Thanh cung mười ba triều 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thanh Cung Mười Ba Triều

Dịch giả: Nguyễn Hữu Lương

Hồi 29

HẠI NGƯỜI CHẲNG BÕ KHI NGƯỜI HẠI TA

Giữa lúc còn đang nghe tình hình của tên thám tử thứ nhất, thì tên thám tử thứ hai lại đã vào trướng bẩm trình:

- Diệp Hách tù trưởng họp với chín lộ binh mã của các bộ lạc Ô Lạp Huy Phát, Khoa Nhĩ Bị, Tích Bát Quái Cần Sát theo ba ngả tiến đánh Hưng Kinh. Xin Đại bối lặc cấp tốc chuẩn bị chống địch.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề nghe xong, không hề tỏ vẻ hoang mang cúi đầu suy nghĩ trong chốc lát rồi cho người đi gọi đệ Tam bối lặc Nhã Nhĩ Cáp Tề vào trướng.

Hai anh em thì thào bàn tán hồi lâu, rồi Nhã Nhĩ Cáp Tề ra khỏi trướng, nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay về hướng đông bắc. Còn Nỗ Nhĩ Cáp Tề vẫn y theo kế hoạch đã định sẵn, huy động binh mã tiến về phía bắc quan ngoại.

Sau năm ngày hành quân liên tiếp, Nỗ Nhĩ Cáp Tề gặp một con sông lớn chặn ngang. Đội tiên phong vào bẩm báo:

- Con sông chắn ngang trước mặt chính là sông Tô Tử hà.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề bèn truyền lệnh hạ trại dọc theo bờ sông, riêng đại binh của nguyên soái thì đóng lùi sâu vào trong khu rừng già, cây cối um tùm. Mặt khác ông cho lệnh nhà bếp sửa soạn rượu thịt. Chiều hôm đó, các chiếu rượu đã bày xong, ngay tại khu rừng già. Nỗ Nhĩ Cáp Tề ra khỏi trướng, đích thân tới mời tướng sĩ ăn uống. Các tướng sĩ vội bò xuống đất hành lễ tạ thưởng. Nỗ Nhĩ lên tiếng:

- Hỡi chư vị tướng quân! Hãy uống cạn chén này rồi an nghỉ đêm nay. Sáng mai ta sẽ xung trận.

Một tràng tiếng hoan hô vang lên như sấm. Tướng sĩ kẻ nào kẻ nấy miệng nuốt rượu ừng ực, hết chén này qua chén khác. Trong trướng, Nỗ Nhĩ cùng với nàng Phú Sát cũng nâng chén. Dưới trướng, đoàn nữ nhạc, mặt hoa da phấn cất tiếng ca trầm bổng theo nhịp đệm những cây tỳ bà. Mười hai tên thị nữ khác, đứng đàn thành hai hàng, rót rượu dâng thịt theo lệnh của vợ chồng Nỗ Nhĩ.

Tiệc vui kéo dài mãi tới lúc lên đèn, chén cạn mâm quang mới tan. Nỗ Nhĩ Cáp Tề truyền lệnh tắt đèn nghỉ ngơi, cấm ngặt chuyện trò bàn tán.

Tướng lệnh được thi hành triệt để, chỉ trong nháy mắt đèn lửa tắt sạch. Cả một vùng dinh trại rộng lớn hàng mấy vạn người ngựa thế mà nhất loạt im lặng như tờ, chỉ còn nghe tiếng vi vu của những làn gió thoảng trên ngọn cây lá cỏ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng hạ lưng xuống giường, trong chốc lát tiếng ngáy đã như sấm dậy, rộn cả vùng. Bà phi Phú Sát không dám ngủ, cùng với bọn thị nữ tựa lưng bên cây đèn dầu, thì thào chuyện vãn. Bên ngoài, lính gác đã báo canh ba. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vẫn mê man trong giấc ngủ say sưa. Phú Sát thị bỗng thấy như mặt đất chuyển động. Nàng lắng tai nghe thì như có tiếng người chạy, quân đi. Nàng sợ hãi, vội đứng dậy, miệng khẽ kêu:

- Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy! Quân binh của chín nước hình như đánh tới nơi rồi! Thế mà chàng cứ ngủ hoài vậy!

Nỗ Nhĩ Cáp Tề choàng tỉnh, nghe tiếng vợ chỉ cựa mình một cái rồi lại ngáy lên như sấm. Bên ngoài, tiếng vó ngựa, chân người nghe mỗi lúc một gần. Phú Sát thị lại gọi chồng lần nữa. Nàng vừa lay vừa nói:

- Chàng sợ hay sao mà không dám dậy vậy?

Nỗ Nhi vụt mở to mắt, nhìn nàng cười nói:

- Chính thế! Ta sợ lắm! Bởi vậy, muốn ngủ mà ngủ chẳng được ngon giấc. Mấy hôm trước, ta nghe nói Diệp Hách bộ đem binh của chín nước lại đánh ta. Ta chẳng biết khi nào chúng tới đánh. Nay chúng đã tới rồi thi ta còn có gì phải lo nữa!

Nói xong Nỗ Nhĩ lại nhắm mắt, quay mình vào trong ngủ lỳ như cũ. Phú Sát thị nghe chồng nói vậy chẳng hiểu ra sao nhưng lần này không dám gọi tiếp vì sợ Nỗ Nhĩ nổi nóng, nàng chỉ còn biết lặng lẽ ngồi tựa bên cạnh giường chờ đợi.

Tiếng vó ngựa, chân người nghe càng rõ hơn, tựa hồ như đoàn quân nào đó đã tới cửa dinh. Nhưng rồi tiếng rầm rộ đó bỗng nín bặt. Phú Sát thị chẳng hiểu ra sao, lòng nghi hoặc càng làm cho nàng bối rối muôn phần.

Bỗng ngoài cửa dinh, một tiếng gầm long trời lở đất nổi lên. Trong nháy mắt, ánh lửa sáng rực trời. Cuộc ác đấu xảy ra, đao kiếm va nhau chan chát. Phú Sát thị hoảng hồn, hối hả lay chồng. Nỗ Nhĩ Cáp Tề khoát tay bảo nàng đừng làm rộn. Bên ngoài, tiếng hò hét chém giết mỗi lúc một lớn hơn, tuy ngồi trong trướng nhưng nàng cảm thấy như ngồi trong một vùng có động đất, có núi lở, biển sôi.

Hồi lâu sau, tiếng hò hét chém giết xa dần. Nỗ Nhĩ từ trên giường nhảy xuống đất, vỗ tay cười lớn rồi kéo Phú Sát thị lại ngồi bên cạnh giường mà bảo nàng:

- Nàng đã thấy kế sách của ta chưa? Ta vốn biết quân binh của Diệp Hách bộ và chín nước ở trước mặt, có ý muốn đánh tới cho nhanh. Bởi vậy ta giả bộ bày tiệc cho quân sĩ ăn uống no say rồi ngủ miết để chúng hí hửng đem quân cướp trại. Kỳ thực rượu của bọn ta uống đó chỉ là nước trà chứ đâu phải là rượu. Binh sĩ của ta có ai ngủ đâu. Họ đều nai nịt gọn gàng, cầm binh khí lặng lẽ chực sẵn để phản công đấy chứ! Quả nhiên quân địch kéo tới cướp trại, không ngoài kế hoạch của ta đã dự liệu. Bốn mặt quân mai phục của ta đều có. Bất cứ chỗ nào, địch quân cũng không thể nào thoát được. Chúng đã bị kế mai phục của ta ắt không biết quân ta nhiều ít ra sao, nên hoảng hồn, bắt buộc phải rút lui qua bên kia sông. Hơn nữa ta còn do thám được tin quân chủ lực chúng hiện đóng trại suốt dọc sông Hỗn Hà. Bởi vậy ta đã sai tam đệ lặng lẽ tới Cáp Đạt bộ bảo Mông Cách Bố Lộc mau đem quân đánh tập hậu, quân Diệp Hách. Đợi khi chúng vượt qua sông Hỗn Hà, ta cùng Lộc tiền hậu giáp công, phen này Bốc Trại khó thoát được tay ta.

Giữa lúc vợ chồng Nỗ Nhĩ còn trò chuyện với nhau, bên ngoài tin tức báo vào dồn dập:

- Tiền đội tiên phong đã đánh qua sông Tô Tử hà.

- Giết quân Diệp Hách được hơn ba trăm tên, bắt sống hơn năm trăm tên.

- Cướp được lương thảo, binh khí, lều vải rất nhiều, hiện chất đống ngoài cửa dinh, xin mời Đại bối lặc ra xem xét.

Lúc đó Nỗ Nhĩ Cáp Tề mới từ từ đứng dậy, bước ra khỏi trướng, thẩm vấn suốt lượt tất cả bọn tướng sĩ bị bắt của Diệp Hách bộ. Ông lại đi xem số lương thực vũ khí tịch thu được, xong xuôi truyền lệnh nhổ trại cho đoàn quân tiến tới bờ phía tây sông Hỗn Hà. Giữa lúc đó, quân Diệp Hách đang từ từ qua đò sang sông. Nỗ Nhĩ Cáp Tề tức tốc hạ lệnh truy kích.

Quân Diệp Hách luống cuống, rớt xuống sông chết chìm không biết bao nhiêu mà kể. Bốc Trại lúc đó đã vượt qua bờ bên kia. Một cánh quân bỗng từ đâu đánh tới, kéo cao lá cờ Cáp Đạt.

Quân của Trại bị Lộc đánh cho một trận tơi bời, manh giáp không còn. Bốc Trại thấy mặt trước bị quân Cáp Đạt chặn đường vội đem một tiểu đội binh sĩ vượt qua thượng lưu, về lại phía cũ. Nhưng vừa mới lên được bờ, Trại đã gặp ngay một đại đôi người ngựa ùn ùn kéo tới. Thật là oan gia gặp đường hẹp, kẻ kéo binh tới đó chẳng phải ai xa lạ mà là Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Trại thấy Nỗ hoảng hồn bạt vía, một mình hối hả chạy trốn. Nỗ Nhĩ đâu có chịu bỏ, cung đơn thương độc mã đuổi theo. Miền đất này vốn có một khu rừng cây cao rậm. Trại quất ngựa lẩn vào trong các hàng cây, khi chạy qua đông, lúc chạy sang tây. Nỗ đuổi gấp, không cho Trại rảnh lấy một phút nghỉ ngơi.

Hai người, một trước một sau, đuổi nhau vào mãi trong rừng sâu. Trại quay đầu lại thì thấy Nỗ đuổi kịp, đầu ngựa Nỗ đã bắt kịp đuôi ngựa mình. Trại hoảng hốt bối rối. Một tiếng quát vang như sấm, Nỗ cầm thương đâm tới. Trại giật mình, biết thế nguy, vội đập mạnh chân cho ngựa lao nhanh về phía trước, mong lách qua một cây cổ thụ chắn ngang đường mà lên. Không ngờ cây này có một cành nằm ngang cao bằng đầu người, chìa ngang qua đường. Trại trong lúc vội vã, không chú ý tới, hơn nữa, ngựa phi lại nhanh, thế nhào tới quá gấp nên tránh không kịp. Nỗ chỉ kịp nghe một tiếng đốp tức thì Trại rớt phịch xuống đất như đống thịt. Đáng thương cho Trại, một tay hảo hán sức mạnh hơn người, thế mà một phút sa cơ, chết thảm!

Giết được Bốc Trại rồi, Nỗ Nhĩ Cáp Tề thừa thế vượt qua sông, họp binh với Mông Cách Bố Lộc rồi kéo đi thu phục hết các thành trì của Diệp Hách bộ. Quân binh bảy nước liên minh với Diệp Hách được tin Bốc Trại tử trận, kẻ nào cũng rụt cổ như rùa, trốn biệt, không dám xuất đầu lộ diện nữa.

Trong cuộc đại thắng này, công lao của Mông Cách Bố Lộc thực không nhỏ. Bởi vậy Nỗ Nhĩ Cáp Tề mời Lộc tới dinh, mở yến tiệc thết đãi. Ông còn bảo Phú Sát cho đoàn thị nữ xinh đẹp hầu rượu Lộc. Mông Cách Bố Lộc lại hiếu sắc, khi thấy đám giai nhân xinh đẹp, chàng chẳng khỏi say mê, dần dần cử chi có chiều lả lơi, cuồng phóng. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vẫn không giận Lộc, còn cấp cho Lộc rất nhiều trâu, ngựa, lương thảo rồi đưa tiễn về nước.

Đến hồi này, binh lực Kiến Châu đã trở thành cường thịnh, ai cũng phải e sợ kinh nể. Thế mà đối với Nỗ Nhĩ, ông vẫn chưa hài lòng. Ông thường nghĩ tới các bộ lạc lân cận. Thấy trong số đó có Ô Lạp bộ là một bộ lạc mạnh tợn hơn cả, Nỗ Nhĩ bèn cho rằng việc tiêu diệt bộ lạc này để tiếp thông với biển Đông là rất cần.

Tháng giêng năm thứ 35 niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, có Sách Mạc Mặc Hắc tù trưởng bộ lạc Ngoã Nhĩ Khách ở Đông Hải, sai người tới nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề:

- Bộ lạc tôi vốn ở xa nên đành phải quy phục bọn Ô Lạp. Bối lặc Ô Lạp tên gọi Bố Chiên Thái ngược đãi bọn tôi quá tệ! Chúng tôi không còn cách nào hơn là tới xin đẩu hàng Kiến Châu của quý ngài, chỉ xin quý ngài mau mau phát binh tới giúp đỡ chúng tôi đuổi bọn Ô Lạp.

Nỗ Nhĩ coi lời yêu cầu này là dịp may nghìn năm một thuở. Ông nhảy lên vì sung sướng, vội điểm đủ quân mã và cho gọi người em thứ hai Thư Nhĩ Cáp Tề, phong làm tiên phong, đem ba ngàn quân từ thượng lưu sông Tùng Hoa qua Hắc Giang, vượt Đồ Môn Giang, xuyên qua thành trại Triều Tiên, đến bờ sông Khánh Nguyên phủ, lại vượt Đồ Môn giang, tiến thẳng tới thành Phi Du, của bộ lạc Ngoã Nhĩ Khách.

Tin này đồn đi. Bộ chủ Ô Lạp là Bố Chiêm Thái hay được, liền xuất binh tới Đồ Môn giang, định chẹn hậu Thư Nhĩ Cáp Tề. Trên đường hành quân, đội tiên phong của Thư Nhĩ bắt được mấy ngàn ngựa trâu của bách tinh. Tới Thư Thành giang, phải vượt qua đỉnh núi, thấy địch quân người ngựa rầm rộ kéo tới liền phi báo cho chủ. Thư Nhĩ tức khắc xuất binh khai chiến. Giữa lúc Bố Chiêm Thái đem toàn binh lực để đối phó địch quân, bỗng ở phía sau, ba lộ quân mã của Nỗ Nhĩ hùng hổ kéo tới, lộ thứ nhất xông đánh chặn hậu, lộ thứ nhì vượt qua bãi sông khúc dưới chặn đường rút, còn lộ thứ ba, do chính Nỗ Nhĩ và con trai tên Đại Thiện đánh thẳng vào trung quân của địch.

Đại Thiện là một bối lặc trẻ tuổi, dũng cảm hơn người. Bố Chiêm Thái thân xuất mã đối địch với Thiện. Hai bên đánh nhau bốn, năm mươi hiệp mà không phân cao thấp.

Thái rút lui, để viên mãnh tướng Trác Đẩu thay thế. Đẩu giao chiến luôn một hơi hơn ba mươi hiệp mà vẫn không thắng nổi. Thiện tạo một sơ hở để lừa Đẩu. Đẩu không ngờ, tưởng chắc ăn, vội chập cả hai tay nhè ngang hông Thiện chém vát xuống một đao hết sức lẹ. Thiện chờ ngọn đao chém tới liền né sang một bên khiến lưỡi đao bị hụt, vút mạnh vào chỗ không. Thiện liền giục ngựa tiến lên vài bước, một tay nắm chắc cán đao của Đẩu, tay kia giơ cao cây đao của mình, dùng hết sức bình sinh chém một nhát, cắt đứt nửa đầu Đẩu.

Quân sĩ của Đẩu thấy chủ tướng đã bị giết, vội hè nhau bỏ chạy. Mặt sau, trận thế không giữ được vững, cuối cùng cũng tan vỡ, quân mã chạy có cờ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngồi trên ngựa, thấy quân mình thắng thế, liền cầm cây cờ vàng nhỏ phất lên. Tức thì đại đội quân mã như tuyết tan núi lở, rùng rùng truy kích. Giữa lúc đó, một cơn gió lốc từ đâu cuốn tới, khiến đá cát bay tung, mù mịt cả trời đất. Bố Chiêm Thái hốt hoảng đem quân vừa đánh vừa lùi. Khốn thay, đường núi thì gồ ghề khó bước, trời đất lại mù mịt khó nhận ra lối, thành thử quân của Thái dẫm đạp lên nhau mà chết hoặc té sấp té ngửa xuống đường, què gẫy không biết bao nhiêu mà kể.

Binh Kiến Châu đuổi tới. Bối lặc Đại Thiện phóng ngựa lên trước, múa tít cây đại đao, khi chạy ngang, lúc chạy dọc chém người như chém chuối. Chỉ trong chốc lát, Thiện đã hạ đến hơn ba chục viên tướng, còn quân binh thì vô kể. Một viên quan tải lương vốn là chú ruột của Thái, tên gọi Xương Chủ Đích, chỉ vì xe lương chậm chạp rớt lại sau bị Thiện đuổi kịp bắt trói lại. Thiện rút cung tên ra, song chưa kịp bắn bỗng nghe có tiếng hô lớn từ phía sau: "Tướng kia không được dùng ám tiễn bắn người", rồi một viên mãnh tướng lao tới cản Thiện. Nhưng Thiện không để cho kịp trở tay, nhanh như chớp nắm lấy giải mũ của đối thủ rồi thuận tay mặt cắt luôn đầu y.

Trường ác đấu này khiến Bố Chiêm Thái tổn thất mất hơn bảy ngàn quân. Thái hốt hoảng chạy trốn, lui mãi về miền Cát Lâm. Nỗ Nhĩ Cáp Tề đại thắng, ban sư hồi kinh.

Đông tàn. Đầu hạ năm sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề đem theo cậu con trai thứ tám là Hoàng Thái Cực xuất quân đánh phá miền Cát Lâm để tiêu diệt Ô Lạp quốc. Bố Chiêm Thái được tin, hoảng hồn bạt vía, vội vàng đích thân đem mấy tên tuỳ tùng, đi thuyền qua sông Phục Nhĩ Cáp để cầu hoà. Nỗ Nhĩ Cáp Tề không cho, kéo rốc đại binh tới Ô Lạp, phá tan thành trì, chém giết thả cửa luôn năm ngày, đến nỗi dân trong thành gần như không còn ai. Bố Chiêm Thái đại bại, vội trốn qua Diệp Hách bộ mất dạng...

Hồi 30

VU OAN GIÁ HỌA

Cáp Tề giết chết còn lấy làm căm hận. Cho nên khi thấy Bố Chiêm Thái bị bại vì bọn Kiến Châu thì Lộc đồng bệnh tương lân, thu nạp luôn Thái. Lộc và Thái ngày đêm bàn tính kế hoạch báo thù. Hai người sực nhớ tới Cáp Đạt bộ chủ là Mông Cách Bố Lộc, trước đây đã có lần giúp Nỗ Nhĩ Cáp Tề khinh rẻ Diệp Hách bộ bèn cùng cho rằng trong công cuộc phục thù này, trước hết phải đánh Mông Cách.

Tháng năm năm thứ 27 niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, Nạp Lâm Bố Lộc điều động đại đội nhân mã tiến đánh thành Cáp Đạt. Cáp Đạt bộ chủ hoảng hốt lo sợ. Ông nghĩ rằng trước đây ông có công giúp người Kiến Châu thì ngày hôm nay, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hẳn sẵn lòng giúp lại ông. Bởi vậy ông đem theo ba người con trai tới Kiến Châu, nguyện ý dùng họ làm con tin, chỉ yêu cầu Nỗ Nhĩ mau phát binh cứu nước ông.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề lưu cả bốn cha con Mông Cách Bố Lộc lại Hưng Kinh, rồi sai Phi Anh Đông đem ba ngàn tinh binh đi cứu Cáp Đạt. Nỗ Nhĩ ngày ngày cùng Bố Lộc uống rượu, đàm đạo vui vẻ trong phủ. Còn mấy người con của Bố Lộc thì Phú Sát thị đều đưa vào trong nuôi dưỡng cẩn thận. Chúng đứa nào cũng khôi ngô tuấn tú, tính tình lại thông minh hiền hậu. Mỗi khi Phú Sát thị đến thăm, chúng đều kêu bà bằng má. Phú Sát thị vốn tính ưa trẻ con, thường bế chúng cho ngồi trên gối hỏi chuyện, lúc ấy thì bà mới biết là mẹ chúng đã chết. Cảm thấy nỗi đau xót của lu trẻ, bà bất giác sa lệ.

Một hôm, nhân lúc ngồi ăn cơm, vợ chồng Nỗ Nhĩ đề cập tới chuyện vợ con của Mông Cách Bố Lộc. Phú Sát thị ngỏ ý đem con gái của bà gả cho Bố Lộc. Theo ý bà, con gái mà lấy được vị bộ chủ chính là một vinh hạnh, hai nữa, Bố Lộc một khi đã là con rể rồi ắt phải đem hết lòng trung mà phò tá nhạc gia. Tuy lời bà Phú Sát thị tỏ rõ là cao kiến nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Tề lặng thinh chẳng nói một câu nào. Phú Sát thị đôi ba lần năn nỉ, cuối cùng ông chỉ vỏn vẹn có một câu:

- Tuỳ ý bà! Muốn làm sao thì làm.

Ngày thường Nỗ Nhĩ Cáp Tề rất sủng ái Phú Sát thị. Hơn nữa, bà thấy Bố Lộc quả là một nhân tài xuất chúng, nên thường thúc giục chồng nói cho Bố Lộc nghe việc này. Nỗ Nhĩ nể vợ quá đành phải nói. Mông Cách Bố Lộc trong lòng sung sướng đến phát điên, không thể ngờ mình há lại có cái diễm phúc hi hữu ấy. Lộc xin vào yết kiến bà Phú Sát đế tạ ơn. Bà Phú Sát cho triệu thầy cúng vào chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ ngay trong phủ.

Ngày vui của đôi trẻ đã gần tới. Trong phu treo đèn kết hoa lộng lẫy. Một hôm trước ngày cưới. Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho bày tiệc mời Mông Cách Bố Lộc vào bàn. Trong bữa tiệc Nỗ Nhĩ cực lực tán dương Bố Lộc. Nỗ còn cho gọi một nàng hầu thiếp xinh đẹp ra, đứng ngay cạnh Lộc để vừa ca hát vừa rót rượu mời Lộc.

Bố Lộc, mắt thì mơ màng vì sắc đẹp của mỹ nhân tai thì say sưa vì tiếng hát du dương, nhắp hết chén này đến chén kia, chẳng mấy chốc đã say bí tỷ. Nỗ Nhĩ Cáp Tề liếc mắt ra hiệu cho đám thị nữ. Tức thì một đứa xách đèn đi trước soi đường, trong khi nàng hầu kia đích thân đỡ Bố Lộc tới một căn phòng nhỏ...

Sáng hôm sau, Bố Lộc tỉnh dậy, mở mắt trông ra thì thấy mình cùng với người hầu thiếp, thân thể loã lồ bị trói vào nhau nằm trên giường. Trước giường, một đám binh sĩ đứng vây quanh từ lúc nào.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề, mặt giận hầm hầm đang cũng đứng đó, chỉ trời vạch đất chủ bới om sòm, tố cáo Bố Lộc gian dâm nhạc mẫu của y. Rồi chẳng cho Lộc nói điều gì, Nỗ Nhĩ vẫy tay một cái, tức thì bảy, tám tên quân tiến lên khiêng Lộc chạy đi Lộc kêu oan đến hết hơi khô cố mà chẳng ai thèm nghe.

Bọn quân sĩ đem Lộc tới một khu vườn hoang rồi trói chặt y vào một gốc cây cổ thụ. Bỗng đứa con trai lớn của Lộc tên gọi Ngô Nhĩ Hốt Đáp hối hả chạy từ ngoài vào, miệng kêu lớn: "Xin dừng đao chớ chém", rồi tiến tới trước mặt Nỗ Nhĩ Cáp Tề bò xuống đất, dập đầu lạy như tế sao xin tha cho cha.

Nỗ Nhĩ đẩy Ngô Nhĩ Hốt Đáp ra xa, quát to:

- Động thử!

Người ta chỉ nghe một tiếng soạt ngọt xót, đầu Mông Cách Bố Lộc đã rơi phịch xuống đất. Đáp chồm lên trước, ôm lấy thây cha mà khóc lóc thảm thiết rồi gục luôn xuống đất, mê đi.

Khi tỉnh lại Đáp chỉ thấy chung quanh là một khu vườn hoang vắng âm u, không còn lấy một bóng người. Đáp cúi đầu suy nghĩ, biết rằng mình không còn có thể ở lại phủ nữa, bèn vội đứng dậy, chạy ra khỏi vườn. Lúc đó trời đã hoàng hôn. không một bóng người. Đáp vội vã trốn khỏi thành Hưng Kinh, với ý định quay về Cáp Đạt khởi binh báo thù. Khi chạy tới núi Giám Phàm, Đáp gặp một tay thủ hạ của viên quan tổng binh nhà Minh vốn giữ chức quan tuần tra. Viên quan này có biết Đáp cho nên khi thấy Đáp hối hả vội vã, liền cầm lấy tay hỏi. Đáp bèn đem chuyện cha mình bị giết như thế nào kể ra một lượt rồi nói thêm cho viên quan tuần tra biết cái ý định quay về Cáp Đạt của mình.

- Ngốc ơi là ngốc? Mày về chuyến này đừng nói đến chuyện báo thù báo hận gì cho mệt ngay cả đến cái mạng của mày lồi đây cũng khó giữ đấy, ngốc ạ!

Đáp lấy làm lạ vội hỏi:

- Chuyện gì mà kỳ vậy?

Viên tuần tra nói tiếp:

- Mày quên Phi Anh Đông đã mang hai ngàn người ngựa tới đợi ở nhà mày rồi ư?

Đáp giật mình, lúc đó mới tỉnh ngộ, vội quỳ dập đầu xin viên tuần tra cứu giúp. Tay này bèn nâng Đáp dậy, đưa về Phủ Thuận quan, Đáp gặp Lý Thành Lương, khóc lóc thảm thiết xin được che chở giúp đỡ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy Ngô Nhĩ Hốt Đáp trốn mất, giữa lúc đang sai người đi tìm kiếm, bỗng được tin thám tử cho biết Minh triều sai quan Tổng binh đích thân đem quân tới Hưng Kinh hỏi tội. Nỗ Nhĩ tuy rằng hung hãn, nhưng khi nghe tin quân Minh tới thì cũng không khỏi hoảng sợ. Bởi vậy, Nỗ một mặt sai ngay Thư Nhĩ Cáp Tề sửa soạn nghênh chiến, đồng thời cho người trả thi hài Mông Cách Bố Lộc về cho con trai y. Lý Thành Lương đã thấy Nỗ có ý chịu phục nên rút quân trở về.

Không ngờ bà Phú Sát thấy chồng mưu sát mất anh chàng rể của mình trong lòng thật không khoái chút nào! Bà quý Đáp, cưng Đáp nhưng Đáp đã không còn ở cạnh bà, cho nên bà gây sự với chồng hoài. Ngay cả nàng công chúa con gái Nỗ thấy cha giết ý trung nhân của mình cũng buồn khôn tả, khóc lóc ngày đêm, âm thầm than thở.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy hai mẹ con bà Phú Sát kiếm chuyện hoài đành gọi Ngô Nhĩ Hốt Đáp trở về phủ Lý Thành Chương cũng đem người em Đáp về nuôi dưỡng, che chở. Đôi vợ chồng ăn ở với nhau hết sức đằm thắm. Bà Phú Sát thấy vậy cũng mười phần mừng vui. Thế rồi bốn mươi ngày qua, hai vợ chồng Đáp trở về Cáp Đạt.

Từ đó về sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng như Phú Sát thị, người nào cũng có ý định của mình, không còn hoà thuận như xưa nữa. Lúc đó, bà Đông thị vợ cả của Nỗ, đã chết. Bà hạ sinh hai trai: lớn gọi Chữ Anh, nhỏ gọi Đại Thiện. Chữ Anh tính rất quật cường, Nỗ Nhĩ Cáp Tề sai Anh đem quân đồn trú ở bên ngoài. Phú Sát thị cũng sinh hai trai, lớn gọi Mãng Cồ Nhĩ Thái, nhỏ gọi Đức Cách Loại, cả hai đều không được cha yêu. Đến khi bà Phú Sát bất hoà với Nỗ Nhĩ thì tình cha con càng ngày càng nhạt. Lúc đó còn có cả người con trai của bà Đại Phi họ Diệp Hách Nạp Thích tên gọi Hoàng Thái Cực. Cực rất được cha yêu, được cưng chiều quý như Đại Thiện. Rồi đến người con trai bà Ngoại Trắc Phi họ Y Nhĩ Căn Giác La, tên gọi Ba Thái Hoà. Cuối cùng là năm người con trai bà thứ phi, tên gọi A Bái, Thang Cổ Đại, Tháp Bái, Ba Bố Thái, Ba Bố Hải. Năm người này cũng không được gặp mặt cha.

Hồi Ngô Nhĩ Hốt Đáp cưới cô công chúa lớn làm vợ cũng là hồi bà Đại phi họ diệp Hách Nạp Thích mất. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vốn thương yêu bà này nên không khỏi bi thương buồn bã. Do đó, ông lại càng cưng cậu con trai của bà là Hoàng Thái Cực. Bản ý của Nỗ Nhĩ Cáp Tề là sau khi bà Diệp Hách chết, ông sẽ đưa bà Phú Sát lên hàm đại phúc tấn. Nhưng bà Phú Sát bây giờ lại bất hoà với ông, ông bèn tính chọn một người khác.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề được tin đồn tù trưởng bộ lạc Diệp Hách là Bố Dương Cổ có người em gái sắc đẹp tuyệt trần. Tại vùng quan ngoại ai cũng ca tụng nàng là một cô tiên trần thế. Thế là Nỗ Nhĩ đêm ngày mơ ước lấy được nàng. May thay, người em thứ hai của Nỗ Nhĩ Cáp Tề là Thư Nhĩ Cáp Tề lấy Ô Thích (em gái Bố Chiêm Thái bối lặc) làm vợ, thành thử Thái đích thân đem em gái tới Hưng Kinh. Thái thấy Nỗ, hết sức mắc cỡ. Nhưng Nỗ cho rằng đã là bà con thân thích với nhau rồi thì nên quên hết mọi hận thù thuở trước. Do đó hai người đánh chén với nhau, vui cười hể hả, không còn hậu ý gì nữa Trong lúc ăn nhậu, trò chuyện, Thái mới biết Nỗ đã mất bà đại phúc tấn. Thái liền nhắc tới em gái Bố Dương Cổ, tán dương sắc đẹp của nàng ta. Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt ngay lấy cơ hội, uỷ thác luôn cho Thái tới Diệp Hách bộ cầu hôn.

Qua năm thứ hai Diệp Hách, Cáp Đạt. Ô Lạp Huy, tù trưởng bốn bộ lạc đều sai người tới nhận tội trước Nỗ Nhĩ Cáp Tề.

Bố Dương Cố lại đích thân đem cô em gái tới gả cho Nỗ làm đại phúc tấn. Nỗ bèn đưa tới biếu Cổ một bộ yên cương bồn giáp hạng nhất để làm đồ sính lễ. Ngay lúc đó, Nỗ sai giết một con ngựa bạch để tế trời lập thệ. Hai người đồng thanh thề rằng:

"Sau khi minh thệ nếu có kẻ bỏ hôn nhân, phản bội lời thề thi kẻ đó se như đất này, như xương, như huyết này, tuyệt mạng muôn đời. Trái lại nếu trước sau giữ vẹn lời thề, kẻ đó sẽ uống rượu này, ăn thịt này, phúc lộc đầy đủ".

Thề xong, hai người mời bọn bối lắc bốn nước mở tiệc yến ẩm say sưa, một phen náo nhiệt vui vẻ.

Từ đó, Nỗ Nhĩ Cáp Tề càng đắc ý vênh vang. Quyền lực ngày một lớn mạnh, anh em chú bác trong họ đều chịu lép dướì thế lực của Nỗ. Rồi con gái, rồi phi tử, thê thiếp, nhiều kẻ bị thất sủng đều oán hận ông. Nỗ Nhĩ Cáp Tề biết rõ điều đó nên ông cho dời hết cả đám bà con chú bác ra ngoài thành. Việc di tản nảy khiến họ hàng hoảng hốt lo sợ. Đỗ Thế Thôi, Lưu Xiển, Sách Tràng A, Bảo Thực, tất cả bọn con cháu vội vàng họp bàn mật với nhau rồi anh nào cũng triệu tập gia tướng của mình, tính đợi đến khuya, trèo vào thành để giết chết Nỗ Nhi.

Một đêm trăng mờ gió giật. Nỗ Nhĩ một mình ngủ trên giường, bỗng thấy lòng dạ nóng như lửa đốt, đầu mình run bần bật. Ông thốt lên một tiếng: "Nguy rồi" và nhảy chồm dậy, tay cầm vội thanh bao kiếm, lẳng lặng mở cửa ra ngoài.

Hai cậu con trai ông, Đại Thiện và Hoàng Thái Cực, bước theo sau, đường phố lặng lẽ như tờ, lại thêm gió giật liên hồi. Ba cha con Nỗ Nhĩ Cáp Tề lén bước dần tới chân thành cửa tây, vốn là chỗ hoang vắng nhất. Ông tiến lên trước vịn vào bờ thành nhìn xuống dưới phía bên ngoài. Quả nhiên, ông thấy đến mười mấy người đang bám thang dây mà leo lên. Chờ cho họ leo lên gần mép thành, ông liền giơ cao cây bảo kiếm, quát lên một tiếng lớn. Bọn người leo thành bên ngoài giật mình đánh thót một cái, té nhào cả xuống đất. Tiếng quát đó đã đánh thức được bọn quân tướng giữ thành. Họ vừa chồm dậy chưa rõ chuyện gì xảy ra thì đã thấy Nỗ Nhĩ Cáp Tề đứng sừng sững trên chòi canh. Cả bọn giật mình hoảng sợ, vội cùng nhau quỳ mọp xuống đất xin đại bối lặc về phủ. Theo ý Hoàng Thái Cực thì cần phải mở cửa thành ra để bắt bọn giặc nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Tề không chịu, bảo quay về.

Hồi 31

NHỮNG VỤ MƯU SÁT

Đêm hôm sau, giữa lúc Nỗ Nhĩ Cáp Tề, Đại Thiện, Hoàng Thái Cực và cô công chúa con ông, tất cả bốn người đang ngủ say trong phòng, con chó ông nuôi tên gọi Dương Cổ Cáp bỗng sủa ầm lên. Ông nhỏm dậy, giương mắt nhìn qua bóng đêm, thấy con Dương Cổ Cáp đứng thẳng người bắt hai chân trước qua song cửa sổ. Ông nhìn qua cửa số thấy có nhiều bóng người chuyển động thấp thoáng. Ông nghĩ ngay rằng lại có kẻ ám sát vội chạy sang giường cạnh lay con gái ông dậy, rồi tới Đại Thiện, Hoàng Thái Cực. Hai cậu công tử vội cầm mỗi người một cây đao sắc, tới nấp bên cánh cửa sổ, rồi ông đứng bên trong dựng ngược cây kiếm, cho ra ngoài quát lớn:

- Kẻ nào nấp bên ngoài? Đã tới đây rồi tại sao không dám tiến vào? Ta sắp ra đây. Bọn ngươi có dám đối địch cùng ta chăng?

Nói đoạn ông dùng cây kiếm đập mạnh vào cánh cửa số, lấy chân đạp tung ra, làm bộ như muốn nhảy qua cửa số mà ra ngoài, nhưng thực ra ông đã quay lẹ mình sang trái, nhảy vèo qua cửa chính ra. Bọn thích khách bên ngoài không ngờ ông lại khôn ngoan và mau lẹ đến thế, hoảng hốt co giò chạy vội. Ông nhìn kỹ thì ra đó là một tên thị vệ trong phủ của ông tên gọi Mạnh Hải. Ông giận sôi gan hạ lịnh tất cả thị vệ đóng kín cổng thành rồi chia nhau đi lùng bắt thích khách.

Qua ngày hôm sau có một người chú họ tên Lang Đôn từ thành Ma Thích lại. Đôn bảo Nỗ Nhĩ Cáp Tề:

- Cả họ đều là cừu địch của mày. Mày bắt ai bây giò chứ?

Nỗ nghe xong bất giác hoảng sợ, chẳng dám bắt hung thủ nữa. Hôm đó, ông dọn sang ngủ bên phòng bà trắc phi Y Nhĩ Căn Giác La. Ngủ tới nửa đêm, bỗng nghe ngoài phòng có tiếng động "rắc rắc" ông vội mặc áo trỗi dậy. A Ba Thái, con trai của Giác La, theo mẹ ngủ tại phòng đó. Thái cũng cầm đao theo cha, lặng lẽ lẻn ra ngoài. Hai cha con Nỗ Nhĩ Cáp Tề nấp kín vào một góc kẹt của lò sưởi.

Trời đêm đó tối quá, tất cả khu nhà như chìm trong bể mực, không thể nhận ra được bất cứ ai, dù chỉ trong khoảng một thước. Thích khách sờ soạng mãi mới mò tới gần lò sưởi.

Bỗng trên không trung có tiếng sấm nổi dậy. Rồi một tia chớp loé lên, chiếu sáng khắp cả khu nhà. Nỗ Nhĩ Cáp Tề nhờ lúc trời chớp, giơ cao sống đao đánh xuống thật mạnh, khiến thích khách ngã lăn xuống đất. Nỗ Nhĩ nhảy tới, đưa chân trái đè chặt ngực tên thích khách xuống đất, miệng kêu "Lạc Mạc" liền mấy tiếng. Lạc Mạc là một tên thị vê thân cận, nghe đại bối lặc kêu vội xách đao chạy lên. Nỗ Nhĩ sai trói tên thích khách. Mạc nói:

- Tên ác tặc này đã xúc phạm tới đại giá của đại bối lặc. Giết quách là hơn!

Nỗ Nhĩ Cáp Tề sợ mang tội với họ mạc, bèn làm bộ hỏi tên hung thủ:

- Thằng kia? Có phải mi tới trộm ngựa không?

Hung thủ nghe đoạn gật đầu. Nỗ Nhĩ bật cười khanh khách, bảo Lạc Mạc cởi trói thả ra. Hung thủ vội quỳ xuống đất lậy Nỗ Nhĩ rồi quay mình bỏ đi.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho rằng mình khoan thứ cho người ắt người phải hối cải. Nào ngờ, mấy ngày sau lại xảy ra một chuyện nữa. Đêm đó, Nỗ Nhĩ lúc cởi áo đi nghỉ, nhác thấy một đứa thị nữ ở phòng bên vò đầu bứt cổ, đã đi nằm rồi lại dậy đốt đèn lên, đốt đèn xong lại tắt, tắt rồi lại đốt...

Linh tính báo cho ông biết thế nào đêm nay cũng có chuyện.

Ông bèn lẳng lặng ngồi dậy, mặc nhuyễn giáp, đeo cung tên lẻn ra ngoài phòng.

Trời tối như mực. Bên cạnh bức rèm, một bóng đen lao vút lại. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vội rút tên giương cung bắn một phát.

Thích khách quả thật nhanh nhẹn, tung người lên cao tránh thoát mũi tên. Ông đuổi tới, phóng liền ba phát tên, trúng ngay gót chân hung thủ. Hắn la lên một tiếng rồi té huỵch xuống đất. Bọn thị vệ lúc đó đã biết tin, nhất tề ồ tới trói gô thích khách, khảo đả. Hắn khai tên Nghĩa Tô. Nhưng rồi Nỗ Nhĩ cũng lại tha cho hắn đi.

Từ đó về sau, người trong phủ ai cũng lưu ý đề phòng từng phút. Hoàng Thái Cực tuổi tuy còn nhỏ, nhưng là người rất có kiến thức. Cực nói nhỏ với cha:

- Hiện nay, kẻ thù rất đông, phụ thân đề phòng khó lắm. Chi bằng phụ thân tạm thời ra ngoài đề tránh bất trắc.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề gật đầu nghe kế. Một ý nghĩ bỗng vụt tới. Ông nghĩ Lý Thành Lương, xưa kia đã thông đồng với Ni Kham Ngoại Lan giết hại ông và cha, mãi tới nay thù còn chưa báo mà thi hài ông cha cũng chưa đem về được. Thiết tưởng nay đem quân xuất thành hướng tới Minh triều hỏi tội, lúc đắc thắng trở về vừa có thể áp phục được anh em họ hàng, lại hoàn tất được ý muốn của ông cha đã khuất. Nỗ Nhĩ nghĩ vậy xong cho dựng một cây cờ trắng lớn, trên viết bốn chữ "Báo thù rửa hận". Ông lại điểm năm ngàn tinh binh, cho mặc hiếu phục. Việc trong nhà ông giao cho người em thứ là Thư Nhĩ Cáp Tề rồi chuẩn bị xuất quân. Tất cả họ hàng nghe Nỗ Nhĩ Cáp Tề xuất sư lần này để báo thù rửa hận cho ông cha, ai cũng đều cảm phục, kéo nhau tiễn ra khỏi thành Hưng Kinh.

Lại nói đến Lý thành Lương sau khi giết chết hai cha con đô đốc Giác Xương An, trong lòng lúc nào cũng tâm niệm đề phòng Nỗ Nhĩ Cáp Tề tìm cách báo thù. Quả nhiên hôm nay Nỗ đã tới vấn tội. Được tin này, Lương mất cả chủ ý. May thay dưới trướng ông có một viên quan vốn đa mưu túc kế, liền hiến một kế sách, nhưng đợi tới khi quân địch tới chân thành mới nói.

Chẳng mấy ngày, thám mã liên tiếp đưa tin:

- Binh mã Kiến Châu còn cách thành mười dặm.

- Binh mã Kiến Châu chỉ còn cách thành năm dăm.

- Binh mã Kiến Châu đã hạ trại sát chân thành.

Lý Thành Lương được tin vẫn không thèm để ý tới, chỉ dặn dò quân sĩ giữ vững cửa thành, không được giao chiến với giặc.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề tới ngoài thành Phủ Thuận, khiêu chiến suốt ngày mà vẫn chẳng thấy quân trong thành xuất chiến, Nỗ Nhĩ cũng đành vô kế khả thi. Qua ngày thứ tư, Nỗ Nhĩ lại đem quân tới chân thành khiêu chiến. Bỗng từ trên thành, một phong thư bắn xuống. Nỗ Nhĩ bóc ra xem, chẳng ngờ lòng uất hận bỗng tiêu tan, trái lại hết sức cảm kích đối với Lý Thành Lương, y theo lời lẽ trong thư, lui binh xa thành mười dặm.

Hôm sau, Nỗ Nhĩ mình mặc áo nhũn, chỉ đem theo có bốn, năm chục tên quân tiến thẳng vào thành. Vừa tới chân thành, Nỗ Nhĩ thấy cửa thành mở rộng, từ bên trong Lý Thành Lương thân ra đón tiếp. Hai người cưỡi ngựa song hành, vào tới dinh quan tồng binh mới xuống ngựa.

Một bàn rượu được đặt ra, hai người ngồi đối ẩm. Lý Thành Lương dần dần nói đến chuyện ngộ sát ông và cha Nỗ Nhĩ, cuối cùng đưa ra ý kiến:

- Nay để bảo toàn giao tình giữa hai bên, tình nguyện trả thi hài của hai vị gia tiên. Đồng thời xin cấp sắc thư ba mươi đạo, ngựa ba mươi con.

Nói đoạn, Lương sai thị vệ bưng sắc thư ra đặt trên án thư rồi dắt ngựa đến xếp hàng ngay giữa viện. Nỗ Nhĩ nhìn kỹ thì thấy ngựa đều là thứ tuấn mã, không thể nào không thích. Quay đầu lại, Nỗ còn thấy đèn đuốc sáng trưng, khói hương nghi ngút, càng làm tôn nghiêm thêm ba mươi đạo sắc thư bằng vải đoạn màu vàng. Nỗ cảm thấy đôi chân như nhũn ra, muốn quỳ xuống đất mà lạy. Lương tiến lên, ngăn lại nói:

- Thong thả hãy tạ ơn, ba ngày trước tại hạ đã thế Đại bối lặc xin được thánh chỉ tại đây. Hoàng thượng vẫn phong bối lặc làm Kiến Châu đô đốc như cũ.

Nói đoạn, Lương lớn tiếng hô:

- Xin mời ra đây!

Chỉ nghe bên trong có bát âm nổi dậy. Rồi hai vị văn quan đầu đội thánh chỉ, từ từ bước ra ngoài.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã mấy năm nay mơ tưởng chỉ duy có một việc phục lại nguyên chức đô đốc. Nay đã thấy trước mặt một sự thực hiển nhiên. Bởi vậy bèn bò rạp xuống đất, dập đầu tung hô:

- Vạn tuế vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Nỗ Nhĩ vừa tạ ơn xong thì Lương cùng các quan viên thủ hạ nhất tề tiến ra chúc mừng.

Đêm hôm đó Lương lại bày tiệc. Tiếng bát âm nối dậy nhà trên thì đàn sáo, nhà dưới thì trống phách. Cuộc vui kéo mãi suốt đêm. Nỗ Nhĩ nghỉ lại phủ quan tổng binh. Sáng hôm sau thức dậy, Nỗ Nhĩ đã thấy khắp phủ đệ treo toàn màu trắng. Trước cổng lớn, một cây cờ trắng đang phất phơ trước gió. Tất cả đều màu trắng chẳng khác gì một toà lâu đài bằng ngọc.

Nỗ Nhĩ lấy làm kỳ, bèn hỏi ra mới biết rằng Lương đứng việc tổ chức ngày lễ điếu hai cha con cố đô đốc Giác Xương An. Bữa cơm trưa đã xong, người ta thấy đưa vào hai cỗ quan tài, Nỗ Nhĩ biết đó là thi hài của cha và ông, bò lăn xuống đất kêu khóc thảm thiết.

Lý Thành Lương vội chạy tới nâng Nỗ Nhĩ dậy cho dựng hai chiếc quan tài giữa sảnh. Toàn thành văn võ quan viên khăn áo chỉnh tề đều tới phúng điếu. Cuộc hành lễ đã xong, Nỗ Nhĩ mới hỏi Lương xem ai là người giữ gìn cấn thận thi hài cha, ông của mình. Lương chỉ một người đứng cạnh và bảo:

- Y cũng là một vị bộ chủ tên gọi ước Xước. Thi hài cha, ông của túc hạ chính nhờ y gìn giữ lâu nay đó.

Nỗ Nhĩ tiến lên vài bước chắp tay lạy tạ ơn.

Qua ngày hôm sau, Nỗ Nhĩ mang hai cỗ quan tài ra khỏi thành trở về, có Lý Thành Lương tiễn đưa. Khi từ biệt, Nỗ Nhĩ tặng Lương một con ngựa tên gọi Tam Phi, có tài leo núi như chạy trên đồng bằng, vốn một loại ngựa quý hiếm có. Lương cũng lấy làm cảm kích đối với Nỗ Nhĩ. Lương bèn viết tấu chương về triều tàu với Minh hoàng đế rằng Nỗ Nhĩ rất cảm kích đối với thánh ân.

Chẳng mấy ngày, thánh chỉ từ Bắc Kinh tới nói mỗi năm thưởng cho đô đốc Kiến Châu tám trăm lạng bạc, mười lăm tấm đoạn hoa.

Tờ thánh chí này tới thành Hưng Kinh, đã làm cho Nỗ Nhĩ Cáp Tề mặt mũi vẻ vang. Quả nhiên, từ đó toàn thể họ hàng chẳng còn ai dám khinh nhờn ông nữa.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề mong mỏi lập nhiều công nghiệp lớn khác để khoe khoang với bà con họ hàng. Đại Thiện nghĩ ra một kế sách giúp cha. Thiện nói:

- Phụ nhân nên tới Bắc Kinh tiến cống một phen. Khi trở về nếu được điều may mắn, thì vừa có thể khoa trương oai vũ đối với thân tộc vừa có thể chế phục các bộ lạc khác.

Nỗ Nhĩ cho lời con là phải, lập tức truyền lệnh cho người tới các bộ lạc sưu tầm: ngọc châu, đà điểu và nhiều đồ quý khác nữa. Lại chọn một trăm con ngựa tốt đem theo. Sửa soạn xong, Nỗ nhờ chọn ngày tốt khởi hành với một ngàn vệ binh kiêu dũng.

Bối lặc các bộ lạc cũng như các anh em thân thuộc, tất nhiên, có một cuộc vui nhộn tưng bừng để tiễn đưa quan đô đốc lên đường.

Đô đốc Nỗ Nhĩ Cáp Tề trên đường đi chẳng mấy ngày đã tới Phủ Thuận quan.

Ninh Viễn Bá được tin Kiến Châu đô đốc tiến kinh triều cống, lấy làm vui mừng lắm. Ông liền sai quân sĩ thu dọn phòng trại sạch sẽ cho Nỗ Nhĩ tạm trú. Rồi chọn ngày tốt cùng Nỗ Nhĩ tiến kinh. Ý Nỗ Nhĩ muốn đem theo vào kinh ba trăm vệ binh, nhưng Lý Thành Lương bảo theo quy củ tiến cống thì không được mang nhiều nên chỉ cho Nỗ Nhĩ mang theo bốn mươi tên mà thôi. Người em thứ hai cũng theo Nỗ Nhĩ tiến kinh triều cống.

Hai anh em Nỗ Nhĩ Cáp Tề chưa từng tới Bắc Kinh bao giờ cho nên khi tới nơi, thấy kinh đô hoa lệ phồn thịnh, nhân vật thanh tú, trong lòng lấy làm mến thích. Rồi những cung điện cao lớn hiện ra trước mắt khiến họ sinh ra sợ hãi.

Hai anh em vào thành tới ở trong một toà khách quan. Ngay đêm đó, có hai vị công công tói dạy cho họ những lễ tiết khi vào triều. Nỗ Nhĩ tạ ơn hai vị công công khá nhiều lễ vật, ngoài ra còn biếu xén khắp các gia môn.

Ba hôm sau, đã đến ngày vào triều. Nửa đêm hôm trước, hai anh em Nỗ Nhĩ ngồi trên xe lừa đi thẳng vào tới cửa triều đình. Họ xuống xe, theo người dẫn đạo, tiến vào nội nha trong hoàng thành. Đêm còn khuya, đường xá vắng lặng, họ chỉ thấy hai bên tường cao vòi vọi, đứng sừng sững trong bóng đêm dày đặc. Những góc điện nhô ra ngoài trời, chênh vênh trên đầu các bức tường, chỗ cao chỗ thấp không biết bao nhiêu mà kể.

Càng ngắm, càng nhận họ càng thấy mới lạ. Đi quanh đi quẩn một lúc lâu, hai anh em Nỗ Nhĩ mới tới triều phòng, trong có rất nhiều quan viên túc trực từ lâu, tiến ra ngoài đón rước. Một vị quan thông dịch chuyển ngữ cho đôi bên.

Ngưng một lát, mọi người bỗng nghe vọng ra tiếng chuông vang vang từ Cảnh Dương cung. Ai nấy đều sửa lại mũ áo rồi xếp thành hàng nối đuôi nhau tiên thắng lên điện. Dưới bệ ngọc, hai bên chia ban đứng xếp hàng thứ tự, nghiêm cẩn.

Trời đã rạng đông. ánh nắng đã soi rực góc trơi đông, nhuộm hồng những khuôn mặt của bá quan văn võ đứng trong điện, đang lặng lẽ đợi chờ, thỉnh thoảng tiếng sột soạt của các tà áo mới bị gió thổi tung rồi lại im bặt.

Mọi người đứng đã khá lâu. Bỗng nghe tiếng nhạc trỗi dậy, vừa lúc trời đã sáng to. Trên điện, màu sắc rực rỡ, lấp lánh làm choá cả mắt, khó nhìn rõ mọi thứ. Bọn thị vệ ngự tiền đi qua đi lại hai bên tả hữu trước mặt. Lại còn thái giám mỗi người tay cầm cây đèn lồng "sa cung đăng" diễu qua diễu lại trước ngự toạ, nhảy xong múa điệu nhạc, khi khoan thai, khi dồn dập, họ chia ra đứng hai bên, lặng lẽ, nghiêm trang, tiếng nhạc cũng ngừng bặt.

Lúc đó Thần Tông hoàng đế đã ngồi ngay ngắn trên ngai vàng cao ngất ở phần cuối điện. Điện đình lặng lẽ thêm.

Bỗng trên thềm đá, có tiếng roi gõ mạnh ba tiếng. Tức thì Tán lễ quan đứng hai bên cạnh điện, xướng lễ. Sau đó là các văn thần võ tướng chia ban tiến lên từng đợt rồi quỳ xuống dập đầu gục lạy. Ninh Viễn Bá Lý Thành Lương cũng nối gót trăm quan bò dài xuống đất, trịnh trọng tâu mấy điều. Rồi, trong giây lát, từ bên trên có lệnh truyền xuống. Lương thụt lùi lui ra. Lúc đó, hướng đạo quan mới đưa hai anh em Nỗ Nhĩ lên điện. Một tấm thảm nhung trải ngang hình chữ nhật suốt từ bên tả sang bên hữu trên thềm điện. Hai anh em Nỗ Nhĩ tới đây, ngừng lạy quỳ mọp xuống làm lễ "Tam quy cửu khấu". Tán lễ quan hô lớn một tiếng "Lui" tức thì hai anh em đứng dậy, lui xuống mé dưới điện, tâm thần bấn loạn đến nỗi dung nhan đức hoàng đế như thế nào cũng chẳng rõ nữa.

Hồi 32

DU NGOẠN DOANH ĐÀI

Một lát sau, tan triều, vài quan chức cùng với thông dịch quan đưa hai anh em Nỗ Nhĩ sang Bảo Hoà điện để dự yến do hoàng đế ban. Yến tiệc xong, hai anh em Nỗ Nhĩ hướng lên phía ngai vàng, gục đầu tạ ơn rồi lui ra khỏi trường môn, lên xe về khách quán.

Ngày hôm sau, thánh chỉ giáng xuống, gọi nội vụ đại thần Cung Lý Phiên đưa hai anh em Nỗ Nhĩ đi dạo chơi doanh đài.

Hồi đó đang vào hè. Sáng sớm tinh sương, bọn Nỗ Nhĩ thức dậy ăn mặc đàng hoàng, theo hai vị quan trên đi thắng vào cửa Tây uyển. Anh em Nỗ Nhĩ để tâm quan sát. Họ thấy những cây liễu to cao, buông cành lả lướt xuống tận mặt đất. Bóng liễu trùm lên cả một vùng đất phủ cỏ xanh rờn. Bên dưới, cung nga mỹ nữ qua lại du ngoạn. Làn gió nhẹ thỉnh thoảng lại thổi qua, đẩy đưa mấy cành liễu lướt thướt. Rồi dãy tường hoa chảy dài theo bờ nước xa tít. Bọn Nỗ Nhĩ phóng tầm mắt trên đê, chỉ thấy rặt một loại cỏ bò trồng từng khóm, từng cụm. Trên mặt nước đàn én lông sắc tía bay đi bay lại, như có ý đua với những con thuý điểu màu áo xanh miệng chim chíp kêu tạo thành một điệu nhạc tân kỳ.

Càng đi sâu vào vườn phong cảnh càng u nhã, tĩnh mịch. Hai anh em Nỗ Nhĩ phải vượt qua một cái cầu ván. Hoa sen nở bên dưới đang mùa, hương thơm ngào ngạt, sộc vào mùi khiến tâm hổn kẻ trần tục như bớt được bao phần ô trọc. Phía bên cầu cất một toà thuỷ cát, bốn mặt yểm kính lấp lánh, gió lúc nào cũng hun hút thối qua song cửa nghe vi vút.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề xem xét kỹ khắp nơi, càng thấy cảm phục, cho là một nơi thần tiên hiếm có, chỉ có Thần Tông hoàng đế mới là người tốt phúc được hưởng mà thôi.

Trong khi Nỗ Nhĩ còn đang suy tương như vậy thì cả bọn đã bước tới cửa Tiểu Hồng Môn. Trước mặt mọi người phong cảnh bỗng mở rộng: đó là một hồ nước lớn, bát ngát. Trên hồ có một cái cầu dài bằng gỗ sơn son khúc khuỷu quanh có chạy ngang trên mặt nước, hai bên có bao lơn cũng sơn đỏ viền mép cầu. Thư Nhĩ Cáp Tề đi lên trên mặt cầu, miệng không ngót tán dương. Nỗ Nhĩ quay lại, trừng mắt nhìn em, khiến Thư Nhĩ ngậm miệng, im bặt không dám ho he thêm tiếng nào nữa.

Chẳng mấy chốc, cả bọn đã vượt khỏi chiếc cầu dài. Đối diện họ là một toà lâu đài cao rộng làm bằng ván sơn đỏ, phía trước viết ba chữ "CỬA DOANH ĐÀI". Đi qua toà lầu này thì tới một con đường đá rộng dài, hai bên có những cây cổ thụ mọc cao chót vót đến tận mây xanh. Bên cạnh đường là một toà đại sảnh, từ trong đó chạy ra vài tên thái giám mời khách vào uống trà. Vừa uống trà vừa nghỉ ngơi lấy sức. Bọn Nỗ Nhĩ Cáp Tề hỏi các viên quan hướng đạo thêm nhiều chi tiết đặc biệt của Doanh đài. Họ lại quành về sau sảnh để ra ngoài, xuyên qua một khu rừng thông. Ngoài mép rừng xây một kè đá trắng dài làm bến. Bọn Nỗ Nhĩ vừa ra khỏi rừng vừa thấy một chiếc thuyền lớn. Thế là cả bọn xuống thuyền. Thuyền từ từ trôi ra giữa hồ. Quay đầu nhìn lại mé bờ, bọn Nỗ Nhĩ thấy lâu đài san sát; thật là những điện ngọc lầu quỳnh, vàng son tráng lệ ẩn hiện trong rừng xanh lá cây bóng rợp. Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngự trên mui thuyền, lòng bất giác xúc động, bụng bảo dạ: Địa phương này quả thật đẹp như cành tiên, ví thử cho ta sống ở đây một năm thì dù có phải chết đi cùng cam tâm. Hai mắt ông đăm đăm nhìn mặt hồ, suy ngẫm.

Nỗ Nhĩ còn đang xuất thần thì thuyền đã tới bờ. Cả bọn rời thuyền ra khỏi cửa lên xe trở về khách quán. Lý Thành Lương lúc đó cũng đã về tới nơi. Yến tiệc lại được bày ra ngay tại khách quán. Giữa lúc đang ăn nhậu say sưa, mọi người lại thấy mấy ả phấn son ở đâu tới, rồi điệu múa tiếng ca nổi lên chen với những tiếng nhạc du dương êm ái. Các nàng, nước da trắng như tuyết, giọng hát ấm như oanh, đã làm cho hai anh em Nỗ Nhĩ Cáp Tề đâm ra ngây ngất say mê.

Ngày hôm sau, thánh chỉ giáng xuống, phong Nỗ Nhĩ Cáp Tề làm Long hổ tướng quân, em ông là Thư Nhĩ Cáp Tề cũng được thưởng khá nhiều đồ vật quý giá. Tạ ơn xong, họ thu xếp hành lý lên đường trở về quê.

Hai anh em Nỗ Nhĩ diễu võ giương oai suốt dọc đường về tới quan ngoại. Bộ lạc các nơi được tin Nỗ Nhĩ có điều vinh hiển, ai cũng kéo tới Hưng Kinh chúc mừng. Trong câu chuyện hàn huyên, Nỗ Nhĩ tả lại cảnh hoa lệ ở kinh đô nhà Minh, rồi đến sắc đẹp tuyệt trần của phụ nữ Trung Quốc khiến ai cũng ca tụng và thèm thuồng ước muốn.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt chước xây cất cung điện cao rộng ngay tại Hưng Kinh, định lễ tiết cho anh em bối lặc khiến dần dần mọi người phải công nhận cái địa vị tôn quý của ông.

Qua năm thứ hai, ông thường đem quân ra khỏi thành, nói rằng đi săn, có khi đến hai ba tháng không về, thật ra là đem quân đi đánh chiếm thành trì cướp bóc ruộng đất của ke khác. Ông còn phân chia tướng sĩ thủ hạ cùng anh em thân thích tản mạn đi khắp nơi cũng để đánh thành chiếm đất.

Vào năm thứ hai mươi sáu niên hiệu Vạn lịch nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho người con trai là Chử Anh và mấy người em tên Ba Nhã Tề Hoà, Cát Cái, Phí Anh Đông đem một ngàn quân đi đánh Chữ Lạp Khố lộ, lấy được hơn hai chục đồn trại bắt được đến hơn một vạn người dân bách tính.

Qua năm sau, ông lại sai Ngạch Diệc Đô, Phí Anh Đông, Hỗ Nhĩ Hán đem một ngàn tinh binh đi đánh Ác Rập bộ ở Đông Hải của Hách Tịch Hắc lộ. Nga Mạc cùng Tô Khoái lộ, Phật Nạp Hách Tháp Khắc Sách lộ, bắt sống được đến hai ngàn người đem về.

Đến năm ba mươi bảy, Nỗ Nhĩ Cáp Tề sai thị vệ Hỗ Nhĩ Mạc đem một ngàn quân tiến đánh Thuần Dã lộ, bắt được một số dân, ước đến hai ngàn, đem về Hưng Kinh.

Năm thứ ba mươi tám, ông sai Ngạch Diệc Đô chỉ huy một ngàn quân sĩ tinh nhuệ đánh Mộc Độ Lỗ, Tuy Phương, Ninh Cổ Tháp, Ni Mã Sát, bốn lộ cả thảy, áp giải bốn tay lộ trưởng cùng gia quyến của họ trở về. Khi hành quân qua miền Nhã Lan, lại đánh phá thành trì của họ, cướp được đến hơn một vạn người đem về.

Sang năm thứ ba mươi chín, ông lại sai con trai thứ bảy là A Ba Thái cùng Phí Anh Đông, An Phí Dương Cố, đem một ngàn quân sĩ tấn công Ô Nhĩ Cổ, Thần Mộc Luân, bắt sống được một ngàn người đem về.

Rồi một năm sau, ông lại tấn công Hà Hoà Lý, Ngạch Diệc Đô Hỗ Nhĩ Hán, đích thân chỉ huy đánh phá Hỗ Nhĩ Cổp Lộ với hai ngàn binh sĩ, vây hãm Trát Khố Tháp ba ngày liền, cuối cùng phá vỡ thành, giết chết hơn một ngàn người, bắt sống hơn hai ngàn.

Các lộ trưởng của các lộ về phía tả, thảy đều sợ hãi quay lại đầu hàng Nỗ Nhĩ. Khắp vùng Kiến Châu, Nỗ Nhĩ dụng binh hết năm này qua năm khác, so với trước tăng gấp bội. Thế mà ông vẫn chưa lấy làm vừa ý, kẻ khiến ông căm giận nhất là Ngô Nhĩ Cổ Đạt, tù trưởng bộ lạc Cáp Đạt mà cũng là con rể ông. Hồi đó, ngoài thì bị thế ép của Minh triều, trong lại chịu cảnh kiềm chế của Phú Sát thị, ông bất đắc dĩ phải đem con gái gả cho Ngô Nhĩ Cổ Đạt. Từ đó, hai vợ chồng ông đâm ra bất hoà kịch liệt. Mãi đến khi đi cống trở về, được Thần Tông hoàng đế cho phép thống trị người Nữ Chân, ông mới lấy danh nghĩa bảo vệ Cáp Đạt, đích thân đem quân thẳng tới bộ lạc này, buộc Ngô Nhĩ Cổ Đạt phải giao cho mình bức tỷ thư đời đời truyền lại do Minh triều cấp. Hồi đó Cáp Đạt bộ có tới bảy trăm đạo địa phương. Nỗ Nhĩ Cáp Tề bèn vây chặt thành trì của Ngô Nhĩ Cố Đạt, đến con chuột cũng không chạy thoát được, mục đích chỉ để lấy chiếc tỷ thư.

Ngô Nhĩ nhất định không chịu, bèn mở cửa thành đích thân đem quân đối địch với nhạc gia. Nỗ Nhĩ thấy thế giận sôi gan, liền cho gọi hai đại tướng tay chân tên gọi Hỗ Nhĩ Mạc, Phí Anh Đông, luân phiên đánh phá. Ông còn sai người chạy về Hưng Kinh lấy thêm hai ngàn binh trợ chiến.

Ngô Nhĩ Cổ Đạt tử thủ Cổ thành được đến hơn hai chục hôm, lương hết viện tuyệt: Vào quãng nửa đêm đó, binh Kiến Châu đánh thốc vào thành, bắt trói hết toàn gia Ngô Nhĩ. Nỗ Nhĩ vào thành, một mặt sai người áp giải vợ chồng Ngô Nhĩ về Hưng Kinh, mặt khác ra lệnh cho tướng lĩnh đi khắp nơi để thu phục thuộc địa.

Dưới trướng của Ngô Nhĩ, có một tên bộ tướng tên gọi Sát Thai Chẩm. Chẩm được tin Cáp Đạt bộ bị Kiên Châu tiêu diệt mất rồi, liền đem hai trăm đạo địa phương tới đầu hàng Diệp Hách bộ, để cầu xin Bố Dương Cổ bảo hộ cho mình. Cổ tham đất của Chẩm, bèn đích thân đem đại đội người ngựa dàn trận để đợi. Nỗ Nhĩ được tin đó giận lắm nói:

- Ta với Diệp Hách vừa mới đính ước hôn nhân. Em gái Bố Dương Cổ, ta đã hỏi lấy nhưng chưa cưới, thế mà nay Cổ lại dám cả gan đối đầu với ta thì láo thật!

Nói đoạn, Nỗ Nhĩ sai Đại Thiện đem quân đồn trú tại Cáp Đạt, thân tự điều động đại binh đến Diệp Hách bộ.

Bố Dương Cổ thấy Nỗ Nhĩ tới bèn trách Nỗ Nhĩ đã phản bội minh ước tiêu diệt Cáp Đạt. Nỗ Nhĩ cười nói:

- Đây là việc của gia đình ta, có quan hệ gì tới ngươi đâu mà ngươi nói. Hiện nay, ngươi đã thâu hai trăm đạo địa phương của Cáp Đạt, hỏi ngươi có phản bội minh ước hay không? Một việc nữa là em gái ngươi đã hứa gả cho ta làm vợ, ta hiện vẫn chưa lấy được nàng đem về. Thế mà ngươi lại đem quân đánh nhau với ta, như thế có phải ngươi đã có ý từ hôn rõ ràng rồi không?

Bố Dương Cổ nghe xong, tức như điên, răng nghiến kèn kẹt đến muốn vỡ ra. Cổ quát lớn:

- Lời nói của mi thối lắm! Có thể để cho mi hoành hành bất pháp mà không thể cho ta trượng nghĩa chấp ngôn được sao? Ta nay quyết thoái hôn, không thèm gả em gái cho mi nữa, nghe chưa?

Nỗ Nhĩ Cáp Tề vừa nghe xong câu nói "Không thèm gả em gái", tức giận sôi gan, vì điều đó vốn là một điều phạm kỵ đối với ông. Nỗ Nhĩ liền khoát tay một cái tức thì binh tướng của ông nhất tề xông lên chém giết. Hai bên trống trận vang gầm, tiếng hò hét kêu la inh ỏi. Cuộc ác đấu càng lúc càng kịch liệt. Hai bên đánh nhau mãi tới lúc mặt trời đã gác núi mà vẫn chưa phân thắng bại. Hai bên cùng đánh trống khua chiêng thu quân. Qua ngày hôm sau, hai bên lại đánh nhau.

Rồi cứ như thế, đánh nhau suốt một hơi sáu hôm liền. Quân binh Diệp Hách bộ coi mòi yếu dần, khó bề chống nổi, bèn lùi vào trong thành, đóng chặt cửa không xuất chiến nữa mà cho người ngày đêm đưa tin cấp cứu tói Phủ Thuận quan.

Quảng Ninh tổng binh của Minh triều là Trương Thừa Am, đi tuần cảnh tới miền Phủ Thuận, được tin đó lập tức điều động ba ngàn binh mã tiến tới cứu viện cho Diệp Hách bộ. giữa lúc Nỗ Nhĩ Cáp Tề đang thúc quân kiệt lực đánh thành, bỗng phía sau chiêng trống vang ầm, rồi một chi quân đông đảo ùn ùn kéo tói đi đầu là một cây cờ lớn trên viết hai chữ "Đại Minh".

Nỗ Nhĩ Cáp Tề tự nhủ: Mình vừa được Minh triều phong chức vậy thì quân mã này tới đây ắt để giúp ta. Ông liền hạ lệnh cho quân mã tách làm hai hàng, rồi tự mình tiến lên đón.

Chẳng ngờ, viên tướng Minh đi đầu im lặng chẳng nói lời nào, khi tói gần liền giơ cao ngọn cờ lệnh phất phất mấy cái. Tức thì chi quân Minh xông tới tấn công như bão táp. Nỗ Nhĩ trở tay không kịp, đành phải quay lui. Trận cuộc rối loạn. Nỗ Nhĩ đem hết dũng cảm áp trận, rồi thúc quân tiến tới chiến đấu.

Hồi 33

TRANH CHẤP BIÊN CƯƠNG

Giữa lúc đôi bên đang ác đấu, bỗng mặt sau có tiếng trống trận nổi dậy. Một chi quân mã từ trong thành đánh ra.

Kiến Châu binh trước sau đều gặp địch, đánh một trận là thua một trận, đánh hai trận là thua hai trận, thua luôn một hơi, phải lùi xa bốn chục dặm. Người ngựa tính lại chết mất hơn hai ngàn. Thấy không còn cách gì chống nổi nữa, Kiến Châu binh đành phải chuồn về Hưng Kinh mất dạng.

Từ đó về sau, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hận Bố Dương Cổ sâu đến tận xương tuỷ. Ông luyện tập binh mã ngày đêm, quyết chí báo thù. Chỉ có Ô Lạp Đặc bối lặc Bố Chiêm Thái là hay thường lui tới tặng đồ lễ vật. Bởi vậy, Nỗ Nhĩ có biệt nhãn với Thái.

Thái thấy Diệp Hách thoái hôn, lại làm mối cho Nỗ một đám khác. Thái muốn đem đứa con gái của Mãn Thái là anh mình đến gả cho Nỗ.

Năm sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề có một đứa con gái rất xinh đẹp. Ô Lạp Nạp Thích cũng chơi thân với nàng.

Hai năm sau, Bố Chiêm Thái đến Hưng Kinh thăm cô cháu gái. Nỗ Nhĩ lưu lại trong phủ. Nhờ đó, hai chú cháu thường được gặp mặt nhau bàn luận hàn huyên. Những lúc nói chuyện, người con gái của Thư Nhĩ cũng thường được dự chuyện bên cạnh. Bố Chiêm Thái trước đây đã đưa lễ vật để hỏi con gái Minh An, bối lặc Khoa Nhĩ Bí Đạt Mông Cổ làm vợ nhưng về sau không thành. Thái buồn rầu vô hạn. Nay Thái thấy một vị mỹ nhân đáng yêu như thế thì tránh sao không buồn lòng. Lúc không người để ý, Thái nói nhỏ ý mình với cô cháu gái. Ô Lạp thị đem chuyện này nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Hồi đó Nỗ với Thái bồ bịch với nhau lắm, ông bèn đứng làm mai hỏi cô cháu gái cho Thái.

Qua năm thứ nhì, Ô Lạp thị sinh đứa con trai, đặt tên là A Tế Cách. Sau đó sinh thêm hai đứa con trai nữa, một gọi Đa Nhĩ Cổn, một gọi là Đa Đạc, đó là chuyện về sau.

Lại nói người em gái Bố Dương Cổ vốn là một trang tuyệt thế giai nhân. Khắp cả xứ Mãn Châu không ai là không biết nàng đẹp. Trong gia đình người Mãn ở ngay gian giữa, chỗ tôn nghiêm nhất, thường có đặt tượng ba vị thần để thờ cúng: Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Quan Thế âm Bồ Tát, Quan Công. Họ thường nói thật Quan âm là một nữ Bồ Tát có sắc đẹp tuyệt trần. Do đó họ gọi em gái Bố Dương. Cổ là Hoạt Quan âm (Quan âm sống).

Hoạt Quan âm có sắc đẹp, lại được cha mẹ cưng chiều, thường hay trang điểm lộng lẫy khiến bất cứ ai nhìn thấy cung phải xôn xao trong lòng. Nàng thường cùng các bối lặc Cáp Đạt, Huy Phát, Ô Lạp, Triết Trần đi săn, đuổi thú, bắn chim, hết sức lanh lẹ hoạt bát. Bọn bối lặc thấy nàng đẹp anh nào cũng thèm thuồng muốn đến rỏ rãi. Trong số các bối lặc, nàng thường giao du với Mãng Cữ Lặc Đại, con trai của Lặc Ba Cáp Đạt Nhĩ Hãn, vốn là bối lặc của bộ Khách Nhĩ Khách đất Mông Cổ Mãng Cổ Lặc Đại cũng là một thanh niên tuấn tú. Vì yêu mê nàng nên Đại thường tới Diệp Hách bộ du ngoạn. Trong các cuộc săn bắn, chàng và nàng luôn cưỡi ngựa song hành tìm nơi cây cối rậm rạp để cùng nhau trò chuyện, tình tự. Về sau, khi anh nàng muốn liên kết lại với Kiến Châu vệ, hứa gả nàng cho Nỗ Nhĩ Cáp Tề, nàng biết điều đó nên nhiều lần cãi nhau kịch liệt. Rồi mỗi lần người Kiến Châu tới rước dâu là mỗi lần nàng liều mạng chống lại, nhất định không chịu đi Báo hại Bố Dương Cổ chỉ còn biết nói dối là nàng bị bệnh để khất lần cho qua chuyện. Chuyện rắc rối này kéo dài mãi tới mấy năm thì vừa lúc xảy ra cuộc ác đấu giữa Kiến Châu và Diệp Hách.

Bố Dương Cổ ỷ có Minh triều ủng hộ nên nhân dịp này thoái hôn với Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Mãng Cổ Lặc Đại biết vậy vội sai người đem rất nhiều sính lễ cầu hôn. Cổ thấy em gái mình ưng thuận nên cũng chịu hứa gả. Tin này đồn ra ngoài, khi chạy tới tai bọn bộ chủ, anh nào cũng dậm chân than thở.

- Thật là một đoá hoa tươi đem cắm bãi cứt trâu!

Qua năm sau, Bá Cáp Nhĩ Đạt Hán đem con trai Mãng Cổ Lặc Đại đến Diệp Hách bộ đón dâu. Khách Nhĩ Khách bộ cách rất xa Diệp Hách bộ. Bởi vậy trên đường về, đám cưới này có thể bị quân của các bộ lạc khác chặn đường đánh cướp. Nhờ Mãng Cổ Lặc Đại vốn là một trang thiếu niên anh hùng, lại thêm quân của Ba Cáp Đạt Nhĩ Hán rất đông nên dọc đường được bảo vệ an toàn. Tuy nhiên, họ vẫn trải qua không biết bao nhiêu là gian khổ, hiểm nguy mới về tới được Khách Nhĩ Khách.

Về tới nhà, Mãng Cổ Lặc Đại muốn lấy lòng người đẹp, bèn xây cất một toà nhà hết sức lộng lẫy. Chăng ngờ chưa được một năm, khi toà nhà chưa xong thì người vợ đẹp của Đại chết khiến Đại khóc lóc thê thảm, chết đi sống lại nhiều phen. Từ đó Đại thề không lấy ai nữa, định thủ nghĩa với vợ cho trọn đời. Tin này đồn đi khắp nơi, các bộ lạc xứ Mãn Châu ai cũng phàn nàn thương hại. Ô Lạp bối lặc hay tin cũng than thở.

- Tiếc thay người đẹp như vậy mà chết yểu? Chẳng giống con vợ họ Giác La nhà mình, người xấu như quỷ tính lại dữ như cọp, thế mà hắn không chịu chết cho, mới bực mình chứ.

Lúc Ô Lạp bối lặc phàn nàn như vậy, không ngờ bà Giác La thị đứng ở sau bình phong nghe rõ cả. Bà vốn cậy thế Nỗ Nhĩ Cáp Tề, vì bà là cháu của ông này, nên ăn ở với chồng có chỗ trịch thượng, kiêu căng. Hôm nay chính tai bà nghe được lời chồng nguyền rủa cho mình chết đi, thì làm sao chả tức điên lên. Bà không do dự gì nữa, nhảy bổ ra, chỉ vào mặt chồng hạch hỏi. Bố Chiêm Thái vốn sợ vợ, nay thấy bà xã làm dữ thì hoảng hồn bạt vía, mắt trợn lên trắng dã, miệng há hốc đến không ngậm lại được nữa. Bà công chúa Giác La xỉa xói, chửi bới anh chồng tội nghiệp kia một lúc đã đời rồi quay mình đi hậm hực nói doạ:

- Tao về nhà tố cáo việc này với chú tao, rồi mi biết...

Bố Chiêm Thái nghe nàng nói, giật mình bở vía, vội chạy lại dập đầu xin tha lỗi. Không ngờ, bà Giác La không thèm để ý tới. Bố Chiêm Thái nhục quá hoá giận. Máu hoả bốc lên đến tận đỉnh đầu. Thái thấy vợ đã đi hơi xa, liền rút một chiếc tên, đặt lên cung nhắm cẩn thận rồi bắn một phát thấu suốt qua lồng ngực vợ. Thấy câu chuyện trở thành tai hại, bọn thị vệ lẻn trốn về Hưng Kinh, đem mọi chuyện xảy ra tố cáo với Nỗ Nhĩ Cáp Tề.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề và Nhã Nhĩ Cáp Tề, hai anh em nghe xong vừa buồn vừa giận. Họ lập tức điều động người ngựa kéo tới Ô Lạp. Bố Chiêm Thái vốn đã có lần ăn đòn của quân Kiến Châu, nay nghe chúng sắp tới thì kinh hồn táng đởm, vội bỏ thành trì, chạy vắt giò lên cổ sang thành Diệp Hách bộ. Thành thử Nỗ Nhĩ Cáp Tề chẳng mất một tên quân nào mà tự nhiên được tất cả các thành trì của Ô Lạp. Thanh thế của Nỗ đã lớn, bây giờ lại còn lớn hơn. Nỗ để người em thứ hai ở lại giữ Ô Lạp rồi tự mình đem quân tới Diệp Hách bộ, viết lá thư sai người cầm vào thành. Thư rằng:

"Trước đây ta bắt được Bố Chiêm Thái trên trận địa. Ta tha chết cho hắn, nuôi nâng giúp đỡ hắn như quyên thuộc, lại còn gả đứa cháu gái thứ ba cho hắn làm vợ. Thế mà hắn vong án bội nghĩa dám âm mưu phản loạn. Ta vì vấn tội mà tiến đánh nước hắn. Nay hắn đã theo ngươi, ngươi hãy cắt đầu hắn đem dâng!"

Ba bức thư tương tự liên tiếp gửi vào thành, nhưng bối lặc Bố Dương Cổ coi khinh, chẳng để ý. Nỗ Nhĩ Cáp Tề căm giận đến cực điểm, sai người về nhà điều động thêm bốn vạn binh mã tới, chuẩn bị ác đấu. Một hôm ông với người con trai Đại Thiện bàn kế phá thành, chẳng ngờ dưới trướng có vài tên lính nghe lỏm được. Chúng vốn người Ô Lạp nên vội trốn về tố cáo với Bố Dương Cổ.

Cổ lập tức truyền lệnh di tản tất cả dân chúng hai bên lộ Trương Cát Đường A vào thành xong đốt rụi tất cả nhà cửa trang trại. Đại binh của Nỗ Nhĩ Cáp Tề kéo tới nhưng ăn chẳng có nơi, ở chẳng có chốn, cả một cánh đồng không mông quạnh, xa tít tắp, chỉ còn lại những bãi cỏ lùm cây và toà thành Ngột Tô, cách đó không xa. Ông bèn thúc quân đánh thành này. Thành trưởng là Sơn Đàm Hỗ Thạch Mộc cô thế chống không nổi phải đầu hàng. Ông đem quân vào đóng trong thành không ngờ thành bị phát dịch đậu mùa, quân Kiến Châu chết hơn quá nửa. Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy tình thế bất hảo, vội bỏ thành Ngột Tô, lòng bực tức vô cùng.

Chẳng biết xì cái tức vào đâu, Nỗ Nhĩ Cáp Tề liền phóng hoả một hơi không biết bao nhiêu thành trì, nào là Nhã Cáp thành, Hắc Nhị Tô thành, nào là Hà Đôn thành, Khách Bố Tề thành, nào là Nga Cát Đại thành... và mười chín nơi đồn trại khác cũng theo lửa mà ra tro cả.

Bố Dượng Cổ thấy quân Kiến Châu dữ tợn, tàn ác, chạy tới cáo cấp với triều Minh. Nhà Minh liền sai quan Châu Đại Kỳ đem một ngàn pháo binh giúp quân Diệp Hách bảo vệ thành trì. Quân Kiến Châu biết hoả pháo lợi hại, đành rút quân trở về Tuy phải rút lui, nhưng thực ra chuyến đi này, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng đã xơi ngon Cáp Đạt bộ với bao thành trì phụ thuộc. Về mặt nam của bộ này, người ta thấy có đồn Sài Hà, đồn Phủ An, đồn Tam Đại, đồn Bạch Gia Sung, đồn Tùng Sơn. Những đồn này đất đai phì nhiêu, người dân Kiến Châu thường sang đây để cày cấy làm ăn. Chúng còn tiếp giáp với Thiết Lĩnh quan của nhà Minh miền giới tuyến. Vì ruộng đất béo bở nên thưởng xảy ra việc vượt biên giới để cày cấy kiếm lợi một cách bừa bãi.

Quan tổng binh nhà Minh là Trương Thừa Âm sai viên thông sự quan tên gọi Đổng Quốc Âm tới nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề:

- Ruộng đất ở vùng Sài Hà, Tam Đại, mà dân chúng Kiến Châu của ngươi cày cấy đó, đều thuộc Minh triều ta. Ngươi nên đem hết số cư dân ở sáu cái đồn kia về thành đi. Địa phương này từ nay sẽ được dựng cờ cắm mốc, cấm không được vượt giới cày cấy như trước nữa.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề đáp:

- Nói những điều vô lễ như vậy, thật quả Minh triều ngươi có ý kiếm chuyện với ta rồi.

Nói đoạn Nỗ Nhĩ đưa Đổng Quốc Âm ra khỏi thành, chẳng thèm đếm xỉa đến ý kiến của quan tổng binh nhà Minh.

Trương Thừa Âm thấy Kiến Châu ngang ngược lếu láo như vậy, tự nhủ:

- Ta nay mới tới làm quan tổng binh nơi đây. Nếu không cho chúng biết oai danh của ta thì làm sao chúng sợ ta được.

Nghĩ vậy, Âm liền truyền lệnh cho binh sĩ nhất tề động thủ, đuổi tất cả bọn dân chúng hiện ngụ ở sáu cái đồn kia trở về Kiến Châu rồi ở ngay lằn ranh giới, còn cắm mốc đá và sai quân canh giữ, không cho người Kiến Châu vượt giới tuyến sang cầy cấy bừa bãi nữa.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề được tin tức lắm, nói:

- Triều Minh thường hay giúp bọn Diệp Hách đem quân tới phá ta. Chỉ vì chúng thuộc triều nước lớn, ta đành phải nhịn đấy thôi. Nay cố ý kiếm chuyện, khinh khi thái quá, phen này ta phải xuất quân cùng chúng quyết một phen sống mái mới được!

Nói đoạn, ông sai đại tướng Hỗ Nhĩ Cổ ra khỏi thành, điểm đủ người ngựa. Còn mình thì quay vào nhà trong, luôn luôn mồm kêu lớn:

- Đem quân trang lại đây cho ta!

Bà Ô Lạp vội chạy tới lấy nhung trang rồi vừa giúp chồng nai nịt, vừa hỏi chồng xem chuyến này đi đánh ai và có cần bà đi để hầu hạ chăm nom không. Nỗ Nhĩ tức khí, hung hăng đáp lời bà:

- Ta đi đánh Minh triều. Chúng khinh khi ta thái quá. Chuyến này ta đi để xem ai cao ai thấp, cuộc đánh nhau hẳn ác liệt bà không đi được đâu.

Bà Ô Lạp vốn được chồng rất yêu quý, bởi vậy khi nghe Nỗ Nhĩ nói cần xa bà để ra quân chinh chiến, bà liền để rơi mình vào lòng chồng, miệng năn nỉ:

- Thiếp theo đô đốc cùng đi không nên ư?

Nỗ Nhĩ Cáp Tề xoa xoa đôi má phấn mịn màng của bà một lúc rồi chậm rãi nói:

- Nên lắm chứ nhưng mình nên ở nhà.

Nỗ Nhĩ nói tới đó bỗng có tiếng người con thứ bảy tên A Đa Thái từ ngoài đi vội vào phòng, ghé sát tai bố thì thầm mây câu.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề tức thì biến sắc, để lộ vẻ hung dữ chết người...

***

Anh Minh hoàng đế (tức Nỗ Nhĩ Cáp Tề) ôn lại dĩ vãng, vừa đến đây nét mặt bỗng biến sắc. Ngài nằm trên giường bệnh đã mấy tiếng đồng hồ không động cựa, vì ngài mải mê trong câu chuyện của quá khứ. Nhưng ký ức chỗ này không còn cho phép ngài nằm yên đấy nữa, nhớ tới cái hậu quả vô cùng khủng khiếp là chính tay ngài đã giết mất đứa con thân yêu Chữ Anh, hơn nữa lại còn hạ lệnh giết cả Thư Nhĩ Cáp Tề, người em đã từng vào sinh ra tử để xây dựng sự nghiệp cho ngài.

Anh Minh hoàng đế bỗng thét lên một tiếng, vang động ra cả phía ngoài, thân hình ngài vụt ngồi dậy. Nhưng vì yếu quá, bởi vết thương trầm trọng, ngài lại nằm vật xuống nước mắt chảy ràn rụa.

Đại bối lặc Đại Thiện từ lâu vẫn ngồi phía ngoài để theo dõi sức khoẻ của ngài, vừa nghe tiếng thét biết là có biến, vội tông cửa chạy vào. Đại Thiện chỉ còn kịp thấy cha đang duỗi thẳng hai chân ra một lần chót, đôi mắt trợn ngược lên, và hắt hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Thế là Anh Minh hoàng đế đã ra đi.

Hồi 34

VUA THÁI TÔNG ĐĂNG VỊ

Anh Minh hoàng đế tức vua Thái Tổ, sáng lập nhà Mãn Thanh, đã mất. Ngài mất vì một viên đại bác của quan kinh lược sứ Liêu Đông Viên Sùng Hoán. Lúc lâm chung, ở bên cạnh ngài chỉ có Đại bối lặc Đại Thiện, bà Nạp Thích và người con trai Đa Nhĩ Cổn của bà. Việc trối trăng hậu sự, Anh Minh hoàng đế đã dặn dò cẩn thận trước ba người vừa vợ vừa con thân yêu này. Nhưng người ta không ngờ được rằng sự thể rồi đây lại khác hẳn ý ngài...

Bà Nạp Thích nằm phục bên cạnh chồng, kêu gào thảm thiết. Đại Thiện, Đa Nhĩ Cổn cùng nắm tay cha mà khóc. Giữa lúc buồn khổ sầu thảm ấy, Tứ bối lặc hối hả chạy từ ngoài vào thấy cha đã chết nằm đó nhưng chẳng khóc lóc gì, hỏi ngay tới việc lập thái tử.

- Phụ hoàng trối lại lập ai làm thái tử?

Đại bối lặc thấy mặt y có vẻ chẳng lành, biết lúc này chẳng thể nói, bèn trả lời một cách hàm hồ.

- Phụ hoàng vừa mất. Mọi sự bọn ta sẽ thu xếp.

Tứ bối lặc nghe đoạn lạnh lùng nói:

- Có gì mà phải thu xếp dần! Phụ hoàng đã mất thì lập thái tử là một việc tối quan hệ. Anh ở đây lo tang sự cho phụ hoàng. Còn em binh quyền nắm trong tay em có thể chủ động việc này. Đối với hai anh A Mẫn và Mãng Cổ Nhĩ Thái em đã nói qua rồi. Mọi sự bên ngoài, hai anh đó đều nghe theo em cả, anh khỏi cần lo ngại. Em sẽ xếp đặt ổn thoả.

Nói xong Tứ bối lặc trở ra, có vẻ dương dương tự đắc. Bà Nạp Thích và Đại Thiên xem cử chỉ của Tứ bối lặc biết y đã có dự bị bên ngoài. Nếu xảy ra cuộc tranh giành ngôi báu tất nhiên nguy hiểm không thể tránh khỏi. Vả chăng bà Nạp Thích cũng chẳng dại gì để con cưng của bà bị giết, bởi vậy bà khẩn khoản với Đại Thiện chớ tiết lộ việc vua cha đã lập Đa Nhĩ Cổn làm thái tử, tình nguyện bỏ luôn cái ngai vàng của hoàng đế để bảo toàn tính mạng cho cả hai mẹ con.

Đại bối lặc thấy tình cảnh của bà Nạp Thích quả thật nguy ngập nên đồng tình lờ chuyện thái tử đi.

Qua ngày thứ hai, các vị bối lặc, đại thần đưa thi hài Anh Minh hoàng đế vào thành Thẩm Dương, quàn tại chính điện để thờ phụng, có Đạt Hải Pháp sư cùng bọn Thích Ma Tăng tụng kinh siêu độ.

Đến giờ khâm liệm, văn võ bá quan cùng các bối lặc, thân vương tề tập tại nội điện để sửa soạn làm lễ. Bỗng thấy Tứ bối lặc, Nhị bối lặc, và Tam bối lặc ai cũng đeo bộ đao hùng hổ tiến vào điện, phía sau có đến hai ba trăm tên võ sĩ theo bén gót dàn hàng chữ nhất dưới thềm. Tứ bối lặc nhảy lên điện, miệng hô lớn:

- Còn có một việc lớn chưa ổn định. Di thể của phụ hoàng thong thả rồi hãy liệm.

Hô xong, y kéo mạnh Đại bối lặc lại giữa điện. Các vị đại thần ai cũng mặt cắt không còn giọt máu. Mọi người lại nghe Tứ bối lặc cất tiếng bảo Đại bối lặc.

- Nước không thể một ngày không vua, dân không thể một ngày không chúa. Phụ hoàng mất đã ba ngày, thế mà ta chưa định được ngôi quốc chủ, đến nỗi lòng ba quân bên ngoài xao xuyến, rối loạn tới cực điểm. Em tuy nắm binh quyền nhưng thực không trấn áp nổi nữa. Nếu không tin anh hãy nhìn kìa!

Nói đến đây, Tứ bối lặc lấy tay chỉ ra ngoài cửa điện. Những tiếng đổ vỡ rầm rầm bỗng vang lên làm mọi người giật mình.

Thì ra cửa điện đã bị phá tan hoang. Ngoài cửa, đông nghẹt lính tráng kẻ nào kẻ nấy đều nai nịt, gươm giáo tua tủa sáng ngời... Đám quân sĩ vừa trông thấy Tứ bối lặc, đồng thanh hồ rầm trời:

- Tứ bối lặc vạn tuế! Tứ bối lặc vạn tuế!

Vừa tung hô, chúng vừa giơ cao gươm giáo, một phần để mừng, một phần để doạ...

Khi đám binh sĩ tung hô vạn tuế vừa xong, Tứ bối lặc lại bảo Đại bối lặc:

- Lúc phụ hoàng lâm chung chỉ có anh và em mà thôi. Vậy phụ hoàng đã nói những gì với anh?

Đại bối lặc nghe Tứ bối lặc nói xong hiểu rõ thâm ý của em, tự nhủ chính mình cũng chẳng muốn làm thái tử thì tội gì không thuận nước xuôi thuyền để giải nỗi hận thù. Bởi vậy ông liền trả lời:

- Phụ hoàng lúc lâm tử có nói với anh rằng: "Tứ bối lặc niên thiếu lại có kiến thức, đáng nên lập làm thái tử".

Câu nói vừa dứt thì tiếng tung hô vạn tuế lại nổi dậy ở dưới điện. Tức thì Nhị bối lặc A Mãn, Tam bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái chạy vút lên điện, công kênh Tứ bối lặc lên ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng rồi quay đầu lại, nói với đám đông:

- Nước không thể một ngày không vua. Lập thái tử hay không lập thái tử, việc đó không thành vấn đề. Hiện nay bọn ta đã tôn Tứ bối lặc lên làm vua. Nếu có kẻ nào không chịu hãy nhìn báu dao của ta đây!

Nói xong, hai ông đích thân nằm bò sát xuống đất làm đại lễ trước ngai vàng của Tứ bối lặc. Thấy hành động của hai bối lặc như vậy, văn võ bá quan đứng đầy nghẹt trong điện nhất tề quỳ xuống làm lễ, dập đầu triều hạ, miệng tung hô:

- Hoàng đế vạn tuế, vạn tuế!

Tứ bối lặc lúc đó tự nhiên nẩy sinh một ý khá đặc biệt, ông vội kéo Đại bối lặc, Nhị bối lạc, Tam bối lặc cùng ngồi xuống ngai vàng, kề vai sát cánh bên nhau để cùng chịu trăm quan triều hạ.

Việc triều hạ vừa xong thì đã thấy Thích Ma Tăng lên điện tâu xin hoàng đế tống liệm, Hoàng Thái Cực (tức Tứ bối lặc, tân hoàng đế) ngồi trên ngai vàng, im lặng không trả lời như có ý chưa nghe thấy. Đại bối lặc cũng tưởng tân hoàng đế không nghe thấy thật, nên nhắc lại thêm một lượt. Nhưng Hoàng Thái Cực bỗng nhiên nói lớn:

- Đại hành hoàng đế hiện còn một điều sở nguyện nhưng chưa được giải quyết, bởi vậy việc khâm liệm hãy khoan!

Sau đó, ông truyền chỉ cho Tuyên quan mời bà Kế đại phi ra trước điện. Đại bối lặc nghe xong biết Tân hoàng đế có ý chẳng lành vội tâu lên.

- Chẳng nên! Chẳng nên? Bởi Kế đại phi hiện đã ở địa vị Thái Hậu. Nếu hoàng thượng cần chỉ dụ, thiết tưởng phải tự khuất thân vào cung của Thái hậu mà truyền. Hơn nữa, phụ hoàng vừa mới mất, kế đại phi đang lúc thương xót muôn phần, hoàng thượng không nên tuyên triệu.

Hoàng Thái Cực vừa cười vừa nói:

- Lời của Đại bối lặc quả không sai chút nào. Khốn thay, việc ngày nay thực ra không phải trẫm dám tuyên triệu Kế đại phi mà lại là phụ hoàng di chỉ tuyên triệu đại phi. Bởi vậy trẩm đâu dám chống đối di chỉ của phụ hoàng.

Đại bối lặc nghe lời nói của Hoàng Thái Cực là danh chính ngôn thuận, không tiện ngăn trở thêm nữa. Chẳng bao lâu bà Nạp Thích, mặt đầy nước mắt, bước ra trước điện.

Văn võ trăm quan ai cũng tiến lên thỉnh an. Hoàng Thái Cực cũng như mọi người thỉnh an xong, bỗng ông quát lên một tiếng lớn:

- Nghe di chỉ đây!

Quát xong, ông đích thân quỳ xuống trước. Tức thì, văn võ bá quan không ai bảo ai cũng vội vàng răm rắp quỳ theo. Tân hoàng đế bò mọp sát đất rồi tuyên đọc.

- Đại hành hoàng đế, có khẩu chiếu giao trẫm truyền rằng: "Sau khi ta mất rồi bà Nạp Thích phải tuẫn táng theo ta!"

Tuyên bố xong, ông đứng dậy, mặt nghiêm nghị đợi chờ. Bà Nạp Thích nghe xong câu nói, thét lên ruột tiếng thảm thiết ba hồn bảy vía lên tận mây xanh. Bà lảo đảo người đi mấy vòng rồi té xỉu ngay vào trong lòng mấy ngýời cung nữ đứng bên cạnh. Lát sau, bà tỉnh dần lại, gần như mất trí, không còn nói lên được lời nào. Hai người con của bà là Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc chạy lên bên cạnh bà, nắm lấy vạt áo mẹ oà lên khóc lóc thảm thiết. Bà cũng oà khóc mếu máo qua đôi lệ, mãi mới bật lên được thành tiếng:

- Ta may được hầu hạ tiên đế từ lúc 12 tuổi, đến nay đã 26 năm, tình sâu như bể, vốn bất nhẫn tương ly, duy chỉ có điều hai đứa con ta là Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc tuổi còn quá nhỏ mà thôi. Sau khi ta chết rồi, chỉ cầu mong hoàng thượng nể tình tiên đế mà săn sóc giùm ta.

Nói xong, bà Nạp Thích liền quỳ xuống đất lạy liền mấy lạy. Hoàng Thái Cực thấy vậy, vội vàng hồi bái. Bà Nạp Thích từ từ đứng dậy, rồi trở về cung.

Lát sau hai con cung nữ trở ra, báo lên:

- Đại phi đã tuẫn tiết theo tiên đế.

Tin báo này vừa xong thì một tin khác cũng vừa tới:

- Thưa, phi A Tế Căn và Đức Nhân Thạch cũng đều tự vẫn cả.

Ba bà phi đã tuẫn tiết cả. Sau đó người ta mới thấy trên chính điện chiêng khua trống gióng, bát âm đàn sáo trôi dậy để làm lễ tấm liệm thi thể Anh Minh hoàng đế. Người ta cũng được nghe Hoàng Thái Cực và triều đình tuyên bố cải hiệu là Thiên Thông năm thứ nhất, hoàng đế là Thái Tông (tức là vị Hoàng đế thứ nhì của nhà Mãn Thanh).

Nhân vì Đại bối lặc, Nhị bối lặc và Tam bối lặc có công lớn đối với mình, Thái Tông hoàng có biệt nhãn đối với họ.

Trong những buổi thiết triều, Thái Tông hoàng đế thường mời cả ba người lên cùng ngồi trên ngai ngang hàng với mình để chịu lễ "quỳ lạy" của bá quan. Sau đó, Thái Tông hoàng đế lại đem việc lập hoàng hậu bàn với anh cả là Đại bối lặc Đại Thiện.

Đại bối lặc hỏi Thái Tông hoàng đế có ý muốn lập ai vào ngôi đó thì Thái Tông hoàng đế bèn đáp:

- Khi phụ hoàng còn tại thế, tuy đã lấy cho trẫm nàng nguyên phi, hơn nữa trong hậu cung còn có rất nhiều phi tần được sủng ái. Nhưng theo ý riêng trẫm, thì chỉ có nàng Bác Nhĩ Tế Cát Đặc là người trẫm muốn lập lên làm hoàng hậu mà thôi. Song trẫm lại sơ rằng thiên hạ sẽ cười trẫm vì nàng vốn đã gái có chồng rồi. Do đó, trẫm do dự mãi, không dám quyết.

Đại bối lặc bèn hồi tâu:

- Bệ hạ thực quá lo xa. Xưa nay, vợ chồng cốt lấy ái tình làm trọng. Nàng Cát Đặc đã hợp ý bệ hạ, thì việc lập làm hoàng hậu có gì khó khăn nữa đâu. Nếu bệ hạ sợ dư luận đàm tiếu về trường hợp riêng của nàng thì hạ thần sẽ hiến cho bẽ hạ một kế, là bệ hạ sẽ cùng nàng làm lễ hôn phối một lần nữa, tế cáo tại nhà Tông miếu một cách trọng thể. Như thế thử hỏi có ai dám chê trách gì về việc lập hoàng hậu của bệ hạ nữa?

Thái Tông hoàng đế nghe xong, gật đầu lia lịa, miệng khen "đúng, đúng" và tiếp thêm:

- Cuộc lễ này cần phải thật linh đình và trang trọng, vậy ai có thể là người lo liệu việc này cho trẫm?

Đại bối lặc suy nghĩ một lát, bèn nói:

- Có rồi! Có rồi. Trong cung của bệ hạ, há chẳng có một cái bụng bự lễ giáo, tức là cái ông mà mọi người gọi là Phạm tiên sinh đó sao? Bệ hạ chỉ cần gọi ông ta tới mà hỏi là xong!

Thái Tông hoàng đế nghe vậy, gật đầu khen phải. Hôm đó, quay về cung, Thái Tông hoàng đế liền truyền gọi Phạm tiên sinh vào bệ kiến. Thế là chỉ vỏn vẹn có một đêm bàn tính với Phạm tiên sinh, Thái Tông hoàng đế đã có cả một chương trình về cuộc lễ đại hôn, với đầy đủ chi tiết.

Qua ngày hôm sau, Thái Tông hoàng đế hạ chỉ giao hết mọi việc lễ lạt cho bộ Lễ lo liệu. Chẳng mấy chốc, khắp thành trong ngoài không chỗ nào là không biết tin nhà vua sách phong Hoàng hậu, thậm chí còn có kẻ nhảy lên tưng tưng, miệng gào: "Hoàng đế ta cưới hoàng hậu".

Ngày hôn lễ đã đến, hoàng cung chăng đèn kết hoa tưng bừng náo nhiệt xưa nay chưa từng thấy. Hoàng hậu ngồi trên chiếc xe phượng liễn, một đội âm nhạc, rồi một đội âm nhạc khác nữa kế tiếp nhau trỗi nhạc đưa hoàng hậu vào cung. Tiếng nhạc đưa xa hàng mấy dặm, dân chúng như phải đứng tim lại mà nghe, mà hân hoan với niềm sung sướng của đức vua của họ.

Xe hoàng hậu vào tới cung. Bà được đoàn cung nữ xinh như mộng đưa lên bệ rồng bệ kiến Thái Tông hoàng đế. Tiếng bát âm lại trỗi dậy những nghì thức phức tạp của một cuộc đại hôn trong cung đình được lo liệu chu đáo. Hôm đó, không một cung, một phi tần nào là không quần đẹp áo tốt dự vào cuộc đại lễ này. Sau cuộc lễ quân thần, đến cuộc lễ phu thê.

Thái Tông hoàng đế và hoàng hậu kề vai ngồi trên ngai vàng để trăm quan triều hạ. Rồi đến cuộc lễ tại nhà Thái miếu. Hoàng đế và hoàng hậu cùng bá quan lại một phen võng lọng kiệu sang đó. Các cuộc lễ bên ngoài đã xong, nhà vua và hoàng hậu quay về cung, chịu lễ bái yến và chúc mừng của phi tần. Tiếp sau đó là cuộc lễ, tương kiến trong gia đình, nào là anh em, nào là chú bác, nào là chị em, nào là cô dì... tất cả đều theo nghi tiết mà hành lễ, mười phần hoàn hảo. Cuối cùng, đến cuộc triều hạ mệnh phụ, cũng vô cùng trọng thể. Mọi cuộc lễ đều xong, lúc đó nhà vua và hoàng hậu mới song song ngồi trên xe loan vào tẩm cung để làm lễ hợp cẩn. Thái Tông hoàng đế đến lúc này mới được rảnh để nhìn ngắm tường tận người vợ yêu của mình. Nàng mặc y phục hoàng hậu theo đúng nghi thức Đại hôn, thêu kim tuyến óng ánh muôn màu trước ánh đèn lồng soi sáng cung đình như ban ngày. Hoàng hậu hôm nay trang điểm vô cùng tinh tế, cặp lông mày nhỏ như lá liễu, uốn vòng cung trên đôi mắt đa tình lúc nào cũng như mặt nước hổ thu lóng lánh, đôi môi thắm nở một nụ cười hệt như bông hoa hàm tiếu. Mái tóc mây được những năm cung nữ chuyên môn chải búi. Người ta chỉ cần nhìn vào mái tóc đó cũng đủ để phải ngây hồn rồi. Tóc của bà là loại tóc mây đen óng ánh, lả lướt xuống đôi vai, mỗi khi làn gió nhẹ thổi qua những sợi tóc mảnh như tơ phất phơ bị làn gió xuân xao động. Đôi hài hết sức đặc biệt. Chung quanh hài dính toàn ngọc lưu ly nhỏ như hạt đậu, ánh sáng chiếu ra ngoài thành muôn đường sáng quắc. Phía trước, chiếc nào cũng có một con phượng xinh xinh, mỗi khi hoàng hậu bước đi đôi cánh phượng nhún nhẩy y như khi chúng đang bay trên khoảng trời xanh cao vút. Thái Tông hoàng đế càng nhìn hoàng hậu càng thấy mê mẩn tinh thần.

Theo sau gót hoàng hậu, một đoàn phi tần cũng áo mới xiêm mới, cũng đủ màu đủ vẻ, chẳng khác gì một đoàn tiên nữ đang theo hầu nàng Hằng Nga, đạo chơi trên Nguyệt điện.

Tuy các nàng phi tần cũng là những giai nhân tuyệt sắc, nhưng bên cạnh hoàng hậu, ai cũng thấy các nàng còn thua xa. Hoàng hậu quả là một giai nhân xưa nay chưa từng thấy ở cái xứ Mãn Châu man dại này. Bà là một đoá hoa rừng mà tạo hoá như có ý dành riêng cho dân tộc Mãn để tô điểm cho ngài vàng dòng tộc Mãn. Đứng trong đám phi tần nọ, bà như một con chim phượng hoàng giữa đàn gà, một cành mẫu đơn đang độ trong một vườn hoa tuy đủ sắc đủ vẻ nhưng quá tầm thường.

Mọi người đẹp trong hoàng cung hôm đó thực đã bị hoàng hậu hạ giá hết. Người ta chỉ thấy có bà duy nhất là nghiêng nước nghiêng thành. Chính cái sắc ấy đã khiến Thái Tông hoàng đế mê mệt đến độ bất chấp cả điều tiếng của thiên hạ để lăn xả vào đường tình, không chút e ngại.

Thái Tông hoàng đế càng trông thấy hoàng hậu của mình càng thấy lòng xốn xang bối rối. Ngài bèn liếc mắt cho toàn thể phi tần, cung nữ lùi ra ngoài rồi ngồi xuống bên cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình, hai kề vai, tay trong tay, tuy đôi miệng chưa nói điều gì nhưng ánh mắt đã gởi cho nhau những niềm ân ái kín sâu xưa nay chưa từng nói tới bao giờ.

Hoàng hậu sẽ vén ống tay áo lụa mỏng, để lộ cánh tay trắng như tuyết, cầm lấy hồ rượu bồ đào nhẹ rót vào hai chiếc ly bằng pha lê đặt trên bàn trước mặt. Ngắm đôi tay xinh như ngọc ấy, Thái Tông hoàng đế cảm thấy mình như được thượng đế cưng chiều nhất, dành riêng cho mình ưu vật có một không hai dưới trần thế. Thế rồi hai ly rượu được nâng lên để làm hợp cẩn, men rượu vừa say trong khi men tình cũng đã thấm sâu tận các thớ thịt cùng làn da của đôi tình nhân... Đây là cuộc tình duyên ngẫu nhiên của Thái Tông hoàng đế, bắt nguồn từ cuộc hành quân của Anh Minh hoàng đế ra Phủ Thuận.

Thân mẫu của Hoàng Thái Cực (tức Thái Tông hoàng đế) là bà Diệp Hách Nạp Thích rất được Anh Minh hoàng đế cưng chiều. Hoàng Thái Cực sinh ra trong cuộc ân ái mặn nồng đó. Chàng lại khôi ngô tuấn tú, nên càng được Anh Minh hoàng đế thêm phân sủng ái. Chàng tuổi tuy còn nhỏ nhưng giải quyết mọi việc rất nhanh và đúng. Thấy con có tài năng xuất chúng, Anh Minh hoàng đế để chàng lại kinh thành, thay mặt ngài xử lý mọi việc trong bộ lạc. Ngài còn cho gọi thêm mấy người anh là A Bái, Thang Cổ Đạt tháp Bái và A Bá Thái Giáp Cực chu toàn công việc.

Hoàng Thái Cực vâng lệnh cha, không dám biếng trễ, ngày đêm lo liệu mọi việc đến quên cả ăn ngủ. Bà Diệp Hách thấy chàng quá vất vả càng thương chàng. Bà biết chàng rất thích đi săn nên bảo mấy người anh của Cực thay phiên nhau xử lý công việc, để cho Cực có chút thì giờ rảnh rang ra ngoài săn bắn giải trí. Thế là Cực được các anh cho phép đi săn luôn ba ngày. Cực liền đem bọn thị vệ vào săn trong rặng núi phía tây...

Hôm đó đoàn thợ săn cao hứng đi sâu mãi vào rừng thẳm đến hàng năm, sáu chục dặm. Họ săn được không biết bao nhiêu thú, bao nhiêu chim. Họ cắm trại câng lều trong giữa khu rừng, tha hồ uống rượu ăn thịt, ca múa, vui thâu đêm. Thật là một đêm vui nhộn hiếm có mà Hoàng Thái Cực cảm thấy đặc biệt thích thú.

Qua ngày hôm sau, đoàn thợ săn lại lên đường đi tiếp, dã thú càng vào sâu trong rừng thẳm càng có nhiều. Đoàn đi tới một khu rừng thông, bỗng thấy trên một bãi đất trống rộng trước mặt có đàn hươu sao đang gặm cỏ. Hoàng Thái Cực mừng rỡ đến cực độ, vội truyền lệnh cho hơn một trăm tên kỵ mã thị vệ hướng về hướng tây săn đuổi, chỉ một chàng mình ở lại Cực lúc đó đứng dưới bóng một cây thông cao, bỗng thấy một con hươu mẹ bị người đuối đang hoảng hốt ba chân bốn cẳng chạy vào khu rừng thông. Cực vội nhảy lên mình ngựa, đuổi gấp. Con hươu mẹ thấy trong rừng có người chạy ra giật mình hoảng sợ, quay đầu chạy tạt về hướng đông, lẹ như mũi tên bắn. Tóm được chú mồi ngon, Cực đời nào chịu bỏ, phóng ngựa như bay đuổi theo. Ngựa của Cực vốn thuộc loại có tiếng cho nên đuổi một lát đã gần kịp, Cực tay tả giương cung, tay hữu rút tên rồi phóng luôn ba mũi, một mũi trúng ngay giữa lưng hươu mẹ. Hươu mẹ chịu đau, vừa chạy vừa lắc, xuyên thẳng tới đầu núi, bốn vó phóng như điên. Tuấn mã như cũng cảm thấy khoái thích lao theo như gió. Chẳng mấy chốc, Cực đã đuổi qua đầu núi, nhìn về trước chỉ thấy sừng sững đứng chắn ngang hai ngọn núi cao chót vót, chênh vênh trên đỉnh khu rừng già. Cực lúc đó đã thấm mệt nên muốn tới nghỉ ngơi đôi chút tại khu rừng, nhất là khi hươu chạy qua đầu núi, chẳng hiểu đã phóng về ngả nào mất hút.

Cực thả lỏng cho ngựa từ từ bước một vào rừng. Đang định xuống ngựa, bỗng nghe đằng sau gáy có tiếng "vút" xé không khí về phía trái. Thế rồi hai tiếng "vút vút" nữa tiếp theo liền.

Hai mũi tên sau thì một mũi chui qua nách Cực, còn mũi kia cắm vào vai áo nhuyễn giáp. Cực biết có người mưu hại, vội rạp đầu xuống, tay giật mạnh giây cương cho ngựa chạy vào hẳn trong rừng già để tạm nấp. Bỗng có tiếng gầm thét nối lên ở phía sau chàng rồi những tiếng vó ngựa rầm rầm đuổi theo, tiếng "vút vút" của những mũi tên bắn đi, tạo thành một quang cảnh hỗn độn giữa khu rừng núi âm u tịch mịch.

Một chiếc tên bay tới, trúng vào đùi ngựa. Lại một chiếc tên nữa cắm phập đùi Cực. May mà khoảng cách hơi xa cho nên sức yếu, tên cắm vào không sâu lắm, Cực vội dùng tay rút phắt tên ra. Con ngựa trúng tên, đau quá hoá khùng, hí một tràng dài rồi giơ cao bốn vó lao mình về trước, xuyên vào khu rừng. Cực bám chặt lấy cổ ngựa, tai chỉ nghe tiếng gió lướt vù vù, chẳng còn biết được gì xảy ra chung quanh nữa.

Chàng phi như thế không biết đã bao lâu, ngựa giảm bị tốc lực, chàng ngồi thẳng người lên, thở phào mấy cái dốc hết nỗi mệt nhọc ra ngoài. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, bốn phía đều là rừng núi bát ngát, cỏ rậm. Xa xa có tiếng suối chảy rì rào. Thật là một quang cảnh nên thơ.

Cực lúc đó đã quá khát, bèn cho ngựa hướng về phía co tiếng suối quay đầu lại sau không thấy kẻ nào theo đuổi, chàng nhảy xuống ngựa, tay cầm cương, rồi dắt ngựa từ từ đi trên đám cỏ mòn lá sắc. Vết thương trên đùi không nặng gì lắm nên không trở ngại nhiều cho cuộc đi bộ của chàng. Càng đi tới tiếng suối càng nghe rõ. Tìm đường về trái rồi về phải nhưng không thấy, chàng đành chậm bước tiến lên. Khi vượt qua một đoạn đèo núi, chàng mừng quýnh bởi đã thấy một thác nước trắng xoá như tấm lụa bạch chạy dài từ trên đỉnh núi xuống mãi tới chân đèo, rồi từ nơi chân đèo, thác nước đã biến thành một con suối nhỏ oằn oèo như lưng rắn chạy trên khu đồng cỏ xanh rì.

Hoàng Thái Cực lòng mừng rỡ khôn xiết, cố đi thêm một đoạn đường ngắn nữa. Chàng cho ngựa uống nước ở một cái vũng cạnh thác, rồi tiến lên vài bước, bụm hai tay hứng nước thác đưa vào miệng. Chàng uống luôn mấy ngụm nước trong mát, cảm thấy tinh thần sảng khoái, thư thái rồi ngồi xuống cạnh thác nước, đưa mắt nhìn trời mây... Phong cảnh núi non thật hùng vĩ. Tứ bề vắng lặng như tờ.

Giữa lúc đang mê mải thương thức cảnh tượng thiên nhiên. Hoàng Thái Cực bỗng nghe một tiếng gầm thét vang lên, xé tan bầu không khí tĩnh mịch. Rồi có tiếng vó ngựa nện trên đường đá lộp cộp vội vã chạy về phía chàng. Cực lúc đó chẳng khác gì con chim phải tên nghe những thanh âm đó mà hoảng sợ, trống ngực đập thình thình.

Phải chăng kẻ thù khi nãy đã đuổi tới đây? Nhưng chàng không đến nỗi lo lắm, bởi vì chỗ chàng ngồi bên cạnh thác nước được bóng cây che khuất, người bên ngoài không thể nhìn thấy được. Chàng lặng lẽ kéo con ngựa xích lại gần mình, rồi nhô đầu ra, nhìn về phía bờ suối.

Trên cánh đồng bằng trước mặt, một bọn người đông có tới ba, bốn chục, cưỡi ngựa đuổi theo một con sói lớn. Con sói khi chạy ra đến giữa cánh đồng thì bị bọn người vây quanh, chạy ngả nào cũng bị chặn lại. Nhìn kỹ bọn người cưỡi ngựa chàng lấy làm lạ lắm. Bởi đó toàn là những thiếu nữ trẻ đẹp, môi son mắt phượng. Các nàng vừa đuổi thú vừa hò hét vang tròn. Con sói xem ra hết đường chạy, chỉ còn một ngả duy nhất là con suối. Các cô gái kia đâu có chịu bỏ; vội quất ngựa đuổi theo. Sói hối hả chạy gần tới bờ suối.

Hoàng Thái Cực không thể ngồi yên, giương cung đặt tên nhắm chính sọ con sói bắn một phát. Cùng lúc đó, một cô gái trong bọn, cũng bắn trúng ngay sau ót con mồi, đối ngược lại với mũi tên của Cực. Sói la lên một tiếng thảm thiết rồi chết lăn ra đất. Cô gái chạy tới, nhảy xuống ngựa xem, thấy có hai mũi tên thì lấy làm lạ. Giữa lúc nàng còn phân vân thì đoàn con gái chạy theo sau đều đã tới, vây lấy con sói. Có một nàng trong số nhanh mắt nhìn thấy bóng Hoàng Thái Cực bên suối, bèn hò cả bọn chạy tới.

Cực lúc này biết rằng khó nấp, chàng dắt ngựa đi ra. Các cô gái chạy lại, vây quanh chàng rồi đưa tới trước mặt một cô nàng có tư thế của một vị chủ nhân. Khi giáp mặt, chàng mới có dịp nhìn kỹ. Chàng không ngờ lại có người đẹp đến thế. Mắt chàng bỗng như bị choá vì sặc đẹp rực rỡ của nàng.

Trang giai nhân trước mặt chàng qua là một ưu vật, sắc nước hương trời. Thân hình nhỏ nhắn, lưng eo, dáng yểu điệu dịu dàng. Chân nàng đi đôi man hài, mình mặc chiếc áo ngắn, tay cộc. Toàn thân nai nịt vừa gọn gàng vừa xinh đẹp, khiến ai cũng phải si mê. Khuôn mặt nàng hình trái xoan, trắng mịn, không cần trang điểm mà vẫn duyên dáng mặn mà. Đôi mi cong cong lá liễu, phủ dài trên cặp mắt lóng lánh. Chiếc mũi dọc dừa và cặp môi thắm như muốn cướp hồn những khách đa tình.

Giai nhân thấy có một chàng trai trẻ đứng trước mặt mình, đôi má bất giác ửng hồng, ra chiều e lệ ngại ngùng. Nàng quay lại bảo thị nữ đứng bên:

- Hỏi xem y là ai? Tại sao dám vào rừng săn bắn của ta?

Thị nữ được lệnh, bèn lại gần Hoàng Thái Cực, bảo:

- Công nương vừa nói gì, công tử nghe rõ rồi chứ?

Nghe hỏi đi hỏi lại hai, ba lần mà Cực vẫn không trả lời.

Đôi mắt chàng bị khuôn mặt xinh tươi kia hút lấy, có nghe thấy gì nữa đâu. Bọn thị nữ vây quanh thấy chàng như ngây như ngốc chẳng khác kẻ mất hồn, bèn cười ồ lên và đùa giễu với nhau:

- Anh chàng này xem chừng điếc chắc?

Có cô nói:

- Hắn có lẽ câm nữa đây?

Lai có cô thêm:

- E rằng là hắn sắp cả mù rồi...

Cô thứ tư có vẻ già dặn từng trải hơn, cười nhạt bào mọi người:

- Bậy nè! Hắn chẳng câm, cũng chẳng điếc đâu. Hắn chỉ mất hồn thôi.

Bọn chị em lại cười ồ cả lên khiến Hoàng Thái Cực giật mình như vừa tỉnh một giấc mộng, bất giác cũng mỉm cười. Rồi chàng lên tiếng:

- Ta vốn là một vị bối lặc. Đây là lần đẩu ta thấy có kẻ dám bảo ta vừa mù, vừa điếc, vừa câm. Mấy con a hoàn này gớm thật.

Bọn thị nữ nghe chàng tự xưng là bối lặc, lại phá lên cười nữa. Chúng chỉ vào mặt chàng, giễu cợt:

- Chị em hãy nhìn anh chàng bối lặc khốn khổ này xem. Hắn ra ngoài mà chả có một mống lính hầu nào! Hắn phải tự giắt ngựa, trông thảm não chưa kìa! Chẳng bù với Tái Tang bối lặc của bọn ta, mỗi khi ra cửa, tiền hô hậu hét ít ra là phải hàng trăm tuỳ tùng.

Hoàng Thái Cực chẳng đặng đừng, đành phải xưng tên họ, kể gia thế rồi thuật cuộc đi săn, gặp con hươu mẹ, đuổi đến nửa đường bị địch nhân ám hại nên phải chạy trốn lạc bước tới đây. Chàng kể rành mạch từ trước đến sau, đầy đủ chi tiết.

Cô gái ngồi nghe hết, tin là chàng nói thật. Hơn nữa nàng thường được thân phụ nàng kể lại cho nghe, nào là bộ lạc Kiến Châu cường thịnh ra sao, nào là Tứ bối lặc anh hùng thế nào, nên lại càng tin thêm. Nàng trông kỹ, thấy chàng quả nhiên khôi ngô tuấn tú, ăn nói hoạt bát, tỏ ra học thức hơn người. Nàng bất giác cảm thấy lòng mình xao xuyến, khó nói nên lời.

Một lúc sau, nàng mới cất giọng oanh thỏ thẻ:

- Bối lặc đã là người Kiến Châu thì đối với bọn thiếp chính là chỗ thân tình rồi. Địa phương này xa uý bộ tới hai trăm dặm. Thiết tưởng bối lặc nhất thời chưa thể về kịp, mà lều trại của bọn thiếp thì ở gần đây, vậy xin bối lặc quá bộ lại nghỉ, uống chén trà, nói chuyện cho vui.

Nôi đoạn nàng nhảy lên mình ngựa, chạy trước dẫn đường.

Hoàng Thái Cực lúc này đã quá si mê, chẳng thể chẳng lên ngựa theo đi. Phía sau bọn thị nữ xinh đẹp cười nói huyên thuyên, lần lượt bước theo. Đoàn người đi qua cánh rừng nhỏ thì thấy một khu lều trại khá lớn. Cực xuống ngựa bước theo vào lều, sau khi chia ngôi chủ khách, bọn thị nữ dâng rượu thịt. Cực chẳng làm khách, vào tiệc ngay, vừa ăn uống vừa hỏi về gia thế người đẹp. Nàng vui vẻ trả lời:

- Địa phương này là biên địa của bộ lạc Khoa Nhi Bí. Phụ thân của thiếp chính là Bộ chủ Bác Nhĩ Tề Cát Đặc, tên Tắc Tang bối lặc.

Hoàng Thái Cực nghe tới đây biết nàng là con gái của Tắc Tang bối lặc, bất giác lòng mừng khấp khởi. Chàng vội đứng dậy, cúi chào thỉnh an, rồi cất giọng trịnh trọng nói:

- Thì ra cô nương vốn là một vị cách cách. Tại hạ thực đã quá đường đột xúc phạm tới phương nhan nhiều lắm.

Vừa nói Cực vừa để ý liếc nhìn tấm thân yểu điệu, thướt tha của nàng. Chàng nhớ lại lời đồn đại của dân chung Mãn Châu, nói rằng Tắc Tang bối lặc có hai vị cách cách, hai đoá hoa hàm tiếu giữa mùa xuân đương độ. Da thịt của cả hai nàng trắng mịn như ngọc, bởi vậy cô lớn mới có tên Đại Ngọc Nhi, còn cô bé Tiểu Ngọc Nhi.

Hoàng Thái Cực có ý tinh nghịch, bèn lên tiếng hói nàng:

- Xin hỏi phương danh của cách cách là gì?

Cách cách Đại Ngọc Nhi (vì cô này là lớn) nghe hỏi cúi đầu hơi thấp xuống, lấy khăn che cặp môi hồng chỉ mỉm cười mà chẳng chịu trả lời. Một đứa thị nữ đứng hầu bên cạnh vốn tính nhanh nhẹn hoạt bát đã tiếp lời:

- Cách cách của tiện nữ tên gọi Đại Ngọc Nhi đấy ạ!

Đại Ngọc Nhi bỗng sa sầm nét mặt. Đứa thị nữ giật mình sợ hãi, lùi hẳn lại đến hai bước. Ngọc Nhi vừa khoát tay vừa bảo đứa thị nữ:

- Ra ngoài kia ngay đi! Đừng ở đây mà lẻo mép. Nếu không có lệnh gọi, cấm được vào, nghe chưa?

Bọn thị nữ thấy cách cách nổi giận, nhất tề lui ra, túm năm tụm ba trò chuyện. Bên trong lều chỉ còn lại có Ngọc Nhi và Thái Cực.

Chàng và nàng trò chuyện có mòi tương đắc lắm, mãi tới chiều tối, đèn cũng chẳng cần đốt, cơm chiều cũng chẳng hò dọn. Bon thị nữ không có lệnh gọi không dám hỏi, chi biết đợi chờ phía ngoài. Chúng ngồi nghe hết tiếng cười này đến tiếng cười khác, trong lều quả đã có một cuộc vui hiếm có.

Cuộc vui hiếm có của đôi trai gái tuổi xuân đương độ ấy kéo mãi suốt sáng. Lúc đó, bọn thị nữ mới được lệnh sửa soạn tiệc rượu. Đại Ngọc Nhi với Hoàng Thái Cực ngồi vào tiệc, vai kề vai, trò chuyện không dứt. Bữa tiệc kéo dài đến gần trưa.

Cực lúc đó mới sực nhớ tới việc nhà, bèn khẩn khoản cáo từ. Ngọc Nhi chẳng còn biết nói sao, đành sai người chạy về bộ lạc điều động một đội quân hộ tống chàng về Kiến Châu.

Lúc tạm biệt của hai người, bọn thị nữ lưu ý chỉ thấy vị cách cách của chúng đôi mắt đỏ hoe ngồi trên mình ngựa đưa tiễn mãi chẳng nỡ trở về. Đôi ngựa kề đầu chàng và nàng chẳng biết đã nói bao nhiêu chuyện cuối cùng đành bịn rịn chia tay. Đại Ngọc Nhi chằng còn lòng dạ nào săn bắn nữa. Nàng cho lệnh nhổ lều, cuốn gói lặng lẽ âm thầm trở về bộ lạc.

Lại nói bà Diệp Hách Nạp Thích từ khi Hoàng Thái Cực vào rừng săn bắn thường băn khoăn ra vào không yên. Đêm đầu không thấy con về, bà chỉ nhớ chứ không lo vì Cực đi săn qua đêm là thường. Qua ngày thứ hai, mãi tới chiều tối mà vẫn chẳng thấy Cực về thì bà đã thấy sốt ruột. Đến lúc lên đèn bà chỉ thấy bọn thị vệ hối hả chạy bố từ ngoài vào nói rằng Tứ bối lặc bị lạc đường chẳng rõ chạy về phương nào càng lấy làm lo, và cật vấn bọn thị vệ kỹ lưỡng thì thấy chính chúng cũng không rõ lý do nữa. Chúng chỉ khai rằng khi tất cà đuổi theo bầy hươu thì duy có Tứ hối lặc ngồi lại trong rừng thông, đến khi chúng quay về thì chẳng thấy chàng đâu nữa. Chúng đã tìm kiếm khắp cả ngả rừng, mãi đến đêm khuya mà chẳng thấy vết tích, bọn chúng đành phải quay về bẩm cáo.

Hai hôm sau, Tứ bối lặc trở về, dương dương đắc ý. Bà Diệp Hách chạy lại nắm lấy tay con, miệng cuống quýt hỏi han. Tử bối lặc nói chẳng có gì lạ xảy ra. Chàng chỉ giục bà cho người đi ngay tới bối lặc Khoa Nhĩ Bí để làm mai cho chàng. Các bà phúc tấn, các nàng cách cách nghe chàng nói, ai cũng cho chàng là điên! Bà Diệp Hách cật vấn mãi chàng mới thổ lộ chân tình, kể lại một lượt cho mẹ nghe.

Chàng còn nói với mẹ:

- Lần này con mới thấy được một người đẹp đấy, mẹ ạ.

Chàng buộc mẹ cho người đi làm mai cầu thân, bà Diệp Hách cau mày bảo:

- Phụ thân con đã định việc hôn nhân cho con rồi, ai còn dám mai mối kiếm đám khác?

Tứ bối lặc vẫn nài nỉ mẹ, không chịu thôi. Bà Diệp Hách chỉ còn biết thoái thác bằng cách bảo đợi phụ thân chàng ít ngày nữa trở về sẽ đứng ra chủ trương cho chàng.

Ít hôm sau, Anh Minh hoàng đế trở về. Lần này xuất quân thắng trận nên ngài vui vẻ lắm. Giữa lúc ngày đang cao hứng, Hoàng Thái Cực đem việc làm mai ra nói, được ngài bằng lòng ngay...

Thế là sau cuộc yến tiệc thành công, Anh Minh hoàng đế cho ngay một vị đại thần mang theo rất nhiều lễ vật đến Khoa Nhĩ Bí cấu hôn. Vị đại thần đi rồi, Hoàng Thái Cực ngày đêm mong ngóng hết ra lại vào, thở vắn than dài.

Đã bao ngày đêm mới thấy vị đại thần trở về, với đầy đủ sính lễ, tất cả vẫn còn nguyên phong, Anh Minh hoàng đế lấy làm lạ, bèn hỏi thì đại thần tâu:

- Tâu bệ hạ! Thật đáng tiếc vì chúng ta đến quá trễ! Khi thần tới Khoa Nhĩ Bí gặp Tắc Tang bối lặc, trình lời cầu hôn thì Tắc Tang cự tuyệt. Ông nói vừa hôm qua ông đã định việc hôn phối cho con gái ông lấy thế tử Đức Nhĩ Cách Lạc của bối lặc Kim Đài Thạch nước Diệp Hách rồi. Thần không tin thì Tắc Tang bối lặc nói ngay rằng mai nhân còn đó để chứng minh sự thực. Ông còn cho gọi một người ra trình diện. Thì ra đó là một viên quan nước Diệp Hách tên gọi A Nhĩ Tháp Thạch. Thần không còn biết nói gì hơn, đành cáo từ ra về.

Anh Minh hoàng đế nghe lời tấu xong cũng chẳng còn biết nói gì hơn. Người đau khổ nhất còn ai khác hơn là Hoàng Thái Cực, chàng không ngờ người đẹp của chàng lại bị người anh con ông cậu cướp mất. Chàng phát điên lên, nhiều lúc như ngày như dại. Chàng buộc mẹ chàng tới Diệp Hách nói với gia đình nhà cậu hãy nhường người đẹp Đại Ngọc Nhi lại cho chàng. Nhưng bà Diệp Hách e chẳng tiện đối với gia đình bên ngoại về việc này, bèn không chịu đi. Thế là mối hận thù phát sinh mãnh liệt trong lòng cậu con cưng của bà. Hoàng Thái Cực định huy động quân mã tới Diệp Hách quyết một phen sống mái. Nhưng Anh Minh hoàng đế ngăn lại và buộc chàng phải cưới vợ ngay tức khắc với người con gái mà ông đã lựa chọn từ trước. Chàng vẫn âm thầm tưởng nhớ đến người đẹp dù đã có người bạn trăm năm xinh đẹp cũng chẳng kém.

Chẳng ngờ ít lâu sau, Diệp Hách bộ ám trợ quân Minh, trong khi Anh Minh hoàng đế đánh bại quân Minh ở núi Tát Nhĩ Hủ. Bởi vậy Kim Đài Thạch chuyển quân qua chinh phạt Diệp Hách. Hoàng Thái Cực trong dịp này được kể là một vị tướng hăng hái nhất, xin xung chức tiên phong đánh phá Đông thành.

Đông thành chính là nơi tổng hành doanh của cha con Kim Đài Thạch. Lòng tưởng nhớ người đẹp năm xưa lúc này bộc phát dữ dội khiến chàng đốc thúc quân sĩ ngày đêm đánh phá, quên cả ăn, bỏ cả nghỉ. Bởi vậy Đông thành chẳng mấy chốc đã bị phá tan.

Kim Đài Thạch thấy đại sự đã hỏng, vội đem bà phúc tấn và gia quyến lên đài cao. Hoàng Thái Cực cho rằng Đại Ngọc Nhĩ cũng có trên đó, bèn hạ lệnh cho binh sĩ vây kín chân đài rồi hô lớn:

- Cửu cửu mau xuống hàng đi để tránh cho Cửu cửu mẫu và biểu tẩu khỏi kinh sợ.

Nhưng sau đó chàng nghe nói người đẹp của chàng còn ở lại trong cung. Thật may cho chàng là đại bối lặc Đại Thiện đem quân tới vừa đúng lúc. Chàng bèn giao quân mã cho anh rồi tức tốc phi ngựa vào cung chỉ mang theo có hai trăm cận vệ.

Lại nói Đại Ngọc Nhi từ khi lấy Đức Nhĩ Cách Lặc thì tình ân nghĩa ái kể thực thắm thiết nồng nàn, thường cùng cưỡi ngựa vào rừng săn bắn, hưởng mọi khoái lạc hạnh phúc.

Tuy vậy, đôi khi nàng cũng nhớ tới cái đêm cùng Hoàng Thái Cực trong căn lều săn khi chưa xuất giá, cảm thấy lòng xao xuyến bâng khuâng. Đức Nhĩ Cách Lặc đối với nàng thật muôn phần yêu quý cưng chiều cho nên lòng tưởng nhớ đó dần dần phai nhạt. Đến lúc này, lúc quốc gia đại sự, chồng thì bị quân Mãn bắt, chưa biết sống chết ra sao, nàng chỉ còn độc thân trốn núp trong thâm cung. Nàng cảm thấy lo sợ ghê gớm song cũng còn đôi chút hy vọng vì nàng nghĩ tới gia đình nhà mình còn có tình cậu cháu với họ Giác La thì nhất định tính mạng của nàng không có gì đáng ngại.

Giữa lúc Đại Ngọc Nhi suy nghĩ vẩn vơ như vậy, bỗng một đoàn cung nữ hớt hơ hót hải chạy tới la lên vội báo nàng:

- Nguy mất lồi! Nguy mất rồi Quân Mãn Châu đã phá thành ùa vào trong cung rồi.

Liền đó, Đại Ngọc Nhi nghe tiếng chân người ngựa rầm rập lao tới như thác lũ. Nàng đứng bật dậy, tỏ vẻ cương nghị đem theo đám cung nữ xông ra bên ngoài nghiêm nét mặt quát bảo tốp binh sĩ đang hùng hổ tiến vào:

- Bọn ngươi cầm gươm vác giáo xông vào nơi cung cấm thực chẳng còn đạo lý nào nữa! Hoàng đế của bọn bay với gia đình ta vốn có tình cậu cháu, chỉ vì mối bất hoà nhất thời xảy ra, ắt cũng không thể vì thế mà xúc phạm chốn cung đình. Việc bất pháp này nếu hoàng đế của bọn người mà biết được, ta e rằng cái đầu của bọn người khó lòng thoát rớt đấy.

Toán quân sĩ nhìn thấy Đại Ngọc Nhi mặt đẹp như hoa nở, tiếng nói lại sang sảng và lạnh lùng như băng giá, liền đứng khựng lại, tiến thoái lưỡng nan. Giữa lúc đó, bỗng một viên tướng trẻ ngồi trên lưng con bạch mã, phi như gió tới trước cửa cung. Toán binh sĩ vội xà thấp đầu xuống miệng hô: "Tứ bối lặc", xong đứng ra hai hàng, im phăng phắc.

Đại Ngọc Nhi nhận ngay ra Hoàng Thái Cực, người tình một đêm của nàng thuở nọ. Nàng liếc mắt nhìn trộm, mới biết hồi này người tình của mình càng tuấn tú, đáng yêu hơn. Nàng bất giác ửng hồng đôi má. Tứ bối lặc vừa thấy nàng liền tiến vội tới thỉnh an và cố chọn lấy cách xưng hô cũng như giọng nói bình thường nhất:

- Biểu tẩu lâu nay có được mạnh giỏi không? Tôi tới hơi trễ, khiến tẩu tẩu phải sợ hãi một phen, mong tẩu tẩu thứ lỗi cho. Tôi sẽ xin ở lại đây đề hầu hạ tẩu tẩu.

Rồi chàng khoát tay ra hiệu binh sĩ lui hết.

Đại Ngọc Nhi mặt càng đỏ thêm. Nàng cúi xuống, lấy vạt áo che nửa miệng hoa, mỉm cười đáp:

- Binh sĩ của quý bộ xông vào trong cung thì làm sao thiếp chẳng sợ hãi. May có bối lặc đến kịp khiến thiếp tránh được một phen nguy hiểm, đó thực là một cái ơn tái tạo. Song trong tình thế hiện nay, thiếp đã trở thành một cung tần vong quốc, thì cái chuyện hiểm nguy, sợ hãi kia cũng đành phải chịu chứ đâu dám oán giận bối lặc.

Nàng vừa nói xong bỗng mắt đỏ hoe, rồi nguýt chàng một cái dài lộ vẻ oán giận đến cùng cực. Chàng thấy vậy hiểu ý nàng, chỉ muốn đem lòng mình mà thổ lộ nhưng lại sợ con mắt tò mò của bọn cung nữ còn đứng cả đấy. Chàng bèn ghé sát tai nàng:

- Biểu đệ đứng đã quá lâu, chân đã quá mỏi. Bởi vậy biểu đệ mong biểu tẩu đưa vào trong cung ngồi nghỉ một lát cho đỡ mệt, không biết có được không? Biểu đệ còn có một việc mong được Phụng cáo.

Đại Ngọc Nhi thản nhiên nói:

- Chúng ta đều là người chí thân với nhau. Ngồi nghỉ một lát có hại gì?

Nói đoạn, nàng cùng bọn cung nữ đi trước dẫn đường. Hoàng Thái Cực theo sau, đi quanh quẩn một lúc lâu qua không biết bao nhiêu là cung điện mới tới một căn phòng trang trí rất lộng lẫy. Chàng biết đây là phòng ngủ của người đẹp Đại Ngọc Nhi, trong đầu liền nảy sinh một ý tưởng bất chính. Đại Ngọc Nhi quay đầu lại nhìn chàng nhoẻn miệng cười hỏi:

- Chỗ này có thể ngồi được chứ?

Cực tiếp lời:

- Ngồi được. Ngồi được lắm!

Nói đoạn, chàng tiến vào phòng. Đại Ngọc Nhi khoát tay ra hiệu cho các cung nữ lui ra hết. Cực thấy lúc đó chẳng còn ai, bèn đứng dậy tiến lên vài bước cầm lấy tay Ngọc Nhi nói:

- Biểu tẩu? Tẩu có nghĩ tới nỗi khổ sầu của biểu đệ không?

Ngọc Nhi khẽ giật tay ra khỏi tay chàng rồi lấy ở trên giường kỷ chiếc khăn màu hồng, vừa chùi nước mắt vừa khóc thút thít nói:

- Chàng thật là bạc.

Nàng chỉ nói được có một câu đó rồi bỗng oà lên khóc nghe bi thiết đến xé phối cào gan. Chàng đem hết mọi việc xảy ra và mối khổ tâm của mình ôn tồn thuật cho nàng nghe. Chàng còn nói những lời âu yếm rồi xin lỗi đôi ba lần. Người đẹp bỗng nhiên thôi khóc. Chàng đưa tay kéo nàng sát lại bên mình. rồi thay nàng lau nốt mấy giọt lệ còn đọng trên hàng mi. Chàng cất tiếng nói nhỏ nhẹ như chỉ muốn cho hai người nghe thôi:

- Người đẹp của anh đừng có sầu khổ làm gì. Nếu anh không thực tâm yêu em thì đời nào anh liều mạng tới đây ác chiến? Bây giờ đã gặp được em, mối tình xưa vẫn còn đó, em hà tất phải buồn tủi chuyện quốc phá gia vong nữa?

Nàng nghe lời chàng nói, ngẩng lên nhìn chàng âu yếm.

Cái cảnh gương vơ lại lành, hoa xưa ong cũ, khỏi nói ai cũng biết nó nồng thắm đến độ nào!

Hồi 35

KHI MỘT BÀ HẬU ĐA TÌNH THIẾU YÊU

Đại Ngọc Nhi vốn là một vưu vật trời sinh. Lúc lên bảy, nàng có lần theo bọn nô bộc đến mục trường du ngoạn.

Một vị Lạt ma tăng thấy nàng bèn nói:

- Vị cách cách này có cái tướng đại quý.

Bọn nô bộc đứng bên phá lên cười:

- Vị cách cách của bối lặc Khoa Nhĩ Bí bọn tôi chẳng cần phải nói cũng đã quý rồi. Hà tất phải nhắc điều đó.

Vị Lạt ma tăng lắc đầu nghiêm nghị, nói tiếp:

- Ta nói quý là cái quý của bậc đế vương kia!

Bọn nô bộc lại cười rộ:

- Ông sư này càng nói càng khùng rồi. Đất Mãn Châu này cũng như miền Nội Ngoại Mông, tìm đâu cho ra một ông vua chứ? Bộ ông muốn nói vị cách cách của bọn tôi lấy được hoàng đế của nhà Minh chắc?

Câu chuyện này được nhiều người truyền tụng sau đó. Mẹ nàng cũng thường lấy đó để đùa cợt nàng. Cho nên đối với nàng, câu chuyện đế vương coi như một hy vọng tương lai mà nàng thường ấp ủ trong tâm.

Lúc này trông thấy Hoàng Thái Cực trước mặt mình, nàng sực nhớ tới phụ thân chàng hiện đã làm hoàng đế rồi, chàng một ngày kia nhất định phải trở thành Thái tử. Ngoài cao vọng đó ra, nàng vốn có một đoạn ân tình nồng thắm với chàng. Lúc này đang gặp nạn, nàng lại càng phải sáng suốt và khôn ngoan hơn. Bởi vậy trong lòng nàng đã phát sinh ra một chủ ý.

Hai người trò chuyện với nhau trong cung cấm hồi lâu, bọn cung nữ đứng ngoài không ai dám tự tiện bước vào. Mãi sau từ phía trong mới có tiếng vọng ra bảo:

- Mau sửa soạn yên cương cho phúc tấn.

Sau đó, người ta chỉ thấy Hoàng Thái Cực và Đại Ngọc Nhi dắt tay nhau đi từ trong cung ra. Ngọc Nhi gọi bốn đứa thị nữ hầu cận cùng lên ngựa theo nàng. Chàng đem nàng về bản doanh của mình, không cho ai biết. Từ đó Đại Ngọc Nhị trở thành phi tử của Hoàng Thái Cực. Trong cung ai cũng gọi nàng là Cát Đặc phi tử. Hoàng Thái Cực nể tình nàng, cầu xin cha tha chết cho Đức Nhĩ Cách Lặc.

Trên đây đều là chuyện đã qua. Ngày nay tình thế đã đổi khác, Hoàng Thái Cực đã trở thành hoàng đế nước Kim, bèn sách phong người yêu xưa làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Trang Văn trong khi, người vợ cả chỉ được phong lam Quan Thư cung thần phi mà thôi.

Văn hoàng hậu thường ở trong cung Vĩnh Phúc. Thái Tông hoàng đế ngày ngày tới đây ngơi nghỉ. Các phi tần khác đừng hòng được một đêm ông lâm hạnh. Hoàng Thái Cực tuy làm hoàng đế nhưng vì quyến luyến cạnh Văn hậu nên việc quốc gia đại sự đều giao cho ba anh là Đại, Nhị, và Tam bối lặc chia nhau xử lý.

Hồi đó thân vương thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn tuổi mới 15, và thân vương thứ mười lăm là Đa Đạc tuổi mới 13. Văn hậu rất ưa thích hai anh em nhà này nên thường lưu lại trong cung đề bầu bạn với bà. Thái Tông hoàng đế nhớ đến cái chết thê thảm của bà Nạp Thích lúc trước thường bị lương tâm cắn rứt nên cũng biệt đãi hai anh em Đa Nhĩ Cổn.

Hơn nữa Cổn mặt mũi khôi ngô bảnh trai, tính lại khôn ngoan. Văn hậu đối đãi đặc biệt với Cổn cũng chính ở chỗ đó.

Người em gái bà tên Tiểu Ngọc Nhi cũng theo bà vào ở trong cung. Nàng cùng tuổi với Cổn. Bởi vậy hai người có dịp gần nhau, sớm cũng như chiều lúc nào cũng gặp mặt thành thử đâm thân nhau. Đã thế Tiểu Ngọc Nhi cũng có một sắc đẹp nghiêng thành chẳng thua gì chị. Cả hai chị em đều có màu da trắng đẹp như ngọc, cho nên cha mẹ nàng mới dùng chữ Ngọc để đặt tên.

Một hôm, vào buổi trưa hè nhàn nhã, Văn hậu vừa ngủ trưa dậy, không thấy Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đâu.

Bà đoán biết cả hai lúc đó hẳn tới vườn hoa du ngoạn nên đem theo vài đứa cung nữ đi vào vườn. Đến một cây hòe cao có bóng rợp che khắp cả một góc, bà nhác thất Tiểu Ngọc Nhi lúc đang ngồi dưới gốc một cây cổ thụ, trên một phiến đá vuông cạnh bờ hồ và không biết vì lý do gì đã làm nàng buồn giận mà Đa Nhĩ Cổn phải chắp tay lạy nàng, trong khi nàng quay mặt đi chỗ khác chẳng thèm để ý đến. Văn hậu thấy thế tức cười, nói một mình:

- Con nhỏ này kỳ thật! Tính khí vẫn trẻ con quá!

Bà tìm một phiến đá vuông bên cạnh hồ ngồi xuống rồi bảo cung nữ gọi hai người lại. Đa Nhĩ Cổn chạy tới trước mặt bà, được bà kéo vào lòng. Cổn vội quỳ xuống đất ngửa mặt nhìn lên. Văn hậu đặt hai bàn tay lên vai Cổn, nhìn thẳng vào mặt chàng.

Mãi lúc đó bà mới khám phá ra Cổn quả lả một trang thiếu niên xinh đẹp, mày chàng xanh, mắt chàng sáng, môi chàng đỏ, răng chàng trắng, cái gì trong con người của chàng cũng đều đẹp, đều đáng yêu đáng quý. Thế rồi bà nhịn chẳng nổi nữa, cúi đầu xuống đặt một cái hôn say sưa lên môi chàng và nói:

- Này thúc thúc! Thúc thúc yêu nó phải không? Ta gả nó cho thúc thúc nhé?

Đa Nhĩ Cổn vốn tính xảo quyệt khôn ngoan, nghe lời bà xong liền dập đầu tạ ơn. Lúc đó, Tiểu Ngọc Nhi cũng đứng bên cạnh bà. Nàng yêu Cổn nên khi thấy chị mình hôn vào miệng người yêu của mình thì lòng nàng bỗng nhiên nổi ngược máu ghen. Sau đó nàng lại thấy chị nàng hứa gả nàng cho Đa Nhĩ Cổn thì má nàng bỗng ửng đỏ, rồi vì mắc cỡ nàng quay người chạy trốn một mạch.

Buổi tối hôm đó, Văn hậu đem ý định của mình nói cho Thái Tông hoàng đế nghe. Ông xiết bao mừng rỡ lập tức truyền lệnh cho Nội vụ đại thần xây cất ngay một toà lâu đài cho Thập tứ thân vương ngay sau Diễn Khánh cung để chuẩn bị cuộc vui mừng.

Qua năm sau, Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đều mười sáu tuổi. Hai người làm đại lễ. Thật là một cuộc vui muôn phần náo nhiệt. Vợ chồng Cổn - Ngọc từ ngày cưới quả đã được hưởng hạnh phúc hơn người. Tình ân ái càng sâu như bể cả.

Cũng từ đó tình cảnh của Văn hậu càng ngày càng sa sút dần. Bà không còn có cô em gái và cậu thiếu niên Đa Nhĩ Cổn bên cạnh nữa. Thái Tông hoàng đế lúc này cũng thường tới các cung khác, hẳn ngài đã cảm thấy "ngon ăn mãi cũng chán".

Tình cảnh cô đơn khiến Văn hậu buồn bực vô cùng. Bà bèn đem bọn cung nữ cưỡi ngựa ra ngoài thành săn bắn làm vui như hồi còn con gái. Đối với người Mãn, việc săn bắn thường là một trò tiêu khiển. Bởi vậy Thái Tông hoàng đế thấy bà đi săn cũng chẳng ngăn trở gì.

Ai ngờ bà hôm nay đi săn, mai đi săn, đi riết rồi gây ra một mối kỳ duyên mà chẳng ai ngờ trước được.

Số là hôm đó, Văn hậu săn bắn trên một ngọn núi hoa cương, bỗng gặp một con heo rừng. Ngựa của bà là loại tuấn mã, nên bà bỏ xa đoàn tuỳ tùng. Tới một khu rừng con heo tinh quái chạy vòng hết gốc cây này tới mỏm đá nọ, khiến bà đã bắn cả chục mũi tên mà vẫn trật. Bà đuổi mãi tới khi người đã thấm mệt, mồ hôi nhễ nhại ướt đầm cả áo ngoài, hơi thở đã gấp gấp Giữa lúc đó, con heo rừng bỗng phát cáu, hộc lên một tiếng rồi quay lại xông thẳng vào bà; con thú hung hăng há cái mõm to tướng đỏ loét như chậu máu, để lộ những chiếc nanh to và nhọn hoắt. Văn hậu phát hoảng, tay chân run bắn lên, miệng la hét kêu cứu. Bỗng từ trong rừng sâu hai mũi tên phóng ra, trúng ngay vào hai lỗ tai con thú, không sai chệch một ly. Chỉ nghe một tiếng rú ghê rợn, con thú lăn quay ra đất, chết liền.

Bọn cung nữ cũng đã phi ngựa đuổi tới. Văn hậu lúc đó đã hoàn hồn, bèn bảo bọn chúng đi vào cánh rừng trước mặt tìm xem ai đã bắn thú cứu bà.

Không lâu la gì, hai tay đại hán từ trong rừng rậm đã chui ra, nhất tề quỳ xuống trước mặt bà. Văn hậu sai bọn cung nữ hỏi họ xem người ở địa phương nào thì hai tay đại hán vội vàng dập đầu luôn mấy cái và đáp lại:

- Bọn nô tài tên gọi là Vương Cao và Đăng Khoa Tử, đều người tỉnh Sơn Đông. Ông nội của bọn nô tài trước đây buôn bán miền quan ngoại, chẳng may thua lỗ, đành lưu lạc tha hương, kiếm ăn độ nhật tại vùng Liêu Dương, không có cách trở về quê nữa. Nhờ chút võ vẽ cung tên, bọn nô tài đi săn bắn làm kế sinh nhai, mong qua cơn túng quẫn. Mỗi khi săn được dã thú, bọn nô tài lại đem tới thành phủ Thuận bán. Mấy hôm nay thú rừng ít ỏi nên phải qua miền Thẩm Dương này săn bắn. Chẳng ngờ lạc vào vùng cấm địa, xúc phạm tới thánh giá của nương nương, kính mong nương nương tha thứ cho bọn nô tài hèn hạ!

Văn hoàng hậu thấy hai tay thợ săn người Hán ăn nói lanh lẹn, mặt mũi khôi ngô, trong lòng bỗng xúc động. Vừa rồi nếu không có hai tên này thì bà đã chết rồi còn gì. Bởi lễ đó, bà lại càng tỏ vẻ cảm kích bội phần. Bà còn nghĩ tới những lúc rỗi rảnh ở trong cung buồn như chấu cắn, cả ngày chỉ có bọn cung nữ loanh quanh bên cạnh thật là chán, chi bằng đem hai tên thợ săn hoạt bát lanh lợi này về để những lúc nhàn hạ chúng kể chuyện cho mà nghe có phải khoái không. Nghĩ tới đây bà bèn giật giật cương ngựa cho con ô truy của bà chậm rãi bước ra khỏi rừng.

Khi ra tới bên ngoài, Văn hậu gọi con cung nữ thân tín nhất của bà lại gần, ghé tai thì thầm những gì chẳng rõ, rồi bà đứng đấy chờ đợi. Một lát sau, con cung nữ đem hai tên thợ săn Vương Cao và Đăng Khoa Tử trở ra.

Văn hậu trông thấy họ cũng phải phì cười, vội lấy tay che miệng cho khỏi ngượng. Thì ra hai tên thợ săn đã cải trang thành cung nữ để theo bà lẻn vào cung. Từ đó, hai anh chàng thợ săn tha hồ phè phỡn trong cung cấm, sớm hôm thay phiên hầu hạ bà hậu, rồi những lúc rỗi rảnh, lại tỉ tê kể lể những chuyện tình tứ nơi làng xóm quê mùa cho bà nghe. Văn hoàng hậu vốn sinh trưởng nơi lầu son gác tía, nay điện này mai đài khác, thực quả chưa được nghe những chuyện này bao giờ.

Hơn nữa hai tên cung nữ đực nầy lại có tài kể chuyện, cho nên bà càng ngày càng cưng chúng. Bà từ đó yên lòng ở lỳ trong cung, chẳng thèm đi săn để mua vui bán sầu nữa.

Thái Tông hoàng đế bản tính anh hùng, vui chơi mãi với bọn phi tần cũng đâm chán. Ngài liên tục thiết triều, bàn tính việc quốc gia đại sự.

Hồi 36

KHOAN ÔN NHÂN THÁNH HOÀNG ĐẾ

Thấy Đa Nhĩ Cổn có công, Thái Tông hoàng đế tỏ ra hết sức thân thiết với em. Ngài thường truyền cho hai vợ chồng Cổn vào cung tiệc tùng. Văn hoàng hậu thấy Cổn đã trở thành một chàng trai đương sức, càng tỏ vẻ thân mật hơn. Bà thuộc nòi đa tình, thân thể ngọc ngà xinh đẹp, dù là ai khi nhìn thấy cũng khó thể không động lòng mê mẩn. Bởi vậy khi bà đưa trái cây cho Cổn, thì Cổn cũng vội đưa tay ra đón lấy và cố áp chạm vào da trắng muốt của bà. Làn da vừa trắng vừa mịn kia đã gieo một cảm giác kỳ lạ vào lòng chàng, tim chàng như ngừng đập. Cổn tự nhủ: da thịt của Tiểu Ngọc Nhi vợ chàng cũng trắng mịn và quyến rũ chẳng khác gì da thịt của chị nàng - còn gì mê ly hơn nếu ta được dịp du hành trên cả hai làn da tấm ngực ấy. Cổn chưa chịu để trí tưởng tượng chấm dứt nơi đây. Chàng còn tâm niệm một điều là quyết làm sao cho kiếp sống này phải có được những phút say sưa cuồng dại bên tấm thân ngà ngọc của bà chị vợ, thì dù có nát thịt tan xương chàng cũng cam lòng. Nghĩ tới nghĩ lui, Cổn mất cả tự chủ, đôi mắt chàng cứ chầm chập nhìn Văn hậu.

Văn hậu thấy đôi mắt Cổn nhìn bà đến ngây dại thì biết rằng lòng chàng đã có ý tưởng tội lỗi. Bà cũng nhìn thẳng vào mặt Cổn, thấy hàng mi chàng xanh, mắt chàng đẹp, môi chàng đỏ, răng chàng trắng vẫn giống in như ngày bà đã vì quá động tình đặt một cái hôn nồng cháy lên môi chàng dưới bóng cây hòe trong hoa viên. Bất giác lòng bà xao động mạnh, bứt rứt xốn xang. Bà vội quay mặt đi nhưng làm sao có thể che giấu được đôi má lúc đó đã ửng hông vì yêu đương, vì thèm muốn, vì xấu hổ! May thay, lúc đó Thái Tông hoàng đế đang mải nói chuyện với Tiểu Ngọc Nhi nên không lưu ý tới cuộc ngoại tình thầm kín đó của hai người! Tuy vậy cái tình cảm đó một khi đã gieo thì làm sao mà diệt, để rồi về sau một đoạn phong tình đã được thêu dệt tân kỳ, không ai thể ngờ trước được.

Phải chăng đó là duyên phận từ tiền kiếp của hai người, khó thể cưỡng lại định mệnh? Nhưng đó là chuyện về sau.

Qua ngày thứ hai, Thái Tông hoàng đế toạ trào, Võ Anh quận vương là A Tế Cách xuất ban tâu rằng:

- Tâu bệ hạ! Nay có Minh tướng là đê đốc binh đại nguyên soái Khổng Hữu Đức và Tổng binh quan Cảnh Trọng Minh đốc vận lương thảo, đem một vạn ba ngàn tám trăm bảy mươi tư tên quân sĩ tới hàng ta. Quân binh của hai tướng đang đồn trú tại An Đông. Hiện nay có hàng thư tại đây. Kính xin bệ hạ cho ý chỉ!

Nói đoạn, Cách hai tay dâng bức hàng thư lên ngự điện.

Thái Tông bóc thư xem. Thư đại lược nói:

"Trước đây, bản soái vâng lệnh điều quân Tây viện, nhưng tiền lương thiếu thốn, dọc đường lại bị nhân dân đóng cửa bãi chợ, cho nên ngày chẳng được ăn đêm chẳng được ngủ đành phải nhịn tức nuốt hờn. Bản soái hành quân tới Ngô kiều lại bị bọn ác quan ngăn chặn, đến nỗi quân binh nổi giận, phá tan Tân Thành, đánh chiếm Đăng Châu, sau đó thu phục thêm nhiều châu quận. Nhưng chẳng bao lâu viện quân khắp nơi kéo tới vây khốn quân của bản soái suốt nửa năm. Vì lương ít quân của bản soái đành phải bỏ Đăng Châu, vượt tới Quảng Hải đảo. Bản soái thừa cơ thu phục các đảo Quang Lộc, Trướng Sơn Thạch Thành. Từ lâu, bản soái đã có lòng ngưỡng mộ Minh Hãn coi như một tay anh hùng hảo hán trong thiên hạ, có cái chí cái tâm của Nghiêu, Thuấn, Thang, Võ. Bởi vậy bản soái nguyên đem quân đầu hàng, đặc sai phó tướng Lưu Thừa Tô, Tào Thiệu Trung làm quang dung, mong Minh Hãn thừa cơ hội tốt này để hoàn thành đại sự. Đó chính là trời ban phúc cho Mãn mà cũng là cái may lớn cho bản soái vậy!".

Thái Tông xem xong bức thư, bất giác cả mừng, lập tức truyền cho Lưu Thừa Tổ, Tào Thiệu Trung hai người vào bệ kiến. Ngài ngợi khen bọn Lưu, Tào mấy câu, rồi hạ lệnh cho Nhị bối lặc, Tam bối lặc, bối tử Bắc Lạc Nội, đại thần Đỗ Nhĩ Cách đem đại đội người ngựa tới An Đông đón tiếp nguyên soái Khổng Hữu Đức.

Minh triều cùng Triều Tiên được tin Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh đóng quân trên bờ sông An Đông bèn điều động binh mã kéo tới chặn đánh. Quân Mãn xuất lực cự địch quyết liệt. Hơn nữa quân của hai tướng Khổng, Cảnh lâm vào tuyệt địa nên liều chết kháng cự, rốt cuộc được an toàn mà qua sông.

Thái Tông liền truyền dụ cấp nhà cửa ruộng đất cho cánh quân này ở miền Liêu Dương. Khổng, Cảnh trong lòng mười phần cảm kích, có ý muốn vào Hưng Kinh triều kiến Thái Tông để bày tỏ lòng ân. Họ thảo một tờ biểu tạ ơn như sau:

"Hoàng thượng vạn phúc vạn an. Bọn Đức tới nơi thì quan binh đều đã chuẩn bị. Nhờ được cấp dưỡng, ơn lớn như trời bể. Bọn Đức có ý muốn tới đô môn để tạ ơn, nghe lời chỉ dụ của hoàng thượng, được khấu đầu ở cửa khuyết. Biệt bao nỗi run sợ lo âu".

Nghe tin Khổng, Cảnh hai tướng muốn tiến kinh. Thái Tông hoàng đế bèn đích thân đem theo các bối lặc, đại thần ra khỏi thành đón rước. Khổng Hữu Đức và Cảnh Trọng Minh khi đi tới hữu ngạn sông Hỗn Hà, đã được bệ kiến nhà vua. Ngài ngự trong một cái lều lớn toàn bằng vải đoạn vàng. Khổng và Cánh vào trướng, nằm bò xuống mặt đất, dập đầu, miệng nói:

- Đa tạ ơn trời của hoàng thượng.

Thái Tông vội bước xuống, đích thân nâng hai người dậy. Ngài còn giơ tay ra ôm choàng ngang lưng họ. Bọn đại thần đứng hai bên thấy vậy ngạc nhiên, mặt biến sắc. Cái ôm đó chính là một hình thức lễ nghi của người Mãn, tỏ lòng vô cùng kính trọng. Nay Thái Tông dùng đến lễ nghi đó khiến cho bọn đại thần ngạc nhiên vì không hiểu tại sao ngài xem trọng bọn hàng tướng này đến thế.

Cuộc kiến lễ đã xong. Thái Tông hoàng đế ban yến ngay trong trướng. Ngài hạ thánh chỉ phong Khổng Hữu Đức làm Đồ nguyên soái và Cảnh Trọng Minh làm Tổng binh quan. Hai người lãnh chỉ tạ ơn.

Ngày hôm sau, Thái Tông hoàng đế trở về kinh. Khổng, Cảnh hai người cũng được đi theo. Suốt mấy ngày, các bối lặc, đại thần luân phiên nhau thế ngài để tiếp đãi hai người. Cứ môi ngày bãi trào trở về quán khách, Khổng Hữu Đức lại cùng với Cảnh Trọng Minh đàm luận đến ơn đức của Thái Tông mà chưa có cách gì đền đáp. Ít hôm sau, Khổng nghĩ ra được một cách mà y cho là đắc sách lắm. Tức thì Khổng cho mời một số lớn bối lặc, đại thần khắp Mãn Châu, Mông Cổ lại quán khách, thương nghị về việc tôn hiệu cho hoàng đế. Thế là cả bọn nghe theo, rồi giao cho Phạm Văn Trình thảo biểu văn.

Tờ biểu còn được viết ra ba thứ chữ Mãn, Mông, Hán.

Sáng sớm tinh sương Thái Tông thiết triều. Lại bộ kiêm Thạc mặc cẩn Căn Đại Thanh, bối lặc Đa Nhĩ Cổn bưng tờ biểu viết chữ Mãn, Khoa Nhĩ Bí quốc, Thổ Thạc Đồ Tế Nông bưng tờ biểu viết chữ Mông. Còn Khổng Hữu Đức bưng tờ biểu viết chữ Hán. Cả ba vị đại thần nhất tề quỳ xuống trước điện, đợi thị vệ quan bưng biểu văn lên đặt trên long án. Thái Tông cầm tờ biểu lên đọc. Biểu rằng:

"Chư bối lặc, đại thần, văn võ các quan, cùng các bối lặc nơi phiên ngoại, cung duy Thánh thượng, nhờ trời phò trợ, ứng vận mà hưng nghiệp. Giữa lúc thiên hạ hỗn loạn, ngài hữu đức, theo trời; kẻ nào nghịch lại thì dùng binh mà ra oai, kẻ nào thuận theo thì lấy đức mà vỗ về. Lòng khoan hậu, tính ôn nhu của ngài phổ độ tới muôn phương. Ngài chinh phục Minh triều, ngài thống nhất Mông Cổ - Ngài còn thâu được ngọc tỷ, khiến Nội Ngoại (Mông) hợp một tên. Trên thì hợp ý trời, dưới thì thoả lòng dân. Bởi vậy thần dân ngưỡng vọng lòng tôn kính dâng tôn hiệu. Nghi lễ mọi thức đều đã hoàn bị. Rất mong thánh thượng doãn tứ, để thần dân khỏi thất vọng".

Thái Tông hoàng đế xem biểu bèn nói:

- Hiện nay thời cuộc chưa yên. Lúc này chinh là lúc dùng binh, làm gì rảnh rỗi mà nghĩ tới điều đó.

Các bối lặc, đại thần nhất tề khuyến giá. Mọi người đồng thanh nói:

- Xưa nay thường nói: danh có chính thì ngôn mới thuận. Hoàng thượng công trùm hoàn vũ. Nay hoàng thượng dùng binh đánh Minh quốc thì trước hết phải có tôn hiệu, rồi sau hạ chiếu thư chiến đấu với Minh triều mới phải.

Thái Tông hoàng đế nghe bọn triều thần nói có lý, bèn gật đầu ưng chịu. Thế là ngài cho chọn ngày tốt, tế cáo trời đất, vâng chịu tôn hiệu "Khoan ôn nhân thánh hoàng đế", đổi quốc hiệu ra Đại Thanh, cải nguyên Sùng Đức năm thứ nhất.

Ngày hôm sau, Thái Tông đem theo bọn bối lặc tới tế cáo nơi Thái Miếu, tôn ông Thuỷ tổ làm Trạch Vương, ông Cao tổ làm Khánh Vương, ông Tằng tổ làm Xương Vương, tôn ông nội làm Phúc Vương, tôn vua Thái tổ Nỗ Nhĩ Cáp Tề làm Võ hoàng đế. Và từ đó miếu thì gọi Thái miếu, lăng thì gọi Phúc lăng. Nhà vua lại phong Khổng Hữu Đức làm Cung Thuận Vương. Cảnh Trọng Minh làm Hoài Thuận Vương, các bối lặc, đại thần ai cũng được gia phong quan tước. Mặt khác ngài còn phong Duệ Thân Vương Đa Nhĩ Cổn làm Thống soái tiến quân tới sông Đại Lăng kịch chiến ba ngày ba đêm phá tan thành này, bắt được tướng Minh là Tổ Đại Thọ. Thọ bị bắt nhưng lại được thả ra cho trở về nước để giúp Thanh triều làm nội ứng. Cổn lại tiến quân vây chặt Cẩm Châu.

Tin thất thủ liên tiếp báo về Minh triều, Hy Tông hoàng đế bèn phong Hồng Thừa Trù làm kinh lược sứ, đem bọn Vương Phác, Tào Loan Giao, Mã Khoa, Ngô Tam Quế, Lý Phụ Minh, Đường Thông, Bạch Quảng Án, Vương Đình Thân, tám viên quan tổng binh cùng với hơn hai trăm viên tham tướng thu bị và mười ba vạn người ngựa tới Cẩm Châu. Minh quân đóng doanh tại phía bắc thành Tùng Sơn trên ngọn núi Nhú Phong. Đa Nhĩ Cổn được tin quân Minh binh thế lớn mạnh, sợ một mình địch không nổi bèn cho kỳ bài quan về Hưng Kinh cầu viện.

Thái Tông hoàng đế được tin đó lập tức điều động binh mã, thân hành chỉ huy kéo rốc tới Cẩm Châu, giao mọi việc quốc chính ở Hưng Kinh cho Trịnh Thân Vương Tế Nhĩ Cáp Lãng trông nom. Chẳng bao lâu, đại binh của Thái Tông đã kéo tới phía tây bờ sông Liêu Hà. Đa Nhĩ Cổn đi tiếp giá và thuật lại cho Thanh đế biết quân của Hồng Thừa Trù đã tấn công doanh trại của hữu dực quân do Thổ Tạ Đồ Thân Vương trấn đông nhưng đã bị đẩy lui.

Thái Tông nghe xong, im lặng chẳng đáp, cưỡi ngựa đem theo một số đông thân vương, đại thần tới chân núi Tùng Sơn để xem tình hình quân Minh. Khi về đến doanh ngài bèn hạ lệnh cho đại quân tản khai bao vây suốt một đoạn đường từ Tùng Sơn đến Hạnh Sơn, mặt khác đóng doanh trại từ Ô Cần Hà thẳng ra mai bờ bể, chặn con đường lớn.

Binh tướng Minh triều thấy bị quân Thanh bao vây kín khắp, kẻ nào kẻ ấy hoang hốt lo âu, đều có ý trốn chạy. Qua ngày thứ hai, vào giữa lúc còn mờ sương, tám viên quan Tổng binh của Minh triều đều mang quân bản hộ đánh trống thổi tù và xông thẳng xuống tấn công mặt trận do Cát Bố Thập Hiền chỉ huy.

Cát Bố Thập Hiền đã được mật kế của Thái Tông hoàng đế từ trước, chỉ im lặng đợi chờ, không trương cờ, không nổi trống. Hiền chờ quân Minh tiến sát đến cửa doanh, lúc đó mới phất ngọn cờ hồng, tức thì tứ phía trong doanh trại, vạn cây cung đều dương, vạn chiếc tên cùng bắn. Chỉ trong nháy mắt tiền đội tiên phong của Minh quân đã gục chết, ít nhất là bốn, năm trăm. Quân Minh hoảng sợ vội quay mình chạy trốn. Người ngựa phía sau không hay biết gì, vẫn tiến lên, phút chốc trở thành đại loạn. Quân Minh cứ thế tự đạp lên nhau, chết không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh thừa thế đuổi theo Võ Anh quận vương, A Tế Cách, bối tử Bác Lạc Nội, đại thần Đỗ Nhĩ Cách bốn mặt giáp công quân Minh, đuổi đánh tới mãi Tháp Sơn, mười hai kho quân lương của Minh binh cất ở núi Bút Giá đều bị quân Thanh cướp mất.

Bọn quan tướng nhà Minh bị thua một trận liểng xiểng hoảng sợ quá định chuồn về nước, vội triệt thoái bảy doanh bộ binh đóng ở Tùng Sơn. Nhượng hồng kỳ binh của quân Thanh liền bố trí chặn đường. Hôm sau, Hồng Thừa Trù truyền lệnh dốc toàn lực đánh phá đoàn quân này. Hai bên tử chiến.

Giữa lúc kịch đấu một mất một còn, Minh quân bỗng thấy một chi quân mã, dương cao chiếc tán vàng phía dưới có một người oai phong lẫm liệt, với trên một con ngựa cao lớn. Quân Minh giật mình kinh sợ, vội trốn chạy về bản doanh. Thái Tông hoàng đế truyền lệnh đánh chiêng thu quân, một mặt triệu tập chư tướng vào lều nghị sự. Nhà vua nói:

- Trẫm xét thấy quân Minh cờ quạt trong trại không được chỉnh tề. Đêm nay thế nào chúng cũng bỏ trốn!

Nói đoạn, Ngài liền truyền cho Tả dực Tứ kỳ Bãi Nha Thích hợp với quân Mông Cổ của A Lễ Cáp, quân của Bố Cát Thập Hiền, bày thành trận tràng xà, dài suốt tới bờ bể, chặn đường rút lui của quân Minh.

Hồi 37

KHI NGUỜI ĐẸP NỔI MÁU GHEN

Đêm đó, vừa qua canh một, gió bấc bỗng nổi lên đập cành lá phần phật, tiếng sóng bể xô vào những mỏm đá ỳ ầm.

Trong ngự doanh của quân Thanh, những bó đuốc chưng cao sáng rực như ban ngày. Thái Tông hoàng đế ngồi trên ghế có trải tấm da beo. Rất nhiều mãnh tướng chia hai hàng tả hữu. Ở giữa đặt một chiếc bàn lớn trải rộng lên trên là tấm bản đồ Thái Tông đang chỉ bản đồ cho chúng tướng rõ tình hình thì một viên tướng từ ngoài chạy vào cấp báo:

- Người ngựa của quân Minh đang âm thầm di động, e rằng đêm nay chúng cướp trại, xin vạn tuế bảo trọng!

Thái Tông nghe xong cười nhạt nói:

- Lũ chuột ấy thì làm gì có cái can trường đó!

Câu nói đó chưa nói xong lại đã thấy thám mã vào cấp báo:

- Quân Minh đã bỏ trốn. Tổng binh Ngô Tam Quế, Vương Pháp, Đường Thông, Ma Khoa, Bạch Quảng Án, Lý Phụ Minh đem quân mã bộ xông qua mặt trận Cát Bố Thập Hiền để chạy trốn rồi!

Thái Tông chỉ nói một tiếng: "đuổi!", tức thì bọn mãnh tướng đứng hai bên tử hữu nhất tề chạy ra khỏi lều, đem quân truy kích về ngả bờ biển, ào ào như một trận cuồng phong. Thái Tông lại sai bọn tướng Mông Cổ Cố Sơn Ngạch Chân, A Lai Khố Lỗ Khắc, Nhĩ Hán Sát Cáp Nhị đem bản bộ binh tới Hạnh Sơn mai phục, hễ thấy địch quân là đem tận lực đánh giết, không được đuổi xa, cũng không được tự ý hồi quân. Ngài còn hạ lệnh cho Duệ Quận Vương Đa Nhĩ Cổn, Bối Tử La Thác Công Chuẩn Tế đem Tư Kỳ Bài nha thích binh cùng với binh của Thồ Tạ Đồ Thân Vương tiến gấp tới Cẩm Châu, chặn ngang đường lui của địch quân ở ngoài thành, trên con đường đại lộ Tháp Sơn. Lại sai Đạt Tề Kham Tân, Đạt Lý Nạp Lâm xuất lĩnh đội pháo thủ tới Bút Giá Sơn bảo vệ lương thảo. Cũng sai Chinh hoàng kỳ A Lễ Cáp Siêu Cáp, Trấn quốc tướng quân tôn thất Ba Bố Hải Độc, Chương Kinh Đồ Lại đem quân triệt đường địch binh ở Tháp Sơn. Lại sai thêm Anh Võ quân vương A Tế Cách đi bọc hậu, nếu thấy quân địch muốn trốn qua Tháp Sơn thì đem quân Ba Bố Hải Đồ Lại theo đường Ninh Viên thẳng tới Liên Sơn mà truy kích. Lại sai Bối Tử Bác Lạc đem quân từ đồn Tang Cát Nhĩ chặn đánh địch quân. Lúc đó thám mã cũng đã cho tin Trung lang Trương Nhược Kỳ của Minh triều đã lén từ cửa sông Tiểu Lăng mà trốn đi nên nhà vua lại sai Thượng hoàng kỳ Mông Cổ Cô Sơn Mai Lặc, Chương kinh Hổ Sát Cáp Nhĩ, bộ hạ Ba Đặc Ba đem quân tiến lên trận tiền truy sát.

Các lộ binh mã được lệnh đều nhất nhất hành động. Thương thay cho quân Minh bị quân Thanh truy sát, thây nằm như rạ khắp cả đồng ruộng, máu chảy thành sông, thây chất cao như núi. Tên nào còn sống sót thì chạy đông chạy tây, tan tác như gà mất mẹ.

Thái Tông hoàng đế thấy quân mình thắng lợi, thuận thế sai Đa Nhĩ Cổn, A Tế Cách điều động chủ lực quân tiến vây Tháp Sơn, đồng thời cho mười khẩu hồng y đại bác tăng sức đánh phá. Thành Tháp Sơn bị phá. Nhiều tướng Minh bị bắt sống, như Phó tướng Vương Hy Hiền, tham tướng Thôi Định Quốc, Đô Tư Dương Trọng Trấn. Tổng binh Ngô Tam Quế và vương phác vội chạy trốn qua ngã thành Hạnh Sơn như hai con chuột mất hang.

Thái Tông hoàng đế ngầm sai quân binh đào hào bốn mặt, rồi vây kín. Đêm đó, Minh tổng binh Tào Loan Giao cho lệnh triệt thoái cánh quân ở Nhũ Phong Sơn Quân của Giao kéo lại xông lầm vào doanh trại của Thái Tông. Nhà vua cưỡi ngựa, cầm đao, thân tự đốc chiến. Giao bị thương bỏ trốn về thành Tùng Sơn.

Lại nói Cát Bố Thập Hiền đem quân mai phục ở Hạnh Sơn qua ngày thứ ba, quả thấy bụi bốc tung trời ở trước mặt rồi một đội Minh binh chạy tới. Hiền cho thám sát thì biết đó là quân bản bộ của tống binh Ngô Tam Quế và Vương Phác định trốn chạy qua Ninh Viễn. Hiền án binh bất động, đợi cho một nửa số quân Minh qua khỏi, tức thì phát khởi hiệu pháo phục binh nhất tề đứng dậy xông tới, như một đàn sói nhảy vào đàn dê. Quân Minh chết mất đến ba bốn ngàn, những kẻ sống sót chạy tan mát hết. Ngô Tam Quế đem một số tàn binh trốn về địa phận Cao Kiều. Bỗng có tiếng còi nổi lên inh ỏi, quân Thanh mai phục trỗi dậy, đi đầu là một viên đại tướng cầm ngang ngọn giáo chặn đường. Viên tướng đó chính là Đa Đạc Đạc hú lên một tràng lớn vang động ca sơn cốc, khiến quân Minh giật mình hoảng sợ, chạy bừa vào cả doanh trại quân Thanh. Ngô Tam Quế cùng Vương Phác đơn thân độc mã, nhờ ngựa tốt mà trốn mất dạng.

Thật là một cuộc tàn sát khủng khiếp. Quân Thanh từ đầu tới cuối đã giết quân Minh đến năm vạn ba ngàn bảy trăm tám chục người, bắt được đến bảy ngàn bốn trăm bốn chục con ngựa sáu mươi sáu con lừa còn khôi giáp thì cũng đến chín ngàn ba trăm bốn mươi sáu bộ.

Đêm hôm đó, Thái Tông hoàng đế hạ lệnh mở tiệc khao quân. Giữa lúc đang nói cười ầm ĩ, bối lạc Nhạc Thác đứng dậy nói:

- Tâu hoàng thượng, xin cho phép thần đêm nay đem một cánh quân đánh lấy thành Tùng Sơn.

Thái Tông lắc đầu:

- Không được! Tướng sĩ của ta liên tiếp chiến đấu bao ngày đã mệt. Đêm nay, hãy ngơi nghỉ cho lại sức. Hơn nữa, người cũng chớ nên coi thường thành Tùng Sơn. Trẫm được biết trong thánh, tướng sĩ Minh triều rất nhiều: nào là Hồng Thừa Trừ. Khâu Dân Ngưỡng, Trương Đẩu, Diêu Cung. Vương Sĩ Trinh, nào là Tổng binh Vương Đình Thần, Tào Loan Giao, Tổ Đại Lạc. Bọn đại tướng tên tuổi ấy còn điều động dưới trướng đến ba vạn người ngựa để kiên thủ thành trì. Trong số này, đặc biệt có vị Hồng kinh lược là người mà trẫm quý nhất. Trẫm nghe nói y vốn là tay tài tử của Trung nguyên, lại am tường mọi việc, từ phong tục đến triều chính của Trung Quốc. Trẫm muốn thôn tính Trung nguyên, trước hết phải thuyết hàng vị kinh lược đại thần này mới có thể thành công được.

Thái tông nói vừa xong, từ dưới trướng một vị đại thần bước lên nói:

- Việc đó dễ lắm! Thần vốn có đôi phần giao tình với phó tướng Hạ Thừa Đức ở Tùng Sơn. Thần xin thân đi vào thành thuyết hàng họ Hạ trước, sau đó nhờ y giúp thần thuyết hàng Hồng kinh lược, há chẳng hay sao?

Thái Tông quay mặt trông ra, thì đó là bối lặc Đa Đạc.

Nhà vua bất giác cả mừng, liền nói:

- Ngự đệ chịu thân hành đi thuyết hàng, đó thực là cái may lớn cho nhà Đại Thanh ta.

Sau đó khuyến hàng thư được thảo lẹ. Đạc cầm thư đem theo năm trăm danh sĩ tiến vào thành Tùng Sơn. Hà Thừa Đức được thư có ý đầu hàng, nhưng Hồng kinh lược thì nhất định không, dù chết không chịu. Họ Hồng nói:

- Thành có thể phá, đầu có thể rơi nhưng kinh lược nhà Đại Minh Không thể hàng Thái Tông được tin hồi báo, nhăn trán suy nghĩ. Ngài sai quân sư Phạm Văn Trình lại viết một phong thư khuyên hàng, rồi sai họ Phạm đích thân cầm đi. Cứ như thế, liên tiếp gởi đi đến sáu bức mà vẫn không lay chuyển được lòng họ Hồng. Ông hạ lệnh đóng cửa thành, cự tuyệt cả sứ...

Thái Tông vô kế khả thi, chỉ còn cách buộc cáo thị khuyên hàng vào mũi tên bắn vào trong thành. Tờ cáo thị đại lược nói:

"Ta đem quân tới, biết viện quân của ngươi sắp sửa kéo ra. Nhưng ta đã vây khôn Tùng Sơn, từ nam cho đến bể, từ bắc cho đến núi, mọi đường đi đều bị cắt đứt. Ta lại còn chia quân đóng chặn các bộ. Quân của người, kẻ bị chết thì xác nằm khắp đồng, kẻ bị hất xuống bể thì máu đỏ mặt nước. Nay viện binh của ngươi đã tuyệt, đó là ý trời muốn giúp ta. Bọn ngươi sớm hàng, ta không sát hại. Hơn thế nữa, ta quyết sẽ bảo toàn lộc vị cho bọn ngươi. Bọn ngươi nên suy nghĩ kỹ!".

Vây hãm mãi tới ngày mồng một tháng chín, Thái Tông thấy Hồng Thừa Trừ không có ý hàng bèn đem theo tất cả nội ngoại chư vương, bối lặc, bối tử đài thần đốt nhang vái trời rồi sai Duệ Quận Vương Đa Nhĩ Cổn, Túc Quận Vương Hào Cách quay về giữ Thịnh Kinh, đồng thời hạ lệnh nhổ trại hướng phía Tùng Sơn tiến phát. Khi lâm hành, nhà vua còn truyền lệnh hễ ai gặp Hồng kinh lược thì phải bắt sống chứ không được giết. Ngài lại đích thân dẫn pháo đội Hồng y đại bác tới bắn phá Tùng Sơn. Hồng Thừa Trừ chỉ huy quân sĩ trung thành liều chết chống cự. Hai quân tương trì mãnh liệt không phân cao thấp. Bỗng có một phi kỵ chạy như gió cuốn vào ngự doanh, quân canh giữ cửa liền giữ lại.

Viên tướng nhảy xuống ngựa, bước vội vào trướng đặt bức văn thư lên mặt ngự án.

Thái Tông xem xong, bất giác giật nẩy mình. Thì ra đó là bức văn thư báo tang. Bà nguyên phối Quan Thư cung thần phi vừa mới mất. Tuy Thái Tông chỉ sủng ái có Văn hậu nhưng thần phi với ngài từ khi kết tóc xe tơ đã có một phen ân ái cũng không kém phần tha thiết say sưa. Tình thương cảm trỗi dậy, ngài oà lên khóc. Tức khắc, ngài giao phó binh sư lại cho các vị bối lặc, đêm ngày chạy vội về Thịnh Kinh.

Bà thần phi lúc trẻ cũng mười phần xinh đẹp, nếu có thua là chỉ thua cái phong lưu thế thái của Văn hậu mà thôi. Bởi vậy Thái Tông cũng thường lâm hạnh nhất là khi nghĩ tới cái ân nghĩa vợ chồng buổi ban đầu. Những lúc đó, Văn hậu nhìn thấy không khỏi ấm ức, nổi máu ghen.

Thái Tông xuất quân lần này, lúc lâm biệt, bà Thái phi vẫn còn khỏe mạnh như thường, chẳng có chút gì gọi là bệnh hoạn đáng lo ngại. Nào ngờ, nhà vua mới đi có mấy hôm mà bà đã mất. Đại học sĩ Hy Phúc Cương Lâm, Mai Lặc Chương Kinh Lãng Tăng Cơ, được tin bà Thần phi chết, vội chạy vào cung xem xét, thì thấy mặt bà vẫn tươi đẹp, thân thể vẫn mập mạp bình thường, không có gì tỏ ra bạo bệnh đến nỗi phải chết cả. Lâm xem rồi, tỏ vẻ lo âu, bèn nói:

- Hoàng thượng viễn chinh. Trong cung có đại biến. Nay mai trở về, Hoàng thượng hỏi ta, ta biết trả lời cách nào?

Lãnh Tăng Cơ đứng cạnh bèn nói:

- Việc đó quá dễ mà! Ta hãy gọi bọn cung nữ ở Quan thư cung tới, thẩm vấn chúng xem Thần phi chết lúc nào, và có ai ở cạnh đó. Ta sẽ bắt kẻ đó điều tra thì tất nhiên rõ chuyện.

Mấy lời nói đó truyền lẹ tới tai Văn hậu ở Vĩnh Phúc cung.

Bà giật mình hoảng sợ chân tay luống cuống cả lên. Bà vội sai một tên tiểu cung nữ đi mời vị Đại học sĩ vào cung, mặt khác cũng truyền lệnh cho Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn vào cung gấp. Thế rồi mấy câu nói thì thầm bên tai đã khiến vụ án tày trời kia chỉ như đống tro tàn trước gió.

Hồi 38

QUAN KINH LUỢC CHỈ KHOÁI GÁI

Qua ngày thứ hai, Đa Nhĩ Cổn sai Lãnh Tăng Cơ rời thành đi đón rước Thái Tông hoàng đế. Cơ vốn là tay tâm phúc của Cổn, y gặp Thái Tông tự nhiên có nhưng lời che đậy khôn khéo... Mặt khác Hy Phúc Cương Lâm đà được Văn hậu dặn trước nên chỉ xem xét qua loa thi hài Thần phi rồi cho khâm liệm và nhập quan ngay.

Về tới nhà, Thái Tông chỉ còn thấy một cỗ quan tài nằm đó. Ngài không muốn hỏi gì thêm mà chỉ cốt lo tang sự cho xong. Văn hậu còn quỉ quyệt hơn nửa bằng cách làm cho nhà vua vui thích mà quên đi nỗi bi thương đó. Bà đem đủ các thứ nghệ thuật quyến rũ mê ly để cung phụng nhà vua. Bên cạnh người đẹp như tiên nga giáng thế lại được thoả mãn đủ thanh sắc, Thái Tông hoàng đế quả quên đi lúc nào không biết mọi nỗi bi thương. Ngài cùng Văn hậu cười nói, như không có việc gì buồn bã vừa xảy ra. Văn hậu biết Thái Tông tính thích săn bắn chim muông, lại một dịp để hai người ôn lại mảnh tình xua, khiến Đế và hậu bỗng có lại những phút ân ái của buổi ban đầu. Đêm đó, hai người nằm ngủ ngay tại trong lều săn, tận hưởng những khoái lạc trời ban. Rồi từ đó, không còn ai có thể làm cho Đế và Hậu rời xa nhau được nữa.

Thái Tông hoàng đế đi săn đã qua ngày thứ tư, bỗng thấy người con trai cả Túc Quận Vương Hào Cách mặt hớn hở chạy vào trướng, thỉnh an rồi bẩm báo:

- Phụ hoàng, có chuyện mừng lớn! Số là thành Tùng Sơn đã bị con đánh phá tan hoang.

Nhà vua nghe xong, mặt tươi như hoa nở, kéo vội tay cạu con trai ngồi xuống hỏi han mọi việc. Hào Cách nói:

- Số là phó tướng Hạ Thừa Đức giữ thành Tùng Sơn cho người qua báo: y giữ mặt Nam thành ước hẹn đêm đó bắc thang lên bờ thành mà bò vào, y sẽ từ bên trong tiếp sức. Bởi vậy đêm khuya, con đem đại đội nhân mã tới mặt Nam, quả nhiên lọt được vào thành và đã bắt được Kinh lược Hồng Thừa Trù, Tuần phủ Khâu Dân Ngưỡng, Tổng binh Vương Đình Ngưỡng -Tào Loan Giao, Tổ Đại Lạc, Du Kích Tổ Đại Danh, Tổ Đại Thành, cả một bọn quan chức của Minh triều đồng thời còn giết chết Minh binh đến ba ngàn sáu mươi ba tên, bắt sống đàn bà trẻ con đến một ngàn hai trăm bốn mươi chín người, thu được khôi giáp cung tên đến hơn một vạn năm ngàn bộ, hồng y pháo điểu thương đủ cỡ lớn nhỏ đến ba ngàn hai trăm bảy mươi ba khẩu. Xin phụ hoàng mau về kinh định đoạt.

Thái Tông hoàng đế nghe xong mừng quá, phá lên cười ha hả, rồi hạ lệnh trở về Thịnh Kinh. Khi ngài về tới cung, các đại thần lân lượt xin vào khai báo quán tình. Ngài đều lấy lời hay ý đẹp an ủi khen lao. Ngài lại dặn dò không được ngược đãi người Hán, chuẩn y tấu chương của bối lặc Nhạc Thốt. Tấu chương xin rằng: "Hán quan hàng nhất phẩm, thì đem các nàng cách cách con các bối lặc mà thưởng cho làm vợ. Hán quan hàng nhị phẩm thì đem các tiểu thư con các đại thần mà gả cho làm vợ".

Thái Tông hoàng đế lại hạ đạc dụ: đưa Hồng Thừa Trù đến khách quán, đối xử một cách đặt biệt, hằng ngày phải đem bày yến tiệc để khoản đãi, lại chọn bốn cung nữ tuyệt đẹp tới hầu hạ đê tuỳ nghi sai khiến.

Lại nói Hồng Thừa Trù vốn là một vị trung thần của Minh Triều. Ông còn là một danh tướng. Nay bị quan Thanh bắt, ông liều một thác. Không ngờ khi đưa tới Thịnh Kinh, ông chẳng thấy Thái Tông truyền cho bệ kiến mà cũng chẳng thấy đem giết. Những viên quan tổng binh tay chân của ông kẻ thì bị giết, kẻ thì hàng, mấy hôm thôi đã không thấy một ai bên cạnh.

Ngẫm tới bản thân, ông thấy mình ở khách quán, hàng ngày ăn thì sơn hào hải vị, nằm thì nệm gấm gối hoa. Ông cho rằng Thanh triều đối với mình vẫn còn có ý dụ hàng. Ông quyết tuyệt thực để tìm cái chết, nhất định không ăn lấy một hột cơm, suốt ngày chỉ quay mặt về phía tây ngồi như tượng gỗ.

Thái Tông hoàng đế sai người tới khuyên ăn, ông cự tuyệt. Khuyên hàng, ông cũng chẳng nghe. Thái Tông nhịn đã quá mức, phát cáu. Ngài bèn truyền lệnh khoá trái cửa phòng, đuổi hết cung nữ ra ngoài. Hồng Thừa Trù không ăn uống đã mấy bôm. Tin này truyền tới tai Thái Tông ngài rất lấy làm lo rầu nói với bọn đại thần:

- Hồng kinh lược chẳng chịu đầu hàng, thế là cái mộng đánh chiếm Trung nguyên của trẫm không thể thành được nữa.

Ngài bèn hạ thánh chỉ:

- Hễ có ai kỳ mưu xảo kế thuyết được Hồng kính lược đầu hàng, sẽ được thưởng vàng vạn lạng.

Thánh chỉ vừa mới hạ, kẻ nào cũng ngốt của, xun xoe lập mưu định kế. Trong số đại thần, nhiều ông định đến thăm Hồng để chực khuyết thuyết, nhưng Hồng kinh lược chẳng thèm tiếp.

Đã bốn ngày không ăn uống, Hồng kinh lược đói đến cái độ ốm o, trông không còn ra người nữa. Đa Đạc mới nghĩ ra một kế. Đạc cho gọi thư đồng của Hồng, tên gọi Kim Thăng, vừa dỗ vừa doạ để hắn nói cho biết lúc binh sinh Hồng kinh lược thường ưa thích cái gì nhất. Thăng lúc đầu không chịu nói. Về sau, Đạc dặn bọn thị nữ trong phủ cho hắn ăn uống no say rồi đùa giỡn khiêu khích hắn. Trong đám thị nữ có một đứa khá sạch mắt, nước da trắng, mặt xinh, miệng tươi. Thăng xem chừng khoái lắm. Thế là con thị nữ khôn ngoan này liền lấy sắc để nhử hắn. Đêm rồi, trong chiếc chăn êm ấm, mùi mẫn đó, Thăng nói toẹt tính tình của chủ. Thì ra Hồng kinh lược nhà ta tính chỉ có thích gái mà thôi.

Tin đó truyền ra. Đạc vội chạy tới tâu với Thái Tông hoàng đế. Nhà vua tức khắc ra lệnh chọn luôn một lúc năm cung nữ tuyệt đẹp, thêm bốn cô gái Hán cũng tuyệt đẹp mới bắt được ở Tùng Sơn đưa vào quán khách. Không ngờ, Hồng kinh lược vẫn ngồi lý như tượng gỗ, chẳng thèm để mắt tới một cô nao.

Thái Tông hoàng đế nóng lòng sốt ruột, cả ngày chỉ ra thở vào than, rờ tay bút tóc, vô kế khả thi. Văn hoàng hậu ở bên cạnh thấy thái độ kỳ quặc của nhà vua chẳng hiểu tại sao, bèn hỏi. Lúc đó, Thái Tông mới đem chuyện Hồng Thừa Trù không chịu hàng ra nói với bà. Văn hậu nghe xong mỉm cười nói:

- Thần thiếp nghĩ rằng họ Hồng tuy thích gái nhưng những loại gái tầm thường y chẳng ham đâu. Về việc này xin bệ hạ khỏi lo. Hãy phó thác cho thần thiếp. Thần thiếp xin trong ba ngày thế nào cũng làm y qui hàng cho bệ hạ coi Thái Tông nói:

- Đâu có được! Khanh là người mà trẫrn sủng ái nhất. Khanh còn là một vị quốc mẫu. Nếu làm vậy điêu tiếng bay ra ngoài, thử hỏi trẫm còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa.

Văn hậu nghe xong lại nói:

- Bệ hạ mưu việc lớn cho quốc gia mà còn tiếc một người đàn bà ư? Hon nữa tiện thiếp đi phen này là để biện sự cho bệ hạ, tình nghĩa vợ chồng của chúng ta vẫn còn đó chứ có mết đi đâu mà ngại. Nếu bệ hạ sợ câu chuyện lộ ra ngoài có hại cho thể diện của bệ hạ thì ta nên làm một cách bí mật.

Văn hậu nói tới đây thì Thái Tông hoàng đế nhìn thẳng vào mặt bà. Ngài nghĩ rằng với gương mặt này, kẻ có tim sắt gan đá cũng phải động lòng. Ngài thở dài nói:

- Thôi được, Hậu cố làm sao cho kín đáo, chớ để thiên hạ chê cười trẫm.

Văn hậu được thánh chỉ bèn trở về cung, trang điểm lộng lẫy. Bà búi tóc cao lên, thoa loại phấn hồng thanh cao, tô loại son tươi quý giá, cài những cành trâm toàn giác ngọc lưu ly óng ánh muôn màu. Thật là một trang giai nhân chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành, có một không hai trên nhân thế. Trang điểm xong xuôi, Văn hậu lấy một cỗ xe, đem theo một cung nữ thân tín, lặng lẽ qua cửa ngách sau cung mà ra đi.

Bà tới quán khách, cho đánh xe lọt hẳn vào bên trong khu vườn. Rồi bỗng người ta thấy phủ dụ của hoàng đế niệm yết tại cổng quán, trên viết rõ rằng: "Bất luận quan hay dân, cấm không được bén mảng tới quán khách!".

Văn hậu bước vào quán, thấy Hồng Thừa Trù quả thật khôi ngô tuấn tú. Hồng đang ngồi xếp bằng trên ghế. Tính đến hôm đó, Hồng đã không ăn đến bốn ngày. Bởi vậy cơn đói hành hạ làm cho Hồng mắt hoa đầu nặng, thần trí hôn trầm.

Văn hậu bảo cung nữ đỡ Hồng từ ghế xuống giường rồi đi ra ngoài. Tứ bề im lặng, không còn một bóng người lảng vảng.

Văn hậu lúc đó mỏi bước lên giường co chân ngồi xuống. Bà đưa hai tay ra nâng người Hồng kinh lược lên rồi đặt ngồi vào lòng mình. Hồng Thừa Trù nhắm nghiền hai mắt, hôn hôn mê mê, lúc đầu mặc kệ cho ai muốn làm gì thì làm nhưng tới lúc này ông bỗng có cảm giác mình đang ngồi ở một chỗ vừa ấm lại vừa êm, có gì đó khác lạ. Rồi mùi hương phấn thơm tho ngào ngạt đập vào mũi ông khiến ngũ quan bị kích thích quá mạnh. Ông vốn thuộc loại đa tình trời sinh. Không gì có thể làm ông xúc động duy chỉ có nữ sắc là có thể buộc chân và xâu mũi ông mà thôi. Bởi vậy dù đến lúc sắp chết, cái thói đa tình vẫn ám ảnh ông như ma men. Huống hồ cái hương vị tiết ra từ làn da thớ thịt của Văn hậu lại là thứ hương vị đặc biệt chỉ mình bà có, thành ra Hồng kinh lược thấy trống ngực nổi lên thình lình, máu nóng chay ngược lên đầu ào ạt.

Ông mở choàng mắt giật mình bàng hoàng; một trang giai nhân tuyệt thế, tình tứ muôn phần, đang nhìn ông mà chúm chím cười. Thật là cái cười giá đáng ngàn vàng, cái cười của Dương Quý Phi, Bao Tự, của Tây Thi, mà trong đời ông mãi đến nay mới được thấy. Hồn phách Hồng kinh lược lúc này đã nhu bị thần tình câu trói. Ông không chịu nổi nữa đành thốt hỏi:

- Nàng là ai vậy?

Hồng kinh lược chỉ thấy cặp môi thắm của người đẹp rung động rồi bật lên tiếng cười ròn rã nhưng thật êm tai quyến rũ. Dứt tiếng cười người đẹp õng ẹo đáp:

- Kinh lược thật là một vị trung thân tuẫn quốc! Kinh lược muốn chết thì cứ chết đi, hỏi thiếp là ai để làm gì?

Hồng kinh lược nghe giọng nói của người đẹp thỏ thẻ chẳng khác gì tiếng oanh hót đầu xuân, bất giác tâm thần mê mẩn.

Tự nhiên, ông ngồi ngay người lại, hỏi tiếp:

- Ta tuẫn quốc là tuẫn với nước ta, có liên quan gì tới nàng?

Văn hậu hói:

- Thiếp lòng vốn từ bi, thấy kinh lược chịu khổ nơi đây, thiếp bèn xin tới đây cứu kinh lược sống thoát bể khổ đó thôi!

Hồng kinh lược nghe đến đây, cười nhạt nói:

- Nàng cũng dám tới đây để khuyên ta hàng nữa sao? Ta đã quyết. Chỉ vài ngày nữa là ta có thề mãn nguyện rồi. Nàng tuy đẹp thật nhưng ta chỉ nghe nàng khi nàng nói tới chuyện khác. Còn việc khuyên hàng thì ta chẳng bao giờ muốn nghe đâu! Thôi nàng đi đi!

Văn hậu nghe nói lại mỉm cười xích người sát lại bên Hồng kinh lược rồi lên tiếng thì thầm dịu dàng:

- Thiếp tuy chỉ là một đứa con gái, một mụ đàn bà nhưng cũng biết kính trọng cái khí tiết của kinh lược. Ý của kinh lược đã quyết, đâu có dám tới để phá hoại cái chí khí của kinh lược. Chỉ tại thiếp thấy tình cảnh của kinh lược thật đáng thương mà...

Văn hậu nói mới tới chữ "mà" thì Hồng Thừa Trù ngạc nhiên ngắt lời:

- Nàng thương ta cái gì?

Văn hậu nói tiếp:

- Thiếp xét thấy kinh lược quả xứng đáng một trang nam nhi. Khi còn ở nhà thì năm thê bảy thiếp, kêu tớ gọi hầu, nệm êm chăn ấm, áo gấm mũ cao, rượu nồng dê béo, thử hỏi còn ai tôn quý hơn kinh lược nữa? Thế mà nay, kinh lược vò võ, tứ cố vô thân, muốn chết mà chẳng chết được! Trong vài ngày nữa kinh lược tin chắc có thể chết được cho xong một kiếp người, nhưng đối với thiếp thiết tưởng vài giây đó dài lắm mà khổ lắm, làm sao chịu nổi! Đem so với năm ngày đã qua, hai ngày sắp tới có lẽ còn bi đát khủng khiếp hơn nhiều. Trời ơi! Một người tài hoa đáng yêu như kinh lược mà bị cái cảnh đó, há chẳng đáng thương sao?

Trong khi Văn hậu nói, hơi thớ và mùi hương phấn xông vào mũi Hồng kinh lược, tự nhiên ông cảm thấy thư thái trong lòng, tim ông lại một phen hồi hộp ước mong. Nhưng vụt nhớ tới bổn phận tới danh dự không những của riêng mình mà của cả một dân tộc, ông vội nhắm mắt lại, cố xua đuổi những ý tưởng nguy hại. Ông định lấy tay đấy người đẹp ra xa nhưng tiếc thay tay ông mềm như bún, không còn chút khí lực nào.

Mắt nhắm nghiền nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, Hồng kinh lược lại nghe thấy tiếng oanh thỏ thẻ, lần này còn pha lẫn những tiếng nấc, tiếng khóc da diết thiết tha, chứng tỏ một tấm lòng quý yêu ông vô cùng tận:

- Hàng thì kinh lược chẳng chịu hàng, chết thì kinh lược chẳng chết lẹ được, biết làm sao bây giờ? Thiếp có một chén thuốc độc nơi đây, kinh lược hãy uống đi, có thể chết ngay được để khỏi phải chịu khổ. Thiếp vì thương kinh lược nên mới tới đây cứu kinh lược thoát khỏi bể khổ đó thôi.

Hồng Thừa Trù lúc đó đã đói lả, xót xa khố sở đến cùng độ, nghe nói có rượu độc, mừng quá, vội mở mắt nhìn thấy người đẹp tay đang býng một cái chén, bên trong dựng một thứ rượu màu vàng nhạt. Ông vội đưa tay ra giật lấy chén rượu độc đưa lên miệng uống ừng ực một hơi cạn chén, không còn sót lại một giọt. Văn hậu thu lại chiếc chén, để lên bàn, quay mình lại, đặt ông nằm xuống ngay ngắn cho ông đợi chết.

Sau đó, Văn hậu cũng nằm xuống cạnh Hồng kinh lược, không khác gì đôi vợ chồng mới cưới. Hổng kinh lược cố nhắm mắt để ngủ mà chẳng ngủ được, muốn chết ngay đi mà chẳng chết được. Mùi hương ngào ngạt mỗi lúc một nhiều xông vào mũi khiến Hồng kinh lược càng xao xuyến bâng khuâng. Rồi cứ mỗi lúc con lợn lòng của ông trỗi dậy thì ông lại cố đè xuống.

Không biết đã bao lần như vậy, ông cố sức thoát ra cái lưới tình đang vây quanh ông. Dần dần, ông thấy mình tỉnh táo hơn và có vẻ khỏe lên. Ông trằn trọc mãi mà chẳng ngủ được.

Văn hậu thấy tình cảnh khó khăn của Hồng kinh lược, bèn gợi chuyện. Lúc đầu Hồng kinh lược lờ đi, chẳng thèm để ý tới bà. Sau, Văn hậu lại lên tiếng hỏi ông:

- Quan kinh lược ơi! Trong phủ ngài có đến mấy dì mấy mợ? Dì nào, mợ nào trẻ nhất, thưa ngài?

Hồng kinh lược nghe mấy câu hỏi đó bỗng ông bồi hồi, tưởng nhớ tới cả một bầu tâm sự xa xôi. Lòng ông càng xao xuyến, càng sôi động, chẳng khác gì một nồi nước sôi không bớt lửa. Ông cảm thấy khó chịu quá. Người đẹp bên cạnh ông lại hỏi tiếp:

- Phen này kinh lược lìa nhà muôn dặm tìm chữ trung nơi quán khách, thôi cũng đành đi! Nhưng kinh lược có nghĩ tới người đẹp của kinh lược từ đây chỉ còn biết tìm kinh lược trong cơn mộng điệp nơi thâm khuê, dưới ánh trăng thu hay bên khóm hoa xuân mà thôi không?

Hồng kinh lược nghe tới đây không còn cầm lòng đặng, oà lên khóc, hai tay vươn ra ôm người đẹp vào lòng.

Hồi 39

HỒNG KINH LUỢC MÊ GÁI XIN HÀNG

Người đẹp khuyên can an ủi mãi Hồng kinh lược mới thôi khóc. Ông thở dài nói:

- Việc đã đến nước này thực chẳng còn mong gì nhiều! Có điều lạ là thuốc độc uống vào mà sao không chết chớ?

Lời nói này khiến cho người đẹp lúc đó đang rúc đầu vào lòng ông, cất tiếng cười khanh khách. Hồng kinh lược ngạc nhiên hỏi tại sao thì nàng vội lấy tấm khăn hồng che miệng, vừa cười vừa nói:

- Thuốc độc đâu mà thuốc độc? Sâm đó, ông ơi! Thiếp thấy kinh lược đã đói quá đến không chịu nổi, cầu sống chẳng được mà cầu chết cũng không xong nên mới cho kinh lược uống sâm thang để tiếp sức cho đó! Sâm này vốn là loại sâm tốt do bộ lạc Cát Lâm tiến cống. Sâm thang này uống vào, dù có nhịn ăn đến sáu, bảy ngày trời cũng vẫn sống. Thế là từ nay kinh lược không chết được nữa đâu nhé.

Nói xong, nàng lại cười lên khanh khách, tiếng cười giòn tan mà êm tai lạ thường, khiến bất cứ ai khó tính đến đâu cũng không thể giận nàng được. Hồng kinh lược nghe nàng nói một hồi, mặt lúc thì hồng lên, lúc lại trắng bệch ra. Quả nhiên, ông thấy tinh thần càng ngày càng khoái sảng hơn, trong lúc đó người con gái lại ghé miệng sát tai ông thì thầm thiết tha:

- Kinh lược đại nhân ơi! Thiếp vẫn thấy kinh lược nên đầu hàng là phải! Vừa là để bảo toàn tính mệnh, vừa chẳng mất địa vị phong hầu, các bà, các dì ở nhà khỏi cảnh lạnh lùng cô độc mà lại không phụ tấm lòng thiếp đã hết mình khuyên giải và an ủi kinh lược...

Nói tới đây, người đẹp bỗng ngồi phắt dậy, một tay nâng cao mớ tóc mai cho cặp mắt xinh đẹp tình tứ đủ chỗ liếc sang Hồng kinh lược như để dò xét, cặp má đã hổng lại càng hồng thêm. Nàng cúi thấp dần xuống, đưa hẳn đôi má sát vào má ngài. Hồng kinh lược đến lúc này mắt đã đỏ ngầu, chứng tỏ sự rối loạn cùng cực trong lòng ông. Ông vội thu góp tinh thần và ý chí còn lại, nhẩy vọt xuống đất, quát một tiếng lớn rồi bảo:

- Ngươi là con dâm phụ nơi đâu dám tới đây để dụ hoặc lão phu?

Người đẹp nghe đoạn chẳng luống cuống chút nào, ngồi xếp bằng cạnh giường, đưa tay vào bọc lấy ra một chiếc ấn vuông bằng vàng, ném vào lòng viên kinh lược họ Hồng. Hồng kinh lược lượm lên xem, bỗng thần sắc biến cải,đôi chân ông mềm đi như bún. Ông vội, quỳ xuống đất, trước mặt người đẹp, dập đầu liên hồi mà nói:

- Ngoại thần tội đáng chết. Mong ơn cao này của nương nương, ngoại thần tình nguyện đầu hàng, xin được làm kẻ hầu hạ nương nương trước phượng giá thì may lắm?

Nguyên lại trên chiếc kim ấn có khắc hai hàng chữ, một hàng chữ Mãn và một hàng chữ Hán. Hàng chữ Hán có sáu chữ "Tỷ báu của cung Vĩnh Phúc". Hồng kinh lược đến lúc đó mới biết người con gái ngồi trên giường mình chính là người đẹp số một miền quan ngoại và cũng là đệ nhất quý phụ đất Mãn Châu: Hiến Trang Văn hoàng hậu. Hồng kinh lược vẫn không thôi dập đầu lia lịa, miệng cầu mong tha tội. Văn hậu thò cánh tay trắng như ngọc ra, kéo Hồng kinh lược từ dưới đất lên giường cùng ngồi. Lúc đó, kinh lược họ Hồng mới chú ý tới y phục của bà thì thấy bà vận một bộ áo váy kỳ bào màu hồng thắm, có giải vàng óng ánh. Chính bộ áo vừa đẹp vừa quý phái này đã bị nước mắt nước mũi ông làm hoen ố một mảng lớn. Ông càng cảm thấy xấu hổ khó coi. Ông lại bò rạp xuống giường, dập đầu mãi. Nhưng rồi từ đó kẻ tò mò không còn nghe được hai người nhỏ to trò chuyện gì nữa...

Chẳng mấy chốc trời sáng, Hồng kinh lược đang mơ màng bỗng giật mình tỉnh dậy. Ông nhìn quanh thì không thấy người con gái đẹp tối qua nữa. Ông bàng hoàng, bâng khuâng như người đang trong giấc mộng. Quả thật việc này khó hiểu vô cùng đối với ông. Bỗng bốn đứa cung nữ từ ngoài vào đem nước rửa mặt cho ông, rồi dâng lên một nồi cháo yến. Bên ngoài đưa vào một số danh thiếp. Rồi Duệ Quận Vương, Đa Nhĩ Cổn, Trịnh Thân Vương Tế Cáp Lãng, Túc Quân Vương Hào Cách, Bối lặc Nhạc Thác, Bối Tử La Thác, Đại học sĩ Hy Phúc, Cương Lâm, Mai Lặc Chương Kinh, Lãng Tăng Cơ, tất cả đều đích thân lại bái vọng. Đa Nhĩ Cổn nói:

- Hoàng thượng mười phần mong nhớ kinh lược. Thế nào cũng xin mời kinh lược vào cung bệ kiến.

Một lát sau, trong cung có lệnh truyền ra. Tuyên chiếu đưa vào quán. Hồng kinh lược bốn bên đầu được hót tóc cẩn thận, chỉ để lại một lọn tóc trên đỉnh, tết thành bím nho nhỏ, dài dài. Ông mặc bộ áo hồng đính hoa của hoàng đế ân thưởng, đường bệ bước ra khỏi quán, trèo lên ngựa. Phía sau có một bọn bối lặc, đại thần tháp tùng, rầm rầm rồ rộ kéo vào Đại Thanh môn.

Ngoài cửa lúc đó đã có bọn hàng tướng nhà Minh như Tổ Đại Thọ, Đổng Hiệp, Tổ Đại Lạc, Tổ Đại Bật, Hạ Thừa Đức, Cao Huân, Tổ Trạch Viễn, đứng chờ từ trước. Khi thấy Hồng kinh lược tới, cả bọn đều tiến lên đón, sau đó cùng theo gót họ Hồng qua cửa Đại Thanh, vào điện Đốc Cung, rồi điện Cần Chánh. Hai bên điện, ngự quân đứng thành hàng, uy nghiêm. dũng mãnh. Hồng kinh lược quỳ xuống trước điện, làm lễ "Tam quy cửu khấu", miệng tung hô: Hoàng đế vạn tuế!

Hành lễ xong, Thái Tông hoàng đế tuyên triệu Hồng Thừa Trù lên điện. Phía trái ngai vàng, có đặt một chiếc bàn sơn son thiếp vàng, trên bày một hồ lô vàng, một chén vàng, bình vàng đựng nước, một lư hương, hai thẻ nhang thơm. Đằng sau, có bốn tên thị vệ đứng hầu, mình mặc bộ áo màu xanh lục, thắt đai vàng, đầu đội lương mão.

Thái Tông hoàng đế đưa tay cho họ Hồng ngồi xuống. Ngài hỏi về chính giáo, lễ chế, về phong tục quần chế, rất tỉ mỉ, cẩn thận. Hồng Thừa Trù trả lời từng điểm rành mạch, lưu loát. Hai người trò chuyện bàn bạc đến mấy tiếng đồng hồ, lúc đó hoàng đế mới hồi cung.

Một đạo thánh chỉ truyền xuống, phong Hồng kinh lược là Nội viện Đại học sĩ, được ban yến ngay tại Sùng Chính điện.

Từ đó về sau, Thái Tông hoàng đế thường vì quốc gia đại sự, truyền triệu Hồng kinh lược học sĩ tiến cung. Văn hậu cũng ngồi một bên. Khi thấy Văn hậu, Hồng học sĩ bò rạp mình xuống đất, miệng xưng tội thần, và dập đầu đôi ba lần tỏ vẻ cung kính đến cùng độ. Văn hậu thấy vậy, chỉ mỉm cười, không nói câu gì.

Bởi vì hậu có công khuyên Trù đầu hàng, nên Thái Tông hoàng đế cũng biệt đãi bà. Nhiều lúc chính ngài chỉ Hồng học sĩ mà bảo là:

- Hồng học sĩ hàng hậu chứ thực chẳng phải hàng trẫm.

Thế là mọi người đều phá lên cười. Tuy nói vậy chứ thực ra người ta đã thấy có điểu khác lạ trong tâm hồn của nhà vua. Nghĩa là sau khi họ Hồng đầu hàng thì Thái Tông hoàng đế cũng nhạt tình với Văn hậu. Văn hậu cũng đoán biết rõ tâm ý nhà vua cho nên trong lòng bà, nỗi oán hận càng ngày càng tăng mà không biết thổ lộ cùng ai. Bà chỉ còn biết đem Vương Cao, Đặng Khoá Tử, hai người bầu bạn với bà, vào rừng săn bắn giải khuây.

Có một hôm, giữa lúc đi săn về, Văn hậu gặp Duệ vương Đa Nhĩ Cổn. Hậu cho gọi Cổn tới trừng mắt nhìn Vương nói:

- Lão Cửu! Mạnh giỏi chứ? Tại sao mấy hôm nay không vào cung?

Đa Nhĩ Cổn làm bộ ngạc nhiên nói:

- Trời! Cung cấm là nơi nào mà thần dám tự tiện? Không có lệnh truyền triệu đâu dám vào?

Văn hậu nghe Cổn nói chẩu mỏ xì một tiếng, vừa cười vừa mắng yêu Cổn:

- Rõ nỡm chưa! Lại còn làm bộ ngớ ngẩn với bà! Người đã là em rể ta, lại còn là em chồng ta thì còn gì mà phải giữ lễ với tiếng!

Nói xong, Văn hậu lấy roi ngựa khẽ đập một cái vào đầu Duệ vương, nói tiếp:

- Thằng khùng kia, cút đi cho rảnh mắt bà!

Duệ vương cúi đầu xá, rồi dắt ngựa quay đi, tai còn nghe Văn hậu dặn thêm ở phía sau:

- Ngày mai không vào cung, coi chừng đôi giò của ngươi nghe không?

Đa Nhĩ Cổn lúc đó đã nhảy lên lưng ngựa, nghe hậu nói vậy định quay ngựa lại. Cũng lúc đó, Cổn bỗng thấy hai đầu ngựa đã tiến lên, đi song hàng với con ngựa của hậu, bên trái là ngựa của Vương Cao, bên phải là ngựa của Đặng Khoá Tử.

Ba người vừa đi vừa tỏ vẻ thân mật, có những cử chỉ khiến Cổn đâm nghi. Bất giác một nỗi hờn ghen xông lên tận đỉnh, Cổn tự nhủ:

- Hai con rận lạc! Vô phúc cho tụi mày rồi! Đợi sáng mai, ta sẽ lượm hết tụi mày đi!

Ngày hôm sau, Đa Nhĩ Cổn quả nhiên vào cung tìm gặp ông anh thì thầm cho biết câu chuyện bọn Vương Cao hôm qua. Thì ra Thái Tông hoàng đế đã lâu cũng có lòng nghi bọn Cao rồi. Trước đó mấy hôm, khi vào cung Vĩnh Phúc ngài thấy ở một nơi xa, hoàng hậu đang cùng Đặng Khoá Tử ôm nhau. Nhưng ngài cho rằng mình mắt hoa trông nhầm, nên cũng bỏ đi không nói tới. Nào ngờ hôm nay nghe Cổn mách, ngài nhớ lại chuyện hôm trước mà lòng càng nghi già, và cuối cùng thì tin là thật. Ngài đột nhiên cả giận, tự nhủ: hai thằng lưu manh nếu để ở trong cung thì còn ra thể thống gì nữa, nhân dịp này nên lượm chúng đi cho xong.

Ngài tức tốc hạ lệnh thị vệ vào cung truyền gọi Vương Cao và Đặng Khoá Tử. Văn hậu giữa lúc đang cùng Cao, Tử đùa giỡn, thấy lệnh gọi, vội hỏi sự thể nhưng bọn cung nữ đều không ai rõ chuyện. Cao và Tử đành theo thị vệ ra bệ kiến Thái Tông, quỳ xuống dập đầu lạy. Thái Tông không nói chẳng rằng, chỉ đưa một lệnh tiễn cho Đa Nhĩ Cổn lôi bọn Cao ra ngoài thành chém đầu tức khắc. Đến khi Văn hậu được tin thì đã trễ, không có cách gì cứu nổi. Nhưng sau đó bà đã rõ rằng Cổn vì yêu mình nên đã giết bọn Cao. Từ đó Văn hậu không còn có bầu bạn, lòng những âu sầu.

Thái Tông hoàng đế hồi đó, có chuyện lôi thôi với Triều Tiên, thành thử ngài bận bíu suốt ngày, lúc nào cũng cùng với bọn bối lặc, đại thần bàn tính việc chinh phạt. Hoàng hậu vì thế càng cảm thấy lạnh lẽo đơn chiếc.

Tại sao Thái Tông hoàng đế phải xuất binh chinh phạt Triều Tiên? Câu chuyện xảy ra như sau: Vua Triều Tiên là Nhân Tổ, phản đối việc tôn hiệu Thái Tông. Đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ nhì là chuyện khuyên Triều Tiên nên đầu hàng. Khi Hàn thị, phi tử của Nhân tổ chết, Thái Tông hoàng đế sai Anh Nga Nhĩ Đại, Mã Phúc Thái đi điếu rồi nhân dịp khuyên Nhân Tổ đầu hàng xưng thần. Tổ không những đã không chịu hàng, lại còn mai phục quân sĩ ở khách quán định ám sát sứ thần của Đại Thanh. Đại và Thái may thoát chết chạy về, kể hết mọi nội cho Thái Tông nghe. Nhà vua cả giận, lập tức điểm đủ mười vạn người ngựa, cùng bọn bối lặc, đại thần ngự giá thân chinh đi đánh Triều Tiên.

Văn hoàng hậu được tin hoàng đế đích thân xuất sư, bèn nghĩ ra một chuyện. Bà chờ khi hoàng đế bãi chầu về cung, liền tự mình tới gặp. Văn hậu bèn hỏi:

- Bệ hạ xuất chinh phen này giao cho ai làm giám quốc?

Thái Tông nói:

- Trẫm đã đem mọi việc triều chính giao cho Hồng học sĩ. Y tuy mới về hàng nhưng thực có thể ỷ cậy được. Còn mọi việc trong cung cấm thì đã có hậu chủ trương. Hậu hãy chiếu theo cung cách biện lý như lần trước, khi trẫm xuất quân đánh Phủ Thuận.

Văn hậu nghe xong, liền tâu:

- Lần này không thể chiếu theo cách biện lý của lần trước được! Bởi vì thần thiếp gần đây bệnh liên miên, không thể chịu đựng được tân khổ. Xin bệ hạ cử một người thân tín giám quốc thì hơn.

Thái Tông hoàng đế tỏ vẻ do dự, lát sau mới nói:

- Tìm ai làm được giám quốc bây giờ? A Mẫn, Mảng Cổ Nhĩ Thái cũng đều bệnh cả rồi!

Văn hậu nghe xong cười nhạt nói:

- Bệ hạ cho hai người đó là những người đáng trông cậy ư? Riêng thần thiếp thì thì lại rất sợ họ đó!

Thái Tông hoàng đế ngạc nhiên hỏi:

- Hai người đó thế nào?

Văn hậu đáp:

- Bệ hạ sắp xuất quân. Hai người đó ra thế nào cứ xin bệ hạ tới hỏi xem. Tóm lại thiếp vẫn phải xin bệ hạ cử người giám quốc thì lúc đó thiếp mới chắc được hoàn toàn vô sự.

Thái Tông hoàng đế vì trong lòng còn bận nhiều việc nên cũng chẳng muốn hỏi cho ra lẽ, ngài chỉ nói:

- Nhưng cử ai được bây giờ?

Bỗng Văn hậu bật người lên như, cái lò xo, vội nói:

- Có rồi! Có rồi! Đa Nhĩ Cổn! Bệ hạ đã chẳng thường ca tụng hắn có lòng trung nghĩa là gì? Hơn nữa, hắn lại là em rể của thần thiếp. Nếu để hắn giám quốc, nhất định chẳng có chuyện gì xảy ra. Hắn cũng có thể trông coi cả mọi việc trong cung cấm, khiến thẩn thiếp khỏi nghi kỵ lo âu.

Thái Tông hoàng đế nghe xong, vỗ tay nói:

- Ừ phải! Trẫm quên khuấy mất tên Lão cửu đó nhỉ! Cho gọi hắn vào ngay.

Bọn cung nữ được lệnh, ba chân bốn căng chạy đi. Chẳng mấy chốc Đa Nhĩ Cổn đã vào cung. Thái Tông hoàng đế giao cho Cổn làm giám quốc tại kinh đô, đồng thời đề phòng A Mẫn, Mãng Cổ Nhĩ Thái. Ngài còn dặn dò mọi việc đến năm, ba lần rồi mới ra khỏi cung, nhẩy lên ngựa, hối thúc quân mã lên đường thẳng tới địa giới Triều Tiên...

Hồi 40

GIẾT CỌP ĐUỢC VỢ

Đa Nhĩ Cổn thấy Thái Tông hoàng đế ra đi, ý cũng muốn tiễn chân, nhưng chẳng ngờ khi chạy qua dưới rèm bỗng nghe tiếng Văn hậu gọi giật lại:

- Lão cửu về đây mau! Ta có chuyện muốn nói.

Cổn nghe đoạn, vội quay lại, đứng sững trước mặt Văn hậu đợi lênh. Một lúc lâu mà Văn hậu cũng chẳng hạ lệnh, chẳng bảo đi. Cổn vội vàng thỉnh an, miệng nói:

- Đa Nhĩ Cổn đợi lệnh hoàng hậu!

Văn hậu mỉm cười khả ái nói:

- Ta có chuyện quan trọng bàn tính. Đây không phải nơi bàn bạc. Hãy theo ta vào cung mau!

Nói đoạn bà đứng dậy quay mình đi vào. Cổn theo sau, khi gần tới tam cung, Cổn thấy bên trong trang hoàng hết sức rực rỡ. Văn hậu trèo lên ngồi trên giao ỷ cẩn xà cừ và giát ngọc, đưa mắt liếc nhìn bọn cung nữ một lượt. Bọn này hiểu ý của hậu bèn từ từ rút lui, để mặc hai người, một bà chị dâu với một cậu em chồng, tha hồ mà nhỏ to tâm sự.

Chẳng biết họ đã bàn tính những chuyện gì mà mãi tới tối, đèn đã lên, vẫn chưa thấy họ đi ra. Cuối cùng, Đa Nhĩ Cổn từ giã ra về, Văn hậu nguýt một cái dài, nhí nhảnh cười bảo:

- Ăn cơm tối rồi hãy về.

Nói đoạn, bà đứng dậy vào phòng trang điểm, thoa lại chút phấn, đánh thêm tí son, thay bộ đồ ngủ. Cung nhân bày biện cơm tối. Hậu ngồi giữa, Cổn ngồi cạnh hầu bàn. Cung nữ chuốc rượu.

Hai người cất chén. Vừa uống vừa trò chuyện tỏ vẻ hết sức thân mật, bọn cung nữ hầu hạ phía ngoài cùng, chỉ thỉnh thoảng nghe những tiếng cười giòn tan của Văn hậu. Vài con thị nữ phục thị cũng dần dần lảng ra, thế là cả bọn quây quần đùa giỡn với nhau ở bên ngoài chẳng còn bận tâm gì tới tiệc rượu nữa.

Trong tẩm cung lúc đó ánh đèn đã mờ, những tiếng nói tiếng cười dần dần nhỏ đi. Mãi tới nửa đêm Đa Nhĩ Cổn mới chịu cáo từ. Bọn cung nữ cầm đèn lồng tiễn Cổn ra khỏi cung.

Khi từ biệt, Cổn vẫn còn muốn nán lại, để nói cho hết những điều tình tứ. Nhưng Văn hậu đã lấy tay vỗ vai Cổn, miệng vừa cười, vừa nói:

- Đã quá khuya rồi, về đi thôi! Ngươi thật nhẫn tâm bỏ mặc Tiểu Ngọc Nhi ở nhà một mình. Ngươi có biết lúc này nàng đang mong chờ ngươi không?

Đa Nhĩ Cổn cũng cười vang lên, rồi mới cất bước ra đi.

Lại nói A Mẫn và Cổ Nhĩ Thái. Hai người này quả có tâm phản đã lâu, đúng như lời Văn hậu nói. Mẫn và Thái đều là anh em với Thái Tông hoàng đế, nhưng là anh em cùng cha khác mẹ. Thái cậy mình là con cả của bà phi Phú sát, Chữ Anh, Đại Thiện đều đã chết cả, vậy thì cái ngôi báu kia phải là chỗ của Thái mới phải. Không ngờ, lúc Anh Minh hoàng đế băng hà, Thái Tông đã dùng uy lực cướp mất. Từ khi Thái Tông lên ngôi, Thái phải thay nhà vua, nam chinh bắc phạt, đông tiễu tây bình, chẳng được lúc nào nhàn rảnh nghỉ ngơi.

Do đó, Thái hết sức oán giận.Còn A Mẫn, y cũng cậy mình là con trưởng bà Thư Nhĩ Cáp Tề. Một khi con trưởng của phụ hoàng mất, tất nhiên ngôi báu phải về tay y, thế mà lại bị Thái Tông cướp đoạt, cho nên Mẫn sinh lòng oán hận. Tâm sự của hai người thường được bộc lộ vào những lúc vắng vẻ. Hai anh em bèn liên kết nhau, ngấm ngầm kết giao vây cánh đặt tâm phúc khắp mọi nơi. Lần trước, khi Thái Tông đi đánh Phủ Thuận, Mẫn và Thái đã dự tính việc cướp ngôi, nhưng Thái Tông về quá lẹ, thành thử trở tay không kịp, đành phải án binh bất động.

Lần này, Thái Tông ngự giá thân chinh thật là một cơ hội ngàn vàng cho họ. Không ngờ đại sự hỏng hết chỉ vì một đứa con gái! Đứa con gái đó là ai vậy? Xin thưa: cách cách Mãng Cổ Tế. Cô nàng Cổ Tế bình nhật thường cậy mình có nhan sắc, nên làm đỏm, làm dáng quá sá để câu bọn công tử. Người được nàng ta khoái nhất chính là cậu trai cả Hào Cách của vua Thái Tông. Nàng nghĩ thầm rằng, nếu nắm được đuôi anh chàng Hào Cách thì cái ghế hoàng hậu trong tương lai phải vào tay nàng chứ chẳng còn ai đoạt được. Không ngờ trời chẳng chiều người, chàng Hào Cách về sau lại lấy nàng Bắc Nhĩ Tế Cẩm làm phi tử mất, khiến Mãng Cổ Tế cách tức uất tràn hông. Từ đó, nàng giận Hào Cách đến xương tuỷ. Nàng nhập đảng của Mãng Cổ Nhĩ Thái, thường cùng hắn và Đức Cách Loại Toả, Nặc Mộc Đô Lăng với nhiều kẻ khác bí mật chuẩn bị khởi sự. Nhưng trong số họ chẳng kẻ nào đáng để nàng lọt mắt xanh. Rồi lẹo tẹo thế nào không rõ, nàng lại ngoắc vào anh chàng Lãnh Tăng Cơ. Hai người đi lại mật thiết. Nàng tưởng Cơ là tâm phúc, bèn kể ra hết âm mưu. Đâu ngờ Cơ là tay chân tin cẩn của Duệ vương. Thế là Cơ ngầm báo cho chủ hay mọi việc. Vương lại cho vợ là Tiểu Ngọc Nhi vào cung nói cho chị nàng là Văn hậu nghe. Đó chính là khi Thái Tông đem binh đi đánh Phủ Thuận. Khi Thái Tông về, Hậu không có bằng cớ xác thực nên chẳng dám tố cáo. Lần này Văn hậu mới xin cho một người giám quốc là vì thế. Có điều người giám quốc đó lại là Đa Nhĩ Cổn, thành thử công tư coi như vẹn cả đôi đường.

Từ đó Cổn lấy danh nghĩa giám quốc, ngày ngày vào cung với văn hậu. Bà vốn từ lâu thắc thỏm về âm mưu của Mảng Cỗ Nhĩ Thái, nên giục Cổn hạ thủ sớm chừng nào hay chừng ấy Hậu có ngờ đâu chính Cổn lúc đó cũng đã gia nhập đảng nhóm đó. Cổn lại còn khéo léo thỉnh thoảng thả những lời oán hận đối với hoàng đế ngay trong những cuộc hội mật. Rồi đến hôm tất cả toan tính khởi sự, Cổn nhận làm nội ứng trong cung. Cổn đưa kế hoạch, nào là điều động binh mã, nào là chặn đường về của Thái Tông, tất cả mọi việc đều được Cổn thuyết giảng minh bạch cặn kẽ, khiến Mãng Cổ Nhĩ Thái tin là thật, lại càng tin và khâm phục Cổn bội phần.

Qua ngày hôm sau, Cổn bèn mời cả bọn phản loạn tới phủ riêng đánh chén. Lúc đã quá say, cả bọn bị Cổn quăng một mẻ lưới, chẳng sót tên nào. Rồi Cổn cho đi lùng khắp các phủ đệ của nhiều bối lặc lục soát các đơn, thư của chúng.

Cổn hạ lệnh giam cả bọn vào ngục rồi báo cáo cho Văn hậu hay mọi việc.

Văn hậu nghe nói cả mừng, đưa bàn tay trắng như ngọc vỗ vào vai Cổn, mà vừa cười vừa nói:

- Cậu em rể khá lắm! Mắt ta nhìn chẳng nhầm người, tiến cử ngươi quả thực đích đáng lắm!

Nói đoạn, bà truyền lệnh triệu Hồng học sĩ và Lãnh Tăng Cơ vào cung để dặn dò việc giam giữ bọn phản loạn sao cho kỹ lưỡng, đợi Thái Tông về định đoạt. Rồi bà giữ Cổn ở luôn trong cung để đêm ngày ân ái.

Giữa lúc hai người đang triền miên trong cuộc hoan lạc, bỗng nghe tin hoàng đế hồi loan. Cổn đành phải rời khỏi nội cung, buồn bã ra ngoài, đem theo bọn văn võ đại thần đi tiếp giá.

Thái Tông hoàng đến phen này đại thắng, ưng chịu sự đầu hàng của vua Triều Tiên là Lý Tôn, cho nên mở tiệc khao quân rầm rập suốt ngày. Đa Nhĩ Cổn thấy vậy nên chưa vội nói chuyện mưu phản của bọn A Mẫn. Đến mấy hôm sau, Cổn mới tâu trình mọi việc rõ ràng. Thái Tông hoàng đế giận lắm, lập tức muốn lên điện thẩm vấn can nhân. Nhưng Hồng học sĩ tâu trình xin giao lại việc đó cho Cửu Thân vương ngài mới thôi.

Mãng Cổ Nhĩ Thái ở trong lao, được tin Thái Tông đắc thắng trở về, sợ quá chết luôn. Đa Nhĩ Cổn vâng ý chỉ của Thái Tông đem A Mẫn Đức Cảnh Loại Toả, Nặc Mộc Đỗ Lăng và Măng Cổ Tế cách cách, cả bọn ra thẩm vấn. Cổn vốn đã giả vờ nhập đảng với bọn này, nên có gì mà Cổn chẳng biết. Cho nên cả bọn không chối cãi được gì, đành phải cung khai đầy đủ. Cổn lấy xong cung, bèn tâu lên hoàng đế nghị án tử tội, rồi giao cho Hình bộ đại thần thi hành bản án.

Thái Tông hoàng đế nghĩ tới công lớn của Văn hậu, bèn vào cung Vĩnh Phúc. Vừa vào tới cửa cung ngài thấy hoàng hậu đang đãi rượu một chàng thiếu niên. Chàng ta thấy ngài vào liền đứng dậy thỉnh an. Ngài nhìn qua khuôn mặt chàng thì thấy hiền lành, hỏi ra mới biết là cháu gọi bằng cô của Văn hậu, tên gọi Bật Nhĩ Tháp Cát Nhĩ, con trai của Khoa Nhĩ Bí Trác Lễ Khắc Đồ thân vương Ngô Khắc Thiện. Từ khi Thái Tông hoàng đế thượng tôn hiệu, chàng theo cha vào kinh để chúc mừng. Bởi vậy Văn hậu mới lưu chàng ở lại. Chỉ vì nhà vua xuất chinh; quanh năm tại ngoại nên chưa có dịp bệ kiến mà thôi.

Sau khi hoàng hậu kể lể gốc tích, hoàng đế bèn kéo Cát Nhĩ lại gần mình, quả nhiên thấy Cát Nhĩ khôi ngô tuấn tú ít kẻ sánh kịp. Khi được hỏi bao tuổi, Cát Nhĩ hồi đáp: mười tám. Khi được hỏi có biết cưỡi ngựa bắn cung không, Cát Nhĩ trả lời biết chút ít. Văn hậu tiếp lời xin được cho ngựa và cung. Bà còn cho hoàng đế biết thêm là nhờ y mà công chúa mới thoát hiểm. Thái Tông lấy làm lạ bèn hỏi thì hoàng hậu kể lại:

- A Đốn vốn thích săn bắn, cho nên ba ngày sau khi ngài xuất chinh, bèn đem theo một bọn cung nữ đi săn ở Đông Sơn. Bỗng một con thỏ chạy ngang qua. Công chúa phóng ngựa đuổi theo tuốt vào rừng sâu. Không ngờ một con cọp vằn xông tới đầu ngựa của công chúa. Bọn cung nữ đứng tận ven rừng thì vừa xa vừa sợ, chỉ đành kêu cứu chứ chẳng có đứa nào dám xông vào. Con cọp văng tới, đã cắn được móng ngựa. Ngựa hí vang một tiếng, dựng đứng lên, khiến công chúa té xuống đất. Chính giữa lúc mười phần khốn nguy đó, bỗng một chàng niên thiếu từ trong bóng cây chui ra, nhảy phóc lên lưng cọp tay cầm dao ngắn nhằm mắt cọp mà đâm tới. Con cọp gầm lên một tiếng lớn rồi quật đuôi, hất lưng khiến chàng thiếu niên bật ra khỏi, bị cọp ép nằm dưới bụng. Công chúa lúc đó rảnh tay, thấy vậy vội giương cung tính bắn cọp nhưng lại sợ trúng chàng thiếu niên. Không ngờ chàng thiểu niên không chút sợ hãi, giơ cây đoản đao, đâm mạnh vào bụng cọp. Cọp chỉ kịp rống lên một tiếng thảm thiết rồi ngã vật ra đất. Chàng thiếu niên giết cọp xong bèn đứng phắt dậy. Lúc đó công chúa mới biết chàng nào phải ai xa lạ, chính là Cát Nhĩ.

Bà còn nói thêm:

- Con cọp đó chính do Cát Nhĩ cũng đi săn ở Đông Sơn từ hôm trước giết hụt.

Hoàng đế nghe xong, hỏi đầy ẩn ý:

- Con cọp này chắc cũng chỉ như con hươu hồi bọn mình đi săn chứ gì?

Nói đoạn Thái Tông cười lên ha hả. Câu nói này đã gợi trong lòng hậu những kỷ niệm xa xăm, bất giác má bà đỏ lên, chẳng biết vì xấu hổ hay vì sung sướng. Bà mỉm cười, đôi mắt mơ màng như đang tìm trong dĩ vãng những phút ái án cuồng nhiệt mà nay không còn có nữa.

Giữa lúc đó, bọn cung nữ tâu có công chúa xin vào. Văn hậu lên tiếng gọi:

- A Đốn! Mau tới bệ kiến phụ hoàng đi con!

Cố Luân công chúa vâng lời, tiến tới hành lễ, rồi quay đầu lại chợt thấy Cát Nhĩ, bất giác mỉm cười tươi tắn. Nàng thỏ thẻ gọi hai tiếng:

- Đại ca!

Thái Tông hoàng đế thấy vậy rất vui, cười nói:

- Xứng đôi quá.

Nói đoạn ngài quay đầu lại hỏi Văn hậu:

- A Đốn năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Văn hậu cười đáp:

- Đến cả tuổi con mà bệ hạ cũng quên rồi ư? Nó sanh năm bệ hạ diệt Khoa Nhĩ Bí đó.

Thái Tông hoàng đế vỗ tay nói:

- Ư! Nhớ, nhớ rồi! A Đốn năm nay 17 tuổi rồi!

Văn hậu nói câu đó vốn có dụng ý. Bởi vì Cố Luân công chúa không phải con gái của Thái Tông mà là con của Đức Nhĩ Cách Lặc. Văn hậu lấy Thái Tông vào tháng tám năm thứ tư niên hiệu Thiên Mệnh, thế mà qua tháng Giêng năm sau đã sanh ra nàng thì chẳng cần nói ai cũng có thể biết.

Thái Tông hoàng đế thấy Bật Nhĩ Tháp Cát Nhi quả là trang thiếu niên anh tuấn, có ý muốn gả Cố Luân công chúa cho. Ngài nói rõ ý mình cho Văn hậu nghe, bà lấy làm mừng lắm. Bà liền cho gọi người anh là Ngô Khắc Thiện tới để lo chuyện cưới gả, mặt khác sai Hào Cách xây cất một phủ phò mã rất lớn ở ngay trong kinh thành. Bà còn cho người đi lùng những vật trang sức quý báu cho công chúa hôm thành hôn. Mọi việc lo liệu tốn mất cả năm trời chưa xong.

Hoàng hậu năm đó lại cũng sinh một thái tử. Chú bé nom thật kháu khỉnh, tiếng la rõ lớn, ai thấy cũng tấm tắc khen ngợi. Thái Tông vào thăm, tươi cười nói:

- Có mẹ đẹp như thế kia tất phải có con bảnh như thế này chứ!

Văn hậu mỉm cười nói:

- Xin bệ hạ thưởng cho một cái tên.

Thái Tông suy nghĩ một hồi rồi đáp:

- Lấy tên Phúc Lâm vậy.

Thế rồi thái tử đầy tháng. Trong cung tưng bừng náo nhiệt một phen. Ngày ăn đầy tháng thật là trọng thể. Nào lễ nghi nào yến tiệc, tất cả đều được lo toan chu đáo, đến nỗi người ta phải gác lại chuyện gả chồng cho công chúa Cố Luân.

Nhưng Văn hậu thì vẫn nhớ. Bà giục nhà vua cho người tìm Tát Mãn (một loại thầy pháp ở Mãn Châu), để chọn ngày. Theo lời Tát Mãn thì phải đợi tới mồng một tháng sáu năm sau mới có ngày tốt được.

Văn hậu nghe xong chả còn cách gì khác, đành phải nhẫn nại đợi chờ. Trong cung Văn hậu thì thế, bên ngoài Đa Nhĩ Cổn từ lúc Thái Tông trở về, không còn có cơ hội tốt để vào cung nên suốt ngày ở nhà gây sự với vợ. Đã nhiều lần hai vợ chồng xỉ vả nhau um sùm. Tiểu Ngọc Nhi đã rõ chuyện tư tình của chồng với chị ruột mình, bởi vậy, nàng nhiều lúc nổi cơn ghen đến không chịu nổi. Nhưng vì tình chị em ruột thịt không tiện nói ra, thành thử nàng thường mượn chuyện gây gổ với chồng để xả bớt cơn ghen.

Văn hậu một mình trong cung cấm cũng nhớ chú em chổng ghê gớm, nên khi được tin nhà vua sang tháng giêng năm sau lại xuất chinh thì mừng rỡ như bắt được của báu.

Nguyên do cuộc chiến xảy ra như sau: từ khi thất thủ Tùng Sơn, bọn Hồng Thừa Trù đầu hàng, vua Minh sai binh bộ thượng thư là Lăng Tân Giáp qua Thịnh Kinh nghị hoà với Thái Tông. Thái Tông đưa ra hoà ước sáu điều. Nhưng vì những điều khoản này quá khắt khe nên Minh triều lờ đi, chẳng nhắc tới nữa. Mãi cho tới nay đã bảy tám năm, Thái Tông nhẫn nại không được nữa, nên ngài hưng binh, sai A Ba Thái làm tiên phong, đánh thốc vào quan nội, còn mình thì thống lĩnh đại quân theo sau tiếp ứng.

Hồi 41

HẬU MÊ TRAI GIẾT VUA

Thái Tông hoàng đế giận nhà Minh không thuận những điều kiện hoà ước, bèn ngự giá thân chinh đánh vào quan nội.

Lúc xuất hành, ngài giao phó triều chính cho Duệ Thân vương rồi đích thân chỉ huy tả, hữu dực tám vạn người ngựa ra đi.

Quân tả dực theo đường Giới Sơn đánh tới. Còn quân hữu dực theo lối Nhạn Môn quan và Hoàng Nhai khẩu đánh sang. Hai lộ quân sẽ họp làm một ở Kế Châu rồi tiến thẳng vào địa phận Sung Châu.

Dọc đường, quân Mãn đánh tan ba toà phủ thành, mười tám toà châu thành, sáu mươi bảy toà huyện thành, bắt được Lỗ Vương của Minh triều đem chém đầu trước hàng quân, cướp được bách tính nam nữ của Minh triều tới ba mươi sáu vạn người cùng trâu bò dê lợn tới năm mươi lăm vạn con. Tiên phong A Ba Thái theo Nam lộ tiến đánh, đại binh đồn trú tại Sơn Đông, Lữ Châu. Ròng rã hơn một tháng mà chẳng thấy một tên quân của nhà Minh, Thái bèn cho cột chiến lợi phẩm như vải vóc tơ lụa, vàng bạc ngọc ngà lên xe lừa, xe lạc đà rồi kéo vào Thiên Tân, Đồn Lộc. Quân đi dài tới hơn ba chục dặm đường, tiếng xe lăn rầm rầm rộ rộ không lúc nào dứt, vượt Lư Câu Kiều đến hơn mười ngày mà vẫn chưa qua hết...

Vua Minh là Sùng Trinh hoàng đế hạ chiếu mộ quân ở các tỉnh. Quân mộ được vừa tới địa phận Thông Châu, được tin quân Thanh vô cùng kiêu dũng, kẻ nào cũng kinh hồn bạt vía, chẳng dám chặn đánh, chỉ lo trốn tránh.

Thái Tông hoàng đế thấy chẳng tốn một tên quân nào mà thu được không biết bao nhiêu vàng bạc châu ngọc, lấy làm sung sướng vô cùng, bèn hạ lệnh lui binh, bày tiệc khao thưởng ba quân và chọn ngày ban sư.

Giữa lúc Thái Tông vui vẻ như vậy, không ngờ trong cung điện của ngài xảy ra một cơn giông tố hãi hùng. Tính mạng ngài rồi đây cũng vì đó mà tiêu vong.

Số là Duệ thân vương được Thái Tông phó thác quốc sự, bèn nằm bẹp trong cung cấm với Văn hậu như vợ chồng, chẳng cần kiêng cữ chút nào. Mọi người trong cung, từ trên xuống dưới đều là người tâm phúc của vương, chẳng kẻ nào dám tiết lộ tăm hơi. Tuy nhiên trong số cũng có hai người tuy không nói ra nhưng căm hận họ đến xương tuỷ: một người là Hào Cách con trai Thái Tông, còn một người là Tiểu Ngọc Nhi, vợ của Duệ thân vương.

Hào Cách tuy được lệnh lo việc cưới hỏi cho Cố Luân công chúa, nhưng đâu có được tự do, bất cứ việc gì cũng đều phải hỏi chú là Duệ thân vương. Thế mà lúc đó ông chú Duệ lại đang mê mệt bà hậu, suốt ngày đêm nằm trong cung cấm. Cách đốc thúc thợ thuyền xây cất phủ phò mã đã xong, nên cần hỏi chú mình xem bày biện trang hoàng bên trong ra sao vội lóc tóc chạy vào cung xin gặp. Ngày thường, Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn hay ở thư phòng mé tây cung Vĩnh Phúc nghỉ ngơi. Bởi vậy Cách chạy thẳng tới đây. Nhưng Cách chẳng thấy chú, mà chỉ thấy có ba, bốn tên thái giám giữ cửa đang đứng xớ rớ ở đó. Cách hỏi thì bọn này đều nói không biết. Cách quay ra khỏi cung, chạy tới phủ Duệ thân vương để hỏi tin, được biết vương đã không về phủ đến bốn, năm ngày rồi.

Còn Tiểu Ngọc Nhi thấy chồng đi luôn bốn, năm ngày không về bèn nổi ghen, nhiều đêm không ngủ được. Bà ta thấy Cách tới bèn gọi vào. Cách hỏi thím mình xem chú hiện ở đâu Tiểu Ngọc Nhi nghe hỏi máu ghen bỗng nổi lên như men giấm trong huyết quản, nhất thời không kìm hãm nổi, bèn cười nhạt nói:

- Chú ngươi ấy à? Y không trong cung thì ở đâu. Bọn họ lúc này tha hồ mà sướng. Y làm gì mà nghĩ tới chuyện về?

Chuyện ngoại tình của Cổn và Văn hậu, Cách đã biết từ lâu nhưng chưa có dịp cho nổ bung ra đó thôi. Không ngờ hôm nay bà thím lại nói toạc ra khiến Cách không khỏi đôi má ửng hồng, cố dằn lòng thong thả hỏi thím:

- Chú đã không về nhà, sao thím không vào cung mà tìm?

Bà phi Tiểu Ngọc bảo Cách:

- Thím có vào tìm đôi ba lần. Nhưng bọn cung nhân vốn là tay chân của chú nên đều bảo không có. Thím tính xông bừa vào nhưng bị chúng cản lại và nói: "Đấng vạn tuế đã truyền chỉ: nếu không có lệnh của hoàng hậu, cấm không ai được tự đo vào cung". Mấy hôm nay, thím loanh quanh mãi chẳng biết tìm cách gì! Này cháu của thím! Đã tới đây cháu thử tìm cách cho chúng một mẻ sợ, nếu không thím cháu mình còn mặt mũi nào mà chường ra với thiên hạ nữa?

Lời nói của phi tử Tiểu Ngọc Nhi quả đã khêu được lòng tức giận của Túc quận vương. Cách liền đập tay vào ngực, hậm hực nói:

- Thím hãy yên tâm. Chuyến này phụ hoàng trở về, cháu sẽ diện tấu cho phụ hoàng nghe, để ngài hạ chỉ cấm chú vào cung. Thím nên nhẫn nại ít hôm, chớ có nói ra, sợ chú biết thì thím cháu ta nguy cả đấy.

Nói đoạn, Túc quận vương Hào Cách cáo biệt ra về. Ngày lành tháng tốt cho việc nghinh hôn đã tới. Bỗng một đội người ngựa chạy như bay về cung báo hoàng đế hồi loan, văn võ triều thần được tin này vội mũ áo chỉnh tề đi tiếp giá.

Đi đầu bọn triều thần, tất nhiên là Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn trên lưng con tuấn mã lông hồng. Đoàn người ra khỏi thành chín dặm thì gặp đại quân của Thái Tông hoàng đế. Văn võ bá quan vội bò rạp xuống đất, tung hô vạn tuế.

Nhà vua thấy Cổn cũng nằm rạp bên đường, vội nhảy xuống ngựa, giơ tay nâng dậy. Hai anh em đồng lên ngựa, song song sát cánh tiến vào thành, tới Sùng Chính điện.

Thái Tông hoàng đế lên điện an vị ngai vàng. Trăm quan y thứ triều hạ. Nhà vua truyền chỉ, thiết yến ngay tại Tây Thiên điện. Thế rồi vua tôi chén tạc chén thù, mãi tới chiều tối ai nấy mới tan tiệc ra về.

Đêm đó, quá khuya, nhà vua không về cung nên nghi ngơi ngay tại Đông Thiên điện, có bọn cung nga hầu hạ.

Qua ngày hôm sau, ngày hôn lễ của Cố Luân công chúa, kinh thành nhộn nhịp, xe ngựa dập dìu. Đường con phố lớn, chỗ nào cũng treo đèn kết hoa, trăm họ ai cũng đều vui vẻ hân hoan.

Phò mã Sách Nhĩ Cáp, mũ áo chỉnh tề, tiến vào cung để đón dâu. Cố Luân công chúa vào lạy nhà Thái miếu, xong rồi từ biệt phụ hoàng và mẫu hậu, theo chân chồng ra khỏi cung về phủ phò mã. Các thân vương, quân vương, bối lặc, bối tử, phụng quốc tướng quân, Hoà thạc thân vương, phúc tấn, cách cách, tất cả bọn quốc thích hoàng thân lũ lượt kéo nhau thành từng tốp vào cung chúc mừng.

Theo ý của Hào Cách thì tính, tâu ngay việc ngoại tình của Đa Nhĩ Cổn cho Thái Tông hoàng đế nghe, nhưng bà phúc tấn vợ y cố khuyên can. Bà bảo chồng:

- Phụ hoàng suốt ngày vất vả, lại thêm nào yến tiệc khao mừng, nào đám cưới đưa dâu, lòng ngài lúc này cũng có đôi phần vui sướng. Chi bằng đợi khi mọi việc xong xuôi rồi ta hãy tâu cho ngài biết.

Hào Cách nghe lời vợ đành nén lòng chờ đợi. Rồi mọi việc xong xuôi, Thái Tông hoàng đế hạ dụ đêm đó về cung. Rồi suốt ngày hôm đó, ngài lại mở tiệc linh đình để khánh công đủ mặt các đại tiểu quần thần. Tất cả triều thần hội họp tại Sùng Chính điện chuẩn bị đưa nhà vua về cung. Chẳng ngờ đợi mãi tới khuya, bọn đình thần đứng chờ mãi, chân đã mỏi lưng sắp gẫy mà vẫn không động tĩnh gì cả! Lui không dám lui vì không có lệnh, hỏi cũng chẳng dám hỏi, vì biết đâu mà hỏi, cả bọn ngơ ngác chỉ biết còn nhìn nhau tự vấn. Mãi sau, chỉ dụ mới ban ra cho biết thì ra đêm đó hoàng đế lại không tiến cung nữa mà đổi lệnh qua sáng mai. Trăm quan được lệnh, lúc đó mới dám rút lui. Đa Nhĩ Cổn đưa trăm quan ra về; khi qua cửa triều môn, bỗng thấy một tên thái giám chạy như bay đuổi theo ông rồi ghé tai thì thầm mấy câu khiến mặt ông thất sắc vội xua tay ra lệnh cho trăm quan ai về nhà nấy. Thấy mọi người đi khuất hết, ông mới phóng ngựa chạy như bay vào cung Vĩnh Phúc, xuống ngựa, rồi lẻn vào. Cổn gặp Văn hậu, mặt ngơ ngác như mất hồn. Hậu thấy lạ vội hỏi. Cổn thở hắt ra một hơi dài như để vợi bớt phần nào nỗi lo sợ chứa chất trong lòng, lúc lâu mới lên tiếng khẽ bảo Văn hậu:

- Thằng chó con Hào Cách đem việc tụi mình ra tâu hết cho hoàng thượng nghe rồi. Hoàng thượng hiện giận lắm. Đại hoạ thế nào cũng xảy ra, tụi mình phải tính kế mau mới mong thoát hiểm được!

Thế rồi sau đó, người ta chỉ nghe tiếng cặp tình nhân chị dâu em chồng này thì thào với nhau. Cổn đưa ra một kế, dặn hậu phải lo liệu gấp. Lúc đầu bà không chịu, nhưng về sau nghĩ mãi bà thấy không còn cách gì hơn. Bóng đêm tràn ngập cung cấm. Người ta lại nghe những trận cười, những tiếng thì thầm cưng nựng. Mãi vào khuya, mới thấy Cổn ra khỏi cung.

Canh năm sáng hôm sau, trăm quan lớn nhỏ lại tề tập ở Sùng Chính điện để đón rước hoàng đế.

Trời vừa rạng đông. Thái Tông hoàng đế xuất điện, mặt hầm hầm, có vẻ giận dữ lắm. Quần thần vội bò sát xuống đất đập đầu lạy tạ.

Túc quận vương Hào Cách đi theo sát Thái Tông hoàng đế ở phía sau. Nhà vua lên chiếc noãn kiệu có ba mươi hai tên kiệu phu khiêng đi. Bọn thân vương hộ tống hai bên, chỉ giải tán khi tới cung Vĩnh Phúc rồi lần lượt rút êm ra khỏi cửa Đại Thanh.

Bỗng một tên thái giám, chạy lại đón đường, nắm vạt áo các quan, miệng thở hồng hộc, mãi mới lắp bắp được mấy tiếng:

- Hoàng... Hoàng... Hoàng thượng qui... qui... tiên rồi!

Câu nói động trời đó khiến trăm quan hoảng hồn bạt vía, mắt mở tròn xoe, miệng há hốc đến không ngậm lại được!

Một lát sau, Duệ thân vương mới lên tiếng bảo mọi người:

- Đứng đây mãi cũng vô ích. Bọn ta nên quay vào triều đợi chỉ thì hơn! *

Cả bọn hối hả vào triều, chưa kịp ngồi thì ý chỉ đã thấy ban ra. Chỉ ý truyền bảo Duệ thân vương vào cung tức khắc để thương nghị đại sự, Đa Nhĩ Cổn được chỉ vội vã tuân theo.

Lúc đó, thi hài của Thái Tông hoàng đế đã quàn tại chính điện trong Vĩnh Phúc cung. Cổn tiến tới trước hành lễ xong có bọn cung nữ đưa vào tẩm cung, Cổn thấy Văn hậu đang ngồi trên giường cúi đầu suy nghĩ, bèn vội tới thỉnh an. Nhưng Văn hậu như bộ không nhìn thấy, lẳng lặng làm thinh. Bọn cung nữ đều máy nhau rút ra khỏi cung, chỉ để lại một cô canh chừng hậu có sai khiến gì không. Ấy cũng nhờ người cung nữ này nên cuộc hội kiến bí mật hôm đó giữa Văn hậu và Đa Nhĩ Cổn về sau mới được tiết lộ ra ngoài. Duệ thân vương thấy Văn hậu chẳng nói chẳng rằng, bèn ghé ngồi trên an lạc ỷ. Lúc sau, Văn hậu mới đứng dậy, thong thả bước tới trước, cầm lấy tay Cổn, thì thầm nói những gì không biết. Người cung nữ để ý qua cửa sổ, chỉ thấy Duệ thân vương lắc đầu lia lịa.

Văn hậu buồn bã âu sầu, đưa cánh tay trắng như ngọc đặt lên đầu Cổn lay lay lắc lắc. Nhưng Cổn vẫn mặc, chẳng trả lời, Văn hậu như có vẻ băn khoăn, lo sợ rồi bỗng thấy bà ném phịch người xuống đất, vừa quỳ vừa cầu xin một cách khẩn thiết. Cổn vội quay mình sang phía khác, mắt ngước nhìn lơ đễnh, như chẳng thèm để ý tới bà. Văn hậu lại ghé sát tai Cổn nói, không biết những gì, Lúc đó, Cổn mới dần dần thay đổi thái độ, từ chỗ lạnh nhạt đến chỗ tươi cười và gật đầu lia lịa tỏ vẻ ưng thuận. Cuối cùng Cổn đỡ Văn hậu ngồi dậy, rồi từ biệt, xuất cung.

Hồi 42

BỊ PHẠT VẠ VÌ CUỠNG HIẾP MỆNH PHỤ

Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn xuất cung, chạy tới Sùng Chính điện. Văn võ bá quan đều vây lấy hỏi thăm tin tức. Cổn lớn tiếng nói:

- Hoàng thượng băng hà, hoàng hậu đau xót muôn phần, tâm thần hoảng loạn, chẳng có chủ ý gì cả. Bởi vậy bà cho gọi Tiểu vương vào cung thương nghị quốc gia đại sự, chủ ý của hoàng hậu là quyết lập ông hoàng thứ chín Phúc Lâm lên ngôi hoàng đế. Chư vị đại thần có tuân theo ý chỉ hay không?

Lời Duệ thân vương ai dám cãi. Chỉ nghe một tiếng "tuân chỉ" vang lên rầm trời để đáp lại lời vương. Cổn bèn đem trăm quan vào cung khóc bái rồi xúm nhau lại mang thi hài của Thái Tông hoàng đế tới Sùng Chính điện khâm liệm. Một mặt, Cổn phò trợ Cửu hoàng tử lên ngôi, chịu trăm quan triều hạ.

Cửu hoàng tử Phúc Lâm mới có chín tuổi. Nhất thiết lễ nghi đều do Duệ thân vương chỉ dẫn. Việc xong, hoàng hậu từ trong cung truyền chỉ ra ngoài phong Đa Nhĩ Cổn, Tế Nhĩ Cáp Lang, hai người làm Phụ chảnh vương, giúp hoàng đế biện lý triều chính. Cổn tiếp ý chỉ, hèn nói với bọn triều thần:

- Bọn ta hôm nay đồng tâm cộng sự phò trợ ấu chúa, nên thề trước trời đất không bao giờ đem lòng phản bội.

Bọn triều thân nghe nói vội đồng thanh đáp ứng. Cổn bèn mời đạo học sĩ Phạm Văn Trình thảo thệ thư (bản văn thư thề với đất trời) ngay tại trong điện. Cổn cho lập hương án để mọi người cùng tế lễ và tuyên thệ. Quan tán lễ bưng thệ thư tới trước hương án quỳ xuống, lớn tiếng tuyên đọc:

"Đại Thiện, Tế Nhĩ Cáo Lang, Đa Nhĩ Cổn, Hào Cách, A Tế Cách, Đa Đạc, A Đạt Lễ, A Ba Thái, La Lạc Ni, Lạc Thạc Thác, Ngai Đạc Lễ, Mãn Đạc Hải, Đồn Tể, Phí Dương Cổ, Bác Hoà Thác, Đồn Tê khác Hoà Thác, tất cả bọn tôi chẳng may gặp lúc tiên đế băng hà, trộm nghĩ rằng nước không thể một ngày không vua, bởi vậy phụng nghinh hoàng tử của tiên đế để kế đăng đại vị. Nếu có kẻ bất tuân định chế của tiên đế, chẳng sợ người trung thành, coi thường hoàng thượng thơ ấu, thì đó là kẻ khi quân có lòng gian xảo, hoặc nếu kẻ đó chẳng trọn tình nghĩa, chẳng làm nghĩa cứ, lại còn lập tâm thù oán hãm hại người ngay, chối bỏ anh em, tự kết vây cánh thì trời đất khiên phạt bắt phải chết non, chết yểu!".

Hoàng tử Phúc Lâm lên ngôi lấy hiệu là Thế Tổ hoàng đế, cải nguyên Thuận Trị. Nhất thiết quyền hành trị nước đều do Đa Nhĩ Cổn một mình nắm giữ. Trịnh thân vương Tế Nhĩ Cáp Lang cũng biết rõ Cổn không phải dễ chơi, đành mũ ni che tai để lấy lòng Cổn hoặc Cổn muốn làm gì thì làm, chẳng để ý gì nữa.

Văn hoàng hậu đã thăng lên làm Hoàng thái hậu. Lúc đó là lúc bà đang vào thời kỳ sung sức, nhiều ham muốn khoái lạc làm sao mà chịu cảnh phòng không gối chiếc? May còn có Duệ thân vương giúp bà đỡ buồn. Bà sợ người ngoài đàm tiếu cho nên phong Duệ làm Nhiếp chính vương, trông coi tất cả mọi việc triều chính để tránh tiếng. Từ đó, Nhiếp chính vương ở luôn trong cung cấm, lấy cớ là biện lý việc triều đình, để ngày đêm bất cứ lúc nào cũng được gần gũi Thái hậu, quên hẳn bà phi Tiều Ngọc Nhi ở nhà vào than ra thở mỏi mắt chờ trông.

Nhưng kẻ uất hận nhất phải là Túc quận vương Hào Cách. Cách bàn tính với Dự vương Đa Đạc lấy cớ hỏi việc triều chính để vào cung Nhiếp chính vương. Cổn lúc đó đang cùng Thái hậu mùi mẫn trong thâm cung, nghe nói Cách xin yết kiến, lấy làm bực mình lắm. Cuối cùng Cổn vẫn phải tiếp Cách. Trong thư phòng, Cổn thấy Cách mặt lộ vẻ giận.

Cổn hỏi, thì Cách đáp:

- Hoàng thượng hiện còn nhỏ tuổi. Công việc của triều đình lại nhiều. Một mình Vương nhiếp chính, e có phần lo không hết. Bởi vậy tiểu vương có ý cùng Dự vương mỗi ngày vào cung giúp việc Vương gia...

Câu nói còn chưa xong, Cổn đã hiểu ngay ý Cách. Cổn cười nhạt bảo:

- Đa tạ ý tốt của hai vị vương gia, nhận chức Nhiếp chính vương tại hạ ắt phải lo tròn bổn phận. Lo tròn được thì có công, không lo tròn được thì có tội. Nhị vị vương gia khỏi lo.

Cổn nói một hơi, gạt phắt tâu bày của Cách, khiến nhị vị vương gia kia thắt họng, cụt hứng chỉ còn biết dạ dạ luôn mồm rồi lui ra.

Từ đó, hận thù giữa Dự vương, Túc vương với Đa Nhĩ Cổn càng ngày càng chồng chất. Cổn bèn phái người theo dõi hai vị vương để loan báo tình hình cho mình biết. Đại học sĩ Phạm Văn Trình vốn là tâm phúc của Cổn nhưng lại ở dưới trướng của Dự vương. Cổn bèn cho người gọi Trình vào cung ngầm dặn Trình mật báo hành động của Dự vương. Cổn lại biết Trình chết vợ nên đem một người đẹp tuyệt thế tên Oanh cô nương gả cho Trình làm vợ kế.

Nói đến Oanh cô nương là cả một câu chuyện. Nàng vốn là con gái của quan Tham tướng họ Nhan của Minh triều. Hổi đó Đa Nhĩ Cổn đại chiến Tùng Sơn bắt được nàng đem về nuôi trong phủ. Nàng tuy nhỏ tuổi nhưng có sắc đẹp mê hồn, răng nàng trắng, mắt nàng đen, đa tình, người nhỏ nhắn yêu điệu. Cổn tính đem về nuôi đợi khi nàng lớn dành riêng cho mình dùng.

Nhưng việc lúc này là cần lấy lòng người, Cổn đành phải đem người đẹp thưởng cho Trình. Trình học sĩ thấy nàng quả là một giai nhân tuyệt thế, lòng cảm kích Nhiếp chính vương tới tận tim gan. Cả ngày ông chi muốn gần gũi người đẹp đề trò chuyện vui đùa. Có hôm ông nói tới việc theo dõi Dự vương thì chính Oanh cô nương lại nghĩ kế giúp ông. Nàng dọn một bữa tiệc hậu hĩ, cho mời Dự vương sang, cắt a hoàn xinh đẹp hầu hạ. Nàng làm vậy cả với Hào Cách. Cả hai bị rượu ngon gái đẹp, lời nói thường không được giữ gìn. Nhất là Dự vương, thấy có chỗ để dốc bầu tâm sự nên thường lui tới nhà Trình chè chén. Vốn sành ăn, Dự Vương tò mò hỏi Trình xem ai là người có tài đầu bếp quán thế như vậy thì Trình liền nói thực, bảo chính là vợ mình. Vương đã từ lâu vốn nghe tiếng vợ kế của Trình là một trang giai nhân tuyệt thế, muốn được gặp nhưng chưa có cơ hội. Nay nghe Trình nói vậy, Vương bèn tiếp lời nói:

- Ồ! Vậy thì phiền phu nhân quá nhỉ? Đã thế thì xin mời phu nhân ra đây, để tiểu vương có lời đa tạ.

Trình chẳng dám trái lời bèn bảo a hoàn chạy vào nhà trong mời phu nhân ra. Nàng nghe nói Dự vương có lịnh mời vội tô điểm son phấn hết sức lộng lẫy rồi cùng bốn con a hoàn bước ra phòng khách. Đa Đạc vừa nhìn thấy Nhan thị mắt bỗng sáng lên, lòng sao xuyến ngay từ phút đầu gặp mặt.

Nhan thị phấn điểm son tô, mùi hương bay ngào ngạt, mỗi lần làn gió nhẹ thổi phớt qua là làn hương ngào ngạt ấy xông vào mũi vương làm cho vương như ngây như dại. Dự vương vốn thuộc loại hiếu sắc, nên khi thấy Nhan thị thì như mất cả thần hồn, mắt nhìn chòng chọc, như chực nuốt chửng người đẹp để chiếm làm của mình. Nom vương thật trơ trẽn đến tức cười. Nhan thị đứng từ xa thi lễ xong, bèn quay mình vào trong. Không biết mất bao nhiêu giây phút Dự vương mới hoàn hồn.

Vương nhìn Trình cười nhạt, nói giọng trịch thượng:

- Phạm lão tiên sinh! Năm nay tiên sinh đã gần sáu chục, râu tóc đều đã bạc cả rồi thế mà lại chứa trong nhà một vị phu nhân trẻ măng, tiên sinh không sợ người ta dị nghị sao? Nay Tiểu vương có ý muốn nhờ một việc: tiên sinh hãy thương lượng với người đẹp giùm. Sáng mai xin cho hồi âm.

Dự vương nói đoạn phất tay áo, đứng dậy, cất bước ra ngoài.

Dự vương đi đã một lúc, Phạm Văn Trình ngẫm nghĩ thấy vương có ý không tốt, bèn vào nhà trong bàn với vợ. Nhan thị nói:

- Trong việc này chỉ có Duệ vương là cứu được vợ chồng mình thôi. Ông nên qua khẩn cầu Duệ vương đi.

Hôm đó trời đã tối, Phạm Văn Trình phải đợi qua hôm sau mới cân đại bố tử sửa soạn vào cung. Không ngờ Trình vừa ra khỏi nhà thì đã có một đội thân binh của Dự vương rầm rộ xông vào, chẳng nói chẳng rằng tìm bắt cho kỳ được Nhan thị bỏ vào noãn xa rồi đẩy về phủ. Đa Đạc ở trong phủ trông chờ, bỗng thấy người đẹp đã được đem về, lòng mừng như mở cờ. Y vội lại trước xe nắm lấy tay Nhan thị, khuyên nàng đừng lo sợ và bịa chuyện bảo:

- Chỉ vì phúc tấn của Tiểu vương thấy phụ thân thông minh xinh đẹp nên có ý mời phu nhân vào phủ để trò chuyện kết bạn tâm giao đó thôi.

Nhan thị vốn là người đàn bà trung trinh, nghe Dự vương nói vậy, bèn kêu la khóc lóc rùm lên, lại chỉ vào mặt vương mà chửi bới tàn tệ. Vương bị chửi, thẹn quá hoá giận, bèn quát bảo thị nữ đem lột truồng Nhan thị ra.

Dự vương có tính thích nhìn đàn bà ở truồng. Bởi vậy hai tên thị nữ không dám trái lệnh, vội nhất tề động thủ.

Chúng bế xốc Nhan thị đặt trên giường trước hết lột quần lụa, Nhan thị chỉ còn biết giơ cặp giò mũm mĩm trắng như ngọc giãy đạp tứ tung. Hai thị nữ tiếp lực, mỗi đứa nắm mỗi chân tính đè chặt xuống giường. Bỗng có hai tên nội giám hối hả chạy từ ngoài vào bảo Dự vương, miệng lắp bắp mãi mới thành tiếng:

- Vương... Vương... Vương gia nhân... nguy... nguy rồi...

Ba trăm quân ngự lâm tự trong cung đã bố trí vây quanh Vương phủ rồi...

Chúng còn chưa nói xong thì đã thấy một tên thái giám dẫn hơn mươi tên quân sĩ xông vào phòng, miệng nói: Hoàng thái hậu có chỉ đây. Dự vương thấy việc xảy ra đột ngột có ý sợ, vội cúi thấp mình xuống rồi quỳ trên mặt đất lĩnh chỉ.

Tên thái giám liền tuyên đọc ý chỉ rồi bảo bọn quân sĩ áp tống Dự vương vào cung.

Dự vương vừa vào tới cung đã thấy Túc quân vương Hào Cách cũng bị quân ngự lâm áp giải tới từ trước và Đa Nhĩ Cổn đang chễm chệ ngồi phía trên. Cổn nghiêm nét mặt, buộc tội Dự vương cưỡng đoạt mệnh phụ, gian dâm chưa thành, nên phạt bạc một ngàn lạng, và phải nộp trâu mười lăm đầu, còn Túc thân vương Hào Cách biết chuyện mà chẳng tố cáo, bị phạt 300 lạng bạc.

Dự vương từ khi bị phạt về nhà trong lòng tức giận không nguôi. Y cáu tiết làm bừa, cho bọn binh lính trong phủ hàng ngày đến nhà bách tính, hễ thấy gái đẹp là bắt ngay về phủ. Bọn gái Bát Kỳ hoảng quá, cô nào cô nấy trốn biệt không dám thò mặt ra ngoài. Mãi về sau, tin này đồn khắp Đô Sát viện.

Thừa Chính công Mãn Đại Hải biết chuyện bèn dâng một tờ sớ vào triều. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn cả giận, lại cho giải Dự vương vào cung, phạt vạ rất nặng. Cũng vì vậy Dự vương lại càng thù Cổn đến xương tuỷ.

Dự vương tới gặp Hào Cách, hai người bàn tính với nhau tìm cách đối phó Cổn. Riêng về Hào Cách y bỗng dưng bị phạt tiền, tức lắm bèn cho gọi Cố sơn ngạc trân Hà Lạc Hội, Nghi chính đại thần Dương Thiện, Giáp lại chương kinh Doãn Thành Cách, La Thạc cùng một bọn du đảng vào phủ tính cuộc âm mưu hành thích Đa Nhĩ Cổn. Các nói với đồ đảng:

- Khi Đa Nhĩ Cổn chết rồi, Tiểu vương sẽ làm nhiếp chính vương. Lúc đó các vị còn sợ không phú quý nữa ư?

Nào ngờ giữa lúc còn đang hội họp, Hà Lạc Hội đã chuồn êm ra khỏi phủ, đi mật báo. Hội vốn là tâm phúc của Nhiếp chính vương. Đa Nhĩ Cổn lúc đó đang ở trong cung ngắm Thái hậu chải đầu. Khổ thay vợ Hào Cách lúc đó cũng vào cung để thỉnh an Thái hậu. Bà này có cái tài chải đầu búi tóc rất giỏi, bởi vậy Thái hậu luôn gọi bà ta giúp. Túc vương phúc tấn chẳng dám trái lịnh bèn vén tay áo cao lên để chải, cánh tay trắng như tuyết lộ đến quá nửa, Đa Nhĩ Cổn đứng bên cạnh thấy đẹp quá, tâm hồn như mê mẩn. Cổn nhìn đến khuôn mặt thì ôi thôi, thật là cả một trời xuân muôn hồng nghìn tía, không có bút nào mà tả được cái đẹp, cái xinh, cái duyên, cái tình của nàng. Cổn càng say mê càng cuồng vọng. Y nhủ thầm, không hiểu sao tên tiểu tử Hào Cách lại có cái diễm phúc này! Báo thù xong ta phải đem người đẹp thế này về phủ vui thú mới được.

Hồi 43

LOẠN GIẶC SẤM, MINH ĐẾ TREO CỔ CHẾT

Giữa lúc Đa Nhĩ Cổn đang say sưa ngắm nghía cánh tay nõn nà và khuôn mặt xinh đẹp của cô cháu dâu, bỗng có một tên cung nữ chạy vào bẩm bên ngoài có Hà Lạc Hội xin vào bái kiến. Cổn biết có việc cơ mật, vội chạy ra Tây thư phòng và cho gọi vào. Hội vừa gặp Cổn liền đem âm mưu hành thích Nhiếp chính vương của Hào Cách ra kể hết.

Cổn nghe xong vừa sợ vừa giận, lập tức sai Hội đem đám binh sĩ giữ cung lặng lẽ đến Túc vương phu, bắt tất cả bọn thân vương, bối lặc, đại thần có mặt hôm đó giải vây cung.

Nhiếp chính vương nhìn thấy Hào Cách, nhớ tới chuyện Cách kể xấu mình trước Thái Tông hoàng đế trước đây, lại càng căm tức, giận chưa thể đập cho Cách chết ngay được lúc này. Cổn gầm lên như hổ rống, tức khắc cho lập hội đồng cùng Trịnh thân vương lên điện đốc cung thẩm vấn can phạm, có Hà Lạc Hội làm chứng. Hào Cách thấy không thể chối cãi bèn chửi bới Cổn tàn tệ. Nhiếp chính vương cả giận hạ lệnh phế Cách làm thứ dân, giam cầm vĩnh viễn trong ngục tối, Cổn thâu hồi vương phủ, một mặt ngầm đem cô cháu dâu xinh đẹp về giấu ở phủ mình, để ngày đêm hưởng dụng, không cho bất cứ ai biết chuyện.

Xong việc riêng, Cổn nghĩ tới việc công, đem bọn đại thần Á đạt lễ Thạc Thác và Ngô Đan ra kết tội chết, bắt đại học sĩ Cương Lâm hạ ngục, đồng thời chém đầu không biết bao nhiêu người trong đám triều thần, tịch thu tất cả quyến thuộc gia sản của họ đem về Duệ vương phủ. Từ khi Hào Cách bị giam cấm trong ngục tối, Đa Nhĩ Cổn coi như đã nhổ được cái đinh trước mắt, ngày ngày tự do vào cung của Thái hậu để thủ lạc, chẳng còn phải kiêng kỵ gì nữa. Thế Tổ hoàng đế lúc đó còn nhỏ tuổi lại ở riêng một cung làm sao mà biết được chuyện. Duy chỉ có Phạm Văn Trình là nghe ngóng được đôi lời xì xào bên ngoài và liệu chừng rằng lòng người có ý không phục.

Lại nói vào hồi này, tại Minh triều, bọn Lý Tự Thành, Trương Hiền Trung đã dấy binh làm phản.

Thành kéo theo bọn dân đói ở Thiểm Tây, vét hết bọn dịch tốt trên đường, đông có tới 20 vạn người, ngựa chiếm cứ nhiều tỉnh như Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên. Đầu mục của Thành có bọn Lão Hồi Hồi, Hoa Lý Nhã, Tả Kim Vương, Cái Thế Vương, Xạ Tháp Vương, Hoành Thiên Vương, Hổn Thập Vạn. Quá Thiên Tinh, Cửu Điền Long, Thuận Thiện Vương, chia là 13 nhà, 73 doanh trại.

Quân Thành đi tới đâu, xông ngang tiến dọc tha hồ mặc sức; quân binh của Minh triều đầu hàng vô số kể.

Số là Lý Tự Thành có một ông cậu tên Cao Nghinh Tường cầm đầu đám binh mã này. Tường vốn là tên mã tặc xuất thân rồi liên hiệp với tên đầu mục đám dân đói ở Diễn An phu tên Trương Hiền Trung, xưng hiệu Đại Lượng Vương. Trường xưng là Sâm vương. Còn Trung thì xưng Bát đại vương.

Nhưng về sau, Tường bị bọn quan binh giết chết. Từ đó Thành nối hiệu Sâm vương của cậu, đem đại quân tiến vào ngã Tây An. Trung không theo Thành mà lại kéo hùng binh sang ngã Tứ Xuyên.

Lý Tự Thành đánh mãi mới chiếm nổi Tây An, cướp được Vương cung Tần vương, một vị thân vương của nhà Minh, rồi đem Vương ra chém đầu. Thành tự tiện lập lên nước Đại Thuận, cải niên hiệu là Vĩnh Xương. Uy thế càng ngày càng lững lẫy, Thành kéo binh đánh phá Thái Nguyên, Đại Danh, Chán Định chiếm hết một dọc thành trì suốt vùng này.

Sùng Trinh hoàng đế nhà Minh được tin này, sợ quá, vội hạ chiếu trưng tập quân binh để bảo vệ kinh thành. Buồn thay lúc đó, Minh triều bị tên gian thần Nguy Trung Hiền, chuyên quyền làm bậy. Hoàng đế có muốn làm gì cũng chẳng được. Vua thì bị ép, cùng khổ đến cực độ, mà trung thần thì bói cũng chẳng ra một người! Thật là bi đát hết chỗ nói! Tin tức này truyền tới tai Phạm Văn Trình, Trình bèn bảo Đa Nhĩ Cổn:

- Cơ hội có một, không nên bỏ mất. Vương gia nên nhân lúc này đem quân đi thu phục Minh triều, lập đại công, thử hỏi ai chả phục!

Nhiếp chính vương nghe xong gật đầu khen phải. Thế là Cổn vào báo tin cho thái hậu hay. Văn thái hậu tuy lòng không muốn xa rời người tình, nhưng vì quốc gia đại sự, đành phải ưng chịu.

Thế là bà gọi bảo con trai là Thế Tổ hoàng đế chọn ngày lành, thăng điên Đốc cung, phong Đa Nhĩ Cổn là tướng quân thống lĩnh hai phần ba quân lực Mãn Châu, Mông Cổ phối hợp với quân của bọn Tam vương Hán quân Cung Thuận, Túc thuận công, tất cả không dưới mười vạn người ngựa. Hoàng đế lại thưởng cho Cổn một cây tán, hai lá cờ độc kỳ lớn, rồi mũ da cáo đen, áo bào da con điêu, áo choàng ngoài cũng da con điêu, nệm ngồi da điêu, mũ mát, áo bào da trăn, áo choàng da trăn, nệm ngồi da trăn, yên ngựa bằng lông diều hâu, ngựa tốt loại thượng thặng, không thiếu một thứ gì.

Cổn vào cung từ biệt Thái hậu. Lúc lâm hành, Cổn tâu với Thái hậu nếu cướp được Trung nguyên, sẽ đón bà vào quan nội cùng hưởng cảnh phú quý, phồn hoa của Trung Quốc.

Giờ Ngọ đúng ba khắc, tiếng pháo nổ vang trời nơi thành ngoại, Đại tướng quân Đa Nhĩ Cổn nhảy lên yên ngựa, trước mặt dựng cao tám cây cờ Đại độc kỳ, rồi đại binh ùn ùn kéo đi như nước chảy về phía Sơn Hải quan. Khi ra tới biên cương, Cổn thân phái Đa Đạc, A Tế Cách, Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh, Thượng Khả Thiện cùng vương tử của Triều Tiên là Lý Xí, người nào người nấy đem đại binh của mình tiến về phía trước còn chính. Cổn thống lĩnh nha binh đồn trú tại các miền phụ cận Quảng Ninh và vùng ông Hậu nghe ngóng tin tức.

Giữa lúc đang điều binh khiển tướng như vậy, bỗng tiền quân A Tế Cách đưa từ ngoài vào một tên quan sai của Minh triều. Tên quan sai này thấy Đa Nhĩ Cổn, vội quỳ xuống, miệng thưa:

- Bình tây bá Ngô Tam Quế có khẩn thư, đặc sai phó tướng Diệp Vũ Chung đưa tên Đại tướng quân khai khán.

Tức thì có thị vệ quan tiếp lấy, đưa lên cho Cổn. Cổn mở xem thấy thư viết: "Sùng Trinh hoàng đế bị treo cổ chết ở Môi Sơn. Lý Tự Thành đánh phá thành Bắc Kinh. Đại tướng quân phát binh cứu Trung Quốc thoát khỏi đại nạn"

Cổn đọc xong, bất giác ngạc nhiên nói:

- Tên Lý Tự Thành quả lợi hại thật! Chẳng mấy ngày mà hắn đã gây ra được chuyện lớn tày trời.

Cổn lại hỏi Diệp Vũ Chung xem Sùng Trinh đế bị treo cổ chết như thế nào?

Diệp phó tướng bỗng nước mắt chảy ròng, mãi sau mới trả lời được:

- Thật đáng thương cho vị hoàng đế phải chết một cách oan uổng Văn võ khắp triều đều là một lũ gian thần: Quân của Lý tặc đến chân thành rồi mà bách tính Bắc Kinh vẫn chưa hề biết tí gì. Mãi tới ngày 17 tháng 3, khi lâm triều nhà vua hỏi: bên ngoài thế giặc ra sao, thì bá quan văn võ chỉ còn có chảy nước mắt tỏ nỗi lo sợ mà thôi. Một lát sau có tin từ Ngọ môn báo vào nói quân của Lý Tự Thành đang vây đánh khắp Cửu môn (9 cửa thành). Bọn đại thần vừa nghe qua, chẳng hỏi tới hoàng đế nữa, ai nấy chuồn vội ra khỏi điện. Sùng Trinh hoàng đế thấy vậy, thở dài, thoái trào về cung, ôm lấy hoàng hậu khóc rống lên. Lúc đó có tên Tổng quản thái giám thấy hoàng đế khóc lóc thê thảm, bất giác xúc động, bèn kêu gọi bọn thái giám trong cung tất cả khoảng hơn trăm, người nào cũng vác binh khí chạy ra, chống giữ hoàng thành. Qua ngày 18, bên ngoài đánh phá kịch liệt, bên trong có một tên thái giám tên gọi Đỗ Huân thấy thế nguy bỏ trốn ra đầu hàng rồi đem mọi việc trong thành nhất nhất kể hết cho Thành nghe. Thành bèn dùng dây cho Huân leo trở lại thành ngay đêm đó vào cung Sùng Trinh hoàng đế, xin ngài nhường ngôi cho y. Sùng Trình hoàng đế bắt Đỗ Huân giam lại. Chiều tối hôm đó, thái giám Tào Hoá Thuần lén mở cửa Chương Nghi môn, thế là quân giặc ùn ùn kéo vào, gặp người là chém, thấy nhà là đốt, kinh thành ánh lửa rực trời, tiếng người kêu khóc dậy đất. Sùng Trinh hoàng đế hạ lệnh đóng chặt cửa thành. Thương thay cho ngài, một mình ra khỏi cửa cung, chạy lên núi Vạn tuế sơn, thấy binh lửa ngụt trời, bèn thở vắn than dài: "Thế là chết cả đám dân vô tội rồi!". Than xong, ngài giỏ mấy giọt nước mắt bi thương, quay về Kiều Thanh cung. Ngài lấy bút sơn viết một đạo thượng dụ, giao phó cho Thành quốc công Chu Thuần Thần và tất cả đề đốc nội ngoại chư quân, phò trợ Đông Cung. Viết xong, ngài cho mời hoàng hậu tới. Chỉ trong nháy mắt, một số đông cung nữ, cả hoàng hậu và Viên quý phi đều có mặt ngồi vây quanh lấy hoàng đế. Ngài sai bày tiệc rượu, uống liền ba chén rồi quay lại bảo hoàng hậu:

- Việc lớn hỏng hết rồi!

. Hoàng đế vừa nói xong thì đã nghe đám cung nữ oà lên khóc thảm thiết. Hoàng hậu cũng lấy vạt áo lau má lệ, nói giọng trách móc: "Thần thiếp phụng sự bệ hạ đã mười tám năm, nhiều lẩn khuyên can mà chẳng thèm nghe cho nên mới có ngày nay". Sùng Trinh hoàng đế cũng chẳng buồn nói nhiều, chỉ cho gọi Thái tử Vĩnh vương, Dịch vương, rồi cầm tay hai con nói được có một câu: Trốn đi. Lại dặn thái giám đem hai thái tử ra khỏi cung ký thác cho bên ngoài hai nhà họ Chân và họ Điền nuôi dưỡng. Một lát bọn cung nữ vào báo: Hoàng hậu thắt cổ chết. Sùng Trinh hoàng đế chạy vội lại xem, thì hậu đã tắt thở! Ngài chỉ nói được có một tiếng: Tốt! Công chúa ngồi bên cạnh oà khóc. Công chúa năm đó mới mười lăm, vẻ đẹp chim sa cá lặn. Ngài thấy lúc nàng không đề phóng, bèn tuốt bội đao một tay che khuất mặt, một tay vung đao chém tới Công chúa trúng đao ngã quỵ trong vũng máu, vai bên phải mất hẳn. Nàng lăn lộn gào khóc. Hoàng đế gạt lệ nói: "Ai khiến mày sinh vào cửa vua chúa làm gì?". Nói xong ngài quay đầu lại, thấy Viên quý phi đang ngồi bên cạnh liền hỏi: "Tại sao ngươi chưa chết đi?". Viên quý phi nghe xong, liền quỳ lạy hoàng đế mấy lạy rồi cởi dây lưng treo cổ trước mặt ngài. Chiếc dây lưng bỗng đứt, nàng hồi tỉnh trở lại. Hoàng đế cầm ngược con dao dùng hết sức bình sinh chém tới tấp vào người nàng đến mấy đao mới chết. Ngài, thu đao rồi cùng bọn thái giám chạy tới cửa Đông Hoa môn. Cả bọn bị đám binh sĩ chăn lại. Ngài đành quay sang cửa Tề Hoa môn tìm tới nhà Châu Thuần Thần. Đoàn người bị bọn lính canh cửa không cho vào. Ngài lại chạy vội qua cửa An Định môn. Binh sĩ dàn khắp mặt thành. Cửa thành đông như kiến không cách gì qua được nên ngài đành thở dài quay về cung. Lúc đó Sùng Trinh hoàng đế mặc áo bào xanh chạy qua chạy lại nên chẳng ai nhận ra được. Qua ngày thứ mười chín, vào lúc hừng sáng, nội thành cũng bị giặc phá nốt. Hoàng đế lặng lẽ một mình chạy lên núi Môi Sơn ngồi xuống thềm đình Thọ Hoàng. Chung quanh tiếng reo hò chém giết vang dậy. Ngài đưa con mắt lạc thần nhìn quanh một vòng, thở dài sườn sượt. Rồi ngài giơ tay cầm cây bút son để trên mặt án thư viết mấy chữ vào vạt áo xong rồi cởi giải áo treo cổ chết ngay trong thành...

Sùng Trinh hoàng đế đã chết trên núi Môi Sơn. Từ bên ngoài Lý Tự Thành đánh thốc vào cung. Thái giám Vương Thừa Ân lúc đó chạy khắp nơi tìm kiếm nhà vua. Khi lên Môi Sơn vào đình Thọ Hoàng hắn mới thấy xác nhà vua treo lủng lẳng trên hậu của, đầu tóc rũ rượi, chân trái để trần, chân phải còn lại chiếc giầy đỏ. Nhìn tới vạt áo hắn thấy mấy dòng chữ như sau:

"Trẫm lên ngôí vua đã mười bảy năm trời. Bọn nghịch tặc bức bách kinh sư. Trẫm tuy đức bạc tài hèn nên phạm tội với trời, nhưng thực ra tội lỗi đều do bọn bầy tôi làm trẫm lầm lạc. Trẫm chết đi không mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên dưới suối vàng nữa. Hãy lột hết mũ mãng của trẫm đi! Hãy lấy tóc che mặt cho trẫm. Hãy để mặc cho giặc băm nát thây trẫm xin chớ giết hại một người dân nào".

Vương Thừa Ân đọc xong di chiếu, không khỏi rơi lệ thương xót. Ân quỳ xuống lạy thây ma Sùng Trinh hoàng đế tám lạy rồi lẩm nhẩm khấn khứa:

- Đức vạn tuế ngài ở cõi âm xin hãy chậm chút, cho nô tài theo với!

Khấn xong, Ân cũng cởi thắt lưng treo cổ lủng lẳng dưới chân Sùng Trinh hoàng đế.

Nói thêm những điều Diệp Vũ Ung không biết nên không kể được ra.

- Lúc thành bị phá, Sùng Trinh hoàng đế thăng điện không thấy bóng một tên thái giám. Ngài bèn xuống điện tự tay đánh chuông, đánh mãi vẫn chẳng thấy một tên quan lớn quan nhỏ nào tới. Nhưng lúc Lý Tự Thành vào cung, leo lên ngai vàng ngồi chễm chệ trong điện Kim Loan, thì đánh chuông trống vừa kêu đã thấy Thành quốc công Chu Thuần Thần cầm đầu văn võ đại thần toàn triều kéo vào quỳ mọp dưới đất lạy lấy lạy để, miệng quai ra hô lớn:

- Hoàng đế vạn tuế!

Lý Tự Thành tra vấn thì chỉ có vài vị đại thần như Phạm Cảnh Văn Nghê, Nguyễn Lộ là còn có lòng trung nghĩa. Lại hỏi tới Sùng Trinh hoàng đế, thì bọn đại thần ngơ ngác nhìn nhau, chẳng biết vua đâu. Về sau, phát giác thây nhà vua trên núi Môi Sơn, Thành hỏi tên tiểu thái giám trông coi đình Thọ Hoàng thì hắn kể lại đầy đủ chi tiết lúc nhà vua lâm tử với Vương Thừa Ân tuẫn tiết chết theo. Thành sai quân sĩ lấy cánh cửa trong cung đặt xác hoàng đế tên khiêng đi, dùng chiếc áo quan bằng gỗ cây liễu tẩm liệm qua loa rồi mang ra ngoài Đông Hoa môn bỏ trong kho chứa cỏ, chỉ có ba, bốn tên thái giám già trông coi hàng ngày.

Lý Tự Thành ở lại trong cung, hàng ngày có văn võ bá quan triều bái, chẳng thấy kẻ nào tới lạy trước quan tài vua Minh. Bọn Trần Diễn, Nguy Tảo Đức, Trương Nhược Kỳ, Lương Triệu Dương, Dương Quan Quang, Châu Khuê, cả một lũ gian thần đều quay lại xu phụng nịnh bợ Lý Tự Thành. Cả cha Ngô Tam Quế là Đô chỉ huy Ngô Tương cũng đầu hàng họ Lý. Ngô Tam Quế có một ái thiếp tên gọi là Trần Viên Viên, vốn là con đào hát trong nhà ngoại thích Điền Uyển, có sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Một hôm Quế tới uổng rượu tại nhà họ Điền trông thấy liền xiêu lòng, bèn xin Điền Uyển đem về, Quế sủng ái Trần thị hết mức ngày đêm ôm ấp. Quế được ý chỉ của Sùng Trinh hoàng đế đem quân đồn trú tai Sơn hải quan. Y sợ da thịt của người tình quá non mỏng không chịu nổi phong sương nơi quan ngoại nên gửi nàng lại nhà cha mình. Khi Lý Tự Thành đánh Bắc Kinh, Ngô Tam Quế được phong Bình Tây bá, đem quân hồi kinh hộ giá.

Vừa về tới Phong Nhuận, Quế đã được tin kinh thành thất hãm. Quế hỏi tin được biết cha đã hàng giặc. Hỏi đến Trần Viên Viên, thì nàng đã bị tên tướng giặc Lưu Tôn Mẫn cướp đi và đem nàng dâng cho Lý Tự Thành hưởng thụ. Được những tin động trời ấy, thử hỏi làm sao Quế chịu nổi? Thế là một mặt Quế đem đại binh ngày đêm đánh thốc về kinh, một mặt sai phó tướng Diệp Vũ Chung tới quan ngoại nhờ cứu giúp.

Diệp Vũ Chung kể hết mọi sự xong, Đa Nhĩ Cổn còn hỏi đi hỏi lại nhiều điều chưa rõ ràng rồi mới suy tính kỹ lưỡng.

Sau đó Cổn lập tức truyền lệnh huy động binh mã, dựng một cây cờ lớn trên viết bốn chữ "Đoàn quân nhân nghĩa" diễu võ dương oai, đánh thẳng vào Bắc Kinh, có quân của Bình Tây bá dẫn đường.

Lý Tự Thành nghe tin quân Mãn Thanh kéo tới, hoảng quá bắt cóc thái tử của Minh triều và hai vị Vương gia rồi bỏ chạy về hướng tây. Ngô Tam Quế đuổi đánh, giết được cha y là Ngô Tương. Lúc hỏi tới Trần thị, Quế mới hay nàng đã bị Sấm Vương Thành đem đi mất. Quế đuổi theo. Đến giữa đường, bắt gặp Trần thị đang một mình thui thủi. Thật là vui buồn lẫn lộn! Quế lấy lại được người đẹp, chẳng còn bụng dạ nào mà truy kích nữa, bèn quay về thành Bắc Kinh.

Đa Nhĩ Cổn vào cung nhà Minh, chẳng cần làm khách, nhảy lên ngai vàng trong điện Anh Võ, để cho trăm quan triều hạ.

Cổn một mặt cho chiếm giữ các cung điện một mặt tự tay viết tờ sớ tâu về Thịnh Kinh, sai Phụ Quốc công Đồn Tề Khắc Hoà Thác, và Cố sơn ngạch chân Hà Lạc Hội đón rước vào Bắc Kinh.

Cổn lại phái hàng thần của Minh triều là Kim Chi Tuấn thiết lập vô số hành cung, dọc hai bên đường chạy từ Sơn Hải quan thẳng tới Bắc Kinh.

Tới ngày hai mươi tháng chín, Duệ thân vương được tin Thuận Trị hoàng đế đã cung thỉnh Thái hậu tiến vào thành Bắc Kinh. Đa Nhĩ Cổn vội triệu tập văn võ đại thần khắp triều mũ áo chỉnh tề, xuất thành xa chín dặm, cung tiếp thánh giá.

Bỗng người ta nghe chín tiếng đại bác nổ rền, rồi ở phía trước, chuông trống, nghi tượng, cờ rồng xe phượng, bọn thị tùng áo lông màu lam chia đôi hàng tả hữu, hộ tống long xa, oai vệ kéo tới. Trong long xa là Thái hậu má còn mịn, tóc còn xanh, bế trong lòng chú Trời con nhỏ xíu. Chiếc long xa từ từ lăn bánh, từ Vĩnh Định môn tiến vào Đại Thanh môn. Hai bên đường, bách tính nhà nào nhà nấy bày hương án đón tiếp.

Từ trong các cửa sổ, các ngách tường, đám dân đen nghé mắt nhìn trộm. Xa giá tiến vào Tử Cấm thành. Văn võ đại thần nhất tề sui ra, chỉ còn lại một mình Nhiếp chính vương theo giá vào cung. Thuận Trị Thái hậu vào Từ Ninh cung, nghỉ ngơi một lát rồi truyền chỉ cho Đa Nhĩ Cổn vào.

Hai người tình cũ xa cách đã lâu, nay được tái hội tự nhiên có một phen nghiêng trời lệch đất, tha hồ cho tình yêu lai láng. Đôi bên trò truyện mãi khuya, Cổn mới lui ra trở về dinh mình. Lúc đó Tiểu Ngọc Nhi, phúc tấn vợ Hoà Cách cũng đã theo gót vào Bắc Kinh. Cổn trở về phủ cười đùa trò chuyện với vợ một lát, rồi qua quấy phá hai chục cô thị thiếp một hồi, cuối cùng lẻn vào phòng cô cháu dâu nưng nịu mân mê bàn tay ngọc.

Vợ Cổn, nàng Tiểu Ngọc Nhi từ khi lấy chồng và biết chồng mình có tình với chị ruột mình, thì lòng lúc nào cũng ngầm ỹ oán giận, không cách nào nguôi. Đôi ba lần tức quá nàng đã định chạy vào cung để cãi nhau với chị, đánh ghen với chị, nhưng lại nghĩ chị mình nay đã làm tới Thái hậu, thế lực vượt xa mình, thì làm sao mà chống lại, đành lại phải câm nhịn.

Cổn mấy hôm đó vì trong cung bận nhiều việc, đành phải ở lại mấy ngày đêm. Tiểu Ngọc Nhi máu ghen lại càng sôi lên.

Thuận Trị hoàng đế chọn ngày mồng một tháng mười để đăng cơ. Bởi vậy ngày hai mươi sáu tháng chín ngài hạ dụ cho đại tiểu quần thần mặc tang phục để tang Sùng Trinh hoàng đế ba ngày. Tới ngày mồng một, toàn triều thay đổi cát phục.

Hoàng đế thăng triều, ngồi giữa điện Anh Võ Văn. Võ trăm quan nhất tề quỳ lạy tung hô vạn tuế ba lần. Sau đó nhà vua hạ luôn ba đạo dụ: Đạo thứ nhất là đem Minh triều cải đổi ra thành Đại Thanh, đại xá thiên hạ, miễn thuế cả nước một năm. Đạo thứ nhì là hạ lệnh chơ thần dân trong thiên hạ phái nhất luật cắt tóc trong thời hạn mười ngày. Đạo thứ ba là phong A Tế Cách làm Tĩnh viễn đại tướng quân, hợp binh lại với Ngô Tam Quế. Thượng Khả Hi từ biên viễn Đại đồng lại hợp với quân Mông Cổ, tiến vào Du lâm Diên An đánh mặt sau Thiểm Tây để tiêu diệt bọn Lý Tự Thành, lại phong Đa Đạc làm Định quốc đại tướng quân xuống miền Giang Nam đi thu phục thiên hạ của nhà Minh.

Chỉ nói riêng đạo dụ cắt tóc cũng đã gây chết chóc cho không biết bao trung thần nghĩa sĩ. Nhưng thôi, chẳng cần nhắc tới cho thêm đau lòng, chỉ cần nói chuyện Đa Nhĩ Cổn, sau khi phân phát các lộ binh mã đi rồi, ngày đêm nằm lì trong cung cấm cùng Thái hậu thủ lạc. Các bà tấn, vợ các thân vương, hàng ngày cũng phải luân phiên vào cung để chúc mừng. Duy chỉ có Tiểu Ngọc Nhi vì ghen tức với chị đến tận xương tuỷ. nhất định không thèm diện kiến.

Lần này thấy chồng vào cung ở lỳ trong đó đến mấy ngày không về, nàng điên lên, cưỡi xe xông thẳng vào Từ Ninh cung, đầu không chải, quần áo không thay. Bọn thái giám và cung nữ thấy nàng có vẻ hung dữ bèn chặn lại. Đang ghen tức uất hận, lại không có chỗ tiết, hơn nữa còn bị bọn người ngăn cản, nàng bèn đứng luôn ngoài cung chỉ trời vạch đất, vung tay múa chân lớn tiếng chửi bới om sòm, một lời kêu Đa Nhĩ Cổn, hai lời kêu Nhiếp chính vương. Nàng chửi bới chồng một lúc lâu rồi quay sang vạch hết chuyện tư tình của Cổn với Thái hậu ra cho mọi người biết, khiến bọn thái giám cũng như cung nữ hoảng hồn bạt vía, bịt tai chẳng dám nghe. Cuối cùng vài cung nữ đành phải tới dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ rồi mời nàng vào ngồi trong Tây thư phòng, mặt khác sai người chạy vào trong thông báo cho Nhiếp chính vương biết.

Lát sau, bọn cung nữ truyền lời ra, nói mời nàng về trước và báo Vương gia đêm nay thế nào cũng về phủ. Tiểu Ngọc Nhi nghe xong, chẳng biết làm gì hơn, đành lủi thủi lên xe trở về.

Trời gần tối, Đa Nhĩ Cổn quả nhiên về nhà. Đa Nhĩ Cổn tuyệt nhiên chẳng đả động tới chuyện xảy ra lúc ban ngày.

Hai vợ chồng ăn xong bữa tối rồi cùng lên giường nằm nghỉ tại phòng Ngọc Nhi. Bọn thị thiếp thấy vậy rất lấy làm lạ.

Qua ngày hôm sau, vào lúc sáng sóm tinh sương, cả bọn kéo nhau tới đợi trước phòng Ngọc Nhi thì thấy nàng nằm cứng đơ trên giường, thất khiếu đều chảy máu. Thì ra nàng đã chết từ lúc nào!

Cả bọn hoảng hồn bạt vía và không cần phải suy nghĩ cũng biết được ai là thủ phạm, nhưng không đứa nào dám kêu. Cổn coi việc xảy ra như không có gì đáng để ý, thủng thẳng cho gọi quan sai tới mua sắm quan quách khâm liệm rồi làm lễ chôn cất.

Sau vài ngày tang ma, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn lại vào cung như cũ, có lần nằm luôn tới mười ngày chẳng thấy ra ngoài. Chuyện tư tình giữa chị dâu em chồng từ khi Tiểu Ngọc Nhi kể xấu tại cung môn không còn ai là không biết.

Tiếng đồn chẳng đẹp này tới tai Thuận Trị hoàng đế. Nhà vua tuy nói là còn nhỏ tuổi nhưng cũng đã cảm thấy đôi phần nhục nhã, khó chịu.

Không ngờ lúc đó có một vị Lễ bộ thượng thư tên gọi Tiềm Khiêm Ích sớm đã biết tâm bịnh của Nhiếp chính vương và của Thuận Trị hoàng đế. Ông nghĩ thế nào đó, bèn dâng một tờ sớ, ý rằng:

"Hoàng thái hậu hiện đang xuân, sống một mình trong cung cấm, ắt hẳn cam chịu nhiều điều thương cảm. Nhiếp chính vương có công cao vị cả, lại chẳng may đoạn huyền. Vậy chi bằng xin Thái hậu hạ giá "(lấy xuống) Nhiếp chính vương khiến có thể cởi bỏ được đại công của hoàng thúc".

Đa Nhĩ Cổn đọc xong bản sớ, bất giác lòng như hoa nở. Ông bèn chạy vào cung đưa cho Thái hậu rồi bàn tính với nhau.

Thái hậu tuy cảm thấy xấu hổ, nhưng lại cười bảo Cổn:

- Ta không biết đâu đấy! Người bàn tính với bọn chúng xem sao.

Cổn quay về phủ liền cho gọi Tiềm Khiêm Ích tới. Hai người bàn đi tính lại với nhau suốt cả đêm. Qua ngày hôm sau, Ích vào triều, đem ý mình tâu lên cho hoàng thượng rõ.

Thuận Trị hoàng đế tất nhiên chuẩn tấu. Ngài hạ một đạo dụ xuống cho thần dân. Đạo dụ nói:

"Trẫm lấy tuổi trẻ lên ngôi, đặt vạc nơi Yên Kinh, biểu chính ở muôn phương, quét sạch bốn bể, dốc lòng đạo đức, cố làm cho nước nhà thịnh vượng. May nhờ được Thánh mẫu hoàng Thái hậu hiền đức bên trong, Nhiếp chính vương hoàng thúc khuông phò bên ngoài, một lòng một dạ, trẫm mới có cái cơ nghiệp như ngày nay. Trẫm nhớ lại Hoàng Thái hậu từ khi Hoàng khảo về trời một niềm vịn râu rồng mà trông ngóng, ắt không khỏi thương tâm, lại ngậm mật gấu để dạy con, không mở miệng cười. May nhờ có Nhiếp chính vương nên trẫm phó thác được trách nhiệm, gởi gắm được tâm lòng, lại nhuần thấm được từ ân vâng theo thêm ý đẹp. Trẫm nghĩ tới khi vương đuổi hươu công thành đem xích đởm tỏ lòng trung, lúc tung ứng vọng trọng, đem đan tâm mà phò trợ, hoặc khi vương mang kim đằng dẹp loạn, có công lập cơ công phụ trọng, lúc đem Thiệt Khoán báo ơn, quên cái gián của Khâu tẩu năm xưa. Trẫm lại cũng muôn làm vui nơi cung lạnh, cố đem cởi bỏ cảnh bi thương của con hạc lạc đàn và tìm cách gây mừng nơi cụng vắng, để khỏi nghe hát khúc của con loan cô độc. Tuy nói rằng cầm kính giữ lễ nhưng chấp kinh vẫn phái tòng quyền.

Thông biến kinh quyền chẳng qua để giữ tròn đạo vợ nghĩa chồng để gây vui cho bực thân trưởng bên trên. Ôi thôi! Lễ Kinh đều có đủ tuy chẳng nói cái điều tái giá nhưng gia pháp vẫn phải theo dù không có cái luật trùng hôn, nhưng thánh nhân đâu có ngại chi tới điều đạt tiết. Kẻ đại hiếu rất quý ở chỗ thuận theo đấng thân, đấy là nỗi khổ tâm nhất của trẫm, trẫm mong được thần dân trong thiên hạ lượng xét chung. Nghi điều của buổi đại hôn, trẫm giao cho Lễ bộ bàn định và tâu trình để trẫm cho thi chiếu. Khâm thử".

Hồi 44

ĐÁM CƯỚI CỦA HOÀNG THÁI HẬU HẠ GIÁ NHIẾP CHÍNH VƯƠNG

Lễ bộ tiếp được thánh chỉ, bèn đem bàn định những nghi tiết cho Thái hậu hạ giá. Bộ chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ. Mặc khác, phái định Hoà Thạc thân vương là Sung Khâm sung chức Đại hôn chánh sứ, Nhiêu Dư quận vương sung chức Đại hôn phó sứ. Hai vị chánh phó sứ có nhiệm trách đưa Nhiếp chính vương tới cửa Ngọ Môn để làm lễ Nạp thái. Trên lễ đơn có kê khai đủ thứ như sau: ngựa vằn hai chục con, giáp trụ hai chục bộ, đoạn hai trăm tấm, vải bốn trăm súc, vàng bốn trăm lạng, bạc hai vạn lạng, đồ trà bằng vàng hai bộ, đồ trà bằng bạc bốn bộ, mâm bạc bốn chiếc, ngựa tốt bốn chục con, giáp của lạc đà bốn chục chiếc. Tất cả những lễ vật này bày thành hàng trong cung điện Thái Hoà. Còn ở Kiền Thanh cung thì hoàng đế tứ yến mời Nhiếp chính vương vào tiệc.

Tiệc xong, Nhiếp chính vương lại phải tới cung Thọ Ninh để làm lễ "Tam quy cửu khấu" tạ ơn.

Đến hôm lễ Đại hôn, ngay từ canh năm, Nhiếp chính vương đã sắm sanh đầy đủ cả một ban chấp sự: một cặp voi trắng dẫn đầu, phía sau là một cỗ xe báu, rồi đội nhạc, đèn đỏ, quản tượng sư, Chỉnh nghi uý, Dẫn trượng, Liễu trượng, Lập trảo, Ngoạ trảo, Tính Việt, cờ ngũ sắc Kim Long nhỏ, cờ Thuý Hoa, cờ Kim Tú, cờ Môn Kỳ, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Dân, cờ Ngũ Lôi, cờ Bát Phong, cờ Cam Vu, cờ Liệt Tú, cờ Ngũ tinh, cờ Ngũ Nhạc, cờ Tứ độc, cờ Thần Võ, cờ Chu Tước, cờ Bạch Hổ, cờ Thang Long, cờ Thiên Mã, cờ Thiên Lộc, cờ Tịch Tà, cờ Tê Ngưu, Cờ Xích Hùng, cờ Bạch Hùng, cờ Bạch Chấn Lộ, cờ Minh Diên, cờ Xích Điểu, cờ tràng Hoa, cờ Hoàng hộc, cờ Bạch Tri, cờ Vân Hạc, cờ Khổng Tước, cờ Nghi Phượng, cờ Tường Loan, cờ ngũ sắc Long độc, cờ Tiền phong độc, cờ Hộ Quân độc, cờ Thiệp Kỳ Hoàng mao, Nghi Hoàng mao, Kim Tiết, cờ Tiến thiên nạp ngôn tình, cờ Phu văn chấn văn tình, cờ Bao công hoài viễn tinh, cờ Minh hình bật giáo tin, cờ Giáo hiếu biểu tiết tinh, cờ Long đều phan, cờ Báo vĩ phan, cờ Giáng dẫn phan, cờ Tin phan, quạt Loan phụng vượng đỏ, quạt đuôi trĩ, quạt đuôi công, quạt Đơn long nền đỏ, quạt Đơn long nền vàng, quạt chữ thọ, tàn vuông đỏ, tàn vuông tía, tàn hoa ngũ sắc, tàn cửu long ngũ sắc, tàn cửu long vàng, lọng Tứ Chi, lọng Thuý Hoa, lọng Cửu long vàng, Kích, giáo, thương đuôi beo, cung tên, nghi đao, thượng mã, kim cơ, giao ỷ bằng vàng, ống nhổ bằng vàng, hộp hương bằng vàng, lừ hương bằng vàng; phất trần, nắp bằng vàng, bình rượu. Tất cả những vật này cứ đôi một lần lượt tiến lên trước. Số nội giám hôm đó phải lực dịch vào việc nảy lên tới một ngàn hai trăm bốn mươi sáu người.

Đoàn chấp sự đi từ cửa Đại Thanh thẳng tới cửa cung Thọ Ninh đứng dày đặc con đường trải sỏi vàng.

Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn ngồi ngay ngắn trong xe Kim liễu, theo sau có các tên ngự lâm quân, tên nào cũng cầm thương đuôi beo, cầm nghi đao, cung tên, cưỡi trên lưng ngựa diễu võ dương oai. Chót hết là một cây cờ Hoàng long đại tộc được giơ cao tung bay trước gió.

Đoàn người từ từ tiến vào cửa cung. Phía trong cung, lúc đó đã có một bọn Thân vương phúc tấn, các phu nhân của bối lặc, bối tử, các bà mệnh phụ của các nội vụ đại thần, các bà mệnh phụ nội quản lĩnh, xét theo phẩm trật mà ăn vận đại phục, đều đứng chờ đợi. Đến giờ tốt, Hoàng Thái hậu mặt đồ cát phục vào, trong khi đó hoàng đế xuất lĩnh một bọn Thân vương đại thần vào nội cung làm lễ "Tam quy cửu khấu" và mời bà lên Phượng liễn, có mười sáu cung nữ tuỳ tùng hộ vệ và ba mươi hai tên nội giám khiêng liên ra khỏi cung. Bọn các bà phúc tấn, phu nhân, mệnh phụ hộ tống đều ngồi trên những chiếc xe sơn, màu đỏ, theo phía sau. Còn chiếc kim liễn của Nhiếp chính vương thì đi phía tay mặt hộ tống.

Khi tới cổng vương phủ tất cả nghi trượng đều dừng lại nhưng bọn các quan lớn nhỏ thì tới cửa nghi môn mới dừng.

Phượng liễn của Thái hậu đi thẳng mãi vào chính viện mới đỗ xuống. Bọn nữ quan tiến lên, nâng Thái hậu ra khỏi phượng liễn rồi đưa bà vào tây viện nghỉ ngơi.

Giờ động phòng tới. Bọn nữ quan vào mời Thái hậu ra, rồi quỳ xuống dâng rượu. Nhiếp chính vương cùng bà làm lễ hợp cẩn. Bọn nữ quan đưa hai người vào động phòng.

Qua ngày hôm sau, Thuận Trị hoàng đế thăng điện Thái Hoà. Trăm quan dâng biểu khanh hạ. Hoàng đế giáng dụ cho quần thần yến tiệc linh đình ngay tại hai bên thiên điện ở mé đông cũng nhứ mé tây. Và sau đó, hoàng đế hạ chỉ, tôn Duệ vương lảm Hoàng phu Nhiếp chính vương.

Mỗi ngày tảo triều, Hoàng phu Nhiếp chính vương ngồi ở phía tay mặt hoàng đế, cùng chịu trăm quan quỳ lạy. Thái hậu từ khi lấy Nhiếp chính vương, suốt ngày ở tân phòng mua vui hưởng lạc, quên mất là mình đã tới 40 cái tuổi mà chỉ coi mình như cô gái đôi tám, sáng nào cũng kề vai áp má, đêm nào cũng ấp ngực ủ môi. Nay đã lấy Đa Nhĩ Cổn, định hẳn danh phận thì thái hậu có còn phải kiêng kỵ gì ai. Suốt ngày, bà nằm trong phòng, độc chiếm lấy thúc thúc, báo hại hai chục cô hầu thiếp cùng cả cô cháu dâu chẳng còn ai được xơ múi gì nữa.

Nhiếp chính vương suốt ngày kề vai sát vế với bà chị dâu, thôi thì hết tân hoan đến cựu ái, mối ân tình quả thật nồng nàn mùi mẫn. Nhưng rồi một tháng sau, thúc thúc Nhiếp chính vương đâm chán, tự nhiên nhạt dần bà chị dâu. Cặp chị dâu em chồng này khi chưa cưới hỏi, còn tằng tịu giấu giếm thì tha thiết lắm, thèm thuồng lắm, nhưng nay đã công khai thì còn có gì ham hố mà chả chán. Bởi vậy Nhiếp chính vương thường lẻn vào buồng cô cháu dâu để gỡ gạc. Thái hậu biết được, máu ghen nổi lên thế là sóng gió tơi bời không ai can nổi.

Thực ra, Thái hậu cũng chẳng lép gì! Bà chợt nhớ tới người xưa là Đại học sĩ Hồng Thừa Trù của mình. Thế là bà cho triệu tình nhân vào phủ để trò chuyện mua vui khi vương ta vắng mặt. Ở đời có cái gì bí mật mãi được! Chuyện Thái hậu tằng tịu với trai một ngày kia cũng lọt vào tai Cổn. Ức lắm, nhưng không có cách đối phó nên Cổn đành chịu vậy.

Lúc đó, Đa Đạc ở Giang Nam đã dẹp yên khắp miền này, hưởng dụng đủ cảnh phồn hoa khoái lạc. Quan quân thủ hạ bắt được gái đẹp, Đạc đem dâng cho Dự vương. Gái Giang Nam có cái tuyệt là nước da mịn mát, thân hình mềm mại, quả là một cái thú đặc biệt. Trong phủ Đa Đạc đám son phấn xanh đỏ này ít ra cũng được bốn năm chục nàng, đều là những trang tuyệt sắc giai nhân. Trong số này có quả phụ Lưu Tam Tú, người tuy đã luống tuổi, nhưng mặt hoa da phấn, sắc sảo quyến rũ hết sức. Dự vương yêu quý muôn phần, nên phong cho nàng làm vương phi, ngày ngày cùng nàng du ngoạn hưởng lạc.

Hồi đó, gặp lúc Đoan dương giai tiết, Dự vương cùng Lưu Tam Tú theo tới bờ sông xem bơi thuyền rồng. Thế rồi vương liên tưởng tới Thái hậu ở trong cung cấm, tuy tận hưởng vinh hoa nhưng có khi nào được xem cái trò vui này bao giờ. Bởi vậy vương, cho đóng mười chiếc thuyền rồng, chọn một chục gái đẹp, tuyển một đội nhạc rồi gởi thẳng về kinh dâng Thái hậu. Thái hậu nhận thuyền liền hạ chỉ mở đại hội thuyền rồng ở vùng Tam Hải, mời rất nhiều phúc tấn, phu nhân, mệnh phụ ngồi trong thuỷ các để xem thuyền. Thuận Trị hoàng đế ngồi ở chính giữa, có Nhiếp chính vương ngồi bên cạnh. Mười chiếc thuyền rồng gióng lên mười hồi chiêng trống rồi lướt đi lướt lại rẽ sóng thành những vệt hoa trên mặt nước. Một lát sau, đoàn thuyền rồng nhất tề chèo gần lại bên thuỷ các.

Hai chục cô gái bước lên xin Thái hậu và hoàng thượng ban thưởng. Thái hậu nhìn bọn gái đẹp bỗng cảm thấy vui thích bèn hạ một tiếng thưởng, tức thì bọn Thái giám đưa những cái giỏ đã chuẩn bị sẵn nào là bạc vụn, nào là y phục, nào là đồ chơi, nào là trái cây xuống thuyền cho bọn con gái.

Giữa lúc mọi người đang mải ngắm, bỗng một đại hán nhảy từ mũi thuyền lên gác, tay cầm một cây đao nhọn đâm bổ vào Nhiếp chính vương. Vương mắt lẹ chân nhanh né được sang bên. Nhưng cây đao nhọn cũng đã hạ xuống nhanh như chớp chém chết một tên tiểu thái giám. Quân ngự lâm nhất tề xông lên, bắt giữ ngay tên thích khách, rồi giao cho hình bộ thẩm vấn. Hắn khai thẳng ra rằng y nhận lệnh của một vị đệ nhất đại nhân trong thiên hạ để hành thích.

Qua ngày hôm sau, hình bộ lại vào nhà lao gọi ra để hỏi tiếp nhưng hung thủ đã tự vẫn chết từ lúc nào.

Nhiếp chính vương biết chuyện, hết sức tức giận, tức khắc cách chức một loạt từ binh bộ thượng thư đến bọn quan thừa thẩm rồi bắt cho hết để tra vấn. Vương lại ngờ là tên thích khách từ Giang Nam tới. Hơn nữa Dự vương có cái thù với vương từ lâu, cho nên vương càng ngờ chính Dự vương đã sai người hành thích. Càng ngờ càng tức giận. Vương lập tức đòi Thái hậu hạ một đạo Thánh chỉ cách chức ngay Giang Nam tổng đốc, rồi phái Thừa Trù tới thay, dặn kín Trù thu phục để nắm lấy quân đội và lần lần thu phục hết binh quyền của Dự vương. Thành thử một việc ra mà lợi đủ đường, khiến vương tống khứ được cả tên Trù, chẳng khác gì nhổ được cái đinh trong mắt. Tất cả những chuyện này đều do kế hoạch của Hà Lạc Hội vẽ vạch cho vương.

Từ khi Nhiếp chính vương với Thái hậu chính thức thành vợ chồng thì ân tình giữa hai người lại không được nồng thắm như trước. Hồng Thừa Trù tuy đã bị tống đi nhưng máu ghen làm sao có thể dứt hẳn trong lòng Nhiếp chính vương được, lại thêm một việc mưu sát đột ngột khiến vương phải đôi phần hoảng sợ. Thái hậu tuy nói hạ giá nhưng bà chỉ ở tại phủ của Nhiếp chính vương vẻn vẹn có một tháng, rồi lại vào Từ Nình cung ở miết trong đó, vương phải chạy đi chạy lại, khi thì ở phủ khi thì vào cung, việc này khiến vương càng lo có người ám toán dọc đường. Bởi vậy, vương cũng bớt dần vào cung mà chỉ ở trong phủ mình cùng cô cháu dâu mua vui hưởng lạc mà thôi. Nhưng lâu ngày rồi vương cũng chán, Vương lại thèm của lạ.

Hồi đó nước Triều Tiên có phái một vị thần tên Kim Ngọc Thành đem đồ tiếng cống, ngụ tại khách quán. Thành có dịp thổ lộ cho Hà Lạc Hội biết quốc vương của y có hai nàng công chúa nhan sắc tuyệt vời. Hội vội chạy vào rỉ tai Nhiếp chính vương. Giữa lúc đang chán ngán kém vui, Nhiếp chính vương được tin đó vội đặt ngay kế hoạch cho Hội thi hành.

Hội được lệnh lập tức tới thương lượng với đại thần Triều Tiên. Vị này thấy đây là lệnh của Nhiếp chính vương, đâu dám trái ý, vội quay về nước, tâu tỏ cho quốc vương hay. Vua Triều Tiên là Lý Minh vốn có ý chơi trèo với thượng quốc đã từ lâu nên khi nghe nói Nhiếp chính vương muốn lấy hai nàng công chúa của mình làm phi tử, thì còn gì đắc ý hơn. Bởi vậy ông một mặt trả lời ưng thuận, một mặt báo cho hai cô con gái ông hay. Hai cô công chúa được biết sắp trở thành phi tử của nước Đại Thanh, trong lòng cũng lấy làm mãn nguyện lắm.

Nhưng họ còn phải giữ kẽ, bởi vì họ biết bà Thái hậu nước Đại Thanh đã hạ giá lấy Nhiếp chính vương, tất nhiên là được sủng hạnh chuyên phòng. Họ cho rằng nếu hai chị em họ qua Thanh quốc thì thế nào cũng bị bà ta khi dễ. Nếu vương muốn lấy họ thì chi bằng mời vương tới nước họ để thành thân rồi làm cho họ một toà vương phủ cao rộng to lớn để họ vĩnh viễn ở đó, khỏi phải xa cha xa mẹ. Hai cô công chúa tính toán với nhau như vậy, nên vua cha của hai nàng bèn cho người đem sở nguyện đó báo cho Nhiếp chính vương hay. Vương được hồi đáp, lúc đầu cũng lấy làm nguyện ý vì như thế tránh xa được tai mắt của Thái hậu, nhưng về sau suy đi nghĩ lại vương lại thấy bất tiện, cho rằng chẳng ra thể thống gì khi mình đường đường là một vị Nhiếp chính vương mà lại đi cầu thân ở một nước thuộc quốc. Mãi về sau Hà Lạc Hội mới nghĩ ra một kế, đại thể vương cho xây cất một toà Hành cung ở thành Khách Thích gần biên giới Triều Tiên để hai nàng công chúa ở còn vương thì láy cớ là xuất quân đi tuần cảnh rồi tới với hai nàng.

Mọi việc xếp đặt đã xong, Nhiếp chính vương chọn ngày Cát Nhật khởi trình từ Bắc Kinh, đem theo bọn quan binh của Bắc kỳ Cô Sơn Ngạch Châm. Thái hậu tuy không muốn cho Nhiếp chính vương xa mình, nhưng vì việc quốc gia đại sự chẳng tiện ngăn trở đành phải để cho vương đi.

Lại nói Thuận Trị hoàng đế mỗi ngày một lớn. Bởi vậy việc chung thân của ngài trở nên rất khẩn yếu. Trước đây, Nhiếp chính vương đứng làm chủ đã hỏi con gái của bộ chủ bộ lạc Khoa Nhĩ Bí Ngô Khắc Thiện cho hoàng đế làm hoàng hậu. Nay Nhiếp chính vương lên đường xuất binh, nên Thái hậu phải nói với vương chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ đại hôn cho hoàng đế. Nhiếp chính vương lúc đó, ngày đêm chỉ nghĩ tới hai nàng công chúa Triều Tiên cho nên mọi việc trong cung vương để mặc thái hậu định liệu.

Hồi 45

NHIẾP CHÍNH VUƠNG BỊ HEO RỪNG HÚC CHẾT

Sau khi đã đùn được mọi việc cho thái hậu giải quyết, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn vội vội vàng vàng chạy ra quan ngoại, để tới hành cung thành thân với hai vị công chúa. Vương chỉ dùng có một tên mà được cả hai chim, thành thử cảm thấy vô cùng mãn nguyện.

Nhưng sự đời thời vui lắm lại sinh buồn nhiều. Số là vương ở lại Khách Nhĩ thành ngày đêm cùng hai vị công chúa Triều Tiên tầm hoan thủ lạc bằng bất cứ trò du hí gì. Thành Khách Nhĩ này vốn rơi vào giữa nơi hoang lương u tịch, hai vì công chúa nhiều lúc nhàn rảnh, chẳng biết làm gì để giết thì giờ, bèn khuyên Nhiếp chính vương vào rừng đi săn.

Một hôm vương đưa hai vị công chúa ra ngoài thành. Giữa lúc bọn quan binh đang lo bảo hộ cho hai nàng săn thú, bỗng từ bên trong xông ra một chú heo rừng to tướng. Con ngựa của vương thấy heo vụt chạy ra, giật mình lồng lên, giơ cao hai vó trước lên, rồi cất tiếng hí vang trời, tỏ vẻ hoảng hốt cùng độ.

Vương ngồi trên ngựa trở tay không kịp bị hất tụt khỏi yên. Chẳng may cho vương, lúc rơi xuống lại vừa đúng vào đà xông tới của con heo. Thành thử vương vừa té ngựa gãy hẳn chân trái, lại vừa bị con heo đạp chân lên mặt, máu chảy lênh láng, đau đớn vô cùng. Viên võ quan tuỳ tùng vội chạy tới cứu nhưng không kịp, chi thấy vương ngất đi, nằm xỉu dưới đất.

Hai vị công chúa được tin, vội chạy ra khỏi rừng, vừa khóc vừa gọi vương, nhưng chẳng thấy vương tỉnh lại. Về sau xem xét kỹ vết thương mới biết sọ cái của vương đã bị bể, óc bên trong vọt cả ra ngoài. Đoàn người đành chỉ còn việc hè nhau lại khiêng xác vương về Hành cung, một mặt thông báo về triều. Năm đó, Nhiếp chính vương mới 39 tuổi.

Tin dữ bay về cung, người thứ nhất khóc lóc thảm thiết đến chết đi sống lại, đó là Thái hậu. Thuận Trị hoàng đế cũng vô cùng thương cảm. Một mặt, ngài hạ chỉ sai đại thần ra quan ngoại để mang linh cữu về triều, mặt khách ngài hạ dụ cho thần dân đều phải mặc đồ tang phục.

Hai vị công chúa Triều Tiên không chịu về Kinh, đợi khi linh cữu Nhiếp chính vương được đem đi, tức thì trở về nước mình.

Linh cữu của Hoàng phụ hôm đó về tới Bắc kinh, Thuận Trị hoàng đế ăn bận hiếu phục đem theo bọn thân vương, bối lặc và bá quan văn võ ra khỏi Đông Trực môn năm dặm để đón tiếp. Hoàng đế thân tự làm lễ tế bái, trăm quan quỳ ngay hai lộ cử ai, suốt từ cửa Đông Trực tới cầu Ngọc Hà các quan từ tứ phẩm trở lên đều phải quỳ khóc bên lộ thẳng tới vương phủ. Công chúa, phúc tấn và các bà vợ của các quan vặn võ đều phải mặc áo tang quỳ khóc bên trong cửa lớn. Linh cữu thì đặt ngay giữa đại đường vương phủ. Chư vương bối lặc suốt ngày đêm phải túc trực nơi đám tang. Lại còn có sáu mươi bốn vị sư Lạt ma tụng kinh siêu độ. Việc tang ma bận rộn suốt bốn mươi chín ngày đêm. Hoàng thái hậu tuy chẳng tiện vào phủ chịu tang, nhưng tình cảnh goá bụa, chốn cung vi lạnh lẽo kể ra bà cũng thương tâm lắm.

Thuận Trị hoàng đế cùng với Thái hậu vốn tình mẹ con quyến luyến, nên khi thấy mẹ khổ, tất nhiên con thương. Bởi vậy hoàng đế đón bà vào cung để ngày đêm, mẹ con gặp nhau, mong vơi bớt nỗi buồn của bà.

Lúc đó Thuận Trị hoàng đế mười bốn tuổi. Ngài bèn hạ chiếu thân chính (đích thân mình trông coi việc triều chính). Hằng ngày, vào lúc canh năm, ngài toạ trào, tra hỏi quốc chính rất kỹ, văn võ đại thần thảy đều sợ hãi. Khi ngài mười sáu tuổi, Thái hậu đứng làm chủ hôn chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ đại hôn cho ngài. Hôm đó Ngô Khắc Thiện đưa con gái vào cung. Dự vương nhân dịp cũng đã về kinh nên Thiện đưa con gái ở tạm trong phủ Dự vương.

Thực ra, theo ý của Thuận Trị hoàng đế thì ngài không muốn lập con gái của Ngô Khắc Thiện tên Bác Nhĩ Tế Cẩm Thị làm hoàng hậu. Nhưng chỉ vì Thái hậu đứng chủ hôn cho nên không dám phản đối đành phải miễn cưỡng thành thân.

Hoàng hậu ở tại cung Khôn Ninh. Tuần trăng mật chưa đầy năm ngày, mà đôi tân hôn đã cãi lộn chửi lộn rồi. Từ đó tình nghĩa vợ chồng càng ngày càng nhạt.

Tô Khắc Sản Cáp, Chiêm Mục Tế Luân, cùng Trịnh thân vương, Đoan Trọng quận vương, Kính Cẩn thân vương, Tốn thân vương, tất cả một bọn quý tộc thân thích này vốn đều có túc oán vời Nhiếp chính vương. Nay thấy Cổn đã chết, bèn lợi dụng cơ hội để báo thù bằng cách ngày ngày tâu trình những chuyện xấu xa bậy bạ của Nhiếp chính vương trước hoàng đế. Họ còn nói thêm tất cả những hành động bi ổi của Nhiếp chính vương đều là do tên quy hại người là Hà Lạc Hội bày vẽ ra.

Thuận Trị hoàng đế vốn chẳng ưa Nhiếp chính vương, nay nghe nhiều vị thân vương đại thần nói vậy, bèn lục lại cựu án hạ một đạo thánh chỉ, đem chính pháp ngay tên Hà Lạc Hội, đồng thời truy đoạt hết tước vị đã phong tặng cho Đa Nhĩ Cổn lúc sinh thời cũng như những ân điển, phong tặng cho vợ con Đa Nhĩ Cổn.

Đến năm thứ ba, Thuận Trị hoàng đế hạ chiếu phế luôn hoàng hậu con gái Ngô Khắc Thiện do hoàng Thái hậu đứng chủ hôn, để lập nàng Cách Cách, con gái Trần Quốc Công Xước Nhĩ Tế của nước Khoa Nhĩ Bí làm hoàng hậu. Bà tân hoàng hậu này tuy bảo rằng hoàng đế tự ý chọn lấy nhưng thực ra ngài chưa từng được thấy.

Ai ngờ khi lấy về cung, hoàng đế té ngửa người ra khi thấy hoàng hậu của mình vừa xấu như ma lem mà lại vừa ngu ngơ ngớ ngẩn như con đòi. Thế là lòng hoàng đế lại nặng thêm một buồn phiền nữa. Còn bà hoàng Thái hậu từ khi thấy hoàng đế độc đoán độc hành lại thêm việc hạ giá lấy chồng của mình nên lòng không khỏi cảm thấy đôi phần xấu hổ thẹn thùng.

Rồi cũng vì chuyện xấu hổ thẹn thùng mà mẹ con từ đó đâm ra hiềm nghi nhau. Chưa hết, đằng sau bà lại còn cả một bọn đông đảo cung nhân và thái giám thường đổ dầu vào lửa, giục bị xui nguyên. Hoàng Thái hậu vì oán trách hoàng đế nên bà càng cảm thấy buồn chán nơi cung đình.

May thay Tổng đốc Giang Nam Hồng Thừa Trù về kinh vừa đúng lúc khiến cả hai mẹ con Thái hậu cùng được vui vẻ an ủi. Tại sao vậy? Tại vì Hồng Thừa Trù vốn là người nhân tình của thái hậu, ngày gặp mặt sao Thái hậu chả vui mừng. Nhưng còn hoàng đế? Thì ra Trù từ Giang Nam trở về có mang theo về một mỹ nhân tuyệt sắc để dâng cho ngài. Thuận Trị hoàng đế vừa thấy trang mỹ nhân này, lòng ngài vô cùng sung sướng. Ngài say mê người đẹp ngay, rồi đem ơn mưa móc hết tình yêu dành cho nàng. Ngài cùng người đẹp yến ấm nói cười suốt cả ngày, nữa bước chẳng rời, giống hệt như Đường Minh Hoàng với Dương Quý Phi xưa kia.

Trang mỹ nhân đó là ai vậy? Đó là nàng Đổng Tiểu Uyển, vốn là ái thiếp của Như Cao tài tử tên Mạo Sào Dân. Hồi đó miền Giang Nam có bốn vị công tử đều vừa có tiền lại vừa có thế lực, có học vấn. Bạn bè họ lại đông cho nên chẳng ai dám động tới họ. Khi vừa tới Giang Nam, Hồng Thừa Trù liền cho người đi dò tìm người đẹp. Trù biết được nào là Quán Bạch Môn, nào là Mã Tướng Lan, nào là Lý Hương Quân, nào là cô Hoành Ba...

Những trang mỹ nhân đều là những vưu vật tuyệt thế, đẹp như ngọc xinh như hoa. Trù thèm người đẹp đến rỏ dãi, dám bỏ hang ngàn vàng ra để mua cho kỳ được một người đem về. Không ngờ, Trù bị cụt hứng vi khi thăm hỏi tới nơi mới biết rằng các nàng đều đã có chủ nhân cả. Trù buồn bực quá, lúc nào cũng thở ngắn than dài.

Hồng tổng đốc từ khi biết nơi đây có người đẹp, ông càng tưởng càng mơ, nhiều khi đến quên ngủ, bỏ ăn. Trù có một tên tâm phúc gọi Đông Nhị Gia. Gia vốn là tên vô lại điếm đàng, suốt ngày chỉ tìm cách xu phụng chủ nhân và cũng nhờ đó được chủ nhân để mắt tới, hắn biết chủ nhân có bầu tâm sự riêng, nên gợi chuyện và cuối cùng biết được ông chủ đã mê nàng Đổng đến hết mức rồi. Hắn liền tìm cách tâng công, nói với ông chủ Hồng Thừa Trù:

- Xin đại nhân để việc đó cho tiểu nhân lo liệu. Trong vòng mười ngày, người đẹp nhất định sẽ về tay đại nhân!

Nói xong câu đó, Đông Nhị Gia biến mất luôn, cách tám hôm sau, đúng vào ngày thứ chín, Hồng Thừa Trù đang ngồi trong thư phòng xem thư, bỗng thấy Gia miệng cười khì khì từ ngoài chạy vào tới trước mặt thỉnh an rồi nói, vẻ hết sức đắc ý:

- Xin mừng cho đại nhân. Tới rồi.

Hồng Thừa Trù ngẩng đầu, tỏ ý ngạc nhiên vội hỏi:

- Cái gì tới?

Đông Nhị Gia nói tiếp:

- Đổng Tiểu Uyển chứ còn cái gì nữa?

Trù nghe xong sướng tưởng như điên lên, nhảy vội ra khỏi ghế, hỏi lại:

- Người mang tới đây thật ư? Ta chẳng tin. Mao công tử vốn là một tay tài tử đất Giang Nam, thân thuộc bạn bè thiếu gì ở kinh đô. Hắn mà phát một tờ cáo trạng thì công nghiệp tiền trịnh của ta kể như đi đứt hết!

Gia lại nói tiếp:

- Đại nhân đừng sợ! Xin cho tiểu nhân bẩm cáo thêm. Số là tiểu nhân sớm đã biết Mao công tử có một số vô lại khá đông dưới trướng. Tụi vô lại này thường thông đồng với bọn buôn muối lậu. Tiểu nhân đem toàn ban Mã Khoái của bản nha đi suốt ngày đêm tới Thôn Lục Dương, phao tin bắt kẻ gian đạo trong nhà Mao công tử, theo lời mật cáo là Mao Sào Dân oa trữ đồ lậu lại cưỡng đoạt cả phụ nữ con nhà tử tế.

Xóm giềng nơi đây nghe tin đó, chẳng ai dám dính líu tới vụ này, sợ rằng thành cháy vạ lây. Mao công tử nghe tin động trời đó cũng hoảng hồn bạt vía vội chuồn cửa sau trốn biệt. Tiểu nhân bèn đánh thốc vào cửa trước, thấy Đông Tiểu Uyển dắt theo một con a hoàn đang vội vàng tìm đường lẩn trốn.

Thế là tiểu nhân chẳng hỏi lý do gì cả, cứ việc kéo nàng chạy đi, còn cố ý loan tin rằng người đàn bà này vốn con nhà lương thiện bị Mao Sào Dân cưỡng bức bắt làm thiếp, nên nay đưa nàng về nhà.

Hồng Thừa Trù nghe kể tới đây, bèn hỏi:

- Có phải người con gái này không?

Gia hồi đáp ngay:

- Phải! Ngay cả con a hoàn của nàng, tiều nhân cũng mang về đây!

Trù bảo Gia:

- Người đem nàng lại ngay cho ta xem!

Chỉ lát sau, quả nhiên, Trù thấy một con a hoàn đưa một trang mỹ nhân tuyệt sắc tiến vào. Trù thấy mặt nàng buồn rười rượi đôi mắt khóc đỏ hoe, cặp má phấn của nàng trải dài xuống một cách thê thảm. Nàng đứng lại bên cạnh ông ủ rũ như một cành lê bị gió đập, một đoá hải đường bị mưa vùi.

Hồng tổng đốc thấy tình cảnh của nàng, vừa thương lại vừa yêu. Ông không biết làm cách nào cho phải mãi sau mới lên tiếng hỏi:

- Bọn ngươi tên gì?

Con a hoàn đáp:

- Nô tỳ tên gọi Khấu Khấu. Chủ nhân của nô tỳ kêu gọi Mao Sào Dân. Ông vốn là đệ nhất tài tử của miền Như Cao, chẳng một ai là không biết tiếng. Còn bà này chính là bà họ Đổng, vị phu nhân sủng sái bực nhất của chủ nhân nô tỳ. Nay chẳng may bị thủ hạ của đại nhân bắt lầm tới đây, rất mong đại nhân tha cho chủ bộc nô tỳ hai người ra về. Trong kinh đô từ vương gia đến các quan ngự sử hầu hết đều là bạn bè thân thích của chủ nhân nô tỳ. Nếu việc này làm cho chủ nhân nô tỳ nổi giận, ông sẽ lên kinh đầu cáo, lúc đó đường công danh của đại nhân e khó mà giữ nổi.

Hồng Thừa Trù nghe con Khấu Khấu nói trong lòng cũng thấy sợ hãi, Trù định thả về nhưng khi nhìn tới Đổng Tiểu Uyển thì lại không thể bỏ được. Ông tặc lưỡi quyết cho phen này làm thì làm luôn một thể. Ông lấy lời lẽ ngon ngọt an ủi:

- Bọn người đừng lo chi. Chỉ vì có kẻ mật cáo chủ nhân ngươi oa trữ đồ gian lại cưỡng đoạt phụ nữ cho nên mới xẩy chuyện. Ta vốn là bạn với chủ nhân ngài. Bởi vậy ta có dặn bọn nha dịch ngầm để chủ nhân người trốn thoát, ta còn sợ bọn du đảng địa phương kéo tới nhà chủ nhân ngươi phá phách, làm phiền đến vị mỹ nhân này, cho nên ta cũng dặn chúng đem bà ta về nha để tránh ít hôm. Khi nào sóng gió êm rồi ta thả cho chủ tớ trở về.

Hồng tổng đốc vừa nói vừa bước sát lại bên cạnh hai người.

Đổng Tiểu Uyển thấy Trù có vẻ mặt đĩ thoã, biết quan tổng đốc chẳng có ý tốt bèn chạy lại bên cây cột đập đầu lia lịa vào để tự sát, máu chảy ra tung toé, ngất xỉu luôn.

Hồi 46

HỒNG TỔNG ĐỐC VU OAN, BẮT GÁI

May được con a hoàn Khấu Khấu giữ lại kịp, nàng Đổng Tiểu Uyển chỉ ngất đi, lúc tỉnh lại, nàng thấy mình nằm trên một chiếc giường nệm gấm gối bông, con a hoàn Khấu Khấu ngồi ngay bên cạnh. Hỏi ra nàng mới biết đây là nơi tư thất của Hồng Thừa Trù. Nàng càng nghĩ tới chồng càng khóc lóc thảm thiết. Con a hoàn Khấu Khấu tái tam khuyên can và bảo nàng:

- Tớ thầy ta hiện nay đang chịu dưới thế lực của Hồng tặc, thiết tương ta nên nhẫn nại đợi chờ. Chủ nhân ở bên ngoài ắt tìm cách cứu bọn ta ra.

Đổng Tiểu Uyển chẳng còn cách gì khác đành phải nghe lời mà nhẫn tâm chờ đợi. Vết thương trên đầu nàng dần dần khỏi hẳn. Thế rồi một hôm, Hồng Thừa Trù uống rượu say nhớ tới nàng, liền cho gọi hai người lại. Trù bảo nàng:

- Mao công tử hiện bị giam trong lao. Độ bốn, năm hôm nữa quân binh sẽ giải đi kinh sư để chém. Ta có ý thương nàng, nên cho nàng biết tin đó. Giả thử nàng chịu cải giá lấy ta, ta sẽ bỏ hết việc trước, ngầm tha cho Mao công tử trốn đi. Lúc đó ta cũng sẽ bỏ quan để cùng nàng tận hưởng hạnh phúc.

Hồng tổng đốc nói còn chưa hết câu thì Đổng Tiểu Uyển đang ngồi dưới đất bỗng lấy tay chỉ mặt ông rồi vừa khóc vừa chửi bới om sòm. Nhưng Hồng tổng đốc đã không giận, trái lại còn cười hề hề bước lại gần giơ tay định nâng nàng dậy.

Chẳng ngờ Đổng Tiểu Uyển bất thần giáng thẳng cánh tát mạnh vào mặt ông đốp một cái chát chúa, vang động cả căn phòng.

Hồng Thừa Trù đau quá hoá giận, tay đập bàn, chân đá ghế, quát tháo, chửi bới um sùm, thậm chí văng tục nào là con khỉ, nào là đồ chết dẫm, nào là con khỉ gió... một hồi lâu rồi mới bỏ ra ngoài. Trù giận bảo đem giam nàng lại. Tức thì có tên xuẩn phụ bước ra, nắm lấy tớ thầy nàng Uyển lôi đi đường ngang lối dọc, mãi một lúc mới tới một căn tiểu lâu.

Chúng đẩy tớ thầy nàng Uyển vào trong rồi khoá chặt cửa.

Nàng Đổng Tiểu Uyển đã mấy lần muốn tìm cái chết cho yên chuyện nhưng đều bị Khấu Khấu cản ngăn và bảo:

- Chủ nhân hết sức cưng quý chủ mẫu. Nếu chủ mẫu chết đi khiến chủ nhân biết được tin này, e rằng chủ nhân cũng không thể sống được.

Lại nói sau khi Mao Sào Dân trốn khỏi nhà, bèn ở ngoài nghe ngóng tình hình, phong thanh được biết rằng mình bị tố cáo toa trữ đồ gian nên hoàng đế hạ chỉ tra xét bắt giữ để xử chém toàn gia. Dân lại được dư luận cho biết thêm rằng Giang Nam tổng đốc hoạ anh đồ hình mình yết thị khắp nơi để lùng bắt. Mao công tử dồn dập được những tin ghê khiếp, không biết chạy ngả nào. May thay, bạn bè của Dân có khắp nơi, cho nên khi chạy tới ẩn tại một người bạn quê quán ở Hấp huyện thì được người này tìm cách bố trí che chở hết sức chu đáo, cấn thận. Dân lại còn cho người tới Kim Lăng để nghe ngóng tin tức tại nha môn của quan tồng đốc. Lúc đó Dân mói vỡ lẽ ra rằng Hồng Thừa Trù chỉ vì muốn đoạt Đổng Tiểu Uyển mà gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi vừa qua. Dân căm phẫn đến cực độ. Dân đã tính tới Kim Lăng quyết sống chết một phen với Trù nhưng một người thị thiếp cố hết sức khuyên can. Người thị thiếp đó tên là Thái Nữ La, hôm đào nạn cũng cùng chạy với Dân. Thái Nữ La bảo Dân:

- Hiện nay, thế lực của Hồng tặc rất lớn. Chủ nhân tới Kim Lăng, tức là tự mình xông vào lưới rọ của chúng. Lúc đó, Uyển ty được tin lại chỉ thêm phiền lòng mà thôi. Thiếp hiện có một kế hoạch mới đây, không biết công tử có ai là người đầy tớ tâm phúc không?

Mao Sào Dân nghe hỏi, suy nghĩ một lát liền gật đầu bảo:

- Có! Có một tên gọi là Phùng Tiểu Ngũ. Mẹ hắn đã chết, chính Đổng Tiểu Uyển đã thấy hắn mua quan quách khâm liệm cho mẹ hắn. Đến khi Uyển lấy chồng về nhà ta thì Phùng Tiểu Ngũ cũng trở thành một đứa đầy tớ trong nhà. Hắn thường nói tới ân đức của Tiểu Uyển. Bởi vậy hắn thế nào cũng mong có dịp hy sinh để báo đức.

Thái Nữ La nghe đoạn, liền thì thầm bàn kế với Dân như vậy... như vậy... thế nào cũng cứu được Tiểu Uyển trở về. Dân nghe kế của Nã La, bèn trở về Thuỷ Hội Viên để tìm người đầy tớ cũ.

Những tay hảo hán giang hồ được tin cũng đều ngầm tới Thuỷ Hội Viên hỏi thăm Dân. Lúc đó Dân bèn nói cho mọi người nghe kế sách của Nữ La. Quả nhiên Phùng Tiểu Ngũ nhảy ra vỗ ngực nói:

- Dù có phải đạp lửa lội nước, tiểu nhân vẫn xin tình nguyện ra đi.

Ngoài Tiểu Ngũ ra cũng còn vài kẻ tình nguyện theo đi để hành sự, cũng lại có cả vài kẻ tình nguyện giúp đỡ tiền nong chi dụng. Riêng Dân cũng xuất ra đến một ngàn quan tiều giao cho Tiểu Ngũ và bao:

- Nha môn họ cần bao nhiêu tiền, ta cũng chịu, miễn là làm sao cho chủ mẫu của ngươi được cứu thoát trở về.

Bọn Tiểu Ngũ vâng dạ ra đi, chỉ chốc lát đã lẩn vào bóng sương mờ. Dân tính xong việc lại trở về huyện đợi tin.

Lại nói Phùng Tiểu Ngũ vốn là một tay hảo hán giang hồ cho nên bọn sai dịch nơi nha môn quan tổng đốc, kẻ nào cũng đều biết mặt. Bởi vậy, khi tới Kim Lăng Ngũ liền đặt một bữa tiệc cho mời bọn anh em nha lại tới nhậu. Rượu đến lúc ngà say. Ngũ bèn đứng dậy gục đầu lạy tất cả cử toạ một lạy, rồi đem câu chuyện chủ nhân mình bị Hồng tổng đốc phao vu tội danh và cưỡng đoạt người thiếp yêu kể lại một lượt cho mọi người nghe. Ngũ lại nói:

- Nay chủ nhân tôi xin đem ngàn vàng, mong cầu chư vị anh em giúp đỡ, lập kế sao cho chủ mẫu được cứu thoát trở về.

Bọn sai dịch nghe Ngũ nói xong, cúi đầu suy nghĩ để tìm kế. Bỗng có một tên công sai hốt hoảng chạy từ ngoài vào, hấp tấp bảo:

- Chư vị huynh đệ xin về ngay tức khắc. Đại nhân vừa tiếp được thượng dụ từ kinh lại, thôi thúc đại nhân phải lên đường lập tức về kinh, hiện đại nhân đã truyền lệnh xuống thu xếp hành lý để chín giờ đêm nay cấp tốc lên đường. Chư vị huynh đệ phải về ngay tức khắc mới được.

Mọi người nghe câu chuyện xáy ra đột ngột quá chỉ còn biết nhìn nhau, mặt mày ngơ ngác gần như mất hồn rồi lặng lẽ đứng lên tản mác chạy đi. Trong bọn, có một tên gọi là Lý Tam, vốn là người bạn chí thân của Ngũ, rất có nhiệt tâm đối với công việc của bạn, bèn bảo Tiểu Ngũ:

- Lão đệ hà tất phải lo buồn! Đêm nay vào lúc canh ba, lão đệ hãy đến chờ tại Mạt Lăng quan, đợi ngu huynh xem chủ mẫu của lão đệ ngồi trong chiếc nào sẽ báo cho lão đệ hay. Lão đệ nên ước hẹn thêm mấy vị huynh đệ nữa rồi nhân dịp xông lên mà cướp về.

Phùng Tiểu Ngũ y theo lời Lý Tam, đến chờ sẵn tại Mạt Lăng quan. Mãi đến lúc trời sắp sáng, Ngũ mới nghe tiếng bánh xe lăn rầm rầm trên mặt đường rồi sau đó thấy một đại đội người ngựa vượt qua: xe của Hồng tổng đốc thì đi đầu, còn phía sau lục tục kéo theo đến năm, sáu chục chiếc xe lớn có thân hình bảo hộ hai bên. Ngũ quan sát từ đầu chí cuối, khi đoàn xe còn có một đội kỵ binh trong có cả Lý Tam. Tam thấy Ngũ vội xòe bàn tay giơ lên ba lần rồi lại xòe thêm hai ngón tay nữa.

Phùng Tiểu Ngũ xem ám hiệu xong đoán biết Đổng Tiểu Uyển ở trong xe thứ mười bảy. Ngũ lặng lẽ theo phía sau đoàn xe. Bọn quan binh đều cưỡi ngựa. Tiểu Ngũ phải chạy bộ nên thở hổn hển, mệt muốn đứt hơi. May thay, bọn chúng áp tống khá nhiều phụ nữ trong xe nên thường thường phải dừng lại để nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Nhờ đó Ngũ không đến nỗi theo không kịp. Đi hết một chặng đường dài, lại qua thêm một trạm nghỉ, bọn binh sĩ từ đó đề phòng hết sức nghiêm cẩn. Ngũ chẳng biết cách nào để hạ thủ.

Vài ngày sau, đoàn xe đã tới địa đầu Hàn Câu, cách thôn Lục Dương chẳng xa là bao. Phùng Tiểu Ngũ vội trở về gọi mấy tay đầy tớ của Mao Sào Dân ngày trước rồi cùng đuổi theo mãi tới bến Thanh Giang. Nhưng đến đây, bọn Tiểu Ngũ ngạc nhiên vì không còn thấy Lý Tam ở trong bọn. Tìm cách dò la Ngũ mới biết rằng vì có việc khẩn yếu nên Hồng tổng đốc phải đem theo Lý Tam và cả bọn thân binh ngày đêm đi gấp về trước, bọ lại sau khả nhiều xe chở bọn phụ nữ cho bọn quân sĩ hộ tống từ từ về sau. Thực ra, đó chỉ là chuyện Hồng Thừa Trù vẽ ra để tránh tai mắt của thiên hạ mà thôi.

Phùng Tiểu Ngũ nghe tin, hết sức mừng rỡ đinh ninh rằng đây là một cơ hội tốt cho mình.

Đêm đó, Ngũ được tin chiếc xe thứ mười bảy cùng với các chiến khác đều vào nghỉ trọ trong Duyệt Lai khách điếm. Bọn phụ nữ đều nằm ngủ trong xe như cũ. Sang canh tư, Tiểu Ngũ ước hẹn với mấy tay đồng bọn, lặng lẽ bò lên nóc nhà. Bọn quan binh nhân vì không có mật quan tổng đốc nên tham ít chén rượu ngủ lăn như chết. Bọn Ngũ phi thân nhảy vào nội viện, nhận thấy chiếc xe mười bảy có bức rèm che màu phấn hồng. Bọn Ngũ vội nhảy lên xe, thác rộng bức rèm, quả nhiên thấy con a hoàn Khấu Khấu của Đống Tiểu Uyển đang nằm ngủ ngay của xe dưới ánh trăng mờ. Bọn Ngũ lúc đó cũng không còn nhiều thì giờ để nhìn kỹ, bèn giật lấy hai cái chăn cướp hai người trong xe, quấn chặt lại mở cửa tửu điếm, phi thân chạy như bay về phía trước. Hai người con gái trong chăn đang ngủ mê bỗng choàng tỉnh lại, kêu khóc inh ỏi. Bọn Ngũ một mặt chạy, một mặt vỗ vào chiếc chăn bảo:

- Đừng kêu? Bọn tôi đi cứu nàng về đây mà!

Điếm tiểu nhị cũng như bọn binh sĩ lúc đó đều giật mình tỉnh dậy hè nhau đuổi ra cửa, nhưng bọn Ngũ chạy đã xa rồi.

Bọn họ quay vào trong viện xem xét mới biết người con gái và tên a hoàng trong xe thứ mười bảy đã bị cướp đi mất.

Họ một mặt báo quan truy nã thủ phạm, một mặt hộ tống đoàn xe lên đường, ngày đêm đi gấp qua địa phận Sơn Đông rồi mấy ngày sau đã về tới Kinh sư.

Lại nói Phùng Tiểu Ngũ cướp được chủ mẫu và con a hoàn Khấu Khấu, chạy một mạch về tới nhà một người bạn, mở chăn ra xem, thì con a hoàn Khấu Khấu có đấy, nhưng còn cô gái kia nào phải chủ mẫu. Bọn Ngũ lấy làm lạ, hỏi ra mới được con a hoàn Khấu Khấu bảo:

- Chủ mẫu đi đường bị cảm mạo phong hàn nên mấy hôm trước đã đổi qua chiếc xe hồ luân ở sau dành riêng cho bệnh nhân.

Phùng Tiểu Ngũ lại hỏi:

- Thế cô gái này là ai?

- Thiếp vốn họ Kim, cũng là gái trong gia đình lương thiện, bị thủ hạ của Hồng tổng đốc bắt về nha môn làm thị thiếp. Nay túc hạ vì lầm đã mang được thiếp tới đây thì đó là đã cứu được mạng thiếp. Thiếp không còn nhà để về, vậy thiếp xin theo túc hạ về nhà, nguyện xin hầu hạ chủ nhân của túc hạ suốt đời.

Ngu thấy người con gái kia không phai là chủ mẫu của mình cho nên chẳng có tâm nào mà nói chuyện với nàng, Ngũ bèn cho đồng bọn đem Kim thị và Khấu Khấu về nhà mình rồi lại lên đường và đuổi theo đoàn xe lên kinh.

Khi tới Bắc Kinh, Phùng Tiểu Ngũ được tin Đổng Tiểu Uyển đang ở tại phủ đệ của Hồng Thừa Trù, nhưng vẫn chưa bị độc thủ của họ Hồng. Phủ đệ của họ Hồng trùng trùng điệp điệp, quân lính canh phòng nghiêm mật, bảo Ngũ hạ thủ làm sao cho được.

Cách ít hôm, Ngũ được tin của chủ nhân mình cho biết ông có một người bạn chí giao ở kinh sư tên gọi là Tào ngự sứ có thể đến đó cầu khẩn ông ta giúp đỡ. Ngũ y lời, vội đến nhà Tào ngự sử xin yết kiến. Ngũ đem hết những chuyện đã xảy ra kể cho quan ngự sử họ Tào nghe. Tào ngự sử cà giận nói:

- Đối với tên lão tặc họ Hồng này, ta không làm một bản tấu chướng tàu lên thì làm sao tỏ rõ được thủ đoạn của tay lão Tào này?

Nói xong Tào ngự sử bảo Tiểu Ngũ trở về viết ngay một tờ cáo trạng đề cho ông căn cứ vào đó mà xuất thủ. Tiểu Ngũ lãnh ý vội về, chạy cùng khắp nơi mất đến ba ngày mới tìm được một anh biết viết đơn kiện.

Không ngờ anh chàng này một khi được biết Ngũ định tố cáo đại học sĩ Hồng Thừa Trù thì giật mình đánh thót một cái. Hắn vốn quen Hồ Lão Cửu, một môn đinh trong phủ đại học sĩ. Bởi vậy một mặt hắn lờ đi như không biết gì, miễn cưỡng viết giùm tờ cáo trạng cho Ngũ nhưng mặt khác hắn báo ngầm vào trong phủ. Hồng Thừa Trù được tin một mặt sai người lấy một đỉnh vàng y thưởng cho anh chàng viết mướn, một mặt bàn tính với đám môn khách thủ hạ. Trong đám môn khách có một ngòi tên gọi Từ Cửu Như, bèn nghĩ giúp ông một kế đó là kế sét đánh chẳng kịp bưng tai, đem dâng ngay Đổng Tiểu Quyến vào cung.

Quả nhiên Thuận Trị hoàng đế vừa thấy nàng thì đã mê ngay. Tuy được vua yêu nhưng nàng Uyển không thể nào quên được Mao Sào Dân. Khi bệ kiến hoàng đế, bọn cung nữ bảo nàng quỳ xuống, nhưng nàng chỉ gục đầu nhỏ lệ khóc ròng.

Hoàng đế thấy nàng khóc lóc thật đáng thương bèn bảo bọn cung nữ đưa nàng qua biệt cung và dặn phái trông coi săn sóc chu đáo.

Đổng Tiểu Uyển ở lại biệt cung, được hết sức ưu đãi. Hoàng đế cung thường tới đó thăm nàng, dùng lời lẽ dịu ngọt an ủi ủi nàng. Dù hoàng đế có thiên ngôn, vạn ngữ, nào an ủi, nào khuyên bảo, nàng Tiểu Uyển cũng vẫn im lặng chẳng chút trả lời. Thế mà hoàng đế cũng chẳng giận, cứ ngồi một lúc rồi lại đi.

Tình trạng đó kéo dài đến mấy hôm, Đổng Tiểu Uyển tự nhủ răng vị hoàng đế này tính tốt chớ không xấu xa hung bạo.

Thế rồi lâu ngày vê sau, lòng nàng cũng vơi bớt sầu bi. Bọn cung nữ thấy nàng đã chịu nói năng trò chuyện, bèn hỏi thăm về lai lịch của nàng thì nàng kể hết cho họ nghe. Bọn cung nữ bảo nàng:

- Nếu vậy thì Hồng Thừa Trù chính là kẻ thù của nàng. Nàng có nghĩ đến chuyện báo thù hay không?

Đổng Tiểu Uyển nghiến răng tức giận nói:

- Kiếp này không trả được thù này thì kiếp sau tôi cũng phải trả cho bằng được.

Bọn cung nữ lại nói:

- Nếu nàng muốn báo thù thì điều thứ nhất nàng phải thuận lấy hoàng đế đã. Khi được ngài sủng ái rồi, nàng sẽ nhờ thế lực của hoàng đế mà báo thù riêng, như thế có phải thượng sách không.

Câu nói đó làm cho Đống Tiểu Uyển tỉnh ngộ. Nàng nghĩ: "Thân mình một khi đã lọt vào cung thì khó lòng thoát, chi bằng ta tương kế tựu kế, thay Mao công tử báo cái thù này". Quả nhiên chỉ mấy hôm sau Thuận Trị hoàng đế đã phong cho Tiểu Uyển làm Thục phi. Nhà vua sợ bên ngoài bàn tán cho rằng ngài lấy gái Hán làm phi tử, nên ngài đối tên họ nàng thành Đống Ngạc thị và gọi nàng là Đống Ngạc Phi.

Hồi 47

NHƯ CHIM LIỀN CÁNH, NHƯ CÂY LIỀN CÀNH

Thuận Trị hoàng đế từ khi được Đổng Ngạc Phi thật là vừa đôi phải lứa, lúc nào cũng khanh khanh trẫm trẫm khiến bao nhiêu sầu buồn tích luỹ từ trước đều tiêu tan như tro bụi.

Về phía Đổng Ngạc Phi, nàng cũng một lòng phụng sự hoàng đế, có vẻ như quên hẳn người yêu xưa là Mao công tử.

Nàng ngấm ngàm mua chuộc bọn cung nữ cũng như thái giám trong cung hoàng Thái hậu, và cũng nhờ đó nàng mới biết được chuyện ngoại tình giữa bà Thái hậu với Hồng học sĩ.

Hoàng Thái hậu tuy nói rằng tấm hồng nhan đã luống tuổi xuân nhưng mỗi lần soi kiếng bà vẫn còn tin tưởng ở dĩ vãng vàng son của mình. Từ khi Đa Nhĩ Cổn chết, bà đã trải qua bao đêm võ võ phòng không trong chốn cung vi.

Bà hồi tưỏng lại thuở trước, biết bao bạn hữu của bà đều đã chết, chỉ còn lại có Hồng Thừa Trù xa xôi cách trở mãi Giang Nam. Bởi vậy bà bèn ngầm hạ đạo ý chỉ, gọi người bạn già về Kinh để những lúc buồn phiền có kẻ chuyện trò đấm bóp giải khuây.

Tất cả nhưng uẩn khúc đó của Thái hậu đã bị Đổng Ngạc Phi tìm hiểu rõ cả. Nàng tự nhủ với lòng quyết lợi dụng cơ hội gợi chuyện trước hoàng đế để tính mạng của tên Hồng tặc phải đi đứt chuyến này và chỉ cỏ thể mới thoả lòng oán hận của mình. Ý đã định, nàng quyết thực hiện.

Cách ít hôm, trời bỗng oi bức khó chịu. Hôm đó Đổng Ngạc Phi nằm ngủ trưa trên chiếc long sàng. Thuận Trị hoàng đế bất chợt tới nơi. Bọn cung nữ vội chạy vào gọi nàng tỉnh giấc để đi tiếp giá. Nhưng hoàng đế lắc tay ngăn lại bảo đừng. Rồi ngài tự tay vén bức rèm nhưng, rón rén bước vào. Nàng Tiểu Uyển lúc đó nằm nghiêng trên giường thiêm thiếp giấc nồng một bên má để lộ chút phấn hồng, càng làm tăng thêm phần duyên dáng đáng yêu của cái sắc chim sa cá lặn.

Thuận Trị hoàng đế bước sát lại cạnh giường. Ngài thấy Tiểu Uyển đôi mắt nhắm, mùi hương phảng phất, đang say sưa ngủ. Ngài lại nhìn đôi hài phía dưới, nhỏ như hình cái búp măng mùa xuân. Ngài thấy chúng xinh quá, liền cúi xuống lượm lên, lật đi lật lại trong tay. Khi nhìn tới gót hài, ngài bỗng thấy năm chữ "Châu diên nhu tiến trình" thêu bằng chỉ gấm.

Ngài gật đầu rồi mỉm cười trí ngài như đang để vào một chuyện gì. Một luồng gió nhẹ thổi từ ngoài vào lọt qua cửa số làm tung vạt áo lụa trên mình phi tử để lộ ra một miếng áo lót màu hồng trên đó có thêu một đôi chim uyên nhỏ đang quấn quýt bên nhau màu sắc thật là tươi đẹp. Ngắm nhìn một lát hoàng đế bất giác đâm ra bâng khuâng sờ sững.

Giữa lúc vắng lặng đó. Đồng Ngạc Phi bỗng tỉnh giác, nàng mở mắt ra thấy hoàng đế miệng cười chúm chím đang đứng phía trước. Nàng vội tuột xuống giường quỳ trên mặt đất để tiếp giá. Hoàng đế giơ tay nâng nàng dậy cười nói:

- Trời nóng nực như vậy, ở trong nhà mà làm gì! Phi đi hái sen với trẫm ở Thập Sát hải đi!

Đống Ngạc Phi tươi cười tuân chỉ. Nàng lại nói:

- Thần thiếp chưa tắm gọi gì cả Vạn tuế xin hãy ngồi ở ngoài nhà một lát.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong, nghiêng đầu, tỏ ý lẳng lơ cười bảo:

- Trẫm chính đang muốn xem ái khanh tắm gội đây mà!

Đổng Ngạc Phi vội quỳ xuống tâu:

- Thần thiếp đâu có dám làm bẩn mắt vạn tuế. Lỡ bọn ngoại thần biết được thì còn ra thể thống gì nữa.

Hoàng đế xua tay lia lịa bảo:

- Sợ cái quái gì? Bọn ngoại thần đâu có để ý tới những chuyện đó. Nếu khanh xấu hổ, thì hãy bảo bọn cung nữ bỏ bức mành tương xuống. Trẫm ở phía ngoài nhìn xem cũng được rồi.

Đổng Ngạc Phi hết phương chối từ, đành phải bảo bọn cung nhân sửa soạn hương thang (nước nóng pha hương thơm), mở bức mành tương.

Thuận Trị hoàng đế ngồi ngoài mành nhìn vào bốn cung nữ vây chung quanh Đổng Ngạc Phi để kỳ cọ. Ngoài ra còn có bốn đứa nữa đứng canh, tay cẩm khăn mặt, kiếng soi, áo tắm nước hoa, thôi thì hằng hà vô số.

Một lát sau, Đổng Ngạc Phi tắm xong. Nàng trang điểm son phấn, cuộn bức mành tương. Hoàng đế bước lại gần, cười nói:

- Làn da của khanh sao mà trắng mịn thế! Khanh quả thật xứng với cái tên người ngọc.

Đồng Ngọc Phi nghe lời tán tụng của hoàng đế bỗng đôi má ửng hồng. Hoàng đế ngồi bên cạnh lặng lẽ ngắm nàng trang điểm. Rồi khi thấy nàng trang điểm đã xong ngài cầm tay nàng chạy ra khỏi cung, bước lên lương kiệu (kiệu đi chơi mát).

Bọn thái giám khiêng kiệu, chạy tới Thập Sát hải.

Thật Sát hải là một vùng hồ sen bao la bát ngát, rộng có lối mười mẫu. Mỗi một cơn gió mát thối là mỗi lần lá sen lật lên úp xuống và đưa mùi hương thơm ngào ngạt khắp bốn phương. Bởi vậy cứ tới hồ sen là bất cứ ai cũng cảm thấy mát mẻ. Từ trong khóm sen giữa cầu, một chiếc thuyền vẽ từ từ ghé sát gần bờ. Bọn cung nữ đưa hoàng đế và phi tử lên thuyền, chèo ra giữa hồ. Nàng phi tử giơ tay hái một đoá hoa sen trắng dâng cho hoàng đế. Ngài cầm ngắm nghía, còn một tay cầm lấy tay nàng. Cả hai người ngồi trong cửa sổ của khoang thuyền, nhìn bọn cung nữ hái sen ngồi trên những chiếc mảng nhỏ nhắn xinh xinh đang lướt đi, lướt lại giữa những cụm sen lá xanh bông trắng, miệng hát bản thái liên khúc vừa êm ái vừa dịu dàng. Những tiếng hát duyên tình say mộng đó, vang đến tai hoàng đế, ngài luôn miệng khen hay.

Một lúc lâu bọn cung nữ, hái đã được khá nhiều hoa sen đem vào dâng cho hoàng đế. Ngài bảo xếp hết xuống dưới chân Đổng Ngạc Phi. Nàng ngồi trong khoang chung quanh đầy hoa sen; sắc hoa sánh với mặt người, mặt cùng như hoa trăm phần tươi đẹp.

Thuận Trị hoàng đế bất giác thở dài sung sướng thốt ra:

- Ái khanh quả có thể làm Liên Hoa tiên tử được.

Từ đó về sau bọn cung nữ đều gọi Đổng Ngạc Phi là Liên Hoa tiên tử. Hoàng đế sai dọn tiệc để cùng phi tử đối ẩm.

Hai người nâng chén tặng mời. Bọn cung nữ xếp bằng tròn ngồi cưới ván thuyền. Hoàng đế truyền lệnh ca nhạc. Tức thi những tiếng đờn tiếng phách dạo lên, những tiếng hát trong mà êm hoà theo:

"Trông bình khang

Nhìn thành Phượng

Liễu xanh buông mành cửa Thiên môn

Trên đường tơ tía rũ lơ thơ

Này Du lang chàng ơi!

Nhà ai én liệng song song,

Xa cách sông xưa

Khói xanh quyện sổ.

Ngắm trời trong tựa đường hóng hạnh

Cầu dài ván ghép,

Một giải xa xa gợn sóng tình,

Này đây quán rượu,

Nọ chốn trà lâu.

Giọng ai văng vắng tiếng mua hoa.

Sau sâu ngõ hẹp bóng ngang qua

Cành liễu la đà!"

Tiếng ca nhạc càng về sau càng rét rắc du dương. Nào du tử, nào tiên nương, ai lại chả vì hoa vì nhạc mà để hồn bâng khuâng mơ mộng.

Tiếng ca nhạc vừa dứt thì thuyền cũng vừa cập bến mé tây. Nhìn lên, Thuận Trị hoàng đế thấy cây cỏ xanh tươi, bóng râm mát rượi, người bỗng cảm khoái thốt ra:

- Thật là cả một thế giới thần tiên tao nhã!

Nói đoạn, ngài dắt tay Đống Ngạc Phi bước lên bờ chờ đợi, dặn bọn thái giám và cung nữ ở lại bên bờ chờ chứ không được đi theo. Thế là Đế Phi hai người, vai kề vai tay trong tay, bước dần vào lùm cây cao bóng rợp.

Đứng trước cảnh đẹp, Thuận Trị hoàng đế bỗng nổi sóng tình, vụt mở rộng đôi tay, ôm ghì tấm thân ngà ngọc của nàng Phi vào lòng, rồi từ từ đặt cái hôn nồng cháy vào miệng người ngọc. Ngài cười nói.

- Trẫm với khanh chẳng khác nào một cặp vợ chồng quê mà mặc tình ái ân vui sướng.

Nghe xong lời nói yêu đương của nhà vua, Đổng Ngạc Phi bỗng lệ sa thành giọt, đôi má phấn hoen nước mắt, mặt rầu rầu như bông hạnh sau cơn mưa.

Hoàng đế thấy vậy lại càng thương yêu. Ngài vội ôm sát nàng vào lòng thì thầm căn dặn. Đổng Ngạc Phi sụt sịt một lúc rồi mới nói:

- Thần thiếp thân hèn chẳng khác chi loại cỏ nội. May mà được ánh chiều dương soi rọi thần mới được hưởng vinh hoa phú quý. Rồi đây, gió thu thổi lạnh thâm cung, ôi thê lương biết bao cho thần thiếp!

Hoàng đế nghe xong liền vừa vuốt tóc người yêu vừa dặn dò:

- Ái khanh hãy an lòng! Trẫm được ái khanh giống như cá được nước. Chẳng những đời này nguyện cùng nhau trăm năm đầu bạc mà còn nguyện làm vợ chồng kết tóc xe tơ mãi mãi hết kiếp này đến kiếp khác. Trẫm cũng xin nói như Đường Minh Hoàng thuở nọ. Ở trên trời thì nguyện làm chim liền cánh ở dưới đất thì nguyện làm cây liền cành. Nếu khanh chẳng tin, trẫm sẽ nhìn trời mà lập thệ.

Thuận Trị hoàng đế vùa nói vừa giơ tay nắm lấy vai Đống Ngạc Phi kéo xuống rồi hai người song song quỳ dưới thê môn. Ngài lâm râm khấn:

- Hoàng thiên ở trên trời, tôi là Ai Thân Giác La Phúc Lâm cùng với Phi tử Đổng Ngạc thị xin nguyện ở đời này trăm năm đầu bạc, muôn đời về sau kết thành vợ chồng, chẳng bao giờ lìa nhau. Thảng hoặc giữa đường gặp biến, tôi nguyện từ bỏ thiên hạ để bảo toàn tình nghĩa vợ chồng.

Đổng Ngạc Phi nghe đoạn, vội dập đầu tạ ơn. Hoàng đế nâng dậy. Nàng liền nhân dịp này tâu rõ cho hoàng đế biết việc nàng bị Hồng học sĩ bắt đem về kinh, trong nhà còn có người anh ruột tên Sào Dân chẳng biết sống chết ra sao, khiến đêm ngày tâm niệm không quên. Bởi vậy, nàng cầu xin ân đức của ngài tuyên triệu Sào Dân vào cung để anh em có dịp gặp nhau thì dù chết cũng yên lòng nhắm mắt.

Thật là một việc quá tầm thường đối với một vị hoàng đế oai quyền khắp bốn bể! Bởi vậy lời cầu xin của Đổng Tiểu Uyển được Thuận Trị hoàng đế chấp thuận ngay.

Ngay ngày hôm sau hoàng đế hạ chỉ cho tổng đốc Giang Nam tuyên triệu Sào Dân lên kinh. Ít hôm sau, Mao Sào Dân tiếp được thánh chỉ, lập tức khởi trình.

Lại nói Hồng Thừa Trù đem Đổng Tiểu Uyển vào cung, tưởng rằng nàng vốn trinh liệt thế nào cũng chết ở trong cung. Đó chính là dụng ý nhờ đạo giết người. Chẳng ngờ sau khi vào cung nàng lại được hoàng đế sủng ái muôn phần, đến nỗi nhiều hôm ngài bãi cả chầu để tìm vui nơi người đẹp.

Họ Hồng biết chắc rằng Đổng Tiểu Uyển khi được sủng ái thế nào cũng tìm cách báo thù. Bởi vậy y liền nghĩ kế sách hạ thủ trước là hơn.

Y bèn kế vạch với thái hậu là hoàng đế tự ý lấy gái Hán bỏ phế cả triều đình. Thái hậu được tin này cả giận, lập tức muốn tới gặp hoàng đế. Họ Hồng ngăn lại bảo:

- Việc này phải chầm chậm giải quyết mới được. Trước hết thái hậu hãy hạ một đạo ý chỉ cấm gái Hán vào cung. Có thế thì sau này khi tra xét cung đình ta mới có cớ để kết tội.

Thái hậu nghe kế, liền hạ một ý chỉ cấm chỉ việc thông hôn giữa Mãn và Hán (nghĩa là người Mãn và Hán không được lấy nhau), lại không cho tuyển gái Hán làm cung nữ. Bà con cho treo tại phía trong cửa Thần Võ một tấm biển trên viết: "Kẻ nào đưa gái Hán vào cung sẽ bị chém!".

Thuận Trị hoàng đế đọc tấm biển, trong lòng ngấm ngầm lo lắng cho Đổng Ngạc Phi.

Qua được mấy hôm, Mao Sào Dân tới kinh. Đổng Ngạc Phi tiếp kiên tại cung Khôn Ninh. Tất nhiên khi gặp nhau, hai người có cả một nỗi lòng buồn vui khôn tả. Chỉ vì bọn cung nữ đứng trước mặt nên họ đành phải dùng tiếng anh em mà xưng hô. Trong khi trò chuyện, hoàng đế cũng triệu Sào Dân tới, hỏi han, rồi ban yến tại hoàng cung. Yến tiệc xong. Sào Dân lại được vào nội cung để gặp Tiểu Uyển. Hai người nói đến những lúc ân tình thuở nọ mà nay chịu cảnh phân ly thì bốn dòng lệ tuôn xuống như mưa. Hàn huyên còn nhiều điều muốn nói nhưng cung cấm đâu có phải là chỗ ngồi lâu nói nhiều.

Mao Sào Dân đành gượng gạo đứng dậy cáo từ lui ra. Lúc lâm biệt, hoàng đế thưởng cho Dân năm trăm lạng vàng, còn hạ chỉ cho tổng đốc Giang Nam kiến tạo hoa viên cho Dân và hết sức che chở.

Lại nói từ khi Mao Sào Dân từ biệt về quê thi Đống Ngạc Phi lòng buồn rười rượi bất giác nàng lâm trọng bệnh, suốt ngày đêm ngủ li bì trên giường. Quan ngự y đến chẩn bệnh và bốc thuốc. Hoàng đế cũng luôn luôn lại thăm, dùng lời ngon ngọt an ủi.

Trong khi Đổng Tiểu Uyển đang ốm yếu mê man thì bỗng bọn cung nữ, báo tin thái hậu tới. Tiểu Uyển giật mình hoảng sợ đến đổ mồ hôi hột, vội gượng dậy trang điểm.

Bỗng bốn tên cung nữ bước vào, không nói không rằng, túm ngay lấy Tiểu Uyển khiêng tắp ra ngoài. Thái hậu mặt hầm hầm ngồi ngay tại giữa nhà. Bọn cung nữ đưa Đổng Tiểu Uyển tới trước rồi bắt nàng quỳ xuống.

Hồi 48

THUẬN TRỊ BỎ ĐI TU

Đổng Tiểu Uyển mặt cúi gầm vừa quỳ xuống thì bà thái hậu quát lên ầm ĩ:

- Con khốn nạn kia! Ngửng mặt lên cho tao xem mày mặt ngang mũi dọc ra sao nào?

Tức thì một tên cung nữ bước tới nắm lấy mớ tóc sau ót của Tiểu Uyển giật ngửa ra sau làm cho mặt nàng hất giơ lên trước. Thái hậu cười nhạt nói:

- À, mặt mũi con này bảnh bao lắm! Tát vào mặt nó cho tao!

Thế là tên cung nữ giơ thẳng cánh, cứ hai bên má nàng tát lấy tát để, một hơi đến ba bốn chục cái, đến nỗi đôi má nàng sưng híp và thâm tím cả lại, mắt đổ hào quang. Lòng nàng lúc đó vừa tức vừa rối loạn. Bỗng nhiên mắt nàng tối sầm rồi nàng mê đi.

Bọn cung nữ lấy nước lã tạt vào mặt nàng. Đống Tiểu Uyển dần dần tỉnh lại. Thái hậu bảo tên cung nữ hỏi nàng từ đâu tới. Nàng vừa sụt sùi khóc vừa cung khai lai lịch của mình một cách cặn kẽ. Tuy nhiên nàng vẫn cố giấu một điểm mà chỉ khai nàng vốn con gái họ Mao chứ không phái con dâu họ Mao.

Giữa lúc đang cung khai như vậy, Thuận Trị hoàng đế từ ngoài hối hả chạy vào. Ngài vốn sợ Thái hậu nên khi thấy cảnh tượng đó ngài chỉ biết cúi đầu, cung kính đứng nép một bên, chẳng dám nói một câu. Thái hậu hỏi Tiểu Uyển xong liền truyền lệnh cho bọn cung nữ đem đánh cho kỳ chết.

Tức thì, bốn tên kỳ phụ thô lỗ tay cầm chiếc côn sơn đỏ, tay cầm một chiếc bao bố màu đỏ xáp lại và sắp sửa ném nàng vào đó.

Đây là một lối trừng phạt trong cung Mãn thời đó. Hễ người cung nữ nào bị tội chết, thì dùng bao bố để bỏ vào rồi lấy côn đánh tới tấp cho đến chết mới thôi.

Thuận Trị hoàng đế lúc này không thể nhịn được nữa, bèn quỳ xuống trước mặt Thái hậu năn nỉ thay nàng.

- Nàng vốn là con nhà lương thiện mà Hồng học sĩ đem tiến vào cung. Nếu Thái hậu muốn đánh chết thì trước hết hỏi tội ông ta.

Vừa nghe hoàng đế nói tới Hồng học sĩ, Thái hậu chạm đến lòng riêng, tức thì lòng bà mềm lại, Bà bảo bọn cung nữ ngừng tay và đuổi nàng ra khỏi cung, Thuận Trị hoàng đế lại kêu nài.

- Người con gái Hán này đã ở trong cung lâu ngày, nếu đuổi ra khỏi cung thì thể diện của hoàng gia có chỗ bất tiện lắm!

Nghe hoàng đế nói vậy, thái hậu thấy có phần đúng, bèn bảo bọn cung nữ đưa nàng ra giam tại chùa Ngọc Tuyền ở Tây Sơn. Hoàng đế lại khẩn cầu lần nữa. Nhưng Thái hậu chỉ vào mặt ngài thét lớn:

- Mày có thấy chỉ ý của ta yết ở Cửa Thần Võ không? Gái Hán mà vào cung thì bị chém đầu, nay ta nể mặt mày nên tha cái mạng cho con khốn nạn đó, mày còn muốn gì nữa?

Nói đoạn, bà quát báo bọn cung nữ lôi ngay nàng Đổng Tiểu Uyển ra khỏi cung. Một chiếc kiệu nhỏ chực sẵn bên ngoài.

Bọn cung nữ đấy nàng lên kiệu, bọn nội giám nhấc chiếc kiệu lên vai, rồi vội vã đưa nàng tới chùa Ngọc Tuyền tại Tây Sơn - Chùa Ngọc Tuyền vốn dành riêng cho các nhà sư Lạt ma tu hành. Theo qui cũ của cung nhà Thanh thì khi người cung nhân phạm tội nặng thì bị đánh chết, nhưng nhẹ thì gửi chùa học Phật.

Nàng Đống Tiểu Uyển từ khi tới chùa tự cảm thấy lòng nhẹ lâng lâng ngày đêm lễ Phật niệm kinh.

Nàng tự biết mình kiếp hồng nhan bạc mệnh cho nên quyết rũ sạch nợ trần dốc tâm tu đạo. Chẳng mấy ngày, nàng đã học thuộc lòng tất cả những bộ kinh trong chùa. Nàng vốn thông minh, thẩm thấu ảo lý của kinh điển nên ân oán đôi đường nàng đều bỏ đi hết, nào là Mao Sào Dân, nào là Thuận Trị hoàng đế nàng cũng đều quên đi cả.

Thuận Trị hoàng đế trái lại, mong nhớ nàng càng ngày càng kịch liệt. Từ khi nàng ra khỏi cung, hoàng đế tuy có cả một bầy cung tần mỹ nữ đông đảo hầu hạ ngày đêm nhưng ngài lúc nào cũng nhớ tới nàng ngày đêm khóc lóc bi thảm.

Thế rồi ít lâu sau, không còn nhẫn nại đước nữa, ngài bèn bỏ ra rất nhiều tiền cho bọn cung nữ và thái giám nhờ che mắt Thái hậu, để cho ngài lén lên chùa Ngọc Tuyển với Tiểu Uyển. Hai người gặp nhau, chỉ còn biết ôm nhau khóc vùi.

Về sau, Tiểu Uyển đem chuyện hồng trần hư ảo ra khuyên can và an ủi hoàng đế, nhưng ngài vẫn tha thiết một lòng chẳng muốn rời tay. Ngài ở lỳ trong chùa Ngọc Tuyền luôn ba ngày không chịu về cung. Thái hậu biết chuyện liên sai nên tổng quản thái giám đem kiệu tới để tiếp giá và bảo:

- Nếu hoàng thượng không chịu về cung, Thái hậu sẽ đích thân tới chùa.

Đổng Tiểu Uyển cũng khuyên nài hoàng đế nhiều lần và bảo ngài:

- Bệ hạ nếu không quên thiếp, thì xin được gặp lại ở Ngũ Đài sơn sau này.

Thái hậu lại cho thái giám tới giục và bắt buộc lần nữa, lúc đó Thuận Trị hoàng đế không còn biết làm thế nào đành phải lên kiệu trở về cung. Nhưng có ngờ đâu hai hôm sau, bỗng tên nội giám quản thủ chùa Ngọc Tuyền tơi báo cho ngài biết Đồng Ngạc Phi tự nhiên biến mất, không thấy đâu nữa.

Hoàng đế được tin này, trong lòng thương xót vô tận. Ngài bèn ngầm sai bọn thái giám tin cẩn đi khắp nơi dò la tìm kiếm nhưng tuyệt vô tung tích. Ngài cho gọi tên cung nữ hầu hạ Tiểu Uyển tới hỏi thì tên cung nữ này nói:

- Phi tử thành tiên biến đi rồi. Số là cách đây mấy hôm giữa một đêm gió mát trăng thanh, mọi người chỉ thấy phí tử ngắm trăng đi lại nhởn nhơ trên đạo đài phía sau chùa.

Bọn nội giám vội chạy tới xem thì bỗng phi tử biến đâu mất, không còn lại chút vết tích nào. Như vậy nếu không phải thành tiên biến đi rồi thì còn là gì.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong đã không lấy làm buồn, mà còn lấy làm sung sướng, vỗ tay nói:

- Trẫm đã nói nàng là Liên Hoa tiên tử nay quả nhiên nàng thành tiên thật. Trẫm phải làm sao bây giờ?

Nói đoạn, ngài cười lên sằng sạc như điên.

Tin này truyền đến tai Thái hậu. Bà sợ hoàng đế điên nên sai người ngầm tới Tây Sơn đang đêm phóng một mồi lửa đốt chùa. Chùa Ngọc Tuyền cháy rụi, chỉ còn trơ lại một đám đất đen xám. Đáng thương cho bọn thái giám, cung nữ bị ngọn lửa bạo tàn thiêu chết theo chùa. Trong số này, người ta thấy có xác một người cung nữ trông hao hao như nàng Đổng Tiểu Uyển. Thái hậu bèn dặn bọn cung nữ phao tin là nàng Tiểu Uyến đã bị chết cháy. Tin này đến ai hoàng đế. Một điều lạ đối với mọi người là ngài thản nhiên như chẳng có một chút gì gọi là bi thương cả.

Nhưng rồi một tin động trời bỗng truyền đi nhanh như chớp: Hoàng đế đã bỏ đi mất rồi.

Khi tới thư phòng của ngài, người ta lượm được tờ chiếu do chính tay ngài viết:

"Thái Tổ, Thái Tông sáng cơ lập nghiệp là việc rất trọng. Việc nối dõi không nên khiếm khuyết lâu ngày. Con của trẫm là Huyền Hoa do Đông Giai thị sanh ra, thông minh đỉnh ngộ có thể kế nghiệp tổ tông. Nay lập Hoàng thái tử, lên ngôi hoàng đê. Trẫm đặc mệnh bọn nội đại thân Sách Ni,, Tô Khắc Tát, Cáp Quá, Tất Long, Nhao Bái làm phụ thần (bầy tôi phò tá).

Bọn họ là những cựu thần có công lớn, trẫm đem tâm phúc để ký thác. Hãy gắng sức tỏ lòng trung, bảo hộ tự quân lo giúp việc cai trị, bố cáo khắp trong ngoài, khiến đều nghe biết, Khâm thử".

Thái hậu đọc xong tờ chiếu, ngẩn người một lúc lâu rồi truyền cho bọn cung nữ đi tìm nội đại thần Ngao Bái vào cung, tính mọi việc xong xuôi rồi mới truyền dụ ra ngoài nói hoàng đế bị cấp bệnh đã mất, di chiếu lập thái tử Huyền Hoa lên ngôi.

Tin này loan truyền ra ngoài, văn võ bá quan hớt ha hớt hải vội tề tựu ngoài cửa Đại Thanh môn đợi chỉ. Lệnh thái hậu ban ra phàm quan Mãn cũng như quan Hán, tất cả không được vào cung, đợi sáng mai triền kiến tân hoàng đế tại điện Thái Hoà.

Qua ngày hôm sau, văn võ đại thần, bối lặc, thân vương nhất tề đợi giá tại điện Thái Hoà.

Tĩnh tiên (roi dùng để ra lệnh yên lặng khi làm lễ triệu bái) đập xuống ba lần, tân hoàng đế đăng vị. Thái tử Huyền Hoa năm đó mới có tám tuổi, ngồi trên ngai vàng, chịu trăm quan triều hạ. Ngao Bái và Hồng Thừa Trù đứng ở hai bên.

Hoàng đế hạ chỉ cải hiệu là Khang Hi, mặt khác, sai lo việc tang ma cho Thuận Trị hoàng đế tại Bạch Hổ Điển.

Lại nói Thuận Trị hoàng đế khi đó đã lẻn ra khói cung, bèn cải trang thường phục cho nên chẳng ai biết mà ngăn cản, cật vấn. Vốn sinh trưởng trong cung cấm ngài chẳng thuộc đường trong kinh thành. Ngài nghĩ nên theo hướng Tây mà đi. Lần lủi đi một lúc lâu, ngài đã ra khỏi thành Bắc Kinh.

Lúc đó vào lúc cuối thu, khí trời lạnh lẽo.

Nhìn phía trước mặt thấy cả một vùng hoang vắng thê lương, Thuận Trị hoàng đế nhớ lại lúc trước Đổng Tiểu Uyển thủ thỉ bên nhau trong khu rừng cây kia, biết bao nhiêu ân tình thắm đưọm thiết tha cho nên ngài bỗng sinh lòng cảm khái, bước thấp bước cao tiến sâu mãi vào cánh đồng lúa đã ngả màu vàng nhạt. Giữa lúc Thuận Trị hoàng đế mải miết bước thì từ phía xa ngài thấy một nhà sư đầu chốc lở tay cầm một bức hoạ đã rách cuộn tròn, miệng chẳng biết ca bản gì lúc bổng lúc trầm đang dần dần đi tới. Khi tới gần hoàng đế, nhà sư lên tiếng hỏi:

- A di đà phật! Sư phụ đấy ư?

Thuận Trị hoàng đế nghe xong trong lòng không khỏi ngạc nhiên. Ngài tự nhủ:

- Nhà sư này ta đã gặp ở đâu mà tiếng nói quen quá nhỉ?

Nghĩ vậy rồi ngài định thân nhìn lại. Ngài thấy nhà sự ghẻ lở đầy người, mắt phía tả mù, chiếc cà sa đụp và hàng trăm mảnh, đôi chân trần chẳng có giầy vớ gì cả. Ngài ngắm nghía nhà một lúc rồi hỏi lại:

- Người để chân trần như vậy mà không sợ lạnh ư?

Nhà sư bỗng sằng sặc cười lớn lồi nói:

- Lạnh là cái gì?

Thuận Trị hoàng đế bất giác xúc động thiền cơn, trong lòng hoát nhiên đại ngộ. Tiếp đó ngài nói theo:

- Ta là cái gì? Cái gì là ta?

Nhà sư lại nói:

- May thay! May thay!

Thuận Trị hoàng đế nhìn vào bức hoạ hỏi nhà sư xem bức hoạ vẽ cái gì, bỗng thấy nhà sư khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Khóc một lúc lâu rồi nhà sư mới lên tiếng:

- Bần tăng vốn tu hành tại chùa Thanh Lương nơi Ngũ Đài sơn. Sư phụ của bần tăng đạo hạnh rất cao, tu luyện đã trên 80 tuổi bỗng một hôm bảo bần tăng rằng: Ngày mai ta sẽ hạ sơn. Bần tăng lúc đó nghe xong, không muốn rời xa sư phụ nên nắm lấy áo người mà khóc oà lên. Sự phụ của bần tăng thấy bần tăng khóc lóc thảm thiết bèn bảo: "Đó là số trời đã định, có khóc cũng vô ích. Ta thấy ngươi có lòng chí thành, ta cho ngươi bức hoạ này. Trong đo vẽ một người không có lông mày. Đợi hai mươi năm sau người đem bức hoạ này xuống núi, tìm vào kinh thành, tự nhiên có kẻ thế người vẽ thêm cặp lông mày cho người trong bức hoạ.

Thuận Trị hoàng đế nghe nhà sư nói có vẻ ly kỳ, bèn tỏ ý muốn xem bức hoạ. Quả nhiên khi mở bức hoạ ra, ngài thấy hình một vị hoà thượng đi chân không, mặt thiếu hẳn cặp lông mày. Ngài xem rồi bèn thò tay vào túi đẹp sau lưng lấy ra một cây bút vẽ thêm đôi lông mày vào bức hoạ.

Nhà sư thấy Thuận Trị hoàng đế thế mình vẽ đôi lông mày xong bèn vội bò xuống mặt đất dập đầu lia lịa, miệng gọi "Sư phụ" và nói:

- Sự phụ của bần tăng có dặn người vẽ cặp lông mày đó chính là hậu thân của người. Nhớ lời dặn đó, bần tăng đợi đến nay đã hai chục năm, bèn hạ sơn để tìm kiếm. Bần tăng phiêu bạt giang hồ đã mấy năm trường mới được gặp Quý đàn việt. Quý đàn việt nếu không phải là sư phụ của bần tăng thì thật không còn ai nữa. Vậy xin sự phụ mau mau trở về núi đi.

Thuận Trị hoàng đế nghe nói lại càng lấy làm lạ, hỏi thêm:

- Thế sư phụ của ngươi hiện nay ở đây?

Nhà sư lại đáp:

- Sự phụ của bần tăng sau khi cho bần tăng bức hoạ thì ngày hôm sau đã viên tịch.

Thuận Trị nghe đoạn, cúi đầu chốc lát, bỗng phá lên cười lớn rồ nói:

- Thôi được, ta theo người cùng đi.

Nhà sư còn nói thêm như để báo một tin mừng:

- Vị nữ bồ tát cũng đã đợi sư phụ lâu ngày ở trên núi.

Thuận Trị hoàng đế hỏi nhà sư vị nữ bồ tát đó là ai thì nhà sư bèn nói đó là vị nữ bổ tát ở chùa Ngọc Tuyền thuở nọ.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong, liền nắm tay nhà sư chạy như bay về phía Ngũ Đài sơn.

Về sau, người ta thấy Thuận Trị hoàng đế cùng Đống Ngạc Phi ẩn dật tu hành tại chùa Thanh Lương núi Ngũ đài sơn. Ngô Mai Thôn có một bài thơ tán Phật ở chùa núi Thanh Lương.

Bài thờ đó nói về sự tích Thuận Trị hoàng đế và Đổng Ngạc Phi. Thơ rằng:

Đẹp đôi ngắm cảnh dáng bồi hồi.

Binh phong đá đựng vách chơi vơi.

Sương mai còn ngắm đồng xanh cỏ.

Dưới núi rồng chầu, gió lộng khơi.

Hồi 49

KHANG HY - VUA ĂN CHƠI

Tin Thuận Trị hoàng đế xuất gia đầu Phật ở Ngũ Đài sơn truyền tới tai Thái hậu. Bà hối hận quá. Bà không ngờ việc đuổi Đổng Ngạc Phi lại gây ra cảnh xuất gia đầu Phật của con bà. Biết vậy nhưng không còn cách nào hơn, nhất là chuyện này lại cần phải giữ kín, bà chỉ còn lấy cớ lễ Phật đem theo Khang Hi hoàng đế tuần hành núi Ngũ Đài sơn để tìm kiếm. Hoàng thái hậu lên tới nơi, bèn lén tới chùa Thanh Lương, không để lộ hành tung cho một ai biết, nhưng bà chỉ thấy có một nhà sư ghẻ chốc đầy mình, vừa điếc lại vừa mù, hỏi chuyện thì mười câu đến chín chẳng nghe rõ. Bà không còn biết làm sao, đành đứng trước cửa chùa gạt lệ trở về.

Qua năm sau Thái hậu lại quay lên Ngũ Đài sơn lần nữa. Nhưng lần này bà chỉ thấy sơn môn nhà chùa đổ nát quá nửa, nhà sư ghẻ chốc cũng chẳng còn. Bà bèn hạ chỉ trùng tu chùa Thanh Lương coi như ngôi chùa của bà. Về sau, vì tuổi cao sức yếu, đi lại không dễ dàng như trước nên bà cũng chẳng tới Ngũ Đài sơn nữa. Tuy nhiên lòng bà luôn hướng về phía Tây mà nhớ nhung, hối tiếc âm thầm đau khổ một mình trong thâm cung suốt cuộc đời tàn.

Ngày tháng thoi đưa, Khang Hi hoàng đế dần dần lớn lên.

Ngài quả là một nhân vật khôi ngô cường tráng. Vào thời Thuận Trị, Mãn quân đã lần lượt đánh bại Minh tướng Sử Kha Pháp, tiêu diệt bọn con cháu nhà Minh là Phúc Minh hương, Lộ Vương, lại đuổi chạy Vĩnh Minh Vương, đập tan quân của Trịnh Thành Công, thu phục hải đảo Đài Loan. Về sau bọn Bình Tây vương Ngô Tam Quế, Bình nam vương Thiện Chi Tín Thanh, Nam vương Canh Tinh Trung làm phản, Bát Kỳ binh mã cũng đánh cho tan luôn. Bởi vậy, đến thời Khang Hi, quốc nội hết sức thái bình. Lúc đó, Thái hậu mời cho nhà vua hai vị sự phó: một vị người tỉnh Hà Nam, tên gọi Thanh Bàn, còn một vị tên Nguỵ Duệ Giới. Hai vị học sĩ này ngày ngày giảng giải kinh sư cho nhà vua ở Doanh đài. Thái hậu còn mời cả Thi giảng học sĩ Cao Sĩ Kỳ để giảng giải về Tống học. Khang Hi hoàng đế là người hiếu học, ngày ngày giảng luận với các vị học sĩ không biết mệt. Khi về cung ngài lại còn giảng lại cho bọn cung nhân nghe. Bọn này nghe mà chẳng hiểu rõ được ý nghĩa cao diệu, nhưng may được bà thái công chúa chỉ dẫn thêm cho nên họ cũng dần dần hiểu biết thêm ra.

Bà thái công chúa là ai vậy? Bà này chính là cô con gái nhỏ tuổi nhất của Thái Tông hoàng đế, em ruột của Thế Tông hoàng đế (Thuận Trị) và cũng là cô ruột của Khang Hi hoang đế. Chỉ vì bà quá đẹp, tuổi lại nhó, chỉ hơn Khang Hi có sáu tuổi, nên Thái hậu không muốn cho bà ra khỏi cung. Mãi tới năm hai mươi hai tuổi mà bà vẫn chưa từng kén phò mã. Khang Hi hoàng đế đối với bà cô này lại rất thân. Ngay từ lúc còn nhỏ, hai cô cháu đã từng ôm nhau nằm ngủ chung một giường. Nhũ mẫu, bảo mấu, cung nữ, kẻ hầu người hạ chung quanh nhưng ngài chẳng để ý tới ai, chẳng cần đến ai. Mỗi khi tiến cung ngài bèn tìm ngay cô ruột để vui đùa với nhau, đến khi đi học ngài nghe giảng ở thư phòng xong trở về cung thì cũng lại tìm ngay bà cô này để giảng lại. Bà thái công chúa này bụng vốn đầy ắp thi thư. Hai cô cháu thường ngày đàm luận sách vở với nhau, không bao giờ tỏ vẻ mệt mỏi.

Nhân đó, Khang Hi hoàng đế cùng bà thái công chúa này giao tình càng ngày càng thâm hậu. Những lúc vắng người họ thường hay dốc bầu tâm sự cho nhau nghe. Thành thử tuy phận là cô cháu nhưng cả hai hình như quên đi cả luân lý lễ nghi. Rồi đến khi Khang Hi hoàng đế lên mười bảy tuổi ngài cũng cùng cô ruột bầu bạn bên nhau, nhiều lúc đã thấy bộc lộ một cách rõ rệt tình yêu trai gái giữa đôi người. Thái hậu công chúa lúc đó hai mươi hai tuổi thì Khang Hi hoàng đế đã mười bảy. Tuổi đó chính là tuổi của người con gái đang độ tưởng mơ tình dục.

Chẳng ngờ Khang Hi hoàng đế chăm đọc sách quá đó bỗng sinh bệnh thổ huyết. Thái hoàng Thái hậu được tin lấy làm lo buồn hết sức. Bà liền sai mời ngự y tới điều trị. Viện ngự y khuyên nên tĩnh tâm điều dưỡng. Thái hoàng Thái hậu ý muốn nhà vua về cung Ninh Thọ để tự mình săn sóc cho cháu nhưng bà Thái hậu Đổng Giai lại muốn mang ngài về cung để thuốc thang chạy chữa cho con. Khang Hi hoàng đế chẳng nghe theo lời bà mà cũng không nghe theo lời mẹ. Ngài cứ ở lại cung Vĩnh Lạc, ý muốn duy nhất là cô ruột thái công chúa bầu bạn bên mình. Khang Hi còn cấm luôn cả bọn cung nữ, bảo mẫu không được tự tiện vào phòng, bà Thái hoàng thái hậu cho nhà vua nhỏ tuổi còn tính trẻ con nên cũng không ép. Thái công chúa suốt ngày quanh quấn bên giường bệnh. Vua tôi cô cháu kề đùi sát vế, trò chuyện tình tứ cùng nhau. Khang Hi lúc đó con trai đang sức, trông lại có vẻ bảnh bao khêu gợi. Thành thử, lâu ngày sống bên nhau hai người thân mật rồi một buổi đẹp trời, cùng nhau du dương vào cảnh mộng...

Khang Hi hoàng đế hôm đó được thoả thuê nguyện vọng, bệnh của ngài tự nhiên biến mất. Đó là về phía con trai chứ về phía con gái lại khác. Thái công chúa có tật giật mình, trong lòng có vẻ lo sợ, bèn đem chuyện tò tí của mình kể thầm với mẹ. Bà Thái hoàng thái hậu nghe xong, giật mình đánh thót.

Bà vội cho gọi hoàng đế tới trách. Không ngờ Khang Hi hoàng đế, trẻ tuổi hay bạt mạng, định ý phong cho cô ruột làm phi nữ. Ngài bảo với bà nội là nếu không theo lời, ngài chẳng thèm làm hoàng đế nữa.

Thái hoàng thái hậu sợ chuyện xảy ra to, đành phải lặng thinh chiều ý, mặc kệ ngài làm sao thì làm. Về sau khi bà nội mất rồi, Khang Hi hoàng đế bèn hạ một đạo chỉ dụ phong ngay cô ruột làm Thục phi. Khắp triều văn võ thấy thế ai cũng đêu lấy làm quái lạ. Do đó, mới có chuyện một vị quan ngự sử dâng sớ khuyên ngài thu hồi thánh chỉ đem công chúa kén phò mã. Khang Hi hoàng đế xem sớ xong tức giận đến lòi cả con ngươi ra. Ngài nghiến răng nói:

- Cô mẫu đã chẳng phải mẹ của trẫm lại chẳng phải con gái của trẫm, cũng không phải là anh chị em ruột thịt gì của trẫm. Nay phong làm phi tử, để bà khỏi phải xuất cung chịu cảnh khổ cực, có gì mà chẳng được?

Thế rồi từ đỏ, ngài chẳng cần kiêng dè gì nữa, tha hồ phóng túng bạt mạng. Ngài chọn trong đám cung nữ có cô nào đẹp là bày trò mây mưa. Bắt gặp bất cứ cô nào ngài cũng làm hết khỏi nói chuyện xấu hổ mắc cỡ. Cô nào đã bị "sủng hạnh" qua rồi thì tức khắc được phong làm phi tử. Người ta kể không đầy một năm mà số phi tử trong cung đã lên tới bốn mười sáu bà. Đại thần hay tiểu thần có khuyên can ngài bất chấp.

Lúc đó, có một tên thái giám tên gọi Tiểu Như Ý tính tình hết sức khôn khéo giảo hoạt. Hắn ra ngoài phố kiếm mua khá nhiều loại dâm thư ngầm đưa vào cung dâng cho ngài. Bình nhật ngài chỉ nghe Thi Độc học sĩ giảng giải nào kinh, nào sử, chưa từng được xem những loại sách thú vị này, cho nên ngài lấy làm khoái, bỏ cả kinh sử, chỉ vùi đầu vào việc nghiên cứu loại sách này đến hết ngày, sáng đêm. Ngài mê đến nỗi cơm chẳng thiết ăn, đêm chẳng thiết ngủ. Rồi cao hứng, ngài đem bọn phi tử đông đảo kia ra chiếu phép tắc trong sách mà thực hành để thí nghiệm.

Một hôm, hoàng đế ngồi chơi trên phiến đá nơi hòn non bộ trong hồ xem sách. Tên thái giám Tiểu Như Ý đứng hầu bên cạnh. Bỗng một con cung nữ từ xa đi tới. Ngài ngẩng lên, nhìn thấy. Ngài bỗng nảy một ý lạ. Thế rồi ngài đứng dậy len lén chui vào một cái hang trong chiếc giả sơn... Ngài dặn Tiểu Như Ý cứ làm như vậy như vậy... Khi con cung nữ vừa bước tới nơi, Tiểu Như Ý liền nhào ra, rồi chẳng nói chẳng rằng, hắn đưa tay túm chặt lấy đấy vào trong hang Con cung nữ hoảng sợ kêu la inh ỏi, giãy giụa hòng thoát nhưng một cánh tay nào đó đã ôm ghì lấy toàn thân, hết kế trốn chạy. Một lát sau, người ta chỉ còn nghe văng vẳng tiếng rên rỉ lẫn tiếng khóc từ trong hang vọng ra mà thôi.

Con cung nữ đã bị hoàng đế cho ăn xong hối hối hả hả chạy vụt ra ngoài không dám ngoảnh cổ lại nữa. Một con cung nữ khác tới, Tiểu Như Ý lại theo dùng sách cũ mà hành sự giúp nhà vua. Tinh ra hôm đó hoàng đế nhà ta đã ngự đến bốn con cung nữ. Ngài cảm thấy sướng khoái đến phát điên. Tiểu Như Ý lại còn phỉnh nịnh Khang Hi hoàng đế bằng cách mô tả bọn Hán nữ con gái Tàu, nõn nường như thế nào, mềm mại hấp đẫn ra sao. Thôi thì đủ thứ kỳ lạ diễn ra. Hoàng đế nghe xong liền ghi nhớ như sách trong lòng nguyện với mình rằng thế nào cũng phải tim ra để thưởng thức cho bằng được. Có lấn Khang Hi hoàng đế nghe nói trong nhà văn hoạ đại học sĩ Trương Anh và thượng thư Diêu Giang có khá nhiều gái đẹp. Trương và Diêu vốn sui gia với nhau. Mỗi người lấy bảy, tám bà phu nhân, bà nào cũng nõn nà khêu gợi mũm mĩm tình tứ. Vùng Bắc Kinh, có người đã phải nối hứng đặt vè:

Nếu nói gái đẹp.

Phải kể Diêu, Trương.

Mày có nàng Dương (quý phi).

Tao có nàng Tây (Tây Thi).

Hễ thấy là say.

Hồn bay muôn dặm.

Tiểu Như Ý học thuộc bài rồi về cung kể lại cho Khang Hi hoàng đế nghe. Thế là từ đó ngài đâm ra mơ tưởng bọn gái đẹp của hai nhà đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn.

Nói đẹp thì phải kể cô tiểu thơ thứ tư của Diêu Giang mới là tuyệt Biết vậy, Trương Anh tới cầu hôn cho con trai thứ hai của mình. Nhị công tử họ Trương lúc đó làm quan đã tới chức Kinh khanh. Lấy được con gái họ Diêu, anh chàng nhị công tử này hí hửng như bắt được vàng. Thôi thì hương, thôi thì hoa, ngày nào cũng như ngày nấy, nhị công tử cung phụng người đẹp thật là muôn phần chu đáo. Chàng và nàng tha thiết quyến luyến nhau, một bước cũng không rời, cả ngày chỉ ở quanh quẩn trong phòng.

Có lần, hôm đó là ngày vạn thọ của bà hoàng Thái hậu. Một đạo thượng dụ ban xuống trước đó mấy bữa buộc các bà mệnh phụ của bọn Hán quan đều phải theo người Mãn nhất loạt vào cung chúc thọ. Thế là đám phụ nữ của hai nhà Diêu, Trương vốn thích xem phong cảnh nơi cung đình, cho rằng chồng mình cũng làm quan tại triều, bèn chiếu theo phẩm trật ăn mặc đàng hoàng rồi vào cung chúc thọ. Hai cô nàng dâu của Trương học sĩ cũng có mặt trong đám đó.

Khi đoàn người vào cung, theo từng ban chúc thọ xong thì Thái hậu truyền dụ ban yến ngay tại nội đình, tiệc xong. lại được qua vườn thượng uyển du ngoạn. Thật là một ngày vui hiếm có! Suốt từ sáng tới lúc lên đèn mọi người mới nhất tề lui ra khỏi cung rồi lên kiệu về nhà. Nhóm đàn bà họ Trương đều nghỉ trên chiếc kiệu sáu người khiêng. Khi về tới nhà, mọi người xuống kiệu, xem lại mới biết thiếu mất Nhị thiếu thái thái, vợ chàng nhị công tử mà lại thừa hẳn ra một cô gái lạ nào đó. Đệ tứ tiểu thơ của nhà họ Diêu bỗng không cánh mà bay? Hỏi tới cô gái lạ kia, thì nàng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả! Ông quan Kinh khanh được tin chạy tới xem, mới biết em vợ cưng của mình đã bị tráo đổi từ trong cung mất rồi. Tình cảnh đó, thử hỏi ông quan trẻ này làm sao mà chẳng giận, ông bèn quát hỏi cô gái kia om sòm. Trương học sĩ hay chuyện vội chạy tới ngăn con rồi bảo:

- Con chớ có làm om lên! Trong cung mà biết được thì cả nhà này chết sạch đó con ạ?

Ông quan con nghe ông quan bố cảnh cáo hoảng hồn bạt vía, đành câm mồm nuốt giận, lượm đỡ cô gái lạ kia vào trong cho đỡ thiệt. Ít hôm sau người ta thấy hoàng Thái hậu hạ một đạo ý chỉ mà đám mệnh phụ của bọn Hán quan triều đình đọc ý chỉ này chẳng hiểu sao cả, duy chỉ có cha con Trương học sĩ hiểu rõ tự sự nhưng trong lòng chua chát khôn tả nên lời.

Từ khi Khang Hi hoàng đế được thưởng thức cái suối mát của gái Hán rồi thì cái đám tỳ nữ kia (gái Mãn) coi như đồ bỏ đối với ngài. Chẳng được bao lâu, ngài lại cảm thấy buồn chán cảnh cung đình. Ngài bàn tính với tên thái giám Tiểu Như Ý tìm cách cho ngài đi lén ra ngoài cung du ngoạn.

Lúc đầu tên Tiểu Như Ý không dám phụng chi. Nhưng Khang Hi hoàng đế vốn tính ương ngạnh muốn sao là phải được vậy Tiểu Như Ý chẳng vâng chỉ cũng chẳng được nào!

Thế là vua tôi thay đồi quần áo, cải trang thành đôi chủ tớ lẳng lặng lén ra khỏi cung, đi hết đường này đến phố kia để du ngoạn. Hoàng đế bị nhốt trong cung cấm đã mười mấy năm, buồn chán vô vị, nay được chạy nhảy tung tăng giữa kinh thành như con chim số lồng, con cá sút câu, tưỏng không còn gì sướng khoái cho bằng. Ngài đi khắp nơi, khi thi vào quán cơm nhậu nhẹt, khi thi vào tố quỉ tìm hoa. Mỗi lần dạo chơi như vậy cứ tới tối mới rút về cung.

Không ngờ chỉ được mấy bận, bỗng một chuyện khá thú vị xảy ra. Số là hôm đó, Khang Hi hoàng đế cùng Tiểu Nhi Y đang lững thững bước trên con đường Lư Mã Đại bỗng thấy một chiếc xe lừa từ phía trước mặt chạy tới, trong xe có một người đàn bà rất xinh đẹp. Hoàng đế bất giác ngây người đứng ngắm đến nổi bánh xe suýt chạm vào người mà ngài vẫn không hay biết. Người đàn bà trong xe đôi mắt lóng lánh như mặt nước hồ thuỷ nhìn thấy mặt hoàng đế thộn ra như anh ngốc, bất giác cười lên khanh khách. Cái cười giòn dã ấy của nàng lại càng làm cho nhà vua mặt đã thộn lại càng thộn thêm.

Chiếc xe lừa lướt qua rồi tiến ra phía trước. Khang Hi hoàng đế vội đuổi theo sau. Chiếc xe chạy một lát tới cửa Tây Trực môn, trước một căn nhà thì đỗ lại. Hoàng đế cũng đuổi tới kịp nhưng mồ hôi nhễ nhại miệng thở hổn hển. Ngài đã biết nơi ở của người đẹp. Ngài chỉ còn việc bảo Tiểu Như Ý tìm kế sách nào để đem cho kỳ được người đẹp vào cung ngay đêm đó cho ngài. Ngài lững thững trở về cung đợi chờ...

Hồi 50

KHANG HI CUỚP VỢ NGUỜI

Tên thái giám Tiểu Như Ý vâng ý chỉ của Khang Hi hoàng đế đi thẳng tới cổng nhà người đàn bà vừa để chờ đợi cũng vừa để điều tra. Hắn được biết chồng nàng họ Vệ, có mở một tiệm vải tại đường lộ lớn Lư Mã Đại Nhai. Hôm đó nàng về quê thăm mẹ. Người chồng vốn rất yêu vợ nên có dặn thế nào tôi cũng phải về nhà. Biết được vậy rồi, Tiểu Như Ý bèn bỏ tiền ra mua chuộc tên phu xe, còn hứa thêm là nhất định kiếm cho một chức quan sai vặt trong cung. Tên phu xe sung sướng đến điên người, vội vàng gật đầu đồng ý tiếp tay. Đến giờ, người đàn bà từ biệt mẹ ra cửa lên xe đi. Tiểu Như Ý cũng đẩy một chiếc xe lặng lẽ theo sau. Hai chiếc một trước một sau chạy thẳng vào cung đến mãi công sau Vườn Ngự uyển mới ngừng.

Người đàn bà xuống xe, nhìn thấy phong cành nơi đây đồ sộ nguỵ nga khác hẳn mọi nơi, bất giác giạt nẩy mình. Tên thái giám tiến ngay lại trước mặt và nói cho nàng biết duyên cớ. Hắn còn nói thêm nếu được nhà vua sủng hạnh, thì đến ngay chồng nàng cũng được hương giàu sang phú quý nữa. Người đàn bà này vốn chẳng phải loại trinh tiết đáng trọng gì nên khi nghe nói tới chuyện hoàng đế sủng hạnh, nàng sung sướng đến nhảy lên được. Thế là nàng chịu ngay, và hý hừng bước theo Tiểu Như Ý tiến thẳng vào vườn Ngự uyển bái kiến Khang Hi hoàng đế ở Giáng Tuyết trại.

Nhà vua vừa thấy người đàn bà bước vào, vui mừng không tả xiết vội chạy tới cầm tay và kéo nàng vào lòng mình. Tên thái giám Tiểu Như Ý thấy vậy vội tránh đi nơi khác.

Đêm hôm đó Khang Hi hoàng đế lưu hành ngay tại Giáng Tuyết trại. Ngài chiếu cố tới người đẹp luôn một lèo đến mười hôm, không thèm ra khỏi trại môn nữa. Rồi một đạo Thánh chỉ hạ xuống, phong ngay người đẹp làm Vệ phi. Ngài cũng cho vời chồng của người đẹp vào cung thưởng cho chức ngự tiền thị vệ quan. Vợ chồng nhà này thường qua mặt hoàng đế ngấm ngầm thì thụt với nhau. Vệ phi có điểm đặc biệt là trong người nàng luôn luôn tiết ra một mùi thơm phức ai ngửi thấy cũng phải khoái thích mê luyến. Những nơi nàng đi qua thường phảng phất mùi hương không tan, người ở xa cũng có thể ngửi thấy. Những áo lót của nàng quyện mùi hương hết sức nồng nàn, giặt đến mấy cũng không hết. Mỗi khi nàng tắm, nước tắm còn lại phát ra một mùi thơm ngát, đến nỗi bọn cung nữ không muốn đổ đi nữa.

Nhân đó hoàng đế sủng ái thật hết sức đặc biệt. Ngài thường gọi nàng là Hương mỹ nhân. Không ngờ Vệ phi mới vào cung có bảy tháng đã sanh hạ một thằng bé mập mạp kháu khỉnh tiếng khóc giòn đã to lớn. Hoàng đế ngài lấy làm yêu quý vô ngần. Bởi yêu mẹ nên ngay từ lúc thằng bé mới sinh hoàng đế đã có ý muốn lập làm thái tử. Ngài đặt tên thằng bé là Dân Trinh. Về sau, nó này trở thành Ung Chính hoàng đế.

Thời đó, bọn cung nữ được Khang Hi hoàng đế lâm hạnh nhiều lắm, và cũng khá nhiều cô sinh con. Vệ phi sợ đám anh em đông đảo này tranh nhau, nhất là con nàng lại đích thị là con của người chồng cũ, thảng hoặc có kẻ điều tra ra, thì khó lòng làm được thái tử cho nên nàng thường khẩn cầu với hoàng đế về vụ này. Khang Hi hoàng đế vị nể nên cung vui lòng đáp ứng, nhưng Dân Trinh còn nhỏ tuổi quá, bởi vậy việc lập thái tử tạm đình lại, ít năm nửa sẽ xét.

Nhưng trong số ít năm đợi chờ đó, nhà vua còn sáng tạo ra biết bao chuyện phong lưu kỳ thú nữa. Bao nhiêu việc lớn của triều đình ngài phó thác cho vài vị cô mệnh đại thần trong số này có một vị tên Ngao Bái, tính tình hết sức gian ác độc địa. Bái ỷ thế mình là lão thần của tiên hoàng nên quát tháo doạ nạt cả hoàng đế. Khang Hi có khuyên y từ từ bàn tính thì y cũng bất chấp, lại còn doạ cáo quan. Y ngấm ngâm kết bè lập đáng nhân hối lộ, tập trung quyền hành vào tay mình.

Một hôm Ngao Bái cưỡng bức nhà vua phái phong cho ông nội y làm Trần quốc công nhưng nhà vua không chịu. Bái lấy làm giận lắm, mặt hâm hầm nói:

- Thần chịu trọng trách cố mạng, thế mà xin có một việc nhỏ cũng không được, vậy làm đại thần mà làm gì?

Nói xong Bái đập mạnh xuống bàn một cái thị oai rồi hằn học tính bước ra khỏi điện. Lúc đó, đứng cạnh có một vị lão thần tên gọi Mã Ni Cáp Đặc cười nhạt nói:

- Còn quý đại thần mở miệng nói cố mạng, đóng miệng nói cố mạng, vậy xin hỏi ngài có thủ chiếu của Tiên đế không đã?

Ngao Bái nghe nói liền quay lại hỏi ngược lại vị đại thần kia:

- Quý đại thần có thủ chiếu của tiên đế không mà dám hỏi câu đó?

Mã Ni Cáp Đặc nghe hỏi gật đầu rồi thanh thả rút tờ thủ chiếu trong tay áo ra. Khang Hi hoàng đế xem tờ thủ chiếu mới biết là thủ chiếu của tiên đế, phía trong còn có ngự ấn đóng son đỏ chói và ghi tên "cố mệnh đại thần" duy chỉ có mình Mã Ni Cáp Đặc mà thôi. Thế là Khang Hi hoàng đế nổi cơn hung, quát bảo Ngự tiên thị vệ bắt trói Ngao Bái tức khắc, giao cho Hình bộ thấm vấn kết tội mạo xưng cố mạng đại thần, hỗn xược khi quân.

Thấy hoàng đế bắt tội tên gian ác, bọn ngự sử cũng dâng lên một tờ sờ nói Bái phạm có đến hai mươi tội lớn. Tức thì hoàng đế hạ chỉ, sai đem Bái ra ngoài chợ chặt đầu chính pháp.

Sau khi giết Ngao Bái, Khang Hi hoàng đế bèn nghĩ tới việc lập thái tử để về sau khỏi bị bọn đại thần quây phá lôi thôi. Rồi cũng vì việc lập thái tử này ngài nhớ lại lời khẩn cầu của Vệ phi. Nhưng ngài lại nghĩ rằng mình có đến ba mươi lăm hoàng tử cả thảy, nếu lấy đệ tứ hoàng tử Dân Trinh, e rằng bọn này không phục chăng. Theo lý ra Dân Nhung tuổi lớn hơn cả, tự nhiên được lập làm thái tử. Nhưng Vệ phi lại là người được sủng ái nhất, chẳng lẽ lại làm cho nàng phật ý. Vừa đi vừa nghĩ bất giác ngài đã tới cung Thuý Hoa. Vệ phi chạy ra tiếp giá, đón vào nội viện. Khi vào bên trong ngài thấy hai chiếc lồng bên trong có rất nhiều chuột bạch, mỗi lồng ước tới hai trăm con. Ngài bèn hỏi thì Vệ phi tâu nói là nước Xiêm La vừa đem triều cống nên để đó.

Khang Hi hoàng đế nhìn hai lồng chuột, sực nhớ lại chuyện mình vừa tính, bèn sai người cho gọi đệ nhị hoàng tử và đệ tứ hoàng tử vào cung. Một lát sau, nhị hoàng tử là Dân Nhung, tứ hoàng tử là Dân Trinh vâng chiếu có mặt. Muốn thử xem tâm địa của hai hoàng tử, nhà vua bèn thưởng hai lồng chuột cho hai người. Hai vị hoàng tử bưng lồng chuột tạ ơn rồi ra về.

Qua ngày hôm sau, ngài cho mấy tên nội giám thân tín ngầm tới cung hai vị hoàng tử để dò xét nghe ngóng. Khi trò về, bọn nội giám tâu rằng:

- Nhị hoàng tử khi về tới cung liền tha cả lồng chuột, còn bảo nhốt chung tội nghiệp mất hết tự do chi bằng thá quách.

Tứ hoàng tử lại khác. Khi về tới cung, tứ hoàng tử bèn đem hai trăm chuột chia làm ba đội dạy chúng đánh lộn. Con nào không nghe theo lệnh tức thì đập chết. Chơi kiểu đó, mới được một ngày, hai trăm chuột bị đập chết không còn một mống.

Khang Hi hoàng đế nghe tâu xong, bỗng nhiên sinh lòng chán ghét Dân Trinh vô hạn. Do đó, bèn có ý muôn lập Dân Nhung làm thái tử. Ngài bèn ngầm sai người gọi Đại học sĩ Minh Châu tới để thương lượng. Minh Châu cũng hết sức đề cử nhị hoàng tử. Thế là Khang Hi hoàng đế quyết định xong.

Cách ít hôm, mọi người thấy một đạo Thượng dụ hạ xuống lập Dân Nhung làm thái tử, một mặt đưa Dân Nhung vào ở trong Đông cung. Bá quan văn võ đều dâng sớ chúc mừng. Hoàng đế ban yến ngay điện Sùng Chính. Bên Đông cung thì thật là vô cùng náo nhiệt, trái lên bên Thuý Hoa cung thì lại hoang vắng lạnh lẽo hết sức. Hai mẹ con Vệ phi ngầm sai người gọi quan thị vệ vào cung bàn tính. Thị vệ quan bảo Vệ Phi:

- Xưa kia, vợ chồng ta hoà thuận sung sướng biết dường nào. Thế rồi bà bị tên hôn quân này cướp đem vào cung. Lúc đó, ta nghĩ tới chuyện giết hắn. Nhưng chỉ vì trong bụng bà còn có cái bào thai năm tháng cho nên ta nghĩ một khi hạ sanh trai tất ngày kia nó phải được nối ngôi làm vua, và ta trở thành vua cha. Nay con ta không được làm vua nữa, điều đó cũng chẳng sao bởi vì ta đã có chủ ý. Thế nào nó cũng được làm vua ta mới nghe.

Nói quyết vậy xong, họ Vệ còn bàn tính với Vệ phi một lúc lâu nữa mới ra về. Vệ phi lại cho gọi Dân Trinh tới, bảo theo họ Vệ xuất cung du ngoạn. Họ Vệ đem Dân Trinh về nhà mình rồi ngầm sai người mời một nhà sư Lạt Ma tới truyền thụ bản lãnh bùa chú luyện khí cho Dân Trinh.

Họ Vệ lại còn mời rất nhiều võ sĩ vê nhà để luyện võ cho Dân Trinh, nào múa đao đánh thương, nào dương cung bắn tên, nào là đủ lối đánh quyền nội ngũ hành, ngoại ngũ hành gì gì nhiều lắm. Dân Trinh vốn tính trẻ con, hiếu động ham chơi, bởi thế rất khoái các ngón đấm đá. Hằng ngày, Trinh lẻn ra khỏi cung để luyện tập võ nghệ làm vui. Hơn nữa, Dân Nhung được phong lam thái tử, Dân Trinh tỏ ý bất phục. Trinh càng cố gắng luyện võ cho có bản lĩnh rồi sẽ tìm cách cướp ngôi hoàng đế của anh. Trinh ở trong cung đem ý này nói với bọn anh em Dân Đế tám người. Bọn này cũng vốn ghét Dân Nhung, nên khi nghe Dân Trinh nói vây thì khoa chân múa tay, lấy làm khoái chí lắm, rồi cùng theo Trinh ra ngoài luyện võ chuẩn bị để đâm chém một keo. Bọn Dân Trinh, Dân Đế, Dân Ngay, Dân Đường còn lập một cơ quan, ngầm sai người đi mời các Tiêu sư ở các Tiêu cục về truyền thụ võ nghé. Tin tức đó loan ra, tức thì những tay hảo hán giang hồ ùn ùn kéo tới. Dân Trinh nhờ được mẹ là Vệ phi giúp đớ, bèn lấy tiền của trong Đại nội ra để chu liệu. Nhờ đó, Trinh mời được rất nhiều tay hảo hán nổi danh đương thời: nào là Độc tý Kim Cương Thiết Toái Lý, nào là Lãm Hai Giao, Điên hoà thượng, tên nào tên nấy đều kỳ quái, ghê khiếp cả.

Bên ngoài, bọn này làm cho thiên hạ một phen náo loạn cả lên, thế mà trong cung Khang Hi hoàng đế và thái tử Dân Nhung y như người nằm trong trõng chẳng nghe biết tý gì.

Hồi đó, Khang Hi hoàng đế có mời một nhà sư gọi là Diệu Giác hoà thượng. Nhà sư này rất thông thạo kinh điển, lại giỏi thuyết pháp. Ngài đưa vào ở trong lĩnh thất Doanh đài để ngày ngày thuyết pháp. Nghe nhiều, ngài cũng có đôi phần lãnh ngộ.

Thái tử Dân Nhung thì theo Đại học sĩ Minh Châu nghe giảng giải văn học. Minh Châu vốn bà con thân thích với hoàng đế, tuy làm đến tướng quốc, nhưng Minh Châu dốt bất thòng vặn mặc, chỉ nhờ tính giảo hoạt khôn khéo, đã từ chức nhỏ Bộ tào leo lên tới chức Đại học sĩ. Y biết nhà vua và thái tử chú trọng về thơ phú, bèn gọi một số đông văn nhân về cung đốn đầy đù để cho họ làm thơ, làm văn rồi nhận lấy là của minh đem dâng vào cung. Nhà vua và thái tử rất lấy làm khen. Nhân dịp. Chảu liền khuyên nhà vua cố gắng sáng tạo một sự nghiệp văn học để làm cái kế lưu danh muôn thuở. Bọn văn sĩ đại thần như Trưong Anh, Nguy Duệ Giới thấy vậy, cũng hùa theo:

- Xin nhà vua thiết lập Tu thư quán. Bọn này với Minh Châu vốn đã thông đồng với nhau từ trước, bởi vậy trước mặt Khang Hi hoàng đế, họ hùa nhau khải tấu để thực hiện cho kỳ được.

Thế là hoàng đế hạ chỉ, thiết lập Tu thư quán, triệu thỉnh văn nhân bốn phương, biên soạn các sách Khang Hi tự điển, Tử sinh tinh hoa, Bội văn vận phủ.

Con trai của Minh Châu tên gọi Nạp Lan Dung Nhược thường đến Tu thư quan, hề thấy ai có tài thì biếu tiền, tặng vàng, mời về phù sáng tác văn chương thay cho cha mình.

Có một hôm Minh Châu tướng quốc ngồi hầu chuyện hoàng đế ở Tây thư phòng. Khi nói tới một đoạn chuyện cũ trong sách Trang Tử Nam hoa kính, hoàng đế bèn cho gọi một tên nội giám đi lấy cuốn sách này. Tên thái giám đi lấy, nhưng không lấy cuốn Trang Tử Nam hoa kính mà lại lấy nhầm cuốn Lão Tử Đạo đức kinh, hoàng đế bực mình, giậm chân chửi tên thái giám là "đồ ngu" rồi quay sang bảo Minh Châu:

- Cái lũ ngu này, thật là chán. Xưa nay thường nói "tay ngọc thêm hương đọc sách khuya" thì không biết cảnh tượng đó tuyệt biết dường nào! Trẫm nghĩ rằng người con gái tay ngọc thêm hương ấy hắn chẳng thô lỗ như bọn này. Trẫm tính tuyển mấy đứa con gái nhà tử tế, không hiểu thi thư đưa vào cung làm nữ quan, trông coi thư phòng cho trẫm, há có nên chăng?

Minh Châu nghe ý kiến đó, về nhà lập tức sai người tới vùng Tô, Hàng chọn mua một số gái đẹp, mặt mày xinh xẻo, chưa có bó chân của các gia đình nghèo đem về nuôi trong biệt thự của mình rồi mời thầy dạy học đủ thơ phú văn chương.

Bọn gái đều vào tuổi mười ba, mười bốn; được cái trời cho thông minh, nên chưa đầy bốn, năm năm, mà thi ca, từ khúc múa hát, đàn địch, thảy đều thông thạo. Lúc đó, chúng đã lên mười bảy, mười tám cả. Đứa nào đứa nấy đều xinh đẹp quyến rũ. Trong số đẹp nhất phải kể Kiều Hạnh, Tân Mai, Thanh Đào, Lệ Phương. Bốn đứa này quả thiệt quốc sắc thiêu hương, nghiêng thành đổ nước. Tướng quốc Minh Châu khoan khoái trong lòng cho rằng chuyến này có thể làm đẹp lòng được vị hoàng đế khả kính của mình. Thế rồi Châu sửa soạn để đưa bốn trang tuyệt sắc mỹ nhân này vào cung.

Hồi 51

KHANG HI HOÀNG ĐẾ TUẦN DU PHUƠNG NAM

Tướng quốc Minh Châu tính đưa bọn gái đẹp vào cung cho Khang Hi hoàng đế. Không ngờ có kẻ nào đó đến mách với tướng quốc phu nhân, bảo quan ông lấy một lúc những ba mươi sáu cô hầu thiếp hiện đang để ở biệt thự ngoài thành tây để ngày đêm thủ lạc. Bà tướng quốc vốn thuộc loại sư tử Hà Đông, vừa nghe xong, tức thì tam bành lục tặc nổi lên. Bà chẳng cần hỏi kỹ; bắt đóng xe đưa bà đi ngay tới biệt thự ngoài thành tây. Bà không thấy quan ông ở đây mà chỉ thấy một ông giáo già. Ông giáo già lật đật đem ba mươi sáu cô gái ra bái kiến. Bà tướng quốc đưa mắt nhìn một lượt thấy cô nào cô nấy như hoa như liễu. Bà chẳng nói một lời nào, chỉ bảo ông giáo già rút lui. Lúc đó, bà mới cho gọi hết các cô lại gần để quan sát và hỏi han cẩn thận. Trong bọn con gái, bà thấy có mười hai cô đẹp nhất. Bà liền cho giữ lại rồi lập tức truyền lệnh bày tiệc thiết đãi. Bọn con gái này vừa mới lớn lên nào đã biết gì, nói nói cười cười ăn uống say sưa bí tỉ. Bà tướng quốc thiết đãi xong bữa tiệc, bèn lấy xe về phu.

Mọi người thấy phu nhân đi đi về về, chẳng giận mà cũng không vui, không nói mà cũng chẳng cười đều tỏ ý kỳ lạ. Có ngờ đâu ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, người ta đã thấy mười hai cô gái tuyệt sắc được biệt đãi hôm qua đã nằm chết cong queo trên giường từ lúc nào. Tân Mai, Lê Phượng, Kiều Hạnh, Thanh Đào, bốn ả cũng chẳng thoát được vận số. Đến lúc rõ chuyện, quan ông tướng quốc chỉ còn biết thở vắn than dài, cho vác mấy cái xác đi chôn chứ còn biết làm gì được hõn nữa. Từ đó quan ông sợ quan bà đến vở vía, vội đem hai mươi bốn cô cô còn lại nhất tề cho chở về quê quán hết. Nhưng rồi cũng từ đó giữa quan ông và quan bà tình nghĩa mỗi ngày mỗi nhạt, mỗi ngày mỗi cay cú ghét bỏ. Quan tướng quốc suốt ngày chỉ uống rượu làm thơ với bọn tân khách, không thèm đặt chân tới cửa buồng the của bà nhà nữa.

Khí quan ông được lệnh Đông cung triệu vào đàm luận văn chương, quan tướng quốc lại có dịp bầu bạn với đám tao nhân mặc khách, kể cũng khuây khoả đôi phần. Thái tử vốn đối tốt với ông cho nên thường giữ ông ở lại trong cung.

Hồi đó có một vị tổng đốc Vân Quý tên gọi Phạm Thừa Động về kinh bệ kiến thấy hoàng đế và thái tử trở thành hai con mọt sách, bèn dâng lên một tờ sớ ý nói bản triều lấy việc mã thượng mà được thiên hạ, thiết tưởng con cháu không nên bỏ phế võ công. Khang Hi hoàng đế vốn trọng Phạm Thừa Động nên khi đọc xong tờ sớ lập tức truyền chỉ mở trường luyện từ cỡi ngựa bắn cung trên Liễu đê trong vườn Sương Xuân Uyên. Lúc đó thái tử cùng các hoàng tử Dân Trinh, Dân Đề, Dân Nga, Dân Đường đều đứng trước phụ hoàng đợi chỉ. Hoàng đế bèn hạ lệnh cho thái tử và bọn hoàng tử từng cặp so tài bắn cung và các loại binh khí. Trong số hoàng tử xem ra chỉ có Dân Trinh là bản lãnh cao cường hơn hết. Thái tử Dân Nhung bản chất văn nhược nên việc đao cung có chiều thua xa, thậm chí cung bắn đến ba tên mà chả có tên nào trúng đích khi đua ngựa trên Liễu đê (bờ đê có trồng liễu hai bên), thái tử lại cũng thua nữa.

Khang Hi hoàng đế thấy vậy bực tức quá, bèn cho gọi võ sư của thái tử tới quở trách ngay trước mặt. Vị võ sư vô cùng xấu hổ, đến cả thái tử cũng xấu hổ không kém. Khi về tới Đông cung, thái tử tập họp các vị sư phó lại để bàn luận.

Giữa lúc đó, có một tên nội giám vào báo cho thái tử biết bọn hoàng tử Dân Trinh, Dân Nga có lập một võ trường ở ngoại thành để ngày đêm luyện tập. Thái tử giật mình kinh sợ. Một vì sư phó đề nghị:

- Nếu vậy, chi bằng ta cho mời mấy nhà sư Lạt ma ở Tây Sơn về dạy bí pháp bùa chú, và cả những tay dũng sĩ về truyền thụ mười tám ban võ nghệ cho thái tử. Như thế tất không còn phải lo ngại gì nữa.

Thái tử nghe xong lấy làm hợp lý lắm, lập tức cho xây cất mật thất và võ trường ngay trong Đông cung rồi ngày ngày theo nhà sư Lạt ma và các võ sư tới luyện tập.

Thái tử còn sai người đi khắp nơi bỏ tiền ra để mời những tay võ sĩ hiệp khách về cùng sớm hôm giúp việc luyện võ. Cũng vì vậy nên thành Bắc Kinh hồi đó tụ tập không biết bao nhiêu là tay hảo hán. Họ thường ra phố nhậu nhẹt chán rồi gây sự. Viên quan địa phương biết mà vẫn phái làm ngơ.

Giữa lúc tình trạng đua tranh đến lúc khẩn trương thì bỗng Vệ phi chết. Khang Hi hoàng đế cố nhiên là thương xót vô cùng. Ngay cả viên quan thị vệ họ Vệ cũng bi thương không kém. Họ Vệ bèn lui ra khỏi cung bày mưu lập kế cho Dân Trinh hãm hại thái tử.

Từ khi Vệ phi mất, Khang Hi hoàng đế đâm ra chán cả mọi sự, sống trong cung điện chẳng thấy thú vị gì nữa.

Tuy trong tam cung lục viện có biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ bầu bạn bên cạnh nhưng đối với ngài thực chẳng có ai bằng được Vệ phi. Suốt ngày ngài thở vắn than dài ăn không ngon ngủ không yên. Có khi ngài nhớ tới Vệ phi lại cũng có khi ngài nhớ phụ hoàng của ngài.

Lúc đó, quan tài của Vệ phi được đưa ra quan ngoại mai táng. Khang Hi hoàng đế vẫn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ bèn lấy danh nghĩa thăm viếng Phục lang để đưa linh cữu Vệ phi tới chôn cât ở Sơn Hải quan. Chính ngài đốc suất xây lăng đắp mộ.

Công việc tang ma đã xong, nhưng Khang Hi hoàng đế không muốn trở về cung. Ngài bèn hạ chỉ Nam tuần, lấy cớ là đi quan sát tình cảnh khổ cực của dân. Ngài lại hạ chỉ sai thái tử Dân Nhung lo việc quốc giám.

Sau đó, ngài cùng với văn võ đại thần, vương công bối lặc chọn đúng ngày mồng một tháng chín niên hiệu Khang Hi thứ hai mươi ba khởi trình ra khỏi kinh đô. Quan đại học sĩ Trương Anh cùng với nội đại thần Giác La Vũ Truất Nạp, thống lĩnh khắp triều văn võ tiễn đưa xa giá Nam tuần.

Lần đi tuần du này hoàng đế hạ chỉ cho các châu huyện trên đường ngài đi qua vẫn phải làm việc như thường, không được đón rước cung đốn, nếu trái chỉ sẽ bị cách chức và hỏi tội. Ngài ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ của dân chúng lặng lẽ chèo tới chân núi Ngũ Đài sơn, ngồi kiệu lên núi rồi ngừng lại nơi chùa Thanh Lương.

Nhà sư trụ trì chùa này thấy nhà vua đến bất ngờ, sợ muốn chết, vội vội vàng vàng chạy ra tiếp giá và mời vào phương trượng. Bọn nội giám đã chuẩn bị sẵn đèn nhang, mời ngài lễ Phật. Lễ xong Khang Hi hoàng đế bèn hỏi:

- Trẫm nghe nói đã từ lâu có một vị cao tăng tu tại chùa. Vậy nay ở đâu?

Nhà sư trụ trì hồi đáp:

- Tâu bệ hạ! Vị cao tăng hiện thiền toạ trong thảo xá trên ngọn núi cao. Có nhiều đàn việt muốn qua thăm nhưng người đều từ chối.

Khang Hi hoàng đế nói:

- Trẫm nhất định phải lên yết kiến ngài bằng được.

Nói đoạn, ngài bảo bọn thị vệ và nội giám ở lại chùa, chỉ ngài với một chú tiểu sa di dẫn lộ leo ngược lên chóp núi, theo đường mòn quanh bên tả, rẽ lên hữu: vất vả lắm mới tới nơi.

Hoàng đế mồ hôi toát ra nhễ nhại, đành phải ngồi lại dưới gốc cây cổ thụ nghỉ mệt. Ngài phóng tầm mắt ra xa, thấy một toà thảo xa, bèn đứng dậy bước tới. Một chú tiểu đồng từ trong ngôi nhà đi ra hỏi, nhưng ngài không đáp, chỉ quay lại hỏi chú tiểu sa di xem vị cao tăng ở trong căn nào trong thảo xá.

Chủ tiểu chỉ vào căn bìa bên phải, ngài bèn chạy tới chỉ thấy một vị hoà thượng râu tóc bạc trắng nhắm mắt ngồi xếp bằng tròn trên một chiếc bồ đoàn.

Khang Hi hoàng đế chăm chăm nhìn vị hoà thượng một lúc lâu, rồi bỗng không nhịn được nữa, bèn chạy vụt vào miệng thốt lên một tiếng "phụ hoàng", đổi gối quỳ gập xuống mặt đất.

Vị hoàng thượng nghe gọi mở mắt ra nhìn, nhưng rồi lại từ từ nhắm mắt, không nói lời nào - Người ta chỉ biết Khang Hi hoàng đế sau đó thì thào những gì không rõ, một lúc lâu mới cáo biệt xuống núi. Đi đến giữa đường, ngài dặn dò chú tiểu chớ có phao tin ra ngoài, đồng thời trông nom vị cao tăng nọ cho chu đáo thì tương lai thế nào cũng có chỗ đẹp. Chú tiểu sa di vốn tính thông minh, bèn nói: "Tuân chỉ".

Khang Hi hoàng đế rời khỏi núi Ngũ Đài sơn bèn hướng về ngả Tế Nam tiến phát. Vì ngài có chỉ cấm hẳn địa phương đón rước cung đốn, cho nên khi ngài tới hành cung Tế Nam quan Tuần phu Sơn Đông Tiền Ngọc suất lĩnh các tỉnh văn võ quan viên lớn nhỏ tới thỉnh an chiếu lệ rồi đều trở về phủ nha làm việc như thường.

Khang Hi hoàng đế chờ cho bọn quan lại đi hết rồi, bèn cải trang thường phục rồi cùng một tên thị vệ thân tín lẻn ra cửa sau, tới một quán nhỏ uống trà để hỏi dò dân tình phong tục hành vi của quan lại mãi tới lúc trời xế chiều, ngài lại mới lẻn về hành cung.

Cơm tối xong, ngài cùng với quan tướng quốc Trương Ngọc Thư chong đèn đánh cờ. Hai người vốn là hai tay cao cờ nên gặp lúc kỳ phùng địch thủ thật không còn gì thú vị hơn nữa.

Cuộc cờ kéo dài mãi tới nửa đêm mà hai tay cờ vẫn còn hăng tiếp. Nhà vua giơ cao một con cờ, và giữa lúc đang say sưa xuất thần, bỗng ngài nghe tiếng ngựa hí người la ngoài tường. Bọn thị vệ và nội giám ai nấy mặt đều biến sắc. Hoàng đế một mặt hạ tay đặt mạnh con cờ xuống bàn, một mặt sai nội giám ra ngoài tra hỏi. Một lát, tên nội giám trở vào tâu:

- Tâu bệ hạ! Con ngựa Xích Ký của bệ hạ buộc ở hậu viên đã bị trộm lấy rồi!

Khang Hi hoàng đế nghe xong cả giận, ngẩng mặt bảo Trương Ngọc Thư:

- Con Xích Ký vốn do bộ lạc Khách Nhĩ Khác triều cống đấy! Đã bảy, tám năm nay, trẫm chưa hề xa nó một ngày. Không ngờ tới nơi này thì bị mất trộm. Tên trộm nào đó kể cũng táo gan thật, chẳng biết lão Tiền ở địa phương này đã làm được những việc gì nhỉ?

Mấy lời nói này, khi truyền tới tai Tiều tuần phủ đã khiến cho họ Tiền bạt vía kinh hồn, tưởng như trời đất sắp sụp đổ đến nơi. Sáng hôm sau, Tiền tuần phủ vội vã tới hoàng cung, tự bỏ hết mũ mãng, quỳ mọp ở ngoài cổng để đợi chỉ, một mặt nhờ nội giám vào trong cầu khẩn Trương tướng quốc thế mình xin tội trước Hoàng đế. Nhưng không ngờ sáng mai thức dậy, hoàng đế đã quên bẵng chuyện mất ngựa tối qua rồi. Báo hại quan tuần phủ Tiền Ngọc phải bỏ ra đến một ngàn lạng bạc mua một con ngựa màu vàng lúa, bộ mã khá tốt, bước đi hay lắm, để đem dâng hoàng đế. Chưa hết, ông còn phải bỏ thêm năm vạn lạng bạc hối lộ bọn nội giám thị vệ để nhờ bọn họ nói tốt cho mình trước mặt hoàng đế.

Qua ngày thứ ba, Khang Hi hoàng đế lại lên đường, hướng về tỉnh Giang Tô tiến phát. Tiền Ngọc tiễn hoàng đế ra khỏi thành xa đến mấy dặm mới trở về. Ông vừa bước vào nha môn thì đã thấy một hàng chữ viết trên tường từ lúc nào, chính giữa công đường: "Kẻ trộm ngựa của nhà vua đó là Đậu Nhị Đôn tỉnh Sơn đông!"

Tuần tiễu phủ xem hết câu, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ông tức tốc hạ lệnh đóng ngay cổng thành để ruồng bắt. Ruồng bắt đã mười ngày mà tuyệt nhiên chẳng thấy Đậu Nhĩ Đôn hình bóng nơi nào.

Đậu Nhĩ Đôn vốn một tay đại hán nổi danh tỉnh Sơn Đông.

Suốt một giải Sơn Đông, Trực Lệ, Hà Nam, Đôn hoành hành chằng coi quan quân, pháp luật ra gì. Cái khoái nhất của Đôn là gian dâm với phụ nữ. Con gái người ta đang ngủ trong phòng tới nửa đêm, Đôn dỡ ngói nhảy xuống bắt cóc. Vừa đặt chân vào phòng, hắn đã bảo ngay cô gái: "Đậu gia gia lại rồi đó, hãy ưng thuận đi nghe không?" Nếu cô gái bằng lòng ưng chịu, tức thì hắn lấy chăn quấn lại cặp nách mang đi. Hắn phi thân nhảy ra, rồi chạy một mạch về nhà tha hồ mà gian dâm. Sau khi thoả mãn, hắn lại cho vào chiếc chăn quấn chặt mang về nhà cô gái, bỏ vào phòng như cũ. Người con gái cài lại then cửa, rồi lên giường nằm ngủ như lúc đâu hôm, coi như không có chuyện gì xảy ra. Thật là người chẳng biết, quỷ không hay. Nhưng nếu cô gái giữ lòng trinh bạch không chịu. Đôn giết chết ngay, hoặc cũng có khi cướp mang về nhà rồi không bao giờ thả ra nữa. Bởi vậy, những cô gái dù có xảo quyệt tinh quái đến đâu cũng đành phải nhẵn nhục, mặc tình hắn làm gì thì làm. Tuy thế, đôi khi Đôn cũng cho những gia đình nghèo túng khá nhiều tiền bạc. Bạn hữu của Đôn rất đông ở vùng Tế Nam, thảng hoặc có kẻ giang hồ mãi võ ngang qua tỉnh thành, ắt thế nào cũng phải tới thăm viếng hắn trước. biếu xén chút ít thì lúc đó có làm ăn gì mới mong trót lọt, trái lại nếu không biết mà qua mặt thể nào hắn cũng mang huynh đệ của hắn tới đánh phá cho một phen đến tới bời hoa lá không còn cách gì làm ăn được nữa.

Bỗng một năm nọ, có một ông lão đầu lâu tóc bạc đem hai cô con gái tuyệt đẹp đến thành Tế ngay tại miếu Thái Ngạc. Hai cô gái này đều nhỏ nhắn xinh xinh, mặc một chiếc áo xanh, một chiếc quần hồng, đi đi lại lại, múa võ làm vui khiến khán già đứng xem ai cũng mê hồn lạc phách. Thế mà đến lúc xin tiền đều quái lạ nhất là khán giả ai cũng lắc đấu nghẹo cổ rồi rút lui sạch, chẳng một ai cho một đồng kẽm nào. Ông lão chưng hửng ngạc nhiên, cúi đầu buồn bực vô hạn. Giữa lúc đó bỗng có một tên đại hán lướt tới trước mặt ông lão giơ cao bàn tay to tướng y như chiếc nạng đập mạnh xuống hai ông lão rồi quát lớn.

- Thằng giặc già này! Mi có nhận ra Đậu Nhĩ Đôn đất Sơn Đông này không?

Ông lão nghe quát, liền quay đầu lại ngước mắt nhìn tên đại hán từ đầu tới chân lại từ chân tới đâu hai ba lần thấy hắn đứng ưỡn ngực liếc méo hẳn đôi mắt, một tay chống mạng vào sườn, một tay mân mê hai viên đạn sắt. Ngắm nhìn một lát để đo dò xong, ông lão trả lời với giọng khinh khi lạnh nhạt:

- Ai thèm biết đến mi là Đậu Nhĩ Đông, Đậu Tam Đôn mà làm gì? Huống hồ ta làm ăn theo nghề nghiệp của ta, biết đến mi cũng vô ích!

Câu trả lời của ông lao làm cho Đậu Nhĩ Đôn mở to mắt. trợn trừng con ngươi, những đường gân xanh ở trên mặt nổi hẳn lên như những chiếc dây thừng. Hắn chẳng để cho ông lão nói thêm, giơ thẳng cánh thoi cho một đấm vào giữa ngực ông lão như trời giáng.

Hồi 52

CẮT CHỨC VIÊN TRI HUYỆN

Ông lão đầu râu tóc bạc thấy Đậu Nhĩ Đôn giơ thắng cánh giáng quyền vào ngực mình, song ông không thèm đỡ mà cũng chẳng thèm tránh. Đậu Nhĩ Đôn càng hăng tiết, đấm luôn một hơi ba đấm. Điều kỳ quái đối với hắn là ông lão vẫn ngồi yên như chẳng có chút gì tỏ ra đau đớn hoặc sợ hãi. Bọn huynh đệ của Đôn đứng đằng sau thấy chuyện lạ, mặt ngây ra tỏ ý hoảng sợ hết sức, Đôn mắc cỡ quá vội đem bọn huynh đệ rút lui, mặt tên nào tên nấy teo lại như cái bị rách. Ông lão sau đó cũng thu lượm đồ đạc rồi quay về khách điếm an nghỉ.

Nửa đêm hôm đó, giữa lúc ông lão đang ngủ say, có một bóng người nhảy vù từ bên ngoài qua cửa sổ vào phòng. Khi vừa đặt chân vững phía trong, cái bóng đen tay cầm chắc con dao nhọn hoắt, nhè đầu ông lão chém mạnh xuống một nhát, tiếng dội lên nghe chát chúa. Có ai ngờ được cái bóng đen chém như vậy mà ông lão kia vẫn thản nhiên nằm ngủ như không có chuyện gì xảy ra, tiếng ngáy nghe như sấm. Tên thích khách bị một phen hoảng hồn, đứng thộn người ra.

Mãi một lúc sau ông lão mói dần dần tỉnh lại, mở mắt thấy Đậu Nhĩ Đôn còn đứng ngây người ở trước giường bèn nói với một giọng bình thản:

- Thằng bé nào ở đâu tới phá giấc ngủ của ông nội nó đó?

Đậu Nhĩ Đôn đến lúc này đã quá sợ, hai chân mềm ra như bún, vội quỳ phịch xuống đất miệng khấn cầu ông lão nhận hắn làm đồ đệ. Ông lão lúc đầu ngơ đi, chẳng thèm trả lời. Đôn tái tam khẩn cầu, đập đầu lia lịa dưới đất, lúc đó ông lão mới khứng chịu. Thế rồi hôm sau ông lão mang hắn đi, và từ đó, người ta còn trông thấy Đậu Nhĩ Đôn ở đất Tế Nam nữa.

Năm năm sau, lại thấy Đậu Nhĩ Đôn trở về với một cô vợ tuyệt đẹp. Người Tế Nam ai cũng nhận ra đó là cháu gái của ông lão đầu râu tóc bạc ngày nọ.

Ông lão này họ Thạch, vốn là bộ tướng của vị tướng quân nhà Minh Trương Thương Thuỷ. Người con gái đó là cháu ngoại của ông. Sau khi Trương tướng quân thua chạy, ông bèn đem hai người con gái, giả danh mãi võ để triệu tập anh hùng hào kiệt bốn phương mong khôi phục lại Minh triều. Thế rồi khi gặp Đậu Nhĩ Đôn xin nhập môn làm đồ đệ, ông bèn mang cà một kho võ nghệ truyền thụ cho Đôn. Ông còn đem cả cô cháu gái gả cho Đôn nữa, và khuyên Đôn từ nay về sau nên ăn ở sao cho trở thành người tốt. Ông cũng không quên giao cho Đôn nhiệm vụ chiêu tập bọn huynh đệ ở quê nhà để chờ cơ hội mà phục thù cho Minh triều.

Khang Hi hoàng đế Nam tuần chuyến này có qua địa phận Tế Nam. Đôn cho rằng cơ hội đã tới bèn đưa vợ con vào ẩn tạm trong rừng sâu rồi ngay đêm hôm đó, dùng khinh công dạ hành nhảy vào hành cung định hành thích vua Thanh.

Trong khi rình mò, Đôn thấy phía sau viện có con ngựa Xích Ký tốt quá. Đôn vốn tính thích ngựa coi ngựa tốt như mạng mình nên khi thấy đã bèn tính đánh trộm trước đã rồi sau sẽ hay. Con ngựa thấy có người tới trộm giật mình hí vang trời và cấp đá tứ tung. Bọn thị về vội vã chạy ra xem thì chỉ kịp thấy Đôn đã nhảy lên lưng phóng nước đại như bay, thoắt một cái đã xa đến mấy dặm rồi. Đôn đem ngựa vào giấu mãi tận trong rừng sâu xong mới ra ngoài thành lần nữa, nhưng Khang Hi hoàng đế đã đăng trình về phía Tô Châu rồi.

Thuyền của nhà vua qua Đan Dương, Thường Châu, Vô Tích, đều không đậu bến nào. Đúng ngày hai mươi sáu tháng mười thì Khang Hi hoàng đế tới Hữ Dã quan tỉnh Tô Châu. Quan tuần phủ Giang Tô là Thang Bân đem tất cả nha lại ra tiếp giá. Khang Hi hoàng đế cưỡi ngựa đi qua cửa thành, dân chúng trăm họ quỳ hai bên đường phố nghênh đón. Nha vua truyền lệnh bảo dân chúng đứng lên. Khi thấy ông già bà cả, trẻ nít con côi, nhà vua nhảy xuống ngựa, lại gần hỏi han. Ngài đi bộ tới cầu tiếp giá, trước chùa Thuỵ Quang, ngồi nghỉ chốc lát, rồi có quan tuần phú dẫn lộ vào xem một xưởng dệt.

Hồi đó có một vị tên gọi Tổng Mục Trọng đã từng làm phủ đài tỉnh Giang Tô, nay đã cáo lão về vườn hiện ẩn cư tai thành Tô Châu. Nhà vua bỗng nhớ tới ông, vội cho người đi kiếm ông tới hành cung để trò chuyện giai khuây. Qua ngày hôm sau, nhà vua sai bọn nội giám đưa biếu họ Tống bốn con dê sống, tám con gà trống thiến, tám cái đuôi hương lộc, hai mươi bốn bao thịt nai khô và bốn bao cá khô. Ngài lại còn truyền chỉ bảo họ Tống cách nấu đậu hũ để cho ông lúc về già lấy kế sinh nhai.

Qua ngày thứ ba, quan tuần phủ tới hành cung thỉnh an nhưng từ phía trong truyền ra bảo thánh cung không được khoẻ , nhất thiết quan nha miễn vào bái kiến. Thực ra đó chỉ là lời thoái thác, chứ hoàng đế có đau yếu gì đâu. Ngài đã từ sáng sớm đi cùng tên thị vệ thân tín lẻn xuống một chiếc thuyền con vào trong các thôn xóm hoặc thị trấn du ngoạn rồi.

Có một hôm, thuyền của nhà vua cập bến cầu Thất Lý, trong vòng thành huyện Hoa Đình. Khang Hi hoàng đế bước lên bờ thấy một quán rượu cất ngay bên cạnh cầu, tên tiểu nhị đang đứng bên quầy hàng. Ngài bèn thả bộ vào quán.

Tiểu nhị chạy lại hỏi khách. Ngài bảo lấy ba xị rượu rồi ngồi một mình độc ẩm. Một lúc sau, thấy khách trong quán đã lui hết, ngài bèn gọi tiểu nhị lại ngồi cạnh hầu chuyện. Ngài hỏi tên tiểu nhị:

- Người làm ăn vất vả cả ngày như vậy, tiền công được bao nhiêu?

Tên tiểu nhị đáp:

- Công xá của bọn tôi ít ỏi lắm. Bọn tôi chỉ nhờ vào chút tiền thưởng khi bán rượu mới đủ sống. Thực ra số tiền thưởng này góp nhóp lại kể cũng khá. Nhưng từ khi Kim đại lão gia đáo nhiệm tới nay thì ngài quyên thu hết, khiến bọn tôi chẳng còn được một cắc tiền thưởng nào nữa. Hiện nay bọn tôi chỉ còn nhờ vào số tiền công mạt rệp này nên không biết lấy gì độ nhật đây.

Nói xong, tiểu nhị thở dài, tỏ vẻ chán nản. Hoàng đế cúi đầu để suy nghĩ điều gì đó. Lát sau bỗng ngài hỏi tiểu nhị.

- Trong thành này, có vị quan nào lớn hơn viên quan huyện không?

Tiểu nhị đáp:

- Mấy hôm nay nghe nói có đức vạn tuế ngài tới, nên tỉnh phái một vị đề đốc đại nhân đem quân đến đây để bảo vệ.

Khang Hi hoàng đế biết vậy, liền bảo tiểu nhị lấy bút đem lại Ngài viết mấy chử xong đóng cái dấu nhỏ rồi bỏ vào bao thơ dán kín. Ngài gọi tiểu nhị bảo:

- Người đem bao thơ này tới nha môn của quan đề đốc. Ta với quan đề đốc vốn chỗ bạn thân. Một khi bao thơ này đến tay ngài, ta tin chắc bọn ngươi khỏi phải đóng tiền quyên nữa.

Tiểu nhị nghe bảo, nhưng đời nào dám làm theo. Về sau viên chưởng quỹ thay hắn liều mạng ra đi. Đặt chấn tới cổng nha môn của quan đề đốc, viên chưởng quỹ thấy bọn sai nha tàn ác dữ tợn mà phát hoảng. Y còn hoảng sợ hơn khi chúng hỏi y tới có việc gì. Viên chưởng quỹ lật đật thò tay vào trong bọc, rút bao thơ ra, tay run run đưa cho chúng. Bọn nha lại thấy chỉ là một bao thơ thường nên nhận xong rồi ném đại vào trong phòng. Viên chưởng quỹ thấy bọn chúng xem thường vội bảo người khách đưa thơ cần hồi âm ngay. Bọn sai nha vẫn bất chấp, chẳng thèm để ý. Tên Chưởng quỹ vật nài, ba bốn lần nữa thì vừa may một vị nhị gia từ bên trong bước ra. Bọn sai nha bèn đưa bao thơ cho vị này để đưa vào cho quan đề đốc.

Bao thơ đưa vào trong, chỉ một lát sau bỗng mọi người nghe ba tiếng pháo nổ vang trời. Tức thì cửa chánh môn mở toang.

Đề đốc đại nhân đích thân le te chạy ra tiếp đón viên chưởng quỹ vào trong một cách vô cùng trịnh trọng. Bọn sai dịch lúc nãy đứng hai bên mặt mày ngơ ngác, miệng há hốc chẳng hiểu sự thể ra sao. Quan đề đốc vội vàng đốt đèn nhang sáng rực cả công đường. Ông đặt bao thơ lên trên hương án, rồi đứng ngay ngắn phía trước làm lễ Tam quy cứu khấu. Lễ xong, ông quay lại chắp tay trịnh trọng lạy viên chưởng quỹ ba lạy. Viên chưởng quỹ chẳng hiểu ra sao, vội quỳ xuống đáp lễ mãi không thôi. Quan đề đốc, sau đó cho người đi gọi ngay viên tri huyện Hoa Đình. Viên tri huyện chẳng biết chuyện gì vội vàng đội nón mặc áo, leo lên kiệu, tức tốc ra đi. Quan đề đốc vừa thấy mặt Kim tri huyện bỗng sa sầm nét mặt, hét một tiếng "Quỳ xuống nghe chỉ". Kim tri huyện hoảng hồn bạt vía, vội nằm bò xuống đất không dám động cựa.

Quan đề đốc bước tới vài bước, cầm bao thơ mở ra tuyên đọc:

"Tri huyện Hoa Đình Kim Vũ, hối lộ tham nhũng khiến dân hết đường sinh sống, nên Trẫm giao cho quan đề đốc bối xích lại ngay và đợi chỉ. Khâm thử".

Kim tri huyện chưa nghe hết, mặt hắn đã xám ngoét như cục đất thó. Bọn sai nha được lệnh, trước hết lột mũ, rồi sau mới còng tay và đẩy tắp vào nhà lao.

Hạ ngục viên tri huyện xong quan đề đốc bắt đem kiệu tới, leo lên ngồi trên, cho cả viên chưởng quỹ cùng ngồi, chạy như bay tới cầu Thất Lý. Nhưng khi quan đề đốc bước vào tửu điếm thì hoàng đế đã ra đi từ lâu. Quan đề đốc vội truyền lệnh cho các pháo thuyền khắp nơi đều phải đuổi gấp để bảo vệ nhà vua. Ngự thuyền chỉ là một chiếc thuyền nhỏ, mà pháo thuyền lại thuộc loại lớn kềnh càng đồ sộ cho nên quan đề đốc tìm kiếm mất mấy ngày phí công mà vẫn chẳng thấy, trái lại, chỉ làm cho địa phương này náo động lên một phen mà thôi.

Khi Khang Hi hoàng đế đến Tô Châu, bọn quan lại ở đây mới biết rằng ngài vừa mới du hành ra ngoài, ông nào ông nấy lũn cũn chạy tới hành cung thỉnh an. Ở lại ít hôm, hoàng đế lúc đó mới trở gót về kinh, khi đi qua Giang Minh, ngài bỗng sực nhớ tới quan chức Tào Dần, bèn truyền dụ cho Dần tới tiếp giá. Dần đưa ngài về Nha môn Chức tạo. Dần vốn là một quan viên sai khiến của nhà vua, điều lý các việc. Hoàng đế đãi ngộ Dần như một vị thân thần. Mẹ của Dần là Tôn thị, lúc trẻ cũng có vào cung.

Sau khi tiếp giá, Tào Dần và hoàng đế trò chuyện vui đùa y như người trong nhà. Hoàng đế lại còn triệu bà Tôn thị ra mắt ngài, rồi cả đến bọn cháu chắt thảy đều được ban thưởng rất nhiều tài vật. Ngài lại viết ba chữ "Huyện thuỵ đường" để thưởng cho Dần.

Dần có cái vườn hoa rất lớn. Hoàng đế ở lại đây vài hôm nữa rồi xa giá mới thẳng về Bắc Kinh.

Trong khi vua cha Khang Hi Nam tuần thì thái tử Dân Nhung ở nhà Giám quốc được yên ổn, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vốn là một "con mọt sách", suốt ngày chúi mũi vào đống sách, cho nên việc triều chính thẩy đều phó mặc bọn đại thần, thân vương bối lặc lo liệu, duy chỉ có hoàng tử Dân Trinh, vì thấy vua cha tuần du khỏi kinh thành, càng ngày càng tỏ ra phóng túng bạt mạng, chẳng đếm xia gì tới luật pháp. Bỗng một hôm, thái tử Dân Nhung ra Nam Uyển đi săn, ngẫu nhiên thấy một đội thị vệ cưỡi ngựa từ phía Nam chạy tới, hộ tống một chiếc xe, phía trước có rất nhiều nghi trượng lại có cả bọn sư Lạt ma cầm pháp khí đi trước dẫn đường. Thái tử tưởng lầm là Khang Hi hoàng đế đã trở về, vội chạy lại đón giá. Chẳng ngờ người ngồi trên xe chỉ là tứ hoàng tử Dân Trinh. Nhung lấy làm bực lắm, song lại nghĩ tới tình nghĩa anh em nên đành tránh ra bên cho đoàn xe ngựa của Trinh đi qua.

Đợi đến Khanh Hi hoàng đế về triều, thái tử Nhung diện kiến vua cha mới đem việc tứ hoàng tử mạo dung nghi trượng hoàng đế tâu lên. Hoàng đế nghe xong tức giận lắm, liền phái người tới thu hết đồ nghi tượng, lại còn gọi Dân Trinh vào cung, chửi mắng cho một trận nên thân.

Bị một mẻ chua cay tứ hoàng tử Dân Trinh hậm hực oán hận lắm, về nhà thu xếp hành lý, đem thêm mấy tay võ sư, ra khỏi kinh thành, chạy thẳng về hướng Tây Nam.

Trong lúc đi đường Trinh bảo với bộ hạ là cả bọn quyết đi đất chạy bộ chứ nhất định không dùng xe dùng ngựa, như thế một là để tập luyện gân cốt, hai là để tìm kiếm anh hùng hảo hán ở dọc đường. Trinh cùng bộ hạ đi đến chân núi Trung Sơn vào trọ trong lữ điếm thì lúc đó trời cũng vừa tối. Bọn võ sư cùng bọn thị vệ thấy trăng trong gió mát nên ngồi cả trước thềm để vừa ngắm trăng vừa nói chuyện vãn với nhau, Trinh một mình ở trong phòng buôn quá, bèn lẻn ra ngoài tản bộ.

Về phía đông lữ điếm có một khu rừng tùng, trăng chiếu ánh lung linh. Dưới mặt đất, bóng trăng không chiếu tới được nên hình ảnh mập mờ. Trinh khoanh tay, từ từ bước tới cạnh khu rừng. Bỗng tai Trinh nghe có tiếng gió lộng vù vù. Trinh gấp rút đi tới và vòng một vòng ra trước thì thấy trên một khoảng đất trống về mé đông khu rừng có một nhà sư tay cầm thiền trượng đang múa tít loang loáng dưới trăng.

Trinh xem nhà sư múa một lát cảm thấy chân tay ngứa ngáy nên liền tuốt yêu đao, xông vào vòng chiến. Nhà sư thấy có người đánh trả mình bèn múa cây thiền trượng vèo vèo lúc ẩn lúc hiện như một con rắn vây bọc lấy đối thủ. Trinh đem hết tài nghệ luyện tập lâu nay ra ứng phó, nhưng đánh đã một lúc lâu mà vẫn không tìm được cách nào để hạ thủ.

Rồi thủ pháp của Trinh mỗi lúc thêm bấn loạn, tay chân Trinh đã có phần tên mỏi rã rời, trong lúc đó cây thiền trượng của nhà sư càng lúc càng nhanh, càng lúc càng bám sát lấy Trinh. Trinh thấy thế giật mình biết nhà sư này chẳng phải tay vừa.

Trong lúc Trinh còn đang suy nghĩ để so đo đánh giá thì cây thiền trượng đã như một trái núi Thái Sơn từ trên cao vụt tới chỉ cần nghe tiếng gió cũng đã nghe ghê hồn rồi.

Trinh hoảng quá, vội nhảy lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng quỳ xuống đất miệng kêu: "Xin sư phụ tha mạng". Nhà sư thu cây thiền trượng, hồ hố cười lớn đoạn quay mình tới gốc cây tùng lượm gói đồ lên, co chân phóng đi. Trinh đời nào chịu bỏ, vội đuổi theo. Khi tới gần, Trinh vội ôm cánh tay nhà sư, khẩn khoản xin nhà sư cho làm đệ tử. Nhà sư nghe lời Trinh có vẻ thực thà, liền nhìn Trinh từ đầu tới cuối rồi gật đầu ưng chịu.

Trinh như mở cờ trong bụng, vội quay về khách điếm kể lại cho bọn tuỳ tùng nghe mọi việc vừa xảy ra rồi bảo chúng quay trở về kinh chờ đợi. Còn Trinh thì theo chân nhà sư ra đi. Hai thầy trò ngày đi đêm nghỉ, trèo núi vượt đèo, trải qua không biết bao nhiêu đường đất. Bình sinh Trinh đâu phải nếm cảnh gian lao khố cực như thế này nhưng vì muốn học tập bản lãnh, cho nên đành phải nhẫn nại chịu đựng. Hai người đi như vậy đã nhiều ngày bỗng một hôm tới một ngọn núi cao. Thầy trò cùng trèo lên. Khi tới được đỉnh núi thì Trinh đã mệt nhoài, mồ hôi ra như tắm. Nhà sư co chân bước những bước vừa cao vừa dài tới một chóp núi. Một toà miếu lớn hiện ra, mé trên cửa treo tấm biển viết ba chữ lớn: "THIẾU LÂM TỰ". Mãi lúc đó Trinh mới rõ sự thể, và từ đó về sau Trinh theo sư phụ, cùng bọn sư huynh sư đệ ngày ngày luyện tập.

Trinh sống với bọn đồng môn nơi đây mười phần hoà thuận. Có kẻ hỏi Trinh lai lịch quê quán thì Trinh chỉ bảo mình quê ở Bảo Định Phú còn câu chuyện hoàng tử, hoàng cung Trinh tuyệt đối giữ kín không cho ai hay. Trinh có tật xấu là ăn quá nhiều khiến bọn đồng môn ai cũng cười Trinh và đem sánh với vị sư phó trước đây.

Vị sư phó của họ tên gọi Chính Giác. Lúc mới tới chùa, Chính Giác chỉ là một nhà sư nấu bếp. Chính Giác ăn quá nhiều. Mỗi lần cùng ăn cơm với bọn đồng môn, Chính Giác ăn không được no, chỉ lưng lửng phần nào, miệng còn chép chép muốn ăn thêm. Bởi vậy, Chính Giác tính chuyện trộm đồ ăn thừa còn lại trong bếp đem giấu trong một khẩu chuông cổ bỏ đã lâu đời đằng sau viện, để lúc vắng người ra đó ăn thêm. Khẩu chuông cổ này bằng đầu người, nặng có tới ngàn cân, vứt ở trong xó viện đã từ lâu lắm, không ai có thể xê dịch nó nổi. Chính Giác trời sinh có một sức mạnh như thần. Ông nâng lên đặt xuống khẩu chuông như cầm bát cơm vậy. Về sau, nhà sư trông coi việc bếp nước thấy hôm nào cũng mất đồ ăn, bèn len lén điều tra. Nhà sư này theo dõi Chính Giác tới sau viện thì bắt được quả tang Chính Giác đang nhấc bổng khẩu chuông lên để đặt gói đồ ăn trộm ở nhà bếp vào trong. Thế là chuyện vỡ lớ. Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên. Vị hoà thượng trụ trì cho gọi Chính Giác tới, khuyên không nên lấy trộm cơm nữa, và hứa cho ăn thả cửa, thật no đủ thì thôi. Hoà thượng trụ trì lại hỏi Chính Giác có một thần lực như vậy, tại sao không đi đầu quân phò vua giúp nước thì Chính Giác đáp:

- Đệ tử nghe nói trên núi Nga Mi có một vị Thái sư phó tinh thông quyền thuật. Môn bách bác thần quyền của ngài được coi vô địch. Nhưng ngài chỉ chuyên truyền thụ cho đệ tử Phật môn mà thôi. Đệ tử không có vị hoà thượng trụ trì tên tuổi nào giới thiệu cho nên ngài chẳng chịu thu nhận. Nay sư phó cấp cho đệ tử một phong thư giới thiệu giúp đệ tử tới núi Nga Mi học thành tài trở về, đệ tử không bao giờ dám quên đại đức của sư phó.

Vị hoà thượng trụ trì thấy Chính Giác thành tâm cầu học, nên viết ngay bức thư giới thiệu. Chính Giác cầm thơ đi thẳng tới núi Nga Mi, mãi tám năm sau mới về thì vị trụ trì đã mất. Thế là toàn thể tăng ni trong chùa tôn Chính Giác lên làm trụ trì.

Nhà sư Chính Giác, quyền pháp quả thực cao cường, thiên hạ đều biết tiếng. Số môn đệ tới Chùa xin lãnh giáo, tăng có, tục có lên tới hơn một ngàn người, người nào người nấy đều được Chinh Giác hoà thượng tận tâm chỉ bảo. Hoàng tử Dân Trinh hồi đó cũng theo bọn môn đệ cố công luyện tập. Tạo luyện hơn một năm ròng rã, Trinh đã lãnh hội được môn bách bát thần quyền. Trinh bèn xin sư phó trở về nhà.

Sư phó Chính Giác gật đầu, và sau đó cho gọi 108 nhà sư môn đệ vây Trinh vào giữa để hai bên tỷ đấu quyền thuật.

Đứng trước 108 địch thủ Trinh không hề có chút sợ hãi. Trinh phải lần lượt đấu hết người này tới kẻ kia. Bọn địch thủ đấu càng về sau càng hung dữ khiến Trinh phải đem hết công lực và tài nghệ chống đỡ mới thoát hiểm. Cuối cùng Trinh đã đánh lui được đủ 108 người sát hạch mình.

Theo quy lệ của chùa Thiếu Lâm thì hễ ai nhập môn vào chùa đều phải có lệ nghinh tống (đón rước và tiễn đưa): khi vào chùa, được học nghề, phải bốc nổi cái chuông đã đặt ở ngay trước cổng rồi cố sức mang được vào bên trong thì lúc đó mới được thu lưu. Kẻ nào không làm nổi thì nhà chùa nhất định không nhận. Rồi đến khi học đã thành tài muốn ra khỏi chùa để hạ sơn, bắt buộc phải qua ba từng cổng. Cống thứ nhứt có tám vị hoà thượng tay cầm dao chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ nhất mới tới cổng thứ hai. Cổng này có tám vị hoà thượng tay cầm gậy chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ hai rồi lại còn cái cổng chót, là cống thứ ba. Cổng thứ ba có tám vị hoà thượng đứng chờ, không có binh khí, nhưng dùng quyền cước tấn công, tám vị hoà thượng này đều là những tay võ có bản lĩnh cao cường, quyền pháp tinh thông, thoát khỏi được không phải là chuyện dễ. Người muốn ra phải theo ngưỡng cửa mà ra. Bởi vậy, Dân Trinh đã muốn hạ san, ắt không thể nào không theo qui củ của nhà chùa. Trinh bèn tung mình qua từng cửa thứ nhất, may sao tránh được đao của bọn hoà thượng. Qua từng cửa thứ hai Trinh đang tìm cách thoát đi, thì vừa lúc ngoài sơn môn chạy tới một đám đông thị vệ và nội giám. Bọn người này chính là bọn thủ hạ của Trinh trở lại tìm chủ. Đến lúc đó, cả bọn tăng tiểu trong chùa mới biết Trinh là một vị hoàng tử. Nhà sư trụ trì bèn quát bảo mọi người lui ra rồi đích thân đưa Trinh ra khỏi chùa.

Theo ý của Dân Trinh thì nhất định phải đánh phá cho kỳ được ba từng cửa mới ra. Nhưng hoà thượng Chính Giác không cho, còn nói:

- Đường đường một vị hoàng tử, con không nên quá cố chấp và liều lĩnh.

Khi tạm biệt, hoà thượng Chính Giác tặng Trinh một cây thiền trượng bằng sắt, bảo để dùng làm kỷ vật về sau. Lại nói:

- Bản lãnh của hoàng tử đã có thể tung hoành thiên hạ. Nhưng nếu gặp nữ nhân, nên đặc biệt cẩn thận đề phòng.

Dân Trinh nhất nhất lĩnh hội, rồi cáo biệt xuống núi. Khi về tới vùng Sơn Tây ngụ tạm trong khách điếm, bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm bên ngoài. Trinh cho người chạy ra hỏi xem, mới biết một tên đại hán đang muốn đánh chết một người nào đó, trong khi khách qua đường xúm lại cố khuyên hắn bớt giận. Tên đại hán ấy chẳng những không nghe ai mà còn quát lớn:

- Ta vốn là võ sư của đương kim điện hạ. Nếu ta có gây ra án mạng thì đã có điện hạ của ta lo liệu chứ ta đâu có sợ gì.

Lời nói hách dịch đó quả đã khiến Dân Trinh cả giận. Trinh cầm cây thiết trượng chạy tới, thì một cảnh tượng vừa thương tâm vừa đáng giận hiện ra trước mắt. Trên mặt đất, Trinh thấy một người nằm cong queo giữa đường, đầu vỡ máu chảy lênh làng, chết tự bao giờ. Đứng phía trước là một tên đại hán, một tay chống nạnh, tay kia chỉ vào thây người chết, mặt hầm hầm giận dữ, miệng bô bô chửi rủa. Chung quanh, một số đông khách qua đường xúm lại tạo thành một cảnh vô cùng huyên náo.

Hoàng tử Dân Trinh đẩy đám đông lách vào trong rồi tiến lên hỏi tên đại hán. Không ngờ, hắn càng làm tàng, gân cổ nói phách:

- Lão gia đây muốn đập chết đứa nào thì cứ đập. Lão gia đang chờ đứa nào tới vuốt râu cọp. Mi liệu có ba đầu sáu tay không mà dám nhảy vào hỏi lão gia?

Dân Trinh chưa nghe tên đại hán nói hết câu, máu hoả đã bốc cao ngút, liền cất cao cây thiền trượng múa một vòng rồi đập mạnh vào sọ hắn. Một tiếng "bốp" vang lên, tức thì tên đại hán ngã quay đơ ra đất, đầu vỡ, máu vọt ra có vòi, nằm ngất lịm như kẻ chết rồi.

Cảnh tượng xảy ra quá đột ngột khiến bọn chưởng quỹ, tiểu bảo trong khách điếm sợ hãi cuống cuồng, ùa nhau chạy tới nắm lấy áo Dân Trinh không chịu buông. Trinh bèn cho một tên thị vệ theo bọn tiểu bảo tới huyện nha thụ lý bản án, còn mình thì rời khỏi địa phận Sơn Tây trở về Bắc Kinh.

Khi về tới nhà, Dân Trinh thấy có một số đông kiếm khách và Lạt ma tăng tới thăm hỏi. Nhân lúc vui tiệc, Trinh cho mọi người nghe chuyện mình đánh chết tên võ sư như thế nào. Bỗng một vị Lạt tăng trong cử toạ lên tiếng nói:

- Không xong rồi! Võ sư đó vốn là một tên tâm phúc của thái tử. Gia đình hắn có chuyện nên xin thái tử về quê ở Sơn Tây. Nay hắn bị chủ tử đập chết, thái tử đời nào lại chịu bỏ qua mà không can thiệp chứ?

Dân Trinh nghe xong, chẳng thèm để ý, liền quát bảo lấy thêm rượu. Hôm đó uống quá nhiều, Trinh say bí tỉ. Bọn thị vệ phải xúm lại khiêng vào phòng trong. Ngủ một giấc mãi tới nửa đêm Trinh mới tỉnh lại, miệng khát đòi nước.

Tên thị vệ vội dâng chén nước sâm. Trinh đang định giơ tay đỡ lấy thì bỗng thấy từ ngoài cửa sổ một đạo bạch quang bay vụt vào chạm ngay giữa song cửa đánh rầm một tiếng, rồi lại quay vút ra ngoài. Trinh vội tuốt lẹ cây bảo kiếm đeo bên hông tên thị vệ. Vừa định chạy ra, bỗng thấy một vị Lạt ma hối hả chạy vào, tay lắc lắc ra dấu, miệng thầm bảo Trinh:

- Bên ngoài đang kịch chiến ác liệt, hoàng tử hãy coi chừng.

Trinh vội lôi tên thích khách từ đâu tới thì vị Lạt ma tăng lắp bắp nói được hai tiếng: "Thái tử", rồi im bặt. Một đạo bạch quang lóe sáng như điện chớp lại từ bên ngoài cửa sồ bay vút vào, tạo thành một chuỗi âm thanh ghê rợn. Một tiếng "phập" chát chúa vang lên. Trinh vội nhìn vào chỗ phát ra âm thanh thì đó là một cây bảo kiếm bị ném đã cắm sâu vào thành giường cán còn lắc lư rung động, lưỡi kiếm phát ra những luồng sáng xanh lóe đến lạnh người. Vị Lạt ma tăng vội nắm áo Trinh kéo sang một bên, đồng thời thổi tắt hết đèn đóm trong phòng.

Bên ngoài, gần khắp cả khuôn viên, tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng chứng tỏ cuộc so gươm đấu chưởng kinh hồn đang diễn ra. Một lúc lâu sau người ta mới thấy tiếng binh khí xa đi và mất dần.

Lúc này trời đã sáng và Trinh cũng đã tỉnh rượu. Trinh bèn mở cửa viện ra xem thì thấy cây cối trong vườn bị kiếm chém rụng hết, cành lá trơ trọi chẳng khác gì những cái cán cờ dựng đứng lên trời. Trên mặt đất nằm la liệt những tử thi.

Trinh quan sát cẩn thận mới hay đó là xác đám tay chân thái tử, ngoài ra cũng có xác một số kiếm khách của Trinh nữa.

Hoàng tử Dân Trinh thấy tình hình như vậy, lấy làm căm phẫn lắm, lập tức triệu tập bọn kiếm khách và võ, sư lại để bàn tính trả thù. Vốn là những tay cao thủ võ lâm, cả bọn đều hăng hái quyết tử, đồng thanh nói:

- Xin cho phép bọn tôi đêm nay tới Đông cung, quyết lấy cho kỳ được đầu thái tử về nạp cho chủ tử.

Trình bèn sai dọn tiệc. Cả bọn cơm no rượu say rồi kẻ nào kẻ nấy giắt dao, xách kiếm lên đường. Thế rồi cả đêm hôm đó, đám bách tính có nhà ở gần hoàng thành chỉ nghe thấy tiếng đao kiếm rộn ràng, ào ạt như tiếng gió gào, tiếng mưa thét làm vang động cả một góc trời.

Qua ngày thứ hai, người ta chỉ thấy bọn nội giám trong Đông cung tất tưởi ra ngoài phố mua tới hơn chục cổ quan tài đem về. Bên Đông cung đã thế thì bên phủ của Dân Trinh cũng chẳng thua gì. Ở đây, người ta cũng thấy bọn thị vệ hối hả ra chợ mua khá nhiều áo quan khiêng về phủ.

Nguyên lai chuyện ác chiến hôm đó, thái tử đã sớm dò được tin tức, cho nên một mặt ẩn trốn vào nơi kín đáo, một mặt đặt bọn kiếm khách phục sẵn khắp trong Đông cung..

Cuộc ác đấu này đã lượm hết mỗi bên hơn mười mạng. Từ đó, mối thù giữa thái tử và Ung vương càng ngày càng thắt, khó lòng gỡ nổi.

Thái tử Dân Nhung biết chẳng chóng thì chầy hoàng tử Dân Trinh cũng sẽ trả thù. Bởi vậy, Nhung cho người mang theo vàng bạc ra khỏi kinh thành, tới các miền như Sơn Tây, Hà Nam, Sơn Đông, mời các vị cao thủ võ lâm về để bảo hộ cho mình. Ung vương được tin đó, bèn thảo luận với bọn thủ hạ kiếm khách, cũng đi mời các tay võ hiệp bản lãnh cao cường về để so tài cao thấp với phe Đông cung. Trong bọn có một vị Lạt ma tăng khuyên Dân Trinh nên đích thân xuất kinh phỏng tầm, một là để tránh tai mắt Đông cung, hai là để kết liên với bọn giang hồ hành hiệp. Ung vương nghe lời nói có lý, bèn đem theo vài tên thị vệ võ sư lại ngầm lén ra đi.

Trên đường đi, Ung vương Dân Trinh chú ý tới hành vi của những anh hùng hảo hán, và cũng gặp được một vài tay.

Trong bọn này, có một người tên gọi là Bạch Long đạo nhân, rất lợi hại về môn phóng phi đao, có thể lấy thủ cấp người đứng xa trăm bước như chơi. Trinh bèn xin Bạch Long đạo nhân truyền thụ ngón võ tuyệt luân này lại cho mình thì vị đạo nhân trả lời:

- Võ công này của bần đạo chỉ dành riêng cho mình, chứ không thể truyền cho người khác. Nếu chủ tử muốn học thì phải học sư phụ của bần đạo tên là Cam Phượng Trì, một đại hiệp vùng Giang Nam mới được.

Ung vương vốn mộ tiếng Cam Phượng Trì đã lâu, nên nay nghe Bạch Long đạo nhân nói vậy, bèn theo gót tới Giang Nam phỏng tầm. Khi tới đất Kim Lăng, Ung vương được tin hiệp sĩ họ Cam đang ở trong nhà một vi thân sĩ họ Kim. Vương bèn theo Bạch Long đạo nhân tới nhà họ Kim để bái kiến...

Cam Phượng Trì hiệu xưng là Giang Nam đệ nhất hiệp. Quyền pháp của họ Cam có đủ bí quyết của lương gia nội ngoại. Suốt cả hai miền Đại Giang nam bắc không ai có thể thắng nối họ Cam. Cam Phượng Trì hay can thiệp những chuyện bất bình. Bởi vậy, các bậc thân sĩ miền Giang Nam thường luân phiên mời ông ta về nhà, bầy rượu ngon, tiệc hậu cung đón Cam Phượng Trì nhậu say, đến lúc cao hứng, bèn trổ tài, cho chủ nhân khai tâm chút bản lãnh của mình. Có một hôm nhà họ Kim mời khá đông quý khách tới chè chén tại Hoa sanh. Chủ nhân mời Cam Phượng Trì ngồi ghế trên nhất.

Khi rượu được nửa cuộc, họ Cam bỗng lên tiếng một cách trịnh trọng:

- Ngoài cửa sổ, hoa mai đương độ nở tươi, đáng lý bọn ta phải vừa thưởng hoa vừa uống rượu mới phải! Thế mà nay cứ đóng cửa im ỉm như thế này, há chẳng phải là vô tình với cảnh tạo hoá hay sao?

Nói đoạn, Cam Phượng Trì vận khí thổi phù, khiến tám tấm cửa sổ phía nam bật ra, tiếng gió rung lên phần phật.

Mùi thơm của hoa mai ùa vào phòng. Đám tân khách kẻ nào cũng vỗ tay đôm đốp, miệng thì khen lấy khen để. Một vị khách trong bọn nói:

- Nghe đại hiệp rất cao thủ đoạn, có thể bắn trúng ngoài trăm bước, trăm phát chắc trăm. Rất mong đại hiệp cho cả toạ thưởng chút ít tài nghệ hôm nay.

Cam Phượng Trì đang cao hứng liền cho người cầm bút ra cây mai đánh dấu trước những đoá hoa và chỉ cần cho biết rõ đoá hoa thứ mấy cũng như cành thứ mấy là đủ. Đoạn họ Cam vo tròn một miếng giấy rồi búng vút ra của sổ, bắn vào cây mai. Mọi người chỉ thấy hoa mai, hết đoá này tới đoá kia, rơi xuống mặt đất lả tà. Xem kỹ lại thì ra đó toàn là nhưng đoá hoa mai đã được đánh dấu từ trước. Cử toạ đến lúc đó thảy đều giật mình. ai cũng phải cho là kỳ dị.

Tiệc tan, chủ nhân mời khách tới Tây trang du ngoạn. Tây trang vốn là trang trại của chủ nhân. Vài nếp nhà tranh, đôi nóc lều nát điểm xuyết cho cảnh đồng quê thêm phần thanh tịnh hữu tình, càng làm cho khách thích thú. Nhưng giữa lúc đang ngắm cảnh, bỗng một chú mục đồng vừa khóc vừa chạy lại nói với Kim chủ nhân:

- Ông ơi! Hai con trâu húc nhau từ trưa tới giờ vẫn chưa thôi ông ạ!

Cả bọn theo chú bé chăn trâu ra sau trại xem, quả nhiên thấy hai con trâu mộng đang dùng sừng kìm nhau, nhất định không bên nào chịu buông. Cam Phượng Trì bước tới dùng tay gạt đôi cặp sừng ra, rồi thuận thế nắm lấy, đẩy mạnh một cái khiến hai con trâu bị xô sang hai bên khu ruộng. Người ta chi thấy mấy cặp giò của đôi trâu cắm ngập vào lòng đất bùn, cố rút mãi mà vẫn không lên được. Khách đứng xem thẩy đều cảm phục. Cam Phượng Trì sau đó tiến tới đưa hai cánh tay sắt ra nâng hai con trâu lên nhẹ nhàng như ta nâng cái ghế gỗ, giúp chúng thoát khỏi ruộng sình.

Chính giữa lúc họ Cam đang biểu diễn vài ngón võ mọn thì người nhà chạy tới báo có Bạch Long đạo nhân từ trên Kinh xuống cầu kiến. Cam Phượng Trì nghe nói đồ đệ tới, trong lòng rất lấy làm vui mừng, bèn nhờ ngay căn nhà khách của họ Kim để tương kiến.

Hoàng tử Dân Trinh yết kiến Cam Phượng Trì, rồi thác rằng mình là họ Lý. Bạch Long đạo nhân cũng nói thêm vào rằng họ Lý, nghe danh của sư phụ đã lâu nên tới bái phòng.

Bạch Long đạo nhân xin sư phụ tiến kinh một thể với mình, đồng thời cũng không quên ca tụng Dân Trinh nào là khảng khái ham điều nghĩa, nào là bản lãnh cao cường...

Cam Phượng Trì nghe xong, chẳng nói năng gì, dẫn cả hai vào tương kiến với Kim chủ nhân. Tối hôm đó Kim bày tiệc đãi Dân Trinh. Rượu đến nửa cuộc, Cam Phượng Trì có ý muốn thỉnh giáo bản lãnh. Trinh không từ chối, bèn dùng phép vận khí của phái Thiếu Lâm tựa sát lưng vào chân tường rồi đẩy nội lực tung người lên cao, vượt hẳn ngọn tường, sau đó lại từ từ rơi xuống như chiếc lá thu rơi. Cam Phượng Trì miệng nở nụ cười tinh quái, thong thả đứng lên, rồi cũng bước lại đứng phía chân tường, bảo Dân Trinh vận hết sức bình sinh mà đấm. Trinh cũng muốn thử xem bản lĩnh của họ Cam, cho nên vận nội lực vào cánh tay tống một quyền như trời giáng vào bụng. Chỉ thấy Cam Phượng Trì thót bụng một cái, khiến cả cái bụng bự lúc trước chỉ còn mỏng như tờ giấy.

Nắm đấm của Trinh khi tới bụng họ Cam thì chẳng khác gì đấm vào chính bức tường. Trinh vội rút ra nhưng lạ thay, nắm đấm của mình đã bị cái lỗ rốn của họ Cam hút chặt vào, không cách gì kéo ra được. Lát sau, Cam Phượng Trì cười lên kha khá rồi "buông" bụng ra, lúc đó Trinh mới thu được quyền về.

Sau khi tiệc tan bọn Bạch Long đạo nhân cùng vào ngủ chung một phòng với Cam Phượng Trì. Thấy không có ai, Bạch Long đạo nhân bèn thì thầm kể cho Cam Phượng Trì biết Dân Trinh chính là đương kim tứ hoàng tử, đối đầu với thái tử có ý tranh đoạt địa vị, nên tới mời sư phụ tiến kinh.

Cam Phượng Trì nghe đoạn, xua tay mấy cái liền rồi bảo:

- Không được đâu! Ta chẳng đi đâu!

Bạch Long đạo nhân cầu khẩn ba, bốn lần nhưng Cam Phượng Trì vẫn lắc đầu nguầy nguậy khiến hoàng tử Ung Vương nằm gần bèn nổi đoá, đứng vụt dậy chộp lấy tà áo Cam Phượng Trì. Họ Cam lập tức khoát tay một cái, quay mình nhanh như chớp vút đi, không thấy bóng dáng đâu nữa. Bạch Long đạo nhân chạy khắp cả trong ngoài căn nhà để tìm kiếm nhưng vẫn bặt tham hơi. Rồi bỗng Dân Trinh nhác thấy có đôi bàn chân thò ra ở sau cái quầy áo. Hai người vội chạy lại khiêng quầy áo ra thì thấy Cam Phượng Trì đang đứng sau đó, thân hình dán sát vào vách tường y như một tờ giấy mỏng.

Bạch Long đạo nhân chắp tay lạy mấy lạy rồi mời Cam Phượng Trì bước xuống cho nhưng họ Cam vẫn đứng nguyên vậy Dân Trinh chạy tới kéo mạnh xuống nhưng Cam vẫn cứ trơ trơ như đá, không một mảy may nhúc nhích. Dân Trinh đem bài thần chú Lạt ma ra niệm, Cam vẫn không hề lung lay. Dân Trinh lúc đó đã nổi đoá, tự nhủ: "Con người bản lãnh cao cường như vầy nếu không về với ta để sau này thái tử mời được rồi chống lại ta thì thật nguy hiểm. Chi bằng nhân lúc này ta kết quả luôn tính mạng của hắn đi cho xong". Nghĩ vậy, Trinh rút lẹ cây chuỳ thủ, dùng tận lực bình sinh đâm thốc vào Cam Phượng Trì nghe đến phập một tiếng ghê người.

Cùng lúc tay này đâm tới thì tay kia Trinh nắm lấy Bạch Long đạo nhân kéo chạy đi. Hai ngươi ra tới bờ sông, nhảy đại xuống thuyền, hối thúc chèo lẹ về hướng Bắc.

Trong phòng, Cam Phượng Trì khi thấy Dân Trinh và Bạch Long đạo nhân trốn đi rồi, bỗng phá lên cười sằng sặc. Mọi người chung quanh vội chạy tới hỏi han, mới biết Cam Phượng Trì chẳng hề hấn gì cả, thật là tài tình và đáng sợ. Kim chủ nhân bèn hỏi họ Cam lý do không chịu đi với Tứ hoàng tử vào kinh thì ông đáp:

- Vì Tứ hoàng tử này có cái tướng đế vương thật đấy, nhưng vì xương gò má phía ngoài quá độ nên nhất định sẽ là kẻ vong ân bội nghĩa, tại hạ không đi theo y là vì vậy.

Cả bọn nghe Cam Phượng Trì nói, tỏ ý rất bội phục.

Khi Dân Trinh về tới Bắc Kinh thì cũng là lúc Khang Hi hoàng đế tuần hành Tô Châu lần thứ ba vừa về tới. Nhân dân khắp thành ai cũng bàn tán về chuyện hoàng đế bị ám sát hụt ở Thái Hồ. Trinh được tin vội chạy vào cung thỉnh an.

Lúc đó có một vị vua Mông Cổ tên gọi Tắc Ngác Ngạch đứng bên, bèn thuật lại sự thể cho Dân Trinh nghe:

- Hoàng thượng gặp thích khách ở Thái Hồ, đó là chuyện có thực. Tân vương tối hôm đó cũng có mặt tùng giá trong đoàn. Vượt khỏi Kim Sơn tới Tô Châu, cả đoàn người nán lại đây ba ngày rồi sau mới đi Thái Hồ. Hoàng thượng thấy bốn mặt hồ có đến bảy mươi hai ngọn núi chọc trời, ngọn gần ngọn xa tất cả tạo thành một cảnh trí vô cùng ngoạn mục. Bởi vậy, ngài lấy làm thích thú, bèn ngồi trước mũi thuyền để vừa ngắm cảnh vừa lưới cá. Thuyền ngài bắt được hai con cá chép, ngài lại càng thích thú hơn nữa. Ngài bảo tuỳ tùng lấy hai đỉnh vàng y ra thưởng cho bọn dân chài. Giữa lúc tất cả đương vui thích cười nói thì bỗng một tên đại hán chạy như bay trên mặt nước rồi nhảy phóc vào ngự thuyền. Trong nháy mắt, người ta chi thấy cây bảo kiếm trong tay tên đại hán vung lên như một làn chớp nhè ngay mặt hoàng đế chém tới. Ấy cũng may hoàng thượng quả có phúc lớn bằng trời khiến ngài vội né sang bên tránh thoát được mũi kiếm. Một đạo hào quang vụt nhanh về phía sau, tức thì tên thái giám trúng kiếm chết ngay, trong khi dư âm "nguy rồi" của hoàng đế còn vang trong không trung. Bọn thị vệ miệng vừa la "Có thích khách" tay vừa tuốt đao khỏi vỏ nhất tề xông tới nghinh địch. Lúc đó, tiểu vương tôi đang ở phía sau, nghe phía trước la hét om sòm, vội chạy tới, thấy tên đại hán đang xông vào khoang cố giết hoàng đế cho bằng được. Tiểu vương tôi liền dùng hết sức bình sinh đánh bật địch thủ ra phía ngoài khoang. Tên thích khách thấy tiểu vương tôi sức quá mạnh, biết khó có bề thủ thắng, bèn quay mình nhảy ùm xuống nước mất dạng, chẳng biết bơi về phương nào.

Khang Hi bị một phen chết hoảng, lấy làm giận lắm, bèn cho gọi Lưỡng Gia tổng đốc là Trương Bằng Phiên và Giang Tô tuần phủ là Tống Lạc tới mắng nhiếc khiến bọn Tống, Trương chỉ còn biết quỳ mọp trên đất, dập đầu cầu xin tha tội. Được tha về, bọn Trương, Tống hú vía, vội phát cáo thị khắp ba huyện Trường, Nguyên, Ngô cấp thời bắt giặc, mặt khác, triệu thỉnh các tay hảo hán tới bảo hộ thánh giá.

Lúc đó, có hai vị anh hùng, hưởng ứng lời triệu, tìm đến. Một người tên gọi Bạch Thái Quan còn một người không tên tuổi. Khi Trương tổng đốc đưa vị anh hùng không tên tuổi này tới yết kiến hoàng thượng thì ngài thấy ông ta mình chỉ mặc có một chiếc áo bằng da cá và nhân đó, ông ta xin ngài đặt cho một cái tên. Khang Hi hoàng đế liền gọi luôn là Ngư Xác (có nghĩa là xác cá). Ngài hỏi Ngư Xác có bản lãnh gì thì Xác tâu:

- Tiểu nhân có thể đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, lại cũng có thể nằm chìm hẳn trong nước được ba ngày ba đêm liền. Tiểu nhân còn có một cái dây lưng quần có thể địch nổi muôn quân ngàn ngựa.

Nói đoạn, Ngư Xác thò tay cởi ngay chiếc dây lưng ra. Chiếc dây lưng này vốn làm bằng thép luyện. Khi buộc vào, nó chẳng khác gì một chiếc dây lưng bằng tơ còn khi cầm trên tay múa tít, nó bắn ra tứ phía một đạo hào quang lạnh người. Hoàng đế bảo bốn mươi tên thị vệ, kẻ nào cũng lăm lăm kiếm, xông lên tấn công Xác thử xem. Đánh một lúc lâu, bọn thị vệ không có cách nào lại gần được Xác. Hoàng đế xem trận đấu, tán thán luôn mồm. Thế là ngài giữ Xác lại cạnh mình, cho sung chức Thị tùng võ quan.

Còn nói đến Bạch Thái Quan, thì trước hết phải kể ngay rằng hắn là đứa vô loại. Lúc thiếu thời, hắn chỉ thích gian dâm phụ nữ. Hắn tung mình nhảy một cái, có thể qua bức tường cao vài chục trượng. Dù cô gái có là một tiểu thư khuê các, một khi đã lọt vào mắt hắn. Có một hôm, Quan nghe nói nhà họ Thanh ở Dương Châu có một cặp chị dâu, em chồng, hai người đều xinh đẹp đến mê hồn, nên hắn mò tới, dò xét kỹ rồi mới nhảy qua tường vào nhà. Giữa lúc định cưỡng hiếp, hắn bỗng bị một chiếc côn lớn phang vào sau ót, đến nỗi ngất lịm ngay đi. Đến khi tỉnh lại, hắn thấy mình đã bị trói chặt, phía trước một ông lão ngồi ngất ngưởng đang sai bảo gia nhân ôm củi, gánh rơm tới để thiêu sống hắn. Quan biết ngày tàn đã đến nên dùng hết sức bình sinh giãy đạp lăn lộn khắp phòng.

Chỉ trong nháy mắt bao nhiêu đồ đạc trong nhà, nào ghế nào bàn đều đổ gãy ngổn ngang hết. Sức của hắn mỗi lúc mỗi hăng, dữ tợn đến không ai chống nổi, khiến đèn đóm rớt đổ lung tung. Lửa bốc cháy, căn nhà sáng rực lên như ban ngày.

Bọn người nhà vội hò nhau cứu hoả, không còn thì giờ nghĩ tới Bạch Thái Quan nữa. Hắn bèn nhân cơ hội đó, cởi bỏ được dây trói, trốn chạy một mạch, nhiều năm không dám quay về quê nữa... Mãi lâu lắm, hắn mới ngầm lẻn về cho vơi nỗi nhớ.

Lúc vừa về tới cổng nhà, hắn thấy phía xa có một đứa bé đang chạy chơi trước cửa miếu Quan đế. Đứa bé giơ thẳng tay cứ nhè con sư tử đá đấm mãi, đến nỗi đá cũng phải tóe lửa ra.

Bạch Thái Quan xem một lúc, cho là quái dị. Hắn tự nhủ: "Thằng bé này có một bản lĩnh phi thường như vậy, một khi lớn lên, nó sẽ ăn đứt cả mình". Nghĩ vậy, trong lúc thảng thốt hắn vụt sinh lòng đố kỵ, liền xông tới đánh thằng bé. Nó đau quá, miệng vừa khóc vừa doạ:

- Lão kia, nỡ ăn hiếp một thằng bé ư? Rồi đây cha ta là Bạch Thái Quan sẽ về đây báo thù cho ta.

Nói xong, thằng bé trào máu miệng chết luôn. Bạch Thái Quan lúc đó mới biết rằng mình đã tự tay đánh chết con mình, lòng hối hận quá, nhưng đã muộn. Hắn quay mình bỏ đi rồi từ đó, hối cải lỗi xưa, chuyên can thiệp chuyện bất bằng để cứu người.

Có một hôm, Bạch Thái Quan tới miếu nghi đình tỉnh Tô Châu, vào ngủ trọ trong một khách điếm. Nửa đêm, hắn bỗng nghe tiếng đàn bà rên rỉ khóc lóc phía ngoài tường. Hắn vội tung người vọt lên nóc nhà xem, định thần nhìn kỹ, thì thấy một cảnh tượng vừa kỳ quái vừa ghê tởm. Một cô con gái đang độ xuân bị lột truồng như nhộng nằm ngửa trên giường, phía trước đặt một thau nước nóng. Một nhà sư vừa đen vừa xấu cầm chiếc khăn tay dúng nước bốc hơi nghi ngút, đang kỳ cọ khắp bụng cô ta. Trong khi lang bạt giang hồ Quan đã được nghe nói có một ác tăng từ Tây Tạng tới chuyên gian dâm phụ nữ, lại còn phá bào thai trẻ con trong bụng mẹ. Mỗi khi bắt gặp đàn bà chửa, tên ác tăng bèn rửa sạch cái bầu rồi lấy bào thai đem luộc chín trong nước sôi. Không ngờ tin đồn đó nay lại là chuyện có thực. Bởi vậy, Bạch Thái Quan đùng đùng nổi giận. Hắn phóng mình xẹt tới như một luồng điện. Lúc đó tên ác tăng Tây Tạng, ngồi quay lưng ra phía ngoài. Chủ ý của Quan là mượn tạm cái "bộ tam sự" của hắn nhưng không ngờ hắn biết được, quay ngoắt lại phóng một cước trúng vào mặt Quan. Quan lẹ như chớp nắm ngay được chân phải hắn.

Tên ác tăng vội phóng luôn chân trái, thế đá đó gọi là "uyên ương song phi" vốn nổi tiếng lợi hại trong chốn giang hồ. Nhưng đối với ai kia, chứ với Bạch Thái Quan thì cái phép hoá giải có gì khó. Thế là Quan xuất luôn tay hữu chộp luôn nốt chân này rồi thuận thế lăng mạnh phía trước. Tên ác tăng Tây Tạng bị một cái đẩy quá mạnh đâm thủng cả vách ván lọt ra ngoài rơi bịch xuống đất như một cái bị, đầu bể tan, óc vọt ra tứ phía, chết không kịp ngáp.

Hồi 53

MỘT CÁI ÁN VĂN TỰ ĐỜI THANH

Cuộc ác chiến tuy ngắn nhưng cũng đủ cho mọi người xóm giềng chung quanh biết được, họ đổ xô tới xem. Người chồng cớ cô vợ vừa được cứu thoát vội quỳ xuống trước Bạch Thái Quan dập đầu tạ ơn. Thế rồi, bọn dân xóm cũng đều bước tới chắp tay lạy chào và nói với Quan:

- Tên ác tăng này tới đây đã lâu, chuyên hãm hiếp đàn bả con gái, gây sóng gió khắp vùng. Có người báo tới nha môn, quan tri huyện phái quân tới lùng bắt, nhưng đều bị hắn đánh cho tơi bời câ. Bọn quan quân hoảng qua, bò trốn về thành hết, không còn dám bén mảng tới nữa. Nay hắn đã bị đền tội, háo hán thực là vị ân nhân của dân chúng vùng này vậy.

Nói đoạn, họ níu kéo, mời mọc cho kỳ đưọc Bạch Thái Quan về nhà một vị thân sĩ trong làng, dọn rượu thết đãi. Qua ngày hôm sau, quan tri huyện được tin, vội cho người mang kiệu tới đón Quan về nha. Đó chính là lúc Khang Hi hoàng đế gặp thích khách ở Thái Hồ, rồi chiêu thỉnh hảo hán bốn phương cho nên viên tri huyện bèn bảo cử Bạch Thái Quan ra cho quan tuần phủ sau đó lại báo tiếp lên cho quan tổng đốc. Vị quan tổng đốc bèn đem Bạch Thái Quan và Ngư Xác cùng mười mấy vị hảo hán khác tới bệ kiến hoàng đế. Khang Hi thấy Quan bản lĩnh cao cường bèn cho sung chức Thị tùng võ quan. Ngoài ra, các tay hảo hán khác cũng đều được sung vào chân thị vệ, nhất tề đưa cả về kinh.

Ung vương nghe Tái Lăng Ngạch kể lại một lượt câu chuyện xảy ra, trong lòng vừa lấy làm kỳ lạ vừa ghen tức. Vương tự nghĩ:

- Thiên hạ sao lại có kẻ bản lĩnh cao cường đến thế nhỉ? Tiếc thay họ lại không ở trong phủ ta cho!

Đứng nghe chuyện còn có cả một bọn đông anh em như Dân Đệ, Dân Nhung, Dân Dị, Dân Đường, Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Ngà, Dân Tường, Dân Đề, cho nên Vương không tiện nói ra điều gì, đành lặng thinh. Vương vốn ăn ý với đại ca Dân Đệ, hai anh em bèn quay về nhà riêng bàn tính đại sự. Vương còn dò được tin hoàng thượng đã phái Ngư Xác tới đông cung để bảo hộ thái tử, mặc khác sai Bạch Thái Quan tới Tô Châu giúp quan địa phương lùng bắt tên thích khách ở Thái Hồ.

Tên thích khách ở Thái Hồ là Kim Phi, nguyên là một tên đại đạo nổi danh suốt dọc Cam Túc, Thiểm Tây. Những tay hảo hán giang hồ thường gọi hắn là Kim gia gia. Vì Kim chỉ thường xuất hiện ở mấy tỉnh Thiềm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, cho nên một giải Giang Chiết đều không ai hay biết hành tung của hắn. Bản lĩnh của hắn còn cao hơn Bạch Thái Quan một bậc. Tại vùng Tứ Xuyên, hắn chuyên ẩn nấp ở những nơi đèo non thác nước, chờ dịp cướp bóc. Hắn thường mặc một bộ y phục màu anh lục, bơi lội trong nước y như cá khi thấy có thuyền đỗ bến, tức thì nhảy lên cướp của giật đồ. Tuy nhiên, hắn không bao giờ hại người. Tên tuổi hắn càng ngày càng lớn Những tay hảo hán suốt giải Tràng Giang đều qui phục hắn, cộng có tới hơn ngàn. Hắn bèn chiếm cứ một ngọn núi trên con đường Nghi Xương. Nhiều tay hảo hán đem vợ con quyến thuộc tới chân núi dựng nhà mở phố. Dần dần, cả một khu đất rộng ở chân núi đã trở thành một thôn phường, trong đó trai gái già trẻ đều là huynh đệ của hắn.

Phen này, Kim Phi do sự phó thác của Thạch Bá Tổng, bộ hạ của di thần nhà Minh là Trương Thương Thuỷ do thám được tin Khang Hi hoàng đế Nam tuần, bèn tới Tô Châu để hành thích. Phi rời khỏi Kim Sơn thẳng tới Thái Hồ, chém Khang Hi một kiếm không trúng bèn quay về chốn cũ.

Đến khi thánh chỉ hạ xuống bắt các phủ huyện lùng kiếm thích khách, và khi bọn chức sắc Ngô huyện điều tra ra lý lịch của tên Kim Phi thì chẳng kẻ nào dám tới Nghi Xương bắt hắn cả. Đúng lúc đó, hoàng thượng phái Bạch Thái Quan đi do thám trên ngọn núi, mới biết núi đó gọi Độc Long Cương và thôn phường phía dưới gọi là Độc Long Thôn. Bạch Thái Quan kéo toàn ban bộ khoái tới Nghi Xương, lên bờ, mướn một chiếc xe lớn gấp rút lên đường. Đi được vài ngày, cả bọn thấy một toà núi đá tai mèo, bốn mặt toàn những mỏm đá cheo leo vây quanh, phía dưới cây cối um tùm, bóng tối âm u, trông thật đáng sợ.

Cỗ xe lớn của bọn Quan đang chạy lẹ trên đường, bỗng thấy phía trước cũng có một cỗ xe từ từ đi tới, trên xe có một cô gái tuyệt đẹp và một đứa bé độ mười ba tuổi, ngồi trên.

Cỗ xe của bọn Quan chạy lẹ nên chẳng mấy chốc đã tới gần, chỉ nghe cô con gái ngồi trên xe cất tiếng bảo đứa bé:

- Bạch Thái Gia tới đấy! Mau nhường đường cho ngài đi, nghe không?

Bạch Thái Quan nghe đoạn, lòng lấy làm lạ. Nhìn mặt người con gái thì quả là không quen biết, cũng không thề nhận ra là ai. Đứa bé nhảy phắt khỏi cỗ xe đã nép cạnh đường, bước tới. Thấy đứa bé tỏ ra nhanh, nhẹn, có sức mạnh, lòng Quan đã nản lắm. Tới chân núi, cả bọn bèn tìm một khách điếm trọ lại.

Sáng ngày hôm sau trở dậy, Bạch Thái Quan ra quầy trả tiền, thấy cô gái ngồi quay đích thị là cô gái ngồi trên xe gặp trên đường hôm qua. Quan muốn thử xem bản lĩnh, bèn ném từng đồng một hết số tiền vào mặt quầy phía trong, trước mặt cô gái. Cô ta thấy cử chỉ của Quan, miệng nở một nụ cười, giơ tay vỗ nhẹ lên mặt quầy, tức thì tất cá số tiền của Quan vừa ném vào bỗng vọt bắn lên cao, tung ra ngoài hết.

Bị trả đũa lại. Bạch Thái Quan tự nhủ thôn dân làng này hẳn đều là những tay có bản lĩnh, trong lòng càng nản nhiều hơn. Giữa lúc do dự, Quan thấy một đại hán chạy từ ngoài cửa vào. Khi thấy Quan, y liền cúi đầu chào:

- Tiểu chủ của tại hạ được biết Bạch Thái Gia đã tới, nên bảo tại hạ tới mời một mình ngài lên núi. Bạch Thái Quan hỏi sơn chúa là ai thì đại hán đáp:

- Sơn chúa chính là Kim gia gia đó!

Bạch Thái Quan tới lúc này chẳng thể do dự được nữa, bèn dặn bảo bọn bô khoái ở lại khách điểm chờ đợi rồi một mình theo đại hán lên núi.

Ngọn núi Độc Long này khá cao, đại hán nhảy từ mỏm đá này tới mỏm đá kia đi vun vút. Bản lĩnh phi hành của Quan cũng chẳng kém. Chỉ mấy chục lần nhảy, quanh theo vài eo núi, hai người đã tới lưng chừng núi. Kim Phi đứng đó tự bao giờ, khi thấy Bạch Thái Quan, liền đón tiếp lên núi, tự giới thiệu tên tuổi của mình. Bốn, năm chục tay hảo hán đứng phía sau cũng đều tiến lên, nhất nhất giới thiệu. Xong xuôi, cả bọn đưa Quan vào đại sảnh.

Trang viên nơi đây quả là lớn, sảnh đường cũng rộng rãi hết sức. Giữa đại sảnh, đã thấy một chiếu rượu sửa soạn tươm tất. Kim Phi mời Bạch Thái Quan ngồi vào ghế nhất. Bọn hảo hán cũng nhất tề ngồi xuống. Trước mặt mọi người, đũa không thấy, chỉ có vài con dao nhọn sắc. Trước mặt Quan cũng vậy, đến ngay dao cũng không. Trên bàn, nào gà, nào vịt đủ món nhưng chưa ai biết làm cách nào mà ăn. Một lát sau, chủ nhân lên tiếng nhắc bọn huynh đệ kính khách. Bọn hảo hán tay cầm dao nhọn xóc luôn những miếng cá bự chĩa thẳng vào miệng Bạch Thái Quan. Họ Bạch cũng muốn nhân dịp này cho đối thủ biết rõ ban lĩnh của mình. Khi thấy ngọn dao sắc đâm gần tới, Quan liền há miệng đớp ngay lấy, hai hàm răng cắn chặt lại. Một tiếng rắc nổi lên khô khan trong miệng Quan: lưỡi dao đã gãy, miếng cá bự trôi qua cổ họng xuống bụng trong nháy mắt.

Các hảo hán lần lượt hết người này đến người kia đều tiến lên kính khách theo kiểu đó. Quan thảy đều thong dong ăn uống, miệng không một chút nào sây sát. Thành thử bao nhiêu dao để trên bàn khi nãy đều bị Quan cắn cụt hết. Trước mặt Quan, chỉ thấy một đống lưỡi dao to sụ. Cử toạ đều lớn tiếng khen ngợi.

Sau đó, một tay đại hán bưng mâm bánh bao tới, khói bốc lên nghi ngút. Bạch Thái Quan cầm ngay lấy một chiếc bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Trong bánh có đến hơn chục cái đinh sắt. Nhưng Quan vẫn nhai một cách tự nhiên, chẳng mấy chốc Quan ngậm nắm đinh sắt hướng vào bức tường phía trước, thổi phù một cái. Nắm đinh sắt vút ra cắm phập vào tường, y như chúng đã được đóng chắc từ thuở nào.

Kim Phi thấy vậy bất giác cũng phải thốt lời khen! Phi đứng dậy tiễn khách, Bạch Thái Quan tự nhận đông quá khó địch, lại thấy thủ hạ của Kim nhiều tay ban lĩnh cao cường, thành thử khối hào khí chứa chất trong lòng lâu nay bỗng tan biến như tuyết rơi băng rã. Quan ra tới cống ngoài, thấy cánh cửa đóng kín. Từ bên cạnh cổng, một chú bé chạy ra, khẽ nâng cánh cửa để lấy lối cho khách qua. Quan nhìn tấm cửa, ước lượng ít ra cũng phải ngàn cân. Quan đến lúc đó quả đã thảy chết mất quá nửa nhuệ khí. Khi xuống tới chân núi, Quan xấu hổ, chẳng dám tới gặp lại bọn bộ khoái thủ hạ của mình và lẹ như một làn khói. Quan mất hút luôn trong đám sương mờ bên đèo.

Lại nói Khang Hi hoàng đế ỷ có Ngư Xác bảo hộ nên lại sửa soạn cuộc tuần du Giang Nam lần thứ tư, lần tuần du này quả thật khác xa mấy lần trước. Hoàng đế đem theo một đại đội ngự lâm quân, dọc đường còn có quân lính địa phương yểm trợ.

Khi đi đường, Khang Hi hoàng đế dò biết được còn có rất nhiều văn nhân có ý không phục nhà Thanh, thường sáng tác thơ văn phỉ báng triều đình. Ngài bèn hạ một đạo mật dụ cho các tuần phủ, tư đạo nơi ngoại tỉnh bảo họ tra xét khắp nơi, hễ thấy có bài văn thơ nào phỉ báng bản triều thì phải báo ngay không được dấu giếm hoặc chậm trễ. Không ngờ đạo mật dụ đó vừa mới xuống được ít hôm thì một cái án văn tự lớn lao xảy ra làm chấn động cả miền Triết Giang và Hồ Châu.

Số là miền này có một phú ông họ Trang tên Đình Lũng, đọc sách không bao nhiêu nhưng lại háo danh, chỉ thích có tác phẩm lưu lại nhân thế, tạc vào nơi danh sơn. Bởi vậy, ông ta mới ngày ngày vác bút đề thơ. Ông ta vừa ngâm vừa viết, chẳng biết đã viết những gì. Viết vậy suốt một năm rưỡi trời mà chưa ra được một cuốn sách nào. Bỗng một hôm, ông ta nghĩ ra được một diệu kế. Vốn sẵn tiền, ông ta liền vác tiền đi mua văn của bọn văn nhân cùng quẫn, lấy những bản thảo của họ làm của mình. Không biết ông ta mua ở đáu về được một tập bản thảo - bộ "Ô Trình Chu thị minh sử". Ông ta lấy làm khoái lắm, bèn góp nhặt những sự thực thời vua Sùng Trinh rồi đổi tên tác giả sang tên mình. Ông ta lại còn mời mấy cụ đồ nổi danh, nào là họ Lục, họ Tra, nào là họ Phạm giúp ông làm mấy bài bạt vào cuốn sách, rồi cho khắc và đem in. Ông ta tưởng đó là một tác phẩm trứ danh, cho rằng xưa kia Khổng Tử làm Kinh Xuân thu, Tư Mã Thiên làm bộ Sử ký bất quá cũng chỉ như vậy mà thôi. Ông còn cao hứng đến cái độ cho sách của mình có thể tạo thành thế chân vạc với hai bộ sách Sử ký và Xuân thu. Ông ta có ngờ đâu vui lắm thì khổ nhiều! Thời kỳ đó chính là hồi bọn quan địa phương đang ngấm ngầm điều tra những trước tác phỉ báng triều đình.

Khi tra ra bộ minh sử này, viên tri phủ Hồ Châu cho là hệ trọng bèn đích thân tiến kinh để cáo mật. Quan thượng thư bộ hình vội vào tâu hoàng đế. Thế là một đạo thánh chỉ ha xuống, bắt phải tra xét nghiêm ngặt. Tin tức truyền đi nhanh như chớp. Trang Đình Lũng biết việc nguy rồi, bèn uống thuốc độc tự vẫn. Khi thánh chỉ tới nơi thì Trang Đình Lũng đã chết.

Triều đình bèn cho quật mồ băm thây, đồng thời cho bắt tất cả bọn nhà in đem chém chết. Ba cụ đồ họ Phạm, họ Tra, họ Lục cũng được tin nhanh lắm. Các cụ đã dự tính trước, thanh minh rằng những bài bạt của sách đó là do Lũng giả tạo chứ không phải các cụ làm. Nội vụ xong xuôi, cả ba cụ được miễn tội nhưng đều khuynh gia bại sản.

Tử đó về sau, bọn văn nhân hoảng hồn bạt vía, đều rụt cô lại như cổ rùa, chẳng còn dám viết lách lấy một chữ: Khang Hi hoàng đế quả đã mười phần khoái trí. Ngài du ngoạn bên ngoài một thời gian lâu rồi mới trở về kinh. Nhưng ngài không ngờ, ngay tại kinh, thái tử cùng bọn Trực vương, Ung vương lại gây ra một chuyện lớn khác...

Hồi 54

CÁC HOÀNG TỬ TRANH NHAU NGÔI THÁI TỬ

Trong cuộc Nam tuần lần thứ tư này, Khang Hi hoàng đế lại giao cho hoàng thái tử Dân Nhung giám quốc như cũ.

Trực Quận vương Dân Đê, Ung Quận vương Dân Trinh trong lòng rất lấy làm ghét thái tử. Hai người ngầm khiển tướng điều binh đến hành thích thái tử kể đã khá nhiều lân, nhưng Đông cung có đông người bảo vệ nên chưa từng bị độc thủ của họ. Duy chỉ có mỗi lẩn đại chiến thi hai bên lại hết mất vài ba tay hảo hán.

Dân Nhung căm giận Dân Trinh đến cốt tuỷ. Nhung bèn đem trọng lễ ra bên ngoài, mời rất nhiều vị đạo nhân tới Đông cung làm phép để thu hồn nhiếp phách xác của Trinh. Trong vương phủ của Dân Trinh, những tay pháp sĩ mới về cũng không ít. Mỗi lần bên Đông cung thi hành pháp thuật là mỗi lần bị bên Ung vương phủ phá giải tiêu hết. Về sau, thái tử Dân Nhung mời được một vị Thiết quan đạo sĩ (đạo sĩ đầu đội mũ sắt) từ Giang Tây tới. Vị đạo sĩ này có một pháp thuật hết sức kỳ lạ. Pháp khí của ông ta tên là Huyết trích tử. Đây là một cái mũ bằng sắt. Khi Thiết quan đạo nhân niệm thần chú, Huyết trích tử liền bay lên trên không, lén vào nhà kẻ thù, chụp vào đầu, lập tức cắt đứt đầu địch nhân rồi lại bay lên không trở về. Người bị cụt đầu không chảy một giọt máu nào nơi cổ, bởi vậy nó mới có cái tên là Huyết trích. Khi nó tới thì dù ở giữa đám ngàn quân vạn ngựa đi nữa cũng vẫn bị cắt đầu ngọt xớt. Pháp khí lặng lẽ tới cũng như lặng lẽ đi, vừa nhanh lại vừa không có tiếng động, chỉ nháy mắt là đầu đã mất tiêu từ lúc nào, khiến đối phương có lưu ý đề phòng tới đâu cũng vô hiệu.

Ung vương dò biết được tin này, trong lòng rất lấy làm lo sợ Vương bèn củng mấy vị sư Lạt Ma thương nghị. Trong bọn, có người đứng lên nói:

- Trừ phi mời được vị Đại Lạt Ma của tại hạ tới, chứ còn không ai trừ được tên đạo sĩ mũ sắt này đâu.

Ung vương nghe đoạn, bèn đích thân tới Ung Hoà cung, mời nhà sư Đại Lạt Ma. Lúc đầu Đại Lạt Ma không chịu, nhưng về sau, khi vương hứa hê việc thành thì sẽ có thưởng hậu, Đại Lạt Ma mới vui lòng mang pháp khí tới Vương phủ.

Nhà sư Đại Lạt Ma trước hết lấy một cuộn kinh Phật, bảo Ung vương đội lên đầu, phía trên dùng mũ chụp lên. Cuốn kinh Phật có một pháp lực vô biên, có thể chống lại được với Huyết trích tử. Đại Lạt Ma còn lấy một căn tinh thất phía ngoài phòng ngủ của Ung vương, ngày đêm ngồi đó để phòng vệ Ung vương vốn có bốn vị phi tử. Nguyên phi tên Nữu Cô Lộc với Ung,vương, hai người ân ái hết sức mặn nồng. Nay thấy chồng có nạn, bà bèn hầu hạ ngày đêm bên cạnh.

Một hôm, vào giữa lúc đêm khuya canh vắng, bà Nữu Cô Lộc cùng Ung vương đang nằm trên giường chung gối trò chuyện, bỗng thấy từ ngoài cửa một vật gì tròn tròn đen đen bay vút vào chạm vào đầu. Ung vương nghe chát một tiếng. May cho Ung vương trên đầu có cuộn kinh Phật sớm tối không rời nên pháp khí kia không thể hại được tính mạng của vương. Bà Nữu Cô Lộc nằm bên cạnh sợ quá, la rầm lên. Phía ngoài, nhà sư Đại Lạt Ma, vội nhảy ra khỏi tĩnh thất quan sát, chỉ thấy cái pháp khí nọ đang bay từ trong phòng Ung vương ra. Nhà sư Đại Lạt Ma lẹ tay vội cởi tuột chiếc áo cà sa trên mình, vung lên như một cái ltới, chụp lấy pháp khí.

Khi pháp khí nọ bị chiếc cà sa chụp thì người trong phủ nghe tin, vội chạy tới thỉnh an. Ung vương bị pháp khí đập mạnh vào trán gây thương tích, đau nhưng cũng cố gượng ngồi dậy. Nhà sư Đại Lạt Ma lấy Huyết trích tử từ trong chiếc áo cà sa ra đưa cho Ung vương, miệng nói:

- Đây là một lợi khí sát nhân độc nhất vô nhị, vương gia hãy giữ lấy, về sau nhờ nó có thể chế phục được thiên hạ đấy!

Ung Vương tiếp lấy xem qua, thấy Huyết trích tử vốn là một chiếc mũ sắt đen thui, ánh sáng lạnh bắn ra bốn phía khiến ai trông thấy cũng phải mất vía bạt hồn.

Qua ngày hôm sau, Trực vương Dân Đê được tin, vội chạy lại xem. Trinh bèn đem tình hình nội vụ ra kể hết. Đê thấy lúc đó không có ai, bèn cầm tay Trinh kéo vào một căn mật thất, thì thào bảo Trinh:

- Ta hiện mời được một vị Đại Lạt Ma tên gọi Ba Hán Cách Long từ Mông Cổ tới. Đạo thuật của ông này rất cao. Ông ta có thư phù niệm chú, trấn ém được hồn người. Bọn ta chỉ cần dò hỏi niên can tám chữ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) của thái tử rồi viết lên tờ giấy, đút vào bụng hình nộm, một mặt mời Ba Hán Canh Long lập pháp bùa, niệm thần chú bảy ngày bảy đêm thì thái tử bên Đông cung thế nào cũng phát điên, không còn hay biết gì nữa. Đến lúc Dân Nhung không còn làm Thái tử được nữa thì bọn ta hai đứa sẽ tính toán với nhau sau.

Trinh nghe đoạn bỗng nghĩ ra một kế, bèn nói ngay cho Đê nghe. Xong đâu đấy, bọn Đê, Trinh liền cho mời nhà sư Đại Lạt Ma tới, đưa cho hai ngàn lạng bạc và nhờ nhà sư cứ như thế như thế hành sự.

Lại nói thái tử Dân Nhung thấy Thiết quan đạo nhân không thành công, trong lòng hết sức buồn bã. Ít hôm sau, thái tử bỗng tự nhiên mê mê man man, nhuốm bệnh nặng. Ban đầu, lúc thì nóng, lúc thì lạnh nhưng về sau bệnh càng ngày càng trầm trọng, cuối cùng thái tử đâm ra điên cuồng, miệng nói huyên thuyên, đôi má đỏ như lửa, hễ thấy người là đánh. Bên Đông cung, từ dưới lẽn trên, ai cũng đâm hoảng.

Tướng quốc Trương Anh mời ngự y lại trị bệnh cho thái tử. Nhưng có ngờ đâu vị ngự y đã nhận bạc hối lộ của Đại Lạt Ma, bèn lấy hai viên A Cô Ma hoàn cho thái tử uống. Thái tử ngủ một đêm dậy, quả nhiên bệnh tình giảm nhẹ đi nhiều, nhưng lại bị cái chứng "dâm" kinh khủng. Suốt ngày, thái tử chỉ cùng bọn phi tần mây mưa trăng gió. Thế mà vẫn chưa đã thái tử hễ thấy con cung nữ nào là lôi lên giường con ấy.

Đê và Trinh hai vương được tin đó, đều đem các phúc tấn đến Đông cung vấn an. Chẳng ngờ thái tử thấy anh em hai người này tới, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trợn mắt nhìn chằm chặp vào mặt bà chị dâu là Tố Luân phi tử và cô em dâu là Nữa Cô Lộc phi tử. Nhìn đến lúc xuất thần, thái tử bỗng nhảy chồm tới, giơ hai tay ra ôm chầm lấy Nữa Cô Lộc. Bà Nữa nhanh chân né, kịp tránh thoát. Thấy hụt bà Nữa, thái tử quay sang bà chị Tố Luân. Bà bị thái tử hai tay ôm quàng lấy eo ếch rồi siết chặt, mặc cho bà vùng vẫy giãy giụa cách nào cũng không thoát ra được.

Dân Đê trông thấy, bất giác cả giận, vội chạy tới đẩy mạnh khen thái tử bật ra, té ngửa trên mặt đất. Đê hầm hầm tức giận, kéo tay vợ chạy khỏi cung. Đê tính tới tâu ngay việc này cho phụ hoàng rõ, nhưng bà Tố Luân phi tử cố can:

- Phụ hoàng vừa ở Giang Nam về chưa được bao ngày. Ta hãy cố nhịn vài hôm đợi khi phụ hoàng nhàn rảnh, lúc đó tấu minh cũng chẳng muộn.

Đê nghe lời vợ, tạm thời nín nhịn lòng giận tức.

Giữa lúc đó bỗng từ quan ngoại có tin quân báo về việc người Nga La Tư đem đại binh mã tiến đánh Mông Cổ. Khang Hi hoàng đế bèn hạ dụ sai bọn Đô thống Bành Công Xuân đốc lính tới miền ái Quân, hợp với quân của Tát Bố Tố đánh thốc tới Nhã Khắc Tát. Phá tan được thành Nhã Khắc Tát, Thanh quân mới cùng người Nga đính ước giảng hoà.

Chẳng bao lâu sau quân thám lại báo tin về bộ lạc Cát Nhĩ Đan xứ Mông Cổ liên hiệp với người Nga La Tư tạo phản.

Khang Hi hoàng đế bèn phong Dụ Thân Vương Phúc Toàn làm Phủ viễn đại tướng quân cùng với hoàng tử Dân Đê đem quân xuất cửa Cổ Bắc, đồng thời phong Cung Thân Vương Thường Ninh làm An Bắc đại tướng quân cùng với Giản Thân Vương Nhã Bố đem quân xuất cửa Hỉ Phong nghênh địch.

Ai ngờ quân Cát Nhĩ Đan mười phần kiêu dũng, vừa công phá quân Mông Cổ của A Lạp Ni lại vừa đánh vào Ô Châu Mục, Trấn, thẳng tới đánh tan quân của Cung Thân Vương, sau đó tiến sâu vào miền đông bắc Đa Luân của O Lan Bố Thông.

Phía Thanh binh may được Dụ Thân Vương dùng hoả pháo đánh được Đà Thành (dùng lạc đà làm thành để vây địch) của Cát Nhĩ Đan, khiến bộ lạc này đại bại, phải lui về miền Y Lạp Cổ Khắc Tam Hồ Khắc Đồ.

Dụ vương đang định xua quân xông thẳng vào miền này thì bỗng được tin Khang Hi hoàng đế nhuốm bệnh nặng tại thành Bắc lạc, đành ban sư trở về bắc Kinh.

Hồi đó, thái tử Dân Nhung bệnh càng ngày càng nặng. Cơn điên làm cho thái tử chẳng khác gì con loài thú, thấy người là đánh, thấy vật là phá. Đám phi tử nơi Đông cung ngày đêm chỉ khóc ròng. Bệnh của Thái tử quả đã đến lúc vô phương cứu chữa. Khang Hi hoàng đế mới về nên hoàng hậu có ý muốn giấu chuyện này đi, bởi vì ngài đang bệnh, lại vừa chịu cảnh chiến tranh quá vất vả gian lao.

Qua năm sau, bộ lạc Cát Nhĩ Đan lại đem ba vạn kỵ binh, tiến dọc theo sông Lục Liễu xuống đánh phá Khách Nhĩ Khách rồi tiến luôn tới đánh Ban Nhan Ô Lan.

Lúc đó Khang Hi hoàng đế sức khỏe đã hồi phục, bèn quyết ý ngự giá thân chính đem mười vạn đại quân chia làm ba lộ

Đông, Trung và Tây. Đại nguyên soái Đông lộ là Hắc long giang tướng quân Tát Bô Tố, Đại nguyên soái Tây lộ là đại tướng quân Phi Dương Cố đem đội cường binh Cam Thiểm từ Ninh Hạ vượt sa mạc dọc theo sông Thổ Lạp, đánh thốc vào mặt sau của địch. Còn Trung lộ thì hoàng đế đảm nhận trọng trách chỉ huy. Ngài xua quân theo cửa Độc Thạch tới Đa Luân Bạc, rồi hướng về phía tây sa mạc, lại theo đường Khoa Bố Đa dọc hữu ngạn sông Lục Liên, qua núi Ngách Nhĩ Đức Ni Đà La Hải Sơn.

Quân Cát Nhĩ Đan thấy lều vàng, cờ long độc của Khang Hi hoàng đế, hoảng hồn bạt vía, vội theo đường núi Đà Nặc Sơn chạy trốn. Hoàng đế xua quân đuổi tới Tháp Mễ Nhĩ thì kịp. Hai quân liều chết chiến đấu. Cát Nhĩ Đan lại đại bại. Tây lộ, Đông lộ hai chi quân mã lúc đó cũng đã hướng về phía hông bao vây địch, khiến chúa Cát Nhĩ Đan không đường trốn chạy. Khang Hi hoàng đế khuyên hàng nhưng Cát Nhĩ Đan đã uống thuốc độc chết trong Ô doanh. Hàng binh đem thây Cát Nhĩ Đan dâng vào trung quân. Từ đó các bộ lạc miền Khách Nhi Khách đều qui hàng Thanh triều. Khang Hi hoàng đế ban sư về kinh trong lòng hết sức hân hoan.

Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế mới nhớ tới thái tử, bèn triệu sư phó của thái tử là Hùng Tử Lý vào cung tương kiến.

Bọn nội đại thần Sách Ngạch Đồ biết dấu giếm không xong bèn cho đưa thái tử vào theo. Bọn hoàng tử Dân Đê, Dân Chỉ, Dân Trinh, Dân Dị, Dân Đường, Dân Tường, Dân Đề tất cả anh em hơn mườì người đều đứng cả một bên. Thái tử Dân Nhung thấy vua cha mà cũng chẳng biết hành lễ thinh an, chỉ một mực chân nhảy miệng kêu cuồng loạn. Khang Hi hoàng đế thấy thế rất lấy làm lạ, vội hỏi, mới biết thái tử bị bệnh quá lâu, vô phương cứu chữa. Ngài lập tức toạ triều, hỏi các đại thần văn võ xử tại cách nào đối với thái tử, thì từ đại học sĩ Trương Anh, Trương Đình Ngọc, bối lặc Long Khoa Đa đến đại tướng Miên Canh nghiêu, các lão Trần Thế Quan, vốn thuộc phe Ung vương, tất cả đều một giọng tâu xin truất phế thái tử. Hoàng đế cũng biết Dân Nhung bệnh đã đến mức đó thì không còn có thể làm thái tử được nữa nên hạ một đạo chỉ dụ phế thái tử làm thứ nhân (người dân thường), phải dọn ra khỏi Đông cung.

Tin này truyền tới tai các hoàng tử, ông nào ông nấy tỏ vẻ vui mừng khôn tả. Ông nào cũng hy vọng mình được ngồi vào ngôi vị đó. Trong số này, phải nói ông hoàng Bát A Kha Dân Dị lòng tối thâm hiểm, lúc nào cũng rắp tâm mưu đồ cái địa vị ấy. Ông ta ngầm bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mua chuộc bọn đại thần A Linh A, Tán trận đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thư Vương Hồng Tự, Thị lang Khuê Tự. Khéo thay lúc đó hoàng đế lại có thánh chỉ xuống sai bọn Đạt Nhĩ Hán Thân Vương là Ngạch Luân Đại hội họp đủ các đại thần Mãn Hán cùng bàn việc kế lập thái tử.

Thế là bọn nội đại thần A Linh A, bèn ngầm viết ba chữ Bát A Kha rồi đưa vào cung. Ngờ đâu Khang Hi hoàng đế lại rất ghét Bát A Kha, ghét vào bực nhất trong số các hoàng tử.

Bát A Kha không những mặt mũi đã xấu mà phẩm hạnh lại quá tệ Hoàng đế đoán biết bên trong hẳn còn tệ đoan gì đây, bèn nhân lúc ngồi toạ triều, truy vấn về chuyện này.

Hồi 55 & 56

ĐỔI GÁI LẤY TRAI

Khang Hi hoàng đế thanh sắc đều oai tợn khiến Mãn triều văn võ đại thần kẻ nào cũng sợ hãi. Đại học sĩ Trương Ngọc Thư bèn đem việc giao hảo giữa Bát A Kha với bọn đại thần A linh A như thế nào và tự ý lập đảng ra sao, nhất nhất tâu rõ, Khang Hi hoàng đế nghe tâu, nổi trận lôi đình, lập tức hạ chỉ bắt cả bọn đại thần này giao cho Khang Thân vương Xuân Thái thẩm vấn định tội. Cùng với việc này, việc hoàng tử Dân Đê mời nhà sư Đại Lạt Ma vào phủ dùng pháp thuật trấn ếm hồn phách của thái tử cũng bị bại lộ tùm lum...

Sở dĩ việc hoàng tử Dân Đê mượn người ếm thái tử đến phát điên bị hại lộ chỉ tại tên nội giám Vy Phượng tố giác. Vy Phượng vốn là nội giám bên Đông cung, nhưng lúc đó được điều động sang phủ Trực Quận vương làm sai dịch. Khi tên tiểu thái giám vừa cho hắn biết chuyện, hắn tức khắc ngầm vào đại nội cáo biến.

Khang Hi hoàng đế nghe được tin động trời này, lập tức hạ lệnh cho viên Nội đại thần đem theo viên quan thị vệ, xông thẳng vào phủ Trực Quận vương, quỷ không hay người không biết. Quả nhiên trong vườn hoa phía sau, họ đào lên được một thằng bù nhìn bằng cỏ, trong ruột có viết chữ tên tuổi ngày sinh tháng đẻ của thái tử và ở giữa ngực có cắm sâu một chiếc đinh sắt, trên mặt thì bôi máu chó cùng khắp. Ngoài ra, lại có năm cái thân hình quỷ quái cắt băng giấy cùng chôn một chỗ trong đám đất bùn.

Khang Hi hoàng đế nhìn thấy những dụng cụ trấn ếm, tức giận đến điên người, giậm chân chửi bới om sòm. Ngài bèn hạ lệnh bắt cả số can phạm giao cho Tôn nhân phủ thẩm vấn.

Ngài còn hạ chỉ cách hết chức tước của Bát A Kha Trực Quận vương, cấm cố vương ngay trong vương phủ, đem tất cả đám nô bộc của vương thưởng cho hoàng tử thứ mười bốn là Dân Đề và đem Đại Lạt ma Ba Hán Cách Long trục hồi Mông Cổ.

Mọi việc vừa xong thì bệnh tình của thái tử Dân Nhung cũng vừa hết. Tư cách đúng mực ngày trước lại trở về. Bởi thế, hoàng đế vẫn lập Nhung làm thái tử và vẫn để ở trong Đông cung như trước. Ngài lại giao triều chính cho thái tử giám quốc để ngài lại đem một ban đại thần thân tín tuần du miền Giang Nam lần thứ sáu.

Bọn hoàng tử thấy Dân Nhung lại được làm thái tử như cũ, kẻ nào cũng lấy làm ghen tức, nhưng chẳng làm gì được lúc này. Tứ hoàng tử Dân Trinh vẫn theo kế hoạch cũ, kết thân với bọn đại thần, cung dưỡng bọn hiệp khách. Trong số đại thần phải kể đến Miên Canh Nghiêu, Các lão Trần Thế Quan là hai người giao tình rất mật thiết với Trinh. Hai vị Miên, Trần thường vào trong vương phủ. Bà phi tử Nữu Cô Lộc cũng mười phần thân mật với Miên, Trần. Đôi khi bà phi Nữu cũng tới chơi nhà hai vị này nữa.

Họ Miên có một cô vợ bé tên Tiểu Bình, rất xinh đẹp, tính tình lại nhu thuận. Vương phi trông lấy làm yêu, lúc về nhà, bà kể lại cho Ung vương nghe. Vương vốn hiếu sắc, nghe vương phi nói, giận không có cách gì gọi Tiểu Bình tới phủ để xem mặt. Rồi lúc đó gặp Miên đại tướng, vương bèn hỏi ngay chuyện Tiểu Bình, thêm vào khá nhiều điều ngưỡng mộ ca tụng. Miên đại tướng quân lại cũng là tay hảo hán, mười phần khẳng khái.

Bởi vậy, qua ngày hôm sau, người ta đã thấy một chiếc xe đưa Tiểu Bình vào phủ để hầu vương. Chỉ một việc này đủ làm cho Ung vương cảm kích tấm lòng quý hoá của Miên đại tướng. Từ đó, hai người giao tình càng ngày càng mật thiết thâm hậu.

Một trong những mỹ nhân tuyệt thế như vậy mà tại sao Miên đại tướng quân lại chịu buông nhẹ vào tay kẻ khác?

Trong việc này quả thực có một duyên cớ đặc biệt. Nguyên lai Miên đại tướng quân rất ghét loại gái trông thì đẹp nhưng xài không khoái. Đại tướng họ Miên người chẳng những cao lớn lại còn to mập mỗi ngày nếu không có năm cô gái vạm vỡ hầu hạ thì không thể nào ngủ được. Do đó, bọn giai nhân mỹ mạo đối với họ Miên bất quá chỉ để ngắm như nhìn một bức hoạ, chứ thực ra ông ta không cần. Trong phủ, có nuôi mười cô thôn nữ Sơn Đông luân phiên hầu hạ ông. Tiểu Bình tuy gọi là vợ bé nhưng đối với Miên đại tướng thì chẳng ăn nhằm gì, nên ông ta khẳng khái trao tặng cho Ung vương.

Ung vương từ khi được người đẹp Tiểu Bình chẳng khác gì được trân châu bảo ngọc. Vương một niềm sủng ái, ôm ấp ngày đêm, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Vương phi Nữu Cô Lộc lúc đó lại có bầu, vương gia tha hồ rỗi rảnh để phục vụ mỹ nhân, Ung vương tuổi chẳng còn nhỏ gì mà con cái vẫn chưa có đứa nào, bởi thế ngày đêm mong mỏi bà Nữu Cô Lộc sinh cho một cậu con trai. Lúc đó bà Trần Các Lão cung có bầu đồng thời với vương phi, nên hai người mỗi khi gặp nhau thường cười nói trò chuyện. Vương phi còn hứa hẹn nếu hai người sanh trai cả thì chẳng nói làm chi, nhưng nếu sinh một trai một gái thì thế nào cũng thành sui gia với nhau.

Bà Các lão Trần Thế Quan nghe câu chuyện này vội nói với vương phi:

- Thật chẳng dám! Bọn tôi chỉ là loại cỏ nội hoa hèn, đâu có dám sánh với dòng giống thiên thần của hoàng gia.

Câu chuyện trên đây bất quá chỉ là chuyện vui giữa bọn đàn bà với nhau không ngờ kẻ nói thì vô tâm, nhưng người nghe lại hữu ý. Bà Trần Các lão cáo từ lui ra khỏi phủ thì vương phi cũng chạy vào nội thất. Mụ quản gia của vương phi thấy không có ai trong phòng, vội nói nhỏ với vương phi:

- Vương gia há chẳng thường oán nương nương không có con trai đó sao? Ngài thấy nương nương chưa từng sinh được một trai nào nên ngài đâm ra buồn chán, mặc sức thăm hoa hái cỏ bên ngoài. Già này có một kế xin hiến cho nương nương. Nếu phen này nương nương may mà sinh trai thì khỏi phải nói, nhưng nếu sinh gái thì thiết tưởng nương nương lên làm như vậy như vậy... Có thế mới không lo hỏng việc.

Bà vương phi nghe kể, gật đầu lia lịa khen hay. Tớ thầy hai người từ đó tâm đầu ý hợp, chỉ còn đợi lúc thuận lợi thi hành.

Lại nói Ung vương chỉ mưu đoạt ngôi thái tử, cho nên bên ngoài thì chiêu mộ rất nhiều những tay anh hùng hảo hán, còn bên trong triều đình thì kết giao với những viên quan cao cấp như Trương Đình Ngọc, Long Khoa Đa, Miên Canh Nghiêu, Trương Anh, Trần Thế Quan. Những vị này đều là bè đảng của vương, mỗi khi lui trào trở về đều tụ tập tại Ung vương phủ, thương nghị cơ mật đại sự.

Có một lần, Trần Thế Quan luôn ba ngày không tới khiến Ung vương bối rối không biết đường nào mà rờ. Nguyên lai Trần Thế Quan làm đến chức Các lão, tay nắm đại quyền của triều đình, cho nên mọi việc Ung vương đều cần phải thảo luận với ông ta. Mãi tới ngày thứ tư, Trần Các lão mới tới. Ung vương hỏi xem trong nhà có việc gì xảy ra thì ông ta vừa cười vừa nói:

- Chẳng dám giấu quý vị. Hạ quan đã ngũ tuần mà dưới gối vẫn còn không có trẻ làm vui. Hôm trước đây, nội nhân của hạ quan đã nằm nôi. Nhờ hồng phúc của vương gia, nội nhân sinh hạ được đứa con trai, bỏi vậy hạ quan phải ở nhà để lo liệu mọi việc, thành thử bỏ bê bao nhiêu công vụ.

Mọi người nghe đoạn, ai cũng quay mặt về phía Các lão chúc mừng. Sau đó, cả bọn ráp lại bàn bạc. Miên Canh Nghiêu lên tiếng trước.

- Hôm qua, vừa có tin báo từ biên phòng cho biết binh mã của bạo Chúa Cát Nhĩ Đan đã tiến tới miền Ô Chu Mục Tần. Hoàng đế xuất quan lần này chính là một cơ hội ngàn năm một thuở, thiết tưởng không nên bỏ lỡ.

Hội nghị tiếp tục bàn tính thêm vài việc đại sự nữa rồi mới giải tân ra về. Khi Ung vương lui vào nội thất thì vương phi Nữu Cô Lộc cũng từ trong phòng bước ra đón rước. Vương thấy bà mang một cái bụng chình ình, bỗng nhớ đến câu chuyện của Trần Thế Quan, liền đem việc sinh trai của bà Trần ra nói cho vương phi nghe.

Vương phi nghe đoạn, trong lòng hết sức lo lắng. Bà nghĩ tới cái bầu của mình, chẳng biết sau này sinh trai hay gái.

Càng nghĩ, bà càng thấy lòng nóng ran như lửa đột. Bà ngầm đưa mắt cho mụ quản gia. Mụ này sẽ gật đầu mỉm cười. Sau đấy không đầy ba hôm, Vương phi nằm nôi, vương gia biết chuyện, vội cho người hỏi xem trai hay gái thì bên trong báo ra bảo:

- Thật đáng mừng cho vương gia! Lại thêm một vị tiểu vương gia nữa rồi!

Ung vương nghe đoạn, mười phần vui vẻ. Các văn võ quan viên cung tới chúc mừng. Qua ngày thứ ba, trong phủ vương gia có đặt tiệc, nhộn nhịp đến bảy ngày mới hết. Trong dịp này, tất nhiên, các bà mệnh quan nhất tề tới vương phủ để thỉnh an vương phi... Theo tục kiêng cữ của vương phi, khi đứa bé ra đời chưa đầy một tháng, không cho ai được thấy mặt, bởi vậy các bà quan tới thăm đều không biết mặt ngang mũi dọc thằng bé thế nào.

Vương phi Nữu Cô Lộc sợ không thể tin cậy được người khác, nên mọi việc đều phó thác cho mụ quản gia. Mụ này vốn tính khôn hơn người hơn nữa trong nhà lại chỉ có một mình mụ ta với ngươi nhũ mẫu trông nom mọi việc tã lót, vú sữa cho đứa bé nên câu chuyện hoàn toàn được giữ kín. Trong phủ tuy có đến tám cung nữ hầu hạ vương phi nhưng chúng chỉ được ở trong phòng chầu chực. Vương phi có vị đại phu tới coi mạch hốt thuốc điều dưỡng. Hàng ngày lại có các bà quan tới nói chuyện giải buồn. Trong số các bà quan thì bà Trần Các lão thân với vương phi nhất. Nhưng lúc đó, bà Trần sinh chưa đầy tháng nên không thể tới vương phủ. Vương phi sốt ruột, mỗi ngày ít ra cũng nhắc tới bà Trần ba, bốn lần.

Vương phi chờ đã chán chê mới đủ tháng thì không may bà Trần lại nhuốm bệnh nặng, không ra được khỏi cửa. Tin này càng làm cho vương phi nóng lòng sốt ruột đến muốn phát điên lên, nhưng đành vậy, chẳng còn cách nào khác. Thế rồi đến lúc đầy tháng, chính vương phi phải tự mình lên xe tới phủ Các lão để thăm bà Trần. Bà Trần thấy Vương phi tới thăm mình bèn cho bế cậu bé ra cho xem. Thật là một đứa bé mặt mũi đầy đặn, da thịt trơn trắng. Vương phi lấy làm mừng lắm, ôm vào lòng coi như một bửu bối độc nhất vô nhị. Vương phi thương lượng với bà Trần cho các cơ thiếp xem qua. Bà Trần trong lòng tuy không vui nhưng lại nể mặt Vương phi, đành phải gật đầu. Thế là cậu bé được sửa soạn ăn mặc đàng hoàng.

Bà Trần cho người nhũ mẫu của con mình bế lấy, rồi lên xe, theo vương phi tiến vào phủ.

Nhũ mẫu bế cậu bé bước vào nội viên, tức thì có mụ quản gia trong vương phủ chạy ra đón lấy, bế lên nhà trên, còn dặn với nhũ mẫu ở nhà dưới chờ đợi. Nơi nhà dưới, có khá nhiều các bà, các mụ, các thị nữ. Họ vây lấy người nhũ mẫu, chuyên dài chuyện ngắn huyên thiên. Họ còn đem rượu thịt mời mọc ăn uống. Mãi tới chiều, nhũ mẫu đã chếnh choáng say. Rồi mụ quản gia bế cậu bé trở ra, trên mặt phủ chiếc khăn vàng có thêu đôi rồng bằng gấm. Nhũ mẫu giơ tay đón lấy cậu bé ẵm vào lòng, định giở tấm khăn vàng lên xem nhưng mụ quàn gia vội ngăn lại, bảo tiểu quan nhân đã ngủ say và giục bế ngay về nhà. Một thị nữ bưng ra một cái tráp nhỏ và một gói bạc bảo để thưởng cho nhũ mẫu. Cái tráp đó do vương phi tặng cho cậu bé làm lễ kiến diện. Nhũ mẫu được bạc rồi, trong lòng vô cùng sung sướng, lên xe trở về.

Khi cậu bé về tới nhà, bà Trần Các lão thấy con mình ngủ say, vội đỡ lấy để nhẹ xuống giường. Bà mở cái tráp nhỏ ra xem, bỗng giật mình sợ hãi, vì thấy bên trong có mười hạt Đông Châu lớn bằng hạt nhãn, sáu viên hột xoàn, rồi nào là hổ phách, nào là ngọc mắt mèo, nào là xuyến, nào là vòng bảo thạch. Tất cả những thứ này đều là bảo vật cực quý trong đại nội. Nhưng đáng chú ý hơn cả là một cành trâm pha lê thuý, một cành trâm nữa bằng dương hi bạch ngọc và còn đến hai chục đôi vòng tai bằng chân tứ phi thuý bảo thạch. Lễ kiến diện như vậy kể sơ cũng phải tới trăm vạn lạng bạc.

Bà Trần Các lão xem xong rồi nói:

- Bà vương phi cho chú bé nhà mình là con gái hay sao mà thưởng trâm và vòng như thế kia? Chẳng lẽ chú bé nhà mình chải tóc kỳ đầu lại đeo vòng tai? Quả thực buồn cười nhỉ?

Nhũ mẫu nói tiếp:

- Cỏ lẽ vương phi kỹ lưỡng quá cho nên trâm vòng để sau này cậu bé nhà mình lớn lên lấy vợ dùng làm sính lễ hẳn?

Giữa lúc hai người đang hí hửng cười nói với nhau, thì cậu bé trên giường tỉnh dậy khóc vang lên. Nhũ mẫu vội chạy lại bế, chợt nghe miệng mụ ta la lên một tiếng: "Ối chao!" hoảng hốt. Bà Trần giật nẩy mình, vội chạy ra xem, cũng kêu lớn một tiếng: "Kỳ quái" và khóc rống lên:

- Con tôi đâu mất rồi? Trời ơi là trời!

Tiếng kêu khóc của bà Trần chẳng mấy lúc đã làm hoảng hết cả mọi người trong phủ. Họ vội chạy tới thăm hỏi. Các lão Trần Thế Quan lúc đó đang tiếp khách tại nhà trên, bỗng thấy đứa tiểu đồng hối hả xông vào sảnh, bất chấp cả khách, miệng thở hổn hển nói bà có việc xin mời ông vào nhà trong.

Trần Thế Quan trừng mắt nhìn đứa tiểu đồng. Khách thấy thế cáo từ ra về. Các lão đứng lên tiễn khách xong, mới quay vào nhà trong vừa chạy vội vừa hỏi:

- Xảy ra chuyện gì mà hối hả quá vậy?

Hồi 56

VUA KHANG HI GẠT LỆ PHẾ THÁI TỬ

Trần các lão, miệng thì hỏi tên tiểu đồng, chân thì tông mạnh cánh cửa phòng để vào trong. Ông nhìn thấy phu nhân nước mắt đầy mặt, tay vỗ bàn, miệng kêu om sòm:

- Trời ơi! Thằng bé nhà ta rõ là con trai, thế mà vào vương phủ có một buổi bỗng biến thành con gái, ông ạ!

Trần Thế Quan nghe đoạn, đã hiểu cớ sự, vội xua tay nói:

- Đừng có làm om sòm lên!

Nói xong, ông đuổi hết mọi người trong phòng ra, đóng cửa lại, rồi mới gọi nhũ mẫu lại gần bên mà cật vấn. Nhũ mẫu gạt lệ, đem chuyện tới vương phủ như thế nào, mụ quản gia bế cậu bé vào trong chuyện mãi tới chiều mới bế trả lại ra sao, không cho lật cái khăn phủ mặt cậu bé thế nào và khi về tới nhà cậu bé hoá thành cô bé ra sao, từ đầu chí cuối kể lại một lượt rành mạch không sót một chi tiết nhỏ nào, chỉ bỏ quên có một việc là y thị quá chén say chếnh choáng trong vương phủ mà thôi.

Trần Các lão nghe xong câu chuyện càng hiểu rõ thêm, bèn bảo nhũ mẫu:

- Trai hay gái chẳng kể gì! Trẻ nào cũng cần cho ăn no ngủ kỹ là được rồi, còn chuyện tới vương phủ từ nay cấm không được nhắc tới nghe không? Nếu người lắc lém cái mồm thì trước hết ta lấy đầu ngươi đó, nhớ chưa?

Nói xong, ông quát bảo nhũ mẫu ra ngoài ngay. Nhũ mẫu hoảng hồn bạt vía, vội bế cô bé rút êm theo cửa hậu. Lúc đó Trần Thế Quan mới bảo vợ:

- Này bà! Việc không có gì khó hiểu cả. Vương phi sinh hạ một tiểu công chúa nhưng vì bà ta chót nói dối vương gia là một tiểu vương gia, nên mới bảo đem thằng bé nhà mình vào cung rồi thừa dịp đánh đổi. Bây giờ, việc chạy vào vương phủ để đòi con về hẳn không được rồi. Ngay cả nếu tùm lum lên thì chẳng những mạng thằng bé khó toàn mà toàn gia đình mình cũng hết sống nổi nữa. Thôi, bà ơi! Già này xin bà từ nay chớ nhắc tới chuyện đó. Số vợ chồng mình mà có con trai thì rồi thế nào chả có. Bà đã sinh một đứa trai thì lo gì lại chả sinh đứa thứ thứ ba.

Trần phu nhân nghe chồng nói đầy đủ góc cạnh của câu chuyện mới vỡ lẽ, hết mọi nghi ngờ. Toàn gia Trần Các lão hình như không ai hay biết có chuyện đó xảy ra.

Tính đủ hai tháng vương phi mới bế cậu bé ra cho Ung vương nhìn mặt. Vương vừa nhìn qua thấy cậu bé mũm mĩm trắng trẻo, hơn nữa lại là con của phi tử Nữa Cô Lộc, thì lấy làm yêu quý lắm. Người trong phủ đều gọi cậu bé là Từ vương gia.

Trần Thế Quan rất sợ việc đổi con này bị bại lộ, liên luỵ tới mình nên ông dâng sớ xin Khang Hi cho trở về quê vui thú điền viên. Hoàng đế cố giữ lại mà không được, đành phải ưng thuận. Ung vương thấy mất một tay thân tín thì lòng buồn khôn xiết. May cho vương còn có Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc hai người đem hết tâm lực để phò trợ nên chẳng bao lâu phần nửa các hoàng tử đều trở thành tâm phúc của vương.

Trong số các hoàng tử, có Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Hựu, Dân Nga, Dân Đường, Dân Đào, Dân Đê tự lập môn phái riêng, nhất định không chịu đi cùng một đường với Ung vương. Bọn này một mặt thực hiện âm mưu của mình một cách kín đáo một mặt tìm cách lấy lòng vua cha. Khang Hi hoàng đế bèn phong Dân Chỉ, Dân Kỳ, làm Thân vương; Dân Hựu, Dân Nga làm Quận vương; Dân Đường, Dân Đê làm bối tử.

Ung vương được tin này, càng lấy làm giận. Trong bọn hoàng tử vừa kể trên phải nói Dân Dị, Dân Đường là hai đối thủ đáng ngại nhất của vương. Thâm tâm bọn này là hoạt động ngấm ngầm để mưu đoạt ngôi thái tử cho bằng được. Họ chẳng cần luyện tập võ nghệ, chẳng cần bầu bạn các tay hảo hán, chỉ thông đồng với mấy tên thái giám rồi nhờ đó giao kết với bọn phi tần, ngày ngày đem chuyện tồi bại của thái tử ra nói với nhà vua. Chuyện nói xấu càng ngày càng nhiều. Có kẻ nói thái tử nhiều lúc vào cung đùa cợt với cả phi tần. Cung có kẻ nói thái tử kết ngầm bọn hư đảng mưu sát hoàng đế, bao chuyện động trời như vậy, dù là gan đồng dạ sắt cũng phải nổi đoá, huống hồ một người như Khang Hi hoàng đế. Hơn nữa, những chuyện kể đây lại đều từ miệng mấy bà phi cưng quý nhất thì làm sao Khang Hi lại không tin. Thế là ngài truyền lệnh cho Tôn Nhân phủ, phế ngay thái tử. Nhưng Cố Luân công chúa cố tâm khuyên can đôi ba lần. Bà nói:

- Hoàng thượng hãy bớt giận. Phế lập thái tử là một đại sự chứ không phải việc thường. Ngài nên bàn tính cẩn thận với các vị đại thần trước đã.

Qua ngày hôm sau, biên viễn có tin cấp báo, nói bộ lạc Cát Nhĩ Đan làm phản, hết sức ngang ngược. Các bộ lạc Xa Thần, Trát Tát Khắc bị chiếm cứ, đều cho người chạy tới kinh đô cáo cấp năm lần, bảy lượt. Khang Hi hoàng đế được tin lập tức toạ trào, cùng các vị đại thần thương nghị, rồi xuống luôn mấy đạo thánh chỉ. Đạo thứ nhất phong Dụ Thân Vương Toàn Phúc làm Phủ Viễn đại tướng quân, Dân Đê làm Phủ Viên phó tướng quân, đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Bắc Cổ Khẩu. Đạo thứ nhì phong Cung Thân vương Thượng Ninh làm An Bắc đại tướng quân, Giản Thân vương Nhã Bố Hoà và Tín Quân Vương Ngạc Lễ làm phó tướng quân đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Hi Phong khẩu. Đạo thứ ba khiến bọn Nội đại thần là Đông Quốc Cương, Đông Quốc Suy, bọn đại thần là Sách Ngạc, Đồ Minh Châu, bọn A Mật Đạt đô thống là Tô Noa Lạt Khắc Trì, Chương Xuân A, Tịch Đát Nặc Mại, bọn Hộ quân thống lĩnh là Miêu Tề Nạp, Dương Dại, bọn Tiền phong thống lĩnh là Ban Đạt Nhĩ, Sa Mai Đồ Đô tuỳ doanh tham tán quân vụ, đem tất cả mười vạn đại binh rầm rầm rộ rõ kéo thốc ra quan ngoại.

Không ngờ, một lực lượng hùng hậu như vậy mà suốt một năm trời từ mùa thu xuất quân tới mãi mùa hạ năm sau vẫn chưa đẩy lùi được bọn Cát Nhĩ Đan. Khang Hi hoàng đế trong lòng càng thêm nóng nảy bực dọc. Ngài bèn tự mình điều động ngự lâm quân mã kéo tới miền Bác Lạc Hà để đốc chiến. Đồng thời ngài hạ lệnh thái tử Dân Nhung ở lại kinh đô giám quốc.

Khi Khang Hi hoàng đế vừa ra tới quan ngoại thì không ngờ cáo trạng tội ác của thái tử cũng bay theo ra như bươm bướm. Có tờ tố cáo thái tử khi lăng tôn thất, có tờ tố cáo nhiễu hại bách tính, có tờ tố cáo tự tiện cướp đoạt cống vật, có tờ tố cáo làm loạn cung đình, có tờ khủng khiếp hơn, tố cáo âm mưu thí nghịch phụ hoàng. Hoàng đế xem rồi lòng giận tức xưa lại nổi dậy, gần như phát điên lên. Ngài lập tức hạ một đạo thánh chỉ, cho người về ngay kinh triệu thái tử ra quan ngoại.

Mấy ngày sau, thái tử Dân Nhung đã tới hành dinh. Nhung vào trướng quỳ trước mặt phụ hoàng. Khang Hi hoàng đế nghe Nhung nói khùng khùng điên điên thì bực tức đến cùng độ. Ngài tuốt cây bội đao, vung lên chém Nhung một nhát. May thay lúc đó có ông cậu Đông Quốc Duy đứng bên cạnh đỡ kịp. nên không việc gì. Hoàng đế vỗ bàn quát mắng um xùm, rồi nhỏ lệ ròng ròng xuống đôi má. Ngài rủa thái tử hành động bậy bạ. Chỉ vì nể mặt người mẹ mà ngài nín nhịn hai mươi năm trời và tha tội cho thái tử đó thôi. Bây giờ, tội ác càng ngày càng nhiều, thái tử lại dám tự ý kết đảng, làm nhục đại thần, sinh tính hung ác, mưu hại anh em, thậm chí nhiễu loạn cả cung đình, mưu thí cả vua cha. Người như thế quả đã cuồng vọng, bội nghịch đến quá mức, thử hỏi ngài còn muốn để lại trên đời này mà làm gì?

Khang Hi hoàng đế chửi rủa đến nỗi ngất xỉu luôn. Lúc tỉnh dậy, ngài vẫn thấy thái tử quỳ trước mặt, bèn nhảy tới phía trước, giơ thẳng cánh tát hai cái vào mặt thái tử rồi quát lớn:

- Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!

Hôm sau, mọi người thấy một đạo thánh chỉ hạ xuống, phế bỏ thái tử, giao binh quyền lại cho Khang Thân vương, rồi bãi giá hồi kinh. Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế sai cầm tù Dân Nhung, rồi triệu tập đại thần bàn chuyện lập thái tử mới. Bọn đại thần anh nào cũng vì sự biệt đãi của hoàng tử mình phò trợ, nhân dịp này hết sức hết lòng đề cử chủ mình.

Hồi đó, Bát hoàng tử Dân Dị đã ngầm biếu xén rất nhiều châu báu vàng ngọc cho quốc cữu Đinh Quốc Duy và đại học sĩ Mã Tề để họ ngầm sai bọn Nội đại thần A Linh A; Tán trật đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thi Vương Hồng Tư, Thị lang Khuê Tự và cả Ba Hỗn Đại, làm tờ sớ tâu lên nói Bát A Ca (Dân Dị) có thể kế vị.

Khang Hi hoàng đế xem xong tờ sớ, chẳng ngờ nổi trận lôi đình, quát:

- Bát A Ca ít khi chăm lo đến công việc. Huống hồ trước đây, hắn còn bị nghi là mưu hại thái tử. Mẹ hắn lại xuất thân nơi bần tiện thì làm sao lập hắn được?

Ngài phái người bí mật điều tra, quả nhiên tra ra việc Dân Dị tư thông với bọn đại thần. Qua ngày thứ hai, hoàng đế lên điện, lớn tiếng quát hỏi. Ba Hỗn Đại giật mình kinh hoảng, mồ hôi toát ra như tắm, vội quỳ xuống đất, đem chuyện Đông Quốc Duy cùng Mã Tề hai người chi vẽ bọn y bảo tấu cho Bát A Ca như thế nào kể lại một lượt. Khang Hi hoàng đế nghe xong, long nhan càng giận dữ. Ngài lập tức cách chức tất cả bọn quan lớn nhỏ; lại cách luôn cả tước vị Thân vương của Dân Dị. Đông Quốc Duy nhờ được cái thế quốc cữu nên chỉ bị quở trách vài câu rồi đuổi ra khỏi kinh sư, vĩnh viễn không được vào cung. Đại học sĩ Mã Tề bị kết án ly gián tình cốt nhục trong hoàng gia, tội rất nặng, hạ chỉ giao hình bộ chém đầu. Các quan văn võ Mãn triều cực lực tâu xin miễn tội, lúc đó hoàng đế mới khoan hồng, chỉ cách tước danh. Dân Dị cũng bị giao về hình bộ nghiêm hành quản thúc.

Sau khi xảy ra việc động trời này, bá quan văn võ miệng đều câm lại như hến, chẳng còn kẻ nào dám ho he xin xỏ cho ai. Ngay cả hoàng đế cũng chẳng thèm nói tới việc lập thái tử.

Mãi về sau, khi thấy hoàng đế bớt giận rồi thì hoàng hậu mới lên tiếng khuyên nhủ:

- Lập thái tử vốn là việc quốc gia đại sự. Bệ hạ hiện có một số đông hoàng tử, ngài không thể không lập người kế ngôi. vì có thế mới tránh khỏi chuyện biến loạn trong tương lai được.

Hoàng đế thấy hoàng hậu nói phải, liền bàn tính với bà, hỏi xem hoàng tử nào xứng đáng, thì bà nói:

- Thập tứ hoàng tử Dân Đường, tính vốn hiên hậu, có thề lập làm tự quân được.

Câu nói này của hoàng hậu thật rất hợp ý hoàng đế. Song, thập tứ hoàng tử hiện còn nhỏ tuổi, nếu đem công bố thánh chỉ ra, e rằng có kẻ mưu hại mất. Nghĩ tới chỗ này, bỗng ngài nhớ tới Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc. Hoàng hậu cùng hùa thêm, nói hai người này vốn có bụng trung thành có thể ký thác được, thánh chỉ liền hạ xuống, truyền Trương, Ngọc hai người vào cung gấp để bàn tính việc lớn.

Được hỏi về chuyện lập thập tứ hoàng tử lên làm thái tử, Ngạc Nhĩ Thái bỗng nghĩ ra một kế bèn đề nghị với Khang Hi hoàng đế:

- Xin thánh thượng tự tay viết chiếu truyền ngôi rồi bí mật đem giấu tại mặt sau tấm biển lớn của điện Chính Đại Quang Minh. Đợi khi nào thánh thượng trăm tuổi, lúc đó Cố mệnh đại thần sẽ tới lấy chiếu thư tuyên đọc. Các hoàng tử thấy thủ bút của thánh thượng, tất nhiên không còn ai có thể tranh vào vào đâu được nữa.

Khang Hi hoàng đế gật đầu khen hay. Ngài nhớ tới quốc cữu Long Khoa Đa, liền cho triệu về cung, mặt khác và tự tay mình thảo tờ chiếu. Chiếu như sau:

"Dân Nhung nhuốm chứng tật khó dạy bảo, đã bị truất phế. Sau khi yến giá, trẫm truyền ngôi lại cho thập tứ hoàng tử Long Khoa Đa vốn là nguyên cữu (quốc cữu đầu tiên), Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc đâ từng chịu cái ơn tri ngộ đặc biệt của Trẫm: các ngươi phải đồng tâm hợp lực phò trợ tự quân, làm sáng tỏ lẽ trời, chớ có bạc ơn mà hỏng trọng trách khiến phụ ý trẫm, Khâm thử".

Ba vị đại thần chịu cố mệnh của hoàng đế, đem tờ chiếu giấu kín vào sau tấm biển lớn tại điện Chính Đại Quang Minh. Xong đâu đấy họ rút êm ra khói cung, ai về nhà nấy.

Cách lập đi chiếu này của Thánh tổ còn được dùng liên tiếp bảy đời về sau, suốt từ Ung Chính, Càn Long, Gia Khanh. Đạo Quang cho tới mãi Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự. Sau đó cũng là việc về sau, chưa cần nói tới. Lại nói chuyện quốc cữu Long Khoa Đa vừa đặt chân tới phủ đã thấy tên nội giám của Ung quán vương ngồi đợi đó từ lâu. Hai bên thì thầm. Đa bảo tên nội giám hẹn gặp Ung vương tối hôm đó, vào canh ba bốn khắc. Tên nội giám vội quay về vương phù hồi bẩm.

Trời đêm qua canh ba, Long Khoa Đa lặng lẽ bước ra cửa sau rồi tới cống hậu cung Ung vương, lẻn vào bên trong. Khi tới một mật thất, ông đã thấy đại học sĩ Trương Đinh Ngọc, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái đều đã có mặt tại đây. Ngoài ra còn có vài vị quân sư, một đám đông kiếm khách. Lát sau, Ung vương bước vào mật thất. Cả bọn thì thào bàn tán với nhau suốt tới sáng mới nghỉ ăn cháo yến rồi giải tán. Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc lại thượng triều như cũ. Hoàng đế thăng điện, nhưng lúc này ngài không lớn tiếng, nặng mặt như hôm qua nữa.

Quan Binh bộ thượng thư xuất ban tâu:

- Muôn tâu thánh thượng! Văn thư cáo tiệp của Khang Thân vương từ tám trăm dặm vừa mới về tới, nói bộ chúa Cát Nhĩ Đan đã đại bại ở Đại Tích sơn, chạy trốn suốt đêm tới Cương A Não Nhĩ. Hiện nay quân ta đã thu phục toàn bộ Cát Nhĩ Đan, bộ chúa đã đích thân tới đại doanh của ta nộp khoản đầu hàng Khang thân vương bất nhật ban sư về kinh.

Khang Hi hoàng đế nghe tin này, lòng vô cùng hoan hỉ, liền truyền chỉ khen thưởng, chuẩn bị tiệc mừng chiến thắng, đợi khi Khang thân vương về là đích thân xa giá tới để khao thưởng. Chẳng bao lâu, Khang thân vương thống lĩnh đại binh về tới kinh. Hoàng đế ngự giá ra khỏi thành đón rước. Mười vạn đại quân vừa nhìn thấy hoàng đế nhất tề tung hô vạn tuế. Ngài ngồi ngay trên ngựa, ban thưởng rượu mừng.

Qua ngày hôm sau, Khang thân vương đem theo cả bọn quan viên tướng tá tùng chinh vào triều tạ ơn, hoàng đế ban yến ngay tại Sùng Chính điện, hạ thánh chỉ thăng cấp cho mọi người, ban thưởng cho Khang Thân vương chức Tử cấm thành kỵ mã.

Lúc này, trong nước thái bình, bốn bề thịnh trị, Hoàng đế lại Nam tuần lần thứ sáu. Nội đại thần sớm đã tống đạt văn thư đi khắp các tỉnh miền Giang Nam phải chờ chực tiếp giá suốt lộ trình.

Đã năm lần Nam tuần, hoàng đế lần nào cũng tới miền Tô Châu du ngoạn. Đất này có một vị thân sĩ giàu có vào bậc nhất, họ Uổng tên Uyển. Mỗi lần xa giá tới, vị Uổng thân sĩ này đều đem bọn sĩ phu toàn thành ra đón. Trong trang viên của họ Uổng có một khu vườn bài trí rất đẹp gọi là Sư tử lâm.

Nơi đây được coi là một trong nhưng thắng cảnh nổi danh nhất miền Giang Nam. Lần Nam tuần đầu tiên vào năm thứ hai mươi ba niên hiệu Khang Hi, hoàng đế đã có tới Sư tử lâm một lần. Ngài đối với Uổng Uyển rất thân tình. Lúc lâm biệt, ngài có thưởng cho Uổng Uyển một cuốn sổ trong có thủ bút của ngài. Cuốn sổ này tất nhiên truyền tới tay con trai Uyển, lúc đó mới có tám tuổi, tên gọi Uổng Nguyên. Quang cảnh tiếp giá của cha xưa thế nào, Nguyên đều nhớ rành rọt trong đầu.

Khi Thánh Tổ trở về kinh, những đồ ngự dụng đều được cất giấu và niêm phong cẩn thận. Lần Nam tuần thứ sáu này tính ra cách lần đầu có hơn hai mươi năm.

Thế rồi công văn hoả tốc tới Tô Châu. Đám thân sĩ lại một phen cuống quýt cả lên. Viên tuần phủ Tô Châu ngày đêm chỉ có một việc bàn tính với đám thân sĩ về việc tiếp giá. Trong bọn thân sĩ, tuy có kẻ đã tiếp giá lần trước nhưng ngoài hai mươi năm rồi, họ đã già lẫn cả, không còn làm được việc gì.

Còn mấy kẻ hậu bối chưa từng được thấy quang cảnh vĩ đại này, thử hỏi có dám ra đảm nhiệm trọng trách tiếp giá? Tuần phủ Tô Châu bèn đưa ra ý rằng, lại để gia đình họ Uổng nhận lĩnh việc này, lấy cớ rằng hoa viên nhà họ Uổng rộng lớn, gia tài lại sung túc, bao nhiêu những đồ ngự đụng ngày trước vẫn còn nguyên cả.

Uổng Nguyên thấy mọi người chứng khẩu đồng từ, cũng chẳng cần thoái thác làm gì nữa, liền nhận lĩnh trách nhiệm.

Gia đình họ Uổng có hai vị tiểu thư, nàng lớn tên Liên, nàng nhỏ tên Dung. Cả hai nàng đều mặt tươi như hoa phù dung, thân hình lả lướt như cành dương liễu. Cô chị mười bảy, còn cô em mười sáu - cái tuổi của xuân tình đương độ.

Thành Tô Châu khắp ba hạng người, từ thượng lưu, trung lưu cho tới hạ tiện, ai chẳng nghe danh hai người đẹp của nhà họ Uổng. Biết bao nhiêu quan gia quý tộc đã tới cầu hồn, nhưng Uổng Nguyên đều một mực từ chối, chỉ vì y không muốn xa hai cô con gái quý của mình. Liên và Dung đang ở trong hoạ viên, nhưng vì việc hoàng đế sắp tới nên phải đi vào nội viên, chẳng mấy chốc ngày mồng một tháng hai đã tới. Hôm đó người ta thấy hai tên nội giám đem mật dụ của hoàng đế tới Tô Châu, xông thẳng vào nha môn phủ đài. Viên phủ đài Tô Châu vội mở ra xem mật dụ, bèn cho quan lại, thân sĩ Tô Châu tới Trấn Giang đón rước. Hai tên nội giám còn nói thêm:

- Thánh chỉ của hoàng thượng còn bảo bọn tôi tới Tô Châu kiếm cho kỳ được một trăm cô gái con nhà lương gia sẵn sàng để đợi lệnh. Vậy xin cố lo cho đủ số trăm người trong ba ngày để bọn tôi mang đi.

Phủ đài nghe tới chuyện này, tuy thấy chẳng ra thể thống gì cả nhưng không thể bác bỏ, ngay đêm hôm đó, triệu tập thân sĩ trong vùng lại để hàn tính. Một vị thân sĩ đứng lên nói:

- Việc này dễ quá mà! Xứ Tô Châu nhà mình có thiếu gì cô đào con hát. Ta chỉ cần chọn đúng một trăm đứa xinh đẹp, ăn mặc lịch sự rồi đưa đi là xong.

Viên phủ đài nghe ra, vỗ tay khen hay, rồi tức khắc cho sai nha đi lùng khắp nơi, bắt tất cả cô đào, con hát, đĩ điếm về nhà, đích thân chọn lựa đúng một trăm đứa, giao cho hai tên nội giám mang đi. Đồng thời, ông tập họp tất cả văn quan võ tướng, cùng thân sĩ toàn tinh tới Trấn Giang đón giá.

Cách đó vài hôm, hoàng đế ngồi thuyền tới Hữ Dả quan rồi lên bờ. Mười sáu tên thái giám khiêng một cỗ kiệu chạm rồng, chạy thẳng vào hoa viên của Uổng thân sĩ mới hạ xuống. Uổng Nguyên thấy hoàng đế giáng lâm nhà mình, lấy làm vinh hạnh đến tột bực, suốt ngày chờ chực ngoài cổng. Hoàng đế ngự trong hoa viên, ngày đêm vui đùa với bọn cô đào, con hát, nào gối dài, nào chan ấm, phè phỡn hành lạc. Phía ngoài. phu đài cho tập hợp hết bọn quan chức đứng đợi lệnh. Bọn thái giám canh cửa không cho một kẻ nào vào trong. Đám quan lại đành phải hùn nhau kiếm một số tiền là mười vạn lạng bạc "hiếu kính" lũ thái giám, lúc đó chúng mới chịu vào thông báo giùm. Hoàng đế nhất nhất truyền kiến. Người cuối cùng là Uổng Nguyên, được vào trò chuyện mãi tới canh hai mới lui gót trở ra.

Từ hôm đó, hoàng đế ngày nào cũng truyền gọi Nguyên vào hầu chuyện. Nguyên cũng chuẩn bị rất nhiều những món ăn đồ chơi đặc biệt để dâng lên ngài. Quan hệ giữa hai người thành ra hết sức mật thiết. Hoàng đế bảo Nguyên:

- Ngày xưa, nhiều vị vua có thiếu gì bạn áo vải. Nay trẫm muốn cùng khanh kết nghĩa anh em có được không?

Nguyên nghe xong, giật mình hoảng sợ, vội bò sát xuống đất, dập đầu lia lịa, tâu:

- Kẻ vi thần thực không dám thu mệnh!

Hoàng đế đích thân bước tới nâng Nguyên dậy mà bảo:

- Xin cho mời phu nhân và tiểu thư ra đây cho Trẫm được gặp một lần và nhận làm chỗ người nhà.

Lệnh của hoàng đế ban ra, thử hỏi Nguyên làm sao dám trái lời. Nguyên chạy đi gọi vợ là Phương thị và hai con gái là Uổng Liên, Uổng Dung ra hoa viên. Được ra chầu vua, hai cô Liên, Dung trang điểm lộng lẫy, vàng ngọc châu báu gắn đầy người, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, xinh đẹp không để đâu cho hết.

Hoàng đế vừa nhìn thấy bóng hai nàng đã hết lời khen ngợi. Ngài hạ lệnh đặt tiệc, tự tay chuốc chén, bồi tiếp ba mẹ con. Tiệc vui kéo dài mãi tới lúc trăng lên đèn mở, thế mà ba mẹ con vẫn chưa thấy ra cho. Nguyên trong lòng lo lắng cuống quýt cả lên nhưng biết làm sao được kia chứ? Nguyên đứng phía ngoài cống, lăng xăng chạy đi chạy lại, hòng có tí tin tức gì lọt ra. Nhưng buồn thay, tịnh vô âm tín! Mong mãi Nguyên mới thấy vợ bước ra, hỏi tới con gái, thì thị chỉ thở dài và lắc đầu nói:

- Hoàng thượng lưu chúng lại trong phòng rồi?

Nguyên nghe xong như bị ai nện cho một cùi vào đầu, chỉ còn biết tròn xoe đôi mắt và giậm chân xuống đất thình thịch, nhưng rồi cũng đành chịu chứ làm gì hơn được nữa.

Luôn một hơi ba ngày ba đêm, hoàng đế chẳng truyền ai cả. Qua ngày thứ tư, tên thái giám canh cửa bỗng truyền lệnh, nói hoàng thượng muốn hồi kinh. Bọn văn quan võ tướng Tô Châu lại một phen chạy vạy đến bở hơi tai. Họ rối rít, nào nghị trình này nọ để tống tiễn bọn thái giám, nào lo liệu mười sáu chiếc quan thuyền để đưa hoàng đế xuống ngự.

Uổng Nguyên cũng theo sau đoàn người tiễn đưa. Chính mắt Nguyên nhìn thấy hai cô con gái cưng được đưa xuống thuyền. Rồi một tiếng thanh la vang dậy, long kỳ kéo lên, ngự thuyền rời bến và xa dần.

Uổng Nguyên tiễn đưa thánh giá xong, cúi đầu buồn bã trở về. Vừa về tới nhà Nguyên đã thấy rất đông thân hữu kéo tới để chúc mừng. Ai cũng nói chẳng bao lâu nữa y sẽ trở thành quốc trượng.

Qua ngày thứ ba, bỗng từ nơi phủ đài một viên võ tuần bộ chạy tơi bảo:

- Hôm nay, phủ đài vừa mới tiếp được một công văn rất khẩn yếu, xin mời ngài tới gấp nha môn để thương nghị.

Uổng Nguyên nghe xong chẳng hiểu sự thể ra sao, đành phải leo lên kiệu đi ngay tức khắc. Khi tới phủ nha, Nguyên thấy vị phủ đài cùng khá đông quan lại, thân sĩ ngồi trong, vẻ mặt người nào cũng hớt hơ hớt hải, lấm lét nhìn vào chiếc án thư phía trên có đặt một bức công văn. Bọn này thấy Uổng Nguyên vào liền cầm đưa cho Nguyên xem, thì ra đó là bức công văn từ Hoài Ân phủ gửi tới, nội dung nói thánh giá qua địa phận vào ngày mai mười bốn tháng hai và tính ra thì ngày hai mươi sáu sẽ tới Tô Châu.

Mọi người có vẻ lo sợ, vì lúc này họ mới biết rõ hoàng đế hôm trước là hoàng đế giả, còn người sắp tới đây mới chính là Khang Hi hoàng đế. Kẻ nào nhìn thấy bức công văn đó còn được, chứ với Uổng thân sĩ thì thật là cả một chuyện trời sập trước mắt ông. Ông giậm chân thình thịch xuống đất, miệng lắp bắp nói:

- Hỏng... bét! Hỏng... bét rồi! Tội nghiệp cho hai con gái tôi! Trời ơi!

Uổng Nguyên còn chưa nói hết câu thì hai dòng lệ đã tràn xuống đôi gò má xám ngoét. Bọn quan lại đứng chung quanh, kẻ dỗ người khuyên. Có kẻ an ủi:

- Đứa nào cả gan giả dạng hoàng đế, bọn tôi thế nào cũng tầm nã được, đem về kêu án tử hình. Lúc đó hai vị thiên kim tiểu thư sẽ lại "châu về hợp phố" thôi.

Phủ đài cũng lên tiếng:

- Câu chuyện nầy xảy ra tất cả bọn ta đều liên can. Vậy xin chư vị nhân huynh tuyệt đối giữ kín, chớ có tiết lộ cho bất cứ kẻ nào khác hay được. Thử hỏi chư vị còn muốn sống nữa hay không?

Lời nói nửa như nhắn nhủ nửa như doạ nạt này quả đã làm cho bao nhiêu cái mồm câm lại như hến. Rồi không ai bảo ai, tự biết phận mình tất cả lặng lẽ rút để mai đây lại phải lo liệu chương trình tiếp giá lần nữa.

Tháng hai ngày hai mươi sáu, hoàng đế giá lâm Hồ Khẩu, rồi ba mươi, lên chơi Đặng uý sơn. Lão hoà thượng Tế Chí chùa Thánh Ân năm xưa tiếp giá thì còn trẻ, nay đã bảy mươi ba tuổi, đầu tóc bạc phơ, quỳ mọp ngoài sơn môn đón giá. Khang Hi hoàng đế sai thái giám ban thưởng cho nhà sư già hai cân nhân sâm và không biết bao nhiêu là hoa trái, dưa cáp mật, quả phiên bà, trái nho, trái tùng... Thánh tổ giơ tay ra vuốt mớ râu tóc bạc phơ của hoà thượng Tế Chí rồi nói:

- Hoà thượng già rồi. Đến ngày mười hai tháng ba, hoà thượng nên tới Ký Sương Viên núi Huệ Sơn vùng Vô Tích mà ở.

Ký Sương Viên là khu vườn trong đó có cây cổ thụ, thân cây có tới ba người ôm mới xuể. Thánh tổ thường đi bách bộ dưới bóng cây này. Sau đó, khi về kinh rồi, ngài thường có thư hỏi xem cây cổ thụ còn không. Hồi đó, có một vị thân sĩ tên gọi Tra Thận Hành, có làm một bài thơ nói cây được binh an gởi trình hoàng đế. Bài thơ như sau:

Cao tận mây xanh khoát mấy ôm.

Khum khum cành lá hỏm nên vòm

Bình an xin báo thiên nhan rõ.

Danh mộc Giang Nam chỉ một chòm

Sau khi gặp hoà thượng Tế Chỉ ở Hoa Sơn, hoàng đế về tới kinh, trong lòng thường nhắc nhở tới. Về sau, khi thánh tổ sáu mươi chín tuổi thì hoà thượng Tế Chí đã tám mươi tám thế mà vẫn còn khang kiện. Ngài bèn sai một viên quan tới Vô Tích đón hoà thượng về kinh, cử hành Thiên Tẩu Yến. Thiên Tẩu Yến là gì? Đó là yến tiệc do nhà vua thết một ngàn ông lão từ sáu mươi lăm tuổi trở lên, bất luận là Mãn hay Hán.

Các vị bô lão này được đưa tới đây bằng noãn kiệu, dự yến liên tiếp trong ba ngày. Hoà thượng Tế Chí được mời lên ghế chủ toạ trong buổi tiệc. Ngoài ra, hoàng đế còn bày một chiếu rượu đặc biệt toàn tế tửu để thưởng cho Tế Chí hoà thượng.

Ngài ngồi cạnh để chuốc chén, lòng đầy vui vẻ. Ba ngày sau tiệc mới tan. Hoàng đế ban thưỏng cho mỗi người một bức tự hoạ đem về nhà. Suốt cả năm đó, thánh tổ hết sức hứng khoái tháng giêng tháng hai, ngài tuần hạch Cơ Điện. Từ tháng tư đến tháng chín, ngài tuần hạch Nhiệt Hà. Qua tháng mười, ngài tuần hạch Nam Uyển, tổ chức cuộc săn bắn. Ngài cưỡi ngựa bắn cung còn rất mạnh. Nhưng đến tháng mươi một, có một hôm, ngài bỗng nhuốm lại bệnh, chẳng mấy bệnh đã trở thành trầm trọng. Ngài bèn hạ lệnh cho rời giá từ Nam Viên qua Sướng Xuân Viên để về dưỡng bệnh tại Ly cung.

Hồi 57

SỬA DI CHIẾU, UNG VưƠNG CưỚP NGAI VÀNG

Tin Khang Hi hoàng đế dưỡng bệnh ở Sướng Xuân Viên bay tới tai Ung quận vương Dân Trinh, tức thì vương chạy đến thỉnh an. Không ngờ bệnh tình của hoàng đế đã quá trầm trọng, trong lòng lại phiền bực trăm phần nên ngài không muốn gặp mặt họ hàng thân thích.

Dân Trinh đành phải lui ra ngoài, bí mật dò la tin tức.

Hầu hạ bên cạnh hoàng đế lúc đó, ngoài vài tên nội giám thân cận và cung nữ ra, chỉ có ba vị đại thần là quốc cữu Long Khoa Đa, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, đại học sĩ Trương Đinh Ngọc cùng ba vị ngự y lo liệu thuốc thang mà thôi.

Ba vị đại thần này vốn thuộc cánh của Ung vương, điểu đó khỏi cần nói. Ngay cả bọn thái giám và cung nữ thường ngày cũng được vương biệt đãi. Cho nên nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất ngữ của hoàng đế đều được chúng mật báo cho vương hay.

Trong đám cung nữ hầu cận, có một nàng vốn là con gái của Quý Tá Lĩnh. Nàng vào cung đã được bốn năm, tính tình lanh lẹ mà thân hình lại đẹp đẽ. Nhờ đó, nàng được phái tới Sướng Xuân Viên, chuyên hầu hạ những khi hoàng đế đến đây lâm hạnh với hoàng hậu. Nàng thấy Ung vương tướng mạo rất oai dũng, biết thế nào vương cũng có ngày phát đạt, bởi thế khi thấy vắng người, nàng bèn lẻn vào phòng cạnh chỗ Ung vương chờ chực để chu liệu đầy đủ trà nước, cơm rượu cho vương. Ung vương ở một mình trong phòng, bỗng nhiên có người tri kỷ thử hỏi còn gì sung sướng hơn. Thế rồi lửa gần rơm, phát hoả. Trong lúc mùi mẫn, Ung vương hứa với nàng, khi nào lên ngôi hoàng đế, sẽ phong cho nàng làm quý phi. Nàng cung nữ họ Quý nghe nói càng cảm kích bội phần, từ đó đem hết lòng phụng sự.

Ung vương cùng Long Khoa Đa bàn tính, giả tạo chỉ ý của hoàng đế, tuyên cáo ra ngoài, nói hoàng đế trong lúc bệnh hoạn, buồn phiền, bất luận nội ngoại thân thích, cấm không được ai bước vào vườn. Tội nghiệp cho bọn phi tần, quận vương, công chúa, cả những thân thuộc quý tộc, thảy đều bị chặn lại ngoài cổng. Ngay cả hoàng hậu cũng chỉ được đứng ngoài khấu đầu thỉnh an mà thôi. Bên trong, Ung vương một mình tha hồ thao túng, muốn làm trời làm đất gì cũng chẳng ai biết, ai hay.

Bệnh tình Khang Hi hoàng đế càng ngày càng nặng. Đám ngự y đủ mặt, anh, nào anh nấy khoanh tay vô sách, chỉ biết ngày đêm hầu hạ bên giường, đổ nước sâm cho hoàng đế cầm hơi mà thôi.

Chẳng bao lâu đã tới cuối ngày cuối tháng một mùa đông. Trời lạnh thấu xương. Khang Hi hoàng đế nằm trên long sàng, hơi thở đã có phần khó khăn. Ngài tự biết mình không còn sống được bao lâu nữa, lào thào bảo Long Khoa Đa cho gọi thập tứ hoàng tử tới, nhưng Đa đã mưu tính trước, vâng lệnh hoàng đế trở ra, bèn gọi ngay Ung vương vào phòng, Hoàng đế lúc đó hơi thở đã gần tàn.

Long Khoa Đa chạy ra khỏi vườn, thấy nào phi tần, nào hoàng tử, đông đến cả trăm đang chờ chực ngoài cổng vườn, liền cố ý lớn tiếng bảo:

- Hoàng thượng có chỉ, các vị hoàng tử tới thăm bất tất phải vào trong. Ngài có lệnh chỉ triệu có mỗi mình Tứ hoàng tử vào kiến giá mà thôi.

Nói đoạn, Đa gọi kẻ thân tuỳ dắt ngựa lại, nói đi tìm Tứ hoàng tử. Đa giơ roi quất ngựa. Ngựa lồng bốn vó phi như bay, vút cái đã ra khỏi cửa cung. Chạy tới điện Chính Đại Quang Minh, Đa sai tên thái giám tâm phúc lẻn vào trong lấy tờ di chiếu của Khang Hi hoàng đế cất giấu ở phía sau tấm biển lớn Đa cầm lấy di chiếu mở ra rồi sửa chữ "thập" (mười) ra chữ vu (cho) trong câu: "Truyền ngôi cho hoàng tử thứ mười bốn" thành câu: "Truyền ngôi cho hoàng tử thứ tư (đổi câu "Truyền vị thập tứ hoàng tử" ra "Truyền vị vu tứ hoàng tử").

Sửa xong, Đa lại đặt tờ di chiếu vào chỗ cũ, lẻn ra khỏi cửa điện, phóng như bay về vườn Sướng Xuân.

Hôm đó, Khang Hi hoàng đế ngất đi đến mấy lần. Mãi tới chiều hôm ngài mới dần dần tỉnh lại. Ngài mở mắt nhìn, thấy bên cạnh giường có một người đang quỳ, tay bưng bát nước sâm giơ cao lên, miệng luôn luôn gọi "phụ hoàng, phụ hoàng".

Khang Hi hoàng đế mơ mơ màng mang, tưởng đó là thập tứ hoàng tử, bèn giơ tay ra sờ vào mặt. Ung vương, thừa cơ hội đó, ghé sát lại bên, hoàng đế mở to mắt nhìn kỹ một hồi, mới nhận ra là tứ hoàng tử Dân Trinh, bất giác khí uất nổi lên, chỉ còn gầm được một tiếng: "Mày ư?" rồi im luôn. Miệng ngậm một lúc lâu mà không còn mấp máy nữa. Thì ra ngài đà chết sau khi nói xong tiếng "Mày ư?".

Dân Trinh thấy vậy, bèn giả bộ bi thương đau khổ, khóc rống lên. Bọn thái giám đứng phía ngoài nghe tiếng khóc, vội chạy vào tay chân bấn loạn, kẻ chạy đi lấy nước, kẻ chạy đi lấy áo để tắm rửa và thay đối y phục cho hoàng đế.

Long Khoa Đa lúc đó cũng đã có mặt tại bên trong, vội nâng Ung vương dậy. Vương ghé vai Đa hỏi nhỏ:

- Đại sự xong rồi chứ?

Đa chỉ gật đầu, không nói năng gì. Một lát sau, tin buồn đã bay ra tới cửa cung. Bọn phi tần, hoàng tử tông cửa ùa vào. Lúc đó, ngoài hoàng tử Dân Nhung bệnh hoạn, Dân Đê, Dân Dị bị giam cầm, Dân Đề xuất chinh nơi quan ngoại thì có tam hoàng tử Dân Chỉ, thất hoàng tử Dân Hựu, cửu hoàng tử Dân Đường, thập hoàng tử Dân Nga, thập tam hoàng tử Dân Tường, và các hoàng tử Dân Kỳ, Dân Tư, Dân Ngẫu, Dân Lộc, Dân Lễ, Dân Hi, Dân Vi, Dân Cổ, Dân Kỳ, Dân Bí - cả thảy là mười sáu vị. Bọn phi tần trong tam cung lục viện theo chân mười sáu vị hoàng tử chạy tới bên ngự sàng, bò mọp xuống đất, cất tiếng khóc om sòm. Hồi lâu Long Khoa Đa mới bước tới khuyên thôi và lớn tiếng nói:

- Nước không thể một ngày không vua, dân không thể một ngày không chúa. Nay Đại hành hoàng đế đã xa giá về trời. Bản đại thần chịu sự ký thác của tiên đế. Xin mời chư vị quận vương mau tới điện Chính Đại Quang Minh để nghe bản đại thần tuyên đọc di chiếu.

Các vị hoàng tử nghe nói vua cha có di chiếu, kẻ nào cũng nghi nghi hoặc hoặc, chẳng biết ai sẽ là người thừa kế vị. Trong bọn, Dân Đường, Dân Nga là tỏ ý lo lắng bôn chồn nhất - hai anh em nhà này chỉ sợ kẻ khác cướp mất cái ngai vàng mơ ước bấy lâu, liền ba chân bốn cẳng chạy một mạch tới điện Chính Đại Quang Minh chờ đợi trước.

Một lát sau, khắp triều văn võ đều tới đông đủ. Dưới thềm, ba ngàn quân ngự lâm xếp thành hàng, đông như kiến. Trong ngoài im phăng phắc. Bỗng người ta thấy Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc, ba người chạy thẳng lên điện.

Trên điện đã bày một hương án. Ba người nhìn lên không, hành lễ xong bèn tiến về phía sau tấm biển lớn để thỉnh di chiếu.

Long Khoa Đa đứng ra ngay giữa điện, lớn tiếng tuyên đọc.

Khi đọc tới câu "Truyền ngôi cho tứ hoàng tử..." từ phía dưới thềm bỗng nổi lên tiếng ồn ào ầm ĩ. Đại thần trực điện nhảy lên quát im, lúc đó mới đọc nốt được tờ di chiếu.

Từ nãy đến giờ, tứ hoàng tử Dân Trinh cũng cùng với mọi người quỳ dưới thềm nghe chỉ. Di chiếu vừa đọc xong, toàn ban thị vệ xúm lại rước Dân Trinh lên điện. Tứ hoàng tử Dân Trinh chẳng khiêm nhường khách khí gì, bận ngay mũ áo hia đai hoàng đế vào. Vương từ từ bước lên ngai báu. Dưới điện, ba ngàn ngự lâm quân tung hô vạn tuế. Văn võ bá quan lần lượt tiến lên triều kiến.

Đại lễ xong tân hoàng đế xuất lĩnh các vị quân vương, bối tử, thân vương đại thần, quay về vườn Sướng Xuân, thiết lĩnh tế lễ, theo chế thành phục.

Hồi 58

ĐOẠT NGAI VÀNG, UNG CHÍNH TRẢ THÙ

Khang Hi hoàng đế băng hà. Dân Trinh âm mưu với bọn đại thần cướp được ngôi báu. Lễ đăng quang thật chớp nhoáng giữa một cuộc hỗn độn trong đám hoàng tử và triều thần đông đảo, sau khi đọc tờ di chiếu đã bị sửa chữa một cách tài tình.

Hàng ngàn ngự lâm quân, sau khi nghe đọc tờ di chiếu, liền chạy xô lại, công kênh hoàng tử Dân Trinh lên ngai vàng và toàn thể triều đình quỳ mọp xuống đất, tung hô vạn tuế.

Đây là vị vua thứ năm của Thanh triều, vị vua mà người Trung Quốc khi nói tới, ai cũng phải rùng mình. Lễ đăng vị đã xong, Dân Trinh tất nhiên phải lo ngay đến việc tang lễ cho cha và bắt đầu củng cố ngai vàng của mình, nhất là đối phó với một số đông anh em đã từ lâu cũng nhằm nhè ngôi báu như mình và coi mình như kẻ thù bất cộng đái thiên.

Qua ngày hôm sau tất cả triều thần đưa di thể của tiên hoàng tớì đại nội Bạch Hổ điện để khâm liệm nhập quan. Tân hoàng đế hạ thánh chỉ cải niên hiệu gọi Ung Chính nguyên niên. Vị hoàng đế Ung Chính này nổi tiếng là người thâm độc bạo tàn nhất trong lịch sử nhà Thanh.

Khi còn quỳ dưới đất nghe đọc di chiếu, kẻ nào ở phía dưới làm ầm ĩ om sòm, ngài đều để ý và nhớ kỹ. Thế rồi sau khi đăng vị, đạo thánh chỉ đầu tiên của ngài là cách tuột tước vị của Dân Đường, Dân Nga, bảo rằng hai vị hoàng tử này nhiễu loạn cung đình phạm tội đại bất kính, lập tức bắt ngay, giao cho Tôn nhân phủ thẩm vân.

Dân Đường chịu không nối nghiêm hình, đành nhận tội và khai cùng với Dân Dị ở bên ngoài kết bè lập đảng ra sao để mưu hại Dân Nhung. Về sau thấy Nhung bị bệnh điên, trở thành vô dụng rồi thì quay ra mưu hại Dân Trinh. Nhưng không ngờ Trinh có nhiều tay hảo hán dưới trướng khiến bọn Đường thúc thủ vô sách. Bởi vậy, khi thấy Trinh được làm vua, khí uất nổi dậy trong lòng, họ mới gây huyên náo tại điện Chính Đại Quang Minh là như thế. Tôn nhân phủ ghi chép đầy đủ khẩu cung, tâu lên Ung Chính hoàng đế. Ung Chính bèn cho điệu Dân Dị từ trong lao ra để tự mình thẩm vấn, Dân Dị thấy Dân Đường đã cung nhận hết tội lỗi, biết không thể che giấu gì được nữa, đành chỉ còn nước cầu xin Ung Chính mở lượng khoan hồng tha mạng. Một đạo thánh chỉ hạ xuống giao bọn Đường cho Tôn nhân phủ giam cấm trong lao, bắt gọi Dị là "A kỳ" (nghĩa là con heo), còn Đường là "Tắc tư hắc" (nghĩa là chó).

Qua ngày hôm sau Ung Chính lại đem Dân Nga ra thẩm vấn. Nga quả xứng đáng là một quân vương, đệ tử chính truyền của phái Thiếu Lâm, không một hoàng tử nào có thể sánh kịp. Nga có bản lĩnh cùng mình, bay trên mái nhà như tên bắn, chạy trên đầu tường như vượn núi, tay cứng như sắt, quyền chắc như đồng, ba, bốn chục người đừng hòng đến gần được bên. Chính Ung Chính khi còn là quân vương đã nhiều lần bị Nga đánh ngã. Bởi vậy ngài thấy y là sợ và rồi cũng vì vậy, ngài đâm ra thù hận, coi y như cái đinh trong mắt. Hôm nay, ngài đã lên ngôi hoàng đế, nhất định phải báo thù xưa.

Dân Nga lúc đó bị Tôn nhân phủ bắt trói điệu tới. Đến lúc đem thẩm vấn, Nga chẳng thèm mở miệng khai báo một lời. Quan phủ doãn nổi giận bèn cho gọi binh sĩ dùng hình tra tấn nhưng mọi người giật mình vì chỉ thấy Dân Nga há mồm cười lên sằng sặc như chàng thèm coi ai ra gì, kế cả Ung Chính... Rồi bỗng nghe vút một tiếng, Nga đã tung mình bay lên nóc nhà như một con chim én, chẳng còn thấy hình bóng đâu nữa. Phủ doãn hoảng hốt chạy tới tâu rõ với Ung Chính nhưng Ung Chính cũng đành chịu vậy chứ còn biết làm sao.

Ung Chính hoàng đế sực nghĩ ra điều gì liền cho đi mời nhà sư Lạt Ma tới đùng pháp thuật để giết Nga, nhưng nhà sư lắc đầu nói:

- Hắn có trong mình đạo Kim phù đệ nhất Đạt lạc thì những kẻ phù chú tầm thường làm sao lại gần được hắn.

Ung Chính hỏi nhà sư:

- Có thể cướp được đạo Kim phù đó chăng.

Nhà sư lại nói:

- Lúc bình thường thì chả có cách gì hạ thủ được hắn đâu. Chỉ khi nào hắn giao cấu với đàn bà thì mới mong cướp được đạo Kim phù đó thôi.

Ung Chính nhớ kỹ lời nhà sư Lạt Ma, bèn dặn dò tên thái giám tâm phúc bố trí kế hoạch lừa Nga.

Lại nói Dân Nga sau khi trốn thoát khỏi Tôn phủ, đâm ra cuồng vọng phóng túng, chẳng kiêng dè ngán sợ một ai.

Nga khoái nhất là uống rượu. Tửu điếm lớn nhỏ khắp kinh thành, chẳng chỗ nào là không có gót chân y lui tới. Nga ăn vận theo kiểu bình dân, cho nên chẳng ai ngờ được y là hoàng tử. Mỗi khi tới một tửu điếm nào, Nga thường gọi điếm tiểu nhị lại cùng uống rượu. Ngoài cửa Đông hoa có một tửu điếm tên gọi Thái Bạch lâu cất được một thứ rượu hảo hạng. Điếm tiểu nhị tên là Dư Tam, tính tình hoà nhã. Nga rất khoái tên tiểu nhị này, thường tới đây uống rượu. Nga kéo Dư Tam ngồi vào đối ẩm rồi tán gẫu hết chuyên kinh đến chuyện phường, hết chuyện to đến chuyện nhỏ. Tam cũng một tay tửu lượng rất cừ. Thường hai người đối ẩm với nhau tới khuya mà vẫn không chán.

Hai người rỉ rả với nhau cả những chuyện nơi ngõ liễu hoa tường, chốn nương dâu bãi bộc. Những chuyện phong lưu tình tứ này đối với Nga hình như còn xa lạ lắm, nhưng với con người lòng đầy buồn chán, đang tìm cách giải khuây thì có gì mà chẳng được chẳng hay. Ngờ đâu, nay nói một chuyện, mai nói một chuyện, nói riết rồi tự nhiên Nga cũng cảm thấy thèm muốn. Thấy Nga đã đến lúc khoái thích, Tam lại kể ra nhưng chỗ nào có chị em xinh đẹp, hấp dẫn khiến Nga đâm ra ngứa ngáy, thèm muốn khắp mình.

Hôm nay cũng vậy, giữa lúc muốn điên lên ấy, Nga bỗng thấy một cô gái hết sức tình tứ xuất hiện bên cạnh vò rượu của mình. Nàng khẽ nghiêng chiếc vai tròn trĩnh, cúi thấp cặp má đào điểm nhạt lượt phấn mỏng và ngồi xuống ghế phía trước chàng. Chốc chốc nàng lại liếc cặp mắt đa tình sắc như dao về phía Nga, khiến hồn phách Nga như bị nàng thu mất sạch. Nga như người say, bất giác vỗ bàn khen tuyệt, nhưng vì trong quán còn đông khách, chưa tiện nhảy chồm lên mà kéo người đẹp vào lòng.

Khách mỗi lúc một thưa, rồi kẻ cuối cùng cũng biến nốt trước ngọn đèn mờ tỏ. Nga nhìn người đẹp càng thấy nàng đẹp thêm. Cặp má hồng của nàng càng tươi thêm, càng mịn thêm. Đã đến lúc chịu không nổi nữa. Nga bèn khẽ gọi nàng một tiếng, bỗng nàng hé đôi môi son thắm mỉm cười rồi quay sang nhìn phương khác. Nỗi lòng của Nga, Dư Tam hiểu rõ cả. Hắn khà khà cười lớn rồi nói:

- Tương Như mua rượu, có gái Trác đốt lò hương. Tam muội nhà ta hôm nay được quý nhân thưởng thức, quả thực đã có cái may duyên ngộ ba sinh.

Nói đoạn, Tam lấy tay vẫy cô con gái và nói:

- Muội hãy lại hầu thiếu gia mấy chung rượu, có hề gì!

Cô gái nghe đoạn, bèn đứng dậy, miệng cười chúm chím, chạy tới ngồi kề vai Nga, nhưng chỉ thấy nàng cúi đầu mà chẳng nói câu nào. Nga nhìn người đẹp kỹ hơn, càng nhìn càng thấy nàng đẹp hơn bội phần.

Nga thấy người rạo rực đến cùng độ rồi không giữ nổi nữa, Nga nắm lấy ngón tay búp măng của người đẹp, còn tay kia nâng một lỵ rượu lên mời. Người con gái tươi cười uống cạn chung rượu trong tay Nga. Nga luôn miệng khen hay, đến khi nhìn lên thì điếm tiểu nhị Dư Tam đã tránh mặt đi từ lúc nào, Trong phòng vắng chỉ còn lại hai người. Thế rồi những tiếng thì thào êm ái được dịp tuôn mãi ra không ngớt càng, làm cho đôi trai tài gái sắc thêm phần thèm muốn, khát khao...

Hồi 59

TRỪ ĐỐI THỦ UNG CHÍNH DÙNG KẾ ĐỘC

Đêm càng khuya canh càng vắng. Người con gái lấy tay kéo vạt áo Nga đứng dậy bước đi. Không hiểu tại sao, Nga đứng dậy ngoan ngoãn bước theo. Hai người một trước một sau, bước vào gian phòng có màn lụa trướng thêu, có kính quý lược ngà, có gối êm nệm ấm, khiến kẻ gan lim dạ sắt cũng phải lạc phách tiêu hồn.

Người con gái tỏ ra vô cùng tình tứ. Nàng giúp Nga cởi bỏ áo ngoài rồi đưa chàng lên giường nằm nghỉ. Nàng cũng tự thay bộ quần áo ngủ mỏng tanh, chui vào chăn, kề đầu mặt má bên cạnh chàng, để mùi thơm phưng phức xông vào mũi chàng. Không còn cầm lòng được nữa, Nga quay mình ôm ghì người con gái vào lòng...

Giữa lúc chàng đang mê đắm tận hưởng khoái lạc, bỗng có một tiếng xẹt ngoài cửa sổ rồi một đại hán nhảy vụt vào phòng. Hắn trước hết giơ tay cướp lẹ chiếc áo dài có đeo đạo kim phù của Dân Nga rồi mới quay mình lại, tay cầm cây cường đao sáng quắc đâm thẳng về phía hai người. Nga vội đẩy mạnh người con gái đang ôm trong lòng bật văng ra xa, quát lên một tiếng: "Mau!". Bỗng từ trong miệng chàng, không biết bao nhiêu là "kim xà"(1) bay vun vút về phía tên đại hán.

Từ ngoài cửa sổ, bốn, năm tên đại hán khác, tay đều cầm bảo kiếm, nhảy vào vây lấy chiếc giường buồng màn gấm, tấn công ráo riết. Chẳng ngờ kim xà bắn ra hết sức lợi hại, khiến đao kiếm của bọn đại hán gần như trở thành vô dụng. Bọn sát thủ thấy đánh mãi khó bề thắng nổi bèn phát lên một tiếng "Rút!", tức thì cả bọn nhảy vù ra, chạy trốn mất dạng.

Bọn chúng về cung tâu Ung Chính hoàng đế. Ung nghe nói lấy làm lạ vội hỏi vị quốc sư, quốc sư nói:

- Đó là Linh Xà trận của Bà La Môn giáo. Bệ hạ yên tâm. Phàm học môn Linh Xà trận này, phải thề với đất trời là không được tham phú quý cõi nhân gian. Xét ra Dân Nga quyết không có ý phản nghịch đâu mà ngài lo.

Ung Chính nghe lời vị quốc sư nửa tin nửa ngờ. Mãi về sau, nhân lúc Nga bị bạo bệnh, mất hết nội lực, ngài cho đi bắt về giam trong lao, dùng độc kiếm hạ thủ. Trước khi chết Nga còn đấu với bọn lực sĩ ba ngày liền, giết luôn một hồi ba tay kiếm khách của Ung Chính.

Nhổ được cái đinh trong mắt rồi, từ đó Ung Chính mới thấy lòng khoan khoái. Chẳng ngờ chưa được mấy hôm ngài lại được tin cấp báo từ biên cảnh về, nói La Bốc Tàng Đan Luật miền Thanh Hải dẫn dụ Đại Lạt ma Sát Hãn Nặc Môn, nhè giữa lúc thế tôn mới đăng vị, nơi cung đình có nhiều biến cố, thừa cơ tạo phản. Trước hết La Bốc sai người tới khuyên Quận vương Nhan Nhĩ Đức Ni và Thân vương Sát Hãn Đan Luật, để hai người cùng cất binh đánh thốc vào quan nội nhưng hai vị vương này không nghe. La Bốc nổi đoá, liền điều động binh mã tới cưỡng ép hai vị vương phải xua quân đánh Thanh triều. Thấy tiến thoái vô lộ, hai vị vương chỉ còn cách viết văn thư cáo cấp về Bắc Kinh.

Ung Chính hoàng đế xem văn thư, lòng do dự chưa quyết, bỗng viên nội thị chạy tới báo có quốc cữu Long Khoa Đa xin vào bệ kiến. Hoàng đế nói luôn mấy tiếng.

- Xin mời vào.

Khi hai người gặp nhau, Ung Chính nói:

- Quốc cữu tới thật đúng lúc quá!

Nói đoạn, ngài bèn cầm tờ văn thơ cáo cấp nơi quan ngoại đưa cho Đa. Đa xem xong liền nói:

- Thần cũng vì việc này mà tới. Bệ hạ há chẳng thường nói đến công lao phò trợ của Miên Canh Nghiêu mà chưa từng báo lại, chẳng thường bảo Dân Đê chinh chiến bao lâu, rất được ai nấy quan tâm, đáng nên lo ngại đó sao? Hơn nữa, khi còn làm quận vương, bệ hạ chiêu nạp rất nhiều hảo hán, nuôi họ trong phủ, nay việc lớn đã thành, bọn họ cậy mình có công thường hoành hành bất pháp chốn kinh thành, chẳng ra thể thống gì cả. Nhân dịp biên quan có biến, chi bằng hệ hạ xuống một đạo chỉ dụ phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, còn bọn anh hùng hảo hán chiêu nạp trước đây, cũng đều phong cho họ làm quan võ rồi giao cho Miên Canh Nghiêu đem theo ra Thanh Hải, như thế tất tránh được chuyện gây rối làm bậy nơi kinh kỳ.

Ung Chính hoàng đế nghe xong, bèn nói:

- Kế tuy hay đấy nhưng hiềm nỗi lão Miên kia đã từng gian khổ bao năm mà chỉ cho y làm phó tướng, e rằng bẽ mặt y quá Lại nữa, cho Dân Đê làm đại tướng quân, sợ rằng thế lực hắn thêm lớn, khó có thể chế phục được sau này. Còn bọn anh hùng hảo hán cũng chẳng chắc gì giữ nổi họ được mãi nơi Thanh Hải, rồi đến một ngày nào đó trở về họ vẫn tính nào tật ấy, tình trạng đâu có hơn gì ngày trước.

Long Khoa Đa nghe xong, cười nói:

- Bệ hạ khỏi lo. Thần đã có dụng ý ở chỗ này...

Sau đó, Đa ghé sát tai Ung Chính thì thầm nói về dụng ý của mình. Ung Chính bất giác vỗ tay đánh đét khen hay và gật đầu lia lịa tỏ ý phục Đa.

Qua ngày sau, Ung Chính hoàng đế toạ trào, phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, đi chinh tiễu quan ngoại. Mặt khác ngài cho gọi Ngạc Nhĩ Thái cất mật dụ trong tay áo, tới gặp Miên Canh Nghiêu dặn Nghiêu y kế thi hành như vậy... như vậy...

Miêu Canh Nghiêu nhận mật dụ, suốt mấy ngày liền tập hợp bọn giang hồ hảo hán, cắt cử họ, kẻ thì làm phó tướng, kẻ thì làm tham tán, kẻ thì đô thống, đô đồng, thiên tổng, bá tổng, đủ cấp quan lớn quan nhỏ trong quân ngũ.

Bọn hảo hán được làm quan, anh nào anh nấy khoái trí lắm, diễu võ dương oai, vác kiếm vác đao đi. Khi tám vạn đại binh đã đủ số, Ung Chinh hoàng đế truyền lệnh cho phó tướng đem quân mã đi trước. Đến hôm xuất quân, nhổ lều trại lên đường, đấng thiên tử đích thân ra khỏi thành tiễn đưa. Thế rồi ba tháng hành quân liên miên không ngừng, đại binh đã tới biên cảnh Tứ Xuyên, hợp nhất với bốn vạn quân nữa của phó tướng Nhạc Chung Kỳ, rồi mới ùn ùn kéo thẳng ra Thanh Hải cự địch.

Hai tháng sau, khi tướng Nghiêu đã vạn dặm nơi sa trường rồi, Ung Chính hoàng đế mới cho Dân Đê xuất binh, mang ấn tướng đại soái, đem theo một trăm thân binh, mặc áo thường, bỏ bớt đồ nhu tòng, gấp rút lên đường. Đê tới Tứ Xuyên, được tin Nghiêu đã xua quân ra quan ngoại, trong lòng rất lấy làm nghi hoặc, tự nghĩ sao phó tướng không đợi quân lệnh của đại tướng mà lại tự ý xuất binh. Giữa lúc phân vân buồn bã, Đê bỗng được báo có thánh chỉ tới. Đê vội bày hương án đón nhận.

Một thái giám tuyên đọc.

"Phủ viễn đại tướng quân, lập tức miễn chức, Ấn thụ đại tướng giao lại cho Miên Canh Nghiêu, được phong làm Phủ viễn đại tướng quân, Nhạc Chung Kỳ làm tham tán".

Dân Đê nghe thánh chỉ xong, quay đầu lại sau, thì đã thấy ông tướng Miêu Canh Nghiêu quỳ cạnh mình từ lúc nào để tiếp chỉ. Đến lúc đó, Đê mới rõ hoàng đế đã dùng kế điệu hổ ly sơn để diệt trừ đối thủ. Quân đội hiện không còn ở bên mình, binh quyền lại đã mất vào tay kẻ khác, thử hỏi Đê còn biết làm cách nào hơn mà không, trao trả ấn tín, phất tay áo ra đi? Đê đã trở thành người không quyền không thế, do đó hành tung của Đê chẳng ai thèm để ý tra hỏi tới nữa.

Sau chuyện này ít lâu, người ta thấy ở thành Quảng Đông tại chợ Châu có một ngôi hàng buôn bán của chủ nhân người họ Lương lâu nay buôn thua bán lỗ, vốn liếng gần tới chỗ khánh kiệt. Từ ông chủ tiệm cho tới bọn làm công, cả nhà đều buồn rười rượi, ngồi so ro suốt ngày trong tiệm, chẳng biết làm cách nào hơn. Năm hết tết đến chủ nợ kéo tới đòi tiền gây gổ om sòm. Ông chủ họ Lương suốt ngày thở vắn than dài, Buồn quá, ông bèn bảo tên gia nhân ra bờ sông chiêu thần tài cầu may.

Nguyên lai, theo tục lệ của bọn con buôn tỉnh Quảng Đông thì mỗi khi buôn bán thua lỗ, họ ra bờ sông trồng một cây cờ phan, trên ngọn treo một chiếc đèn đỏ gọi chiêu thần tài.

Gia nhân nhà họ Lương vừa mới trồng cây cờ phan ngoài bờ sông và chưa treo xong chiếc đèn đỏ thì đã thấy một chiếc thuyền hàng lớn ghé vào đỗ lại. Từ trên mũi thuyền, một người ăn mặc kiểu nô bộc, mũi lớn như mũi trâu, nói tiếng Bắc Kinh, bước xuống tìm hỏi ông chủ quán có nhà không. Ông chủ họ Lương vội vàng chạy ra, kế đó lếch thếch theo lên chiếc thuyền hàng vừa mới đô bến. Ông chủ họ Lương thấy một người đàn ông vào trạc trung niên, mặt mũi khôi ngô, cử chỉ đàng hoàng, tự xưng là họ Kim, cất tiếng nói:

- Chuyến này tôi có đem theo rất nhiều trà, quả, hàng hoá từ Bắc Kinh tới Quảng Đông để bán nhưng tìm mãi mà chẳng ra nhà quen. Nay thấy cửa hàng ông treo đèn đỏ cầu thần tài nên tôi vội tới để nhờ ông giúp cho một việc.

Ông chủ họ Lương thấy thuyền của vị khách thương họ Kim chất hàng cao như núi, trị giá ra cũng bốn năm chục vạn lạng bạc thì đâu có dám tính đến chuyện mua bán. Thành Quảng Đông hồi đó thiếu nhiều hàng miền bắc cho nên ông ta nghì nếu mua được thuyền hàng này thì nhất định đại phát tài.

Nhưng ông tự nghĩ minh làm gì có tiền mà mơ ước. Nỗi băn khoăn tiếc nuối hiện rõ trên nét mặt ông. Người khách thương họ Kim đoán biết niềm tâm sự của ông bèn nói:

- Tôn ông không có vốn, chuyện đó cần gì. Trong thuyên tôi hiện có tới bốn mươi vạn lạng bạc hàng. Tôi tạm gửi ông, để nhờ ông bán dần cho. Tôi không cần ông trả nửa đồng kẽm nào bây giờ đâu. Tôi đợi tới ngày này năm sau sẽ kết sổ tiền hàng cũng chẳng muộn!

Lương chủ nhân nghe ông khách nói vậy, sung sướng đến phát điên lên. Ông chắp tay vái dài, miệng cảm tạ rối rít, cho dọn một bữa rượu thịnh soạn để khoản đãi khách quý, đồng thời thuê phu bốc hàng về nhà. Ông khách họ Kim ăn xong nói gọn một câu: "Chẳng dám phiền", rồi bước lên thuyền đi luôn.

Thế là từ đó, ông chủ tiệm họ Lương trở thành người bán giùm hàng cho vị khách thương phương bắc. Không đầy nửa năm, tất cả hàng hoá đều bán hết sạch, lời lãi lên tới mười vạn lạng bạc. Ông đem một ít lời ra làm vốn mở phố sinh lợi, còn bao nhiêu thì đợi ông khách quý trở lại thanh toán. Ngày tháng qua mau năm lại sắp hết. Ông chủ tiệm họ Lương cho quét dọn nhà trên nhà dưới, sửa soạn tiệc rượu. Hôm đó ông khăn đóng áo dài, đợi khách.

Đêm hôm đó, quả nhiên ông khách quý tới nơi, mười chiến thuyền lớn đậu thành hàng ngoài bến trước tiệm, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp đủ thứ hàng nam, hàng bắc, lại còn cả sâm, quế, nhung, yến, không thiếu vị nào. Người khách bước lên bờ, vừa trông thấy ông Lương là tay bắt mặt mừng, tươi cười vồn vã, cất giọng nói:

- Lần này, tôn ông nhất định phải bận lắm rồi đấy. Thuyền của bọn tôi hiện có đến bốn trăm vạn lạng bạc hàng. Tôn ông phải nghĩ cách bốc ngay hàng về kho đi.

Lương chủ nhân một mặt đon đả mời ông khách quý đánh chén, một mặt triệu tập hết bọn thương gia toàn thành lại để bàn tính việc bốc và chứa hàng. Thế rồi trong chốc lát, năm bảy trăm phu khuân vác đã tề tựu đông đủ. Tiếng "dô ta", tiếng hò hát vang động khắp mấy khu phố.

Ông Lương ngồi hầu rượu khách quý, đến lúc cơm no rượu say rồi mới khệnh khạng bưng một chồng sổ sách ra để mời khách kết toán. Ông khách đẩy chồng sổ sách sang bên, bảo Lương:

- Thôi, tôn ông tính đúng rồi, hà tất phải xem lại, hãy để đó bán sau.

Nói đoạn, ông khách đứng dậy, cáo từ rồi đi luôn. Lúc từ biệt, ông khách còn dặn thêm:

- Chuyến này, xin hẹn ba năm sau, tôi sẽ lại tính toán sổ sách tiền nong với tôn ông. Bây giờ chẳng gấp gì!

Nói vừa dứt, ông khách nhẩy lên thuyền, nhổ neo giong buồm, thuận gió như bay, chẳng bao lâu đã mất dạng.

Ông chủ tiệm họ Lương sau khi tiễn đưa ông khách kỳ lạ lên đường rồi, đem hết tài ba ra kinh doanh. Tiệm ông càng ngày càng phát đạt. Không đầy ba năm, mười chiếc thuyền hàng lại đã bán xong, ông lại khăn đóng áo dài ngồi đợi khách.

Rồi một hôm, vào đêm trừ tịch, ông khách kỳ lạ kia lại tới. Vừa thấy chủ nhân, ông khách đã tươi cười chào hỏi. Ông Lương cho dọn rượu và trình bày với khách việc mình buôn bán hàng hoá thế nào.

- Số hàng của tôn ông đã bán xong, hiện được lời trên sáu trăm vạn lạng bạc. Số tiền đó hiện gửi tại các ngân hàng tỉnh Quảng Châu. Vậy xin tôn ông cho biết tôn kiến ra sao.

Người khách nghe xong, liền nói:

- Hãy đem số tiền chia đôi: một nửa gửi vào ngân hàng Đức Dụ tại Hán Khẩu, còn một nửa vẫn để lại Quảng Châu, sau này sẽ tính.

Lương chủ nhân được lệnh của ông khách lập tức tới các ngân hàng để lo liệu mọi việc cho xong.

Chẳng mấy ngày lại đã mồng năm tháng giêng. Ông khách lần này ở lại tiệm ông Lương, bên cạnh chỉ có một tên gia nhân. Tuy ngày nào cũng như ngày nấy khách được chủ nhận cung phụng nào cơm ngon canh ngọt, nào rượu nồng dê béo, nào cao lương mỹ vị nhưng khách vẫn cảm thấy nỗi cô đơn lạnh lẽo trong những đêm trường vắng lặng nơi đất khách quê người.

Chú thích:

(1) Tên gọi một loại vũ khí rất nhọn và cực độc.

Hồi 60

RA ĐI CHẲNG HẸN NGÀY VỀ

Chủ nhân họ Lương thấy ông khách quý của mình một thân cô quạnh buồn bã, bèn vắt óc nghĩ cách giải buồn cho khách. Số là ở Quảng Châu vào đầu tháng giêng thường có những thuyền hoa nhởn nhơ trên sông Châu Giang, vui nhộn hết chỗ nói. Trai thanh gái lịch phô quần diện áo, khoe phấn đua hương, nườm nượp suốt ngày đêm. Tiếng tơ đồng nỉ non thánh thót, tiếng sáo thổi vi vu như đưa hồi vào cõi mộng, không lúc nào ngừng. Trong đám nhà trò con hát cũng có nhiều ả xinh, Lương bèn gọi tới hầu hạ ông khách quý trong chiếc ghe tứ động.

Chiếc ghe tứ động được trang trí hết sức lịch sự, trang nhã có khoang trong kết hoa tươi thắm, cửa sổ treo đèn đỏ rực. Ông khách chễm chệ ngồi bên trong. Lương gọi dọn tiệc, rồi viết bức hồng tiên, tuyên triệu hết những danh hoa trong xóm chị em tới. Ông khách quý được suy tôn lên ghế nhất cầm trịch, năm bẩy chục em út quây chung quanh để bồi tiếp, mua vui.

Thôi thì phấn hương, thôi thì oanh yến - chiếc ghe bỗng biến thành một nơi khoe sắc phô thanh xưa nay ít thấy. Ông khách tuy tay hữu ôm, tay tả bế nhưng thực ra chẳng có một cô gái nào được ông để lại mắt xanh. Một lát sau, ông lấy cớ ra ngoài, rồi nhân đó biến luôn vào khoang sau mất dạng.

Không ngờ, nhờ đó, ông mới được nghe tiếng nỉ non than khóc hình như của một người con gái. Ông theo tiếng khóc lần tới, thì ra ở khoang chót tận sau lái có một cô gái đang bị mụ đầu lột truồng như nhộng, đánh tới tấp, nằm lăn trên sàn ván. Chiếc roi trong tay mụ đầu càng vụt càng nhanh, chẳng tiếc thương gì làn da non mịn trên tấm thân như ngọc như ngà, chỉ vài phút sau đã thấy máu bật ra từng vết dài khắp mình. Ông khách nhìn cảnh tượng, động lòng bất nhẫn, thốt lên một tiếng "đáng thương" rồi bước lẹ tới giật lấy chiếc roi của mụ dầu, bế xốc nàng lên, đưa ra khoang trước.

Khoang trước lúc đó đã đầy nghẹt các cô. Ông khách bất chấp, thản nhiên lùa tay vào trong túi lấy khăn tay ra, vừa lau nước mắt cho nàng, vừa hỏi tên họ. Người con gái nằm trong lòng ông vừa thút thít vừa trả lời:

- Tên em là Tiểu Yến. Từ khi cha mẹ bán em vào chiếc thuyền hoa này, thường bị mụ đầu đánh mắng, bảo em lạnh nhạt với khách khiến không đắt hàng.

Ông khách nghe nàng nói, nhìn kỹ gương mặt của nàng, dù đầu bù tóc rối, mặt mũi lọ lem nhưng vẫn xinh đẹp tuyệt trần. Ông liền mở chiếc áo tràng bào đang quàng lấy người nàng ra thì, trời ơi, cả một tấm thân tuyệt đẹp lồ lộ hiện Ta trước mắt khiến ông cầm lòng không được, bèn đưa tay vuốt ve làn da mịn màng, nõn nà còn hằn những vệt roi rớm máu.

Tiểu Yến xấu hổ, vội kéo vạt áo che kín thân mình đôi má hồng lên, nguýt ông khách, thì thào bên tai ông:

- Đừng làm thế, người ta cười chết.

Nhưng, khì nàng quay đầu nhìn một lượt thì chủ nhân họ Lương, và năm bảy chục cô đào kia đã rút lui từ lúc nào, bỏ lại họ một mình, tha hồ trò chuyện.

Thế rồi từ đó, ông khách đâm mê luyến Tiểu Yến, đi cũng có đôi, nằm cũng có đôi, luôn một lèo hơn tháng trời, chẳng thèm ra khỏi cửa khoang ghe nữa.

Lúc này, Tiểu Yến đâu có còn là Tiểu Yến ngày nọ. Nàng tô điểm lộng lẫy, vàng ngọc đầy mình, suốt ngày quấn quýt bên ông khách vô danh, có hành tung, kỳ dị. Đôi trai tài gái sắc ân ái muôn phần đằm thắm. Thường chỉ có ông Lương đến gặp đôi phút, nói đôi ba lời rồi lại đi, chứ tuyệt nhiên chẳng có kẻ nào dám tới quấy phiền họ.

Ngày tháng thoi đưa, chớp mắt đã xuân đi hạ tới. Ông khách quý bỗng bảo muốn trở về Bắc. Hỏi ông về Bắc là về đâu, ông chẳng chịu nói. Ông chỉ dặn dò chủ nhân họ Lương đem ba vạn lạng bạc chia làm ba: một vạn lạng thì tậu một biệt thự rộng rãi đồ sộ bên dòng Châu Giang, trồng cây, ươm hoa thật trang nhã một vạn lạng thì cấp cho người đẹp Tiểu Yến để giúp nàng hoàn lương và lấy tiền chi dụng hằng ngày, còn một vạn lạng thì cấp cho chính ông Lương.

Lúc lâm biệt, chú nhân họ Lương hỏi ngày nào trở lại, ông khách đôi mắt bỗng đỏ hoe và nói bằng một giọng hết sức cảm động.

- Ta đi lần này hành tung vô định. Nếu việc ta làm thành công thì bằng rày sang năm ta trở lại. Quá hạn đó, ta e kiếp này không có dịp gặp bọn ngươi nữa.

Ông nói đoạn quay sang thì thầm với Tiểu Yến:

- Ta với nàng yêu thương nhau đã bao ngày tháng thế mà họ tên ta nàng cũng chưa được biết. Thôi để ta: nói cho nàng nghe. Tên ta là Dân Đê, nếu nàng có nhớ đến ta, thì lúc vắng người, nàng cứ gọi đến tên ta tức là ta đã biết rồi đó.

Tiểu Yến nghe xong, khóc lóc thảm thiết, nhiều lần đến ngất đi. Thế rồi giữa lúc nàng đau khố tới cùng cực, Dân Đê dứt áo ra đi.

Người đẹp Tiểu Yến ở trong biệt thự nhớ nhung chờ đợi đã ba năm mà Dân Đê vẫn mất tăm chẳng thấy trở về. Mãi sau nàng mới đem tên họ của người khách nói cho chủ nhân họ Lương hay, lúc đó mới biết Dân Đê chính là anh em với đương kim hoàng đế. Lương giật mình hoảng sợ, từ đó không bao giờ dám nhắc tới chuyện này nữa.

Về sau Dân Đê, Dân Dĩ, tuy không biết rõ tung tích nơi đâu nhưng vẫn còn đôi ba tin tức có thể truy tìm. Tin tức này phát xuất từ một vị tú tài thanh bạch người phủ Cương Đức tỉnh Hà Nam, họ Trang tên Tuân. Trang Tuân đã có mấy đời tổ phụ giữ trọng nhiệm về giáo dục. Thân phụ là Trang Sĩ Hiếu đậu cử nhân từ lúc còn rất trẻ, chính Trang Tuân cũng đã đỗ tú tài Tuân sớm tối mong mỏi công danh phú quý, một ngày mai bay bổng với đời. Ngờ đâu Tuân chỉ đỗ có một lần tú tài đó rồi thôi. Khi Tuân hai mươi tuổi, cha mẹ lần lượt qui tiên. Tuân vốn là người không biết lo liệu gánh vác gia đình, thành thử miệng ăn núi lở, phong bao lâu cả một sản nghiệp của cha ông để lại đã thấy có bề khó giữ. Tuân quyết tâm lập chí, cố theo đuổi sự nghiệp văn chương, nên tinh thực hiện kế sách "dìm thuyền đập nồi", bán cho kỳ hết mấy mẫu bạc điền, xách gói ra đi. Tuân lên kinh đô, bỏ một số tiền quyên lấy đanh nghĩa giám sinh để vào trường thi múa bút so văn, ai ngờ Tuân thi luôn ba khoa, rớt vẫn hoàn rớt, vẫn lại ông tú xác xơ như xưa. Từ đó, buồn chán nghiệp văn lại thêm túng đói Tuân lưu lạc đến nơi kinh thành, ngày ngày thổi sáo giải buồn ngoài chợ Ngô. May cho Tuân là có ông chủ quán của một khách điếm nọ giúp cho một chỗ ngồi trước cống điếm để bói toán kiếm ăn độ nhật.

Ngoài cửa Địa An môn, khách khứa đi lại đông đảo, quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Đây cũng là nơi bọn thái giám trong cung nội lai vãng hằng ngày. Bọn này vốn có tính mê tín. Bởi thế cứ mỗi khi có chuyện gì khó xử, lo lắng là lại tới hỏi Trang Tuân. Điểm đặc biệt là trong đám thái giám, người phủ Chương Đức tỉnh Hà Nam chiếm một phần lớn. Do đó, Tuân chơi thân với bọn này, hằng ngày nhắc lại những điều xa xưa nơi quê hương bản quán. Thế rồi không biết từ đâu, một truyền mười, mười truyền trăm, tới tai tên trùm thượng y giám là thái giám Lưu Vĩnh Trung. Trung với Tuân vừa là đồng hương lại vừa là bà con thân thuộc của nhau. Trung nghe bọn đàn em thường nói tới Tuân, bèn nhân lúc rỗi rảnh chạy ra cửa Địa An môn tìm. Từ xa, Trung đã thấy Tuân với chiếc bàn con dùng làm nới bói toán, kê cạnh cổng khách điếm.

Trung bước nhanh tới, gọi lớn:

- Tuân đại ca!

Tuân nghe có người gọi mình vội ngước đầu lên nhìn, thấy Trung hơi quen quen nhưng vì lâu năm không gặp nên nhất thời không nhận nổi. Tuân ngờ ngợ một lát rồi mới sực nhớ, vội cười nói:

- Túc hạ có phải Lưu nhị ca của Lưu gia trang ta không?

Lưu thái giám gật đầu, cười khà khà, ra chiều mừng rỡ.

Trang Tuân vội dọn dẹp đồ lề rồi dắt tay Trung kéo vào quán hàn huyên. Trung khoe với Tuân mình được làm tồng quản thượng y giám, ngày ngày được gặp mặt thái tử và được thái tử tin dùng. Trung còn khoe trong cung hoa lệ ra sao, đồng bọn đông đảo như thế nào, xoay tiền kiếm lợi đủ cách ra sao, khiến Tuân nghe mà đầy thèm khát.

Qua ngày hôm sau, tổng quản thái giám Lưu Vĩnh Trung lại mời thầy bói Trang Tuân tới gặp tài Đại bằng lan tửu lẩu.

Nhậu được một lát Tuân hỏi Trung:

- Đồng bọn của nhị ca ở trong cung có bao nhiêu người?

Trung tổng quản bóp trán suy nghĩ một chập rồi nói:

- Ước tính có tới hơn hai ngàn.

Rồi Trung vừa bấm đốt ngón tay, vừa tính vừa kể:

- Tại Càn Thanh cung, có hai viên tổng quản, bốn viên thử lãnh với hai mươi bốn tên thái giám; ba viên thủ lĩnh quét dọn với tám mươi sáu tên quét dọn. Lại Chiêu Nhân điện có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Hoàng Đức điện có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Mậu Cần điện có một viên thủ lĩnh với chín tên thái giám. Dưới sáu gác chuông đánh hiệu có mười bốn tên thái giám, sáu viên thủ lĩnh chấp sự với sáu mươi sáu tên thái giám. Tại phòng ngự trà có hai viên thủ lĩnh với năm mươi hai tên thái giám; hai viên thủ lĩnh đưa rước vua lên kiệu xuống kiệu với ba mươi bảy tên thái giám. Tại Khôn Minh cung có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Đông Noãn điện có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Tây Noãn điện có hai tên thủ lĩnh với chín tên thái giám: Tại Giao Thái điện có hai tên thủ lĩnh với năm tên thái giám. Tại Duyến Chi cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Trường Xuân cung có hai tên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đức Khôn cung có hai viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Hoà cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Khải Trường cung có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Thừa Kiến cung có hai viên thủ lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Hàm Phúc cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Sư Tú cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Canh Long cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cảnh Nhân cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại gần cứa Quang Tả môn có sáu tên thái giám. Tại Ngự thư phòng, có hai viên thù lĩnh với mười tên thái giám. Tại Cổ đông phòng có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nam thư phòng có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại thư phòng của các hoàng tử có mười lăm tên thái giám. Tại Tây thư phòng có năm tên thái giám. Tại Phiên thư phòng có bốn tên thái giám, tại Kinh sự phòng có một viên thủ lĩnh với hai mươi sáu tên thái giám, sáu tên ngự tiền thái giám, mười hai tên đợc thanh thư thai giám. Tại Càn Thanh cung có hai viên thủ lình với tám tên thái giám. Tại Nhật Tinh môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Nguyệt Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nội Tả môn có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Nội Hữu môn có hai viên thủ lĩnh với hai tên thái giám. Tại Cảnh Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Long Phúc môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Cơ Hoá môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Đoan Tắc môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cần Quang tả môn có bảy tên thái giám. Tại Dưỡng Tâm điện có hai viên thủ lĩnh với hai chục tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo (coi việc quét dọn) với mười hai tên thái giám đã tảo năm tên thái giám tiễn tượng (thợ làm tên) năm tên thái giám án ma, hai thái giám thiết tượng (thợ sắt), hai tên thái giám học thuốc tây, một tên thái giám hoa tượng (thợ vẽ) mười tên thái giám điểu thương. Tại Dưỡng Tâm lộ phòng có ba tên thái giám. Tại phòng khăn áo có một viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại đại điện nuôi chim ưng có hai viên thủ lĩnh với hai mươi bốn tên thái giám. Tại phòng nuôi chó lớn, chó bé có hai viên thủ lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại phòng nuôi bổ câu có năm tên thái giám. Tại ngự hoa viên có ba viên thủ lĩnh với năm chục tên thái giám. Tại Bắc Tiêu hoa viên có hai tên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đại Khung điện có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Trung Chính điện có mười bốn tên thái giám. Tại Khâm An điện có hai viên thu lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại phòng bếp nước có một viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại phòng củi đuốc có một viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại phòng lò sưởi có hai viên thủ lĩnh với mười bảy tên thái giám. Tại sở Triệu Tường có hai viên thu lĩnh với mười bốn thái giám. Tại thư phòng có sáu tên thái giám. Tại Ngộ Hỉ sơ có hai viên thủ lĩnh với mười ba tên thái giám Tại sở nội có một viên tổng quản chín viên thu lĩnh với năm mươi ba tên thái giám. Tại Vĩnh An đình, có ba viên thủ lĩnh với hai mươi lăm tên thái giám. Tại Nam phủ tây lộ, có ba viên thú lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại Nam phủ trung lộ, có ba viên thu lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Nam Huân điện có một viên thủ lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại Ham An cung có hai viên thủ lĩnh với bốn mươi tên thái giám. Tại Phật đường ở Từ Ninh cung có hai viên thủ lãnh với tám tên thái giám; còn có hai viên thủ lĩnh Lạt ma với ba mươi tên thái giám, hai viên thủ lĩnh tụng kinh với mười sáu tên thái giám, hai viên thủ lĩnh giữ cửa với mười hai tên thái giám, hai viên thủ lĩnh hoa viên với bốn tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo với mười hai thái giám đã tảo. Tại Ninh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Dục Khánh cung có bốn viên Diện thượng thủ lĩnh với sáu mươi tên thái giám; còn có một viên thủ lĩnh coi chim ưng với mười lăm tên thái giám; một viên thủ lĩnh gác cổng với mười một tên thái giám; một viên thủ lĩnh phòng chó với ba mươi tên thái giám; hai viên Chấp sự thủ lĩnh, với mười tám tên thái giám; hai viên thủ lĩnh phòng trà với hai mươi hai tên thái giám, năm tên thái giám điểu thương; một viên thủ lĩnh đã tảo với hai mươi tên thái giám, một trăm tên thái giám duệ tiền (trước vua), một trăm thái giám A Ca hạ, lại một trăm lẻ hai tên thái giám A ca hạ, sáu mươi tám tên thái giám A ca hạ, lại tám mươi thái giám A ca hạ nữa. Tại kho đông có sáu thái giám A ca hạ, lại kho tây có bốn tên thái giám A ca hạ...

Lưu tổng quản kể một hơi, thao thao như nước chảy khiến Trang Tuân nghe đến đầu nặng mắt hoa. Đợi cho Trung tạm ngưng Tuân mới lên tiếng nhờ vả.

- Trong cung nội đã dùng tới không biết cơ man nào thái giám như vậy, thì thêm một tiểu đệ có lẽ cũng chẳng nhiều gì. Tiểu đệ cầu mong nhị ca đưa giúp vào cung làm một tên thái giám, để khỏi phải đói rét vất vả như nay ở ngoài đời.

Trung nghe Tuân nói xong, không khỏi vỗ tay xuống bàn đến bốp một cái rồi phá lên cười bảo:

- Cái ông Trang lão gia này quả thật hồ đồ quá sức! Thiến dái đâu có phải chuyện đùa! Lão gia tuổi tác như thế kia e rằng chết thì phí đi. Nếu lão gia muốn làm ăn thì tớ giúp cho việc này: Số là nơi đây, bọn tớ có cái món thầu áo long bào, thường giao dịch thơ từ với bọn hãng dệt Giang Nam. Nếu không ngại cái chuyện phải vào luồn ra cúi thì lão gia hãy nhận làm một tên chạy cờ đi đã rồi ta tính.

Trang Tuân nghe xong, sướng đến mê người, vội ngỏ lời cảm tạ. Từ đó, Tuân trở thành viên thư ký cho Lưu tổng quản.

Phàm những tin riêng đi lại giữa Trung và các quan tỉnh phủ đều do tay Tuân viết giùm. Tuân được Trung chiếu cố nên chẳng bao lâu tình cảnh của Tuân đã mát mặt, khỏi phải lo sinh kế nữa. Tuy nhiên, Tuân vẫn thèm thuồng vì chưa được biết cung điện thế nào, du ngoạn thích thú ra sao, bởi thế Tuân thường nói với Trung nhờ y đưa vào cung chơi một phen cho biết. Lưu tổng quản chẳng khó dễ gì với Tuân, vui lòng ngay, nhưng bảo chờ khi có cơ hội tốt đã.

Sau đó ít hôm, áo long bào của xưởng dệt Giang Nam đã đưa tới. Trung bèn đem mười tám thái giám đến gia môn nội phủ để lĩnh về. Nhờ dịp tốt đó Trung bảo Tuân cải trang thành thái giám, đeo lính bài, trà trộn vào bọn mười tám tên thái giám kia, cũng vác kiện áo long bào, lần lượt đi hàng một tiến qua cửa Càn Thanh mà vào cung. Qua khỏi cửa cung, Tuân thấy tường vách cao nghệu, cung điện nguy nga đồ sộ, sắc ngói vàng xa tít tắp, nào gác hoạ thêu hoa, nào mái cong, cột chạm, bất cứ cái gì cũng làm cho Tuân mắt hoa đầu choáng.

Qua khỏi Càn Thanh môn là đến Càn Thanh cung. Bước vào cung, Tuân thấy về phía đông toà môn lâu treo tấm biển khắc ba chữ Hoàng Dực điện, về phía tây cũng một toà môn lâu treo tấm biển Chiêu Nhận điện về phía bắc là một cổng lớn, mặt đông đề ba chữ Đông thư phòng, mặt tây đề ba chữ Tây thư phòng, bên trong thấp thoáng bóng người mặc triều phục đi lại. Ngoài cổng, bốn, năm tên thái giám đang đợi chờ.

Khi thấy Lưu tổng quản đi tới bọn thái giám tiến lên đón rước, cười cười nói nói. Đoàn người đi quanh về ngả Tây thư phòng. Sau Tây thư phòng có một dãy tịnh thất ở phía bên kia bức tường, trên cao viết mấy chữ Nam thư phòng, bên trong có tiếng người nói chuyện. Đoàn người vác những kiện áo long bào vẫn đi tiếp. Họ rẽ về dãy hành lang phía tây, rồi qua dãy hành lang phía bắc. Nơi đây cũng có mấy căn nhà trên có tấm biển đề mấy chữ Phiên thư phòng. Lưu thái giám đưa đoàn người xuyên qua Nguyệt Động môn đến ba căn phố trệt, bảo một tên đỡ mấy kiện áo trên vai thay cho Tuân rồi dặn Tuân ngồi chờ nơi đây...

Trang Tuân theo lời dặn của Lưu tổng quản, lẻn vào trong căn phố trệt, tựa cửa sổ ngồi xuống, phóng tầm mắt nhìn qua song cửa. Tuân chỉ thấy bọn thái giám tụm năm túm ba kéo nhau qua phía trước cửa sổ, có bọn thì vội vã hấp tấp, có bọn lại đủng đỉnh như không phải lo bận điều gì, miệng thì thào bàn tán với nhau, cũng có kẻ tay cầm những cái hộp nhỏ đi qua đi lại. Tuy vậy, bọn nào cũng chỉ thì thào trò chuyện chứ đố ai dám cười to nói lớn.

Giữa lúc đang nhìn ngắm đến xuất thần, Tuân cảm thấy như có bàn tay ai vỗ nhẹ vào vai mình. Tuân vội quay đầu lại thì ra là Lưu tổng quản. Lưu lúc đó tay không. Tuân biết Lưu đã làm xong mỏi việc. Tuân theo Lưu tồng quản ra khỏi cản nhà trệt rồi qua cửa Nguyệt Hoa môn, đối diện Nguyệt Hoa môn là một một toà đại điện trên đề Mậu Cần điện phía trong có đủ ngai vàng trướng gấm hết sức trang nghiêm. Tuân và Lưu tống quản lại quanh Càn Thanh cung. Đối diện cung cũng có một cung điện lớn, treo màn gấm sặc sỡ trên cỏ tấm biển đề "Khôn Ninh cung". Về phía hành lang mặt đông có một toà đại điện gọi Đông Noãn điện. Về phía hành lang mé tây có một toà đại điện gọi Tây Noãn điện. Thẳng về phía bắc là toà Khâm An điện. Đi vòng qua Khâm An điện thì đến Ngự hoa viên và cửa Thành Võ. Trung và Tuân, một thái giám thực, một thái giám giả, hai người không đi vào cửa này mà lại quanh về phía đông mà ra. Trước hết họ qua Chung Tuý cung, sau đó xuyên qua Tràng Xuân cung. Cảnh Nhân cung, Cảnh Dương cung, Thừa Kiến cung, Diên Hỉ cung rồi trở lại Chiêu Nhân điện như cũ.

Nghỉ một lát, Lưu tổng quản lại đưa Trang Tuân theo Tư Đức điện quanh về ngã Dực Khôn cung, rồi Vĩnh Hoà cung, Hàm Phúc cung, Vĩnh Thọ cung, Khải Tường cung, Sử Tú cung, xem cho kỳ hết mọi cung, mọi điện. Thực là nhà cửa san sát, lâu đài rực rỡ, không thể tả xiết cái cảnh phú quý hoa lệ.

Trang Tuân đi tới đâu, miệng khen lấy khen để tới đó. Nhưng Trung xua tay bảo Tuân im lặng, bởi vì trời lúc này đã quá ngọ, vào giấc nghỉ trưa: Dọc đường hai người ít gặp bọn thái giám và cung nữ.

Khi xem xong khắp nơi trong cung nội, Trung và Tuân bước qua cửa Thần Vô tới Ngự Hoa viên. Trong vườn, đình, đài thấp thoáng hoa cỏ tốt tươi, tiếng chim hót líu lo vang lên bên tai càng làm cho du khách thêm phần thú vị. Nơi đây năm bước một lầu, mười bước một gác, quả đúng như thế thật!

Giữa lúc hai người đang đi sâu vào nơi muôn tía nghìn hồng thì bỗng phía sau, một tên tiểu thái giám vừa chạy theo vừa gọi Lưu tống quản:

- Trương tổng quản có câu chuyện muốn nói với lão gia đấy?

Lưu tổng quản nghe đoạn vội dừng bước rồi vừa chỉ tay vừa bảo Trang Tuân:

- Lão gia cứ đi về phía trước, xuyên qua khóm cây kia, tới một toà đại sảnh quay mặt ra cả bốn phía, ngồi đợi một lát. Tại hạ đi chắc không lâu sẽ trở lại ngay.

Nói đoạn Trung quay đi. Tuân thong thả bước ra khỏi những lùm hoa, quả nhiên thấy một toà đại sảnh bốn mặt đều có cửa, có bao lơn bao quanh và có đặt rất nhiều chậu cảnh, bồn hoa. Bước vào đại sảnh Tuân thấy trên vách tường bốn mặt đều vẽ phong cảnh rất u nhã, chen lẫn những bài thơ, chữ viết đẹp như cắt. Tuân vốn người đọc sách, hễ thấy chữ, thấy thơ là thích, là quý, bèn gắn mũi vào tường, đọc hết bài thơ này đến bài phú nọ.

Giữa lúc mê mải đọc, Tuân bỗng nghe có tiếng quát từ xa vọng lại, Tuân giật mình, ngẩng mặt lên nhìn qua ngách cửa sổ, thấy máy tên nội giám đang khiêng một cỗ noãn kiệu đi tới trong kiệu là một người đàn ông có vẻ oai võ đáng sợ. Tuân nghi là hoàng thượng giá tới, hoảng hồn bạt vía, cảm thấy đôi chân bỗng mềm ra như bún, muốn run mà run không nổi, muốn bước để trốn mà bước không xong. Nhưng rồi thấy giữa sảnh có một chiếc sập lớn, Tuân gắng hết bình sinh lết vào dưới gầm sập, để tai hướng ra ngoài nghe ngóng.

Một loạt tiếng giầy lộp cộp bước từ ngoài vào. Rồi một người leo lên ngồi trên sập. Trong sảnh lặng lẽ như tờ, ngoài những tiếng sột soạt của bộ quần áo mới chạm va vào nhau. Một phút im lặng đi qua...

Tuân bỗng nghe người ngồi trên sập cất tiếng nói:

- Đem bọn chúng lên đây cho ta.

Tiếng nói của người này hết sức lớn, có một âm hưởng dữ tợn. Tiếp đó, có vài ba người khác xuất hiện. Rồi những tiếng xích sắt rổn rảng vang trên nền nhà. Ba người vừa mới xuất hiện, bị bắt quỳ trên nền gạch. Trong đó có một người tỏ vẻ quật cường hết sức, mặc cho bọn thị vệ tả hữu quát bảo y quỳ xuống mà y vẫn không chịu. Đã thế y lại còn lớn tiếng quát rầm lên:

- Dân Trinh! Mi là một đứa lòng lang dạ sói, vô cùng hiểm độc! Ta với mi vốn anh em cốt nhục chứ chẳng xa lạ gì! Mi cưỡng chiếm ngai vàng làm hoàng đế, việc đó ta chẳng thèm nói tới làm chi. Vậy mà đến tính mạng bọn ta, mi cũng chẳng chịu dung tha, nhất định mưu hại cho kỳ được. Ta hỏi mi, chứ hai vị ca ca Dân Dị, Dân Đường tội gì mà mi bắt gọi là chó là heo? Đã thế mi lại còn giam cầm tù đầy họ, còn ta, tên Dân Đê này, từ lúc phụ hoàng còn tại thế ta đã từng nắm binh mã nam chinh bắc phạt, lập biết bao công lao cho triều đình, nay không luận công hành thưởng chăng nữa, cũng không đến nỗi phải tù đầy giam câm như một tên tử tội. Ta nói để mi biết cái ngai hoàng đế mi đang ngự chính là của ta chứ đâu phải của mi. Mi mãi thông với quốc cữu Long Khoa Đa lẻn đến sửa chiếu chỉ, đổi câu: "truyền vị thập tứ hoàng" ra "truyền vị vu tứ hoàng tử" để cướp ngôi báu của ta. Mi tưởng những hành động gian lận xảo trá đó dễ không ai biết chăng? Hừ! Hừ! Dân Trinh! Mi rồi đây chết khó toàn thây đó.

Người, ngồi trên sập bị kẻ kia chửi bới một phen quá xá, bất giác máu hoả bốc lên, ra lệnh:

- Bất tất nói nhiều! Bay đâu! Đem hoá chúng thành tro ngay cho ta!

Bọn thị vệ tả hữu dạ ran, vâng lệnh. Tuân ghé mắt, thấy một vật gì như cái chiếu trải trên mặt đất, được cuộn lại mở ra mấy lần trong chốc lát rồi chỉ nghe bọn thị vệ báo cáo rằng ba thân vương đều đã hoá thành tro cả. Người ngồi trên sập cười nhạt mấy tiếng, đứng dậy. Mấy tiếng quát ồm ồm nổi lên như khi tới, tức thì bọn nội giám lại ghé vai khiêng chiếc kiệu thoăn thoát bước đi, nhẹ nhàng thanh thản như không có chuyện gì xảy ra.

Trang Tuân nằm dưới gầm sập, thấy cái cảnh khủng khiếp quá đến nôi y đâm ra như ngớ ngẩn. Mãi tới khi Lưu tổng quản quay về nơi đại sảnh, tìm thấy y dưới gầm sập kéo ra, thấy y ngây ngây ngốc ngốc, miệng cứ lập bập nói mãi câu "Làm tôi sợ đến chết, đến chết mất" thì chẳng hiểu ra sao cả, Lưu tổng quản vội đưa Tuân về khách điếm, miệng y vẫn cứ lảm nhảm không thôi: "Làm tôi sợ đến chết mất".

Từ đó, Tuân đâm ra điên thật, hễ gặp ai là y nói câu "Làm tôi sợ đến chết mất".

Lưu tổng quản tới thăm Tuân đôi ba lần, cho mời cả danh sư tới bắt mạch hốt thuốc cho Tuân. Nhưng thuốc đổ vào miệng Tuân chỉ như nước đố vào lỗ cống, thoáng cái đã tiêu đi đi mất mà bệnh vẫn hoàn bệnh. Lưu tổng quản đành chịu chẳng biết làm cách nào hơnl, chỉ còn biết nhờ người đưa y về quê dưỡng bệnh. Thương thay cho Tuân, điên luôn một lèo mười lăm lăm trời, đến khi Ung Chính hoàng đế đã chết, Tuân mới dám đem câu chuyện khủng khiếp trên nói ra cho người ngoài biết.

Chỉ vì Khang Hi hoàng đế có dạ khoan hồng nên Ung Chính mới sinh lòng độc, lại còn hành xử quá đáng đối với các hoàng tử cùng bà con thân thuộc như vậy. Thủ hạ của Chính đã đông, tai mắt lại lắm. Chính ngài cũng thường cải trang thành kiếm khách, vi hành ra ngoài điều tra. Dù cho ai ngồi trong phòng kín đến đâu chỉ cần có nửa câu phỉ báng hoàng đế, tức thì cái sọ của người đó lập tức bay mất. Từ khi Ung Chính hoàng đế thu được, cái gọi là Huyền trích tử rồi lại được vị quốc sư truyền thụ Chú ngũ Lạt Ma thì ngài muốn giết ai là được ngay. Ngài chẳng cần động thủ mà chỉ cần niệm câu thần chú, tức thì Huyết trích tử đi lấy ngay đầu người ấy đem về cho ngài.

Cần nói thêm về cái gọi là Huyết trích tử. Đấy là một trái cầu tròn làm bằng thép luyện, bên trong gài hơn mười lưỡi dao bén nhọn như hình cánh chim, mỗi khi cơ quan hoạt động tức thì những lưỡi dao đó xoay tròn như vành bánh xe, xoay tít. Câu thần chú niệm vừa xong, chiếc thiết cầu đó được ma lực điều động, bay vút lên không, tìm tới chỗ người sẽ bị giết, ngoạm cái đầu người đó vào giữa rồi bay về nộp chủ. Giết người không thấy, máu, biến hiện không tung tích quả là một vật hết sức quái đản, xưa nay chưa từng thấy. Ung Chính hoàng đế nhờ cái vật quái dị đó đã bí mật giết chết bao nhiêu người không, tính xuể

Nói đến tài, trinh thám của ngài thì không một ai là không bội phục. Vào năm Ung Chính thứ sáu, đúng ngày rằm tháng một, các nha môn lớn nhỏ trong kinh thành thảy đều an nhàn vô sự Quan lại lớn bé ai cũng đều về nhà uống chén rượu đoàn viên với gia đình và vui hưởng ngày lễ Nguyên tiêu. Nha môn của nội các vốn không có cư xá cho các quan viên, nên chỉ còn lại có hơn bốn mươi người, cả thầy cả tớ, lo giải quyết công văn qua lại. Tối hôm đó, ngay cả bọn nhân viên này cũng chuồn đi đâu hết, duy chỉ có một người họ Lam ở lại để lo liệu việc đèn nhang. Gia đình họ Lam ở xa, mãi tận miền Phù Dương tỉnh Triết Giang. Lam ngồi một mình buồn, lại thêm trăng sáng vằng vặc trên không nên đối cảnh sinh tình, động lòng nhớ tới quê hương. Để giải buồn, ông đi mua ba can rượu Thiệu Hưng, thái một mâm thịt bò để ngay giữa đại sảnh, vừa ngắm trăng vừa nâng chén. Rượu đã chếnh choáng, nghĩ tới tình cảnh lìa xa gia đình đã tám năm trời đằng đẵng, công việc trong nha môn nội các thảy đều lo liệu hết sức cẩn thận, thế mà chẳng được thăng quan tiến chức gì, ông thở luôn một lúc đến ba tiếng dài lê thê...

Giữa lúc buồn nản đến cực độ ấy, Lam bỗng thấy một đại hán thân hình cao lớn, vẻ mặt oai nghiêm, mình mặc bộ đồ đen, chân đi một giày đăng khoái. Lam nhận lầm đại hán vừa tới ra người gác tại cổng nha, bèn mời cùng ngồi đánh chén với mình cho vui. Đại hán chẳng khách sáo gì, tiếp lấy ly rượu Lam mời, nốc một hơi cạn sạch. Xong đại hán nọ cất tiếng hỏi tên, phẩm hàm chức tước của Lam. Ông Lam liền cười bảo:

- Nói làm gì đến quan chức! Đệ chỉ là một tên cung sư hạng bét nơi đây thôi!

Đại hán nọ lại hỏi giữ việc gì thì Lam đáp:

- Chuyên thu phát công văn giấy tờ.

Đại hán nọ lại hỏi bọn đồng sự có bao nhiêu thì Lam đáp:

- Có bốn mươi sáu người.

Đại hán nọ hỏi thêm cả bọn bỏ đi đâu hết thì Lam đáp:

- Họ đi xem hội, tìm vui hết ráo rồi!

Đại hán nọ lại hỏi tại sao không đi chơi với họ thì Lam nghiêm mặt đáp:

- Đương kim hoàng thượng đối với công vụ rất nghiêm khẩn. Nếu cả bọn đí cả, vạn nhất có chuyện gì, thử hỏi ai gánh chịu trách nhiệm?

Đại hán nọ nghe câu nói này xong thốt lên lời khen, rồi uống tiếp ly rượu nữa, lại hỏi:

- Người ở đay đã bao năm rồi?

Lam đáp;

- Đã tám năm.

Đại hán nọ lại hỏi: "Lương lậu bao nhiêu?" thì Lam cười buồn:

- Hai trăm lạng mỗi năm.

Đại hán nọ hỏi có muốn làm quan không, Lam đáp với giọng chán nản:

- Sao lại không muốn? Đệ chỉ nghĩ mình không có phúc phận nên đành để ngoài tai việc đó đấy thôi?

Đại hán nọ hỏi muốn làm quan gì thì Lam bỗng vén tay áo, vỗ phịch một cái xuống bàn, nói:

- Quan lớn thì đệ chẳng màng chi. Đệ chỉ mong được làm chức quan thuế bến sông tinh Quảng Đông.

Đại hán nọ hỏi chức quan thuế có lợi gì thì Lam giải thích.

- Làm quan thuế, chỉ cần nói riêng về bổng lộc, mỗi năm đã có tới năm trăm lạng bạc rồi. Bọn thuyền buôn xuất khẩu kính biếu hằng ngày nữa, lợi ấy cũng không nhỏ đâu.

Đại hán nọ nghe xong biết vậy, chẳng hỏi gì thêm, đứng dậy từ giã ra đi.

Thế rồi qua ngày hôm sau, một đạo thánh chỉ hạ xuống điều động Lam Lập Trung, một viên chức nhỏ bé, tới giữ chức quan thuế tại bến sông tỉnh Quảng Đông. Khắp triều văn võ ai cũng phải ngạc nhiên về việc điều động một nhân viên hạng chót mà phải hoàng thượng đặc giáng thánh chỉ như vậy. Thực ra việc này chỉ riêng có Lam Lập Trung là biết được mà thôi.

Chuyện đáng cười nhất là sau khi Trung được đi nhận chức mới thì không biết bao nhiều kẻ tới xun xoe lấy lòng Trung.

Hồi đó, có một vị đại thần tên gọi Vương Vân Cẩm vốn là tân khoa trạng nguyên. Ung Chính hoàng đế rất trọng Vương, bởi vậy văn võ khắp triều ai nấy đều lon ton chạy tới xu phụng ông. Cứ mỗi ngày bài chầu trở về, ông lại thấy xe ngựa đứng nghẹt cả cổng. Vương trạng nguyên chẳng ham thích gì, duy chỉ khoái có trò đánh bài lá. Những lúc rỗi rảnh, ông tổ chức ngay tại nhà một vài cuộc đỏ đen với đôi ba người bạn đồng liêu chẳng phải để ăn thua mà là để giải trí. Có một bận, bài. Ông ù lớn. Ông bày lên bàn để tính tiền. Bỗng một trận gió ào tới, quét tất cả phần bài của ông xuống đất. Mọi người vội tụt xuống đất lượm bài lên nhưng khi xét thì thiếu mất một cây bài. Vương trạng nguyên biết vậy, chẳng cần kiếm, cho người nhà lấy một cây bài khác thế vào, lại đánh tiếp.

Qua ngày hôm sau, trạng nguyên Vương Vận Cẩm vào chầu, Ung Chính hoàng đế hỏi ông tối qua ở nhà có thú gì tiêu khiển không thì Vương trạng nguyên cũng nói thực là chơi bài. Ung Chính nghe xong cười khà khà nói:

- Vương Vân Cẩm thực chẳng nói dối trẫm.

Sau đó lại hỏi thêm:

- Trẫm nghe nói nhà ngươi ăn một ván bài khá lớn nhưng bị gió quét đi mất một cây bài, nhà ngươi hình như bực mình lắm. Thế hôm nay đã tìm thấy chưa?

Vương Vân Cẩm nghe đoạn sợ quá, chỉ còn cách dập đầu tâu:

- Tâu thánh thượng Thánh thiên tử xét rõ muôn dặm. Cây bài bị gió quét đi nay thần vẫn chưa tìm ra.

Ung Chính hoàng đế lúc đó thò tay cầm lấy cây bài đặt lên long án từ lúc nào, giơ lên nói:

- Vương Vân Cẩm! Nhà ngươi xem có phải cây bài này không?

Vương nhìn xem thì đúng là cây bài mất hôm qua, vội đập đầu tâu "phải".

Ung Chính hoàng đế nói tiếp:

- Trẫm đã tìm giùm cho nhà ngươi rồi. Vậy nên về nhà ngay mà chơi tiếp đi.

Nói đoạn ngài đứng dậy lui trào.

Từ khi xảy ra chuyện này, văn võ khắp triều anh nào anh nấy sợ Ung Chính hoàng đế một phép, cho tiền cũng chẳng giám thì thào bàn tán lấy một nửa lời về triều chính. Và cũng từ đó, Ung Chính hoàng đế mới được gối cao ngủ kỹ, khỏi lo chuyện âm mưu này nọ. Hằng ngày, ngài ở miết trong cung vua, nô đùa với bọn cung tần mỹ nữ.

Hồi này ngài đã đưa con gái của Quý Tả Lãnh lên làm Quý phi. Ngoài ra, ngài còn phong cho bốn cô nữa được ngài sủng ái lúc bình nhật cũng vào chức đó. Tuy nhiên, trong số mấy quý phi này chỉ có nàng họ Quý là được ngài sủng ái nhất, cứ mỗi lần bãi chầu lui cung là ngài lại tìm nàng để trò chuyện vui đùa với nhau. Nàng quý phi họ Quý lại có cái duyên đặc biệt là hễ nheo mày cười lại khiến cho ai cũng phải mê hồn lạc phách, tấm thân của nàng lại tròn trĩnh, mũm mĩm mịn mát như tơ, từ làn da đến thớ thịt, nhất nhất cái gì cũng có thể gây được những khoái cảm mê ly. Thành thử hoàng đế nhà ta chẳng ngày nào quên được nàng, đến nỗi ngài phải tặng nàng biệt hiệu "ôn nhu tiên tử".

Vị Đại Lạt ma Tây Tạng nghe nói nhà vua khoái việc phong lưu chơi bời, liền cho Tiểu Lạt ma mang tới cho ngài một lọ thuốc hoàn Acotô. Acơtô là một loại thuốc kích dục, uống một vài viên thì được chứ nếu uống nhiều vào sẽ phát cuồng. Lúc trước Đại A Kha Dân Nhung sở dĩ phát điên đến chết là chỉ tại uống thuốc này quá nhiều.

Ung Chính hoàng đế từ khi được thuốc này, quả đã trở thành vô địch về khoản mây mưa. Càng sướng, càng khoái, ngài càng biết ơn vị Đại Lạt ma. Cũng chính vị này đã có công lớn trong việc giúp ngài mưu đoạt ngai vàng, bởi vậy ngài tin cậy lắm. Để tạ lại tình tri ngộ, Đại Lạt ma nhà ta truyền thụ cho hoàng đế khá nhiều "bí thuật". Trước đấy, hoàng đế đã sai xây cất một toà cung điện trên núi Tây Sơn trong đó có một ngôi miếu Lạt ma. Nhưng đến nay muốn cho tiện việc qua lại sớm chiều để vấn kế, ngài truyền lệnh xây cất một toà cung điện khác ở ngày sau hoàng cung.

Phủ Nội vụ phụng mạng hoàng đế ra lệnh tập hợp hết những tay thợ khéo ở kinh đô, một mặt cho nội giám đi về vùng Giang Nam kiếm gỗ. Hoàng đế còn đặc phái một vị Lạt ma sung chức Khâm sai đại thần cùng lo về việc này. Vị Khâm sai này tới Giang Nam, cậy uy thế của hoàng đế, tham nhũng, nhiễu hại quá tệ tới đâu là bắt người ta phải "biếu kính" y tới đó, bắt cả quan địa phương phải kiếm gái cho y. Khi tin đồn ra ngoài, một truyền mười mười truyền trăm, nhiều bà đẹp như mộng, nhiều cô còn nguyên xi, vội vàng đem mình vàng tới tự dâng hiến. Số phụ nữ tình nguyện quá đông đến nỗi vị Lạt ma xài không xuể. Y lại nghĩ cách làm tiền, đặt ra cái lệ là hễ vợ con của các nhà quan mà muốn vào hầu thì phải có lễ đưa vào trước, ít thì một trăm lạng nhiều thì một ngàn lạng. Cả vùng Giang Nam, đàn bà con gái bị tên Lạt ma này làm ô uế chẳng biết bao nhiêu mà kể, y lẩn quẩn ở đây ăn tha hồ chơi, mãi tới năm sau mới về kinh.

Công việc xây cất bắt đầu. Năm sáu trăm tay thợ khéo làm việc liên miên ba năm, toà cung điện Lạt ma mới hoàn tất. Ngày khánh thành chính là ngày vị Đại lạt ma kia thu nạp Ung Chính làm đệ tử và phong cho tước vị "Mạn thù sư lợi Thái Tông hoàng đế". Sau đó vị Đại Lạt ma đưa hoàng đế đi xem điện. Trong điện khắp nơi đắp những pho tượng phật, tượng nào tượng nấy kỳ hình quái trạng đủ kiểu, trông ghê khiếp đến rợn người. Ngay giữa quỉ thần điện, ở phía trong, có đắp một tượng thần ác ma cao hai trượng, mặt chó, đầu mọc hai sừng, tay ôm một nữ thần tuyệt đẹp như ôm con kỹ nữ, còn chân thì đạp lên trên mình một đám gái đẹp, thân thể loã lồ.

Ung Chính hoàng đế thấy vậy, trong lòng khoái thích lắm. Ngài bèn đặt tên cho toà cung điện này là Ung Hoà cung, lấy cái ý Ung Chính hoàng đế qui y Lạt ma giáo. Đồng thời, ngài ra sắc lệnh cho trong cũng như ngoài thành phải xây cất miếu Lạt ma đúng theo kiểu cách ở cung Ung Hoà.

Từ đó, bọn Lạt ma đắc thế tên nào cũng làm quan đâm ra hoành hành bất pháp. Trong kinh thành hồi đó có một câu đồng dao như sau:

Muốn có được chức kinh quan,

Cắt râu, cạo tóc đi làm Lạt ma!

Ung Chính hoàng đế cho rằng ngài đã báo đáp phần nào công lao của vị Đại Lạt ma đã từng giúp ngài cướp đoạt ngai vàng. Ngài cũng không quên công lớn của quốc cữu Long Khoa Đa và Ngạc Nhĩ Thái và cả Trương Đinh Ngọc. Ngài bèn hạ chỉ sai cất một toà lâu đài rộng lớn ở phía bắc phố chợ cho Ngạc Nhĩ Thái, bên trong trưng bày toàn đổ ban thưởng của nhà vua. Chỉ nguyên có một toà phủ để ban thưởng đó, hoàng đế cũng tốn mất tới bốn vạn lạng bạc. Hoàng đế còn phong cho Ngạc Nhĩ Thái làm Văn Đoan công. Mặt khác, ngài cũng phong cho Trương Đinh Ngọc làm Văn Hoà công, lại còn cho làm tể tướng nắm tất cả những việc quân quốc đại sự. Trương Đinh Ngọc nói điều gì hoàng đế không bao giờ không chuẩn y. Khi Ngọc chết, ngài còn đem cả bài vị vào nhà Thái Miếu cúng kiềng. Ân sủng như thế kể đã đến cực điểm.

Ngoài mấy vị kể trên, còn một kẻ được hoàng đế kính trọng ghê gớm nữa. Đó là Miên Canh Nghiêu. Qua năm thứ hai, Nghiêu cùng với Nhạc Chung Kỳ bình định xong Thanh Hải, Tây Tạng, hoàng thượng xuống chỉ phong cho Nghiêu tước Công đệ nhất đẳng, ngay cả đến thân phụ Nghiêu năm đó đã lớn tuổi mà cũng được mang tước đó và còn gia hàm thái phó. Nhạc Chung Kỳ cũng được Phong tước Công đệ tam đẳng. Hoàng đế còn trao chức Thiểm Cam tổng đốc cho Nghiêu, giục ban sư về trước để đáo nhiệm.

Đại tướng Miên Canh Nghiêu tiếp được thánh chỉ, lập tức diễu võ dương oai, ban sư về kinh. Bọn quan huyện, quan châu suốt dọc đường đón rước, ngựa trước ngựa sau, nườm nượp như nước chảy. Đối với đại tướng họ Miên thì bọn này chỉ như bùn, như đất dưới chân, chẳng có nghĩa lý gì hết. Quan viên tại các tỉnh, trấn thì từ hàng tuần phủ trở xuống, võ thì từ tướng quân trở lui, kẻ nào thấy Nghiêu mà chả sợ đến toát mồ hôi.

Chỉ cần một lời nói nhỏ đắc tội khiến đại tướng quân trừng mắt lên là đủ để cho kẻ kia sợ đến mất mật. Tuy nhiên, nói sợ thì sợ thật nhưng lòng họ oán hận không nguôi, kẻ nào cũng chỉ chờ dịp báo thù.

Nghiêu đại tướng có một tên tâm phúc làm chức trung quân quan tên gọi Lục Hổ Thần. Thần thấy đại tướng của mình tác oai tác phúc khó tránh được tai hoạ, nhân lúc vắng vẻ bèn vào thực tâm khuyên can mong Nghiêu dè dặt canh chừng.

Nghiêu lúc đó quá chén, chếnh choáng say, nghe lời Thần bất giác thẹn quá hoá giận, liền vỗ bàn đập ghế mắng:

- Tao đây đã thế hoàng thượng đánh lấy cả giang sơn này ngài thấy tao còn phải sợ huống hồ mi. Mi là cái thá gì mà dám dạy bảo cả tao?

Mắng xong, Nghiêu quát: "Chém!", tức thì đao phủ thủ cháy tới trói Thần lại, đẩy ra ngoài viên môn. May số Thần chưa chết nên gặp được Nhạc Chung Kỳ đang bước vào trướng.

Thần vội hô cứu mạng và nhờ Kỳ nói giùm Nghiêu. Ngày thường quân lệnh của Nghiêu một khi đã ra là đố kẻ nào dám cản, ngoại trừ Kỳ, bởi chi có Kỳ là được Nghiêu kính trọng mà thôi.

Cuối cùng vì nể mặt Kỳ, Nghiêu tha chết cho Thần, quân tiền phong lúc đó đã tới Lư Cầu Kiều, Nghiêu bèn phạt Thần làm tên lính canh gác dưới cầu.

Miên, Nhạc hai vị tướng quân chỉ huy đại đội binh mã tiến thẳng về kinh. Tin báo về tới cung. Ung Chính hoàng đế hạ chỉ cho Miên đại tướng đóng quân lại ngoài thành tạm nghỉ.

Hoàng thượng muốn xuất thành đích thân tới khao quân.

Hồi đó đang vào tháng sáu, trời nắng như thiêu như đốt, Ung Chính hoàng đế cỡi loan xa có tiền hô hậu ủng, xuất thành.

Mặt trời gay gắt trên không. Hoàng đế ngồi trong loan xa, mồ hôi chảy thành giọt đầy mình. Khi ra khỏi thành, ngài bỏ xe lên ngựa. Ánh mặt trời lúc này càng nóng dữ. Tả hữu thị vệ, không một kẻ nào là không toát mồ hôi dầm dề. Chạy một lúc, cả đoàn vào nghỉ trong một khu rừng cây cao lá rậm. Phía dưới bóng cây có vây màn trướng bằng vải đoạn vàng. Chính giữa là chiếc ngai vàng của hoàng đế. Ung Chính hoàng đế xuống ngựa, bước tới toạ ngồi chỉnh chện. Bọn thái giám kẻ cầm quạt thì quạt lẹ, kẻ cầm khăn thì làu vội, kẻ dâng trà mát thì dâng nhanh.

Một lát sau bỗng mọi người nghe quân lệnh vang tới. Ai cũng biết đó là dấu hiệu của Miên đại tướng đã tới. Ung Chính hoàng đế bước ra khỏi trướng, nhảy lên mình ngựa đứng đợi.

Ngài phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy phía trước mặt cờ quạt thành hàng thẳng tắp, đao kích chĩa lên trời tua tủa, toàn thể quân đội đứng im phăng phắc dưới mặt trời nóng bỏng, đến nỗi con ruồi bay cũng nghe tiếng. Quân sĩ mặt đổ mồ hôi tí tách thế mà chẳng kẻ nào dám lau. Đội quân tiền phong tiến tới trước mặt hoàng đế hành lễ rồi tách ra hai bên phải trái để lộ ở chính giữa một cây cờ đại, trên mặt thêu một chữ "Miên" rất lớn.

Rồi, Miên đại tướng quân đầu đội mũ trụ mình mặc áo giáp, cưỡi ngựa đứng dưới ngọn cờ cao nghệu. Về phía hoàng đế thì hai bên, văn từ thượng thư, thị lang, võ từ cửu môn đề đốc trở xuống, đều chiếu theo phẩm trật mặc tiến y mãng bào, kẻ nào kẻ nấy bị nắng thiêu, mồ hôi chảy ra thấm ướt cả mấy lần áo. Miên đại tướng quân cùng Nhạc tướng quân vừa thấy hoàng đế ngự giá tới, vội nhảy xuống ngựa, lom khom quỳ làm đại lễ. Sau đó, nào tổng binh, đề trấn, nào trấn hiệp, đô thống, tất cả, các quan dưới trướng Nghiêu đều lần lượt tiến lên triều kiến.

Hoàng đế truyền lệnh ban yến. Miên đại tướng theo, chân hoàng thượng bước vào trướng chia phận vua tôi ngồi xuống.

Rồi cả bọn vương công đại học sĩ bối lặc, bối tử đều ngồi cả hai bên bồi yến. Cửu môn đề đốc, binh bộ thượng thư củng các võ quan tại kinh đô thì bồi tiếp Nhạc Chung Kỳ và bọn quan viên xuất chinh ở phía ngoài trướng. Ly, tách chạm nhau rổn rảng. Vua tôi vào tiệc, thật là vui vẻ. Trong bữa tiệc, hoàng đế cũng nói tới chuyện giết Dân Dị, Dân Đường. Miên Canh Nghiêu nghe xong, bất giác mình ớn da gà, miệng tuy không nói ra nhưng trong lòng cũng phải ghê khiếp cái tâm địa hiểm độc của nhà vua mà tự nhủ từ nay về sau cũng phải lưu ý đề phòng đôi phần. Hoàng đế lại hỏi tới bọn anh hùng hảo hán xuất chinh ra sao thì Miên đại tướng hồi tấu:

- Thần vâng mật chỉ của hoàng thượng nên khi tới Thanh Hải, Tây Tạng, bắt được vợ con của tướng giặc, thấy đứa nào cũng đẹp bèn đem thưởng hết cho họ làm vợ. Ngay đến em gái của mẹ La Bốc, thần cũng gả luôn cho tên giữ Huyết trích tử nữa. Hiện nay cả bọn đều bị nữ sắc làm mê luyến, tự nguyện ở lại biên ải cho tới già chứ không đòi về kinh sư nữa.

Ung Chính hoàng đế nghe xong cười nói:

- Quốc cữ diệu toán, thật ít người kịp.

Ngài nói tới đây thì tiệc cũng vừa chấm dứt. Miên Canh Nghiêu đứng dậy cáo từ:

- Vị thần vì quân vụ bận thân, chẳng đám ở lâu thêm nữa.

Hoàng đế tỏ thái độ ân cần, đích thân đưa Nghiêu ra ngoài trướng. Ngài ngẩng lên thì thấy toàn thể quân đội đông hàng ngàn vạn vẫn y nguyên giáp trụ, đứng thẳng tắp, im phăng phắc dưới mặt trời như thiêu như đất. Ánh nắng chiếu vào mặt kẻ nào kẻ nấy sạm lại, thế mà chẳng một ai nhúc nhích, cử động. Hoàng đế thấy vậy trong lòng lấy làm bất nhẫn, bèn quay sang bảo nội giám:

- Người truyền dụ xuống bảo chúng hãy cởi bỏ áo giáp ra.

Tên nội giám vội chạy ra, lớn tiếng hô vang:

- Hoàng thượng có chỉ: binh sĩ các người hãy cởi bỏ áo giáp ra!

Chẳng ngờ tên thái giám hô luôn một hơi đến ba lần mà cả đoàn quân sĩ hình như điếc cả, vẫn đứng im phăng phắc, không động cựa. Tên thái giám chẳng biết làm cách nào khác, đành quay về tâu lại với hoàng đế.

Lúc đó, Miên Canh Nghiêu đang nói chuyện với hoàng đế nên chẳng để ý tới việc truyền dụ của ngài. Đến lúc hoàng đế nghe tên thái giám hồi tấu mới biết thánh chỉ của mình chẳng ăn thua gì, bèn bảo Miên Canh Nghiêu:

- Trời nắng quá! Đại tướng hãy truyền lệnh cho binh sĩ cởi giáp cho đỡ nóng.

Miên Canh Nghiêu nghe lệnh, vội rút trong bọc ra một cây cờ hồng nhỏ, rồi chỉ một cái phất, tức thì những tiếng rổn rảng, rầm rập vang động một phương trời, ba vạn người ngựa đã nhất tề cởi bỏ hết áo giáp khiến một khu đồng trống rộng rãi bỗng đầy ngộn, nào giáp nào trụ, cao như một trái núi.

Ung Chính hoàng đế thấy cảnh tượng đó, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ngài nghĩ bụng, ví thử kẻ kia nhất đán biến tâm thì tính mạng mình hẳn đã nằm trong tay hắn rồi.

Ngài càng nghĩ càng bồn chồn trong dạ. Miên Canh Nghiêu lúc đó lấy làm đắc ý lắm. y tâu:

- Trong quân chỉ biết có quân lệnh chứ không biết có hoàng mệnh. Xin bệ hạ xét rõ cho.

Ung Chính nghe xong lời nói này của Nghiêu lại càng cụt hứng bội phần. Ngài im lặng, chẳng nói chẳng rằng. Nghiêu nhìn thấy nét mặt nhà vua bỗng trở nên nghiêm nghị, không vui, thì lòng đã đoán rõ vài phần. Y vội cáo từ hồi dinh.

Từ đó về sau, Ung Chính hoàng đế đối với Miên Canh Nghiêu bề ngoài tuy tỏ vẻ kính trọng đặc biệt nhưng bề trong lại theo dõi từng bước. Ngài truyền lệnh cho triều thần thu xếp một toà phủ đệ cực kỳ rộng lớn hoa mỹ cho Nghiêu ở kinh đô. Đồng thời mật phái rất nhiều tay chân thám giám sát nội tình trong phủ đại tướng quân...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro