Than dieu hiep lu 63-70

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hoi 61,62 ko co

63. NHỆN ĐỘC VAø NỌC ONG TRẮNG

Kim Luân Pháp Vương nói:

- Hay lắm, nếu vị sư thúc tổ ấy thuận giúp thì Doãn Chí Bình đâu phải là đối thủ của

người nữa.

Triệu chí Kính vỗ tay mừng rỡ nói:

- Hay quá. Mã sư bá và Khưu sư bá đều gọi vị này là sư thúc. Nên khi ông đã ra lệnh

thì thế nào các sư bá cũng phải tuân theo. Nhưng không biết đại sư có cách nào kỳ

diệu để lôi kéo được ông ta?

Kim Luân không trả lời hỏi thêm:

- Ta hẹn ông ấy tối nay lại cướp soái kỳ. Người đoán thử ông có dám đến hay không?

Triệu chí Kính đáp:

- Chắc sẽ đến.

Kim Luân khẽ nói:

- Đêm nay là soái kỳ không treo trên cột cờ mà được giấu vào một chỗ vô cùng bí

mật. Trong doanh trại này rộng rãi bao la. Dù Châu Bá Thông có tài thánh đi nữa

cũng không làm sao tìm ra được.

Ngoài miệng dạ dạ khen hay nhưng trong thâm tâm Triệu chí Kính nghĩ:

- Thắng như vậy thì có gì là giỏi đâu?

Kim Luân thừa hiểu ý hắn, nên nói ngay:

- Có lẽ người cho rằng thắng nhu vậy không tài giỏi gì hết phải không? Ta cũng biết

vậy, nhưng vẫn làm vì có ý muốn gây uy tín cho ngươi nhân dịp này.

Triệu chí Kính ngơ ngác chưa hiểu dụng ý của lão ra sao hết, thì Kim Luân mỉm cuời

nói tiếp:

- Ta cho ngươi biết truớc chỗ giấu soái kỳ, để người chỉ lại cho Châu bá Thông biết.

Như vậy là người lập được công to với ông ấy rồi chứ gì?

Triệu chí Kính mừng rỡ gật gù nói:

-Hay quá, nếu vậy thì nhất định tôi sẽ được lòng Châu sư thúc tổ rồi. Hay quá, kế hay

thật.

Vừa nói tới đó y lại nghĩ bụng: "Nhưng chẳng lẽ vì mình mà Pháp Vương

lại chịu thua hay sao? Để soái kỳ mất lại đâu phải là chuyện nhỏ?".

Kim Luân nói ngay để đả thông sự thắc mắc ấy:

- Trong giang hồ bè bạn giúp nhau được việc mới là quý, còn chuyện thắng bại là

thường, nếu thua keo này ta bày keo khác chứ có khó chi?

Triệu chí Kính cảm động quá run run nói:

- ơn đức của đại Pháp Vuơng thật muôn đời tôi không quên được.

Kim Luân nở một nụ cười kín đáo:

- Khi ngươi đã gây được sự tín nhiệm của Châu bá Thông rồi, ta sẽ tùy cơ giúp đỡ

thêm vài việc nữa để mua lòng ông ta, chừng ấy muốn chi lại không đuợc chớ đừng

nói tới cái chức trưởng giáo của phái Toàn Chân?

Rồi lão đưa tay chỉ về phía đồi đàng xa bảo:

- Chúng ta thử lại đàng kia xem xét địa thế.

Đi khỏi đại bản doanh độ một dặm đã tới một hòn núi nhỏ. Kim Luân ghé miệng vào

tai Triệu chí Kính nói nhỏ:

- Ta sẽ giấu soái kỳ vào một trong những hang tại núi này.

Trên ngọn thứ nhất hình thế không có gì rắc rối. Nhưng khi qua hai núi sau thì thấy

cây cối um tùm, có thật nhiều hang hóc rất phức tạp.

Pháp Vương nói:

- Nơi đây địa thế tốt vô cùng.

Lão đưa tay chỉ vào khoảng giữa hai cây hoè thật lớn. Nơi đây có một miệng hang rất

kín đáo, nếu vô ý không thể nào nhìn thấy, rồi căn dặn:

- Người hãy nhớ kỹ hang này. Ta sẽ giấu lá soái kỳ trong đó.

Đêm nay ngươi dẫn Châu bá Thông tới đây chỉ cho lão lấy được, thế là thành công rồi

đấy.

Triệu chí Kính mừng quá dạ dạ luôn miệng, mắt ngắm phía hai cây hòe thật kỹ để

khỏi quên. Xong đâu đấy hai người lặng thinh sánh vai nhau lững thững về doanh trại

Mông Cổ.

Chiều hôm ấy, cơm nước xong, Triệu chí Kính cố tìm cách gợi chuyện với Doãn chí

Bình, nhưng chàng cứ lơ láo như người thất chí, chẳng nói câu nào ra hồn. Khi màn

đêm bao trùm hết vạn vật, tiếng trống cầm canh đã bắt đầu điểm, Triệu chí Kính chạy

ra ngoài lên trên ngọn đồi quan sát lại địa thế. Xung quanh doanh trại hàng đoàn kỵ

binh qua lại canh phòng nghiêm ngặt. Triệu chí Kính nghĩ bụng:

- Với sự canh phòng nghiêm ngặt như thế này mà sư thúc tổ ta ra vào như không, quả

thật ông ta có bản lãnh phi phàm tột đỉnh.

Càng lâu trời càng tối, trăng không có. Trên vòm cao chỉ lơ thơ vài chòm sao thưa lấp

lánh. Nhìn sao, Triệu chí Kính nghĩ vẩn vơ: "Nếu Kim Luân nói đúng thì chỉ ba tháng

nữa ta sẽ là trưởng giáo Toàn Chân phái rồi! Chừng ấy ta sẽ được lừng danh võ lâm,

hàng chục ngàn đệ tử thảy đều tùng phục duới mạng lệnh ta, và chỉ một hiệu lệnh ta

cũng đã lấy được đầu Dương Qua như bỡn".

Càng nghĩ y càng thêm hứng chí, rồi vùng đứng dậy hiên ngang đảo mắt nhìn bốn

phương trời hình như khắp đâu đâu cũng sẽ thuộc quyền của hắn. Cặp mắt hắn đang

dáo dác nhìn quanh bỗng trông thấy bóng áo trắng của Tiểu long Nữ đang ngồi im

dưới một góc cây to thì thấy dội lòng và suy nghĩ: "Tiểu long Nữ quả là một cô gái

sắc nước khuynh thành ngay như ta mà cũng phải công nhận là đẹp, thì tài nào Doãn

sư đệ lại không mê mệt? Tuy nhiên là tay anh hùng, không nên để lụy vì sắc đẹp".

Triệu chí Kính đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng từ phía đằng xa có một bóng đen bay tới

lanh như chớp, phi thân vào doanh trại không một tiếng động và không bao lâu đã tới

chân cột cờ rồi. Người ấy đầu râu bạc phơ, mặc áo bào rộng thênh thang, tà áo lẫn râu

tóc bay phất phơ trong gió, quả đúng là Châu bá Thông.

Bay tới cột cờ dừng lại nhìn lên trên không thấy lá soài kỳ treo đó thì ngạc nhiên vô

cùng. Theo ông nghĩ thì đáng lẽ Kim Luân phải bố trí thật nhiều cao thủ nơi đây để

cùng nhau đánh một trận cho đã sức. Trên cột cờ này mà không có cờ, nhìn lại bên

trong dinh trại trùng trùng điệp điệp hết lớp này tới lớp khác, không đâu mà tìm nữa.

Triệu chí Kính dự định tiến lên gọi ông nhưng lại nghĩ bụng: "Ta không nên tới vội, vì

như thế ông sẽ xem thường mình. Phai để cho ông ta tìm kiếm đủ chỗ mà không có,

đến phút cuối cùng ta mới chỉ, sẽ có giá trị hơn". Nghĩ xong hắn nép mình bên một

cái lều, lom lom đôi mắt nhìn theo xem thử Châu bá Thông hành động ra sao.

Chỉ thấy ông đứng suy nghĩ một chút rồi tung mình bám lên giữa thân cột cờ rồi leo

vút lên lanh như con vượn, thoắt một cái đã ngồi vắt vẻo trên cháng hai chỗ dùng để

móc lá cờ. Đưa mắt nhìn quanh, không thấy là soái kỳ đâu hết. Châu bá Thông nổi

nóng thét lớn:

- Lão Kim Luân hèn nhát, đã giấu soái kỳ đâu mất rồi?

Ông vận sức thét lên, nên tiếng nói vang dội như sấm động, đâu đâu cũng nghe thấy

rõ ràng. Không thấy ai đáp lại, ông càng la lớn:

- Kim Luân, nếu bọn bay nín thinh, ta sẽ chửi mà xem.

Lắng tai hồi lâu vẫn không ai đáp, Châu bá Thông cất tiếng chửi thậm tệ.

Ngay lúc đó từ hướng Đông có tiếng người quát:

- Lão Ngoan Đồng, đừng la lối vô ích, lá soái kỳ ta cất nơi đây rồi, hãy lại mà kiếm.

Vừa nghe câu nói, Châu bá Thông đã rời khỏi ngọn cột cờ la lả bay xuống đất, miệng

quát:

- Chỗ nào?

Nhưng người ấy bỗng nín bặt không nói nữa. Ông nhìn lại xung quanh thấy toàn là

doanh trại, không thấy bóng một ai.

Còn đang ngơ ngác tìm kiếm bỗng từ hướng Tây có tiếng gọi lớn:

- Đây nàỵ, soái kỳ đây này.

Châu bá Thông bỗng vút đi như một vệt khói lao thẳng về nơi có tiếng nói. Nhưng khi

mới được nửa đường đã im bặt, khiến ông phải dừng lại nghe ngóng nữa.

Châu Bá Thông cười ha há nói lớn:

- Kim Luân, mi cố tình chơi trò trốn bắt cùng ta đấy hả. Ta thử cho một mồi lửa vào

dãy trại này xem thử mày trốn nơi đâu nhé.

Triệu chí Kính giật mình lo lắng: "Nếu để ông ta phóng lửa đốt trại thì rắc rối vô

cùng...

Hắn nhảy vọt ra khẽ nói với Châu bá Thông:

- Châu sư thúc tổ, không nên phóng lửa làm gì!

Châu bá Thông nhìn Triệu chí Kính ngạc nhiên hỏi:

- ủa tên tiểu đạo sĩ này tại sao lại ở đây và vì sao không nên phóng hỏa?

Triệu chí Kính kiếm lời chối quanh:

- Nếu sư thúc tổ phóng hỏa thì mắc kế bọn chúng vì quân Mông Cổ đã chôn địa lôi

khắp nơi, nếu đốt lửa lên, địa lôi nổ, nguy hiểm đến tánh mạng ngay.

Nghẹ nói Châu Bá Thông giật mình suy nghĩ:

- Bọn này dùng mưu kế quá ác, nếu không có thằng này cho hay trước thì nguy rồi

còn chi.

Nhìn dáng điệu ông, Triệu Chí Kính biết lời nói của mình đã đuợc tin rồi, nên nói

thêm:

- Cháu đã biết trước mưu mô thâm độc của bọn này, sợ sư thúc tổ quá ngay thẳng và

tin người nên chực từ đầu hôm tại nơi đây để báo tin cho sư thúc tổ được rõ mà đề

phòng.

Châu bá Thông nói:

- Qủa mi có lòng tốt, khá lắm, nếu không có mi chắc ta bị địa lôi nổ tan xác rồi.

Triệu chí Kính lại gần nói nhỏ:

- Sư thúc tổ! Cháu còn biết được chỗ dấu lá soái kỳ nữa, để cháu chỉ cho nhé.

Không ngờ Châu Bá Thông lại lắc đầu bảo:

- Khỏi cần! Việc này phải do ta tự tìm ra mới tài. Nếu ta tìm không nổi thì cứ chịu

thua chứ có hại chi đâu?

Thật ra đối với Châu Bá Thông, việc đánh cắp soái kỳ cũng chỉ là một trò đánh cá để

giải trí chứ không quan trọng gì. Vì vậy nên ông muốn tự mình xoay xở lấy, nếu nhờ

kẻ khác xen vào điểm chỉ thì không còn hứng thú nữa. Câu trả lời này khiến Triệu chí

Kính chưng hửng và nghĩ bụng:

- Ông già này quả là con người gàn dở, không giống tánh ý người thường nhưng dù

sao ta cũng phải làm cho ông ấy trúng kế mình mới được.

Y nói liền:

- Sư thúc tổ, nếu vậy thì cháu cũng đi lấy cờ đây để xem thử trong hai chúng ta ai tìm

ra trước nhé.

Nói vừa dứt lời hắn vọt phi thân lao về phía trước nhắm ba hòn núi nhỏ chạy tới. Chạy

được vài chục trượng, hắn quay đầu lại nhìn thử thì thấy Châu bá Thông cũng rảo

bước chạy theo. Triệu chí Kính yên tâm chạy thẳng một mạch tới ngọn núi thứ ba.

Khi tới, hắn giả bộ nhìn quanh quất một chặp rồi nói lẩm bẩm khá lớn để cho Châu

Bá Thông cũng nghe được:

- Chúng nó bảo dể trong hang sâu giữa hai cây hòe lớn, mà ta có thấy cây hòe nào

đâu? Lạ quá!

Trong lúc hắn giả bộ lăng xăng tìm kiếm thêm thì Châu bá Thông đã cười lớn:

- Thôi, ta tìm ra được rồi.

Vừa nói xong ông đã phi thân chui luôn vào miệng hang ở khoảng giữa hai cây hòe.

Triệu chí Kính đứng ngoài ngó theo trong lòng mừng rỡ nghĩ: "Phen này nếu tìm ra

soái kỳ, chắc ông thích mình lắm. Hồi nãy ông tin rằng ta báo trưước chuyện chôn địa

lôi để khỏi bị chết, bây giờ thêm một công trạng này nữa thì ăn chắc rồi chứ gì. Thật

quả là dịp may hiếm có". Hắn lững thững bước dần vào hang. Nhưng vừa đi được mấy

bước đã nghe Châu bá Thông thét lớn rợn người rồi tru tréo:

- Rắn, rắn, ồ, rắn độc.

Triệu chí Kính hoảng hốt chạy vào hỏi:

- Sư thúc tổ, có rắn độc sao?

Châu bá Thông rên rỉ:

- Hình như không phải rắn.

Triệu chí Kính hoàn toàn bất ngờ vì sự kiện này. Hắn liền đánh lửa đốt củi khô cầm

vào soi thử. Trong hang, Châu Bá Thông đang nằm quằn quại trên mặt đất, tay trái

nắm một lá cờ nhỏ quật lia lại phía bên phải hình như để xua đuổi một con vật gì.

Triệu chí Kính sợ toát mồ hôi vội hỏi:

- Sư thúc tổ bị con gì cắn vậy?

Châu bá Thông rên khừ khừ rồi đáp nhỏ:

- Ta bị một con gì rất độc cắn phải.

Triệu chí Kính cảm tháy ớn lạnh xương sống và nghĩ bụng:

- Một người võ nghệ cao cường, công lực hùng hậu như ông, thế mà chỉ trông nháy

mắt đã rũ liệt như thế này, thì loại độc vật này quả nhiên là đặc biệt ghê gớm.

Nhìn lại lá cờ trong tay ông thì chỉ là một loại cờ nhỏ trong quân ngũ chớ không phải

soái kỳ. Triệu chí Kính đã cảm thấy lo âu và tự nghĩ: "ra lão Kim Luân mượn tay ta

để lừa Châu sư thúc tổ vào đây hãm hại". Thấy sự việc đã xoay chiều và có vẻ nguy

hại lây tới mình, nên Triệu chí Kính chẳng còn quan tâm gì đến bệnh tình của Châu

bá Thông, ném cây đuốc ra ngoài hang rồi quay lưng bỏ chạy. Nhưng khi cây đuốc

vừa lao ra được nửa chừng bỗng nhiên dừng lại trên không, hình như có một bàn tay

vô hình tiếp lấy. Tiếp theo đó, một giọng nói lạnh lùng lảnh lót vang lên:

- Tôn trưởng của ngươi bị trọng thương nằm đây mà ngươi nỡ bỏ đi nơi khác hay sao?

Giọng nói nghe quen quen, vô cùng thanh tao lảnh lót, rồi một tà áo trắng hiện lên, rõ

ràng là Tiểu Long Nữ đã đứng trước cửa hang, tay cầm cây đuốc đang cháy nửa

chừng. ánh lửa hồng bập bùng chiếu trên khuôn mặt nàng đoan trang va xinh nhu bức

tranh vẽ khiến cho Triệu chí Kính kinh hãi rụng rời, tay chân bủn rủa, muốn bỏ chạy

trốn cho mau nhưng không thể nào cất chân nổi.

Từ đầu hôm đến giờ, Tiểu long Nữ tuy ngồi xa xa nhưng luôn luôn để ý theo dõi từng

hành động cử chỉ của Triệu chí Kính. Khi hắn dẫn Châu bá Thông lên núi tìm cờ,

nàng lẹ chân bước theo nhng hắn vô tình không biết. Châu bá Thông tuy biết rõ

nhưng cứ lo việc tìm kiếm chẳng thèm để ý tới chuyện nàng. Tiểu long Nữ vung cây

đuốc cho cháy sáng rọi thêm vào mặt Châu bá Thông xem thử. Dưới ánh đuốc lập lòe,

da mặt của lão Ngoan Đồng đã xám xịt, hai mắt lờ mờ như bị trúng độc rất nặng.

Nàng thò vào túi rút ra một chiếc bao tay bằng tơ vàng ánh xỏ tay vào cúi xuống lật

tay Châu bá Thông ra xem thì thấy có ba con nhện rằn to bằng cái cốc uống rượu,

đang ngậm chặt ba ngón tay của ông không nhả. Ba con nhện này có hình thù vô cùng

quái dị, thân thể nhiều mầu rằn ri sặc sỡ trông thật dễ sợ. Tiểu long Nữ thừa biết hễ

giống vật nào có nhiều màu sắc rực rỡ bao nhiêu càng độc dữ bấy nhiêu. Thứ nhện

này xưa nay nàng chưa hề thấy, nhưng cứ theo màu sắc này cũng đủ biết là giống kịch

độc. Mặc dù có mang bao tay nhưng nàng cũng không dám đưa tay bắt chúng mà chỉ

dùng cành cây khô để khều nhẹ. Nhưng khều luôn mấy cái ba con nhện vẫn bám chặt

không chịu thả. Tiểu long Nữ bèn vung tay mặt phóng luôn ba mũi Ngọc phong châm

giết chết cả ba. Tài phóng châm của Tiểu long Nữ thật là tuyệt diệu. Nàng giết chết

ba con nhện độc nhưng không hề chạm tới da Châu bá Thông.

Giống nhện này tên "Sái tuyết chu" sanh sống trên đỉnh núi tuyết tận bên Tây tạng,

được loại vào ba thứ độc nhất của xứ này, Kim Luân cố mang vào Trung nguyên để

thử sức độc với các môn khác trong thiên hạ miền Nam. Trong đêm lại hành thích

Quách Tỉnh, Kim Luân quên mang nhện này theo, nhưng sau đó chạm phải "băng

phách phong châm" của Lý mạc Thu nên trong bụng oán hận vô cùng. Vì vậy nên y

về trại lấy chiếc hộp có chứa ba con nhện này luôn luôn mang theo bên mình, dự định

nếu gặp lại Lý mạc Thu sẽ cho nàng nếm thứ món độc của Tây tạng cho biết.

Sau khi đánh lừa Châu bá Thông và sắp đặt cùng Triệu chí Kính xong. Kim Luân lấy

một lá cờ vải đem đặt trong hang đá, trên lá cờ thả ba con nhện độc. Mỗi khi đánh hơi

người các con nhện liền bò tới ngay để hút máu, mãi cho tới khi nào thật no bụng mới

thôi. Chất độc từ thân nhện tiết ra, xâm nhập vào máu người, không một môn thuốc

nào cứu chữa nổi. Ngay Kim Luân Pháp Vương là chủ nhện nhung cũng không có

phơng thuốc nào để chữa độc của chúng được.

Việc tình cờ Tiểu long Nữ phóng ba ngọn Ngọc Phong Châm đã cứu được mạng lão

Ngoan Đồng. Thật ra, trên ngọn châm này có tẩm chất nọc độc của loài ong trắng

trên núi Chung nam sơn. Chất độc này tuy không bằng "Sài tuyết chu" của xứ Tây

tạng, nhưng khi đầu châm ghim vào thân nhện khiến cho chúng nó tiết ra một thứ

kháng độc chống đỡ trước khi chết. Chất kháng độc nầy cũng lan vào máu của Châu

bá Thông và nhờ đó đã chữa được một phần lớn chất độc của con nhện.

Châu bá Thông đang mê man bỗng tỉnh ngay dậy cựa mình hỏi nhỏ:

- Con gì đã cắn tạ mà đau nhức quá vậy?

Thấy Châu bá Thông đã tỉnh và nói được. Tiểu long Nữ mừng rỡ hỏi:

- Châu lão gia thấy trong người thế nào?

Châu bá Thông gượng cười đáp:

- Đang nửa sống nửa chết đây.

Nói xong, Châu bá Thông muốn há miệng cười to nhưng thân hình bị chất độc làm co

rúm lại tiếng cười tắc ngang giữa chừng. Đột nhiên từ phía ngoài núi có một giọng

cười rộn ràng vọng theo mấy câu nói:

-Lão Châu, ngươi đã cướp lại Soái kỳ được chưa? và cuộc đánh cá ai thắng ai bại phen

này?

Nghe tiếng nói quả là của Kim Luân Pháp Vương, Tiểu Long Nữ vội đưa tay bóp tắt

ngọn đuốc. Nhờ có màng bao tay bằng loại tơ đặc biệt nên nàng nắm ngay ngọn lửa

đang cháy mà không hề chi hết. Châu bá Thông cố gượng đáp lớn:

- Lão Ngoan đồng đành chịu thua trận này, nhưng có lẽ cũng bỏ mạng mất. Chẳng

hay loại nhện này tên chi mà độc quá vậy?

Ông trả lời tuy không được lớn lắm, nhung nhờ khí lực thâm hậu nên tiếng cười ròn

rang của đối phương cũng không lấn áp nổi. Pháp Vương nghe nói giật mình suy

nghĩ:

- Sài tuyết chu là loại độc nhất đời, cớ sao cắn y nãy giờ mà chưa biết, vẫn còn nói

năng nghe ra rả thế này? Thật ta không thể hiểu nổi. Lão chết rồi, ta may mắn thoát

bớt một đại kình địch gớm ghê tại Trung nguyên.

Bỗng Châu bá Thông thét lớn:

- Bớ Triệu chí Kính! Người hành động như thế này, ta phải bảo Khưu xứ Cơ trừng

phạt mi mới được.

Triệu chí Kính đứng ngoài núi nấp nghe, rùng mình suy nghĩ:

- Nguy quá, nếu việc này tới tai Khưu sư bá thì thế nào ta cũng lãnh một hình phạt

gớm ghê.

Kim Luân cười ha hả nói lớn:

- Triệu đạo huynh là người rất tốt, ta định đề nghị lên Vương gia sắc phong đạo cho y

làm Trưởng giáo Toàn Chân mới xứng đáng. Chẳng hay ngươi có bằng lòng chăng?

Châu bá Thông "hứ" một tiếng không đáp lại. Mặc dù chất độc của "Sái tuyết chu" đã

tiêu tan đi nhiều rồi, tuy nhiên dù còn lại chút ít cũng có thể giết người như chơi. Vì

vậy nên sau một hồi chịu đựng. Châu bá Thông trở lại hôn mê lần nữa. Tiểu long Nữ

lớn tiếng mắng:

- Kim Luân Pháp Vương, ngươi đường đường là trưởng giáo một phái võ lại hành

động hèn hạ, dùng nhện gạt người để hãm hại, thật không biết nhục. Hãy mau mau

trao thuốc để giải cứu cho ông ấy.

Kim Luân thấy Châu bá Thông không nói nữa, tưởng ông đã chết rồi, trong lòng hớn

hở. Tuy còn Tiểu long Nữ, nhưng nàng đâu phải là đấu thủ của hắn? Hồi tưởng lại lời

nói của Triệu Chí Kính bảo rằng mình đã bị thua dưới tay nàng nên trong bụng đã

quyết tâm ra tay bắt sống nàng phen này, chứng tỏ uy danh của mình với thiên hạ, bù

lại sự tất bại trước kia. Lão vung chưởng mặt phóng tới, miệng hét:

- Thuốc đây này, rán mà tiếp lấy.

Tiểu long Nữ thất sắc, vung luôn vuông lụa. Tức thì tiếng leng keng từ chiếc cầu vàng

trên đầu giải lụa phất ra và nhắm ngay huyết "kỳ môn" của lão điểm tới.

Kim Luân suy nghĩ:

- Ta cần tốc chiến thắng mới được. Nếu để hắn kéo dài được mươi hiệp thì Triệu chí

Kính sẽ chê ta dở.

Nghĩ xong, lão tràn qua một bên né khỏi, thò tay vào túi lấy ra hai chiếc vòng múa

tít. Chiếc cầu vàng không điểm trúng đích. Tức thời giải lụa uyển chuyển đổi chiêu,

nhắm ngay vào huyệt "đại thôi" của Kim Luân điểm nữa. Ông nhảy vọt lên cao mới

thoát khỏi, miệng khen:

- Khá lắm, võ công như mi cũng ít thấy trong hạng nữ lưu đương thời. Hai người cùng

nhau quyết đấu không bao lâu đã trên mười hiệp. Nếu Pháp Vương cố dùng sức mạnh

đàn áp thì Tiểu long Nữ đâ bị thua rồi. Nhưng vì mấy hôm nay trúng phải Băng phách

ngân châm của Lý mạc Thu sắp bỏ mạng, sức khỏe bị giảm nhiều hơn nữa võ công

của Tiểu long Nữ cũng hao hao như Lý mạc Thu mà các thế biến hóa còn có phần kỳ

diệu hơn nhiều. Tuy nôn nóng muốn hạ ngay đối phương, nhưng Kim Luân không

dám mạo hiểm đánh càn, cẩn thận tấn công và giữ miếng. Trong bầu không khí vắng

lặng của trời đêm, những tiếng leng keng từ chiếc cầu vàng của Tiểu long Nữ phát ra

từng đợt nhịp nhàng nghe nhưư một điệu nhạc.

Triệu chí Kính đứng ngoài, hồi hộp theo tiếng kêu của thứ nhạc khí kỳ lạ này và lo

nghĩ:

- Tuy mình không cố ý giết người, nhưng nếu rủi sư thúc tổ mình bỏ mạng thì bản

thân mình e cũng khó sống. Nếu Pháp Vương giết được Tiểu long Nữ thì mọi việc có

thể thu xếp ổn thỏa. Nhưng nếu nàng thắng Pháp Vương thì biết tính làm sao đây?

Hắn cứ đứng yên một chỗ, tay nắm chặt đốc gươm, tâm thần dao động, mồ hôi chảy

ướt cả áo bào. Trận đấu kéo dài, đã qua sáu chục hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

Tiểu long Nữ thấy Châu bá Thông nằm yên không cử động, biết chất độc đang tàn

phá cơ thể, nóng lòng muốn tìm cách cứu chữa nhưng không thể rảnh tay. Mặc dù

đánh nhau trong bóng tối, nhưng Tiểu long Nữ nhờ nhân quang điêu luyện hơn Kim

Luân có phần thắng thế. Nàng thấy Kim Luân lo thần công phía bên mặt, nên bên trái

có hớ hênh nhiều, bất thần nàng hướng cho qủa cầu vàng thọc mạnh vào vai trái đối

phương, đồng thời tay trái vung lên hàng mười mũi Ngọc Phong châm nữa, lao vun

vút vào ba đích thượng, hạ, trung của lão cực kỳ lợi hại. Vì hai bên đứng cách nhau

quá gần, hơn nữa Ngọc phong châm lướt đi không xé gió nên khi Pháp Vương biết

được thì đã muộn rồi. Nhờ võ nghệ tinh vi, khinh công điêu luyện nên mặc dù chỉ

trong gang tấc, Pháp Vương đã quay vòng quấn vào vải lụa xoắn luôn cả quả cầu

vàng, rồi dụng sức phi thân lao vút lên không cao hơn một trượng, bao nhiêu ngọn

Ngọc phong châm vừa lướt qua dới chân lão theo đá tung lên, cả hai tay lão cùng

kéo theo, khiến chiếc cầu vàng cùng một khúc giải lụa cũng rời khỏi tay Tiểu long Nữ

xẹt lên trên không. Trong ánh sao đêm mờ mờ, một làn sáng bạc đã bay vút lên cao

hơn hai chục trượng, đứng xa trông như một chiếc cầu vồng thật đẹp.

Nhân lúc Pháp Vương chưa rơi xuống đất, Tiểu long Nữ phóng tiếp luôn một mớ

ngân châm vì thân hình đang rơi xuống là là không có điểm tựa Pháp Vương dù tài

nghệ cao siêu đến đâu cũng khó bề tránh né. Trong lúc thập phần nguy biến, lão đã

sáng ý cầm vạt áo bào phía trước xoay mạnh một vòng, án ngữ trước ngực như tấm

bình phong. Bao nhiêu ngân châm đều dính hết vào vạt áo cả. Pháp vương thích chí

cười lên ha hả, khi hai chân vừa chấm đất đã lẹ tay bắt hai chiếc vòng cũng từ trên cao

vừa rơi theo. Thế là nhờ tài tháo vát mà Kim Luân đã hai lần thoát chết đồng thời giật

được vũ khí của đối phương. Lão thừa thế cất tiếng cười lớn hỏi:

- Thế nào, Long cô Nương chịu đầu hàng chưa?

Tuy nhiên vì trong động chật hẹp, lại sợ Tiểu long Nữ có mưu kế gì nên lão vẫn do dự

không tiến vào. Tiểu long N bị mất giải lụa và quả cầu, hơn nữa phần lớn ngọc

phong châm cũng phóng đi gần hết, nên không dám nhảy ra, chỉ nép bên vách đá

nghe ngóng, chờ cơ hội thuận tiện. Kim Luân chờ một chặp không thấy động tĩnh mới

nghĩ ra một kế. Tay trái lão cầm vạt áo, tay phải nắm hết hai chiếc vòng rồi tung luôn

hai chiếc vòng lăn vào động, chiếc trước chiếc sau. Lão đứng người đứng trên chiếc

vòng để khỏi đạp nhầm kim độc do Tiểu long Nữ cắm dưới đất để bẫy mình. Trong

lúc lướt vào hang hai tay lão vung tít cái vạt áo để che chở toàn thân chống ám khí.

Kim Luân ỷ trên miếng vải có ghim nhiều kim độc, trở thành một món vũ khí phòng

thân khá lợi hại nên nói lớn:

- Cô nương hãy xem chừng món vũ khí lợi hại này nhé.

Lão nói vừa dứt lời bỗng cánh tay nặng chịch, miếng vải đã bị Tiểu long Nữ giật mất.

Nguyên là Tiểu long Nữ có mang sẵn bao tay bằng bạch kim, không sợ ngọc phong

châm đâm phải nên mới dám vung ra đoạt miếng vải một cách bất ngờ như thế. Với

bao tay này, dù có vũ khí sắc bén tới đâu nàng cũng có thể đoạt lấy như thường. Pháp

Vơng thất kinh vội vận sức để giật lại nhưng đã muộn rồi. Một mớ Ngọc phong

châm đã từ tay Tiểu long Nữ bay vút vào người lão.

Pháp Vơng than khẽ:

- Nguy tai!

Lập tức lão nắm lấy Châu bá Thông đưa một vòng để hứng những mũi kim độc rồi

theo tư thế "đảo đạp thất tinh bộ" lùi dần ra cửa hang. Trong đời lão đã gặp không

biết bao nhiêu trận đấu gay go nhưng chưa lần nào hiểm ác bằng lúc này.

Tiểu long Nữ thất kinh nhìn thấy hơn hai chục Ngọc phong châm ghim hết vào người

Châu bá Thông, bỗng ông cựa mình khẽ nói:

- Đau quá, lại con gì cắn ta nữa đây?

Tiểu long Nữ vừa sợ vừa mừng, vội hỏi:

- Sao, Châu bá Thông chưa chết sao còn nói được như thế?

Bản chất nàng chất phác thiệt tình, xưa nay ít đụng chạm với đời nên chẳng thạo lối

xưng hô theo nghi lễ đối với các bậc tiền bối trưởng lão, nên lúc mở miệng đã gọi

ngay tên tộc của Châu bá Thông để hỏi thăm.

Châu bá Thông đáp:

- Lúc này hình nhu đã chết rồi. Nhưng không biết vì sao lại sống trở lại? Thật là rắc

rối?

Tiểu long Nứ nói:

- Nếu ông chua chết thì may quá, vì tôi không đủ sức cự lại với lão hòa thượng này.

Nàng lấy trong túi ra một cục đá Nam châm, cúi xuống cho hút hết những ngọn Ngọc

phong châm đang ghim tua tủa trên nguời ông. Châu Bá Thông mắng lớn:

- Cẩu tặc Kim Luân quả là ác độc. Ta đã ngất đi mả hắn còn dùng kim đâm vào người

ta nữa.

Tiểu long Nữ cười xòa nói:

- Không phải đâu. Những mũi kim này chính do tay tôi phóng ra đấy. Hắn xách ông

lên để hứng đấy chứ.

Nàng lần lượt kể lại mọi việc cho ông nghe rồi hỏi luôn:

- Châu Bá Thông, bây giờ ông nghe trong mình có đau đớn lắm không?

Nàng đinh ninh thế nào Châu bá Thông cũng lăn lộn rên siết vì chất nọc ong hành hạ,

nhung trái lại ông đáp:

- Bây giờ thấy dễ chịu hơn trước lắm. Vậy cô thử đâm thêm ít mũi nữa xem sao.

Tiểu long Nữ ngỡ ông ta nói đùa, bèn thò tay vào bọc lấy ra một cái bình thủy tinh

đựng mật ong trắng và bảo nhỏ:

- Đây là loại mật ong dùng để trị chất độc của kin châm này. Ông hãy uống vào sẽ đỡ

đau ngay.

Nhưng Châu bá Thông lắc đầu, khoát tay lia lịa đáp:

- Không cần, không cần, mấy mũi kim của cô đâm vào mình tôi đã giúp tôi bớt đau

nhiều lắm, có lẽ nó là khắc tinh của nhện độc cũng nên.

Tiểu long Nữ thấy ông nói cũng có lý không nài ép nữa, cất bình mật vào bọc và suy

nghĩ: "Lão già quái dị này, dầu nội công cao siêu tới đâu cũng không thể nào tự nhiên

chịu nổi với loài nhện độc này. Trái lại nếu nhện độc mà không hại được y thì Ngọc

phong châm cũng không nghĩa lý gì hết".

Thật ra chất độc ong trắng tuy rất độc nhung cũng có thể dùng để trị chữa một số

bệnh, nhất là những trường hợp trúng độc. Chính nhờ nọc ong thấm vào người mà làm

giảm bớt rất nhiều những chất độc của loại nhện rằn.

Pháp Vương đứng trước cửa hang lắng tai nghe ngóng. Lão thấy nguyên khí của Châu

Bá Thông vẫn còn dôi dào, giọng nói vẫn rõ rằng không tý gì suy nhược nên hoảng sợ

vội nghĩ: "Lão này có lẽ là thần tiên mới chịu đựng nổi với chất độc của ba con nhện

này? Chi bằng hãy lợi dụng lúc gã cha hoàn toàn bình phục giết phứt đi để trừ hậu

hoạn".

Trong cuộc tấn công bất thành vừa rồi, cả hai chiếc vòng đều lăn hết vào trong hang,

y liền vung tít sợi dây lụa có buộc quả cầu vàng tiếng kêu leng keng và nói lớn:

- Long cô nương, ta tạm mượn vũ khí của nàng thử nhé.

Nói xong lão vũ lộng giải lụa, tung mạnh chiếc cầu vào trong hang. Nhờ có công lực

siều phàm và võ công tới trình độ cao diệu nên bất cứ môn binh khí phái nào lão cũng

sử dụng đuợc hết. Sợi dây của Tiểu long Nữ tuy lạ lùng, nhưng lối sử dụng cũng gần

giống như sợi roi mềm, lợi hơn nhiều là có thể đứng xa mà đánh ít sợ trúng phải ám

khí ném bất ngờ.

Tiểu long Nữ còn trẻ ưa đùa nghịch nên cầm lấy hai chiếc vòng của Kim Luân, chạm

nhẹ vào nhau thành những tiếng leng keng dòn dã và nói lớn:

- Hay lắm, ta và ngươi đổi vũ khí để đánh thử một trận xem sao.

Nói xong nàng đẩy mạnh chiếc vòng ra. Nhưng chiếc vòng vàng của Kim Luân tuy

không to nhưng đặc ruột thành thử nặng ngót ba cân nàng dùng không được thuận

tiện. Vì vậy nên chỉ đẩy ra trong giây lát Tiểu long Nữ phải thu ngay về để án ngữ

trước mặt. Kim Luân thừa thế sấn ngay vào cố chiếm đoạt lại chiếc vòng. Tiểu long

Nữ vội thối lui ra sau, tay trái tung chiếc vòng bạc ra. Nhưng đó chỉ là một thế đánh

hờ mà thôi. Đồng thời nàng vung luôn ra một nắm Ngọc phong châm vừa rút trong

người của Châu bá Thông ra. Những mũi châm này đã hết chất độc, nên ví dụ có đâm

trúng ngời cũng không còn nguy hại mấy. Tuy nhiên Pháp Vơng vẫn cẩn thận đề

phòng mà tung mình lên cao để né tránh, do đó không chộp được chiếc vòng trong tay

của đối phương.

Châu bá Thông nằm dưới đất thấy vậy cười ha hả nói lớn:

- Hay lắm, nếu lão ấy nhảy vào, cô cứ dùng kim độc phóng vào đầu nó. Chờ lát nữa,

công lực tôi trở lại, tôi sẽ trị hắn cho.

Tiểu long Nữ lo lắng nói:

- Ngọc phong châm đâu còn nữa hòng phóng ra để chống lại hắn?

Châu bá Thông lắc đầu nói:

- ừ nguy nhỉ?

Cả hai đều thành thật chất phác, thấy sao nói vậy không chút e dè vì sự có mặt của kẻ

thù là Kim Luân. Trái lại có đầy đủ mưu trí, khi nghe hai người bàn như thế lại cho là

họ nói dối để lừa mình nhảy vào, nên bảo bụng:

- Chà bọn bay muốn phỉnh ta để thừa cơ hãm hại bất ngờ, chứ Ngọc Phong châm lẽ

nào lại hết được. Thôi, đừng hòng đưa ta vào bẫy đâu nhé.

Rõ ràng là kẻ lành thắng đứa có gian ý, những lời nói thành thật của hai người đã

khiến cho Pháp Vương hoảng sợ không dám vào. Thật ra, lúc nào Kim Luân cũng ghi

nhớ cái đau đớn của mình và hình ảnh Ni ma Tinh bị chặt đứt hai chân trong khi mắc

mưu Dương Qua, đạp nhầm độc châm của Lý mạc Thu trong động đá độ trước. Lão

đứng thập thò mãi trước cửa hang không dám nhìn vào, trong lòng lo âu hồi hộp mãi.

Đêm qua dần. Từ phương Đông ánh hồng đã bắt đầu chiếu rạng. Châu Bá Thông lặng

lẽ ngồi xếp bằng tròn trên mặt đất dùng công phu thuợng thặng để trục những chất

độc còn sót trong người ra ngoài. Nhưng chất độc của "Sài tuyết chu" quả vô cùng lợi

hại, mặc dù còn rớt lại trong người bao nhiêu, nhưng cứ mỗi lần Châu bá Thông vận

công thì trong ngực cảm thấy có một cái gì ớn ớn khó hiểu, muốn mửa ra mà mửa

không được. Trái lại, nếu ngừng vận công thì thấy dễ chịu hơn. Thử đi thử lại năm ba

lần vẫn không kết quả Châu bá Thông than dài:

- Chịu thôi! Chất này không thể nào trục hết ra ngoài cho được.

Kim Luân Pháp Vương đứng ngoài chờ đợi, không biết đã sẩ ra những gì trong hang

nên nghĩ bụng:

- Ngu quá, thằng già này đã vận công được rồi. Phải đối phó sao đây?

Bỗng lão nghĩ ra kế bèn thò tay vào túi móc ra một hộp vàng đựng đầy cả "Sài tuyết

chu". Mở nắp ra thì có cả thẩy trên mười mấy con nhện rằn bò lúc nhúc. ánh mặt trời

vừa mọc rọi thẳng vào hộp, chiếu trên những lng nhện, óng ánh nhiều màu sắc rực rỡ

trông vừa đẹp vừa ghê gớm. Kim Luân lấy ra một kẹp nhỏ bằng sừng chuốt, gắp mấy

con nhện bỏ lên vách đá bên trái trước cửa hang. Dần dần lão thả hết số nhện đựng

trong chiếc hộp ra. Bao nhiêu nhện leo lên vách đá và đua nhau nhả tơ làm lưới che

phủ khắp cửa động biến thành một bức màn tơ độc giam hãm hai người bên trong.

Châu bá Thông và Tiểu long Nữ thấy các con nhện nhả tơ giăng lưới thì lấy làm thích

thú, cứ điềm nhiên theo dõi, chứ không đánh đuổi đi. Khi màn luới đã bao kín miệng

hang rồi, bao nhiêu nhện rằn lại ẩn núp một bên chờ có con vật nào đến chạm vào là

phóng tới đớp nay. Lúc bấy giờ Tiểu long Nữ và Châu bá Thông đã lâm vào cảnh

nguy hiểm vô cùng.

Tiểu long Nữ chép miệng nói:

- Tiếc rằng ngọc phong châm không còn nữa để phóng cho mỗi con một chiếc để đỡ

gai mắt.

Châu bá Thông lượm một que củi thông, định quậy cho thủng màn lưới nhện, bỗng từ

ngoài có một con bướm đã lăn ra chết ngay không kịp giãy dụa.

Tiểu long Nữ thất kinh gọi lớn:

- ấy chết, đừng chạm vào lưới. Nguy hiểm lắm.

Nói xong nàng đoạt lấy que củi trên tay Châu bá Thông, vứt ra xa.

Thật ra Kim Luân pháp Vương để cho nhện giăng tơ không phải có ý giam hãm hai

người mà chỉ để họ vô ý chạm phải lưới độc là chết ngay. Giống "Sái huyết chu"

không phải cắn mới độc mà ngay lưới tơ của chúng cũng độc vô cùng.

Châu bá Thông ngồi xếp bằng lại như cũ và nghĩ thầm:

- Ta chưa phục hồi lại công lực, nên dù phải ngồi thêm một thời gian nữa để vận khí

cũng không sao.

Tiểu long Nữ lại nóng ruột nghĩ: "Không biết mình tình trạng này kéo dài đến bao giờ

cho hết? Chất độc trong người của Châu bá Thông đã trục được hết cha?"

Nàng khẽ bảo:

- ông thử vận công thêm độ một ngày một đêm nữa xem có khỏi bệnh chăng.

Châu bá Thông thở dài than nho nhỏ:

- Dù một ngày cũng chưa chắc hết bệnh.

Tiểu long Nữ trợn mắt tròn xoe hỏi:

- Vậy thì phải tính sao đây?

Châu bá Thông cả cười đáp:

- Nếu lão hòa thượng chịu bỏ cơm vào đây, ta cũng ráng sống vài năm trong hang để

chờ đợi được.

Tiểu long Nữ thở dài than:

- Phải chi có Dương Qua cùng sống trong hang này, dù ở mãi suốt đời cũng không

chán.

Châu bá Thông nổi nóng nói:

- Người xem lão Ngoan đồng không bằng thằng Dương Qua hay sao? Nó đã có gì giỏi

hơn ta chưa? Ta sống chung với ngưươi trong hang đá này có điều chi không tốt hãy

nói ra nghe thử?

Một già một trẻ đều ngây thơ nói năng thật thà ngộ nghĩnh. Tiểu long Nữ mỉm cười

đáp:

- Dương Qua biết pháp đánh kiếm của Toàn Chân phái, nếu hắn có mặt tại đây thì tôi

cùng hắn dùng "song kiếm hợp bích" hạ được lão hòa thượng này ngay.

Châu bá Thông cười lớn nói:

- Thằng Dương Qua mà lại thạo môn kiếm pháp Toàn Chân hơn Châu bá Thông này

sao?

Tiểu long Nữ nói:

- Phép "song kiếm hợp bích" này còn gọi một tên nữa là "ngọc nữ tố tâm kiếm pháp"

hai người sử dụng nó phải là một trai một gái đang yêu nhau thắm thiết, mới có thế

phát huy hết năng lực mà thắng được quân địch dễ ợt.

Châu bá Thông vừa nghe tới mấy chữ "trai gái yêu nhau thắm thiết" đã thất kinh hồn

vía, khoát tay lia lịa nói rối rít:

- Thôi, thôi, đừng nhắc tới chuyện đó nữa. Ta có thể tự hào dù sống mãi trong hang

đá này bao nhiêu năm cũng được. Ngày trước ta đã từng một mình sống trong hang

động đá trên Đào hoa Đảo hàng mười lăm năm chẵn rồi. Trong những năm ấy vì

không có cách gì tiêu khiển ta đã luyện được một trò chơi cho đỡ buồn. Trò chơi đó

gọi là "song thủ hổ bác" nghĩa là "chân tay đánh nhau". Ngày nay được có mi một bên

để nói chuyện thì đã vui vẻ lắm rồi, còn mong gì hơn nữa?

Tiểu long Nữ ngạc nhiên hỏi:

- Trò chơi "song thủ hổ bác" là thế nào?

Nghe nàng hỏi không khác chi gãi trúng chỗ ngứa, Châu bá Thông đắc chí đem ra

giảng giải sơ qua về lối dùng hai tay đấu lẫn nhau cho Tiểu long Nữ nghe.

Nghe ông kể xong, Tiểu long Nữ chợt nghĩ lại vui mừng nói lớn:

- ồ hay quá, nếu tôi học được môn này thì một tay sử dụng Toàn Chân môn kiếm

pháp còn một tay sử dụng Ngọc nữ kiếm pháp. Như chẳng khác nào hai người đang

đánh nhau theo phép "song kiếm hổ bích" Nhưng môn này học có khó không, và phải

cần bao lâu mới thành thạo?

Châu bá Thông nói:

- Nói khó lắm, nhưng muốn dễ cũng dễ vô cùng, chỉ tùy theo bản chất của người

muốn học nó mà thôi. Người học không được dù học suốt, thì cũng không thông. Còn

kẻ nào học được thì cần hai ba ngày cũng đủ rồi. Ngươi có biết vợ chồng Quách Tỉnh,

Hoàng Dung hay không?

Tiểu long Nữ đáp:

- Tôi biết lắm chứ. Quách phu nhân thông minh xuất chúng, học một điều hiểu mười.

Cứ theo lời Dương Qua thì trên đời này chưa chắc đã có kẻ nào lanh lợi thông minh

bằng bà ta. Còn Quách đại hiệp thì tuy chất phác nhưng thiên tư chậm.

Châu bá Thông cười nói:

- Thế nào gọi là chậm? Có thể nói trắng ra rằng Quách Tỉnh là thằng ngốc và tối dạ

nhất. Châu bá Thông này, mi xem ta thuộc hạng nào, khôn hay ngu, lanh hay chậm?

Tiểu long Nữ nói:

- Tôi nhận xét ông tuy tuổi cao tác lớn, nhưng ăn nói bất thường, còn hành động thì

không thể lường trước, hình như khùng khùng điên điên.

64. THEO DÕI MÀ NHƯ KHÔNG HÀNH ĐỘNG

Châu Bá Thông vỗ tay cười khà khà nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Mi nói đúng. Chính là phép "hai tay đánh nhau" do ta sáng tạo ra,

nhưng chỉ trong mấy ngày học hết của ta. Sau đó đem dạy cho Hoàng Dung, mà con

bé Hoàng Dung học đi học lại mãi, nhưng không lĩnh hội được nửa miếng. Ta thấy

con Hoàng Dung thông minh lanh lợi, cứ ngờ là Quách Tỉnh không biết cách dạy, nên

ta phải đích thân dạy cho Hoàng Dung, rốt cục nó cũng không lĩnh giáo được. Chỉ có

bài thứ nhất: "tay trái vẽ hình vuông, tay mặt vẽ hình tròn" cùng trong một lúc, thế mà

Hoàng Dung vẽ đi vẽ lại mãi mà vẽ không được. Hà! Hà! Vì vậy môn võ công này

người thông minh chừng nào thì học khó chừng ấy.

Tiểu Long Nữ cười nói:

- Tôi không tin trên đời nầy có việc người thông minh lại học dở hơn người ngu.

Châu Bá Thông cười hề hề đáp:

- Ta xem ngươi tài trí, dung mạo và võ nghệ đều sít soát với Hoàng Dung. Nếu ngươi

không tin thì dùng ngón tay trái vẽ hình vuông dưới đất, đồng thời dùng ngón tay trỏ

bàn tay mặt vẽ hình tròn, hai hình đều phải đúng cách thức, và xong một lượt.

Tiểu long Nữ nghe theo lời đưa hai tay ra vẽ, nhưng buồn thay cái hình vuông các góc

đều tròn, còn hình tròn lại méo có khía góc.

Bá Thông vỗ tay cười ha hả, nói:

- Đó thấy chưa? Chỉ mới có bài thứ nhất mà học không xong rồi đấy!

Tiểu long Nữ mỉm cười, giữ vẻ bình tĩnh. Đoạn thong thả, tay mặt vẽ hình tròn, tay

trái vẽ hình vuông, chỉ trong nháy mắt đã thấy một hình tròn, một hình vuông rất

giống và xong một lượt.

Châu Bá Thông xem thấy rất kinh ngạc, vội kêu lên:

- Mi... Mi đã từng học rồi à?

Tiểu Long Nữ thản nhiên đáp:

- Chưa. Nhưng có khó gì đâu?

Lão liền hỏi:

- Sao vẽ được vậy?

Long Nữ đáp:

- Chỉ cần trong lòng yên tĩnh, không bối rối thì vẽ được ngay.

Nói xong, nàng đưa hai tay ra, tay trái vẽ ba chữ "Lão Ngoan Đồng", tay mặt viết

Tiểu Long Nữ. Sáu chứ nầy sắc sảo phi thường, nét bút như nhau.

Châu Bá Thông hớn hở vô cùng, bèn đem hết thuật pháp về môn "Hai tay đánh nhau"

truyền lại cho Tiểu long Nữ.

Kỳ thật môn "Hai tay đánh nhau" nầy là then chốt ở chỗ biết phân tay ra đề dùng một

lượt vào hai công việc. Nhưng những người thông minh như Tào Phi đi bảy bước đã

làm xong một bài thơ, hay Gia Cát Võ Hầu lúc dụng binh chỉ cúi đầu suy nghĩ trong

nháy mắt là ra trăm kế, đều không thể học được môn "Hai tay đánh nhau". Vì tâm tư

của những người ấy quá phức tạp. Còn Tiểu Long Nữ nhờ tính tình chất phác nên học

rất nhanh. Tiểu Long Nữ dùng hết tâm tư để học hỏi võ công kỳ quái này, để tay mặt

sử dụng "Ngọc nữ kiếm pháp", tay trái sử dụng Toàn chân kiếm pháp để hợp thành

"Song kiếm hợp bích". Chỉ trong vòng ba tiếng đồng hồ nàng đã hoàn toàn thuần thục.

Nàng đi thử lại cho Châu Bá Thông xem, làm cho lão vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ.

Kim Luân Pháp Vương và Triệu Chí Kính nấp bên ngoài, lắng tai nghe hai ngơừi trò

chuyện bên trong rất vui vẻ chẳng tỏ ý gì kinh sợ. Hai người đứng ngoài thấy thế rất

kinh ngạc. Tiểu Long Nữ thoáng thấy bọn Kim Luân Pháp Vương lấp ló ngoài cửa

động, bèn nắm tay Châu Bá Thông nói:

- Tôi và ngài bước ra ngoài đi.

Châu Bá Thông ngơ ngác hỏi:

- Ra làm gì?

Nàng thẳng thắn đáp:

- Ra bắt thằng học trò lão, khảo lấy thuốc độc cho ngài uống.

Châu Bá Thông vuốt râu, cời:

- Bây giờ, mi chắc chắn sẽ hạ nó như trở bàn tay.

Lão nói chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng vo vo bay tới trước cửa động, thì thấy một con

ong mắc vào lưới nhện đang ra sức vùng vẫy, nhưng lạ thay con nhện ấy rất hùng hổ

mà không dám xáp tới gần. Tiểu Long Nữ khi sống trong Cổ Mộ, rất sành nghề nuôi

ong, nay thấy vậy, liền sanh ra một kế. Nàng thò tay vào túi, lấy một chai mật mở nút

ra, đặt bàn tay lên miệng chai, ra sức dùng chưởng lực, bỗng nghe một mùi hương tỏa

ra bát ngát cả ngoài động.

Lúc ấy vào giữa mùa hè, nên rất nhiều ong đang đi lấy mật, nghe thấy mùi thơm, tấp

nập bay đến. Chúng đến cửa động, thấy một đồng bọn của chúng đang kẹt lưới, vội

tủa vào tiếp cứu, đấu nhau kịch liệt với mấy con nhện độc. Trong chốc lát, bầy nhện

độc dần dần bị yếu thế, nên bị nọc ong chích nhằm, đều té rơi xuống đất.

Triệu Chí Kinh thấy tình thế sắp nguy vội trốn vào bụi rậm, còn Kim Luân Pháp

Vương thấy bầy nhện quí của lão sắp tiêu tan, trong lòng vô cùng đau xót.

Tiểu Long Nữ dùng ngón tay út thò vào bình ngọc vốc lên một ít mật rồi hướng về

phía Pháp vương, tiếp theo ngón tay trỏ cũng búng vèo tới, miệng hô hai tiếng, tức thì

muôn ngàn con ong bay vù vù ra động, xông thẳng vào người Pháp Vương.

Kim Luân Pháp Vương thấy đàn ong ồ ạt bay đến bao vây mình, vội hớt hải tung

mình chạy đi. Vì thuật khinh công của lão đã đến mức cao siêu Tuy bầy ong bay rất

nhanh, nhưng không thể đuổi kịp lão được. Trong chốc lát lão chạy hơn hai chục

dặm, bầy ong bị cách ra đêu tản mát cả. Tiểu Long Nữ dậm chân kêu tiếc:

- Uổng quá! Uổng quá!

Châu Bá Thông vội hôi:

- Uổng cái gì?

Tiểu Long Nữ tỏ vẻ hơi buồn, nói:

- Hắn đã chạy thoát rồi, không lấy được thuốc giải độc.

Mưu kế của Tiểu long Nữ là điều khiển bầy ong, để bao vây Kim Luân Pháp Vương

ép vào giữa vòng vây. Nhưng nàng không ngờ bầy ong "ô hợp", tuyệt nhiên chưa được

thuần túy như bầy ong nuôi ở Cổ mộ, tuy có thể sai khiến chúng truy kích được,

nhung không biết bủa lưới bao vây.

Châu Bá Thông đứng nhìn thuật pháp của Tiểu Long Nữ, đi sai khiến bầy "dã phong"

thành một lợi khí truy kích địch quá lợi hại, lòng lão hết sức thán phục, thầm nghĩ:

"Trò chơi kỳ quái này còn lạ gấp mấy lần những trò chơi xưa nay lão thường thấy". Vì

thế nên Châu Bá Thông say sưa nhìn bày "dã phong" truy kích địch, mà lão không

buồn nghĩ đến các chất độc đang ngấm vào người lão có thể giải được hay không?

Tiểu Long Nữ thấy màn nhện trên cửa động đã bị trận kịch chiến vừa rồi phá tan hết,

bèn lẹ làng chui ra, và ngoắt tay bảo Châu Bá Thông:

- Mau ra đây!

Châu Bá Thông nghe lời, liền nhún mình phóng ra, nhưng nhảy ra được nửa chừng,

thân lão trên không rơi "bịch" xuống như một bao cát. Lão buột miệng than:

- Không được! Không được! Sức lực của ta không biết biến mất đi đâu hết rồi!

Bỗng nhiên người lão run lập cập, hàm răng va vào nhau "côm cốp". Đúng lúc nầy

chất độc nhện đã hành hung làm tê liệt các huyệt, nên lâo nhãy ra mới nửa chừng đã

bị rớt xuống đất. Châu Bá Thông lúc rơi xuống cảm thấy như thân mình rơi vào hố tuyết,

làm mặt mày lão trở nên tái mét.

Tiểu Long Nữ kinh hãi nói:

- Châu bá Thông, ông có sao không vậy?

Lão lập cập, nói:

- Cô?... Cô hãy mau dùng kim chích vào da tôi ít mũi!

Tiểu Long Nữ sửng sốt nói:

- Kim của tôi có độc mà!

Châu Bá Thông hổn hển, nói:

- Có độc... có độc càng tốt!

Tiểu long Nữ nhớ trận ác chiến giữa bầy ong và nhện độc vừa rồi. Nàng thầm nghĩ:

- Chẳng lẽ nọc ong lại là khắc tinh của nọc nhện hay sao?

Vừa nghĩ, nàng vừa ra tay nhặt lên một mũi "Ngọc phong châm" chích thử vào cánh

tay của Châu bá Thông. Bá Thông mừng rỡ nói:

- Đỡ lắm! Hãy mau chích tiếp đi!

Nàng vội chích thêm mấy mũi, thì thấy chất độc trên kim mất dần, đoạn đổi mũi

khác, liên tiếp đổi hết mười mấy mũi. Lúc nầy Châu Bá Thông không còn rên nữa, lão

hít một hơi dài khoan khoái nói:

- Dùng độc khử độc, thật là một phương pháp huyền diệu!

Lão liền thử điều công vận khí, thì cảm thấy chất độc trên mình chưa tan, lão vỗ đùi

kêu lên:

- Long cô nương, nọc ong trên kim cô cũng chưa mạnh lắm!

Tiểu Long Nữ hiểu ý cười hỏi:

- Thế thì để tôi đi gọi ong đến chích cho ngài vậy?

Lão vui vẻ nói:

- Cám ơn cô nương nhiều lắm, vậy cô thi hành liền đi.

Tiểu Long Nữ thấy chất độc trị nọc độc của nhện có hiệu quả nên vội mở nắp bình

ngọc nhử đến một bầy "dã phong" cho chích vào mình lão Ngoan Đồng. Châu Bá

Thông thích chí cười, rồi cởi ngay chiếc áo trên lưng ra, để cho bầy ong châm chích

tha hồ. Mặt khác lão lại ám vận thần công, lúc đầu cho chất độc tụ vào đơn điền, rồi

mới theo đường chân khí mà chạy khắp trong mười hai mạch của toàn thân, và kỳ

kinh tán huyệt đại. Sau một hồi lâu, toàn thân lão đã đầy mụt chích của "dã phong".

Khi nọc nhện gần hết, nọc ong chích vào nghe đau, lão la lớn lên:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Nếu để chúng tiếp tục chích nữa thì ắt có án mạng xẩy ra.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, vội đuổi bầy ong đi. Chợt thấy cây roi của nàng rơi ở một

bên, tiện tay nhặt lên hỏi:

- Tôi đi về Chung nam Sơn, ông có muốn đi không?

Châu Bá Thông lắc đầu nói:

- Lão còn có một việc riêng cần kíp, không thể cùng cô đi được.

Tiểu Long Nữ nói:

- à! Đúng rồi. Chắc muốn đến Tương Dương giúp Quách đại hiệp chứ gì?

Nàng vừa nhắc đến ba chữ "Quách đại hiệp" thì trong lòng nàng đã thầm nghĩ:

- Thôi! Lúc này Quách Phù đang chung sống đầm ấm với Dương Qua rồi!

Nét mặt nàng bỗng tái mét, thở dài thảm thiết nói:

- Châu Bá Thông, nếu lão có gặp Dương Qua, xin đừng nói đã gặp tôi nhé.

Chỉ thấy miệng Châu bá Thông lầm bầm không biết nói chuyện gì, mà cũng không

nghe rõ tiếng nào, nhưng trên mặt ông đầy vẻ tinh quái. Chưa biết lão sắp giở trò gì

đây. Một hồi sau, bỗng nhiên lão ngẩng đầu lên hỏi:

- Cô nói gì đây?

Tiểu Long Nữ nói:

- Không nói gì, thôi xin chào ông nhé!

Châu Bá Thông chỉ làm lơ "ừ, ừ" mấy tiếng rồi đứng lặng yên.

Tiểu Long Nữ xoay mình đi một lúc. Bỗng nghe Châu Bá Thông quát tháo ầm ĩ, tựa

như đang chỉ huy một bầy ong. Nàng quá ngạc nhiên, vội lên trở lại, đứng rình sau

một thân cây lớn thì thấy Châu Bá Thông tay cầm chiếc bình ngọc, đang múa tay,

múa chân ầm lên.

Tiểu Long Nữ đưa tay sờ lên lưng, thì thấy chiếc bình ngọc đã mất mới biết lão

Ngoan Đồng đã đánh cắp lúc nào rồi. Nàng định thần nhìn kỹ, quả thật bình ngọc của

nàng ở trên tay lão Ngoan Đồng, liền thấy bầy ong tấp nập bay tới, nhưng hoàn toàn

chúng không chịu sự chỉ huy của lão, chỉ bay vo vo chung quanh bình ngọc. Tiểu

Long Nữ không thể nhịn cười đơực, bèn lên tiếng:

- Lão ơi? Để tôi dạy cho!

Châu Bá Thông thấy trò chơi đã bị lộ tẩy, lại rõ cái tội móc túi bị Tiểu Long Nữ bắt

quả tang, nên lão mắc cỡ đến đỏ mặt, lẹ làng chạy bay xuống núi. Trong nháy mắt lão

đã mất dạng.

Tiểu long Nữ ha hả cười vang, cảm thấy lão Ngoan Đồng lại lỡ làng quá.

Đồi núi xa xa vọng lại những tiếng cười cô độc của nàng. Đột nhiên nàng thấy tâm

thần quá cô đơn hiu quạnh, lòng không tự chủ được, hai hàng lệ bất giác rơi dài

xuống má.

Mấy ngày nay, nàng đang theo đuổi Doãn chí Bình và Triệu chí Kính, thấy hai người

thật đáng giết, dù băm nát thây họ cũng không hết được mối hận trong lòng. Lúc bấy

giờ, nàng thấy cần ra tay hạ thủ là kết liễu mạng của hai người ấy thật dễ dàng.

Nhưng lòng nàng tự hỏi:

- Dù có giết chết họ, thì ta được gì?

Nàng ngập ngừng đứng dưới gốc cây một hồi lâu, rồi lầm bầm:

- Ta cần phải đi kiếm họ mới đuợc!

Quyết định xong, nàng thơ thẩn đi xuống núi, cưỡi lên lưng con lừa bông, vút chạy về

hớng đông, phút chốc chạy hơn hai dặm đường. Nàng định đến thẳng về đại doanh

của Mông Cổ, chợt thấy đàng trước bụi bay mịt trời, chiêng trống náo động, đại đoàn

quân mã rầm rộ Nam tiến. Nàng nhận đúng là quân Mông Cổ đang kéo binh đi công

phá thành Tương Dương. Tiễu Long Nư thầm nghĩ: "Thiên quân vạn mã như vậy, ta

làm cách nào tìm được hai tên đạo sĩ được?".

Bỗng nhiên thấy dưới chân núi có ba con tuấn mã chạy qua, trên lưng ngựa là ba tên

đạo sĩ áo vàng.

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ:

- Sao lại có thêm một đạo sĩ nữa?

Xa xa nhìn tới, nàng thấy người sau chót chính là Doãn chí Bình, và Triệu chí Kính

cùng gò ngựa song song với một đạo sĩ trẻ tuổi lạ mặt đi trước.

Tiểu long Nữ liền giục con lừa cấp tốc đuổi theo. Doãn chí Bình nghe có tiếng vó lừa

đuổi theo, liền quay đầu nhìn lại, thấy Tiểu Long Nữ đã lẽo đẽo theo sau. Mặt mày

hắn liền biến sắc.

Người đạo sĩ trẻ tuổi lại hỏi:

- Triệu sư bá, người con gái đó là ai vậy?

Triệu chí Kính sợ nói:

- Đó là cuờng địch với giáo phái ta đó, đừng có hỏi nữa!

Đạo sĩ trẻ giật mình vội hỏi:

- Có phải là Lý Mạc Thu không?

Triệu chí Kính lẩm bẩm:

- Không phải! Nó là sư muội Lý mạc Thu.

Người đạo sĩ trẻ tuổi tên là Kỳ chí Thành, tuy ngôi bậc sắp vào hàng chữ "chí", nhưng

thật ra lại là đệ tử thuộc vào hàng thứ tư của Toàn Chân phái, vai thứ thấp hơn Doãn

chí Bình và Triệu chí Kính một bực. Hắn biết Lý mạc Thu đã nhiều lần giao đấu với

sư tổ của hắn mà Toàn Chân chư tử cũng nhiều phen chịu thua dưới tay Lý mạc Thu.

Triệu chí Kính vội ra roi quất ngựa chạy trước, Doãn chí Bình và Lý chí Thường cũng

thất kinh giục ngựa chạy nhanh. Trong chốc lát bọn Triệu chí Kính đã bỏ rơi Tiểu

long Nữ rất xa.

Nhưng sức con lừa bông của Tiểu Long Nữ lại rất dẻo dai, nên nước sải tuy không lẹ

lắm, nhưng cứ đều đều tiến tới. Còn ba con ngựa của bọn Triệu chí Kính chỉ chạy

được bốn, năm dặm là thấm mệt rồi, nên dần dần chậm lại, vì thế con lừa bông lại

đuổi gần tới.

Triệu chí Kính đi được sáu, bảy dặm quay đầu lại liền ra roi quất dồn dập vào mình

ngựa, nhưng dù đánh cách mấy, ngựa cũng chỉ chạy lẹ được hơn nửa dặm rồi đuối

sức!

Kỳ chí Thành nói:

- Triệu sư bá! Nếu cứ mãi như thế này ắt ta thoát thân không thể được. Vậy sư bá

cùng tôi đứng lại cản đường cô ấy, để cho Doãn sư bá được thoát thân.

Triệu chí Kính tái mặt nói:

- Làm như dễ dàng lắm vậy, mày muốn toi mạng rồi hả?

Kỳ chí Thành nói:

- Doãn sư bá thân mang trọng trách trưởng giáo, chúng ta thế nào cũng phải bảo vệ

tánh mạng của Doãn sư bá cho được bình yên.

Triệu chí Kính "hử" một tiếng, không nói gì, nhưng lòng thầm nghĩ:

- Thật là đồ nghé con không biết cọp! Có ba miếng võ tầm thường mà đòi cản hậu!

Kỳ chí Thành thấy Chí Kính có vẻ giận không dám nói nữa nhưng chàng có tánh

trung nghĩa, nên gò ngựa đợi Doãn chí Bình đi tới mới nói:

- Doãn sư bá là thân ngàn vàng, vậy xin sư bá hãy đi trước tiện hơn!

Doãn chí Bình điềm nhiên nói:

- Mặc cô ta.

Kỳ chí Thành thấy Chí Bình vẫn có vẻ bình tĩnh như thường, trong lòng kính phục vô

cùng. Chàng thầm nghĩ: "Cho nên Khưu sư tổ truyền ngôi cho người, chỉ cái khí độ

hiên ngang này thì trong số đệ tử đời thứ ba không có ai bì kịp rồi.

Triệu chí Kính thấy hai nguời vẫn đi thong thả, nên tự hỏi:

- Không lẽ mình lại hèn nhát bỏ chạy trước?

May lúc ấy Tiểu Long Nữ cũng không có ý ra tay. Nhưng ba người đi trước trong

lòng vẫn phập phồng chẳng yên, cứ vừa cho ngựa chạy vừa quay đầu lại ngó chừng.

Lúc này trên đường chỉ có bốn người, dẫn đầu là ba nam cưỡi ngựa, đi sau một nữ

cỡi lừa, lặng lẽ đi thẳng về phía Bắc.

Bấy giờ tiếng reo hò của quân Mông Cổ cũng dần dần biến mất, thỉnh thoảng chỉ

nghe vọng lại vài tiếng hí vang rền của chiến mã. Dọc đường chỉ thấy bá tánh vì tránh

nạn binh đao, không những nhà bỏ trống, mà cả những con chó hoang cũng không dám

hẻo lánh ở lại. Đêm đến bọn Doãn chí Bình lựa một căn nhà bỏ trống, không cửa,

không màn mà vào nghỉ lưng. Triệu chí Kính rón rén nhìn ra ngoài, lại thấy Tiểu Long

Nữ nằm ngửa trên một sợi dây buộc giữa hai thân cây lớn. Kỳ chí Thành ngóc đầu

nhìn qua cửa sổ, thấy công phu của Tiểu long Nữ đã đến mức uyên thâm, thì trong

lòng vô cùng khiếp sợ. Chỉ có một mình Doãn chí Bình vẫn thản nhiên nằm ngủ,

không hề lưu ý đến Tiểu Long Nữ.

Suốt cả đêm, Triệu chí Kính không hề nhắm mắt một phút nào, chỉ chờ nghe ở bên

ngoài có tiếng động gì, sẽ lẹ làng, quất ngựa truy phong. Sáng hôm sau, bốn người lại

tiếp tục lên đường. Riêng có Triệu chí Kính ngồi trên lưng ngựa có vẻ bơ phờ, vì suốt

đêm không hề chợp mắt được. Còn Kỳ chí Thành đi song song với Doãn chí Bình,

nên bỏ rơi Chí Kính. hơn mười trợng. Bấy giờ Kỳ chí Thành nói với Doãn chí Bình:

- Doãn sư bá và Triệu sư bá mỗi năm đều có so tài nhau, nên vũ học của hai sư bá con

đã thấy qua, có thể nói là ngang nhau, ai cũng có nghệ riêng, nhưng nói đến khí lượng

trong lòng thì Triệu sư bá không thể bì kịp.

Doãn chí Bình gượng cười hỏi:

- Lần này các vị sư thúc và sư phụ ta được lệnh bế quan bao lâu thời gian, chú có biết

chăng?

Kỳ chí Thành nói:

- Khưu sư tổ bảo: Nếu mau cũng là ba tháng, còn lâu thì phải một năm. Do đó sư tổ

mới cấp tốc mời Doãn sư bá về kế vị.

Doãn chí Bình trầm ngâm một hồi, lẩm bẩm:

- Công lực của các vị sư trưởng đã đến mức khó lường rồi, sao còn phải bế quan làm

chi nữa?

Kỳ chí Thành nói nho nhỏ:

- Con nghe nói năm vị sư tổ muốn tịnh tâm nghiên cứu với võ học đặc biệt, để phá võ

công của phái Cổ Mộ.

Doãn chí Bình ừ một tiếng, bất giác quay đầu nhìn Tiểu Long Nữ ở phía sau. Cái

ngày đại hội anh hùng tại Kinh tỉ bang, Tiểu Long Nữ hợp sức với Dương Qua đuổi

cả thầy trò Kim Luân pháp Vương nên võ công của Tiểu Long Nữ đã làm chấn động

cả võ lâm. Nhưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ hai người đang yêu nhau khăng khít,

không hề lu ý đến việc thắng bại cho lắm. Lúc nầy trên giang hồ đồn vang, võ công

cao nhất trong thiên hạ là người của phái Cổ Mộ, rồi sau lại nghe nói Tiểu Long Nữ

cùng Dương Qua dùng "Song kiếm hợp bích" đánh đến Kim Luân Pháp Vương phải

bỏ chạy tơi bời, cũng vì thế mà làm chấn động cả Toàn Chân Giáo. Sự thật Toàn chân

giáo cùng với phái Cổ Mộ đời trước có thâm giao với nhau, nhưng từ khi Hách đại

Thông lỡ tay giết chết Tôn Bà, nên Toàn Chân chư tử rất lo sự, vì nghĩ thế nào đi nữa,

một ngày kia Lý mạc Thu, Tiểu long Nữ và Dương Qua sẽ tới Chung Nam Sơn để báo

thù. Nhưng riêng một mình Lý mạc Thu đã đánh Toàn Chân giáo phái thảm bại mấy

phen rồi, mà lại còn thêm Tiểu Long Nữ và Dương Qua nữa thì họ lo sợ đến mức

nào? Nhưng còn việc hiềm khích giữa Lý mạc Thu và Tiểu long Nữ, thì họ không

biết. Trong phái Toàn Chân chư tử, nay chỉ còn lại có năm người, nhnưg tuổi đã cao,

tinh lực đã suy nhược, còn đám đệ tử đời thứ ba và đời thứ tư đều không có một nhân

tài nào xuất sắc. Nếu đến lúc phái Cổ Mộ tới trả thù, mà Toàn Chân chư tử còn sống

thì còn có thể chống đỡ được. Nhưng Tiểu long Nữ đợi tới mười năm sau nữa mới

đến, thì khi ấy một phái học chính tông như Toàn Chân ắt phải thảm bại. Bởi thế nên

năm người lớn tuổi của phái Toàn Chân mới quyết định "bế quan" tu tỉnh, để nghiên

cứu tìm hiểu một môn võ học tuyệt diệu nhất thiên hạ, phòng khi đối kháng với phải

Cổ Mộ và cũng vì thế mới cấp tốc triệu Doãn chí Bình về núi để lên ngôi trường giáo.

Bọn Doãn chí Bình ngày đi đêm nghỉ, thẳng về phía Tây Bắc, Tiểu long Nữ cũng lẽo

đẽo theo sau. Hôm nay vừa đi vào ranh giới tỉnh Thiểm Tây.

Kỳ chí Thành bèn hỏi:

- Doãn sư bá, khi chúng ta về Trùng dương Cung, có lẽ Long cô nương một mình

không dám mạo hiểm theo nữa?

Doãn chí Bình chỉ "ừ" một tiếng cho qua chuyện, nhưng lòng vẫn đoán mãi không ra

dụng ý của nàng. Doãn chí Bình phập phồng tự hỏi:

- Có phải nàng định tìm đến năm vị sư tổ để vạch trần tội ác của mình chăng? Hay là

nàng mang kiếm đến phái Toàn Chân giáo, để hả lòng căm tức? Hoặc giả, nàng chỉ

muốn trở về Cổ Mộ mà ngẫu nhiên cùng đi một đường với mình?

Nhưng không lẽ nàng thương hại mình, nên cứ lẽo đẽo theo mãi chăng. Suy nghĩ đến

câu cuối cùng, bất giác hắn thở dài thườn thưượt, nên tự biết đó là mộng ảo mà thôi!

Không đời nào có việc nàng thương hại hắn được.

Đi thêm mấy hôm nữa đã tới chân núi Chung Nam. Lý chí Thành thò tay vào túi, lấy

ra một mũi tên dùng sức vứt mạnh một cái, mũi tên bay thẳng lên không.

Một hồi sau, thì thấy có bốn tên đạo sĩ áo vàng từ trên núi chạy nhanh xuống, nghiêng

mình chào Doãn chí Bình, và nói:

- Xin chào Thanh Hòa chân nhân đã về. Ở đây ai nấy đều có lòng mong đợi.

Doãn chí Bình đạo hiệu là "Thanh Hòa" nhưng chỉ có những đệ tử của chàng mới

xưng hô như thế để tò vẻ tôn kính, còn những người khác đều gọi bằng tên. Bốn đạo

sĩ này là đệ tử thứ ba của Toàn Chân giáo, xưa nay họ vẫn xưng hô với nhau bằng

huynh đệ, nhưng đột nhiên bây giờ bốn người đổi cách xưng hô với Doãn chí Bình.

Doãn chí Bình cảm thấy hơi lạ, nhưng lập tức xuống ngựa trả lễ và hỏi:

- Xin đa tạ bốn sư huynh quá nhọc lòng, các sư huynh xưng hô như thế, tiểu đệ đâu

có dám nhận?

Người đạo sĩ tuổi cao nhất, nói:

- Đó là pháp chỉ của Ngũ vị sư thúc bảo: Đợi lúc Thanh Hòa chân nhân về lập tức tôn

lên ngôi chủ giáo, còn đại lễ bàn giao, phải đợi đến ngày sư thúc khai quan sẽ cử

hành.

Doãn chí Bình hỏi:

- Năm vị sư trưởng đã bế quan rồi sao?

Đạo sĩ ấy tiếp:

- Đã hơn hai mươi hôm rồi.

Trong lúc hai người đang nói chuyện, thì nghe trên núi tiếng nhạc thổi vang lên. Mười

sáu tên đạo sĩ thổi kèn đánh trống, đã sắp hàng ở bên lề đuờng nghinh đón. Lại có

thêm mười sáu tên đạo sĩ khác tay cầm kiếm gỗ cũng đứng nghiêm chỉnh sắp hàng

theo lề đường. Khi Doãn chí Bình đi tới, hai hàng đao sĩ đều nghiêng mình làm lễ,

tiền hô hậu ủng đi thẳng lên núi.

Còn Triệu chí Kính thì bị lãnh đạm bỏ rơi một bên, nên hắn vừa giận dữ, vừa thẹn

thùng thầm nhủ:

- Để khi ngôi trưởng giáo rơi vào tay ta, xem bộ mặt lũ bay ra thế nào?

Trời vừa xế bóng, đoàn người đã về tới cửa Trùng dương Cung. Trong cung hơn năm

trăm người, từ trên đại điện sắp hàng dài xuống tới sơn môn. Một hồi chuông đồng

vang lên tiếng "Boong... Boong" hòa trong tiếng trống kêu "thì thùng", mấy trăm tên

đạo sĩ chỉnh tề thi lễ một lượt. Trước quang cảnh trang nghiêm, long trọng nầy, lúc

đầu Doãn Chí Bình qúa đỗi lúng túng, nhưng trong chốc lát tinh thần hắn tỉnh táo

trước sự ủng hộ của mười sáu tên đại đệ tử. Doãn Chí Bình bước tới nhị điện khấu đầu

cung bái di ảnh của Vương Trùng Dương sư tổ. Cung bái xong, Chí Bình sang tam

điện quỳ lạy bảy chiếc ghế không, mà Toàn Chân thất tử thường ngôi, sau đó mới trở

về chính điện.

Nhị đệ tử của Khưu xứ Cớ là Lý chí Thường đọc pháp chỉ của Trương giáo sư tổ, phú

cho Doãn Chí Bình tiếp nhiệm trưởng giáo. Doãn Chí Bình quỳ xuống cung kính nghe

huấn tử lòng mừng rỡ lẫn hổ thẹn. Thoáng mắt, nhìn thấy Triệu Chí Kính đứng một

bên, với vẻ mặt khinh khỉnh, Chí Bình bất chợt giật nẩy người. Doãn Chí Bình nghe

lời di chúc xong, toan đứng dậy đáp từ vài lời khiêm nhượng với anh em. Bỗng thấy

đạo sĩ ngoài hối hả bước vào, lớn tiếng bảo:

- Bẩm trưởng giáo chân nhân, có khách tới.

Doãn Chí Bình giật mình đánh thót một cái, đinh ninh là Tiểu Long Nữ đã dám đương

nhiên vào viếng, nhưng không biết làm cách nào từ khước được, đành phải bình tĩnh

nói:

- Cứ mời vào.

Đạo sĩ đứng dậy cúi đầu trở ra. Trong chốc lát hắn đã dẫn hai người khách lạ trở vào.

Các đạo hữu vừa thấy mặt đều lộ vẻ kinh ngạc. Doãn Chí Bình lại càng lo ngại hơn.

Té ra hai người mới vào ấy là một viên quan chức Mông Cổ và Tiêu tương Tử. Viên

quí quan Mông Cổ lớn tiếng nói:

- Thánh chỉ của Hoàng đế tới, sắc phong cho chưởng giáo phái Toàn Chân.

Nói rồi, đường đột bước vào đứng giữa đại điện, thò tay vào túi lấy ra một cuộn lụa

màu vàng tháo ra, dõng dạc nói:

- Từ phong trưởng giáo Toàn phần làm "Đặc thụ thần tiên dẫn đạo đại tôn sư. Huyền

môn chưởng giáo, chương quản như lộ đạo giáo".

Đến đây tên quan Mông Cổ thấy không ai quỳ xuống nghe thánh chỉ, bèn lớn tiếng

nói:

- Xin mời trưởng giáo chân nhân tiếp chỉ.

Doãn Chí Bình bước tới cúi đầu thi lễ nói:

- Trưởng giáo Khu chân nhân đang tọa quan, nay do tiểu đạo tiếp nhiệm trưởng giáo,

nên sắc phong của vua Mông Cổ, tiểu đạo không dám nhận.

Viên quan Mông Cổ cười bảo:

- Hoàng đế đã phán rằng: Khưu chân nhân là người được thái tổ hằng sở mộ. Nhưng

vẫn biết Khưu chân nhân tuổi đời đã cao, chẳng biết tồn tại thế không. Sắc phong này

tuy ban cho Khưu chân nhân, nhưng nếu Khưu Chân nhân không tại thế, thì người

tiếp nhiệm trưởng giáo Toàn Chân hiện tại nhận sắc phong nầy.

Doãn Chí Bình nói:

- Tiểu đạo vô đức vô tài, thật không dám nhận.

Quý quan ấy cười ha hả nói:

- Ngươi đừng có khách sáo nữa, mau lãnh chỉ đi.

Doãn Chí Bình lễ phép nói:

- Xin đại nhân sang hậu điện dùng trà, để tiểu đệ trình sư đệ sư huynh thương nghị

một hồi đã.

Quý quan ấy có vẻ không vui, cuốn thánh chỉ lại đáp:

- Thôi cũng được? Ta không biết còn phải thương lượng cái gì nữa?

Bốn tên đạo sĩ nhận chức tiếp tân lẹ làng đưa viên quý quan và Tiêu tương Tử sang

hậu điện dùng trà.

Doãn Chí Bình mời cả mười sáu vị đại đệ tử sang một viên khác. Khi mọi người an

tọa hết rồi, mới ân cần nói:

- Ta nhận thấy việc này quá trọng đại, nên không đám tự quyền phải hội riêng để nhờ

cao kiến của các sư huynh.

Triệu Chí Kính vội nói trước:

- Chúng ta đã được vua Mông Cổ mỹ ý như vậy lẽ là nên lãnh chĩ, như thế càng tỏ

phái ta ngày một thịnh vượng, cho đến cả vua Mông Cổ còn không dám khinh khi.

Nói xong Chí Kính với vẻ hiu hiu tự đắc, cười giòn. Kỳ Chí Thành lắc đầu, nói:

- Không được! Không được! Quân Mông Cổ đã xâm nhập đất đai ta, tàn sát biết bao

nhiêu dân lành của nước ta, thì nay ta đâu có nhận sắc phong đó?

Triệu chí Kính liền cãi:

- Năm xưa Khưu sư bá đã nhận được chiếu thư của Thái tổ Thành Cát Tư Hãn là lo

lặn lội muôn dặm xa xôi tìm đến Tây Vực, chính Doãn chưởng giáo và Lý sư huynh

đều có đi nên đã có lệnh ấy thì hay sao lại không nhận sắc phong của vua Mông Cổ?

Lý chí Thành nói:

- Lúc ấy quân Mông Cổ chỉ có đánh giặc Kim, chớ chưa xâm chiếm đến lãnh thổ

nước ta. Còn hôm nay thì tình thế đã khác hản rồi, đâu có thể nói là "lệ" được?

Triệu chí Kính nói:

- Chung nam Sơn này là dưới sự cai quản của quân Mông Cổ, nếu ta cự tuyệt không

nhận sắc phong, thì sợ cho Toàn Chân giáo ta khó tránh khỏi đại họa nhãn tiền?

Lý chí Thường nói:

- Triệu sư huynh nói như thế tôi thấy chưa đúng!

Triệu Chí Kính lớn tiếng hỏi lại:

- Sai ở chỗ nào? Xin mời Lý sư huynh chỉ dạy cho!

Lý chí Thường ôn tồn nói:

- Tôi không dám nghĩ đến hai tiếng "chỉ dạy" nhưng dám xin hỏi Triệu sư huynh thế

này: sư tổ của chúng ta Trùng Dương chân nhân là nguời thế nào? Và các vị sư trưởng

của chúng ta là người thế nào?

Triệu chí Kính hoảng sợ nói:

- Sư tổ và các vị sư trưởng chúng ta đều là bậc hồng đạo hộ pháp, là những cao thủ

trong tam thanh giáo của thời trước đây.

Lý Chí Thường nói tiếp:

- Tiền bối chúng ta là những bậc đại trượng phu lấp bể vá trời, có lòng ái quốc thương

dân. Mỗi người trong giáo phái chúng ta đều từng vào sinh ra tử, từng quyết chiến với

bọn giặc Kim.

Triệu Chí Kính tái mặt, gật đầu nói:

- Đúng vậy? Trùng Dương chân nhân và Toàn Chân thất tử đã danh chấn giang hồ, tất

cả giới võ lâm ai chả khâm phục và ngưỡng mộ hết lòng.

Lý Chí Thường nói:

- Nghĩ lại những bậc tiền bối của chúng ta, ai ai cũng không biết sợ cường quyền, chỉ

lo lập chí cứu dân trong khi khổ nạn. Nghĩ như thế, dù ngày nay Toàn Chân giáo có

phải lâm vào đại họa nhãn tiền, thì chúng ta cũng không có gì kinh sợ! Thà đầu có thể

rơi còn hơn, chứ không chịu để nhục!

Những câu nói này đã được đa ra bằng một giọng uy nghi lẫm liệt, làm cho Doãn

Chí Bình cùng mười mấy vị đại đệ tử đều xúc động.

Triệu chí Kính cuời nhạt nói:

- Chỉ có Lý sư huynh là người không sợ chết thôi, còn những người khác đều có ý

ham sống thì sao? Còn như sư tổ chúng ta đã sáng nghiệp Giang Nam Toàn Chân giáo

mới được quy mô to lớn như ngày nay, thì sư tổ và bảy vị sư trưởng đều phải tốn biết

bao nhiêu tâm huyết? Nếu chúng ta xử trí không khéo thì Toàn Chân giáo nầy bị tiêu

diệt, như thế chúng ta còn mặt mũi nào để thấy mặt sư tổ và sư trưởng ở thế giới bên

kia? Rồi đến lúc năm vị sư trưởng khai quang hỏi đến, chúng ta còn đâu mà trả lời?

Những câu hỏi vừa nói rồi, lập tức có mấy tên đạo sĩ hùa nhau tán thành, Triệu Chí

Kính được dịp nói tiếp:

- Hơn nữa, giặc Kim là tư thù của sư tổ chúng ta, mà Mông Cổ diệt Kim quốc, tức là

đã trả thù hộ cho tổ quốc chúng ta. Và vì giặc Kim, nên sưư tổ chúng ta phải tức tối mà

chết trong cổ mộ thì hôm nay sư tổ ở dới suối vàng, thấy giặc Kim này đã tiêu tan,

không biết sẽ vui mừng đến mức nào!

Một tên đệ tử của Khưu xứ Cơ là Vương chí Thản, nghiêm chỉnh nói:

- Bởi vì, sau diệt Kim, Mông Cổ có lập bang giao với Đại Tống chúng ta, lẽ tất nhiên

đôi bên phải tôn trọng theo lời bang giao. Nhưng ngày nay Mông Cổ đã cho đại quân

sang chà đạp giang san Đại Tống mà chúng ta đều là thần dân của Đại Tống, thì ta

đâu có đuợc nhận sắc phong của nước địch?

Vương chí Thản quay lại nói với Doãn Chí Bình:

- Xin chưởng giáo sư huynh không nên nhận sắc phong của vua Mông Cổ nếu sư

huynh nhận sắc phong của chúng thì sư huynh là kẻ Hán gian, đồng thời là một người

tội phạm của bổn phái, có tội với lịch sử. Vương chí Thản này dù có nát thây trăm

mảnh, cũng không để sư huynh yên đâu.

Triệu Chí Kính thản nhiên đứng dậy, đập bàn, quát to:

- Vương sư đệ toan dùng võ lực sao? Như thế là cả gan vô lễ với chưởng giáo như

vậy?

Vương Chí Thản lớn tiếng cãi lại:

- Chúng ta chỉ cần bàn cãi để nhận ra lẽ phải, nhưng nếu muốn dùng võ thì tôi đâu sợ

ai?

Đôi bên lời qua tiếng lại, đều không nhìn nhau, khí thế hung hãn gần như muốn ra

tay. Liền đó có một vị đạo nhân râu tóc bạc phơ đứng lên can:

- Các vị sư đệ! Lúc có việc quan hệ cần phải bình tĩnh mà giãi bày, chứ sao lại gây gỗ

nhau như vậy?

Đạo sĩ già ấy lại nói tiếp:

- Theo ý tôi, nhận thấy như ngươi xuất gia lấy lòng từ bi ở đời, nếu cứu được một

mạng người, tức là trợ được đức hiếu sinh của trời. Nếu như thế chúng ta chịu nhận

sắc phong của vua Mông Cổ, thì có thế tận lực khuyên can quân thần Mông Cổ đừng

có giết hại dân lành nữa.

Như ngày xưa, Khưu sư thúc cũng đã nhờ vậy mà cứu được nhiều tánh mạng của

muôn dân đó sao?

Lập tức có mấy tên đạo sĩ ủng hộ ý kiến đó:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Một vị đạo sĩ nhỏ người đứng lên lắc đầu, mạnh dạn nói:

- Tình thế ngày nay chúng ta không thể so với năm xưa được. Chính tiểu dệ đã theo

thầy Tây du, đã tận mắt thấy cảnh giết chóc tàn bạo của quân Mông Cổ. Nếu nay

chúng ta nhận sắc phong tức là đã giúp địch thêm phần tàn bạo, may ra có thể cứu

đuợc vài mươi mạng sống, nhưng trái lại gây sức mạnh cho quân Mông Cổ thì biết

bao nhiêu dân lành cúa nước ta suốt đời phải chịu nát thây dưới gót của chúng!

Đạo sĩ nhỏ người nầy tên Thống đức Phương là một trong mười chín đệ từng theo

Khưu xứ Cơ đi Tây du hồi năm xưa.

Triệu Chí Kính cười nhạt hỏi:

- Anh đã gặp Thành cát Tư Hãn thì thấy thế nào? Nhưng bây giờ tôi đã gặp Hoàng đế

của vua Mông Cổ là Hốt tất Liệt rồi. Vì Hoàng gia này đã chiêu hiền đạo sĩ, khoáng

độc đại lượng, đâu có chút gì là tàn bạo?

Vương Chí Thản la lớn:

- Hay quá! Té ra anh đã phụng mạng của Hốt tất Liệt, nên trở lại làm Hán gian hử?

Triệu chí Kính quá giận, hét lên:

- Anh nói cái gì?

Vương chí Thản nói tiếp:

- Ai nói tốt cho quân Mông Cổ tức là Hán gian!

Triệu chí Kính dứng phắt dậy "vụt" một chưởng tay phải giáng mạnh xuống đầu

Vương Chí Thản. Nhưng đúng lúc ấy, bên hông trái Chí Thản có hai cánh tay đưa lên,

gạt mạnh tay hắn ra. Triệu Chí Kính nổi trận lôi đình quát lớn:

- Hay lắm! Đệ tử của Khưu sư bá đã ỷ đông cậy thế hiếp cô phải không?

Trong cuộc họp liền trở nên một trận đấu ác liệt giữa Triệu chí Kính và Vương Chí

Thản.

Doãn Chí Bình thấy thế, liền vỗ tay, kêu lên:

- Các vị sư huynh hãy yên tọa, để nghe tiểu đệ nói một lời.

Doãn Chí Bình nghiêm nghị nói:

- Chưởng giáo của Toàn Chân xưa nay có quyền oai lực, nên tôi yêu cầu các huynh

phải ngồi yên.

Triệu Chí Kính liền nói tiếp:

- Phải rồi, chúng ta hãy nghe lời phán của chưởng giáo. Chưởng giáo nói thụ phong là

thụ phong. Còn vua Mông Cổ có thụ phong là phong cho chưởng giáo, chớ đâu phải

phong cho tôi với anh mà gây nhau làm gì?

Thâm tâm của Triệu Chí Kính cho là Doãn Chí Bình vì yếu thế nên phải sợ Vương

Chí Thản, nên cố ý tìm cách mua lòng. Còn Lý chí Thường và Vương chí Thản, xưa

nay đã biết Doãn Chí Bình tánh tình trung nghĩa, nên ngồi chờ lời giải quyết không

dám tranh cãi nữa.

Mọi người đều chăm chú chờ lời phán quyết của chưởng giáo mới.

Doãn Chí Bình thong thả nói:

- Tiểu đệ vô đức vô tài lại nhận trọng trách chưởng môn, không ngờ mới ngày thứ

nhất lại gặp phải việc lớn nan giải thế này.

Nói xong, hắn ngẩng đầu lên. ánh mắt sáng quắc của mười sáu vị đại đệ tử đều chiếu

thẳng vào Doãn Chí Bình, trong bầu không khí im lặng bao trùm cả gian phòng họp.

Một hồi lâu, Doãn Chí Bình mới nghiêm nghị nói:

- Toàn Chân giáo từ ngày được Vương sư sáng lập truyền đến đời Mã chân nhân,

Khưu chân nhân đã bành trướng hùng cường, ngày nay tiểu đệ thừa kế ngôi giáo chủ,

không thể phụ bạc lòng tin cậy của các vị tiền bối! Như vậy mà đại quân Mông Cổ

Nam tiến công thành Tương Dương xâm chiếm đất đai, giết chóc dân lành chúng ta,

ví dụ như các vị giáo chủ tiền bối còn sống ở đây, họ có chịu nhận sắc phong của

Mông Cổ chăng?

65. NHỮNG NÉT SUY SỤP CỦA TOÀN CHÂN

Mọi người nghe qua đều xúc động cúi đầu mặc niệm ba vị tiền bối, và trong lòng

thầm nghĩ:

- Vương Trùng Dương là một vị tổ sư qua đời đã lâu, nhưng chí hào hùng trung nghĩa,

không bao giờ chịu khuất phục một ai, uy danh còn vang động khắp thế gian. Mã

Ngọc tính tình rất đôn hậu, còn Khưu xứ Cơ có tính nóng như lửa, trung nghĩa hơn

người. Tất cả nghĩ đến đó đồng thanh nói:

- Khu giáo chù ắt không chịu nhận đâu!

Triệu Chí Kính liền lớn tiếng:

- Nhưng bây giờ chưởng giáo là Doãn huynh, chứ không phải Khưu sư bá.

Doãn Chí Bình nói:

- Tiểu đệ tài hèn đức mọn, không dám làm trái lời thầy dạy bảo. Vả lại, thân mang đại

tội, chết còn chưa đáng...

Nói đến đây, Chí Bình cúi đầu làm thinh. Ngoài Triệu Chí Kính không ai hiểu được

lời Doãn Chí Bình nói, chẳng biết có phải Doãn Chí Bình khiêm tốn hay không.

Triệu Chí Kính "hừ" một tiếng, nói:

- Như vậy là sư huynh không chịu sắc phong ?

Doãn Chí Bình đanh thép nói:

- Thân hèn của tiểu đệ thật không đáng kể, nhưng danh dự của tôn giáo chúng ta

không thể để xóa mờ.

Nói đến đây Doãn Chí Bình rất cảm khoái, hùng hồn nói tiếp:

- Ngày nay hào kiệt chiến sĩ khắp nơi đều đang rầm rộ khởi nghĩa chống ngoại xâm.

Còn Toàn Chân phái đuợc tôn là "Võ học chánh tông" nếu hàng với quân Mông Cổ thì

ngày sau chúng ta còn mặt mũi nào thấy những anh hùng trên giang hồ nữa?

Các đạo hữu đều vỗ tay khen.

Vương chí Thản cũng lớn tiếng hoan hô nói:

- Lời của chưởng giáo sư huynh thật chí lý?

Triệu chí Kính giận dữ rũ áo đi ra khỏi phòng họp. Khi buớc đến cửa, Chí Kính lại

quay đầu cười nhạt nói:

- Chưởng giáo sư huynh, lời của sư huynh nghe xuôi tai lắm nhỉ! Nhưng hậu qủa việc

này thế nào, ắt sư huynh đã thừa hiểu?

Nói xong, cất bước đi ra ngoài luôn. Các đạo sĩ xôn xao bàn luận, ai nấy đêu tán

duơng Doãn Chí Bình quyết đoán rất anh minh. Năm sáu nguời hùa theo tán thưởng ý

kiến của Triệu chí Kính đều hổ thẹn, nên cũng âm thầm lẻn ra ngoài.

Doãn Chí Bình tuyên bố cho cuộc họp tạm ngưng, rồi tạm biệt trở về phòng riêng.

Doãn Chí Bình nằm suy nghĩ một lúc rồi tự nhủ:

- Hôm nay Triệu Chí Kính thất bại nhu vậy, chắc không chịu bỏ cuộc. Hắn sẽ vạch

trần những hành động xấu xa của mình trước công chúng. Nhưng khi mình tuyên bố

không nhận sắc phong, là muốn tự vẫn rồi. Mấy tháng nay mình đáng lo âu sợ sệt,

bây giờ mình chết được thì sạch mọi lo âu.

Nghĩ đến đây lòng Chí Bình cảm thấy thanh thản vô cùng, vội với tay lên vách, rút

thanh trường kiếm, đặt thẳng vào yết hầu. Bất thình lình sau giá sách bỗng hiện ra

một bóng người đưa phắt tay ra đoạt thanh kiếm. Doãn Chí Bình không chút phòng bị,

trong chớp mắt bị người đoạt lấy thanh trường kiếm, hãi sợ quay đầu lại thấy người

đoạt kiếm lại là Triệu Chí Kính.

.........

Chỉ nghe hắn lạnh lùng nói:

- Xin mời Thiên sứ của Hoàng đế Mông Cổ!

Hai tiếng "Thiên sứ" vừa thốt ra miệng Chí Kính, Vương Chí Thản muốn lên tiếng

nguyền rủa, nhưng Lý chí Thường vội nháy mắt bảo im.

Một hồi lâu, bốn tên đạo sĩ đã đưa tên quí quan Mông Cổ và Tiểu tương Tử đi vào đại

điện. Triệu Chí Kính vội bước tới tươi cười nghinh đón:

- Xin mời Hoàng gia vào!

Viên quan Mông Cổ chờ đợi đã lâu nên trong lòng không vui, lại không thấy Doãn

Chí Bình ra đón, nét mặt lại càng căm giận. Một tên đạo sĩ giữ việc tiếp tân, biết ý

ông không vui, hắn bèn cười nói:

- Thưa thiên sứ ngôi chưởng giáo của bổn giáo, kể từ hôm nay do vị Triệu Chân nhân

tiếp nhiệm.

Vị quý quan hết sức ngạc nhiên, rồi nói:

- Hay quá như vậy! Tôi xin tỏ lời chia mửng.

Nói xong, viên quan Mông Cổ chắp tay thi lễ, còn Tiêu tương Tử đứng sau lưng hắn,

nét mặt vẫn lạnh nhạt không lộ vui buồn gì cả. Triệu Chí Kính nghiêng mình chào

viên quan Mông Cổ và mời vào đại điện nói:

- Xin đại nhân đọc thánh chỉ.

Vị quan Mông Cổ mỉm cười, thò tay vào túi lấy ra thánh chỉ, Triệu Chí Kính vội cúi

xuống đất, viên quan bèn đọc lớn:

- Sắc phong chưởng giáo của phái Toàn Chân làm...

Lý Chí Thường, Vương chí Thản cùng mấy người thấy Triệu Chí Kính lại dám nhận

lãnh sắc phong của vua Mông Cổ, bèn nháy mắt nhau làm hiệu. Bỗng nghe "soạt soạt"

mấy tiếng, liền thấy những ánh thép lập loè.

Trên tay ai nấy đều giơ thẳng trường kiếm lên.

Vương chí Thản và Tống đức Phương bước thẳng tới, tay vung lên, hai mảnh trường

kiếm dí thẳng vào lưng Triệu Chí Kính, Lý chí Thường lớn tiếng nói:

- Bổn giáo lấy trung nghĩa làm đầu, quyết không hàng giặc Mông Cổ, Triệu Chí Kính

là kẻ bội tổ diệt tông, tội đã đáng chết, không thể làm chưởng giáo của Toàn Chân

giáo chúng ta được nữa!

Còn mặt khác lại có bốn đại đệ tử cùng vung trường kiếm bao vây vị quan Mông Cổ

và Tiêu tương Tử. Biến cố này xảy ra quá đột ngột, Triệu Chí Kính tuy biết bọn Lý

chí Thường bất phục, nhưng y lại uy quyền của chưởng giáo rất nghiêm trị, xưa nay

không ai dám chống lại, mà hắn đã được nhậm chức này, tức là vị lãnh tụ tối cao của

môn phái nên chi pháp chỉ đã truyền, dù cho năm vị sư trưởng khai quang, cũng

không thể phản đối được. Nhng không ngờ bọn người này lại vô lễ với chưởng giáo.

Giờ đây người hắn bị hai mũi kiếm lạnh ngắt dí sát vào, vừa kinh hãi vừa nóng giận,

liền quát lớn:

- Lũ khốn này dám cả gan phạm thượng phải không?

Vương chí Thản quát lại:

- Quân gian tặc. Nếu dám cục cựa là rơi đầu khỏi cổ lập tức!

Võ công của Triệu Chí Kính vốn cao hơn Vương Chí Thản, nhưng Triệu Chí Kính lúc

này không phòng bị lại đang quỳ dưới đất, hoàn toàn rơi vào thế bí. Còn mười mấy

tên thân tín của hắn đứng hai bên hộ vệ, tuy trong mình có mang đao kiếm, nhung bọ

Lý chí Thường, Vương chí Thản đều là đệ tử thân truyền của Khưu xứ Cơ nên xưa

nay rất có danh vọng trong giáo phái Toàn Chân. Nay lại đột nhiên họ ra tay một lượt,

làm bọn tâm phúc Triệu chí Kính đều không dám ra tay. Chỉ có bốn người toan chống

cự, liền bị Vương Chí Thản đưa tay điểm huyệt đến đờ người ra cả.

Lý chí Thường dõng dạc nói với quan Mông Cổ:

- Hôm nay Mông Cổ và Đại Tống đã trở thành hai nước thù địch, chúng tôi là thần

dân Đại Tống, đâu có thể nhận sắc phong của Mông Cổ? Vậy xin hai người vui lòng

về đi, ngày sau chúng ta sẽ gặp mặt nhau trên sa trường, chừng ấy ta sẽ phân cao thấp

với nhau.

Mấy lời ấy thật thống khoái, nên vừa dứt lời trong đại điện vang những tiếng hoan hô.

Viên quan đứng trong vòng kiếm pháp mà vẫn thản nhiên, cười nhạt nói:

- Các vị hôm nay bạo động như vậy, thật là không thức thời, làm cho cơ nghiệp vĩ đại

của Toàn Chân giáo phải bị diệt vong, thật đáng tiếc quá!

Lý chí Thường cười ha hả, nói:

- Cả một giang sơn gấm vóc đã bị tàn phá, thì một môn phái nhò nhoi như chúng tôi

có gì đáng kể! Nếu ngài không chịu đi, phỏng gặp điều gì vô lễ, tiểu đạo chẳng dám

bảo đảm đâu!

Tiêu tương Tử bỗng nhiên hỏi xen vào:

- Vô lễ cách nào? Tôi muốn thấy nó vô lễ ra sao?

Thình lình hắn đưa đôi cánh tay dài thườn thuợt vung ra, hai thanh trường kiếm trên

tay Vương Chí Thản và Tống đức Phương đều bị Tiêu tương Tử đoạt cả. Triệu Chí

Kính đứng phắt dậy, đôi tay dùng thế "Bạch vân xuất trục", lòn ra đứng sau lưng viên

quan. Tiêu tương Tử liền trao thanh kiếm trên tay trái cho viên quan ấy, còn tay mặt

thì vung kiếm đâm thẳng vào ngực Lý chí Thường. Lý chí Thường vội tung kiếm gạt

mạnh, thì cảm thấy bàn tay mặt bỗng tê buốt. Lý chí Thường biết lâm nguy, nên cố

sức vận nội công chống lại liền nghe "keng" một tiếng chát chúa, thanh kiếm của Chí

Thường đã gãy hai rồi! Tiếp theo đó, Tiêu Tương Tử phất nhanh tay áo, song chưởng

đẩy thẳng ra, bốn thanh trường kiếm của bốn đại dệ tử đều bị lật ngơực trở ra. Hắn

bèn dùng tiếp ba thế, là đã đánh bại hết bảy tên cao thủ trong Toàn Chân phái. Trong

đại điện mấy trăm đạo sĩ thấy vậy đều sợ hãi, thầm thán phục, nói nhỏ:

- Xem tướng mạo nh một thây ma đó mà võ công lại cao siêu như vậy.

Triệu Chí Kính xưa nay vẫn hằng khinh rẻ võ công của Vương Chí Thản, Tống đức

Phương, nay trước hàng ngàn con mắt lại bị hai người nầy áp đảo quỳ xuống dưới đất

không dám ngước cổ lên, nên trong lòng vô cùng uất hận, thừa lúc có kiếm trong tay

liền bổ mạnh một phát vào mình Vương chí Thản. Đánh thế này gọi là thế "Đại giang

đông khứ", một phép tuyệt luân nhất trong Toàn Chân kiếm pháp, mũi kiếm xé gió

đánh thẳng vào bụng Vương chí Thản. Vương chí Thản vội nhảy lùi lại, Triệu chí

Kính không chút thương tình, quyết tâm lấy mạng đối phương, tính tay đưa lưỡi kiếm

vút thẳng tới hơn hai thước nữa. Lúc này, Vương chí Thản bí đường không còn cách

thoát được. Mọi nguời trên đại điện đều lo sợ cho chàng và nín thở. Bỗng nhiên, bên

trái Chí Thản có một tay áo vung ra, cuốn phăng lưỡi kiếm, giật mạnh một cái, nghe

một tiếng, tay áo bị cắt đứt. Nhờ sự cản trở ấy mà Vương chí Thản kịp thời tránh khỏi

mũi kiếm ác độc của Triệu Chí Kính.

Bỗng lúc ấy, liền có hai thanh kiếm đưa ra giật mạnh mũi kiếm Triệu Chí Kính. Nhìn

lại người bị cắt đứt tay áo lại là Doãn Chí Bình. Triệu Chí Kính giận run lên, trỏ tay

vào mặt Doãn Chí Bình quát to:

- Mi... Mi... đã dám cả gan làm như thế!

Doãn Chí Bình nói:

- Triệu sư huynh. Sư huynh đã hứa không nhận sắc phong của quân Mông Cổ, tôi mới

nhường ngôi chưởng giáo cho sư huynh, sao lại chỉ trong nháy mắt sư huynh đã vội

nuốt lời?

Lý chí Thường giật một thanh trường kiếm trên tay một đệ tử, lớn tiếng nói:

- Tất cả anh em trong Toàn Chân giáo chúng ta quyết ủng hộ Doãn chân nhân là

chưởng giáo và lập tức bắt sống tên Triệu này để nạp cho chưởng giáo định đoạt.

Nói xong, vung kiếm xông đến, đánh kịch liệt với bọn Triệu Chí Kính. Vương chí

Thản và Tống đức Phương cùng với năm tên đại đệ tử khác kết thành trận pháp "Thiên

cang bắc đẩu". Lập tức vây đánh Tiêu Tương Tử. Tiêu Tương Tử võ công tuy cao,

nhưng trận pháp sức mạnh khôn lường được. Tiêu tương Tử vội thò tay vào túi rút

phăng cây côn phép ra chống đỡ, thì trận pháp lại càng ác liệt thêm lên. Bảy tên Toàn

Chân đạo sĩ tả xung hữu đột, những đường kiếm biến hoá không ngừng bao vây địch

thủ hết đường trốn thoát.

Tiêu tương Tử đôi mắt hoa lên, vô phương chống đỡ!

Viên quan Mông Cổ lùi lại trong góc đại điện, nhận thấy tình thế quá nguy hiểm, bèn

thò tay vào túi lấy ra một chiếc còi thổi "toe toe" mấy tiếng. Doãn Chí Bình giật mình,

biết hắn đang kêu cứu viện trong lúc nguy cấp, liền gọi Kỳ chí Thành:

- Kỳ chí Thành! hãy giữ tên quan Mông Cổ này. Vu đạo Hiền sư huynh! Vương chí

Cẩn sưư huynh hãy dẫn thêm ba vị sư huynh nữa đến sau núi Ngọc Hư động giúp cho

tôn sư huynh phòng thủ, để phòng ngoại xâm làm náo loạn sự tĩnh tu của năm vị sư

trưởng. Trần chí ích sư đệ hãy dẫn thêm sáu người nữa phòng thủ phía trước. Phùng

Chí Khôi sư đệ dẫn thêm sáu ngưbời giữ bên cửa. Đông Lưu đạo Ninh dẫn thêm sáu

người trấn giữ cửa Tây.

Trong giây lát đã phân phối người phòng giữ các nơi hiểm yếu. Nếu quân tiếp viện dù

có đại đội quân mã đến, cũng khó đánh vào đại điện Chung Nam Sơn.

Các đệ tử đều một lòng tuân theo lệnh oai nghiêm của Doãn Chí Bình vừa truyền ra,

mọi người đều hăng hái nhận nhiệm vụ, về vị trí chỉ định phòng giữ. Bỗng nhiên nghe

ngoài đầu tường có một tiếng còi lanh lảnh rú lên. Liền đó có mấy người lẹ như tên

nhảy vụt vào. Phía đông là Doãn Khắc Tây cầm đầu, phía Tây là Ni Ma Tinh hướng

dẫn, còn mặt chính là Mã Quang Tổ lãnh đạo, dẫn thêm mấy mươi người. Những tay

này đều là cao thủ của phái Toàn Chân.

Chính là Hốt Tất Liệt tập trung đại binh tấn công thành Tương Dương nhưng hơn

tháng trời mà không hạ nổi thành ấy, còn trong quân đội lại bị bệnh dịch lan tràn.

Đành phải lập tức lui binh.

Hốt Tất Liệt liền nghĩ mưu:

- Thành Tương Dương không hạ được là nước Tống không hàng phục, liền xin sắc

phong vua Mông Cổ, sai người sang mua chuộc hào kiệt đất Trung Nguyên bằng cách

liên lạc với phái Toàn Chân giáo.

Nhân cơ hội đại binh chưa lui hẳn, Hốt Tất Liệt sai Kim Luân pháp Vương dẫn đại

đội cao thủ võ lâm đến phục ngoài Chung Nam Sơn, nếu Toàn Chân giáo kháng cự lại

sắc chỉ của nhà vua thì sẽ dùng vũ lực để trấn áp. Chung nam Sơn phòng thủ vốn cẩn

thận nhưng trong một ngày hai lần thay đổi chưởng giáo Trùng Dương Cung bị rối

loạn, nên các đạo sĩ được phái để canh gác phía ngoài đều phải kéo về dự lễ lập

truởng giáo. Bởi thế, khi Doãn Khắc Tây và Ni Ma Tinh tới đã sát đầu tường Trùng

Dương Cung mà mọi người trong Toàn Chân giáo vẫn chưa hay biết gì cả. Đến khi

trong cung đồ đệ Toàn Chân bao vây viên quan Mông Cổ và Tiêu Tương Tử, viên

quan ấy vội thổi còi báo tin, tức thì quân Mông Cổ xông vào tiếp viện.

Bấy giờ đối phương xuất hiện tiến vào cung rất dễ, vì các đồ đệ Toàn Chân phải đi

phòng giữ bên ngoài, khi ra chưa khỏi cung, thì đã thấy xung quanh đều là ngoại

địch. Toàn chân giáo người tuy đông, nhưng chưa kịp phòng thủ, mà đã bị đối phương

bao vây dồn vào giữa, nên đành bó tay chỉ trận để mặc cho họ muốn làm gì thì làm.

Viên quan Mông Cổ đã bị Kỳ Chí Thành bắt giữ, bây giờ liền lớn tiếng quát:

- Các vị đạo trưởng Toàn Chân giáo, hãy mau buông binh khí xuống, để chờ lệnh định

đoạt của chưởng giáo Triệu chân nhân.

Doãn Chí Bình quát lớn:

- Triệu Chí Kính bội tổ, phản sư, đầu hàng ngoại địch, thân mang tội trọng, không

phải là chưởng giáo của Toàn Chân nữa.

Doãn Chí Bình thấy tình thế cực kỳ nghiêm trọng, nên quyết lòng liều chết chống lại,

bèn chỉ huy mọi người chia nhau chống với giặc. Nhưng khốn thay! Các đạo sĩ đều

thất thủ, đánh nhau không bao lâu, đã có mười mấy người ngã thây xuống đất. Kế đó,

bọn Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường, Vương Chí Thản, Tống đức Phương đều bị rơi

kiếm, lớp thụ thương, lớp bị điểm huyệt hết cả. Những người còn lại như rắn mất đầu,

bị bọn Doãn Khác Tây dồn vào một góc, hết phương chống chọi được nữa.

Viên quan Mông Cổ tuy võ công tầm thường, nhưng cấp rất cao nên Doãn Khắc Tây,

Tiêu Tương Tử đều phải nghe hiệu lệnh của hắn, mà tấn công rất ác liệt. Viên quan

ấy thấy quân hắn toàn thắng, liền quay lại nói với Triệu Chí Kính:

- Triệu chân nhân, tôi nể mặt người, nên việc Toàn Chân giáo kháng lại chiếu chỉ tôi

có thể bỏ qua, không tâu lại với hoàng thuợng.

Triệu Chí Kính liền cúi đầu cảm tạ:

- Tiểu đệ xin đội ơn rộng lượng của thiên sứ đã hết lòng che chở cho tiểu đệ...

Rồi hắn bèn hạ giọng cầu xin Tiêu Tương Tử:

- Còn một việc lớn này cần nhờ tiên bối giúp một tay. Vì sư phụ và sư bá tôi còn đang

tĩnh tu ở sau núi, nếu họ hay tin mà về thì khó lòng cho Triệu Chí Kính này.

Tiêu Tương Tử cười nói:

- Về thì về chớ, để việc đó cho ta xử!

Triệu Chí Kính không dám nói gì nữa, trong lòng rất lo sợ. Nếu sư phụ và sư bá mình

hay tin về đây thì bọn người này khó mà chống nổi. Rồi tánh mạng ta cũng không an

toàn. Viên quan ấy nói:

- Triệu chân nhân! Hãy an lòng đi để nghe sắc phong của Hoàng đế đã rồi sẽ nghiêm

trị bọn này sau.

Triệu chí Kính cúi đầu nói:

- Tiểu đệ xin tuân lệnh thiên sư.

Rồi hắn quỳ xuống nghe chiếu chỉ.

Bọn Doãn Chí Bình, Vương chí Thản đều bị trói cả tay chân, tai nghe tên quý qua,

mắt thấy Triệu chí Kính dập đầu tạ ơn, trong lòng họ nóng như lửa đốt. Tống đức

Phương ngồi bên Lý chí Trung liền ghé tai nói nhỏ:

- Lý su huynh! Mở trói dùm cho tôi, để tôi ra tin cho sư trưởng hay.

Hai người liền đấu lưng vào nhau. Lý chí Trung lén vận nội công vào các đầu ngón

tay, dùng sức mở dây buộc trên mình Tống đức Phương rồi âm thầm căn dặn:

- Em phải cẩn thận! đừng có làm tổn thương năm vị sư trưởng.

Tống đức Phương gật đầu tỏ vẻ hiểu biết.

Sự thật người đang nhập định luyện công kỵ nhất là bị người ngoài nhiễu loạn vì bất

cứ sự xáo trộn nào đều dễ làm cho người đang tu luyện xúc động tinh thần mà loạn.

Cho nên Toàn Chân ngũ tử trong lúc bế quan tu luyện thần công cố nhiên cũng không

thể bị xúc động tinh thần. Nhưng Toàn Chân giáo đang lâm đại hoạ hết phương giải

nguy nên Lý Chí Trung buộc lòng phải đồng ý cho Tống Đức Phương tìm cách ôn

hòa để báo tin với năm vị sư trưởng.

Chiếu chỉ vừa đọc xong, Triệu Chí Kính đứng dậy, viên quan Mông Cổ và Tiêu Tương

Tử lại đứng bên hắn để chúc tụng thân mật.

Tống Đức Phuơng liền lẻn tránh đi, không ai chú ý đến. Chàng liền tung mình nhảy

vọt ra sau lưng bức tường Tam Thanh Quang.

Ni Ma Tinh bỗng quát to:

- Hãy đứng lại!

Tống Đức Phương thất kinh co giò chạy nhanh hơn. Ni Ma Tinh đôi chân đã mất nên

không thể rượt theo, tay trái liền vụt gươm lên, tung một hòn ám khí hình con rắn bay

véo tới "phập" một cái đã cắm trúng đùi phía trái của Tống Đức Phương. Ni Ma Tinh

quát ầm lên:

- Ngã xuống! Hay lắm! Tiến tới bắt ngay!

Nhưng Tống đức Phương chỉ thấy hơi rung động, mà không ngã xuống. Chàng vẫn

cắn răng chịu đau chạy tuốt. Nhà cửa trong Trùng Dương cung trùng trùng điệp điệp,

chàng quanh quẹo một lúc đã bỏ rơi đám võ sĩ Mông Cổ đang đuổi theo.

Tống đức Phương chạy đến chỗ hẻo lánh, cắn răng nhổ mũi tiêu còn dính ở đùi ra,

buộc lại vết thương rồi tới đơn phòng lấy một thanh kiếm để hộ thân. Đoạn chàng

chạy thẳng đến Ngọc hư Động. Lúc mới chạy tới sau hàng tùng, nhìn sang Ngọc Hư

động thì trong lòng vô cùng kinh hãi vì chàng thấy ở đây đã có hơn hai mơưi tên võ sĩ

Mông Cổ đang hì hục vác đá, lấp kín cửa động, tuân theo lệnh của một tên thầy chùa

Tây tạng cao lêu nghêu. Lại có hai người đang múa tay, chân chỉ huy. Tống Đức

Phong nhận rõ là Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô Hoàng Tử, còn lão tạng tăng đó thì võ

công và chức vụ cao hơn hai người kia.

Chàng thấy tình cảnh qúa nguy biến, thầm lo nghĩ:

- Cửa động đã bị lấp thế này rồi! Không biết tính mạng của năm vị sư truởng ra sao?

Chàng nghĩ như thế, lòng đau như cắt, liền xách kiếm đi lên sau hàng tùng bất thần

nhảy vọt ra, chém thẳng kiếm vào người lão tăng. Mũi kiếm chàng chỉ cách lưng lão

không đầy một thước, thấy lão không hề hay biết, lòng phấn khởi vô cùng.

Chàng vội đâm mạnh vào lưng lão một cái, bỗng nhiên một luồng sáng chớp nhanh

qua mặt, chỉ nghe "keng" một tiếng thì vòng tròn trên tay lão đã cản ngay thanh kiếm

của Tống Đức Phương. Chàng thấy kiếm đã bay mất mà bàn tay đau buốt lên! Chỉ

một cái lay động của vòng tròn mà chấn động đến chân khí của chàng. Chàng phun ra

một ngụm máu tươi rồi té xuống đất bất tỉnh, bên tai còn văng vẳng nghe trên đại điện

có tiếng người vọng lại, không biết có việc gì xẩy ra. Lòng chàng càng thêm nỗi lo

lắng, trước khi bị ngất lịm!

Tên tạng tăng này là Kim Luân Pháp Vương cũng nghe rõ tiếng kêu trên đại điện,

nhưng lão thầm đoán:

- Có bọn cao thủ Tiêu tương Tử ở đó, thì lũ đệ tử đời thứ ba của Toàn Chân giáo có

đông cũng không làm nên trò trống gì. Ta không cần quan tâm đến. Chỉ có những tay

lợi hại nầy là Khưu Xứ Cơ mà ta lấp động rồi!

Lão nghĩ thế liền hối thúc bọn võ sĩ vác đá lấp hang đá thật kỹ lưỡng.

Sau lúc Tống đức Phương đi rồi, trên đại điện có biến cố xảy ra. Viên quan Mông Cổ

hỏi Triệu Chí Kính:

- Triệu chân nhân! Số người phạm thượng của quý phái quá đông, tôi xem chưởng

giáo của chân nhân thật khó lòng!

Triệu chí Kính cũng biết các đạo sĩ của Toàn chân giáo không phục hắn. Nếu Tiêu

Tương Tử đi khỏi, là tính mạng của hắn cũng không còn! Triệu Chí Kính lớn tiếng

nói:

- Chiếu theo giáo quy của bổn giáo, những người phản giáo phạm thượng sẽ lãnh tội

gì?

Ai nấy đều làm thinh nhưng trong lòng đều thầm nói:

- Chính mi mới đúng là kẻ phản giáo, phạm thượng!

Triệu Chí Kính thấy không ai nói gì cả, liền lặp lại một lần nữa và đưa mắt nhìn đứa

đệ tử của hắn là Trịnh quan có ý bảo trả lời.

Trịnh Quan là tên đạo sĩ mập khi xưa đã hiếp đáp Dương Qua. Hắn vội há mồm trả

lời:

- Những kẻ ấy phải tự kết liễu cuộc đời trước tượng Tam Thanh giáo chủ!

Triệu chí Kính nói:

- Đúng vậy Doãn chí Bình! mi đã biết tội chưa? Trong lòng có phục ta không?

Doãn Chí Bình quả quyết nói:

- Ta không bao giờ khuất phục con người bội tổ phản sư.

Triệu Chí Kính quắc mắt nói:

- Hay lắm? Đưa hắn qua đây!

Trịnh Quan liền lôi Doãn Chí Bình tới đứng trước tượng Tam Thanh.

Triệu Chí Kính lại liên tiếp hỏi bọn Lý Chí Thường, Vương Chí Thản, ai nấy đều lớn

tiếng trả lời:

- Chúng tôi vẫn một lòng không phục!

Hắn hỏi mãi đến hết số đạo sĩ, mà chỉ có ba tên sợ sệt xin tha.

Triệu Chí Kính liền ra lệnh tha cho ba tên ấy còn hai mươi bốn người kia cương quyết

bất khuất. Bọn nóng tính như Vương chí Thản hô to những lời nguyền rủa ầm lên.

Triệu Chí Kính nói:

- Lũ bây ương ngạnh như vậy, ta dù có lòng hiếu sinh, cũng hết phương dung thứ cho

bọn bay được.

Hắn liền ra lệnh:

- Trịnh Quan, hãy hành pháp cho tổ sư đi.

Trịnh Quan cúi đầu tuân lệnh xách thanh trường kiếm lên vung lên một nhát, người

trước tiên là Vu Đạo Hiền đầu bị rơi xuống đất. Vu Đạo Hiền xưa nay tính tình rất

hòa nhã, trung thực ai nấy đều yêu mến. Thấy người chết một cách thê thảm như vậy,

họ đều kêu ầm lên. Doãn Khắc Tây liền vẫy tay một cái, mấy chục tên võ sĩ xách đao

và kiếm đứng giữa trước mặt các đạo sĩ Toàn Chân giáo.

Trịnh Quan là người hùa mạnh hiếp yếu, khi nghe mọi người kêu la nưh vậy, trong

lòng hắn quá lo sợ, nên không dám ra tay nữa. Triệu Chí Kính vội giục:

- Xuống tay mau lên, sao chậm tay như thế?

Trịnh Quan liền tung kiếm giết thêm người thứ hai nữa. Tiếp đến người thứ tư là Doãn

Chí Bình, Trịnh Quan giơ kiếm lên hạ thủ bỗng nghe có giọng nói đàn bà thét lên:

- Khoan! Nhà ngươi không được xuống tay.

Hắn vội quay đầu lại, thấy một cô gái áo trắng đã đến sau lưng hắn. Cô gái ấy liền

nói:

- Mi hãy tránh qua một bên. Người nầy để cho ta giết!

Triệu chí Kính thấy Tiểu Long Nữ lại xuất hiện trong giờ phút này, lòng mừng khấp

khởi, thầm nghĩ:

- Trên đường bị hắn rượt mình thở không ra hơi, bây giờ ở đây tập trung toàn là

những tay cao thủ, như thế là hắn tự dấn thân vào cái chết! Thật là trời cao có mắt!

Triệu Chí Kính nghĩ như thế liền quát to:

- Người con gái này không phải là người tốt, các đạo sĩ hãy bắt lấy nó lại cho ta! Võ

sĩ Mông Cổ đều đứng yên, vì không nghe lệnh của hắn.

Triệu Chí Kính liền quắc mắt nhìn mấy tên đệ tử của hắn, chỉ có hai tên vâng lệnh sưư

phụ của hắn bước tới bắt Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ ở trên đại điện nhìn xem Toàn Chân giáo nổi loạn tàn sát lẫn nhau. Lại

có võ sĩ Mông Cổ hùa nhau tấn công, đến khi thấy Trịnh Quan đưa kiếm toan giết

Doãn Chí Bình, lập tức bước ra cản lại.

Hai tên đệ tử của Triệu Chí Kính chưa kịp chạm đến tay áo của nàng, bỗng ánh thép

loáng qua trước mặt, cánh tay của hai người cảm thấy đau nhói lên, lập tức nhảy lui

ra. Chính ra hai thanh kiếm của hai đệ tử đã bị Tiểu Long Nữ rút phăng đi khi còn ở

trong bao. Trong nháy mắt cánh tay hai người đã bị nàng cho một nhát kiếm, xương

tay đã lìa ra một nửa. Tuy xương chưa đứt hẳn, nhưng hai người ấy không thể cử động

được. Mấy tên tâm phúc của Triệu Chí Kính thấy tình thế này đều kinh ngạc. Trịnh

Quan liền quát lớn:

- Anh em hãy cùng tiến vào một lượt nào! Chúng ta đông người thế này mà sợ con

yêu nữ này sao?

Bọn Trịnh quan cho rằng võ nghệ Tiểu Long Nữ có cao, nhưng bọn hắn đông người ắt

không thể thua, nên liền ùa nhau vung kiếm chém thẳng vào Tiểu long Nữ.

Tiểu Long Nữ liền đưa thẳng hai tay, vung hai thanh kiếm, chỉ nghe "vo vo" chứ

không tài nào thấy đuợc những đường ác liệt ấy. Bọn đệ tử Triệu Chí Kính đã mệt lả

người, mà không thể nào tiến sát vào địch thủ được. Tiểu Long nữ đưa kiếm loáng

qua một tên thù địch tiến gần, thì đôi tay đôi chân của Trịnh Quan đã bị nhát kiếm

của nàng phập vào, hắn gầm lên một tiếng rồi ngã lăn xuống đất. Bốn nhát kiếm này

lẹ làng vô kể, cả những tráng sĩ cao thủ nhu Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây, đều

nhìn nhau thất sắc. Họ đã từng thấy nàng đấu với Công Tôn Chỉ lúc ở Tuyệt tình Cốc

nhưng lúc ấy kiếm pháp đâu có tinh vi như hôm nay?

Tương Tử thầm nghĩ:

- Bốn nhát kiếm này xưa nay mình vẫn chưa thấy qua. Ngày xa ở Tuyệt tình cốc nếu

nàng dùng thuật kiếm này, dù không có Dương Qua giúp sức, thì Công Tôn Chỉ cũng

chưa chắc địch lại. Không lẽ lúc đó nàng vị nể Công tôn Chỉ mà không dùng đến?

Nhưng thật ra, khi ở thạch động Tiểu Long Nữ được Châu Bá Thông truyền cho thuật

"Phân tâm nhị dung" và hai tay đánh nhau nên võ công tiến lên một mức rất dồi dào.

Khi nàng cùng Dương Qua dùng "Song kiếm hợp bích", xử thế "Ngọc nữ tố tâm kiếm

pháp", thiên hạ đã không ai chống nổi bây giờ một mình nàng dùng hai kiếm, oai lực

còn tăng mạnh hơn lúc hợp với Dương Qua. Tiểu Long Nữ mải theo dõi Doãn chí

Bình và Triệu Chí Kính suốt mấy ngày đêm, nhưng trong lòng buồn bã không muốn

trả thù, bây giờ lại thấy Toàn Chân đạo sĩ ra tay đánh trước. Nàng bèn thừa lúc tránh

đòn, thanh kiếm nàng dính máu, thì nỗi buồn trong lòng đã vơi hết. Lúc nầy chỉ thấy

tà áo trắng phất phơ, ánh thép loang loáng, hai thanh kiếm như cặp rắn bạc quay lượn

khắp đại điện, đi đến đâu đều nghe tiếng "leng keng" và tiếng "chết tôi". Những tiếng

thất thanh nổi lên trong khoảnh khắc, trường kiếm của bọn đệ tử Triệu Chí Kính đã

rơi đầy trên mặt đất, và cánh tay mặt của người nào cũng bị nàng chém cho một nhát.

Có một thuật lạ ở chỗ nàng chỉ có dùng một thế "tay ngà xuyên ngọc" mà các cánh

tay của các đạo sĩ đều đau nhói lên trước, rồi mới thấy ánh kiếm loáng qua truớc mặt.

May thay là nàng chỉ chém cánh tay cho họ bị thương thôi chứ như đâm thẳng vào yết

hầu, ngực, bụng thì bọn đạo sĩ của Triệu Chí Kính đã ngã gục chết hết cả.

Sau khi bị thương ai nấy đều sợ sệt trốn đi hết. Trước thần tượng Tam Thanh chỉ còn

có bọn Doãn Chí Bình bị trói lại đó. Nhưng Tiểu Long Nữ thấy họ không gây hấn gì

với nàng, nên cũng không ra tay giết họ. Từ khi nàng học được thuật "hai tay đánh

nhau" đến nay, chỉ có mấy ngày tập luyện ở sơn động thôi, ngoài ra nàng chưa hề

giao đấu với ai. Hôm nay nàng mới dùng thử, không ngờ lại có uy lực nhu vậy, trong

lòng cũng bất giác kinh ngạc.

66. ĐỘC THÂN LÀM NÁO CẢ TRÙNG DƯƠNG CUNG

Triệu Chí Kính thấy tình thế quá nguy, vội rút thanh trường kiếm ra phòng thủ, rồi cất

bước định trốn đi. Tiểu Long Nữ liền lướt tới, song kiếm xông ra, chỉ nghe một tiếng

"keng" Doãn Khắc Tây nói:

- Mi vô dụng, hãy lui ra.

Doãn Khắc Tây liền vung cây roi vàng gạt phăng cây kiếm của Tiểu Long Nữ. Nàng

vừa liên tiếp đả thương mấy mươi tên, mãi cho đến bây giờ mới có một kẻ đỡ nổi

song kiếm của nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

- Hôm nay ta đến đây để trả thù bọn đạo sĩ Toàn Chân giáo không can hại gì đến ai,

mi hãy dang ra.

Doãn Khắc Tây thấy kiếm pháp lợi hai của nàng khi nãy, tuy xưa nay vẫn có ánh

ngạo nghễ, nhưng lúc nầy trong lòng nhiều phần lo sợ. Dù sao hắn vẫn là bọn cao thủ,

không lẽ chỉ một lời của nàng mà tháo lui, nên vẫn cười hì hì lễ phép nói:

- Toàn Chân giáo phái trong ấy cũng có người tốt kẻ xấu, nhiều tên thật là đáng tội

giết, nhưng không biết những kẻ khốn ấy làm gì đến cô nương?

Tiểu Long Nữ chỉ ừ một tiếng, rồi không ngó ngàng tới hắn nữa. Doãn Khắc Tây

muốn làm thân với nàng trước, hòng sau khi đụng võ dù có thua, nàng cũng không

đến nỗi hạ độc thủ. Nếu khi hắn thấy nguy có thể nhường nàng trước, người ngoài

xem thấy sự quen biết khỏi chê hắn là kẻ nhát gan. Doãn Khắc Tây cười mơn trớn

nói:

- Long cô nương, cách biệt lâu ngày cô cũng mạnh khoẻ chứ?

Tiểu Long Nữ lại cũng "ừ " một tiếng, nhưng đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn Doãn chí

Bình và Triệu chí Kính, như sợ bọn hắn trốn đi vậy.

Doãn Khắc Tây nói:

- ăn thua chi với bọn đệ tử này cho bẩn tay? cô nương! Cô chỉ cần sai bảo một tiếng,

thì chúng tôi sẽ trị giúp cô nương.

Tiểu Long Nữ gật đầu, trỏ tay vào Triệu Chí Kính nói:

- Tốt lắm! Vậy tôi nhờ ông giết tên nầy trước.

Doãn Khắc Tây ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Người nầy đã được sắc phong của vua Mông Cổ, đâu có thể giết đơực?

Doãn Khắc Tây nhỏ nhẹ nói:

- Vị Triệu chân nhân này rất tốt, chắc cô nương đã hiểu lầm hắn. Thôi để tôi bảo hắn

xin lỗi cô nương được rồi.

Tiểu Long Nữ cau đôi mày, không thèm nói gì nữa, nhưng lưỡi kiếm bên trái nàng

bỗng nhiên vung ra lẹ như chớp, đâm thắng về phía Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây

thất kinh vội vung roi ra gạt phăng. Chỉ nghe "ôi" một tiếng, người đứng sau lưng hắn

là Triệu Chí Kính trên vai đã bị trúng mũi kiếm tay mặt nàng. Dù tài cao như bọn

Tiêu Tương Tử, cũng không thể thấy rõ đường kiếm của Tiểu Long Nữ đã đâm ra

bằng cách nào mà huyền diệu tới mức tuyệt luân như vậy, chỉ đoán được thế ấy. Thực

ra đâm bằng tay mặt, vòng qua mình Doãn Khắc Tây rồi đâm trúng sau lưng kẻ địch

sau Khắc Tây. Doãn Khắc Tây thất kinh, dù nhát kiếm nầy không đâm trúng vào

mình hắn, nhưng hắn không đủ tài hộ vệ cho Triệu Chí Kính cũng đủ mất mặt rồi. Chỉ

vì đối phương ra tay quá lẹ, hắn không thể thấy rõ mũi kiếm đi như thế nào, nên hắn

thầm lo:

- Nếu ta đương đầu đối địch với nàng thì chắc thua nàng rồi.

Nghĩ đến đây lòng hắn kinh sợ, vội vung con roi "Kim Long" ra, thét lên:

- Long cô nương hãy nới tay!

Tiểu Long Nữ làm thinh, vì đối với người nầy nàng cũng không có ác ý gì. Nàng liền

bước nhẹ sang phía trái hai buớc. Doãn Khắc Tây cũng xoay mình theo, cố bảo vệ

cho Triệu Chí Kính. Bỗng sau lưbng "ái" một tiếng, hắn vội quay đầu ra thì thấy trên

vai Triệu Chí Kính bị lát ra một mảnh thịt, máu tươi lai láng thấm cả áo bào. Nhát

kiểm này, Tiểu Long Nữ làm cách nào chém ra, người ngoài đều không thấy rõ. Chỉ

biết kiếm pháp tinh vi thần tốc biến hóa vô hình. Triệu Chí Kính liên tiếp bị chém hai

nhát, cho rằng Doãn Khắc Tây võ công tầm thường, không thể che chở cho hắn được,

liền thừa thế lui ra, nhẩy tới sau lưng Tiêu Tương Tử. Tiểu Long Nữ giả lơ làm như

không thấy gì cả lặng lẽ xoay mình qua nhìn Doãn Chí Bình, nhưng tay trái nàng lại

đâm một nhát vào Doãn Khắc Tây, tay mặt một kiếm đâm thẳng vào ngực Ni Ma

Tinh. Ni Ma Tinh tay trái chống gậy, tay mặt vung thiết xà ra đỡ, nhưng lại nghe

Triệu Chí Kính thét lên một tiếng, kế theo nghe keng một tiếng chát chúa, thanh

trường kiếm của hắn đã rơi xuống đất, thì ra cánh tay của hắn cũng bị thêm một nhát

nữa! Thế này thật là kỳ lạ. Rõ ràng Tiểu Long Nữ đứng cách hắn rất xa, mà trong lúc

tấn công hai cao thủ, lại còn có thì giờ nào để chém hắn? Tiêu Tương Tử "hừ" một

tiếng liền nói:

- Long cô nương kiếm pháp thật tài tình, tôi xin cô chỉ giáo vài đường mới được.

Tay trái Tiêu Tương Tử liền vung mạnh cây côn trượng ra. Triệu Chí Kính lại cảm

thấy một luồng khí mãnh liệt đập vào ngực, bị ngã xỉu xuống đất. Hắn thất kinh cố

vận hết nội công lom khom đứng dậy. Tiêu Tương Tử bị sức cản của thanh kiếm Tiểu

Long Nữ quá mạnh, vội thu côn trượng lại thủ thế. Mã Quang Tổ vốn đã quen thân

với Dương Qua và Tiểu Long Nữ, thấy tình cảnh quá gai mắt, liền lớn tiếng kêu lên:

- Ê! Thật hổ ngươi quá huynh ơi! Ba vị võ lâm đại tôn sư, ai lại vây đánh một cô bé?

Bọn Tiêu Tương Tử nghe lời châm biếm, bất giác vẻ mặt đều đỏ bửng lên, đối với

nhân nghĩa đạo đức xua nay họ không cần biết đến, nhưng họ đều là những kẻ tự phụ,

lại trọng danh dự cá nhân. Nếu ở vào lúc thường, đừng nói đến ba người phải hiệp tay,

dù là đơn độc chiến đấu, họ cũng không muốn đấu với một cô gái bé bỏng như vậy.

Nhưng bây giờ họ thừa biết rõ võ công của một người không thể thắng được thế kiếm

bí truyền của Tiểu Long Nữ, do đó, lời nhạo báng của Mã Quang Tổ họ đều làm ngơ

nhưb không nghe, nhưng trong lòng đều thầm trách:

- Thằng Mã khổng lồ này, chúng ta đã cùng đi làm việc chung mà mi lại muốn giúp

cứu địch, để khi trở về mi sẽ biết.

Họ còn e thẹn, thì trước mặt ánh thép đã loáng qua, Tiểu Long Nữ liền chém ra ba thế.

Ba người vẫn chua nhận định được đường kiếm của nàng, lập tức nhẩy lui ra hơn một

trượng, ai nấy đều múa động binh khí, canh giữ những yếu huyệt trên mình.

Lũ võ sĩ Mông Cổ lo lôi bọn Doãn Chí Bình đến một góc đại diện, rồi kinh ngạc đứng

nhìn trận đấu này. Tất cả đều lè lưỡi lắc đầu.

Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây đều biết trận đấu hôm nay không thể

thử nội công, cũng không phải đua nghệ thuật, mà chỉ làm sao chống đỡ được đường

kiếm thần diệu của Tiểu Long Nữ mà thôi. Trong lòng ba người đều mong Tiểu Long

Nữ ra tay đánh người khác để cầu chút sơ hở, hòng thừa dịp thủ thắng. Lúc nầy ba

người đều dùng những tuyệt kỹ bình sinh của họ để bảo vệ khắp châu thân, vì họ

không thể thấy được đường kiếm ác liệt của nàng.

Nếu lấy địa vị của ba người cao thủ mà nói, họ vừa ra tay giao đấu là phải lo giữ liền

thế thủ, thật là một việc mới có trong đời họ. Nhưng nhờ đó chúng ta mới thấy rõ võ

nghệ của Tiểu Long Nữ đã đến một mức cao siêu nào!

Trên đại điện, Tiểu Long Nữ dùng song kiếm chống đất, đứng giữa trung tâm, còn

bọn Tiêu TươngTử đều chia đứng ba huớng, trước mặt mọi người chỉ thấy những ánh

sáng lập lòe. Roi "Kim Long" của Doãn Khắc Tây múa thành một bức vách vàng,

thiết xà của Ni Ma Tinh biến thành một đoàn rắn đen lòm khòm trên đầu không ngớt

lượn quanh, còn thiết côn của Tiêu Tương Tử thì dệt thành một tấm màu xám tro che

kín trước mặt.

Lũ võ sĩ Mông Cổ và đạo sĩ Toàn Chân, chưa bao giờ thấy trận ác chiến nào như vậy,

ai nấy đều kinh sợ đến không dám thở mạnh, nhưng họ vẫn thầm thán phục:

- Nơi nào phát sinh ra một người con gái nhỏ đẹp như thế, mà lại có một tài nghệ

thâm hậu như vậy? Chỉ một thân mình liễu yếu, với lớp tuổi chừng hai mươi lại dám

đường đột chống lại hàng trăm binh sĩ, cùng hàng chục tay võ lâm cao thủ, nhưng vẫn

thắng!

Tiểu Long Nữ nhìn ba người một chặp, thầm nghĩ:

- Ba người nầy không có thù oán gì với mình, nếu đấu với họ thì thật uổng công quá.

Mắt nàng thoáng thấy Triệu chí Kính lén rút lui đến sau tượng Tam Thanh, nàng lập

tức phất tay áo bước tới. Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử đứng hai bên liền lướt tới, vung

thiết xà, thiết côn cản trước mặt nàng. Hai người cố sức hiệp tay để bảo vệ Triệu chí

Kính. Tiểu Long Nữ liền chạy tới sau viện, vung song kiếm bước tới hai bước nữa,

nhưng gặp binh khí của Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử múa ra vun vút, không thể vượt

qua được. Tiểu Long Nữ hỏi:

- Các người có dang ra không?

Tiêu Tương Tử tự nghĩ:

- Bây giờ mình chưa gây hận thù thì nàng đâu có ra độc thủ. Còn Toàn Chân giáo này

đâu có ích lợi gì cho mình, mà phải nhọc lòng bảo vệ để lại gây thù hận với nàng?

Tiêu Tương Tử lưỡng lự chưa đáp lời thì Ma Ni Tinh đã lớn tiếng:

- Chúng tôi không dang ra, yêu nữ có tài gì cứ giở hết ra đi!

Tiêu Tuơng Tử và Doãn Khắc Tây đều liếc mắt nhìn hắn, thầm nghĩ:

- Dù không những nàng, thì cũng không nên bất ý như vậy. Không lẽ một mình, mi

đã có thể chống cự nổi với cô ta? Thật là dốt...

Họ đâu có biết Ni Ma Tinh đã mất đôi chân là do Dương Qua và Lý Mạc Thu. Hắn

biết Dương Qua là người yêu của Tiểu Long Nữ, nên tất cả nỗi căm hờn trong lòng

đều muốn trút sạch cho nàng. Do đó, bây giờ đấu nhau tâm trạng hắn khác hẳn với

hai người kia, là hắn chỉ một lòng liều sinh tử vì Tiểu Long Nữ để báo thâm thù.

Tiểu Long Nữ vẫn bình tĩnh, chứ không tỏ vẻ giận hắn, nghĩ thầm:

- Mình muốn giết được Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình trong lúc này là cần phải đánh

bại cao thủ này trước đã.

Nghĩ như thế nàng điềm đạm nói:

- Nếu các ngươi không dang ra, thì đừng có trách ta vô lễ.

Vừa dứt lời thì mấy trăm ngàn ánh thép loáng qua. Bỗng nghe một âm điệu du duơng

bất tuyệt. Tiếng vang chưa dứt, Tiểu Long Nữ đã nhảy lùi lại hơn một trơựng đứng

giữ trung tâm đại điện. Còn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh trên nét mặt đều kinh hoàng

thất sắc. Doãn Khắc Tây tuy không dự vào cuộc ác chiến lạ thường này, nhưng cũng

cố sức đề phòng đường kiếm bất ngờ của nàng đánh Đông mà trúng Tây. Nhưng thực

ra hồi vang dài vừa rồi, là do bốn mươi mấy vị bị sức cản liên tục tạo nên, vì hai lưỡi

kiếm của Tiểu Long Nữ vừa chém gạt, đâm tất cả dùng đến bốn mươi mấy phép trong

nháy mắt, nên Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh phải cố thủ thế, nước tạt vào cũng không

lọt được, thành thử mỗi thế của nàng đều va chạm vào binh khí của đối phương. Thế

công của nàng quá mau lẹ, nên bọn Tiêu Tương Tử đều khiếp sợ và có thể đỡ gạt

được hai thế kiếm ấy là nhờ có hai người hiệp sức, mới múa động binh khí thành một

bức tường đồng, vách sắt trước, chứ mà đợi đến lúc nàng ra tay mới đưa binh khí ra

đỡ thì trên mình bọn Tiêu Tương Tử chắc bị thọ thương rồi.

Tiểu Long Nữ không hạ được đối phương thì cũng thầm khen tài nghệ của họ. Nàng

ngập ngừng một lúc, rồi bước nhẹ chân lùi lại phía sau. Mặt nàng hướng về phía Tiêu

Tương Tử, song kiếm đột nhiên chém ngược lên, liền nghe vang lên hai tiếng "leng

keng" rất gấp. Cây roi "Kim Long" của Doãn Khắc Tây, phải luôn luôn múa tít không

ngừng, mới đỡ được mười hai đường kiếm lạ thường ấy.

Sau hai lần công thủ như vậy trong lòng bốn người đã đoán biết được thực lực nhau.

Tiểu Long Nữ yếu ở chỗ là nội lực không được thâm hậu, nên thế kiếm lợi hại mà

không thể làm dội binh khí của đối phương được. Nếu nội lực của nàng tương đương

với ba người nầy, thì họ thảm bại lâu rồi. Tiểu Long Nữ thấy địch thủ xuất thế quá

cẩn thận, nên trở lại đại điện, tìm thế công phá. Nàng thấy đối thủ múa binh khí càng

lúc càng nhanh, không tìm được một điểm sơ hở nào, thầm nghĩ:

- Múa nhanh như vậy, ắt bao nhiêu nội lực, họ sẽ không chịu lâu được. Mình cứ bình

tĩnh để ứng biến, thời gian lâu, thế nào cũng tìm được chỗ sơ hở.

Nghĩ như vậy, nàng đưa song kiếm lên múa, nửa công nừa thủ, hai tay chỉ tựu khí lập

thế, nhưng đường ánh sáng đôi gươm liên tục, làm cho đối phương không thể suy nghĩ

được, phải luôn luôn lo lắng đề phòng. Nhung không ngờ bọn Tiêu Tương Tử đều là

những tay nội lực thâm hậu, dù múa động binh khí mãi như vậy, trong hai ba tiếng

đồng hồ cũng không mệt mỏi. Tiểu Long Nữ thấy không có cơ hội, bèn đứng lặng im

lại, tâm thần rất thản nhiên. Tính nàng vốn không nóng nảy, nên đuổi theo Doãn Chí

Bình và Triệu Chí Kính gần một tháng trời, nhưng vẫn không vội ra tay, thì bây giờ

đâu có bôn ba gì trong một ngày nửa buổi này?

Ni Ma Tinh thấy nàng chống kiếm đứng rất tự nhiên, như coi bọn hắn không ra gì, thì

cơn giận nổi lên như điên thét lên một tiếng, thiết xà vung ra đâm thẳng vào mình

Tiểu Long Nữ. Hắn vừa ra tay tấn công như vậy, bên tay trái đã để một chỗ hở. Tiểu

Long Nữ thừa cơ vung ra một kiếm, tức thì cây xà côn của Ni Ma Tinh đã chúc mũi

xuống đất. Hắn đưa mắt nhìn sang, thì thấy bên vai trái đã bị lủng năm lỗ, máu tươi

đang tua tủa vọt ra. Lạ hơn nữa, là năm lỗ nầy sắp thành thế "mai hoa". Nếu Tiểu

Long Nữ không bận đề phòng thiết côn của Tiêu Tương Tử và cây roi "Kim Long"

của Doãn Khắc Tây, thì cánh tay của Ni Ma Tinh đã rời khỏi vai rồi. Chỉ một tiếng

phản công, đã không được gì mà phải gánh lấy vết thương như vậy, lòng hắn tức giận

vô cùng, nhưng không dám tấn công nữa. Lúc này, chỉ thấy ba người đứng vây ba mặt

không ngớt múa động binh khí. Tiểu Long Nữ thì đứng ở giữa rất thản nhiên nhưư

không lưu ý gì đến đối phương, nên sự thắng bại chưa rõ, nhưng cứ kéo dài như thế

mãi thì biết đời nào kết thúc được. Doãn Khắc Tây nãy giờ mải tìm kế thủ thắng. Hắn

nghĩ ra bài "Hoàng Sa Vạn Lý" đã từng thủ thắng đến bốn lần rồi, bất chợt trong lòng

nghĩ được kế, liền kêu lớn:

- Ni Ma huynh? Tiêu Tương Huynh, chúng ta hãy đồng bước tới thêm nửa bước!

Hai người không hiểu dụng ý của Doãn Khắc Tây, nhưng nghĩ vì hắn là một đại

thương gia miền Tây vực, kiến thức bao la, người lại thông minh. Ba người theo nhịp

bước tới nửa bước. Doãn Khắc Tây thấy thế tiến có hiệu lực bèn hô lên:

- Thêm nửa bước nữa!

Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh nghe lời tiến tới. Doãn Khắc Tây hô tiếp:

- Phòng thủ cẩn thận, bước tiến chậm lại.

Ba người đứng phòng thủ một hồi lại bước tới nửa bước nữa. Bây giờ ai cũng thấy rõ,

cả ba tiến bước thành vòng vây, dần dần thắt chặt lại. Còn Tiểu Long Nữ lại bị dồn

vào giữa. Ba người chưa dám ra tay tấn công nhưng mỗi người đều múa động binh

khí, tạo thành một bức tường đồng vách sắt, ba thế này họp thành một thế công mạnh

hơn vũ bão.

Tiểu Long Nữ thấy thế tiến của đối phương mỗi lúc một gần lại mà thế tiến của họ

không có chút sơ hở. Nàng thầm tính:

- Nếu để họ tiến mãi như thế, mình ắt phải bị một sức ép của ba đường thế phản công

một lúc.

Nàng lập tức đưa song kiếm ra, chém dồn. Chỉ nghe những tiếng "leng keng" khi nhặt

khi khoan. Nàng tấn công đối phương liên tiếp quá mạnh, nên kiếm bị dội trở về, mà

ba người lại tiến thêm ba bước nữa. Tiểu Long Nữ thấy nguy vội lùi lại, nhưng bị trượt

chân suýt té nên để nhiều sơ hở. Nếu bọn Tiêu Tương Tử không lo thủ thế thì nàng đã

phải gặp nạn lớn rồi. Tiểu Long Nữ vừa vấp phải thanh trường kiếm của Toàn Chân

đạo sĩ đã bị nàng đánh rơi đầy đất lúc nãy. Nhờ cái vấp đó mà nàng liền nghĩ ra một

kế:

- Người khác hai tay có thể sử dụng được hai kiếm, nhưng mình đã học thuật "Phân

tâm nhị dụng". Đôi tay có thể dùng bốn kiếm đánh một lượt tuy không tỏ được oai lực

trong bốn kiếm, nhưng cũng có thể làm cho đối phương bối rối, mình sẽ thừa cơ thoát

khỏi vòng vây.

Nghĩ như thế, nàng liền trao trường kiếm tay trái sang tay mặt lùi lẹ làng cúi nhặt

thêm hai thanh nữa. Hai tay Tiểu Long Nữ vung bốn thanh kiếm lên múa một lượt.

Bọn Tiêu Tương Tử quá sức ngạc nhiên, trong lòng thầm lo:

- Thế đánh của con nhỏ này sao càng lúc càng lạ thường, ai lại bốn kiếm vung đánh

một lượt kỳ đời như vậy, thật chưa thấy bao giờ!

Nhưng ba người nầy đã quyết định đánh "bất biến ứng vạn biến" mặc cho nàng, dù có

dùng thuật kỳ quái thì họ vẫn chỉ thủ không công, từng bước một tiến tới. Thật ra

Tiểu Long Nữ múa bốn kiếm một lượt chỉ làm cho người ta kinh sợ, chứ còn uy lực

lại kém hơn hai kiếm, vì xưa nay nàng chỉ dùng song kiếm, tay trái "Toàn Chân kiếm

pháp" tay phải "Ngọc nữ kiếm pháp" phối hợp lại đã đến mức sao siêu, giờ đây một

tay hai kiếm sử dụng võ công mất đi một phần. Bốn kiếm nàng chém lia lịa đều chạm

mạnh vào thanh kiếm cua cao thủ hết cả.

Lúc đầu bọn Tiêu Tương Tử đều lo sợ phép thuật kỳ lạ, nhưng khi giao đấu một lúc,

họ biết công lực của đối phương không có gì mạnh lắm. Khi bọn Tiêu Tương Tử đón

mấy nhát kiếm sau chỉ thấy đưường kiếm nàng đã chậm hơn lúc trước nhiều. Ni Ma

Tinh thấy thế liền múa thiết xà tấn công vào.

Doãn Khắc Tây vừa la lên:

- Không thể được, đó là kế dụ địch của nó!

Ni Ma Tinh giật nảy người, lui lại thủ thế, trong lòng thầm nhủ may không nhờ thằng

con buôn đa mưu này, thì mình đã lãnh thẹo với con ranh nầy rồi. Thật con này xảo

quyệt quá!

Sự thật Tiểu long Nữ không có ý dụ địch, nhưng khi nghe Doãn Khắc Tây nói như

vậy, nàng nghĩ:

- á! Cái lão lùn này nóng tính lắm mình phải tìm kế phá địch nơi hắn. Thằng kia nói

mình dụ địch, vậy mình dụ chúng một mách chơi.

Bỗng nhiễn, tay mặt nàng vung lên, một thanh trường kiếm bay thẳng vào, cùng một

lúc tay trái lại có một lưỡi khác bay ra. Bọn Tiêu Tương Tử kinh hãi, không hiểu nàng

đánh thuật gì khác nữa, nhìn thấy đôi kiếm trên không chưa rơi xuống, mà đôi kiếm

còn trên tay nàng cũng ném ra luôn, như thế trong người không còn vũ khí nữa.

Doãn Khắc Tây lại kêu lên:

- Mọi người phải tự vệ lấy vị trí của mình, đừng có tấn công.

Hắn tìm chưa ra dụng ý của Tiểu Long Nữ, nhưng nhận thấy phòng thủ nghiêm mật,

để tiến tới từng bước mới thủ chắc phần thắng hơn. Cho nên, thấy địch thủ đột nhiên

bỏ kiếm, nhưng vẫn ra lệnh không được tấn công.

Tiểu Long Nữ được dịp may, vội cúi xuống, hai tay không ngướt nhặt những thanh

kiếm từ dưới đất lên, rồi lần lượt tung tất cả lên khoảng không, đồng thời chớp lấy

những thanh kiếm đã rơi xuống, rồi cũng ném trở lên. Mấy chục thanh kiếm thi nhau

lên xuống, ánh thép loang loáng sáng cả đại điện, thật là một cảnh vô cùng ngoạn

mục.

Võ công của phái Cổ Mộ vốn sở trường không phải về môn nội lực, mà chỉ nhờ cái

nhanh nhẹn mới thủ thắng, nên biểu diễn võ công như thế, đối với nàng thật dễ dàng

như thò tay vào túi lấy tiền, làm cho họn Tiêu Tương Tử nhìn thấy hoa cả mắt, cho

rằng nàng đang làm trò ảo thuật chứ đâu có phải võ thuật như vậy. Bỗng tay trái nàng

vung lên, đẩy mạnh vào cán một thanh kiếm từ cao đang rơi xuống, thanh kiếm này

bay tạt ra, đâm thẳng vào mình Doãn Khắc Tây. Mũi kiếm đụng vào bức màn "Kim

Long", rồi lập tức dội lại bay thẳng vào mình Ni Ma Tinh, lại gặp chiếc xà côn đang

múa đến nước gấp nên thanh kiếm lại thối lui về phía Tiểu Long Nữ. Lúc ấy từ trên

không vừa rơi xuống hai thanh kiếm nữa, đôi tay của Tiểu Long Nữ vung mạnh ra

dùng thế "Chưởng phong" đẩy mạnh ba thanh kiếm phóng mạnh ra huớng ba nguời

của Tiêu Tương Tử. Tiếp theo đó nàng liền đổi thế đánh làm cho mấy mươi thanh

kiếm không bay cao nữa, mà lại dội qua dội lại ba bước màn binh khí của đối phương

đang bao vây.

Trên tay Tiểu Long Nữ có mang đôi bao tay bằng tơ vàng, nên đánh trúng vào chỗ

bén lưỡi kiếm cũng không chút tổn thương. Trận ác chiến nầy còn kinh thiên động địa

hơn lúc nãy, vì nàng từ nhỏ đã luyện thuần môn khinh thân của phái Cổ Mộ, nên tay

lanh mắt lẹ, càng đánh càng gấp. Lúc đầu, trên tay nàng chỉ có hai thanh kiếm, mà

bọn Tiêu Tơng Tử đã khó chống đỡ rồi, đến bây giờ nàng lại điều động đến mấy

chục lưỡi kiếm tả xung hữu đột, thỉnh thoảng lại bất thần kèm thêm mấy miếng chém

đâm rất thành tất nên họ phải nhọc sức rất nhiều, vì lo sợ những trường kiếm bay dội

lại rất quái gở, không thể điều khiển kìm hãm lại. Chỉ sơ suất một chút là có thể gây

đả thương cho đồng bọn.

Tiểu Long Nữ ném kiếm lên không, đó là môn làm cho địch hoa mắt mà thôi, nhưng

gặp tình thế biến hóa rất có lợi, đưa lại cho nàng nắm chắc phần thắng trong tay, nên

trong tiếng binh khí chạm nhau, nàng nghe được hơi thở nhọc nhằn của Doãn Khắc

Tây và Ni Ma Tinh, còn thiết côn của Tiêu Tương Tử tuy múa còn nhanh, nhưng đã

thấy rối loạn không còn vẻ mạch lạc tự nhiên như trước nữa. Doãn Khắc Tây bất thình

lình đã thấy cánh tay mặt bị trầm xuống, hoảng hốt la lên:

- Không xong rồi.

Trong tức khắc ba thanh trường kiếm đẩy qua, vừa quyện lấy cây Kim Long của Doãn

Khắc Tây, tuy phòng thủ kín đáo, nhưng bất thần ba thanh kiếm từ phía Tiêu Tương

Tử và Ni Ma Tinh dội qua. Doãn Khắc Tây đưa cao cây nhu tiến lên, dùng sức rung

mạnh cho ba thanh kiếm rơi xuống, nhưng trong lúc hắn giơ roi lên, thì trường kiếm

trong tay Tiểu long Nữ đã đâm vèo tới, cánh tay của Doãn Khắc Tây bỗng cảm thấy

tê buốt di, năm ngón tay rã rời không thể nắm chặt được, chỉ nghe "keng" một tiếng,

kim long rơi xuống đất. Tay trái của Tiểu Long Nữ tung mười mấy thanh trường kiếm

bay vọt ra, chia nhau đâm vào các yếu huyệt của ba người. Nàng vội đưa tay đoạt lại

song kiếm, rồi lướt tới trước mặt Doãn Khắc Tây mà thoát ra đi.

Cánh tay của Doãn Khắc Tây vì bị thụ thương, binh khí rơi xuống đất, bức tường bao

vây lập tức bị thủng, mắt nhìn song kiếm của nàng như hai luồng điện chớp động bay

vù tới, nên vội tháo lui về phía sau.

Tiểu Long Nữ khinh công đã cao hơn bọn Tiêu Tương Tử nên tung mình lướt thẳng

về phía hậu điện để đuổi bắt Triệu Chí Kính. Lúc bấy giờ, Tiêu Tương Tử và Ni Ma

Tinh chưa có thể dừng tay lại được, vì còn phải lo chống đỡ mười mấy thanh kiếm

đang rơi xuống, phải dẹp xong mới thủ thế lại được.

Doãn Khắc Tây quá e thẹn nói với hai người:

- Tiểu đệ bất tài, để con nhỏ này chạy mất rồi! Xin nhị huynh tha lỗi cho.

Ba người tuy cùng làm việc dưới trướng Hốt Tất Liệt nên ai nấy đều muốn tìm kế hạ

đối phương để gây uy tín với chủ tướng, nhưng sau một trận ác chiến kinh thiên động

địa vừa rồi, ba người đều có cái cảm giác như từ trong cái chết mới thoát ra, nên đều

trút hết cái ý nghĩ thù địch thủ. Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh nói:

- Cái đó không thể tránh được Doãn huynh...

Lời nói chưa dứt, bỗng nghe từ hậu sơn vọng lại những tiếng binh khí lanh lảnh chạm

vào nhau.

Trận chiến trên đại điện này đã làm cho bọn Tiêu Tương Tử đã ớn cả người, nhưng

nghe tiếng binh khí chạm nhau, lại kèm theo những tiếng vù vù năm chiếc vòng kim

khí của Kim Luân Pháp Vương phát ra, hiển nhiên là Tiểu Long Nữ đang giao đấu với

Pháp Vương. Trong lòng ba người đều thầm nghĩ:

- Thế này có một người võ công cứng rắn như vậy làm chủ lực chúng ta bất thần đánh

ép vào hai bên hông, theo thế gọng kìm chắc có thể thủ thắng được.

Doãn khắc Tây tay trái nhặt cây roi, miệng nói:

- Chúng ta mau đuổi theo!

Hắn nói xong vội cất bước chạy trước, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh hướng dẫn đoàn

võ sĩ Mông Cổ rầm rộ đuổi theo. Trong lòng mỗi người lúc này đều cho Tiểu Long

Nữ là đối thủ duy nhất, nên bỏ rơi bọn đạo sĩ Toàn Chân giáo.

Bọn Doãn Chí Bình, Lý chí Thường thấy quân sĩ Mông Cổ vừa chạy đi, lập tức mở

trói cho nhau, rồi nhặt kiếm lũ luợt kéo theo. Bọn Doãn Khắc Tây vừa tới trước động

Ngọc Hư ở sau Trùng dương cung, chỉ thấy bóng vòng xe của Kim Luân Pháp Vương

liên tiếp vây vòng, kim khí tung hoành ngang dọc. Tiếng gầm thét của Kim Luân

Pháp Vương như sấm sét, trước tà áo trắng của Tiểu long Nữ nhẹ nhàng tung bay phất

phới, hai người chỉ cách nhau chừng một trượng. Tuy đứng còn cách xa mà trận đánh

đã ác liệt. Năm chiếc vòng thi nhau cuồn cuộn tiến về phía Tiểu long Nữ, vang ra

những tiếng vù vù làm cho người nghe điếc nhức tai, nhưng Tiểu Long Nữ vẫn điềm

nhiên đưa đôi tay múa song kiếm rất nhẹ nhàng. Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường vừa

chạy đến thấy cửa động Ngọc Hư đã bị lấp đá kín rồi! Ai nấy đều kinh ngạc lo nghĩ:

- Như thế này không biết năm vị sư trưởng chết sống ra sao?

Nên đồng kéo đến cửa động, nhưng Đạt Nhĩ Ba tay xách kim chùy, Hoắc Đô múa cây

trượng thép, xông ra ngăn cản chỉ trong nháy mắt, các đạo sĩ đánh lui ra cả, Vương

Chí Thản lớn tiếng kêu:

- Sư phụ! Sư phụ có sao không?

Vì chàng quá sốt ruột, nên tiếng kêu như khóc. Lý Chí Thường nghĩ lại:

- Năm vị sư trưởng đã có huyền công, đâu có dễ gì bị chúng nhốt trong động? Hay là

luyện công đã đến lúc sắp thành, không thể phân tâm để chống ngoại địch, nên còn ở

trong đó? Nếu để Vương sư đệ kêu ca như vậy, ở trong động nghe được chắc là rối

loạn tâm thần của năm vị sư trưởng.

Nghĩ như thế, Lý Chí Thường bèn bảo:

- Vương sư đệ đừng có kêu nữa, sẽ làm náo động tinh thần của năm vị sư trưởng.

Vương Chí Thản lập tức tỉnh ngộ bèn đỡ Tống Đức Phương bị ngã dưới đất lên, thấy

Đức Phương bị thương rất nặng, liền tìm cách cấp cứu.

Bọn Tiêu Tương Tử đứng một bên xem Kim Luân Pháp Vương đang đánh với Tiểu

Long Nữ, thấy lão tuy công ít thủ nhiều, nhưng khi thủ được hai ba thế thì đánh trả

được một đòn, năm chiếc vòng oai lực rất mạnh mẽ, làm cho Tiểu Long Nữ hết đường

tiến tới. Ba người đứng coi rất khâm phục, nhưng lại ghen tức, đều thầm nghĩ:

- Lão trọc này được phong làm Mông Cổ độc nhất quốc sư, thật cũng xứng đáng,

nhưng công ta đánh từ lúc đầu bây giờ lão dễ thắng.

Xét sự thật thì Kim Luân Pháp Vương bên ngoài tuy có vẻ dũng mãnh, nhưng trong

lòng không ngớt lo sợ, vì thế công trên song kiếm của Tiểu Long Nữ phối hợp những

đường kiếm đến mức tuyệt luân. Kiếm bên trái công trước, kiếm bên phải liền tiếp

theo, làm cho Kim luân pháp Vương tiến thoái lưỡng nan, cứ mỗi đường kiếm lại tấn

công một lượt vào mấy yếu điểm, nên lão giữ chỗ này thì lại bị hở chỗ kia, nhưng nhờ

nội công, ngoại công đều luyện đến mức siêu quần, mắt lanh tay lẹ, chứ không thì

trong khoảnh khắc đã bị mấy chục nhát kiếm của nàng rồi. Cũng may là lão đã đau

đớn vì kiếm pháp "Ngọc nữ tố tâm kiếm" sau lần thất bại mấy năm trước, bèn cố

công, tận tâm tập luyện đề tìm thế phá. Kim Luân Pháp Vương vốn là một bậc kỳ tài

trong võ lâm, sức học đã rộng, người lại thông minh, nên từ khi chiến bại với Dương

Qua và Tiểu Long Nữ lão không một ngày nào không để thì giờ nghiên cứu một môn

võ công để phá "Ngọc nữ tố tâm kiếm Pháp", chỉ vì kiếm pháp ấy quá thần diệu nên

không thể phá được, nhưng cố sức đánh nhau thì chịu đựng chừng trăm hiệp. Hôm

nay, Kim Luân Pháp Vuơng ở trước Ngọc Hư động, thấy Tiểu Long Nữ đi tới, nhưng

không có Dương Qua đi theo, trong lòng lão không sợ mà lại rất mừng là đươc dịp trả

lại mối thù đã nén chịu trong lòng bao nhiêu năm âm thầm lo lắng. Nhưng không ngờ

vừa giao đấu, nàng đã dùng thuật "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" ra, đã đánh qúa nhanh

mà lại mạnh hơn cả lúc Dương Qua hiệp sức. Hai bên đấu nhau đến sáu mươi hiệp, là

Kim Luân Pháp Vương đã bị Tiểu Long Nữ vây chặt vào vòng nguy hiểm . Lão liền

thu kim luân về hộ thân, không dám ném ra công địch nữa, ngân luân cũng theo về rồi

kế đến ngũ luân đều lần lượt thu về cả, biến thành nước chỉ thủ, không còn một thế

nào để công địch được nữa. Năm chiếc vòng hình dáng và màu sắc đều khác nhau,

đều có gai nhọn, hoặc hình trái ấu, quay qua quay lại tạo nên những đường hào quang

bao bọc cả thân hình lão. Bỗng nghe Tiểu Long Nữ thét lên một tiếng:

- Trúng!

Kế đó là một tiếng ngân nho nhỏ của Kim Luân Pháp Vương cùng hòa lẫn trong mấy

tiếng "loảng choảng" nghe rợn người. Lúc này hai người đánh xoắn xít sát nhau, chỉ

còn thấy những ánh sáng đủ màu loang loáng thành một khối, nhưng đứng ngoài nhìn

không thấy Pháp Vương và Tiểu Long Nữ đâu nữa. Cho đến cả những tay cao thủ như

bọn Tiêu Tương Tử xem mà cũng không thể biết tiếng gầm vừa rồi, là biến chuyển gì

của bên nào cả. Bất thần, mắt của Ni Ma Tinh cảm thấy hơi đau, tựa như một ám khí

gì đánh trúng vậy, liền đưa tay rờ thử nhưng trên mặt không có dấu gì đánh trúng vậy

mà bàn tay lại dính một chấm máu tươi. Hắn trầm ngâm đứng nhìn một lúc, lại thấy

một giọt máu tươi ở vòng chiến địa bắn vào mình Doãn Khắc Tây, bây giờ họ mới

biết trong hai người đang giao đấu đã có một người bị thương. Không bao lâu, trên tà áo

trắng của Tiểu Long Nữ đã dính lấm tấm những giọt máu hồng, Ni Ma Tinh mừng rỡ

kêu lên:

- Hà hà! Tiểu yêu nữ đã thụ thương rồi. Kế đó song kiếm của Tiểu long Nữ công

chiến quá mạnh, Pháp Vương lại gầm nhỏ lên một tiếng nữa. Tiêu Tương Tử lạnh

lùng nói:

- Không! Đó là đại hòa thượng bị thương!

Mọi người đều hiểu rõ được những giọt máu của vết thương Pháp Vương đã bắn ra

dính áo Tiểu Long Nữ, trên mặt Ni Ma Tinh và Doãn Khắc Tây. Tiêu Tương Tử thầm

nghĩ:

- Nếu lão Pháp Vương chết về tay hắn thì bọn mình cũng không tránh khỏi được.

Nghĩ như vậy liền hô:

- Ni huynh chúng ta cùng tiến vào nào?

Hô xong, hắn múa động thiết côn, tiến vào sau lưng Tiểu Long Nữ. Còn Doãn Khắc

Tây và Ni Ma Tinh cũng múa binh khí xông vào bên tả bên hữu. Cũng vì thế mà trận

ác chiến liền đổi khác, dù võ công của Tiểu Long Nữ có cao siêu cách mấy, cũng

không thể chống lại đến bốn cao thủ họp sức đánh một lượt.

Trên mình Kim Luân Pháp Vương đã bị trúng đến ba nhát kiếm của Tiểu Long Nữ,

nhưng không nhắm vào nhược điểm, trong lúc nguy cấp, được người trên giúp sức,

trong lòng nhẹ nhõm lên. Bọn Tiêu Tương Tử đều lo giữ thế thủ chưa dám ra tay tấn

công, cứ chậm chậm từ bốn mặt vây tới. Trong lúc đầu, Tiểu Long Nữ tuy chưa bị

bốn mặt tiến gần, nhưng thời gian lâu nàng chắc không thể tránh được thế vây của

bốn cao thủ này. Trước Ngọc Hư động lúc nầy, thì thấy bốn vị võ lâm quái khách

đang vây một thiếu nữ, thật là một trận ác chiến không tiền khoág hậu. Lũ võ sĩ Mông

Cổ và bọn đạo sĩ Toàn Chân không ngớt thấy những cảnh kinh thiên động địa mỗi lúc

một kỳ lạ hơn, làm cho tâm hồn của họ lúc nay ở trong giấc mơ mộng ảo huyền!

Mấy trăm đôi mắt đang mải theo dõi trận chiến của năm người. Bỗng nhiên, một tiếng

nổ như núi vỡ, phi sa tẩu thạch bụi bay mịt trời, mấy mươi tảng đá to trước Ngọc Hư

động đều vẹt sang một bên. Năm vị đạo sĩ áo vàng từ trong động chầm chậm buớc ra,

đó chính là bọn Toàn Chân ngũ tử Khưu Xứ Cơ, Lưu Xứ Huyền...

Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường mừng quá đồng reo lên:

- Sư phụ ! Sư phụ!

Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều thất kinh, nhìn cửa động thấy bao nhiêu tảng đá to đều bị

vẹt ra hết, nên lòng tự hỏi:

- Làm thế nào mà có thể xô ngã một bức tường đá quá kiên cố như vậy?

Hai người vội xách đao xông tới. Bọn Khưu Xứ Cơ lách sang một bên rồi mười cánh

tay đều vung ra một lượt, túm lấy hai người vật nhẹ ra phía sau. Cả hai người đều lọt

vào trong Ngọc Hư động!

Thật ra võ công của Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều ngang hàng với Hách Đại Thông, tuy

không tinh nhuệ như Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất thế mà chưa kịp giao đấu đã bị

rơi vào động rồi!

Số Toàn Chân ngũ tử "bế quan" tĩnh tu trong Ngọc Hư động để nghiên cứu phép phá

"Ngọc nữ tâm kinh", năm người đêm ngày khổ luyện, nhưng vẫn thấy võ công của

Duơng Qua và Tiểu Long Nữ biểu diễn ra đều là khắc tinh với võ học của phái Toàn

Chân, nên cố tìm thế thủ thắng mà không thể tìm đuợc. Về sau, Khưu Xứ Cơ tìm thấy

một cương tính trong "Thiên cang bắc đẩu trận pháp", bèn nói:

- Chúng ta khó thủ thắng nhưng có thể hiệp sức năm người lại, lấy sức mạnh hùng hậu

để lấn áp đối phương.

Từ đó, năm người tập luyện bài thất nhất về môn "Hiệp sức công địch", mỗi một

đường đánh ra đều quy tụ sức mạnh của năm người vào một điểm. Trong một tháng

nay, họ đã sáng chế một cái "Bách xuyên hội hải".

Lúc Kim Luân Pháp Vương dẫn võ sĩ Mông Cổ tới lấp động, chính là lúc họ luyện bài

"Bách xuyên hội hải" gần đến mức tột cùng, không thể phân tâm được, nên đợi mãi

đến lúc năm người hồi tâm lại, mới hợp sức phá động mà ra. Trong thời gian hơi gấp

rút nên bài này chỉ luyện mới có tám phần. Tuy như thế, nhng họ phá cửa động một

cách dễ dàng. Còn Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô tiến đến chống cự là họ chỉ ra tay một cái

thì bọn Đạt Nhĩ Ba đã b ị vứt vào trong động, ngất xỉu luôn.

Khưu Xứ Cơ quay lại chỉ thấy bọn Pháp Vương bốn người vây đấnh Tiểu Long Nữ

đang đến lúc kịch liệt. Năm người đứng xem một hồi, rồi nhìn nhau với vẻ thảm não,

trong lòng đều nghĩ:

- Thôi rồi! Té ra võ công của phái Cổ Mộ lại tinh nhuệ cao siêu như vậy, muốn thắng

nàng thật là tuyệt vô hi vọng rồi!

Võ công của bọn Pháp Vương đều cao hơn Toàn Chân ngũ tử. Trong Toàn chân giáo

muốn có một người võ công như họ đâu có dễ gì?

Bọn Khưu Xứ Cơ đều thầm nghĩ:

- Nếu là sư phụ ta còn sống, có lẽ cũng hơn họ chút ít, chứ còn Châu sư tổ không

chừng không hơn họ được, nhưng nếu gặp đến bốn người cao thủ nầy vây đánh một

lúc, không thể nào chống nổi được.

Năm vị đạo sĩ già đều lo nghĩ buồn chán, thấy quá hổ thẹn, vì suốt đời trong võ nghệ

mà còn kém sút nhiều không thể thừa kế được sản nghiệp oai hùng của tiền nhân. Khi

thấy đại địch trước mặt, Toàn Chân giáo thật đã đến đường cùng rồi. Năm người quá

đau khổ lo nghĩ nên không hề hỏi đến bọn đồ đệ biến cố này do đâu mà xảy ra?

Bây giờ trận đấu của năm người đã dần dần thay đổi tình thế. Song kiếm của Tiểu

Long Nữ tấn công dữ dội: bọn Pháp Vương cố thủ nhiều, để giữ chặt vòng vây rồi

tiên tới từng bước một. Càng lâu Tiểu Long Nữ càng bất lợi. Nhiều lần nàng toan

vượt ra vòng vây, nhưng Pháp Vương bốn người phòng thủ rất cẩn mật, nên mỗi lần thoát

ra đều bị đối phương ép trở vào. Từ lúc Tiểu Long Nữ vào đại điện giao đấu với bọn

Trịnh Quan đến bây giờ, nàng chiến đấu với Kim Luân Pháp Vương đã hơn ba giờ đồng

hồ, nên đã muốn kiệt sức, mà cường địch càng lúc càng gần lại.

Lại thấy Khứu Xứ Cơ năm người đứng gờm trước động, tự biết năm người ấy cũng là

những tay không vừa gì. Lúc nầy, bốn mặt đều là địch thủ, mà nàng chỉ đơn độc có

một mình, chắc hôm nay phải vùi thây nơi Trùng Dương cung nầy!

Tiểu Long Nữ đứng trước cảnh cô đơn nên thầm nghĩ:

- Mình chết đi cũng không gì đáng tiếc? Chỉ khổ vì... khổ nỗi. Trong lúc mình lâm

chung, không được gặp Dương Qua lần cuối cùng! Chàng bây giờ đang ở đâu? Chắc

đang chuyện trò tình tứ với Quách cô nưbơng, hay là họ đã thành thân với nhau rồi,

trong cảnh hạnh phúc chàng đâu có nghĩ chi đến một cô gái bạc mệnh đang bị người

tứ phía phủ vây? Không! Không lý ! Dương Qua, không phải là hạng người như thế,

dù có kết hôn với Quách cô nương, trong lòng chàng cũng không bao giờ quên mình

đâu. Mình phải sống để gặp chàng lần cuối cùng...

Lúc nàng rời Tương Dương về phương Bắc là quyết lòng không gặp mặt Dương Qua

nữa, nhng trong giờ phút sinh tử này thì trong lòng lại cắt đứt không đành. Khi nàng

nghĩ đến Dương Qua, nên đánh thuật "Phân tâm nhị dụng" bỗng biến thành "Nhất tâm

chuyên chú" nữa. Bọn pháp Vương thấy kiếm pháp của nàng đột nhiên biến đổi, ban

đầu cứ nghĩ là nàng có ý dụ địch, nhưng một hồi lâu nhìn kỹ thấy không phải. Kim

Luân Pháp Vương liền bước tới, tay trái giữ ngân luân hộ thân, tay mặt đánh vút Kim

Luân vào lỡi kiếm của Tiểu Long Nữ.

67. KIẾM MA ĐỘC CÔ

Chỉ nghe "toang" một tiếng nhẹ, trường kiếm trên tay Tiểu long Nữ đã bị tuột khỏi

tay, rồi tiếp theo nghe một tiếng "rắc" ở trên không, thanh kiếm bị gặt mạnh, gãy làm

đôi.

Pháp Vương phấn khởi vô cùng thấy vòng Kim Luân đạt được kết quả. Kế đó, lão

thừa thắng vung luôn vòng Kim luân, Tiểu Long Nữ hết hồn, vội giữ vững tâm thần,

chém trả lại ba nhát, nhưng bây giờ chỉ còn có một thanh kiếm, nên võ công kém hẳn

bọn Pháp Vương. Bốn người trong bọn Pháp Vương được dịp thắng, liền múa tung

bốn thứ binh khí tấn công mạnh như vũ bão. Tiểu Long Nữ vẫn mỉm cười. Bây giờ

không muốn cố sức vùng vẫy nữa, thoáng mắt nhìn thấy ngoài xa chừng ba trượng có

một khóm hoa hường nép mình ẩn bên cây tòng, cành hoa mềm mại xinh tươi. Bất

giác, khiến nàng nhớ lại việc đã từng luyện "Ngọc nữ tâm kinh" cùng với Dương Qua

ở bên khóm hoa ấy, lòng nàng tự nhủ:

- Mình đã không thể gặp Dương Qua, vậy thì trước giờ chết lòng mình nghĩ đến chàng

cũng mãn nguyện rồi!

Sắc mặt nàng trở nên dịu hòa, đắm chìm trong cõi mơ.

Bọn Kim Luân Pháp Vương đang bủa vây tứ phía, vốn có thể đánh bại nàng ngay,

nhưng bỗng nhiên thấy đáng điệu của nàng quá lạ đời, mơ màng tựa hồ như quên

mình đang chiến đấu, làm cho ai nấy đều kinh ngạc, thầm lo sợ nàng giở trò thuật gì

đó, nên bốn thứ binh khí giơ lên nửa chừng đều dừng lại không dám giáng xuống.

Bốn người đứng tần ngần một hồi rồi thiết xà của Ni ma Tinh bỗng đánh vụt ra trước.

Bất thình lình thoáng qua sau lưng Tiểu long Nữ một bóng nguời vung kiếm chém tới.

Ní ma Tinh vội kéo thiết xà về đỡ, nhưng gạt hụt, thì rõ bóng người đó là Doãn chí

Bình vượt tới trước mặt Tiểu long Nữ, rồi trao vào tay trái nàng một thanh trường

kiếm. Trong lúc Tiểu Long Nữ đang điềm nhiên gác hẳn trận chiến đấu ra ngoài lý trí

nên chỉ thờ ơ cầm thêm một thanh kiếm nữa rồi đứng ngẩn người.

Bọn Pháp Vương đứng ngoài bỗng thấy Doãn chí Bình xen vào trận chiến để giúp cho

Tiểu Long Nữ, không khác nào lùa dê vào hang cọp Ni ma Tinh vội kêu lên:

- Thằng nầy buồn chuyện gì mà vào đây tự vẫn hả?

Kim Luân Pháp Vương nhìn thân pháp đã biết võ công của Doãn chí Bình chỉ ở hạng

tầm thường thôi, nên không nỡ giết hại chàng, chỉ dùng tay trái đẩy nhẹ vào vai một

cái, cho gã tránh một bên, để đánh mạnh chiếc vòng bên tay mặt về phía Tiểu Long

Nữ. Doãn chí Bình thấy thế nguy như vậy, mà nàng vẫn thẫn thờ như mất cả hồn,

trong lòng hết sức lo sợ nàng bị chiếc vòng đánh chết nên chàng không màng nguy

hiểm, vội lao mình tới, dùng lưng chận ngay chiếc vòng lợi hại của Pháp Vương, còn

miệng thì hô lớn:

- Long cô nương! Phải coi chừng!

Sức mạnh của chiếc vòng vút tới như vũ bão, đánh mạnh vào lưng Doãn chí Bình nghe

một tiếng "bùng" lập tức chàng ngã chúi xuống mặt đất phía trước mặt Tiễu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ vừa nhận thấy thanh kiếm của Doãn chí Bình mà vẫn đứng yên như kẻ

mất hồn, cơ thể của Doãn chí Bình vừa ngã tới đụng vào mũi kiếm nàng, ngực chàng

lập tức bị đâm lủng.

Tiểu Long Nữ bấy giờ mới giật mình tỉnh ngộ, biết ra Doãn chí Bình liều mạng với

mình, thấy lưng chàng bị vòng Kim luân đập vào đồng thời trước ngực bị trường kiếm

đâm thủng, đều là những vết thương nguy hại. Trong một phút, lòng oán hận của nàng

tiêu tan, mà hóa thành thương hại, nên dịu dàng nói:

- Sao ông lại khổ tâm như vậy?

Trong lúc gần chết bỗng nghe được lời dịu dàng thương xót, Doãn chí Bình cảm thấy

lòng mãn nguyện vô cùng, nên trăn trối:

- Long cô nương! Tôi có lỗi với cô, tôi thật đáng chết, bây giờ cô đã tha thứ cho tôi

chứ?

Tiểu Long Nữ giật mình liền nhớ lại những lời hắn nói với Triệu chí Kính, ý niệm ấy

bỗng thoáng qua đầu óc nàng.

- Thâm tình của Dương Qua như bể cả, quyết không phụ mình. Sở dĩ chàng kết hôn

với Quách cô nương là để xa lánh mình, chắc chàng đã biết mình bị tên khốn kiếp nầy

làm ô nhục.

Tâm địa nàng vốn rất đơn thuần, thơ ngây nên đuổi mãi theo Doãn chí Bình và Triệu

chí Kính nhung không hề nghĩ tới việc nầy, bây giờ bỗng được Chí Bình nhắc lại, làm

sự thương hại liền đổi sang oán hận. Cơn tức tối lại còn tăng gấp bội khi trước. Nàng

cắn chặt răng, lập tức đưa tay đâm thẳng nhát kiếm vào ngực Doãn chí Bình.

Nhưng vì xa nay nàng chưa giết người, tuy oán hận tràn hông, mà mũi kiếm vừa tới

ngực hắn thì ngừng lại không còn can đảm đâm xuống luôn.

Khưu xứ Cơ đứng ở một bên thấy học trò yêu quí của lão sắp mất mạng, lòng đau như

cắt, khổ vì việc xảy ra quá đột ngột, không kịp tiếp cứu. Nhát kiếm thứ nhất của Tiểu

long Nữ đâm đã trúng, hắn còn có thể cho là Kim luân Pháp Vương gây nên, nhưng

nhát thứ hai chứng tỏ là nàng cố ý. Nhưng lão không hề biết sự bí ẩn giữa hai người

nên hơn nửa năm nay trong lòng nghĩ kế để phá võ thuật của Tiểu long Nữ, nhất là

trong một tháng nay lại còn chuyên tâm lo về việc trả thù nàng. Khi lão đã cho Tiểu

Long Nữ là cường địch của Toàn Chân giáo, thì lại không ngờ Doãn chí Bình đã xả

thân cứu nàng, mà nàng lại còn vung kiếm toan đâm người đã cứu mạng mình. Lão

liền tung mình nhảy tới, tay trái chộp thạnh kiếm của Tiểu long Nữ, tay phải thì tống

vào mặt nàng. Võ công Khưu xứ Cơ đứng nhất trong Toàn Chân thất tử, lại trên mấy

mươi năm rèn luyện nên càng tinh nhuệ. Bây giờ trong lúc cấp bách, chưởng lực ông

ta tống ra, lại thêm hùng hậu hơn. Khưu xứ Cơ vừa chộp lấy thanh kiếm, thì Tiểu long

Nữ đã quá lẹ làng phóng kiếm sang một bên, và né tránh khỏi quả đấm trên mặt.

Nàng vội chộp lại thanh kiếm và chích thẳng vào ngực Khưu xứ Cơ cũng trong lúc ấy,

Doãn chí Bình thét to lên một, tiếng rồi lăn dưới đất, máu tươi trong vết thương vọt ra

lai láng. Tay trái Tiểu long Nữ chỉ vào bụng Khưu xứ Cơ dùng thuật "Song kiếm hợp

bích" oai lực tăng lên. Võ công Khưu xứ Cơ tuy tỉnh, nhưng chỉ trong vài hiệp, tay

chân đã bối rối, không thể chống đỡ nồi. Bọn Vương xứ Nhất thấy tình thế quá nguy,

bèn hè nhau tới tiếp viện, vô tình làm cho Kim Luân Pháp Vương rơi ra ngoài vòng

chiến địa.

Bọn Pháp Vương thấy Tiểu long Nữ lại đánh với Toàn Chân ngũ tử, lấy làm kinh

ngạc, thầm nghĩ:

- Như thế này là có ích cho mình! Cho họ tàn sát lẫn nhau, chờ đến lúc Toàn Chân

ngũ tử thắng được Tiểu long Nữ, rồi rảnh hãy bước vào đoạt thành quả chiến cuộc.

Cao thủ thí võ, mỗi một thế đều thập phần nguy hiểm, nhưng khi đã lỡ ra tay rồi,

không lẽ chịu nhịn cừu địch trước mặt mọi người?

Toàn Chân ngũ tử đều tay trắng nhập trận gặp phải đôi kiếm thần diệu của Tiểu long

Nữ nên bài "Bách xuyên hội hải" đã rèn luyện cả tháng nay cũng vô phương đem ra

thi thố. Trong khoảnh khắc, trên mình Hách đại Thông và Lưu xứ Huyền đều thọ

thương, nhưng hai người mải lo đến an nguy của đồng bọn, nên không chịu lui ra.

Bọn đồ đệ Toàn Chân thấy các sư phụ đang ở trong thế nguy, đều thất thanh la lên.

Lý chí Thường gọi:

- Hãy mau đem binh khí tới!

Bọn đệ tử mang binh khí đến nhưng không dám bén mảng tới gần, chỉ đứng ngoài

ném từng thanh kiếm vào trận, thì lại bị Tiểu long Nữ dùng song kiếm đánh bật ra cả.

Trước sau chúng ném vào đến mấy mươi thanh kiếm, mà năm vị đạo sĩ Toàn Chân

không thể vớ được một thanh nào.

Bỗng nghe "keng" một viếng, thanh kiếm tay trái Tiểu long Nữ chặt một thanh kiếm

vừa bay tới. Vụt mạnh ra sau, Vương xứ Nhất không kịp đề phòng, nên tay trái bị mũi

kiếm văng trúng. Bấy giờ trong bốn ngũ tử đã có bốn người bị thương, sự thắng bại đã

rõ.

Kim Luân Pháp Vương cười hà hả nói:

- Chư vị đạo huynh hãy lui ra! để bần tăng trị con bé này cho!

Vừa dứt lời, Pháp Vương khoát tay một cái, bước lên hai bước. Tiêu tương Tử, Ni Ma

Tinh, Doãn khắc Tây đều múa binh khí tiến đến hợp sức. Bấy giờ cuộc ác chiến trở

thành các cao thủ bao vây một mình Tiểu Long Nữ.

Bọn Pháp Vương vừa tiến vào, thì Toàn Chân ngũ tử liền thoát khỏi vòng song kiếm

của Tiểu long Nữ. Năm người hô lớn một tiếng, đứng sắp thành một hàng thẳng vung

mạnh mười cánh tay ra, năm luồng sức mạnh hợp lại thành thuật "Bách xuyên nội hải"

đánh một lượt vào bọn Kim Luân Pháp Vương. Đại lực của thế này quả nhiên kinh

người.

Tiểu long Nữ thoáng thấy liền nghiêng mình nhảy tới sau lưng Ni ma Tinh. Nghe

"ầm" một tiếng, bụi bay mịt trời và thấy Ni ma Tinh lộn nhào trên mặt đất. Té ra đôi

chân lão lùn đã mất, chỉ đi bằng một chiếc gậy, nên phần dưới không vững mà gặp

phải luồng chưởng lực quá mạnh té xuống, chứ không phải trúng trọng thương. Lão

lùn té xuống nhưng lập tức xoay mình nhảy lên chửi rủa ầm ầm, rồi tung thiết xà

trượng đánh vào đầu Lưu xứ Huyền một cái.

Bây giờ Doãn khắc Tây và Tiêu tương Tử cũng giúp sức Ni ma Tinh đánh Toàn Chân

ngũ tử làm vang dội trời đất. Tiểu long Nữ thấy bọn Tiêu tương Tử đánh với phái

Toàn Chân, nên thừa cơ toan thoát ra vòng vây. Kim Luân Pháp Vương xông tới cản

lại, miệng kêu lên:

- Ni huynh, Tiêu huynh chúng ta phải đối phó với con này trước đã!

Bọn Ni ma Tinh đang lúc đánh hăng, nên không hề để ý đến lời của Pháp Vương, chỉ

thấy thiết xà, thiết côn, kim long, đều vun vút tấn công vào bọn Toàn Chân ngũ tử.

Cũng nhờ sự rối loạn ấy mà song kiếm vội tấn công Pháp Vương mấy thế. Pháp

Vường bị đơn độc không địch nổi, vội thối lui lại mấy bước. Bỗng nhiên, Tiểu long

Nữ la một tiếng thất thanh, nét mặt xanh như chàm, liền nghe "leng keng" hai tiếng,

song kiếm trên tay đều rơi xuống, đôi mắt nàng chỉ đăm đăm nhìn về khóm hoa

hường bên cạnh thanh tòng, và luôn miệng kêu:

- Dương Qua, có phải chàng đến không?

Cũng trong lúc ấy, chiếc ngũ luân của Pháp Vương đánh vút vào mặt nàng, còn thế

"Bạch xuyên hội hải" của Toàn Chân ngũ tử thì từ sau công tới như xô núi đẩy thành.

Nguyên vì Toàn Chân đã chế ngự bọn Ni ma Tinh, nhưng bọn nầy quá mau lẹ, nhảy

vọt về bên tả nên sức mạnh chưởng lực ép vào lưng Tiểu long Nữ. Nào ngờ nàng như

người mất hồn, đờ người ra, không hề tránh đỡ, sau lưng bị chưởng lực ép tới trước

ngực bị ngũ luân ép lui. Một tấm thân yểu điệu diễm kiều đã bị hai luồng kình công

ép lại mà ánh mắt nàng vẫn đắm đuối nhìn về khóm hoa hường.

Trong giờ phút nầy, tâm tư nàng như đã gởi hết về cho Dương Qua rồi. Mọi người đều

bị ánh mắt nàng thu hút, bất giác tất cả đều quay đầu nhìn về phía khóm hoa hường

coi có gì lạ chăng? Vừa nhìn qua, thì thấy một bóng người bên cành tùng bay vút ra.

Người này phóng mình bay vào giữa trận địa, vứt thanh trường kiếm trên tay xuống

đất, cúi xuống bồng Tiểu long Nữ lên. Chỉ trong nháy mắt người đó đã nhảy ra khỏi

vòng vây, bước lại dưới bóng thanh tùng ngồi trên khóm hoa hường, ôm chặt Tiểu

long Nữ. Người này chính là Dương Qua!

Tiểu long Nữ miệng vẫn nở những nụ cười như hoa, nhưng đôi khóe mắt ngấn lệ, và

thỏ thẻ:

- Anh Qua! Có phải chăng đây là mộng?

Dương Qua cúi đầu xuống đặt một cái hôn nồng nàn vào đôi má nàng, dịu dàng bảo:

- Cô đã bị thọ thương! Có nặng không?

Tiểu long Nữ bị hai đòn độc của chín cao thủ ép đánh, nhưng thấy Dương Qua lòng

mừng rỡ nên không biết dau. Đến bây giờ, nàng cảm thấy đau rũ hết cả thân mình.

Nàng quơ hai tay, bá chặt vào cổ Dương Qua, miệng thì thào:

- Tôi... Tôi!

Nhưng cơn đau và lòng xúc động làm cho nàng như nghẹn thở không nói được.

Dương Qua thấy tình cảnh như vậy, chỉ mong được chịu đau thế cho nàng mới yên

lòng, nên nhỏ nhẹ nói:

- Cô! Cô! Tại tôi đã đến chậm một bước?

Tiểu long Nữ lắc đầu:

- Không, chàng đến thật đúng lúc! Tôi ngỡ kiếp này đã hết, hai ta không còn gặp

nhau nữa.

Bỗng nhiên toàn thân nàng phát run lên cầm cập và hồn nàng như sắp lìa khỏi xác.

Đôi tay nàng víu lấy cổ Dương Qua cũng buông thõng xuống, nàng như trăn trối:

- Dương Qua! Hãy ôm chặt lấy em!

Nàng cảm thấy cánh tay trái của Dương Qua từ từ ôm chặt nàng vào lòng. Trong đầu

nàng thoáng qua muôn ngàn ý nghĩ, hai hàng lệ từ từ lăn xuống, rơi trên đôi gò má

trắng bệch. Tiểu long Nữ lại nói:

- Em muốn chàng ôm chặt lấy em cả hai tay!

Nhưng nàng thoáng nhìn, thấy tay áo phía tay mặt của chàng bị trống rỗng. Nàng lấy

làm lạ gọi thất thanh:

- Qua ca, cánh tay mặt của chàng đâu rồi?

Dương Qua chỉ lắc đầu, nở một nụ cười chua chát nói nhỏ:

- Bây giờ cô cứ an tâm đừng lo cho tôi, hãy nhắm mắt dưỡng thần trí để tôi vận khí

trợ lực vết thương cho.

Tiểu long Nữ liền nói:

- Không! Cánh tay mặt của chàng đâu rồi?

Nàng tuy lâm nguy, nhưng không hề lo sợ cho thân nàng tý nào, nhất định hỏi chàng

tại sao mất tay. Chỉ vì trong tâm não nàng, đối với người thiếu niên tuấn tú này quan

trọng hơn mạng sống của nàng. Nàng cảm thấy cần phải dốc lòng săn sóc, lo lắng cho

chàng, để khi nàng có chết di mới mãn nguyện! Tuy từ khi chung sống với nhau trong

Cổ Mộ, sự yêu thương nhau đã phát lộ nhưng nàng lúc đó cũng chưa biết rõ là tình

yêu, hai người săn sóc cho nhau và cứ cho đó là tình nghĩa giữa thầy trò, nhưng sự

thật thì đôi nam nữ thiếu niên nầy, đã thương mến mê say nhau, mà không hay. Mãi

đến khi xa nhau họ mới thấy tình yêu quá nắng nề. Hai người đều có ý định nếu

không được sống để yêu nhau thì cùng nhau đồng chết.

Tiểu long Nữ cảm thấy cánh tay của Dương Qua quý hơn mạng sống của nàng, nên

nàng nằng nặc muốn hỏi cho biết. Nàng đưa tay rờ nhẹ tay áo chàng thấy quả thật

trống rỗng không cổ tay. Nàng quên hẳn đau đớn. Cảm xúc đầy tràn, nàng khẽ âu

yếm hỏi:

- Thật đáng thương hại cho anh! Anh đã mất cánh tay tự bao giờ? Bây giờ còn đau

không?

Dương Qua lắc đầu nói:

- Đã hết đau lâu rồi? Tôi chỉ cần cô luôn luôn ở bên mình, còn cánh tay có mất đi

cũng chẳng quan hệ gì. Chỉ một cánh tay trái tôi cũng đủ để bế cô kia mà!

Tiểu long Nữ mỉm cười, cho chàng nói rất đúng! Được nằm êm ấm trong lòng chàng

là nàng đã thấy mãn nguyện rồi. Nàng vốn chỉ muốn gặp chàng một lần trước khi

nhắm mắt, nhưng bây giờ lại được chàng bồng trên tay thì sung sướng yêu đời vô

cùng. Lúc này nàng rất sợ tử thần đưa nàng sang bên kia thế giới. Nàng lo sợ phải

chia tay với Dương Qua yêu quý của nàng.

Kim Luân Pháp Vương, Tiêu tơng Tử, Ni ma Tinh, Doãn khắc Tây, Toàn Chân ngũ

tử và đám đồ đệ, cùng lũ võ sĩ Mông Cồ, ai nấy đều sửng sốt không mở miệng nói

một lời nào, chỉ đứng tần ngần ném mắt nhìn cặp nhân tình, đang âu yếm trước chiến

địa.

Trong khoảng thời gian đó, ai cũng không muốn động tới họ, mà họ cũng không hề

để ý đến ai cả.

Thường lệ, tình nhân, hay vợ chồng, trong những lúc chuyện trò thân mật với nhau là

tìm những nơi vắng người, nhưng trái lại, ở đây Dương Qua và Tiểu long Nữ lại chìm

đắm trong bể tình giữa những ánh mắt nảy lửa của mọi người. Họ xem mọi người như

cây cỏ xung quanh họ. Đây thật là đôi nhân tình chưa từng thấy trên đời. Trước tình

cảnh nầy mới thấy rõ tình yêu họ đã đến mức điên cuồng, không những công hầu

khanh tướng, phú quí vinh hoa không màng tới mà cả đến sự chết chóc cũng xem nhẹ

tơ lông hồng. Dương Qua và Tiểu long Nữ một khi đã không nghĩ tới cái chết, cái

sống là gì, thì đừng nói chi đến chín vị cao thủ. Dẫu có anh hùng khắp thiên hạ đến

tấn công một lượt, thì họ cũng chỉ thế thôi. Vì họ đã không biết sợ cái chết nữa kia

mà.

Lẽ cố nhiên, bọn Kim Luân Pháp Vương đâu có sợ hai người họ, mà chỉ vì trong lòng

đang kinh ngạc đến cực độ. Mắt họ đã trông thấy Tiểu long Nữ bị trọng thương, Dương

Qua chỉ còn có một cánh tay, thì còn sức chiến đấu là bao nhiêu. Nhưng trong lúc hai

người khăng khít, ôm nhau, tỏ vẻ tự nhiên với một khí thế can đảm, làm cho người ngoài

có ý thẹn thùng không dám đến gần.

Tiểu long Nữ chưa biết được sự thật, nên hỏi tiếp:

- Cánh tay chàng tại sao mất đi như vậy? Mau nói cho tôi nghe đi!

Duơng Qua se sẽ cười gượng, nói:

- Bị người ta chặt mất rồi!

Tiểu long Nữ nhìn chàng với đôi mắt thảm thương quên hỏi đến người đã gây tai hại

cho chàng. Nàng chỉ thấy sự bất hạnh thì ai là hung thủ cũng thế thôi. Lúc bấy giờ vết

thương trong lưng và trước ngực nàng lại đau nhói lên kịch liệt, nên nàng cảm thấy

không còn sống bao lâu nữa, vội thỏ thẻ:

- Dương Qua, em có một việc yêu cầu chàng.

Dương Qua đáp:

- Không lẽ cô quên lúc còn ở trong Cổ mộ, tôi đã hứa với cô rằng cô muốn làm việc

gì tôi cũng phải làm cho vừa lòng cô kia mà.

Tiểu long Nữ thở dài não ruột nói:

- Đó là một lời hứa đã lâu rồi.

Dương Qua quả quyết nói:

- Nhưng bao giờ tôi cũng nhớ một lời hứa đó thôi.

Tiểu long Nữ héo hắt cười, nói nho nhỏ:

- Tôi còn sống không bao lâu nữa. Tôi muốn chàng ở bên tôi cho đến lúc thở hơi cuối

cùng. Chứ chàng đừng đi đến gần Quách Phù nhé!

Dương Qua vừa đau lòng vừa căm hận, nói:

- Lẽ dĩ nhiên tôi luôn luôn ở bên cô. Còn Quách cô nương đâu có liên hệ gì dến tôi?

Nét mặt Dương Qua xám lại, nghiến răng kèn kẹt nói:

- Cánh tay này chính đã bị con nhỏ chặt mất.

Nằm gọn trong lòng Dương Qua, Tiểu long Nữ giật mình kêu lên:

- Thế sao? Nó là hung thủ hả? Sao nó lại nhẫn tâm đến thế?

Nàng im lặng một hồi rồi nói tiếp:

- Không lẽ... Hay là tự chàng không thương yêu đến Quách cô nương?

Dương Qua nói:

- Chúng mình đối đãi với nhau như thế này, sao cô cứ có ý nghi ngờ tôi? Ngoài cô ra

xưa nay tôi chưa hề thương yêu một người nào khác! Hử! Cô còn nghi tôi với Quách

cô nương...

Tiểu long Nữ nghe chàng nói chưa hết câu đã ngất xỉu trong lòng chàng. Cánh tay của

Dương Qua sự thật là bị Quách Phù chặt mất...

Một đêm kia hai người ở trong Quách phủ, có những lời qua tiếng lại gây gổ nhau.

Đến khi Dương Qua bị chất độc Tình hoa hành hung, nên nằm mê trên giường, Quách

Phù trong cơn nóng giận không thể nén lòng được, bèn chộp lấy thanh kiếm Dương

Qua để trên đầu giường giáng xuống đầu chàng. Dương Qua thấy thanh kiếm báu

chém tới, mà trên giường không còn phương tránh né, nên vội giựt phăng thanh thục

nữ kiếm bên hông của Quách Phù đưa lên đỡ. Nhưng thanh kiếm trong tay Quách Phù

là vũ khí của "Kiếm ma độc cô cầu bại" năm xưa dùng để tung hoành trên chốn giang

hồ nên chém sắt như bùn, bén không thể tưởng tượng được. Còn Thục nứ kiếm tuy

cũng là bảo kiếm, nhưng vẫn bị kiếm nầy chém gãy. Trong lúc giận nóng Quách Phù

đã dùng sức quá mạnh và cũng không ngờ thanh kiếm nầy lợi hại như vậy, nên thu thế

không kịp, thanh kiếm chém đứt thanh Thục nữ rồi cắt đứt luôn cánh tay mặt Duơng

Qua. Nhát kiếm trong cơn nóng giận đã xảy ra một việc tày trời như vậy, Dương Qua

phẫn nộ vô cùng. Quách Phù thấy thế thất phách hồn kinh, vì nàng tự biết đã gây họa

lớn không thể cứu vãn được. Chỉ thấy trên vai Dương Qua máu tuôn lai láng, đến ngất

lịm đi không còn động đậy nổi, một hồi lâu, Quách Phù bỗng òa lên khóc, rồi ôm mặt

đẩy cửa chạy ra. Sau trận kinh hãi, Dương Qua dần dần lấy lại bình tĩnh, đưa tay trái

điểm vào huyệt "Kim thinh" bên tay mặt của chàng, rồi xé một mảnh chăn quấn chặt

vào vai cho cầm máu, rồi rắc thuốc kim thượng vào vết thương, lòng thầm nghĩ: "Nơi

này mình không thể ở lại được nữa, phải lập tức ra khỏi thành nầy, để tìm chỗ dung

thân". Nghĩ như vậy, liền gượng ngồi dậy, vịn theo vách tường lần đi mấy bước. Vì

người còn ít máu nên mặt mày chàng xây xẩm muốn ngất đi. Cũng lúc ấy nghe Quách

Tỉnh hối hả nói:

- Mau, mau! Sao vậy? Máu đã cầm chưa?

Tiếng nói chứa đầy lo lắng. Dương Qua biết, ông đến thăm chàng, trong lòng thầm

nghĩ: "Mình đừng để Quách bá phụ gặp mặt thì tốt hơn". Nghĩ rồi hít một hơi dài

dưỡng khí để lấy sức rồi chạy thẳng ra ngoài.

Lúc ấy Quách Tỉnh bị thụ thương, trong cơn mê man bỗng thấy con gái ông khóc lóc

chạy vào phòng, kể lại nàng đã chặt tay Dương Qua, Quách Tỉnh nghe qua sợ hãi

với lấy then cửa dùng làm gậy chống, cố nén sự đau đớn, vội nhúc nhắc chạy đến

phòng Dương Qua. Chạy chưa đến cửa, thì đã thoáng thấy Dương Qua mình mẩy đẫm

máu, chạy ra cửa. Dương Qua từ trong phòng xông ra, nhận thấy Quách Tinh đang hối

hả bước đến. Chàng hít thêm hơi dài nữa, cắn răng chạy thẳng tới cửa phủ tìm một

con ngựa cưỡi, cho ngựa tiến về phía cửa thành. Những tướng sĩ thủ thành đã thấy tài

nghệ của Dương Qua giúp Quách Tỉnh thoát nạn ở đầu thành hôm trước, nên không

dám cản trở. Chỉ lo mở cửa thành cho chàng ra. Bấy giờ quân Mông Cổ đã thối lui

hơn mấy mươi dặm, nhưng chàng vẫn đề phòng không dám đi đường lớn, cứ lựa ngõ

hẻm lánh đi. Trong lòng chàng thầm nghĩ:

- Trên thân mình đã trúng nọc độc Tình hoa nhưng quá hạn không chết, chừng thế

nầy có lẽ y lời thần tăng thiên trúc đã nói, lúc đã hút chất độc trên Băng phách ngân

trâm của Lý mạc Thu, tức là lấy độc công độc, thì có thể kéo dài mạng sống. Nhưng

đến lúc tái phát khó mà biết trước được vậy bây giờ bị trọng thương, nếu mình đến

Chung nam Sơn để tìm Tiểu long Nữ thì chắc không đủ sức chịu thấu! Chẳng lẽ định

mệnh khắt khe bắt mình phải vùi thân nơi đất khách nầy?

Cuộc đời của Dương Qua luôn luôn sống trong cảnh cô độc khổ đau, ngoài những

ngày nương nhau sống chung với Tiểu long Nữ trong Cổ mộ, thì cuộc sống đầm ấm

sung sướng ấy rất ít. Đến bây giờ mạng chàng đến lúc nguy nan, người thân yêu duy

nhất trong đời cũng bỏ ra đi, chỉ còn thân hình tàn tật lưu lạc trên đất khách quê người

vô định. Lòng Dương Qua lúc này không biết nghĩ gì nữa bất giác lệ trào uớt đẫm trên

má.

Chàng phủ phục trên lưng ngựa, thần trí mê man chỉ cầu xin đừng để Quách Tỉnh tìm

thấy, đừng gặp đại quân Mông Cổ, thì dù có lưu lạc đến phương trời nào cũng được,

tình cờ con ngựa lẫm dẫm đưa chàng đến hoang cốc mà hôm trước chàng đấu võ với

anh em họ Võ. Trong màn đêm, mắt nhìn tứ phía đều là cỏ hoang cao tới gối, tất cả

đều chìm đắm trong im lặng tịch mịch, chàng đoán biết nơi nầy không có người tới,

bèn ngã lưng xuống đám cỏ mà ngủ...

Bây giờ chàng cố gạt bỏ không suy nghĩ đến việc sinh tử gì nữa, nên đối với thú dữ,

rắn độc đều coi nh không có. Suốt đêm ấy vết thương đau đớn vô cùng, chàng bị mê

ngất, lúc nào không hay...

Sáng hôm sau trở mình thức giấc, chợt thấy cách chỗ chàng nằm không đầy một

thước, có hai con rít dài hơn hai thước nằm cứng đơ dưới đất, toàn thân lấm chấm đầy

vết bầm, nhìn thấy rất kinh khủng, trên miệng còn dính đầy vết máu đen. Dương Qua

giật nẩy mình, đứng dậy, chỉ thấy xung quanh hai cơn rít lớn, lại có một dòng máu

khô, lòng thầm nghĩ:

- Như thế nầy vết thương mình ra máu qúá nhiều, nhung trong máu có chất độc Tình

hoa, nên vô tình đã giết chết hai con rít quá lớn nầy. Nếu không có máu vết thương ra

nhiều, thì mình cũng chết bởi nọc độc hai con rít nầy nữa.

Chàng gượng cười nói:

- Thật không ngờ giống máu độc của thằng Dương Qua nầy lại giết chết hai con rít.

Miệng nói, nhưng trong lòng chàng chan chứa đau khổ bi thương, nên ngửa mặt lên

trời thở một hơi dài. Bỗng nghe trên không "oắc, oắc, oắc" vang lên hai tiếng, Dương

Qua nhướng mắt nhìn thì thấy con thần điêu ngẩng cổ ưỡn ngực đứng trên đỉnh núi,

vóc hình cao hơn một thước rưỡi, trên bộ lông tuy xấu xí, nhưng lại thấy một vẻ uy

dũng phi thường, Dương Qua mừng rỡ, tựa như gặp một người thân, liền kêu lớn:

- Điêu huynh, chúng ta lại gặp nhau nữa rồi.

Thần điêu kêu một tiếng lớn, rồi từ trên núi bay thẳng xuống. Vì thân thể quá nặng

nề, đôi cánh quá ngắn nên không bay được, nhưng chạy rất nhanh nhẹn, trong nháy

mắt nó đã tới bên mình Dương Qua. Chim điêu thấy chàng mất một cánh tay nên đôi

mắt đăm đăm nhìn chàng như dò hỏi.

Dượng Qua gượng cười hỏi:

- Điêu huynh, ta đang thọ thương nên đến đây để nương tựa.

Chim điêu nghe chàng nói, nó se sẽ gật đầu rồi xoay mình đi trước, Dương Qua dẫn

ngựa theo sau. Đi không được mấy bước, thần điêu bỗng nhiên quay đầu lại, bất thần

xòe ra một cánh, đập "bốp" một cái lên lưng ngựa. Cái đập cánh sức mạnh như vũ bão,

con ngựa thất kinh hí lên một tiếng, ngã lăn xuống đất chết tươi. Dương Qua gật đầu nói:

- Phải rồi, ta đã đến với điêu huynh, đâu còn phải đi nữa, thì cần chi đến con ngựa

nầy?

Lòng chàng nhận thấy con điêu nầy như có linh tính, nên cố bước theo sau, nhưng chỉ

trong nháy mắt thần điêu đi xa hơn mười trượng, chàng bèn giở khinh công đuổi theo.

Chua đầy một giờ, thì tới thạch động chỗ ngôi mộ của "Kiếm ma độc cô cầu bại".

Dương Qua nhìn thấy cái thạch phần, năm xưa đã tung hoành trên giang hồ chưa hề

gặp một người xứng đáng làm địch thủ thì võ công thần diệu vô cùng, chỉ xem những

hành động của người như vậy thì đủ biết sự tài ba ngạo mạn, khó làm bạn với mọi

người nên chung quy cuộc sống phải tới hoang cốc tịch mịch này mà gởi nắm xương

tàn, rồi rốt cuộc trong sử sách, cũng như truyền thuyết trên giang hồ đều không hề

nghe nhắc đến lai lịch và tiếng tăm của người. Mà sao cũng không để lại một cuốn

sách võ hay một đệ tử nào để truyền nối võ công tuyệt thế ấy? Thân thế của ông nầy

thật đáng sợ đáng mến. Nhưng tiếc thay thần điêu tuy linh tính, mà không biết nói

chuyện thì mình đâu có thể hiểu được sự việc và thân thế của vị tiền bối "Kiếm mà

độc cô cầu bại".

Chàng đứng tần ngần trước thạch động một hồi thì thần điêu đã ngậm hai con thỏ đem

về. Dương Qua nướng ăn một bữa no nê.

Thời gian thấm thoát trôi qua nhiều ngày, vết thương dần dần cũng đã lành, thân thể

từ từ bình phục lại. Mỗi khi nghĩ đến Tiểu long Nữ lòng chàng cảm thấy nhớ nhung

khôn tả, từ điệu đi tướng đứng cho đến tiếng nói giọng cười dường như phảng phất

gần đâu đây. Chàng vốn có tính náo động mà cả ngày làm bạn với thần điêu ở trong

hoang cốc nên thấy rất cô đơn tịch mịch vô cùng.

68. MA KIẾM TRONG VÁCH NÚI

Khi bệnh tình của Dương qua đã bình phục, thấy phía sau động có cỏ cây thanh lịch,

phong cảnh hữu tình, bèn rảo bước dạo chơi, đi trong chốc lát tới một vách núi đứng

sừng sững, như một bức bình phong cực lớn cao đến chọc trời. ở giứa vách núi cách

mặt đất sáu mươi trượng, nhô ra một tấm đá lớn độ bốn năm trượng vuông, thành một

sân dài bằng phẳng, trông thấp thoáng như có một dấu chữ khắc trên đó. Dướng Qua

chướng mắt nhìn thật kỹ thấy hai chữ "kiếm mộ". Chàng lấy làm lạ, tự hỏi:

- Tại sao kiếm cũng có mộ? Không lẽ Độc cô tiền bối bị gãy thanh kiếm quý rồi chôn

ở nơi đây?

Chàng bước lần tới vách núi, thì thấy vách đá láng trơn không mọc cỏ cây, cũng

không có một dấu vết để bám tay được nên tự hỏi:

- Vách đá thẳng trơn như thế nầy, mà người ta làm sao lên để làm "mộ kiếm"?

Nhưng họ cũng là người nhu mình, sao lại leo được chỗ cao khó khăn như vậy được,

chắc có một bí ẩn gì mình chưa tìm thấy. Nếu thật chỉ nhờ võ công mà leo lên được,

thì thật là khó tưởng tượng.

Chàng cố hết sức suy tưởng, và chăm chú nhìn thật kỹ, bỗng thấy từ trên vách đá, một

khoảng cách xa chừng một thì có mọc ra một chòm rêu. Tất cả có chừng năm chục

chòm sắp một hàng thẳng từ dưới thấp lên trên cao. Dương Qua liền tung mình nhảy

vút lên, đưa tay nắm lấy chòm rêu ở chỗ thấp nhất nhất thì vớ ra một nắm đất đen,

quả nhiên sau lớp đất mọc rêu ấy, để lộ ra một cái lỗ nhỏ. Xem như vậy, chàng biết

được xa kia Độc cô dùng vật bén xoi những lỗ nhỏ trên vách đá đã trải qua nhiều

năm tháng, lòng lỗ bụi tấp lâu ngày gặp nhiều sương gió mới sinh ra rêu. Dương Qua

nhân lúc đang rảnh rang, nên muốn thừa dịp lên xem những gì trên ấy, nhưng khổ

thân chỉ còn có một tay, leo trèo thật khó khăn. Chàng tự nhủ:

- Nếu không nổi thì thôi, có ai cười chê gì mà sợ?

Nghĩ xong bèn buộc chặt thắt lưng, rồi nhún mình nhảy cao hơn một trượng, chân trái

đạp nấc thứ nhất, tiếp đến chân mặt đạp vào chòm rêu trên, làm cho đất dẻo bắn ra,

lên cao hơn sáu trượng có một nấc rất lớn để nghỉ chân. Lần thứ nhất chàng leo chừng

bốn chục trượng, thì bị kiệt sức, bèn nhè nhẹ tụt trở xuống, trong lòng thầm nghĩ:

- Mình leo đã hơn bốn mươi mấy nấc rồi, lần nầy phải cố sức thì leo được hết.

Nghĩ như vậy, chàng bèn ngồi xuống đất điều khí dưỡng thần một hồi, đoạn phóng

mình lên, leo tuốt một mạch lên trên thạch đài. Dương Qua thấy tay bị mất, mà khinh

công không hề suy giảm, nên trong lòng cảm thấy an ủi phần nào, nhìn vào tảng đá

to, thì thấy hai bên chữ "mộ kiếm" thật lớn, lại có khắc thêm hai hàng chữ nhỏ: "Kiếm

ma độc cô cầu bại" là vô địch trong thiên hạ được chôn kiếm nơi đây. Than ôi ta đi

khắp giang hồ tứ hải mà chưa gặp người xứng tay đối thủ với trường kiếm ta, nên sắc

bén cũng thành vô dụng.

Dương Qua thấy vừa kinh ngạc vừa ngưỡng mộ, nên hiết được vị tiền bối này rất

khinh thế ngạo vật. Chàng cảm thấy tánh tình của vị này rất thích ý, nhưng còn nói

đến việc đi khắp cả thiên hạ mà không gặp địch thủ, thì danh vọng này càng khó hơn

nữa. Chàng đăm chiêu đứng nhìn hai hàng chữ một hồi lâu, quay đầu nhìn sang phía

nam, thì thấy rất nhiều tảng đá chất thành ngôi mộ lớn, ngôi mộ này xây dựng về phía

sơn cốc, phía trước nhìn thẳng về một dãy không gian vô tận. Dương Qua thầm nghĩ:

- Ta không biết vị tiền bối kiếm ma anh hùng thế nào, nhưng chỉ trông ngôi mộ nầy

thì cũng biệt được văn võ song toàn, hoài bão phi thường của người rồi, nhưng trong

sách và truyền thuyết thì lại không ai nhắc đến tên họ và sự tích. Thật là một việc khó

hiểu. Dương Qua đứng bên mộ kiếm ngửa cổ ngâm một tiếng dài, bốn bề vọng vang

lên không dứt.

Tâm trí chàng muốn xem thử trong mộ có những binh khí như thế nào nhưng lòng

ngưỡng mộ vẫn không dám mạo phạm tiên nhân bèn ngồi ôm gối bên mộ, từng làn

gió thoảng qua làm cho tâm thần sảng khoái vô cùng, cảm thấy lâng lâng nhu thoát

tục.

Bỗng nhiên dưới vách núi vọng lên "gù, gù, gù" ba tiếng. Chàng ló đầu nhìn xuống,

thấy thần điêu đang tung tăng nhảy theo các nấc lỗ vách leo lên. Thân hình nó nặng

nề nhưng mỗi chân nó đều có sức mạnh ngàn cân, nên tung mình lên mỗi cái đều ba

trượng, trong chốc lát thì đã leo lên tới bên Dương Qua.

Thần điêu nhìn qua nhìn lại một hồi rồi khẽ gật đầu, kêu lên mấy tiếng, âm thanh thật

kỳ dị.

Dương Qua cười bảo:

- Điêu huynh chỉ tiếc vì tôi không biết nghe tiếng của loài chim, không hiểu được lời

nói của huynh nên không thể biết được việc sinh tiền của Độc cô tiền bối mà huynh

đã biết.

Thần điêu lại khẽ kêu lên mấy tiếng, rồi đưa đôi chân cứng rắn ra, bươi mạnh những

táng đá trên mộ. Dương Qua chợt thoáng qua một ý niệm:

- à! Võ công của Độc cô tiền bối đã thâm hậu tuyệt chúng đến thế, không lẽ không để

lại một pho kiếm kinh hay quyền phổ gì sao?

Đôi chân của thần điêu bươi không ngừng, chẳng bao lâu những tảng đá trên mộ đều

lật qua một bên, để lộ ra ba thanh kiếm sắp một hàng, ở khoảng giữa thanh kiếm thứ

nhất và thứ nhì, lại có một mảnh đá mặt phẳng và có diện tích chừng hai tấc vuông,

dày không đầy một phân. Ba thanh kiếm và mảnh đá mỏng ấy đều sắp trên một tảng

đá xanh. Dương Qua lấy thanh kiếm thứ nhất ở bên tả lên thì thấy trên tảng đá ở dưới

thanh kiếm có khắc một hàng chữ "thanh gươm nầy rất cứng rắn, lúc thiếu thời dùng

để tranh hùng với quần hùng". Dương Qua thấy thanh kiếm trong tay dài chừng bốn

thước, ánh thép xanh lóng lánh, thật là một lợi khí chưa từng thấy. Chàng nghiêng

mình nhìn mảnh đá mỏng nằm trên thanh kiếm thì thấy khắc hai hàng chữ nhỏ: "Tử vi

nhu kiếm, bước ba mươi tuổi dùng nó, đã lỡ tay chém trọng thương một người nghị sĩ,

thật là điều bất tường nên ném nó trong hang cốc". Đọc đến đây, toàn thân Dượng

Qua bất giác rung động, lòng thầm nghĩ:

- Cánh tay của mình bị Quách Phù dùng thanh kiếm nầy chặt đứt, vì Độc cô tiền bối

đã vứt nó trong hoang cốc rồi rắn độc nuốt vô trong bụng, nhưng thần sai quỷ khiến,

lại để cho mình lấy được. Thật trên đời nầy khó mà có lợi khí như vật nầy tuy lúc

mình đang bị bịnh nhưng đâu có dễ gì Quách Phù chém đứt được cánh tay nếu không

có thanh kiếm ấy?

Chàng đứng tần ngần một hồi lại thò tay lấy thanh kiếm thứ hai, nào ngờ mới xách lên

thì nghe "keng" một tiếng, trường kiếm rơi xuống đá, bật lửa tung tóe ra, làm chàng

giật mình lách sang một bên. Nhưng té ra thanh kiếm ấy bụi bám đầy không có vẻ gì

khác thường nào ngờ đâu lại có một sức nặng lạ thường. Bề dài chừng hơn ba thước

mà nặng hơn sáu chục cân, nên khi xách lên chàng tưởng như những thanh kiếm khác,

thành bị sút tay. Do đó, chàng đặt thanh kiếm trên tay xuống đá rồi cố sức nắm thanh

kiếm thứ hai lên. Kiếm nầy tuy nặng, nhưng đối với công lực của chàng, thì sáu, bảy

chục cân còn nhẹ nhàng và sử dụng dễ dàng, xem lại kỹ lưỡng thấy hai bên mép đều

lụt cả còn mũi kiếm thì tròn tròn như hình bán nguyệt.

Chàng tự nghĩ:

- Kiếm nầy nặng nề như vậy thì làm sao sử dụng cho tiện lợi được? Hơn nữa, hai bên

mép và mũi đều không sắc bén, thì thật là kỳ đời.

Chàng cúi xuống nhìn hai hàng chữ nhỏ khắc trên đá: "Kiếm nầy nặng nề mà không

bén. Trước bốn mươi tuổi nhờ nó mà tung hoành khắp giang hồ". Dương Qua lẩm

bẩm đọc đi đọc lại mấy lượt, trong lòng như có sở ngộ, nhưng nghĩ lại kiếm thuật

trong thế gian, bất cứ một môn phái nào, biến hóa nghệ thuật khác nhau, nhưng vẫn

lấy cái lanh lẹ làm chính, mà thanh kiếm nầy nặng như vậy không biết sử dụng bằng

cách nào được? Một hồi, chàng để trọng kiếm xuống, đưa tay lấy thanh kiếm thứ ba,

lần này chàng bị mắc mưu một lần nữa. Cứ tưởng là thanh kiếm thứ ba chắc nặng hơn

thứ nhất vừa rồi, chàng vận nội công vào tay để nâng kiếm lên. Nào ngờ đâu lại nhẹ

quá nên giơ bổng lên cao. Chàng chăm chú nhìn lại, thì thấy là thanh kiếm bằng gỗ,

qua nhiều năm tháng, kiếm đã hư mục hết cả, nhưng thấy mặt đá dưới kiếm có mấy

hàng chữ nhỏ: "Sau bốn mươi tuổi, thảo mộc túc thạch đều làm kiếm được, từ đấy tĩnh

tâm tu luyện, dần dần tiến đến mức không dùng kiếm mà thắng được người có kiếm".

Dương Qua cung kính để thanh kiếm gỗ xuống về chỗ cũ, thở một hơi dài nói:

- Thần kỳ của tiền bối thật khiến cho ngưười đời khó tưởng tượng được.

Chàng có ý định ở dưới phiến đã chắc có tài liệu sách vở gì chăng bèn đưa tay giở lấy

mảnh đá lên xem, thì thấy đó chỉ là lớp nham thạch của vách núi, không có vật gì

khác, nên ngồi đăm chiêu tìm hiểu.

Bỗng nhiên thần điêu "gù" một tiếng, rồi ngậm thanh kiếm nặng lên, trao vào tay

Dương Qua, kế đó lại "gù" một tiếng nữa, chiếc cánh trái xòe ra, đập mạnh xuống đầu

Dương Qua. Chàng cứ ngồi tần ngần ở đó, cánh của thần điêu đập xuống cách đầu

chàng chừng một thước thì ngừng lại, mỏ lại "gù, gù" lên tiếng. Dương Qua nói:

- Điêu huynh lại muốn thử sức tôi sao? Rảnh rang cũng buồn, thôi để tôi thử với

huynh vài đường nhé!

Nhưng chàng thấy thanh kiếm trong tay nặng quá, không thể múa lanh lẹ được, bèn

để trọng kiếm xuống, lấy thanh kiếm thứ nhất lên. Thần điêu đột nhiên xếp cánh lại,

quay phắt mình đi không ngó ngàng gì tới Dương Qua nữa, như có vẻ bất bình muốn

bỏ Dương Qua đi.

Dương Qua hiểu ý, vội vã cười nói chiều ý chim điêu:

- Huynh muốn tôi dùng trọng kiếm hả? Nhưng tôi võ công quá tầm thường, nếu ở đây

thử sức, thì không phải là địch thủ với nhau, vậy mong huynh nới tay chút nhé!

Nói xong, chàng liền đổi lấy thanh kiếm nặng hơn sáu chục cân ấy rồi khí vận vào

đơn điền, sức chuyển vào tay trái chầm chậm chém một nhát. Thần điêu vẫn điềm

nhiên không xoay mình lại, chỉ vươn thẳng chiếc cánh ra phía sau, đụng vào thanh

kiếm. Dương Qua thấy có một luồng sức mạnh từ mũi kiếm thâu lui về, làm cho

chàng thở không ra hơi, lập tức vận sức chống lại, nghe "ự" một tiếng. Dương Qua

cảm thấy xây xẩm mặt mày, rồi ngất lịm luôn. Chẳng bao lâu Duơng Qua mới tỉnh

lại, thì ngửi có mùi thơm ngát ở miệng chàng tỏa ra và đầu lưỡi còn thơm vị ngọt

ngào, tựa nh trong cơn mê có ăn một món gì lạ lùng lắm vậy. Chàng mở bừng mắt

ra, thì thấy thần điêu miệng ngậm một quả chín đỏ tươi sắp đút vào miệng chàng.

Dương Qua nhai mấy miếng, cảm thấy mùi vị nó thơm ngon ngào ngạt, nh mùi vị đã

cảm thấy ăn trong khi hôn mê vậy. Dương Qua hít vào một hơi dài, thì nghe lồng

ngực hô hấp dễ dàng, liền đứng lên múa động tay chân thấy sức mạnh lại có một phần

tăng lên và tinh thần lại sảng khoái vô cùng chàng lấy làm lạ:

- Theo lẽ thường thí võ, nếu gặp đối phương mạnh sức đánh mình ngã nghẹt thở, xỉu

đi, dù không bị trọng thương, ít ra toàn thân cũng bị đau nhức, chứ không lẽ mấy quả

chín đỏ tươi nầy lại là thuốc thần để trị những vết thương sao?

Chàng khom lưng nhặt thanh trọng kiếm lên, thì nghe như nhẹ đi một, phần. Cũng

trong lúc ấy, thần điêu "gừ" lên mấy tiếng rồi xòe cánh đập mạnh xuống đầu Dương

Qua một cái. Chàng không dám đỡ nữa vội xoay mình lách đi, thần điêu liền bước tới

một bước, tung đôi cánh đánh mạnh một lượt, sức mạnh cực kỳ mãnh liệt. Dương Qa

biết nó không có ác ý, nhưng nghĩ lại thần điêu tuy có linh dị mà vẫn là con vật, thân

nó có thần lực, khi dùng đôi cánh công kích, thì khó điều khiển sức mạnh để nhân

tình được. Nếu nó quét trúng một cái là từ đây rơi xuống, thì còn gì là tính mạng?

Mắt nhìn đôi cánh quét tới, chàng vội bước lui hai bước, chân trái đá động vào mé đá

rồi! Thần điêu cũng không chút dung tình, cái đầu to tướng vươn tới, chiếc mỏ cong

mổ xuống đầu chàng. Dương Qua hết đường lui tránh, nên sợ hãi đưa kiếm lên đỡ,

nghe "phập" một tiếng, chiếc mỏ chim điêu trúng thanh kiếm. Dương Qua cảm thấy

chấn động cả cánh tay, trọng kiếm như muốn tuột khỏi tay, nhưng thấy thần điêu lại

quét mạnh cách mặt thẳng vào đôi chân chàng. Dương Qua tung mình nhảy cao hơn

một trượng, vượt qua đầu thần điêu, lướt vào giữa thạch đài, nhưng sợ nó tấn công,

liền tung ra một kiếm, cũng nghe "phập" một tiếng lại cũng chạm phải cái mỏ ngàn

cân đấy nữa. Dương Qua vừa thoát qua mấy đòn ác liệt, nên mồ hôi toát lạnh cả

người, vội kêu lên:

- Điêu huynh! Đừng có xem tôi như Độc cô đại hiệp mà tấn công dữ như vậy.

Thần điêu kêu gừ gừ hai tiếng, không áp đảo nữa. Dương Qua tình cờ nói lên câu

"xem tôi như là Độc cô đại hiệp" nên thầm nghĩ:

- Thần điêu chắc ở bên Độc cô tiền bối đã lâu, nên bước đi tiến thoái như một tay võ

nghệ cao cường vậy. Có lẽ là Độc cô tiền bối một mình buồn tẻ, phải tập nó để làm

đối thủ thí võ cùng nhau. Nhưng ngày nay Độc cô tiền bối chết đã lâu, xương đã tan,

võ học tuyệt thế cũng theo người mà mất đi, thì may ra trên mình thần điêu không

chừng mình có thể tìm lại được một chút dị phong của vị tiền bối đại sư này.

Chàng nghĩ đến đây, trong lòng đầy hy vọng, nên nói với thần điêu:

- Điêu huynh, cẩn thận nhé, thế kiếm của tôi tới nữa đây.

Vừa dứt lời, chàng vung kiếm chém thẳng vào ngực thần điêu. Thần điêu cánh trái

xòe nhanh ra đỡ, cánh phải đập tới tấn công. Suốt ngày hôm ấy, Dương Qua lo tập

luyện tỷ thí với thần điêu trên sân đá. Nhưng vì sức lực của thần điêu quá mạnh, cứ

một cánh quét qua, sức gió như vũ bão, như một chưởng phong mấy chục vị cao thủ

hợp lại, rồi đánh ra một lượt nên những môn "Tinh chân kiếm pháp", "Ngọc nữ kiếm

pháp" là sở trường bình sinh của Dương Qua, mà bây giờ không dùng được một thế

nào, chỉ có lấy sự lanh lẹ để đánh nó mà thôi.

Đến tối, người và điêu cùng trở xuống sơn động, Dương Qua lao nhọc suốt ngày

nhưng lạ thay không cảm thấy chút mệt mỏi, mà tinh thần lại sảng khoái hơn ngày

thường. Chàng mới biết rõ công lao chăm sóc của thần điêu đã cho ăn những trái cây

quý báu, nên thân thể mới thêm sức lạ thường thế này.

Sáng hôm sau chàng thức dậy, thì thấy chim điêu đã ngậm sáu quả chín để bên mình

chàng. Dương Qua ăn xong, ngồi yên điều khí, có những mạch huyệt trước kia không

chuyển công được bây giờ bỗng nhiên lưu thông trở lại. Dương Qua sung sướng vô

cùng, lớn tiếng nói:

- Điêu huynh! Nay mình cùng lên thạch đài thí võ nữa chứ?

Chim điêu khe khẽ gật đầu.

Chàng tung mình nhảy phắt dậy, xách trọng kiếm cùng thần điêu ra đi. Ngày hôm

qua, chàng đi mình không mà lên sân đã thấy khó khăn, nhưng ngày hôm nay trên tay

xách theo trọng kiếm nặng hơn sáu chục cân, lại leo lên một cách nhẹ nhàng vô cùng.

Dương Qua tự biết sau một ngày rèn luyện, công lực đã tiến lên rất nhiều nên khi giao

đấu với thần điêu, bớt được một mối lo sợ phập phồng. Tuy vẫn còn tránh né, nhưng

dưới đôi cánh lợi hại vô cùng của thần điêu, thỉnh thoảng chàng có thể trả được nhiều

đòn hiểm độc.

Cứ như thế tập luyện được mấy ngày, Dương Qua sử dụng trọng kiếm trở nên lẹ làng,

mỗi đường gươm, mỗi nhát chém đều thấy đúng theo ý muốn. Chàng vốn thông minh,

nên mấy tháng trước đã ra công suy nghĩ nhiều ngày dựa theo võ công Toàn Chân

phái và Cổ mộ phái, để tự khai thác ra một đường lối mới, lập được một phái võ học

khác biệt cũng không thua sút gì các phái võ lâm khác. Nhưng hiện giờ sức lực chẳng

đặng tăng, mỗi ngày tay dùng trọng kiếm đấu với thần điêu, càng ngày càng thấy rõ

kiếm thuật lúc trước nay đã biến hóa vô cùng, nên vừa đánh với thần điêu vừa suy

nghĩ những đường đi, nước bước của kiếm thuật. Những thế rất dễ dàng đơn giản thì

đối phương nhiều lúc bối rối. Lúc này Dương Qua chỉ còn có một tay, nhưng ngày

nào cũng được ăn những quả chín đỏ tươi không biết thần điêu ở đâu hái về, tự nhiên

sức mạnh tăng lên mãi, đến ngày sau, lại có thể chống đối lại thần lực của thần điêu,

nên nhát kiếm tung ra tiếng gió vù vù, trong lòng tự thấy an ủi vô cùng. Nhưng thật ra

chàng nhờ có những căn bản học lúc trước, chứ hôm nay mới kỳ ngộ, đâu có thể đạt

đến mức nầy. Vì thần điêu là một con vật không biết nói, vả lại nó cũng không rành

bao nhiêu võ công. Chỉ nhờ có một sức mạnh và theo Độc cô cầu bại đã lâu ngày,

thường giao đấu với ông nên mới biết được ít phép thuật tấn thoái mà thôi.

Sáng hôm nay thức dậy, thấy bầu trời mây đen, mưa đổ như vỡ đê. Dương Qua hỏi

thần điêu:

- Điêu huynh! Hôm nay trời mưa to như thế, chúng ta còn luyện võ nữa không?

Thần điêu đưa mỏ, ngoạm áo chàng kéo đi thẳng về phía Đông Bắc được mấy bước,

rồi thả áo ra, nó cất bước đi trước. Chàng tự nghĩ:

- Chắc ở hướng nầy còn vật gì kỳ lạ nữa chăng?

Nên cầm trọng kiếm dầm mưa đuổi theo, đi được mấy dặm, bỗng nghe "ầm ầm"

những tiếng không ngớt vang lên. Càng đi tới tiếng vang càng náo động, hiển nhiên là

tiếng nước đổ? Dương Qua thầm lo:

- Cơn mưa như thế nầy, nước mưa trên núi tuôn xuống mạnh, mình cần phải cẩn thận.

Qua khe núi hẹp, tiếng nước đổ nghe bùng tai, thấy giữa hai ngọn núi cao một thác

nước như con bạch long đang cuồn cuộn đổ xuống trút vào một khe núi lở ầm ầm như

sấm sét. Trong dòng nước chảy xiết, lại mang theo những tàn cây đá lớn từ trên núi

cuốn nhào xuống. Bây giờ mưa lại càng lớn, quần áo Dương Qua ướt hết, bốn bề hơi

nước mit mù, tạo thành một cảnh tượng rùng rợn, chỉ thấy thác nước chảy quá mạnh,

trong lòng đầy lo sợ.

Thần điêu đưa mỏ kéo áo Dương Qua đi tới bên thác nước, như muốn đẩy chàng

xuống. Dương Qua kinh hãi hỏi:

- Xuống dưới làm gì? Nước chảy xiết như thế này, bước xuống là trôi đi mất còn gì?

Thần điêu buông chiếc áo Dương Qua, ngửa cổ gáy dài, rồi nhảy vụt xuống nước, đôi

chân đứng trên một tảng đá to giữa dòng. Đoạn nó dùng cánh trái quạt tảng đá một

cái, làm cho tảng đá tung ngược lên thượng lu. Nước chảy mạnh đưa tảng đá đổ

xuống. Thần điêu chờ cho tảng đá trôi xuống thì lại quạt thêm một cái đánh trở lên.

Cứ như thế thần điêu đánh mãi tảng đá đến sáu bảy hiệp mà tảng đá vẫn chưa thể trôi

qua khỏi mình chim điêu được. Đợi đến lần thứ tám, tảng nham thạch vừa cuộn

xuống, thần điêu vẫy cánh đập mạnh qua một cái, nham thạch lìa khỏi mặt nước bay

bổng lên bờ bên phải. Thần điêu cũng tiếp nhảy lên đứng bên Dương Qua.

Dương Qua thầm đoán:

- Thuở xưa mỗi lúc mưa to, "Kiếm ma độc cô cầu bại" đến chỗ nầy để luyện kiếm,

còn mình thì đâu có sức mạnh phi thuờng ấy mà dám thử liều?

Lòng thành đang phân vân thì thần điêu bỗng tung cánh nghe "soạt" một tiếng, phất

trúng dưới lưng Dương Qua. Dương Qua trong lúc sơ ý nên rơi thẳng xuống khe,

chàng phải cắn răng vận hết sức xử thế "Thiên cầu tục" đứng thẳng trên tảng đá to.

Đôi chân chàng vừa chấm vào nước đã bị loạng choạng, thầm nghĩ:

- Độc cô tiền bối là người, mình cũng là người, mà trước kia tiền bối đã đứng được,

sao nay mình lại không đứng được?

Nghĩ như thế, chàng bèn tụ khí ngưng thở, lo sức chống lại với sức mạnh của thác lũ.

Nhưng việc đưa kiếm đỡ những tảng đá trôi theo nước cuốn dội xuống thật là việc khó

vô cùng. Đứng đó chừng hơn một tiếng đồng hồ, sức lực của Dương Qua đã dần dần

kiệt quệ, chàng bèn chống kiếm xuống tảng đá, nhảy vọt lên bờ. Chàng đứng trên bờ

chưa kịp thở mấy hơi, đã bị thần điêu đưa cánh đập xuống. Lần này Dương Qua đã đề

phòng, nên không bị nó quét trúng, mà chỉ tự động nhảy xuống khe. Chàng thầm nhủ:

- Chim điêu thật là một ông thầy tốt, một người bạn quý, nên ép mình luyện công

không chút bê trễ . Nó đã có mỹ ý vậy, thì mình chẳng lẽ không cầu tiến hay sao?

Chàng cố sức trầm trí đứng thật vững, một hồi lâu, dần dần tìm được môn ngưng khí

để dung sức nước mỗi lúc một lớn thêm ngập lên tới ngực chàng. Chàng lại thấy

chống chọi còn dễ hơn trước. Một lúc lâu nước cuộn chảy lên tới ngực lần lần lên tới

miệng, Dương Qua thầm lo:

- Tuy mình đứng đã vững, nhưng nước đang lớn mạnh, đứng mãi ngập nước chết sao?

Chàng vội nhún mình nhảy phắt lên bờ, nào ngờ thần điêu đứng trên bờ thấy chàng

vừa nhảy lên, không để cho chân chàng chấm đất, đã quạt cánh, Dương Qua vội đưa

kiếm gạt mạnh, lại bị sức mạnh của đôi cánh quét qua nghe "tũm" một tiếng thì chàng

bị trầm mình xuống giữa dòng nước rồi.

Đôi chân chàng vừa đạp tới nham thạch dưới lòng khe nước thì nước đã ngập quá đầu,

một luồng nước vọt thẳng vào miệng. Nếu chàng vận khí đưa ngọn nước ra khỏi

miệng, thì nội lực tăng lên, ắt chân bị bổng lên. Chàng liền ngưng khí thủ trung, nín

thở một hồi lâu, nhún chân một cái, nhảy lên mặt nước miệng bắn ra một làn nước rồi

trầm nữa xuống lòng khe, nhướng cho nước lũ vượt qua đầu. Thân chàng như một cây

gậy chống ở giữa dòng, đứng vững trong nước chảy mạnh mà không hề lay động.

Lòng chàng trở lại yên tĩnh, thầm nghĩ:

- Chim điêu muốn mình đứng vững trong nước lũ, mà bây giờ mình đứng đã vững rồi,

thì thử dùng kiếm để phá như nó khi nãy coi! Chớ để nó khinh mình sao?

Dương Qua vốn xưa nay có tính háo thắng, nên trước mặt một con vật cũng vẫn tự ái.

Vừa lúc sơn thạch và cành cây theo nước trôi xuống, chàng bèn đưa kiếm chặt ngang

và phất ngược lên, làm cho nham thạch tung ngược lên thượng lưu còn cành cây vút

bổng lên bờ. Hai nhát kiếm đầu chàng thấy có hiệu lực, trong lòng đầy niềm hy vọng,

vì thế tay chân chàng trở nên linh hoạt vô cùng. Chàng không ngớt tay vừa chém vừa

đâm, luyện mãi cho đến khi gân cốt sức lực đều kiệt quệ, chân bước xiêu vẹo, mới

tung mình nhảy lên bờ.

Chàng sợ thần điêu lại đuổi chàng xuống nữa mà bây giờ đôi chân đã mất sức nếu

không nghỉ ngơi một chút thì khó chống lại với áp lực của thác lũ. Quả nhiên thần

điêu vừa thấy chàng từ dưới nước tung lên lập tức giương đôi cánh đánh ra. Dương

Qua vội la lên:

- Điêu huynh! Muốn tôi chết sao?

Chàng bèn đứng dưới khe một hồi nữa nhưng chàng kiệt sức không thể đứng vững.

Chàng vội nhảy lên bờ, thần điêu cũng giơ cánh quạt tới đỡ. Dương Qua không biết

nói sao hơn nên hồi trọng kiếm chém trả mấy nhát, chỉ đánh ba đòn thần điêu đã phải

lùi một bước. Chàng vội nói:

- Xin lỗi điêu huynh!

Rồi chém một nhát nữa nghe "soạt soạt" mấy tiếng, khí thế trở nên khác thường. Thần

điêu thấy mũi kiếm đến quá mạnh không dám đón lại vội tránh lui. Dương Qua thấy

sự luyện kiếm chỉ hơn nửa ngày trong nước lũ mà sức mạnh tăng lên rất nhiều, lòng

phấn chấn vô cùng tự nhủ:

- Sức tăng thêm như thế này dẫu có luyện trong mười ngày nửa tháng chưa chắc đã

được nay chỉ có luyện nửa ngày trong nước lũ mà được như thế này là nhờ những quả

chín đỏ tươi thần điêu cho mình ăn hàng ngày có nhiều chất bổ gân cốt.

Dương Qua ngồi nghỉ trên mé bờ một hồi thấy trong người khoan khoái. Lần này thần

điêu chưa thúc giục chàng đã tự động nhảy xuống khe tiếp tục luyện kiếm. Tập mãi

hơn ba tiếng đồng hồ chàng mới cảm thấy mệt. Lần này chàng nhảy lên thì không

thấy thần điêu ở đó nữa, chẳng biết nó đã đi đâu rồi. Mắt nhìn cơn mưa dần dần nhẹ

hột, lòng chàng nao nao nghĩ:

- Nếu để ngày mai trở lại thì sức nước yếu mất, bây giờ mình cũng chưa mệt gì mấy,

nên tập luôn một hồi nữa đã.

Nghĩ xong, chàng vội tung chân nhảy xuống khe, tung kiếm đánh tảng đá to đang

tuôn mạnh xuống thác. Nháy mắt tảng đá đã vụt lên trên thác rồi. Cứ như thế chàng

tập mãi và lúc này các vật to lớn đến đâu cuốn trôi theo nước cũng bị chàng đón đỡ

được dễ dàng.

Khi Dương Qua nhảy lên thì thấy trên bờ đã để sẵn bảy quả chín. Chàng cảm kích ơn

huệ của thần điêu vô cùng. Chàng ăn một hơi hết bảy quả chín rồi lại lo nhảy xuống

khe luyện kiếm nữa. Tập mãi đến trời tối, chàng cảm thấy càng luyện, sức lực càng

tiến, không còn biết mệt nữa, và tinh thần lại sảng khoái vô cùng. Suốt đêm ấy chàng

không ngủ. Tâm thần minh mẫn, chàng tìm được rất nhiều kiếm lý trong dòng nước,

nào là chém xuôi, đâm ngang, gọt dọc v.v...

Đêm đã khuya, mưa lớn vừa dứt hột, nền trời bao la, ánh trăng vằng vặc. Dương Qua

nghĩ:

- Tâm trí đã thông kỳ lý, tay tinh kỳ thuật thế này là kiếm pháp của trọng kiếm đã

lĩnh hội được hết, không cần luyện nữa, mình cứ theo lời của Độc cô tiền bối viết

trong một kiếm, thì mai sau nội lực tăng lên, vả thanh kiếm trên tay sẽ thấy nhẹ dần

di, tới sau cùng mình dùng kiếm gỗ cũng như dùng kiếm nặng. Thật lúc nầy mình

mới thấy lời của Độc cô tiền bối là thâm thúy. Đúng là từ chỗ nông cạn đến chỗ cao

thâm, do sự tu luyện của mình! Vậy kiếm thuật tập đến đây như đã hết. Dương Qua

yên lặng rảo bước theo bờ suối, ngước mặt nhìn trăng thanh, lòng tưởng niệm đến

Độc cô tiền bối đã để lại thanh trọng kiếm nầy. Nhưng nếu không nhờ Thần điêu ở

một bên giúp sức chỉ dẫn, và không nhờ ăn những quả chín đỏ tươi ấy, thì nội lực đâu

có tăng lên, để có thể tìm thấy kiếm thuật nầy ở trên thế gian? Độc cô cầu bại tự ý tìm

được những bước thần tiên trong kiếm thuật, thật là thông minh, tài trí lạ thường!

Chàng đứng yên lặng bên dòng nước để hoài niệm tiền nhân, lòng vừa mến phục, vừa

biết ơn, vừa thương tiếc. Chàng thoáng ra một ý nghĩ:

- Mình tuy đã tìm ra được bí quyết của kiếm thuật, nhưng mãi ở chốn hoang vu nầy,

thì có ích gì? Nếu chất độc của "Tình hoa" bộc phát, rồi ngày mai mình chết đi thì

kiếm thuật tinh vi nầy lại phải tiêu tan như làn khói?

Dương Qua nghĩ đến đây, hùng tâm bốc lên: nên dùng thanh kiếm này đánh cho quần

hùng trong thiên hạ đến tơi bời thúc thủ rồi mới chết cho thoải mái. Chàng đưba tay

trái rờ vào bên phải lại nhớ đến cảnh rùng rợn khi cánh tay mặt chàng bị rớt trên

giường nơi Quách Phù máu nóng liền sôi lên chàng thầm nghĩ:

- Con nhỏ này ỷ cha nó là đại hiệp đương thời, mẹ nó là bang chủ Cái Bang nên xem

mình không được nửa con mắt. Còn mình lúc nhỏ phải ở nhà nó chịu biết bao nhiêu

điều miệt thị của mẹ con nó. Mình nói dối để gạt anh em họ Võ sự thật cũng là muốn

tốt. Nếu anh em họ Võ có một nguời vì nàng mà chết đi như thế không phải là tội của

nàng sao? Hừ thế mà nó lại thừa lúc mình bệnh, chặt mất cánh tay, thù này mình

không trả thì nó sẽ khinh rẻ suốt đời.

Dương Qua xưa nay vốn trọng ơn ghét oán, bụng dạ không rộng rãi mấy, bây giờ vết

thương đã lành, võ công lại tiến rất nhiều nên tâm tư đều để hết vào việc trả thù. Lòng

quyết định chàng vội bước trở về sơn động nói với thần điêu:

- Điêu huynh! ơn đức của điêu huynh suốt đời tiểu đệ không dám quên. Nhưng hiện

nay tiểu đệ còn bao nhiêu việc ân oán trên giang hồ chưa trả xong. Ngày sau chúng ta

cùng chung sống. Còn cây trọng kiếm của Độc Cô tiền bối xin cho tiểu đệ tạm dùng

trong những ngày xa cách điêu huynh.

Nói rồi chàng đến lạy mộ đá của Độc cô cầu bại, đoạn quay đầu bước ra thung lũng.

Thần điêu đưa Dương Qua ra ngoài cửa. Một người, một chim cúi đầu tạm biệt.

Thanh kiếm nặng nề vô cùng, nếu giắt vào mình thì dây buộc lưng không chịu nổi.

Dương Qua tìm được ba sợi dây mây già ở bên núi quấn nhập thành một, buộc chặt

trọng kiếm vào lưng, rồi giở khinh công, chạy thẳng về thành Tương Dương.

Khi đến ngoài thành mặt trời gần lặn, chàng thầm nghĩ:

- Ban ngày hành sự không tiện, vả lại một đêm mình không ngủ thì sức khỏe bị sút đi.

Quách phu nhân và Quách bá bá đều là tay cao thủ mà hôm nay chắc cơ thể đã bình

phục, nếu gặp mình sẽ có một trận ác chiến.

Nghĩ như thế, chàng liền vào bãi tha ma ở ngoài thành ngủ một giấc, đoạn điều khí

vận công, rồi hái một mớ trái rừng ăn cho đỡ bụng, đợi hết canh một mới chạy thẳng

tới thành Tương Dương.

Thành Tương Dương hùng vĩ vô cùng! Ngày trước Kim Luân Pháp Vương cùng Lý

mạc Thu từ trên đầu tường nhảy xuống, còn phải dùng người lót chân mới dám lướt

qua. Bây giờ từ chân tường leo lên thật là một việc rất khó. Khi nằm ngoài bãi tha ma,

Dương Qua đã nghĩ được kế leo thành theo thuật của Độc cô tiền bối dùng để leo lên

vách núi nên lòng thấy khoan khoái vô cùng. Chàng đi tới cửa thành tìm một nơi vắng

vẻ, chờ những tên quân canh trên thành đi cách xa, mới tung mình nhảy lên, rồi dùng

trọng kiếm chém một nhát vào thành. Trọng kiếm tuy không bén nhọn, nhưng thế

kiếm quá mạnh, tường xây bằng đá hoa cưương thật dày chỉ nghe một tiếng vang lên

tường thành đã vỡ ra một lỗ bằng nắm tay. Dương Qua không ngờ một nhát kiếm đã

thành quả như vậy, lòng vừa lo vừa mừng, chàng nhảy lên bám chân trái vào chỗ vỡ,

đưa tay chém thêm một nhát kiếm nữa. Lần nầy chàng ra tay nhẹ hơn để khỏi gây ra

tiếng động làm cho binh tuần hay được. Cứ nh vậy, chàng leo lên từng bước, khi còn

cách đầu thành ba bước chàng liền giở thuật "Bích hổ du tường" leo lên núp vào chỗ

bóng tối. Tường thành có nấc thang để xuống. Dương Qua đợi khi quân canh đi qua

rồi, lẹ làng nhảy xuống thành, chạy thẳng vào Quách phủ.

Sau khi ăn qua những quả hồng nội lực chàng đã tăng nhiều, làm cho cơ thể nhẹ

nhàng, khinh công thâm hậu hơn xa. Tuy nhiên chàng biết võ công của Quách Tỉnh

thật phi thường, chỉ một môn "Giáng long thập bát chưởng" thì đã vô địch trong thiên

hạ rồi, cộng thêm "Đả cẩu côn pháp" biến hóa huyền ảo của Hoàng Dung nữa. Chàng

vị tất đã thắng nổi, vì thế chàng không dám sơ ý, cẩn thận leo lên tường bước nhẹ vào.

Dương Qua đã sống lâu ngày trong Quách phủ, nên đường đi lối vào rất quen thuộc.

Bước vòng qua vườn hoa, chàng thấy phòng ngủ của chàng khi trước, chàng bèn đi tới

áp tai vào cửa sổ nghe ngóng và biết trong ấy không có người nên nhẹ tay xô cửa

bước vào. Trong đêm tối mắt chàng nhìn rõ như ban ngày! Chỉ thấy giường màn, bàn

ghế, vẫn y nhu cũ có khác là mền gối trên giường đã cất hết. Chàng đặt mình ngòi

xuống giường, nhớ lại cánh tay đã rơi, lòng vừa căm tức, vừa bùi ngùi!

Tướng mạo Dương Qua vốn tuấn tú, tính tình lại có chút phong lưu, mặc dầu chàng

đối với Tiểu long Nữ vẫn một lòng chung thủy nhưng lại có rất nhiều thiếu nữ trẻ đẹp

thấy chàng thầm mơ trộm ước như Trình Anh, Lục Vô Song, Hoàng nhan Bình, Công

Tôn Lục Ngạc. Bấy giờ chàng sờ tay lên thành giường thấy lúc này đã trở thành người

tàn phế, nếu gặp lại những thiếu nữ đa tình ấy nét mặt họ sẽ có những nét thương hại,

hay khinh bỉ?

Chàng thấy mình võ công tuy tinh nhuệ nhưng cũng chỉ như một con quái vật mà thôi.

Trong bóng tói, tâm tư chàng rào rạo, nghĩ đến những việc vừa qua, bất giác thở dài

lẩm bẩm:

- Chỉ có mình Tiểu long Nữ là chung thủy. Đừng nói chi mất chỉ một cánh tay, dù là

tứ chi đều mất nàng vẫn một lòng thương yêu mình, không hề đổi dạ.

Chàng vừa nghĩ đến đây, bỗng nghe phía Đông có tiếng cãi lẫy. Chàng nghe rõ tiếng

nói đó chính là Quách Tỉnh và Hoàng Dung. Chàng tò mò, muốn nghe thử họ cãi việc

gì, bèn lẻn đến phòng ngủ của vợ chồng Quách Tỉnh. Bỗng nghe Hoàng Dung lớn

tiếng nói:

- Rõ ràng hai nguời ấy ẵm Tường nhi đến tình cốc, đổi thuốc giải độc, thế mà anh cứ

bảo thằng Dương Qua là người tốt. Con bé mình mới sinh ra chưa được một giờ đồng

hồ thì đã rơi vào tay họ, làm sao toàn mạng được?

Nói tới đây, lời nghẹn ngào, rồi nức nở khóc. Quách Tỉnh nói:

- Qua nhi không phải hạng người đó. Vả lại, nó đã nhiều lần cứu anh và em. Nếu

chúng ta dùng tánh mạng của Tường nhi đổi lấy tánh mạng Qua nhi cũng không đáng

tiếc.

Hoàng Dung nghẹn ngào nói:

- Anh dứt tình chứ em thì không!

Trong phòng bỗng nổi lên tiếng khóc của trẻ con, tiếng khóc át cả lời cãi vã giữa hai

người. Dương Qua lấy làm lạ tự nhủ:

- Đứa con gái ấy đã được mình giật lại tại tay Lý mạc Thu đem về đưa cho Quách bá

mẫu rồi, sao Quách bá mẫu lại nói không toàn mạng?

Dương Qua đưa mắt nhìn vào khe cửa, thấy Hoàng Dung đang bồng một đứa trẻ, đứa

trẻ nầy mặt vuông tai lớn, làn da đen thui. Dương Qua đã bồng bé Quách Tường trong

thời gian rất lâu, nên thấy đứa bé nầy không giống bé Quách Tường. Hoàng Dung

xoay lưng qua phía cửa sổ, sẽ ru đửa trẻ rồi nói với Quách Tỉnh:

- Mình sinh song thai, nhưng bây giờ chỉ còn có một đứa con trai, đứa con gái thì bị

họ bắt mà anh vẫn điềm nhiên!

Thật ra Hoàng Dung có một bào thai hai đứa, đứa thứ nhứt là đứa con gái tên Quách

Tường đứa thứ hai là trai tức là Quách phá Lỗ. Đứa con gái bị Tiểu long Nữ ẵm đi

mất rồi, chỉ còn một mình đứa con trai.

Quách Tỉnh dạo gót trong phòng nói:

- Em Dung! Lúc thường em vẫn có tính dễ dãi, tại sao lúc nhắc đến việc con gái là em

lại khó tính như vậy? Bây giờ quanh vụ khẩn cấp, anh đâu có thể vì đứa con mà bỏ

thành Tương Dương được?

Hoàng Dung nói:

- Em đích thân tìm con một mình, anh lại không cho. Không lẽ để đứa con mình phải

chết oan uổng như vậy sao?

Quách Tỉnh nói:

- Cơ thể của em còn yếu đuối, làm sao đi được?

Hoàng Dung tức tối nói:

- Cha nó thì không thương con, mẹ nó thì đang đau như vậy thì có cách gì bây giờ?

Dương Qua đã chung sống với vợ chồng Quách Tỉnh nhiều năm trên đảo Đào hoa,

thấy hai người thương yêu nhau rất mực, chưa hề có một tiếng hờn trách nhau. Bây

giờ họ lại nghiến răng cau mày, lời nói không chút nhường nhịn nhau, cũng chỉ vì bé

Quách Tường bị kẻ nào ẵm trộm mất.

Hoàng Dung vừa khóc vừa kể, Quách Tỉnh lại nghiêm sắc mặt, không ngớt đi qua đi

lại đếm bước trong phòng. Một hồi sau, Quách Tỉnh nói:

- Đứa con gái nầy dầu có tìm được em cũng chiều chuộng nó như Phù nhi, để rồi

dung túng nó hại người, thì thật chẳng ích gì.

Hoàng Dung lớn tiếng nói:

- Phù nhi lỡ phạm tội như vậy vì nó quá thương em nó, nên mới lỡ tay như vậy. Việc

đó cũng lẽ thường. Nếu gặp tôi... Dương Qua không trả bé Tường cho tôi thì cả cánh

tay trái của nó tôi cũng chặt luôn.

Quách Tỉnh gắng giọng hỏi:

- Em Dung! Em nói cái gì?

Rồi chàng giơ tay đập xuống bàn nghe "bành" một tiếng, cây ván tung bay, chân bàn

to tướng đã bị bể mất một nửa. Đứa trẻ trên tay Hoàng Dung đang khóc, bỗng nghe

tiếng đập bàn ấy, nó giống người nín mất.

Sau tiếng đập bàn của Quách Tỉnh, Dương Qua chợt thấy bên cửa sổ phía tây thoáng

qua bóng đen, có một bóng người xuống rón rén lui ra.

Dương Qua thầm nghĩ:

- Thế nầy, ngoài mình ra, lại có người khác cũng rình nghe nữa. Họ là ai vậy?

Chàng bèn giờ khinh công nhón gót đuổi theo ngời ấy, thì thấy thân người ấy ẻo lả

duyên dáng đúng là Quách Phù. Dương Qua cơn hận nổi lên, lẩm bẩm:

- Tốt lắm! Ta đang đi tìm mi đây!

Bỗng nghe tiếng Hoàng Dung nói:

- Anh ra ngoài đi, đừng la lối con nó giật mình!

Rồi ánh đèn trong phòng Hoàng Dung cũng tắt rụi. Mọi người đều chìm lặng trong

bóng tối.

Dương Qua biết Quách Tỉnh sắp đi ra, vội tung mình nhảy ra sau giả sơn, vòng bước

tới phòng Quách Phù, rồi nhảy vọt lên cành cây ẩn mình trong lá. Một hồi lâu, quả

nhiên thấy Quách Phù trở về phòng. Con thị tỳ săn sóc cho Quách Phù thấy nét mặt

nàng khác thường, nhưng không dám hỏi gì nhiều, chỉ nhỏ nhẹ nói:

- Đêm đã khuya rồi, mời cô nương lên giường yên nghỉ!

Đoạn thị tỳ lui ra ngoài khép cửa lại.

69. TÁI NGỘ TRONG KỲ LẠ

Dương Qua núp trên cây nghe Quách Phù thở dài não ruột. Chàng thầm trách:

- Mi mà buồn bực gì nữa? Mi đã chặt mất của ta một cánh tay, thì ta có quyền chặt lại

cánh tay của mi, nhưng vì ta là nam tử không đi đánh với gái hư. Nếu bây giờ ta

xuống đánh mi thật dễ như trở bàn tay, nhưng không đúng hành vi của một kẻ đại

trượng phu.

Chàng ngồi trầm ngâm một lúc, nẩy ra một ý:

- Hay! Để mình la to lên, cho Quách bá phụ nghe tiếng mà thôi. Ông ta là một vị Thái

sơn Bắc đẩu trong võ lâm, mình hạ ông ta trước, rồi hãy trị con nhỏ này. Làm việc

kinh khủng như vậy thì ai dám chê mình?

ý niệm này vừa thoáng qua, thì chàng đổi ý:

- Nhưng võ công của Quách bá phụ đến mức tinh vi trác tuyệt, mình dễ gì thắng nổi

ông ta? Nhưng chẳng lẽ mình bỏ qua mối thù nầy sao?

Chàng sờ vào cánh tay bị cụt, máu nóng sôi sùng sục, vừa toan nhảy xuống báo hận

cừu, bỗng nghe có tiếng chân người đi thình thịch. Tiếng chân bước tới thật vững

vàng, chính là Quách Tỉnh. Ông đi tới phòng con gái của ông, đưa ngón tay búng nhè

nhẹ vào cửa, rồi nói:

- Phù nhi, con đã ngủ chưa?

Quách Phù ở trong phòng, giọng run run nói:

- Dạ, chưa... Cha đến tìm con?

Dương Qua giật mình, thầm lo:

- Không lẽ Quách bá phụ đã biết mình đến đây mà tới che chở cho nàng?

Quách Tỉnh "ừ" một tiếng, Quách Phù mở cửa phòng, đưa mắt nhìn cha nàng một cái,

rồi vội cúi đầu xuống. Quách Tỉnh khép kín cửa lại ngồi trên ghế nghiêm nghị nhìn vẻ

mặt khác lạ của Quách Phù, rồi điềm nhiên hỏi:

- Phù nhi! mấy hôm nay con đi đâu?

Quách Phù e ngại trả lời:

- Thưa cha!... Con... Con đả thương Dương đại ca, sợ cha quở phạt, nên con...

Quách Tỉnh nói:

- Nên con đi ra ngoài để lánh mặt cha ít ngày phải không?

Quách Phù đứng khoanh tay, đôi môi mím chặt khe khẽ gật đầu. Quách Tỉnh nói tiếp:

- Con định cơn giận của cha đã nguôi rồi mới trở về đây hả?

Quách Phù gật đầu, bỗng nhiên chồm vào lòng ông van lơn:

- Cha ơi! cha còn giận con không?

Quách Tỉnh đưa tay vuốt tóc con gái, thấp giọng nói:

- Cha không giận con. Mà từ nay cũng không bao giờ giận con. Nhưng cha chỉ đau

lòng vì con mà thôi.

Quách Phù gào lên một tiếng "cha" rồi dụi đầu vào lòng Quách Tỉnh, khóc òa lên!

Quách Tỉnh đua mắt nhìn trần nhà, chờ đến lúc tiếng khóc của con gái ông dịu đi,

mới nói:

- Tổ phụ Dương Qua là ông Dương thiết Tâm, cùng với ông nội con xem nhau như

tình cốt nhục, còn cha nó với cha con, cũng là anh em kết nghĩa thâm giao, những

việc này con đều biết chứ?

Quách Phù "Dạ" một tiếng. Quách Tỉnh nói tiếp:

- Thằng Dương Qua tuy có tánh hơi ương ngạnh, nhưng lại cô một tấm lòng nghĩa

hiệp, bao nhiêu lần xả thân cứu mạng của cha, mẹ con. Dương Qua tuy còn nhỏ tuổi,

nhưng đã liều thân vì nước, vì dân nên lập những công lao to tát. Việc này con cũng

đã biết chứ?

Quách Phù nghe giọng nói của cha nàng quá nghiêm khắc, nên không dám nói một

lời nào. Quách Tỉnh đứng dậy, nói:

- Còn việc này con chưa biết, nên cha phải nói để con rõ: Dương Khang là thân phụ

của Dương Qua, ông ta là nghĩa huynh của cha. Nhưng khi xưa đức hạnh ông ta

không tốt mà cha khuyên giải mãi không được, nên chung quy đưa đến hậu quả là

ông ta phải chết thê thảm ở miếu Vương thiết Thương tại Gia Hưng. Trong cái chết

của Dương Khang tuy không phải mẹ con ám hại, nhưng cũng tại mẹ con. Như thế họ

Quách nhà mình đã phụ nhà họ Dương quá nhiều rồi.

Dương Qua nghe mấy tiếng "chết thê thảm ở miếu Vương thiết Thương" thì rùng

mình. Đây là lần thứ nhất chàng mới biết được nơi bỏ mạng của thân phụ, cừu hận ấy

đang vùi sâu trong cõi lòng, bây giờ bất giác lại bốc cháy. Lại nghe Quách Tỉnh nói

tiếp:

- Nên từ lâu cha đã có ý định gả con cho thằng Dương Qua để bù đắp lại lỗi lầm của

gia đình mình, nhưng không ngờ con... ôi thôi!

Quách Phù tìm lời biện bạch:

- Cha ơi! Nhưng tại Dương Qua đã đoạt em gái con rồi dùng những lời nói ngạo mạn

phỉ báng con. Tuy giữa họ nhà mình với nhà họ Dương có nhiều mối liên quan mật

thiết, nhưng không lẽ vì thế mà con phải chịu sự hiếp đáp của nó, lại không có chút

quyền phản kháng?

Quách Tỉnh đứng phắt dậy, quát lớn:

- Rõ ràng mày đã chặt mất cánh tay của nó, mà sao lại nói nó hiếp đáp? Thanh kiếm

ấy đâu?

Quách Phù không dám nói nữa, đưa tay vào dưới gối rút thanh Tử vi kiếm ra đưa cho

Quách Tỉnh. Ông vặt nhẹ một cái, thanh kiếm liền phát ra những tiếng vo vo, điềm

nhiên nói:

- Phù nhi, ngươi sống trong trời đất, làm việc gì đừng để thẹn với lòng! Ta tuy nghiêm

khắc, nhưng lòng thương con cũng không kém gì mẹ con.

Nói đến những tiếng sau cùng, giọng ông lại ôn tồn vô cùng. Quách Phù khe khẽ nói:

- Con biết cha nghiêm khắc để răn dạy con, chứ nào con có dám hờn trách?

Quách Tỉnh đanh thép nói:

- Tốt lắm! Con đưa cánh tay mặt ra đây. Con đã chặt mất một cánh tay của nó thì cha

phải chặt một cánh tay của con. Cha của con xa nay cương trực, không thể che chở

con để cho anh hùng trong thiên hạ chê cười.

Quách Phù đoán biết lần nầy không thể tránh khỏi sự quở phạt của cha nàng, nhưng

không ngờ phải bị hình phạt chặt tay, nên mặt mày biến sắc gào lớn:

- Cha ơi! Cha!

Mặt Quách Tỉnh đầy vẻ cương quyết, đôi mắt nhìn thẳng vào mặt con gái:

Dương Qua không thể ngờ được Quách Tỉnh lại trọng nghĩa đến mức nầy. Chàng nhìn

sự cương trực ấy, trong lòng thầm phục vô cùng.

Chỉ thấy ông ta vung kiếm lên, rồi chém mạnh xuống cánh tay Quách Phù. Bất thình

lình nghe "vù" một tiếng, một người từ cửa sổ bay vào, thân pháp lanh lẹ lạ thường.

Người chưa tới mà gậy đã lao tới trước, rồi nhanh như chớp phong tỏa ngay nhát kiếm

của Quách Tỉnh.

Người nầy không ai khác hơn là Hoàng Dung. Bà không hề mở miệng nói một lời

nào, chỉ nghe "soạt soạt soạt" ba tiếng liên tiếp. Đó là ba đòn tuyệt tác trong "Côn

pháp đánh chó". Quách Tỉnh vì không hề để ý, hơn nữa côn pháp của Hoàng Dung

quá tinh vi nên bị ép lui lại hai bước. Hoàng Dung nóng lòng la lên hối hả:

- Phù nhi, hãy mau trốn đi!

Quách Phù như kẻ mất hồn, đột ngột được gặp mẹ nàng che chở bảo đi ra ngoài, mà

nàng vẫn đứng tần ngần ở đó. Hoàng Dung tay trái bồng Quách phá Lỗ, tay mặt vung

gậy tới cuốn vào áo con gái rồi kéo thẳng nàng ra ngoài cửa, miệng bảo:

- Con hãy mau trở về Đào Hoa đảo, mời Kha công công đến đây để khuyên giải cha

con mới được.

Kế đó, Hoàng Dung nhanh như cắt xoay gậy lại dùng "Đả cẩu bổng pháp", cản không

cho Quách Tỉnh bước ra cửa, miệng vẫn quát:

- Đi mau mau đi! Tiểu hồng mã đã sẵn sàng ngoài cửa.

Việc nầy Hoàng Dung đoán được tính chồng bà quá cương trực, rất trọng nghĩa có thể

hy sinh tình máu mủ. Bà biết con gái lần nầy không thể tránh được hình phạt, bèn sai

gia nhân sửa soạn hành lý, và dắt tiểu hồng mã chờ sẵn ngoài cửa. Hễ bà cầu xin

chồng may ra được là phúc lớn, bằng không sẽ đưa con gái trốn thoát lẹ làng.

Trong cơn giận dữ của chồng bà đành cho con gái thân yêu của bà xa vắng một thời

gian, để đến khi nào tìm được cách khuyên giải Quách Tỉnh, bà sẽ đem con gái về

đoàn tụ. Hoàng Dung cãi lớn với Quách Tỉnh trong phòng ngủ một hồi, thấy sắc mặt

của chồng hầm hầm đi về phòng con gái, lòng bà đoán biết dữ nhiều lành ít, nên tiếp

theo chân. Đến vừa đúng lúc chồng bà đang vung gươm chặt tay con gái, để tra tội đã

chặt tay của Dương Qua. Hoàng Dung kịp thời tung gậy ra đỡ được nhát kiếm, cứu

con gái thoát nạn.

Sự thật nếu so võ công thì Hoàng Dung không thể cản được Quách Tỉnh. nhưng xa

nay Quách Tỉnh có tính nhịn vợ, lại thấy trên tay bà bồng con nhỏ, nên không nỡ ra

tay, cũng nhờ một giây chần chờ ấy mà Quách Phù đã chạy đến vườn hoa.

Dương Qua vẫn ngồi yên trên cây mộc tất hoa, theo dõi tình cảnh lạ thuờng. Đến lúc

Quách Phù bị Hoàng Dung đẩy ra cửa. Nếu chàng cố ý đưa kiếm chém xuống thì

nàng làm sao tránh khỏi. Nhưng chàng nghĩ lại thấy gia đình họ Quách cãi nhau đến

náo động trong Quách phủ cũng vì công việc của chàng, như vậy chàng không muốn

thừa lúc người ta lâm nguy, mà ra tay một cách quá hèn hạ.

Quách Tỉnh bấy giờ đứng dựa vào thành, hết đường tiến lui nữa rồi. Hoàng Dung

bỗng bảo lớn:

- Anh bồng nó đây!

Bà ném ngay Quách phá Lỗ về phía chồng. Quách Tỉnh vội đưa tay trái hớt lấy con.

Hoàng Dung buông thẳng gậy tre xuống đất, bước tới trước mặt chồng, nhỏ nhẹ nói:

- Anh Tỉnh! anh tha tội cho Phù nhi một lần nhé!

Quách Tỉnh lắc đầu nói:

- Em Dung, lòng anh đâu phải không thương con? Nhưng nó đã gây nên việc tàn nhẫn

như vậy nếu không trừng trị, thì mình làm sao yên lòng được? Còn thằng Dương Qua

mất một cánh tay, chẳng ai coi sóc gì cả không biết giờ này sống chết thế nào?

Dương Qua nghe lời nói chân thành như vậy, biết rõ Quách bá phụ vẫn hằng thương

nhớ đến chàng, nên bất giác động lòng cảm mến, lệ trào khóe mắt.

Hoàng Dung nói:

- Chúng ta cũng đã tìm kiếm khắp nơi, mà vẫn chưa thấy tông tích nó. Nếu có xảy ra

điều gì bất trắc mình đã nghe thấy thiên hạ đồn đại rồi. Nhưng võ công của Qua nhi

đâu có kém gì của chúng mình. Dẫu có bị trọng thương như vậy, chắc cũng không thể

thiệt mạng đâu.

Quách Tỉnh nói:

- Hay lắm! Để anh đi gọi Phù nhi trở về.

Hoàng Dung cười nhạt nói:

- Nó đã cưỡi tiểu hồng mã đi cách xa rồi, làm cách nào kêu lại được?

Quách Tỉnh nói:

- Trong lúc đêm khuya, không có lệnh tiễn của Lữ đại nhân hay của anh, ai dám mở

cửa thành cho nó đi?

Hoàng Dung thở dài nói:

- Thôi được, tùy anh định liệu.

Quách Tỉnh liền giao đứa bé cho Hoàng Dung, rồi nhỏ nhẹ nói:

- Em Dung, nếu con mình có mất một cánh tay, tuy phải chịu tàn tật nhưng đó là một

phước lớn cho nó, nếu ăn năn hối...

Hoàng Dung không để cho chồng nói hết câu, đã gật đầu nói:

- Anh nói rất phải!

Bà đưa tay ẵm đứa bé trên tay chồng. Nhưng bàn tay mặt của Hoàng Dung đã lẹ làng

đưa thẳng vào nách Quách Tỉnh, sử dụng ngón tuyệt kỹ gia truyền "Lưu hoa phất

huyệt" đồng thời phết vào huyệt "uyển dịch" bên tả và huyệt "kinh môn" bên hữu, hai

huyệt nầy đều nằm hai bên nách, nếu Hoàng Dung không dụng kế, thì đâu có thể

thành công?

Quách Tỉnh trong lúc vô tình đã bị vợ điểm huyệt đạo bí quyết, nên thúc thủ vô

phương, toàn thân mềm nhũn, ngã lăn xuống giường, không cử động được. Sự thực kế

nầy Hoàng Dung đã định ý trước khi giao đứa nhỏ cho Quách Tỉnh, nên bà hành động

rất thần diệu.

Hoàng Dung bồng con lên, rồi lấy gối chêm đầu cho chồng nằm một cách thoải mái.

Đoạn nàng thò tay vào túi chồng lấy ra một lệnh tiễn.

Quách Tỉnh đôi mắt mở thao láo nhìn mọi cử chỉ của vợ, nhưng không còn phương

thế nào kháng cự được.

Hoàng Dung đặt con nằm trên mình chồng, kéo chăn đắp lại cho hai cha con Quách

phá Lỗ, miệng khẽ nói:

- Anh Tỉnh, hôm nay em xin chịu đắc tội một lần, để em đưa Phù nhi ra khỏi thành

rồi trở về làm ít món ăn ngon, dâng ba ly để tạ tội, có được không?

Quách Tỉnh nghe qua, thấy vợ mình đã là mẹ ba đứa con, mà vẫn còn vẻ đùa cợt như

mọi năm xa. Hoàng Dung đôi môi mỉm cười, chân bước nhanh ra cửa, trong lúc đó

lòng Quách Tỉnh lỡ khóc lỡ cười.

Hoàng Dung vốn tánh cung con, nên nhận thấy Quách Phù một mình trở về đảo Đào

Hoa, với sắc đẹp hiếm có ấy, sợ đi đường khó tránh khỏi lũ háo sắc. Bà vội trở về

phòng ngủ lấy chiếc "Giáp nhũ trụ" dùng lụa gói lại, kẹp vào nách, rồi lẹ làng tiến

nhanh ra cửa thành.

Hoàng Dung tuy mới sanh chưa đầy một tháng, nhung vì từ nhỏ đã luyện nội công,

nên sức khỏe sớm bình phục. Bà giở môn khinh công lao mình vun vút. Trong nháy

mắt bà đã đến cửa Nam thành, thấy Quách Phù đang ngồi trên lưng tiểu hồng mã, lớn

tiếng gây gổ với viên tướng thủ thành.

Tướng thủ thành lễ độ nói:

- Xin cô nương ở lại, không được đi, vì trong đêm tối, không có lệnh tiễn mà mở cửa

thành, sẽ bị tội bêu đầu.

Hoàng Dung cầm lệnh tiễn bước tới nói:

- Đây lệnh tiễn của Lữ đại nhân, ông hãy nghiệm coi đúng không.

Viên tướng thủ thành thấy Quách phu nhân đích thân đến, lại thấy lệnh tiễn là thật,

bèn đi mở cửa thành, và dẫn tới một con ngựa, hỏi:

- Xin Quách phu nhân nếu thấy cần, thì dùng ngựa của tiểu tướng để đỡ bước.

Hoàng Dung nói:

- Hay lắm, vậy xin ông cho tôi tạm mượn.

Quách Phù thấy mẹ nàng tới, mừng rỡ vô cùng. Hai mẹ con cưỡi ngựa song song ra

thành. Hai người kề vai cho ngựa phi về hướng Nam. Hoàng Dung không nỡ rời xa

con gái, nên đưa đi đã xa mà vẫn đi mãi. Phía Nam thành Tương Dương nhờ có trọng

trấn , Bình chương, chưa bị quân Mông Cổ dày xéo nên dân được an cư như cũ. Mẹ

con Hoàng Dung đi được hai mươi dặm, trời đã hửng sáng, tới một thị trấn nhỏ, các

cửa hàng mở cửa buôn bán. Hoàng Dung nói:

- Phù nhi! Mình vào tiệm ăn cho đỡ lòng, rồi mẹ phải trở về!

Quách Phù ứa lệ gật đầu, lòng hối hận vô cùng:

- Thật ra vì cơn nóng giận điên cuồng, mình đã chặt tay Dương Qua, cho đến ngày

nay phải cốt nhục chia lìa. Rồi đây mình phải trở về đảo Đào Hoa, sống chung với

ông lão đui mù, trong những ngày buồn tẻ sắp tới, không biết làm sao sống cho được?

Hai người bớc vào tiệm ăn, gọi một tô thịt bò cùng bánh mì, nhưng trong giờ phút

chia ly kề gần, ai cũng không lòng dạ nào nuốt cho trôi.

Hoàng Dung đua bộ "giáp nhũ trụ" cho con gái bảo:

- Phù nhi! Con tới khách điếm mặc áo nầy vào mình, để đề phòng việc bất trắc dọc

đường.

Mắt nhìn con gái đang cúi đầu vâng lời, lòng bà đau như cắt, đôi mắt đỏ hoe, cái vẻ

liếng thoắng ngây thơ khi xưưa đều mất cả.

Chợt thấy đầu đuờng phía Tây có một gian hàng bán trái cây, có những trái bôm đỏ

tươi, bà thầm nghĩ:

- à! Mình mua vài trái cho Phù nhi dọc đường ăn đỡ sức.

Nghĩ xong, bà quay qua nói với Quách Phù:

- Phù nhi, con hãy ráng ăn thêm vài miếng cho đỡ lòng. Trong tình thế loạn lạc nầy,

dọc đường khó mua món ăn. Thôi con ngồi đây, để mẹ đi mua thêm ít trái cây.

Bà vội bước tới gian hàng bán trái cây cách xa tiệm ăn hơn muời căn phố. Hoàng

Dung lựa hơn mười quả bôm, trong lúc trả tiền, bỗng có giọng lanh lảnh của một

người thiếu phụ nói:

- Bà hàng, để cho tôi hai chục cân gạo, một cân muối và dồn tất cả vào cái túi nầy.

Hoàng Dung khẽ liếc mắt nhìn qua, thấy đó là một đạo cô áo vàng, tay mặt đang cầm

tiền trả, tay trái bồng một đứa bé. Đứa bé mặc bộ đồ lụa đỏ, trước ngực có thêu một

con ngựa nhỏ, đúng là bộ áo của Hoàng Dung đã tự tay may cho Quách Tường. Thấy

thế, Hoàng Dung bỗng nhiên rung động cả lòng, những quả bôm trên tay đều rơi trở

lại trong giỏ hàng, linh tính báo cho bà biết, đứa bé nầy không ai khác hơn là Quách

Tường. Còn đạo cô kia chính là Xích luyện tiên tử Lý mạc Thu. Hoàng Dung chưa

gặp mặt, hay giao đấu với nữ ma đầu này nhưng thấy trên lung hắn có giắt phất trần,

mắt bị mù một con. Tướng mạo và lối trang phục này bà đoán đích là Lý Mạc Thu.

Hoàng Dung vừa mừng vừa sợ bất giác ứa lệ. Còn gã bán trái cây thấy Hoàng Dung

đưa tiền mà không lấy trái cây lòng kinh ngạc trân trối nhìn.

Lý mạc Thu trả tiền xong, đón lấy túi gạo, lẹ làng bước đi ra trấn. Hoàng Dung toan

xoay mình đuổi theo, mà gã bán bàng cứ lựa những quả bôm chín đỏ tươi đua lên.

Hoàng Dung thuận tay luồn vào túi áo vài trái, miệng bảo:

- Thôi đủ rồi!

Bà liền cất bước đuổi theo Lý mạc Thu. Vì thời cơ cấp bách nên bà không kịp trở lại

cho Quách Phù hay. Bà chỉ thầm nghĩ:

- Tường nhi đã lọt vào tay một người hiểm độc như vậy, nếu mình cường đoạt, chắc

nguy đến tánh mạng của con.

Bà nhìn thấy Lý mạc Thu đi thẳng về hướng Tây, bèn lặng lẽ theo sau, lòng lại nghĩ:

- Hắn là sư bá của Qua nhi. Tuy nghe nói họ không ưa nhau, nhưng Phù nhi đã chặt

mất cánh tay của Qua nhi, thì Quách gia nầy nay lại thêm một mối thâm thù với phái

Cổ mộ. Nếu Qua nhi cùng Long cô nương đều đợi ở đằng trước, mình một mà địch họ

ba chắc khó thắng, phải sớm ra tay mới đạt được kết quả.

Thấy Lý Mạc Thu đã rẽ về hướng Nam, đi vào một khu rừng bà bèn giở khinh công

phi thân lướt nhanh như chiếc tên lìa ná, bay vòng qua đám rừng, chận đầu Lý Mạc

Thu. Lý Mạc Thu bỗng thấy trước mặt hiện ra một thiếu phụ đẹp đẽ liền dừng bước

lại. Hoàng Dung tươi cười nói:

- Xin chào đạo cô, nếu tôi đoán không lầm thì đạo cô chắc là Xích Luyện tiên tử Lý

Mạc Thu, nếu quả vầy thì thật hân hạnh.

Lý Mạc Thu thấy thân pháp đối phương hiện ra trong những buớc thật vững vàng, biết

không phải hạng tầm thường, lại thấy bên hông giắt chiếc gậy tre xanh biếc, thầm

hiểu bèn lễ phép thi lễ:

- Tiểu muội hằng ngưỡng mộ đại danh của Quách phu nhân, hôm nay mới được thấy

phu nhân thật là vạn hạnh.

Trong làng võ hiệp này, kẻ nào cao thủ của phái nứ thì chỉ có danh tiếng Hoàng Dung

và Lý Mạc Thu vang dậy nhất, còn Tôn bất Nhị tuy thành danh sớm nhưng võ công

đâu có bằng hai người này, còn Tiểu long Nữ thì tuổi còn nhỏ nên chưa có oai danh

gì.

Hoàng Dung là con ruột "Đông tà" Hoàng dược sư, làm vợ của đại hiệp Quách Tỉnh,

còn đích thân lại đương kim bang chủ Cái Bang. Lý Mạc Thu chỉ có ba môn tuyệt kỹ

vang danh trong thiên hạ là cây "phất trần", "Ngân châm", "Ngũ độc thần chưởng".

Bây giờ hai bên gặp nhau đều kinh lạ.

Hoàng Dung cười nói:

- Lý đạo cô là bậc thành danh, sao lại nói những lời khách sáo như thế?

Lý Mạc Thu khiêm nhượng nói:

- Quách phu nhân là bang chủ của Cái Bang, tiểu muội xa nay ngưỡng mộ vô cùng.

Hai người khách sáo nhau một hồi, Hoàng Dung nói:

- Đứa bé trong lòng Lý đạo cô dễ thương quá, nhưng chẳng biết con cái nhà ai vậy?

Lý Mạc Thu nói:

- Nói ra thêm hổ ngươi, xin Quách phu nhân đừng cười.

Hoàng Dung nhỏ nhẹ tiếp:

- Xin đạo cô cho biết, chứ tôi đâu dám vô lễ thế.

Miệng nói nhưng lòng bà thầm nghĩ:

- Mình đã nói đến chính đề, nếu không xong thì phải trở mặt rồi mới động thủ sau.

Đang suy nghĩ thì đã nghe Lý Mạc Thu nói:

- Đây là một bất hạnh của phái Cổ Mộ chúng tôi vì tiểu muội vô đức, không biết dạy

sư muội, nên chính đứa bé này là con của Long sư muội.

Hoàng Dung lấy làm lạ tự hỏi:

- Long cô nương coi có vẻ đoan trang trinh thục, mà cũng không thấy có thai, sao lại

có con? Đứa con gái này rõ là đứa con gái mình, chắc hắn nói dối như vậy có dụng ý

gì đây.

Hoàng Dung nghĩ xong bèn nói:

- Long cô nương là người đoan trang, té ra lại có việc này thật là khó hiểu. Nhưng

không biết cha đứa bé là ai vậy?

Lý Mạc Thu nói:

- Cha của nó à? Nói ra lại càng thêm giận, vì chính là Dương Qua đồ đệ của sư muội

mới buồn chứ!

Hoàng Dung tuy tánh tình lanh lợi, muốn mặc nhiên để điều tra nhưng bây gìơ nghe

nói đôi má cũng đỏ bừng, lòng giận dữ thầm trách:

- Mầy lỡ nói con gái ta là con hoang của Tiểu long Nữ còn có thể kháng bây giờ nói

cha nó là Dương Qua, thật là nhục truớc mặt ta rồi.

Sắc giận dữ vừa thoáng qua, Hoàng Dung liền lấy lại bình tĩnh hỏi:

- Trời! Thằng Dương Qua như thế thật là hết nói nổi nữa rồi! Nhưng đứa bé này lại

thật kháu khỉnh khiến người ta dễ mến, Lý đạo cô đưa tôi bồng nó một tí coi.

Nói rồi thò tay vào túi, lấy ra một ít trái cây đưa trước đứa bé, miệng thì đánh lưỡi

"chụt chụt" để gọi dọn...

Từ khi đoạt được Quách Tường, mấy ngày liền Lý Mạc Thu ẩn trong thâm sơn, hằng

ngày chỉ lấy sữa beo cho đứa bé bú. Hắn tuy rất độc, nhưng không phải thiên phú nhu

thế, chỉ vì bị thất bại trên tình đời, sanh buồn chán, thù ghét thế nhân, rồi mới đi đến

cái tánh hung dữ để cho thỏa mãn lòng căm giận. Vì vậy trước vẻ mặt xinh xinh, kháu

khỉnh của bé Quách Tường đã làm cho Lý Mạc Thu hết lòng thương mến. Tình

thương của Lý Mạc Thu đối với bé Quách Tường cũng như tình mẹ thương con, nên

có nhiều đêm, Lý Mạc Thu nằm dài nựng bé Quách Tường, nói:

- Dù cho Tiểu long Nữ có mang "Ngọc nữ tâm kinh" đến đổi, thì ta cũng không thể

đổi cháu cưng nhất đời ta được!

Bây giờ thấy Hoàng Dung muốn bồng đứa bé nầy, thì tựa như người mẹ nghe người ta

khen con mình vậy, lòng Lý Mạc Thu sung sướng vô cùng, mỉm cười trao đứa bé cho

Hoàng Dung.

Hoàng Dung vừa đưa tay sờ đến con mình đã nhoẻn nụ cười âu yếm. Phải chăng lòng

mẹ thương con không trời bể nào bằng? Hơn nữa đối với đứa bé gái này, bà đã ngày

đêm mơ tưởng, đau khổ vì sợ nó có mệnh hệ gì mà bây giờ được ẵm nó vào lòng, bảo

sao không mừng như điên như dại?

Lý Mạc Thu cũng là người thông minh tuyệt đỉnh, đột nhiên thấy nét mặt khác thường

của Hoàng Dung, lòng hoài nghi tự hỏi:

- Nếu hắn chỉ thích trẻ con thì bồng cho vui, sao lại lộ vẻ xúc động như vậy? Chắc có

ẩn ý gì?

Nghĩ xong, liền giật đứa bé lại, ẵm chặt vào lòng, đôi chân điểm đất, nhảy vọt ra phía

sau hơn hai trượng. Chân vừa chấm đất, Lý Mạc Thu toan quát hỏi, thì Hoàng Dung

đã vụt mình tới. Lý Mạc Thu tung chiếc túi trên vai đánh thẳng vào mặt đối phương.

Hoàng Dung thấy thế quá mạnh! Hàng triệu hạt muối bay vào dưới chân. Lý Mạc Thu

thừa cơ ấy, nhảy lùi ra mấy trượng nữa, vội đưa cánh tay rút phất trần ra, cười khe khẽ

nói:

- Quách phu nhân lại muốn giúp Dương Qua để giật con bé nầy sao?

Chỉ trong giây phút, Hoàng Dung đã nhận rõ thế cuộc, biết đối phương đã nghi ngờ,

thì hết phương dùng trí thủ thắng được nên muốn dùng sức để đoạt bèn bình tĩnh nói:

- Tôi thấy đứa bé nầy dễ thương, muốn nựng nịu một chút mà thôi! Lý đạo cô lại có ý

nghĩ như vậy, thì thật là khinh người thái quá!

Lý Mạc Thu nói:

- Quách phu nhân danh vang dội khắp giang hồ, tiểu muội hằng khâm phục hôm nay

được thấy tận mắt, quả thật như lời đồn. Nhưng bây giờ tiểu muội có việc riêng, xin

cáo biệt.

Sự thật Lý Mạc Thu sợ Quách Tỉnh ở gần đây ra tiếp sức thì không thoát khỏi tai nạn,

nên hắn nói xong, bèn xoay mình đi nhanh.

Hoàng Dung tung mình nhảy theo, thân còn ở trên không, mà tay đã rút cây gậy tre,

xử quyết chữ "vấn" điểm tới sau lung Lý Mạc Thu. Lý Mạc Thu vội vung phất trần ra

sau gạt ngang chiếc gậy trả lại một đòn. Côn pháp của Hoàng Dung mau lẹ tuyệt

luân. Đánh nhau đến sáu hiệp, Lý Mạc Thu phải thủ thế rồi. Sức lực của Mạc Thu

không bằng Hoàng Dung, vả lại trong tay ẵm một đứa trẻ, nên càng thất thế hơn.

Hoàng Dung xoay động thân mình lướt qua, lướt lại lanh như chớp, múa gậy trúc

không tài nào thấy được. Chỉ trong nháy mắt, Lý Mạc Thu đã lâm vào thế bại rõ rệt.

Đang lúc yếu thế, Lý Mạc Thu thấy cây gậy trúc của đối phương cố tình tránh xa đứa

bé, biết có thể đỡ thân, thầm nghĩ:

- Lúc đang đấu mình ẵm đưa bé này rất có lợi cho tánh mạng.

Lý Mạc Thu cười nhạt nói:

- Quách phu nhân muốn khảo sát công lực của tiểu muội, thì núi cao sông dài, ngày

gặp nhau còn nhiều, cần gì phải đấu nhau bây giờ? Nếu lỡ tay đả thương đến đứa bé

đáng yêu nầy thì sao?

Hoàng Dung thấy đối phương có ý nhờ con bà yểm hộ, thầm nghĩ: "Không lẽ thật hắn

không biết con bé này là con gái mình hay là hắn xảo trá? Mình phải thử hắn coi".

- Cũng vì đứa bé này, tôi đã nhường Lý đạo cô mười mấy thế rồi đấy. Nếu đạo cô

không để đứa bé xuống, thì tôi không đảm bảo sự an toàn của nó nữa!

Vừa dứt lời liền đưa gậy điểm vào chân của đối phương. Lý Mạc Thu vội đưa phất

trần ra đỡ. Gậy tre của Hoàng Dung không hề chạm vào phất trần, mà đã vụt lên ngực

trái của Lý Mạc Thu. Thế này vừa lẹ vừa mạnh, đà côn lại nhằm thẳng vào thân của

đứa bé mà điểm tới. Nếu đòn ấy mà đánh trúng, chẳng những Lý Mạc Thu phải bị

trọng thương và Quách Tường ắt cũng mất mạng. Cây gậy nầy Hoàng Dung điều

khiển lẹ làng theo ý muốn. Đầu gậy đã tới sát mình bé Quách Tường. Thấy đòn này

rất nguy hiểm, nhung Hoàng Dung ra tay nặng nhẹ, gần xa, không chút sai chạy Lý

Mạc Thu đâu hiểu nổi, chỉ thấy thế quá nguy, vội tránh sang bên hữu thì nghe "soạt"

một tiếng là xương trái của hắn đã bị đầu gậy quạt trúng một cái, lảo đảo qua một

bên, phải bước tréo qua hai bước, mới đứng vững. Lý Mạc Thu lại vung phất trần che

thân đứa bé, rồi quát to:

- Quách phu nhân! Thật là uổng với hai tiếng nghĩa hiệp của danh dự bà. Bà quyết ra

tay sát hại một đứa trẻ thế này, thử hỏi có đê tiện hay không?

Hoàng Dung thấy Lý Mạc Thu giận dữ, nghĩ thầm:

- Hắn cố sức để bảo vệ cho con mình, thì hay lắm!

Hoàng Dung mỉm cười giả cách nói:

- Đứa bé này không phải giống tốt, vậy để nó sống làm gì?

Vừa dứt lời đã tung mình nhảy tới, múa gậy tấn công liên tiếp. Quách Tường lại lâm

vào cảnh nguy. Hoàng Dung lòng đau như cắt, thầm nhủ:

- Con yêu dấu chớ sợ! Mẹ muốn cứu con nên phải ra tay thế này!

Trong lòng tuy thương xót, nhưng bên ngoài dùng thế đánh quá ác độc. Nếu Lý Mạc

Thu không cố sức kháng cự, xem ra đòn nào cũng đánh vào bé Quách Tường. Lý Mạc

Thu tâm thần không yên đưa phất trần đỡ gạt, miệng quát hỏi:

- Quách phu nhân! Bà muốn gì?

Hoàng Dung cười nhạt nói:

- Kể về nữ anh kiệt trên giang hồ, đời trước chỉ có Ngọc nữ thần kiếm Lâm triều Anh,

sau đó là Mai siêu Phong và Tôn bất Nhị. Còn trong đời nay hiện có Lý đạo cô và tôi

mà thôi. Hôm nay chúng ta có dịp gặp nhau sao không so tài coi ai cao thấp?

Mấy đòn hiểm độc của Hoàng Dung cứ nhằm đánh thẳng vào đứa trẻ, làm cho Lý

Mạc Thu tức giận quá. Bây giờ nghe bà ta nói thế, Lý Mạc Thu thầm nghĩ:

- Chồng bà có tới thì thì ta hơi sợ một chút, chứ bà cũng là một phụ nữ quần thoa

không lẽ ta lại sợ hay sao?

Nghĩ thế, nàng "hừ" một tiếng nói:

- Quách phu nhân đã có ý chỉ dạy, thì thật là hân hạnh cho tôi.

Hoàng Dung điềm nhiên nói:

- Lý đạo cô tay bồng con, dù cho ai thắng cũng không công bình, vậy hãy ném nó

sang một bên, rồi ta hãy cùng nhau so tài.

Lý Mạc Thu cũng thấy tay bồng trẻ mà đấu thì khó thắng, còn có thể nguy đến tánh

mạng của nó, nên thầm nghĩ:

- Trên giang hồ đều khen vợ chồng Quách Tỉnh nhân nghĩa hơn người. Nhưng mình

xem thủ đoạn của bà ta không phải thế. Đã ra tay, thì bà không còn chút dung tình mà

còn muốn sát hại đứa bé này nữa mới tàn nhẫn chứ! Được rồi, ta phải cho bà nếm mùi

kim độc cho bỏ tính tàn ác!

Nghĩ như thế, bèn đưa mắt nhìn chung quanh, thấy dưới gốc cây to ở phía đông có

một đám cỏ xanh, Lý Mạc Thu đem đứa bé tới để yên trên cỏ, rồi xoay mình lại nói:

- Vậy xin mời Quách phu nhân ra tay trước.

Hoàng Dung thầm nghĩ:

- Võ công của hắn không kém mình bao nhiêu. Nếu bây giờ nhảy qua bồng con, hắn

nhảy vào đánh thì mình sẽ nguy mà không khéo sẽ thiệt mạng con nữa. Chi bằng

mình đánh ngã nó trước rồi đến ẵm con về là tiện nhất.

Lý Mạc Thu xưa nay có tính độc ác, nên tự suy lòng hắn mà đoán cử chỉ kẻ khác.

Mạc Thu thấy Hoàng Dung cứ liếc mắt nhìn qua phía đứa trẻ, nên thầm nghĩ:

- Bà ta chắc ý sợ đánh không lại mình, thì sẽ hạ độc thủ giết đứa bé để làm rối tinh

thần mình.

Đoán thế, nên Lý Mạc Thu đứng gần Quách Tường không cho đối phương tiến tới

được. Cũng trong lúc ấy Hoàng Dung đánh nhiều đòn ác độc mà không dám đánh tận

lực sợ nguy hại đến bé Quách Tường. Hoàng Dung nhận thấy thế, thầm tính:

- Xem cử chỉ của nữ ma đầu này, quả thật là quí mến Tường nhi của mình. Nếu để

hắn ở gần con mình thì không thể nào đánh bại hắn được.

ý niệm vừa thoáng qua, Hoàng Dung bèn nói:

- Lý đạo cô! võ công của chúng ta không phải tầm thường, nên trong thời gian ngắn

khó phân thắng bại. Nhưng trong lúc giao đấu hăng say, nếu có loài cọp beo ra ăn

mất đứa trẻ, thì chúng ta làm sao? Vậy chúng ta cho nó nhắm mắt trước, rồi mới yên

lòng mà giao đấu.

Vừa nói xong, bèn đua tay xuống đất, nhặt lên một cục sỏi, để trên hai ngón tay búng

phắt ra. Nghe "vù" một tiếng cục sỏi bay thẳng vào mình Quách Tường. Cách búng

này là "Đàn chỉ thần công", môn gia truyền tuyệt kỹ của Hoàng Dung. Lý Mạc Thu

đã có dịp thấy Hoàng Dược sư dùng qua, nên biết sức mạnh nó phi thường, vội dùng

phất trần gạt mạnh, rồi quát hỏi:

- Đứa nhỏ này có làm gì tới bà đâu? Sao bà cứ nằng nặc giết hại nó?

Hoàng Dung thầm cười vì sự thật là hòn sỏi này lúc búng ra dùng sức mạnh, nhưng

Hoàng Dung đã dùng hồi lực trên hai đầu ngón tay, dù cho Lý Mạc Thu không kịp ra

tay, đón lại thì hòn sỏi ấy đến bên Quách Tường sẽ lập tức bay hồi trở lại, tuyệt đối

không thể hại đến tính mạng của đứa bé.

Hoàng Dung cười mỉa mai nói:

- Lý đạo cô mãi lo cho đứa bé này, thì người ngoài cứ... cứ tưởng... là... Hà hà...

Lý Mạc Thu căm giận nói:

- Không lẽ cứ tưởng là con...

Khi nói đến tiếng "con", bỗng nhiên nàng nín bặt, đôi má nóng bừng lên, bèn hỏi:

- Cứ tưởng là gì

Hoàng Dung cười nhạt nói:

- Đạo cô là một người tu hành, lẽ tất nhiên không có con nên người ngoài cứ tưởng là

em gái của Lý Đạo cô.

Lý Mạc Thu "hừ" một tiếng, rồi cũng không chấp nhứt gì được. Nhưng nàng đâu có

biết Hoàng Dung rất điêu ngoa, không bao giờ chịu thiệt thòi trên đầu môi chót lưỡi

nên thâm ý bảo Tường nhi là em của Lý Mạc Thu, tức là nói Quách Tỉnh và bà là bực

cha mẹ của nàng để trả thù lúc nãy Lý Mạc Thu bảo cha của Quách Tường là Dương

Qua. Lý Mạc Thu tức bực giục:

- Quách phu nhân, hãy ra tay tiếp.

Hoàng Dung nói:

- Đạo cô bận lo cho đứa bé, khi ra tay chắc không đủ tinh thần mấy, tôi dù có thắng

cũng vô vị, vậy để tôi cắt một mớ gai mây rào nó lại để thú dữ không thể vào được,

rồi ta mới có thì giờ so tài cao thấp thực sự.

Nói xong, bèn thò tay vào túi, lấy ra một con dao nhỏ, cắt mấy cây gai mây. Con dao

nhỏ này cán bằng vàng, vốn xa kia Thành Cát Tư Hãn ban cho Quách Tỉnh, có đế

hiệu "Kim đao phò mã". Về sau Quách Tỉnh kết hôn với Hoàng Dung sợ vợ để lòng

ghen tuông nên phải tặng lại con dao "Kim đao phò mã" ấy cho nàng, không ngờ lúc

này lại có dịp phải dùng đến.

Lúc đầu Lý Mạc Thu phải phòng giữ cẩn thận, vì sợ Hoàng Dung dùng kế hại đứa bé.

Nhưng sau thấy đối phương kéo gai đứng cách đứa trẻ và rào ngoài những thân cây

xung quanh bãi cỏ chỗ Quách Tường nằm, nàng mới yên lòng. Lý Mạc Thu thấy lối

rào của Hoàng Dung tinh thuật, lòng thầm khen.

- Trên giang hồ ai cũng khen bà ta rất túc trí đa mưu, thật nay mình mới thấy tận mắt.

Chỉ thấy Hoàng Dung rào một lớp gai mây, rồi bao phủ thêm một lớp gai táo trùng

trùng điệp điệp, rào càng nhiều lòng bà càng sung sướng, nên trên nét mặt tỏ vẻ vui

tươi.

Lý Mạc Thu thấy như có một âm mưu gì, trong lòng hơi lo sợ nói:

- Thôi, đủ rồi Quách phu nhân!

Hoàng Dung nói:

- Hay lắm, tôi cũng mệt lắm rồi, nhưng phải gắng làm cho vừa lòng Lý đạo cô, bây

giờ đạo cô nói đủ rồi thì thôi!

Hoàng Dung đứng vận lại sức, rồi bình tĩnh hỏi:

- Lý đạo cô, tôi nghe trước kia đạo cô đã gặp cha tôi phải không?

- Đúng vậy, có gặp một lần.

Hoành Dung hỏi tiếp:

- Tôi nghe Dương Qua có kể lại, đạo cô có viết bốn câu thơ để nhạo báng cha tôi. Câu

thơ ấy như vầy:

Đào Hoa chúa đảo

Rất đông học trò.

Năm người đánh một.

Thiên hạ cười cho

Lý Mạc Thu lạnh lùng đáp:

- Vì hôm ấy đến năm người vây đánh một mình tôi, lời thơ đó là một sự thật.

Hoàng Dung cười nhạt bảo:

- Được rồi, thì hôm nay một đánh một, để xem ai bị thiên hạ cười cho nhé!

Lý Mạc Thu nổi giận, quát lớn:

- Bà chớ ỷ tài mà kiêu căng, võ công của Đào Hoa đảo tôi đã thấy chán rồi, cũng chưa

có gì đặc sắc lắm mà!

Hoàng Dung điềm nhiên nói:

- Khỏi nói tới võ công của Đào Hoa, dù không phải võ công đi nữa, người đối phó

cũng chưa lại. Nếu còn bản lĩnh, xin đạo cô vào bồng đứa bé ra xem thế nào?

Lý Mạc Thu kinh hãi thầm nghĩ:

- Không lẽ bà ta đã hại mạng nó sao?

Nghĩ đến đó, nàng vội tung mình vượt qua một lớp gai táo, rẽ sang góc bên tả, thấy bị

mất lối, bèn quẹo qua bên hữu, nghe có trẻ khóc oa oa, hơi yên lòng, nhưng vừa rẽ

vào trong được mấy bước, không biết thế nào lại đi ra vòng ngoài. Lý Mạc Thu lấy

làm lạ, cố bình tĩnh suy đoán:

- Đúng là mình đi vào vòng trong, tại sao bỗng nhiên lại đứng vòng ngoài thế này?

Nàng đang bối rối, vội điểm đôi chân một cái, nhảy vọt vào trong vòng, chỉ thấy gai

góc chất nhiều đống lớn thành năm cửa tám lối, nằm ngổn ngang. Lý Mạc Thu vừa lọt

vào lối giữa, đã trở qua cửa phía Đông, nghe "tẹt" một tiếng, chéc áo phía trái của

nàng bị rách một lỗ. Lúc này Lý Mạc Thu bị kẹt vào nhiều vòng gai, không còn lối

bước, nên đưa mắt nhìn tứ phía, chợt thấy Hoàng Dung đã đứng trong ấy, khom lung

bồng đứa bé. Lý Mạc Thu kinh hãi lớn tiếng quát:

- Hãy để yên nó xuống.

Rồi nàng vội tung mình nhảy lên, vượt qua gai góc, tiến thẳng về phía Hoàng Dung,

nhưng chu vi của hai lớp gai rào không đầy sáu trượng, chỉ nhìn thấy mà xông đến

không được. Nàng tung hoành chạy, nhảy, cứ tưởng bên tả thì sự thực là bên hữu,

tưởng ở đằng trước mà thật ra là phía sau, rồi quẹo qua quẹo lại, rốt cuộc cũng trở ra

ngoài vòng.

Lý Mạc Thu đã có kinh nghiệm qua nhiều trận đấu nhưng chưa gặp sự lạ lùng như thế

này, bèn định thần nghĩ:

- Không lẽ bà ta có phép tà thuật? Như thế này biết phá cách nào bây giờ?

Đang suy nghĩ, lại thấy Hoàng Dung để đứa trẻ nằm xuống đấy rồi bước trở ra quẹo

bên Đông, rẽ sang Tây. Trong nháy mắt bà đã vượt ra khỏi hai vòng rào gai.

Lý Mạc Thu đột nhiên nhớ lại:

- Đêm nọ mình có đấu với bọn Dương Qua, Trình Anh và Lục vô Song. Họ chỉ đắp

những mô đất ngoài lều tranh mà mình không thể tiến vào được, bây giờ Hoàng Dung

dùng gai rào như vậy, chắc cũng theo lối "Cửu cung bát quái" của Đào Hoa đảo đây.

Nàng đứng trầm ngâm hồi tưởng lại và quyết định. Chỉ còn cách mình phải đánh ngã

địch thủ trước rồi sẽ tìm cách phá rào sau. Chứ bây giờ nếu xông liều vào thì địch sẽ

chiếm ưu thế tấn công, mình thua phần chắc.

Định ý xong, Lý Mạc Thu liền xách phất trần lướt ra xa ba trượng để đợi địch thủ, tựa

như không còn bận tâm đến việc tiến vào vòng gai nữa.

Hoàng Dung ban đầu thấy đối phương bối rối trong trùng gai, lòng mừng khấp khởi

nhưng sau đó lại thấy Lý Mạc Thu nhảy lui trở ra bà ta thầm khâm phục lo nghĩ:

- Thôi bây giờ mình đã lo cho Tường nhi nằm êm ái là tốt rồi, phải hạ thủ hắn cho

xong để cấp tốc bồng con về!

Thầm tính xong, Hoàng Dung nhẹ nhàng lướt rào xông thẳng đến chỗ Lý Mạc Thu.

Vừa đến nơi bà đã vung gậy tre lên, đánh thuật "Để chó cúi đầu", ép thẳng sau ót đối

phương. Lý Mạc Thu vội tung phất trần quyện tréo lên đầu gậy, chỉ nghe "soạt" một

tiếng dây tơ của phất trần đánh trở vào mặt Hoàng Dung. Hai người đều đánh đỡ lẹ

như chớp. Cả hai đều dùng những thuật sở trường của mình, chỉ trong khoảnh khắc họ

đã đấu hơn mười mấy hiệp. Lý Mạc Thu tuổi tác đã lớn nên công lực đã uyên thâm.

Nhưng đối với côn pháp đánh chó của Hoàng Dung lại tinh xảo vô cùng cứ một thế

tầm thường Hoàng Dung đánh tới, thì phương hướng và vị trí của Mạc Thu bị lệch ra.

Lý Mạc Thu tự biết nếu tiếp tục đấu chừng mười hiệp nữa thì chắc đối phương sẽ toàn

thắng. Lý Mạc Thu cố sức đánh thêm hơn ba hiệp nữa, thì trên trán mồ hôi rơi lã chã,

phất trần bị rũ xuống mấy lần, công lực bị giảm nhiều. Nàng vội nhảy lui hơn ba bước

nói:

- Côn pháp của Quách Phu nhân tinh diệu vô cùng, tiểu muội xin phục tài đó. Nhưng

có một điều tôi lấy làm thắc mắc, xin phu nhân chỉ dạy cho.

Hoàng Dung khiêm tốn nói:

- Lý đạo cô khen quá lời, tôi nào dám?

Lý Mạc Thu nói:

- Vì côn pháp này là tuyệt kỹ của "Cửu chỉ thần cái" mà, chứ võ công của Đào Hoa

đảo nếu thật oai vũ thì sao Quách phu nhân lại không sử dụng võ công Đào Hoa đảo

phái mà phải mượn chỉ tài của ngời ngoài?

Hoàng Dung nghe nói thế thầm nghĩ:

- Miệng lưỡi của hắn thật đáng sợ. Hắn dùng sức nhắm không thắng được mình, bây

giờ muốn dùng đến trí để cảm hóa chứ!

Nghĩ thế, Hoàng Dung cười nhạt hỏi:

- Lý đạo cô biết pháp này là của Cửu chỉ thần cái, vậy cũng biết tên côn pháp này là

gì chứ?

Lý Mạc Thu nhướng đôi mắt nhìn qua, miệng "hừ" một tiếng mà không trả lời. Hoàng

Dung cười nhạt nói:

- Côn hiệu "Đánh chó", thấy chó thì đánh. Nếu đã gặp như thế cần gì phải đổi món

khác?

Lý Mạc Thu thấy không thể làm cho đối phương đổi ý được. Nếu cứ đấu khẩu mãi, sẽ

bị thêm nhiều lời nhục, vì đối phương quá miệng lưỡi. Nàng giắt phất trần vào lưng,

cười nhạt nói:

- Những tên ăn xin trong thiên hạ đều thuộc bài "Hoa sen rơi", quả nhiên Bang Chủ

cũng là người môi miếng, thật đáng khâm phục.

Vừa dứt lời, Lý Mạc Thu đành chiu thua bỏ đi bèn tiến về phía Tây ngồi trên một gốc

cây. Hoàng Dung thấy địch thủ đầu hàng ra đi, lòng mừng vô cùng, nhưng thấy hắn

chỉ đến gốc cây rồi ngồi tại đấy, không đi nữa, bà lại thầm lo:

- Nếu hắn ngồi đấy, không đi thì chắc có một dụng ý gì ? Chắc hắn còn cố giữ Tường

Nhi không nỡ đi, hắn chờ mình bồng bé Quách Tường thì hắn nhào ra giao đấu, thế

này mình chịu hết thiệt thòi sao? Nếu mình không đánh ngã hắn thì không thể nào

bồng con về nhà bình yên được.

Nghĩ thế, nàng bước sang phía tả ba bước, rẽ hữu bốn bước rồi bước tới trước mặt Lý

Mạc Thu. Mấy bước nhảy của nàng xem nhẹ phướt nhưng bên trong chứa thuật Bát

quái biến hoá phi thường, dù Lý mạc Thu nhảy sang cương vị nào cũng khó tránh

khỏi sự cản trở của bà ta. Nhanh như chớp Hoàng Dung đưa thẳng tay mặt có nắm

cây tre điểm thẳng vào khuỷu tay đối phương.

Lý Mạc Thu đưa tay khoá trái, miệng nói lớn:

- à! Sau khi Mai Siêu Phong và Trần Huyền Phong đã chết Hoàng Dược Sư không có

người truyền võ công nên Quách phu nhân chỉ biết dùng "Côn pháp đánh chó" của Cái

Bang mà thôi.

Lời nói ấy Lý Mạc Thu có ý chế nhạo Hoàng Dung và cả Hoàng dược sư, cha nàng

không biết lựa đồ đệ truyền võ công "ngọc tiêu kiếm pháp".

Sự thật thì Hoàng Dung cũng đã luyện đến mức cao thâm, tại vì trong tay nàng không

có kiếm nên phải lấy côn tre dùng thế kiếm. Hoàng Dung nói:

- Cha tôi không biết chọn người đồ đệ cho nên mấy tên đồ đệ không nên thân, đâu có

bằng Lý đạo cô với Long cô nương chị em hú hý, đồng khí tương cầu được?

Lý mạc Thu nổi giận bừng bừng, đôi má đỏ lên vội tung mạnh tay phải ra một cái liền

bắn xẹt ra mũi "Băng phách ngân châm" đâm thẳng vào bụng Hoàng Dung.

Phải biết Lý Mạc Thu là một tay giết người không nháy mắt, thủ đoạn sâu độc không

lường được nhưng lại là một cô gái giữ mình trinh tiết. Nàng cứ cho Tiểu long Nữ là

lả lơi trắc nết nên khi nghe Hoàng Dung so sánh nàng giống như Tiểu long Nữ, lòng

nổi giận vô cùng thành thử mới ra tay đã dùng tới ám khí hiểm độc nhất, để giết địch

thủ trong tức khắc, cho hả giận.

Bây giờ Hoàng Dung đứng gần địch thủ nên không kịp né hai mũi ám khí ác độc, vội

vã dùng côn tre quay tít mà gạt ra cả. Nếu Hoàng Dung không nhờ côn pháp đánh chó

đã luyện đến mức thượng thừa thì may lắm mới gạt được mũi thứ nhất, chứ đâu có thể

tránh được mũi thứ hai? Khi hai mũi kim bạc bay cách thân bà hai tấc thì bà cảm thấy

một mùi thuốc xông lên. Hoàng Dung thầm nhớ lại:

- Mấy năm trước đây, chân của đôi chim điêu mình cũng bị loại Băng phách ngân

châm này làm trầy, phải chữa trị hơn sáu, bảy tháng trời chất độc mới hết, thế này

mình phải cẩn thận chứ trúng phải độc nầy là nguy.

Tay Hoàng Dung chưa ngớt múa động côn tre, thì đã thấy hai mũi tên bay tới nữa. Bà

vội bước tréo qua bên tả ba bước, liền nghe có sức gió mạnh phướt qua mang tai rợn

người. Hoàng Dung thầm lo:

- Chỗ này cách Tường nhi quá gần, mà các mũi kim này có chất độc lạ thường, nếu

rủi phớt qua làn da của Tường nhi là không toàn mạng.

Nghĩ như thế, bà vội cất bước chạy về hướng Đông, chui qua đám rừng. Lý Mạc Thu

tưởng đối phương kinh sợ bỏ chạy bèn đuổi theo, cho là Hoàng Dung chỉ có côn pháp

đánh chó chứ còn ngoài ra những môn võ công khác không thể bì kịp nàng.

Lý Mạc Thu vừa thấy Hoàng Dung chui ra rừng bèn quát hỏi:

- Thắng bại còn chưa phân, sao lại bỏ chạy đi như vậy Quách phu nhân?

Hoàng Dung quay đầu lại chỉ mỉm cười không nói gì. Lý Mạc Thu hỏi tiếp:

- Khi đỡ ngân châm của tôi, Quách phu nhân cũng phải nhờ đến cây gậy tre ấy sao?

Thấy Lý Mạc Thu đang tiến tới, Hoàng Dung thầm nghĩ:

- Bây giờ nếu mình không cất gậy tre, dù có thắng đối phương cũng không khâm phục

mình.

Hoàng Dung nghĩ thế, bèn giắt côn tre vào lưng rồi cười nói:

- Lâu nay hằng nghe Ngũ độc thần chưởng của Lý đạo cô vô song, bây giờ xin cho tôi

thưởng thức vài đường coi nào.

Lý Mạc Thu hơi ngạc nhiên:

- Bà ta đã biết sự lợi hại "Ngũ độc thần chưởng" của mình mà lại muốn thử thách,

chắc có âm mưu gì đây? Nhưng dù cho chưởng pháp của bà ta có thần diệu đến mức

nào, cũng không thể bì kịp thần chưởng của mình được. Nếu bà ta không dùng côn tre

thì trong nháy mắt mình hạ thủ liền.

Nghĩ xong, nàng đưba thẳng đôi tay ra nói:

- Tuyệt kỹ của Đào hoa đảo đã nguyện thì xin lãnh giáo "lạc anh chưởng" đây.

Đôi mắt Hoàng Dung trông thoáng qua bèn vung đôi tay đánh ra một chưởng, lẹ như

chớp, tay trái đỡ đòn "Ngũ độc thần chưởng", tay phải đấm thẳng vào vai đối phương.

Lý Mạc Thu dùng hai đòn này vốn lẹ làng mạnh mẽ mà tay trái lại ném ra hai mũi

ngân châm đâm thẳng vào bụng Hoàng Dung. Đòn độc này là do nàng sau ngày rời sư

môn đã tự sáng chế ra, nên lúc giao đấu với mọi người chỉ biết đề phòng độc chưởng

chứ không ngờ đứng gần nhau, lại có thể ném ám khí kèm theo độc chưởng được. Do

đó nhiều nhà võ học tay trái về gạt cánh tay mặt địch, phá được đòn độc chưởng ác

liệt, tay mặt thò vào túi áo, tựa như muốn lấy ám khí để trả đỏn. Nhưng đã chậm mất

một giây, chỉ thấy trong tay bà vừa đưa ra là ngân châm đâm tới cách bụng không đầy

ba tấc. Đã tới nước nầy, dù có bản lãnh siêu phàm cũng khó tránh khỏi!

Lý Mạc Thu lòng mừng vô kể, vì thấy ngân châm ghim thẳng vào mình đối phương,

đến lút mất. Bỗng nghe Hoàng Dung kêu lên "ái" một tiếng, đôi tay ôm bụng, cong

lưng xuống. Lý Mạc Thu thừa thắng áp tới thì bị tay trái Hoàng Dung đánh thẳng vào

ngực một đòn quá mạnh. Nàng kêu khẽ một tiếng "hay" rồi ngửa người ra sau, đôi tay

tống thẳng tới một lượt, đánh trả vào ngực Hoàng Dung. Lúc này nàng thấy rõ đối

phương đã trúng phải hai mũi ngân châm, chỉ trong chốc lát là bị chất độc hoành hành

khắp châu thân, nên thầm nghĩ:

- Thế này tay bà chỉ còn khẽ động đậy, chứ thân thể chắc đã tê liệt rồi. Bây giờ mình

chỉ cần đẩy đối phương ngã sang một bên là trong khoảnh khắc sẽ phát độc mà chết.

Đôi bàn tay Lý Mạc Thu vừa chạm vào vai áo trước ngực đối phương, bỗng nhiên hai

lòng bàn tay nổi đau nhói lên như bị vật gì nhọn đâm vào. Nàng kinh hãi vội nhảy lùi

lại, đưa hai bàn tay lên xem, thì thấy mỗi lòng bàn tay đều đâm thủng một lỗ nhỏ,

chung quanh lỗ ấy có vòng máu bầm đen đúng là bị Băng phách ngân châm của nàng

tự đâm trúng, lòng kinh sợ nghĩ thầm:

- Tại sao hai kim độc của mình lại đâm ngược lại mình được?

Nàng chỉ thấy Hoàng Dung từ trong túi móc ra hai qủa bôm giơ cao lên, trên mỗi quả

bôm đều có ghim một mũi kim châm. Lý Mạc Thu bây giờ mới thấy thuật đỡ lạ

thường của Hoàng Dung.

Khi ám khí của Mạc Thu bắn tới, Hoàng Dung chỉ luồn tay vào bụng để di động hai

quả bôm, đón thẳng đường tiến của hai mũi ngân châm. Rồi nhử đối phương đánh vào

hai quả bôm, nên trúng phải mũi ngân châm một cách dễ dàng. Lý Mạc Thu cũng là

người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng hôm nay gặp phải tay địch thủ ngụy trá như vậy,

nên lòng khâm phục vô cùng. Nàng thò tay vào túi lấy thuốc giải độc, nhưng chưa kịp

lấy thuốc đã nghe làn gió cuồn cuộn tới, là đôi tay của Hoàng Dung đã đấm thẳng tới

trước mặt rồi. Lý Mạc Thu vội đưa tay trái khóa lên, bỗng thấy năm ngón tay đối phương

xòe ra, phất vào huyệt "tiểu hải" bên khuỷu tay mặt nàng. Năm ngón tay quá lẹ làng

uyển chuyển, trông đẹp như đóa hoa lan, Mạc Thu thầm kinh sợ tự hỏi:

- Không lẽ đây là bài "Lan Hoa phất nguyệt thủ". Mình đã nghe bà ta làm chấn động

giang hồ?

Tay mặt nàng không kịp lấy thuốc giải độc, vội trở bàn tay chụp lấy bàn tay của đối

phương. Tay mặt của Hoàng Dung lẹ làng rút về, còn tay trái cũng dùng ngón phất

vào huyệt "khuyết hồn" ở giữa cổ và vai. Lý Mạc Thu thấy đối phương dùng cả "Lạc

anh chưởng" lẫn với "Lan hoa phất huyệt thủ" cùng một lúc, các chiêu thế không thể

nào trông kịp và mạnh mẽ, lợi hại lạ thường, nét mặt nàng bỗng xám lại, lòng thầm

nghĩ:

- Hôm nay mình mới thấy thần kỳ của Đào Hoa đảo, quả thật là không tầm thường.

Dù cho tay mình không bị trúng độc, cũng không thể đối địch với bà ta nổi.

Lý Mạc Thu cố tìm cách thoát thân, để kịp thời lấy thuốc giải độc, nhưng Hoàng

Dung vẫn tiến sát, không hở một thế nào. Vì còn lo sợ đối phương giở trò thuật gì ác

độc khác, nên bà thầm nghĩ:

- Nếu mình không có hai quả bôm trong túi thì có lẽ đã phải bị hai mũi ngân châm lợi

hại làm ngất xỉu rồi. Nhưng cũng nhờ hai mũi độc ấy mà mình làm cho hắn mắc mưu.

Bây giờ phải áp đảo đừng để hắn rảnh tay giải độc.

Hoàng Dung thấy nét mặt đối phương đã tái mét, tay chân đánh đỡ mỗi lúc một yếu.

Bà cho rằng tâm địa của Lý Mạc Thu quá hiểm độc, dù có chết đi nữa cũng phải, nên

bà ta ra tay không chút nới tình.

Lý Mạc Thu bị kim độc, cảm thấy hai tay tê liệt rồi dần dần nhức buốt cả cánh tay,

bây giờ đôi cánh tay cứng đờ, không thể cử động được nữa, nàng vội kêu lên:

- Hãy khoan?

Kêu chưa dứt lời, nàng đã nhảy tránh qua một bên, luôn miệng nói:

- Quách phu nhân, xưa nay tôi đã từng giết người không nháy mắt, nên tôi đã từng

ngang dọc trên thiên hạ cho đến ngày nay. Nhưng hôm nay đấu trí, đấu sức tôi đều

thua bà, nếu giờ đây tôi có chết cũng cam chịu mà chi xin Quách phu nhân một việc

này, có được không?

Hoàng Dung hỏi:

- Việc gì vậy?

Đôi mắt của Hoàng Dung vẫn nhìn chằm chằm vào đối phương, phòng sợ nàng giả kế

đánh bất thần. Đôi tay của Lý Mạc Thu đã cứng đờ, không thể thò tay vào túi lấy

thuốc đuợc nên tỏ lời cầu khẩn:

- Xưa nay tôi hằng nghịch với sư muội, nhưng đứa con của nó quá xinh đẹp đáng

thuơng, xin Quách phu nhân nhủ lòng từ bi săn sóc cho đứa bé vô tội ấy, đừng có làm

hại nó tội nghiệp!

Hoàng Dung nghe qua những lời thành khẩn ấy trong lòng cảm xúc vô cùng:

- Ma đầu này tính ác nh núi, nhưng lúc gần chết lại có lòng thương người cũng lạ.

Nghĩ như thế, Hoàng Dung nói thử:

- Cha mẹ đứa bé này không phải hạng tầm thường, nếu để nó phải chịu cực nhọc mà

nuôi kẻ thù sao?

Lý Mạc Thu quá đau lòng, cầu khẩn:

- Xin bà nhủ lòng thương, chứ đứa bé ấy chưa biết gì tội lỗi!

Hoàng Dung muốn thử ý đối phương nữa, liền bước tới gần, đưa ngón tay phất huyệt

trước rồi thò tay vào túi áo Lý Mạc Thu lấy ra một bình thuốc liền hỏi:

- Cái nầy có phải là thuốc giải độc ngân châm của đạo cô không?

Lý Mạc Thu vội đáp:

- Đúng rồi!

Hoàng Dung nói:

- Trong một ngày tôi không thể giết hai mạng người được. Nếu đạo cô muốn tôi cứu

thì để tôi giết đứa bé. Bằng ngược lại đạo cô chịu chết thì tôi sẽ không giết nó.

Lý Mạc Thu chưa bao giờ bị tình cảm bối rối như thế này. Nhưng lúc này nàng không

thể nào nói được tiếng giết đứa trẻ nên suy nghĩ:

- Nếu mình chết thì cũng được nhưng đứa bé này sợ không được bà ta thương mến.

Bằng mình không chịu chết thì nó bị giết! Không được! Nó phải sống! Nó đáng

thương lắm.

Chỉ thấy Hoàng Dung cầm bình thuốc lắc qua lắc lại, như chờ Lý Mạc Thu trả lời. Lý

Mạc Thu cắn răng nói:

- Để tôi... tôi!...

Hắn suy nghĩ lâu như vậy cũng thấy rõ lòng thương của hắn đối với Tường nhi quá

nặng rồi. Bây giờ hắn đành chịu chết, đã chứng tỏ lòng thiện cảm, thật đáng cho mình

tha mạng. Dù cho hắn có nợ máu đầy mình thì ngày sau ắt có người tìm hắn mà thanh

toán, ta không cần giết hắn làm chi.

Nghĩ xong Hoàng Dung cười nói:

- Xin cảm ơn Lý đạo cô đã hết lòng chăm lo cho Tường Nhi của tôi.

Lý Mạc Thu ngạc nhiên hỏi:

- Bà nói cái gì vậy?

Hoàng Dung thuật lại:

- Đứa bé gái này họ Quách tên Tường là con gái của tôi và Quách Tỉnh, vừa sinh ra

không bao lâu thì lọt vào tay Long cô nương. Không hiểu thế nào Lý đạo cô có sự

hiểu lầm này! Như vậy nhờ đạo cô dưỡng nuôi nhiều ngày, tôi xin đội ơn khôn cùng.

Nói xong, bà nép mình thi lễ, rồi đưa cho Lý Mạc Thu một viên thuốc giải độc, và

hỏi:

- Một viên đủ giải độc cho đạo cô chưa?

Lý Mạc Thu bần thần nói:

- Tôi trúng độc nhiều, phải cần đến ba viên.

Hoàng Dung bèn trao thêm cho Lý Mạc Thu hai viên nữa, nhưng lòng thầm nghĩ:

- Thuốc còn trong bình này mình cất để phòng mai sau cần đến, không nên trả cho

hắn.

Hoàng Dung định ý xong nói:

- Chừng ba tiếng đồng hồ nữa, các huyệt đạo của Lý đạo cô sẽ tự mở, không có gì

đáng lo.

Hoàng Dung liền trở bước đi vào rừng, nghĩ thầm:

- Mình đi lâu thế nầy, không biết Phù nhi đã đi chưa? Nếu nó còn ở đó đợi mình thì

chị em nó gặp nhau vui biết mấy!

Bà bước qua vòng rào dây gai, định bế Quách Tường. Nhưng vừa thoáng qua, toàn

thân bà như rơi vào bể tuyết. Vì thấy vòng rào không có chút dời đổi, mà bóng Quách

Tường đã mất! Ngực bà hồi hộp, đôi mắt hoa lên. Thật một người túc kế đa mưu như

Hoàng Dung, lúc này cũng phải bối rối chịu trận. Một hồi lâu bà mới định thần được,

cố suy nghĩ:

- Mình cùng Lý Mạc Thu ra ngoài kia giao đấu cũng chưa bao lâu, Tường nhi bị ai

ẵm mất, chắc đi cũng chưa bao xa.

Hoàng Dung vội leo lên một ngọn cây cao nhất, đảo mắt nhìn tứ phía. Địa thế chung

quanh thành Tương Dương thật bằng phẳng, có thể nhìn xa hơn mười trượng nhưng

không có một sự gì khả nghi cả. Lúc này đại binh Mông Cổ triệt thoái, mà trên đường

không một bóng người qua lại nếu có gì di động, dù cách xa cũng trông thấy.

Hoàng Dung nghĩ lại:

- Chắc người này chưa có thể đi xa được, mình phải tìm ở gần đây.

Bà liền rảo bước đi xung quanh rào nhưng không tìm được một dấu di động, biết

không thể có một thú dữ nào vào bắt Quách Tường được. Lòng trầm tĩnh suy nghĩ:

- Rào dây gai này mình dùng phép "Cửu cung bát quái" trên đời này ngoài đệ tử của

Đào Hoa đảo, thì không ai hiểu được. Dù cho hùng tài trí nh Kim Luân Pháp Vương

cũng không vào được. Nhưng đệ tử Đào Hoa đảo đâu còn ai? Hay cha mình đã tới

đây? Không thể có được? à! phải rồi, mấy tháng trước đây mình đánh với Kim Luân

Pháp Vương. Lúc nguy cấp mình đã dùng mô thạch bố trận để chống lại. Khi Dương

Qua tới cứu, mình đã kể sơ lược của trận pháp cho hắn nghe. Nhưng nó là một người

thông minh tuyệt đỉnh, nên có thể am hiểu môn này được.

Khi nghĩ đến Dương Qua bà quyết đoán:

- Phù nhi chặt mất một cánh tay của nó, là lúc này đã kết thành một mối thâm thù với

nó. Như thế này Tường nhi lọt về tay hắn, thì tánh mạng của con mình thật là đau

khổ.

Bà nghĩ đến đứa con gái mới ra đời chưa được mấy ngày mà vận mệnh đã trớ trêu như

thế bất giác rơi lệ. Nhưng Hoàng Dung đã trải qua nhiều cuộc biến cố, tài trí tuyệt

luân, đâu có phải hạng gái bi quan tầm thường nên chỉ trầm ngâm một hồi liền lau

khô nước mắt để truy tầm lối đi của Dương Qua. Nhưng tìm mãi không hề thấy một

dấu chân nào của người vào ẵm Quách Tường, Hoàng Dung lấy làm lạ:

- Dù khinh công của nó có luyện đến mức tuyệt đỉnh thì trên mặt đất xốp này cũng có

một vài dấu chân lờ mờ chứ. Không lẽ nó lại bay trên không mà xuống?

Hoàng Dung ước đoán như vậy quả nhiên không sai. Quách Tường thật đã bị Dương

Qua ẵm mất, mà lối đi vào rào gai cũng là từ trên gai bay xuống.

70. CÒN MỘT TAY TRÁI ĐẠI CHIẾN QUẦN HÙNG

Đêm vừa rồi Dương Qua ở ngoài cửa sổ thấy Hoàng Dung điểm huyệt Quách Tỉnh,

giải thoát cho Quách Phù tẩu thoát. Dương Qua lần buớc trở ra ngoài thành, lần theo

hai mẹ con Hoàng Dung. Vì lúc này Hoàng Dung đang tiến bước cho con gái về Đào

Hoa Đảo nên lòng quá bùi ngùi, không lưu ý tới sau lưng họ có người theo dõi. Đến

lúc Hoàng Dung giao đấu với Lý Mạc Thu ở trong rừng thì Dương Qua tới núp ở một

bên xem tường tận. Đợi đến lúc hai người đi cách xa chỗ Quách Tường nằm, Dương

Qua đã có một kế. Chỉ thấy chàng tung mình lên ngọn cây, tết ba sợi mây dài, buộc

một đầu trên cây, đầu kia thòng xuống chỗ bé Quách Tường. Vì Dương Qua sợ hai

người giao đấu không bao lâu trở vào thì bại lộ là khó lòng cho việc mạo hiểm.

Trong chốc lát Dương Qua đã thòng mình xuống đất. Đôi chân chàng kẹp lấy mình

của Quách Tường, tay trái dùng sức kéo một cái, thân hình vút lên cành cây. Dương

Qua nhìn ra mé rừng thấy Hoàng Dung và Lý Mạc Thu đang đòn qua ngón lại rất

kịch liệt, lòng thầm mừng:

- Họ còn bận đánh nhau như thế là mình đủ thời gian bồng đứa bé này đi xa rồi. Rồi

đây họ sẽ trở lại mà tìm kiếm đứa bé mới hồi hộp cho.

Dương Qua nghĩ xong, liền mở sợi dây cuộn tròn ném vào một bụi rậm, rồi từ trên

cành cây tung mình nhảy ra rừng, xuống đất chạy như gió hút, tiến về phía thị trấn.

Bây giờ khinh công của Dương Qua trên đời khó có ai bì kịp. Chỉ trong nháy mắt

chàng đã thấy Quách Phù đứng bên đường tay dắt con tiểu hồng mã đang ngơ ngác

nhìn quanh như trông ngóng chờ một việc gì. Dương Qua tung mình một cái từ ngoài

xa hơn hai trượng, nhảy vọt lên lưng con tiểu hồng mã. Quách Phù giật mình nhìn lại

thấy người đoạt ngựa lại là Dương Qua, bất giác kêu lên:

- Trời ơi!

Nhưng chỉ thấy Dương Qua cười nhạt, nàng kinh hãi vội đưa tay rút phăng thanh kiếm

trên lưng ra. Thanh tử vi kiếm bị Quách Tỉnh giữ lại nên thanh kiếm trên tay nàng chỉ

là loại kiếm thường. Bây giờ Dương Qua muốn trả thù Quách Phù dễ như trở bàn tay.

Nhưng thấy mặt nàng không còn một chút máu, chàng chỉ "hừ" một tiếng rồi phất

chiếc tay áo bên mặt ra, quần vào thanh kiếm Quách Phù, tay trái ra cương ngựa. Tiểu

hồng mã cất vó dấn thân vào gió bụi. Quách Phù ngã quỵ xuống, hồn vía bay mất hết.

Một hồi lâu tỉnh lại nàng thấy thanh kiếm cong như một chiếc vòng sắt lóng lánh. Lối

đánh này của Dương Qua chỉ có ý thị oai cho Quách Phù thấy tuy tay mặt chàng đã

mất nhưng một tay áo không cũng đủ làm cho nàng thảm bại rồi.

Dương Qua bồng Quách Tường cho ngựa lướt gió băng đường về hướng Bắc. Con tiểu

hồng mã này chạy một ngày hơn một ngàn dặm nên chỉ trong khoảnh khắc đã đưa

chàng qua khỏi thành Tương Dương do đó Hoàng Dung có leo lên cây cao nhìn cũng

không tài nào còn thấy được nữa. Lúc này lòng Dương Qua như nổi cơn sóng gió, vì

đã bao nhiêu lần toan chặt tay Quách Phù để báo thù nhưng lâm vào thực tế như chạy

lùi về phía sau, chàng cúi đầu nhìn con bé trong lòng, thấy nó đang ngon giấc chàng

thầm nghĩ:

- Mình không trao trả đứa bé đáng thương này cho nhà họ Quách, cũng như mình trả

mối thù mất một cánh tay rồi! Gia đình họ còn phải đau khổ chán chường gấp bội

phần mình nữa.

Dương Qua học văn luyện võ đều thông minh hơn người nhưng tâm trí thường chế

ngự không nổi tánh quá khích, nên ý nghĩ luôn luôn thay đổi. Khi nãy chàng căm thù

vợ chồng Quách Tỉnh đã định giết đến mấy lần. Nhưng lúc chàng tới trả thù thì thấy

họ lâm nguy, lại xả thân để cứu. Đến lúc nàng Quách Phù đã ra tay làm cho chàng tàn

tật như vậy chàng quyết tới trả thù nhưng thấy nàng quá sợ sệt chàng liền đổi ý không

nỡ giết. Chưa được nửa ngày trời Dơưng Qua đã cách xa Tương Dương hơn trăm dặm.

Chợt thấy một thôn trang, chàng dừng lại, vào làng xin ít sữa bò cho đứa bé bú. Bây

giờ chàng có con ngựa hay liền quyết định trở về Cổ Mộ tìm Tiểu Long Nữ. Con tiểu

hồng mã cất vó lướt đi như tên, chưa đầy hai ngày đã đưa Dương Qua tới chân núi

Chung Nam. Lòng chàng hồi tưởng việc xưa, nghe cảm khoái vô cùng liền giục lên

núi, tưới trước Cổ Mộ. Bia đá vẫn đứng sừng sững, không khác gì năm xưa, nhưng cửa

Cổ Mộ thì đóng lại vì lý Lý Mạc Thu tới tấn công. Bây giờ nếu muốn vào trong, chỉ

còn cách chui qua Thủy Khê, xuống cùng dưới đất, theo đường bí mật vào. Nhưng nội

công của Dương Qua đã tinh vi vượt qua cảnh này đâu có khó mấy, chỉ có Quách

Tường yếu sức quá khi chui vào các khe nước, chắc không toàn mạng.

Dương Qua đứng trước Cổ Mộ lòng đinh ninh Tiểu Long Nữ ở trong mộ. Chàng

không dần dà gì nữa, đưa tay vào túi lấy sữa bò cho đứa bé uống, rồi đặt bé Quách

Tường nằm yên trong sơn động bên Cổ Mộ. Đoạn chàng cắt một mớ gai rào ngoài cửa

động thật cẩn thận, rồi nhỏ nhẹ nói:

- Em bé nằm yên đây, để anh đi vào tìm cô Tiểu Long Nữ, có gặp hay không anh

cũng trở ra bồng em theo.

Công việc lo lắng, chàng vòng qua Cổ Mộ đi ra phía sau, chỉ đi được mười mấy bước,

một cơn gió thoảng qua, từ xa vọng lại những tiếng rang rảng của binh khí chạm

nhau. Dương Qua nhìn về hướng ấy, thì chính là cửa động Trùng dương Cung. Chàng

đứng chăm chú nhìn, bỗng nghe "vù vù" một tiếng, thấy chiếc ngân luân bay bổng lên

không, biết rõ là binh khí của Kim Luân Pháp Vuơng. Gợi tánh tò mò Dương Qua

liền giở khinh công hướng theo tiếng vo vo chạy tới. Trong nháy mắt chàng đã đến

trước Ngọc Hư động ở sau Trùng dương Cung. Cũng đúng lúc Dương Qua chạy gần

tới trận chiến, thì cơ thể của Tiểu Long Nữ đang bị hại "Bách xuyên hội hải" phái

Toàn Chân và đòn đánh dồn của bọn Kim Luân Pháp Vương. Trưước một thân hình

liễu yếu như Tiểu Long Nữ, mà phải chiến đấu hơn ba trận ác liệt liên tiếp, với hàng

trăm đạo sĩ của năm sáu cao thủ. Rồi đến bây giờ chín tay cao thủ, của hai phái võ

lừng danh hợp lại đánh hai đòn ác độc vào nàng thì còn gì tính mạng! Nếu Dương

Qua tới sớm một tý là có thể cứu được cái nguy này. Nhưng thiên di bất trắc, thế sự

éo le, nên mọi việc đâu có thể được như ý muốn của con người? Mọi sự bi quan, ly

tán, họa phước, vinh nhục ở dời, cũng chỉ vì một tý sai lạc, chậm trễ gây nên.

Tiểu long Nữ nghe đến chuyện Quách Phù chặt tay chàng, cơn ghen tức thù hận nổi

lên làm nàng nghẹn thở, quên mất nàng đang bị trọng thương, mạng sống trong hấp

hối. Máu nóng đang sôi lên, Dương Qua nói:

- Cô! sau khi tôi mất một cánh tay chắc cô phải thương yêu tôi hơn xa vì cánh tay này

mà cô hết nghi ngờ tôi yêu Quách Phù chứ?

Tất cả tình thương yêu trìu mến đều bộc lộ ra trong đôi mắt ngấn lệ của Tiểu Long

Nữ. Với nụ cười bẽn lẽn không trả lời nàng đã chứng tỏ lòng cầu mong trước khi nàng

nhắm mắt được thấy Dương Qua một lần cuối. Bây giờ đã toại nguyện nên nàng

không mong muốn gì hơn nữa. Lúc này chỉ thấy bốn mắt hai nguời nhìn nhau, đôi tim

hoà nhịp. Tuy cường địch đang chực chờ xung quanh nhưng Dương Qua và Tiểu Long

Nữ đều không hề lưu ý tới.

Toàn Chân ngũ tử thấy Dương Qua bỗng nhiên xuất hiện biết việc này thêm phần nan

giải. Khưu Xứ Cơ quá gai mắt liền lớn tiếng:

- Trùng Dương cung là nơi tĩnh tu của chúng tôi, hôm nay các vị tới đây nhiễu loạn để

làm gì?

Vương Xứ Nhất cũng quá giận dữ liền nói tiếp:

- Long cô nương! Cổ mộ phái cùng Toàn Chân giáo có xích mích nhau thì đôi bên tự

giải quyết đuợc rồi sao cô lại rủ bao nhiêu người Hồ cùng lũ tà ma ngoại đạo tới đây

giết hại bao nhiêu đồ đệ của chúng tôi?

Tiểu Long Nữ lúc này đâu màng nghe những lời quở trách nhưng dù có nghe nàng

cũng không còn sức để đôi co với họ nữa.

Bọn đệ tử Toàn Chân thấy Tiểu Long Nữ cố ý hạ sát Doãn Chí Bình nên xem nàng

như thù địch nhưng lúc hỗn loạn này ai đâu có biết được sự thực mỉa mai cay đắng

giữa nàng và Doãn Chí Bình.

Dương Qua vẫn điềm nhiên nhỏ nhẹ hỏi nàng:

- Cô! mình trở về Cổ mộ nhé! Mặc cho họ muốn nói gì kệ họ.

Tiểu long Nữ khe khẽ hỏi:

- Cánh tay anh còn đau không?

Dưương Qua mỉm cười nói:

- Đã lành hẳn rồi!

Tiểu Long Nữ lại hỏi:

- Chất độc tình hoa trên mình anh còn tái phát nữa không?

Dương Qua hơi lo sợ đáp:

- Thỉnh thoảng cũng tái phát vài lần nhưng không đau đớn mấy.

Triệu Chí Kính lúc bị Tiểu Long Nữ đâm trọng thương mãi núp phía sau động nhưng

chưa dám ló mặt ra. Vì tiếp đó hắn thấy năm vị đạo trưởng Toàn Chân đã khai quan

nên thầm lo:

- Nếu mình ra mặt các vị đạo trưởng xét hỏi thì chức trưởng giáo sẽ mất mà thân còn

phải chịu nghiêm hình. Nhưng thế cuộc đã đến nước này mình không thể để yên được

chỉ còn cách gây thêm xáo trộn thị phi để năm vị đạo trưởng khó phân phải trái thì

mình có dịp thủ thắng. Nếu có thể mình mượn tay bọn Kim Luân Pháp Vương trừ

luôn Toàn Chân ngũ tử cũng được. Chỉ cực nhọc một lần mà mình sung sướng suốt

đời. Hay hơn nữa thằng Dương Qua bây giờ chỉ còn một cánh tay, mà nó còn lo cho

Tiểu long Nữ, thế này lúc khốn đốn lắm là mình gặp dịp may rồi.

Triệu Chí Kính thầm tính xong, vội bước tới mặt Dương Qua lớn tiếng:

- Tên phản nghịch Dương Qua! Hai vị tổ sư đang hỏi mi, sao không quỳ xuống tạ lỗi,

mà còn ngạo mạn như vậy?

Dương Qua nhìn lại, ánh mắt của hắn chứa đầy vẻ căm giận, lòng thầm nghĩ:

- Lũ đạo sĩ bây đã đánh cô ta trọng thương, hôm nay tạm gác lại, có dịp khác sẽ tính

sau.

Chàng không thèm trả lời, chỉ đỡ Tiểu long Nữ đứng dậy, cất bước đi. Triệu Chí Kính

nhìn Trịnh Quan, hô lớn:

- áp vô! Đừng để nó thoát!

Triệu Chí Kính và Trịnh Quan cùng nhau tung kiếm ra một lượt đâm thẳng vào vai

mặt Dương Qua. Triệu Chí Kính là một cao thủ có hạng trong hàng đệ tử đời thứ ba

của Toàn Chân giáo. Thân thể hắn tuy bị ba nhát kiếm của Tiểu long Nữ đâm nhưng

thương thế không đau mấy. Lúc này Triệu Chí Kính thấy Dương Qua không thể đánh

đòn trả được, hắn có ý hạ thủ Dương Qua trong tức khắc, nên đánh đòn ác độc vô

cùng. Đòn này chính là kiếm pháp của Vương trùng Dương, người đã được tôn là võ

công đệ nhất trong thiên hạ khi xưa truyền lại. Khưu xứ Cơ tuy giận Dương Qua về

tánh kiêu căng, nhưng nhớ lại năm xa Quách Tỉnh đã có lời ký thác. Hơn nữa Dương

Khang là đệ tử của lão, nên vội quát lớn:

- Triệu Chí Kính, hãy nới tay!

Xa xa có tiếng Mã quang Tổ quát lên:

- Ê! Triệu Chí Kính không hổ ngươi sao? Mi lại đâm cánh tay cụt của người ta?

Vì Mã Quang Tổ đã quen với Dương Qua và Tiểu long Nữ, nên lúc thấy hai người

đang lâm nguy mà bọn đồ đệ Toàn Chân muốn ám hại nên gã muốn ra tay cứu, mà

khốn nỗi chưa tới kịp.

Bỗng thấy một luồng xám tro thoáng qua, toàn thân mập phệ của Trịnh Quan bay

bổng, miệng rú lên một tiếng như heo bị thọc huyết. Nghe ầm một tiếng hắn rớt thẳng

xuống trên đầu Ni ma Tinh. Ni ma Tinh không để ý, nên gặp phải thân hình mập phệ

ấy giáng xuống làm hỏng cây gậy thay chân nên lăn nhào xuống đất. Vai lão vừa

chạm xuống đất, lập tức xoay mình lại, đưa gậy đập vào lưng Trịnh Quan. Trịnh Quan

bị tiếp mấy đòn ngất xỉu luôn. Còn Dương Qua chỉ dùng một chân mặt đạp lên thanh

kiếm của Triệu Chí Kính, mà Triệu Chí Kính dùng hết sức lực nép thanh kiếm lại

nhưng vẫn không chút nhúc nhích được. Biến cố này xảy ra trong chớp nhoáng. Hạng

võ công tầm thường không thể biết Dương Qua dùng cách nào đỡ đòn lợi hại của bọn

Chí Kính quá dễ dàng như vậy. Chỉ có Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn

Khắc Tây và Toàn Chân ngũ tử mới thấy được.

Lúc đôi kiếm bọn Chí Kính đâm tới tay áo bên mặt Dương Qua thoáng phất lên một

luồng sức mạnh tống ra, cái thân nặng hơn hai trăm cân của Trịnh Quan bị vứt bổng

lên còn Triệu chí Kính thấy thế quá nguy, liền xử thế "Thiên cân truỵ" nên liểng

xiểng. Cũng vì thế trường kiếm của hắn bị hạ xuống. Dương qua liền đưa chân đạp

mạnh trường kiếm ấy dưới đất.

Lúc Dương Qua luyện kiếm giữa thác lũ, sức nước mạnh như thế chưa đẩy chàng ngã

thì đủ thấy rõ công lực của đôi chân chàng vững đến mức nào rồi. Bây giờ một chân

đạp lên thanh kiếm, thì Triệu Chí Kính dẫu vận hết sức cũng không thể nào kéo nổi!

Dương Qua lạnh lùng nói:

- Triệu đạo trưởng! Ngày xưa lúc gặp Quách đại hiệp ông đã bảo tôi không phải là

học trò của ông, sao hôm nay lại nhắc việc ấy nữa? Thôi tôi nể vì ngày xua đã gọi

mấy tiếng sư phụ, nên tha cho ông đi đó!

Chàng vừa nói xong bàn chân không chút cử động nhưng nội công đã thu lại không đè

mạnh thanh kiếm nữa. Triệu chí Kính cảm thấy thanh kiếm nhẹ đi vội giật mạnh một

cái. Nghe "bịch", một tiếng, cán kiếm thôi mạnh vào ngực Triệu Chí Kính. Hắn ngã

ngửa xuống đất, lồng ngực đau nhói lên, hộc ra mấy bụm máu tươi rồi ngất xỉu.

Thương tích này do Triệu Chí Kính quá tức giận mà gây nên. Vương Xứ Nhất, Lưu

Xứ Huyền đều tuốt kiếm ra khỏi vỏ, tả hữu tấn công Dương Qua. Bỗng nhiên có một

bóng nguời phía Tây xông vào. Chỉ nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm tung lên

không. Người xông vào thình lình chính là Ni ma Tinh đã bị Trịnh Quan đụng té nhào

lúc nãy, nên lão giận đánh Trịnh Quan ngất xỉu mà chưa hả dạ. Bây giờ lão tìm ra căn

nguyên tại Dương Qua gây nên, liền chống gậy nhảy tới. Lão đánh thẳng thiết xà

trượng xuống đầu Dương Qua. Dương Qua phật mạnh tay áo lên, luồng sức mạnh làm

thiết xà trượng Ni Ma Tinh tung ngược lại, đụng vào hai thanh kiếm của Vương Xứ

Nhất và Lưu Xứ Huyền bay phắt ra. Bây giờ toàn thân Tiểu Long Nữ liểng xiểng dựa

vào mình Dương Qua vì nàng bị vết thương công phạt, sức lực yếu hẳn.

Dương Qua thấy võ công Ni ma Tinh hơn hẳn bọn Triệu Chí Kính nên không dám

dùng cánh tay áo chống cự với thiết trượng của lão. Dương Qua thu tay áo về, quấn

vào bụng của Tiểu Long Nữ, để nàng dựa vào hông. Chàng vội rút phăng thanh

"huyền thiết trọng kiếm" đeo bên hông trái, thuận tay vung ra. Nghe phập một tiếng,

bàn tay của Ni Ma Tinh bị tét ra, liền thấy một bóng đen bay vút lên không. Lúc cấp

bách, Dương Qua vội dùng thử trọng kiếm Độc cô Cầu bại. Chàng không ngờ một tay,

dùng trọng kiếm lại có một sức mạnh đánh bay được thiết trượng nặng hơn bốn mươi

cân của đối phương, bay cao hơn ba mươi trượng, nên chàng vừa kinh ngạc vừa mừng

rỡ. Ni ma Tinh tê liệt nửa thân người, cánh tay mặt bị chấn động đến mết cả cảm

giác. Nhưng cơn giận lão như lửa đốt, lão gầm lên một tiếng, tay trái tung cây gậy sắt

cao hơn một trượng, giáng xuống đầu Dương Qua. Dương Qua đưa kiếm lên đỡ, thầm

nghĩ:

- Cường lực trên kiếm mình đã thử rồi, vậy lần nầy thử nhu lực xem.

Định ý xong, chàng thúc nhẹ trọng kiếm tới, tức thì gậy sắt dính chặt vào mũi trọng

kiếm. Bấy giờ Dương Qua chỉ vận nội lực tung ra, Ni ma Tinh ắt phải ném xa hơn

mười trượng, và nếu lọt qua vách núi, lão chắc nát thịt tan xương. Lúc nầy Dương Qua

thấy Tiểu Long Nữ bị trọng thương như vậy, lòng chứa đầy oán hận, thấy mọi người

trước mắt đều là kẻ thù cả, nên ra tay không chút dung tình. Dương Qua khinh công

hạ thủ, nhưng thoáng thấy thân hình Ni ma tinh dính bổng theo gậy sắt, mà không có

đôi chân, bất giác nhớ đến cánh tay cụt của chàng, lòng cảm xúc thương người đồng

cảnh ngộ, tự nhiên tay không bỗng giật mạnh xuống đất. Cây gậy sắt bị gằn mạnh

cắm thắng xuống đất, kéo Ni ma Tinh xuống, bụi bay tung lên. Ni ma Tinh nắm chặt

gậy sắt, toan dùng sức nhổ lên, nhưng tay mặt không còn cử động được, cơn đau nhức

nhối khắp mình. Dương Qua nói:

- Hôm nay tôi tha mạng cho ông, thì ông còn mặt mũi nào ở lại dất Trung Nguyên

này nữa?

Mặt Ni ma Tinh xám ngắt như đám tro tàn, miệng không nói được lời. Tiêu tương Tử,

Doãn khắc Tây thấy việc bất ngờ như vậy, đều thấy rõ công lực của Dương Qua đã

tiến quá nhiều. Nhưng họ còn cho Dương Qua dù sức lực mạnh cũng chi còn một tay,

mà thắng được Ni ma Tinh đã cụt mất hai chân thì cũng chưa có gì kinh sợ. Doãn

Khắc Tây bước tới, đưa tay nhổ gậy sắt cho Ni ma Tinh. Ni ma Tinh được dịp vội

chộp lấy gậy chống đi nhưng nữa thân mình bị tê liệt, vừa nhảy đi một bước lại ngã

quy xuống. Tiêu tương Tử là người có tánh ganh tị chỉ cầu cho kẻ khác bị rủi ro, bất

kể bạn hay thù, nên hắn thấy Ni ma Tinh bị thất bại, đã thầm nghĩ:

- Võ công của thằng già Thiên Trúc vốn tương đương với mình, xưa nay không phục

ai, bây giờ lão ta phải tiêu đời rồi. Bây giờ trước mặt các cao thủ, mình thắng được

Dương Qua trước, thật một cơ hội lập danh oai.

Nghĩ như thế, Tiêu Tương Tử nhảy tới trước mặt Dương Qua, quát lớn:

- Tiểu tử Dương Qua, mi đã bao lần phá hoại đại sự của Vương gia. Hãy mau theo ta

để nạp mình!

Dương Qua thầm lo:

- Cô ta bị trọng thương, cần phải chữa trị sớm nhưng khổ nỗi trước mặt cường địch

quá nhiều, nếu ta không đánh lui họ hết thì làm sao có thể cứu chữa được? Sợ còn

phải thiệt mạng nữa.

Chàng khẽ hỏi Tiểu Long Nữ:

- Cô! cô thấy đau lắm không?

Tiểu Long Nữ cảm động đáp:

- Hơi đau thôi! Không hề gì, anh đừng ngại.

Dương Qua quắc mắt nhìn Tiêu Tương Tử, nói:

- Xin người ra tay trước!

Tiêu Tương Tử ngạo nghễ cười nói:

- Mi chỉ còn một tay, nếu ta dùng hai tay đánh hạ mi, thì thật bất công quá.

Tương Tử đút tay trái vào dây lưng, tay phải múa côn "khốc tăng" nói:

- Ta chỉ cần một tay đánh mi có chết cũng không oán hờn gì nữa nhé!

Lúc này Dương Qua chỉ cần đánh gấp để chấm dứt chiến trận, nên không muốn nói

dài dòng nữa. Dương Qua thấy Tiêu tương Tử khinh thường, liền đâm thẳng Huyền

thiết kiếm vào bụng Tiêu Tương Tử. Mũi kiếm còn cách xa lão chừng hai thước. Tiêu

tương Tử thấy thanh kiếm kịch cỡm, đen thui, như một thanh gỗ mun, nên khinh

khỉnh nói:

- Thanh gỗ cháy này mi nhặt ở đâu vậy?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fiction