Thần điêu hiệp lữ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

21. Cỡi trâu tiếp viện

Nghe lọt hai tiếng Cổ-mộ Dương-Qua "á" lên một tiếng rồi lắng tai nghe nữa.

Người khàn khàn hỏi:

- Cổ-mộ là môn phái nào, nghe xa lạ quá vậy?

Cơ Thanh-Hư đáp:

- Theo Triệu sư-thúc cho biết thì đệ-tử phái này ít khi xuất hiện giang hồ nên không

mấy người biết rõ. Tuy nhiên có một sự lạ là chính Hàn-trại chủ đây cũng không biết

rõ?

Người trại chủ họ Hàn đáp:

- Thôi chả nên bàn đến việc đó nữa làm gì. Chỉ nên xem thử sáng mai đối phương

có bao nhiêu mạng, tài lực ra sao, mình đối phó như thế nào đây.

Cơ Thanh Hư nói:

- Triệu sư-thúc giao hẹn sẽ gặp con bé tại cửa hang Sài-Lang đúng giờ ngọ ngày

mai để so tài, còn bọn họ bao nhiêu người thật cũng chưa biết rõ.

Hàn Trại chủ hỏi:

- Hang Sài-Lang ở đâu, về hướng nào?

Cô Thanh-Hư đáp:

Hang Sài Lang cách đây bốn mươi dặm về phía Tây-Nam. Bọn ta đã được Hàn

Trại-chủ, thêm quyền sư họ Trần giúp nó còn sợ gì nữa.

Có tiếng ông già nói:

- Thôi được chúng ta sẽ gặp nhau nơi đây, đúng ngọ ngày mai, bây giờ mình đi, đi

đệ.

Cô Thanh Hư tiễn hai người ra cửa còn dặn tiếp theo.

- Chỗ này không xa Trùng-Dương cung là bao nhiêu, nên làm sao cho cuộc đấu

ngày mai đừng đến tai các vị Mã, Khu, Vương biết được thì lôi thôi lắm, cần giữ kín

nhẹm nhé.

Hàn trại chủ cười to bảo:

- Các người là môn đệ của Mã Ngọc và Khưu-xứ-Cơ, ta đây là kẻ ngoại phái việc gì

phải sợ.

Lão sư họ Trần nói:

- Ngươi cứ yên lòng, nói thế chứ chúng ta không để cho ai biết đâu mà ngại.

Dương-Qua bực quá nghĩ bụng:

- Bọn này quyết tâm hạ thủ Long cô nương của mình nên tìm cách đấu nhẹm không

cho Trùng-Dương cung biết. Nhưng sao chủ quan thế? Đã chắc ai hơn ai chưa mà

sớm tự phụ lắm vậy.

Khi ấy, bốn người vừa đi vừa chuyện trò, bước luôn ra đường cái.

Dương-Qua thừa dịp nhảy phắt qua cửa sổ, chui vô phòng của hai người lục soạn.

Mới nhìn vào đã thấy trên bàn có hai gói bạc, ước chừng vài chục lạng, chàng mừng

rỡ nghĩ bụng:

- Thật "buồn ngủ gặp chiếu manh" "đói lòng gặp cơm nguội". Sẵn đây ta lấy đỡ để

tiêu xài.

Vừa cất bạc vào lưng, chàng nhìn bên cạnh có một cái bao da dài, mở ra thấy có hai

thanh trường kiếm.

Dương-Qua vận sức bẻ gãy thanh kiếm bốn khúc rồi cẩn thận đặt vào bao như cũ.

Đoạn, hắn vén quần tiểu vãi lên áo quần, mền chăn của hai đạo sĩ rồi mới rút lui về

phòng mình trùm chăn nằm giả bộ ngủ kỹ.

Bỗng có tiếng người phi thân qua tường và nhảy phịch xuống đất. Nghe bước chân

đi nặng nề, chàng biết hai đạo sĩ khinh công còn quá non nớt nên chẳng thèm để ý

nữa. Tuy nhắm mắt nhưng tai vẫn áp gần vách lắng tai nghe.

Hai đạo sĩ còn bàn tán thêm về cuộc chiến đấu ngày mai trước khi sửa soạn đi ngủ.

Thình lình Bì-thanh-Huyền hét lớn:

- ủa, sao ướt hết cả như vậy?

Kế nghe tiếng hít hơi mấy cái rồi một giọng bực dọc khó chịu thốt lên vang phòng:

- ồ, khai quá, khai không chịu được! Cơ sư huynh đã trót đái dầm sao! Nếu có thì

nói trước để chi tệ vậy?

Cơ-thanh-Hư nạt lớn:

- Đừng nói xàm. Có lẽ mèo, chuột hay con gì đái đấy. Ta đâu có làm chuyện bậy bạ

như vậy.

Bì-thanh-Huyền cãi:

- Mèo chuột gì mà ướt nhẹp cả chăn mền như thế này được.

Bỗng Cơ-Thanh-Hư hốt hoảng hỏi:

- ủa, hai gói bạc đâu mất rồi? Thế là cả hai vội vàng lục soạn khắp phòng để tìm gói

bạc, may ra chuột mèo bỏ xó nào chăng?

Dương-Qua nghe hai người bàn bạc cãi lẫy, thích chí cười sằng sặc một mình.

Bỗng Bì-thanh-Huyền gọi lớn:

- Ông chủ ơi, ông chủ? Nơi đây là hắc điếm hay ổ trộm mà có người vào đây cắp

hai gói bạc của ta đi rồi.

Tiếng gọi của hai người khiến bọn bồi phòng thức dậy chạy đến.

Bì-thanh-Huyền túm ngực người thủ-quỷ mắng lớn:

- Bọn bây rước trộm về đây lấy hết tiền bạc của ta. Muốn tốt phải giao hoàn lại lập

tức. Nếu không ta phá điếm ngay bây giờ.

Khách trọ nghe ồn ào cũng thức giấc chạy đến xem, đứng xung quanh đen nghịt,

Dương-Qua cũng thừa dịp trà trộn vào đám đông xem thử.

Ngời thủ-quỷ cãi lại:

- Quý khách có tiền nhiều sao không gửi chúng tôi, để hỏng hẻo mất mát, làm sao

trách chúng tôi được. Tiệm này vốn lương thiện xưa nay, chưa một khách trọ nào than

phiền mất một cái gì. Hôm nay hai ông kiếm chuyện sanh sự thật là lần đầu tiên mới

có.

Hai đạo-sĩ nghe nói cường lý không biết đối đáp ra sao. Sau cùng Bì-thanh-Huyền

tiếc của quá chịu không được, tát vào tai người thủ-quỷ một cái thật mạnh.

Người này nổi nóng, cầm ghế đập nhầu, miệng hô lớn:

- Bà con ơi, có cướp!

Người trong tiệm ùa ra, kẻ cây người gậy xúm lại bao vây hai đạo sĩ đánh nhầu.

Cả hai cố sức đỡ gạt. Tuy nhiên vì bên này quá đông người nên hai người đã rơi vào

thế bị động, phải đứng đâu vai vào nhau mà chống cự cầm chừng.

Dương-Qua thích chí quá chạy về phòng leo lên giường trùm chăn cười khúc khích.

Đánh một chập, cự đương hết nổi, hai đạo sĩ vội rút lui vào phòng gài cửa lại.

Sáng sớm ngày sau, Dương-Qua thức dậy ngay từ khi trời còn mờ sương chưa sáng

hẳn, gọi hai tô mì ăn điểm tâm.

Chàng để ý thấy các người giúp việc kẻ bu đầu, người rách áo ai cũng càu nhàu

nguyền rủa hai tên đạo sĩ.

Dương-Qua khơi chuyện hỏi:

- Rõ hai đạo sĩ thật quá ngang ngược. Bạc tiền cất giấu trong hồ bao, ít nhiều chẳng

ai biết, bỗng dưng hô mất rồi còn làm phiền đến chủ tiệm nữa.

Người tửu bảo tức quá lên tiếng phân bua:

- Quả thật quân ăn cướp, đạo sĩ gì, tu hành chi thứ ấy! Ăn ở không trả tiền, lại kiếm

cách phao vu giá họa, gây chuyện đủ điều. Câu chuyện này tức quá, chúng tôi sẽ đi

khiếu nại tận Trùng-Dương Cung. Trên ấy người ta đàng hoàng giữ đúng phép tắc

lắm! chưa có ai xằng bậy như thế bao giờ. Bao nhiêu đạo sĩ trên núi Chung-nam chưa

có một ai ngang tàng như hai tên ấy.

Dương-Qua trả tiền rồi ra phòng tìm đường đi đến hang Sài-Lang

Chẳng bao lâu chàng đã vượt quá hai chục dậm đường. Hang Sài-lang đã hiện ra

phía xa xa, đàng trước.

Ngó bóng mặt trời chỉ vào khoảng mới giờ thìn, còn sớm chán. Chàng muốn tìm

chỗ mát mẻ kín đáo nghỉ chân dưỡng sức để xem thử cuộc đấu ra sao.

Để gây thích thú cho Cô nương, Dương-Qua tìm cách "cải trang" làm một trai cày.

Chớ lúc xô xát hai bên, chạy ra để đem sự ngạc nhiên và thích thú cho Tiểu-long-Nữ.

Nghĩ đến việc cải trang, chàng nhớ lại ngày nào đã giả dạng một lần để phỉnh

Hồng-lăng-Ba, bây giờ phải làm sao cho thật khéo léo để sư phụ lầm cho vui.

Dương-Qua rảo bước đi vào một nhà nông dân cạnh đó, xem có phương tiện nào để

cải trang hóa dạng chăng.

Qua khỏi sân, vào vờn sau, nhìn vào chuồng thấy có một con trâu rất lớn đang

nhai cỏ, cọ sừng nhìn ra như muốn đòi đi.

Vừa thấy bóng Dương-Qua, con trâu trừng mắt, dừng tại nhìn sững.

Dương-Qua bỗng có ý định:

- Hay là mình cải dạng làm đứa bé chăn trâu. Cô nương chắc không thể nào nhận ra

được.

Nghĩ xong, chàng xăm xăm bước vào nhà. Trước sân có mấy đứa bé đang ngồi vọc

đất chơi nghịch, nhưng thấy dáng điệu chàng hùng hổ, chúng khiếp sợ chẳng dám nói

gì hết.

Vào nhà ngó lên vách đất có treo sẵn một bộ áo quần ngắn nhà nông, phía dưới có

để một đôi giày cỏ hơi nhục nhục.

Chàng cởi quần áo mình, lấy bộ đồ này mặc thử thấy vừa vặn quá, mà đôi giày cỏ

cũng đúng cỡ chân mình.

Chàng vói lên cao lấy một cây roi mây rồi rảo bước lên nhà trên. Khi đi qua nhà

cầu, thấy có treo một cây sáo trúc của các mục đồng thường thổi, đa tay lấy sáo, đội

một nón mê, thắt một dãy nịt bằng cỏ, ngắm nghía một chặp rồi đi luôn ra chuồng

trâu.

Con trâu thấy người lạ, trừng mắt nhìn, sịt mũi kháng cự lại.

Khi cổng chuồng vừa mở nó đã lồng lên bức dây xông tới định húc Dương-Qua.

Dương-Qua đưa tay điểm trên đầu trâu rồi tung người nhảy lên lung nó.

Con trâu lực luỡng, mạnh phi thường, thấy người lạ ngồi trên lưng không chịu, lồng

lộng nhảy lên muốn hất Dương-Qua xuống.

Dương-Qua thích chí bảo:

- Thôi, đừng lồng nữa mệt sức. Ta đã có cách trị mi bây giờ.

Chàng dùng tay vỗ nhẹ vào mông, con trâu chịu không nổi, quỵ bốn vó nằm yên.

Một chập sau, Dương-Qua thu hồi chưởng lực trâu hết đau đứng dậy, nhưng lần này

đã hiền khô, hết còn trở chứng tùy ý chàng điều khiển muốn đi đâu cũng được.

Chàng kịp chân giục mạnh, con trâu phóng đi nước kiệu vừa lên vừa mau không

thua gì một con tuấn mã.

Trâu sải đi một hồi, xuyên qua một cánh rừng rậm rồi đến một vùng bao la, bốn bề

đá dựng chập chồng thẳng đứng. Xa xa núi non trùng điệp, cao thẳng mây xanh. Trên

sờn núi, cây mọc lưa thưa, cành lá xanh tươi mát mẻ, phía dưới thảm cỏ như nhung

che kín, phong cảnh vô cùng u nhã ngoạn mục.

Dương-Qua nhìn thấy cảnh rất đẹp, rừng núi hùng vĩ thâm u, chợt nghĩ:

- Tại sao một chốn nên thơ như vầy lại đặt tên là "Sài Lang cốc". Tiếc thay tạo hóa

đặt để những cảnh đẹp ở những nơi hiểm bí hoang u nên chẳng mấy người được

thưởng thức.

Chàng thả trâu gậm cỏ non bên sườn núi, còn mình nằm dài trên tảng đá duới gốc

cây to, lim dim đôi mắt đợi chờ Tiểu-long-Nữ.

Chẳng bao lâu mặt trời đã đứng bóng. Dương-Qua hồi hộp, đầu óc miên man, chẳng

biết chừng nào cô nương mới đến chỗ hẹn.

Bốn bề núi rừng u tịch, ngoài tiếng chim kêu lảnh lót trên sườn đồi!

Dương-Qua đang nằm mơ màng suy nghĩ miên man, thình lình ở phía sau có tiếng

nhiều luồng chưởng bị chạm nhau, từ đồi xa vọng lại.

Chàng vội lồm cồm ngồi dậy ngó quanh rồi rón rén bò sang và đưa mắt nhìn, thấy

dạng ba đạo sĩ là Cơ-Thanh-Hư, Bì-Thanh-Huyền và một người vào khoảng năm mươi

tuổi, hơi lùn, có lẽ là Triệu sư-thúc.

Dương-Qua đang ngờ ngợ nhìn thế cùng khi ấy có hai người nữa từ sau hóc núi đi

ra. Người đi trước thân hình hiên ngang vạm vỡ, đó là một ông lão râu tóc trắng như

tuyết, ngoài lão quyền sư họ Trần, chắc không còn ai nữa.

Năm người gặp nhau yên lặng chẳng nói một lời, chỉ chắp tay lễ phép chào nhau rồi

cũng đứng thành hàng chữ nhứt hướng mặt về phía Tây.

Dầu bóng mặt trời đứng bóng chói lọi quá gay gắt, Triệu sư-thúc không dám sơ ý,

vẫn đưa mắt nhìn thẳng lên.

Trông thấy dáng điệu hắn, Dương-Qua suy nghĩ:

- Tài nghệ ra sao chưa biết nhng trông qua lão này có vẻ thận trọng không coi

thường địch thủ.

Ngay lúc đó, từ phía bên kia cửa hang, có tiếng vó câu vang dậy, năm cặp mắt nhìn

theo thì bỗng thấy bóng một nữ lang mặc toàn đồ trắng hiện ra trên lưng một con lừa

màu đen.

Nàng phi đến mau như gió lốc, chưa nhìn rõ mặt mày. Dương-Qua vừa thấy cõi

lòng đã rộn rã, nghĩ thầm:

- Nàng có phải là Cô nương của mình chăng? Nếu quả đúng thì cố nhiên ta phải ra

tay tiếp sức.

Nữ lang bạch y dưng lại, cách bọn này chừng bảy tám trượng, ngồi yên trên lưng

lừa đưa mắt nhìn sang, vẻ mặt điềm nhiên hình như quá coi thường, chẳng gì đáng lo

ngại về bản lãnh của họ.

Cơ Thanh-Hư quát lớn:

- Cô bé học Lục, khá khen đã có gan giữ đúng lời hẹn ước. Bây giờ có đồng bọn

nào giúp sức, cứ gọi hết ra đây, chúng ta sẵn lòng tiếp đón.

Nàng cười nhạt đáp:

- Cần gì phải có người giúp sức.

Nàng nói vừa dứt lời, rút dao vung lên một vòng, dưới ánh mặt trời ban tra sáng

rực như muôn ngàn ngân quan, trông chói cả mắt.

Cơ Thanh-Hư nói:

- Mi làm sao chống nổi với năm anh em bọn ta?

Nàng cầm dao chỉ vào mặt hắn nạt lớn:

- Một mình cô nương cũng đủ sức hạ năm đứa bay rồi, cần gì phải thêm người tiếp

sức nữa.

Nói xong nàng vung dao tiến tới, xé gió rít lên những tiếng rợn người.

Binh khí của sáu người chạm nhau rang rảng nghe nhức óc. Nàng lanh lẹ như con

chim phượng trắng đang bay nhảy tung tăng khắp bốn mặt, chống cự năm người hăm

hở như cọp dữ giành mồi.

Nhìn nữ lang bạch y tuy mặt mày xinh đẹp đáng yêu, nhưng không phải là

Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua thở dài thất vọng.

Vừa buồn rầu, vừa xúc động, chàng bụm mặt, ngồi sụp xuống đất khóc òa.

Cả sáu người vội dừng tay lại, đưa mắt nhìn xem thử kẻ nào vừa khóc. Khi thấy đó

chỉ là một chú bé mục đồng, ai cũng đoán có lẽ thằng bé này bị chủ hà khắc, chịu

không nổi mới lùa trâu ra đây ngồi than khóc một mình, nên không thèm quan tâm

đến nữa.

Muốn làm rủn chí đối phương bằng lối phô trương lực lượng phe mình,

Cơ-Thanh-Hư bèn trỏ Hàn Trại chủ long trọng giới thiệu:

- Đây là Hàn Trại chủ, đã lừng danh Tân Tấn!

Rồi ngó Trần lão quyền sư nói:

- Đây là đại võ sư về quyền cước Trần-tiểu-Sinh, một trong tam hùng khét tiếng

miền Hà-sóc!

Sau cùng hắn chỉ vào Triệu sư thúc, long trọng nói:

- Còn đây là Đạo trưởng họ Triệu chuyên môn huấn luyện cho hào kiệt võ lâm, môn

"Long ngân kiếm".

Mặc cho tán tỉnh đủ điều, nàng ấy vẫn phớt tỉnh như không thèm quan tâm đến và

cũng không hề lộ vẻ sợ hãi nể nang gì ráo.

Nàng đưa cặp mắt lạnh lùng ngó mấy đối thủ, nét mặt khinh khi chẳng đáp một lời.

Triệu-bất-Phàm dịu giọng nói:

- Chúng ta đông người không thèm ra tay đánh một mình có em. Vậy để cho em

một thời gian năm mười hôm tìm thêm bốn người nữa rồi đây tranh tài cũng được.

Nữ lang áo trắng "xì" một tiếng đáp:

- Đối với bọn giá áo túi cơm như chúng bay, ta đâu cần nhờ ai giúp sức làm gì. Vậy

cứ ra tay cho rồi.

Triệu-bất-Phàm nổi lòng tự ái, tuy vậy cũng cố dằn tâm suy nghĩ:

- Ranh con thật quá tự hào, nhìn người nửa mắt. Chưa rõ tài nghệ của hắn ra sao mà

lớn lối quá vậy.

Hắn ôn tồn hỏi thêm:

- Cô em có phải môn đồ phái Cổ-Mộ đấy chăng?

- Muốn đúng cũng được, mà không cũng được.

Lão đạo sĩ nổi nóng dằn không được bảo họ Triệu:

- Mình đâu có ngán con ranh này mà phải nhiều lời vô ích. Thôi cứ đánh đi cho rồi,

đừng dài giòng thêm mất thời giờ nữa Triệu-ca!

Triệu-bất-Phàm vốn sẵn tánh ý thận trọng và trầm tính, thấy nữ lang đơn độc chỉ

một mình nhưng vẫn lớn lời khinh miệt bọn mình nên đoán chắc có âm mưu hay biệt

tài ám khí gì đây chăng. Nên lão vẫn ôn tồn nói:

- Cô nương, thường ngày môn phái chúng tôi chưa ai dám vô lễ hay làm điều gì

không phải cùng cô nương. Không hiểu vì sao cô nương nỡ nặng tay đả thương người

của chúng tôi. Hôm nay xin cô nương vui lòng cho biết hết nguyên nhân. Nếu quả

chúng tôi có lỗi xin sẵn lòng đến tạ tội cùng quý phái.

Trái lại, nếu chỉ là một việc làm rồ dại không có lý do xác đáng thì cô nương chớ

trách sao chúng tôi thiếu lễ độ.

Nữ lang cười mũi rồi đáp:

- Chẳng hiểu vì sao bọn ấy cả gan dở thói khinh người, nên bên cô nương mới cho

nó vài đòn để sửa mình về sau. Từ nay hãy chừa cái thói khinh người như thế đó nhé.

Triệu-bất-Phàm tuy kiên nhẫn nhưng thấy đầu óc cũng xốn với thái độ ngông cuồng

của nàng. Trần lão quyền sư chịu không nổi nữa nhảy vọt ra thét lớn:

- Ranh con, sao dám trịch thượng trước mặt các võ lâm tiền bối. Muốn yên thân, lập

tức xuống lừa tạ tội cho rồi.

Nói chưa dứt lời lão đã phi thân đến cạnh lừa, đưa tay níu vai nàng định vít cho

nhào xuống.

Bận cầm đao nơi tay mặt, người con gái không kịp xoay trở ứng phó với đòn này.

Nhung tài nghệ nàng không đến nỗi bị hạ ngay về ngón ấy.

Nàng chỉ khẽ xoay bàn tay một cái, tức thì hai vừng sáng bạc lấp loáng từ tay áo

vun vút lao ra ngay ngực và đầu ông lão.

Trần lão sư hoảng hốt vội nhảy lui mấy bước, tay vung đao lên gạt hai lưỡi diệp

dao, miệng la lớn:

- Con a đầu vô lễ thật. Phen này đừng đem lòng oán hận lão gia nhé!

Nói rồi lão huơi dao chém như mưa bấc.

Hàn Trại chủ phía sau, Triệu bất Phàm đứng bên cạnh cũng đồng thời kẻ múa roi,

người loang kiếm, nhất tề tấn công một lượt.

Cơ-Thanh-Hư, Bì-Thanh-Huyền cũng múa kiếm xông vào trợ chiến. Nhưng bỗng có

hai tiếng leng keng ngân lên, đôi tay cầm kiếm của hai người như tê dại hẳn, và hai

thanh kiếm đã bị một vật gì vô hình chạm phải gãy đôi rơi xuống đất. Hai người hết

hồn, đưa mắt nhìn quanh vừa bỡ ngỡ vừa lo âu, không dám xông tới nữa.

Nguyên do vì Dương-Qua muốn ra trợ giúp cho nữ lang bạch y đỡ bớt vài đối thủ

nên đã lẹ tay phóng hai ám khí đánh gãy kiếm của hai đạo sĩ này.

Nữ lang áo trắng đang tung hoành chống đỡ cùng ba người, bỗng nghe có tiếng

động và nhìn thấy kiếm của hai gã gãy đôi thì thích chí cười lên một hồi, rồi đánh

mạnh hơn nữa.

Thấy nàng vui vẻ cười to, Dương-Qua cũng thấy hân hoan mừng lấy và phút chốc

quên hết âu sầu, cười theo dòn dã.

Thình lình nữ lang xoay bàn tay, một lưỡi diệp dao xé gió vun vút về phía

Bì-Thanh-Huyền. Hắn vội vàng cúi đầu né tránh, nhưng đã chậm rồi. Lưỡi diệp dao

phớt qua đầu hắn, đã thiến đứt ngon một vành tai rơi xuống đất, máu chảy dầm dề.

Mấy người kia cũng kinh hãi cho tài nghệ về môn ám khí của nữ lang, trong bụng

có phần e dè. Nhưng vì đinh ninh phe mình đông người sẽ thắng thế, nên vẫn yên

lòng bao vây tấn công ráo riết.

Nói rằng nhiều người cùng tấn công, như hai gã họ Cơ và họ Bì chỉ nắm hai thanh

gươm gãy để đánh cầm chừng chứ không có tài dụng gì mấy.

Lợi dụng nhược điểm ấy, nữ lang thét một tiếng lớn, vung tay gạt phắt các môn

binh khí ra, giật cương giục lừa nhảy phóc ra xa hai trượng. Cả bọn hè nhau chạy theo

bám riết không chịu rời.

Hàn Trại chủ đuổi theo vừa kịp tung thiết-chùy đánh ra một đòn cực kỳ dũng mãnh,

nữ lang vung gươm gạt trúng thấy rung động cả cánh tay, thất kinh vội nghĩ:

- Tên này bản lĩnh không phải tầm thường. Cần thận trọng đề phòng hắn mới được.

Nàng giật cương cho lừa né qua một bên tránh được.

Hàn Trại chủ thừa thế vung chùy đánh luôn mấy cái liên tiếp.

Riêng quyền sư họ Trần bình sinh chuyên môn về quyền, nên kém về môn đao

kiếm, huống chi tay đã bị thương nên lực lượng không có gì đáng ngại. Nhưng

Triệu-bất-Phàm thì quả là một cao thủ, kiếm pháp tinh vi, cho nên mỗi thế kiếm của

hắn tung ra là cả một thể tuyệt diệu kinh hồn làm đối phương phải kiêng nể.

Cuộc đâm chém mỗi lúc càng kéo dài, hai bên một đông một ít nhưng mải mê chiến

đấu chưa ngã ngũ về bên nào. Dương-Qua thừa dịp ngắm nhìn mặt mày của nữ lang

áo trắng.

Chàng thấy nàng rất đẹp. Mặt trái xoan, da dẻ hồng hào, mũi thẳng, mày thanh, môi

tươi, có lẽ lớn hơn mình đôi ba tuổi, chàng nghĩ bụng:

- Xem sắc diện cô ta cũng na ná như mình, hèn chi tên tửu-bảo nói nàng là chị mình

cũng phải.

Da nàng tuy cũng trắng, nhưng đậm hơn của Tiểu-long-Nữ. Nhìn đao pháp của

nàng cũng lạ lùng kỳ ảo nhưng vì phải chống với nhiều người nên chưa giữ được phần

thắng lợi.

Theo lối xuất thủ thì rõ ràng là người của phái Cổ-mộ rồi. Phải chăng nàng là đệ tử

của Lý-mạc-Thu sư bá?

Lúc mới đánh nhau, Dương-Qua thấy năm người xông ra đánh một nữ lang nên

trong lòng bất phục.

Nhưng xét lại thấy mấy người kia bản lãnh tầm thường thì dầu có đông cũng chưưa

hẳn thắng nổi.

Sau này nhận xét ra nàng là học trò của Xích-Luyện Tiên-tử Lý-mạc-Thu thì chàng

đã sanh ra ác cảm nên nghĩ thầm:

- Dầu nàng hay mấy đạo sĩ thắng cũng không có gì can hệ đến ta, thôi chả cần quan

tâm làm chi nữa.

Nghĩ xong chàng vếch chân nằm dài trên tảng đá nhìn mây, nghe gió, chẳng để ý

đến mấy người.

Mười hiệp sau, nữ lang đã dần dần chiếm lại ưu thế. Nàng ngồi trên lừa tả xông hữu

đột, vung kiếm loạn xạ buộc năm người phải lo chống đỡ và từ thế công đã rơi dần

vào thế thủ.

Lúc ấy Cơ-Thanh-Hư nhớ lại mình chẳng giúp ích được gì, mới nói cùng

Bì-Thanh-Huyền:

- Bì sư-đệ, gươm chúng ta đã gãy, dẫu đánh cho đông cũng chẳng lợi ích gì thiết

thực. Chi bằng đôi ta tạm rút lui ra ngoài, kiếm một nhánh cây hay khúc gỗ nào chắc

chắn, vừa tay, vào làm côn đánh nhau có lẽ hơn đấy nhỉ?

Bì-Thanh-Huyền cũng đồng ý.

Cả hai chạy luôn ra rừng bên cạnh tìm được một cây gỗ khá cứng rồi trở vào.

Cơ-Thanh-Hư bảo:

- Cây này vừa tay lắm. Nếu đánh hắn không được thì tấn công lừa nó càng thuận

tiện hơn.

Thế rồi cả hai hè nhau xông lại cứ nhè bốn chân lừa đập túi bụi.

Nữ lang áo trắng, mãi lo đánh đỡ các đường kiếm vô cùng hiểm ác của họ Triệu,

đâu để ý đến thâm ý này. Bỗng nhiên con lừa đen rống lên một tiếng, nhảy dựng lên

rồi ngã quỵ xuống què hẳn mất một chân vì ngọn côn của Cơ-Thanh-Hư.

Tiếp đến, Bì-Thanh-Huyền cũng phang trúng một đèn nữa vào chân kia, con lừa

chịu không nổi nằm bẹp luôn. Nữ lang buộc lòng phải nhảy xuống đất đánh bộ.

Nàng tung mình lanh lẹ né tránh cả kiếm chùy của địch đánh tới tấp vào đầu, rồi

đưa tay chém ngang một nhát lộng gió vù vù, đúng ngay khúc cây trên tay

Bì-Thanh-Huyền đứt tiện thành hai khúc.

Nhưng vì đang mải lo chém vào phía Bì-Thanh-Huyền nàng sơ hở bị lão quyền sư

họ Trần thừa thế đâm một nhát trúng nơi chân.

Dương-Qua thấy nàng đã thọ thương hốt hoảng la lên:

- úy, nàng nguy mất rồi!

Động lòng nghĩa hiệp chàng muốn xông ra cứu giúp nhưng chợt suy nghĩ:

- Ta cùng cô nương đang chung sống êm đềm trong Cổ-mộ đài chỉ vì con nghiệt súc

Lý-mạc-Thu dẫn học trò vào tác quái, làm xáo trộn cả cuộc đời chúng ta. Ngày nay

cô nương ta lưu lạc hà phương, và thân ta bây giờ một mình một bóng cũng chưa biết

nên về xứ nào, nghĩ càng thêm căm tức. Thôi cuộc đời mặc người lo liệu, hơi đâu

nhúng tay vào để gây thêm ân oán cho phiền lòng.

Nghĩ xong chàng làm ngơ không đếm xỉa đến nữa.

Nhưng tiếng reo hò hỗn loạn, tiếng gươm kiếm chạm nhau loảng xoảng lại kéo

Dương-Qua trở lại thực tại, không thể làm ngơ, chàng ngó lại thì trận thế đổi khác.

Nàng áo trắng đã có bề thất thế, bị bọn này vây hãm càng lúc càng lúng túng, chỉ

đánh đỡ cầm chừng và giờ phút bại trận đã gần đến.

Thình lình một ánh sáng xẹt qua, cả nửa mái tóc và cây trăm cài đầu của nàng đã

theo một làn gươm bay xuống cỏ. Nàng thẹn đỏ mặt, uất hận tràn trề, bặm môi trừng

mắt cố sức múa đao đánh hăng thêm.

Dương-Qua nhìn nàng, lẩm bẩm:

- Lúc này nàng tức giận, sao mà giống hệt như Long Cô-Nương như đúc. Ta không

thể thờ ơ mà cần ra tay cứu nàng mới được.

Nữ lang đã đuối lắm rồi, tay cầm đao chỉ đánh qua loa hời hợt như không còn sức

lực nữa. Thần sắc có vẻ hoang mang, dáng điệu đã có phần luống cuống.

Chợt Triệu-bất-Phàm lên tiếng hỏi:

- Nàng kia, nàng là người chí của Xích-Luyện Tiên-tử Lý-mạc-Thu. Hãy nói rõ cho

ta nghe, nếu không đứng trách ta vô tình đấy nhé.

Nàng ấy không đáp lại, thừa lúc Triệu-bất-Phàm vô ý, vung đao chém mạnh vào

giữa lưng. Lão quyền sư thất kinh gọi lớn:

- Hãy xem chừng kẻo nguy đấy.

Nếu Cơ-Thanh-Hư không lanh tay vung còn ra đỡ hộ thì chắc hắn sẽ bị lủng lưng

dưới làn gươm ấy rồi.

Triệu-bất-Phàm nghĩ bụng:

- Cứ theo ta đoán thì nàng này nhất định phải có liên hệ mật thiết cùng

Lý-mạc-Thu. Phen này nếu để hắn thoát được, rủi đến tai Lý-mạc-Thu, thì bọn mình

khó bảo toàn tánh mạng. Cho nên thế nào cũng giết hắn để giữ nhẹm chuyện hôm

nay.

Cả bọn năm người cùng hè nhau đánh hăng hơn trước.

Triệu-bất-Phàm nắm chặt đốt gươm, liều mạng xông vào quyết ra tay hạ sát.

Dương-Qua thấy nàng đã lâm vào trạng thái cực kỳ nguy hiểm không thể chậm trễ

nữa, bèn nhảy phóc lên mình trâu, vận chưởng lực phổ vào giúp nó hăng sức hơn nữa,

giục chạy thẳng về phía sáu người đang hỗn chiến.

Trâu vừa chạy, Dương-Qua càng la thêm như thúc đẩy:

- Trâu ơi, chạy mau lên để cứu người, trâu ơi!

Trong nháy mắt con trâu mộng đã xông vào trận đấu.

Sáu người đang mải mê chiến đấu, bỗng thấy một người cỡi trâu xông vào, thất kinh

dừng tay nhảy qua một bên để né tránh.

Dương-Qua ngồi trên mình trâu, hoa chân múa tay, hò hét luôn mồm, khi trâu chạy

tới cạnh hai gã Bi, Cơ, chàng vội lanh tay điểm vào huyệt ở sau lưng hai người. Đây là

thuật điểm huyệt "phượng nhỡn" một tuyệt kỳ công phu, chỉ một mình chàng làm

được. Hai đạo sĩ bị điểm huyệt, toàn thân cứng đờ không cử động được. Dương-Qua

đưa hai tay túm hai người vắt cạnh sừng trâu mang đi vun vút.

Hai đạo sĩ vừa thốt tiếng cầu cứu thì con trâu đã lao thẳng đến sườn đồi.

Dương-Qua bỏ hai người nằm đó rồi quày trâu trở lại.

Thật ra bản lãnh của sáu người so với Dương-Qua còn sút kém xa lắm. Khi trâu

chạy tới, rồi kế đến lại xảy ra những chuyện bất ngờ gần như ảo thuật, thì ai nấy đều

lạ lùng đứng nhìn trân trối, quên cả đánh nhau.

Dương-Qua cho trâu đến gần Hàn Trại chủ và Trần lão quyền sư.

Hàn Trại chủ thấy vậy vung chùy nhắm đầu con trâu bổ xuống. Nhưng Dương-Qua

đã lanh tay điểm vào huyệt "Tương đại" rồi xoay qua điểm luôn huyệt "Tĩnh xúc" của

Trần lão quyên sư.

Cả hai bị điểm huyệt nơi lưng và giữa bụng đã loạng choạng muốn ngã nhào, nhưng

Dương-Qua đã chộp được đầu, kéo luôn để vắt ngang mình trâu rồi giục luôn lên đồi

vứt bên cạnh hai đạo sĩ trước.

Nữ lang áo trắng và Triệu-bất-Phàm định xáp lại đánh một trận cuối cùng quyết

định ăn thua, nhưng thấy sự việc xảy ra quá lạ lùng nên đứng trố mắt nhìn mãi, lòng

ai cũng phân vân, từ cái lạ này qua cái lạ khác.

Khi thấy trâu từ trên sườn đồi phi xuống lần thứ ba, và trên lưng chú mục đồng hoa

chân múa tay, miệng la ó om sòm.

Biết mối nguy đã đến phần mình, nên Triệu-bất-Phàm đề phòng vung gươm nhắm

đầu trâu vừa đâm vừa chém loạn xạ.

Nhưng lạ quá, gươm tuy bén nhng đâm hoài không thấy sờn một tý da trâu. Chú

mục đồng ngồi vắt vẻo trên mông trâu, tay chỉ cầm một chiếc sáo trúc dài mấy tấc,

gạt ngang một cái mà lưỡi kiếm đã cong vòng như một móc câu.

Triệu-bất-Phàm nhằm thế không xong, phi thân tung mình nhảy vút qua khỏi đầu

trâu, muốn phóng về phía sau tẩu thoát. Nhưng thân hình lão đang lơ lửng nửa chừng.

Bỗng một sức mạnh vô hình níu lại, rơi xuống ngay giữa sừng trâu. Con trâu cứ giữ

nguyên như vậy, ngay đuôi giõng thắng một mạch lên sườn đồi rồi hất xuống.

Dơng-Qua ném hắn bên cạnh bốn tên kia rồi lại thúc trâu trở lại ngay hướng nàng

áo trắng đang đứng nhìn ngơ ngác.

Nàng nhìn tận mắt thấy con trâu đã hạ luôn trong chốc lát cả năm người trong tay

có vũ khí, bất giác cũng đem lòng lo sợ và nghi ngờ.

Nàng nghi ngờ vì chưa tin rằng một con trâu mà có tài lạ lùng đến mức đó.

Đang suy nghĩ bâng quơ thì con trâu đã xồng xộc chạy lại, dừng ngay trước mặt

mình, mồm đầy nước dãi, mồ hôi ướt cả lòng. Nàng thất kinh vung gươm ra chém.

Nhưng Dương-Qua đã hét lớn:

- Xin đừng chém trâu tôi! Vừa la vừa vung tay gạt gươm đỡ đòn cho trâu rồi ghì

trâu đứng lại.

Chàng nhảy xuống đất ngó nữ lang nói:

- Xin cô tha cho nó, đừng giết tội nghiệp!

Con trâu đứng yên lặng mũi thở khì khì, đuôi ngoe nguẩy, không có vẻ gì hung tợn.

Nàng thấy trâu không còn hung hăng hại mình như bọn kia nên vội băng người chạy

bay lên núi.

Dương-Qua than nhỏ:

- ồ, nàng quyết theo hạ sát bọn này rồi! Phải cứu họ mới được.

Chàng cúi xuống lượm năm viên đá nhỏ, liệng luôn về phía năm người.

Võ công chàng đã đạt tới mức kỳ diệu, có thể đẩy xa hàng mười mấy trượng, liệng

năm viên đá giải huyệt cho năm người không sai viên nào.

Cả bọn năm người đang nằm im toàn thân tê liệt, không cử động nổi, bỗng nhiên có

vật gì chạm nhẹ vào thân rồi cảm thấy đầu óc sáng suốt và tay chân cử động trở lại

như trước. Ai nấy cũng đều đoán có lẽ một dị nhân đã núp đâu đây ra tay cứu mạng

cho mình. Nhìn thấy nữ lang đang xách dao chạy thẳng lại đấy, ai nấy cũng tưởng

chính nàng này giải cứu nên cùng ngẫm nghĩ:

- Nàng đã tài ba như vậy, thử còn tranh chấp làm sao nổi nữa, chi bằng tẩu thoát đi

cho rồi.

Thế rồi mạnh ai nấy tìm đường phân tán cả.

Bì-Thanh-Huyền vừa tỉnh dậy, thấy các bạn chạy, cũng lật đật chạy càn, bất ngờ

đúng vào phía nữ lang đang đi tới.

Cơ-Thanh-Hư thất kinh gọi lớn:

- Ô kìa, sao sư đệ chạy về phía đó? Hãy tránh mau nơi khác kẻo nguy hiểm lắm

đấy.

Bì-thanh-Huyền lật đật quay mình rẽ sang phía tả, nhưng đã muộn rồi. Người con

gái đã đến ngay trước mặt, múa dao chém sả xuống.

Trong lúc tâm thần rối loạn, khí giới không có, Bì-Thanh-Huyền lúng túng, xoay

trở không kịp chạy quanh chạy quẩn, đến đâu cũng thấy dao bay lóe mắt. Hắn không

tránh đỡ được bị một nhát đứt ngon một cánh tay.

Tuy bị thương nhưng vì quá hoảng hốt, hắn chưa biết đau, cứ lo chạy cuống cuồng

tìm lối trốn tránh.

Vừa khi đó, Triệu-bất-Phàm đã đến kịp, vung gươm chặn cô gái lại.

Biết Triệu-bất-Phàm đâu phải tay vừa, nàng không dám tham chiến, kế đó nhìn về

phía xa thấy dáng Cơ-Thanh-Hư đang cõng Bì-Thanh-Huyền chạy ra sau núi, nàng

thấy hài lòng nhưng suy nghĩ:

- Bọn này đã được người nào giải khai huyệt đạo rồi. Biết đâu kẻ ấy còn ẩn nấp mai

phục đâu đây, nếu mình háo thắng e gặp nguy hiểm. Tốt hơn là ta phải đi tìm cho ra

sự thật là ai.

Nàng lăm lăm cây gươm trong tay chạy khắp xung quanh đồi, lục lạo hết các bụi

lùm, hóc đá để tìm, nhưng chẳng thấy một bóng dáng người nào hết.

Khi trở lại chỗ cũ thì thấy tên mục đồng đang ngồi dưới đất sụt sùi khóc lóc.

Nàng ngạc nhiên hỏi lớn:

- Tại sao lại khóc lóc như vậy, hả chú mục đồng?

Dương-Qua gạt nước mắt bệu bạo đáp:

- Con trâu này trái chứng chạy lồng trong rừng, cọ vào đá rụng lông, e về nhà chủ

tôi đánh đòn nên phải khóc.

Nàng đưa mắt nhìn qua con trâu đang gặm cỏ, thấy lông hắn vẫn láng mượt không

trầy tróc chỗ nào, nên an ủi:

- Không hề chi đâu. Có xây xát chút ít chăng nữa chủ mi cũng không nhìn thấy

được đâu mà sợ.

Trâu này đã giúp cho ta được việc, ta biếu mi ít tiền gọi là đền ơn nhé.

Nói rồi nàng đưa tay vào túi lấy ra năm lạng bạc ném ra đấy, chắc chắn thế nào chú

mục đồng cũng hết sức mừng rỡ và tạ ơn mình ngay. Không ngờ sự thật khác hẳn.

Hắn vẫn đứng yên, mặt mày ủ đột, không thèm ngó đến bạc.

Nàng nổi giận mắng:

- Đồ ngu, sao chẳng lấy bạc cất đi cho rồi?

Dương-Qua mếu máo đáp:

- ít quá tôi đâu thèm.

Cô gái lấy luôn một gói lớn hơn ném luôn xuống đất nhưng hắn vẫn đứng nhìn, lắc

đầu mãi, không thèm lấy.

Nàng tức quá đỏ mặt tía tai, nguýt hắn một cái và mắng:

- Thật quả đồ ngốc. Chua thấy ai như mày. Ngốc ơi!

Mắng rồi quay mình bỏ đi luôn.

Dương-Qua để ý thấy mỗi khi nàng nổi giận, giống Tiểu-long-Nữ những lúc mắng

mình, như hai giọt nước, nên nghĩ bụng:

- Bây giờ chưa tìm được cô nương. Ta cố giữ cô này, để thỉnh thoảng nhìn cho đỡ

nhớ.

Nghĩ xong vội vàng chạy theo nắm lấy chân phải của nàng miệng nói lớn:

- Hãy đứng lại, đừng đi đâu hết!

Cô gái cố gỡ ra, nhưng hắn cứ giữ chặt không chịu buông.

Nàng trừng mắt nạt lớn:

- Bỏ ra lập tức, mi không muốn sống nữa hay sao?

Nhìn nàng giận dữ nét mặt hay quá. Dương-Qua càng thích chí cố nài nỉ:

- Cô nương thương tôi và giúp đỡ dùm. Tôi không dám trở về nhà nữa. Thà cô giết

tôi chứ về nhà chắc cũng không sống nổi với ông chủ.

Nàng dịu giọng hỏi:

- Nhà mi ở đâu?

Hắn đáp:

- Tôi quên mất nẻo đi rồi. Cô nương cho tôi theo với nhé.

Nàng thấy thằng này ương gàn và ngơ ngác quá, vung dao lên chém. Dương-Qua

vội vàng xách giò của nàng đưa lên để đỡ nhát dao ấy.

Nàng nổi nóng giật phắt chân lại rồi bồi thêm một dao nữa mạnh vô cùng.

Dương-Qua lẹ làng bước qua một bên tránh được rồi luôn mồm la lớn:

- Cứu tôi, cứu tôi với bà con ơi!

Thấy thái độ của hắn như vậy nàng cũng thừa hiểu chẳng phải tay vừa, nên bỗng ôn

tồn bảo:

- Thôi đừng la nữa, lại đây chị bảo.

Dương-Qua hỏi:

- Đến gần để cô giết tôi sao?

Nàng mỉm cười:

- Không, ta chẳng giết đâu. Cứ lại đây mà em.

Dương-Qua ngầm vận khí dồn huyết vào trong người khiến nước da trở nên tái xanh

lợt lạt như một thây ma, rồi giả bộ sợ sệt rón rén bò lại cạnh nàng.

Nữ lang đưa chân hất gói bạc về phía chàng bảo nhỏ:

- Thôi cầm lấy rồi cút đi cho rồi, thằng ngốc! Ta còn phải đi tìm con lừa đen một

tý. Chẳng biết lúc nào đánh nhau, nó bị hai gậy thất kinh chạy đi đâu mất biệt chưa

trở lại.

Nàng vừa bước đi thì Dương-Qua bỏ tiền vào bọc, giắt trâu chạy theo gọi lớn:

- Cô ơi, cô đi đâu cho tôi cùng theo với.

Nàng bừng bừng nổi giận trợn mắt nhìn hắn rồi triển khai khinh công lao mình đi

mau như gió, trong bụng nghĩ thầm:

- Mày có giỏi thì chạy theo xem có kịp không cho biết?

Phi thân đi một hồi lâu, bỗng có tiếng của hắn gọi cách đó không xa:

- Cô ơi, chờ tôi với cô ơi! Sao đi mau thế cô?

Nàng tức quá dừng chân lại, múa đao chém nhầu, miệng hét lớn:

- Cút ngay, thằng ranh!

Dương-Qua giả bộ hoảng sợ, vừa la vừa tìm đường lẩn trốn. Nàng không thèm đuổi

theo, cất đao, quay mình phi thân theo đường cũ lao đi thật mau.

Đợc một chập, bỗng nghe tiếng trâu rống và chân chạy thình thịch đằng sau, nàng

ngạc nhiên nhìn lại thấy Dương-Qua cỡi trâu đi cách mình độ ba, bốn chục thước mà

thôi.

Nàng bặm môi dừng chân đứng chờ.

Dương-Qua cũng gò trâu ngừng lại không tiến tới nữa.

Nàng lại rảo bước đi nữa. Trâu lại bước theo. Cứ đi đi, ngừng ngừng như vậy, không

biết mấy lần. Nàng tức giận quá sức nhưng chẳng biết nói sao.

Lúc bấy giờ chim rừng đã ríu rít gọi nhau về tổ, ánh tà dương le lói sắp tàn. Sương

chiều bay phủ khắp đầu non và màn đêm cũng vừa sụp xuống.

Nữ lang chưa tìm được cách nào để gỡ cho khỏi tên mục đồng kỳ quái cứ cố tình

bám riết bên lưng, nên suy nghĩ:

- Thằng này đi mau chạy lẹ không thua gì kẻ có biết khinh công. Có lẽ vì ở miền

rừng núi leo trèo đã quen nên chân tay dẻo dai nhặm lẹ. Chi bằng dụ nó lại gần, điểm

cho một huyệt bại bớt cặp giò thì hết còn đi theo quấy rầy nữa.

Tuy chẳng nói ra, nhưng dự đoán của nàng đều bị Dương-Qua nhận xét qua mặt và

điệu bộ mà biết trước, vì so sánh, bản lãnh của nàng còn thua sút hắn quá nhiều.

Thấy cô ta như thế, Dương-Qua cũng đã có cách để làm nàng khỏi nghi ngờ nữa.

Một chập sau, nàng thấy hai chân mỏi rã rời, dừng bước chờ hắn lại gần nói lớn:

- Này em, bây giờ ta bằng lòng cho em cùng đi theo, nhưng cần nghe lời ta một

việc nhé.

Dương-Qua mừng quá vội đáp:

- Cô cho thật sao? Thế thì hay quá! Nhưng thật không cô?

Nàng đáp:

- Thật chứ. Bây giờ ngươi leo lên lưng trâu đi, và để ta cùng ngồi phía trước nhé.

Dương-Qua hân hoan dắt trâu đến gần.

Thấy mắt nàng liếc qua liếc lại sắc như dao hình nh đã có một âm mưu gì đây,

Dương-Qua vội nghĩ:

- Nàng lại tìm cách hại ta! Chờ xem nàng còn thi thố cái gì nữa đây.

Hắn điềm nhiên nhảy lên ngồi phía mông trâu, nhường phía trước cho nàng.

Cô gái nghĩ bụng:

- Bây giờ lừa đã chạy mất, thì ngồi trâu tạm đỡ chân cũng tốt.

Nàng thúc chân vào sườn, đau quá trâu lồng lên phóng nước đại.

Nàng thừa dịp, đưa tay ra sau điểm mạnh vào mỏ ác Dương-Qua nơi "kỳ môn

huyệt" Dương-Qua rú lên một tiếng té nhào ra sau.

Nàng chẳng thèm nhìn lại, mồm mắng nhỏ:

- Đáng kiếp cho mày, từ nay đừng phá rối nữa.

Rồi nàng dùng ngón tay ấn mạnh vào cổ trâu. Con trâu tung bốn chân sải đi như

ngựa phi nước đại, cát bụi tung mịt mù!...

22. Cô gàn gặp tay thằng ngốc

Nhưng bỗng có tiếng kêu réo nheo nhéo đằng sau. Nàng quay lại xem thấy hắn đã

tóm chặt đuôi trâu, chân hỏng đất tòn teng lơ lửng như chiếc diều, cát bụi đóng đầy

mình, mặt mày lem luốc, nước mắt ràn rụa, vừa thút thít vừa kêu nàng.

Nữ lang tức không chịu được rút dao toan chặt vào cặp tay hắn cho rồi, nhưng khi ấy

gặp chỗ chợ đông, thiên hạ ngồi đầy đường trâu đi không được nữa và buộc lòng

nàng phải thu dao lại.

Dương-Qua cố tình trêu ngươi để chọc nàng một mẻ nên kêu rối rít:

- Cô đánh chết tôi sao được? Miệng tôi còn kêu được tôi cầu cứu bà con. Bà con ơi,

cứu tôi với, cứu tôi với!

Bà con thiên hạ trong chợ thấy lạ ùn ùn kéo nhau lại xem, bao vây xung quanh lớp

trong vòng ngoài, có kẻ hỏi nguyên nhân sự việc.

Nàng mắc cỡ cố lẩn vào đám đông chạy trốn nhưng Dương-Qua đã níu được chân la

lớn:

- Trốn đi đâu, trốn sao được với tôi phen này!

Một người đứng tuổi hỏi:

- Hai người tại sao dằng co như vậy?

Dương-Qua đáp:

- Người này là chị dâu tôi đấy. Chị ấy ghét tôi nên cứ đánh đập tôi hoài.

Nàng tức quá, mắt phượng tròn xoe, mày liễu dựng ngược, đa chân đạp mạnh một

nhát vào mông Dương-Qua lăn cù trên mặt đất.

Ngay lúc ấy có một đại hán vừa đến, trông thấy nổi giận hét:

- Con bé này, sao nhẫn tâm khốn nạn như vậy hử?

Vừa nói, đại hán vung quyền ra đỡ hộ cho hắn.

Nàng lại vung dao ra chém luôn.

Người ấy tung người lên cao để tránh rồi la lối om sòm. Tức thì sáu bảy người to lớn

cùng chạy lại xông vào can thiệp.

Nhìn thấy tình hình có vẻ gay cấn bất lợi cho mình, nàng suy nghĩ:

- Ta muốn dứt bỏ hắn mà không được. Bây giờ đông người quá, nếu cứ thẳng tay e có

hại vì làm sao đối phó với số người tại chốn chợ đông. Chi bằng nên dỗ ngọt hắn cho

xong, rồi sau sẽ hay.

Nghĩ vậy, nàng dịu lời bảo:

- Thôi đừng khóc nữa, lại đây cùng chị đi về.

Dương-Qua đáp:

- Nhưng chị đừng đánh tôi nữa nghe chưa?

Nàng cười giả lả:

- Thôi, chị chả đánh em nữa đâu.

Thấy hai nàng đã thuận thảo, chị em hết xung đột nên thiên hạ trong chợ cũng dần

dần giải tán và nhường đường cho Dương-Qua dắt trâu đi.

Cả hai bước đi đã khá xa, nhưng phía sau còn vọng lại những lời bàn tán ồn ào về câu

chuyện mình khi nãy.

Khi ấy Dương-Qua lại khơi mào nói chuyện:

- Tại sao cô có ác ý xô tôi xuống đất chiếm đoạt trâu của tôi?

Nàng ta đỏ mặt tía tai, nạt lại:

- Thằng ranh con, ai là chị dâu của mày mà đi nhìn càng như vậy?

Nói rồi tuốt gươm chém luôn.

Dương-Qua thụt lùi ra sau né tranh, miệng năn nỉ:

- Thôi, xin cô đừng giận nữa, về sau tôi thề không dám nói ẩu nữa đâu.

Nàng hét lớn:

- Xem mặt mày như ma lem mà lại gọi ta là chị dâu. Chỉ có quỷ dạ xoa mới xứng là

chị của mày.

Duơng-Qua chẳng cãi lại, cứ cười hì hì cho qua chuyện.

Đêm tối xuống dần, nhưng hai người vẫn còn ở giữa cánh đồng không hiu quạnh. Đưa

mắt nhìn vào phía xa xa, trong xóm có le lói ánh đèn. Người con gái nói:

- Bây giờ đã đói bụng lắm rồi, mi đi vào xóm ấy xem có thứ gì ăn được mua ăn đỡ dạ

chứ.

Dương-Qua nhìn nàng lắc đầu nói:

- Đâu được! Tôi chẳng đi đâu hết.

Nàng hỏi:

- Vì sao mi không chịu đi?

Dương-Qua đáp:

- Tôi đi rồi cô bỏ đi nơi khác tôi biết đâu mà tìm nữa. Cô đừng lừa tôi vô ích.

Nàng nghiêm mặt nói:

- Ta đã quả quyết không đi đâu cả, mi cứ tin ta. Ai đi lừa mi làm gì.

Nhưng Dương-Qua vẫn lắc đầu tỏ vẻ không tin lời nàng nói.

Nàng nổi nóng vung quyền thoi đại. Dương-Qua lật đật nhảy ra sau né tránh. Nàng

tuy võ nghệ cao cường, khinh công cũng có hạng, nhưng vì chân có tật một bên đi

khập khễnh nên đuổi theo không kịp hắn.

Thấy sai khiến không xong, đánh cũng không trúng, nữ lang buồn lòng suy nghĩ:

- Mình mang danh biết võ nghệ mà không điều khiển được, biết làm sao bây giờ. Thật

chán quá!

Suy nghĩ xong nàng làm thinh lững thững bỏ đi. Dương-Qua dắt trâu bước theo. Cả

hai cứ theo đại lộ đó mãi. Nàng vừa đi vừa nghĩ bụng:

- Ta cứ giả vờ tự nhiên cho hắn im rồi xuất kỳ bất ý cho hắn một dao là xong việc chứ

gì!

Đi mãi vừa khoảng chín một nồi cơm, bóng tối đen dần, không trông thấy xa được

nữa. Bỗng hai người gặp bên đuờng có một miễu đá, cửa đóng then gài, có vẻ rêu

phong cổ kính và đã bị hoang phế lâu ngày rồi.

Nàng suy nghĩ:

- Hay là mình rủ hắn vào ngủ trong miễu này. Thừa dịp hắn ngủ mê sẽ cho một nhát

gươm là rảnh nợ.

Dự định xong, nàng đẩy cửa nhìn vào. Miễu bị bỏ phế lâu ngày bụi bám nhện giăng,

mùi mốc bay lên nồng nặc. Chạy quanh đó tìm ít nhánh cây khô, nàng dùng làm chổi

quét dọn trên bàn đất, ghé ngồi nghỉ chân.

Không thấy Dương-Qua vào, nàng cất tiếng gọi:

- Mày còn đứng ngoài ấy làm chi sao chưa chịu bước vào cho rồi, hở ôn con?

Nhưng tư bề vắng lặng không có tiếng đáp lại. Nàng sực nghĩ:

- Hay là nó đoán được ý ta, không dám vào, sợ mình giết đi chăng. Nếu hắn tự ý bỏ đi

càng tốt.

Nàng ngồi dựa lưng vào vách trầm ngâm suy nghĩ. Thình lình một trận gió thoảng

qua, đưa vào mũi nàng một mùi thịt nướng thơm ngào ngạt. Nàng ngạc nhiên bỏ chạy

ra nhìn. Dưới ánh sao mờ mờ, bên cạnh đống lửa hồng cháy hực hỡ, Dương-Qua đang

ngồi chồm hỗm, gặm một khút thịt nướng còn lên hơi nghi ngút. Trên đống lửa có

mấy gắp thịt nữa đang cháy xèo xèo, mùi khói cuồn cuộn bay lên thơm phứt.

Đang gậm thịt ngon lành, thấy nàng bước ra, Dương-Qua cười hề hề, dồn dã hỏi:

- Cô nương xơi thịt không? Ăn một miếng cho đỡ dạ nhé?

Miệng nói tay đưa cho nàng một gắp thịt.

Nàng tiếp lời, đưa lên ăn thử. Có lẽ thịt nai? Tuy chẳng được ớp muối mắm, gia vị

gì, nhưng thịt tươi, bụng đói ăn ngon miệng quá. Nàng thấy hay hay, cũng ngồi luôn

bên cạnh, hơ lại gắp thịt rồi ăn không chút e dè.

Nàng ăn hết gắp ấy. Dương-Qua đưa thêm gắp khác.

Được ăn ngon, ngồi bên đống lửa ấm cúng, nàng thấy vui vui bèn gợi chuyện hỏi

Dương-Qua:

- à quên, cậu em tên là gì nhỉ?

Dương-Qua vừa gặm thịt vừa nhìn nàng đáp ấm ớ:

- Suốt ngày nay cô đã gọi tôi là thằng ranh, thằng ngốc quả đúng tên tôi rồi, chứ hỏi

làm chi nữa. Cô giả vờ hay thật đấy?

Nàng tức cười hỏi tiếp:

- Vậy cậu em tên Ngốc thật sao? Cha mẹ em còn đầy đủ cả chứ?

Dương-Qua thở dài đáp:

- Cha mẹ tôi đều mất sớm cả rồi. Còn cô, tên họ là gì nhỉ?

Nàng đáp:

- Ta quên đi mất rồi. Mà em hỏi có ích chi đâu?

Dương-Qua thấy nàng muốn giấu nên nghĩ bụng:

- à, mi cố tình giấu ta, thì ta cũng chọc tức một hồi xem mi có nói ra không cho biết.

Nghĩ rồi cười lớn nói:

- Dầu cô không muốn nói, tôi cũng biết từ lâu, nhưng chưa muốn gọi mà thôi. Nói ra

cũng chả ích gì.

Cô gái ngạc nhiên hỏi:

- Mi biết ta tên gì, nói thử xem nào.

Dương-Qua nhìn nàng, ranh mãnh đáp:

- Tên cô là "Trứng Ngốc", có lẽ vì tên đẹp quá, cô không muốn phô bày ra chứ gì?

Nàng ta tái mặt vì quá giận, vùng đứng lên cốc vào đầu hắn một cái và quát lớn:

- Mày cả gan khinh miệt ta là "Trứng Ngốc"? Chỉ có mày là Ngốc rồi cũng tưởng ai

nấy đều giống họ nhà Ngốc cả sao!

Dương-Qua ôm đầu bệu bạo nói:

- Cô gán cho tôi tên "Thằng Ngốc. Tôi hỏi tên cô là gì cô chẳng nói. Tôi tạm gọi như

vậy để dễ kêu, vì Ngốc và Trứng Ngốc cũng họ hàng với nhau cả. Sao cô cứ ỷ thế hà

hiếp đánh đập tôi mãi thế. Vô lý quá!

Nàng nói:

- Ta ghét mi nên chẳng thèm nói tên: Muốn lắm thì ta cho biết một phần nào. Ta vốn

họ "Lục", còn tên ta là gì, để mi đoán ra cho được.

Nguyên cô gái này là Lục-vô-Song hái sen bên hồ, đã thuật hồi đầu chuyện. Nàng

cùng chị dâu là Trình-Anh và anh em họ Võ đi hái hoa, rủi té gãy xương chân. Tuy

được Võ Tam Nương buộc thuốc ghép lại hộ nhưng sau đó vì có sự nghi ngờ và xô xát

giữa Võ Tam Nương và cha nàng là Lục Lập Đỉnh cho nên việc ghép xương chưa

được hoàn toàn, Võ Tam Nương bỏ nhà ra đi. Vì vậy nên Lục-vô-Song mang tật phải

đi tập tễnh.

Nàng có màu da bánh mật, tuy không trắng lắm nhưng có duyên, mặt mũi cũng xinh

đẹp, nhưng hiềm vì mang tật nơi chân, bước đi không tự nhiên nên bị một phần lớn

ảnh hưởng cho nhan sắc nàng, cũng đáng thương hại.

Khi Xích-Luyện Tiên-Tử Lý-mạc-Thu đến hạ sát toàn gia họ Lục định giết nàng thì

nhìn thấy trên lưng có mảnh khăn hồng, khiến cho nàng nghĩ đến cựu nghĩa cùng ông

nàng là Lục-tiểu-Nguyên, động lòng không nỡ hạ thủ và bắt đem đi.

Lục-vô-Song tuy ít tuổi nhưng rất lanh lẹ thông minh. Thừa hiểu số phận mình đang ở

trong nanh vuốt quân thù, không biết lúc nào mất mạng, cho nên cố sức tìm cách ăn ở

thật mềm mỏng khéo léo để mua lòng. Nhờ đó mà ý định giết nàng, ngày càng phai

nhạt, Lý-mạc-Thu thỉnh thoảng có nhớ lại cựu thù thì đưa nàng ra mắng nhiếc cho hả

dạ chứ không hại đến tánh mạng.

Muốn cho Lý-mạc-Thu không quan tâm đến mình nữa, nàng cố để cho đầu bù tóc rối,

mặt mũi lem luốc, chân đi khập khễnh càng cố làm khập khễnh nhiều hơn, và thỉnh

thoảng ra bộ điệu vớ vẩn ngẩn ngơ như người mất trí.

Lý-mạc-Thu thấy con người tàn phế chẳng có gì đáng kể hay lo ngại nữa nên để ở

trong nhà sai vặt như một đứa ở.

Lục-vô-Song ấp ủ mãi trong lòng mối cựu thù của song thân, không bao giờ lộ cho ai

biết.

Thỉnh thoảng Lý-mạc-Thu thử ý hỏi đến tên cha hay tên mẹ thì nàng cũng giả vờ ngu

ngu dại dại, nói bậy bạ chẳng trúng vào đâu hết. Nhờ vậy nên Lý-mạc-Thu không

quan tâm đề phòng nữa.

Hàng ngày Lý-mạc-Thu rèn luyện võ nghệ cho Hồng-lăng-Ba thì Lục-vô-Song đứng

hầu để sai vặt, hoặc múc nước, đưa khăn, thu dẹp bàn ghế hoặc xếp vũ khí.

Trước kia cũng đã có chút ít căn bản võ nghệ, nên nàng chú ý học lỏm nhiều ngón rồi

thừa lúc vắng vẻ tìm nơi kín đáo để tập luyện lại.

Đối với Hồng-lăng-Ba thì nàng hết lòng chiều chuộng, bợ đỡ, luôn luôn tán tỉnh,

khiêm nhường cho nên được Hồng-lăng-Ba thương mến, thỉnh thoảng gặp lúc

Lý-mạc-Thu vui tính, Hồng-lăng-Ba tìm lời nói giúp cho nên Lý-mạc-Thu cũng bằng

lòng chỉ bảo cho nàng.

Cứ như vậy tập luyện suốt mấy năm trời về cái môn quyền thuật, Lục-vô-Song lại tỏ

ra có nhiều tiến bộ khiến cho Lý-mạc-Thu lại đem lòng nghi ngờ nên không tiếp tục

truyền dạy võ nghệ cho nữa.

Trái lại, Hồng-lăng-Ba đã sẵn mến nàng cho nên đem lòng thương hại, thỉnh thoảng

dấu sư phụ, đem cái môn bí truyền về đao kiếm, khinh công hay quyền cước đã học

được truyền thụ lại cho nàng.

Nhờ vậy mà chẳng bao lâu Lục-vô-Song cũng có một bản lãnh khá cao có thể sánh

với nhiều tay cự phách trong võ lâm thời bây giờ.

Trong dịp Lý-mạc-Thu cùng Hồng-lăng-Ba tái nhập Cổ-Mộ đài để tìm cách lấy trộm

"Ngọc nữ tâm kinh" ở quá lâu, Lục-vô-Song chờ mãi không thấy về nên có ý muốn

tìm cách trở về đất Giang-Nam để thăm quê hương và dò la tin tức của cha mẹ.

Ngày còn thơ ấu, khi Lý-mạc-Thu đến Lục gia trang, nàng chỉ được nghe cha mẹ bị

Lý-mạc-Thu đánh trọng thương chứ không biết sống hay đã chết rồi. Vì vậy nên nàng

cố nuôi hy vọng kiếm tìm, may ra còn có ngày được sum họp lại.

Trên đường về Giang-Nam nàng có gặp hai đạo sĩ lạ mặt. Hai người này thấy nàng đi

tập tễnh đem lời chọc ghẹo. Tuy cố sức làm ngơ nhưng hai đạo sĩ càng tỏ vẻ thô bạo

quá đáng nên nàng nổi nóng đem cắt tai một người cho hả giận.

Vì vậy nên người kia mới thách nàng và hẹn trưa hôm sau ra Sài Lang Cốc để thí võ,

nên mới gặp lại Dương-Qua.

Ngày còn nhỏ, nàng và Dương-Qua đã có dịp gặp nhau, khi nàng vừa bị Lý-mạc-Thu

bắt cóc đem đi. Nhưng thời gian qua, cả hai lớn lên, thân hình dáng điệu mỗi người

cùng thay đổi quá nhiều cho nên tuy gặp lại vẫn không nhìn ra được.

Lục-vô-Song ăn hết ba gắp thịt của Dương-Qua đưa, thấy đã no lắm rồi. Trong người

cảm thấy khoai khoái dễ chịu lắm.

Riêng Dương-Qua cứ ngồi nhìn đám lửa hồng thả hồn mơ mộng đâu đâu.

Chàng nghĩ đến Tiểu-long-Nữ và chép miệng than thầm:

- Chẳng biết giờ này cô nương ta phiêu dạt nơi đâu. Có nhớ đến mình chăng? Giá thử

nàng này là cô nương ta, cùng ngồi hơ lửa ăn thịt, thì thú vị biết bao nhỉ?

Càng nghĩ càng mơ màng, mắt đăm đăm nhìn nàng không chớp.

Lục-vô-Song chợt thấy Dương-Qua nhìn mình như ngây dại nên phát ngượng, muốn

đứng lên bỏ đi nơi khác bỗng nghe tiếng ho nho nhỏ từ đàng xa và một người lê đôi

giép đến gần.

Người ấy vừa đưa mũi hít lia, vừa cất tiếng trầm trầm, tiến lại gần nói:

- ồ, thơm quá, thịt nướng ngon lành quá!

Lục-vô-Song để ý thấy người này ăn mặt rách rới, quần áo chằn vá khắp nơi, dáng

điệu quả là một chàng ăn mày chính cống.

Hắn bước thảng lại đống lửa ngồi kề bên cạnh Dương-Qua chẳng thèm hỏi han một

lời, lấy que củi khều than ra gắp một miếng thịt đưa lên miệng nhai nhồm nhoàm,

khen ngon rối rít.

Dương-Qua cứ điềm nhiên ngồi ngó không nói một lời.

Lục-vô-Song thấy mùi hôi hám từ người này xông ra khó chịu quá. Hơn nữa

thái độ của y lại vô lễ thô tục khiến nàng bực mình, phủi áo đứng dậy, ngoay ngoảy đi

vào trong.

Người ấy nhìn theo tủm tỉm cười rồi như có vẻ vừa khiêu khích nữa. Cười xong, hắn

cúi đầu ăn nữa.

Lục-vô-Song bực mình quá nhịn không nổi nữa, quay phắt lại trỏ mặt người ấy quát:

- Tên kia, mi cười cái gì?

Người ăn mày nghếch mặt một cách tư thị đáp:

- Ta cười mặc ta, có can hệ chi đến cô mà hỏi?

Lục-vô-Song muốn nhảy đến chém cho một dao bay đầu, nhưng sợ làm cho chú chăn

trâu hoảng sợ chạy mất nên cố nén bụng làm ngơ rồi lẳng lặng đi vô.

Nàng vừa đến hiên miếu, bỗng nghe người ăn mày hỏi Dương-Qua:

- Chị của chú đấy à? Trông cũng khá đẹp đấy chứ! Nhưng nóng nổi là chân đi cà thọt

khó coi quá nên chẳng còn đáng bao nhiêu.

Mấy lời ấy như muối xát vào lòng Lục-vô-Song. Nàng vừa nghe và thấy nóng bừng cả

má, nóng cả tai. Bao nhiêu năm sống chung quả phụ Lý-mạc-Thu, nàng phải nhẫn

nhục chịu đựng tất cả sự đè nén khinh khi, áp bức. Ngày nay đã ra đời tự do thế mà

một tên ăn mày dám đương nhiên chế diễu khinh miệt mình ra mặt thì làm sao dằn

lòng cho nổi nữa.

Lập tức nàng rút gươm nhảy lại chém mạnh vào đầu tên ăn cướp.

Người này cũng là một tay có hạng trong bang hành khất, cho nên võ nghệ cũng vào

bậc khá.

Bang này do Hồng-thất-Công lãnh đạo gồm đủ ăn mày tứ phương, khắp cầu đường

xó chợ, từ thành thị đến thôn quê, chỗ nào cũng có mặt.

Hôm nay giữa đồng hoang vắng, tình cờ gặp Dương-Qua ăn mặc cùng bẩn thỉu rách

rới, hắn lầm tưởng là bạn đồng nghiệp cho nên thấy thịt cứ sa vào ăn, chẳng cần hỏi

han khách sáo gì hết.

Thấy Lục-vô-Song tỏ ý không thích bỏ đi vào, hơn nữa nhìn nàng đi tập tễnh, hắn

hiếu kỳ hỏi thăm cho biết và sẵn dịp cũng buông đưa vài câu cho đậm chuyện, đâu

ngờ lại xảy ra cớ sự như thế này.

Khi thấy nàng đưa dao chém mình, người ấy vội vàng "ủa" một tiếng rồi phi thân

nhảy ra một bên tránh né, miệng la lớn:

- ồ, sao nóng nảy vậy cô! Tôi mới ăn góp với em chồng cô vài miếng thịt đã là bao

mà cô lại đối xử như vậy. Nếu cô không bằng lòng, tôi sẽ trả đủ cho mà.

Lục-vô-Song đâu phải tiếc thịt. Nàng chỉ căm thù kẻ vào đây nhạo báng sự tàn tật của

mình cho nên nàng chẳng nói gì thêm, vung dao chém tiếp thêm nhát nữa.

Người ăn xin lanh chân lánh mình tránh né được hết, rồi nhìn nàng như muốn khiêu

khích để chém thêm vài nhát nữa.

Lục-vô-Song càng giận thêm, tiến sát gần bên, chém vun vút vào làm đứt tung một

mảnh áo, người ăn mày hãi kinh nghĩ bụng:

- ồ, con bé này cũng là tay hữu hạng, đâu phải tầm thường.

Hắn rút ra một cây roi sắt để tiếp đánh.

Độ mười hiệp, người ăn mày thấy cô gái càng đánh càng hăng nên chột dạ suy nghĩ:

- Ta với nàng có thù oán gì mà đánh nhau nữa. Chi bằng bỏ chạy cho rồi. Nàng bị

thọt chân chắc đuổi theo mình không kịp.

Hắn vung roi quất mạnh vào chân đau của nàng, cuời một tiếng rồi xoay mình bỏ

chạy.

Lục-vô-Song vội vàng đưa dao đỡ ngọn roi ấy, nhưng lúc thấy người ăn mày vụt chay

đi thì nổi tức lên thét lớn:

- Thằng chó chết, mày tưởng ta không đuổi kịp hay sao?

Thế rồi nàng múa lộng lưỡi dao lên mấy vòng, lộng gió vi vu rồi phóng theo người ấy

đang chạy về hướng Bắc.

Dương-Qua cứ mải miết nướng thịt vừa ăn vừa xem hai người đánh nhau. Thấy người

ăn mày cự không nổi cô gái, chàng thích chí cười hoài.

Thình lình có tiếng đao rít vi vu nghe ớn xương sống, chàng đưa mắt nhìn lại thấy

Lục-vô-Song đang vũ lộng một thanh đao cong như vành cung, lưỡi mỏng như lá lúa

phóng theo người ăn mày.

Lưỡi đao vòng cung đã phóng trúng lưng, người ăn mày la lên một tiếng té nhào

xuống đất.

Lục-vô-Song bay tới rút đao toan hạ sát, nhưng người ấy đã lanh chân chờ dậy và

kiếm đàng chuồn mất.

Lục-vô-Song chạy theo ít trượng đã thấy người ăn mày hiện đâu mất tìm chẳng được.

Nàng quay lại bảo Dương-Qua:

- Mi đi lại chỗ ấy lấy lưỡi phi đao mang lại đây cho ta.

Dương-Qua trố mắt hỏi:

- Phi đao nào, biết đâu mà lấy.

Lục-vô-Song nói:

- Lưỡi phi đao của ta vừa phóng ghim trúng giữa lưng hắn đấy, ngươi chẳng thấy sao?

Dương-Qua ngớ ngẩn đáp:

- Nó chạy mau như vậy, làm sao theo kịp mà lấy.

Nói rồi chàng khoát tay, lắc đầu quầy quậy.

Lục-vô-Song chán quá nghĩ rằng:

- Hơi nào đi cãi nhau với thằng khùng, vừa lười, vừa vô dụng, cho mất công.

Nàng đứng dậy vào trong leo lên bực nằm xuống nghỉ lưng, gối đầu trên lưỡi đao mà

ngủ, bụng nghĩ thầm:

- Thôi, mất lưỡi phi đao, còn con đao này cũng đủ hạ sát hàng trăm kẻ địch.

Đến nửa đêm Lục-vô-Song thức dậy, rón rén bước ra ngoài.

Bên đống lửa đã tàn, nhưng Dương-Qua nằm chèo queo ngủ mê như chết. Nhìn lên

trời, trăng đã xế non Tây, le lói, chiếu ánh sáng bạc màu xuống đồng mênh mông hiu

quạnh. Mấy hàng cây đứng rọi bóng trên thảm cỏ xanh ướt đẫm sương đêm. Thỉnh

thoảng vài tiếng chim đêm kêu văng vẳng nghe rờn rợn.

Nàng nắm chặt thanh đao, xăm xăm về phía Dương-Qua đang nằm, vung lên chém

xuống một nhát thật mạnh.

Một tiếng "choeng" nổi lên, nháng lửa sáng lòe như chém phải sắt đá, bàn tay nàng tê

rần, thanh đao muốn rơi xuống đất.

Nàng thất kinh muốn bỏ chạy đi vì sợ hãi và tự nghĩ:

- Không biết thằng này tập luyện cách nào mà đã trở thành mình đồng da sắt! Hắn

thức dậy, biết rõ âm mưu mình, chắc không yên thân với hắn.

Chạy được mấy trượng vẫn không có tiếng đuổi theo, và nhìn lại thấy Dương-Qua vẫn

nằm im ngủ kỹ dường như không hề hay biết.

Lục-vô-Song ngập ngừng một chút rồi lên tiếng gọi lớn:

- Ngốc ơi ngốc! Thức dậy bớ ngốc.

Gọi mãi mấy lần mà không thấy hắn dậy, nàng bước lại gần, định thần nhìn lại thì

thấy không phải Dương-Qua, hinh như chỉ một thứ gì bên trong có phủ manh áo của

hắn bên ngoài.

Nàng lấy can đảm đến gần đưa tay hất manh áo lên thì đó chỉ là một tảng đá xanh dài

dài.

Nàng ngạc nhiên đứng nhìn sững sờ một chập và băn khoăn nghĩ mãi chẳng biết thằng

ranh con này nghi trang hòn đá để đi đâu rồi.

Chờ một chập chẳng thấy tăm dạng, nàng gọi lớn:

- Ngốc ơi, đâu rồi! Ngốc ơi!

Nhưng mặc dầu nàng đã gọi đều lạc giọng vẫn chẳng có tiếng đáp lại.

Tứ bề vắng lặng đến rợn người. Thỉnh thoảng một vài giọt sương rơi lộp bộp trên cành

lá điểm nhịp cùng tiếng côn-trùng rỉ rỉ suốt canh thâu, và tiếng gió lộng phần phật vào

mấy lá chuối phía sau tòa cổ miếu.

Lục-vô-Song mỏi miệng quá, ngồi trên phiến đá nghỉ xả hơi. Bỗng bên trong có tiếng

ngáy của ai vọng ra.

Nàng ngạc nhiên rón rén đi vào thì rõ ràng Dương-Qua đang nằm trên bực đất của

nàng ban nãy xây mặt ra ngoài, ngủ say như chết.

Đang bực tức vì mấy lần bị gạt, Lục-vô-Song không do dự nữa, nhảy luôn lên bục,

nắm đầu hắn, vung dao chém phập vào ngay lưng một nhát.

Tiếng "phập" vừa dứt, nàng định thần nhìn lại, thấy rõ ràng đã chém trúng ngay giữa

lưng, nhung Dương-Qua vẫn nằm ngủ mê mệt và không có một tý máu me gì hết.

Nàng bặm môi, chém thêm một nhát nữa, và cũng không thấy máu.

Tức quá Lục-vô-Song cứ chém mãi liên hồi vào chỗ ấy, nhưng Dương-Qua vẫn cứ ngủ

mê hơi ngáy đều đều không đứt quãng.

Đang bàng hoàng ngơ ngác chưa hiểu vì sao, bỗng Dương-Qua cựa mình ú ớ mê sảng

nói lảm nhảm:

- Ai đi trên lưng đó... nhột quá. Hãy bỏ ra đi.

Lục-vô-Song sợ đến tái mặt không còn tý máu, răng đập vào nhau cồm cộp, miệng

lẩm bẩm:

- Trời, quỷ hay người mà dễ sợ quá như thế này?

Muốn quay mình trốn đi nơi khác nhưng cặp giò như rã rời không nhích nổi nữa,

đứng sững sờ như pho tượng.

Dương-Qua lại mê sảng nói nữa:

- Ai cứ sờ vào lưng mãi thế! ồ con chuột thật bự, tha đùi thịt nai mất rồi!...

Hết nói mơ, lại nghiêng qua một bên vén áo gài sồn sột, làm một đùi thịt nai để bên

mình rơi luôn xuống đất.

Lục-vô-Song mới hiểu, nguyên nhân vì đùi nai cài sẵn bên lưng cho nên đao chém

mấy lần không phạm được vào người hắn được. Thế mà nàng hoảng sợ gần điếng hồn.

Vì nhiều lần cố chém không kết quả, phen này nàng quyết tâm hạ cho kỳ được để hắn

khỏi trêu ngươi nữa.

Sau một phút đắn đo, nàng vung đao đâm mạnh vào bụng. Nhưng vừa lúc ấy,

Dương-Qua bỗng nằm nghiêng qua một bên, mồm lảm nhảm mê sảng nữa. Lưỡi dao

đâm hụt ghim xuống bực sâu hơn ba tấc.

Lục-vô-Song bặm môi rút mạnh lưỡi dao rồi trợn mắt đâm nữa.

Dương-Qua ú ớ la hoảng:

- Chuột ớ kìa, chuột tha đùi nai rồi!

Ngay lúc đó, Dương-Qua duỗi chân trái điểm ngay huyệt "Khúc tử" và chân phải

điểm huyệt "Khiêm tĩnh", hai trọng huyệt nơi đùi và vai của Lục-vô-Song, khiến cho

nàng bủn rủn cả thân hình đứng không vững, té nhào vào đùi chàng bị kẹp chặt lại.

Tuy toàn thân đã mềm rã, cử động không được nữa, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo như

thường. Nàng vội kêu lớn:

- Mau nới đùi ra không, quỷ sứ. Đồ gì mà hôi như heo. Chịu không nổi nữa.

Mặc nàng la lối, mắng chưởi, Dương-Qua vẫn khép đùi kẹp chặt và nằm yên ngủ mãi.

Lục-vô-Song tức quá rán ngóc đầu lên phun nước bọt vào mặt Dương-Qua. Hắn

nghiêng mình, chìa ngón chân vào huyệt "tý nho" khiến nàng á khẩu luôn, hết nói hay

há miệng ra được.

Nàng nằm yên toàn thân bất lực, trong khi ấy xú uế trong quần của Dương-Qua bốc ra

muốn ngạt mũi, không thể nào thở nổi.

Nằm mãi như thế gần nửa giờ, dần dần đã thấy quen, hết thấy hôi hám, Lục-vô-Song

tức mình nghĩ bụng:

- Mai đây, huyệt đạo thông suốt trở lại, ta thề sẽ bằm mi ra làm trăm mảnh cho hả

giận.

Trêu đùa đã nư, bấy giờ Dương-Qua mới duỗi chân, uốn mình từ từ thả nàng ra, rồi

quay mặt ngó xuống.

Tuy ánh trăng tàn chỉ le lói nhưng Dương-Qua cũng đủ nhìn thấy đôi mắt nàng quắc

lên sáng rực và mặt nàng hầm hầm đầy sát khí.

Thấy nàng càng tức giận, sắc mặt càng giống Tiểu-long-Nữ quá chừng. Dương-Qua

đắm đuối nhìn hoài không nháy mắt.

Lúc ấy đêm đã hầu tàn, trăng gần gác núi, chênh chếch, xiên qua cửa sổ dọi thẳng vào

bục chỗ hai người nằm, thấy rõ như ban ngày.

Lục-vô-Song thấy Dương-Qua cứ nhìn mình đắm say, đôi mắt lờ đờ như si như dại,

trên môi điểm một nụ cười thích thú, khiến nàng giật mình nghĩ bụng:

- Hay là hắn điểm huyệt mình để làm điều tồi bại và hiếp đáp mình chăng? Nguy quá.

Vì quá sợ, mồ hôi toát ra đầm mình.

Vừa khi ấy Dương-Qua lại đưa mắt nhìn thẳng ra phía cửa. Nàng vội ngó theo thì thấy

có ba cái bóng đen đang chầm chậm bước vào, mỗi bóng đều có sẵn khí giới cầm tay.

Lục-vô-Song tái mặt nghĩ thầm:

- Phen này thêm nguy biến nữa đây. Thằng chăn trâu xem vậy mà tài cao quá cỡ. Nó

cứ giả ngây ngơ, ngốc ngác, không ngờ bản lĩnh quá kinh người.

Hắn đã điểm huyệt ta rồi, bây giờ làm thế nào để đối phó với ba tên này cho được.

Bước vào đến cửa, người đi đầu đã hét lớn:

- Con tiện tỳ đâu rồi, mau ra đây nộp mạng cho rồi để khỏi nhọc công các lão gia ra

sức.

Người thứ hai nói tiếp theo:

- Các ông chẳng thèm giết mi làm gì, chỉ cần lấy một tai xẻo mũi và hớt một cánh tay

cũng đủ đền tội rồi.

Dương-Qua lẩm bẩm:

- Tưởng ai té ra bọn đạo sĩ khi ban ngày. Chẳng biết làm sao bọn hắn tìm ra chỗ này

đợc.

Kế đó người thứ ba nói.

- Các lão gia đang chờ đợi để tiếp mi đây, cứ ra đi, mau hiến dâng ba vật đó là xong.

Thế rồi ba người lùi ra sau chia nhau đứng ba phía thành hình rẽ quạt, cầm vũ khí lăm

lăm chờ đón nữ lang.

Lục-vô-Song kinh hãi quá, không cử động được mà muốn nói cũng chẳng nên lời.

Dương-Qua rỉ tai nàng nói nhỏ:

- Mấy lão đạo sĩ này, chuyện gì mà la lối om ròm lúc ban đêm chẳng để cho người ta

yên nghỉ. Cô nương chịu khó bước ra cho chúng một bài học để chừa thói khinh

người, hỗn láo.

Nói xong, chàng se sẽ gạt áo nàng lên, điểm nhẹ qua các huyệt đạo, trả lại công lực

cho nàng.

Lục-vô-Song cảm thấy tinh thần sảng khoái, chân tay đã mạnh các huyệt đạo hết đau

nhức nữa, lồm cồm chổi dậy nắm đao nhìn ra.

Dưới ánh trăng vằng vặc, ba tên đạo sĩ vẫn đứng bao trước cửa, múa may thách thức.

Lục-vô-Song phi thân nhảy ra, cử đao chém mạnh vào người đứng bên tả.

Người ấy vội đưa roi lên đỡ. Roi vừa chạm làn đao chém quá mạnh kêu chát một

tiếng, dội ngược lại và sút tay rơi luôn xuống đất.

Dương-Qua thấy vậy khen thầm:

- Kỳ này khá lắm, lối ra tay quả đúng theo võ thuật chân truyền của phái Cổ-Mộ.

Vừa lúc ấy, Lục-vô-Song tiếp bồi cho một nhát nữa, lão đạo sĩ la hoảng một tiếng,

nhảy lùi ra sau trốn tránh.

Lục-vô-Song thấy phấn khởi tinh thần, vung đao chém luôn vào người đạo sĩ cầm dáo.

Người đạo sĩ lùn lùn bảnh lãnh rất cao, cùng người cao xúm lại tấn công vào ráo riết,

đánh toàn những ngón đòn hiểm ác khốc liệt.

Càng lâu, Lục-vô-Song càng bết dần và trở nên lúng túng. Có nhiều lần thất thế suýt

bị thương. Trong khi đó người đạo sĩ bị văng roi cũng đã hết ê tay, nhảy lên, chỉ mặt

nàng thét lớn:

- Nhãi con, phen này đừng hòng thoát khỏi tay ta.

Nói xong, hắn lao đầu vào đúng ngay lưng nàng. Lục-vô-Song có cảm giác như đụng

phải chàng đá, toàn thân đau dần, tâm thần rối loạn, đứng lảo đảo muốn ngã quỵ.

Thấy một mình nàng không cự nổi ba mạng và đã lãnh một đòn nơi lưng, Dương-Qua

vội thét:

- Nguy tai!

Vừa lúc đó lưỡi dao của lão đạo sĩ lùn đã loang loáng chém xuống lưng nàng, đồng

thời ngọn roi của người đạo sĩ nọ cũng đang bay vút vào trước bụng.

Dương-Qua lập tức lượm hai viên đá, khẽ vung tay, tức thì một viên trúng tay lão lùn

đau quá rơi đao, còn viên kia chạm ngay ngọn roi của đạo sĩ rớt xuống đất.

Tuy vậy nhưng lão đạo sĩ vẫn không chút e dè. Mất vũ khí hắn bỗng vung quyền dùng

thế "Liên-hoàn song kích" lăn sả vào dùng tay tả đấm trúng ngay bụng nàng dội

ngược ra sau nằm không động đậy. Dương-Qua hoảng quá la lớn:

- Nàng nguy rồi. Phải cứu ngay mới được.

Lập tức chàng cầm "tiểu chu thiên" ném mạnh vào, lanh như gió.

Với sức mạnh gần ba trăm cân, Tiểu-chu-thiên ồ ạt bay tới đánh mạnh người đạo sĩ

văng ra sau xa hơn ba trượng.

Thấy đối phương vô cùng dũng mãnh, người lùn và tên đạo sĩ kia vội vàng khiêng bạn

bị thương chạy mất.

Dương-Qua bước lại nhìn, thấy Lục-vô-Song nằm bất tỉnh trên cỏ, mặt vàng như thoa

nghệ, hơi thở rất yếu, thương tích có vẻ trầm trọng.

Chàng đỡ nàng ngồi dậy, thấy toàn thân mềm nhũn, xương cốt kêu lắt rắt thỉnh thoảng

nấc lên mấy lần và nhăn mặt rên nho nhỏ hình như quá đau đớn vì ngọn đòn vừa rồi.

Dương-Qua hỏi:

- Sao, có đau lắm không cô?

Lục-vô-Song đau quá, hạn xuất đầm mình. Nghe chàng hỏi, nàng sẽ mở mắt lườm

một cái và khẽ gắt:

- Thế mà cũng hỏi. Không đau mà thân hình như vầy sao. Hãy bồng ta vào trong đi.

Dơng-Qua luồng tay dưới lưng bồng lên. Nhưng thân nàng quằn xuống, xương

chuyển động nghe sào sạo, đau quá, nàng lại trách.

- Ngốc ơi, sao lại thế? Ba thằng kia đã đánh ta bị thương rồi, mi còn hành hạ thân xác

ta đau thêm nữa sao?

Dương-Qua mỉm cười đáp:

- Bọn chúng ngỡ cô chết rồi không quan tâm nữa bỏ đi cả rồi.

Lục-vô-Song mừng rỡ thấy nhẹ cả người, đưa mắt háy một cái và nói:

- Sướng lắm sao mà cười. Mi muốn ta đau cho nhiều để thích thú phải không Ngốc.

Dương-Qua thấy mỗi lúc nàng giận, mắng thì vẻ mặt giống y như Tiểu-long-Nữ, cho

nên chẳng hề giận mà còn vui nữa. Ngày xưa chung sống trong "hoạt tử mộ đài" thỉnh

thoảng Tiểu-long-Nữ cau có, mắng nhiếc nhung Dương-Qua lại sung sướng cho rằng,

sở dĩ cô nương có yêu mới mắng, có lo cho mình mới rầy la.

Ngày nay Tiểu-long-Nữ lưu lạc phương nào chưa tìm được may gặp Lục-vô-Song, tuy

có tánh ương gàn nhưng nhiều nét giống cô nương. Chi bằng lưu nàng cùng ở một bên

để thỉnh thoảng nhìn nàng khi giận hờn trách móc đỡ nhớ Tiểu-long-Nữ. Trên đường

phiêu bạt, tìm sư phụ cũng được một bạn đồng hành cho đỡ bớt nỗi cô đơn.

Dưới áng trăng soi, Lục-vô-Song nhìn thấy rõ mặt Dương-Qua vẫn vui vẻ không có gì

bực tức hay phiền hà về cái lời nói trách móc, lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi thì

cảm thấy chột dạ và nghĩ thầm:

- Hắn chỉ là một đứa mục đồng bẩn thỉu nhưng tâm hồn cao thượng, thân thể cường

tráng, còn ta mang thân một thiếu nữ có nhan sắc, sao trời nỡ khiến mang tật nguyền

để người đời chế riễu, thật là bất công.

Thằng này lúc nào cũng tự cao tự đại, ương gàn, ngốc nghếch dễ ghét quá. Sao ta

không tìm cách giết hắn đi cho đỡ gai mắt.

Trí vẩn vơ suy nghĩ, quên bớt đau đớn, mỗi khi trở mình thấy như bị ai dần khắp đầu

xương nên không ngớt kêu la và rên rỉ như bị thương quá nặng.

Dương-Qua thương hại hỏi:

- Nếu có đau lắm, hãy bằng lòng để tôi dùng thuật "tiếp cốt" chữa cho nhé!

Nàng gay gắt mắng:

- Khéo kiếm chuyện đặt bày theo lối chăn trâu càn dở? Làm gì có chuyện "tiếp cốt"

mà bày đặt đến để chọc ta nữa.

Dương-Qua cười hề hà đáp:

- Hồi nhỏ tôi đã học được phép này. Hễ ai bị chó cắn, heo ủi dầu bị thương nặng

nhưng cứ tiếp cốt cho một chập là mạnh liền.

Nàng cãi lại:

- Chó heo khác, võ thuật quyền cước đả thương là một chuyện khác. Làm sao dùng

cách này chữa bệnh nọ.

Dương-Qua đáp:

- Thì cô cứ để làm thử, hiệu nghiệm hay không sẽ rõ, cãi cọ làm gì.

Lục-vô-Song suy nghĩ:

- Thằng này có nhiều chuyện lạ đời lắm. Biết đâu nó chữa được bệnh mình cũng nên.

Nếu cứ để mãi như thế này, đau đớn quá chịu không nổi e chết mất. Nơi đây làm gì

có thầy lang hay thuốc men gì để cứu chữa. Nhưng nếu hắn buộc mình phải bỏ hết áo

quần để xoa bóp nắn chữa thì ngượng quá chịu sao nổi.

May ra khỏi được, sau này mặt mũi nào ngó hắn nữa. Nhưng nếu câu chấp để kéo dài,

bỏ mạng chẳng ai thương. Hay là ta cứ bằng lòng cho hắn tự do cứu chữa. Nếu lành

rồi, sẽ tìm cách giết đi là xong chuyện, còn đâu nữa mà thẹn với thuồng!

Thật ra Lục-vô-Song vốn bản chất hiền lành nhưng từ nhỏ có tật ương gàn nghịch

ngợm. Suốt thời gian sống chung với Lý-mạc-Thu lại nhiều tánh ác độc nên hành

động cũng trở nên ác độc, háo sát như vậy.

Nàng dịu giọng bảo:

- Cậu em hãy cẩn thận chữa thử xem sao. Nhớ nhẹ tay kẻo đau lắm.

Thấy cô gàn đã thuận cho chữa, Dương-Qua bỗng có ý nghĩ:

- Bây giờ ta nên thừa dịp làm khó, ghẹo nàng một mẻ, kẻo còn cơ hội nào nữa.

Chàng mỉm cười bảo:

- Xưa kia có một ái nữ của một phú ông trong vùng rủi bị heo cắn rất nặng. Gia đình

nàng có mời tôi đến chữa, tôi không đòi hỏi tiền bạc, lễ lộc gì hết mà chỉ buộc nàng

một điều kiện duy nhất để chứng tỏ người ta có lòng thành cố tâm muốn được cứu

chữa hay không.

Lục-vô-Song hỏi:

- Điều kiện gì, có khó không?

Dương-Qua cười đáp:

- Dễ lắm! Tôi buộc nàng gọi luôn một trăm lần câu này:

"Người anh yêu quý của em ơi!". Gọi xong tôi mới chịu nữa. Bây giờ có muốn lành

bịnh cũng phải kêu như vậy mới được.

Lục-vô-Song điên tiết hét lớn:

- Khỉ khô, khỉ khô! Mặt mày dơ dáy bẩn thỉu như trâu, ai mà thương cho vô mà đèo

bòng kia nọ.

Dương-Qua cười khà khà nói:

- Cô không bằng lòng cũng tốt. Tôi khỏi bận trí nữa. Thôi cô nằm đây nghỉ, tôi đi về

nhà nhé. Sau này có dịp sẽ gặp nhau lại.

Nói rồi đứng dậy đi luôn ra cửa.

Lục-vô-Song suy nghĩ:

- Nếu hắn bỏ đi thiệt, thế ai săn sóc chạy chữa. Chẳng lẽ ta đành nằm chết khô nơi

đây sao.

Nghĩ rồi cố nén giận gọi theo:

- Đi đâu mà nôn nóng vậy. Hãy nán lại một chút, ta có chuyện muốn nhờ mi.

Dương-Qua dừng bước quay lại nói:

- Không cần đến thì tôi đi chứ ở đây làm gì. Phàm người khác, gọi một trăm câu sẽ

được tôi cứu chữa. Cô nương chẳng gọi mà còn chưởi mắng tôi nữa. Bây giờ muốn

chuộc lại thì ít nhất cũng phải gọi một ngàn câu tôi mới nhận chữa cho.

Lục-vô-Song túng quá không biết làm sao hơn nên suy nghĩ:

- Ta nên làm theo ý muốn hắn cho rồi.

Chừng nào khỏi bệnh sẽ có cách đối phó sau .

Sắp đặt xong nàng gọi lớn :

- Anh yêu quý , anh yêu quý của em ơi ! Anh yêu quý ơi , cứu dùm cho em đi anh

yêu quý ...

Nghe gọi , Dương Qua thích chí và cũng buồn cười nên vui vẻ nói :

- Thôi được rồi . Biết nghe lời thì tôi cũng chữa cho để khỏi đau đớn tội nghiệp . Còn

lại chín trăm mấy chục lần nữa thì tạm cất một bên để dành . Sau này lúc cần sẽ đem

ra gọi nhé .

Nói rồi cúi xuống mở cúc áo định cởi hết xiêm áo của nàng .

Lục vô Song mắc cỡ quá nạt lớn :

- Thôi đi , làm gì lạ thế ?

Dương Qua dừng tay , nhìn mặt nàng đáp :

- Có khám kỹ mới tìm ra chứng bệnh . Nhìn bên ngoài làm sao biết được mà hòng

chữa với chuyên . nếu không chịu cho cởi thì tôi cũng không thể nào chữa nổi .

Lục vô Song gượng cười nói :

- Thôi tuỳ ý , muốn cởi thì cởi đi .

Loay hoay một lúc lâu vẫn chưa xong , nàng mắc cỡ quá hỏi nhỏ :

- Sao , chữa được không mà rị mò hoài , lâu thế ?

Dương Qua lắc đầu bảo :

- Sao nôn nóng vậy . Đã chữa phải chu đáo chứ đâu hấp tấp sao được .

Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng xì xào . Một người nói lớn :

- Thế nào con ấy cũng ẩn nấp trong khu vực này . Hãy chịu khó tìm thêm lát nữa ắt

sẽ gặp .

Nhận thấy qua giọng nối của Xích luyện Tiên tử Lý mạc Thu nên Lục vô Song sợ quá

, mặt mày xanh lét , mắtt ngó láo liên , mồ hôi xuất đầy mình . Nàng quên đau nắm

tay Dương Qua hỏi nhỏ :

- Làm sao bây giờ . Sư phụ đã đến tìm ta đó . Nguy quá !

Dương Qua cũng ngại lắng tai nghe nữa .

Kế đó có tiếng người đàn bà khác nói tiếp :

- Cứ nhìn con dao cong vòng ghim trên lưng hắn thì đích thị là con dao của sư phụ rồi

, không còn nghi ngờ gì nữa .

Đó là tiếng của Hồng lăng Ba .

Nhắc lại thầy trò Lý mạc Thu khi tìm cách thoát được khỏi Cổ Mộ đài thì về ngay

Xích hà trang . Đến nới thấy Lục vô Song đã trốn mất thì Lý mạc Thu cũng chẳng

them quan tâm mấy

nhưng sau khi xem xét lại đồ đạc thấy mất tập " Ngũ độc bí truyền " thì Lý mạc Thu

rụng rời lo lắng . Sở dĩ tren võ lâm , anh hùng thiên hạ nể sợ nàng là do môn " Ngũ

độc thần chưởng " và môn " Băng hồn ngân châm " chứ đâu phải vì võ công cao siêu

hay vì bản lĩnh của nàng . Trong sách này có ghi chép tất cả bí thuật của hai môn độc

đáo kia . nếu chẳng may để lọt vào tay kẻ khác họ sẽ đem ra truyền cho dạy các phái ,

rồi thiên hạ mọi người đều biết ngay cả những môn giải độc cũng không còn bí mật

nữa . Chừng ấy danh tiếng của Xích luyện Tiên tử có ra gì nữa đâu .

Lý mạc Thu đã luyện sách này tinh thục rồi đem cất giấu nới Xích hà trang , chẳng

may Lục vô Song biết được , ăn cắp mang đi mất thì quả là một mối tai hoạ vô cùng

to lớn đối với nàng .

Lý mạc Thu giận quá lập tức cùng đệ tử Hồng lăng Ba đuổi theo truy nã .

Nhưng ngại vì Lục vô Song đã trốn đi từ lâu , biết đâu mà tìm . Vì vậy nên hai thầy

trò phải chịu khó lạn lội khắp chỗ để dò la thăm hỏi , tốn không biết bao nhiêu công

phu tiền bạc mướn thuê , từ đô thị đến thôn quê nhưng vẫn chưa gặp .

Một chiều ảm đạm , sương trắng phủ đầu non ,ánh tà dương vừa khuất núi . chim rừng

cũng ríu rít kêu nhau vè tổ thì thầy trò Lý mạc Thu vừa đến một vùng gần ải Đông

Quan .

Cả hai thầy trò cũng nhau đi tìm một quán trọ nghỉ tạm một đêm , ngày mai đi tìm

nữa .

Cơm nước xong xuôi , hai thầy trò ngồi nơi quán trọ nhìn ra đường . Thấy ở phía góc

chợ có một nhóm ăn xin đang tập trung về , tranh nhau chỗ ngủ .

Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Bọn ăn xin ở rải rác khắp nơi, chỗ nào cũng đến, tất nhiên biết được nhiều người,

nghe được nhiều chuyện, ta thử đến hỏi thăm, may hỏi ra tung tích của hắn cũng chưa

biết chừng.

Hai thầy trò rảo bước lại gần bọn ăn xin nghe ngóng.

Vừa đến nơi bỗng thấy đàng xa có một người ăn xin cõng trên lưng một đồng nghiệp

khác đang bị thương, xăm xăm về hướng này, xung quanh có trên mười tên khác đi

theo hộ vệ, người nào cũng mang bị và chống gậy.

Lý-mạc-Thu đa mắt nhìn thấy trên lưng người ấy có ghim một lưỡi dao mỏng, lưỡi

cong vòng như vành cung, chính là con dao của nàng do Lục-vô-Song lén cắp mang

đi.

Lý-mạc-Thu chạy lại gần thì người ăn mày ấy phân bua cùng các bạn đồng nghiệp:

- Tôi vừa bị một con bé thọt chân phóng đao này vào lưng đấy.

Nghe được manh mối, Lý-mạc-Thu mừng quá, bảo đệ tử:

- Nếu vậy thì hắn vẫn còn lẩn quẩn gần đây chưa đi đâu xa. Mau mau đi tìm, nhất

định phải gặp.

Thế rồi không kể đêm tối, hai thầy trò cùng nhau đi kiếm ngay.

Khi đến tòa cổ miếu, nhìn trước sân có một đống lửa đã tàn chỉ còn leo lét một vài

đom đóm, thoáng đâu đấy có mùi máu tanh tanh.

Dưới bóng dáng lờ mờ, Lý-mạc-Thu thấy trên mặt đất có một vài vũng máu khô rơi

rớt, do cuộc đánh nhau vừa lưu lại.

Thế là hai thầy trò cùng nhau đi thẳng vào tòa miếu cổ, gươm cầm tay, để ý nhìn

quanh khắp nơi quyết tìm cho ra phen này.

23. Thoát nạn ăn mày gặp lại Lý-mạc-Thu

Trong miếu, Lục-vô-Song đang nổi cơn đau gắt, bỗng nghe tiếng nói bên ngoài rõ

ràng là của sư-phụ cùng sư tỷ nàng thất kinh hồn vía than thầm:

- Thôi, phen này chắc chết không tránh khỏi nữa!

Thình lình nghe soạt, một bóng vàng loang loáng từ cửa sổ bay vào. Lục-vô-Song

ngước lên nhận rõ là Sư-tỷ Hồng-Lăng-Ba. Xưa nay Lục-vô-Song đối với

Hồng-lăng-Ba một niềm kính trọng cho nên khi trông thấy không dám bỏ lễ, gắng

gượng đứng lên vái chào. Hồng-lăng-Ba thấy Lục-vô-Song đã phạm kỷ luật sư môn,

gây thành tội lớn, không thể nào nương tay được, cho nên quyết sát hại cho rồi. Nàng

vừa vung kiếm lên định đâm một nhát đổ ruột tên học trò phản bội thì bỗng nghe

"choeng" một tiếng, thanh gươm bị Lý-mạc-Thu gạt ngang rơi xuống đất.

Hồng-lăng-Ba đang ngơ ngác thì Mạc-Thu đã mỉm cười bảo:

- Khoan giết đã, ta có chuyện cần hỏi nó.

Rồi đưa mắt nghiêm nghị ngó Lục-vô-Song khẽ hỏi một cách dịu dàng:

- Sao ngươi không làm lễ chào sư-phụ?

Lục-vô-Song thừa rõ tánh tình Lý-mạc-Thu vô cùng ác độc, phen này dù van xin khóc

lóc cũng không hy vọng được hắn dung tha, cho nên quắc mắt nhìn lên trả lời:

- Mi là kẻ thù muôn đời đã sát hại cả gia đình ta, đâu có thầy trò gì mà hòng chào

hỏi?

Lý-mạc-Thu chiếu cặp mắt sáng như gươm, lạnh như tiền, quét lên mặt Lục-vô-Song,

chẳng hề lộ vẻ giận hờn hay bực tức. Hồng-lăng-Ba đứng một bên nhìn sư muội mà

đem lòng thương hại, nhưng chẳng dám thốt lời gì.

Lục-vô-Song trừng mắt nhìn lại, luôn luôn giữ thái độ ương ngạnh không hề hoảng

sợ.

Ba người trừng trừng ngó nhau không nháy mắt. Không khí căng thẳng, nặng nề, khó

thở.

Một lúc sau, Lý-mạc-Thu chậm rãi hỏi:

- Sách của ta đâu, mi hãy giao nộp lại cho ta.

Lục-vô-Song đáp gọn mấy tiếng:

- Sách ấy bị một đạo sĩ cướp mất rồi.

Lý-mạc-Thu nghe nói rụng rời, băn khoăn lo ngại:

- Sách "ngũ độc bí truyền" mà để lọt vào tay một kẻ khác thì làm sao chiếm lại được.

Thế là bao nhiêu điều bí mật bị chúng khám phá ra rồi còn chi nữa? Thật vô cùng

nguy hiểm!

Lục-vô-Song thấy Lý-mạc-Thu chẳng trả lời, cười lạt một tiếng mặt lạnh như băng, thì

biết hắn đang toan tính hại mình đây cho nên lăm le tìm mọi cách để tẩu thoát.

Tuy vậy nàng vẫn nghĩ tới Dương-Qua:

- Lúc này mạng ta nh chỉ mành treo chuông, chết sống kể từng giây từng phút. Còn

thằng Ngốc, không biết hắn trốn tránh xó nào rồi. Biết đâu hắn có mưu hay giải thoát

cho mình được cũng nên.

Đang phân vân với điểm hy vọng cuối cùng như ánh đom đóm giữa đêm khuya, thình

lình có tiếng bồm bộp rộn lên, và một con trâu to lớn bên ngoài hùng hổ lao vào như

gió lốc.

Lý-mạc-Thu giật mình dòm lại thấy một con trâu mộng to lớn sừng trái có buộc một

thanh đao sáng quắc, sừng phải có buộc một bó đuốc đang cháy rực rỡ, ầm ầm xông

vào cúi đầu lia cặp sừng vào phía hai thầy trò, dáng điệu vô cùng dũng mãnh.

Hai người vội phi thân nhảy ra một bên né tránh.

Con trâu được thế lồng lên chạy quanh một vòng rồi trở lộn lại đâm sầm ra cửa lẹ làng

như tên bắn.

Trong phút chốc trâu đã đi xa mất dạng chỉ còn le lói một điểm sáng sáng trên sừng.

Thấy con trâu dị kỳ như vậy, Lý-mạc-Thu cũng ngạc nhiên không hiểu trâu của ai, vì

sao có đao va đuốc cột trên sừng và nguyên nhân nào đến đây một tý rồi lại quay đi

ngay?

Khi trở lại chỗ cũ, hai người cùng kinh ngạc và đồng la lên một tiếng. Lục-vô-Song đã

mất dạng từ bao giờ rồi.

Tức thì cả hai tung mình chạy ra ngoài nhảy lên nóc miếu, lùng khắp bụi cây nhưng

vẫn không tìm thấy.

Lý-mạc-Thu đoán có lẽ con trâu tác quái vừa rồi là nguyên nhân của sự biến đổi nầy

cho nên hai thầy trò nhắm hướng đó, nhìn ánh đuốc chập chờn le lói đàng xa mà phi

thân theo miết.

Vừa chạy theo vừa suy nghĩ:

- Nhờ có ánh sáng ngọn đuốc ta thấy quả trên lưng trâu không có người ngồi. Hay là

có kẻ nào tinh ý, cho trâu chạy vào gây náo loạn để mình sơ ý rồi giải cứu

Lục-vô-Song đi một nẻo khác chăng?

Nàng gia tăng tốc độ mau hơn, quyết theo kịp con trâu xem thử. Trong phút chốc đã

theo kịp, dùng khinh công lao vút lên mình trâu rồi đưa mắt quan sát trước sau, trên

dưới không thấy một bóng hình ai hết.

Lý-mạc-Thu bực mình, nhảy xuống đất hú lên một hơi dài để ra dấu hiệu gọi

Hồng-lăng-Ba lại.

Hai người giáp mặt, Lý-mạc-Thu bày tỏ ý nghĩ của mình cho đệ tử nghe và nói rõ ý

định mới:

- Bây giờ chúng ta phân công, người đi một phía. Ta đi Bắc sang Nam và mi từ Đông

sang Tây, thế nào cũng tìm được hắn.

Nguyên do lúc thầy trò Lý-mạc-Thu vừa bước chân vào miếu, Dương-Qua đã lẹ làng

phóng qua cửa sổ nhẹ nhàng như tàu lá rụng, núp đó nhìn vào. Chàng lo lắng cho số

mạng của Lục-vô-Song, phen này chắc Lý-mạc-Thu không tha thứ được. Nếu không

cứu thoát kịp thời thì không thể nào sống nổi với thầy trò con ác phụ.

Trong lúc đang băn khoăn lo nghĩ, Dương-Qua thấy bóng con trâu đang cúi đầu gặm

cỏ ngoài xa xa, bèn nghĩ ra một kế, buộc đao và đuốc lên đôi sừng. Truyền chân lực

thêm cho nó rồi giục thẳng vào miếu.

Chàng dùng thuật sà hình bám sát dưới bụng trâu, trong bóng tối mơ hồ không thể

nào nhận thấy nổi.

Nhân lúc ấy thày trò Lý-mạc-Thu tránh qua một bên cho trâu lồng trong miếu,

Dương-Qua đã lẹ làng kẹp Lục-vô-Song theo rồi giục trâu chạy ra cửa tẩu thoát.

Về sự việc xảy ra quá bất ngờ và cấp bách cho nên một kẻ tinh tế như Lý-mạc-Thu

cũng không đề phòng nổi.

Trâu chạy một đỗi, đến một vùng hẻo lánh rậm cây. Dương-Qua bồng Lục-vô-Song

nhảy vào một đám cỏ cao để trốn, con trâu cứ mang đuốc tiếp tục giông đi như cũ.

Nhờ vậy cho nên Lý-mạc-Thu đuổi kịp cũng không trông thấy người nào cả.

Lục-vô-Song trải qua một cơn kinh hoàng đã mê man không biết gì hết. Một chập sau

nàng cựa mình mờ mắt ú ớ muốn nói.

Dương Qua vội vàng bụm miệng nói nhỏ vào tai:

- Lặng im ... đừng nói ... nguy lắm .

Ngay lúc ấy có tiếng chân người giẫm lên cỏ khô xào xạc , có tiếng Hồng lăng Ba nói

lớn ;

- Lạ quá, đệ tử tìm khắp nơi mà không thấy gì hết .

Bỗng đằng xa có tiếng Lý mạc Thu vọng lại :

- Chắc bọn nó chạy trốn xa rồi . Thôi chúng ta đi nơi khắc tìm kiếm vậy .

Lắng nghe tiếng chân Hồng lăng ba đi xa dần rồi mất hẳn . Rừng đêm lắng đọng dưới

màn sương âm u cô tịch như cũ .

Lục vô Song đã hồi tỉnh , tình thần sáng suốt , mở mắt nhìn trăng , thở dài một tiếng

não ruột .

Dương Qua vội vàng đưa tay bụm miệng ra dấu bảo giữ im lặng .

Lục vô Song dáo dác ngó quanh , thấy mình nằm gọn trong lòng Dương Qua thì thẹn

quá vội vàng đưa tay đẩy chàng ra lồm cồm toan đứng dậy . Dương Qua khẽ nói nhỏ

vào tai nàng :

- Nằm im , không cực cựa , su phụ cô sắp đến đây ngay bây giờ .

Kế đó có tiếng Lý mạc Thu vàng lên rõ rệt cách đó không bao xa :

- ủa , cũng chẳng có nó ở đây , lạ quá !

Lục vô Song hết hồn nghĩ :

- Nếu thằng Ngốc này không tinh ý thì mạng mình nguy rồi .

Thì ra Lý mạc Thu vốn con người ranh mãnh xảo quyệt vô cùng . Miệng thì bảo đệ tử

đi nơi khác nhưng kỳ thật nàng thì triển tài khinh công lướt trên mặt cỏ đảo lại mấy

vòng để tìm nữa .

Chỉ một ly nữa là Lục vô Song lầm quỷ kế của nàng , nếu không đuợc Dương Qua che

đậy và ngăn cản kịp lúc .

Lúc bấy giờ Dương Qua đưa mắt nhìn quanh thật kỹ , lắng tai nghe ngóng thêm lần

nữa , chắc chắn thầy trò Lý mạc Thu đã đi xa rồi mới thôi bịt miệng Lục vô Song rồi

phủi tay áo đứng dậy vừa cười vừa bảo :

- Thoát nạn rồi , hú vía !

Lục vô Song nguýt chàng và nũng nịu nói :

- Sao không ôm nữa đi ? Rõ khéo thừa cơ !

Dương Qua mỉm cười đáp :

- Bấy giờ cô để cho tôi " tiếp cốt" để chữa lành vết thương , ngày mai còn đi trốn . Lỡ

hắn đến tìm nữa làm sao trốn thoát được . Bằng lòng không ?

Nàng gật đầu ưng chịu .

Dương Qua ngại nếu dùng thuật "tiếp cốt " hơi đau , lỡ nàng la lên động đến Lý mạc

Thu nghe được tìm lại thì nguy lắm , nên dùng cách điểm huyệt " ma nhuyễn " thay

thế .

Chàng suy tính xong đưa tay cởi áo bày ngực nàng rồi tháo luôn lớp vải băng ngang

nơi vú , miệng lẩm bẩm :

- Ngàn vàng chưa quý bằng đôi quả tuyết lê của mỹ nhân .

Khi hai nhũ hoa của Lục vô Song vừa lộ ra , Dương Qua bỗng thấy tim đập từng hồi ,

tai run , mặt nóng , ngồi thần thờ như người mất trí , không cử động gì đựoc nữa .

Lục vô Song chờ mãi không thấy chàng làm gì thêm sẽ hé mắt nhìn thử , thấy mặt

mày Dương Qua ngơ ngác như người mất trí , mắt mở mày dựng , hình như đang suy

tính một điều gì vô cùng quan trọng nên e ngại vội nhắm mắt không ngó nữa .

Trong giấy phút yên lặng huyền ảo thiêng liêng ấy , Dương Qua cảm thấy từ thân

hình nàng có một mùi hương thơm ngát toả ra thoảng như mùi hoa lài khiến tâm hồn

chàng đê mê muốn thoát tục . Chàng lẩm bẩm :

- Phải chăng đây là hương thơm trinh nữ , ta mới thưởng thức lần đầu ?

Toàn thân chàng rạo rực như nhắp ly rượu mạnh . Lục vô Song cũng thấy cõi lòng xao

xuyến, đôi mắt lờ đờ ngước nhìn lên hỏi nhỏ :

- Xong chưa ? Sao lâu vậy ?

Hỏi xong , nàng nhắm mắt lại ngay , nghiêng đầu qua nới khác , mắt lim dim .

Nghe nhắc , Dương Qua sực tỉnh vội vàng đưa tay gạt tấm bắng lụa . Tay vừa chạm

trúng thớ thịt hồng hồng trên làn ngực trắng phau của nàng trinh nữ , chàng bỗng cảm

thấy như một luồng điện giật nên rụt lại ngay .

Lục vô Song nằm ngửa , phơi ngực dưới trăng . Làn gió mát mơn man thoáng qua

khiến nàng có cảm giác như bàn tay ai đang mơn trớn , hé mắt ra nhìn nữa . Thấy

Dương Qua cứ ngồi yên , đôi mắt ngơ ngác nhìn ngực mình như phỗng đá không

làm gì cả , nàng bực mình quá khẽ gắt :

- Làm gì mà đờ người ra như vậy hở Ngốc ?

Dương Qua giật mình , lấy cam đảm , đưa tay lấy tấm dải trắng lên rồi xoa bóp nắn

lại các khớp xương cho nàng .Tay chàng xoa đến đâu hình như da nàng toát ra một

luồng điệm âm ấm dịu dịu khiến chàng phải e dè không dám bóp mạnh .

Khi bóp lần xuống dưới , Lục vô Song nói :

- Thôi đi .Mắc cỡ quá , chịu không được . Hay là ... nhắm bớt mắt đi để ... ta cởi bớt

phía dưới , kỳ quá ...

Thẹn qúa , nói đây nàng xúc động nấc lên khóc rấm rứt .

Dương Qua lo lắng vội an ủi :

- Cô nín đi , tôi xin nhắm mắt lại để cô được tự nhiên .

Thấy chàng thật tình chặt nhắm đôi mắt , ngước mặt nhìn lên trăng , Lục vô Song vội

vàng co đùi lên trút hết y phục phía dưới ra tạm giữ một mảnh xiêm che từ rốn đến

đầu gối và thúc gục :

- Rồi đấy , mau len chứ !

Dương Qua định tĩnh tâm thần , lại bụi gần đấy bẻ bốn cành lá . Hai cành che nơi

bụng , hai cành lót bên dưới lưng rồi dùng vỏ cây xoa bóp khắp người nàng cho nóng

, nắn lại hết mấy đầu xương rồi đưa tay điểm vào huyệt đạo .

Lục vô Song khẽ mở mắt nhìn thử . Dưới ánh trăng tá sáng bạc mặt Dương Qua lồ lộ

rất tuấn tú khôi ngô . Hai mắt chang sáng trưng , đôi má hồng hào , môi cắn chỉ, tươi

như son , luồng nhỡn tuyến quét lên người nàng như hai ánh điện . Nàng có cảm giác

đê mê thích thú và nhìn thấy chàng có vẻ dễ yêu mến hơn là một thằng ngốc như

mình thường gọi .

Nàng nhắm mắt lại , lắng tai nghe máu chảy rần rật thịt xương bốc nóng , chuyển

động khắp châu thân , có lúc tăng tăng như kiến bò , có khi đau nói như ong cắn ,

sinh lực bỗng trở lại dồi dào hơn , tay chân cảm thấy khẻo hơn , những sự mỏi mệt

đau nhức lúc trước dần dần tiêu tan hết .

Lục vô Song thấy hối hận :

- Thằng Ngốc này có bản lĩnh vô cùng cao sieu tinh diệu . nếu không có hắn thì mạng

ta đã mất mấy lần rồi chứ đâu sống sót tới giờ phút này được . Một tay phi thường

như vậy mà mình cứ một ngốc , hai ngốc , hết mi đến ta thật là lố bịch .

Nghĩ xong , nàng dịu dàng hỏi :

- Này cậu , bây giờ cậu định đi về đâu đây ?

Dương Qua hỏi :

- Cô muốn hỏi gì ?

Lục vô Song đáp :

- Cậu định đi nơi khác , về một chốn nào ?

Dương Qua đáp :

- Còn cô , cô định đi về đâu chưa ?

Lục vô Song đáp :

- Tôi muốn về Giang Nam thăm quê nhà nên không thể đi quá xa được .

Lục vô Song rầu rầu đáp :

- Như vậy , cậu cứ đi đi , tuỳ ý . Còn về phần tôi , để tôi nằm chết nơi đây cũng được

Lời nói em đềm , vừa lẩy vừa trách khiến Dương Qua cảm động , chưa biết đối đáp

hay xử trí thế nào cho hợp . Liếc mắt nhìn nàng thấy vẻ mặt u sầu , đượm đầy nước

mắt , môi mím , mắt nhắm tỏ vẻ dỗi hờn giận dữ . Sắc diện nàng lúc này giống hệt

như Tiểu long Nữ khiến Dương Qua cảm thấy cõi lòng rào rạt , không đành dứt khoát

bỏ đi .

Trong giây phút phân vân bỗng chàng có ý nghĩ ;

- Hay là mình cứ đưa nàng đến Giang Nam . biết đâu làm ơn cho người rồi trời sẽ nhỏ

phước khiến xui gặp được Tiểu Long Nữ cũng nên . Cũng có thể lúc này cô nương

mình đi về xứ Giang Nam rồi càng thuận tiện .Tuy nghĩ thế Dương Qua cũng chứa

dám tự ý đưa chân vào một cuộc phiêu lưu không cần thiết trong lúc mình ra đi đã có

một định hướng nhất định là tìm Tiểu Long Nữ.

Nhưng trước lời nài nỉ thiết tha của Lục-vô-Song chàng cũng không thể từ chối được.

Sau một lúc phân vân, tranh chấp chàng lắc đầu thở ra một cái rồi cúi xuống bồng

nàng đứng dậy.

Lục-vô-Song ngơ ngác hỏi:

- Bây giờ cậu định bế mình đi đâu đây.

Dương-Qua cười đáp:

- Đi sang Giang Nam về thăm quê nhà chứ còn đi đâu nữa.

Lục-vô-Song cuời lớn đáp:

- Từ đây đến Giang Nam xa cách lắm bế đi sao nổi.

Tuy miệng nói thế nhưng thâm tâm nàng vẫn muốn chàng cứ bế mãi mình vào lòng.

Vì ngại thầy trò Lý-mạc-Thu bắt gặp nên cứ bồng Lục-vô-Song theo nẻo đường vắng

vẻ đi hoài. Chàng trổ tài khinh thân chạy lướt trên mặt đất mau hơn ngựa sải, nhưng

Lục-vô-Song vẫn thấy nằm êm ru không bị dằn xốc đau đớn tí nào.

Lục-vô-Song lơ đễnh nhìn hai bên đường thấy cây cối xua nhau chạy dặt về phía sau

liên tiếp, hai bên tai gió lộng vù vù. Nếu so với Lý-mạc-Thu, khinh công của chàng

không kém sút tý nào. Bất giác nàng tự nhủ:

- Không ngờ chàng ngốc mà bản lãnh kinh người như vậy?

Hắn còn trẻ lắm mà làm sao đã có một nghệ thuật quá siêu phàm như vậy nhỉ. Âu

cũng là một sự tình cờ may mắn cho mình, mới gặp được một tay điêu luyện dường

ấy.

Lúc bấy giờ phương Đông đã ửng đỏ, vừng Thái dương sắp mọc, ánh ban mai đã dần

dần le lói trên cành cây. Chim rừng đã kêu nhau ríu rít.

Lục-vô-Song hé mắt nhìn lên thấy Dương-Qua tuy bị sạm đi vì nắng gió phong trần,

nhưng mày thanh, mắt sáng, mũi cao, cằm vuông, trán rộng, rõ ràng là một trang anh

tuấn nam nhi, càng trông càng đẹp. Nàng bỗng thấy một cảm giác dìu dịu chuyền

khắp cơ thể rồi từ từ nhắm mắt ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay.

Khi mặt trời lên cao độ một sào, Dương-Qua cũng vừa đến một gốc cây cao tàn lá mát

mẻ, nên dừng lại se sẽ đặt nàng nằm trên bãi cỏ rồi ngồi khít một bên nghỉ sức.

Lục-vô-Song mắt nhìn chàng, mỉm cười hỏi:

- Anh có đói không, tôi thấy đói quá.

Dương-Qua đáp:

- Đói chứ! Thôi, để chúng ta cùng đi một vòng nơi đây thử may ra có hàng quán nào

tìm thức ăn đỡ dạ nhé.

Không cần nàng đáp, chàng đứng dậy liền. Vì phải bồng suốt đêm, tay đã mỏi, nên

lần này Dương-Qua để nàng ngồi trên vai mình rồi bước đi.

Lục-vô-Song ngồi trên vai Dương-Qua, một chân trước, một chân sau như cỡi ngựa.

Nàng tung tăng đôi chân, vui vẻ cười vang và hỏi lại:

- Anh ơi, tên họ là gì, cho biết đi để tiện xưng hô, chẳng lẽ nơi chỗ đông người cứ

thằng ngốc mà réo thì nghe sao cho được.

Dương-Qua đáp:

- Tôi chỉ có tên "Ngốc", ngoài ra không còn họ tên nào khác nữa. Xưa nay thiên hạ đã

gọi "Ngốc" quen rồi, đâu phải chỉ một mình cô dâu mà e ngại.

Lục-vô-Song thấy chàng cố giấu tên cũng bực mình nhưng chẳng biết nói sao, hỏi

thêm:

- Anh không muốn nói tên, giấu họ cũng được. Nhưng Sư phụ của anh là ai, có cho

biết được không?

Xưa nay Dương-Qua kính trọng nhất là Sư phụ. Vừa nghe Lục-vô-Song nhắc tới danh

từ thiêng liêng khả kính ấy, dạ chẳng vui nhưng vẫn đáp cộc lốc:

- Sư phụ tôi là Cô nương tôi chứ ai?

Lục-vô-Song suy nghĩ:

- à, sư phụ chàng là một người đàn bà! Nếu vậy võ nghệ của môn phái này phải tinh

diệu lắm.

Nàng hỏi thêm:

- Cô nương của anh thuộc môn phái nào vậy?

Dơng-Qua chỉ đáp vớ vẩn cho qua chuyện.

- Sư-phụ tôi không khi nào đi đâu xa và cũng không rõ thuộc môn phái nào hết.

Lục-vô-Song thấy cứ đáp lần khần mãi, phát cáu lên gắt:

- Ngốc ơi, sao giấu mãi thế, sở dĩ ta muốn hiểu môn phái chàng là vì thấy võ công

chàng kỳ diệu quá.

Dương-Qua cũng gắt lại:

- Tôi học ai kệ xác tôi, hỏi mãi ích gì? Tôi học cây học đá đấy!

Lục-vô-Song không bực tức nữa mà suy nghĩ:

- Chàng này giả bộ ngơ ngốc, chứ người bản lãnh như vậy làm sao ngốc được, vì đã

ngốc làm sao học được võ công? Cứ xem riêng thuật điểm huyệt cũng có thể đoán

chàng đã được danh môn chính phái chân truyền võ thuật không sai.

Nàng ôn tồn hỏi thêm:

- Này cậu, còn chuyện này, đừng quanh co dối ta nữa nhé. Ta muốn biết tại vì sao cậu

lại tận tình giúp đỡ và cứu ta mấy lần như vậy?

Dương-Qua cũng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi. Nghĩ suy một chập rồi trả lời:

- Vì Cô nương tôi bảo vậy nên tôi mới phải cứu giúp cô tận tình.

Lục-vô-Song ngạc nhiên quá hỏi nữa:

- Vậy cô nương cậu là ai, tên gì?

Dương-Qua đáp:

- Tôi đã nói rõ cô nương tôi là Cô nương mà sao cứ hỏi đi hỏi lại hoài như vậy?

Lục-vô-Song ngán quá, chỉ biết thở dài rồi làm thinh, vẻ mặt rầu rầu.

Dương-Qua hỏi:

- Tại sao cô có vẻ buồn bã vậy?

Lục-vô-Song chép miệng rồi làm thinh.

Dương-Qua hỏi nữa:

- Sao buồn vậy cô?

Lục-vô-Song gắt:

- Người ta không muốn nói mà cứ hỏi hoài. Ta chẳng có gì buồn hết. Hỏi làm chi?

Mỗi lần nàng nóng giận thì đẹp lắm và giống Tiểu-long-Nữ quá. Chàng muốn ngắm

một tý cho thỏa lòng, nhưng chẳng lẽ ngửa người lên mà nhìn cho nên đành làm thinh

ngó xuống đất bước đi hoài.

Chẳng bao lâu đến thị trấn nhỏ. Mọi người thấy một trai một gái vác nhau đi lạ đời

quá nên tò mò kéo nhau lại xem, bàn tán om cả lên.

Hai người làm lơ đi thẳng vào một quán ăn, gọi hai phần cơm và ngồi đối diện nhau

để ăn. Lục-vô-Song ngửi mùi hôi hám từ trong người Dương-Qua bốc ra khó chịu quá

nên bảo chàng:

- Này cậu, qua bên bàn kia ăn riêng đi. Để đây mặc ta.

Dương-Qua lẳng lặng bưng bát cơm và một tô canh sang bàn bên cạnh ngồi ăn.

Thấy Dương-Qua cứ chập chập lại nhìn mình say đắm. Lục-vô-Song thấy ngượng quá

nói thêm:

- Cậu đi lại bàn xa kia kia. Ngó ra ngoài mà ăn. Nhìn hoài ai nuốt cho trôi.

Dương-Qua cười và làm theo.

Chàng lẳng lặng ngồi ăn, nhìn thẳng ra cửa sổ.

Lục-vô-Song thấy miệng đắng quá nuốt không vô, ngồi để đũa ngó mông ra ngoài.

Bỗng đau có tiếng ăn xin thưa bẩm rối rít ở phía trước:

- Nhờ bà con bố thí cho chút cơm cặn, canh thừa để đỡ đói.

Rồi lại có tiếng nói:

- Xin Cô nương ra ơn bố thí cho một bữa ăn.

Ngay truớc tiệm ăn, có bốn người ăn xin, vai mang bị, tay xách gậy hướng vào phía

nàng xin nữa.

Lục-vô-Song nhớ lại trước đây đã dùng lưỡi dao vành cung đâm vào lưng một lão ăn

mày. Hôm nay lại gặp chúng, thế nào họ cũng nhận diện ra, nên chưa biết tìm cách

nào để lẩn trước.

Đang lúc phân vân, bỗng tên cao nhất đứng giữa nói lớn:

- à, hắn đây rồi. Phen này mi đừng hòng trốn thoát khỏi tay bọn ta.

Người phía sau hết cũng nói tiếp:

- Nơi đây lên trời không được, xuống đất cũng không xong, con ơi!

Nàng đưa mắt nhìn thấy người nào cũng kè kè sáu cái túi, tay lăm lăm một cây gậy to

tướng với một cái bát xin cơm. Ai nấy cũng hầm hầm đều bước sấn tới.

Khi xưa, Lục-vô-Song đã có lần được Hồng-lăng-Ba kể chuyện trong Cái Bang và

phân tách tài nghệ từng loại ăn xin. Những kẻ mang đến 6 túi đã thuộc vào hạng cao,

có bản lãnh khá lắm.

Khi ấy trong tiệm có vẻ xôn xao. Người chủ tiệm thấy bốn vị cao cấp trong phái "Sáu

túi" cùng đến đây gây sự, biết chuyện chẳng lành, vội đưa mắt ra hiệu cho bọn tửu

bảo tìm cách chiều chuộng đừng khiêu khích họ làm gì.

Lục-vô-Song còn đau chưa mạnh, sức lực đâu chống cự lại với bốn người nên chỉ lo

tìm kế thoát thân. Nếu cùng lắm, nàng chỉ trông cậy vào tài lực của Dương-Qua may

ra cứu thoát được mình chăng.

Dương-Qua điềm nhiên ăn uống như chẳng có việc gì xảy ra. Thỉnh thoảng nhìn sang

hỏi:

- Cô nương ăn đi chứ, sao có vẻ bơ phờ vậy? Cá ngon lắm ăn đi cô!

Lục-vô-Song chẳng đáp lại, cố cúi mặt nhìn xuống mâm cơm như để tránh thoát tám

con mắt xoi bói của bốn người ăn mày sáu túi đang chiếu thẳng vào mình và nói lớn:

- Sao, cô nương không bố thí cho một bát cơm hay tô canh? Nếu không thì xin Cô

nương một lưỡi dao cũng được.

Lục-vô-Song thấy đáp không tiện mà làm thinh cũng chẳng yên thân.

Một tên khác nói:

- Bọn ta tuy mang danh ăn mày nhưng xử sự lúc nào cũng đường đường chánh chánh

chứ không bao giờ ỷ đông hiếp ít đâu. Vậy để tùy cô liệu định trước.

Lục-vô-Song biết bọn này đã cố tình gây chuyện, chẳng lẽ cứ làm thinh hoài nên gắng

gượng đứng dậy thủ thế phòng chúng tấn công.

Ngay lúc đó Dương-Qua bước lại hỏi lớn:

- Chuyện gì vậy cô?

Bốn tên ăn mày nhất tề vung gậy xáp đến. Dương-Qua chúm miệng, phì ra một cái, cả

nắm xương cá từ miệng chàng bắn tung vào đúng huyệt "khúc trì" của bốn người ăn

mày.

Bị điểm huyệt bất ngờ, cả bốn người cảm thấy toàn thân tê tái tay chân rời rã, buông

rớt cả gậy lẫn bát đứng không vững, lảo đảo tìm chỗ để bám khỏi ngã.

Dương-Qua lập tức bồng Lục-vô-Song để lên vai nói gấp:

- Chạy mau, kẻo nguy lắm!

Lục-vô-Song run run hỏi ngập ngừng:

- Bây giờ... biết chạy đâu... đây?

Khi Dương-Qua để nàng lên vai, phi thân chạy đi Lục-vô-Song quay đầu nhìn lại thì

lạ quá cả bốn tên ăn mày đã đi đâu mất chỉ thấy bốn chiếc gậy và mấy cái bát bể nằm

ngổn ngang trên mặt đất.

Nàng vội hỏi Dương-Qua:

- Bọn họ đi đàng nào mất rồi?

Dương-Qua đáp:

- Có lẽ họ đánh cô không được đã kiếm ngõ khác đi rồi, hoặc gọi thêm đồng bọn cũng

chưa biết chừng.

Nàng ngẫm nghĩ mãi không hiểu vì sao, bèn đưa một đinh bạc cho Dương-Qua bảo:

- Hay chúng mình tìm mua cho một con lừa đi đỡ chân, chả lẽ cứ cõng nhau hoài họ

bàn tán khó chịu quá.

Mua được lừa rồi, trả tiền cơm cho tiệm, Dương-Qua bảo nàng lên lưng lừa ra đi.

Lục-vô-Song gượng đau trèo lên lng lừa, mặt mày nhăn nhó.

Dương-Qua nói:

- Tiếc vì người tôi hôi hám dơ dáy quá chừng, nên không tiện ngồi phía sau để đỡ cô

được.

Lục-vô-Song gắt lớn:

- Thôi đi, lúc này đừng nói lắm chuyện nữa.

Nói rồi giật cương cho lừa chạy.

Con lừa chưa thuần tánh, tung bốn vó nhảy tới, hất nàng lăng xuống đất.

Lục-vô-Song còn đau bỗng bị té bất ngờ rêm cả mình mẩy giận quá nạt:

- Ta té mi thích lắm sao, cứ đứng ngó không thèm lại đỡ hộ.

Dương-Qua cười nói:

- Tôi dơ dáy, hôi hám lắm, đâu tiện đứng gần cô mà nâng với đỡ?

Nàng tức quá nên phải dịu giọng:

- Thôi phủi hộ áo quần ta đi.

Dương-Qua cười cười, bước lại phủi.

Lục-vô-Song lại nói:

- Đỡ hội ta lên lưng lừa chứ.

Dương-Qua bồng nàng đặt lên yên. Con lừa thấy có nguời ngồi lại dợm chân muốn

chạy lồng như lần trước.

Nàng nhìn xuống bảo:

- Thôi, dắt hộ nó đi cho rồi.

Dương-Qua đáp:

- Tôi lại gần sợ nó đá lắm.

Lục-vô-Song bực trí quá nhưng cũng tức cười, nghĩ thầm:

Thằng này quá quắt lắm chứ có ngu ngốc tý nào đâu. Hắn muốn trả đũa mình xua

đuổi khi nãy đây mà.

Phải ngọt với hắn mới được.

Nàng bảo nho nhỏ:

- Thôi cậu lên ngồi chung với tôi vậy.

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Tôi cũng muốn lắm. Nhưng vì mình mẩy hôi hám quá, e rồi cô không bằng lòng, lại

xua đuổi nữa xấu hổ lắm.

Lục-vô-Song giả lả:

- Thôi mà, đừng làm bộ nữa. Sao mà lắm lời thế, ta đã yêu cầu mà còn xua đuổi gì

nữa. Sao mà giận dai quá.

Dương-Qua nhoẻn miệng cười rồi nhảy phóng lên phía sau, hai tay ôm nơi vai

Lục-vô-Song, đôi chân thúc nhẹ vào hông lừa, khiến nó tung vó chạy nước kiệu mau

như gió.

Ngồi trên lưng lừa, Dương-Qua hỏi Lục-vô-Song:

- Bây giờ cô muốn đi về xứ nào đây?

Lục-vô-Song thừa hiểu hễ đi về phía Đông đến ải Đồng-Quan rồi đi theo đại lộ tiến về

hướng Nam dễ dàng yên ổn lắm. Ngặt vì lối này bị mấy tên ăn xin chận đường phá

rối, nếu bây giờ đi theo đường cũ tất nhiên bè đảng của hắn sẽ chận đường gây sự khó

bề đối phó được.

Thà đi theo tiểu lộ qua Trúc-lâm-quan, đến Long-cầu trại rồi theo lối Tử-kinh-quan về

thẳng phía Nam cũng được. Lối này tuy phải đi vòng, đường xa thêm mấy đoạn,

nhưng không ngại bọn ăn mày đón đường phá rối thuận tiện hơn.

Vì vậy nên nàng đáp:

- Chúng ta nên đi về hướng Đông-Nam thì hơn.

Dương-Qua giục lừa bon bon chạy về phía ấy.

Lừa đến một chỗ chợ đang họp, thình lình có một đứa bé có vẻ con nhà nông dân,

đứng chực sẵn đầu đường, đưa tay đón lừa lại, đon đả nói:

- Lục cô nương. Có thư của người gửi cho cô nương đây này.

Nói xong hắn tung lên một bó hoa tươi.

Lục-vô-Song bỡ ngỡ đưa tay đón lấy bó hoa, thì đứa trẻ cũng kiếm đường lánh mất.

Nàng nhìn lại thấy bó hoa gồm một số hoa thông thường, chính giữa có cài một bức

thư.

Nàng vội bóc ra thấy bên trong viết trên một mảnh giấy vàng, đề vội mấy dòng chữ:

"Tôn-Sư sẽ đến ngay bây giờ.

Hãy tìm lối lánh đi, Gấp lắm".

Chữ viết vô cùng sắc sảo, nét bén như gơm, có lẽ do một bàn tay cự phách văn

chương chứ chẳng phải tầm thường.

Xem xong, Lục-vô-Song bồi hồi lo sợ run lập cập nghĩ thầm rằng:

- Vì sao đứa bé này biết được họ của ta? Vì sao kẻ viết th chắc chắn sư phụ ta sắp

đuổi đến?

Thật hết sứ huyền hoặc lạ lùng!

Nàng băn khoăn hỏi Dương-Qua:

- Cậu có biết đứa bé vừa rồi con cháu mà ai, hay là người của cô nương cậu sai đến

chăng?

Nãy giờ ngồi sau, Dương-Qua nhìn qua vai nàng đã đọc xong bức thư rồi. Chính

chàng cũng hết sức ngạc nhiên về hành tung của đứa bé và lời lẽ trong phong thư.

Chàng suy nghĩ:

- Thằng bé xem có vẽ lam lụ chất phác, có lẽ do kẻ nào thuê hay mượn và dặn nó đưa

thư dùm chứ không can hệ chi cùng người viết thư. Còn người viết thư thì thật hoàn

toàn bí mật. Kể ra họ cũng có hảo tâm mách dùm. Nếu quả thật Lý-mạc-Thu sắp đến

đây thì cũng nguy hiểm lắm. Biết tính sao đây cho ổn.

Mặc dầu Dương-Qua đã học đợc bộ đệ nhất kỳ thư của võ Lâm là "Ngọc nữ tâm

kinh" và "Cửu âm chơn kinh" nhưng ngặt vì thời gian quá ít chưa tập luyện được thuần

thục thành thử nếu bây giờ có gặp thì hẳn vẫn chưa phải là đối thủ của Xích-luyện

Tiên tử.

Vừa suy tư, bỗng nghe Lục-vô-Song gạn hỏi. Dương-Qua đáp liền:

- Tôi không hề quen biết hắn. Chắc hắn không phải là người của cô nương tôi đâu.

Trong lúc đang nghĩ ngợi chưa biết làm gì cho đúng, thình lình có tiếng ca nhạc, sáo

đàn từ xa vọng lại. Phía trước lô nhô một đám đông trên mấy chục người, ăn mặc tề

chỉnh, cũng rước một cỗ kiệu hoa từ từ đi đến. Có lẽ đây là một đám cưới của nhà ai,

đang rước dâu đón rễ gì đây.

Cứ nghe tiếng đàn tấu thì chỉ những bản thông thường trong các đám rước bình dân

chẳng có những bài du dương réo rắt của những đám rước xa hoa của các hạng phong

lưbu quý phái. Tuy nhiên nhạc điệu trầm bổng nghe cũng rất trang nhã êm tai. Kẻ qua

đường ai cũng dừng chân đứng lại để nghe.

Dương-Qua thấy trong lúc ban ngày, thanh thiên bạch nhật chốn đồng hoang đường

vắng, nếu Lý-mạc-Thu đến đây, biết chỗ nào ẩn nấp cho tiện.

Bỗng chàng nảy ra một sáng kiến và quay sang hỏi nhỏ Lục-vô-Song.

- Lục cô nương, hay là cô tạm chun đỡ vào kiệu cô dâu lánh mặt đi nhé!

Lục-vô-Song đang băn khoăn lo lắng chưa biết tính sao, bỗng nghe hỏi đột ngột có vẻ

nửa đùa nửa thật thì phát cáu gắt:

- Ngốc, sao hay đùa bậy bạ vậy.

Dương-Qua cười bảo:

- Không bậy đâu. Tôi thiết nghĩ nếu cô thay đổi áo cưới của cô dâu, may ra sẽ che

mắt được Sư-phụ Lý-mạc-Thu. Ngoài ra không còn cách nào hay hơn nữa.

Lục-vô-Song suy nghĩ một lát rồi hỏi:

- Ta giả cô dâu, còn mi trốn đi đàng nào cho người ta khỏi nghỉ?

Dương-Qua khúc khích đáp:

- Tôi sẽ cải trang làm chú rể.

Lục-vô-Song nghĩ:

- Hắn tinh như vậy mà hay đấy, không ngờ thằng ngốc mà có lắm mưu mẹo hay đáo

để!

Nghĩ rồi ôn tồn hỏi lại:

- Nhưng làm sao cải trang giả dạng thành cô dâu chú rể bây giờ?

Dương-Qua lặng thinh không đáp. Giục lừa bước mau về phía ấy.

Phàm những con đường làng phần nhiều chật hẹp. Đám rước có kiệu kềnh càng người

lại đông, chen lấn nhau đi thành hàng dài, không thể bước qua hai bên vì có nhiều bụi

gai, hốc đá. Thấy lừa xăm xăm chạy về hướng ấy, mọi người hết sức sợ hãi vội kêu

lớn:

- Xin nhị vị dừng bước lại kẻo nguy hiểm lắm.

Dương-Qua chẳng đáp, cứ cho lừa đi mau hơn nữa.

Bỗng có hai người tráng đinh vạm vỡ xông đến nắm chặt dây cương thì lừa lại.

Dương-Qua đưa chân đá cho mỗi người một đá té ngửa bên đường xa mấy thước, rồi

chạy thẳng tới trước, miệng bảo Lục-vô-Song.

- Tôi cải trang làm chú rể đây này.

Độ mươi thước, chàng gặp một thanh niên tác độ 17, 18 tuổi ăn mặc áo quần mới, đội

mũ có kết hoa vàng, ngồi trên con bạch mã vừa chờ tới.

Dương-Qua đưa tay nắm lấy, ném bổng lên cao hai truợng chờ rơi xuống hứng lấy đặt

đứng một bên lề. Mọi người hoảng kinh thất vía. Tuy có nhiều trai tráng vạm vỡ

nhưng nhìn thấy sức lực và bản lĩnh của Dương-Qua quá cao siêu nên chẳng một ai

dám hó hé lời nào. Trong đám có mấy vị bô lão mặc áo rộng xanh vội vàng chạy đến

trước mặt chàng chắp tay vái dài thưa rằng:

- Tâu đại-vương, nếu Đại-vương cần dùng bao nhiêu bạc vàng hay của cải, chúng tôi

xin dâng nạp để Đại-vương lòng tha cho chú rể một phen.

Dương-Qua ngớc mặt lên trời cười ngất và nói với Lục-vô-Song:

- Cô thấy không? Họ gọi tôi bằng Đại-vương. Tôi có làm vua to, chúa lớn nào đâu mà

họ gọi thế nhỉ?

Lục-vô-Song lộ vẻ lo âu bảo khẽ:

- Thôi, cậu đừng đùa nữa, tính điều gì thì làm phúc cho mau tiếng nhạc "Loan-linh"

trên cổ lừa của Lý-mạc-Thu đã reo vang có lẽ cũng gần đến đây trong chốc lát.

Dương-Qua đứng yên, lặng tai nghe thử. Quả thật đã nghe tiếng nhạc "Loan linh" trên

cổ lừa Lý-mạc-Thu reo lên văng vẳng. Xa nay chỉ có lừa của Xích-luyện Tiên tử mới

có buộc loại lục lặc này mà thôi. Chàng cũng thất kinh, bắt đầu lo ngại.

Nguyên Lý-mạc-Thu vốn hay tự cao tự đại cho mình là tay võ nghệ tuyệt luân, trên

đời không ai cự lại. Hễ nàng muốn hạ sát kẻ nào chỉ cần in trớc một bàn tay máu để

cảnh cáo rồi đơng nhiên đến giết sau, không thể nào thoát nổi. Để áp đảo tinh thần

nạn nhân, nàng dùng máu bôi trên vàng, đúc thành những lục lạc đặt tên "Loan-linh"

tiếng kêu lảnh lót, vang đi rất xa, ai nghe tiếng cũng biết nàng sắp đến. Đối thủ của

nàng nghe tiếng nhạc "Loan-linh" reo lên chẳng khác nào nghe tiếng hú của tử thần,

nên hồn phi phách lạc.

Dương-Qua nghe nhạc rung nghĩ thầm:

- Quả đúng là hắn đã đến gần tới nơi rồi!

Tuy vậy chàng vẫn giữ nét mặt tỉnh khô, cười cười nói đùa cùng nàng:

- Nhạc chi đâu? Chẳng qua tiếng chuông reo của bọn bán kẹo chứ có gì mà lo ngại.

Dương-Qua nhìn mấy cụ già nghiêm nghị nói:

- Ta có một việc yêu cầu. Nếu các người đồng ý thì mọi việc đều yên. Nếu không thì

cứ xem đây mà làm gương.

Lập tức chàng đưa tay nắm hai giò chú rể quăng tuốt lên trời rồi đưa tay hứng bắt như

khi nãy. Lúc được đặt xuống đất đứng run như cầy sấy, mặt không còn chút máu, rồi

sụp xuống lạy cố mạng.

Mấy cụ già, bọn phù dâu phù rể đứng sắp hàng trước mặt chắp tay thưa:

- Đại-Vương cần sai khiến điều gì xin cứ chỉ dạy, chúng con xin tuyệt đối tuân theo.

Dương-Qua cười lớn rồi đưa tay chỉ Lục-vô-Song nói:

- Chị ta đi ngang qua đây thấy đám cưới linh đình, cô dâu chú rể có vẻ đầy đủ hạnh

phúc, nên có ý muốn giả dạng thử xem thế nào.

Lục-vô-Song vội gắt:

- Thằng Ngốc, cứ nói bậy hoài. Dương-Qua không thèm cãi, cứ nói tiếp:

- Các cô hãy đem y phục cô dâu mặc vào cho nàng, mau lên. Còn ta thử đóng vai

chàng rể xem thế nào.

Cả bọn tuy khiếp sợ nhưng cũng thấy lạ lùng, cùng suy nghĩ:

- Xưa nay chỉ có trẻ em con nít mới giả làm chú rể cô dâu để cùng nhau nô đùa. Ngờ

đâu bọn ăn cướp mà cũng thích đóng tuồng này, lạ thực. Chắc chắn họ có dụng ý gì

đây.

Họ chẳng biết chuyện đùa hay thật, cứ đứng nhìn trân. Hơn nữa thấy đôi nam nữ,

người nào cũng xinh tươi duyên dáng, quả xứng lứa vừa đôi, nếu mặc áo cô dâu chú

rể thật quả là đôi vợ chồng lý tưởng.

Nhưng chẳng hiểu hai người muốn đóng kịch để làm chi.

Ai nấy cứ đứng trố mắt ra nhìn, thì tiếng nhạc rung cũng gần sắp đến.

Dương-Qua lật đật nhảy xuống, xách chú rể đặt lên lưng lừa, bỏ Vô-Song coi chừng

đó rồi chạy đến kiệu hoa vẹt màn kéo nàng dâu ra.

Cô dâu cũng hoang mang bỡ ngỡ chưa rõ chuyện gì nhưng vì thấy mọi người yên lặng

cũng ríu rít đi theo không một lời chống cự. Tấm khăn hồng vừa kéo xuống lộ ra vẻ

mặt phúc hậu, đầy đặn của một thiếu nữ khá đẹp.

Thấy Dương-Qua bước lại nhìn mình cười cười miệng khen đẹp đẹp, xinh xinh. Cô

dâu sợ quá run rẩy, chẳng dám hở môi.

Dương-Qua bảo:

- Muốn bảo toàn tánh mạng, mau mau cởi cho mượn bộ y phục cô dâu ngay lập tức.

Lục-vô-Song càng nghe nhạc "Loan-Linh" reo gần tới, dạ nóng như bốc lửa, mà thấy

Dương-Qua cứ đứng cà rà đùa dỡn mãi cũng nổi tức vội hét lớn:

- Mau lên chứ ngốc!

Mọi người chẳng hiểu nàng nạt ai là Ngốc, thảy đều lo sợ vội vàng thúc cô dâu:

- Cởi áo ra mau dâng cho Đại-Vương đi con.

Chưa đợi nàng dâu cởi xong, một vị bô lão xáp lại cởi gấp chiếc áo gấm đem đưa cho

Lục-vô-Song liền.

Dương-Qua lột hết áo quần chú rể mặc vội mặc vàng vào người miệng thúc hối

Vô-Song:

- Mau sang ngồi trên kiệu đi chứ.

Lục-vô-Song vội vàng leo lên kiệu ngồi yên, buông rèm xung quanh xuống.

Dương-Qua định gọi bảo thay luôn đôi hài nữa nhưng vì nghe nhạc reo quá gần đâu

đây rồi, nhắm chẳng kịp nữa nên thét bọn phu kiệu:

- Cứ tự nhiên khiên về phía Đông-Nam, đờn sáo cứ lên như thường lệ, ai lo phận nấy

tự nhiên như thường. Nếu tên nào hó hé lộ tình ý gì khác, đừng trách ta độc ác đây

nhé

Nói rồi phóc lên mình bạch mã, đủng đỉnh theo phía sau kiệu.

Mọi người từ mấy cụ già, cô bác đôi bên, các cô phù dâu, mấy chú phụ rể nghe lệnh

thảy răm rắp làm theo.

Kiệu đổi hướng đi được một đoạn đường. Bỗng tiếng nhạc "Loan-Linh" đã tới nơi, có

hai nữ lang kẻ mặc đồ trắng, người mặc áo vàng, cưỡi ngựa đi tới và vượt qua phía

trước.

Lục-vô-Song ngồi trong kiệu hoa, nghe nhạc Loan-Linh rung dòn bên tai ruột gan

muốn rã rời, thần trí muốn bấn loạn trong dạ nghĩ thầm:

- Phen này thật khó thoát nổi.

Dương-Qua giả bộ thẹn thùng ngồi trên ngựa cúi gầm đầu xuống đất, tay mân mê

bờm ngựa.

Lý-mạc-Thu hỏi lớn:

- Mấy người có gặp một cô gái thọt chân đi khập khễnh qua lối này không?

Mấy ông lão cùng vòng tay lễ phép đáp:

- Thưa cô nương không ạ.

Nàng hỏi tiếp:

- Các người cũng không thấy có thiếu nữ nào, nước da ngâm ngâm, mặt đẹp, cưỡi lừa

đi ngang đây không?

Mấy cụ cũng đồng thanh đáp:

- Dạ, thưa không thấy nốt. Chúng tôi không gặp một người nào hết.

Lý-mạc-Thu giục lừa muốn vượt qua kiệu hoa, bỗng tò mò dừng lại đưa cán phất trần

khều bức rèm vẹt ra đưa mắt nhìn vào rồi à một tiếng lớn.

Dương-Qua thất kinh, vội thúc ngựa gần, định bụng nếu rủi chuyện bị lộ sẽ ra tay

trước.

Nhng Lý-mạc-Thu chỉ à một tiếng và khen lớn:

- Cô dâu đẹp quá!

Rồi nhìn lại phía Dương-Qua, tươi cười nói:

- Chàng rể khéo đường tu mới được một cô vợ phúc hậu như vậy. Ta có lời mừng cho

đấy.

Dương-Qua giả dò e lệ, cuối gầm mặt xuống, mân mê tà áo gấm.

Khi lắng tai nghe tiếng nhạc rung xa, Dương-Qua lạnh lùng tự hỏi:

- ủa, sao không có Lục-vô-Song trong kiệu, nếu có sao hắn nhận diện chẳng ra?

Nghĩ xong giục ngựa chạy tới, kéo rèm nhìn trong kiệu.

Chàng hoảng hốt mặt mày tái xanh, run run nhìn cô dâu đang bỡ ngỡ ngó mình, còn

Vô-Song đi đâu mất, chàng gọi:

- Cô đâu rồi?

Có tiếng cười khúc khích, phía dưới chân cô dâu đống áo quần rung động, Vô-Song ló

đầu lên, vừa cười vừa đáp:

- Ta đây nè! Thế mà không thấy, dở quá!

Thì ra lúc Lý-mạc-Thu đang hỏi chuyện, Lục-vô-Song biết ý hắn vô cùng tinh tế,

không bao giờ chịu bỏ đi ngay cho nên chun dưới chân cô dâu, dùng áo quần che lên

trên thật kín.

Nghe nàng thuật lại, Dương-Qua cười hì hì khen có tài tháo vát, đoạn bảo cô dâu:

- Thôi cô em xuống đây dùng lừa đỡ một khúc đường nhé.

Lục-vô-Song cũng xã giao nói thêm:

- Chị vui lòng hy sinh một tý cho trót nhé.

Cô dâu ngoan ngoãn tuân theo chẳng dám nói lời nào, chạy lại leo lên lừa ngồi chung

phía trước chú rể.

Đám rước dâu với hai cặp dâu rể cứ hướng cũ thẳng tiến, chẳng bao lâu mặt trời đã xế

bóng.

Mấy ông già vội vàng chạy tới trước mặt Dơng-Qua lễ phép thưa:

- Xin Đại-Vương tha cho để hai cháu về nhà làm lễ tơ hồng kẻo trễ giờ mất.

Dương-Qua trợn mắt hét:

- Không được kêu nài gì hết, im mồm!

Ai nấy thất kinh nín thin thít.

Ngay lúc đó, Dương-Qua thấy trước mặt loang loáng một cái bóng đen nhảy vụt ra rồi

chạy thật mau vào khu rừng kề đó.

Giục ngựa đuổi theo gần kịp, thấy đó là một tên ăn xin, áo quần rách rưới.

Dương-Qua nghĩ bụng;

- Chẳng hiểu bọn này lại muốn kiếm chuyện gây rối gì nữa đây? Mặc kệ hắn, mình

nên trở lại tốt hơn.

Quay ngựa về đến gần kiệu hoa, Lục-vô-Song đã vén rèm thò đầu nhìn ra hỏi gấp:

- Có chuyện gì lạ không?

Dương-Qua nói đùa:

- Có chứ, tại cô vô ý mà hỏng cả chuyện rồi, có lẽ hắn đã biết bọn mình rồi cũng nên.

Lục-vô-Song thất sắc hỏi dồn dập;

- Lỗi ta chỗ nào, nói mau.

Dương-Qua nghiêm mặt nói:

- Phàm cô dâu mới về nhà chồng phải âu sầu, khóc lóc sụt sùi tỏ vẻ thương nhớ mẹ

cha, chứ cô mặt mày lúc nào cũng tươi rói như người được ăn cỗ. Như thế bảo người

ta, nhất là hắn, không hoài nghi sao được.

Lục-vô-Song nguýt chàng một cái mắng khẽ:

- Im mồm đi, Ngốc!

24. Cải trang đạo sĩ gạt Lý-mạc-Thu

Đoàn người cứ đi mãi, chẳng bao lâu đến một vùng rừng núi thâm u hiểm trở. Đường

đi hẹp dần, thêm gồ ghề mà giốc nữa. Những phu khiêng kiệu phải đi chầm chậm,

gặp những chỗ giốc quá phải lấy tay níu vào cây cỏ mà lên. Ai nấy đều mệt bùng tai,

mồ hôi nhễ nhại, nhưng vì sợ oai Dương-Qua cứ bặm môi đi mãi chẳng dám nói một

lời. Thế là một đêm qua.

Nhìn từng đàn quạ đen bay lượn trên đầu đèo hóc núi, cô dâu chú rể thở dài mến tiếc

một đêm qua. Đáng lẽ cái đêm đầu tiên đầy hạnh phúc bắt đầu cuộc tình duyên son

trẻ, nào ngờ lại một đêm vất vả phải lội núi băng rừng.

Nhưng dầu sao họ vẫn mừng thầm vì bọn cướp này không hề xâm phạm đến người

hay tiền của. Đoàn đám cưới vừa vượt qua khỏi đèo, thình lình trong hốc núi có tiếng

người vang lên:

- Cô nàng hãy dừng lại. Muốn đi qua phải biếu lại một mũi hay một cái tai mới được.

Lục-vô-Song giật mình xanh mặt than thầm:

- Lại bọn ăn mày đến sanh sự nữa đây.

Tức thì có ba người cao lớn vạm vỡ từ trong ấy bước ra đón đường, so với bọn hôm

trước có vẻ hùng dũng mạnh bạo hơn nhiều.

Dương-Qua để ý thấy người nào bên vai cũng có đeo bảy cái túi. Cứ như số túi

nhiều hơn, chắc bọn này phải lợi hại hơn và quyết đến đây ăn thua với bọn mình một

phen nữa.

Đoàn người sửng sốt nhìn ba người chẳng biết xử ra sao. Một người trong số phu

kiệu, cầm cây gõ nhẹ vào đầu một tên bảo nhỏ:

- Hãy tránh ra cho mau.

Người nọ chẳng hề né tránh, đưa tay chụp lấy chiếc cây, đập một cái, làm người

phu kiệu té nhủi đập mặt xuống đất chảy máu mũi đỏ lòm.

Ai nấy cũng muốn xông lại đánh cho bọn ăn mày một trận nên thân, nhưng vì nhớ

lại trận Dương-Qua làm dữ nên lo ngại không hiểu bọn này ra sao, có phải cùng bọn

với Đại-Vương kia chăng.

Vì vậy không ai bảo ai, cùng lùi ra sau mấy bước nhìn.

Một đứa trong ba người ăn mày nói:

- Bà con có chuyện vui mừng, xin bố thí cho chúng tôi một bữa ăn.

Lục-vô-Song nói nhỏ với Dương-Qua:

- Này cậu, ta đang bị đau chưa lành, cậu làm ơn ra tay giúp hô nhé.

Dương-Qua gật đầu, thúc ngựa trờ tới hét lớn:

- Bọn ăn mày, khôn hồn mua tránh ra xa cho người ta đưa dâu, nếu cãi lệnh thì

không toàn tánh mạng.

Ngày hôm qua, bọn sáu túi có bị Dương-Qua phun xương điểm huyệt nhưng chúng

không ngờ, cứ đinh ninh là do Lục-vô-Song, vì vậy nên lôi về báo cáo lại với các sư

thúc và sư bá cấp bảy túi không nói về tài nghệ của Dương-Qua.

Một tên xốc tới bất thình lình khiến con ngựa của chàng hoảng sợ nhảy thụt lùi ra

sau. Dương-Qua giả vờ lúng túng muốn té, một chập mới gượng ngồi lại được.

Bọn ăn mày thấy chú rể nhút nhát quá nên tránh ra xa hơn.

Nguyên những tên ăn mày trong Cái bang tuy đi ăn xin nhưng hành động rất quang

minh quân tử, chuyên cứu khổn phò nguy chứ không bao giờ hà hiếp kẻ yếu. Hôm

nay họ đến đây là cốt gây chuyện cùng Lục-vô-Song chứ không có ác ý cùng

Dương-Qua hay những người khác.

Thấy Dương-Qua tay không, chẳng có khí giới, lại có vẻ nhút nhát hoảng sợ ngồi

lảo đảo muốn té nên họ bước lại đỡ họ.

Dương-Qua hỏi:

- Mấy người cần tiền ta sẽ cho tiền, chứ tại sao đi cản đường ngăn nẻo như vậy?

Rồi chàng ném cho mấy đồng tiền.

Ba người theo lệ của Cái Bang cúi xuống lấy và tỏ lời cám ơn.

Dương-Qua thích chí nói với Lục-vô-Song:

- Tôi đã vâng lời cô dẹp đường yên rồi đấy.

Lục-vô-Song gật đầu rồi nhìn ba người ăn xin hỏi lớn:

- Các người tại sao cứ đi theo ngăn đường ta mãi như vậy?

Một người đáp:

- Anh em trong bang chúng tôi được biết cô nương bản lãnh cao cường nên phái

chúng tôi lại xin lãnh giáo vài ngón tuyệt diệu của phái Cổ-Mộ.

Lục-vô-Song đáp:

- Hiện nay ta chẳng may bị nội thương nặng, tay chân đau nhức không cử động

mạnh được. Nếu các ngươi muốn thử sức xin chờ một dịp khác, khỏi đau rồi ta sẽ

lãnh giáo ít hiệp. Ta nghĩ rằng, theo tôn chỉ tốt đẹp của bang Khất Cái xưa nay, có lẽ

các ngươi cũng không bao giờ đi bức bách một phụ nữ đang lúc bị thương chưa khỏi

tin rằng những người có địa vị trong Cái Bang sẽ hành động theo đường lối quân tử.

Tuy là ăn xin, nhưng cả thảy là những người khá trong bang, biết điều xử sự. Khi

nghe Lục-vô-Song phân trần, họ cũng cho là hữu lý nên cùng suy nghĩ.

Một người nói:

- Được, ta bằng lòng chờ nàng hết đau sẽ hay.

Nhưng một người khác ngăn lại nói:

- Khoan đã! Cô nói đau nhưng biết cô quả thật đau hay chỉ là lấy cớ để thoái thác.

Chúng ta muốn được chứng minh cụ thể hơn. Nếu quả thật ta sẽ tha cho lần này.

Thật ra hắn không biết Lục-vô-Song bị thương nơi bụng nên mới yêu cầu vô ý như

vậy.

Lục-vô-Song đã sẵn có tật nên khi nghe hắn nói thì nổi xung giận tím mặt, phát run

cả tay chân, nhưng cố gắng nén cơn tức, một lát mới nói được:

- Người đời thường ca tụng Cái-Bang là một hội quang minh chính đại, người của

Cái-Bang ai cũng là xử thế một cách anh hùng, nhưng không ngờ hôm nay ta mới

được thấy rõ chỉ là lời đồn huyễn hoặc và bọn người chỉ là phường vô liêm sỉ.

Ba người ăn mày thấy Lục-vô-Song mắng đùa cả bọn mình, xúc phạm đến toàn thể

Cái-Bang thì nổi giận vội vàng vung gậy đập nhầu vào kiệu hoa.

Dương-Qua thấy bọn chúng hành hung vội chạy ra trước kiệu dùng lời giả lả:

- Tôi thấy các ông toàn những người đàn ông, tướng mạo đàng hoàng đáng được

kính nể, chẳng hiểu vì sao lại hùa nhau đi ăn hiếp một người đàn bà như vậy. Không

sợ người đàn bà cười chê là phương thiếu giáo dục hay sao.

Lời chàng nói cũng nặng nhưng xét cũng hạp lý cho nên cả ba chưa biết đối đáp

như thế nào.

Sao đó một người trong bọn mới phân trần:

- Anh em chúng tôi muốn gọi nàng ra cho thưởng thức một vài ngón võ tinh diệu

của phái Cổ-Mộ, nàng lại nặng lời sỉ vả nên chúng tôi mới có thái độ vừa rồi chứ đâu

phải cậy thế hiếp cô mà người gọi là phường thiếu học?

Nói rồi hắn đưa tay điểm một huyệt, Dương-Qua la ối một tiếng thật to rồi lăn ra

đất ôm tay nhăn nhó rên siết dường như đau lắm.

Khi ấy trời đã nhá nhem nên ba người ăn mày không thấy rõ được vết thơng của

chàng nặng hay nhẹ. Hơn nữa theo quy tắc của Cái-Bang nhất thiết cấm không cho

đánh một người không hiểu biết võ nghệ. Vì vậy nên người ấy bối rối lo đỡ dậy để an

ủi.

Dương-Qua vừa rên vừa nói:

- Ba lão ăn mày sao mà ngang ngược như thế. Nếu muốn nói chuyện với người ta,

họ mắc cỡ không đáp thì tìm cách khác hoặc nhờ ta nói lại chứ có lý đâu đi bức bách

đàn bà như vậy.

Ba gã ấy cũng nghĩ bụng:

- Thằng này có dáng điệu ngốc ngốc tàn tàn, nhưng lý sự không ngốc tý nào hết.

Người nhỏ tuổi nhất bước lại hỏi:

- Này, cô gái họ Lục nàng là đau thật hay đau giả vậy?

Thấy hắn nín thinh người lớn hơn nổi nóng trợn mắt hỏi:

- Sao mày có trả lời hay không?

Người thứ ba hỏi thêm:

- Mi và cô gái họ Lục có liên hệ gì với nhau không chú Ngốc?

Dương-Qua giả vờ ngớ ngẩn hỏi lại:

- ủa lạ nhỉ! Sao các ông lại biết rõ tôi đây tên Ngốc mà gọi như vậy?

Người lớn nhất nóng hét:

- Bọn ta đến đây không có mục đích gì hơn là hỏi bọn bây cho biết thế võ gì dùng

để phóng lưỡi dao vành cung vào lưng của đồng bọn của ta.

Lục-vô-Song không muốn để Dương-Qua cãi lẫy dằng dai với họ nên thuận miệng

đáp lớn:

- Thế võ ấy gọi là "Điêu Thuyền bái nguyệt".

Dương-Qua lớn tiếng cãi:

- Không phải đâu. Thế võ ấy không dài dòng mà chỉ có một tiếng mà thôi. Xem đây

này.

Nói chưa dứt lời chàng vung tay đấm luôn mỗi đứa một đấm như búa bổ. Cả ba tên

bất ngờ không đề phòng, lãnh mỗi người một thoi ngã bật ngửa ra sau. Lồm cồm

đứng dậy, ba người vừa thẹn vừa tức hét lớn:

- ủa, thằng rể này can chi lại bênh hắn, đánh chúng ta?

Tên nóng tính nhất múa gậy xông vào nói:

- Mi muốn sanh sự, ta cho mi nếm miếng đòn cho biết.

Dương-Qua đáp:

- Các ngươi nằn nằn xin lãnh giáo chị dâu ta. Chị ấy đang bị bệnh thì ta đây thay

thế để dạy bay vài ngón cũng được rồi. Thật ra ta đâu có bênh ai và cũng chẳng biết

chi về câu chuyện nàng hết.

Người ấy nạt lớn:

- Chị dâu mày hay mày cũng được.

Dương-Qua cười cười quay về phía chiếc kiệu hỏi Lục-vô-Song:

- Chị ơi, bây giờ dạy cho chúng thế nào trước đây?

Lục-vô-Song thừa biết bản lãnh của Dương-Qua tuyệt vời đủ sức hạ ba đứa đó,

nhưng nàng cũng muốn nhân dịp lòe với bọn chúng nên đáp lại:

- Chú cứ dạy trước thế "Điêu Thuyền chào trăng" đi.

Dương-Qua "vâng ạ" một tiếng rồi xoay mình lại. Lập tức một bàn tay đã vung ra lẹ

như chớp đập mạnh vào giữa lưng của tên đứng xa nhất.

Cả ba tên ăn mày ngơ ngác trước lối xuất thủ thần tình của Dương-Qua nên cùng vũ

lộng binh khí xông vào vây đánh một lượt.

Dương-Qua đứng yên không nhúc nhích dùng hai tay đưa ra đỡ gạt.

Lục-vô-Song nhìn thấy thế đỡ của hắn thất kinh nghĩ bụng:

- ủa, ai dạy thằng này mà hắn xuất thủ quả đúng theo nghệ thuật của phái "Cổ-Mộ"

rồi.

Nàng nhắc thêm:

- Bây giờ dùng thế "Tây Thi ôm bụng" mà tấn công đi.

Dương-Qua dạ lớn rồi quay mình phóng tay nghe "bịch" một tiếng ngay miệng một

tên té nhào ra xa gần hai trượng.

Hai đứa khác thấy chàng lợi hại quá nên cố sức tấn công lanh hơn nữa.

Dương-Qua vừa đánh vừa hỏi nữa:

- Chị ơi, còn thế nào nữa, chỉ mau lên chứ!

Lục-vô-Song đáp:

- Đánh luôn thế "Chiêu Quân quá ải" và tiếp theo thế "Tiên cô chúc thọ".

Dương-Qua vòng cánh tay như đang ôm đàn, rồi xòe cả năm ngón tay phải điểm

nhẹ vào huyệt nơi thái dương bên trái khiến cho một tên ăn mày ngã nhào ra, toàn

thân bủn rủn, không cử động được nữa.

Xong thế "Chiêu quân quá ải" chàng bước sang bên phía mặt, hai tay nắm chặt vào

nhau sụp ngồi xuống thật nhanh, nhoài người ra phía trước hất mạnh một đòn ngay hạ

bộ của tên ăn mày đang đứng phía ấy bay bổng lên cao, cách đất gần hai trượng rồi

cười lớn bảo:

- Cho mi nếm sơ sơ thế "Tiên cô chúc thọ". Ta nhơn đức nương tay chứ nếu đánh

đúng miếng thì mi đã theo ông bà rồi.

Nguyên tất cả các thế võ này đều do Lâm-Triều-Anh sáng chế riêng cho giới đẹp để

truyền cho phái Cổ-mộ. Tất cả đệ tử phái Cổ-Mộ đều là đàn bà cho nên cái thế võ

cũng phải có tên đẹp, lối múa uyển chuyển dịu dàng hợp với bản chất người đẹp.

Những thế ấy không bao giờ truyền cho đàn ông. Nhưng vì Tiểu-long-Nữ thấy

Dương-Qua trung thành với mình cho nên mới đặc biệt đem ra dạy cho chàng.

Dương-Qua đem mấy ngón ra cốt để biểu diễn cùng Lục-vô-Song và thị uy với ba

người trong Khất Cái chứ không hề có ác tâm. Vì vậy cho nên các tên ăn mày tuy bị

đánh trúng nhưng không ai bị thương nặng.

Nhưng họ nào rõ dụng tâm của Dương-Qua, cứ đinh ninh rằng chàng chưa đủ sức

nên có ý xem thường cứ lăn sả vào đánh ráo riết.

Dương-Qua giả bộ nhảy đông nhảy tây, lánh né lăng xăng, miệng la ó:

- Chị ơi, sao lặng thinh mất rồi? Muốn ở góa hay sao mà không chịu nhắc cho vài

thế nữa để chống cự với người ta.

Lục-vô-Song bảo:

- Hãy dùng thế "Văn quân hơ tay" và "Quý phi say rượu" đi.

Dương-Qua đưa tay lên cao như người đang rót rượu, chọi trúng đầu tên nóng tính

rồi ngồi xụp xuống thấp tung luôn hai đòn liên tiếp vào giữa bụng tên thứ hai.

Cả ba vừa lo sợ vừa bực tức và hổ thẹn, đem hết tàn lực ra đánh ráo riết nhưng cũng

không thể nào động được một đòn nào vào mình của Dương-Qua.

Dương-Qua lách mình tránh né các đòn của ba người như trò đùa, thỉnh thoảng khẽ

đập vào chúng như để chọc ghẹo cho vui chứ không làm đau hay gây thương tích.

Lục-vô-Song thấy chàng biểu diễn tất cả các ngón một cách quá sức tài tình thì

khoái chí quá, nhắc luôn hai thế "Lộng ngọc thổi tiêu" và "Thần nữ vượt sóng". Nói

đến đâu Duơng-Qua biểu diễn đến đó một cách hoàn toàn, khiến cho nàng phải đem

lòng thán phục.

Sau cùng muốn thử tài chàng đúng mức, nàng nhắc đến một thế thật khó "Võ-hậu

buông rèm".

Chẳng ngờ nàng vừa nói dứt lời Dương-Qua đã vận sức vào hai tay xỉa tới trước vẹt

ra như vén màn, gạt cả ba đối thủ văng ra xa lắc.

Lục-vô-Song phục quá sức, hứng chí nói thêm:

- Diễn luôn thuật "Cười dòn dã" xem thử thế nào?

Nguyên thuật này cho phái Cổ mộ đặc biệt chế biến ra theo câu "người đẹp cười

nghiêng nước đổ thành" nếu luyện đến chỗ tinh vi, sẽ khiến cho địch thủ vỡ mật ngã

quay ra đất. Đó là một nghề tuyệt diệu một phần dựa theo "Ngọc nữ tâm kinh" và một

phần theo "Cửu-âm chơn-kinh".

Dương-Qua vận sức đầy đủ cất tiếng cười khan. Lúc đầu giọng cười như nước chảy

ngọc reo, dần dần đổi khác như ma gào quỷ ré, tiếng cười lộng kêu như xoáy vào

màng nhĩ khiến cho ba cao thủ bảy túi của Cái Bang chịu không nổi, bay hồn mất vía,

nhào lăn ra đất cả.

Lục-vô-Song bước lại đỡ họ dậy.

Dương-Qua vừa dứt tiếng cười, ba người ăn xin cũng hoàn hồn hoảng kinh tìm đường

chạy mất.

Tất cả mọi người trong đám cưới thấy cặp này tài ba lỗi lạc, bản lãnh cao cường quá

nên càng sợ hơn nữa, nhất nhất nghe theo ý muốn chẳng dám cãi lại.

Cả đoàn nghỉ ngơi một chặp rồi tiếp tục đi lại. Qua canh hai đêm đó vừa tới một thị

trấn có vẻ sầm uất.

Dương-Qua cho đoàn đám cưới về làng rồi cùng Lục-vô-Song bước vào một quán

rượu, gọi thức ăn.

Vừa ngồi lại bàn định ăn, bỗng có một bóng đen chạy vụt vào. Nhưng vừa thấy hai

người thì bóng ấy vội chạy ra rồi biến mất.

Dương-Qua ngạc nhiên phi thân đuổi theo.

Ra khỏi cửa ngõ một chặp, thấy có hai người đạo sĩ dáng điệu quen quen. Hai đạo sĩ

vừa nhìn thấy mặt Dương-Qua vội bỏ chạy trốn. Dương-Qua sực nhớ lại hai tên đạo sĩ

này quả là Cơ-Thanh-Hư và Bì-Thanh-Huyền đã cùng bọn Triệu Hàn... vây đánh

Lục-vô-Song tại Sài-Lang cốc bữa nọ.

Chàng đứng suy nghĩ:

- Tại sao bọn này cứ theo dõi mình hoài. Hay chúng có dự mưu gì đây chẳng sai. Ta

nên nói lại và bàn cách đối phó cùng Lục-vô-Song mới được.

Chàng chạy vào tiệm ghé tai thuật lại cho Lục-vô-Song nghe. Thuật chưa hết chuyện

lại thấy bóng hai đạo sĩ thấp thoáng phía trước nữa.

Kế đó có tiếng nhạc Loan linh reo vang cách quán chẳng bao xa. Hai tên đạo sĩ nghe

tiếng nhạc bỗng lộ vẻ dớn dác lo sợ, vội vàng chạy vào phòng bên đóng cửa lại.

Dương-Qua thấy thái độ ấy cũng lấy làm lạ, tự nghĩ:

- Hai đứa này có liên hệ gì Lý-mạc-Thu hay sao mà xem bộ hớt hải sợ sệt tìm đường

trốn tránh như vậy?

Lục-vô-Song thì buồn buồn, gục đầu nghĩ kế chẳng ra, ngước mắt hỏi Dương-Qua:

- Sư phụ ta đã đến nữa đây. Chúng mình phải xử trí bằng cách nào bây giờ?

Dương-Qua điềm nhiên đáp:

- Nếu cần ta cũng cứ đánh chứ sợ gì nữa?

Tiếng lạc reo vang phía cửa trước, có tiếng Lý-mạc-Thu nói:

- Ba con, con hãy lên đứng trên nóc nhà xem chừng đi.

Tiếp đó người chưởng quỳ lễ phép thưa:

- Kính thưa lão gia, có phải có kẻ nào vừa vô lễ làm xúc phạm đến quý thể nên lão gia

muốn tìm bắt để trị chăng?

Lý-mạc-Thu tự cho mình còn trẻ và đẹp lắm. Vì vậy nàng rất kỵ và oán hận những kẻ

nào gọi mình là "gia" hay dùng danh từ "lão" để gọi mình.

Hôm nay nghe tiếng "lão gia" từ miệng người chưởng quỹ thốt ra, nàng phừng phừng

nổi giận khẽ dùng phất trần phẩy nhẹ trên đầu, khiến hắn ngã lăn ra chết tốt.

Tên Tiểu-nhị lấm lét đứng đầu phòng nhìn ra thấy nàng chỉ phẩy sơ một cái giết một

mạng người, hồn vía đều bay lên mây, hết đứng tại chỗ.

Lý-mạc-Thu hỏi hắn:

- Mi thấy có một đứa con gái thọt chân vào trong tiệm này không?

Tiểu-nhị điếng hồn đứng há miệng ấp úng mãi nói chẳng ra lời.

Lý-mạc-Thu hự một tiếng rồi rảo bước đi thẳng vô phòng bên cạnh ở mé phía Tây.

Phòng này là nơi ẩn nấp của bọn đạo sĩ.

Dương-Qua cho rằng nếu lúc này đi trốn là thuận tiện nhất. Nếu cưỡi ngựa đi ra quán,

Hồng-lăng-Ba đứng trên mái ngói sẽ trông thấy ngay. Nhưng với tài nghệ của hắn

cũng không ngại lắm.

Chàng hỏi Lục-vô-Song:

- Bây giờ bọn mình nên trốn ngay là hơn, cô nghĩ sao?

Lục-vô-Song liếc mắt nhìn ra bên ngoài, lòng chưa dám quyết định ra sao cả và nghĩ

thầm:

- Nếu mi lại giải thoát cho ta thêm lần nữa thì quả là ơn sâu như trời cao biển rộng.

Trong khi hai người còn phân vân bàn kế thoát thân thì có một bóng người từ phòng

phía Tây chạy vụt qua, đến cạnh bàn nói nho nhỏ đủ nghe:

- Hai người mau mau theo tôi để chạy trốn.

Vừa dứt câu, người ấy đã vụt lao mình vào đêm tối.

Dương-Qua chưa nhìn được mặt người ấy, chỉ nghe tiếng nói có vẻ thanh tao nhưng

cương nghị, bóng ngời thanh thanh không cao không thấp, nhỏ hơn Lục-vô-Song

chút ít, mặc áo rộng tay màu xanh biêng biếc.

Ngay khi ấy , tiếng nhạc lại reo vang , Dương Qua hoảng hốt đưa tay kéo Lục vô

Song chạy gấp về hướng Bắc.

Bỗng đâu có tiếng Hồng lăng Ba báo động từ trên mái ngói vọng xuống :

- Có người đang cưỡi lừa chạy về hướng Bắc đấy , sư phụ ơi !

Lục vô Song quýnh lên , bảo nhỏ :

- Trời ơi , chạy mau lên , nguy quá rồi .

Nhưng Dương Qua lại nghĩ khác :

- Đối với một kẻ có tài khinh công tuyệt thế , đời này mấy kẻ dám sanh tày thì việc

chạy trốn không có gì bảo đảm .

Huống chi ngay sau khi Hồng lăng Ba gọi , đã có một bóng trắng lấp loáng đuổi theo

từ phía xa xa . Nếu Lý mạc Thu chạy theo thì nhất định không thoát khỏi , hơn nữa

Lục vô Song lại bị tật , tập tễnh nơi chân phải dùng kế khác mới được .

Nghĩ xong , chàng kéo Lục vô Song chạy qua hướng Tây , chui vào một căn phòng .

Trong phòng này bọn Cơ thanh Hư và Triệu bất Phàm đang ngồi cạnh vách tường ,

mặt mày láo liên không còn chút máu . Cơn sợ hãi đã lên tới cực độ .

Trong lúc gấp rút quá , Dương Qua chẳng nói một tiếng , lẹ làng điểm luôn mấy

huyệt , hai người ngã quay ra liền . Đoạn chàng kéo Lục vô Song chạy thằng vào

phòng gài cửa cẩn thận và hối Lục Vô Song rối rít :

- Mau mau cởi hết quần áo ra !

Lục vô Song mắc cỡ quá , nạt nhỏ :

- Bảo gì lạ vậy hở Ngốc ?

Dương Qua vội vã nói luôn :

- Cô bằng lòng cởi hết không tùy ý , tôi lo cởi phần tôi cho rồi . Gấp lắm , gấp lắm !

Vừa nói hán lanh lẹn tuột hết áo quần rồi lấy y phục của Triệu bất Phàm mặc lên

người .

Lục vô Song trông thấy nghĩ thầm :

- ồ hay quá ! Thật là diệu kế !

Nàng khẽ đá vào Cơ thanh Hư bảo :

- Hãy nhắm mắt lại đừng nhìn ta nhé . Bọn bay không nghe ta giết ngay .

Cơ thanh Hư và Triệu Bát Phàm đã bị điểm huyệt toàn thân bất ôộng nhưng trí não

vẫn còn sáng suôt . Thấy nàng bảo và đe dọa cũng sợ nên cả hai vâng lời nhắm kỹ

mắt lại .

Lục vô Song quay lại bảo Dơng Qua :

- Chú mi cũng vậy , hãy quay mặt vô tường một tý cho ta thay áo quần chứ .

Dường Qua cười hì hì đáp :

- Còn lạ lùng gì nữa mà kiêng . Hôm dùng thuật " tiếp cốt " tôi cũng đã ... đã hiểu qua

cả rồi , cô còn ngại ngùng chi nữa .

Tuy nói vậy nhưng chàng cũng tự xét thiếu đứng đắn nên không nói nữa và quay mặt

vào vách ngay .

Lục vô Song nguýt một cái , lấy tay khẽ dí đầu Dương Qua vào tường rồi thay quần

áo .

Dương Qua liếc qua , thấy thân hình nàng lồ lộ , bỗng liên tưởng đến Tiểu long Nữ ,

lòng tràn gập một niềm vui cảm xúc quá mạnh nên gục xuống tường .

Lục vô Song ngỡ mình xô đầu chàng quá mạnh nên gục như thế bèn lấy tay xoa đầu

chàng mấy cái hỏi :

- Tôi lỡ tay đầy . Đau lắm không ? Đừng buồn nhé !

Dương Qua cười khì khì rồi ngước mắt lên nhìn .

Lục vô Song thấy nóng ran cả người nhưng cũng cố nói cho đỡ mắc cỡ :

- Cậu xem ta có giống đạo sĩ tý nào không ?

Dương Qua đáp :

- Có thấy đâu mà biết được .

Nàng bảo :

- Thì cứ thử nhìn đi .

Dương Qua quay lại ngẫm nghĩ : Lục vô Song thân hình nhỏ bé nên bộ đồ vừa rộng

vừa dài , mặc xùng xình xem tức cười lắm . Định nói mấy câu pha trò cho vui bỗng

nàng hót hoảng đưa tay chỉ lên nóc nhà .

Nhìn lên phía ấy Dương Qua thấy rõ ràng là Bì thanh Huyền , tên đạo sĩ cùng đánh

nhau với Lục vô Song ở Sài Lang Cốc độ nọ đang lom khom nhìn xuống .

Lục vô Song nổi giận nói :

- Quả đồ khốn nạn ! Thằng này đã núp sẵn từ lâu , cứ nhìn ta thay quần áo . Ta quyết

...

Vừa nói đến đây nàng nín bặt vì nghe tiếng nhạc " Loan lịch " của Lý mạc Thu đến

gần quá rồi .

Cả hai hốt hoảng nhìn nhau . Dương Qua bỗng nghĩ một cách , vội bồng Cơ thanh Hư

đặt nằm vào lò sưởi . Nguyên vùng này trời lạnh lắm , nhà nào cũng có lò sưởi riêng

để chụm lửa cho ấm mới chịu nổi sức lạnh của mùa đông . Lò sưởi này hiện không

dùng nhưng khá rộng , đầy cả tro và than .

Cơ thanh Hư bị đặt vào đấy , mặt mày lem luốc , quần áo cũng dính cả tro than .

Tiếng nhạc reo lên trước cửa , Dương Qua khẽ bảo :

- Cô nương cũng tạm thời nằm vào đây lánh thân nghe .

Lục vô Song nhăn mặt vùng vằng :

- Bọn này hôi hám dơ dáy quá nằm một bên chịu sao nổi .

Chàng cười hì hì dỗ ngọt ;

- Chịu khó tạm một chốc thôi mà !

Miệng nói , tay bồng luôn cả Triệu bất Phàm đặt vào lò sưởi , để chỗ cho Lục vô

Song nằm .

Rồi chàng cũng leo lên nằm ké một bên ngáy lớn , giả bộ đang ngủ say .

Thỉnh thoảng có một mùi thơm thoang thoảng từ thân hình nàng bốc ra làm cho

Dương Qua thấy khoan khoái vô cùng , muốn trò kịch này cứ kéo dài lâu thêm mãi .

Lý mạc Thu xuống lừa bước vào phòng , nhìn lò sởi thấy hai đạo sĩ chan nhau nằm ,

mặt mày lem luốc trông rất tức cười và trên giường có hai đạo sĩ khác nằm đấu lưng

vào nhau ngủ mê chứ không thấy hình dáng Lục vô Song đâu cả .

Lục vô Song thấp thỏm trong lòng lo sợ quá mức . đến lúc Lý mạc Thu bỏ đi , nàng

mới thấy nhẹ cả người và thầm phục mẹo hay của Dương Qua cứ mình một lần nữa .

Suốt đêm đó , thấy trò Lý mạc Thu lùng khắp các nhà , các nẻo trong thị trấn để tìm

Lục vô Song . Trái lại Lục vô Song điềm nhiên ngủ trên giường tại quán trọ một cách

ngon lành .

Dương Qua nằm bên cạnh Lục Vô Song , nghe tiếng chó sủa vang rân trong xóm ,

lòng thấy khoan khoái mừng thầm . thỉnh thoảng mùi thơm trong người nàng cứ toát

ra khiên chàng không thể nào ngủ được .

Lục vô Song cũng cảm thấy cõi lòng xao xuyến rạo rực . Nằm bên Dương Qua , bao

nhiêu ý nghĩ vừa vừa thú vị cứ quay cuông trong óc mãi .

Chàng này đâu phải ngốc . Có ngốc chằng cũng do chàng cố ý tạo ra mà thôi . với tài

nghệ tuyệt luân , với bộ óc thông mình nhiều sáng kiến mưu mô kỳ diệu , chàng phải

là một kẻ phi thường . Những hành động của chàng đượm nhiều tánh chất tuy ương

gàn nhưng nhân hậu , đôi khi khùng khùng nhưng nhiều tình cảm thiết tha . Lạ một

điều là đã lắm lần thân tựa vai kề , hoa gần bên bướm nhưng bướm chẳng thiết hoa ,

gái gần trai nhưng trai hờ hững mãi .

Đến đây nàng cảm thấy một luồng nhiệt khí từ mình chàng toát ra chuyền vào người

nàng như sưởi ấm .

Nàng run run nhưng thấy thích thú , muốn nhích lại gần hơn . Nghĩ lại thêm thẹn , cố

nghìm cơn bồng bột bằng cách cắn mạnh nơi môi thật đau để lấy lại mức bình tĩnh

của lòng mình .

Sáng hôm sau , Dương Qua thức dậy sớm lắm . nhìn vào lò sưởi thấy Cơ thanh Hư

nằm ngủ mê man , nhó lại một bên , Lục vô Song đưa mặt ra ngoài ngáy đều . Chàng

ngắm kỹ thấy đôi mát nàng nhắm kín dưới hai hàng mi cong như vòng nguyệt trên

chiếc mũi cao dọc dừa . Hai làn má phính phính ửng hồng như đôi chiếc bánh mật ,

làn môi tươi thắm như san hô .

Dương Qua thấy tim hồi hộp , lòng rạo rực một cảm giác mới lạ , muốn đưa tay rờ thử

xem nàng có biết hay chăng .

Là một trai tơ đang lúc sung sức , nằm bên một cô gái đào non hơ hớ , nhất là giữa

lúc bình minh vừa lên , xuân tình của nam giới cực thịnh , chàng thấy cõi lòng rào rạt

, bao nhiêu sự ham muốn yêu đương cuộn dâng hơn cả lúc đang " tiếp cốt " cho nàng

trong khu rừng vắng .

Dương Qua cố bặm môi ngó đi nơi khác và dùng nghị lực chống lại dục tình đang trào

lên bồng bột .

Nhưng lửa tình đang lên khó bề kiềm hãm nổi . Toàn thân chàng như bốc chay , tay

chân mất cả tự nhiên , cặp mắt trừng trừng nhìn sát mặt Lục vô Song đang nằm như

đoá hoa hàm tiếu . Không dằn tâm được , chàng muốn đặt sẽ trên đôi môi đỏ mọng

một chiếc hôn nhưng thình lình một ám khí của ai vừa phóng ra bay vút qua đầu đem

chàng trở vè thực tại .

Dương-Qua giật mình nhìn ra thấy tấm vách cửa bị ai phá tung một khoảnh và có một

vật gì nửa quỷ, nửa người vừa mới thụt ra biến mất.

Chàng tung người nhảy lại, đưa đầu nhìn qua lỗ hổng chẳng thấy gì hết. Muốn phóng

ra ngoài đuổi theo xem thử, nhưng e ngại trúng kế "điệu hổ ly sơn" của quân địch nên

chẳng dám đuổi theo, chàng quay trở vào trong quan sát xem có gì lạ chăng.

Thấy trong góc nhà có một cuộn giấy nhỏ, bóc ra xem có mấy chữ:

"Liệu hồn, chớ bày trò khốn nạn mà chết!"

Lục-vô-Song vừa thức giấc, cũng vội chạy lại nhìn xem.

Tuồng chữ ghi trên mảnh giấy, giống y những chữ đã viết trong bức thư do đứa bé

kèm vào bó hoa trao dọc đường hôm nọ.

Dương-Qua đọc xong thấy thẹn thùng và xấu hổ. Chàng đoán có lẽ đây là một nhân

vật nào có hảo ý đeo đuổi giúp đỡ mình và cũng cảnh cáo mình để khỏi làm điều bậy

bạ.

Càng nghĩ càng xấu hổ, mặt mày đỏ gay, đứng lặng người không nói năng gì hết.

Lục-vô-Song thấy vậy hỏi:

- Sao đứng thừ người như vậy, cậu có phải bị cô nương quở trách gì chăng?

Dương-Qua không đáp suy nghĩ:

- Người này nhất định không phải cô nương ta, vì nét chữ không phải của nàng. Theo

dáng điệu kỳ quái, nửa quỷ nửa người hiện trên lỗ hổng, chưa hiểu đây là kẻ nào,

quen hay lạ, gái hay trai. Thật là khó đoán.

Đang ngẩn ngơ suy tính lại có tiếng nhạc "loan linh" từ phía Tây Bắc vọng lại nữa.

Lý-mạc-Thu tìm không ra Lục-vô-Song đã bỏ đi nơi khác, nhưng lúc nào cũng lo nghĩ

về cuốn "Ngũ độc bí truyền" đang còn ở trong tay Lục-vô-Song chua lấy lại được cho

nên nóng lòng sốt ruột, ăn chẳng được ngủ chẳng yên.

Sau khi tìm các chỗ khác không có, nàng quày lừa trở lại kiếm nữa.

Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:

- Hắn đi một đêm qua, nay trở lại nữa, chả nghi ngờ bọn mình còn ở nơi đây nên cố

tìm nữa. Vì cô còn mang thương tích nặng, nếu không chỉ cần chọn hai con ngựa hay

chạy đi là thoát nạn.

Lục-vô-Song giận dỗi nói:

- Cậu có ỷ mạnh thì cứ đi một mình cho khỏe. Ta bị thương cứ để ở lại đây mặc ta,

cần gì phải lo cho mệt.

Duơng-Qua thấy nàng hay gắt gỏng vô lý nên nghĩ bụng:

- Nếu nàng a gắt gỏng giận hờn, ta làm cho nàng gắt luôn cho đã nư.

Đoạn chàng nói:

- Vậy cô không định về Giang-nam nữa sao? Tôi có vất vả cũng vì cô cần đến, nếu

không, tôi tội gì mang cực vào thân như thế này.

Lục-vô-Song tức quá trợn mắt thét lớn:

- Chẳng cần mi nữa đâu! Muốn đi đâu bước đi cho khuất mắt, chết sống mặt kệ thân

ta.

Dương-Qua không muốn chọc thêm, sợ nàng quá tử liền có hại nên chỉ cười hề hà rồi

đi thẳng lại phía bàn giấy của người chưởng quỹ bưng nghiên mực chạy lại bôi lên

khắp mặt nàng.

Vì bôi bất ngờ không tránh kịp. Lục-vô-Song bị mực dính lấm lem nổi giận hét lớn:

- Thằng quỷ, sao mi bôi lọ vậy?

Dương-Qua làm thinh không đáp, điềm nhiên thấm mực bôi luôn vào mặt mình nữa.

Lúc ấy Lục-vô-Song mới chợt hiểu: Té ra hai người ăn mặc áo quần đạo sĩ chỉ có thể

che mắt người ngoài, chứ đối với Lý-mạc-Thu, thứ bản mặt mày gạt hắn sao được. Vì

vậy nên Dương-Qua cầm lấy mực thoa đen cho khác đi, may ra tránh thoát được.

Cải trang xong xuôi, Dương-Qua lại bên lò sưởi đưa tay giải huyệt. Hai đạo sĩ lồm

cồm ngồi dậy ngó quanh rồi tìm ngỏ cút mất.

Lục-vô-Song thấy nghệ thuật giải huyệt của chàng rất thán phục, nghĩ thầm:

- Tài ba của hắn thật là xuất chúng, thế mà mình cứ gọi là ngốc thật quá vô lý. Cũng

lạ là hắn cũng không tỏ ý gì giận mình.

Đến nay thương tích của Lục-vô-Song đã khỏi hẳn, nên chàng cưỡi riêng một con ngựa

khác.

Hai người cưỡi ngựa một lừa, song song đi về hướng Đông-Nam.

Ngồi trên lưng ngựa, Dương-Qua cứ phân vân thắc mắc nghĩ về hàng chữ trên bức

thư, chẳng biết kẻ viết cho mình hai bận là ai?

Lục-vô-Song thấy chàng tư lự chẳng nói năng gì nên hỏi:

- Sao có vẻ buồn rầu như vậy Ngốc?

Dương-Qua đột nhiên vỗ đùi hoảng hốt nói:

- Nguy quá, ta hồ đồ quá, có lẽ hỏng mất!

Lục-vô-Song hỏi:

- Chuyện gì mà nguy hiểm, hồ đồ?

Dương-Qua đáp:

- Ba tên đạo sĩ đã thấy bọn ta cải trang rồi. Nếu chúng đem mặt lại cùng Lý-mạc-Thu

thì nguy mất.

Lục-vô-Song đáp:

- Tưởng gì chứ vụ ấy đâu đáng lo. Bọn chúng tuy trông thấy ta cải trang làm đạo sĩ

nhung đâu biết ta đi về hướng nào mà điểm chỉ. Hơn nữa đã chắc chi bọn chúng còn

nhớ.

Dương-Qua cười hì hì đáp với một giọng đùa cợt:

- Sao không nhớ? Bọn chúng đã nhìn thấy một việc lạ lùng ngay trước mắt, dẫu ngàn

năm cũng khó quên được.

Lục-vô-Song biết Dương-Qua nhạo mình thay áo quần để cho bọn đạo sĩ nhìn thấy

nên thẹn đỏ mặt, chỉ hứ một tiếng và nguýt dài.

Ngay khi ấy con lừa của nàng nhảy lồng lên rồi dậm chân hí lớn.

Ghìm cương lại được, Lục-vô-Song nhìn thấy có mấy người ăn xin đang đứng chận

mất lối đi.

Dương-Qua đưa mắt ngó sang bên kia đồi thấy thấp thoáng bóng của hai người, rõ

ràng là Cơ-Thanh-Hư và Triệu-Bất-Phàm. Chàng nổi giận nghĩ bụng:

- Thật đáng ghét cho bọn đạo sĩ khốn nạn. Chúng đã đi khách với bọn hành khất. Cái

Bang tìm đến phá rối mình nữa đây.

Nghĩ xong chàng nhảy xuống ngựa, đến trước mặt mấy người ăn mày, chắp tay nói:

- Các bạn đi xin khách thập phương bố thí, còn bần đạo đây cũng sống về sự giúp đỡ

của đồng bào, làm gì có dư cơm dư tiền chia cho các bạn mà đi đón nhau rầy rà như

vậy.

Một đứa trong bọn cất tiếng sang sảng đáp lớn:

- Bọn mi đâu phải là kẻ tu hành, đừng khoát áo cà sa mà xưng là hòa thượng, không

che nổi mắt bọn ta đâu.

Muốn yên lành thì mau mau bó tay theo anh em ta đi yết kiến Bang chủ cho rồi.

Nghe nói, Dương-Qua nghĩ thầm:

- Theo Cô nương và Tôn bà ngày còn sanh tiền kể lại, thì Bang Khất-cái có một vị

Bang chủ là Cửu-chỉ Thần-cái Hông-thất-Công, võ nghệ có một không hai, trên đời

không ai sánh kịp. Bọn này tuy chẳng ra gì, nhưng nếu Bang-chủ của họ là

Hồng-thất-Công có mặt nơi đây thì làm sao trốn thoát nổi.

Nhìn kỹ hai người ăn mày mang tám túi, thuộc cấp bực cao hơn và bản lãnh cũng trội

hơn những bọn đã gặp trước. Hai người này thấy Dương-Qua còn trẻ tuổi nhưng đã có

tài cao đánh bị được cả mấy người hạng bảy túi nên có kiêng nể chưa dám ra tay vội.

Hai bên đứng đối diện nhìn nhau chờ dịp ra tay thì từ phía Bắc lại văng vẳng vang lên

tiếng nhạc "loan linh" của Lý-mạc-Thu sắp tới nơi.

Lục-vô-Song lo sợ quá nghĩ rằng:

- Tuy ta đã cải trang nhung bỗng dưng bị bọn ăn mày chận lại thì làm sao dấu nổi

được sư phụ, nguyên do cũng vì ta quá nông nổi gây thương tích cho một tên, đến nay

bọn chúng cứ bám theo báo đời hoài, bây giờ nghĩ ăn năn cũng đã muộn.

Nhạc "loan linh" mỗi lúc càng đến gần.

Dương-Qua nghĩ:

- Nếu chờ Lý-mạc-Thu đến đây mới trở tay sẽ không kịp nữa. Chi bằng ta tìm cách

tẩu thoát ngay từ bây giờ may ra được.

Tuy e ngại lo lắng, nhưng ngoài mặt vẫn làm tỉnh như chẳng có việc gì bận trí, hai

chân lướt tới miệng hỏi:

- Sao, bây giờ chư vị có bằng lòng nhường đường cho đạo hay vẫn quyết tâm cản trở.

Nhìn lối bước của Dương-Qua xông tới quá nhanh nhẹn lẹ hai nguời thừa rõ đây là

một tay có bản lãnh phi phàm, tuy nhiên họ vẫn gan lỳ đứng yên, đưa tay ngăn lại.

Dương-Qua đưa tay gạt ngang qua thật mạnh. Cả ba cánh tay bám chặt vào nhau như

ba con rắn quấn nhau. Nhưng chỉ trong nháy mắt, Dương-Qua đã đẩy hai người lùi

qua một bên trên mấy bước.

Hai người này vốn thuộc hạng 8 túi, công phu luyện tập trên vài chục năm, ai cũng có

dõng lực ghê gớm, và trên giang hồ không dễ gì có nguời chống cự nổi với họ.

Mặc dầu công phu họ có phần lớn hơn nhưng về căn bản võ thuật Dương-Qua học

được nhiều. Hồng-thất-Công, Bang chủ khất cái, tuy võ nghệ quán quân, tài năng

tuyệt diệu, nhưng tánh ông ta a ăn uống nhậu nhẹt nên ít thì giờ truyền dạy lại cho

học trò. Đệ tử đắc ý nhất đã được Hồng-thất-Công chân truyền vũ thuật là Đại hiệp

Quách-Tỉnh.

Sau khi đẩy lui được hai người, Dương-Qua muốn thừa cơ thoát chạy nhưng cả hai

vẫn cố tình bám riết không rời.

Thế rồi sáu mắt nhìn nhau lườm luờm như ba mãnh hổ giành mồi chỉ chờ dịp là tấn

công nữa.

Vừa lúc ấy Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba đi đến nơi, dừng chân lại xem.

Hồng-lăng-Ba cất tiếng hỏi thăm:

- Này các người, ở đây có thấy một người con gái thọt một chân đi tập tễnh qua

đường này không?

Hai người ăn mày đang lo đánh nhau với Dương-Qua thấy có kẻ lạ mặt xen vào làm

rộn, thì trong bụng đã ghét rồi, tuy nhiên họ vẫn cố nén bụng làm thinh, vì theo luật

của cái Bang không cho phép được vô cớ để gây chuyện cùng kẻ khác.

Họ chẳng đáp chỉ lắc đầu ra dấu không thấy.

Lý-mạc-Thu nhìn dáng điệu của Dương-Qua và Lục-vô-Song thấy có nhiều nét quen

quen hình như đã gặp đâu đôi lần rồi nhưng nghĩ không ra.

Định bước ra đi, nhưng thấy ba người đứng ngó gườm nhau giữ miếng để tranh tài hơn

thua, Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Hay là ta nán lại xem bọn chúng đánh nhau một chặp thử tài hai tên ăn mày tám túi

ra sao, và hai cậu đạo sĩ trẻ tuổi này thuộc môn phái nào cho biết.

Thấy Lý-mạc-Thu đứng lại xem đấu, Dương-Qua nghĩ bụng:

- Hắn cố tìm hiểu gốc gác sư muội mình đây. Ta phải làm lạc hướng hắn mới được.

Thế rồi chàng chạy thẳng lại phía Hồng-lăng-Ba lễ phép cúi đầu chào và nói:

- Xin kính chào đạo hữu.

Hồng-lăng-Ba tuy ngạc nhiên nhưng cũng phải chắp tay đáp lễ cho đúng phép xã

giao.

Dương-Qua lễ phép nói:

- Bần đạo tình cờ đi qua chốn này, bỗng nhiên gặp hai người ăn mày đón đàng sinh

sự. Chỉ vì bần đạo không màng theo khí giới tùy thân nên mong đạo hữu bẩm lại cùng

bề trên cho bần đạo tạm mượn thanh kiếm dùng đỡ để thử tài cùng bọn ấy.

Hồng-lăng-Ba thấy người đạo sĩ trẻ tuổi tuy mặt mày đen đúa xấu xa nhưng nói năng

có lễ độ chẳng lẽ chối từ. Hơn nữa trong phép xã giao trên võ lâm, khi người ta nhớ

đến mình phải tận tình giúp đỡ.

Nàng rút kiếm khỏi vỏ đưa mắt nhìn sư phụ để thỉnh ý.

Thấy Lý-mạc-Thu gật đầu đồng ý. Hồng-lăng-Ba trao thanh kiếm cho Dương-Qua.

Dương-Qua nhận kiếm cúi đầu bái lễ tạ ơn và thưa nhỏ:

- Nếu rủi vì tài hèn sức mọn không cự nổi với bọn chúng, xin đạo hữu nghĩ tình cùng

đạo phái vui lòng giúp đỡ một tay thật là vạn hạnh.

25. Dương-Qua làm Hoa Bang khất cái

Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn chàng, tằng hắng một tiếng rồi nín thinh không đáp.

Dương-Qua quay lại Lục-vô-Song bảo:

- Khỏi cần sư đệ giúp sức, để một mình ta tranh tài cùng bọn này để làm rạng rỡ danh

dự cho phái Toàn-Chân một phen. Vậy Sư-đệ cứ đứng ngoài lược trận và làm trọng tài

luôn thể nhé.

Lý-mạc-Thu thấy vậy lẩm bẩm:

- ủa, té ra hai đạo sĩ trẻ tuổi này là môn đệ của Trùng-dương-Cung. Xưa nay bang

Khất Cái và phái Toàn-Chân giao tình rất hậu, chẳng hiểu vì sao bọn đệ tử lại trở mặt

gây sự cùng nhau đến nỗi xung đột đánh chém quyết liệt nh thế này.

Dương-Qua thấy nếu để chần chờ e hai người ăn xin nói ra làm tiết lộ hình tích của

Lục-vô-Song nên vội vung kiếm tấn công ngay.

Chàng xông tới, miệng réo, tay múa:

- Này hai bạn, một mình ta chấp cả hai, hãy liệu hồn mà chống cự đấy nhé.

Lục-vô-Song thấy Dương-Qua bày vẽ nhiều chuyện cũng phát bực, rủa thầm trong

bụng:

- Thật thằng ngốc này khéo ba hoa, tự nhiên nhận mình là đồ đệ của phái Toàn-Chân.

Sư phụ ta đâu có lạ gì kiếm pháp quyền thuật của Toàn-Chân phái mà hòng nói khoát.

So qua vài thế cũng đủ cho bà nhận xét và phác giác ra chân tướng của nàng cho mà

xem.

Nguyên dưới thời Nam Tống lúc bấy giờ có rất nhiều đảng phái, nhưng các giáo phái

có tiếng tăm cũng không có được bao nhiêu Phái Toàn Chân là một trong chín phái

quan trọng, tiếng tăm đang lừng lẫy đương thời. Nhưng nếu kể về số đông và phạm vi

hoạt động thì Bang-Khất-Cái do Truơng-Thiên-Sư chỉ đạo lớn hơn nhiều. Trụ sở chính

của "Chính Khất-Cái" đóng tại núi Long Hổ thuộc tỉnh Giang Tây.

Giữa Toàn Chân phái và Khất-Chính-Cái có nhiều giao tình liên hệ rất mật thiết, môn

đệ đôi bên rất nể nhau.

Vì vậy nên khi vừa nghe Dương-Qua tự xưng môn đệ Toàn-Chân phái, cả hai người

hành khất thảy giựt mình, trong bụng đã nao núng, vội hỏi lớn:

- Mi thuộc Toàn Chân phái, nhưng ở trong Chi-Bộ nào.

Dương-Qua e rằng nếu để nói giằng dai sợ làm lộ tẩy Lục-vô-Song nên chẳng đáp

nữa, dùng một ngón độc vung trường kiếm chém ngang một nhát rồi đổi thế khác đâm

xóc vào bụng hai người.

Thấy đòn xuất thủ của đối phương rõ ràng là phương thức chân truyền của

Trùng-Dương kiếm pháp, cả hai nghĩ thầm:

- Hai đứa mình dẫu sao cũng là hai nhân vật cao cấp của hạng tám túi, lẽ nào hùa

nhau đi hiếp đáp một đạo sĩ còn non nớt theo loại đàn em hay sao?

Đang lúc phân vân tìm cách đối phó cho đứng đắn, bỗng Dương-Qua vũ động thanh

kiếm, dùng toàn những thế ác liệt chém đâm tới tấp, hai người không thể nào đứng

yên phải lật đật tung thiết bổng ra chống đỡ.

Nhìn bề ngoài, hai cây Thiết bổng có vẻ nhẹ nhàng nhưng thật ra rất nặng vì cây nào

cũng đúc toàn bằng thép lọc vô cùng cứng rắn, trui luyện năm bảy lần.

Thế là hai cây thiết bỗng lộng lên như đôi thần long vờn sóng, thanh trơừng kiếm tung

hoành như một đám bạch quang, soắn chặt lấy nhau, phát gió vùn vụt, rít lên nghe

nhức óc, dùng toàn những thế tuyệt diệu phi thường, khiến cho những kẻ đứng xem

phải bồi hồi thán phục.

Đánh một hồi lâu, hai thiết bảng dần dần yếu thế, bị lưỡi trường kiếm áp đảo rõ rệt.

Hai người ăn mày vừa đánh vừa thối lui ra sau.

Duơng-Qua hứng chí, dùng tư thế "liên thinh nhị cửu nhứt bái" tấn công ráo riết. Cứ

một đuờng kiếm vừa tung ra đã biến thành hai thế, và chín đường biến thành mười

tám thế, liên miên trường tận, kỳ ảo vô cùng. Đấy là một kiếm pháp tuyệt kỳ của

Toàn-Chân phái được mệnh danh là "Nhất khí hóa tam thanh".

Với thế võ này, một người có thể ứng phó dễ dàng cùng ba đối thủ. Vì vậy nên hai

người ăn xin không thể nào đương cự nổi, càng lúc càng lúng túng và sụt lùi ra rất xa,

muốn tìm cách tẩu thoát.

Lý-mạc-Thu theo dõi trận đấu, thấy Dương-Qua xuất thủ rất tinh điệu, kiếm pháp

biến ảo vô cùng phải chột dạ và nghĩ bụng:

- Toàn-Chân kiếm pháp quả danh bất h truyền. Ngay một đạo sĩ còn nhỏ tuổi, thời

gian tập luyện chưa bao nhiêu mà đã có một bản lĩnh ghê gớm như thế này thì sau đây

đợc truyền thụ đúng mức hắn sẽ tiến bộ đến đâu nữa. Trong vòng năm mười năm

nữa, tài này thế nào cũng giữ tay chương giáo Toàn-Chân và chừng ấy ta đây cũng

chưa xứng là đối thủ của hắn.

Hồng-lăng-Ba và Lục-vô-Song cứ đứng ngẩn ngưbời mà nhìn theo không biết nói lời gì

nữa. Dương-Qua vừa đánh vừa nghĩ thầm:

- Nếu ta để cho hai thằng này rảnh tay, chúng sẽ nói chuyện rồi vô tình phát giác

chuyện bí mật cho Lý-mạc-Thu biết được thì nguy lắm. Âu là ta phải tấn công cho

thật gắt để chúng không hở tay thốt được lời gì.

Chàng tung vút người ra phía sau hai đối thủ, vẹt phăng đôi thiết bảng, nhắm lưng đập

tới.

Hai người thất kinh vội vàng ngồi sụp xuống tránh né. Nhưng Dương-Qua đã nhảy

qua một bên tấn công liền. Chàng dùng khinh công nhảy nhót bốn phía như bươm

bướm, đâm tả chém hữu, khi thiệt khi hư, khiến hai người hoa cả mắt hết thấy đường

chống đỡ, mệt thở muốn hụt hơi.

Đây là lối khinh công đặc biệt luyện theo lối "Hỏa hầu" trong thế trận "Thiên cang

Bắc đẩu" của Toàn-Chân phái.

Lối đánh đỡ, tấn công các mặt, dùng theo kiếm pháp Toàn-Chân, nhung về lối thở

hút, vận công thì Dương-Qua lại áp dụng theo "Ngọc-nữ tâm-kinh" của phái Cổ Mộ.

Với lối nội công và khinh công ảo điệu của Cổ Mộ phái thân pháp của Dương-Qua

biến chuyển không cùng cho nên hai đối thủ càng lúc càng cảm thấy bất lực, chỉ lăm

le tìm dịp để thoát thân.

Nhưng khốn nỗi làn kiếm quang của Dương-Qua loang loáng bám sát không chỗ nào

hở, hai cây thiết bảng hình như bị một sức mạnh vô hình hút lấy, muốn thu lại để

chạy cũng không được nữa. Cả hai thì thầm, phen này cũng đành liều với định mạng.

Một chập sau hai người ăn mày cảm thấy mắt hoa đầu váng, trời đất quay cuồng,

đứng không vững nữa.

Lý-mạc-Thu thấy vậy động lòng mách nước hộ:

- Tại sao hai ngươi không đâu lưng nhau để chống cự.

Nghe nói, hai người sực nhớ lại, vội vàng xây lưng cùng nhau mà cầm cự.

Dương-Qua nghĩ:

- Con ác phụ cũng giỏi mách nước đấy. Bây giờ ta không nhảy lung tung nữa, xem

bọn bay đối phó cách nào.

Nghĩ xong chàng đứng im một chỗ vung kiếm chém liên hồi.

Hai người ăn mày lâm ngay vào thế bị động, không thể nào chống cự nổi nữa bèn

quay mình trốn chạy.

Dương-Qua khẽ nhún chân một cái đã đứng sát ngay bên lưng họ, cả hai cảm thấy

một lần lãnh khí phía sau lưng, hình như cả thanh kiếm thép nằm ngang trên da thịt

mình, hoảng hốt cuống cuồng. Nhưng Dương-Qua chỉ đuổi theo cho họ sợ chứ không

dụng tâm sát hại. Chàng chỉ dùng lưỡi kiếm áp trên vai và lưng mỗi người mà thôi chứ

không chém.

Biết đối phương không muốn giết mình nên hai người ăn mày mừng rỡ và yên trí dùng

khinh công lao vút về phía xa, không bao lâu đã cách Lý-mạc-Thu hơn hai dặm.

Dương-Qua phi thân bay theo chận lại cười cười nói:

- Thôi đừng chạy nữa, mình là bạn với nhau cả mà.

Hai người vung thiết bảng đánh nữa. Nhưng Dương-Qua đã dùng kiếm gạt rồi đưa tay

trái giật một cây ném ra phía sau. Còn cây thứ hai vừa bổ tới đã bị chàng quất mạnh

một kiếm sút tay rơi xa mấy trượng. Bị mất hết vũ khí, cả hai thất kinh đành đứng

lặng yên nhìn chàng.

Dương-Qua cười hề hà kiếm lời an ủi:

- Sư môn của bần đạo cùng quý Bang đã có tình giao hảo từ trước đến nay, không thể

nào chỉ vì một sự nông nổi hiểu lầm nhau mà đi làm sứt mẻ hòa khí của đôi bên.

Ngay giờ phút này kẻ thù nguy hiểm của quý Bang là Lý-mạc-Thu, một con ác phụ

của phái Cổ Mộ đang đứng trước mặt đó, sao chúng ta không hợp nhau để trừ khử có

hơn không?

Hai người tuy có nghe danh Xích-Luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu nhưng chưa rõ mặt

mày ra sao, nay nghe Dương-Qua mách cũng hỏi lại:

- Có thật là hắn không? Đạo huynh đừng dối chúng tôi nhé.

Dương-Qua đáp:

- Bần Đạo đâu dấu liệt vị. Chính Bần Đạo cũng đang bị hắn bức bách không biết lối

nào thoát được, phải dùng kế ra đây để cùng liệt vị bàn tính cách đối phó.

Chàng chạy lại nhặt hai cây thiết bảng, hai tay trao cho mỗi người có vẻ thân mật và

kính cẩn lắm rồi nói thêm:

- Xích-Luyện-Tiên-Tử có một bảo bối vô cùng ác liệt mà khi nào hắn cũng mang theo

bên mình, quý vị có biết là thứ gì không?

Một người suy nghĩ một tý và đáp:

- Theo tôi đoán có lẽ là cây "phất trần" của hắn, xâu nhạc "loan linh" trên cổ lừa, và

chiếc áo "hoàng sam" có phải chăng?

Dương-Qua cười dài và nói:

- Không phải đâu! Ba món ấy đâu có gì là lợi hại, mà món bảo bối nguy hiểm nhất

của hắn là lưỡi phi dao mỏng, hình cánh cung mà đệ tử của hắn dùng để phóng vào

lưng một người trong quý Bang đó.

Hai người nghe nói cùng "à" một tiếng, suy nghĩ thêm một chập rồi đồng nói:

- Phải rồi, lưỡi phi đao ấy quả là lợi hại. Bây giờ chúng ta có những ba người, nên

thừa dịp là lại tấn công hắn cho rồi, có gì đâu mà sợ.

Người kia cũng phụ họa theo. Nhưng Dương-Qua khoát tay nói:

- Phải bình tĩnh mà trù liệu không nên hấp tấp nông nổi mà hư việc.

Người ăn mày cãi lại:

- Tại sao lại hư việc được?

Dương-Qua nghiêm giọng từ từ nói:

- Xích-Luyện-Tiên-tử là tay lợi hại, đã lừng danh xa nay, trên giang hồ ai cũng chạy

mặt. Liệt vị tuy có bản lãnh, nhưng chưa hẳn là đối thủ của nó. Ngay như người bạn

của liệt vị cũng vì ỷ tài mà bị đệ tử của hắn phóng đao gây trọng thương đấy. Cần

phải cẩn thận đề phòng cho lắm mới được.

Bị Dương-Qua nói khích, nguời ăn mày nóng tính nổi giận vung cây thiết bảng, trợn

mắt đỏ mặt hét:

- Dầu nó là Xích-Luyện-Tiên-Tử hay thứ chi chi đi nữa ta cũng quyết thử một trận

cho biết sức.

Nói rồi quay mình toan bước đi.

Người kia có vẻ thận trọng hơn nghĩ bụng:

- Chỉ có một đạo sĩ trẻ tuổi này mà cả hai đứa còn cự địch không xuể huống chi là

Xích-Luyện-Tiên-tử Lý-mạc-Thu! Nóng nảy hấp tấp chi gây nên tai họa cho mình mà

thôi.

Việc này cần phải bàn tính thật chu đáo mới được. Nghĩ ngợi xong, người ấy kéo áo

bạn lại nói:

- Không nên hấp tấp, phải tính toán kỹ đã.

Nói rồi hắn chấp tay lễ phép hướng về phía Dương-Qua nói:

- Xin đạo hữu cho biết phương danh quý tánh.

Dương-Qua đáp:

- Bần đạo họ Tát tên Hoa-Tư.

Chàng đáp rồi chắp tay bái hai người nói tiếp:

- Giờ đây xin tạm biệt, hẹn gặp nhau vào một dịp sau.

Dương-Qua vừa đi khuất dạng thì người ăn xin cúi đầu, lẩm bẩm mãi cái tên

Tát-Hoa-Tư và nghĩ thầm:

- ồ, con người có cái tên xa lạ quá, nhưng bản lãnh quả thật cao cường, tài không đợi

tuổi!

Hắn cố moi trong ký ức tìm xem cố nhớ lại cái tên này nhưng vẫn hoàn toàn xa lạ.

Đang lẩm bẩm một mình bỗng có người vỗ mạnh trên vai nói lớn:

- Sao mà ngây thơ vậy. Chuyện gì cứ lẩm nhẩm như người đọc kinh thế?

Người ăn mày thấy bạn phá rối câu chuyện mình đang suy nghĩ phát cáu, nhăn mặt

nói:

- Cứ phá người ta hoài. Tại sao lại gọi là ngây thơ được?

Người nọ đáp:

- Chẳng phải ngây thơ sao? Kẻ tử thù đang đứng trước mặt không lo giải quyết cho

rồi, để đi lẩm nhẩm một cái tên không hề quen biết. Chả ngây thơ sao?

Tuy cãi vã nhau hăng lắm nhng rốt cuộc chẳng người nào dám đả động đến

Lý-mạc-Thu.

Dơng-Qua bỏ đi, nghĩ buồn cười cho hai chàng ăn mày bất tài mà nói doc, miệng

lớn lối mà nhát gan hơn thỏ. Nhớ đến Lục-vô-Song chàng bỗng lo lắng cho nàng,

không biết có xảy ra điều gì bất trắc hay không.

Khi về đến nơi thấy nàng vẫn bình yên ngồi trên mình ngựa mắt hướng về phía mình

có vẻ trông đợi lung lắm.

Vừa gặp nhau, Lục-vô-Song vội giục lừa chạy lại gần. Thấy chàng lộ sắc mặt vui vẻ,

nàng cũng mừng vội hỏi:

- Làm gì lâu quá, để ta chờ thật sốt ruột. Sao, êm thấm tốt đẹp cả đấy chứ?

Dương-Qua mỉm cười gật đầu rồi cầm thanh trường kiếm đi lại phía Hồng-Lăng-Ba lễ

phép nói:

- Đa tạ đạo hữu đã có lòng tốt cho mượn gươm để đánh bại kẻ thù.

Hồng-Lăng-Ba đưa tay tiếp nhận thanh gươm tra vào vỏ.

Thấy Dương-Qua sắp quay lưng trở lại, Lý-mạc-Thu cất tiếng nói:

- Khoan đã. Hãy chờ ta nói tý việc cần.

Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua bản lãnh cao cường, ngại về sau trở thành một cao thủ

võ lâm, nàng không thể nào địch nổi. Chi bằng nhân lúc tài nghệ hắn chưa phát triển

đúng mức, ra tay trừ phứt cho rồi để khỏi hậu họa.

Nghe hai chữ "khoan đã" Dương-Qua đoán biết cuộc sóng gió sắp xảy ra trên đầu

mình, nhưng vẫn bình tĩnh đứng dừng lại, cách xa Hồng-Lăng-Ba chừng mấy thước.

Thấy chàng cố ý đứng xa mình hơn, Hồng-Lăng-Ba cười lớn nói:

- Đạo hữu bản lãnh cao kỳ mà óc nhận xét cũng tinh tường lắm.

Lý-mạc-Thu muốn thừa thế đánh cho Dương-Qua một phất trần rồi mạng, nhưng nghĩ

lại mình như thế này mà đi đánh bất ngờ một đứa trẻ trong tay không binh khí thì quả

là hèn hạ, nên cất phất trần vào lưbng rồi hỏi:

- Trong Toàn-Chân phái, ai là sư phụ của ngươi?

Dương-Qua vừa cười vừa đáp ngay, không một chút ngập ngừng hay do dự:

- Thưa, tôi là đệ tử của Vương-Trùng-Dương chân nhân.

Dương-Qua thừa rõ Lý-mạc-Thu không thân mật mà cũng chẳng nể vì một nhân vật

nào trong Toàn-Chân phái. Ngay như Khưu-xứ-Cơ đạo trưởng, có võ nghệ tuyệt luân

đạo hạnh hơn người, mà nàng cũng chẳng xem ra gì huống hồ chi Xích-đại-Thông,

hay Triệu-chí-Kính!

Vì nhờ Vương-trùng-Dương có nhiều liên hệ với phái Cổ-mộ và hơn nữa chính người

là kẻ đã lu truyền "Cửu âm chơn kinh" cho mình nên Dương-Qua mới nhận ẩu như

vậy cho qua chuyện.

Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Thằng này tuổi chưa bao lăm, nếu xét theo lứa ấy chỉ đáng là đệ tử của bọn

Doãn-chí-Bình hay Triệu-Chí-Kính, chẳng hiểu vì sao mà võ thuật quá tinh điệu? Cứ

xem lối đánh đỡ của nó thì quả thật là từ Toàn-Chân phái xuất thân rồi.

Thấy Lý-mạc-Thu đăm chiêu suy nghĩ, Dương-Qua bỗng sực nhớ lại ngày nào mình

đã cải trang chọc ghẹo Hồng-lăng-Ba, mấy phen đấu cùng Lý-mạc-Thu nữa. Nếu

đứng nói chuyện lâu e bọn chúng nhận diện ra được thì phiền lắm, chi bằng kiếm

cách chuồn đi cho rảnh nợ.

Nghĩ xong chàng cúi đầu bái tạ rồi nhảy lên lưng ngựa toan đi.

Nhưng Lý-mạc-Thu đã lẹ làng chuyển mình chận ngay trước mặt bảo:

- Khoan đi, ta có việc cần hỏi thêm.

Dương-Qua ngó lên nói:

- Phải cô muốn hỏi thêm tôi có gặp cô gái thọt chân, mang sách chạy về phía nào đấy

chứ gì?

Lý-mạc-Thu ngạc nhiên quá, gật đầu đáp:

- Quả đúng thế. Tại sao mi đoán giỏi như vậy. Thật đáng khen. Vậy mi có thể cho

biết hắn mang sách đi đâu rồi không?

Dương-Qua thong thả kể chuyện:

- Cách đây không lâu, hai anh em tôi ngồi nghỉ chân bên đường có trông thấy một cô

bé chân đi khập khễnh cùng đánh nhau kịch liệt với ba tên ăn mày. Nàng đã dùng

"ngân hồ phi đao" phóng trúng lưng một người. Nhưng sau đó thất bại nàng đã bị mấy

tên bắt được đem đi mất rồi.

Lý-mạc-Thu vốn là người hiểm độc và bình tĩnh. Đối với nàng dầu việc gì quan trọng

đến long trời lở đất vẫn cứ giữ vẻ điềm nhiên không hề cảm động. Nhưng lần này khi

được biết tin Lục-vô-Song bị bọn ăn mày bắt được, cuốn "ngũ độc bí truyền" lọt vào

tay Cái Bang thì nàng thấy bàng hoàng cả người, nỗi u t lộ ra trên nét mặt.

Thấy mặt nàng đã tái, Dương-Qua biết câu chuyện của mình đã làm cho nàng tư

tưởng xao động nên kể thêm

- Hai người có lục soát trong người nàng thấy một cuốn sách nàng nhất định giành lại,

nhưng sức yếu không làm gì được. Sau đó tên cao lớn hơn chiếm sách mang đi.

Lục-vô-Song nghe chàng kể lể ngon lành như chuyện thật cũng ngắn cho tài nói láo

của chú Ngốc này. Nàng nghĩ:

- Hắn quả con người có lợi khẩu hèn chi lúc đầu hắn muốn lừa gì mình cũng lầm hết!

Liếc thấy vẻ mặt Lục-vô-Song lộ vẻ ưu tư, Dương-Qua tìm cách trêu chơi:

- Này sư đệ, nghĩ cũng đáng giận nhỉ! Mình vô tình mà chứng kiến việc này, còn cô

nương đây quyết tâm tìm kiếm mà tìm chẳng ra, để đến nỗi phải lê gót đi khắp bốn

phương, tốn biết bao nhiêu công của mà chẳng ích gì cả.

Lục-vô-Song sợ quá chẳng dám nói gì, chỉ gắng gượng "vâng" nhỏ một tiếng rồi cúi

mặt xuống ngay.

Vừa lúc đó từ phía sau núi có tiếng ngựa hí quân reo vang dậy, một đoàn quân rất

đông đang rầm rập tiến về phía này, cờ xí rợp trời, cát tung đầy đất.

Đó là một đoàn quân Mông Cổ do một viên quan điều khiển đang đi về vùng này thị

sát. Lúc này quân Kim không còn nữa mà quân Mông Cổ đã thay thế để cai trị toàn

cõi đất Bắc.

Lý-mạc-Thu mãi lo theo dõi câu chuyện của Lục-vô-Song và cuốn sách, nào thèm

quan tâm đến đám quân này. Nàng đứng tránh qua một bên nhường đường cho đoàn

người ngựa kéo đi.

Đoàn kỵ binh phi như gió, cát bụi mịt mù. Bao nhiêu quân binh ủng hộ một viên quan

văn nhưng cưỡi ngựa cũng tài tình lắm.

Đoàn kỵ binh qua khỏi, áo quần nàng bị bụi đóng một lớp rất dày, Lý-mạc-Thu bèn

dùng cây phất trần phủi bụi trên mình.

Lục-vô-Song lấm lét đứng nhìn. Cứ mỗi lần thấy chiếc phất trần giơ lên là nàng tái

mặt và tưởng tượng hình như nó sắp bổ vào đầu mình.

Phủi sạch bụi xong, Lý-mạc-Thu hỏi:

- Rồi sao nữa kể thêm đi?

Dương-Qua đưa tay chỉ về phía Bắc, miệng nói tiếp:

- Mấy người ấy bắt nàng đem đi theo hướng này. Theo họ bàn tán định dẫn về Đồng

Quan thì phải.

Nghe xong Lý-mạc-Thu gật đầu có vẻ bằng lòng và tươi cười nói:

- Cám ơn chú lắm. Chính ta là Lý-mạc-Thu, sư phụ của cô gái ấy đây. Thiên hạ

thường gọi ta là Xích-Luyện Tiên-Tử hoặc Xích-Luyện Mã-đầu. Chú em có nghe

danh hiệu ấy bao giờ chưa?

Dương-Qua giả bộ suy nghĩ một chặp rồi lắc đầu nói:

- Dạ chưa hề nghe bao giờ. Nhưng có một điều tôi không phục là vì như tôi thấy

Cô-nương đẹp lắm.

Danh từ-tiên-tử dùng để gọi cô thì thật là xứng đáng. Nếu dùng tiếng mã-đầu quả

không đúng một tý nào hết.

Xưa nay Lý-mạc-Thu vẫn chú trọng việc giữ gìn thân thể và sắc đẹp, vì vậy cho nên

tuy tuổi đã quá năm mươi, nhưng da dẻ nàng vẫn hồng hào, thân hình đầy đặn, nét

mặt xinh tươi đẹp đẽ không kém một phụ nữ ba mươi. Chính Lý-mạc-Thu cũng tự hào

nhan sắc của mình đã giúp mình trẻ gần một nửa số tuổi đã có.

Nay được Dương-Qua tán dương mình đẹp thật chẳng khác nào đã gãi nhắm chỗ

ngứa, cho nên nàng khoái chí lắm và có cảm tình cùng chàng ngay.

Nàng vui vẻ hân hoan vô cùng, tay cầm chiếc phất trần phẩy nhẹ một cái và hỏi

Dương-Qua.

- Chú em xưng mình là đệ tử Vương-trùng-Dương chân nhân lẽ ra ta cho nếm một cây

phất trần để bỏ bớt tánh nói dóc, nhưng ta cũng thương tình tha cho một bận. Tuy

nhiên ta muốn dùng phất trần để chỉ điểm cho chú vài ngón, có bằng lòng không?

Dương-Qua lắc đầu lia lịa đáp:

- ồ, không nên đâu. Bình sinh bần đạo không bao giờ muốn tranh chấp với bọn hậu

bối như cô.

Lý-mạc-Thu nổi giận nói:

- Thằng này hết muốn sống sao mà dám gọi ta là hậu bối?

Dương-Qua đáp:

- Sư phụ tôi là Vương-Trùng-Dương chân nhân, cùng vai vế với Sư-Tổ của cô là

Lâm-Triều-Anh, như vậy so với tôi, cô há chẳng phải là kẻ hậu bối hay sao?

Lý-mạc-Thu căm giận cành hông nhưng cố giữ vẻ điềm tĩnh bảo Hồng-Lăng-Ba:

- Mi cho hắn mượn lại thanh kiếm.

Dương-Qua vội gạt đi:

- Khỏi cần, khỏi cần mượn!

Nhưng Hồng-Lăng-Ba đã rút gươm ra. Thình lình nghe rắc một tiếng khô khan, lưỡi

gươm đã gãy lìa làm đôi nằm nguyên trong vỏ, chỉ còn một cái cán không trên tay mà

thôi.

Hồng-lăng-Ba ngạc nhiên quá nhưng cũng đoán được là Dương-Qua chơi nghịch bấm

trước vào lưỡi gươm khiến cho khi rút mạnh bị gãy hai làm nàng không có vũ khí để

sử dụng nữa.

Thấy Lý-mạc-Thu giận tái cả mặt, Dương-Qua nhanh nhảu nói:

- Này, thật tâm bần đạo không bao giờ muốn hạ thể đi đánh nhau với bọn hậu bối.

Nhưng thấy hai thầy trò ngưbời thiết tha van nài, bần đạo đồng ý chỉ dùng tay không

cho người đánh thử ba phất trần.

Nếu sau ba ngón đó mà không làm gì bần đạo được thì phải rút lui đi cho rảnh mắt.

Hễ đánh thêm một cái thứ tư nữa thì bần đạo không thể tha thứ được đâu nhé.

Dương-Qua muốn dùng đòn tâm lý, lấy lời lẽ đạo mạo nói chuyện để cho nàng nể

nang mà rút lui đi chăng. Không ngờ Lý-mạc-Thu tự tin nơi tài nghệ mình và cho

rằng chỉ một vài cái phất trần cũng đủ hạn hắn rồi, đâu cần phải ra tay đến lần thứ ba

nữa.

Nghĩ vậy nên nàng nói lớn:

- Hay lắm, nếu tiền bối đã muốn như vậy, hậu bối xin ra tay trình bày tài mọn.

Dương-Qua nói:

- ừ, cứ tự nhiên, không sao.

Thế là một luồng sáng bạc vung lên, không biết bao nhiêu là phất trần loang loáng

đập vào mình chàng như bươm bướm.

Lý-mạc-Thu đã dùng ngay thuật "Võ khổng bất nhập", một tuyệt ký lợi hại nhất trong

lối đánh phất trần. Cứ một ngón đánh ra, liền thành muôn ngàn ngón khác, bao phủ

khắp người địch thủ, không biết đâu mà chống đỡ nữa. Ngoài ra, nàng còn nhắm điểm

luôn cả ba mươi sáu yếu huyệt của Dương-Qua.

Thì ra trong lúc đứng ngoài xem chàng đánh nhau với hai tên ăn mày tám túi,

Lý-mạc-Thu đã ngán cái bản lãnh cao cường của Dương-Qua rồi, không dám coi

thường chàng nữa. Khi ra tay nàng đã dùng thế võ hiểm ác nhất để hạ sát ngay cho

rồi.

Dương-Qua tiền khai khinh công tránh né nhưng lanh lẹ mấy cũng không kịp nữa.

Nhảy bên trái thì bị trúng bên phải, bước tới trước bị điểm sau lưng, trong nháy mắt

đã bị điểm trúng nhiều yếu huyệt, thân thể tê rần, tay chân rúng động.

Chàng hoảng kinh, vội vàng lộn đầu xuống đất đưa chân lên trời theo phương pháp

"trồng chuối" của dưỡng phụ Âu-dương-Phong đã truyền thụ. Hai tay chống đi lanh

như tên bắn.

Nhờ lối này nên máu chảy lộn ngược, các đường huyệt đạo tự động khai phúng, thân

thể trở lại bình thường như trước.

Lúc cảm thấy trong người hết tê tái vận động được tự nhiên. Dương-Qua đứng dậy

như cũ.

Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua đã bị điểm huyệt nhưng không hề bị ảnh hưởng tý nào

thì ngạc nhiên quá. Nhưng nàng nghĩ bụng:

- Mày đã giỏi, ta sẽ điểm luôn cả bảy mươi hai yếu huyệt khắp người xem mày có

khỏi chết được không?

Thừa lúc nàng đang do dự, Dương-Qua bất ngờ đa tay điểm "ủy trung" của nàng.

Lý-mạc-Thu vội vàng né tránh và nghĩ bụng:

- Theo thuật điểm huyệt "tam vô tam bất thủ" của ta vừa dùng thì địch thủ nhất định

phải bị mù mắt, nghẹn họng và bủn rủn tứ chi, chẳng hiểu vì sao thằng oắt con này

vẫn không bị ảnh hưởng gì hết cũng lạ.

Thật ra Lý-mạc-Thu ngạc nhiên là đúng. Vì trong đời nàng đã trải qua biết bao nhiêu

lần tranh tài cùng các võ lâm cao thủ, sát hại biết bao nhiêu mạng, bách chiến bách

thắng, làm chấn động quần hùng, không ngờ hôm nay thế võ hiểm ác nhất lại vô hiệu

lực đối với một đạo sĩ tuổi chưa quá hai mươi.

Đang lúc Lý-mạc-Thu đang hoang mang ngơ ngẩn như vậy, Dương-Qua đã xuất thần

vận dụng nội công há miệng rùng mình một cái lanh như chớp đứng thẳng người lên

lao lại đớp ngay cây phất trần vào miệng, giật phắt khỏi tay nàng.

Thật là một chuyện bất ngờ hi hữu.

Nguyên thuật này vốn của Âu-dương-Phong truyền lại. Ngày xưa trong dịp luyện

kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, Âu-dương-Phong đã áp dụng thuật này cắn đứt ngón tay của

Hoàng-dược-Sư.

Hôm nay Dương-Qua cũng nhờ ngón ấy cướp đưược cây phất trần của

Xích-Luyện-Tiên-Tử khiến cho bao nhiêu thành tích chiến thắng trước đây của nàng

đã tiêu tan theo mây khói.

Thật là một điều ngoài sức tưởng tượng của mọi người! Hồng-lăng-Ba thất kinh la lên

một tiếng, lúng túng chưa biết nên xử sự ra sao thì Lý-mạc-Thu vẫn giữ bình tĩnh tung

Xích-luyện thần chưởng ra để cướp lại cây phất trần.

Trong lúc sắp tung thần chưởng Lý-mạc-Thu bỗng "ồ" lên một tiếng, rồi la lớn:

- Té ra là mi! Còn sư phụ của mi đâu rồi?

Trong lúc đánh nhau, mồ hôi ra nhiều làm trôi hết mực và cát bụi trên mặt của

Dương-Qua, nên Lý-mạc-Thu nhìn thấy nhận diện được ngay.

Đồng thời Hồng-lăng-Ba cũng nhận ra Lục-vô-Song và la lớn:

- Sư muội đây rồi, sư phụ ơi!

Dương-Qua lanh như chớp, dùng khinh công phóc lên lừa của Lục-vô-Song ngồi ngay

phía sau lưng nàng rồi vung tay phóng mấy mũi ngọc phong châm vào lừa của

Hồng-lăng-Ba.

Lý-mạc-Thu giận lắm xông đến tấn công ngay.

Dương-Qua nhẹ nhàng nhảy xuống đất, dùng cây phất trần phe phẩy về phía sau gọi

lớn:

- Cô hãy chạy theo tôi mau.

Miệng nói, tay giắt lừa chạy tới.

Khi lừa chạy có trớn rồi, Dương-Qua lại tung mình nhảy lên ngồi lại chỗ cũ.

Lục-vô-Song giật cương, lừa tung bốn vó phi đi như bay, Dương-Qua cứ dùng phất

trần hơi về phía sau, nửa để tự vệ, nửa để trêu tức.

Thuật khinh công của Lý-mạc-Thu đã đến mức cao siêu, dẫu xa cách một vài dặm

đường cũng có thể đuổi kịp trong chốc lát. Hôm nay vì sự việc xảy ra quá bất ngờ

khiến cho nàng rủ chí, hết tin tưởng nên chẳng muốn làm gì hơn là đuổi theo cầm

chừng cốt để thu hồi được cây phất trần lại mà thôi.

Con lừa của Hồng-lăng-Ba vừa bị trúng ngọc phong châm đau quá lồng lên đạp đá

lung tung rồi đến ngay trước mặt Lý-mạc-Thu cất bốn vó lên trời mồm rống lên rất

quái gở.

Lý-mạc-Thu phát cáu trợn mắt nạt Hồng-lăng-Ba:

- Bây giờ mi lại làm cái trò gì lạ vậy?

Hồng-lăng-Ba tha:

- Chẳng hiểu vì sao hắn trở chứng lồng lên la hí như thế này, đệ tử đã ghìm cương hết

sức mà không được.

Nói xong nàng vội nắm cả bờm nó ghì lại. Con lừa nhảy tung lên mấy cái rồi ngã

đùng trên mặt đất ném Hồng-lăng-Ba nhào theo.

Bị té bất ngờ, Hồng-lăng-Ba gọi lớn:

- Su phụ ơi, xin chờ con với.

Lý-mạc-Thu phải dừng lại chờ. Nhờ phút rắc rối này. Dương-Qua cùng Lục-vô-Song

đã chạy thoát được một đoạn khá xa.

Cứ chạy mãi một hồi lâu nữa hai người quay đầu nhìn lại chẳng thấy thầy trò

Lý-mạc-Thu đuổi theo cũng hơi yên bụng.

Lục-vô-Song hỏi:

- Này cậu, ta lo quá, không biết có tẩu thoát được lần này nữa không?

Dương-Qua làm thinh nhảy xuống lừa, áp tai trên mặt đất nghe ngóng rồi đáp:

- Không nghe thấy vó ngựa đuổi theo nữa, bây giờ mình có thể đi chậm hơn, khỏi lo

lắm.

Hai người cứ buông cơng cho lừa đi nước kiệu đều đều.

Lúc bấy giờ Lục-vô-Song mới hỏi:

- Ngốc giỏi quá! Làm sao mà cướp được cả cây phất trần của sư phụ mình như vậy?

Dương-Qua cười hì hì đáp:

- Tôi cứ làm cho nàng sướng mê lên rồi bất ngờ cướp lấy chứ có gì khó đâu!

Lục-vô-Song ngạc nhiên hỏi nữa:

- ô, sao lại có thuật làm cho người ta sướng mê lên được. Hay quá nhỉ. Vì cậu đẹp trai

chăng?

Nàng hỏi xong thấy nóng bừng cả mặt, đôi má đỏ hây hây.

Dương-Qua khoác tay đáp:

- Bí mật không nói. Thật ra tôi chỉ biết cô nàng cứ ngó sững mình hoài. ấy chết, nói

nữa e có kẻ nổi ghen lên bây giờ.

Lục-vô-Song đấm vào đùi chàng nói:

- Cóc khô! Ai thèm! Bộ ngon lắm sao?

Cho lừa đi chầm chậm một chập để dưỡng sức, hai người sợ Lý-mạc-Thu đuổi theo

nữa nên cho phi nhanh trở lại.

Chẳng bao lâu núi rừng đã chìm đắm trong màn sơng chiếu trắng đục, ánh hồng chỉ

còn le lói trên ngọn cây, chim rừng kêu nhau về tổ, bóng hoàng hôn sắp trùm lên vạn

vật.

Dương-Qua nói:

- Bây giờ trời đã tối, miệng đã khô, bao tử trống trơn, cửa nhà không có, tính liệu sao

đây?

Lục-vô-Song đáp:

- Cậu muốn gì cứ nói ra chứ hỏi làm gì cho lắm chuyện.

Dương-Qua nói:

- Nếu không bận tâm về chú lừa này, bọn mình tìm bụi nào kín đáo ngủ đỡ một đêm

cũng xong.

Lục-vô-Song đáp:

- Chỉ có bọn mọi man rợ mới đi ngủ núi nằm rừng mà thôi.

Dương-Qua làm thinh. Hai người cứ cho lừa đi bước một trong đêm tối. Chẳng bao

lâu tới một thôn trang nhỏ, ngay ở đầu thôn có buộc một đoàn ngựa rất nhiều, có hàng

trăm con. Ngựa này của quân Mông Cổ vừa đi ngang vùng này ban sáng và hình như

tạm nghỉ chân lại một vài hôm.

Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:

- Cô tạm ở đây coi chừng lừa, tôi vào xóm xem xét tình hình thế nào rồi ra ngay nhé.

Nói rồi xăm xúi đi thẳng vào làng.

Nơi phía đầu làng có một tòa nhà rất lớn, tuy đóng cửa, bên trong đèn đuốc thắp sáng,

chiếu ra ngoài qua các khe cửa.

Dương-Qua rón rén lại gần, nhón chân ghé mắt nhìn qua kẽ hở của cánh cửa sổ, thấy

bên trong có một viên quan Mông Cổ ngồi xây lưng ra ngoài, chàng nghĩ bụng:

- Ta bắt cóc người này lợi hơn là đoạt ngựa.

Vừa khi ấy viên quan nọ đứng dậy đi đi lại lại trong phòng hình như đang suy nghĩ

điều gì quan trọng.

Nhìn nét mặt thì y hãy còn trẻ lắm, tuổi độ ba mươi thôi, nhưng xem dáng điệu và lối

ăn mặc, thì có vẻ một vị quan lớn lắm.

Chờ cho người ấy ngồi lại chỗ cũ xoay lưng về phía mình, Dương-Qua chuyển lực vào

hai cánh tay bẻ cong mấy thanh sắt nơi cửa sổ rồi phóng người vào, đưa tay chụp lấy

lưng hắn.

Vị quan này tuy nhỏ tuổi nhưng cũng có bản lãnh. Vừa nghe tiếng gió phía sau hắn đã

cúi sạp mình tới truớc né tránh, khiến cho Dương-Qua chụp hụt vào không khí, hắn

bỗng xoay mình lại, xòe hai bàn tay như cặp vuốt chim ưng, chộp lấy Dương-Qua.

Thấy y xuất thế "thần ưng vỗ kiếm" một thế võ lợi hại, Dương-Qua vội vàng nghiêng

qua một bên và trong bụng khen thầm chẳng ngờ một viên văn quan mà cũng khá thạo

về võ nghệ.

Viên quan ấy bước tới chụp luôn mấy cái nữa nhưng không kết quả gì.

Nguyên lúc còn thơ ấu, viên quan này có gặp một dị nhân dạy cho thế võ "thần ưng

vỗ kiếm" nên lấy làm tự hào, dùng đó làm món nghề hộ thân. Chẳng ngờ hôm nay

đưa ra ngón một mà chụp hoài không trúng được đối phuơng nên y lộ vẽ lúng túng,

đứng yên một chỗ đưa mắt nhìn người lạ mặt lộ vẻ sợ hãi.

Dương-Qua thấy y cứ loay hoay và dùng mãi chỉ có một thế võ đó nên phi thân lên

trên cao, đưa tay nắm trúng bả vai viên quan, trừng mắt bảo:

- Hãy im lặng. Muốn sống quỳ xuống ngay.

Viên quan cảm thấy trên vai nặng chĩu như có một tảng đá nặng ngàn cân, buộc lòng

phải quỳ xuống theo lệnh của đối phương nhưng lòng căm tức muốn ói mật.

Dương-Qua xem sắc diện y tái mét lộ vẻ căm phẫn cực độ, e rằng có thể vì quá phẫn

uất lên mà chết mất, nên đua tay điểm nhẹ một huyệt cho máu huyết lưu thông.

Viên quan cảm thấy trong người đã thư thái nhẹ nhàng, dễ chịu hơn trước nên đứng

thẳng dậy, mắt nhìn trừng trừng vào Dương-Qua, nghiến nàng hỏi:

- Ngươi là ai, dám vào nơi đây hành hung như vậy?

Thấy người này nói giọng Hán rất trôi chảy, không ngượng nghịu líu lo như phần

đông người Mông-Cổ khác nên cười khà khà hỏi lại:

- Còn chú mi tên chi, hiện đang giữ chức vụ gì, từ đâu lại đây?

Người ấy nổi nóng xung tới thoi nhầu vào ngực Dương-Qua. Chàng chỉ sẽ đưa tay gạt

qua một bên rồi ôn tồn nói nhỏ:

- Chú ni đã thọ thương nơi vai rồi, phải liệu lấy, đừng làm phí sức khỏe lắm mà chết

không kịp ngáp.

Người ấy trợn mắt đáp:

- Mi đừng nói nhảm, ta mạnh khỏe như thường, chẳng bị thương tích nào cả.

Dương-Qua nói thêm:

- Mi chưa cảm thấy đó thôi. Nhưng bây giờ vai đã bắt đầu ê ẩm rồi đó.

Quả nhiên viên quan ấy thấy hai đầu vai đã tăng tăng như bị kiến cắn, biết không phải

chuyện nói đùa nên lật đật trật áo ra xem thử nơi mỗi vai có một vết đỏ ửng như bị

kim châm.

Y đoán chắc người này đã dùng ám khí chém nơi vai mình khi nãy, nên bốc giận

phừng phừng nhưng không dám nặng lời, chỉ hỏi lại:

- Ngươi dùng loại ám khí gì đâm ta như vậy? Có độc lắm không?

Dương-Qua mỉm cười đáp:

- Té ra chú mi chẳng hiểu tý gì về ám khí cả sao? Như thế mà cũng xưng võ nghệ với

ai? Chú mi há chẳng nghe tục ngữ trong võ lâm thường nhắc: "ám khí nặng không

độc, ám khí nhỏ mới có nhiều chất độc", nguy lắm chứ.

Nhìn thấy nét mặt của viên quan trẻ tuổi từ hồng hào sang tái xanh, môi mép lợt lạt,

Dương-Qua biết y sợ hãi đến cực độ nên dùng cây bút lấy trên bàn khẽ chỉ vào hai vết

đỏ mà giải thích thêm:

- Hai đấu này là do kim châm của ta đã điểm vào khi nãy. Cứ một ngày chất độc lan

ra bám đen thêm một tấc. Cứ thế mãi, đúng sáu hôm, chất độc sẽ thấm vào tim, thế là

hết sống.

Viên quan thất kinh hồn vía, muốn lạy dài nhờ ơn cứu mạng nhưng vốn bản chất quan

liêu còn quá nặng không chịu nhún mình năn nỉ, đưa tay chỉ mặt chàng nói rằng:

- Nếu ta bỏ mạng thì quyết không để mi sống sót. Thà cả hai cùng thác một lần, phen

này ta quyết thí mạng cùng mi.

Nói rồi xông đến toan hành hung.

Vừa lúc ấy một giọng quát lanh lảnh từ bên ngoài vọng vào:

- Thằng Mông-Cổ khốn nạn Gia-luật-Tấn kia, quan gia chi mi mà múa mỏ. Biết điều

mau mau ra đây nộp mạng cho rồi.

Viên quan ấy vừa nghe gọi tên mình vừa quay đầu ngó ra bỗng đâu có từng loạt ám

khí từ ngoài cửa sổ bắn vào ào ào như mưa tuôn gió thổi.

Trước một cơn mưa ám khí ào ạt bay mau như chớp nhoáng viên quan này dẫu có tài

giỏi bao nhiêu cũng khó bê tránh khỏi.

Tức thì Dương-Qua vung tay áp dụng thuật "mưa hoa khắp trời" một tuyệt kỹ trong

"Ngọc nữ tâm kinh" đánh bạt bao nhiêu ám khi rơi xuống đất leng keng như một đám

đinh, cứu thoát được mạng hắn.

Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người nói:

- Khá lắm, các hạ tài nghệ quá đáng phục, vậy xin hẹn gặp gỡ một ngày gần đây. Bây

giờ xin tạm biệt.

Kế đó có tiếng lanh lảnh của một nữ lang bảo nhỏ:

- Thôi chúng ta đi cho rồi.

Dương-Qua cười lớn:

- Kẻ nào có giỏi thì vào đây, xuất đầu lộ diện, trình bày tên họ xem nào. ẩn nấp như

vậy đâu phải là hào hiệp.

Chẳng có tiếng người đáp lại, kế đó trên mái ngói nghe rào rào, hình như có ba người

từ cửa sổ phi thân lên nóc nhà chạy đi nơi khác.

Dương-Qua lắng tai nghe tiếng chân bước trên mái ngói có vẻ nặng nề, nên nghĩ

bụng:

- Đây là những hạng tầm thường võ công còn thấp kém, chẳng thèm để ý làm chi cho

bận lòng.

Cũng nên nói thêm về thuật "mưa hoa khắp trời". Đó là một phương pháp tuyệt diệu

dùng ám khí. Người giỏi thuật này có thể đồng thời tung ra thật nhiều ám khí để đánh

rơi những ám khí của đối phương. Đây chỉ là một ngón bí truyền trong "Ngọc nữ tâm

kinh" mà Dương-Qua đã học được trên võ lâm chưa một kẻ nào biết đến.

Ngoài ra, Dương-Qua đã luyện đến mức tinh diệu hơn là một tay phóng ra, một tay có

thể thu hồi ám khí trở lại được.

Mấy lúc nay tuy đã tập luyện tinh thục nhưng Dương-Qua chưa bao giờ đem ra thực

hành. Hôm nay vì thấy đối phương ném vào quá nhiều ám khí nên chàng phải buộc

lòng thí nghiệm lần đầu tiên. Không ngờ kết quả đạt được đã ngoài sức tưởng tượng.

Tuy thích chí về sự thành công của thuật này nhưng Dương-Qua sực nghĩ lại và trong

lòng rất áy náy. Chàng nghĩ.

- Quan quân Mông Cổ đứa nào cũng là phường hại dân cướp nớc. Hôm nay có người

muốn giết nó thì kẻ này nếu không người đông đạo, ít ra cũng là hạng yêu nòi thương

nước. Ta vì hăng hái nhất thời đã đánh lại người đồng ý chí để cứu bọn Mông Cổ, quả

thật là bậy.

Viên quan này đâu biết ám khí của ai, thấy Dương-Qua vung tay thì cứ đinh ninh rằng

chàng cố hạ mình nên tức giận cúi xuống lượm những mũi phi tiêu, tên sắt, đạn, rơi

rớt khắp nền nhà, nhắm người Dương-Qua liệng đại.

Dương-Qua khinh thường không tránh né, ngồi yên đa tay bắt hết không sót một mũi

nào. Khi Gia-luật-Tấn dừng tay, chàng hét lớn:

- Hãy coi chừng kẻo chết đấy.

Tức thì hàng mấy chục thứ ám khí đủ loại như phi đao, thiết tiễn, thiết đạn, kim tiêu,

loang loáng như sao sa, bay vun vút về phía Gia-luật-Tấn, chỗ nào cũng có.

Gia-luật-Tấn quá hoảng hốt lật đật co giò nhảy trái ra sau, va lưng vào vách một tiếng

ầm, đứng khựng lại đó không cử động nổi. Y len lét đưa mắt nhìn lại thấy bao nhiêu

ám khí đếm ghìm chặt vào vách, sát bên da mình, nên kinh hoàng vội nghĩ:

- Trời ơi, người này tài quá! Nếu va cố tình giết ta thì đâu có khó gì. Chỉ xem vị trí

các ám khí cũng đủ thấy mạng mình tùy thuộc nơi va rồi.

Nghĩ xong, y để nguyên mũ áo, sụp xuống sáp đất lạy dài, miệng nói:

- Người thật là bậc anh hùng quán thế. Tôi xin hoàn toàn bái phục.

Dương-Qua tuy bản lãnh cao cường, nhng từ bé đến lớn trải qua nhiều cảnh đoạn

trờng, chỉ bị hà hiếp bức sách hơn là được ca ngợi tán tụng. Hôm nay bỗng nhiên

được một quan viên cao cấp lay mình sát đất và ngỏ lời khen tặng thì thấy phơi phới

trong lòng, cất tiếng cười khoan khoái lắm.

Gia-luật-Tấn lễ phép hỏi:

- Xin đại nhân cho biết quý tánh đạo danh để nhớ ơn muôn thuở.

Dương-Qua đáp:

- Tôi họ Dương tên Qua. Ông có phải tên thật là Gia-luật-Tấn hay không? Hiện nay

ông đang giữ chức tước gì của triều đình Mông-Cổ.

Nguyên Gia-luật-Tấn là con trai của Gia-luật-Sở-Tài, đương kim Thừa tướng của vua

Mông Cổ.Gia-luật-Sở-Tài đã có công giúp vua Thái-Tồ nhà Nguyên là

Thành-Cát-Tư-Hãn, và sau giúp vua Nguyên-Thái-Tôn là Oa-Khoát-Thai, thứ nam của

Thành Cát-T-Hãn, chiến công hiển hách, vang danh thiên hạ suốt hai trào.

Gia-Luật-Tấn nhờ oai danh của phụ thân cho nên mặc dầu còn trẻ tuổi đã được làm

chức Biện-Lương Kinh-Lược-Sử. Hôm nay Gia-Luật-Tấn lên đường đi Biện-Lương,

thuộc xứ Nam-Hà để phó nhiệm.

Y lần lượt kể hết gốc tích của mình cho Dương-Qua nghe.

Dương-Qua xuất thân hàn vi, từ nhỏ đến lớn trong núi học võ, đâu có am hiểu ngoài

đời, cho nên chẳng hiểu chức Biện Lương Kinh-Lược-Sứ là chức chi, lớn hay nhỏ,

nhưng vẫn làm bộ thạo đời, gật gù lia lịa, miệng khen:

- Hay lắm, tốt lắm!

Gia-Luật-Tấn lễ phép hỏi:

- Thưa Dương anh-hùng, chẳng hay kẻ hạ quan này có làm điều chi xúc phạm đến

Duơng anh-hùng, xin vui lòng chỉ dạy cho.

Duơng-Qua cười dài đáp:

- Chẳng có gì xúc phạm hết.

Nói dứt lời đã lao mình qua khung cửa sổ đi mất.

Gia-Luật-Tấn vội vàng chạy theo kêu với thật lớn:

- Dương anh-hùng sao mà gấp vậy?

Nhưng tiếng gọi vang đi không lời đáp lại. Hình bóng Dương-Qua đã biến mất trong

bóng tối của màn đêm.

Gia-Luật-Tấn vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, băn khoăn suy nghĩ:

- Người này đi đâu không chừng, gốc gác chẳng rõ, không biết vì sao đến đây? Bây

giờ bỏ đi rồi, làm sao chữa cho hết chất độc của kim châm đang thấm vào cơ thể của

mình đây. Thật là nguy hiểm quá!

Đang vẩn vơ lo nghĩ bỗng có hai bóng hiện ra trên cửa sổ. Dương-Qua đã trở lại, có

dắt thêm một người nữa.

Gia-Luật-Tấn mừng như người bắt được của, hớn hở nói:

- May quá ngài đã trở lại. Tôi đang nóng ruột chờ ngài đây.

Dương-Qua chỉ Lục-vô-Song giới thiệu:

- Đây là người chị dâu của tôi. Ông xem có hạp nhãn không?

Lục-vô-Song xấu hổ nạt lớn:

- Sao ăn nói bậy bạ vậy?

Vừa nói nàng vừa đưa tay tát mạnh vào miệng Dương-Qua.

Chàng không tránh né, đứng yên hứng nhận cái tát nghe bốp một tiếng, in dấu bàn tay

rõ ràng lên mặt.

Gia-luật-Tấn chưa biết giữa hai người ai hơn ai kém, nhưng có lẽ nàng này có bản

lãnh hơn nên mới hành động lỗ mãng như vậy. Y cứ đứng nhìn hai người không dám

nói năng một lời nào.

26. Mối thù oan gia giữa hai hoï

Dương-Qua thản nhiên như không, đưa tay vuốt lại nếp áo rồi cười cười bảo

Gia-luật-Tấn!

- Ông bị thuốc độc của kim châm, chỉ còn ba giờ nữa là mất mạng. Nếu ông thuận

tình nghe tôi một việc tôi sẽ cứu cho.

Gia-luật-Tấn chấp tay nói:

- Bình sinh hạ quan vốn ngưỡng mộ những bậc anh hùng hiệp sĩ nhu quý Ngài, hôm

nay tình cờ được gặp thật cũng thỏa lòng mong ước. Dương anh hùng thương tình cứu

cho thì thật là may phước. Nếu không, dẫu phải bỏ mạng hạ quan cũng vui lòng vì đã

hân hạnh được chết vì bàn tay của một hảo hán. Chết như thế là một danh dự chứ đâu

phải điều nhục nhã mà buồn.

Bao nhiêu lời tâng bốc, khéo nói của Gia-luật-Tấn khiến cho Dương-Qua hứng chí

nhu bay tận mây xanh nên chàng lộ vẻ hân hoan trên nét mặt.

Dương-Qua từ tấm bé có khi nào tiếp xúc được với giới quan trường nên đâu có hiểu

thấu những mánh lới tán dương quỵ lụy của họ đối với các bậc bề trên, mỗi khi họ cầu

van nài một ân huệ gì đặc biệt. Vì vậy nên những lời tán dương của Gia-luật-Tấn,

Dương-Qua hoàn toàn tin là lời lẽ chân thật. Huống chi hắn ăn nói đã nhỏ nhẹ, điệu

bộ lại khúm núm nên chàng vừa ý hết sức.

Nguyên người Mông-Cổ bản chất mộc mạc thô lỗ nghĩ đâu nói đấy. Nhưng

Gia-luật-Tấn nhờ sinh trưởng ở Trung nguyên lại thuộc giòng danh gia quý tộc cho

nên sự nói năng khôn khéo không thể chê được.

Dương-Qua vỗ vai Gia-luật-Tấn nói:

- Thôi, ông khỏi cần nói nhiều, để tôi cứu chữa cho.

Nói xong chàng thò tay vào bọc lấy ra một viên đá "nam châm" hút sắt đặt lên vết

thương trên vai Gia-luật-Tấn. Tức thì hai cây "Ngọc phong châm" theo sức hút của

viên đá vọt ra ngoài. Duơng-Qua lấy thuốc xoa vào vết thương bớt ê ẩm ngay.

Lục-vô-Song chưa bao giờ được thấy "Ngọc phong kim châm" nay thấy hai mũi kim

tý hon, mỏng manh như hai sợi lông, thả vào nước nổi lềnh bềnh thì nghĩ bụng:

- ám khí gì mà lạ vậy. Thứ này lấy ra gió thổi bay mất ngay, làm sao mà phóng đi

được!

Nàng cười mãi, bảo Dương-Qua:

- Mang danh nam tử phải hành động thế nào cho quan minh chính đại chứ lẽ nào đi

chế ám khí hại lén người ta thì đâu phải con người khí phách!

Dương-Qua nghe nói chỉ cười lạt, chẳng trả lời, quay sang hỏi Gia-luật-Tấn:

- Chị em chúng tôi muốn được đại nhân kết nạp làm gia nhân sai vặt trong dinh,

chẳng hay có được không?

Gia-luật-Tấn thất sắc vội đáp:

- Dương anh hùng thích vui nói đùa như vậy, chứ hạ quan đâu dám nhận. Bây giờ đại

nhân muốn cần dùng việc gì cứ thật tình nói thẳng ra, hạ quan sẽ xin hết sức làm vừa

lòng đại nhân.

Dơng-Qua nói:

- Tôi muốn thật đấy, không nói đùa đâu. Chúng tôi muốn được làm kẻ hầu cận cho

đại quan, chứ không giả ngộ như đại quan đã lầm tưởng.

Gia-luật-Tấn thấy chàng quả quyết như vậy, nghĩ thầm:

- Có lẽ hai người muốn được ta tấn cử để có quan to chức trọng, nhưng không tiện nói

thật, tìm cách nói khéo ra như vậy, mình là kẻ thức thời, tất nhiên phải hiểu lấy chứ.

Nghĩ rồi y chậm rãi nói:

- Nếu nhị vị đã quyết lòng, hạ quan đâu dám cãi ý. Cứ như tài năng của nhị vị, nếu

tiến cử đến Hoàng-Thượng, chắc chắn sẽ được trọng dụng ngay.

Dương-Qua biết y đã hiểu lầm mình nên cười rồi đáp:

- Ông đã hiểu lầm chúng tôi rồi. Hai đứa tôi đâu có ý nghĩ làm quan hay được chức

tước. Sở dĩ vì bị kẻ thù đuổi gấp, mà chống cự không nổi, buộc lòng phải xin ông

nhận tạm, cho giả làm gia nhân để che mắt chúng mà thôi. Ngoài ra tuyệt nhiên

không có một hậu ý gì khác nữa.

Gia-luật-Tấn ngỡ ngàng quá, thở dài một cái, gượng nói:

- Cứ như bản lãnh siêu phàm của nhị vị thì kẻ thù nào dám bức sách nổi, hoặc giả nếu

chúng ỷ thế đông người, hạ quan sẽ cho quân lính tiếp tay cùng nhị vị để đối phó,

được không?

Dương-Qua đáp:

- Đối với người thù của chúng tôi, dầu bao nhiêu quân mà cũng chẳng làm chi hắn

nổi. Tốt hơn là đại nhân cứ cấp cho hai bộ đồ thị vệ là xong chuyện.

Nghe câu nói tuy đơn giản nhng có vẻ nghiêm trọng và quả quyết nên Gia-luật-Tấn

phải luôn miệng vâng dạ rồi truyền cho đi lấy hai bộ đồ "thị-vệ" mang lại ngay.

Dương-Qua tiếp nhận, chia cho Lục-vô-Song một bộ rồi cùng qua phòng kế bên thay

đổi.

Lục-vô-Song thay đồ xong đứng trước gương ngắm nghía thấy mình đã hiển nhiên

biến thành một chú thị vệ Mông-Cổ rất bảnh trai!

Bắt đầu đêm đó cả hai ở luôn trong tư dinh của Gia-luật-Tấn và chẳng có việc gì lạ

xảy ra.

Rạng ngày sau, đoàn quân Mông Cổ lại lên đường. Dương-Qua và Lục-vô-Song mỗi

người ngồi trong một chiếc kiệu có bốn người khiêng, còn Gia-luật-Tấn cỡi ngựa đi

theo sau.

Đoàn quân đi mãi đến gần đứng bóng, thình lình có tiếng nhạc Loan-Linh reo vang

lảnh lót, nhưng một chặp sau tắt hẳn không còn nghe nữa.

Lục-vô-Song được nằm trong kiệu êm, được kẻ hầu người hạ bốn phía lấy làm thích

chí nghĩ thầm:

- Bây giờ ta cần gì phải đi nữa cho vất vả, cứ nằm lỳ nơi đây cho chúng khiêng đi, khi

nào về tới Giang-Nam sẽ hay.

Đi mãi hai ngày sau, không còn nghe tiếng nhạc Loan-linh nữa mà bọn hành khất

cũng không ai hay biết để đón đường phá rối. Vì vậy nên Lục-vô-Song cũng thấy

vững bụng bớt lo.

Đến ngày thứ ba, đoàn quân đến trại Long-câu, một vị trí quan trọng, sầm uất phồn

thịnh, người ở đông đúc và cũng là địa điểm trọng yếu trên trục giao thông giữa

Tân-Hoài và Biện-Lương.

Gia-luật-Tấn ra lệnh cho quân lính dừng lại nghỉ chân và ăn uống.

Chiều đó, sau khi cơm nước xong xui, Gia-luật-Tấn vào phòng gặp Dương-Qua nói

chuyện và ngỏ ý muốn được chàng chỉ vẽ cho một vài ngón võ tùy thân.

Nhờ y khéo tán tỉnh nên Dương-Qua vui vẻ nhận lời.

Dương-Qua chỉ vẽ cho y một vài thế võ thô sơ, chàng giảng lý thuyết trước rồi biểu

diễn từng lối đánh đỡ thật chu đáo.

Gọi là vài thế thô sơ, nhưng đối với Gia-luật-Tấn thì toàn là những thế tuyệt diệu chưa

hề biết nên rất thích thú và chăm chú đem hết tâm trí để học.

Đang say mê học tập, thình lình thị vệ vào bẩm:

- Kính bẩm đại nhân, có nguời mang thư của Cụ Cố từ Kinh đô đem về.

Gia-luật-Tấn mừng quá hỏi:

- ồ, hay quá, mi dặn hắn chờ một tý ta sẽ ra ngay bây giờ.

Nói rồi, y đứng dậy xin lỗi tạm cáo biệt Dương-Qua để ra ngoài đón người đem thư,

nhưng bỗng y đổi ý nghĩ thầm:

- Hay là ta cứ ở đây tiếp tục học tập và bảo hắn mang thư thẳng lại đây cũng được.

Nếu ta bỏ đi e Dương anh hùng buồn ý, cho là không thiết tha với việc học tập rồi

chẳng truyền dạy cho nữa.

Nghĩ xong y bảo người thị vệ:

- Nhà ngươi bảo người mang thư đem ngay lại đây cho ta xem.

Ngời thị vệ biến sắc, ấp úng một chập và thưa:

- Bẩm đại nhân... bẩm... bẩm...

Gia-Luật-Tấn gắt:

- Bẩm, bẩm gì mà lôi thôi mãi thế, làm như có điều gì quan trọng lắm. Cứ bảo hắn

đem lại đây ngay, đừng bẩm dai nữa.

Tên thị vệ lấy lại bình tĩnh thưa:

- Bẩm ngài, chính Cụ Cố đã thân hành đến thăm, chứ không phải gửi thư.

Gia-Luật-Tấn không tin, đứng yên suy nghĩ:

- Vô lý, có chuyện gì đến nỗi phụ thân ta phải đến tận nơi đây?

Ngay lúc đó, bức màn cửa vén lên một cụ già tóc râu như tuyết, ung dung bước vào,

vừa cười vừa nói:

- Con, chắc con không ngờ rằng cha đến thăm con tại đây phải không?

Gia-Luật-Tấn vừa trông thấy mặt cha, vừa mừng vừa sợ, vội vàng sụp lạy thưa rằng:

- Kính lạy phụ thân, thật con không ngờ phụ thân đến để ra đón mừng. Xin phụ thân

tha tội bất hiếu.

Ông cụ vẫn tươi cười đáp:

- Cha cũng muốn cùng đi với con cho vui.

Ông lão chính là Gia-luật-Sở-Tại, cha của Gia-Luật-Tấn. Đại-Thừa-Tớng của dương

trào Mông-Cổ. Theo quan chế của triều Nguyên thì gọi Thừa Tướng là "Trung thư

lệnh".

Tuy biết ông cụ là cha của Gia-Luật-Tân, nhưng Dương-Qua chưa hiểu quyền uy tột

bực của ông như thế nào, và cũng không ngờ, trong khắp thiên hạ trên toàn cõi

Trung-hoa, ông chỉ thua sút có một mình đương kim Hoàng-Đế mà ngồi trên mấy

trăm triệu người cả Hán lẫn Mông-Cổ.

Nhìn thấy ông Cụ rất phương phi quắc thước, đầu tóc bạc phơ, râu dài uốn lóng lánh

như cớc, trán rộng, mắt sáng, da dẻ hồng hào, uy nghi đường bệ, thoạt trông thấy

cũng phải đem lòng kính nể. Quả thật là một Cụ già quý tướng.

Chàng tự nhiên có một cảm giác vừa kính vừa yêu từ trong lòng phát ra.

Ông Cụ vừa ngồi xuống ghế thì ngoài cửa có hai người nữa cùng bước vào, thì lễ cùng

Gia-Luật-Tấn và gọi bằng anh cả.

Đó là một người con trai và một người con gái. Trai độ 25 tuổi, gái vào khoảng hai

mươi, cỡ tuổi của Dương-Qua mà thôi.

Chào hỏi xong xuôi, Gia-luật-Tấn hỏi hai em:

- Hai em cùng đi với thân phụ đến đây phải không?

Thì ra người thanh niên là con thứ của Gia-luật-Sở-Tài, tên là Gia-luật-Tề và người

thanh nữ là Gia-luật-Yên, gái út của ông Cụ.

Gia-luật-Tề dáng người thanh thanh cao cao, trán rộng, cằm vuông, nhìn điệu bộ cử

chỉ thật là uy nghi dũng mãnh.

Người mới gặp chàng lần đầu không biết rõ thân thế, chỉ nhìn quan dáng điệu cũng có

thể đoán là công tử của một danh gia quý tộc.

Gia-luật-Yên thì mặt đẹp như hoa, da trắng như trứng gà bôi, mắt phượng mày tầm,

thân hình mảnh mai nhng không có vẻ quá lả lướt. Trong cái đẹp vẫn ẩn tàng một

nét uy nghi của con người cân quắc nữ lu.

Nghe anh hỏi, Gia-luật-Yên hé cặp môi đỏ mọng như san hô cười dòn dã, toan trả lời

thì Gia-luật-Tấn đã bước lại gần thân phụ hỏi nhỏ:

- Có việc gì trọng đại mà phụ thân lại bất ngờ mang cả hai em con cùng ra đây. Hay

đã có điều gì xảy ra tại Kinh-đô chăng?

Gia-luật-Sở-Tài vuốt râu đáp:

- Quả đúng như vậy. Nhưng con nên cho bọn thị vệ ra hết cả rồi cha sẽ thuật lại cho

mà nghe.

Gia-luật-Tấn ra lệnh cho các thị vệ giải tán ngay. Nhưng đối với Dương-Qua thì xem

y như bậc bề trên chẳng dám đả động tới. Tuy nhiên Dương-Qua cũng hiểu ý, mỉm

cười rồi lẳng lặng bước ra ngoài.

Gia-Luật Sở-Tài quả con người mẫn thiệp có mắt tinh đời, chỉ ngó qua đã nhận thấy

Duơng-Qua có những cử chỉ khác hẳn bao nhiêu người khác. Trong lúc bao thị vệ lễ

phép sụp lạy mình thì chàng vẫn đứng im nhìn với cặp mắt thản nhiên không chút nể

sợ, vì vậy nên ông hỏi Gia-luật-Tấn:

- Người mới vừa bước ra sau cùng là nhân vật nào vậy?

Gia-luật-Tấn tự xét không tiện đem lai lịch và sự việc của Dương-Qua ra trình bày cho

cha và hai em biết để rồi có thể hiểu lầm mình thích giao du với bọn búa đao lạc lõng

mất thể diện một phụ mẫu chi dân. Vì vậy nên y tìm cách nói lệch đi:

- Bẩm phụ thân, đó là một ông thầy tướng số. Lần này phụ thân về Giang-Nam chắc

có chuyện gì cần thiêt hay bất ngờ chăng?

Gia-Luật Sở-Tài thở dài một cái và rầu rầu đáp:

- Ta đi phen này có hai mục đích, một là đi lánh nạn cho mình hai là để tìm cách cứu

vãn để nghiệp muôn đời cho tiên đế.

Gia-luật-Tấn yên lặng ngồi nghe và thấy cả hai em cũng nín thinh với vẻ mặt đăm

chiêu buồn bã.

Nguyên từ ngày Nguyên Thái-Tổ là Thành-Cát-Tư-Hãn băng hà, con thứ là Oa Khoát

Thai lên ngôi kế vị cha được bao lâu cũng qua đời truyền lại cho con là Quí-Do.

Quí-Do cũng chết non nên Hoàng-Hậu của Quí-Do chấp chánh theo lối "thùy liêm

thính chính" nghĩa là rủ màn nghe việc trào đình.

Hoàng-Hậu có tánh ưa nịnh ghét trung, thích nghe những bọn tiểu nhân dèm siểm, đố

kỵ những văn quan võ tướng có công lớn với đương triều. Vì thế cho nên công việc

trong trào lộn xộn chia rẽ chưa lúc nào tệ nhu vậy.

Gia-luật Sở-Tài là một tay "khai quốc công thần" đã ba đời vua có công hạn mã, được

ba vua yêu mến nể vì. Thấy Hoàng hậu hay tin cậy những bọn không ra gì lại hay bày

trò dâm loạn ngay trong cung cấm nên đã nhiêu lần đem lời ngay thẳng can gián.

Vì nhiều lần bị Thừa Tướng cản ngăn và chỉ trích việc làm của mình, Hoàng hậu có ý

bất bình ra mặt, tuy nhiên vì Gia-Luật Thừa Tướng là vị đệ nhất Công Thần của tiên

đế nên chưa làm chi được, song trong bụng vẫn lăm le kiếm dịp để sát hại cho khuất

mắt.

Sở dĩ cái việc làm của Gia-luật Sở-Tài lúc nào cũng đường đường chính chính nên

mặc dầu Hoàng hậu hay bọn nịnh thần có ghét cũng không có cách nào buộc tội

được.

Gia-luật-Sở-Tài thừa rõ ý ấy nhưng ông nghĩ rằng:

- Ta đã cao niên dầu có chết đi cũng không tủi nữa. Sống ngày nào ta quyết không để

cho sự nghiệp của tiên hoàng Thành Cát Tu Hãn bị h nát vì tay một người đàn bà.

Vì vậy cho nên mỗi khi thấy có việc gì không đúng, lão thần thẳng thắn cản ngăn cho

tới kỳ cùng. Lắm khi hai bên tranh chấp gay go và khi tan chầu, cả hai có vẻ không

vui và giận lẩy.

Là người thông minh xuất chúng, liên việc như thần Thừa Tướng Gia-Luật-Sở-Tài

cũng biết rõ ràng đi đối đầu với Hoàng hậu là một điểm quá nguy hiểm và ngày nay

mạng mình cũng lung lay như ngọn đèn treo trước gió, chưa biết sẽ phụt tắt lúc nào.

Nhưng mỗi khi nghĩ đến cơ nghiệp của Tiên-Hoàng Thành-Cát-Tư Hãn và lời ủy thác

của người lúc băng hà thì ông lại quyết tâm bảo vệ cho đến cùng, tìm cách củng cố lại

công việc trào chánh.

Một ngày kia Thừa Tướng bỗng nghĩ ra một kế nên lúc vào chầu có dâng cho Hoàng

hậu một bản điều trần rằng xứ Hà-nam hiện có nhiều tham quan ô lại những lạm dân

nghèo nên xin đảm nhận trọng trách đích thân ra đó để thanh tra và tìm cách bổ cứu.

Đọc biểu chương Hoàng hậu cả mừng vì lúc nào Thừa Tướng ở tại triều không khác

nào một cái đinh trước mắt, nay người đi càng xa, càng đỡ bận trí bấy nhiêu, mong

cho người ở ngoài đó càng lâu càng tốt, và mỗi ngày đỡ phải nghe những lời ngăn can

phiền phức nhức óc.

Vì vậy nên Hoàng-hậu đặt bút chuẩn phê ngay.

Để ra ơn lấy lòng đối với một lão thần đã có công to cùng triều đình nên Hoàng-hậu

hạ chiếu cấp cho Thanh "thượng phương bảo kiếm" và ủy quyền cho Thừa tướng có

thể "chém trước tấu sau", với quyền uy tuyệt đối thay mặt cho vua quyết định mọi

việc ở phương xa.

Về đến tư dinh, Thừa-Tướng cho mời tất cả các vị công thần đã có công hạn mã cùng

hai trào Tiên-đế Thành-Cát-Tư-Hãn và Oa-Khoát-Thai dựng lên đế nghiệp, vào bàn

luận.

Nghe tâm sự của Thừa Tướng mọi người đều khen phải.

Trong đêm ấy, Gia-Luật Thừa Tướng thức khuya đọc bộ "Tư tri thông giám" đến đoạn

"Trương-Giám-Chi truất phế Võ-tắc-Thiên hoàng hậu lập vua Trung-Tôn nhà Đường

thì trong lòng nảy ra một ý tưởng muốn noi gương ấy áp dụng cho Trào chánh hiện

nay, nhưng ông suy nghĩ:

- Ta muốn noi chí tiền nhân làm sao phế bỏ mụ đàn bà này củng cố lại đế-nghiệp của

Tiên-Vương, nhưng nếu không kịp nhẹm lỡ đổ bể ra thì chắc con dâm phụ sẽ thừa dịp

gán cho mình vào tội phản loạn.

Muốn thực hiện mu này ta nên chuẩn bị khi ra đến Hà-Nam sẽ dâng biểu xui đem

binh dẹp loạn. Chắc chắn thế nào Hoàng hậu cũng sẽ chuẩn y. Lúc ấy ta sẽ thừa dịp

chấn chỉnh lực lượng. Khi nào có đầy đủ binh hùng tướng mạnh sẽ hưng binh về trào,

lập một vị minh chúa lên ngôi, truất phế Hoàng-hậu xuống.

Hiện nay trong những người trong hoàng tộc chỉ còn Mông-Kha, cháu của

Thành-Cát-Tư-Hãn vốn người thông minh đạo đức, bản chất anh minh thuần hậu

khẳng khái hơn người, đợc hầu hết các văn võ bá quan mến chuộng. Nếu lập

Mông-Kha lên ngôi Hoàng-Đế chắc chắn mọi người thảy đều hoan-nghinh.

Sau khi bọn thị vệ rút lui rồi, cha con Gia-luật-Sở-Tài mới đem câu chuyện này ra bàn

luận.

Gia-luật-Tấn bồi hồi mừng lo lẫn lộn vì y nghĩ rằng:

- Nếu việc này thành công thì quả là công đức phi thường với quốc dân, xây dựng lại

được đế nghiệp, nhưng nếu rủi ro bị thất thì nhất định phải mang trọng tội và bị tiêu

diệt toàn gia.

Trong khi bốn cha con trù tính kế hoạch trong phòng thì ở phòng kế bên, Dương-Qua

lắng tai nghe ngóng. Vốn đã biết được phép "thiên nhãn thông" "thiên nhĩ thuật" nên

Dương-Qua có thể nghe được rõ ràng mặc dầu họ nói rất nhỏ và đôi bên bị cách vách.

Kẻ nào đào luyện hai phép này đến chỗ tuyệt kỹ cao siêu sẽ có thể thấy được những

gì mà người thường không trông thấy, nghe được những gì mà thiên hạ không nghe

ra.

Lục-vô-Song ở cách buồng của Gia-luật-Tấn một căn nhà nhỏ. Những điều của bốn

người bàn luận trong phòng, Lục-vô-Song không hề hay biết, nhưng trái lại

Dương-Qua thì nghe không sót một câu nào.

Đối với Dương-Qua, chỉ có những chuyện có liên hệ đến mình mới đáng để ý, ngoài

ra bao nhiêu việc khác dầu quan trọng đến đâu cũng chả nghĩa lý gì.

Lục-vô-Song thấy Dương-Qua lặng yên ngồi xếp bằng tròn, mắt nhắm kỹ không khác

nào một nhà sư đang tham thiền nhập định gần nửa ngày không nhúc nhích thì ngạc

nhiên vỗ vai hỏi:

- Làm gì mà ngồi lặng yên như ông sư nhập định vậy ngốc?

Trong khi ấy Dương-Qua đang tập trung mọi ý chí lắng nghe câu chuyện của cha con

Gia-luật-Sở-Tài phòng bên nên không hay biết gì về câu hỏi của Lục-vô-Song.

Lục-vô-Song hỏi lại lần nữa nhưng Dương-Qua vẫn ngồi yên không đáp. Nàng nổi

giận đưa tay đập mạnh hai cái vào lưng và gắt:

- Ta hỏi mi có nghe không mà làm thinh mãi vậy hở ngốc?

Dương-Qua bị đập mạnh vào người mở choàng mắt, nhảy tung ra phía trước rồi nói

nhỏ:

- Có kẻ nào đang rình trên mái nhà gần đây.

Lục-vô-Song ngơ ngác nhìn quanh chẳng thấy gì hết, đáp khẽ:

- Đâu có, không thấy bóng dạng một người nào hết.

Dương-Qua bảo:

- Nhất định có! Nhưng hắn đang nấp trên nóc phòng thứ năm đàng kia chứ không có

ở đây.

Lục-vô-Song không tin, cười chế nhạo:

- Làm gì có ai đâu? Mi ngồi ngủ mê, chiêm bao nói sảng đấy.

Dương-Qua thấy nàng ngoan cố bèn nắm áo nàng kéo luôn ra ngoài và bảo:

- Cô chẳng tin thì ra đây mà xem. Biết đâu không phải là Sư phụ của cô đang dò xét

để tìm cô!

Nghe tiếng Sư-phụ, Lục-vô-Song giật mình lo sợ, ngoan ngoãn bước theo, ra đến mái

hiên, phủ phục phía sau tấm bao lớn đưa mắt nhìn lên trên trời.

Theo tay của Dương-Qua chỉ về phía Tây, Lục-vô-Song trông thấy quả nhiên có một

bóng đen lù lù hình như một người đang nằm nấp trên nóc nhà thứ năm.

Đêm nay thuộc hạ tuần cuối tháng không trăng sao, t bề tối đen như mực, đứng xa

không tài nào nhận được những vật trước mắt chớ đừng nói ở trong nhà mà đoán sự

việc xảy ra bên ngoài.

Lục-vô-Song càng cảm phục tài nghệ của Dương-Qua, nàng nghĩ bụng:

- Thằng Ngốc quả thật tài tình đúng mức. Tuy nhiên nhất định người này không phải

sư phụ của ta đâu. Bất cứ ngày hay đêm lúc nào sư phụ ta cũng mặc y phục trắng hay

màu vàng nhạt, chứ không bao giờ mặc đồ đen hay màu nào khác.

Nàng đang đứng lặng thinh suy nghĩ bỗng Duơng-Qua ghé miệng kề tai nói nhỏ:

- Người này không phải là Sư-phụ cô đâu, cứ yên chí nhé.

Ngay khi ấy, bóng đen vuơn mình đứng dậy nhảy xuống đất chạy thoăn thoắt lại phía

nhà của Gia-luật-Tấn, bước tới cửa, đẩy nhẹ ra tay vung một ngọn đoản đao tóe ánh

thép loang loáng sáng ngời miệng thét lớn:

- Gia-Luật-Sở-Tài, hôm nay mi đã đến ngày tận số rồi.

Quát vừa dứt câu, người ấy đã bước lọt vào trong nhà. Tiếng nói lảnh lót giống giọng

đàn bà. Thân hình nàng tầm thuớc thon thon, dáng đi đứng có vẻ lẹ làng mạnh dạn

lắm. Thấy vậy Dương-Qua có ý lo ngại và nghĩ rằng:

- Cứ theo dáng điệu nàng này thì bản lãnh cao hơn Gia-Luật-Tần một bực rất xa. Phen

này cha con hắn khó chống cự nổi.

Lúc ấy Lục-vô-Song nhắc:

- Chúng mình cũng nên lại gần xem thử ra sao chứ!

Thế là cả hai phi thân nhẹ nhàng như đôi bướm đứng ngay phía ngoài cửa sổ đưa mắt

nhìn vào gặp lúc Gia-luật-Tấn đang múa một cây gậy ngăn trước đỡ sau chống lại với

lưỡi đao của nàng ấy đang vung lên nghe vùn vụt, xé gió vo vo.

Nàng áo đen có một bản lãnh khá cao, đao pháp có vẻ tinh thục lắm. Nàng vũ lộng

thanh đao lấp lánh nhưb hoa lê, chém vun vút vào người của Gia-luật-Tấn làm cho cây

gậy bỗng sắp bị chặt gãy, càng lâu càng lúng túng.

Biết mình đã đuối sức không thể cự đơng lâu nữa, y vội gọi lớn:

- Phụ thân, xin tìm đường lánh đi cho mau.

Rồi y thét lớn:

- Quân bay đâu rồi, hãy đến tiếp tay cùng ta, mau lên!

Thấy nếu cứ để kéo dài cuộc tranh chấp, e bọn thị vệ kéo vào đông quá bất lợi, nên nữ

lang áo đen chuyển mình phóng ra một ngọn cước.

Ngọn đá tung ra mau quá, Gia-luật-Tấn né tránh không kịp bị trúng ngay giữa lưng

dội tới trước, ngã sắp xuống nền nhà.

Lập tức nàng ấy phóng tới, vung đao nhắm ngay đầu chém xuống thật mạnh.

Dương-Qua thấy tình hình quá nguy ngập miệng la "nguy quá"! rút ngay một mũi

"Ngọc Phong Châm" định tung ra để giải cứu nhưng bỗng có bóng một người con gái

nhảy ra quát lớn:

- Tiện tỳ, chớ vô lễ!

Người ấy chính là Gia-Luật-Yên, gái út của Gia-Luật-Sở-Tài.

Miệng nói tay trái tát ngay mặt nữ lang áo đen, tay mặt dùng thế "tay không đoạt đao"

cướp lấy thanh đoản đao đang chém xuống đầu anh mình.

Thế là hai bên dằng co, kẻ trì người kéo, trông nhu hai con vượn giành mồi. Cả hai

hành động hết sức lanh lẹ, biến thế liên tiếp khi sang tả lúc sang hữu, cây diệp đao lúc

ở tay người này khi lại lọt vào tay nàng nọ, nhưng ai cũng cố nắm lấy đằng cán,

không người nào chịu nắm đàng lưỡi.

Dương-Qua bèn nhìn Lục-vô-Song nói nhỏ để chọc tức nàng:

- Xem tài nghệ hai nàng này có vẻ cao cường hơn cô một bực.

Trong lúc ấy bọn thị vệ đã vũ lộng binh khí hè nhau xông vào định vây đánh nữ lang,

nhưng Gia-Luật-Tề cản lại nói:

- Các ngươi cứ để yên. Tam-Tiểu-Thư khỏi cần các ngươi đánh giúp.

Lục-vô-Song nghe Dương-Qua nói khích, nổi nóng đấm thùm thụp mấy cái vào lưng

chàng.

Dương-Qua cười hề hề ghẹo nữa:

- Cô cứ xem đấy không phải sao? Tôi nói không bao giờ sai. Họ xuất thủ toàn những

ngón rất tinh diệu, nhất định phải là đệ-tử của cao nhân. Cô bì sao được.

Gia-luật-Tấn đứng qua một bên nghỉ sức và cả cha con đều ngạc nhiên trố mắt ra

nhìn, cùng suy nghĩ:

- Xưa nay Gia-Luật-Yên có tập luyện võ nghệ bao giờ đâu mà hôm nay lại tài giỏi

như thế này?

Thế rồi hai người hồi hộp đứng nhìn trân trối.

Hai cô cứ tranh nhau quyết giựt cho được lưỡi đoản đao. Người nào cũng quyết túm

lấy cán cố rút khỏi tay kẻ địch. Giằng co qua lại, đẩy tới kéo lui, chạy quanh co khắp

phòng cha ai đạt được ý muốn.

Thấy cứ kéo dài mãi, Gia-luật-Tấn nóng ruột đứng dậy nói:

- Tam muội, em hãy lui ra, để cho anh tiếp nàng vài ngón xem sao.

Vừa dứt lời, chàng lanh chân bước vào tung ra liên tiếp ba quyền như búa đập.

Gia-Luật-Yên bước trái qua một bên, miệng nói:

- Đây, anh ra tay bắt sống hắn cho em nhé.

Dương-Qua mỉm cuời, chắp tay sau lưng, đứng xem Gia-Luật-Tề và nữ lang áo đen

tranh tài cùng nhau.

Đánh một chập lâu, Gia-Luật-Tề bỗng đứng nguyên một chỗ, tay trái giấu sau lưng,

tay phải đưa ra phía trước muốn cuớp lấy thanh đao, nhưng chưa động thủ. Người con

gái áo đen cũng đứng lại thủ thế không dám tấn công nữa.

Dương-Qua buột miệng khen nhỏ:

- Thế võ của chàng này quả nhiên lợi hại!

Lục-vô-Song chế nhạo:

- Bản lãnh của hắn trội hơn chú gấp mấy lần, không lợi hại sao được.

Dương-Qua lặng thinh không đáp, giả bộ như không nghe câu ấy.

Bỗng Gia-Luật-Tề gọi em gái nói:

- Tam muội, hãy xem, anh điểm huyệt cho hắn mềm cả gân cốt, không còn đủ sức

nằm vững thanh đao. Em chuẩn bị để đoạt lấy nhé!

Nàng áo đen giận quá hét lớn:

- Súc sinh đừng phách lối, quả là quân khốn kiếp óc đầy cuồng vọng chủ quan.

Gia-Luật-Tề không đáp lại, đưa tay lẹ như chớp điểm ngay vào người cô gái. Cô gái

áo đen cảm thấy như muôn ngàn mũi kim châm vào các thớ thịt, chân tay bủn rủn,

thanh đoản đao đã rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng lớn.

Mọi người xung quanh thảy đều thán phục Gia-luật-Tề nói đâu có đó, tài nghệ tuyệt

vời.

Gia-luật-Tề cúi xuống lượm thanh đoản đao nhìn Gia-luật-Yên nói:

- Tam muội, bây giờ hắn không còn binh khí nữa, em có muốn thử sức thì cứ xông

vào, nhưng phải để ý đề phòng song cước của hắn nhé.

Nữ lang bị mất khí giới chỉ còn hai bàn tay không, nét mặt có vẻ hốt hoảng vì kinh sợ.

Bọn thị vệ nghĩ thầm:

- Công tử mình đã đoạt khí giới mà không ra tay hạ sát là có ý muốn tha chết cho

nàng, sao nàng không chịu tẩu thoát đi cho mau, cứ đứng hoài như vậy làm gì nữa.

Gia-luật-Yên tiến lên hai bước, đưa tay chỉ ngay mặt nữ lang áo đen, nghiêm nghị

nói:

- Hoàng-nhan-Bình, đã hai phen anh em ta rộng lòng tha chết sao mi chẳng biết thân

cứ mang mặt đến đây làm dữ mãi. Hôm nay đừng trách chúng ta độc ác nhé.

Dương-Qua nghe gọi tên nữ lang thì nghĩ bụng:

- Bọn này có nhiều tên họ quá kỳ lạ, ít khi nghe gọi quá.

Thật ra chàng đâu biết rằng giòng họ Gia-Luật là quốc tính của nước Đại-Liêu, cũng

như giòng họ "Hoàng nhan" là quốc tính của nớc Kim. Hai họ này đều là Hoàng-Tộc

của hai nước. Nước Kim tiêu diệt nước Liêu, và sau này nước Kim lại bị nước Mông

Cổ tiêu diệt lại.

Ngày nay cả hai họ "Hoàng-Nhan" và "Gia-Luật" đều là giòng dõi Hoàng phái bị

vong quốc.

Bị Gia-luật-Yên trách mắng, Hoàng-nhan-Bình đứng yên không đáp lại.

Gia-luật-Yên hỏi luôn:

- Nếu mi muốn cùng ta tranh tài cao thấp thì cứ ra tay đi.

Nói rồi múa quyền đánh nhau.

Hoàng-nhan-Bình bước lùi ra sau né tránh rồi nói nho nhỏ, giọng rầu rầu:

- Mi hãy giao trả thanh đạo lại cho ta.

Gia-luật-Yên nghe nói suy nghĩ:

- Sở dĩ anh ta đoạt lấy đoản đao của ngươi là muốn cho ngươi tay không cùng ta tranh

tài cao thấp. Nay mi cứ nằng nặng đòi lại đao ấy, không hiểu với mục đích gì đây?

Tuy vậy nhưng nàng vẫn có tính hào hiệp không hề cân chấp, ngó một tên thị vệ bảo:

- Ngươi thưa với anh ta xin nhận lại thanh đoản đao để trả cho nàng này.

Một phút sau, tên thị vệ cầm đao ra, hai tay đưa cho nàng và hỏi thêm:

- Bẩm cô nương, cô nương có cần đến vũ khí nào không?

Gia-luật-Yên lắc đầu đáp:

- Khỏi cần, ta không muốn dùng vũ khí.

Rồi nàng ngó Hoàng-nhan-Bình trao thanh đao cho nàng và nói:

- Ta dùng tay không đánh với mi, tuy chắc thua, nhưng ta vẫn cố gắng để mi được

thỏa lòng.

Hoàng-nhan-Bình nét mặt tái lợt, đôi mắt rầu rầu chớp lia, nhìn về phía

Gia-luật-Sở-Tài, òa lên khóc lớn và nói qua giòng nước mắt:

- Mi đã giúp quân Mông-Cổ sát hại song thân ta, ngày nay ta không đủ sức báo thâm

cừu, xin hẹn gặp nhau dưới suối vàng để rửa hận lớn.

Dương-Qua thấy đôi mắt vô cùng chán nản và tuyệt vọng của nữ lang đã đoán hiểu ý

định của nàng nên kêu lớn:

- Cô nương, cô nương! Chớ nên!

Ngay lúc ấy Hoàng-nhan-Bình trở ngược lưỡi dao đâm vào cổ họng để tự vận.

Gia-luật-Tề xông vào đoạt mất thanh đao rồi điềm đạm nói:

- Việc gì nàng phải làm như vậy?

Mọi người quá ngạc nhiên, cùng kêu lên một tiếng vì hốt hoảng, do đó chẳng ai để ý

đến tiếng kêu của Dương-Qua.

Lục-vô-Song nghe được, nhìn chàng hỏi nhỏ:

- Chú gọi nàng là Cô nương? Vậy nàng là sư-phụ của chú sao?

Dương-Qua lắc đầu và ấp úng đáp:

- Không phải... không phải Cô nương tôi đâu.

Nguyên nhân vì trong khi Hoàng-nhan-Bình quyết tâm tự tử, nét mặt và khóe mắt

nàng chứa chất tất cả niềm đau đớn thất vọng, mới nhìn thấy giống hệt như nét mặt ủ

rũ của Tiểu-long-Nữ lúc nhìn chàng lần chót nói lời vĩnh biệt. Vì vậy nếu trong giây

phút quá cảm xúc, chàng cứ đinh ninh đó là Tiểu-long-Nữ của mình, nên hốt hoảng

gọi Cô nương.

Lục-vô-Song thấy nét mặt Dương-Qua rầu rầu đăm chiêu và nghiêm nghị không giống

như thái độ thờng ngày nên cũng e dè không dám hỏi thêm nữa.

Khi ấy Gia-luật-Sở-Tài cất tiếng nói:

- Hoàng-Nhan cô nương đến đây nay đã ba lần cô nương đến tìm lão phu để hành

thích nhưng không làm được như ý. Lão phu muốn hỏi cô nương một câu này: Luôn

luôn cô nương oán hận lão phu đã làm Tể-tướng cho Đại Mông-Cổ rồi giết hại song

thân mình. Cô nương có biết kẻ nào đã giết hại tổ phụ của lão phu không?

Hoàng-nhan-Bình lắc đầu đáp:

- Tôi không rõ điều ấy được.

Gia-luật-Sở-Tài nói tiếp:

- Tổ phụ của lão phu là Hoàng tộc của nước Đại-Liêu, mà nước Đại-Liêu đã bị nước

Kim tiêu diệt. Con cháu họ Gia-Luật của Đại-Liêu đã bị người họ Hoàng-Nhan của

nước Kim giết chết rất nhiều. Cũng vì vậy mà ngay từ khi còn niên thiếu, lão phu mới

quyết tâm phò Mông-Cổ để nhờ thế lực Mông-Cổ mà tiêu diệt lại họ Hoàng-Nhan của

Kim quốc. Than ôi! Nếu ngày nay con cháu đôi bên cứ lấy oán trả oán thì oán nọ sẽ

liên miên, đời đời kiếp kiếp cứ lo thù qua giết lại, biết bao giờ dứt được.

Nói đến đây, người lão thành đáng kính mơ màng đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ,

như muốn tìm thấy cảnh núi xương, sông máu. Tưởng tượng hình ảnh thảm sát đã

diễn ra trong dĩ vãng và sẽ tiếp tục về sau muôn đời bất tuyệt! Bao nhiêu hình ảnh ghê

rợn ấy cũng chỉ do một động cơ chính là hai chữ "oán thù"!

Hoàng-nhan-Bình nghe nói có vẻ suy tư, trầm ngâm đôi phút rồi nhớ tại thực tại, tức

mình không tự nhủ được, trợn mắt nhìn Gia-luật-Tề thách lớn:

- Tôi hổ thẹn tài hèn sức kém đã ba lần đi báo thù cho song thân nhưng đều thất bại,

chẳng muốn sống làm gì nữa. Tại sao mi nhúng tay vào cản ngăn tôi?

Gia-luật-Tề mỉm cười nói bông đùa:

- Bây giờ cô nương cứ tự cho mình không đủ sức để trả thù nữa thì tự nhiên ý chí cũ

sẽ tiêu tan hết.

Hoàng-nhan-Bình uất hận quá nhưng không cử động gì nữa, hét lên một tiếng, đôi

mắt nhìn Gia-luật-Tề trừng trừng như muốn moi mật ăn gan.

Gia-luật-Tề vội vàng quay cán đao giải huyệt cho nàng.

Sở dĩ chàng không dùng ngón tay mà lấy đao giải huyệt cho Hoàng-nhan-Bình là để

giữ cho nàng không muốn trước mắt mọi người sờ mó vào mình một phụ nữ đang tê

liệt và cũng là một lối để giữ câu phương châm "nam nữ thọ thọ bất tương thân".

Giải huyệt xong rồi, chàng lễ phép hai tay cầm thanh đoản đao trao trả.

Hoàng-nhan-Bình do dự một hồi lâu mới đưa tay tiếp nhận và điềm đạm nói:

- Đã ba lần công tử tha tội không giết, lại đối đãi hết sức tốt. Tôi đâu phải sắt đá mà

không thấy rõ điều ấy. Tuy nhiên mối cựu thù giữa hai họ sâu hơn biển, cao hơn núi,

không thể vì chút cảm tình mà dẹp bỏ đi được.

Gia-luật-Tề cúi đầu suy nghĩ:

- Nàng có một bản lãnh khá cao siêu mà lúc nào cũng cương quyết phục thù cho cha

mẹ. Chẳng lẽ ta phải ở luôn bên cạnh phụ thân để bảo vệ mãi sao? Hay là bây giờ ta

tìm cách khích nàng để quỵ hết mối thâm thù ấy vào bản thân ta cho yên chí.

Nghĩ như vậy rồi chàng nói lớn:

- Tôi hết sức thán phục lòng hiếu thảo của cô nương, lúc nào cũng quên mình để nghĩ

đến mối thù của cha mẹ. Nhưng giữa thân phụ của tôi đều là những bậc tiền bối, phải

để cho họ tự lo liệu, giải quyết cùng nhau vì họ chịu trách nhiệm về việc làm của họ.

Ngày nay cô nương và tôi là phận làm con, cùng vai vế, cùng địa vị nh nhau. Vậy tôi

ước mong rằng chúng ta sẽ cùng nhau thanh toán món nợ máu. Cô nương nghĩ sao?

Hoàng-nhan-Bình chẳng suy nghĩ đáp ngay:

- Hiện nay tài nghệ của ta còn thấp kém thua mi nhiều, ta chưa phải là đối thủ của mi.

Nếu muốn như thế cũng được, nhưng phải chờ một cơ hội khác trong tương lai.

Nói xong nàng xoay mình nhảy ra ngoài biến mất.

Gia-luật-Tề thấy vậy ngại rằng nàng sẽ phẫn chí đi tìm chết nên vội vàng phi thân

đuổi theo và kêu nói:

- Cô nương họ Hoàng, cô nương quả là con người quá nông nổi và cạn tính. Hãy

ngừng lại, tôi phân tỏ vài lời.

Hoàng-nhan-Bình nghe nói dừng chân quay lại hỏi:

- Tại sao nhà ngươi bảo ta là nông nổi?

Gia-luật-Tề cả cười đáp rằng:

- Tôi cũng đồng ý là hiện nay võ công của tôi cao hơn cô một bậc. Nhưng tại sao cô

nuơng không chịu khó đi tìm một danh sư để học hỏi thêm, chừng nào xét có đủ bản

lãnh sẽ tìm lại cùng tôi so tài rửa hận? Chúng ta thảy đều trẻ tuổi, thời gian còn dài

lắm, có gì mà phải hấp tấp như vậy kia.

Hoàng-nhan-Bình lắng tai nghe cũng nhận là hữu lý nên gật đầu tỏ vẻ đồng ý.

Gia-luật-Tề nói tiếp:

- Trong những lần qua, tôi chỉ sử dụng một cánh tay phải để đối phó với cô nương.

Sau này tôi nhất định chỉ dùng một cánh tay ấy mà đối địch nữa. Nếu tôi sai lời dùng

đến tay trái, thì tôi nguyện sẽ chịu chết bởi lưỡi gơm của cô nương. Nói nh thế

không phải tôi có ý tự phụ hay muốn khinh miệt cô nương mà thật tình vì tôi nghĩ,

nếu dùng cả hai tay thì tánh mạng cô nương khó nỗi bảo toàn. Vì tánh thương người

nên tôi đã đa ra lời cam kết ấy, và tôi xin lấy danh dự để bảo đảm không hề nói

ngoa.

Sở dĩ Gia-luật-Tề đưa ý kiến này ra là muốn Hoàng-nhan-Bình nuôi hy vọng thắng

được mình để bỏ ý định tự tử đi. Chàng biết rằng sở dĩ con người đi tự tử vì đã quá

tuyệt vọng. Nếu có hy vọng không khi nào họ tự tử bao giờ.

Hoàng-nhan-Bình nghe xong ngẫm nghĩ:

- Mi tự cho mình tài cao hơn người nên đã quá tự phụ nên ra điều kiện ấy. Tự mi đã

buộc nợ cho mi, chứ ta nào có biết.

Mi đã thách như vậy, ta cũng bằng lòng đi tìm thầy học thêm để trở về đấu lại lần

nữa.

Nghĩ rồi nàng gật đầu nói:

- Ta bằng lòng, và mong ngươi phải giữ lời đã hứa. Người quân tử đã nói như dao

khắc cột, không thể làm khác được nữa.

Gia-luật-Tề đáp:

- Gia-luật-Tề này đã nói, dầu đến chết vẫn không quên.

Hoàng-nhan-Bình thở dài, đưa mắt rầu rầu nhìn quanh một bận rồi phi thân biến mất

trong bóng đêm.

Bọn thị vệ thấy công tử đã tha cho nàng rồi mới yên chí, quay lại vấn an cụ cố

Tể-tướng.

Trong khi sự việc xảy ra quá gây cấn nhưng Gia-luật-Tấn thấy Dương-Qua vẫn điềm

nhiên không thi thố tài năng cũng lấy làm ngạc nhiên lắm. Gia-luật-Yên hỏi

Gia-luật-Tề:

- Vì lẽ gì mà anh cứ tha cho cô bé ấy mãi như vậy.

Gia-luật-Tề cười đáp:

- Nếu muốn giết hắn thì lúc nào giết cũng được cần gì phải nôn nóng.

Gia-luật-Yên mỉm cười ranh mãnh đáp:

- Có lẽ anh muốn em gọi cô ta là chị dâu chăng? Nếu có thể cứ nói thật đi.

Gia-luật-Tề nghiêm giọng nói:

- Em đừng bông đùa nhàm nhở không được.

Thấy anh đã giận, Gia-luật-Yên không nói dỡn nữa.

Dương-Qua đứng ngoài cửa sổ đã nghe rõ mọi việc, khi nghe Gia-luật-Yên hỏi anh

muốn bảo mình gọi là chị dâu thì nghĩ rằng:

- Cô này có ý nghĩ cũng ngộ nghĩnh lắm. Gia-luật-Tề hành động có vẻ quân tử đại

lượng lắm. Nhưng hắn vẫn còn trẻ tuổi nhiều tình cảm, đâu phải nhà sư mà tránh khỏi

nanh vuốt của ái tình.

Chàng nghĩ càng mến phục Gia-luật-Tề, nhưng sực nhớ lại khóe mắt của

Hoàng-nhan-Bình lúc long lanh cảm động giống hệt như đôi mắt đẹp của Cô nương

Tiểu-long-Nữ. Liên tưởng đến hai người chàng cũng công nhận quả xứng đôi vừa lứa.

Đang suy nghĩ xa gần thình lình có một bóng đen vụt bay từ nóc nhà phía Đông qua

hướng Tây Nam. Dương-Qua khẽ bảo Lục-vô-Song:

- Đứng chờ đây một chốc. Tôi đi có tý việc cần, sẽ về ngay.

Lục-vô-Song vội hỏi:

- Chuyện gì vậy, ở đâu thế?

Chàng nín thinh băng mình như làn khói, mờ dần trong bóng đêm về hướng Đông.

Bóng đen ấy là Hoàng-nhan-Bình. Nàng có bản lãnh và khinh công cũng khá, nhưng

đối với Dương-Qua đâu có nghĩa lý gì. Vì vậy không bao lâu chàng đã theo kịp và

thấy nàng sà xuống một túp nhà nông dân trong xóm.

Nàng tằng hắng một tiếng rồi khoan thai bước vào nhà. Dương-Qua cũng từ từ hạ

xuống, nhè nhẹ lướt theo sát gót, nhưng nhờ tài khinh thân quá tinh dịu nên

Hoàng-nhan-Bình chẳng hề hay biết.

Khi bước vào trong, Duơng-Qua đứng nấp ngoài tường nghe ngóng.

Một chập sau từ căn nhà gần bên có ánh đèn le lói, trong đó có tiếng thở dài vô cùng

não ruột.

Dương-Qua cũng thấm thía với tiếng thở dài căm hờn như nức nở ấy nên bất giác

cũng thở dài theo.

Hoàng-nhan-Bình hình như nghe được tiếng thở dài ấy, nên cả sợ, vội vàng thổi tắt

ngọn đèn trên bàn rồi rón rén bước lại đặt tai vào vách tường nghe ngóng.

Một chặp sau vẫn thấy tư bề vắng lặng như tờ, nàng khẽ hỏi:

- Ai đó?

Dương-Qua cũng se sẽ đáp lại:

- Vì cảm thông cùng cảnh ngộ đau lòng nên tôi cũng thở dài để trút bớt phần nào

phiền não xin miễn chấp.

Thấy kẻ này không có gì ác ý, Hoàng-nhan-Bình vững bụng hỏi thêm:

- Xin cho biết người là ai?

Dương-Qua chậm rãi nói:

- Ngày xưa, cổ nhân quyết chí báo thù đến nỗi phải "nằm gai nếm mật" hay "ăn than

sơn mình" trải bao nhiêu gian khổ chẳng sờn lòng. Lạ gì mới thất bại một vài lần mà

cô nương đã nản chí đâm ra tự tử, không hổ thẹn với tiền nhân ?

Nguyên ngày ở Đào-Hoa-Đảo, được Hoàng-Dung dạy văn, Dương-Qua có đọc được

sách biết Câu-Tiễn nằm gai nếm mật và Dự-Nhượng sơn mình nuốt than để nuôi ý chí

phục thù, nên mới đem ra làm ví dụ để nói chuyện cùng Hoàng-nhan-Bình cho có

điển tích.

Thình lình đèn sáng trưng, cửa phòng mở rộng, Hoàng-nhan-Bình ló đầu nhìn ra rồi

chắp tay vái dài, lễ phép nói:

- Kính mời các hạ bước vào trong nầy cho tôi được hầu chuyện.

Khi Dương-Qua bước vào phòng, dưới ánh đèn dầu, Hoàng-nhan-Bình thấy một thanh

niên mặt mày xinh đẹp, y phục theo lối Mông-Cổ thì rất ngạc nhiên, vội hỏi:

- Nghe những lời các hạ vừa dạy thật quả chí lý, vậy xin các hạ vui lòng cho biết quý

danh quý tánh để thỏa lòng ngưỡng mộ.

Dương-Qua không đáp theo câu hỏi, đứng thẳng người, vòng tay trước ngực nói:

- Tên Gia-luật-Tề thật là một đứa tự phụ và khoác lác. Hắn dám xưng chỉ dùng một

tay đánh thắng cô được. Lối ấy đâu có gì khác lạ mà khoe khoang?

Hoàng-nhan-Bình chưa hiểu Dương-Qua thuộc thành phần nào, theo phe ai nên còn e

dè, chưa dám tán thành hay phản đối.

Dương-Qua nói tiếp:

- Tôi có thể chỉ cần dạy cho cô vài thế võ để buộc Gia-luật-Tề phải sử dụng cả hai

tay. Nếu cô chưa tin, cứ thử rồi biết. Tôi cam đoan không dùng đến thế thứ tư đâu.

Hoàng-nhan-Bình vẫn ngạc nhiên và bỡ ngỡ lắm. Nàng nghĩ bụng:

- Anh chàng này là ai? Sao tự nhiên đến đây chưng tài, hay có dụng ý gì đối với mình

chăng?

Thấy nàng còn do dự, Dơng-Qua nói tiếp:

- Nếu nàng muốn thử thách để tin vào lời nói của tôi, xin cứ dùng gươm chém tôi đi

sẽ có chứng minh cho mà xem. Nếu tôi nói dóc bị chết bỏ mạng không oán trách

được ai.

Hoàng-nhan-Bình nói:

- Khỏi cần đấu gươm đao. Tôi chỉ cần quyền chưởng để thử sức thôi. Nếu các hạ né

tránh được cũng đã cao siêu lắm rồi.

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Không được đâu. Cô phải dùng đao kiếm, nếu không, thì đời nào cô thấy được sự

thật để phục tài tôi chứ?

Thấy người này nói năng có vẻ thật tình chứ không phải đùa cợt hay phỉnh phờ,

Hoàng-nhan-Bình nói:

- Nếu quả vậy thì các hạ thật là một kẻ tài ba xuất chúng, tôi không bao giờ ngờ đến

một chuyện như vậy được. Vậy xin các hạ xem chừng ngay nhé.

Nói xong nàng múa đao chém lia vào vai Dương-Qua như bằm chuối.

Dương-Qua thản nhiên khoanh tay đứng nhìn, hình như không đếm xỉa gì hết. Khi

lưỡi đao sắp chạm vào da, chàng chỉ lắt mình nhẹ một cái là tránh được rất dễ dàng.

Hoàng-nhan-Bình muốn chặt ngay vào đầu nhưng vẫn do dự, vừa vung ra đã thụt lại

ngay.

Dương-Qua bảo:

- Cô cứ chém thật tình đi, chớ ngại ngùng gì hết.

Hoàng-nhan-Bình nghĩ:

- Chẳng lẽ y là yêu ma hay thần thánh gì mà nói có vẻ lớn lối tài tình quá vậy.

Nàng bặm môi chém vút một đao thật mạnh, định chặt đôi thân hình chàng làm hai

đoạn.

Nhưng ánh đao vừa vung lên, Dương-Qua hình như đã đoán trước bảo rằng:

- Với thế đao ấy, tôi chỉ cần nằm rạp xuống là chém hụt ngay, cô đừng dùng ngón

này vô ích.

Hoàng-nhan-Bình đem hết tinh thần và sức lực dồn vào cánh tay chém vù vù khắp bốn

mặt, nhưng Dương-Qua vẫn nhởn nhơ cứ nghiên qua lật lại sơ sơ cũng đủ tránh được

trong đường tơ kẽ tóc.

Hoàng-nhan-Bình thán phục quá, đang phân vân chưa biết nên đổi cách nào để chém

cho trúng thì Dương-Qua đã bảo:

- Bây giờ tôi đã rõ tài chém của cô rồi. Nhưng tôi chưa biết tài phóng đao của cô ra

sao, xin hãy thi thố xem thử.

Hoàng-nhan-Bình gật đầu, bước lui ra sau một tý rồi vung tay phóng luôn lưỡi điệp

đao bay thẳng lại chàng như tên bắn. Dương-Qua khẽ đưa tay bắt được, thảy lại cho

nàng và bảo:

- Hãy phóng mạnh hơn xem thử.

Hoàng-nhan-Bình khiếp quá, đứng nhìn trân, chưa tin là sự thật.

Dương-Qua nói tiếp:

- Thôi được rồi, bây giờ đến phiên tôi nhé. Cô cứ múa đao cho kỹ và giữ gìn cẩn thận

đấy. Chỉ trong ba ngón là tôi đoạt được lưỡi đao ngay, cô giữ cách nào cũng không

thể được.

Hoàng-nhan-Bình tuy đã phục chàng quá sức với những ngón vừa mới thi thố, tuy

nhiên vẫn chưa dám tin rằng chỉ trong ba thế mà có thể tay không đoạt được đao

mình.

Tay nắm chặt cán đao, nàng bảo:

- Xin các hạ xem đây!

Nói xong nàng vung lên múa đao theo thế "Vân hoành Tần Lĩnh" (mây bay trên đỉnh

non Tần) chém phạt ngang một nhát. Dương-Qua khẽ cúi đầu thấp xuống tránh được,

thuận tay hất nhẹ vào sống đao khiến con đao rời ngay khỏi tay nàng, quay một vòng

kêu vo vo rồi rớt trên mặt đất.

Hoàng-nhan-Bình mất đao đứng ngẩn ngời trố mắt nhìn chàng, phục quá!

Dương-Qua mím miệng vận khí thổi phù một hơi, thanh đao bay bổng lên rơi lại gần

chân Hoàng-nhan-Bình như người ta thổi một mảnh giấy con.

Hoàng-nhan-Bình chưa biết nói sao mặt mày ngơ ngác suy nghĩ, bỗng Dương-Qua

cười cười nói tiếp:

- Bây giờ tôi cho cô nương xem lối ném đao bằng môi, đỡ dao bằng lưỡi nhé.

Vừa nói xong chàng vận khí hút một cái, thanh đao bay lên dính giữa đôi môi rồi thổi

phù ra một hơi, thanh đao bay vút lên trên cao rồi từ từ rơi xuống. Chàng thè lưỡi nhẹ

nhàng đỡ lấy sống đao rồi ngậm chặt trên miệng. Một lát chàng nhả đao rơi xuống đất

rồi cười hà hà nhìn nàng không nói gì hết.

Hoàng-nhan-Bình quá sức kinh ngạc, cảm phục sát đất, miệng lẩm bẩm mãi:

- Trời! Quả thật là lạ lùng, kỳ diệu quá sức.

27. Cám nghĩa kết thâm tình

Dương-Qua nhìn nàng đứng ngơ ngẩn và nghĩ bụng:

- Sau thuật tránh đao, cướp đao, bây giờ cũng nên cho nàng nếm mùi điểm huyệt một

chút.

Nghĩ xong đưa tay khẽ điểm vào "khúc trì huyệt" của Hoàng-nhan-Bình.

Bị điểm đúng yếu huyệt, Hoàng-nhan-Bình bủn rủn cả tứ chi, mắt long lên vì căm

giận, miệng cứng đờ chẳng nói năng gì được, chỉ đưa mắt nhìn chàng loang loáng như

van lơn như thán phục lẫn căm hờn.

Thấy đôi mắt đen huyền đưa qua liếc lại sao giống mắt Tiểu-long-Nữ quá,

Dương-Qua thấy cảm động vô cùng và nghĩ hối hận:

- Mình có muốn cầu thân cùng nàng, nhưng vì sao lại đi đối xử tệ bạc như vậy nhỉ?

Ta nỡ nào vì muốn chưng sơ tài nghệ đến nỗi khiến cho nàng phải chịu đựng sự đau

đớn hay sao?

Nghĩ vậy chàng thấy hối hận cầm đao lại gần trao trả.

Hoàng-nhan-Bình thấy toàn thân rũ riệt, cặp giò run lên đứng hết muốn vững, tay rã

rời, môi miệng cứng hết, chẳng động đậy gì được cứ nhìn chàng với cặp mắt cảm

phục nhưng đượm vẻ hằn học.

Dương-Qua nghĩ thầm:

- Gia-luật-Tề là thù nhân mà còn dùng cử chỉ lễ độ nhã nhặn đối xử cùng nàng thay,

huống chi ta, tại sao kém cỏi và vô lý như vậy, thật không xứng đáng với tư cách của

một bậc trượng phu.

Vì vậy nên chàng vội lại gần đưa tay giải huyệt liền.

Hoàng-nhan-Bình, cảm thấy sinh lực hồi phục, tinh thần sảng khoái, tay chân thơ thới

cử động được như cũ thì mừng rỡ vô cùng, vội sụp quỳ xuống làm lễ và thiết tha nói:

- May mắn được gặp gỡ bất ngờ, xin sư phụ ngỏ lòng xót thương, truyền thụ cho vài

ngón võ để có thể báo được mối thù cho song thân, ơn đức này tiện nữ xin đời đời ghi

tạc.

Dương-Qua cuống cuồng vội đưa tay nâng nàng đứng dậy nói:

- Tôi đâu có đủ điều kiện làm sư phụ cô được. Tuy nhiên tôi có thể chỉ vẽ hộ cho Cô

nuơng vài miếng võ đủ giết chết được Gia-luật-Tề mà thôi. Cô bằng lòng chứ?

Hoàng-nhan-Bình sáng rực đôi mắt hân hoan reo lên:

- Trời ơi, như thế thì còn gì bằng. Nếu hạ sát được Gia-luật-Tề thì anh em hắn đâu

phải là đối thủ của tôi nữa. Chừng ấy tôi có thể tự do hạ sát cha mẹ hắn để trả thù cho

song thân.

Vừa nói tới đây bỗng nàng có ý nghĩ:

- Nếu ta học võ nghệ cho đến ngày vượt hơn Gia-luật-Tề, nghĩa là phải một thời gian

quá lâu chứ đâu phải một ngày một tháng gì mà xong, thì lão già Gia-luật-Sở-Tài có

thể còn sống sót đến ngày ấy chăng.

Nếu hắn chết trước thì dầu có tài giỏi đến đâu cũng không thể trả thù cho cha mẹ

được. Như thế, chẳng hóa ra tốn công vô ích quá sao?

Dương-Qua đoán được thâm ý của nàng, cả cười nói:

- Có lẽ cô nương muốn giết ngay lão già ấy trong một vài hôm gần đây chứ gì?

Hoàng-nhan-Bình vui mừng đáp:

- Dạ đúng vậy. Lòng tôi chỉ ước mong được trả thù sớm chừng nào hay chừng ấy. Lão

già ấy tuổi tác đã quá cao, e không theo được bao nhiêu ngày nữa.

Dương-Qua quả quyết nói:

- Muốn giết Gia-luật-Tề không có gì khó khăn hết. Tôi có thể dạy ngay cho cô để có

đủ sức giết được hắn nội trong đêm nay mà thôi.

Hoàng-nhan-Bình tuy mừng rỡ nhưng cứ phân vân cân nhắc mãi.

- Ta đã bao phen giết hụt lão già cũng vì tài nghệ của Gia-luật-Tề cao siêu hơn ta có

mấy bậc. Sau mấy lần bị đánh bại, ta cảm thấy phải lâu lắm mới bằng được một phần

bản lãnh của hắn. Người này trông tài nghệ kỳ diệu thật nhưng chưa chắc đã thắng

được Gia-luật-Tề một cách dễ dàng. Vì dầu y có giỏi hơn Gia-luật-Tề một bậc cũng

không thể nào chỉ dạy mình ba thế võ mà hạ sát ngay hắn trong đêm nay được. Lời

nói y tuy quả quyết nhưng có vẻ hoang đường quá, chắc chắn mười mươi là không thể

nào làm được.

Tuy nghĩ vậy nhưng nàng không có can đảm nói thật, nên chỉ nhìn Dương-Qua với

cặp mắt buồn buồn có vẻ thất vọng, thiếu tin tưởng.

Dương-Qua đã đoán rõ được tâm trạng nàng nên dùng lời an ủi:

- Cô cứ yên tâm, tôi không khi nào nói khoác để lừa phỉnh cô làm gì. So tài nghệ của

tôi cùng hắn chưa hẳn tôi giỏi hơn. Nếu đôi bên cùng giao đấu, tôi cũng không dám

chắc thắng hắn được dễ dàng. Tuy nhiên tôi đã có cách, một cách kỳ diệu và thần

tỉnh, chỉ dạy cho cô ba thế để hạ sát được nó. Tôi dám quả quyết cùng cô điều này,

xin chớ nghi ngại nữa. Nhưng chỉ có một điều tôi còn đang phân vân là đã ba phen

hắn rộng lượng tha chết cho cô, e rằng ngày nay lúc giết được, cô sẽ không nỡ ra tay

hạ thủ!

Hoàng-nhan-Bình đã tin tưởng rồi và chính nàng cũng công nhận ý kiến chót của

Dương-Qua là đúng, trong lòng thấy băn khoăn. Tuy nhiên nàng vẫn cứng cỏi đáp:

- Tuy hắn đã lấy độ lượng quân tử tha chết cho tôi nhiều lần. Tuy nhiên tôi cũng

không thể chỉ vì cảm tình riêng mà quên được phụ mẫu chi cừu.

Dương-Qua nói:

- Thôi được rồi! Tôi sẽ truyền cho cô ba thế võ ấy ngay bây giờ. Nhưng nếu khi cô có

thể giết hắn được mà cô không giết thì sẽ tính sao đây?

Hoàng-nhan-Bình đáp:

- Nếu tôi không giết hắn thì xin tùy ân sư xử phạt cách nào tôi cũng xin nhận chịu.

Dương-Qua cười thầm trong bụng:

- Nàng này ăn nói cũng hay đấy! Thù của cô mà cô không muốn trả, có can hệ gì tới

ta mà bảo ta xử phạt. Xử phạt bằng cách nào. Đánh mắng nàng . Mà xử phạt như vậy

để có lợi gì cho mình chứ?

Nghĩ xong chàng tươi cười bảo:

- Thật ra ba thế võ này không có gì khó, cô đã thuộc cả rồi, nhưng vì không biết cách

áp dụng cho đúng lúc đúng chỗ mà thôi. Tôi sẽ bày vẽ cho cô cách để thực hiện được

ước nguyện.

Nói rồi chàng cầm đao chém ngang một nhát từ phải sang trái rồi vút trở lại, miệng

nói:

- Đây là ngón "Vân hoành Tân lãnh" chắc cô cũng biết rồi.

Hoàng-nhan-Bình nghĩ thầm:

- Tưởng ngón nào cao siêu kỳ lạ, chứ ngọn "Vân hoành Tần lãnh" mình vừa dùng

chém hắn khi nãy là một thế nhập môn sơ đẳng, lúc vừa học võ ai lại không biết?

Đang suy nghĩ chưa trả lời, bỗng lưỡi đao bay vút lại phía mình nàng vừa nghiêng

mình né tránh thì Dương-Qua bất ngờ đã đưa tay ra nắm chặt cổ tay mặt của nàng,

miệng nói:

- Thế thứ hai này gọi là "Khô đằng chiền thụ" (tức là dây khô quấn cây), chắc cô cũng

đã học rồi trong khi luyện "Thiết chưởng".

Hoàng-nhan-Bình nghĩ bụng:

- Tưởng gì chứ lối "mở và nắm" trong mười tám thế sử dụng Thiết chưởng thì cần gì

phải dạy nữa. Chẳng hiểu lúc này ngươi chỉ ta thế ấy để làm gì?

Nắm cổ tay nàng mềm mại và mát rợi Dương-Qua thấy thích thú lắm cười cười bảo:

- Cô chưa học thế "mở bôi tay ngọc" mà đã học thế "nắm mở bàn tay" thì có ích gì

mấy!

Tuy biết chàng nói đùa nhưng Hoàng-nhan-Bình cũng mỉm cười hỏi:

- Cái tên "mở bôi tay ngọc" nghe là lạ và hay hay đấy nhỉ. Tôi chưa được học thế ấy

bao giờ.

Nguyên phép sử dụng bàn tay sắt (thiết chưởng) phải dùng cả khinh công và chưởng

pháp phối hợp chặt chẽ thì công dụng mới lợi hại.

Thế này chỉ có "Cửu-âm-chân-kinh" mới thu thập được hết cả những tinh hoa vũ

thuật, các phái biến chế cho nên vô cùng lợi hại. Luyện thế ấy theo

"Cửu-âm-chân-kinh" thì dầu bị địch nắm chặt đến đâu cũng giải thoát được dễ dàng.

Trái lại nếu phối hợp được môn pháp Thiết-chưởng theo "Cửu-âm-chân-kinh" thì một

khi đã nắm được tay ai chẳng khác nào kềm sắt, không thể nào vùng vẫy nổi.

Hoàng-nhan-Bình thấy tay chàng nắm tay mình thật chặt, đưa đi đưa lại, nhưng không

đau đớn. Có lúc siết mạnh, có lúc mơn trớn trên làn da, nên chẳng hiểu vì ý gì.

Thấy lối nắm mở bàn tay chàng dũng mãnh lợi hại hơn mình rất nhiều, nên

Hoàng-nhan-Bình rất cảm phục, tuy nhiên chờ lâu quá không thấy dạy thế khác nàng

nhìn chàng ngẫm nghĩ:

- Ưng bụng cứ bóp hoài! Còn một thế thứ ba nữa sao chẳng dạy người ta cho rồi!

Mình đã biết qua hai thế đầu đều là những ngọn thông thường của vũ thuật vỡ lòng

chẳng có gì mới lạ hết. Có ngón thứ ba ra sao, có lẽ kỳ diệu tinh xảo lắm nên mới có

đủ oai lực giết được Gia-luật-Tề.

Lúc bấy giờ Dương-Qua mới đĩnh đạc ra lệnh:

- Bây giờ chuẩn bị học thế chót để quyết định đây! Hãy nhìn đây.

Vừa nói xong chàng đưa mũi đao dí thẳng vào cổ mình.

Hoàng-nhan-Bình thất kinh la lớn:

- ủa, anh làm gì lạ thế. Sao kỳ vậy?

Tay phải nàng bị Duơng-Qua nắm chặt không vẫy vùng được, nàng phải buộc lòng

dùng tay trái dằng lưỡi dao ra, lúc nắm được thanh đoản đao rồi mới yên chí hỏi lại:

- Tại sao anh dùng đao để tự tử như vậy?

Dương-Qua buông tay nàng ra, nhảy lùi về phía sau cười lớn đáp:

- Bây giờ cô đã học đủ ba thế rồi đó. Chừng đó đã đủ rồi.

Hoàng-nhan-Bình thấy Dương-Qua thọc đao vào họng tự tử đang lo sợ bàng hoàng

chưa rõ lý do vì sao, thấy chàng bảo như vậy, lạ lùng không hiểu gì hết cứ nhìn trừng

trừng không biết nói lời gì nữa.

Dương-Qua bèn giải thích:

- Này nhé, đêm nay cô cứ tìm Gia-luật-Tề để tỷ thí. Sau khi dùng thế "Vân hoành Tần

lãnh" chuyển ngay thế "khô đẳng chiền thụ" để lanh tay nắm chặt tay mặt của hắn lại

rồi quay sang thế chót là đâm ngược lưỡi đao vào họng tự tử. Chắc chắn thế nào hắn

ta cũng phải dùng tay trái ra dằng lấy lưỡi đao để cứu cô. Như vậy vô tình hắn đã

phạm lời thề nên phải để cho cô tự ý giết hại mà không oán trách gì nữa. Chắc cô

cũng còn nhớ Gia-luật-Tề đã long trọng cam kết chỉ dùng một tay đấu cùng cô nếu

dùng thêm tay trái sẽ chịu chết về tay cô. Kế hoạch này xem có được không?

Hoàng-nhan-Bình bấy giờ mới hiểu rõ nghĩ bụng:

- ồ, chú này xem không bao nhiêu tuổi mà nhiều mưu kế hay tuyệt. Phương pháp này

quả thật là bí hiểm và chắc ăn lắm.

Dương-Qua nói tiếp:

- Nếu cô cứ đem đúng ba thế đó ra áp dụng trong một lần mà không đoạt được kết

quả mong muốn thì tôi cam đoan để cô đem đầu tôi ra mà chặt.

Hoàng-nhan-Bình gật đầu nói:

- Tôi cũng tin tưởng vào kế này lắm, nhưng ngại một nỗi, nếu hắn không chịu dùng

tay trái để giật đao thì xử trí làm sao bấy giờ?

Dương-Qua cười lớn:

- Nếu hắn thông dùng tay trái thì cô cứ vụng gươm chém đầu hắn đi là xong chuyện.

Đơn giản quá mà!

Hoàng-nhan-Bình mừng quá, chắp tay nói:

- Thành thật cám ơn anh đã có lòng giải thích tôi biết được đường đi nước bước khỏi

nghĩ bậy và hành động vô ý thức. Hơn nữa đã giúp tôi kế hoạch để trả thù cho cha

mẹ, ơn đức ấy tôi nguyện đời đời ghi sâu vào tâm khảm. Giờ đây, xin anh vui lòng

cho biết anh là ai, quý danh là gì.

Dương-Qua chưa kịp đáp bỗng có một giọng nói lanh lảnh từ ngoài cửa vọng vào:

- Hắn tên thằng Ngốc đấy! Cô đừng nghe theo hắn mà lầm.

Tiếp theo đó là một chuỗi cười dòn dã. Dương-Qua chỉ mỉm cười không đáp lại vì biết

người ấy là Lục-vô-Song rồi.

Hoàng-nhan-Bình lao mình ra cửa sổ thấy có một cái bóng đen vừa vụt đi mau như

gió. Nàng định đuổi theo thì Dương-Qua bảo:

- Thôi, cô đừng nhọc lòng đuổi theo vô ích. Cô ấy là một người bạn đồng hành với tôi

chứ không ai xa lạ đâu.

Hoàng-nhan-Bình đưa mắt dịu dàng nhìn Dương-Qua một chập rồi nhỏ nhẹ nói:

- Em xin hoàn toàn tin theo lời anh đã dặn, vì thâm tâm em nghĩ rằng chẳng bao giờ

anh nỡ dối em.

Dương-Qua tuy có tánh can trường nhưng ưa nói ngọt. Nhưng ai đối với chàng hỗn

láo, dối trá lừa gạt thì dầu chết cũng không bao giờ khuất phục. Trái lại ai đối cùng

chàng có cảm tình, nhỏ nhẹ thì muốn gì chàng cũng cố làm cho vừa ý. Nhìn

Hoàng-nhan-Bình xinh như hoa, đôi mắt bồ câu lóng lánh, êm êm nh mặt nước hồ

thu, nét mặt sáng rực, lúc nào cũng đượm nét u buồn man mác, đôi má đầy đặn khi tái

khi hồng hào tươi thắm, lời lẽ lại ngọt ngào, thỏ thẻ như oanh kêu, khiến cho chàng

vô cùng cảm xúc, bèn bước lại gần đưa tay nắm lấy vai nàng cùng ngồi kề nhau bên

cạnh giường, âu yếm nói:

- Anh họ Dương tên Qua. Cũng như em, cha mẹ anh thảy đều khuất bóng, trên đời

này anh chỉ có một thân trơ trọi, không cửa không nhà.

Hoàng-nhan-Bình nghe những lời thấm thiết bỗng xúc động cang tràn, đôi mắt lệ chan

hòa, ngồi làm thinh thút thít khóc mãi, nói chẳng nên lời.

Dương-Qua cũng xúc động không kiềm được hai giòng lệ, uất lên khóc lớn. Hai người

lẳng lặng nắm tay nhau, cảm thông một hoàn cảnh xấu số như đôi chim lạc loài mới

tìm được bạn mới. Hoàng-nhan-Bình đưa tay ôm ngang lưng chàng ghì sát vào mình.

Dương-Qua áp má vào tóc nàng ngồi không nhúc nhích. Cả hai cứ kéo dài mãi nửa

giờ phút thiêng liêng này để sưởi ấm cõi lòng giá lạnh.

Dương-Qua đê mê tận hưởng vị thơm tho từ làn tóc của nàng bốc ra thoang thoảng.

Hai tâm hồn như cùng lắng xuống để chung hòa nhạc điệu mê ly cảm động, hồi tưởng

lại thân thế gia đình mình, cha mẹ chết hết, sống côi cút trên đời nên quá cảm xúc lệ

tuôn rào rạt.

Bỗng Hoàng-nhan-Bình nhìn chàng mỉm cười:

- Anh định để em khóc đến bao giờ mới thôi đây?

Dương-Qua gạt lệ hỏi nhỏ:

- Năm nay em được bao nhiêu tuổi?

Hoàng-nhan-Bình đáp:

- Mười tám tuổi. Còn anh?

Dương-Qua đáp:

- Anh cũng mười tám tuổi như em.

Rồi chàng nghĩ ngay:

- Nếu cùng một tuổi, ta không nên để nàng nói sanh già tháng hơn để xưng chị với

mình, ta phải giữ vai làm anh mới được.

Nghĩ xong chàng nói tiếp:

- Anh sanh hồi thượng tuần tháng giêng. Chắc em sanh sau anh mấy tháng. Vậy từ

nay em gọi anh là "Anh hai" và anh gọi em là "em bé" nhé.

Hoàng-nhan-Bình hân hoan mừng thầm, đôi má đỏ hây hây. Nàng thấy Dương-Qua

ăn nói chắc thiệt, phân tách rành mạch, không có vẻ gì lừa bịp hay hiểm ác nên gật

đầu tỏ ý bằng lòng.

Được thêm một cô em bé xinh tơi, Dương-Qua nghĩ bụng:

- Mình không cha mẹ, cô nương chưa biết ở nơi nào, được thêm bạn thân kể cũng đỡ

hiu quạnh cô đơn. Tuy nhiên, thế nào rồi đây Lục-vô-Song cũng ganh ghét kiếm lời

kia nọ. Nhưng mặc kệ, ta cứ lờ đi nh không để ý. Miễn vui thầm trong bụng cũng

thích rồi. Thấy Hoàng-nhan-Bình xinh tươi đẹp đẽ, lại gặp phải cảnh ngộ éo le kể

cũng đáng thương hại. Lạ một điều hai mắt nàng quá đẹp, lại giống y mắt của Cô

nương mình như hệt.

Chàng ngắm nhìn nàng một chặp tưởng tượng thêm:

- Nếu nàng bỏ bộ đồ đen, mặc y phục trắng vào, thì nàng sẽ giống hệt như

Tiểu-long-Nữ. Cô nương không sai một nét.

Chàng cứ vẩn vơ suy nghĩ, nhìn nàng mãi, đến nỗi đôi mắt lờ đờ, vẻ mặt ngẩn ngơ,

mới nhìn thấy hình như một kẻ khát tình đang mơ ước dục vọng, lộ ngay trên nét mặt.

Hoàng-nhan-Bình thấy chàng hơi thở dồn dập, mặt đỏ ửng, mắt lờ đờ như si dại, sẽ vỗ

vào lưng chàng nói nhỏ:

- Nhìn gì lạ vậy?

Ai đã thu hồn đớp vía anh mất mà ngồi ngay ra như vậy.

Dương-Qua bừng tỉnh lại như kẻ vừa qua cơn ác mộng, ngượng quá, nhưng cũng hỏi

gượng cho đỡ mắc cỡ:

- Sao em không đi tìm kẻ thù để hạ sát cho rồi.

Nàng nũng nịu nói:

- Em sẽ đi liền bây giờ đây. "Anh Hai" có theo giúp em không?

Dương-Qua định gật đầu bằng lòng nhưng chợt nghĩ lại:

- Nếu ta đi theo, e nàng ỷ lại không đem hết tinh thần ra chiến đấu và lúc giả tự tử

không tự nhiên, khiến cho Gia-luật-Tề sanh nghi thì hỏng hết mưu kế đã bài trí.

Nghĩ thế, chàng trả lời:

- Em cứ đi một mình cho tự nhiên. Anh theo giúp sức không tiện đâu.

Nghe chàng đáp Hoàng-nhan-Bình rất thất vọng, nét mặt lộ vẻ u buồn thảm đạm, nhìn

chàng không nói gì hết.

Dương-Qua mủi lòng muốn đổi ý nhận lời, nhưng nàng đã đứng dậy nói nhỏ:

- Thôi anh Hải ở lại, em bé đi đây nhé. Xa nhau lần này có lẽ không còn dịp tái ngộ

nữa.

Dương-Qua ngỡ ngàng ấp úng hỏi:

- Tại sao em nói thế? Sở dĩ... tôi...

Nàng lanh lẹ lấy một nén bạc đặt trên bàn để trả tiền quán trọ rồi tung mình dùng

khinh công lao vút ra ngoài mất dạng ngay.

Dương-Qua ra cửa sổ trông theo gật đầu khen nhỏ:

- Khinh công của nàng cũng khá lắm. Tội nghiệp!

Ngoài trời một bóng đen xé màn đêm lao vút đến nhà trọ của gia đình Gia-luật-Tấn.

Khi ấy cha con Gia-luật-Sở-Tài đang sửa soạn đi ngủ.

Hoàng-nhan-Bình dừng lại trước ngõ, đưa tay gõ cửa và bảo quân thị vệ:

- Nhờ các cậu vào thưa, có Hoàng-nhan-Bình muốn gặp mặt Công-tử Gia-luật-Tề.

Bốn tên thị vệ không muốn phá rầy công tử trong giờ đi ngủ, xông ra chận lại, nhưng

vừa khi ấy Gia-luật-Tề mở cửa nhìn ra hỏi:

- Chẳng hay Hoàng-nhan cô nương có điều gì cần dạy bảo?

Hoàng-nhan-Bình đáp ngay:

- Tôi muốn được công tử chỉ giáo cho một vài ngón võ để học thêm.

Gia-luật-Tề ngạc nhiên ngẫm nghĩ:

- Quả nàng này ương gàn, không biết tự lượng sức mình. Ta đã tha chết mấy phen, đã

không biết thẹn, còn mang xác đến đây đòi thử sức nữa.

Nhưng chàng vẫn ân cần mời:

- Xin mời cô nương quá bộ vào trong này.

Hoàng-nhan-Bình bước theo, vào đến giữa phòng nàng đã tuốt gươm ra, múa lên vùn

vụt quyết đem ba thế võ ra ứng dụng xem sao.

Bắt đầu nàng tấn công bằng thế "Lục chiêu thiết chưởng" để Gia-luật-Tề nghênh chiến

và chuẩn bị thực hiện dự định của mình đã sắp đặt.

Gia-luật-Tề giữ đúng lời cam kết, tay trái buông thõng xuống, chỉ vũ động tay mặt để

chống đỡ mà thôi.

Mặc dầu Hoàng-nhan-Bình dùng thế "Tam đảo lục chưởng" ra thi thố nhưng cánh tay

của Gia-luật-Tề đưa ra bắt đao quá mạnh và lanh lẹ như một vòi voi, bao nhiêu thế võ

của nàng bị phá hỏng hết.

Thật tình Gia-luật-Tề muốn đưa ra những ngón đòn thật hại để thị oai, khiến nàng

hoảng sợ tự ý rút lui chứ trong thâm ý không muốn tấn công sát hai nàng.

Hai người đang mải mê đánh nhau chưa phân thắng bại Hoàng-nhan-Bình định đưa

mấy đòn "tuyệt kỷ" của Dương-Qua ra thi thố thình lình có tiếng đàn bà từ ngoài cửa

gọi vào:

- Gia-Luật công tử hãy khá đề phòng. Nàng ấy cố ý lừa công tử phải dùng đến tay trái

để đánh nhau đó. Đừng lầm gian kế đấy nhé.

Đó là tiếng nói của Lục-vô-Song.

Gia-luật-Tề để ý thấy Hoàng-nhan-Bình dùng thế "Vân hoành Tần lĩnh".

Khi chàng vừa nghiêng mình cho ánh đao chém hụt qua một bên thì Hoàng-nhan-Bình

lẹ như chớp đem thế "khô đắng chiền thụ" chộp lấy tay mặt của chàng niếu xuống, rồi

tay kia trở ngược mũi đao đâm vào cổ họng để tự tử.

Gia-luật-Tề hoảng hốt muốn ra tay giải cứu nhưng tay mặt đã bị nàng nắm chặt. Nếu

đưa tay trái ra tiếp cứu, lại phạm vào điều cam kết, có hại đến mạng sống của mình.

Nhưng chàng lại chép miệng nghĩ thêm:

- Ta là đại trương phu, xem cái chết nhẹ như lông hồng. Nếu thấy một người đàn bà

sắp chết mà điềm nhiên không cứu thì còn gì là danh dự. Mặc dù mất mạng ta, nhưng

phải cứu người trước đã.

Vừa rồi được Lục-vô-Song nhắc khéo, Gia-luật-Tề cũng liên tưởng lại lời thề khi

trước, tuy nhiên vốn tay anh hùng hào kiệt, trọng danh dự hơn tính mạng, cho nên dầu

biết ra tay cứu người sẽ mất mạng, nhưng chàng vẫn mạnh dạn làm không do dự.

Sau một giây phút tranh chấp Gia-luật-Tề vội đưa tay trái giựt thanh đoản đao ném

luôn xuống đất.

Sau đó cả hai người đến thối lui ra sau, cách nhau mấy bước.

Gia-luật-Tề đưa chân vích thanh đao bay đến trước mặt Hoàng-nhan-Bình bảo lớn:

- Cô nương, nàng đã bắt buộc được tôi phải sử dụng hai tay kiếm, tôi thua cuộc và giữ

đúng lời cam kết cũ tôi bằng lòng để cho nàng quyết định về mạng sống của tôi,

nhưng trớc giờ phút nhắm mắt tôi muốn yêu cầu cô nương một chuyện.

Hoàng-nhan-Bình rất cảm động trước thái độ hiên ngang chính đại của Gia-luật-Tề,

nên run run hỏi:

- Công tử muốn yêu cầu điểm gì xin cứ nói ra.

Gia-luật-Tề nhìn thẳng vào mắt nàng nói từng tiếng một:

- Tôi chỉ xin Cô nương đừng giết hại phụ thân tôi.

Hoàng-nhan-Bình không đáp, bặm môi múa đao xông lại để chém.

Dưới ánh đen thắp sáng như ban ngày, Gia-luật-Tề điềm nhiên đứng yên không cử

động, đợi chờ giây phút cuối cùng của mình, không hề cảm xúc, khí sắc hiên ngang

rực rỡ như một vị thiên thần.

Hoàng-nhan-Bình vốn là một nữ lang đa cảm, thấy thái độ Gia-luật-Tề quá cao

thượng, bỗng nảy ra ý tưởng vừa thương hại, vừa thán phục. Nàng suy nghĩ:

- Người ta đã ba lần dừng gươm tha ta thoát chết. Nay chỉ vì chữ tín người ta hiên

ngang khứng nhận cái chết lẽ nào mình nằng nàng đi lợi dụng sự khí khái của người

ta mà ra tay hạ sát một "chân chính hảo hán", sao?

Nét mặt uy nghi đằng đằng sát khí của nàng bỗng dịu xuống. Nàng buông rơi thanh

đao xuống đất, lắc đầu mấy cái rồi quay mình chạy ra khỏi cửa.

Trong lúc thần hồn bất định, Hoàng-nhan-Bình cứ cắm đầu chạy mãi, không biết đi về

hướng nào, và không biết chạy để làm chi nữa. Chạy một hồi lâu đến một con suối

nước sâu thăm thẳm, nàng mới dừng chân đứng lại, đến gần bờ nhìn xuống đáy. Đêm

khuya đen nghịch, vài ánh sáng lóng lánh chiếu xuống giòng suối như những con đom

đóm; suối rộng, nước sâu không thể nào vượt qua nổi. Nàng do dự đứng nhìn, tâm

thần thác loạn khó tới khó lui, vẩn vơ nhìn trời mây, nghe gió rì rào thổi, buồn ơi là

buồn! Bất giác nàng thở dài một tiếng như xé lòng.

Thình lình sau lưng nàng cũng có một tiếng thở dài đáp lại.

Tiếng thở dài vang lên trong bầu không khí vắng lặng giữa cánh đồng không, bên bờ

suối thẳm nghe lành lạnh rợn người. Hoàng-nhan-Bình cảm thấy như có một luồng

băng giá chảy qua xương sống. Nàng có cảm giác như quỷ ghẹo ma trù lơ láo đưa mắt

nhìn ra phía sau.

Cách nàng vài thước có một bóng đen đứng đấy từ bao giờ, nhìn lại là Dương-Qua.

Nàng đổi sợ làm mừng chỉ kịp kêu lên hai tiếng "Anh Hai - rồi ngồi xụp xuống đất,

hai tay bưng mặt thổn thức.

Dương-Qua bước lại đỡ vai nàng đứng dậy miệng an ủi:

- Em Bé, tại em nông nổi hấp tấp quá! Thờ cha mẹ là việc vô cùng trọng đại, đâu phải

trò đùa mà có thể làm được trong một ngày một bữa như em đã tưởng.

Hoàng-nhan-Bình len lén nhìn chàng hỏi nhỏ:

- Có lẽ anh đã hiểu qua đầu câu chuyện rồi chứ?

Dương-Qua lặng thinh gật đầu.

Hoàng-nhan-Bình nắm tay chàng nói se sẽ như thở than, oán trách:

- Anh Hai! Em thừa biết ý chí kém cỏi, tài nghệ cũng không ra chi nên không thể nào

báo thù cho song thân được. Em có nhờ anh giúp đỡ thì anh lại ngơ đi thì làm sao nên

công việc được.

Dương-Qua nắm tay nàng chậm rãi đến một gốc cây ngồi trên bãi cỏ, hai vai kề nhau,

dịu dàng an ủi:

- Em không nên nóng lắm càng dễ hỏng việc. Em học võ công cho nhiều, bản lãnh

cao siêu tới đâu cũng vô ích nếu em không thấy được ai là kẻ thù chính. Ngay như

anh đây, cả cha mẹ đều chết trong những trường hợp vô cùng bi đát, chẳng minh

bạch, mà ngày nay anh chưa dò xét ra manh mối. Ngày anh chào đời, cha anh đã chết

cho nên lớn lên, anh chưa hề biết được mặt cha mình, cũng chẳng biết ông chết ra

sao. Hoàng-nhan-Bình ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao vậy hở anh.

Dương-Qua buồn rầu kể lể:

- Anh mồ côi cha ngay từ khi còn trong bào thai. Khôn lớn lên lắm lúc có hỏi mẹ vì

sao cha chết và ai đã giết cha mình, nhưng mẹ anh chỉ nhìn anh lắc đầu và khóc mãi,

không chịu nói. Vì sợ gợi lại nỗi đau buồn cho mẹ, anh không dám hỏi thêm.

Anh cứ đinh ninh có lẽ chờ khi khôn lớn mẹ sẽ thuật lại rõ ràng, chẳng ngờ vài năm

sau, mẹ anh bị rắn độc cắn sắp chết. Trong giờ phút hấp hối của mẹ, anh có hỏi lại

chuyện này nhưng mẹ anh chỉ đáp:

- Cha con làm những điều không đứng đắn dầu chết cũng đáng đời. Người giết cha

con là một nhân vật rất tốt, bản lãnh cao siêu, có địa vị rất cao trên xã hội và trong võ

lâm nữa. Thôi để cho cha con chết cho yên thân, con chẳng nên đề cập tới hai chữ

báo thù làm gì nữa.

Dương-Qua muốn đem chuyện mình ra làm điển hình mong làm dịu lòng cô em út,

chàng bỗng nghĩ đến tiếng đời thường nhắc lại lời nói của tiểu nhân:

- Người giết cha mình là kẻ thù số một, không đội trời chung. Đứa con không lo báo

phục thù là đại bất hiếu.

Nhưng trong trường hợp chàng, biết ai là kẻ thù mà hòng trả oán? Nếu cứ làm thinh

cho oán thù rơi trong dĩ vãng của thời gian thì mình đâu xứng đáng là người con trai

của thế hệ, có sống cũng chỉ làm bia miệng cho người đời phỉ nhổ.

Nhưng muốn báo thù một kẻ vô danh, thì làm sao cho tròn nổi!

Suy nghĩ đến đây chàng lại cảm thấy xót xa cho thân phận.

Hoàng-nhan-Bình hỏi:

- Cha anh chết trước, mẹ anh cũng chết khi anh còn bé. Vậy anh nhờ ai nuôi nấng cho

đến ngày nay?

Dương-Qua đáp:

- Thân anh kể ra thật muôn cay ngàn đắng. Ngày mẹ anh bất hạnh qua đời, anh lang

bạt rày đây mai đó, không cửa không nhà, đói thì xin ăn, ngủ nơi xó chợ đầu đường.

Lắm khi xin ăn không có, bao tử hành hạ, phải lẻn vào vườn người hái trộm trái dưa

quả mít đỡ lòng. Rủi ro bị chủ túm được họ thẳng tay đánh đập không chút thương

tình. Vì vậy nên mình anh chỗ nào cũng đầy cả vết thương và sẹo.

Miệng nói, tay chàng vén quần, xăng áo, chỉ cho Hoàng-nhan-Bình xem thử.

Trong bóng tối lờ mờ xem không rõ, Hoàng-nhan-Bình lấy tay rờ theo các chỗ, thấy

thịt chỗ lồi chỗ lõm quả nhu lời chàng nói.

Vốn có tánh đa sầu đa cảm, một bệnh chung của giới quần thoa, Hoàng-nhan-Bình sờ

đúng những vết thẹo to lòng thấy xót xa như bị xát muối và tự nghĩ:

- Thân ta tuy nổi trôi bềnh bồng do cảnh nhà tan nước mất nhưng nhờ tiền của còn

nhiều, gia đình đông đúc, nhiều người thân yêu, nếu so với số phận chàng, ta còn

hạnh phúc hơn gấp mấy lần.

Hai người mải nắm tay nhau trong im lặng như lắng nghe tiếng động của đôi tim

,Hoàng nhan Bình ghé tai Dương Qua khẽ hỏi:

- Anh võ nghệ cao siêu mà đầu phục bọn Mông Cổ , chúng phong anh được chức

phận gì ?

Dương Qua cười hà hà đáp :

- Tôi ăn vận như thế này cốt để cải trang che mắt một kẻ thù lợi hại đang tìm kiếm

chứ đâu có phaỉ người của Mông Cổ .

Hoàng nhan Bình không giấu được nỗi vui mừng đang bồng bột trào dâng , nhảy tung

lên vỗ tay hô lớn :

- ồ , hay quá , may quá ! Thật không có gì sung sướng cho bằng .

Dương Qua trố mắt hỏi :

- ủa , em làm chi lạ vậy ?

Hoàng nhan Bình thấy mình hơi lố lăng , mắc cỡ đỏ hồng đôi má rồi lẽn bẽn đáp :

- Trên đời này , quân Mông Cổ là kẻ thù số một của em . Em chỉ lo ngại nếu anh là

tay chân của bọn chúng thì ...

Nàng nói đến đây tắt lời vì quá cảm động .

Dương Qua mân mê bàn tay của nàng vừa mềm mại vừa mát mẻ , cõi lòng nao nao rạt

rào tình thương mến , bỗng nhiên thấy mất cả tự nhiên thường lệ , vội gợi chuyện cho

đỡ ngượng :

- Này em , giá anh làm quan to của nước Đại Kim chắc em cưng chiều , quý trọng

lắm phải không ?

Hoàng nhan Bình ngay từ phút gặp gỡ đã dành nhiều cảm tình cùng anh chàng vui

tánh xinh trai lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mình . Qua mấy lần nói chuyện nàng đã

có lòng thầm yêu trộm nhớ đến chín phần mười , khi được hiểu rõ thân thế long đong

càng thương cảm hơn gấp bội . Nay biết chàng hợp ý với mình càng mừng hơn nữa

nên thở dài , rầu rầu đáp :

- Nếu phụ thân em còn sống , anh muốn gì cũng được hết . Rủi phụ thân em đã qua

đời , em hết chỗ nương tựa , đâu còn có gì nữa . Nhắc lại chỉ làm cho lòng thêm chua

xót .

Dương Qua thấy nàng quả hết lòng thương yêu mình , nói năng thật thà chất phát , lời

lẽ ôn hoà , cảm động lắm đưa tay nắm đôi vai tròn rồi vuốt nhẹ đôi má ửng hồng của

nàng , ghé gần tai nói nhỏ :

- Em bé , em của anh ... anh muốn ... xin em một ... điều thôi .

Hoàng nhan Bình cũng cảm thấy sóng tình rào rạt , đầu óc nóng bừng , tâm thần bất

định . Nàng cũng đoán trước được phần nào ý muốn của Dương Qua nên khẽ siết bàn

tay chàng , gật đầu nói :

- Anh muốn gì cũng được . cứ nói thẳng đi đừng e ngại úp mở gì hết .

Duơng Qua thì thầm qua lời nói e thẹn thiếu tự nhiên :

- Anh chỉ cần xin được hôn .. hôn vào đôi ... mắt đẹp của em . Ngòai ra anh cam đoan

không dám đòi hỏi hay động chạm gì đến chỗ khác nữa .

Khi mớí nghe lời chàng cầu xin lúc đầu , nàng đoán có lẽ chàng muốn cầu xin đính

ước cầu hôn . Khi đưa tay sờ vào người chàng thấy châu thân nóng ran , gân cốt giật

lên rần rật như chạm phải luồng nhiệt điện , nàng lại e rằng chàng sẽ nài ép chuyện

mây mưa trắng gió ngay tại đây . Nàng đinh ninh nếu quả vậy sẽ chống cự đến cùng

mặc dầu trong thâm tâm nàng cũng bị xâm chiếm bơỉ một sự ham muốn rạo rực .

Nhưng lúc sờ vào người chàng lại thấy có một luồng hơi âm ấm chuyển sang khiến

cho nàng đờ người ngẩn ngơ mất hết nghị lực hay phản ứng , cố ghì lấy vai chàng

như chờ đón một câu nài ép ái ân để mà ... nhận lời , tránh bớt sự đòi hỏi của thể xác

đang tràn nhựa sống .

đến khi nghe chàng cầi xin hôn vào đôi mắt , Hoàng nhan Bình chưng hửng và chán

nản quá , nghĩ bụng :

- Sao có chuyện tréo cẳng ngỗng như thế này ! Quả là thằng Ngốc , người đời đặt tên

không sai !

Nàng cứ thẫn thờ , có bực bội , lòng rối như tơ vò .

Nàng chớp chớp như muốn ứa lệ vì tức bực , vừa thẹn thuồng và thất vọng , chỉ tức

một điều là không biết làm sao tỏ bày thật ý mình mong muốn .

Dương Qua nhìn vào những giọt lệ trên vành mi của Hoàng nhan Bình lóng lánh như

ngọc trai , bỗng nhớ đến đôi mắt đẹp của Tiểu long Nữ tha thiết nhìn mình trước khi

từ biệt nên lửa lòng bốc lên ngùn ngụt , tay lại như hùm dữ , ôm chầm nàng , ghì thật

chặt vào lòng , đắm đuối hôn hoài đôi mắt không biết chán .

Hoàng nhan Bình bị chàng siết mạnh quá muốn ngộp thở , trong lòng hoang mang

chưa đoán được chàng sẽ làm việc gì nữa đây nên không tiện hỏi .

Ngày cùng chúng sống với Tiểu long Nữ tại Mộ Đài , Dương Qua chỉ nhìn đôi mắt

đẹp như sóng nước mùa thu của cô nương mà quên cả mọi vật trên đời , tuy vậy chàng

chỉ cảm thấy vui thích sung sướng ấm lòng chứ không có tà tâm .

Tiểu long Nữ ra đi như chim trời bạt gió , góc biển chân mây . Dương Qua chỉ biết

nhớ lại hình bóng nàng thương nhớ thiết tha . Từ ngày đụng chạm cọ xát cùng Lục

vô Song , chàng mớí cảm thấy những niền rung cảm huyền diệu mê ly của đôi trai gái

. Giờ phút này được hôn những hạt lệ nóng hổi trên mi mắt người tình , chàng mới

cảm thấy cái hương vị thơm tho , mặn nồng của tình ái .

Buông Hoàng nhan Bình ra , Dương Qua ngây ngất , nghĩ lại những ngày qua , biết

bao lần Tiểu long Nữ đã liếc mắt đưa tình mở đường cho chàng đi tới nhưng chỉ vì

quá khờ khạo thật thà không nắm được cơ hội khiến cho bao nhiêu dịp tốt trôi qua

mất .

bây giừo chàng mới nhớ lại và thông cảm những lời nói cuối cùng của tiểu long Nữ và

nghĩ bụng :

- Cô nương đã thật tình thương yêu ta , đem chuyện vợ con bàn cùng ta thế mà ta cứ

ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng biết một tý gì đến nỗi nàng buồn ý thất vọng bỏ núi ra đi .

Ngày nay ăn năn việc đã muộn rồi , muốn gặp lại cô nương còn đâu nữa .

Lòng bị xâu xé bở một niềm ân hận , bực tức Dương Qua muốn đập đầu vào gốc cây

tự vẫn cho rồi nhưng một trận gió nhẹ thoảng qua , mùi thơm của da thịt Hoàng nhan

Bình lại phảng phất vào mũi , chàng lại ôm nàng vào lòng honâ nưã , quên cả ý muốn tự

tử vừa rồi .

Hoàng nhan Bình lim dim đôi mắt nằm gọn trong đôi cánh tay chăcù nịch của Dương

Qua đang quàng vong quanh chiêc lưng thon . Nàng cảm thân thể như muốn bốc

cháy dưới những cai hôn nồng nàn kéo dài vô tận . Mặc cho chàng nâng niu ôm ấp ,

tóc ngọc thưởng hoa , nàng cảm thấy tâm hồn chơi vơi trong sóng tình dào dạt , tận

hưởng bao nhiêu hương vị ngây ngất của men tình .

Hoàng nhan Bình nhắm nghiền đôi mắt , đôi môi hé mở , đê mê mà chờ đợi nhưng

nàng chỉ cảm thấy đôi môi nóng bỏng của chàng hết ở mắt này lại sang mắt kia ,

không có một động tác nào khác nữa .

Nàng thấy bực bội nên cũng khen thầm :

- Chú Ngốc quả đứng lời đã hứa ! Không biết hôn mắt thú vị làm sao mà ham lắm

vậy ?

Thình lình Dương Qua buông nàng ra cất tiéng gọi :

- Cô nương , cô nương .

tiếng kêu thật thiết tha cảm động , bao hàm tất cả sự thành thật của con tim . Nghe

giọng chàng thật nặng nề đau khổ , hình như đang gọi một kẻ thân yêu cách biệt

ngàn trùng xa xăm biền biệt và sau đó đã thất vọng vì nhận lầm người khác .

Nàng muốn hỏi chàng gọi ai nhưng chưa kịp mở lời bỗng có tiếng nói thanh thanh của

một thiếu nữ :

- Xin chào anh chị .

Cả hai người ngơ ngác bàng hoàng vì quá ngượng , vội buông nhau ra , đưa mắt nhìn

thấy có bóng người áo xanh đang thấp thoáng dưới một gốc cây lớn cách đó mười

bước .

Dương Qua vội vàng đứng dậy chắp tay vái chào :

- đã mấy lần được người có lòng chiếc cố giúp đỡ , ơn này không bao giờ dám quên.

Người ấy cũng chắp tay bái lại và nói :

- Dương lang quả thật con người đào hoa tốt số . Mải lo hú hí vớí người yêu mới mà

quên hẳn người bạn đồng hành đã bao lần cùng sống chết rồi chăng ? Chắc bao nhiêu

hứa hẹn thề nguyện bảo vệ cho nàng trong giây phút theo mây gió theo gió hết .

Dương Qua vừa mắc cỡ và lo lắng ấp úng hỏi :

- ủa , cô ... cô ... bảo ai vậy ?

Người ấy rầu rầu đáp :

- Lục vô Song chứ ai ! Nàng đã bị Lý mạc Thu bắt đi rồi .

Dường Qua giật bán người hỏi lớn :

- Trời thật sao ? Cô nhìn được tận mắt chứ ?

Người con gái nói :

- Nàng đã bị Lý mạc Thu bắt đi ngay trong lúc hai người đang mê ly âu yếm yêu

đương dưới gốc cây này .

Dương Qua ngơ ngác hỏi thêm :

- Nàng bị bắt lâu chưa , vào khoảng giờ nào ?

Người ấy đáp :

- Không lâu, mới đây vài khắc mà thôi. Lục-vô-Song khai rằng bộ sách "ngũ độc bí

truyền" đã bị bọn ăn mày Cái Bang chiếm đoạt rồi, nên Lý-mạc-Thu bắt nàng đi tìm

để chỉ. Tôi e rằng tánh mạng nàng không thoát được lần này nếu không giải cứu kịp

thời.

Dương-Qua vội nói:

- Vậy tôi phải đi ngay bây giờ tìm cứu nàng mới được.

Nữ lang lắc đầu nói:

- Dương-Qua có võ công linh diệu lắm, tuy nhiên vẫn chưa phải đối thủ của

Xích-luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu. Tôi chỉ e rằng làm hấp tấp rồi sa luôn vào tay hắn

thì uổng mạng mà chẳng đem lại một kết quả nào.

Mặc dầu trong đêm tối, nhưng mắt Dương-Qua tinh tế lạ thường nhìn rõ hết mọi vật.

Chàng trông thấy cô gái áo xanh mặt mũi quá sức xấu xa gớm ghiếc, có lẽ chưa có ai

xấu xí hơn nàng.

Thật không ngờ một con người có nhiều hảo ý, tâm địa tốt quá mà mặt mũi lại xấu

đến bực ấy.

Chàng hỏi thêm:

- Chúng tôi chưa có cái hân hạnh được quen biết cô nương nhưng chẳng hiểu vì sao

được cô nương có lòng tốt nhiều phen cứu giúp như vậy. Xin cô nương vui lòng biết

họ tên gọi là làm quen và để nhớ ơn mãi mãi.

Nàng đáp:

- Tên họ của tôi chẳng có gì đáng để ý. Sau này có dịp Dương huynh sẽ biết ngay.

Giờ phút này, cấp bách nhất là đi cứu Lục-vô-Song, xin Dương huynh phải lo liệu gấp

mới khỏi chậm trễ.

Nàng nói âm điệu dịu dàng, nhỏ nhẹ nhưng rất thanh tao, ai nghe cũng mến. Lạ một

điều là khi nàng nói bao nhiêu sớ thịt trên mặt không hề rung động. Hình như tiếng

nót phát ra từ một thây ma.

Dương-Qua gật đầu đáp:

- Quả đúng như vậy. Theo ý cô nương, bây giờ chúng ta cứu nàng bằng cách nào tiện

nhất? Xin cô nương vui lòng chỉ bảo cho.

Cô gái đáp:

- Kể về tuổi tác, kinh nghiệm các thứ, Dương huynh đều hơn tôi. Vậy Dương huynh

cứ tùy nghi định đoạt, khách sáo làm gì. Tôi sẵn sàng giúp sức nếu cần đến.

Dương-Qua rất cảm mến thái độ ôn hòa và khiêm tốn của nàng và nghĩ bụng:

- Nếu cứ xem mặt đoán người như thường lệ thì chắc ai cũng hiểu lầm nàng này ngay.

Nghĩ xong nói nhỏ:

- Vậy thì tôi đi ngay bây giờ và thề cứu nàng cho được. Cô nương có thể giúp sức

được chăng.

Nàng ấy đáp:

- Tôi xin sẵn lòng. Cô nuơng Hoàng-nhan-Bình, thế nào, có cùng đi với chúng tôi

không?

Dương-Qua nghe nói trong bụng khen thầm nàng có t cách mẫn thiệp lắm và trả lời

thay cho Hoàng-nhan-Bình:

- Hoàng-nhan-Bình thế nào cũng nhận giúp một tay rồi, khỏi cần hỏi nữa.

Nàng ấy bước lại trước mặt Hoàng-nhan-Bình chắp tay thi lễ và nói:

- Cô nương là người lá ngọc cành vàng, nên phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết

định công việc này vì Lý-mạc-Thu vô cùng lợi hại. Trên đời này Xích-luyện ma đầu

đã nổi danh là con người ác độc nhất. Chúng tôi thì không sao, chứ cô nương thì cần

cân nhắc kỹ trước khi nhận lời đấy nhé.

Câu nói có vẻ khiêm nhường và có thiện ý, nhưng cũng bao hàm sự khích lệ thử

thách.

Hoàng-nhan-Bình lễ phép đáp:

- Đối với tôi, Dương đại ca là một ân nhân, nên việc của chàng cũng như việc của tôi.

Tôi có bổn phận phải tiếp sức. Tiểu thư là bầu bạn mà đã có lòng giúp đỡ thì cả ba

chúng ta cùng đi cho vui.

Người ấy bước đến năm tay Hoàng-nhan-Bình ân cần nói:

- Thật hân hạnh được gặp nhau hôm nay. Chị lớn hơn tôi cứ gọi bằng em cho tiện và

thân mật hơn.

Trong đêm tối Hoàng-nhan-Bình đâu nhìn rõ gương mặt xấu xí của nàng. Chỉ nghe

giọng nói dịu dàng trong trẻo, bàn tay mát mẻ mềm mại, Hoàng-nhan-Bình đoán thế

nào cũng một tuyệt sắc giai nhân, mặt mày xinh đẹp lắm nên rất vui mừng hỏi:

- Năm nay chị mấy tuổi?

Nàng cười đáp:

- Lúc này chưa phải lúc tâm sự để tìm hiểu tuổi tác tên họ nhau. Dương huynh, sao

chẳng lên đường gấp cho kịp, chần chờ hoài không nên, việc cứu người như chữa lửa.

Dương-Qua gật đầu đáp:

- Cô nương quả chí lý. Vậy xin đi trước chỉ đường cho.

Nàng đáp:

- Tôi thấy Lý-mạc-Thu bắt Lục-vô-Song đa về hướng Đông Nam, có lẽ đi về Kinh tử

quan thì phải.

Thế rồi cả ba triển khai khinh công nhắm phía ấy lao đi vùn vụt nhanh như ba cái

bóng.

Kể về tài khinh công thì phái Cổ-mộ luyện theo bí quyết của "Ngọc nữ tâm kinh" đã

chiếm bậc nhất trong các môn phái thời bấy giờ.

Hoàng-nhan-Bình vốn là môn đệ của Thiết-chưởng-Bang và bang chủ là

Cửu-Can-Điêu, cứ theo biệt danh "Thiết chưởng thủy thượng phiêu" (bàn tay sắt nổi

trên nước) cũng đủ rõ tài nghệ khinh công kỳ diệu là dường nào rồi.

Nàng áo xanh tuy không nhanh lắm nhưng lúc nào cũng đi bén gót Hoàng-nhan-Bình.

Hoàng-nhan-Bình đi mau thì nàng đi mau, đi chậm thì nàng cũng đi chậm. Vì vậy nên

chưa rõ mức tuyệt đỉnh tối đa của nàng là đến đâu.

Dương-Qua thầm nghĩ:

- Không biết nàng này thuộc môn phái nào mà khinh công có vẻ trội hơn cả

Hoàng-nhan-Bình nữa.

Phàm bản chất đàn bà ưa hiếu thắng, hay là mình nên nhường cho hai cô đi trước để

họ vui lòng.

Nghĩ vậy chàng chậm bước đi ra sau.

Khi trời vừa rựng sáng, nàng áo xanh lấy lương khô trong bọc đem chia cho mọi

người lót dạ.

Dương-Qua để ý nhìn chiếc áo xanh của nàng. Tuy áo bằng vải bố tầm thường nhưng

đường kim mũi chỉ thật nhặc, lối cắt may vô cùng sắc sảo, ôm vừa vặn thân hình trông

rất đẹp.

Mọi thứ cần dùng, từ túi cơm khô, bầu đựng nước và các vật lặt vặt đều sắp đặt ngăn

nắp gọn gàng trong một cái bao xách đeo bên mình. Bấy nhiêu đó cũng chứng tỏ được

nàng này rất chu đáo trên mọi vấn đề.

Nhờ trời đã sáng, Hoàng-nhan-Bình nhìn thấy mặt nàng áo xanh xấu quá, chép miệng

than rằng:

- Con nguời nói năng dễ thương, tánh tình chu đáo, nhưng sao xấu tệ như vậy! xưa

nay ta chưa hề thấy một kẻ nào xấu như cô ấy.

Chờ ai nấy ăn xong, nàng áo xanh thu xếp đồ đạc rồi trước khi mọi người tiếp tục

theo hướng cũ, nàng hỏi Dương-Qua:

- Dương huynh, có lẽ Lý-mạc-Thu nhận diện anh dễ lắm phải không?

Dương-Qua đáp:

- Hắn gặp tôi nhiều phen, có lẽ đã biết mặt rõ lắm.

Nàng thò tay vào bọc rút ra một chiếc khăn mỏng dệt bằng tơ, trao cho và dặn thêm:

- Trong khăn này có gói một cái mặt nạ bằng da người. Dương huynh hãy đeo vào, tự

nhiên không kẻ nào nhận ra anh nữa đâu.

Dương-Qua mở ra thấy có một miếng da rất mỏng và mềm mại, phía trên có hai lỗ

mắt, và mũi mồm giống y nhu người thiệt, chỗ cao chỗ thấp trông rất lạ.

Dương-Qua mừng lắm, tỏ lời cảm ơn.

Nhìn chàng mang chiếc mặt nạ vào đã đổi ngay hình dạng, mặt mày xấu xa như quỷ

sứ, Hoàng-nhan-Bình chợt nghĩ ra một chuyện, vỗ vai nàng con gái áo xanh hỏi:

- Cô em mang mặt nạ mà tôi không để ý. Nãy giờ tôi cứ đinh ninh cô em mặt mày

xấu xí, thật ngốc quá!

Nàng ấy cả cười đáp:

- Dương huynh thật đẹp trai mà đeo mặt nạ vào trông thấy ngay. Đố ai nhận diện ra

nổi. Riêng phần em thì có đeo hay không cũng không thay đổi bao nhiêu vì sự thật

mặt mày em cũng không hơn gì cái mặt nạ.

Hoàng-nhan-Bình tò mò nài nỉ:

- Xấu đẹp gì cũng được, cô em cho chị xem bộ mặt thiệt một chút thôi mà.

Dương-Qua cũng sẵn tính háo kỳ nghe Hoàng-nhan-Bình nói như vậy, cũng vội bước

lại gần để xem thử.

Nhưng thiếu nữ mỉm cười đáp:

- Em chẳng tiếc gì chị. Nhưng xét bây giờ chưa phải lúc để biểu lộ hình tích nhau ra,

e không có lợi mà còn hại là khác. Xin chờ dịp sau vậy.

Thấy nàng chẳng bằng lòng, Hoàng-nhan-Bình cũng không nài ép nữa.

Mãi đến trưa, mặt trời đứng bóng, ba người đến một thị trấn nhỏ, đưa nhau tìm một

tửu quán nghỉ chân và ăn uống.

Tiểu-Bảo thấy Dương-Qua ăn mặc theo lối Mông-Cổ nên chẳng dám coi thường lo

hầu hạ săn đón tươm tất lắm.

Vừa khi đó thầy trò Lý-mạc-Thu dẫn Lục-vô-Song cũng bước vào trong quán.

Dương-Qua rất thông minh và lanh lẹ. Chàng đoán chắc nhờ chiếc mặt nạ này,

Lý-mạc-Thu không thể nào nhận ra mình nữa. Nhưng cần phải làm sao cho hắn đừng

có một điểm nào nghi kỵ mới phải.

Suy nghĩ xong chàng không nhìn lên hay ngó qua ngó lại, cứ cúi mặt xuống ăn uống,

thỉnh thoảng liếc lên xem chừng bọn hắn làm gì hoặc có bàn tán gì cùng nhau chăng.

Lục-vô-Song dĩ nhiên không nói năng một lời. Nhưng Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba

cũng cứ cặm cụi ăn uống không bàn luận gì cả.

Một chặp sau, gần xong bữa ăn, Hoàng-nhan-Bình khẽ đa chân hất nhẹ vào gót

Dương-Qua để nhắc nhủ chàng hành động kẻo chậm trễ.

Dương-Qua đã hội ý nhưng suy nghĩ:

- Nếu đem cả tài nghệ của ba đứa, hoặc nếu thêm luôn cả cô chị dâu đang bị nạn kia,

cũng chưa chắc đã làm gì xuể nổi Lý-mạc-Thu. Như vậy nếu đấu lực không lợi mà

cần phải dùng trí đối phó thì hơn.

Nghĩ vậy chàng ngó nàng láy mắt rồi tay cầm chiếc muỗng khoát khoát mấy cái ngụ ý

bảo chậm chậm đừng nôn nóng.

Vừa ngồi vào bàn ăn, Lý-mạc-Thu để ý nhìn theo Lục-vô-Song, thấy đôi mắt nàng

long lên sáng ngời chưa biết con bé này dự định việc gì đây. Quan sát khắp xung

quanh, Lý-mạc-Thu chỉ thấy ba người đang ngồi chăm chú ăn uống, và Lục-vô-Song

cũng không để ý tới bọn này, nên không lưu tâm đến nữa.

Dương-Qua cố ngồi yên không nhúc nhích nhưng dồn hết tinh thần nghe ngóng, vì

vậy nên Lý-mạc-Thu cũng không nghi ngờ tí nào.

Trong bầu không khí yên lặng có lảng vảng một sự nặng nề khó thở. Ngay khi đó có

tiếng chân đi rộn rịp từ phía cầu thang và hai người xuất hiện.

Hoàng-nhan-Bình đưa mắt xem thử cặp ấy là anh em Gia-luật-Tề và Gia-luật-Yên.

Hai người gặp Hoàng-nhan-Bình ngồi đây, rất ngạc nhiên nhưng cũng cúi đầu chào

hỏi, xong lại ngồi một bàn ở phía trước.

Lý-mạc-Thu thấy đôi nam nữ vừa bước vào vô cùng xinh đẹp, trai như phan an tái thế,

gái như ngọc nữ giáng trần, thật đáng một đôi trai tài gái sắc. Nàng đâu ngờ đó là hai

anh em một, cứ tưởng là cặp tình nhân đang rủ nhau đi uống rượu.

Số là sau khi Hoàng-nhan-Bình đã chạy rồi, anh em Gia-luật-Tề đoán chắc nàng

không trở lại nữa nên xin phụ thân đi xem phong cảnh vùng này và ghé vào đây giải

khát, không ngờ oan gia lại gặp oan gia.

Lý-mạc-Thu chưa thu hồi được quyền "Ngũ độc Bí truyền" thì luôn luôn đem lòng lo

lắng, ăn chẳng ngon ngủ chẳng yên. Vào bàn ăn, nàng chỉ nuốt qua loa vài miếng rồi

lại bên cửa sổ, tỳ tay vào lan can nhìn xuống đường tiêu khiển.

Bỗng phía đầu đường có hai người ăn mày bảy túi đang cùng nhau nói chuyện, chỉ trỏ

huyên thiên rồi sắp sửa đi nơi khác có vẻ hấp tấp lắm.

Lý-mạc-Thu bỗng nhớ ra một việc, đưa tay ngoắc hai người và lớn tiếng gọi:

- Này hai vị anh hùng trong Cái-bang, kính mời hai vị vào đây nhậu chơi. Tôi có một

việc muốn nhờ nhị vị về thưa lại cùng Bang chủ.

Sở dĩ thấy thái độ của họ đang hoảng hốt sắp bỏ đi đâu đó, nếu gọi lại để cho tiền như

lúc thường e họ không lại, vì vậy nên Lý-mạc-Thu lấy cớ là nhờ nói chuyện với Bang

chủ. Hai người sẽ nghĩ có chuyện rất quan trọng mới liên hệ đến Bang chủ nên buộc

lòng phải lên.

Lục-vô-Song theo dõi thấy sư phụ gọi hai người ăn mày trong bụng dự đoán có lẽ sư

phụ sẽ chất vấn về cuốn "ngũ độc bí truyền" nên đau lòng lo sợ, mặt mày tái mét, tim

đập đồm độp.

Gia-luật-Tề đã từng nghe danh Cái-Bang là một tổ chức to lớn có ảnh huởng vô cùng

sâu rộng trong nước. Bang chủ là một nhân vật siêu quần, tài cao xuất chúng. Nay có

một đạo cô hãy còn non tuổi mà gọi hai người ăn mày nhắn lời muốn nhờ chuyển lên

Bang chủ thì không hiểu nàng thuộc hạng người nào nên ngừng lại theo dõi xem thử

sự việc xảy đến ra sao.

Hai người ăn mày chống gậy lộp cộp vào tiệm đến trước mặt Lý-mạc-Thu hỏi:

- Kính xin tiên cô cho biết có điều gì chỉ dạy?

Chào hỏi xong, hai nguời đưa mắt nhìn xung quanh, vừa thấy Lục-vô-Song ngồi bên

cạnh, mặt người đã biến sắc vì tức giận. Y nhớ lại Lục-vô-Song đã đón đánh mình độ

nọ, chẳng biết vì sao lại ngồi đây, cho nên trong lòng hậm hực, chỉ muốn ăn gan nuốt

sống.

Lý-mạc-Thu mỉm cười và dịu dàng nói:

- Quý vị đừng nóng nảy vô ích, cứ xem lại mu bàn tay rồi sẽ biết.

Cả hai giật mình vội lật úp bàn tay xem lại. Trên mu bàn tay mỗi người in rành rành

một dấu bàn tay son đỏ đậm có đủ năm ngón.

Hai người đến tái mặt vì sợ hãi và kinh dị, tự hỏi:

- Không biết hắn hạ độc thủ hồi nào dấu vết "ngũ độc thần chưởng" đã khắc rõ trên

tay mà không hề hay biết.

Thật ra không riêng gì hai gã ăn mày không biết mà chính bọn Dương-Qua,

Gia-luật-Tề cũng chẳng ngờ được Lý-mạc-Thu hành động quá mau lẹ đến mức đó.

Thế là hai người ăn xin đồng thanh rú lên:

- Trời ơi, vậy Tiên-Cô là Xích-luyện Tiên-tử rồi còn chi nữa?

Lý-mạc-Thu làm thinh không đáp. Nàng điềm nhiên bưng ly rượu lên dùng tay xoay

một vòng. Bao nhiêu rượu thoát ra ngoài biến thành một vòng tròn quay tít trên

không. Nàng đưa tay khẽ phẩy một cái bao nhiêu rượu lại thu hồi vào chén như cũ

không rơi một hột nào.

Đây là một thế trong công phu thượng thừa của Cổ Mộ đài. Dương-Qua cũng có học

qua nhưng vì đào luyện còn non, chưa được tinh diệu bằng Lý-mạc-Thu.

Sau khi trổ tài để dằn mặt hai gã ăn mày, Lý-mạc-Thu từ từ bảo:

- Ta cảm phiền hai người về thưa lại với Bang chủ rằng xưa nay Lý-mạc-Thu này cam

phận nước sông, chưa hề lan tràn vào nước giếng và lúc nào cũng hâm mộ oai danh

của Đại Bang Khất Cái. Như vậy thì quý Bang cũng không nên vô cớ để sát hại lẫn

nhau nghe chưa?

Hai người lấm lét nhìn nhau rồi lén nhìn Lý-mạc-Thu. Lời nói của nàng sao mà dịu

dàng thanh nhã như vậy, mà hành động lại quá hiểm ác. Chẳng hiểu bọn mình đã làm

gì xúc phạm mà nàng nỡ hạ độc thủ.

Lý-mạc-Thu đoán biết tư tưởng của họ nên nói tiếp:

- Các ngươi đã trúng "Ngũ độc thần chưởng" nơi tay rồi. Mau mau về thưa lại cùng

Bang chủ đem cuốn sách trả lại xong, ta sẽ giải độc cho.

Hai người ngạc nhiên hỏi:

- Sách gì vậy. Chúng tôi không hề biết?

Lý-mạc-Thu tươi cười và ôn tồn nói:

- Cuốn sách ấy đã cũ kỹ và rách nát lắm rồi. Nhưng nếu sợ mất một trang thì một

trăm mạng người cũng không bù được nổi.

28. Nữ lang áo đỏ với cặp thần điêu

Tuy biết mình đã bị độc chưởng nhưng hai người vẫn chua thấy đau đớn hay có gì

khác lạ trong người. Đến khi nghe Lý-mạc-Thu nói giọng hăm dọa thì giựt mình, xem

lại mu bàn tay thấy dấu đỏ càng lúc càng lan rộng thêm. Lúc bấy giờ cả hai mới bàng

hoàng và không còn mơ hồ gì nữa. Độc thủ của Xích luyện thần chưởng đã nhiễm vào

người đúng sự thật một trăm phần trăm rồi.

Thấy Lý-mạc-Thu hăm giết hàng trăm mạng để đổi cuốn sách ấy thì cả hai càng lo âu

hơn nữa, nhắm phải về thưa lại Bang chủ ngày không còn trì hoãn được nữa.

Thế rồi họ ngầm đưa mắt láy nhau ra ám hiệu và chạy luôn ra ngoài không một lời bái

biệt.

Nhìn theo hai người ăn mày khuất dạng ngoài đầu phố, Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Chúng bay đã trúng "ngũ độc thần chưởng" rồi thì không một danh sư nào có thể

chữa nổi. Suốt gầm trời này, chỉ trừ một mình Nhất-Đăng Đại-Sư, không có một kẻ

nào, hay một phương tiện nào có thể cứu chữa được nữa. Nếu Bang chủ bây muốn cứu

mạng hai đứa, phải đem trả cuốn "Ngũ độc bí truyền" may ra ta sẽ ra ơn mới khỏi

chết.

Nhưng bỗng nhiên nàng sạm mặt vì một ý nghĩ khác:

- Tất cả bí truyền của "ngũ độc thần chưởng" và phương pháp cứu cấp đều có ghi rõ

trong cuốn "ngũ độc bí truyền". Sách này hiện đang nằm trong tay ban Khất-Cái. Bọn

chúng chỉ cần học theo đó mà giải cứu chứ cần gì nhờ đến mình nữa.

Nghĩ đến đây nàng toát mồ hôi ướt áo, vội vàng phi thân bay vút theo để bắt hai người

ấy lại.

Trong phút chốc, nàng đã đuổi theo kịp và đưa tay nắm đầu lôi lại.

Hai người đang đi bỗng nghe gió lộng đàng sau, một ánh vàng thấp thoáng vừa đến

thì một cánh tay của một người đã bị túm chặt kéo ngược trở lại.

Vì sức kéo quá mạnh, xương tay hắn gãy lìa răng rắc.

Người kia vội vàng xáp lại cố đánh để giải thoát cho bạn. Nhưng Lý-mạc-Thu khẽ

lách qua một bên thoát khỏi đường quyền, vung bàn tay trái ra giả đập vào mặt. Người

ấy cả sợ cúi đầu xuống tránh. Tức thì nàng xòe tay chém sả xuống một nhát gãy tiện

xương vai.

Trong chớp mắt cả hai người đều bị trọng thương. Tuy cố gắng vùng vẫy nhưng vẫn

không thoát khỏi và bị nàng lôi luôn về tiệm nước.

Đến nơi, Lý-mạc-Thu xô hai nguời trên mặt đất cười bảo:

- Hai ngươi tạm ở đây dưỡng bệnh. Chừng nào Bang chủ đem sách đến trả ta sẽ cho

đổi mạng hai đứa mang về.

Nàng điềm nhiên kêu thêm rượu rồi ngồi xây lưng về phía hai người để uống.

Hai người dáo dát nhìn nhau rồi muốn tìm cách chạy thoát. Hình như Lý-mạc-Thu đã

biết rõ thâm ý ấy nên quay lại cười lớn nói:

- Hai ngươi đã sả vai gẫy tay rồi. Nếu biết thân ở lại đây điều dưỡng thì đưbợc yên

thân, tìm cách tẩu thoát sẽ gãy thêm chân nữa đấy nhé.

Nói xong nàng ngồi quay ra ngoài, ung dung rót rượu uống hình như không cần đếm

xỉa gì đến kẻ khác.

Hồng-lăng-Ba động lòng bèn nói:

- Sư phụ, bọn chúng đã bị thương nặng. Sư phụ không tha cho khuất mặt để ở đây có

ích gì đâu.

Lý-mạc-Thu hứ một tiếng đáp:

- Hôm nay sao cô giầu lòng nhân đạo vậy?

Nói rồi nàng đứng dậy xăm xăm bước đến gần hai người ăn mày.

Hai người này uất ức quá, đôi mắt trừng trừng nhìn thẳng vào mặt Lý-mạc-Thu, muốn

ăn gan uống máu. Dẫu đã bị thương, nhưng nếu nàng còn ra tay hành hạ nữa, hai

người sẽ thí mạng không tiếc.

Anh em Gia-luật-Tề nãy giờ ngồi ngoài nhìn xem sự việc xảy ra, ai nấy đều bất nhẫn

và căm hờn thái độ kiêu căng, hành động quá ác của Xích-luyện Tiên-Tử.

Gia-luật-Tề bảo nhỏ em gái:

- Hiền muội hãy kiếm đường tạm lánh xa đi, con ác phụ này hung bạo lắm.

Gia-luật-Yên hỏi:

- Còn anh thì sao?

Chàng nói nhỏ:

- Chờ anh trừ được con ác phụ rồi sẽ ra sau. Thôi em đi đi để khỏi nguy hiểm.

Thật ra Gia-luật-Yên lúc nào cũng quý mến anh, đời nào nàng để Gia-luật-Tề ở lại với

sự hiểm nghèo và lánh đi ra ngoài một mình cho yên thân được.

Vì vậy cho nên tuy không dám cãi, nàng vẫn bần dùn chưa biết nên ở hay đi.

Ngay lúc ấy Dương-Qua phi thân bay vút qua gần Gia-luật-Tề khẽ bảo:

- Đại huynh, chúng ta cùng ra tay một lượt thì hay hơn. Cứu nạn cho kẻ yếu đâu phải

phần việc của riêng ai.

Gia-luật-Tề thấy người này ăn mặc y phục Mông-Cổ nhưng mặt mày quá xấu xí, có

lẽ từ xa đến nay chưa có một thanh niên nào xấu xa bằng. Chàng suy nghĩ:

- Người này là ai, bản lãnh như thế nào chưa rõ. Hắn ngồi chung bàn cùng

Hoàng-nhan-Bình, chắc nàng biết rõ, tông tích, nhưng chẳng lẽ đi gạn hỏi bây giờ.

Đành rằng việc cứu khốn phò nguy là nhiệm vụ của kẻ cầm gươm. Nhưng

Xích-Luyện Tiên-Tử Lý-mạc-Thu đâu phải tay vừa. Ta làm sao chống cự nổi hắn.

Người này dầu tài giỏi cũng chưa chắc hơn ta, nếu cả hai cùng nông nổi e mất mạng

vô lối.

Trong khi ấy, Lý-mạc-Thu cũng nhận được tiếng quen quen của Dương-Qua. Nhìn

mặt chàng quá xấu xa và hoàn toàn xa lạ nhưng nghe tiếng nói thì nhất định có tiếp

xúc hay tranh tài nhiều bận tại một nơi nào rồi, nhưng nghĩ chưa ra.

Lúc đó Dương-Qua nói tiếp cùng Gia-luật-Tề:

- Đại huynh chờ tôi đi mượn gươm đã, vì tôi không có vũ khí.

Nói rồi chàng xoay mình bay sát bên Hồng-lăng-Ba đưa tay nắm gươm nàng và nói

nhỏ:

- Nương-Tử xin vui lòng cho mượn tạm thanh kiếm nhé!

Hồng-lăng-Ba chưa kịp đối đáp ra sao thì gươm đã bị đoạt mất rồi.

Dương-Qua nắm gươm trong tay rồi xông ra đứng sừng sững giữa Lý-mạc-Thu và hai

người ăn xin.

Thấy thân pháp người này vô cùng lanh lẹ, Lý-mạc-Thu cảm thấy chột dạ, để ý xem

chừng. Riêng Gia-luật-Tề được biết tài năng của người bạn lạ thì lòng mừng vô hạn,

cùng bước đến gần khẽ hỏi:

- Xin Đại-huynh vui lòng tỏ bày quý tánh cao danh để tiện bề xưng hô.

Dương-Qua đáp:

- Tôi họ Dương!

Nói rồi chàng vung gươm lên, nhung bỗng hoảng hốt buột miệng nói:

- ấy chết, ta mượn lầm thanh gươm gãy rồi.

Vừa nghe được câu ấy, Hồng-lăng-Ba vụt nhớ ra và gọi lớn:

- Sư phụ, lại hắn nữa rồi. Chính thằng bé đấy sư phụ ạ!

Biết không tiện che đậy nữa, Dương-Qua đưa tay vuốt chiếc mặt nạ xuống và lễ phép

nói:

- Đệ tử Dương-Qua xin kính chào Sư-bá. Xin chào mừng liệt vị.

Nghe lối xưng hô "Sư-bá" của Dương-Qua, Gia-luật-Tề hoảng kinh nghĩ bụng:

- ồ té ra họ cũng một phái với nhau cả, phen này quả thật mình đã sa chân vào cạm

bẫy đầy chông gai và rắn độc.

Lục-vô-Song cũng lẩm bẩm:

- Nhất định là chú Ngốc rồi chứ ai nữa. Nếu không phải hắn thì sao xưng hô như vậy?

Lý-mạc-Thu cất tiếng rang rảng lảnh lót hỏi:

- Mi đó hả? Sư phụ mi mạnh giỏi chứ?

Nghe nhắc đến sư phụ, Dương-Qua thấy đau nhói trong tim, mắt đỏ ngầu ngấn lệ.

Lý-mạc-Thu nói thêm, nửa đùa nửa thật:

- Tiểu-long-Nữ cũng có mắt tinh đời, khéo chọn đệ tử lắm. Thày trò mi quả thật vừa

lứa xứng đôi!

Dương-Qua bỡ ngỡ đứng yên chưa biết nói sao.

Nguyên từ khi gặp lại Dương-Qua lần thứ nhì, Lý-mạc-Thu hết sức ngạc nhiên thấy

tài nghệ chàng tăng tiến rõ rệt vì vậy nên hôm nay thấy chàng cùng xuất hiện với

nhiều người lạ cũng đem lòng e ngại. Nàng muốn tìm cách ly gián và nói chọc tức để

thủ thắng.

Nàng chậm rãi nói tiếp:

- Mi đi đâu lại trôi dạt về xứ này?

Dương-Qua chưa hiểu dụng ý của hắn ra sao, chắp tay bái một cái và nói:

- Sư phụ tôi có lời kính chào Sư-bá!

Lý-mạc-Thu hỏi:

- Mấy lâu nay chị em ta không có dịp gặp nhau, nên đem lòng tưởng nhớ. Hiện nay

Sư phụ mi ở đâu rồi.

Dương-Qua đáp:

- Sư phụ tôi cũng ở gần đây, lát nữa sẽ đến gặp Sư-bá đấy.

Dương-Qua cũng thừa rõ sức mình, ngay có cả anh em Gia-luật-Tề cũng chưa thế thủ

thắng được ác phụ. Chàng cố đặt điều lấy oai cô nương để lòe cho Lý-mạc-Thu sợ

đừng bức sách mình lắm, hoặt rút lui đi ra khỏi đánh nhau cho đỡ khổ.

Lý-mạc-Thu lạnh lùng đáp:

- Ta chỉ hỏi cho biết thầy trò mi làm gì, chứ đâu có cần gặp mặt.

Dương-Qua nói:

- Sư phụ tôi định gặp Sư-bá để cầu xin Sư-bá rộng lòng tha tội cho Lục-sư-muội.

Chẳng lẽ Sư-bá còn giận hờn không chịu tiếp ?

Lý-mạc-Thu cười lạt nói:

- Mày đã cùng Su-phụ mày làm những chuyện loạn luân, quả tệ hơn loài cầm thú.

Hôm nay trước mặt ta còn giả ơn giả nghĩa, thầy thầy trò trò quả không biết xấu hổ.

Nghe Lý-mạc-Thu nhục mạ, Dương-Qua tức muốn điên người. Xa nay chàng tôn

sùng kính mến Tiểu-long-Nữ hơn ai hết. Hôm nay Lý-mạc-Thu chẳng những vu

khống cho mình mà còn trắng trợn bêu xấu Su-phụ nữa, quả là một điều không thể

chịu nổi. Chàng trợn mắt nhìn, rồi vung gươm xông vào chém loạn xạ.

Lý-mạc-Thu né sang một bên cười trêu nói thêm để chọc tức:

- Ta tưởng bọn thú vật đã có gan làm việc loạn luân như mi thì chẳng biết gì liêm sỉ

nữa. Thế mà cũng biết giận hờn, xấu hổ sao?

Dương-Qua làm thinh không đáp nữa. Sử dụng thế "Liên hoàn kiếm" của

Trùng-dương-Cung tấn công liên tiếp.

Thấy thế kiếm cực kỳ ác liệt, Lý-mạc-Thu chẳng dám xem thường vội múa phất trần

chống cự.

Hai người cùng nhau tranh tài một chập lâu, Lý-mạc-Thu nhận thấy kiếm pháp của

Duơng-Qua vô cùng tinh thục, càng đánh càng hăng, càng múa càng dẻo, tất cả những

thế của mình đều bị hắn đoán trước khắc chế đợc hết, giá mình không dày công rèn

luyện khó bề cự địch nổi.

Càng nghĩ càng oán thầm Sư-phụ mình quá thiên vị, không truyền dạy cho mình tất cả

những bí quyết của vũ thuật sư môn, để đến bây giờ một đệ tử của Sư-muội mình biết

nhiều thế võ mà mình chưa được học.

Một chập sau, nàng thấy tay chân có phần lúng túng bèn hét lên một tiếng, nhảy vọt

lên không trung là là sa xuống, đặt một chân trên miệng ly còn chân kia co lên không

cử động. Nếu một kẻ khác thì cái ly phải bể tan dưới sức nặng của thân hình ngay.

Lý-mạc-Thu triển khai khinh công tuyệt kỹ nhón ngón chân khẽ đứng trên mép ly mà

vững như đinh đóng, toàn thân không xao động, rượu trong ly cũng không đổ ra một

giọt nào.

Đứng yên nàng mỉm cười hỏi:

- Sao, tình nhân mi có dạy cho mi được khinh công như vậy chưa?

Dương-Qua trợn mắt chỉ mặt Lý-mạc-Thu hét:

- Mi chớ nói càn, ai là tình nhân của ta mà hỏi bậy như thế?

Lý-mạc-Thu cất tiếng cười vang rồi nói lớn:

- Long Sư-muội đã có lời phát thị, nếu Thủ-cung-Sa chưa mất, không bao giờ rời khỏi

Cổ-Mộ đài. Hôm nay mi o bế quyến rũ như thế nào đến nỗi hắn thuận theo mi hạ san

một cách ngoan ngoãn. Như thế không phải là tình nhân thì là gì nữa hử?

Dương-Qua nổi giận đến cực độ, nhưng chẳng biết lấy câu gì biện bạch cho tiện,

chàng cũng phi thân nhảy lên và dùng khinh công đặt chân trên một miệng bát. Tuy

mức khinh công của chàng cũng khá điêu luyện, cái bát lớn mười lần chiếc ly nhưng

chàng vẫn bị loạng choạng mấy cái rồi mới giữ thăng bằng lại được.

Lý-mạc-Thu cười cười dùng cán phất trần điểm nhẹ vào sống kiếm và nói lớn:

- A, thế ra hắn cũng dạy cho mi khinh công khá lắm. Vậy mi phải cố ăn ở cho vẹn

tình để đáp lại thâm ân sư phụ nhé.

Dương-Qua tức giận gần lộn ruột, đỏ mặt tía tai quát lớn:

- Hỡi con điếm Lý-mạc-Thu. Mi quả thật là thú vật nên mở miệng nói ra những lời

bậy bạ như thế ấy.

Nói xong, lưỡi gươm đã vun vút chém tới, lấp loáng ánh hào quang.

Lý-mạc-Thu vẫn ung dung đỡ và chậm rãi nói với giọng kẻ cả:

- Muốn người ta đừng bêu xấu thì chính mình đừng làm điều tồi bại! Ta không ngờ

phái Cổ-Mộ lại sanh ra hai đứa bay, đến nỗi làm thương luân bại lý, xấu hổ tông môn,

thật đáng lấy mo che mặt để thiên hạ khỏi nhìn thấy mà chê cười.

Mỗi câu nói châm chọc của Lý-mạc-Thu như một mũi dao nhọn đâm vào tim của

Dương-Qua, khiến chàng thấy tâm thần bấn loạn vì uất khí đang trào dâng ngùn ngụt.

Hai anh em họ Gia-Luật, Hoàng-nhan-Bình, Lục-vô-Song lặng thinh đứng nghe,

không biết thật hay giả, chẳng nói một câu nào.

Ai nấy cũng đồng nghĩ bụng:

- Có tích mới dịch ra tuồng, nếu chẳng lửa thì làm sao có khói! Chuyện này nếu

không hoàn toàn ắt cũng phải có mấy phần đúng. Và hành vi nh vậy quả là một việc

làm đáng khinh bỉ.

Thế là ai ai cũng đinh ninh Dương-Qua là một thanh niên thiếu tư cách.

Trong khi Dương-Qua dùng kế nghi binh đem Tiểu-Long-Nữ ra chọc Lý-mạc-Thu,

trái lại Lý-mạc-Thu ngán tài nghệ của Dương-Qua lại sợ Tiểu-long-Nữ ra tiếp ứng

không đủ sức đánh lại nên đem những chuyện xấu xa phóng đại thêm để bêu xấu.

Nếu Tiểu-long-Nữ nấp đâu gần đây chắc sẽ xấu hổ mà cút luôn. Thật là vỏ quít dày

gặp móng tay nhọn.

Dương-Qua bản chất ngay thật, xưa này sùng kính Sư-phụ như một vị thầy bất khả

xâm phạm, thế mà hôm nay bị kẻ thù công nhiên phỉ báng không có lời bào chữa

được nên uất khí xông lên, đầu óc bấn loạn, hét lên một tiếng té nhào xuống ngất xỉu

luôn.

Lý-mạc-Thu cả mừng, huơi phất trần đập mạnh vào đầu Dương-Qua.

Gia-luật-Tề thấy tình trạng quá cấp bách, chẳng biết làm sao giải cứu kịp, vội cầm hai

ly rượu trợn mắt lia mạnh vào Lý-mạc-Thu nhằm vào hai yếu huyệt "Chi Duơng" và

"Dương Quan" mà điểm.

Lý-mạc-Thu nghe có tiếng gió vù vù sau lưng đoán có ám khí, bèn vận dụng nội công

bế tắc cả các huyệt đạo để chịu đựng, đồng thời dùng phất trần đập luôn vào sọ

Dương-Qua để hạ sát cho rồi.

Nhng nàng bỗng giật mình vì thấy hai ly chưa chạm vào người mà mùi rượu đã thấm

vào hai huyệt đaọ "Dương-Quan" và "Chi Dương". Như vậy kẻ ném ly phải là một tay

cao thủ đáng ngại. Đó là cái vạ bên lưng cần phải trừ trước. Còn thằng ranh này sẽ

giết sau cũng được.

Nghĩ rồi nàng quay phắt cây phất trần gạt mạnh đôi ly. Phất trầm chạm vào ly, chấn

động cả cánh tay, Lý-mạc-Thu thất kinh suy nghĩ:

- Chà, nội lực ghê lắm! Hay là con A đầu Tiểu-long-Nữ đã đến rồi chăng?

Sau khi định thần nhìn lại thì không phải Tiểu-long-Nữ, mà là một thanh niên tuấn tú

ăn mặc theo lối Mông-Cổ. Nàng ngạc nhiên lẩm bẩm:

- Bọn trẻ ranh sao lắm đứa lợi hại như vậy nhỉ?

Lúc đó Gia-luật-Tề tuốt trường kiếm, cất giọng sang sảng nói:

- Cô nương võ nghệ tuyệt luân, xin chỉ giáo cho tiểu sinh vài đòn.

Lý-mạc-Thu ngán tài ném ly của người này, nhưng thấy bước chân đi còn nặng nề thì

biết rằng công phu chưa đáng kể mấy nên yên chí nạt rằng:

- Các hạ là người ở đâu, đệ tử của vị nào, tự nhiên lại xen chân vào công việc của kẻ

khác như vậy?

Gia-luật-Tề đáp:

- Tiểu sinh là Gia-luật-Tề, đệ tử của Toàn-Chân giáo phái.

Ngay khi tấy Dương-Qua sực tỉnh lại. Chàng đang mơ hồ nhìn xung quanh để nhớ lại

những việc vừa xảy ra, thình lình được nghe Gia-luật-Tề tự xưng môn đệ của

Toàn-Chân phái thì giựt mình sợ hãi.

Lý-mạc-Thu hỏi tiếp:

- Tôn-Sư của ngươi là ai? Mã-Ngọc hay Khưu-xứ-Cơ?

Gia-luật-Tề đáp:

- Hai vị đó đều không phải là Sư-phụ của Tiểu-sinh.

Lý-mạc-Thu nói thêm:

- Có lẽ là Vương-Xứ-Nhất chăng?

Gia-luật-Tề đáp:

- Thưa, cũng không phải.

Lý-mạc-Thu cả cười rồi đưa tay chỉ về phía Dương-Qua nói lớn:

- Thằng bé kia cũng xưng là người của Toàn-Chân phái, đệ tử của

Vương-Trùng-Dương đó! Vậy ngươi và hắn có quen biết nhau không?

Gia-luật-Tề đáp:

- Chính tôi đây và người ấy chưa hề quen biết. Nếu theo mức tuổi ấy thì làm sao có

thể là đệ tử của Vương giáo chủ được.

Lý-mạc-Thu cầm phất trần điểm mặt chàng nói:

- Bọn đệ tử Toàn-Chân chúng bay đều là bọn man trá, ăn nói bậy bạ, chẳng có chút gì

thành thật, làm sao mà tin nổi. Thôi chuẩn bị đỡ đây.

Nàng đưa phất trần đập luôn mấy nhát liên tiếp.

Gia-luật-Tề vũ lộng tay trái cầm kiếm gạt ngang, chân trái dang ra, tay mặt phóng

ngầm một mũi "định phong châm" bay vung vút về phía Lý-mạc-Thu.

Nguyên thuật ném Định phong Châm vốn là môn bí tuyển chính tông của

Toàn-Chân-Phái. Muốn ngọn châm phóng đi đúng đích phải tập trung đầy đủ "Thần

hoàn, khế túc", "với bốn tác kinh, công, lực, thức" dầu xa mấy cũng trúng, dày mấy

cũng phủng.

Phàm đệ tử nào được bí truyền thuật này phải có thiên tư xuất chúng công lực siêu

phàm chứ không phải bất cứ kẻ nào cũng học được.

Ngày còn ở Trùng-dương-Cung, Dương-Qua có hiểu hết sự huyền diệu của môn Định

phong Châm. Sau này chàng cũng có học qua, nhưng vì phải trau luyện nhiều môn

nên không được chu đáo và điêu luyện bằng kẻ đã chuyên tập riêng môn ấy nhiều

năm như Gia-luật-Tề.

Nghe tiếng châm lao đi xé gió, Lý-mạc-Thu biết không phải tầm thường, hơn nữa

trong lòng đã e dè tài nghệ của Gia-luật-Tề, nên vội vàng múa tít cây phất trần để

chống đỡ bốn mặt.

Nhưng kỳ quặc thay cho mũi châm lúc nào cũng bám sát theo cây phất trần, lúc bên

tả, lúc bên hữu, đảo lộn không ngừng, rít lên vo vo nghe rất dễ sợ, hở có một tý là bỏ

mạng ngay!

Gia-luật-Tề còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu, xa nay cha gặp tay nào có lợi hại nh

thế này, vì vậy nên đem hết tài năng ra thi thố. Lý-mạc-Thu trái lại đã sành sỏi quá

nhiều nên lúc đấu chí đành đỡ tránh né cầm chừng để nhận xét, tìm ra nhược điểm

của đối phuơng để dễ bề hạ thủ.

Sau khi thu hồi "định phong châm" về Gia-luật-Tề vũ lộng thanh trường kiếm như

muôn ánh sao sa, biến thành một vầng hào quang sáng trắng bao phủ khắp người,

thỉnh thoảng lao ra những ngọn mạnh như vũ bão.

Lý-mạc-Thu vừa đánh vừa khen thầm:

- Phái Toàn-Chân sao có nhiều cao thủ lắm vậy. Cậu bé này tuy chưa có danh tiếng

trên giang hồ nhưng xem tài nghệ cũng không kém gì những tay hữu hạng như

Tôn-Bất-Nhị, Xích-Đại-Thông của Toàn-Chân phái.

Một chập sau, Lý-mạc-Thu đánh đỡ có vẻ uể oải, hình như đã đuối sức. Gia-luật-Tề

mừng rỡ, vội xông lên chém xả vào người một kiếm thật hiểm ác. Nhưng chàng đâu

có ngờ đó là nghi kế của địch. Vì vậy nên Lý-mạc-Thu đã lách qua một bên, tung

cước đá trúng cánh tay một cái tưởng như gãy xương, lưỡi kiếm văng ra xa lắc.

Tuy vậy, Gia-luật-Tề vẫn không rối loạn, kiếm vừa mất đã lập thế nhập nội, dùng tay

trái cướp lấy cây phất trần khiến Lý-mạc-Thu phải thối lui buột miệng khen lớn:

- ồ, khá lắm, khá lắm!

Khi ấy Dương-Qua đã tỉnh hẳn. Thấy Gia-luật-Tề đang lâm nguy chàng đã nạt lớn:

- Con tiện tỳ chớ lên mặt ỷ tài. Ta không còn xem mi là sư bá nữa đâu nhé.

Lý-mạc-Thu nhìn chàng cười nhạt và nói nữa:

- Phải rồi ngày nay mi là chồng của Sư phụ mi rồi thì ta đâu còn là Sư bá được nữa.

Bây giờ cùng vai vế, mi có gọi ta Sư tỷ cũng được vậy.

Miệng nói tay vung phất trần phảy nhẹ một cái, thanh kiếm của Gia-luật-Tề hình như

bị một mãnh lực vô hình phăng lên lao vút vào ngực giữa Dương-Qua.

Lục-vô-Song, Hoàng-nhan-Bình thất sắc cùng rú lên một tiếng vì sợ hãi.

Lý-mạc-Thu dùng thuật "phóng kiếm" để hạ Dương-Qua. Nhưng nàng đâu rõ trong

khi còn ở trong Cổ-Mộ, Dương-Qua đã rèn luyện môn bắt kiếm và phóng kiếm cực kỳ

tinh diệu, có lẽ còn cao siêu hơn Lý-mạc-Thu một bực nữa.

Vì vậy chàng khẽ đưa tay trái thu kiếm một cách rất nhẹ nhàng như trò chơi. Thế rồi

tay kiếm tay guơm, cùng Gia-luật-Tề tấn công Lý-mạc-Thu không ngớt.

Quang cảnh tửu điếm thật là hỗn độn. Bàn ghế ngã nghiêng, chén bát đổ hết. Bao

nhiêu thực khách hoảng sợ rút lui hết, ngay cả bọn tửu bảo và tên Chưởng-Quỳ cũng

kiếm đường trốn tránh không dám đứng gần.

Từ ngày theo thầy học đạo và cũng xuất thân trên giang hồ Hồng-lăng-Ba thấy Sư phụ

chưa bại một trận nào, vì vậy nên mặc dầu có hai người cùng tấn công Lý-mạc-Thu,

nàng vẫn điềm nhiên đứng ngó, không vào tiếp ứng.

Thình lình Lý-mạc-Thu vận khí ép hơi thành gió tung ra một chưởng rất mãnh liệt.

Gia-luật-Tề và Dương-Qua bị làn chởng phong đẩy tới quá mạnh, lảo đảo đứng

không vững nữa.

Hoàng-nhan-Bình và Gia-luật-Yên hè nhau nhảy vào tiếp chiến.

Nhưng tài nghệ của hai nàng chưa cao siêu lắm cho nên không thể cứu vãn tình thế.

Loay hoay mấy đòn, Gia-luật-Yên đã lãnh một phất trần vào đùi ngã ngồi xuống đất

ôm chân rên rỉ.

Gia-luật-Tề thấy em bị thương nóng ruột, hoang mang, tay chân luống cuống đỡ

không kịp cũng bị một đòn khá mạnh té nhào ra đất.

Nữ lang áo xanh vội vàng nhún chân phi thân vào vòng chiến bồng Gia-luật-Yên

mang ra.

Lý-mạc-Thu tuy bận đánh cùng nhiều người nhng vẫn giữ bình tĩnh nhận xét đủ bốn

phương tám hướng, chủ động tình hình. Vừa thấy lối nhảy của nữ lang áo xanh rất

nhẹ nhàng thanh thoát nàng cũng chột dạ nghĩ thầm:

- Nàng này là ai nữa mà tài nghệ cũng rất cao siêu. Xem lối phi thân của nàng cũng

đủ biết đã được chánh phái chân truyền không sai.

Nàng quay lại phía nàng áo xanh, khẽ vung phất trần hỏi lớn:

- Nàng là ai, sư phụ tên gì, bỗng dưng đến đây gây hấn cùng ta?

Hai người tuy đứng cách xa nhau gần hai trượng nhưng cái phẩy nhẹ của cây phất trần

đã lộng một luồn gió mạnh, thổi tốc vào mặt nữ lang, khiến nàng phải bước qua một

bên, và dung tay áo rút ra một món binh khí đối địch lại.

Lý-mạc-Thu nhìn thấy món binh khí ấy rất lạ lùng, giống như một ống tiêu, bề dài

chừng ba thước, óng ánh như ngọc. Nàng rất ngạc nhiên không biết nàng thuộc chánh

phái nào mà sử dụng loại vũ khí này.

Lý-mạc-Thu vũ lộng phất trần tấn công dồn dập, nàng áo xanh chống đỡ có phần yếu

thế. Dương-Qua và Gia-luật-Tề thấy vậy cùng nhau xông vào đánh giúp.

Lý-mạc-Thu vẫn không nao núng, điềm nhiên múa cây phất trần đánh bốn mặt, thỉnh

thoảng vận dụng chưởng lực đánh bồi vào khiến cả ba người đã dần dần lâm thế hạ

phong rõ rệt.

Dương-Qua vừa đánh đỡ cầm chừng vừa nghĩ bụng:

- Nếu cứ để đánh kéo dài mãi, thế nào cũng có người tán mạng.

Vì vậy chàng bỗng gọi lớn:

- Con nữ tặc này lợi hại và ác độc vô cùng, xin bốn chị em hãy tìm đường rút lui gấp,

đừng chần chờ nữa mà mất mạng đấy.

Bốn nàng nghe nói cũng nhận thấy tình thế quá nguy cấp, tuy nhiên không ai nỡ bỏ ra

đi. Nhưng mỗi lúc Lý-mạc-Thu càng tăng gia áp lực, thấy không thể nào nấn ná được

nữa nên Lục-vô-Song băng mình chạy xuống lầu trước tiên.

Hoàng-nhan-Bình phụ lực cùng nữ lang áo xanh dìu Gia-luật-Yên đi theo.

Hai người ăn mày thấy hai thanh niên xinh đẹp kịch đấu cùng Lý-mạc-Thu một trận

vô cùng ác liệt, muốn xông lên giúp sức, nhưng hiềm nỗi kẻ bị gãy tay, người bị gãy

vai, thương tích trầm trọng nên không thể nào đánh nhau được. Tuy nhiên cả hai cũng

quyết tâm cùng ở lại, quyết không chịu bỏ đi nơi khác lánh thân.

Gia-luật-Tề, Dương-Qua cố đem hết tâm lực đánh cầm chừng cùng Lý-mạc-Thu, chờ

các cô chạy trốn được xa rồi sẽ thừa dịp tẩu thoát.

Lý-mạc-Thu tuy chiếm phần ưu thế nhng trong lòng vô cùng phiền muộn vì nghĩ

rằng:

- Xưa nay được một cây phất trần tung hoành trên thiên hạ không nhượng một kẻ nào,

muốn giết ai thì giết, hễ đánh đâu là thắng đó. Không ngờ hôm nay chỉ có hai thằng

nhãi con, miệng còn hôi sữa mà đánh nhau cả buổi không thắng được, để cho

Lục-vô-Song tự do trốn thoát. Như vậy còn đâu là oai danh lừng lẫy của "Xích Luyện

Tiên Tử" nữa?

Trận đấu vẫn tiếp diễn vô cùng khốc liệt, đôi bên dồn hết sức, đem hết ngón ruột ra

để tranh thắng lợi về mình.

Từ trong tiệm ăn, họ đưa nhau dần dần ra sân rồi kéo luôn ra lộ để đánh nữa. Cứ đuổi

tới, chạy lui quần nhau một hồi, cả ba đã kéo nhau ra giữa đờng, đánh vùi không

ngớt.

Dương-Qua vừa đánh vừa lớn tiếng hò la thúc các cô tẩu thoát. Gia-luật-Tề cứ bặm

môi đánh mãi không hé miệng nói một lời nào.

Dương-Qua lẹ như cheo, vừa đánh vừa nhảy tung tăng thoạt trước thoạt sau luôn luôn

thay đổi thế đánh. Gia-luật-Tề lúc nào cũng giữ nét mặt uy nghiêm trầm tĩnh đánh ra

nhiều đòn thật mãnh liệt khiến Lý-mạc-Thu đôi khi cũng thấy lúng túng.

Đánh mãi nhưng không thấy Tiểu-long-Nữ ra mặt giúp sức, lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu

mới yên chí và phấn khởi tinh thần tấn công gắt hơn trước. Hai chàng thanh niên dần

dần thấm mệt, trán đẫm mồ hôi, hơi thở đã dồn dập.

Lý-mạc-Thu mừng lắm và đinh ninh thế nào cũng bắt sống được cả hai trong phút

chốc.

Bỗng nhiên từ giữa chín từng mây vọng xuống tiếng chim kêu lảnh lót như tiếng hạt

reo, mỗi lúc lớn dần. Rõ ràng là tiếng chim điêu.

Hai con chim điêu xuất hiện giữa lưng trời, cánh xòe ra như bốn chiếc buồm, lông

trắng xóa như tuyết, dáng điệu đẹp đẽ và hùng mạnh không tả xiết.

Vừa trông thấy, Dương-Qua đã nhận ra đây là cặp thần điêu của Quách-Tỉnh nuôi từ

lâu, mà chàng đã từng quen thuộc khi còn sống trên Đào-Hoa-Đảo.

Nhận ra đôi chim điêu, Dương-Qua thoạt nghĩ:

- Hễ có chim tất nhiên sẽ có người. Thế nào Quách-Tỉnh cũng ở gần đâu đây. Ta đã

phụ lòng ủy thác của ông, náo loạn Trùng-dương-Cung, cũng không nên để ông ấy

gặp mặt lại thêm rắc rối.

Nghĩ thế chàng lấy chiếc mặt nạ mang vào mặt.

Đôi thần ưng bay xuống là là gần đất, đôi cánh vĩ đại quạt mát cả một vùng làm cho

cát bụi bay lên mù mịt. Chúng đảo lên, sà xuống lượn mấy vòng rồi mỗi con một bên

cùng xông vào mổ mắt Lý-mạc-Thu.

Thì ra đôi thần ưng còn nhớ và nhận ra con người đã phóng "Băng phánh châm" làm

chúng nhiễm độc gần chết, nhờ Quách-Tỉnh tận tình cứu chữa rất lâu mới khỏi. Hôm

nay vừa thấy Lý-mạc-Thu, chúng đã nổi lòng căm phẫn sà xuống tấn công trả thù.

Chúng cũng thừa biết Lý-mạc-Thu có băng châm vô cùng lợi hại cho nên luôn luôn để

ý đề phòng. Hễ Lý-mạc-Thu đưa tay phất ra là chúng đã vút tận mây xanh để tránh

né. Một chặp sau lại bay xuống tấn công vào đầu hay cổ.

Gia-luật-Tề thấy đôi thần điêu quá to lớn và khôn ngoan thì rất lạ lùng trong lòng có

ý mến cảm, nhưng chàng cũng đoán rằng chúng không thể nào thắng nổi

Lý-mạc-Thu.

Nghĩ rồi, chàng gọi Dương-Qua nói:

- Dương huynh, bây giờ chúng mình cùng xông vào, tấn công luôn bốn phía, xem con

ác phụ chống đỡ cách nào!

Dương-Qua gật đầu. Hai người sửa soạn xông ra, bỗng nhiên có tiếng vó câu dồn dập

từ xa vọng lại mỗi lúc một gần.

Một con ngựa vừa hiện ra, mình thon cẳng cao, màu lông đỏ như lửa phi đi rất mau.

Vừa thoáng nghe tiếng nhạc reo mà nháy mắt ngựa đã đến ngay trước mặt.

Mọi người hết sức thán phục tài chạy mau của con thần mã và càng ngạc nhiên hơn

nữa là một thiếu nữ cũng mặc toàn màu đỏ ngồi trên mình ngựa. Cả người và ngựa

cùng màu, đàng xa không phân biệt được. Lúc đến gần mới nhận ra nàng có một

khuôn mặt trắng như tuyết lồ lộ như tiên nga.

Nữ lang ghì cương. Con hồng mã đang phi như bay biến, bỗng đứng dừng lại toàn

thân không nhúc nhích, bốn chân không xao động, nữ lang ngồi êm ru nh trên phản

gỗ, quả là điều hiếm có của một con ngựa quý.

Gia-luật-Tề vốn ngời Mông-Cổ, một xứ chuyên nuôi và cưỡi ngựa. Chàng đã cưỡi và

thấy không biết bao nhiêu là ngựa quý, nhưng lúc nhìn con ngựa đỏ của nữ lang

Hồng-y, chàng phải phục là con ngựa vô cùng quý báu, xưa nay cha từng thấy con

nào đẹp và hay nhu vậy.

Con ngựa hồng này vốn là con thần mã do Quách-Tỉnh bắt được trên sa mạc Mông-Cổ

ngày trước, thuộc giống "Hàn huyết bảo câu", thứ ngựa thần rất hiếm có trên thiên hạ.

Con thần mã này chỉ chịu để cho vợ chồng Quách-Tỉnh và con gái là Quách-Phù cưỡi

được mà thôi.

Nữ lang hồng y quả là Quách-Phù, ái nữ của Quách đại hiệp.

Đã lâu lắm không gặp Quách-Phù, hôm nay vừa thấy mặt, Dương-Qua bỗng nhớ lại

những cử chỉ kiêu căng ngang ngạnh của nàng đối với mình ngày còn thơ ấu, bất giác

thở dài suy nghĩ:

- ờ chóng quá! Thật mới ngày nào mà nàng đã lớn lên và xinh đẹp như thế này rồi!

Trông nàng chẳng khác gì một đóa hoa hồng mới nở giữa mùa xuân!

Quách-Phù dừng ngựa, trán lốm đốm mồ hôi, đôi má phấn phản chiếu màu đỏ của y

phục càng tăng vẻ hồng hào trông thật lộng lẫy.

Nàng đưa mắt nhìn theo đôi thần ưng rồi quay lại ngó qua Gia-luật-Tề và Dương-Qua.

Thấy mặt mày Dương-Qua xấu xa cổ quái lại mặc y phục Mông-Cổ nên nàng bĩu môi

khinh bỉ cho là giống man di mọi rợ.

Ngày còn thơ ấu giữa Dương-Qua và Quách-Phù có nhiều sự xung đột do tánh ý khác

nhau, hôm nay vừa gặp lại nàng có thái độ kiêu căng khinh khỉnh, làm cho

Dương-Qua bực mình thấy lòng tự ái dâng trào bồng bột. Chàng ngẫm nghĩ:

- Tại sao mi có thái độ khinh bạc hợm đời như vậy? Mi xem thường ta thì ta đâu có

trọng mi. Mi đã quá ỷ lại vào cha mi là một trang đại hiệp võ nghệ trùm đời, mẹ mi là

vị Bang chủ nữ hiệp, ông ngoại mi là một tiền bối trong võ lâm ngũ bá, suốt mấy đời

nhà mi được thiên hạ nể vì tôn trọng! Ta đây trái lại đã gặp mọi cảnh trái ngang điêu

đứng. Cha chết từ ngày còn trong bào thai, mẹ làm nghề bắt rắn rồi bỏ mạng vì rắn

độc. Song thân ta đã như thế nên ta bị người đời xem rẻ. Như vậy chưa đủ sao mà mi

còn muốn khinh miệt và sỉ nhục ta thêm nữa. ở đời nếu đừng kể đến ảnh hưởng của

gia phong thì há dễ ai lại hơn ai, đối với mi ta đâu chịu thua sút. Thực chất của điều

vinh nhục phải do chính mình tạo nên mới đáng quý chứ!

Càng ngẫm nghĩ, Dương-Qua càng đau lòng cho thân thế hẩm hiu và nghĩ thêm:

- Thiên hạ mông mênh, đất trời lồng lộng, chưa có một kẻ nào hiểu mình và thật tình

thương yêu mình.

Đời ta chỉ có một người duy nhất đã tỏ lòng mến ta thật tình. Người ấy là

Tiểu-long-Nữ. Nhưng ngày nay nàng lại bỏ ta ra đi không biết phiêu dạt phương nào,

ngày hội ngộ thật là mơ hồ khó đoán.

Chàng đang vẩn vơ suy nghĩ, than cho mình, trách cho người lại nghe có tiếng ngựa

phi mau tới nữa. Kế đó có hai người cưỡi hai con ngựa vàng và xanh, đàng xa phi

nhanh lại. Hai ngựa này cũng cao lớn, xinh đẹp thuộc loại báu câu hiếm có.

Lại gần, Dơng-Qua thấy đó là hai chàng thiếu niên mặc áo màu vàng.

Quách-Phù đa tay ngoắc hai người, liến thoắn nói lớn:

- Võ ca, anh có nhận ra con ác phụ chưa?

Hai thiếu niên áo vàng vừa cưỡi ngựa đến sau không ai khác là hai anh em ruột

Võ-đôn-Nhu và Võ-tu-Văn. Lý-mạc-Thu đã sát hại cả nhà họ Võ thì đối với hai anh

em này quả là kẻ thù số một.

Bao năm qua hai anh em họ Võ lúc nào cũng nhớ đến mối thù của song thân, hằng

nuôi ý chí phục thù rửa hận, nhưng cha gặp dịp, không ngờ tình cờ hôm nay lại gặp

oan gia. Lập tức cả hai đều nhảy xuống ngựa vung gươm đồng xông vào tấn công

Lý-mạc-Thu.

Quách-Phù cũng la lớn:

- Tôi cũng xin giúp hai anh một tay nhé!

Nàng vừa nói vừa rút một thanh gươm đang cài bên yên ngựa, tung người nhẹ nhàng

nhảy xuống đất rồi lăn sà vào vòng chiến.

Lý-mạc-Thu rất ngạc nhiên chẳng hiểu vì sao kẻ thù mình mỗi lúc một đông. Nàng

nhìn sắc diện hai chàng thiếu niên này, mặt mày hùng hổ, miệng mím, mắt trợn như

nẩy lửa, cố tâm ăn thua đủ với mình, mà võ công của người vào cũng có vẻ vô cùng

điêu luyện quả là đệ tử của danh môn chính phái.

Kế đến cô gái áo đỏ, mặt đẹp như hoa, múa thanh gươm báu hào quang chói mắt, ánh

sáng lập lòe, mặc dầu lối đánh đỡ còn thô sơ nhng lối sử dụng kiếm pháp thì vô cùng

vững chắc, đúng quy tắc nghề võ, chứng tỏ có một căn bản tập luyện rất công phu.

Lý-mạc-Thu nhìn nàng một chập bỗng nhớ lại và buột miệng gọi lớn:

- à, Cô nương họ Quách đây rồi!

Quách-Phù loang gươm một vòng, phi thân nhảy vụt lên cao rồi cả cười nói lớn:

- Té ra mi cũng nhận ra ta sao?

Nói xong nàng sà xuống, chân vừa chấm đất đã vung gươm đâm luôn hai nhát liên

tiếp.

Lý mạc Thu cầm phất trần gạt phăng đi và nghĩ bụng:

- Con bé hãy còn nhỏ tuổi mà đã kiêu căng , thật ra mi có tài cán gì bao nhiêu mà

hợm mình nh vậy . Nếu ta không nể mặt cha mi thì đã cho nếm một cây phát trần

cho bỏ xác .

Nghĩ xong , Lý mạc Thu muốn thừa cơ chiém đoạt thanh gươm báu nhưng ngay lúc

đó anh em họ Võ đã nhất tề vung kiếm tấn công một lợt , mạnh như vũ bão .

Anh em họ Võ cùng Quách Tỉnh truyền phép đánh kiếm từ khi còn ở trên Đào Hoa

Đảo . Cả ba cùng nau luyện tập sớm chiều , biết dùng phép phối hợp rất chặt chẽ . Cứ

một người lui thì hai người tiến , kẻ thủ thế người tấn công , tới lui qua lại rất quy củ

mạch lạc . Vì vậy tuy không phải là một trận pháp nhưng nhờ lối đánh ấy đã tăng lên

áp lực rất nhiều cho đối phương . Huống chi lối múa cũng như cách đánh phối hợp lại

do một đại võ sư là QuáchTỉnh chân truyền nên mỗi thế đánh ra vô cùng lợi hại .

Ba người một gái hai trau và thêm hai con thần điêu cùng nhau vây đánh một mình Lý

mạc Thu rất kịch liệt .

Cả ba tuy có bảnh lãnh khá nhng dù sao cũng chỉ là những tay mới , công phu còn

non nớt , kinh nghiệm chiến đấu chưa bao nhiêu còn Lý mạc Thu thì võ công đã già

dặn , công lực dồi dào , hơn nữa nếu nàng chú tâm hạ được một người thì tự nhiên hai

người còn lại sẽ bại ngay .

Tuy nhiên Lý mạc Thu thấy phía địch ngày càng đông thêm , bọn Dương Qua , Gia

luật Tề cũng lăm le xông đến . Hơn nữa ,chưa biết vợ chồng Quách Tỉnh sẽ xuất hiện

lúc nào . Nếu y cũng đến đây thì làm sao cự cho lại , chi bằng cách chuồn sớm thì

hay hơn .

Suy nghĩ xong , Lý mạc Thu múa tit cây phất trần cười ha hả nói lớn :

- Ta cho các người thưởng thức ngón " Võ hầu múa bông " nhé !

Thế là cây phất trần vũ lộng lên vo vo ,xé gió vùn vụt , đập tung bốn bề khiến ba

ngời bị dồn lần ra xa , không thể nào đánh đỡ nổi . Anh em họ Võ bị áp lực của cây

phất rần đánh dạt ra , lảo đảo đứng không vững nữa . Do đó thế liền hoàn phối hợp

của ba thanh kiếm cũng mất hết hiệu lực , không còn thi thố đợc nữa .

Lý mạc Thu co một chân , đứng một chân , nhìn xa giống như một con vượn đang

múa cành bông , quay cuồng nh chong chóng .

Trong lúc đối phương đang chăm chú nhìn xem lối múa của mình , Lý mạc Thu khẽ

bảo Hồng lăng Ba :

- Lăng Ba , chúng ta đi thôi !

Hai thầy trò dắt nhau chạy nh tên bắn về phía Tây Bắc .

Quách Phù hét lớn :

- Đừng để hắn tẩu thoát . Hãy cố đuổi theo mau lên Võ ca .

Nói xong , cả ba cùng vung kiếm phi thân đuổi theo vùn vụt .

Lý mạc Thu triển khai khinh công dắt Hồng lăng Ba chạy mau như gió thoảng .

Vì sức khinh công của thầy trò Lý mạc Thu lẹ gấp đôi ba người cho nên phút chốc đã

bỏ rơi khá xa , chỉ còn đôi thần điêu vỗ cánh tung bay theo và thỉnh thoảng sà xuống

để mổ hay đa vuốt ra chộp.

Thấy khinh công của mình còn sút kém , anh em họ Võ than rằng :

- Thôi đành bỏ dở dịp này vậy .

Than rồi huýt còi gọi đôi chim điêu ba trở lại .

Bọn Gia luật Tề ngại ba người lầm kế Lý mạc Thu nên vội vàng phi thân chạy theo đề

phòng tiếp sức nếu cần .

Chạy một đỗi gặp ba người trở lại , đôi bên chào hỏi thân mật và vui vẻ lắm . Cùng là

tuổi trẻ đang háo thắng , hơn nữa ai cũng tự hào vừa đánh bại được Xích luyện Tiên tử

Lý mạc Thu cho nên câu nói tiếng cươì dòn dã , không tiéc lời ca tụng lẫn nhau .

Bỗng nhiên Gia luật Tề hoảng hốt hỏi :

- ủa , còn Dương huynh đâu rồi .

Hoàng nhan Bình đáp :

- Cách đây hơn một giờ tôi thấy anh ấy chạy đi một lối khác , tôi có hỏi đi đâu nhưng

anh ấy chẳng trả lời và cứ đi mãi .

Nói xong nàng rầu rầu nhìn xuống đất , nét mạt suy tư như tiếc một cái gì quý báu đã

mất .

Gia luật Tề vội chạy thẳng lên ngọn đồi cao , phóng mắt nhìn khắp nơi chỉ thấy đồng

nội xanh rì , cỏ cây man mác , ngoài Lục vô Song và nữ lang Thanh Y đang nắm tay

nhau đi đi lại lại trò chuyện , không thấy hình bóng Dương Qua đâu cả .

xa xa chân trời trắng đục , rừng núi bao la , chim ngàn tung cánh lẫn trong mấy xám .

Gia luật Tè buồn rầu đưa mắt nhìn khắp cánh đồng bao la bắt ngát mà cố nhân đã

vắng bóng biền biệt nơi nào ? Chàng cảm thây một nỗi u buồn xâm chiếm cõi lòng

như mới mất đi một người bạn tri kỷ .

Tuy mới gặp Dương-Qua chua được bao lâu, nhưng tình đã thắm thiết, ý hiệp tâm

đầu, hình như đã quen biết từ mười năm trước.

Chàng bồi hồi suy nghĩ:

- Dương-Qua tuy tuổi trẻ mà tài cao, tánh tình vô cùng hào hiệp mới gặp nhau mà ta

đã thấy mến ngay. Mặc dầu Lý-mạc-Thu xỉ vả y về câu chuyện bậy bạ cùng nữ

sư-phụ, nhưng đó là một vấn đề hoàn toàn riêng tư đâu có liên hệ chi đến tình bè bạn.

Không kết bạn được cùng chàng thật quả một điều đáng ân hận. Trên đời này dễ gì

tìm được một thanh niên như chàng. Nếu chàng còn ở đây, chung sống cùng nhau, ta

sẽ giúp chàng được nhiều ý kiến hay để trở nên con người chính đáng, gọt rửa hết

những chuyện không hay đã xảy ra.

Nhất định một người như Dương-Qua sẽ trở thành một trang hảo hán đầy nghĩa khí.

Chẳng hiểu vì sao Dương-huynh lại dứt áo ra đi không lời từ biệt. Thật tiếc cho ta đã

mất một người bạn tốt.

Nhắc lại Dương-Qua, khi trông thấy bản lãnh của anh em họ Võ và Quách-Phù cũng

đủ sức cầm cự được với Lý-mạc-Thu nên đã yên bụng được phần nào. Hơn nữa, chàng

thừa biết Lý-mạc-Thu kiên oai Quách-Tỉnh chắc không khi nào dám hạ thủ bọn này,

và có lẽ hắn sẽ tìm cách lánh đi để khỏi mua oán chuốt thù cùng gia đình Quách

Đại-Hiệp.

Nghĩ đến đây chàng lại liên tưởng đến phận mình. Từ ngày được Quách-Tỉnh đem lên

ký thác cho các bạn trên Chung-Nam-Sơn, đã thấy Quách-Tỉnh đánh bại hết mấy trăm

đạo sĩ của Toàn-Chân phái, sau bao năm qua chắc võ nghệ của ông phải tăng tiến gấp

mấy lần khi trước.

Chàng bỗng nhớ lại khi ở Đào-Hoa-Đảo, bị anh em họ Võ ỷ thế hà hiếp đánh đập, vết

thương trên mình nay còn đó, đến nỗi phải chạy trốn suốt đêm trong hang đá. Chàng

nhớ thêm việc Hoàng-Dung chỉ đem sách vở bắt chàng học mà không chịu dạy võ

công, đến sau, Quách-Tỉnh lại đem mình giao cho bọn đạo sĩ độc ác của

Trùng-dương-Cung hành hạ đủ điều. Càng nhớ, Dương-Qua càng thấy căm hờn cực

điểm.

Lòng dạ đang chất đầy thù hận, bỗng thấy các người đẹp Hoàng-nhan-Bình,

Lục-vô-Song, Gia-luật-Tề và Nữ-Lang thanh y cứ len lén nhìn mình có ý khinh bỉ về

câu chuyện loạn luân mà Lý-mạc-Thu đã vu khống, khiến chàng không chịu đựng

được nổi và suy nghĩ:

- Bọn bay đã khinh miệt ta, ta đâu thèm sống chung cùng bay nữa. Thôi, đi xa cho

khuất mắt.

Thế rồi chàng băng mình ra đi, không lời từ biệt, cứ nhắm mắt chạy bừa, qua rừng

qua núi, chẳng kể đường sá gì hết.

Chàng cứ thất thểu chạy hoài, tâm hồn như nổi sóng, miệng lúc nào cũng lẩm bẩm:

- Ta đi mãi, xem gầm trời này có kẻ nào hiểu thấu được lòng ta!

Chàng cố ý tìm những chốn hoang vu hẻo lánh để ẩn mình không muốn gặp gỡ một

"con người" nào, vì theo chàng nghĩ, loài người chứa đựng toàn sự xấu xa ác độc.

Sống với chúng sẽ chịu đựng tất cả những điều vu không và khinh khi mà thôi.

Trí não hoang mang, tâm hồn bất định, Dương-Qua cứ xuyên qua rừng không kể

phương hướng, suốt một tháng trường, hễ đói ăn trái cây, khát uống nước suối, mệt

nằm ngủ trong hang đá hay trên cành cây, mình mẩy ốm tong, áo quần như xơ mít.

Một ngày kia Dương-Qua đến một dãy núi cao sừng sững, cây lá um tùm, đỉnh khuất

trong mây xanh, vô cùng hiểm trở.

Thấy núi cao trước mặt, Dương-Qua đưa mắt nhìn lên rồi than nhỏ:

- Dương-Qua đâu có ngại núi cao sông lớn. Dẫu núi này có hiểm trở đến đâu cũng

không sờn lòng, quyết vượt qua cho được.

Đây là núi Hoa-Sơn thuộc dãy Ngũ-Nhạc.

Thế rồi chàng cứ thẳng lên núi vượt càng. Mặc dầu có khinh công cao điệu, nhưng vì

dãy Sơn-Hoa vô cùng hiểm trở, đá dựng chập chồng cho nên đã trèo liên tiếp mấy

ngày, Dương-Qua cũng chỉ mới đến lưng chừng núi.

Đến đây, khí trời lạnh buốt, suốt ngày mây đen bủa vây vần vũ, gió lốc ào ào, từng

trận ma tuyết rơi xuống trắng xóa, bao phủ tất cả đá, cây, mọi vật!

Trước cảnh hoang vu kinh khủng, trước sức mạnh vô biên của tạo hóa, Dương-Qua

vẫn không chút sờn lòng, chẳng thèm tìm hang hóc để tránh tuyết, hay trốn gió, cứ

ngang nhiên níu đá túm cành, thoăn thoắt leo lên đường dốc dựng đứng, tuyết phủ

trơn như mỡ. Chỉ một cái sẩy tay hay trượt chân thì nhất định sẽ té nhào xuống vực

sâu thăm thẳm.

Chàng cứ leo, leo hoài lên quên cả mưa tuyết, mệt nhọc, hiểm nguy.

Đang cặm cụi leo, Dương-Qua bỗng nghe phía sau có tiếng kêu "kìn kịt" như có tiếng

chân người hay chân thú bước trên tuyết giá.

Lúc quay đầu nhìn lại, không thấy gì hết.

Dương-Qua nhìn nhiều lần không gặp thứ gì cả mà tiếng động vẫn còn vang lên nho

nhỏ. Chàng để ý nhìn xuống dưới, thấy bên cạnh dấu chân mình, có lờ mờ dấu chân

một kẻ nào nhẹ in trên nền tuyết.

Chàng ngạc nhiên cúi xuống xem kỹ thì rõ ràng là vết chân người, nhưng nhìn ra sau

lại không thấy gì hết.

Bực tức quá, không biết đây là quỷ hay người lại đi trêu chọc mình như vậy.

Lẩm bẩm chưởi thề vài tiếng, Dương-Qua cặm cụi leo nữa.

Leo thêm chừng vài bước lại nghe tiếng "kìn kịt" y như hồi nãy, rõ ràng bước chân

người nghiến trên mặt tuyết, thế mà ngoảnh lại vẫn không thấy hình bóng một kẻ nào

hết.

Giữa chốn rừng hoang tuyết lạnh tịch mịch như hư vô, cảnh tượng này có thể làm

khiếp đảm những người to gan lớn mật. Thế mà Dương-Qua vẫn lầm lì không chút

hoảng sợ, cố tìm cách khám phá cho ra.

Vì tánh tò mò giúp chàng quên cả sợ hãi và suy nghĩ tính toán:

- Nơi đây không bụi cây, tư bề toàn là tuyết phủ. Phía trong là vách đá sững tận mây

xanh, bên ngoài là hố sâu thăm thẳm, không chỗ nào ẩn nấp được. Nếu bền gan rình

rập ắt cũng phải tìm ra kẻ này. Chỉ trừ khi nào họ có cánh như chim, hay có phép tàng

hình mới không bắt gặp.

Nghĩ rồi chàng tiếp tục leo lên, nhưng mặt cứ thỉnh thoảng ngoảnh lại sau xem thử.

Một chập sau lại có tiếng động nữa. Dương-Qua nghĩ:

- Kẻ này chắc là một tay khinh công thượng đẳng nên ẩn hiện như bóng ma, ta phải

làm thế nào chứ hễ quay lưng lại ắt không nào thấy nổi. Ta đã có cách, không cần

xoay mặt mà vẫn trông thấy xem hắn có lánh được hay không.

Liệu tính xong chàng khom lưng trèo lên, đầu hạ thấp xuống, vừa đi vừa nhìn qua hai

chân mình ngó ra phía sau. Phương pháp này áp dụng theo phép luyện công của

Âu-dương-Phong đã dạy chàng lúc trước cùng một dịp với tư thế đi ngược đầu. Hôm

nay đem ra áp dụng thật là phải lúc.

Bỗng thoáng qua một cái, có một bóng người vừa hiện ra đã biến mất lanh như điện

chớp, ngay vào phía hang núi cạnh vách đá dựng.

Dương-Qua mừng quá, nhưng lòng cũng kinh hãi vì thấy tài khinh công của người này

mau lẹ ngoài mức tưởng tượng.

Chàng chú mục nhìn ngay vào hang đá, bỗng thấy thoáng một người, bụng rất phập

phồng không biết người ấy có ác ý muốn hãm hại mình chăng.

Chỉ thấy người này đưa tay vẽ một hình tròn trước mặt, tự nhiên cả thân hình nhẹ

nhàng bốc lên như làn khói, cách mặt đất có mấy trượng cao.

Chàng suy nghĩ:

- Vừa rồi có lẽ người này đã áp dụng lối ấy để đùa mình đấy mà!

Nhìn thấy người ấy chỉ khoanh một vòng tròn mà toàn thân bốc tung lên như chiếc

pháo thăng thiên, muốn bay đi đâu cũng được, Dương-Qua đoán chắc bản lĩnh của y

phải thuộc vào hạng siêu nhân, khinh công đã biết vào hạng thượng thừa.

Trí nghĩ, bụng mừng, lòng bỗng cảm phục hết sức, tự nhiên chàng quỳ xuống, chắp

tay phủ phục sát đất thưa rằng:

- Kẻ đệ tử hành tâm ngưỡng mộ, xin cao nhân hiện ra cho đệ tử đợc hân hạnh bái

yết.

Người đó cất tiếng cười vang. Tiếng cười rung động cả núi rừng, làm những tảng tuyết

bám trên vách đá phải rớt xuống ào ào nh động đất.

Người ấy đua tay vòng một cái nữa, thân hình bay lên, nhẹ nhàng rơi đến trước mặt

Dương-Qua như một tàu lá rụng.

Người ấy nhìn Dương-Qua đang quỳ mọp duới đất vừa cười vừa mắng lớn:

- Mi là ai, có phải là bè đảng của bọn "ngũ quỷ" ác ôn ở nơi này cứ thừa dịp đêm hôm

tăm tối đi phá làng hại dân hay không?

Giờ này mi đến đây để giở trò ma quái gì nữa đây?

Dương-Qua sửng sốt, chẳng hiểu vì sao lại bị trách mắng. Nghĩ mình vô duyên xấu

số, suốt tháng nay vất vả lầm than không gặp một bóng người. Hôm nay mới gặp một

kẻ đầu tiên là bị lời nặng nề oan uổng. Nghĩ tủi cho số phận vô duyên chàng bỗng

mủi lòng ôm mặt khóc ngất.

Càng khóc càng chạnh lòng cho cái mạng mình xấu số hẩm hiu, một đời gặp toàn

những chuyện đớn đau để cho mọi người khinh khi đày đọa. Ngay như Tiểu-long-Nữ

là người được mình kính mến nhất đời cũng hiểu lầm đến nỗi chán ghét mình, bỏ đi

biền biệt như lá lìa rừng. Bây giờ tứ cố vô thân, hễ gặp một cái gì cũng toàn là sự bẽ

bàng uất hận. Phải chăng hóa công đã sanh ra mình để chịu đựng tất cả những cái gì

đớn đau buồn thảm nhất! Càng nghĩ càng thấm thía, chàng càng khóc rống lên, khóc

nức nở, thật thiết tha thảm não.

Có lẽ chàng muốn khóc một lần để trút sạch những cái gì đau khổ nhất đang tàng ẩn

trong tim cho neen càng lúc khóc càng to, khóc như mưa như gió.

Lúc chàng mới khóc người này hình nh không quan tâm mấy, nhưng một lát sau

thấy khóc thảm thiết quá, nghe muốn khô héo cả ruột gan. Người ấy bỗng ngửa mặt

cuời dài.

Một người khóc như đưa ma, một người cười như sấm động, cười đến nỗi vang

chuyển cả núi rừng! Khóc cười lẫn lộn tạo thành một hòa âm kỳ quái làm huyên náo

cả một sườn núi Hoa-Sơn tuyết phủ.

29. Ác chiến cuối cùng giữa Hồng-thất-Công và Âu-dương-Phong

Dương-Qua vừa khóc vừa lắng nghe thấy người ấy cứ hả miệng cười hoài, liên miên

bất tận, bỗng nổi giận gắt lớn:

- Tại sao ông cười lâu quá vậy?

Người ấy vẫn cười, hỏi lại:

- Còn chú tại sao khóc dai dữ vậy?

Dương-Qua nghe giọng nói của người ấy sang sảng như chuông ngân, âm thanh

chuyển động cả màng nhĩ, biết là một bậc dị nhân nên vội vàng đổi giận làm vui,

cung kính lạy hai lạy rồi thưa rằng:

- Tiểu tử Dương-Qua xin kính cẩn làm lễ tham kiến lão tiền bối.

Người ấy mỉm cười cầm cây gậy khẽ lăn trên vai Dương-Qua. Chàng có cảm tưởng

hình như cả một quả núi đè trên vai, muốn đưa tay xô ra nhưng không nhắc tay lên

nổi. Lật đật dùng lối chổng chân ngược đầu theo phép "Hàm mô công" của dưỡng phụ

đã dạy, mới thấy trong người khoan khoái như trút được gánh nặng.

Dương-Qua cũng không ngờ đó là một lối điểm huyệt tài tình đặc biệt của dị nhân

này mà tình cờ phương pháp "Hàm mô công" đã giải thoát được một cách quá kỳ

diệu. Ngay người này cũng hết sức ngạc nhiên không ngờ một thằng bé tuổi chưa bao

nhiêu mà có biệt tài như vậy nên nghĩ thầm:

- Tài nghệ tiểu-tử này, chưa chắc Lý-mạc-Thu và Khưu-xứ-Cơ đã qua mặt nổi?

Bụng khen miệng hỏi:

- Tại sao ngươi khóc?

Dương-Qua đua mắt nhìn thấy một ông cụ đầu râu trắng xóa, áo quần rách nát tả tơi

và chằm trăm mối, bên vai mang một chiếc hồ lô màu đỏ. Tuy trời đã nhá nhem

nhưng vẫn nhìn rõ thần thái uy nghi, mặt mày đường bệ quắc thước, mới trông qua đã

đem lòng kính phục, nên đáp rằng:

- Thưa lão bá, cháu gặp nhiều cảnh đoạn trường cay đắng, dầu có sống cũng không

còn sinh thú gì nữa, chỉ muốn chết cho yên thân, nhưng không chết được, vì vậy nghĩ

lại tủi thân xót phận mà khóc.

Ông cụ già nghe nói hình như có lòng thương xót, ôn tồn hỏi thêm:

- Gia đình người dâu, kẻ nào cả gan khinh thường hiếp đáp, ngươi cứ nói thực ra cho

ta rõ.

- Cha tôi bị giết chết từ ngày tôi còn trong bụng mẹ. Kẻ thù giết cha tôi là ai, mãi đến

nay vẫn chưa được rõ. Mẹ tôi nghèo khổ sống theo nghề bắt rắn nuôi tôi, sau bị rắn

cắn bỏ mình, còn lại một thân một bóng, tôi sống lẻ loi, mồ côi, cô độc, không bạn bè

thân thuộc. Cuộc đời tôi cơ cực, đầy cả chuyện đau buồn!

Ông cụ chép miệng thở dài và gật gù nói:

- Đời ngươi quả thật đáng thương! Sư phụ của ngươi là ai. Tên họ chi?

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Nếu cứ theo danh nghĩa mà nói thì Quách Bá mẫu nhận làm sư phụ đầu tiên của ta

nhưng người có daỵ cho ta được đường quyền miếng võ nào đâu? Bọn đạo sĩ

Toàn-Chân phái toàn là những kẻ ác nghiệt đáng ghét, đáng thù đâu thể gọi là s phụ.

Người có công nâng niu chỉ dạy ta tận tình là Tiểu-long-Nữ cô nương, nhưng điều này

không thể tiết lộ ra cho kẻ khác hay biết được. Ngoài ra những kẻ đã lu lại kinh

sách, lý thuyết võ thuật trong Cổ-Mộ như Lâm-triều-Anh, Vương-trùng-Dương cũng

có thể xem như sư-phụ được. Tính ra thì thật nhiều, nhưng không hẳn ai là sư phụ một

cách công nhiên.

Nghĩ suy lui tới một hồi, chàng thấy cõi lòng rào rạt buồn buồn tủi tủi nên buông mặt

khóc nữa rồi nói qua giọng nức nở:

- Thưa, tôi không... không có sư phụ.

Ông cụ già bảo:

- Thôi, nếu nguơi thấy không tiện nói ra cũng được, chẳng sao.

Dương-Qua vừa khóc vừa phân trần:

- Không phải cháu không chịu nói. Nhưng thật ra là cháu không có ai là sư phụ chính

thức hết.

Ông cụ lắc đầu nói:

- Điều đó không có gì quan hệ cả. Nhưng tại sao ngươi cứ khóc hoài như vậy. Sở dĩ

nơi đây núi rừng hoang tịnh, ngươi đến làm chi, nếu không phải là bè đảng của bọn

"ngũ quỷ" giết người cướp của. Nếu không phải ta sẽ kết nạp ngươi làm đồ đệ.

Nguyên ông cụ ăn mặc rách rưới này không ai xa lạ, chính là Cửu-chỉ Thần-cái

Hồng-thất-Công, cùng vai vế với các vị khét tiếng trong võ lâm là Đông tà, Tây-độc

và Nam-đế, biệt danh của cụ là Bắc-cái. Từ ngày nhường chức Bang-chủ ăn mày lại

cho Hoàng-Dung, Hồng-thất-Công xếp bỏ mọi việc đi ngao du khắp thiên hạ, thưởng

thức những cảnh đẹp và các món ngon vật quý.

Khi đi đến tỉnh Quảng-Đông thấy thời tiết ôn nhuần, cảnh vật xinh tươi, ông rất hài

lòng nên ở mãi nơi đây trên mười năm không trở về Trung-Nguyên nữa. Bao nhiêu

bạn bè và các người trong bang Khất Cái cứ đinh ninh rằng ông đã lớn tuổi nên qua

đời rồi.

Thật không ai có thể ngờ rằng đến nay ông vẫn ung dung sống vùng này, ngày ngày

bắt rắn rết, ếch chuột để ăn độ nhật không thèm tiếp xúc với đời.

Lúc bấy giờ có năm tên ăn cướp cạn dùng căn cứ bên kia đỉnh núi để cướp bóc dân

chúng vùng lân cận.

Thỉnh thoảng ông có gặp đôi lứa, muốn ra tay hạ sát cho rồi nhưng lại sợ rằng, nếu

giết một vài đứa sẽ động ổ làm mấy đứa khác tìm đường trốn mất. Như thế không trừ

được hết mối họa cho dân lành. Vì vậy mà ông cứ nấn ná ở lại trong dãy Hoa-Sơn này

chờ cơ hội, hễ có dịp gặp đủ năm tên sẽ giết luôn một lượt.

Trong lúc đi theo dõi một tên đang nấp trên chỗ này, Hồng-thất-Công tình cờ lại gặp

Dương-Qua trong đêm bão tuyết ngập trời.

Trước kia Hồng-thất-Công chỉ nhận Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung làm đồ đệ. Lần này

nghe Dương-Qua thuật lại thân thế thấy cũng đáng thương hại nên muốn thu nhận làm

đồ đệ, ông chắc chắn thể nào Dương-Qua cũng mừng rỡ nhận ngay. Nhưng không

ngờ lại khác hẳn điều dự đoán.

Vì thâm tâm lúc nào cũng tưởng nhớ Tiểu-long-Nữ mà chàng cho là vì sư phụ duy

nhất của đời mình, cho nên khi nghe Hồng-thất-Công ngỏ ý muốn thu làm đệ thì nghĩ

rằng:

- Tuy ông tài cao hơn sư phụ tôi thật, nhưng tôi chẳng thể nhận thêm một ông thầy

thứ hai nữa.

Thế rồi chàng lắc đầu đáp:

- Xin đa tạ lão bá, thật tình chẳng thể nhận lão bá làm sư phụ được.

Hồng-thất-Công nghe nói vừa tức giận vừa ngạc nhiên, vội hỏi:

- Tại sao thế? Nếu ngươi không khứng nhận ta sẽ có cách buộc ngươi phải nhận.

.....

(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 3 trang)

Dương-Qua lẽo đẽo bước theo, bụng nghĩ:

- Chẳng lẽ ông cụ này lại ăn thịt rết! Nhưng xem bộ tịch ông ấy không có vẻ gì lòe

mình cả. E ông ấy ăn thịt cũng nên!

Về đến cửa hang thấy nồi nước đã sôi lên sùng sục. Hồng-thất-Công đặt cái túi xuống,

bắt từng con ném vào nồi nước. Con nào cũng quẫy một cái rồi chết luôn.

Hồng-thất-Công nói:

- Gặp nuớc sôi, rết bắn hết chất độc trong mình ra trước khi chết. Vì vậy nên nước

trong nồi này độc không tả.

Ông bới một lỗ tuyết cạnh đó, bưng nồi nước đổ ụp vào. Không bao lâu cả nồi nước

sôi cũng đong lại hết.

Đoạn, ông thò tay vào bọc rút ra một con dao nhỏ, bắt đầu từng con rết, chặt đuôi rồi

bóc vỏ ra, bày thịt trắng hồng hồng như thịt tôm trông rất ngon lành.

Dương-Qua nhìn thịt rết nghĩ bụng:

- Xem bộ ngon lành quá, có lẽ ăn được thật đấy.

Hồng-thất-Công lại bóc tuyết bỏ vào nồi cho tan ra, bỏ đống thịt rết vào rửa đi rửa lại

mấy lần thật sạch rồi mở bao rút ra một gói nhỏ bày trên tuyết. Nào là hành, tiêu,

tương, ớt, gia vị đủ thứ. Ông bỏ hết vào nồi, cho thêm tý muối, xào lên, mùi thơm bốc

ra ngạt mũi.

Nghe mùi thơm xông lên, Dương-Qua thấy cái hạch nước miếng căng lên, bụng cồn

cào, thèm lắm, nhưng vẫn e dè suy nghĩ:

- Thịt có vẻ ngon lành lắm nhưng không rõ còn độc hay không?

Chàng bỗng nực cười cho tính háu đói của mình, ngồi nhìn mãi.

Hồng-thất-Công trộn đi chiên lại, tiếng kêu xèo xèo, khói bốc lên thơm ngát. Một

chập sau gia vị thấm vào, miếng thịt oăn lại, vàng khè trông ngon lành quá. Ông bốc

một miếng đa vào mồm nhai rau ráu, chắp chắp mấy cái, đôi mắt lim dim để tận

hưởng tất cả những cái ngon thơm của món thịt rết!

Thấy đã vừa ăn rồi, ông bê nồi đặt giữa hai người và bảo Dương-Qua:

- Cứ ăn tự nhiên, đừng ngại ngùng khách sáo gì hết.

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Tôi ăn không được.

Hồng-thất-Công ngước mặt cười lớn:

- Ăn đi, không hề gì cả. Biết bao anh hùng hảo hán, võ nghệ đầy mình, giết người

không gớm tay thế mà không có gan cùng ta nếm miếng thịt rết! Chú mi nếu không

có gan thì cũng không nên ăn làm gì.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Ông ấy ăn được tại sao mình lại sợ? Dầu có độc cũng rán nuốt một vài miếng kẻo

người ta khinh, chịu không nổi.

Hồng-thất-Công thấy sắc diện chàng đã đoán được ý nên dặn thêm cho vững bụng:

- Có sợ cứ nhắm mắt mà nuốt mau. Đừng có ngập ngừng ngậm trong miệng rồi chập

sau e ngại nhổ ra, làm trôi mất thanh danh anh hùng hảo hán đấy nhé.

Dương-Qua cười nhạt và nói:

- Thưa lão bá, chẳng lẽ chỉ ăn được thịt rết độc mới là hảo hán anh hùng sao?

Hồng-thất-Công nói:

- Lắm kẻ tự xưng hảo hán anh hùng, nhưng đến khi nếm một miếng thịt rết lại rùng

mình sợ chết rồi tìm mọi cách để tự bào chữa mà không biết xấu. Lão muốn nhắc cho

ngươi để ý đến cái hèn kém của bọn ấy mà thôi.

Dương-Qua suy nghĩ:

- Cứ ăn đại vào, tới đâu hay đó. Nghĩ xong chàng gắp một miếng bỏ vào mồm, nhai

ngấu nghiến và nuốt luôn.

Vừa nhai và nuốt xong, chàng cảm thấy cả hàm răng như được thắm mùi ngon của

chất mỡ béo, nước miếng chảy ra, và một hương vị vừa thơm vừa ngọt xông lên ngát

mũi.

Chàng ngẫm nghĩ:

- ồ, ngon thật, từ bé chưa hề ăn món nào ngon bằng thứ "ngô công" xào này.

Thế rồi không còn e dè nữa, chàng gắp hết miếng này sang miếng nọ, vừa nhai vừa

trầm trồ "ngon, ngon tuyệt"!

Hồng-thất-Công thấy Dương-Qua đã thưởng thức được món ăn đặc biệt do mình đã

tìm ra và nấu lấy thì khoái chí lắm.

Thế rồi cứ bác một miếng, cháu một miếng, thi tài gắp một loáng, nồi thịt rết đã hết

trơn. Còn tý nước Hồng-thất-Công cũng húp luôn.

Dương-Qua đề nghị:

- Để tôi đem con gà lên chôn lại, câu thêm mớ rết nữa, xào bữa khác.

Hồng-thất-Công lắc đầu nói:

- Không được đâu. Con gà này đã hết cả hơi ngọt, hơn nữa bao nhiêu rết lớn vùng này

mình đã tóm hết rồi còn đâu nữa mà câu.

Nói xong ông há miệng ngáp, uốn mình mấy cái rồi nói:

- Suốt bảy tám ngày đêm nay ta chưa ngủ được, nay được bữa thịt rất no nê rồi, cần

phải ngủ luôn một giấc ba ngày liên tiếp mới đã sức. Trong lúc ta đang ngủ, ngươi

đừng gọi ta nhé.

Nói xong ông đưa tay gạt tuyết qua một bên, đặt lưng xuống, ngáy liền.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Ông già này có nhiều hành vi thật quái gở. Ngủ gì một hơi những ba ngày đêm!

Hiện nay ta cũng không biết đi đâu nữa. Thôi, nán lại đây ít ngày, chờ ông ta thức

dậy sẽ hay.

Thịt tuy rất ngon nhưng tánh hàn.

Dương-Qua ăn xong thấy lạnh bụng, vội vàng tìm một hóc đá kín đáo ngồi núp gió

cho ấm.

Ngồi dựa lưng vào vách đá, Dương-Qua nhìn ngoài trời thấy tuyết rơi trắng xóa khắp

nơi, như đám bụi lông thiên nga rải rát đầy cả. Không bao lâu khắp mình

Hồng-thất-Công, đều bị tuyết phủ một lớp tựa hồ như có một tấm lụa trắng đắp lên,

chỉ trừ có cái mặt không hề có tuyết.

Dương-Qua ngạc nhiên nhưng suy nghĩ một chặp đã hiểu, sở dĩ lúc ngủ, ông già đã

vận dụng nội công, dồn hết sức nóng trong người lên mặt khiến cho tuyết không thể

đông nổi. Công lực như thế này tưởng đã tột bực rồi, ngay như Vương-trùng-Dương

tái sanh cũng chưa chắc hơn nổi.

Dương-Qua ngồi yên thả hồn về dĩ vãng. Chàng nhớ lại mấy mươi năm xa

Hồng-thất-Công và Vương-trùng-Dương đã cùng nhau so kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, tuy

Vương-trùng-Dương thắng, nhưng không bao lâu ông đã qua đời. Từ ấy đến nay trải

thêm bao nhiêu luyện tập, mức tiến bộ của Hồng-thất-Công ngày nay thế nào cũng

phải vượt cao hơn Vương-trùng-Dương hồi đó nhiều.

Mải suy nghĩ vẩn vơ mà trời đã sáng từ lúc nào không biết. Chàng nhìn lại chỗ

Hồng-thất-Công nằm ngủ thấy tuyết phủ kín mít mới trông như một nấm mộ bằng

bông, không có một mình áo hay sợi tóc.

Đưa mắt nhìn khắp nơi, bầu trời cũng chỉ toàn một màu trắng xóa, gió lộng từ hồi,

thật là ảm đạm.

Thình lình có chân ai đang bước mau từ phía Đông-Bắc tiến lại.

Chàng định thần nhìn kỹ thấy đàng xa có năm bóng người thoăn thoắt đi trên tuyết

thật mau, chứng tỏ người nào cũng có bản lãnh khá cao.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Không biết đây có phải bọn ngũ quỷ mà Hồng-thất-Công có nói ngày hôm qua đó

chăng! Nếu quả thật bọn ấy thì hay biết mấy.

Chàng vội tìm một kẽ đá ẩn thân và lén theo dõi hành động chúng.

Không bao lâu cả năm người đã đến trước hang đá, ngó láo liên một chốc, cùng ồ lên

một tiếng, một đứa nói:

- Lão ăn mày ở đây rồi. Đồ đạc của hắn đây chắc hắn cũng ẩn nấp trong hang hóc nào

gần đây chứ không xa.

Cả năm đứa lộ vẻ sợ hãi, kéo nhau ra phía ngoài, xúm đầu lại bàn tán thầm thì rồi

phân tán đi tứ phía để tìm kiếm.

Vì đường núi chật hẹp nên chẳng bao lâu một đứa trong bọn đạp trúng chỗ nằm của

Hồng-thất-Công.

Nghe có vật gì mềm bập bềnh dưới chân, tên đó vội cúi xuống bới tuyết ra xem. Bốn

đứa kia cũng xúm lại xem.

Chúng thấy Hồng-thất-Công nằm ngửa trong tuyết, chân cẳng cứng đờ hình nh đã

chết từ mấy hôm rồi.

Cả bọn hớn hở reo vang. Một tên lấy tay sờ trên ngực và đặt trên mũi, thấy toàn thân

lạnh buốt như băng, chẳng còn chút hơi thở nào nữa.

Một đứa nói:

- Lão già ăn mày đã chết rồi. Ai khiến mi cứ mò mẫm theo chân chúng ta làm gì đến

nỗi bỏ thây trong tuyết như vầy.

Một tên khác thận trọng hơn nói:

- Lão này võ nghệ tuyệt luân, tài ba xuất chúng, không dễ gì chết được đâu, không

khéo mình trúng kế của hắn thì nguy lắm.

Tên khác ra mặt thạo đời cãi lại:

- Có lý nào võ giỏi cứ lột da sống hoài không chết được sao? Theo tôi đoán có lẽ hắn

đã quá già, gặp lạnh bị cóng, máu đông rồi chết như thế này.

Mấy đứa kia cùng tán thành nói:

- Thật quả là may. Nếu thiên tào không dũ số nó đi thì bà con mình cũng phải điêu

đứng mãi với hắn.

Tên gặp đầu tiên đưa ý kiến:

- Bây giờ anh em chúng ta đâm hắn mỗi người một nhát để cho hắn mang danh đệ

nhất cao thủ võ lâm mà chết chẳng toàn thây.

Dương-Qua nấp sau một tảng đá lớn, mắt lom lom nhìn ra, tay lăm le mũi "ngọc phun

châu" và nghĩ bụng:

- Bọn nó những năm tên, chưa chắc ta đương cự nổi. Chi bằng ra tay trước, tỉa dần vài

đứa. Còn mấy đứa sau sẽ tuần tự giải quyết tiếp có lẽ hay hơn.

Tuy đã dự liệu như vậy nhưng vì tuổi trẻ tánh nóng còn nhiều nông nổi không kềm

hãm được lòng mình, cứ lăm le muốn xông ra. Khi nghe bọn này bàn tính mỗi đứa

đâm ông một dao vào người thì Dương-Qua càng cuống quít vội vàng quát lên một

tiếng, từ phía sau hòn đá phi thân nhảy vọt ra, mỗi tay cầm một khúc cây bẻ sẵn để

làm vũ khí.

Vừa hạ chân xuống tuyết, Dương-Qua đã lẹ tay điểm luôn mấy huyệt vào năm người.

Cũng may vì nghe tiếng thét của chàng, ngũ quỷ kịp thời phòng bị, vận nội công bế

kín các huyệt vì vậy nên chàng điểm không còn hiệu nghiệm nữa. Giá không thét

trước có lẽ ít nhất cũng có ba tên bị ngã với ngón đòn đầu tiên của chàng.

Mỗi tên trong ngũ quỷ đều sử dụng một thanh đao to bản sống dầy, hơn nữa nghệ

thuật cùng học một thầy cho nên lúc xuất thủ rập cùng nhau một lượt, khí thế vô cùng

hiểm ác.

Vừa tránh khỏi trận đòn điểm huyệt đầu tiên, ngũ ác quỷ vội quay mặt nhìn xem kẻ

ấy là ai.

Khi trông thấy Dương-Qua là một thiếu niên còn nhỏ tuổi, thân hình ốm tong, tay

cầm 2 nhánh cây làm binh khí thì bọn ấy đã có vẻ khinh thường không thèm quan tâm

cho mấy.

Tên đầu đảng trợn mắt hét lớn:

- Thằng oắt con, mi là tay sai của lão ăn mày này phải không? Sư phụ mày đã chết

ngoẻo lâu rồi, nếu mày không muốn về Tây phương chầu Phật cùng nó thì mau mau

quỳ xin tạ lỗi.

Vừa nghe hắn dứt lời, Dương-Qua chắp tay cúi đầu đáp:

- Dạ, kẻ hèn xin kính chào ngũ vị.

Chàng tiến lên hai bước, hai tay gạt ngang qua theo thế "mở cửa nhìn trăng" phang hai

khúc cây vào đầu năm đứa.

Thế này vô cùng lợi hại, năm tên tránh đỡ chẳng kịp nên hai đứa nhào bên tả, ba đứa

ngã bên hữu.

Ba đứa bên mặt bản lãnh khá hơn, cho nên vừa nhào xuống đã tung mình đứng dậy

được, rút dao xông đến chém nhau.

Đứa xông vào đầu tiên bị Dương-Qua gạt trái một gậy, tét cả hổ khẩu, thanh đao sút

tay, văng đi xa lắc. Tức thì chàng hạ xuống phang mạnh vào hai ống chân, tuy chưa

đến nỗi gãy xương nhưng đau đớn rên la ầm ỹ và nằm luôn không ngồi dậy nổi.

Bốn tên kia nổi nóng xông lại bủa vây tứ phía tấn công chàng dồn dập.

Bốn thanh đao to bản vung lên chém xuống xé gió ào ào muôn phần nguy hiểm.

Nhưng Dương-Qua lẹ chân né tránh được hết, khi lách đông lúc ẩn tây, khiến cho bọn

chúng chỉ chém vào không khí.

Một chập sau, tên bị ngã cũng thấy bớt đau, vội vàng gượng dậy, lượm lỡi dao nhảy

vào trợ chiến để trả thù ngón đánh vào giò vừa rồi.

Dương-Qua đã học đợc những ngón bí truyền trong Ngọc Nữ tâm kinh, hơn nữa tài

khinh công chàng cao hơn năm tên này mấy bậc, nếu cần bỏ chạy thoát thân thì quá

dễ dàng, nhưng chàng e rằng nếu mình chạy thoát bọn chúng sẽ đâm chém

Hồng-thất-Công ngay. Vì vậy nên chàng quyết tâm ở lại đánh để bảo vệ cho ông lão

còn đang nằm ngủ như chết trên mặt tuyết.

Đánh thêm một chập, Dương-Qua nảy ra một kế bèn phi thân bỏ chạy, tức thì năm

đứa cùng đuổi theo, ba tên khinh thân khá hơn chạy tới trước còn hai tên kém hơn

chạy chậm mãi tận sau xa.

Thừa lúc bọn chúng đang cắm cổ đuổi theo, chàng dùng thế "tia sáng xuyên rừng" lao

mình như một bóng ma vụt lại phía Hồng-thất-Công đang nằm, đưa tay sờ thử vào

ngực thấy toàn thân lạnh toát như băng. Chàng ngạc nhiên thầm nghĩ:

- Trời ơi, lối ngủ gì mà khác đời như thế này. Hay là ông đã chết cóng rồi cũng nên.

Nếu ngủ thì nãy giờ náo động cũng phải giật mình thức để tiếp cứu cho mình chớ lý

đâu cứ để mặc mình bị bọn này vây khổn như vậy.

Chàng kề miệng vào tai ông gọi lớn:

- Lão trượng tiền bối ơi! Lão tiền bối, tỉnh dậy.

Nhưng Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ như xác chết không cục cựa.

Nghe tiếng chàng kêu réo, năm tên cướp kia cũng quày lại, xúm vây xung quanh đánh

nữa.

Nhưng lần này đứa nào cũng ngán tài Dương-Qua nên chỉ vây cầm chừng, đứa nào

cũng lấm lét nhìn nhau chứ không dám mạo hiểm lại gần sợ lãnh đủ.

Dương-Qua bèn bỏ bọn chúng quay mình theo đường dốc chạy mãi lên cao. Cả bọn

cùng hét lớn:

- Mày có chạy lên trời cũng không thoát khỏi.

Năm người hè nhau đuổi theo, nhưng cũng không dám chạy gần, thong thả đi sau

cách xa hơn mấy trượng.

Dốc càng cao, đường càng hẹp, địa thế hiểm trở vô cùng, khi đến một mỏm núi cheo

leo, tứ bề toàn vực thẳm, nhìn xuống sâu hun hút ngó muốn chóng mặt, bên cạnh thì

vách đá đứng thẳng tắp, láng như mỡ.

Con đường hẹp băng qua mỏm đá này cheo leo như một chiếc cầu thiên tạo, chỉ đủ

cho một người đi mà thôi.

Dương-Qua thấy địa thế quá hiểm trở bỗng nghĩ đến câu: "nhất phu đương quan, vạn

phu mạc khai" (nghĩa là một người giữ ải, muôn người khó đánh nổi) chính chỗ này là

nơi dụng võ thuận lợi nhất.

Chàng nghĩ bụng:

- Bây giờ ta cứ án ngữ tại eo đá này. Bọn chúng dầu đông nhưng không thể hùa nhau

tấn công một lần được. Nếu một đứa vượt qua, ta sẽ tỉa liền. Ráng cầm cự với chúng

cho qua ngày thứ tư. May ra đúng kỳ hẹn, Hồng-thất-Công tỉnh dậy sẽ ra tay hạ sát cả

năm tên "ác quỷ". Nếu rủi ông chết thật thì ta sẽ chôn ông dưới tảng đá này trước khi

rời đỉnh Hoa-Sơn.

Ngay lúc đó năm tên cướp đuổi vừa đến.

Dương-Qua đứng ngay giữa cầu ưỡn ngực quát lớn:

- Chúng bay khôn hồn dừng chân lại. Đứa nào qua đây ta sẽ đẩy xuống vực sâu làm

mồi cho rắn rết hoặc đập đầu vào đá nhọn cho rồi.

Thấy con đường độc đáo quá hiểm trở, tên đi đầu phải dừng lại. Cả bọn thất kinh

cũng không dám bước chân tới nữa.

Đứng bên đầu cầu trên cao, Dương-Qua đưa mắt nhìn qua bên kia sườn núi thấy tuyết

đã tan dần, ánh chiều dương vừa lóe sáng chiếu vào những cây quỳnh và vô số thảo

mộc kỳ lạ mọc rải rác khắp nơi. Những mảnh tuyết chưa tan hết còn dính rơi rớt trên

các cành cây, phản chiếu thành những chòm lấp lánh nhu muôn ngàn hạt minh châu

cực kỳ xinh đẹp. Cảnh rừng núi hoang vu, do bàn tay tạo hóa đã bày ra không khác

nào một bức tranh thiên nhiên vĩ đại.

Nhìn cảnh chán rồi, Dương-Qua liếc xuống xem bọn cướp, thấy cả năm đứa đang

xúm xít bên đầu cầu, cách xa chàng non mươi trượng, lên thì không dám, bỏ đi lại

không đành. Chúng cứ ngập ngừng, bị tranh chấp giữa hai cảm giác: tiếc và sợ.

Dương-Qua thò tay vào túi lấy chiếc mặt nạ da người đeo lên mặt rồi hét lớn:

- Bọn xú quỷ, bây tuy xấu, nhưng chưa xấu bằng ta đâu nhé!

Cả năm tên trực ngó lên thấy mặt mày chàng đã đổi khác kỳ dị vô cùng thì thất kinh

hồn vía đứa nào cũng tự hỏi:

- Thằng này là người hay ma mà thay hình đổi dạng lạ lùng như thế này?

Thấy dáng điệu chúng nháo nhác Dương-Qua tự bảo.

- Quân này miệng hùm gan sứa, chẳng làm nên trò trống gì đâu ta cứ thị uy cho

chúng sợ, sẽ không dám bén mảng đến đây nữa.

Nghĩ rồi chàng lui ra giữa cầu, co chân mặt lên, đứng một chân trái theo thế "kim kê

độc lập" tay chỉ lên trời toàn thân cứng đờ không lay động. Đứng xa nhìn vào không

khác nào một thiên thần hay hộ pháp đang giữ của.

Bọn ngũ quỷ đã rung động, không dám bước tới vì nghĩ rằng:

- Bản lãnh thằng này cao siêu lắm, chỉ có thể dùng số đông áp đảo chứ nến một xáp

một thì bị hắn hạ sát liền. Vì con đường quá chật hẹp, cả bọn nghĩ kế luân phiên nhau

canh chừng đầu bên này. Trong một vài ngày, chờ Dưương-Qua đói lả sẽ qua bắt sống.

Lập mưu xong bọn chúng sai một tên đi lấy lương thực, còn tên đứng dàn thành hình

chữ nhất ám ngữ bên này đầu cầu để canh phòng.

Hai bên cứ xem chừng nhau suốt nửa ngày. Dương-Qua không thể xuống mà bọn này

cũng không thể lên được.

Vừa đúng ngọ Dương-Qua đã mỏi chân không đứng theo lối kim kê độc lập nữa mà

chỉ ngồi dựa bên đường để dưỡng sức.

Qua ngày thứ hai, bọn chúng mang cơm và thức ăn đem bên đầu cầu vừa ăn vừa nhem

thèm Dương-Qua.

Dương-Qua đang đói cào cả gan ruột, lại hít phải mùi thơm của cơm, mùi béo của thịt

nướng từ đầu cầu theo gió bay tạt vào mũi khiến chàng thấy lòng nóng như lửa đốt.

Chàng liếc mắt nhìn về phía Hồng-thất-Công đang nằm, bụng nghĩ:

- Giấc ngủ gì kỳ lạ quá! Không biết ông lão ngủ thật hay đã chết cóng rồi. Nếu ông

chết thì uổng công mình canh giữ nơi đây mà nhịn đói luôn mấy ngày trường. Nếu cứ

tiếp tục chờ ông ấy thức dậy, bụng đói thêm còn hơi sức đâu để đánh nữa. Chi bằng

mình tấn công ngay bây giờ mới mong còn đủ sức thoát thân.

Nhưng lúc sắp nhảy xuống, chàng bỗng nhớ lại:

- Trước khi ngủ, Hồng-thất-Công có dặn sẽ ngủ đúng ba ngày. Nếu lời ông nói đúng,

thì cũng không còn bao lâu nữa. Ta rán chờ thêm, không nên bỏ ông ấy tội nghiệp.

Thế rồi Dương-Qua nhất quyết chịu đói, nhắm mắt không thèm dòm chúng ăn và vận

nội công nín thở không ngửi mùi thơm của đồ ăn bay qua.

Qua ngày thứ ba, Hồng-thất-Công vẫn nằm yên không cục cựa. Duơng-Qua thấy vậy

than rằng:

- Thế là ông đã chết thật sự rồi. Nếu ta cứ chần chờ mãi, trong ngày nay khí lực kiệt

quệ, dầu bọn chúng không đánh ta cũng chết đói.

Đói quá, chàng bốc một bụm nước tuyết bỏ vào mồm nhai và nuốt, cảm thấy trong

lòng có phần khoan khoái dễ chịu hơn nhiều.

Chàng lẩm bẩm:

- Thôi, đã hai ngày qua, mình cũng hết lòng cùng lão tiền bối. Bây giờ phải ra tay chứ

để kéo dài nguy hiểm lắm.

Nhưng Dương-Qua không thể cất bước nhảy qua cầu được vì lương tâm vẫn không

cho phép.

Chàng tự nhủ lòng mình:

- Ta không thể thi thố chữ trung với nước và không giữ được tận hiếu với mẹ cha,

cũng không có anh em bà con ruột thịt để vẹn tình "hiếu dễ". Lẽ nào chỉ một chữ "tín"

mà cũng không giữ được hay sao? Làm trai nh vậy đâu đáng mặt làm trai nữa.

Ngày xa chàng Vỹ-Sinh ước hẹn cùng tình nương sẽ gặp nhau dưới chân cầu. Khi

người tình chưa đến mà nước thủy triều đã dâng lên. Vỹ-Sinh đã cam lòng ôm lấy cột

cầu, nước lên ngập đầu chết đuối, cho vẹn chữ tình cùng bạn lòng. ở đời đối xử với

thiên hạ, ai cũng lấy chữ tình ra để đo lường chân giá trị của con người.

Dương-Qua, mày sinh ra đã bị người đời ghét bỏ khinh khi, nếu ngày nay mày còn

thất ước bỏ người cho kẻ khác sát hại, thì còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa. Thôi,

dầu phải chết đói, ta cũng quyết giữ trọn lời hứa, chờ đủ ba ngày như Hồng lão tiền

bối đã dặn trước.

Nghĩ vậy chàng kiên gan nhịn đói luôn một ngày một đêm nữa.

Sáng ngày thứ tư, Dương-Qua thấy không có gì thay đổi, Hồng-thất-Công vẫn nằm

cứng đờ trên tuyết. Chàng chắp tay hướng về xác của Hồng-thất-Công lâm dâm khấn

vái:

- Kính lão tiền bối, đã ba ngày ròng rã, tiểu niên cố chịu đựng với lạnh lẽo đói khát để

giữ vẹn lời tiền bối đã dặn. Tiếc vì lão tiền bối đã vô phần nhắm mắt lìa trần nên đệ tử

không thể nào chịu đựng hơn nữa được. Đệ tử xin đem thi hài tiền bối táng vào thạch

động để khỏi bị lũ quân gian ác ra tay phũ phàng.

Lão tiền bối có linh thiêng xin chứng minh và phò hộ!

Khấn xong chàng lìa vị trí chạy qua cầu xuống phía dưới.

Vừa thấy Dương- Qua chạy xuống năm tên xú-quỷ đoán chàng không chịu nổi đói

khát định đến cướp thực phẩm đỡ lòng nên cùng đứng dậy và đưa mắt ra hiệu cùng

nhau để chận lại.

Tên đầu đảng nói lớn:

Dẫu mạnh khỏe như voi mà nhịn đói luôn ba ngày đêm cũng không còn hơi sức nữa

huống chi thằng này. Chúng ta cứ ra tay bao vây để bắt sống hắn. Kẻ nào để hắn chạy

thoát phải thế mạng vào đấy nhé.

Hắn vừa nói dứt câu, thình lình phía sau có tiếng cười ha hả và một giọng nói vang lên

rang rảng:

Chà! ngủ một giấc đã quá! ủa mà bọn bây làm thứ gì vậy?

Dương-Qua nghe rõ ràng là tiếng nói của Cửu chỉ Thần Cái Hồng-thất-Công nên trong

lòng mừng không thể tả.

Năm tên xú-quỹ thất kinh hồn vía, mặt mày tái mét vì quá sợ, muốn tìm đường chạy

trốn nhưng hai chân đã quýnh lại nh không còn một tý gân sức nào nữa, rồi đầu óc

tối xầm, cả năm đều ngã quay trên tuyết bò lê bò càng xem rất thảm hại.

Dương-Qua hết sức ngạc nhiên không ngờ chưởng lực của ông này lại quá kỳ diệu,

vì chàng thấy ông ta chỉ khẽ phất tay có một tý mà năm tên xú quỷ đã ra tình trạng

như thế này. Thật đáng khiếp đáng phục.

Hồng-thất-Công đưa tay điểm mặt bọn xú quỷ nạt lớn:

Năm tên ác quỷ, quân bây đã gây bao nhiêu tội ác cho dân lương thiện vùng này hôm

nay gặp phải tay ta, đâu phải bỏ mạng cũng không có gì oán trách nữa.

Bọn ngũ quỷ vừa sợ vừa tức, lồm cồm ngồi dậy, đứa muốn bỏ chạy, đứa muốn liều

mạng xông vào tấn công, nhưng vì đã bị ảnh hưởng của giáng long thập bát chưởng

gân cốt rũ riệt, không thể ngồi dạy được. Năm tên chỉ lăn qua lộn lại bò lê bò càng

trên mặt đất, hơi thở hào hễn như năm con trâu vừa mới kéo cày xong.

Ngay lúc ấy có tiếng động lao xao trên tuyết, và một bóng người đầu chổng xuống

đất, chân dựng lên trời, đi tới mau như tên bắn.

Người ấy quả là Âu-dương-Phong Tây-Độc.

Dương-Qua mừng quá gọi lớn:

Cha, cha ơi... Dưỡng phụ!

Âu-dơng-Phong làm lơ không đáp, cứ di chuyển ngay về phía ngũ quỷ, dùng chân

khẽ đá vào lưng mỗi đứa một cái, tức thì cả năm tên xú quỷ đã trở lại bình thường, mà

sức mạnh còn dồi dào hơn trước.

Hồng-thất-Công đang ngạc nhiên vì sự xuất hiện quá đột ngột của Âu-dương-Phong,

lại nghe Dương-Qua gọi bằng dưỡng phụ càng thêm lạ lùng hơn nữa. Ông tự hỏi:

Té ra hai đứa này là cha con với nhau sao? Thật là một chuyện không thể ngờ được.

Nghĩ xong, ông hỏi lớn:

Tôi thấy năm tên xú quỷ này đã làm nhiều tội ác, hãm hại lương dân nên định trừng

trị chúng. Tại sao đạo huynh đi giải cứu cho chúng?

Âu-dương-Phong cười ha hả đáp:

Hễ ác lai thì ác báo, chúng giết người sẽ phải đền tội, nhưng trước khi hành hình cũng

nên giáo hóa chúng đã. Được rồi, ta xin trả chúng lại với tình trạng như trước.

Nói xong y dùng chân trái, khẽ điểm vào lưng mỗi đứa.

Bị áp lực giữa chưởng lực của hai cao thủ, tên nào cũng cảm thấy toàn thân đau đớn

như dần, chợt tỉnh chợt mê, khi lạnh khi nóng, lăn lộn trên tuyết trông rất thảm

thương.

Từ ngày luận kiếm Hoa Sơn lần thứ nhì đến nay đã quá mười năm chẵn,

Âu-dương-Phong và Hồng-thất-Công chưa có dịp gặp nhau lần nào. Trong thời gian

này, Âu-dương-Phong cố sức luyện theo Cửu âm chân kinh nên bản lãnh có phần tiến

bộ hơn trước.

Hồng-thất-Công tuy được nghe Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đọc lại tất cả các đoạn

trong kinh này, nhưng không chịu đào luyện thế nên mức tăng tiến không vượt qua

Âu-dương-Phong được.

Trong cuộc so tài ngày trước, hai người vẫn chưa phân thắng bại. Vì vậy nên lòng họ

vẫn đinh ninh sẽ cùng nhau đấu lại một phen nữa để rõ tài cao thấp.

Hôm nay là lần gặp gỡ thứ ba nên thế nào cũng thi tài mới được.

Hồng-thất-Công thử đưa ra vài ngọn nặng có, nhẹ có, nhưng Âu-dương-Phong đã hòa

giải được hết.

Thấy đối phương chỉ dùng chân mà tài nghệ rất lợi hại, Hồng-thất-Công nhất định thử

thách đến kỳ cùng.

Ông bèn lùi ra sau mấy bước dồn công lực vào tay, định tấn công.

Năm tên xú quỷ thấy hai tay cao thủ sắp choảng nhau mà bọn mình nắm giữa để làm

vật hy sinh thì thất kinh hồn vía năn nỉ khóc lóc cầu xin tha mạng.

Hồng-thất-Công nghiêm giọng bảo:

Ngũ quỷ, mạng căn chúng bay vẫn chưa đến ngày tận số, nên ta rộng lòng tha thứ cho

lần chót. Phải mau mau cải tà quy chánh từ nay không được theo nghề cũ sát hại dân

lành, nghe chưa?

Nói rồi ông phất tay giải huyệt.

Cả bọn vui mừng được thoát chết, sụp lại tạ ơn rồi rủ nhau xuống núi.

Từ đó về sau, nhân dân vùng này không còn nạn ngũ quỷ phá hại nữa.

Lúc ấy Âu-dương-Phong đã đứng lại trên hai chân, quét mắt nhìn Hồng-thất-Công hỏi

bâng quơ:

Thằng kia xem quen quá, chẳng biết tên gì, võ nghệ ra sao, hãy nói nghe thử?

Hồng-thất-Công thấy Âu-dơng-Phong cặp mắt láo liên, tâm thần bất định, khi tỉnh

khi say thì biết là chứng bệnh điên điên của hắn gần mấy chục năm nay vẫn chưa dứt

được.

Ông cả cười nói đùa:

Ta là Âu-dương-Phong đây, còn mi là ai?

Lúc này thần trí Âu-dương-Phong đang bấn loạn, vừa nghe ba tiếng

Âu-dương-Phong thấy quen lắm, chưa biết tên mình hay tên ai, chỉ lắc đầu đáp:

Âu-dương-Phong à! Tên quen lắm. Còn ta, ta tên... gì... như... quên mất rồi!

Hồng-thất-Công cười ngất nói:

Chỉ có cái tên của mình mà không nhớ, thì đấu võ làm sao được, hãy về nhà suy nghĩ

lại, chừng nào nhớ được sẽ trở lại đây.

Âu-dưương-Phong nổi giận trừng mắt nạt:

Thế thì mi có nhớ không? Hay nói hộ cho ta nghe thử.

Hồng-thất-Công đáp:

Tên mi là Cáp-MôÛ, nhớ không?

Nghe hai chữ cáp mô, Âu-dương-Phong cũng thấy quen quen nhưng chưa dứt khoát

đúng hay không đúng. Lòng cứ phân vân, chợt quên, chợt nhớ rồi đứng thừ người ra

nghĩ nữa.

Nguyên Hồng-thất-Công là đối thủ số một của Âu-dương-Phong. Hai người xem nhau

như kẻ tử thù. Mỗi lúc tánh ngây ngây nổi lên thì quên tất cả, nhưng hễ tỉnh trí lại,

nhớ đến Hồng-thất-Công là lửa giận bốc lên muốn đánh nhau liền.

Hồng-thất-Công để ý theo dõi thấy Âu-dương-Phong đang ngơ ngơ ngác ngác, bỗng

nhiên đôi mắt trừng lên lộ vẻ hung quạu thì biết y đã tỉnh lại nên thủ thế đề phòng.

Âu-dương-Phong vừa bớt cơn mê, nhớ lại kẻ thù, hét lên một tiếng, vung quyền tấn

công liền.

Hồng-thất-Công liền đưa Giáng long thập bát chưởng ra chống cự, phá tan những

ngón quyền của đối phương. Quyền cước vung lên vùn vụt, gió lộng ào ào. Mỗi khi

chưởng lực xuất ra là tuyết rơi đá chạy, rung động cả núi rừng. Cả hai người quấn chặt

vào nhau, dùng toàn những đòn bí hiểm thượng thạng, chỉ sơ ý một tý là lăn đùng

xuống hang sâu vực thẳm. Chừng ấy dầu xương sắt da đồng cũng không thoát chết.

So với hai kỳ đọ kiếm tại Hoa-Sơn khi xưa, cuộc tranh tài lần này có vẻ gay go nguy

hiểm hơn nhiều do địa hình quá hiểm trở và cheo leo.

Kể về võ thuật thì người nào cũng thuộc về tuổi cao tác lớn, ai cũng đến ngày gần đất

xa trời cho nên công lực đã hao mòn, so với ngày còn trẻ, không thể nào bì kịp.

Trong trận này ai cũng quyết giành thắng thế nên trận đấu không còn tánh chất so tài

thử sức như xưa mà lại là một trận quyết định tử sanh.

Dương-Qua đứng ngoài nhìn xem, thấy hai bên đều cố đem chưởng lực ra ăn thua chứ

không đem so tài hay võ nghệ.

Dương-Qua thấy trận đấu ngày càng ác liệt hiểm nghèo. Có lúc Hồng-thất-Công suýt

té nhào xuống vực sâu, cũng có lúc Âu-dương-Phong bị áp lực đẩy vào đá, chỉ trong

gang tấc là tan xơng nát thịt. Chàng băn khoăn lo nghĩ:

- Âu-dương-Phong là dưỡng phụ của ta, còn Hồng-thất-Công tuy mới gặp gỡ, nhưng

là một nhân vật lỗi lạc, quang minh chính đại rất đáng mến phục, ai thua cũng đem lại

sự đau lòng cho ta hết vì vậy cần phải làm sao chấm dứt trận đấu càng sớm càng hay.

Chàng đứng nhìn xem chăm chú, định có dịp là nhảy vào phân giải xin giảng hòa đôi

bên.

Không bao lâu trận đấu đã trên hai trăm hiệp. Dương-Qua đứng nhìn say sưa thấy bên

nào cũng áp dụng đúng như những từ chương của Cửu âm chơn kinh đã chỉ dạy. Vì áp

dụng quá đúng cho nên họ có thể giải thoát được nhiều thế bí, tưởng nguy đến tánh

mạng một cách linh điệu phi thường.

Nhiều lúc chàng không thể ngờ được chỉ có một câu quá đơn giản nhặt trong kinh mà

lúc đem ra áp dụng thật là biến ảo khôn lường.

Trận đấu càng kéo dài càng gây cấn, chỉ trong nửa ngày đã hơn một ngàn hiệp. Cả hai

chưa đem sử dụng hết những thế hay của mình nhưng vì tuổi cao bụng đói nên vị nào

cũng có vẻ mệt lả, hơi thở dồn dập, tay chân bớt phần linh hoạt.

Nhân cơ hội này Dương-Qua gọi lớn:

- Nhị vị đánh nhau quá nửa ngày rồi. Xin khá dừng tay để ăn uống và xả hơi chút đỉnh

chứ!

Nghe được hai tiếng ăn uống là Hồng-thất-Công hoan nghênh ngay nên nhảy ra ngoài

vòng gật đầu nói:

- Ăn uống đã, tốt lắm!

Dương-Qua thấy bọn ngũ quỷ còn bỏ lại rất nhiều thực phẩm, nào cơm trắng thịt gà,

giò heo, rượu nữa. Chàng thu góp đem lại dọn ngay trên tuyết để khoản đãi.

Hồng-thất-Công rất tự nhiên và thật tình nên vừa dừng tay la thò tay lấy một khúc gà

thật bự đưa lên mồm nhai rau ráu nghe dòn tan, nuốt luôn cả xương và da.

Dương-Qua lấy một góc con gà khác đưa cho Âu-dương-Phong, miệng nói:

- Cha dùng đi. Thật không ngờ ngày nay được gặp lại cha nơi chốn này.

Âu-dưbơng-Phong đã lấy lại sự bình tĩnh, nhìn Dương-Qua rồi dịu dàng nói:

- Mấy lúc nay cha cố ý đi tìm con. Vì vậy nên mới đến đây, thật là may mắn.

Nghe nói Dương-Qua cảm động vô cùng và suy nghĩ:

- Không ngờ ông lại thương yêu và thiết tha tới mình nh vậy. Lòng ta cũng được an

ủi và đỡ cô độc vì vẫn còn được người tưởng đến để vượt núi đi tìm.

Chàng lại gần nắm tay dưỡng phụ ân cần năn nỉ:

- Thưa cha, Hồng-thất-Công tiền bối quả là người rất tốt. Xin cha đừng chống đối và

đánh nhau với cụ ấy nữa, cha nhé.

Âu-dưng-Phong nghiêng tai nghe nói rồi quay lại điểm mặt Hồng-thất-Công hét lớn:

- Thằng kia, mày là Âu-dương-Phong đấy sao? Hạng mày là đồ xả rác, đâu đáng cùng

ta so tài.

Hồng-thất-Công ngửa mặt cười ha hả rồi điểm mặt Âu-dương-Phong đáp:

- Đúng rồi! Âu-dương-Phong là đồ xả rác, đáng đánh chết vứt xác xuống hố cho rồi.

Dương-Qua thấy cha nuôi đã loạn trí trở lại, khó bề khuyên can giảng hòa gì nữa.

Khi ấy Âu-dương-Phong cứ trợn mắt đỏ ngầu, nhìn trừng trừng vào Hồng-thất-Công

rồi đến Dương-Qua, thần trí bất định, như đã loạn óc trở lại rồi. Có lúc ông ngó

nghiêng nghiêng hình như cố lắng tai để nghĩ lại một việc gì đã quên lãng nhưng nghĩ

hoài không ra.

Dương-Qua đưa cơm, thịt cho Âu-dương-Phong xong, đến trước mặt Hồng-thất-Công

chắp tay kính cẩn thưa rằng:

- Hồng lão tiền bối, ông này quả là dưỡng phụ của cháu, hiện nay đã mất trí nên tỉnh

mê không biết lúc nào. Kính xin Hồng-Lão tiền bối niệm tình cháu, đừng thèm chấp

nên nghĩa phụ, coi ông ấy như người đang điên rồi bệnh hoạn, bỏ qua hết mọi điều đi

cho.

Hồng-thất-Công vốn người quảng đại vô cùng, nghe Dương-Qua tỏ bày các lời trung

hậu chí thiết thì hài lòng lắm, đưa tay vuốt tóc chàng, mỉm cười khen:

- Cháu ít tuổi nhưng có nghĩa và biết điều lắm. Ta rất mến những kẻ ăn ở thủy chung.

Nhưng vừa lúc ấy Âu-dương-Phong, đứng dậy mắt trừng miệng quát:

- Này Âu-dưương-Phong, nãy giờ quyền cước chả ăn thua. Bây giờ ta cùng mi sử dụng

vũ khí xem ra sao nào?

Hồng-thất-Công nhìn Dương-Qua ái ngại lắc đầu đáp:

- Thôi, đừng đánh nhau nữa. Ta nhường cho mi thắng đấy.

Âu-dương-Phong nói:

- Không được. Mi nhường hay nhận thua ta cũng không để mi sống sót được đâu.

Nói xong đưa tay bợ một cành cây thật lớn, suốt hết lá, vung lên, nhắm

Hồng-thất-Công đánh đại.

Xưa nay Âu-dương-Phong đã nổi tiếng về lối dùng gậy cho nên mặc dầu chỉ một

nhánh cây, nhưng mỗi lúc lão múa lên đã lộng gió ù ù, rúng động cả một vùng rộng

lớn. Dương-Qua đứng gần cũng thấy sức ép vô cùng mãnh liệt, khó thở vô cùng.

Chàng vội bước qua một bên né tránh và trong lòng lo ngại cho Hồng-thất-Công quá

sức.

Nhưng Hồng-thất-Công vẫn ung dung thứ thái hình như không quan tâm đến, đưa tay

bẻ một nhành cây khác, làm "đoản bổng" để chống lại.

Lối đánh bổng của Hồng-thất-Công đã chấn động giang hồ thế gian có một. Vì đã lâu

ẩn tịch ít thi thố nên không còn ai nhắc lại.

Cuộc đấu quyền vừa rồi tuy dữ dội nhưng cuộc tranh tài về trượng bổng lần này càng

ghê rợn hơn gấp bội.

Cây trượng múa lên như rồng thiêng uốn khúc, đoản bổng quay cuồng như rắn độc

vây mình, hai món binh khí soắn tít vào nhau, như chong chóng lộng gió rít vo vo,

làm chuyển động cả một vùng tuyết văng tứ hướng.

Dương-Qua đứng ngoài say sưa theo dõi mà hồn phách như dại như ngây bởi những

thế võ vô cùng kỳ diệu. Chàng vừa xem mê mẩn, vừa hồi hộp lo lắng cho cả hai

người.

30. Dự "Anh hùng Yến"

Trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Côn qua bổng lại, gió lộng, tuyết bay, đánh

mãi đến chiều tối không biết bao nhiêu hiệp, hai người cũng không chịu ngừng tay.

Dương-Qua đa mắt nhìn quanh thấy đầu non tuyết phủ trắng xóa một màu, bao

nhiêu ngọn cây, hóc đá, hầm hố bụi bờ đều bị bao bọc bởi một lớp tuyết thật dày cho

nên không biết chỗ nào lành nơi nào nguy hiểm nữa.

Chàng lo ngại hai người tuổi cao sức đã kém, nếu cứ đấu hoài thế nào cũng phải kiệt

quệ, rủi có bề nào thật là đáng ân hận.

Chàng vội vàng lớn tiếng yêu cầu hai vị tạm ngừng trận đấu, nhưng đôi bên mãi mê

say đánh, mặc kệ cho van nài chẳng thèm đếm xỉa mà càng đánh hăng thêm.

Sực nhớ đến cố tật của Hồng-thất-Công, chàng nghĩ ra một kế:

- Ta phải tìm món gì thật thơm, đem nướng nơi đầu gió, xông vào mũi ông ấy may ra

mới dụ được ngừng tay.

Chàng chạy luôn xuống dưới khe suối, hái mấy thứ cây và cỏ thơm mang lên, đem lại

phía mỏm đá ở trên gió, chụm lửa để đốt.

Mùi "cam thảo, hoắc hương" nướng cháy, khói tỏa ra mùi thơm ngạt mũi.

Hồng-thất-Công đánh hơi thèm quá nhịn không được bảo Âu-dương-Phong:

- Lão Cáp-Mô hãy tạm dừng một chút, ta có việc cần.

Nói xong ông kiễng đầu quay ra sau, chạy lại phía Dương-Qua lấy mấy khúc cam

thảo nướng đưa vào miệng vừa nhai vừa chắp và khen Dương-Qua:

- Cháu bé chu đáo lắm!

Âu-dương-Phong chờ một chập không thấy Hồng-thất-Công trở lại bèn vung nhánh

cây nhảy lại đập nhầu.

Hồng-thất-Công né xong, cầm khúc cam thảo nướng đi vào mồm Âu-dương-Phong

bảo:

- Hãy nuốt đi cho ấm bụng. Thơm quá.

Âu-dương-Phong ngạc nhiên ngần ngừ một chút nhưng cũng đa tay nhận lấy và nhai

ngon lành, quên cả chuyện đánh nhau.

Nhai xong mớ cây thuốc, cả ba cùng vào hang đã nghỉ ngơi.

Đêm đã xuống, âm u rùng rợn làm sao! Đỉnh Hoa-Sơn như chìm đắm trong màn đêm

dày đặc. Ngoài hang gió lộng từng cơn, tuyết đổ ào ào đập vào vách đá như tiếng gào

thét của rừng xanh. Dương-Qua nằm không ngủ được, to nhỏ đem những chuyện ngày

xa hỏi lại Âu-dương-Phong nhưng ông chỉ ngơ ngẩn nói không trúng vào đâu hết, có

nhiều lúc chỉ làm thinh không trả lời.

Khi bị hỏi vặn, Âu-dương-Phong vỗ tay vào trán để suy nghĩ mãi không ra, mặt mày

lộ vẻ băn khoăn quá sức rồi ngẩn người lộ vẻ âu sầu bực tức lắm.

Dương-Qua sợ hỏi mãi ông lão sẽ nổi cơn điên gây sự thì nguy hiểm lắm nên ân cần

dỗ ngọt để cha nuôi ngủ đi cho rồi.

Khi cả hai ông lão đã ngủ mê, tiếng ngáy đều đều, Dương-Qua lồm cồm ngồi dậy, rảo

bước đi ra ngoài hang.

Chàng nhớ lại bao nhiêu thế quyền khi sáng hai cụ đã thi thố quả thật vô cùng kỳ

diệu. Thế rồi chàng đứng lên tập luyện một mình để nhớ lại những thế hiểm ác nhất

mà mình đã tận mắt nhìn xem đôi bên thi thố.

Tập một hồi thấm mệt, chàng vào hang ngủ lại.

Rạng ngày sau, khi ánh mặt trời le lói dọi vào hang, Dương-Qua thức giấc, đã nghe

phía ngoài cửa hang có tiếng chân dẫm trên tuyết rào rạo và chưởng lực chạm vào

nhau rầm rập. Chạy ra xem thấy Hồng-thất-Công và Âu-dương-Phong đã đem nhau ra

đồng để đấm đánh từ lúc nào rồi.

Dương-Qua chép miệng than thầm:

- Hai ông cụ đã già, gần đất xa trời nhưng còn háo thắng, tranh nhau như con nít, thật

ngán!

Chàng ngồi trên một tảng đá nhìn xem hai người đấu nhau, hết bằng quyền thì đến

côn bổng.

Các đòn tấn công của Hồng-thất-Công hiểm ác vô cùng, nhưng Âu-dương-Phong đâu

chịu sút kém, dùng ngón khác phá được ngay rồi phản công lại.

Cuộc chiến đấu đôi bên cứ kéo dài suốt sáu ngày ròng rã, cứ ngày đánh, đêm nghỉ,

chẳng ai chịu thua ai, mà cũng không người nào nắm phần thắng thế.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Nếu để cục diện kéo dài, giữa hai người thế nào cũng có một kẻ bị thương nặng.

Đêm hôm ấy, chờ Âu-dương-Phong ngon giấc, Dương-Qua thưa nhỏ cùng

Hồng-thất-Công:

- Xin mời Hồng-Lão tiền bối ra cửa động, cháu có tý việc muốn trình bày.

Khi hai người ra khỏi động ít trượng, Dương-Qua bỗng sụp xuống lạy dài không nói

một tiếng.

Hồng-thất-Công nhìn thấy ngạc nhiên nhưng bỗng nghĩ lại:

- Có lẽ cậu này thấy cha nuôi bị bệnh nên muốn van nài xin ta nhân nhượng cho

chăng?

Ông ngước mặt cười dài rồi nói:

- Ta đã hiểu ý muốn của ngươi rồi.

Nói dứt lời, ông cầm khúc cây ngắn phi thân bay luôn xuống núi.

Nhưng ông vừa đi chưa được vài trượng, thình lình nghe gió lộng từ phía sau, có tiếng

ai nạt lớn:

- Thằng già ăn mày, định trốn đi đâu đó?

Té ra Âu-dương-Phong vừa thức dậy trông thấy, vội cầm gậy ngắn phi thân đuổi theo,

chận lại.

Hồng-thất-Công đã có ý định nhận lời cầu khẩn của Dương-Qua, cố nhẫn nhịn, tìm

đường chạy thoát cho xong chuyện.

Nhưng Âu-dương-Phong lầm tưởng ông hoảng sợ cố ý lánh mình nên càng làm già

đuổi riết. Y vung gậy ngắn đánh đập tứ phương quyết ngăn đường cản lối.

Phàm khi nghênh chiến cùng một địch thủ ngang tài phải giữ miếng ngay từ giờ phút

đầu. Nếu để thua sút một đòn cũng đã bất lợi, huống chi Hồng-thất-Công đã tránh né

nhường nhịn luôn mười ngón thì lúc cần lấy lại thế quân bình không phải dễ.

Đã hai ba lần suýt lâm nguy với cây gậy của Tây-Độc Âu-dương-Phong,

Hồng-thất-Công không dám nhân nhượng nữa, phải tận lực múa bổng chống cự lại để

cứu vãn tình thế.

Thình lình Âu-dương-Phong phóng một gậy đâm thẳng vào bụng dưới nếu lôi thôi sẽ

lủng ruột ngay, nên Hồng-thất-Công vội vàng né qua một bên rồi múa bổng gạt mạnh

một cái.

Nhưng lúc bỗng chạm phải gậy, Hồng-thất-Công có cảm giác như một cái roi đập

phải bức tường sắt. Cây gậy của Âu-dương-Phong đứng sững nặng có ngàn cân.

Hồng-thất-Công biết y đã vận chuyển toàn nội lực phổ vào ngọn cây để áp đảo mình.

Nếu không cấp bách tận dụng hết khả năng nội công ứng phó thì nguy đến sinh mạng

như chơi.

Thế là từ võ thuật, hai bên đã đem nội lực ra đấu nhau.

Đối với hai quái kiệt này bản lãnh đã đến mức linh diệu tuyệt kỹ, nếu kẻ nào chỉ sơ

hở trong đường tơ kẽ tóc thì không bỏ mạng cũng mang tật suốt đời.

Từ quyền cước, đến côn bổng bây giờ qua nội lực, người nào cũng hiểu rõ quá nhiều

công phu tài nghệ của đối phương cho nên không dám coi thường vì hễ chủ quan, nó

mất một ly là chết liền.

Sau bảy ngày tranh tài về võ thuật thấy không qua mặt được Hồng-thất-Công, sáng

nay Âu-dương-Phong nhất định đem nội lực ra đối chọi.

Suốt mấy chục năm qua, Hồng-thất-Công ghét cay ghét đắng bản chất hung bạo tàn

ác của Âu-dương-Phong. Hễ có dịp là ra tay hạ sát mới đả giận. Nhưng càng võ gia,

tâm tánh càng thuần hậu, lòng háo thắng cũng chẳng còn. Hơn nữa vì Dương-Qua đã

hết lòng van xin cầu khẩn, nên Hồng-thất-Công không muốn ra độc thủ, chỉ đánh cầm

chừng, có thủ nhưng không muốn tấn công, chờ hắn hở cơ là tẩu thoát.

Không dè Âu-dương-Phong lại vận chuyển nội lực hùng hậu như sóng cồn, thác chảy,

khiến Hồng-thất-Công phải giật mình kinh hãi.

Suốt đời Hồng-thất-Công chú trọng khổ luyện về công lực cho nên tuy về già nhưng

không đến nỗi tệ. Vì vậy nên cố vận hết nội công đối chọi. Cả hai bên cứ giữ mãi cái

thế quân bình, không hơn không kém.

Dương-Qua để ý nhìn thần sắc hai người có vẻ khẩn trương, đem hết tâm lực vào cuộc

so tài. Tuy hai người đứng yên không cử động nhưng cả hai cùng dồn hết nội lực như

hai quả núi đang choảng nhau, nếu người nào sút một ít sẽ bị đè bẹp hay bị nội

thương ngay.

Chàng lo ngại cho tánh mạng của Âu-dương-Phong, muốn thừa cơ phóng ám khí hay

tập kích sau lưng Hồng-thất-Công để tiếp sức cho dưng phụ. Nhưng nhìn vẻ mặt hiền

hậu đầy chánh khí hiên ngang của ông lão, Dương-Qua bỗng thấy thẹn cho cảm nghĩ

thiếu đứng đắn của mình và nghĩ thầm:

- Hồng-Lão tiền bối quả là một bậc trượng phu đáng kính, ta không thể nào dùng thủ

đoạn ám muội để hãm hại ông được.

Thình lình Âu-dương-Phong hét lên một tiếng vang trời, vụt quay đầu xuống đất,

chổng cẳng lên trời, nội lực ngùn ngụt phát ra nghe vo vo, mà Hồng-thất-Công vẫn

đứng trụ vững như pho tượng đồng không hề chuyển động tý nào.

Từ đầu đến gót chân của Âu-dương-Phong phát tiết một làn hơi trắng, ngùn ngụt bốc

ra, cuộn khắp người của Hồng-thất-Công.

Hồng-thất-Công tăng gia nội lực để đánh tan luồng bạch khí này. Hình nhu ông chỉ

muốn đối phó bằng cách chống đỡ chứ không muốn phản công lại như những lần

trước.

Thế rồi hai bên cứ tận dụng toàn thể nội lực áp đảo nhau, cầm cự dằng dai từ giờ thìn

đến cuối giờ ngọ. Hồng-thất-Công có vẻ kém sức, mà trái lại công lực

Âu-dương-Phong cứ cuồn cuộn trào dâng như nuớc thủy triều.

Hồng-thất-Công than thầm trong bụng:

- Thằng Tây-Độc càng điên khùng càng lợi hại, ta đây tuổi càng cao, nội lực cũng

kém sút, không khéo phen này ta bị nguy mất.

..................

(Xin lỗi bạn đọc truyện bị thiếu 1 trang)

Hồng Thất Công đắn đo một chập rồi mới nói thêm :

- Ta có một món võ bí truyền của Cái Bang vô cùng kỳ diệu, muốn đem truyền lại cho

con. Theo quy luật của Cái Bang thì môn võ này chỉ có thể độc truyền lại cho vị bang

chủ kế vị để cầm giềng mối vạn mạng của bổn bang , tuyệt đối không dạy cho một kẻ

nào khác, dầu vợ chồng con cái cũng vậy. Nay vì dưỡng phụ con có chọc tức nói

khích, ta chịu không được mới đem dạy cho con đó.

Dương Qua mừng rỡ không xiết kể nhưng vẫn từ chối lấy lệ :

- Thưa lão tiền bối, nếu theo quy luật của Cái Bang, võ công ấy chỉ có thể truyền lại

cho Cái Bang bang chủ mà thôi thì con đâu dám học. Vả lại dưỡng phụ con đang lúc

điên điên khùng khùng, nói năng không đúng chỗ, hơi đâu mà chấp nệ những lời ông

ấy nói. Dầu có truyền lại cho con rồi chưa chắc gì ông ấy thấu hiểu nổi.

Hồng Thất Công nói :

- Phàm những tuyệt kỹ võ công có hai phần : "tư thế" và "quyết khiếu". Phải biết cả

hai chuyện mới đến chỗ hoàn toàn. Hôm nay ta dạy cho ngươi cái tư thế để sử dụng

chân tay trong "Đả cẩu bổng pháp" chứ không truyền lại cái phép về "quyết khiếu" thì

đâu có vi phạm quy luật mà hòng ngại.

Dương Qua nghĩ thầm :

- Đả cẩu bổng pháp là môn võ thuật trấn môn, quý báu nhất của Cái Bang đã duy trì

uy danh của Bang này trên mấy mươi đời nay, chắc gì dưỡng phụ mình hiểu. Hôm

nay Hồng lão tiền bối muốn dùng mình để biểu diễn thị uy cùng cha nuôi đây chứ gì.

Hồng Thất Công thấy Dương Qua lộ vẻ nghĩ ngợi cũng hiểu được những điều mà

chàng đang thắc mắc nên nói cùng Âu Dương Phong :

- Này chú Tây Độc, thằng con nuôi của ngươi nó cũng thừa hiểu ngươi không thể nào

sánh nổi với "Đả cẩu bổng pháp" của ta nên do dự không dám nhận biểu diễn vì sợ

mất mặt cha nuôi đấy.

Âu Dương Phong tự ái nổi đầy bụng, trợn mắt nói :

- Này Qua nhi, con cứ làm theo ý hắn muốn đi. Sau khi con hiểu xong mấy cái thế võ

quèn của lão rồi, ta sẽ chỉ cho con một vài bí quyết vô cùng ảo diệu mà hắn nhất định

không bao giờ hiểu thấu nổi.

Thấy cả hai vị đều thúc ép, Dương Qua thấy khó nỗi chối từ đành lại trước mặt Hồng

Thất Công chờ ông chỉ bảo.

Hồng Thất Công bảo chàng đi bẻ một nhánh cây nhỏ làm bổng rồi bắt đầu dạy tỷ mỷ

từng ly từng tý tư thế trong "Bổng đả song khuyển" ( tức là một gậy đánh hai chó ).

Vốn được trời phú tư chất thông minh lanh lợi, học đâu hiểu đấy và nhớ kỹ càng, nên

Dương Qua cầm bổng đứng lên biểu diễn được ngay.

Âu Dương Phong trông thấy đường bổng pháp quả nhiên kỳ diệu. Nếu mấy ngày qua

mà lão ăn mày đem ngón này ra dùng, chắc mình chống đỡ không thể nổi.

Vì vậy, ông gọi Dương Qua để gỡ gạc lại phần nào danh dự :

- Được rồi, bây giờ con lại đây, cha dạy cho con phép "Nhất trượng sát song hùng"

cho lão xem để mở rộng thêm tầm mắt của lão đôi chút.

Dương Qua lại gần, Âu Dương Phong tay chân múa máy, mồm giảng giải từ động tác

cơ bản đến cái lối đánh đỡ, biến thế dọc ngang nhất nhất rành rẽ từng ly từng tý.

Dương Qua học xong, biểu diễn lại không sai một chút nào.

Hồng Thất Công gật đầu khen :

- Hay lắm, khá lắm đấy !

Thế rồi Hồng Thất Công lần lượt dạy cho Dương Qua cả 36 đường trong "Đả cẩu

bổng pháp", phân tích những lối biến hoá kỳ diệu không biết đâu mà lần.

Đáp lại, Âu Dương Phong cũng đem ra dạy tất cả các bí quyết về "Công thủ" khiến

Hồng Thất Công phải tấm tắc khen thầm.

Hai bậc lão anh hùng thi nhau đem tất cả các môn ruột bí truyền của mình dạy hết

cho Dương Qua để biểu diễn lại trong suốt ba ngày liền. Đến cuối ngày thứ ba, Hồng

Thất Công mới đem môn "đục biến" của môn múa bổng dạy nốt cho Dương Qua. Đây

là một thế tối hậu của mọi bí quyết, có cả lối "bạt thảo tầm xà" ( vạch cỏ tìm rắn ) vô

cùng kỳ ảo.

Dạy xong, Hồng thất công nhìn Âu Dương Phong nói :

- Ta có thể nói, đây là môn võ công tinh diệu nhất, dầu có thánh cũng không thể nào

phá giải được. Mi cứ thử xem nào ?

Âu Dương Phong cứ đứng nhìn hoài, tìm mãi không biết cách nào để khắc chế nên cứ

làm thinh suy nghĩ mãi.

Suốt đêm ấy, Âu Dương Phong không ngủ, nằm thao thức lăn lộn cố tìm cách phá

giải và đến gần cuối canh hai mới tìm ra được cách, gọi Dương Qua thức dậy bảo :

- Ta đã có cách phá cái thế "Bạt thảo tầm xà" rồi. Mi đem trượng lại đây ta dạy cho

ngay bây giờ.

Nghe tiếng nói của nghĩa phụ thay đổi khác giọng nói thường ngày , Dương Qua ngạc

nhiên nhìn kỹ thì thấy tất cả râu tóc của Âu Dương Phong đã bạc phếch, sắc diện già

đi hơn người mấy tuổi. Ghê thay cho tác dụng của một đêm lao tâm suy nghĩ.

Dương Qua khiếp hãi, định lại năn nỉ cùng Hồng Thất Công xin bãi bỏ lối thi đâu này

đi, nhưng chàng chưa kịp làm thì Âu Dương Phong đã mở miệng thét vang gọi Hồng

Thất Công ra đấu.

Hồng Thất Công đang ngủ trên ổ cỏ, nghe gọi bèn ngồi dậy bước ra liền.

Dương Qua ngại nguy hiểm cho dưỡng phụ vội nắm áo kéo Âu Dương Phong lại

nhưng toàn thân của lão đứng sững như cột đá, vững như trời trồng không thể nào lay

chuyển nổi. Chẳng biết làm sao hơn, chàng đành đứng phía sau canh chừng mọi sự

bất trắc.

Thấy Âu Dương Phong đã tìm ra lối phá, Hồng Thất Công cười ha hả nói:

- Âu Dương lão trượng, nhà ngươi quả là bậc kỳ tài mới tìm ra được lối phá thế võ ấy.

Ta hoàn toàn cảm phục và xin có lời thành thực khen ngợi người đấy nhé .

Âu Dương Phong võ nghệ cao siêu thật, nhưng tuổi cao, sức yếu, lại thêm dùng tận

lực đấu nhau suốt mấy ngày liền, còn phải trải qua một đêm suy nghĩ quá sức nên đã

hoàn toàn kiệt quệ.

Vừa nghe Hồng Thất Công nhắc đến hai chữ Âu Dương ông tự nhiên nhớ lại, trí óc

như bừng sáng, tư tưởng như được mở rộng, ký ức nhớ lại bao chuyện đã qua trong dĩ

vãng rõ ràng nh một tấm gương soi, bất giác thích chí cười lên một tràng dài rồi thét

lớn ;

- à ! Đúng là tên Âu Dương Phong. Tên ta là Âu Dương Phong rồi, đúng lắm, đúng

lắm !

Tiếng của lão rống lên như tiếng chuông ngân, âm thanh rùng rợn vang dội bên tai

như tiếng cười đắc chí của tử thần.

Hồng thất Công cũng thích chí vụt ngồi dậy ôm chầm lấy Âu Dương Phong. Hai ông

lão cứ ôm lấy nhau cười ngất, tiếng cười kéo dài mỗi lúc một to, rồi nhỏ dần và cuối

cùng thì tắt hẳn.

Hai thân hình cứ ôm nhau mãi không cử động.

Dương Qua sợ hãi liền kêu lớn :

- Dưỡng phụ, dưỡng phụ ! Hồng lão tiền bối ! Hồng lão tiền bối !

Tiếng gọi của chàng như rơi vào hư vô, vang bên sườn núi rồi tắt hẳn không lời đáp

lại.

Thân hình hai ông lão cứ đứng sát vào nhau, trơ như hai bức tượng đá, như muốn nhắc

lại cho người đời nhớ rằng : "đời người lắm chuyện bạc đen, không thèm nghe, chẳng

thèm ngó gì nữa. Chết là giải thoát !"

* *

*

Rừng sâu vắng lặng hình như còn rơi rớt d âm của chuỗi cười cuối cùng của hai nhà

đại hiệp khách, suốt mấy mươi năm lừng lẫy giang hồ.

Dương Qua không thấy ai đáp lại, đến sờ vào lưưng Hồng Thất Công thì thấy lạnh như

băng , đặt thử tay lên ngực Âu Dương Phong cũng thấy không còn hơi thở nữa.

Nhưng nhìn sắc diện hai người thấy vẫn tươi nhuận và bình thản như đang ngủ một

giấc êm đềm .

Thiên hạ muôn đời về sau nghe lại chuyện này đều băn khoăn suy nghĩ :

Hai đại anh hùng võ lâm Bắc Cái và Tây Độc đã từng sống qua cuộc đời chém giết,

làm lưu huyết biết bao nhiêu người. Họ xem nhau nhưthù số một , vậy mà lại cùng

ôm nhau cưòi đến chết ngay trên đỉnh núi Hoa Sơn này .

Chẳng biết họ cười nhau là ngu ngốc hay kém cỏi, hay cười để xoá tan bao ngày hận

thù chồng chất. Thật khó hiểu cho cái cười kỳ lạ, mà cũng không ai ngờ đến cái chết

của hai quái kiệt võ lâm.

Dương Qua không ngờ được cái chết quá ngẫu nhiên và đột ngột như thế này. Chàng

chỉ lầm thầm khấn vái mong sao đây chỉ là một cuộc chết giả cũng như ngày trước

đây Hồng Thất Công đã chết giả trong ba ngày ba đêm liên tiếp. Biết đâu lần này ông

cũng giả chết để khỏi có sự tranh chấp với dưỡng phụ mình.

Cầu khấn xong chàng ẵm hai người đem đặt tại giữa hang và ngồi ngay ở giữa để xem

chừng ra sao.

Cứ để yên liên tiếp 7 ngày 7 đêm, Dương Qua thấy hai thây ma đã bắt đầu đổi sắc và

có mùi nên chắc chắn là chết thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng ôm mặt khóc

lóc một hồi rồi đào hai cái huyệt để an táng hai quái kiệt võ lâm, nằm song song bên

cạnh nhau muôn đời trên núi tuyết.

Chàng loay hoay vác đá lên đắp thành hai cái mồ thật cao, rồi bước ra nhìn lại. Trên

mặt tuyết vẫn in rành rành dấu chân của hai vị đã giẫm lên trong lúc cùng nhau kịch

chiến.

Dương Qua âu sầu than nhỏ :

-" Dấu chân trên tuyết nay còn đó

Hình bóng người thân đã mất rồi "

Than xong, chàng lẳng lặng bước tới nhìn hai nấm mồ rồi đặt chân mình vào dấu chân

của người quá cố, bất giác cảm thấy nỗi nhớ thương tràn ngập, thổn thức can tràng.

Nhớ lại hai người, chàng đau lòng hoài niệm :

- Suốt đời tung hoành dọc ngang, uy danh chấn động giang hồ, tiếng tăm cho lắm,

tranh tài cho lắm rồi bất quá cũng vùi thây dưới ba thước đất cho tuyết dập sương pha,

lúc sinh tiền họ đã giết chết bao nhiêu người, khuất phục bao nhiêu tài danh thiên hạ,

thế mà ngày nhắm mắt lìa đời không có một manh chiếu bọc thân, cũng không tránh

nổi thây sình xác rữa. Ôi ! đời người sống tham nhiều chết càng thối lắm ! Cuộc đời

phải chăng là một giấc mộng, mới thấy đó đã mất liền. Thế mà ai cũng ham sống để

tranh danh đoạt lợi, theo cái bả phù hoa .

Nghĩ vẩn vơ hồi lâu, chàng đứng tần ngần nhìn lại lần chót, cúi sụp lạy bốn lạy rồi

quay mình xuống núi.

Xuống núi lần này, Dương Qua tuyệt nhiên không có một tham vọng chi hết, lòng

lâng lâng như thoát tục, thản nhiên cất bước thẳng về phía trước, chẳng cần lựa chọn

phương hướng, và cũng không có chủ định đi về đâu.

Trong thâm tâm chàng lúc nào cũng nghĩ :

- Cái thân cô độc này, dầu có đi đến nơi nào trên khắp bầu trời cũng chưa tìm được

chốn định đậu. Biết đâu là nhà, là thân tộc ? Thà cứ đi lang thang cho đến ngày mãn

phần hết số là yên thân.

Trong thời gian nửa tháng trên đỉnh Hoa Sơn tuyết phủ, Dương Qua có cảm giác như

trải qua nhiều năm giữa thị trấn đông người.

Sống giữa chốn hoang sơn không có ai khinh, người trọng, chẳng bận rộn đến chuyện

đời, chẳng oán hận giận hờn, mọi việc đều xem như đám phù vân lơ lửng, mới đó rồi

tan mất ngay.

Chàng tự nhủ thầm ;

- Cuộc đời nhan nhản cả điều ngang trái, giàu trọng khó khinh, bao nhiêu tiền bạc

hạnh phúc đều nằm trong tay một bọn quyền thế, dân nghèo thì cơ khổ cho đến mãn

đời cũng chỉ có bàn tay trắng. Như vậy thì cuộc đời đâu có gì đáng thiết tha và bận

tâm đến. Ta chỉ cần biết trọng những kẻ quý ta và khinh kẻ muốn hại ta.

Ngày nọ, chàng đặt bước đến xứ Thiểm Nam, nơi đây có cả một cánh đồng bao la,

mênh mông bát ngát. Chàng ngừng chân phóng tầm mắt quan sát tận chân trời thấy

toàn là cây khô lá úa, cỏ mọc lơ thơ, có vẻ vô cùng cằn cỗi. Mỗi luồng gió thổi qua lá

vàng theo cát bụi bay mịt trời.

Thình lình từ phía Tây nổi lên nhiều tiếng sấm, rồi từng đám mây đen bao kín khắp

bầu trời. Một đàn ngựa đông đen có vài trăm con chen nhau chạy gấp từ đằng xa lại,

tiếng vó giậm vang lên rầm rập, cách chỗ chàng đứng độ một dặm thì dừng lại. Con

nào con nấy đều có vẻ ngơ ngác, hình như đang lo sợ một kẻ nào đó. Dương Qua thấy

đoàn ngựa rừng chạy lồng trên đồng hoang thì thích chí lắm, nghĩ thầm :

- Con ngựa có khớp yên cương vào, xem oai vệ đẹp đẽ lắm, nhưng đâu được tự do

chạy nhảy như mấy chú ngựa rừng này.

Cũng như trên đời này biết bao nhiêu kẻ tự cao tự đại, xêng xang với mũ cao áo dài,

oai nghi chốn thềm vàng điện ngọc, nhưng trên đầu họ có biết bao nhiêu sự ràng buộc

áp bức, đâu có được thảnh thơi tự tại như ta đây. Cái thằng Dương Qua với mảnh áo

xơ mướp, manh quần rách ống nhưng muốn dọc ngang tuỳ ý.

Bọn giàu sang co tiền bạc cho nhiều , có lụa là gấm vóc cũng chỉ cố che đậy cái xác

thân dơ bẩn, tâm hồn ghẻ lở lúc nào cũng háo hức của ngon vật lạ, lăm le hãm hại lẫn

nhau. Ngày nay ta sống với trái rừng nước suối, bạn với cảnh đẹp bao la, cõi lòng hồn

nhiên thích sống cạnh thiên nhiên.

Đang trầm ngâm suy nghĩ về cuộc đời phù phiếm, nhân tình thế thái , Dương Qua

nghe từ đằng xa có một giọng ngựa hý rất buồn bã. Chàng quay lại nhìn, thấy trên con

đường gồ ghề đầy sạn đá, một con ngựa ốm nhom, lưng bày xương, ỳ ạch lôi một

chiếc xe to tướng, chất đầy củi tiến về phía này.

Dương Qua thấy dáng điệu con ngựa ốm quá thiểu não, thật hợp với tiếng hý buồn

bực vừa nghe. Chàng nhìn con ngựa nghĩ thầm :

- Có lẽ ngựa này thèm khát cái không khí tự do của mấy trăm đồng loại, xót cho phận

mình éo le phải ỳ ạch kéo xe mà không có ai cùng cảnh ngộ để chia sẻ bớt số kiếp

hẩm hiu chăng ?

Chàng mải suy tư mà con ngựa ốm đã kéo chiếc xe củi đi ngang qua trước mặt.

Con ngựa này tuy gầy ốm có lẽ vì thiếu ăn, lại phải làm việc quá sức, nhưng nom kỹ

thì tầm vóc rất cân đối, chân cao, mình dài. Tội nghiệp cho nó, vì mình ốm gầy xương

nhô lên rõ ràng từng cái một, lông rụng lơ thơ, ghẻ mọc khắp nơi, mới nhìn cũng phát

ớn.

Trên chiếc xe chất củi đầy nhóc, một gã đại hán ngồi chễm chệ ngay phía trước, cứ

mỗi lần con ngựa đi chậm một chút là thẳng tay nện tới tấp.

Dương Qua đã thấm thía với cuộc đời hẩm hiu bị thiên hạ giày xéo, khinh miệt, nay

trông thấy con ngựa ốm bị chủ hành hạ tàn nhẫn quá nên cảm thấy đau lòng và liên

tưởng số phân nó và số phận mình cũng chẳng khác gì nhau.

Vì thương tâm cho con ngựa khốn khổ, chàng cảm thấy đầu óc nóng bừng, lòng dạ

xót xa, nước mắt chực trào ra nên đứng né sang một bên đường và tức quá không dằn

được quát lớn ;

- Tên kia,ngươi không có lương tâm hay sao mà nỡ hành hạ con ngựa quá lắm vậy ?

Người ấy quắc mắt nhìn lại, thấy một chàng trai trẻ, quần áo lam lũ rách rới như ăn

xin, chực đứng ra can thiệp vào chuyện của mình nên giơ roi nạt lớn :

- Bé con tránh ra cho mau, không tao cho một roi võ sợ liền bây giờ .

Dương Qua bước tới một bước hét lớn ;

- Ngươi đánh nó một roi nữa, ta giết ngươi ngay lập tức.

Gã đánh xe không đáp lại, giơ roi thẳng tay quất mạnh vào đầu Dương Qua.

Dương Qua đưa tay nắm lấy ngon roi, giật mạnh rồi quất luôn vào người hắn mấy cái.

Tên đánh xe đau quá té nhào xuống xe rên la lăn lộn, mặt mũi dính đầy đất, sưng bầm

nhiều chỗ.

Con ngựa ốm nhìn thấy xấu nhưng khôn ngoan vô cùng. Nó biết kẻ hành hạ nó bị

đánh đau nên cất cổ hý vang, dường như hả dạ lắm, rồi đến gần cọ đầu vào đùi Dương

Qua như tỏ ý cảm ơn.

Dương Qua cảm động tháo bỏ dây cương cho nó rồi đưa tay hất nhẹ chiếc xe qua bên

đường, xem bộ nhẹ nhàng như ném một chiếc hộp quẹt rồi đưa tay chỉ vào đàn ngựa

hoang vừa mới phi ngang qua hãy còn lưu lại một đám bụi trắng và bảo

- Ta cho mi được tự do đi theo các bạn ngươi phi về hướng đó.

Con ngựa hình như hiểu biết ý chàng, cất tung hai vó trước lên cao, hý một tràng dài

như để cảm ơn rồi chạy ngay về phía đó.

Không ngờ, vì nhịn đói lâu ngày và bị buộc mãi giữa hai gọng xe , bốn chân cóng

quá, nên mới loạng choạng được mấy chục trượng đã té nằm dài, đưa bốn vó lên cao

không đứng dậy nổi.

Dương Qua thương hại quá, vội chạy lại nâng nó lên xem nhẹ như nâng một con mèo

rồi vỗ nhẹ vào cổ nó như để an ủi.

Gã đánh xe ngồi dậy trố mắt nhìn, thấy chàng thiếu niên xách chiếc xe như bó củi,

nâng con ngựa như nâng con mèo thì biết chàng có dũng lực phi thường, không dám

chọc nữa, vội vàng tìm đường chạy trốn.

Nhưng khi chạy độ nửa chặng đường, hắn bỗng dừng lại dậm chân la lớn :

- Ôi bà con ơi, có cướp, có cướp . Quân này đã cướp mất con ngựa của tôi rồi, Bà con

ơi !

Dương Qua chỉ mỉm cười chẳng chút quan tâm, chạy lại lề đường bứt mấy đám cỏ

non đút cho con ngựa ăn. Thấy con ngựa bị hành hạ khổ sở giống như hoàn cảnh của

mình nên Dương Qua chạnh lòng thương mến nó lắm.

Khi ngựa ăn cỏ đã no, chàng vỗ nhẹ vào lưng nó nói nhỏ :

- Mi khỏi đi đâu xa nữa, từ nay cứ đi theo ta nhé.

Rồi chàng ung dung dắt ngựa đi chầm chậm, qua thị trấn mua lúa cho ăn thật no, rồi

dẫn nó ra khe tắm rửa thật sạch.

Qua hôm sau ngựa đã bình phục, sức khoẻ tăng lên gấp mấy lần. Dáng điẹu không

còn quá thiểu não như ngày hôm qua nữa. Lúc bấy giờ chàng mới cưỡi nó đi từng

bước một.

Lúc đầu nó chạy còn ngập ngừng, nhưng một chập sau mau hơn và mỗi lúc càng chạy

thật khoẻ.

Liên tiếp bảy tám ngày, Dương Qua cho ngựa ăn no nê, tắm rửa thường xuyên nên

lông lá đã láng, mụn ghẻ không còn nữa và dáng điệu trông đẹp lắm .

Chàng thấy vậy mừng rỡ, càng chăm sóc con ngựa chu đáo, cho ăn uống no nê, bất cứ

đi đến chỗ nào cũng buộc ngựa luôn một bên.

Một hôm, vào một thôn trang nọ, Dương Qua tìm quán trọ và kiếm thức ăn đỡ lòng.

Bỗng thấy con ngựa nghênh mũi nhìn vào một hũ rượu gần đó, miệng hý vang như

muốn đòi uống.

Dương Qua thấy lạ bèn gọi tửu bảo đem ra một hồ đổ vào bát, đặt ngay trước mặt nó.

Con ngựa cúi xuống uống một hơi cạn ráo không còn một giọt.

Thấy vậy Dương Qua thích chí cười vang, cho là một chuyện hy hữu. Chàng bảo tửu

bảo đem thêm. Con ngựa uống thêm cả mứòi bát thật lớn, mũi thở khịt khịt vẫn tỏ ý

muốn uống nữa.

Dương Qua muốn thử thách tửu lượng của nó đến mức nào nên bảo tửu quán đem

thêm rượu ra thêm nữa.

Tên tửu bảo thấy chàng ăn mặc rách rới như ăn mày, sợ không đủ tiền trả nên nói

khéo ;

- Tiệm tôi hết cả rượu rồi .

Dương Qua lặng thinh không nói một lời, móc túi trả tiền cơm, tiền rượu rồi nhảy lên

ngựa đi liền.

Con ngựa có thấm hơi men, hừng nóng da thịt, tung bốn vó sải như bay,cây cối hai

bên đường thi nhau lao ngược về phía sau như đèn kéo quân.

Nhiều lúc đang kiệu thật êm, nó bỗng nổi chứng, búng hai giò sau cao vút lên không

rồi từ từ rơi xuống, khi chân vừa chạm đất thì bốn vó lại cất đều như đánh nhịp dòn

tan trên đất cứng. Nếu người cưỡi ngựa hơi yếu nhất định phải té nhào gãy cổ trẹo

chân hay trẹo xương sống ngay.

Dương Qua thì khác hẳn. Hễ ngựa càng lồng bao nhiêu thì chàng càng thích thú bấy

nhiêu, và cho rằng ngựa hay phải có tật dữ.

Chàng đoán rằng :

- Sở dĩ con thiên lý câu có tánh bất thường, tinh nghịch, hễ gặp bất cứ con vật nào

trên đường cũng phi vút qua đầu và đá hậu lại là vì trong người nó đã có sẵn tính

ngang tàng, bất khuất của một con tuấn mã. Huống chi tron g thời gian qua nó chịu

đoạ đày dưới làn roi của một đứa lái xe vũ phu quê kệch, bây giờ được thảnh thơi nên

muốn tận hưởng những cái gì có thể tận hưởng được của không khí tự do. Khi trước

người ta cho nó ăn ít mà làm nhiều, tài năng bị giảm sút, bây giờ được chủ biết tài,

chăm sóc mến chuộng, nó cũng tỏ ra ngang tàng để bù lại những khi bị áp chế hành

hạ quá đáng.

Thời may tính ngang tàng của con ngựa lại hợp với bản tính của Dương Qua cho nên

chàng rất quý mến nó. Từ đó về sau, người và ngựa quyến luyến nhau như một đôi tri

kỷ.

Vốn còn trẻ tuổi, ưa tinh nghịch hay đùa cho nên trên đường trường, Dương Qua để

cho nó mặc tình rong ruổi đúng sức mà còn khuyến khích chạy mau hơn nữa.

Cứ theo đường mòn chạy mãi, cha mấy hôm đã quá Lam Kiều, khỏi Thương Huyện

rồi qua Long Câu trại.

Dừng lại Long Câu trại mấy hôm nghỉ dưỡng sức, rồi người ngựa lại lên đường nhắm

hướng Kinh Tử quan.

Ngồi trên mình ngựa chẳng có việc gì làm, Dương Qua hồi tưởng những lúc đùa cợt

Lục Vô Song và chọc tức Lý Mạc Thu rồi thích chí cười sằng sặc một mình.

Mặt trời vừa đúng Ngọ, Dương Qua bỗng gặp một bọn ăn mày. Cứ nhìn qua dáng

điệu bên ngoài chàng có thể đoán được đây cũng là những tay cao thủ có hạng.

Nghĩ lại chuyện rắc rối cũ, chàng tự hỏi mình :

- Không hiểu Lục Vô Song có điều gì liên hệ trước kia với bọn này mà nuôi mãi hận

thù đến nay, hễ gặp nhau là hậm hực.

Hay là bọn này có tiền cừu cùng Lý Mạc Thu , nên bất cứ người nào có liên hệ cùng

Lý Mạc Thu , tất thảy đều là kẻ thù của họ nên quyết tìm cách thanh toán đấy chăng ?

Thấy ăn mày tụ hội đông quá, chỗ nào cũng có tụm năm, tụm bảy những chàng bị

gậy quần áo lươm tươm nên chang để tâm theo dõi.

Đang lúc phân vân chưa hiểu ra sao , chàng bỗng nhớ đến Hồng Thất Công.

- Hồng Thất Công là cựu bang chủ Cái Bang. Tuy ta chưa hiểu rõ tôn chỉ mục đích

của Cái Bang ra sao, nhưng chỉ cần nhìn thái độ uy nghi đại độ, quang minh chính đại

của Hồng lão tiền bối thì cũng có thể đoán trước rằng bang Khất Cái phải là một bang

có nhiều đức tính, hành vi chính đáng. Ta cũng nên lân la làm quen với họ, trước để

hiểu thêm những người này, sau là để báo tin Hồng bang chủ đã qua đời cho họ rõ.

Được biết Dương Qua quen với Hồng bang chủ, ăn mày từ các nẻo kéo về , bị gậy

cùng đường, ai ai cũng có lòng kính nể đối với chàng. Nhưng có một điều lạ mà mọi

người đều phân vân tìm hiểu:

- Cứ theo lối ăn mặc bẩn thỉu rách rưới của Dương Qua thì có vẻ đúng là ăn mày rồi.

Nhưng lạ một nỗi là ăn mày mà còn cưỡi ngựa ?

Nếu đi ăn xin mà cưỡi ngựa thì sang quá rồi, ai thèm bố thí cho nữa.

Dương Qua vô tình đâu biết điều tối kỵ đó nên cứ nhởn nhơ ngồi trên ngựa đi rong

ruổi khắp phố phường.

Bỗng đâu có tiếng chim điểu kêu lớn, và từ không trung một đôi thần điêu từ từ sà

xuống.

Một chú ăn mày đứng bên đường nhìn đôi chim điêu lẩm bẩm :

- Hoàng bang chủ lại sắp đến rồi đấy. Chiều nay có cuộc họp bất thường ở Cửu

Thành.

Người bên cạnh nói :

- Không rõ có Quách đại hiệp đến dự không nhỉ ?

Người kia đáp :

- Điều đó chưa ai dám chắc được .

Khi ấy một người khác chột mắt, đứng nhìn Dương Qua cưỡi ngựa đi qua, đôi mắt

lườm lườm, tỏ ý bất bình nhưng chưa nói ra.

Dương Qua nghe nhắc tới Quách Tỉnh và Hoàng Dung trong lòng đã hơi e ngại .

Ngày này đã lớn rồi, tính tình chàng không lất khất nông nổi như xưa kia nữa, cho

nên bề ngoài vẫn giữ được vẻ điềm nhiên và nghĩ bụng :

- Ngày xa ta sống dưới mái nhà họ Quách thật đã đổi bát mồ hôi để lấy bát cơm, thế

mà từ lớn đến nhỏ nhà ông đều khinh thường áp chế ta mãi. Nhưng vì sức yếu và còn

nhỏ dại, ta phải cam tâm chịu đựng. Ngày nay ta đã thoát ly ra ngoài ảnh hưởng gia

đình này, bốn phương đâu cũng là nhà thì còn bận tâm đến họ làm gì cho mệt xác.

Nếu họ còn ngược đãi khinh khi ta nữa, ta nhất định sẽ có phản ứng lại liền.

Chàng dự định giả một kẻ tứ cố vô thân đến xin nương tựa xem họ đối xử với mình ra

sao.

Dự mưu xong, chàng tìm nơi vắng vẻ, lấy bùn đất bôi mặt, vò tóc cho rối bù lên, đưa

tay tự đấm vài thoi vào mặt , khiến cho lưỡng quyền sưng vù nh bị ai đả thương.

Trên trán cũng cào xước luôn mấy đường như bị gai cào.

Nhìn Dương Qua lúc bấy giờ mặt mày sưng húp, trán xước mấy lằn rướm máu, quần áo

đã rách rưới bẩn thỉu mà chàng còn lăn lộn dưới đất vài vòng nên càng lem luốc tàn tệ

hơn nữa. Thật quả là một kẻ ăn xin chinh cống cuối chợ đầu đình.

Thay hinh đổi dạng xong, chàng dắt ngựa lững thững trở lại chen vào đám đông chứ

không cưỡi nữa.

Có một người hỏi chàng ;

- Sao, cậu có đi dự "Đại yến" không ?

Dương Qua chẳng hiểu gì để trả lời, đành cứ ngơ ngác đứng ngó.

Thình lình cả sóng người xô lên, tràn vào lấn Dương Qua lọt ra phía sau chẳng nói

năng gì được nữa.

Cả sóng người lần lượt kéo nhau đi như trảy hội. Trời về chiều, bóng hoàng hôn cổ

miếu có mấy cây cổ thụ cành là sum suê, hai con thần ưng đang đậu trên cành cao

nhất. Hai anh em họ Võ đang loay hoay xắt thịt cho đôi chim ăn.

Bữa nọ , Dương Qua lo nhìn Quách Phù mà không để ý đến anh em họ Võ. Nay có

dịp, chàng cố ý nhìn , thấy hai người này cũng có ve oai nghi đường bệ, đáng mặt anh

hùng. Võ Đôn Nho có vẻ cứng rắn mực thước, mỗi hành vi cử chỉ đều cẩn thận đắn

đo, còn Võ Tu Văn thì lanh lẹ liến thoắng, hay xem chỗ này, đi chỗ nọ, ít khi điềm

tĩnh như anh.

Võ Đôn Nho mặc áo bào tím, Võ Tu Văn mặc áo bào lam, cả hai đều buộc dây đươm

gâm thêu hoa, trông có ve phong luu tiêu sái, phong nhã hào hoa.

Dương Qua bước lại trước mặt hai người, cúi đầu chào, ngập ngừng một chút rồi nói :

- Kính chào nhị vị .... tôn huynh, mấy lúc nay nhị vị đều mạnh giỏi cả chứ ?

Ngay lúc ấy khắp nơi, xung quanh toà cổ miếu nhan nhản những người ăn mày bị

gậy, quần áo rách tả tơi. Dương Qua ăn mặc cũng rách rới, tiều tuỵ như mọi người

nên không bị ai để ý.

Võ Đôn Nho cũng nhã nhặn vòng tay chào lại, đưa mắt nhìn Dưng Qua nhưng không

nhận ra được nên trả lời :

- Xin lỗi , nhân huynh là ai mà tôi quên mất ?

Duơng Qua đáp :

- Tên họ của tại hạ chẳng có gì đáng làm rườm tai đại huynh. Tại hạ chỉ muốn được

vào diện kiến Hoàng bang chủ thôi.

Ngay lúc đó, đằng xa có một giọng nói thanh tao như tiếng ngọc reo :

- Võ đại ca, em muốn gặp anh ngay. Việc mình không lo sao cứ đi lo chuyện thiên hạ

mãi thế. Mau lên đi.

Võ Đôn Nho vừa nghe gọi, vội vàng quay đi ngay, chưa kịp trả lời cùng Dương Qua .

Dương Qua quay lại nhìn theo, thấy từ trong miếu có một nữ lang tuyệt đẹp , mặc áo

màu hồng nhạt, thoăn thoắt đi ra. Nàng mặt đẹp như hoa, đôi mi vòng nguyệt, mũi

thẳng mày cao, môi tươi như hoa hàm tiếu cười xuân, thân hình nở nang cân đối. Rõ

ràng là Quách Phù , ái nữ của Quách Tỉnh đại hiệp.

Nàng không trang sức loè loẹt nhưư bao nhiêu cô gái con nhà khuê các khác. Trên cổ

nàng chỉ đeo một chuỗi hạt châu , lóng la lóng lánh, chiếu sáng ngời làm cho vẻ mặt

hoa càng tăng thêm phần lộng lẫy diễm lệ.

Nhìn nàng rực rỡ như tiên nữ, Dương Qua nhớ lại thân mình áo quần như xơ mướp ,

bẩn thỉu lem luốc nên chạnh lòng quay đi nơi khác không nhìn nàng nữa.

Nàng vừa tới, hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cùng chạy lại xoắn xít một bên

truyện trò vồn vã lắm. Võ Đôn Nho thì có ve mặt kiêu kỳ tự phụ, còn Võ Tu Văn thưa

dạ luôn mồm ra vẻ một kẻ nịnh đầm thiện nghệ.

Vừa bước đi, Võ Đôn Nho bỗng sực nhớ lại câu chuyện Dương Qua hỏi mà mình

chưa kịp đáp, quay lại nhìn chàng hỏi :

- Tôn huynh đến đây để dự "Anh hùng yến" phải không ạ ?

Dương Qua đâu hiểu "Anh hùng yến" là gì, do ai tổ chức để làm chi nhưng cũng buột

miệng dạ ẩu cho rồi.

Võ Đôn Nho bèn đua tay ngoắt một người ăn xin gần đó lại dặn :

- Nhờ anh tiếp đãi ông bạn này cho chu đáo rồi mời sang Kinh tử quan nhé .

Người ăn xin được lệnh đến gần Dương Qua lễ phép hỏi :

- Xin quý khách vui lòng cho biết rõ tên họ !

Dương Qua cho biết tên họ thật của mình. Chú ăn mày chỉ là một người vô danh tiểu

tốt trong giới hành khất đâu có biết Dương Qua là ai nên không để ý đến

Khi Dương Qua hỏi lại họ tên thì người ăn xin trình bày lại lý lịch, cấp bậc của mình

trong giới hành khất ;

- Tôi họ Vương, đứng hàng 13 trong hạng 2 túi của Cái Bang. Võ công tôi còn kém

cỏi , nhưng được cái miệng mồm lanh lẹ hoạt bát nên được thượng cấp giao cho lo

liệu việc tiếp tân.

Khai lý lịch rồi , hắn hỏi thêm :

- Dương huynh từ đâu về đây ?

Dương Qua đáp :

- Tôi từ Tây Bắc lại .

Người ấy vội hỏi :

- Như vậy chắc Dương huynh là môn đệ của phái Toàn Chân chăng ?

Chàng bực mình khi nghe nhắc lại ba chữ Toàn Chân phái nên lắc đầu đáp ngay :

- Không phải !

Vương thập tam bèn đem lời tán khéo :

- Như vậy chắc Dương huynh được mời đến dự "Anh hùng yến" , Dương huynh có

mang thiếp mời theo đó chứ ?

Dương Qua đáp :

- Tiểu đệ chẳng qua chỉ là một kẻ phiêu bạt giang hồ, chưa có chi trên thiên hạ nên

đâu có cái vinh dự được mời dự yến này. Trước kia tiểu đệ có quen cùng Hoàng bang

chủ , nhân dịp đến đây, muốn gặp mặt để xin ít tiền lộ phí về quê. Sự thật là thế .

Vương thập tam tỏ vẻ bất bình, cau mày suy nghĩ một chặp rồi đáp :

- Hiện nay quan khách quá đông, Hoàng bang chủ đang bận tiếp đãi các bạn anh hùng

bốn phương về dự "Anh hùng yến" nên không có thì giờ để tiếp Dương huynh.

Mục đích của Dương Qua là cố làm ra vẻ rách rưới tồi tệ để cho thiên hạ khinh khi,

nên vừa nghe Vương thập tam nói thật đúng ý mình thì thích chí lắm và giả vờ than

thở thêm :

- Xa nay Hoàng bang chủ vẫn lừng danh con người hào hiệp không trọng phú khinh

bần. Hơn nữa bao nhiêu người trong bang hành khất đều là những kẻ bần cùng đâu có

giàu sang hơn ai, nhưng người nào cũng theo tôn chỉ cứu nạn phò nguy, phục vụ cho

các thành phần khốn khổ. Tôi đoán chắc không khi nào bang chủ đi xem thường một

kẻ bần cùng như tôi để chỉ hướng về những kẻ giàu sang quyền quý như Vương huynh

tưởng .

Nghe giọng nói của chàng có vẻ bi thiết và tâng bốc Cái Bang mình nên Vương thập

tam dịu giọng nói :

- Thôi, ông bạn cứ theo tôi ăn cơm đã. Mai đây về Kinh Tử quan sẽ nhờ vị công tử lúc

nãy chuyển lời lên Bang chủ, còn việc được tiếp hay không tôi không dám quả quyết

được .

Sở dĩ lúc đầu Vương thập tam tâng bốc "Dương huynh" là vì tưởng chàng được thiệp

mời dự "Anh hùng yến" . Nhưng sau này được biết là không phải nên hắn đổi cách

xưng hô ngay thấy Dương Qua tuổi kém thua mình .

Dương Qua đồng ý , tỏ lời cám ơn rồi bước theo Vương thập tam vào miếu dọn cơm

rau ra đãi.

Theo quy luật của Cái Bang thì các bang chúng thực thụ dầu có được thiết tiệc, khách

tiệc, rượu thịt phủ phê sang trọng đến đâu cũng phải ăn trước một vài món cơm thừa

canh cặn để khỏi mang tiếng "vong bổn" rồi sau đó muốn ăn gì cũng được. Tuy nhiên

đối với khách thì lúc nào cũng phải thết đãi đàng hoàng chứ không giữ thủ tục ấy.

Dương Qua đang ngồi ăn bỗng thấy một bóng trắng lướt qua trước mặt. Quách Phù đã

đi đến, từ ngoài bước vào , vừa đi vừa nói chuyện luôn mồm như bắp rang. Nàng lo

chuyện trò liến thoắng cùng anh em họ Võ nên không để ý đến Dương Qua đang ngồi

ăn cơm bên cạnh tượng Phật.

Nàng nói :

- Nếu chúng mình đi ngay chiều nay thì chỉ trong một đêm là đến Kinh Tử quan chứ

gì . Để tôi bảo bọn nó đưa đôi hồng mã của hai anh đến nhé.

Ba người cứ chuyện trò rồi đi lần ra hậu viện, lấy hành lý và khi sắp đặt trên ngựa

xong rồi cùng đi ra khỏi miếu.

Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, xa dần rồi không nghe nữa.

Ngồi nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một nhỏ, Dương Qua đưa đũa quấy bát canh thừa,

thấy đắng cay cho phận mình và ngẫm nghĩ :

- Thật đáng phiền cho lũ người kiêu kỳ xa hoa, lúc nào cũng coi thường người đói

rách thản nhiên tiến qua cửa số để hợm đời. Nhân tình thế thái thật đáng nguyền rủa.

Chàng thấy nóng bừng trên mặt, muốn lên ngựa đuổi theo, xuất lộ hình tích coi lũ này

đối xử ra sao để cho một vố cho hả lòng căm tức, nhưng đưa mắt nhìn phía trên có

tấm biển chạm hai chữ "từ bi" , chàng thấy bao nhiêu căm hận đã tiêu tan và trở lại

với tâm hồn hiền lành thủ phận và lẩm bẩm hai chữ "sắc không" .

Màn đêm đen kịt, cả bầu trời ảm đạm không một vì sao. Từ toà cổ miếu cho đến cái

nhà to lớn trong miếu đều chìm ngập trong bóng đêm dày đặc. Chàng lại nghĩ đến

một chuyện rồi mỉm cười lẩm bẩm :

- "Tắt đèn, nhà ngói như nhà tranh" , xã hội loài người có bình đẳng chăng cũng chỉ

trong đêm tối,kẻ sáng người mù cũng nh nhau, kẻ giàu người nghèo cũng không có

gì để phô trương và chỉ cùng chung một định luật.

Nghe tiếng trùng khóc đêm khuya rì rầm , Dương Qua nghĩ thầm :

- Hoá công sanh làm chi voi to trùng nhỏ, đêm đêm trùng khóc có phải là để than

thân trách phận hay phàn nàn cái bất công của tạo hoá đây chăng ? Nghĩ phận voi to

và loài trùng dế nhỏ cũng chẳng có gì hơn nhau.

Nghĩ vẩn vơ rồi chàng thiếp ngủ từ lúc nào không biết.

Sáng sớm hôm sau, Vương thập tam gọi Dương Qua thức dậy để lên đường lên Kinh

Tử quan.

Trên đường đi , hàng đoàn ăn mày cũng kéo nhau đi lũ lượt.

Chốc chốc, có một vài người trong các môn phái khác , trẻ già có đủ hình dạng cũng

chen chân vào đám đông. Có lẽ họ đi xem hội hay được mời dự "Anh hùng yến" .

Dương Qua nhắc đi nhắc lại ba chữ "Anh hùng yến" mà không hiểu ý nghĩa gì. Chàng

muốn nhờ Vương thập tam giải thích hộ nhưng ngại hắn từ chối nên làm thinh giả bộ

ngây ngô không biết gì hết và cứ lầm lũi đi hoài.

Khi mặt trời sắp chen núi thi Dương Qua và Vưng thập tam cũng vừa đến Kinh Tử

quan.

Kinh Tử quan là vị trí trọng yếu nhất giữa hai tỉnh Phụng Thiên và Dự Châu, địa thế

vô cùng hiểm trở, dân cư trù mật, chợ búa đông đúc hơn tất cả các địa điểm khác.

Chàng bước theo Vương thập tam đi khỏi thị trấn hơn 7 dặm thì đến một nơi có mấy

trăm cây hoè cùng mấy hàng cổ thụ mọc quanh một trang viện cực kỳ to lớn, anh

hùng hào kiệt từ các nơi lũ lượt kéo về đông như kiến cỏ.

Trong trang viện không biết bao nhiêu là phòng trại được dựng lên la liệt, nhiều quá

đếm không xuể. Theo ước lượng của Dương Qua thì bao nhiêu phòng trại này có thể

dung nạp trên hai ngàn người.

Vương thập tam đã biết phận mình hèn kém không thể nào dám gặp bang chủ trong

lúc đang bận rộn nhiều khách này để xin cho Dương Qua được gặp mặt và xin tiền lộ

phí. Vì vậy cho nên sau khi tìm được chỗ ăn nằm cho Dương Qua rồi thì lẻn ra ngoài

tán chuyện cùng bạn bè.

Phòng của Dương Qua cũng khá rộng. Chàng ăn uống xong đứng tựa cửa nhìn quanh

thấy phòng nào cũng đầy cả người, kẻ hầu người tiếp chạy qua chạy lại lăng

xăng,cảnh tượng thật quá nhộn nhịp.

Chàng lạ lùng suy nghĩ :

- Chẳng biết chủ nhân trang viện này là ai, làm chức phận gì mà có một cơ nghiệp quá

đồ sộ như vậy.

Chàng mải nhìn ngó vẩn vơ, lòng đang thắc mắc thì bỗng có tiếng phát loa nói lớn :

- Xin để ý ! Ai ở đâu ngồi đấy, chớ nên lộn xộn, ông bà Trang chủ sắp ra tiếp khách.

Tiếng loa vừa dứt, ba tiếng pháo lệnh nổ lớn "Đùng, đùng,đùng" như long trời lở đất.

Tiếp theo đó bọn nhạc công đang đứng hai hàng dài ngoài sân từ cửa viện ra tận cổng,

cử bài nhạc chào mừng thật là trọng thể.

Phía sau hai hàng tráng đinh là các vị quan khách anh hùng và các anh em trong giới

bị gậy.

Vừa lúc ấy có hai người sánh vai nhau từ trong cửa viện bước ra, một người đàn ông

và một thiếu phụ trạc độ bốn mươi.

Người đàn ông mình cao lớn, nước da hồng hào, lơ thơ vài sợi râu, mặc áo gấm thêu

hoa thật là hiên ngang, oai phong lẫm liệt, tướng đi có vẻ là một tay đại thủ lãnh .

Người thiếu phụ da dẻ cũng hồng hào, mặt mũi phúc hậu, cốt cách phi thường, đáng

mặt một phu nhân mệnh phụ, xuất thân con nhà quyền quý.

Trong đám tân khach có tiếng xầm xì trầm trồ :

- Lục trang chủ và Lục phu nhân !

Bước sau lưng vợ chồng Lục Trang chủ là một cặp vợ chồng khác , vừa trông thấy,

Dương Qua thấy nóng bừng cả mặt, thần trí phân vân, đó chính là Quách Tỉnh và vợ

là Hoàng Dung bang chủ Cái Bang.

Đã bao nhiêu năm xa cách không thấy mặt hai người, ngày nay gặp lại, Dương Qua

cũng không thấy có gì thay đổi khác trước. Quách Tỉnh vẫn hiên ngang, phúc hậu và

trầm tĩnh. Hoàng Dung thì đẹp như hoa, trên môi lúc nào cũng điểm một nụ cười tươi,

lôi cuốn được cảm tình của ngay cả những người khó tính nhất.

Quách Tỉnh mặc áo dài vải thô, Hoàng Dung đã là bang chủ Cái Bang tuyệt đối không

được ăn mặc quần áo loè loẹt, hoa hoè nên chỉ mặc một chiếc áo tía màu lợt lợt.

Nối theo sau Hoàng Dung là Quách Phù , tiếp đó là anh em họ Võ.

Trong đại sảnh, đèn đuốc thắp lên sáng rực, soi rực rỡ từ trong ra ngoài.

Nếu đứng ngoài nhìn vào, ai ai cũng phải thán phục cho lối trưng bày lộng lẫy của

trang viện và náo nức trầm trồ các cặp nam nữ quý phái này, người nào cũng hiên

ngang đẹp đẽ, trai anh hùng khí phách, gái yểu điệu diễm kiều. Dưới ánh đèn, mọi

người đều lộ nét mặt vô cùng hân hoan sung sướng.

Mấy người tân khách ở mé trái đưa tay chỉ trỏ trầm trồ :

- Vị anh hùng đứng giữa chính là Quách đại hiệp. Người đứng kế là nữ hiệp Hoàng

Dung, bang chủ Cái Bang . Còn nữ lang nào xinh đẹp như hoa đang đứng cạnh Hoàng

nữ hiệp đấy ?

Người kế bên có vẻ thạo hơn, nói khẽ :

- Còn ai xa lạ nữa, nàng ấy quả là ái nữ của Quách đại hiệp rồi.

Người khác cãi lại :

- Không phải là con gái đâu. Nàng và hai thanh niên đi sau thảy đều là môn đệ của

Quách đại hiệp đấy.

Dương Qua không muốn cho vợ chồng Quách Tỉnh trông thấy mặt mình nên đứng ra

phía sau lưng của một người ăn mày, thân hình cao lớn, thập thò nhìn ra đằng trước....

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fiction