Chân.

Vậy hãy đoạt luôn bảy thanh trường kiếm nầy nữa đi.

Rồi một vị đạo sư mặt lầm lì trong bọn phụ họa:

- Dâm tặc! Mày đã từng mặt dạn mày dày đến nhà họ Long bần tiện mua con gái của

người ta là đồ đệ của môn phái Toàn-Chân.

Quách-Tỉnh như bỡ ngỡ lạ lùng trước lời nói không vô duyên cớ ấy, cất tiếng hỏi:

- Ô hay! Con gái của nhà họ Long nào. Tôi là Quách-Tỉnh từ Đào-hoa-đảo đến đây

nào có biết?

Một vị đạo nhân cười ha hả nói:

- Thôi, đừng có giả bộ để đóng trò! Dâm tặc đi tìm dâm phụ thì có điều gì lạ đâu. Chỉ

cần nhà người chớ nên mạo nhận mình là người của môn phái Toàn-Chân.

Quách-Tỉnh nói:

- Quý vị bảo ai là dâm tặc?

Một đạo sư đáp:

- Ta gọi ngươi là dâm tặc chứ còn ai nữa. Nếu không phải là dâm tặc ngươi hãy

nguyền rủa con dâm phụ kia một lời cho chúng ta xem.

Quách-Tỉnh lại càng ngạc nhiên. Vốn là một kẻ đạo đức và trung hậu, Quách-Tỉnh

nghĩ rằng con gái nhà họ Long với mình nào có quen biết, lại không oán không thù,

nay vô cớ chưởi của người ta là vô lễ.

Nghĩ như vậy, Quách-Tỉnh nói:

- Tại sao quý vị bắt tôi phải chửi rủa người tôi cha hề biết đến?

Các đạo nhân cho rằng Quách-Tỉnh làm bộ ngớ ngẩn, đồng cười rộ lên một lượt nói:

- Đó! Đã rõ ràng còn chối cãi vào đâu được nữa.

Trước thái độ hồ đồ của các đạo nhân, Quách-Tỉnh nghĩ không còn cách gì hơn là

phải mở đường thượng sơn bằng võ thuật.

Quách-Tỉnh buồn rầu nói:

- Như thế này tôi biết làm sao? Nếu chu đạo huynh còn cản trở tôi nữa đừng trách tôi

vô lễ.

Quách-Tỉnh nói chưa dứt lời thì bảy lỡi kiếm đã vung lên một lượt, thành một hàng

rào sáng giời. Một vị đạo nhân nói:

- Nếu nhà ngươi muốn chúng ta tin lời thì chớ nên dùng yêu pháp.

Quách-Tỉnh biết cả bọn đều nao núng tinh thần, liền nói:

- Vâng! Tôi không bao giờ dùng đến tà thuật, mà chỉ vận dụng thần lực thôi. Tuy

nhiên, đối với hạng phàm phu tục tử, thần lực và tà pháp nào có gì khác nhau đâu?

Thật thế lời nói của Quách-Tỉnh không phải là ngụy ngôn. Thần lực và tà pháp trong

võ nghệ chỉ là những phương tiện để đạt đến kết quả là làm cho đối phương thúc thủ.

Nếu không phải chính người vận dụng phương tiện ấy thì ai là người phân biệt được.

Chẳng khác nào trên đường hành đạo, vương đạo và bá đạo là hai lối đi khác nhau,

song vẫn cùng đạt một mục đích duy nhất là chinh phục lòng người.

Quách-Tỉnh nghiêm nghị nói:

- Tỉnh tôi xin nói trước, tay tôi không động đến binh khí mà tôi có thể đoạt tất cả vũ

khí của quí vị.

Bảy đạo nhân nghe nói nhìn nhau nửa sợ nửa hồ nghi cho lời Quách-Tỉnh là khoa

trương khoác lác.

Một vị hỏi:

- Ngươi có dùng đến chân chăng?

Quách-Tỉnh cười đáp:

- Không cần phải đụng đến sức lực của chân tay. Phàm là môn phái Toàn-Chân, vũ

thuật phải đạt đến mức vô vi, nghĩa là phải khắc phục được đối phương bằng tinh thần

hơn là bằng vũ khí. Cái vô vi tích cực của võ nghệ còn khó hơn cái vô vi triết lý, bởi lẽ

phải chi phối vật chất (vũ khí). Tỉnh tôi chưa dám tự hào đạt đến mức siêu việt, nhưng

hàng ngày đã rèn luyện nhiều để được gọi là xứng đáng với môn đồ phái Toàn-Chân.

Dứt lời, Quách-Tỉnh ném vũ khí xuống đất, đứng trơ ở giữa như một pho tượng sống,

vận dụng chưởng lực tỏa ra bốn bề ngùn ngụt, bảy lưỡi kiếm chém tới không hề hấn

gì cả.

Bảy vị đạo nhân múa quay cuồng như những con thiêu thân bu quanh đĩa đèn sáng

rực.

Lời giải thích của Quách-Tỉnh vừa rồi đã là một cuộc tấn công mở đầu làm tâm thần

bảy đạo nhân xao xuyến. Tiếp đến là hiệu lực của chưởng lực chi phối làm cho võ khí

trở nên vô nghĩa.

Không ai bảo nhau mà bảy đạo nhân người nào cũng cảm giác rằng nếu Quách-Tỉnh

ra tay thì cả bọn không thoát khỏi vòng nguy hiểm.

Sự hoang mang tinh thần ấy nằm trong dụng ý của Quách-Tỉnh nên lúc Quách-Tỉnh

nhận xét được trạng thái, liền quyết định hành động ngày.

Chúng ta ai cũng hiểu rằng khi một sức mạnh quay tròn chung quanh một cái trục,

sức mạnh ấy tùy thuộc vào một ly tâm.

Ví như ta buộc một cục đá vào đầu một sợi dây quay tròn, sức quay càng nhanh thì

sức ly tâm càng mạnh, đến khi thả đầu dây thì cục đá được thoát khỏi tầm ly tâm văng

xa tùy theo sức mạnh của ly tâm.

Quách-Tỉnh nắm vững quy luật đó trong thế trận nhưng việc thả đầu dây vô hình

không phải là việc khó, mà khó là làm cách nào làm tách rời chuôi kiếm khỏi tay bảy

đạo nhân mà tánh mang bảy đạo nhân không bị nguy khốn.

Quách-Tỉnh dùng thần lực làm biến hóa sức chi phối của mình đối với thần trạng của

bảy đạo nhân, và từ đó gây cho đối thủ có những cảm giác trọng lượng khác nhau đối

với võ khí mỗi người đang nắm giữ.

Thật vậy, có lúc các đạo nhân cảm thấy như thanh kiếm mình nặng ngàn cân, có lúc

cảm thấy thanh kiếm nhẹ như lông hồng.

Rồi nhân việc thay đổi trọng lượng đột ngột đó, Quách-Tỉnh hét lớn.

- Bay! Bay

Tiếng hét ầm vang như sấm làm cho các đạo nhân tâm thần rối loạn, tay chân bủn

rủn, thanh trường kiếm trong tay văng bổng lên trời không kịp giữ lại.

Quách-Tỉnh cười khanh khách, trong lúc mọi người mặt mày khủng khiếp, đứng trân

trân không nói nên lời.

Chung-nam-sơn khói lửa

Bảy đạo nhân mặt như chàm đổ, đứng thẳng không nhúc nhích. Qua một lúc, bỗng từ

trong khe núi vang ra một tiếng hú, tiếng hú của các nhà quyền thuật. Bảy vị đạo nhân

cùng một loạt co chân bỏ chạy, lui vào trong núi đá. Quách-Tỉnh thấy không còn ai

cản trở bước tiến của mình nữa, lẩm bẩm:

- Họ thượng sơn cả rồi.

Đoạn quay lại gọi Dương-Qua sửa soạn cuộc hành trình. Nhưng Quách-Tỉnh gọi hai

lần không thấy Dương-Qua trả lời đâu cả.

Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh rảo bước tìm vào bụi rậm thì thấy nơi bụi có một chiếc hài

nhỏ bị rơi tại đó.

Quách-Tỉnh lượm chiếc hài lên xem thấy quả là chiếc hài của Dương-Qua, ngạc nhiên

tự nghĩ:

- Ngoài bảy vị đạo nhân kia có lẽ còn có một người nữa phục kích đâu đây, và đã bắt

cóc thằng bé này trong lúc mình đang say chiến đấu. Nhưng người ấy là ai? Không lẽ

người của Trùng-Dương-Cung! Vì người của Trùng-Dương-Cung nhất cử nhất động

phải làm việc "Đại nghĩa". Dù họ có hiểu lầm mình chăng nữa lẽ nào họ lại có thể

làm trò trẻ nít thế kia.

Quách-Tỉnh lấy hơi chạy nhanh lên núi. Đường núi khấp khểnh quanh co, có chỗ

đứng đứng lên nh những vách đá khổng lồ, có chỗ nhỏ hẹp phải lách mình, phải

nghiêng người mới qua được.

Đi chưa được bao lâu, bỗng mây đen kéo tới nghịt chân trời, bầu trời trắng đã chìm

trong bóng tối đen đặc.

Quách-Tỉnh nghĩ bụng:

- Vùng này hiểm trở, đường lối lạ chưa hề quen các đạo nhân lại cố ý hãm hại ta, vậy

ta phải cẩn thận lắm mới được.

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh dò lần từng bước một. Qua một lúc gió thổi mây đen bay về

phía chân trời, ánh trăng huy hoàng tỏa xuống khắp đồi cây kẽ lá, rọi vào các mặt

phẳng của mấy phiến đá bên đường lóng lánh như pha lê.

Cảnh vật êm đềm lặng lẽ, Quách-Tỉnh nghe rõ từng hơi thở, của lối một trăm người

đang ẩn núp đâu đây. Mặc dù chưa thấy bóng dáng họ, Quách-Tỉnh hình dung một số

đông người đang mai phục và một cuộc trả thù sắp diễn ra.

Tuy lòng không hề dao động, Quách-Tỉnh cũng mong cho việc rắc rối có thể tránh

khỏi liền lách mình rẽ vào một lối khác.

Con đường đó đưa Quách-Tỉnh đến một thung lũng rất rộng bốn mặt có núi bao vây,

chính giữa là một gò cát phẳng phiu, xa xa về phía chân núi có một cái hồ lớn, ánh

trăng rọi vào mặt hồ lấp loáng như bạc.

Bỗng một tiếng hú vang lên, trước mặt hồ hiện ra lối một trăm bóng đen, hay nói

đúng hơn là một trăm đạo nhân, đồng phục màu tro, đầu thắt khăn vàng, tay mỗi

người đều cầm một thanh trường kiếm lóng lánh.

Họ sắp thành hàng gồm có 14 tổ, mỗi tổ 7 người, bố trí thành hình Thiên cang Bắc

đẩu. Rồi mỗi tổ lại dàn thành hình "đại Bắc-đẩu" trong thanh thế rất oai nghi lẫm liệt.

Cứ hai Bắc đẩu thì một ô thế này, một ô thế khác, dựa theo lý sinh khắc chế hóa để

nương tựa nhau.

Quách-Tỉnh không ngờ họ lại dùng thanh thế đối với mình như vậy, trong lòng không

vui tự nghĩ:

- Từ trước đến nay mình chưa hề được nghe Khưu chân nhân nói tới cái thế Bắc đẩu

đại trận này, chỉ có Trùng-Dương đại sư truyền dạy mà thôi. Thế thì chắc có

Trùng-Dương đại sư truyền dạy cho họ bao nhiêu năm nay nên họ mới có thể tinh

thục như vậy được.

Một người trong thế trận hú lên một tiếng ra hiệu, tức thì chín mươi tám vị đạo nhân

phi chuyển từ thế này sang thế khác tiến lui từ hệ thống trận pháp rất linh động và

biến ảo. Họ vây Quách-Tỉnh vào giữa, và mỗi người đều rất kiếm ra khỏi vỏ, mắt

không chớp trừng trừng nhìn nhau lặng lẽ chẳng nói một lời.

Quách-Tỉnh khoanh tay nói:

- Tôi xin thành thực muốn lên núi Bảo-sơn bái huấn Khưu-chân-nhân, xin quý đạo

huynh giúp đỡ cho tôi gặp người, đừng cản trở làm gì mà bận tâm quý vị. Thật ra tôi

chẳng có ý gì xấu cả.

Đạo nhân râu dài chẳng biết thành tâm hay có ý trêu tức, nói:

- Tôn huynh võ nghệ cao cường sao lại không biết tự trọng lại nhận làm gì vào hàng

ngũ của bọn hèn yếu chúng tôi? Bần đạo dám kính xin có đôi lời nhủ cùng tôn huynh

chẳng nên dùng kế nhu mì, lời lẽ đường mật mà dối người. Bần đạo biết rằng sư

huynh đã mười năm nay từng được khổ công rèn luyện tài nghệ đã đến mức tuyệt

luân, vậy còn đến đây làm gì cho mất công đối phó.

Đạo nhân râu dài nói với giọng trầm trầm, nhấn mạnh từng tiếng oang oang, chứng tỏ

trong người có một sức nội công đã khá uyên thâm.

Lời nói đó dầu thành khẩn hay có dụng ý vẫn làm cho Quách-Tỉnh tự thấy buồn cười,

nghĩ thầm:

- Chẳng biết lão già này xem ta là hạng người thế nào? Nếu hắn đã thấy được vẻ nhu

mì của ta thì sao hắn lại nghi ngờ thiện ý của ta được.

Nghĩ đoạn Quách-Tỉnh nói:

- Xin đạo huynh cứ cho tôi được bái yết Khưu chân nhân thì sẽ rõ được hư thực.

Đạo nhân râu dài nói:

- Nếu tôn huynh khăng khăng không chịu tỉnh ngộ, còn dùng cách lừa dối chúng tôi

thì thôi hãy cứ phá toàn bộ "Thiên cang Bắc đẩu trận" của sư phụ đã truyền dạy chúng

tôi đi.

Quách-Tỉnh đáp:

-Kẻ hèn này tài nghệ thấp kém, lại ở giữa nơi xa lạ này đâu dám dại dột chống đối với

quý huynh là những trang anh hùng nơi Trùng-Dương-Cung. Xin quý huynh coi kẻ

hèn này như một đứa con nít mà đưa vào yết kiến Khưu chân nhân là vinh hạnh biết

chừng nào".

Đạo nhân râu dài chẳng biết vì ý gì, nổi giận lớn tiếng thét:

- Thôi đừng có dùng lối nhu mì bên ngoài để lừa dối mà bên trong dùng nội công để

hãm hại chúng ta. Nhà ngươi nên lưu ý rằng nếu cứ các khí cục điếm đàng ấy thì có

trở về Nam Sơn trước mặt sư phụ ở chốn điện đài, ngươi cũng chẳng thể nào được

người dung thứ.

Dứt lời đạo nhân vung kiếm lên, tức thì ngàn vạn tiếng ù ù chuyển động. Chín mơưi

tám thanh kiếm đều tung ra một lượt như một trận cuồng phong, loang loáng phản

chiếu vào ánh trăng như một vùng màu bạc.

Quách-Tỉnh lòng rầu rầu nghĩ:

- Họ dàn trận đủ mọi ưu thế, còn ta một thân cô độc, làm sao chiếm nổi cái thế ưu

tiên của "Bắc đẩu tinh vị" được. Nếu không chiếm được tinh vị ấy đành chịu thúc thủ

mà thôi.

Trong lúc Quách-Tỉnh cha nghĩ ra phương kế gì để chiến đấu thì hai cánh cửa thế

"Bắc đẩu đại trận" gồm chín mươi tám vị đạo sĩ tài cao đã khép chặt lại. Vũ khí tỏa

ánh sáng như muôn ngàn đạo hào quang, không để hở một chỗ nào địch thủ có thể

thoát ra được.

Vị đạo sĩ râu dài kêu lớn nói:

- Tôn huynh hẳn đã từng phen lăn lộn ở chiến trường, vậy cứ thử xuất trận xem sao.

Quách-Tỉnh thầm nhủ:

- Bắc đẩu đại trận tuy khó phá nhưng ta thử xem trận pháp của họ ra sao. Nếu không

gặp điều gì trở ngại rủi ro thì thật ra phần thắng bại cũng chưa biết đâu mà lường

trước được.

Trong lúc Quách-Tỉnh trầm ngâm suy tính thì đột nhiên thế trận nhẹ nhàng chuyển về

hướng Tây Bắc. Mười tám cánh tay giơ cao vẫy vẫy như mười tám con rồng ở thế

"tiềm long vật dụng". Nghĩa là muời tám con rồng còn ở ẩn chưa thi thố tài năng.

Mười tám cánh tay ấy, cứ cái này co, cái kia duỗi, tạo nên một uy mãnh như muốn

đun đẩy người khác phải lùi đi.

Còn bảy đạo nhân khác chuyển biến từ phải sang trái để dẫn đầu cho nên thế trận từ

từ di chuyển.

Quách-Tỉnh trông thấy liền xuất thần. Bao nhiêu thần lực về cân não tập trung vào

bảy vị đó.

Tức thì bảy đạo nhân đó nao núng phải vận dụng hết thần lực để cưỡng lại.

Nhưng rồi họ thấy uy mãnh của thần lực đối phương chuyển lần vào cảm giác của họ

khiến cho họ không còn tự chủ nữa; mặt mày họ cảm thấy như có đất bụi bám vào.

Đạo nhân râu dài cảm thấy đối phương có một sức mạnh thần lực phi thường mới vừa

chuyển tâm linh mà đã làm cho bảy đạo nhân cao cường bị áp đảo lấy làm kinh sợ.

Thần lực của Quách-Tỉnh vừa vận dụng chẳng những trấn áp bảy đạo nhân di động

mà làm lay chuyển luôn cả mười bốn tổ trong Bắc đẩu trận nữa.

Bấy giờ Quách-Tỉnh lại vận dụng sức nội công tăng lên gấp mười.

Thật vậy, nếu Quách-Tỉnh không có sức nội công uyên thâm đó thì làm sao đẩy lui

được thần lực của chín mươi tám vị đạo nhân kia.

Quách-Tỉnh lại nhớ đến ngày đại chiến tại Quần-sơn thuở nọ nên nghĩ rằng mình

chẳng nên kéo dài cuộc chiến đấu với các đạo nhân ấy.

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh áp dụng chiến thuật phi thân vượt ra ngoài vòng vây để tránh

cuộc chạm trán tổn thương đến sinh mệnh.

Quách-Tỉnh phi thân từ đầu này sang đầu kia, từ điểm này qua điểm khác làm cho thế

trận xao động lạ thường, mũi gươm tua tủa như những làn sóng bạc nhấp nhô dưới

đêm trăng nơi bể cả.

Mặc dù cố tình không phạm đến sinh mạng mọi người nhưng Quách-Tỉnh phi thân

một hồi vẫn không tìm ra kẽ hở để thoát ra.

Chàng lẩm bẩm:

- Từ trước đến nay ta chưa hề gặp phải trận nào lợi hại nhưb vầy. Muốn thoát khỏi

vòng vây không phải dễ. Mà không thoát khỏi vòng vây thì làm sao yết kiến Khưu

đạo trưởng.

Quách-Tỉnh nghểnh cổ lên nhìn thấy phía trên bên phải dãy núi đá xa xa có một tòa

lâu đài hùng vĩ ra vẻ một chốn đạo trường. Quách-Tỉnh nghĩ rằng phải vận dụng nội

công kêu gọi thì chắc ở Trùng-Dương-Cung có thể nghe tiếng được.

Bèn vận khí xuống đan điền đợi đến khi thấy đàn diễn minh tinh đã ngưng khi đã tụ

đầy đủ, liền phát ra một tiếng hú, tiếp theo với giọng nói vang vang:

- Đệ tử Quách-Tỉnh cần bái yết! Đệ tử Quách-Tỉnh bái yết!

Tiếng nói to như sấm, như tiếng rồng gầm ầm ầm chuyển động làm cho các đạo sĩ

phải ù tai mờ mắt, lảo đảo mất cả khí thế của những kẻ đang hăm hở muốn tấn công

người.

Lão đạo nhân râu dài nói:

- Tôn huynh quỷ quyệt quá, toan dùng nhu kế để lường gạt ta. Bây giờ thì các tiểu

xảo đó đã lộ ra rồi đừng hòng gạt ta nữa.

Quách-Tỉnh nghe nói nổi giận, nghĩ bụng:

- Trận nầy do lão đạo sư râu dài đó điều khiển. Ta chỉ cần hạ được hắn là trận thế

chẳng khác nào như rắn không đầu, có khó gì không phá nổi.

Quách-Tỉnh giơ tay lên hướng về phía đạo nhân. Chưởng lực phát xuất làm cho đạo

nhân râu dài tái mặt. Nhờ đó, Quách Tỉnh hiểu rằng trận nầy cốt làm sao nhử địch,

công kích người chủ súy là trận thế phải núng.

Quách-Tỉnh chỉ bước năm bảy bước rồi dừng lại theo lối "cảm tĩnh thế". Nhưng áp lực

phía sau lại gia tăng, cả hai bên cũng thêm sức nặng nề.

Trong cảnh nguy hiểm ấy, Quách-Tỉnh vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt. Dũng khí

như dần dần một lúc một tăng thêm Quách-Tỉnh nghĩ thầm:

- Bọn nầy quả hiểu lầm ta là tên dâm tặc nào đó chúng muốn biết lòng ta đã xuất gia

tầm đạo, lấy từ bi hỉ xả làm hoài bão có bao giờ muốn gây chuyện sát sinh. Nhưng họ

xâm phạm đến tính mạng ta thì ta làm sao có thể để yên được.

Nghĩ như thế Quách-Tỉnh liền nhún mình phi thân lên một tảng đá cao, dùng chân đá

nhẹ vào một tiểu đạo nhân, đưa tay trái đoạt lấy thanh trường kiếm của hắn.

Vừa giật được thanh trường kiếm, thì về phía sau bên tay mặt bảy thanh kiếm đã kề

tới. Chàng liền tung kiếm ứng chiến.

Tám thanh kiếm giao nhau, tiếng loảng choảng nghe kinh hồn. Chỉ chốc lát bảy thanh

kiếm kia đều bị gãy làm đôi rơi xuống đất, còn kiếm của Quách-Tỉnh vẫn y nguyên

không hề hấn gì cả.

Thật ra, thanh kiếm của Quách-Tỉnh cũng chỉ là một thanh kiếm thường như mọi

thanh kiếm khác, song được Quách-Tỉnh vận dụng nội công truyền ra đầu kiếm nên

có một sức bén nhọn phi thường, các kiếm khác chạm vào đều phải gãy nát.

Bảy đạo nhân kia kinh hãi mặt như chàm đổ để chỉ còn biết đứng đờ người ra. Bỗng

phía bên kia, hai toán "bắc đẩu trận" chuyển về phía trức để ứng chiến. Toán thì cầm

kiếm tay mặt, toán thì cầm kiếm tay trái nh để hỗ trợ cho nhau, mười bốn người dồn

khí lực vào thành một.

Quách-Tỉnh lại một lần nữa dùng thần lực vung kiếm áp đảo cả mười bốn thanh kiếm

kia.

Trong số mười bốn đạo nhân ấy có người toan tìm cách đoạt lấy thanh kiếm của

Quách-Tỉnh. Nhưng kẻ ấy có biết đâu rằng thanh kiếm Quách-Tỉnh bây giờ không

còn là loại kim khí sáng loáng thông thường mà nó đã trở nên dẻo mềm như xương

thịt, cứng mạnh như sức thiên thần.

Quách-Tỉnh dùng thần lực đo lường sức mạnh hợp nhất của mười bốn vị đạo nhân kia,

thấy sức mạnh họ còn ấu trĩ, không đáng kể. Quách-Tỉnh hét lên một tiếng:

- Phường tiểu nhân.

Rồi chàng vận dụng sức từ đơn điền lên tiếp khí để tiếp tục trận đấu.

Mười hai thanh kiếm bị gãy một lúc, chỉ còn lại hai thanh kiếm bay vụt ra khỏi tay

hai đạo nhân, rớt nguyên vẹn dưới đất.

Mười bốn đạo nhân kinh hãi rút lui về đàng sau, Quách-Tỉnh than tiếc:

- Thực vũ thuật ta chưa đến mức tuyệt luân nên còn sót lại hai thanh kiếm bay đi

không bị gãy.

Các đạo sĩ khác thấy thế, trong lòng đều nao núng, vẻ lo âu lộ ra trên nét mặt.

Hai mươi mốt vị đạo sĩ kia tuy mất vũ khí, song họ vẫn còn chiến đấu bằng cách dùng

tay không gây khó để tương trợ.

Quách-Tỉnh sử dụng kiếm thuật đã tuyệt diệu, song chàng vẫn còn áy náy, chưa lấy

thế làm vừa lòng.

Chàng tự hỏi:

- Sao trận thế của họ lại bền vững đến thế nhỉ?

Chàng đoán biết rằng Khu-chân-nhân quen lối dùng trận thế vương đạo đã từ bao

năm, chắc dàn ra thế Bắc đẩu trận này hẳn là vi điệu lắm. Nếu các đạo nhân kia biết

cách biến hóa thì chàng làm sao thoát khỏi được. Tốt hơn, chàng phải ra tay trước thì

hơn.

Nghĩ thế, Quách-Tỉnh gọi lớn:

- Nếu quý đạo huynh không dành cho tôi đường rút thì đừng trách tôi vô lễ đối với

quý huynh.

Đạo sĩ râu dài cho rằng dù võ thuật Quách-Tỉnh có cao siêu đến đâu cũng không thể

nào thoát khỏi thần diệu của Bắc-đẩu-trận.

Do đó, ông ta coi tiếng thét của Quách-Tỉnh cũng chỉ là những tiếng cười nhạt, nào có

nghĩa lý gì. Và, Quách-Tỉnh càng giận dữ thì cái nguy hiểm càng đến với Quách-Tỉnh

nhiều hơn.

Quách-Tỉnh nhún người xuống phi thân sang phía đông bắc, và đoán rằng phía đối

diện hai tổ ở phía tây nam tất nhiên sẽ di chuyển theo hộ trợ. Quách-Tỉnh bèn dùng

phép thuật chỉ mũi kiếm vào sau lưng, tức thì mười bốn đạo nhân ở tổ tây nam bị thần

chưởng điểm vào các huyệt Dương-cốc, tay họ bị bủn rủn, mình mẩy rời rã, phải

buông thả vũ khí.

Mỗi người bị pháp thuật chỉ ngọn kiếm đó, vội nhảy xổ về phía sau, nhìn vào cổ tay

thấy cốc huyết bị vết quần hồng rướm máu mà ngoài da không bị thương tích gì cả.

Các đạo nhân khác đều khiếp vía nghĩ bụng rằng nếu Quách-Tỉnh không nhân nhượng

có lẽ tay họ bị cắt đứt hết rồi.

Từ nãy đến giờ đã có hơn ba mươi lăm thanh kiếm bị rời khỏi tay các đạo sĩ. Đạo

nhân râu dài dường như căm tức lắm, biết rằng Quách-Tỉnh chưa đem hết tài lực, nếu

cứ dây dưa mãi thế trân sẽ lâm nguy, ông ta liền ra lệnh siết chặt vòng vây, đối phó

một phen quyết liệt.

Quách-Tỉnh nghĩ rằng:

- Các đạo nhân này thực không hiểu gì cả, không chịu nghe lời van xin chỉ mực liều

chết để hãm hại người khác mà thôi.

Chàng phi thân cấp thời đến chiếm ngôi Bắc đẩu tinh vị. Lão đạo nhân liền vận dụng

hai toán liên hoàn đến ứng phó.

Nhu thế tức là Bắc-đẩu đại trận có tới mười bốn ngôi bắc đẩu tinh vị, Quách-Tỉnh một

mình làm sao chiếm trọn cả được. Chàng chỉ tận dụng thuật phi thân chiếm lấy một

ngôi chủ vị rồi sau lần lượt chiếm tới ngôi chủ vị thứ nhì.

Với kế hoạch ấy, Quách-Tỉnh đã làm cho thế trận rối loạn không ít. Lão gia râu dài

xem chừng không lợi liền huy động các đạo nhân kia theo trận pháp lấy tĩnh chống

động.

Từ trước đến giờ, Quách-Tỉnh dùng thuật phi thân di chuyển rất lẹ làng, hễ có chỗ sơ

hở nào là Quách-Tỉnh gây xao động cho chỗ ấy. Bao giờ các đạo nhân đổi chiến

thuật, có giữ thế thủ bằng cách bất động. Mười bốn thế dựa vào thần lực của mười bốn

tinh vị, dù Quách-Tỉnh có lanh lẹ cũng không thể xông tới chiếm được.

Quách-Tỉnh nghĩ thầm:

- Các đạo nhân này quả thật trận pháp tinh vị. Ta muốn phá ngay cũng khó, chỉ khơi

nguồn cho một cuộc máu lửa mà thôi chi bằng tiếp tục gọi đến Trùng-Dương-cung

xem sao.

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh ngẩng đầu về phía võ điện, chợt thấy nơi võ điện nguy nga có

mấy lằn sáng tiếp do có tiếng thép vọng từ xa.

Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh quay đầu nhìn về phía đạo nhân râu dài thì thấy vẻ mặt ông

ta đang có gì lo âu khó đoán được.

Quách-Tỉnh nh hiểu ra điều gì, lẩm bẩm:

- Có lẽ kẻ nào đã lọt vào Trùng-Dương-Cung gây rối. Bây giờ ta phải đợi xem tình

hình ra sao đã.

Bỗng nhiên, Quách-Tỉnh cảm thấy trong người nóng nảy, bèn dùng ấn quyết "Rồng

lên mặt ruộng" để xét đoán.

Lúc đó chín mươi tám vị đạo nhân cũng ấn quyết theo thế của Quách-Tỉnh, làm cho

Quách-Tỉnh bị sức cản không thể nào nhận rõ tình địch được.

ấn quyết như thế là để mở thần nhãn, thần nhĩ. Cái khó là làm sao để giữ cho hai tay

được thăng bằng. Thấy Quách-Tỉnh đang mở thần nhãn, thần nhĩ để dò đoán địch tình

nên các đạo nhân kia phải phá cho kỳ được.

Cánh bên phải thì ấn quyết ngược lại tay trái của Quách-Tỉnh, còn cánh bên trái thì ấn

quyết ngược lại tay mặt của Quách-Tỉnh làm cho Quách-Tỉnh rối loạn ấn quyết không

mang lại được kết quả mong muốn.

Quách-Tỉnh thấy thế liền chuyển qua thế "Cảng long hữu bối". Thế nầy hai bên phải

giao hoàn quân binh, nên chênh lệch một tí sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng.

Quả thật, thế "Cảng long hữu bối" của Quách-Tỉnh đã làm cho hai cánh hữu tả của

"bắc đẩu trận'' phải lung lay. Chỉ phút chốc có hàng mười đạo nhân bị thương.

Sở dĩ Quách-Tỉnh gây được trạng huống nầy là vì chàng nắm được chỗ sơ hở của

người chủ súy.

Đạo nhân râu dài đã dùng tĩnh chống động nhưng lầm tưởng không được ổn định, hỉ

nộ thường phát hiện trong trận là một điều tối kỵ trong việc dùng pháp thuật "vô vi

thanh tịnh" vậy.

Lợi dụng tình thế, Quách-Tỉnh phi thân nhảy về phía trước như bay. Các đạo sĩ đều

đuổi theo bén gót.

Quách-Tỉnh vượt đến bờ hồ, nhìn thấy có ánh sáng ngời trên mặt nước, liền cúi xuống

để xem cảm ứng ra sao. Chàng lấy thanh kiếm chống xuống mặt nước thì mũi kiếm

nhảy vồng lên mấy cái, Quách-Tỉnh liền phi thân, đặt chân lên đầu thanh kiếm nhảy

vọt sang bên kia bờ.

ấy vì kiếm kia tuy bằng thép song được thần lực của chàng truyền vào thì không còn

là thanh kiếm thường nữa.

Các đạo nhân đuổi theo, tai nghe văng vẳng có lệnh vượt qua bốn năm mươi người phi

thân qua mà không hãm nổi nên bị chìm xuống nước, người nầy cỡi trên vai người

khác. Còn có một số đạo nhân vì chưa học môn thủy tính nên chìm nổi bập bềnh, kêu

cứu vang trời.

Đã thế còn nói gì đến chuyện truy kích Quách-Tỉnh được nữa.

Đang lúc hàng ngũ Bắc-đẩu-trận rối loạn thì bỗng nhiên có tiếng chuông ngân vang từ

Trùng-Dương-Cung truyền lại âm thanh nghe rõ là tiếng kêu cứu.

Quách-Tỉnh khi thoát khỏi vòng vây của các đạo nhân, vội vã phi thân về phía

Trùng-Dương-cung. Nghe tiếng chuông kỳ lạ liền ngẩng đầu lên nhìn.

Chàng nhận ra phía sau Trùng-Dương cung lửa cháy nghịt trời, ngạc nhiên lẩm bẩm:

- Môn phái chính truyền của võ thuật sao ngày nay có người dám đến tấn công. Ta

phải cấp tốc tiếp cứu mới được.

Bỗng phía sau Quách-Tỉnh lại có tiếng thét vang trời của các đạo nhân đang chỉ gươm

về phía địch nhân đang phá cung điện của đạo trưởng.

Quách-Tỉnh lẩm bẩm:

- Hẳn bây giờ các đạo huynh mới thấy được tôi là bạn hay là thù. Trong lúc đạo

trưởng lâm nguy chắc quý đạo huynh không hẹp hòi gì mà không nhận tôi cùng một

hàng ngũ.

Bấy giờ mọi người đều rã chân về phía Trùng-Dương cung.

Năm xưa, trên sườn núi êm đềm tĩnh mịch ở miền Mông-cổ, Mã-Ngọc đã truyền cho

Quách-Tỉnh thuật phi thân, có ngờ đâu hơn mười năm sau, thuật này lại dùng để giải

nguy cho môn phái mình.

Quách-Tỉnh nhờ thuật phi thân ấy có thể nhún mình một cái mà nhảy đi hàng mấy

chục trượng. Từ bờ hồ phi về Trùng-Dương điện, chàng chỉ mất trong khoảng thời

gian chốc lát là sẽ tới nơi.

Lửa khói bốc lên cao ngất trời, sức nóng xông ra chịu không nổi. Khí thế của lửa mỗi

lúc một lan rộng thêm. Có điều lạ là mấy trăm đạo sĩ ở Trùng-Dương điện, ai cũng vũ

nghệ cao cường mà chẳng thấy một ai ra tiếp cứu.

Quách-Tỉnh lấy làm kinh hãi khi thấy tòa võ điện đồ sộ nguy nga mỗi lúc một tan dần

dới sự tàn phá của hỏa lực.

Chàng bèn phi thân qua bức tường cao, vào tới sân trong thì chỉ thấy đông nghẹt

những người đang hùng hổ đánh nhau.

Quách-Tỉnh định thần nhìn kỹ thì thấy bốn mươi chín đạo sĩ mặc áo vàng hợp thành

bảy thế Bắc-đẩu-trận đang chống với sáu bảy mươi kẻ địch. Bọn nầy tầm thước chẳng

đều nhau, có người cao kẻ thấp, người mập kẻ ốm. Họ thuộc vào môn phái khác, có

kẻ dùng binh khí, có kẻ dùng nội công chuyển ra bàn tay cố hết sức mình để tấn

công. Họ là những ngời võ nghệ cũng khó, nhân số lại đông nên đua nhau hăng say

trong máu lửa. Tuy nhiên, họ chiến đấu rời rạc, trông cậy vào từng sức cá nhân nên

lực lượng không được thống nhất.

Ngược lại, về phía các đạo nhân Trùng-Dương điện, tuy ít hơn nhưng theo Bắc-đẩu

trận, được sự liên hoàn tương trợ gây nên một thế thủ rất vững chắc.

Quách-Tỉnh thấy cuộc chiến hỗn loạn, toan lên tiếng hỏi để rõ căn nguyên, thì bỗng

chàng cảm thấy từ bên phía trong điện có tiếng gió vun vút thổi ra. Với hơi gió đó,

Quách-Tỉnh biết rằng bên trong hẳn có người đang chiến đấu, mà kẻ đang chiến đấu

trong đó hẳn có một tài lực đáng kể.

Chàng lách mình sang Bắc-đẩu trận. Các đạo sĩ và mọi người đang chiến đấu thấy một

bóng người luồng qua giữa rừng kiếm thì thất kinh, toan đuổi theo. Nhưng chỉ trong

nháy mắt bóng Quách-Tỉnh đã mất hút vào nội điện.

Vào đến nội điện, Quách-Tỉnh thấy ánh sáng lập lòe của mười cây nến vẫn đang cháy.

ánh lửa đằng sau chiếu đến cùng với những làn khói làm cho ánh sáng của nến chỉ là

một thứ ánh sáng của những đóm lửa tàn.

Giữa điện, bảy vị đạo nhân với bảy bàn tay trái nắm chặt vào nhau, ngồi theo lối tọa

kiết già trên bảy chiếc mâm, tay phải thì giơ lên, phóng tầm lực để chống lại với mười

mấy địch nhân đang vây quanh.

Quách-Tỉnh không để ý đến những kẻ đứng đó là ai, chỉ nhìn vào phía bảy vị đạo

nhân, thấy trong số đó có ba ngưbời già và bốn người trẻ. Ba người già là Mã-Ngọc,

Vương-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất. Còn bốn người trẻ chàng chỉ biết có một mình

Doãn-chí-Bình thôi. Bảy vị nầy ngồi theo các tinh vị trên trời, từ sao Đạo-quang tới

sao Thiên-khu. Trong bảy người có một người ngồi cúi mặt xuống không trông thấy

gì cả.

Nhìn kỹ, Quách-Tỉnh cảm thấy Mã-Ngọc tiên sinh nét mặt đỏ bừng, máu nóng bốc

lên cuồn cuộn biết rằng bảy vị đó đang ở trong trạng huống nguy ngập, Quách-Tỉnh

hét lớn:

- Những thằng giặc kia! Chúng bay gan dạ dường nào mà dám đến Trùng-Dương võ

điện này phá phách.

Dứt lời, Quách-Tỉnh đưa tay tóm hai địch thủ gần nhất toan ném ra cửa.

Nhưng võ thuật hai người nầy đâu phải hạng thường. Họ vận nội công làm cho hai

chân như cắm chặt xuống đất, không một sức mạnh nào lay chuyển nổi.

Quách-Tỉnh cả kinh, nghĩ thầm:

- Những tên giặc nầy từ đâu đến lại có bản lãnh dường ấy? Chẳng trách hôm nay

Trùng-Dương cung bị phá phách là phải.

Chàng vận nội công nắm chặt vào lưng rồi thốt nhiên buông ra, co chân đá vào hông

địch thủ một cái. Hai địch thủ đang vận khí ngàn cân để chống đỡ, không ngờ lại bị

một đòn cước dường ấy chẳng kịp đề phòng, hai cái xác tung bổng lên trời, lọt qua

ngoài khung cửa, làm gãy cả một chấn song.

Hai địch thủ khác nhảy xông vào tiếp cứu, quát:

- Mày là ai?

Quách-Tỉnh đang ở trong thắng thế, cứ ngậm miệng giữ lấy sức không thèm đáp lời,

tung hai tay một lợt như hai quả chùy hướng về địch thủ. Chưởng lực quá mạnh,

khiến cho hai địch thủ chưa đến sát mình Quách-Tỉnh đã bị dội lại, lưng họ va vào

bức tường như một tấm ván đổ. Máu hồng từ bên trong phụt ra miệng mũi. Họ chỉ lảo

đảo được một chốc rồi ngã quỵ xuống.

Chỉ trong chốc lát mà chàng đã hạ được bốn người, khiến cho các địch thủ kinh

khủng, không còn ai dám liều lĩnh xông vào tiếp ứng nữa.

Bấy giờ Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ nhận ra được Quách-Tỉnh lòng mừng rỡ nghĩ bụng:

- Đã có người này đến đây rồi thì phái Toàn-Chân của chúng ta không còn lo sợ gì

nữa.

Còn Quách-Tỉnh sau khi hạ bốn địch thủ vì lòng sùng kính tổ ưs, không kể gì đến việc

kẻ địch đang bao quanh, vội quỳ xuống trước mặt Mã-Ngọc lạy và nói:

- Đệ tử Quách-Tỉnh xin bái yết Tiên-sinh.

Ngày nay, Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất cả ba đều râu tóc bạc phơ, tuổi

già đã làm mất những nét hùng mạnh trong con người siêu việt đó.

Ba người nhìn Quách-Tỉnh gật đầu đáp lễ, với những nụ cười sung sướng.

Bỗng Doãn-chí-Bình la lớn:

- Quách đại huynh coi chừng.

Nghe tiếng gió vù vù từ xa, hướng đến sau gáy, Quách-Tỉnh biết ngay có kẻ đang tiến

đánh tập hậu, liền cúi xuống hai tay chống đất rồi tung mình lên để rơi trên mình hai

địch thủ. Hai gối chàng đánh vào lưng hai đối thủ làm cho họ té sấp và cũng làm cho

hai địch thủ bủn rủn tay chân, họ chỉ còn là hai cái xác dùng để cho Quách-Tỉnh quỳ

hai gối lên trên.

Mã-Ngọc mỉm cười, nói:

- Đã mười năm ta không gặp con, ngày nay lại được thấy võ nghệ con tiến bộ rất

nhiều.

Quách-Tỉnh quay thẳng người thưa:

- Xin đạo trưởng cho đồ đệ lãnh ý về việc đối xử với những tên ác tặc này.

Mã-Ngọc chưa kịp đáp lời thì Quách-Tỉnh đã nghe hai giọng cười vang vang trong

điện. Một giọng rất chói tai và một giọng êm ái.

Quách-Tỉnh quay lại, thấy đằng sau có hai người. Một người mặc áo đỏ khăn vàng,

hình dung khô đét như một que củi, có vẻ là một nhà sư Tây-tạng, còn một người nữa

mặc áo vàng, tay cầm chiếc quạt, tuổi còn trẻ, dáng điệu tao nhi như một chàng công

tử.

Cả hai đều phong độ điềm tĩnh khác thường, làm cho Quách-Tỉnh không dám khinh

khi.

Quách-Tỉnh cúi đầu chào hai người thưa:

- Hai vị là ai? Đến đây có việc gì?

Chàng trai có vẻ công tử mỉm cười, hỏi lại.

- Thế mày là ai? Đến đây có việc gì?

Quách-Tỉnh ôn tồn nói:

- Tôi họ Quách tên Tỉnh, vốn là đồ đệ của các tôn sư đây.

Chàng công tử nói:

- A! không ngờ trong Toàn-Chân phái cũng có được những nhân vật như thế!

Quách-Tỉnh nhận xét chàng công tử đó tuy tuổi chưa đầy ba mươi mà vẻ kiêu ngạo

quá lắm, coi Quách-Tỉnh không ra gì cả. Chàng cũng muốn hỏi xem họ là ai và nói rõ

cho họ biết mình tuy là đồ đệ của mấy vị đó, nhưng không phải là người hiện ở trong

phái Toàn-Chân. Tuy nhiên, thấy vẻ kiêu ngạo của thanh niên, Quách-Tỉnh lại không

muốn tỏ bày. Bản tính Quách-Tỉnh là người ít nói, không hay biện bác.

Chàng hỏi:

- Hai người có thù gì đến Toàn-Chân giáo mà sai người đến gây chuyện, đốt phá đền

đài?

Người có dáng công tử cười lớn, hỏi lại:

- Mày là kẻ nào mà dám xen vào hỏi đến chuyện này.

Quách-Tỉnh giận dữ, đáp:

- Ta là ta! Dẫu ta xen vào thì mày làm gì?

Lúc ấy ngọn lửa nơi điện cứ cháy lan ra mãi. Cứ đà ấy thì chẳng mấy chốc

Trùng-Dơng cung sẽ thành tro khói. Chàng công tử phe phẩy chiếc quạt có hình

bông mẫu đơn màu trắng. ánh lửa chói sáng trông rất đẹp mắt.

Hắn nghe Quách-Tỉnh thách thức liền tiến lên một bước, vừa cười vừa nói:

- Mày mà đỡ nổi ba mươi thế võ của tao thì tao tha chết cho cả bọn đạo sĩ này được.

Mày vui lòng chứ?

Chẳng thèm đáp, Quách-Tỉnh lấy tay phải hất chiếc quạt của hắn, kéo mạnh về phía

mình. Với lối dằng co đó, nếu chàng công tử kia không dùng khí lực sẽ phải vấp ngã

về phía trước. Trong bất ngờ chàng công tử không đến nỗi té nhưng cũng bị loạng

choạng đôi chút.

Quách-Tỉnh giật mình, nghĩ thầm:

- Hắn nhỏ tuổi mà chịu đựng nổi sức mạnh của ta thì kể ra cũng là cừ khôi đó. Sao từ

trước đến nay ta cha từng được nghe tên tuổi?

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh liền vận khí lên quát vào mặt chàng công tử đó một tiếng.

Tiếng quát là một sức nội công tỏa ra, làm cho mặt chàng công tử đỏ ửng biến thành

trắng toát nh mặt ngọc.

Thấy vậy, Quách-Tỉnh lại nghĩ thầm:

- Té ra hắn đã vận sức nội công thợng thặng để chống lại tiếng quát của ta. Nếu ta

quát thêm mấy tiếng nữa chẳng những hắn phải bị thương mà nội tạng của hắn cũng

đều hôn mê nữa.

Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn là võ nhân từ, biết chàng trai kia đã lập tuyện đến mức đó

không phải là ít công phu. Chàng không muốn hại mạng của một thanh niên còn đầy

hy vọng.

Quách-Tỉnh nhìn mặt chàng công tử mỉm cười, cái cời tỏ ý biết sức nội công còn

non kém của đối phương.

Chàng công tử lợi dụng lúc Quách-Tỉnh mỉm cười, sức nội công không còn nữa, đưa

tay giật cây quạt lại. Nhưng lạ thay! chàng vận hết sức lực mà cây quạt cũng không

nhúc nhích.

Đó là vì sức lực của Quách-Tỉnh còn truyền sang cây quạt nên vẫn còn có sức mạnh.

Biết thế yếu chàng công tử vội vàng buông tay nhảy ra phía sau cúi đầu bái

Quách-Tỉnh và hỏi:

- Xin cho biết quý danh.

Quách-Tỉnh nói:

- Tiểu danh không đáng kể. Mã, Khưu và Vương chân nhân đây vốn là bực sư phụ của

ta.

Chàng công tử bán tin bán nghi, nghĩ rằng:

- Vừa rồi phái Toàn-chân bị đánh đến nửa ngày nếu không nhờ Thiên-cang Bắc-đẩu

trận hợp lực nhau để thủ thế thì họ làm sao cầm cự nổi. Nếu cứ đánh tay đôi thì cả

môn phái nầy chưa ai địch nổi ta tại sao trong bọn lại có một người võ nghệ cao

cường đến thế nhỉ?

Chàng công tử quay ra ngắm dung nhan Quách-Tỉnh, trông Quách-Tỉnh ăn mặc quần

thô kệch như một nông dân, lấy làm lạ, muốn hỏi vài lời xã giao.

Song chàng chưa kịp hỏi, chỉ vừa nói được câu:

- Võ nghệ của ông quả đã đến mức tuyệt vời. Kẻ hèn xin hẹn mười năm nữa sẽ hội

ngộ.

Thì đàng xa bỗng vang vang tiếng nhạc. Tiếng nhạc êm đềm khiến ai cũng phải xúc

động.

Quách-Tỉnh vội đáp lễ chàng công tử, và nói:

- Mười năm nữa ta sẽ gặp ngươi tại đây.

Chàng công tử từ từ lui gót ra khỏi cửa, quay lại thưa:

- Cuộc so tài giữa chúng tôi và môn phái Toàn-Chân hôm nay tôi chịu thua.

Theo tập quán của giới giang hồ thì nếu có một địch thủ đã chịu thua và hẹn ngày rửa

hận thì ngày đó chưa đến dù có gặp nhau cũng không đuợc ra tay. Bởi vậy, khi nghe

chàng công tử nói, Quách-Tỉnh vội đáp lời:

- Đó là lẽ dĩ nhiên, khỏi phải thắc mắc.

Chàng công tử vái chào sắp sửa bước ra. Khưu-xư-Cơ thốt nhiên hét lớn:

- Không cần đợi đến mười năm Khưu đây sẽ tìm đến tận nhà ngươi.

Tiếng quát như sấm làm cho chàng công tử ù tai, choáng váng chàng cũng biết ra rằng

các đạo s đó cha trổ hết tài năng, nên sợ quá từ từ lui ra ngoài.

Bên ngoài, tiếng thép loảng choảng dần dần thưa, rồi im bặt Quách-Tỉnh đoán biết họ

đã rút lui toàn bộ.

Nhìn vào trong điện Quách-Tỉnh lại thấy đàng sau chỗ Mã-Ngọc ngồi còn mấy người

nằm dài dưới đất. Đó là Quảng-tử-Ninh và Xich-đại-Thông. Mặt họ trắng nhợt như đã

bị thương quá nặng.

Sở dĩ Mã-Ngọc và sáu người kia cố ngồi yên khi ngọn lửa đã bốc cháy gần kề là để

bảo vệ sinh mạng cho hai người ấy.

Quách-Tỉnh vội bước vào, cởi đạo bào thì thấy ngực họ có in một vết bàn tay tím bầm

ăn sâu vào trong thịt. Chàng cảm thấy lo sợ vì trong nghề võ chàng chưa hề được nghe

nói đến miếng võ gây thương tích cho địch nhân như thế.

Chàng thầm nghĩ:

- Mình an cư nơi Đào-hoa đảo suốt mười năm trời không dễ thế sự có những đổi thay

lớn lao mà mình không hay biết.

Rồi chàng cúi xuống điểm vào hai huyệt nơi hai bên hông Xích-đại-Thông.

Điểm như thế tuy không làm bệnh nhân lành vết thương nhưng cũng làm cho bệnh

nhân đỡ đau trong khoảng thời gian mười hai tiếng đồng hồ.

Bốn bề lửa cháy rần rần, không còn có cách gì cứu chữa nổi nữa.

Khưu-xứ-Cơ vừa bồng Xích-đại-Thông dậy vừa nói:

- Thôi! Chúng ta rút đi nơi khác là hơn.

Quách-Tỉnh sực nhớ đến Dương-Qua, liền hỏi:

- Tôi có đem theo một đứa nhỏ, chẳng biết nó đã bị vào tay đại huynh nào bắt giữ, xin

giao lại cho tôi, đừng để nó bị lửa thiêu.

Từ trớc đến giờ, Khưu-xứ-Cơ và các vị đạo hữu lo để ý đến việc chống kẻ địch

không để ý đến việc gì khác. Bất ngờ Quách-Tỉnh vừa dứt lời thì một đứa bé từ trên

không rơi xuống đúng phải giữa điện, mặt mày hí hửng, nói:

- Thưa chú, cháu có mặt đây rồi.

Quách-Tỉnh vui mừng, vừa ngạc nhiên hỏi:

- Sao cháu lại trốn trên xà nhà. Có gì nguy hiểm chăng?

Đứa bé ấy đúng là Dương-Qua! Nó nhanh nhẩu đáp:

- Thưa chú, lúc chú với thằng đạo sư khốn kiếp...

Quách-Tỉnh chận lời, mắng:

- Đừng vô phép! Hãy ra lạy sư phụ đi nào!

Dương-Qua lè lưỡi quì trước Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất lạy mấy lạy.

Khi đến Doãn-chí-Bình là người trẻ tuổi hơn, thằng bé quay sang hỏi Quách-Tỉnh:

- Người nầy chắc không phải sư phụ như thế con không cần lạy.

Quách-Tỉnh nói:

- Vị đó không phải là sư phụ, nhưng là sư bá. Vậy con phải lạy ra mắt.

Dương-Qua tuy trong bụng không muốn nhưng phải tuân lời Quách-Tỉnh, lạy mấy

lạy.

Quách-Tỉnh thấy Dương-Qua chỉ lạy Doãn-chí-Bình chứ không lạy ba đạo sư trung

niên khác, thì mắng:

- Dương-Qua! Sao cháu vô lễ thế!

Dương-Qua cười hề hề, nói:

- Đợi con lạy đủ ba vị nữa thì có một việc gấp không còn cứu kịp

Biết Dương-Qua là đứa cơ xảo, Quách-Tỉnh hỏi:

- Việc gấp gì cần phải cứu?

Dương-Qua thưa:

- Có một vị bị trói ở phòng gần đây, nếu không cấp thời đi cứu sợ người ấy sẽ bị chết

cháy mất.

Quách-Tỉnh vội vã hỏi:

-ở phòng nào? Tại sao cháu biết?

Thằng bé mỉm cời nói:

- Để cháu nghĩ coi! à, nơi gian phòng đàng sau xa! Còn tại sao bị trói cháu quên mất.

Doãn-chí-Bình thấy Dương-Qua nói giọng nửa thật nửa đùa trong lúc mọi người đang

nóng ruột lấy làm bực tức, lườm thằng bé một cái rồi chạy vụt sang dãy phòng phía

đông.

Doãn-chi-Bình lục lạo khắp nơi nhưng không thấy bóng của một người nào cả, miệng

lẩm bẩm rủa liên hồi.

Qua khỏi mấy dãy phòng dùng làm nơi trú ngụ của các đạo sư, và đến gian phòng

dùng để tập luyện võ công, Doãn-chi-Bình mở ra một cánh cửa thì thấy khói lửa mịt

mù, trong góc một gian phòng hẹp có một đạo sư bị trói nằm trên giường, miệng ú ớ

nói không ra tiếng.

Doãn-chi-Bình bước vội đến mở trói, kéo mạnh đạo nhân ấy dậy, thì thấy chân tay

buộc bằng một sợi dây luộc, sợi dây mà các đạo sư thường dùng tập luyện võ công.

Sợi dây ấy quá chắc, Doãn-chi-Bình phải dùng kiếm cắt đứt ra mới được.

Đạo nhân tay chân được cởi mở, đưa tay rút đùm giẻ trong miệng ra, thở hào hển.

Lửa cháy rần rần, Doãn-chi-Bình thấy không tiện ở đấy han hỏi lý do, nên đưa vai

cõng đạo nhân chạy biến ra ngoài.

Trong lúc đó, Khưu-xứ-Cơ, Quách-Tỉnh và Dương-Qua đã ra khỏi võ điện, đứng trên

một mô đất cao, đưa mắt nhìn ngọn lửa đang tàn phá ngôi đền đài đồ sộ, công trình

mà bao nhiêu thế hệ đã đóng góp vào để dựng nên.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Chúng ta không còn phương nào cứu chữa nổi sao!

Khưu-xứ-Cơ buồn bã gật đầu nói:

- Đành chịu thôi! Trên núi nầy chỉ có một con suối nhỏ, sức nước không đủ áp đảo

sức lửa bạo tàn đó.

Quách-Tỉnh đau lòng toan hỏi xem kẻ đến phá đều là ai, nhưng cha kịp mở lời thì

đàng sau Doãn-chi-Bình hấp tấp cõng một đạo nhân bước tới, đặt trước mặt mọi người

với vẻ mặt chua chát.

Đạo nhân đó bị sặc khói, mặt mày đen như lọ, nước mắt ràn rụa. Ông ta dụi mắt mấy

cái mới mở được, và khi trông thấy Dương-Qua ông ta như một con hổ dữ, chồm tới

toan túm lấy Dương-Qua xé ra từng mảnh cho hả giận.

Dương-Qua lanh lẹ né sang một bên, miệng cười hề hề.

Đạo nhân kia nắm hụt, đưa tay chỉ vào mặt Dương-Qua chởi rủa:

- Thằng ranh con khốn kiếp! Mầy toan giết ta ?

Vương-xứ-Nhất hỏi:

- Tỉnh-Quang! Có việc gì lại tức giận đến thế? Hãy nói ra đây cho chúng ta rõ!

Vị đạo nhân gọi là Tỉnh-Quang vừa được thoát chết, tâm thần đều loạn, khi thấy

Dương-Qua, kẻ thù mình, toan túm lấy đánh một trận trả thù, ông ta quên rằng mình

đã làm một việc vô lễ, trước mặt vị sư bá là Vương-xứ-Nhất. Khi nghe

Vương-xứ-Nhất nói, Tỉnh-Quang giật mình biết đã phạm tội vô lễ, liền chắp tay thưa:

- Đệ tử vô ý phạm tội vô lễ thật đáng chết.

Vương-xứ-Nhất nói:

- Có gì mà đáng chết, hãy nói cho ta biết việc giận dữ của con

Tỉnh-Quang nói:

- Đệ tử ngày nay thật là đứa vô dụng. Đệ tử đã cho thằng nhãi ranh đó chà đạp trên

danh dự...

Nói đến đây, Tỉnh-Quang lườm lườm Dương-Qua ý muốn xông đến, nhưng trước mặt

các vị đạo sư, Tỉnh-Quang không dám, liền kể:

- Đệ tử phụng mệnh sư thúc Triệu-chí-Nguyên đứng gác ở sau vườn. Sau đó Triệu sư

thúc trao đứa bé nầy, và cho biết hắn là một địch thủ rất lợi hại của môn phái ta, bảo

đệ tử phải đem hắn nhốt trong tịnh thất phía đông. Ngồi trong đó một lúc, hắn bảo là

hắn mắc tiểu, và yêu cầu cởi trói cho hắn. Đệ tử thấy hắn có vẻ tinh ranh nên không

chịu cởi trói, phải chính tay cởi quần cho hắn đi tiểu. Hắn đi tiểu xong, thừa lúc đệ tử

đang thắt quần lại, hắn đưa tay xô mạnh đệ tử, khiến đệ tử phải té nhủi xuống đất...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fiction