Thanh cung mười ba triều 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 112

TÌNH ANH EM NHƯ BIỂN CẢ BAO DUNG.

Hồng Tuyên Kiều kể lại cho Hồng Tú Toàn nghe mình bị viên đại hán cưỡng gian, lưu lạc giang hồ đây đó ra sao, gặp Tiêu Triều Quý như thế nào, rồi Tiêu Triều Quý vì mình báo thù, mang tội giết người bỏ trốn tới đây, tất cả kể lại một lượt không sót chỗ nào.

Hồng Tú Toàn lúc đó đang nghĩ cách lợi dụng gia tài của họ Tiêu nay nghe cô em Kiều nói vây, thực là hợp ý mình lắm. Thế là Toàn khuyên Quý vào đạo Thượng đế, bái yết giáo chủ. Toàn lại nói:

- Triều Quý mới vào đạo, chỉ sợ tâm trí không bền. Quý vốn tuổi trẻ sức trai, nhiều chỗ rất cần phải có y. Bởi vậy y cần phải ra ngoài lo việc, lúc này chưa thể thành hôn được. Phải đợi ba năm sau vợ chồng mới có thể sum họp.

Toàn lại cho mời Tiêu Triều Phụng lên núi gọi Hồng Tuyên Kiều theo ông gia ở cùng một nơi. Mặt khác, Toàn cho Quý đi truyền đạo.

Về sau thấy Tiêu Triều Phụng ở trên núi có vẻ bất tiện, Hồng Tú Toàn liền đưa về vùng sông Đại Hoàng, ở dưới chân một ngọn núi cao, cây cối xanh tốt um tùm. Trên núi có một vị sơn chủ tên gọi Dương Tử Long. Long vốn là một trang thiếu niên anh tuấn, dưới tay còn có một đám tiều phu đông tới bốn năm ngàn, hằng ngày vào rừng chặt cây đốt than. Đám này đa phần là hung hăng mạnh tợn. Long ỷ thế mình, độc chiếm một phương. Long cung là một tên hiếu sắc. Bọn đàn bà con gái quanh vùng đều bị hắn hãm hiếp làm nhục.

Nhưng có điều lạ là đàn bà con gái vùng Quế Bình không cần tới chuyện liêm sỉ, họ bị Long gian ô thế chẳng những làm nhục mà lại còn cho là vinh hạnh lắm, đem kể hết cho mọi người nghe.

Hồi đó Hồng Tuyên Kiều theo bố chồng cùng ở một nơi, cảm thấy cô đơn hiu quạnh, tự thương mình bạc mệnh. Nàng thường nhớ tới Tiêu Triều Quý nhưng Quý ở xa mãi tận chân trời biền biệt. Nước xa không thể cứu được lửa gần. Ngày nào cũng vậy, vào lúc hoàng hôn, nàng thường đứng cửa, bóng dáng thướt tha. Đã có mấy lần Dương Tử Long để ý tới nàng. Long đời nào chịu bỏ miếng mồi ngon bèn tìm trăm mưu nghìn chước quyến rũ nàng, mãi tới khi cái bụng nàng to bằng cái trống.

Hồng Tuyên Kiều nhìn thấy cái bầu của mình mà sợ. Nàng bỏ trốn theo Long chạy suốt đêm tới miền Phúc Kiến.

Hồng Tú Toàn biết chuyện này. Toàn còn được rõ họ Dương có nhiều thủ hạ, bèn cho người tới khuyên hắn vào hội, chẳng truy cứu gì tới cái tội gian dâm nữa. Dương Tử Long mừng quá đem luôn cả đám tiều phu đông đảo tới núi Bằng Hoá.

Long cảm lòng tốt của Toàn, kết làm anh em với Toàn và đổi tên là Tú Thanh. Long còn tình nguyện đem Tuyên Kiều hoàn lại cho Tiêu Triều Quý.

Giữa lúc đó Quý từ xa về, được tin vợ mình bị Dương Tú Thanh gian dâm, liền tuốt đao tính liều mạng ăn thua với Thanh. Hồng Tú Toàn vội vàng khuyên giải:

- Anh em ta gắng cùng nhau mưu đồ đại sự, hà tất phải để tâm quá nhiều tới một con đàn bà khiến tổn thương hoà khí. Ngày sau sự nghiệp hoàn thành rồi mỹ nhân trong thiên hạ này đều là của bọn ta cả. Khư khư một đứa Tuyên Kiều làm gì! Ngay đến cả gia quyến đại ca đây, nếu cần, đại ca cũng sẵn sàng đưa hầu tất cả các anh em được nữa là! Bọn ta chỉ cần biết đồng tâm hiệp lực để cứu đời, đừng hỏi tới những chuyện vụn vặt.

Nói đoạn Toàn cho gọi ngay luôn một lúc ba nàng hầu của mình ra để hầu rượu cho mọi người. Thế là cả bọn ngôi vào bàn nhậu nhẹt, nói cười vui nhộn như đám hội, quên phứt đi nỗi hận thù.

Ít lâu sau Phùng Vân Sơn theo lệnh của Hồng Tú Toàn tới huyện Tiên Du truyền đạo chẳng biết lý do gì bị quan sở tại bắt. Viên quan này lại buộc Sơn phải viết thư lừa Toàn tới và bắt nhốt, đem giam cả hai vào nhà lao.

Tin động trời này truyền tới núi Bằng Sơn làm cho Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý quýnh lên, chẳng biết gỡ cách nào. Bọn Quý dò la biết được huyện Tiên Du có một tay thổ hào tên gọi Hoàng Ngọc Côn, kéo bè kết đảng, bao thầu hết chuyện kiện tụng. Côn ỷ vào người chú làm quan trong kinh cho nên bọn quan địa phương thảy đều sợ và nghe hắn. Bất cứ ai phạm tội giết người đốt nhà, miễn là có tiền cho hắn thì nhà lao đã có khoá tới mấy mươi lần đi nữa cũng có thể ra được.

Côn được biết bọn Hồng Tú Toàn toan tính làm lớn chuyện ở vùng Quế Bình, Tuyên Võ, lại cho Phùng Văn Sơn đến vùng mình truyền đạo mà không nói với hắn một lời nào. Hắn tức giận liền lẻn tới nha môn cáo mật. Quan tri huyện Tiên Du được tin vội kéo quân tới ngay đêm đó bắt cả bọn Phùng Vân Sơn, lại còn buộc Sơn viết thư lừa Toàn tới để bắt luôn. Đến lúc thẩm vấn, mới biết Toàn là giáo chủ hội Thượng đế.

Hồng Tú Toàn vốn là tên trọng phạm mà nha môn thượng ty các tỉnh đang lưu tâm lùng bắt. Nay Toàn bỗng sa lưới thử hỏi viên quan tri huyện Tiên Du sung sướng biết chừng nào, lập tức bẩm lên các thượng ty, tính đem ra chính pháp ngay.

Dương Tú Thanh nghĩ ra được kế sách bèn tổ chức đoàn thợ đốt than một trăm người, cải trang theo nhiều kiểu của bọn khách giang hồ, rồi cứ từng tốp ba, năm người một, kéo nhau vào trong thành huyện Tiên Du, dò la tin tức xem lúc nào giải Toàn và Sơn ra khỏi lao thì nhảy vô đánh cướp liền.

Đặc biệt bọn Hồng Tuyên Kiều bắt chước cách kiếm ăn thuở nào, cải trang theo kiểu Sơn Đông mãi võ, có Tiêu Triều Quý đi theo. Kiều và Quý chọn nơi đất trống rộng rãi làm diễn trường rồi Quý gõ thanh la phèng phèng inh ỏi, trong khi đó Kiều nai nịt gọn gàng, thon thả cái bụng, hồng hồng đôi má, múa tít cây thương đâm đông đánh tây túi bụi. Bọn người hiếu kỳ kéo tới xem, chẳng mấy chốc đã bị cặp mắt của Kiều thu hồn lượm phách, không còn rời khỏi được nữa.

Bỗng có một tên đại hán cao lớn từ trong đám đông nhô ra, mình mặc toàn đồ tơ lụa, phía sau có bốn tên gia nhân theo hầu. Một tên gia nhân trong bọn chạy tới bảo Tiêu Triều Quý:

- Tướng công muốn mời cô nương của nhà ngươi tới phủ chơi!

Quý hỏi lại tên gia nhân:

- Tướng công của nhà ngươi là ai vậy?

Tên gia nhân đưa tay chỉ tên đại hán đứng phía trước rồi chỉ luôn ngón tay cái nói tiếp:

- Tướng công Hoàng Ngọc Côn đó! Quanh đây ít ra một trăm dặm ai lại không biết tướng công tôi!

Hồng Tuyên Kiều nghe nói vậy biết là chuyện trúng ý mình vội liếc mắt ra hiệu cho Quý rồi chạy lại trước mặt tên đại hán gật đầu chào và gửi lời chúc tụng.

Tên đại hán cho gọi một chiếc kiệu nhỏ tới để Tuyên Kiều ngồi lên rồi khiêng về phủ. Hoàng Ngọc Côn bày tiệc ngay tại thư thất đãi hai người Kiều, Quý. Hồng Tuyên Kiều đã có dụng ý thả mồi câu bắt, bèn bước lại mời trà chuốc rượu Côn khiến lòng hắn rậm rật khó yên, liền lấy ra ba trăm lạng bạc, muốn Tuyên Kiều ngủ với hắn một đêm, Kiều giả bộ e lệ chối từ. Côn năn nỉ ba, bốn lần thì nàng buộc Côn phải nhận hai điều kiện mới chịu cho. Đã đến lúc này thì hai trăm điều kiện Côn cũng phải theo hết. Côn chịu rồi, Tuyên Kiều mới lên tiếng như ra lệnh:

- Điều kiện thứ nhất. Ngươi phải vào đạo của ta thì lúc đó ta mới coi mi như phu quân để trao gửi tấm lòng.

Côn nghe nói tới đây đã vội vàng lên tiếng chịu ngay. Nhưng nàng đâu đã vội tin, nói tiếp:

- Lời nói không bằng cớ! Phải viết ngay tình nguyện thư mới được!

Côn lúc này đã bị sắc dục làm cho mê loạn rồi, đâu có còn nghĩ tới chuyện lợi hại về sau nữa. Tuyên Kiều vốn có chủ định nên đã mang sẵn đơn tình nguyện bên mình từ trước.

Nàng lấy ra đưa cho Côn điền tên tuổi rồi cất đi cẩn thận. Nàng nói tới điều kiện thứ hai:

- Trong vòng hai ngày, anh ta là Hồng Tú Toàn và đạo hữu Phùng Vân Sơn phải được thả ra khỏi lao.

Hoàng Ngọc Côn nghe xong, bèn nói:

- Việc đó hãy để mặc ta! Nội trong hai ngày, anh nàng sẽ ra khỏi lao. Cứ yên tâm.

Tuyên Kiều thấy Côn đã thoả mãn điều kiện của mình, lại có đơn tình nguyện nắm trong tay, không còn sợ Côn chạy thoát đường nào, mới để Côn mặc sức tìm vui hưởng lạc.

Khi Hồng Tuyên Kiều bước ra khỏi cổng phủ, có Hoàng Ngọc Côn đưa chân, ước hẹn ngày hôm sau đúng giờ ngọ gặp nhau trên cầu Thất Lý ngoài cửa đông.

Tuyên Kiều vội về báo cho các anh em đồng bọn biết. Qua hôm sau, mọi người tới cầu Thất Lý đợi chờ chừng một lát, quả nhiên Hoàng Ngọc Côn đưa Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn ra tới.

Vừa gặp mọi người Hồng Tú Toàn đã khoe Côn nghĩa khí thế nào, sau đó khuyên Côn nên nhập bọn. Tuyên Kiều nghe xong, phì cười bảo:

- Khỏi phiền đại ca lo tới điều đó. Con độc long này đã có tiểu muội trị nó rồi.

Quả nhiên Hoàng Ngọc Côn không thể bỏ được Hồng Tuyên Kiều, y bèn nhập bọn, kéo nhau lên núi Bằng Hoá. Tới nơi Hồng Tú Toàn cử Côn làm chức Phó giáo chủ. Còn Côn nhân khi rảnh lại lui tới tìm vui cùng người đẹp Tuyên Kiều. Cặp tình nhân mới này nói không biết bao những chuyện ân tình nồng thắm, say sưa. Côn ngày càng tỏ ra trung thành với hội cũng như với đạo.

Toàn nghe nói ở huyện Quý có một người họ Vi gia tư kể có tới tám trăm vạn. Chủ nhân họ Vi năm đó đã hơn năm chục, dưới gối chỉ có một đứa con trai tên gọi Vi Xương Huy là một thanh niên hết sức khôi ngô tuấn tú.

Huy cũng là một tay phong lưu có hạng. Suốt một dải huyện Quý, bọn chị em xóm dưới, thấy Huy vừa đẹp trai, vừa con nhà giàu có, cô nào cũng tìm cách ve vãn, xoắn xuýt lấy chàng. Bởi thế ngay từ lúc mười sáu tuổi, Huy đã đam niêm sắc dục. Mãi khi tuổi đã hai mươi, Huy vẫn còn chưa lấy vợ. Cha mẹ Huy thấy con nhu vậy, lòng lúc nào cũng lo lắng, nên thường nhắc tới chuyện vợ con với Huy. Nhưng Huy bảo vợ phải người tuyệt sắc mới lấy.

Một hôm, Vi Xương Huy từ ngoài chạy về nhà cười khanh khách bảo cha:

- Hôm nay con đã tìm thấy một trang giai nhân tuyệt sắc rồi cha ạ!

Ông già Huy hỏi nơi nào thì Huy nói:

- Cô ta ở trong tiệm bánh gần nhà ta.

Ông già Huy nghe nói xong, lấy làm tức bảo Huy:

- Nhà mình như thế này mà mày đi lấy một con sen, con ở trong tiệm bánh làm vợ ư? Người ta mà biết thì cả cha mày cũng không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa.

Vi Xương Huy khi đã mê cô gái tiệm bánh, bèn trộm tiền nhà mang ra cho tình nhân. Hằng ngày, Huy trốn vào nằm lỳ tại đó Một hôm, cô gái trong tiệm bánh nọ tìm tới, nói với ông già họ Vi:

- Tôi là em gái của Thiên hoàng tên gọi Hồng Tuyên Kiều. Ngày nay thế giới sắp có đại nạn, công tử nhà ta có duyên với tôi nên tôi đến đây để cứu chàng. Hiện chàng được tôi đưa lên núi Bằng Hoá rồi. Nếu cụ hiểu biết thời cơ thì nên mau thu xếp theo tôi lên núi, bằng không bọn quan lại cho cụ tư thông với đạo, bắt giam lại thì lúc đó người chết của hết, có hối cũng chẳng kịp nữa.

Ông già Huy nghe Tuyên Kiều nói một lượt, hoảng hồn bạt vía, mắt trợn, miệng há hốc ra đến không còn ngậm lại được ông ta biết hồi đó trong huyện Quý có một số tín đồ theo Thiên chúa giáo. Ngay cả bọn nha dịch trong nha môn mà cũng còn là đồ đảng của Hồng Tú Toàn. Ông già Huy đã biết mình lạc vào cạm bẫy của Hồng Tuyên Kiều, không còn cách gì thoát nữa. Ông đành ngoan ngoãn theo Tuyên Kiều lên núi Bằng Hoá, yết kiến Hồng Tú Toàn. Trong khi đó Vi Xương Huy đã được Toàn phong làm Bắc vương. Ông già Huy chỉ còn cách đem toàn bộ gia sản quyên cúng vào hội.

Đến đây tam gác chuyện Thái Bình Thiên Quốc mà nói tới việc cung Thanh.

Hồi 113

KHI ÔNG VUA CẦN GÁI

Hàm Phong hoàng đế thấy đại sự đã hỏng, hằng ngày chỉ biết tìm vui trong cung cấm, bên cạnh gái đẹp và trước be rượu nồng. Nhưng lâu ngày rồi ngài cũng chán bởi quanh quẩn chi có mấy nàng phi.

Viên tổng quản thái giám hiến kế, bảo ngài nên chọn một gái đẹp trong đám quan lại Bát Kỳ (quan lại người Mãn Châu) mà lâm hạnh. Thế là một đạo ý chỉ hạ xuống. Bọn quan lại Bát Kỳ lo lắng, cuống quýt cả lên. Có kẻ điên nào muốn đưa con gái mình vào chỗ thâm cung chẳng bao giờ thấy mặt trời ấy? Cho nên nhiều gia đình thương con vội vàng đem con gái giấu biệt. Nhưng đối với bọn thái giám đông đảo kia thì nhà nào có con gái mà có thể qua mắt được chúng. Gia đình nào có mấy đứa con gái, đứa nào bao nhiêu tuổi, chúng đều dò la biết rõ hết và nhớ như in trong bụng. Cho nên khi trên vừa lệnh xuống hoàng đế kén chọn tú nữ thì nhà nào có con gái và ở đâu đều đã bị chúng kéo tới giữ chặt lấy cửa, có muốn trốn cũng khó lòng. Song cứ tiền là qua hết. Nhà nào có tiền biết điều đó, chạy ngầm biếu tên tổng quản thái giám vài trăm lạng bạc thì hắn để cho qua đi và mới được thoát nạn. Bằng không, thì gia đình không thoát khỏi cảnh sinh ly tử biệt, con gái ra đi mà không hẹn ngày về.

Hồi đó có một viên võ quan phiêu kỵ là Hỉ Tháp Lạp, tuổi đã già nhưng không có con trai chỉ có đứa con gái duy nhất tên gọi Ái Cô. Ái Cô thông minh lanh lợi từ thuở nhỏ, mặt mũi lại xinh đẹp hết sức. Cha mẹ coi nàng như một đứa con trai, nên cho đi học chữ. Ái Cô thông minh, thạo chữ nghĩa lại khéo tay chân, thêu thùa may vá rất giỏi. Nhà nghèo, nàng đem nghề mọn này ra giúp đỡ gia đình sinh sống. Nàng còn mở một ngôi trường dạy trẻ để kiếm thêm tiền, nuôi dưỡng cha mẹ già.

Năm đó, chọn tú nữ vào cung, Ái Cô cũng bị ghi danh trông sồ. Nàng biết điều đó, khóc đến chết đi sống lại. Nàng định đưa cha mẹ đi trốn nhưng lại bị bọn thái giám và quan lại canh chừng, không thể trốn được. Đến hôm lên đường, nàng đành phải từ biệt cha mẹ, theo tên thái giám vào cung, mang theo cả một nỗi buồn đau uất hận.

Bọn tú nữ đứng thành một dãy dài ngoài cửa cung Khôn Ninh, cô nào cô nấy sợ quá, mặt xanh như chàm đổ, nước mắt dàn dụa xuống đôi má. Người ta đếm xem thấy tròn một trăm cô cả thảy. Bọn thái giám sốt ruột, quát bảo câm khóc. Nếu có cô ương bướng không nghe, chúng cầm roi quất ngay vào lưng, vào những làn da non mịn màng. Ái Cô chính mắt thấy cảnh tàn nhẫn đó, trong lòng lấy làm tức giận. Ai ngờ cả bọn xếp hàng đứng suốt từ sáng sớm cho mãi đến lúc chiều tà mà chẳng thấy hoàng đế ra.

Lúc này trời đang đồ lạnh. Ngoài cửa cung lại là khu sân mênh mông, trống trải, gió biển thổi xuyên vào da thịt bọn tú nữ khiến cô nào cô nấy mặt mày xanh lét, da tím lại, răng đập vào nhau cầm cập, toàn thân run bần bật. Bụng các nàng lúc đó đói như cào, lại mót cả tiểu lẫn đại tiện nữa. Có vài ba cô chịu không nối, oà lên khóc nức nở. Tên thái giám cà giận, giơ ngược hẳn cái roi da lên trời lấy hết sức bình sinh quật xuống, mặt hầm hầm dư dằn như cọp. Ái Cô lúc này không thể nhịn hơn được, vội chạy ra nắm lấy cái roi của tên thái giám, dõng dạc nói:

- Bọn tôi lìa bỏ gia đình, từ biệt mẹ cha để tới nơi đây, nếu có được chọn thì suốt đời cũng phải giam cầm nơi thâm cung, không còn được thấy mặt trời nữa, thử hỏi ai mà chả khóc chứ?

Giữa lúc lộn xộn om xòm đó, bỗng nghe mấy tiếng đằng hắng:

- Hèm! Hèm!

Hàm Phong hoàng đế đã tới, cả bọn lập tức im phăng phắc, không nghe một tiếng động nào nữa. Hoàng đế lúc đó vẻ mặt có vẻ tức giận lắm. Cả bọn lại càng phải giữ gìn hơn, không dám động cựa, lộn xộn. Duy chỉ có Ái Cô vẫn nói năng mạnh mẽ. Tên thái giám thấy vậy, khẽ kéo tay áo nàng nhưng nàng vẫn mặc kệ lờ đi. Hoàng đế Hàm Phong thấy hay hay, bèn hỏi xem nàng nói những gì. Tên thái giám đẩy nàng lên trước.

Nàng quỳ xuống tâu:

- Hiện nay bọn giáo đồ Quảng Tây cướp được Nam Kinh, phân nửa giang sơn đã thuộc về tay chúng. Chẳng nghe hoàng thượng cầu tướng soái để bảo vệ cơ nghiệp tổ tiên, trái lại, chỉ tuyển chọn gái đẹp làm khổ dân lành. Rồi đây, Mãn Thanh thiên hạ này sẽ do một tay hoàng thượng dâng cho kẻ khác. Tiểu nữ đến chỗ này không coi sống chết ra gì nữa, dù có búa rìu sấm sét cũng chẳng sợ, chỉ vì tôn kính hoàng thượng mà nói đó thôi.

Hàm Phong hoàng đế đang hầm hầm giận dữ, bỗng nghe Ái Cô nói một thôi những lời lẽ quang minh chính đại, bất giác hết giận làm lành ngây người ra nhìn nàng rồi ngài chợt cười nhạt một tiếng, phất tay áo và bảo:

- Phải! Phải lắm! Cho chúng về hết đi. Ta cũng chẳng thiết nữa!

Viên tổng quản thái giám nghe vậy, chỉ còn việc đưa hết bọn tú nữ về quê. Từ đó, khắp kinh thành ai cũng đều khen Ái Cô là người con gái tài đức song toàn, nhiều kẻ muốn tới để cầu thân. Về sau Ái Cô được gả cho chàng công tử con của một vị thượng thư người Mãn, vợ chồng ăn ở với nhau rất hoà hợp duyên may.

Đúng vào hôm tuyển lựa tú nữ đó, hoàng đế đã cùng hoàng hậu cãi vã nhau kịch liệt. Hoàng hậu thì khuyên hoàng đế nên bỏ chuyện tuyển tú nữ, bà nói:

- Hiện nay miền nam đang loạn lớn. Hoàng thượng lo việc hằng ngày còn chưa xong, còn hơi đâu mà đi tuyển tú nữ nữa?

Câu nói đó khiến hoàng thượng cả giận, cho rằng bà ghen. Hoàng hậu vốn rất hiền đức, bình sinh rất sợ tiếng ghen tuông. Nay nghe hoàng thượng bảo vậy, bà thấy oan cho mình quá, oan mà không cãi nổi, nên bà đành phải tranh biện đôi lời.

Thế là hai ông bà cãi nhau, cãi từ sáng cho tới chiều. Bọn tú nữ đứng đợi ngoài cửa cung lâu đến một ngày là vì thế.

Hàm Phong hoàng đế ra khỏi cung, lại nghe thêm lời nói của Ái Cô, bèn không tuyển tú nữ nữa.

Hàm Phong hoàng đế vốn có tính hơi kỳ cục. Ngài ở trong cung chơi với bọn phi tần chán chê rồi bảo gái Mãn Châu, người thô, xuẩn và không thích nữa. Gái Hán đẹp hơn, chơi vui hơn.

Trong cung Thanh, tuy cũng có vài gái Hán nhưng tư sắc bình thường, hon nữa lại quê miền Trực Lệ, Sơn Đông nên người đã cao lại to, chân cũng lớn nữa. Hàm Phong hoàng đế lại thích gái nhỏ nhắn, và nhất là gái ở phương nam. Ngai thường khen con gái miền nam nhỏ nhắn xinh xinh càng làm cho ngài thêm mê. Chính vì ý nghĩ này, Hàm Phong hoàng đế nhân lúc vắng người thường hỏi dò bọn thái giám xem trong kinh thành có bọn gái điếm miền nam không. Trong số thái giám thân cận, có một tên gọi Thôi Tam, tính rất giảo hoạt. Hắn thấy hoàng đế có ý ra ngoài tìm hoa hỏi liễu, liền ra ngoài phố, lang thang khắp nơi, dò xét tình hình thật rõ ràng đầy đủ để đợi ngài hỏi tới.

Quả nhiên, Hàm Phong lại nghĩ tới bọn gái điếm miền nam. Ngài hỏi thì Thôi Tam hồi tấu:

- Hoàng thượng ngọc thể, thiết tưởng bọn yên hoa hạ tiện ấy làm sao mà bọn nô tài này dám để chúng hầu hạ hoàng thượng. Đừng nói ở kinh thành này, ngay cả ở Tô, Hàng, bọn gái lầu xanh miền nam cũng rất ít. Ví bằng có đi nữa thì những nơi tục tĩu dơ dáy ấy hoàng thượng làm sao mà tới được.

Hoàng đế nói:

- Trẫm mơ tưởng gái đẹp miền nam quá cỡ rồi. Ngươi có cách gì đưa trẫm đi chơi được không? Ngươi chọn những nơi con nhà tử tế để trẫm tới nói chuyện dăm ba câu là đủ thích rồi.

Thôi Tam thấy hoàng đế có vẻ nóng ruột, bèn nói:

- Phía ngoài cửa Tuyên Võ môn, có nhiều quan lại người miền nam. Nô tài một lần đi qua thấy đứng trước cửa, tựa bên tường rất nhiều những cô gái chân nhỏ, cô nào cô nấy tô son điểm phấn chẳng khác gì ngọc chuốt hoa cười, tiếng nói miền Tô, Hằng thỏ thẻ như chim oanh hót buổi ban mai. Đàn bà con gái Tô, Hàng đều có cái thói quen tựa cửa đứng chơi. Bọn thanh niên cũng đúng vào lúc ấy ăn mặc bảnh bao, đạp gót qua chốn này, tha hồ ngắm đến no mắt mới thôi.

Hàm Phong hoàng đế nghe Thôi Tam nói vậy, trong lòng cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, chỉ mong sao tới ngay được cổng Tuyên Võ để dạo chơi một phen. Ngài bèn bảo Tam dẫn mình đi.

Hai người một vua một tôi, cải trang vi hành len khói cung, cưỡi trên lưng hai con bạch mã, chạy thẳng ra cửa Tuyên Võ Khi tới giữa phố, hoàng đế mua một ít giấy và bút mực rồi tự xưng mình là Trần Công Sinh đất Tứ Xuyên. Ngài vào quán ăn điểm tâm rồi chờ cho đến tối mới ra đi. Hai người lên ngựa cho đi thong thả tới đầu phố, quả nhiên thấy hai bên bờ tường có rất nhiều đàn bà con gái, xấu có, đẹp có, già có, trẻ có, người nào cũng trang điểm lộng lẫy như hoa như ngọc, chỉ thò ra ngoài tường nửa mặt như e như ấp, thẹn thùng.

Có cô cậy mình nhỏ chân, kéo quần cao lên một chút để lộ đôi hài mũi, nhọn như cánh hồng lăng. Có cô làm bộ trốn tránh sau lưng người khác, chỉ để một chút má phấn trắng mịn, cặp mắt ngấp nghé nhìn trộm các chàng trai đang lang thang thả bộ trên đường. Rồi khi thấy có người tới, các cô lại rút mình vào phía trong, lấy cánh cửa che mặt, nhưng đợi khi người trai đó đi qua các cô lại thò đầu ra, nhìn theo bóng dáng sau lưng họ, khẽ bình phẩm vài câu.

Hàm Phong hoàng đế từ nhỏ được nuôi dưỡng tại thâm cung, chưa được dịp ra chơi bao giờ. Cho nên lần đầu được thấy phố xá vui vẻ, nhộn nhịp lại có rất nhiều các bà, các cô xinh đẹp, mắt ngài hoa lên. Ngài ngồi trên lưng ngựa thích chí cười vang như nắc nẻ, tưởng chừng cặp môi không thể nào còn ngậm lại được.

Hồi 114

VUA GIẢI TRÍ

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế cưỡi ngựa chạy qua trước cửa một ngôi nhà, thấy có nhiều chàng trai trẻ đi đi lại lại trước căn nhà đó, miệng ca những bản tình ca của đôi trai gai yêu nhau: Ngài nhìn kỹ lại, thì ra ở đầu tường có bốn cô nàng, cô nào cô nấy xinh đẹp như đoá phù dung đượm giọt sương mai, thân hình lả lướt, óng chuốt như cành tơ liễu rũ bên hồ. Trong số bốn cô có một cô nhỏ nhất, tuổi chừng mười lăm mười sáu, sắc nước hương trời, xinh hơn mấy cô kia gấp bội.

Nàng liếc cặp mắt thu ba hết bên này qua bên kia, y như những cái câu móc hồn người. Đôi chân của nàng thật tuyệt! Chúng nhỏ nhắn xinh xinh, vừa nhọn, vừa thon, lại đi một đôi hài bằng vải đoạn hồng có thêu hoa, đặt trên mặt đất chỉ dài có hai tấc. Hàm Phong hoàng đế ngắm nghía một lúc, bật ra tiếng khen:

- Trời! Đẹp thật!

Trước mắt bốn cô gái xinh đẹp nọ, còn có một bà sồn sồn, vừa mắng tụi thanh niên nọ vừa đuổi chúng đi song đồng thời lại làm điệu hết sức tình tứ với bọn chúng: điệu đến nỗi hoàng đế cũng phải ngây người ra nhìn. Hàm Phong cưỡi ngựa chạy đi chạy lại qua cửa nhà này đến ba lần. Bọn gia đình nọ năm người biết ý mắc cỡ đóng cửa đánh ầm một tiếng bỏ vào trong hết.

Hàm Phong hôm đó vào cung mơ tưởng tới người đẹp suốt đêm không ngủ được. Tuy cưỡi ngựa qua lại đến mấy lần nhưng ngài chẳng dám tới gặp mấy cô gái để trò chuyện. Ngài dặn Thôi tổng quản đi dò la xem sao. Thôi tổng quản đi luôn một hơi ba ngày liền mới quay về cung, trông mặt tươi tỉnh lắm.

Gặp hoàng đế, Thôi liền tâu:

- Bệ hạ có biết ngoài cửa Tuyên Võ có một mỹ nhân tên gọi cô Lan Nhi chân nhỏ đó không?

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Trẫm làm sao biết được! Cô Lan Nhi chân nhỏ là ai vậy? Lan Nhi chân nhỏ là thế nào?

Thôi tổng quản lại tâu:

- Bốn cô gái đẹp mà hôm nọ bệ hạ đã gặp, có còn nhớ không? Nô tài đã đi dò la rồi. Bọn gái đó đều là con gái nhà họ Trương, người Tô Châu, cha tên gọi Trương Vân Đài đã từng làm quan đến chức thị lang bộ Hình. Ông Đài ở quê đã có vợ con đầy đàn: nhưng khi tới kinh ông lấy một cô gái lầu xanh về làm vợ bé, sinh được bốn cô gái, rồi bỗng nhuốm bệnh mất. Mụ vợ bé họ Trúc goá chồng giữa lúc mới có bốn chục, cảnh gia đình đã đến lúc cùng quẫn quá rồi. Nhưng nhờ được bốn cô con gái đều đã lớn mà lại đẹp, mụ liền dùng làm chiêu bài để câu bọn ong bay bướm lượn, gái trai cờ bạc, chứa thổ, đổ hồ, kiếm tiền độ nhật. Bọn khách này cũng khoái cái lẳng lơ chơi bời của mụ ta và đều có vẻ quý mến mụ. Bởi thế trong thành Bắc Kinh bọn ăn chơi thảy đều kéo tới đây du hí. Bọn này rất thích bốn cô con gái, nhưng mụ Trúc giữ chặt, không một ai dính được cô nào của mụ cả. Bọn công tử nhà giàu càng thấy khó, càng tung tiền ra như nước. Nhưng mụ Trúc càng thấy chúng chịu xài tiền thì lại càng dấp dính, nhử mồi, nay hứa, mai hẹn mà chẳng tên nào gần được con gái mụ nữa chứ đừng nói đụng tới người. Mụ theo chiến thuật đó, chẳng bao lâu đã có gia tài bạc triệu. Lúc này, khách làng chơi, nếu chẳng phải vương công đại thần, mụ đâu có thèm tiếp Bốn cô con gái, cô lớn tên gọi là Hà Nhi, cô nhì gọi Quế Nhi, cô ba gọi Dung Nhi, cô tư gọi Lan Nhi vừa nhỏ nhắn xinh xinh, vừa duyên dáng tình tứ, lại thêm có đôi chân chỉ dài độ hai tấc nên người thành Bắc Kinh đều gọi nàng là cô Lan Nhi chân nhỏ...

Hàm Phong hoàng đế nghe tên thái giám Thôi Tam kể lể nguồn gốc tới dây, bèn cất tiếng hỏi:

- Có phải cô nàng đứng dằng sau mấy cô chị, má thoa phấn môi tô son, cặp mắt thi liếc bên này bên kia như làn thu ba lóng lánh, mà trẫm thấy hôm nọ đó không?

Thôi tổng quản liền đáp:

- Dạ! Chính phải đó.

Hàm Phong hoàng đế vỗ tay xuống đùi đánh đét một cái nói:

- Tuyệt thật! Một mỹ nhân, tiếng đôn quả chẳng ngoa chút nào. Làm cách nào cho trẫm đến chơi với cô ta một tối đi?

Thôi tổng quản tâu:

- Bệ hạ đừng nóng lòng. Nô tài được biết lão gia Hổ làm thủ quỹ cho tiệm vàng Phúc Ký ở phố lớn vốn bồ bịch với mụ Trúc từ xưa. Nô tài sẽ nhờ lão ta nói giùm.

Hàm Phong hoàng đế nghe tới đây vội hỏi:

- Ngươi dám nói trẫm tới nhà mụ ta chơi gái ư?

Thôi tống quản xua tay bảo:

- Không! Không! Nô tài sẽ nói một vị mộc khách, thương gia tỷ phú tỉnh Giang Tây, lên kinh, nghe Trương gia có bốn cô con gái nên muốn tìm tới chơi và nhờ ông ta giới thiệu giùm.

Hàm Phong hoàng đế gật gù, miệng tươi như hoa, khen lấy khen để. Thói tổng quản thấy hoàng đế khen bèn hứng chí ra đi. Lão thủ quĩ tiệm vàng Phúc Ký được Thôi tổng quản uỷ thác liền tới nhà mụ Trúc thương lượng, qua ngày hôm sau, lão trở về báo Thôi tổng quản y theo lời của mụ Trúc.

- Nếu ông khách nào, đó có lòng thương con gái mụ ta, thì cứ xin mỗi một cô muốn gặp mặt phải bỏ ra năm vạn lạng tiền. Đặc biệt với Lan Nhi phải thêm mười vạn lạng tiền "gia tư (tiền cho để cho khỏi mắc cỡ). Riêng mụ ta phải cho thêm năm vạn lạng nữa. Tổng cộng tất cả là ba mươi lăm vạn lạng bạc, thiếu một cũng không được.

Lão thu quĩ nói tới đây hạ thấp giọng, miệng tủm tỉm cười, ghé sát vào tai Thôi tổng quản nói:

- Còn tớ nữa, cúng xin năm vạn lạng đấy nhé.

Thôi tổng quản vội trở về hồi tấu, Hàm Phong hoàng đế vừa nghe tới con số cộng: bốn mươi vạn lạng bạc một đêm chơi, bất giác lè lưỡi dài như lưỡi rắn ráo, mặt bần thần như chuột rút. Nhưng chỉ trong giây lát ngài đã tươi tỉnh lại ngay, bởi vì ngài nhớ tới bốn cái mặt đẹp như hoa, đôi chân của Lan Nhi chân nhỏ. Thế là lập tức ngài bảo Thôi tổng quản vào kho lấy ngay bạc đưa tới tiệm vàng Phúc Ký. Chẳng mấy chốc Thôi tổng quản đã đem đủ bốn mươi vạn lạng mang đi, trích năm vạn lạng cho lão Hổ thủ quỹ tiệm vàng, còn ba mươi lăm vạn lạng chuyển giao cho mụ Trúc, mẹ bốn cô gái nọ.

Khi không vớ được ba mươi lăm vạn lạng, mụ mừng quýnh, đến phát điên lên. Quả thật, từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến nay mụ chưa bao giờ một cú vớ được nhiều tiền như vậy. Mụ Trúc cười, cười hoài, có lúc cười lên khăng khắc, bởi vì mụ như muốn điên rồi. Thế là mụ ta một mặt giục con mụ tô son điểm phấn, một mặt bảo sửa soạn đón tiếp khách quý.

Đến ngày thứ ba, Thôi tổng quản lẻn đi mướn một cỗ xe, đưa hoàng đế vào ngồi trong, phía ngoài lấy cái vải bố che kín còn mình thì ngồi trên càng xe, lẻn ra ngoài cửa Tuyên Võ, thẳng tới nhà họ Trương.

Tới nơi, Thôi tổng quản đỡ hoàng đế xuống xe, mụ Trúc đón rước vào nhà. Hoàng đế nhìn kỹ mụ Trúc thấy mặt mụ trát đầy son phấn, cặp chân, mày cong vút, bèn cười nói:

- Nương phong vận đỏm dáng thật đáng yêu?

Mụ Trúc nghe nói, nguýt một cái dài đến mấy trượng, giơ cánh tay thon thon trắng trắng vỗ đảnh đét một cái vào vai hoàng đế, một tay che miệng tủm tỉm cười nói:

- Khéo cái miệng trơn cứ như mỡ heo ấy!

Hàm Phong hoàng đế khoái chí, cười phá lên, có lúc nghe lạc đi thành hô hố, ý như tiếng còi lệnh, chân thoăn thoắt bước vào giữa phòng khách, nơi đây trang trí rất lịch sự: sàn lót thảm hoa, trên tường treo đèn lồng đỏ hắt ánh sáng lung linh mờ ảo ra khắp phòng.

Thế rồi, bỗng các đại thần cũng biết chuyện, cả bọn vội vã kéo tới phía ngoài cửa Tuyên Võ để đón giá. Trong chốc lát, mấy căn nhà họ Trương đầy nghẹt cả vương công đại thần.

Trong số có một vị đại học sĩ tên gọi Đỗ Thụ Điền xông thẳng vào nhà sau tha thiết khuyên can hoàng đế. Còn một vị nữa, ngự sử Thẩm Bào Trinh, dâng luôn một tờ sớ đàn hặc Thôi tổng quản, nói họ Thôi dám đưa hoàng đế đi chơi bời bậy bạ, xin hoàng đế giao nội vụ phủ dùng gậy đánh chết.

Nào ngờ vị phong lưu thiên tử ấy mê say năm mẹ con nhà mụ Trúc đến cái độ bất chấp cả triều đình can gián, chẳng chịu về cung. Thôi tổng quản hoảng quá, vội chạy vào nói nhỏ với ngài:

- Xin thành thượng hồi cung cho. Thánh thượng cứ giao phó bốn cô này cho nô tài. Trong ba ngày nô tài thế nào cũng thu xếp đưa cả vào vườn Viên Minh. Lúc đó thánh thượng tha hồ muốn vui chơi lúc nào lại chả được, còn ai dám tới quấy rầy thánh thượng nữa.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, xua tay báo:

- Chớ! Chớ có đưa về vườn Viên Minh. Ở đấy đầy những "hũ dấm" (ám chi các bà hay ghen). Chớ có đưa về đó mà khổ cả.

Thôi tổng quản suy nghĩ một lát, rồi dập đầu tâu:

- Nô tài biết một chỗ rất u tĩnh, cách vườn Viên Minh không xa. Xin thánh thượng cho bốn chị em họ Trương ở đó là tất nhất. Trong ba ngày, thế nào nô tài, cũng xin xếp đặt nơi ấy ổn thoả, lại sẽ đưa thánh thượng tới đoàn tụ. Việc trước tiên lúc này là mời thánh thượng hồi cung đã. Nếu không thì cái đầu lâu của nô tài không còn có cách chi bảo đảm được.

Hàm Phong hoàng đế thấy Thôi tổng quản cầu khấn quá đỗi bèn hứa hồi cung.

Bên ngoài đã bày đặt lọng giá sẵn sàng. Lúc lâm biệt ngài còn bịn rịn chẳng muốn rời tay. Nhưng cuối cùng cũng đành dứt áo ra đi. Phía ngoài văn võ triều đình đón rước, đỡ hoàng đế lên xe loan. Bỗng ngài sực nhớ ra một điều gì đó, bèn vội gọi Thôi tổng quản đến trước xe loan dặn nhỏ một câu:

- Ngươi thu xếp cho bốn chị em họ Trương, chớ có quên mụ Trúc đấy nhé. Mụ ta hay tuyệt, hiếm có đó!

Nói xong, ngài cười sằng sặc, vang cả khu phố. Ba mươi hai tên phu kiệu ghé vai vào, chạy một mạch ngài về cung.

Hàm Phong hoàng đế trở về, Hiếu Trinh hoàng hậu chẳng dám khuyên can lấy một lời chỉ vì bà sợ mang tiếng là người ghen tuông nhỏ nhen. Nhưng đám phi tần khi thấy ngài lại đem lòng oán hận. Biết vậy, ngài cũng mặc kệ, chẳng thèm để ý đến.

Ba hôm sau, Hàm Phong hoàng đế lại võng lọng tới vườn Viên Minh. Trong vườn, tất nhiên đã có một bọn phi tần đứng đón.

Giữa lúc ngài đang trỏ chuyện với bọn phi tần, thì bỗng Thôi tổng quản bước tới, khẽ kéo ống tay áo làm hiệu. Tức thì ngài theo viên thái giám bước ra khỏi cửa Tảo Viên môn, đi thẳng về phía tây, quanh qua một góc đường, đến một khu rừng thông cao rậm âm u. Thôi tổng quản đi trước, quanh qua phật điện, bước sang cái cửa ngạch phía tây, tới một rừng trúc. Hai người đi qua khu rừng trúc thì thấy một dãy tường sơn trắng lộ ra một cái cửa tò vò. Bước qua cái cửa đó, hai người lại thấy một dãy bức màn tượng che khuất sau gian tịnh xá, phía ngoài rèm treo mấy cái lồng chim yểng. Khi có người tới chúng hót vang lên: "Có khách! Có khách!". Người nhà phía trong nghe tiếng chim hót, vén rèm bước ra.

Hàm Phong hoàng đế chú ý nhìn thì ra là mụ Trúc. Ngài nhảy chồm lên trước, nắm lấy tay mụ, bá vai mụ bước vào nhà. Từ phía trong, bốn chị em Hà, Quế, Dung, Lan cũng bước ra đón ngài, vây chung quanh thăm hỏi rối rít như đàn chim.

Hoàng đế hai tay kéo bốn cô kéo xuống giường, quay đầu lại hỏi Thôi tổng quản chỗ này là nơi nào. Họ Thôi hồi tấu:

- Đây chính là Thiên Phật tự, xưa vốn là một vương phủ. Về sau vương gia này không con nối dõi, nên đem sửa làm chùa. Hiện nô tài đã cho đuổi hết bọn sư Lạt Ma đi chỗ khác, và đưa hai mươi tên thái giám từ vườn Viên Minh lại để chầu chực hầu hạ. Xong đâu đấy, nô tài mới ra ngoài đưa bốn vị cao nương tới đây để hoàng thượng sớm tối lâm hạnh, như thế có phải tiện lợi không.

Hàm Phong hoàng đế gật đầu nói:

- Người thực vất vả quá vì ta. Ta thưởng cho người một vạn lạng bạc nhé!

Thôi tổng quản lĩnh thưởng xong lui ra, chạy tới kho nhận bạc. Còn hoàng đế tử đó nằm chơi liên miên với bốn chị em nhà mụ Trúc, chẳng thèm để ý tới việc về vườn Viên minh nữa.

Hồi 115

TÌM GÁI GÂY CHUYỆN

Hồi này, thế lực của quân tóc dài ở miền nam càng ngày càng mạnh. Hồng Thiên hoàng sau khi cướp được Nam Kinh rồi liền phát một đạo binh đánh Trấn Giang. Bọn quân lính Mãn Châu ở Trấn Giang, chẳng bắn lấy một mũi tên, bỏ thành trì chạy sạch.

Đoàn quân tóc dài lại cướp thêm Dương Châu. Viên tướng thống soái quân tóc dài lúc đó là Lâm Phương Tường.

Tường xung trận rất oai hùng, cướp được một hơi, nào phượng Dương của tỉnh An Huy, nào Quy Đức của tỉnh Hà Nam, lại vượt sông Hoàng Hà chiếm Hoài Nghĩa. Nhưng đến đây, Tường bỗng chuyển hướng, đánh thốc lên tỉnh Sơn Tây, đánh Trúc Lệ, cướp Bình Giá. Tường chiếm Cao Thành, sau đó đánh phá Thâm Châu, rồi dọc sông Vận Hà, đánh lấy cả một dải miền Tĩnh Hải...

Ngoài đạo quân trên, Hồng Thiên hoàng còn sai một đạo quân khác đánh cướp hết các vùng Niêm Tổ, Liêm Trấn, Phụ Thành... Thế là quân tóc dài càng ngày càng xích lại gần kinh đô, quan quân toàn thành cũng như văn võ đại thần được tin tức này ai nấy đều hoảng hốt sợ hãi.

Tiếp sau đó sớ tâu bầy thành trì miền nam thất hãm liên tiếp bay về kinh như bướm. Nơi quân cơ tiếp được công văn, vội đưa vào cung bất kể ngày đêm.

Nhưng lúc đó hoàng đế đang mải mê trong đám váy yếm, chẳng thèm để ý tới triều đình thì biết làm thế nào? Bọn đại thần hoảng hốt lo sợ chẳng biết xoay sở ra sao, chỉ còn cách ngày ngày ngồi đợi ngoài cửa ngọ môn. Họ ngồi đã mỏi đít mòn trôn mà vẫn chẳng thấy thánh chỉ hạ xuống.

Đệ nhất quân Bắc phạt của Hồng Thiên hoàng thắng lợi. Tiếp đó Hồng sai hai chiến tướng Cát Vân Nguyên và Lý Khai Phương điều động lộ quân thứ nhì cũng hướng bắc chinh phạt.

Đệ nhị quân này đánh thẳng một mạch suốt An Khánh, Đông Thành, Thư Thành, những châu quận phồn hoa náo nhiệt nhất, sau đó lại đánh luôn cả Lư Châu. Tuần phủ An Huy là Giang Trung Nguyên chết trận tại Lư Châu. Thanh thế của đệ nhị quân cũng vang dậy trong ngoài. Tiếp theo họ đánh chiếm Lục Hợp, Lâm Thanh, Châu Đường, Cao Châu.

Hiếu Trinh hoàng hậu một mặt cấm chỉ mọi người không được huyên náo, một mặt cho gọi Thôi tổng quản tới. Bà dám chắc chỉ có hắn là biết hoàng thượng nơi đâu. Bà quát bảo trói gô Thôi lại giao cho nội vụ phủ khảo vấn:

- Trước đây, hoàng thượng xuất cung đi chơi, là do chính mi dụ dỗ đưa ngài đi. Ngày nay cũng lại là mi chứ chẳng phải ai khác.

Thôi tổng quản chịu không nổi cực hình, đành phải cung khai ra hoàng thượng đang ở Thiên Phật tự. Nội vụ phủ liền sai áp Thôi tổng quản tới chùa Thiên Phật, quả nhiên tìm thấy hoàng thượng. Hàm Phong hoàng đế hỏi lý do tại sao thì Thôi tổng quản kể chuyện hoàng hậu nổi giận bắt trói hắn đưa tời cho Nội vụ khảo vấn tra tấn. Hoàng đế nghe nói vậy, biết không còn thể giữ bốn chị em nhà mụ Trúc được nữa, bèn ra mặt hồi cung. Đồng thời truyền thả Thôi tổng quản rồi rỉ tai bảo hắn đưa bốn chị em nhà kia ra mé sông ngoài Cấm thành ở tạm.

Hiếu Trinh hoàng hậu thấy hoàng đế về cung bèn quỳ xuống khuyên can. Bà nói:

- Hiện nay, quân vụ biến loạn, hoàng thượng có lo ngày đêm, còn lo chưa xuể. Thế mà tại sao còn tự ý đi tìm vui một mình, gác hết mọi việc triều chính như vậy?

Hoàng đế nghe xong cười khì khì đáp:

- Trẫm nhân việc nước lo phiền, ở trong cung buồn quá, nên xuất kinh vài hôm đi săn đó thôi, nàng hoảng hốt nóng nảy làm gì?

Nói đoạn, ngài bước ra khỏi cung Khôn Minh về ngự thư phòng. Ngài thấy sớ tấu chất trên án thư cao như núi. Cầm lên xem thì toàn những bản tấu cấp báo các nơi thất thủ gọi về. Ngài giật mình vội triệu tập toàn thể vương công đại thần mở Ngự tiền hội nghị bàn tính đến mấy canh giờ liền mới quyết định được một số việc phải làm. Ngài lập tức truyền chỉ phái Binh bộ thượng thư Bảo Thắng đích thân chỉ huy đại quân tới Bình Giã chống một lộ của quân tóc dài lại sai Thân vương Khoa Nhĩ Bí Mông Cổ tên là Tăng Cách Lâm Bị thống lĩnh kỵ binh địch lại một lộ khác ở Liêu Trấn.

Cả hai người đều là chiến tướng, vâng lệnh hoàng đế, hăng hái xuất quân. Chẳng bao lâu, Bảo Thắng quả nhiên đánh bại quân tóc dài, lấy lại một dãy Cao Thành, Tăng vương cũng thu phục được một dãy Phụ Thành. Tăng vương còn dùng kế sách của đạo viên Trương Tấn Tường, phá vỡ đê sông Vận Hà để rót nước vào doanh trại quân tóc dài do Phùng Quang Đồn chỉ huy cho chết chìm hết. Tướng Lý Khai Phương của đoàn quân tóc dài tới đại doanh của Tăng vương đầu hàng.

Tăng vương dùng tù xa nhốt Phương đưa về kinh. Hàm Phong hoàng đế truyền dụ đưa Phương ra trướng bên mé tây thành chặt đầu. Từ đó, quân tóc dài lộ thứ nhất cũng như lộ nhì đều phải trốn về Nam Kinh.

Thấy đất nước có vẻ thái bình rồi, Hàm Phong hoàng đế lại nhớ đến những giây phút mê ly bên người đẹp. Ngài lại ngầm gọi Thôi tổng quản tới hỏi xem bốn chị em nhà mụ Trúc có còn đó không. Thôi tổng quản lắc đầu nói:

- Sau khi hoàng thượng bảo nô tài đưa họ ra ở mé ngoài cấm thành thì ít lâu sau họ đều lấy chồng quan lớn làm phu nhân cả mất rồi.

Hàm Phong hoàng đế nghe nói đành nuốt nước miếng, than tiếc, chứ còn biết làm cách gì hơn. Thôi tổng quản biết hoàng đế trong lòng chẳng thể nào vui được.

Cách mấy hôm, bỗng Thôi tổng quản hí hửng chạy tới trước mặt hoàng đế, khẽ bảo ngài:

- Gần đây nô tài nghe tin ở mé nam thành có một mỹ nhân tên gọi Băng Hoa, lại còn gọi là Cái Nam thành.

Hoàng đế nghe nói, tỏ vẻ ngạc nhiên, liền hỏi:

- Tại sao lại gọi là Băng Hoa?

Thôi tổng quản đáp:

- Chỉ vì nàng ta sắc đẹp như hoa mà tính lại lạnh như băng khiến chẳng ai dám đùa cợt gì. Ví thử có mấy tiên du côn lãng tới trêu ghẹo thì thế nào cũng bị nàng mắng nhiếc đến phải bỏ đi. Do đó, mọi người mới dành cho nàng cái tước hiệu Băng Hoa.

Hoàng đế nghe xong gật đầu, lại hỏi:

- Tại sao lại gọi Cái Nam thành?

Thôi tổng quản tâu tiếp:

- Đó là vì nàng đẹp quá, đẹp có thể trùm lên trên trên hết bọn chị em suốt một dãy cửa Nam thành.

Hoàng đế nghe giải thích xong nhảy bỗng lên, tỏ vẻ khoái chí nói:

- Đã có thứ người đẹp đến thế thì trẫm phải đi thăm một phen mới được.

Thôi tổng quản vội ngăn lại nói:

- Hoàng thượng nên cẩn thận! Nàng là người đàn bà có chồng. Nhà nàng lại mở một tiệm bán hài đinh ở một đường phố hết sức náo nhiệt, e khó có thể lọt vào tay được.

Hoàng đế nói:

- Trâm không tin, để trẫm đi xem cái đã. Trẫm quyết làm cho Băng Hoa hoá thành Đào Hoa, khiến nàng phải vào cung bầu bạn với trẫm vui ngày đêm mà gây khoái lạc.

Nói đoạn ngài giục Thôi tổng quản thắng ngựa. Ngài cải trang thành một chàng công tử con nhà giàu, lẻn khỏi cung, nhảy lên ngựa. Cùng với Thôi tổng quản, hai người một trước một sau, chạy ra ngoài cửa Nam thành.

Ngài thấy một căn nhà nhỏ mở tiệm bán giày đinh, trong có một gã đàn ông hói đầu, râu quai nón mọc tua tủa, nằm bò trên mặt ghế khâu giày, mà không thấy người con gái nào cả. Hai người đi qua đi lại trước nhà đến mấy lần, cố ý nhìn xem người đẹp đâu, nhưng tuyệt nhiên không thấy nàng ta bước ra, Hàm Phong cụt hứng, chẳng biết làm cách nào, đành tiu nghỉu trở về.

Qua ngày thứ hai, hai thầy trò lại ra đi, cũng không thấy như lần trước. Nhưng lại dò la biết được gã đàn ông hói đầu nọ chính là chồng của nàng ta.

Hoàng đế thở than thành tiếng:

- Một cành hoa đẹp như thế kia mà đem cắm vào bãi cứt trâu!

Qua ngày thứ ba hoàng đế lại đi lần nữa. May thay lần này ngài đã thấy được nàng, may hơn nữa là lần này không thấy tên đàn ông nọ trong tiệm mà chỉ có một đứa gái nhỏ đầu bù tóc rối đang ngồi bên cạnh quay hàng giặt áo mà thôi.

Hoàng đế và Thôi tổng quản nhảy xuống ngựa, nhanh chân bước vào tiệm. Chỉ thấy bùn lầy khắp mặt đất, mùi hôi thối xông lên mùi nồng nặc. Hoàng đế chưa bao giờ tới một nơi ô uế dơ dáy như vậy nhưng chỉ vì gái mà đành phải bước liều vào trong.

Người con gái thấy khách hàng vào vội bỏ cái áo đang giặt xuống, giơ hai tay nước còn nhỏ ròng ròng; một mặt xốc cái cheo áo cao lên, một mặt bước lên nhà trên gọi người bán hàng.

Hoàng đế nhìn mặt nàng, quả nhiên thấy da trắng như tuyết, đôi mày dài cong vút, thật chẳng khác gì một pho tượng Phật Quan Âm. Ngắm đến tay nàng, ngài thấy nó trắng nõn lại mũm mĩm xinh xẻo lạ thường, tuy làm lụng suốt ngày nhưng tuyệt nhiên không có một nếp nhăn hoặc một vết sẹo nào.

Ngài lại nhìn tới thân hình nàng. Thật là một tấm thân vừa phải, không có chỗ chê! Đứng trước pho tượng thiên nhiên đó, vị hoàng đế phong lưu tài hoa nọ mặt thộn ra, mắt gần như không chớp nổi.

Thôi tổng quản giả trang làm một kẻ mua giày bước tới trả giá với nàng. Hoàng đế đứng bên cạnh tha hồ nhìn. Ngài không cầm nổi lòng nữa, bèn lên tiếng nói nhỏ với nàng.

- Ngày hôm trước, tôi có lại đây thăm nàng mà không gặp, vậy nàng đi đâu thế?

Người con gái hình như không nghe thấy, cứ lẳng lãng cúi đầu lựa giày chọn dép cho Thôi tổng quản.

Hoàng đế lại hỏi tiếp:

- Người chồng đầu hói của nàng hôm nay đi đâu?

Đến lần này thì nàng ta đã tỏ ý giận, quay mặt đi chỗ khác, chẳng thèm để ý tới hoàng đế. Ngài đến phút này mật xem ra đã lớn, liền thò tay qua quầy hàng nắm lấy tay nàng.

Nàng bỗng nổi giận như điên, cầm ngay chiếc hài đinh trong tay, thẳng cánh giáng một cái vào mặt hoàng đế. May Thôi tổng quản lẹ tay ngăn được.

Nàng ta giận càng sôi lên, cặp chân mày dựng ngược, kêu ầm lên, cả phố nghe thấy. Dân chúng đổ xô ra đông nghẹt, ai cũng đều mắng chửi:

- Giữa thanh thiên bạch nhật mà dám chọc gái, thật là khốn kiếp! Bọn mình đập bỏ mẹ nó đi!

Thế rồi một kẻ nói đánh hai kẻ nói đánh, cuối cùng cả đám đông quát rầm lên đòi đánh. Thôi tổng quản thấy câu chuyện đâm ra gây cấn, vội tuốt kiếm trong mình ra, đứng chặn ngay trước cửa không cho kẻ nào vào. Đám đông thấy Thôi tổng quản tuốt kiếm lại càng tức, nhất tề quát lớn:

- Thằng khốn kiếp! Cầm đao với tuốt kiếm, mi không còn coi phép nước luật vua ra gì nữa hả? Đánh bỏ mẹ nó đi!

- Đánh! Đánh! Anh em!

Cả một đám đông gậy gộc giơ lên tua tủa xông tới cửa tiệm. Hoàng đế thấy nguy quá rồi, vội nhảy lên mặt quầy hàng, vung đôi tay giật lấy giày đinh, hài đinh treo trên kệ liệng ra ngoài. Một số bị ngài ném trúng lỗ đầu sứt tai, máu chảy lênh láng. Đám đông bên ngoài lại càng tức. Họ lượm những chiếc hài, chiếc giày ngổn ngang dưới đất ném lại.

Hàm Phong hoàng đế hồi thiếu thời đã có luyện qua nghề võ, biết cách tránh né nên đều thoát cả. Trong nháy mắt căn tiệm thì thấy giày hài bay qua bay lại như bươm bướm. Thôi tổng quản đứng chặn cửa nẫy giờ bị ném vỡ đầu, máu cũng chảy xuống xối xả. Thế này mà y vẫn cầm kiếm đâm lia lịa.

Đám đông bên ngoài thấy lưỡi kiếm của Thôi tổng quản quá lợi hại, người nào cũng sợ chết, không dám nhảy vào nữa.

Giữa lúc nguy cấp quá đỗi bỗng nghe tiếng thanh la khua vang, cả bọn la lên:

- May quá! Quan tuần hành ngự sử đã tới!

Tiếng ồn ào bỗng im bặt. Quan ngự sử thấy đám đông đánh nhau vỡ đầu sứt tai, máu chảy lênh láng, nào gậy nào gộc nào dây nào nhợ vứt ngổn ngang, bèn cả giận quát lớn:

- Bắt lấy nó!

Bọn sai dịch nghe lệnh tức thì xông vào, tính cột cổ hoàng đế. Nhưng hoàng đế ngài cứ ngồi ngất ngưởng trên quầy hàng, chỉ nhếch mép cười.

Thôi tổng quản thấy bọn sai dịch xông vào, bèn nhào tới trước kiệu quan ngự sử. Lúc đó ông này mới nhận ra là viên thái giám tổng quản trong cung. Được Thôi tổng quản thì thào mấy câu, quan ngự sử cuống quýt nhảy xuống kiệu chạy vội vào tiệm, quỳ mọp dưới chân quầy hàng chắp tay lạy.

Đám đông dân phố thấy vậy, biết là tai vạ tày trời đã tới, anh nào anh nấy tháo chạy tán loạn.

Hồi 116

HỒNG TÚ TOÀN XÂY CẤT KINH

Đô Tuần thành ngự sử lạy xong, nhường ngay kiệu của mình để hoàng đế trở về cung, sau đó quay sang Thôi tổng quản hỏi thăm tình hình cơ sự ra sao? Thôi tổng quản bèn đem chuyện hoàng đế nghe tiếng Băng Hoa xinh đẹp nổi tiếng nên đích thân tới xem, rồi nói đùa vài câu khiến nàng nổi giận hò la xóm giềng tiếp tay, gây chuyện om sòm. Viên tuần thành ngự sử đã mười năm nay không được thăng quan, nghe Thôi tổng quản nói liền, nghĩ tới cơ hội đã đến. Thế là y một mặt an ủ Thôi tổng quản, một mặt vỗ ngực nói:

- Đại gia khỏi bận lòng, việc này xin để cho hạ quan lo liệu. Hạ quan xin với đại gia là chỉ trong ba ngày thế nào hoàng thượng cũng được như ý.

Sau đó y thấp giọng xuống thì thầm với Thôi tổng quản:

- Đại gia về cung, xin cho hạ quan vài ba lời khen trước mặt hoàng thượng nhé

Thôi tổng quản nghe rồi, gật đầu bước đi. Quan tuần thành ngự sử lúc đó mới làm le, quát tháo rùm lên, hạ lệnh bắt hai vợ chồng tên chủ tiệm giày về nha thẩm vấn.

Anh chủ tiệm giày chồng nàng Băng Hoa vừa từ ngoài về, nghe quan tuần thành ngự sử hô lính trói mình, hoảng hồn vía, sợ quá run lên bần bật, khóc lóc xin tha. Chỉ có người đẹp Băng Hoa là chẳng sợ chút nào. Nàng nói:

- Đi thì đi! Bọn mình có phạm phép nước luật vua gì đâu mà sợ.

Thế là hai vợ chồng anh hàng giày đóng cửa tiệm lại, nhờ vả xóm giềng coi giùm, rồi theo bọn sai nha tới dinh. Quan ngự sử chiếu lệ hỏi qua một lượt, không định tội mà cũng chẳng cho hai vợ chồng Băng Hoa về. Lại còn cho giam mỗi người một nơi.

Giam đến ngày thứ ba, bỗng có hai bà nọ tới lãnh Băng Hoa đem về mật thất, cho nàng tắm rửa bằng nước thơm sạch sẽ rồi lấy cho nàng mặc một bộ đồ bằng gấm tuyệt đẹp. Băng Hoa lấy làm lạ vội hỏi căn do thì hai bà nọ bảo:

- Hoàng thượng biết nàng là người trinh trắng trong sạch nên bảo thưởng cho nàng một bộ đồ, tắm rửa sạch sẽ đi rồi đưa nàng về tiệm.

Băng Hoa nghe nói mừng rỡ lắm liền trang điểm lại cẩn thận. Không ngờ trang điểm xong thì nàng trở nên một mỹ nhân vô cùng xinh đẹp, khiến ai thấy cũng phải mê. Hai bà nọ ở bên cạnh khen lấy khen để nói:

- Người đẹp như thế kia, đến con mụ già này cũng phải mê chả trách hoàng thượng mới vừa thấy đã phải ngứa ngáy tay chân rồi.

Câu nói đùa đó khiến Băng Hoa mắc cỡ đỏ mặt. Nàng nói:

- Đừng có đùa nữa!

Lát sau một chiếc kiệu được đem tới. Hai bà nọ đỡ nàng lên kiệu, bỏ bức màn xuống, bốn bên đều có lụa che phủ kín mít, ngồi bên trong nhìn ra chẳng thấy được gì.

Đoàn phu kiệu chạy một lúc lâu mới đỗ lại. Hai bà nọ liền bước lại tháo bức màn che, đỡ nàng xuống đất. Băng Hoa đưa mắt nhìn quanh, chỉ toàn thấy bọn đàn bà mặc Kỳ trang (ăn mặc quần áo kiểu Mãn Châu), tô điểm xanh đỏ cùng mình, cô nào cô nấy, bà nào bà nấy chỉ đều trố mắt nhìn mình như để lường phỏng điều gì, âm thầm lặng lẽ, chẳng nói một câu nào.

Nàng lại nhìn về phía trước, thấy ngôi nhà rộng lớn lắm, suốt một dãy tường vàng chói có một dãy hành lang dài. Về mặt chính bắc có một toà cung điện đồ sộ huy hoàng hết chỗ nói.

Băng Hoa lòng đầy hoài nghi, vội hỏi:

- Nơi này là nơi nào vậy? Bà đã bảo là cho tôi về tiệm tại sao lại đưa tới chốn này?

Hai bà nọ nghe nàng nói bèn đáp:

- Nàng đừng sợ! Đây là nơi cung cấm đó. Hoàng hậu nghe tiếng nàng đẹp nên cho đưa vào cung để gặp một chút cho biết đẹp đến thế nào, xong tức khắc đưa, nàng về tiệm ngay.

Băng Hoa nghe đoạn làm thinh chẳng biết nói gì hơn.

Hai bà nọ đỡ nàng theo đường sỏi đi vào nhà. Nàng chỉ thấy phía trong màn gấm treo đầy trên cửa sổ sơn quét toàn một màu hồng. Bàn ghế trong nhà đều một màu đỏ như son. Trên giường căng màn bằng the màu quý, lót bằng nệm gấm hoa năm sắc, có bức bình phong vẽ những người đàn bà ăn mặc hết sức đẹp đẽ.

Hai bà nọ đưa nàng tới ngồi vào một ghế to và êm ái trước gương Sau đó, có hai cung nữ bưng trà lên cho nàng uống.

Băng Hoa đến lúc này mới biết mình đã bị hai bà nọ lừa vào cung để làm phi tử. Nàng đứng phắt dậy nói:

- Tôi đi về đây.

Bọn cung nữ hai bên bước tới ngăn lại. Sau đó, Hàm Phong hoàng đế tử phía trong bước ra, đi thẳng tới trước mặt nàng, cầm lấy tay, miệng luôn luôn gọi:

- Mỹ nhân! Mỹ nhân đừng buồn lòng nhé.

Băng Hoa tự biết mình đã lọt vào cạm bẫy của họ, bèn nhè lúc mọi người không đề phòng, xông tới cây cột lớn, húc mạnh vào, máu tươi chảy ra lênh láng.

Hàm Phong hoàng đế thấy vậy nói hai tiếng "Đáng thương, đáng thương!" luôn miệng, rồi rút lui khỏi căn phòng. Ngài còn dặn mấy mụ quản sự chịu khó săn sóc dưỡng thương cho nàng, ít hôm sau ngài sẽ tới thăm.

Băng Hoa lúc đó mê man bất tỉnh. Bọn cung nữ vực nàng lên giường băng bó vết thương, và đứng quanh giường chầu chực chờ đợi. Một lát sau, Băng Hoa tỉnh lại. Mụ quản sự ngồi cạnh khuyên giải. Mụ bảo nàng:

- Trời cho nàng sắc đẹp nhường ấy, thì phải lấy một người chồng giàu sang phú quý, hưởng một cuộc đời giàu sang vinh hiển, có thế mới không hổ mình là phận gái má đào. Được thánh thiên tử ngài đa tình đưa nàng vào cung, trăm chiều cưng quý lại sợ nàng giận tức nên không dám gần gũi. Nàng được hưởng đủ mùi phú quý vinh hoa, sủng ái hết mức, thử hỏi liệu nàng có sung sướng hơn cái lúc mà nàng còn ở trong tiệm giày, đói rách khổ sở không?

Những lời khuyên giải này, lúc đầu, Băng Hoa chẳng thèm để ý tới, nhưng lâu về sau cũng thấy có vẻ hợp tình hợp lý.

Thế là nàng đã quyết định và bảo mụ quản gia yêu cầu cho gặp lại người chồng cũ một lần để xem anh ta có cho đi lấy chồng khác hay không, nếu không thì thà chết chứ nhất định không chịu thất tiết.

Mụ quản gia đem lời Băng Hoa tâu lại với Hàm Phong hoàng đế. Ngài bằng lòng cho vào cung gặp mặt vợ. Lúc đó, anh chồng hói đầu của Băng Hoa đã được vào làm thị vệ quan (quan hầu) trong Loan nghi vệ. Khi gặp nhau, Băng Hoa thấy chồng mình mũ áo đàng hoàng, ăn mặc oai vệ, thì chi còn biết khóc lóc thương xót cho cả hai. Nhưng anh chồng hói đầu của nàng lại bảo nàng:

- Duyên số vợ chồng ta đến đây hết rồi. Nàng ở trong cung nên hầu hạ hoàng thượng cho chu đáo.

Băng Hoa nghe xong, thở dài nói:

- Vậy thì chàng cũng nên cố gắng làm quan cho chu đáo!

Thế rồi một đêm êm đềm lặng lẽ, hoàng đế tới cung lâm hạnh với người đẹp Băng Hoa, qua ngày sau, người ta đã thấy Băng Hoa được phong làm quý nhân.

Hàm Phong hoàng đế bị Băng Hoa làm cho mê tơi, liền mười mấy ngày chẳng thèm hỏi tới triều chính. Bên ngoài, văn thư khẩn cấp bay như bươm bướm, chất đống cao như núi.

Lại nói Thái Bình Thiên quốc hồi đó đã đóng đô tại Nam Kinh chiếm được tới tám tỉnh. Trong triều Thanh văn võ đại thần anh nào anh nấy mật teo lại hết, chẳng có chủ kiến gì.

Hiếu Trinh hoàng hậu cũng vô phương, chỉ còn cách chạy tới tam cung của hoàng đế, quỳ bên phía ngoài đọc "Tổ huấn".

Hoàng đế thấy vậy không còn cách nào nằm liều được nữa, đành phải nhỏm dậy trở về xem xét mọi việc triều đình qua quýt cho xong. Rồi chớp mắt ngài lại đã chui tuột vào cái tổ ấm của Băng Hoa mặc cho bọn đại thần khuyên can, chẳng thèm để ý tới.

Trong khi đó ở miền nam, Thái Bình Thiên quốc càng ngày càng mạnh. Hồng Thiên hoàng lại bỏ ra sáu trăm vạn lạng bạc, xây cất một toà cung điện hết sức rộng lớn ở Nam Kinh.

Trung vương Lý Tư Thành cùng Hồng Thiên hoàng đích thân đề mấy câu đối, chữ viết dõng dạc đàng hoàng lắm. Một câu viết như vầy:

"Duy hoàng đại đức viết sinh, dụng Hạ biến Di, đãi kha Âu Mỹ Phi Úc tứ châu nhân, quy ngã bản đồ nhất nãi thống"

(tạm dịch: chỉ có Hoàng đại đức sinh, dùng Hạ mà biến Di, đợi khi đuổi hết bọn người Âu Mỹ Phi Úc bốn châu để thống nhất bản đồ về một mối).

"Từ văn chỉ qua vi võ, bát loạn phản chính tận diệt Lam, Bạch, Hồng, Hoàng, Bát Kỳ tịch, hết chư phiên phục thiên tư niên"

(Hãy lấy văn mà làm võ, dẹp loạn đem lại điều ngay, diệt hết xanh, trắng hồng vàng tám loại cờ, bắt bọn phiên bang hải khuất phục ngàn năm).

Câu đối thứ nhì viết như vầy:

"Tiên chúa bản nhân từ hậu tứ lục lại tham quan, đoạn tốn lục thật vương thống tự.

Mao cung thực tâm đức, trượng nhi mưu thần chiên tướng trùng tâm thập bát tỉnh giang san".

(Tạm dịch: Tiên chúa vốn nhân từ, giận bọn tham quan ô lại làm đứt dòng nối của sáu mươi bảy vua. Mao cung thật đức độ cậy nhờ các mưu thần chiến tướng, đổi mới non sông mười tám tỉnh).

Câu thứ ba là:

"Độc thủ kình thiên, trung chính Đại Minh tân khí tượng.

Đan tâm báo quốc, tảo trừ dị tộc cựu y quan".

(Một tay chống trời sửa lại cho nhà Đại Minh, có một bộ mặt mới. Lòng son đền nợ nước, quét hết những đồ quần áo cũ của bọn khác họ), (Khác họ đây chỉ nhà Mãn Thanh).

Câu thứ tư:

"Hổ Bí tam thiên, trực tảo U, Yên chi địa. Long phi cứu ngũ, trùng khai Nghiêu, Thuấn chi thiên"

(Với ba ngàn quân Hổ Bí, ta đánh thắng tới đất U, Yên.

Số năm, chín rồng bay ta lại mở cõi trời Nghiêu, Thuấn).

Trong phòng ngủ, Hồng thiên vương cũng có một đôi câu đối như sau:

"Mã thượng đắc chi, mã thượng trị chi! Tạo ức vạn niên Thái Bình Thiên Quốc ư cung đao phong trích chi gian, tư thành kiến dã.

Đông diện nhi chinh, Nam diện nhi chinh, cứu trấp nhất tỉnh vô tội thần dân như thuỷ hoả đảo huyền chi hội, thi vị nhân nhân"

(Cưỡi trên ngựa mà được, ngồi trên ngựa mà cai trị, tạo lập nước Thái Bình Thiên Quốc lâu đài ức vạn nằm giữa chôn cung đao mũi lưỡi, ấy thực là người giỏi đó.

Quay mặt về phương đông mà đánh, quay mặt về phương nam mà đánh, cứu giúp hai mươi mốt tỉnh dân vô tội thoát vòng nước lửa bỏng sôi, đó chính là người nhân vậy).

Bắt chước Hồng Thiên vương, bọn chư vương cũng cho xây cất vương phủ. Ngoài vương phủ có hai cửa viên môn, ba cổng đại môn, cao đến vài trượng. Trên bức tường xây cửa đều có vẽ long vẽ hổ đủ năm mầu sắc. Bước qua cổng phủ, vào trong thấy ngay một con đường chạy chính giữa. Giữa con đường đó, có xây một cái đài cao hai bên treo chừng mấy chục cái thanh la để môi khi bên ngoài có chuyện gì xảy ra, thì đánh thanh la báo hiệu. Bên trong phủ, cấm không cho một người đàn ông nào vào.

Cửa cung của Thiên hoàng, trên cổng cao treo một tấm biển đề Vinh Quang môn, cổng thứ nhì treo một tấm biển đề Thánh Thiên môn. Hai bên là hai hàng dậu gỗ sơn son, trên mặt những hàng dậu này có rất nhiều tấm biển đều ghi những câu tán tụng Thiên hoàng của kẻ bề tôi bên dưới. Hai bên trái phải còn có hai ngôi đình lợp ngói bằng pha lê.

Đi dần vào cửa thứ nhì, hai bên có cất đến mấy chục gian triều phòng. Về phía tây triều phòng, xây một cái giếng đá hoa năm màu. Trên những viên đá hoa này, có chạm khắc hai con rồng hết sức tinh xảo. Trước điện, là một cái nhà bia, cột thì bằng vàng mà tường thì sơn son, nào rồng bay, nào phượng múa, rất là hoa lệ. Trên vách bốn mặt điện, vẽ đủ bốn loại thú: rồng, cọp, voi, sư tử.

Về phía đông chính điện, có một dải tường bao quanh. Phía trong tường là một cái hồ vuông, đáy lát đá xanh, rất là trong sạch. Trên hồ, có một chiếc thuyền bằng đá dài hơn mười trượng. Thiên hoàng thường ngồi trong chiếc thuyền đá này mở tiệc thết rượu.

Hồng Thiên hoàng rất cưng chiều tiểu Thiên hoàng, cho nên đặc ý làm cho một toà phủ đệ gọi là Tiểu Thiên hoàng phủ ở chân núi Chung Sơn. Trong phủ, có cây cao suối mát, lâu đài khúc chiết mười phần u nhã. Tiểu Thiên hoàng này cũng là một người hiếu sắc, cho nên người làm trong phủ toàn là một bọn nữ quan. Bọn nữ quan này người nào cũng đều mặt hoa da phấn, da ngà tay ngọc. Tiểu Thiên hoàng suốt ngày cùng bọn nữ quan đùa giỡn, những chuyện phong lưu tình tứ đều giở ra cho kỳ hết.

Nói đến bọn nữ quan của triều Thái Bình thì thật nhiều điều đáng chú ý. Mũ áo của họ khác hẳn mũ áo của bọn nam quan. Người nữ quan cao cấp nhất mặc áo long bào bằng đoạn vàng. Cấp thứ nhì mặc áo màu tía và màu hồng. Còn mặc màu xanh, màu lam, màu đen, là bọn cấp dưới nữa.

Trên chiếc mũ, người ta có thể phân biệt ba loại quan như sau: Ba cấp vương thì dùng mũ bằng đoạn màu vàng. Từ cửu phẩm trở lên thì dùng mũ sa; cửu phẩm và hương quan thì dùng khăn chít đầu bằng đoạn.

Còn áo thi nữ quan tất cả đều có thêm một miếng hậu bối (miếng vái khâu ở sau lưng áo để che lưng). Búi tóc thiên đội chiếc mũ nhỏ bằng nóc có giải buông xuống lòng thòng.

Thiên hoàng định phẩm cấp cho nữ quan nhấn mạnh vào kiểu quần hàng. Đệ nhất đẳng tên gọi là Phùng thường, quần may loại ống rộng... Đệ nhị đẳng tên gọi Nữa thường (quần móc). Đô là loại quần không dùng chỉ khâu mà dùng móc, móc chéo lại, để cho dễ cởi. Đệ tam đẳng tên gọi Khai thường, tức là loại quần mở. Đệ tứ đẳng tên gọi Tán thường, đó là loại không mặc quần có ống mà mặc váy vây quanh lại. Đệ ngũ đẳng tên gọi Tán bào, đó là loại không mặc quần mà cũng chẳng mặc váy phần dưới thân để truồng chỉ mặc áo một cái áo bào dài che. Ngoài ra còn có một loại nữ tên gọi Già toái. Đó là loại mà bọn nữ quan thường dùng vào mùa hè để cho mát. Già toái chỉ có ba miếng vải che lấy hông, một miếng che phía sau, còn hai miếng che hai bên đùi.

Thiên hoàng định chế phục như trên cho nữ quan, nguyên có một dụng ý. Đã làm nữ quan thì không thể tránh khỏi chuyện dâm loạn. Tiểu Thiên hoàng tỏ ra ác đến quả cỡ. Hắn dâm ô với đám nữ quan trong phủ mình thì khỏi cần nói, nhưng ông còn khoái cưỡng chiếm cả những cô gái mới choai choai hoặc còn nhỏ tuổi.

Nhiều lúc Hồng Thiên hoàng thấy rõ con trai tỏ tình thân ái với phi tần của ông, cũng chẳng nói gì. Từ đó, tiểu Thiên hoàng càng lớn mật hơn. Hắn tư tình luôn cả Hồng phi và Nghi phi vốn là hai nàng phi cưng quý nhất của Thiên hoàng.

Nhưng cả hai nàng đều biết Hồng Thiên hoàng yêu quý cậu con trai cho nên đều không dám tới mách mà chỉ còn có cách im lặng chịu đựng và lại đâm ra ganh ghét nhau mà thôi.

Hồng phi người Dương Châu, tướng mạo tuy tầm thường nhưng được cái tuyệt khéo. Tính tình nàng lại tao nhã, điềm đạm. Chỉ cần cặp mắt sắc như dao, long lanh như giọt nước, liếc một cái là đủ để cho hồn phách đám đàn ông lên mây rồi. Nàng chỉ thích cười, khi cười nàng đẹp tuyệt trần! Do đó, Hồng thiên hoàng hết sức sủng ái. Và cũng ỷ vào đó nàng khinh thường cả Nghi phi.

Nghi phi người Quan Đông, vốn con nhà gia thế. Nàng đẹp tuyệt, da trắng mặt hoa, tính tình hoà nhã thuận thảo, người lại trẻ măng. Đối với nàng, Hồng Thiên hoàng đã có bao năm ân tình đằm thắm. Ngài thường đến cung nàng ăn ở luôn tại đấy.

Cái gay cấn là cả hai nàng phi này đều yêu tiểu Thiên hoàng cả. Vì một khoá đôi rương, hai cô đâm ra ghen nhau, ghen đến độ không thể dung nhau được nữa.

Ai ngờ trong cung của Nghi phi lại chứa chấp một chàng trai trẻ đẹp. Anh chàng trai trẻ này vốn là con trai của một gia đình nghèo khổ tại Nam Kinh, mặt mũi trắng trẻo xinh đẹp. Hôm Nghi phi vào thành Nam Kinh để hầu hạ Hồng Thiên hoàng thì anh chàng trai này đứng bên lề đường thơ thẩn nhìn người qua kẻ lại. Nghi phi ngồi trong xe trông thấy bất giác lòng xuân xúc động. Khi vào cung rồi, nàng bèn cho người lẻn ra phố đưa anh chàng trai nọ vào cung, để đêm ngày tư tình qua mặt Hồng Thiên hoàng.

Về sau Nghi phi lại có thêm tiểu Thiên hoàng, thành thử một mình nàng bao cả hai chàng, trong lòng vô cùng sung sướng. Tiếc thay việc tốt nhiều khi hư, lương duyên trời ghen.

Một hôm, giữa lúc Nghi phi đang hú hí tình tự giữa ban ngày ban mặt thì Hồng phi bước vào khám phá ra chuyện bí mật khiến Nghi phi hoảng hồn bạt vía, run lên cầm cập mà Hồng phi cũng mắc cỡ đến đỏ mặt tía tai.

Anh chàng trai nọ chẳng còn cách gì hơn là quỳ xuống chân Hồng phi, dập đầu xin tha. Hồng phi để ý nhìn thấy quả là một chàng trai trẻ trung đẹp đẽ hết sức gợi tình. Đến lúc này, chính nàng cũng không cầm nổi lòng dục nữa, bỗng che mặt phì cười, quay đầu đi khẽ nói:

- Làm thế thì mắc cỡ chết!

Nghi phi đứng cạnh thấy rõ nỗi niềm tâm sự của Hồng phi, vội bảo chàng trai nọ.

- Ngươi ở đây hầu phi tử nhé! Ta đi một lát sẽ lại.

Nói đoạn Nghi phi vội quay đi, bước luôn ra ngoài. Thế là bên trong, Hồng phi cùng anh chàng trai nọ hoàn thành ngay hảo sự. Và từ đó về sau, Hồng phi cũng thường lưu anh chàng trai nọ trong cung mình, nhiều lần có ý như không muốn cho về với Nghi phi nữa.

Riêng anh chàng trai nọ cảm thấy Hồng phi có vẻ phong tao phóng đãng hơn Nghi phi nhiều, nên cũng say mê. Nghi phi thấy mất cục cưng, tức giận bèn dùng kế "mượn đao giết người" để trả hận.

Hồi đó cả hai cha con Thiên hoàng cũng đều say mê Hồng phi. Biết thế Nghi phi bèn dò la lúc Hồng phi đang cùng chàng trai nọ ân ái trên Dương đài liền lẻn tới mách tiểu Thiên hoàng.

Tiểu Thiên hoàng biết chuyện, cơn giận nổi lên như sấm sét, tức thì chạy tới cửa phòng của Hồng phi nghe ngóng, quả nhiên bắt gặp gian phu dâm phụ đang vào lúc mê đắm nhất.

Tiểu Thiên hoàng đích tai nghe gõ, lòng ghen thật khủng khiếp, đang tính xông vào. Chợt nhớ mình cũng chẳng đàng hoàng ngay thẳng gì, tất hơn là đi báo phụ hoàng mới giải quyết được việc này. Nghĩ vậy, liền quay lui, và tới cung vua cha.

Hồng thiên hoàng lúc đó đang ngồi tựa thành giường xem bọn thị vệ và nữ quan chơi trò đuổi bắt ú tim, thoạt nghe lời cáo mật của cậu trai cưng, tức đến hộc máu ra, bao nhiêu râu tóc dựng ngược lên cả. Thế là ngài nhảy chồm lên như cái lò xo, mang theo một tốp thị vệ, chạy tới cung Hồng phi giữa lúc nàng đang còn loã lồ thân thể, tóc tai rũ rượi, chưa kịp trang điểm lại sau một cơn mưa gió nặng nề.

Bọn thị vệ áp điệu Hồng phi cùng cả anh chàng trai nọ ra ngoài. Hồng thiên hoàng chẳng thèm tra hỏi gì nữa, hạ lệnh chém ngay tức khắc tại cửa cung.

Lúc sắp chết, Hồng phi kêu oan, bảo nàng trúng kế của Nghi phi chứ thực ra anh chàng trai nọ vốn do Nghi phi đưa vào cung.

Hồng Thiên hoàng nghe nói vậy, nhưng không tin, vẫn hạ lệnh chém ngay cặp gian phu dâm phụ này.

Sau khi giết chết Hồng phi, Hồng Thiện hoàng lập tức truyền dụ cho các tướng lãnh tìm cách dâng hiến mỹ nhân lên cho ngài.

Hồi đó dưới trướng của quan hưu đô đốc, có một vị tướng quân họ Phàn tìm được một cô nàng xinh đẹp tuyệt trần ở Tô Châu, tên gọi Minh Cô. Nàng vốn là một tiểu thư con nhà gia thế, có học thức, lại biết cả đao kiếm. Lúc đoàn quân tóc dài của Thái Bình Thiên Quốc tới Tô Châu thì Minh Cô chạy theo cha mẹ trốn về thôn quê. Nàng bị quân lính bắt, cha mẹ lại sắp bị chém. Nàng vội xông tới ngăn cản. Bọn quân lính thấy nàng xinh đẹp nên tha cho cha mẹ nàng. Chúng đem nàng vào trại, tính làm việc phi lễ, Minh Cô bèn bảo chúng:

- Bọn bay nếu hãm hiếp ta thì ta chỉ còn có một chết, chi bằng đưa ta tới gặp chủ tướng của bọn bay, ông ta thấy ta đẹp yêu quý ta, có phải bọn bay được một món tiền thưởng hay không?

Bọn lính nghe nàng nói có lý, đưa nàng lên dâng cho viên tướng của mình. Phàn tướng quân thấy Minh Cô sắc nước hương trời, bèn thưởng bọn lính năm trăm lạng bạc, giữ nàng lại trong trướng. Đến đêm Phàn tướng quân mò vào, mong được sung sướng với người đẹp. Nhưng Minh Cô lại đem cái lối nói với bọn lính nói với tướng quân họ Phàn khuyên ông đưa nàng lên dâng cho Hồng Thiên hoàng sẽ được quan cao lộc hậu.

Câu của Minh Cô nói ra đúng lúc Hồng Thiên hoàng có dụ truyền các tướng lãnh tìm kiếm người đẹp cho ngài. Bởi thế Phàn tướng quân nghe qua tỉnh ngộ, liền đích thân đưa Minh Cô tới Thiên kinh.

Hồng Thiên hoàng nhìn thấy Minh Cô sung sướng tưởng đến phát điên, ngài truyền dụ thưởng Phàn tướng quân mười vạn lạng bạc.

Minh Cô đẹp tuyệt, da trắng mặt hoa, thân hình óng ả. Ngay đêm đầu lâm hạnh. Hồng Thiên hoàng thấy nàng vẫn còn là một xử nữ trinh trắng nên cưng quý lắm. Ngài phong nàng làm Minh phi, bổ khuyết vào chỗ trống của Hồng phi.

Hồng Thiên hoàng ở lỳ trong cung Minh phi luôn một tháng, thực là ngồi cùng ngồi, đi cùng đi, mười phần yêu quý. Minh phi nhân dịp đó, bèn xin Hồng Thiên hoàng cho đưa cha mẹ nàng vào cung để được gặp mặt. Hồng Thiên hoàng ưng thuận ngay.

Minh phi gặp cha mẹ, không khỏi bi thương, khóc rống lên. Thấy chung quanh chẳng có ai nàng bèn thổ lộ tâm sự mình với cha mẹ là có ý định hạ thủ Hồng Thiên hoàng, và như thế tánh mạng nàng e cũng khó toàn. Hai mẹ con ôm lấy nhau khóc lóc thê thảm.

Minh phi xin Hồng Thiên hoàng cấp cho cha mẹ nàng một cây cờ vàng nhỏ. Nhờ cây cờ này, cha mẹ nàng mang theo trong người thì bất cứ đi tới đâu trong nước Thái Bình Thiên Quốc đều được cả. Minh phi dặn nhỏ khuyên cha mẹ nên trốn lên phương Bắc trước đi, để khi câu chuyện ám sát của nàng chẳng may bị đổ bể thì cũng không có hại gì cho cha mẹ. Sau đó, nàng tiễn chân cha mẹ ra khỏi cung.

Minh phi đặt một bữa tiệc ngay trong phòng ngủ của mình rồi mời Thiên hoàng tới, chính nàng hầu rượu cho Hồng. Giữa tiệc rượu nàng nói cười luôn miệng, làm duyên làm đẹp khiến Thiên hoàng uống hết chén này tới chén khác. Minh phi thấy đã đến lúc hành động bèn dặn bảo bọn cung nữ dọn dẹp tiệc rượu, đích thân đỡ Hồng lên giường rồi tự mình cũng thay đồ ngủ, cởi bỏ hết đồ trang sức.

Sau khi bọn cung nữ dọn dẹp xong, Minh phi bèn khoá chặt cửa phòng lại. Trên giường Thiên hoàng đã ngủ say, thở phì phò. Căn phòng im lặng như tờ. Mình phi rón rén bước tới bên tường, rút thanh bảo kiếm, lăm lăm cầm trong tay.

Nàng bước lại gần giường, thò đầu vào mùng xem thì quái lạ thay, chiếc giường không có ai nằm cả. Thiên hoàng biến mất lúc nào rồi! Giữa lúc Minh phi đang ngạc nhiên thì nàng không ngờ Thiên hoàng đã ở đằng sau mình từ lúc nào, mặt hầm hầm nổi giận. Thì ra hôm đó, Minh phi mời Thiên hoàng uống rượu đã khiến ngài có ý nghi ngờ. Một điều khiến ngài nghi thêm là xưa nay Minh phi không bao giờ uống rượu mà nay bỗng nhiên lại uống. Do đó, ngài giả đò say, đi ngủ trước trên giường lẳng lặng chờ xem động tĩnh của Minh phi.

Thiên hoàng thấy Minh phi đóng cửa phòng, tới cạnh tường lấy cây kiếm, biết ngay nàng có ý không lành. Ngài bèn lẻn ra sau giường bò xuống đất, đến đằng sau nàng. Đợi khi Minh phi cầm thanh bảo kiếm tới cạnh giường, Thiên hoàng mới tuốt cây bội đao cầm chặt trong tay, chờ phút hạ thủ. Ngài giận lắm nên khi Minh phi vừa quay đầu lại, ngài không một hai gì hết, múa cây bội đao một vòng, chém bay đầu Minh phi.

Sau đó, ngài lắc liên hồi cái chuông nhỏ, truyền gọi cung nữ lượm đầu của Minh phi đem ra treo ngoài cửa cung làm hiệu lệnh. Chỉ trong giây lát, tin Minh phi mưu sát Thiên hoàng truyền đi khắp cung nội, các bà hoàng hậu, phi tần vội vàng tới thỉnh an.

Thiên hoàng sau khi giết Minh phi, tự thấy mình như được trời phù hộ, lấy làm sung sướng lắm, ngài truyền lệnh trong cung ngay đêm đó bày tiệc ăn mừng, nốc một lúc hàng mấy bát rượu lớn. Lúc đó, ngồi bên cạnh Thiên hoàng nào là hoàng hậu, nào là phi tần đủ khắp tam cung lục viện, mùi hương phấn thơm ngát, tiếng thỏ thẻ như chim hót líu lo. Lòng cao hứng nổi dậy, Thiên hoàng ôm bên này bế bên kia, kiếm vui tìm khoái đủ kiểu. Đến lúc cao hứng, ngài liền gọi luôn một lúc mười bà phi vào tẩm cung lâm hạnh. Ngài không quên, truyền gọi thêm mười bà phi khác vào theo để "thưởng xuân", đứng bên vỗ tay hoan hô trợ hứng.

Hồng Thiên hoàng ngày ngày cùng với bọn phi tần, nữ quan mua vui hưởng lạc, một mình ngài đảm đương cả chục cô mà sức vẫn thừa.

Các vị vương gia trong triều đình của Thái Bình Thiên Quốc không những hiếu sắc mà còn ham cả trai nữa. Trong mỗi vương phủ đều có nuôi năm, ba tên trai trẻ xinh đẹp bảnh bao. Còn cung Thiên hoàng có hơn hai chục tên. Những tên trai trẻ này đều đánh phấn, kẻ lông mày, ăn mặc hết sức diêm dúa, trông qua không thể biết đó là trai.

Hồng Thiên hoàng lại nghe lời Hà Y Chính mỗi ngày nuốt một viên trân châu, một miếng bạch ngọc để điều dưỡng thân thể. Gã thầy lang còn đưa ra một phương pháp nấu châu, ninh ngọc như sau: viên trân châu cần tròn trịa tinh vi không một chút tì vết, nhét vào trong miếng đậu hũ, đem đun cách thuỷ độ nửa ngày. Khi lấy miếng đậu hũ ra, thì viên trân châu nở to ra đến ba, bốn lần cũng trắng bóc như miếng đậu hũ.

Nếu viên trân châu có tì vết, không được tròn trịa tinh vi thì có nấu đến cả ngày cũng không thể hoá được, cứ trơ trơ ra đó. Trân châu nấu kiểu đó, cứ bỏ vào miệng là chạy tuốt ngay xuống dạ dày, tan biến đi luôn.

Còn phép ninh ngọc thì như sau: Lấy loại bạch ngọc thượng hảo hạng đem ninh chung với gốc cây địa du thụ. Ninh liên tục hai mươi bốn giờ, không cho bốc hơi ra ngoài, bạch ngọc nát ra là ăn được. Lúc ăn, cần cho đương, rất dễ nuốt. Nước ngọc ninh này đóng cục lại như băng. Nếu dùng ngọc có tì vết hoặc thứ ngọc hạng bét thì ninh hoài cũng cứ trơ ra, chẳng thể chín được.

Trong nhà bếp của Thiên hoàng, có bốn chú hoả đầu quân chuyên việc nấu châu, ninh ngọc.

Các chú này đều là bọn con buôn châu ngọc, hiểu rõ việc chọn lựa châu ngọc thật, giả, tất, xấu. Chỉ vì Thiên hoàng cần ăn châu ngọc nên nhà bếp mỗi tháng phải tăng thêm tiền chợ lên đến hơn mười vạn lạng bạc nữa.

Nói đến việc ăn uống của Hồng Thiên hoàng, ai nghe cũng phát hoảng. Một bữa ăn của ngài, trừ mười sáu món phụ ra, còn hai mươi bốn món chính, gọi là hai mươi bốn món "Sinh".

Đó là sáu giống chim, sáu giống thú, sáu giống cá, sáu giống sò hến. Giống chim ngài khoái ăn nhất là bồ câu, sẻ, trĩ và ưng (ó), nhất quyết không ăn gà, vịt. Giống thú thì ngài thích nhất bò, dê, mang và thỏ, không ăn heo. Giống cá thì ngài mê nhất là cá chép, cá trôi, cá diếc, cá hoàng. Ngoài ra ngài không bao giờ chê tôm, ba ba, rùa, sò huyết. Những món này phải thay đổi luôn luôn, không được dâng mãi một thứ.

Tính ra cứ mỗi một bữa cơm của Thiên hoàng ít ra cũng phải tốn đến ngàn lạng bạc.

Nấu nướng bất luận cách nào đều phải cả con. Lớn như bò, dê cũng phải để cả con trên mâm, bày trên chiếu, trông thật kỳ cục, tức cười. Các món chim, trông y như chúng còn sống. Mãi đến khi hạ đũa thì lúc đó bọn nữ quan mới giúp ngài nhổ hết những cái lông đó.

Tính tình của Thiên hoàng vốn mừng giận thất thường. Giữa lúc đang ăn uống vui cười, chỉ cần một chuyện nhỏ chẳng được như ý là ngài trút hết cả con giận lên đầu mấy tên thị vệ hầu cận. Ngài quát một tiếng "dùng hình" tức thì hình quan phải tóm ngay cổ tên thị vệ bị hình phạt đem đi.

Trong cung Thái Bình Thiên Quốc có một loại cực hình tên gọi Điểm thiên đăng (đốt đèn trời). Cách trừng phạt như sau: lột hết quần dưới áo trên của kẻ bị hình phạt, lấy giấy hoa gấm quấn suốt từ đầu tới chân rồi đem tẩm dầu vừng, bên ngoài còn bó nhựa thông sáp trắng, chẳng khác chi một cây đèn cầy cao lớn.

Khi đem đốt cây đèn người ấy thì phải cắm lộn đầu xuống đất rồi mới châm lửa vào chân. Lúc đầu, kẻ chịu hình còn kêu la được, tiếng thê thảm như quỷ gọi ma hú. Lúc cháy tới đùi thì tiếng kêu càng lúc càng nhỏ, cháy tới bụng dưới thì chỉ nghe thét lên một tiếng lớn. Và đến khi cháy tới ngực thì không còn thấy rên ri gì nữa...

Hồi 117

TÌM HOA BẺ NHỤY

Hồi này, bọn quân tóc dài của Thái Bình Thiên quốc ở miền Nam một ngày một mạnh, Hàm Phong hoàng đế ở trong cung mỗi ngày nhận được không biết bao nhiêu tin chiến bại đâm ra chán nản, không thiết gì triều chính, ngay cả văn thư cũng chẳng thèm xem nữa. Chán nản với thời thế, ngài quay vào cung cấm vùi đầu trong váy lụa, úp mặt trên ngực gợi tình của bọn phi tần, mỹ nữ.

Ngài lại mới được Băng Hoa sắc nước hương trời, mười ngày thì tám ngày ngài nằm tại cung của nàng. Có khi ngài ôm nàng ngủ ngay cả lúc ban ngày, lại còn sai thái giám gọi đám cung nữ tới trước long sàng chơi trò ú tim đuổi bắt cho ngài cười và người đẹp vui lòng.

Một hôm, có một nàng phi tên gọi Chương Giai, trước đó cũng được hoàng đế hết sức sủng ái, nhưng từ khi có người đẹp Băng Hoa thì lập tức bị bỏ rơi, bèn không giấu được những lòi trách móc của mình đối với hoàng đế. Một con cung nữ mỏng môi nào đó lập tức chạy lên tâu hót với hoàng đế. Chương Giai bị triệu vào ngay.

Nàng Chương Giai được lệnh truyền, tưởng hoàng đế triệu tới lâm hạnh, nên tô điểm hết sức diêm dúa trước khi đến bệ kiến. Hoàng đế mặt vẫn thản nhiên, khi cười lúc nói như thường, lại còn thưởng cho nàng luôn ba ly rượu. Chương Giai vốn không biết uống rượu, nhưng đâu dám trái lệnh, đành uống luôn một hơi cạn hết cả ba ly. Rượu vừa uống xuống tới bụng, bỗng nàng thấy người nóng bừng, mặt đỏ lên như gấc chín, mắt hoa đổ hào quang, tim đập thình thình...

Nàng Chương Giai bình nhật rất thích đánh đu tiên. Hàm Phong hoàng đế bảo nàng:

- Nàng đánh đu tiên đẹp nhất, trong cung không ai bì kịp, nên trẫm đã cho sửa soạn cây đu để nàng cho mọi người thưởng ngoạn.

Nói đoạn, ngài cho người lột hết quần áo của Chương Giai rồi đỡ nàng lên đu. Nàng Chương Giai vừa bị say nhừ, vừa bị loã lồ thân thể, nên khắp mình run lên bần bặt, làm gì còn sức để đu nữa. Nhưng hoàng đế đã ra lệnh thì làm sao mà đám trái. Nàng lảo đảo bước tới gốc cây đu, bước lên. Bọn cung nữ đứng dưới kéo dây, đu bay bổng lên không. Lúc đầu, đu còn thấp, Chương Giai còn giữ được chặt. Nhưng về sau, đu bổng tít lên cao đưa nàng Chương Giai thân thể trần truồng tít mãi lưng chừng trời. Lúc này nàng không còn đủ sức để giữ chặt đu nữa. Nàng oà lên khóc, rồi kêu la xin hoàng đế tha mạng.

Hoàng đế nghe nàng kêu cứu, chẳng những mặc mà còn giục bọn cung nữ kéo dây đu nhanh hơn, mạnh hơn nữa. Bỗng mọi người nghe một tiếng thét, Chương Giai tuột tay, bị đu quăng đi mãi ra xa, rơi xuống đất cứng, đầu bể tan, xương gẫy vụn, chết ngay tức khắc.

Bọn cung nữ thấy cảnh thê thảm quá, quay mặt đi không dám nhìn. Hoàng đế cười nhạt một tiếng, bảo bọn thái giám lôi xác Chương Giai ra ngoài chôn đi. Sau đó, đưa tay ra khoác vai Băng Hoa bước vào, thủ thỉ chuyện trò, cùng nhau hoan lạc.

Hàm Phong hoàng đế ý sủng ái Băng Hoa hết chỗ nói. Nàng cậy được cưng chiều đâm ra kiêu ngạo. Nàng giữ chặt lấy hoàng đế, không cho ngài tới các nàng phi tần khác. Nhưng ở đời có gì bền được mãi. Hàm Phong hoàng đế ở với nàng hoài dần dần sinh chán. Ngài lừa nàng nhiều phen đi ăn mảnh...

Nàng biết đâm ra ghen. Rồi nàng đánh ghen, nàng eo xèo với hoàng đế. Ngài lúc đầu còn bỏ qua, nhưng lâu về sau, càng chán ghét nàng.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn thích gái chân nhỏ. Các hồi trên đã nói qua rồi. Băng Hoa tuy được ngài sủng ái nhưng đôi chân nàng to quá, đôi hài của nàng lớn đến trên bốn tấc.

Ngài đã nhiều lần phàn nàn về nó, cho rằng nàng tuy đẹp nhưng vẫn còn chưa đủ. Thôi tổng quản lại cho ngài biết gái Dương Châu chân nhỏ, vừa xinh vừa đẹp, tuyệt nhất trong nước. Ngài tiếc rằng lúc đó Dương Châu đã lọt vào tay bọn tóc dài Thái Bình Thiên Quốc không thể tới đó để tìm hoa ghẹo nguyệt một chuyến cho thoả. Ngài dặn Thôi Tam lưu tâm xem ở kinh thành có gái chân nhỏ thì tìm cách đưa vào cung cho ngài và hứa sẽ trọng thưởng.

Thôi tổng quản ra ngoài thành làm tên ma cô lùng gái, lại tìm được một nàng chân nhỏ ở phía ngoài cửa Tuyên Võ như lần trước. Người đẹp lần này tên gọi Quỳnh Nhi.

Quỳnh Nhi vốn là con gái của một gia đình dân đã vùng Dương Châu. Gặp lúc loạn ly vì quân tóc dài, nàng phải lìa bỏ quê hương tị nạn lên kinh thành, ngụ tại nhà một người cậu. Người cậu này mở một quán cơm nhó tên gọi Đức Hưng phạn điếm ở đường phố lớn cửa Đông. Gia đình hết sức cùng khổ, vì nhà nghèo nên Quỳnh Nhi phải ở trong một căn phòng hết sức chật hẹp. Nàng giúp mợ nàng may vá thêu thùa suốt ngày để kiếm tiền thêm chu cấp gia đình. Nhà cửa vừa chật lại vừa tối, nàng phải mang một cái ghế nhỏ ra ngoài cửa để có ánh sáng mà làm việc. Nàng thường đặt đôi chân nhỏ nhắn xinh đẹp mịn màng trên ngưỡng cửa. Đôi chân còn mang một đôi hài màu hồng thêu chỉ viền trắng trông thanh tao lạ thường.

Chi vì cặp chân nho nhỏ, xinh đẹp đó mà khách qua đường phải dừng chân lại ngắm nghía rồi thốt ra lời tấm tắc khen ngợi. Đôi ba anh chàng hiếu sắc, thấy cặp chân ấy là hồn phách mê mẩn. Các anh chàng si tình này, thường lảng vảng qua cửa nhà nàng mỗi ngày ít ra cũng phải mười tám, hai mươi lần, để cố thấy cho được đôi chân, ngắm cho được đung nhan kiều diễm của nàng.

Quỳnh Nhi hương sắc đã xinh đẹp tuyệt trần mà tính tình lại rất trinh bạch. Mặc cho các chàng ong bướm ve vãn, nàng vẫn thản nhiên chẳng để ý tới ai. Tiếng tăm nàng ngày càng đồn đại xa gần, khách tài hoa khắp nơi đua nhau tới bắn sẻ mua hương. Tin đồn cũng đến tai Thôi tổng quản.

Thôi tổng quản tới đường Phố cửa Đông nhìn xem. Quả nhiên lời đồn đại chẳng sai! Đôi chân nhỏ xinh của Quỳnh Nhi làm cho thiên hạ mê mẩn tâm hồn.

Thôi ta đem tâm lực điều tra rõ hết hoàn cảnh của nàng. Hắn biết cậu nàng hiện mở quán cơm nhỏ, bèn tới gặp ông Ngô Tam Hưng. Ông Hưng, cậu nàng, đang bí tiền, không biết xoay sở vào đâu để độ nhật, bỗng nghe nói Thôi tổng quản trong cung tới tìm, hứa nói giúp ông ta vào làm đầu bếp trong cung thì mừng quýnh lên. Thôi tổng quản còn cho biết lương bổng hằng tháng định là năm mươi lạng. Đáp lại ân huệ này chỉ có một điều kiện là đưa cô cháu mình vào cung mà thôi.

Ông Ngô Tam Hưng bàn tính với vợ. Mụ vợ kéo tay cô cháu gái Quỳnh Nhi vào phòng trong, khuyên bảo nàng:

- Tính tình cháu vừa cao ngạo, vừa trinh bạch, nếu không tìm được con nhà đàng hoàng thì làm sao thoả được lòng mong mỏi của cháu. Nhà cậu mợ đây nghèo quá, muốn tìm chỗ môn đăng hộ đối, nhưng tìm đâu ra người vừa lòng xứng ý được Nếu kiếm cho cháu một người chồng tầm thường kém cỏi thì rồi cuộc đời cháu lại khổ như mợ đây thôi! Cháu may mắn được hoàng thượng để mắt đến, cháu thoả mộng ước lâu nay. Gia đình cậu mợ cũng vì cháu mà được chỗ nương nhờ. Vậy có phải đẹp cả đôi đường không?

Quỳnh Nhi nghe nói có lý liền bằng lòng ngay. Ngày hôm sau Thôi tổng quản sửa soạn đủ số bạc, lẻn ra khỏi cung đưa Quỳnh Nhi vào.

Hàm Phong hoàng đế ngồi trên lầu Cao Sơn Thuỷ, truyền triệu vào. Nàng Quỳnh Nhi với đôi chân nhỏ nhắn xinh xinh dài có hơn hai tấc, nước da mịn màng, trắng như trứng gà bóc, đứng phía dưới lầu, khuôn mặt duyên dáng hơn bao giờ hết.

Hoàng đế ngắm nghía một lúc, bất giác buột miệng thốt lên: "Đẹp quá!" Hai hàng cung nữ đưa Quỳnh Nhi bước yểu điệu thướt tha lên lầu, dịu dàng quỳ xuống làm lễ bệ kiến và thỏ thẻ chúc mấy tiếng: "Vạn tuế! Vạn vạn tuế!"

Hoàng đế cho phép nàng bình thân. Quỳnh Nhi đứng dậy, phong độ chẳng khác gì cành dương liễu phất phơ trước gió, đoá hoa đào đượm đỉnh sương mai. Hoàng đế gọi nàng lại gần, cầm lấy tay nàng ngắm nghía kỹ một lần nữa, quả thấy da thịt nàng trắng như tuyết, mềm mại như nhung, mắt đẹp, đôi chân mày như vẽ, miệng cười như đoá hoa hàm tiếu. Đêm đó, hoàng đế lâm hạnh ngay Quỳnh Nhi tại đó.

Hôm sau, hoàng đế để nàng ở trong hiên Giáng Tuyết, ngày ngày tới nơi đó sủng hạnh, chỉ vì nàng có đôi chân nhỏ đẹp, đúng với ý thích, nên ngài bắt hai tên cung nữ dẫn nàng đi theo khắp đó đây để cho ngài ngắm đôi chân. Nhiều lúc ngài dẫn nàng đi rồi bỗng thả tay ra để mặc nàng lả lướt một mình. Đôi tay nàng lúc đó uyển chuyển theo nhịp của chiếc lưng thon óng ả, chẳng khác gì làn gió đông thổi nhẹ phớt qua đoá hoa sen.

Hoàng đế càng ngắm càng yêu. Để cho căn phòng hợp với cái đẹp của đôi chân nàng, ngài bắt lót nệm gấm thêu hoa hết cả sàn phòng. Quỳnh Nhi đi bằng một đôi tất bằng lụa trắng muốt, bước trên nệm nhẹ nhàng như chiếc lá bay.

Hồi 118

HAI VỤ ĐẦU ĐỘC TUYỆT XẢO

Quỳnh Nhi rất thích đi dạo giữa các khóm hoa, nhất là vào buổi sáng mai còn đượm những giọt sương.

Có Quỳnh Nhi bên cạnh, Hàm Phong nhạt tình ngay với Băng Hoa, Băng Hoa lúc đầu chưa biết thì lấy làm lạ, về sau biết được liền đem lòng ghen ghét Quỳnh Nhi. Nàng được biết Quỳnh Nhi tính ưa sạch sẽ bèn cho cung nữ đem các thứ đồ dơ đến bôi vào cành cây, lá cây để trả thù.

Hôm sau Quỳnh Nhi thức dậy, gọi cung nữ đưa mình đi thăm hoa hải đường thì chỉ ngửi thấy toàn mùi hôi thối đến không chịu nổi. Quay nhìn bốn phía mới hay cành cây nào cũng đều có đồ dơ dáy. Ngay cả quần áo nàng cũng có nhiều chất dơ dính vào từng đám một. Nàng vội vàng chạy lùi lại, ai ngờ đạp phải một bãi phân to tướng ở giữa đường. Nàng hét lên một tiếng: "Ối chao!" Rồi cất bước chạy vội đi chỗ khác. Nàng chạy vội quá bị trượt chân té ngã, đập trán vào thềm máu chảy ròng ròng trên khuôn mặt đẹp.

Bọn cung nữ vội vực nàng dậy, chạy vào trong cửa, nhưng ngửi thấy mùi cứt, thối đến lợm giọng, chúng đua nhau ọe ra hết đồ ăn thức uống, mật xanh, gan vàng. Chúng cũng phải cố nhịn, để xúm lại thay áo đổi quần cho Quỳnh Nhi, lấy nước hương lan để tắm rửa cho nàng. Quỳnh Nhi không chịu nổi mùi hôi thối, đâm ra nhuốm bệnh.

Bệnh nàng kéo dài luôn một tháng trường. Hoàng đế săn sóc nàng thật đặc biệt. Nhưng trong lúc Quỳnh Nhi lâm bệnh, hoàng đế không có cách gì lâm hạnh với nàng được nữa. Ngài sang cung của Băng Hoa để giải buồn. Băng Hoa thấy kế sách của mình kiến hiệu, trong lòng rất thích thú.

Ít lâu sau, bệnh Quỳnh Nhi đã lành hẳn, hoàng đế lại bỏ Băng Hoa quay về với Quỳnh Nhi. Băng Hoa máu ghen sôi lên sùng sục. Nàng bàn tính với bọn cung nữ thân tín, tìm ra một kế sách "nhổ cỏ nhổ cả rễ" để khỏi phải lo ngại về sau.

Hồi đó thời tiết đang dần dần đổi sang hè. Quỳnh Nhi mỗi ngày tắm ít ra phải tới năm lần, còn đầu tóc thì nhất định phải gội một lần vào buổi sáng sớm.

Sau khi gội xong, nàng bỏ xoã tóc ra sau lưng để chờ khô, rồi cùng hai tên cung nữ chèo một chiếc thuyền con ra giữa đám hoa sen, vừa thưởng ngoạn vừa dốc những giọt sương mai đọng trên lá sen vào miệng để thưởng thức mùi hương.

Mãi đến khi mặt trời mọc cao hàng cây sào, ánh thiền quang đã toả khắp mặt hồ sen nàng mới chịu bảo cung nữ chèo thuyền trở vào.

Tin tức nầy lại được truyền tới tai Băng Hoa. Nàng thông đồng với một tên thái giám, bảo lẻn ra ngoài mua thuốc độc mang vào cung rồi đem đổ xuống hồ sen để đêm đó, sen hút nước đã bị đánh độc lên lá.

Qua hôm sau, Quỳnh Nhi không hay biết, vẫn theo cách uống nước sương như bao lần trước, không thấy mùi vị gì cả.

Chẳng bao lâu, thuốc độc phát tác. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng lăn lộn trên giường một hồi, hai mắt trợn lên, chân duỗi thẳng thế là đã trở thành người bạc mệnh thiên thu. Quỳnh Nhi qua đời giữa lúc tình nặng duyên thắm, Hàm Phong hoàng đế xúc động ôm lấy thây nàng, đau đớn. Ngài khóc chán mới bảo bọn nội giám mua quan quách khâm liệm khiêng ra ngoài vườn chôn cất tử tế.

Cái tang bất ngờ đau đớn ấy làm Hàm Phong hoàng đế đau xót muôn phần, lâu dần ngài đâm mang bệnh, một thứ bệnh tương tư thật thống khổ, bi thương.

Thôi tổng quản thấy bệnh hoàng đế không có thuốc nào trong cung chữa được, liền lẻn ra ngoài tìm. Quả nhiên hắn lại tìm được một người đẹp chẳng thua gì Quỳnh Nhi thuở nọ. Hắn đưa người đẹp vào cung để hầu hạ hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế còn mê man trên giường bệnh. Nhưng thấy người đẹp mới, thì cho rằng Quỳnh Nhi đã đầu thai sang kiếp khác mà về với mình. Ngài hỏi tên thì nàng thưa:

- Tử Anh...

Hoàng đế thấy Tử Anh từ tiếng nói đến câu cười, cái gì cũng khiến ngài tưởng như Quỳnh Nhi ngày nọ. Rồi bệnh ngài sau đó cũng khỏi luôn.

Ngài cưng yêu chiều quý Tử Anh chẳng khác chi Quỳnh Nhi. Ngài phong nàng làm quý phi. Tử Anh vốn sinh trưởng trong gia đình cùng khổ nghèo nàn, nhưng tính lại ham đọc sách, thích nghe chuyện văn chương. Bởi thế nàng xin hoàng đế mời một ông thầy vào vườn Viên Minh để dạy cho nàng học.

Hoàng đế tự nhủ bọn thị độc đâu có hiếm gì, nhưng nếu để chúng thấy mình mới tìm thấy một quý phi, thế nào chúng chả dâng sớ khuyên can. Điều đó quả là khó chịu. Mời một ông thầy già vào vườn dạy học cho nàng là hơn. Nghĩ vậy, hoàng đế gọi Thôi tổng quản vào tính toán bàn bạc.

Thôi tổng quản nghĩ một chập, liền nhớ tới một người. Người đó họ Trịnh đậu cử nhân, vào kinh thi hội nhưng bị rớt. Trịnh cử nhân hiện ngụ tại Trường An khách điếm; hết sạch tiền lộ phí, đành phải lưu lạc nơi đất khách quê người, viết mướn câu đối hoặc thư từ cho khách để lấy tiền độ nhật.

Thôi tổng quản vốn người đồng hương với tên chưởng quỹ của Trường An khách điếm, thường tới đó bàn tán chuyện mua vui. Hắn cũng thường gặp Trịnh cử nhân tại khách điếm này.

Ông cử nhân họ Trịnh tuổi đã ngũ tuần có bộ râu đã lốm đốm bạc. Ông là người rất hoà nhã. Nay hoàng đế cần thầy dạy học cho Tử Anh, Thôi tổng quản nhớ ngay tới ông. Hắn nói với Hàm Phong hoàng đế, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra Trường An khách điếm mời ông...

Trịnh cử nhân tuy có gặp Thôi tổng quản nhiều lần nhưng không biết hắn ta là ai, chỉ nghĩ hắn là một viên quan nào đó. Bởi thế khi hắn ta ngỏ ý mời đi dạy học ông cho rằng tới chỉ dạy một công tử hay một tiểu thư, nên nhận lời đi ngay.

Thấy Trịnh cử nhân bằng lòng rồi, Thôi tổng quản liền đi mướn chiếc xe, bốn mặt che vải xanh bít bùng kín mít. Trịnh cử nhân ngồi bên trong, chẳng thấy tí gì bên ngoài.

Xe chạy đã một lúc lâu, hết khúc quanh này qua khúc quanh khác, trước còn nghe tiếng huyên náo nơi chợ búa, nhưng về sau tiếng người càng vắng, càng xa.

Chiếc xe chạy trên một đám đất trống một hồi khá lâu rồi đỗ lại. Mở rèm xe ra nhìn, Trịnh cử nhân chỉ thấy những bức tường dài thành hàng, phía trong không biết cơ man nào là lâu đài, mái ngói, đỉnh nhà, chen chúc trong những chòm cây như muốn tranh giành nhau để ngoi lên không trung mong thoát khỏi cảnh chật chội phía dưới.

Trịnh cử nhân nghĩ đó là vườn hoa nhà ông lên nọ, nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ thắc thỏm. Ông tự nhủ, đã mời ta làm thầy dạy học thì xe phải vào cửa trước chứ tại sao lại lách qua cửa ngách để vào vườn hoa?

Trịnh cử nhân bước sâu vào vườn hoa, thấy cây cỏ rậm rạp um tùm, chỗ nào cũng san sát cửa, nhà tường vách, cỏ cây. Thôi tổng quản đưa Trịnh cử nhân đi loanh quanh hết khu này tới khu khác trong vườn. Khi đi qua cầu Cửu Khúc (chín nhịp), ông cử họ Trịnh thấy lộ ra một cái cửa tò vò, trên có một tấm biển khắc hai chữ "Tao Viên". Bước qua cổng tò vò, ông thấy một dãy nhà che rèm lụa. Bước xuống phía hành lang ông thấy bốn đứa thư đồng đứng thành một hàng dài.

Khi ông vừa bước tới, tất cả bọn chúng vội quỳ gối xuống, đồng thanh nói:

- Thỉnh an gia sư.

Đoạn chúng cuộn rèm cửa lớn. Trịnh cử nhân bước vào phòng. Ông thấy bên cửa sổ, giá sách chất đầy sách.

Thôi tổng quản mời Trịnh cử nhân ngồi xuống ghế. Tên thư đồng đưa trà lên, Thôi tổng quản lấy ra một bức thư, hai tay nâng cao đưa cho Trịnh cử nhân, bên trong đựng hai trăm lạng bạc, rồi nói:

- Thưa! Đây là tiền thù lao hằng tháng. Nếu khi nào tiên sinh muốn gởi về nhà thì xin cứ giao cho tôi, tôi sẽ gói ghém cẩn thận và gởi đi, xin tiên sinh đứng ngại.

Trịnh cử nhân xem chữ đề trên thơ thấy viết: "Dưỡng tâm trai chủ nhân" ngoài ra không còn tên họ gì nữa bèn hỏi:

- Chủ nhân của ông tên gọi là gì?

Thôi tống quản đáp:

- Chủ nhân tôi là một vị vương gia bậc nhất tại kinh thành này, tiên sinh khỏi cần hỏi, sau rồi sẽ rõ. Hiện nay vương gia tôi đi vắng trong nhà chỉ còn có đàn bà không tiện ra đây mời chào tiên sinh. Tiên sinh cứ dạy cho học trò tấn tới ắt vương gia tôi không bao giờ dám để tiên sinh phải buồn lòng đâu.

Trịnh cử nhân xem thấy bọn Thôi tổng quản có vẻ kênh kiệu, cái gì cũng ra tuồng khoe khoang hợm hĩnh, trong lòng cảm thấy băn khoăn, chẳng hứng thú chút nào. Song ông thấy nơi này tinh nhã, xếp đặt ngăn nắp lịch sự, đành miễn cưỡng ở lại.

Qua ngày hôm sau, tên học trò bước ra bái yết thầy. Trịnh cử nhân nhìn xem học trò mình như thế nào thì suýt ngã ngửa, bởi đó là một trang mỹ nhân tuyệt sắc, có bốn con tì nữ xinh đẹp chẳng kém, đi bên cạnh hầu hạ.

Cô học trò tuyệt sắc nọ học mỗi ngày chỉ độ vài giờ là lại trở vào ngay. Qua ngày hôm sau, nếu tiên sinh khảo bài thì cô học trò thảy đều học thuộc không bao giờ quên lấy một chữ.

Trịnh cử nhân thấy học trò mình thông minh quá, trong lòng cũng lấy làm mừng. Ban ngày thì ăn sơn hào hải vị, ban đêm thì ngủ trong giường gấm màn the, hầu hạ thì đã có lũ thư đồng vô cùng chu đáo. Điều không xứng ý nếu có thì chỉ là sự mất tự do không được hành động theo ý mình. Đừng nói ra khỏi cổng vườn, ngay cả đến việc đi quá sang mé tả hoặc mé hữu một chút của thư phòng ông đã bị lũ thư đồng chặn lại rồi. Lũ này bảo:

- Trong vườn có đàn bà con gái du ngoạn, tiên sinh nên tránh đi là hơn.

Trịnh cử nhân ở trong vườn này đã ba tháng. Ông mong được ra phố đi chơi một hôm cho thoải mái đôi chút, nài nỉ với lũ thư đồng đến mấy lần nhưng chúng chỉ nói là đi xin phép chủ nhân đã.

Về sau, Trịnh cử nhân chịu không nổi cảnh tù túng, bèn lẻn ra ngoài vườn. Ông thấy phía sau vườn là một đám đất rộng bỏ hoang, cảnh tượng hết sức vắng lặng thê lương. Ông chả rõ đường nào, nên chạy được mấy bước lại phải trở về.

Lũ thư đồng đứng chực ở cửa liền nói:

- Khu này rất hoang vắng thường có cọp beo, trộm cướp, giết hại mạng người. Nếu muốn ra ngoài tiên sinh nên đi xe lừa, vừa phải có người bảo vệ mới được.

Quả nhiên, lũ thư đồng đi mướn một cỗ xe có hai tên đại hán lực lưỡng ngồi ngất ngưởng trên mui xe.

Trịnh cử nhân ngồi trong thùng xe, phía ngoài cũng có vải màu xanh che kín mít như trước. Xe bắt đầu quay bánh, độ vài giờ sau, Trịnh cử nhân đã nghe có tiếng nói tiếng cười, tiếng ầm ĩ ồn ào của chợ búa, đô thị.

Xe chạy một đỗi nữa mới ngừng lại, Trịnh cử nhân mở rèm xe, bước xuống nhìn chung quanh, thì ra đây chính là cửa ngoài của khách điếm Trường An mà ông đã ở dạo nọ.

Anh chưởng quỹ khách điếm trông thấy Trịnh cử nhân vội chạy ra đón vào nhà, lấy hai phong thư của gia đình đưa cho ông.

Trịnh cử nhân xem thư, thấy nhà đã nhận được ba lần sáu trăm lạng bạc, gia đình đều được bình an như thường, lấy làm mừng lắm, liền dắt tay anh chưởng quỹ vào bàn nhậu.

Ông hỏi anh chưởng quỹ:

- Này, anh có biết cái nhà mà tôi đến dạy học ấy là nhà ai không? Tên tuổi họ là gì? Công danh sự nghiệp ra sao?

Anh chưởng quản lắc đầu đáp:

- Nào tôi có biết gì đâu!

Chẳng biết anh ta nói thật hay dối, Trịnh đành nâng chén mời. Uống một hồi xong Trịnh ra ngoài đi chơi phố.

Ngày đã tàn hai tên xà ích giục Trịnh cử nhân lên xe trở về. Từ đó, cứ hai tháng, ông cử lại lên xe ra ngoài phố đi chơi một chuyến.

Cô học trò tuyệt sắc nọ trải qua một năm học hành, đọc qua bao nhiêu kinh sử, Trịnh cử nhân tuổi đã già tính lại nhân từ hoà nhã, do đó, tình thầy trò ngày càng thắm thiết.

Cô đem tâm sự nào dài nào ngắn ra nói với thầy, duy (:hi có hỏi về gia đình nhà cửa thì nàng tuyệt nhiên chẳng chịu hé môi.

Ít hôm sau, Trịnh cử nhân thấy năm đã gần tàn, tháng đã gần hết, ở nơi đất khách quê người, bất giác nhớ nhà, lòng cảm thấy thật thê lương. Giữa lúc đang buồn bã, ông thấy bóng cô học trò duyên dáng bước ra, bên cạnh có bốn đứa tì nữ theo hầu. Trịnh cử nhân đưa mắt nhìn nàng, thấy mặt nàng đỏ ửng, hình như có hơi rượu. Ông bước lại gần hỏi.

Nàng nhìn ông nhoẻn miệng cười, rồi ngồi phịch xuống ghế, không nói năng gì cả.

Bỗng ông nghe nàng thét lên một tiếng, hai tay ôm bụng kêu đau quá rồi môi son của nàng tái nhợt đi, mắt đứng lại mất hết tinh thần và bạc ra.

Bốn đứa tì nữ thấy vậy, hoảng quá, chân tay bấn loạn, run lên từng hồi, vội hè nhau vực cô học trò vào nhà trong.

Lũ thư đồng lúc đó cũng hối hả cuống cuồng chạy đi bỏ mặc Trịnh cử nhân một mình trong thư phòng.

Trịnh cử nhân suốt từ đầu tới cuối chẳng hiểu sự thể ra sao, đành chỉ ngồi mà rầu rĩ. Mãi đến chiều tối mới thấy Thôi tổng quản hớt hải chạy tới báo một tin động trời cho ông:

- Đáng thương quá! Cô học trò nhỏ của tiên sinh bị cấp bệnh chết mất rồi! Chủ nhân tôi có dặn đưa tiên sinh ra khỏi hoa viên. Đây là gói bạc năm trăm lạng, tiên sinh cầm lấy trở về nhà, xin đừng nói với ai chuyện này.

Thôi tổng quản vừa nói đoạn thì đã có một cỗ xe lừa đỗ trước cửa vườn. Hắn đưa tiễn Trịnh cử nhân lên xe, đóng kín vườn lại rồi trở vào.

Trịnh cử nhân về đến khách điếm Trang An, kể rõ tình hình trên rồi hỏi anh chàng chưởng quỹ về cái gia đình mà mình đến dạy học. Lúc đó anh chưởng quỹ mới vỗ vai ông mà bảo:

- Cái huê viên mà ông vào đó chính là vườn Viên Minh. Cô học trò tuyệt sắc giai nhân chính là quý nhân của đương kim hoàng đế đó!

Kể câu chuyện bi ai này tới đây, có lẽ quý vị có điều thắc mắc về cái chết, của cô học trò tuyệt sắc nọ. Câu chuyện là thế này: Cô học trò sắc nghiêng ngước nghiêng thành đó chính là nàng Tử Anh. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng ham học, bèn cho Thôi tổng quản đi mời Trịnh cử nhân tới dạy cho nàng.

Tử Anh học một năm trời, vốn người thông minh, nên hiểu biết nhiều, khiến nhà vua mừng rỡ khôn xiết. Nào ngờ, Băng Hoa dò la biết hoàng đế lại mới có một quý nhân muôn phần sủng ái, đêm đêm quấn quýt bên cạnh, còn minh thì lại bị quên đi, khiến nàng lại nổi lòng thù hận. Nàng cố làm thân với Tử Anh, thường lẻn tới trò chuyện, hay đưa những của ngon vật lạ tới cho Tử Anh.

Tử Anh vốn là gái mới lớn lên, đâu có biết đó là mưu gian của con tinh hồ ly. Nàng đâm ra quý mến Băng Hoa, bao nhiêu tâm sự, nhất là đối với hoàng đế, đem ra kể hết cho nghe, hai người chơi với nhau thân như chị em, Băng Hoa dần dần biết Tử Anh đã lọt vào cạm bẩy của mình chỉ còn đợi ngày giật dây mà thôi. Nàng nghĩ ra một độc kế, lén đưa cho Tử Anh một lọ thuốc độc nhỏ.

Đây là rượu thuốc dê thần. Cứ sáng sớm uống vào thì tối tha hồ mà hầu hạ hoàng đế, không còn biết mệt nữa.

Tử Anh tin là thật. Nàng đang được hoàng đế sủng ái, muốn lấy lòng ngài, bèn dốc cả lọ thuốc kia vào miệng.

Tử Anh vốn không biết uống rượu. Cho nên khi chất rượu thuốc này vào tới dạ dày thì mặt nàng ửng đỏ, tai nóng như lửa đầu óc choáng váng, tim đập thình thịch. Tuy vậy, nàng vẫn gắng gượng lên lớp học như mọi hôm. Không ngờ vừa tới nơi thì sức thuốc ngấm tới, chất độc phát tác, tắc ngay cổ hầu nên nàng chỉ thét được có một tiếng là chết.

Hàm Phong hoàng đế thấy người yêu chết một cách cấp kỳ như vậy, vội ôm vào lòng, luôn mồm gọi ngự y. Khi ngự y chạy vào tới cung thì người đẹp Tử Anh đã chết trong lòng ngài.

Hàm Phong hoàng đế thấy chết luôn hai người yêu đều bất đắc kỳ tử vì trúng độc, biết thế nào cũng có kẻ hạ độc thủ. Ngài lặng lẽ cho bí mật điều tra để tìm cho ra manh mối...

Hồi 119

MỘT VỤ ÁN TÌNH SÔI NỔI

Hàm Phong hoàng đế dặn bọn thái giám sưu tra trước hết bọn cung nữ trong cung của Tử Anh rồi đến phòng các nàng phi khác ở chung quanh. Không một vết tích gì khả nghi! Băng Hoa quả là người kỹ lưỡng, hành động bí mật.

Bọn thái giám cũng như cung nữ dưới quyền đều được nàng đối đãi quá tử tế khiến không một ai dám mở mồm ra nói một câu nguy hiểm cho nàng. Hoàng đế thấy điều tra mãi mà không ra đành thôi.

Ngài buồn chán âm thầm mỗi khi nhớ tới Quỳnh Nhi cũng như Tử Anh, hai người đẹp lúc nào cũng tươi vui, nhí nhảnh ríu rít như đôi chim oanh hân hoan mỗi độ xuân về. Ngài càng nhớ càng thấy tê tái, nước mắt thánh thót rơi trên đôi gò má.

Từ ngày đó, ngài chẳng thèm triệu hạnh một bà hậu, một nàng phi nào nữa. Ngài lủi thủi một mình trong Hàm Bích Sơn phòng, chỉ có bọn cung nữ và thái giám, hầu hạ hai bên mà thôi.

Nàng phi Băng Hoa từ hôm đầu độc chết Tử Anh rồi, ngày ngày mong ngóng hoàng đế triệu hạnh, nhưng chẳng thấy thánh chỉ. Nàng chỉ còn biết thở vắn than dài trong cô phòng tịch mịch mà thôi.

Rồi Hàm Phong hoàng đế nhớ thương đôi cánh xuân hoa của ngài quá đến nỗi nhuốm bệnh, ngày đêm mê man như bất tỉnh.

Hàm Phong hoàng đế vốn tính nóng nảy, nay nhuốm bệnh, càng nóng nảy thêm. Bọn cung nữ hầu hạ, nhiều khi bị ngài đánh chửi hung dữ. Trong lúc bệnh hoạn, ngài vui buồn giận tức vô thường. Có khi ôm chầm lấy con cung nữ nào đó rồi kéo sát vào lòng, có khi xô xấp xuống giường. Có khi gian dâm như cuồng như loạn, lại cũng có khi nắm tóc kéo xềnh xệch trên mặt đất rồi ném ra ngoài cửa. Nhất là lúc khùng lên, giận dữ quá độ về chuyện gì, ngài tuốt cây bội đao ra chặt phắt một nhát bay đầu con cung nữ. Bọn cung nữ thật là vô cùng cơ khổ, không biết kêu cứu vào đâu được!

Ngự y xem mạch bốc thuốc mà vẫn bệnh nào tật nấy không chút thuyên giảm.

Tin này dần dần truyền tới cung Khôn Minh khiến Hiếu Trinh hoàng hậu hay biết. Hậu vội vã phượng giá đích thân tới vườn Viên Minh đưa hoàng đế vào cung, rồi tự tay nâng giấc hầu hạ.

Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu Trinh hoàng hậu, nay thấy bà tận tuỵ săn sóc cho mình thì cảm động lắm. Nhờ đó sức khoẻ ngài càng khá, bệnh hoạn lui dần.

Cung Thân vương Dịch Cân là em ruột Hàm Phong hoàng đế. Hai anh em ngày thường rất quý mến nhau. Do đó, Hiếu Trinh hoàng hậu cho người đi mời vương vào cung.

Cung Thân vương vừa gặp Hàm Phong hoàng đế, bèn khuyên:

- Hiện nay quốc gia đa sự, cần nhờ đức hoàng thượng chấn chỉnh, hoàng thượng nên bảo trọng thân thể, khôi phục tinh thần, chăm lo việc nước, trên thì bảo vệ cơ nghiệp của tổ tông, dưới thì cứu vớt trăm họ ra khỏi cảnh nạn lớn mới phải.

Hàm Phong hoàng đế nghe em khuyên một hồi, bỗng tỉnh ngộ. Từ đó, sức khỏe ngài khá dần. Ngài truyền dụ toạ trào.

Các quan văn võ triều đình đã lâu không có buổi chầu nào, nghe nói hoàng đế toạ trào, ai cũng đều vui mừng hoan hô vạn tuế. Hoàng đế đã lâu không hỏi đến việc triều chánh, lúc này mới biết Nam Kinh đã thất thủ, Hàng Châu cũng mất, quân trú phòng ở các nơi đều không đánh mà lui cả. Sau đó ngài lại tiếp được cấp báo của tổng đốc Lưỡng Quảng là Kỳ Anh nói quân Anh đánh vào thành Quảng Châu.

Hàm Phong hoàng đế nghe tin liền nói:

- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Văn võ bá quan trong triều miệng ngậm kín như hến, giương mắt nhìn, không nói được lời nào. Mãi về sau, Thượng thư bộ hạ là Tiên Thuận mới quỳ tâu được mấy câu:

- Bọn Kỳ nhân chúng tôi đều hèn nhát chẳng ra gì, chỉ biết ngồi ăn bổng lộc triều đình nào có biết chiến trận. Xin bệ hạ truyền chỉ xuống cho Tịch thị lang Tăng Quốc Phiên đem quân hương đoàn ra trợ chiến mới mong chiến thắng.

Một đạo chỉ dụ hạ xuống. Cả bọn quan võ người Mãn đều thấy mất mặt, chỉ còn có cách độn thổ.

Ít hôm sau, tướng Hướng Vĩnh đem đại binh từ Hồ Bắc đánh thốc xuống, dồn quân tại Hiếu Lăng Vệ, gọi là Giang Nam đại doanh. Mặt khác, Hương Kỳ Thiện cũng đem quân bản bộ đánh từ Trực Lệ, Thiểm Tây, Hắc Long Giang thẳng xuống Dương Châu, xưng là Giang Bắc đại doanh. Hai lộ quân này bắt đầu đại chiến với quân Thái Bình Thiên Quốc.

Đông vương Dương Tú Thanh của Thái Bình Thiên Quốc thống lĩnh thần binh nghênh chiến. Thế nào gọi là thần binh?

Đó là một đội quân ở phía trước có một số con trai độ mười hai, mười ba tuổi, mặc áo ngũ sắc, trang điểm như thiên thân cột trên ngọn cây tre, một tay phóng lửa khói còn một tay múa tít đao thương, khiến trận tiền mù mịt khói lửa, gọi là Thiên ma trận. Phía sau Thiên ma trận, còn có một đội nữ binh, trang điểm hết sức cầu kỳ, có một cô gái người Quảng Đông tên gọi Tiêu Tam nương điều khiển.

Nữ tướng Tiêu Tam nương đầu đội mũ dắt ngọc châu, cặp tóc bằng ngọc báu, đi giày man hoá, mặc quần đỏ. Nàng quả thật là đẹp. Nàng xông ra trận tuyến, dùng mũi kiếm vẫy một cái, tức thì quân sĩ liều mạng xông lên.

Tướng Mãn Thanh là Kỳ Thiện cung xua quân liều chết xông lên. Thiện nhớ tới chữ "hèn nhát" có ý muốn rửa nhục, nên chỉ huy trận chiến vô cùng hăng hái... Thiện đánh liền năm trận, thắng luôn năm trận.

Hồng Thiên hoàng thấy quân Thanh quá mạnh, liền bỏ dùng sức để dùng trí. Hồng cho quân lên tới Hiếu Lăng Vệ, châm một mồi lửa đốt thiêu sạch Giang Nam đại đoàn, khiến quân Thanh chạy mảnh giáp không còn.

Liền đó tướng Lâm Phượng Tường đem quân Thái Bình xông ra, Giang Bắc đại doanh nghe tin Giang Nam đại doanh đã bị đại bại, hoảng hồn bạt vía, tức thì ồ ạt chạy như nước vỡ bờ.

Tướng Kỳ Thiện trong đám loạn quân, chẳng biết chạy ngả nào, vừa tức vừa giận vừa xấu hổ, bèn tuốt cây bội đao tự vẫn chết ngay trên lưng ngựa.

Quan Thái Bình Thiên Quốc tiến như sóng cồn. Lâm Phượng Tường liền quay mũi dùi chuyển xuống đánh Giang Bắc. Dương Tú Thanh cũng mang hai vạn quân đánh thẳng tới Hà Nam, Quý Đức, Phượng Tường lại bắt được một số tàn quân, vượt qua Hoàng Hà đánh tỉnh Sơn Tây.

Tin cấp báo bay như bươm bướm về kinh. Hàm Phong hoàng đế lập tức triệu tập bọn đại thần các bộ tại ngự tiền hội nghị.

Ngài hạ chỉ phái tổng đốc Trực Lệ là Nỗ Nhĩ Kinh làm khâm sai đại thần chuyên biện quân vụ tỉnh Hà Nam, một mặt thúc giục Tăng Quốc, chiêu mộ bọn hương dũng đi tiễu giặc ở Hồ Bắc.

Tăng Quốc Phiên và Trương Lượng Cơ lập ra thuỷ trận tại sông Trường Giang, chặn đứng được quân của Thái Bình Thiên Quốc.

Hàm Phong hoàng đế sau khi nghe lời khuyên can của Cung Thân vương, đem lòng yêu quý vương. Điều đáng chú ý là ngài trước đây, do hiếu sắc quá độ cho nên thân thể đã suy. Quân vụ hồi này lại quá nhiều, quá gấp, ngài chẳng còn đủ sức khỏe để giải quyết mọi việc. Cho nên, việc quân cơ đại sự ngài đều giao cho Cung Thân vương toàn quyền. Ngài sợ vương ra ngoài vất vả, bèn giữ lại trong cung, ngủ luôn trong đó. Vương ở trong cung đến hơn mười ngày.

Không ngờ lúc đó, người con trai của vương ở nhà, gây ra một án tình rắc rối.

Con trai cả của Cung Thân vương tên gọi là Trưng bối lặc. Ông bối lặc này tứ đổ tướng đều giỏi hết, chuyên tụ tập với bọn ma cô, du đãng, tối ngày hết gái đến cờ bạc, hết đá gà đến đua ngựa, không ngón chơi nào là không rành.

Trưng bối lặc quá quen về món gái làng chơi, nên bọn mụ dầu hoặc em út khắp kinh thành Bắc Kinh, ai cũng biết danh.

Người ta gọi Trưng là đại gia. Trưng đại gia có tính rất kỳ cục. Nhà thiếu gì tiền, nhưng Trưng lại không muốn chơi theo lối quang minh chính đại bằng cách bỏ tiền ra hỏi cưới mấy nàng hầu. Trưng bối lặc lang thang suốt năm ngoài chợ, ngoài xóm chơi bời phóng đãng, theo kiểu lêu lổng, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Trong nhà Trưng chỉ có mỗi một bà phúc tấn, chẳng có vợ hai, vợ ba nào cả. Bà bối lặc tính lại không hợp với chồng, suốt năm suốt tháng ở lỳ bên nhà cha mẹ, không thèm về phủ.

Trưng bối lặc lang thang đây đó chơi bời, rút cuộc bị lậu, có lẽ cả giang mai nữa. Cung Thân vương biết chuyện, liền bắt nhốt kỹ trong phủ, cho đi mời thầy thuốc tới chữa. Trưng bối lặc bị nhốt luôn đến nửa năm, bệnh lúc đó mới hết. Cung Thân vương thả ra, Trưng bối lặc, tính nào tật ấy, lại chuồn ra ngoài chơi bời phóng đãng như cũ.

Hồi đó, vào giữa tháng sáu, trời nóng bức hết sức khó chịu, trai thanh gái lịch thành Bắc Kinh đều tới bể Thập Phân để hóng mát. Bể Thập Phân này rất rộng, bốn mặt đều có hồ sen, hoa nở nào trắng, nào hồng, thơm ngát cả một vùng rộng rãi vây quanh. Dọc bờ bể có rất nhiều phòng trà, quán nước, có bọn chị em tiếp khách, đánh trống ngâm thơ. Du khách tới đây, có người thích ngắm hoa, có người lại thích nghe ngâm thơ, cũng có người thích uống trà hóng mát. Rồi lại cũng có cả những chỗ mà bọn trai gái mặc sức nô đùa, cười cợt tình tứ, diễn đủ trò đồi phong bại tục.

Một hôm, Trưng bối lặc đem bọn đàn em tới một phòng trà uống chơi. Ông nhìn qua bên hàng hiên, thấy một thiếu phụ mặc đồ Kỳ trang (quần áo theo kiểu người Mãn Châu) ngồi đó từ lúc nào, cũng đang uống trà. Người thiếu phụ ngồi có một mình, mặt mũi xinh đẹp, mi thanh mắt tú, dạ trắng như trứng gà bóc, môi điểm chút son hồng, mình mặc chiếc áo lụa trắng mỏng, lộ rõ thân hình nhỏ nhắn với bộ ngực nở đầy. Cặp mắt đen lay láy liếc về phía Trưng làm cho Trưng đại gia hồn vía lên mây.

Người đẹp trước mắt như miếng mồi ngon, Trưng đại gia làm sao mà bỏ qua cho đặng, phóng luôn mấy cái liếc đưa tình. Người đẹp đã không giận mà lại còn mỉm cười, nhìn đáp lại Trưng đại gia sướng điên lên, tim như muốn phá vỡ cả lồng ngực mà chui ra.

Giữa lúc đó, có một thằng bé lưng đeo sọt bắp sen, ngó sen, miệng rao bán inh ỏi. Người thiếu phụ giơ tay ngoắc lại hỏi mua. Thấy vậy, Trưng đại gia liền bảo một tên gia nhân bước sang trả tiền thay cho người đẹp và bảo:

- Bắp sen này, đại gia đã mua rồi, xin biếu cô nương. Đại gia tôi có lòng quý mến, muốn nói vài câu chuyện với cô nương, chẳng biết cô nương có vui lòng cho phép hay không?

Người thiếu phụ nhoẻn miệng cười tình, mắng yêu:

- Đại gia ngươi quý mến ai thì mặc xác hắn! Ai thừa hơi mà trò chuyện với đại gia ngươi?

Người thiếu phụ vừa nói, vừa bóc bắp sen ăn. Trưng đại gia cởi chuỗi ngọc đang đeo đưa sang tặng nàng, có ý thực lòng.

Người thiếu phụ thấy vậy bèn nói:

- Gia đình ta người đông, tai mắt nhiều lắm. Cùng trò chuyện với đại gia thật bất tiện. Bảo đại gia ngươi tìm một nơi thanh tịnh vắng vẻ mà gặp nhau thì hơn.

Trưng đại gia nghe câu nói đó, lòng sung sướng, liền đứng dậy, sai gia nhân đưa người đẹp ra bãi bể Thập Phân, rồi vào trong một tửu quán tên là quán Tràng Xuân. Trưng đại gia thường uống rượu ở đây. Điếm tiểu nhị biết ông là một vị bối lặc, hôm nay lại có thêm một người đàn bà, vội đưa vào ngay mật thất. Hai người lập tức lên giường.

Người thiếu phụ thực quả thuộc hạng phong lưu tình tứ. Rượu ngà ngà say rồi, nàng càng đẹp, càng duyên dáng, khiến Trưng đại gia lòng càng yêu quý hơn. Ông nhìn ngắm nàng như ngây như dại. Người thiếu phụ bật cười nói:

- Nhìn cái gì mãi vậy? Ngủ với nhau cả một đêm mà vẫn chưa nhận ra ta là cô ruột của ngươi ư?

Trưng bối lặc nghe nói giật mình đánh thót một cái, vừa lạ vừa nghi hoặc. Ông để ý hơn, quả cũng thấy mặt quen quen, hình như có gặp ở chỗ nào. Ông nghĩ mãi không hiểu tại sao nàng lại bảo là cô ruột mình. Ông cật vấn, nhưng nàng chỉ che miệng cười, không chịu nói.

Trưng bối lặc không nản, càng hỏi dồn. Lúc đó nàng mới bảo:

- Trước hết ngươi hãy quỳ xuống làm lễ bái kiến đi đã, rồi ta hãy nói chuyện thân quyến.

Trưng đại gia đã bị tửu sắc làm cho mê loạn, nhất nhất theo lệnh người đẹp. Nàng đỡ Trưng dậy, bảo:

- Tội nghiệp thằng cháu của tôi! Để ta nói hết cho mà nghe. Ngươi có còn nhớ năm ngươi cướp vợ không? Năm đó ta có tới phủ người dự tiệc cưới, ngươi cứ gọi ta là bà cô Tiểu Lan đó mà.

Trưng bối lặc đến lúc này mới sực nhớ ra, bèn nói:

- Chồng cô có phải là Lan đại gia không?

Người thiếu phụ gật đầu đáp lại, Trưng đại gia liền vỗ tay đánh đét một cái rồi bảo:

- Chuyện này hỏng bét. Bà chính là cô ruột của tôi rồi. Mới năm năm xa cách mà nhớ mãi mà không ra. Hôm qua gặp mặt tại sao cô không cho biết?

Hồi 120

BỐN ĐÓA HOA TUYỆT SẮC

Ngày qua tháng lại, trời đã sang hè. Hai cô cháu nhà Trưng lại đưa nhau tới bờ bể Thập Phân để nghỉ mát.

Giữa lúc đang vui vẻ khoan khoái bỗng từ đám đông xông ra một bọn vô lại du ôn, bế xốc lấy hông người thiếu phụ, chạy đi như bay.

Người thiếu phụ giả đò kêu la cầu cứu. Cũng có người động lòng nghĩa hiệp muốn giải cứu, bên cạnh có kẻ biết bọn du đãng nọ chính là những em út của Trưng bối lặc thì vội bảo:

- Ấy chớ! Bọn chúng là tay chân của Trưng bối lặc đó? Nhảy vào để chết à?

Người nọ nghe nói tới Trưng bối lặc, hoảng hồn bay vía, đứng dẹp qua một bên, không dám nhúc nhích nữa, chỉ còn biết nhìn theo bọn du côn nọ xốc nách người thiếu phụ mỗi lúc một xa dần.

Trong kinh thành, thiên hạ đồn rầm lên: Trưng bối lặc bắt cóc đàn bà con gái nhà tử tế. Nếu ở một chỗ khác thì tin đồn này hẳn có một hậu quả trầm trọng. Nhưng tại cái bãi bể đầy rẫy trai gái này, thì chẳng ai thấy lạ cả. Thực ra, chính do hai người đã bày ra trò này để có cớ tình tự với nhau trong căn nhà nọ, chẳng sợ ai dị nghị dòm ngó. Hoạ chỉ có đức ông chồng của người thiếu phụ đa tình kia là âu sầu mà thôi.

Anh chồng nọ sầu khổ quá chẳng thèm làm quan nữa, suốt ngày khóc sướt mướt chạy cùng khắp kinh thành để tìm vợ.

Suốt ngày ông bù đầu xoã tóc, xé áo, khóc lóc kêu xin, rồi chạy hết phố này qua đường nọ, gặp ai cũng bảo Trưng bối lặc cướp vợ mình.

Chuyện dần dần đến tai Đô lão gia. Ông sai người đưa Lan thái gia vào y viên chữa trị, một mặt dâng sớ lên đàn hặc Trưng bối lặc.

Thân phụ của Trưng bối lặc là Cung Thân vương Dịch Cân lúc này đang ở trong cung giúp Hàm Phong hoàng đế giải quyết mọi việc quốc gia trọng đại. Khi tờ sớ vào tới cung, hoàng đế đọc thấy, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trao lại cho Cung Thân vương.

Cung Thân vương xem tờ sớ tố cáo chính con trai mình bắt cóc và gian dâm cô ruột, hoảng hồn, bạt vía, mặt tái xanh vội ném cả thân hình quỳ mọp xuống đất và dập đầu lia lịa.

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Chú nên về nhà xem sự thể ra sao.

Cung Thân vương cầm bản tấu chương, vội ra khỏi cung đến thẳng nhà Trưng bối lặc. Hỏi ra mới hay Trưng bỏ nhà đi chơi đã lâu ngày chưa về, vương biết chuyện này có thật rồi, bèn cho gọi hết bọn tôi tớ trong nhà, căn vặn từng đứa một. Một vài đứa không chịu nổi hình phạt, đã cung khai ra chuyện Trưng bối lặc mướn phòng chứa gái ở khu phố cửa nam. Cung thân vương nghe xong, vội về phủ, đem theo bọn gia nhân sai dịch đến đó, đập cửa xông vào. Quả nhiên tóm cổ được cả chàng và nàng đang du dương trên giường.

Cung Thân vương nhận ra người thiếu phụ nọ đúng thật là con em họ mình, tức đến hộc máu, râu ria dựng ngược lên tua tủa như đinh. Vương giơ thẳng cánh tát đôm đốp vào mặt ông con mất dạy rồi quát giải về giao cho Tôn nhân phủ. Xong đâu đấy, vương mới vào cung, trước hết tự nhận tội mình, rồi sau tâu hết mọi việc cưỡng chiếm cô họ của ông con trời đánh!

Hàm Phong hoàng đế nghe tâu nối giận liền hạ dụ cách tuột chức tước của Trưng bối lặc, giao cho Tôn nhân phủ tống vào hình lao. Còn người thiếu phụ nọ, cũng giao cho Tôn nhân phủ đánh ba trăm hèo vào lưng, giam cầm ba năm, tới khi mãn hạn sẽ trao trả cho người chồng quản thúc.

Mãi về sau, khi bà phúc tấn, vợ Cung Thân vương mất, Trưng bối lặc nhờ người đến kêu với Hiếu Trinh hoàng hậu tha cho về nhà tống tang ma chay cho mẹ. Không ngờ sau khi được về nhà, Trưng bối lặc lại còn hoành hành vô pháp hơn xưa. Trong phủ của Trưng từ con a đầu, đến mụ vú trẻ, tất thảy đều bị Trưng cưỡng hiếp. Nhưng vì Trưng có tiền nên bọn này không tố cáo kêu ca gì, mà còn có vẻ bằng lòng lắm.

Trong phủ có một tên đẩy xe tên gọi Triệu Tam Hỉ. Hỉ có một con vợ cũng ở ngay trong phủ. Người trong phủ ai cũng gọi chị ta là Hỉ đại tẩu. Thị tính lẳng lơ, ai cũng bắt chuyện, gạ gẫm được. Trong phủ từ người trên kẻ dưới tất cả đều biết qua chị hết. Trưng bối lặc cũng biết luôn, rồi mắc bệnh.

Hết hè sang thu, bệnh của Trưng càng nặng thêm. Mấy ông lang đều lắc đầu, khoanh tay ngồi nhìn. Trưng lúc này cũng tự biết mình hỏng rồi, cho người đi mời cha tới để được nhìn một lần chót.

Cung Thân vương nghe nói con mình bệnh sắp chết, không buồn chút nào, trái lại rất lấy làm vui vẻ, cầu mong cho Trưng chết lẹ. Đến khi Trưng cho người mời, vương nhất quyết không tới.

Câu chuyện này chẳng hiểu do đâu mà Hiếu Trình hoàng hậu lại biết được. Bà bảo Cung thân vương nên đến thăm con một lần chót, gọi là thương kẻ tử biệt. Nể Hiếu Trinh hoàng hậu, vương lúc đó mới đi. Khi tới nhà, vương thấy Trưng nằm giữa giường như con mèo ốm, chỉ còn thoi thóp thở. Vương lấy tay bịt mũi bước hẳn vào phòng xem, thấy Trưng mình mặc một cái quần đen dùng chỉ trắng thêu đến hàng trăm con bươm bướm. Nhìn thấy vậy, vương văng tục ra chửi, rồi nhiếc: "Cho mày chết! Khốn nạn cái thân mày, biết chưa con!"

Nhiếc chửi một lúc, vương quay mình bước ra khỏi phòng, về luôn. Lát sau, Trưng trợn trừng mắt lên, chết tốt. Ai cũng nói Trưng tự mình tác nghiệt thì chịu lấy. Có nhân có quả, chẳng ai thương.

Trong lúc ở Bắc Kinh xảy ra việc nhố nhăng này thì ở Quảng Đông, liên quân Anh Pháp hên tục gây chuyện rắc rối.

Nhân cơ hội này, quân tóc dài Thái Bình Thiên Quốc tiến chiếm Thái Bình. Vu Hồ, Tri Châu, An Khánh suốt một giải châu quận dọc sông Tràng Giang. Từ Nam Kinh, Lý Trung vương cũng đem quân đánh thốc tới Hàng Châu.

Hàm Phong hoàng đế lúc đầu còn hăng hái lo, giải quyết những việc quân quốc đại sự, nhưng về sau thấy mọi sự càng ngày càng nát, càng hỏng, ngài đâm ra chán nản, chẳng thèm ra chầu nữa. Ngài vùi đầu trong đống yếm khăn của bọn phi tần cung nữ để giải khuây.

Hàm Phong hoàng đế rất thích bọn gái non miền Nam. Bọn gái Mãn Châu trong cung thô kệch ngài nhìn chúng hằng ngày thấy chán quá, lại bảo nhỏ Thôi tổng quản lẻn ra ngoài lùng gái Giang Nam đem về cho ngài. Trong vườn Viên Minh, tuy còn có Băng Hoa nhưng chơi lâu ngài đã chán rồi.

Chẳng bao lâu Thôi đưa về một lúc đến bốn cô toàn là loại tuyệt sắc miền Giang Nam để ở tại vườn Viên Minh cho ngài hú hí ngày đêm. Hoàng đế ban cho bốn người đẹp của ngài bốn cái tên hết sức thơ mộng. Một cô tên Hạnh Hoa Xuân, một cô tên Đà La Xuân, một cô tên Hải Đường Xuân, còn cô thứ tư tên Mẫu Đơn Xuân.

Bốn cô Xuân này chia ở bốn nơi trong vườn. Hạnh Hoa Xuân ở Hạnh Hoa thôn quán, Đà La Xuân ở Võ Lâm xuân sắc, Hải Đường Xuân ở Thiên Nhiên đồ hoạch lâu. Mẫu Đơn Xuân ở tại ương Kính minh cầm thất. Những nơi dành cho bốn cô danh hoa khuynh quốc này đều hết sức u nhã thanh tịnh.

Từ khi có người đẹp Giang Nam sắc nước hương trời, Hàm Phong hoàng đế quên hết cả giang sơn đất nước, thậm chí quên luôn cả đoàn quân tóc dài đang làm mưa làm gió ở phương nam. Ngài luân phiên lâm hạnh hết cô này đến cô khác trong số bốn người đẹp, vô cùng khoái lạc.

Trong bốn cô thì Mẫu Đơn Xuân có sắc đẹp và tình tứ hơn cả. Nàng người Tô Châu miền Sơn Đường thương. Nàng vốn con gái của một gia đình tầm thường, nhà ở ngay trên yếu đạo qua lại Hổ Khẩu. Bọn phú thương hằng ngày xe ngựa dập dìu qua cửa nhà nàng như nước chảy.

Mẫu Đơn Xuân có nhiều thì giờ nhàn rảnh lại thích đứng ngoài cổng chơi. Hồi đó, có một anh chàng buôn muối người Dương Châu giàu có, theo chân bạn hàng qua Hổ Khẩu, thấy nàng đẹp quá, lập tức tới nhà xin bỏ ra một ngàn quan tiền để mua nàng về làm vợ bé.

Người mẹ của Mẫu Đơn Xuân nghe nói tới một số tiền lớn liền bằng lòng ngay, nhưng nàng khăng khăng không chịu.

Họ Quách nhờ người đến nói năm lần bảy lượt mới được nàng cho biết, nếu thực tâm yêu nàng thì phải chọn ngày lành tháng tốt làm lễ tơ hồng lạy trời, tế đất thề nguyền làm vợ chồng nàng mới chịu lấy.

Anh chàng họ Quách mê nàng như điếu đổ, không dám trái ý nàng điều gì bèn ưng chịu ngay và chọn đúng ngày mười hai tháng tam là đem người đẹp về nhà.

Nào ngờ đầu tháng bảy, quân Thái Bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn tiến đánh thành Dương Châu. Quách trốn chạy về Tô Châu đem luôn cả hai mẹ con Mẫu Đơn Xuân lên Bắc Kinh. Dọc đường nàng cố tránh không cho Quách ngủ chung cùng phòng với mình.

Khi nàng vừa đặt chân tới Bắc Kinh thì Thôi tổng quản đã bủa cả một cái lưới săn người đẹp từ Dương Châu tới.

Thôi được tin nhà họ Quách có gái đẹp, tới ngay điều đình, nguyện đưa sáu ngàn lạng bạc đổi lấy Mẫu Đon Xuân để đem vào cung. Đồng thời còn cho Quách một chức quan ngũ phẩm trong kinh.

Mẫu Đơn Xuân nghe nói chuyện vào cung thì không bằng lòng chút nào. Nhưng tên Quách nọ tham công danh tiền tài, lừa nàng đưa tắp vào vườn Viên Minh.

Mẫu Đơn Xuân ở trong vườn tại riêng một khu có phong cảnh cực kỳ xinh đẹp. Cây cối xum xuê, nước chảy róc rách nghe như tiếng đờn cầm lơ lửng ngân trong đêm vắng. Đường đi lối lại quanh co. Hoa nở tươi như trăm ngàn đôi môi cô thiếu nữ chờ đón buổi xuân sang.

Vừa bước chân tới đây, nàng đã thấy có hai người đàn bà mặc Kỳ tràng chạy ra đón và dắt vào một khu nhà rộng lớn. Trong một căn phòng trang trí vô cùng lịch sự nàng thấy một người đàn ông mặt to tai lớn ngồi trên giường. Sau lưng người đàn ông này có một số đông đàn bà mặc Kỳ trang đứng hầu. Người đàn ông bận quần áo vàng. Nhiều người đàn ông khác mặc áo bào đều gọi người ngồi trên giường là Phật gia.

Mẫu Đơn Xuân bước vào nhà thì đã có một mụ vú già tiến đến đưa nàng tới chiếc giường làm lễ yết kiến và bảo cho nàng biết người đàn ông ngồi trên giường chính là đương kim hoàng đế.

Mẫu Đơn Xuân đến lúc này chẳng còn biết tính cách nào hơn, đành phải ưng chịu. Hoàng đế thấy nàng quả là một trang tuyệt sắc giai nhân, ngay từ lúc đầu đã đem lòng sủng ái hơn ai hết.

Đồng thời với Mẫu Đơn Xuân, còn có năm, sáu cô gái Hán khác nữa cũng được đưa vào cung. Trong số này có một người Dương Châu, tuổi vừa mười lăm, và cũng rất đẹp. Vào cung chưa được mấy ngày, người đẹp Dương Châu cảm thấy buồn chán, kêu la xin cho ra khỏi cung. Mẫu Đơn Xuân khuyên nàng nên nhẫn nại chờ đợi ít lâu, nhưng nàng không nghe cứ xin xỏ hoài. Một đêm, giữa lúc canh khuya vắng lặng, nàng trốn ra ngoài vườn, bị bọn thị vệ tuần canh bắt được, lại đưa trở về cung.

Hàm Phong hoàng đế biết chuyện, nổi giận lôi đình, lập tức sai mục quản sự kéo nàng ra ngoài, dùng giải lụa trắng thắt cổ chết. Bọn con gái Giang Nam từ đó sợ quá, không cô nào dám có ý trốn tránh nữa, đành phó thác tấm thân cho định mệnh.

Người đẹp thứ nhì, là Hải Đường Xuân. Nàng vốn là một con hát ở vùng Đại Đồng, tiểu danh là Ngọc Hỷ. Nàng thường hay tới hát tại các rạp tỉnh Thiên Tân. Tiếng hát của nàng trong trẻo mê ly, mặt mày nàng lại càng quyến rũ hơn, khiến bất cứ ai mới thấy nàng là đã mê rồi. Nàng lại còn biết gẩy đờn cầm, thổi sáo. Bọn vương tôn, công tử nhiều anh mê nàng, bỏ không biết bao nhiêu tiền cho nàng xài, nhưng không anh nào có hân hạnh được nàng để mắt xanh tới.

Bên cạnh những quan hệ vương giả ấy, nàng còn có một mối tình nghèo. Một anh chàng thư sinh nghèo xơ xác tên gọi Kim Chung Thiềm say mê sắc đẹp của Ngọc Hỷ quá, đến nỗi không ngày nào không mò vào rạp hát để ngắm dung nhan, nghe giọng hát của người đẹp. Mỗi lần đi xem hát là mỗi lần anh ta phải tìm chỗ ngồi ở hàng ghế sát sân khấu. Ngay cả những ngày mưa gió bão bùng, Thiềm ta cũng cố xem hát cho bằng được, không bỏ vắng một đêm nào. Chỉ khi gánh hát không trình diễn mới chịu nằm co ở nhà mà rầu rĩ nhớ nhung.

Anh chàng Thiềm si tình này cũng khá. Chàng có cặp mắt đẹp, đôi lông mày thanh, bộ mặt xinh trai, thuộc loại đàn ông có vẻ ngoài hấp dẫn.

Đêm đêm, Ngọc Hỷ trình diễn trên sân khấu, thường thấy phía dưới cớ anh chàng si mê mình quá, cũng lấy làm lạ. Lúc đầu nàng chẳng để ý, nhưng lâu ngày nàng cũng thấy lòng mình vương vấn.

Mùa hè sang thời tiết oi bức. Bọn vương tôn công tử sợ nóng, không tới xem. Nhiều ghế khán giả bỏ trống ở phía trước.

Nhưng anh chàng Thiềm si tình nọ vẫn trung thành tuyệt đối với gánh hát. Mở màn ra trình diễn, Ngọc Hỷ lại đã thấy Thiềm ngồi đó nhìn mình không chớp mắt rồi.

Anh chàng Thiềm mồ hôi trán chảy ra như tưới, mà vẫn ngồi, cung kính lịch sự nghe hát. Chàng sợ người đẹp chê mình là thiếu nhã nhặn, đến nỗi ngay cái quạt cũng không dám đem theo để phe phẩy cho đỡ nóng.

Ngọc Hỷ biết thế, bất giác cảm động. Nàng hát trên sân khấu cũng có phần hào hứng hơn nhiều, làm Thiêm càng thấy mê ly quyến rũ hơn.

Ngọc Hỷ trình diễn xong vai mình, cởi bỏ hết áo tuồng, lẻn ra trước sân khấu, ngồi cạnh anh chàng Thiềm nọ.

Kim Cung Thiềm không ngờ mấy năm nay cái lòng yêu chân thành của mình lại được người đẹp hiểu cho và đáp ứng lại chàng sung sướng ngoài sức tưởng tượng. Nhưng Thiềm vốn là một anh chàng học trò thuộc loại mọt sách, hết sức ngốc nghếch về đường tình ái. Vừa thấy người đẹp tới cạnh mình, đã xấu hổ mặt đỏ tía tai, không biết ăn nói thế nào với người đẹp. Cuối cùng lại cũng phải Ngọc Hỷ gợi chuyện trước rồi Thiềm ấp úng một lúc lâu mới trả lời nổi.

Ngọc Hỷ hỏi Thiềm tên họ, hết chuyện này sang chuyện kia, đến cả cảm nghĩ của khán giả đối với diễn viên như nàng trong gánh hát. Câu chuyện về sau đã thấy hào hứng. Thiềm mất hẳn được cái nhút nhát e lệ lúc ban đầu.

Khán giả trong rạp thấy thế, không xem hát nữa mà hầu hết đổ dồn mắt vào cặp nhân tình đang trò chuyện thân mật trước sân khấu. Họ tấm tắc khen ngợi Thiềm, cho Thiềm là người được diễm phúc hiếm có ở đời.

Kim Cung Thiềm thấy người ta đổ dồn mắt về mình càng mắc cỡ, miệng ấp úng nói không ra lời. Mặt chàng càng đỏ tía, tai chàng càng tía. Chàng là một tay văn chương, nhưng đứng trước người đẹp, chàng thấy chữ nghĩa bay biến đằng nào hết. Lúc này chàng mới biết cái sức mạnh khủng kiếp của đàn bà, của môi son má phấn!

Ngược lại, Ngọc Hỷ thấy chàng càng ấp úng, càng mắc cỡ, càng đỏ mặt tía tai, lại càng yêu chàng, yêu với cả tấm lòng chân thực của mình. Nàng thì thầm bên tai chàng cho biết nhà nàng ở đường nào, rồi nhoẻn miệng cười vô cùng tình tứ và nhẹ bước quay đi.

Kim Cung Thiềm phải đợi một lúc lâu sau khi Ngọc Hỷ đi rồi, mới gọi được hồn, thu được phách trở về. Nhớ lại lời nàng thì thầm, chàng muốn đi ngay tới địa chỉ của nàng, nhưng chàng sực nhớ đến cái túi tiền.

Vốn là một anh học trò kiết xác, nhân dịp vào kinh đi thi, chàng góp nhặt mãi mới được chút ít, không có nhiều để ăn xài như đám công tử vương tôn. Thấy người đẹp, chàng mê, chàng bỏ tiền ra mua vé xem hát. Mua quá nhiều, tiền đã cạn sạch. Người đẹp hẹn chàng, nhưng biết lấy gì để đưa đón người đẹp buổi sơ giao? Lúc này chàng không còn gì nữa, chỉ còn một tấm lòng yêu chân thành mà thôi.

Anh nhìn tới cái hầu bao mà lòng như dao cắt, trí như muốn cuồng, con tim đánh lên những hồi trống trận khủng khiếp trong lồng ngực, chỉ muốn phá tung cái chỗ nằm chật hẹp đó mà ra.

Hồi 121

NGƯỜI ĐẸP HẠNH HOA XUÂN

Kim Cung Thiềm say mê Ngọc Hỷ đã đến lúc ăn không ngon ngủ không yên, nhưng không còn một xu dính túi.

Thiềm chỉ còn biết đứng ngoài cổng rạp hát mà ngó, mặt ngây ra như kẻ mất hồn. Thiềm muốn đi cho khuất chốn này nhưng chân lại chẳng muốn rời. Chàng muốn nghe theo lời người đẹp tới chỗ hẹn nhưng tiền chẳng có một xu thì đi đâu.

Thiềm quyết định... Chàng quyết đem cái áo sa đài tới tiệm cầm đồ, để lấy tiền mua một cái áo dài bằng vải bố rẻ tiền mặc thế cái áo sa kia.

Ngọc Hỷ nhìn thấy, mặt cười như hoa nở, bước tới đón Thiềm. Vị sư phó thấy chàng chỉ là một anh thư sinh kiết xác, cũng có vẻ coi khinh, chẳng thèm để ý tới. Ngọc Hỷ xem chừng mọi người trong phòng đã lạnh nhạt với chàng bèn quảng cáo với đám đông:

- Anh Thiềm vốn là sư phó trong nhà Lục vương gia rất có thế lực. Các ngươi nếu có ý gì khinh khi, hãy coi chừng kẻo bọn mình khó sống tại đây đó.

Cả bọn trong nhà này đều giật mình kinh sợ, vội vã dọn rượu lên cho Ngọc Hỷ và Kim Cung Thiềm ăn uống trò chuyện.

Ngọc Hỷ ngồi bên cạnh Cung Thiềm, hai người vừa tình tự vừa ăn uống hết sức thân mật, âu yếm. Người sung sướng nhất phải là Cung Thiềm. Chàng có cảm nghĩ như mình bay bổng lên trời, đang đi vào thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, giữa các nàng tiên xinh đẹp.

Cơm rượu xong Thiềm móc trong ống tay áo ra mấy chục bạc để lên bàn đứng lên cáo từ định ra về, Ngọc Hỷ vội giơ tay nắm lấy ống tay áo chàng cười nói:

- Chàng quả thật là ngốc. Ai cần đến tiền của chàng. Chàng nhớ điều này nhé: hễ chàng tới với thiếp thì chàng không được quyền trở về nữa đâu.

Nói đoạn, Ngọc Hỷ kéo Cung Thiềm ngồi lại xuống ghế.

Thiềm ta sung sướng như điên, miệng mở to định nói lên điều gì mà không nói ra được, cũng chẳng đóng lại được nữa.

Hai người lại trò chuyện cười đùa trong phòng một lúc lâu nữa rồi mới chui vào màn the nệm gấm, cùng nhau hoàn thành mộng đẹp mơ ước bấy lâu.

Qua ngày hôm sau, Ngọc Hỷ lấy tiền của chính mình ra, lì xì cho bọn bồi phòng với bọn anh chị trong tửu quán, mất vừa, đúng một ngàn lạc bạc.

Bọn người chỉ biết có tiền này thấy có tiền thay đổi hẳn thái độ. Chúng cám ơn rối rít, lại xun xoe không một điều gì là không tích cực chu toàn.

Từ đó tất cả đám nhân viên trong quán coi Cung Thiềm như một vị thượng khách. Mỗi lần diễn hát xong, Ngọc Hỷ trở về đã thấy Cung Thiềm đứng đợi mình tại cửa phòng.

Mối tình của hai người lúc này đã mặn nồng lắm rồi, thế mà bọn vương tôn công tử vẫn còn như người nằm trong trống, chẳng biết tí gì, vẫn tung tiền ra chi cho người đẹp như tung qua cửa sổ, không đếm được là bao nhiêu.

Ngọc Hỷ lấy tiền của bọn vương tôn công tử đem về đưa cho Kim Cung Thiềm. Về sau Ngọc Hỷ điều tra ra là Cung Thiềm chưa có vợ nên quyết định lấy chàng. Nàng đem tất cả tiền của dành dụm được trong bao năm đưa cho Thiềm để chọn mua một ngôi nhà, mong xây dựng một cái tổ uyên ương ấm cúng trong tương lai. Cả ngày chàng và nàng chỉ lo bày biện xếp đặt căn phòng như thế nào cho lịch sự, cho ấm cúng.

Họ đi mua bàn mua ghế, mua tủ, mua đủ bộ lệ để trang trí khiến cho căn phòng xinh đẹp ưa nhìn hết chỗ nói. Họ tính chọn ngày lành tháng tốt để cưới nhau đàng hoàng rồi mới về nhà mới, tạo lập cuộc đời vợ chồng trăm năm đầu bạc như đã từng ao ước.

Ngày cưới và ngày về nhà mới đã tới, Kim Cung Thiềm mướn rất nhiều đầy tớ trai gái, để hầu hạ trong nhà. Qua ngày hôm sau Thiềm đi thuê một cô xe đánh tới nhà Ngọc Hỷ đón nàng về nhà mới, làm cô dâu.

Nhưng không ngờ khi Thiềm tới nhà Ngọc Hỷ, thì chỉ thấy nhà cửa vắng hoe chẳng có một bóng người. Chạy vào phòng ngủ của nàng Thiềm chỉ thấy phấn sáp ngổn ngang, chăn gối tiêu điều, ngoài một mụ già ngồi giữ căn phòng chẳng còn ai cả.

Thiềm vội hỏi mụ già, thì mụ ấp úng trả lời một cách ngớ ngẩn mơ hồ rằng nàng đã vào cung rồi!

Thiềm hỏi đi hỏi lại ba bốn lần nhưng cũng chẳng hiểu rõ được nguyên nhân đấy đủ. Chẳng còn cách nào hơn chàng chạy tới rạp hát đợi khi vãn hát. Khán giản xôn xao bàn tán bảo Ngọc Hỷ tối qua đã bị trong cung đem ba vạn lạng bạc tới mua nàng về làm phi tử mất rồi.

Thiềm nghe đoạn, hồn phách lên mây, mối tức hận tràn ngập trong lòng.

Ngọc Hỷ tiến cung là chuyện thật! Nguyên do Thôi tổng quản dò xét biết nàng đẹp, đem tiền tới bà bầu gánh hát nói rõ ý muốn mua nàng đưa vào cung, do đó mới có chuyện chia uyên rẽ thuý đau thương này.

Ngọc Hỷ vào cung, Hàm Phong hoàng đế thấy nàng đẹp, cặp má hồng thắm như cánh hoa hải đường, bèn đặt tên là Hải Đường Xuân.

Kim Cung Thiềm ở bên ngoài dò xét sự thể rõ ràng đích xác rồi, lặng lẽ về nhà, leo lên đầu giường thắt cố chết.

Hải Đường Xuân, sau khi bị đưa vào cung nhớ thương Kim Cung Thiềm quá đến nhuốm bệnh, suốt ngày không dậy được, uất ức đau khổ quá, cũng chết theo Cung Thiềm trong một buổi chiều mưa gió bão bùng.

Nhưng trong số "bốn cái xuân" của Hàm Phong hoàng đế, quốc sắc thiên hương nhất, da thịt nõn nà nhất, tươi tắn trẻ măng nhất phải nói là Hạnh Hoa Xuân.

Hạnh Hoa Xuân vốn con nhà lương thiện, cha mẹ mất sớm, nàng mồ côi từ lúc còn nhỏ tuổi. Người chú ruột đem nàng bán cho một gia đình giàu cô họ Thạch để làm a hoàn. Gia đình họ Thạch chỉ có mỗi một mụn con gái nên Hạnh Hoa xuân suốt ngày chỉ hầu hạ Thạch tiểu thư. Thân phụ Thạch vào cung làm quan, đem theo cả quyến thuộc. Dĩ nhiên Hạnh Hoa Xuân cũng phải đi theo.

Về sau Thạch tiểu thư được gả cho một cậu công tử con một vị thượng thư họ Từ. Hạnh Hoa Xuân lúc đó cũng theo Thạch tiểu thư về nhà họ Từ hầu hạ, vẫn làm a hoàn như cũ bồi phòng.

Cậu công tử họ Từ làm quan đến chức thị lang thường gọi Từ thiết gia thấy Thạch tiểu thư nhan sắc xinh đẹp, hết lòng yêu thương cưng chiều. Nhưng lại cũng vì quá cưng chiều, Từ thiết gia biến thành anh chồng râu quặp, khúm núm e dè trước phu nhân không dám ho he lấy một tiếng.

Hồi đó, Hạnh Hoa Xuân tuổi đã mười lăm, hiểu biết chuyện đời rồi. Mắt nàng trong sáng như mặt nước hồ thu, má nàng như đôi trái đào chín, miệng nàng xinh như đoá anh đào đương độ xuân sang. Chỉ một cái cười của nàng, cũng đủ để cho hàng vạn người mê say đắm đuối, hồn phách bay bồng chín từng mây.

Tiểu chủ nhân của Hạnh Hoa Xuân là Thạch thị lang thấy nàng quá đẹp, có ý thèm muốn, nhưng phu nhân nhà ghen quá, nên chẳng dám bờm xơm công khai mà chỉ âm thầm tính cuộc lâu dài.

Tuy chỉ là một con a hoàn, nhưng Hạnh Hoa Xuân được bà chủ mẫu cưng chiều, lại tự thấy mình có cái nhan sắc hơn người, nên chỉ muốn cưới một người chồng vừa ý. Ông chủ trẻ dù có tán tỉnh bao nhiêu cũng mặc, nhất định không chịu.

Mãi về sau Thạch thị lang chịu không nổi nữa, đành phải quỳ gối trước mặt phu nhân, cầu xin cho phép lấy con a hoàn làm vợ bé. Bà phu nhân nghe nói nổi cơn thịnh nộ rồi đem Xuân cất giấu đi một nơi.

Hồi đó, có một bà phúc tấn tôn thất chơi rất thân với bà phu nhân Thạch thị lang. Bà phu nhân họ Thạch bèn đem Xuân gởi sang nhà bà phúc tấn tôn thất này. Chồng bà phúc tấn là bối lặc tôn thất lại chơi thân với Thôi tổng quản rất tâm đầu ý hợp. Ông được biết Thôi tổng quản lúc đó đang có sứ mạng tìm người đẹp Giang Nam cho hoàng đế. Bởi thế ông vừa thấy Xuân đã tấm tắc khen đẹp, vội chạy đến phỉ báo cho Thôi tổng quản hay.

Thôi tổng quản đến nhà bối lặc tôn thất xem mặt cũng phải ưng chịu tức thì. Thế là bà phúc tấn của ông bối lặc tôn thất lập tức đi mời bà phu nhân Thạch Thị lang tới để nói rõ câu chuyện. Thôi tổng quản xin đem hai vạn lạng bạc mua con a hoàn đưa vào cung. Bà phu nhân thị lang nghe thấy số tiền quá lớn, liền thuận ngay. Hơn nữa, bà cũng nghĩ cái thứ "đồ chua" này mà còn để trong nhà, thì thế nào chồng bà cũng tìm mọi cách để chiếm đoạt chi bằng đưa tắp vào cung là êm chuyện, sạch mắt, khỏi phải ghen tuông khó chịu gì nữa.

Trước hôm Hạnh Hoa Xuân vào cung, Thạch thị lang làm một bữa rượu để thết đãi. Xuân ngồi ghế nhất, rồi hai vợ chông quỳ lạy trước mặt, cầu xin khi ở trước vạn tuế gian nói tốt cho đôi điều. Quả nhiên, Xuân được hoàng đế hết sức sủng ái.

Hạnh Hoa Xuân cũng nói tốt nhiều lần cho Thạch thị lang trước mặt hoàng đế. Thạch thị lang nhờ đó thăng quan tiến chức vù vù, chưa đầy một năm đã leo lên đến chức chánh sứ tỉnh Hà Nam.

Hạnh Hoa Xuân tính hay cười, mà lúc cười thì nàng đẹp lắm. Miệng nàng chỉ hé cười là đủ để cho người ta thần hồn bay bổng, tâm như mê, lòng như cuồng rồi.

Bởi thế, Hàm Phong hoàng đế giữa lúc giận tức đến đâu, mà thấy nàng cười một tiếng, là ngài hết giận làm lành ngay.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn hay rượu, rượu say rồi thường cáu giận. Lúc đã cáu giận thì ít ra cũng có một vài tên thái giám hoặc cung nữ bị hại, nhẹ thì roi đánh gậy quật, nặng thì bị giết tức thì. Khi tỉnh lại, ngài hối hận quá đỗi, nhưng việc đã rồi, chỉ còn biết lấy hàng ngàn lạc bạc phủ tuất kẻ bị hại mà thôi. Đặc biệt không bị hoàng đế khiển trách hoạ chỉ có Hạnh Hoa Xuân. Mỗi lần ngài nổi giận, nếu được Hạnh Hoa Xuân cười lên một tiếng, rồi lăn vào lòng ngài, thì sự giận tức có lớn đến đâu chăng nữa cũng xẹp ngay. Mặt ngài tươi tỉnh hẳn lên, lòng ngài như quên hết mọi chuyện đã qua, vội giơ tay kéo sát nàng vào mình, thì thầm:

- Thật là viên ngọc như ý của trẫm đây.

Cũng vì vậy nên có bà phi cô tần nào lỡ chọc giận hoàng đế, thì phải chạy ngay tới Hạnh Hoa Xuân cầu cứu. Lúc đó, lỗi có lớn đến đâu chăng nữa, hoàng đế cũng gật đầu bỏ qua.

Toàn thể bà con trong cung nội mới tặng nàng cái biệt hiệu là Hoan Hỉ phật, cũng còn gọi là Lưu Hải Hỉ.

Hạnh Hoa Xuân cũng là người tốt, đối đãi với bọn cung nữ thật tử tế, hoà thuận. Nhưng nàng có một tính xấu là rất thích tiền. Trong phòng nàng đặt một cái rương lớn. Hễ được hoàng thượng thưởng tứ vật gì là nàng bỏ ngay vào đó.

Nói đến tiên với nàng thì đừng hòng lấy được một xu, một đồng nào. Dù cho kẻ đó có lừa, có bịp, có doạ, có nạt nàng nhất định cũng liều chết với rương tiền, không xuất ra một xu. Hàm Phong hoàng đế biết nàng có tính này nên thường tứ cho nàng rất đặc biệt. Do đó, nàng để riêng ra được rất nhiều tiền của châu ngọc. Nàng giầu, nên rất sợ bạn hữu vay mượn. Nàng ra ngoài thường giả bộ than nghèo kêu túng để chẳng ai vay mượn hoặc xin xỏ mình.

Suốt ngày ở trong cung, nàng chỉ nghĩ cách làm tiền. Nàng ỷ vào cái thế hoàng đế sủng ái, có bà phi, cô tần nào bị ngài nổi giận khiển trách, trừng phạt, chạy tới cầu cứu thì nàng chìa tay ra đòi tiền, một lần mở mồm là ít ra cũng năm trăm hoặc một ngàn lạng, thiếu một đồng cũng không được. Số tiền như thế kể ra quá lớn, nhưng vì tính mạng bà nào, cô nào cũng phải gật đầu cả. Việc nguy cấp đến đâu, mà tiền không có hay không đủ số là nàng mặc kệ, nhất định không giúp. Lúc đó, ai có việc mà thực sự không có tiền buộc phải viết một văn tự nợ thì mới có hy vọng nàng đi giùm. Văn tự nợ đến kỳ hẹn là nhất định phải thanh toán, không thể khất lần được, dù chỉ chậm một ngày hoặc thiếu một đồng; nhất định phải đủ số và đúng hẹn, nàng mới chịu và mới hy vọng được nàng cứu giúp lần thứ hai. Ấy cũng vì cái tính ham tiền mà nàng bị hầu hết bọn phi tần oán giận.

Mẫu Đơn Xuân tính gian xảo điêu ngoa, khác hẳn Hạnh Hoa Xuân. Nàng thấy Hạnh Hoa Xuân như vậy, bèn nghĩ ra một kế để chơi cho biết mặt. Nàng biết Hạnh Hoa Xuân rất thích đánh bạc, bèn mưu tinh với mấy tay bài bịp lừa Hạnh Hoa Xuân, để cho được lúc đầu rồi mới dốc túi vào phút chót. Quả nhiên, Hạnh Hoa Xuân thoạt vào đầu ăn luôn một hơi năm bảy bàn, tiền vào như nước. Nàng thích lắm, lúc nào cũng chỉ muốn gầy sòng, ngoài nhưng lúc bận hầu tiếp quân vương ra, đều có mặt tại sòng bạc, rủ rê hết người này tới, người kia nhập cuộc. Nàng đã trúng kế Mẫu Đơn Xuân.

Ngày một ngày hai nàng thua, thua mãi, lúc đầu ít còn muốn lấy tiền trong rương ra trả, nhưng về sau thua nhiều quá, mỗi lần ít ra cũng vài ngàn lượng, nàng xót của thương tiền, quyết không xuất trả nữa. Nàng khất lần, hết hạn này đến hạn kia. Khi đến hẹn nàng lại thối thác lý do này, nguyên uỷ nọ để trì hoãn tiếp.

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế đi bách bộ trong vườn, lững thững bước từ Tầm Vân tạ đến Di Lan đình... Ngài bỗng nghe tiếng nói xôn xao, quát tháo, rồi tiếng đàn bà quát mắng đánh đấm nhau túi bụi.

Ngài nhón bước, lẹ ra trước đình và thấy trên bãi cỏ một đám cung nữ đứng thành vòng tròn, bên trong có hai nàng phi mặc quần áo Hán đang ôm nhau vật lộn cấu xé, đánh tát nhau túi bụi.

Nhìn kỹ hơn, ngài thấy một nàng người mảnh mai bị một nàng khác to béo đè lên trên, đôi chân nhỏ xinh đang đạp giãy lung tung để cố thoát trong khi đó nàng vóc to béo thì chiếc quần hoa thạch lựu lấm bết trong vũng bùn nước ướt nhẹp.

Hàm Phong hoàng đế thấy hai người giằng xé kéo co, cũng phải phì cười. Ngài rẽ đám cung nữ bước vào đích thân kéo cả hai nàng dậy. Cả hai người đều đứng im cúi đầu lặng thinh, nhưng tay vẫn nắm chặt lấy tóc nhau, không chịu buông ra.

Nhìn kỹ Hàm Phong hoàng đế mới biết một người là Hạnh Hoa Xuân, còn người kia thì Mẫu Đơn Xuân. Hai bên cung nữ lúc đó mới đồng thanh hô lên một tiếng:

- Vạn tuế gia tới đó! Không buông tay ra nữa sao?

Lúc đó hai nàng phi nọ mới chịu buông tay, đầu tóc rũ rượi, hơi thở hồng hộc, mặt mày xám ngoét.

Hoàng đế hỏi chuyện, Mẫu Đơn Xuân vừa thở vừa tâu:

- Hạnh Hoa Xuân đánh bạc thua, không muốn trả tiền!

Hoàng đế hỏi Hạnh Hoa Xuân thua bao nhiêu thì nàng tâu:

- Thua hết cả thảy là hơn sáu ngàn lạng bạc.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, bỗng phì cười bảo:

- Trẫm trả cho nhé. Đừng gây lộn nữa. Mau về hầu rượu cho trẫm đi.

Mẫu Đơn Xuân nghe hoàng đế nói vậy, chưa nén được cơn tức, hất hàm bĩu môi nói:

- Chỉ mình Hạnh Hoa Xuân được Phật gia sủng ái mà thôi. Phật gia thế nàng trả nợ một lúc luôn sáu ngàn lạng. Bọn thiếp quả thực không thể nào hiểu nổi. Chả trách đã lâu lắm ngài chẳng có thưởng tứ một chút gì cho bọn thiếp.

Hàm Phong hoàng đế thấy Mẫu Đơn Xuân có vẻ hờn dỗi, bất giác cười lên sằng sặc, bảo nàng:

- Trẫm thưởng! Trẫm thưởng cho nàng mà! Cũng thương cho sáu ngàn lạng được không?

Bọn phi tần đứng cạnh thấy hoàng đế ban thưởng, cũng nghĩ ngay đến mình, đều nhất tề tiến lên xin thưởng. Thế là hoàng đế phải thưởng hết tất cả, mỗi một cung nữ ngài thưởng ba trăm lạng.

Lời ban thưởng vừa chấm dứt, thì một loạt tiếng ca tụng ơn đức của hoàng đế vang lên:

- Đa tạ vạn tuế gia ân thưởng.

Hàm Phong hoàng đế được ca tụng, lòng vui sướng khoan khoái Ngài đi giữa, một tay ôm lấy vai Hạnh Hoa Xuân, một tay ôm lấy vai Mẫu Đơn Xuân, theo sau là cả một đoàn dài cung nữ phi tần, kéo thẳng tới gian chính thất mở tiệc vui say chè chén.

Đêm đó, Mẫu Đơn Xuân cùng với Hạnh Hoa Xuân, cả hai người đều được triệu vào lâm hạnh. Từ đó về sau, Hạnh Hoa Xuân khởi đầu hẳn một cái lệ là hễ mình thua bạc thi hoàng đế phải trả. Bọn phi tần cung nữ thấy vậy, bèn hùa nhau thông đồng để móc túi Hạnh Hoa Xuân, kỳ thực là móc túi Hàm Phong hoàng đế.

Ít lâu sau, Hạnh Hoa Xuân dành dụm riêng tây được một số khá lớn, lên tới mười vạn lạng bạc. Nàng lén gọi thái giám đưa ra khỏi cung, giao lại cho chủ mẫu, bà bố chánh sứ họ Thạch, để giúp nàng cho vay lấy lãi. Lãi càng ngày càng nhiều vốn càng ngày càng to, lúc đó, Hạnh Hoa Xuân lại sợ bà chủ mẫu manh tâm cướp mất của mình, nên lại bảo tên thái giám tới nhà bà chủ mẫu xin cho một mảnh giấy làm bằng cớ.

Bà bố chánh sứ nghe nói, tức giận sôi lên, lập tức đem số tiền trả vào cung. Hạnh Hoa Xuân sợ quá, tình nguyện đem một vạn lạng bạc biếu kính bà chủ mẫu nhưng bà không chịu nhận. Hạnh Hoa Xuân không còn cách gì khác, nên trước mặt hoàng đế, nàng xin cho người con trai bà chủ mẫu một chức nhỏ "tiểu kinh quan" gọi là để đền ơn.

Về sau, khi bọn ngoại quốc Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Áo, Nga, kéo vào đánh phá Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu phải dắt vua chạy ra Tây An thì Tây Thái hậu nhân dịp loạn lạc này sai thái giám đem Hạnh Hoa Xuân ra thắt cổ chết, cướp sạch tiền nong mà nàng đã tích cóp được từ bao năm.

Hồi 122

NGƯỜI ĐẸP ĐÀ LA XUÂN

Trong cung Thanh thời Hàm Phong hoàng đế có bốn cái Xuân: Xuân Hạnh Hoa là một ta đã kể ở hồi trước. Nay đến Xuân thứ chót tức đến cái Xuân Đà La. Lúc mới vào cung, Đà La Xuân có một hoàn cảnh thật là bi đát.

Hàm Phong hoàng đế sau khi ôm được ba người đẹp trong tay Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân, Hải Đường Xuân, còn muốn thêm một cái Xuân nữa để cho đủ bộ tứ Xuân.

Một hôm, hoàng đế cải trang thành một khách thương vi hành ra ngoài cửa Tuyên Võ đạo chơi. Khi bước lên cầu Kim Toả ngài nhìn thấy một cô gái ôm giỏ quần áo vừa giặt từ chân cầu đi lên một ngôi nhà cao và tối om như mực. Ngài ngồi đợi bên ngoài, mong người đẹp trở ra, nhưng không thấy.

Ngài đành về hôm đó và dặn bảo Thôi tổng quản đem vài tên thị vệ đến nhà cô gái điều tra, Thôi tổng quản vâng chỉ chuẩn bị sẵn sàng.

Qua ngày hôm sau, bọn Tổng quản tới cầu Kim Toả, trước hết cho bọn thị vệ đi dò la các nhà chung quanh, mới biết gia đình nhà này họ Lý, chỉ có hai mẹ con. Người mẹ goá, cô con gái mới mười bảy tuổi.

Dò biết được như vậy. Thôi tổng quản cho rằng nhà chỉ có đàn bà thì dễ bắt nạt bèn vào tiệm vàng mua một ngàn lạng bạc đựng trong bốn cái quả sơn son thiếp vàng, bảo bốn tên thị vệ bưng theo.

Thôi tổng quản đi trước, đấy cửa bước vào, cho đặt bốn cái quả vàng giữa nhà trên, nói rõ ý mình. Bà quả phụ họ Lý nghe đoạn, tức thì nói:

- Con gái tôi đã gả chồng rồi! Mà nếu chưa gả chồng đi nữa, nó cũng chẳng muốn chết già trong thâm cung đó đâu. Ông đem tiền của ông đi đi. Dù có phải là nhà vua đi chăng nữa thì cũng phải có lý, có lẽ mới được, chứ không thể cương bức con gái nhà lương gia làm những việc hạ tiện như thế này. Thôi ông đi đi! Nếu không, tôi sẽ tới tố cáo ngay tại nha môn quan đề đốc bây giờ!

Thôi tổng quản nghe xong, bất giác cả giận, nói:

- Mụ chỉ là một người đàn bà, liệu con gái mụ có thể thoát khỏi được tay vạn tuế gia được không? Được! Ta sẽ đi ngay. Nhưng ta hẹn cho mụ mười giờ nữa, mụ sẽ thấy gia đình nhà mụ nhà tan người mất cho xem.

Bà goá phụ họ Lý tính còn nói nữa, nhưng cô gái chạy vội ra kéo bà vào trong.

Đợi khi Thổi tổng quản đã đi rồi, lúc đó cô gái mới bảo mẹ:

- Con nghe nói đương kim hoàng đế thuộc loại quỷ đói sắc, bọn cường đồ này tạm thời vào cung, nhất định sẽ trở lại. Nếu con không trốn ngay thì thế nào cũng bị độc thủ của chúng. Chi bằng con hãy tạm lánh trong nhà bà dì con lúc này đã.

Thế là bà goá phụ họ Lý vội đưa con đi giấu tại nhà bà dì.

Trời gần tối, Thôi tổng quản đem theo hơn chục tên thị vệ, hùng hổ xông vào cửa trước, tính để cướp cô gái.

Nhưng xông vào lục lọi một lúc chẳng thấy cô gái đâu, bọn chúng nắm lấy bà goá phụ, kéo xềnh xệch lôi ra ngoài phố.

Chỉ trong nháy mắt, khắp kinh thành đồn rầm lên. Cô gái nghe tin, định xông ra để cứu mẹ, nhưng bà dì ngăn cản bảo:

- Cháu xông ra lúc này, chính là tự nhảy vào lưới đó Chúng bắt mẹ cháu, chi là để doạ mà thôi. Theo ý dì, nhân cơ hội này, cháu nên tìm thằng chồng sắp cưới mà lấy tắp ngay đi. Cưới xong, hai vợ chồng cháu đưa nhau tới cầu khẩn tại nha quan thống lĩnh. Lão gia thấy đũa đã có đôi, gái đã có chồng rồi thì thôi chứ còn gì. Đương kim hoàng đế hẳn cũng chẳng nỡ chia uyên rẽ thuý vợ chồng cháu đâu mà ngại.

Đến lúc quá khẩn bách này, cô gái không còn tự chủ được nữa, vội nhờ bà dì tìm mụ mối tới nhà bà gia nói chuyện.

Nhưng không may cho nàng là anh chàng rể đã đi miền nam từ hai năm trước chưa về, còn đang sống trong vùng giặc giã chẳng biết sống chết ra sao.

Cô con gái được tin này oà lên khóc nức nở, vừa khóc cho số phận mình vừa khóc cho số kiếp của người yêu. Khóc một lúc lâu, vào lúc đêm khuya, tứ bề vắng lặng, nàng cởi sợi dây lưng treo cổ lên xà nhà tự vẫn.

Bà dì biết được, vội chạy vào phòng đỡ nàng xuống, cứu sống lại. Bà chỉ lo cho án mạng lại xảy ra, bọn người trong cung đến đòi người, chắc sẽ gây ra nhiều lôi thôi nguy hiểm nên bà khuyên nàng tới am sư nữ cắt tóc đi tu là hơn. Cô gái nghe lời, sửa soạn ra đi. Thân mẫu Lý tiểu thư vốn có một bà ni cô quen biết tên gọi Nguyệt Chân. Ni cô này trụ trì am Bạch Y trên núi Tây Sơn. Bởi thế, Lý tiểu thư lẻn trốn tới am này đầu phật.

Ni cô Nguyệt Chân hỏi ra mới ì biết bà Lý đã bị bọn cường đạo trong cung bắt và hoàng đế còn định bắt nàng vào cung. Bà nghe xong vừa thương vừa sợ, vội khuyên Lý tiểu thư thôi khóc, kẻo lộ hành tung ra ngoài:

- Theo ý của Lý tiểu thư thì nàng muôn xuống tóc làm ni cô ngay.

Nhưng Nguyệt Chân khuyên can, bảo:

- Cháu đã vào chùa thì bọn quan binh kia chẳng dám vào đây tra xét đâu. Hơn nữa thằng chồng sắp cưới của cháu hiện nay chưa biết sống chết ra sao. Nếu cháu xuống tóc quy y mà nay mai chồng cháu trở về liệu ni này ăn nói thế nào. Nay cháu tới nương cửa phật để tránh khỏi tai nạn, cháu có thể tu hành mà vẫn để tóc được. Đợi khi nào mẹ cháu được thả ra, chồng cháu được trở về, lúc đó ta sẽ cùng nhau bàn tính. Nếu mọi người khuyên cháu xuống tóc thì xuống, nếu không thì thôi, chứ lão ni này quả không muốn nhúng tay vào việc đó.

Lý tiểu thư đành nghe lời khuyên của ni cô tạm thời để tóc tu hành, sớm đánh chuông chiều đánh trống, lúc mõ lúc chiêng, dưa muối qua ngày nơi am thanh cảnh vắng của nhà thiền.

Bọn quan nha đi tìm kiếm Lý tiểu thư khắp kinh thành, đâu có chịu ngừng tay. Đánh hơi được tin nàng trốn tránh ở tại nhà bà dì, thế là chúng xông tới lục soát. Không thấy bóng Lý tiểu thư đâu, chúng bắt luôn bà dì đưa vào ngục giam lại, ngày ngày tra khảo.

Đáng thương cho bà Lý, tuổi đã già lại bị đói khát uất ức, đánh đập, tra tấn trong nhà lao, nên chẳng được bao ngày, bà chết luôn.

Bọn quan nha biết bà Lý không còn ai là thân nhân, cấp cho một cỗ quan tài gỗ tạp, khâm liệm qua quýt rồi đem chôn dưới một nấm mồ ngoài đồng hoang vắng. Còn bà dì nọ, nhờ được ông chồng bỏ ra ít tiền chạy chọt đút lót, mãi chúng mới thả ra.

Lý tiểu thư trốn trong chùa tuyệt nhiên không biết một tí gì xảy ra ở bên ngoài. Mãi đến khi bà dì nọ được thả ra đến cho hay tin, nàng mới oà lên khóc, đến chết đi sống lại nhiều phen. Miệng nàng kêu gào đòi cùng chết để theo mẹ.

Suốt ngày đêm nàng khóc, chỉ thiếp đi khi đã kiệt sức. Vì thấy nàng đã đến lúc liều, các sư sãi trong chùa phải ngày đêm đề phòng.

Lý tiểu thư thấy khó tìm được cái chết nơi đây nên bèn nghi ra một cách. Nàng nói với Ni Nguyệt Chân rằng mình đã đau khổ đến cùng cực rồi ni cô nên cho nàng xuống tóc quy y.

Ni Nguyệt Chân thấy lòng nàng đã thành, liền bằng lòng chọn ngày tốt thế phát cho nàng.

Đến ngày hôm đó, trên Phật đài hương hoa đèn nến sáng choang, Lý tiểu thư quy y trước toà sen, có hai vị sư ni niên trưởng hai bên, thả tóc nàng xoã xuống thành hai lọn buông thõng xuống hai bên vai, dài mãi tận mặt đất. Ni Nguyệt Chân bước tới trước Phật đài đọc một quyển kinh xong, thì hai sư ni đứng hai bên cầm kéo hót lẹ, tóc rơi rụng xuống đất. Đến lúc này, Lý tiểu thư lệ tuôn rơi tầm tã, mình khoác lên tấm áo cà sa, tay cầm một chuỗi hột mầu ni, chân đạp đất.

Thật đáng thương một đoá hoa nghiêng nước mà phải chịu cái cảnh nâu sồng dưa muối nơi am thanh cảnh vắng, sớm hôm sầu tủi lặng lẽ bên cạnh đám sư nữ.

Đứng trước cảnh tình ấy, ai chẳng động lòng thương xót. Nào ngờ số kiếp nàng còn nặng nợ, vận hạn vẫn chưa lui.

Thế là một hôm nọ, mười mấy tên thái giám bỗng xông vào chùa, quát bọn nữ ni phải ra hết để đón giá.

Ni Nguyệt Chân vội đem cả bọn sư nữ ra lom khom quỳ trên mặt đất. Đột nhiên một đoàn xe tứ mã cao mui rầm rập đi vào, quả nhiên Hàm Phong hoàng đế tới chùa thật.

Bọn nữ ni đồng thanh hô: "Phật gia vạn tuế, vạn vạn tuế!"

Hoàng đế đi thẳng vào nội điện, lễ Phật xong ngồi trên sập, cho gọi khắp lượt bọn ni cô ra bái yết. Một tên thái giám truyền chỉ vào phía trong, bảo phải tới đủ, không được thiêu một ai, nếu dối trá thì chỉ trong chốc lát am Bạch Y này lập tức sẽ ra tro. Ni Nguyệt Chân không biết làm sao đành quỳ xuống tâu lên:

- Trong thuở bần ni còn có một tên đồ đệ mới tới, tuổi tre e lệ, chưa rành lễ phép, sợ rằng xúc phạm đến thánh giá.

Hoàng đế truyền chỉ xuống bảo phải gọi người đồ đệ đó ra ngay, sẽ tha thứ cho tội thất lễ. Lý tiểu thư lúc đó trốn ở sau điện, nghe rõ cả mọi chuyện, nghĩ bụng mạng mình nguy rồi, chi bằng nhân lúc này tự tận cho xong nghĩ vậy, nàng nhác thấy một con dao bầu để trên bàn, liền cầm lấy đâm vào cổ. Nhưng nàng không ngờ trong lúc nguy cấp đó, ba bốn tên thái giám từ phía sau phóng tới chụp lấy con dao nọ, rồi chẳng cần hỏi tra gì, hai đứa xốc nách nàng, hai đứa đẩy đằng sau, vừa kéo vừa xô ra phía trước điện.

Lý tiểu thư tuy tóc đã cắt, nhưng làm sao che được cái mặt tươi như hoa, cặp mày ngài cong vút, cái cổ trắng nõn, tấm thân tròn trịa mịn màng như ngọc như ngà, thật chẳng giảm hơn lúc ngồi giặt tại đầu cầu Kim Toả bao nhiêu:

Hàm Phong hoàng đế nhìn kỹ người nàng, không khỏi lòng mừng như mở cờ, miệng cười toe ra như ống loa, tha thiết nói:

- Người đẹp, người đẹp! Thật là mòn gót mới tìm ra, vất vả cũng bõ công phu! Thôi, nàng hãy về cung với trẫm hưởng phú quý

Lý tiểu thư quỳ phía trước, chỉ khóc, nước mắt chảy đầm đìa trên mả, không nói ra được lời nào. Hoàng đế thấy nàng quả đáng thương, lại bị xúc động bơi cái sắc mê hồn; thế là ngài bước xuống, lấy ống tay áo mình lau lệ cho nàng. Ngài đem lời an ủi:

- Trẫm và nàng kiếp trước có duyên nợ cùng nhau. Từ hôm gặp nàng ở cầu Kim Toả, lòng trẫm nhớ nhung chẳng khuây, mộng mị đã nhiều ngày. Nay trẫm tới đây đón nàng, thực không phải để ép buộc nàng phải hiến thân cho trẫm, mà thực chỉ cầu mong nàng thương trẫm với một tấm tình si mê chiều quý. Thôi nàng hãy về cùng trẫm đi, để cho trẫm ngày ngày chỉ cần nhìn nhan sắc của nàng cũng đã đủ thoả nguyện rồi. Nếu nàng quyết chí tu hành, trẫm sẽ không dám cưỡng. Nhưng chốn am thanh cảnh vắng này quá chật hẹp, quá tầm thường, đâu có phải là chỗ nàng ở được. Trong vườn Viên Minh của trẫm, Phật điện có thiếu gì. Nàng cứ vào vườn và muốn tu tại nơi đâu thì tu. Trẫm còn cho mấy con cung nữ tới hầu hạ là đằng khác. Trẫm xin thề rằng tuyệt không cưỡng bức nàng điều gì.

Lời nói của Hàm Phong hoàng đế vừa ngọt ngào lại vừa ôn tồn. Bọn thái giám chưa từng được nghe những lời lẽ êm dịu như vậy bao giờ. Bởi thế chúng lấy làm lạ vô cùng.

Sau đó, hoàng đế quay hỏi vọng ra ngoài:

- Xe rước mỹ nhân đã sửa soạn xong chưa?

Phía ngoài có tiếng đồng thanh đáp:

- Dạ! Đã xong!

Thế là hoàng đế hạ lệnh cho đỡ người đẹp của ngài ra xe, Lý tiểu thư thấy bọn thái giám đến đỡ nàng vội chạy tới trước mặt ni cô Nguyệt Chân rồi lăn vào lòng bà. Nhưng đến lúc này thử hỏi Nguyệt Chân còn có cách gì để che chở cho nàng được nữa? Bà chỉ còn thiết tha căn dặn mọi điều rồi ghé tai thì thầm bảo rằng:

- Vào cung, tiểu thư không nên quật cường ngang ngạnh làm chi, mà có cũng chẳng được đâu. Lỡ hoàng thượng nổi giận thì mất mạng đó. Nay hoàng thượng đã vui lòng cho nhập cung, ta xem ra ông cũng biết thương số phận người con gái lắm đấy. Miễn làm sao tiểu thư đừng có thất chí, thì ngài cũng chẳng nỡ bắt ép gì đâu.

Lý tiểu thư nghe lời Nguyệt Chân, quyết định một chủ ý tức là chết mà thôi. Thế rồi nàng để mặc cho bọn thái giám đưa đi...

Hồi 123

LAN NHI, CÔ GÁI MÃN TÀI HOA

Từ khi Lý tiểu thư vào vườn Viên Minh, Hàm Phong hoàng đế dặn bảo cung nhân để nàng ở trong chùa Tây Sơn phật tự. Ngài lại sai tám con cung nữ tuổi còn trẻ măng tới hầu hạ nàng.

Lý tiểu thư ngụ tại chùa này theo đúng nghi lễ của nhà chùa nào ăn chay trường, nào lễ phật hằng ngày.

Hàm Phong hoàng đế dù có những đoá hoa nghiêng nước như Mẫu Đơn Xuân, Hạnh Hoa Xuân với cả một bọn mỹ nữ cung tần xinh như mộng, đẹp như tranh vẽ nhưng lâu ngày vẫn khiến ngài buồn chán. Trong cung cấm, cánh sen tuy có đến ba ngàn, nhưng có cánh nào mà xinh mà đẹp, mà tình được như tiểu thư họ Lý đâu! Lý tiểu thư quả thật xứng đáng là một loại hoa trong muôn hoa một loại hương trong muôn hương, tuyệt thế vô song, không ai dám so bì.

Hàm Phong hoàng đế nhớ tới nàng tiểu thư họ Lý, nhớ người đẹp chim sa cá lặn mà những ngẩn ngơ lòng! Ngài lẻn bước ra đi, lần tìm về ngả chùa Tây Sơn để gặp người đẹp.

Lý tiểu thư vội ra cổng tam quan rước hoàng đế vào chùa, rồi nàng quỳ trước phật đài tụng hết cuốn này tới cuốn khác, mặc kệ bọn cung nhân hầu hạ hoàng đế. Nàng đợi khi hoàng đế gọi nàng, lúc đó mới chạy tới trước mặt ngài, lom khom quỳ lạy, mãi mà không chịu cất đầu lên.

Hàm Phong hoàng đế trong lòng nóng như lửa đốt không chịu nổi nữa bèn đưa tay kéo nàng đứng dậy. Nhưng ngài chỉ thấy nàng khóc lóc thê thảm, giọng nói:

- Vạn tuế hứa với tiện thiếp là cho vào cung tu hành. Vậy thánh chỉ của hoàng đế tưởng rằng cũng phải được chú ý tới lắm mới phải.

Hàm Phong hoàng đế bị nàng hạ một câu đó tắc ngay cổ, miệng không còn cách gì nói thêm, đành chỉ ngồi im mà thôi. Người đẹp ở ngay trước mặt, thế mà ngài không có cách gì cướp vào tay mình được, thử hỏi nỗi buồn của ngài đến độ nào!

Về sau, ngài thưởng cho người đẹp cái danh hiệu Đà La Xuân, và thường đến trò chuyện với nàng. Đà La Xuân thấy hoàng đế không có ý bức bách mình nên từ đó cũng không tỏ vẻ lãnh đạm như trước. Nàng đem chuyện mẹ nàng bị quan phủ dùng cực hình khảo đả đã đến nỗi phải bỏ mạng và cầu xin ngài trị tội viên quan phủ.

Hàm Phong hoàng đế y theo lời cầu xin của nàng, hạ dụ xuống. Lại bộ cách tuột chức viên quan phủ, đày đi mãi sang Ninh Cổ tháp sung quân.

Đà La Xuân thấy thù đã trả, lòng buồn từ đó cũng khuây dần. Nhưng cứ mỗi lần hoàng đế triệu hạnh là mỗi lần nàng cự tuyệt thà chết chứ không chịu. Đã có khi nàng cầm đao, tuốt kiếm định tự tử.

Trước tình cảnh đó, Hàm Phong hoàng đế đành khoanh tay chịu, chỉ còn cách gác lại chuyên này.

Hồi đó ai cũng biết Hàm Phong hoàng đế khoái gái nhỏ chân. Bởi thế bọn đại thần muốn lấy long ngài bèn cho người đi về vùng Dương Châu, Tô Châu, Hàng Châu, tìm không biết bao nhiêu cô gái nhỏ chân, có loại xinh như măng dòng, có loại đẹp như Hồng Lăng. Cô nào cô nấy đều mặc quần cao ống để cho lộ hẳn đôi chân nhỏ và xinh của mình cho ngài ngắm. Khắp vườn Viên Minh lúc đó người ta chỉ thấy những dâu chân nho nhô xinh xinh in khắp các lối đi.

Các cô đều đua nhau đi giầy, loại nào cũng đẹp, cũng thêu tuyệt kỹ cả, có đôi dùng chỉ xanh và đỏ để thêu những đoá hoa tươi sặc sỡ trên gấm; có đôi gắn những chiếc nhạc vàng nhỏ xíu kêu rốn rảng, lại có cả những đôi được rút ruột phía dưới đặng để đổ vào trong một lớp phấn hương, nên lúc đi cứ mỗi bước là mỗi lần tung phấn ra và mùi lương xông lên ngào ngạt.

Hàm Phong hoàng đế càng ngắm càng mê, vừa mê về chân lại mê cả sắc lạc cả hồn phách. Ngài như đã bay bổng mãi từng mây nào rồi, chỉ khổ một điều là quy củ lệ luật trong cung Thanh hồi đó, cứ hễ gái nhỏ chân mà bước vào cung thì phải chặt đầu.

Về sau nhờ Mục tổng quản nghĩ ra một giải pháp là tung tin ra ngoài, nói bọn thái giám trong cung không đủ để sai bảo, nên phải mướn đàn bà con gái người Hán để vào phụ giúp.

Tin này truyền ra, đám phụ nữ con nhà nghèo khó liền kéo vào cung làm mướn. Do đó trong cung đưa ra hai điều kiện:

Một: Còn nhỏ tuổi.

Hai: Chân nhỏ

Ngoài ra còn chọn những cô da trắng tóc dài, mặt mũi xinh đẹp để đưa và canh gác chung quanh tẩm cung của hoàng đế Bọn gái nhỏ chân này cứ đến đêm khuya lại bị hoàng đế gọi vào lâm hạnh hết cô này đến cô khác, có đêm tới ba cô liền. Sau khi lâm hạnh, hoàng đế đều tặng thưởng cho hết, nào vàng bạc, nào ngọc ngà. Ngài còn chọn trong số đó, cô nào đẹp, xinh, duyên dáng nhất thì giữ lại, rồi phong cho làm cung tần. Chẳng đầy nửa năm bọn gái Hán được phong cung tần ở đầy nghẹt cả vườn hoa, hoàng đế ở trong vườn có không biết bao gái đẹp hầu hạ sung sướng quá không muốn về cung nữa.

Chiếu theo lệ luật của cung nội thì mỗi năm hoàng đế chỉ ở trong vườn Viên Minh độ ba, bốn tháng gọi là "nghỉ mát" để tránh cái nóng của mùa hè. Đến tháng tám, sau ngày đi săn ở Mộc Lan thì ngài trở về cung.

Song năm nay, Hàm Phong hoàng đế ở luôn một mạch, tới tháng mười cũng chưa thèm trở về cung. Đến khi bà Hiếu Trinh hoàng hậu khẩn khoản tới đôi ba lần, ngài mới bất đắc dĩ trở về. Nhưng trong ba, bốn chục ngày ở lại cung đó, ngài làm sao quên được đám gái đẹp mơn mởn kia đang sẵn sàng chờ ngài đến? Nhiều lúc ngài đâm ra nhớ nhung, tương tư, ngẩn ngơ đến tức cười.

Chỉ vì Hàm Phong hoàng đế khoái bọn gái Hán chân nhỏ nên bọn này đâm ra lên mặt gớm! Trong đám được cưng chiều nhất phải kể Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân. Hai nàng Xuân này tác oai tác phúc quá xá trong vườn Viên Minh. Bọn phi tần người Mãn có ý ngán, đều phải tới phụng thừa hầu hạ nịnh nọt. Thật đáng thương cho chúng đều là những cô tú nữ được hoàng đế chọn vào cung, chỉ mong một ngày nào đó được ngài sủng ái thì gia đình thân tộc cũng được thơm lây.

Ngờ đâu hoàng đế say mê gái Giang Nam chân nhỏ ném tất cả bọn chúng ra phía sau, khiến nhà cửa tiêu điều, buồng the vắng lặng. Bọn chúng không còn cách gì khác, đành phải tới gõ cửa mấy nàng Xuân để may ra có nhờ vả được gì chăng? Trong đám tú nữ mới được đưa vào cung có một cô gái Mãn tên gọi Lan Nhi, tuổi vừa độ chanh cốm đang thì. Đã trẻ lại đẹp, đã tình lại duyên dáng nàng còn thông minh, tài ba nữa.

Từ khi vào vườn Viên Minh, nàng cũng chịu cái cảnh lạnh lùng đơn chiếc như bao nhiêu chị em khác trong một ngôi nhà nhỏ, dưới bóng cây cao rậm, làm bạn với cỏ hoa.

Giữa cảnh nhà hoang vắng âm thầm, nàng chỉ nghe văng vẳng xa đưa những tiếng đàn giọng sáo, những tiếng nói cười say sưa ngả nghiêng bên tiệc rượu từ những ngôi nhà cao, những lầu son gác tía lộng lẫy đâu kia! Nàng hỏi ra mới biết đó là những yến tiệc náo nhiệt của hoàng đế đang mải miết say sưa bên đám gái Hán. Nghe như vậy, nàng chỉ còn biết thở dài đóng cửa, cài kín buồng the, mài miệt trong sách vở thi hoạ, để quên đi ngày tháng.

Chẳng mấy ngày Lan Nhi đã viết, đã hoạ được vô số tác phẩm, đều vào hàng tuyệt bút. Lan Nhi quả là một cô gái thông minh tuyệt thế. Rồi đây, nàng sẽ làm những chuyện động trời, nàng sẽ gây sóng gió cho dòng lịch sử Trung Hoa.

Ngay cả đến cái triều đình nhà Thanh dài lâu hàng ba, bốn trăm năm kia, cũng do một tay nàng điều khiển. Đấy là những trang lịch sử tân kỳ mà chúng ta sẽ lần lượt đọc thấy ở sau.

Ta hãy kể lược lại mảnh đời của Lan Nhi khi còn hàn vi, chưa có được phút huy hoàng oanh liệt của mai này.

Hồi 124

TỪ HI THÁI HẬU

Lan Nhi chính là nhũ danh của Từ Hi thái hậu sau này, một người đàn bà đã làm rạng danh giới phụ nữ trong chế độ quân chủ và cũng là một bà hậu đã đưa nhà Mãn Thanh đến giai đoạn kết cục.

Từ một cô gái nhà nghèo, nghèo đến mức không đủ bát ăn, Lan Nhi đã nhảy vọt lên tới địa vị của một bà phi, rồi địa vị của một bà thái hậu nắm trong tay vận mệnh của cả đất nước, cả dân tộc Trung Hoa một thời.

Đạt tới địa vị cao cả và vinh diệu như vậy, Lan Nhi hẳn phải có sắc có tài lắm. Tài sắc của Lan Nhi như thế nào?

Nguyên Lan Nhi là một cô gái dòng họ Na Lạp vốn người Mãn Châu thuộc đội Chánh Hoàng kỳ. Tổ tiên của nàng thuộc bộ lạc Diệp Hách. Hiếu trang hoàng hậu của vua Thái Tông trước đây cũng họ Na Lạp. Gia đình môn hộ của Lan Nhi phải kể là khá giả có tiếng tăm. Lan Nhi chính là tên tục của nàng, do cha mẹ đặt cho từ hồi nhỏ, cha nàng tên gọi Huệ Trưng. Dòng họ Na Lạp truyền tới Huệ Trưng thì đã quá suy vì nghèo khố.

May được ông nội trước có công lớn với triều đình, do đó, Huệ Trưng mới được nhờ ơn thế tập và mỗi năm có chút lương bổng lãnh về nuôi gia đình.

Ông Trưng xuất thân nghề viết thiếp, sáu năm trong nghề, ông trở thành một tư viên. Vợ ông thuộc dòng họ Đông Giai, do đó, ông nhờ thế lực bên vợ nhẩy một phát từ cái chức nhỏ tư viên lên cái chức hải quan đạo tỉnh An Huy miền Vu Hồ.

Triều nhà Thanh, trong chức vụ đạo ban, phải nói quan đạo là lớn nhất, triển vọng to tát nhất. Ông Trưng may vớ được cái chỗ khuyết này, thật là một chuyện hiếm có, tha hổ rộng bước đường quan từ đấy. Lòng ông sung sướng như mở cờ, ông liền mang gia đình lên đường nhậm chức.

Gia quyến của ông Trưng tuy không đông lắm, nhưng cũng đủ trai đủ gái. Ngoài bà vợ họ Đông Giai và cô gái Lan Nhi ra, còn cậu trai tên gọi Quế Tường và cô gái út Dung Nhi.

Như thế gia đình gồm có năm người. Trong hai cô gái, thì Lan Nhi là chị, lúc đó đã mười hai tuổi.

Theo lời bà thái thái Đông Giai thì khi sinh ra cô bé Lan Nhi, bà có một cái mộng quái lạ. Bà mộng thấy vầng mặt trăng sáng long lanh từ trên trời rớt xuống ngay bụng. Bà giật mình tỉnh dậy, cảm thấy đau. Hôm sau bà sinh ra một bé gái, đó là Lan Nhi.

Người Mãn Châu thường coi trọng con gái hơn con trai. Con gái khôn lớn còn có hy vọng làm hoàng hậu. Vì trọng gái, cho nên các gia đình người Mãn thường cho con gái ngồi ghế đầu.

Bà Đông Giai đã có cái quan niệm đó do tập quán, nay lại còn có cái mộng kỳ lạ nọ gây niềm hy vọng, nên càng quý Lan Nhi coi như vàng như ngọc. Thêm một điều nữa là Lan Nhi mặt mũi lại xinh đẹp hơn Dung Nhi nhiều, thân hình duyên dáng khôn tả, tính tình ôn nhu thuận theo rất mực. Đã thế, Lan Nhi còn thông minh hơn người chẳng mấy kẻ dám bì kịp.

Trong số bạn gái chơi thân với Lan Nhi, có lẽ chỉ có một mình nàng là nhà nghèo, khổ sở nhất, bạn thì mặc nào tơ nào lụa, nào gấm vóc, trái lại nàng chỉ có vài manh áo vải, vài chiếc quần thô. Tuy vậy, với cái sắc đẹp tuyệt trần, dù chỉ khoác cái áo dài vải bố màu xanh lá cây, nàng cũng nổi bật hẳn, không ai dám chối cái giá trị nghiêng nước nghiêng thành của nàng.

Cô gái này giàu ư? Đừng khoe giàu với nàng vì có dát vàng điểm ngọc vào người, cô cũng chẳng sánh được cặp mắt hồ thu lóng lánh đa tình của Lan Nhi. Cô gái kia sang ư? Sang cũng chẳng làm cách nào cho cô vẻ quý phái hơn được cái bộ mặt trái xoan như ngọc như ngà điểm sáng cặp môi son tươi nở đoá hoa như Lan Nhi.

Lan Nhi có hai cái tật tệ hại hết sức mà mãi tới già nàng cũng không thể bỏ được.

Cái tật thứ nhất, đó là cử chỉ của nàng quá khinh bạc, kiêu hãnh. Nàng chỉ cần che miệng cười duyên hoặc vuốt mớ tóc mây lờa xoà bên má một cái, cũng đủ cho hàng ngàn người mê say như điếu đổ.

Cái tật thứ hai là thích ca những bài ca ngăn ngắn. Hồi nhỏ, nàng được ông Huệ Trưng cho đi học. Tuy thông minh hơn người, nhưng sách vở có hạn, nàng cũng chỉ học đến một độ nào đó thôi. Nhưng giọng ca tiếng hát của nàng thì hình như đã có từ kiếp trước. Vừa mê say lại vừa thông minh sáng trí, Lan Nhi thông thạo đủ nào là Kinh điệu, nào Côn khúc, nào Nam Bắc tiểu điệu. Nàng chỉ cần nghe qua một lần là ca lại đúng in như cũ, chính không trật một chữ, không sai một âm. Nàng còn được trời cho cái giọng uyển chuyển, lên bồng xuống trầm tuỳ nghi khiến những bản nàng hát có một sức quyến rũ mê hồn. Lúc đầu, nàng chỉ ca một mình, cho mình nghe cho khuây khoả nỗi lòng, nhưng về sau, nàng còn ca cho các chị em bạn gái nghe, đệm thêm sênh, phách, đàn địch nữa. Khi nghe nàng ca, quả không ai là không ngừng hết mọi việc để lắng nghe, nghe rồi họ mê, họ say, không muốn rời nàng ra nữa.

Bà mẹ Đông Giai thấy con ca hát, có nếp sống như phóng đãng tự do quá, cho rằng chẳng đẹp tốt, đã nhiều phen ngăn cấm. Bà thì thế, nhưng ông, thì lại khác. Ông Huệ Trưng cưng con gái, lại còn thích nghe con gái ông hát. Thế là học được bài kinh điệu nào từ trước, ông đem ra dạy con hết!

Hai cha con Huệ Trưng từ đó say mê với điệu hát, câu ca. Nhà chưa có gạo, chưa có củi ư? Mặc kệ nó! Hát đã, ca đã. Hai cha con ông cả ngày, cả đêm, sáng cũng ca, tối cũng ca, no cũng ca, thậm chí đói cũng ca. Khi thì hai cha con ca bản "Tam Nương giáo tử", Lan Nhi thì làm Tam Nương, còn ông thì làm lão Tiết Bảo. Có khi ca bản "Phần Hà Loan", cũng có khi ca bản "Nhị tiến cung".

Hai cha con dùng phòng khách làm sân khấu, kéo cho kỳ được bà Đông Giai làm khán giả. Bà này lúc trước còn khuyên can nhưng về sau thấy không thể can nổi, bèn để mặc. Tất cả cảnh đời này của Lan Nhi là đều nằm trong thời gian mà ông Huệ Trưng chưa đi nhận chức hải quan đạo miền Vu Hồ.

Rồi Lan Nhi theo cha lên đường nhậm chức. Vu Hồ vốn là một thị trấn đông đảo náo nhiệt. Phía trước cửa Tây thành là bờ sông lớn. Dọc bờ sông các quán rượu tiệm trà mở cửa san sát. Trong các quán tiệm, khách ăn uống tới lui tấp nập. Các rạp hát cũng nhờ đó đông đảo, sầm uất.

Lan Nhi lúc đó vốn còn tính trẻ con, thích xem hát lại thêm cha có tiền nên thường đem theo một con a đầu, một thằng bé, ngày ngày tới rạp.

Anh chàng chưởng quỹ rạp hát biết nàng là con gái ông quan đạo nên đặc biệt chú ý và xu phụng hết chỗ nói. Nàng Lan Nhi đi xem hát, có cái tính rất cổ quái là không thích ngồi trong ghế đàng hoàng, mà lại chỉ thích ngồi ở những ghế sát Sàn sân khấu. Nàng đi xem hát lâu ngày, biết tên hết các tài tử trong gánh hát. Toàn ban gánh hát, ai cũng đều biết nàng, và thường gọi nàng là Lan tiểu thư.

Lan tiểu thư hằng ngày tới rạp hát xem hát, người ta không ai biết được nàng đã đi đến bao lần. Mỗi khi có những ngày sinh nhật của cha mẹ hoặc của anh, của chị em, nàng đều cho gọi gánh hát về nhà hát mua vui.

Lan Nhi ngoài tính thích xem hát, lại còn khoái vào quán. Cha nàng làm quan tại đất Vu Hồ này vốn có thân binh, cho nên ông thường cho hai tên đi bảo vệ nàng khi ra ngoài du ngoạn và vào quán ăn uống. Dân chúng miền Vu Hồ không ai không biết nàng là tiểu thư con ông quan đạo và họ thường cũng gọi là Lan tiểu thư.

Nói đến ông quan đạo này, phải nói đây là một trường hợp đặc biệt. Ông ở lâu tại kinh thành làm một kẻ bị sai phái, hết sức nghèo nàn khổ sở, bới thế khi kiếm được một chỗ béo bở, ông bèn mở túi tham ra, tha hồ ăn hối lộ tham tàn, đòi đút lót thậm thọt, không một cái gì bậy bạ mà không làm, để vét cho nhiều tiền tiêu xài cho bõ những lúc cơm hẩm canh đậu hũ. Ông ăn hối lộ, tham nhũng đến nỗi chưa đầy một năm mà đã có đơn tố cáo. Nhưng những đơn này đều nhờ thế lực trong triều tìm mọi cách bưng bít đi nên chưa xảy ra việc gì.

Qua năm thứ hai, ông bố vợ trên kinh chẳng may chết mất, thế lực từ đó không còn. Ấy cũng chẳng qua cái vận đen đã tới với ông quan đạo Huệ Trưng.

Ông quan đạo Huệ Trưng không dè tóm ngay phải một chiếc thuyền của Giang ngự sử, bảo vị này chở hàng lậu. Đã thế lại còn đòi hối lộ tịch thu luôn cả một bè tre trị giá ba ngàn lạng bạc.

Vị ngự sử họ Giang vốn có uy thế trong kinh, lại quen rất nhiều các vị vong gia. Khi về tới kinh, ông hậm hực, bực tức dâng ngay lên một bản tấu chương đàn hặc Huệ Trưng.

Lúc này, ông bố vợ Huệ Trưng đã chết, chẳng còn ai là người ở kinh giúp ông để chạy chọt, tâu bày. Thế là một đạo chỉ dụ hạ xuống, cắt chức, điệu ông về quê. Được lời xét xử này, ông tự cho là may lắm, bèn xếp trống cuốn cờ, so vai rụt cổ, đem gia quyến về An Khánh tỉnh An Huy trú ngụ.

Giang ngự sử còn muốn dâng lên thêm một tờ sớ bắt Huệ Trưng phải thanh toán hết mọi khoản tiền thu được khi tại nhiệm trước nha môn quan án sát. Nhưng may được tuần phủ An Huy, vốn có chút tình thân thích họ hàng với Huệ Trưng, hơn nữa Trưng còn bỏ ra đúng một vạn lạng bạc để chạy chọt lo gỡ, nên cơn sóng gió ngặt nghèo qua đi được.

Huệ Trưng làm quan một thời gian, đã quen mùi phú quý, nay ăn không ngồi rồi tại vùng An Khánh thì quả thật là buồn. Thấy thế bà Đông Giai mới khuyên ông năng lui tới nha môn quan tuần phủ, để cầu mong một chức vụ dưới quyền.

Quan tuần phủ An Huy Hạc Sơn thấy Huệ Trưng tính tình cần mẫn lại thông minh, ăn nói cũng khá, nên thường sai đi đây đó, lo liệu giải quyết nhiều việc giúp mình. Huệ Trưng nhờ đó mà được nể trọng.

Hồi đó, miền bắc tỉnh An Huy xảy ra ngập lụt. Bà Đông Giai liền khuyên chồng nhân cơ hội đó, xuất ra một vạn lạng bạc để phát chấn cứu giúp dân chúng. Rồi đến hôm sinh nhật quan tuần phủ, lại còn lén đưa tới biếu đến hai vạn lạng bạc.

Tất cả ba keo như vậy, tiền của trong nhà coi như đã cạn, ngay cả đến đồ nữ trang của bà Đông Giai cũng phải bỏ cả vào đấy nữa mới đủ.

Quan tuần phủ Hạc Sơn đã được tiền của người tất nhiên phải giúp người gỡ nạn trừ tai. Ông bèn giúp Huệ Trưng, dâng một tờ sớ vào triều khen Trưng là người vừa thông thạo vừa mẫn cán, hăng hái làm điều thiện, đồng thời bảo cử Trưng đảm nhiệm chức vụ sai sứ trong công cuộc chẩn tế.

Không ngờ số mạng Huệ Trưng đúng là rủi ro. Tập tấu sớ nọ mới đi được ba ngày, thì tuần phủ Hạc Sơn nhuốm bệnh rồi lăn ra chết. Nội vụ giao lại cho án sát sứ Thự Lý xét. Nhưng ông án sát này lại chính là một tay đối thủ với Huệ Trưng.

Một đao thượng dụ hạ xuống, bố chánh tỉnh Sơn Đông là Nhan Hy Đào được thăng chức An Huy tuần phủ. Đào vừa nhận chức, Lý bèn đem hết chuyện Huệ Trưng tham lam, hối lộ ra sao, cấu kết với thượng ty thế nào, tố cáo một loạt với Đào.

Nhan Hy Đào vốn là một vị quan thanh liêm nổi tiếng. Bình sinh Đào ghét cay ghét đắng bọn tham quan ô lại. Nay nghe chuyện Huệ Trưng, hỏi sao Đào chẳng chán ghét Trưng.

Huệ Trưng vào nha môn xin yết kiến ba lần, nhưng quan tuần phủ họ Nhan đều không cho gặp Trưng phát hoảng, vội chạy đi dò la tin tức lúc đó mới biết án sát Lý thọc gậy bánh xe, phá chuyện làm ăn của mình.

Trước đây, Trưng có ít tiền, nhưng đem biếu cho quan tuần phủ tiền nhiệm hết rồi, đến nỗi mắm muối, cơm áo độ nhật, trong nhà cũng đã khó khăn thì còn lấy tiền đâu nữa để biếu kính quan trên lần này?

Trưng không có cách nào khác, chỉ còn nước liều mặt dạn mày dày, hằng ngày lên cổng nha chầu chực, may ra quan tuần phu mới có nghĩ tới mà đoái thương. Nhưng quan tuần phủ họ Nhan đã ghét thì Trưng làm sao mà được vào gặp mặt? Thực thế, chẳng bao giờ họ Nhan cho gọi Trưng vào tương kiến cả. Trưng xoay xở một số tiền, nhỏ to với một vài tên hoạt đầu chuyên chạy cổng sau nơi các dinh thự quan lại, đề nhờ họ nói tất cho mình trước quan tuần phủ.

Quan tân tuần phủ họ Nhan đã ghét Huệ Trưng tới xương tuỷ. Bởi thế khi nghe tới tên Trưng, ông lắc đầu lia lịa, còn đưa thêm cả bộ mặt Trương Phi đến phát khiếp nữa. Mấy tên hoạt đầu thấy thái độ ấy, tắc họng, muốn nói mà lưỡi cong lại không phát thành tiếng.

Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Huệ Trưng nấn ná tại An Khánh đã một năm tròn, mà thất nghiệp vẫn hoàn thất nghiệp.

Rồi hai năm... rồi ba năm cũng chẳng có việc làm.

Khi còn làm chức quan đạo, Huệ Trưng có đầy đủ phương tiện, tiền bạc để ăn tiêu huy hoàng, ăn thì ăn ngon, mặc thì mặc đẹp, ra ngoài thì nào xe nào ngựa, cho nên dù sao ngày nay cũng không thể để mất thể diện được. Hơn nữa. Lan tiểu thư lại là người thích làm dáng, khoái ăn chơi, thì tuy đất An Khánh không bằng Vu Hổ, nhưng cũng là nơi thị tứ tỉnh thành, có vài ba đường đại lộ, năm ba cái quán trà, rạp hát, nàng không thể nào không chi tiền, không dung dăng dung dẻ đó đây, để gọi là trình diện với thiên hạ, khoe cái sắc đổ quán xiêu đình của mình.

Đã thế, Huệ Trưng lại còn bị cái bệnh nghiền, bao nhiêu tiền đều chui tọt vào nõ của cái dọc tẩu nọ. Cũng chính nó còn làm hại Trưng thêm nữa, bởi quan tuần họ Nhan vốn thâm thù bệnh này, nay ông rõ Trưng có tính bê tha nghiện ngập, lại càng chán ghét già, khiến từ đó ông không thèm để ý tới nữa. Có điều khiến ông vẫn còn nhân nhượng, không dâng sớ đàn hặc Huệ Trưng, đó là vì Trưng vốn ty viên trong Kỳ tịch.

Huệ Trưng thất nghiệp luôn ba năm, tục ngữ có câu "Miệng ăn núi lở", thật là đúng ở trường hợp này. Còn chút ít tiền dành dụm cuối cùng đều hết sạch, đến nỗi phải đi vay để độ nhật, về sau không vay mượn được, cầm bán mãi đến sạch nhân, đến miếng ăn cũng lần không ra nữa.

Mẹ con Lan tiểu thư bốn người cả thảy nhiều bữa phải chịu đói, chịu rét. Lan tiểu thư vốn thích trưng diện, thích ăn chơi, thích phồn hoa náo nhiệt, nhưng chẳng may gặp gia cảnh thê lương như vậy thì làm sao dám đòi này đòi nọ để tiếp tục như thế nữa. Với tuổi mười lăm, mười sáu, tuổi dậy thì của cuộc đời son trẻ ngây thơ, Lan Nhi đã phải chịu cái cảnh túng quẫn, kể tội nghiệp thật! Đã có nhiều lần cô nhìn hình bóng trong gương mà tự thương mình.

Lan tiểu thư càng lớn thì sắc đẹp càng mặn mà. Với nhan sắc đổ nước nghiêng thành, da trắng như tuyết, mặt xinh như ngọc mà hằng ngày phải chịu cái cảnh đầu bù tóc rối, áo quần lam lũ, một gáo nước lại một gáo bùn, hỏi sao nàng chẳng oán than buồn khổ. Cứ mỗi lần xúc động can trường, thương xót thân mình, nàng lại chạy xuống bếp trốn trong các góc kẹt để khóc ròng, khóc cho vơi hết nỗi khổ, nỗi buồn.

Bà Đông Giai thấy con gái đẹp xinh như đoá hoa hải đường trên cành xuân thế kia mà phải chịu cái cảnh nghèo túng khố sở, cũng không nhịn nổi nữa, thế là bà chạy tới gây chuyện cãi lộn với chồng. Thực ra, ông Huệ Trưng thấy vậy cũng làm sao không thương, nhưng cùng quẫn đến hết mức rồi, đành chịu chứ biết làm sao hơn?

Đã đến lúc quá quẫn, nào là tiền nhà, tiền cửa, nào là tiền gạo, tiền muối, trăm thứ tiền đòi hỏi, gia đình Huệ Trưng y như nằm trên chiếc chảo rang. Đã thế, ông Trưng lại thiếu thuốc hút. Cái thứ thuốc phiện bữa có bữa không, thất thường rõ rệt, lại thêm lo buồn sầu khổ tứ phía dồn về, ông Trưng ngã bệnh nằm liệt giường.

Bệnh ông liên miên, hết ngày này qua tháng khác, từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau, đúng một năm tròn, mà vẫn không bớt, trái lại càng nặng thêm.

Bà Đông Giai vì nhà không tiền, nên lúc nào cũng bỏ mặc ông chẳng để ý tới, mãi về sau, thấy bệnh tình có bề trầm trọng mới hoảng lên. Bà vội lục mãi dưới đáy rương, lấy ra một cành thoa bằng vàng, từ hồi còn là một cô dâu, rồi bảo cậu con trai cả là Quế Tường đi cầm lấy tí tiền về để chạy chữa thuốc thang cho chồng.

Quế Tường lớn hơn Lan Nhi một tuổi, năm đó mười tám tuổi, nhưng ngây ngô đần độn hết chỗ nói. Tường chẳng biết một tí gì, nên hôm nay, mẹ bảo đem đồ đi cầm thì thẹn đến đỏ mặt, chối đây đẩy, bảo con chẳng biết đến việc ấy.

Lâu nay, những chuyện cầm cố mua bán ở ngoài chợ, trên phố, đều do bà Đông Giai đi làm lấy hết, nhưng nay ông Huệ Trưng nằm đấy, bệnh thế đã đến lúc nguy kịch, cho nên bà chẳng tiện rời khỏi ông mà đi xa, do đó mới bảo Tường. Thấy Tường không chịu đi, bà Đông Giai thở dài:

- Mày là một thằng ngu ngốc! Chỉ có chút việc đó mà không làm được, thì hỏi sau này trông vào mày làm sao đây?

Nói đoạn, bất giác lệ bà tuôn xuống như mưa. Lan Nhi ở bên cạnh thấy mẹ khóc lóc thê thảm, liền đứng dậy cầm cành thoa đi lên phố.

Anh chủ tiệm cầm đồ thoạt thấy một cô gái sắc nước hương trời vào tiệm, thì hồn phách bay biến từ lúc nào. Y nhe bộ răng cải mả ra cười khì khì, trố đôi con mắt to như hai con ốc bươu, để ngắm người đẹp. Y ngồi trước cái quầy lót kính, vừa cười vừa liếc, xoắn xuýt hỏi Lan Nhi:

- Nào cô bé cô lớn ơi! Cô muốn lấy bao nhiêu tiền đây?

Lan Nhi thấy điện bộ của anh chủ tiệm cầm đồ như vậy, thẹn đỏ mặt và cũng thấy bực mình. Nàng đáp:

- Ông xem giá bao nhiêu thì đáng bấy nhiêu, chứ còn phải hỏi gì nữa?

Anh chủ tiệm cầm đồ nói:

- Mười tiền thôi chứ bao nhiêu?

Lan Nhi nghe nói bất giác cười thầm trong bụng. Nàng nghĩ một cây thoa vàng, nhưng là vàng giả này mà giá đáng mười tiền thì quả buồn cười. Bởi thế nàng không do dự gì cả đưa ngay cây thoa cho anh ta.

Thật đáng thương cho anh chàng chủ tiệm cầm đồ, chỉ vì cái sắc của Lan Nhi mà mắt bị mờ, nên đã coi của giả ra của thật, mất toi mười tiền.

Nàng Lan Nhi cầm số tiền về nhà vội đi mời thày lang.

Ông lang tới nhà bắt mạch, chỉ thấy lắc đầu lia lịa, bảo nàng:

- Bệnh lao đã tới thời kỳ chót, không làm gì được nữa rồi! Nên lo liệu hậu sự cho ông nhà đi thôi.

Bà Đông Giai nghe lời cụ lang hồn vía đã vội lên mây. Bà nghĩ gia đình bà lưu lạc tha hương, chẳng may ông chồng có mệnh hệ nào thì ngay đến cỗ quan tài cũng không có tiền nổi.

Y nghĩ đó vừa lẩn quẩn trong óc bà, thì trên giường kia, chồng bà, ông Huệ Trưng, mặt đã nhăn lại, mắt đã trợn trừng lên, lạc hết tinh thần.

Bà Đông Giai vội kêu các con tới đủ mặt, con trai Quế Tường, con gái Lan Nhi, Dung Nhi, tất cả đều xúm quanh gọi nhưng không kịp nữa, ông Huệ Trưng đã đi xa rồi, hoạ chăng chỉ còn vài hơi thở hắt ra mà thôi. Rồi chỉ thấy đôi chân ông duỗi mạnh ra một cái, thế là xong cả một cuộc đời ba chìm bảy nổi vật lộn với đời, nhưng rút cuộc tàn trong bệnh hoạn và nghèo khổ.

Bà Đông Giai ôm lấy chồng mà kêu khóc. Bà nghĩ tới cảnh goá bụa cô đơn mà khóc thêm, khóc đến thê thảm khôn nguôi.

Lan Nhi, Dung Nhi, Quế Tường cũng oà khóc theo mẹ. Thế là cả nhà đều cùng khóc đến đất thảm trời sầu.

Thật đáng thương, ông Huệ Trưng khi nằm xuống, đến cái quần dài, cái áo cộc lành lặn cũng không có đủ nữa. Cụ Chu, lão bá hàng xóm thấy cảnh đáng thương quá, liền đi khắp từ đầu phố tới cuối phố, quyên góp được ít tiền nhưng mới chỉ đủ để mua vải liệm cho ông Huệ Trưng, chứ chưa đủ để mua quan tài.

Chu lão bá lúc bí kế bèn nghĩ ra được một cách.

Ông đem theo cô gái Lan Nhi tới gia đình các vị quan lại đồng liêu với cha nàng trước để xin giúp đỡ. Trong số quan lại này, có kẻ thì đang còn tại nhiệm, có kẻ đã hưu, cũng có kẻ vốn người trong Kỳ tịch với ông Huệ Trưng thuở nào...

Hồi 125

ANH HÙNG GẶP LÚC GẤP

Chu lão bá đem Lan Nhi đi quyên tiền, các bạn đồng liêu của ông Huệ Trưng nghe nói hoàn cảnh ai chẳng động lòng thương cảm. Họ nghĩ tới bản thân rồi đây trên bể hoạn mênh mang, biết đâu là bến là bờ, ai biết được tương lai sẽ ra sao. Do đó, kẻ năm chục, người hai chục, của ít lòng nhiều, ai cũng bỏ tiền ra giúp đỡ. Lại thêm các quan viên trong Kỳ tịch hết lòng lo liệu mà tang lễ có phần long trọng.

Lan Nhi nhan sắc tuyệt trần, mặt như hoa, mày như liễu, mang đồ hiếu phục vào, người ta càng thấy đẹp, nét đẹp bi thương, vượt hẳn lúc thường. Nàng vốn tính thông minh, cho nên khi theo Chu lão bá tới các gia đình quyên giúp, cứ vừa khóc vừa nghẹn giọng thê thảm khiến không ai nỡ chối từ.

Bọn công tử con các gia đình quan lại này lại càng mê mẩn thần hồn đua nhau bỏ tiền ra để vừa giúp đỡ vừa lấy lòng. Bởi thế số tiền quyên giúp sau khi tính lại, đạt tới con số hơn ba trăm lạng.

Bà Đông Giai bỏ ra hai trăm lạng vào việc tẩm liệm, tế lễ, còn hơn một trăm thì chi vào việc đưa linh cữu ông Huệ Trưng về Bắc Kinh.

Gia đình ông Huệ Trưng ngày thường ở cái đất An Khánh nghèo túng cùng kiệt chẳng ai thèm để ý đến. Nay nghe nói đưa linh cữu về Bắc Kinh, bọn chủ nợ từ bốn phương tám hướng liền ồ tới vây quanh lấy bà Đông Giai, sấn sổ đòi nợ, kẻ năm chục, người ba chục, nào tiền muối, tiền mắm, nào tiền gạo, tiền củi, tổng cộng tới hai trăm lạng mới đủ.

Bà Đông Giai không còn biết cách nào, đành phải xem xét khoản nào quá cấp bách thì trả trước. Ấy thế, mà cũng hết đến một trăm lượng. Bà quýnh lên, nói với bọn chủ nợ là bà không về kinh nữa, xin cho khoan hạn vài hôm.

Bà Đông Giai chỉ có một trăm hai chục lạng, thế mà đã trả nợ hết một trăm rồi thì còn lại được bao nhiêu nữa để mà về kinh? Bởi thế bà đành hoãn cuộc khởi hành, ở lại An Khánh ít lâu rồi tính tiếp.

Sự việc này càng làm cho lòng bà bi thảm hơn. Cỗ quan tài nơi đất khách còn nằm đó. Cả nhà chịu cảnh côi cút goá bụa; ngày qua đêm lại, chỉ có nước mắt rửa mặt! Trông lại chỉ còn có chút ít tiền, việc độ nhật ngày càng eo hẹp khó khăn! Trước đây, bà còn lấy danh nghĩa là chồng lỡ chẳng may chết nơi đất khách quê người để đi nhờ vả giúp đỡ, chứ nay thì đâu còn danh nghĩa đó mà kêu hay gọi?

Bà Đông Giai trong lòng ngày đêm lo rầu khôn xiết, nhưng anh em Quế Tường đâu biết được nỗi lòng đó của mẹ. Ba mẹ con Lan Nhi khi ông Huệ Trưng lâm chung, có may mỗi người một bộ tang phục, nhưng nay hết tiền, đành phải gởi vào tiệm cầm đồ Trường Sinh.

Trời đã sang thu, khí lạnh thấu xương, gió bấc thổi càng ngày càng mành, như đâm vào da, như cấu vào thịt.

Bà Đông Giai vì nghèo mà buồn lo, rồi đâm ra bệnh nằm liệt giường. Quế Tường, Dung Nhi, không rõ việc đời bao nhiêu, duy chỉ có Lan Nhi ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Thấy mẹ khát, muốn uống trà, Lan Nhi bèn lục mãi đáy rương của mẹ lấy một ít tiền, bảo Quế Tường và Dung Nhi ở nhà săn sóc mẹ, còn mình thì chải qua cái đầu, sửa lại cái áo cho gọn gàng rồi ra đi.

Vừa ra khỏi nhà, nàng bị gió bấc thồi mạnh xuyên vào da thịt chi được che bởi một manh áo mỏng, khiến mặt mày nàng tải xám, so vai rụt cổ, bước trên đường phố.

May mà tiệm trà không xa nhà nàng lắm. Nàng chỉ phải đi qua có hai phố, quanh một khúc rẽ là tới. Tiệm trà này vốn quen vì nàng thường tới đây mua, nhưng lần này vừa bước vào cửa tiệm, nàng giật nảy mình khi thấy tên vô lại Người Du Sinh đang đứng cạnh quầy hàng.

Tên này rất háu gái. Thấy gái là lắc la lắp lém, y như mèo thấy thịt mỡ. Hắn thường đứng tại quầy hàng nhìn ra ngoài, hễ thấy cô gái nào đi ngang qua, là y như thò đầu ra, há hốc mồm, kiễng chân cao lên, trố đôi mắt ra nhìn như hai lỗ đáo. Nhất là những khi có cô nào vào mua trà, hắn liền sấn sổ tới trước mặt, mắt liếc, mồm cười, hỏi hết câu này tới lời nọ, cố bắt chuyện, tán tỉnh cho bằng được.

Ngưu Dụ Sinh tuy sốt sắng như vậy, nhưng chẳng có cô gái nào thích hắn. Cô nào cũng chán, cũng ghét hắn, gọi hắn là thằng dại gái.

Hằng ngày, hắn chỉ nhìn thấy những cô gái con nhà hạ tiện, những con a đầu hoặc những mụ nạ dòng tới mua hàng, thế mà hắn đã cho là tiên trên trời rồi. Thử hỏi lần này thấy Lan Nhi, hỏi sao hắn chịu nổi?

Vừa thấy nàng, hắn đã mắt la mày lét, ngấm nguýt nàng như muốn nuốt trửng vào bụng. Thấy thế, nàng đã ngán, chỉ muốn quay về, nhưng lại nhớ tới mẹ già muốn có một chén nước trà nóng, sợ rằng không mua, mẹ giận. Bởi thế nàng đánh liều, bước vào.

Ngưu Dụ Sinh đưa tay ra lấy tiền, ném vào trong quầy, vừa nhặt gói trà, vừa nghiêm nét mặt như tỏ vẻ quan trọng lắm, cất tiếng than thở giùm cho thân thế của Lan Nhi.

- Thật đáng thương quá! Người đẹp như thế kia mà quần áo chẳng đủ, đến nỗi rét run câm cập, mũi đỏ hỏn lên. Như vậy bảo sao không đau lòng?

Nói xong, hắn còn lắp bắp mãi những gì không biết nữa.

Lan Nhi đâu có thèm để ý, mặc kệ hắn.

Ngưu Dụ Sinh gói xong trà, đặt trên mặt quầy. Lan Nhi giơ tay với lấy, không ngờ, hắn chộp lấy tay nàng, kéo mạnh nàng vào lòng. Vì bất ngờ, nàng ngả người theo, thấy nàng đã đứng sát bên cạnh, bắn bèn vuốt vào má nàng, miệng nói nựng:

- Nàng tiên của anh ơi! Cái má trắng như phấn thế này mà lạnh toát như băng, bảo sao anh không thương em được!

Nói đoạn, hắn lùa bàn tay vừa đen đủi vừa dơ dáy xuống cổ nàng. Nàng hoảng hồn bạt vía, nhưng thân gái yếu ót, biết làm sao được. Nàng chỉ còn biết khóc lóc, kêu la.

Quả không may cho nàng là hôm ấy người trong tiệm đều đi vắng cả, khách qua đường cũng vắng vì trời lạnh. Ấy cũng vì biết vậy nên tên Ngưu mới tự ý đùa cợt, sờ soạng bừa bãi.

Thấy chẳng có ai đến giải vây cho nàng, hắn liền luồn tay sau eo nàng để ghì vào lòng. Giữa lúc nguy hiểm muôn phần đó tự bên ngoài xô vào một người lớn tiếng quát:

- Thằng khốn kiếp lớn mật thật! Giữa ban ngày ban mặt mà mi dám chọc ghẹo đàn bà con gái à?

Ngưu Dụ Sinh thấy có người nhảy vào, vội bỏ tay nàng ra, miệng lắp bắp:

- Đâu dám! Đâu dám!

Người khách qua đường nọ mặt hầm hầm tiến lên, chộp lấy Ngưu định đưa hắn tới Bảo giáp cuộc. Tên ma cô lúc đó hoảng hồn bạt vía, vội quỳ xuống đất lạy van xin tha.

Lão chưởng quỹ lúc đó cũng đã về tới. Y thấy chuyện rắc rối bèn mắng Ngưu tàn tệ.

Chung quanh hàng xóm nghe chuyện chạy tới kín cả cửa trước, cũng lấy làm tức. Họ xúi bảo tống hắn đến Bảo giáp cuộc.

Duy chỉ Lan Nhi nghĩ khác. Nàng sợ chuyện xảy ra to, khiến ai cũng biết mặt, biết tên mình, thực chẳng đẹp tí nào, nên khẽ bảo mọi người:

- Thôi tha cho hắn! Tôi về đây!

Ngưu Dụ Sinh thấy Lan Nhi nói vậy, vội chắp tay lạy.

Nàng chẳng thèm để ý tới hắn, cầm gói trà, quay mình bước ra khỏi tiệm.

Đi mới được mười bước, nàng bỗng thấy người đàn ông nọ chạy theo sát bên mình, khẽ hỏi:

- Cô là con gái nhà ai vậy? Tôi thấy cô mặt mày xinh đẹp quá quyết không phải con nhà tầm thường, mà sao lại nghèo khổ quá đến vậy?

Lan Nhi thấy người đàn ông hỏi có vẻ ân cần, quay đầu nhìn sang có ý dò xét. Không ngờ người đàn ông nọ mày xanh mắt đẹp, đích thị là một vị công tử chứ chẳng phải tầm thường.

Nàng biết chàng có lòng thực tâm thương xót hoàn cảnh mình, nên đem hết gia cảnh ra nói cho chàng nghe: nào là cha chết, mẹ bệnh, nào là lưu lạc nơi quê người đất khách... Nàng còn nói thêm nàng vốn là người trong Kỳ tịch (trong dòng dõi nhà vua người Mãn Châu).

Chàng công tử nghe nàng nói, miệng luôn luôn than thở:

- Thật đáng thương! Thật đáng thương!

Chàng kể với Lan Nhi rằng, cha mình làm quan Binh bị đạo tên gọi Phúc Thành. Khi tới cửa nhà nàng, Phúc Thành móc trong túi áo ra mấy chục đồng tiền đặt vào tay Lan Nhi bảo rằng:

- Nàng đem về tiêu trước đi. Tôi chẳng có tài sản, quyền thế gì, nên chẳng thể giúp nàng được nhiều. Tuy nhiên tôi sẽ cố nghĩ ra kế sách để giúp nàng về Bắc Kinh.

Lan Nhi thấy Phúc Thành đưa tiền, chẳng tiện lấy vội từ chối, Thành nhất định không chịu thu về. Nàng lúc đó băn khoăn không biết làm sao, nhưng thấy cái cảnh một trai một gái đứng trước cửa đưa đi, đẩy lại, người ngoài trông thấy thật là bất tiện. Nàng còn nhớ rằng trong nhà hiện đã hết nhẵn tiền, nay nhận của chàng số tiền này tuy ít nhưng cũng độ nhật được vài hôm. Tâm trạng khó xử của nàng lúc này là thế! Thật đáng thương cho những kẻ nghèo, chỉ vì không tiền mà đành phải khuất chịu.

Quân tử và anh hùng mà nhiều khi cũng khoanh tay trước đồng tiền, thử hỏi Lan Nhi chỉ là một cô gái mới lớn lên lại đang trong cảnh túng quẫn. Và nàng đành nhận. Đôi má nàng ửng hồng, xấu hổ quá không ngẩng mặt lên nữa.

May thay, Phúc Thành vốn là một chàng công tử tuy còn thiếu niên nhưng đã nhiều kinh nghiệm ở đời. Thấy thế chàng vội quay gót bước đi để giữ thể diện cho nàng.

Hồi 126

CÁI TÌNH LÀ CÁI CHI CHI

Phúc Thành bước đi, Lan Nhi nhìn theo người khách hảo tâm với vẻ lưu luyến rồi mới vào nhà.

Nàng thấy mẹ nằm trên giường. Bà hỏi tại sao đi quá lâu, nàng giấu biệt chuyện chọc ghẹo của tên Ngưu mà chỉ nói bên ngoài có người đưa lễ vật tới viếng với bốn lượng, nàng đã nhận và để cho họ đi rồi.

Bà Đông Giai đang lo rầu vì nhà hết tiền, nay thấy có người đưa lễ tới, bỗng nhẹ người, nên chẳng tra khảo gì thêm nữa.

Bốn mẹ con Lan Nhi sống vất vưởng lo âu như thế mấy hôm nữa, bỗng một sáng, cửa ngoài có tiếng đập rầm rầm.

Quế Tường vội chạy ra xem, thấy một người có vẻ gia nhân của một gia đình khá giả, tay xách một gói hỏi:

- Đây có phải là nhà của Huệ Trưng mới mất không?

Quế Tường gật đầu bảo hải, người gia nhân nọ liền trao cái gói vào bảo:

- Đây là vật mọn của lão gia tôi đưa tới hiếu kính gia đình.

Quế Tường giơ hai tay ra tiếp cái gói, cảm thấy có gì nằng nặng bên trong. Tường vội quay vào nhà, mở ra thì thấy bên trong vừa đúng hai trăm lạng bạc. Bà Đông Giai trông thấy, mặt ngây ra, vội hỏi người gia nhân kia, mới biết tiền đó của Đạo đài nha môn đưa tới. Lan Nhi vụt hiểu ra, bảo mẹ:

- Có lẽ vị Đạo đài này trước kia là bạn thân với cha con. Đối với hoàn cảnh hiện tại, kể ra ta cũng chẳng nên khách khí làm gì. Mẹ cứ nhận đi rồi ta sẽ viết một tấm thiếp tạ ơn, gói mười lạng bạc để kính sự, rồi cho người gia nhân ra về, sau đó sẽ tính.

Chuyện khổ sở nhất lúc này là chuyện Quế Tường phải viết tấm thiếp. Tường tuy có theo học mấy năm, nhưng nào được bao lăm chữ nghĩa trong bụng! Bởi thế, viết một tấm thiếp tạ ơn quả thật thiên nan vạn nan. Tường loay hoay mãi một lúc lâu mà vẫn chưa viết xong, đó là chưa kể phần nội dung câu chẳng ra câu, lời chẳng thành lờ. Lan Nhi vốn là một cô gái thông minh, hằng ngày vẫn nhìn thấy việc này, nên nàng lại phải thế Tường làm việc đó.

Người gia nhân của Đạo đài nha môn ra về, bà Đông Giai thấy tiền, bệnh bỗng khỏi ngay. Bà liền bàn tính với Lan Nhi việc đưa linh cữu về kinh. Lan Nhi vâng lời mẹ chạy tới nhà Châu lão bá, nhờ lão đi mướn cho một chiếc thuyền. Thấy gia đình Lan Nhi toàn vợ goá con côi, Châu lão bá hết lòng giúp đỡ, vội đi mướn một chiếc thuyền lớn, mua rất nhiều vật dụng dành lúc đi đường, lại mướn cả mười hai người đô tuỳ, khiêng linh cữu xuống thuyền. Tổng cộng tiền thuê mướn đã lên tới sáu, bảy chục lạng.

Qua ngày thứ ba, hành lý thu xếp đã xong xuôi. Giữa lúc sắp khởi hành, gia đình Lan Nhi bỗng thấy người gia nhân hôm nọ bước vào nhà, mặt hầm hầm, hất hàm đòi lại số tiền hai trăm lạng bạc bữa trước và bảo tiền đó là tiền đưa tặng gia đình họ Chung ở phía tây thành chứ không phải tặng gia đình Huệ Trưng. Y còn bắt buộc phải mau mau trả lại, nếu không y lập tức đưa tới cửa công.

Bà Đông Giai nghe nói vậy, chẳng hiểu ra sao cả, lòng vừa bẽ bàng vừa sợ hãi. Châu lão bá lúc này cũng có mặt, nghè câu chuyện, biết thế nào cũng có điều kỳ quặc bên trong, bèn bàn với bà Đông Giai cho Quế Tường theo người gia nhân nọ tới nha môn...

Quế Tường tới gặp vị Đạo đài, đem hoàn cảnh bi đát của nhà mình ra kể cho ông ta nghe. Tường còn thêm là số tiền đã chi dùng mất hơn phân nửa, nếu bắt buộc phải trả lại, e không biết tìm đâu ra để bù vào. Sau hết, Châu lão bá cũng nói thêm:

- Đại nhân hãy tỏ lòng thương xót cho cả một gia đình cô nhi quả phụ bốn miệng ăn chỉ biết nhờ vào số tiền đại nhân để hồi hương. Chi bằng đại nhân coi như đã làm một việc từ thiện nhân đức để cho con cháu về sau. Hơn nữa đại nhân nghĩ tình đồng Kỳ mà coi như thưởng tặng cho họ, có lẽ là hay nhất.

Vị Đạo đài nghe hết mọi sự thể, lại là người khẳng khái, bởi thế ông vui vẻ gật đầu chấp thuận.

Quế Tường nghe vị Đạo đài nói vậy, mừng như mở cờ, tạ ân rối rít. Châu lão bá cũng vì Tường và gia đình bà Đông Giai mà nói thêm vài lời để cảm tạ và tâng bốc vị Đạo đài rồi mới xin ra về.

Mặt khác, vị đạo đài cho gọi người quản lý lại chi ra hai trăm lượng bạc khác để đưa tới cấp cho nhà họ Chung phía tây thành. Ông cũng không quên gọi cậu đại công tử lên quát hỏi:

- Tại sao mày dám dối cha mày, cho người đưa tới nhà Huệ Trưng? Có phải mày nhân tình nhân ngãi với con gái Huệ Trưng không?

Cậu cả nghe cha hỏi, lắc đầu chối dài. Thực ra thì từ ngày gặp Lan Nhi, trở về nhà, có hôm nào là hôm cậu không nhớ tới nàng? Hình bóng nàng đã như in vào tâm khảm chàng có lúc nào chàng quên được khuôn mặt xinh đẹp duyên dáng ấy. Càng nhớ bao nhiêu, chàng lại càng thương xót bấy nhiêu. Vốn là người có lòng từ thiện, chàng chỉ giận mình không có tiền. Nhưng đã hứa giúp, chàng không thể nuốt lời được, trái lại thấy cần phải thực hiện cho thật nhanh.

Giữa lúc băn khoăn, khó tìm được biện pháp, thì may thay dịp tốt đã tới với chàng: ở vùng An Khánh có một vị thân sĩ họ Chung. Cha chàng trước đây có nhờ vả Chung ông chút việc gì đó. Cách đây mấy hôm Chung ông vừa mất. Cha chàng biết nhà Chung ông nghèo khó nên bảo rằng sẽ gửi lê vật đến phúng viếng để đáp ân ngày trước.

Quả nhiên qua ngày thứ hai, Phúc Thành thấy người quản gia gói hai trăm lượng bạc giao cho gia nhân đem đi. Chờ tên gia nhân mang gói bạc bước ra khỏi nhà, chàng liền lẻn bước theo sau, gọi lại, bảo cha mình dặn khỏi đưa tới nhà Chung ông mà đưa qua cho gia đình Huệ Trưng.

Tên gia nhân thấy đại công tử bảo đó là lệnh đại nhân, đâu có biết chân giả, bèn đem gói bạc tới nhà Lan Nhi, nhận hồi thiếp rồi quay về nha môn, cậu cả đón lấy tấm thiếp đem giấu kỹ.

Khi quản gia hỏi, tên gia nhân chỉ nói tấm hồi thiếp tạ ân đã đưa cho đại công tử đem vào cho đại nhân xem rồi. Được báo cáo như vậy, viên quản gia cũng không nghi ngại gì nữa.

Qua ngày thứ ba viên quản gia lên gặp vị Đạo đài, nhân tiện hỏi tấm hồi thiếp thì nghe bảo rằng chưa thấy. Viên quản gia lấy làm lạ, vội chạy vào hỏi tên gia nhân thì tên này xác nhận là cậu cả đã lấy. Lúc đó cậu cả thấy khó che giấu nổi bèn lấy tấm thiếp đưa ra. Vị Đạo đài cầm lấy xem thấy phía trên tấm thiếp đề một dòng chữ: "Bất hiếu cô tử Na Lạp Quế Tường" (đứa con mồ côi bất hiếu là Na Lạp Quế Tường) bất giác lấy làm lạ vội truy vấn. Tên gia nhân lúc đó cứ thực tường khai, bảo đại công tử dặn khỏi đưa cho gia đình Chung ông mà đem sang cho gia đình ông cố hậu bổ đạo Huệ Trưng.

Vị Đạo đài nghe rõ sự thể, một mặt sai tên gia nhân tức khắc đi tới nhà Lan Nhi đòi lại gói đồ lễ, một mặt cho gọi cậu cả lên cật vấn.

Cậu cả thấy cha nóng giận, biết không thể che giấu được, bèn đem hết câu chuyện xảy ra ngày nọ, nào khi Lan Nhi bi tên ma cô trêu chọc trong tiệm trà, nào lúc nghe kể hoàn cảnh gia đình bi đát của nàng.

Vị Đạo đài không tin vẫn bắt con phải nói sự thực. Giữa lúc đó thì tên gia nhân đưa Quế Tường và Châu lão bá tới.

Kịp đến khi nghe Châu Lão bá kể lể thảm cảnh gia đình Lan Nhi thì vị Đạo đài lòng như se lại, liên tưởng tới cái cảnh thỏ chết cáo đau lòng, nên vui lòng coi hai trăm lượng bạc nọ như một số tiền từ thiện mà cho Quế Tường ra về.

Tuy nhiên, ông vẫn thắc mắc nghi rằng cậu cả nhà mình có tư tình với Lan Nhi. Ông cật vấn, ông doạ nạt... Cậu cả thấy cha không tin đành phải chỉ trời thề độc và cam đoan với cha là không bao giờ dám làm điều vô si như vậy.

Bà Đạo đài và viên quản gia lúc đó có mặt bên cạnh cũng lên tiếng khuyên giải và nói cậu cả vốn là người nhân đức từ thiện nên có hành động thương người đó thôi, chứ đối với việc tình ái yêu đương xưa nay chưa từng phạm, ắt không thể có điều vô sỉ nào đâu.

Vị Đạo đài nghe rõ chuyện thấy có lý, lúc đó mới an lòng, ngược lại còn ca tụng đức tính cậu cả vài ba câu. Tuy vậy ông vẫn cảnh cáo:

- Lần sau, mày không được độc đoán, độc hành như thế. Làm việc gì cũng vậy, phải bẩm rõ cho cha biết mới được, nghe chưa?

Đại công tử dạ dạ luôn mồm từ từ rút lui. Song ngay hôm sau, chàng vội lẻn tới nhà Lan Nhi để nghe ngóng tình hình.

Nhưng bóng người đẹp nay còn đâu? Lầu đã đóng, cửa đã cài then từ lúc nào! Chàng chạy qua hỏi thăm hai bên lân xá mới biết gia đình Lan Nhi đã lên thuyền về kinh. Chàng vội vàng chạy ra bến đò, tiếc thay chàng tới hơi trễ. Bóng người đẹp Lan Nhi đã đứng trên con thuyền tách bến lướt ra dòng sông.

Bến đò vắng lặng, cánh hồng còn đâu nữa, chàng đứng trên mom sông nhìn ra xa, ngắm mãi con thuyền mà chàng đoán là thuyền của ai kia đã hằng in bóng lâu nay trong tâm khảm.

Giữa lúc lòng bâng khuâng thương nhớ, chàng bỗng thấy từ trong khoang thuyền nhô ra một hình bóng giai nhân. Chàng đem hết tâm thần nhìn kỹ thì ra chính đó là nàng, là nguồn sáng của cõi lòng, là người yêu của cuộc sống quạnh quẽ từ đây của chàng. Chàng chăm chú nhìn, bỗng chàng thấy mơ hồ từ xa Lan Nhi như mỉm cười rồi nhẹ gật đầu tỏ vẻ hiểu được lòng chàng.

Đại công tử đứng trên bờ sông, cứ ngây người ra như tượng. Chàng nhìn mãi, nhìn mãi tới khi chiếc thuyền rời bến chỉ còn lại bằng một cái chấm nhỏ tận chân trời mà vẫn còn đứng trân người ra đó để nhìn. Một chiếc thuyền khác bỗng chặn ngang nẻo sông che khuất hẳn hình bóng chiếc thuyền nọ, lúc đó chàng công tử không còn thấy gì nữa mới thở dài, trở gót quay về.

Tình nghĩa của chàng công tử như thế, Lan Nhi hẳn cũng không phải là gỗ đá mà không cảm thấy. Đúng thế! Nàng ngồi trong khoang thuyền lòng lúc nào cũng nghĩ tới chàng, nghĩ tới thâm tình đã khiến chàng thân tự ra mãi bến đò để đưa tiễn, khiến nàng không khỏi hãnh diện phần nào bởi vì giữa lúc gia đình nàng hoạn nạn sa sút mà vẫn còn có một chàng công tử đa tình đa nghĩa lưu luyến để ý tới. Nàng tự hứa rằng kiếp này không thể quên chàng được.

Đến đây ta hãy tạm gác nỗi niềm tâm sự của Lan Nhi.

Lại nói bà Đông Giai đưa quan tài của chồng cùng với ba con một trai hai gái trên thuyền ngày đi đêm nghỉ thẳng hướng Bắc Kinh mà tiến. Mẹ thì goá con thì mồ côi, tình cảnh của bà Đông Giai thật là bi thương.

Bà Đông Giai nhớ lại cái ngày chồng mình ra đi phó nhiệm, cũng trên đường này, sung sướng vui vẻ biết bao. Rồi lúc tới Vu Hồ, hai bên văn võ ra tận bến đò đón rước long trọng.

Kịp đến khi về tới nha môn thì tiệc tùng la liệt, hôm nay một tiệc lớn, ngày mai một tiệc nhỏ, hãnh diện chừng nào.

Nhưng mà nay còn có ai nhỏ một giọt nước mắt thương gia đình bà nữa đâu! Đứng trước hoàn cảnh bi thương đó, bà Đông Giai bất giác dòng lệ tuôn trào!

Quanh quẩn với những ý nghĩ đó, miên man mãi trong tình thương nỗi nhớ bà Đông Giai không ngờ thuyền đã tới Thiên Tân đi Tử Trúc lâm, rồi chỉ ngày sau đã tới Bắc Kinh, về nhà.

Gia đình bà Đông Giai vốn là một dòng họ nhờ ơn thế tập cho nên còn có một toà nhà do hoàng đế ân tứ ở tại Tây trì Tử Hồ đồng. Về Bắc Kinh, gia đình bà Đông Giai tất nhiên ở tại toà nhà này.

Nhưng cái hoàn cảnh ngày nay so với lúc còn ông Huệ Trưng, chồng bà, quả khác nhau một trời một vực. Nhà cửa vắng lặng, lạnh lẽo, rèm màn xơ xác tiêu điều, thực không còn cảnh nào thê lương hơn thế nữa.

Riêng chỉ có nàng Lan Nhi là không đến nỗi hiu quạnh. Lúc còn nhỏ ở nhà, nàng có rất nhiều bạn gái. Bao năm đì xa về, nàng thấy bạn đều trưởng thành cả. Họ thấy nàng ngày nay không còn là cô gái nhỏ tầm thường nữa, trái lại xinh đẹp tuyệt trần, quả có một cái sắc chim sa cá lặn hơn họ một trời một vực.

Bởi thế cô nào cô nấy cũng thích đánh bạn với nàng. Nay thì cô Lý, mai thì cô Vương mời, hết ngày nọ đến ngày kia, chị chị em em, cười cười nói nói, trò trò chuyện chuyện, cứ như một bầy chim oanh chim én suốt ngày! do đó nàng cũng đỡ buồn bã âm thầm. Cũng có người thấy nàng lâm cảnh nghèo, thì mua son mua phấn tặng cho. Lại cũng có người thấy nàng thiếu áo thiếu quần, thì sắm áo đẹp quần sang cho nàng. Lại có cả những người thấy bà Đông Giai mải lo lắng về tiền, liền ngầm giúp bà. Bà Đông Giai nhờ vậy mà rồi cũng độ nhật qua ngày được.

Chẳng bao lâu, trời đã sang xuân. Đây chính là lúc đào hồng liễu xanh, ngày lành cảnh đẹp. Nhất là tới tháng ba, khí trời ấm áp, phong cảnh Bắc Kinh lại càng tươi đẹp, nhộn nhịp tưng bừng.

Bọn con gái trong xóm, vì quý mến Lan Nhi, không ngày nào là không tới rủ đi chơi. Họ đưa nàng hết tới Pha Lê sảnh, lại tới Đào Nhiên đình... Họ tíu ta tíu tít bên nhau như đàn chim oanh yến.

Nhưng rồi bỗng bẵng đi, không thấy họ tới nữa. Lan Nhi nhớ quá, nàng vội đi kiếm họ. Nàng tới nhà họ, lúc biết chuyện, hoảng hồn bạt vía, vội chạy về, trốn biệt trong nhà, không dám ló đầu ra nữa.

Bà Đông Giai lấy làm lạ hỏi con, mới biết năm nay hoàng cung có lệnh chọn tú nữ, bọn thái giám đang đi tra xét gắt.

Hễ thấy nhà nào thuộc Kỳ nhân có con gái trẻ đẹp là tức khắc bắt ngay không cần hỏi lý do, đưa tắp vào cung đợi tuyển.

Bởi thế các gia đình thuộc Tám kỳ trong thành Bắc Kinh, có con gái đều giấu kỹ trong nhà. Cô nào đã có người hỏi rồi thì phải giục nhà trai cưới vội đi. Còn cô nào chưa có ai hỏi, thì lại phải nhờ bà mối ông mai làm mối hộ. Một khi đã có người ưng thuận thì cưới ngay hôm đó, cứ hễ cắc là tùng ngay, chứ khỏi cần sêu tết lôi thôi gì cả. Thành thử trong kinh thành hồi đó, tình cảnh đâm ra xôn xao, không bút nào tả xiết.

Lan Nhi nhìn lại gia đình mình và chính bản thân mình lại càng lo lắng bội phần. Thân phận nàng có khác chi thân phận mấy chị em bạn của nàng. Nếu chẳng may thì hẳn là coi như tử biệt sinh ly rồi. Bởi thế nàng cũng như họ, trốn biệt trong nhà. Nàng cũng biết rằng gia đình nàng còn là một gia đình trong dòng họ Kỳ nhân có tên tuổi hơn cả những gia đình của bạn nàng...

Cô con gái thì nghĩ thế, nhưng bà mẹ lại nghĩ khác. Phải! Bà Đông Giai nghĩ rằng vào cung để được làm một cô tú nữ lại chả hơn ở nhà để chết đói chết rét sao? Đó là chưa kể khi được hoàng đế sủng ái nào phong là quý nhân, nào phong làm phi tử! Bởi thế, bà nguyện ý con gái bà phải vào cung, phải được tuyển làm tú nữ. Khi nghe rõ tin tức về việc tuyển lựa tú nữ rồi, bà liền đem ý mình nói cho con gái hay.

Không ngờ, Lan Nhi nghe bà Đông Giai nói rõ ý nguyện, thì giãy nảy lên. Nàng khóc rống, khóc như điên như dại, cơm không muốn ăn, trang điểm cũng không. Suốt ngày, nàng chỉ nằm mọp trong xó nhà, vừa sợ bọn thái giám nhìn thấy lôi đi, vừa đau khổ vì ý nguyện của người mẹ thương con vơi đầy, chỉ biết có một mà không hiểu được hai, cái tình cảnh của người con gái trong cung cấm!

Hồi 127

CÔ TÚ NỤ VÀO CUNG

Con gái đến tuổi dậy thì, cô nào chả mơ ước có một đức anh chồng xứng mặt nam nhi. Đó cũng chính là tâm sự của Lan Nhi lúc này.

Từ lúc được cậu cả, con trai ông Đại đài An Khánh ra ơn giúp đỡ, Lan Nhi cảm kích khôn tả xiết. Hơn thế nữa, cậu cả nhà ta lại trắng trẻo bảnh trai. Người ta thường chẳng bảo: "Từ xưa, chị Hằng thường yêu chàng trai trẻ" (Tự cổ, Hằng Nga ái thiếu niên).

Câu nói này thật rất đúng với Lan Nhi. Nàng thấy chàng quả là một trang anh tuấn, trong lòng thật xao xuyến bâng khuâng. Chỉ có một điều buồn là đôi bên gặp nhau đã muộn mà lại xa nhau quá lẹ, bầu tâm sự chứa chan thực chưa có dịp bộc bạch ký thác, để thêm hiểu lòng nhau.

Trong thâm tâm Lan Nhi, nàng tin tưởng rằng chàng công tử nọ (đã là đồng Kỳ) thế nào cũng có ngày lên kinh. Lúc đó, nếu đã gọi là có nợ có duyên với nhau, thì sở nguyện của đôi bên làm sao mà chả có cơ thành tựu được. Tuy nhiên tâm sự u uẩn đó đối với người con gái còn đang khoá kín buồng xuân, đâu có dễ gì mà thổ lộ với ai.

Thế rồi bỗng hôm nay, nghe mẹ khuyên bảo vào cung, thì nàng hoảng hồn bạt vía, chỉ còn có nước kêu khóc, miệng chối đây đẩy:

- Con không vào đâu! Con quyết không vào đâu!

Bà Đông Giai thấy con gái khóc lóc thảm thiết, cũng đâm ra e ngại, quyết ý của bà đã lung lay lắm. Nhưng cô con gái cưng của bà có biết đâu rằng chính mình đã tự đưa mình vào chứ chẳng ai khác cả. Lý do chỉ tại có một hôm, nàng không trốn biệt trong xó bếp, mà lại cao hứng đi tìm cô bạn ở gần phố. Chính trong cuộc đi thăm viếng này, có người đã nhìn thấy nàng, thấy cái khuôn mặt tuyệt thế giai nhân, cái thân hình óng ả lả lướt như tiên nga giáng thế của nàng.

Điều không may nhất cho nàng hôm đó, là một tên thái giám trong cung nội đã gặp nàng khi đi ngang qua Tây trì Tử Hồ đồng. Thấy nàng đẹp quá, hắn nhìn đến ngây người, quả quyết rằng trong thiên hạ không còn có ai có thể đẹp hơn thế nữa. Hắn thấy nàng mặc cái áo dài, bỏ một bím tóc lớn ra sau, cắt lớp tóc trước trán ngang cặp chân mày, và để lộ hắn cổ chân ra đến sáu tấc thì biết ngay rằng nàng đích thị là một cô gái trong Bát Kỳ.

Tên thái giám gặp nàng, vội chạy về cung nội báo ngay cho Thôi tổng quản biết. Viên Tổng quản họ Thôi mấy hôm nay đã tốn biết bao công đi tìm kiếm gái về cho hoàng đế mà vân chưa có kết quả, cho nên y tỏ vẻ buồn bã kém vui, bỗng nghe tin này lòng như cờ mở, vội chạy tới Tây trì Tử Hồ đồng.

Thế rồi hôm đó, giữa lúc Lan Nhi đang giặt quần áo thì bọn thái giám xông vào, dữ tợn như một đàn cọp. Chúng vừa thấy Lan Nhi đã quay sang hỏi nhau:

- Ai dám bảo nàng không là một tú nữ hạng nhất?

Lan Nhi hoảng quát chạy vào nhà. Bà Đông Giai thì vội chạy ra quát hỏi:

- Bọn ngươi tới đây làm gì vậy?

Viên tổng quản đáp:

- Bà còn không biết trong cung hiện đang tuyển tú nữ sao? Bọn tôi chạy cùng trời đất mà không tìm ra được một người đáng mặt. Nay biết nhà bà có một cô nương xinh đẹp lắm, hỏi tại sao lại không báo lên vạn tuế gia cho ngài biết? Thôi bà để bọn tôi thay bà, đưa cô ta vào cung cho, bảo đảm với bà là vạn tuế gia mà thấy thì thế nào cũng phong quý nhân tức khắc, rồi phong phi tử mấy hồi. Lúc đó thì cả nhà sẽ vinh hoa phú quý biết bao! Rồi bà còn phải cám ơn bọn tôi không hết đó...

Những lời ba hoa này không ngờ gãi đúng chỗ ngứa của bà Đông Giai, bà tự nhủ: "Gia đình mình đã quá khổ, thằng Quế Tường lại ngây ngô đần độn, chỉ còn hy vọng vào hai đứa con gái. Nay trong cung tuyển tú nữ, đây chính là một cơ hội tốt chớ nên để mất! Con Lan Nhi đã không chịu, ta sẽ khuyên bảo con Dung Nhi.".

Nghĩ vậy bà bèn quay vào kéo Dung Nhi ra bảo:

- Đây, ta đưa nó vào cung với các, ngươi!

Viên tổng quản nhìn Dung Nhi, chỉ lắc đầu. Bọn nhân viên Nội vụ phủ khuyên bà:

- Gia đình bà có con gái vào cung: nếu được vạn tuế sủng ái thì sẽ vẻ vang biết bao nhiêu! Nhưng con gái bà phải đẹp mới được! Nếu mà không đẹp thì chỉ có chết già trong cung thôi! Lúc đó, có phải chỉ làm khổ bà thôi không? Phải cô nương vừa chạy vào nhà đó mới được!

Bọn ngươi bảo con lớn nhà ta được thì hãy để cho ta thu xếp trong hạn kỳ ba ngày, các ngươi trở lại mà nhận tin. Bởi vì con lớn nó khó tính lắm, để ta khuyên bảo nó dần mới được.

Bọn tổng quản gật đầu, đáp liền mấy tiếng:

- Được lắm. Được lắm!

Rồi kéo nhau trở về.

Bà Đông Giai sau đó quay vào phòng Lan Nhi, khuyên dọc khuyên ngang mãi, cuối cùng bà hờn giận, nói:

- Gia đình ta suy vi nghèo túng quá rồi. Con nghĩ lại xem, lúc cha con chết đi, khổ sở biết chừng nào! Anh trai con thì ngốc nghếch, đần độn quá, mẹ thực chẳng mong gì được ở nó.

Mẹ chỉ còn hy vọng vào con thôi. Con hãy vì mẹ mà vào cung đi Nhờ ở cái sắc của con, cái tính thông minh của con, mẹ tin chắc thế nào cũng có lúc vẻ vang. May được vẻ vang rồi, con đừng quên người mẹ nghèo khổ cô đơn này là được.

Bà Đông Giai nói tới đây hai hàng lệ tuôn trào rơi trên má, Lan Nhi cũng cầm lòng không được, khóc lên thành tiếng.

Lan Nhi khóc một lúc, lòng đã thấy mềm đi. Thế là nàng theo ý mẹ, quyết dứt hẳn tình vào cung làm tú nữ.

Bà Đông Giai thấy Lan Nhi chịu nghe theo lời mình, mừng lắm liền ôm chầm lấy nàng, vừa cười vừa khóc.

Ba ngày sau, viên tổng quản trở lại. Hắn đưa cho Lan Nhi một bộ quần áo mới để nàng mặc vào. Bà Đông Giai cùng Quế Tường và Dung Nhi đưa nàng lên xe. Mẹ rồi em, cả nhà bịn rịn gạt lệ lúc chia tay. Mãi tới khi chiếc xe đã đi xa, bà Đông Giai mới dắt các con quay về.

Cuộc tuyển tú nữ lần này không do ý của Hàm Phong hoàng đế mà thực là của bà Hiếu Trinh hoàng hậu. Bà thấy hoàng đế suốt ngày suốt năm ở lì bên vườn Viên Minh chơi bời phóng đãng với bọn gái Hán, chẳng những bỏ phế việc triều chính mà còn bại hoại cả thân thể. Bà tuy là chủ của sáu cung nhưng thực chẳng giữ được hoàng đế. Hơn nữa hoàng đế có ba cung sáu viện đầy đủ, nhưng chưa từng có một hoàng tử nào. Việc kế vị sau này há chẳng phải là một việc trọng đại đáng lo nghĩ sao?

Loay hoay với chuyện đó mãi, sau bà mới nghĩ ra một kế. Bà nghĩ rằng hoàng đế là người hiếu sắc, thế thì tại sao bà lại không hạ một chỉ dụ cho Nội vụ tuyển tú nữ, mong có được vài cô tuyệt sắc giai nhân khiến hoàng đế sủng ái, may ra sinh được một vài hoàng tử thì thực may mắn vô cùng. Bà còn hy vọng thêm một điều nữa, là nếu ngài say đắm một vài sủng phi nào đó thì bà có thể giữ chân được ngài ở lại cung nội.

Chủ ý của bà đã định, bà chỉ chờ khi hoàng đế vào cung là nói cho ngài hay. Hàm Phong hoàng đế đối với Hiếu Trinh hoàng hậu tuy rất lạnh nhạt về tình ái, nhưng lại rất kính trọng về đức hạnh. Bởi thế, nghe bà nói, ngài ưng thuận ngay.

Một đạo thánh chỉ ban xuống. Tức thì sáu mươi bốn cô tú nữ đã tuyển lựa cẩn thận được đưa vào thâm cung. Tâm lý Hàm Phong lúc đó đều hướng về gái Hán, chứ không thèm để ý tới bọn Kỳ nữ, chỉ tại ngài không muốn trái ý hoàng hậu cho nên đành để cho cuộc tuyển lựa thành hình. Nhưng thực ra ngài tỉnh chọn lấy vài ba cô thôi, còn bao nhiêu thì sẽ cho về hết.

Sau cuộc tuyển lựa, không ngờ con số lên tới sáu mươi bốn cô. Tất cả đều được đưa vào vườn Viên Minh ở tạm trong đó.

Hàm Phong hoàng đế tuyển lựa xong tú nữ, lại quay về với bọn gái Hán như cũ. Ngài tìm bọn Tứ Xuân, lại chơi bời, lại yến tiệc say sưa, không thiết gì tới bất cứ một việc gì nữa.

Lan Nhi tất nhiên cũng có trong đám sáu mươi bốn cô tú nữ được đưa vào vườn Viên Minh. Nàng được cho ở trong một ngôi nhà, dưới bóng một khóm cây ngô đồng, cành lá xum xuê. Đây chính là một nơi nghỉ mát rất tốt trong những ngày hè nóng bức.

Tại đây vốn có bốn cung nữ giữ nhà quét cổng, nay thêm hai nữa, một chính là Lan Nhi còn một gọi Yến Nhi. Yến cũng như Lan, là tú nữ được tuyển vào kỳ này. Yến Nhi vốn con nhà khá giả, quần lành áo tốt, được ăn uống sung sướng, anh em lại đông, bởi thế nàng có một nếp sống hết sức vô tư, vui vẻ. Nhưng từ khi bị tuyển vào cung cấm, cuộc đời Yến Nhi trở nên buồn tẻ hiu quạnh. Nàng buồn bã rồi nhớ cha thương mẹ, khóc lóc suốt ngày đêm. Trái lại đối với Lan Nhi, cuộc đời lại khác hẳn. Nàng lúc nào cũng vui hy vọng tràn trề. Lúc còn ở nhà, nàng đã chịu bao cảnh khổ sở, nay bỗng được ăn ngon mặc đẹp, lại có cung nữ bên cạnh bầu bạn thì còn gì vui thú hơn. Tính nàng lại như trẻ con chỉ thích du ngoạn, thêm khu vườn Viên Minh rộng thênh thang, không biết bao nhiêu là cảnh đẹp, cho nên ngày ngày nàng nhảy nhót tung tăng trên các lối tắt đường ngang trong vườn để dạo chơi. Nàng nhởn nhơ chạy nhảy hết khu vườn này tới rừng cây nọ, thấy thích quá, vui quá, đến nỗi lòng nàng như quên hết đi quá khứ.

Nàng vốn là một cô gái thông minh, thấy cảnh trì tại nơi đây u nhã, bèn đem giấy bút ra nào viết, nào vẽ. Dưới bóng khóm ngô đồng sum sê, chung quanh lại nào hoa, nào lá, nàng say sưa với những ý tưởng trong đầu. Khi ở nhà nàng đã có cái vốn chư nghĩa kha khá, bây giờ, chịu chuyên tập, chẳng bao lâu nàng có thêm lối viết chữ thảo hết sức đặc sắc. Chữ đã tốt, hoạ lại càng hay. Nàng vẽ nào là lan, nào là trúc, trên còn đề thêm ít câu thơ cho tăng phần ý nghĩa và tình tứ. Nàng dùng hoạ phẩm của mình trang điểm cho các khung cửa sổ thêm phần sinh động và vui mắt thành thử căn nhà có bộ mặt hay đồi khác hẳn. Nó không còn âm u ảm đạm như xưa, mà sáng sủa rực rỡ và mới mẻ hẳn ra.

Lan Nhi còn trồng ở chung quanh nhà các giống lan tứ quý. Khi bước vào nhà nàng, không ai không ngửi thấy đủ mùi lan thơm phức vừa thanh nhã vừa di dưỡng được tinh thần. Nàng bắt bọn cung nữ ngày ngày quét dọn cửa nhà sân vườn hết sức sạch sẽ. Nàng đối đãi với bọn cung nữ y như chị em trong nhà.

Nhờ cái tình thân mật ấy, bọn chúng đều vui vẻ nghe nàng sai khiến. Đến ngay cả Yến Nhi suốt ngày nhớ mẹ thương cha lúc này cũng vui lên, tươi tỉnh bỏ được hết những nỗi sầu buồn như lúc mới bước vào cung cấm.

Lan Nhi sống một cuộc sống như vậy, phải chăng nàng chỉ định lấy vui chơi làm cứu cánh cho đời mình? Phải chăng nàng không nghĩ gì tới cha mẹ, anh em, dòng họ, và tương lai của cả chính mình?

Dọn dẹp trang trí cẩn thận, vất vả như thế, thực ra, Lan Nhi có một ý định sâu xa lắm. Nàng thấy đây là một nơi nghỉ mát rất tốt. Hiện nay, trời đang vào mùa cuối xuân, chưa nóng bức, nhưng ít lâu nữa hè tới với những buổi trưa ngột ngạt, thì một ngày nào đó, thế nào lại chả có thánh giá lâm hạnh tới nơi đây. Lúc đó, vạn tuế gia chẳng những sẽ phải để ý tới ngôi nhà, nàng khóm lan, những bức hoạ... mà còn phải hỏi han đến người tạo ra những cảnh vật đáng yêu đó nữa. Điểm đáng lo nhất đối với nàng thực chỉ là việc vạn tuế gia có đặt chân tới đây hay không.

Lan Nhi sau khi vào cung, đã sắp sẵn kế hoạch, và chỉ có mỗi một hy vọng đó. Là một tú nữ, nàng được cung nội phát lương tháng. Nàng để dành số tiền đó, đến khi đủ vài trăm lượng bạc liền thưởng cho bọn thái giám.

Đối với bọn thái giám, cô cung nữ nào đó cho tiền, nếu không nhờ được việc này, ắt cũng có thể nhờ được việc khác.

Nhưng trường hợp Lan Nhi lại khác. Khi bọn thái giám hỏi nàng cần nhờ việc gì thì nàng đều bảo chẳng có gì cần nhờ cả. Thành thử bọn chúng chỉ cho là nàng tốt, nàng tử tế, rốt cuộc anh nào cũng xử tốt với nàng cả. Nhất cử nhất động của hoàng đế, họ đều báo cho nàng hay. Nhưng khi nghe rồi, nàng làm bộ thản nhiên như không có điều gì đáng để ý cả.

Hồi 128

TIẾNG HÁT NÊN DUYÊN

Xuân qua hạ tới, đây chính là mùa nóng bức, cần phút thừa lương, Hàm Phong hoàng đế mỗi bữa cơm xong, lại ngồi trên chiếc kiệu nhỏ, có tám tên thái giám khiêng tới Thuỷ Mộc Thanh Hoa các để tránh nắng và nghỉ trưa ở đấy. Đi từ tẩm cung của ngài tới gác này có hai con đường: một đường đi qua Tiếp Tú sơn phòng, còn một đường thì qua Đồng Âm thâm xứ. Nếu so sánh hai đường, thì đường đi qua Tiếp Tú bằng phẳng và gần hơn. Bởi thế, bọn thái giám hay đưa hoàng đế đi qua ngả này.

Lan Nhi điều tra được điều đó, bèn bỏ tiền ngầm cho viên Tổng quản thái giám và bảo y cho khiêng hoảng đế đi qua phía Đồng Âm thâm xứ. Viên tổng quản được tiền rồi, tất nhiên theo đúng hẹn mà làm. Phía ngoài Đồng Âm thâm xứ có một bức tường thấp bao quanh. Mặt đông, mặt tây, đều tiếp giáp đường đi. Từ bên ngoài nhìn vào, người ta chỉ thấy bóng cây ngô đồng che mát cả một vùng, gió thổi vi vu nghe như giọng sáo.

Thế rồi vào một buổi trưa, Hàm Phong hoàng đế ngồi trên kiệu đi qua. Một trận gió thổi ngang, ngài bỗng nghe văng vẳng tiếng ca êm ái du dương từ phía trong vọng ra. Giữa lúc nóng bức đến chảy mỡ, nhìn thấy một khu rừng cây có bóng mát, có cảnh đẹp, ai lại chả thích. Đã thế, lại còn có tiếng hát như ru hồn vào cõi mộng, thử hỏi một ông vua tình tứ ăn chơi như Hâm Phong làm sao không để ý tới? Ngài liền ra lệnh cho bọn thái giám đưa kiệu vào thẳng bên trong khu Đồng Âm thâm xứ. Phong cảnh nơi đây quả thật tươi đẹp và quyến rũ. Hai bên đường bóng mát che khắp, mùi hương hoa sực nức, cỏ cây xanh rờn.

Hoàng đế vừa vào trong vườn đã khen mát khen đẹp, cho rằng cảnh u nhã có le nhất nơi này. Bọn cung nữ và Yến Nhi thấy hoàng đế giáng lâm, hoảng hốt vội chạy cả ra sân đón rước.

Hàm Phong hoàng đế lúc đó chỉ lắng tai nghe tiếng hát, tiếng nhạc véo von êm ái tự bên trong vọng ra. Ngài hạ lệnh cho bọn cung nữ dừng lại và không được làm om sòm lên nữa.

Rồi ngài xuống kiệu đi thẳng vào trong nhà.

Ngài chỉ thấy chung quanh nhà, trên các bậc cửa sổ, dán dầy những bức hoạ tuyệt mỹ. Trong nhà vắng lặng, không một bóng người. Ngài nhìn vào bức hoạ, thấy lạc khoản đề hai chữ "Thiêu Lan" nét bút vô cùng duyên dáng và sắc sảo.

Bỗng tiếng hát lại vọng ra từ phía sau nhà. Tiếng nghe êm ái và dịu ngọt làm sao! Hàm Phong hoàng đế càng nghe càng say mê. Ngài quanh ra phía sau. Một ngọn giả sơn, nằm thu hình trong khóm trúc xanh. Một cô tú nữ ăn mặc Kỳ trang với chiếc áo hồng mỏng, tay cầm quạt lông ngỗng trắng, tựa vào phiến đá của ngọn giả sơn trên mặt hồ, miệng say mê hát khúc tình ca. Tiếng hát của nàng quả du dương êm ái! Giọng điệu càng uyển chuyển, tình tứ, như muốn đưa hồn người vào cõi mộng.

Hàm Phong hoàng đế nhìn kỹ hơn người tú nữ. Ngài nhìn từ đôi vai tròn trịa thơm tho, chiếc eo phía dưới yểu điệu lạ thường. Rồi đôi lọn tóc mây như đôi cánh ve buông trên đôi má. Trời! Cái cổ nàng sao trắng thế! Trắng hệt như màu bạch ngọc. Phía trên cái cổ xinh đẹp quyến rũ ấy, nàng chải một kiểu tóc theo lối Kỳ nữ, trên giắt đoá hoa hồng lớn rung rinh.

Cô tú nữ xinh đẹp miệng ca, đôi má phấn nhẹ lắc bên này sang bên kia như đánh nhịp, đôi lọn tóc mây cũng theo đó mà bay qua lại như đôi cánh én liệng trời xuân. Hôm đó nàng lại mặc một chiếc quần mỏng màu xanh lá hẹ để lộ cặp cổ chân trắng nõn, tiếp đến đôi chân lồng trong đôi giầy xinh xắn có rắc phấn mịn màng.

Đã bao ngày vui đùa với bọn Hán nữ, Hàm Phong hoàng đế cũng đã thèm món lạ rồi, nay bỗng thấy một cô gái Kỳ nữ tuyệt sắc giai nhân lại ăn mặc Kỳ trang lạ mắt, ngài tự nhiên cảm thấy thú vị, lòng như mở ra để chờ đón một cái gì mới mẻ.

Ngài đứng đó ngắm không biết đã bao lâu, thế mà cô tú nữ tuyệt sắc nọ vẫn tư lự thả hồn theo tiếng hát của mình, không hề quay đầu lại để cho ngài được chiêm ngưỡng cái đẹp trên khuôn của nàng.

Hàm Phong hoàng đế đã định đằng hắng để nàng phải giật mình quay lại, nhưng ngài lại thấy khúc hát của nàng đang đến đoạn lâm ly tha thiết lúc bổng khi trầm nên lại thôi, đành cứ đứng lặng phía sau lắng tai nghe cho xong khúc hát. Tiếng hát cô tú nữ mỗi lúc càng trong trẻo hơn, càng say đắm hơn.

Trăng thu vằng vạc, sáo vi vu.

Tiếng sáo đưa trăng giọng lững lờ

Trăng sáo mơ màng lòng ai oán.

Oán ai, ai oán ánh trăng mờ?

(Thu nguyệt hoành không tấu địch thanh,

Nguyệt hoành không tấu địch thanh thanh.

Hoành không tấu địch thanh thanh oán.

Không tấu địch thanh, thanh oán sinh).

Câu ca chót nàng bỏ giọng mới tình chứ. Thật là trăm nhớ ngàn thương, nghìn tiếc muôn buồn! Dư âm giọng hát như còn vọng mãi nơi xa xôi, nào đó, khắc ghi vào tâm hồn của bất cứ ai đã hơn một lần yêu hoa đắm nguyệt thổn thức dưới trăng!

Ngừng lại một thoáng, cô tú nữ lại hát tiếp. Nàng đưa hồn nhẹ theo tiếng ca, như say sưa với mai, như ngỡ ngàng với tuyết:

Khách ơi! Gác lạnh, khách yêu mai,

Gác lạnh, mai cười, khách lả lơi.

Lơi lả yêu mai, Đông gọi tuyết.

Tuyết mai, mai tuyết, khách tình ơi!

(Đông các hàn hô khách thưởng mai

Các bàn hô khách thưởng mai khai.

Hô khách thưởng mai, Đông khai tuyết,

Hô khách thưởng mai khai tuyết bồi).

Nhưng lần này khi người đẹp bận Kỳ trang hát tới đoạn chót của bài ca thì Hàm Phong hoàng đế không còn cầm nồi lòng mình nữa thốt lên một tiếng lớn:

- Tuyệt quá! Tuyệt!

Cô tú nữ làm như không biết có người nghe trộm đằng sau, lại còn lên tiếng tán tụng, giật mình quay lại nhìn. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người mà nâng hằng ao ước bấy lâu, cũng là người mà nàng phải đem hết tâm lực bày mưu kế mới có được như ngày nay. Nàng với quỳ mọp xuống đất miệng tâu:

- Tiểu tỳ Lan Nhi khấu kiến thánh giá! Nguyện Phật gia vạn tuế, vạn vạn tuế!

Hàm Phong hoàng đế nghe mấy tiếng từ miệng nàng thốt ra, tưởng như vừa được nghe tiếng chim loan chim phượng nó êm ái nhẹ nhàng làm sao.

Ngài cho phép nàng ngẩng đầu lên. Không ngờ trong đám tú nữ của ngài lại có người đẹp đến thế này. Quả thật là mày tầm mắt phụng, tóc mây, má đào chín, môi anh đào hàm tiếu, cổ nõn nà, tay búp măng xinh xắn.

Hàm Phong hoàng đế ngắm mãi ngắm hoài mà không chán. Lòng ngài bỗng bối rối lạ thường. Ngài tự nhủ, vi hành du ngoạn đã nhiều, biết bao gái đẹp đã qua tay mà sao chưa từng thấy một người có cái tài, cái sắc mê hồn như nàng. Ngài còn dám cho rằng Kỳ nữ không thể có người đẹp được. Vậy mà nay ngài đã gặp nàng, thật một sự không ngờ.

Nghĩ vậy rồi, ngài bèn giơ tay vẫy gọi Lan Nhi rồi quay gót vào nhà, leo lên trên chiếc giường thừa lương xếp bằng ngồi chễm chệ. Lan Nhi theo vào. Ngài chỉ cho nàng ngồi xuống chiếu ghế bên cạnh hỏi:

- Nàng vừa ca bản gì vậy?

Lan Nhi khép nép thưa:

- Muôn tâu! Đó là bản Liên hoàn bốn cảnh!

- Nàng nói có bốn cảnh. Trẫm mới được nghe có Thu và Đông. Còn hai cảnh Xuân và Hạ nữa, nàng hát nốt trẫm nghe nào!

Lan Nhi tuân chỉ, chú ý vào giọng hát cho quyến rũ hơn, nàng ca:

Mùa xuân đã tạnh bạn tình ơi!

Tìm bạn thăm hoa sắc ghẹo người.

Hoa bạn có xa mà chẳng cách

Biết chăng hoa bạn tuổi đương thời?

(Xuân vu tình lai phỏng hưu gia.

Vũ tình lai bằng hữu gia hoa.

Tình lai phỏng hữu gia hoa kính,

Lai phỏng hữu gia hoa kính tà).

Ca xong bản Xuân cảnh nghỉ một vài phút, Lan Nhi lại tiếp bài Hạ cảnh:

Ao hè gió động lá sen xanh,

Lá xanh bông trắng lẳng lơ cành.

Hương thơm ngào ngạt ao hè đượm.

Gió động cành xanh ghẹo khách tình

(Hạ thiền phong hạ thuý diệp trường

Thiền phong hạ thuý diệp trường hương

Phong hạ thuý diệp trường hương mãn

Hạ thuý diệp trường hương mãn đường).

Hàm Phong hoàng đế nghe xong cười lên khanh khách khen hay:

- Bản này hay tuyệt, đáng khen lắm!

Lan Nhi được khen e lệ đứng dậy, rót một chén trà ướp sen dâng lên. Hàm Phong hoàng đế vừa uống trà vừa nhìn ngắm khuôn mặt nàng.

Hôm đó Hàm Phong hoàng đế đến một cách đột ngột nên Lan Nhi không trang điểm được gì. Nhưng không phải vì thế mà nàng kém xinh đẹp. Trái lại chính sự buông thả ấy, mà nàng mới có sắc đẹp thiên nhiên ít ai bì kịp khiến Hàm Phong hoàng đế ngạc nhiên và lập tức say mê ngay.

Nàng chỉ mặc có chiếc áo hồng mỏng ngắn lót mình, khiến tấm thân ngà ngọc lồ lộ bên trong, trông rõ mồn một từ nét thẳng đến đường cong. Bộ ngực đầy đặn tròn trĩnh của nàng nồi bật hẳn lên càng làm tăng vẻ bí ẩn của người con gái tuổi dậy thì. Đã thế, dưới áo mỏng, chiếc yếm thêu chỉ đỏ còn như tô điểm thêm vẻ quý phái cho bộ ngực ăn nhịp với cái eo mà hoàng đế tưởng như đó chính là nơi ấp ủ nguồn sống của chính mình.

Hàm Phong hoàng đế uống cạn trà, giơ tay đưa trả chén cho Lan Nhi. Nàng cất cao bàn tay lên đón chiếc chén. Quả là một bàn tay mà ngài chưa từng thấy! Ngón tay như ngọc, bàn tay như ngà. Đã mịn lại trắng mũm mĩm, óng chuốt như tơ. Móng tay được gọt dũa tinh vi, bôi một thứ sơn mỏng màu hồng nhạt. Lòng bàn tay nàng tươi hồng trông ngon mắt.

Giữa lúc đỡ lấy chén, Lan Nhi không ngờ hoàng đế đã như con chim cắt bắt mồi chụp ngay lấy cả bàn tay nàng gọn trong tay mình, chiếc chén Giang Tây rớt xuống thềm nhà vỡ tan tành.

Lan Nhi lúc đó vừa mừng vừa sợ. Nàng chỉ biết cúi đầu e lệ, không dám ngẩng mặt lên. Hàm Phong hoàng đế nhân dịp đó, giơ cả hai tay ra bế thốc nàng lên đặt ngồi trên mép giường rồi kéo xích người nàng về phía mình. Ngài cất tiếng hỏi tên tuổi của nàng, hỏi quê quán, gia đình cha mẹ, rồi hỏi tới ngày bước vào cung nội.

Lan Nhi trả lời rành mạch từng điểm, giọng trong trẻo, tiếng êm như ru, mà đâu vào đấy, không thiếu sót một điểm nào!

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, nhìn thẳng vào mặt nàng, nháy mắt đưa tình, kéo sát nàng vào lòng, ghé miệng vào tai nàng thì thầm...

Người ta chỉ thấy Lan Nhi bỗng bật lên tiếng cười, và chỉ nói được mỗi một câu:

- Tiểu tỳ xin tuân chỉ.

Rồi đôi má nàng ửng đỏ, cặp mắt hồ thu lóng lánh đưa nhanh, nàng vội đứng dậy chạy ra trước viện, truyền gọi hai viên tổng quản Thôi Trường Lệ và An Đắc Hải ra phía sau.

Hàm Phong hoàng đế bảo hai viên tổng quản sang Thuỷ Mộc Thanh Hoa các truyền dụ cho bọn cung tần mỹ nữ nơi đây biết ngài hôm đó nghỉ ngơi tại Đồng Âm thâm xứ, cứ việc tự do giải tán, khỏi cần chờ chực hầu hạ. Bọn tổng quản nghe truyền, biết ngay việc gì sắp xảy ra, miệng vội nói tuân chỉ, tay từ từ khép cửa lại, lặng lẽ rút lui.

Lan Nhi hầu hạ hoàng đế ngơi nghỉ tại Đồng Âm thâm xứ, mãi lúc mặt trời xuống núi mới thấy ngài bá vai bá cổ nàng bước ra ngoài viện để hóng mát.

Lát sau, bọn thái giám khiêng kiệu lại. Ngài bước lên ngồi, mắt nhìn người đẹp như còn lưu luyến ước hẹn. Lan Nhi đưa ngài ra khỏi viện. Bọn cung nữ và thái giám lạy chào, cầu chúc ngài vạn an.

Lan Nhi lúc đó, bên ngoài thì mắc cỡ, đỏ mặt tía tai, nhưng trong lòng quả muôn phần đắc ý, nàng biết chắc rằng hoàng đế đêm nay khó thể quên nàng, và quyết chắc ngài sẽ cho tuyên triệu. Bởi thế nàng vội quay về phòng, trang điểm cực kỳ lộng lẫy.

Mùa hè làm sao tránh được mồ hôi. Thực ra, lúc xế chiều, Lan Nhi đã tắm qua một lần nhưng vì hôm đó, thừa tiếp thánh giá cho nên chiếc áo mỏng đầy khêu gợi kia đã ướt đẫm mùi hương. Nàng lấy nước thơm tắm lại lần nữa, thoa một lần phấn mỏng lên khắp da cho thêm mịn, thêm thơm. Mấy cô cung nữ cũng cố kiếm cho nàng một đoá hoa dạ hợp cài vào mái tóc mây đen nhánh của nàng, mùi hương thơm ngào ngạt khắp cả căn phòng.

Lan Nhi ngắm bóng mình trong chiếc gương tư mã một lần chót, cười sung sướng với cái duyên cái sắc của mình, lòng thấp thỏm đợi chờ lệnh tuyên triệu của hoàng đế...

Hồi 129

LAN NHI THÙ GÁI HÁN

Biết thế nào hoàng đế cũng tuyên triệu. Lan Nhi hôm đó trổ hết tài nghệ tô điểm, quyết cướp ông vua phong lưu đa tình này về mình. Sau bữa cơm tối, quả nhiên nàng thấy tổng thái giám phòng kính sự đi tới, tay giơ cao tấm bài vuông đầu màu xanh, miệng nói lớn:

- Lan quý nhân tiếp chỉ!

Nghe tiếng gọi đó, Lan Nhi biết hoàng đế đã gia phong cho mình làm quý nhân, trong lòng biết bao vui sướng. Nàng vội quỳ xuống lĩnh chỉ.

Bọn cung nữ đưa nàng vào ngoạ phòng, chiếu lệ, cởi bỏ hết y phục cho nàng, xức khắp mình nàng một lượt nước thơm hảo hạng. Mọi việc sửa soạn đã xong, bọn cung nữ lớn tiếng nói vọng ra:

- Lĩnh chỉ.

Tức thì viên tổng quản cầm một chiếc chăn chiên lớn bước vào, choàng lên mình Lan Nhi che kín khắp, rồi cong gối ngồi xổm trên mặt đất, đợi khi nàng ngồi vững hẳn trên vai, lúc đó mới vít chặt hai đùi nàng vào người mình rồi đứng dậy và lẹ làng kiệu tới tẩm cung của hoàng đế. Vài tiếng đồng hồ sau người ta lại thấy viên tồng quản đưa nàng quay về Đồng Âm thâm xứ.

Một điều lạ là Hàm Phong hoàng đế xưa nay lâm hạnh cung tần mỹ nữ hằng đêm đều không giữ ai lại, song đối với Lan Nhi, thì qua sau đêm đầu, ngài truyền chi cho thái giám giữ nàng lại tẩm cung.

Bọn thái giám và cung nữ trong viện của Lan quý nhân thấy vậy thì biết rằng ngài đã quá sủng ái nàng rồi. Ví thử trong tương lai, nàng sinh cho ngài một cậu hoàng nam thì đừng nói cung tần trong tam cung lục viện, ngay cả đến chính cung hoàng hậu kia cũng phải có biệt nhãn đối với nàng. Bởi thế không một kẻ nào không xu phụng nàng.

Yến Nhi vốn cùng ở với Lan Nhi từ Đồng Âm thâm xứ, song từ khi Lan quý nhân được sủng ái thì nàng rời qua Hương Viễn Ích Thanh lâu. Hàm Phong hoàng đế từ khi triệu hạnh Lan quý nhân rồi, thì quyến luyến không rời xa được nữa.

Ngài tới Đồng Âm thâm xứ để nghe nàng ca. Bao nhiêu năm học, các bản ca nàng thuộc quả có nhiều thực. Hôm nay nàng ca một bản, mai nàng ca một bản Hôm nay ca tiểu điệu, mai ca khúc mạn thanh tráng điệu. Nàng ca mãi khiến ông vua phong lưu phóng đãng như bị khoá chặt vào mấy cái gốc cây ngô đồng nơi đây. Thế rồi ngày ngày ở trong phòng Lan Nhi, đêm đêm ngài ngủ lại Đồng Âm thâm xứ, không quay gót về tẩm cung của mình nữa!

Nào là Mẫu Đơn Xuân, nào là Hạnh Hoa Xuân, tất cả đều bị ngài ném ra sau ót cả. Gần gũi hoàng đế, mọi chuyện trong cung, Lan quý nhân cũng thông hiểu đôi phần. Bởi thế, nàng thường khuyên hoàng đế nên lưu ý tới việc triều chính. Và hoàng đế cũng nghe lời nàng, truyền dụ cho quân cơ đưa các bản tấu sớ tới Đồng Âm thâm xứ cho ngài xét.

Hồi đó, khắp cả một vùng Tràng Giang (sông Dương Tử) đều bị Hồng Tú Toàn khuấy động lung tung. Bọn Tăng Quốc Phiên, Hướng Vinh, Bành Ngọc Lân, Tả Tôn Đường, cùng cả một bọn tướng soái tuy liều mạng chống đỡ, vẫn nay mất thành này, mai thua trận nọ, toàn là những tin thất lợi.

Hàm Phong hoàng đế xem các bản tấu sớ, thường bàn với Lan quý nhân. Nàng vốn có kiến thức nên nói với ngài:

- Đất nước thanh bình đã lâu, tướng soái Mãn Châu chúng ta hỏng hết rồi, chi bằng bệ hạ trọng dụng người Hán. Bọn Tăng Quốc Phiên từ nhỏ ở miền Tràng Giang, tất nhiên am hiểu hết nhân tình cũng như địa thế. Bệ hạ nên lấy tước vị mà lung lạc chúng. Bọn chúng chỉ là một lũ mọt sách ngốc nghếch ngu xuẩn, một khi đã được giàu sang rồi, thế nào cũng thay ta mà thẳng tay chém giết bà con chúng.

Hàm Phong hoàng đế nghe Lan quý nhân nói có lý, bèn làm theo nàng. Thế rồi ngài thăng chức cho bọn Tăng, Tả, Bành, Hướng, ngày lên vùn vụt. Ngài thấy Lan quý nhân chữ tốt, bèn bảo nàng phê giùm các bản tấu sớ cho ngài. Thế là bắt đầu từ đó, Lan quý nhân dần dần tham dự vào triều chính, bàn bạc quân sự.

Hàm Phong hoàng đế thấy Lan quý nhân vừa có sắc lại vừa có tài nên càng ngày càng sủng ái. Chẳng may chốc trời đã sang thu, ngài thấy tại Đồng Âm thâm xứ lạnh lẽo bèn đưa nàng về ở tại Thiên Địa Nhất Gia Xuân.

Thiên Địa Nhất Gia Xuân là một nơi rộng rãi. Lan Nhi vốn là một quý nhân có cái óc khá rộng, chí khá lớn. Nàng nuôi dưới trướng đến mấy trăm thái giám và cung nữ. Nàng đã nghe có người nói hoàng thượng sủng ái Tứ Xuân ngay từ lúc mới vào cung. Nàng cũng còn nghe đồn ngài để ở trong vườn Viên Minh rất nhiều cô gái chân nhỏ. Chính những cô gái này làm cho ngài trở nên hoang dâm vô độ. Vì thế nàng căm thù bọn con gái Hán và nảy sinh ý báo thù giùm cho bọn gái Mãn.

Tiếc rằng lúc đó mới vào cung, chưa được hoàng đế sủng ái chưa có quyền trong tay chưa làm gì được. Nhưng tình thế lúc này đã khác. Hoàng đế đã sủng ái nàng. Bất cứ lời nói nào của nàng, ngài cũng đều nghe cả. Quyền nàng càng ngày càng lớn. Do đó, thế nàng cũng ngày một mạnh.

Lúc này Mẫu Đơn Xuân, Hạnh Hoa Xuân ở trong vườn lâu lắm chẳng thấy hoàng đế tới, trong lòng rất lấy làm lạ.

Các nàng cho người dò la tin tức, được biết hoàng đế đã sủng ái một cô gái Kỳ nữ nào đó gọi là Lan Nhi. Bọn thái giám cũng như cung nữ thấy hai nàng đã thất sủng, còn hy vọng gì lợi lộc, đều bỏ và kéo nhau sang xu phụng nịnh bợ Lan quý nhân. Bọn chúng đem hết mọi chuyện sủng hạnh Tứ Xuân ngày trước ra sao, khiến nàng cay ghét bọn này không để đâu cho hết.

Một việc xảy ra đúng lúc: có một cung nữ người Hán lẻn tới Thiên Địa Nhất Gia Xuân để nghe ngóng tình hình tin tức về hoàng đế, núp trong một bụi cây thì thào nói chuyện với một tên thái giám. Lan quý nhân lúc đó đang ngồi trên cửa sổ, nhìn xuống thấy thế, bất giác nổi giận đùng đùng. Cũng lúc này, hoàng đế đang truyền gặp đại học sĩ Đỗ Thu Điền tại Hàm Đức thư ốc. Lan quý nhân tự nghĩ, phải nhân lúc hoàng đế không có mặt tại đây, hạ độc thủ một phen để cảnh cáo bọn chúng.

Nghĩ như vậy, nàng bèn lặng lẽ điều binh khiển tướng cho bọn thái giám đi bắt cô cung nữ người Hán và tên thái giám nọ vào tra khảo.

Thì ra cung nữ này vốn ở Yên Nguyệt Thanh Chân lâu từng được hoàng đế triệu hành, lâu ngày không thấy ngài tới lòng nhớ quá đỗi, bèn lẻn tới nơi đây dò la tin tức Lan quý nhân nhìn kỹ con cung nữ thấy dáng người xinh xẻo, da trắng, mặt xinh, cặp mắt tình tứ đôi chân nhỏ nhắn đi một đôi hài thêu hoa rất đẹp thì lại càng giận tức ghen ghét, nàng quát hỏi:

- Con khốn kiếp kia! Mỉ lảng vảng tới đây để dò la tin tức hoàng thượng phải không? Chính mắt tao đã nhìn thấy mi nói chuyện thậm thụt với tên thái giám, còn chối nữa không?

Sau cuộc trả hận bọn gái Hán, Lan quý nhân cảm thấy như có cái gì thông khoái trong lòng, cho nên cứ mỗi khi hoàng đế ra khỏi cung, nàng lại cho bắt bọn gái Hán trả thù theo kiểu này để tiêu khiển. Không một ngày nào là Lan Quý nhân không giết một hai cung nữ người Hán.

Có những cô nghe tin này, biết mình rồi đây cũng không thể sống nổi, đã sớm tự tử trước, cho khỏi nhục. Cũng có những cô sợ quá, đem tiền của dành dụm được, ngầm lót cho bọn thái giám để trốn khỏi vườn Viên Minh. Hành động tàn ác của Lan quý nhân càng ngày càng ghê khiếp, khiến một nơi đẹp đẽ như vườn Viên Minh bỗng trở nên một hoả ngục quỷ khốc thần sầu, trời thê đất thảm. Những sự động trời như vậy mà Hàm Phong hoàng đế tuyệt nhiên chẳng biết tí gì.

Lan quý nhân đã tìm cách che giấu nhà vua một cách tài tình. Vốn là một người hiểm độc và khôn ngoan, ranh mãnh, Lan quý nhân không dại gì động tới bốn nàng Xuân. Nàng nghĩ rằng bốn nàng vốn được hoàng thượng sủng ái một thời, rất có thể lúc nào đó, ngài cao hứng nhớ tới, thì cơ mưu ắt bại lộ. Ấy cũng vì vậy, bọn cung nữ Hán nhiều đứa vội đến nhờ bốn nàng Xuân che chở và ở luôn tại đấy tị nạn.

Hồi 130

LAN QUÝ NHÂN CÓ THAI

Giữa lúc đắc sủng, Lan quý nhân lại còn được một tin mừng đặc biệt nữa: đó là nàng có thai, sau một năm hầu hạ hoàng đế. Bởi thế nàng vội đem tin mừng này tâu lên hoàng thượng.

Hàm Phong hoàng đế nghe tin vô cùng sung sướng và càng sủng ái Lan quý nhân hơn. Ngài tự nhủ: Đã bao nhiêu năm ngài thưởng thức số người đẹp không đếm xuể, chỉ cầu mong lấy một hoàng nam để kế nghiệp nhà Đại Thanh mà mãi vẫn chưa được. Hiếu Trinh hoàng hậu đối với ngài lại ít dịp ăn ở cùng nhau, chuyện sinh hoàng tử với bà quả là một việc khó khăn lắm... Nay Lan quý nhân có thai, nếu sinh cho ngài một hoàng nam, thì thực chẳng uổng công ngài sủng ái.

Kể từ hôm đó, Lan quý nhân muốn mưa thì được mưa, nàng muốn nắng thì được nắng, không có cái gì là không được. Nàng nói một câu là hoàng đế nghe liền một câu, nói hai câu là hoàng đế nghe ngay hai câu, thực là bảo sao nghe vậy Từ khi có thai, Lan Quý nhân hay chóng mặt, tính tình sầu não, chán cả chuyện chăn gối. Không hoàn toàn là chuyện thay đổi khi mang bầu. Có lê do nàng đã giết quá nhiều gái Hán trong cung. Hằng đêm, vào canh khuya, nàng tỉnh dậy nghe những tiếng ma hú, quỷ gào quanh căn nhà Thiên Địa Nhất Gia Xuân. Đã thế, cái thai của nàng hình như cũng hưng yêu tác quái, khiến nàng nôn nao suốt ngày, nghĩ lằng mình đã bị ma nhập.

Nàng tính toán thấy chi còn vài ba tháng nữa thì lâm bồn. Với nàng thì chẳng sao, nhưng với hoàng đế, nàng sợ ngài sẽ không chờ được, lại triệu hạnh tới bọn Tứ Xuân kia chăng? Cho bằng hãy khuyên ngài về cung nội để xa hẳn bọn yêu nữ đó. Nàng nghĩ là làm ngay.

Đã lâu rồi Hàm Phong hoàng đế chưa về thăm chánh cung hoàng hậu. Lại cũng lâu rồi ngài chưa toạ triều. Thực ra, ngài rất sợ việc này, chỉ thích chơi bời phóng đãng. Ngài chẳng muốn hồi cung chút nào.

Thấy Hàm Phong hoàng đế có ý do dự, Lan Quý nhân càng giục giã không thôi. Nay nàng nói, mai nàng lại nói. Nàng nói mãi cho đến khi hoàng đế phải nghe mới thôi. Nàng tìm mãi để nói lên một lời mà hoàng đế khó thể từ chối:

- Được bệ hạ sủng ái, đó là một vinh hạnh cho tỳ tử. Song tỳ tử cũng xin bệ hạ mở cho một lối thoát: đó là đừng cho nương nương biết là tỳ tử đã làm cho bệ hạ say mê để đến nỗi quên cả cung nội. Ví thử điều tiếng này mà loan truyền ra thì tỳ tử thực không còn mặt mũi nào để làm người nữa.

Lan quý nhân nói đến đây, bỗng hai hàng lệ tầm tã tuôn rơi. Hàm Phong hoàng đế thấy vậy, trong lòng cũng cảm thấy bi thương, có đôi chút bất nhẫn nữa, bèn hứa theo ý nàng, và quyết định chỉ trong vòng ba ngày là sẽ về cung nội.

Văn võ khắp triều được tin hoàng đế trở về cung, ai cũng đều tỏ vẻ cảm kích tấm lòng của Lan quý nhân. Nhưng tại sao họ lại cảm kích như vậy?

Nguyên từ vườn Viên Minh đến kinh thành xa hơn bốn mươi dặm. Bọn triều thần mỗi ngày lên triều bái, tất phải dậy từ nửa đêm, rồi kẻ có xe thì đi xe, người có ngựa thì cưỡi ngựa, lếch thếch kéo nhau để tới cổng vườn, vừa đúng gà gáy sáng. Đến lúc bình minh, bọn đại thần các bộ mới đem mọi việc tâu lên, và sau đó vâng thánh chỉ để quay về kinh thành thì trời cũng vừa trưa. Ngày nào cũng như ngày nào, bọn triều thần đều phải như thế cả. Khổ nhất là vào những ngày đại tuyết, đại vũ, đại hàn, đại thử, bá quan tha hồ mà xông pha mưa, tuyết, mặc sức mà dầu dãi phong sương. Trên con đường bốn mươi dặm ấy, không một ai là không kêu khổ. Ấy thế mà nay, chỉ nhờ có mỗi một lời nói của Lan quý nhân, hoàng thượng đã trở về cung, khiến họ đỡ được tất cả những nỗi cơ cực thử hỏi họ không cảm kích sao được?

Khi trở về đến cung. Hàm Phong hoàng đế thu xếp cho Lan quý nhân ở tại cung Hy Xuân. Ngài còn bảo bọn cung nữ và thái giám tạm thời giấu chính cung, đợi khi Lan quý nhẩn sinh hạ hoàng nam rồi hãy cho biết. Còn ngài vẫn ngày ngày sống bên cạnh Lan quý nhân như cũ.

Lan quý nhân từ khi có tin mừng, lại thường hay bị bệnh. Ngày nào cũng vậy, ngự y luôn luôn phải túc trực để bắt mạch và bốc thuốc. Nhưng phải cái thai hết sức kỳ quái, ba ngày yên thì lại ba ngày phá, và cứ thế kéo dài mãi. Thấy Lan quý nhân như vậy, hoàng đế lại cưng chiều hơn..

Phàm thuốc thang Lan quý nhân uống, đều phải hoàng đế đích thân xem qua trước. Nàng thấy được cưng chiều, lại càng nũng nịu thêm. Nàng thường bắt hoàng đế phải ngồi lại bên giường để trò chuyện cho vui. Ấy cũng vì vậy, nên tại điện Mâu Cần tuy có thiết triều đấy, nhưng mười lần thì ngài chỉ có mặt được một, hai. Những cuộc bê trễ này của hoàng đế thực chỉ làm khổ văn võ bá quan phải chờ đợi rồi lại phải lủi thủi về không.

Nhưng những cuộc bê trễ này cũng đã chọc giận hai vị đại thần được trọng vọng trong triều: một người là đại học sĩ Đỗ Thụ Điền, và một nữa là Tôn thất Túc Thuận. Thế rồi nhân một hôm vào chầu, được bệ kiến nhà vua, đại học sĩ Đỗ Thụ Điền liền trịnh trọng cất lời khuyên can nhà vua một phen. Ông nói:

- Hiện nay mối lo bên ngoài cũng như cả bên trong thực hết sức cấp bách. Đấng thiên tử cần nên chú trọng để mong bảo vệ được cơ nghiệp của tổ tông khỏi đổ nát mới phải.

Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng đại học sĩ Đỗ Thụ Điền. Nay nghe ông khuyên can, lại còn đưa ra cả cơ nghiệp của tổ tông, ngài chẳng biết nói sao, đành phải im lặng. Túc Thuận là người có uy thế hơn, bởi rằng Thuận vốn người tôn thất, hiện đang nắm giữ Tôn nhân phủ. Mọi chuyện trong cung Thuận đều biết hết. Thuận cũng biết rằng gần đây hoàng đế sủng ái một Lan quý nhân, mà Thuận cho rằng không được không nên.

Tại sao vậy? Tại vì trước đây Túc Thuận biết Huệ Trưng là cha ruột của Lan quý nhân có phạm phải một lỗi nhỏ, hơn nữa Lan Nhi ngày trước chỉ là một con tú nữ chuyên dọn dẹp quét tước ở Đồng Âm thâm xứ chứ chẳng phải lá ngọc cành vàng gì. Thuận bèn tìm cách thông tin cho chính cung hoàng hậu. Hiếu Trinh bình nhật vốn ghét bọn gái được hoàng đế quý yêu, nay được biết hoàng thượng say mê Lan quý nhân bỏ hết cả triều chính, thì sao chả nổi giận.

Rồi một buổi sớm, hoàng hậu ngồi trên chiếc xe vàng nhỏ tới cung Xuân Hy quỳ ngay phía ngoái, trước phòng ngủ của hoàng đế, lấy Tổ huân ra, đội lên đỉnh đầu, rồi đọc lên oang oang.

Hàm Phong hoàng đế giật mình đẩy Lan quý nhân ra một bên, nhảy xuống đất quỳ ngay bên cạnh giường để nghe lời răn dạy, một mặt, truyền dụ khuyên hoàng hậu thôi đọc.

Sau đó, hoàng đế vội mặc áo đội mão tới Mâu Cần điện. Tan trào, ngài đã vội chạy tới cung Xuân Hy. Mới tới cửa cung, ngài thấy một tên thái giám hoảng hết chạy ra quỳ xuống đất.

Ngài quát hỏi chuyện gì, thì tên thái giám tâu:

- Hoàng hậu đã chuyển chỉ ý, tuyên triệu Lan quý nhân tới Khôn Ninh cung rồi.

Hàm Phong hoàng đế chưa nghe xong câu nói đã hậm hực giậm chân, miệng nói liên hồi:

- Hỏng bét! Hỏng bét cả rồi!

Thì ra Khôn Ninh cung chính là chính cung của hoàng hậu. Phàm xét hỏi phi tần phải dùng đến hình cụ là đều ở cung này cả.

Hàm Phong hoàng đế nghe tên thái giám nói xong không kịp thay áo đổi mũ nữa, vội chạy đến cung Khôn Ninh, đi thẳng vào phòng giữa, nhìn thấy hoàng hậu mặt hầm hầm, ngồi phía trên, còn Lan quý nhân vừa khóc vừa nói, quỳ ở phía dưới, cái áo dài phía ngoài đã lột bỏ, chỉ còn có một tấm áo mỏng màu xanh lá hẹ lót mình. Hoàng hậu quát một tiếng:

- "Đánh!" tức thì đám cung nữ hai bên tả hữu, tay cầm gậy chu hồng nhè giữa lưng Lan quý nhân giáng thẳng xuống.

Hàm Phong hoàng đế thấy quá gấp, vội nhào tới lấy thân che đỡ Lan quý nhân rồi giơ tay cản mấy chiếc côn, một mặt nói với hoàng hậu:

- Chớ đánh! Chớ đánh! Nàng có thai đã năm tháng rồi đó!

Chỉ có mỗi một câu đó mới làm cho Hiếu Trinh hoàng hậu thất sắc được. Bà vội chạy xuống đất, đích tay nâng Lan quý nhân dậy. Lan Nhi vốn là một cô gái hết sức thông minh và khôn ngoan quỷ quyệt, vội quỳ xuống, trước hết tạ ơn hoàng đế, sau tạ ơn hoàng hậu. Hoàng hậu nói với hoàng thượng:

- Tại sao ngài không nói sớm cho thiếp nghe? Xuân thu bệ hạ đã luống mà vẫn chưa có hoàng nam, bao hy vọng trông ở cái thai của quý nhân đây. Thiếp dùng gậy đánh quý nhân, bất quá chỉ là tuân giữ Tổ huấn. Tuy nhiên nếu lỡ tay đánh quá cái thai bị thương, thiếp chẳng có tội với tổ tiên sao?

Nói đoạn, chính bà cũng xúc động, để đôi dòng lệ tuôn trào trên má. Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu Trinh hoàng hậu, thấy bà đang trách mắng đánh đáp Lan quý nhân, mà bỗng bỏ hết giận tức trở lại xúc động thương khóc, ngài cũng lấy lời khuyên can và an ủi bà.

Hiếu Trinh hoàng hậu cũng nhân dịp này khuyên can hoàng thượng nên lưu tâm tới việc triều đình. Bà cho biết hiện bọn giặc tóc dài đã khuấy động can qua ngập trời, mười tám tỉnh đã mất phân nửa, thế mà ngài vẫn không bạ chỉ dụ để bảo toàn cơ nghiệp của tổ tông. Bà còn khuyên ngài chớ nên mê luyến nữ sắc nữa.

Hàm Phong hoàng đế nghe Hiếu Trinh hoàng hậu khuyên răn, bất giác kinh sợ muôn phần. Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đó chưa bao tuổi, mới hai mươi ba thôi. Tuy tô son điểm phấn mười phần kiều diễm, nhưng thực ra bà chỉ là một người đàn bà có khuôn mặt xinh xắn mà thôi.

Đã từ lâu hoàng thượng và hoàng hậu không chung chăn chung gối, bởi thế nhân dịp này, hoàng thượng bất giác động lòng yêu thương đối với hoàng hậu. Ngay đem đó ngài ở lại cung Khôn Ninh.

Cái việc bảo hợp giữa hoàng thượng và hoàng hậu nơi cung cấm là một việc lớn chứ không phải chuyện chơi, kính sự phòng có bổn phận phải coi từng giờ, từng phút, từng ngày, từng tháng, từng năm mà ghi chép cẩn thận vào sổ. Hoàng đế ngủ một đêm thì sổ phải chép một đêm, ngủ hai ngây phải chép hai ngày.

Không ngờ hoàng đế với hoàng hậu lâu ngày xa nhau, nay mới gặp lại thành thử tình nồng, duyên thắm. Ngài ngủ hết đêm này rồi đêm khác, ngủ mãi, ngủ hoài, khiến viên thái giám kính sự phòng chép luôn một hơi là nửa năm.

Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đó mới khuyên hoàng thượng cần điều dưỡng thân thể cho cường tráng. Bà cho ngài biết máu hươu rất bổ âm. Bởi thế trong cung đem về tới mấy trăm con hươu, mỗi ngày làm thịt mỗi con, lấy máu cho ngài uống.

Đã thế, Hiếu Trinh hoàng hậu cứ mỗi buổi sáng còn giục hoàng đế dậy sớm để toạ trào. Đến lúc đó, Hàm Phong hoàng đế dần dần mới rõ được mọi việc đại sự bên ngoài, nhất là bọn Hồng Tú Toàn đã cướp được Nam Kinh và đang tiến dần vào Bắc Kinh. Hàm Phong hoàng đế hoảng hồn bạt vía, nhưng nhất thời chẳng tìm ra kế sách gì. Thoái trào hồi cung, ngài đem việc triều chính ra bàn với hoàng hậu. Hậu nói:

- Thiếp chỉ là một người đàn bà làm sao hiểu được việc triều đình. Huống hồ cung nhân can thiệp vào triều chính là điều cấm kỵ của tổ tiên, mong bệ hạ chớ nên mưu tính việc lớn với đàn bà. Ngài nên tìm một vài kẻ đại thần nào đó mà bàn tính thì hơn.

Lời khuyên giải đó của Hiếu Trinh hoàng hậu vừa đúng ý, vừa nhũn nhặn, duyên dáng, càng làm cho Hàm Phong hoàng đế thêm phần yêu kính. Ít hôm sau Hàm Phong hoàng đế hạ một đạo dụ sai tổng đốc Trực Lệ là Nột Nhĩ Kính Ngạch làm khâm sai đại thần chuyên biện quân vụ miền Hà Nam để chống lại đoàn quân tóc dài đang xông lên miền Bắc.

Lại nói hồi đó Hồng Tú Toàn đã cướp được Nam Kinh, dựng nước tại đây, mở khoa thi chọn kẻ sĩ, khuyến khích nghề nông, đôn đốc nghề thợ. Bọn ngoại quốc thấy Toàn thanh thế ngày thêm lớn mạnh, quân đội lại đông, bèn hùa vào, miệng khen nào là cách mạng vì giống nòi, nào là vì dân để diệt bạo. Bọn ngoại quốc càng về sau càng tin tưởng Toàn hơn.

Gã ngoại quốc đầu sỏ phải nói là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ sai một chiếm hạm thẳng xuống Nam Kinh. Hồng Nhân Can là em Hồng Tú Toàn biết ngoại ngữ ra tiếp viên thuyền trưởng.

Viên thuyền trưởng dâng quốc thư, gọi Toàn là Thái bình Thiên quốc Thiên vương. Toàn chấp thuận cho người ngoại quốc thông thương với điều kiện là yểm trợ cho Toàn.

Viên công sứ Hoa Kỳ tới Thượng Hải thông cáo cho lãnh sự các nước khác như Anh, Pháp. Thế là đối với Thái bình Thiên quốc, đám ngoại quốc Tây phương ai cũng bằng lòng vừa ý cả.

Hồng Tú Toàn cũng sai Hồng Nhân Can làm khâm sai đi Hoa Kỳ đệ quốc thư. Từ đó, người ngoại quốc bất cứ quốc tịch nào, thảy đều giúp Hồng Tú Toàn chống lại Thanh triều.

Tại Quảng Đông, các viên lãnh sự ngoại quốc chống đối tổng đốc Kỳ Anh, nên Kỳ được rút về kinh làm đại học sĩ, Từ Quảng Tấn ra thay làm tổng đốc Lưỡng Quảng và Diệp Danh Thám làm tuần phủ Quảng Đông.

Chiến thuyền Anh tiến vào Quảng Đông. Tấn đem quân Đoàn dũng chống lại. Quân Anh rút lui. Triều đình hạ chỉ thưởng Tấn tước tử, và Thám tước nam. Về sau, Thám còn được làm tổng đốc nữa.

Không ngờ sau khi được làm tổng đốc, Thám đâm ra kiêu căng, khinh thường hết quân Đoàn dũng. Quân Đoàn dũng tinh Quảng Đông trước đó đã lập được nhiều công, thấy thế đâu có chịu. Do đó, hai tên đầu mục của đoàn quân này là Quan Cự và Lương Tiếp bỏ lên tàu Anh xin hàng, và tình nguyện xin với viên lãnh sự Anh là Ba Hạ Lễ làm hướng đạo cho quân Anh. Viên lãnh sự Anh vốn ghét Thám, nhưng chưa tìm được ra cớ gì. May thay một câu chuyện xảy ra, giúp ích rất nhiều cho y. Số là hồi đó, có mấy chiếc thuyền buôn lậu á phiến giả mạo treo cờ Anh chạy vào bén. Viên chỉ huy tàu binh tuần sông bắt được giữ thuyền lại, trói giật mười ba anh thuỷ thủ Hoa tống vào lao.

Tin này đến tai viên lãnh sự Anh Ba Hạ Lễ. Đây là cơ hội nghìn năm một thuở cho Lễ, dại gì mà bỏ qua. Thế là Lễ viết thơ trách Thám, và bảo đó là thuyền của người Anh.

Thám thấy chuyện chẳng lớn lao gì, bèn hạ chỉ thả hết mười ba thuỷ thủ Hoa bị giam và đưa về cho Lễ. Tưởng thế là yên chuyện, nào ngờ Lễ kiếm chuyện không chịu, bắt viên thuỷ sư đề đốc nhà Thanh phải đích thân tới tạ lỗi trước cửa nhà y, đồng thời phải đưa viên chỉ huy chiếc tàu binh nọ tới cho y xử tội.

Thấy người Anh vô lễ nhưng Thám chẳng thèm chấp và cũng chẳng đề phòng gì. Ba Hạ Lễ bèn yêu cầu viên công sứ Anh ở Hương Cảng đem chiến thuyền tới, đánh phá pháo đài Hoàng Phố. Thám cũng vẫn bỏ qua. Đoàn chiến thuyền Anh tiến đánh pháo đài núi Phượng Hoàng, cướp pháo đài Hải Châu, có ý ngấp nghé thành Quảng Châu. Quan ty đạo trong thành hoảng hốt chạy tới dinh tổng đốc xin yết kiến. Thám tay cầm lá đơn mặt tỉnh bơ, như không có chuyện gì xảy ra.

Bỗng vang lên một tiếng nổ như tiếng sét, chấn động cả thành phố. Thì ra đại bác của chiến thuyền Anh bắn phá thành, khiến bức tường ngoài đổ vỡ tan tành.

Thám lúc đó mới biết sợ, vội cho người đi giảng hoà. Viên lãnh sự Anh bảo viên công sứ Hương Cảng chỉ cần đòi một mình Thám tới nói chuyện mà thôi.

Thám được tin đó lại càng sợ, trốn kỹ trong thành Quảng Châu, không dám ra ngoài nữa. Lúc đầu Thám còn được viên lãnh sự Hoà Kỳ đứng ra điều giải nhưng về sau thấy Thám đã ma bùn lại còn bắc bậc làm cao, viên lãnh sự này khùng lẽn, bèn đi liên hiệp với công sứ Pháp Cát La, công sứ Anh Ngạch Nhĩ Kim, công sứ Nga Bố Quát Đình, công sứ Mỹ Lợi Đặc, nhất tề đem chiến thuyền tới Quảng Châu. Thám lúc đó hoảng hồn bạt vía, nhưng vẫn phải lên tiếng kháng cự. Thám một mặt hạ lệnh cho tổng binh Quỳnh Châu là Hoàng Khải Quảng đem một trăm mấy chục chiến thuyền câu và thuyền mành ra chống giặc, một mặt cho lập đàn "cầu cơ" trong tĩnh thất Thám hôm đó khăn đóng áo dài, quỳ lạy trước bàn thờ, cầu xin thần tiên xuống đàn cho cơ bút. Mấy phút sau, quả nhiên cơ bút hoạt động. Trên một chiếc mâm cát, cơ bút viết lia lịa, bảo cho biết: Ta là tiên ông Lã Đồng Tân. Thám thoạt thấy tiên ông, vội quỳ xuống, thì thụp lạy, chắp tay kính cẩn, miệng nhẩm khấn:

- Đệ tử là Diệp Danh Thám được uỷ nhiệm tới đây giữ chức vị trọng đại. Chẳng may bị bọn mọi hung hãn uy hiếp, thành trì nguy ngập, tình thế như trứng để đầu đẳng. Vậy nên, kính xin tổ sư mau biểu oai thiên, chỉ rõ cơ mưu cho biết phải làm sao.

Thám khấn xong, cơ bút bỗng ngoáy lia lịa, cuối cùng người ta ghi lại được bốn câu như sau:

"Ngày mười lăm, nghe tin tức, việc đã định, khỏi phải gặp"

(Thập ngũ nhật, thính tiêu tức, sự dĩ định, vô trước cấp).

Thám xem lời cơ bút, đoán rằng thần tiên bảo mười lăm ngày sau thì đám giặc ngoại quốc chắc chắn phải rút lui, khỏi cần phải lo sợ. Thám thư tâm, lại vắt cẳng nằm ngủ, bất chấp mọi việc xảy ra.

Hồi 131

ĐÔNG VƯƠNG DƯƠNG TÚ THANH

Diệp tổng đốc tin vào cơ bút của tiên ông, lòng lấy làm chắc lắm nên chẳng thèm để ý tới bất cứ việc gì xảy ra.

Ông nằm lì trong dinh tới nửa tháng liền để chờ quân ngoại quốc rút đi. Bọn quan ty đạo chạy tới xin luyện quân nghĩa dũng cũng bị ông từ chối.

Viên công sứ nước Anh đòi năm điều khoản. Điều khoản thứ nhất: buộc tổng đốc phải tới gặp. Điều khoản thứ hai: muốn xây cất một toà nhà Tây trên bờ sông phía nam, điều thứ ba: muốn thông thương. Điều khoản thứ tư: muốn vào thành. Điều khoản thứ năm: đòi tiền bồi thường sáu trăm vạn lạng.

Diệp tổng đốc, vẫn phớt lờ. Bọn công sứ các nước nổi khùng lên. Qua ngày hôm sau, người ta thấy cáo thị của viên công sứ Hương Cảng dán khắp nơi nói rõ ngày mai phá thành.

Dân chúng trong thành nghe tin hoảng hồn bạt vía, dẫn già dắt trẻ, trốn chạy lung tung. Diệp tổng đốc muốn cấm, nhưng lúc này vô phương.

Trời vừa lờ mờ sáng quả nhiên tiếng đại bác nổ vang rền ngoài thành, khói bốc mù mịt tứ phía. Diệp tổng đốc chẳng biết làm cách nào, tạm thời đành chịu vô Việt Hoa thư viện tránh nạn. Một vị thân sĩ Quảng Châu tên Sùng Diệu cùng với vị tướng quân chỉ huy ngầm liên lạc với địch rồi kéo cờ trắng lên thành cầu xin tạm đình chiến. Phía bên kia viên công sứ Hương Cảng cũng hạ văn thư cho quan dân toàn thành chạy đi lánh nạn nói đánh có mỗi một mình Diệp tổng đốc mà thôi. Được chỉ thị đó, nào quan tuần phủ, nào tướng sĩ nào thân sĩ tất thấy đều chạy lên núi Quan Âm lánh nạn.

Quân ngoại quốc lại nổ súng. Tổng đốc Diệp Danh Thám không có đất trốn nữa. Cửa thành bị phá tung. Quân Anh xông vào thành, vào Việt Hoa thư viện bắt Thám trói gô lại, điệu xuống tàu. Bên cạnh Thám lúc đó có một viên tuỳ tùng tên gọi Qua Thập Cáp. Cáp nhờ lúc quân địch không lưu ý, chỉ xuống mặt biển bảo Thám.

- Đại nhân xem kìa, nước biển có trong không?

Diệp Danh Thám nghe câu nói đó nhưng đâu có hiểu ý.

Qua Thập Cáp tức giận đến cực điểm. Y co cẳng nhảy tùm xuống nước mà chết.

Viên công sứ Anh lúc đó làm chủ tình hình hoàn toàn. Y cho tất cả đám quân Quảng Châu trở về nhà, chỉ điệu có một mình Thám từ Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi lại từ Hương Cảng đi Ấn Độ, nhốt trong một căn lầu.

Tổng đốc Diệp Danh Thám tự lấy làm khoái, suốt ngày ngâm thơ vẽ tranh. Những lúc rảnh Thám lại còn đem kinh Lữ tổ ra tụng niệm nữa. Hoạ và thơ của Thám, lạc khoản đều đề "Hải Thượng Tô Vũ" lưu truyền tại ngoại quốc không ít.

Viên tuần phủ Quảng Tây thấy quân ngoại quốc bỏ đi rồi, lúc đó mới dâng sớ về triều, Hàm Phong hoàng đế đùng đùng nổi giận, lập tức hạ dụ cách chức một loạt từ tổng đốc Lưỡng Quảng cho tới văn võ quan viên toàn thành Quảng Châu. Ngài uỷ quyền cho viên tổng đốc Lưỡng Quảng khác tới giảng hoà với ba nước Anh, Pháp, Mỹ. Ngài lại sai vị đại thần biện sự Hắc Long Giang tới giảng hoà với nước Nga.

Lúc này, những điều khoản do ngoại quốc đề ra không còn nhẹ như những điều khoản trước nữa. Tổng đốc đại thần thấy những điều khoản quá ngặt nghèo, không dám tự chủ, bèn tâu về triều.

Hàm Phong hoàng đế trao những điều khoản này lại cho quân cơ đại thần hội nghị. Bàn bạc mãi, mất không biết bao nhiêu ngày giờ, thế mà quân cơ đại thần vẫn chưa tìm ra giải pháp.

Quân binh bốn nước chờ đợi mãi chẳng thấy trả lời bèn huy động chiến thuyền đánh thẳng tới Bắc Kinh. Chiến thuyền Anh mười bốn chiếc, Pháp sáu chiếc, Mỹ ba chiếc, Nga một chiếc. Tất cả hai mươi bốn chiếc thuyền bỏ neo tại Bạch Hà, Thiên Tân... ra điều kiện và nhờ tổng đốc Trực Lệ là Đàm Đình Tương chuyển tấu về triều.

Hàm Phong hoàng đế bèn sai Hộ bộ thị lang là Quách Sùng Luân, Nội các học sĩ là Ô Nhĩ Côn Thái ra Thiên Tân nghị hoà.

Viên công sứ Anh thấy hai anh quan này tước vị quá nhỏ, chưa có "toàn quyền quyết định" bèn bảo triều đình Trung Quốc không có thực tâm, hơn nữa còn coi thường họ, tức tốc huy động chiến thuyền từ Bạch Hà xông vào cửa bể Đại Cô, chiếm luôn pháo đài ở đây chẳng mất một chút sức lực nào!

Hàm Phong hoàng đế không còn cách nào khác, đành sai hai viên khâm sai đại thần có toàn quyền quyết định là Quế Lương và Hoa Sa tới nghị hoà với bọn chúng.

Lần này những điều khoản đề ra của bọn ngoại quốc còn nhiều, còn nặng hơn nữa. Chỉ riêng nước Anh đã đề ra tới năm mươi sáu điều khoản, trong đó có ba điều khoản nặng nhất:

1. Điều thứ nhất: ngoài năm cửa biển thông thương trước là Thượng Hải, Ninh Ba v.v... ra, còn phải mở thêm các cửa biển Ngưu Trong, Đăng Châu, Đài Loan, Hồ Châu, Quỳnh Châu; và suốt một dải Tràng Giang, từ Hán Khẩu tới Hải Châu, buộc phải dành cho họ ba nơi tuỳ ý lựa chọn để cho thuyền bè ngoại quốc qua lại bốc hàng buôn bán.

2. Điều khoản thứ nhì: người Tây phương được quyền cư ngụ lâu dài tại Bắc Kinh.

3. Điều khoản thứ ba: bồi thường hai trăm vạn lạng tổn thất hư hại về tàu bè, và hai trăm vạn lạng quân phí. Bồi thường xong, lúc đó mới trả thành Quảng Châu lại cho Trung Quốc.

Ngoài ba điều khoản này, người Anh còn đề ra nào là sửa đổi các sắc thuế, nào là cho phép các cố đạo vào truyền đạo Thiên Chúa.

Nước Pháp cũng đề ra bốn mươi hai điều khoản riêng của họ, và đòi bồi thường một trăm vạn lạng chiến phí.

Hai viên khâm sai đại thần tuy nói có toàn quyền quyết định, nhưng thấy vấn đề quá nghiêm trọng, không dám tự chuyên, vội thỉnh lệnh ở triều đình.

Hàm Phong hoàng đế lúc này không được khỏe lắm, thường hay bị bệnh, quả thực không còn hơi sức nhiều để đối phó mãi với bọn ngoại quốc tham lam này. Thế là ngài truyền dụ cho hai viên khâm sai đồng ý hết mọi khoản yêu cầu. Ngài cũng truyền lệnh cho họ cùng viên tổng đốc Lưỡng Giang là Hà Quế Thanh phải đích thân tra xét xem cửa biển nào nên cho thông thương và định lại các sắc thuế.

Bọn ngoại quốc thoả mãn hoàn toàn, hể hả ăn mừng, trước sau lần lượt rút khỏi Thiên Tân về Thượng Hải họp mặt. Đến đây, chuyện đối phó với bọn ngoại quốc Tây phương tạm thời kết thúc một giai đoạn.

Lại nói về Hồng Tú Toàn sau khi cướp Nam Kinh, định đô tại đây, lên ngai vàng, mở hội quần thần. Hôm đó, Toàn mình mặc áo long bào màu vàng thêu kim tuyến óng a óng ánh lên điện cho văn võ bá quan triều hạ, xong bèn mở yến khao thưởng.

Bỗng thám mã phi báo: Khâm sai đại thần của triều Thanh là Hướng Vinh thống suất đại binh đến mấy vạn đã tới đóng quân tại Hiếu Lăng vệ, về mé đông thành. Toàn giật mình cả sợ, nói:

- Thằng quỷ Hướng chống đối ta hoài! Phải tìm cách trừ hắn cho bằng được mới yên lòng.

Lời nói chưa dứt, lại đã có tin cấp báo: khâm sai đại thần Kỳ Thiện nhà Thanh cũng thống suất các quân mã bộ Trực Lệ, Thiểm Tây, Hắc Long Giang cùng với đề đốc Trực Lệ là Trần Kim Thu, nội các học sĩ là Thắng Bảo đã từ Hà Nam xuất phát tiến đánh Thiên Kinh (tức Nam Kinh, tên Thiên Kinh do đề xuất của Dương Tú Thanh mà có).

Toàn vội hỏi quần thần:

- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Quân sư Tiền Giang đứng lên dõng dạc nói:

- Bệ hạ khỏi lo! Dương Châu một giải ta đã có lão tướng Lâm Phượng Tường xuất binh thì thế nào Bắc quân cũng bị chặn lại. Huống hồ Kỳ Thiện chỉ là một kẻ vô dụng, hồi trước ở đất Việt ai cũng thấy rõ, lộ quân đó có gì phải ngại... Duy chi Hướng Vinh thì cần phải đề phòng cẩn thận. Vinh vốn là một vị tướng trải nhiều chinh chiến, lại có Trương Quốc Lương giúp sức, thanh thế khá lớn. Do đó, ta cần điều động thêm trọng binh đồn trú ngoài thành đối địch.

Giữa lúc đó, tin báo tiếp từ Trấn Giang, Dương Châu gửi về nườm nượp. Tấu nghị của Lâm Phượng Tượng cho biết:

"Ngày hai mươi mất tháng hai quân ta đại thắng, cướp Trấn Giang, ngày hai mươi ba, vây Dương Châu. Đường thẳng, tiến quân, không có gì trở ngại. Vàng bạc, châu ngọc, tù binh trai gái, bao nhiêu xin gởi về Thiên Kinh, kính mong thu, thưởng.

Kỳ Tiện thống suất lũ yêu có tới vài vạn đã đến bên thành, thần xem doanh ngũ của hắn không được tề chỉnh, chắc chắn không đủ sức đánh thành, không có gì đáng ngại. Thần để Tăng Lập Xương lại giữ Dương Châu, cũng đủ sức phòng ngự.

Thần xin tình nguyện đầu quân Bắc phạt".

Đọc xong tờ sớ, Toàn tươi cười hớn hở, quay bảo quân sư Tiền Giang:

- Quả đúng như lời quân sư tiên liệu.

Giang nói:

- Lâm thừa tướng tuy là tay hùng tài, nhưng cô quân, vào sâu trọng địa, e có điều sơ sót, kính mong bệ hạ cử đại binh để làm hậu viện.

Dương Tú Thanh nói:

- Vậy xin cử thừa tướng Cát Văn Nguyên chuyến này.

Giang nói:

- Cát thừa tướng được ư?

Thanh đáp:

- Phải! Cát Văn Nguyên vốn thân với Bắc vương, quyết không có dị tâm đâu.

Giang nói:

- Không phải nói chuyện phòng dị tâm đâu! Mà là nói đặc kế Bắc phạt kia! Nếu kế không vẹn toàn thì không được đâu.

Thanh nói:

- Quân tinh nhuệ của Mãn Thanh hiện đã tập trung tất cả tại miền Nam: các tỉnh phía Bắc hẳn rỗng không. Nếu có hai tướng Lâm, Cát cùng đi, thì lo gì mà chẳng thắng?

Giang thấy chẳng tiện tranh luận, bèn để cho Thanh cử Cát Văn Nguyên lên đường. Chuyện xung khắc trên đây của Tiền Giang có một lý do đặc biệt như sau: em gái Cát Văn Nguyên lấy Bắc vương Vị Xương Huy. Trong khi Huy là Bắc vương thì Thanh là Đông vương. Hai người thực tương đương.

Nhưng Thanh lại vốn muốn nắm trọn quyền hành, rất sợ Huy kiềm chế bên cạnh. Do đó, Thanh muốn tống khứ Nguyên đi để cắt hết vây cánh của Huy, tiện việc soát lập về sau. Tiền Giang biết chỗ uẩn khúc này nhưng sợ bất gián thân, dại gì nói ra cho gây ác cảm, thêm hại.

Hồng Tú Toàn nói:

- Lũ quỷ mặt Giang Bắc đã khỏi phải lo, thế còn bọn yêu mặt Giang Nam thì sao?

Giang đáp:

- Trước hết, cần phải tăng thêm trọng binh chia đi đóng giữ các nơi hiểm yếu, chi cần giữ vững, bất tất phải khai chiến, đợi khi chống giữ lâu ngày, sẽ có kế sách phá địch. Sau đó đem quân quấy rối suốt lối An Huy, Giang Tây cắt đường lương thảo của giặc ở mặt sau, sẽ khiến chúng dù có hùng mạnh đến đâu cũng không thể thoát khỏi tay ta được.

Toàn nghe đoạn, vỗ tay khen là diệu kế.

Thanh nói:

- An Huy, Giang Tây vốn là miền thượng lưu Giang Nam có một mối quan hệ rất lớn. Bởi thế, An Huy một dải, ta cần phải nhờ tay Đức vương, còn Giang Tây một dải, ta lại phải có Bắc vương gắng sức. Thần xin tình nguyện cùng với Thiên vương (Hồng Tú Toàn) bảo thủ thành này. Quân tướng bộ hạ của ta như Lý Tú Thành, Trần Ngọc Thành đều là những tay anh hùng luyện chiến, nếu chia đi trấn thủ Giang Nam thì còn có gì phải sợ hai tên yêu Trương, Hướng?

Dương Tú Thanh lại sai các tướng bộ hạ chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu như Vũ Hoa đài, Thiên Bảo thành, Mạc Lăng quan, tạo thành những tấm tường đồng vách sắt đối phó với bên ngoài. Cho rằng kế sách như thế đã chu đáo, Thanh quay về bên trong xây dựng cung điện phủ đệ, xa rộng hằng năm bảy dặm, tha hồ dâm dật, say sưa chẳng thua gì Hồng Tú Toàn.

Thanh cho bộ hạ đi lùng bắt gái đẹp trong thành, chọn lấy ba mươi sáu cô tuyệt sắc để làm hầu thiếp, hiệu là Vương nương tuổi còn đôi tám, hãy còn hoàn toàn trinh trắng mới được. Thanh lại còn lăng nhăng với Thiên muội Hồng Tuyên Kiều, qua lại vụng trộm lu bù. Mỗi lần ra khỏi phủ, Thanh có tiền hô hậu hét, kéo thành lũ, thành đoàn hàng vài ngàn, có cờ quạt chiêng trống mao tiết đến mấy chục thứ, rầm rập om sòm. Lại còn có một con rồng năm sắc lớn, dài đến chừng trăm trượng, cao cũng hơn một trượng, uốn khúc lượn đi, theo sau có âm nhạc, nào kèn nào sáo, thổi đánh inh ỏi, tiếp nữa là một chiếc kiệu lớn có đến năm mươi sáu tên phu cáng. Hai bên kiệu lớn, có một đôi trai gái đi kèm, bên phải thì một tân đồng nam, bên trái thì một tân hầu thiếp tuyệt đẹp, một tên cầm Âu Là, một tên cầm phất trần, trông phảng phất thần tiên giáng thế. Cứ mỗi buổi sáng Thanh ngất ngưởng trong phu, bắt lũ quan thuộc vào bái kiến trước, rồi sau mới kéo nhau đi triều bái Hồng Thiên vương.

Thiên vương Hồng Tú Toàn chẳng chịu thua các vương bên dưới. Toàn cũng rượu gái lu bù suốt cả ngày nằm ở hậu cung để vui chơi mười ngày hoạ mới có một hai ngày thị triều. Tất cả mọi việc, nào quân sự chính trị, nào thăng thương, truất phạt đều do Dương Tú Thanh trông coi giải quyết hết...

Thanh vốn là một con quỷ râu xanh đói sắc. Hắn chơi quá, đến xọp cả người so cả vai rụt cả cổ, thế mà vẫn còn xúi Hồng thiên vương mở các khoa thi trai gái do chính hắn làm chủ khảo, Tiền Giang làm phó khảo. Nam trạng nguyên tuyển được Trịnh Văn Tướng người Trì Châu. Còn nữ trạng nguyên chọn được Phó Thiện Tường quê Kim Lăng. Nam khoa có đề thi là Súc phát hịch (hịch nuôi tóc). Trong bài văn của Trình Văn Tường có câu: "Phát phu thị phu mẫu chí di, vô tiên vô phạt, tu mi nãi trượng phu chi khí, toàn thụ toàn quy. Nhẫn khan biện pháp Hồ nô, y quan trang thiếp, tòng thử trâm anh hoa trụ, mao biện trùng tân" (tạm dịch: Tóc da vốn của cha mẹ cho ta, không được cắt, không được hớt, râu mày vốn là cái chí khí của kẻ trượng phu, phải cố giữ vẹn đến khi trở về với tổ tiên. Ngươi há nhẫn tâm nhìn cái bím tóc của bọn mọi Hồ mũ áo lê thê? Ngươi phải từ đây mũ hoạ trâm dải, tóc tai đổi mới).

Ấy chỉ nhờ có câu đó mà Tiền Giang phó chủ khảo lấy đô trạng nguyên đó. Còn nữ khoa thì đề ra là Bắc tranh hịch (hịch tranh nhau với phương Bắc). Trong bài văn của người đẹp Phó Thiện Tường có câu: "Văn Hán quan nghi hà tại? Yên vân thập lục châu chi phụ lão, dĩ ô yết bát niên, chấp tả đơn vu Lai đình. Liêu vệ bát bách tải chi kiên Hồ, đương phóng quy cửu điện. Ô kim giả thiên tâm hối hoạ, Hán đạo phương long trực tảo Bắc đình, thông âm hoàng long chi tửu tuyết thù Nam độ, tịnh thôi Bắc đại chi sào" (tạm dịch: Hỏi mũ áo nghi lễ nhà Hán đâu rồi? Phụ lão mười sáu châu Yên vân đã năm năm ấm ức thở than, cầm tả đan tại Lai đình. Tám trăm năm Liêu vệ dựng nên Hồ, hãy đuổi về nơi cửu điện. Nay lòng trời đã tha tội khiến Hán đạo hưng thịnh: hãy đánh quét miền Bắc, rượu hoàng long phải uống cho sướng, lửa hận thù nơi bến đò Nam, và đẩy sập tổ chuột của tôi mọi xứ Bắc).

Đấy lại là một bài văn hách nhất được phó chủ khảo Tiền Giang lấy đậu nữ trạng nguyên. Dương Tú Thanh vốn dốt, chữ nghĩa không được bao lăm, cho nên chỉ cậy nhờ vào tài văn học của họ Tiền khảo sát. Tuy nhiên, Thanh có cái hay là biết chấm người đẹp. Nữ trạng nguyên Phó Thiện Tường quả có đẹp thật. Đã đẹp lại tài. Thành thử, nàng đúng là một nữ lang tài mạo song toàn. Thanh bèn lấy ngay nàng vào Đông vương phủ làm nữ hạ thư (tức nữ bí thơ), ngày thì lo việc công văn thư từ, đêm thì nâng khăn, sửa gối trải mền.

Nữ trạng nguyên cảm kích ơn đức, dốc hết tâm lực báo đáp, tô điểm sửa sang vô cùng duyên dáng xinh đẹp để cung phụng đại vương. Thanh được người ý hợp tâm đầu, sủng ái nàng thật hết nhẽ. Không ngờ, cưng quá hoá kiêu, nữ trạng nguyên ta phê phán công văn bừa bãi, khinh người như rách bất cứ kẻ nào cũng bị nàng mắng chửi, thậm chí ngay Thanh cũng bị nàng coi thường.

Đông vương Thanh đùng đùng nổi giận liền ghép ngay bà nữ trạng tội hút thuốc phiện lậu đem cùm chặt vào "nữ quán" (nhà giam đàn bà). Hồng nhan nữ tử mà bị ghép vào tội trên thì quả thực không còn cách chi cho hết nhục! Bởi thế bà nữ trạng ta chán nản cuộc đời nên không muốn mạnh để nhìn đời mãi, dần dần còm cõi lao mình vào chứng bệnh trầm kha.

Trong cơn bệnh hoạn, người đẹp Phó Thiện Tường viết thơ gởi Thanh trong có đoạn: "Mong nhờ ơn sâu, không biết lấy gì báo đáp! Ngày xét văn thư, tận tâm kiệt sức; đêm ru giấc ngủ, an ủi canh trường. Do đó can vào cấm lệnh, hút ghiền thuốc xái. Ấy thế mà đã chẳng gia tội chết lại còn mong phóng thích có ngày, lập công có lúc. Buồn thay. Nhuốm bệnh đã ba tuần, mình gầy như que củi, ốm yếu âm thầm chỉ chờ chết tưởng chẳng còn thấy được từ nhan. Nay xin kinh cẩn trả về: vòng vàng một chiếc, nhẫn vàng một đôi đã từng mến tặng độ nào để gọi là gởi gấm chút tình thuở nọ".

Thanh xem thư xong, động lòng thương tiếc vội hạ lệnh phóng thích và cho phép dưỡng bệnh, tha hồ đi đó đi đây du ngoạn, khỏi bị cấm đoán. Đây là một ân sủng đặc biệt đối với người đẹp nữ trạng của Thái Bình Thiên quốc. Bởi vì theo định chế của quốc gia tóc dài, thì trừ chủ vương, thừa tướng cũng như đại tiểu quan viên ra, trai phải vào nam quân mà nữ phải vào nữ quân, không chung sống với nhau, thậm chí vợ chồng cũng không được ăn nằm với nhau, nếu phạm phải luật trời, thì cả đôi đều phải chặt đầu.

Đông vương Dương Tú Thanh cho người đẹp Phó Thiện Tường tuỳ ý du ngoạn thực là đã thương nàng nhiều lắm, đó là một đặc ân xưa nay chưa từng có.

Phó Thiện Tường, bà nữ trạng nguyên tài mạo song toàn, hách dịch chưa từng thấy, nay chỉ còn vang bóng một thời. Rồi một hôm không còn ai thấy bà đâu nữa. Thanh cho đi tìm khắp nhưng không thấy rồi cũng quên đi.

Theo kế hoạch của Thái Bình Thiên quốc, quân tóc dài cần chia ra làm hai lộ: lộ Bắc kéo thốc lên phương bắc hy vọng đánh chiếm Bắc Kinh, thủ đô của nhà Thanh, còn lộ Nam thì đánh phá miền Hoa Nam để tiêu diệt quân nhà Thanh đồn trú chống giữ tại đây. Với kế sách này, Hồng Thiên vương Tú Toàn tin tưởng thế nào cũng thành công.

Bởi vậy, lộ quân phương Bắc do Lâm Phượng Tường chỉ huy, bất thần đánh thốc lên Hà Nam, có Các Văn Nguyên yểm trợ, với một số quân đông đảo là hai mươi vạn. Tường ra khỏi Trừ Châu, chiếm đóng Lâm Hoài quan, tiến đánh Phượng Dương, quân thế rất là hùng hổ. Cát Văn Nguyên lại từ Phố Khẩu tiến đánh Hào Châu, rồi cùng hợp quân với Tường đánh thốc vào tỉnh Hà Nam. Quân Thanh ở Giang Bắc vội chia ra mà chống cự.

Hai bên đánh nhau nhiều trận kịch liệt. Trong khi quân Thanh bị tử thương vô số kể, thì quân tóc dài của bọn Tường cũng không khá hơn gì. Cuối cùng, quân tóc dài cô thế, vì từ miền Nam không có tiếp viện. Tuy vậy, Tường đã bàn tính với Nguyên dùng chiến thuật "xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị" cướp được Thâm Châu trong chớp nhoáng khiến quân Thanh vô cùng bối rối. Thâm Châu cách Bắc Kinh có sáu trăm dặm.

Tin cảnh báo chạy về Thanh triều như bươm bướm. Hàm Phong hoàng đế vội sai Huệ thân vương là Miên Du làm đại tướng, Khoa nhĩ bật quận vương là Tăng Cát Lâm Bật làm tham tán đại thần, đốc suất tinh binh Kinh kỳ và Sát Cáp Nhĩ ngày đêm cấp tốc lên đường đối phó. May thay, giữa lúc đó Bảo Thắng đã chiến thắng được quân tóc dài một trận lớn khiến Tường đành phải bỏ Thâm Châu, chạy sang Thiên Tân ở mặt đông. Nhưng chưa đến Thiên Tân, Tường lại bị Bảo Thắng truy kích và đánh cho một trận nữa. Thấy tình thế bất lợi quá, Tường đành phải bỏ mộng cướp Thiên Tân, rút lui để cố thủ Tĩnh Hải. Nhưng sự rút lui này đã đưa bọn Tường vào tình trạng thế cùng.

Phương Bắc như thế tạm coi như là yên. Nhưng phương Nam lại rối loạn quá đỗi. Phủ An Khánh của tỉnh An Huy lại bị Thạch Đạt Khai tái chiếm. Phủ Nam Xương tỉnh Giang Tây bị Vy Xương Huy vây đánh. Dương Tú Thanh còn sai bọn Dự vương Hồ Dĩ Hoãng, thừa tướng Lạt Hà Anh, Thạch Tướng Trinh chia quân ra tiếp ứng. Hai kinh Hoản, Cống không chịu đựng nổi, đoàn tóc dài coi như không có đối thủ.

Nhưng sự đời hay có cái lạ là trong tối thường có sáng, trong cái rủi thường có cái may. Đúng thế! Càng đúng hơn nữa cho trường hợp quan binh nhà Thanh lúc này. Hàm Phong hoàng đế tuy đã phái bọn Huệ thân vương Miên Du lên đường chinh tiễu nhưng mặt khác còn sai án sát sứ Giang Trung Nguyên tới Giang Nam để giúp đỡ điều lý mọi việc. Sau đó, Nguyên đi Cửu Giang bỗng nghe Nam Xương bị vây hết sức nguy cấp, Nguyên vội đi gấp tới cứu. Nhờ sự cứu giúp này, quân Thanh đã có cơ chuyển bại thành thắng.

Không ngờ, vừa vào thành Nam Xương ít hôm thì Cát Văn khởi loạn quy tập bọn thổ phỉ nổi lên cướp bóc dân lành, chống lại triều đình. Văn còn liên lạc với bọn tóc dài, vây khốn thành, phủ Nam Xương, Nguyên vội viết thư đến Hồ Nam cáo cấp ấy chính vì bức thư này mà một tay cự phách xuất hiện, ổn định lại tình thế nước Trung Hoa hồi đó và khiến Hồng Thiên vương Tú Toàn phải tự tử chết. Tay cự phách đó chính là Tăng Quốc Phiên, người làng Tương tỉnh Hồ Nam.

Phiên tự là Bá Hàm hiệu là Điều Sinh. Lúc sinh Phiên, người nhà nằm mộng thấy một con trăn lớn chạy vào nhà, da vẩy sáng quắc, từ đó tương truyền thành một chuyện lạ.

Hồi 132

TĂNG QUỐC PHIÊN QUYẾT DIỆT QUÂN TÓC DÀI

Năm thứ mười tám đời vua Đạo Quang, Phiên đỗ tiến sĩ. Đến cuối đời Đạo Quang, Phiên đã leo lên ghế hữu thị lang bộ Lễ. Năm thứ nhất đời vua Hàm Phong, triều đình hạ chiếu cần người nói thẳng, Phiên ứng chiếu, Phiên sớ một bản điều trần ba điểm về thánh đức (đức của nhà vua), và về phong tục lệ. Lời lẽ của Phiên quá thẳng, đến nỗi bị khiển trách và suýt bị tù tội. May được đại học sĩ Kỳ Huề Tảo và vị giám khảo phòng thi hồi gọi là Quy Chi cố công giải cứu nên mới thoát nạn. Phiên về quê chịu tang mẹ giữa lúc loạn Hồng Dương (tức Thái bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh) nổi lên, khói lửa ngút trời.

Một đạo chiếu chỉ hạ xuống, sai Phiên tiếp tay tuần phủ Trương Lượng Cơ đốc biện việc huấn luyện quân dịch, sưu tra bọn thổ phỉ. Phiên vốn là một danh gia về Lý học, đã xin được phép cư tang, cho nên không muốn dính tới việc quân nữa. Nhưng Phiên có một người bạn tên Quốc Trung Thọ, khuyên Phiên cứ nên vâng chịu, chẳng có gì là trái cổ lệ. Nghe bạn, Phiên rũ áo đứng dậy, mộ đám nông phu làm quân nghĩa dũng, dùng bọn thư sinh làm doanh, bắt chước Thúc Kế Quang đời Minh lập thành cơ ngũ, huấn luyện ngày đêm, thành lập được đến mấy doanh quân Đoàn luyện.

Trong khi Trương Lương Cơ đổi về làm tổng đốc Hồ Bắc thì Lạc Bỉnh Chương về làm tuần phủ Hồ Nam, Phiên với Chương vốn là hai bạn chí thân, mọi sự đều ý hợp, cho nên việc huấn luyện quân nghĩa dũng ngày càng thuần thục, số quân ngày càng đông.

Giữa lúc đó thì thư xin cầu viện của Giang Trung Nguyên gởi tới. Phiên vào gặp Chương nói:

- Giang Mãn Tiều gặp nguy không nên không cứu?

Mãn Tiều chính là tên tự của Giang Trung Nguyên. Khi còn ở kinh, Nguyên đi thi hội có vào yết kiến Phiên. Hai người nói chuyện khá lâu rồi mới từ giã. Phiên thường nói sau này thế nào Nguyên cũng lập danh rỡ tiết.

Phiên cùng với Lục tuần phủ thảo luận kỹ càng rồi mới sai hai ngàn quân nghĩa dũng đất Lương, hai ngàn quân nghĩa dũng đất Sở, cùng với sáu trăm doanh binh giao cho viên tu Quách Trung Thọ, đạo viên Hạ Đình Việt và tri huyện Chu Tôn Di đưa đi cứu viện. Em ruột của Giang Trung Nguyên là Trung Tế cùng với bọn học trò La Trạch Nam cũng dốc suất đám nông dân trong các làng xóm theo đi dẹp giặc.

Vài lời phê bình về sự nghiệp Hồng Tú Toàn của Dương Gia Lạc tác giả bộ Thanh sử thông tục diễn nghĩa do Thế giới thư cục ấn hành:

"Sự khỏi đầu của Tăng Quốc Phiên chính là sự tàn lụi suy vi của Hồng Tú Toàn. Thực ra một phần lớn lỗi lầm là do tự Hồng. Khi định đô ở Giang Ninh rồi, Hồng chẳng thèm quan tâm đền việc được mất, cứ nghiễm nhiên an cư, ăn chơi thoả thích, hoang dâm vô độ. Đã thế quân quốc đại sự, Hồng lại phó mặc cho Dương Tú Thanh. Thanh chuyên quyền, gian dâm bừa bãi cũng như Hồng, Kiều, lại kiêu ngạo còn hơn Hồng. Quân tướng như vậy hỏi thành công sao được.

Lâm Phượng Tường đem quân bắc phạt, chính đó là kế hay của Hồng. Tường đại thắng, vượt qua Hoài vào Biện, đi tới đâu thế đều như chẻ tre. Thực là một đoàn quân tinh nhuệ ít thấy. Thế nhưng Tường có điều thất sách hơn là không nhân lúc quân Thanh chưa tập hợp được, xông thẳng vào Tề, Lỗ, tiên nhắm Yên Kinh mà lại đem quân về hướng tây miền Hoài Khánh quanh đường cố đánh, rồi theo đường Sơn Tây quay vòng vào Trực Lệ, lao lực kiệt sức, thử hỏi làm sao mà chẳng thua. Quân tan vỡ ở Thân Châu, lúc đó mới biết hỏng thì than ôi! Đã muộn.

Hồng còn có một điều thiếu suy nghĩ nữa là khi đắc thắng, vừa chiếm được ít đất, đã vội lợi dụng sức mạnh quân sự và chính trị, bắt buộc dân tộc Trung Hoa phải theo tôn giáo mình.

Nội bộ chia rẽ vì đó, quần chúng bỏ rơi cũng vì đó, một phần lớn nho gia Trung Quốc đương thời nắm vai trò lãnh đạo quần chúng và chính quyền, không chấp nhận một giáo lý mới nên có thái độ bất hợp tác và cuối cùng còn quay giáo lại chống đối kịch liệt là khác. Đó là trường họp của Tăng Quốc Phiên, một nho gia lỗi lạc trong phía Đông Thành đã vang tiếng một thời trong lịch sử Trung Quốc.

Cho nên hồi này coi như một hồi nhắc lại điều đáng tiếc của Hồng, đồng thời cũng để nêu ra một cái lỗi hết sức nặng của Hồng mà hậu thế nên lấy đó làm gương!".

Dân tỉnh Hồ Nam đã lâu nổi tiếng là bài ngoại, nhất là đối với Tây phương. Họ thấy những chuyện gây hấn của Anh, của Pháp, của Hoa Kỳ mà lấy làm tức. Ấy cũng từ đó, họ đã tức lây sang cả tôn giáo Tây phương. Đây là một sự thiệt thòi của Thái Bình Thiên quốc. Ngay sau khi chiếm đóng được nơi nào, giáo chủ đạo mới Dương Tú Thanh tức thì đi truyền đạo Nhưng dân tộc Trung Hoa thẩm thấu tư tưởng Khổng, Mạnh đã quá lâu. Bởi vậy, khi Thanh khuyên họ bỏ đạo cũ, bỏ cả bàn thờ tố tiên để theo đạo mới của Thanh, thì họ đời nào chịu nghe ngay.

Một số lớn, vì lý do đó mà không theo, còn một số khác nữa thì lại cực đoan hơn, quyết chống lại, kịch liệt nhất phải nói là bọn nhà nho, bởi vì rằng bỏ việc thờ cúng tổ tiên là một điều cấm kỵ của những người coi trọng đạo hiếu. Bên ngoài, dân chúng đã không hưởng ứng, bên trong, nhất là hàng ngũ võ quan và binh lính, một khi bị giáo chủ Dương Tú Thanh bắt buộc phải theo đạo mới, thì dần dần băng hoại.

Bởi thế, quân tóc dài dù có những tướng tài như Thạch Đạt Khai, Lâm Phượng Tường cũng đành phải suy bại. Thật đáng tiếc cho sự nghiệp của Hồng Thiên vương! Ví thử Thái bình Thiên quốc chi chú trọng đến việc đuổi Mãn phục Hán theo đúng tôn chỉ của họ ngay từ đầu thì đâu đến nỗi. Người đời thường nói: xây nên thì dễ, mà giữ gìn thì khó, quả có đúng như thế.

Đây là cái lý do chính khiến Tăng Quốc Phiên, một nhà nho trói gà không chặt, đã lên tiếng, có thể hiệu triệu được dân chúng tỉnh Hồ Nam gia nhập hàng ngũ quản Tương, Sở của ông để chiến đấu. Mà một khi quân Tương, Sở của Phiên, dù chỉ là một đoàn ô hợp lúc ban đầu, ôm ấp một lý tưởng trong lòng thì đối thủ nhất định phải vô cùng gian nan vất vả để chống cự.

Lại nói đoàn quân Tương, Sở đến cứu Giang Tây, vừa tới Nam Xương đã gặp ngay sức chống cự dữ dội của quân tóc dài. Hai bên giáp chiến tơi bời. Quân Tương, Sở vừa được luyện tập mới xuất quân lần đầu, làm sao địch nổi quân tóc dài đã bao lần vào sinh ra tử. Hơn nữa, bọn chỉ huy như La Trạch Nam lại đều là bọn văn nhã thư sinh, văn thơ thì hay nhưng thao lược chính chiến đâu được như bọn tướng lĩnh đối phương.

Rốt cuộc quân Tương, Sở đại bại tử thương vô số kể. Song như đã nói, quân Tương, Sở còn có cái lý tưởng để chiến đấu, cho nên thua không nản, họ lại bày trận khác, quyết diệt cho bằng được quân tóc dài.

Thấy thế giặc mạnh, Tăng Quốc Phiên thảo sớ tâu về triều xin viện binh, mộ binh tập luyện, hy vọng có thể quét hết được quân tóc dài tại vùng Tràng Giang. Tờ sớ dài đến vài ngàn chữ, và gởi về đã được hồi tấu ngay. Được chiếu chỉ rồi, Phiên chuyển quân từ Tràng Sa tới Hàng Châu, đóng gấp chiến thuyền, thành lập thuỷ sư. Phiên cho đóng thử nhiều lần, cuối cùng mới quyết định đóng ba loại thuyền: loại thứ nhất gọi là Khoái Giải (con giải lẹ làng), hình dáng to bự cần đến hai mươi tám tay chèo, tám tay lái. Loại thứ nhì gọi là Tràng Long (con rồng dài) nhỏ hơn Khoái Giải một chút, cần đến mười sáu tay chèo, bốn tay lái. Còn loại thứ ba gọi là Tam Bản, nhỏ xíu, chỉ cần có mười tay chèo. Trên mỗi thuyền, đều có một thuyền trưởng chỉ huy, ba tay pháo thủ, hai tay cai chèo, một tay chánh lái và một tay phó lái. Khoái Giải là thuyền dành cho đại bản doanh của doanh quan. Tràng long dùng làm chính tiêu, còn Tam Bản dùng làm phó tiêu.

Phiên chiêu mộ thuỷ quân năm ngàn người. Rồi ngày đêm luyện tập tinh thục, tổ chức thành mười doanh. Sáu doanh toàn là quân mộ từ Hàng Châu. Chỉ huy sáu doanh này có sáu người: Thành Danh Tiêu, Chư Điện Nguyên, Dương Tải Phúc, Bành Ngọc Lân, Trâu Hán Chương, và Long Hiến Thám. Tất cả đều là doanh quan. Còn bốn doanh nữa là: Chữ Nhữ Hàng, Hạ Loan, Hồ Gia Viên, Hồ Tác Lâm: Riêng Chữ Nhữ Hàng đã từng làm đồng tri tỉnh Việt, rất am tường về tổ chức thuỷ sư.

Tăng Quốc Phiên lại tuyển mộ năm ngàn quân lục chiến chia làm mười ba doanh, do một số tướng lĩnh có tên sau đây chỉ huy: Châu Phụng Son, Sư Mai Cung, Lâm Nguyên Ân, Trâu Thế Kỳ, Trâu Thọ Xương, Dương Danh Thanh và cả người em sau rốt của Phiên tên gọi là Tăng Quốc Bảo nữa. Phiên còn đặc cử Tháp Tề Bố làm phó tướng đảm nhiệm chức tiên phong. Như thế, cả đội quân thuỷ lục của Phiên cộng lại được hơn vạn người do chính Phiên tổng hạt, chỉ còn đợi thuyền bè đóng xong, ăn uống đầy đủ, lương thực hoàn bị, nhất tề nhổ neo xuôi theo sông Tương, quyết một phen sống mái.

Quân Tương, Sở và quân tóc dài, quần thảo nhau suốt mười lăm năm, gây bao tai ương khủng khiếp cho dân tộc Trung Hoa. Quân tóc dài thực không phải tầm thường để cho quân Tương, Sở chiến thắng một cách dễ dàng. Phiên tấn công mặt này, thì quân tóc dài chọc thủng phòng tuyến ở chỗ khác. Cái thế chiến đấu cài răng lược giữa đôi bên càng ngày càng khốc liệt Cuối cùng, Tăng Quốc Phiên trí cùng lực kiệt, đành phải án binh chờ đợi. Thái bình Thiên quốc nếu có bị đánh tan, thực phải do bộ óc của một nhà nho khác nữa kế tục sự nghiệp của Phiên. Nhà nho đó chính là Lý Hồng Chương, đã từng định kế để có thể đánh chiếm Nam Kinh, thủ đô của Thái Bình Thiên quốc ở những hồi sau.

Tình thế bất lợi kéo dài cho quân tướng của Phiên nói riêng, cho triều đình nhà Thanh nói chung. Đã thế, đại bản doanh của quân Thanh tại Giang Nam lại bị quân tóc dài đánh cho một trận tơi bời, đến nỗi một manh giáp cũng không còn.

Hướng Vinh làm khâm sai đại thần thống đốc quân Thanh lo quá đến sinh bệnh mà chết.

Hồng Thiên vương Tú Toàn nhờ được thêm trận này, oai thế lại còn rực rỡ hơn xưa. Quân tóc dài mở những cuộc tấn công lớn vào các đoàn quân Thanh bị xé rách tả tơi ở khắp các mặt trận. Đó là tình hình chiến sự khẩn cấp vào năm thứ sáu, niên hiệu Hàm Phong, hồi tháng năm. Tiếp sau đó, quân Thanh lại còn phải lao đao nhiều keo lắm, đến nỗi có người đã e ngại cho cái ngai vàng nhà Thanh khó bề đứng vững.

Hồi 133

NỘI LOẠN TRONG THÁI BÌNH THIÊN QUỐC

Lại nói Thiên vương Hồng Tú Toàn Thái Bình Thiên quốc, sau khi được tin thắng trận các nơi gởi về: nào là đại bản doanh Giang Nam của quân Thanh đã bị đánh tan, khâm sai đại thân Hướng Vinh đã chết, trong lòng mừng như cờ mở, cho như thế là đã toàn thắng, quân Thanh quyết không còn có thể đủ sức tái chiến và xâm phạm vào lãnh thổ của mình được nữa. Toàn còn nghĩ rằng Phiên tuy chưa chết, nhưng từ đây về sau quyết chẳng thể làm được gì hơn. Cái cơ chiến thắng, Toàn thấy như là đã quá rõ, không còn phải lo âu gì nữa. Theo kế sách của Toàn, thì việc còn lại sẽ chia làm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là bình định miền Hoa Nam, sau đó mới đến việc đuổi nhà Thanh khỏi Bắc Kinh, thâu hồi hoàn toàn lãnh thổ Trung Hoa. Nhưng bất cứ giai đoạn nào, Toàn cũng vẫn phải duy trì chương trình truyền đạo của Dương Tú Thanh, bởi vì đó là một việc rất nên và rất cần: có thế quyền rồi lại có thêm cả giáo quyền nữa thì ngai vàng của mình nhất định sẽ trường cửu đến muôn đời. Nghĩ vậy, Hồng Thiên vương càng lấy làm mừng. Nhưng rồi lại từ cái mừng quá đó, Toàn càng hoang dâm, phè phỡn vô độ... Ngoài ra dưới trướng Thiên vương, Dương Tú Thanh tay nắm trọng quyền, cũng từ cái tâm lý ấy, phát sinh ra rất nhiều những hành động sai trái, đưa Thái bình Thiên quốc đến nội loạn và diệt vong...

Thanh vốn là một tên quỷ dâm dục. Hằng ngày, Thanh cho người đi lùng khắp chợ thôn quê những danh hoa lệ thảo về dinh để sung vào bọn thị nữ luân phiên hầu hạ Thanh.

Đáng thương thay, biết bao con gái của những gia đình tử tế miền Hoa Nam thời đó đã bị tên quỷ dâm dục họ Dương làm tan nát cuộc đời! Bởi thế người Hoa Nam thời đó mới có danh xưng: Dương Mai đô đốc và Hoa Giới đại vương để tặng cho Toàn và Thanh.

Trang tuyệt sắc giai nhân mà Thanh sủng ái nhất là Phó Thiện Tường. Sau khi Tường bỏ đi, bọn tay chân thay thế bằng Chu Cửu Muội, người đẹp mới từ Dương Châu đưa về, vừa tròn 19 tuổi. Nàng Cửu Muội sành sỏi văn thơ, tài mạo thực song toàn, giống hệt như Thiện Tường thuở nọ.

Dương Tú Thanh mừng lắm, liền cho đưa vào phủ Đông vương vừa thay thế chức vụ của Thiện Tường, vừa đến đêm nàng làm phận sự thị tẩm nữa.

Chu Cửu Muội thoạt đầu không chịu, nhưng thân liễu yếu đào tơ, thử hỏi làm sao chống lại được. Cuối cùng nàng cũng đành phó thác tấm thân trinh bạch của mình cho tên quỷ háo sắc giày vò

Cửu Muội hận lắm nhưng làm sao báo thù được? Nàng giả bộ vui vẻ chiều chuộng, nhưng thề với trời đất là không đội trời chung với Thanh.

Một hôm, nhân lúc Thanh uống rượu, nàng lén bỏ thuốc độc vào, nhưng không ngờ bị lộ, nàng bị Thanh bắt uống cho kỳ hết chén rượu độc. Thuốc độc ngấm vào tạng phủ, Chu Cửu Muội ngã lăn ra, miệng lẩm bẩm than thở:

- Tiếc rằng ta không giết được tên ngoại đạo cõng rắn cắn gà nhà! Nhưng hồn ta thề sẽ theo đuổi mi tới cùng!

Ít tháng sau, Thanh lại cho bọn tay sai đi lùng khắp nơi đem về được một nàng, sung vào phủ Đông vương như trường hợp Chu Cửu Muội. Thế rồi nàng Lý cũng bỉ Thanh cưỡng hiếp như bao nhiêu cô gái khác.

Lý cô nương căm phẫn đến xương tuỷ. Nàng tìm cách báo thù. Nhân một hôm tiệc tùng say sưa, Dương Tú Thanh đã ngà ngà, nổi cơn khát tình, liền cho gọi Lý cô nương vào phòng.

Lý cô nương cho đây là một dịp tốt nhất để hạ thủ Tú Thanh, vội giắt một con dao nhỏ dài độ hơn tấc vào trong lọn tóc làm vũ khí.

Thanh say rượu, lảo đảo bước vào phòng. Lý cô nương hôm đó ăn mặc hết sức lộng lẫy, trang điểm cực kỳ xinh đẹp. Bởi đã có dụng ý, nàng đem hết tình tứ duyên dáng ra để hầu tiếp Thanh. Nhưng vốn là một loại quỷ râu xanh đã nhiều phen kinh nghiệm đường đời, nhất là sau trường hợp chết hụt vừa rồi, Thanh bỗng có ý nghi ngờ hành động của Lý cô nương.

Thế nên sau khi thoả mãn, Thanh giả vờ như không biết gì, làm một giấc say sưa.

Lý cô nương chắc mẩm tên quỷ râu xanh đã đến ngày tận số. Đợi cho Thanh ngủ say, tiếng ngáy nghe phì phò rõ mồn một trong phòng vắng, nàng mới khẽ lần sau lọn tóc, lấy ra con dao nhọn, nhè giữa cổ Thanh đâm xuống một nhát mạnh.

Nàng tin chắc Thanh phải đứt họng mà chết không kịp ngáp.

Không ngờ nhát dao của nàng không trúng cổ họng, mà chỉ ngập sâu vào vai trái của Thanh. Thanh thét lên một tiếng vội nhỏm dậy, tức giận đến cùng độ, hô bọn võ sĩ đem ngay nàng ra xử tội.

Thì ra Thanh có ý ngờ từ trước nên vẫn đề phòng. Lý cô nương vừa đâm nhát dao xuống thì Thanh vội né lệch người sang bên, khiến vai trái của y bị ngập cán dao là thế, Lý cô nương bị bọn tay chân Thanh quấn vải khắp người rồi tẩm dầu vào, đem trói đứng vào một cây cọc và châm lửa đốt. Hình phạt đó, thật độc ác và man rợ.

Sau nhát dao của Lý cô nương, lại đến cái quần lót vấy máu của Triệu Bích Nương. Bích Nương nhan sắc xinh đẹp, tuổi mới mười lăm, mười sáu. Nàng bị ép đưa vào Tú quán nữ công (nơi phụ nữ thêu thùa may vá), và là một tay thợ tài tình tuyệt mỹ. Nàng đan một cặp mũ, trình lên cho Thanh. Thanh xem qua, thấy tuyệt đẹp, khen lấy khen để. Nhưng có kẻ ghen ghét, đặt điều nói xấu, khiến nàng bị hình phạt "điểm thiên đăng" như Lý cô nương.

Đã mấy lần bị chết hụt về chuyện bức gái, Dương Tú Thanh lúc này không còn tin tưởng đám "gái quê" nữa, cho là không thể "xài" được. Thanh nghĩ tới Hồng Tuyên Kiều, mà đã lâu rồi chưa gặp lại. Thanh nhớ lại cái ngày gặp gỡ buổi ban đầu. Hồng Tuyên Kiều, nàng thật là một người tình luôn biết làm đẹp lòng Thanh. Còn ai bằng nàng, nhất là nàng đã vừa đẹp lại vừa có cái bí quyết phòng the khiến Thanh điên đảo cả lên.

Nghĩ vậy rồi, Dương Tú Thanh cho người gọi Hồng Tuyên Kiều về ở với mình (Nàng Kiều có cái tài là cùng một lúc có thể ở được cả với bốn anh, không anh nào dám ghen tuông, làm mếch lòng người đẹp).

Hôm đó, trời đã sang hè, Dương Tú Thanh muốn làm vui lòng người đẹp, bèn cho chế tạo một cái giường "nghỉ mát" chạm trổ hết sức tinh vi. Chung quanh căn phòng dùng để làm phòng hoa chúc, Thanh cho lót kính pha lê sáng choang.

Ở chính giữa, Thanh lại còn cho đặt một cái hồ nước nuôi cá vàng, thả rong chằng chịt bên trong. Trong các khe giường, có những cái ống thông hơi, gió thổi vào vừa mát vừa rít lên như giọng sáo vi vu từ phương trời xa vọng tới.

Chuẩn bị xong xuôi, mười phần coi như hoàn hảo cả mười rồi, Thanh mới tổ chức một cuộc đón rước nàng Kiều về.

Dương Tú Thanh vốn có nhiều hầu thiếp. Từ khi Tuyên Kiều về phủ Đông vương, bọn hầu thiếp này đành chịu cái cảnh phòng không lạnh lẽo. May cho họ là khi đó, trong phủ Đông vương, bỗng từ đâu có một anh thừa tuyên tên gọi Trần Tôn Dương. Dương người bảnh trai, mặt xinh như hoa, tay chân đẹp như ngọc, khiến gần hết các cô các bà trong vương phủ không ai là không muốn gần gũi, nhất là muốn được "hầu hạ" Dương đôi ba phen cho thoả. Thậm chí, nhiều cô còn muốn Dương thay thế Thanh để ban ơn mưa móc cho họ.

Trần Tôn Dương đi qua hết cô này đến cô nọ, tiếc rằng mình không có phép "phân thân" để thoả mãn được hết các cô các bà đã có lòng yêu quý mình.

Cái gì lâu cũng lộ. Chuyện tư tình của Dương với bọn cơ thiếp của Thanh về sau lộ ra, thế là ầm ĩ cả lên.

Đông vương Dương Tú Thanh rõ chuyện, giận đến tím mặt lại, liền ra lệnh chém Tôn Dương rồi moi gan róc thịt. Trớ trêu thay Tôn Dương lại là em vợ của Vy Xương Huy. Huy lúc đó đang ở Giang Tây, được tin này lấy làm căm lắm, quyết tìm kế diệt Thanh.

Tội ác của Tú Thanh đã đến lúc không còn ai có thể chịu nổi. Thiên vương Hồng Tú Toàn trong lòng cũng đã thấy chán ghét, bèn hạ mật chiếu bảo Vy Xương Huy trở về Nam Kinh.

Huy đem quân về nhưng Thanh cấm không cho vào thành, Huy khẩn khoản mãi, xin để hết bộ hạ lại chỉ mang theo có vài chục tên quân vào mà thôi.

Thanh chấp nhận và cho Huy bệ kiến Hồng Tú Toàn, Toàn giả bộ giận quát Huy:

- Hiện nay, quân quyền của Thiên quốc đều do Đông vương nắm giữ, người há lại không biết hay sao? Đông vương không muốn cho ngươi về, tại sao ngươi lại tự tiện về? Ngươi phải đi ngay tới Đông vương phủ mà xin xá tội đi. Nếu Đông vương chịu tha thì ngươi phải tức tốc đi ngay, nghe chưa?

Nói đoạn, Hồng Tú Toàn lặng lẽ rơi đôi giọt lệ trên má, Xương Huy nhìn thấy, đoán biết Thiên vương quả đến lúc quẫn bách, mà chẳng tiện nói rõ cho mình biết.

Vy Xương Huy bèn sang phủ Đông vương, xin yết kiến Thanh để cầu ân xá. Tú Thanh lập tức mời vào. Huy cất tiếng khẩn khoản xin tha theo lời của Thiên vương đã mách.

Dương Tú Thanh nói:

- Chuyện đó có hề gì! Song đến tháng tám, đúng ngày sinh nhật của ta, đệ có biết ta sẽ tiến xưng vạn tuế chưa?

Huy nói:

- Tứ huynh (anh thứ tư) công cao vọng trọng, thế cao vòi vọi ai dám sánh bằng được. Huynh nên sớm chính vị rõ ràng đi! Đệ lâu nay ở ngoài diệt giặc, quả thực không được tỏ tường.

Nói đoạn, Huy vội dập đầu công cốc xuống nền nhà, miệng hô lớn:

- Vạn tuế! Vạn tuế!

Huy còn hạ lệnh cho bọn tuỳ tùng quỳ theo đồng thanh hô:

- Vạn tuế! Vạn tuế!

Dương Tú Thanh thấy thế, cho rằng bọn Huy đã thuận theo phe mình cả, lòng mừng như cờ mở liền hạ lệnh mở tiệc ăn uống, khao thưởng hết cả mọi người từ Huy trở xuống, tha hồ ăn uống say sưa.

Vy Xương Huy vào tiệc, lúc đầu hết lời nịnh nọt tán dương Dương Tú Thanh. Thấy Tú Thanh đã ngà ngà say, Huy đứng dậy nói lớn:

- Thiên vương có lệnh: Tú Thanh mưu nghịch bất đạo phải lập tức giết ngay!

Hồi 134

THIÊN MUỘI HỒNG TUYÊN KIỀU BỊ BĂM NÁT

Thanh vừa nghe xong, biết nguy, vội né tránh. Nhưng bọn tuỳ viên của Huy đã nhất tề xông lên, vung kiếm chém bay đầu Tú Thanh, lăn long lóc trên thềm nhà, máu phun ra có vòi, thân ngã gục xuống như cây chuối đổ.

Chém xong Thanh, bọn Huy xông vào tận hậu thất chém cho bằng hết nào con trai, con gái, nào thị thiếp, cơ hầu, chỉ còn để lại có mỗi một thiên muội Hồng Tuyên Kiều.

Vy Xương Huy vừa kéo vừa bế Hồng Tuyên Kiều đem về Bắc vương phủ, việc trước hết là phải thoả mãn với Tuyên Kiều rồi sau đó mới báo cho Thiên vương biết.

Huy tưởng giết Thanh xong là yên chuyện, nào ngờ dư đảng của Thanh đâu đã chịu bó tay đang tập hợp lại tấn công phủ Bắc vương.

Huy mở cửa thành, cho bọn bộ hạ của Thanh vào để giáp chiến.

Giữa lúc hai bên giao đấu còn vô cùng quyết liệt, thì Dực vương Thạch Đạt Khai từ Giang Tây đem quân về. Yên vương Tần Nhật Cương cũng từ An Huy tới. Hai vị này cũng đã vâng mật chiếu của Thiên vương quay về để diệt nội loạn. Khi vào thành họ nghe Tú Thanh đã bị Xương Huy giết chết, hai cánh quân đang hỗn chiến ghê hồn, bèn đứng ra điều đình.

Nhưng Vy Xương Huy không chịu, quyết giết cho bằng hết dư đảng của Đông vương. Dực vương Thạch Đạt Khai thấy Huy không nghe mình, liền nổi máu hoả quát lớn:

- Ngươi đã giết chết Đông vương rồi thì nên thôi đi, chứ sao lại diệt cả gia tộc của y? Diệt cả gia tộc của y chưa đủ, lại còn muốn diệt hết cả bạn bè y nữa. Thiên quốc của bọn ta chẳng vì Đông vương mà mất, nhưng e rằng sẽ mất vì chính ngươi đấy.

Vy Xương Huy không đáp. Thạch Đạt Khai hầm hầm tức giận đi ra.

Đêm đó, cả hai phủ Yên vương, Dực vương đều bị thủ hạ của Vy Xương Huy vây kín. Tần Nhật Cương chạy ra hỏi, liền bị giết ngay. Toàn gia của Dực vương bị giết sạch. Duy chỉ có mình Thạch Đạt Khai không rõ nhờ đâu mà biết được nên leo thành trốn chạy được ra ngoài.

Khi thoát mạng rồi, Khai liền tập hợp đồng đảng từ ngoài đánh vào. Huy chạy tới báo với Hồng Tú Toàn. Toàn bất giác thất thanh bảo:

- Người không nghe lời Đạt Khai, bây giờ thì hỏng cả rồi! Người còn giết sạch cả toàn gia của hắn thì bảo sao hắn chịu nổi chứ?

Huy lặng thinh chạy ra ngoài, quay ngay giáo lại, hô thủ hạ, vây luôn cung điện của Thiên vương. Bọn anh em của Hồng Thiên vương bị vây liền bắt tay giảng hoà với dư đảng của Đông vương, nhất tề quay giáo, cùng đánh bọn Vy Xương Huy.

Bọn Vy Xương Huy cô thế không địch nổi hai mặt, bèn bỏ chạy. Dư đảng của Đông vương thừa thế xông vào Bắc vương phủ, thấy một người chém một người, thấy hai người chém hai người, chém sạch giết sạch, không sót mống nào. Thế là vợ con, quyến thuộc của Xương Huy đều làm quỷ không đầu dưới lưỡi dao oan nghiệt, ngay cả đến Thiên muội Hồng Tuyên Kiều, cốt ngọc đa ngà cũng bị bọn chúng xẻ thịt róc xương ra, rồi băm nát như cám.

Vy Xương Huy hối hả chạy ra ngoài thành, chỉ còn lại độ vài chục tên thủ hạ, lấy thuyền vượt sông, đến Thanh Giang không may lại gặp phải bọn Tiền Sứ của đảng Đông vương ở bên ngoài. Bọn này hè nhau xông tới, bắt trói bọn Huy như trói heo rồi áp giải về Giang Ninh.

Thiên vương Hồng Tú Toàn giận lắm, liền truyền lệnh đem Huy ra xé nát thành từng mảnh, còn đầu lâu thì gởi cho Thạch Đạt Khai, dùng lời nói ngon ngọt dụ Khai trở về.

Thạch Đạt Khai tạm nguôi cơn giận, trở về Giang Ninh.

Mọi người đưa Khai lên làm phụ chính, giống như Dương Tú Thanh thuở nọ. Nhưng Thiên vương Hồng Tú Toàn bị cái gương tầy liếp của Dương Tú Thanh nên không thể không do dự, nghi kỵ. Toàn lo rồi đây Khai lại cũng diễn lại cái trò của Thanh.

Hồng Nhân Phát và Hồng Nhân Đạt, anh em của Toàn lại không hợp ý với Khai. Bởi thế, biết rõ nỗi khó khăn của mình, Thạch Đạt Khai liền từ biệt Thiên vương kéo binh ra khỏi thành Nam Kinh đi luôn.

Tất cả mọi chuyện xảy ra đều do Tiền quân sư dự liệu và sắp xếp Hạ mật chiếu triệu bọn Vy và Trạch trở về để diệt Thanh chính là kế sách của quân sư họ Tiền. Nhưng đến lúc Vy và Dương xung đột, chém giết nhau tơi bời rồi, thì không ai biết Tiền quân sư đi đâu. Từ đó, Hồng thiên vương mất một người tham mưu thượng thặng.

Chính sự trong cũng như ngoài lúc này đều do Hồng Nhân Phát và Hồng Nhân Đạt lo liệu giải quyết. Nhưng Đạt và Phát đâu có phải là những người đa mưu túc kế, chính trị giỏi giang.

Bởi thế, công việc trong phủ Thiên vương, cũng như Thái bình Thiên quốc càng ngày càng rối rắm, chẳng khác gì búi bòng bong, không gỡ ra được.

Lại nói Tăng Quốc Phiên đóng quân tại Giang Tây chờ đợi, được quân Thanh ở Lưỡng Hồ tới tăng viện, liền tấn công Nam Khang. Các tướng Lý Nguyên Độ, Lưu Vu Thuần cũng thu phục được các huyện Nghi Hoàng, Sùng Nhân, Tân Kim. Nhờ đó quân vụ miền Giang Tây của triều đình nhà Thanh, mới dần dần khởi sắc...

Chưa hết, Tăng Quốc Phiên thừa dịp chiến thắng, bèn hợp binh với Quan Văn đánh tan quân tóc dài ở thành Hán Dương, giết chết Chung thừa tướng, Lưu chỉ huy. Mặt khác, Hồ Lâm Dực cũng tái chiếm thành Võ Xương, bắt sống được mười bốn tến kiểm điểm của quân tóc dài là bọn Cổ Văn Tân. Như thế Võ Hán đã ba lần mất lại ba lần chiếm lại.

Quân Thanh của Tăng Quốc Phiên thừa thắng càng tiến, tái chiếm các huyện như Hoàng Châu, Hưng Quốc, Tam Châu, Tam Thung, Quảng Tế, chỉ trong vòng có mười ngày mà đã quét sạch được hết miền Hồ Bắc.

Trên bộ đã chiến thắng, mặt thuỷ cũng thu được nhiều chiến công: bọn Dương Tải Phúc thống đốc thuỷ sư với hơn bốn trăm chiến thuyền, Lý Tục Tân chỉ huy lục quân hơn tám ngàn người, cứ theo bờ sông Dương Tử đánh xuống, chạm giáo với quân tóc dài nhiều keo, keo nào cũng đại thắng. Phúc và Tân nhân đà chiến thắng kéo luôn quân vào mãi Cửu Giang.

Tăng Quốc Phiên ở Nam Dương nghe tin, đích thân tới Cửu Giang để khen thưởng binh sĩ. Trên đường đi, Phiên được ngựa lưu tính phi báo cho biết bọn Tiêu Khải Giang, Lưu Tràng Hựu đã cướp lại được Viên Châu.

Người em của Phiên là Tăng Quốc Thuyên cũng tổ chức được một đội quân do ngả Bình Hương tiến về, hội họp tại Châu Phượng Sơn rồi đánh lấy An Phúc.

Được những tín báo tiệp từ bốn phương gởi tới, Tăng Quốc Phiên cảm thấy tinh thần sảng khoái lắm. Khi đến Cửu Giang, Phiên nhìn thấy thuỷ lục, hai quân thanh thế có bề thịnh đạt, thì lấy làm hả dạ vô cùng.

Lúc đó hai viên thống lĩnh Dương, Lý cũng tới đón rước Phiên. Phiên mặt như hoa nở, cầm tay hai tướng Lý, Dương khen ngợi rồi lại truyền gọi các tướng tá tới để uỷ lạo một phen nữa, Phiên lại còn trích ra nào vàng bạc, nào lương thực trong kho để khao thưởng cho binh sĩ, cho các tay anh hùng hào kiệt đất Tương Châu.

Các chiến sĩ của Phiên thấy Phiên rộng lượng và đối đãi tử tế với quân sĩ như vậy, thảy đều vui mừng và cảm phục, có kẻ nào lại không theo lệnh của Phiên.

Khao thưởng xong, quân Thanh đều được lệnh tấn công thành Cửu Giang. Tưởng chỉ cần trong vài ngày, không ngờ đánh phá luôn một lèo hơn tháng mà chẳng ăn thua gì! Chẳng mấy chốc đã thấy qua năm thứ bảy Hàm Phong.

Hồi 135

THẠCH ĐẠT KHAI BINH BẠI, CHẠY ĐẾN QUẢNG TÂY

Tăng Quốc Phiên được thám mã phi báo tướng tóc dài Thạch Đạt Khai kéo binh vào Hồ Nam. Đấy vốn là quê quán của Phiên, mồ mả tổ tiên bà con thân thích của Phiên đều ở cả đấy, Phiên giật mình, nỗi lo sợ hiện rõ trên nét mặt.

Phiên vội gởi văn thư thông tư cho tuần phủ Trương Châu là Lạc Bỉnh Chương hạ lệnh phải ráo riết phòng ngự. Chương đã từ lâu vốn không dám sơ hở, nay được thêm tin cảnh báo lại càng lo lắng hơn.

Nhưng không ai ngờ được rằng chính vụ đối phó với tướng tóc dài Thạch Đạt Khai này, lịch sử của Thanh triều đã ghi thêm một đại nhân vật nữa. Đó là Tả Tôn Đường người huyện Tương Âm.

Tả Tôn Đường tên thật Quý Cao là một thanh niên thích tự do phóng dật. Đường thường cho mình sẽ có ngày giúp vua cứu nước. Lạc tuần phủ thấy Đường có tài mời về làm mạc khách, song đãi như một thượng khách. Thuộc liêu có việc trình lên, Chương đều giao cho Đường giải, quyết xét đoán giùm.

Ở đời, kẻ tài sắc thường gặp gian truân. Đó là định lý của ông xanh kia chăng? Chính thế! Đường danh càng cao thì càng bị người gièm báng, quyền càng trọng thì càng bị người. kỵ ghét. Vì thế suýt nữa Đường đã bị Lạc tuần phủ làm cho tiêu đời.

Câu chuyện như sau:

Tổng binh Vĩnh Châu là Phàn Nhiếp tính vốn ương ngạnh hay tự do hành động bất chấp cả lệnh trên. Lạc tuần phủ dâng sớ đàn hặc Nhiếp kiêu căng tự phụ, do đó có chỉ xuống cách chức Nhiếp.

Không ngờ Nhiếp vận động với Đô sát viện tâu lên nói Nhiếp vô tội. Thanh triều hèn hạ chỉ sai tổng đốc Hồ Quảng là Quan Văn tra xét vụ này.

Quan Văn giấu kín chuyện Nhiếp, mật tra về tờ sớ của Lạc tuần phủ. Thế là Văn khui ra cái chuyện Tôn Đường xử lý mọi việc với tự tích đầy đủ, Văn cho triệu ngay Đường tới Võ Xương và khép Đường vào trọng tội.

Lạc tuần phủ dâng sớ khiếu nại không được, bèn viết thư gởi gấp lên kinh cho biên tu Quách Tung Đào, bảo Đào chạy chọt vận động tại dinh đại thần quân cơ Túc Thuận.

Đào vốn có tình đồng hương với Tôn Đường, tất nhiên sốt sắng vận động cho Đường thoát nạn. Đào nhờ cả Phiên Tổ ấm làm hành tẩu Nam thư phòng dâng sớ cứu Đường nữa.

May thay lúc đó Tăng Quốc Phiên cũng như Hổ Lâm Dực từ ngoài dâng sớ tiến cử Tôn Đường, khen Đường có tài đại dụng. Cả trong lẫn ngoài, tất cả mọi nơi đều thiết mưu lập kế cứu Đường, nhờ đó Đường mới được thoát tội về nhà.

Đến lúc Thạch Đạt Khai kéo binh vào Hồ Nam đánh bại bọn tổng binh Lưu Bội Nguyên, Bành Định Thái, công hãm các huyện Hưng Ninh, Nghi Chương, Quế Dương, Lạc tuần phủ vốn quý trọng Đường, tái thỉnh Đường hạ sơn, uỷ thác cho mọi việc quân sự.

Tả Tôn Đường nhận uỷ thác của Lạc tuân phủ, tức khắc truyền lệnh cho bọn Lưu Tràng Hựu, Giang Trung Nghĩa và Điền Hưng Thứ kéo quân từ ba ngả về tiếp viện.

Chỉ trong vòng một tháng, quân binh tề tập đầy đủ được hơn bốn vạn, đào hào đắp luỹ bố trí khắp nơi. Tổng đốc Quan Văn và Hồ Lâm Dực còn thông tư cho tướng Đô Hưng A điều động quân đội từ Cát Lâm, Hắc Long Giang trở về Đát Ngạc, đồn trú miền Tưng Nam, đồng thời phái tri phủ Túc Hãn Khánh thống suất thuỷ sư với ba mươi hai chiếc pháp thuyền khắc kỳ đại hội tại Tràng Sa.

Hồi đó tướng Thạch Đạt Khai kéo binh tới đâu là uy hiếp hết hai bên dọc đường, quân của Khai đông đến hai ba chục vạn, có ý muốn cứ hiểm tự hùng, kéo cờ rạch đôi sơn hà với Hồng Thiên vương.

Lúc đầu Khai đánh Võ Chương, Kỳ Dương nhưng mấy thành này kiên cố quá không hạ nổi, đành quay mũi tấn công Bảo Khánh, lập doanh trại dài tới hơn trăm dặm.

Lưu Tràng Hựu và Điền Hưng Thứ kéo viện quân lục tục kẻ trước người sau, tới nơi tức thì khai chiến. Nhiều cuộc ác chiến xảy ra liên tiếp, cả đôi bên đều tử thương tương đương, lâm vào tình trạng giằng co bất phân thắng bại.

Hồ tuần phủ cho rằng Bảo Khánh là nơi quan trọng, cần phải có một viên tướng tài thống đốc quân đội mới xong, do đó, Hồ bèn sai Lý Tục Nghi đem năm ngàn quân đi khắp nơi gọi về tất cả những đoàn quân tăng viện lẻ tẻ đặt dưới quyền tiết chế duy nhất.

Thạch Đạt Khai vốn kiêng dè oai danh của Nghi, nên khi nghe Nghi tới, liền tuyển lựa những hạn quân tinh nhuệ dũng cảm mang đủ ba ngày lương, thề phá cho bằng được Bảo Khánh mới nghe.

Lý Tục Nghi đem hết tốc lực hành quân, hội thương quân vụ với Lưu Tràng Hựu, dùng kế tránh thực đánh hư để phá địch. Nghi điều động quân binh theo Bắc lộ tấn công, vượt bến đò Tư Thuỷ xuất phát về tây đánh bọc hậu doanh trại của Khai.

Thạch Đạt Khai vừa thề quyết cướp thành, không ngờ bị Nghi đánh thốc vào trại, hoặc cắt ra làm đôi làm ba, hoặc bao vây khoá chặt, hoặc chọc hông đập sườn, khiến Khai không biết mối đầu nào mà sờ nữa, cuối cùng đành phải vừa đánh vừa lui.

Quân Thanh lúc này đã chiếm được thượng phong, bèn hùng hổ truy kích y như một cơn gió lốc thổi mạnh. Khai quay lại chống cự đôi lần nhưng vẫn không ngăn nổi mũi nhọn của quân Thanh trên đường truy kích. Một trận đánh quân tóc dài hao một số, hai trận đánh quân tóc dài lại hao thêm một số Hết lần này qua lần khác, người ta đã thấy quân tóc dài hao hụt đến vài vạn rồi.

Khai thấy khó lòng đứng chân nơi đây, vội truyền lệnh cho đoàn quân chuyển hướng về tây nam rút chạy. Quân tóc dài đã đi xa, đất Hồ Nam hết giặc giải nhiệm.

Lý Tục Nghi quay về Ngạc, Tăng Quốc Phiên nghe quê hương không việc gì lúc đó mới an lòng.

Bỗng Tăng Quốc Phiên nhận được mật chỉ của triều đình giục tiến quân vào Tứ Xuyên chặn lối Thạch Đạt Khai. Phiên chẳng dám trễ lệnh vội huy động quân mã ngược sông tiến lên. Nhưng khi tới Hồ Bắc, Phiên dò la tin tức tuyệt thiên không nghe Khai tới vùng này. Thì ra tin mật báo nọ chỉ là tin bậy làm khổ Phiên một phen lật đật vội vàng mà chẳng có công trạng gì. Mãi về sau Phiên mới được biết Khai không vào Tứ Xuyên mà chạy về ngả Quảng Tây trốn tránh.

Thái Hồ, Tiêm Sơn hai huyện đã được Đa Long A tái chiếm và đuổi hết quân tóc dài. A tiến đánh thêm Phượng Dương, thâu hồi luôn các huyện Thái Bình, Thạch Đại và Kim Luyện.

Tin báo tiệp đưa về như bươm bướm. Tăng Quốc Phiên vô cùng hào hứng, sắc mừng hiện rõ trên nét mặt của một nhà nho dày dạn phong sương, quyết một lòng diệt ngoại đạo đuổi lũ quỷ Tây phương. Phiên thấy quân tình khởi sắc, bèn quyết định tiến đánh An Khánh.

Giữa lúc này, Phiên được tin người em thứ tư là Tăng Quốc Thuyên đã mộ quân nghĩa dũng từ Hồ Nam tới. Phiên liền chia quân cho Thuyên, sai xuất binh ra Tập Hiền quan quyết thu phục cho bằng được An Khánh.

Bỗng một tin động trời truyền tới doanh Tăng Quốc Phiên: đại doanh Giang Nam của quân Thanh tan vỡ hoàn toàn, tướng Trương Quốc Lương tử trận, tướng Hoà Xuân rút chạy về Thương Châu mình bị nhiều vết thương nặng cũng đã chết. Phiên thở dài ảo não, mang thêm một mối lo buồn nữa.

Nguyên lai Hoà Xuân và Trương Quốc Lương hợp nhất thành một đại doanh rồi kéo thẳng tới Giang Ninh quyết chiến với quân tóc dài. Đánh một trận, bọn Lương cướp lại được Mạt Lăng quan. Đánh trận thứ hai bọn Xuân lại đại phá quân tóc dài ở nhiều nơi như Thất Ung kiều, Vũ Hoa đài.

Hồng Thiên vương Tú Toàn được tin cấp báo đại bại, hoảng hồn bạt vía, vội hạ chỉ cho quân tóc dài đóng tại An Huy chiếm lấy thành huyện Lai An để làm thanh viện cho hai miền nam bắc Đại Giang.

Hoà đại thần (tức Hoà Xuân) được tin này liền sai tổng binh Thành Minh hiệp lực với bọn Bát Kỳ đang đêm tập kích cướp lại thành Lai An. Tình hình Giang Ninh đối với Thái bình Thiên quốc vẫn bị nguy ngập. Do đó Hồng Thiên vương lại hạ chỉ cho quân tóc dài đóng rải rác dọc sông xuất binh đi khắp nơi phá quấy. Nhưng quân Thanh đã tiên liệu điều đó, tìm cách chặn đứng âm mưu phá quấy của quân tóc dài.

Thuỷ sư của Thanh triều cược huy động ráo riết đi bố phòng khắp nơi, bọn tổng binh Lý Đức Lân, Ngô Toàn Mỹ chia đều chặn đánh ráo riết.

Hồng Thiên vương được cấp báo bại trận ở nhiều nơi, quân sĩ tổn thất lên tới hàng ngàn, tức bực đến cùng cực. Vương truyền lệnh toàn thể quân tóc dài chia hai đầu xông ra hai cửa lớn Thái Bình và Thần Sách quyết đánh phá đại bản doanh của quân Thanh.

Bọn phó tướng quân Thanh là Trương Ngọc Lương và Phùng Tử Tài cấp kỳ ứng chiến. Lương và Tài phi ngựa vào trong trận cướp lá cờ lớn của quân tóc dài chém bay đầu được mấy tên thủ lãnh, để tỏ rõ thần oai.

Hồi 136

QUÂN THANH THẢM BẠI TẠI GIANG NAM

Quân tóc dài thấy tướng Thanh oai dũng liền lui vào trong thành cố thủ. Hoà Xuân lại định ra một kế: sai quân sĩ đào hào đắp tường vây kín thành Giang Ninh xa rộng đến hơn trăm dặm, sau đó còn bố trí chung quanh đến tám vạn quân để chuẩn bị xung sát. Phía ngoài sông, Xuân cho thuỷ sư dùng ván ghép lại thành những thuỷ doanh liên lạc luôn luôn với bộ doanh khiến thuỷ lục hải quân đều có cái thế ỷ đốc, vây chặt tứ bề thành Giang Ninh.

Tục ngữ có câu "chó cùng thì dứt giậu", một tay chọc trời khuấy nước, dám tự xưng Thiên vương mười mấy năm trời như Hồng Tú Toàn há lại không có một chủ kiến nào trong lúc nguy cấp này? Huống hồ dưới trướng Toàn lại còn có cả một triều đình đa mưu túc kế giúp sức! Bởi vậy Lý Tú Thành đứng lên hiến kế hàng binh ở nhiều mặt để đối phó với quân Thanh ở Giang Nam. Thành vốn thuộc loại nhân kiệt tiếng tăm của Thái bình Thiên quốc, mặc dầu Thành học hết sách vở, hiểu hết thao lược, nhưng giữa lúc quá nguy khốn thực chẳng còn có kế gì khác hơn nữa.

Hồng Thiên vương dùng kế của Lý Tú Thành sai quân tóc dài ở An Huy, Giang Tây chia đều quấy phá khắp miền Chiết Mân để khiên chế đại doanh Giang Nam của Thanh triều và hứa nếu giải vây được Giang Ninh sẽ có trọng thưởng.

Quân tóc dài ở Giang Tây ứng mệnh liền cất quân đánh phá Chiết Giang. Quả nhiên bọn quan lại Chiết Giang vội chạy tới cầu viện ở đại doanh Giang Nam. Thế là Hoà Xuân đành phải phân binh nam hạ sai Châu Thiên Thụ cứu viện Chiết Giang.

Miền Chiết Giang vừa tạm yên ổn bỗng tỉnh Mân lại có quân tóc dài kéo đến. Mân và Chiết kề nhau, đã cứu Chiết chẳng lẽ không viện Mân. Xuân lại phải sai Châu Thiên Bồi đem quân cấp tốc đi ngay. Thế là Xuân chỉ còn lại có quân lực yếu, người ít, đánh mãi đến hằng tháng chẳng ăn thua gì!

Trong lúc tình hình dai dẳng chưa liệu trước được gì, bỗng lại có những tin cấp báo nguy ngập khác, quân tóc dài do Tứ Nhãn Cầu chỉ huy đánh phá tan hoang khắp nơi.

Nguyên do tướng tóc dài Trần Ngọc Thanh thua chạy khỏi Hoãn Đông liền qua về đánh Phổ Khẩu. Tướng Thanh Đức Hưng A không kịp đề phòng, bị Tứ Nhãn Cẩu đánh cho một trận tơi tả: Thế là toàn quân của A lạc lõng chạy vội về Dương Châu. Tiếng tăm của Tứ Nhãn Cẩu vang dậy trong ngoài, suốt một dọc từ Giang Phố thiên trường đến Nghi Trưng thảy đều lần lượt thất hãm.

Sư oai có thừa, Tứ Nhãn Cẩu rầm rộ kéo tới Dương Châu như nước lũ, đánh thốc vào cửa tây bắc thành. Khốn thay cho Dương Châu hôm đó, tướng Đức Hưng A lại đang ngất ngưởng trên chiến thuyền của thuỷ quân trên sông. Quân Thanh không chủ soái chẳng biết làm sao đối phó. Doanh tổng Phú Minh A, thủ bị Chiêm Khải Luân thấy tình thế quá gấp đành phải thay Hưng A điều động quân đối địch. Mặt khác, thủ bị Trương Đức Bưu kéo ra cửa tây nghinh chiến.

Tú Nhãn Cẩu vốn là một tay tướng đã từng có kinh nghiệm chiến trường, lại còn là người khôn ngoan quỷ quyệt khôn lường. Cẩu thấy cửa nam không có phòng bị, liền cho quân leo thành nhảy vào.

Thế là thành bị phá. Hàng ngàn, hàng vạn quân tóc dài xông vào như nước vỡ bờ. Còn ai là người cản nồi nữa! Quân Thanh kẻ chết kẻ bị thương, kẻ chạy trốn hỗn loạn. Bọn tướng Chiêm, Phú thấy tình hình hỏng rồi, chẳng còn lòng nào ham đánh, vội cướp đường chạy trốn, cuống cuồng như chó gặp hoả tai.

Thành bị phá rồi Đức Hưng A mới biết! A sợ quá, chân tay run lên cầm cập, vội vàng một mạch chạy trốn. Tới hồ Thiệu Bá, Hưng A thu thập được ít tàn quân đóng trạm đồn tại cầu Vạn Phúc, cố giữ mặt đông bắc, một mặt mang hoả bài tới đại bản doanh Giang Nam cầu viện.

Hoà Xuân lâm vào tình trạng bất đắc dĩ, đành phải sai Trương Quốc Lương cho quân vượt sông sang bắc, tập họp với quân Giang Bắc đánh thành Dương Châu.

Lương vừa tới nơi, bỗng một tướng tóc dài mở cửa thành xông ra, Lương phi ngựa lên trước nghinh chiến, múa tít cây đại bao, lúc chém lúc đâm, sức mạnh muôn phần. Quân tóc dài thấy Lương oai mãnh quá vội chạy vào thành.

Cửa thành chưa đóng kịp thì Lương đã phóng ngựa bay vào thành, hô quân đột nhập. Quân tóc dài hoảng hốt chạy trốn, quân Thanh tiến tới. Hai bên ác đấu một trận tơi bời, rút cục quân tóc dài đại bại, quân Thanh cướp lại được Dương Châu.

Đại thắng ở Dương Châu, Trương Quốc Lương chuyển quân đánh Nghi Trưng, Nghi Trưng thu phục, Lương lại tiến đánh huyện Lục Hợp.

Huyện Lục Hợp ở phía bắc Giang Ninh, chỉ là một cô thành, thế mà vân chống cự được với quân tóc dài đến sáu năm trường.

Đã từ lâu, huyện lệnh Lục Hợp gặp lúc loạn ly, chiêu mộ quân nghĩa dũng cố thủ cộ thành. Sáu năm qua, Ôn Thiệu Nguyên so giáo với giặc ước hàng trăm trận, quân tóc dài không làm gì nổi. Nhưng đến khi Đức Hưng A lui về đóng ở Thiệu Bá, thành Dương Châu đã lấy lại thì Trương Quốc Lương tất nhiên kéo binh cứu viện cho Ôn Thiệu Nguyên.

Lương tới cầu Trần Bản, cách thành còn độ mười dặm, quân tóc dài được tin, liền đem đội binh tính nhuệ nhất ra chặn đánh, một mặt đào địa đạo để nổ phá chân thành. Giữa lúc Lương tiếp chiến với quân tóc dài ở mặt trước, thì mặt sau, thành Lục Hợp đã bị mìn nổ tung, bật hết từng đoạn đài Quân tóc dài ùn ùn kéo vào thành hò hét vang trời, đâm chém, đốt phá, tiếng khóc, tiếng la thê thảm.

Huyện lệnh Ôn Thiệu Nguyên thất thủ, nhảy xuống giếng tự tử. Vợ con của Nguyên cũng tuẫn tiết theo chồng.

Ngày mồng bảy tháng ba nhuận năm Hàm Phong thứ mười, quân tóc dài từ Hoãn Chiết chia làm mấy ngả nhất loạt tấn công tiến vào đại bản doanh. Trương Quốc Lương ngày đêm cự chiến đến nỗi không còn được lấy một phút để nghỉ ngơi nữa.

Cuộc chiến xảy ra liên tiếp tám ngày tám đêm. Quân tóc dài đến ngày càng đông, đứng xa trông nườm nượp như đàn kiến. Sức người có hạn bởi vì người ta cũng là thịt là xương.

Xung trận liên tiếp tám ngày tám đêm liền, dù có phải mình đồng da sắt, thì rồi cũng có lúc gân chùn gối mỏi, mắt hoa đầu váng, khó lòng mà chống chọi với muôn người. Chiến trận kéo dài tới ngày thứ mười bốn. Trời mưa to gió lớn, đêm đến rét kinh khủng, Trương Quốc Lương vẫn phải đốc thúc quân kháng chiên mọng mỏi đợi sáng. Bỗng trong doanh lửa cháy.

Rồi chỉ chớp mắt, lửa tràn lan khắp nơi. Lương biết lòng quân đã biến vội chạy ra khỏi doanh lui về giữ Đan Dương. Quân tóc dài gặng sức đuổi đánh. Chúng phá Lật Dương, chiếm Nghi Hưng, tấn công thành Đan Dương. Lúc đầu chúng còn sợ uy danh của Lương không dám lại gần, chỉ đắp các tường đất làm thành doanh. Về sau chúng cho một số quân cảm tử lẻn vào trại, đợi khi Lương xuất chiến, lừa dịp đâm trộm. Tên sát thủ đâm một mũi giáo trúng ngay hông Lương, Lương chịu đau, nhịp đâm lại chết hắn. Giữa lúc đó lưng Lương trúng thêm mấy ngọn thương, vết ngập quá sâu. Lương đã đến lúc hăng máu, bất chấp cả đau đớn, múa tít cây đại đao, hớt luôn một lúc mấy cái đầu tóc dài. Lương cử chém lia lịa, mở một đường máu chạy như cuồng tới bến Đại Dương, xuống ngựa, quay mặt về bắc, lạy mấy lạy rồi chết.

Trương Quốc Lương đã chết, thành Đan Dương thấy rõ khó lòng cố thủ. Chúng tướng vội bảo vệ Hoà Xuân xông qua vòng vây, mở một đường máu chạy thục mạng ra ngoài.

Khi cả bọn tới được Thương Châu, quay nhìn lại, thì ra quân tóc dài đang đuổi gấp đằng sau, quyết không chịu bỏ.

Xuân bất đắc dĩ phải quay lại nghinh chiến. Bỗng một viên đạn bay vèo tới trúng ngay giữa ngực Xuân, Xuân vội vàng quay ngựa chạy trở về, lui mãi tới Hữ Dã quan, hộc ra từng bát máu đặc, mặt tái xám đi rồi tắt thở.

Trận đại bại quả là thê thảm. Hai chủ soái đều chết. Doanh vụ xứ Hồ Bắc là đề đốc Vương Tuấn, tổng binh Thọ Xuân là Hùng Thiên Hỷ cũng trận vong. Duy chỉ còn có mỗi một mình đốc giang là Hà Thanh Quế thoát chết, chạy trốn về tới Tô Châu, nhưng lại bị tuần phủ Tô Châu là Từ Hữu Nhâm không cho vào thành khiến Quế phải chạy tít mãi đến Thượng Hải mới đám nghỉ ngơi ăn uống.

Quân tóc dài cướp được Thường Châu, tấn công Tô Châu. Từ tuần phủ thấy giặc tới miễn cưỡng điều động quân sĩ chống chọi được vài giờ thì quân tóc dài vượt thành, tràn ngập như thác lũ. Từ tuần phủ trốn chạy không kịp, đành chịu chết dưới ngàn vạn lưỡi dao của quân tóc dài băm nhỏ ra như cám.

Tin cảnh báo truyền về tới kinh đô. Triều đình gia ơn phủ tuất cho những kẻ trận vong. Duy chỉ còn có Hà Thanh Quế bị cách chức và bắt về tra hỏi. Ngoài ra còn chọn một viên đại thần làm Giang đốc.

Giữa lúc triều đình còn bàn tính chưa xong thì quân cơ đại thần Túc Thuận đằng hắng một tiếng, cử một tay nhân tài xuất chúng có thể lật ngược thế cờ, dẹp tan được Thái bình Thiên quốc.

Tìm một viên đại thần làm Giang đốc, triều đình nhà Thanh nhiều người có ý đề cử Hồ Lâm Dực. Duy chỉ có một mình Túc Thuận cho rằng chỉ nên nhiệm dụng Tăng Quốc Phiên.

Hàm Phong hoàng đế đắn đo một lúc rồi chấp thuận đề nghị của Thuận. Một đạo chỉ dụ ban xuống, Tăng Quốc Phiên bổ nhiệm Lưỡng Giang tổng đốc, đốc biên Giang Nam quân vụ, Phiên phụng chỉ xong tức thì viết biểu tâu về triều:

"Hiện nay lộ quân An Khánh đã đóng sát chân thành. Cánh quân này chính làm căn bản trong cuộc khắc phục Kim Lang, chớ nên vội rút. Thần vâng án mệnh, quyền chế Lưỡng Giang, đóng quân Tam Ngạn để vững lòng dân miền Ngô Hội, và gây thanh thế cho Huy Binh. Thần sẽ thương lượng với Quan Văn và Lâm Dực lấy thêm vạn lính, lên đường đi trước. Tuy vậy thần vẫn cho người về Tương Châu mộ thêm quân nghĩa dũng đưa tới hành doanh để đủ quân điều động. Còn việc quân lương, quân giới, thần về lấy Giang Tây, Hồ Nam làm căn bản. Thần cùng sẽ thông tư cho phủ thần hai tỉnh này dốc toàn lực để bố phòng ba tỉnh Giang Sở. Có phòng ngự xong xuôi cẩn thận, lúc đó mới có thể nói tiên đánh và càn quét. Nên chăng thế nào, kính mong thánh thượng xét soi!".

Tờ sớ dâng lên, được triều đình chuẩn ngay Phiên nhận thêm thượng dụ chiếu theo ý trong tờ sớ mà lo liệu hành động.

Hồ Lâm Dực đồng thời cũng bảo tấu cho Tả Tôn Đường được đặc cấp tứ phẩm kinh đường với nhiệm vụ biện lý quân của Tăng Quốc Phiên. Phiên lại cùng với Dực hội thương điều động năm ngàn bộ hạ của Bào Siêu cũng như ba ngàn người của bọn Chu Phẩm Long. Đường Nghĩa Huấn vượt đò sang sông về nam ngạn, đồn trú tài huyện Ký Môn, Hy Châu.

Hồng Thiên vương Tú Toàn được tin Tăng Quốc Phiên đồn trú tại Hoãn Nam, biết rằng Phiên có ý đóng đô Giang Ninh, bèn cho Lý Tú Thành làm Trung vương, đem theo bọn Cổ Lang Hiền, Lại Du Tân chỉ huy vài vạn quân tóc dài tiến thẳng vào Nam Huy.

Lúc đó, mấy lộ quân của Tả Tôn Đường và Bào Siêu, còn chưa tới hoãn, Lý Tú Thành theo đường châu Quản Đức kéo thẳng tới phủ Ninh Quốc. Tướng giữ thành là Châu Thiên Thụ không đủ sức địch, bị tử thương, Ninh Quốc bị hãm.

Huy Châu giới nghiêm. Tăng Quốc Phiên tức tốc sai Lý Nguyên Độ lo việc phòng thủ Huy Châu. Độ vừa tới Huy Châu thì, tướng tóc dài là Thị vương Lý Thế Hiền chỉ huy một lộ quân đông đảo ồ ạt kéo tới. Độ không chống nổi đành phải lui về giữ Khai Hoa.

Hiền phá tan thành phủ Huy Châu, tiến quân uy bức Kỳ Môn. Tăng Quốc Phiên hoảng sợ muôn phần... May nhờ được Bảo Siêu đem quân tới viện. Trương Vận Lan cũng được tin cảnh báo, vội chạy tới yểm trợ. Phiên liền sai Siêu ra giữa Hoàn Đình, còn Lan thì giữ Đa huyện.

Chủ đích của quân tóc dài là phải cướp cho kỳ được Kỳ Môn. Chúng chia ba đường tiến đánh: một đường qua phía tây hãm trấn Cảnh Đức, một đường tiến qua hướng đông hãm huyện Vụ Nguyên, còn một đường nữa đi sang ngả bắc, vượt qua núi Dương Sạn, đánh thốc vào đại bản doanh của Tăng Quốc Phiên.

Dưới trướng của Phiên lúc đó chỉ có hai chi quân của Siêu và Lan là dùng được, nhưng lại đã điều động hành quân ra ngoài cả rồi. Doanh trại của Phiên quả thực trơ trọi, vô cùng nguy hiểm, Phiên bất đắc dĩ đích thân chỉ huy ba quân chống giặc.

Hồi 137

LAN QUÝ NHÂN SINH HOÀNG NAM

Lại nói trong cung cấm tại Bắc Kinh, Hàm Phong hoàng đế được tin Lan quý nhân có thai, ngày đêm chỉ mong, nàng sinh cho mình một hoàng nam. Ngài không ngờ ông xanh kia thực đã hết lòng chiều mình: Lan quý nhân quả nhiên sinh, con trai như ngài mong ước.

Cái tin vui này loan truyền ra ngoài nhanh như chớp. Không những hoàng đế, hoàng hậu vui mừng mà đến cả văn võ bá quan trong triều đình, muôn dân trăm họ ngoài thôn dã, ai cũng đều múa nhảy hát ca. Trong các nha môn đinh thự, ngoài các phố phường làng mạc, đâu đâu cũng treo đèn kết hoa ăn mừng.

Sung sướng vì có được hoàng nam, Hàm Phong hoàng đế thăng Lan quý nhân lên chức Lan quý phi. Hoàng tử vừa sinh, ngài đặt tên là Đái Thuần.

Lan quý phi nhờ sinh hoàng tử, càng kiêu ngạo hết chỗ nói. Chẳng những nàng không thèm để ý tơi bọn phi tần trong cung cấm, mà ngay cả đến Hiếu Trinh hoàng hậu, nàng cũng coi chẳng vào đâu. Mặt khác, chính hoàng hậu cũng có đôi phần nể nang. Thực ra chú bé gọi hoàng nam nọ, đâu có phải là con trai của Lan quý phi? Chú bé tốt phước này chính là con trai của một cô gái Hán trong vườn Viên Minh tên gọi Sở Anh.

Sở Anh họ Sở mà tên Anh, vốn là một tiểu thư trong một gia đình có đọc sách. Cha nàng người Hồ Nam có giữ chức: tiểu kinh quan tại Kinh vài năm, kiếm ăn cũng khá. Sở Anh lớn lên, trông xinh đẹp lả lướt, phong vận lắm. Đám quan trường nghe tiếng nàng, nhiều anh nhờ mai mối, nhưng cha nàng tính thanh cao khảng khái, thường bảo bọn này dơ dáy bẩn thỉu, đâu có xứng với tài sắc của con gái ông, thành thử anh nào cũng cụt vòi co lưỡi lại hết và lặng lẽ rút êm.

Không ngờ, Sở Anh vừa bước sang tuổi mười sáu, thì cha nàng bỗng nhuốm bệnh, lăn ra chết. Thế là nhà cửa tiêu điều, gia đình chỉ còn lại mấy bàn tay trắng. Nghe tin trong cung cấm mướn gái Hán phục dịch, bà mẹ của Sở Anh tham số bổng lộc khá lớn bèn đưa nàng vào cung.

Khi bước chân vào cung, Sở Anh tâm niệm rằng từ đây chỉ là kiếp con sen quét tước lau chùi nhà cửa, trông coi giữ gìn cung vàng điện ngọc mà thôi chứ chẳng còn có một cái gì gọi là mở mặt với đời nữa.

Nhưng Sở Anh không ngờ rằng trong cung Thanh lại có một ông vua Thanh đa tình, lẳng lơ, chỉ thích gái Hán, khoái hơn nữa là gái Hán chân nhỏ mà ông ta vẫn gọi là "Tam thốn kim liên" (ba tấc sen vàng). Ông đó chính là Hàm Phong hoàng đế.

Sở Anh vốn là gái Hán có những đường nét gợi tình đáng yêu, lại vừa có cặp "Tam thốn kim liên" thì Hàm Phong hoàng đế làm sao lại có thể bỏ nàng nằm lạnh lùng trong cung cấm của ngài được.

Thế rồi một hôm, nàng đang dạo quanh bụi mẫu đơn để ngắm nghía mấy bông hoa vừa mới nở thì Hàm Phong hoàng đế tản bộ dưới dãy hành lang. Chợt nhìn thấy cặp "Tam thốn kim liên" của nàng đặt nhẹ trên thám cỏ xanh, ngài như bị nó gắn chặt lấy. Đôi mắt ngài nhìn chăm chăm tự nhủ sao Trời Phật tự nhiên lại đem cho ngài một vưu vật mà không thèm báo trước như vậy.

Ngài tươi hẳn mặt lên, vội vẫy bọn thị vệ theo hầu. Bọn này hầu hạ ngài, đã quen với cái vẫy tay ấy quá rồi, nên biết ngài sắp gây ra một vụ ngoạn mục gì đây, vội hè nhau lỉnh sang góc vườn khác, hoặc chui vào bụi cây, giấu kín thân hình nhưng không quên dành cho đôi mắt được rảnh rang qua kẽ lá để thưởng thức một màn tuồng vô cùng hấp dẫn.

Hàm Phong hoàng đế đương nhiên là bước tới gần người đẹp, gọi hầu hạ theo cái điệu của mình. Trời thì trăng gió thì mát, thảm cỏ thì xanh lại êm: thử hỏi còn có giường chõng nào, chăn nệm nào, êm ấm sướng khoái bằng nơi này nữa không?

Hôm ấy là hôm đầu tiên được nếm của chua trong đời Sở Anh. Chẳng biết nàng có thấy gì lạ lùng không, nhưng đối với tay phong lưu mã thượng như hoàng đế Hàm Phong thì ít ra cũng có một vài âm hưởng dội vào lòng, khiến ngài thấy được một vài cái lạ, cái khác ở trên thân thể ngọc ngà của nàng. Quả thế? Bởi lâm hạnh một lần chưa đủ, ngài làm luôn một hơi đến mấy lần. Và hình như vẫn còn thèm thuồng lắm!

Ít hôm sau ông vua phong lưu mã thượng tất nhiên cần tìm cái mới khác, bỏi vì dù sao cái của Sở Anh cũng đã cũ, ngài chẳng khám phá được gì thêm. Thế là ngài quất ngựa truy phong, khiến người con gái Hán "Tam thốn kim liên" mỏi mắt trông chờ mà chẳng bao giờ được gặp lại.

Hàm Phong hoàng đế có ngờ đâu chỉ vài lần gặp gỡ đó thôi cũng đủ để bao nhiêu chuyện động trời tiếp diễn mãi về sau. Số là Sở Anh sau mấy lần chịu ơn mưa móc đã cảm thấy mình thay đổi dần. Đôi má từ hồng đã đối dần sang xanh, tím, ham của ngọt đã biến sang thèm của chua, và nhất là cái bụng vốn thon thon bỗng chuyển sang hình cái bầu có nắp...

Cái bầu ấy lớn dần theo ngày tháng, Sở Anh tất nhiên mừng nhưng cũng có lúc lo vì ai biết trước được ngày mai.

Ông vua đa tình nọ thì còn đuổi theo mảnh tình khác, đâu có để ý gì tới nàng mà biết tới cái bầu nọ, nhất là ngài lại đang mê say một trang sắc nước hương trời là Lan quý nhân.

Thực thế! Lan quý nhân lúc này được sủng ái quá cỡ, do đó nàng cũng lên mặt quá cỡ. Trong vườn Viên Minh, nàng đã qua mặt Hàm Phong hoàng đế, che mắt bịt tai ngài để tha hồ làm theo tiếng gọi hận thù của mình. Không biết bao nhiêu gái Hán đã bị nàng ngầm sai thủ hạ đánh chết hoặc ném xuống hồ cho chìm mất xác.

Bỗng một hôm có kẻ đến ton hót với nàng chuyện Sở Anh đã từng chịu lâm hạnh đôi lần với hoàng đế. Thế là nàng bảo thái giám cho gọi Sở Anh tới. Lúc đầu, nàng chỉ có mỗi một ý nghĩ là đập chết vứt xác cho quạ chuột rúc rỉa bụi rậm nơi bìa vườn, có thế thôi. Nhưng không ngờ khi nhìn tới cái bụng của Sở Anh nàng bỗng thay đổi chủ kiến ngay.

Cái bầu của Sở Anh lúc đó đã khá lớn cho nên bất cứ ai nhìn vào cũng có thể nhận ra. Lan Nhi dò hỏi đủ điều từ chuyện ăn nằm ngủ nghỉ của đức vua đến chuyện hầu hạ nâng giấc của Sở Anh và quyết chắc đó đích thị là "long chủng" rồi. Chủ tâm giết Sở Anh của nàng bỗng đổi hướng cấp kỳ. Nàng không giết đã đành, trái lại còn sai đem Sở Anh về nuôi dưỡng cẩn thận ở nhà sau.

Sau khi giấu kín được Sở Anh, Lan quý nhân tìm cách độn bụng, giả bộ có thai để đánh lừa ông hoàng đế đa tình ham con. Nàng thỏ thẻ với ngài là đã có thai, có thai đã mấy tháng. Nàng sợ tai mắt dòm ngó trong vườn quá nhiều, bại lộ mật kế của mình, bèn bắt Sở Anh độn vải cho chân to ra, không còn là cái cặp giò "Tam thốn kim liên" nữa. Chưa hết, nàng còn bắt Sở Anh ăn mặc theo Kỳ trang (kiểu Mãn Châu), nhập bọn vào đám cung nữ, rồi đưa về cung, giấu trong một căn mật thất.

Chín tháng mười ngày mang thai lao khổ, Sở Anh sinh hạ một chú bé trai trông thật kháu khỉnh. Giữa lúc Sở Anh mệt lả nằm trên giường đẻ, Lan quý nhân đích thân rót một chén thuốc đổ vào miệng nàng. Chỉ trong nháy mắt Sở Anh hộc ra từng ngụm máu tím bầm, mặt tái mét đi, chết luôn.

Thi hành xong một giai đoạn của cái mật kế, Lan quý nhân hẳn nhiên coi như đắc sách, và tiếp tục giai đoạn hai. Nàng cho người ra ngoài ngầm thuê nhũ mẫu đưa vào cung nuôi nấng bú mớm trong mật thất. Ít hôm sau, Lan quý phi vác cái bụng độn vải như cái thúng của mình xun xoe ra trước mắt mọi người, đột nhiên nàng kêu đau bụng, rồi cũng làm cái bộ mặt nhợt nhạt, cái điệu đau đớn yếu ớt, nàng lên giường sinh và cuối cùng, sau một hồi rặn đẻ như hết hơi, nàng sinh hạ một hoàng nam.

Một bà đỡ sồn sồn từ trong phòng đẻ bước ra vừa reo vừa khoe cho mọi người thấy một hoàng nam máu me còn đỏ hỏn khắp mình. Tất nhiên ai cũng cho rằng đó chinh là cục máu cưng của nàng, chứ đâu có dám nghi ngờ gì khác.

Hoàng đế và hoàng hậu thấy hoàng nam khôi ngô kháu khỉnh vui mừng khôn xiết, trong khi đó, Lan quý nhân cười thầm trong dạ và tự nhủ kế mình đã đạt, việc lớn của mình đã thành. Yên chí như vậy, bất giác nàng đâm kiêu hãnh ngang ngược, bất chấp hết mọi người.

Thấy ở trong cung còn có Chính cung nương nương không thể tự do hành động được, Lan quý phi nỉ non to nhỏ với hoàng đế cho nàng sang ở bên vườn Viên Minh. Tháng ba lại vừa mới dứt, xuân hết hè đã sang. Chiếu lệ thì đây là lúc có thể chuyển qua bên vườn Viên Minh được. Do đó, Hàm Phong hoàng đế liền chuẩn y lời xin của Lan quý phi.

Dọn sang vườn Viên Minh, Lan quý phi lại cũng ở tại Thiên Địa Nhất Gia Xuân như cũ. Đã lâu, Hàm Phong hoàng đế không tới vườn này, nay lại được trở về, ngắm nhìn cảnh xưa hoa cũ mà lấy làm thích, lại cảm thấy nhẹ nhõm khác hẳn những ngày khi còn phải nghe nào chiếu chỉ, nào biểu chương. Trời xuân lại vừa dứt thời tiết thêm ấm áp, cảnh vật trong vườn càng tươi tất xanh thắm. Cảnh đã đẹp, mà Lan quý phi của ngài lại càng đẹp, Hàm Phong hoàng đế vừa mê về sắc lại vừa say về hương, thế là ngài ném tuốt luốt mọi việc đại sự của triều đình ra sau ót.

Những lúc ngồi xem hoa, chờ trăng, ngài chỉ còn thấy có cái gấu váy của Lan quý phi là có nghĩa hoặc cái giải yếm của nàng là còn có sinh thú của cuộc đời.

Suốt ngày Hàm Phong hoàng đế đưa người đẹp đi du ngoạn khắp nơi. Hơn nữa sau cơn đau kịch liệt vừa qua mất đến gần mấy tháng, thân thể suy nhược, ngài cần phải có thì giờ tĩnh dưỡng, có người nâng giấc có dịp vui chơi bên hoa cạnh nước, để lấy lại sức của tuổi xuân trai mười tám. Ngài thường ngồi trên chiếc kiệu sơn màu vàng hoặc ngồi ngất ngưởng trên chiếc thuyền rồng để đỡ phải cất giò đi lại phí sức tốn mồ hôi. Điểm đặc biệt nhất là trong vườn có nuôi một đàn hươu.

Mỗi ngày ngài phải uống một chén máu hươu để cho da đẻ mau hồng, thịt gân được cứng chắc, khiến Lan quý phi hầu hạ được chu đáo hơn. Đàn hươu sao tính có đến vài trăm con, hằng ngày thả gậm cỏ trên khu đất rộng bát ngát hai bên cầu Bích Lộc chẳng bao lâu đã thấy thưa dần, hươu càng thưa, hoàng đế càng mạnh, Lan quý phi càng thả sức chiều hoàng đế nhất là trong những đêm mưa gió sụt sùi... Lan quý phi tự tay mình lấy máu hươu để cung phụng cho hoàng đế. Bỏi thế cứ mỗi ngày nàng lại đem vài tên cung nữ tới vườn hươu săn bắn.

Hàm Phong hoàng đế thấy Lan quý phi cưỡi ngựa bắn cung tuyệt hay, bèn đem nàng đi xa săn bắn muông thú. Ngài hạ lệnh cho ba ngàn ngự lâm quân bảo vệ đoàn săn bắn tới chân núi Vạn Thọ săn bắn suốt một ngày, bắn được vô số chim, nào chim sẻ nào chim cút. Trời đã về chiều.

Bọn quần thần văn võ trong vườn Viên Minh biết hoàng đế sắp về liền chỉnh tề áo mão sắp hàng đủ mặt ở cửa vườn để chờ đợi thánh giá.

Tiếng khánh, tiếng chiêng, tiếng chuông, tiếng trống vang rền vọng lại từ xa. Ngự giá chẳng mấy phút đã về tới cửa vườn Văn võ bá quan nhất tề quỳ xuống đất. Lúc này chính là lúc quạ cú câm bặt, tứ bề phẳng lặng như tờ. Bỗng có tiếng vó ngựa lọc cọc nện đều trên đường đá. Triều thần ngước nhìn ra thấy đi đầu là một thiếu phụ mặc Kỳ trang cưỡi ngựa xông tới cửa vườn.

Thấy trăm quan quỳ thành hàng thẳng tắp đôi bên đường lộ, người thiếu phụ ngồi nghiễm nhiên trên ngựa cười nói:

- Sao hôm nay thằng lùn đông quá vậy?

Tiếng nói cười xoen xoét của người thiếu phụ vừa tắt thì con ngựa cũng đã qua hết dãy người bước vào trong. Lũ quan lớn nhỏ hoảng hồn bạt vía không dám cất đầu ngước mắt nữa. Họ hỏi lẫn nhau, lúc đó mới biết người thiếu phụ đó chính là Lan quý phi, cục cưng của đương kim hoàng đế của họ. Họ lè lưỡi lắc đầu chỉ dám thốt một tiếng nhỏ "Trời" bên tai nhau, để mong vơi bớt cái sợ hiện còn rất "vĩ đại" trong lòng họ.

Lan quý phi cưỡi ngựa đi vào một lát mới thấy thánh giá tới. Suốt cả ngày hôm đó, Hàm Phong hoàng đế quả đã được khoan khoái phi thường.

Qua ngày hôm sau, ngày sinh nhật của Lan quý phi, thánh chỉ của hoàng đế hạ xuống cho đặt tiệc trong vườn Viên Minh uống rượu xem hát tuồng. Ngài hạ lệnh Lan quý phi hôm nay phải cải trang làm Ý quý phi để hầu ngài, nâng khăn chuốc rượu cho ngài. Ngày thứ nhất, Ý quý phi hầu rượu tại hiên "Hồ trung Phật nguyệt trượng". Kể từ hôm đó, mọi người trong cung, nhiều lúc thường gọi Lan quý phi là Ý quý phi, có lẽ cũng còn để tránh phạm huý.

Rượu đến canh khuya, hoàng đế ngà say, nàng mới dìu ngài đi ngủ. Nhưng qua ngày hôm sau, có lẽ vì đau bệnh rượu, bệnh gái, ngài bỗng hộc ra máu. Lan quý phi giật mình kinh ngạc, vội truyền cho ngự y vào cung tức khắc, một mặt báo tin về cung cho hoàng hậu biết.

Hiếu Trinh hoàng hậu đối với hoàng đế vốn có tình vợ chồng vô cùng thâm hậu, cho nên khi nghe tin chẳng lành này, bà vội vàng chạy vào trong vườn thăm. May mà máu hoàng đế thổ ra chỉ là do cấp khí công phế, mửa ra máu phổi chứ không có gì nguy hiểm. Bởi thế, ngự y lo thuốc thang điều trị, chỉ có năm, ba hôm, ngài đã dần dần bình phục lại được. Ngài an dưỡng trong vườn thêm nửa tháng nữa, lúc đó bệnh coi như đã hết hoàn toàn và ngài lại đã đi lại được như thường.

Khi còn nằm trên giường bệnh ngài thường có Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi cạnh săn sóc an ủi và khuyên giải. Bà có lúc tâm tình khuyên ngài nên bảo dưỡng thân thể, chớ nên sủng ái Lan quý phi quá độ. Cũng có lúc bà nói thẳng với ngài rằng Ý quý phi không phải là người sủng ái được đâu, chỉ tại vì nàng thường có ý can dự việc triều chính. Nói đoạn bà còn cả quyết rằng triều chính không phải là việc của bọn đàn bà, ngay cả chính bà nữa.

Thực thì từ khi sinh hoàng tử, Lan quý phi có những cử chỉ ngôn ngữ bộc lộ tính kiêu hãnh quá độ ngay đối với cả hoàng đế nữa. Hàm Phong hoàng đế cũng thấy rõ điều đó, nhưng chỉ tại quá yêu quá cưng nàng mất rồi, cho nên không muốn chỉ trích hạch hỏi gì. Nay nghe lời hoàng hậu khuyên bảo, ngài biết bà nói vậy là có ý tốt đó thôi. Ngài cũng biết Lan quý phi là một người đàn bà vô cùng thâm hiểm và chỉ muốn nhân lúc bệnh hoạn chẳng thèm gặp mặt nàng nữa. Nhưng phải cái hoàng hậu vốn là một bậc quốc mẫu, không thể hầu hạ ngài mãi trong thâm cung được. Lúc đó là lúc ngài thấy lòng trống trải cần một người đàn bà, một đôi tay ngà ngọc nâng giấc hầu hạ.

Hồi 138

KẾ HOẠCH BAO VÂY HOÀNG ĐẾ

Ngài đang băn khoăn về nỗi niềm này, bỗng hình ảnh của Tứ Xuân (bốn nàng Xuân) từ đâu vụt hiện ra trước mắt.

Ừ đúng! Ngài còn có bốn cây danh hoa khuynh quốc mà chỉ vì say mê Lan quý phi, ngài đã ném ra sau ót. Hình ảnh của bốn đoá hoa sắc nước hương trời này càng hiện rõ như in trong trí nhớ. Bao nhiêu duyên tình êm đẹp, bao nhiêu kỷ niệm mê ly thuở nọ, tất cả đều kéo về với ngài, và chỉ trong giây lát, ngài quên phứt hết cái giọng ca êm ái, cái điệu tình lẳng lơ của Lan Nhi buổi gặp gỡ đầu tiên.

Thế là Hàm Phong hoàng đế truyền gọi Mẫu Đơn Xuân và Hạnh Hoa Xuân tới hầu ngài. Ngài ngắm kỹ cặp người ngọc này mà ái ngại. Ái ngại bởi vì những cây danh hoa này của ngài hồi này gầy đi nhiều, kém sắc đi nhiều, và tất nhiên cũng kém duyên đi nhiều, đâu có còn được cái xinh cái giòn của người con gái đương tơ thuở nọ.

Ngài ái ngại, rồi ngài ngậm ngùi. Ngài lên tiếng hỏi tại sao hai nàng tiều tuỵ dung nhan. Chỉ thấy Hạnh Hoa Xuân của ngài oà lên khóc nức nở, những giọt lẹ nóng hổi ướt đẫm cả vạt áo long bào của ngài. Ba cái đầu nặng trĩu trong suy tư. Mãi về sau Mẫu Đơn Xuân mới thỏ thẻ tố cáo cho ngài nghe, nào là Ý quý phi ngược đãi bọn nàng ra sao, nào là bọn thái giám, cung nữ sợ thế lực của Ý quý phi không dám cho bọn nàng ăn no mặc đẹp ra sao, nào là tình cảnh hết sức khó sống ở trong vườn Viên Minh ra sao. Hai nàng Xuân kể ra không biết bao nhiêu những nỗi khổ cực chua chát.

Mẫu Đơn Xuân vừa kể xong, Hạnh Hoa Xuân lại tâu tiếp cho ngài nghe việc Ý quý phi chuyên kiếm chuyện với gái Hán qua mắt ngài, và đối đãi vô cùng tản ác. Nàng tố cáo để ngài biết là không biết bao nhiêu gái Hán đã bị Ý quý phi bắt đem đập chết trong các căn nhà hoang vắng bí mật, hoặc đem dìm chết dưới hồ Thái Dịch.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong bỗng nổi cơn thịnh nộ, ngài gầm lên mấy tiếng như hổ gầm, xô đổ cái án thư trước mặt, răng nghiến lại ken két. Thế là qua ngày hôm sau, ngài truyền chỉ triệu Ý quý phi tới.

Vốn người khôn ngoan thâm hiểm, Ý quý phi chỗ nào chả đặt tai mắt để nghe ngóng. Hoàng đế nổi cơn thịnh nộ như thế nào, tên tổng quản An Đắc Hải đã biết, tức tốc thông tin cho Ý quý phi biết ngay. Nàng biết hoàng đế thịnh nộ, liền xoã hết đầu tóc, bế hoàng tử trong lòng, lẹ làng bước vào cung, quỳ trước mặt ngài, dập đầu lìa lịa, xin tha tội, mặt mày làm ra bộ thiểu não đáng thương hết sức.

Thật là một chuyện quái đản: khi không thấy Ý quý phi thì hoàng đế nổi giận lôi đình, nhưng khi thấy nàng thỉ ngài lại thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Nhìn thấy mặt Ý quý phi ngài nhớ tới bao đêm ân ái mê ly. Ngắm nghía khuôn mặt nàng, ngài lại cảm thấy lòng mình như say như mê. Chỉ chừng ấy cũng đủ để cho ngài dẹp hết cơn thịnh nộ khủng khiếp hôm qua. Đã thế ngài còn thấy mềm lòng hẳn khi Y quy phi khóc lóc thảm thiết, rồi vừa khóc vừa xin, trong khi đó hoàng tử đang ọ ọe trong lòng nàng như cô ý xin cha tha tội cho mẹ.

Thử hỏi tình cảnh đó người có tình cảm, ai lại không xúc động mà lòng chẳng se lại. Hàm Phong hoàng đế quả đã để cho lòng se lại khiến trên mặt trận cân não, ngài đã chịu hạ phong để cho Ý quý phi toàn thắng.

Ý quý phi còn khôn ngoan hơn nhận thấy hoàng đế lại đã mắc vào bẫy tình cảm của mình, bèn tỉ tê kể lể gán đủ chuyện xấu xa cho Mẫu Đơn Xuân và Hạnh Hoa Xuân. Đáng lý Hàm Phong hoàng đế không nên nghe, không nên tin lời nàng nói lúc này mới phải. Trái lại còn nghe và đem bao lời khuyên an ủi nàng là khác.

Thế rồi suốt một đêm ban ơn mưa móc, ngài quên hết mọi chuyện. Đường đường một vị hoàng đế vạn tuế gia rút cục lại bị cái đũng quần hồng của Ý quý phi làm mê tít tự lúc nào! Thấy cá đã mắc câu Ý quý phi dại gì để cá chạy mất.

Nàng sửa soạn cấp kỳ đưa ngay thánh giá về Thiên Địa Nhất Gia Xuân, tự mình nấu nướng sơn hào hải vị, hầu hạ lo liệu ăn uống chu tất để cho ngài an lòng điều dưỡng bệnh hoạn. Ý quý phi ngầm bảo An Đắc Hải ở bên ngoài bất cứ có chuyện gì cũng không được thông báo vào trong.

Ấy cũng vì vậy nên Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân chỉ gặp hoàng đế được cỏ một hôm rồi từ đó cách tuyệt không còn được gặp lại nữa.

Mãi đến tháng năm, hoàng đế mới bình phục hẳn và thân thể mới thấy khỏe mạnh trở lại. Ngài thường tản bộ hóng mát hết vườn nọ tới vườn kia, nhớ lại thuở nào phi này tẩn nọ.

Ngài cao hứng liền truyền cho triệu hết lại, rồi xuống chỉ mở yến tại nhà Thanh Thuỷ Trạc Anh thất.

Bọn phi tần đã từ lâu không được gặp hoàng đế, tự nhiên cảm tình đâm nhạt không dám nói năng gì nhiều. Duy chỉ có mỗi một mình Ý quý phi cậy mình dược hoàng đế sủng ái, lúc nào cung xun xoe nũng nịu trước mặt ngài, khi cười lúc nói chẳng còn để cho ai chen chân vào nữa. Mọi việc, mọi chuyện của hoàng đế, nàng giành lấy mà làm hết. Nàng cũng cậy mình sinh hoàng tử không thèm chơi với nàng phi cô tần nào nữa, họ đối với nàng có còn giá trị gì nữa đâu. Phía ngoài có vị đại thần quân cơ nào dâng sớ vào cho hoàng đế xem, nàng qua mặt hết chẳng cho hoàng đế biết tí gì. Nàng bảo họ:

- Ấy chớ! Hoàng thượng đang uống rượu mua vui. Chớ có đưa vào, làm rộn ngài, phải tội chết!

Thế là anh đại thần, tiểu thần nào cũng co vòi hết, bố bảo cũng chẳng dám nói thêm, chỉ còn nước ném tập sớ lại ra về, lòng phân vân chẳng biết giải quyết quân quốc trọng sự ra sao!

Ý quý phi lại còn âm mưu với tên thái giám tổng quản An Đức Hải giả mạo ý chỉ của hoàng đế phê toẹt vào tập sơ rồi trả lẹ ra ngoài.

Cách ít hôm hoàng đế toạ trào. Ý quý phi lúc đó mới đem việc phê vào tờ sớ tâu lên. Ngài tuy lòng không vui mừng chỉ vì quá yêu nên chẳng tiện nói ra. Thấy hoàng đế chẳng nói gì mình trong những trường hợp như vậy, nàng tiến thêm một bước, cứ mỗi khi thấy bọn đại thần vào bàn việc triều chính với hoàng đế, nàng cũng cố mon men tới ngồi lỳ một bên nghe ngóng, nhiều khi đưa đại ý kiến của mình ra. Đã thế hoàng đế tính lại lười, chẳng muốn để ý tới nhiều chuyện, do đó có nhiều bản sớ tâu lên, ngài đều bảo Ý quý phi xem xét rồi phê giùm trả về. Thế là từ đó Ý quý phi đã có thể để can dự vào triều, chính và nghe ngóng được mọi chuyện xảy ra bên ngoài rồi.

Đã có năm ba tên tay chân giảo hoạt lẹ làng chạy vạy xoay tiền nhờ thế lực của Y quỷ phi. Chúng đi đúng đường do An Đắc Hải vạch ra để đưa tiền về hiếu kính Ý quý phi.

Một mặt nàng lượm tiền bạc của ngoại nhân đưa vào, một mặt bao biện hết mọi việc trước mặt hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế về sau cũng biết sự tệ hại đó của Ý quý phi, nhưng phải cái ngài ốm quá, yếu quá chẳng còn chút hơi sức nào để gắng gượng xem sớ nữa. Do đó cứ môi lần có chuyện đại sự cần giải quyết ngài lại cho mời Hiếu Trinh hoàng hậu và cho gọi viên đại thần vào tâu rõ, để bà ngồi trong rèm hỏi han tự sự. Cũng có khi Hậu bận việc không tới được thì ngài lại cho Ý quý phi ngồi cạnh đọc tờ sớ cho mình nghe để giải quyết. Chưa hết, ngài còn tìm hai vị: Thuần thân vương và Cung thân vương vào trong vườn Viên Minh để giúp ngài giải quyết mọi việc quốc sự.

Đã có lúc hoàng đế ngồi nhàn đàm với vị thân vương Thuần Cung, Ý quý phi bất chấp cả tỵ hiềm, kiêng kỵ, ngồi chễm chệ một bên để góp chuyện.

Thấy Thuần thân vương mặt mày bảnh bao, tuổi lại còn trẻ mà goá vợ, nàng bèn thỏ thẻ với hoàng đế làm mai, đem cô em gái mình là Dung Nhi gả cho vương.

Thuần thân vương thấy đó là lệnh của hoàng đế, đâu dám không theo. Thế là từ đó trong thì có mình, ngoài thì có em, Ý quý phi cùng Dung Nhi chẳng khác chi con giăng con mồi liên lạc chặt chẽ với nhau, để xoay trở ngoài tài lợi, còn cả đến quyền hành triều chính nữa là đằng khác.

Ý quý phi tuy khôn khéo kết bè lập cánh rộng rãi khắp nơi, thế mà vẫn không kéo được hai vị đại thần quan trọng là Cung thân vương và Túc Thuận. Hai vị này tuyệt nhiên không quan hệ với Ý quý phi, trái lại còn khuyên can Hàm Phong hoàng đế chớ để cho nàng can dự vào triều chính.

Hàm Phong hoàng đế đã biết Ý quý phi gian hoạt bất trắc lắm, nhưng phải cái yêu quá hoá mê, thành thử không thể cấm đoán nàng một cách dễ dàng. Hơn nữa nàng dự chính từ lâu đã quen rồi, ngựa quen lối cũ khó có thể sửa đổi được tính nết. Hàm Phong hoàng đế muốn tránh nàng, nhiều lần nhờ Hiếu Trinh hoàng hậu giúp mình, nhưng hậu lại quá kém, ăn nói lúng túng chẳng ra sao mỗi khi có việc do đại thần tâu lên. Trái lại nếu nàng bên cạnh thì mọi việc được giải quyết mau lẹ, rành mạch, không việc gì là không xong xuôi trôi chảy. Ngoài ra nàng hình như còn có một cái oai lạ lùng, khiến bọn đại tuần đều tự cảm thấy e ngại sợ hãi.

Lâu dần về sau Ý quý phi cậy mình có tài, càng ngày càng kiêu hãnh ngang ngược. Hiếu Trinh hoàng hậu cũng muốn sửa tính đổi nết cho nàng, nhưng lại phải cái mặc cảm kém tài, nên nhiều lúc đành im lặng ngồi nhìn.

Mùa xuân năm đó, trong cung chiếu lệ tổ chức đưa rước thuyền rồng. Hàm Phong hoàng đế đưa bọn mỹ nữ cung tần, quý phi, hoàng hậu lên ngồi trên thuyền dự yến xem rước.

Thực ra hồi này, vì vẫn chưa được mạnh hoàn toàn nên ngài chỉ đem một mình Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi riêng trên một chiếc thuyền nhỏ từ từ bơi lượn. Trên bờ, thấy thuyền rồng lững lờ trong hồ, mọi người đồng thanh hô lớn ba tiếng "An lạc độ" (trẩy yên vui: đây là tiếng hô cầu chúc nhà vua đi thuyền được yên ổn vui vẻ). Nguyên lai, trong cung Thanh có cái lệ là hễ hoàng đế đi thuyền, khi ra khỏi bến thì bọn cung nữ đứng trên bờ đều phải đồng thanh hô lớn ba tiếng "An lạc độ" mãi đến khi cặp bến bờ kia mới ngừng hẳn tiếng hô. Tục lệ có tính mê tín dị đoan khiến kẻ thức giả chẳng thèm để ý tới làm chi, nhưng hai bên bờ có đến mấy ngàn cung tần, mỹ nữ đồng thời cất tiếng oanh giọng én, thử hỏi làm sao lại chẳng gây được hào hứng cho mọi người.

Chính thế! Hoàng tử Đái Thuần, tuổi còn nhỏ, ham vui, càng lấy làm khoái khi nghe thấy hô, cũng nhảy nhót hô theo.

Ý quý phi dắt tay Thuần tới làm quen với đám phi tần cung nữ, rồi cùng ngồi trên một chiếc thuyền riêng du ngoạn. Nàng được tin hoàng đế mở tiệc tại Ánh Thuỷ Lan Hương liền kéo cả đám tới nơi đây chờ đợi.

Ánh Thuỷ Lan Hương là một khu đất sát ngay cạnh hồ, phía trước cột ba chiếc thuyền rồng còn có rất nhiều thuyền nhỏ đậu sát ngay hông. Ý quý phi hồi nhỏ vốn ở miền Hoa Nam, học được cách chèo thuyền rất thạo.

Yến tiệc đã xong. Ý quý phi thấy chiếc thuyền nhỏ xinh xinh đậu sát bên bờ, nàng bỗng động lòng nhớ tới nghề mọn thuở xưa, liền nhảy lên cầm chèo. Hàm Phong hoàng đế vụt nhìn xuống hồ thấy nàng, miệng ngài nói: "Tuyệt lắm" rồi ngài gọi: "Để cho trẫm cùng đi với". Ý quý phi thấy hoàng đế cũng hứng chí muốn đi, vội lái lẹ thuyền quay vào bờ đón ngài bước xuống.

Không ngờ Hàm Phong hoàng đế vừa bước xuống thuyền, chân chưa đứng vững thì thuyền đã xô ra. Vốn yếu đuối lại vừa khỏi bệnh, người chưa khỏe hẳn, chân chưa vững mạnh, thuyền tròng trành, ngài bỗng nghiêng đi, rồi bắn tung ra mạn thuyền, rơi tõm xuống nước.

Những tiếng hô "cứu" thốt từ trên bờ đến lạc cả giọng. Bọn thái giám, cung nữ xôn xao cuống cuồng. Họ chạy lên rồi lại chạy xuống, chạy xuống rồi lại chạy lên, ra sức gào "cứu". Trên bờ, dưới hồ, khắp tứ phía chưa đầy chớp mắt đã biến thành y như một cái chợ cháy vô cùng hỗn loạn.

Hiếu Trinh hoàng hậu đang ở trong nhà, được tin cấp báo, vội vàng chạy ra xem, lòng hoảng sợ đến cực điểm... May được cái nước sát bờ, phía dưới lại có bậc đá xây thành kè dài.

Ấy chính nhờ cái kè này, mà khi rớt xuống nước, hoàng đế đã bám cứng được một cục đá, vẫn thò được cái đầu và đôi vai lên, chi có phần dưới mình từ ngực trở xuống chìm hẳn trong nước mà thôi.

Bảy, tám tên thái giám nhất tề nhảy ùm xuống hồ như một lũ nhái luống cuống ghé vai công kênh hoàng đế lên bờ, mình ướt như chuột lột. Hoàng hậu bước quýnh quýnh trên bờ tay bắt chuồn chuồn, miệng há hốc, mặt xám ngoét lại, chẳng biết xám vì sợ hay vì giận.

Hàm Phong hoàng đế vừa được đưa lên bờ thì hoàng hậu đã hò hét ầm lên, bắt bọn thái giám khiêng ngay ngài vào một căn phòng xông hương thơm ngát gần đó để thay đổi áo quần, một mặt quát bảo mấy tên thái giám khác bắt ngay Ý quý phi tông vào Vĩnh Hạng nhót lại để chịu tội.

Hàm Phong hoàng đế vốn ốm yếu lâu ngày, chưa được bình phục hẳn, nay lại bị một cơn hoảng, nào ướt nào lạnh, bất giác bệnh cũ phát lại dữ dội. Hiếu Trinh hoàng hậu suốt ngày đêm thuốc thang hầu hạ bên cạnh, chẳng được lúc nào thư thái tâm thần. Ôm một lèo mãi tới lúc sang thu, hoàng đế mới dần dần khỏe lại.

Vua và hậu thì như thế, Ý quý phi càng thiểu não hơn. Bình nhật nàng hống hách vênh váo biết bao, thế mà nay đành khoanh tay ngồi nhà đá đã bốn, năm tháng trường, thử hỏi còn mong chì tìm lại được thời và thế của ngày nào? Lũ hoạt đầu cầu danh móc lợi đã từng khúm núm hầu hạ nàng bấy lâu nay, thấy nàng sa chân lỡ bước thất thế kẹt vận, đã chẳng những không chút động lòng từ tâm, trái lại còn nhờ gió bẻ măng, chết đuối đạp thêm.

Túc Thuận chống đối Ý quý phi từ lâu, Thuận ngầm thông với bọn cung nữ hầu hạ nàng, cố ý tới cáo mật với Hiếu Trinh hoàng hậu nói nàng ở Vĩnh Hạng suốt ngày oán giận hoàng thượng. Ghê gớm hơn nữa nàng còn dám dùng bùa chú Mãn Châu để thư ếm hoàng thượng nữa.

Hiếu Trinh hoàng hậu nghe xong vội tới Vĩnh Hạng gặp ý phi, hậu nói:

- Nàng hãy tạm thời yên tâm chờ đợi. Đợi ít hôm nữa hoàng thượng vui vẻ, ta sẽ giúp nàng cầu xin ân điển của ngài tha cho nàng ra.

Hậu chỉ nói ra có thế, vậy mà không hiểu tại sao cái chuyện trù ếm hoàng đế của Y phi lọt đến tai Hàm Phong hoàng đế.

Ngài bất giác nổi cơn thịnh nộ. Khéo thay Túc Thuận lúc đó đứng cạnh. Ngài hỏi Túc Thuận:

- Ý trẫm muốn truất phế Lan quý phi cho nàng tự tận, khanh nghĩ thế nào?

Thuận giật mình đánh thót một cái, vội quỳ xuống đất đập đầu tân:

- Nô tài chẳng dám can dự vào việc trong cung cấm!

Câu chuyện này truyền tới tai Hiếu Trinh hoàng hậu. Hậu vội vàng chạy tới gặp hoàng đế, đem hết tâm lực biện hộ cho Ý quý phi. Hậu nói:

- Những chuyện đó bất quá chỉ là do bọn người ganh ghét nàng đặt điều phao nhảm đó thôi. Thần thiếp cũng thường khi tới gặp nàng thấy nàng tỏ ý hết sức cung thuận, tự biết lỗi mình và hối lôi nhiều lắm, thần thiếp dám xin thay nâng cầu xin hoàng thượng ban cho ân điển tha tội cho nàng. Bị giam trong lãnh cung lúc nào cũng tưởng nhớ tới hoàng thượng. Nàng khóc lóc ngày đêm, tình cảnh thật là đáng thương hết sức.

Hàm Phong hoàng đế vừa nghe lời Hiếu Trinh hoàng hậu cầu xin ân điển, vừa nghĩ tới việc ý quý phi sinh cho mình một mụn hoàng nam, nhất thời không thể bỏ danh hiệu Phi tử của nàng. Thế là cơn thịnh nộ của ngài dần dần tiêu đi lúc nào không biết. Hiếu Trinh hoàng hậu lại cứ ở bên cạnh cầu xin ân điển. Cuối cùng ngài nể mặt hoàng hậu đại xá cho Ý quý phi và truyền lệnh phóng thích nàng ra khỏi lãnh cung.

Hồi 139

VUA SỢ CHẠY ĐI NHIỆT HÀ

Lại nói Diệp Danh Thám gây chuyện rối rắm tại Quảng Đông, khiến các nước Tây phương liên quân đã đánh phá thành Quảng Châu lại còn điều động hải quân tiến bức Kinh, Tân (Bắc Kinh và Thiên Tân). Thanh triều phải phái hai đại thần Quế, Hoa tới giảng hoà, bồi thường cho họ đến bảy, tám trăm vạn lạng bạc mới hy vọng cuộc chiến tranh nguội đi được.

Trong hiệp ước giảng hoà có khoản nói rõ là sau khi thanh toán khoản tiền bồi thường thì Liên quân phải trả thành Quảng Châu lại cho Trung Quốc. Thế nhưng liên quân chiếm đóng Quảng Châu luôn tới nay đã hai trăm năm rưỡi mà vẫn ở lỳ, tuyệt nhiên chẳng có ý gì trao trả.

Sự kiện này làm cho một tay anh hùng yêu nước rất lấy làm giận, bấy lâu hậm hực trong lòng không lúc nào nguôi.

Tay anh hùng đó là viên đầu mục Đoàn luyện binh ở trấn Phật Sơn. Viên đầu mục nọ cho rằng chuyện tai vạ mất Quảng Châu đều là do tên lãnh sự nước Anh là Ba Hạ Lễ mà ra, khiến nỗi Trung Quốc phải chịu nhục quốc thể cắt đất bồi thường. Y bèn ra một cáo thị trong quảng đại quần chúng xin đem một ngàn lạng bạc tiền thưởng cho bất cứ ai chặt được cái đầu lâu của tên Ba Hạ Lễ.

Ba Hạ Lễ nghe được tin này giật nảy mình đánh thót một cái, mặt mày xám ngoét lại. Hồi đó công sứ nước Anh còn ở Thượng Hải. Lễ vội vàng đánh một điện tối khẩn lên Thượng Hải bẩm cáo việc này cho tên công sứ. Nhận được tin, tên công sứ Anh quốc nổi cơn thịnh nộ liền gởi văn thư cho Quế Lương yêu cầu tâu về triều cách chức tổng đốc Lưỡng Quảng là Hoàng Tôn Hán, mặt khác buộc Lương phải giải tán ngay tổ chức Đoàn luyện.

Quế Lương chẳng biết làm cách nào chỉ đành một mặt trả lời tên công sứ Anh quốc, một mặt kiểm điểm lại điều ước tạm thời không thay đổi. Bọn ngoại quốc thấy Lương không chịu thay đổi điều ước, cho rằng Lương không có chút nào thành ý giảng hoà; thế là tàu binh nước Anh có dịp kéo nhau vào Tràng Giang diễu võ dương oai, suốt một dọc từ Thượng Hải tới mãi Hán Khẩu. Bọn Pháp bắt chước tụi Anh cũng cho quân đi khắp nơi xông xáo khiêu khích. Đã phá phách quấy rối, cướp bóc hiếp đáp, tụi Pháp lại còn ngang nhiên cho bọn cố đạo đi khắp nơi xây cất nhà thờ đạo Thiên chúa. Bọn quan địa phương sợ quá, đâu có dám sờ đến lông chân mấy ông cố đạo, chứ đừng nói tới đem lý luật ra mà ngăn cản.

Nhưng giữa cái đám quan hèn ấy bỗng xuất hiện một vị Mã thân vương tên gọi Tăng Cách Lâm Bật không chịu hèn.

Ông thấy bọn ngoại quốc láo xược, ngang ngược, chẳng coi ai ra gì, chịu không nổi, bèn nổi cơn thịnh nộ, viết ngay một tờ sớ tâu lên đàn hặc viên tổng đốc Trực Lệ là Đàm Đình Tương, kết tội Tương không lưu ý gì tới việc tuần phòng sông bể, đồng thời đích thân sai người tới cửa bể Đại Cô, xây đắp pháo đài và chôn một hàng cọc gỗ rào hẳn cửa bể lại. Chưa hết, muốn cho cẩn thận hơn, ông còn cho rèn những cái khoá sắt để khoá trái cả cửa sông lại.

Đến ngày hội nghị để thay đổi hiệp ước, binh thuyền các nước đều rầm rập kéo tới Thiên Tân. Bọn quan binh Trung Quốc đưa thư tới, buộc tất cả các binh thuyền ngoại quốc phải đổi hướng tới cửa Bắc Đường bỏ neo, chứ không được qua lại cửa Đại Cô.

Nhưng người Anh đâu có chịu, nhất định cho tàu chiến cứ việc xông vào cửa Đại Cô. Cửa Đại Cô đã bị xích sắt chăng kín lại khoá chặt.

Thế là người Anh khai hoả. Súng đại bác nổ ầm ầm, khoá xúc xích đứt tung, mười ba chiếc tiểu đĩnh chở nghẹt lính liên tiếp xông vào, trên mũi cắm cờ hồng, khiêu chiến với pháo đài, chĩa họng súng bắn xối xả vào pháo đài, vào các trại bộ binh trên bờ.

Vừa xáp lại gần bờ, bọn lính Anh nhảy lên bờ xông tới cướp pháo đài; súng trên pháo đài lúc này buộc phải bắn trả. Mấy chiếc tiểu đĩnh trúng đạn chìm nghỉm; mặt khác bọn lính Anh xung kích trên bờ cũng bị quân nhà Thanh giết chết đến mấy trăm tên, ngoài ra còn bắt sống thêm một viên tướng Anh chỉ huy.

Cuộc ác chiến kéo dài thêm một lúc nữa. Quân Anh bị thảm bại, chỉ còn lại có mỗi chiếc tiểu đĩnh, hoảng hốt chạy như bay ra mãi ngoài khơi. Những chiếc chiến thuyền lớn của Anh quốc, thấy quân mình đại bại, liền rút lui khỏi cửa Đại Cô kéo tới Lữ Thuận rồi Hải Sâm, quan sát địa hình địa vận rồi từ từ rút về hướng nam đi mất.

Nhân dân tỉnh Quảng Đông nghe nói người Anh đại bại, bèn vội vàng đóng tàu sửa thuyền, e rằng bọn "quy trắng" kéo lại báo thù, trong khi đó, bọn phú thương lại đi quyên tiền ba trăm vạn lạng, ngầm đưa tới cho người Anh, xin đừng gây chiến nữa.

Bọn công sứ Anh và Pháp chiếu hội với thông thương đại thần là Hà Chiết Thanh, tình nguyện giữ đúng điều ước tám năm. Thanh chỉ mong hai chữ "bình an", nhưng phải cái Hàm Phong hoàng đế tín nhiệm Tăng vương, nghe lời vương nên chẳng thèm trả lời bọn ngoại quốc về việc này, trái lại chỉ bảo Thanh cứ chiếu theo hoà ước thời Đạo Quang hoàng đế, còn truyền chỉ cho Thanh vẫn ở lại Thượng Hải để lo liệu việc nghị hoà, không được quay về bắc, ví thử có tàu binh bọn "quỷ trắng" chạy vào trọng sông thì thẳng tay tiêu diệt.

Mặt khác Tăng Cách Lâm bật huy động hơn một trăm vạn nhân công sửa sang lại cửa Bắc Đường. Về sau quả nhiên có kẻ chủ trương đưa quân địch vào cửa Bắc Đường, và leo lên bờ tại nơi đây. Hàm Phong hoàng đế lại hạ chỉ triệt thoái hết quân đội tại Bắc Đường, hàn lâm viện biên tu là Quách Tung Đào vội dâng sớ khuyên can nhà vua. Thân sĩ Bắc Đường là ngự sử Trần Hồng Dực cũng tâu xin chớ có rút quân tại Bắc Đường. Nhưng Hàm Phong hoàng đế không nghe.

Chẳng mấy hôm, một đoàn tàu nhỏ chở đầy lính Anh và lính Pháp kéo tới cửa Bắc Đường, nhổ hết nhưng cái cọc gỗ để lấy đường sửa soạn tấn công. Tên tướng Anh Ngạch Nhĩ Kim, tên tướng Pháp Át La đem hơn một trăm chiếc tàu binh đánh thốc lên bờ. Lên được bờ rồi, chúng kéo đại bác lên bắt đầu khai hoả, tiếng nổ ầm ầm. Quân Tàu hoảng hốt chẳng dám ló mặt ra, chỉ cho người tới trại quân ngoại quốc báo tới Bắc Kinh trao đổi điều ước nghị hoà.

Bọn ngoại quốc đến lúc này lâm vào tình trạng cưỡi hổ khó xuống, đời nào chiều theo. Chúng bất chấp lời đề nghị của bọn Thanh, tức tốc huy động một vạn tám ngàn Liên quân từ Bắc Đường đánh thốc vào nội địa. Vô phúc cho Liên quân gặp đúng lúc nước thuỷ triều rút xuống, khiến các chiến thuyền nằm phơi vườn trên bãi sình. Chúng sợ quân Thanh giáp công từ hai bên bờ liền treo cờ trắng bay phất phới giả bộ cầu hoà. Quả nhiên quân Thanh thấy cờ trắng không dám tấn công thực.

Nước thuỷ triều lại dâng lên ồ ạt. Những chiếc tàu Liên quân này xuất kỳ bất ý xông vào bờ đổ bộ; tiếng súng nổ ầm ầm không ngớt. Quân Thanh bị đột kích, hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Một vạn tám ngàn Liên quân kéo thẳng tới vùng Tân Hà.

Tăng vương chỉ huy ba ngàn quân tinh nhuệ kéo tới để chống cự. Nhưng đại bác của quân ngoại quốc quả lợi hại thật. Tiếng nổ ì ầm, đạn bay vun vút... Một trận xung kích vô cùng ác liệt xảy ra. Đáng thương thay cho ba ngàn quân tinh nhuệ của Tăng vương chết sạch, chi còn sống sót có bảy mống.

Tân Hà bị chiếm, Đại Cô trở nên nguy ngập. Hàm Phong hoàng đế vội sai đại học sĩ Thuỵ Lân đem quân Bát Kỳ từ kinh đô ra Thông Châu phòng thủ.

Quả nhiên Liên quân sau khi đại thắng kéo tới bức Đại Cô nhè trúng pháo đài ở ngạn bắn trước. Đạn đại bác bay lên bờ vô phúc trúng ngay vào kho thuốc súng của quân Thanh.

Một tiếng nổ long trời lở đất, xé tan cả một bầu trời đầy mây hôm đó. Rồi trong nháy mắt, ngọn lửa bốc lên cao muôn trượng.

Khói đen toả ra khắp bốn phía, cả một toà pháo đài rộng lớn bị thần hoả ngấu nghiến chẳng đầy một buổi, chỉ còn trơ lại mấy bức tường đất lộn gạch cháy xém chênh vênh. Quân lính chết chẳng biết bao nhiêu, chỉ cần biết hôm đó, đề đốc Lạc Thiện đã bị cháy còng queo trong đống thuốc pháo như con bò thui.

Tăng vương lúc đó đóng quân tại nam ngạn thấy cơ nguy khủng khiếp như vậy vội lui quân về Thông Châu, cắm tại vịnh Trương Gia. Vương thấy Thiên Tân xem chừng khó giữ, vội cho chạy văn thư cáo cấp về kinh như bươm bướm.

Hàm Phong hoàng đế xem sớ giật mình thon thót, lòng nóng như lửa đốt, bất giác bệnh cũ lại tái phát. Ngài chỉ còn có một cách sai Quế Lương tới Thiên Tân đề nghị hoà.

Quế Lương tống đạt dấy chiếu hội tới dinh công sứ Anh. Viên công sứ Anh hồi thư cho Lương biết, phải tăng thêm khoản bồi thường mở cửa Thiên Tân cho người ngoại quốc vào buôn bán. Còn, một điều nữa là phải để cho quân ngoại quốc kéo tới Bắc Kinh để trao đổi điều ước.

Hàm Phong hoàng đế trong lúc bệnh hoạn tính tình hết sức khó chịu. Ngài nghe nói bọn quỷ trắng muốn kéo binh vào kinh, hơn nữa tên sứ thần nghị hoà lại là tên Ba Hạ Lễ ngày nọ, thì tức bực khôn tả liền hạ chỉ cự tuyệt thẳng tay.

Hàm Phong hoàng đế nghe lời Hiếu Trinh hoàng hậu cho người cấp tốc về Hà Nam triệu hồi ngay Bảo Thắng về kinh và hạ lệnh đem một vạn cấm binh tới Thông Châu giao chiến với quân giặc, mặt khác, truyền cho Di thân vương Tải Viên mở một bữa tiệc cho mời bọn công sứ Anh Pháp tới dự.

Rượu được mấy tuần, Viên đưa ra việc nghị hoà. Ba Hạ Lễ lớn tiếng đáp:

- Nếu muốn nghị hoà mà không cho gặp mặt hoàng đế Trung Quốc thì nhất định không được. Ngoài ra, Thanh triều phải để cho mỗi nước đem hai ngàn quân kéo vào Bắc Kinh, lúc đó mới khai hội.

Điều kiện gay cấn như vậy thử hỏi Tải Viên làm sao mà chấp nhận được, đành phải trả lời là hỏi ý kiến triều đình lại rồi mới trả lời dứt khoát được.

Ba Hạ Lễ thấy Di thân vương không tự quyết được vấn đề, từ đó không thèm nói năng gì nữa, mặc cho vương cười nói lấy lòng chi cũng mặc kệ, nhắm mắt giả ngáy khò khò trên giường. Tải Viên cụt hứng, chẳng còn cách gì hơn, đành lủi thủi ra về như chó cụt đuôi.

Qua ngày hôm sau, quân tình phi báo về. Kinh càng vô cùng nguy ngập: quân của Bảo Thắng ở Thông Châu đại bại, quân của Tăng Thuỵ cũng thua lớn. Tướng Anh Ngạch Nhĩ Kim chỉ huy quân quỷ trắng đang ùn ùn kéo vào kinh thành.

Toàn thể thành Bắc Kinh được tin động trời này chỉ trong nháy mắt đã biến thành nồi nước sôi. Đại học sĩ Đoàn Hoa cùng thượng thư Túc Thuận thấy tình thế quá nguy quá gấp, đang đêm vội chạy vào vườn Viên Minh xin bệ kiến hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế lúc này bệnh tình đã nặng lắm. Bên cạnh ngài có Hiếu Trinh hoàng hậu lo lắng nâng giấc. Trong phòng bên có Ý quý phi lo liệu thuốc thang.

Bỗng có tin Đoan Hoa và Túc Thuận xin vào bệ kiến. Hoàng đế nằm trên giường bệnh liệu rằng việc lớn bên ngoài có phần chẳng lành, mặt bỗng trắng bệch ra như tuyết, tay chân run lên bần bật.

Hiếu Trinh hoàng hậu một mặt truyền gọi ngự y vào xem mạch hốt thuốc, một mặt cho hai vị đại thần vào gấp long sàng hỏi chuyện.

Túc Thuận liền đem hết tình hình chiến sự bên ngoài kể lại đầy đủ và tâu tiếp:

- Hiện nay thế giặc quá mạnh: hoàng thượng vốn thân vạn thắng, nên sớm liệu xuất thủ, tới một chỗ an toàn nhất mới nên.

Hàm Phong hoàng đế, cất tiếng run run bảo:

- Hiện nay trời còn tối, Trẫm lại bệnh, thân thể hết sức mỏi mệt, chạy tới đâu bây giờ được?

Thế là cả bọn quay lại bàn tính một hồi. Cuối cùng Hiếu Trinh hoàng hậu quyết đoán việc này lên tiếng:

- Chi bằng bọn ta kéo đi Nhiệt Hà!

Hàm Phong hoàng đế nghe xong cũng gật đầu cho là phải.

Bọn ngư y lúc này cũng còn ngồi nơi đây, liền chạy lại tâu xin hoàng thượng uống máu hươu để tinh thần thêm sảng khoái hơn, khí lực mạnh mẽ hơn.

Thế là mấy tên thái giám vội chạy ra ngoài đi tìm hai con hươu chọc huyết lấy máu đem tới, hơi nóng còn bốc lên nghi ngút.

Hồi 140

ĐỐT CHÁY VƯỜN VIÊN MINH

Hàm Phong hoàng đế tiếp chén huyết uống một hơi cạn, quả nhiên thấy trong mình lập tức khỏe mạnh hẳn lên, tinh thần cũng hăng hái hơn. Ngài bèn truyền dụ cho Cung thân vương ở lại giữ kinh sư, mặt khác sai Túc Thuận thống lãnh quân ngự lâm bảo vệ Hoàng gia lên hành cung Nhiệt Hà, còn Đoan Hoa thì lo liệu mọi việc ở trong vườn Viên Minh.

Tin này vừa quyết xong thì truyền vội ra ngoài. Vườn Viên Minh đang yên tĩnh bỗng trở thành sôi động chưa từng thấy. Nào ngựa hí nào lừa chạy, nào oanh la nào én kêu, tất cả vùng lên như một tổ ong vỡ.

Hàm Phong hoàng đế đến lúc này cũng chẳng còn lo được gì nhiều. Ngài chỉ còn biết gượng bước ra sân, lật đật mãi mới lên được cái xe che lọng vàng đậu trong vườn.

Túc Thuận vội chạy ra mở cửa vườn cho xe ra. Bốn chiếc xe đã chuẩn bị sẵn sàng, trong trải một chiếc chiếu lác. Chiếc xe đầu do Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi, tay bế hoàng tử Đái Thuần. Còn ba chiếc xe kia thì bọn phi tần tranh nhau leo lên, ngồi chen chúc như nêm cối, đến nỗi mỗi cái phải chứa đến năm, sáu cô, vẫn chưa hết, khiến cô nào cô nấy bại cả đít, tê cả vai mà cứ phải chịu đựng. Nhưng kẻ đáng thương nhất có lẽ là Ý quý phi. Bình nhặt trong cung cấm vàng son lộng lẫy, nàng được sung sướng như thế nào, mền ấm nệm êm như thế nào, vậy mà nay đêm khuya khoắt phải bỏ vườn trốn chạy, chịu đựng hết mọi gian lao khổ cực. Người ta đã thấy nàng rên rỉ âm thầm, giọt lệ tầm tã trong chéo khăn.

Bọn được ngồi xe quả đã là phúc lắm, còn một đám đông phi tần không có xe, đành phải lê bước theo, kẻ khóc người mếu, lẽo đẽo thành một cái đuôi dài mờ dần trong đêm tối. Trong số này, cũng có năm ba cô, lâu nay đối tốt với bọn thái giám, đến lúc không đi được, nhờ chúng cõng cho từng chặng đường. Rồi đi dọc đường may thay mướn được mấy cái xe bò, cho cả bọn leo lên đầy, nghe cút kít, ục ịch cùng cả đường.

Ý quý phi trải qua một đêm hãi hùng ngoài sương gió trong chiếc xe bánh lăn lọc cọc trên con đường gồ ghề khi hất lên, lúc nhồi xuống, khiến tóc tai nàng đã bù lại bù thêm, trán đã dơ dáy còn bị chạm vào thùng xe sưng húp. Nàng xúc động can tràng; thương tâm quá, bất giác nàng khóc lên hu hu. Tình cảm đã thê lương, tiếng khóc của nàng chen lẫn những tiếng nức nở rền rĩ của bọn phi tần bên cạnh còn làm tăng thêm nỗi niềm sầu thầm cho một ông vua mắc bệnh nặng chạy loạn.

Trời bắt đầu sáng, Ý quý phi thấy Túc Thuận đuổi tới một đàn lừa ngựa, và đã đến sát bên cạnh xe. Đến lúc này, nàng chẳng còn e dè gì nữa, vội tháo bức rèm xe, lớn tiếng gọi:

- Lục gia! Lục gia! Xe tôi hỏng rồi. Nhờ Lục gia thay giúp cho tôi một cỗ xe khác được không?

Lời nói còn chưa dứt, mắt nàng đã thấy rưng đôi dòng lệ. Thuận giữa lúc xua vội đàn lừa ngựa tiến gấp lên trước đuổi kịp hoàng đế, bỗng nghe Ý quý phi gọi, liền quay lại đáp:

- Giữa đường giữa sá, còn tìm đâu ra xe tốt nữa chứ? Ta cố đi tới phía trước, nghỉ một lát đỡ mệt rồi hãy hay!

Vừa nói xong, Thuận đã ra roi cho ngựa vọt lên. Quả nhiên có một thị trấn thật! Đoàn người ngựa dừng lại nghỉ mệt.

Ý quý phi nhìn quanh bốn phía, không thấy Túc Thuận liền hỏi tên thái giám ngồi cạnh, mới biết Thuận đang tâu trình mọi việc trước mặt hoàng đế. Đợi cho Thuận tâu xong, nàng lết tới bảo Thuận cố tìm cho mình một cỗ xe. Nhưng Thuận nghe xong lắc đầu quầy quậy bảo:

- Bà có biết lúc này là lúc nào không? Tôi làm gì còn thì giờ để làm những việc đó cho bà nữa chứ!

Qua ngày hôm sau, Ý quý phi lại gặp Túc Thuận. Nàng không còn đủ sức để chống nổi cảnh vất vả khổ cực trên chiếc xe ọp ẹp long bánh mất đinh này được nữa. Miệng vừa khóc vừa xin Thuận thay cho chiếc xe. Thuận nghe xong, mặt bỗng sa sầm, nghiêm giọng nói:

- Lúc này là lúc anh em chạy loạn, chứ đâu phải ngày thường. Giữa lúc thâm sơn cùng cốc này, mướn xe tốt đâu được mà mong. Xin quý phi an phận mình là hơn. Còn được ngồi trong một cỗ xe hỏng lúc này, kể cũng là may lắm rồi đó! Quý phi không thấy bên cạnh đường còn thiếu gì quý nhân, cung nữ bỏ chạy theo xe, miệng mếu lệ rơi đó sao? Trong chiếc xe hỏng, quý phi đã thấy các phi tần đều chịu một tình cảnh đó sao? Không một ai đòi xe mới cả, chỉ duy mình quý phi là hạng người gì mà dám đòi sướng hơn hết cả mọi người?

Mai mỉa mấy câu xong, Túc Thuận lại quất ngựa đánh trót một cái, cho ngựa nhảy vọt lên trước. Ý quý phi chẳng biết cách nào hơn, chỉ còn nước nghiên răng trợn mắt chửi thầm:

- Tên gian tặc cả gan thật! Chỉ vài hôm nữa mi sẽ biết tay ta.

Ít hôm sau đoàn người nào hoàng đế, hoàng hậu nào phi tần hoàng tử, cung nhân đã tới được Nhiệt Hà vào trú tại hành cung. Hàm Phong hoàng đế một mặt truyền dụ cho Cung thân vương mở cuộc nghị hoà với bọn tướng soái Liên quân càng sớm càng tốt, mặt khác vẫn hạ lệnh cho hai lộ quân của Tăng và Thuỵ cố thủ các nơi hải khẩu.

Đối với tên tướng giặc Ba Hạ Lễ, không còn có ai có thể ghét hơn Tăng vương. Bởi vậy Tăng vương nghĩ mãi mới ra một kế sách hòng diệt tên quỷ trắng này. Vương cho đặt một bữa tiệc mời Lễ tới dinh, rồi hô phục binh bắt Lễ giam vào tu xa, đưa tắp về kinh nhốt kỹ.

Viên công sứ Anh thấy mất Ba Hạ Lễ, lòng vô cùng tức giận, buộc Cung thân vương phải trả gấp. Mặt khác, Bảo Thăng cũng truyền hịch khắp miền Giang Nam gọi quân binh chiến đấu cần vương.

Chỉ ít hôm sau tướng bộ hạ của Tăng vương là Bào Siêu, tướng bộ hạ của Viên tướng quân là Trương Thăng đồng thời cả Đoàn luyện tỉnh An Huy là Miêu Bái Lâm đều rầm rập kéo binh về kinh để ứng phó với tình thế.

Bọn ngoại quốc thấy quân Thanh kéo về quá nhiều, cũng lấy làm ngại, đành chịu chiếu hội với Cung vương, yêu cầu vương trao trả Ba Hạ Lễ trong ba ngày. Nhưng vương không chịu, vương buộc quân Anh Pháp phải lui quân về Thiên Tân trước đã, rồi sau đó mới mở cuộc hoà hội.

Viên công sứ Anh không trả lời yêu sách này. Cung vương chẳng biết cách nào hơn, bèn cho người lên hành cung tại Nhiệt Hà, tâu với Hàm Phong hoàng đế, nói rằng ngoại nhân hết sức cường mạnh ngoan cố.

Hàm Phong hoàng đế thân thể vốn bệnh hoạn lâu ngày, lại thêm cảnh chạy loạn, ngày đêm trúng phải phong hàn, bởi thế khi tới Nhiệt Hà bệnh tình của ngài càng thêm trầm trọng.

Muốn bảo toàn sức khỏe cho hoàng đế, Hiếu Trinh hoàng hậu gác hết mọi chuyện bên ngoài, nào chuyện loạn tóc dài, chuyện bọn cướp bể thổ phỉ, nào chuyện Liên quân đang bức bách kinh thành. Mọi việc đại sự đều do Cung thân vương tiện nghi hành sự tại kinh đô, còn những việc nhỏ thì đích thân bà phải tự coi lấy các bản sớ hằng ngày để giải quyết, cùng với hai vị đại thần là Đoan Hoa và Túc Thuận. Nhân Ý quý phi giải quyết công việc có vẻ lẹ làng sáng suốt, khẩu tài, chữ viết lại lẹ và tốt, hoàng hậu bèn cùng gọi nàng tới, giúp một tay để lo việc triều chính. Nhiều khi gặp những chuyện khó khăn nghi ngại, Ý quý phi một lời quyết đoán. Nhờ thế mà Hàm Phong hoàng đế mới được tiêu diêu tự tại, tĩnh tâm điều dưỡng.

Bọn ngự y cũng theo hoàng đế tới đây, hằng ngày chẩn mạch hốt thuốc. Mấy trăm con hươu nuôi trong vườn Viên Minh trước đây nay cũng cho đưa lên đây hết.

Hằng ngày Hàm Phong hoàng đế đều có uống máu hươu, nhờ đó thân thể ngài ngày một khang kiện, mặt mũi sáng sủa tươi tắn hơn xưa nhiều. Bên cạnh ngài có viên thái giám An Đắc Hải phục thị hằng ngày không rời bước. Nhiều hôm Hải còn đưa hoàng đế đi khắp đó đây trong hành cung du ngoạn nữa.

Hành cung Nhiệt Hà tuy toạ lạc miền Bắc xa xôi hoang lương cô tịch nhưng từ đời Càn Long, Gia Khánh đã được sửa sang xây cất lại, cũng có đủ nào đào liễu cỏ hoa, nào yến oanh đua hót líu lo. Hàm Phong hoàng đế thấy phong cảnh cũng nhiều chỗ nên thơ, bỗng sinh lòng cảm khái, ngài nhớ lại cái cảnh huy hoắc tại vườn Viên Minh, biết bao phong lưu khoái lạc. Thế mà nay chỉ côn thấy có một khu vườn trống hoang lương, tuy còn có liễu xanh đào thắm, nhưng hương phấn ba cung sáu viện nay còn đâu. Cảnh xuân càng tươi mát, lòng tưởng nhớ của ngài càng mênh mang vô tận...

Hiếu Trinh hoàng hậu đã có chủ ý, nhất thiết việc triều đình đều không được cho hoàng đế hay biết, trong khi đó, sai bọn thái giám An Đắc Hải đem hết sức hầu hạ để ngài được rỗi rảnh tâm tư chóng khỏi bệnh. Ngay đến bà cũng vậy, bà thường tránh mặt hoàng đế không để cho ngài thấy mặt, sợ ngài khích động tình dục, có hại đến thân thể. Bà còn hạ lệnh cấm cả Ý quý phi và bọn phi tần không được tới gần ngài, e rằng ngài nhìn thấy bọn này, lại nhớ tới cảnh xưa khi ở trong vườn Viên Minh mà động lòng bi thương buồn bã, rồi có thể lại triệu hạnh một đôi cô, gây tai hại cho sức khỏe của ngài.

Nhưng hoàng đế sống tại hành cung càng ngày càng mạnh, dưỡng bệnh lâu ngày chẳng cỏ việc gì làm, nên buồn, nhiều lúc vào ra mà thở vắn than dài. An Đắc Hải biết rõ tâm tư của ngài hơn ai hết, bèn chạy ra ngoài hành cung, lẻn gọi vài con mặt phấn môi son vào hầu hạ đấm bóp.

Quả thật thần diệu! Bởi vì từ hôm đó hoàng đế không còn buồn nữa, ngài vui ngay lên được. Trong đời hoàng đế, ngài có bao giờ ngủ với gái mà phải lén lút đâu, ấy thế mà nay ngài phải giấu giếm thậm thụt mới dám chơi. Ở đời có cái kỳ là cái chơi càng vụng trộm lén lút thì bọn làng chơi lại cảm thấy thú vị. Trường hợp này cũng chính là trường hợp hi hữu tại Nhiệt Hà của Hàm Phong.

Chơi đã đến lúc quen mùi, ngài cảm thấy trong hành cung chơi không đã, thế là ngài nổi hứng bảo An Đắc Hải lén đưa từ ngoài vào mấy đứa nhà thổ lậu cho ngài nếm của lạ.

Nhiệt Hà vốn là nơi tứ chiếng lớn rộng xài sang, thiếu gì bọn khách thương từ quan ngoại qua lại, do đó làm sao tránh khỏi rải rác đó đây năm ba cái tổ quỷ của đám chị em ta. Thế rồi từ lúc hoàng đế xuất hạnh, văn võ bá quan cũng theo ra. Nhiệt Hà bỗng trở thành một nơi thị tứ phồn hoa vô cùng náo nhiệt.

Bọn quan lại văn võ chạy theo vua phò giá nhất thời, đâu có mang theo được bà xã bởi thế nhiều ông đã hỏi thăm nhau tới đó, mấy mụ dầu lúc này xem ra lên chân ra phết. Hèn cho bọn hèn, sang cho bọn sang, đó là quy luật của làng chơi.

Do đó trong đám chị em bình dân, người ta đã thấy xuất hiện gần đây một loại đĩ thượng hạng đang tung câu giật mấy ông lớn xa bà xã. Đây chính là đám chị em đánh hơi tiền từ Thiên Tân, Bắc Kinh chạy lên.

Chính ở mấy cái tổ quỷ hạng sang này, Hàm Phong hoàng đế thường lui tới biểu diễn cái trò phong lưu mã thượng vốn có từ nhỏ trong cung cấm! Hàm Phong hoàng đế ốm yếu đã từ lâu, thân thể tuy nói là bình phục chứ thực chưa phải khỏe mạnh hoàn toàn. Ấy thế mà nay ngài thả cửa ngày đêm ăn chơi trác táng cho nên chẳng bao lâu thân thể ngài lại bắt đầu còm cõi, đôi vai ngài xọp lại, xương sống ngài gồ lên, hình như hơi sức ngài đã xuất hết tự bao giờ.

Mùa thu sang, heo may đã bắt đầu len đến. Hàm Phong hoàng đế bỗng thổ huyết ra đầy nhà. Hiếu Trinh hoàng hậu cũng như văn võ bá quan khắp triều hoảng hồn bạt vía, chẳng biết đường nào mà lần, chỉ còn cách gọi ngự y vào bắt mạch hốt thuốc, lo lắng điều trị mà thôi.

Nhờ thuốc tốt, chứng thổ huyết ở ngài đã hết nhưng thân thể ngài gầy còm ngày một trông thấy. Chính Hàm Phong hoàng đế cũng tự biết mình vô dụng rồi, cho nên ngài cho truyền Hiếu Trinh hoàng hậu và Quý phi tới bên giường ngày đêm hầu hạ bầu bạn. Ngài cũng hỏi tình hình chiến sự của Liên quân Anh Pháp ra sao. Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đầu khuyên ngài bất tất nhọc lòng tìm hiểu mà chỉ cần ngày đêm lo dưỡng bệnh, nhưng phiền nỗi ngài cứ khăng khăng một mực muốn biết, bắt đem các bản sớ tấu về cho xem.

Hiếu Trinh hoàng hậu không còn cách gì cản ngăn được nữa, bèn đưa cho ngài xem cả một tập sớ dày cộm về vụ này. Ý quý phi có nhiệm vụ ngồi ngay trước giường bệnh lớn tiếng đọc lên cho ngài nghe. Lúc đó ngài mới cược biết Cung thân vương đã hội thương với sứ thần các nước, đổi nơi hội nghị sang Thông Châu, nhưng bọn quỷ trắng ngoại quốc không thèm trả lời.

Hàm Phong hoàng đế liền hạ nghiêm dụ xuống dặn Cung thân vương không được làm gì mất thể diện triều đình. Do đó Cung thân vương không dám liều lĩnh nghị hoà. Thế là hai bên giằng co mãi không đi tới quyết định nào. Liên quân Anh Pháp nổi khùng lên, lập tức xông vào tấn công Hải Định.

Cấm vệ quân canh gác hai bên tả hữu hoàng cung thấy bọn lính ngoại quốc xông vào, hoảng hồn bạt vía vội vàng bỏ chạy tán loạn. Cung thân vương thấy lính chạy hết ráo, chỉ còn trơ lại có mỗi một mình, không còn có cách gì đứng vững được, vội chạy ra ngoài cửa Quảng Ninh, rồi chui tọt vào điếm Tràng Tân trốn biệt.

Thuỵ Lân lúc đó bí quá đành phải xuất đầu lộ diện. Lân cho gọi bộ quân tổng thống là Văn Tường thảo luật, cuối cùng quyết định đem thả tên sứ Anh Ba Hạ Lễ ra. Lân và Tường không ngờ sự thả tên Lễ này ra gây lại hậu quả vô cùng tai hại.

Số là Lễ bị nhà Thanh giam giữ trong lao, nay được ra lấy làm tức, lại xấu hổ nữa, nên chạy lẻn tới vườn Viên Minh đốt một mồi lửa, lửa lan rộng nhà cháy cửa xém, mù mịt cả một góc trời.

Ngự lâm quân lúc này đã bỏ trốn hết chẳng còn lấy một tên. Trong vườn bọn thái giám thấy hoàng đế đã chạy cũng tan đi hết, kẻ thì về nhà, kẻ thì bỏ đi biệt tích, chỉ còn lại có mấy bà già ốm, không lết đi được mới ở lại. Như vậy thì thử hỏi còn có ai để mà ngăn được ngọn lửa này nữa.

Hôm đó gió tây lại thổi mạnh. Trong vườn lâu đài xây cất hết tầng nọ đến tầng kia, chỉ trong nháy mắt đã bắt lửa cháy lên ngùn ngụt. Đứng từ xa kinh thành, người ta cũng thấy được ngọn lửa cột khói. Một đám khói rộng lớn như một đám mây hồng càng ngày càng lan mãi ra tận chân trời.

Thật đáng tiếc cho một khu vườn rộng bao la bát ngát, nào cung điện, lâu đài, nhà cửa, vườn hoa, vàng ngọc, châu báu, tất cả lúc này chỉ còn là những miếng mồi ngon của thần lửa. Vườn Viên Minh cháy suốt ba ngày ba đêm, cháy luôn một hơi, cháy tàn hoại sạch, chỉ còn lại có mấy bức tường trơ trọi đen thui.

Vườn Viên Minh bị cháy đáng tiếc thật, nhưng đối với độc giả có lẽ của quý đáng tiếc và cần biết phải là Tứ Xuân đã từng tô điểm cho vườn này thêm đẹp chuỗi ngày qua.

Ta hãy kể trước hết Mẫu Đơn Xuân. Nàng nghe nói gái Hán trong cung cấm bị Lan quý phi bắt trói đập chết khá nhiều, liền tìm cách trốn ra khỏi vườn.

Nàng vốn biết gái Hán với kỳ nữ (tức gái Mãn) ăn mặc có khác, rất dễ nhận, cho nên bắt chước ăn mặc theo lối kỳ nữ, để lỡ khi cần dùng đến. Dự phòng như vậy, nàng theo bọn Kỳ nữ bắt chước từ cách chải đầu búi tóc cho đến các cách thức chào hỏi lễ nghi. Nàng mình mặc quần áo Kỳ nữ chân đi giày đế phấn, má trát phấn dầy, môi thoa son đỏ chót, trông chẳng khác một Kỳ nữ chút nào.

Nàng đối với bọn thái giám và cung nữ rất tốt. Bởi thế hôm hoàng đế hối hả bỏ vườn chạy ra ngoài, bọn thái giám đã vội phi báo cho nàng hay. Thế là Mẫu Đơn Xuân vội cải trang thành Kỳ nữ. Đã từ lâu nàng dành dụm được ít tiền nên có chút vốn. Nàng liền lẻn tới Thiên Tân, mua vé tàu thuỷ thẳng đến Tô Châu, về nhà.

Mẹ nàng vẫn còn sống tại quê nhà. Ít lâu sau mẹ nàng đứng lên làm mối cho con gái lấy một anh chàng thư sình đọc sách. Từ đó hai vợ chồng Mẫu Đơn Xuân tự do tự tại an hưởng cái cảnh gia đình tới mãi già!

Hồi 141

HỒNG NHAN ĐA BẠC MỆNH

Vườn viên Minh bị Ba Hạ Lễ đốt cháy rụi... Trong số Tứ xuân, ta có thể nói Mẫu Đơn Xuân là người tốt phúc nhất như hồi trên đã kể. Còn ba nàng Xuân kia, cuộc đời ra sao?

Trước hết ta kể Hải Đường Xuân. Hải Đường Xuân từ khi bị đưa vào cung, tưởng nhớ đến người yêu cũ là Kim Cung Thiềm ngày đêm không dứt, nhiều khi quên cả ngủ, bỏ cả ăn.

Hàm Phong hoàng đế quả đã đem hết lòng sủng ái đối với nàng nhưng mối tình vương giả đó đã không an ủi được tâm hồn của một con người chỉ sống được nhờ tình. Bởi thế chưa đầy một năm trong cung vàng điện ngọc, nàng quá buồn rầu mà chết. Dù trong tam cung lục viện có hàng ngàn người đẹp nhưng cái chết của Hải Đường Xuân quả đã để lại cho Hàm Phong hoàng đế một nỗi buồn thấm thía.

Đến nàng Xuân thứ ba: đó là Hạnh Hoa Xuân. Có thể nói rằng Hạnh Hoa Xuân là người đã được hoàng đế cưng yêu lâu nhất và cũng nhờ đó dành dụm được nhiều tiền hơn cả mọi người. Tuy giàu nhất nhưng nàng lại cô độc nhất. Trong cung nàng chẳng giao du với một ai. Bất luận kẻ nào, hễ có ý nhờ nàng tâu giùm hoàng đế, y như phải có tiền mới được không tiền là không xong. Do đó, trong cung không ai là không giận ghét nàng.

Số tiền dành dụm của Hạnh Hoa Xuân càng ngày càng nhiều. Nàng đã có tới hai mươi vạn lạng bạc. Nàng gởi ra ngoài nhờ bà chủ mẫu cho vay lãi kiếm lời, món thì năm vạn, món thì ba vạn. Tiền lời thu được, nàng đều đưa cho tên thái giám tổng quản, đem gởi lấy lãi. Đó mới là tiền. Hạnh Hoa Xuân còn có nhiều vàng nữa. Số vàng của nàng lúc đó đã tính được đến hai ba ngàn lạng. Ngoài bạc vàng ra, nàng còn thiếu gì hoa tai vành cánh bằng châu bằng ngọc. Giàu, ai cũng muốn và cứ tưởng hễ giàu là ai cũng phải luồn cúi mình. Hạnh Hoa Xuân đã lầm ở điểm này. Nàng có tiền, nhưng lại vừa keo kiệt, vừa bất cận nhân tình, thành thử chẳng ai thèm lui tới giúp đỡ

Ấy chính vì thế mà hôm loạn ly giặc giã, bọn cung nữ thái giám ai lo phận nấy, tìm đường trốn chạy, dù có biết cũng mặc kệ, chẳng thèm báo cho nàng hay. Sáng sớm tinh sương, nàng thức dậy thì có ngờ đâu hoàng đế đã ra đi, mọi vật xáo trộn không còn có thể hiểu nổi nữa.

Nàng giật mình hoảng sợ, và cũng lo cuốn gói theo. Nhưng lúc sắp lên đường nàng thấy một đám cung nữ, thái giám già hùng hùng hổ bổ xông vào phòng, rồi một tiếng gầm lên, tất cả đều động thủ. Trước hết, chúng thắt cổ cho nàng chết, mắt không kịp nhắm, miệng không kịp ngáp, chỉ hắt ra được mấy tiếng ặc ặc! Làm cái việc giết người xong, chúng làm thêm cái việc cướp của! Bao nhiêu vàng ngọc châu báu của nàng, vơ vét hết ráo. Thật đáng thương cho một kiếp đào hoa xinh đẹp như mộng, mà thây ma nằm quanh queo trên giường không chôn cất, để mãi cho đến rữa đến nát, ruồi bọ mang đi.

Số kiếp Hạnh Hoa Xuân đã thế, thì số kiếp Đà La Xuân cũng chẳng hơn gì. Nàng sống dưới một cái am nhỏ, lễ Phật, ăn trường chay, hoàn toàn trong trắng, không bận chút hồng trần. Người trong cung ai thấy nàng cũng lấy làm thương xót.

Ấy cũng nhờ vậy nên khi hoàng đế đã bỏ chạy lên Nhiệt Hà, nàng được viên tổng quản thái giám ngầm tới báo tin cho hay.

Từ khi bước chân vào cung. Đà La Xuân đã coi cái chết như vô nghĩa, bởi thế, khi nghe viên thái giám báo tin, nàng chẳng hề hoảng sợ, vẫn thản nhiên tụng kinh niệm Phật, gõ mõ điểm chuông. Bọn cung nhân và thái giám đã đi hết, nàng bỗng lại thấy một tên tiểu thái giám tới khuyên nàng nên chạy ra khỏi vườn, còn nói thêm cho nàng biết trong vườn chẳng còn ai tra xét, có thể yên tâm mà đi thẳng về nhà.

Đà La Xuân nghe nói có thể về nhà được, bỗng thấy xúc động, lòng nhớ cố hương dâng lên ào ạt. Thể là nàng gói ghém chút ít đồ đạc quần áo, theo gót tên tiểu thái giám ra khỏi am. Nàng bước qua từng khu vườn này tới dãy nhà khác, chỗ nào cũng vắng lặng quạnh hiu, khiến lòng càng thêm ảo não.

Nàng nghĩ thân phận mình: mẹ nàng thì đã vì thương nàng mà chết tại trong cung, còn nhà thì chẳng có mà về. Lúc này nàng mới cảm thấy mình bạc phận, nếu có ra khỏi vườn thử hỏi rồi đi đâu nương nhờ qua ngày đoạn tháng!

Nàng suy nghĩ vẩn vơ như vậy một lát rồi bỗng quyết định với một ý định liều lĩnh trong trí. Giữa lúc quyết định này chân nàng cũng vừa bước tới cây cầu Vạn Phương. Tên tiểu thái giám vô tình cứ lẹ làng bước tới phía trước. Nàng nhân lúc xuất kỳ bất ý, nhón đôi gót ngọc lao mình xuống đáy hồ dưới cầu. Một tiếng bùm vang lên trong cảnh tĩnh mịch của một khu nhà hoang vắng lặng, mặt hồ vừa bị xao động nay lại đã khép lại và phẳng lỳ như một tấm thảm xanh. Thế là một cánh hoa xinh tươi thơm ngát chỉ trong nháy mắt đã trớ thành héo hon tàn úa.

Trong vườn lúc này càng thê lương ghê rợn hơn, không một bóng người, không một luồng sinh khí, hoa chỉ thấy chập chờn vài cành cây khô trong đám cỏ rậm như những bóng ma.

Tên tiểu thái giám từ xa nghe một tiếng ùm trên mặt hồ, vội quay lại không còn thấy Đà La Xuân, biết đã xảy ra chuyện chẳng lành. Hắn vội quay lại, nhưng nàng đã gieo ngọc trầm châu biết nơi đâu mà tìm. Hắn chỉ còn biết nhìn vào mặt hồ mà bật lên tiếng nấc để tiễn đưa hồn của một cành hoa tuyệt thế nhưng bạc mệnh từ lúc mới ra đời.

Cái ngày Đà La Xuân chết chìm trong hồ nước chính là ngày thứ bảy trước khi vườn Viên Minh bị Ba Hạ Lễ đốt cháy rụi.

Than ôi! Cả một khu vườn bao la bát ngát, biết bao cung điện lâu đài ao hồ đều lộng lẫy xinh đẹp, chỉ trong chốc lát đã biến thành một nơi đồng trống, rải rác đống tro tàn và những cây cột cháy xém chớm chở trên mặt đất, bỏ mặc cho sương rơi gió hú lúc đêm trường.

Tin vườn Viên Minh ra tro báo tới tai Hàm Phong hoàng đế, khiến lòng ngài như lửa đốt. Bệnh ngài đó càng nặng thêm. Đã có đôi lần ngài ngất đi trên giường bệnh. Phi hầu đã có mấy phen giọt ngắn giọt dài.

Trong khi hoàng đế chết đi sống lại tại hành cung Nhiệt Hà thì liên quân Anh Pháp mưu tính tấn công Cấm thành.

Hiếu Trinh hoàng hậu được tin động trời này, hốt hoảng truyền dụ cho Cung vương mau mau nghị hoà với đối phương.

Giữa lúc nguy cấp này, có một viên thiếu tướng nước Nga tên gọi Phổ Tra Khâm nhận thấy đảy là một cơ hội thuận lợi nghìn năm một thuở cho mình: Cho nên Khâm tới khuyến cáo viên công sứ Nga tên là Y Cách Đa đứng ra điều giải giữa đôi bên để mở cuộc hoà nghị.

Cuộc hoà hội được tổ chức. Vẫn là hoà ước thời Đạo Quang, nhưng thêm chín khoản nữa. Nước Pháp cũng tăng thêm mười khoản nữa. Mở cửa Thiên Tân cho người ngoại quốc vào ra buôn bán. Bồi thường cho Anh một ngàn hai trăm vạn lạng bạc chiến phí. Bồi thường cho Pháp sáu trăm vạn lạng binh khí.

Hoà ước hội được đưa lên Nhiệt Hà. Hàm Phong hoàng đế vội triệu Thuỵ Hoa và Túc Thuận vào cung, thương nghị.

Hoa và Thuận vốn không ưa Cung vương đã từ lâu, cho nên khi nghe xong hoà ước liền nói:

- Giải quyết đại sự như vậy, thì hỏng bét rồi còn gì! Cứ theo hoà ước này, thử hỏi chúng ta còn gì nữa không?

Hàm Phong hoàng đế không có ý gì để quyết định lúc này. Nhân vì ngài thường vời Hiếu Trinh hoàng hậu và Ý quý phi tới bàn soạn triều chính hằng ngày, cho nên lúc này ngài cũng cho gọi tới để cùng bàn tính, Hiếu Trinh hoàng hậu vốn tính trung hậu, nay gặp chuyện đại sự này, nhất thời không dám có lời đoán định. Chỉ có một mình Ý quý phi tỏ ra can đảm, cứ thao thao bàn cãi. Nàng nói:

- Hiện nay quân giặc đã ở chân thành. Bọn ngoại quốc, nếu không được thoả mãn, ắt chẳng chịu thôi. Việc này thực ra thì hỏng đã từ đầu, do bọn khốn nạn Kỳ Anh, Ngưu Giám, Quế Lương, Hoa Sạ Nạp gây ra. Lúc đầu, kể ra cũng vẫn có thể giải quyết được. Nhưng tiếc rằng chúng toàn là một lũ hèn nhát sợ chết, nịnh bọn ngoại nhân, động tí thì xin hoà, cuối cùng mới sinh ra chuyện nguy khốn trầm trọng như ngày nay. Nay thiên tử mông trần ở bên ngoài, kinh sự nguy vong chỉ một sớm một chiều. Phía nam có bọn tóc dài gây hoạ. Phía bắc thì có bọn thổ phỉ lộng hành. Nội loạn lo chưa xong thì làm sao mà chu toàn được ngoại hoạ. Chi bằng ta xin Phật gia tuỳ cơ quyết đoán, chuẩn y hoà ước của chúng. Một là để cho ngoại binh sớm lui hai là để Phật gia xa giá sớm hồi loan dưỡng bệnh ở trong cung. Còn nếu cứ ở lại mãi nơi hành cung này thì thử hỏi chúng ta còn làm được gì hơn nữa chứ!

Một thiên đại luận này của Ý quý phi quả đã đánh trúng vào điểm yếu của Hàm Phong hoàng đế. Ngài ốm bệnh ở bên ngoài, ngày đêm chỉ mong trở về cung, do đó, ngài chuẩn y ngay ý kiến của Ý quý phi, phê ngay vào hiệp ước, một mặt ngài truyền dụ cho Cung vương sửa sang cung điện, bồi đắp lại thành quách.

Việc sửa sang, bồi đắp lại ròng rã đến mấy tháng, suốt từ đầu thu đến cuối đông mới xong. Liên quân Anh Pháp lúc đó cũng đã rút khỏi kinh thành. Cung vương lĩnh chỉ đưa hoàng thượng hoàng hậu xa giá về cung. Không ngờ Hàm Phong hoàng đế bỗng nổi cơn ho hen dữ dội khiến ngài nằm liệt tại hành cung, không đi lại được một bước.

Thế là cuộc hồi loan đành phải hoãn. Ý quý phi bế hoàng tử Đái Thuần sớm hôm hầu hạ bên giường bệnh của hoàng đế để lo liệu thuốc thang. Hàm Phong hoàng đế sau một cơn chạy loạn, nhìn thấy Ý quý phi săn sóc bên giường, nhớ lại tình xưa nghĩa cũ, quên luôn cả mối giận thuở trước, dần dần lại sủng ái nàng.

Ý quý phi thấy mình lại được sủng ái, dại gì bỏ mất cơ hội. Nàng bèn bỏ tiền túi của mình ra liên lạc với hai tên tổng quản họ An và họ Thôi ở trong cung. Nàng lại còn giao cho Thôi tổng quản bắt liên lạc ngầm với một người cháu ruột ở bên ngoài tên là Vinh Lộc.

Ý quý phi vốn có một người anh trai tên gọi là Quế Tường. Khi còn ở Thiên Địa Nhất Gia Xuân được Hàm Phong hoàng đế rất sủng ái, nói chi nghe nấy, nàng đã tìm cách đề bạt anh mình làm một viên kinh quan để thông tin trong ngoài cho mình. Nhưng Tường quả thực là một thứ ngốc có chuôi ra! Tuy làm kinh quan đấy, nhưng Tường chẳng hiểu một điều gì hết. Nàng thấy anh mình vô dụng, bèn thay đổi phương pháp, quyết đề bạt người cháu ruột Vinh Lộc.

Khác hẳn cha, Lộc vô cùng giao hoạt thông minh, Lộc có công danh rồi, liền chạy chọt khắp triều đình. Nhiều người thấy Lộc xuất thân trong gia đình được sủng ái, tự nhiên có một biệt nhãn đối với y. Thế là chẳng bao lâu, Lộc bò lên được cái ghế Mãn thượng thư. Với địa vị này, Lộc tất nhiên là đã có quyền và thế lớn. Thấy Cung vương là người thân tín của Hoàng thượng, Lộc tìm cách lân la giao thiệp, trong khi đó Cung vương quả chẳng bao giờ ngờ tới âm mưu của Lộc. Do đó Lộc và Cung vương thật hết sức ăn ý với nhau.

Thế rồi, ngày nay, Lộc lại được cô ruột mình sai Thôi tổng quản ra bắt liên lạc với mình, thực không còn gì tốt đẹp hơn.

Lộc vội vàng đem tài mình ra giúp cô ruột, liên lạc với Cung vương. Cho nên ít hôm sau, người ta thấy Cung vương trở thành một đảng với Ý quý phi.

Ý quý phi thấy vây cánh trong ngoài đã đủ, bèn nắm quyền trước hoàng đế. Hiếu Trinh hoàng hậu vốn là người ăn nói kém, cho nên hễ có sớ tấu gì đưa lên, bà đều giao cho Ý quý phi đọc cho hoàng đế nghe. Hàm Phong hoàng đế lúc này đã quá suy nhược, việc triều chính đều giao cho Hiếu Trinh hoàng hậu quyết đoán. Nhưng Hiếu Trinh hoàng hậu thấy Ý quý phi thông minh và tài cán hơn mình, lại đem hết mọi việc triều chính bàn soạn với nàng.

Đấy là lúc đầu, mãi về sau, Ý quý phi chấp cả hoàng hậu, độc đoán độc hành, phê đại vào các tờ sớ rồi mới đưa cho hoàng hậu xem.

Hiếu Trinh hoàng hậu không vui lòng, nhưng tính vốn không ham tranh quyền cướp vị, bà để mặc nàng tự ý giải quyết.

Bọn đại thần trong triều được tin Ý quý phi được quyền nghe việc triều chính, bèn gói ghém một vạn lạng bạc chạy vào ngõ hậu của bọn tổng quản thái giám An, Thôi, nhờ chúng đem vào hiếu kính nàng.

Ý quý phi đã nhận tiền người, tất nhiên phải vì ngươi mà làm ơn làm phước. Cũng có khi nàng nói tốt cho họ trước mặt hoàng thượng. Những lần đầu bất ngờ, hoàng đế quả đã không nghi ngờ gì nàng. Nhưng về sau, thấy nàng toàn nói tốt cho đại thần ngài bỗng sinh nghi, không còn tin nàng và cũng từ đó đã có ý chán ghét nàng.

Bệnh tình của Hàm Phong hoàng đế lúc này càng ngày càng thêm nặng. Ý quý phi biết ngài đã đến lúc nguy kịch rồi, bởi thế nàng nghĩ ngay tới địa vị tương lai của mình. Nàng bế hoàng tử Đái Thuần ngày nào cũng xúng xính trước giường bệnh của hoàng đế. Nàng nói:

- Phật gia chỉ có mỗi một hoàng tử. Sau việc bách niên, tương lai thảy đều do Đái Thuần thừa kế ngôi báu. Hiện nay các đại thần bên ngoài đều có chủ trương lập trưởng quân, tại sao Phật gia không nhân lúc này mà lập định thái tử, để tránh cho mẹ con tôi gặp phải trở ngại sau này?

Hàm Phong hoàng đế nghe đoạn, biết thâm ý của Ý quý phi, nhưng ngặt cái ngài chỉ có mỗi một hoàng tử, thì tương lai kế vị quyết không thoát khỏi tay con nàng. Do đó, ngài chậm rãi gật đầu, lại còn an ủi nàng không nên bận tâm làm gì, ngôi vị thái tử quyết về tay con nàng, và tất nhiên, nàng sẽ trở thành thái hậu.

Ý quý phi nghe Hàm Phong nói vậy, lúc đó mới yên tâm.

Bệnh của Hàm Phong hoàng đế là một chứng bệnh lao tổn, thân thể càng ngày càng còm đi, khô đi như con mắm, tinh thần càng ngày càng mệt mỏi yếu đuối. Tuy vậy, lòng ngài vẫn còn xét đoán minh bạch lắm. Trong lúc đau yếu ngài lặng lẽ theo dõi những hành động của Ý quý phi. Có lẽ ỷ thế mình phải là bà thái hậu nay mai, tính nàng đã thấy có vẻ hỗn xược kiêu căng... Thậm chí, có cả những trường hợp đấu khẩu với Hiếu Trinh hoàng hậu, không chịu nhường bước. Cũng có khi ngài thấy sớ tâu đưa lên, Ý quý phi không thèm bàn tính với Hiếu Trinh hoàng hậu, tự do độc đoán độc hành, phê ý mình vào tờ sớ rồi trả về.

Hàm Phong hoàng đế biết Ý quý phi rồi đây ắt quỷ quái tinh ranh lắm, bởi thế ngài vô cùng tức giận trong lòng. Lừa lúc nàng không có bên cạnh giường. Hoàng đế liền vời Túc Thuận lại bảo:

- Ý quý phi hỗn xược quá đỗi, nếu để thị lại, tương lai hoàng gia thế nào cũng bị hại lớn. Trẫm đã định lúc trẫm còn sống đây, hãy cho hắn một cái chết, để trừ hại mai hậu cho nơi cung cấm.

Túc Thuận nghe xong, giật nảy mình, chỉ còn có nước cúi mọp xuống đất, đập đầu nghe coong coong, miệng chẳng thốt được lời nào. Ngừng một lát, hoàng đế lại nói:

- Nếu không trẫm sẽ để lại di chiếu, rồi sau khi trẫm chết, triều đình đem Ý quý phi ra tuẫn táng.

Hiếu Trinh hoàng hậu vốn người trung hậu, nghe hoàng thượng nói vậy, ngẫm lại thương thay cho Ý quý phi, bà cầu ơn đến mấy lần ở hoàng đế. Bà nói:

- Ý quý phi sinh hạ hoàng tử, mẹ sở dĩ quý được là nhờ con. Xin vạn tuế gia đặc ân, tha cho nàng đôi phần. Nếu vạn tuế gia cho nàng được chết, về sau hoàng tử lên kế vị, truy niệm sinh mẩu, hỏi còn làm người cách nào?

Hiếu Trinh hoàng hậu nói đoạn, lệ tuôn ròng ròng trên gò má.

Hồi 142

TÊN THÁI GIÁM HÀO HOA

Hiếu Trinh hoàng hậu đem hết lời lẽ chân thành để cứu Ý quý phi khiến Hàm Phong hoàng đế cũng phải cảm động.

Ngài nói:

- Vậy, nể mặt hoàng hậu, trẫm sẽ tha chết cho nàng. Ý quý phi vốn người thâm hiểm, điêu xảo. Trẫm chết rồi, không ai có thể chế ngự được nàng đâu. Chỉ còn cách trẫm viết lại tờ di chiếu, khiến nàng không dám lộng hành nữa.

Nói đoạn, ngài cố gượng ngồi dậy, bảo Túc Thuận đem bút nghiên lại, rồi cất tay run run viết di chiếu:

"Nay trẫm tư cho Hiếu Trinh hoàng hậu: Ý quý phi nhờ con mà được phú quý, không thể nào không tôn lên làm thái hậu. Tuy nhiên, nàng không phải là người có thể tin cậy. Cho nên, bất cứ việc gì, hậu cũng phải quyết đoán lấy. Nếu nàng chịu an phận thủ thường, không có điều chi lầm lỗi: ắt trước sau đều xứng với ân lệ. Nhưng nếu nàng rắp tâm làm bậy, hậu hãy triệu họp đình thần, đem ý chỉ này của trẫm tuyên bố và lập tức giết đi, để tránh hậu hoạ. Khâm thử".

Viết xong tờ di chiếu, Hàm Phong hoàng đế gọi hoàng hậu tới cạnh giường, ký tên vào; lại gọi cả Túc Thuận cùng ký tên vào. Xong xuôi rồi, ngài giao cho hoàng hậu giữ.

Hiếu Trinh hoàng hậu đang định cất đi, bỗng lại quay lại trả cho hoàng đế và tâu:

- Tờ sớ này cũng truyền báo cho ngoại thần. Vậy xin cho mời Cung thân vương tới đây ký tên vào luôn. Tương lai nếu có chuyện gì xảy ra, ắt có trong, có ngoài hưởng ứng.

Hàm Phong hoàng đế, nghe đoạn cũng cho rằng phải: thế là ngài truyền dụ tìm Cung thân vương Dịch Hàn hoả tốc tới hành cung. Hàm Phong hoàng đế một mặt cất tạm tờ di chiếu dưới gối.

Đến hồi này Ý quý phi đã bố trí được đầy đủ tai mắt bên cạnh hoàng đế. Nàng thấy ngài đối với mình ngày một lãnh đạm, trong lòng đã thấy lo. Vì thế nàng dặn dò hai tên tổng quản An và Thôi lưu tâm xem xét động tĩnh.

Rồi hôm đó, hoàng thượng cùng hoàng hậu, Túc Thuận mật nghị trong phòng. Thôi tổng quản đứng ngoài cửa sổ cũng nghe được một vài điều, tiếc phải cái không dám đứng lâu, sợ có kẻ nhìn thấy. Do đó, những lời nói của hoàng đế, hắn nghe không được trọn, nhưng dù sao, hắn cũng cho rằng bất lợi cho Ý quý phi. Thế là hắn vội vàng ba chân bốn cẳng phi báo ngay cho nàng hay.

Ý quý phi lo sợ quá nhất thời chẳng đoán ra được chuyện gì. Lòng nàng như lửa đốt, nàng chẳng nhắm mắt được đến mấy đêm liền. Nhưng may cho nàng một cơ hội tốt đã tới.

Hoàng đế ốm lâu ngày, liệt giương liệt chiếu, mình gầy như con mắm, cảm thấy nhức mỏi quá đỗi. Do đó, ngài nghĩ tới chuyện tẩm quất cho thân thề giãn xương giãn thịt. May thay, cái nghề tẩm quất này, viên ngự y họ Lục cũng biết.

Thế là Lục được đưa vào ngự phòng hè huyệt đấm kỹ cho ngài. Có lẽ họ Lục nghệ thuật còn dở dang, nên hoàng đế vẫn thấy nhức mỏi, chẳng thoải mái được chút nào.

Viên tổng quản thái giám vội đi gọi một tay đấm bóp trứ danh hơn. Hắn là tên thái giám Lý Liên Anh. Anh quả thật là một tay cự phách trong làng này. Hắn được học chân nguyên, nên sờ đến đâu là hoàng thượng mát đến đó, đấm đến đâu là ngài rên hừ hừ tới đó. Gân cốt của ngài như giãn ra hết, các bộ phận trong người ngài tự nhiên như được tiêu tan hết mọi đau nhức mỏi buồn.

Khi Lý Liên Anh tẩm quất ngực, thì hoàng đế chịu quá, ngài "khì" từ thuở nào! Thế là từ đó, đôi bàn tay thần diệu của Anh có thể còn hơn cả sâm cả nhung, đối với hoàng đế. Chỉ cần một hôm, anh ta đã được hoàng đế khoái, rồi cưng lại chiều nữa.

Cứ mỗi ngày, Hàm Phong hoàng đế ít ra cũng truyền gọi Lý Liên Anh một lần, nếu không là chân tay ngài bải hoải, tinh thần bần thần, mặt mày ngài xám ngoét lại. Lý Liên Anh vốn người khôn ngoan, tinh quái. Đợi lúc hoàng đế thiêm thiếp ngủ say, hắn mới từ từ đưa mắt nhìn chung quanh phòng để quan sát tình hình. Hắn nhác thấy một tờ giấy lòi ra một góc dưới gối, trong đó có một câu: "Nàng không phải là người có thể tin cậy". Hắn liền đoán tờ giấy này ắt phải có điều quan trọng đối với một kẻ nào đó. Hắn phân vân một lát, nhưng bỗng hắn nghĩ tới Ý quý phi. Hắn tự hỏi: phải chăng nội dung tờ giấy nọ nói về Ý quý phi?

Nghĩ như vậy rồi, hắn đánh bạo đưa tay khẽ kéo tờ giấy ra xem. Thế là bao nhiêu ý, bấy nhiêu lời trong tờ di chiếu, hắn đọc hết và đã nhớ hết trong bụng. Giữa lúc đọc tờ di chiếu, hắn không ngờ đằng sau hắn cũng có một người đang nghển cổ đọc theo. Người đó chính là Thôi tổng quản. Thôi và Anh vốn cùng một giuộc thì có lo gì, cho nên Anh chẳng để ý tới, mà chỉ định đánh cắp tờ di chiếu.

Bỗng Hiếu Trinh hoàng hậu bước vào phòng. Thôi tổng quản đứng đằng sau, thấy trước, vội lấy mũi giày khe đá một cái vào đít Anh báo hiệu, Anh giật mình đánh thót, vội lấy chiếc khăn tay phủ tờ di chiếu lại, rồi lui ra ngoài vội chạy đi báo Ý quý phi.

Nguyên Lý Liên Anh chính là người thân tín nhất của Ý quý phi. Anh vào cung tuy chưa có bao ngày, nhưng rất được nàng sủng ái và tín dụng. Anh người Hà Giang, đi học nghề trong một cái quán do đó mọi người cứ gọi hắn là...

Anh nhà nghèo mạt, hiền hậu nhưng bữa ăn không đủ no. Tại vùng Hà Giang có rất nhiều người làm thái giám trong cung. Nhà Thôi tổng quản lại ở ngay bệnh cạnh nhà Anh, thành thử đôi bên là láng giềng của nhau. Đã nhiều lần, Thôi về nhà, mang theo vàng bạc nhiều lắm. Anh thấy mà mê. Thôi còn kể lại cho Anh nghe trong cung thú vị như thế nào, thế lực ra làm sao, đủ mọi thứ hấp dẫn mê ly.

Anh lúc này mới có mười sáu tuổi, nhưng hắn là con người dám làm. Anh nghe Thôi nói xong, liền dối cha mẹ, đem cắt luôn cái "của quý" để thực hiện mộng giàu sang của mình. Không ngờ, Anh đau quá, đau đến mê đi, ngã lăn quay trên vũng máu tưởng chết.

Cha mẹ Anh hoảng hồn bạt vía, vội chạy đi mời ông lang dùng thuốc để cầm máu mới hết chảy. Anh nằm luôn một lèo ba, bốn tháng lúc đó mới bình phục.

Khỏe khoắn bảnh bao như thường rồi, Anh mới vào Kinh tìm tới nhà Thôi tổng quản, cầu xin đưa vào cung làm một tên tiểu thái giám. Thôi tổng quản giữ Anh ở lại nhà chờ cơ hội. Mấy hôm sau, may thay Ý quý phi cần mướn một tên thái giám trẻ ở trong phòng, để sai vặt lau chùi quét tước và chải đầu búi tóc cho mình. Cơ hội tới, Thôi tổng quản đưa ngay Anh vào cung. Ý quý phi thấy Anh mặt mũi bảnh bao nói năng lại hoạt bát nên có ý thích. Nàng gọi Anh chải đầu búi tóc. Thực là một dịp tốt để cho Anh trổ tài. Anh vốn là một tên trai trẻ khéo chiều chuộng đàn bà đến cái mức vô địch. Bên cạnh những tấm thân ngà ngọc, Anh vuốt ve êm dịu. Anh nịnh nọt vô cùng khéo léo và được lòng hết cả giới yếm khăn.

Đã sẵn cái tài ấy, Anh lần đầu được Ý quý phi cho chải đầu búi tóc. Do đó Anh hết sức thận trọng trong khi làm việc. Ý quý phi vốn rất quý mái tóc của mình, chỉ sợ hư tóc hoặc hỏng mất da đầu. Anh biết thế bèn dùng hết cái khéo của đôi tay nâng niu mái tóc của nàng, lúc chải chuốt, lúc ve vãn tuyệt nhiên không có một cử chỉ nào khiến nàng bực bội không vừa lòng.

Đầu Ý quý phi chải xong, không một sợi tóc rụng, không một mảy da đầu bị sầy xước. Đến lúc búi thì lại còn là một nghệ thuật, mấy ai đã được biết để điểm tô. Ý quý phi soi vào gương sướng đến điên người. Lòng nàng càng khoái thì đầu nàng càng muốn thay đổi. Cứ mỗi ngày nàng đổi kiểu một lần. Tóc càng thay đổi, tài nghệ của Anh càng nồi bật. Lần nào chải cũng vậy, Ý quý phi đều thấy đầu mình mới đẹp lạ lùng.

Cứ mỗi lần có cái đầu mới, Ý quý phi lại có một cái mới để dành riêng cho mái tóc của mình lần đó. Lý Liên Anh quả khéo vẽ ra những cái tên khá kỳ khá thú: hôm nay thì là đầu Giàu sang chẳng dứt (phú quý bất đoạn đầu), ngày mai thì lại đầu Thiên hạ thái bình. Rồi ngày mốt thì là đầu Hoà khí một đoàn. Rồi ngày mốt mốt nữa thì lại là đầu Long phượng song hỉ, hoặc là đầu Cát lợi...

Ý quý phi có cái tính kỳ lạ là rất khoái hai tiếng "cát lợi". Nay nghe nói tới cái đầu Cát Lợi thì còn gì thích cho nàng hơn.

Lý Liên Anh lại còn một cái tài đặc biệt nữa, tài ăn nói. Cứ mỗi lúc rảnh việc Anh lại đem những chuyện cũ nơi đồng quê xóm cũ ra kể. Đây cũng còn là một cái khoái của Ý quý phi. Kể chuyện cổ đối với nàng quả là một chuyện cần thiết nữa là khác. Bởi thế cứ mỗi lúc buồn chẳng có gì làm, nàng lại cho gọi Anh vào phòng mình để kể chuyện.

Cái tên Lý Liên Anh quả thật nhiều chuyện. Ngày nào cũng kể chuyện, hết chuyện này tới chuyện kia, thế mà chẳng bao giờ hết. Anh tính lại rất thông minh. Bất cứ một chuyện tiếu lâm nào, Anh cũng nhớ để kể, mà cứ, hễ kể là tức cười ngay. Cứ môi lần chọc cười, Anh làm cho Ý quý phi cười đến lệch giường lệch chiếu, cười đến chảy nước mắt, cười đến són ra quần. Tiếng nàng cười lên khi thì như nắc nẻ, khi thì như cả một cái thác đổ dồn, nàng cười đến ngất đi, đến lịm đi.

Có lúc hứng nổi lên từng cục, nàng đỏ mặt tía tai, bọt mép đổ ra, giơ đôi tay ra đấm thùm thụp vào lưng vào vai Anh, miệng thì rủa:

- Thằng quỷ ổi! Thằng quỷ!

Lý Liên Anh lại còn cái tài lạ nữa là có một bộ xương da vô cùng hấp dẫn. Tha hồ cho quý ông quý bà đấm đánh chửi bới. Anh vẫn cười, vẫn tươi. Bởi thế những lúc sầu khổ tức giận của đời mình, Ý quý phi đều phải nhờ Anh đến tiêu sầu giải muộn cho.

Nhưng cái tuyệt kỹ khiến thiên hạ mê ly nhất là Anh có một giọng hát vô cùng hấp dẫn. Bất luận điệu hát nào từ Nam cho đến Bắc, nào điệu vui điệu buồn, nào điệu quê điệu kính, Anh đều hát được cả. Tiếng hát của Anh lại còn du dương uyển chuyển, chỉ cần nghe qua là ai nấy đầu say, đều mê cả.

Chuyện ca hát vốn là cái thích độc nhất của Ý quý phi. Nàng thích hát, thích nghe hát xem tuồng. Bởi thế tài hát của Anh quả rất hợp vị với nàng. Thế là từ ngày có Anh bên cạnh, nàng có thêm một cái thú cố hữu trong dòng máu, lúc thì ngồi nghe Anh ca một vài điệu kinh lả lơi tình tứ, khi thì ngồi học một vài điệu quê tuy chất phác nhưng vui cười. Cũng có khi nàng đồng ca với Anh vang động cả một khu nhà, khu vườn.

Lý Liên Anh tuy còn nhỏ nhưng rất giỏi tâm lý, nhất là tâm lý đàn bà. Cứ hễ người đàn bà nào gặp phải nghịch cảnh hoặc niêm đau khổ, dù bí ẩn đến bực nào, Anh cũng có thể tìm ra được. Cho nên khi nói chuyện với bọn cung nữ bất cứ cô nào, Anh cũng nói trúng tâm lý phong phóc. Do đó đám cung nữ từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên cô nào bà nào cũng đều có mỹ cảm đối với Anh.

Nói đến một cái tài mọn nữa nhưng quan trọng chẳng kém các tài trên của Anh, ta phải nói tới tài "đấm bóp". Quái lạ nhất là cứ mỗi khi được Anh đấm bóp cho thì bất cứ ai cũng thấy toàn thân mình sướng quá, tinh thần thoải mái đến cực độ đến mức mắt miệng gì cũng đều nhắm ngậm lại hết. Tên thái giám oắt con, chưa ráo máu đầu mà được thiên hạ quý mến rồi!

Đối với Ý quý phi thì những cái tài trên của Anh nhất định phải là những tài siêu việt của các bậc siêu nhân xưa nay chưa từng thấy. Đấy là lý do khiến nàng sủng ái Lý Liên Anh đến kinh khủng. Nàng sủng ái Anh đến cái độ ép hắn phải ở lại với mình suốt đêm, nằm chung giường với mình nữa. Những lúc thức giấc trong đêm khuya thanh vắng, nàng lại gọi Anh dậy để trò chuyện tán gẫu. Cái tên Anh quả khôn ngoan rất mực. Hắn khéo chiều ý nàng, đối đáp mọi lẽ đều đẹp lòng nàng, khiến hắn cũng đôi lần phải nhận rằng mình quá là một "cục cưng" của nàng.

Ý quý phi sủng ái Lý Liên Anh đến độ dần dần lạnh nhạt đối với Thôi tổng quản. Thấy được sủng ái, Anh cũng tỏ lòng cảm kích và nhớ ơn Ý quý phi. Hắn thường đưa ý kiến để giúp đỡ nàng.

Bởi thế nên khi thấy tờ di chiếu của hoàng đế có hại cho nàng, Lý Liên Anh vội chạy đi báo cho nàng hay. Ý quý phi nghe xong nhất thời quả chưa tìm ra mưu chước để đối phó.

Nàng chỉ còn cách ngày ngày đưa hoàng tử ngồi ở trước giường, mượn tiếng săn sóc hầu hạ lúc hoàng đế bệnh tình trầm trọng để dò xét những cử động của Hiếu Trinh hoàng hậu.

Cung thân vương Dịch Hàn hồi này đã tới hành cung cho nên cũng có ký tên trên di chiếu. Thực ra thì vương đã lén gia nhập đảng của Ý quý phi từ lâu rồi. Bởi thế vương lẻn tới thông tin cho Vinh Lộc, trong khi đó ở một chỗ bí mật khác cả một bọn đại thần như đại học sĩ Túc Thuận, Trịnh thân vương Đoan Hoa, ngự tiền đại thần Ngạch Phó Cảnh Thọ, quân cơ đại thần thượng thư Binh bộ Mục Ấm, Lại bộ tả thị lang Khuông Nguyên, thự Lễ bộ tả thị lang Đỗ Hán, thái bộc tự thiếu khanh Tiêu Hựu Doanh, ngày ngày chụm đầu lại bàn tính ráo riết chỉ sợ trong tương lai Ý quý phi ỷ thế lực của con mình làm lớn mà thao túng quyền hành. Bởi thế cả bọn quyết định đợi khi Hàm Phong hoàng đế mất rồi khuyên Di thân vương là Tải Viên lên nối ngôi hoàng đế.

Tải Viên biết rõ Ý quý phi sinh một hoàng tử, thế mà mình cưỡng đoạt ngai vàng, chỉ sợ quần thần bất phục. Bởi thế Viên bèn nói thác ra là hoàng tử còn nhỏ tuổi, đương kim hoàng đế có di chiếu sai mình làm Giám quốc nhiếp chính vương.

Bọn Túc Thuận nghe ý kiến của Viên chẳng ai trả lời, nhưng biết làm sao hơn. Thế là việc nối ngôi này đành ném đó, bàn không xong.

Hàm Phong hoàng đế chết! Ngài chết trong điện Yên Ba Trì Sảng. Bọn Túc Thuận lúc đó không làm cũng không xong, thế là tự xưng mình làm Tán tương chính vụ đại thần loan truyền Đại hành hoàng đế có di chiếu lập Di thân vương Tải Viên làm tự quân, đổi niên hiệu là Kỳ Tường năm thứ nhất. Lại truyền dụ cho bọn kinh ngoại vương (vương ở ngoại kinh đô) và đại thần, nhất là Cung vương, Vinh Lộc hãy ở lại, bất tất phải đi đưa đám tang bởi vì bất nhật sẽ đưa linh cữu về kinh.

Ý quý phi lúc này cung đã liệu biết mưu đồ của Túc Thuận, nên khi hoàng đế mất nàng thu lấy và cất đi ngọc tỷ truyền quốc (cái ấn).

Quả nhiên Túc Thuận tiến cung hỏi về chiếc quốc tỷ ở Hiếu Trinh hoàng hậu. Hoàng hậu thấy bọn Túc Thuận kéo tới một cách dữ tợn, chỉ sợ có chuyện xảy ra, Hậu bèn giúp Ý quý phi nói dối Thuận là chiếc ngọc tỷ truyền quốc đã bị Lục vương gia lấy mang về kinh rồi.

Túc Thuận nghe nói chiếc quốc tỷ không còn ở hành cung liền chạy vội về kinh. Ý quý phi thấy việc đã đến lúc nguy ngập liền bế hoàng tử Đái Thuần quỳ trước mặt Hiếu Trinh hoàng hậu cầu xin bà cứu giúp.

Hiếu Trinh hoàng hậu thấy Ý quý phi vừa nói vừa mếu, tình cảnh thật đáng thương. Bà cũng nghĩ rằng nàng sinh ra hoàng tử về sau thế nào cũng kế thừa đại thống. Bởi thế bà chạy lại đỡ dậy, miệng hứa sê giúp.

Thế là Ý quý phi viết ngay một tờ chiếu đóng dấu ngọc tỷ lên trên rồi lẻn đưa cho viên tổng quản thiện phòng là Hỉ Lưu ngay đêm phi chạy lẹ về kinh giao cho Thuần vương, Cung vương, Vinh Lộc ba người thân tín của mình và đặn họ theo kế mà hành động.

Bọn Túc Thuận muốn giữ Hậu, Phi hai bà lại Nhiệt Hà còn đích thân mình đưa tử cung (linh cữu) về kinh. Nhưng khổ cái là Hiếu Trinh hoàng hậu không chịu. Thuận chẳng còn cách gì hơn đành phải mời Hiếu Trinh hoàng hậu cũng như cả đoàn người đưa linh cữu về kinh cùng mình một lượt.

Hồi 143

CUỘC ĐẤU TRÍ GIŨA TÚC THUẬN VÀ TỪ HI THÁI HẬU

Thâm ý của Túc Thuận lúc này là đưa linh cữu nhà vua về kinh trước đã rồi mới đòi quốc tỷ ở Cung thân vương và lập Di thân vương Tải Viên làm hoàng đế. Nhưng Thuận không ngờ rằng Hiếu Trinh hoàng hậu đã đoán biết kế sách của y nên quyết không để cho y một mình về kinh trước. Hậu còn buộc phải cho Ý quý phi cùng đưa linh cữu về kinh, Thuận chỉ còn cách là nghe theo.

Thuận bèn mưu ngầm với Đoan Hoa sai đoàn thị vệ của Di thân vương phao tin hộ tống Hậu, Phi hai cung nhưng kỳ thực định tới nửa đường đột nhiên hạ thủ giết chết cả hai mẹ con Ý quý phi rồi chỉ đưa mình Hiếu Trinh hoàng hậu về cung mà thôi.

Không ngờ Ý quý phi cũng đã liệu được mưu này của Thuận, nên khi Hỉ Lưu đưa chiếu thư về kinh thì bà đã có dụ sai Vinh Lộc đem bốn ngàn cấm binh tới Nhiệt Hà để bảo hộ ấu chúa.

Linh cữu vừa ra khỏi thành thì từ xa người ngựa của Lộc đã ùn ùn kéo tới. Thấy cả một chi cấm binh đến bảo vệ mẹ con Ý quý phi, Thuận bực mình và băn khoăn lắm. Vinh Lộc lại luôn kèm sát Ý quý phi, nửa bước chẳng rời, không cho Thuận một cơ hội nào để hạ thủ. Song Thuận vẫn còn hy vọng rằng nếu tự mình đem vệ binh về sớm hơn một ngày thì vẫn có thể giả thác di chiếu của tiên đế, phế bỏ danh hiệu Ý quý phi, không cho ấu chúa vào thành rồi cứ đưa Tải Viên lên ngôi hoàng đế. Đến lúc đó gạo đã thành cơm lo gì Ý quý phi phụng chiếu hay không phụng chiếu nữa Đoàn người đưa linh cữu ra khỏi hành cung. Túc Thuận dẫn đoàn vệ binh đi sau linh cữu. Hiếu Trinh hoàng hậu và Ý quý phi ngồi xe đi sau đoàn quân của Thuận. Còn Vinh Lộc chỉ huy cấm quân bảo vệ lưỡng cung đi sau cùng.

Thấy bóng kinh thành với ngọn cờ bay phất phới xa xa, Ý quý phi vốn đã liệu trước âm mưu của Túc Thuận nên khi tới quán dịch liền bàn tính với Hiếu Trinh hoàng hậu kế hoạch đối phó. Thế là một hậu một phi liền được thay thế bằng hai tên cung nữ cải trang giống hệt ngồi thế vào xe còn hai bà thuê vài cỗ xe nhẹ, đi nhanh, có một chi quân của Lộc ngầm theo bảo vệ, vượt đường nhỏ lên trước linh cữu rồi phóng nhanh về kinh trước.

Về tới cung, Ý quý phi lúc này cờ đã đến tay liền cho gọi ngay Cung vương, Thuần vương, đại học sĩ Châu Tổ, Bồi Quế Lương, Hộ bộ tả thị lang Văn Tương, hữu thị lang Bảo Quân, hồng lô tự thiếu Khanh Tào Dục Anh, tất cả một bọn đại thần tâm phúc vào cung để mật nghị.

Ý quý phi cũng đưa chiếc truyền quốc tỷ cho bọn đại thần thấy rõ nghị định đưa ấu chúa Đái Thuần lên ngôi hoàng đế cải niên hiệu là Đồng Trị nguyên niên. Tất cả mọi việc đều xếp đặt đâu đấy trước cả!

Qua ngày hôm sau Cung thân vương phái một đại đội người ngựa tới đóng dọc suốt một giải của Đại thạch môn để chuẩn bị đón linh cữu, mặt khác sửa soạn đèn đuốc màn trương đàng hoàng tại điện Thái Hoà-làm như nơi để phụng an linh cữu cho bá quan vào hành lễ.

Sang ngày thứ ba, Di thân vương Tải Viên cùng Đoan Hoa vào thành trước. Hiếu Trinh hoàng hậu sai người tuyên đọc chiếu thư cho Viên và Hoa nghe. Hoa lớn tiếng nói:

- Bọn tôi chưa từng vào thành. Vậy chiếu thư từ đâu mà có.

Cung vương nói:

- Hiện có truyền quốc tỷ tại nơi đây!

Di thân vương cũng nói:

- Tiểu vương vâng di chỉ của tiên đế giám quốc nhiếp chánh. Hiện nay hoàng tử còn nhỏ nếu không có ta chấp thuận thì dù có thái hậu, quý phi thảy đều không có quyền triệu kiến thần công...

Giữa lúc Di thân vương đang còn muốn nói nữa thì Vinh Lộc xuất hiện lớn tiếng quát:

- Thái hậu có chỉ bắt trói ngay hai tên kia lại cho ta?

Lệnh quát vừa dứt thì đá có một đám vệ binh nhảy lên bắt lấy. Mấy tên khác cũng xông lại lột ngay áo mão của Viên và Hoa keo thốc ra ngoài cửa Long Tôn môn, tống ngay vào nhà lao của Tôn nhân phủ giam kỹ lại.

Trong lúc tại Kinh đã xảy ra việc bất ngờ này thì Túc Thuận vẫn còn trên đường hộ tống linh cữu vua tuyệt nhiên không biết gì! Tới Mật Vân, Thuận cho tạm nghỉ lại.

Thuần vương mật triệu Đại tướng tử và Đại văn tử của dinh thần cơ ngày đêm đi gấp tới Mật Vân để bắt Thuận.

Thuận lúc đó đang nằm trong phòng ngủ, hai tay ôm hai bà như ý phu nhân, ngáy tựa bò rống.

Khi quân binh của Thuần vương vây kín phòng ngủ, Thuận mới choàng tinh dậy, quát tháo, buông lời chửi bới om sòm...

Đám binh sĩ đập phá cửa phòng nhất tề xông vào trói gô Thuận lại rồi xích chân xiểng tay đưa về giam tại nhà lao Tôn nhân phủ.

Thanh toán xong bọn địch thủ, lúc đó lưỡng cung hoàng thái hậu mới cùng Đồng Trị hoàng đế mặc đồ tang phục ngồi trên tố xa có bạch mã kéo, xuất Hoàng thành do cửa lớn để đưa linh cữu vào thành và phụng an tại điện Thái Hoà.

Hành lễ xong, lưỡng cung hoàng thái hậu đưa Đồng Trị hoàng đế lên điện chịu trăm quan triều hạ. Sau đó, hoàng đế hạ chỉ dụ định tội bọn Túc Thuận, Đoan Hoa và Tải Viên, lời lẽ như sau:

"Tải Viên, Đoan Hoa, Túc Thuận kết đảng làm điều gian, chuyên quyền ngang ngược, tự ý giáng nhiều chỉ dụ tuyên thị trong ngoài. Kíp đến ngày mười bảy tháng bảy hoàng khảo (vua cha) băng hà, chúng lại cũng dám tự xưng mình là Tán tương vương, Tán tương đại thần. Thực ra thì lúc kịch bệnh sắp lâm chung, hoàng khảo xuống dụ thẳng cho bọn Tải Viên lập trẫm làm hoàng thái tử chứ tuyệt nhiên không có cái dụ gọi là dụ Tán tương chính sự bao giờ. Lạm dụng danh hiệu Tán tương ấy, Tải Viên tự chuyện mọi việc chẳng thèm thỉnh chỉ. Thậm chí lưỡng cung hoàng thái hậu diên dụ cho hắn nhiều việc mà hắn cũng cả gan trái lệnh, chẳng thi hành. Ngự sử Đổng Nguyên Thuần tâu xin hoàng thái hậu rủ rèm nghe chính đấy là việc nên làm. Thế mà bọn Tải Viên chẳng những tự chuyên sửa đổi chi dụ lại còn dám không nghe lệnh của hoàng thái hậu khi triệu chúng tới trước mặt có Doãn Đằng lúc đó đang tương tán trẫm cung. Doãn Đằng thỉnh hoàng thái hậu xem các sớ tấu, thế mà chúng cũng dám gầm thét om sòm, quả thực là không còn vua chúa nào nữa. Những tình trạng như vậy không thể một lúc mà nói hết được, nhiều lần chúng lại còn bảo thân vương không thể triệu kiến được, đấy là cái ý ly gián của chúng. Bao điều vừa kế chính là những tội trạng của bọn Tải Viên, Túc Thuận, Đoan Hoa đó.

Riêng tên Túc Thuận còn dám ngồi vào ngai vàng của trẫm. Mỗi khi vào nội đình (trong cung vua) để làm việc hắn ra vào tự do trước mặt, quả là không còn pháp kỷ gì nữa. Hắn chuyên dùng những đồ đạc ngự dụng trong hành cung. Rồi những khi truyền lấy đồ đạc để dùng thì hắn lại chống đối, không tuân chỉ. Hắn còn tự ý chia tách lưỡng cung hoàng thái hậu. Lúc triệu tới đối chất, lời lẽ của hắn tỏ ra dìm bên này má nâng bên kia, chủ đích chỉ để gây chuyện oán thù lẫn nhau.

Phàm bất cứ tội trạng nào cũng đều phải kính qua mẫu hậu hoàng thái hậu và thánh mẫu hoàng thái hậu rồi các vị nghị chính vương, quân cơ đại thần cứ theo từng điều khoản mà liệt kê xong mới truyền xuống cho hội đồng các vương công đại thần biết. Nay căn cứ vào sự án luật nghị tội của hội đồng Vương Công đại thần, thì bọn Tải Viên phải đem ra lăng trì xứ lý. Bởi thế phải tức khắc triệu kiến Nghị chính vương Dịch Hân, quân cơ đại thần Hộ bả tả thị lang Văn Tường, Hữu thị lang Bảo Quân, hồng lô tự thiếu khanh Tào Dục Anh, Huệ thân vương, Chuẩn thân vương Dịch Tung, Thuần thân vương Dịch Hoàn.

Chung quân vương Dịch Hợp, Phu quân vương Dịch Huệ, Duệ thân vương Nhân Thọ, đại học sĩ Cổ Trình, Châu Tổ Bồi, Hình bộ thượng thư Miêu Lâm, tất cả đều phải tới để được rõ về tội của Tải Viên, không ai được kiếm một cớ lý nào để thoái thác. Nay cứ theo sự xác nhận của toàn ban đại thần rằng bọn Tản Viên, Đoan Hoa, Túc Thuận ngang ngược, không chịu thán phục, đều thuộc tội đại ác đến cùng cực, đối với quốc pháp không thế khoan hồng, đồng thời cũng không thế có ý gì khác được.

Tuy nhiên trẫm nghĩ tới bọn Tải Viên đều thuộc dòng tôn thất riêng Tải Viên lại là cố mệnh đại thần, nhất định được điều khoan hồng. Song cái điều mà y tự nhận mình là Tán tương chính vụ thì hoàng khảo (vua cha) đâu có cái dụ ấy.

Bởi thế, nếu không trị tội y nặng nề, thi biết lấy chi đáp lại lòng phó thác của hoàng khảo, hơn nữa biết lấy gì tô điểm thêm cho pháp kỷ để chỉ rõ cho muôn đời về sau. Do đó, phải chiếu theo ngay lời nghị tội toàn ban đại thần mà lập tức lăng trì xứ tử. Có thề, mới xứng với cái tội đã gây ra. Song pháp luật của quốc gia còn có nhưng điều khoản nghị thân và nghị quý để đến phút chót còn có thể giám khinh. Trong trường họp hoàn toàn không thể khoan thứ, trẫm chỉ còn có thể miễn cho tội đem ném ra ngoài chợ. Mà Tải Viên, Đoan Hoa chỉ phải theo lệnh tự tận mà thôi. Vậy phải sai ngay Túc thân vương Hoa Phong, Hình bộ thượng thư Miếu Lâm tới căn nhà không trong Tôn nhận phủ lập tức truyền chỉ bảo chúng tự vận. Việc quyết định này bất quá chỉ là vì quốc thể mà làm chớ chẳng phải trẫm có tư ý gì với bọn Tải Viên, Đoan Hoa.

Còn đến Túc Thuận, thì cái âm mưu bội nghịch còn ghê gớm hơn cả bọn Tải Viên. Tội đó chính là tội phải đem lăng trì xử tử chỉ để làm sáng tỏ phép nước và khoái nhân tâm.

Song lòng trẫm có chỗ bất nhẫn, vậy trẫm gia sớ cho được sửa lại làm tội trảm lập quyết (tội chém ngay).

Vậy phải sai ngay Duệ thân vương Nhân Thọ, Hình bộ lư thị lang Tải Linh, tới pháp trường, giám thị cuộc hành trình đế làm điều răn cho những tên đại nghịch bất đạo.

Lại đến Cảnh Thọ, hắn là một vị quốc thích, ấy thế mà mồm câm như hến, không nói một lời. Sau đó, bọn Mục Âm, Khuông Nguyên, Đỗ Hàn, Tiêu Hựu Doanh, đứng trước sự cướp đoạt quyền chính của Tải Viên mà không thể lực tranh, thì đó đều thuộc bọn người có ân nịch chức. Mực Âm vốn là một quân cơ đại thần chức việc đã lâu, ngôi vị ở trước mọi người, tội tình lại càng nặng hơn. Toàn thể ban vương công đại thần nghị tội, xin đem Cảnh Thọ, Mực Âm, Khuông Nguyên, Đỗ Hàn, Tiêu Hựu Doanh, cách hết chức tước, đày đi Tân Cương khổ sai. Lý do nào có thể căn cứ để thể tình cho chúng chỉ là ở chỗ: bọn Tải Viên hung hãn bức bách quá khiến chúng bị kìm chế, bó buộc phải theo.

Bởi thế, trẫm gia ân cho như sau: ngự tiền đại thần Cảnh Thọ bị cách chức tức khắc, nhưng còn được để lại cho tước công và phẩm cấp của ngạch trật phò mã, miễn phải nghiêm khiến; Bộ binh thượng thư Mục Âm bị cách chức tức khắc, cho làm phát vãng quân đài (làm lính) đem công chuộc tội, Lại bộ tả thị lang Khuông Nguyên, thự lễ bộ hữu thị lang Đỗ Hàn, thái bộc tự thiên khanh Tiêu Hựu Doanh, cả ba tên đều bị cách chức tức khắc, nhưng gia ân cho miễn phải đi đày. Khâm thử".

Cả một tờ thượng dụ dài dòng và rõ ràng từng mục, đều là chủ ý của Ý quý phi.

Thế là cậu bé Đái Thuần ngất ngưởng ngồi lên ngai hoàng đế và Ý quý phi ngang nhiên thăng lên ngôi hoàng thái hậu.

Hiếu Trinh hoàng hậu ở phía đông, người trong cung đều gọi Đông thái hậu. Ý quý phi ở về phía tây, người trong cung gọi là Tây thái hậu.

Lúc đó, Túc Thuận đang nằm trong nhà lao của Tôn nhân phủ. Thuận nhận được thánh chỉ, vô cùng phẫn nộ, quay mặt về phía Tải Viên và Đoan Hoa lớn tiếng nói:

- Tụi bay chẳng nghe lời tao, mới ra cơ sự này!

Sự thể như sau: Lúc Hàm Phong hoàng đế lâm nguy, Túc Thuận có khuyên Di thân vương đánh cắp chiếc quốc tỷ trước rồi sau hãy điều khiển binh tướng, cầm chân hai thái hậu và ấu chúa lại không cho quay về kinh, mặt khác hạ dụ cách hết chức tước của bọn Cung vương, Vinh Lộc, cướp lấy binh quyền, nhiên hậu mới về kinh làm việc. Nhưng Di thân vương vốn nhát gan, không dám hạ thủ, để quốc tỷ rơi vào tay Tây thái hậu. Đã thế, bọn Thuận lại để cho lưỡng cung thái hậu về kinh trước, để họ được cùng phe đảng bàn bạc. Cơ hội tưởng không còn gì tốt hơn nữa. Thế mà rồi ra đều hỏng bét chỉ tại Di thân vương vừa nhát vừa ngu mà thôi.

Khi tù xa Túc Thuận đi dọc trên đường tới pháp trường, đám người hiếu kỳ đi xem đông như trẩy hội. Thấy Thuận thân hình béo mập, trắng trẻo, lại vì lúc quốc tang phải mặc áo bào trắng, chân đi giày vải, bị trói ngồi trên xe bò, họ xì xào chỉ trỏ, lộ vẻ vui mừng như là đã trả thù được cho chính mình. Lúc tù xa đi qua con đường chợ bò chợ ngựa, lũ trẻ con đứng hai bên đường, khoái chí vừa vỗ tay hoan hô vừa quát tháo:

- Bớ Túc Thuận! Tên gian tặc! Không ngờ mi lại có cái ngày hôm nay!

Hơn thế, đám đông còn lấy bùn đất ném vào Thuận khiến chỉ trong nháy mắt, bộ mặt trắng trẻo, cặp má phinh phính của Thuận bỗng đen ngòm. Pháp trường đông nghẹt người, khung cảnh vô cùng náo nhiệt.

Đầu Thuận vừa văng xuống thì bỗng trong đám người có một chàng thiếu niên chạy tới quỳ trước ngựa của Duệ thân vương, mặt mày đầy lệ. Vương hỏi xem ai thì chàng thiếu niên nọ tự nhận mình là con trai của cố đại học sĩ Bá Tuấn. Chàng ta xin xuất một ngàn lạng bạc mua cái đầu của Thuận để tế vong hồn của cha. Duệ thân vương vốn đã biết Bá Tuấn chết một cách oan uổng, hơn nữa lại thấy chàng thiếu niên khóc lóc thê thảm, liền bằng lòng. Tức thì chàng niên thiếu ấy lấy ngay một ngàn lạng bạc thưởng cho bọn đao phủ, tay xách lủng lẳng cái đấu của Thuận về nhà mời thân bằng cố hữu tới làm lễ dâng đầu lâu tế cha!

Tại sao lại có chuyện chết oan uổng này? Số là năm thứ tám đời vua Hàm Phong, Bá Tuấn làm đại học sĩ. Tuấn tuy là người Mãn nhưng thường cũng được cử ra làm chủ khảo.

Có một năm Tuấn được chỉ định làm chủ khảo Bắc Vi. Chẳng biết cớ sự ra sao bỗng có kẻ tế cáo Tuấn thông đồng hối lộ chấm đậu cho một tên làm nghề kép hát tên gọi Bình Linh.

Bọn công tử con nhà Kỳ hạ (người Mãn) vốn khoái ca hát cho nên nhiều lúc cao hứng cũng nhảy lên sân khấu, không ngờ đến trò vui đó lại dẫn tới chuyện nguy hiểm này. Song nếu người ta chịu xét lại văn bài thì đâu đến nỗi, bởi vì khi vào thi ai lại có thể xét kỹ được lai lịch nguồn gốc. Nhưng hồi đó Túc Thuận đang chuyên quyền, có ý muốn tạo ra một đại án, cho nên mới xảy ra những hậu quả vô cùng khủng khiếp.

Được đơn tố cáo Thuận vào ngay điện tấu với Văn Tông hoàng đế bắt trọn ổ toàn ban giám khảo Bắc Vi, từ quan chủ khảo tới ông cử nhân, chém luôn một lúc tới năm, sáu chục người. Riêng vị phó chủ khảo Chu Phượng Tiêu thoát chết chỉ là nhờ bị đau mắt, xin nghỉ, không vào trường thi, Tiêu giữ được mạng nhưng chức tước bị cách tuột.

Hình bộ thẩm vấn và định tội Bá Tuấn trảm lập quyết. Tất cả bọn đại thần người Mãn nghe án vội chạy tới quỳ trước ngai vàng khẩn cầu tha tội Tuấn. Nhưng Văn Tông hoàng đế lúc đó chỉ nghe lời Túc Thuận, chẳng những thế, còn bảo cả bọn đại thần này:

- Trẫm đâu có giết một vị tể tướng. Trẫm chỉ giết một bọn khảo quan mà thôi.

Hôm bị đưa ra pháp trường hành hình, Bá Tuấn phải chiếu theo luật lệ chỉ được mặc một chiếc áo đen phủ ngoài đi bộ tới cửa chợ rau, tạ ơn xong, rồi lẳng lặng đợi thánh chỉ. Tuấn quay lại dặn người con trai hãy đứng đợi tại chùa Tích Chiếu. Người con trai nghe lời cha vừa sắp bước đi thì bỗng thấy Hình bộ thượng thư Triều Quang kêu khóc ầm ĩ từ xa chạy lại.

Trời đã sang giờ thìn giờ tị, bọn đao phủ không cho Tuấn nói chuyện nhiều nữa liền chạy lại quỳ xuống xin Bá đại nhân thăng thiên (tức là chết). Lúc lâm tử, Bá Tuấn dặn con không cược quên cái thù giết cha này.

Một tiếng phập vang lên chắc nịch, đầu lâu văng ra xa đến mấy thước nằm xám ngoạch trên mặt đất loang lồ những dòng máu tươi. Có những người thời đó phúng Bá Tuấn câu đối như sau:

"Kỳ sinh dã sinh kỳ tứ dã ai, vu lộ lôi đình gi ai thánh đức"

"Thần môn như thị thần tâm như thuỷ, hoàng thiên hậu thổ giám cô trung"

(Lượt dịch: ông sống đã vinh mà chết lại càng thương, mưa móc sâm chớp đều là thành đức.

Cửa người bày tôi như chợ, lòng người bày tôi như nước trời cao đất dày hãy thấu cho nỗi cô trung).

Người con trai của Bá Tuấn chờ đợi lúc báo thù. Y đã thấy được cái ngày Túc Thuận cụt đầu trên pháp trường.

Thực ra không phải chỉ riêng con trai Bá Tuấn sung sướng được thấy kẻ thù bất cộng đới thiên đã chết một cách khốn khổ mà cả bọn đọc sách kinh thành ai cũng đều hả dạ.

Từ hôm đó cả thiên hạ đều đã nằm trong tay của Đồng Trị hoàng đế. Đồng Trị tôn xưng Thượng mẫu hậu hoàng thái hậu là Từ An hoàng thái hậu còn Thượng thánh mẫu hoàng thái hậu là Từ Hi hoàng thái hậu. Cung vương lại tâu xin hai bà thuỳ liêm thính chính ngồi trong rèm để nghe việc triều chính. Từ An hoàng thái hậu ngồi ở mé tây cùng nhận bá quan triều bái công việc triều chính.

Từ An thái hậu vốn người trung hậu lại không giỏi ăn nói, cho nên bất cử tấu sớ nào của bọn vương công đại thần đều do Từ Hi thái hậu hỏi han và trả lời để giải quyết.

Tiếng nói của Từ Hi đã lớn lại trôi chảy, giọng điệu cương quyết khiến bọn đại thần nghe mà phát sợ. Tuy vậy, cứ mỗi khi tới những điểm quan trọng hậu vẫn không muốn quyết định một mình, luôn luôn cùng bàn với Từ An xong rồi mới chịu truyền dụ.

Từ An thấy Từ Hi đầy đủ trí thông minh, tất cả đều hơn mình một bực nên mọi việc nhường cả cho Từ Hi giải quyết.

Song lúc thấy Từ Hi lầm lẫn, bà không hề chịu bỏ qua. Chủ ý của Từ Hi là làm sao nắm được quyền bính trong tay nhưng gặp phải Từ An giải quyết mọi việc hết sức nghiêm chỉnh nên không có cơ hội nào mà thao túng cả. Bởi thế Từ Hi bèn xếp đặt theo kế hoạch: ngoài thì liên lạc với Vinh Lộc là cháu mình, trong thì mua hết cả hai tên tổng quản An, Thôi cũng như tên thái giám tài hoa Lý Liên Anh để ngầm bảo chúng luôn luôn theo dõi đều mọi hành động của Từ An Thái hậu, chuẩn bị biện pháp chế ngự đối với bà này.

Trong khi Từ Hi mưu mô vậy thì Từ An vẫn như ngồi trong trống không hay biết tí gì. Bà biện lý mọi việc triều chính hết sức công bình chính trực. Mỗi khi có việc cần phó thác cho Cung thân vương chủ trì bà đều nói:

- Bọn tôi là đàn bà không biết nhiều điều, chỉ xin Lục gia lấy lòng trung làm việc nước giúp hoàng đế giải quyết mọi việc cho khỏi sai lầm, khi có việc chỉ cần Lục gia tâu rõ cho nghe một tiếng là đủ.

Cung thân vương vâng chỉ dụ của Từ An thái hậu nên thường vào cung tâu bày và bàn bạc việc triều chính.

Lại nói Từ An thái hậu vốn biết Tăng Quốc Phiên là một viên quan khá bèn thăng cho Phiên từ chức Lưỡng Giang tổng đốc lên chức đại học sĩ. Một chuyện đột ngột xảy ra khiến hậu quả thêm rắc rối giữa hai cung thái hậu. Số là Hà Quế Thanh để mất thành trì đại bại trước quân tóc dài ở phương Nam cho nên Hình bộ nghị án trảm quyết. Thanh vội vàng ngầm nhờ đến mười bảy ngươi đồng hương đồng quán và đổng tuổi ở kinh dâng sớ nói Thanh vô tội để cứu mình. Thanh lại còn phải xuất ra một vạn lạng bạc để mãi thông với Vinh Lộc khẩn cầu Lộc nói tốt cho mình trước Từ Hi thái hậu. Bọn này vốn thường cho Từ An thái hậu nhu nhược nên chẳng thèm để ý tới.

Chúng không ngờ câu chuyện này gây hậu quả khác hẳn. Từ An thái hậu theo tờ sớ của thường thị khanh Lý Đường Giai bèn hạ dụ chém Hà Quế Thanh. Trên tờ dụ có nói rõ Hà Quế Thanh lâm trận bỏ trốn, tội không thể tha.

Vụ án này khiến từ quan tướng tới sĩ tất thảy đều xanh mặt, gân giật lên thon thót, tứ chi cửu khiếu teo rúm lại hết.

Từ An thái hậu lại còn điều động Lý Đường Giai vào quân cơ và chỉ trong vòng một năm, đã thăng lên tới chức thượng thư.

Ít lâu sau ngoài tiền tuyến tướng Bảo Thắng thắng trận được mấy keo liền tỏ bộ kiêu căng hoành hành chẳng coi ai ra gì hết, đã thế Thắng lại còn tham lam dâm đãng làm hại dân lành không biết bao nhiêu mà kể. Lý Đường Giai biết vậy liền dâng sớ dàn hặc bằng một bản tấu chương hết sức chi tiết rõ ràng.

Từ An thái hậu xem xong nổi cơn đại nộ liền truyền dụ bắt ngay Bảo Thắng đưa về kinh tống vào nhà lao lớn của Hình bộ thẩm vấn minh bạch rồi hạ lệnh đem chém.

Vào hồi này bọn đại thần người Hán, trong số đó có Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tôn Đường chiến thắng bọn tóc dài, bọn thổ phỉ, bọn Hồi phỉ lập được khá nhiều công.

Bởi thế Từ An thái hậu bèn hạ chỉ phong cho bọn này tước hầu hoặc tước bá. Đã từ lâu Từ Hi thái hậu cho rằng Từ An là người nhu nhược nay thấy bà giải quyết mấy việc cứng rắn ghê khiếp bết giác cũng e ngại lo sợ ngày đêm trong lỏng và để hết tâm trí vào việc đối phó với bà, mong thực hiện mưu tính thao túng quyền hành sau này.

Hồi 144

LÝ HỒNG CHƯƠNG ĐẠI CHIẾN QUÂN TÓC DÀI

Giữa lúc trong triều Đông thái hậu có biệt nhãn đối với bọn Tăng Quốc Phiên, nào phong bá phong hầu thì ngoài tiền tuyến phương Nam các tay em Phiên như Tăng Quốc Thuyên, Dương Tải Phúc, Bào Siêu liên tiếp báo tin mừng về kinh.

Sau khi khắc phục An Khánh, Tăng Quốc Thuyên dọc sông trẩy xuống Giang Ninh. Hai bên bờ sông, nhất là những nơi hiểm yếu, quân tóc dài vẫn còn đóng chặt. Thuyên bàn tính với Dương Tải Phúc điều động thuỷ sư chinh tiễn.

Bọn tướng tóc dài Trung vương Lý Tú Thành, Thị vương Lý Thế Hiền đại bại đành phải chạy trốn vào Giang Tây. Tới rồi, chúng đánh cướp Thuỵ Châu.

Lúc này, tuần phủ Chiết Giang đã cải nhiệm về tay Vương Hữu Linh. Bị quân tóc dài tấn công, Linh cố thủ được vài tháng, hết đường cứu viện, đành phải cắn ngón tay lấy máu viết thư, cho người chạy tới An Huy cầu viện. Tăng Quốc Phiên lúc đó đang phải nỗ lực đối phó với địch về mặt Giang Huân, nên không thể chia quân tới viện. Phiên đành phải thúc giục Tả Tôn Đường đem quân từ Cống Châu tới cứu. Nhưng quân của Tả chưa tới nơi thì thành đã mất.

Để mất Chiết Giang, Tăng Quốc Phiên tự nhận lỗi lớn tại mình, tự xin nghiêm trị. Thế nhưng chiếu chỉ từ trong kinh, đã chẳng những khoan miễn mà còn thăng Phiên lên chức Hiệp biện đại học sĩ, đồng thời sai Tả Tôn Đường làm trấn thủ Chiết Giang, hợp tác Phiên để hoạch định đại cuộc.

Đứng trước tờ chiếu đặc biệt này, Tăng Quốc Phiên vô cùng cảm kích, do đó càng cố gắng đem hết tâm lực để đền báo.

Trước hết, Phiên yết bảng cầu người tài. Ấy cũng vì đó mà một nhân tài xuất hiện, đó là Lý Hồng Chương.

Lý Hồng Chương tên tự là Thiếu Thuyên, người huyện Hợp Thi tỉnh An Huy, đậu tiến sĩ đời Đạo Quang đã từng được bổ nhiệm chức Đạo viên tinh Phúc Kiến, Tăng Quốc Phiên nghe tiếng Chương đa tài, vời vào làm mạc khách, sau đó tiến cử về triều.

Tăng Quốc Phiên sai Lý Hồng Chương quay về chiêu mộ đạo quân nghĩa dũng, chiếu theo bình chế Tương quân lúc trước mà tổ chức, để huấn luyện cho nghĩa quân vùng Hoài, Từ. Phiên lại chọn mấy tay danh tướng của Tướng quân như Trinh Học Khải, Quách Tùng Lâm để giúp Chương.

Lý Hồng Chương sau khi tuyển mộ dân binh, hết tâm huấn luyện tổ chức thành một đại đội hương dũng quân gọi là Hoài quân, dùng làm hậu ứng cho Tương quân.

Tháng hai năm thứ nhất niên hiệu Đồng Trị, Chương đem quân Hoài dũng đến An Khánh, Tăng Quốc Thuyên cùng với em là Tăng Quốc Bảo cũng đem quân Tương dũng kéo sang.

Thế là ba quân tề tựu. Thống soái Tăng Quốc Phiên quản hạt miền đông nam lúc này mới có đủ tinh binh mãnh tướng thực hiện được cái hoài bão "Bình Tây sát Tả" của mình nghĩa là đuổi cho bằng hết bọn quỷ trắng phương Tây và diệt cho kỳ sạch bọn tà đạo ma giáo ngoại lai. Quân nhiều lương đủ, thống soái Tăng Quốc Phiên liền phân binh nhiệm để phát động một chiến dịch đại quy mô tiêu diệt quân tóc dài. Lộ quân tiến đánh Giang Ninh được Tăng Quốc Thuyên thống lãnh có hai lộ thuỷ sư Dương Tải Phúc và Bành Ngọc Lân phụ tá. Lộ quân tiến chiếm Giang Tô do Lý Hồng Chương chỉ huy có thuỷ sư Hoàng Dực Thăng phụ tá Lộ quân khôi phục Chiết Giang quy cho Tả Tôn Đường điêu khiển, có Niết ty Quảng Tây là Tưởng Ích Phong được biệt phái đem quân bản bộ trước đây trợ chiến. Ngoài ra ở nhiều vùng khác, suốt giải Lư Châu thì giao cho Đa Long A suốt giải Ninh Quốc giao cho Bào Siêu, suốt giải Dự Châu giao cho Lý Tục Nghi lúc đó đã được điều nhiệm tuần phủ An Huy.

Tất cả những lộ quân quan trọng trong việc chỉnh tiễn tiêu diệt quân tóc dài này đều do Tăng đại soái thống lãnh.

Ngoài những lộ quân này ra ta còn thấy một số đơn vị khác tuy không nằm trong hệ thống chỉ huy trực tiếp của Tăng đại soái nhưng vẫn nằm trong kế hoạch diệt địch chúng của ông, đó là Viên Giáp Tam ở Hoài Thượng, Đô Hưng A ở Dương Châu, Phùng Tử Tài ở Trấn Giang.

Bình uy của Thống soái Tăng Quốc Phiên chẳng mấy chốc truyền khắp miền Hoa Nam quân tóc dài nghe mà hãi hùng.

Từng toán lương dũng xưa nay vốn có tâm không chịu ngoại đạo, hưởng ứng phong trào Bình Tây sát Tả, tự động đến đầu quân như nước. Nhờ đó quân Tương Hoài của Tăng đại soái chỉ trong vòng mấy tháng đã trở thành đông đảo rộng lớn lẫy lừng...

Chẳng bao lâu, tiệp phi báo về đại bản doanh Thống soái như bươm bướm, quân tóc dài bại trận khắp nơi. Tướng tóc dài Trần Ngọc Thành (Tứ Nhãn Cẩu) bị Đa Long A đánh bại về sau bị hành quyết tại phủ Vệ Huy tỉnh Hà Nam. Ngọc Thành chết, Thái bình Thiên quốc mất một danh tướng, miền Sở Hoản mất một tay cự phách chống quân Thanh.

Đã thế mặt Ninh Quốc, Thái Bình Thiên quốc lại bị Bào Siêu công phá, đuối Phụ vương Dương Phụ Thanh chạy dài...

Hôm đó Lý Hồng Chương chỉ huy quân Hoài dũng đang tính lên đường thì đám thân sĩ đất Giang Tô là Tiền Đỉnh Minh, Phan Phúc Keo tới đón tiếp tại đất Hoãn và dâng quân mười tám vạn lạng bạc. Thế là vừa xuất phát quân binh đã khởi hứng, khí thế lại càng hăng hái bội phần.

Bỗng đám chư binh ở Ngô huyện là đám Vương Thao xin vào yết kiến, Chương mời vào. Thao dâng kế:

- Các quan lớn của ta nơi đây thường mượn bọn Tây dương đánh giặc. Theo ngu ý của tôi thì mướn bọn này lương vừa tốn kém lại không được đông đảo. Chi bằng ta lấy quân của ta bổ sung vào và chỉ mướn bọn Tây dương huấn luyện cho quân ta về cách sử dụng súng đạn bắn phá, như thế kết quả có lẽ tốt đẹp hơn.

Chương nghe kế, gật gù khen phải! Bởi thế, khi Thao đi rồi Chương mới cho gọi Ngô Hú vào hỏi xem tình trạng của quân Tây dương, Hú nói:

- Thuỷ sư đề đốc Anh quốc và Pháp quốc, cả hai tuy nhận giúp ta, nhưng họ vốn là hạm trưởng ngoại quốc cho nên không chịu thuộc quyền điều động của ta. Người tốt hơn cả chỉ có Hoa Nhĩ người Mỹ, Nhĩ là người có tội đối với nước ta, chạy trốn về Thượng Hải. Do đó, Ngô mỗ mới hội thương với viên lãnh sự người Mỹ, giúp ta huấn luyện cách sử dụng súng đạn Tây dương để cho y có dịp chuộc tội. Nhĩ vì thế nên đem hết tâm lực để phục vụ cho ta. Nếu ta gọi hắn về huấn luyện quân đội, hắn quyết không bao giờ dám biến tâm!

Chương nghe nói, lấy làm mừng lắm, liền truyền lệnh cho Hú điều động ngay Hoa Nhĩ tới. Hai ngày sau, Nhĩ tới yết kiến Chương, Chương dùng lời lẽ ngon ngọt khuyến uỷ, bảo Nhĩ hết sức huấn luyện cho ba ngàn quân Hoài dũng, còn gọi là quân Thường thắng. Thanh triều có chỉ xuống, Lý Hồng Chương thụ lý chức tuần phủ Giang Tô. Như thế, Chương vừa chỉ huy quân sự, lại vừa cai trị cả địa phương.

Lý Hồng Chương truyền lệnh cho tham tướng là Lý Hằng Tung hợp binh với Hoa Nhĩ, đồng thời liên lạc với quân Anh, Pháp đánh lần hai thành Gia Định và Thanh Phố. Mặt khác chính thuỷ sư đề đốc Anh là viết thư yêu cầu Chương cho quân hội binh tiến đánh phố Đông Sảnh huyện.

Lý Hồng Chương bèn truyền lệnh cho các tướng Trình Học Khải, Lưu Minh Truyền, Quách Tùng Lâm, Đằng Tự Võ, Phan Đinh Tân tiến quân sang trấn Châu Phố thuộc huyện Nam Hồi làm Bắc lộ. Đề đốc Anh Hà Bá, đề đốc Pháp Bốc La Đức, từ Tùng Giang tiến binh sang Vệ Kim Sơn làm Nam Lộ.

Hai lộ quân vừa xuất phát thì bỗng được tin Lý Tú Thành xuất quân tấn công châu Thái Thương. Quân của tri châu Lý Khánh Thánh bị địch quân đánh phá tan nát. Thành thừa thắng tiến đánh Gia Định, quân Tây Dương thua to. Gia Định bị hãm, Thanh Phố vì thế lại càng bị uy hiếp nặng nề...

Trước tình thế nguy cấp Lý Hồng Chương vội điều động Trình Học Khải chuyển quân về chặn ách Hồng Kiều cản đánh để cầm chân Tú Thành. Mặt khác Chương cấp báo cho hai viên đề đốc Anh, Pháp gấp rút đem quân về cứu Thanh Phố.

Lúc này chính là lúc hai viên đề đốc Anh, Pháp vừa đánh lấy được Phụng Hiền. Nhận được công văn của Chương họ chuyển quân chọc mũi dùi về Thanh Phố thì vừa gặp bộ hạ của Tú Thành. Hai bên giao chiến. Đề đốc Pháp Bốc La Đức trúng đạn chết, đề đốc Anh là Hà Bá hoảng hốt vội kéo binh rút lui.

Tướng Mỹ là Hoa Nhĩ lúc đó đang giữ thành Thanh Phố thấy quân Anh, Pháp đều trốn chạy cũng vội vàng xông ra khỏi trùng vi chạy trốn về Tùng Giang.

Tướng tóc dài Lý Tú Thành kéo đại binh ồ ạt xuống Thượng Hải như nước vỡ bờ. Trình Học Khải trấn giữ Thượng Hải, trong tay chỉ ước độ tám trăm quân ứng chiến với trên dưới mười vạn quân tóc dài. Thật là hai lực lượng xa cách nhau một trời một vực.

Quân tóc dài lại công hãm Từ Cốc, Sử Trí Ngạc vội cho người về Hồ xin cứu viện.

Lý Hồng Chương liền sai tướng Mỹ Hoa Nhĩ thống lĩnh quân Thường thắng tới cứu lấy thành Từ Cốc, Nhĩ trúng đạn chết, quân Thường thắng đành phải quay về Tùng Giao do viên tướng Mỹ khác tên gọi Bạch Tề Văn thay quyền chỉ huy.

Không ngờ Văn đóng cửa thành lại đòi lương rồi kéo quân đi khắp nơi cướp bóc.

Lý Hồng Chương liền cất hết chức tước Văn, đuổi về Mỹ rồi chọn Qua Đăng, một viên tướng Anh chỉ huy quân Thường thắng.

Bạch Tề Văn coi việc bị đuổi là một điều nhục, đã chẳng không về nước mà còn quay lại phản. Văn bỏ sang hàng Lý Tú Thành nằm trong trướng quân tóc dài để lập mưu định kế.

Chẳng bao lâu Văn rút cục cũng bị Hoài quân bắt được giải tới Thượng Hải. Vô phúc cho Văn thuyền đi tới giữa sông lật úp khiến Văn chết đuối, kết liễu cuộc đời của một tên phản phúc.

Lý Hồng Chương sau khi giải cứu được Tùng Hồ liền tiến quân lên Tô Thường gọi hàng tướng tóc dài Lạc Quốc Trung ở Thường Thục và Tiền Thọ Nhân ở Thái Thương. Chương đánh Phúc Sơn lấy lại Côn Sơn, uy hiếp Tô Châu.

Lý Tú Thành từ khi đại bại ở Giang Ninh vội chạy vào Giang Bắc. Nghe tin phủ Ninh Quốc đã bị Bào Siêu công phá, Lương Sơn thì Đông cũng như Tây đều bị Quốc Phiên chia quân phòng vệ, Thành bèn chạy về Tô Châu.

Đến đây Chiết Giang bình, ta kể qua chiến sự giữa Tăng Quốc Phiên và Thạch Đạt Khai.

Sau khi rút khỏi Giang Ninh đại tướng tóc dài là Thạch Đạt Khai lúc đầu chạy sang Giang Tây chống cự với Tăng Quốc Phiên, rồi lại chạy sang Hồ Nam, nhưng nơi đây Khai lại bị Lạc Bỉnh Chương sai tướng truy kích kịch liệt khiến phải chạy về Quảng Tây. Tướng Ích Phong được tin liền tức khắc điều động quân binh đánh đuổi.

Thạch Đạt Khai lúc này chạy đã quá xa không còn liên lạc được với Hồng Thiên vương Tú Toàn cho nên một mình một cờ, chạy dài suốt một giải Hồ Quảng. Bởi thế Khai tự nhủ chi bằng chạy vào Cầm Thục chiếm thế độc bá sơn hà còn hơn.

Hồi này bọn cướp cạn miền Tứ Xuyên là Lam Đại Thuận, Lý Vĩnh Hoà thừa lúc loạn ly rối rắm kéo nhau đi bốn phương cướp bóc lung tung. Thạch Đạt Khai liền cấu kết với bọn này rồi thừa cơ vào Thục.

Thanh triều thấy Lạc Bỉnh Chương có công chinh tiễu giặc cướp liền bổ nhiệm tổng đốc Tứ Xuyên. Chương hành quân lên hướng tây trước hết dẹp yên hai nhóm cướp Lam và Lý sau đó mới bao vây và ra sức tấn công quân của Khai.

Thạch Đạt Khai vốn là một kiệt tướng tóc dài đạp bằng hàng trăm thành, chuyên dụng chiến thuật xuất quỷ nhập thần nơi biên địa, thường tránh thực mà đánh hư, vô cùng thần tốc và tài tình. Do đó, Lạc Bỉnh Chương bèn tương kế tựu kế, bàn mưu với viên mạc khách Lưu Dung, tìm cách bức bách Khai phải nhập biên rồi bao vây bốn mặt khiến Khai hết đường trốn chạy, tự nhiên rơi vào rọ lưới của mình.

Quả nhiên Thạch Đạt Khai kéo đại binh vượt sông Kim Sa lên hướng tây thẳng đường tới Việt Hoà Sảnh. Tức thì Chương sai trọng quân ngầm theo sau gót, mặt khác truyền hịch cho thổ ty Công bộ là Lãnh Thừa Ân đánh chặn phía trước.

Thạch Đạt Khai cố tránh đường tắt cho nên khi tới miền Sài Dã, Khai tính cho quân vượt đò sang sông. Bỗng một cơn mưa như trút nước ầm ầm đổ xuống thêm. Nước lũ trên núi tràn về như thác khiến Khai phải bỏ hẳn ý định ấy. Quân tóc dài không còn cách gì sang sông.

Xuyên tướng là Đường Hữu Canh đem quân đuổi tới. Khai chạy lên bãi Lao Nha. Canh hợp binh với quân địa phương bao vây tả hữu, bức bách quân Khai.

Thạch Đạt Khai đành liều vượt sông. Chập tối, quân lênh đênh giữa dòng bị Canh huy động quân sĩ tấn công. Quân tóc dài chết chìm đến quá nửa.

Thê thiếp của Khai cả thảy năm người, thêm một đứa con trai nhỏ, đều chìm đáy sông, và bị nước cuốn trôi đi mất tích.

Khai vội bơi vào bờ. Nhưng vừa chân chạm đất thì Lãnh Thừa Ân đã chờ đấy từ lâu, bắt sống được, tống vào tù xa, đưa tới trước hàng quân. Khai biết mình đã tới số, bèn quỳ xuống cầu kinh để sớm được lên thiên đường hưởng cảnh yên bình.

Đường Hữu Canh áp giải Thạch Đạt Khai đến Thành Đô (thủ đô Ba Thục). Khi đem ra lấy khẩu cung, Khai miệng nói xoen xoét, đàm luận hết sức lanh lẹ. Khai tự khai mình ba mươi ba tuổi. Đối với các tướng của Thái bình thiên quốc, cũng như tướng của Thanh triều, Khai đều phê bình, chê biếm cho là kém cỏi tầm thường cả, duy chỉ phục có mỗi một mình Tăng Quốc Phiên mà thôi. Khai khen Phiên là người tri nhân thiện nhiệm, kế hoạch tinh vi, kỷ luật nghiêm minh, thực chưa từng có một vị nguyên soái nào như vậy.

Về sau, Khai bị phanh thây ngoài chợ Thành Đô. Từ đó, Thái bình Thiên quốc lại mất thêm một tay kiện tướng khiến Thiên vương Hồng Tú Toàn khi hay tin, chỉ còn biết nhỏ nước mắt vừa để cảm thương vừa để buồn lo cho cơ nghiệp đang tan vỡ, khó có thể tái đồ lại được.

Sau khi mất Thạch Đạt Khai, Thiên vương Hồng Tú Toàn, chỉ còn một yếu địa: đó là thành Giang Ninh. Ở nhiều nơi khác, vây cánh tuy còn, nhưng sức tàn cũng chỉ còn như hơi thở của kẻ sắp lâm chung, Toàn tự biết cùng rồi, cho nên nhất luật phong vương cho các tướng chỉ huy ở các nơi, hy vọng được họ cảm kích, ra sức đền đáp lại mình. Nhưng Toàn không ngờ rằng càng phong vương nhiều thì kỷ luật càng loạn và mệnh lệnh tuy có ra mà không mấy ai thi hành.

Tăng Quốc Phiên được tin các miền Tô, Chiết đã khôi phục được cả, duy chỉ còn có Giang Nam chưa lấy lại được, liền một mặt tưởng lệ tướng sĩ, một mặt điều động tấn công.

Lý Tú Thành đem theo bại tốt đông chừng vài vạn, chia giữ Đàn Dương và Câu Dung, rồi đích thân mình đem theo vài trăm kỵ mã vào Giang Ninh, khuyên Hồng Tú Toàn bỏ kinh đô (Kim Lăng) tị nạn, nhưng Toàn không nghe. Thành vội viết thư cho Lý Thế Hiền tiến đánh Giang Tây, còn mình thì ở lại Giang Ninh để bảo, vệ kinh đô.

Thành đã nhiều lần xua quân cảm tấn kích doanh trại của Tăng Quốc Thuyên. Bởi thế, Thuyên phải tăng cường quân nghĩa dũng trấn thủ các nơi hiểm yếu.

Chuẩn bị một kế hoạch tấn công quy mô, Thuyên trước hết cướp Vũ Hoa đài sau đó san phẳng lớp tường đá ngoài cửa Tụ Bảo môn, và chia quân chặn ách Hiếu Lăng vệ. Tại vùng này duy chỉ có bái Cửu Phục, vốn một trọng trận đối diện bờ sông Giang Ninh là được quân tóc dài bảo vệ đến mức tối đa. Chúng tập chung tại đây đến mấy trăm chiến thuyền tích cực yểm trợ các nơi, một mặt tiếp ứng cho bên trong thành, một mặt chặn đứng sông Tràng Giang. Ngoài ra lại còn có nhiều đồn ải như đồn Lam Giang, đèo Thảo Hài, bãi Thất Lý, đồn Yến Tử, ải Thượng Quan, ải Hạ Quan, cắm cờ Thái bình Thiên quốc san sát, khí thế hết sức hung hãn.

Dương Tải Phục lúc này đã đổi tên ra Dương Nhạc Bân, chỉ huy thuỷ quân kéo tới bãi Cửu Phục, hợp lực với quân của Bành Ngọc Lân chia đầu giáp công. Lân thì tiến. Quân từ đèo Bách Hải sang, Bân thì xua quân từ đồn Yến Tử sang. Cả hai cánh quân đều mang súng lửa, đạn lửa, tuỳ nơi mà quăng vào.

Bãi Cửu Phục hai bên bờ mọc đầy lau lách. Bân đổ dầu vào rồi nổi lửa. Nam bắc hai bờ suốt dọc sông Đại Giang trong nháy mắt biến thành biển lửa. Thuyền bè của quân tóc dài đậu tại nơi đây nhiều chiếc bị thiêu rụi.

Bành Ngọc Lân sai tổng binh Thành Phát Tường xông qua khói lửa tiến lên, trước, hết leo lên nam ngạn. Quân tóc dài tại bắc ngạn lúc đó đang còn phải tử chiến với Dương Nhạc Bân. Tổng binh Hồ Tuấn Hữu trúng đạn chết. Bân giận lắm bèn truyền lệnh cho quân sĩ chỉ lui quân khi phá được bãi này. Bọn bộ tướng là Du Tuấn Minh, Vương Cát, Nhiệm Tinh Nguyên thay phiên nhau tấn công quân tóc dài theo chiến thuật xa luân chiến.

Hai quân đánh nhau ác liệt mãi đến chập tối, quân Thanh nhờ bóng đêm lẻn lên bãi, xông qua làn đạn, đạp lên thây người mà tiến. Thế là bãi Cửu Phục thất thủ. Quân Thanh bắt được đến hơn ba trăm con ngựa chiến và chém chết tại nơi đây có đến hơn vạn quân tóc dài.

Châu Cửu Phục bị phá, Giang Ninh càng thêm nguy khốn. Tăng Quốc Thuyên thừa thế đánh lấy luỹ đá tại núi Chung Sơn mà quân tóc dài gọi là Thiên Bảo thành. Thành Thiên Bảo vốn là bảo chướng thứ nhất xây ở ngoài thành Giang Ninh.

Thuyên phá được ải này, tức là đã nối khắp được vòng vây. Mặt khác Bào Siêu lại đánh tan cả Câu Dung và Kim Đan.

Quân tóc dài tan vỡ, vội chạy qua Giang Tây. Siêu liền hợp quân với thuỷ sư của Dương Nhạc Bân nhất tề truy kích quân tóc dài về ngả Giang Tây.

Bành Ngọc Lân cũng di quân về đồn trú tại Cửu Giang. Thanh triều sợ Tăng Quốc Thuyên cô thế, vội hạ chỉ cho Lý Hồng Chương kéo quân tới giúp, cùng phá Giang Ninh. Tăng Quốc Thuyên, từ khi khởi chiến Giang Ninh phí bao tâm lực, chịu bao khổ sở mới có được trận vây thành này.

Đây chính là lúc thành công đã tới tám, chín phần rồi, vậy lại có người khác từ xa tới để chia công, đừng nói Tăng Quốc Thuyên mà ngay cả các tướng lãnh bộ hạ của Thuyên thảy đều giận dỗi.

May được Lý Hồng Chương, vốn người tế nhị khôn khéo, hơn nữa còn là người do Tăng Quốc Phiên bảo tiến, bởi thế Chương không muốn hoạt động của Thuyên. Chương thối thác mình nhuốm bệnh để kiếm cớ không đi. Mặt khác, Chương tải năm vạn lạng bạc bằng tàu thuỷ tới dinh Thuyên để sung quân phí.

Được tăng quân phí, Thuyên liền cổ lệ tướng sĩ tiến đánh luỹ âm Kiên tại núi Long Bác Tử. Luỹ Âm Kiên này nếu so với luỹ Chung Sơn, còn kiên cố hơn nhiều, bởi thế quân tóc dài mới gọi là Địa Bảo thành.

Chẳng giữ được bao lâu, Địa Bảo thành cũng tan vỡ như Thiên Bảo thành. Thuyên lợi dụng ngay mặt thành này làm pháo đài rồi cứ ngày ngày nã đại bác vào trong thành Giang Ninh.

Trong thành hết lương. Dân chúng đói kêu khóc rầm rĩ. Phủ Thiên vương lúc đó đưa rau cỏ, hành hẹ, gạo thóc ra bán cho dân với giá cắt cổ, cân lạng ngang hàng với vàng y. Ít hôm, gạo hết, bán đến đậu. Rồi đậu hết, bán đế bắp. Nhưng rồi bắp cũng hết, phải bán đến thục địa, ý dĩ, hoàng tinh, hoặc trâu dê, heo, chó, gà vịt đủ loại. Các thứ này rồi cũng hết sạch. Lại phải đi hái rau ngoài bãi, đem nấu với đường cho chín, rồi viên lại thành từng viên, đặt một cái tên rất đẹp gọi là Can lộ liệu cơ hoàn (viên thuốc ngọt chữa đói).

Rồi đói đến mức dân chúng bất chấp giặc thù, cả mạng sống, cứ đêm đêm, họ rủ nhau buộc dây leo ra ngoài thành để kiếm ăn. Quân tóc dài lúc đầu còn cấm đoán, lùng bắt, sau cũng đành chịu, nhiều khi họ còn dám leo ra cả ban ngày nữa.

Thành Giang Ninh bị vây hãm đã đến lúc quá nguy. Bởi thế, không chịu đựng nổi cảnh lo rầu đau khổ. Hồng Thiên vương Tú Toàn trong một hôm trời mây u ám, quỳ xuống dưới đất, ngửng mặt lên trời, miệng lẩm bẩm cầu xin Chúa gia ơn đưa mình lên Nước Trời, đoạn gục mặt xuống lan can, lệ rơi đẫm tay áo hoàng bào. Rồi một lúc sau, vương nâng chén thuốc độc đặt lên môi, từ từ nhắp từng hớp để cho chất độc ngấm dần vào phủ tạng, cuối cùng bật lên mấy tiếng nấc bi ai, và ngã vật trên tấm thảm nhung đỏ chói, sắc mặt tái mét đi, ngực thoi thóp mỗi lúc một yếu dần...

Hồng Thiên vương Tú Toàn chết, bọn Hồng Nhân Phá, Hồng Nhân Đạt cùng lập ấu chúa Hồng Phúc Châu lên ngai vàng, tuổi lúc đó mới mười lăm, mười sáu hy vọng xây dựng lại cơ đồ

Tăng Quốc Thuyên được tin Toàn chết vội loan cho quân sĩ luân lưu đánh phá, đào địa đạo nhiều đến ba, bốn chục đường chực chui vào thành nhưng đều bị quân tóc dài chặn lấp mất hết. Lý Thần Điển, một bộ tướng của Thuyên sai bọn Ngô Tôn Quốc chọn chỗ quân tóc dài đặt nhiều đại bác nhất để từ đó đào địa đạo tiến vào. Mãi đến ngày mười sáu tháng sáu địa đạo mới được hoàn tất.

Thuyên truyền lệnh cho binh sĩ kẻ nào lui sẽ chém, trái lại kẻ nào có công sẽ được trọng thưởng, rồi bắt đầu châm ngòi địa lôi. Một tiếng nổ vang lên như sấm động, cửa thành tức thì bật tung ra và vỡ nát đến mấy chục trượng, khói toả mịt mù.

Lý Thần Điển đốc thúc quân sĩ gươm giáo ồ ạt xông vào. Quân tóc dài dòng thuốc pháo mồi lửa từ trên mặt thành ném xuống như mưa. Quân Thanh tử thương, vô số có kẻ bị cháy như đình liệu. Toàn quân cơ như khựng lại.

Hồi 145

THÁI BÌNH THIÊN QUỐC TAN RÃ

Bọn Bành Dục Quất, Tiêu Phu Tứ có nhiệm vụ xung phong phá ải nhảy vọt lên trước, giơ cao mũi giáo đâm chết luôn mấy tên quân tóc dài, như được khích lệ, hăng hái xông lên, chia đường, tràn ngập khắp nơi. Trung lộ, thi có bọn Vương Viễn Hoà, Vương Sĩ Ích, Chu Hồng Chương, La Vũ Xuân, Thẩm Hồng Tân, Hoàng Xuân Xương, Hùng Thưởng Tần, hùng hổ tấn kích thẳng vào phủ Thiên vương của Hồng Tú Toàn; hữu lộ, có bọn Lưu Liên Tiệp, Trường Thi Nhật, Đàm Quốc Thái, Thôi Văn Điển, xung trận do ngả Đài Thành tiến tới cửa Thần Sách môn, trong khi đó bọn Chu Nam Quế, Chu Duy Đường, Lương Mỹ Tài, cũng đã dùng thang leo lên cửa Thần Sách để vào trong, đánh nhau với quân tóc dài, suốt dọc núi Sư Tử, cướp lấy cửa Nghi Phượng môn. Tả lộ, thì do bọn Bành Dục Quất, Võ Minh Lương từ chỗ nền cũ của Nội thành đánh thẳng tới Thống Tế môn. Còn bọn Tiêu Phụ Tứ, Hùng Đăng Võ, Tiêu Khánh Diễn, Tiêu Khai Ấn, thì lại chia đường đánh phá hai cửa Triều Dương và Hồng Võ.

Đại tướng tóc dài lúc đó là Trung vương Lý Tú Thành. Thành đang chỉ huy quân đánh cận chiến với quân Thanh, từ trong các ngõ hẻm, các góc nhà, bỗng thấy bốn mặt thành đều bị tràn ngập, biết rằng đại thế đã cùng, liền cướp đường xông ra cửa Hạng Tây môn.

Nhưng tại cửa này cũng đang có bọn Trần Trực và Dịch Lương Hổ đánh phá dữ dội. Bất đắc dĩ, Thành đành phải quay về núi Thanh Lương, chui vào đám nhà dân lụp xụp bên đường để ẩn núp, trong khi đó Hoàng Dực Thăng đã đốc suất thuỷ sư phá tan Trung quân, rồi luỹ đá đồn Lạng Giang và cũng tiến thẳng tới cửa Hạng Tây môn. Thế là ba tướng Thực, Hổ và Thăng hợp lực lại, nhất tề đánh phá cửa này. Chẳng bao lâu cửa bị phá nát. Tất cả các cửa thành đến lúc này thảy đều bị phá, chỉ còn có phủ Thiên vương là chưa đánh vào mà thôi.

Trời sắp tối. Tăng Quốc Thuyên truyền lệnh cho quân sĩ tạm nghỉ. Đặc biệt chỉ có cảnh quân của bọn Vượng Viên Hoà, Vượng Ích và Chu Hồng Chương là vẫn phải tấn kích kịch liệt suốt đêm.

Canh ba đêm đó, trong phủ Thiên vương, bỗng nổi cửa sáng rực một góc trời. Rồi một chi quân tóc dài, tay cầm súng, đông đến hơn ngàn, xông ra và cứ thẳng đường phố thục mạng chạy, quân Thanh thấy vậy, không truy kích, chỉ kéo nhau vào phủ Thiên vương đập tắt ngọn lửa, kiểm, qua các xác chết. Phần lớn đều là cung nữ trong phủ, đặc biệt không thấy thi thể Thiên vương Hồng Tú Toàn và ấu chúa Phúc Châu đâu cả.

Trời lúc này đã sáng rõ. Tăng Quốc Thiên hạ lệnh đóng kín cửa thành rồi cho lùng bắt và đem chém quân tóc dài đến hơn mười vạn người, suốt trong ba ngày đêm liên tiếp.

Qua ngày mười chín, Tiêu Phu Tứ mới tìm ra được bọn Hồng Nhân Phát và Lý Tú Thành bắt đem hỏi cung, lúc đó mới biết thây ma Hồng Thiên Vương Tú Toàn đã đem chôn kỹ trong nội cung, còn ấu chúa Phúc Nhân thì nhân đêm đôi bên giao chiến đã nhờ đường hầm trốn chạy ra ngoài.

Hạ xong thành Giang Ninh, thủ đô của Thái Bình Thiên quốc, Tăng Quốc Thuyên vội cho phi tinh mã báo tiệp cho Tăng đại soái Quốc Phiên. Phiên liền uỷ nhiệm cho tổng đốc Hồ Quảng là Quan Văn cầm đầu phái đoàn mang công hàm về triều tâu báo.

Một đạo chỉ dụ của Thanh triều ban xuống, nội dung nói:

"Ngày hôm nay Quan Văn và Tăng Quốc Phiên có một bản sớ tâu tiệp về việc bình an thành tỉnh Giang Ninh, thực đã làm cho thần dân trong thiên hạ ai cũng phải ngợi khen ca tụng.

Tên nghịch tặc tóc dài Hồng Tú Toàn khởi loạn năm thứ ba mươi niên hiệu Đạo Quang, đánh phá từ Quảng Tây đến Lưỡng Hồ, Tam Giang, đồng thời chia quân gây loạn khắp các tỉnh Trực Lệ và Sơn Đông, hành tung phản nghịch cơ hồ gần khắp cả thiên hạ. Năm thứ ba niên biểu Hàm Phong hắn chiếm cứ thành tỉnh Giang Ninh, tiêm xưng nguỵ hiệu.

Trăm họ miền Đông Nam, bị Toàn giết hại, thê thảm chẳng bút nào tả xiết, do đó, tội hắn đã dầy, người cũng như thần thánh ai ai đều giận. Hoàng khảo ta là Văn Tông Hiến hoàng đế lấy làm cả giận vâng mệnh Trời phạt hắn nên đặc sai Lưỡng Hồ tổng đốc là Quan Văn làm khâm sai đại thần, cùng với tiền nhiệm tuần phủ Hồ Bắc là Hồ Lâm Dực tảo thanh miền thượng du Sở Bắc, do đó Dực đồn trú suốt giải Tú Tùng trù hoạch kế sách đông chinh. Mặt khác lại còn bổ nhiệm Tăng Quốc Phiên làm Lưỡng Giang tổng đốc kiêm nhiệm chức khâm sai đại thần định kê đông chinh, miền Giang Hoãn.

Hiệu lệnh đã được vâng theo triệt để, công lao thành tích mỗi ngày một rạng rỡ vẻ vang.

Tháng bảy năm thứ mười một, Hoàng khảo ta đi Thượng Tân, lúc đó phần nửa quận huyện Giang Chiết bị luân hãm, đã có di chiếu để lại lấy cái việc chưa tiêu diệt được bọn nghịch tặc vong bản tà đạo, tay sai của lũ quy trắng làm căm giận bực ghét. Trẫm tuy vâng kế nghiệp của tiên liệt, nhưng còn quá nhỏ, phải phụng nghinh lưỡng cung Hoàng thái hậu buông rèm nghe chinh chỉ bảo việc nên làm, bèn bổ nhiệm Tăng Quốc Phiên Làm hiệp biện đại học sĩ tiết chế quân vụ bốn tỉnh để thống nhất mọi quyền hành.

Từ khi thu nhiệm đến nay vị đại thần ấy chia quân đi tiêu diệt bọn nghịch tặc khắp miền thượng dụ, đồng thời thông sức cho các tướng Bành Ngọc Lân, Dương Nhạc Bân, Tăng Quốc Thuyên, thuỷ lục đều tiến, khắc phục liên tiếp hàng trăm thành quách đồn ải ở dọc sông. Chém đầu đến mười mấy vạn tên nghịch phỉ cũng như tên ngoại quốc tiếp viện, hợp lực vây khốn thành Giang Ninh, cắt đứt đường tiếp tế của giặc.

Ngày mười sáu tháng sáu năm nay, Tăng Quốc Thuyên thống suất chư tướng định chiếm lại thành Giang Ninh (kinh đô của Thái bình Thiên quốc), đã bao năm rơi vào tay giặc.

Suốt trong ba ngày từ mười sáu, mười bảy, đến mười tám, tướng sĩ lùng bắt chém sạch bọn nguỵ vương, nguỵ chủ tướng, nguỵ thiên tướng đến hơn ba ngàn tên cũng như bọn đồ đảng đông có tới hơn mười vạn không thoát được lấy một đứa! Đây thực là một việc nhờ ơn Trời phù hộ, Liệt thánh rủ lòng thương, nhờ Lưỡng cung Hoàng thái hậu nơm nớp lo việc cai trị, biết đề bạt nhân tài, dùng kẻ hiền năng, khiến sự trong ngoài một lòng, tướng sĩ tuân mạng, cho nên mới thành được công lớn này, trên có thể an ủi linh hồn của Hoàng khảo trên trời, dưới có thể thoả nguyện toàn thể nhân dân trong bôn bể. Trong trường hợp này, nếu không phải là người có đức có nhân thử hỏi làm sao mà được thế. Càng ngẫm tới cái ý chí của Tiên hoàng chưa thực hiện được, tự mình chưa thấy được thành công thứ hỏi nỗi mềm bi thương làm sao cho nguôi được?

Phen này tên nghịch tặc họ Hồng khởi loạn tại Việt Tây, đã mười lăm năm trộm chiếm Kim Lăng, cũng đã mười hai năm giày xéo, mười mấy năm công hãm hơn trăm thành trì, ấy thế mà quân ta đã lần lượt quét sạch diệt trừ được mầm mống độc ác.

Bọn đại thần chỉ huy quân đội mưa móc chất chứa, phong trần gian nan nếm đủ, thật rất nên đền đáp đặc ân, thù lao xứng đáng. Khâm sai đại thần hiệp biện đại bọc sĩ Lưỡng Giang tống đốc Tăng Quốc Phiên thủ xướng việc đoàn luyện đồng thời thành lập chu sư tại Hồ Nam từ năm thứ ba niên hiệu Hàm Phong đã từng cùng bọn Tháp Tê Bố, La Trạch Nam kiến lập nhiều công trạng đặc biệt, bảo toàn các quận huyện tỉnh Hồ Nam, khắc phục các thành trì miền Võ Hán, tảo thanh khắp toàn bộ tỉnh Giang Tây, nhất là trong lúc chinh đông xuất quân từ Tú Túng đánh lấy tiềm sơn Thái Hồ, tiến đánh Kỳ Môn nhiều lần đánh lấy lại được các quận huyện miền Huy Châu rồi đoạt thành tỉnh An Khánh đế làm căn bản, sau đó truyền lệnh chia quân thuỷ lực lại khắc phục các châu quận miền hạ du. Nay công lớn đã cáo thành đều do vị đại thần này tính toán kế hoạch không có chỗ nào sai. Vừa mưu dũng kiêm bị lại vừa trí nhân thiện nhiệm, điều động rất là xác đáng.

Bởi thế, Tăng Quốc Phiên được gia thưởng hàm Thái tử Thái bảo, tứ phong đệ nhất đẳng hầu tước, thế tập đời đời, đồng thời thưởng cho mão Song Nhãn Hoa Linh, tuần phủ Chiết Giang Tăng Quốc Thuyên vốn nho sinh lòng nhưng theo Tăng Quốc Phiên tiễu địch ở mấy tỉnh, công trạng khá rực rõ, năm thứ mười niên biểu Hàm Phong từ nơi đất Tương chiêu mộ nghĩa đũng, khắc phục được thành tỉnh An Khánh đền năm thứ nhất và thứ hai niên hiệu Đồng Trị, khắc phục liên tiếp mấy nơi như Sào Huyện, Hàm Sơn, Hoà Châu, thống suất các dinh thuỷ lục, tiên bức Kim Lăng, đồn trú tại Vũ Hoa đài công phá nguỵ thành.

Khi bị quân giặc vây dinh, khổ thủ cô thành đền mấy tháng, cố sức đánh lui quân địch; rồi đến tháng giêng năm nay đánh lấy luỹ đá ở núi Chung Sơn để nối vòng vây Giang Ninh, đốc thúc tướng sĩ ác đấu, khai quật địa đạo, thâu lượm tên đạn lâu tới nửa tháng mà vẫn không chịu rút, cuối cùng khắc phục toàn thành, diệt trừ được tên đầu trò phản tặc, tất cả sự thực đều nhở ở cái đức kiên nhẫn chịu đựng khổ cực và cái tâm trung dũng vì nước. Bởi thế Tăng Quốc Thuyên được gia thưởng hàm Thái tử Thiếu bảo, tử phong đệ nhất đảng bá tước, đồng thời thưởng cho mão đội Song Nhãn Hoa Linh. Lại đền đề đốc Lý Thần Điển tuy ở giữa đám súng đạn tơi bời, thế mà vẫn khai quật đại đạo thề chết diệt giặc, rồi khi thành bị nổ tan liền đi đầu xông vào để cho quân sĩ theo sau, nhờ đó mà cướp được thành, thực là mưu dũng hơn người. Bởi thế Lý Thần Điển được gia phong ân tứ đệ nhất đẳng tử tước đồng thời thưởng cho áo Hoàng mã quải, mão đội Song Nhãn Hoa Linh, Sau Cùng Tiêu Phu Tứ độc biện phào đài đi trước cướp cửa xông vào bắt được bọn Lý Tú Thành và Hồng Nhân Phát thực quả có một huân lao cao cả lấy lừng.

Bởi thế Tiêu Phu Tứ được gia phong ân tứ đệ nhất đẳng nam tước đồng thời thưởng mão đội Song Nhãn Hoa Linh. Khâm thử".

Ngoài bốn yếu nhân như tờ chiếu đã nói ra, người ta còn thấy đến một trăm hai mươi người, vừa văn quan, vừa võ tướng đều được huân công thăng thưởng. Thế là một cuộc loạn ly lớn lao tới đây đã kết thúc.

Tăng Quốc Phiên từ An Khánh tới Giang Ninh trước hết cho quật mồ kéo thây ma Hồng Tú Toàn lên thì thấy thây Toàn dùng vải đoạn vàng thêu rồng liệm quanh mình, đầu Toàn húi trụi không có tóc, râu Toàn đã bạc trắng và vì theo dị giáo (tôn giáo lạ của nước ngoài), nên không dùng quan quách chôn cất. Phiên hạ lệnh cho bắn nát thây Toàn, đốt xương ra tro rồi đem xử tử bọn Hồng Nhân Phát và Lý Tú Thành. Duy chỉ Hồng Phúc Chân (con trai Toàn) không biết trốn chạy nơi nào. Tuy Phiên vẫn tấu về triều là tất cả đều đã chết hết nhưng thực ra Chân đã chạy ra Quảng Đức rồi quay sang Hồ Châu biệt tích.

Hồi 146

LÙNG BẮT ẤU CHÚA PHÚC CHÂN

Lúc này các quận huyện Chiết Giang lần lượt được thu phục nhưng Hồ Châu vẫn còn do tướng tóc dài tên gọi Hoàng Văn Kim trấn giữ, quân nhà Thanh ở Tô, Chiết đánh dẹp mãi mà chưa xong.

Kim đón ấn chúa tóc dài Hồng Phúc Chân đến Hồ Châu nuôi dưỡng. Lý Hồng Chương dò la được tin này, vội chạy hịch cho bọn bộ tướng nô lực lập công. Do đó bọn Chiết tướng (tướng ở Chiết Giang) là Cao Nguyên Thắng, Vương Nguyệt Lương, Thái Nguyên Cát, Đặng Quang Minh, đem quân đánh mặt đông nam Hồ Châu, còn bọn Tố tướng (tướng ở Tô Châu) là Dương Đỉnh Hân đem quân đánh mặt tây bắc Hồ Châu. Hai cánh quân này phá tan các luỹ đá ở ngoài thảnh, tiêu diệt quân địch vô số.

Hoàng Văn Kim thống suất vài vạn quân mở cửa tây xuất chiến. Quách Tùng Lâm liền điều động quân thuỷ lục đánh mé tả. Vương Vĩnh Thắng chỉ huy bộ quân theo đường tắt qua núi đánh mé hữu, Kim xoay trần cả đôi cánh tay múa tít cây đại đao tả xông hữu đột nhưng chỉ được có mấy hồi đã bị đại bác bắn chặn lại, dù vậy Kim vẫn liều chết, cố đánh tiếp. Bỗng có tin báo cửa đông bị vỡ, Kim tức thì tâm hoảng ý loạn vội phò ấu chúa Phúc Chân chạy về hướng tây, trốn vào mãi giữa thung lung núi tại phủ Ninh Quốc. Không ngờ Kim lại chạm trán với Bào Siêu tại đây và bị Siêu đánh cho một trận tan hoang, thây nằm ngổn ngang đầy đường.

Kim không biết tính cách nào hơn là chạy quay về Thuần A, Chiết Giang. Nhưng mới được nửa đường lại gặp phải Chiết tướng Hoàng Thiếu Xuân. Trông trước ngó sau thấy hết đường chạy, Kim đành phải liều mạng đánh tràn mình bị đến mấy chục vết thương mới thoát khỏi vùng vây.

Được tin bọn Lý Thế Hiền, Uổng Hải Dương hiện ở Giang Tây, Kim liền quyết kế chạy sang để cầu viện. Nhưng đi mới được vài chục dặm, vết thương của Kim phát tác dữ dội, Kim thổ huyết rồi chết. Khi lâm chung, Kim chối lại cho người em là Hoàng Văn Anh cố hộ vệ Phúc Chân tới được Giang Tây.

Hoàng Văn Anh đưa Phúc Chân tới Quảng Tín, sau lưng bị Chiết quân truy kích ráo riết, trước mặt lại có quân Giang Tây đang sẵn sàng, chỉ còn cách chuyển hướng chạy sang Thạch Thành.

Án sát sứ Tịch Quảng Điền vừa tấn công Lý Thế Hiền tại Sùng Nhân, được tin Hồng Phúc Chân đã chạy vào Giang Tây, e rằng Chân liên hợp với Hiền, liền xuất lính khinh kỵ chạy tắt đến huyện Thạch Thành thì vừa gặp bọn tóc dài Hoàng Văn Anh. Không còn kịp trốn tránh nữa, Anh đành miễn cưỡng tuốt kiếm chống cự. Nhưng Anh lúc này đã lực kiệt, thế cô, đánh đấm qua loa rồi cam chịu quy hàng đồng thời với cả mấy chục viên tướng tóc dài khác, trong số còn vài người họ Hồng như Hồng Nhân Cao, Hồng Nhân Chính.

Một điều lạ cho Điền cũng như toàn cánh quân Thanh lúc đó là không thấy ấu chúa Hồng Phúc Chân đâu cả. Điền cật vấn bọn Anh nhưng tất cả đều không chịu thực cung.

Mãi sau Điền dụ dỗ đứa trẻ chăn ngựa cũng bị bắt lúc đó, mới biết Phúc Chân đã chạy trốn, còn lẩn quất trong núi chưa ra.

Tịch Quảng Điền liền chia quân chặn hết các cửa rừng, rồi tự mình đốc suất bộ tướng lục tìm. Suốt hai ngày, tên bộ tướng của Điền tên Chân Gia Lương mới bắt được Chân.

Điền như bắt được của báu, liền áp giải ngay về Nam Xương, tuần phủ Thẩm Bảo Trinh cấp tấu ngay về triều. Một đạo chỉ dụ hạ xuống truyền cho chính pháp ngay tại chỗ. Chân bị đem xé xác còn bọn Anh, Cao, Chính tất cả đều bị bêu đầu ngoài chợ để răn chúng. Họ Hồng như thế đã hết. Sự nghiệp lẫy lừng trong mười lăm năm trời bỗng nhất dán tiêu tan.

Khang vương Uổng Hải Dương, một đại tướng của Thái Bình Thiên quốc, sau khi tụ tập được đến mười vạn quân thiện chiến, hầu hết là những tín đồ của đạo mới đã kéo tới Giang Tây để đón ấu chúa, chỉ còn cách chỗ ấu chúa bị bắt có vài trăm dặm bỗng nghe được hung tin này kẻ nào kẻ nấy thất vọng rã rời, Dương chán nản quá bèn trốn chạy vào Phúc Kiến.

Mặt khác Lý Thế Hiền cũng từ Cống đem quân vào Mân, thấy nơi đây sơ hở không bố phòng cẩn mật liền cướp phá lấy luôn hai quận Đinh và Chương làm căn cứ.

Án sát sứ Trương Vận Lan đem năm trăm quân đối địch. Quả bất địch chúng, Lan không chống nổi Hiền, liền bị chém chết ngay tại trận tiền. Đề đốc Lâm Văn Sát cũng cùng chung số phận với Lan ở Chương Châu. Hai châu miệt tỉnh Mân rung động khủng khiếp, Lý Hồng Chương được tin này phi hịch cho bọn Hoàng Thiếu Xuân, Lưu Minh Đặng hành quân từ Cù Châu sang Diện Binh làm Trung lộ, bọn Lư Điển, Vương Đức Bảng chuyển từ Kiên Xương qua Đinh Châu làm Tây lộ, bọn Cao Liên Thăng xuất trận từ Ninh Ba vượt bể vào Phúc Kiến rồi ra Hưng Tuyền làm Đông lộ. Tuy ba lộ quân này rầm rộ kéo tới Mân nhưng e rằng còn khó thắng, Lý Hồng Chương cũng vội sai bọn Quách Tùng Lâm và Dương Đinh Huân điều động quân sĩ thuyền tới Mân, hợp lực với ba lộ quân kia vây khốn Chương Châu, mặt khác Bào Siêu cũng kéo binh Từ Giang tới Võ Bình. Thế là quân Thanh đã hội họp đầy đủ chỉ còn chờ lệnh tấn công.

Được tin đại quân của Thanh triều kéo tới. Lý Thế Hiền và Uông Hải Dương vội bỏ Mân chạy sang Việt, đánh lấy Trấn Bình. Nhưng trong một cuộc thảo luận kế hoạch quân sự Hiền bất đồng ý kiến với Dương, Dương tuốt kiếm đâm chết luôn Hiền.

Thế là hai tướng chỉ còn lại một. Dương lại tính kéo tàn quân về Giang Tây. Giữa đường Dương bị Tích Bảo Điền chặn đánh, bị mấy mũi mâu vào lưng đành phải bỏ ý định, chạy về Quảng Đông cướp ngay Châu Gia Ứng.

Lý Hồng Chương được tin này thôi thúc Bào Siêu đem quân vào Việt, đích thân mình cũng điều binh theo để đốc chiến.

Do đó Chiết quân vây Châu Gia ứng ở mặt đông nam, Bào quán ở mặt tây còn mặt bắc thì giao cho Việt vây kín. Duy chỉ còn có mặt nam, đó là nơi đồn trú của địch quân.

Uổng Thanh Dương đốc quân toàn trại xuất chiến. Quân Thanh thua, Dương lại phát binh tấn công Chiết quân, bọn Hoàng Thiếu Xuân, Lưu Điển, Vương Đức Bảng cũng đều bại, Dương thừa thắng đuổi đánh ráo riết. Quân Thanh chạy dài.

Các lộ quân Thanh được tin quân nhà thất trận bèn tức thì cùng lúc ba mặt giáp công. Uổng Hải Dương bị một phát đại bác chết ngay trong trận... Quân tóc dài rút chạy vào thành, suy tôn Tăng vương Đàm Thề Nguyên lên thay. Nguyên vốn nhu nhược nên hoảng hốt vội mở cửa nam chạy ra.

Quân Thanh truy kích tới núi Hoàng Sa. Đây là một vùng hiểm trở, hoang vắng không đường đi lại. Quân tóc dài bị dồn vào đây, hết đường chạy, bốn mặt lại bị quân Thanh vây kín.

Biết đã đến ngày tận số quân tóc dài đều quỳ cả xuống chân núi, mặt ngước lên trời miệng lẩm bẩm cầu chúa cha, chúa con, chúa thánh thần thương họ, chóng đưa họ lên cõi Thiên đàng, xong đâu đấy phất cờ trắng xin hàng.

Nhưng với quân Thanh thì lúc này không có hàng, bởi thế Đàm Thể Nguyên, các tướng lãnh song hành cũng như toàn quân tóc dài đều bị giết chết, không còn sót lấy một mống.

Thái Bình Thiên quốc tan rã hoàn toàn. Đấy là hồi tháng mười hai năm thứ tư niên hiệu Đồng Trị.

Hồi 147

GIẾT TÊN THÁI GIÁM ĐỰC RỰA

Loạn ngoài vừa yên thì loạn trong lại nhóm. Loạn ngoài là cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc. Loạn trong là xung đột giữa hai bà hoàng thái hậu nhà Thanh.

Đã từ lâu, Từ Hi thái hậu vẫn tưởng Từ An thái hậu là người nhu nhược, nay bỗng thấy bà này thẳng tay giết Hà Quế Thanh; tống Bảo Thắng vào lao, phong tước hầu tước bá cho bọn Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương... trong lòng cũng lấy làm hoảng. Bà vội về cung triệu An Đắc Hải tới bàn tính kế hoạch.

An Đắc Hải là ai vậy? Là một tên thái giám được Từ Hi thái hậu sủng ái và tin dùng nhất. Đừng nói đối với cung nội nữa mà cả đến khắp trong triều đình Hải cũng có những quyền hành rất lớn. Hải thường cậy thế lực của Từ Hi áp bách cả bọn Vương công đại thần.

Hồi này quyền hành của Cung thân vương cũng chẳng nhỏ. Vương vốn là một đại thần thân tín của Tử An, thấy Hải lăng loàn kiểu đó, sớm đã có nỗi lòng căm giận. Cho nên khi Đông hậu triệu kiến, vương liền tâu Hải tham tàn bất pháp như thế nào, vượt phận chuyên quyền ra sao, trong khi đó Hải cứ nghênh ngang và càng lộng hành hơn trước.

Ở bên ngoài Hải cung cậy thế Tây thái hậu kéo bè lập đảng khắp nơi. Khá nhiều đại thần đã chạy theo phe của Tây hậu, do đó bè cánh của Tây hậu ngày một đông thêm và cũng do đó quyền hành của Hải ngày một lớn thêm.

Một hôm Tây hậu truyền cho Hải vào cung bàn tính. Bà nói:

- Từ An thái hậu càng ngày càng chuyên quyền, động một tí là giết đại thần, giam tướng lãnh. Người phải cẩn thận đề phòng lắm mới được. Ở bên ngoài, người có đánh trống gõ mõ om sòm, làm ăn xoay sở quá đáng e xúc phạm tới Đông hậu thì nguy đấy, chẳng phải chuyện chơi đâu.

An Đắc Hải nghe xong, đã chẳng chút sợ hãi lại còn hậm hực nói:

- Sợ bà ta cải quái gì? Hoàng thượng vốn là hoàng thượng của Thái hậu bọn tôi mà uy quyền của bà ta dù có lớn tới đâu chăng nữa cũng chẳng thể qua mặt được thái hậu bọn tôi. Nguyên do chỉ tại thái hậu nể nang, việc gì cũng nhường bước bà ta mà ra. Theo ý nô tài thì từ nay Hoàng thái hậu đừng chịu vậy nữa. Cứ nhường một bước là y như Đông hậu tiến một bước. Kiểu này thì đừng nói bọn nô tài tôi một ngày kia không còn có cơm ăn mà ngay cả hoàng thái hậu cũng mất luôn cả chỗ đứng nữa là khác.

Mấy câu này của Hải đã đánh trúng tâm lý Tây hậu. Bà gật đầu, miệng khẽ buông tiếng lo ngại:

- Đúng! Đúng thế!

Thế rồi từ đó Hải thường xun xoe trước mặt Tây thái hậu để hiến kế dâng mưu, nào là chuyên quyền phải làm sao, kết bè kéo cánh phải như thế nào. Hải còn thường xuất cung tới nhà Vinh Lộc để bàn tính công việc.

Cung thân vương cho người luôn luôn theo dõi, dò xét Hải nên mọi hành động của Hải và đồng bọn đều bị ông khám phá hết. Vương vào cung tâu bày với Đông hậu, xin cho hạ bằng được An Đắc Hải. Đông hậu tuy vậy chứ vẫn nể mặt Tây hậu, chẳng tiện thẳng tay.

Một hôm vì quân vụ miền Giang Nam, vương phải vào cung xin gặp Đông hậu. Bà bảo vương tới thỉnh ý ở Tây hậu. Khi đi tới cửa Tây cung, vương thấy An Đắc Hải cũng vừa dợm bước vào.

Rõ ràng Hải nhìn thấy Cung thân vương mà chẳng chịu tới chào hỏi, đã thế còn làm bộ lật đật chạy vội qua cửa như có việc gì cần kíp lắm. Vương còn giận hơn nữa khi vào tới cung lại bị bọn thái giám chặn lại, nói thái hậu có việc bận chưa được phép vào. Vương đành tức tối mà ngồi chờ ngoài cửa cung.

Không ngờ đợi tới chiều tối mà vẫn chẳng được truyền vào vương tức giận giậm chân xuống đất bình bịch, mặt hầm hầm đi ra khỏi cung. Tới giữa đường gặp Thuần thân vương, Cung vương kể cho nghe thái độ vô lễ của Hải và thề quyết phải giết hắn.

Tại sao lại có chuyện bỏ mặc Cung thân vương? Nguyên do chỉ tại hôm đó Từ Hi thái hậu bận bàn chuyện đi Sơn Đông lấy "long y" (áo rồng) với An Đắc Hải, không ngờ được rằng có Cung thân vương xin vào yết kiến. Còn Hải quả có thấy vương nhưng cố ý bảo bọn thái giám không thông bảo chỉ là để đùa dai vương một phen.

An Đắc Hải được mật chỉ của Tây hậu lẻn ra khỏi cung tìm đường đi Sơn Đông chuẩn bị xuống Giang Nam thay Tây hậu cho cắt may áo long y bằng gấm vàng.

Theo luật lệ của triều nhà Thanh thì đã là thái giám, cấm không được phép rời kinh thành một bước. Phạm tội đó, thì lập tức đem chính pháp (chém đầu).

An Đắc Hải xuất kinh chuyến này, đã không biết che giấu lại còn phách lác om sòm suốt dọc đường. Thực tế, Hải mượn uy của Tây hậu tự xưng khâm sai đại thần mặc sức quấy nhiễu địa phương, bức bách quan lại.

An Đắc Hải ngồi trên một cặp thuyền nổi, hiệu là Thái Bình thuyền, phía trên cắm Tam Túc Ô kỳ, hình mặt trời, còn hai bên cắm không biết bao nhiêu là cờ long phụng. Hắn còn mang theo rất nhiều đồng nam đồng nữ, thảy đều xinh đẹp.

Chưa hết, dọn đường, hắn còn truyền gọi bọn ca kỹ của nhà quan lên trên thuyền để sai bảo hầu hạ, so tơ nắn phím.

Thái Bình thuyền của Hải lướt giữa dòng sông, người xem đứng đông nghẹt trên bờ, chẳng khác gì nghênh đón xa giá vậy. Thuyền chạy qua Đức Châu vào giữa hôm hai mươi mốt tháng bảy. Đó là hôm sinh nhật của Hải. Hắn ăn mừng ngay tại thuyền. Trong khoang giữa, Hải cho bày long y, rồi cho rất nhiều trai gái lên thuyền mừng thọ. Tin này truyền ngay tới tai tri phủ Đức Châu là Triệu Tân. Tân vốn hiểu luật, biết rằng thái giám tự ý xuất kinh là phạm pháp bèn thân tự, mang theo nha dịch đuổi theo tra xét. Nhưng thuyền của Hải đi đã xa đuổi không kịp nữa, tri phủ Triệu Tân không dám chậm trễ vội chạy tới bẩm cáo với Sơn Đông tuần phủ Đinh Bảo Trinh.

Sau lời bẩm cáo này, tuần phủ Trinh cũng còn nhận được văn thư của nhiều phủ huyện khác gởi về, đều tố cáo An thái giám quấy nhiễu địa phương, bức bách quan lại. Đọc xong ông nổi cơn thịnh nộ một mặt gởi công văn cho các phủ huyện Đông Xương, Tế Ninh truy bắt, một mặt viết một bản mật tấu gởi về kinh.

Cung thân vương tiếp được bản mật tấu, nổi giận đùng đùng, đi vội vào cung tâu với Từ An thái hậu.

Bệ kiến xong, Cung thân vương đem theo tờ chỉ dụ giết An Đắc Hải và cả bản tấu chương của Đinh Bảo Trinh nhất tề trình lên. Đông hậu đọc xong, hoảng sợ nói:

- Tên khốn kiếp, đến ngay cả Tổ huấn của nhà ta mà hắn cũng giẫm đạp lên. Không thể nào nể mặt Tây hậu được nữa, quốc pháp, gia pháp là điều tối khẩn phải duy trì.

Nói đoạn, Đông hậu lập tức ấn ký ngay vào tờ chỉ dụ.

Cung thân vương đỡ lấy, tức tốc quay ra.

Tiếp được mật chỉ của nội đình, tuần phủ Đinh Bảo Trinh mở ra xem thì thấy như sau:

"Căn cứ theo tập sớ của Đinh Bảo Trinh tâu về việc một tên thái giám ra ngoài phách lác bịp bợm do Triều Tân tri phủ Đức Châu tâu trình, rằng: "Vào khoảng tháng bảy có tên thái giám họ An ngồi bên trong hai chiếc Thái Bình thuyền, thanh thế rất là hống hách, tự xưng vâng chỉ sai đi may cắt long y, trên cắm một lá cờ Tam túc kỳ hình mặt trời, hai bên treo cờ long phụng, trong khoang chứa rất nhiều trai gái, cũng có cả nữ nhạc nắn phím so tơ, khiến hai bên bờ người đi xem đông nghẹt, lại đến ngày hai mươi mốt tháng ấy, mượn cớ ngày sinh nhật, tên thái giám giữa bày long y cho trai gái vào lễ lạt vì thế Châu này vội đi lùng bắt thì thuyền đã giương buồm xuôi trẩy về Nam, sau đó, tuần phủ Trinh liền thông sức cho các châu phủ Đông Xương, Tế Ninh đuổi theo bắt lại.

Ta xem xong quả lấy làm quái lạ, sợ hãi vô cùng. Tên thái giám này đã tự ý đi xa, lại còn có nhiều hành vi bất pháp. Nếu không nghiêm trị thì còn biệt lấy gì răn đe nơi cung cấm.

Bởi thế ta giao cho Mã Dân Di, Trương Chỉ Vạn, Đinh Nhật Xương, Đinh Bảo Trình phải cấp tốc cho bắt ngay tên thái giám họ An cùng bọn tuỳ tùng, phải nói rõ chứng cớ xác thực, rồi khỏi cần thẩm vấn, tức khắc đem ra chính pháp, không cho hắn lẻo mép biện luận che đậy.

Nếu như tên thái giám họ An nghe được tin đã hoảng sợ quay về thì việc bắt hắn sè giao cho Tăng Quốc Phiên thi hành mau chóng và đem hắn chính pháp tức khắc.

Việc quan trọng này ví thử sơ sót không chu đáo thì đó là lỗi của các đao phủ sẽ bị tra hỏi sau này, còn bọn tuỳ tùng xét ra nếu thuộc loại thổ phỉ, thì bắt ngay rồi phân biệt ra từng loại mà nghiêm phạt, khỏi cần phải tâu xin ý chỉ nữa.

Hãy chiếu theo tờ mật vụ sáu trăm dặm này mà thi hành. Khâm thử".

Mười ngày sau khi chém tên thái giám An Đắc Hải, Từ An thái hậu lại sai Cung thân vương soạn thảo đạo chỉ dụ thứ nhì, nội dung như sau:

"Ngày mồng ba tháng này, Đinh Bảo Trinh căn cứ vào tờ bẩm của tri phủ Đức Châu là Triều Tân tâu rằng có tên thái giám họ An đi trên chiếc thuyền lớn tự xưng là khâm sai, đi lo may long y, cạnh thuyền có treo cờ long phụng lại đem theo rất nhiều trai gái, suốt dọc đường phách lác bịp bợm khiến nhân dân hết sức kinh hãi". Do đó ta đã hạ dụ sai các đốc phủ các tinh Trực Lệ, Sơn Đông, Giang Tô lùng bắt và đem chính pháp tức khắc. Nay theo tờ sớ của Đinh Bảo Trinh tâu lên thì tên thái giám phạm pháp là An Đắc Hải đã bị bắt và bị chém tại huyện Thái Ân. Còn bọn tuỳ tùng thì cũng ngày hôm nay ta đã truyền dụ cho Đinh Bảo Trinh phân biệt tội trạng để nghiêm trị.

Gia pháp của triều ta rất là nghiêm ngặt đối với bọn hoạn thư đời này tới đời kia, nếu phạm ắt bị trừng trị. Bởi thế, mỗi khi có kẻ ra ngoài phách lác, bịp bợm, sinh sự, không kẻ nào là không bị trị tội tức khắc. Ấy thế mà tên thái giám An Đắc Hải dám lớn mật làm càn, gây ra không biết bao chuyện bất pháp, tội chết thực là đáng! Kể từ nay về sau bọn thái giám phải mở mắt nhìn rõ sự nghiêm phạt để dốc lòng kính sợ cố tránh. Viên đại thần tổng quản nội vụ phủ phải nghiêm sức cho bọn tông quản thái giám. Từ nay về sau phải kiểm soát gắt gao bọn thái giám trực thuộc để chúng hết sức cẩn thận khi thừa hành phận sự.

Nếu có kẻ không chịu an phận mình ra ngoài gây chuyện thì chẳng những kẻ chính phạm đã phải chiếu luật trị tội mà đến cả tên thái giám tổng quản cũng bị trừng phạt nữa.

Ngoài ra, cũng cần thông dụ thẳng cho các đốc, phủ các tỉnh cần nghiêm sức cho các địa phương dưới quyền hễ gặp bất cứ tên thái giám nào mạo xưng vâng lệnh thừa hành công vụ thì lập tức bắt ngay xích lại rồi tâu rõ để trừng trị, không được khoan hồng thả ra, bất luận tên can phạm đó chưa hoặc đã phạm pháp".

Tây thái hậu được xem hai đạo chỉ dụ đó xong mới biết An Đắc Hải đã bị chính pháp. Bà bất giác vừa thương tâm vừa căm hận, vừa mắc cỡ. Bất chấp cả thể diện của một thái hậu, bà hầm hầm chạy tới Đông cung.

Từ An thái hậu lúc đó đang ngủ trưa, nghe Tây hậu tới chẳng hiểu có chuyện gì vội ngồi dậy đón vào. Từ Hi bước vào phía sau còn có một bọn cung nữ và thái giám khá đông thanh thế, vẻ hùng hổ dữ dằn lắm.

Thấy Đông hậu ra đón nhưng Tây hậu chẳng thèm hành lễ, giận dỗi ngồi phịch xuống ghế, không nói tiếng nào cặp má biến dần từ đỏ đến tái. Đông hậu thấy vậy muốn làm lành bèn cười hì hì lên tiếng hỏi:

- Chuyện gì mà giận dỗi quá vậy?

Tây hậu chẳng đáp, bỗng oà lên khóc rối vò đầu, giậm chân, y như một con điên. Mấy cung nữ vội chạy tới vỗ về, khuyên nhủ. Đông hậu ngơ ngác đứng ngây người ra nhìn.

Tây hậu khóc chưa đã, bèn lăn nhào tới trước mặt Đông hậu, đầu gối quỳ trên sàn gạch còn cái đầu thì gục vào lòng Đông hậu, quay đi lắc lại, vừa khóc vừa nói:

- Thái hậu vốn là chính cung xuất thân. Tôi chỉ là đứa con ở xuất thân. Nay đứa con ở phạm pháp cầu xin chính cung thái hậu cho tôi chết quách cho rồi.

Tấn kịch bi hài do Tây hậu dàn diễn làm cho Đông hậu bối rối, vò đầu bút tóc mãi mà vẫn không tìm ra nguyên uy.

Bà đành phải nhẫn nại lựa lời ngon ngọt khuyên uý Tây hậu.

Đến lúc này Từ Hi mới thôi khóc, nghiêm nét mặt chất vấn Từ An:

- Lục tiên đế còn tại thế, tôi còn chưa được phong hậu, thế mà ngài vẫn thường gọi tôi bàn việc triều chánh. Nay tôi đã làm hoàng thái hậu, thế mà giết Hải, hậu chẳng thèm hỏi han gì tôi mà chỉ bàn tính với Lục gia. Như thế, chẳng những Lục gia không coi cái con hoàng thái hậu nầy ra gì mà đến cá thái hậu, rõ ràng cũng khinh rẻ tôi nữa. Bây giờ tôi chỉ cầu xin thái hậu cho một cái chết để tôi khỏi mất mặt trước hoàng thượng đó thôi. Xin nói thực để thái hậu biết, chính tôi đã sai Hải tới Sơn Đông chứ có phải ai khác đâu. Nay giết Hải, thái hậu thực đã vạt mất hẳn cái mặt tôi rồi, thử hỏi tôi còn sống sao nổi trong cái cung này chứ?

Nói đoạn, Tây hậu lại lu loa khóc lớn, mồm năm miệng mười chỉ xin Từ An giết quách bà ta đi.

Từ An thái hậu chưa từng thấy một cảnh tượng quái gở như thế, nên tay chân bà run bần bật, ú ở mãi mới bật ra được câu nói:

- Từ nay về sau tôi chẳng hỏi tới triều chính nữa. Mọi việc sẽ để cho thánh mẫu thái hậu trông coi hết cả đó, hoàng thượng vốn là hoàng thượng của thánh mẫu hoàng hậu. Tôi chỉ cầu xin được chết già trong cung cấm, được ăn một bát cơm thái bình kể ra cũng đủ mãn nguyện rồi.

Nói xong, Từ An thái hậu đã giỏ lệ, ướt đầm cả đôi má.

Giữa lúc lưỡng cung đang lâm vào cái thế nan giải, bỗng có tin báo nhà vua tới.

Lúc này, Đồng Trị hoàng đế tuy mới tuổi mười hai nhưng vóc người cao lớn, lại bận một chiếc áo thường, đội một cái mão nhỏ, nên trông hết sức bảnh bao, thanh nhã.

Đồng Trị vừa bước vào, liền hành lễ chào lưỡng cung, xong hỏi hoàng thái hậu vì sao nổi giận, thì Từ An liền kể cho nghe việc giết An Đắc Hải.

Đồng Trị hoàng đế tuổi còn quá nhỏ nên từ lúc lên ngôi, vẫn không có hỏi đến triều chính, suốt ngày chỉ đi chơi trong hoàng cung. Tất cả mọi việc đều do lưỡng cung Hoàng thái hậu quyết định. Bởi thế, việc giết An Đắc Hải Đồng Trị chẳng biết một tí gì. Nay nghe Từ An kể lại, liền khanh khách cười lớn rồi bảo:

- Cái thằng chó đẻ khốn nạn ấy, giết đi là phải lắm.

Từ Hi nghe Đồng Trị chửi An Đắc Hải, mặt mày biến sắc, vội đứng dậy hậm hực trở về cung. Đồng Trị đâu có biết gì nỗi lòng của Tây hậu, dắt bọn thái giám vào vườn thượng uyển du ngoạn.

Đồng Trị hoàng đế ghét cay ghét đắng An Đắc Hải là có nguyên do của nó. Làm vua, Đồng Trị có đến ba bốn ngàn thái giám trong cung cấm, nửa thì nịnh nọt tâng bốc, nửa thì oán giận. An Đắc Hải người bảnh trai lại vừa thân thiết với Từ Hi thái hậu, luôn luôn ở bên hầu hạ. Tây hậu lúc này tuổi xuân còn đầy, tình còn tràn, cho nên rất thích đùa giỡn với bọn thái giám. Có người bảo An Đắc Hải đâu phải là thái giám thật, hắn vẫn nguyên vẹn đàn ông đánh lộn sòng vào cung, bắt chước kế sách của Lã Bất Vi đời Tần thuở trước.

Đồng Trị hoàng đế tuy còn nhỏ, nhưng rất khôn lanh. Chỉ cần nghe những lời bàn tán xì xào, ngài đã tự thấy căm hận tên An Đắc Hải đến xương tuỷ rồi.

Dần về sau, Hải được lòng Từ Hi, càng chẳng coi ai ra gì, ngay cả đến hoàng đế cũng chẳng dám sỉ nhục khinh thường hắn. Có một hôm, đang đứng nói chuyện gẫu với bọn thái giám, thấy hoàng đế đi tới, thế mà hắn cứ lơ đi, trong khi bọn kia kẻ nào cũng đều bước tới thỉnh an.

Hôm đó, Đồng Trị hoàng đế giận quá, ra lệnh dùng tới gia pháp, hắn mới hoảng sợ, đập đầu xuống đất cầu xin tha tội.

Từ Hi thái hậu nằm trong phòng, thấy hoàng đế nổi giận, liền gọi ngài vào quát mắng, răn dạy:

- An Đắc Hải vốn là một nô tài tín cẩn của tiên hoàng, nếu có điều lầm lỗi, cũng nên xin chỉ thị của thái hậu trước đã rồi hãy dùng tới gia pháp chứ!

Câu nói làm cho ông hoàng đế nhỏ tức điên, ông lượm con dao trên mặt bàn chém một nhát vào sau ót hình người sành dùng làm đồ chơi của ông, cái đầu lâu đứt lìa văng xa đến mấy thước. Tên thái giám hầu cận hỏi sao lại làm thế thì Ông hậm hực đáp:

- Giết thằng chó đẻ Hải đó.

Bởi vậy, nay nghe tin Hải bị giết, làm sao mà hoàng đế chả vui sướng.

Đồng Trị hoàng đế có một cuộc sống hơi khác cái vị hoàng đế tiên nhiệm chút ít. Từ nhỏ ngài sống hoặc ở vườn Viên Minh hoặc ở hành cung Nhiệt Hà. Hai nơi cung cấm này không có cái khung cảnh đồ sộ, nguy nga như trong đại nội, lại rất gần phố xá, chợ búa, cho nên bọn thái giám thường hay bế ngài ra phố, ra chợ đi chơi. Lớn lên, ngài đã quen với những cảnh ồn ào, náo nhiệt nơi thị tứ. Thế rồi khi về kinh, chính mình lại được làm hoàng đế, cả ngày phải ở trong những cung điện tôn nghiêm, tịch mịch, ngài rất buồn bã. Do đó bên canh ngài cần có một bọn thái giám con nít bầu bạn, suy nghĩ tìm tòi cho ngài nhiều kiểu chơi, nhiều trò vui. Chúng bày ra nào trò đá banh, đánh cầu, nào bơi lội, trượt tuyết, nào ca hát. Chơi vui quá, hoàng đế chẳng đứng xem nữa, nhảy luôn vào cùng nghịch phá với cả bọn.

Cậu con trai Cung thân vương là Tải Trung cùng tuổi Đồng Trị, đã từ lâu vẫn bầu bạn vui chơi với ngài ở vườn Viên Minh hay hành cung Nhiệt Ha, nhưng từ khi quay về cung nội ở Bắc Kinh, Đồng Trị không gặp bạn đã lâu nên bèn truyền gọi vào cung.

Tải Trung vốn là một chú bé nghịch ngợm, quỷ quái. Trung lang thang khắp kinh thành, lại học thêm được nhiều lối chơi hết sức quái lạ, bèn mớm cho Đồng Trị để cả hai cùng bày trò.

Thấm thoát vài năm Đồng Trị hoàng đế đã mười bốn, đây là cái tuổi bắt đầu tò mò, tìm biết. Bên cạnh lại có tên quỷ con Tải Trung chỉ dẫn; bởi thế, chỉ mấy tháng mà người ta không tính kịp số cung nữ bị ngài "thử coi" lên tới bao nhiêu.

Từ An thái hậu thấy Đồng Trị đã "lớn trước tuổi" bèn nói nhỏ với Từ Hi nên tính đến chuyện hôn nhân cho hoàng thượng.

Có điều cần lưu ý là sau cuộc gây gổ, hờn dỗi của Từ Hi với Từ An thì từ đó, Từ Hi trở nên độc đoán. Mỗi khi lâm triều buông rèm nghe chính sự, nếu có bọn đại thần tâu lên, Từ Hi chẳng bàn bạc gì với Từ An, cũng chẳng đợi Từ An mở miệng, liền tự ý quyết định. Thế là Tử An cũng đâm chán nản, nhượng bộ hoàn toàn, ngay đến cả lâm triều cũng bỏ luôn.

Cung thân vương tuy trung thành với Từ An nhưng thấy bà như vậy nên vừa chán vừa lo cho mạng sống của mình, đành phải quay hướng đổi chiều. Vương cố tìm cách liên lạc với bọn Thôi tổng quản và Lý Liên Anh, nhờ hai người này trước mặt Từ Hi nói tốt cho mình.

Từ Hi biết rằng Cung thân vương chủ mưu giết An Đắc Hải cho nên hận vương đến xương tuỷ và chỉ chờ dịp để cách hết chức tước của vương. Nhưng sau nghe Vinh Lộc, bà có nghĩ lại. Lục gia (Cung thân vương) chẳng những là thân thuộc của hoàng gia mà còn là một đại thần cố mạng của tiên triều. Hơn nữa mật chiếu của tiên hoàng hiện nằm trong tay bọn họ, nếu bức bách quá e họ đưa mật chiếu ra thì tai hại không biết nhường nào. Nghe xong, Từ Hi thái hậu khen phải và dẹp bỏ luôn mối thù hận xưa kia.

Chỉ thương cho Từ An thái hậu một mình đơn độc không còn người tâm phúc để bàn tính mọi việc. May là Từ Hi trong lòng vẫn cho rằng mật chiếu của Hàm Phong hoàng đế còn trong tay Từ An cho nên vẫn còn ba, bốn phần e ngại, không dám hạ ngay độc thủ.

Thực ra thì tờ mật chiếu của Hàm Phong hoàng đế không nằm trong tay Từ An thái hậu mà cũng chẳng phải trong tay Cung thân vương mà lại ở trong tay Thuần vương phúc tấn.

Lúc Hàm Phong hoàng đế lâm chung, Lý Liên Anh thấy tờ di chiếu liền đi báo với Tây thái hậu. Bà vội cho người tới nhờ Thuần vương phúc tấn đi lấy giùm. Khi bước vào, đúng lúc Hàm Phong tắt thở, Thuần vương phúc tấn thấy chưa có ai tới, vội rút lấy tờ mật chiếu trong áo hoàng đế. Bà cũng tính đưa tờ mật chiếu cho Từ Hi thái hậu xem, nhưng lại sợ nhiều chuyện xảy ra sau này, cho nên bà đem luôn về nhà giấu biệt rồi chỉ bảo là không thấy đâu cả.

Làm như vậy Thuần vương phúc tấn tin chắc rằng lưỡng cung tránh được nhiều chuyện lôi thôi về sau, hai nữa khiến Từ Hi thái hậu trong lòng e ngại trăm phần, không dám khinh nhờn Từ An thái hậu. Đó mới chính là một giải pháp hay nhứt.

Đốn khi Đồng Trị hoàng đế tuổi đã thành niên, lưỡng cung đã làm lễ đại hôn cho hoàng đế rối thì hai bà mới bắt đầu tranh chấp kịch liệt.

Hồi 148

HỔN MA BÁO OÁN

Đồng Trị hoàng đế đã trưởng thành, chuyện trai gái lúc này coi như đã thành thạo. Gái trong cung cấm thiếu gì, cô nào cũng đẹp như mộng, hoàng đế lại trẻ, sức trai đang hăng, ngài mặc sức "ngự", có ngày tới chín, mười cô. Ngài có toàn quyền đi, đi bất cứ chỗ nào trong cung cấm với ba ngàn cung nữ. Bọn cung nữ khát tình đua nhau đem thân dâng cho ngài. Họ chẳng phải trốn tránh, kiêng kỵ gì, cứ thấy hoàng đế là kéo lại, với những bộ ngực tròn vo căng cứng, nhưng cặp giò thon thon, những bổ mặt tươi như hoa, những làn da trắng nõn...

Có một hôm trời nóng bức ngột ngạt, bọn thái giám xúm nhau lại ngồi hóng mát trước cửa cung, tán láo tới chuyện giết Túc Thuận thuở nọ, một tên nói:

- Lúc bị đem ra xử trảm, Thuận chửi Tây thái hậu thậm tệ. Bọn khoá tử thủ dùng đao đâm vào mồm Thuận, đánh rụng luôn cá mấy cái răng cửa, máu chảy lênh láng mà Thuận vẫn chỉn bới không ngớt.

Một tên thái giám khác lên giọng hiểu biết, kể tiếp:

- Tụi bay còn chưa biết vụ án tình của người cha Túc Thuận đâu. Để tớ kể cho mà nghe. Cha Túc Thuận là Trịnh thân vương Ô Nhĩ Cổn, chính là con của bà thái thái người Hồi đó Bà này vốn thuộc gia đình lương dân. Có một hôm, Trịnh thân vương ở triều về, xe chạy qua khu Biểu Bối hồ Đông, vương bỗng thấy một cô gái tuyệt sắc, lòng tự nhiên đâm ra vấn vương mơ ước. Thế là vương cho gọi tên tâm phúc họ Triệu tới giao đi dò la gia thế người đẹp và thu xếp cách nào để đem người đẹp về cho vương làm bà nhỏ.

Tên tâm phúc họ Triệu tức tốc lên đường.

Sau vài hôm, Triệu đã biết rõ tung tích người đẹp: cha nàng vốn người Hồi (theo đạo Hồi), gia cảnh hết sức nghèo khổ. Cô con gái cũng đã có chỗ dạm hỏi, làm sui gia rồi. Tên Triệu được tin này, rầu lắm coi như hỏng việc.

Không ngờ Trịnh vương gia cứ đòi lấy cho bằng được, bèn lệnh cho tên tâm phúc họ Triệu, bất cứ giá nào cũng phải mang người đẹp về, chậm nhất là sau ba tháng chứ không được lâu hơn. Vương bỏ ra luôn một lúc chín, mười vạn lạng bạc để lo vụ này.

Tên họ Triệu, trước tiên thuê căn nhà gần nhà cô gái và tìm cách bắt quen với cha cô. Chẳng bao lâu hai người đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Tên Triệu thường đem tiền giúp đỡ, do đó cha mẹ cô gái Hồi nọ đâm ra hết sức cảm kích hắn.

Hạn ba tháng đã gần mãn. Tên Triệu chưa biết tính cách nào, trong lòng lo lắng ngày đêm thì giữa lúc đó, Trịnh thân vương bỗng nhận thánh chỉ giữ chức Quảng bộ quân thống lĩnh. Ba ngày sau khi đáo nhiệm nha môn, Trịnh vương đã có ngay một vụ án trộm đưa tới.

Tên họ Triệu nhìn thấy bọn trộm bỗng nảy sinh một kế. Hắn cho tiền bảo chúng khai cho cha cô gái nọ đã oa trữ đồ gian mà chúng đánh trộm và nhất định đổ cho ông ta là nhà chứa. Thế là ông ta bị bắt cấp kỳ và sau đó bị đem ra pháp trường chém đầu cả xốc với bọn trộm kia.

Tên Triệu lúc đó lại ra mặt tử tế, đem tiền bạc ra giúp mẹ con gái cô nọ chôn cất người thân, cấp cho họ ít tiền độ nhật. Ngoài ra hắn còn xúi người giả tạo những văn tự nợ do cha nàng ký tên vay rồi kéo nhau tới đòi nợ.

Hai mẹ con cô gái bị chủ nợ thúc bách gắt gao, lúc đó tên Triệu mới đứng ra nhận lãnh bồi hoàn các món nợ khiến hai mẹ con cô gái cảm kích hết chỗ nói, coi hắn như một ân nhân. Mặt khác tên Triệu lại còn ngầm bảo tụi ma cô địa phương xông vào nhà chọc ghẹo cô gái để cho nhà trai sinh nghi sinh chán, cho nàng chi là một loại mèo mả gà đồng thất trinh thất tiết chẳng ra gì, cuối cùng thối hôn luôn.

Hai mẹ con cô gái đã nhục nhã lại khốn cùng và một khi đến bước đường cùng, họ đành chạy tới cậy nhờ tên Triệu.

Hắn liền dàn xếp với bà mẹ cho cô gái vào phủ Trịnh vương làm vợ bé, ngoài ra còn hứa nói với vương thưởng thêm cho ba ngàn lạng bạc nữa. Bước cùng, mẹ con đành ôm nhau khóc mà cam chịu.

Ai ngờ người con gái nọ một khi bước vào vương phủ, chỉ qua năm sau là đã sinh cho vương một cậu bé kháu khỉnh.

Đó chính là Túc Thuận Cậu bé mới được vài tuổi thì Trịnh vương bỗng bị ung thư chết tốt. Bệnh ung thư của vương có cái tên khủng khiếp là lạc đầu thư (tức là bệnh ung thư rụng đầu) bởi nó thường mọc quanh cổ thành một vòng tròn, bệnh dần dần lở loét ung thối mãi đến khi đầu rụng ra khỏi cổ là chết.

Ở trong thành Bắc Kinh lúc đó có một bọn đao phủ thủ chuyên môn chém người rồi sau đó khâu đầu vào cổ y như cũ. Cái đầu của Trịnh thân vương cũng nhờ bọn đao phủ này khâu lại giùm rồi mới đem chôn cất. Nhưng điều kỳ lạ nhất là cái tên họ Triệu nọ đồng thời cũng bị lạc đầu thư như Trịnh thân vương và cuối cùng cũng chết rụng đầu ghê sợ như vương.

Tên thái giám vừa kể xong câu chuyện kỳ lạ khiến cả bọn nghe mà phát ớn phát run. Bỗng từ trong cửa tò vò Đồng Trị hoàng đế bước ra. Cả bọn giật mình vội chạy tới thỉnh an.

Hoàng đế chẳng để ý chuyện gì khác mà chỉ hỏi tên thái giám vừa kể câu chuyện:

- Trịnh thân vương tìm hết trăm kế ngàn phương để đưa người con gái về nhà để làm gì vậy? Tại sao lại gọi là "bà bé"?

Nghe hỏi, bọn thái giám thảy đều muốn phá lên cười mà chẳng dám, muốn giải thích mà chẳng thể mở miệng. Mãi sau, có vài tên liều lĩnh nhất, đem hết tất cả các ngón chơi ra chỉ dẫn cho nhà vua một cách hết sức tỉ mỉ để ngài rõ hết cái chuyện gọi là "chơi gái" nó ra làm sao và nó thích thú lạ lùng như thế nào!

Đồng Trị hoàng đế càng nghe càng thấy tân kỳ và độc đáo. Ngài khoái quá, cho như câu chuyện hấp dẫn nhất từ khi ngài bắt đầu ngồi trên ngai vàng. Thế rồi từ đó, hễ bắt gặp cô cung nữ nào ở bất cứ chỗ vắng vẻ nào hoàng đế ta cũng ôm đại lấy kéo vào để "làm theo lời kể" xem nó ra sao.

Tin tức thú vị này chẳng mấy chốc đã bay đi khắp cung cấm, cuối cùng lọt vào tai Từ An thái hậu. Hậu bèn đem việc bàn với Từ Hi, cưới vợ cho ông vua nhỏ sớm phát động xuân tình.

Thực ra Từ Hi thái hậu đã có ý đó từ lâu. Thế là hai bà truyền dụ lập tức xuống cho bộ Lễ, bộ Công và phủ nội vụ chuẩn bị.

Theo luật lệ trong hoàng cung thì trước khi làm lễ Đại hôn cho hoàng đế, bắt buộc phải chọn tám cô cung nữ hơi lớn tuổi một chút để đưa vào tẩm cung của hoàng đế cho ngài "làm quen". Cách làm quen như vậy gọi là: Tư trướng, Tư tẩm, Tư nghi, Tư môn.

Đồng Trị hoàng đế chọn ngay tám con cung nữ mà hằng ngày ngài đã "quen biết". Sau đấy luật lệ còn buộc ngài chọn sẵn và chỉ định một số người như sau: Thường tại vài người, Quý nhân vài người, Tần vài người, Phi vài người, Hoàng quý phi vài người. Tất cả đều được chuẩn bị xong xuôi, lúc đó mới tuyển lựa đến Hoàng hậu.

Hồi đó Từ Hi thái hậu đã có ý định chọn con gái thị lang Phượng Tú làm hoàng hậu, nhưng theo ý Từ An thì bà lại thích con gái của Thừa Ân công là Sùng Y hơn. Thế là lại xung đột. Sau rồi Từ An thái hậu bàn tới Từ Hi:

- Bọn mình khỏi tranh chấp làm gì. Đây là việc của chính hoàng thượng, tốt hơn là ta mời ngay hoàng thượng lên đây để tuỳ ý ngài.

Từ Hi thái hậu cho hoàng thượng chính là con trai mình, chẳng lẽ lại không nghe theo mình nên bà chấp nhận ngay ý đó. Hai nàng cách cách kể trên bình nhật vẫn thường vào du ngoạn trong cung bởi thế Đồng Trị hoàng đế đã thấy cả, ngài chẳng do dự phút nào, chọn con gái của Sùng Y lâm vợ, sau gọi là Hiếu Triết hoàng hậu và cũng phong cho Phượng Tú làm Tuệ phi.

Quyết định này chính là của Đồng Trị hoàng đế, Từ Hi thái hậu đến lúc này đành chịu thua một keo nhưng trong lòng vô củng hậm hực, không những đối với Từ An mà cả với Đồng Trị nữa.

Việc tuyển lựa đã xong, hoàng cung lại một phen tưng bừng náo nhiệt. Hôm lễ đại hôn người ta mở toang cửa Đại Thanh môn để rước bà hoàng hậu qua đó. Nàng Tuệ phi thì trước đó một ngày đã phải vào cung để sửa soạn hầu hạ hoàng hậu và hoàng đế.

Hoàng hậu lễ cáo với trời đất xong lại qua nhà Tôn miếu yết kiến hai bà thái hậu. Còn hoàng đế thì leo lên ngồi ngất ngưởng trên đại điện nhận lễ triều hạ của trăm quan.

Hai mươi bốn tấm cánh cửa lớn của đại điện lúc đó đã mở toang. Trên bao cửa chỗ nào cũng thấy chạm trổ chữ "Thọ" và sơn son thiếp vàng. Trong điện, nền nhà không phải bằng gạch lát mà toàn bằng vàng đúc sơn màu đen bóng, trơn loáng.

Phía sau đái điện là tẩm cung (phòng ngủ) của hoàng đế. Tẩm cung dài tới ba mươi hai gian, trần thiết thật hết sức lộng lẫy. Phía sau nữa là tẩm cung của hoàng hậu. Tẩm cung này dài hai mươi bốn gian, đặc biệt dành ba gian riêng cho Tuệ phi. Tẩm cung của hoàng đế và hoàng hậu tuy tiếp cận ba gian này của Tuệ phi nhưng không có lối thông sang, có điều lại đều có một dãy hành lang dài chạy thông sang tẩm cung của Từ Hi thái hậu, mục đích để hai người tiện đường qua thỉnh an. Đó là ý riêng của Từ Hi cho nên mới có cái lối kiến trúc đặc biệt và ít thấy này. Từ khi lấy Hiếu Triết hoàng hậu, Đồng Trị thấy nàng mặt mày xinh đẹp, cử chỉ lại đoan trang, tính tình thì nhu mì duyên dáng tuyệt nhiên không có gì kênh kiệu, khinh bạc nên đem lòng sủng ái vô bờ. Hai vợ chồng trẻ này quyến luyến ngày đêm bên nhau trong tẩm cung. Hoàng hậu rất thuộc thơ Đường, hoàng đế thuận miệng đọc một câu thì hoàng hậu đọc tiếp ngay sau, không bao giờ vấp váp. Vì vậy, càng được hoàng đế yêu quý.

Những lúc hai người ăn ở, trò chuyện trong cung, bọn cung nữ và thái giám hầu hạ tuyệt nhiên chưa thấy hoàng hậu cười đùa lẳng lơ bao giờ. Trái lại Tuệ phi thì hết sức khinh bạc, kênh kiệu, lẳng lơ, sàm sỡ. Mỗi khi hoàng đế đến phòng ngủ của Tuệ phi, bọn cung nữ và thái giám chỉ thấy nàng õng ẹo, núng nịu làm duyên lấy dáng, rồi những tiếng cười lả lơi vang lên mãi.

Về sau, thái độ này đến tai hoàng hậu. Bà truyền dụ bảo Tuệ phi phải tu sửa tính nết lấy điều đoan trang cẩn trọng làm gốc để bảo vệ thể thống nơi cung cấm. Lời dụ này chẳng được Tuệ phi để ý, cứ thói nào tật ấy, càng ngày càng quá trớn hơn trước. Nàng cậy mình là người của Tây thái hậu, được thái hậu quý mến, chẳng coi hoàng hậu ra gì. Lại còn hay tới gặp Tây thài hậu để nói xấu hoàng hậu nữa.

Tây thái hậu vốn không ưa Hiếu Triết cho nên nghe lời Tuệ phi, càng ghét bỏ hoàng hậu.

Ngày nào cũng vậy khi hoàng hậu và hoàng đế tới cung của Tây thái hậu để thỉnh an, y như đều nhận được lời dặn dò của Tây thái hậu, với bộ mặt nghiêm nghị:

- Hoàng thượng tuổi còn nhỏ, đại sự của quốc gia là khẩn yếu, chớ có lưu luyến nơi thâm cung để cười cợt chơi bời.

Hiếu Triết hoàng hậu nghe vậy, trong lòng thấy oan ức vô tả nhưng đành cam chịu bởi không biết nói cùng ai.

May là Đông thái hậu yêu quý bà, nên thường hay gọi hoàng hậu vào cung an ủi và khuyên bảo. Chẳng ngờ câu chuyện này lộ ra ngoài, khiến Tây thái hậu càng tức giận. Bà bảo Đồng Trị:

- Tuệ phi hiền hậu khôn khéo, hoàng đế nên thường gần nàng. Còn hoàng hậu tuổi quá nhỏ, chẳng hiểu được luật lệ, hoàng đế không nên quyến luyến mãi để đại sự của triều đình bị bỏ bễ.

Câu này, Tây thái hậu cứ nói đi nói lại hoài, nói đến nỗi Đồng Trị phát bực phát phiền, cuối cùng cũng không dám năng lui tới tẩm cung hoàng hậu nữa. Tây thái hậu ngầm sai người tới dò la cử động của hoàng đế, thấy đêm nào ngài tới cung của Hiếu Triết, thế là sáng hôm sau, bà lại cho một trận nên thân. Đồng Trị tức quá đồng thời cũng chẳng thèm đến cung của Tuệ phi nữa, quyết nằm một mình tại cung Kiến Thanh.

Những lúc rỗi rảnh, cô quạnh, ngài lại cho bọn tiểu thái giám quen thuộc hồi nọ đi tìm cho ngài những trò giải trí mà xưa kia ngài thích.

Nhưng Đồng Trị sau đại hôn đâu có còn là Đồng Trị trước kia nữa. Những trò chơi lúc trước trở nên nhạt nhẽo và càng khiến ngài buồn chán hơn.

Thấy vậy, Thôi tổng quản bèn nghĩ ra một cách: đưa gánh hát vào cung. Lúc đầu, ngài xem hát, thích lắm. Về sau khi được xem qua tán tuồng "Du long hí phượng" thì lòng xuân của ngài bị kích thích mạnh, bèn bảo tên tiểu thái giám dẫn ra phố tìm thú vui.

Cuộc du ngoạn bên ngoài quả thú vị hơn trong cung cấm. Hoàng đế mệ chơi không muốn về nữa, ở lỳ suốt ngày trong cái nhà chứa. Thôi tổng quản biết vậy, nhưng không dám khuyên ngăn.

Mỗi ngày, sau khi thỉnh an hoàng thái hậu, ngài toạ triều một lát rồi lẻn cổng hậu, tìm đến nhà chứa. Khi ra phố, ngài tự đặt cho mình một cái tên riêng: Trần Bạt Công, người tỉnh Giang Tây. Sau khi chơi bời đã đời, hoàng đế lảng vảng tới phòng trà, quán rượu, hoặc lang thang vào bất cứ chỗ nào ồn ào, náo nhiệt đông vui.

Có một hôm, Tả đô ngự sử là Mao Văn Đạt cùng với Mãn đường quan là Vĩnh Hy kéo nhau ra nhậu tại quán rượu Xuân Yến ngoài cửa Tuyên Võ môn. Chén chú chén anh được một lát, hai ông quan lớn của triều đình bỗng thấy ở phía đông bích một gã thiếu niên ăn mặc hết sức bảnh bao, cũng đang ngồi nhậu lai rai, phía sau có một chú tiểu đồng cầm quạt đứng hầu. Nhìn kỹ một lúc lâu, cả hai anh đại thần giật thót mình, thì ra chàng thiếu niên đó chính là đương kim hoàng đế cải trang, đang ung dung tự tại nâng ly rung đùi.

Đồng Trị hoàng đế hình như cũng thấy hai anh đại thần, bèn gật đầu nhếch mép mỉm cười, ra chiều đắc ý lắm. Chỉ tội cho hai anh quan lớn tin chắc rằng hoàng đế biết mình rồi, hoảng hồn bạt vía bỏ cả rượu, chê cả thịt, vội vàng vàng vàng xuống cầu thang, thoáng cái là mất hút.

Hai đại thần ra thoát, hú hồn hú vía, vội chạy ngay tới nha môn của quan thống lãnh rỉ tai cấp báo.

Quan thống lãnh bộ quân nghe xong, chút xíu té quỵ, chân tay run bắn lên. Ông chạy vội ra quát tháo inh ỏi, nào gọi tướng, nào hô quân tức khắc người ngựa để lên đường. Nha môn bộ quân thống lãnh lúc này được một phen nhộn nhịp tưng bừng: ngựa hí người chạy, tất cả đều như điên như cuồng lao tới quán rượu.

Thấy vậy Mao Văn Đạt vội đuổi theo ra đầu đường chặn quan thống lĩnh lại, giọng trịnh trọng nhưng vẫn không hết vẻ hoảng hết nói:

- Ngài điều binh khiển tướng rầm rộ như thế này khiến thiên hạ xôn xao bàn tán, lỡ thánh giá có gì bất trắc xảy ra thì tôi với ngài lấy vai nào gánh đủ tội trọng? Rồi lại tin tức đồn đãi làm mất hết tự do đi lại của hoàng thượng khiến hoàng thượng đâm giận thì ngài với tôi công đã chẳng được lại chỉ thêm khổ, hỏi ích lợi gì?

Viên thống lãnh nghe vậy đâm ra chùn, vội hỏi:

- Vậy theo cao kiến của đại nhân thì làm sao cho ổn thoả nhất?

Mao Văn Đạt suy nghĩ một lúc rồi bảo viên thống lãnh quay về nha môn chọn lấy hai mươi tên quân dung kiện ăn mặc thường phục lẻn tới lầu Xuân Yến ngầm bảo vệ hoàng đế. Nếu ngài đã đi chơi chỗ khác thì cứ nên ngầm theo dõi mà bảo vệ, không để hoàng đế biết.

Viên thống lĩnh gật đầu khen phải, y kế thi hành.

Hồi 149

VUA ĐI CHƠI MẮC BỆNH KÍN

Đồng Trị hoàng đế từ khi vi hành ra ngoài, nếm được mùi đời dân dã, thấy thích thế là đường lớn lộ nhỏ, hang cùng ngõ hẻm, không một chỗ nào ngài không đặt chân tới.

Có một hôm, ngài lang thang vào tiệm bán giấy, biển đề là Lưu Lang xưởng để mua ít giấy ngọc bản tiên. Sau khi mặc cả, thành tiền mười hai lạng bạc, ngài móc trong hầu bao ra mấy thỏi vàng trái dưa ra trả cho chủ tiệm.

Không ngờ anh chàng chủ tiệm này quýnh quá, không hiểu vàng trái dưa (quả tử kim) là gì, bèn trả lại, không chịu nhận.

Tên tiểu thái giám mặc kệ, nhận hay không cóc cần, y xách luôn gói giấy đi.

Anh chủ tiệm vội nhảy phóc qua mặt quày tóm lấy áo chú tiểu thái giám, giữ chặt lấy. Một tên phổ ki khác cung từ trong góc phòng xông ra đuổi kịp Đồng Trị hoàng đế, chộp lấy ngực, miệng la quát rùm lên, vu cho tội ăn cắp và quyết đưa vào cửa quan.

Nghe huyên náo ngoài cửa, anh thủ quỹ đang đếm tiền trong phòng trong cũng vội vã chạy ra nhìn hoàng đế một lát rồi lên tiếng hỏi:

- Mi là ai mà dám vào ăn cắp đồ?

Đồng Trị hoàng đế đáp:

- Ta tên Bạt Công, họ Trần, người Giang Tây.

Hoàng đế vừa nói đến đấy bỗng tử đâu không biết, hơn mười tên võ sĩ hùng hùng hổ hổ xông tới đưa những cánh tay rắn như sắt chộp lấy bím tóc cả hai tên chủ tờ tiệm giấy, lật ngửa mặt ra sau quát:

- Bọn bây tới nha môn ngay tức khắc, nghe chưa?

Chủ tớ tiệm giấy chẳng chịu, la ầm lên:

- Thế giới đảo ngược hết rồi! Các ngươi không bắt mấy thằng cướp ngày mà lại đi bắt người lương thiện chúng ta sao?

Bọn võ sĩ nghe chúng chửi hoàng đế là thằng cướp ngày thảy đều vung tay chực đánh thì chính hoàng đế lại đưa tay ra cản. Và bảo hai tên chủ tớ tiệm giấy:

- Các ngươi không tin thì ôm giấy tới nhà lấy tiền, có gì mà phải gây chuyện?

Bọn võ sĩ nghe hoàng đế nói vậy mới chịu bỏ tay ra, chờ đợi.

Chẳng còn cách nào hơn, hai chủ tớ đành ôm hàng hoá lẽo đẽo theo sau. Đi quanh quẩn một hồi, hai anh chàng bước qua cổng thành. Vào trong, lại đi một lúc nữa cả hai nhìn lên bỗng chạm ngay mắt vào cửa ngọ môn của hoàng thành cao vòi vọi.

Thấy quang cảnh kỳ quái, hai chủ tớ tiệm giấy chợt sinh nghi, lại còn thấy hai người khách mua kia lắc lư bước thẳng vào ngọ môn thì bỗng hoảng hồn bạt vía, tay chân run bắn lên, mặt xanh ngắt như chàm đổ, vội ném cả gói giấy xuống đất rồi co giò chạy ngược ra.

Đồng Trị hoàng đế được mẻ cười nôn ruột.

Sáng hôm sau hoàng đế cho tên tiểu thái giám đem trả tiền giấy. Anh chủ và anh thủ quĩ vừa thấy đã lạy lấy lạy để, vừa xin lỗi, vừa lựa lời ngon ngọt nịnh bợ để chạy tội.

Tên thái giám chẳng thèm để ý, trả xong tiền rồi trở về.

Mấy ngày sau, Đồng Trị hoàng đế có chỉ triệu Văn Đạt một mình vào cung đề cập tới chuyện nhậu rượu trên lầu Xuân Yến, nói thêm nhiều chuyện khác nữa trong đó có cả chuyện cho võ sĩ theo dõi quả là điều rất bất tiện.

Văn Đạt dập đầu tâu can gián:

- Hoàng thượng thân đấng vạn thặng chớ nên liều mình trong những cuộc đại hiểm.

Đồng Trị hoàng đế đời nào chịu nghe. Ít hôm sau lại lẻn ra phố du hí như trước.

Một hôm sau khi chuồn qua cửa Hậu Tể môn và đi ngang qua nhà hội quán Hồ Nam, hoàng đế bỗng bảo tên tiểu thái giám:

- Tăng Quốc Phiên ở trong đó, ta vào gặp hắn một tí đã nhé!

Chẳng may Phiên đi vắng, thấy trước mặt có một căn nhà cửa bỏ ngỏ, Đồng Trị liền bước đại vào.

Chủ căn nhà đó họ Úc người Hồ Nam, đậu cử nhân. Lúc đó Úc cử nhân đang nằm bò trên giường ăn cơm, thấy một chàng trai trẻ ngang nhiên bước vào nhà mình chẳng thèm hỏi ai, ngồi phịch xuống chiếc ghế bày trước án thư. Thấy trên mặt án thư có bút giấy chàng ta liền cầm lên viết vẽ lung tung, đoạn chót có hai chữ "Bất diệu".

Úc cử nhân đang tính chạy lại cản thì đúng lúc chàng ta đứng dậy, miệng cười vang, ra đi.

Úc cử nhân thấy vậy lấy làm lạ lắm, vội hỏi nhỏ tên đầy tớ đi theo. Hắn đáp:

- Đấy là ông khách muốn tới thăm Tăng đại nhân nhưng không gặp bởi thế ông tiện bước vào nhà lão gia đó.

Úc cử nhân nghe xong đoán mãi mà chẳng ra ai. Đợi tới chiều tối khi Phiên trở về, Úc cử nhân vội chạy tới hỏi dò, đưa bức thư vẽ viết lung tung cho Phiên xem. Nhưng chính Phiên cũng không đoán nổi.

Qua ngày hôm sau Tăng Quốc Phiên bị triệu vào cung.

Phiên vừa tâu xong mọi việc, Đồng Trị cười hỏi:

- Hôm qua tại sao ông không có mặt tại hội quán?

Phiên lấy làm lạ hết sức, vội dập đầu tâu:

- Hôm qua thần được lệnh của Cung vương gia triệu tới hầu rượu tại vương phủ.

Đồng Trị lại cười nói:

- Cái ông cử nhân Hồ Nam ở đối diện nhà ông có vẻ bộ tịch lắm nhi?

Tăng Quốc Phiên đoán biết rằng hoàng đế hôm qua đã tự ý xuất cung vi hành đi chơi, giật mình đánh thót, không dám đối đáp nữa.

Trở về hội quán, Phiên vội đem chuyện hôm qua báo cho Úc cử nhân hay. Lúc đó Úc cử nhân mới vỡ lẽ ra người khách hôm qua chính là đương kim hoàng đế. Ông hoảng hồn bạt vía, vào thi hội cũng chẳng dám nữa, vội vàng thu xếp khăn gói rồi trốn khỏi Bắc Kinh.

Từ ngày có chuyện lạ lùng này xảy ra, bọn quan lớn quan bé trong kinh thành đều không dám ra ngoài lang thang, chỉ sợ gặp phải hoàng đế mà có khi mất mạng.

Hoàng đế trái lại lấy chuyện ấy làm vui. Ngài càng ngày càng bừa bãi hơn, bất chấp cả thể thống của triều đình. Ngày nào cũng như ngày nào, ngài dẫn dắt tên tiểu thái giảm lẻn ra phố lang thang hết chỗ ngày tới chỗ nọ, gần như không sót chỗ nào.

Ngoài cửa Tuyên Văn môn có một ngôi chùa tên gọi chùa Thổ địa. Trong chùa có một gã đàn ông thủ miếu quét dọn, lau bàn thờ, đốt nhang. Giữa lúc gã thủ miếu đang làm việc bỗng một chàng trai trẻ đội mưa lũn cũn ôm đầu chạy vào phía sau còn có một thằng tiểu đồng nối gót. Hai thầy trò quần áo đều ướt sũng, nước mưa chảy dòng.

Gã thủ miếu vốn có lòng thương người vội đưa cả hai vào nhà sau đốt hoả lò, vừa để hơ khô quần áo vừa để nấu nước pha trà mời khách.

Chàng trai trẻ vừa nhấm nháp chén trà nóng vừa lên tiếng hỏi:

- Chùa này không có vị hoà thượng nào trụ trì sao?

Gã thủ miếu đáp:

- Chùa này chỉ có sư đồ hai người chúng tôi, hoà thượng tôi hiện đang ra ngoài phổ khuyến.

- Ông năm nay bao nhiêu tuổi? Ở chùa này đã mấy năm rồi? Trước kia ông ở đâu?

Gã thủ miếu thấy khách hỏi đến hoàn cảnh của mình bèn cầm đứng cái chổi trong tay, chậm rãi đáp, nét mặt nghiêm trang như cố nhớ lại một chuyện gì trọng đại thuở trước:

- Tôi năm nay ba mươi sáu tuổi. Tôi tới chùa này đã bốn năm. Trước kia tôi vốn làm đày tớ trong nhà Trần đại nhân ở Tây quan đầu. Trần đại nhân mua tôi từ hồi còn nhỏ để làm công việc của một tên thư đồng. Đã hai mươi năm qua tôi hầu hạ Trần đại nhân thật hết sức chu đáo. Nhưng cách đây bốn năm, lỡ một phút sơ ý đánh vỡ mất một cái lọ cổ, Trần đại nhân giận lắm, đánh tôi một trận nên thân, tống tôi ra ngoài. Tôi loanh quanh chẳng biết đi đâu. Nhân được biết vị đài sư phụ miếu Thổ địa này từ trước, nên tôi chạy luôn về đây nhờ vả, làm kẻ thủ miếu lần lữa qua ngày. Khổ cái là chùa miếu nơi đây quá hẻo lánh, đèn nhang cúng viếng cũng tàn lạnh nên bọn tôi thực vô cùng đói khổ.

Chàng trai trẻ nọ lại hỏi:

- Anh làm thư đồng trong nhà Trần đại nhân đã hai mươi năm vậy Trần đại nhân đã lấy vợ cho anh chưa và có trả tiền công cho anh chứ!

Gã thủ miếu đáp:

- Tôi ở đấy hầu hạ đến hai mươi năm trời quả thực chưa từng thấy được một đồng kẽm công! Còn chuyện lấy vợ, ôi chao nói mà làm gì.

Chàng trai trẻ nghe hết câu, vẻ mặt bỗng có ý tức giận, hỏi tiếp:

- Trần đại nhân của anh hiện nay ở đâu?

Gã thủ miếu đáp:

- Đi Quảng Đông làm hải quan đạo đã ba năm.

- Trong nước ta, làm hải quan đạo nơi nào ngon ăn hơn?

Gã thủ miếu cười đáp:

- Chỗ ngon lành béo bở nhất trong nước thực không đâu bằng Quảng Đông.

- Anh có bao giờ mong được đi làm một viên hải quan đạo không?

Gã thủ miếu cười đáp:

- Đại gia nói đùa em đấy chứ? Số kiếp em chỉ làm một tên thủ miếu thôi đại gia ơi! Cơm không đủ no, áo không đủ mặc, em đâu dám vọng tưởng mà bẽ bàng.

Chàng trai nói:

- Anh đã nói vậy thì tôi sẽ đưa anh tới một chỗ no cơm ấm áo cho mà xem.

Nói đoạn chàng ta gọi lấy giấy bút, viết mấy chữ rồi thò tay vào trong bọc lấy ra một con dấu đóng lên trên, đưa cho gã thủ miếu, nói:

- Sáng mai, anh cầm tờ giấy này đưa cho quan lãnh binh bộ quân tự nhiên là có chỗ làm tốt cho mình.

Gã thủ miếu tiếp lấy tờ giấy, nửa tin nửa ngờ, chỉ còn biết trố mắt nhìn hai thầy trò chàng thiếu niên mà ngạc nhiên.

Mưa đã tạnh, quần áo của hai thầy trò chàng thiếu niên cũng đã khô. Chàng trai từ biệt ra đi.

Gã thủ miếu cầm tờ giấy mà đợi trời sáng. Quan thống lãnh bộ quân hồi này là Thuần Hiền thân vương nhận tờ giấy của gã thủ miếu. Vương mở ra biết mặt chữ đúng là của hoàng đế, vội cho đặt hương án, mở toang cửa giữa, mời gã thủ miếu vào trong rồi làm lễ Tam quy cửu khấu.

Gã thủ miếu thấy vậy sợ phát chết, đứng như tượng đá, chờ Thuần Hiền thân vương xếp đặt.

Vài ngày sau quan thống lãnh bộ quân bèn thay đổi áo quần mũ mão cho gã thủ miếu, sai người mang theo một bức văn thư đưa gã thủ miếu tới Quảng Đông gặp Trần đại nhân, chủ cũ của gã.

Trần đại nhân sau khi đọc công văn, mặt cắt không còn hạt máu, vội đưa ngay ấn tín hải quan đạo cho gã thủ miết, rồi lặng lẽ ra đi, không kèn không trống như một kẻ trốn chạy.

Thế là từ đó gã thủ miếu nghiễm nhiên thành một ông quan lớn, ông hải quan đạo. Gã thủ miếu cảm kích ân điển của hoàng thượng liền cho kiểm tra hết những tệ tham nhũng tích luỹ từ trước tới nay, giao cho sư gia trong nha môn làm một bản sớ tâu lên. Bộ lại trong triều vội phái người tới điều tra lại, thế là tất cả bọn quan viên đã từng làm hải quan đạo đất Việt đều một loạt bị cách chức.

Gã thủ miếu làm quan một lèo bốn năm tại Quảng Đông không ăn hối lộ, không tham nhũng, không làm một điều gì tệ hại, ấy thế mà gia tài cũng lên tới mười sáu, mười bảy vạn lạng, trở thành một phú ông đích thực. Về sau Đồng Trị hoàng đế biết chuyện, gật đầu khen gã thủ miếu, mà chính là để khen mình.

- Trẫm nhìn người quả chẳng sai tí nào.

Đồng Trị hoàng đế đâm quen lang bang ra phố, một ngày không đi khỏi cung, lòng thấy buồn lắm. Điều làm cho ngài nhớ nhất là ở bên ngoài thành, phía cửa sau có một anh chàng bán chè bà cốt. Mỗi lần ngang đây thế nào ngài cũng cùng tên tiểu thái giám làm một chén rồi mới đi. Nhưng ăn xong chẳng bao giờ trả tiền.

Thâm tâm hoàng đế không bao giờ nghĩ đến chuyện ăn chè xong lại phải trả tiền. Còn đối với anh bán chè thì thấy ngài mặt mũi khôi ngô, quần áo bảnh bao, cử chỉ lại hào hoa phong nhã, nên cho rằng đây là một vị công tử con nhà quan vương nào đó nên không dám đòi.

Ngày một ngày hai, ông vua trẻ xơi của anh hàng chè không biết bao nhiêu chén, thế mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện trả lấy một xu. Có một hôm hoàng thượng vào ăn, bên cạnh đang có mấy thực khách khác.

Bọn thực khách này ăn xong móc tiền túi ra trả. Hoàng đế nhìn thấy liền hỏi anh hàng chè:

- Anh lấy tiền để làm gì vậy?

Anh hàng chè nghe hỏi bỗng phá lên cười, cười đến bật ngửa ra sau. Cười xong anh ta mới bảo:

- Cậu đúng là một công tử rồi. Tôi không lấy tiền thì năm bảy miệng ăn lấy gì sinh sống?

Hoàng đế lại nói:

- Đã như thế, tại sao anh không lấy bạc mà chỉ thích lấy tiền?

Anh bán chè lại phì cười một lần nữa, đáp:

- Chè tôi rẻ mạt, đáng gì mà dám nói tới bạc. Một lạng bạc giả bằng mấy gánh tiền, làm sao dám lấy?

Hoàng đế lại hỏi:

- Anh bán hàng lấy tiền tại sao lâu nay anh không đòi tiền tôi?

Đến lúc này thì anh bán chè quyết chắc đây đích thị là một quý công tử rồi. Anh ta cố tìm một câu nói đẹp tai:

- Các vị vương gia tới quán ăn cho, quả đã là một điều vinh hạnh, đâu dám đòi tiền nữa.

Hoàng đế nghe xong mười phần thích thú liền bảo:

- Bọn tôi ăn chè của anh đã nhiều, hôm nay tôi tính thưởng anh nhưng túi lại không sẵn. Để tôi viết cho anh một tấm ngân thiếp, sáng mai đem đi mà lấy bạc nhé.

Anh hàng chè nghe nói đến bạc, sướng điên lên, vội chạy vào quán rượu cạnh đường xin một miếng giấy, mượn thêm cái bút cái nghiên. Hoàng đế viết: "Sức cho ty Quảng Sư giao bạc năm trăm lạng".

Viết xong, ngài lấy chiếc dấu nhỏ đóng lên trên rồi bỏ đi luôn.

Anh hàng chè vốn không biết chữ vội đem tấm ngân thiếp vào quán rượu hỏi. Lão thủ quĩ xem xong giật mình đánh thót một cái, miệng lắp bắp bảo anh hàng chè.

- Hôm nay con gặp tay tổ rồi, con ạ.

Đến đây lão thủ quĩ đảo đôi mắt nhìn quanh một vòng rồi ghét sát tai anh hàng chè thì thào:

- Đương kim vạn tuế gia đó!

Anh hàng chè đâu có tin, liền bĩu môi bảo:

- Làm gì có chuyện đó? Lão chỉ nói bậy!

Lão thủ quĩ tỏ bộ mặt nghiêm nghị:

- Trên tấm giấy viết rõ mấy chữ ty Quảng Sư đây này.

Ty Quảng Sư ở trong hoàng cung mà lỵ! Ty này chính là kho bạc của hoàng gia đó, nghe chưa? Để xem mi làm cách nào lấy?

Anh hàng chè nghe rõ đầu cuối hoảng hồn bạt vía vội chạy về nhà cất tấm ngân thiếp mãi tận đáy tráp gối đầu giường, không dám đưa vào cung lấy bạc, chỉ tính mong gặp lại hoàng đế trả tấm ngân thiếp. Nhưng không may chị vợ biết chuyện, thấy món tiền to, sướng quá ngày đêm thúc anh ta đi lĩnh ngay.

Vốn sợ vợ hơn cả sợ vua, thế là hôm sau anh hàng chè liều mạng xông vào cửa cung, tay cầm tấm ngân thiếp hỏi hết người này đến người nọ. Quả nhiên không một ai dám cản, rốt cuộc anh ta tới được ty Quảng Sư đưa tấm ngân thiếp trình lên. Nghe quan ty hỏi, anh hàng chè chỉ còn có cách kể hết sự thực.

Quan ty không dám quyết, vội vào trong trình lên. Vị đường quan xem tấm thiếp, không dám chậm trễ vào tâu ngay Từ Hi thái hậu rõ.

Từ Hi cho đi mời hoàng đế tới. Bà đưa tấm ngân thiếp cho hoàng đế xem. Ngài gật đầu nhận đã thưởng cho anh hàng chè. Thấy việc có thật Từ Hi liền cho đường quan đi lấy tiền trả:

- Ta chớ nên thất tín với dân. Phải trả cho sòng phẳng mới được.

Đường quan được chỉ vội ra ngoài lấy năm trăm lạng bạc trả cho anh hàng chè. Anh ta tưởng phát điên, về nhà làm thịt ngay một con heo lễ trời đất, mời bà con hàng xóm tới ăn khao.

Trong khi đó, Từ Hi thái hậu nghiêm khắc bảo với Đồng Trị hoàng đế:

- Hoàng đế ngày ngày ra ngoài gây chuyện làm mất cả thể thống của hoàng gia. Từ nay về sau không được làm vậy nữa...

Chợt Cung thân vương bước vào. Từ Hi thái hậu liền bảo vương:

- Này, hoàng thúc Lục gia! Hoàng thượng ngày ngày ra ngoài phố gây chuyện, nên khuyên can ngài đi mới được.

Đồng Trị lấy làm khó chịu nên xin phép lui ra. Ngài vừa về tới cung Kiều Thanh, ai ngờ Cung thân vương lại cũng vừa tới xin bệ kiến. Vương quỳ trước hoàng đế dập đầu tâu:

- Vừa rồi Thái hậu ban ý chỉ, hoàng thượng nghe rõ cả rồi. Hoàng thượng ngày ngày ra ngoài du ngoạn, thái hậu cứ cho rằng tại bọn thần tử chúng tôi không biết khuyên can, hoàng thượng nên sửa đổi, một là để hoàng thái hậu khỏi phải lo lắng, hai là để bọn thần tử chúng tôi khỏi bị thái hậu trách mắng. Thân thể của hoàng thượng vốn là vạn thặng chi khu, cần phải hết sức bảo trọng. Câu chuyện Bạch Long Dư hành thích tiên hoàng hồi trước hẳn hoàng thượng còn nhớ. Hoàng thượng tự ý xuất cung, tả hữu chẳng có ai theo hầu, chẳng may có chuyện xảy ra, không những lưỡng cung thái hậu sợ hãi lo âu mà bọn thần tử chúng tôi cũng mang tội suốt đời.

Ngày cả giữa thời thái bình vô sự đi nữa, hoàng thượng cũng phải nên tuân phụ Tổ huấn. Từ xưa các vị hoàng đế đâu có tự ý xuất cung bao giờ.

Nghe Cung thân vương nói đến hai chữ "Tổ huấn", Đồng Trị hoàng đế bỗng cảm thấy tức tối giận dữ trong lòng. Ngài giật bổng người lên như cái lò xo, hậm hực bảo vương:

- Vậy Lục gia thấy trẫm có gì trái Tổ huấn?

Lúc đó hoàng đế đang mặc bộ quần áo long bào màu đen thêu bướm trắng. Cung thân vương liền chỉ vào bộ quần áo mà nói:

- Hoàng thượng mặc bộ quần áo đó thực cũng đã trái Tổ huấn rồi. Bởi vì rằng di chế của tiên tổ không cho phép ăn mặc như vậy.

Hoàng đế nghe đoạn cười nhạt bảo:

- Bộ quần áo này trẫm cắt may giống hệt bộ quần áo của Anh Tải Trưng. Anh Tải Trưng là con trai của Lục gia. Tại sao Lục gia không về nhà dạy con trai mình mà lại tới đây để can ngăn trẫm? Thôi bây giờ Lục gia hãy đi đi! Trẫm sẽ có lệnh sau.

Cung thân vương nhìn nét mặt của Đồng Trị hoàng đế lộ ý giận tức bèn đập đầu thêm mấy cái rồi mới lui ra khỏi cung. Ông vừa quay lưng đì thì hoàng đế cũng hầm hầm bước vào thư phòng viết một đạo chỉ dụ, lấy chiếc bao thơ vàng bỏ vào, rồi cho gọi đại học sĩ Văn Tường tới.

Văn Tường và Cung thân vương vốn là chỗ giao tình mật thiết. Khi Tường vào tới cửa cung thì cũng vừa gặp Cung thân vương đi ra. Hai người liền đem chuyện khuyên can hoàng thượng ra bàn. Cung vương nói thêm:

- Hoàng thượng nghe tôi nói có vẻ không bằng lòng. Tướng quốc vào gặp hoàng thượng cũng nên giúp tôi khuyên can hoàng thượng thêm.

Vừa thấy Văn Tường, hoàng đế trao ngay cho phong thư màu vàng, bảo:

- Trẫm có một đạo chỉ dụ bên trong. Cấm không được tự ý mở ra. Ông đem ngay tới dinh quân cơ cho các đại thần xem, rồi theo đó mà hành động tức khắc.

Văn Tường giơ cao tay đỡ lấy thánh chỉ, liếc mắt nhìn thấy hoàng thượng tức giận ghê gớm, biết có chuyện gì nguy kịch rồi đây, vội quỳ xuống cầu xin hoàng thượng minh dụ.

Mãi rồi hoàng đế mới nói:

- Được! Có nói với ông cũng chẳng ngại gì! Trong đó có đạo chỉ dụ giết Cung thân vương.

Tường như bị sét đánh bên tai, hoảng hồn bạt vía, chỉ còn biết dập đầu, lắp bắp tâu:

- Lục vương gia vốn là cố mệnh đại thần, lại còn là một vị hoàng thúc. Cúi xin hoàng thượng tha cho tội chết.

Hoàng đế thấy Văn Tường cứ quỳ mọp dưới đất dập đầu tâu, không chịu cầm chỉ bèn phất tay áo đứng dậy bước nhanh vào tẩm cung. Văn Tường chỉ còn biết cầm tờ chỉ dụ chạy sang yết kiến Từ Hi. Thái hậu bảo Tường để tờ chỉ dụ lại và hứa tự sẽ tới khuyên can hoàng thượng.

Quả nhiên không thấy đạo chỉ dụ ban xuống nữa. Nhưng từ đó, hoàng đế chán ghét Cung thân vương không để đâu cho hết. Biết vậy nhưng vương mặc kệ, cứ vẫn Cương chính đứng giữa triều đình như cũ, thấy hoàng thượng không giữ "Tổ huấn" vẫn đem hết lời lẽ khuyên can. Cỏn Đồng Trị hoàng đế thì vẫn xuất cung du ngoạn như cũ, bất chấp hết: Tổ huấn, Tây thái hậu, cố mệnh đại thần...

Tại Bắc Kinh có một quán cơm ngon nổi tiếng gọi là Tuyên Đức lâu Một hôm thái tử Vương Cảnh Kỳ rủ thị lang bộ Hộ Vu Đức Diệu lén đánh chén trên lầu. Kỳ và Diệu tính vốn mê hát, Kỳ lên giọng trước ca bài Nhi Hoàng Diệu, sau đó tiếp bài Côn khúc. Trong quán cơm, đặc biệt có cả đờn cầm.

Kỳ và Diệu vừa nhậu vừa ca, ca đến lúc hứng lên liền đem đàn ra hoạ. Trước hết, Diệu thong thả dạo tiếng tơ đồng để hoạ với Kỳ đang cất cao giọng bản Chiết Kinh điệu. Xong một bản Kỳ lại thổi sáo để Diệu ca bản Côn khúc.

Thế rồi cứ hết bản này qua bản khác, thực khách dưới lầu nghe hay quá cũng đổ xô cả lên lầu mà nghe.

Giữa lúc đàn ca đang hay một chàng trai bỗng vén màn bước vào ngồi phịch xuống chiếc ghế đối diện hai tay danh ca, thộn mặt ra nghe, chẳng thèm gọi hỏi rượu thịt:

Nghe thái tử Kỳ hát xong chàng thiếu niên bèn củi đầu chào thị lang Diệu và trịnh trọng yêu cầu đại gia cho thưởng thức lại bài Côn khúc.

Thị lang Diệu thấy anh chàng mặt mày đường bệ, nói năng lịch sự, đàng hoàng, nên chồng tiện từ chối. Ông ca lại bản Chiết chu hội với tất cả say mê của mình.

Giữa lúc ấy bỗng phía dưới có tiếng vó ngựa phi tới. Nhìn ra thì thấy bốn, năm chục tên kỵ mã hộ vệ một cỗ xe sơn màu hồng từ từ đỗ lại dưới lầu. Rồi thấy một ông lão trong xe bước ra. Đó chính là Cung thân vương.

Cung thân vương bước lên lầu, tiến thẳng tới chàng thiếu niên, ghé tai nói nhỏ những gì chẳng ai rõ. Lúc đầu chàng ta lắc đầu quầy quậy, tỏ vẻ không chịu. Nhưng Cung thân vương cố nói, nói mãi, cuối cùng chàng uể oải đạp những bước nặng trịch xuống lầu, uể oải bước lên xe theo đoàn thị mã về cung. Lúc đó Vương thái tử, Vu thị lang mới biết chàng thiếu niên nọ chính là đương kim vạn tuế gia của mình.

Vu thị lang khi nãy được vạn tuế gia cúi chào, bây giờ nghĩ lại mới thấy run sợ, đinh ninh chuyến này thế nào mình cũng sẽ "được" lột da, tước bì để gặp Diệm vương.

Thế là Diệu và Kỳ, ông thị lang, ông thái tử ném hết cả rượu quăng sạch cả đàn, chạy một mạch về nhà, lên cơn sốt liệt giường suốt cả đêm, vợ con hỏi cũng không mở nổi mồm nói lên được tiếng nào.

Qua hôm sau, quả có một đạo thánh chỉ hạ xuống. Bọn Kỳ Diệu đã trối trăng vợ con để đợi chết nhưng không ngờ khi mở chiếu chỉ ra, cả hai nhảy lên vì sung sướng.

Thì ra đó là chiếu chỉ thăng cấp chức quan to hơn cho cả hai. Riêng thị lang Diệu nghĩ quẩn, cho rằng mình nhờ được một bài hát mà lên quan to, tự lấy làm nhục, càng nói ra càng nhục, bèn cáo lão về nhà.

Còn thái tử Kỳ vốn quen đức lý, coi thường dư luận vẫn ở lại nhận chức Lại bộ thị lang, được làm hành tẩu tại điện Hoành Đức, ngày nào cũng được gặp mặt hoàng đế.

Vương Cảnh Kỳ người Bắc Kinh vốn nổi danh trong làng chơi, nhanh nhẹn bặt thiệp nhất chốn đô kỳ. Những ban ca nơi trà thất, bọn gái chơi không một ai là Kỳ không quen thân.

Chính là nhờ Kỳ nên hoàng đế được chỉ lối mách đường rành rọt hơn lúc nào hết, khiến từ đó ngài càng gây rối làm loạn trên khắp kinh thành.

Kỳ khéo léo chiều chuộng hoàng đế, thường đưa vào các thanh lâu sang nhất nhưng lại là những nơi mở lậu. Hoàng đế thích những nơi này chỉ là tại nó bí mật, êm tĩnh, người ngoài khó mà phát giác ra được. Kỳ có quen một nãi nãi (chủ chứa) thường gọi là Chương Tam nãi nãi. Ả vừa trẻ lại vừa đẹp ngụ trong một mật động tại khu phía tây kinh thành. Mặc dầu Chương Tam còn trẻ nhưng đã là một mụ dầu, dìu dắt cả đám đông em út dưới trướng, cũng xinh đẹp mê ly chẳng thua nàng.

Vương Cảnh Kỳ đưa hoàng đế tới đây rồi thì chỉ muốn ở lại đây Ngài luân phiên thưởng thức hết cô này đến cô kia, từ mụ chủ cho đến loại em út mới vào nghề. Ngài không muốn về cung nữa. Khổ cái là Thái hậu ở trong cung biết ngài ham chơi nên tra hỏi luôn, khiến ngài dù cơn thèm chưa đã mà lắm bận đành phải dứt áo ra về. Đi đêm về hôm, chơi bời vô độ, hoàng đế lâm bệnh nặng.

Từ Hi thái hậu được tin vô cùng bối rối. Một mặt bà truyền lệnh cho ngự y vào cung bắt mạch hốt thuốc, một mặt, hạ lệnh cho Tuệ phi phải đêm ngày hầu hạ, luôn bên cạnh giường hoàng đế.

Đồng Trị hoàng đế toàn thân phát nhiệt, nóng như thiêu như đốt, nên bất tỉnh nhân sự. Bởi vậy, tất cả mọi việc đều do Thái hậu và Tuệ phi lo liệu xếp đặt.

Thế rồi cơn sốt hạ, nhưng tức khắc, một cơn sốt khác bỗng phát sinh. Toàn thân ngài mọc đầy mụn lậu.

Bệnh lậu này cực kỳ nguy hiểm. Khắp mình hoàng đế không chỗ nào là không có mụn. Bệnh phát quá nặng, hoàng đế lại mê đi. Trước long sàng của hoàng đế chỉ có mình Tuệ phi săn sóc hầu hạ. Đã từ lâu Hiếu Triết hoàng hậu không được gặp mặt hoàng đế. Do đó, ngày nay, hoàng đế nhuốm bệnh, bà chẳng biết mà đến thăm. Bọn cung nữ cũng như thái giám thì lại đều là người tâm phúc của Từ Hi thái hậu và Tuệ phi, bởi thế, Hiếu Triết hoàng hậu cũng như Từ An thái hậu hoàn toàn không hay biết.

Bệnh tình hoàng đế mỗi ngày một nguy kịch. Từ Hi thấy vậy liền cho Cung thân vương và cả một bang đại thần trong triều vào cung bàn gấp việc lập tự. Mọi việc đều được trù bỉ xong xuôi, chỉ còn chờ lúc hoàng đế ngã xuống là y kế thực hiện.

Không ngờ năm, bảy ngày qua đi, bệnh tình của hoàng đế giảm dần, phút nguy hiểm đã không còn đe doạ ngài nữa.

Hoàng đế đã tỉnh lại như trước, gọi người đòi ăn uống. Việc ăn uống hầu hạ lúc đó đều do một mình Tuệ phi lo liệu. Nhưng hoàng đế vốn không ưa Tuệ phi nên không thèm nói một lời nào với nàng.

Nhân lúc Tuệ phi không có bên, hoàng đế vẫy tay gọi tên tiểu thái giám tới bảo hắn cời chiếc ấn vàng trên chiếc áo lót của mình rồi lẻn đem sang mời hoàng hậu tới. Hiếu Triết tới liền.

Hai người xa nhau đã lâu nay được gặp lại, lòng càng bi thiết, thấy hoàn cảnh của nhau đều bi đát, thảm thê, bất giác cùng ôm lấy nhau khóc lóc.

Lát sau Hiếu Triết hoàng hậu gạt lệ trước, khuyên hoàng đế cũng nên thôi khóc. Hại người kể lể mọi nỗi tương tư, u sầu xa cách cho nhau nghe. Rồi hoàng đế hỏi:

- Hậu ở trong cung cô đơn lạnh lẽo lắm phải không? Tây thái hậu đối đãi với hậu như thế nào?

Vừa nghe tới mấy tiếng Tây thái hậu, Hiếu Triết bất giác đôi dòng lệ lại tầm tã tuôn rơi. Lệ rơi xuống ngay trên bàn tay hoàng đế khiến ngài thật lấy làm bất nhẫn. Ngài giơ đôi tay gầy ốm xanh xao lên kéo hoàng hậu vào lòng.

Một lát, hoàng hậu đứng dậy xin phép ra về nhưng hoàng đế không chịu. Hậu lắc đầu nói:

- Chỉ sợ "bà" biết khiến thần thiếp lại bị trách phạt?

Hoàng đế bảo:

- Bà còn ngủ chưa dậy có gì mà ngại!

Ai ngờ rằng Tuệ phi quay về cung rửa mặt chải đầu xong đã quay lại. Khi bước tới cửa ngoài, nghe tiếng nói xì xào bên trong. Tuệ phi liền hỏi bọn thái giám mới biết chính cung đang trong đó. Tuệ phi không dám vào, vội quay qua cung Từ Hi tâu trình:

- Hoàng thượng bệnh vừa thuyên giảm, gặp hoàng hậu sợ lại nguy hại cho thân thể ngài chăng? Bệnh mà phát lại thực không phải chuyện chơi nữa.

Từ Hi thái hậu bất giác cả giận, nghiến răng ken két rít lên:

- Con yêu hồ khốn nạn! Mi muốn làm mê chết hoàng đế phải không? Ta phải cho mi biết tay!

Thái hậu hầm hầm chạy đến cung Kiều Thanh, đạp tung cánh cửa nhảy vào giữa lúc Hiếu Triết hoàng hậu đang nằm ép bên cạnh giường hoàng đế thì thầm kể lể.

Từ Hi thái hậu thấy vậy, máu hoả tốc lên, bất chấp hoàng hậu hay không hoàng hậu, thể diện hay không thể diện, bỏ mọi lễ nghi phép tắc, xông lại tát luôn một hơi mấy chục cái vào đôi má hoàng hậu, miệng quát tháo ầm ĩ:

- Con yêu hồ khốn nạn! Con khốn nạn! Mi thấy hoàng đế bệnh đã bớt định tới quyến rũ làm cho ngài chết phải không? Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn!

Vừa quát vừa đánh, mặc cho hoàng hậu đầu bù tóc rối, miệng ói máu, kêu khóc cả tiếng.

Chưa hết khí tức, Từ Hi thái hậu quát bảo bọn cung nữ đem gậy lại.

Thấy nguy quá, Đồng Trị hoàng đế vội chống gượng đôi tay gầy ngay trên giường, dập đầu xin tha cho hoàng hậu.

Thấy hoàng đế như vậy, bọn cung nữ, thái giám cũng nhất loạt quỳ xuống dập đầu xin tha, đồng thanh nói:

- Lão Phật gia! Lão phật gia!

Hiếu Triết hoàng hậu lúc đó cũng đã quỳ xuống dập đầu câu xin:

- Lão Phật gia! Xin thái hậu thương cho kẻ đã từ cửa Đại Thanh môn bước vào cung mà giữ cho một chút thể diện!

Ai ngờ câu đó càng làm mếch lòng Tây thái hậu khiến bà thêm giận dữ. Tây thái hậu vốn trước không từ cửa Đại Thanh môn vào cung (chỉ có người chọn làm hoàng hậu và có lễ đại hôn mới được qua cửa này). Cho nên câu nói kia của Hiếu Triết hoàng hậu chỉ mang lại thêm hậu quá tai hại cho bà. Theo thể chế của tổ tiên nhà Thanh còn một điều đặc biệt này nữa: Hoàng hậu do cửa Đại Thanh môn mà vào cung thì chi có thể truất phế chứ không thể nhục mạ, đánh đập được. Đã có thể chế thì phải theo. Bởi thế, dù lồng lộn đến đâu Từ Hi thái hậu tới lúc này cũng đã biết mình đi quá trớn, đã phạm pháp. Câu nói của Hiếu Triết hoàng hậu tuy có hậu quả nguy hại về sau nhưng hiện tại nó đã cứu bà. Tây thái hậu tức đến mấy nhưng trước "tổ chế" đành phải ngậm miệng, dừng tay, hầm hầm quay phắt về cung.

Đồng Trị hoàng đế thấy tình cảnh này biết rằng đại sự chẳng còn tốt đẹp gì nữa, vội truyền chỉ triệu quân cơ đại thần là thị lang Lý Hông Tảo vào cung cấp kỳ.

Đồng Trị cho cuộn cao rèm ngoài, gọi Lý Hồng Tảo tới.

Tảo bước vào, thấy hoàng hậu đứng trước long sàng hình như lau nước mắt. Hậu muốn tránh đi nhưng hoàng đế đã nắm lấy tay áo, bảo:

- Hậu khỏi cần phải tránh! Lý sư phó vốn là một lão thần của tiên hoàng mà hậu lại là túc phụ của kẻ môn sinh của sư phó. Hiện nay trẫm có việc khẩn cấp cần bàn với sư phó, hậu có thể ở lại nghe được. Vậy hậu trước hết hãy yết kiến sư phó mong được sư phó giúp đỡ săn sóc cho về sau.

Nói đoạn hoàng đế bất giác nhỏ lệ ròng ròng. Trong khi đó, hoàng hậu bước tới làm theo lời hoàng đế. Lý Hồng Tảo thấy vậy vội vàng bỏ mũ, bò mọp xuống mặt đất, dập đầu lia lịa. Hoàng đế bảo Lý Hồng Tảo:

- Xin sư phó đứng dậy cho! Hiện tại không còn là lúc vua tôi giữ lễ nữa.

Nói đoạn hoàng đế gọi tên tiểu thái giám mang ghế đặt bên cạnh long sàng.

Hoàng đế bảo Lý Hồng Tảo ngồi xuống, giơ tay cầm lấy bàn tay Lý Hồng Tảo và chỉ nói được mỗi một câu.

- Trẫm bệnh sợ không thể lành được!

Hoàng hậu, hoàng đế cùng Lý Hồng Tảo cả ba đều bùi ngùi rơi lệ. Hoàng đế lại tiếp:

- Trẫm chưa sinh được thái tử. Tây thái hậu lại kình địch với hoàng hậu. Trẫm chết đi thử hỏi làm sao yên tâm được. Trẫm e rằng hoàng hậu cũng sẽ chẳng được an lành.

Hoàng đế giơ bàn tay gầy guộc vịn vào vai hoàng hậu, lại cố gượng tiếp:

- Đây không phải lúc khóc lóc. Ta phải gấp rút bàn việc đại sự. Nếu chẳng may trẫm bất trắc có mệnh hệ nào thì việc khẩn cấp nhất là việc lập tự quân. Theo hậu thì hậu muốn lập ai làm tự hoàng đế? Hậu nên nói cho sư phó để quyết định ngay và trẫm có thề bàn với sư phó viết ngay tờ di chiếu.

Hiếu Triết hoàng hậu thấy hoàng đế nói tới đây vội lau khô đôi dòng lệ đang tuôn chảy trên đôi gò má xanh gầy, quỳ xuống tâu:

- Quốc gia nhờ vào đấng quân trưởng. Thần thiếp quyết không mong cái hư danh thái hậu khiến làm hỏng cả đại sự của quốc gia.

Đồng Trị hoàng đế nghe nói khẽ nhếch mép cười gật đầu bảo:

- Hoàng hậu rất hiểu đạo lý, trẫm không phải lo ngại điều gì!

Nói đoạn hoàng đế quay sang thì thào bàn tính mọi việc với Lý Hồng Tảo, cuối cùng quyết định lập Bối lặc Tải Thụ làm Tự hoàng đế.

Đồng Trị hoàng đế vừa suy nghĩ vừa thong thả đọc trong khi Lý Hồng Tảo bò mọp trước giường viết tờ di chiếu.

Tờ di chiếu rất dài, trong đó, gần hết mọi điều đều căn dặn đề phòng những âm mưu của Tây thái hậu.

Tờ di chiếu viết xong, Đồng Trị hoảng đế cầm lấy xem đi xem lại cẩn thận rồi bảo:

- Được lắm! Được lắm!

Hoàng đế lấy chiếc ngọc tỷ đóng lên trên tờ chiếu rồi đưa cho Lý Hồng Tảo cất giấu. Nhưng Tảo chẳng biết giấu vào đâu cho kỹ nên cứ loanh quanh mãi. Về sau Hiếu Triết hoàng hậu đích thân xé rách cái mép ống tay áo của Tảo bỏ vào trong rồi khâu lại cẩn thận.

Đồng Trị hoàng đế nói:

- Sư phó nên về nhà nghỉ đi. Sáng mai trẫm còn muốn gặp mặt sư phó một lần nữa.

Lý Hồng Tảo dập đầu lạy tạ lui ra. Vừa khỏi tẩm cung thì gặp Thuần thân vương Dịch Tôn.

Lý Hồng Tảo gặp Tôn, biết rằng đại sự hỏng rồi, vội bước tới thỉnh an. Thuần thân vương lạnh lùng bảo:

- Sư phó mải mê công việc trong cung với hoàng thượng, dám làm đến cố mệnh đại thần chứ chẳng chơi. Sư phó kể đã vất vả lắm, bởi vậy xin mời tới cung thái hậu nghỉ ngơi đôi chút rồi ta bàn luận.

Nói đoạn Thuần thân vương bất chấp Tảo muốn hay không, nắm lấy tay áo Tảo kéo đi. Tảo hoảng hồn bạt vía, trống ngực đánh thình thình, hai chân khuỵu lại gần như không còn đi được nữa.

Tảo vất vả lắm mới tới được cung của Tây thái hậu. Ngước mắt lên nhìn, thì đã thấy các vương gia có mặt đầy đủ cả đấy rồi: nào Cung thân vương Dịch Càn, nào Thuần thân vương Dịch Hoãn, nào Phu quận vương Dịch Huệ, nào Huệ quận vương Dịch Tường.

May thay Tảo cũng là người khôn ngoan tinh ranh. Vừa thấy Cung thân vương, Tảo vội bước tới gần thỉnh an, cất tiếng nói ngay:

- Nguyên lai Lục gia đều có mặt tại cung cá. Tôi vừa mới được mật chiếu của hoàng thượng, chính giữa lúc chưa có ý kiến gì. Tôi định khi ra khói cung, là phải tìm ngay Lục vươn gia để bàn tính việc này đây.

Cung vương nghe xong, bèn nói:

- Mật chiếu gì?

Lý Hồng Tảo không run sợ gì nữa, liền xé toạc cái ống tay áo, kéo tờ mật chiếu của Đồng Trị hoàng đế ra và đưa lên.

Bọn vương gia ngồi đầy nhà nhìn thấy, ai cũng đổi sắc mặt. Giữa lúc đó. Từ Hi thái hậu cũng từ phía trong đi ra.

Cung thân vương chẳng dám giấu giếm, liền đưa tờ mật chiếu trình lên.

Từ Hi thái hậu miệng đọc mật chiếu, hai tay run bắn lên: Bà đọc xong, thì nỗi tức giận cũng đã lên đến cực điểm.

Bà nghiến răng ken két, xé toạc tờ mật chiếu luôn một hơi ra làm trăm mảnh rồi ném xuống đất. Những mảnh giấy vụn bay xuống lả tả. Cặp mắt giận tức của bà như cắm phập vào Lý Hồng Tảo, khiến Tảo hoảng hồn bạt vía, vội quỳ xuống đất dập đầu lia lịa, máu trán chảy ra lênh láng làm hoen ố cả mặt mũi, miệng không ngót lắp bắp, cố nói lên được mấy lời này:

- Thần... Thần... tội đáng chết! Xin lão Phật gia cho thần một cái chết toàn thây...!

Bọn đại thần lúc đó đứng cả hai bên, cũng nhất tề quỳ xuống, cầu xin giùm cho Tảo. Mãi một lúc sau, mọi người mới nghe thái hậu chi lên một tiếng:

- Đứng dậy. Khỉ!

Ai nấy thở phào, hú vía. Lý Hồng Tảo vội dập đầu thêm mấy cái nữa, để tạ ân, rồi mới lấm lét lui ra.

Về tới nhà, Lý Hồng Tảo đâu đã hết lo. Ngay đêm đó Tảo lẻn tới nhà Thôi tổng quản và Lý phái giám cúng cho bọn này năm vạn lạng bạc cầu xin hai tên nói tốt cho mình trước thái hậu.

Chờ cho Lý Hồng Tảo ra khỏi, Từ Hi thái hậu liền mở ngay một cuộc ngự tiền hội nghị giữa bà và các vị vương gia kể trên. Cao hứng thế nào không biết Từ Hi thái hậu cho mời luôn cả Từ An tới dự.

Trước khi bắt đầu Từ Hi thái hậu nho lệ ròng ròng rồi cất tiếng trong uất nghẹn.

Bệnh của hoàng thượng xem ra không thể cứu được thế mà việc lập Tự hoàng đế (vua kế vị) chưa định xong. Đó là một việc vô cùng trọng đại của chúng ta. Xin tất cả các vị giúp tôi suy nghĩ giùm xem nên lập ai?

Từ An thái hậu nghe đoạn nói tiếp ngay:

- Đất nước nhờ các bậc quân trưởng. Phổ Luân và Tải Thụ đều đã trưởng thành, có thể lập làm Tự hoàng đế.

Từ Hi thái hậu nghe xong bất giác mặt biến hẳn sắc, lớn tiếng nói:

- Bà cũng nói trưởng quân, họ cũng nói trưởng quân. Lập xong trưởng quân rồi thử hỏi hai con mụ già tụi mình có còn đất sống nữa không chứ?

Mấy câu nói của Từ Hi đã làm cho Từ An phát hoảng, từ đó chẳng còn dám nói thêm lời nào.

Ngừng một lát Từ Hi thái hậu dõng dạc tiếp:

- Bọn người nhà ta lấy chữ Phổ chẳng có đứa nào có thể lập làm Tự quân được. Theo ý tôi thì thằng con trai lớn của Thuần vương gia là Tải Điềm, năm nay bốn tuổi, rất gần dòng máu với hoàng đế, tưởng có thể lập làm Tự hoàng đế được. Mẹ của Điềm vốn là em gái tôi. Nếu bọn ta lập Điềm làm Tự hoàng đế thì thế nào cũng được chiếu cố tới cẩn thận.

Thuần thân vương lúc đó ngồi ở bên cạnh chẳng dám nói gì Từ Hi lại quay đầu lại bảo Từ An:

- Ý chị thế nào?

Từ An thái hậu chỉ còn biết gật đầu và luôn miệng nói "Được! Được lắm", tỏ vẻ ưng thuận. Từ Hi thái hậu thấy vậy, bèn quay sang bảo bọn vương gia đại thần:

- Các vị nghe cả rồi đấy nhé! Đông thái hậu đã cho chỉ ý lập con trai của Thuần thân vương Dịch Hoàn là Tải Điềm làm Tự hoàng đế rồi đấy nhé? Lục gia hãy mau mau viết chiếu đi.

Nội dung của tờ chiếu tóm lược như sau:

"Từ khi hoàng đế lên ngôi đến nay vẫn chưa có con nối dõi. Bởi thế bất đắc dĩ phải lấy con trai của Thuần thân vương Dịch Hoàn là Tải Điềm thừa kế Văn Tông, nối dòng đại thông.

Đợi khi nào hoàng đế có hoàng tử thì lúc đó hoàng tử sẽ làm tự quân của Đại hành hoàng đế".

Chiếu chi thảo xong, tất cả bọn vương gia đại thần đều ký tên vào rồi mới giải tán, ai về nhà nấy.

Đợi cho mọi người đi hết Từ Hi thái hậu mới cho người lén gọi Tuệ phi đến cung dặn dò cặn kẽ hết mọi kế hoạch.

Đó là cắt tuyệt hết cơm ăn nước uống cũng như thuốc men cho Đồng Trị hoàng đế.

Hoàng đế nằm trên giường bệnh, mà chẳng thuốc men cơm nước gì đem vào. Ngài vừa đói lại vừa khát, bèn sai tên tiểu thái giám tâm phúc của mình đi. Nhưng tên này đi đến nửa ngày trời mới trở về, chỉ thấy tay không bước vào. Ngài hỏi thì hắn chán nản tâu:

- Thái hậu truyền dụ cấm không cho đem cơm nước, thuốc thang gì vào cung ta nữa.

Đồng Trị nghe nói giật mình vội bảo tên tiểu thái giám đi đò la lần nữa lúc đó mới biết tờ di chiếu đã bị phát giác, quyền hành hiện nay đều nằm trong tay Tuệ phi và nếu hoàng thượng muốn ăn uống gì tất nhiên phải cầu xin ở Tuệ phi mới được.

Lúc này hoàng đế đã khỏe lên khá nhiều và đã có thể đi lại được Hoàng đế cho mời hoàng hậu tới và yêu cầu bà dùng ấn tử truyền hạ chỉ dụ xuống cho Tuệ phi. Nhưng Hiếu Triết hoàng hậu không chịu nghe. Bà khuyên hoàng đế an tâm tĩnh dưỡng, không nên đi lại nhiều. Nhưng hoàng đế vẫn khăng khăng một mực, thậm chí ngài phải quỳ mọp xuống trước hoàng hậu, không muốn đứng dậy nữa.

Hiếu Triết hoàng hậu thấy vậy đành phải ưng chịu. Hoàng đế gói linh ký của hoàng hậu lại đem đi. Khi đến cung của Tuệ phi ngài ở lại nơi đây một đêm sáng mai mới quay về Kiều Thanh cung.

Nhưng ngài về đến cung chưa được nửa giờ, bọn thái giám trong cung đều la hét ầm lên báo động đi khắp nơi "hoàng thượng đã về chầu giời".

Từ Hi thái hậu là người đầu tiên tới cung truyền dụ cho bọn thái giám tắm rửa, đội mũ, mặc quần áo cho hoàng đế rồi đặt xác ngài trong tẩm cung.

Mọi việc xong xuôi, Từ Hi thái hậu cho người lẻn đi mời Cung thân vương vào cung. Một tên thái giám đi trước dẫn đường mở hết cửa cung này đến cửa cung khác, qua rồi, lại khoá chặt ngay lại.

Hai người đi như vậy qua đến mấy chục lần cửa mới tới tẩm cung của Đồng Trị hoàng đế.

Cung thân vương bước vào chỉ thấy xác của hoàng đế nằm trên long sàng, đứng bên là Từ Hi thái hậu tay cầm một cây đèn cầy cháy leo lét.

Cung thân vương bước tới thỉnh an, Từ Hi thái hậu liền bảo:

- Đại sự đã tới giai đoạn này Lục gia tính giải quyết cách nào?

Cung thân vương vội dập đầu tâu:

- Thần đâu dám không phụng chiếu của thái hậu.

Từ Hi nghe đoạn gật đầu bao:

- Lục gia chịu phụng chiếu thì đại sự đã có cách giải quyết rồi!

Nói đoạn Từ Hi thái hậu cho lệnh triệu gấp ba vị vương gia là Thuần thần vương, Phu quân vương, Huệ quân vương và vài vị đại thần thân tín nữa vào cung để bàn định hậu sự.

Từ An thái hậu cũng có ngồi bàn định. Bà cũng muốn nói, nhưng khốn thay, đến một kẻ tâm phúc tín cẩn cũng không có thì còn biết làm gì hơn.

Từ An thái hậu bước tới cạnh long sàng, thấy thân thể hoàng đế khô đét lại, đầu đã rụng hết cả bím tóc, bất giác lã chã tuôn rơi đôi dòng lệ. Giữa lúc ngắm nhìn, Từ An thái bậu bỗng thấy ở phía dưới chiếc gối lộ ra một tờ giấy: Tò mò, bà cầm lên xem. Bỗng đôi má bà đỏ ửng lên như gấc chín rồi bà ném mạnh tờ giấy nọ xuống sàn nhà.

Từ Hi thái hậu thấy vậy vội hỏi, nhưng Từ An không mở nổi miệng để giải thích nữa. Tên tiểu thái giám vội chạy tới lượm lên dâng Từ Hi. Thì ra đó là một bức hoạ trên vẽ một đôi trai gái đang mùi mẫn yêu đương trong phòng kín. Nhưng điều thú vị hơn lại là một dòng chữ ghi bên cạnh: "Thần, Hoằng đức điện hành tẩu, Hàn lâm viện thị giảng Vương Khánh Kỳ trình lên ngự lãm".

Từ Hi thái hậu xem xong văng tục chửi:

- Tiên sư đểu! Thằng cha họ Vương này đểu thiệt.

Tuy miệng chửi đểu đấy nhưng tay bà vẫn khư khư giữ bức hoạ từ từ đút vào tay áo như có vẻ quý hoá lắm.

Tử khi nãy Cung thân vương đã chạy vội tới phủ Thuần thân vương. Vương bế chú bé Tự hoàng đế bốn tuổi vào cung.

Từ Hi thái hậu tiếp lấy bế xem, và chú bé bèn làm một giấc say sưa trong lòng bà.

Trời đã sáng tỏ. Một tờ thượng dụ đưa xuống cho thần dân tuyên cáo hoàng đế băng hà. Một đạo chỉ dụ khác tiếp theo lập con trai Thuần thân vương Dịch Hoàn là Tải Điềm lên làm hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang Tự.

Thuần thân vương thấy con mình vào cung, nét mặt rầu rầu chẳng vui. Mấy hôm sau vương ngả bệnh. Vương dâng lên một tờ sớ từ hết cả chức tước. Tờ sớ viết rằng:

"Thần theo hầu Đại hành hoàng đế đã có mười ba năm. Thần gặp lúc thiên hạ nhiều chuyện nên làm việc chỉnh quân, luyện võ để mong ngày trung hưng, thịnh vượng. Do đó dù có gan não lâm đất thần cũng vẫn cam tâm. Không ngờ trời nọ chẳng thương, mình rồng đã mất.

Hôm trước thần đã chiêm ngưỡng di ảnh, thấy ngũ nội băng liệt, biết khí thế đã quá say khó vững. Tuy vậy song thần vẫn đem hết tâm lực nghe mệnh đế giúp sức lúc gian nan. Thế rồi thần chẳng được nhờ ý chỉ, cho chọn định tự quân trong lúc gấp rút mê muội, thần thực chẳng còn biết làm cách nào.

Kịp đến lúc về tới nhà tâm thần càng lo, lòng thần càng run, cứ như ngây như mộng, khiêu khích, phạm bệnh gan ngày trước, mà đến nổi trở nên phế tật. Bởi thế thần chỉ còn cách khẩn cầu hoàng thái hậu đặc biệt thi ân cho được xin lấy hài cốt này, khiến đã được che chở trong lúc này, mà cũng còn được mát mặt trong lúc khác. Được vậy, thần quả thực đã cảm đức cái ơn đầy đời đời kiếp kiếp vậy!".

Lương cung Hoàng thái hậu xem xong tờ sớ, biết rằng Thuần thân vương đã vì con trai vương làm Tự hoàng đế nên theo lệ phải tránh lui về.

Bởi thế hai bà chuẩn tấu, cho dứt hết mọi công việc, giữ lấy tước Thân vương thế tập.

Hồi 150

BẮT ĐÔI GIAN PHU DÂM PHỤ

Lại nói Quang Tự hoàng đế mới bốn tuổi, khi vào cung làm hoàng đế, chỉ có một người bảo mẫu hầu hạ. Mọi việc lớn lao của quốc gia đều do hai bà thái hậu rủ rèm nghe chính sự, gọi là Thuỳ liêm thỉnh chính. Trong khi đó, bên ngoài dao ngôn đồn đãi om sòm, truyền đi khắp nơi, bảo Quang Tự hoàng đế vốn là con tự sinh của Từ Hi thái hậu, gởi nuôi tại nhà Thuần thân vương. Câu chuyện tình duyên kỳ thú đó ra sao?

Nguyên Tây thái hậu rất thích một món ăn gọi là Thang ngoạ quả. Hằng ngày, cứ sáng sớm tinh sương, nội phủ phải đưa ra hai mươi bốn lạng bạc để mua bốn cái Thang ngoạ quả cho thái hậu. Món ăn này do quán ăn tên "Kim Hoa phạn điếm" cung cấp. Trong quán này có một tên làm công họ Sử, tuổi trẻ, tính thích chơi bời lang thang. Sử nghe tên thái giám Lý Liên Anh ca tụng cung phủ đẹp đẽ đâm ra tò mò, mới bảo Anh cho mình theo vào cung dạo chơi một phen. Anh thấy Sử bảnh bao, lanh lẹ, lấy làm thích, bèn ưng chịu, nên thường đưa Sử vào chơi nơi cung cấm. Có một hôm, Sử theo Anh vào cung, vừa đi tới cửa Cảnh Hoà môn thì gặp Tây thái hậu.

Bà thấy Sử bèn hỏi là người ở đâu? Sử cũng như Anh, cả hai đều hoảng hồn bạt vía, vội bò rạp xuống mặt đường, rồi Sử tự khai hết về mình cho Tây hậu nghe. Bà thấy Sử đáng yêu bèn lưu Sử lại trong cung để hầu hạ. Hồi đó Hàm Phong hoàng đế đã chết, vậy mà hoàng thái hậu bỗng có thai, sinh ngay một đứa bé trai giống Sử như đúc. Sau khi sinh đẻ, Tây hậu bèn đưa thằng bé tới phủ Thuần thân vương nhờ nuôi hộ, mặt khác, hạ mật lệnh giết chết ngay Sử để bịt miệng. Từ lúc có con đích thị của mình, Tây thái hậu lúc nào cũng thắc thỏm mong có cơ hội để đưa vào cung. May thay cho bà, Đồng Trị lăn đùng ra chết! Thực là cơ hội ngàn năm một thuở! Thế là thái hậu đưa thằng bé vào cung lập là Tự hoàng đế tức Quang Tự. Ý nguyện của Tây thái hậu đến đây đã đạt, luôn luôn giữ ấu đế bên cạnh mình.

Đồng Trị hoàng đế chết đi, Hiếu Triết hoàng hậu tuy được gia phong tôn hiệu là Gia Thuận hoàng hậu, nhưng suốt ngày đêm chịu cảnh cô quạnh lạnh lùng trong thâm cung, chẳng một ai lui tới hỏi han. Thỉnh thoảng Từ An thái hậu có lại thăm, nhưng hai bên tả hữu, cung nữ thái giám vây quanh để ý dò xét nên cũng chẳng nói được gì.

Người trong cung thấy Hiếu Triết hoàng hậu bị Tày thái hậu ghét, kẻ nào cũng chà đạp thêm đến nỗi về sau, việc ăn uống hằng ngày cũng không đủ nữa.

Hiếu Triết hoàng hậu thấy tình cảnh đó, biết mình bị thái hậu ruồng rẫy, nên đôi ba lần định quyên sinh, nhưng chỉ e ngại liên luỵ tới cha mẹ. Theo quy luật trong cung nhà Thanh nếu hoàng hậu, cung phi trong cung tự tử thì cha mẹ, họ hàng đều bị tử tội hết. Do đó khi lên làm hoàng hậu, dù có bị khổ sở tới đâu cũng đành sống cam chịu mà thôi.

Hiếu Triết hoàng hậu, giữa lúc băn khoăn vô vọng đó, bỗng được ông thân sinh là Sủng ỷ thượng thư đưa vào cho một hộp bánh bột lọc. Ăn xong bà bèn viết bốn chữ "Làm thế nào được?" giấu kín ở dưới hộp bánh rồi cho người đưa ra khỏi cung.

Sủng Y thượng thư nhận được mật thơ của Hiếu Trinh hoàng hậu biết rõ nỗi khó khăn, đau khổ của con mình, bèn viết luôn vào trong tờ giấy nọ một câu: "Minh triết mạc như hoàng hậu" (Minh triết chẳng bằng hoàng hậu ư) rồi lại cho người đưa vào cung.

Hiếu Triết xem xong, giật mình tỉnh ngộ, bèn từ đó lập định chủ ý dứt hẳn ăn uống. Qua đến ngày thứ tám, thật đáng thương cho một bà hoàng hậu trẻ đẹp, nghiêng thành nghiêng nước, phải chết đói trong thâm cung.

Tin này đưa tới, Từ Hi thái hậu chỉ nói vỏn vẹn có mấy tiếng:

- Tao biết rồi!

Nhưng đối với Đông thái hậu thì vừa được tin dữ, bà vội chạy tới cung hoàng hậu ôm lấy thây ma khóc lóe thê thảm một hồi, rồi đích thân sang cung Từ Hi, bàn tính việc tống táng cho hoàng hậu. Nể mặt Đông thái hậu, Từ Hi bèn hạ một đạo ý chỉ cho nội vụ phải lo liệu việc tang ma. Khâm thiên giám chọn ngày an táng, sau đó cho quan tài hoàng hậu theo linh thân của Đồng Trị hoàng đế tới nơi lăng tẩm chôn cất.

Lăng tẩm cô tịch vắng lặng. Người ta chỉ thấy có minh Lý Hồng Tảo tới nơi đây bò mọp trước mộ hoàng đế và hoàng hậu khóc lóc thê thảm, lòng quặn đau khi nhớ tới tờ mật chiếu được hoàng đế và hoàng hậu lúc sinh tiền đã phó thác cho mình... tiếng khóc ấy, chỉ vài giờ sau là tới tai Tây thái hậu.

Hôm sau một đạo chiếu chỉ đưa xuống tống ngay Lý Hồng Tảo sang điện Hoằng Đức làm chức hành tẩu, nghe lệnh sai bảo. Thấy động ổ, bọn đại thần Từ Đồng, Ông Đồng, Hoả Quảng, bình nhật vốn bạn tri kỷ của Tảo tự biết nguy rồi, vội vàng dâng sớ xin về vườn tri sĩ. Nhưng ý chỉ hạ xuống tống khứ mỗi người đi mỗi nơi chờ lệnh sai khiến.

Ngự sử Trân Di lại còn dâng sớ đàn hặc Hàn lâm viện thị giảng Vương Khánh Kỳ, và tổng quản thái giám Trương Đắc Hỷ nói bọn này tâm địa hết sức đê hèn khốn nạn, hùa nhau làm điều gian xảo.

Từ Hi thái hậu xem xong sực nhớ tới bức tranh "Xuân Hoa" (bức tranh vẽ lúc nhà vua đang chơi gái trong phòng kín) tìm thấy ở dưới gối Đồng Trị hoàng đế bèn lập tức hạ dụ cách chức cấp kỳ Vương Khánh Kỳ, còn Trương Đắc Hỷ thì phát vãng lên tận Hắc Long Giang để sung quân.

Ngoài ra còn hai vị trung thần nữa đã từng tranh chấp với hoàng thái hậu về việc lập tự của Đồng Trị hoàng đế. Nguyên nhân việc này như sau: Trong ý chỉ của thái hậu trước đây có câu "đợi khi Tự hoàng đế có hoàng tử thì đương nhiên vị hoàng tử đó kế vị Đại hành hoàng đế". Sợ rằng câu nói đó không có bảo đảm, thái hậu sẽ thất tín trong tương lai, bọn đại thần này liền dâng sớ yêu cầu thái hậu đem việc lập tự này lập thành "thiết khoán" (cũng như giấy cam đoan) mà trong số nội các thị độc học sĩ, Quảng An là người quyết hệt nhất. Tờ sở đó như sau:

"Đại hành hoàng đế (ông vua trước) tuổi còn nhỏ đã đăng vị. Nhờ được Lưỡng cung thái hậu buông rèm cai trị, khiến mười ba năm qua thiên hạ đại định, thần dân trong toàn quốc mới được hưởng phúc thái bình. Song le việc lập tự của Đại hành hoàng đế chưa làm, lỡ một mai thuyền rồng rời bến xa chơi thử hỏi kẻ thần dân hưởng ân huệ bổng lộc biết trông vào đâu mà kêu trời gọi đất. May thay nhờ Lưỡng cung thái hậu giữ yên được chính vị khéo chọn người thừa kế, lấy hoàng thượng làm con nối dõi Văn Tông hiến hoàng đế có hoàng tử thì đương nhiên vị hoàng tử đó kế vị Đại hành hoàng đế. Ngửa trông thần dân ai cũng đều thấy Lưỡng cung hoàng thái hậu nơi thâm cung lo việc cũng như việc nhà, liệu tính thật xa xôi, coi việc lập con tức như lập cháu. Nếu đại hành hoàng đế không có hoàng tử tức có dòng dõi của chính ngài, thì vẫn được kế thừa khỏi phải thay thế. Kế sách nào vẹn toàn đến câu thực cũng chẳng hơn được kế sách do vậy xin sức xuống vương công đại học sĩ, lục bộ cửu khanh tập họp hội nghị để thiết lập và ban bành thiết khoán, coi đó như một mưu hay kế thế".

Từ Hi thái hậu xem xong tờ sớ biết rằng Quảng An không tin mình, bất giác cả giận. Bà chẳng những không chịu theo An ban lập thiết khoán, trái lại còn truyền chỉ đưa ông ra mổ xẻ một phen cho đã giận.

Lại bộ chủ sự Ngô Khả Độc thấy hoàng thái hậu không chuẩn y tờ sớ của Quảng An, trong lòng rất lấy làm lo ngại, nhất là Đồng Trị hoàng đế lại bị tuyệt tự. Do đó ông cũng nghĩ nên dâng lên một tờ sớ để đặt ý kiến của mình. Nhưng ông lại sợ địa vị mình thấp hèn, lời nói chẳng đi đến đâu, thể tất thái hậu chàng chịu nghe tới, bèn dùng thi gián kế, tức là dùng thây ma để khuyên can, xin hoàng thái hậu lập tức hạ chiếu lập tự cho Đồng Trị hoàng đế.

Vào lúc đó linh thân (quan tài) của Đế và Hậu (tức Đồng Trị hoàng đế và Hiếu Triết hoàng hậu) đang được chuyển lên Huệ lăng để an táng. Độc liền tới gặp trưởng quan của Lại bộ, xin được một công việc trong việc cúng tế, tất nhiên là được theo chân lên chỗ chôn cất. Đến khi công việc cúng tế xây lăng xong xuôi, Độc quay về kinh, nhưng khi đi qua thành Kế Châu, tạm trú tại miền Tam Nghĩa bên cầu mã Thân Kiều. Độc bèn viết một tờ di sớ để lại rồi uống thuốc độc tự tử, đúng vào nửa đêm ngày mồng năm tháng ba nhuận năm đó.

Qua ngày hôm sau, trưởng quan Lại bộ được tin này liền sai người tới đem xác Độc đi, một mặt dâng tờ di sớ của Độc lên... Trong tờ sớ Độc tự xưng mình là "Tội thần" (người bầy tôi có tội) lời lẽ hết sức thống thiết, ai cũng phải động lòng.

Từ Hi thái hậu xem xong tờ sớ, bèn giao cho Vương Công đại thần đại học sĩ Lục bộ, Cửu khanh, Hàu chiếm khoa đạo hội đồng nghị sự. Kết quả của cuộc đại nghị hôm đó bảo là Ngô Khả Độc chẳng hiểu gì về triều đình và gia pháp, khỏi cần đem ra hội nghị. Thành thử cái chết của Độc là cái chết "độc", cái chết oan, chết mà chẳng được một việc gì. Nếu gọi là được chỉ có một đạo chỉ dụ nhị tuất cho quan hàm ngũ phẩm mà thôi. Sau cái chết tỉa Ngô Khả Độc, chẳng thấy một vị quan nào cả gan dâng sớ về chuyện lập tự cho Đồng Trị hoàng đế nữa.

Lại nói Từ Hi thái hậu từ khi lập Quang Tự lên ngai vàng thì tha hồ thao túng quyền hành. Hằng ngày hai bà thái hậu rủ rèm nghe chính tại triều, nhưng người ta chỉ thấy lời của Từ Hi thái hậu. Ví thử có một vài lời nào đó của Từ An thì thực ra cũng chẳng được ai nghe.

Hồi này tên thái giám Lý Liên Anh đã được Từ Hi thái hậu sủng ái và tin dùng lắm, được thăng lên chức tổng quản.

Anh vốn tên ma đầu khôn ranh, cố tìm cách khai thác thời cơ. Anh biết thái hậu thích nghe hát, thế là y bèn đi rủ một số thái giám khác tập tuồng luyện hát rồi qua mặt Đông thái hậu, đóng tuồng ngay trong cung cấm cho Tây thái hậu xem. Quả nhiên, Tây thái hậu khoái quá! Chỉ tiếc rằng tuồng tích, ca nhạc của bọn thái giám này vốn liếng chẳng có bao, cho nên chỉ hát xướng múa may chưa được mấy hôm đã hết. Hơn nữa tiếng hát của bọn này đâu phải là thứ tiếng lọt mãi được vào tai của một bà Thái hậu xưa kia đã nổi danh về tiếng hát. Lý Liên Anh biết, bèn xin thái hậu cho đi gọi hết bọn đào kép nổi tiếng trong kinh thành vào cung, phối hợp cùng nhau để diễn cho bà xem.

Từ Hi thái hậu nghi ngại bảo:

- Chuyện hát xướng ở trong cung, gia pháp của tổ tiên đâu có cho phép. Lỡ chẳng may Đông thái hậu rõ chuyện, gây thêm nhiều điều phiền phức thì làm sao tiện.

Lý Liên Anh nghe xong nhún vai nói:

- Việc gì mà phải sợ, lão Phật gia chính là tổ tông rồi chứ còn ai nữa. Toàn thể thiên hạ của Thanh triều bọn tôi đều nhờ một tay lão Phật gia chống đỡ. Liệt tổ liệt tông ở trên trời kia hẳn cũng phải cảm kích lão Phật gia nữa là khác. Nay lão Phật gia muốn nghe vài câu hát, một bản tuồng, thử hỏi còn phải sợ ai điều nặng tiếng nhẹ nữa?

Tây thái hậu nghe xong bất giác phì cười, mặt tươi rói, bảo:

- Thằng khỉ! Khéo múa mép lắm! Đã vậy thì bọn mình cho đi đòi ngay một bọn về hát xem sao. Nhưng chớ có trống la ầm ĩ, kéo dài, diễn vài tuồng, ca vài bản giải buồn là đủ rồi nghe không.

Lý Liên Anh lại tâu:

- Cần gì mà giấu giếm! Tốt hơn bọn ta mời ngay Đông thái hậu, hoàng thượng, cả các vị gia gia lại xem, đem trống lớn mà nện, đem chiêng bự ra mà khua một hôm cho đã thèm.

Lúc đầu Từ Hi thái hậu còn e ngại nhưng tên Anh cứ nịnh mãi, khích mãi, xui mãi cuối cùng bà cũng phải gật đầu liều lĩnh thử xem.

Bọn vương công đại thần và luôn cả Từ An thái hậu thảy đều im lặng chấp nhận hành động vi phạm gia pháp này của Từ Hi.

Bọn đào kép trứ danh kinh thành nào là Trình Trường Canh, nào là Cảo Tam Nhi, nào là Dương Nguyệt Lâu, nào là Du Cúc, đều có mặt đầy đủ. Chúng kết hợp lại thành một ban mới, trổ hết tài nghệ bình sinh, cố diễn một tối cho lừng danh để lấy lòng thái hậu.

Tuồng hay quá! Khán giả phía dưới im phăng phắc. Giữa lúc đang diễn một màn tuồng mùi mẫn, tức là màn sư ông Hải Đồ Lê bắt tình mê ly với Phan thị tại núi Thuý Bình, mọi người bỗng thấy Thuần thân vương giơ đôi cánh tay lên trời, quát một tiếng khen "Hay!" chát chúa, đến nỗi khán giả giật bổng người lên chỉ chút xíu nữa là bắn ra khỏi ghế. Từ Hi thái hậu tuy không nói gì, nhưng cũng quay mặt về phía Ngũ vương gia, liếc qua một lượt. Thuần thân vương có lẽ không biết điều đó, bởi thế vương ta bất chấp thiên hạ, quát thêm mấy tiếng "Hay! Hay! Hay!" nữa liên tiếp thành một tràng dài. Cung thân vương ngồi gần đó, thấy chướng quá, vội lẻn tới kéo tay áo của Thuần thân vương mấy cái ra hiệu cảnh cáo, đồng thời ghé tai bảo nhỏ:

- Đây là nơi nội đình. Suồng sã bừa bãi thế không được đâu!

Thuần thân vương nghe xong, cố ý nói lớn để đáp lời Cung thân vương:

- Đây là nơi cung cấm đó sao? Ấy thế mà tôi cứ tưởng rạp hát chứ! Theo gia pháp của tiên hoàng thì trong cung đâu có được hát tuồng bao giờ? Mà lại là vở tuồng "Thuý Bình sơn" nữa thì quá thể. Tôi xem tuồng cứ nghĩ mình đang trong rạp hát, thành thử thấy hay cứ khen tràn!

Nói xong, Thuần thân vương vội chạy tới trước mặt Từ Hỉ thái hậu dập đầu tạ tội. Trong khi đó Từ Hi biết ngay Thuần thân vương có ý chế giễu và đồng thời can gián. Bà vội vàng truyền lệnh đình diễn vở tuồng nay tức khắc.

Từ sau hôm đó, trong cung tự nhiên có một cái lệ là cứ hễ lúc hoàng thái hậu rỗi rảnh, ắt có lệnh gọi bọn đào kéo rạp hát vào cung hát xướng om xòm. Trong đám kép hát, Từ Hỉ thái hậu khoái nhất là Xướng Tu Sinh, Trình Tường Canh và Tiểu Hoa Kiểm Cảo Tam. Một điểm rất đặc biệt là cứ mỗi lần trong cung có đám hát, là y như triệu hết bọn vương gia vào xem.

Thuần thân vương vốn tính ngay chính, đúng mức, tuy thường vào cung hầu cận Tây thái hậu, xem hát, nhưng trong lòng thật chẳng vui thích tí nào.

Có một hôm, Cảo Tam diễn màn tuồng "Tư Chí Thành", Tam đóng vai mụ dầu trong tổ điếm. Một khách làng chơi vừa đặt chân vào tổ điếm, Tam gân cái cổ lên để gọi:

- Con Năm, con Sáu, con Bảy đâu? Ra tiếp khách lẹ, lẹ lên!

Ở Bắc Kinh, loại điếm vào bậc nhì thường lấy số thứ tự mà gọi, chứ không gọi tên cúng cơm. Mấy tiếng gọi vừa rồi đó chính là mấy tiếng gọi em út của mụ dầu chứ chẳng có ý gì châm biếm chế giễu ai.

Không ngờ ngồi phía trước lại là ba vị thân vương: Thuần, Cung, Đôn. Thuần vương liệt hàng thứ năm, Cung vương hàng thứ sáu, Đôn vương đứng vào hàng thứ bảy. Hình như lúc đó Cảo Tam cố ý gọi xách mé tên mấy vị vương gia để đùa chơi thì phải. Đôn và Thuần vương, chẳng dám nói gì, nhưng Cung vương đâu có chịu nhẫn, nổi máu khùng lên, gầm vang một tiếng, quát bảo:

- Quân cuồng nô dám vô lễ thế à?

Tiếng quát vừa dứt, vương truyền lệnh cho bọn thị vệ nhảy phóc lên sân khấu kéo ngay cổ Cảo Tam xuống nọc dài ra trước mặt Hoàng thái hậu đánh luôn một hơi bốn chục hèo, máu tươi bắn ra lênh láng.

Sự kiện xảy ra vừa đột ngột vừa kỳ thú như vậy, thực không ai dè. Nhưng từ đó, Thuần thân vương thường lấy cớ khó ở không chịu vào cung Thái hậu xem hát. Mặt khác Tây thái hậu từ đó cũng không thèm triệu bọn vương gia vào cung xem nữa, để được tự do tự tại mua vui một mình. Về sau hát xướng quen đi, Tây thái hậu chọn anh kép xinh đẹp vừa ý nhất gọi xuống hỏi chuyện, và cho ngồi bên hầu rượu, trong khi bà vừa nhắm rượu vừa xem hát. Không còn ai để phải kiêng kỵ nữa, bà tha hồ nói cười đùa giỡn.

Thế rồi ngày một ngày hai, Tây thái hậu quả nhiên sinh chứng yêu mê luôn vài anh kép hát, giữ lại trong cung, không cho về nữa. Mọi người trong cung ai cũng rõ cả, duy chỉ Đông thái hậu là không biết gì.

Được ít hôm, Từ Hi thái hậu bỗng dưng nhuốm bệnh. Hằng ngày bà vẫn ra toạ triều, nhưng bơ phờ, mỏi mệt. Cuối cùng, bà đành để Từ An thái hậu rủ rèm nghe chính sự một mình.

Từ An thái hậu bèn lấy danh nghĩa hoàng đế, hạ chiếu xuống các tỉnh, tuyên triệu danh y vào cung để điều trị cho Từ Hi thái hậu. Danh y về kinh bắt mạch hốt thuốc đã nhiều, duy chỉ có mỗi một mình Tiết Phúc Thần người Vô Tích xem ra hiểu được bệnh tình của Tây thái hậu. Ông bắt mạch xong, bốc chỉ mỗi một thang thuốc là khỏi bệnh. Từ An mừng lắm, trọng thưởng luôn.

Một hôm, sau giấc ngủ trưa, Từ An một mình tới tẩm cung của Từ Hi, mục đích là thăm hỏi sức khỏe Tây thái hậu, tiện thể bàn tính thêm việc nước, có thế thôi.

Bà đi thẳng vào tiền đường của tẩm cung, trong ngoài vắng hoe, chẳng thấy bóng một ai. Bà đi thêm chút nữa, khi đã tới rèm ngoài mới thấy một con cung nữ đang xếp bằng đôi chân ngồi phía dưới bức rèm.

Thấy Từ An thái hậu bất chợt xuất hiện, sắc mặt nó vụt biến đi, tay chân luống cuống, miệng như sắp kêu gọi để báo động. Từ An thấy vậy vội xua tay bảo nó không được lên tiếng, rồi tự mình vén rèm bước vào.

Trong phòng lúc đó, màn mùng đều bỏ thấp kín bưng, phía trong có tiếng cười khúc khích. Từ An đằng hắng một tiếng.

Từ bên trong có tiếng hổn hển của Tây thái hậu:

- Ai đó?

Từ An đáp ngay:

- Tôi đây!

Miệng vừa đáp xong thì tay bà cũng vén luôn màn để nhìn vào. Bà chỉ thấy Tây thái hậu nằm trong đống chăn nệm vụt ngồi dậy, đôi má bỗng đỏ ửng lên như gấc chín. Đông thái hậu chạy vội lại khẽ đè bà xuống, miệng bảo:

- Muội muội mặt đỏ gay như thiêu như đốt thế kia, chớ nên cử động mạnh.

Giữa lúc đó bà bỗng thấy ở phía đuôi giường một cái bóng nhỏ nhảy vọt qua, lộ hẳn ra cái đôi sam bện dài lê thê. Đông thái hậu nhìn kỹ lại, đôi má cũng tự nhiên đỏ gay lên, xấu hổ cúi gục đầu xuống, một lúc lâu vẫn không nói được câu nào.

Những phút nặng nề trôi qua. Đông thái hậu bỗng biến sắc mặt, nét giận hiện rõ trên khuôn mặt xinh tươi hiền hoà thường nhật. Bà quát lớn:

- Cút ngay ra! Quân khốn nạn!

Anh chàng trần truồng như nhộng nằm phục dưới chân giường khi này không còn chỗ nào núp nữa, đành phải chui ra bò mọp dưới mặt đất, hướng về ngả Đông thái hậu dập đầu lia lịa.

Đông thái hậu quát hỏi tên gian phu lúc đó mới biết hắn vốn là một tên kép hát tại kinh thành được Tây thái hậu tuyên triệu vào cung để "cung phụng" bà ta đã sáu ngày mà vẫn chưa cho về.

Kép hát Kim nói tới đây, bỗng nghe Đông thái hậu quát lớn:

- Câm mồm!

Rồi bà gọi thị vệ kéo cổ Kim ra ngoài, chặt đầu ngay tức khắc. Tây thái hậu thấy chuyện kín của mình bị bại lộ, nửa xấu hổ nửa tức giận. Bà nhìn thấy tên Kim, cục cưng của mình bị thị vệ lôi đi chặt đầu, lòng quả đau đớn muôn phần. Nhưng biết làm sao hơn, dù sao bà cũng vẫn phải e cái thế, cái quyền của một bà chính cung hoàng thái hậu vai vế hơn mình chứ!

Đông thái hậu cầm tay Từ Hi, lựa lời an ủi:

- Muội không nên để tâm đến chuyện này nữa. Chị quyết giữ kín cho em. Tuổi muội muội còn trẻ, làm sao chịu nổi cảnh hiu quạnh lạnh lùng này được. Có điều là bọn xướng ca vô loài vốn tiểu nhân hạ lưu, được cưng chiều lúc này sẽ ỷ thế làm càn lúc khác, chúng hoành hành càn rỡ ở bên ngoài, hoặc có chuyện chi không vừa ý liền mang tâm oán hận rồi đồn nhảm phao xằng làm bại hoại hết danh giá của bọn mình.

Nói đoạn Đông thái hậu liền cho cung nữ đưa rượu thịt lên để hai người ngồi đối ẩm. Đông thái hậu lại tự tay nâng chén mời Tây thái hậu.

Tây thái hậu không ngờ Đông thái hậu lại có một thái độ khoan dung như vậy. Bà nghi ngại lúc đầu, nhưng về sau cũng đổi hẳn bộ mặt, hồi kính Đông thái hậu một chút.

Rượu đã vào được ít chén, hai bà tự nhiên thấy quên hết sự đời quên luôn cả chuyện dâm ô đê nhục vừa rồi, bỗng quay trở lại cái vui hồn nhiên thuở còn con gái xa xưa. Hai bà cười cười nói nói, tưởng như một cặp tri kỷ gắn bó muôn đời. Giữa lúc ngà ngà say, Đông thái hậu gợi chuyện xưa:

- Khi tiên đế còn tại thế, tiên đế đãi ngộ muội biết bao ân tình nồng mặn! Đối với chị ngài cũng tương kính như tân. Nay chị đã già chẳng còn được bao ngày ở trần thế. Muội còn đang xuân, thiết tưởng cũng nên có tâm bảo dưỡng để thân thể được mạnh khỏe thanh tao, một ngày kia hồn về thượng giới còn được hầu hạ tiên đế. Đã hơn hai mươi năm qua, muội cùng chị may được đồng tâm hiệp lực, bên ngoài thì giải quyết triều chính, bên trong thì giữ mực chốn cung đình, tuyệt nhiên từ đó tới giờ chẳng có một câu nửa lời nào xung đột nhau cả. Chỉ có lúc tiên đế lâm chung ngài lưu lại một di chiếu dặn Cung thân vương đề phòng muội muội chuyên chính lộng quyền làm bại hoại quốc sự, có vậy thôi. Nhưng xem ra muội muội lại là con người tài ba, xử lý quốc sự thông minh hơn chị thập bội. Muội muội cần nên cẩn thận dè dặt là hơn. Rồi đây chị về hầu hạ tiên đế, lúc đó có thể yên tâm trao lại tất cả cho muội muội rồi.

Nói tới đây khóe mắt Đông thái hậu bỗng ứa lệ. Tây thái hậu bị một bài diễn thuyết, câu lạnh, chen câu nóng, trong lòng quả đã cảm thấy đau nhức khó chịu. Mặt bà đỏ ửng hết phen này đến phen khác. Cuối cùng bà chỉ còn cách quỳ xuống, miệng thì thào qua tiếng nấc:

- Lời chỉ dạy của tỉ ti quả là lời phế phủ, em thực lấy làm cảm kích muôn phần. Từ nay về sau em xin đặc biệt cẩn thận.

Từ An thái hậu vội nâng Từ Hi đứng dậy, miệng chỉ còn nói thêm được một lời xúc cảm.

- Em mà giữ được như vậy thì nhà Đại Thanh ta quả có phúc lắm.

Đông thái hậu cáo biệt về cung. Trong thâm tâm, bà đinh ninh rằng Từ Hi tất phải thay lòng đổi dạ, đồng tâm nhất đức cùng bà. Bà có biết đâu rằng chuyện tư tình dâm dật bị bại lộ, đã làm cho Tây thái hậu hận bà đến xương tuỷ.

Đợi khi Đông thái hậu đi rồi, Tây thái hậu máu tức còn ngùn ngụt không biết trút vào đâu bèn nhè ngay con cung nữ giữ cửa, hạ lệnh đánh nó đến thập tử nhất sinh.

Chưa hết tức, bà còn kiếm thêm lọ cổ, be xưa, bao nhiều đồ quý giá, bà phá sạch, đập sạch. Giữa lúc đó, may thay có anh hề Lý Liên Anh của bà tới. Anh khuyên giải bà. Bà trở lại bình thường, càng thân thiết với hề Lý Liên Anh hơn.

Rồi chứng từ hôm đó, Từ Hi thái hậu ngày đêm bày mưu tính kế với Lý Liên Anh giết Từ An. Buồn thay, Đông thái hậu không ngờ tới, cứ thản nhiên an nhiên, chẳng khác gì kẻ ngủ trong trống.

Bỗng có vài việc xảy ra gây nên cơn thịnh nộ của Tây thái hậu, có lẽ vào quãng năm thứ sáu thứ bảy niên hiệu Quang Tự, do đó Đông thái hậu thế càng ngày càng cô, nguy hiểm, tới càng gần.

Thứ nhất, đó là việc trí tế ở Đông lăng năm thứ sáu Quang Tự. Đông thái hậu từ sau hôm khuyên răn Tây thái hậu, bèn bàn tính với Cung thân vương, tưởng nhờ đó sẽ diệt bớt uy phong của Tây thái hậu, khiến bà này dẹp bỏ dã tâm buổi trước.

Có một lần, mùa Xuân, Lưỡng cung thái hậu cùng tới Đông lăng làm chủ tế. Đợi đến lúc quỳ bái, Từ Hi thái hậu có ý muốn dời chiếu quỳ hàng lên ngang với Từ An thái hậu. Nhưng Từ An không chịu, hạ lệnh bắt đem ngay chiếu quỳ của Từ Hi lui xuống một bước. Từ Hi thái hậu chống trả, quyết phải được quỳ lạy cùng hàng với Từ An. Cuộc tranh cãi gay go bùng nổ ngay trước mặt vương công đại thần và bá quan văn võ triều đình.

Thế rồi trong lúc cãi vã, máu tức xông lên, Từ An thái hậu nói toạc hết chuyện bỉ ổi của Từ Hi thái hậu trong cung ra. Bà không còn giữ thể diện cho Từ Hi nữa. Bà lớn tiếng bảo Cung thân vương:

- Lúc sinh thời của Hàm Phong hoàng đế, Tây thái hậu chỉ là một Ý phi, mãi sau khi hoàng đế băng hà rồi mới được thăng thái hậu. Vậy ngày nay tế tiên đế quyết chỉ có một thái hậu trước tiên đế chứ không thể có hai. Một hậu và một phi tử, chiếu theo lệ trong lúc cúng tế thì ngôi vị của phi tử phải đặt ở bên dưới lùi xuống một bước. Tại trung ương có hai chiếu quỳ, cái bên tay phải thuộc tôi, còn cái bên tay trái là để dành cho Trung cung nương nương đã mất từ trước. Chính cung nương nương tuy mất trước tiên đế nhưng bà vốn là chính hậu của tiên đế. Bọn ta lúc này không thể nói gì khác hơn về bà.

Từ Hi thái hậu nghe Từ An nói một thôi một hồi, lời lẽ rất đúng, tự nhiên đâm ra hổ thẹn muôn phần. Thẹn quá hoá hận thù. Từ Hi thái hậu nổi tính bướng cố hữu, cãi lại kịch liệt:

- Tôi cùng Đông thái hậu cùng ngồi một chiếu buông rèm nghe chính mẫu nghi thiên hạ, chứ đâu chỉ có mỗi một ngày hôm nay. Ấy thế mà đã từ lâu chẳng thấy bà tranh chấp ganh tị. Hôm nay giữa lúc tế lễ tiên đế tại Đông lăng, bà lại bảo tôi là phi tần này nọ. Nhưng thôi! Nếu Đông hoàng hậu quyết giành lấy phần thắng cái điều tiết lễ nhỏ nhặt này, thì tôi xin chết trước lăng tẩm của tiên đế ngay bây giờ, để mong Đông thái hậu thoả nguyện.

Nói đoạn Từ Hi thái hậu khóc rống lên. Bà vừa khóc vừa kể lể, khiến Từ An thái hậu, vốn người trung hậu và cả nể, đứng trước tình cảnh đó bỗng đâm ra do dự, ngại ngần.

Hồi 151

HỒI TƯỞNG NHỮNG NĂM XƯA

Trong khi Từ An thái hậu mất tiêu chủ ý thì bọn thân vương đại thần thấy việc càng ngày càng nghiêm trọng, vội rủ nhau nhảy vào dàn xếp cho êm chuyện. Rốt cuộc, họ chấp nhận ý kiến của Từ Hi thái hậu muốn được cùng Từ An thái hậu quỳ lạy trước bàn thờ ngang hàng nhau.

Cuộc tranh chấp hôm tế lăng tuy qua rồi, nhưng lòng oán giận của Từ Hi thái hậu đâu có qua. Ở trước lăng tẩm của tổ tiên, đứng trước mặt đủ vương công đại thần mà tát vào mặt bà, bôi nhọ luôn cả cái danh giá tôn nghiêm của bà, thử hỏi làm sao bà cho qua nổi.

Điều tra cho rõ thực hư, Từ Hi thái hậu phong phanh biết có bàn tay của Cung thân vương nhúng vào nội vụ. Thế là bà lập tâm triệt hạ Vương. Bà cho gọi Thuần thân vương vào cung bàn tính mọi việc. Bà cũng không quên đem việc quan trọng và tối mật của mình ra bàn soạn với Lý Liên Anh.

Hồi này Thôi tổng quản đã xin về dưỡng lão. Trong cung chỉ còn có Anh là người tín cẩn nhất của Từ Hi. Anh được thái hậu sủng ái, thăng lên tổng quản. Nhưng Anh vẫn nhớ tới họ Thôi, thỉnh thoảng đem tiền bạc ra giúp Thôi. Bởi thế Thôi vẫn thường nói với mọi người là Anh có lương tâm, ăn ở thuỷ chung.

Lý Liên Anh ở trong cung quyền hành lớn lắm. Bọn cung nữ, thái giám đều sợ hắn. Ngay như bọn vương công đại thần nhiều người cũng e nể, quay ra xu phụng nịnh bợ hắn. Lý Liên Anh chẳng bảnh bao tuấn tú gì, nhưng được cái khéo léo tài nịnh. Trong tiếng cười, câu nói của hắn, ai cũng thây ấm áp, nhẹ nhàng. Đã thế hắn lại còn biết cách ăn mặc lịch sự bay bướm, cử chỉ của hắn duyên dáng, đáng yêu.

Không phải Anh chỉ đem cái tài bách mỹ thiên kiều của mình ra với riêng Tây thái hậu, để lấy lòng một mình bà. Anh khôn ngoan lắm. Hắn xuề xoà với tất cả mọi người, cười nói mua vui với tất cả bọn đại thần khiến bọn này ai cũng đối tốt với hắn. Nghiêm nghị như Cung thân vương kia mà hễ thấy hắn cũng không thể cau có được.

Tây thái hậu thích tranh vẽ lắm, thích cả ảnh chụp nữa. Thế là Lý Liên Anh chạy ngay ra phố kiếm thợ vào cung chụp hình.

Thái hậu ăn mặc giả làm Quan Âm đại sĩ ngồi trên mui thuyền Bắc Hải. Bà bảo Lý Liên Anh cải trang thành một vị bồ tát đứng cạnh. Có khi thái hậu giả làm một bà Tây Vương mẫu còn Anh thì giả làm anh chàng Đông Phương Sóc đang học kiểu trộm đào. Tây thái hậu lại có khi cải nam trang, giả làm một anh chàng công tử Thái Nguyên trong khi Anh ăn mặc giả làm một Lý Vệ Công. Cũng chưa hết nữa! Có khi Tây thái hậu cùng Lý Liên Anh cải trang kép hát đóng tuồng, múa may quay cuồng, ca hát om xòm. Thật không biết bao nhiêu ảnh đã chụp giữa thái hậu và Liên Anh.

Bọn thái giám hầu cận có nhiều anh đánh cắp những ảnh này đem ra ngoài bán lén lấy tiền, có người bắt được những tấm ảnh này đưa vào cung khuyên Thái hậu không nên tái diễn, để giữ uy tín cho bà, nhưng bà đã chẳng nghe mà lại còn thêm quý Liên Anh hơn là khác. Có khi Tây thái hậu nằm trên giường, gọi Lý Liên Anh nằm dưới đuôi giường để trò chuyện.

Từ Hi thái hậu thân mật với Lý Liên Anh đến nỗi đem cả chuyện nhà kể hết cho hắn nghe. Bà bảo khi ba con ở nhà với cha mẹ thì chẳng được mẹ yêu. Sau khí cha mất, gia đình cùng khổ vô cùng. Nhờ được cái chủ ý xin kén làm tú nữ, nên mới được vào cung và được tiên đế sủng hạnh sinh ra hoàng tử. Khi sinh được hoàng tử, lúc đó địa vị mới cảm thấy vững.

- Không ngờ vận xui lại đến, - Thái hậu kể tiếp. - Hàm Phong lúc đó chưa lên ngôi, mà Văn Tông hoàng đế thì bị bệnh hết sức nguy ngập. Bên ngoài quân ngoại quốc tấn công phá thành đốt cháy rụi vườn Viên Minh. Bọn ta phải tòng vong theo tiên đế trốn chạy lên Nhiệt Hà để tỵ nạn. Hồi đó ta tuổi còn trẻ, bệnh tình của Văn Tông lại mười phần nguy kịch, hoàng tử thì quá nhỏ tuổi. Người cháu của Đông Cung là một thằng khốn mưu đoạt ngôi báu. Tình thế thực hết sức nguy cấp. Ta bế hoàng tử đến trước giường tiên đế, hỏi ngài cách giải quyết đại sự thì ngài vì bệnh tình quá trầm trọng mê man không còn biết gì, không nói lên được lời nào. Ta nói với tiên đế: "Con ngài đây này", lúc đó ngài mới mở choàng mắt nhìn qua thằng bé, bảo ta, "Tự nhiên là nó nối ngôi chứ còn gì". Nói đoạn ngài băng hà. Ta, thấy đại sự đã định xong, mới yên lòng. Không ngờ Mục Tông chỉ mới tuổi mười chín đã chết mất. Từ đó về sau cảnh ngộ của ta ngày càng tệ, ta đã tưởng rằng sự nghiệp đã tan tành hết. Đã thế Đông thái hậu lại còn chống đối ta nữa. Ngay cả hoàng đế, ta còn thấy ngài thân với Đông thái hậu hơn thân với ta, khiến ta buồn bã vô cùng.

Tây thái hậu nói tới đây bất giác thở dài thườn thượt. Lý Liên Anh đem hết tài ba cố hữu để khuyên giải bà. Nhờ Liên Anh lúc này bà đã quên được nỗi buồn. Lại nhớ đến thân thế và gia đình, bà đem kề nốt. Bà kể rằng, "Khi ta được làm phi tử rồi, ta nhớ nhà, nhớ mẹ quá. May thay, Văn Tông hoàng đế đặc ân cho ta về nhà "tỉnh thân" ta thăm viếng cha mẹ một lần. Trước đó, hoàng đế cho An tổng quàn tới chỉ bảo mẹ ta cặn kẽ, ngày nào ta về, giờ nào tới cổng, giờ nào kiến giá, giờ nào tinh thân, giờ nào thay áo, giờ nào mở tiệc giơ nào nghỉ ngơi, giờ nào quay về cung... Tất cả giờ giấc nhất định ấy được chép trên một tấm bảng đưa về trước và niêm yết ngay tại nhà lớn. Mẹ ta được tin đó, một mặt chuẩn bị yến tiệc rượu mừng để đón giá, một mặt cho đi mời hết tất cả thân thuộc bạn bè tới để hầu yến. Đúng ngày lên đường về nhà, ta sẽ ngồi trên một chiếc kiệu vàng có bốn mươi tên tiểu thái giám khiêng đi. Ngoài tụi này ra còn có một bọn cung nhân thái giám cầm quạt trương tán, mang khăn vác bồn (chậu) và nhiều thứ khác nữa đi theo. Chưa hết, còn hai ngàn tên quân ngự lâm nữa đi thành một hàng dài, tiền hô hậu hét để bảo vệ ta về tận nhà. Khi về gần đến, ta nhìn thấy cổng nhà treo đèn kết hoa đỏ khé, phía trên cao trùm một cái trướng mạng thiên ngũ sắc, ở dưới đất trải một chiếc nệm vàng dài mãi vào tận đến nhà trong. Bọn đàn ông trong họ đều ra ngoài phía cổng lớn quỳ đợi để đón giá. Còn bọn đàn bà thì quỳ đón ở trước cửa nhà trong. Kiệu tiến chầm chậm vào nội sảnh, ta xuống kiệu và trèo lên ngai ngồi. Trừ mẹ ta và các vị khách đàn bà trưởng bối ra, tất cả đều phải chia thành từng bọn từng lớp quỳ xuống để bái kiến. Mẹ ta cùng các vị nữ khách trưởng bối, đều mặc áo trào y, bước vào thỉnh an. Sau đó đến bọn khách đàn ông cũng lần lượt bước vào thỉnh an. Xong đâu đấy, ta mới cởi áo đại y, bước vào phòng mẹ ta để làm lễ "tỉnh thân". Mẹ ta vốn không ưa ta nhưng đã lâu năm không gặp nên bà vẫn xúc cảm, đôi dòng lệ tuôn như mưa. Ta nhìn thấy nhà cửa lúc này xây cất cũng khá cao rộng anh chị em đều giàu sang, cũng yên tâm lắm.

Một lúc sau mở tiệc rượu mừng. Bọn nữ quyến đưa ta vào nội sanh, ngồi vào bàn tiệc. Trên bàn tiệc ta ngồi, chỉ có mỗi một mình mẹ ta ngồi ở phía dưới hầu rượu. Ta vốn là người thích xem hát. Cách ta với bên ngoài có một bức rèm, bên ngoài ngồi đầy những nam khách. Ta sợ họ buồn, mới bảo cuộn rèm lên. Và cũng nhờ đó ta mới xem được rõ hơn. Thực là một hôm được xem hát thoả thích. Khi về tới cung thì trời đã lên đèn. Tiên đế được tin ta đã về, lóc cóc chạy tới phòng ta hỏi: "Hôm nay nàng về nhà, hai mẹ con gặp mặt nhau, trong lòng có sung sướng không?" Ta đáp, "Gia đình của thần thiếp mong ơn vũ lộ đã nhiều, hôm nay cốt nhục đoàn viên, thực là phi thường sung sướng". Tiên đế nghe ta nói vậy qua ngày hôm sau liền truyền dụ, triệu mẹ ta vào cung để mẹ con ta gặp nhau lần nữa.

"Lần này tiên đế hiểu lầm ý ta. Tiên đế cứ tưởng rằng ta ở trong cung nhớ mẹ, nên muốn cho mẹ con ta gặp nhau, chứ tiên đế biết đâu rằng hai mẹ con ta không hợp tính. Hồi xưa mẹ ta chỉ quý có em gái ta, còn thường chửi ta là đồ tham tiền hám của. Việc tỉnh thân của ta bất quá chỉ là để bà biết cái oai của ta, cái giàu sang của ta đó thôi, chứ thực không có một chút nào thân tình cất nhục cả. Bây giờ, hoàng đế lại truyền cho mẹ ta tiến cung tất nhiên ta phải lợi dụng ngay cơ hội để bắc bậc làm cao, khoe mẽ chơi với bà một keo, cho bà biết oai của ta lần nữa chứ!

"Chiều theo quy luật đã định thì mẫu thân của hậu phi vào cung khi gặp con gái thì làm "đại lễ". Thế nhưng người làm con đâu dám nhận đại lễ ấy. Do đó khi thấy mẹ mình lạy mình, bà hậu nàng phi nào đó tất nhiên phải lách mình một bên. Đằng này ta kệ, ta cứ ngất ngưởng ngồi trên ngai son, để mặc cho mẹ ta quỳ lạy. Thậm chí ta còn cứ để cho bà quỳ mọp dưới đất, không gọi dậy nữa. Phải đởi một lúc lâu, có mấy đứa cung nữ tới nâng mẹ ta dậy, mới chấm dứt cuộc đại lễ đó. Nhìn gương mặt mẹ ta thấy có sắc giận. Nhưng ta giả vờ như không biết mà cũng chẳng nói một câu nào với mẹ ta. Trong dịp đi này, mẹ ta có ý nói nhờ ta giúp cho ông anh thăng quan tiến chức đấy! Ta biết vậy, nên cứ hễ mẹ ta bắt đầu nói là y như rằng ta chặn họng ngay bằng câu này: "Gia đình ta nay đã đủ lắm rồi. So với lúc con chưa vào cung khổ cực đến cái độ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc thì thật là vực trời xa cách. Theo con thấy thì anh con phúc bạc lắm, làm quan đến thế kể đã là vừa lòng đẹp ý. Thăng quan cao hơn nữa, e rằng anh ấy không làm được đâu!".

Mẹ ta nghe xong quả không chịu nồi nữa, bà đứng dậy muốn cáo từ về ngay. Nhưng ta còn lưu lại, truyền lệnh cho cung nữ làm cơm. Hai mẹ con ngồi ăn với nhau, nhưng bữa cơm nhạt nhẽo buồn tẻ làm sao! Cơm xong, một con cung nữ bưng một cái mâm lớn sơn đen đem lên, trong mâm chất đầy hoa cài đầu. Ta vốn là người rất thích hoa, thích nhất hoa mẫu đơn hồng lớn đoá. Ta chọn lấy một bông to bằng cái bát bự để con cung nữ cài vào mái tóc ta. Sau đó ta chọn thêm một bông cúc vạn thọ đích thân cắm vào mái tóc của mẹ. Ta vốn biết tính mẹ ta không thích hoa. Từ sau khi cha ta mất rồi, tuyệt nhiên mẹ ta không bao giờ cài hoa nữa. Hôm đó ta nổi hứng, đem cắm hết bông này đến bông khác lên đầu bà đến nỗi bao nhiêu hoa trong mâm đều hết sạch.

Trời ơi. Cả một cái đầu toàn hoa là hoa, nó tùm lum bao nghệu lên như một cái tổ quạ. Ta cứ mà cười, cười như nắc nẻ. Ai cũng nghi mẹ ta hẳn cũng vui như ta. Không đâu! Mẹ ta giận lắm, căm nữa là khác. Thế là mẹ ta xẵng tiếng thoái thác.

- Chồng chết, tôi chỉ còn là một goá phụ, giắt hoa cài bỗng đâu có phải lẽ.

Nói đoạn mẹ ta quơ tay lên bỏ hết hoa xuống mâm, rồi vội vàng cáo biệt xuất cung, y như một người muốn chạy trốn cho rảnh nợ. Từ hôm đó về sau, có lệnh tuyên triệu đến ba, bốn lần nhưng mẹ ta đều thoái thác, quyết không chịu vào cung nữa. Thế là mãi cho đến lúc bà chết, mẹ con ta không bao giờ được gặp mặt nhau.

Đến đây có lẽ ai cũng biết rõ tâm địa của Từ Hi thái hậu. Đến mẹ đẻ ra mà bà cũng còn oán giận và trả thù nhỏ nhen như thế thì thử hỏi với Từ An, chuyện làm mát mặt bà hôm tế Đông Lăng lam sao bà có thể quên?

Do đâu mà có chuyện tranh chấp danh vị đó? Từ khi Từ An thái hậu thấy quyền lực của Từ Hi thái hậu ngày một lớn dần, cử chỉ thái độ cũng do đó mà kiêu căng ngang tàng quá đỗi, nên bà muốn mượn chuyện danh vị để áp đảo Từ Hi, khiến Từ Hi phải chấm dứt ngay chuyện lộng quyền kia.

Ý định như thế cho nên hôm trước tế Đông Lăng vài ngày Từ An thái hậu đã mật nghị cùng Cung Thân Vương và kế hoạch đã được sắp sẵn xong xuôi.

Đến giờ tế trước lăng, Từ An thái hậu truyện dụ cho Vương công đại thần hội nghị để bàn việc tế lễ của hai bà thái hậu, ai trước ai sau. Cung Thân Vương đã nhận ý chỉ của Đông cung rồi, liền tâu xin Từ An thái hậu nên hành lễ trước, rồi sau đó là Từ Hi thái hậu.

Ấy chính là chỗ đã gây nên chuyện tranh chấp. Từ Hi thái hậu không chịu, viện lẽ cả hai người đã cùng ngồi một chiếu giải quyết việc triều chính, chẳng lý gì khi tế yết Đông Lăng lại đem chia ra sau trước. Bà nhất định Lưỡng cung ngang hàng hành lễ, chứ không thể người trước kẻ sau. Từ An thái hậu lại có lý lẽ rằng đứng trước triều đình, trước Vương công đại thần thì bà với Tây thái hậu đều là thái hậu. Không phân biệt ai bé ai lớn ai cao ai thấp, nhưng đứng trước tiên đế, trước Đông Lăng thì nhất nhát phải tuân rõ lớn bé cao thấp, bởi vì nếu không phân biệt như vậy thì tức là khinh thượng tiên đế rồi.

Lúc sinh tiền của Hàm Phong hoàng đế, Tây cung bất quá chỉ là một nàng phi, đến khi được thăng lên thái hậu, thì đó cũng chỉ vào lúc tiên đế đã băng hà, như vậy thì đối với Hàm Phong hoàng đế Tây cung vẫn là một nàng phi như trước. Bởi thế vị thứ của Tây cũng phải đặt ở bên mé tả, so với vị thứ của bà có hơi thấp xuống một bậc. Ngay như vị thứ của bà cũng vậy, chỉ có thể ở bên cánh mé hữu.

Ngôi chánh ở mé tả phải dành cho Trung cung hoàng hậu đã quá cố. Trung cung tuy mất trước tiên đế, nhưng lại là chính cung. Cho nên Tây cũng như Đông cung, quyết không thể vượt quá lễ nghi đó.

Lời lẽ của Đông thái hậu, thực là chính đại quang minh, thử hỏi còn có kẻ nào dám chỉ trích bài bác? Nhưng đối với Tây thái hậu thì lại khác. Trước mặt bá quan văn võ mà mất thể diện bà đâu có chịu, thà rằng chết chứ nhất định phải chống phải cãi. Huống hồ, bà lại còn là một người kiêu căng hách dịch đã quen, kiêu hách từ khi còn tiên đế và thậm chí ngay cả trước mặt tiên đế nữa. Nhưng chống cãi làm sao được bởi vì lời lẽ của Đông thái hậu quá phải, quá đúng. Bởi thế bà chẳng tìm được lời lẽ nào hơn, chỉ còn cách vu khống cho Đông thái hậu là đem chuyện phi tần ra để làm nhục bà, chứ thực ra thì bà đã là mẫu nghi thiên hạ từ lâu. Đã thế bà còn tăng cường áp lực của mình bằng cách khóc rống lên, bù lu bù loa doạ tự vẫn.

Từ An thái hậu tuy người nghiêm chính nhưng lại phải cái tính tình hiền hậu, tâm địa mềm yếu, hay thương người.

Bà thấy Từ Hi thái hậu khóc lóc thảm thiết quá đỗi, bỗng mất hết tự chủ, đâm ra do dự bất quyết. Mặt khác, bọn đại thần kéo nhau bâu quanh khuyên can dàn hoà. Rút cục Từ An thái hậu đành phải chiều theo ý kiến của Từ Hi thái hậu cá hai bà ngang hàng hành lễ.

Chỉ tại Từ An làm mất mặt mình trước triều đình, Từ Hi đâm oán giận đến xương tuỷ. Sau đó Lý Liên Anh lại điều tra ra rằng chuyện làm mất mặt này có chủ trương từ trước của Từ An và Cung thân vương, Từ Hi lại càng hậm hực, quyết thế nào cũng phải trả thù cả hai mới hả.

Lý Liên Anh co tài làm mật thám, cái gì hắn cùng điều tra ra, do đó Tây thái hậu càng sủng ái thêm.

Trong cung lúc này có một tên thái giám có biệt hiệu là Âm Lưu. Lưu thấy Anh quyền thế càng ngày càng lớn, sắp leo cả qua đầu mình cho nên bực dọc vô cùng. Lưu tính tình âm trầm, hành động lại kín đáo, bởi thế người ta mới cho hắn biệt hiệu Âm Lưu.

Khi Liên Anh chưa vào cung, Âm Lưu có thế lực rất lớn. Có Anh, thế lực của Lưu giảm sút nhiều. Y hằn học và quyết khôi phục lại. Lợi dụng nhưng cuộc hầu chuyện Từ Hi, Lưu không quên những lời nói xấu Liên Anh. Câu chuyện có đi có lại, vay trả trả vay ấy đã khiến cho hai bên đâm ra thù oán càng ngày càng chồng chất. Đã có lần Lưu và Anh kéo ra bãi vắng choảng nhau chí chết. Anh vừa trẻ lại vừa to con nên Lưu bị đại bại, tơi bời, thương thế có phần trầm trọng đến mức không thể vào hầu thái hậu, đành phải xin dưỡng thương.

Chính nhờ lúc vắng Lưu này, Anh tấn công Lưu dữ dội. Trước mặt thái hậu, Anh tha hồ nói xấu Lưu, moi hết những chuyện từ đời hồng hoang nào đó của Lưu ra để nói. Tây thái hậu lúc này đang tin dùng Lý Liên Anh nên nghe theo lời Anh, đâm ra chán ghét Âm Lưu. Còn Lưu cũng tự biết thế mình khó địch lại Anh bèn nhờ người đứng ra làm trung gian giảng hoà đôi bên. Anh chỉ sợ Lưu nói toạc ra chuyện đánh nhau hồi nọ trước mặt thái hậu, bởi thế giả tảng chịu hoà, dẹp hết bất bình, nhưng thực ra, hắn càng nói xấu Lưu hơn lúc nào hết. Hắn nói hoài nói mãi, nói riết đến nỗi Tây thái hậu, thiên hẳn về hắn. Thế là bà cho gọi ngay Âm Lưu tới, chửi mắng một phen chẳng còn ra gì.

Âm Lưu biết mình bị Liên Anh hại, bèn cũng mách với thái hậu răng: Lý Liên Anh ỷ quyền ăn hối lộ, tiếng xấu đồn dậy. Ngoài ra, Lưu còn kể thêm nhiều chuyện lỉnh kỉnh kỳ cục khác, vấy cả thanh danh của thái hậu vào nữa.

Thái hậu nổi cơn lôi đình kết án Lưu có ý huỷ báng cung đình, toan giao cho thị vệ chém đầu tức khắc, Âm Lưu hoảng hồn bạt vía, dập đẩu xuống sàn run run tâu:

- Nô tài tội đáng muôn thác! Nô tài chỉ xin cầu Phật gia thương đến nô tài đã ba mươi năm hầu hạ công phu. Buổi đầu ngày nọ, Phật gia đã có lần khen nô tài là một đứa trẻ trung thuận, cái công khuyển mã quả không phải không có. Bởi thế, chi dám mong Phật gia ban ơn cho nô tài một cái chết toàn thây, được thế, nô tài xin đội ơn lắm lắm!

Bọn thái giám, cung nữ đứng hầu hai bên cũng đều quỳ xuống vì Lưu mà xin cầu khẩn thiết. Thấy tình cảnh như vậy, thái hậu bèn thay đổi ý định. Bà cho giam Lưu vào căn nhà nhỏ ở ngoài cửa cung. Việc xong, bà lui vào tẩm cung, ngồi tựa vào thành giường, có thái giám Lý Liên Anh quỳ ngay bên cạnh đấm bóp cho bà.

Tây thái hậu cười bảo Anh:

- Cái thằng cha Lưu đáng ghét thật! Để ta cho hắn một cái chết chưa từng thấy!

Rồi bà bảo cung nữ mang tới chùm chìa khoá, tìm một cái chìa, đưa cho Anh và bảo hắn tới cung Cảnh Nhân mở cửa phòng Địa Tứ toà, lấy về một lọ thuốc bột. Khi Anh mang cái lọ về, bọn cung nữ xúm lại xem, thấy thuốc bên trong màu đỏ chói. Tây thái hậu ra lệnh đổ ra một ít thuốc hoà vào nước đựng trong chén đầy gần tới miệng, sau đó sai người đưa tới cho Âm Lưu. Âm Lưu nhìn chén thuốc cho rằng thái hậu muốn cho mình một cái chết toàn thây, đôi dòng lệ tuôn rơi trên má, uống một hơi cạn sạch. Uống xong Lưu dập đầu tạ ơn.

Tên thái giám mang thuốc tới, đỡ Lưu lên trên giường nằm rồi quay ra khoá cửa lại như cũ, trở về phục chỉ với thái hậu.

Sau giấc ngủ trưa, Tây thái hậu hạ lệnh cho bọn cung nữ tề tựu đông đủ trước tẩm cung của bà.

Lý Liên Anh đích thân hầu hạ đưa Tây thái hậu ra khỏi phòng ngủ. Bọn phi tần bước vội đón rước, Tây thái hậu cười bảo mọi người:

- Bọn mình đi coi cái chưa từng thấy. Nào!

Lý Liên Anh cầm chìa tiến lên trước mở khoá. Cả bốn đi vào Tây thái hậu leo lên ghế ngồi, nhìn lên chiếc giường đặt trong phòng, chỉ thấy trên mặt giường một cái thây co rúm lại thành một đống, như một đứa trẻ con, nằm quay vào trong.

Thái hậu sai người quay mặt thây ra ngoài. Mọi người nhìn kỹ mới thấy rõ cái thây ma bị rút ngắn hẳn lại, da thịt khô đét đi, mặt nhăn nheo, tóp lại như trái táo khô, trông hết sức ghê tởm.

Tây thái hậu chỉ bảo mọi người:

- Đấy là thằng Lưu già đó! Hắn uống thuốc độc cất ở cung Cảnh Nhân, nên sau khi chết thây ma co rúm lại như một thằng bé con đó.

Bọn phi tần thấy cái chết vô cùng kỳ quái, lại được nghe lời giải thích của Thái hậu, cô nào cô nấy hồn vía lên mây, gan mật như vỡ tung hết.

Giữa lúc bọn phi tần bàng hoàng, hoảng hồn. Tây thái hậu nói tiếp:

- Trong cung Cảnh Nhân, liệt tổ ta để lại rất nhiều độc dược vô cùng khủng khiếp. Có thứ uống vào thây nát vụn thành vôi. Có thứ uống vào thây hoá thành nước. Có thứ uống vào thây bốc lên thành khói. Khi có tên thái giám, con cung nữ nào phạm tội, hoàng thượng hoặc hoàng thái hậu đều lấy thuốc độc này thưởng cho nó. Thằng Lưu già cầu xin được chết toàn thây nên ta thưởng cho hắn thuốc gọi là "phản lão hoàn đồng" đó!

Nói đến đây, Tây thái hậu khoái trá, cười lên sằng sặc.

Bà sai Lý Liên Anh đưa thây lão Lưu về nhà hắn. Anh bước tới bên giường, tay cầm lấy cổ Lưu xách lên như xách một đứa bé đem ra khỏi cung, bỏ vào một cái hộp, chỉ vào mặt thây ma của Lưu mà bảo:

- Lão Lưu! Lão Lưu! Người mà cũng có ngày hôm nay ư?

Nói đoạn, Anh bảo một tên tiểu thái giám vác đi.

Thế là từ đó trong cung cấm không còn ai là đối thủ của Liên Anh nữa. Hắn muốn gì thì làm, tung hoành ngang dọc, chỉ nghe lời mỗi một Tây thái hậu mà thôi.

Một hôm, giữa lúc Tây thái hậu ngủ trưa, Lý Liên Anh nhân lúc rảnh lẻn ra ngoài hành lang mé phải dưới điện, đá cầu với một tên thái giám.

Cầu đá đang lúc hứng khoái thì hắn thoáng thấy Từ An thái hậu đem hai cung nữ và một thái giám đang đi từ xa lại Trái cầu vụt bắn tới chân thái hậu. Anh đứng ngay phía trước hành lang, biết rằng Từ An thái hậu sang thăm Từ Hi thái hậu thì phải vòng qua cái cửa tò vò thứ nhì kia rồi mới ra chứ không qua dãy hành lang phía dưới mái điện. Bởi thế hắn tuy thấy thái hậu mà lờ đi, giả bộ không thấy, vẫn thản nhiên cười nói với tên tiểu thái giám.

Từ An thái hậu vốn tính nghiêm chỉnh, thấy có người đá cầu ở hành lang, trong lòng đã có ý khó chịu. Đã thế bà còn nhác thấy Lý Liên Anh đứng đó mà không chịu dập đầu bái kiến thỉnh an, lại còn thản nhiên cười nói như ở chỗ không người. Hằng ngày bà thường nghe chuyện Lý Liên Anh được đặc sủng nên chuyên xu nịnh Tây thái hậu để hống hách, vốn dĩ đã chán ghét, nhưng nể mặt Từ Hi thái hậu nên chẳng muốn nói tới. Nhưng nay thấy hắn quá đáng như vậy, máu hoả của bà bỗng bốc lên hừng hực. Bà lập tức sai tên thái giám đi gọi Lý Liên Anh tới. Hình như hắn chẳng sợ, cứ lững thững bước tới trước mặt bà, đứng sững, chẳng thèm quỳ lạy như kẻ khác.

Từ An thái hậu thấy thế tức quá, quát bảo Anh quỳ xuống.

Một tên thái giám vội vác một cái ghế chạy tới mời Đông thái hậu ngồi. Bà chỉ thẳng vào mặt Anh mắng chửi một phen nên thân, còn bảo:

- Thằng khốn kiếp mất dạy kia! Mi ỷ thế ai mà dám làm tàng quá vậy? Nơi cung đình này không còn chút nào phép tắc lễ nghi nữa sao? Từ khi tiên đế thăng thiên, hoàng đế lại nhỏ tuổi. Ta nể mặt Từ Hi thái hậu không tới tra xét chúng bây, khiến chúng bây hư thân mất nết, trở thành một lũ khốn kiếp, làm giặc ngay trong cung cấm này rồi! Chúng bay tưởng muốn làm gì thì làm, ta không là gì phải không. Để cho chúng bay tự do quá, chúng bay biến thành quỷ, thành yêu, không còn biết sợ trời đất gì nữa. Chúng bay tưởng ta không trị được chúng bay nên chẳng coi ta ra gì phải không? Ta đã nhận di chiếu của tiên đế, bất luận ai ở trong cung này, ta cũng đều có quyền xử trị hết...

Từ An thái hậu càng nói càng tức. Đến lúc lửa giận đã lên tới cực độ, bà quát bảo thị vệ lôi cổ tên thái giám hỗn xược ra chặt đầu tức khắc.

Hồi 152

MỘT ÁN TÌNH TRONG CUNG CẤM

Lúc Từ An thái hậu trách mắng Lý Liên Anh, một số thái giám đứng từ đằng xa, đã hết sức lo lắng cho hắn. Đến khi nghe thái hậu quát truyền thị vệ đem Anh ra chặt đầu thì cả bọn hoảng hồn bạt vía, vội chạy cả lại quỳ mọp xuống đất, lạy lấy lạy để cầu xin bà tha cho. Lý Liên Anh lúc này cũng đã thấy nguy, miệng lắp bắp tâu:

- Mong Phật gia nể mặt Tây cung thái hậu mà tha cho cái mạng chó của nô tài!

Từ An thái hậu vốn người nhân đức hiền hậu, khi thấy cả bọn đều quỳ mọp xuống xin tha, tình cảnh hết sức đáng thương, tự nhiên lòng thấy dịu lại. Đã thế, bà còn nghe Lý Liên Anh nói mong bà nể mặt Tây thái hậu, thì lòng giận quả đã giảm đi đến quá nửa rồi. Bà cũng nghĩ rằng nếu bà giết Lý Liên Anh thì quả có điều bất tiện đối với Tây thái hậu thực.

Thế là chuyện chết chóc tưởng đến nơi ngay, mà rút cục lại chỉ là một cơn gió lốc thổi qua. Giữa lúc đó, mấy tên thị vệ đã từ xa chạy lại. Chúng dập đầu trước thái hậu đợi lệnh.

Bọn thái giám thấy thị vệ đã chực sẵn, chỉ còn chờ một cái vẫy tay là kéo Lý Liên Anh đi, thôi thì anh nào anh nấy xì xụp van lạy đến trợt cả trán, chảy cả máu.

Một phút trôi qua nặng nể nghẹt thở! Người ta thấy Đông thái hậu dịu bớt giọng xuống, dụ bảo bọn thị vệ kéo Anh ra ngoài đánh hai trăm gậy. Lý Liên Anh nghe lời dụ, mừng như cha chết sống lại, vội dập đầu lia lịa tạ ơn thái hậu. Bọn thị vệ bước lẹ tới, kẻ nắm tay, người xốc nách, kéo thốc Anh ra ngoài đánh hai trăm gậy đến chết đi sống lại.

Tuy vậy, Đông thái hậu vẫn chưa hết giận, bà quay lại bảo bọn thái giám:

- Luật lệ của tổ tiên hai trăm năm nay bị cái thằng mất dạy đó làm hỏng hết! Nếu ta không nhìn ngó tới thì biết ăn nói thế nào với Tiên tổ chứ?

Nói đoạn, bà đem theo mấy con cung nữ hầm hầm tới cung của Tây thái hậu. Tây thái hậu lúc này ngủ trưa đã dậy. Bà vào phòng trang điểm nhưng chờ mãi chẳng thấy Lý Liên Anh. Bà lấy làm lạ, định cho người đi gọi thì bỗng có cung nữ báo Đông thái hậu tới.

Từ Hi thái hậu vội chạy ra đón vào. Từ An thái hậu bước vào phòng, mặt hầm hầm, ngồi phịch trên chiếc giao ỷ, nói toạc ngay:

- Thằng Lý Liên Anh bất quá chỉ là một tên thái giám chứ là cái gì mà định phá hết cả luật lệ của tổ tông. Hắn có tài thì để hầu hạ chủ hắn thôi chứ! Luật lệ của Tiên tổ nhà này phải để đó, không được phá phách. Nếu hắn còn lếu láo ngang ngược thì đừng có trách. Hắn là một tên nô tài của muội, đem so sánh với tên nô tài của tôi đây có khác chi? Ấy thế mà trong con mắt của hắn, hắn chỉ thấy có muội chứ không thấy có tôi. Hắn thấy tôi mà như thấy bọn phi tần nào khác, chằng thèm biết quỳ lậy là gì! Xem ra càng ngày hắn càng lộng hành, ngang ngược chẳng sợ ai! Tôi đã từng được nghe bên ngoài có kẻ đã bợ đỡ hắn hết mức, gọi hắn là cửu thiên tuế! Đấy! Muội muội thử xem một tên thái giám làm gì mà thanh thế to lớn đến khủng khiếp như vậy? Thế nào rồi đây hắn cũng gây ra nhiều chuyện tai vạ tiếng tăm như tên hoạn quan Nguỵ Trung Hiền thuở nọ cho mà xem! Lúc đó thử hỏi bọn ta còn mặt mũi nào nhìn thấy Tiên tổ dưới suối vàng.

Từ An thái hậu càng nói càng tức. Tiếng bà càng về sau càng lớn, càng nhát gừng. Từ Hi thái hậu nghe những lời giận tức của Từ An thái hậu, cho rằng bà đang dùng lời lẽ để chửi mình, mắng mỏ mình bất giác cũng nổi sùng lên, cất tiếng thẽo thọt nói:

- Lý Liên Anh chỉ là đứa nô tài! Phải rồi! Nếu tỷ tỷ muốn băm hắn ra thì cứ băm, muốn chém thì cứ chém! Tôi quyết chẳng bao giờ bao bọc che chở gì cho hắn đâu! Nghe qua giọng của tỷ tỷ tôi thấy như tỷ tỷ có ý oán giận tôi lắm, cho rằng chỉ tại tôi sủng dụng hắn quá, để đến nỗi hắn lếu láo xấc xược. Tỷ tỷ nghĩ thế là lầm! Còn lời đồn đại ở bên ngoài thì nghe làm sao được?

Từ An thái hậu nghe xong lại nói:

- Thằng khốn kiếp ấy lại là nô tài của muội, người ngoài muốn can thiệp có được bao nhiêu! Muội đã thích hắn, tôi đâu còn phải nói nhiều làm gì! Có điều tên tuổi của muội, thằng khốn kiếp ấy đã bôi nhọ hết rồi! Thật đáng tiếc!

Từ Hi thái hậu nghe Từ An thái hậu nói, càng ngày càng ghê khiếp, tức đến điên lên, nhưng không biết làm sao hơn, giơ cao ống tay áo đấm gió đến phịch một cái, y như muốn đấm vào mặt Từ An, rồi quay ngoắt ra sau bỏ đi, chẳng nói thêm một lời nào nữa. Từ An thái hậu thấy vậy càng tức hơn, cũng quay trở ra chẳng nửa lời cáo từ, bước những bước thật dài đi luôn. Thế là từ đó giữa hai bà Thái hậu Đông và Tây, hố mâu thuẫn càng ngày càng sâu. Hai bà lúc này chẳng khác gì mặt trăng với mặt trời.

Tây thái hậu thời thường vài bữa truyền chiếu gọi Nội vụ phủ đại thần là Vinh Lộc vào cung để bàn tính biện pháp khống chế Đông thái hậu. Lộc giơ thẳng hai cánh tay lên trời rồi đấm phịch một cái vào ngực mình, nói với Tây thái hậu:

- Xin Thái hậu yên tâm. Nô tài ở bên ngoài đã liên lạc rất nhiều đại thần rồi, họ đều thề quyết trung với thái hậu. Ví thử Đông thái hậu có ý chỉ đưa xuống, bọn nô tài tôi đều quyết không vâng chiếu.

Tây thái hậu nghe Lộc nói thế trong lòng sung sướng muôn vàn, liền khen Lộc là trung thần. Rồi cũng từ hôm lấy được lòng thái hậu đó, Lộc cứ lúc rảnh lại chạy vào cung, nhàn đàm với Tây thái hậu.

Vinh Lộc vốn tính quỷ quyệt ranh mãnh. Lộc bỏ tiền vàng ngọc ra ngấm ngầm mua chuộc hết bọn cung nữ thái giám. Lộc chỉ cần có mỗi việc là bọn chúng sẽ nói tốt cho mình trước mặt Tây thái hậu.

Trong số cung nhân này, Lý Liên Anh được coi như người số một ăn ý hợp lòng với Lộc. Hai người kết làm anh em.

Một hôm Anh bảo Lộc:

- Trong cung có một vị Ý phi. Nàng ta vốn là phi tử của Đồng Trị hoàng đế. Nàng khéo nói vô cùng, suốt ngày hầu hạ bên cạnh thái hậu, rất được lòng của bà. Tại sao ngươi không tìm cách liên lạc với nàng.

Vinh Lộc nói:

- Ừ, mỗi khi tôi yết kiến thái hậu đều thấy một nàng phi trang điểm rất duyên dáng, đi một đôi giày cao gót. Thái hậu hay nói chuyện với nàng. Trước mặt thái hậu tôi đâu đám nhìn kỹ. Không biết có phải nàng đó không?

Anh gật đầu bảo Lộc:

- Đúng nàng đấy! Nàng thực là một người đẹp, đôi má hồng hây hây, nước da trắng như trứng gà bóc. Nàng năm nay mới có mười tám. Thử một phen đi. Nếu chiếm được lòng nàng thì còn bằng vạn tôi ấy.

Lộc nghe xong nhớ chuyện trong lòng.

Qua ngày hôm sau, Lộc ra phố vào tiệm mua nào gương Tư Mã, nào hộp phấn, nào khăn tay khăn lông, toàn đồ nước ngoài hết sức đẹp và hết sức khéo đưa vào cung kính biếu thái hậu.

Tây thái hậu lúc này tuy tuổi đã cao nhưng vẫn thích những đồ quý, của lạ. Nắm được tâm lý bà, Lộc cứ mỗi lần vào cung là có đồ này, đồ nọ hiếu kính. Đồ hiếu kính của Lộc có đủ thử có khi đồ thêu, có khi có đồ chơi v.v... Trong số đó có một chiếc tàu thuỷ nhỏ bằng thép chạy dầu hôi của bọn Tây dương. Môi lần muốn cho nó chạy, cứ việc đổ dầu vào đất là nó phạch phạch chạy trên mặt nước. Bọn cung nhân thấy nó chạy, khoái chí vỗ tay cười nói, lại được một dịp tốt để nịnh thái hậu. Ý phi tuổi còn nhỏ, tính còn con nít thấy thế lại còn khoái nữa. Có một hôm, Lộc vào tâu Thái hậu xong đi ra, vừa mới tới cửa tò vò thì nghe có tiếng người gọi: "Lục gia! Lục gia!". Lộc vội quay đầu lại thì chẳng phải ai khác mà chính là Ý phi. Lộc nét mặt bỗng tươi lên như đoá hoa cúc, bước vội tới trước mặt Ý phi, bò sát xuống đất, dập đầu miệng duyên dáng thưa:

- Quý phi gọi nô tài có điều gì chỉ bảo?

Ý phi giữa lúc thảng thốt bất ngờ, tránh không kịp, chỉ còn cách lấy khăn tay thêu che kín đôi môi hồng, mỉm cười đáp lại:

- Lục gia đứng lên đi! Lục gia muốn giết tôi đó sao? Khi nãy Lão Phật gia quên mất mấy việc, xin mời Lục gia quay trở lại ngay cho Phật gia dặn thêm.

Lộc nghe nói lệnh của thái hậu, vội đứng dậy chạy vào phòng thái hậu. Xong việc dặn dò của Thái hậu, Lộc quay ra, khi đến cửa tò vò vẫn thấy Ý phi đứng đó. Lộc bước tới cạnh Ý phi khẽ nói:

- Nô tài có chút vật mọn muốn hiếu kính quý phi, chỉ khổ cái không có cơ hội phụng hiến.

Vừa nói Lộc vừa quay mắt nhìn quanh. May thay có một tên tiểu thái giám đang từ dãy hành lang bước tới. Lộc liền bảo tên tiểu thái giám chạy đi mời Tổng quản lại.

Để cho tên tiểu thái giám quay gót ra đi, Lộc mới bắt đầu kể câu chuyện bằng nào phong cảnh, nào chợ búa phố phường bên ngoài. Ý phi vào cung từ hồi còn nhỏ tuổi, âm thầm nơi đất cấm đã bao năm, nay nghe Lộc kể toàn chuyện kỳ lạ thích thú bên ngoài, vừa ngạc nhiên, vừa thèm thuồng. Lộc còn khéo đem những chuyện ngoài đời, tuy vụn vặt nhưng tươi vui, kể cho nàng nghe. Lộc cũng nói cả những tiệm ăn nào bán đồ cao lương mỹ vị ngon nhất, những quán nào bán gấm vóc tơ lụa bảnh nhất, những hàng nào bán đồ tạp hoá đẹp quý nhất.

Lộc vừa kể vừa vui vừa mùi mẫn đến nỗi Ý phi phải cười lên khanh khách. Nàng bảo Lộc:

- Lục gia lúc nào mua cho tôi chiếc tàu thuỷ nhỏ để xem chơi cho vui nhé!

Lộc nghe phán vội lên tiếng sung sướng:

- Có chứ! Có chứ!

Giữa lúc câu chuyện còn nhiều điều hứa hẹn thì Tổng quản Lý Liên Anh đã bước tới sau lưng, còn có thêm, bốn tên tiểu thái giám tay đứa nào cung bưng một vài gói đồ, gói thì to, gói thì nhỏ. Anh chắp tay thỉnh an, rồi đứng ngay người lại chỉ những gói đồ miệng nói:

- Đấy những gói đồ Lục gia cho đưa tới hiếu kính nương nương đó Lục gia có cái tâm quý ấy đã từ lâu, nhưng tiếc rằng lần nào vào cung cũng đều không có dịp gặp mặt nương nương để thưa chuyện. Bởi thế những đồ mang nào hết lần này qua lần khác đều đem chất tại nhà nô tài. Hôm nay may thay được gặp nương nương, Lục gia mới bảo đem tới để hiếu kính. Rất mong nương nương vui lòng nhận cho.

Ý phi nghe Lý Liên Anh, kể dài dòng chuyện tình nghĩa, đôi mắt nhìn chằm chặp Lục gia, lộ hẳn vẻ quyến luyến vui sướng lẫn cảm kích nữa. Vinh Lộc tiếp theo cất tiếng:

- Xin quý phi ban cho một lời để đưa những đồ này đi.

Ý phi tự nhủ nếu đưa về nhà mình để bọn cung nữ trông thấy thì thế nào cũng điều ong tiếng ve đồn đại. Chi bằng đưa tới cả cung thái hậu cất trong thư phòng, đợi tới đêm khuya hãy bảo con cung nữ tâm phúc lén chuyển về phòng mình thì quyết chẳng còn chi đáng ngại. Nghĩ như vậy Ý phi mới vẫy tay gọi bốn tên tiểu thái giám đem gói đồ theo mình qua cửa tò vò vào cung Tây thái hậu.

Vinh Lộc và Lý Liên Anh nhất tề cáo từ quay ra. Anh giơ tay vỗ mạnh vào lưng Lộc, đắc ý cười nói:

- Cá đã cắn câu rồi! Xin mời Lục gia cứ việc giật, giật cho khéo đấy nhé! Không khéo lỡ giật hụt, chớ trách bọn tôi nghe!

Qua ngày hôm sau Lộc cố ý vào cung sớm hơn một chút.

Quả nhiên khi vào tới tẩm cung nghe ngóng, Lộc được biết Thái hậu còn ngủ chưa dậy. Một con cung nữ chạy ra chỉ căn phòng gần đó bảo nhỏ Lộc:

- Xin mời Lục gia qua phòng đằng kia ngồi đợi một lát!

Nói đoạn con cung nữ móc trong túi ra một chùm chìa khoá để mở cửa.

Vinh Lộc bước vào trong, đưa mắt nhìn một vòng thấy trên tường có treo đầy thi hoạ ngọc ngà. Trên cái bàn thập cẩm bày biện thứ tự nào bồn chi, nào chậu lan toả ra một mùi hương thơm phưng phức.

Chiếc tàu thuỷ nhỏ chính Lộc mua hiếu kính cung đã thấy để nơi đây. Mặt đất trải một chiếc thảm dày, bước trên êm không nghe một tiếng động. Tựa sát vào cửa sổ là một chiếc án thư phía trên có đủ văn phong tứ bảo, đều làm bằng ngọc ngà, tiện dũa rất tinh vi. Ngoài ra còn có cái đồng hồ báo thức không to lắm mà cũng không nhỏ lắm để cả ở đấy. Vinh Lộc lẳng lặng ngồi xuống ghế trước án thư, tai nghe tiếng tích tắc của cái đồng hồ rõ mồn một. Lộc nhìn lên vách ngắm bức thư hoạ (tranh vẽ chữ). Bỗng Lộc nghe tiếng sột soạt của quần áo vang lên theo bước chân nhè nhẹ trong phòng lặng. Lộc vội quay lại nhìn, thì ra là Ý phi tươi như hoa, điểm thêm một nụ cười tình tứ, thầm thì bảo Lộc:

- Lục gia vì sao cho tôi quá nhiều đồ như vậy. Khiến lòng tôi lúc nào cũng thắc thỏm không quên. Không nhận thì sợ Lục gia giận. Mà nhận thì chẳng biết cách nào báo đáp. Tôi nghĩ chả còn cách gì, chỉ còn cách tạ ơn Lục gia mà thôi!

Nói đoạn, Ý phi che miệng cười tình, rồi ngồi xuống chiếc giường đặt nằm dài bên cạnh. Lộc đến lúc này đã hiểu ý người đẹp, nhân đà ngồi luôn xuống cạnh giường, kề sát đôi vai với Ý phi.

Biết Ý phi thích nghe chuyện linh tinh bên ngoài, Lộc lại giở cái chương trình cũ ra, nhưng lần này, vì đã sửa soạn từ lâu, kể toàn những chuyện tình tứ thú vị. Ý phi càng nghe càng khoái. Càng khoái càng cười. Có khi nàng cười lên khanh khách. Mắt nàng lóng lánh như dao cau, tình nàng bốc lên ngùn ngụt như lửa đỏ.

Lộc càng thấy Ý phi khoái thích, càng trổ hết tài nịnh ra. Lộc cảm thấy lòng vui sướng như đêm động phòng hoa chúc. Ý phi kéo dài đời cô quạnh trong thâm cung đã quá lâu lúc này tự nhiên quên hết mình đang ở đâu, ở trong hoàn cảnh nào. Thế rồi chẳng ai bảo ai, nàng và Lộc càng ngồi càng xích gần đến quá sát...

Giữa lúc đôi người đang say sưa mùi mẫn, bỗng con cung nữ khi nãy vào báo động:

- Lão Phật gia đã dậy rồi đó?

Ý phi giật mình, vội đẩy nhẹ Lộc ra xa, hối hả chạy lên tâm cung thái hậu. Một lát sau, Vinh Lộc cũng được lệnh tuyên triệu.

Lộc tâu bày mọi, việc với Thái hậu. Xong đâu đấy, lại cũng Ý phi đưa Lộc ra cửa tò vò như mọi lần trước. Nhìn quanh không thấy một ai, Ý phi lấy trong bọc ra một cái túi thêu bông sen đút lẹ vào ống tay áo Lộc và bảo:

- Túi này tự tay tôi thêu đó! Lục gia hãy giữ mà dùng.

Từ ngày đó, Lộc và Ý phi mượn căn phòng sách của Thái hậu để làm chỗ họp mặt. Tình càng đượm, duyên càng thắm, lửa càng nồng...

Ở đời có cái gì giữ được bí mật mãi! Câu chuyện "họp mặt" của Ý phi và Lộc đã trở thành một diễm tình sử đồn khắp cung sâu! Thái giám, cung nữ, đến cả lũ oắt cung nữ, oắt thái giám, ai cũng biết chuyện! Tiếng đồn càng đi xa, nghe càng ly kỳ, nhiều khi đẹp như mộng, nhưng cũng nhiều lúc khiếp như quỷ. Tiếng đồn bỗng một hôm lọt vào tai một nàng gọi là Thất cách cách (nàng Bảy).

Thất cách cách là cháu gái Từ An thái hậu, gọi hậu bằng bác gái ruột. Nàng có nhan sắc đổ nước nghiêng thành, mặt tươi như hoa, người lả lướt, như cành liễu tha thướt bên hồ.

Trong cung hồi đó có hai người đẹp: một là Ý phi, còn một nữa là Thất cách cách. Cả hai nàng đều hầu hạ cạnh Từ Hi thái hậu.

Thất cách cách tuy là người bên phe Từ An thái hậu nhưng nàng lại chạy sang cung Từ Hi thái hậu chơi. Từ Hi thái hậu thấy nàng xinh đẹp lại nhanh nhẹn, hoạt bát, lấy làm thích thường hay giữ lại bên mình, lúc thì thưởng cho quần áo, lúc thì cho ăn uống. Nói đến thông minh khôn khéo, thì Thất cách cách ắt phải chiếm được một chỗ ngồi danh dự! Mặt ngoài nàng luôn luôn tỏ ra kính quý Từ Hi thái hậu, nhưng chẳng bao giờ để cho bà lợi dụng. Từ Hi thái hậu có ý muốn giữ nàng luôn bên cạnh mình, nhưng nàng chối khéo bằng những lời lẽ êm ái dịu dàng, mà vẫn quay về với Từ An, nhưng nàng đều nói là không biết gì!

Từ Hi thái hậu vốn biết nàng và Từ An thái hậu có tình thân gia đình nhưng bà vẫn thích tài đùa giỡn của nàng, vẫn thường gọi về cung mình để có người cười nói, vui đùa bên cạnh. Người đẹp trong thiên hạ, tính vốn hay ghen, hay ghét.

Thất cách cách cậy mình tài sắc hơn người, thường tự phụ trong cung mình là nhất về sắc, chẳng thua ai về tài: ấy thế còn có kẻ dám đem Ý phi so sánh với mình, cho rằng Ý phi với mình là một cặp mỹ nhân không ai hơn ai! Làm sao mà nàng chịu được nỗi tự ái bị tổn thương. Lòng ghen tức đã đến lúc không kiềm chế nổi, Thất cách cách tìm mọi cách nói xấu Ý phi. Nàng chê trách Ý phi sao không biết tỵ hiềm trai gái, Vinh Lộc vào cung lần nào cũng đều do Ý phi đưa đón. Hai người dùng thư phòng của Thái hậu làm chỗ hẹn tình, dâm ô không còn e dè gì hết. Thậm chí có những lúc trò chuyện với thái hậu, họ cũng cười đùa mặc sức. Những cử chỉ hành động phóng đãng ấy thử hỏi làm sao qua mắt được thái hậu. Song cả hai người đều là những tay chân tâm phúc của bà, chẳng lẽ lại đem ra mắng trách? Do đó, cặp gian phu dâm phụ mới có đất sống mà tự do tình tự trong cung cấm!

Song, đối với Thất cách cách thì đây lại là một cơ hội ngàn năm một thuở để hạ địch thủ, tìm cho kỳ được những chỗ tội lỗi nhất của địch thủ để sửa soạn một cuộc thanh toán tận gốc.

Hôm đó, Thất cách cách vâng lệnh Đông thái hậu tới cung Tây thái hậu để xin tập sớ của Tổng đốc Lưỡng Quảng đem về cho bà xem. Khi qua bên cung Tây, trời vẫn còn quá sớm, thái hậu chưa dậy. Trong lúc chờ đợi nàng nẩy ra ý định vào phòng Ý phi chuyện vãn. Vừa tới cửa phòng, nàng đã bị tên tiểu thái giám gác cửa chạy vội lại xua tay ngăn lại. Thất cách cách lấy làm lạ, chẳng rõ cơ sự ra sao nên bất chấp, cứ đẩy cửa bước vào. Tên tiểu thái giám hoảng hồn bạt vía, chẳng còn cách nào hơn, đành đứng đàng sau thái giám hô lớn lên:

- Thất cách cách vào đó! Thất cách cách vào đó!

Ý phi lúc đó đang ở trong phòng, nghe tiếng hô, vội chạy ra đón. Giữa lúc đó Thất cách cách vẳng nghe tiếng đàn ông xì xào bên trong, nàng nhìn Ý phi thấy nàng đôi má đỏ ửng, mái tóc có nhiều chỗ rối lung tung. Khi nói chuyện với Thất cách cách, nàng thở hổn hển, như có chuyện gì mệt mỏi vừa qua.

Thất cách cách thấy vậy sinh nghi, hỏi Ý phi ngay một câu bắt nọn:

- Cô nói chuyện với ai trong phòng đó?

Ý phi biết chuyện đã vỡ lở, khó lòng chống chế, bèn đáp:

- Lục gia ngồi trong đấy!

Nói đoạn, Ý phi quay mặt vào trong gọi lớn:

- Lục gia mau ra đây! Thất cách cách muốn gặp!

Vinh Lộc nghe gọi, nhờ cơ hội đó, đáp lên một tiếng rồi vội vã bước ra. Lộc chắp tay chào Thất cách cách thỉnh an, miệng cố nở cho bằng được một nụ cười duyên dáng tình tứ:

- Thất cách cách tới có việc gì đấy?

Thất cách cách nghe hỏi, nghẹo cổ, nguýt một cái thật dài. bảo Lộc:

- Việc gì? Chốn này phải chăng chỉ mình ông được quyền tới, còn tôi thì không hẳn? Đến chốn này, tất nhiên phải có chuyện rồi. Dám hỏi Lộc gia có việc gì mà tới đây vậy?

Thất cách cách hỏi dồn một hơi, khiến Vinh Lộc một câu cũng không mở mồm ra đáp được. Lộc chỉ còn một cách chào thua, cất tiếng nói như van lạy cầu xin:

- Hảo cách cách! Tôi quả xin chịu thua! Tha thứ cho tôi!

Lộc nói xong, mặt thộn ra, trông hết sức chán. Giờ phút trôi qua nặng nề! Để tránh được cái ngượng ngập của mình, Lộc lại lên tiếng hỏi:

- Mấy hôm nay, Hảo cách cách đi chơi đâu. Lão Phật gia có chuyện chi dạy bảo... Thập sát hải hiện đang kéo hội vui lắm, Hảo cách cách đã đi chơi đó chưa?

Lộc đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi như vây, Lộc hỏi mà không cần đáp. Lộc cũng cố thêm những câu đãi bôi như:

- Vài hôm nữa rảnh, bọn tôi xin theo hầu Hảo cách cách đi du ngoạn một phen có được không ạ?

Nghe đã quá rườm tai, nhìn lại cái mặt Lộc càng chán, Thất cách cách chẳng thèm để ý tới Vinh Lộc nữa, mà quay sang nói chuyện với Ý phi.

Một lát sau, một tên tiểu thái giám chạy sang báo Tây thái hậu đã dậy. Thất cách cách vội bỏ Ý phi và Vinh Lộc, theo tên tiểu thái giám vào bệ kiến. Nhân thấy vắng người, Thất cách cách mới đem chuyện Vinh Lộc đùa bỡn với ý phi trong phòng, nói lại cho thái hậu nghe...

Chuyện tư tình bê bối dâm ô giữa Lộc và Y Phi, thực ra Tây thái hậu đã biết từ lâu. Nay nghe Thất cách cách nói ra, bà tự cảm thấy hết sức phiền cho mình. Bà nghi rằng Thất cách cách vốn là cháu gái của Đông thái hậu, còn Vinh Lộc lại là cháu trai của bà. Lỡ chẳng may việc này vỡ lở ra, đến tai Đông thái hậu thì thực chẳng ra sao. Bởi thế, bà vội kéo Thất cách cách lại bên mình, thì thào bảo nhỏ:

- Con yêu của ta! Quân tội lỗi chẳng may đã bị con bắt gặp. Con nên nghĩ ta với nương nương bên đó đều là người cùng một nhà cả, hãy tha thứ cho chúng. Hẳn chúng không dám quên ơn con đâu!

Nói đoạn Tây thái hậu liền giơ tay rút một cây trâm ngọc giắt trên mái tóc của mình cắm vào mái tóc của Thất cách cách. Thất cách cách vội quỳ xuống tạ ơn. Giữa lúc Thất cách cách tạ ơn xong đứng dậy thì Ý phi bước vào. Tây thái hậu bảo Ý phi thỉnh an Thất cách cách, Ý phi được lệnh, chẳng hiểu ý nghĩa ra sao. Nhưng vì là lệnh của Thái hậu, đâu dám trái, nàng đành phải làm theo! Thất cách cách đứng lên xin phép trở về, lấy cớ sợ Đông thái hậu chờ lâu. Chờ cho Thất cách cách đi xa rồi, Tây thái hậu sa sầm nét mặt, hỏi Ý phi:

- Tạ bảo mi phải thỉnh an Thất cách cách, mi có biết ta có dụng ý gì không?

Ý phi nghe nói, chết lạnh đi nửa người, không dám nói một tiếng nào, vội bò mọp xuống đất dập đầu lạy. Tây thái hậu truyền gọi Vinh Lộc vào cung.

Vinh Lộc đương nhiên có tật giật mình. Y chờ đợi một hậu quả tai hại sắp tới bởi tên thái giám tay chân sớm đã phi báo cho Lộc biết Tây thái hậu đang giận lắm. Rồi đến khi được lệnh tuyên triệu, Lộc sợ quá, mồ hôi lạnh toát ra như tắm. Lộc vội chày lên phòng Thái hậu, thấy Ý phi đang quỳ mọp ở đó, cúng vội vàng quỳ xuống ngay bên cạnh nàng.

Thái hậu cất giọng nghiêm khắc, dằn từng tiếng bảo Lộc:

- Tao nghĩ chúng bay là hai đứa trẻ thông minh, cho nên uỷ thác việc này việc nọ cho chúng bay, cho phép chúng bay được rộng rãi hơn người. Ai ngờ vì thế chúng bay đâm ta khinh nhờn, giấu ta làm những việc không còn biết trời đất gì cả. Nay câu chuyện vỡ lở rồi, con Thất cách cách nó đã biết hết. Về cung, thế nào hắn cũng mách lại cho Đông thái hậu hay. Ngày mai, chắc chắn là có một bản tấu chương đưa lên. Lúc đó, ta cũng khó rửa mặt cho chính ta, chứ đừng nói tới cưu mang tụi bay, tụi bay sửa soạn về rửa cổ lau gáy để lĩnh lấy một nhát dao...

Tây thái hậu nói xong, Ý phi và Vinh Lộc đã thấy đầu treo sợi tóc rồi! Cả hai người chỉ còn nước cầu xin Thái hậu tha thứ và cứu giúp. Lộc lại nói:

- Nô tài ngồi trong phòng quý phi thực không dám làm điều bậy bạ, tội lỗi! Chỉ vì lúc vào cung, nô tài được tin Lão Phật gia còn đang yên giấc, chưa dậy, nên mới rẽ vào phòng Ý phi. Nô tài biết rằng quý phi vốn được Lão Phât gia sủng ái thượng hầu hạ sớm hôm bên cạnh, bởi thế ghé qua để hỏi thăm tin tức của Lão Phật gia đó thôi. Hơn nữa, nô tài cũng muốn nhân dịp tới thỉnh an quý phi. Điều đáng trách của nô tài là ở chỗ không biết tỵ hiềm, tội thực muôn thác. Còn nếu nói nô tài có điều ám muội thì giữa thanh thiên bạch nhật này nô tài đâu có dám, muôn muôn lần không dám. Nô tài, nếu có chết, thực chẳng đáng tiếc chút nào! Có tiếc chăng chỉ là tiếc cho quý phi bị liên luỵ, mất hết thanh danh, khiến nô tài không còn có cách gì mà làm người được nữa. Chuyện này chỉ còn mong cầu Lão Phật gia cứu giúp cho mà thôi.

Nói đoạn, Lộc lại dập đầu xuống đất lia lịa, Tây thái hậu nghe Lộc kể lể, thề thất một thôi một hồi, cười nhạt bảo:

- Tụi bay khỏi cẩn nói dơi nói cuội trước mặt tao. Tao cũng chẳng có thì giờ để can thiệp vào chuyện của tụi bay. Việc đã làm thì ráng chịu lấy. Còn nói năng gì nữa Ngày mai, nếu may mà Đông thái hậu bỏ qua, không nói như ném phân vào mặt tao, bọn vương công đại thần không có một lá sớ nào như đâm vào mắt tao, sẽ tha cho tụi bay. Trái lại, chuyện nổ ra, tai tiếng tùm lum lên thì đó âu cũng là số kiếp của tụi bay rồi! Đã từ lâu, Đông thái hậu ngày ngày rình rập, mong chộp được chỗ sơ hở của tao, hoàng thượng cũng xa lánh tao, rất ít khi gần tao. Bản thân tao còn khó yên, thử hỏi còn bao bọc cho ai được nữa chứ? Thôi mặc! Chuyện của tụi bay, tụi bay lo liệu lấy! Chém thì cứ chém, lột da thì cứ lột da, chẳng liên can gì đến ta.

Ý phi nghe một tràng dài lời chửi mắng, mặt xám ngoét lại, mắt rưng rưng lệ. Tây thái hậu quát lên một tiếng bảo hai người:

- Đứng dậy!

Ý phi và Vinh Lộc lại dập đầu mấy lần nữa, lạy tạ nữa rồi lui ra khỏi phòng. Khi bước tới một khúc quẹo vắng người, Ý phi kéo tay Vinh Lộc khóc lóc thảm thiết. Lộc tìm lời ngon ngọt an ủi, rồi như sực nhớ ra một điều, vội bảo Ý phi:

- Để tỏi chạy tới bàn tính với Lý tổng quân! Quyết không để cho Quý phi liên luỵ đâu mà ngại!

Quả nhiên, đêm đó Lộc lóc cóc chạy tới nhà Lý Liên Anh thuật lại câu chuyện, rồi tha thiết vấn kế. Đã nhiều lần Anh bị Đông thái hậu khiển trách, oán hận chứa chất trong lòng đã quá đầy! Anh nghe Lộc nói, giơ tay vỗ phịch một cái vào ngực nói:

- Lục gia yên tâm. Chuyện này không nổ ra thì thôi. Trái lại, nếu nổ lớn, bọn ta quyết không chịu khoanh tay đợi số. Ta chỉ cần tung ra một độc kế là cả bọn thù nọ vào rọ hết. Lúc đó, chúng mới biết tay ta.

Vinh Lộc nghe xong có đôi chút yên lòng, liền cáo từ ra về. Đêm đó, Lộc trằn trọc trên giường, không sao ngủ được, cảm thấy mạng mình chẳng đáng giá là bao. Sáng hôm sau, Lộc khăn đóng áo dài, vội vã chạy vào cung nghe ngóng tình hình. Tây thái hậu dự triều sớm trở về cung.

Bà cho gọi Lộc vào trong. Lộc biết chuyện vỡ, có điều chẳng lành rồi, đành mặt dạn mày dày, bước vào phòng quỳ trước thái hậu, dập đầu. Tây thái hậu, mặt hầm hầm tỏ vẻ giận dỗi lắm, ném một tập hồ sơ vào mặt Lộc bảo xem đi. Lộc cầm lấy xem, mới biết đó là tập sớ của ông Đồng Hoà, trong đó tâu việc dâm ô cung đình của Vinh Lộc và Ý phi, xin lưỡng cung Thái hậu giao ngay cho nội vụ phủ xét xử chính hình. Ngoài ra còn thêm một điều: Từ Hy thái hậu kiêu sa phóng túng, bảo hộ riêng tư người thân thích của mình làm bậy.

Vinh Lộc mắt thì đọc tập sớ, tai thì nghe tiếng Tây thái hậu quát:

- Lũ nghiệt súc! Tụi bay làm chuyện đồi bại, kéo cả tao vào trong, khiến sư phó cười chê cả tao. Tụi bay cút ngay ra ngoài kia mà chết đi cho rảnh mắt tao, còn đợi gì?

Lời nói chưa hết, cung nữ đã vội vào báo có Đông thái hậu tới. Tây thái hậu vội đứng dậy đón vào.

Đông thái hậu mặt cũng hầm hầm, tỏ ra tức giận đến cực độ bước vội vào phòng. Tây thái hậu thấy Đông thái hậu tự nhiên có vẻ ngượng nghịu. Đông thái hậu vừa đặt người ngồi xuống ghế đã cất tiếng nói:

- Tờ sớ của ông sư phó hôm nay, muội muội đã đọc chưa?

Tây thái hậu còn chưa trả lời thi một cung nữ chạy vội vào báo Ý quý phi đã thắt cổ chết trong cung. Được tin này Vinh Lộc thấy đau nhói một cái trong ngực, mắt tóe hoa cà, chân như mềm ra, muốn khuỵu xuống...

Hồi 153

GIẾT ĐÔNG HẬU, ĐUỔI CUNG VƯƠNG

Lại nói Ý phi bị Tây thái hậu mắng chửi, trong lòng đã thấy sợ lắm. Nàng tin rằng đại hoạ sẽ tới với mình. Đêm đó nàng không sao ngủ được, bối rối lo âu suốt cả năm canh. Sáng sớm tinh sương, nàng đã vội dậy, lo đi trang điểm.

Nàng không thấy báo tin tức gì lạ, bèn thẳng bước tới cung Nhân Thọ để hầu hạ Tây thái hậu khi bà dậy. Tây thái hậu thấy nàng bước tới, chẳng nói lời nào. Ý phi đã thấy yên tâm.

Nàng đợi cho thái hậu toạ triều, lúc đó mới trở về phòng mình nghỉ ngơi. Trước khi về, nàng đã cẩn thận để lại một con cung nữ ở cung thái hậu để nghe ngóng tình hình.

Mãi đến khi Tây thái hậu bãi triều về cung, xem tập sớ của ông Đồng Hoà, cho gọi Vinh Lộc vào cung mắng chửi một phen thậm tệ, con cung nữ của Ý phi nghe rõ mọi chuyện, vội chạy về kể lại cho nàng biết. Ý phi tự nhủ tội này khó thoát nếu để bị lôi tới Tôn nhân phủ thẩm vấn thì còn mặt mũi nào, chi bằng chết trước đi là hơn. Nghĩ vậy, nàng bèn cho mấy con cung nữ ra khỏi phòng hết rồi đóng cửa lại. Nàng quỳ xuống đất, nhìn thẳng lên không lạy mấy lạy, cởi chiếc dây lưng, treo cổ lên bạo cửa tự tử chết.

Từ Hy thái hậu bị Từ An giận trách, lòng đầy tức giận.

Bà nghe tin Ý phi đã chết, liền bảo:

- Tụi chúng tự thân tác nghiệt, ta cũng chẳng làm gì được hơn...

Miệng vừa nói vừa chỉ mặt Vinh Lộc, bà quay sang nói với Tử An thái hậu:

- Hắn tuy là cháu ruột tôi, nhưng hắn bị ông sư phó tham tấu, tôi cũng chẳng che chở được cho hắn. Xin tỷ tỷ đem hắn đi, thẩm vấn nghiêm ngặt, tội đáng giết thì cứ giết, tôi quyết chẳng dám nói chi nửa lời! Tôi làm đến thái hậu, chỉ tại tên súc sinh này mà đến nỗi mang tiếng với bọn thần tử. Chúng cho rằng tôi che chở tư thân, mặt mũi tôi coi như không còn gì nữa!

Nói tới đây, Tây thái hậu cầm không nổi nước mắt. Từ An thái hậu bèn truyền gọi Tổng quản tới, đem tập sớ ông sư phó và cả Vinh Lộc sang bên hình bộ để thẩm vấn cho rõ ràng. Viên Hình bộ đại thần biết Lộc là cháu ruột của Tây thái hậu, bố bảo cũng không dám phết trọng tội. Y chi viết có bốn chữ "Vĩnh bất tự dụng" (không dùng vĩnh viễn) vào tập sớ rồi gửi lên cho Lưỡng cung thái hậu. Tây thái hậu muốn tránh hiềm nghi, để mặc Đông thái hậu phê hai chữ "Y nguyên" (chuẩn y lời đề nghị). Thế là Vinh Lộc bị cách tuột hết chức tước, quanh quẩn ở nhà xua gà cho vợ, không được phép lui tới nơi cung cấm để thăm hỏi Tây thái hậu nữa.

Từ ngày đó, Tây thái hậu mất hẳn hai tên thủ túc thân tín hầu hạ. Càng cảm thấy cô đơn hiu quạnh, bà càng rầu rĩ. Tâm sự lại không biết nói cùng ai, bà đâm thù Đông thái hậu đến xương tuỷ. Đêm ngày, bà mưu tính với Lý Liên Anh để mong trả hết oán thù.

Một hôm, Tây thái hậu bảo Lý Liên Anh:

- Lâu nay, Đông thái hậu cố ý moi móc những khuyết tật của ta để làm hại ta. Nếu ta không tìm được kế nào giết bà ta để trả hận, thử hỏi ta làm gì còn tự do nữa chứ?

Ý nghĩ của Tây thái hậu thì thế, nhưng ý nghĩ của Đông thái hậu lại khác.

Đông thái hậu cho rằng lâu nay Tây thái hậu bị nhiều vố mất mặt ắt thế nào cũng sửa đổi, đồng thời sẽ cảm ơn ân đức của mình. Bà biết Tây thái hậu mất Ý phi và Vinh Lộc, hoàn cảnh thực cô đơn hiu quạnh. Bởi thế, bà ngày ngày qua chơi nói chuyện, mua vui cho Tây thái hậu. Từ Hy bề ngoài vẫn ngọt ngào tiếp đãi, nhưng thâm tâm chỉ chờ có cơ hội thuận lợi là hạ độc thủ để báo thù.

Ngày thường, Đông thái hậu rất thích ăn quà vặt. Bất cứ đi qua chỗ nào, nếu thấy con cung nữ bưng mâm bánh đi bên cạnh, thế nào bà cũng miệng thì nói chuyện tay thì nhót bánh ăn.

Tây thái hậu biết được thói này, liền nảy sinh độc kế. Ít hôm sau, đúng vào ngày triệu kiến các vị quân cơ đại thần, Từ An thái hậu dậy rất sớm, trái lại Từ Hy lại dậy muộn.

Từ An thái hậu bèn tới Tây cung đợi để cùng đi. Từ Hy vừa trang điểm, vừa trò chuyện với Từ An thái hậu. Bỗng Tây thái hậu nhớ ra là Đông thái hậu chưa ăn sáng, vội gọi bọn cung nữ đem mâm bánh ra cho bà.

Đông thái hậu nhìn mâm bánh, thấy chiếc nào làm cũng sạch sẽ ngon thơm. Có cái mang hình bát tiên, có cái lại làm theo hình con hạc, con hươu, Đông thái hậu vừa khen đẹp, vừa ăn đến mấy cái. Tây thái hậu bảo bà:

- Trong cung mới có một tên bếp khá thạo nghề. Hắn làm luôn một lúc hơn trăm chiếc bánh dâng lên ăn ngon hết sức. Tỷ tỷ thích thì để bảo cung nữ đưa về bên đó ít chiếc ăn chơi.

Nói đoạn, Tây thái hậu liền gọi cung nữ bưng từ trong phòng ra một mâm bánh lớn, rồi bảo nó đưa trước về cung cho Đông thái hậu.

Buổi chầu có Cung thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Tả Tôn Đường, thượng thư Vương Văn Thiều, Hiệp biện đại học sĩ Lý Tảo Hồng. Hôm đó đúng vào ngày mồng mười tháng ba năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Tự.

Chiếu theo luật lệ nơi cung đình, khi Thái hậu lâm triều, phải rủ bức rèm che khuất, bọn đại thần quỳ phía ngoài để tâu bày mọi việc. Nhưng hôm đó, Tây thái hậu có vẻ bực mình vì phải nói chuyện qua rèm, nên bà ra lệnh cuốn rèm lên. Nhờ đó, bọn thần tử vào chầu mới được nhìn gương mặt hai bà thái hậu.

Trong khi bọn đại thần tâu bày mọi việc, Cung Thân Vương nhờ có cặp mắt tinh sáng, nhìn thấy sắc mặt Đông Thái hậu hết sức tươi vui, đặc biệt là nói rất nhiều. Một điểm nữa khiến Vương phải để ý là hai má bà đỏ ửng, y như người say rượu.

Cuộc họp hôm đó bàn tới việc Pháp xâm lăng Việt Nam, thành thử kéo dài mãi tới quá chiều mới được tạm nghỉ ăn trưa để rồi lại tiếp tục họp cho tới suốt buổi chầu. Mãi tới bốn giờ mới có được một quyết định. Quyết định đó là Lưỡng cung thái hậu hạ dụ xuống cho Bắc dương đại thần Lý Hồng Chương tìm biện pháp đối phó, đồng thời hạ lệnh cho các viên tuần phủ, tổng đốc các tỉnh miền Duyên Hải, Duyên Giang, Duyên Biên phải phòng bị hết sức cẩn thận.

Chỉ ý đó vừa thảo xong, thì Từ An thái hậu bỗng thấy đầu choáng mắt hoa, ngồi không vững nữa. Thế là bà phải vội vã về cung và lên giường ngủ ngay.

Bên ngoài bọn đại thần kéo nhau ra triều phòng còn ngồi lại bàn tán thêm một lúc nữa rồi mới tử từ rút khỏi cửa ngọ môn. Giữa lúc đang tà tà trên đường về, bỗng một tin dữ làm cho bọn đại thần đành phải quay lại. Đó là tin nội đình cấp báo Đông thái hậu băng hà, truyền cho bọn đại thần không được giải tán, tức tốc vào cung bàn tính đại sự. Bọn họ nghe tin, mặt mặt nhìn nhau, mắt trợn ngược, miệng há hốc.

Trong số, Cung thân vương là người có nhiều liên hệ với Đông thái hậu nhất, bất giác oà lên khóc. Cả bọn lo khuyên giải Cung thân vương, rồi rủ nhau chạy vội vào tẩm cung của Đông thái hậu.

Bước chân vào phòng, bọn đại thần thấy Đông thái hậu ngồi trên một chiếc ghế thấp có bọn cung nữ đang xúm nhau lại tiểu liệm cho bà. Nhìn thấy tình cảnh đó, không một ai không nhỏ lệ. Căn phòng lạnh lẽo. Người ta chỉ nghe Tây thái hậu cất tiếng than thở một mình:

- Đông thái hậu từ lâu vẫn mạnh, gần đây cũng chẳng thấy đau yếu, ấy thế mà sao lại bỏ tôi ra đi kìa?

Miệng bà vừa nói xong, người bà đã ném mạnh xuống cạnh thây ma, rồi bỗng oà lên khóc, khóc nức, khóc nở, khóc thảm thiết nước mắt giàn giụa, y như khóc một người chị, người em ruột mình thiệt!

Bọn đại thần thấy Tây thái hậu khóc lóc thương tâm bèn hè nhau quỳ xuống đất một loạt, lựa lời khuyên giải bà và xin bà cho chỉ dụ để lo việc tang ma.

Chiếu theo luật lệ nơi cung đình, khi hoàng đế, hoàng hậu mất, thường phải giao đơn thuốc cho quân cơ đại thần xem nghiệm lại. Nhưng trường hợp này, Đông thái hậu chết mau lẹ chưa kịp gọi ngự y bắt mạch cho đơn thì làm gì có đơn nào mà xem. Đó là việc đầu tiên phải cho qua. Đến việc thứ hai. Cũng chiếu thể lệ trong cung cấm, khi có một bà hậu, bà phi chết phải đi gọi ngay thân nhân vào cung để lo việc tiểu liệm. Nhưng đối với lần này, Tây thái hậu đã có chủ ý nào đó, thì việc cho người đi gọi thân nhân của Đông thái hậu trong dòng họ Nữu Cô Lộc làm gì có. Bọn đại thần tuy rành luật lệ đấy, nhưng không thấy Tây thái hậu nêu ra, bố bảo anh nào dám đề cập tới. Thế là việc khâm liệm Đông thái hậu, duy chỉ có mấy con cung nữ đảm nhận mà thôi.

Thấy việc khâm liệm đã xong, Tây thái hậu cho gọi tất cả bọn quận cơ đại thần vào thư phòng của mình, bàn định nguỵ tạo tờ di chiếu của Đông thái hậu theo ý định của bà.

Việc thảo di chiếu được giao cho Lý Hồng Chương cấp tốc thực hiện để bịt mắt bưng tai thiên hạ. Tờ di chiếu nội dung như sau: "Ta tuy đức mỏng nhưng vâng sách mệnh cửa Văn Tông Hiển hoàng đế nên nhậm vị nơi cung hồ, đến khi Mục Tông Nghi hoàng đế kế nghiệp giữ ngôi báu, thì ngài đối với ta một lòng hiếu tử thuần đốc, thừa hoan phụng dưỡng, lúc nào cũng thành. Hiện nay hoàng đế nắm giơ đại thông, đích thân tới vấn an, một niềm thành hiếu. Hơn nữa, từ khi ngài lên ngôi đến nay, điển học siêng năng, đức độ trau dồi, tâm ta rất lấy làm an ủi vui mừng. Nhờ vậy, ngài đêm ngày chăm lo việc nước, tuy rằng thời sự khó khăn nhưng thân thể may được luôn luôn kháng kiện, sự di dưỡng lại được đầy đủ nên quyết hưởng hà linh muôn tuổi. Chẳng may, ngày mồng chín tháng này ta bỗng nhuốm bệnh nhẹ, có hoàng đế hầu hạ thuốc thang đêm ngày vấn an, lo sao cho ta mau lành bệnh. Không ngờ qua ngày mồng mười, bệnh thế chuyển nặng, rồi đến giờ tuất tinh thần dần dần tán loạn, khó thể ở đời. Ta năm nay đã bốn mươi lăm; mẫu nghi thiên hạ cũng có cả ba chục năm. Ta cũng đâu có nhiều lần được ơn thánh điển, quyền vị cao sang, chẳng còn phải ham muốn gì nữa. Tiếp sau đó, lúc hoàng đế gặp cơn biển lớn, lòng ta vô cùng thương cảm. Song ta vốn là người nhân chúa, một mình mà quan bệ tới cả toàn dân thiên hạ, cho nên ta đành phải cố nén bớt nỗi đau thương nghĩ ngợi, lấy việc nước làm trọng. May thay, nhờ được sự trông nom dạy bảo của Từ Hi đoan hữu khang di chiếu dự trong thành hoàng thái hậu nên văn vô bá quan trong ngoài ai cũng làm tròn chức vụ, cùng lo việc cai trị. Thấy vậy, ta thực lấy làm khen lắm. Còn tang phục thì phải tuân theo cựu lễ Hoàng đế chỉ phải giữ phục hai mươi bảy ngày là có thể trừ bỏ. Lễ lớn đã thông thể sơ sót thì các lễ nhỏ ắt cũng không coi thường. Tuy nhiên ta vốn người dám kiệm ước phác thực, cho nên bất cứ việc gì có liên quan tới điển lễ, câm không được phung phí khiến tổn hại công quỹ, đến như việc xây cất trang hoàng hậu sự di vật, cũng phải nên kiệm ước, phải biết tiệc vật lực mới được. Đó chính là cái sở nguyện của ta. Bởi thế, nay ta hạ chiếu dụ, cho toàn thể các cấp tuân hành".

Thế là chỉ một đạo di chiếu ấy bịt hết tết cả một nghi án động trời.

Gia đình của Hiếu Trinh hoàng thái hậu dù có nghi cũng chẳng dám làm gì. Và cũng từ đó, Từ Hi thái hậu ở trong cung độc đoán độc hành, chẳng còn chút e ngại điều gì.

Đông thái hậu chết rồi, việc thứ hai phải làm của Tây thái hậu là trừ khử cho bằng được Cung thân vương Dịch Hân.

Vương vốn là một vị tướng già nhất trong số các vương gia đại thần. Vương lại còn là một cố mệnh đại thần, thường hợp lực với Đông thái hậu để chống Tây thái hậu. Cho nên con người ấy nếu còn ở trong triều thì Tây thái hậu làm sao có thề tự ý tư vi được. Bởi thế, Tây thái hậu ngày đêm bàn tính với Lý Liên Anh tìm kế cách chức vương. Phải cái Cung thân vương vào địa vị quân cơ đã lâu, các đại thần ai cũng đều một lòng giúp đỡ Vương giải quyết mọi việc hết sức công chính, từ lâu chưa xảy ra một điều gì sơ sót. Cho nên việc cách chức để tống vương về vườn, đâu có phải chuyện dễ.

Mừng thay cho Tây thái hậu đã có dịp vô cùng thuận lợi! Số là qua năm sau, Pháp và Tàu đánh nhau. Tây thái hậu liền đổ liệt cho Cung thân vương nghị hoà thất sách, trùm hết cả tội lỗi lên đầu thân vương. Rồi chụp lẹ lấy cơ hội, bà hạ một đạo dụ cách tuột hết chức tước của bọn đồng đảng với Đông thái hậu, chỉ tung có một mẻ lưới là hết sạch! Đạo dụ đó nội dung như sau: "Hiện nay sức nước yếu kém, mà thời thế càng khó khăn, chính sự nhiều đổ vỡ, khiến dân chưa được cứu nguy. Bởi thế mọi việc trong ngoài cần phải có người tài hiền điều khiến. Chốn quân cơ là nơi chủ chốt, dùng người trông coi hành chính trong ngoài. Lúc đầu, bọn Cung thân vương còn cẩn thận giúp rập, nhưng về sau chỉ quanh quẩn để bảo vệ vinh hoa cho mình. Mấy năm gần đây tước lộc ngày càng cao, lòng tư kỷ càng ngày càng tệ. Mỗi lần trong triều có việc cần hỏi ý kiên thì lại cố chấp thành kiến, chẳng chịu đem hết khả năng phụng thành. Đã thế nhiều lần lại còn nói ngang, hoặc có khi lấp liếm che đậy, hoặc có khi ươn hèn làm biếng, hoặc có khi bảo khó không làm, hoặc có khi bảo chẳng biết ai. Gia pháp của bản triều ta là nghiêm ngặt. Nếu cứ ăn cắp quyền để làm loạn chính trị như đời trước thì chẳng những trong lòng chẳng dám mà pháp luật chẳng dung tha.

Chỉ cần nêu ra mấy điểm như trên, cũng đủ biết lỗi lầm chẳng phải là ít và nhẹ. Nếu cứ để vậy, không sửa đổi, mặc kệ buông trôi, thì sao gọi được là vâng lời thực hiện di mưu của liệt thánh. Nay mai, hoàng đế đích thân coi việc chính trị, biết lấy gì để sáng soi mọi lẽ. Rút cục nếu lấy việc xét đoán nhất nhất phê phán thì lúc đó quyệt không thể nói tới chuyện thân quý cũng không thể ỷ y vào điều kỳ cựu. Triều đình dù có khoan hồng đại lượng đến đâu đi nữa cũng chẳng chấp nhận được. Nói tới điều đó, kẻ có lương tâm ai lại không chạnh lòng trắc ẩn. Cung thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Bảo Quân vào triều tuy đã lâu, nhưng trách bị vẫn phải nghiêm khắc.

Có nghĩ tới cảnh hai người một là đau yếu nhiều bệnh, hai là tuổi đã quá già cho nên vẫn nhớ đến công lao thuở trước mà cho được toàn đoạn đường chót của đời mình. Dịch Hân được gia ân giơ quyền thế tập thân ương, thưởng lộc toàn bổng thân vương, nhưng chấm dứt hết mọi công tác, đồng thời trừ bỏ cái ơn cho thêm hai bổng, cho ở nhà dưỡng bệnh. Bảo Quân thì cho giữ nguyên phẩm hàm, được về hưu trí. Hiệp biện đại học sĩ, Lại bộ thượng thư Lý Hồng Tảo làm việc trong nội đình đã nhiều năm, vốn có nhiều kinh nghiệm lại lắm kiên thức nên để cho tiếp tục làm việc. Binh bộ thượng thư Cảnh Liêm chỉ có thể tuỳ việc giao phó, vấn đề kinh tế y không có sở trường, cho nên truất bỏ hết mọi công tác, giáng xuống hai cấp, sẽ điều dụng sau. Công bộ thượng thư Ông Đồng Hoà phục vụ nơi cung đình, thích đáng ở nhiều việc, nhưng đã lâu không làm được việc gì cũng coi như có lỗi, được gia ân cách chức nhưng lưu nhiệm làm hành tẩu trong cung Dục Khánh, để chứng tỏ sự nâng biệt, đối với bọn vương công đại thần này như vậy, triều đình đã có sự nhận xét và ý định từ lâu.

Biết rằng không còn cách gì khác khuyến cáo, lại sợ rằng lỗi lầm của họ càng nặng, cho nên triều đình mới khiển trách. Nếu ngay từ lúc đầu khi còn nhưng việc nhỏ nhặt tầm thường mà không đàn hặc xét lỗi định tội, giáng cấp những viên đại thần thân phiên, thì rồi đây nội ngoại thần dân không còn biết lấy ai để răn dạy để đem hết lòng trung phụng sự, kiên công lập nghiệp một cách viễn đại nữa. Triều đình sẽ xét cái tâm của ngươi, theo dõi hành động của từng kẻ, nếu thấy lợi ích cho quốc sự thì không có lý do gì mà không dung nạp. Trái lại, nếu thấy gia đình suy tệ, gia phong không có, lấy công làm tư, khuynh loát mọi chuyện, thậm chí phẩm hạnh càng ngày càng ty tiện, làm tay sai cho người để kỳ trung hối lộ tham nhũng, triều đình sẽ lập tức lột trần mọi gian dối giấu nhẹm, xét theo pháp luật để trừng trị chứ nhất định không tha. Nay ban bố thông dụ cho mọi người được biết".

Đạo dụ, lời lẽ úp úp mở mở, căn chẳng đúng đề. Bọn đại thần bị cách chức, ai cũng đều biết đây chỉ là một dịp diệt trừ đối thủ của Từ Hi thái hậu. Anh nào anh nấy tức lắm, nhưng phải cái đây là lời nói rõ ràng của thiên tử trên giấy trắng mực đen, công bố cho bàn dân thiên hạ, biết làm sao được. Thế là cả bọn đành nuốt giận, rút lui ra khỏi chốn quân cơ.

Bọn này vừa bước ra khỏi, thì Tây thái hậu đã chọn một số tay chân thân tín đưa vào quân cơ điền ngay chỗ trống.

Kẻ được chiếu chỉ của Tâm thái hậu chọn đưa vào là Thuần thân vương Dịch Tôn.

Tôn vốn đồng đảng với Tây thái hậu. Thái hậu ngầm bảo Tôn Dục Văn dâng sớ tiến cử Tôn để bổ sung vào quân cơ làm tai mắt cho bà.

Hồi 154

ĐÀN RẮN TRONG CÂY CỔ THỤ

Đáng lý ra Tôn là cha của đương kim hoàng đế thì không được vào quân cơ. Đó là theo quy pháp của tổ tiên Thanh triều. Nhưng đưa Tôn vào quân cơ, là có dụng ý của Tây thái hậu. Để làm việc đó, Tây thái hậu hạ một đạo thýợng dụ nói nơi quân cơ có nhiều việc rất khẩn yếu, cần có Thuần thân vương Dịch Tôn mới giải quyết được. Khi nào hoàng đế trưởng thành, đích thân tham chính, lúc đó sẽ có ý chỉ mới.

Ông Đồng Hoà thấy đạo thượng dụ, cho thế không thể được, liền bảo Tả thứ sử là Thịnh Dục tâu lên quyết liệt tranh đấu.

Thấy Dục cả gan như vậy, bọn Tả thứ sử Tích Quân và Ngự sử Triệu Nhĩ Tốn cũng vội dâng thư lên khuyên can, nói Thuần Thân Vương không nên tham dự vào việc quân cơ.

Từ Hi thái hậu đâu có chịu thua. Bà xuống ngay một đạo dụ mới chỉ vỏn vẹn có bốn chữ: "Ưng vô dung nghị" (chớ có bàn bậy). Bọn đại thần xem xong đành khoanh tay, câm miệng hến, không biết cách nào hơn.

Quang Tự hoàng đế vốn không hợp tính Thuần thân vương. Cha thực của hoàng đế là Dịch Hoàn kia chứ đâu phải Dịch Tôn. Khổ cái là Dịch Hoàn lại bất hoà với Tây thái hậu. Câu chuyện lẹo tẹo giữa bốn người là như vậy.

Khi Quang Tự hoàng đế vào cung, bà phúc tấn, vợ Dịch Hoàn, rất không bằng lòng. Hai bà kể là chị em dâu với nhau.

Bà Phúc tấn này biết tính Tây thái hậu điêu xảo gian quyệt ra sao, cho nên biết rằng con mình nếu để cho Tây thái hậu nuôi dưỡng thì sẽ khổ sở suốt đời. Bởi thế, khi vua Quang Tự bước chân ra khỏi nhà, bà phúc tấn khóc lóc thảm thiết, bảo với mọi người là Tây thái hậu đã giết con bà rồi. Không ngờ lời nói này lại lọt vào tai Tây thái hậu. Từ đó Tây thái hậu ra mặt ghét vợ chồng Dịch Hoàn, và cũng vì vậy nên bà chẳng ưa gì Quang Tự hoàng đế.

Lần này Tây thái hậu lập Quang Tự làm hoàng đế lả có ý trả ơn Dịch Hoàn: đó là thâm tâm của Tây thái hậu. Nhưng ơn gì vậy?

Nguyên lai khi Văn Tông hoàng đế còn sống, đối với Dịch Hoàn rất thân thiết. Anh em hai người thường gặp mặt nhau ở trong cung Văn Tông, có tâm sự gì là thường hay cho Hoàn biết. Việc quan trọng nhất hồi đó là Văn Tông thấy Tây thái hậu tỏ ra một người đàn bà lăng loàn quá sá, không biết an phận mình nên đã có ý phế bỏ địa vị phi tử để tránh chuyện ỷ thế cậy quyền sau này, và thường đem ý này ra bàn với Hoàn. Nhưng Hoàn khuyên can năm ba lần, mong bảo toàn danh vị cho Tây thái hậu. Ấy cũng vì chuyện đó mà Tây thái hậu cảm kích lắm, coi như một cái ơn, nên đưa con trai của Hoàn lên làm vua.

Y tốt của Tây thái hậu buổi đầu là vậy, nhưng không ngờ hai vợ chổng Dịch Hoàn lại không thích thế, thường hay phao lời nói xấu Tây thái hậu. Mặt khác, Quang Tự hoàng đế lại hay chống đối Tây thái hậu. Ngay từ hồi nhỏ hai bên đã có chỗ không hợp tính rồi. Thấy thế, Tây thái hậu lại cho rằng vợ chồng Hoàn ngầm dặn con mình như thế, nên càng đề phòng gắt gao hơn. Bà truyền dụ cho cung môn cấm không được cho phép vợ chồng Dịch Hoàn gặp mặt hoàng đế, chỉ trừ trường hợp có đặc chiếu.

Lại cũng vì cái lệnh khắt khe này, vợ chồng Hoàn càng thâm thù Tây thái hậu. Nhiều lúc nhớ con, hai vợ chồng Hoàn chỉ còn biết ôm nhau khóc ròng mà thôi.

Hồi đó, Quang Tự hoàng đế đã định việc hôn nhân, chọn xong hoàng hậu. Bà hoàng hậu đó là con gái Quế Tường và cũng chính là cháu gái của Tây thái hậu. Tính tình của bà hậu này chẳng khác tính nết Tây thái hậu bao nhiêu. Trớ trêu thay là Quang Tự hoàng đế lại không ưa bà hoàng hậu này, ngài chỉ yêu có một cô tên gọi Cẩn Phi. Cẩn Phi người đã đẹp, tính nết lại thuận hảo, nhu hoà. Quang Tự hoàng đế đã có ý lập người đẹp này làm hoàng hậu, nhưng Tây thái hậu quyết không chịu. Vì thế, cái hố mâu thuẫn giữa hoàng đế và Thái hậu lại còn sâu thêm một tầng nữa.

Bọn cung nhân thái giám, bọn bầy tôi trong ngoài thấy Tây thái hậu không ưa hoàng đế và hai vợ chồng Dịch Hoàn, bèn đặt ra không biết bao điều vu khống đồn đại khắp nơi.

Chúng dựng lên một chuyện động trời. Chúng phao tin ở bên ngoài Tây Vực môn kinh thành, trong Bạch Vân quán, có một vị đạo sĩ tên gọi Động Nguyên. Nguyên có tài lạ là nhìn được rất xa. Đêm nào cũng vậy, Nguyên đứng giữa sân nhìn ra xa, đều thấy trên nóc phủ của Dịch Hoàn luôn luôn có một đám mây phủ kín, trong đám mây có một con rồng vàng lúc ẩn lúc hiện, bay múa trong không gian. Như thể e rằng Dịch Hoàn sẽ là chân mạng Thiên tử, không đề phòng không được.

Tây thái hậu nghe chuyện này, đã không cho là phỉ lý, lại còn lấy làm tin lắm. Thế là bà cho Lý Liên Anh truyền gọi tên đạo sĩ Động Nguyên vào cung, đích thân dò hỏi.

Nguyên liền đáp:

- Phải! Trên nóc nhà có mây phủ, đó đúng là triệu chứng của chân mạng đế vương. Nay Hoàng thái hậu hỏi tới kẻ tiểu đạo xin tới vương phủ xem xét kỹ rồi phúc chỉ sau.

Tày thái hậu chuẩn tấu, bèn phái thêm mấy tên tiểu thái giám nữa, ăn mặc giả làm người thường, đến trước cổng nhà Dịch Hoàn xem xét.

Động Nguyên đạo sĩ gật đầu luôn mấy cái, trong lòng đã có điều minh bạch, vội chạy về kinh tâu lên Thái hậu:

- Trong vưởng phủ có một cây bách già, Văn khí do đỉnh đôi cây cổ thụ đó bốc lên. Nay chỉ cần chặt cây bách đó là phá được đất nhà nọ, có thế mới hết lo ngại.

Tây thái hậu nghe đoạn, truyền thưởng cho Nguyên một số tiền rồi cho về. Sau đó, bà cho bày giá, ngồi trên chiếc xe nhẹ, giảm bớt bọn tuỳ tùng, tức tốc ra khỏi cung, lẳng lặng kéo vào trong phủ đệ của Dịch Hoàn khiến hai vợ chồng Hoàn hoảng hồn bạt vía, vội vàng hè nhau chạy ra nghênh tiếp thánh giá.

Tây thái hậu thấy bộ mặt hớt hải của vợ chồng Hoàn, cười lên hô hố, cầm lấy tay vợ Hoàn nói:

- Bọn mình chị em với nhau, khách khí mà làm gì! Ở trong cung buồn như chấu cắn, tôi tính ra thàm hoa viên nhà muội muội một lát để thưởng thức cái cảnh u nhã nơi đây đó!

Nghe vậy, Dịch Hoàn vội sai người bày tiệc ngay trong vườn hoa để thết đãi. Tây thái hậu vừa uống vừa xem hoa.

Cây bách già mọc ngay giữa vườn hoa, cành lá xum xuê, che kín cả mặt đất, ngọn thì thẳng vút mãi tận mây xanh. Thái hậu nhìn cây bách, miệng tấm tắc khen lấy khen để:

- Trời! Cây bách cao lớn quá nhỉ! Tôi hiện đang xây cất Di Hoà viện, thiếu hẳn mất loại cây gỗ lớn này, thật đáng tiếc?

Dịch Hoàn đứng bên cạnh, tưởng lời nói đó là thật, vội tâu:

- Nếu vậy, thần nguyện xin dâng cây cổ thụ đó lên Lão Phật gia.

Lời nói trúng ý thái hậu, bởi vậy, đợi khi tiệc dùng xong, bà liền cho lệnh bọn thợ mộc trong phủ nhất tề cưa búa chặt ngay. Chẳng bao lâu, cây bách già đã sáu bảy trăm năm đổ xuống cái rầm, nằm sóng sượt trên hoa viện dài đến mấy chục trượng.

Nhưng Tây thái hậu không ngờ khi cây vừa đổ xuống đánh rầm một cái thì bỗng từ trong cây lao vọt ra một đàn rắn to bằng bắp vế đến mấy chục con, mắt đỏ ngầu, vẩy vàng hườm như vàng y, xông bừa ra tứ phía, trông thật khủng khiếp. Một con rắn bự nhất từ trong đàn xông thẳng tới chỗ Thái hậu nhe nanh, cất cao cổ, tính nuốt chửng bà.

Tây thái hậu giật bắn mình, hồn vía lên tận mây xanh, rú lên một tiếng, té ngửa ra sau ghế. Dịch Hoàn cùng Lý Liên Anh, hai người đều đứng cạnh thấy Thái hậu đã ngất xỉu, vội vàng tìm cách đối phó với con rắn. Lý Liên Anh nhảy vội tới ôm lấy Thái hậu, cố ý lấy thân che cho bà tránh con độc xà. Còn Dịch Hoàn lúc này liều mạng với con rắn. Hoàn tay không xông vào, múa tít song quyền, cứ nhè đầu con rắn đấm lia lịa. Vô phúc cho con rắn, trúng một đấm của Hoàn, vật xuống đất, không cất cao được đầu lên như trước nữa.

Đau quá hoá khùng, nó quật ngược cái đuôi lên, quấn ngang bụng Hoàn đến mấy vòng như cái vành rổ. Rắn càng quấn càng chặt. Rắn càng xiết Hoàn càng thấy như tắc thở, Hoàn thở hắt ra ằng ặc... May thay lúc đó, bọn thợ mộc đã dừng tay, nghe la, chạy tới. Thế là cả bọn nhất tề xông vào chia tay nhau ốp con rắn, gỡ tháo vòng xiết cho Hoàn. Mấy phút sau, Hoàn đã thoát vòng xiết của rắn, nhưng lòng bàn chân đã bị rắn đớp cho đến mấy miếng, chất độc đã đủ thì giờ để ngấm vào máu. Hoàn trúng độc, cơ hồ té xỉu.

Lúc này Thái hậu đã được đưa vào trong hoa sảnh. Gia nhân vội đưa Hoàn vào trong sảnh. Mớ choàng mắt Hoàn thấy bóng Thái hậu rung rinh phía trước; nghĩ đến tội mình. Hoàn vội bò mọp xuống đất; dập đầu lia lịa, nói:

- Nô tài tội đáng muôn thác. Để Lão Phật gia phải một phen kinh hoảng, thật là tội của nô tài!

Lúc này, Tây thái hậu đã tỉnh lại, hoàn hồn rồi. Cả một bọn thái giám chạy tung lên như chiếc đèn kéo quân bên cạnh. Anh thì bóp vế, anh thì đấm lưng, anh thì mang nước sâm, anh thì đem bàn đèn, dọc tẩu, hộp thuốc phiện đến cho bà.

Bọn thái giám tung tăng như vậy một hồi lâu, khi khói thơm toả khắp căn phòng thơm phức, Thái hậu mới mở được miệng ra lệnh hồi cung.

Dịch Hoàn lại một phen quỳ mọp trước thềm, đưa tiễn thái hậu ra khỏi cổng phủ. Đợi Thái hậu và đoàn tuỳ tùng ới xa rồi, Hoàn mới lóp ngóp bò dậy, lắc lư bước vào nhà, cho gọi gấp anh thầy lang châm cửu vào phủ châm mấy mũi kim vào đùi, uống luôn một hơi chén thuốc giải độc.

Suốt đêm đó, chất độc hoành hành. Hoàn đau đớn nhức nhối, nhưng rồi ngày hôm sau cũng bớt đau dần, chỉ còn có đầu choáng mắt hoa, tim đập thình thình, tinh thần xem ra hết sức mệt mỏi.

Buổi trưa, đang chờ thang thuốc thứ nhì, bỗng Hoàn thấy Tây thái hậu sai Tiêu ngự y tới phủ chẩn mạch cho. Hoàn vội bày hương án tạ ơn. Chẩn mạch xong, viên ngự y không khai phương, chỉ lấy trong đẫy ra một ít thuốc cho Hoàn uống.

Thế rồi từ đó, viên ngự y tới nhà Hoàn ngày một, chẩn mạch cho Hoàn rồi lại cho uống thuốc chế sẵn, xong ra đi.

Nhưng có điều lạ là từ ngày uống thuốc của viên ngự y thì bệnh Hoàn càng ngày càng nặng thêm...

Trong phủ của Hoàn, tuy có nuôi mấy viên nội ngoại y sư đấy nhưng thấy ngự y tới săn sóc, còn ai dám cho đơn bốc thuốc nữa đâu.

Một hôm Tổng đốc Trực Lệ là Lý Thiếu Thuyên đích thân tới phủ thăm Hoàn. Hoàn thấy mặt Thuyên bỗng ứa nước mắt nói:

- Xem ra bệnh tôi không thể khỏi nổi rồi! Tôi chỉ còn có mỗi "một khối thịt" lưu lại trong cung, khối thịt ấy hiện là hoàng đế của mọi người đó. Tôi chết đi lòng thực không thể yên được. Chỉ mong sao ngài Tổng đốc để ý giùm hoàng thượng nhiều cho.

Nói đoạn Hoàn quay hẳn về phía Thuyên, vòng tay xá một cái thật dài. Thuyên vội vàng hồi tế và nói:

- Vương gia yên tâm. Đạo thần tử, há lại dám bất trung với hoàng thượng? Song, xem ra bệnh tình của Vương gia không có gì gọi là nguy hiểm đâu?

Hai mắt Hoàn lúc đó nhìn không còn rõ nữa. Hoàn thì thào nói:

- Tôi mong được gặp hoàng thượng một lần lắm!

Lý Thiếu Thuyên nghe đoạn, đoán biết Hoàn ý muốn gặp con lắm. Bởi thế sáng sớm ngày mai Thuyên vào triều tâu lên:

- Dịch Hoàn bệnh nguy, có ý muốn gặp đức Kim thượng một lần chót. Đức Kim thượng tính thời chí hiếu, mà thân phụ bệnh tình lại như thế, ý hẳn trong lòng cũng khắc khoải nhớ nhung lo lắng. Vậy mong cầu Hoàng thái hậu nghĩ tình cha con mà cho gặp mặt nhau một lần.

Từ Hi thái hậu xem tờ sớ xong lập tức đem vua Quang Tự cùng tới vương phủ thăm bệnh tình của Hoàn. Hai người vừa tới nơi, giữa lúc Hoàn thần trí lơ mơ mê mẩn. Nhưng vừa được thấy mặt Quang Tự, Hoàn bỗng tỉnh táo lại ngay, vội tụt xuống chân giường bò mọp xuống đất dập đầu kiến giá. Quang Tự hoàng đế tuy tuổi còn nhỏ nhưng phụ tử tình thâm, khi thấy cha bịnh hoạn ốm o gầy còm, bỗng rưng rưng giọt lệ. Sau cuộc viếng thăm, trở về cung Quang Tự hoàng đế còn cho nội giám đem mười cân nhâm sâm, một ngàn lạng vàng về gửi cho cha già bịnh hoạn.

Hồi đó, trong nha môn viên tổng đốc có một vị Thư Khải gia rất rành nghề thuốc. Người nhà tổng đốc nếu có ai đau ốm, đều một tay lão sư gia này trông coi thuốc thang cho cả.

Bởi vậy, Lý tổng đốc liền đưa vị sư gia này tới vương phủ để mong giúp một tay thang trị liệu. Nhưng cái khổ là, theo luật lệ trong cung hồi đó, nếu đã có ngự y chữa trị rồi thì thôi, các y sư khác dù có thần thông quảng đại tới đâu ba đầu sáu tay ghê gớm đến chừng nào đi nữa, cũng phải lo tỵ hiềm mà tránh ngay, ai bảo cũng chẳng dám chẩn bệnh bốc thuốc.

Vị Thư Khải sư gia ở trong vương phủ mấy hôm, chẳng có việc gì làm cả, chỉ thấy Thuần thân vương Dịch Hoàn mạnh mẽ vạm vỡ như thế mà uống riết thuốc của viên ngự y, bỗng quay ra chết.

Quang Tự hoàng đế ở trong cung được tin cha chết, oà lên khóc lóc thảm thiết. Từ Hi thái hậu bèn sai Lý Liên Anh truyền dụ, khuyên hoàng đế bớt buồn, bảo trọng thân thể. Bà căn dặn thêm cả Long Du hoàng thân tuỳ lúc an ủi khuyên can ngài. Mặt khác, bà hạ dụ phủ tuất, phát của kho ra một vạn lạng để làm đám cho vương gia.

Từ khi Dịch Hoàn chết rồi, Từ Hi thái hậu trong lòng mới được yên, khỏi phải lo ngại điều gì. Và cũng từ đó, bà đâm ra tín nhiệm tên đạo sĩ Động Nguyên quá đỗi. Bà đích thân hạ dụ phong cho Động Nguyên đạo sĩ làm Tổng đạo giáo ty, song hành với Chính Át chân nhân núi Long Hố tỉnh Giang Tây. Bà lại còn bỏ ra một vạng lạng để giúp Nguyên trùng tu Bạch Vân quán.

Bạch Vân quán xây cất tại phía ngoài cửa Tây trực môn thành Bắc Kinh, vốn là một ngôi miếu cũ kỹ, vắng vẻ quạnh hiu. Biển quán treo ngoài cửa đã rơi rụng từ thuở nào. Các pho tượng tiên phật bên trong cũng đã đổ ngã xiêu vẹo gần hết.

Nhưng từ khi Tây thái hậu cho tiền sửa lại, Động Nguyên đạo sĩ đem hết tâm lực vào việc trùng tu. Nguyên nhận lệnh của thái hậu phát tiền kho ra sửa miếu, bèn mở một cuộc lạc quyên trong số các vương gia đại thần. Thế là từ các quan lớn Tổng đốc, Tuần phủ, xuống tới bọn tiểu lại trong các phủ huyện, anh nào anh nấy cũng phải lo một số tiền hiếu kính, để mong được y nói tết cho mình trước thái hậu. Chi cần có một lần đó thôi mà Động Nguyên đạo sĩ đã quyên được tới sáu, bảy mươi vạn lạng bạc. Nguyên tức tốc cho khởi công, nào đắp nền cắt gỗ, xây cất lại ngôi miếu ngay trên nền cũ.

Ngôi miếu cũ nhỏ hẹp, chỉ vỏn vẹn có hai sào vườn, nhưng nay đã có số tiền lớn trong tay, Nguyên bèn bỏ ra một số lớn mua thêm luôn một lúc đến bốn, năm trăm mẫu ở chung quanh, gồm cả nhà cửa ao chuôm của dân chúng nghèo địa phương. Nguyên tự đặt giá đất, chỉ chi tiền có vài ba chục quan một mẫu. Lân bang xóm giềng đều sợ Nguyên, ai cũng phải bấm bụng bán vội cho y. Nguyên mua được đất rồi, cho người phá hết những nếp nhà cũ, vẽ cả một hoạ đồ xây cất mới đồ sộ vĩ đại kinh khủng. Ngoài mặt tiền, điện gác cao ngất, rộng rãi thênh thang. Bên trong, đình đài quanh co, hết dọc đến ngang, nào ao, nào hồ, nào cây, nào hoa, xen kẽ xếp đặt rất là ngăn nắp xum xuê. Đứng bên ngoài nhìn vào ai cũng phải tấm tắc khen ngợi miếu đình quả có nguy nga đồ sộ, rộng lớn thiệt.

Đến ngày hoàn thành miếu, Động Nguyên đạo sĩ vào cung để cung thỉnh hoàng thái hậu giáng lâm, thay đức Bồ Tát khải quang khánh thành. Tây thái hậu vốn là người tín ngưỡng Phật giáo, nghe Động Nguyên đạo sĩ cung thỉnh lấy làm khoái thích, hãnh diện lắm. Bà liền hạ dụ chọn ngày rằm tháng giêng thánh giá thân lâm Bạch Vân quán để hành hương.

Tờ chỉ dụ vừa xuống, bọn văn võ đại thần nào còn thiếu tên phải một phen bực tức không biết đường nào mà lần nữa. Thì ra chỉ tại trong tờ chỉ dụ của Tây thái hậu có chỗ nói là tất cả gia quyến bọn vương công đại thần đều phải theo giá tới miếu để cùng đi hành hương.

Gia quyến của bọn vương công đại thần bình nhật thường cấm cung ở nhà, hoạ hiếm lắm mới ra ngoài, nay gặp ý chỉ này đều phải sắm sửa gấp rút lên đường: thử hỏi kẻ nào dám chống, dám trái lại lệnh thái hậu, lại phải sắm sửa nào quần nào áo, nào phấn nào sáp, đủ thứ ăn chơi cho các bà vợ yêu chiều, các tiểu thư lả lướt hay mè nheo nữa chứ? Thực thế, hai tiếng "ăn mặc" lúc này đối với họ, nghe nó khủng khiếp quá! Các bà phúc tấn tóc đã hoa râm rồi, kể ra cách đối phó còn dễ, chứ mấy bà dì (thái thái) xồn xồn, mấy cô nương cách cách mới toanh, mấy trang tiểu thơ nước da trắng như trứng gà bóc thì quả là một việc mệt mỏi quá khi phải thoả mãn mọi đòi hỏi!

Mấy khi được tòng giá cạnh Hoàng thái hậu? Mấy khi được đủ thứ mắt, nào mắt xanh, mắt trắng đổ dồn về mình? Đúng là cơ hội ngàn năm có một! Các cô, các dì trẻ măng và các tiểu thư, các cách cách tươi như hoa, ai chả có chút hiếu thắng muốn hơn người, ít ra là hơn cái quần cái áo, nhất là lúc này? Nhưng than ôi! Chính cái hiếu thắng ấy đã làm cho các vương công đại thần điên cả đầu lên, đau nhói cả tim đó!

Quan đại thần ta ngồi đó, các cô tiểu thư, cô thì cha may cho con bộ áo gấm năm màu, cô thì mẹ mua cho hộp sáp của Tây phương. Vương gia tuy nằm đó nhưng hồn còn để mãi tận đâu đâu. Mua đâu được cho dì hai nó cái quần hạng tuyết phẩm ấy nhỉ? Sắm đâu được cho cái con cách cách khó tính ấy cái chuỗi hột xoàn đáng vạn lạng nhỉ? Các vị vương gia, các bậc đại thần quả được thêm một dịp tốt đua nhau vắt óc kiếm tiền...

Rồi cái ngày phải đến tất đến: đó là ngày rằm tháng Giêng. Sáng sớm tinh sương, bà nào, cô nào cô nấy, tất cả đều bận quá mức, nào trát một tảng phấn trắng bệch như vôi lên má, nào bôi một cục son đỏ như máu cá lên môi, nào mặc lên một bộ quần áo màu cổ cứng ngập lấp cả đôi tai, nào đóng một cái quần ống thẳng tắp dài quét sạch mấy hè đường.

Các bà các cô ùn ùn leo lên xe nhà riêng của phủ mình. Xe lọc cộc ra đi. Xe trực chỉ phía ngoài cửa Tây trực môn, trước Bạch Vân quán, chờ đây đón giá.

Tất cả bọn phải đợi một lúc lâu. Bỗng người ta thấy cờ quạt rợp trời từ xa ùn ùn kéo tới. Khói lò hương bốc trầm thơm lên nghi ngút, quyện lại trên cao như một đám mây xanh theo gió dần tan. Rồi cả một đoàn người ngựa đưa rước Hoàng thái hậu tới, uy nghi như một đám rước thần.

Bọn đại thần đã xốc lại áo, xách lại quần, sửa soạn từ nãy, để bò mọp xuống mặt đường đón tiếp thánh giá. Chẳng mấy phút, đoàn người ngựa qua đi; bọn đại thần vương công lúc đó chẳng ai báo ai, lần lượt lên ngựa, lên xe, tìm đường đất phóng chạy như bay, mong tới Bạch Vân quán trước mấy phút để kịp quỳ đón thánh giá lần nữa tại nơi đây.

Ngự xa của Hoàng thái hậu, Hoàng thượng và Hoàng hậu tiến thắng vào mãi giữa sân mới đỗ. Hai bên đường đi vào sâu trong miếu lúc đó có đông đủ gia quyến bọn vương công quỳ mọp để đón giá. Thôi thì trâm ngọc, xuyến vàng lóng lánh, áo quần xanh đỏ khoe màu, người ta chỉ thấy đầy sân xuân sắc.

Hoàng thái hậu đưa cặp mắt đuôi lươn (tuy tuổi tác lúc này đã luống nhưng vẫn còn rớt lại đôi lần tình tứ) quanh một lượt khắp sân, bất giác để lộ trên cặp môi tô đỏ chót một nụ cười vẫn còn đượm vẻ xuân tình.

Tây thái hậu, mặt đầy vẻ kiêu hãnh, thong thả cất bước vào trong điện. Động Nguyên đạo sĩ đã phủ phục ngay tại mấy bực thềm ngoài cửa từ lúc nào. Thấy Tây thái hậu bước gần tới, Nguyên hô lớn:

- Hoàng thái hậu, hoàng thượng vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Hoàng thái hậu bước tới trước Phật toà, thấy một pho tượng kim thân cao một trượng hai ngồi ngay chính giữa, nhận biết đó là tượng Ngọc hoàng thượng đế. Lý Liên Anh đem hương ngự tới và dâng lên. Hoàng thái hậu, hoàng đế và hoàng hậu nhất tề quỳ xuống bệ gạch lót nệm gấm, lạy mấy lạy. Phía sau, dưới mái hiên điện hai, ba trăm vị đại thần đều một loạt quỳ lên trên bồ đoàn lạy Phật.

Khung cảnh toàn miếu lúc này im phăng phắc gần như không có tiếng động. Bỗng tiếng chuông trống nổi lên vang dậy, bên đông khua thì bên tây đánh, bên tây đánh thì bên đông khua. Tiếp sau đó, người ta mới bắt đầu nghe những tiếng xủng xoảng của vòng ngọc, của xuyến vàng đeo bên mình các bà, các cô trong các gia đình quý tộc giàu sang và những tiếng leng keng, lích kích của những đồ trân châu, tô điểm óng ánh trên thân hình các ông lớn, mặt đang ửng lên vì vinh dự! Tất cả những âm thanh lạ tai đó hoà trộn lẫn nhau, tạo thành một tiếng ồn ào vĩ đại nhưng kỳ thú, khiến cảnh chùa miếu thanh vắng ngày nọ trở thành ầm nhộn nhịp phi thường...

Cuộc dâng hương đã xong. Bọn đại thần rút lui ra ngoài. Tây thái hậu truyền dụ Động Nguyên đạo sĩ tới, bà cho Nguyên được phép đi trước dân đường thăm viếng khắp nơi.

Động Nguyên đạo sĩ toàn thân ăn vận y phục đại lễ, tinh thần tỏ vẻ đắc ý, hãnh diện lắm, xun xoe đi trước, rũ đôi vai xuống một chút, khum cái lưng xuống một tí, cầm đầu cả đám đông đang lần lượt theo sau như nước chảy.

Tây thái hậu đi xem đã qua mấy lần điện, thấy tượng đắp đều là thiên thần, thiên tướng. Bà đi quanh ra một cửa tò vò Một khu vườn hoa xây cất, trồng trọt khúc chiết, quanh co vô cùng khéo léo tinh vi. Trong vườn, tuỳ từng chỗ đặc biệt, Nguyên cho nuôi nào hạc, nào hươu sao, nào công, nào gà gô, nào thỏ bạch... Có con từ trên bãi cỏ xanh rờn, lại có con ẩn núp trong các động rỗng núi giả sờn.

Hoàng thái hậu càng xem càng khoái.

Bà đi tiếp một chút nữa, qua mấy dãy hành lang bên trái viện, lúc đó mới thấy ngôi nhà chính, xây thành một dãy dài chín gian chính sảnh, nhưng lại năm nhô ra và bốn thụt vào.

Trong chính sảnh, người ta thấy Động Nguyên đạo sĩ đã cho bày biện bàn trà từ lúc nào. Đối diện với chính sảnh này, là một cái sân khấu diễn tuồng, căng màn kết hoa, đỏ rực cả một góc trời.

Đầy nhà, lúc này, đã được lên đèn, ánh sáng lấp lánh trông như sao trời đêm. Sân khấu đang sửa soạn mở màn.

Hai bên nhả chính sảnh, còn có mấy dãy nhà nhỏ, cửa màn kín đáo. Đó là những phòng để Hoàng thái hậu thay áo.

Hồi 155

ANH THẦY CÚNG TỐT SỐ

Hoàng thái hậu, hoàng hậu vào phòng thay áo, nghỉ ngơi đôi chút thì bên ngoài trà, quả đã bày lên đầy cả mặt bàn. Một tiếng trống lớn, có tiếng thanh la, não bạt theo kèm bỗng xé không gian yên tĩnh, báo hiệu một cuộc vui nhộn lớn lao bắt đầu. Rồi tiếng hát giáo đầu cất lên, trong khi màn nhung từ từ mở ra rộng toác.

Động Nguyên đạo sĩ đã dặn trước gánh hát diễn mấy tuồng độc đáo mà nội đình ưa thích. Mọi người chỉ còn chờ đợi chỉ dụ của Hoàng thái hậu.

Quả nhiên, khi Hoàng thái hậu ngồi dùng trà, đã chọn ngay tuồng Hỗn Nguyên hạp, tuồng Cản Tam quan, Hoàng thượng chọn tuồng Hồi Long các, trong khi đó, hoàng hậu biết tính Hoàng thái hậu, thích loại tuồng tiểu đơn, liền chọn ngay tuồng Hồng Loan hy.

Hôm đó, Hoàng thái hậu thực là vui sướng hết chỗ nói.

Thân quyến của các quan viên đại thần ngồi hầu xung quanh xem hát. Trên sân khấu, tiếng sênh phách, tiếng ca nhạc tưng bừng nhộn nhịp. Phía dưới, màn quây trướng phủ, bọn văn võ quan viên đồng loạt cáo lui, chi còn lại mỗi một mình anh chàng đạo sĩ Động Nguyên, lượn như bươm bướm giữa cái đám quần thoa đó để vâng dạ, để đón đưa, cung phụng.

Ngày vui kéo dài mãi tới lúc mặt trời đã gác hẳn non Đoài, Hoàng thái hậu mới sửa soạn xa giá về cung. Đám nữ quyến của bọn vương công đại thần xem đang dở mắt, bỗng được lệnh sửa soạn ra về, bà nào bà nấy đành phải líu ríu lên xe, theo chân thái hậu vào thành. Chỉ vỏn vẹn còn lại có bọn vương gia đại thần ngồi trơ thổ địa ra đấy với nhau.

Động Nguyên đạo sĩ thấy vậy mời cả bọn vào ngồi trong chính sảnh. Bọn đại thần lúc này ai cũng muốn bầu bạn với Nguyên, thôi thì nào xưng hô bằng tiểu đệ, đại ca, nào tâng bốc nhau lên như diều giấy chiều thu. Tiệc rượu còn đầy đủ trên bàn. Cả bọn chia nhau an toạ, vừa nốc rượu vừa xem hát, vừa trò chuyện hết sức tương đắc.

Rất nhiều tên kép hát nổi danh nơi kinh thành hoa lệ này đều quen biết bọn vương gia đại thần. Bởi thế, khi xong vai trò của mình trên sân khấu, anh nào cũng chạy xuống phía dưới, ngồi lui về phía sau bọn đại thần vương gia cùng xem.

Bọn đại thần quay lại thấy bọn kép hát, thôi thì tay bắt mặt mừng, coi như bạn thân lâu năm mới gặp, nào hò rượu, nào quát đem đồ nhắm, tới tấp cả lên.

Vài hôm sau, Động Nguyên đạo sĩ vào cung tạ ơn. Tây thái hậu giữ Nguyên lại ngủ trong cung một lèo đến mấy ngày để trò chuyện. Nguyên giảng giải cho Thái hậu nghe thế nào là công phu Đại toạ luyện khí, lại dạy cho cả bà cách luyện tập công phu Bát đoạn cẩm như thế nào.

Theo Nguyên, hằng ngày cứ trước khi ngủ dậy, nếu tập luyện được công phu Bát đoạn cẩm, ắt sẽ được trường thọ lâu năm. Tây thái hậu tin lời Động Nguyên đạo sĩ, liền bắt đầu học tập từ ngày đó. Bà tập thành thạo, rồi từ đó bất luận ở nơi đâu bà cũng đều ôn luyện qua một lần Bát đoạn cẩm xong mới chịu khởi thân. Bà luyện tập công phu này mãi đến già không gián đoạn. Ấy chính nhờ sự luyện tập hằng ngày mà thân hình bà ngày càng đẫy đà đẹp tốt, đến già cũng không già ốm, đó là việc về sau.

Động Nguyên đạo sĩ lúc này quả được lòng Tây thái hậu.

Trước mặt thái hậu, Nguyên nói là được bà nghe, hiến kế ắt được bà theo. Nguyên thường được thái hậu tuyên triệu vào cung, cho ngồi tâu đáp mọi chuyện về đạo thuật. Nhiều hôm, nói chuyện với Nguyên từ sáng đến tối mà thái hậu không thấy mỏi, thấy chán.

Có nhiều quan đại thần thấy Nguyên đắc thế, đắc thời, vội tìm cách cầu thân, mời Nguyên vào phủ, đặt tiệc khoản đãi ăn uống đến lúc say khướt, liền cho gọi nào là phúc tấn phu nhân, nào là cách cách tiểu thơ ra trước cuộc rượu lạy Nguyên, tôn làm sư phụ.

Thế là từ hôm đó, cái phong khí mới lạ kẻ tôn làm sư phụ, người nhận lấy đệ tử ấy tự nhiên mở ra một kỷ nguyên mới. Thiếu gì những quyến thuộc quan gia trong kinh thành đều kéo nhau tới xin nhập môn hạ làm nữ đệ tử. Mà một khi được nhận, đều coi như một điều vô cùng vinh diệu!

Điểm đặc biệt là cứ mỗi một nữ đệ tử xin nhập môn phải có một số tiền gọi là tiền bái kiến sư phụ, nhiều thì phải kể vạn, mà ít thì cũng phải vài ngàn lạng. Ngoài chuyện tiền ra, còn phải đưa tới nộp thêm các loại đồ thêu, có người thêu cả một cái áo đạo bào, có người chắp lông hạc thành cả một cái áo thụng, lại cũng có người thêu cả một cây cờ phạn treo phất phới trước Phật đài. Cũng có những anh quan nhỏ, cấp bậc chức vụ chẳng cao bằng ai, hoặc tiền bái kiến sư phụ quá ít ỏi, đành phải cho vợ hay con gái tới để bái kiến Nguyên, hắn bèn chẳng thèm để ý tới.

Thú vị nhất là mấy anh vương gia cũng thiếp đi thư lại, mong sao cầu thân được với Nguyên, ấy thế hắn đã chịu cho đâu, cứ một mặt phớt lờ.

Người duy nhất được Động Nguyên đạo sĩ gọi đệ đệ huynh huynh, đó là Lý Liên Anh. Thực tế, chỉ có Anh mới là kẻ chí tình được với hắn. Cả hai tên tâng bốc lẫn nhau trước thái hậu, nói tốt cho nhau không thiếu một chuyện gì!

Lại một năm, đúng ngày rằm tháng giêng. Tây thái hậu đích thân lại tới Bạch Vân quán hành hương. Và rồi từ đó, hằng năm như một cái lệ, các quan viên văn võ trong kinh thành cứ đúng ngày rằm tháng giêng phải tới Bạch Vân quán hành hương.

Một hôm trước ngày rằm, Động Nguyên đạo sĩ sửa soạn tiệc vui, mời các vương gia đại thần tiệc tùng vui nhộn suốt ngày trong miếu.

Rồi từ ngày rằm ấy, cửa miếu mở toang, mặc sức cho khách thập phương chen nhau vào lễ Phật. Ngày hội bắt đầu từ đó, kéo dài mãi tới hai mươi lăm mới hết, vừa đúng mười ngày.

Thôi thì trai thanh gái lịch, ngựa xe kéo nhau tới như nước, phố xá chốn kinh thành đông nghẹt. Người ta đặt tên cái ngày hội đó là ngày "hội Thần tiên".

Hội Thần tiên, đâu có phải chỉ riêng bọn bách tính bình dân, mà cả những bà phúc tấn của các vị vương gia, các bà mệnh phụ của các đại thần, công khanh, các tiểu thư khuê các, các cách cách quý tộc, ăn mặc vô cùng lịch sự, trang điểm vô cùng mỹ miều.

Các bà phúc tấn, các bà mệnh phụ, các tiểu thư, cách cách này đi trẩy hội khác hẳn bọn dân giã quê mùa. Các bà, các cô đã tới miếu, thì tối hôm đó quyết chưa về phủ, còn phải ở lại một tối: Có như thế mới gọi là đi trẩy hội Thần tiên. Ngủ lại thêm một đêm như vậy gọi là Trúc Sơn.

Cái đám đàn bà này gần hết đều là nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ. Còn đám tiểu thư, cách cách trẻ măng như mấy con bê con, ngây thơ như mấy con thỏ mới sinh, lại còn ghi tên vào danh sách để xin làm can nữ nữa chứ! (Can nữ là một loại con nuôi không chính thức, hoặc để nhờ quyền thế, hoặc để nhờ dìu dắt, y như cái lối con tinh thần, cha tinh thần). Hễ thấy Động Nguyên đạo sĩ là đều gọi một can gia, hai can gia, tỏ tình thân thiết còn hơn cả gọi sư phụ.

Động Nguyên đạo sĩ mỗi khi thấy đám can nữ của mình tới mè nheo bên nách, y cũng quấn quýt lấy chẳng kém. Nguyên chuẩn bị vô cùng đầy đủ, nào là phòng ốc, nào là chăn gối, nào là mền trướng, tất cả đều hết sức lộng lẫy đẹp tốt, để cho cái đám con nuôi ấy ngủ qua đêm. Nhưng phòng lịch sự như vậy, có ít ra cũng đến mấy chục căn.

Trong đám phụ nữ, loại xồn xồn nhưng còn bảnh, hoặc đám cách cách, tiểu thư mới toanh, còn nguyên xi, có nhiều thị được Nguyên lưu lại đến ba, bốn đêm mới cho về. Nhiều ông quan tưởng rằng đây là dịp có thể thăng quan tiến chức được, liền nhờ vợ nhờ con gái thay mình nói khéo với Nguyên Can gia, xin nói tất cho vài lời trước mặt thái hậu. Nhiều anh quan, muốn cho chắc ăn hơn, còn lo liệu một số tiền lớn, vài chục vạn lạng bạc là ít, dâng cho Nguyên. Thực thế, miễn sao Động Nguyên sư phụ gật cho một cái, nhận số tiền, đấm vào mõm trên, đấm xuống mõm dưới, thì mươi hôm sau là đã thấy quan nhà ta nhảy trên hoạn lộ như cóc, từ cấp này lên bậc kia như bỡn.

Nhưng thú vị nhất phải nới cái đám quan được thăng đó đã chẳng biết câm cái mồm đi cho nó đẹp mặt, trái lại, còn ra ngoài vung vít khoe khoang cái tài cái khéo của vợ mình hoặc của con gái mình cho thiên hạ biết, tưởng thế là vinh dự, hãnh diện lắm! Số phận hẩm hiu nhất là của mấy anh quan già, có bà thái thái móm, hoặc có cô tiểu thư vổ răng, môi sứt, rốn lồi.

Người ta nhớ mải năm nọ có ông quan người Hàng Châu tên là Ngô thị lang còn để lại một câu chuyện thực là hi hữu.

Số là Ngô thị lang, tuy là một vị quan trong kinh đô đã lâu năm nhưng nghèo mạt, nghèo đến không có gạo ăn hằng ngày nữa! Ngô thị lang cũng muốn chạy vạy chỗ này chỗ kia, may ra cuộc đời có khá hơn đôi chút, nhưng khổ cái là lại chẳng có xu nhỏ nào trong túi. Ấy thế mà Úc thị, vợ cưng của ông, lại là một trang mỹ nhân tuyệt thế, biết tiêu tiền, khắp quan gia quyến thuộc trong thành ái mà chẳng rõ như vậy.

Năm đó, đúng vào ngày mồng bẩy tháng giêng, Úc thị vào phủ Bát vương gia để mừng tuổi năm mới, vừa gặp lúc bà phúc tấn của vương gia đang trang điểm son phấn để trẩy hội Thần tiên ở Bạch Vân quán. Thấy vậy, Úc thị cao hứng cũng theo bà phúc tấn ra đi.

Động Nguyên đạo sĩ vừa trông thấy Úc thị đã vội hỏi bà phúc tấn xem đó là vị thái thái của nhà nào? Bà phúc tấn liền giới thiệu cho Nguyên biết đó là phu nhân Ngô thị lang.

Đã từ lâu Nguyên nghe tiếng Úc thị sắc nước hương trời và đã có lòng ngưỡng mộ, nay bỗng được gặp, đời nào chịu để cá về sông! Thế là ngay sau đó, Nguyên ngỏ ý muốn thu Úc thị làm can nữ. Trái lại, Úc thị vội thối thác, chỉ vì không đem theo số tiền bái kiến sư phụ.

Xin nhớ cho rằng muốn làm một can nữ hoặc một nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ đâu phải chuyện dễ. Nhiều ít gì thì cũng phải có một cái lễ bái kiến.

Lễ bái kiến nhiều thì trên vạn ít thì cũng vài ngàn lạng, chứ đâu có cái chuyện cười suông mà được! Đó là chưa kể còn phải có thân bằng quyến thuộc năm, ba lần khẩn cầu đến mới mong có cơ được ghi vào danh sách đó của Nguyên. Ấy thế mà nay đối với Úc thị thì chính Động Nguyên đạo sĩ lại phải hạ mình xuống khẩn cầu để thu làm can nữ, thử hỏi còn gì vinh hạnh hơn cho Úc thị nữa chứ?

Bà phúc tấn ngồi bên cạnh càng lấy làm hãnh diện lây, vội bảo thị nhận lời Động Nguyên đạo sĩ. Bà còn nói thêm là thế nào sư phụ cũng sẽ có "hảo xứ" đôi lại về sau, khi nghe Úc thị nói không có tiền bái kiến, thì bà vội bảo:

- Có đây! Có đây!

Rối thò ngay tay vào túi lấy ra một tấm ngân phiếu năm ngàn lạng đưa cho Úc thị.

Úc thị nhận tấm ngân phiếu trao lại cho Động Nguyên đạo sĩ. Nhưng không ai ngờ được Động Nguyên đạo sĩ, con người đớp tiền lừng danh lâu nay, bỗng lắc đầu, xua tay lia lịa, bảo:

- Khỏi! Khỏi mà! Bần đạo nhận thấy gương mặt Ngô thái thái có tiên căn, chúng ta đều là người có tiền duyên cả mà! Tiền bái kiến còn cần gì!

Thế là ngay từ đêm đó, Ngô thái thái ở lại trong miếu, không phải một đêm mà luôn bốn năm đêm liền, và tất nhiên bà đã gặp tiên ông rất nhiều lần trong đại hội Thần tiên đó.

Lúc từ giã Bạch Vân quán, cùng về với phúc tấn Bát vương gia, Úc thị còn được Động Nguyên đạo sĩ bắt nhận thêm một ngân phiếu một vạn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn "kiến diện" không phải của can nữ mà lại là của Can gia.

Đến hết ngày hai mươi lãm tháng giêng, miếu tan hội! Động Nguyện đạo sĩ nhận lời ký thác của Úc thị, bèn đem vào cung tâu với thái hậu, nói Ngô thị Lang lâm cảnh nghèo khổ, xin Lão Phật gia thưởng cho y một chức vụ.

Lời tâu xin này thật là đúng lúc! Bởi vì Tây thái hậu đang tính hạ dụ chọn một học sai (quan coi về học chánh).

Trong số các tỉnh tại Trung Quốc, chức vu học sai ở Quảng Đông có thể nói là béo bở nhất.

Chẳng mấy hôm, theo lời Động Nguyên đạo sĩ, quả nhiên Ngô thị lang đi làm học sai tỉnh Quảng Đông thật. Ngô nhận thượng dụ, vội vàng dẫn thân tới Bạch Vân quán tạ ơn.

Về tới nhà, Ngô thị lang lại còn bò rạp xuống đất dập đầu tạ ơn chính vợ ông là Úc thị nữa, mới thú vị chứ! Chuẩn bị khăn gói, hòm xiểng, Ngô quả thực như người chết đi sống lại, lòng thì cao hứng, mặt thì vênh vang với xóm giềng bè bạn không biết để đâu cho hết!

Một hôm, Từ Hy thái hậu ngồi nói chuyện gẫu với Động Nguyên đạo sĩ. Bà bảo Nguyên trong Bạch Vân quán, hoa viên xây cất đẹp thì đẹp thật, nhưng còn thiếu ít bức thư hoạ cần phải thêm vào.

Động Nguyên đạo sĩ vội quỳ xuống đất dập đầu tâu xin Lão Phật gia của y cho ít chữ về trang trí. Vì y biết Từ Hi thái hậu cũng rất khá về chữ nghĩa.

Đang lúc cao hứng, và cũng muốn đây là một dịp chưng tài với Nguyên, với thiên hạ. Từ Hi thái hậu liền gọi Lý Liên Anh mài mực và đem cái bút bự viết đại tự cho bà. Cầm ngay ngắn cây bút lông to tướng, Từ Hi thái hậu chỉ ngoáy có mấy nét trong nháy mắt mà mọi người đã thấy một chữ "PHÚC" lớn rất đẹp.

Viết xong chữ PHÚC, lại được Nguyên tâng bốc thêm mấy câu, Từ Hi thái hậu đã cao hứng lại cao hứng thêm, cho lệnh cung nữ đi lấy thêm bức hoạ "Đường hoa hỷ hoạ bình" mà bà đã vẽ từ trước với những nét vô cùng đắc ý, sau đó, đưa hết cả hai bức hoạ cho Động Nguyên đạo sĩ.

Nguyên lại vội vàng quỳ mọp xuống góc nhà dập đầu tạ ơn, rồi hí hửng mừng rỡ như được vàng, khệnh khạng vác hai bức hoạ bước ra khỏi cung.

Về tới Bạch Vân quán, Động Nguyên đạo sĩ gọi ngay anh thợ mộc tới, bắt làm ngay mấy cái khung chạm trổ tinh vi, lồng bức hoạ vào, trông hết sức lộng lẫy, quý phái. Xong đâu đấy Nguyên chọn ngày tết, sửa soạn một bữa tiệc thịnh soạn, cho gọi một gánh tuồng về để uống rượu xem hát.

Động Nguyên đạo sĩ cho treo bức tự hoạ và bức "Đường hoa hỷ hoạ bình" lên trên cao, rồi mời đủ mặt vương công, đại thần tới hoa viên thưởng ngoạn. Rượu được mấy tuần, một vị vương gia đứng dậy nói:

- Hằng năm, Lão Phật gia cho bọn đại thần rất nhiều bức hoạ. Lão Phật gia tuy thạo viết chữ, vẽ tranh, nhưng chỉ một mình thì làm sao viết xuể. Cho nên ngoài những chữ Phúc, Thọ, mấy chữ đại tự đó ra, còn bao nhiêu những khải tự, những bức hoạ Hoa Điểu, đều là do Giao thái thái vẽ thế viết thay cả đấy chứ Động Nguyên đạo sĩ nghe xong vội hỏi:

- Giao thái thái là bà nào vậy?

Vị Vương gia lại nói tiếp:

- Có lẽ sư phụ chưa rõ chuyện này.

Rồi ông ta kể:

- Theo luật lệ trong cung thì bọn thần từ trong và ngoài, trừ những nhân viên cung phụng trong nội đình, và nam thương bái thư phòng, cũng như nhân viên Nội phủ ra, phải làm quan từ nhị phẩm trở lên, mới được thái hậu thưởng cho chữ "PHÚC".

Bất luận quan to quan nhỏ nào, nếu tuổi chưa tới năm mươi thì không được thưởng chữ "Thọ". Nhưng từ lúc có Lão Phật gia ở trong cung, đặc biệt khai ân, bọn thần tử thường được thưởng thư hoạ. Nhất là khi Lão Phật gia cao hứng lên, thì bất luận là ai cũng đều được Lão Phật gia ban thưởng cho những bức hoạ, chữ PHÚC, chữ Thọ, do chính tay Lão Phật gia viết và vẽ, cũng có khi còn được thưởng cả bức hoạ "Hoa Điểu" bức tranh Tiểu Khải Tự nữa.

Lão Phật gia khi còn là Phi tử ở tại Đồng Âm thâm xứ, có học được kiểu tự hoạ rất tài tình, nên ngày nay mới thưởng cho nhiều người như thế. Song một người thì làm sao cho xuể bấy nhiêu việc được? Do đó, Lão Phật gia mới hạ mật chỉ xuống cho các vị tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh, tìm cho bằng được những mệnh phụ viết đẹp vẽ giỏi, đưa vào cung để thế Lão Phật gia viết chỉ và vẽ tranh.

Sau mật chỉ đó ít lâu, viền tổng đốc Tứ Xuyên chọn được Giao thái thái, liền lén đưa vào cung, bà Giao thái thái này tên là Tố Quân, nguyên người Vân Nam, theo chồng làm quan ở Tứ Xuyên. Chẳng may, chổng chết, gia cảnh hết sức nghèo túng, khó khăn. Người con trai tuy đã đỗ cử nhân nhưng cũng chưa được bổ đi làm quan. May được cái là Giao thái thái vẽ tranh Hoa Điểu tuyệt đẹp, lại giỏi cả văn, hay cả viết chữ Tiểu Khải Tự, cho nên nhờ đó bán tranh bán chữ trong giới quan trường vùng Tứ Xuyên được đủ tiền độ nhật.

Thế rồi khi nhận được mật chỉ của Lão Phật giao, tổng đốc Tứ Xuyên đưa Giao thái thái gấp về cung. Lão Phật gia vừa gặp mặt Giao thái thái, tỏ ra vẻ hết sức mừng rỡ, liền cấp cho hằng tháng hai trăm quan nguyệt bổng. Giao thái thái ở trong cung, suốt ngày chi có mỗi một việc là thế Lão Phật gia viết chữ và vẽ tranh mà thôi.

Giao thái thái người mập ú, mặt bự, mắt lớn. Bởi thế, Từ Hy thái hậu thường hay lấy thân hình bà mà đùa giỡn. Phải cái Giao thái thái thư hoạ tuyệt vời nên Từ Hy thái hậu lúc nào cũng tỏ vẻ quý trọng.

Theo lệ trong cung thì bất cứ cung nữ hoặc nữ quan, hễ thấy thái hậu đều phải quỳ lạy, duy chỉ mỗi một mình Giao thái thái là được miễn lễ ấy. Trong cung nội, từ người trên đến kẻ dưới, ai cũng đều gọi bà ta là Giao thái thái. Bà được cái tính hiền hoà, ai cũng thích.

Có một hôm nhân lễ vạn thọ của thái hậu, bọn phi tần muốn làm vui lòng bà, đã dự tính làm một cái mão Phượng quan rất lớn. Đến hôm vạn thọ, bọn phi tần đều ăn vận phẩm phục, cũng bảo cả Giao thái thái ăn vận như vậy nữa. Bọn cung nữ đem bộ phẩm phục lại cho Giao thái thái. Thế là trong mây phút sau, Giao thái thái đã thay hình đổi dạng. Bà ta cũng có quần hồng, có mão Phượng quan, có hài có cốt, đầy đủ bộ lệ: Người thì lùn lại mập ú, mà quần áo lại vừa rộng vừa dài, bà ta trông lúc này buồn cười quá, người xù ra như cái bồ nứt cạp, đứng lù lù trên mặt đất trông như một cây rơm.

Bọn cung nữ thấy vậy muốn cười mà không dám, hè nhau lại dắt bà ta đi mừng lễ vạn thọ của thái hậu. Lúc này, Thái hậu đang ngồi chính giữa điện để nhận lễ.

Một số đông phúc tấn, cách cách người Mãn, ăn vận đại lễ đã đứng hai bên cạnh thái hậu, bỗng thấy Giao thái thái ăn vận tròn xoe y như một quả bóng ngũ sắc nhúng nhinh từ ngoài vào, xuýt cười ầm lên mà không dám ra tiếng. Họ chỉ cười thầm trong bụng là bởi vì lúc đó Quang Tự hoàng đế cũng có mặt trên điện.

Về sau, khi hoàng đế ra khỏi phòng rồi, Giao thái thái nằm bò trên mặt đất hành lễ, trông chẳng khác chi một con ba ba rụt cổ nằm ỳ ra đó, thì cái người đầu tiên không nhịn được cười là chính Tây thái hậu. Bà cười chảy cả nước mắt nước mũi, xuýt nữa té xuống ngai vàng. Thấy vậy, bọn phi tần, và phụ nữ quý tộc người Mãn ùa theo, cười lên như nắc nẻ.

Khắp cả cái điện rộng lớn thênh thang lúc đó chỉ nghe có tiếng cười, tiếng thì hí hi, tiếng thì hô hố, tiếng thì hềnh hệch, tiếng thì khăng khắc, tiếng thì khanh khách... tạo thành một tiếng ồn chưa từng thấy ở trong cung cấm.

Tây thái hậu cười một lúc rồi lên tiếng hỏi ai đã ăn vận cho Giao thái thái như vậy. Nhưng hỏi được câu hỏi trên vừa xong thì bà lại phá lên cười nữa. Cuối cùng, Tây thái hậu ngừng lại, lên tiếng bảo:

Hôm nay là ngày vui của mọi người. Giao thái thái hãy vui cùng với bọn ta một hôm nhé!

Giao thái thái nghe thái hậu truyền bảo, vội dập đầu tạ ơn.

Thế là hôm đó, Giao thái thái được theo chân thái hậu du ngoạn Tam Hải. Tam Hải là một thắng cảnh rất rộng lớn.

Bọn phi tần và quý phụ người Mãn, có cặp chân to, có đôi giò bự, theo thái hậu chạy đi chạy lại xem nhởn nhơ chẳng mệt mỏi gì, nhưng đối với Giao thái thái thì quả là một hình phạt vô cùng thê thảm.

Giao thái thái vốn đàn bà Hán lại có cặp chân bự, đầu đội mão Phượng quan vừa to vừa nặng, đi một bước là lặp một bước, xiêu bên này vẹo bên kia, trông thương tâm hết sức!

Khổ cái nữa là hôm đó, thái hậu lại cao hứng đi du ngoạn quá lâu, mãi tới khi mặt trời gần gác non Tây mới xa giá về cung. Thái hậu thưởng cho Giao thái thái hôm đó rất nhiều đồ trân bảo quý giá. Giao thái thái tạ ơn, rồi ra khỏi cung, quay về nhà.

Nhưng khi đặt chân vào nhà, đôi chân là như đã sưng từ bao giờ! Bà nằm liệt giường, mặt nhăn nhó, như chỉ muốn cầm đôi cẳng mà liệng vội đi cho đỡ nhức!

Hồi 156

CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC DI HOÀ VIÊN

Sau khi đi du ngoạn Tam Hải về cung, Từ Hi thái hậu phàn nàn với Lý Liên Anh là nơi này đã từ lâu không sửa chữa gì cả, để đến nỗi nhiều chỗ lở lói suy sụp cả. Bà còn nói thêm là trước đó vài năm, bà đã cho gọi Nội Vụ phủ bảo sửa chữa lại nhưng Cung thân vương tâu không có tiền sửa chữa, Đông thái hậu lại bảo khỏi sửa, thế là chuyện dẹp. Hiện nay, tình trạng nơi đây đã quá tệ, nếu không lo sửa sang lại, thì còn gì là hoa viên nữa!

Lý Liên Anh nghe Từ Hi thái hậu phàn nàn như vậy, vội chạy tới quân cơ xứ báo cáo cho bọn đại thần nơi đây hay.

Bọn đại thần quân cơ, anh nào chả mong được lòng thái hậu. Bởi thế họ đi gọi nhau lại, họp hành luôn mấy ngày đêm để bàn tính việc tu bổ. Họ cho gọi cả viên đại thần Nội vụ đến, rồi biểu quyết ngay một số tiền lớn khởi công động thồ tức khắc Khu Tam Hải đã lớn, họ còn mở rộng thêm vây luôn cả một con đường lớn chạy dọc suốt từ khu thành tây cũ đến mãi tận cửa sau, để xây cất thêm hai toà Bạch Thạch Kiều rất là cao lớn gọi Kim Ngao, Ngọc Đống.

Tam Hải sửa chữa lại xong, bọn đại thần liền tới thỉnh thái hậu đi du ngoạn. Tây thái hậu bày giá tới Tam Hải, quả nơi đây lúc này khác hẳn khi xưa, cả một khu hoa viên đổ nát hoang tàn bỗng trở nên rộng lớn lộng lẫy, nào đền đài tráng lệ, nào hồ ao trong mát, không thiếu một cảnh đẹp nào! Tây thái hậu đi tới đâu khen tới đấy, thực là không ngớt lời khen. Rất nhiều thân vương phúc tấn, đi hầu cạnh thái hậu du ngoạn hết nơi này đến chỗ nọ, nhởn nhơ y như tiên nga trên thượng giới.

Giữa lúc đoàn du ngoạn đi hết chỗ này sang chỗ khác, vô cùng cao hứng sướng khoái, bỗng Tây thái hậu nhớ tới vườn Viên Minh thuở nọ. Bà cảm khái thốt ra lời nói:

- Tam Hải ngày nay đẹp nhưng sánh với vườn Viên Minh lúc trước thực chỉ bằng một phần muôn! Đáng tiếc là Tiên đế đã mất, mà vườn Viên Minh cũng đã huỷ! Cái ngày náo nhiệt phồn hoa xưa kia bên cạnh Tiên đế, ta còn làm sao mà thấy lại được nữa!

Nói đoạn, Từ Hi thái hậu bỗng lộ vẻ mặt thê thảm, đôi dòng lệ từ từ lăn trên đôi gò má. Bọn phi tần thấy vậy, vội kiếm lời an ủi bà và hộ vệ bà trở về cung an nghỉ.

Lý Liên Anh thấy Thái hậu nhớ tới vườn Viên Minh, trong lòng bỗng phát sinh một ý định. Bởi thế qua ngày hôm sau, Anh vội vã chạy tới chốn quân cơ, bàn tính với bọn đại thần phác hoạ một chương trình trùng tu vườn Viên Minh để làm vui lòng Thái hậu.

Trong số đại thần quân, có một vị lên tiếng:

- Muốn trùng tu vườn Viên Minh, nếu không có năm ngàn vạn lạng bạc thì đừng hòng. Nay Hoàng đế không còn tại thế, trong vườn chỗ nào chỗ nấy đều có lưu lại những cảnh thương tâm thuở nọ. Nếu Lão Phật gia qua đấy du ngoạn, tôi quyết Lão Phật gia không thể nào vui vẻ được. Chi bằng bọn ta lấy số tiền trùng tu vườn Viên Minh làm một cái vườn khác cũng rộng lớn như vườn Viên Mình. Khi Lão Phật gia xem thấy mới đẹp mà lại còn tránh được chuyện thương tâm do kỷ niệm cũ gây ra.

Nghe lời bàn tính này bọn đại thần đồng thanh khen hay.

Đôn Thân Vương Dịch Tôn nói:

- Lễ vạn thọ lục tuần của Lão Phật gia sắp tới rồi! Vậy toà hoa viên này phải xong trước cái ngày lễ trọng đại đó mới được! Đúng cái ngày lễ hôm đó, bọn ta sẽ thỉnh Lão Phật gia vào vườn du ngoạn một hôm để cho Lão Phật gia nức lòng hởi dạ...

Nói tới đây, Vương bấm đốt ngón tay, nói tiếp:

- Hiện nay là Quang Tự thứ mười lăm. Năm thượng thọ lục tuần của Lão Phật gia là năm Quang Tự thứ hai mươi. Trong quãng năm năm đó, công cuộc kiến thiết hoa viên đó chắc hoàn thành được.

Bọn đại thần nghe tới đây, đều đồng thanh công nhận.

Chưa hết, Vương gia còn nói thêm:

- Có điều toà hoa viên rộng lớn như vậy, xây cất ít nhất cũng phải hơn một ngàn vạn lạng bạc, thử hỏi đào đâu ra giữa lúc này? Chẳng lẽ bọn mình bắt Lão Phật gia mở hầu bao cho bọn mình xây cất. Khó! Khó lắm!

Trong khi Dịch Tôn nói tới đây, khựng lại, thở dài, thì bọn đại thần quân cơ anh nào anh nấy dập gãy cái đầu xuống để suy nghĩ xem tiền đó đào tại nơi nào!

Thái giám Lý Liên Anh lúc này cũng có mặt nơi đây. Giữa lúc bầu không khí nặng như đá đeo, Anh bỗng vỗ tay đôm đốp mắt sáng lên, hấp tấp nói lẹ:

- Có rồi! Có rồi!

Bọn đại thần bỗng như có điện giật, cồ đều ngóc lên, nhao nhao hỏi vội.

Tỏ vẻ đắc chí, Anh thong thả nói y như một ông thầy đồ giảng bài:

- Chẳng phải bọn ta mỗi năm phải trích ra hai trăm vạn lạng trong kinh phí của Hải quân đó sao? Nếu ta dành số tiền đó lại trong năm năm, thì đã thấy có ngàn vạn lạng rồi còn gì?

Thử nghĩ xem nước Trung Quốc ta toàn là đất liền; dùng Hải quân mà làm quỷ gì! Còn bọn ngoại quốc chúng đều là thần tử của Đại Thanh triều ta cả, hơn nữa chúng lại là những tiểu quốc, thì bố bảo chúng cũng chẳng dám sờ đến lông chân của thiên triều ta! Do đó, Hải quân thực chẳng biết dùng vào việc gì. Bởi thế lấy kinh phí của đám quân này ai dám nói ra nói vào một nửa lời chứ? Ví thử số tiền xoay sở được đó quá ít, không đủ chi tôi đã có cách. Xin thưa ngay cách đây: ta mượn danh nghĩa Chấn hưng hải quân mở rộng một cuộc quyên cũng để gọi là "Báo đáp Hải quân". Giả dụ số kinh phí Báo đáp Hải quân thực ngân là bảy ngàn lạng ta sẽ tính cao lên một vạn lạng, rồi xin Lão Phật gia cho họ một cái chức tri huyện thế là xong.! Đến cách này mà chưa đủ, thì bọn ta anh em xúm lại chịu khó móc hầu bao lần chót, lẽ nào lại chẳng được như ý nguyện để đạt tới thành công?

Nghe Lý Liên Anh diễn thuyết một thôi, bọn đại thần đều đồng thanh coi như một diệu kế, nhất là khi nghe nói Lão Phật gia biệt đãi đối với mình, anh nào anh nấy đều hí hửng, và còn xác nhận thêm lời Anh nói quả chẳng sai tí nào!

Thế là nội vụ đã được quyết định. Tất nhiên việc thực hiện phải đi theo ngay với lời nói. Chẳng bao ngày, việc đầu tiên phải làm của bọn đại thần quân cơ này là kiểm kê hết mọi sổ sách để đem ra dùng số kinh phí của Hải quân một triệu lạng bạc bớt số, tích trữ, giấu diếm được bao lâu nay.

Việc thứ hai là xin Tây thái hậu chỉ dụ cho mở một cuộc quyên cúng "Báo đáp Hải quân". Đến việc thứ ba là chỉ định một vùng đất trống rộng lớn bao la bát ngát tại Vạn Thọ sơn để kiến tạo hoa viên.

Hoa viên này vốn để chuẩn bị khánh chúc ngày lễ Vạn thọ của Thái hậu, bởi thế mọi người đồng thanh đặt tên là Di Hoà viên. Di Hoà có nghĩa là di dưỡng mối Thiên hoà.

Khi đưa ra chương trình kiến tạo hoa viên Di Hoà, thì Vinh Lộc đã lại được bổ dụng chức tướng quân Tây An. Lộc nghe được tin này, vội vàng quyên cúng ngay một số tiền lớn hai mươi lăm vạn lạng bạc để lấy tiếng người đầu sổ, và tất nhiên để làm cái lễ mọn dâng ngày vạn thọ của Thái hậu.

Từ Hi thái hậu vốn vẫn quý mến Vinh Lộc bởi thế bà cho lệnh điều động Lộc về ngay kinh đô, đồng thời nhập vào quân cơ xứ. Thấy đã có người xung phong quyên cúng, bọn vương công lo đến thân mình, ngại đến cái quyền chức của mình, vội ùn ùn ghi danh đóng góp, kẻ thì mười vạn, người thì hai chục vạn, tiền lúc đó được khiêng tới ùn ùn nơi quân cơ.

Mặt khác, số tiền kinh phí Hải quân thu được đến bốn, năm trăm vạn lạng bạc. Chưa hết, còn một khoản tiền đặc biệt này nữa: đó là khoản tiền gọi "Nhân khoản" do Hộ bộ thượng thư Diệm Kính Minh tâu lên sau tài khoá năm đó.

Nhân khoản là tiền gì? Chiếu lệ cuối mỗi năm Hộ bộ thượng thư phải kiểm kê lập thành bản tồn khoản (những khoản tiền còn lại) báo cáo vào cung để Lưỡng cung Thái hậu xem xét.

Bản tồn khoản này thường chỉ ghi những khoản chính. Còn một khoản phụ kiểm kê từ các năm trước trở lại, những khoản tiền đổi giá, tất cả những khoản đó đều là nhân khoản?

Nhân khoản không ghi vào biên bản, và thường đem chia nhau từ anh quan to xuống tới anh quan nhỏ, mỗi anh cứ cuối năm, có chút tiền bổng, khả dĩ an ủi lắm!

Nhưng từ khi Diệm Kinh Minh lên làm Hộ bộ thượng thư thì nhân khoản không còn là nguồn an ủi của bọn quan lại bộ Hộ nữa. Diệm sở dĩ cắt hết nhân khoản này, một là vì sợ chính khoản thiếu hụt, cần phải có nhân khoản để đập vào, hai là để lấy lòng Thái hậu, chủ đích mong bà khen giỏi trù tính chi tiêu.

Thế là năm đó, bản báo cáo dâng lên, Thái hậu xem qua, mừng rú lên, vì tự nhiên mà có được một nhân khoản lớn đến hơn bảy trăm vạn lạng bạc. Bà vội bảo Lý Liên Anh tới hội bê ngay số tiền lớn đó về cho bà, để dồn vào số tiền chi phí trong công cuộc xây cất Di Hoà viên.

Tiền nong dư dả, tha hồ mà vẽ vời tô điểm cho Di Hoà viên. Thực thế, có thể nói Di Hoà viên được kiến thiết chẳng kém phần hoa lệ, nguy nga so với bất cứ một hoa viên nào!

Hoa viên xây cất đằng đăng suốt mấy năm trời, mãi tới năm Quang Tự thứ mười chín thì hoàn thành. Vị đại thần giám đốc kiến tạo hoa viên bèn mời các vị vương gia đại thần vào thăm vườn và xem xét lại một lần chót.

Hôm đó, Đôn thân vương chuẩn bị từ sáng sớm, đem theo một đám đông đại thần tiến vào hoa viên để xem xét. Di Hoà viên hoa lệ ra sao, kiến trúc như thế nào, xin mô tả qua để quý vị độc giả biết thêm một công trình kiến trúc của thời quân chủ cách đây chưa bao xa, với bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quần chúng, hầu mong cung phụng cho hạnh phúc riêng của một người, một dòng họ.

Di Hoà viên vốn xây cất trên cái nền cũ của Thanh Y viên ngày trước, tại mặt tây Bắc Kinh, cách xa đô thành chừng hai mươi dặm. Lưng tựa vào Vạn Thọ sơn, Động Nguyên viên, vây khắp hồ Côn Minh vào giữa. Nếu do góc cửa đông mà đi vào, người ta phải qua cửa Nhân Thọ môn.

Điện đài nơi đây đồ sộ cao lớn, nhất là điện Nhân Thọ. Tiến vào cửa điện, người ta gặp ngay một toà lâu đài gọi là Nguyệt Đài. Trong đài, tại tầng thứ nhất có bày bốn các tĩnh lớn.

Lên tầng thứ nhì, người ta thấy có hai cái chum đồng chạm trổ hai con rồng và hai con phượng múa lượn chung quanh. Trong giữa điện, đặt một cái ngai quý bằng gỗ mun, cửa ngoài khoá chặt. Quay sang hướng tây, đi chẳng mấy bước, ta sẽ thấy một tấm biển, trên khắc bốn chữ: "Thuỷ mộc từ thân".

Mặt tây ấy chính là hồ Côn Minh. Phía bắc hồ, là toà Lạc Thọ đường. Toà đường này về sau trở thành tẩm cung của Hoàng thái hậu. Trước mặt đường, cũng có một nguyệt đài.

Bên cạnh đài, lại còn có một ngôi đình, xây cất theo kiểu noãn phòng (phòng ấm) toàn bằng pha lê. Phía trong đình có trồng một cây thông, chẳng khác gì một cây san hô.

Lại về hướng tây, đi quanh quẩn một hồi, ta sẽ phải đi qua một dãy hành lang dài đến mấy chục trượng. Nhìn về phía Bắc, ta thấy một toà núi, trên đỉnh xây một toạ đài, tên gọi Quốc hoạ đài cao đến vài chục trượng. Phía dưới đài là một cái điện, gọi tên là Bài Văn.

Điện dài chín gian, hết sức rộng lớn, về sau thái hậu dùng nơi đây làm chỗ toạ triều. Trong điện, có một đôi câu đối, vế trên viết:

"Vạn hốt tinh sơn triều Bắc cực".

Còn vế dưới viết:

"Cửu hoa tiên nhạc tấu Nam huân"

Hai bên vách điện, xây đắp đến mấy chục cây thập cẩm cao mãi đến tận xà nhà. Thềm điện tính cả thảy mười bốn tầng.

Trên nguyệt đài bày bốn cái đỉnh và chum bằng đồng, có chạm trổ từng cặp long, phượng trên từng đôi một.

Ở phía sau điện, có một cái gác gọi là Phật Hương các, thềm cao đến vài chục bực toàn đá. Nếu theo cửa ngách mà vào, ta sẽ thấy một cái bia đá lớn, trên khắc bảy chữ: "Mộ ái triều phong thường tự tả"

Nếu lại mặt bắc mà đi, ta cung sẽ gặp một cái gác, gọi là Bảo Vân các. Gác có mái đình bát quái, cửa cột bao lơn, chấn song đều bằng đồng đúc.

Từ Bảo Vân các, có ba pho tượng Kim thân. Phía sau gác, lại còn có một ngôi đình, gọi là Chung Hương giới. Đây chính là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn.

Lại theo hướng nam mà đi ra, để gặp một cái cổng, trên cổng đề bốn chữ "Đạo dưỡng chính tính". Trước cổng, một dãy tường thấp ôm quanh lấy đỉnh núi. Tựa vào bức sơn tường này mà nhìn về nam, ta thấy trên mặt hồ, nào đình đài, nào lầu gác chẳng khác chi như nhìn phong cảnh trên một áng mây bạc, rõ mồn một.

Bên cạnh điện, cất mấy ngôi đình bát giác. Chuyển luân tạng vốn là hai toà bảo tháp làm bằng gỗ, mỗi toà cao tới mười mấy tầng. Cứ mỗi tầng, mặt ngoài đều có khắc tượng Phật. Mỗi một toà tạng cao đúng ba trượng, ngày đêm xoay chuyển liên tiếp, không bao giờ ngừng. Mãi về sau, năm Canh Tý, năm Bát quốc liên minh đánh vào kinh thành, chiếm đóng Di Hoà viên, lúc đó, hai toà chuyển luân tạng mới ngừng hẳn, không xoay chuyển được nữa.

Trong điện, còn có hai toà nhật quỹ (đồng hồ mặt trời), trên mặt khắc ghi số giờ số khắc, giữa đặt một cái kim đồng.

Mỗi khi mặt trời chiếu sáng, cây kim chỉ vào số giờ nào, khắc nào, là ta biết ngay mấy giờ, mấy khắc. Bỏ Chuyển luân tạng mà đi quanh ra, ta gặp điện Huy Đức phía trên có biển đề bốn chữ Phu quang vinh khánh. Chốn này đã là mặt đông của điện Bài Văn. Về mặt tây, lại còn có một ngôi điện nữa: điện Thánh Ly. Điện này đối diện với một cái rạp hát, xây cất hết sức huy hoàng rực rỡ. Đấy chính là nơi Thái hậu đi xem hát.

Đi dọc theo đường núi quanh co một lát, ta thấy một ngôi đình biển đề ba chữ "Hoạ trung du " chung quanh có rất nhiều câu đối viết chữ hết sức tươi đẹp, để ca tụng phong cảnh như sau:

1.

Cảnh tự viễn trần giai nhập vịnh

Vật hàm diệu lý tổng kham tầm.

2.

Kỷ hử sùng tình ký viễn tích

Vô biên giai huống thiếp hương khâm.

3.

Nhàn vân quy tụ liên phong ám

Phi bộc thuỳ không thân thạch lương.

4.

U lại tĩnh trung quan thuỷ động

Trần tâm tức hậu mịch lương lai.

5.

Xuyên nham độc chung tú

Thiên địa bất ngôn công.

6.

Sơ sắc nhân tâm viễn

Tuyền thanh nhập mục lương.

Bên cạnh ngôi đình này có một cái động đá. Đi xuyên qua động này, ta thấy một cái bia đá lớn đập ngay vào mắt. Trên mặt bia khắc một hàng mười chữ: "Sơn xuyên ánh phát sử nhân ứng tiếp bất hạ". Lại đi lên chút nữa, ta gặp một ngôi đình nữa, biển đề bốn chữ "Hổ sơn chân ý". Đây chính là nơi thừa lương (nghỉ mát) của Thái hậu sau này. Và đây cũng là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn rồi.

Đứng từ nơi đây, hướng về bắc, nhìn xuôi xuống phía dưới núi, ta thấy bên ngoài bức tường lớn vây quanh, độ hơn mười dặm, phố xá chốn kinh thành dọc ngang như bàn cờ, ngựa xe chạy như mắc cửi. Ngay trước mặt ngôi đình, phía trên đề ba chữ "Chỉ thụ lâm".

Từ phía sau lầu cao có hơi thấp hơn một chút, ta phóng tầm mắt về hướng đông bắc, ắt thấy ngoài xa chừng vài dặm, một dãy tường thấp chạy loanh quanh như con rắn bò trên một khu đất bằng.

Khu đất này chính là cái nền cũ của vườn Viên Minh thuở trước. Trên đỉnh núi ta đi về phía đông, tất phải theo một con đường lớn lát toàn bằng đá hoa cương mài nhẵn thín, miếng nào miếng nấy vuông vức.

Con đường này dài có đến vài dặm, tuy khi còn ở trên núi có chỗ chìm xuống lại có chỗ vươn lên cao nhưng tổng quát đều bằng phẳng rất dễ đi. Tận đầu mút con đường là một ngôi đình gọi tên là Hội đình.

Từ Hội đình này, ta đi xuống núi tới gác Cảnh Phúc, nơi đây Từ Hi thái hậu ăn cháo hằng ngày. Rồi lại từ gác Cảnh Phúc đi ra, ta qua Như Y trang, rồi Bình An thất thăng tới Lạc Nông hiên. Ở chính giữa hiên này đặt một cái ngai vàng. Phía sau ngai vàng bày một cái ghế. Mé tả để một cái giao ỷ làm theo kiểu Tây phương, bên trên trùm một cái màn vải vàng.

Lại từ Lạc Nông hiên đi xuôi theo về hướng đông nam, ta gặp Chúc Tân lâu, Hàm Viễn đường. Trước ngôi đường Hàm Viễn này, có một cái ao vuông, ăn thông với con suối, nước chảy róc rách suốt ngày đêm từ trong núi ra. Khu đất này xây cất giống in như khu "Đồng Âm thâm xứ" lúc Từ Hi thái hậu còn là một phi tử trong cung. Những dãy lan can, những chiếc chấn song quanh co vẽ chạm hết sức tinh vi khiến phong cảnh càng thanh u hơn.

Bên cạnh ao, cất một ngôi đường gọi là Hoà Xuân đường, bên bìa chìa ra ao xây một cái cầu gọi là Tri Ngư kiều. Bốn mặt chung quanh cây cầu này, đều có đình đài xây cất tinh xảo tráng lệ.

Đi qua cầu Tri Ngư, ta gặp một toà viên lạc, mặt nam cũng như mặt bắc, đều có bốn, năm căn nhà đối diện nhau. Khu nhà mặt nam chứa một chiếc thuyền rồng.

Khu nhà mặt bắc lại chứa một bộ đồ thư tập thành. Bỏ qua viên lạc này, tới toà Đức Hoà viên. Chính giữa vườn, xây một ngôi điện vũ, tên gọi Di Lạc điện.

Trước mặt điện, xây một cái rạp hát lớn. Rạp cao ba tầng. Từ tầng cao nhất, ta nhìn ra xa, thấy Ngọc Lan đường ở trước mặt. Đây chính là tẩm cung của Quang Tự hoàng đế sau này.

Hai bên giải vũ trước mặt điện đều có những dãy phòng dài mười một gian, mỗi gian dùng ván chắn ngang. Hai dãy phòng này dành cho các bậc vương công đại thần ngồi xem hát. Lại từ đây tiến về hướng nam, ta tới hồ Côn Minh. Bước dọc theo bức tường đông mà đi bộ chừng hai dặm đường ta gặp cửa cung môn, và một cái bia đá dựng ngay bên mé tả.

Cái bia này gọi là Chức Nữ thạch, cao có tới bốn, năm thước, dựng lên từ năm Giáp Thân. Còn mé hữu cửa cung, một con trâu đồng nằm trên mặt đất, dài bốn, năm thước, được đặt tên là Khiên Ngưu.

Đối diện cửa cung môn, một cái cầu tàu xây trên bờ Bạch Thạch hà dùng làm chỗ cặp thuyền du ngoạn trên hồ Côn Minh.

Dọc theo hồ Côn Minh, đi về hướng tây, ta gặp một cây cầu mười bảy nhịp. Đi qua cầu, tiến về hướng bắc, ta thấy một cái miếu, đó là miếu Long Vương. Cột miếu hai bên có treo đôi câu đối như sau:

Thiên ngoại thị ngân hà yên ba uyển chuyên.

Vân tiền khai thuỷ ốc, hướng vũ phi vi

Ba mặt đông tây nam ngoài cổng miếu, đều có dựng bia đá. Đằng sau miếu là Hàm Hư đường. Phía sau ngôi đường này, lại là Côn Minh hồ. Về phía tây, đối diện với hồ là Ngọc Tuyền sơn...

Phong cảnh của vườn Di Hoà đại khái là như thế. Trong vườn có nhà máy điện, đốt đèn điện, có đường sắt, có tàu thuỷ chạy hơi nước.

Cứ mỗi một nơi, đều có đến vài chục viên tổng biện, bang biện uỷ viên, quá nửa đều là người Mãn.

Về sau, khi Hoàng thái hậu đem Quang Tự hoàng đế vả hoàng hậu vào ở trong vườn, thì chỉ duy có tiền hoả thực (tiền bếp) mà đã lên tới một vạn hai ngàn quan tiền mỗi ngày...

Kiến tạo khu vườn Di Hoà mục đích để đợi ngày lễ vạn thọ của Hoàng thái hậu, mời bà vào du ngoạn mong làm vui lòng bà. Bởi thế ban đốc công phải cố làm xong vào năm Quang Tự thứ mười chín, tức là năm trước khi Từ Hi thái hậu vừa đúng sáu mươi tuổi.

Hồi 157

TRUNG NHẬT CHIẾN TRANH

Di Hoà viên làm xong năm thứ mười chín Quang Tự. Qua năm sau tức năm thứ hai mươi, lễ vạn thọ của Từ Hi thái hậu sáu mươi tuổi được tổ chức trọng thể.

Bọn Vinh Lộc và Dịch Tôn cầm đầu đám vương công đại thần vào triều tâu bày với Hoàng thái hậu trù bị đại điển (lễ lớn) để khánh hạ (ăn mừng).

Nhưng không ngờ, tháng sáu năm Giáp ngọ, Quang Tự hoàng đế bỗng khai chiến với Nhật Bản. Nguyên nhân cuộc đại chiến này như sau: Triều Tiên vốn là một thuộc quốc của Trung Quốc từ trước. Sau khi Lý Hi lên làm vua nước này, ông vua cha là Lý Thị Ung vẫn thường can dự vào triều chính. Vì thế có chuyện lủng củng, xích mích giữa tình cha con của họ Lý.

Thấy vậy, Hi bèn phong cho vua cha làm Đại Viện Quân, chủ đích là để cho ông đừng can dự vào triều chính nữa. Nhưng Hi không ngờ là cha mình, từ khi được phong tước như vậy, lại càng lộng hành hơn.

Do đó, triều đình Triều Tiên văn võ bá quan tự nhiên chia thành hai đảng, kình chống nhau, khuynh loát nhau. Vua Triều Tiên tức Lý Hi chẳng còn biết cách nào hơn dâng biểu vào Trung Quốc cáo cấp.

Từ Hi thái hậu thấy tờ sớ của Triều Tiên, lập tức sai Đề đốc Ngô Triệu Hữu, hiệp cùng Đồng tri Viên Thế Khải đem thẳng quân binh vào cung đinh Triều Tiên, lấy danh nghĩa là thế nhà vua dẹp nội loạn.

Chưa hết, Thái hậu còn sai thêm Ngô Đại Trưng, Khánh Dụ, Tục Xương, biện lý mọi việc sau khi đã bình định xong Triều Tiên, mặt khác, hạ dụ cho Lý Hồng Chương điều động thuyền binh, mang theo thuỷ sư đề đốc Đinh Nhữ Xương rầm rộ kéo tới Triều Tiên để tính chuyện bảo hộ.

Quân đội Trung Hoa kéo vào Triều Tiên, bắt trói Đại Viện Quân điệu về Bắc Kinh. Từ Hi thái hậu truyền dụ đem giam vào Bảo đình.

Vua Triều Tiên không ngờ câu chuyện lại nghiêm trọng đến thế, lúc này quả đã hối hận vô cùng. Tình phụ tử dù sao vẫn còn mang nặng trong lòng. Bởi vậy. Hi lại dâng biểu lên triều đình nhà Thanh xin phóng thích cha mình.

Lại một việc không ngờ nữa là khi Đại Viện Quân được thả về nước, ông ta liền sai người ngấm ngầm liên lạc với Nhật Bản, lén ước với Nhật cả một chương trình hành động lớn.

Được cơ hội ngàn năm một thuở, Nhật Bản lập tức sai Y Đằng Bác Văn sang Thiên Tân thương lượng với Lý Hồng Chương về vụ Triều Tiên. Bác Văn bảo Chương là bọn Ngô Triệu Trưng, Viên Thế Khải đến bảo hộ Triều Tiên đã cự tuyệt Nhật Bản, bởi vậy, yêu cầu Trung Quốc cho gọi ngay Trưng và Khải về trừng trị.

Trung Quốc và Nhật, hai bên thương lượng mấy hôm, kết qua là Trung Quốc phải theo ý kiên Nhật, mặt khác còn phải ký thêm một hiệp ước Trung - Nhật, đồng gởi quân sang bảo hộ Triều Tiên.

Chính vì hiệp ước này, nên về sau người ta thường thấy quân đội hai bên xung đột với nhau. Mầm hoạ của cuộc Trung - Nhật đại chiến đã nảy ngay từ đó.

Mọi chuyển biến bên ngoài thì như vậy, bên trong cung đình nhà Thanh còn nhiều điều rối rắm khác. Mà quan trọng nhất là việc bất hoà giữa Từ Hi thái hậu và Quang Tự hoàng đế.

Lúc sửa soạn làm lễ đại hôn của Quang Tự, thì theo ý hoàng đế, ngài định chọn hai cô gái của Giang Tây tuần phủ Đức Hinh kia, trong khi Từ Hi thái hậu lại quyết tuyển đứa cháu gái của mình tức là con gái của người anh Quế Tường làm Hoàng hậu cho nhà vua.

Ý định của thái hậu như thế, bà bèn lén đưa ngọc như ý cho con gái Quế Tường. Quang Tự hoàng đế tức mình lắm, nhất định không chịu, bèn cố ý đánh rớt, khiến ngọc như ý vỡ tan tành như cám vụn.

Nhưng rốt cuộc, con gái Quế Tường vẫn làm hoàng hậu, còn hai người con gái của Đức Hinh chỉ được phong làm Quý phi: một là Cẩn quý phi, một là Trân quý phi.

Việc trớ trêu thêm nữa là tuy có đủ ba người đẹp bên cạnh nhưng Quang Tự lại chỉ yêu tha thiết mỗi một Trân quý phi. Hoàng hậu cùng một phe với hoàng thái hậu, có lẽ cũng vì thế mà Quang Tự không muốn lui tới tình tự, cuối cùng gần như lãnh đạm thờ ơ, không có một chút nào tình nghĩa vợ chồng!

Và cũng vì vậy, Hoàng thái hậu và hoàng hậu đâm ra thù ghét Trân quý phi đến xương tuỷ. Tuy nhiên, Quang Tự hoàng đế đã tới tuổi trưởng thành, hoàng thái hậu không có cách gì giữ mãi quyền chính về mình mà không trao cho nhà vua, chỉ phải cái Quang Tự hoàng đế hình như người không có thời, kiếp vận thiếu hẳn may mắn, việc nước ngày càng hỏng nát, vấn đề đối ngoại ngày càng cấp bách.

Bọn đại thần trong triều đình đều liên lạc với Lý Liên Anh hợp cùng đảng với thái hậu. Duy chỉ còn có sư phó ông Đồng Hoà là còn có lòng trung, đem hết sức phò tá nhà vua mà thôi.

Hồi đó, ảnh hưởng của Nhật Bản càng ngày càng bành trướng ở Triều Tiên. Bọn thần tử Triều Tiên vốn đã chia làm hai đảng: Độc Lập và Sự Đại, sau lại còn thêm một đảng gọi là đảng Đông Học.

Thế lực của Đông Học đảng rất mạnh. Đảng này khơi sự, do hai đường Toàn La và Trung Thanh, đánh thốc tới Hán Thành.

Tả nghị chính là Phác Vinh Hiếu, nguyên là thủ lãnh của đảng Độc Lập, ỷ vào thế giúp đỡ của Nhật Bản, vẫn thường nuôi cái ý ly khai Trung Quốc.

Hiếu chỉ ngại có Trung Quốc thông thương uỷ viên là Viên Thế Khải thời thường ở bên cạnh giám sát mình, cho nên chưa dám động thủ. Nhưng về sau, được tin đảng Đông Học khởi sự, Hiếu bèn hạ lệnh đánh thốc vào vương cung, đốt chết tiêu Mân phi.

Mẫn phi vốn là người đẹp số một của trần gian này. Người anh ruột Mẫn phi tên là Mẫn Vịnh Tuấn vội chạy tới nha môn của Viên Thế Khải khóc lóc tố cáo, và khẩn cầu Trung Quốc phát binh báo thù cho em mình.

Viên Thế Khải đánh một công điện gấp cho Lý Hồng Chương, một mặt thông tri cho Nhật Bản biết chuyện này, đồng thời, huy động cấp kỳ toàn thể thuỷ quân, hướng ngả Nhân Xuyên Triều Tiên tiến phát, còn một mặt khác điều động lục quân kéo tới đồn trú tại chân núi Nha Sơn trong địa phận Triều Tiên.

Tướng Nhật tên là Đại Ô Khuê Giới đem chuyện quân Thanh xông vào Triều Tiên báo cáo với Chính phủ Nhật Bản. Tức thì Chính phủ Nhật lên tiếng cật vấn quốc vương Triều Tiên, nhất là về điểm: như thế Triều Tiên có phải là quốc gia độc lập không?

Quốc vương Triều Tiên sợ oai thế của Nhật Bản, không dám không nhận. Thế là Đại Ô Khuê Giới thông triều cho Trung Quốc trân trọng yêu cầu rút quân ra khỏi Triều Tiên cấp kỳ.

Viên Thế Khải đời nào chịu nước lép, bèn điện cáo gấp về cho Lý Hồng Chương, Chương bèn căn cứ vào hiệp ước Thiên Tân hồi nọ, yêu cầu cả hai nước Nhật cũng như Trung đồng thời lui quân. Nhật Bản không thèm trả lời. Lý Hồng Chương đâm lo ngại bèn lục tục tăng quân, nườm nượp kéo tới Triều Tiên để phòng bị bất trắc. Mặt khác, Chương thấy người Nhật có ý ghét Viên Thế Khải, bèn gọi Khải về Phụng Thiên, để thay thế bằng Vệ Nhữ Quý với một cánh quân hùng hậu hơn, công nghẹt cả Bình Nhưỡng. Để cho sự bố phòng được chu đáo, Chương tăng thêm chi quân của Mã Ngọc Côn đồn trú tại Nghĩa Chân có Diệp Chí Siêu giữ chức tướng tiên phong, trấn đóng tại Nha Sơn.

Bầy binh bố trận xong Chương tưởng thế là ung dung, không ngờ đùng một cái quân Nhật ồ ạt tấn công Nha Sơn khỏi cần tuyên chiến.

Tướng Thanh Diệp Chí Siêu chủ quan chẳng phòng bị gì nhiều, thế là chỉ một trận quân Siêu đã tan tành. Bộ quân đã vỡ, thuỷ quân đồn trú tại Phong đảo cũng co giò chạy. Tin bại trận chạy như một luồng điện về Bắc Kinh.

Quang Tự hoàng đế bị một cú bất ngờ bối rối hoang mang đến cùng độ, chẳng còn có chủ kiến gì nữa. Ngài vội chạy vào yết kiến Thái hậu.

Đã từ lâu rồi Quang Tự hoàng đế sủng ái hai nàng phi là Cẩn phi và Trân phi, cho nên hoàng hậu ghen tức thường chạy tới trước mặt Hoàng thái hậu tố cáo khóc lóc. Do Thái hậu đã sẵn không vui, nay thấy Quang Tự hoàng đế chạy vào hỏi ý về quân tình tại Nha Sơn thì bà cười nhạt một tiếng rồi bĩu môi mai mỉa:

- Ta đâu dám bàn tính đến chuyện đó? Sao hoàng đế không phái người thân tín của hoàng đế ra mà thương lượng điều đình?

Quang Tự hoàng đế bẽ bàng quá, vội trở về thư phòng triệu kiến sư phó ông Đồng Hoà kể qua việc quân tình ngoài biên ải, đồng thời cả lời cười mỉa của Thái hậu cho sư phó nghe.

Sư phó ông Đồng Hoà nghe rõ ràng gốc ngọn câu chuyện biết rằng Hoàng đế vốn tính trung hậu, nên trên thì bị hoàng thái hậu dùng quyền lực áp chế, dưới thì bị bọn thân vương thái giám bao vây lừa dối, càng cảm thấy thương ngài vô hạn.

Hoà bèn tâu:

- Hiện nay thời cuộc bên ngoài thật hết sức khó khăn mà bên trong lại nhiều chuyện. Hoàng thượng cần phải độc đoán mà chấn khởi kỷ cương triều đình lại một phen, mong tạo lập sự nghiệp oanh liệt mới được. Hoàng thượng hãy thu hồi đại chính của quốc gia vào tay, lúc đó mới có thể trấn phục được bọn bày tôi bên dưới. Chuyện này lũ Nhật cậy mạnh dấy binh, xin Hoàng thượng hạ lệnh hưng sư đánh tan lũ chúng.

Đại thắng chuyến này sẽ là dịp Hoàng thượng lập lại được oai quyền của mình trong cũng như ngoài. Và lúc đó cũng còn là lúc khỏi cần phải để tâm lo lắng quá nhiều về Thái hậu.

Quang Tự hoàng đế nghe lời ông Đồng Hoà, muốn khôi phục lại quyền hành của mình, bèn truyền dụ cho Lý Hồng Chương tích cực chuẩn bị chiến tranh. Chương nhận chỉ dụ trong lòng thực hết sức băn khoăn và tất nhiên không vừa ý nhất là tại chuyện bao nhiêu kinh phí của Hải quân, Hoàng thái hậu đã vét sạch để xây cất Di Hoà viên, song lệnh của Hoàng đế, Chương chẳng lẽ dám trái.

Chương bèn điều động hai tướng Nhiếp Quý Lâm và Tả Bảo Quý đem quân tới cứu ứng. Không ngờ quân của Lâm đại bại mà tướng Quý thì bị chết tại trận tiền.

Lục quân đã bất lợi, Lý Hồng Chương tính dùng thuỷ quân tiến đánh. Lúc này hải đội của Nhật Bản đã đánh vào Nhân Xuyên. Chương tức tốc truyền lệnh cho đề đốc Đinh Nhữ Xương điều động hải quân xông lên cứu viện, chiến thuyền của Trung Quốc lúc đó gồm có mười hai chiếc: Đính Viễn, Trấn Viễn, Lai Viễn, Tĩnh Viễn, Trí Viễn, Dương Oai, Liêu Dũng, Bình Viễn, Quang Giáp, Tế Viễn... Ngoài ra còn có tám chiếc thuỷ lôi đĩnh, lực lượng còn đủ để đương đầu với Nhật.

Đề đốc Đinh Nhữ Xương thấy đại quân Nhật tiến chiếm cửa bể Nhân Xuyên bèn nghĩ kế bao vây toàn bộ cửa bể này, nên vội xin chỉ thị của Lý Hồng Chương. Chương không dám tự quyết định, vội xin lệnh nha môn Tổng đốc.

Ban đại thần lúc đó được tin mở cuộc họp suốt nửa ngày để ra ý kiến với bốn chữ lớn: "Tương cơ hành sự" (tuỳ theo cơ hội thuận tiện mà làm việc). Khi bốn chữ về, tới đại bản doanh cũng chính là lúc bộ tham mưu đang sửa soạn bao vây hải cảng.

Hạm đội Nhật Bản chiếm xong cửa Nhân Xuyên xông vào sông Áp Lục. Đinh Nhữ Xương hạ lệnh khai pháo. Lúc này chiến thuyền của Trung Quốc còn cách hạm đội của Nhật Bản những chín dặm. Đại bác nổ ầm ầm. Nhưng bao nhiêu đạn đều rơi xuống bể, chứ không làm vỡ một mảnh ván nhỏ nào của chiến hạm Nhật.

Khoảng cách đôi bên mỗi lúc một ngắn. Giữa lúc Đề đốc Đinh Nhữ Xương đang định ra lệnh truy nã đại bác đợt nhì thì chiến thuyền du kích của Nhật đã mở máy phóng chạy như bay qua mặt sau, vây kín hạm đội Trung Quốc vào trung tâm rồi tức tốc trước sau giáp chiến.

Hạm đội Trung Quốc bị kẹt vào giữa, không còn lối nào thoát ra ngoài, chỉ còn cách tử chiến may ra có cơ tự thoát.

Súng nổ ỳ ùng, khói toả đen khắp cả một vùng bể rộng lớn. Sóng bể nổi lên như núi trắng xoá tiếp liền với nền trời trắng bệch tận phương xa.

Bị lâm vào mê hồn trận, chiến thuyền Trung Quốc chẳng bao lâu đã bị chia năm xẻ bảy, đầu đuôi không cứu nhau được.

Đề đốc Đinh Nhữ Xương ngồi trên soái hạm, phóng tầm mắt chỉ huy ra xa, chỉ thấy chiếc Trí Viễn bắn nhau kịch liệt với chiến thuyền Nhật, rồi bỗng chiến thuyền Nhật mở hết tốc lực xông thẳng vào thuyền Trí Viễn. Một tiếng nổ long trời, sóng nước vọt cao lên như núi rồi ầm ầm đổ xuống.

Thật đáng thương, chiếc Trí Viễn cả người lẫn thuyền chỉ một phút sau đã chìm nghỉm trong lòng đại dương không còn một tăm hơi vết tích nào nữa. Lân Vĩnh Thăng chỉ huy chiếc Kính Viễn chạy ở bên cạnh Trí Viễn, khi nhô lên lúc hụp xuống giữa khoảng sóng cao hơn núi, bọt trắng như tuyết, bắn trúng một thuyền địch vỡ toang khi chính nó cũng trúng một phát đạn ngư lôi tử thương, sườn toác ra, từ từ sủi bọt chìm dần xuống đáy bể.

Những chiến thuyền còn lại chiến đấu trong tuyệt vọng bị hạm đội Nhật xiết chặt vòng vây và lần lượt bị bắt mang đi.

Chiến thuyền duy nhất chạy thoát trong trận này là chiếc soái hạm của Đinh Nhữ Xương.

Thoát nạn, Xương vội cho chạy về bỏ neo ngoài cửa bể Lữ Thuận, bên cạnh đảo Lưu Công, một mặt đánh điện hoả tốc về báo cáo quân tình cho Lý Hồng Chương.

Về phía Nhật Bản, Minh Trị thiên hoàng nhân được tiệp báo liên tiếp bèn đích thân huy động đại, đội người ngựa đồn trú tại Quảng đảo, một mặt hạ lệnh cho Đại tướng lục quân là Sơn Hữu Minh chia quân tiến đánh Lữ Thuận và cửa Uy Hải, suốt một dọc bờ biển mục đích để vây khốn tàn quân Trung Quốc trong hải cảng để bắt sống.

Khi đoàn hải quân lục chiến đổ bộ được lên bờ, binh sĩ Nhật ào ạt xông vào công phá các pháo đài. Chiếm được các pháo đài, đoàn quân Nhật Bản quay họng súng lại nã trái pháo vào hạm đội Trung Quốc.

Thế là chỉ trong vài tiếng đồng hồ, toàn bộ hạm đội Trung Quốc đã tan tành như xác pháo, buồm lái trôi lềnh bềnh trên mặt bể trông thảm hại không thể nào tả xiết.

Trước tình cảnh này một viên chỉ huy pháo binh trên chiến thuyền Trấn Viễn tên gọi Lê Nguyên Hồng không chịu nổi bị thương, hét to lên một tiếng, co chân nhảy ùm xuống biển khơi tự vẫn. Nào ngờ khi Hồng lao mình xuống biển, có người trên chiếc Phi Ưng của Nhật Bản trông thấy. Thế là một chiếc ca nô được hạ thuỷ và xả hết tốc lực đến cứu Hồng. Bọn lính Nhật vớt Hồng lên, không làm khó dễ gì Hồng lại còn đưa Hồng về đảo Lưu Công.

Lê Nguyên Hồng tới đảo Lưu Công thấy Đinh Nhữ Xương ngồi trên soái hạm mãi đằng xa, trên mũi hạm có treo chiếc cờ trắng tự bao giờ! Hồng hỏi dò mới biết Xương đã viết thư cho viên Đại tướng Nhật Bản, yêu cầu bảo toàn tính mạng cho binh sĩ toàn thuyền rồi tự uống thuốc độc chết.

Đại thắng mấy trận liền, quân Nhật tiến vào nội địa Trung Quốc như vũ bão. Lục quân hết ngày này qua ngày khác báo tiệp, nào chiếm Cửu Liên thành, nào Phụng Hoàng thành, nào hãm Cái Châu, nào Đại Liên, nào Tu Nghiêm, nào Hải Thành, nào Lữ Thuận...

Tin thất bại ngoài biên cương, tin thất thủ liên tiếp bao nhiêu thành trì chạy về kinh như bươm bướm. Quang Tự hoàng đế hốt hoảng đến cực độ vội cho mời sư phó ông Đồng Hoà vào cung hỏi kế.

Hoà lúc này cũng vô kế khả thi. Còn đám văn võ bá quan khắp triều thì kẻ nào cũng lo riêng mạng mình, sợ riêng cho gia đình mình, đều một loạt quỳ xuống lậy xin Hoàng đế giảng hoà. Chẳng phải nói ai, ngay cả đến Từ Hi thái hậu cũng oán giận Quang Tự hoàng đế đã nghe lời ông Đông Hoà khai chiến với Nhật Bản một cách dại dột.

Thái hậu nói thêm, vừa nhiếc móc, vừa bó buộc Quang Tự hoàng đế phải theo ý kiến mọi người.

- Hoàng thượng nghe lời ông sư phó khai chiến với Nhật, nay đã thành chuyện bại quân nhục nước, ấy thế mà còn không mau mau giảng hoà với họ, ý còn muốn đọi đến khi giặc đến chân thành cắt đất xin hàng nữa chăng. Ôi! Lúc đó hoàng thượng dù có hối, ta e đã quá muộn rồi!

Quang Tự hoàng đế đã từ lâu thường nghe những lời ỉ oi, nhiếc móc tương tự như câu nói trên, hơn nữa lại thấy mình lực lượng quả đơn chiếc khó thể cưỡng lại mọi người, đành chỉ còn cách sai Lý Hồng Chương làm nghị hoà toàn quyền đại thần mở một cuộc hoà đàm với sứ thần Nhật Bản là Y Đằng Bác Văn. Đây là cuộc nghị hoà lần thứ nhất giữa Nhật và Trung Hoa trong cuộc xung đột còn dài về sau.

Kết quả cuộc hoà đàm ra sao? Trung Quốc bỏ Triều Tiên, cắt Đài Loan cho Nhật, bồi thường chiến phí, chút xíu nữa mất luôn cả Đông Tam tỉnh.

Sở dĩ Đông Tam tỉnh không mất là tại ba nước Nga, Đức, Pháp buộc Nhật phải trả lại cho Trung Hoa.

Từ khi thất bại trong cuộc chiến với Nhật, Quang Tự hoàng đế đâm ra chán nản sự đời. Mọi việc đại sự của triều đình, Ngài chẳng thèm để ý tới nữa, và lại mời hoàng thái hậu buông rèm nghe việc triều chính như cũ. Ngài quay ẩn mình trong thâm cung, suốt ngày mua vui với người đẹp Cẩn phi, Trân phi.

Hồi đó vào giữa lúc giao thời xuân hạ, Quang Tự suốt ngày giấu kín mình trong cung sâu, cũng có lúc cảm thấy buồn. Ngài truyền chỉ ngày mai bày giá qua chơi Tây Uyển.

Vườn Tây Uyển còn có tên là Tây Hải Tử, chu vi tới vài dặm, phía trên vườn, bắc một chiếc cầu đá dài tới năm sáu trăm bước. Cầu toàn bằng đá trắng, lan can, chấn song đều trạm trổ hết sức tinh vi.

Ở hai mặt đông cũng như tây cầu, có xây hai trụ cổng nghi môn đứng cao nghệu, trụ mé đông thì gọi Ngọc đông, còn trụ mé tây thì gọi Kim ngao.

Giữa hồ nước, nổi hẳn lên một bãi đất cao, gọi tên là Quỳnh Hoa đảo, bên trên, xây cất nào lâu đài, nào đình gác nguy nga san sát. Người ta cũng thấy một chiếc nữa cũng bằng đá, tiếp thông với đảo Quỳnh Hoa.

Ở hai mặt nam và bắc cầu này cũng có hai cái trụ nghi môn, bên trên đầu mỗi trụ có khắc một cái biển vuông, một biển đề hai chữ "Tích Thuý" còn một biển đề hai chữ "Đôi Vân".

Giữa hồ, trên đảo Quỳnh Hoa, về mặt nam thì có Doanh Đài ở mặt bắc thì có Ngũ Long đình; còn Tiêu viên và Tử Quang các thì lại đối diện nhau và cách qua một con lạch nước.

Trong hồ, lá súng đội nước lên nhấp nhô, điểm những đoá hoa màu tím xinh khêu gợi. Rồi sen xanh ngào ngạt hương đưa, lộ lên cao ít đoá bạch liên trông trinh trắng như những thiếu nữ còn đương tuổi cấm cung.

Một vài tảng bèo cám xanh xanh, đo đỏ, trôi bập bềnh đó đây, bên cạnh mấy con vịt đang nhởn nhơ bơi lội trên mặt sóng lăn tăn, càng làm tăng phong cảnh hồ thêm phần thơ mộng. Chưa hết, trên ngọn cây, trong chòm lá biếc, đàn chim xanh ríu rít chuyền cành.

Đôi con chim oanh lông màu vàng khươm lên giọng hót líu lo rồi bỗng xoè đôi cánh bay vút lên không trung xa tít. Trong khi đó, đàn cá vàng đang nhởn nhơ đùa nhảy trên mặt hồ nước trong mát, làm cho mặt hồ vốn thường yên tĩnh bỗng xôn xao, ầm ỹ lên chốc lát, để rồi lại nằm im trong mơ mộng.

Nếu đứng xa một chút mà ngắm, thì toàn thể Tây Uyển chẳng khác gì một bức gấm thêu muôn sắc ngàn màu, hội đủ hết những cái đẹp của vũ trụ thiên nhiên vào nơi đây, mục đích hình như hoá công muốn dành riêng cho những giai nhân tuyệt sắc chốn nhân gian.

Người sau đã làm thơ ca tụng Tây Uyển như sau: (Tạm dịch)

Đảo thắm rừng xanh gác điệp trùng.

Khói mây sớm tối mịt mờ trông.

Cột treo buồm gấm bay quanh phượng.

Bệ nước sâu vàng uốn khúc long.

Dưới bóng cây râm hơi gió lặng.

Trước hiên yến tiệc rượu hương nồng.

Thân này ngờ tự trời kia xuống.

Dao đảo là đây mới lạ lùng?

Quang Tự hoàng đế giá hạnh Tây Uyển đúng vào một buổi sáng đẹp trời. Trên điện, yến tiệc đã bày biện sẵn sàng, nào là trân tu mỹ vị, nào là rượu ngon chén ngọc, tất cả đều đầy đủ cho một khung cảnh phú quý thần tiên.

Hồi 158

CÁI BÀN ĐÈN CỦA TÂY THÁI HẬU

Hôm đó, Quang Tự hoàng đế giá hạnh Tây Uyển. Trên điện đã bày yến sẵn sàng. Cẩn và Trân hai phi luân phiên chuốc chén, hầu hạ hoàng đế mặc sức vui say.

Đã từ hai chục năm, khi còn là một chú bé, Quang Tự hoàng đế được bế vào cung, ăn uống, ngủ nghi, chơi đùa, tất tất đều phải tuân theo ý Thái hậu, lúc nào cũng bị trói buộc vào thì khuôn phép, ra thì luật lệ, có bao giờ được cái cảnh tự do tự tại, tha hồ vui say, du ngoạn như hôm nay.

Bọn cung nữ và thái giám thấy Hoàng đế ngồi ngất ngưởng trên điện uống rượu mua vui bên cạnh người đẹp, cũng nháy nhau lẻn ra ngoài, ai lo chuyện người đó.

Có kẻ thì ra ngồi nhìn mặt nước phẳng lặng trên mặt hồ bên cạnh ngọn giả sơn, có kẻ lại chui vào trong bụi hoa, cạnh khóm trúc, trước hàng lan can vẽ rồng chạm phượng; lại cũng có những bọn túm ba tụm năm kéo nhau đi ngắm hoa đây đó, hoặc buông câu bắt cá, cười đùa khúc khích trên những phiến đá lớn ven hồ; và cũng còn có những bọn cùng nhau tựa cạnh bao lơn vui đùa ca hát buông những tiếng thầm kín hoặc véo von lên không trung giữa khoảng trời xanh mây biếc.

Quang Tự hoàng đế nhấp mấy chung rượu rồi thong thả đứng dậy, dắt tay hai nàng phi bước xuống điện, phía sau có một toán cung nữ và thái giám theo hầu.

Ngài bước chầm chậm qua phía trước mấy ngôi đình viện. Những đoá hoa xinh tươi thơm phức chạm vào mặt ngài như có ý ghẹo ngài. Mấy đọt cỏ non xanh khẽ lướt qua áo ngài, như thèm muốn giữ ngài lại nơi đây kẻo mất một giờ phút mê ly hiếm có giữa trần hoàn. Hết khóm hoa này tới hàng bông khác, chỗ nào cung chỉ thấy màu sắc là màu sắc.

Cất bước quanh quẩn một hồi, Quang Tự hoàng đế đã tới gác Tử Quang. Liếc mắt về phía đông, đầu ngọ tường vôi, ngài bỗng thấy dưới gốc cây hoa hạnh có đến vài chục tên cung nhân trải chăn trên thảm cỏ, dưới tàn hoa lá, ngồi xếp bằng cạnh nhau, vừa chuốc chén vừa ca hát, vô cùng cao hứng.

Bọn thái giám theo hầu hoàng đế đang tính chạy tới quát mắng, thì Quang Tự hoàng đế vội xua tay ngăn lại và dặn đừng làm rộn họ, đoạn ngài đem theo hai nàng phi đi vòng ra mé sau cây hoa hạnh lắng tai nghe trộm.

Bỗng một tiếng hát nhẹ nhàng êm ái vọng lên giữa không gian yên tịnh, có những tiếng vỗ tay gõ nhịp hoạ theo. Thì ra đó là tiếng ca của một con cung nữ người nhỏ nhắn xinh xinh.

Bài ca bắt đầu, Quang Tự hoàng đế không để sót một lời nào!

"1. Chứ nào tại nơi đâu gió xuân ương thứ cái váy tơ mịn màng?

Chứ này cái áo lụa, chứ này cái quần lụa, chứ này cái giải lụa mỏng manh rỡ ràng!

Phập! Phập! Phập phàng!

2. Chứ nào tại nơi đâu, trong đêm khuya, cái cặp môi son kia luông những thì thầm?

Chứ này sinh cái củ hành, chứ nây sinh cái củ tỏi, chứ nay sinh cái củ hẹ rủ tai nhau rì rầm.

Ký cẩm! Câm! Kỳ câm!

3. Chứ nào tại nơi đâu có cái vò mỹ tửu Uất Kim Hương lấy mãi tận Lan Lăng?

Chứ để cho ta cất chén mà nhắp, mà bút, mà nốc ngay bên cạnh cái con dao nung đỏ hừng.

Khó! Khó! ấy mới khó mần răng?

4. Chứ nào tại nơi đâu có cái làn tóc mây chải búi, điểm tô như trên Cung Quảng chị Hằng này?

Chứ kia trên đầu, cái làn tóc mây cao hai thước! Loã xoã lù xù phủ kín cái mặt dày!

Mọi! Mán! Mẹ Mán! Ngây ngây!

5. Chứ nào tại nơi đâu có cái cặp uyên ương đêm đêm đậu bên cái bức trướng tiêu kim?

Chứ kìa mây bay rồi mây chạy, nhưng mưa ở phương nào mưa vẫn bặt tin?

- Ôi! Cái giường! Giường đất! Còn khem!".

Quang Tự hoàng đế nghe xong bật cười. Bọn cung nữ nghe tiếng cười, giật mình nhớn nhác thì vừa lúc Quang Tự hoàng đế tay trái cặp tay Trân phi, tay phải khoác vai Cẩn phi, vẻ mặt vui tươi hí hửng đang thong thả bước đến.

Bọn cung nữ vội vàng quỳ xuống đón tiếp. Quang Tự hoàng đế truyền dụ cho phép bọn này khỏi phải giữ lễ, hãy cố lựa một bài tuyệt hay, tuyệt ngộ ca cho ngài nghe.

Bọn thái giám thấy Hoàng đế có ý muốn nghe hát, bèn chạy vội đi kiếm một chiếc ghế tiêu dao, đặt trên thảm cỏ xanh rờn, thỉnh ngài ngồi.

Trân phi cao hứng cũng truyền dụ mang tới cây đàn "Tam huyền cổ bản" để ca.

Giữa lúc sắp đàn định ca hát, bỗng thấy Lý Liên Anh hấp tấp chạy tới, quỳ xuống trước Quang Tự hoàng đế vội tâu:

- Thỉnh vạn tuế gia mau mau về cung? Lão Phật gia có xem một tờ sớ rất quan trọng, đang cần mời vạn tuế gia về bàn tính.

Quang Tự hoàng đế vốn sợ thái hậu, cho nên vừa nghe có lệnh truyền vội vàng bày giá trở về cung ngay.

Tây thái hậu lúc đó đang cùng với bọn đại thần, vương công xem một tập tấu chương đựng trong một cái hộp bằng giấy vàng tại điện Cần Chính, thấy Quang Tự hoàng đế bước vào bèn đưa tập tấu chương cho nhà vua.

Quang Tự hoàng đế xem thì ra đó là tờ sớ của Quân cơ đại thần Vinh Lộc, nội dung thỉnh Hoàng thái hậu rời gót ngọc vào Di Hoà viên để cử hành điển lễ khánh chúc vạn thọ.

Cứ mỗi lần ngồi bên cạnh Hoàng thái hậu duyệt xong tờ sớ nào, Quang Tự hoàng đế lại trả lại nguyên chỗ của nó, tức là lại đặt vào trong cái hộp bằng giấy vàng đó, mà chẳng nói một lời nào.

Đôn thân vương đứng chầu một bên thấy vậy, không muốn chờ lâu thêm nữa, bèn tâu thỉnh hoàng thượng và Hoàng thái hậu chuẩn y lời tấu của Vinh Lộc là vào quãng tháng mười cử hành đại điển vạn thọ.

Tây thái hậu nghe đoạn lắc đầu, xua tay lia lịa nói:

- Thôi! Thôi! Bọn ta đường đường là một nước Đại Thanh thế mà bị mấy thằng lùn Nhật Bản đánh bại, phải cắt đất bồi thường! Cái mặt ta đây cũng không còn vác lên nổi với thiên hạ, thì còn lòng nào mà đi dạo hoa viên nữa chứ?

Quang Tự hoàng đế biết đây là những chế giễu mai mỉa của Tây thái hậu, chi còn biết gục đầu xuống, miệng ngậm thinh như hến. Bầu không khí vô cùng nặng nề. Bọn đại thần bèn họp lại với nhau bàn tính. Họ thoả thuận với nhau thảo một đạo chỉ dụ đình chỉ việc khánh hạ, đệ trình lên hai cung rồi ban xuống cho thần dân. Tờ chỉ dụ như sau:

"Tháng mười năm nay, ngày khánh đản lục tuần của ta, khắp nước mừng vui, cùng cảm sâu niềm hoan lạc!

Đã đến ngày hoàng thượng đứa các thần công trong ngoài tới Vạn thọ sơn để làm lễ khánh hạ. Tất nhiên từ Đại nội đền Di Hoà viên, dọc đường đi qua, thần dân ai cũng muôn trần thiết kinh đàn, chưng bày lễ vật, để báo hiệu công đức.

Ta nhân khoảng Khang Hi, Càn Long, sùng long thịnh điển thành hiên để lại sau, hơn nữa, lại gặp lúc dân khang vật phụ, bốn bể binh an, cho nên không thể chối từ, đành nhận lời mời của Hoàng thượng thụ hà tại Di Hoà viên.

Bất ý tháng sáu vừa qua bọn giặc lùn (Nhật Bản) gây hấn xâm phạm phiên trấn của ta, lại còn phá nát cả binh thuyền!

Bất đắc dĩ, ta phải hưng sư phạt tội, gây việc can qua, điều binh chinh tiễu. Do đó sinh linh cả đôi nước đều phải chịu cái cảnh máu sông xương núi.

Cứ mỗi lần nghĩ tới ta càng lấy làm xót thương buồn bã. Trước đây, khi cám cảnh khổ đau của sĩ tốt lúc lâm trận, ta đã đặc cách ban phát ba trăm vạn lạng vàng của kho, mục đích để tư trợ, lân tuất mong hàn gắn cảnh đau lòng.

Bởi thế cho nên dù cái ngày khánh đản đa gần kề thử hỏi còn có lòng nào mà du ngoạn vui chơi và nhận những lời mừng chúc nơi Đài Lai?

Vậy nếu có gọi là đôi chút điển lễ của ngày khánh đản đi chăng nữa, thì cũng chỉ nên cử hành ngay tại trong cung mà thôi. Tất cả công cuộc mừng chúc tại Di Hoà viên phải tức khắc đình chi.

Khâm thử".

Kính vâng chỉ ý của hoàng thái hậu như trên, lòng Trẫm thực có chỗ không yên! Đã đôi ba lần, Trẫm cố gắng nài xin, nhưng chưa được hoàng thái hậu vui lòng chấp thuận.

Với thịnh đức ấy, Trẫm thực chẳng dám chẳng tuân theo từ ý. Bởi thế, Trẫm, đặc dụ cho toàn thể thần dân trong cũng như ngoài đều phải nhất tề hiểu rô.

Khâm thử".

Quang Tự hoàng đế thấy vẻ mặt của Tây thái hậu hầm hầm tức giận, và truyền dụ đình chỉ cuộc khánh điển, nhất định không thèm tới Di Hoà viên, thì trong lòng buồn bã không vui!

Ngài bèn tìm lời ngon lẽ ngọt để an ủi thái hậu:

- Hiện nay, Thanh triều ta đã cùng Nhật Bản giảng hoà, quốc gia đã lại thanh bình. Tuy rằng đã hạ dụ đình chỉ khánh điển, song cũng vẫn xin Lão Phật gia cho phép thần dân dâng lễ thượng thọ. Đúng ngày hôm đó, kính xin Lão Phật gia vui lòng qua chơi bên Di Hoà viên như cũ!

Đôn thân vương đứng một bên cũng lên tiếng phụ hoạ:

- Thực ta khó có được một vị chủ tử có lòng hiếu hảo đến thế! Chỉ kính mong Lão Phật gia rộng lượng cho phép bọn nô tài, đến đúng ngày vạn thọ của Lão Phật gia, được vào trong Di Hoà viên để dập đầu chúc lạy trước Lão Phật Gia.

Bọn nô tài cũng xin Thái hậu hôm đó rộng lượng khai ân, thưởng cho họ được đi thăm dạo trong vườn một lượt.

Trước những lời lẽ khôn khéo của Đôn Than Vương, lòng giận tức của Thái hậu quả đã có nhiều phần chuyển đổi.

Tự nhiên, bà cảm thấy lòng mình nhẹ hẳn đi. Bởi thế bà se sẽ gật đầu, tỏ ý đã ưng thuận. Giữa lúc đó thì một tên tiểu thái giám bước vào, kính thỉnh Lão Phật gia dùng cao Phúc thọ. Thế là một bọn cung nữ hầu hạ đưa Thái hậu vào thâm cung.

Cao Phúc thọ là cao gì vậy? Chẳng phải cao gì đâu chính là thuốc phiện đó.

Từ cuối đời Đạo Quang, Trung Quốc thua trận, phải mở cửa bể ra thông thương với ngoại quốc. Người Anh liền kìn kìn chở thuốc phiện vào khắp nước để bán lấy vàng và làm giàu.

Chẳng bao lâu quần chúng Trung Hoa "xực" phải cái "yến" này, thân càng gầy còm, vóc dáng càng ngày càng teo tóp, có kẻ chỉ còn lại có bộ xương trông thảm thê vô cùng.

Trong làng nghiền này, bỗng xuất hiện tại tỉnh Quảng Đông, một tay trứ danh về nấu yến, tên gọi Lục Tác Đồ. Yến do Đồ nấu thơm ngon lạ thường, không ai bắt chước nổi.

Nhờ đâu mà Đồ có biệt tài ấy? Trước hết, Đồ có một cái giếng nước đã trong, lại có một màu xanh xanh trông đẹp lạ, nhất là khi múc một ít đổ vào trong một cái bát kiểu Giang Tây. Phải múc nước giếng này đem nấu yến thì yến mới ngon thơm! Thay bằng một loại nước giếng khác, dù trong ngọt đến đâu cũng chẳng có cách gì làm cho yến thơm được như vậy! Đó mới là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai vì Đồ có một phương pháp bí truyền trong kỹ thuật nấu yến. Bí pháp này, ngay cả đến con trai cũng không được Đồ truyền dạy. Người duy nhất được biết là bà Quách thị, vợ Đồ.

Hồi đó, các phú gia, đại hộ tỉnh Quảng Đông, tất cả đều phải nhờ bà Quách tới nấu yến giùm cho. Cứ mỗi lần nấu như vậy là phải trả hai lạng bạc tiền công. Nhờ đó, bà Quách lượm được khá nhiều tiền bạc.

Cái thứ yến hảo hạng số một Quảng Đông mà viên Tổng đốc Lưỡng Quảng thấy ngon thơm quá, bèn sai bà Quách nấu một nồi bự, xong rồi đưa lên kinh để hiếu kính Thái hậu.

Tây thái hậu dùng xong khen lấy khen lấy khen để, đặt ngay cho cái tước hiệu "Cao Phúc thọ".

Từ đó trở về sau, kẻ nào được làm Tổng đốc Lưỡng Quảng cần phải biết một lệ quy đặc biệt: đó là cứ hằng tháng, bắt buộc phải nấu cho bằng được một nồi yến thơm ngon này để đưa về kinh hiếu kính thái hậu.

Điểm đặc biệt nữa là Thái hậu còn truyền dụ bắt thưởng cho bà Quách, mỗi tháng hai trăm lạng bạc. Cũng vì vậy, danh tiếng Quách thị nổi lên cao như núi, đến nỗi từ anh quan đại thần đến tên cùng đinh trong ngõ hẻm, ai cũng đều biết cả.

Thế là khắp các tỉnh Trung Quốc, bọn văn quan võ tướng cỡ bự, có duyên nợ với ả phù dung, thế nào cũng phải nhờ cho bằng được Quách thị nấu yến.

Nói đến chuyện Tây thái hậu dùng yến, không ai có thể quên cái dọc tẩu trứ danh của bà.

Nên nhớ rằng dọc tẩu, bàn đèn, tiêm, móc lọ, be, chén, tất cả mọi đồ nghề lỉnh kỉnh, thảy đều từ Quảng Đông đưa về.

Cái dọc tẩu trứ danh của bà thái hậu bằng trúc - tất nhiên phải là thứ trúc đặc biệt, ví dụ như trúc hoá long - to chỉ bằng cổ tay đứa trẻ mới sinh. Miệng tẩu bằng một ống nhỏ gắn ngay ở đầu. Dọc tẩu này có một cái giá. Lúc hút, Thái hậu đặt dọc tẩu lên trên giá, cao thấp, xa gần, tuỳ ý muốn để thế nào cũng được.

Khi một tên tiểu thái giám tiêm thuốc cho Thái hậu, hắn phải quỳ xuống đất, nâng cái dọc tẩu hơ trên ngọn đèn dầu lạc để cho bà chỉ còn mỗi việc là ngậm vào ống hút.

Thực ra dọc tẩu của Tây thái hậu có khá nhiều. Nhưng trong số đó, duy chỉ có cái tẩu của Hàm Phong hoàng đế thuở nọ để lại cho bà là quý giá nhất. Lâu năm lâu tháng, cái vỏ trúc của dọc tẩu này đã lên nước, một màu hồng nhuận sáng trơn, mịn, trông chẳng khác gì màu hồng ngọc.

Một hôm, Thái hậu đã trở về cung, giữa lúc đang dùng yến, bỗng thấy Lý Đại cô nương rón rén bước vào, bò sát lại gần rỉ tai bà mấy câu, thì thầm chẳng biết những gì mà mặt bà tự nhiên biến sắc.

Thực thế, thái hậu đã nổi giận, giận đến nỗi cái dọc tẩu đang cầm trong tay bị bà quăng mạnh xuống đất, phát lên một tiếng "rắc", thế là cái dọc tẩu gãy nát, cục thuốc bự cũng vương vãi khắp mặt đất!

Lý Liên Anh lúc đó cũng có mặt vội chạy tới chỗ cái dọc tẩu gãy nát, lượm lên mấy mảnh, đoạn bảo một tên tiểu thái giám đi gọi thị vệ vào đem ngay ra phố giao cho tiệm đồ cổ Phúc Kỳ sửa gấp. Thái hậu như chưa hả giận còn ném tiếp cái tiêm xuống chiếu, và ngồi nhỏm dậy, quát lớn:

- Bắt điệu ngay con tinh hồ ly đó lại cho tao! Phải chính tao hỏi con khốn nạn đó mới được!

Nguyên Lý cô nương vốn là em gái của Lý Liên Anh. Chỉ vì thấy anh mình được thái hậu sủng ái, nên nàng ta mè nheo anh phải cho mình vào cung chơi cho bằng được. Anh không những dám đưa em gái mình vào cung cấm, mà còn cả gan đưa thẳng vào gặp Thái hậu nữa là khác.

Bình sinh, Tây thái hậu rất thích bọn con gái. Phàm bọn cung quyến thường hầu hạ, trò chuyện vui cười bên cạnh thái hậu, quá nửa đều là mấy cô cách trong Tôn Thất (họ nhà vua) nếu không thì cũng phải là những cô nương trẻ đẹp được chọn lựa trong số gia quyến ba Kỳ như Chính Hoàng, Nhương Hoàng, Chính Bạch.

Ngoài các cô con gái trẻ măng này còn có một số ít mụ sồn sồn, nhưng lại lanh lẹ hết cỡ, giỏi nói tài cười, ít người sánh kịp, hoặc còn có cái tài thư, hoạ, cầm, kỳ, nhởn nhơ suốt ngày ở bên cạnh thái hậu để chờ lệnh sai khiến. Trường hợp hiếm hoi một số bà mệnh phụ có chồng thì cứ vài ba tháng, thái hậu lại cho về thăm nhà một lần.

Hôm đó, Tây thái hậu thấy em gái Lý Liên Anh, người đã đẹp ăn nói lại lanh lẹ, duyên dáng, thế là bà giữ lại ngay trong cung, coi như một cung quyến...

Hoàng hậu của Quang Tự hoàng đế nguyên là cháu ruột Tây thái hậu, điều rắc rối là hoàng đế lại chán ghét hoàng hậu. Do đó, làm gì ngài cũng thường giấu, thường tránh bọn tai mắt của hoàng hậu, trái lại chỉ nói cho hai phi Cẩn và Trân mà thôi. Đã thế ngài lại hay tới cung của Trân phi để ăn ngủ tại đây. Chính ở chỗ kẻ ấm người lạnh này, hoàng hậu không khỏi ghen tức. Nàng hay chạy sang mách với Thái hậu. Thế là thái hậu bèn nghĩ ngay cho nàng một chủ kiến.

Tây thái hậu thường sai em gái Lý Liên Anh lảng vảng qua chơi bên cung hoàng đế để dò la tin tức, về báo cho bà nghe. Bọn cung nhân trong cung thái hậu đều gọi ả là Lý Đại. Được mật lệnh này, Lý Đại ngày ngày hầu hạ bên cạnh hoàng đế, đổi luôn cái tên đi, khiến Quang Tự hoàng đế cũng như Cẩn phi và Trân phi, chẳng ai biết ả Lý là tai mắt của thái hậu.

Một hôm, Quang Tự hoàng đế đem cả hai Cẩn và Trân phi sang Tây Uyển du ngoạn. Được tin này, Lý đại cô nương lén cho người về báo cáo với thái hậu và hoàng hậu.

Hoàng hậu lúc đó máu ghen nổi lên ngụt trời, vội chạy tới khóc lóc với thái hậu:

- Giữa lúc quốc gia nguy bách như thế này, vậy mà hoàng thượng vẫn một mực mê luyến nữ sắc; chẳng hỏi han chi tới triều chính. Ví thử từ đây ngài sinh ra hồn ám đắm say. há chẳng phải là cả một giang sơn gấm vóc, cả một triều đại hàng trăm năm xây dựng đã lọt vào tay một tên hôn quân chăng? Muôn ngàn lạy xin Lão Phật gia đứng làm chủ cho cứu vớt hoàng thượng ra khỏi cơn ác mộng này!

Thấy hoàng hậu tới cung khóc lóc, Tây thái hậu bèn bảo:

- Gia pháp của nhà Đại Thanh ta nay để đâu?

Chỉ một câu nói này thôi cũng đủ làm cho hoàng hậu tỉnh ngộ. Thế là hoàng hậu vội vã dập đầu trước Thái hậu và trở về cung.

Một mặt, Tây thái hậu mượn tiếng xem tấu chương, cho triệu hồi hoàng đế vào cung nội cấp ký. Thực ra, ngày thường thái hậu xem tấu chương có bao giờ gọi hoàng đế tới cùng xem đâu?

Bởi thế, nghe nói Thái hậu triệu mình tới để xem tấu chương, Quang Tự hoàng đế đã hiểu ngay có gì không ổn rồi! Khi gặp Thái hậu, quả nhiên thấy bà đầy mặt giận tức.

Và trong lúc nói chuyện, ngài thấy thường nói bóng nói gió, có ý khuyên ngải không nên đi du ngoạn hoa viên, tự tìm khoái lạc cho riêng mình.

Hoàng đế cắn môi lặng thinh, định bụng im cho qua chuyện. Nhưng ngài biết đâu rằng cũng lúc này, hai phi Cẩn và Trân của ngài đã bị hoàng hậu triệu tới cung Khôn Ninh và đưa gia pháp ra, đánh cho hai nàng một trận đòn nên thân, buộc hai nàng từ đây cấm không được mê hoặc hoàng thượng.

Trong số hai phi tử, Trân phi quả là một trang giai nhân sắc nước hương trời. Hoàng hậu nhìn thấy nàng, quả thật không chịu nổi lòng riêng cào xé. Bởi thế bà dặn lũ cung nhân đánh Trân phi đến chết đi sống lại.

Thật đáng thương cho Trân phi, liễu yếu đào tơ làm sao mà chịu được đòn ghen? Khi hoàng đế nghe tin chạy tới thì Trân phi chỉ còn lại cái xác gần như không hồn, khuôn mặt xinh tươi ngày nọ nay đã mất hết sắc xuân. Ngực chi còn thoi thóp, đôi mắt lờ đờ nhìn hoàng đế, đôi dòng lệ trào ra trôi trên má, và vài tiếng nức nở nghẹn ngào trong cổ họng.

Quang Tự hoàng đế thấy tình cảnh Trân phi như vậy, bất giác nổi trận lôi đình, nghiến đôi hàm răng ken két nói:

- Con mẹ già khốn nạn độc ác thiệt! Một ngày nào đó thế nào mi cũng phải chết vì tay ta!

Quang Tự hoàng đế vừa vuốt ve vừa tìm lời an ủi Trân phi và cho gọi ngự y tới chữa chạy rồi quay mình ra đi.

Quang Tự hoàng đế đi sang thư phòng, gọi viên tổng quản tới, và cho đi mời ông sư phó vào ngay cung nội cho ngài hỏi ý...

Được lệnh triệu, ông Đồng Hoà theo gót tên tổng quản vội vã vào cung.

Khi tới ngự thư phòng, Hoà thánh lễ và được phép ngồi xuống ghế. Quang Tự hoàng đế, mặt hầm hầm, bực tức nói:

- Trẫm làm vua, mang tiếng là chí tôn trong thiên hạ, thế mà chỉ có mỗi một phi tử cũng không bảo vệ nổi! Thật là đáng xấu hổ!

Nói đoạn, nhà vua bèn đem hết chuyện hai phi Cẩn, Trân bị hoàng hậu đánh đập tàn nhẫn như thế nào kể lại cho Hoà nghe. Hoà rõ chuyện xong, bèn thừa dịp tâu vào:

- Trước đây, ngư thần đã có lần tâu: quyền bính của bệ hạ phần nào rơi vào tay người, cần phải tìm cách thâu hổi, sau đó mới độc đoán, độc hành, tự giải quyết hết mọi việc, nắm trọn quyền binh vào tay mới được. Như thế, đừng nói đến thân vương, hoàng hậu, mà ngay cả hoàng thái hậu cũng nhất định nể sợ bệ hạ một phép.

Quang Tự hoàng đế gật đầu nói:

- Ý của sư phó quả đúng là một phương pháp trị từ gốc. Cái ý thâu hồi quyền bính, trẫm đã nghĩ tới không biết bao lần. Song trẫm vẫn ngại có hoàng thái hậu và cả một bọn thân vương bên cạnh. Theo sư phó nay trẫm nên làm thế nào để cho mọi việc được vẹn toàn.

Ông Đồng Hoà tỏ vẻ suy nghĩ một lát rồi tâu:

- Kế hoạch đã sẵn, nhưng không biết bệ hạ có dám thực hiện hay không thôi!

Quang Tự hoàng đế nói:

- Tất cả cái gì có lợi cho trẫm là có thể thực hiện được hết Có điều nếu trẫm hành động như vậy, không biết thái hậu và bọn thân vương nghĩ gì về trẫm?

Ông Đồng Hoà nói:

- Nếu lòng bệ hạ đã quyết như vậy thì bệ hạ nên nhân dịp Thái hậu suốt ngày vui chơi tại Di Hoà viên mà quyết đoán tài phán tất cả những tấu chương của bọn quan lại ở ngoài kinh đô, rồi nhất nhất phê đáp do ý bệ hạ. Vạn nhất có chuyện khẩn yếu quan trọng lắm, lúc đó mới thương lượng với thái hậu mà thôi. Đang khi vui chơi, không muốn bận tâm vào chuyện khác, hơn nữa, lại thấy bệ hạ chu tất hết mọi việc, thái hậu ắt vui lòng, yên tâm tận hưởng nhàn lạc, quyết không có điều chi nghi ngại. Thái hậu vốn biết bệ hạ là người trung hậu chân thành, ắt tưởng rằng bệ hạ không bao giờ có ý đồ chuyên chính. Dần về sau, dù có viện khẩn cấp quan trọng đi nữa, bệ hạ cũng khỏi cần hỏi ý kiến thái hậu. Lúc đó, quyền chính đương nhiên là đã trở về với bệ hạ và bệ hạ cứ việc thẳng tay tước bỏ quyền hành trong tay một số vương công đại thần thời trước, đồng thời từ bỏ các quy chế bất hợp lý, thực hiện một cuộc cải cách lớn. Nhờ đó quốc sự ngày càng sáng sủa, thiên hạ tiến tới chỗ đại trị, tất nhiên trong ngoài đều tán dương bệ hạ, cho bệ hạ là một bậc minh quân. Đến lúc này, ví thử thái hậu có ý muốn can thiệp vào chăng nữa thì cũng tự nhận thấy mình không sao làm nổi, thử hỏi còn có cái gì gọi là đáng sợ cho bệ hạ nữa không?

Quang Tự hoàng đế nghe ông Đồng Hoà trình bày một thôi những ý kiến hay đẹp như vậy, bất giác đâm ra cao hứng, hăng hái bảo ông Đồng Hoà:

- Sư phó đã vì trẫm mà thiết kế lập mưu, thì quyết chẳng thể nhầm lẫn được. Trong triều đình hiện nay, người có lòng trung thành đối với trẫm, ngoài sư phó ra, chỉ còn có Lý Hồng Chương song trẫm e rằng Chương không dám mạo hiểm làm công việc này! Còn như bọn Lưu Khôn thì lại đều là ngoại thần, ở các tỉnh xa, nhất thời không tiện gọi về. Như vậy, bên cạnh trẫm quả thực tả hữu không người giúp rập. Xét cho kỹ, thì không một kẻ nào quanh trẫm hiện nay lại không thuộc phe đảng của thái hậu. Ngay cả đến bọn nội thị, lũ hoạn quan, chúng cũng đều có ý dò xét rình rập những cử chỉ, những hành động của trẫm nữa! Đến cái lúc gay cấn nguy hiểm này, nếu không có lấy năm, bảy người thân tín để hành động thì nhất định việc khó thành được.

Ông Đồng Hoà vội tâu tiếp:

- Nếu nói đến nhân tài, xin bệ hạ khỏi lo. Bản triều ta vốn có vài tay kiệt xuất đáng mặt anh hào; chỉ tiếc rằng bọn thân vương lộng quyền, đã dìm mất thanh danh của họ. Thật là một điều đáng tiếc!

Quang Tự hoàng đế nói:

- Việc đã đến lúc quá gấp rồi! Ông sư phó, nếu thấy ai là người có tài, xin cứ việc tiến cử, trẫm lập tức thăng chức và trọng dụng ngay.

Ông Đồng Hoà tâu:

- Mấy năm trước, ngu thần có lần làm Tổng tài hội thí (cũng gần như chủ khảo), thấy được một người có thể nói tài cực ưu trong đám sĩ tử đông đảo và chấm đậu tiến sĩ hạng thứ bảy. Hiện nay, người đó đang giữ một chức quan quá nhỏ, không thể tấu đạt lên bệ hạ, nên đã có lần dâng lên mấy bản điều trần, nhưng đều bị bọn đại thần yểm đì. Người đó họ Khang tên Hữu Vy, hiệu Tràng Tố, người huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Đông. Y ở phương nam, có tầm mắt thánh nhân, thường tự cho mình bất phàm. Y còn có một người đệ tử, tên gọi Lương Khải Siêu. Học vấn của Siêu cung uyên thâm hết mức, nhất là về nghị luận thì có thể nói là hiểu biết sâu rộng về tình thế của thế giới hiện nay. Nếu bệ hạ có ý muốn canh tân để chỉnh đốn tại triều chính, phi hai người quyết không xong!

Quang Tự hoàng đế nghe xong, bỗng sáng mắt lên, vui vẻ bảo ông Đồng Hoà:

- Sư phó có những người tài như vậy, sao không nói ngay ra. Nếu trẫm biết sớm, trẫm đã thăng họ lên từ lâu rồi!

Ông Đồng Hoà lại nói:

- Nếu bệ hạ quyết ý canh tân, thì thực ra chưa lấy gì làm trễ. Bệ hạ cứ thong thả mà làm. Có điều bệ hạ nên giữ kín, chớ để lộ, khiến thái hậu nghi ngờ để luỵ cho kẻ khác.

Quang Tự hoàng đế nghe nói, gật đầu luôn mấy cái, chậm rãi nói:

- Ý kiến của sư phó hợp lý lắm! Để trẫm tuỳ cơ tiến hành vậy!

Quang Tự nói tới đây, từ từ đứng dậy bảo ông Đồng Hoà lui ra, còn mình thì thong thả bước về cung, nét mặt có vẻ tươi vui, đắc ý.

Lại nói Tây thái hậu hôm đó sau khi hạ chiếu đình chỉ ngày khánh chúc, trong lòng buồn bực chẳng vui. May thay lúc đó có Đôn thân vương ở bên cạnh, biết nỗi niềm của bà, liền tâu:

- Đến ngày lễ vạn thọ, xin Lão Phật gia nên vẫn đi vào Di Hoà viên, và bọn nô tài cũng vẫn xin được kéo tới đông đủ để dập đầu, mong thưởng thức ít chén rượu mừng thọ lấy phước!

Mấy lời nói của Đôn thân vương quả có một ma lực rõ rệt. Thực thế, chỉ mấy lời nói đó thôi đã làm cho lòng tức giận của Thái hậu nguôi hẳn, thái độ trở lại bình thường.

Tuy không thấy thái hậu hé môi cười nụ, nhưng người ta đã thấy bà thong thả gật đầu mấy cái liền, tỏ ý như lời nói trên rất hợp ý bà.

Tây thái hậu đứng dậy, đám cung nhân, đưa bà trở về hậu cung để thưởng thức cao Phúc Thọ.

Giữa lúc Tây thái hậu đang nằm trên giường hút thuốc phiện, bỗng Lý đại cô nương bước vào, ghé tai bà thì thào chẳng biết những gì mà chỉ thấy bà đùng đùng nổi trận lôi đình, quát bảo đi bắt ngay hai con yêu tinh lại để cho bà đích thân thẩm vấn.

Lý Liên Anh đứng hầu một bên, hiểu rõ ý Tây thái hậu vội chạy ra ngoài gọi tên tiểu thái giám sai đi gọi hai phi Cẩn, Trân tới cho Thái hậu truyền.

Chỉ một lát sau, người ta đã thấy Cấn và Trân phi theo chân tên tiểu thái giám vào hậu cung, toàn thân run lẩy bẩy, vội vàng quỳ mọp xuống đất hành lễ, rồi đứng sang một bên chờ lệnh.

Tây thái hậu trông thấy hai nàng, lửa giận bốc lên ngùn ngụt lớn tiếng quát tháo:

- Hai con hồ ly kia! Chúng bây đã làm được những gì tốt hay chỉ có mỗi một việc mê hoặc hoàng thượng? Đã thế chúng bay lại còn dám can dự vào triều chính nữa? Có lẽ nào triều đình của ta lại không còn gia pháp? Là phi tử mà chúng bay dám láo hỗn đến thế kia ư?

Nói tới đây, Tây thái hậu liên thanh quát tháo truyền lệnh mang gia pháp tới.

Quang Tự hoàng đế được tin Thái hậu tuyên triệu hai phi. sợ có chuyện bất trắc xảy ra, nên cũng hối hả chạy sang đúng lúc bà đang quát bảo đánh đập hai nàng.

Thật đáng thương cho Cẩn, Trân hai phi vừa bị hoàng hậu đánh cho một trận nên thân vết thương chưa lành nay lại bị Thái hậu hạ lệnh dùng hình cụ tra khảo nữa.

Quang Tự hoàng đế nhìn thấy tình hình như vậy, cũng chẳng kịp hành lễ nữa, vội quỳ xuống nói:

- Thánh mẫu trách phạt hai nàng vì sao vậy? Xin chỉ rõ cho họ hay, lúc đó hãy gia hình cũng chưa muộn mà!

Tây thái hậu mặt hầm hầm, quát trách luôn Quang Tự hoàng đế:

- Hai đứa cả gan lớn mật! Chỉ tại mi cưng chúng quá mà! Mi hãy hỏi chúng thì biết! Hỏi xem có phải chúng đã từng tư thông với ngoại thần? Tên Văn Đình Thức đã từng xưng hô với chúng như thế nào, mi có biết không?

Trân phi nghe nói vậy, vội dập đầu tâu:

- Văn Đinh Thức tuy là thày học cũ của tỳ nữ, nhưng đã lâu năm không được gặp mặt!

Tây thái hậu cười nhạt bảo:

- Lâu năm không gặp mặt Hừ! Chúng bay giúp hắn mua quan bán tước, bữa nào lại chả gặp mặt! Hừ! Không biết rồi đây chúng bay sẽ còn gây rối đến đâu?

Nói đoạn Tây thái hậu quát ầm lên như một con thú dữ vô môi:

- Dụng hình! Dụng hình!

Quang Tự hoàng đế vội lên tiếng cầu xin cho hai nàng:

- Cầu xin thánh mẫu minh xét! Việc tư thông với ngoại thần quyết không thể có! Chi mong thánh mẫu tha cho hai nàng!

Tây thái hậu thấy Quang Tự hoàng đế cố nài xin cho hai phi, càng lấy làm tức, quát mắng thêm:

- Mi còn giúp chúng để bịt mắt tao phải không? Không đánh hai con khốn kiếp đó không xong.

Quang Tự hoàng đế nghe Thái hậu quyết như vậy, trong lòng càng thêm bối rối, chỉ còn cách khẩn cẩu để may ra được mà thôi. Lý Liên Anh đứng cạnh cũng cố làm ra bộ thểu não thảm thê cầu xin Thái hậu giúp cho hoàng đế!

Tây thái hậu thấy hoàng đế và Liên Anh hết lời van nài, sa sầm nét mặt xuống, dằn mạnh từng tiếng bảo:

- Tụi bay cố tình hùa nhau, cố tình cầu xin! Ừ! Hình phạt có thể tha được chứ chuyện giáng cấp quyết không thể không làm!

Nói đoạn, bà quát giáng hai phi Cẩn, Trân xuống quý nhân giam lãnh cung nửa năm; kẻ nào còn cầu xin cho hai tội nhân, quyết lấy gia pháp ra trừng trị!

Đạo chỉ dụ vừa xuống, tức thì có vài tên thái giám chạy vội tới kéo hai phi Cẩn, Trân giam vào lãnh cung.

Quang Tự hoàng đế thấy việc đã hỏng rồi, có cầu xin cũng vô ích, đành gạt đôi dòng lệ đau xót cho người yêu rồi lảo đảo bước ra ngoài.

Trên đường về cung, Quang Tự hoàng đế phân vân trong lòng không hiểu vì sao lưỡng phi của mình lại bị tội như vậy.

Càng nghĩ tới người yêu, ngài càng thấy lòng mình uất ức, mặt khác, thấy tình cảnh mình thật, lạnh lẽo, trống trải, quạnh hiu. Ngài chỉ còn biết thở vắn than dài, thầm gạt lê trong những lúc đêm khuya canh vắng!

May hồi đó có tên nội giám Khấu Liên Tài hầu cận, thông cảm với nỗi niềm đau khổ của hoàng đế, cố lựa lời khuyên giải an ủi.

Quang Tự một mặt than thở, một mặt đem việc u cấm lưỡng phi ra kể lể hết mọi nỗi, cuối cùng ngài hậm hực nói:

- Trẫm vẫn chẳng hiểu được lưỡng phi đã phạm phải tội gì để khốn khổ như thế!

Nói đoạn, ngài dậm chân, nghiến răng một hồi lâu mà vẫn như chưa nguôi được nỗi uất ức, đau xót, Khấu Liên Tài thấu tình cảnh hoàng đế như vậy, bèn quỳ xuống tâu:

- Việc này chỉ do tên Lý Liên Anh gắp lửa bỏ tay người gây ra. Bệ hạ còn nhớ hôm ở Dưỡng tâm điện xảy chuyện tên hậu bổ đạo Từ Thành không? Từ Thành vốn là anh em kết nghĩa của Lý Liên Anh. Bệ hạ hôm đó đã vạch trần tất cả cái xấu xa bỉ ổi của hắn; đương nhiên, tên Anh phải mang giận trong thâm tâm, quyết thừa cơ báo phục cho đồng bọn.

Quang Tự hoàng đế nghe lời Tài, bỗng giật mình tỉnh ngộ.

Thế là từ đó, ý nghĩ thâu hồi quyền chính về tay mình càng trở nên cấp bách. Nhưng tại sao việc hoàng đế dẫn kiến bọn quan lại ngoại nhiệm lại can thiệp tới lưỡng phi Cẩn, Trân? Ắt chuyện phải có nguyên nhân nào đó chứ!

Câu chuyện xảy ra đúng thế: Nguyên lai Văn Đình Thức vốn là một triều thần thuộc Hàn Lâm viện trong triều đình nhà Thanh. Hàn Lâm viện là nơi nghèo mạt nhất, nếu không có cách chi vận động để thoát được ra ngoài mà xoay sở ắt là cùng cực suốt đời. Nhưng muốn bay bổng, điều kiện tối cần thiết phải là tiền.

Đã có tiền rồi lại còn phải khéo léo, hoạt bát, luồn lách mới hòng thoát ra nổi. Bởi thế, đương thời với thường tặng cho các ông quan Hàn lâm cái tước hiệu là "Cùng Hàn lâm" (quan hàn kiết).

Tình cảnh chung của đám quan Hàn đời Thanh là như thế, nhưng với ai kia, chứ với Văn Đình Thức thì khác!

Thức làm quan Hàn nhưng quả có cái tình sư đệ với hai phi Trân, Cẩn. Nhờ thế lực của hai cô học trò trong địa vị quý phi, Thức không khỏi xoay sở, đặc biệt nhất trong chuyện mua quan bán tước, hầu mong thoát khỏi cảnh kiết cú cùng bần để bước lên cõi muôn tía ngàn hồng, thơm tho êm ấm của cuộc đời.

Bè bạn, xóm giềng chung quanh thấy Thức là sư phó của quý phi lại chả nhường bước mà xin mời ông lên trước cho, để mong được đôi chữ "bình an".

Quang Tự hoàng đế cũng biết vậy nhưng nể mặt lưỡng vị quý phi Cẩn, Trân nên đành mắt mở mắt nhắm, ừ hữ bỏ qua cả.

Được đằng chân, lân đằng đầu, Thức ta thấy mình làm càn mà chẳng ai dám động tới, càng lấn tới!

Đã từ lâu Thức ta làm bậy không biết bao nhiêu rồi, lần này có việc xảy ra đáng để ý: đó là một chức Đạo đài hiện khuyết tại Thiểm Trung. Khổ nỗi là cái ghế trống này lại quá béo bở, do đó, không biết đến bao nhiêu anh đã chờ chực để nhảy vào.

Hồi đó, có một anh chàng họ Lý đã từng là đạo viện, tình nguyện xin đem sáu mươi vạn quan tiền cho Thức để nhờ Thức chạy chọt cho cái ghế nọ.

Thức thấy tiền, ngốt của, mừng lắm, bèn nhận lời, rồi chạy tới gõ cửa bộ Lại (bộ trông coi về việc thuyên chuyển quan lại thời xưa).

Nhưng Thức không ngờ đã có kẻ lẹ chân nhanh miệng hơn mình, ghế trống nọ đã bị choán mất rồi! Thức tức lắm lại tiếc tiền, bèn mở một cuộc điều tra dò tìm. Thì ra kẻ choán được ghế nọ chẳng phải ai xa lạ, mà chính là tên Từ Thành, anh em kết nghĩa của Lý Liên Anh.

Từ Thành xuất thân chỉ là một tên coi kho. Làm ăn xoay sở ít lâu, Thành có một cái vốn khá, ít ra cũng phải đến ba, bốn trăm vạn lạng bạc.

Giàu có rồi, Thành nghĩ tới chuyện quan lớn quan bé, nghĩa là có phú tất nhiên phải có quý nữa mới gọi là đủ... Thế là Thành tìm cách nhờ người đem một trăm vạn lạng bạc hiểu kính Lý Liên Anh, lại còn cho cả con trai lạy Lý Liên Anh làm can gia (như cha nuôi) nữa.

Lý Liên Anh thấy Từ Thành giàu có, liền kết giao với hắn. và tất nhiên, ít lâu sau thiên hạ đều phải ngạc nhiên không hiểu tại sao hai người xa lạ ấy bỗng một sớm một chiều trở thành đôi huynh đệ chí tình vô cùng mật thiết.

Lý Liên Anh bèn đem hết sức mình xoay sở cho người anh em một chức quan: đó là chức đạo hàm, chờ khi có chỗ khuyết thì lắp vào.

May thay, hồi đó, Thiểm Trung đạo khuyết một chỗ. Lý Liên Anh đợi mồi đã từ lâu; cho nên thấy cái ghế bở, Anh vội chạy tới gõ cửa bộ Lại và dặn dò ngay trước là phải dành cho người anh em của mình.

Nào ngờ đâu oan gia lại gặp oan gia, con tinh lại vớ phải yêu. Anh chạm trán với Thức. Văn Đình Thức tới chậm, biết Lý Liên Anh đã phỗng tay trên, tức lắm quyết không chịu lép vế. Thức nhíu đôi mày một lát, thế là kế đã ào ào lôi ra! Thức suy đi nghĩ lại cho chín rồi lẩm bẩm tự duyệt lại kế mình:

- Đối đầu với thằng Lý Liên Anh quả không thể địch nổi! Nhưng với thằng khốn Từ Thành thì có gì đáng ngại? Thế nào ta cũng phải cho hắn rời cái "Đạo đài", có thế mới hả được cái giận chứa chất trong lòng!

Chủ ý đã định, Văn Đình Thức lại cho đi dò la tin tức cẩn thận một lần nữa. Thức biết rõ rằng Thành chẳng những chỉ là một tên phu gạo xuất thân mà đến một chữ cũng không viết được nữa! Thức biết như vậy, lấy làm khoái chí, đặt xong ngay kế hoạch.

Kế hoạch như vầy: Thức cho người ngầm gọi một tên tiểu thái giám ra nhà mình, kể hết tình hình của đối phương cho nghe và bảo vào mật báo cho Trân phi để nhờ Trân phi giúp mình một tay ở trước mặt hoàng đế.

Trân phi thấy đây là chuyện của sư phó mình, không tiện chối từ, và nhất là không nghĩ tới hậu quả cho nên đã thừa dịp Đức Tông (Quang Tự hoàng đế) lâm hạnh, liền lựa lời gợi chuyện chính trị để mong đạt được nguyện vọng.

Trân phi hỏi Đức Tông:

- Hiện nay, bên ngoài có Cương lại nào khuyết không?

Quang Tự hoàng đế đáp:

- Không! Không thấy ai nói tới cả!

Trân phi lại nói:

- Thần thiếp có nghe nói viên Thiểm Trung đạo đài tân nhiệm vốn là người anh em kết nghĩa của Lý Liên Anh chẳng biết lấy một chữ nào. Không hiểu như thế hắn làm đạo đài ra làm sao?

Quang Tự hoàng đế bình nhật vốn ghét Lý Liên Anh nay nghe Trân phi nói vậy, chẳng hỏi han gì thêm, khỏi cần rõ cả xuất xứ đùng đùng nổi trận lôi đình, quát rầm lên:

- A! Thì ra cái thằng Liên Anh càng ngày càng lộng hành, không coi ai ra gì nữa! Quốc chính càng ngày càng suy cũng tại nó mà ra! Chẳng phải nói ai, ngay cả đến bọn ngự sử thị lang kia mà cũng nhiều kẻ chẳng biết một chữ gì. Có một lần giữa lúc đánh nhau với Nhật Bản, Ngự sử Thiết Lệnh dâng sớ xin Đàn Đạo Tế đi đánh Nhật thì Thị lang Vương Vĩnh Hoá lại xin chi cho phục chức Hoàng Thiên Bá về nguyên quán. Trẫm chi biết Đàn Đạo Tế lả người đời Tống, còn Hoàng Thiên Bá, trẫm chẳng rõ là ai! Trẫm bèn cho triệu hai tên này mới để hỏi xem, lúc đó trẫm mới hay chúng đều là những tên phu quét rác ngoài chợ. Chúng nghe bọn đọc sách có kể lại Đàn Đạo Tế là một người rất giỏi dùng binh, còn Hoàng Thiên Bá là một người có võ nghệ cao cường vốn là một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Thi Côn án, thế rồi chúng tra xét danh sách trong triều không có hai tên này, liền nghi cho là quan lại đã về hưu, tức thì dâng sớ để tiến cử. Bởi thế, cứ mỗi lần thấy những loại tấu chương đó, trẫm liền huỷ đi ngay, để tránh cái cười mai mỉa của bọn bày tôi người Hán. Cái lũ người xuẩn đột bỉ tiện ấy đâu có phải chỉ do mỗi một mình Lý Liên Anh tiến dẫn đâu! Theo lời nàng nói thì cái tên đạo đài tân nhiệm nào đó lại cũng chỉ là một loại giống hệt như loại người của Thiết Lệnh và Vương Vĩnh Hoá mà thôi! Cương lại (bọn quan lại ngoài biên cương) mà rặt là lũ giá áo túi cơm đó thì làm sao quốc gia chả hỏng việc, trăm họ chả bị hại lớn? Song tiếc rằng trẫm chưa biết được họ tên của thằng khỉ bịp bợm đó mới rầu chứ!

Trân phi ngồi bên cạnh đáp ngay:

- Thần thiếp nghe nói tên đạo viên đó là Từ Thành.

Quang Tự hoàng đế sẽ gật gật chiếc đầu, chậm rãi nói:

- A! Biết rồi! Biết hắn ta rồi! Hừ! Đừng hòng thoát khỏi tay ta! Để hắn dẫn cái thân tới đây, trẫm sẽ cho một cái tát vào mặt cho bõ ghét!

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế cùng với hai phi Cẩn, Trân còn nhàn đàm một hồi nữa, lúc đó mới rủ nhau vào trướng vui vầy.

Hồi 159

TÂY THÁI HẬU ĐAU BỆNH MÁU

Qua ngày hôm sau, Lại bộ chiếu lệ đương nhiên, sau khi bổ Từ Thành làm đạo đài, phải dẫn vào triều để bệ kiến Hoàng thượng.

Hôm đó, Từ Thành ăn mặc chỉnh tề, thân đeo trào châu xủng xoảng bước vào, đứng đợi ở thiện điện (điện ở bên cạnh).

Lý Liên Anh đích thân cũng đi theo Từ Thành để chỉ vẽ cho Thành những lễ lạy khi gặp hoàng đế, và cách đối đáp lúc hoàng đế truyền hỏi.

Thành đương nhiên lúc này phải lưu tâm đến cực độ để nhớ cho thật kỹ. Không dám quên sót một chi tiết nhỏ nào.

Chẳng bao lâu, nội giám đưa thánh dụ ra, truyền lệnh cho Thiểm Trung đạo Từ Thành vào điện Dưỡng Tâm để kiến giá Thành nhân được chỉ, lật đật chạy tới điện Dưỡng Tâm.

Vừa bước vào trong, Thành nhìn lên điện thấy hai bên nội giám đứng thành hàng, chiếc rèm châu cuộn cao lên mài trên cao và sau đó, một người mặc y thường toàn màu vàng.

Từ Thành lúc này đứng quá xa, cho nên hình người mặc quần áo vàng, chỉ thấy lờ mờ không rõ. Nhưng Thành yên trí rằng đó chính là hoàng thượng của y.

Thành bỗng tự nhiên thấy lòng hoảng sợ, đôi chân run lên từng chập. Nhưng lúc này không phải là lúc lo lắng rụt rè nữa! Thế là Thành cắn răng quyết chữ liều, vội tiến lên vài bước để khấu kiến.

Thành làm Tam quy cửu khấu xong, liền nằm mọp trên mặt đất, chờ đợi thánh chỉ với đôi lời khuyến khích, để rồi sau đó tạ ơn mà lui ra.

Theo cựu chế của các triều đại trước thì chỉ có bấy nhiêu đó là xong! Lý Liên Anh đã chỉ dạy đúng như vậy cho Thành, nên Thành lấy làm yên tâm lắm, chỉ còn đợi mỗi một việc là lát nữa ra khỏi điện nhận đủ những lời chúc mừng của các bạn đồng liêu.

Giữa lúc Thành yên trí như thế và tỏ vẻ phây phây đắc ý, bỗng từ phía trên cao có tiếng vọng xuống:

- Ngươi là Từ Thành phải không?

Thành nghe tiếng hỏi, giật mình đánh thót một cái. Như một luồng điện vụt qua, hắn thầm nghĩ: Lý Liên Anh chưa từng bảo hắn chuyện bệ kiến rồi đối thoại bao giờ. Ấy thé mà lần này lại khác. Lỡ ra mà khi hoàng thượng hỏi, không đáp được thì thật hỏng bét! Nghĩ tới đây Thành đâm hoảng lớn, cảm thấy nguy là khác. Bởi thế, Thành quýnh quýnh mãi mới nói lên được có mỗi một tiếng "dạ"!

Từ phía trên, lại có tiếng buông xuống hỏi:

- Từ Thành! Trước đây ngươi làm nghề gì?

Thành đến lúc này lại càng hoảng! Ấp úng mãi, Thành mới mở được miệng, tâu lên:

- Nô tài bán đồ gỗ!

Quang Tự hoàng đế vừa nghe xong, quát rầm lên:

- Đã là thằng lái gỗ, tại sao ngươi không ngồi cưa cây đếm tiền mà lại đòi đi làm quan?

Thành càng hoàng nữa! Thành biết không thể nói dối, đành tâu thẳng ra:

- Thần thực không dám nói dối bệ hạ! Làm ăn buôn bán đâu có lời lãi bằng làm quan! Ấy chỉ vì thế mà thần muốn đi làm quan!

Quang Tự hoàng đế giận lắm, hỏi thêm:

- Người đi làm quan, muốn được lời lãi bao nhiêu?

Thành nằm phủ phục trên mặt đất, dập đầu xuống sàn nhà đến cốp một cái, mở miệng run run tâu:

- Nô tài chỉ cần lời được ba chục vạn quan tiền là đủ rồi!

Quang Tự hoàng đế quát hỏi thêm:

- Ngươi có biết tiền lương của một người đạo đài là bao nhiêu không?

Thành run bắn người lên, ấp úng tâu:

- Nô tài nghe nói làm quan mà nhờ vào lương thì chỉ có chết đói. Lúc làm quan, sẽ có bách tính đem đến phụng kính...

Nói đến đây, Thành thấy bọn nội giám ném cho hắn một tờ giấy và một cây bút. Rồi lại cũng tiếng quát hỏi khi nãy vọng xuống bảo hắn khai ngay thân thế.

Nghe lời phán này, Thành tự cảm thấy mắt hoa đầu váng, hồn phách như bay tận nơi đâu. Thành không dám khai rằng mình không biết chữ, tay cầm cây viết lông cán trúc, xem nặng đến ngàn cân không thể nào cất lên nổi, còn đầu thì vẫn úp sát xuống nền điện, không đám ngẩng lên.

Mấy tên nội giám đứng cạnh, lên tiếng giục. Thật đáng thương cho Thành, mồ hôi chảy xuống như tắm, quần áo ướt sũng như vừa mới ngoi từ dưới sông lên!

Thành ghì cây bút mãi một lúc lâu, mới vạch xong được có mỗi một nửa chữ Từ, nét xiêu bên này, nét vẹo bên kia, nhìn mãi chẳng giống chữ gì!

Bọn nội giám cầm nửa chữ Từ dâng lên. Người ta chỉ nghe tiếng cười nhạt và giọng nói mai mỉa của Quang Tự hoàng đế hắt mạnh vào mặt Thành:

- Ngay đến cả cái tên mình cũng không viết nổi, mà ngươi dám nghĩ tới chuyện làm quan để xoay tiền? Nếu cho ngươi đi làm quan, thì rồi đây ngươi cũng chỉ là một tên tham quan ô lại hại dân hại nước mà thôi! Cút ngay! Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!

Bọn nội giám được lệnh, chạy lại nắm ngay lấy tóc Thành kéo xềnh xệch ra ngoài như kéo một con heo, miệng lẩm bẩm rủa:

- Thằng bỏ mẹ! Chạy lẹ đi, không thì khốn kiếp đó, con ơi!

Tử Thành thấy có người xách bổng mình lên, lại có những lời lẽ như trên cảm thấy nhẹ hắn đi, gượng đứng dậy, lùi ra sau vài bước, rồi ôm đầu vun vút chạy ra y như một con chuột bị mèo đuổi.

Phía ngoài cổng, bọn thái giám đồng đảng với Lý Liên Anh vội chạy tới săn tin. Thành cúi gầm mặt xuống, cặp mắt lạc hẳn đi, nói một cách vô cùng thiểu não:

- Trăm sự nhờ Lý tổng quản cả thôi! Cái đầu lâu này mà còn thực cũng là chuyện lạ!

Bọn thái giám vội hỏi cớ sự, Thành liền kể lể từ đầu đến cuối chuyện vào bệ kiến của minh cho cả bọn nghe.

Câu chuyện Từ Thành về sau trở thành một trò cười cho thiên hạ, nhưng khi đến tai Lý Liên Anh, thì hắn lấy làm lạ lắm! Hắn tự nhủ ngày thường nếu có bọn ngoại quan được vào bệ kiến, thì hoàng thượng cũng chỉ hỏi qua loa nảo nhân tình, nào phong tục, hoặc nếu có viên quan nào mới bổ thì ngài cũng chỉ ban vài lời khuyên nhủ cổ lệ, chứ tuyệt nhiên chẳng hỏi tới chuyện nọ chuyện kia. Ấy thế mà nay Từ Thành vào bệ kiến, lại bị ngài lục vấn về tài năng học thức, thì nhất định phải có kẻ phá hoại, chẳng còn gì phải nghi ngờ nữa.

Nghĩ vậy xong, Lý Liên Anh vội đi ngay đêm đó tới nha môn Bộ lại để dò tin. Tại nơi đậy, Anh được thêm nhiều chi tiết khác: số là Từ Thành đã bị gạch tên, và bị thay thế do một tên người họ Lý, mà người vận động cho Lý chẳng phải ai xa lạ, chính là Văn Đình Thức.

Lý Liên Anh nghe được tin trên, trong lòng đã rõ chín, mười phần: Hắn nghiến răng ken két rủa Văn Đình Thức:

- Thằng khốn kiếp Văn Đình Thức! Mi đừng có ỷ đệ tử của mi làm đến quý phi mà phách lác! Việc này thế nào mi lại chả theo cửa ngõ của lưỡng phi Trân, Cẩn mà chạy chọt?

Hắn bèn tức khắc tìm cô em gái tính kế. Anh bảo cô em gái bịa đại ra câu chuyện như sau để rỉ tai Tây thái hậu:

- Trân, Cẩn lưỡng phi can thiệp vào ngoại chính (việc chính trị bên ngoài). Vì sư phó của hai nàng là Văn Đình Thức chủ trương quyết liệt chống Nhật, cho nên mới bảo hai nàng nằm bên trong to nhỏ ngày đêm cám dỗ hoàng đế, khiến ngài đâm ra cao hứng, gọi ngay Lý Hồng Chương chuẩn bị chiến tranh, đến nỗi về sau táng sử nhục quốc! Trân, Cẩn hai phi hành động như thế đâu có tốt gì!

Đáng thương cho hai nàng phi Trân, Cẩn vô cớ bị đánh không còn biết kêu vào đâu. May nhờ có Quang Tự hoàng đế cầu xin mãi mới được tha chết, chỉ còn bị giam cầm nơi lãnh cung.

Thủ đoạn của Lý Liên Anh kể cũng gọi được là hiểm độc, lợi hại! Nhưng Anh có lẽ không biết rằng vì Trân, Cần hai phi bị tù đày cầm cố, khiến Quang Tự hoàng đế lủi thủi quạnh hiu, không thiết tiêu khiển nơi đâu, ngài đã dậm chân nghiến răng bao lần, giận thù hắn đến tận xương tuỷ.

Có một hôm Quang Tự hoàng đế vừa mới nói chuyện với Khấu Liên Tài về việc Trân, Cẩn hai phi, bỗng có một tên tiểu thái giám ba chân bốn căng chạy tới. Hắn muốn nói mà như bị đứt hơi, không nói được ra lời!

Hoàng đế thấy tình hình có vẻ quái lạ, biết thế nào cũng có chuyện khác thường xảy ra, bất giác cả kinh, trống ngực đập kêu thình thịch. Ngài gặng hỏi tên tiểu thái giám ba lần chỉ thấy hắn chỉ vào phía dưới một bức hoạ vẽ tay, cố cho ngài chú ý tới hai chữ "Thái hậu!".

Đức Tông hoàng đế biết rằng Thái hậu có chuyện gì xảy ra rồi bèn vội đứng dậy chạy gấp vào cung. Bước chân vào hậu cung, hoàng đế chỉ thấy Lý Liên Anh cùng bọn Lý cô nương, Giao Tố Quân, Thọ Xương công chúa đang đứng thành hàng phía trước giường của Thái hậu, còn bà thì đang tựa nghiêng bên cạnh giường, sắc mặt vàng bệch ra như sáp ong, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng.

Hoàng đế bước lại gần thỉnh an. Thái hậu gật đầu vài cái, rồi vẫy tay bảo nhà vua lui, ngài chẳng hiểu ra sao, đành lủi thủi quay ra. Sau đó dò mãi tên nội giám trực nhật, ngài mới biết đêm qua, thái hậu bỗng nhiên kêu đau bụng, đau suốt mãi đến sáng sớm mà vẫn không dứt. Lý Liên Anh vội xin phép chạy đi gọi ngự y để chẩn trị, nhưng thái hậu quyết ý không cho. Về sau, đau quá không chịu nổi, Thái hậu lúc đó mới chịu.

Bắt mạch chẩn bệnh một lúc lâu, viên ngự y nhíu đôi lông mày vẻ ngại ngùng, lo lắng, ngập ngừng tâu:

- Bệnh này thực hết sức lạ! Hạ thần chẳng dám nói thẳng. Bởi vì rằng với tuổi của Thái hậu hiện nay, thì quyết không thể có cái bệnh này được!

Lý Liên Anh đứng một bên, nghe nói vậy, sợ viên ngự y nói toạc sự thật ra, vội quát báo:

- Thôi, khỏi phải nói nhiều! Bệnh của thái hậu, ai chả biết chỉ tại lao tâm lao lực gây ra khiến khí huyết suy nhược đó thôi! Ngươi làm ngự y há lại không biết bệnh như vậy sao?

Viên ngự y được lời Anh mớm cho, mừng quá, vội dạ, dạ lên mấy tiếng rồi nói tiếp:

- Quả đúng như lời Lý tổng quản đã nói!

Nói đoạn, viên ngự y đưa bút giấy ra, kê ngay một đơn thuốc bổ huyết, lạy tạ rồi bước ra ngoài.

Tên thái giám có việc phải đi, đo đó cũng không biết câu chuyện về sau ra sao. Mãi tới phiên trực sau, hắn mới biết Thái hậu đã hết đau bụng và lúc đó mới cho tên tiểu thái giám đi triệu hoàng đế tới.

Khổ cái tên tiểu thái giám chạy tới triệu lại không mở miệng nói được lời nào, khiến cho Quang Tự hoàng đế vò đầu bứt tóc mãi mà vẫn không đoán ra được chuyện gì!

Nhưng sau khi nghe tên thái giám kể lại đầu đuôi cặn kẽ, Quang Tự hoàng đế đã rõ được chín phần mười câu chuyện, nhất là hiểu được cái căn bệnh khó nói của Thái hậu, hoàng đế thở dài, quay về cung, kể hết mọi chuyện cho Khấu Liên Tài nghe.

Thì giờ thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc đã tới tháng mười. Ngày lễ vạn thọ của thái hậu đã trước mắt. Mặc dầu đã có một tờ chiếu ban xuống cho thần dân đình chỉ cuộc lễ khánh chúc, nhưng thực ra, đó chỉ là một cái cớ để che mắt thiên hạ mà thôi!

Cái trò vải thưa che mắt thánh đó, vốn là trò quá quen với bọn quan trường. Nói rằng không làm lễ vạn thọ, chính lại là nói tổ chức ngày khánh chúc đó. Đối với quan trường xưa nay, ai lạ gì cái trò tiều ấy!

Thực thế, đến ngày vạn thọ, nào đèn nào đuốc rực rỡ huy hoàng, treo khắp kinh thành: Người ta liệu còn có nhớ đến tờ chiếu ngày nọ?

Ba ngày trước lễ vạn thọ, trước cũng như sau Di Hoà viên, bốn bề đều xinh tươi rực rỡ như hoa như gấm. Cách vườn hai mươi dặm chu vi, rồi Vạn Thọ sơn, rồi Côn Minh hồ, tất cả đều kết hoa, treo trướng buông màn, đủ ngũ sắc lóng la lóng lánh.

Đến ngày lễ vạn thọ, Lão Phật gia dậy thật sớm, mình mặc một bộ thọ phục thêu long phụng. Lý Liên Anh, Giao Tố Quân, cùng với các phúc tấn, vợ thân vương hầu hạ hai bên chuẩn bị sẵn sàng loan giá kéo thẳng tới vườn Di Hoà.

Chẳng mấy chốc, loan giá tới cửa vườn. Bọn thân vương như Đông vương, Cung vương, Khánh vương suất lãnh đủ các đại thần Hán, Mãn quỳ sẵn tại trước cửa từ trước để đón giá.

Loan giá tiến vào vườn. Bọn thân vương lại nhất loạt theo sau vào. Chiếc ngai báu đã đặt sẵn trên điện Bái Vân để thái hậu lên ngồi mà chịu lễ mừng thọ.

Nói đến điện đình rộng lớn nhất trong Di Hoà viên phải nói tới điện Bái Vân. Trên điện có treo một đôi câu đối. Tạm dịch:

"Muôn hốt tình sơn chầu Bắc đẩu

Cửu hoa tiên nhạc gảy nam huân"

Chỉ cần nghe qua cái giọng lưỡi trong câu đối, mọi người đều có thể biết đây là nơi nào và để làm gì rồi!

Có lẽ trong lúc loan giá của Thái hậu lên đường ra đi thì Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu cũng sửa soạn xa giá tới Di Hoà viên mừng thọ. Tiếp sau đó, hai nàng Cẩn, Trân phi cũng kịp tới để bái thọ.

Nguyên lai hai phi Trân, Cẩn bị giam trong lãnh cung, chưa mãn hạn, nhưng Quang Tự hoàng đế thừa dịp vạn thọ, cầu xin Thái hậu gia ân đại xá cho hai nàng. Bởi thế, hai nàng mới được tới để dập đầu lạy chúc. Cuối cùng, đến bọn phúc tấn, cách cách lần lượt kéo tới và nhất nhất quỳ lạy dập đầu để mừng thọ.

Cuộc chúc thọ vừa xong, Tây thái hậu truyền dụ: Cho phép thân vương, đại thần, phúc tấn, cách cách đi chơi trong vườn một ngày, đồng thời cho ăn yến bày tại đại viện, vừa ăn vừa xem hát.

Thật là một ngày náo nhiệt chưa từng có! Đời sau có người đặt mấy bài Từ để ca tụng cảnh hoa lệ của Di Hoà viên. Tạm dịch:

Bóng rèm song biếc lạnh như băng.

Trăng sàng rọi bên rèm.

Xuân tươi vân còn đó!

Ao chum thuở nọ hỏi tìm đâu?

Khách (chim) lẻ kêu sầu.

Khách nào đuổi áng mây trôi?

Uyên ương sao nhác?

Bướm nỡ thờ ơ!

Hăm bốn cầu kia, địch chửa nghe.

Nhi nữ sau buồn thương.

Tỉnh chửa? Sao chửa tinh?

Nhiều ít giận tang thương

Việc qua buồn biết mấy?

Triều trước phồn hoa thấy nữa đâu?

Mây buồn tan tác bao la

Trời xa, nhìn càng dương

Hoa lệ thăm thẳm viện đình

Hoa đào trong ngõ xóm

Hoa sen còn nở trên ao

Một tràng địch Khương bi thiết!

Thuở trước phong lưu

Càng nói càng đau cảnh đoạn trường

Sân khấu rạp hát trong Di Hoà viên có đến năm tầng tù thấp lên cao. Tầng thứ nhì dùng để diễn những tuồng thần kỳ quỷ quái!

Bởi thế hai tầng được bố trí gần giống như những nơi thần từ phật tự.

Tầng thứ nhất giống như các loại sân khấu tại rạp hát thông thường, có vẻ bảnh bao hơn một chút thế thôi. Tầng thứ ba phía trên chuyên dùng để sửa soạn màn cảnh. Trên tầng thứ tư có một ít bàn ghế, gương kính, bố trí đủ mọi đồ cần thiết cho đào kép trang điểm chuẩn bị lên sân khấu đóng tuồng. Còn tầng thứ năm, đó là tầng dùng để cúng kiếng thần Phật.

Hai bên sân khấu có hai dãy phòng, dùng làm chỗ ngồi cho bọn vương công đại thần được ân hưởng cho xem hát.

Đối diện sân khấu là một căn nhà ba gian cao hơn một trượng, đó là nơi dành riêng cho Hiếu Khâm hoàng hậu ngồi xem hát.

Bên cạnh có hai căn phòng để nghỉ ngơi, đặt một cái giường dài. Mỗi lần thái hậu tới xem hát, tuỳ ý muốn ngồi thì ngồi, muốn nằm thì nằm, thực vô cùng thoải mái!

Ngày vạn thọ, những đào kép nổi danh khắp vùng Bắc Kinh, Thiên Tân như Đàm Khiếu Thiên, Uông Quế Phân v.v... đều được gọi vào.

Trời tối, khắp vườn Di Hoà đèn đuốc sáng choang chẳng khác chi lúc ban ngày. Tây thái hậu và hoàng đế (Quang Tự) cùng ngồi trên đại viện để xem hát. Hai bên ngồi đông đủ nào thân vương, nào phúc tấn, nào cách cách, nào nội giám thân tín...

Hồi 160

QUANG TỰ THI HÀNH TÂN CHÍNH

Chỉ chốc lát sau, một tên thái giám tay cầm cuốn sổ trình lên, xin Hoàng thái hậu và hoàng thượng chọn tuồng.

Thuận tay, Tây thái hậu chấm vở Thiên lôi báo, còn hoàng đế chọn vở Tiêu Dao tân.

Tên thái giám lãnh chỉ lui xuống, truyền cho bọn đào kép bắt đầu diễn. Thiên lôi báo vốn là một kiệt tác của Tiểu Khiếu Thiên.

Hắn cất tiếng hát vừa mê ly vừa lảnh lót nghe đến mềm cả người. Nhưng khi Thiên hát tới chỗ sét đánh, Tây thái hậu quay mặt nhìn hoàng đế cười nhạt.

Quang Tự hoàng đế biết Tây thái hậu có ý chế giễu mai mỉa mình, cúi đầu lặng thinh. Lý Liên Anh đứng ở sau lưng Thái hậu cũng nhìn ngài mà nhếch mép cười.

Quang Tự hoàng đế đến lúc này, trong lòng đã lấy làm giận lắm. Kịp đến vở Tiêu Dao tân lên sân khấu. Các Tiên đóng vai Hán Hiếu đế, biểu diễn đúng hệt một ông vua cô thế nhu nhược vô cùng thê thảm trong tình trạng bị lăng nhục, nhục nhã đến rơi lệ.

Cung vương ngồi phía dưới lấy làm khoái, nhịn không nổi lớn tiếng khen tuyệt. Khánh vương cười bảo Cung vương:

- Trong cung cấm la hét om sòm, không sợ Lão Phật gia bắt tội sao?

Cung vương nghiêm nét mặt nói:

- Cựu chế của các đấng tiên vương ta là trong cung cấm không được chèo hát mà.

Nói đoạn, Cung vương liếc mắt nhìn Thái hậu. Nhưng Tây thái hậu tảng lờ đi như không nghe thấy gì, quay đầu lại trò chuyện với Lý Liên Anh.

Quang Tự hoàng đế bất giác mở sáng đôi mắt, cất cao cặp lông mày lên như đôi cánh nhạn, kêu gọi bọn nội giám liên tiếp khen thưởng bọn đào kép.

Đến lúc này, Tây thái hậu mới biết rõ hoàng đế tự chọn vở Tiêu Dao tân là có ý phản đối mình, vì thế lấy làm bực tức. Song bà thấy có Cung vương ngồi gần, chẳng dám phát tác chứ nếu không bà đã hạ lệnh đình diễn rồi!

Nguyên do chỉ tại Cung vương tính rất nghiêm khắc, dữ tợn. Khi vương ở nơi quân cơ, Tây thái hậu vẫn có ý sợ hãi vương. Hồi Hiếu Trinh hoàng hậu còn tại thế, thường cùng Tây thái hậu, Hoàng đế, và bọn Cung vương đi chơi nơi Tam Hải, Tây thái hậu nhìn thấy các đình đài, lầu gác tại nơi đây đổ nát rã rời bèn giơ tay chỉ bảo:

- Bọn ta nên sửa chữa nơi này mới phải!

Cung vương nghe đoạn, đáp lời chỉ bằng một tiếng gừ trong cổ, nhưng tỏ vẻ trang trọng.

Hiếu Trinh hoàng hậu nói:

- Sửa thì nên sửa lắm! Nhưng lúc này bọn ta làm gì có tiền để mà làm những việc không cần gấp đó?

Tây thái hậu nghe thấy, lặng thinh, không nói gì thêm nữa.

Đây là việc cũ nhắc lại một tí thôi! Lại nói, tuồng đêm đó diễn chưa xong, nhưng hoàng đế vì trong lòng mất hứng, xin phép Thái hậu cùng hai phi Trân, Cẩn về cung sớm.

Mặt khác, Tây thái hậu đêm đó cũng thấy hoàng thượng chọn vở Tiêu Dao tân là có ý chế giễu mai mỉa mình, trong lòng thực chẳng vui thú gì, cho nên chỉ mong hoàng thượng về sớm chừng nào hay chừng nấy.

Chờ cho Quang Tự hoàng đế đi rồi, Tây thái hậu cũng bảo bọn Thân vương về nốt, chỉ để bọn các cô cách cách vắn ở lại xem hát cho đến lúc mãn. Sau đó, bà cùng Lý Liên Anh sang chơi bên Trí Tuệ hải.

Trí Tuệ hải vốn là một thuỷ cảnh đẹp vào bậc nhất trong Di Hoà viên. Phong cảnh đại khái giống như Doanh đài nhưng cách kiến tạo xem ra có phần công phu và khéo léo hơn. Bốn chung quanh hải (bể) đều có cẩn châu ngọc và đá quý, lại treo cả những kiểu đèn ngũ sắc lộng lẫy của Tây dương. Ở giữa bể cột một chiếc thuyền rồng.

Thân thuyền dài một trượng tám thước, cao một trượng, vẽ vời đủ ngũ sắc. Phía trong thuyền rồng, có đủ loại bàn ghế, giường nằm, giao ỷ. Bất luận nằm hay ngồi, chỗ nào người ta cũng đều thấy êm ái thoải mái cả. Trên mũi thuyền, bày đủ nào là cờ quạt, nào là tiết việt. Trong khoang đuôi, có một căn phòng nhỏ luôn luôn được hai tên tiểu thái giám trông coi và chầu chực cẩn thận để sẵn sàng dâng ngự điểm (bữa ăn của vua và hoàng hậu) cho đúng lúc.

Đối diện với thuyền rồng, trên đất liền, còn có một toà nguyệt cung. Trong cung, tiếng trống, tiếng tiêu suốt ngày đêm không dứt. Mỗi năm cứ đến rằm trung thu, thì quả phẩm tươi ngon ướp lạnh được bày biện la liệt bên trong.

Tây thái hậu cùng với hoàng thượng đích thân tế trăng, sau đó ân thưởng cho các thân vương, đại thần được lên thuyền rồng dạo chơi đây đó, chẳng khác gì như một ngày đại hội thâu đêm suốt ngày, cửa thành rộng mở.

Đến nửa đêm, Tây thái hậu lại truyền lệnh ban yến, ăn uống vui vẻ. Suốt mãi tới lúc bình minh, mặt trời đã lên cao, vua tôi mới mãn vui giải tán ra về. Đây lại còn là việc sau.

Sau khi qua chơi Trí Tuệ hải một lượt. Tây thái hậu và Lý Liên Anh lại quay sang Bảo Liên hàng. Bảo Liên hàng là một cái thuyền ụ, dùng đá và ngọc đẽo thành, hết sức tinh xảo. Vì thế, nên còn gọi là thạch hàng (cái thuyền đá). Phía bên trong thạch hàng, có chế hai chiếc khí thuyền (thuyền chạy hơi nước). Khí thuyền hồi đó không hoàn toàn giống như tàu thuỷ ngày nay. Nó chỉ có mỗi một việc là có thể chạy đi chạy lại được mà thôi. Ấy thế mà đối với thời đó đã coi như tài khéo tuyệt luân, cướp hết cái công của tạo hoá rồi. Bên trong khí thuyền cũng có đèn điện, chiếu sáng mãi ra ngoài vườn.

Khi thuyền chạy đèn điện sáng choang, lốm đốm như sao. Tây thái hậu một mình cưới thuyền đi chơi.

Vì chiếc thuyền chạy đã xa điện Nhân Thọ, đối diện với núi Vạn Thọ, phong cảnh hết sức xinh đẹp. Tây thái hậu do đó rất thích tới đây du ngoạn.

Đầu đêm hôm đó, Tây thái hậu cùng với Lý Liên Anh đi du ngoạn một hồi, vẫn thấy thú vui chưa thoả, tiện đường tới thăm Đồng Âm thâm xứ.

Đồng Âm thâm xứ cũng là một địa điểm nằm trong vườn Di Hoà. Đây là một địa điểm bí mật, phía trong cất một căn nhà ba gian. Chung quanh căn nhà đều có trồng những cây ngô đồng đã rất lớn. Bên cạnh là một ngọn suối trong. Cứ đến đêm khuya, tứ bề vắng lặng, người ta nghe rõ tiếng suối reo róc rách, tí tách như tiếng đàn cầm, tạo thành một điệu nhạc vô cùng êm ái mê ly. Dọc dài theo nguồn nước trong, biết bao lan can chạm ngọc mài đá, thanh nhã, trông như một bức hoạ. Căn nhà ba gian xây cất toàn bằng cột chạm tường ve mười phần tinh xảo. Bên trong giường ghế, màn trướng thảy đều đầy đủ. Rồi đến những chậu rửa mặt, những gương trang điểm, không thiếu sót thứ gì.

Tính tình của Tây thái hậu vốn ham thích điểm trang. Hễ tới chỗ nào tất nhiên bọn cung nữ phải lo sửa sang lại mái tóc, dồi phấn thoa son lại cho bà.

Tuổi bà tuy đã sáu chục, nhưng mặt bà vẫn không chịu rời phấn sáp. Bởi thế nhìn bà chỉ như một người đàn bà quá ba mươi xuân xanh, như còn nhiều hứa hẹn lắm! Với cái bộ mặt còn đầy tình của bà, cái tấm thân còn óng chuốt đẫy đà của bà, mấy ai dám bảo bà đã năm, sáu chục cái xuân?

Ấy cũng vì thế, anh bác sĩ y khoa người Mỹ tên là Lập Đặc thường hay khoe với thiên hạ rằng bà là một đệ nhất mỹ nhân của thế giới. Hãy tạm gác chuyện này.

Lại nói Tây thái hậu cùng với Lý Liên Anh từ hôm đó ở lại Đồng Âm thâm xứ du ngoạn thâu đêm suốt sáng một cách vô cùng bí mật. Bọn cung nữ và thái giám trong Di Hoà viên thường nghe những tiếng trai gái cười cợt đùa bỡn nhau trong đó vọng ra.

Thế là từ đó, Tây thái hậu thức ngủ nhất nhất đều ở trong Di Hoà viên, không còn thấy can dự tí gì vào việc triều chính nữa, mặc kệ cho Đức Tông muốn làm sao thì làm, đúng y như lời ông Đồng Hoà đã, nói là "vui rồi thì quên hết!".

Từ hôm đi xem hát về, Quang Tự hoàng đế (tức Đức Tông) giận tức đến cùng độ. Lại thêm Trân, Cẩn hai phi kể lể lại tình cảnh lúc bị đánh, bị tù, ngài càng thấy lòng tức giận tăng thêm. Mặc dù được lưỡng, phi khuyên giải an ủi, nhà vua vẫn cứ buồn bã chẳng thể vui lên được.

Suốt đêm hôm đó Quang Tự hoàng đế không chợp mắt được phút nào! Sáng mai, ngài thị trào xong quay về cung, liền cho lệnh mời ngay ông Đồng Hoà vào thương nghị kế sách "Cải cách triều chính".

Ông Đồng Hoà tâu:

- Đối với tình hình hiện tại, mọi cựu chế của Tiên hoàng không còn thích dụng nữa. Ngu thần thi lại bất tài không tìm ra lượng pháp, khiến tất lại hoá xấu, hay lại hoá dở. Bởi thế, chỉ còn một cách là nhường lại cho bọn hậu bối tài cán đủ khả năng, cố hết tâm sức kiến công lập nghiệp là hơn!

Quang Tự hoàng đế khảng khái nói:

- Nếu sư phó không chịu cáng đáng trọng trách đó Trẫm sẽ quyết ý trọng dụng bọn người mới Khang Hữu Vy vậy? Vậy xin nhờ sư phó thay trẫm truyền dụ ra ngoài, gọi Khang Hữu Vy ngày mai vào bệ kiến.

Ông Đồng Hoà lĩnh chỉ lui ra, tới báo cho Khang Hữu Vy.

Khang Hữu Vy vốn là người có chí lớn. Trước năm Giáp Ngọ, Khang đã có lần dâng thư điều trần chính kiến của mình: Thế nào là khoa học... Làm sao để chấn hưng nền giáo dục v.v...

Bọn đại thần người Mãn cho rằng Khang khùng, chỉ nói bậy nói bạ, đem ỉm luôn bản điều trần của Khang, quyết không trình lên hoàng đế. Có điều rắc rối là năm đó ông Đồng Hoà làm chủ khảo trường thi, có đọc văn của Khang, thấy Khang là một tay kỳ tài, liền cho đậu tiến sĩ. Từ đó, giữa ông và Khang tự nhiên có cái tình thày trò.

Bởi thế, ông Đồng Hoà mới đem hết sức mình để tiến cử lên Đức Tông.

Quang Tự hoàng đế đã có ý muốn triệu Khang Hữu Vy để chính mình được hỏi những điều cần thiết. Song triều đình còn có luật pháp, không tiện vượt qua. Ngài đành phải hạ dụ cho Khang tạm thời hãy nhận chức Học tập hành tẩu tại Tổng lý nha môn, chờ ít lâu sẽ thăng lên làm Hàn lâm viện thị giám.

Chính lúc này là lúc ngài có thể triệu kiến một cách dễ dàng, không còn phải e ngại dư luận.

Đến hôm được dụ triệu kiến, Khang Hữu Vy đầu đội mũ long linh rực rỡ, đi thẳng vào Tiên điện để kiến giá.

Quang Tự hoàng đế đợi Khang hành lễ xong, mới cất tiếng hỏi về chính sách "Tự cường" của Khang.

Khang Hữu Vy liền trần thuật luôn ba kế sách lớn như sau:

1) Tập hợp hết thảy người tài lại để mưu việc biến chính.

2) Chọn lựa Tây sách (kế sách của Tây phương) để định rõ quốc sách.

3) Nên nghe theo và cho phép bọn quan cai trị ngoài biên cương tự biến chính.

Ngoài ba điểm chính này, Khang còn xin định rõ hiến pháp, bỏ hẳn khoa cử, mưu việc chấn hưng giáo dục, mở mang chế độ, sai các thân vương đi du lịch các nước để dò xét những lương pháp của các nước Tây phương, phiên dịch các sách Âu Tây để đào tạo tri thức, phát hành giấy bạc và thiết lập ngân hàng để cho kinh tế được lưu thông, tổ chức các trường văn nghệ cũng như võ bị ở các tỉnh các phủ để luyện tập dân binh, mong việc phòng vệ được chỉnh đốn và cường mạnh.

Khang Hữu Vy trình việc nào ra việc đó, tất cả đều thao thao bất tuyệt. Quang Tự hoàng đế nghe xong, bất giác cả mừng, hạ dụ cho Khang lui ra ngoài, đồng thời sai bảo tiến một số nhân tài tân chính để tiện việc thực hành "Biến pháp".

Lý Hồng Chương sau khi ký mật ước với nước Nga, bèn lên đường du lịch các nước, lúc này cũng vừa về tới Trung Quốc.

Quang Tự hoàng đế ghét Chương về chuyện bất lực trong cuộc chiến năm Giáp Ngọ (chiến tranh Trung - Nhật), nên cho Chương rút lui ra khỏi quân cơ về nhà nghỉ.

Nhưng sau Tổng đốc Lưỡng Quảng bị khuyết, Lý Hồng Chương lại được điều ra đó nhận chức.

Cung thân vương Dịch Hân tuy cương trực nhưng từ sau cuộc chiến bại Giáp Ngọ, đối với chính trị cũng không còn nghiêm khắc như trước. Không ngờ, già lão chóng tàn, Cung vương bỗng nhuốm bệnh, nằm liệt giường, có cơ nguy kịch.

Tin chẳng lành truyền tới tai Thái hậu và hoàng thượng. Tất cả mọi người đều xúc động cảm thương. Quang Tự hoàng đế lập tức sai nội vụ phủ cấp cho gia đình vương một vạn đồng bạc để làm đám táng, và đặt thuỷ hiệu là Trung vương.

Sau khi triệu kiến Khang Hữu Vy, Quang Tự hoàng đế một lòng tha thiết thực hiện tân chánh. Lại còn có bọn thị lang Từ Trí Tĩnh, thị độc học sĩ Từ Nhân Kính, Từ Nhân Trú, ngự sử Dương Thâm Tú dâng thư lên xin quyết định ngay Quốc thị (tức là chế độ, luật pháp, tổ chức cần thiết của một quốc gia).

Thế là đến đây, chủ ý của Quang Tự hoàng đế về biến chính càng thêm kiên quyết và nhất định lắm rồi. Do đó, đúng vào ngày hai mươi bảy tháng tư, ngài bèn hạ một đạo chiếu thư xuống như sau:

"Mấy năm gần đây, chiến sự xảy ra lung tung, mối lo bên ngoài càng thêm đáng ngại. Trẫm rất lấy làm lo lắng. Do đó, thần công trong ngoài nhiều người chủ trương biến pháp tự cường, quyết ý trước hết, đào thải hết bọn tham nhũng, sau đó thiết lập đại tiểu bọc đường, sửa đổi chế độ võ khoa v.v...

Họ đã suy xét cẩn thận, và cương quyết thi hành để thí nghiệm, chứ không như bọn thần công ngày trước chỉ khư khư bảo thủ cựu chế, bài trừ tân pháp, mồm mép om xòm, không hướng tới một cái gì; do đó mới xảy ra vụ tranh chấp về chế độ giữa cũ và mới.

Song, thời thế ngày nay đã khác: trong thì chính trị không sửa sang, ngoài thì cọp dòm ưng ngó, chỉ chờ có dịp là tiến tới nếu không có mưu kế tự cường, ta biết lấy gì mà lập quốc?

Mà cái đạo tự cường thì trước hết phải lấy cường dân phú quốc làm đầu.

Ôi! Học trò đã không có thày giỏi thì làm sao cho có thực học? Bọn lính nhác không được tập luyện thì biết lấy gì để chống giặc. Nếu cứ cổ hủ mãi, thì nước làm sao mà mạnh được dân làm sao mà giàu được? Trong trường hợp ấy, cả một giang sơn gấm vóc này rốt cuộc chỉ để cho bọn cường lân (các nước láng giềng giàu mạnh) gậm nhấm dần đến hết như tằm ăn dâu mà thôi.

Trẫm đã thăm hỏi hai ba lần: ai cũng đều cho rằng nếu quốc thị không định, thì hiệu lệnh chẳng thể thi hành được, những điều lưu lệ, sau đó ắt gây ra phận tranh, khiến quốc chính không còn cách gì bồi bổ nữa.

Xét lại lịch triều Trung Quốc, trẫm thấy chế độ của liệt quốc mỗi quốc gia đều có cái hay riêng của mình, chứ không giống ai nhau, luôn luôn cũ mới đổi thay nhau. Điều dĩ nhiên từ xa xưa là đã chọn tân chế thì đương nhiên cựu chế không thể tồn tại. Chọn cái hay để mà theo thì đó là cái đạo lớn của nước vậy.

Kể từ nay về sau, thần công trong ngoài lớn nhỏ, vương công, sĩ thứ, tất cả đều phải gắng sức hướng lên, nổi hăng mà mưu đồ sự giàu mạnh, học tập lấy lễ nghĩa của thành hiền, chọn những điều của Tây học thích hợp với chế độ để bổ túc những chỗ thiếu sót, chủ đích chỉ mong cầu tinh tiến để đợi lúc sử dụng.

Kinh sư là nơi thủ đô của toàn quốc, học đường phải nên sáng lập. Nếu các bậc thần công trong ngoài từ vương công trở xuống cho đến các nhân viên, các ty, các bộ, các vị thế chức Bát Kỳ cung như đám bậu duệ của văn vô đình thần, muốn xin đi học, thì sẽ được nhập học, giáo dục thành nhân tài đế vì nước xuất lực, giúp đời gỡ rối.

Hỡi các thần công! Các ngươi không được tự ý thủ cựu mà viện dân này nọ, làm chậm chế việc thi bành, khiến nỗi trên thì phụ lòng triều đình thiết tha với các giới, dưới thì tự mình đã lẫn lại kéo thêm người lầm với mình. Và như thế hậu hoạ không còn gì to lớn hơn nữa! Nay đặc dụ cho thán công nội ngoại toàn thể đều biệt.

Khâm thử".

Đạo thượng dụ này vừa ban xuống, chỉ trong nháy mắt, tin tức đã đồn dậy trong ngoài. Khang Hữu Vy ngay lúc đó cũng được vời vào cung để hỏi ý kiến. Nhất thời được minh quân chiếu cố tới mình, Khang quả là người mà toàn triều văn võ bá quan không ai dám sánh.

Khang Hữu Vy bảo tiến thêm mấy nhân vật mới nữa giúp đỡ trong việc biện lý tân chính.

Đó là Từ Trí Tĩnh và hai người con Từ Nhân Trú và Từ Nhân Kinh. Khang lại bảo tiến người em ruột là Khang Quảng Nhân, người đệ tử là Lương Khải Siêu.

Lương Khải Siêu là người huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, vốn là một thư sinh. Do sự bảo tiến của thày, Lương được hưởng hàm lục phẩm, phụ trách việc dịch sách trong Dịch thư cục.

Mặt khác, Tuần phủ Hồ Nam là Trần Bảo Hàm cũng bảo tiến Lưu Quang Đệ. Dương Nhuệ. Thị lang Tử Kính Tĩnh cũng bảo tiến Đàm Tự Hồng. Hộ bộ tả thị lang Trương Âm Hoàn lại bảo tiến Vương Tích Phồn, Ngự sử Dương Thâm Tú bảo tiến Đinh Duy Lỗ.

Tất cả những nhân vật được bảo tiến trên đều là những người học thức uyên bác, có thể coi như là những nhân tài tuyệt luân được. Ngoài ra, ta còn thấy có nhóm Trương Chi Động cũng góp nhiều công vào việc biến chính, nhất là trong chương trình cải cách khoa cử.

Vương Phượng Văn xin thiết lập phép chấm thi. Tiêu Văn Cát xin chỉnh đốn nghề tơ, trà để phục hưng thực nghiệp. Ngự sử Tăng Tôn Ngạn tâu xin mở mang nông vụ. Vương Tích Phồn xin tổ chức quản trị các hội buôn. Lý Đoan Phân xin chỉnh đốn lại luật lệ. Viên Vĩnh thì tâu xin giải quyết sinh kế cho Bát Kỳ (tổ chức quân đội của riêng nhà Thanh). Ngự sử Thuỷ Tân người Mãn, dốt đặc cán mai, đến một chữ cũng không biết thế mà cũng dám ghi tên lên đầu danh sách, xin quản trị các báo quân để lo việc thông tin.

Quang Tự hoàng đế thấy sớ tấu dâng vào như bươm bướm, cái nào cũng có ích cho Tân chính, đều nhận hết, đồng thời còn khen thưởng những người dâng tâu kế sách. Ấy cũng vì vậy cho nên có những anh chàng người Mãn vớ vẩn dốt nát, vét ba ngày không ra được nửa chữ, cũng vội vàng dâng sớ trình bày chính kiến, khiến từ đó, tấu sớ chất thành đống như trái núi, tạp nham bừa bãi, trở nên bao chuyện khôi hài không bút nào tả xiết!

Lại cũng còn có kẻ tâu xin hoàng đế "trở lại" đạo Gia tô. Rồi cũng lại có cả những bản tấu chương xin học tập theo sách Tây, chữ Tây (chữ Anh, Pháp, Đức v.v...).

Quang Tự hoàng đế xem qua các loại sớ này chỉ mỉm cười, coi như được một dịp nghe chơi những chuyện vui. Song đối với các bản điều trần thực tế về tân chính của chư thần, Quang Tự hoàng đế đều nhất nhất dung nạp, không loại bỏ cái nào. Ấy cũng vì vậy mà một tai hoạ lớn đã ra, hậu quả vô cùng tai hại.

Hồi 161

MẬT CHIẾU TRỪ CỰU ĐẢNG

Thấy Khang Hữu Vy được Quang Tự hoàng đế tin dùng, giao cho việc thực hiện tân chính, bọn cựu thần như Hứa Ứng Quỳ, Từ Hội Phong, Hoài Tháp Bố, Cương Nghị căm tức vô cùng.

Hằng ngày bọn quan cũ thường tìm những chỗ sai sót của bọn mới để khai thác, rồi tìm cách ton hót, gièm chê họ trước mặt Tây thái hậu.

Có điều là hồi đó, sau khi sống chung một cách vô cùng bí mật với Lý Liên Anh trong Di Hoà viên, Tây thái hậu ném hết mọi việc triều chính ra sau lưng, không thèm để ý tới một việc nhỏ nào nữa, ngoại trừ một vài việc muôn phần khẩn cấp. Cũng có đôi lúc, hoàng đế gặp phải đôi việc cần hỏi ý kiến thì bà chỉ kêu Lý Liên Anh truyền lời ra cho ngài mà thôi. Hoàng đế và Thái hậu vốn có tình mẫu tử, thế mà còn không được gặp, thử hỏi bọn thần tử làm sao mà gặp được?

Khi Hiếu Trinh hoàng hậu còn tại thế, Vinh Lộc tuy đã bị cách chức nhưng lúc này đã được phục chức và giữ việc Bộ quân thống lãnh. Lộc thấy ghế tổng đốc Trực Lệ khuyết, liền xin Tây thái hậu cho mình sung vào.

Rồi nhân dịp Quang Tự hoàng đế vào vấn an trong ngày sóc, vọng (sóc: ngày mồng một; vọng: ngày rằm), Tây thái hậu đích thân triệu Vinh Lộc vào bệ kiến để bổ nhiệm chức tổng đốc Trực Lệ.

Lại nói bọn Hứa Ứng Quỳ, Hoài Tháp Bố, hằng ngày rình rập nhóm tân chính xem có gì sơ hở không để kỳ trung thủ lợi.

Thật là may cho bọn họ, dịp đó đã tới.

Số là một hôm, chủ sự bộ Lê Vương Chiêu dâng lên một tờ sớ, sơ hở thế nào không biết, khiến Hoài Tháp Bố nhìn thấy trong quân cơ xứ, vội đánh cắp dấu vào ống tay áo, tính đem sang trình Tây thái hậu. Không ngờ việc gian xảo của Bố bị ngự sử Dương Thâm Tú biết được, vội chạy vào cung tâu ngay cho Quang Tự hoàng đế hay.

Quang Tự hoàng đế cả giận, lập tức hạ lệnh truy cứu tờ sớ của Vương Chiêu. Bố bất đắc dĩ phải trình lên. Quang Tự hoàng đế tức thì lột chức Hoài Tháp Bố, định cho tội danh không dùng vĩnh viễn.

Nội dung tờ sớ của Vương Chiêu khuyên Quang Tự hoàng đế hớt tóc, đổi y phục. Hoàng đế xem xong, mỉm cười, và ban cho Vương Chiêu mũ hàng tam phẩm.

Bọn thần công (quan lại) Mãn cũng như Hán, trong cũng như ngoài, tất cả nghe nói hoàng đế dám dung nạp cả đề nghị nhà vua hớt bím tóc, điều mà triều Thanh vô cùng kiêng cữ, liền khùng lên như một đàn thú dữ. Họ không hiểu tại sao hoàng đế lại có thể nghe theo những đề nghị kỳ dị như vậy.

Thế là cả bọn cựu thần, cựu đảng họp nhau lại, hết tốp này đến nhóm nọ, truyền đi mãi tới tai thái hậu.

Tây thái hậu vừa nghe mấy tiếng "hớt tóc đổi y phục", bỗng thất kinh, đùng đùng nổi trận lôi đình, gầm lên:

- Thằng bé hỗn láo thật! Cơ nghiệp của tổ tông có lẽ hắn muốn phá cho bằng hết đi chăng?

Lời nói vừa ra khỏi miệng Tây thái hậu, thì đã có bọn thủ cựu như Hứa Ứng Quỳ, Cương Nghị chạy vào tâu hót tới tấp.

Bọn này tố cáo nào là hoàng đế lầm lẫn, nào là nghe lời khùng dại của Khang Hữu Vy, cải biến tất cả chế độ tốt đẹp của các đấng tiên hoàng, không còn ra cái thể thống gì nữa.

Tây thái hậu nghe xong càng thêm tức giận. Bà truyền dụ triệu kiến hoàng thượng lập tức. Quang Tự hoàng đế nghe lệnh triệu biết chắc đã có chuyện xấu rồi, vừa đi lòng ngài vừa nơm nớp lo ngại.

Bước vào cung hành lễ xong, Quang Tự hoàng đế chưa kịp mở miệng vấn an thì Tây thái hậu đã đập bàn quát:

- Ta thấy mi hồi này tuổi đã lớn hơn trước, hiểu biết cung đã khá hơn xưa, nên mới phó thác việc triều chính cho. Ai ngờ mi vẫn một mực ngu xuẩn làm bậy. Mi có biết tổ tiên xưa gây dựng cơ nghiệp khó nhọc bao nhiêu không? Hình như hồi này mi đâm khùng thì phải? Mi muốn dâng hết cả thiên hạ của bọn ta cho kẻ khác phải không?

Quang Tự hoàng đế vội vàng thỉnh an xong rồi nói:

- Mẫu hậu đừng nghe lời gièm báng của người ngoài mà oan cho con. Con tuy có bất tài nhưng quyết không tự ý làm bậy. Hiện nay con đang tìm đủ cách để sửa sang, xếp đặt lại mọi việc, quyết thế nào quốc gia cũng phải được cường thịnh, cho toàn dân cùng hưởng thái bình, hạnh phúc. Lẽ nào lại có chuyện dâng giang san cho kẻ khác. Cầu xin Thánh mẫu xét rõ cho...

Tây thái hậu không để cho Quang Tự hoàng đế nói hết câu, quát:

- Mi còn chối cãi nữa phái không? Thế cái sớ của thằng Vương Chiêu xúi giục mi làm gì, hả? Mi tưởng tao đui điếc đấy à?

Nói đoạn, Tây thái hậu cầm cả một tập sớ dày cộm ném xuống trước mặt hoàng đế rồi quát tiếp:

- Mi hãy xem kỹ cái này đi!

Một tên thái giám lượm tập sớ dâng lên. Quang Tự hoàng đế đón lấy xem một lượt, lúc đó mới biết đó là tập sớ đàn hặc những chỗ sai lầm của bọn biến chính Khang Hữu Vy, đồng thời kể vạch hết những lầm lẫn của chính mình.

Xem xong, Quang Tự hoàng đế lặng thinh, không nói nên lời nào chỉ cất giữ lấy tập sớ. Tây thái hậu cười nhạt bảo:

- Bây giờ thì mi rõ cả rồi chứ? Thôi! Đi về đi! Ta cho biết mà coi chừng. Từ nay về sau, cẩn thận một chút nghe!

Quang Tự hoàng đế nghe thái hậu nói, dạ dạ luôn mồm rồi lảo đảo lui ra. Khi về tới cung Kiền Thanh, hoàng đế đem tập sớ, xem xét lại một lượt nữa, mới biết bọn đàn hặc mình đông có tới hơn hai mươi tên. Bất giác, ngài nổi giận xé nát tập sớ ra từng mảnh vụn, dậm chân uất giận, miệng gằn lên từng tiếng.

- Cái lũ thủ cựu láo xược này, nếu không trừ tuyệt chắc không thể yên giấc!

Hoàng đế càng nghĩ càng tức tối.

Qua ngày hôm sau, lúc sắp bãi chầu hoàng đế thấy có Viên Thế Khải xin vào triều kiến, thỉnh huấn để xuất binh. Khải được cử nhiệm chức Tiểu Trạm huyện binh tổng biện do Tổng đốc Trực Lệ bảo tiến.

Quang Tự hoàng đế khuyến khích họ Viên vài câu rồi cho Viên lui ra. Nhưng sau đó, ngài sực nhớ ra rằng mình hiện thiếu mất một tay chấp chưởng binh quyền. Ngài tự nhủ: Khải hiện làm Luyện binh tổng biện, phải chăng là người có thể...

Nghĩ vậy, Hoàng đế vội truyền ngay dụ ra ngoài bảo Viên Thế Khải tạm hoãn việc xuất binh, vào cung Kiền Thanh kiến giá.

Viên Thế Khải nhận được chỉ dụ này, vò đầu bứt tóc mãi vẫn chẳng tìm ra manh mối, đành lại quay vào cung Kiền Thanh, có một tên thái giám đưa đường.

Chờ y ấn hành lễ xong, nhà vua nói:

- Lần này xuất kinh luyện binh, ngươi có thể dốc lòng trung với nước không?

Bị hỏi đột ngột một câu như vậy, Khải giật nẩy mình, mồ hôi toát ra như tắm, vội vã cất mũ, dập đầu tâu:

- Tiểu thần đâu dám không hết lòng trung với nước? Tiểu thần nghĩ rằng bao đời chịu hậu ân của hoàng gia, thì dù thây có nát, hồn có tan cũng không đủ để báo đáp, chứ đâu dám có dị tâm này nọ.

Quang Tự hoàng đế mỉm cười, gật đầu nói:

- Tốt lắm! Tốt lắm! Nếu ngươi có lòng vì nước trẫm sẽ giao cho ngươi một mật trát mà hành sự cẩn thận. Về sau sự thành, tất nhiên ngươi được trọng thưởng.

Nghe đến đây, Viên Thế Khải chợt biết rằng hoàng thượng tin cậy mình, còn có một việc ký thác, mới thấy thư tâm, tiếp đón mật trát và dập đầu tạ ơn lui ra.

Khi Viên Thế Khải nhận mật trát lui ra khỏi cung Kiền Thành thì bị một tên nội giám chạy ngược chiều húc một cái mạnh vào ngay giữa ngực Khải, chút xíu nữa ngã kềnh ra đất.

Tên nội giám sợ bị tội, vội vã chạy như bay để trốn tránh.

Khải định thần trong chốc lát, nhìn theo thì đã không thấy hắn đâu nữa.

Khải đâm nghi, tự lấy làm việc lạ. Khi về đến tư dinh, Khải đem mật trát ra đọc. Thì ra đó là mật lệnh của Quang Tự hoàng đế sai Khải đem quân giết Tổng đốc Trực Lệ là Vinh Lộc. Sau đó, kéo binh về kinh để quét hết cựu đảng của thái hậu.

Viên Thế Khải xem xong mật trát, lòng do dự không quyết.

Khải tự nhủ:

- Việc này đâu phải chuyện trẻ con. Vạn nhất sự cơ không mật, quyết chịu tội diệt tộc!

Khải trằn trọc suốt đêm chẳng ngủ được, chỉ tại cái mật trát. Khải nhớ lại cái người xô mình lúc ban ngày, khi ra khỏi cung Kiền Thanh. Cuối cùng, Khải đặt nghi vấn, cái người quái gở đó phải chăng là tên mật thám của thái hậu?

Viên Thế Khải suy đi tính lại mãi mà vẫn chưa dám quyết bề nào. Khải so sánh hai thế lực của thái hậu và của hoàng đế thấy rằng thế lực của hoàng đế thua tới hàng ngàn vạn lần và như thế, việc này nhất định hỏng. Chi bằng đi đầu thú là hơn. Chủ ý đã định, Khải lên đường ngay đêm đó ra khỏi kinh thành.

Gốc gác của Viên Thế Khải như sau: trước đấy, đã có lần làm Triều Tiên uỷ viên, rồi đến khi Vinh Lộc lên nhận chức Tổng đốc Trực Lệ, Lộc liền bảo tiến Khải làm Luyện binh tổng biện.

Khải có ba tay em út trợ lực: đó là Đoàn Kỳ Thuỵ, Phùng Quốc Chương và Vương Sĩ Trân. Ba tay này, người đương thời đặt hiệu cho là "Lục quân tam kiệt".

Viên Thế Khải vội vã xuất kinh chạy một lèo tới Thiên Tân, đưa mật chỉ của Quang Tự hoàng đế cho Vinh Lộc xem.

Lộc xem xong cả kinh nói với Khải:

- May quá! May quá!

Nói đoạn, Lộc bảo Khải giữ ấn tín Tổng đốc Trực Lệ giùm mình, rồi ngày đêm chạy vội về kinh xin vào cung yết kiến Tây thái hậu.

Tên nội giám chạy vào thông báo. Nhưng Lão Phật gia có chỉ ngày mai kiến giá. Vinh Lộc vô cùng bối rối lo lắng, bảo tên nội giám:

- Việc này đâu có đợi được đến ngày mai?

Tên nội giám lại chạy vào lần nữa, Tây thái hậu thấy Lộc tử Thiên Tân về, bất chấp cả ngày đêm nài xin yết kiến, đoán biết phải có chuyện chi khẩn cấp. Do đó, bà truyền cho Lộc vào tức khắc.

Vừa nhìn thấy thái hậu, Vinh Lộc phủ phục trên mặt đất, khóc rống lên. Tây thái hậu cả kinh hỏi:

- Mi có chuyện chi mà khóc lóc đau khổ quá vậy?

Lộc vừa khóc vừa cất tiếng bi thiết tâu:

- Cái mạng của nô tài con chẳng kể làm chi? Có điều ngay cả Lão Phật gia tính mạng e cũng đáng ngại nữa!

Nói đoạn, Lộc cầm tờ mật trát trình lên. Dưới ánh sáng của chiếc đèn bạch lạp, Tây thái hậu xem kỹ tờ mật trát. Nội dung như sau:

"Trẫm đăng cơ từ lúc nhỏ tuổi, chính quyền đều do mẫu hậu nắm giữ, khiến một lũ nghịch đảng hoành hành không kiêng nể ai cả.

Đã hai mươi năm qua, Trẫm chịu hết mọi khổ cực. Hoặc có khi chính kiến không hợp, bọn nghịch nó lại chế giễu Trẫm.

Bởi thế, Trẫm tuy có thiên hạ, nhưng thực ra chỉ có hư danh.

Nếu cứ như thế mãi, chẳng những Trẫm chỉ là trò cười cho thiên bạ mà còn mặt mũi nào nhìn thấy tiên hoàng nơi chín suối nữa? Rồi đây hậu thế cung chỉ cho Trẫm là một vì vua như nhược hèn yếu mà thôi! Càng nói Trẫm càng thấy đau lòng!

Nay Trẫm giao cho Viên Thế Khải cập kỳ xuất kinh, thống lĩnh bộ thuộc của mình, khắc kỳ khởi sự, tập sát Tổng đốc Trực Lệ Vinh Lộc, nhận ngay lấy chức khuyết, sau đó, tuỳ thời suất lĩnh quân hùng cường mạnh kéo thẳng về kinh, quét sạch nghịch đảng, bảo vệ hoàng thất, chấn chỉnh lại triều chính; chớ phụ ý Trẫm.

Khâm thử".

Tây thái hậu đọc xong, bất giác nghiến răng kèn kẹt, nói:

- Hừ! Cọp không ăn thịt người, người lại tính ăn thịt cọp.

Nói đoạn, bà bảo Vinh Lộc:

- Mi đi ngay, triệu bọn đại thần ngay đêm nay vào vườn bàn việc!

Lộc lãnh ý chỉ lật đật chạy vào Di Hoà viên, không biết còn có người vội vã hơn mình.

Số là khi Vinh Lộc chạy vào Di Hoà viên, tình cờ đã bị tên nội giám thân tín của Quang Tự hoàng đế là Khâu Liên Tài bắt gặp. Thấy Lộc hốt hoảng, lật đật, Tài đã có lòng nghi, nhủ thầm:

- Cái thằng Vinh Lộc này hiện nay làm Tổng đốc Trực Lệ, tại sao nó lại có thể bỏ nhiệm sở tới đây một cách dễ dàng như vậy nhỉ? Việc này ý hẳn có biến cố quan trọng nào đây.

Nghĩ vậy rồi Tài liền nhẹ nhàng bám riết Lộc. Tài nằm mép trên góc điện để nghe trộm, thấy Lộc khóc rống lên khi yết kiến thái hậu, sau đó dâng lên một tờ giấy viết nhìn gì không biết. Chỉ vì khoảng cách quá xa, Tài không cách nào nghe nổi lời Lộc nhưng đến khi thái hậu gầm lên thì Tài nghe rõ ràng: "Mi đi ngay, triệu bọn chúng vào gấp...", và sau đó thì Lộc vội vã cà nhót chạy ra khỏi vườn.

Khấu Liên Tài được biết rõ tình hình như vậy, vội chạy về cáo cấp cho Quang Tự hoàng đế...

Hồi 162

SỐ MẠNG BỌN KHANG, LƯƠNG

Quang Tự hoàng đế đang trò chuyện với Trân, Cẩn hai phi ở trong cung, thấy Khấu Liên Tài thở hổn hển chạy vào, vội hỏi.

- Vì sao ngươi hốt hoảng vậy?

Tài vội quỳ xuống đất, tâu bày hết những gì vừa thấy rồi nói tiếp:

- Vinh Lộc hiện đã ra khỏi vườn, không biết đi triệu những ai. Nô tài sợ chuyện có liên quan tới bệ hạ cho nên vội chạy về đây cấp báo.

Quang Tự hoàng đế nghe qua biết ngay rằng cơ mưu phó thác cho Viên Thế Khải đã bị bại lộ, và tin rằng hậu quả sẽ vô cùng tai hại. Ngài cho rằng việc dù có hệ trọng đến đâu đối với ngài cũng chẳng can gì, song đối với bọn thi hành tân chính thì e rằng khó thoát. Chẳng lẽ trố mắt ngồi nhìn họ bị chặt đầu, chém cổ, không động lòng thương xót? Do đó, ngài liền bảo Khấu Liên Tài chạy ngay đi báo cho Khang Hữu Vy. Giữa lúc quá cấp bách, không kịp thảo chiếu, ngài bảo Tài giơ bàn tay ra, viết ngay vào lòng bàn tay bốn chữ: Sự cấp tộc tẩu (sự gấp, chạy mau) rồi giục Tài đi ngay.

Khấu Liên Tài lãnh chỉ, chạy như bay tới nhà Khang Hữu Vy. Đêm đó, Vy vừa thảo từ sớ, rồi đi nằm nhưng chưa ngủ thì bỗng nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Cửa mở, Khấu Liên Tài bước vào, thở hổn hển gần như đứt hơi, muốn nói mà không nói ra lời, chỉ chìa vội bàn tay có bốn chữ của Quang Tự hoàng đế.

Khang Hữu Vy thoáng nhìn qua, biết ngay việc đã hỏng rồi, co giò vùng chạy ra khỏi kinh thành, không kịp mang theo cả quần áo.

Khang chạy luôn một mạch tới bến, nhảy xuống tàu ra Thiên Tân, xuống Thượng Hải, một lèo, mất hút.

Khấu Liên Tài làm tròn nhiệm vụ, quay về phúc chi, hành động không một ai hay biết!

Còn về Lương Khải Siêu? May cho Lương tối đó có việc phải lại thăm Khang để bàn tính. Lương vừa bước chân vào cửa, đã thấy sách vở, đồ đạc quăng ném lung tung, bề bộn, không một cái gì còn trật tự nguyên vẹn. Vội hỏi tên tiểu đồng, Lương được biết lúc gần canh ba có một người hốt hoảng tới nhà, chẳng thấy nói một câu nào, mà chỉ thấy chìa ra một bàn tay, thế là Khang chân tay quýnh quýnh vội nhảy ra ngoài bóng đêm chạy mất!

Lương vốn người khôn ngoan tinh ý, biết việc nguy đến nơi, lật đật chạy vào toà lãnh sự Nhật xin ty nạn. Lương nghe ngóng tình hình, vài ngày sau, quả nhiên được tin mọi việc đổ bể cả liền cải âu phục, theo viên phó lãnh sự Nhật Bản mà trốn luôn sang Nhật.

Hai tay trùm trong nhóm cải cách là Khang và Lương đã trốn thoát cả, cái hoạ lớn tất nhiên đè lên cổ bọn người còn lại. Ta lại kể tới cuộc mưu tính của Vinh Lộc để tận diệt đảng Tân chính theo lệnh Tây thái hậu.

Lại nói Vinh Lộc tối hôm đó, vội chạy đi triệu bọn đại thần như Cương Nghị, Hoài Tháo Bố, Hứa Ứng Quỳ, Tăng Quảng Hán, Tử Hội Phong vào ngay Di Hoà viên.

Vừa khấu đầu xong, cả bọn thấy Tây thái hậu vẻ mặt hầm hầm, giơ tờ mật trát của Quang Tự hoàng đế cho xem để bàn tính kế sách đối phó.

Cương Nghị dập đầu tâu:

- Theo ngu ý của nô tài, ngày nay chỉ còn cách giết bọn Khang, Lương, nếu không bọn nô tài sẽ bị chúng diệt sạch. Hạ thủ trước vẫn là phương sách tốt hơn cả.

Tây thái hậu lớn tiếng bảo:

- Không những ta giết hết mấy tên nghịch tặc đó, mà còn phế bỏ cả tên hôn quân nọ là khác!

Vinh Lộc vội quỳ xuống tâu:

- Tâu thái hậu! Việc này thiết tưởng không nên! Bởi vì rằng hoàng thượng lâm chánh, trong ngoài đều biết, nay vô cớ phế bỏ, ngoại nhân quyết vin vào đó mà dị luận. Theo ngu ý của nô tài thì xin mời Lão Phật gia lại nắm lấy triều chính, không giao quyền hành cho hoàng thượng nữa là hơn cả.

Tây thái hậu nghe đoạn sẽ gật đầu, tỏ vẻ đồng ý. Thế là bà tức tối hạ lệnh cho Cương Nghị đem quân thị vệ đợi lúc sáng mai lùng bắt bọn Khang Hữu Vy. Mặt khác, Tây thái hậu cùng bọn đại thần sẽ kéo tới xử trị Quang Tự hoàng đế.

Kế sách đã định, tất cả chỉ còn chờ trời sáng. Biện pháp thi hành tân chính của Quang Tự hoàng đế đến đây coi như cáo chung.

Quang Tự hoàng đế suốt đêm đó không sao chợp mắt được.

Trời sáng đã lâu mà ngài vẫn không lâm triều. Ngài lặng lẽ ngồi đợi biến cố xảy ra.

Chẳng bao lâu, quả nhiên, ngài thấy một tên nội giám tới tuyên triệu vào điện Di Lạc để yết kiến Thái hậu. Vừa hành lễ xong, ngài bỗng nghe bà lớn tiếng hỏi:

- Mi gọi ngoại thần đem quân về giết tao phải không?

Quang Tự hoàng đế thong thả đáp:

- Làm gì có chuyện đó?

Tây thái hậu càng tức giận, vội rút trong ống tay áo ra từ mật trát ném xuống mặt đất rồi quát:

- Đứa nào viết đây?

Quang Tự hoàng đế thấy chứng cớ đã hiển nhiên, không biết còn cách chi chống chế, che giấu nữa, bèn thuận miệng đáp luôn:

- Tử thần (con) giao cho Viên Thế Khải ý muốn quét sạch cựu đảng, có thế thôi, chứ tuyệt nhiên không dám kinh động tới thánh mẫu.

Tây thái hậu cười nhạt đáp:

- Không dám kinh động hả? Nếu không có Vinh Lộc báo tin sớm thì đến tao cũng là một tên tù quỳ dưới thềm rồi còn gì!

Nói đoạn, bà bĩu môi "xì" một tiếng, tức thì có bọn Lý Liên Anh nhảy tới, bất cần lời nói năng chống đối của Quang Tự, lôi tuột ngay ông vua cô thế về ngả Doanh đài.

Hồi 163

TẬN DIỆT ĐẢNG TÂN CHÍNH

Sau khi đưa Quang Tự hoàng đế tới Doanh đài, Lý Liên Anh khụng khiệng nói:

- Xin bệ hạ đợi đây chốc lát. Nô tài còn phải về hầu hạ thái hậu.

Nói đoạn, Anh cùng bọn nội giám kéo nhau ra đi, để mặc Quang Tự hoàng đế ngồi một mình đợi chỉ của thái hậu.

Cũng sáng hôm đó, Tây thái hậu truyền chỉ lâm triều. Trên điện, chuông khua trống đánh inh ỏi vang rền. Bọn đại thần đủ mặt Mãn, Hán nườm nượp vào chầu. Bước vào điện họ ngẩng mặt lên nhìn, không thấy Đức Tông hoàng thượng đâu, mà chỉ thấy có Tây thái hậu. Mọi người giật mình kinh sợ, cố tìm hiểu lý do. Nhưng chưa tìm ra thì đã nghe Tây thái hậu lớn tiếng:

- Hoàng thượng tin dùng bọn Khang Hữu Vy, tự ý hạ chiếu sai Viên Thế Khải bí mật giết ta. Chúng thần các ngươi có biết hay không?

Câu hỏi vừa chấm dứt thì bọn đại thần thảy đều tái mặt, đầu cúi thấp hẳn xuống, im phăng phắc, không dám hồi tấu!

Tây thái hậu cười nhạt bảo:

- Bọn ngươi ăn lộc của nhà vua thì phải trung với vua, ấy thế mà chỉ ngồi làm vì, những việc động trời như vậy chẳng hề hay biết! Ăn lộc hưởng tước, thực uổng! Rồi đây, có ai đem cả giang san này dâng cho kẻ khác, hẳn bọn ngươi cũng chẳng cần biết đến!

Bọn đại thần nghe thái hậu trách mắng đủ điều, miệng câm như hến, vô cùng xấu hổ. Giữa lúc bầu không khí vô cùng nặng nề khó thở ấy, Cương Nghị từ ngoài chạy vào báo tin bọn Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vy đã trốn thoát, chỉ bắt được có sáu tên là Đàm Tự Đồng, Lâm Thâm Tú, Lam Húc, Dương Nhuệ, Lưu Quang Đệ và Khang Quảng Nhân.

Tây thái hậu truyền chỉ trói giật cả sáu người, kéo ra chợ Tây chặt đầu. Cương Nghị lĩnh chỉ lập tức thi hành.

Tây thái hậu chém bọn sáu người rồi, lại hạ lệnh, truy lùng Khang, Lương, đồng thời cho điều tra một lượt tất cả bọn triều thần. Phàm những kẻ ngày thường có qua lại với Khang, Lương hoặc đã từng dâng sớ tán dương tân chính, thảy đều bị trừng phạt.

Trong số đại thần bị liên luỵ thì người bị giáng chức như Trần Bảo Hàm, Lý Nhạc Đoan, Tông Bá Lỗ, Ngô Mậu Đĩnh, Trương Bách Hi, Đoan Phương, Từ Kiến Dần, Từ Nhân Trú, Từ Nhân Kính. Kẻ bị tống đi đầy có Lý Đoan Phân, Trương ấm Hoàn. Kẻ bị giam cần có Từ Trí Tĩnh, Trần Lập Tam, Giang Tiêu, Hùng Hi Linh. Bị khám xét nhà cửa có Văn Đình Thức, Vương Chiêu, Hoàng Tuân Hiên. Mặt khác, Tây thái hậu tức khắc phục lồi nguyên chức cho bọn công thần bậc nhất của mình như Hoài Tháp Bố, Cương Nghị, Hứa Ứng Quỳ, Tăng Quản Hán, Từ Hội Phong. Sau đó, còn thăng cho bọn họ mỗi người thêm ba cấp nữa.

Triệu Thứ Kiều được đưa vào quân cơ sứ. Vinh Lộc được nhậm chức quân cơ đại thần. Viên Thế Khải được bổ nhiệm làm tuần phủ Sơn Đông. Du Lộc được điều động sang Trực Lệ làm Thự Tổng đốc. Đau đớn cho ông Đồng Hoà bị lột hết quan tước.

Mọi việc được sắp xếp như trên, tuy đã xong xuôi, nhưng cái dư nộ của Tây thái hậu vẫn chưa tắt. Bà tới Doanh đài để xử trị hoàng đế.

Lúc này, Quang Tự hoàng đế như người mất hồn, ngồi trơ như tượng trong Doanh đài. Thấy Tây thái hậu sấn sổ bước vào, mặt hầm hầm, nhà vua vội đứng dậy hành lễ, đầu cúi gập xuống, đứng sang bên trông vô cùng thảm hại!

Thái hậu ngồi xuống, cố nén giận hỏi:

- Việc làm của mi, bọn ta đã biết cả rồi! Nay mi mong muốn điều gì thì nói!

Quang Tự hoàng đế tuy nghe rõ câu nói nhưng không trả lời Thái hậu nói tiếp:

- Theo ta thì phiền mi ở lại đây một thời gian!

Câu nói của Tây thái hậu vừa dứt, thì đã thấy thái giám Khấu Liên Tài phủ phục dập đầu tâu:

- Lão Phật gia ở bên trên, nô tài đâu dám tâu liều! Thánh chỉ của lão Phật gia như vậy là bắt hoàng thượng giam cầm tại đây vĩnh viễn rồi!

Tây thái hậu chưa kịp cất lời, thái giám Lý Liên Anh đứng bên đã quát lớn:

- Văn võ đầy triều thảy đều im lặng, mi là người gì mà dám ăn nói lếu láo trước mặt Lão Phật gia?

Khấu Liên Tài vội dập đầu tâu:

- Lão Phật gia gia ân tha thứ cho nô tài về điều đó! Nhân hoàng thượng thân chinh, trong ngoài đều biết. Nếu một sớm đem thay đổi hết, sợ rằng người ngoài có dị luận. Cầu xin Lão Phật gia thánh minh rộng xét cho.

Tây thái hậu nhìn Quang Tự hoàng đế cười nhạt nói:

- Một thằng thái giám thân tín mở mồm ra là nói đại chính, chẳng trách cái lũ nghịch thần hoành hành lếu láo nọ!

Nói đoạn, bà quát bảo Lý Liên Anh kéo cổ ngay Khấu Liên Tài tới Từ An điện chờ lệnh bà.

Rồi Tây thái hậu truyền lệnh cho bọn nội giám đánh gãy cây cầu đá bắc vào Doanh đài. Bà còn dặn chúng không cho bất cứ thuyền bè nào ghé vào, nếu không có lệnh bà.

Thế là Doanh đài bị cô lập hoàn toàn. Ngoài Trân, Cẩn hai phi bên mình, Quang Tự hoàng đế không còn ai tâm phúc, thân tín nữa. Bọn cung nữ cũng như thái giám ở lại đây đều là lũ chó săn của thái hậu, chuyên nghe ngóng để mách lẻo.

Tây thái hậu rời Doanh đài, trở về điện Từ An. Vừa về đến cửa điện, Lý Liên Anh chờ đón đã từ nãy vội quỳ xuống rước vào. Bà hô gọi đem Khấu Liên Tài lên quát bảo:

- Thằng kia! Tao biết mi thường nịnh bợ hoàng thượng đã a tòng đám tân chính, lại còn tư thông với ngoại thần, làm không biết bao nhiêu điều bất chính phi pháp. Lúc đó, tao không rảnh để xem tụi mi láo lếu làm bậy. Hôm nay thì không thể tha mi. Hãy khai thực hết những chuyện mưu tính giữa hoàng thượng và bọn Khang, Lương ra mau, may ra tao còn có thể ân xá tội danh, nếu không, tao cho mi theo luôn lũ Đàm Tự Đồng chết chẳng toàn thây!

Khấu Liên Tài lúc này mặt chẳng đổi sắc, lớn tiếng dõng dạc tâu:

- Nô tài hầu hạ hoàng thượng, chỉ biết có làm tròn chức vị, ngoài ra không biết gì khác. Nếu Lão Phật gia cố ép lời cung, thì nô tài chỉ xin có một cái chết.

Tây thái hậu giận lắm, gầm lên như con hổ đói mồi:

- Tội mi đã không thoát chết, lại còn già mồm phải không?

Tiếng gầm vừa dứt, thì một lệnh truyền tiếp theo. Bà quát bảo Lý Liên Anh dùng hình cụ. Tài biết khó thoát chết, bèn hô lớn:

- Hãy khoan! Để nô tài khai hết.

Thế rồi, Tài đem hết những chuyện đầu của tai nheo, những điều bậy bạ hư hỏng của Tây thái hậu khai ra hết, thao thao bất tuyệt trơn tru từ đầu đến cuối, từ chuyện dâm bôn cho đến chuyện chửa hoang rồi tư sinh đứa bé...

Tây thái hậu ngồi nghe, mặt giận đến tím lại, mà cũng sợ đến xám lại, vỗ bàn đập ghế rầm rầm quát bảo kéo Tài ra.

Khấu Liên Tài chẳng đợi cho bọn cung nhân xông tới. Y gồng hết sức, nhảy ào tới, húc đầu vào cây cột điện đến rầm một cái, sọ vớ nát, óc phọt ra bầy nhầy lẫn máu loang lổ cả một đám trên sàn điện.

Tây thái hậu chỉ vào xác Khấu Liên Tài quát:

- Khốn kiếp! Đúng là một lũ phản. Trước mặt tao mà hắn còn vô lê như thế đấy! Băm xác nó ra.

Lý Liên Anh được lệnh, đốc suất mấy tên tiểu thái giám khiêng xác Khấu Liên Tài xuống điện rồi truyền bảo bọn thị vệ đưa ra ngoài băm nát thây ra. Việc truyền xong, Anh theo hầu Tây thái hậu sang Như Ý quán nghỉ ngơi.

Như Ý quán ở đâu vậy? Ở trong Di Hoà viên, tại hiên Nông Lạc về phía bên hữu, cách gác Cảnh Phúc không bao xa. Trong quán trưng bày toàn là thư hoạ của các danh nhân.

Do đó, quán chính là một đồ thư quán. Bọn hầu hạ thái hậu tại nơi đây không phải là cung nữ, cũng chẳng phải thái giám mà toàn là một lũ "đực rựa" nghĩa là một bọn đàn ông điển trai khoẻ mạnh.

Khi cất Như Ý quán này, thái hậu đã từng ra cáo thị khảo bọn thanh niên mặt mũi thanh tú, có tài hội hoạ nhất là hoạ các loại hoa lá, cây cỏ. Do đó, bọn trai trẻ khắp các tỉnh phủ đều nườm nượp về kinh để ứng thi, lần tuyển lựa thứ nhất, chọn được một trăm bảy mươi tên. Qua lần thứ hai, do bọn nội giám khảo chọn lại, còn có năm mươi lăm tên... Bọn nội giám đưa năm mươi lăm tên này vào quán Chiêu Lưu để đợi đích thân Lý Liên Anh tuyển lựa lần thứ ba. Sau lần tuyển, này, đám đệ tử trai trẻ chỉ còn lại có mười một tên.

Nhưng mươi một tên còn phải được chính mắt Tây thái hậu duyệt xét lần chót nữa mới thực là trúng tuyển. Bởi vậy sau một cuộc kén chọn đến nơi đến chốn, hai tên trong số mười một tên được chấm đậu ưu tú nhất.

Tây thái hậu truyền lệnh cho hai tên trai trẻ này ở lại Như Ý quán để sai khiến, còn chín tên thì để lại quán Chiêu Lưu để phòng hờ khi cần đến!

Hai tên được thái hậu thì một người Trực Lệ, tên gọi Liêu Như Mi, còn một người Hồ Dương tỉnh Giang Tô, tên gọi Quản Cẩu An. Hai tên được Tây thái hậu thưởng cho hằng năm ngàn lạng bạc và mười tấm gấm hoa.

Liễu Như Mi và Quản Cẩu An, cả hai đều điển trai tài hoa, ngang nhau nhưng về nghệ thuật nịnh bợ, xu phụng thái hậu thì Mi thua An xa. Bởi thế chỉ trong vòng có nửa năm mà An được Tây thái hậu tín nhiệm hết mức, được coi như Lý Liên Anh thứ nhì vậy!

Quản Cẩu An xuất thân là một tên lãng tử giang hồ, khi mười bảy tuổi xông vào gánh hát Côn khúc ban, thờ một anh kép hát làm thày, hát bộ đóng tuồng hai năm liền. Về sau, An thua bạc, làm một mẻ sạch sành sanh trọn gói của sư phụ rồi chuồn thẳng. Bỏ gánh hát, An lang thang đến nửa năm rồi mới quay về quê. Ông già An ghét cái đời vô lại của An, một hôm mời cả họ lại họp chính thức từ con, đuổi An ra khỏi họ.

An bị tống ra khỏi nhà, cầu bơ cầu bất, không biết nương tựa vào đâu, bèn lỏn về nhà, chờ dịp đêm khuya, xem nhà cửa có gì góp gom được, nào là đồ cổ, nào là tiền bạc cuỗm luôn một mẻ, rồi chạy tuốt một mạch tới Bắc Kinh.

Đến Bắc Kinh, An lui tới không thiếu sòng bạc, tố quỷ nào, cho đến lúc không còn nổi manh áo tấm quẩn tử tế. May thay, trời phú cho cái giọng ca tuyệt hảo. An liền lợi dụng nó đi hát dạo, ngửa cái chậu thau xin tiền khách vệ đường. Cũng có khi An vào đại trong các quán rượu, lầu trà, hát lớn lên vài ba bản ca mùi mẫn. Bọn khách phương Bắc được nghe cái giọng ca phương Nam, lấy làm thú, móc túi cho tiền không phải là ít.

Rồi một hôm, cái hôm mà vận hạn đã đến với kẻ giang hồ lêu bêu, An hát dạo tới cái lầu trà ngoài cửa tiền môn của kinh thành.

Cái lầu đó gọi là Xuân Sắc lâu. Bọn thái giám thường lui tới lầu này để cất chén làm vui. Phía sau lầu có cất một cái rạp hát, chuyên chiêu mộ bọn cô đào con hát từ bốn phương tới đây để ca hát mua vui cho bọn thái giám trong cung.

Hồi 164

TÊN LÃNG TỬ TỐT SỐ

Quản Cẩu An đã hát tại rạp này hơn một tháng rồi. Một hôm, viên nội giám tên gọi là Lý Lục Lục vừa uống trà vừa nghe An hát, bỗng ngạc nhiên khen lấy khen để.

Chờ cho vở tuồng vãn, Lục bèn kêu An tới gần, hỏi họ tên, quê quán, rồi thưởng cho An ba lạng bạc.

Lục đi rồi, bọn người trong rạp xô lại mách bảo An:

- Người vừa rồi thính là Lý lục gia đó! Lục gia đã để ý tới ngươi, thì đó là một cơ hội tốt đấy! Nếu ngươi kết giao được với Lão nhân gia thì lo gì không có cơm ăn?

Quản Cẩu An vốn thuộc loại khôn ranh nhạy cảm, tai lắng nghe, đầu gật mấy cái, cố nhớ kỹ trong lòng:

Qua ngày hôm sau, vào buổi chiều, Lý Lục Lục đang uống trà, An vội chạy ra chắp tay xá thỉnh an. Thôi thì Lục gia gia dài, Lục gia gia ngắn. An khéo tâng bốc, nịnh nọt đến nỗi chỉ trong chốc lát, Lý Lục Lục đã sướng tít thò lò, phổng cả đến mười cái lỗ mũi lên. Chưa hết, An lại nhân đà, lấy giọng tình lên một điệu ca, xin Lý Lục Lục chọn cho một bài thích nhất. Lý Lục Lục tuỳ hứng chọn luôn bản "Tảo tuyết" (quét tuyết)

Có bản ca rồi, An bèn đem hết tuyệt kỹ của mình ra. Quả nhiên An ca hay tuyệt. Bản ca không một chỗ nào phải chê. Tiếng ca của An chẳng khác gì tiếng ngọc chuốt, tiếng chuông ngân.

Lý Lục gia nghe sướng như điên, khen lấy khen để:

- Thằng oắt con này ca quả hay tuyệt! Lão Phật gia của bọn ta khoái được nghe ca lắm, để ta chỉ cho mi một con đường mới được.

Quản Cẩu An nghe câu nói, chẳng dám chậm trễ, vội chạy tới cạnh thỉnh giáo. Lục gia bảo An:

- Lão Phật gia của bọn ta hiện đã thiết lập xong Như Ý quán, nên đang cần vài đứa ca hay lại giỏi hoạ nữa để hầu hạ tại nơi đây. Chỉ tiếc rằng mi chỉ biết ca chứ không biết hoạ! Giá thử mi biết hoạ thì có phải bớt được biết bao nhiêu thủ tục mà vẫn được tuyển. Nhưng không sao! Để ta tìm cách giúp mi.

An nghe xong vội hồi đáp:

- Chẳng giấu gì Lục gia! Cái nghề nào không rõ, chứ cái nghề hoạ, thì xin thưa với Lục gia, tiểu nhân, chỉ cần chấm phá vài nét là bất luận sơn thuỷ hoa hỉ đều tuyệt cả. Nếu Lục gia không tin xin cho tiểu nhân vẽ thử.

Lý Lục Lục nghe An nói, vỗ tay đôm đốp, to vẻ khoái chí lắm, bảo An:

- Thế là tuyệt, còn gì bằng! Ấy vậy thì để sáng mai, ta đưa mi vào ngay quán Chiêu khảo.

Thế là hai người hẹn giờ ra đi, xong đâu đấy Lý Lục Lục mới trở về nội phủ, Quản Cẩu An thì lo thu xếp đồ đạc quần áo suốt đêm hôm đó để chuẩn bị dự thi.

Trời mới tờ mờ sáng, Quản Cẩu An đã vội chồm dậy ngồi đợi. Mãi tới gần trưa, An chỉ thấy một tên tiểu thái giám mang theo một gói đến quán trà hỏi viên thủ quỹ:

- Ở đây có một người họ Quản không?

An nghe hỏi vội nhảy tới đáp ngay:

- Chính tại hạ đây!

Tên tiểu thái giám nhìn An một chập từ đầu đến chân, hình như để đặt lòng tin tưởng rồi mới đưa cái gói và bảo:

- Thay đi, rồi đợi một lát sẽ cùng vào ứng khảo.

An vốn người điển trai, nay lại có quần áo mới diện vào, cạo cái mặt, sửa cái râu, thử hỏi làm sao chả khả quan.

Chỉ một lát, Lục gia đã tới. Để mắt nhìn kỹ An, Lục gia nhử thấy một người khác, một người bảnh trai, dáng mặt chàng Tống Ngọc, Phan An thuở nọ. Lý Lục gia khoái quá, cười lên hềnh hệch, bảo An:

- Mi đẹp như thế này, đến ta cũng phải yêu nữa là! Chuyến này vào ứng thí, ta cam đoan thế nào mi cũng trúng tuyển rồi!

An được tán dương nhưng không dám nhận, khom mình:

- Xin hoàn toàn nhờ vào hồng phúc của Lục gia đã có ý chu toàn mà thôi!

Lý Lục Lục mỉm cười khoan khoái, rồi đem An đi theo mình vào quán Chiêu Lưu. Vừa bước chân vào quán, An đã thấy thí sinh ngồi đầy cả, cười nói um sùm, không khí thật vô cùng náo nhiệt.

Một tên nội giám bước tới trước mặt Lý Lục Lục nói lớn:

- Lục gia cũng đưa người vào dự thi đó chăng?

Lý Lục Lục cười lên hềnh hệch đáp:

- Đúng vậy đấy! Thằng bé này được lắm! Xin nhờ liệt vị nương tay cho một chút nhé!

Cả bọn nội giám lúc này này đã xáp lại, vội đồng thanh đáp:

- Việc của ai chứ việc của Lục gia thì khỏi nói! Đương nhiên là phải đặc biệt lưu ý rồi! Xin Lục gia cứ yên lòng.

Nói đoạn, cả bọn cất tiếng đáp chia tay với Lý Lục Lục và đưa Quản Cẩu An sang phòng đợi tuyển.

Cứ mỗi lần tuyển lựa là mỗi lần An được chọn, và không ngờ được rằng Cẩu An ngày một cao giá hẳn lên: đúng là An đã gặp được vận rồi.

Số là từ khi được vào Như Ý quán, An được Tây thái hậu triệu kiến sai hắn vẽ hoa hỉ (vẽ các bức hoạ về hoa cỏ cây cối) dâng lên; và được bà tán thưởng hết mức. Thế là An được làm ngay cái chức chủ nhiệm quán Như Ý.

Một hôm trời đã tối, Cẩu An đang ngồi ca hát với mấy tên tiểu thái giám trong quán, bỗng một cung nữ bưng tới cho một mâm cơm, miệng cười hí hí bước vào. Vừa đến trước mặt Cẩu An, cô cung nữ liền bảo:

- Ngươi thật sướng nhé! Thái hậu đang giận ngươi đó!

Quản Cẩu An nghe đoạn, mặt thộn ra như đất, một tiếng cũng không nói lên được. Cô cung nữ nhí nhảnh, vừa cười vừa mở cái lồng bàn đậy mâm cơm ra, đưa cho Cẩu An và nói:

- Lão Phật gia sai đem cho ngươi đó. Hắn lát nữa, có lệnh tới tuyên triệu đó. Ngươi nên chú ý cẩn thận nhé!

An lúc đó mới yên lòng. Nhìn vào mâm cơm, thấy đều là trân tu mỹ vị, An vội vàng dập đầu tạ ơn rồi đứng thẳng người lên, nhưng đứa cung nữ đã đi ra rồi.

Quản Cẩu An băn khoăn lắm, chẳng hiểu thái hậu có chuyện gì dùng tới mình mà sủng ái mình đến thế! Phải chăng đây là một chuyện sai bảo có quan hệ tới sinh mạng? Chẳng đi thì mang tội nghịch chỉ, mà đi thì lại sợ nguy đến tính mạng. An nghĩ vớ nghi vẩn một hồi, chẳng tìm ra cách nào để quyết định. Nghĩ đi thì vậy, nhưng khi nghĩ lại, An lại cho rằng mình bất quá chỉ là thân ăn mày hát dạo, may mà được gặp Lý Lục Lục chứ nếu không vẫn là thân ăn mày, chiếu một manh quần trăm mảnh, lang thang lê gót trên phố vắng xin tiền. Ngày nay được sung sướng như vầy, dù có chết ngay tức khắc, cũng chẳng còn tiếc nỗi gì. Nghĩ tới đây, An bỗng cảm thấy lòng mình hứng khởi, tinh thần càng thêm vui tươi.

Chẳng mấy lúc, con cung nữ khi nãy lại tới, lớn tiếng nói:

- Thái hậu có ý chỉ, truyền cho Quản Cẩu An đến Trí Tuệ hải kiến giá.

An vội vàng xốc áo sửa khăn lại cho đàng hoàng, rồi bước theo con cung nữ ra đi về hướng Trí Tuệ hải. Đi quanh co trên đường, An thấy đèn đuốc sáng choang. Cảnh trí vô cùng u nhã. An đi qua cứ mỗi chặng đường, đều thấy có bọn nội giám đứng chực hai bên cật vấn kỹ càng. Nhờ có con cung nữ biết ám hiệu nói ra, lúc đó An mới được thong dong tiến bước, không còn ai ngăn cản.

An vừa thoăn thoắt bước đi, vừa để mắt nhìn quanh. An thấy đền đài lầu gác nguy nga xinh đẹp, chẳng khác chi như bức tranh vẽ.

An đi loanh quanh một lát tới Chuyển Luân tạng, bên cạnh có chiếc đồng hồ xây trụ bằng đá hoa, có thể xem giờ khắc ngày đêm. Từ đây, An lại đi tới Thinh Ly điện. Về đầu phía đông điện có một ngôi đình kiến trúc rất tinh xảo trên đề ba chữ "Hoạ trung du" to bằng cái đấu một.

Quản Cẩu An theo gót đứa cung nữ qua hết nơi này đến nơi khác, lại tiến qua một căn thạch động, rồi đi xuyên qua một ngôi đình nhỏ, lúc đó mới thấy từng lầu cao vòi vọi, trên đề ba chữ "Trí Tuệ hải".

An đi tới phía dưới lầu, có ý muốn dừng bước. Con cung nữ cười bảo:

- Còn xa! Ngươi cứ việc đi lẹ lên theo ta!

An nghe nói gật đầu mấy cái, tiếp tục lên đường. Lại đi loanh quanh một hồi qua đến tám, chín khuỷnh đường, An thấy một ngôi nhà hình như làm toàn bằng đá tảng, có hai lầu cửa bên ngoài bên trên đều có vẽ long phượng. Đến đây, cung nữ bảo An:

- Ngươi ở lại chờ, ta vào phúc chỉ đã nhé!

Nói đoạn, bước đi ngay và mất hút trong nhà đá, mặc cho An đứng ngơ ngác phía ngoài.

Mười phút sau, cung nữ trở ra, dặn dò An:

- Thái hậu đang ở trong đó! Ngươi nên cẩn thận!

An đáp nhỏ một tiếng rồi cùng đứa cung nữ tiến vào toà nhà đá. Lại đi qua bốn lần cửa nữa. An thấy phía trong rộng hẳn ra, nghĩ rằng nơi đây còn có một phương trời khác, An bèn quay mặt nhìn quanh bốn phía thì thấy ngay chính giữa hình như có một toà đại sảnh, trên đề ba chữ "Luân Lạc đường".

Đi qua toà đại sảnh này, An thấy bên hông một dãy nhà bằng nóc chạy dài chừng mười mấy căn, bên trong trần thiết hết sức hoa lệ.

Chính giữa một căn nhà này đèn đuốc sáng chưng, Quản Cẩu An nhanh mắt sớm đã thấy Tây thái hậu ngồi một mình đang xem sách. An lúc này chẳng chờ cung nữ vào trước tâu lên nữa, mà tự mình bước tới khấu đầu yết kiến.

Tây thái hậu thong thả bỏ cuốn sách xuống, sai cung nữ cho phép An ngồi, rồi vừa mỉm cười vừa hỏi An nào là mấy tuổi, nào là gia cảnh ra sao. Sau khi An lần lượt tâu xong, Tây thái hậu lại hỏi:

- Ngươi biết hội hoạ, vậy ngươi có phân biệt được nét hoạ của người Tống không?

An vội tâu:

- Tiểu thần mắt thịt, sợ rằng phân biệt không nổi.

Tây thái hậu gật đầu bảo An:

- Nếu vậy, thì ta cho ngươi xem bức hoạ này nhé!

Nói đoạn Tây thái hậu quay lưng đi thẳng vào buồng trong.

An run lập cập bước theo sau, ngay cả hơi cũng không dám thở nữa!

Sợ như vậy mà An vào buồng trong một mạch, mãi tới gần trưa ngày mai mới quay về đến quán Như Ý. An theo Thái hậu vào trong xem cổ hoạ hay đọc sách! Đố ai biết được. Nhưng ngươi ta chỉ thấy từ sau đêm đó, An bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi vào trong. Ngoài ra, An còn lấy thêm một con cung nữ làm vợ. Ở phía ngoài cửa trước, toà nhà đồ sộ rộng lớn đó chính là nhà của Tây thái hậu cho An ngự đấy. Phải chăng đó là vận may của một tên lãng tử?

Hồi 165

QUYỀN GIÁO PHÒ THANH DIỆT DƯƠNG

Tây thái hậu, sau khi cầm tù hoàng đế Quang Tự lại đích thân nắm quyền chính dự việc triều đình, bỏ rèm nghe chính... Một bọn đại thần chấp chưởng quyền hành trong nước như Vinh Lộc, Cương Nghị, Triệu Thư Kiều, thảy đều là tay chân, cánh vây thân tín của bà. Còn bọn cựu thần thì ngoài Vương Văn Thiều ra, một phần lớn đều bị cách chức, hoặc là bị tống ra biên ải đi lính thú. Sở dĩ Thiều còn được ngồi tại chức cũ là nhờ ở sự giao du thân mật với Vinh Lộc mà ra.

Lúc này, Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu ở Nhật Bản lại đã thành lập được một tổ chức gọi là hội Bảo Hoàng, tôn chỉ của hội là ủng hộ vua Đức Tông, xua đuổi Tây thái hậu.

Người phụ hoạ với Khang, Lương gia nhập hội này rất đông.

Tin tức này truyền về Trung Quốc, đến tai Tây thái hậu, hậu rất lấy làm lo ngại. Bà liền cho họp bọn quân cơ đại thần để mong tìm một biện pháp.

Theo ý Tây thái hậu thì tuy bọn Khang, Lương ở xa mãi hải ngoại nhưng cuối cùng vẫn là đáng sợ cho bà. Nếu không tìm được một kế sách để diệt trừ bọn này thì không thế yên được. Cả bọn trong bàn hội nghị suy đi tính lại mãi một lúc lâu mà vẫn không tìm ra kế sách gì gọi là lương sách.

Cương Nghị muốn làm đẹp lòng Tây thái hậu, liên mật tâu:

- Theo ngu kiến của nô tài thì bọn Khang, Lương ở hải ngoại hoạt động, thực chẳng phải chỉ có mỗi một mục tiêu là bảo hoàng mà thôi đâu. Tìm cách trừ được chiêu bài của bọn chúng, duy chỉ có việc lập sử (lập vua nối ngôi) để mình nắm chắc được quyền vị đã, sau đó dần dần thiết kế chính vị, và chém cỏ trừ gốc. Chúng không còn biện pháp đối phó nữa, ắt tự nhiên phải tan!

Mấy lời khuyên này của Cương Nghị đã làm cho Tây thái hậu thức tỉnh. Bà gật đầu: đồng ý lia lịa, rồi tức tốc truyền lệnh lo việc lập sử.

Nghe được tin tức lập sử, bọn thân vương chi gần, bọn bối lặc, bối tử, anh nào lại chẳng nghĩ đến cái mồi ngon nó sẽ đến với mình trong tương lai. Bởi thế bọn thân vương ngang hàng với Đức Tông tấp tểnh đem con trai mình ứng cử ngôi kế vị. Họ nghĩ rằng một khi con mình đã lên ngồi trên ngôi báu rồi thì làm sao chả có cái ghế nhiếp chính vương dành cho mình. Thế là trong bóng tối, họ ngầm chơi nhau, tranh giành lẫn nhau, vô cùng kịch liệt.

Trong đám thân vương mưu đồ ngôi báu này, người ta chỉ thấy có Phổ Tuấn con của Đoan vương Tải Ỷ, là có nhiều hy vọng nhất.

Thuần Vương Tải Phong, bối lặc Tải Lan cũng hăng hái chạy chọt đến nát cả gót giày. Nhưng cuối cùng lại bị Đoan vương chiếm mất ưu thế. Ấy cũng vì chuyện tranh giành này nên sau mới có chuyện ghen ghét nhau, rồi chia năm xẻ bảy, thù nghịch nhau lung tung. Bất quá chỉ là tại khí số của nhà Thanh đã đến lúc hết, cho nên mới xảy ra tình trạng nát bét như vậy.

Con trai của Đoan vương là Phổ Tuấn sở dĩ được lập sử, sự thực ra cũng có một nguyên do quan trọng bên trong. Nguyên lai bà phúc tấn, vợ Đoan vương vốn là người đẹp sắc nước hương trời, Tây thái hậu thường cho gọi vào trong cung để bầu bạn với mình và với bọn cách cách. Cái hay của bà phúc tấn là khéo chiều người, vì thế rất được lòng Tây thái hậu.

Phổ Tuấn nhờ mẹ cũng được phép ra vào trong cung cấm. Phải cái Phổ Tuấn ngu dốt đến tệ hại. Hai chữ "đọc sách" đối với Tuấn hình như là cái gì "oan gia đến bảy kiếp". Đọc sách thì chê, nhưng lang thang hết đầu chợ cuối phố, len lỏi vào những tổ quỷ hang chuột thì lại rất lành nghề. Do đó bất luận là Huy điệu, Tần xoang, Côn khúc v.v... tất cả Tuấn đều hát được, tuy không mê ly lắm nhưng cũng lọt tai. Những lúc rồi rảnh, thái hậu thường bảo Tuấn ca lên vài bản nghe chơi và thường lưu Tuấn trong cung bên cạnh bà.

Lần này lập sử, bọn đại thần đương nhiên đều tiến cử Phổ Tuấn, rất hợp với ý của Tây thái hậu. Bởi Tuấn là một tên ngu dốt, đần độn thì tuy ngai vàng Tuấn ngồi, nhưng quyền bính vẫn nằm trong tay bà hết. Bà nghĩ nếu cho một kẻ thông minh tài trí ngồi vào chiếc ngai vàng nọ, ắt có ngày lại xảy ra cái vụ chính biến nữa, nên bà quyết lập Phổ Tuấn lên ngôi hoàng đế.

Ý đã định, Tây thái hậu bèn cho gọi ngay Đoan vương Tài Ỷ vào Di Hoà viên để nghị sự. Bà đem chỉ dụ lập Phổ Tuấn lên nối ngôi Đức Tông, tức là Mục Tông cho vương xem.

Đoan vương mừng rơn, vâng chịu ngay. Vương bèn chọn ngay ngày lành giờ tốt để đưa cậu con trai mình vào làm hoàng đế tương lai, gọi là Đại A Kha.

Thế là Tây thái hậu đã thực hiện được phần đầu của kế hoạch. Sang phần thứ hai, bà lấy danh hiệu lập sử chiêu dụ trong ngoài, từ đại thần tiểu thần đến quần chúng chuẩn bị phế bỏ Đức Tông để đưa Tuấn lên chính vị hoàng đế. Mặt khác bà thông báo cho các quan lại khắp nơi biết là sang năm mới sẽ có cuộc đăng vị của tân quân.

Chỉ dụ này vừa ban bố ra chưa được bao lâu thì bọn cựu thần như Vương Mông Lâu, Tôn Dục Văn đều dâng sớ lên tranh biện phải trái.

Bọn cương thần ngoài biên ải như Lý Hồng Chương, Trương Chi Động, Lưu Khôn cũng gởi tấu chương về triều như bươm bướm để can gián. Họ lấy lý do Đức Tông chưa từng làm điều gì thất đức, chớ nên bầy chuyện phế lập để sinh rắc rối. Ngoài ra, bọn ngoại quốc như Anh, Pháp, Nhật, Nga cũng gởi thư cảnh cáo. Bọn này thì sợ việc phế lập này sẽ gây ra chuyện khủng hoảng nội chính cho Trung Quốc, có hại cho quyền lợi của họ.

Tây thái hậu thấy tình hình xôn xao như vậy, chỉ đành gọi bọn đại thần vây cánh vào cung bàn tính. Sử quân (vua nối ngôi) đã sẵn rồi, chỉ còn có việc phế lập. Nhưng nên để khi tình thế bên ngoài tạm lắng dịu lúc đó hãy tính.

Việc ngăn trở này đột nhiên xảy ra, khắp triều chẳng có anh nào dám bàn chuyện phế lập nữa. Duy chỉ có Đoan vương Tài Ỷ là tức đến hộc máu, gầm gừ hậm hực suốt ngày. Ông tiếc cái phút vinh hoa khi được thấy thằng con trai Phổ Tuấn của ông ngồi ngất ngưởng trên ngôi báu. Ông còn tức một điều nữa là cái bọn ngoại nhân kia tự dựng nhảy vào chuyện. Bọn đình thần cũng như bọn cương thần, ông còn có thể dùng uy quyền áp chế để thực hiện ý minh được, chứ đến những điều khuyến, cáo nảy lửa và nguy hiểm của bọn ngoại quốc thì quả khó mà vượt qua. Bởi thế, Đoan vương sau chuyến làm thái thượng hoàng hụt này, càng lấy làm căm tức bọn ngoại quốc, coi như không đội trời chung. Từ đó về sau, ông thường nghĩ mưu tính kế để báo thù, hết đặt chước này lại đến bày phép nọ, mong sao đuổi cho bằng hết bọn chúng ra khỏi đất nước.

Rồi ông đi kiếm bọn Tải Lan, Cương Nghị trù hoạch một kế sách để đối phó với ngoại nhân. Tục ngữ có câu: "Vật có thối thì dòi mới sinh". Đoan vương vì hận thủ riêng tư mà dồn mọi nỗ lực trả thù bọn Tây dương nên bọn Quyền giáo mới thừa dịp mà khởi sự được. Đó phải chăng do số trời?

Thôi việc đó ta hãy tạm gác.

Phe Quyền giáo vốn gốc gác tại tỉnh Sơn Đông. Thủ lĩnh của phe này là Trương Loan, tàn dư của Bát quái giáo.

Sau khi bị quân Thanh tiêu diệt, Bát quái giáo đã lâu không xuất đầu lộ diện. Trong chiến dịch năm Giáp Ngọ (Trung - Nhật chiến tranh) triều đình nhà Thanh cam chịu cắt đất cầu hoà. Những ai giàu nghĩa khí đều lấy làm tức, bàn tính xôn xao, kẻ thì nói Thanh đình nhu nhược để đến nỗi bị ngoại nhân khinh rẻ Trung Hoa, kẻ thì bảo từ đây Trung Quốc sẽ bị cái cảnh chia dưa xẻ bí, không còn cách chi an bình nữa.

Trương Loan thấy lòng dân tức giận, hùng khí lên ngùn ngụt, bèn mưu tính với con gái là Trương Tú Anh và con rể là Lý Lai Trung dựng cờ khởi sự, lấy danh nghĩa là "phò Thanh diệt Dương". Đi tới đâu, Loan truyền giáo tới đó, hiểu dụ quần chúng vào đạo, vào đảng của mình.

Trương Loan biết khá về tả đạo bàng môn, bèn lợi dụng ngay xảo thuật này chữa bệnh cho người, khi bằng bùa, khi bằng chú, cũng có chút ít hiệu nghiệm, thành thử lôi kéo được khá nhiều người vào đảng.

Giữa lúc này, một dịp may hiếm có tới với Loan. Số là Dục Hiền, tuần phủ Sơn Đông có một người thiếp yêu sinh đẻ khó khăn, lo thầy chạy thuốc mãi không xong. Trong lúc cấp bách, Hiền chẳng có chủ ý gì cả, nghe có người tiến cử Trương Loan, chẳng hỏi han gì, vội cho người đi mời ngay vào.

Trương Loan dùng phù chú chẩn bệnh. Sau đó chẳng hiểu Loan dùng quỷ thuật gì mà vừa niệm xong mấy câu thần chú, cái thai bỗng ra cấp kế. Cả hai mẹ con thế là toàn mạng. Dục Hiển mừng quá, đã mừng lại phục nữa, liền cho đem ngay cái kiệu của chính mình tới công đường để đưa Loan về.

Vài ngày sau, Dục Hiền sai người đem ba ngàn quan tiền đến để tạ ơn Loan. Nhưng Loan không chịu nhận một đồng nào, chỉ yêu cầu Hiền một điều là ra yết thị để bảo vệ Loan, có thế thôi.

Dục Hiền cũng chẳng do dự gì, liền sai ra yết thị khắp nơi, hiểu dụ cho toàn thể quan lại các quận huyện trong tỉnh, rằng Nghĩa hoà quyền vốn là một loại Nghĩa dân, chỉ lo phù Thanh diệt Dương, vì vậy quan lại địa phương nên phải bảo vệ cho họ.

Quan tỉnh đã ra yết thị như vậy, thử hỏi bọn tép riu dưới quận huyện làm sao mà dám động tới Nghĩa hoà quyền? Thế là tại Sơn Đông, Loan tha hồ làm mưa làm gió, không hề bị ngăn trở. Quần chúng mê tín càng ngày theo càng nhiều, thế lực của Loan chẳng mấy hồi mà mạnh lớn. Cô con gái Trương Tú Anh tự là Hoàng liên thánh mẫu, tuyển mộ một đội phụ nữ, người nào cũng mặc áo đỏ và quần đỏ, tay cầm cái đèn đỏ, đi khắp đó đây tuyên truyền rằng: Súng đại bác của bọn mọi da trắng Tây dương tuy có lợi hại, nhưng ta chỉ lấy chiếc đèn đỏ rọi một cái là nổ tan tành ngay.

Ấy cũng vì thế mà khắp cả vùng Sơn Đông loan truyền huyền thoại về cái đèn đỏ rọi. Lại còn huyền thoại về loại bùa thiêng, cứ hễ đeo vào mình thì lúc xông trận không bao giờ bị đao, kiếm, nước, lửa làm cho bị thương cả. Tin tức này truyền ra ngoài, chẳng đầy nửa năm, đảng vũ của Loan đã lên tới tám, chín ngàn người. Những nhà thờ đạo Công giáo xây cất ở Sơn Đông của bọn Tây dương chẳng mấy ngày đã bị tín đồ của Loan phá huỷ, đốt cháy hết. Chưa đã, bọn Loan còn đi lùng giết các cha đạo, đánh đập những người theo đạo Công giáo.

Khi đó thế lực của bọn Tây dương và của các đạo Công giáo chưa mạnh, bởi thế khi bị Nghĩa hoà quyền tấn công chẳng làm gì được, chỉ đành chạy lên nhờ quan tuần phủ can thiệp.

Nhưng Dục Hiền vốn trót quý trọng Trương Loan, hơn nữa cũng chẳng ưa gì bọn Tây dương cũng như đạo Công giáo cho nên chỉ ậm ừ khuyên giải đôi ba câu lấy lệ mà thôi.

Uy thế của Nghĩa hoà quyền càng ngày càng lớn. Bọn Tây phương đến lúc này quả có hãi sợ. Nghe tới Nghĩa hoà quyền anh nào anh nấy đều xanh mày xám mặt. Dục Hiền bị điều động đi tỉnh khác, Viên Thế Khải được đổi tới làm Sơn Đông tuần phủ. Lúc Khải tới, Nghĩa hoà quyền đã đến lúc cực thịnh, gây không biết bao nhiêu chuyện ngang ngược tại nơi đây.

Viên Thế Khải thấy bọn Trương Loan quá lộng hành, biết thế nào cũng có điều chẳng lành về sau, bèn truyền lệnh cho tổng trấn đem quân đánh dẹp. Nghĩa hoà quyền bị đánh tan tác Thủ lĩnh Trương Loan chết trận, chỉ còn vợ chồng Trương Tú Anh và một số đồ đảng sống sót.

Tuy nhiên, Nghĩa hoà quyền lúc này đã thành lập xong, ở khắp các tỉnh đều có tổ chức. Thấy Sơn Đông tình hình nguy ngập, không thể lập cước được, tất cả kéo nhau sang Thiên Tân. Tổng đốc Trực Lệ là Du Lộc thấy Nghĩa hoà quyền kéo cờ phù Thanh diệt Dương, rất lấy làm quý trọng. Lộc đã chẳng những mời Lý Lại Trung vào trong công đường đàm đạo, lại còn cung đốn ăn uống đầy đủ. Thế lực của Nghĩa hoà quyền ở Thiên Tân mạnh dần. Hơn nữa, từ sau khi Lý Hồng Chương được bổ nhiệm làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, huấn luyện xong đoàn quân Thần hổ doanh binh mã thì số quân này đều thuộc quyền điều động của Đoan vương, là người coi Tây dương như kẻ thù bất cộng đái thiên.

Vương tính tìm cơ hội báo thù cho vơi bớt nỗi oán hận chất chứa lâu nay, bèn cho huấn luyện binh sĩ ngày đêm cho thật thuần thục để chờ lúc dùng tới. Khéo thay, sự đời có chỗ gặp gỡ tài tình; số là Cương Nghị nhân có dịp tuần du xuống miền Nam trở về, qua Thiên Tân. Gặp được Nghị, Du Lộc bèn đem chuyện Nghĩa hoà quyền ra nói, có mấy lời đặc biệt này:

- Nghĩa hoà quyền có chủ trương phò Thanh diệt Dương, đó là hồng phúc cho Thanh triều ta thoát được sự thôn tính của bọn mọi bên ngoài. Nếu ta đem việc này tâu về triều, được thái hậu ban khen thì đại sự ắt thành công. Nhà Thanh ta ngày mai trùng hưng lên được, đó chẳng phải là một công lớn sao?

Cương Nghị với Du Lộc vốn là con cô con cậu. Bởi thế, khi nghe lời khích của Lộc, Nghị tin ngay, không nghi ngờ gì cả, lại còn cho hợp ý mình là khác, bèn tỏ ý tích cực ủng hộ Nghĩa hoà quyền, một khi về tới triều...

Khi Cương Nghị về tới kinh, Đoan vương đem việc tập luyện Thần hổ doanh ra bàn với Nghị và có ý định muốn đem đổi ra làm hai trấn. Nghị nhân dịp nói vào:

- Quân mã của Thần hổ doanh vốn còn theo cựu chế của Tăng Tả trước đây (Tăng Quốc Phiên), lúc đó đem dùng đánh bọn tóc dài còn được, chứ bây giờ đem ra để chọi với bọn Tây dương thì hỏng bét. Vương không nhớ tới trận đánh năm Giáp Ngọ sao? Trời! Súng đại bác của bọn quỷ trắng quả lợi hại thật đó.

Đoan vương nghe xong, cười nhạt rồi nói:

- Nếu vậy thì bọn ta đành phải chịu để bọn Tây dương lăng nhục suốt đời, làm sao thấy cái ngày báo phục được nữa?

Nói xong, Đoan vương thở dài đánh thượt, vẻ mặt vô cùng thất vọng, Cương Nghị thấy thế vội nói:

- Nói thế thì ra dân mình hèn quá chăng? Thoạt đầu lúc bọn "tóc dài" khởi sự, chúng ghê gớm biết chừng nào, ấy thế mà cuối cùng cũng tan nhừ xác pháo. Đã có người này ắt có người kia. Đã có cái mạnh này ắt có cái mạnh khác. Đó phải chăng do hồng phúc của bản triều ta?

Đoan vương thấy Cương Nghị nói có lý lắm, bèn thành tâm với Nghị:

- Lão già này vốn nằm mọp nơi kinh thành, chẳng hiểu tí gì nơi biên cảnh. Ngươi tử các tỉnh xa trở về, nếu được biết có kẻ nào sẵn tài phá tan được súng đạn thì hãy tiến cử cho ta xem. Ta sẽ lập tức tâu lên Thái hậu mời ngay người đó vào kinh trọng dụng.

Cương Nghị nói:

- Vương gia đã có ý chân thành như vậy thì hay lắm. Hiện nay, có cánh quân của Nghĩa hoà quyền uy danh dậy khắp bốn phương, vương hãy vời bọn đó lại mà dùng, coi có được việc không?

Đến đây, Nghị bèn đem chuyện Du Lộc chiêu nạp bọn Nghĩa hoà quyền, rồi tán dương nào là bọn chúng lợi hại ra sao, là Du Lộc đã thí nghiệm như thế nào, súng đạn quyết không thể nào đả thương chúng được, nên đem cải tên thành Nghĩa hoà đoàn...

Nghị thao thao bất tuyệt nói toàn những chuyện lạ lùng, thần thánh khiến Đoan vương vui sướng quá, vỗ vai Cương Nghị bảo:

- Trong thiên hạ này mà còn có cái loại thần binh đó thì thực là trận giúp nhà Đại Thanh ta rồi!

Nói đoạn, vương lập tức sai Cương Nghị truyền báo Du Lộc cho Nghĩa hoà quyền tức tốc ngày đêm tiến kinh để đợi lệnh điều động.

Cương Nghị nghe nói, chính đúng ngay tim mình, tức thì chạy đi thông báo cho Dụ Lộc biết và bảo tuỳ nghi hành sự.

Đoan vương sau đó cũng vào triều, đem việc Nghĩa hoà đoàn thần thông quảng đại chủ trương bảo Thanh diệt Dương, tâu lên Tây thái hậu. Ai ngờ bị bà lập tức bác bỏ. Đoan vương thấy thế bèn ra thương nghị cùng Cương Nghị một mặt chiêu tiếp bọn Nghĩa hoà đoàn, một mặt nhờ Lý Liên Anh nói hùn vào trước mặt Tây thái hậu.

Quả nhiên kế sách này có giá trị. Tây thái hậu tuy lúc đầu không tin nhưng về sau thấy bọn thần tử của mình chúng khẩu đồng từ xem ra tán dương rõ rệt, bà cũng đành nghe theo.

Bọn Nghĩa hoà đoàn ở Thiên Tân bèn nườm nượp kéo nhau vào Bắc Kinh. Bất cứ tới đâu họ cũng lập đền để truyền đạo Bạch Liên giáo, mặt khác, đất phá nhà thờ đạo Công giáo, bắt được người công giáo nào cũng gán cho cái tội gián điệp thông đồng với bọn quỷ trắng Tây phương, bán nước cầu vinh, giết liền.

Bọn công sứ của các nước Tây phương thấy thế đứng lên can thiệp, nhưng Tổng đốc Trực Lệ Du Lộ vốn đã được bọn Đoan vương chỉ bảo, cứ lờ đi, chẳng phân xử gì cả. Bọn công sứ Tây chẳng còn cách nào hơn là điều binh khiển tướng bảo vệ lấy mình.

Tin tức đến tai Nghĩa hoà đoàn. Bọn họ yêu cầu Đoan vương cho kéo tới vây quán công sứ. Đoan vương nhất thời không dám tác chủ, còn đang do dự. Nhưng bọn Nghĩa hoà vây phía ngoài quán càng ngày càng đông, đánh trống đánh mõ, hò hét om xòm, chỉ chực nhảy bổ vào phía trong để nuốt chửng lấy bọn ngoại quốc.

Giữa lúc gay cấn đó, viên thư ký sứ quán Nhật Bản tên là Sam Sơn Bân Mộc và viên công sứ Đức quốc tên là Khắc Lâm Đức cưỡi xe cũng vừa đi tới. Bọn Nghĩa hoà đoàn chợt trông thấy viên thư ký Nhật nọ, liền đồng thanh hô lớn: "Giết thằng Nhật Bản, báo thù cuộc chiến bại Giáp Ngọ".

Người thì đông, tiếng hô thì to, thế là chẳng còn ai nghe ai, máu bốc lên, họ xông vào kẻ đấm người đạp, kẻ đâm người chém. Tên Nhật bị vằm ra như cám ngay trên chiếc xe của y. Viên công sứ Đức thấy thế nguy, biết không thể nói năng, giải thích gì được, liền quay đầu ù té chạy. Người Nghĩa hoà đoàn thấy y chạy, vội hô lớn: "Giết thằng Tây phương! Giết thằng Tây phương!" Cả đám đông lại nhảy ào tới, vây viên công sứ Đức vào giữa, rồi cũng giết béng luôn. Chưa hết, đám đông Nghĩa hoà đoàn còn diễu võ dương oai một hồi lâu rồi mới dần giải tán.

Đoan vương thấy chuyện đã tùm lum lên rồi, sợ Tây thái hậu bắt tội, vội vàng gọi bọn Cương Nghị, Từ Đồng, Triệu Thư Kiêu lại mật nghị. Bàn tính mãi, cả bọn mới quyết định nguỵ tạo một bức thư cảnh cáo của công sứ đoàn buộc Thái hậu quay về nắm chính quyền, phế bỏ Đại A Kha, lập tức mời Quang Tự hoàng đế lâm triều ngay hôm đó. Bàn xong, cả bọn kéo nhau tới yết kiến Tây thái hậu.

Lúc đó, Vinh Lộc đã được tin bọn Nghĩa hoà đoàn giết viên công sứ Đức và viên thư ký Nhật Bản, vội chạy vào báo cho Tây thái hậu hay. Lộc tâu với bà:

- Đoan vương dung túng cho bọn tà giáo giết chết viên công sứ, sau này thế nào cũng gây thành hoạ lớn chứ chẳng phải chơi.

Tây thái hậu nghe tâu, thầm trách Đoan vương làm bậy. Bà vừa định cho lệnh gọi thì đã thấy Đoan vương hối hả chạy vào, trình bức thư cảnh cáo giả mạo kia lên.

Tây thái hậu đọc xong bức thư, chính vì bức thư này chọc tức và nhè đúng chỗ kiêng kỵ nhất, bất giác bà cả giận đùng đùng. Bà quát lên rầm rầm, bọt mép như muốn tung lên đến tận đám mây xanh.

- À, thì ra mấy thằng quỷ trắng này dám can thiệp vào nội chính của ta. Rút lui khỏi chính quyền hay không cái đó tuỳ ta, chúng can dự gì mà dám can thiệp. Hà! Chúng bay đã dám lếu láo, xấc xược như vậy, ta sẽ đuổi hết chúng bay cho mà coi!

Thấy Tây thái hậu nổi xung, Đoan vương vội tâu:

- Nô tài đã đánh điện điều động quân cảm dũng của Đổng Phúc Tường về kinh; chỉ tối nay hoặc sáng mai là tới. Khi quân đến đông đủ, thì chỉ hô lên một tiếng là vây hết lại, tóm cổ từng thằng một mà đuổi cho bằng hết ra khỏi kinh, thế là rảnh mắt.

Tây thái hậu nghe tâu, gật gật cái đầu. Vinh Lộc đứng hầu bên cạnh, biết Tây thái hậu đang cơn thịnh nộ, không dám cản ngăn. Nhưng cả triều văn võ, ai cũng biết rằng vây công sứ quán, đuổi hết ngoại nhân là một việc chẳng lành.

Do đó, bọn đại thần người Hán là Từ Dung Nghi, Hứa Cảnh Trừng, và cả bọn đại thần người Mãn như Liên Nguyên, Lập Sơn nhất tề rủ nhau vào can gián.

Tây thái hậu cơn tức chưa nguôi, cất tiếng nói lớn:

- Bọn các ngươi chỉ biết bảo vệ, che chở cho lũ mọi ngoại quốc Tây phương, chứ không biết bọn chúng khinh khi bản triều quá sức à?

Bọn Từ Dung Nghi còn muốn tâu bày này nọ thêm nhưng Tây thái hậu đã lớn tiếng quát bảo thị vệ bắt giải hết cả bọn giao cho Hình bộ nghị tội.

Đoan vương thấy cơ hội vô cùng thuận lợi cho mình, bèn thừa dịp tâu lên:

- Bọn Từ, Hứa đã từng tư thông với ngoại quốc, chứng cớ đã rành rành. Nếu không trừng phạt để răn đe họ, e rằng về sau còn biết bao kẻ noi theo làm hại. Bọn Hán gian này quyết không thể dung tha, xin thái hậu xử trị.

Tây thái hậu gật đầu tức thì giao việc giám trảm này cho Đoan vương đem tất cả bọn Từ, Hứa trói giật lại rồi điệu ra chợ cửa đông để chém.

Khắp triều văn võ bá quan, anh nào anh nấy mặt tái xanh đi, hai hàm răng run lên lập cập, im phăng phắc. Nhiều người ứa thầm nước mắt vì thương cho hạnh tủi cho mình.

Sau khi bọn Từ, Hứa bị chém rồi, những kẻ nào bị nghi là Hán gian lập tức đem chém ngay. Hán gian ở đây chỉ những ai tư thông với bọn da trắng Tây dương. Ngoài ra những kẻ nào không tin tà giáo cũng bị đem ra xử tội nữa. Tà giáo đây tức là thứ tín ngưỡng của Nghĩa hoà đoàn.

Đảng cũ của Nghĩa hoà đoàn ở Bắc Kinh, xây một cái đài thật cao, tuyên truyền rằng đây là nơi triệu thần mời thánh.

Văn võ bá quan trong triều mỗi ngày đều phải tới đàn này để xì xụp lạy. Ví thử có kẻ nhất định không lễ lạy, thì bất luận là Mãn hay là Hán, thảy đều bị kết án là tư thông với ngoại quốc.

Ấy chỉ có mỗi một chuyện đó thôi mà quan người Hán, kẻ bị giết, kẻ bị tội, con số lên tới quá nửa, ở lại chỉ còn lèo tèo có ít người. Cựu thần như Vương Văn Thiều cũng suýt không thoát. Giữa lúc Tải Lan dâng sớ xin chém hết những tên Hán gian, thì trong bản phụ có nói đến cả Vương Văn Thiều, nhổ cỏ phải nhổ cả rê. Hổi đó, Vương Văn Thiều cùng làm việc với Vinh Lộc tại quân cơ xứ. Theo luật lệ của triều trước, đại thần quân cơ Mãn cũng đều là đại học sĩ. Các tờ sớ tâu lên của các triều thần, phải được đưa cho viên quan Mãn coi trước, sau đó mới đưa cho quan người Hán.

Hôm đó, Vinh Lộc ngồi xem tờ sớ của Tải Lan, đến tờ phụ bản thấy có tên Vương Văn Thiều liền giấu ngay đi, coi như không có, rồi xem tiếp qua các tờ sớ khác. Vương Văn Thiều tiếp sau đó cũng xem tờ sớ của Tải Lan, quay đầu lại hỏi Vinh Lộc:

- Lan công cũng còn có một phụ bản nữa, ngài để đâu rồi?

Vinh Lộc trả lời lại một cách hàm hồ:

- E rằng bị thất lạc rồi chăng?

Vương Văn Thiều nghe vậy cũng chỉ còn biết gật đầu. Hai người xem xong tấu chương, rồi lên yết kiến Tây thái hậu trình tâu hết mọi tờ sớ. Xong đâu đấy, Vinh Lộc mới rút ở trong ống tay áo ra tờ phụ bản trình lên cho Tây thái hậu xem và nói:

- Thái hậu nghĩ xem có phải Tải Lan nói tầm bậy không?

Tây thái hậu tiếp lấy tờ phụ bản, xem xong, bỗng biến sắc nói:

- Ngươi có thể đảm bảo việc này cho hắn được à?

Vinh Lộc dập đầu tâu:

- Nô tài nguyện đem cả trăm mạng để xin đảm bảo.

Tây thái hậu lớn tiếng nói:

- Vậy thì ta giao hắn cho ngươi. Nếu có gì biến sau này ta cứ ngươi chịu tội nghe chưa?

Vinh Lộc vội dập đầu tạ ơn rồi lui ra:

Vương Văn Thiều lúc đó cũng quỳ ở bên cạnh, nhưng bị nặng tai, nên không nghe thấy gì.

Lại nói tới bọn Nghĩa hoà đoàn đập phá các sứ quán ngoại quốc, đáp lại, các nước chỉ còn cách điều động quân hạm đổ bộ thẳng vào Thiên Tân.

Hồi 166

TÂY THÁI HẬU TRỐN CHẠY RA NHIỆT HÀ

Bọn Nghĩa hoà đoàn càng gây chuyện càng hăng. Chúng đi đập phá lung tung. Trong khi đó các chiến hạm ngoại quốc tấn công cửa bể Đại Cô, nã đại bác vào các pháo đài ven bờ.

Đô đọc Trực Lệ Nhiếp Sỹ Thành, Xuyên quân Lý Bỉnh Hành, Thiểm quân Mã Ngọc Côn, nhất thời không có cách chi địch nổi, đành phải quay giáo chạy lui. Còn bọn Nghĩa hoà đoàn thì mới được nếm có loạt đại bác đầu đã chạy có cờ, mặt xanh lại như gà cắt tiết, chân như muốn đóng đinh luôn xuống đất.

Nhiếp Sỹ Thành hô quân xông lên. Vừa được vài bước, không ngờ một viên đại bác bắn trúng ngay vào, khiến đầu Thành vỡ tan ra, máu me loang lổ cả đám cỏ già trên mặt đất, chết ngay tức khắc.

Mã Ngọc Côn một mình một ngựa chạy biến. Lý Bỉnh Thành thấy toàn quân đã tan rã, rút kiếm tự tử chết luôn.

Thế là pháo đài Đại Cô thất thủ. Liên quân tám nước: Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nhật, Nga, Ý, Áo đổ bộ lên Thiên Tân. Tư lệnh hạm đội Đức quốc là Ngoã Đức Tây tổng chỉ huy quân đội Liên quân hạ lệnh tiến thẳng vào Bắc Kinh, bức bách kinh thành.

Tin tức truyền đi nhanh chóng. Tình hình thực vô cùng khẩn trương, tổng đốc Du Lộc uống thuốc độc tự tử, Vinh Lộc lúc này bấn loạn, vội chạy vào Di Hoà viên tâu Thái hậu:

- Bát quốc Liên quân đánh phá Đại cô, hiện đã bức bách Bắc Kinh.

Nghe Vinh Lộc tâu trình một lượt, Tây thái hậu vội cho triệu Đoan vương và Cương Nghị vào Di Hoà viên để hỏi chuyện.

Đoan vương nghe tin tức đồn đại bện ngoài, mà tin nào cũng dữ, trong lòng đã có ý sợ hãi, nay được lệnh của thái hậu truyền vào, biết thế nào thái hậu cũng cật vấn và trách quở, nhưng không đi không được, bởi thế vương đành phải cùng với Cương Nghị líu ríu kéo nhau vào.

Sau khi bọn Đoan vương tham kiến xong, Tây thái hậu tỏ ý giận tức đến cực độ, cất tiếng hỏi:

- Chủ chiến lần này đều do bọn ngươi gây ra. Hiện mọi việc đã hỏng hết rồi, tình trạng đã thế, bọn ngươi còn không biết tìm lấy một kế sách chi để đối phó nữa sao?

Đoan vương và Cương Nghị đứng cả bên cạnh Tây thái hậu miệng nín thinh, không nói lên được lời nào.

Giữa lúc đó, bỗng có nội giám hất hoảng chạy vào báo:

- Ngoại binh đã kéo tới đang hướng súng để nổ vào thành.

Tây thái hậu hoảng hồn thất sắc, mặt xanh như chàm đổ.

Vinh Lộc thấy việc nguy cấp quá rồi, bèn tâu:

- Việc đã quá gấp. Quyết không thể nào để cho bọn ngoại nhân kéo vào đây để giày xéo làm nhục được. Theo ngu kiến của nô tài, kính xin Thái hậu ngự giá xuất kinh, tạm thời tránh khỏi cơn nguy là hơn.

Tây thái hậu nhỏ lệ hỏi:

- Lúc cấp bách này, đi đâu được bây giờ chứ?

Tuy nói vậy chứ rồi bà cũng gọi ngay mấy người thân tín lại bàn tính sơ qua để quyết định. Thế là cá bọn chấp thuận chạy lên Nhiệt Hà, rồi sau hãy hay.

Mọi việc đã rõ. Cương Nghị được lệnh ra ngoài sửa soạn xa giá, một mặt tới Doanh đài thông báo cho Quang Tự hoàng đế biết, đồng thời triệu tập hết cung tần, mỹ nữ lại để chuẩn bị lên đường.

Trân phi lúc đó cũng có mặt trong đám, nước mắt chạy quanh đứng ngay bên cạnh thái hậu. Tây thái hậu thấy thế, chọt nhớ tới chuyện xưa, thấy chuyện ngày nay còn hối hả gấp gáp hơn chuyện thất trận năm Giáp Ngọ nhiều, trong lòng càng lấy làm ghét cay ghét đắng Trân phi, vì bà cho rằng thế nào bà cũng bị nàng chê cười mai mỉa. Bà nguýt Trân phi một cái dài thượt, cười nhạt nói:

- Hiện nay mọi người đã chuẩn bị ra đi, còn "bà" thì thế nào?

Trân phi giơ chiếc khăn hồng lên gạt lệ nói:

- Xin nghe theo lời chỉ dạy của thái hậu cả.

Tây thái hậu nói:

- Theo ý bọn này thì vào lúc gấp gáp hối hả này, con gái trai trẻ xuân sắc đi đường chẳng tiện, mà ở lại đây thì lại bị chúng làm nhục, thôi thì bọn ta để mặc "bà" tự quyết lấy.

Trân phi nghe xong lời nói này biết rằng mình khó thoát được nghịch cảnh, bèn nhỏ lệ đáp:

- Thần thiếp đã mong được ân tứ. Duy chỉ phải hoàng thượng là một vị vua của một nước, muôn vàn không nên rời kinh mà đi xa. Nếu không, trong kinh không chủ, biết lấy ai để thu xếp mọi việc!

Trân phi vừa nói tới đây, Tây thái hậu đã quát ầm lên:

- Quốc gia đại sự, đã có ta và hoàng thượng gánh vác, không cần đến mi phí nhiều lời.

Nói đoạn, Tây thái hậu lệnh cho nội giám ban cho Trân phi một cái chết toàn thây. Hai tên nội giảm chạy đi lấy chiếc chăn rộng, chụp lấy Trân phi, bó chặt lại rồi khiêng tới cái giếng trong vườn, ném xuống.

Lúc này, Cẩn phi cũng có mặt bên cạnh, thấy em gái bị hành hình như vậy, bất giác động lòng oà khóc. Quang Tự hoàng đế cũng tính can ngăn nhưng bởi vẫn e sợ Thái hậu nên đành thúc thủ. Thật đáng thương cho một kiếp hoa.

Giết xong Trân phi như nhổ được cái gai trước mắt, Tây thái hậu vội cải trang thành người dân chạy loạn, leo lên xe, mặt buồn rười rượi. Vinh Lộc chạy tới xin lệnh, bà nói:

- Sau khi bọn ta chạy khỏi kinh thành, tất cả mọi việc đều do ngươi tạm thời định đoạt. Còn nếu bọn Tây dương chấp nhận mở cuộc hoà nghị, ngươi tự nghĩ lấy ý chỉ, triệu tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Hồng Chương lên kinh, cùng với Khánh vương Dịch Khuông Đồng làm đại thần toàn quyền để nghị hoà. Nghị hoà đã xong xuôi, bọn ta sẽ hồi loan.

Vinh Lộc nhận dụ xong lui ra, Tây thái hậu quay lại nhìn bọn đại thần theo xa giá chỉ vỏn vẹn có hai người là Vương Văn Thiều và Triệu Thư Kiều mà thôi. Bà nhớ tới hồi nào ăn mừng lễ thượng thọ mà càng thêm xúc động can trường.

Không chần chừ, Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế vội vã khởi hành. Khi xa giá ra khỏi cửa Đức Thắng môn, thì đã có Mã Ngọc Côn đem theo bốn, năm trăm quân đợi sẵn.

Đó là đoàn quân của Vinh Lộc đã chuẩn bị để bảo vệ thái hậu và hoàng thượng Tây hành.

Xe chạy được vài chục dặm, lúc đó vua tôi mới sực nhớ ra rằng không mang theo lương thực. Bụng người nào người nấy đói meo. Khổ cái là đây lại thuộc vùng hoang vu rậm rạp, chẳng thấy một mái nhà, một xóm làng nào cả.

Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế đành phải nhịn đói gắng gượng lên đường. Nhưng phải cái bọn phu xe đói quá, khiêng vác không nổi nữa, đành nằm quay ra bên đường, ngổn ngang như những thây ma, nhất định không chịu đi nữa. Mãi sau, đích thân Tây thái hậu đành phải hạ thân vỗ về khuyến khích, chúng mới cố gượng đi tiếp.

Xe đi gập ghềnh, người ngựa đều đã quá mệt. Lại vài ba chục dặm nữa, đoàn người mới thấy được một thôn trang bên vệ đường. Bọn nội thị, cung nữ lần đầu gặp cảnh gian truân người thì nằm bò trên xe, kẻ lăn quay ra vệ đường, trông mà thê thảm.

Tây thái hậu nhìn trước trông sau chợt cảm thấy lòng mình như bất nhẫn, như xúc động mãnh liệt. Bà truyền lệnh ngừng xe. Lý Liên Anh chạy vào trong thôn hỏi bọn dân làng:

- Bọn ta vốn thuộc gia đình quyền quý, tỵ nạn qua đây. Nhân lúc đi quá vội, không kịp đem theo lương thực, tiền nong, bởi thế mong các người cung cấp cho chút ít thực phẩm. Mai sau về kinh, bọn ta sẽ xin hậu tạ.

Bọn dân quê thấy đoàn người mặt mày đều hốc hác, tai tóc bơ phờ nhưng vẫn còn y nguyên cái vẻ quyền quý trên người, bèn tranh nhau đem cơm nước ra.

Ai nấy ăn uống ngon lành, kể cả Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu cũng như Cẩn phi, người nào cũng ăn uống đôi chút, chỉ riêng Tây thái hậu, làm sao mà nuốt cho trôi cái thứ gạo lức khô đến cháy cổ đó được? Bất giác bà rưng rưng nước mắt nhìn Quang Tự hoàng đế rồi cất tiếng run run nói:

- Bọn ta sống trong cung cấm, làm sao biết được cái cảnh khổ cực của dân! Ngươi nhìn xem, chúng chỉ có cái thứ cơm đó để no lòng thôi đấy. Còn bọn ta, ngày nào cũng mâm cao cỗ đầy, ấy thế mà vẫn cho là không vừa miệng. Có từng trải gian nan mới biết sự đời không dễ.

Nói đoạn Tây thái hậu khóc lên hu hu, tiếng khóc vô cùng bi thiết. Trong đám tòng vong cạnh thái hậu, còn có cả ba con gái của Khánh vương, Bối tử Phổ Luận và bọn Quế công phu nhân... Nhìn thấy tình cảnh bi thương của Tây thái hậu, cả bọn xúm lại khuyên giải, an ủi, một mặt cho đoàn người tiếp tục lên đường. Đi một thôi nữa thì gặp chợ. Tây thái hậu lại sai Lý Liên Anh đem theo một bọn người vào trong chợ để tìm cơm kiếm nước. Tây thái hậu cũng như Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu mệt quá, chẳng buồn xuống nữa! Ngồi liền mãi trên xe cho đến sáng mai.

Qua hôm sau, xa giá lại khởi trình. Tây thái hậu bị thuốc hành, vì đã hai ngày bà chưa được mồi thuốc phiện vào người, hơn nữa cũng đã hai ngày không ăn bà mệt lử, ngồi co ro trong xe, chẳng khác gì cái xác không hồn.

May thay, đến gần trưa, xe chạy tới địa phận huyện Hoài Lai, Tây thái hậu cho Lý Liên Anh đi trước thông báo cho viên tri huyện là Ngô Gia Khôi. Được tin, hắn hốt hoảng chạy ra khỏi thành nghênh tiếp, rồi đặt tiệc khoản đãi.

Đến lúc Tây thái hậu, hoàng thượng và hoàng hậu dùng cơm, bữa cơm tuy nói rằng của quan huyện đãi nhưng cũng chẳng lấy gì gọi là sang, chỉ tại miền Hoài Lai này cũng là miền nghèo túng, khổ cực. Thực ra, thì bữa cơm của quan huyện Hoài Lai cũng còn ngon hơn bữa cơm của bọn dân nghèo hôm qua nhiều.

Tây thái hậu ăn xong, gọi huyện lệnh phu nhân giúp chải lại mái tóc. Bà ở ngay trong cái phòng khách của huyện đường.

Đợi cho thái hậu và hoàng thượng yên giấc, Lý Liên Anh mới lẻn ra ngoài đi tìm một bộ bàn đèn với một chút thuốc về. Cái dọc tẩu chỉ là một cái ống trúc đã cũ, hai mép lem nhem. Còn cái bàn đèn, trời ơi! Nó dơ dớp sao chứ!

Tây thái hậu nhìn thấy những của nợ nọ, nhiều lúc lợm giọng, nhưng cơn nghiện đã bắt đầu lên, thì chẳng cần kể đến chuyện dơ hay sạch nữa. Bà cố rít mấy điếu cho đã thèm. Nhờ được bữa thuốc mà đêm đó bà ngủ một giấc ngon lành, khi thức dậy, lại tỉnh như sáo sậu. Thật là một loại thuốc tiên!

Bọn nội thỉ cung nữ hôm đó cũng được một bữa no say, sung sướng. Tây thái hậu buột miệng than thở:

- Người ta có khổ mới biết sướng! Câu nói đó không ngờ hôm nay lại đặt vào miệng ta.

Sáng hôm sau, thái hậu thức dậy. Tri huyện Hoài Lai đi thuê thêm mấy cỗ xe để đưa thái hậu và hoàng thượng, hoàng hậu lên đường.

Đoàn người ra đi vừa được nửa ngày, bỗng nghe tiếng la lối quát tháo om xòm ở phía trước. Tây thái hậu lúc này chẳng khác gì chim sợ là cây cong, mặt biến sắc, từ màu xanh ra màu đen sậm vội cho người chạy lên trước hỏi xem có biến cố gì xảy ra. Viên nội giám chạy đi một lúc rồi quay lại hồi tấu Thì ra đó là cánh quân năm trăm của Mã Ngọc Côn hết lương, suốt ngày phải theo giá tây hành, bụng đói meo mà không có ăn, muốn làm reo, không chịu đi nữa, xúm lại cãi cọ nhau, suýt nữa choảng nhau.

Tây thái hậu nghe lời tâu của viên nội giám, nhất thời chẳng nghĩ ra kế gì, chỉ còn cách truyền lệnh cho bọn cung nữ lột hết những trâm vàng thoa ngọc trên đầu ra để khao thưởng cho đám quân đang có ý phản đến nơi, để chúng vui lòng ra đi, lòng bà thầm mong không còn một trở ngại nào trên đường.

Hồi 167

HOÀ ƯỚC BẮC KINH

Gặp bao nỗi vất vả gian nan Tây thái hậu lặn lội mãi mới tới Thái Nguyên. Tuần phủ Cam Túc là Sầm Xuân Huyên đem quân Cần vương theo tới kịp. Bọn đại thần khác như Vương Văn Thiều, Triệu Thư Kiều cũng lục tục kéo đến.

Lúc này Tây thái hậu tâm thần hơi yên, lệ nhỏ ròng ròng trên đôi má hóp lại vì phong trần, run run nói với Sầm Xuân Huyên:

- Bình sinh, thực ta chưa từng gặp phải cảnh khốn khổ này bao giờ. Đấy, khanh cứ xem, xưa kia bao kẻ lúc nào cung một chung, hai chung, thế mà khi hoạn nạn thấy được mấy ai? Khanh không nề nao khổ, hoạn nạn theo chân, mai yên ổn về kinh, ta quyết không quên.

Nói đoạn Tây thái hậu giơ tay vỗ mạnh vào lưng Sầm Xuân Huyên khóc rống lên, Huyên thấy tình cảnh quá bi thương, vội tìm lời an ủi:

- Thái hậu nên bảo trọng mình vàng, chớ có bi thương quá độ Sự an ninh trên đường bộ, đã có tiểu thần lo liệu, quyết chẳng có điều gì xảy ra, xin thái hậu yên lòng.

Tây thái hậu nghe xong câu nói, nuốt lệ gật đầu, truyền chỉ tạm trú lại Thái Nguyên. Song thái hậu đã bị một phen hoảng sợ, do đó, phủ đài tỉnh Sơn Tây liền tiến cử Huyện thăng Diệp Thừa Tự tới nơi để chần trị cho bà. Tự hốt một thang thuốc "hoà vi thư can", uống vào bà thấy có đỡ một đôi phần.

Tin tức từ Bắc Kinh cho hay tình hình chiến sự vô cùng hiểm nguy. Tây thái hậu lòng càng thêm lo lắng muôn phần. Bà tức tốc truyền lệnh xa giá tây tiến.

Việc ra đi này, đối với vua Quang Tự thực chẳng được ngài đồng ý. Vì đã không tán thành buổi đầu nên khi thấy Tây thái hậu còn muốn giá hạnh Tràng An thì cực lực phản đối. Thế là hai mẹ con đâm ra cãi nhau. Cuộc cãi vã om xòm xảy ra đến mấy lần. Nhưng Tây thái hậu vốn người vừa cương quyết vừa ngang bướng, nào có chịu nghe ai. Quang Tự hoàng đế chống chẳng lại đành phải riu ríu đi theo.

Khi xa giá đến Tràng An, Tây thái hậu liền hạ chiếu tự bắt tội mình. Cũng chính lúc này, tại kinh thành Bắc Kinh, Vinh Lộc đã nghĩ đến việc viết chiếu thư, triệu Lý Hồng Chương tiến kinh mở cuộc nghị hoà.

Trong bàn hội nghị, viên đầu lãnh của Đức quốc do tám nước đề cử, đưa ra những điều khoản vô cùng khắc nghiệt.

Lúc đầu, mọi người tưởng như không thể nào hoà hội được. Mãi về sau, phải nhờ đến cái óc thông minh của Lý Hồng Chương mới có thể tìm ra được một con đường khéo léo để giải quyết.

Con đường tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là một người đẹp tên gọi Sai Kim Hoa. Nàng Sai Kim Hoa vốn là một danh kỹ, lại còn là cục cưng của Hồng Dung. Khi Hồng Dung được lệnh đi sứ qua nước Đức, có chơi thân với viên thượng uý pháo binh Đức tên là Ngoã Đức Tây. Sai Kim Hoa cũng thân với viên thượng uý này lắm. Theo tập quán của Tây phương, thì chuyện nam nữ giao thiệp vốn rất tự nhiên, cho nên mối quan hệ giữa Hoa và Ngoã càng có chỗ thân mật, dẫn tới say mê nhau, nhất là Ngoã lại có tính hiếu sắc, đặc biệt là cái sắc của làn da mịn màng, thân hình thon thả của người con gái Đông phương.

Đến lúc về nước, Hồng Dung quay ra ốm nặng, sau một thời gian liệt giường đâm ra bất lực; khiến Sai Kim Hoa tuổi xuân còn hơ hớ chẳng biết trông cậy vào đâu.

Khi liên quân tám nước bức bách cửa bể Đại Cô ở Thiên Tân, quân Đức lấy danh nghĩa là báo thù cho viên công sứ Khắc Lâm Đức, tuyên chiến với Trung Hoa. Ấy cũng vì chỗ đó nên các nước chầu rìa khác đã suy tôn Đức lên làm minh chủ, rồi viên tướng Đức Ngoã Đức Tây mới vọt ngay lên chức thống soái liên quân.

Lý Hồng Chương vì chuyện nghị hoà cấp bách, đành phải uỷ thác nhiều việc cho Sai Kim Hoa, nhất là việc đến tỷ tê, ỷ ôi để tán tỉnh, khuyên giải viên tướng Đức dại gái này.

Ngoã Đức Tây lâu ngày nay mới gặp lại người tình thuở nọ, biết bao sung sướng. Thế là chỉ qua một đêm viên tướng Đức thay đổi ngay thái độ: hôm qua gay cấn bao nhiêu thì hôm nay lại dễ dãi bấy nhiêu, chẳng những thế, Ngoã ta còn quay lại tích cực giúp đỡ Trung Quốc. Kết quả: cảnh binh đao chấm dứt, ngai vàng nha Thanh còn nguyên vẹn. Nhưng Lý Hồng Chương thi ngay sau đó lâm bệnh và... từ giã cõi đời.

Tây thái hậu được tin Lý Hồng Chương chết, lấy làm xót thương lắm, lập tức hạ lệnh ban thưởng cho tang quyến một vạn đồng bạc để làm ma chay. Ngoài ra, bà còn sai Dịch Khuông thay mặt triều đình đi điếu để an ủi anh hồn của người tôi trung liệt. Sau hết, còn thưởng tứ cái tên thuỵ là Văn Trung.

Xin nhắc lại nơi đây những điều ước trong cuộc nghị hoà giữa Lý Hồng Chương và bát quốc liên quân. Hoà ước có mười hai điều cả thảy. Tuy nói rằng hoà ước đã ký nhưng còn bao nhiêu thủ tục đâu đã xong. Tây thái hậu liền phái Vương Văn Thiều đến thay thế Lý Hồng Chương, để kết toán cho kỳ xong một phen đại hoạ.

Biến cố lịch sử tưởng có mòi làm tan tành cả sự nghiệp của bao đời tổ tiên Thanh triều dày công xây dựng lên, may thay đã trôi qua dù còn có người coi đó như một cơn ác mộng.

Ngồi buồn, Tây thái hậu lúc đó mới kiểm điểm lại mọi việc, nhất là cái việc đã chính tay mình gây ra. Bà thấy rõ ràng là một việc nhục quốc táng quyền, mình chỉ còn biết trách mình mà thôi. Bất giác, hai hàng lệ từ từ lăn trên đôi gò má bà lúc này đã xám đen đi vì phong trần, cũng có khi vì thiếu thuốc phiện trong những ngày vất vả vừa qua.

Lại nói Quang Tự từ khi bị cầm tù tại Doanh đài, trong lòng căm tức khôn nguôi, không có lúc nào phát tiết ra hết được Rồi đến khi liên quân tám nước kéo đại binh bức bách Bắc Kinh, thái hậu hoảng hốt bỏ chạy, Quang Tự hoàng đế được tin này, liền mặc triều phục chinh tề định đến sứ quán ngoại quốc. Tây thái hậu sợ quá, vội bảo nhà vua:

- Ngươi đi lúc này có khác chi nhảy vào miệng cọp không?

Quang Tự hoàng đế thản nhiên nói:

- Bọn họ vốn người nước văn minh, đối với các bậc vua chúa của các nước láng giềng họ quyết chẳng gia hại đâu mà ngại. Con đi chuyến này, nếu có bàn đến việc nghị hoà thì thế nào cũng thành công.

Tây thái hậu vội vàng ngăn trở:

- Ừ thì ngươi đi, nhưng lúc này đâu có phải là lúc đi! Lúc này mà ngươi đến sứ quán, thử hỏi có phải ngươi đến để nộp mạng, nhận tội không? Còn nếu nói tới để nghị hoà, thì thực chẳng có một lý do chi hết! Tại sao ngươi lại mạo hiểm vô ích như vậy?

Quang Tự hoàng đế không nghe, cương quyết ra đi. Tây thái hậu thấy vậy không còn cách nào hơn, chỉ đành đổ cho nhà vua quá hoảng hốt, thần kinh thác loạn, sai bọn nội giám dìu ngài lên xe, cưỡng bức lên đường chạy loạn. Về sau, khi đến Thái Nguyên, Tây thái hậu hạ lệnh tây tiến qua Tràng An, Quang Tự hoàng đế không chịu, lại một phen đấu khẩu kịch liệt. Giờ phút gay cấn này, Tây thái hậu lại chỉ còn cách đổ diệt cho ngài lên cơn điên, bức ngài đi theo. Trong khi xa giá tây hành, có ai biết được một ông vua còn trẻ vốn sẵn bầu máu nóng đành chịu khoanh tay trước sự cưỡng bách của một bà già tai quái, chỉ còn biết rỏ lệ ròng ròng để cho nguôi đôi phần uất hận?

Có người tiếc cho trường hợp này, ví thử Tây thái hậu để Quang Tự hoàng đế lai kinh, kịp thời chống đỡ, thì đâu đến nỗi bị ngoại nhân dày xéo tơi bời, nhục quốc, táng quyền.

Lại cũng có người cho rằng Đức Tông hèn kém hôn muội, cho nên mới để đất nước và nhân dân bị bao cảnh tang thương.

Nhưng lại cũng có kẻ cho đó là nhà Thanh đã đến hồi mạt vận không thể cưỡng lại lòng trời.

Vì bị bức bách như vậy cho nên từ sau khi xa giá Tây An trở về, Quang Tự hoàng đế thường u uất trong lòng, chẳng có lúc nào vui. Lời ăn tiếng nói, có nhiều khi phẫn kích, giận tức, khiến Tây thái hậu không thể nào lượng thứ được. Do đó, Tây thái hậu có dụng ý đổ cho nhà vua bị bệnh thần kinh và tìm mọi cách làm cho quần thần tin tưởng ở chuyện đó.

Một hôm, nhân có cô con gái lớn của Khánh vương tên là Nguyên Đại Nải Nải thường đến hầu hạ bên cạnh hoàng đế, thái hậu bèn ngầm bảo Quang Tự hoàng đế lấy hộp trang sức của nàng đem giấu đi. Ông vua ngây thơ này không hiểu dụng ý của Tây thái hậu cứ thực thà làm theo. Kịp đến khi Nguyên Đại Nải Nải tắm rửa xong, tìm không thấy cái hộp, nhìn quanh thấy hoàng đế giấu vào nơi nọ, liền hỏi để lấy lại Quang Tự hoàng đế không đưa lại mà còn nói:

- Đâu được! Cái hộp này, chính Thái hậu cho đấy. Làm sao lại dám trao cho kẻ khác được?

Nguyên Đại Nải Nải nghe nói vậy, đành thôi, nhưng khi yết kiến thái hậu, nàng bèn đem chuyện cái hộp ra nói, Tây thái hậu cười bảo:

- Đường đường là một vị hoàng đế mà đi ăn cắp cái hộp của người ta. Thế mà bảo hắn không điên thì là gì?

Sau khi câu chuyện này xảy ra, trong âm mưu hãm hại của thái hậu, tin đồn Quang Tự hoàng đế mắc bệnh điên loạn truyền đi càng ngày càng xa, và đã có nhiều người tin theo.

Mặc dù cũng không ít người vẫn biết, nhà vua bất quá chỉ vì rắp tâm hãm hại của Thái hậu mà chịu điều tiếng ấy.

Lại nói đến chuyện hoà đàm với hoà ước mười hai điều khoản. Trong đó có một điều ước: trừng phạt hết tất cả những tên đầu sỏ gây hoạ. Thế là Tây thái hậu phải đem thực hành ngay khi chưa hồi loan. Do đó, bà hạ chiếu từ Tây An: đem Tải Lan, Dục Hiền ra chính pháp. Đoan vương thì bắt đi lính thú mãi Tân Cương, Cương Nghị được tin này đã tự tử ngay khi còn trên đường đi Tây An. Ngoài ra, quá nửa bọn triều thần có dính dấp tới Nghĩa hoà đoàn đều bị cách chức.

Mọi việc giải quyết xong xuôi cả, lúc đó Tây thái hậu mới chuẩn bị hồi loan.

Hạ tuần tháng bảy năm Tân Sửu, Tây thái hậu sai quần thần đi quan sát các hành cung bên đông lộ cũng như những con đường xa giá đi ngang qua để sửa soạn hồi cung. Mặt khác, bà truyền dụ xuống các quan lại địa phương, phàm những nơi xa giá đi ngang, khỏi phải cung đốn, đón rước trọng thể, trái lại cần phải kiệm ước đến mức tối đa. Điều khuyến dụ lạ lùng này bất quá chỉ tại khi phong trần thái hậu đã cảm thấy nỗi cực khổ của dân, và đã có lòng thương xót.

Hôm hồi loan, tất cả những đường phố của thành Tây An đều được sơn quét màu vàng. Hai bên phố sá đều chăng đèn kết hoa, trông hết sức náo nhiệt. Tình hình lúc này nếu đem so sánh với tình cảnh thuở nọ thì quả một trời một vực.

Tây thái hậu lại truyền dụ cho kéo hết những bức màn che xe loan lên cao, để cho dân chúng tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan của bà.

Ngay cái lúc xa giá chưa xuất thành, người ta đã thấy một toán lính có nhiệm vụ dẹp đường, tay cầm roi mây đi khắp các phố để càn quét bố ráp trước. Rồi sau đó, mới đến một toán ngựa đi tiền đạo, cứ một cặp rồi lại đến một cặp đi song song với nhau. Tiếp đến là bọn nội giám khăn vàng áo vàng và bọn quan lại mặc áo hoàng mã quải. Sau nữa là đám nội giám cưỡi ngựa. Bọn nội giám đi bộ, tay đều cầm cái lư hương, khói hương bốc lên nghi ngút. Trên đường đi, tứ bề vắng lặng, chim chóc bặt tăm. Những người tuỳ giá hai bên tả hữu, quá nửa là bọn vương công đại thần mặc xiêm vàng bằng lụa. Sau bọn này, có quân cấm vệ. Hết cấm vệ, thì đó là Quang Tự hoàng đế, với đoàn xe chở hoàng hậu, phi tần. Phía sau, trong cái kiệu vàng, đặt ngồi chú Đại A Kha, và rất nhiều thân vương theo hộ giá.

Xe loan của Tây thái hậu cần đến những ba mươi sáu người khiêng, tất cả đều mặc áo đoàn long quái tử, đi đứng hết sức chình tề nghiêm mật.

Đấy là tất cả những hành trang nghi vệ hôm hồi loan của Tây thái hậu. Quang cảnh thật vô cùng oai nghiêm. Ấy thế mà không ngờ giữa cái đám quân cảnh vệ hàng hàng lớp lớp đi đều ấy, một tên đại hán mình trần trùng trục xông ra, giơ cao hai cánh tay sắt nổi bắp cuồn cuộn của y lên, phóng thăng cặp giò bự như hai cái cột nhà lại trước xe loan của Tây thái hậu...

Hồi 168

QUỶ HIỆN TRONG CUNG CẤM

Lại nói tên đại hán mình trần trùng trục, mặt vẽ đầy hoa hoét, hai tay giơ cao, múa may quay tít, xông thẳng đến trước mặt Tây thái hậu. Đám thị vệ đi bên lập tức đuổi bắt lấy, chém phắt một đao chết tốt.

Chuyện kỳ khôi này xảy ra, bọn đại thần đi theo hộ giá sợ rằng có thích khách âm mưu hành thích, tức tốc điều tra ngay lý lịch tên đại hán. Bọn quan lại địa phương sau một hồi chạy đôn chạy đáo quay về báo cáo cho biết tên đại hán nọ chỉ là một thằng điên ở vùng này chứ chẳng phải của đảng phái nào.

Xe loan đi ngang chỗ nào cũng vậy, đám phụ nữ dân gian đua nhau ra ngắm thánh dung, đều quỳ xuống hai bên đường để đón giá. Trong cái đám, đàn bà thôn dã ấy, Tây thái hậu nhìn thấy một người mặc áo vá quỳ đó, có vẻ hết sức cung kính, biết đó phải là một mệnh phụ, liền cấp cho một cái ngân bài gọi là ân thưởng.

Đoàn xa giá hồi loan cứ trật tự như thế mà đi về ngã Đông Quan. Khắp dọc đường, chỗ nào cung thấy có từng nhóm quan lại quỳ dài để đón rước thánh giá. Lính đi theo, để hộ giá, ngoài toán của Mã Ngọc Côn hơn năm trăm người có từ trước ra, lúc này còn có các toán của Lộc Truyền Lâm, của Tống Khánh Hoà.

Khi đi qua Thái Nguyên, Quang Tự hoàng đế sai người ban phát cho những đền miếu địa phương nơi đóng quân, mỗi nơi một tấm biển. Lúc đó, Nam thư phòng cung phụng chỉ có một mình Lục Nhuận Tường. Ấy thế mà chỉ trong một buổi, hơn bảy chục nơi đền miếu đều có đầy đủ biển treo. Quang Tự hoàng đế khen Tường mấy câu, còn cho thêm một trăm tấm vải để gọi là ân thưởng.

Trong lúc Tây thái hậu còn ở Tây An, có một đứa con trai của tên hầu cận Vinh Tân, thường hay lui tới chỗ thái hậu, rất được bà yêu mến. Vinh Tân có một người thiếp yêu, lúc đó cung đến hầu hạ Tây thái hậu. Bởi thế, con trai của Tân cung được đem theo vào.

Đứa bé năm đó, tuổi vừa lên bốn, nhưng hết sức thông minh, Tây thái hậu cho nó ăn, nó không lấy ngay. Trước hết, nó chắp tay kính cẩn hành lễ, xong mới dám lấy. Do đó, Tây thái hậu thường cho gọi nó vào chạy nhảy bên cạnh, để cho khung cảnh thêm vui. Về sau, khi Tây thái hậu hồi loan, thằng bé bỗng dưng quay ra chết. Tây thái hậu buồn bã, chẳng lúc nào vui. Có lẽ cũng mất đến bốn, năm hôm, bà mới nguôi đi được.

Xa giá của Tây thái hậu đến Đại Đồng, tuần phủ tỉnh Sơn Tây là Ân Minh đã chuẩn bị sẵn cho bà cả một chuyến xe lửa. Trên xe có đặt ngai vàng, thêu long phụng đủ màu sắc sặc sỡ. Tây thái hậu leo lên xe lửa, quay lại nhìn đám vương công, đại thần, bất giác nở nụ cười trên môi, nói:

- Bọn ta còn cái ngày hôm nay nhỉ?

Nói đoạn, ngài nguýt Quang Tự hoàng đế một cái thật dài, trong khi đó, hoàng đế cúi đầu thấp xuống, giả tảng như không thấy gì. Chuyến xe lửa khởi hành, thẳng một mạch về hướng Bắc Kinh...

Chẳng bao lâu, xe lửa đã về tới kinh thành. Ra ngoài thành đón rước, đã có đầy đủ bọn đại thần văn võ người Mãn cũng như người Hán, lại còn có cả bọn công sứ của các nước Tây dương nữa. Bọn công sứ này thấy Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế xuống xe, đều bỏ mũ chào cung kính.

Tây thái hậu chỉ nhìn qua từng người rồi se sẽ gật đầu, xong lên xe loan chạy thẳng vào thành để về cung.

Thế rồi lúc trở về đến cung, bà buồn rầu khi thấy quang cảnh điêu tàn: đồ đạc bừa bãi ngổn ngang, những đồ quý, của báu trang hoàng khắp nơi, cái thì mất, cái thì vỡ tan tành.

Một nơi cung đình lộng lẫy như thế mà nay hoang lương như một bãi tha ma. Tây thái hậu đứng trước cái cảnh đổ nát này, chỉ còn biết rơi đôi dòng lệ xót xa mà thôi.

Nhưng từ sau cuộc hồi loan, đầu óc của Tây thái hậu cũng biến đổi dần. Lúc đó, Thuần thân vương Tải Phong đi sứ qua nước Đức trở về, cũng đề cao cái văn minh của ngoại bang.

Tây thái hậu thấy đại thể đã biến, không thực lòng cải cách quyết không xong. Do đó, bà cho phục lại tước cho tất cả bọn quan lại bị chết oan vì vụ Nghĩa hoà đoàn, và cho vào trong miếu Hiền Lương để hưởng cúng tế. Đối với Trân Phi, bà cũng cho vớt xác từ đáy giếng lên, lấy lễ quý phi an táng. Mặt khác bà hạ chiếu thực hành tân chính. Phàm những điều mà ngày trước bọn Khang, Lương điều trần như: bỏ khoa cử kiểu cũ, mở trường học, không được tán thành, thì nay lại đem ra cố thực hiện cho bằng được.

Nhưng từ khi cung nội trải qua một cuộc biến lớn, bao nhiêu bảo vật mất sạch, kẻ hầu người hạ cũng chẳng còn được mấy người. Cây bút hội hoạ trứ danh của bà Giao Tố Quân cũng bị bệnh chết tử lâu. Cô em gái Lý Liên Anh cũng đã ra đi lấy chồng. Bà phúc tấn vợ Đoan vương, nhân vì vương bị đày làm lính thú, trở thành vợ của kẻ tội thần nên bất tiện vào chầu. Thế là ngày nay, bà chỉ còn lại có môi một mình Thọ Xương công chúa ở bên cạnh mà thôi. Bởi thế, bà cảm thấy hiu quạnh, vắng vẻ và vô cùng cô độc.

Thấy hoàn cảnh ấy của Tây thái hậu, Khánh vương bèn cho phúc tấn của mình đem theo cô con gái tên là Trân Châu vào hầu. Tây thái hậu thấy Trân Châu lanh lẹ đáng yêu, liền giữ lại trong cung. Nàng Trân Châu vốn đã du học sang Nhật nên vào những lúc nhàn rỗi, thường giảng giải cho Thái hậu nghe về nghề nuôi tằm của chị em phụ nữ Nhật. Nàng kể rằng: Đám chị em phụ nữ Nhật này qua Trung Quốc học nghề nuôi tằm. Khi học thành tài rồi, họ còn học thêm cách trồng dâu nữa. Họ quyết định nuôi tằm lấy cho mình. Do đó, nghề trồng dâu nuôi tằm đối với Nhật đã là một môn thực nghiệp được liệt vào trong nông học, và được coi trọng hết sức Chỉ tiếc có mỗi một điều là khí hậu tại Nhật Bản không thích hợp thành thử nghề này không phát đạt được. Tây thái hậu nghe nói vậy nổi tánh hiếu kỳ liền bảo Trân Châu:

- Xưa nay, các bậc đế hậu cũng có nhiều người nuôi tằm dệt vải. Bọn mình e làm không nổi chăng?

Nói đoạn Tây thái hậu lập tức truyền dụ chọn hai mươi người phụ nữ xinh xắn trong dân gian tại miền Giang Nam để đưa vào Đại nội nuôi tằm. Bà cũng truyền lệnh cho các miền dân giã phải chiết cành dâu đưa vào trong cung cho bọn nội giám trồng.

Tây thái hậu cho làm một khu nhà riêng để cho bọn đàn bà ở lại nuôi tằm. Thế rồi, tằm làm tổ, quậy kén. Bọn đàn bà ươm tơ kéo sợi, mua khung cửi, đem về dệt lụa. Tiếng khung cửi rầm rập, tiếng thoi đưa sột soạt, vang dậy khắp cung nội. Cái người điều khiển bọn thợ dệt này cũng chính là Tây thái hậu.

Phải cái đám đàn bà này phần lớn đều có chồng con. Bởi vậy, Tây thái hậu cũng lượng tình cho họ, cứ mỗi năm cho về nhà một lần. Còn những lúc ngày thường ở trong cung, họ cũng được thái hậu ban thưởng hết sức hậu hĩ. Cứ hễ người nào dệt xong tấm lụa, bà lại thưởng cho bốn lạng bạc, dệt xong được một cuộn lụa thật dài bà thưởng mười lạng.

Mỗi khi gặp chính mùa tằm, bà còn thưởng thêm cho mỗi người hai mươi lạng bạc nữa. Những buổi diễn tuồng ở trong cung, bà cũng cho họ tới xem. Cái đám phụ nữ nhà quê này được ân sủng đến thế, kể cũng là chuyện lạ, xưa nay chưa từng có, nhất là đối với Tây thái hậu, một con người ráo riết, tàn ác, khinh người. Bởi thế, đám đàn bà nhà quê ra vào nơi cung cấm tự do này bỗng nhiên sáng giá, khiến chẳng một ai dám đựng tới họ.

Có một lần, giữa lúc nghề tằm đang vượng, bọn đàn bà Giang Nam chuẩn bị lên kinh để cung chức. Chiếu lệ thường thì trước khi lên đường, quan lại địa phương phải đến tiễn đưa họ đi. Trong đám, có một người đàn bà không chịu nghe lời dặn của bọn quan lại địa phương, cho nên viên tri huyện liền sai nha dịch đuổi về. Chẳng ngờ người đàn bà nhà quê này dám nổi xung lên mà bảo:

- Ta ở trong cung của thái hậu, đã từng được gặp biết bao nhiêu là quan to quan nhỏ, có lẽ nào ta lại sợ một tri huyện quèn như ngươi?

Nói đoạn, mụ nhà quê này tính nhảy lên giáng cho viên tri huyện nọ cái tát. May nhờ lúc đó có mấy người đồng bọn khuyên can, mụ ta mới chịu thôi mà ra về.

Viên tri huyện tức quá, xoá tên bà thợ dệt lếu láo ấy, nhưng không ngờ khi tới kinh, thái hậu thấy thiếu mất một người liền hỏi, hậu quả tất nhiên vô cùng thê thảm cho viên tri huyện nọ.

Số là khi được Tây thái hậu hỏi tới, bọn họ tố cáo ngay viên tri huyện nọ, nào là kiếm chuyện để ăn tiền, nào là gây khó dễ hách dịch, khiến người đàn bà nọ không thể lên được kinh. Tây thái hậu lập tức truyền dụ xuống Giang Nam, gọi đích danh bà ta, viên tri huyện chẳng còn biết làm sao hơn, đành phải tới nhà gọi, rồi làm đủ giấy tờ cần thiết để cho bà đi. Nhưng chuyện đâu có dễ như vậy? Khi lên đường, bà thợ dệt chỉ thẳng vào mặt viên tri huyện, chửi bới xỉa xói một hồi đã đời rồi mới chịu ra đi cho.

Trong cung nội, tử sau khi Tây thái hậu xa giá hồi loan, thường xảy ra nhiều chuyện quái dị. Có khi người ta thấy cái ghế tự nhiên ở chỗ này chuyển qua chỗ nọ. Cũng có khi người ta nghe tiếng dép đi lẹt xẹt từ phòng này sang phòng khác.

Chạy ra xem thì chẳng thấy gì. Nhưng khi bỏ đi chỗ khác, lại thấy tiếng dép ấy ở trong phòng, nghe rõ mồn một. Những chuyện quái dị này càng ngày càng nhiều, lâu dần càng thấy khủng khiếp, quái lạ hơn. Có tối người ta thấy quỷ hiện hình hoặc ma đùa cợt nữa.

Bọn cung nữ trong cung còn thấy cả Trân phi diễu qua diễu lại khắp nơi. Nhưng khi chạy lại gần xem thì lại chẳng thấy gì. Tin ghê khiếp này càng ngày càng đồn đại đi khắp hoàng cung. Đến tai Tây thái hậu, mới đầu bà không tin. Nhưng có một lần, chính Tây thái hậu cũng thấy. Lúc đó, bà mới vội vàng hội họp nội thần bàn cách phụ ma bắt tà, làm ma làm chay một phen để đuổi cho bằng hết oan hồn ma quái. Quan Thị lang Dụ Côn đề nghị mời sư sãi Lạt ma để lo việc này.

Hồi 169

CHIẾC ÁO DA RÁI CÁ

Vì chính mắt mình đã nhìn thấy ma quỷ hiện hồn trong cung cấm, Tây thái hậu liền truyền lệnh tập hợp binh sư Lạt ma vào cung, lập đàn chay cúng giải. Thế là ngày đêm chiêng trống vang rền, nơi cung cấm yên tĩnh bỗng trở thành một ngôi chùa miếu. Chuẩn bị mãi mấy ngày gần xong, sư Lạt ma tâu lên Tây thái hậu viện bắt đầu bắt quỷ trừ tà.

Bắt quỷ trừ ma thực là cả một thoại kịch thú vị vốn đã từng có trong cung Ung Hoà. Chuyện xảy ra như thế này.

Dùng một tên Lạt ma nhỏ tuổi, cho mặc áo trắng, đầu đội mũ trắng, mặt bôi năm sắc nham nhở, rồi cho nằm nép tại một nơi kín đáo bí mật trong cung. Vị Đại Lạt ma tụng kinh làm phép ở trên đài, bỗng đèn đóm tắt ngủm, rồi một tiếng rống lên ghê rợn... Tên tiểu Lạt ma giả làm quỷ sống khi nãy tức tốc từ trong chỗ núp xông ra. Bọn Lạt ma khác đứng chực sẵn chung quanh, tay cầm lăm lăm những thanh tre dài, khi nghe Đại Lạt ma quát rầm mấy tiếng, lập tức xông tới gần tên tiểu Lạt ma, dùng thanh tre phang vào người, vào đầu tới tấp. Con ma (tức là tên tiểu Lạt ma cải trang bị đánh co cẳng chạy lung tung tìm cách trốn thoát, cả bọn Lạt Ma cứ thế đánh đuổi, ma chạy trước, sư chạy sau, gây thành một đám đông hỗn loạn hết sức tức cười. Ma cứ chạy mà sư cứ theo mãi ra khỏi cung môn, theo mãi đến khi không thấy nữa mới quay trở về. Ma đã chạy rồi, lúc đó ai cũng yên chí rằng không còn ma quỷ tà yêu gì nữa, đèn đuốc lại đốt lên sáng choang.

Nhưng lần bắt quỷ trừ ma này vì được tâu lên thái hậu biết trước, nên làm quỷ đều phải là bọn thái giám đảm trách.

Đến lúc đuổi quỷ, tất cả bọn cung nữ phì tần trong cung đều phải tham gia. Cô nào cô nấy đều cầm thanh tre, đứng chực sẵn để "lâm trận".

Từ trên đàn cao, vị Đại Lạt ma niệm thần chú, bắt ấn bắt quyết xong, miệng rống lên một tiếng lớn: "Đuổi quỷ".

Tức thì, bọn cung nữ tay múa chân nhảy xông tới đuổi đánh bọn thái giám giả làm lũ quỷ vừa từ trong các ngõ kẹt xông ra. Bọn quỷ bị đuổi đánh ôm đầu chạy tứ tung, nhảy qua tường, xuyên qua rãnh, luồn hết cung này chui sang điện nọ, chẳng một nơi nào là không băng qua, nhất là những nơi có ma quỷ hiện hồn trước đây.

Bọn thái giám giả làm quỷ chạy như điên, còn bọn cung nữ được đuổi đánh thì miệng cười như nắc nẻ, tay múa những thanh tre như múa gươm giáng thẳng cánh vào đầu mấy tên thái giám đôm đốp. Nhiều tên bị u đầu rát tai, hoặc tay chân rớm máu, chỉ trong nháy mắt quang cảnh đã trở thành hỗn độn tùm lum, y như một đám giặc.

Tây thái hậu, hoàng thượng và hoàng hậu, Cẩn phi hôm đó đều tới đàn chay xem đuổi quỷ bắt ma. Thấy quang cảnh hỗn độn như vậy, nín không được cũng phá lên cười ngặt nghẽo.

Bọn cung nữ đuổi lũ quỷ giả chạy một mạch tới mãi một cái ao nước đã chuẩn bị trước. Tới đây, lũ thái giám giả quỷ co cẳng nhảy ùm hết xuống, lấy hai tay vội vàng rửa mặt cho hết những mực phấn tô lên. Đến lúc này tức là đã coi như đuổi hết quỷ rồi vậy, quỷ nhảy xuống ao theo Long vương Hà bá mất tăm rồi.

Chuyện đuổi quỷ trừ tà nực cười như vậy đấy, thế mà cũng lạ, từ đó về sau quả nhiên được yên ổn, không còn thấy ma quái hiện hồn phá quấy, doạ nạt nữa. Bởi thế việc này dần dần trở thành một tập quán, cứ đến cái mùa ấy là trong cung lại tổ chức một buổi lễ cúng kiếng rồi bắt ma trừ tà ầm ỹ như vừa kể.

Ta hãy quay lại chuyện vua Quang Tự... Từ khi xa giá hồi loan về cung, Tây thái hậu nhìn Quang Tự hoàng đế như một cái đinh trong mắt. Bởi vì Quang Tự, khi dùng Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu để thi hành việc cải cách chế độ cũ của nhà Thanh đã quá mục nát, liền bị Tây thái hậu ngăn chặn, đồng thời bắt gọn cả bọn tân chính chư thần vào trong một mẻ lưới. Đó là cuộc chính biến Mậu Tuất (1898).

Dẹp xong, Tây thái hậu đích thân lâm triều buông rèm nghe chính. Đây là lần thứ ba Tây thái hậu quay lại nắm quyền chính và cũng là lần chót đưa nhà Thanh đến mạt vận, gây nên cuộc cách mạng năm Tân Hợi (1911).

Nhưng không ngờ sau đó, Tây thái hậu tin tưởng vào bọn đại thần gian ngoan như Đoan Vương, Cương Nghị, nhận lầm phải đường lối của bọn Nghĩa hoà đoàn khiến đến nỗi phải trốn chạy khổ sở. Trong cuộc trốn chạy ấy. Tây thái hậu phải tự nhận rằng mình đã chẳng làm gì hơn được Quang Tự hoàng đế nên đã đích thân thi hành tân chính để mong mang lại thái bình. Bởi thế, trong lòng bà, lúc nào cũng nơm nớp bực bội xấu hổ, và nhục nhã. Tất nhiên, tâm trạng ấy kéo dài sẽ đẩy thái hậu đến chỗ nghiệt ngã và hơn thế, thù hận Quang Tự hoàng đế.

Bà hạ lệnh cho bọn nội giám và thị vệ phải nghiêm phòng các cửa vào Doanh đài, nơi Quang Tự hoàng đế ở với người đẹp Cẩn phi. Sự nghiêm phòng gắt gao đến mức Quang Tự không khác chi kẻ bị giam cầm.

Đầu năm Canh Tý (1900), Tây thái hậu đặt đủ biện pháp để cô lập Doanh đài. Ở mặt trái Doanh đài, có một cái cầu, và một số thuyền bè túc trực tại hai bên bờ hồ. Chiếc cầu này xây bằng đá tảng, những lúc cần, có thể rút đoạn giữa cầu lên được để cắt lối đi. Ban ngày người ta buông cầu xuống để đi lại. Nhưng bây giờ, thái hậu đã lệnh rút cầu vĩnh viễn.

Thế là bất luận ngày hay đêm không còn ai có thể tự do ra vào Doanh đài nữa. Mỗi khi, mong ân được triệu bọn phi tần bắt buộc phải dùng thuyền nhỏ mới vào được. Hồi đó, bên cạnh Quang Tự hoàng đế, chỉ có vỏn vẹn Cẩn phi mà thôi. Bởi thế, những lúc đầu hôm sớm mai, bên hoa dưới nguyệt, Quang Tự hoàng đế đôi khi không khỏi thấy trơ trọi, cô đơn, tình thế của ông vua bị giam cầm, phế bỏ. Rồi ngài tưởng nhớ đến Trân phi, người đẹp lý tưởng của ngài mà lòng càng thêm ngao ngán, buồn bã. Bất giác ngài nấc lên thành tiếng.

Cẩn phi thấy vậy cũng chẳng ngăn được lệ sầu tuôn chảy. Hai người ôm nhau khóc lóc thảm thiết, thương mình và thương lẫn cho nhau.

Có một lần, giữa cơn mưa tuyết lạnh thấu xương, tuyết đóng trên đất bặng dầy tới năm thước, Tây thái hậu gọi một tên tiểu thái giám khâu một cái áo bằng da con rái cá rồi đem sang Doanh đài cho Quang Tự hoàng đế. Bà còn dặn thêm tên tiểu thái giám:

- Khi dâng chiếc áo cho hoàng thượng, ngươi tâu với ngài là vải do Lão Phật gia đích thân cho để cắt may vốn là vải bố, còn cúc áo thì bằng vàng. Cứ câu nói đó ngươi nói đi nói lại mãi chừng ba bốn lần, để xem hoàng thượng trả lời ra sao, rồi trở về bảo cho ta hay, nghe chưa?

Tên tiểu thái giám lãnh chỉ, dùng chiếc thuyền nhỏ bơi qua Doanh đài, dâng chiếc áo lên cho Quang Tự hoàng đế. Hắn y theo lời Tây thái hậu dặn, nhắc đi nhắc lại mãi câu nói trên.

Lúc đầu, Quang Tự hoàng đế tuy có nghe đấy nhưng cứ tảng lờ như không. Về sau, thấy tên tiểu thái giám cứ lải nhải mải, ngài không nhẫn nại được nữa, liền nổi khùng lên, quát:

- Ta biết rồi! Y chỉ của Thái hậu là bảo ta sau này chết bất đắc kỳ tử, có thế thôi. Hiện nay cái chết của ta chưa hợp thời Ta còn phải đợi ít lâu nữa chết mới hợp, nghe chưa? Thái hậu có ý mong cho ta chết đi, nhưng ta thấy cái chết của ta chưa có giá trị thì ta chưa chết. Ngươi về tâu với thái hậu đúng như lời ta vừa nói nghe chưa?

Tên tiểu thái giám thấy Quang Tự hoàng đế nổi cơn thịnh nộ, không dám nói năng gì thêm, vội hối hả quay về cung thái hậu. Cẩn phi lúc đó cũng có bên, biến sắc mặt, nói:

- Hoàng thượng nói vậy không sợ thái hậu giận sao?

Quang Tự bất giác nhếch mép cười ruồi đáp:

- Đã đến nước này, ta còn có sợ cái gì nữa chứ? Cùng lắm thì bà lão tàn ác cũng chỉ đối xử với ta như đối xử với bọn Túc Thuận mà thôi.

Cẩn phi nghe Quang Tự hoàng đế nói vậy, vội lấy mắt ra hiệu, nhưng đang lúc căm giận tràn hông, ngài đâu có còn giữ gìn ý tứ gì.

Sở dĩ có điều báo hiệu của Cẩn phi là vì hồi đó đã có con Hương Nhi tới đây để hầu hạ hoàng thượng. Cẩn phi biết đó là người của thái hậu cử đến dò xét. Và đó đâu phải là ả. Là hắn mới chính xác. Bởi hắn chính là Quản Cẩu An. Việc hắn hoá thành Hương Nhi cũng là cả một câu chuyện.

Như ta đã biết, Quản Cẩu An nhờ tên nội giám Lý Lục Lục tiến dẫn đã được thái hậu sung vào Như Ý quán rồi rất được Thái hậu sủng ái và tín cẩn. Ngay trước mặt bọn cung nữ và thái giám, mỗi khi gọi An vào yết kiến, bà đều gọi An là "con trai tao" (ngã nhi), có lúc bà lại gọi An là Hương Nhi.

Bởi thế tất cả cung nhân trong nội đều gọi hắn là Hương bối tử. An cũng có quyền hành khủng khiếp chẳng thua gì Hương vương thuở nọ.

Đắc thế đắc thời như vậy Hương Nhi ra vào nơi cung cấm chẳng còn kiêng kỵ gì cả, lại chuyên làm tai mắt cho Tây thái hậu, do thám bất cứ hành động nào của kẻ khác, đem về mách với bà.

Hương Nhi làm cái việc do thám một cách vô cùng đắc lực nên bất cứ một chuyện gì dù nhỏ nhặt vụn vặt đến đâu, Tây thái hậu đều biết hết, Cẩn phi đã rõ Hương Nhi là ai, làm việc gì nên thấy Quang Tự chẳng giữ gìn ý tứ gì cả, thì hất hoảng lắm.

Một lát sau, quả nhiên những lời Quang Tự nói đến tai Tây thái hậu. Tức khắc bà hạ chỉ cấm tất cả các đại thần không được tới Doanh đài để vấn an hoàng thượng nữa.

Sở dĩ có thêm việc cấm chấp này là vì từ trước tới nay, suốt trong thời gian Quang Tự hoàng đế bị giam cầm tại Doanh đài, bọn đại thần còn có quyền ra vào để vấn an, hoặc là bọn cương thần (bọn quan lại trấn giữ nơi biên cương) được phép vào bệ kiến. Thực ra, Thái hậu đã muốn cấm chấp từ lâu rồi, khi có chuyện Sầm Huyên từ Tây An vào Doanh đài.

Sầm Xuân Huyên chính là người đem quân cần vương phò giá Tây thái hậu chạy trốn lên Tây An. Do đó bà mới tán dương Huyên là người trung nghĩa, và hứa thưởng tứ sau này.

Khi xa giá hồi loan về Bắc Kinh rồi, Tây thái hậu giữ lời hứa thăng ngay Sầm Xuân Huyên lên làm Tổng đốc Tứ Xuyên.

Khi ra đi nhậm chức Huyên có xin vào bệ kiến Quang Tự hoàng đế trong Doanh đài. Quang Tự vừa nhìn thấy Huyên bỗng nước mắt giàn giụa chảy ướt cả đôi gò má. Chính giữa lúc ngài định dốc bầu tâm sự với Huyên thì Quản Cẩu An đột nhiên từ ngoài bước vào. Ngài biến hẳn sắc mặt, không nói nữa.

Sầm Xuân Huyên biết có điều khó nói, bèn thừa cơ thỉnh an rồi lặng lẽ lui ra. Tuy chưa có gì lộ ra nhưng với thái độ khả nghi của Quang Tự hoàng đế cũng như Sầm Xuân Huyên, Quản Cẩu An vốn quỷ quyệt, xảo trá, làm sao mà chẳng nghi ngờ. Tức khắc, An quay về cung tâu với Tây thái hậu. Được tin này, Tây thái hậu thấy cần phải đề phòng gấp, bà tính hạ ngay một đạo chi dụ xuống để cấm chỉ không cho bọn đại thần vào bệ kiến hoàng thượng, nhưng lại thấy có điều bất tiện cho Quản Cẩu An, nên đành phải từ từ đợi thời. Và đến bây giờ, lệnh đã được ban ra.

Doanh đài, thực ra chỉ là cái tên tổng quát của một cái điện gọi là Hàm Nguyên điện mà thôi. Kích thước của Hàm nguyên điện vỏn vẹn có ba gian nhà trệt, mỗi gian rộng chỉ hơn một trượng. Lùi về phía sau, có một cái lầu nhỏ. Đấy là tất cả cái khung cảnh của Doanh đài, được dùng làm nơi giam cầm ông vua chót của nhà Thanh, sau mười mấy đời vua gốc Mãn Châu vào thống trị Trung Quốc.

Có một hôm trời đã về chiều, Quang Tự hoàng đế cùng Cẩn phi ngồi đối diện nhìn nhau mà bồi hồi thổn thức. Không ai nói với ai nhưng cả hai đều nhận biết cái buồn của nhau.

Cuối cùng Quang Tự hoàng đế gượng đứng dậy thả bộ lên lầu Ngài phóng tầm mắt ra xa, đứng bất động như pho tượng.

Bỗng ngài thở dài đánh trượt một tiếng, rồi lững thững nện những bước chân nặng nề trên thang lầu để đi xuống...

Hồi 170

CUỘC PHIÊU LƯU TRONG CUNG CẤM

Nếu đứng ở Hàm Nguyên điện mà nhìn ra trước mặt, ta sẽ thấy điện Ỷ Hương, nơi cư ngụ của hoàng hậu, hoàng hậu tuy cũng có lúc sang điện Hàm Nguyên để chầu hoàng đế, nhưng buồn thay, Quang Tự hoàng đế lại không thích nói chuyện với bà. Nhất là từ khi bị giam cầm ở Doanh đài, Quang Tự chưa từng lần nào qua chơi bên điện Ỷ Hương. Bởi thế, giữa hoàng đế và hoàng hậu, bên ngoài thì có vẻ êm đẹp, nhưng thực ra bên trong lạnh nhạt, không còn tình nghĩa vợ chồng gì nữa. Hoàng hậu lại còn thấy hoàng đế sủng hạnh Cẩn phi, lòng bà thêm ghen tức, giận hờn không lúc nào nguôi...

Hoàng hậu Na Lạp thị vốn là cháu gái ruột của Tây thái hậu. Bà gả cho Quang Tự hoàng đế là có ý nhờ cái dây tình thân thiết ấy để lung lạc hoàng đế, nắm trọn quyền hành chính trị vào trong tay mình. Bởi thế khi chọn hoàng hậu, Tây thái hậu mới bảo Quang Tự cầm ngọc Như Ý trao cho cô cháu gái của bà. Theo tục lệ từ trước, thì mỗi khi hoàng đế sách phòng hậu, người ta phải xếp đặt cho các cô khuê nữ có đủ tư cách làm hoàng hậu, ngồi thành hàng trước điện. Sau đó hoàng đế mới tự mình chọn lựa lấy, hễ yêu ai thì trao ngay ngọc Như Ý cho người đó.

Quang Tự hoàng đế chi muốn chọn Trân phi nhưng phải cái Tây thái hậu đã định trước mọi việc, khiến ngài không thể nào trái lệnh được. Tuy vậy, khi đưa ngọc Như Ý cho hoàng hậu, ngài giả vờ lỡ tay đánh rớt xuống đất, khiến chiếc ngọc quý giá tốt đẹp như vậy mà vỡ tan thành những mảnh vụn.

Tây thái hậu thấy vậy, trong lòng rất không vừa ý. Cho đến sau ngày cưới, Quang Tự hoàng đế lại càng chán ngán bà hoàng hậu bất đắc dĩ này. Tây thái hậu biết Quang Tự hoàng đế sủng ái Trân phi, liền cho lập ngay hai chị em Trân phi và Cẩn phi làm phi tử để mong bắt được ông vua trẻ ham sắc phải phục tùng vì cái ơn trên của bà.

Trớ trêu thay, từ khi ôm được hai người đẹp Trân phi và Cẩn phi trong lòng rồi, thì cái của nợ hoàng hậu kia, Quang Tự hoàng đế càng không thèm để ý tới nữa. Mặt khác, hoàng hậu thấy mình là chánh cung mà không được sủng hạnh, trái lại mấy con phi tử lại được cái vinh dự bên vua, thì làm sao cho khỏi ghen tức. Chỉ còn cách ngày ngày sang cung Tây thái hậu tỷ tê, ỷ eo, khóc lóc cho bà nghe, may ra bà có tìm cho mình lối thoát? Chưa hết, hoàng hậu còn thừa dịp thuận lợi bắt chị em Trân, Cẩn hai phi đánh cho những trận đòn nên thân để trả thù.

Làm như thế, tuy có hả được đôi phần, nhưng hoàng hậu lại càng khiến hoàng thượng chán ghét hơn. Rồi tới cái chết tức tưởi của Trân phi, Quang Tự hoàn toàn đổ lên đầu hoàng hậu, cho bà là thủ phạm. Vì thế hai người tuy cùng ở trong Doanh đài, cách nhau chẳng bao xa, nhưng Quang Tự hoàng đế không bao giờ bén chân đến điện Ỷ Hương của hoàng hậu. Thậm chí còn không thèm nói chuyện với bà. Có một hôm, lòng buồn vô hạn, Quang Tự hoàng đế đứng tựa bên song cửa, lòng bồi hồi. Trong khi buồn bã đó, ngài nhân thấy mặt nước đã dần dần đóng thành băng. Bỗng ngài có ý nghĩ đợi cho băng đóng dày rồi bước lên trên mà băng qua hồ, sang bên kia.

Cẩn phi không chịu, vội khuyên ngăn:

- Băng nổi lềnh bềnh trên mặt nước, dưới không có gì là chắc vững. Giả thử khi bước lên trên, lỡ băng vỡ chẳng nguy hiểm lắm sao?

Nhưng Quang Tự hoàng đế nào có chịu nghe, ngài gọi một tên tiểu thái giám dắt, dò dẫm hết bước này qua bước khác, cứ thẳng trên mặt băng mà vượt sang phía bờ bên kia.

Tảng băng ở gần bờ thì cứng, có thể bước lên trên một cách vững vàng, nhưng càng ra ngoài, nước càng sâu, băng càng mỏng đi. Quang Tự hoàng đế bước tới giữa chừng, mới thấy nguy hiểm. Lúc này, ngài bắt đầu hối tiếc vì không nghe lời Cẩn phi. Ngài tính quay về, thì một chân của tên tiểu thái giám đã lọt hẳn xuống nước, rồi đến cả người cũng sắp sửa xuống luôn.

Tên thái giám ở phía trước mặt thấy vậy vội vàng chèo một chiếc thuyền con lại để vớt. Chỉ có vớt tên tiểu thái giám và đưa được Quang Tự hoàng đế lên được bờ, ấy thế mà cũng mất tiêu cả một buổi.

Trong khi đó, không ai ngờ là hoàng hậu đã nhìn thấy. Đó chính là lúc bà đang chải tóc và trang điểm. Thấy cảnh Quang Tự đi trên băng, bà vội chạy ra trước cửa sổ điện Y Hương nhìn xem. Bà nghĩ:

- Gần đây hoàng thượng bị bệnh thần kinh thác loạn, hành động thường có những điều lầm lẫn. Cẩn phi cũng đã biết chuyện đó, tại sao nàng lại không ngăn cản ngài? Vạn nhất có điều gì nguy hiểm cho ngài, thì đến ta đây cũng không khỏi mang tội.

Nghĩ thế, hoàng hậu liền vội vã trang điểm qua quýt cho xong, lấy một chiếc thuyền nhỏ, bơi qua bờ phía bên kia, chạy vội đi báo với Thái hậu.

Trong khi hoàng hậu đang lon ton chạy tới cung thái hậu, thì Quang Tự hoàng đế đã lên bờ và bảo tên tiểu thái giám chèo ngay thuyền về phía Doanh đài để đón Cẩn phi sang.

Đã qua được bờ bên kia, hai người dắt tay nhau đi dạo chơi một vòng khắp cả mọi nơi. Khi đi qua trước mặt điện Nhân Thọ, Quang Tự hoàng đế không khỏi thở dài nói:

- Ta còn nhớ năm đó, tại nơi đây, ta cùng sư phó ông Đồng Hoà thương nghị việc triều đình, rồi triệu kiến Khang Hữu Vy, nhưng không ngờ cũng tại nơi đây ta lại gặp thêm Viên Thế Khải để rồi ngay sau đó, ta không còn được bước chân tới nơi đây nữa! Nhớ lại quang cảnh hồi đó, ta thấy rõ mồn một, y như còn ở trước mặt. Nếu có khác với hiện tại chăng, chỉ là khác ở chỗ cảnh vật không còn như thuở xưa nữa. Càng nghĩ lại, càng nhớ lại, ta càng thấy thương tâm quá!

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế đặt đôi mắt đau thương của mình vào cặp mắt chẳng kém phần buồn bã của Cẩn phi, để mong tìm lấy cho mình một nguồn an ủi, một ý nghĩ cảm thông trong nỗi khổ của mình.

- Bệ hạ đừng lo! Đó bất quá chỉ là trường hợp con giao long còn bị kẹt trong ao. Nhưng rồi đây, chỉ một sớm gặp được mây mưa, con giao long ấy sẽ bay lên đến tận mây xanh, kẻ nào đó, dù có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cản ngăn được.

Quang Tự hoàng đế nghe Cấn phi nói, sẽ gật đầu tỏ vẻ ưng chịu, nhưng rồi lại thở dài nói tiếp:

- Đời sống được bao, tuổi xuân chóng hết. Kiếp sống của đôi ta thật chẳng bằng cuộc đời của kẻ dân giã tầm thường. Đời sống của họ thật là ung dung thong thả, phu xướng phụ tuỳ chẳng, có gì đau khổ lo âu, khanh có còn nhớ khi bọn ta ở Tây An không? Khanh há chẳng than hôm đó, có một đám nông dân vợ chồng hoà ấm, chồng cày vợ cấy, con cái đầy đàn đó sao? Gia đình họ ai dám nói là không hạnh phúc sung sướng? Bọn ta là đế vương phi hậu, nhưng bằng họ sao được? Phải đến lúc này, ta mới tin được lời nói Tự Tông nhà Minh là đúng: "Đời đời kiếp kiếp, xin đừng sinh vào gia đình đế vương". Đấy! Khanh đã cảm thấy cái nỗi đau lòng của Tự Tông và cũng là cha bọn ta chưa?

Y muốn của Quang Tự hoàng đế và Cẩn phi là đi du ngoạn khắp đó đây cho thoả lòng khao khát tự do bấy nay đã bị nỗi niềm tâm sự bỗng dưng nổi dậy dập tắt, khiến cả hai không còn chút hứng thú nào để đi thêm nữa. Bởi thế, Quang Tự hoàng đế bảo tên tiểu thái giám gọi chiếc thuyền con lại, và quay trở về Doanh đài.

Về đến Doanh đài, bốn bề tuyết phủ sương che, xa trông bát ngát. Quang Tự hoàng đế càng cảm thấy tình cảnh cô đơn đau xót của mình. Ngài truyền cho cung nữ dọn rượu, hầu mong quên đi những nỗi éo le của cuộc đời, những viễn cánh tương lai mà ngài biết không lấy gì làm sáng sủa lắm. Ngài nâng chén, cạn ly, Cẩn phi hầu bên cạnh liên tục rót rượu.

Ly này cạn, ly khác cạn, nhiều ly đã cạn hết, giữa khoảng không gian u tịch vắng vẻ tại Doanh đài.

Giữa lúc ấy, Quang Tự hoàng đế bỗng thấy trên mặt hồ có năm sáu chiếc thuyền con, bên trong ngồi bảy, tám tên nội giám, mỗi tên cầm một cái cuốc sắt, đang gắng sức chèo chống lại Quang Tự hoàng đế nhìn thấy cảnh tượng lạ kỳ này, cất tiếng hỏi Cẩn phi:

- Bọn chúng làm cái trò khỉ gì vậy?

Cẩn phi nghe hỏi, vội chạy ra cửa sổ, nhô đầu ra ngoài lên tiếng hỏi. Tức thì có tiếng trả lời vọng vào:

- Bọn nô tài vâng ý chỉ của Lão Phật gia tới đây cuốc băng ạ.

Cẩn phi nói lại cho Quang Tự hoàng đế nghe. Quang Tự cười nhạt:

- Hừ! Lão Phật gia bảo chúng tới cuốc băng nhất định là do chuyện bọn ta đã đi trên băng hồi nãy. Ta nghĩ rằng trong thiên hạ này, có bữa tiệc nào là chẳng đến lúc tàn? Tội gì mà phải bắt khoan bắt nhặt, ép lên buộc xuống mãi như vậy?

Quang Tự hoàng đế vừa nói với Cẩn phi vừa cất chén liên hồi. Sau khi cạn luôn mấy chén ngài chỉ sang điện Ỷ Hương phía bên kia, nghiến răng, dằn mạnh từng tiếng bảo:

- Câu chuyện này quyết lại do con mụ khốn nạn kia chạy đi ton hót với thái hậu đó thôi!

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế cười bảo Cẩn phi:

- Nếu ta có dịp nắm lại quyền bính, ta quyết bắt cho bằng hết lũ hồ ly láo xược đó.

Cẩn phi vội xua tay nói nhỏ với ngài:

- Vách có tai, bệ hạ có sợ luỵ đến thần thiếp chăng?

Quang Tự hoàng đế nghe câu này lại càng nổi sùng hơn. Ngài cất tiếng nói lớn như quát vào mặt những tên chó săn của Tây thái hậu lẩn quất xung quanh.

- Sợ cái gì? Đứa nào dám tới đây bắt khanh làm nhục khanh? Em gái khanh đã bị chúng giết chết một cách oan uổng rồi. Chúng lại còn muốn tới đây để hãm hại khanh nữa sao? Ví thử nay mai chúng làm chuyện đó, ta sẽ chết cùng khanh. Chẳng lẽ dám giết cả ta?

Càng nói, Quang Tự hoàng đế càng hăng, ngài đã thấm rượu, và rượu đã bốc được cái máu điên của ngài lên rồi. Miệng ngài nói, tay ngài múa, cao đàm khoát luận có bao nhiêu uẩn khúc, lúc này ngài cho ra bằng hết.

Giữa lúc đó, hoàng hậu lại sang tìm Quang Tự hoàng đế. Thật là lửa được đổ thêm dầu, Quang Tự hoàng đế càng lồng lộn lên như hổ dữ. Từ lâu, ngài vốn đã không thèm trò chuyện, đối đáp bất cứ việc gì với hoàng hậu. Mỗi khi bà sang hầu, ngài để mặc bà ngồi đó, ngồi chán thì về. Tình nghĩa vợ chồng coi như không còn chút nào nữa. Nhưng lần này thì khác, khác là vì hôm nay Quang Tự hoàng đế có chén rượu đã ngấm, chất men đã bốc sặc lên. Vừa mới trông thấy hoàng hậu, ngài đã nổi máu hoả, chỉ muốn tát cho bà mấy chiếc. Nhưng ngài lại e lễ tiết, sợ dư luận. Bởi thế, ngài lập tâm hỏi ngắn hạch dài, trong khi hoàng hậu chẳng tiện chống báng, đành chỉ ầm ừ đối đáp vài ba câu cho qua.

Quang Tự hoàng đế hỏi mãi, hạch mãi mà chẳng tìm ra được một chỗ hở nào của hoàng hậu để quở mắng. Ngài đành quay lại gọi Cẩn phi rót rượu thêm rồi mời luôn cả hoàng hậu cùng uống. Đến lúc này, hoàng hậu không vâng theo cũng không được, nên nâng chén cố cạn. Bà miễn cưỡng cạn một chén. Nhưng hết chén này, Quang Tự hoàng đế lại bảo Cẩn phi rót thêm chén khác, ngài không muốn để cho hoàng hậu thôi ngang trong khi ngài đang có tửu hứng. Hoàng hậu vốn không biết uống rượu, đành phải nói lời thoái thác. Quang Tự hoàng đế nhân lúc tửu hứng, đổi sắc mặt, bảo hoàng hậu:

- Tửu lượng của bà kém, không uống được nữa, phải không? Năm nọ, trên tiệc rượu vạn thọ của Thái hậu, bà đã chẳng cạn luôn một hơi trăm chén là gì?

Cẩn phi đứng bên cạnh, thấy Quang Tự hoàng đế mặt đầy giận dữ, biết chắc thế nào cũng có chuyện chẳng lành, vội cất tiếng nói:

- Ngự tửu ban xuống, kẻ cung nhân xin được uống thay!

Quang Tự hoàng đế cười nhạt nói:

- Không! Không được...! Chính mắt ta phải thấy bà ta uống. Ngươi thay để làm gì?

Nói đoạn Quang Tự hoàng đế khỏi nói thêm, cầm cả chén rượu đưa lên môi hoàng hậu, một tay ôm ngang lấy người bà đè ngửa ra, dùng sức đổ đại cả chén rượu vào miệng, buộc phải nuốt xuống ừng ực.

Nào ngờ tửu lượng của hoàng hậu quả có kém thực. Chỉ một chén rượu đó thôi đủ để cho bà thấy đầu choáng mắt hoa, tấm thân không còn tự chủ được mấy nữa. Bà thấy hoàng đế cố ép mình uống nữa, bèn giơ tay cản lại, không ngờ chiếc chén ngọc bị tung lên trên không, rớt xuống sàn gạch vỡ tan tành.

Quang Tự hoàng đế chạm tự ái, ngài nổi giận lôi đình quát lớn:

- Cho ngươi uống rượu, đó là do hảo ý của ta. Tại sao ngươi lại hất chén đi? Ngươi đã không muốn uống thì ta đây phải cho ngươi uống thêm vài chén nữa mới được.

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế lại gọi Cẩn phi rót thêm một chén rượu lớn hơn. Giữa lúc Cẩn phi tiến thoái lưỡng nan, thì bỗng đánh vút một cái, hoàng hậu đã đứng vùng dậy, cất bước chạy ra phía ngoài, chân lảo đảo, đầu lắc lư, chỉ muốn té.

Thấy hoàng hậu như vậy, Quang Tự hoàng đế sợ rằng bà đem chuyện tố cáo với Tây thái hậu, cho rằng ngài cố ý làm nhục bà, ngài cũng chạy theo sát gót, mong níu hoàng hậu lại Nhưng ngài không biết rằng ngài đã quá chén, chân đã mềm ra như bún, không còn thể nào đứng vững được nữa. Ngài vừa đứng lên thì thân hình lắc lư như muốn té ra sau.

Cẩn phi giật mình, vội sấn lại, giơ hai tay ôm ngang lấy lưng ngài, trong khi đó Quang Tự hoàng đế đã đưa tay phải ra quơ được tà áo của hoàng hậu ở phía trước, khiến bà bị trì lại, xuýt nữa cũng té nốt.

Thực ra thì Quang Tự hoàng đế nghi oan điều này cho hoàng hậu, chứ thực lúc đó hoàng hậu vì tửu lượng kém, đầu đã choáng mắt đã hoa, chỉ muốn quay về nằm nghỉ, đâu nghĩ tới chuyện đi đâu. Quang Tự hoàng đế đã hiểu lầm điềm này, khiến xảy ra quang cảnh xô đi đẩy lại, và thân hình hoàng hậu mới nghiêng bên này, ngả bên kia, cuối cùng chúi đầu luôn xuống đất. Bỗng một vật gì óng ánh sáng đẹp từ trên đầu hoàng hậu văng ra. Cẩn phi nhanh mắt nhìn thấy, vội giơ hai tay ra đỡ nhưng không kịp. Một tiếng "đốp" vang lên trên sàn gạch. Vật đó đã vỡ tan.

Hoàng hậu quay lại nhìn thấy, cả kinh vội nói:

- Chết tôi rồi! Bảo vật ngự tứ (nhà vua thưởng) vỡ mất rồi!

Quang Tự hoàng đế nghe nói quay lại nhìn, thấy Cẩn phi đang củi xuống đất lượm chiếc bảo vật nọ. Ngài xem kỹ lại thì ra bảo vật nọ đã bị gãy làm đôi. Lòng ngài bỗng có điều gì sợ hãi dâng lên, mặt dần dần tái đi, báo hiệu một sự gì nguy biến khủng khiếp sắp xảy ra cho ngài và có thể cho nhiều người khác nữa.

Hồi 171

PHẤN ĐỔ HƯƠNG RƠI

Chiếc trâm bằng ngọc thạch của hoàng hậu vốn từ đời Cao Tông truyền lại. Trâm dài chừng bốn tấc trong sáng long lanh không có chút tì vết nào, đúng là một bảo vật. Khi kết hôn, Quang Tự hoàng đế được Tây thái hậu giao cho để trao lại cho hoàng hậu. Cho nên chiếc trâm còn là một bảo vật truyền gia. Nay lỡ không may chiếc trâm rớt gãy, hoàng hậu hoảng hốt, cuống quýt lên, chỉ còn biết rơi lệ chứa chan và kể lể:

- Cành trâm đó vốn là di vật của tổ tông, mà Lão Phật gia đã cho trước đây. Nay hoàng thượng đánh gãy mất, bảo tiện thiếp ăn nói làm sao với Lão Phật gia chứ?

Long Dụ hoàng hậu nói đến đây, khóc nức nở. Cẩn phi biết rằng chuyện này xảy ra to rồi, cho nên nàng một mặt khuyên nhủ hoàng hậu một mặt giúp hoàng đế thu xếp. Hoàng hậu khóc một hồi rồi gạt lệ nói:

- Còn nói gì được bây giờ? Trâm đã gãy rồi! Tội này thì hoàng thượng phải hoàn toàn chịu lấy! Chỉ còn cách đưa nhau lên gặp Lão Phật gia phân xử cho thôi.

Quang Tự hoàng đế lúc đầu có đôi chút hối hận vì đã lỡ tay làm gãy chiếc trâm, nhưng đến khi nghe hoàng hậu nói, kéo nhau lên thưa gửi Tây thái hậu, thì máu hoả lại bốc lên ngùn ngụt. Ngài nổi giận nói lớn:

- Lúc nào cũng chỉ lo có chiếc trâm. Ừ, thì chính ta làm gãy đấy, làm đếch gì thì làm? Cứ hễ mở mồm ra là y như ngươi đem Tây thái hậu ra để cho ta sợ phải không?

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế mắm môi nghiến răng, cất cao chân phải lên rồi dậm mạnh một cái xuống chiếc trâm gãy nằm trên mặt đất và nói tiếp:

- Ngươi đi tố cáo với thái hậu đi, bảo ta cố ý làm gãy đấy! Để xem làm gì ta thì làm.

Trong lúc nói những câu này, Quang Tự hoàng đế tỏ ra vô cùng tức giận. Hoàng hậu thấy hoàng đế nổi giận, cũng không dám nói gì thêm nữa, chỉ đành lau mắt lệ, rồi gọi tên tiểu thái giám lấy đò chở bà sang phía bờ bên kia gặp thái hậu.

Sau khi hoàng hậu đi đã một lúc, Quang Tự hoàng đế vẫn còn chưa nguôi cơn giận. Cẩn phi tìm lời an ủi và khuyên giải:

- Hoàng hậu đi chuyến này, chẳng biết có thêm bớt điều gì nữa không?

Quang Tự hoàng đế vẫn thái độ tức tối như trước nói:

- Mặc thây bọn chúng! Bọn chúng muốn làm gì thì làm, ta đâu có sợ.

Đêm hôm đó yên ổn, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng qua ngày hôm sau, Tây thái hậu cho thái giám đến triệu hoàng đế. Cẩn phi biết ngay chuyện hôm qua đã xảy to rồi. Nàng rỉ tai Quang Tự hoàng đế:

- Thái hậu tuyên triệu hoàng thượng quyết không có chuyện tốt đẹp đâu. Nguyên do chiếc trâm gãy gây ra. Lúc gặp Thái hậu, ngài nên để mặc bà nói, đừng có gây gổ, tranh luận gì như hôm qua, kẻo thái hậu trách mắng, liên luỵ cả đến thần thiếp đó.

Quang Tự hoàng đế gật đầu mấy cái, tỏ ý nghe theo, trong lòng nhớ đến câu chuyện hôm qua mà sợ. Sợ vì hôm nay ngài tỉnh rượu rồi.

Tây thái hậu chờ cho Quang Tự hoàng đế làm lễ xong, lúc đó mới lên tiếng:

- Ngươi là vua của một nước, mà hành vi xem ra không bằng thằng dân. Ngươi say rượu đến nỗi đánh cả hoàng hậu, hung dữ lồng lộn như một con thú dữ. Hành động như thế, phải chăng ngươi tỏ ý chống ta? Ta đem cháu gái ta gả cho ngươi là mong tạo hạnh phúc cho ngươi. Ta không ngờ kết quả đều ngược lại cả. Ví thử hoàng hậu có nhiều điều sai lầm tội lỗi đối với ngươi thì ngươi cứ nói rõ ra, bố cáo cho toàn thể thiên hạ biết, rồi đem phế thẳng đi, hà tất phải làm như vậy? Nếu ngươi không muốn làm như thế, ngươi để ta làm giùm cho. Ta phế ngay hoàng hậu giúp cho ngươi. Ngươi chỉ việc kê khai hết những tội lỗi của vợ ngươi ra đây, đừng có giấu giếm một điều nào là ta giúp cho ngươi hết mọi tức bực ngay.

Quang Tự hoàng đế nghe nói đến đây, vội vàng dập đầu tâu:

- Nhi thần quả không có nói là hoàng hậu có điều sai lầm nào. Hôm qua, chỉ vì quá chén nên say, thành thử xảy ra chuyện chẳng hay đó thôi. Nhi thần xin cải quá từ đây, lần sau không bao giờ dám có những hành động như vậy nữa. Kính xin Lão Phật gia rộng lòng thương mà tha thứ cho nhi thần lần này.

Tây thái hậu cười nhạt bảo:

- Rượu say nên mất khôn ? Quốc gia đại sự mà cũng cứ rượu say mất khôn như vậy thì mấy chốc mà đất nước đi đứt? Ta biết tính ngươi vốn trung hậu quyết không đến nỗi vô lại du côn đến thế. Đây chắc chỉ tại cái con hồ ly chín đuôi nọ nay ton hót mai ton hót cho nên mới có chuyện. Ta phải cho nó một trận biết thân, để sau này hết ton hết hót.

Tây thái hậu nói đoạn, quay đầu lại truyền cho gọi Cẩn phi tới. Chẳng bao lâu, Cẩn phi mặt mũi đầy lệ, theo chân một tên thái giám đến quỳ trước Tây thái hậu. Tây thái hậu quát hỏi:

- Hôm qua, lúc hoàng thượng và hoàng hậu gây lộn, mi có mặt ở đấy không?

Cẩn phi vội cúi thấp mình xuống đến sát mặt đất, tâu:

- Dạ! Tỳ tử có mặt ở ngay bên, và đã cố khuyên giải.

Tây thái hậu nổi giận nói:

- Đã đến đây mà mi còn leo lẻo cái mồm phải không? Nếu mi có khuyên giải thì làm sao lại xảy ra chuyện?

Cẩn phi bị cật vấn, hoảng hồn vội dập đầu tâu:

- Tỳ tử đâu có dám thế!

Tây thái hậu không đợi cho nàng nói thêm, giơ thẳng tay nện xuống mặt bàn đến thình một cái, quát lớn hơn, khiến Cẩn phi giật bắn mình lên, mặt xám ngoét lại:

- Cấm cãi! Con khốn nạn kia! Kéo cổ nó ra đánh bốn mươi gậy cho ta!

Quang Tự hoàng đế thấy nguy quá, vội chạy ra xin cho Cẩn phi:

- Kính xin Lão Phật gia mở rộng lòng thương mà xét cho. Việc này do nhi thần gây ra cả. Mong Lão Phật gia ân từ mà tha cho nàng.

Tây thái hậu nói:

- Hừ! Cứ mỗi lần trách phạt là mỗi lần ngươi năn nỉ cầu xin để che chở cho con khốn nạn. Ấy chính vì thế mà nó càng làm tàng, chẳng những không coi hoàng hậu ra cái gì, mà đến ngay ta đây nó cũng xem thường luôn! Hôm nay ta quyết không thể tha cho nó được. Nội giám đâu? Lãnh chỉ rồi kéo ngay con khốn nạn ra ngoài kia đi cho rảnh mắt ta.

Đáng thương cho Cẩn phi đã đành, nhưng cũng đáng thương cho Quang Tự hoàng đế, không có cách gì cứu được người yêu.

Lòng đau như cắt, hôm qua lại quá chén nên say, Quang Tự hoàng đế có lẽ không còn đủ sức để chống lại với cơn khủng hoảng tâm hồn quá kịch liệt này, cho nên ngài cảm thấy mặt hoa đầu choáng, chỉ chực muốn té.

- Ngươi nên bảo trọng tấm thân một chút mới được, ngươi cần biết là ta chỉ còn như ngọn đèn trước gió đó thôi. Trách nhiệm tương lai, há lại không phải ngươi gánh vác đấy sao? Lâu nay, ta vẫn biết ngươi tự bạo, tự khi quá nhiều, chứ không còn biết giữ gìn cẩn thận như xưa, đó là điều đáng tiếc cho ngươi đó.

Một mặt nói vậy, một mặt Tây thái hậu giả bộ nhỏ mấy giọt nước mắt. Bỗng bà thấy Quang Tự hoàng đế như có gì mắc trong họng, không phun ra được, rồi chỉ trong một phút, oẹ lên một tiếng lớn, khạc ra một bụm máu tươi, bắn thẳng ra trước mặt xa đến vài thước, dây be bét cả lên chiếc áo mới của bà.

Tây thái hậu nhìn kỹ lại, thấy đúng là máu, bà giật nảy mình, lòng vô cùng sợ hãi, vội nói:

- Bệnh ngươi đã quá nặng. Gọi ngay thái y vào chữa trị đi.

Bọn thái giám nghe nói vậy vội ba chân bốn cẳng chạy đi triệu thái y, trong khi Tây thái hậu tựa cho Quang Tự hoàng đế ngủ yên trên giường được một lúc.

Chẳng mấy chốc, thái y xách dao cầu, thuyền thuốc tới. Hành lễ quần thần xong, viên thái y chẩn bệnh cẩn thận một lúc rồi đoán bệnh:

- Bệ hạ nổi giận cho nên nỗi khí xung can, uất hoả bốc lên, khiến máu nghịch hàn sinh thổ huyết. Hơn nữa khí cũng bị tích lại quá lâu, dược lực nhất thời e khó thấy kiến hiệu.

Tây thái hậu nghe lời đoán bệnh của thái y, bất giác thở dài một tiếng, tỏ ý như thoải mái, nhẹ nhõm. Cũng lúc này, bọn nội giám đã đẩy cái xe nằm lại, rồi hè nhau vực Quang Tự hoàng đế lên xe. Tây thái hậu đích thân cầm cái gói đặt xuống phía dưới đầu cho ngài, miệng không quên dặn dò ba, bốn lần là nên tĩnh dưỡng cẩn thận, chớ có liều lĩnh, nhìn ngoài mà xét, thì Tây thái hậu lúc này như tỏ một tình cảm vô cùng thâm hậu với Quang Tự hoàng đế.

Trong trạng thái mơ màng, Quang Tự hoàng đế lại được đưa trở về Doanh đài. Cẩn phi đã đợi từ lâu, mặt mày tự nhiên xám ngoét chứng tỏ nàng đã bị đánh quá đau.

Quang Tự hoàng đế vừa trông thấy Cẩn phi bèn giơ bàn tay xanh gầy lên vẫy vẫy, có ý như bảo nàng hãy lui đi, hoặc đi xa hẳn đi, khỏi phải hầu hạ ngài.

Sau khi đưa Quang Tự hoàng đế về Doanh đài rồi, Tây thái hậu biết bệnh tình của nhà vua đã đến lúc trầm trọng, e khó có thể qua khỏi, mà lấy làm lo. Đã từ lâu, một mình buông rèm nhiếp chính, giải quyết mọi việc trong triều đình, bà cảm thấy Mãn tộc đã có nhiều người đem lòng đố kỵ, còn các thân vương thì không một kẻ nào là không dòm ngó ngôi lớn, thừa dịp có kẽ hở là hành động. Nếu chẳng may Quang Tự hoàng đế có mệnh hệ nào, ắt người trong họ thế nào cũng tranh nhau nhào vô kế vị. Đến lúc đó, một triều thiên tư một triều thần, kẻ khác làm vua tất có kẻ khác nhiếp chính. Nhất đán, đại quyền không còn trong tay, làm sao khỏi có kẻ khác chỉ huy lại bà? Và như vậy, bà đâu có còn cái ngày vinh hoa phú quý oai quyền nhất thiên hạ như bây giờ. Nghĩ đi nghĩ lại, bà càng thấy địa vị của bà lúc này lung lay hết sức, hoàn cảnh của bà vô cùng nguy hiểm. Do đó, bà vội vàng cho lệnh triều quân cơ đại thần Vinh Lộc nhập nội để bàn tính đại sự.

Nhưng cuộc bàn bạc đã kéo dài rất lâu mà vẫn chưa tìm được một giải pháp, Tây thái hậu vì vậy suốt ngày đêm buồn bã âu sầu, mặt không thấy lúc nào vui, nằm liệt trong cung cấm.

Khánh Vương Dịch Khuông thấy Tây thái hậu lo rầu như vậy bèn thừa lúc vắng tâu lên:

- Tây thái hậu, ngày mai là ngày âm thọ kỵ thần của Mục tông Nghị hoàng đế, Lão Phật gia có tính sửa soạn gì không?

Tây thái hậu giật mình quay lại bảo Khánh Vương:

- Ừ nhỉ! Mấy hôm nay bận việc quá khiến ta quên hết cả!

Nói đoạn, bà truyền lệnh cho bọn sư Lạt ma sửa soạn để tụng kinh niệm Phật, siêu sinh tĩnh độ suốt ngày hôm đó, lại cũng sai bọn đại thần cúng tế linh đình một phen. Nhưng chưa hết, Dịch Khuông còn tâu thêm:

- Theo thiển ý của nô tài thì trừ chuyện tế lễ ra, bọn nội giám còn cần phải diễn tuồng hát hội một ngày để cho Lão Phật gia giải phiền mới phải.

Bình sinh Tây thái hậu vốn thích ca nhạc tuồng chèo, bởi thế sau khi nghe Khuông tâu, tuy bà chẳng nói chi, chỉ sẽ gật đầu mấy cái mà Khuông cho là bà đã bằng lòng rồi. Thế là Khuông tự cho mình vinh hạnh lắm, nói mà thái hậu nghe ngay, liền tức tốc chạy vội ra ngoài kêu kép gọi đào, om xòm cả Bắc Kinh lên.

Ngày âm thọ kỵ thần của Mục Tông đã tới. Văn võ bá quan trong triều bỏ áo xanh ra, thay bằng bộ đồ trắng màu tang lũ lượt tiến về nhà Thái miếu để cúng tế. Từng hàng một, họ bước vào trong miếu xì xụp lạy, ra vẻ tôn kính nghiêm trang lắm. Lễ xong họ lũ lượt kéo về ngả Di Hoà viên để vào cung lạy Tây thái hậu.

Tây thái hậu truyền lệnh cho cả bọn lưu lại trong điện Đại Viện, rồi đặt tiệc chay thưởng tứ ân điển cho họ. Tiệc tùng xong, đến hát xướng. Khốn nỗi là sau vụ Canh Tý nọ, bọn đào kép cung phụng trong nội đình đã tứ tán đi hết, chỉ còn lại duy có mỗi anh kép già tên Tôn Cúc Tiên. Muốn để cho Tây thái hậu đẹp lòng, biết cho cái công trâu ngựa của mình, dù chỉ la cái công đi tìm mấy thằng kép và mấy con đào hát, Dịch Khuông vội chạy ra ngoài gọi cho bằng được một tên xướng võ sinh tên gọi là Liễu Tiểu Các.

Liễu Tiểu Các vốn là con trai của Liễu Nguyệt Các. Bố hắn cũng vốn là một võ sinh xuất thân, hắn cừ cả về lối diễn tuồng thần quái, cho nên mới có cái biệt danh là Tiểu hầu tử.

Liễu Tiểu Các được thày nghề là Dư Lão Mao bí truyền cho nhiều thuật vừa khéo vừa tài, cho nên khi diễn tuồng, Tiểu Các xem ra xuất sắc hơn cha nhiều. Nhờ đó, trong kinh thành Bắc Kinh, Tiểu Các cũng có đôi chút tên tuổi.

Hôm đó, Liễu Tiểu Các diễn ba tuồng: Thuỷ Liêm động, Kim tiền báo, Ba tiêu phiến, do chính Tây thái hậu chọn. Tiểu Các đem hết tài nghệ để cố sao được Tây thái hậu khen thưởng.

Quả nhiên hắn đã không biết để đâu cho hết lời khen của thái hậu.

Tuồng diễn xong, Tây thái hậu cho triệu Liêu Tiểu Các vào cung, hỏi tên họ, tuổi tác đủ thứ. Các nhất nhất đều trả lời rành mạch. Tây thái hậu rất lấy làm vừa lòng, bèn hạ lệnh cho Nội vụ phủ thưởng cho Các ba trăm quan tiền.

Liễu Tiểu Các lĩnh thưởng, tạ ơn, lui ra. Bọn con hát cùng gánh, kẻ nào cũng ca tụng Các, tâng bốc Các. Từ đó về sau, cứ hễ cung nội cần hát xướng, thế nào cũng phải có hắn. Và hắn còn được ra vào tự do trong cung cấm.

Có một hôm, Liễu Tiểu Các vào cung diễn tuồng, đem theo đứa con gái nhỏ tên là Tiểu Nguyệt. Diễn hát xong, Tây thái hậu thưởng cho hai cha con Liễu Tiểu Các nào vải, nào lụa.

Tiểu Các đem con gái vào trước Tây thái hậu để tạ ơn. Thấy Tiểu Nguyệt vừa xinh xẻo, mặt đầy đặn như trăng tròn, da thịt mịn màng như trứng gà bóc, lại vừa hoạt bát đáng yêu, Tây thái hậu bèn chỉ hỏi.

- Chứ con cái nhà ai vậy?

Liễu Tiểu Các dập đầu tâu:

- Nó vốn là con gái của nô tài.

Tây thái hậu hỏi thêm:

- Năm nay nó mấy tuổi? Nếu tiện, ngươi hãy để nó ở lại đây với ta cho vui. Mai ngươi bảo vợ ngươi tới đây đem nó về nhé!

Liễu Tiểu Các dạ dạ luôn mồm, rồi lạy tạ lui ra, và khi về nhà, chuẩn bị mọi chuyện để cho vợ tên gọi Nguyệt Hương ngày mai vào tiến cung gặp Thái hậu.

Bé Tiểu Nguyệt ở lại bên cạnh Tây thái hậu, mặc dù mới năm tuổi, nhưng rất khôn khéo, đặc biệt nhất là biết chiều người trong những lúc vui buồn, giận tức. Bởi thế, được Tây thái hậu hết lòng yêu.

Qua ngày hôm sau, Liễu Tiểu Các sửa soạn cho vợ vào cung để gặp Thái hậu.

Tây thái hậu thấy Nguyệt Hương tuy chỉ là một người đàn bà hạ lưu, nhưng diện mạo xinh xắn, nói năng dịu dàng, cử chỉ đoan trang, lễ phép bèn bảo Liễu Tiểu Các:

- Hiện nay trong cung cấm đang cần một người đàn bà hầu hạ. Vợ ngươi rất vừa ý ta. Ngươi hãy tạm thời để nàng ở lại đây ít lâu rồi hãy về nhà!

Liễu Tiểu Các vốn người ranh mãnh khôn ngoan, thấy Tây thái hậu nói vậy, mừng quýnh trong lòng, vì đó là điều cầu mong lâu nay mà chưa được.

Các vội vàng quỳ xuống tạ ơn.

Tây thái hậu bèn truyền nội giám đem ban thưởng cho Các nào tơ lụa, nào là đồ chơi, đồ cổ đủ thứ. Còn vợ con của Các cũng từ đó được lưu lại bên cạnh bà để hầu hạ. Tây thái hậu còn cho bé Tiểu Nguyệt một chiếc kiềng vàng, một đôi xuyến cũng bằng vàng.

Các loại kiềng vàng này nặng đến bốn lạng, nội vụ phủ làm sẵn để vào dịp lễ vạn thọ, dâng Tây thái hậu bán thưởng cho các nàng cách cách. Ấy thế mà mẹ con thằng kép hát ngày nay cũng được ân thưởng vật đó, há chẳng phải là một điều kỳ lạ đặc biệt đó sao?

Hồi 172

CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TRUNG HOA

Lại nói nhà Thanh trải qua loạn Quyền phỉ, rồi Bát quốc Liên quân dày xéo Bắc Kinh, thêm vào đấy những bồi khoản về chiến phí, từ đó về sau xem ra nhụt hẳn nhuệ khí, mất hãn bộ mặt kiêu bạc như trước. Nhưng ở đời, phần nhiều cứ đến hồi đốn mạt, thì việc trước chưa qua, việc sau đã tiếp.

Thực tế, những miền như Hà Nam, Quảng Đông, các đảng cách mạng đang nổi lên như nấm chống lại nhà Thanh. Những đảng cách mạng đó có từ đâu vậy? Ngay từ khi Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu cùng vua Thanh thi hành tân chính thì những đảng này đã được phát động rồi.

Tại Quảng Đông, hồi đó có một tổ chức gọi là Hưng Trung hội, vị thủ lĩnh tên là Tôn Văn, tự là Dật Tiên. Văn người huyện Hương Sơn, tỉnh Quảng Đông, tất nghiệp trường Trung Tây Y học hiệu. Văn cũng đã từng là giáo sĩ đạo Thiên Chúa.

Như thế Văn vừa là y sĩ vừa là giáo sĩ. Về sau, Văn chuyên dùng nghề thuốc Tây chữa bệnh, đến đâu Văn cũng tuyên truyền cách mạng. Người tin theo Văn hồi đó đông lắm. Ấy cũng vì vậy nên triều đình nhà Thanh mới được mật báo, và từ đó theo dõi hành động của Văn.

Tổ chức thành Trung Hưng hội, Tôn Văn thấy hội viên của hội mình càng ngày càng đông. Bọn mật thám nhà Thanh ở Quảng Đông cũng được lệnh theo dõi Văn, và cuối cùng bắt Văn, bảo Văn kết hội lập đảng, giải tới nha môn của Tổng đốc Lưỡng Quảng.

Tổng đốc Lưỡng Quảng lúc đó là Lý Hông Chương. Chương thấy Văn ăn nói hoạt bát, biện luận khéo léo, nhìn người lại ra vẻ phẩm cách xuất chứng, tự nhiên phát sinh lòng mến.

Chương tự nghĩ một nhân tài như vậy, Trung Quốc đâu phải dễ có, hơn nữa bảo rằng Văn mưu phản chống lại triều đình thì chứng cứ chẳng có để kết tội. Thế là Chương thừa lúc công chuyện chưa đâu vào đâu liền phóng thích để Văn chạy thẳng một mạch, mất hút.

Sau khi thoát ngục, Tôn Văn tuyên truyền cách mạng càng hăng. Thêm một chuyện nữa là Lý Hồng Chương chẳng bao lâu lại được lệnh điều động về kinh để đứng ra nghị hoà với nước Đức, viên Tổng đốc kế nhiệm là Đàm Chung Lân. Nhân thấy Tổng đốc mới đáo nhiệm chưa am tường mọi việc, Tôn Văn bèn mưu việc khởi sự với bọn Trịnh Bật Thần, Lục Hạo Đông, Hoàng Bân Lệ, Chu Hạo Thanh, tính cướp chính quyền tỉnh Quảng Đông trước. Văn lại đánh điện cho bọn Đường Tài Thường ở Hồ Nam đợi tới giờ quyết định thì hưởng ứng.

Nhưng không ngờ chuyện bại lộ, Tổng đốc Lưỡng Quảng Đàm Chung Lân biết được mưu cơ của bọn Văn, đặt kế hoạch bắt trọn ổ bọn Lục Hạo Đông, đem ra pháp trường chém đầu ngay tức khắc.

Chuyện hỏng rồi, Tôn Văn hết thế đứng ở đây, nên chỉ còn cách tìm đường chạy sang Nhật Bản, nếu không thì rồi cũng bị thanh trừng như Lục Hạo Đông.

Đảng cách mạng đâu có chịu thua, đảng viên của Trung Hưng hội là Sử Kiên Như lập tức xách một trái tạc đạn ném vào giữa nha thự của Tổng đốc Lưỡng Quảng để báo thù và gây tiếng vang. Thực thế, tiếng vang cách mạng sau trái tạc đạn này càng ngày càng lan rộng đến khủng khiếp trong nội địa Trung Hoa, khiến nhưng người yêu nước lâu nay trùm chăn đều thức tỉnh.

Triều đình nhà Thanh lúc này đã biết rõ Tôn Văn là thủ lĩnh đảng cách mạng. Bởi thế, chuyện ném tạc đạn của Sử Kiên Như đều bị bọn vua nhà Thanh đổ lên đầu Văn. Biết Văn đã trốn ra hải ngoại, Thanh triều tức tốc đánh công điện cho công sứ Trung Quốc tại các nước ngoài, lưu ý lùng bắt.

Văn trốn sang Nhật Bản, Thanh triều biết được, liền chiếu hội Nhật Bản bắt giùm. Nhưng may cho Văn là khi ở Hoành Tân, Văn có quen một người Nhật tên là Cung Kỳ Dần Tàng, được ông này cho biết nếu không sớm chạy thì thế nào cũng bị bắt, chi bằng chạy sang Anh Quốc là hơn. Tôn Văn hoảng hốt tính cách chuồn khỏi Nhật Bản, nhưng khổ là tiền nong không có một đồng một cắc. Trong tình cảnh này, Văn nhận thấy có hoạt động cũng chẳng được, hơn nữa còn nguy đến tính mạng. Cung Kỳ Dần Tàng bèn giúp cho Văn mấy trăm bạc làm lộ phí để Văn lên đường sang Tây phương.

Tôn Văn miễn cưỡng ra đi, lên tàu thuỷ vượt Thái Bình Dương, thẳng nẻo Anh Quốc tiến phát. Ít lâu sau, Văn đã có mặt tại Luân Đôn, thủ đô sầm uất của Anh Quốc. Văn vội vàng tìm tới nhà y sĩ Kinh Lập Đức, nói rõ cho Đức biết lý do lưu vong của mình.

Tôn Văn và Kinh Lập Đức là hai bạn cũ quen nhau từ trước. Thấy tình cảnh Văn như vậy Đức liền dặn Văn phải cẩn thận:

- Thanh triều gửi điện đi khắp nơi truy nã ngươi rất gắt. Hiện nay, tại Anh Quốc, cũng có Trung Quốc sứ quán. Có thể bọn công sứ Trung Quốc tại đây đã nhận được lệnh của Thanh triều. Bởi thê, hễ khi nào ngươi muốn đi ra ngoài phố, nên báo cho ta biết một lời để ta sai người theo hộ vệ cho.

Tôn Văn gật đầu đồng ý, để tỏ lòng chiều theo ý kiến của Kinh Lập Đức đó thôi, chứ thực bụng Văn vẫn nghĩ rằng đâu có chuyện động trời đó. Văn cho rằng mình đã chạy ra hải ngoại, nhất là mãi Anh Quốc xa xôi này, dù Thanh triều có tìm cách truy lùng gắt gao đến đâu chăng nữa cũng chẳng thể biết được mà bắt. Lý luận kiểu đó, Tôn Văn bất cần những lời khuyên của Đức, đi ra ngoài, chẳng thèm báo cho Đức, cứ ngang nhiên xông xáo khắp nơi. Đã thế, Văn còn hay lảng vảng vào những nơi lưu trú học sinh Trung Quốc ở Anh, chẳng coi bọn công sứ Trung Quốc ra gì cả.

Thế rồi bỗng một hôm, có một người đồng hương tỉnh Quảng Đông tới mời Văn đi chơi. Văn chẳng nghi ngờ gì, liền đóng bộ vào đi ngay. Người đồng hương nọ dẫn Văn đi loanh quanh mấy phố, đến một toà nhà, mời Văn bước lên lầu. Khi lên tới trên lầu, quay lại nhìn không thấy người đồng hương nọ đâu, lúc đó Văn chột dạ đâm nghi. Văn vội đẩy cánh cửa sổ bên hông lầu, nhìn xuống dưới, bất giác hoảng hồn bạt vía, tóc gáy tự dưng dựng ngược cả lên.

Thì ra Tôn Văn nhìn thấy một cây Long kỳ (cờ có thêu con rồng biểu hiện cho Trung Quốc) đột nhiên kéo cao trên ngọn cột cờ, tung bay phấp phới trước gió. Văn vội quay vào trong, lớn tiếng gọi mấy tiếng; tức thì phía trong có một người đầy tớ chạy ra, trạc tuổi trung niên, vừa cười vừa hỏi chuyện gì Tôn Văn cất tiếng hỏi:

- Đây là nơi nào? Tại sao mời ta đến, lại giam cầm ta nơi đây như vậy?

Người đầy tớ nọ mỉm cười nói:

- Ngài tới đây đã một lúc rồi mà vẫn chưa biết gì sao? Nơi đây chính là tư gia của Củng công sứ Trung Quốc đấy. Sở dĩ có chuyện mời ngài tới đây là vì hoàng đế nhà Thanh muốn tìm ngài về nước để làm quan. Điện văn gửi tới tri chiếu cho ngài công sứ hiện có đây.

Nghe tên đầy tớ nói xong, Tôn Văn biết mình đã tự đưa cổ vào thòng lọng, tra chân vào cùm rồi, có lắp cánh vào lúc này cũng khó mà thoát nổi. Văn mặt tái xanh đi, bụng rối như tơ vò, suy đi nghĩ lại mãi mà vẫn không tìm ra một kế nào thoát thân. Văn nghĩ rằng chỉ còn có mỗi một cách gửi thư cho Kinh Lập Đức để nhờ Đức lập kế cứu mình, nhưng ai đem thư đi mới được chứ? Nghĩ quanh tính quẩn mãi một lúc, Văn đành quay về với anh chàng đầy tớ cất tiếng nói khó:

- Đã vào đây rồi, ta cũng chẳng tính đến chuyện ra làm gì Song ta có một người bạn, rất cần cho y biết tin ta. Vậy ngươi có vui lòng đi giúp ta đưa một bức thư không?

Lúc đầu, anh chàng đầy tớ nọ không chịu đi, nhưng sau nhiều lời ngon ngọt khéo léo của Văn, anh chàng nọ mới gật đầu ưng thuận, Văn được lời mừng quýnh lấy bút giấy viết vội mấy câu đưa cho anh đầy tớ nọ dặn đưa tới cho Kinh Lập Đức.

Tay cầm bức thư đưa cho anh chàng nọ, nhưng bụng vẫn sợ nửa đường hắn thay lòng đổi dạ, Văn bèn đem cái thuyết cứu người của Gia tô giáo ra thuyết cho anh chàng đầy tớ người Gia tô nọ nghe, mãi một lúc mới yên tâm để cho anh nọ ra đi.

Thực ra, Tôn Văn muốn làm yên lòng anh chàng đầy tớ nọ không phải chỉ có cái thuyết cứu người lúc cấp nạn của Gia tô giáo mà được. Văn còn phải cam kết một câu thật chắc, "Ngươi cứ can đảm mà đi. Nếu có xảy ra chuyện gì, ta sẽ nhờ người Anh can thiệp, khỏi phải lo tí nào".

Anh chàng đầy tớ nọ nghe được lời nói quyết này, lại thấy Văn không phải là một kẻ tầm thường, trong lòng cũng thấy tin tưởng sẽ không xảy ra việc gì liên luỵ đến y, bởi thế mới hăng hái ra đi cho Văn. Anh chàng giấu bức thư nguệch ngoạc mấy dòng của Văn vào trong túi áo rồi te te lên đường tới gặp y sĩ Kinh Lập Đức. Đức mở thư ra xem, hiểu rõ sự thật, giật mình hậm hực nói:

- Chết rồi! Mình đã dặn hắn rồi mà hắn văn không nghe. Thế là hắn đã tự đút cổ vào thòng lọng.

Kinh Lập Đức một mặt cho anh chàng đầy tớ nọ ra về, mặt khác chạy tới xúi anh chàng ký giả một tờ báo Anh đăng tải và chỉ trích tùm lum việc viên đại sứ Trung quốc ngang nhiên bắt người giữa nước Anh, không coi chính quyền Anh ra cái quái gì cả.

Chính phủ Anh được tin này, đời nào chịu bỏ qua, để cho người Tàu ngang tàng coi khinh luật pháp của nước mình. vội thảo ngay công văn chiếu hội sang cho sứ quán Trung Quốc, nói trắng rằng sứ quán Trung Quốc bắt người giữa nước Anh như thế làm tốn thương pháp quyền của nước Anh. Đã thế, chính phủ Anh còn giải thích thêm về Quốc tế công pháp và quyết rằng không một nước nào hiểu luật pháp mà lại đi làm việc vô luật pháp như vậy...

Sứ quán Trung Quốc thấy ngoại nhân đã can thiệp vào nội vụ, tự nhiên đâm ra ngán, chẳng dại gì mà trái luật, chỉ có nước thả Tôn Văn rồi ra nghiêng mình trước chính phủ Anh mà phân trần với những lời lẽ hết sức khiêm nhường lễ độ. Thế là công việc xong. Tôn Văn thoát được một tai nạn chết người.

Văn thoát thân rồi, tự lấy làm hối không theo lời bạn mình, mặt khác cũng không còn gan mật nào ở lại Anh Quốc. Ngay đêm hôm đó, Văn vội vàng cuốn gói khỏi nước Anh, lại quay về Nhật Bản, tìm một số đồng chí kỳ cựu hiện lấn trốn tại đây để bàn mưu tính kế hoạt động cách mạng.

Trong khi Tôn Văn thất bại bỏ trốn khỏi Trung Quốc, nhưng vẫn đeo theo sự nghiệp cách mạng, thì ở Quảng Đông, hội viên Dương Thiếu Bạch cùng một số đồng chí khác cũng nhất định không rời bỏ cái sự nghiệp của mình. Nhưng họ án binh bất động để chờ thời.

Đám cách mạng Quảng Đông thì chờ thời, nhưng những người ở Hồ Nam là nhóm Lý Tiếp Hoà, lại không chịu ngồi im. Họ cứ hoạt động, gây rất nhiều tổn thất cho Mãn Thanh, khiến tuần phủ Hồ Nam phải sai mật thám giăng lượn khắp nơi để lùng bắt.

Lý Tiếp Hoà thấy cơ nguy sắp tới, biết không tiếp tục hoạt động được nữa, vội chạy sang Mỹ.

Tôn Văn ở Nhật Bản được tin Trung Hưng hội của mình vẫn không bị tiêu diệt, bèn in một số lớn truyền đơn gửi về nước, tuyên truyền cách mạng, chiêu dụ thêm những thanh niên ưu tú vào hội.

Tin tức này truyền tới Bắc Kinh, bọn ngự sử người Mãn bèn dâng sớ tâu thái hậu, trong bản sớ có kèm theo cả tờ truyền đơn của Tôn Văn.

Tây thái hậu đọc một lượt bản sớ tâu lên, nhận thấy tờ truyền đơn của Tôn Văn, câu nào câu nấy đều nói về chính trị của nhà Thanh: nào là nội chính hủ bại, nào là dành riêng đại quyền cho người Mãn, nào là coi người Hán như nô lệ v.v... Những lời trình bày bên trong thật vô cùng thống thiết lâm ly. Hơn nữa tơ truyền đơn còn nêu rõ hết những tệ đoan, đập trúng vào tâm khảm của Tây thái hậu.

Tây thái hậu xem xong, suy nghĩ một chập, bất giác cả cười bảo bọn đại thần:

- Tên này hoạt động cách mạng lâu nay nhiều kẻ đã bị hắn mê hoặc tưởng chẳng phải là kẻ không tài. Đáng tiếc là hắn không chịu quy chính. Rồi đây mọi việc ngửa nghiêng cũng không ngoài con người này.

Lời nói này của Tây thái hậu tuy nhẹ nhàng, kín đáo nhưng xem ra cũng rất hợp với ý kiến chung của đám đại thần, ngự sử. Và cả bọn cũng đều coi đó như một ý chỉ của Thái hậu muốn đem ra thi hành.

Thế là qua ngày hôm sau, cả bọn dâng ngay lên Tay thái hậu một tờ sớ xin cho chiêu dụ Tôn Văn trở về với triều đình. Tây thái hậu đọc xong tờ sớ, không nói gì nhưng miệng lại cười ruồi làm cho bọn đại thần ngơ ngác không hiểu ra sao cả!

Thời giờ thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy chốc mà cuộc đời đã tàn tạ. Thực thế, Vinh Lộc, viên đại thần cháu ngoại cưng nhất của Tây thái hậu đã chết. Bà được tin, triệu tập bọn đại thần lại để tìm cho Lộc một cái thuỵ hiệu, cả bọn nghĩ mãi mới ra được bốn chữ: "Khác cương chính trung" rồi trình lên. Tây thái hậu bèn cầm ngay châu bút khoanh tròn lấy chữ "Trung" ở dưới chót, do đó, thuỵ hiệu của Lộc là hai chữ "Văn Trung"...

Sau cái chết của Vinh Lộc, người ta lại thấy các chức vụ trong triều thay đổi suốt lượt. Lưỡng Hổ tổng đốc Trương Chi Động được điều về làm Thự Quân cơ đại thần, Na Đồng là Hiệp biện đại học sĩ. Ngoài ra, còn xuống chiếu cấm tục bó chân, thực hành việc thông hôn giữa hai dân tộc Mãn Hán (trai gái Mãn và Hán đều được phép lấy nhau).

Trong triều đình tuy có những cuộc tranh cãi như vậy, nhưng bên ngoài, bảy tỉnh an duy, bỗng sinh ra cuộc binh biến.

Hùng Thành Cơ hiệu triệu Dân đảng gây phong trào, dựng cờ khởi nghĩa, nhưng cuối cùng bị tiêu diệt. Binh biến vừa êm thì cuộc cách mạng phát sinh vào trung tuần tháng năm năm đó, đạo viên hậu bổ là Từ Tích Lân phát động phong trào cách mạng. Lân vốn là một học sinh tại Nhật Bản, tuổi chưa đầy ba chục, nhưng thường ôm chí lớn, tư tưởng lúc nào cũng đầy ắp lý thuyết cách mạng dân tộc. Thấy triều đình Mãn Thanh thối nát, bọn Tây phương bên ngoài xâm lăng, láo lếu khinh miệt dòng tộc Hán, Lân quyết chí xô đổ triều đình Mãn Thanh để tổ chức thành một quốc gia theo thể chế Cộng hoà. Có chủ trương như vậy, Lân kết giao một số các đồng chí khi còn ở Trường Kỳ (một hòn đảo lớn tại Nhật) sau đó quay về Trung Quốc tuyên truyền cách mạng.

Triều đình Mãn Thanh nhận thấy cách mạng hoạt động thường nổ ra đó đây gây nhiều vụ náo loạn, bèn ra lệnh truy nã các đảng viên cách mạng gắt gao.

Từ Tích Lân thấy mình là một anh lưu học sinh, nhất cử nhất động đều bị bọn quan lại địa phương theo dõi, tự biết mình rơi vào thế bất lực trong việc hoạch định kế sách. Bởi thế Lân nhận ra rằng phi nhảy vào trong chính giới quyết không thể hoạt động gì được. Hơn nữa, lúc này Lân hai tay trắng thì thử hỏi làm ăn gì được. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nạn ấy, Lân may thay gặp được một nữ hiệp tên gọi Thu Cẩn.

Thu Cẩn và Tích Lân vừa giao đàm, tức thì hợp ý tâm đầu ngay. Thế là Thu Cẩn bỏ tiền ra giúp Tích Lân hoạt động.

Thu Cẩn vốn là một người đẹp nổi tiếng đương thời, lại là con gái trong một gia đình khá giả, đã từng tốt nghiệp tại đại học đường. Sau khi tốt nghiệp, nàng còn đi du lịch khắp Anh, Mỹ, Nhật Bản. Vừa có tài năng vừa có tư tưởng cách mạng, nàng được rất nhiều người tôn trọng. Cũng nhờ có ưu điểm này nàng thường giao du với bọn quan trường hiện đại, đấy chính là một con đường rất thuận lợi, khả dĩ giúp Từ Tích Lân hoạt động được.

Sau khi hai người đã tính toán trù liệu, Từ Tích Lân bèn mua lấy một chức đạo viên, để tiện việc hoạt động chính trị cách mạng, còn Thu Cẩn thì trở về quê nàng tức Thiệu Hưng, để tổ chức một trường học gọi là Đại thông học đường, mong quảng bá được tư tưởng cách mạng của mình.

Từ Tích Lân từ khi quyên được chức vị đạo viên, liền dốc hết tâm, mưu sự trong giới quan trường. Lân xoay sở nhập vào được cửa của viên quan phủ đài An Thuỷ tên là Ân Minh.

Chỉ cần thảo luận có một hôm thôi, Lân đã được Ân Minh công nhận là một nhân tài của đất nước. Thế là Lân được trọng dụng. Ít lâu sau, Lân được Ân Minh cho bổ sung vào chức vị uỷ viên luyện quân.

Cái mộng của Lân là làm sao nắm được binh quyền vì phải có binh quyền thì mới cách mạng được. Nay Lân đã có đủ thứ cần thiết trong tay, chỉ còn dần dần tìm cơ hội thuận lợi cho công cuộc nổi dậy của mình mà thôi. Một mặt luyện binh, Lân một mặt ước hội với các đồng chí ở Thiên Tân để thừa cơ khởi sự. Ở Thiệu Hưng, Thu Cẩn cũng tích cực chuẩn bị để hưởng ứng phong trào.

Không ngờ trời chẳng chiều người. Số là trước ngày khởi sự một hôm, một đảng viên tại Thiên Tân để cơ sự bại lộ, khiến bị bắt. Tin tức này tuy xảy ra, nhưng bị bịt kín, khiến Từ Tích Lân cũng chẳng hay biết một tí gì. Cho nên đúng ngày phủ đài An Thuỷ Ân Minh duyệt binh, Lân đã mật ước với đồng chí thừa dịp ám sát xong rồi khởi sự luôn.

Giữa lúc gieo neo nhất của sự kiện, tin tức bỗng đồn rầm lên là tại An Huy có cách mạng khởi nghĩa, bọn đồng đảng bị bắt tại Thiên Tân rồi. Viên tri phủ được tin ấy, vội hạ lệnh lùng bắt Từ Tích Lân, trong khi Từ Tích Lân lại đang đi tới gặp phủ đài Ân Minh.

Từ Tích Lân nghe tin đồn xôn xao phía ngoài dinh, cũng như phủ đài Ân Minh, cả hai đều không hiểu đấu đuôi ra sao. Viên phủ đài vội hỏi tin tức bên ngoài.

Từ Tích Lân lúc này biết cơ mưu đã bại lộ, chĩa ngay súng vào Ân Minh nã luôn hai phát, nhưng Ân Minh chưa chết ngay miệng vẫn còn hô lên được mấy tiếng:

- Bắt thích khách! Bắt thích khách!

Được báo động và nhất là nghe mấy tiếng "Bắt thích khách!" các quan văn võ trong nha môn nhất tề ùa ra và cổng phủ được đóng kín lại. Từ Tích Lân dù có cánh cũng khó lòng bay thoát được. Thế là chi trong mấy phút, Lân đã bị bắt.

Bọn nha lại hè nhau kéo đi bắt tiếp bọn học sinh quân. Đáng thương thay cho bọn này, ít không thể địch được nhiều, đến gần một nửa bị chết dưới làn đạn của quan binh.

Diệt xong đám học sinh quân, bọn nha phủ đem Từ Tích Lân ra thẩm vấn, Lân chẳng thèm chối cãi, nhận tất cả. Một vài kẻ còn đề nghị đem Lân ra mổ bụng lấy gan phổi để tế Ân Minh nữa. Chưa hết, còn có kẻ lục lọi hết những thư từ giấy má của Lân để tra xét; lúc đó, lại lòi thêm ra cái điện văn ước kỳ cử sự gởi cho Thu Cẩn. Tức tốc, họ đánh điện ngay cho viên tri phủ Thiệu Hưng, hạ lệnh bí mật lùng bắt Thu Cẩn, đem chính pháp để thị chúng.

Lại nói Thu Cẩn ở Thiệu Hưng mỏi mắt trông chờ hành động của An Huy, nhưng chẳng thấy tin tức gì. Giữa lúc nghi ngờ lo lắng ấy, Thu Cẩn bỗng nghe đồn. An Huy cách mạng bị thất bại. Tin đồn mỗi lúc một nhiều, nàng biết việc không thành rồi, tính tìm cách chạy trốn. Nhưng chưa kịp thoát ra ngoài thì bọn quan binh An Huy đã kéo đến vây khắp Đại thông học đường. Thấy không có cách nào trốn thoát Thu Cẩn đành thúc thủ chịu trói.

Điểm đặc biệt là tuy bị bắt, Thu Cẩn vẫn thản nhiên như không, chẳng có chút nào sợ hãi. Sở dĩ có thái độ thản nhiên đó, chỉ là do nàng tin tưởng ở viên tri phủ Thiệu Hưng vốn là nghĩa phụ của nàng. Nàng tin rằng thế nào rồi đây nàng cũng sẽ được nghĩa phụ nàng tìm cách cứu thoát.

Nhưng Thu Cẩn đâu có ngờ được rằng thế lợi thường làm mờ hết tình người.

Viên tri phủ Thiệu Hưng vỗ bàn đánh thình một cái, quát lớn:

- Thu Cẩn! Mi kết bè kết đảng, móc nối với bọn phản loạn như thế nào, khai thực hết ra đây, để bản phủ khỏi phải dùng hình.

Thu Cẩn đột nhiên thấy viên tri phủ trở mặt, bèn lớn tiếng kêu lên:

- Nghĩa phụ! Nghĩa phụ mà cũng ném đá xuống giếng nữa sao?

Viên tri phủ thấy Thu Cẩn nói vậy cũng giật mình, sợ mình liên luỵ vào nội vụ, liền lấy tay áo che mặt, miễn cưỡng nói:

- Tội mi đã rõ ràng, đừng che chống nữa!

Nói đoạn, viên tri phủ liền hét lớn, sai quân thẳng tay một hơi đánh bốn mươi roi song, máu bắn ra đầm đìa, xong rồi tống giam ngay Thu Cẩn vào nhà lao, đợi lệnh trên quyết xử.

Vài hôm sau, bọn đao phủ lôi nàng ra ngoài hiệu đình để xử chém. Khi ra pháp trường, từ biệt mọi người, Thu Cẩn nói lớn lên cho mọi người nghe thấy:

- Tội của ta bất quá chỉ là một tội tình nghi chưa đến nỗi bị chết chém! Đấy các người thấy chưa? Ta chỉ vì kết giao với bọn quan trường để đến nỗi mất mạng đó. Các người về sau này có muốn kết giao với chúng hãy nên lấy gương của ta mà soi trước.

Nói đoạn, Thu Cẩn ngang nhiên giơ thẳng cổ ra để cho bọn đao phủ chém, không hề tỏ ra sợ hãi. Quần chúng đi xem xử chém hôm đó đều than thở tiếc thương cho Thu Cẩn, mặt khác chửi rủa viên tri phủ vô tình, nhẫn tâm, chỉ vì tham ông cầu danh, khiến cho một cái đầu người phải rơi xuống một cách oan ức đau thương.

Lại nói Thanh triều thấy cách mạng càng ngày càng nổ ra, náo loạn khắp mọi nơi, chỗ này vừa dẹp tan thì chỗ kia lại xuất hiện, chỉ trong vòng một tháng mà đã thấy đến hai, ba lần ở hai ba nơi khiến gần như không còn một chỗ nào là yên tĩnh nữa. Mấy ông quan to trong triều cũng như các ông quan ở địa phương lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, bóp óc nặn gan ra để tìm cách cứu vớt tình hình xem ra đã đến lúc quá nát rồi. Bọn đại thần như Trương Chi Động lúc này đều cùng một chủ trương là phải lập hiến để thuận lòng dân. Họ cho rằng một khi lòng dân đã yên, thì cách mạng tự nhiên phải hết. Tây thái hậu nghe chủ trương này cũng rất tán thành.

Do đó, bà liền sai bọn Tải Trạch đi ra hải ngoại, và các nước tiền tiến văn minh, khảo sát hiến chính.

Bọn Tải Trạch lĩnh chỉ ý, đang sửa soạn lên đường, không ngờ bị Ngô Viện ném cho một tạc đạn ngay phía ngoài cửa Chính Dương. Trong số năm anh đại thần xuất dương, thì hai anh không may trúng phải mảnh tạc đạn bị thương nặng. Vụ ném tạc đạn này càng làm cho Thanh triều hoảng kinh và phải quyết tâm cao hơn nữa để tổ chức hiến chính. Bởi thế, Thanh triều lại định một ngày khác để cho phái đoàn khảo sát lên đường.

Hồi này, Khánh thân vương Dịch Khuông nắm trọn đại quyền trong tay. Bởi vậy, đồng bọn của vương như Kỳ Thiện Tải, Thiết Lương, ấm Xương... đều nhờ đó nắm quyền lớn cả.

Dịch Khuông vốn là một người hết sức tham lam. Nhất thiết chính sự, đều kệ bọn tiểu nhân mặc sức thao túng và vẽ vời, riêng ông chỉ biết ngồi để lượm bạc cắc do bọn này đem tới hiếu kính.

Tây thái hậu, từ sau khi hồi loan, mọi việc chính sự đều không tha thiết tới, nhưng chuyện tiền tài thì một mảy may cũng không tha, cho nên, trước khi có loạn quyền phỉ, bà đã để riêng được hơn một ngàn năm trăm vạn lượng vàng nén.

Khi bát quốc liên quân đánh vào Bắc Kinh, Tây thái hậu hoảng hốt chạy trốn, số vàng kếch xù này bị bọn nội giám chia nhau lấy hết sạch. Rồi lúc trở về đến cung tìm kiếm lại, bà chẳng còn thấy được một mảy may nào, ngay cả đến một đồng tiền. Đã nhiều đêm, nhớ đến đồng tiền do bao nhiêu mưu chước tinh quái mới có được bà ứa nước mắt. Nhưng địa vị, thế thần của bà thì cái gì mà chả được, cho nên bà lại quyết chí làm giàu một phen nữa. Bà thường nói với bọn nội giám thế nào bà cũng phải cho chúng thấy cái tài của bà.

Dịch Khuông được cơ hội này, bèn giả danh hiệu "liềm tiền" (tiền đóng góp) để hiếu kính Thái hậu, nhưng sự thật thì tám phần mười đóng vào hầu bao của Khuông, chỉ có hai phần mười vào tay Thái hậu mà thôi. Về sau, các khoản tiền này càng ngày càng nhiều. Chân đạo đài ở Thượng Hải thuộc tinh Giang Tô có thể nói là béo bở vào bậc nhất, mỗi năm phải cúng mười vạn lạng, gọi là tiền phấn sáp cho Thái hậu. Phàm văn võ quan viên, tất cả đều phải nói tới tiền trước, đều phải có tiền cúng đầy đủ, theo cấp bậc to nhỏ trên dưới. Bất luận chức vụ, cấp bậc cao thấp nào đều phải đánh giá qua cái tính cách béo gầy, thâu được nhiều hay ít lợi Đấy là cái lối tham nhũng ăn tiền, đục khoét của thời Quang Tự, mà lại do chính Tây thái hậu chủ trương trước.

Hối lộ tham nhũng công nhiên chẳng thèm che giấu như vậy trách sao bọn quan lại từ trên xuống dưới lại không tham nhũng và đục khoét xã hội Trung Hoa khiến người dân cơ hồ như không còn miếng ăn nữa.

Rồi đến lúc bọn quan lại bên ngoài bóc lột đã hết mức, không còn cách gì để bóc lột nữa, Dịch Khuông bèn nghĩ ra một kế hoạch mới: đó là mở toạc chiếc cổng hối lộ cho mọi người thấy, khỏi cần phải úp mở gì. Ai muốn làm quan lúc này thì đã có giá sẵn rồi, cứ việc đem số tiền đó mà cúng vào thì tự nhiên là thành quan, khỏi cần phải thi cử đỗ đạt, học hành gì cho thêm mệt. Ví dụ như: Chức tri huyện thì phải nua năm ngàn đồng bạc, từ chức tri phủ trở nên, muốn mua thì hoặc là một vạn, hoặc hai vạn, và cứ như thế mà tăng lên dần dần, đến mãi chỗ nào không thể được mới thôi.

Cái địa vị mà kẻ bạch đinh chân trắng dù nhiều tiền mà không thể ngồi lên nổi được, đó là hai cái ngôi vị của tước vương và tước công. Hai cái chỗ này thì quả là quan trọng, chỉ dành riêng cho những bậc hoàng thân quốc thích và những người đỗ đạt cao như tiến sĩ, trạng nguyên và có uy danh lừng lẫy, có công trạng đối với triều đình và quốc dân. Thực ra, lệ này cũng chỉ có hiệu lực ở buổi đầu thôi, chứ dần dần về sau, thì duy chỉ có tước vương là dân bạch đinh không thể leo lên được thôi, chứ còn từ cấp nhị phẩm trở lên cho đến tước công như ta vừa nói tới đều có thể với tới, miễn là có nhiều tiền. Có trường hợp ba, bốn anh họp lại thành một bọn để cùng mua một chức quan, rồi một anh đứng ra nắm chính quyền.

Mấy anh hùn vốn kia cũng kéo nhau tới nhiệm sở để hùa nhau tìm cách đặt kế bóc lột dân, đào khoét công quỹ đến kỳ hết mới chịu thôi. Cả bọn vơ vét được bao nhiêu, Lúc đó đem tính toán với nhau, trừ số tiền vốn hùn để mua quan ra, lời lãi còn lại sẽ đem chia đều để đút túi.

Chuyện mua quan bán tước này tuy nói rằng công khai đấy nhưng thực ra chỉ công khai đối với bọn thính mũi ngửi được hơi địa vị quan trường thôi chứ quần chúng thì thực như ngủ trong trống, không được biết một tí gì. Nhưng về sau, một câu chuyện bi hài xảy ra như sau khiến lúc đó tệ trạng này tiếng tăm tùm lum lên, không còn ai là không biết nữa:

Tại tỉnh Cam Túc, có ba anh chàng bán quán thường gọi là chú Ba, chú Tư, chú Bảy làm ăn ngày càng xuống dốc, sắp đi tới chỗ cụt vốn, anh nào anh nấy chán nản muốn tự tử.

Bỗng một hôm chú Ba ta nghĩ ra được một lối thoát. Chú reo lên vì vui sướng, chạy tới bàn với hai chú kia?

- Này các cậu! Bọn quan lại hiện nay bóc lột quần chúng đến xương tuỷ, cách làm ăn của bọn ta xuống dốc mãi, thì chỉ còn nước tự tử hay bị gậy thôi. Phải tìm cách khác mà sống. Trừ phi cái nghề làm quan lúc này còn thì không nghề gì sống nổi. Các cậu nghĩ xem?

Tư và Bảy thoạt nghe nói phá lên cười, cười ngặt nghẽo, cười đến đổ ghế xiêu bàn, cho rằng chú Ba nhà ta điên rồi.

Cười một lúc, Tư và Bảy mới chỉ vào mặt Ba mà bảo:

- Chú mày muốn được làm quan? Xin hỏi chú mày lấy cái tài gì, tư cách gì mới được chứ?

Hỏi vậy xong, Tư và Bảy lại cười tiếp. Ba ta nghiêm ngay sắc mặt lại, cất tiếng như quát vào hai tên kia:

- Tụi bay ngu lắm! Ngu thiệt! Ngu hơn ai hết! Làm quan đời nào, chứ đời này thì, có cần tư cách gì đâu. Tụi bay chỉ cần có năm ngàn đồng bạc là thành ông huyện ngay, nghe chưa?

Tư và Bảy nghe nói lấy làm lạ, hỏi ra mới rõ chuyện mua quan là thế nào, nghe mê quá, bàn ngay tới kế hoạch thực hiện. Thế là cả ba anh chàng bán quán chạy về nhà, có, gì bán nấy, bán hết bành cờ hiệu, thậm chí đến cái váy của vợ, cái quần xà lỏn của con cũng mang đi bán, cốt làm sao thu đủ được số tiền năm ngàn quan cho Ba để Ba ta lên đường mặc cả chức tri huyện với bề trên...

Việc mua bán đã xong chỉ còn chờ. Chẳng bao ngày, ghế tri huyện Thanh Điền khuyết, chàng Ba quán nhậu ta được bổ ngay vào đấy. Thật là trời chiều người, cờ đã đến tay, lúc này tha hồ phất.

Khi bát quốc liên quân đánh Bắc Kinh, Ba mất số tiền lớn là một ngàn năm trăm vạn, ấy thế mà ngoài số tiền một ngàn năm trăm vạn này đã thu lại nguyên như trước, Ba còn kiếm thêm được cả hai ngàn vạn nữa.

Nếu nói đến bọn nội giám trong cung đình hồi này, thì Lý Liên Anh già quá đã chết rồi, còn một số khác thì đã quá già hoặc cũng chết hết cả rồi. Kẻ đắc thế nhất lúc này phải nói tới tên nội giám Tiểu Đức.

Tiểu Đức vốn họ Trương, cho nên mọi người trong kinh thành vẫn thường gọi là Tiểu Đức Trương. Khi bước chân vào cung, Tiểu Đức Trương mới có mười tám tuổi, mặt mũi thật tuấn tú xinh đẹp và duyên dáng nữa là khác. Cha đẻ của Tiểu Đức có nghề buôn đồ cổ rất giỏi. Vào thời trung niên, ông ta làm ăn, góp nhặt được một sản nghiệp kha khá. Nhưng khi sanh Tiểu Đức ra chưa được bao lâu, người cha chẳng may mất đi, để lại hai mẹ con Tiểu Đức goá bụa, côi cút.

Bởi chỉ có một đứa con, bà mẹ Tiểu Đức cưng quá mức, khiến đến khi lớn lên, Đức suốt ngày lêu lổng, cờ bạc, chơi bời, đĩ điếm, không một cái gì truy lạc là không làm. Cơ nghiệp của người cha để cho hai mẹ con được bao nhiêu thì ngày nay Đức cho đội nón ra đi bằng hết. Mẹ Đức khuyên bảo con hết lời, nhưng tính nào vẫn tật ấy, Đức không động tâm, không sửa chữa, và đương nhiên là không nghe lời hơn lẽ thiệt của mẹ. Bà lão cũng vì thế mà buồn chán, rồi đâm bệnh, chẳng bao lâu bà đi theo luôn với ông già ngày nọ.

Cha chết, rồi mẹ chết, lúc này Tiểu Đức quả thực là tứ cố vô thân, không còn có chỗ nào để trông mong, nhờ cậy nữa.

Thế rồi, không đầy nửa năm, Đức bán cho bằng hết không gì còn sót lại của cha gây dựng trước đây, bán đến không còn sờ thấy một cây rơm cọng rác nữa. Nhà cửa sạch không rồi, Đức chỉ còn cách bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Đức lang thang mãi, sự trời may nhờ gặp được Tiểu Vương, xin vào hầu hạ trong nhà kiếm chút cháo.

Tiểu Vương vốn là một tên nội giám trong cung cấm của Thanh triều. Thấy Tiểu Đức mặt mũi khôi ngô điển trai, Tiểu Vương bèn bảo:

- Mặt mũi mi khá quá. Nếu mi chịu thiến cái "của nợ" đó đi, thì tao quyết tìm cho mi cái giàu sang hơn người một phen cho mà xem. Giàu sang rồi thì mi tha hồ sung sướng.

Tiểu Đức nghe lời của Tiểu Vương dạy khôn. Sau một tháng trời rên la nhức nhối vì vết thương, Đức trở thành một con người có giá, lúc này có thể vào bên cạnh nhưng người đẹp của hoàng đế để hầu hạ vuốt ve nâng giấc thay cho ngài.

Thấy đã đến lúc nên đưa Tiểu Đức vào cung, Tiểu vương một hôm vào tâu và tiến cử thẳng cho Tây thái hậu. Được cái hay là Tiểu Đức vốn người hết sức lanh lợi, ngoài cái dáng vẻ điển trai ra. Tây thái hậu thấy thế càng thích, càng sủng ái. Bởi thế chẳng bao lâu, Tiểu Đức được Tây thái hậu cho làm thủ lãnh bọn tiểu thái giám trong nội.

Thấy được Tây thái hậu sủng ái, Tiểu Đức càng ngày càng lộng hành. Đức vốn chỉ là một kẻ tiểu nhân cho nên khi hầu hạ thân cận bên Thái hậu hắn tìm mọi cách để khiến cho bà tin cẩn để dễ bê làm bậy.

Bình sinh, Tiểu Đức thích đánh bạc. Trong cung cấm, hắn lại giở cái trò này ra. Thế là cả bọn, nào tiểu thái giám, đại thái giám, nào lão thái giám, nào cung nữ già, nào cung nhân trẻ, tất cả đều đổ xô lại kiếm hắn để đánh bạc. Chuyện thú vị nhất là chính Tây thái hậu cũng biết và thích chơi súc sắc, nữa. Thế là cái tính đánh bạc của Đức đã chẳng những được bà tha thứ lượng tinh, mà còn được bà cho phép tổ chức ngay tại trong cung để rồi chính bà cũng ghé vào đánh cho vui nữa.

Đã nhiều lần Tây thái hậu bảo Đức đứng ra làm cái để cho bà cùng bọn cung tần mỹ nữ trong cung cùng đánh Từ khi trò đánh bạc lên cao, toàn thể cung nhân nơi cung cấm đều túm năm tụm ba từng góc tường xó cửa để chơi. Bọn nội giám kẻ thua người được đâm tranh nhau, cãi nhau, thậm chí đánh nhau nữa. Quy chế hà khắc trong cung cấm đến lúc này quả đã hư hỏng đến cùng độ rồi.

Có một hôm, Tiểu Đức mở sòng. Tây thái hậu cũng như bọn phúc tấn và cách cách xúm nhau vào đặt tiền. Tây thái hậu nhắm đôi mắt lại để nhẩm tính nước bài. Giữa lúc ấy, Tiểu Đức cố ý đặt tay lên nắp hộp súc sắc, cất tiếng xướng lớn:

- Mở này! Mở này!

Tây thái hậu mở mắt lớn, cả giận nói:

- Thằng kia! Ai dạy cái lối hạ lưu đó?

Tiểu Đức thấy Tây thái hậu cả giận, vội dập đầu tâu:

- Nô tài vốn không biết cái lối này. Nhưng năm ngoái nô tài nhờ được một vị hậu bổ tỉnh Sơn Tây tên gọi Từ Tử Minh dạy cho lối đó. Tử Minh bảo nô tài: Thảng hoặc có người nhẩm tính nước bài thì thường mình chỉ có thua chứ khó lòng được. Bởi thế, bất luận xấu tốt cách nào, cũng phải chặn ngay, làm cho người đó phân tâm đi, không tính toán được nữa.

Tây thái hậu nghe Đức nói, gật đầu mỉm cười, không còn có ý tức giận, trái lại còn khoái nữa là khác.

Câu chuyện cờ bạc này truyền đi mỗi ngày một xa. Hậu bổ Từ Tử Minh được tin này lấy làm khoái lắm liền nói phét lác rằng:

- Cái lối đánh bạc của ta đến Tây thái hậu cũng biết đấy chứ chẳng phải chơi đâu! Chúng bây thấy chưa?

Doạ đàn em, vậy rồi, Tử Minh bèn mở ngay một sòng bạc lớn, công nhiên đánh bạc, lấy hồ, chẳng coi ai ra gì. Tri phủ Sơn Tây là Đào Cảnh Như thấy Minh làm chuyện phi pháp bèn bắt trói Minh, tống vào nhà giam, tước luôn cả chức vị của Minh. Khi nằm trong ngục, Tử Minh cho người đem tiền bạc hối lộ cho viên tri phủ Cảnh Như, nhờ đó Cảnh Như cũng vơ vét được một mẻ kha khá. Được chấm mút rồi, Cảnh Như thả ngay Từ Tử Minh, lấy cớ rằng Minh bị bệnh thần kinh.

Thoát ngục rồi, Từ Tử Minh lại mở sòng bạc, chuyến này còn lớn hơn nhiều.

Tri phủ Đào Cảnh Như mắt nhắm mắt mở, tuy có trông đấy nhưng hình như không thấy gì, nhất là cái sòng bạc lớn lù lù trước mắt. Thực là một quái trạng nhưng kỳ thú trong giới quan trường đời nhà Thanh hồi mạt diệp.

Tiểu Đức có một thế lực như vậy trong cung cấm, tất nhiên bọn nội giám bất đắc chí kéo nhau tới quy luỵ, nịnh nọt. Ngay cả bọn cung nữ, phi tần không một chị nào là không chạy tới để nhờ Đức che chở và làm theo mệnh lệnh của Đức. Kẻ không bị Đức chỉ huy có lẽ chỉ có một mình Long Dụ hoàng hậu mà thôi. Bình thời Đức chẳng sợ một ai cả, ngoài Tây thái hậu ra. Ấy thế mà duy chỉ có mỗi một mình Long Dụ hoàng hậu là Đức nghe theo hết mọi mệnh lệnh sai khiến. Cũng do chỗ kỳ lạ này mà người ta thấy Long Dụ hoàng hậu rất tin lời của Đức, rồi dần dần, ngày một ngày hai, Tiểu Đức biến thành một tên hầu thân tín nhất của hoàng hậu. Trong chốn cung đình, từ đó điều nọ tiếng kia, đồn đại trong ngoài, nào những chuyện dâm bôn tục tĩu, nào những tin giật gân, kỳ quái, xảy ra bàng ngày. Tây thái hậu e ngại những tin đồn đại nhơ nhớp này, đành phải tống cổ Tiểu Đức ra khỏi cung.

Về sau, khi Tây thái hậu mất, Long Dụ hoàng hậu còn tái dụng Tiểu Đức một lần nữa và thường nghe những chủ trương của y, ví dụ như việc xây cất Thuỷ tinh cung giả hàn. Song những chuyện này ở mãi về sau, khi nhà Thanh chẳng còn được bao lâu nữa. Chuyện sau đó, ta hãy tạm gác tại đây.

Lại nói từ khi xảy ra chuyện đánh gãy cành trâm ngọc của Long Dụ hoàng hậu do Quang Tự hoàng đế gây nên, Tây thái hậu biết là bất hoà giữa hai người không còn có cách gì hàn gắn được nữa. Bởi thế, ít lâu sau, bà truyền cho Long Dụ hoàng hậu rời khỏi Ỷ Hương điện chuyển qua ở tại Di Tâm các. Long Dụ hoàng hậu thấy Quang Tự hoàng đế bạc tình như vậy, trong lòng hết sức buồn bã. Nhưng từ khi Tiểu Đức vào cung, tìm đủ cách nịnh hót, đủ lối hầu hạ, hoàng hậu bỗng cảm thấy đời tươi lên. Đối với hậu lúc này, bất cứ việc gì, vật gì do Tiểu Đức làm hoặc dùng đều được bà khen tốt cả, hay cả, trái lại, do một người nào khác, thì bà đều quở là dở, không bao giờ vừa lòng. Bọn nội giám trong cung hiểu được duyên cớ bên trong của câu chuyện, đều rút lui ra sau, để mặc cho Tiểu Đức được tự do hầu hạ hoàng hậu. Thành thử, bất cứ chuyện gì tại cung hoàng hậu, Tiểu Đức đều tự mình lo liệu lấy hết, không để cho một kẻ nội giám nào khác mó tay vào.

Có một hôm, mưa xuân phơi phới đầy trời, Tây thái hậu đội mưa đi chơi xuân trong vườn, hoàng hậu cáo bệnh không đi còn tất cả phi tần cũng có mặt phụng giá.

Không ngờ, mưa mỗi lúc một nặng hạt, Tây thái hậu bèn ra lệnh cho các phi tử ai về nhà nấy, bà Cẩn phi vội vã đội mưa xông gió chạy đi trước.

Cá tính của Tây thái hậu là thích đi chơi dưới mưa bay. Bọn phi tần chạy theo sau, dù có lọng, cũng không dám giương lên. Đã nhiều lần, bọn phi tần, phúc tấn, cách cách theo Tây thái hậu dạo chơi dưới trời mưa trong vườn, đều phải để mặc cho mưa rơi, ướt sũng đầu tóc cũng phải chịu. Khi thái hậu ngồi kiệu thì cả bọn nhảy lên kiệu ngồi. Trái lại, khi thái hậu đi bộ thì cả bọn lại đành phải đi bộ, chứ không dám làm khác.

Hôm đó đi chơi dưới mưa, Cẩn phi biết cái tính kỳ quặc của Tây thái hậu, cho nên không mang dù đi. Rồi đến khi được lệnh cho về, quần áo bị ướt sũng, Cẩn phi thấy cần phải chạy về để thay. Cẩn phi ba chân bốn cẳng chạy qua phía dưới gác Di Tâm, bỗng nghe một tiếng ho, rồi một bãi đờm nhổ toẹt thẳng vào mặt nàng. Cái người nhổ đờm nào đó có lẽ khi nhổ không có ác ý gì, Cẩn phi chắc cũng biết thế, cho nên cái nhổ đỏ chỉ giúp cho nàng nhớ tới một việc là hoàng hậu cáo đau, không đi theo thái hậu dạo chơi trong vườn.

Nhớ lại như vậy, Cẩn phi thấy cần phải tới vấn an bà mới phải, hơn nữa cũng để tránh sự trách mắng vô lễ của bà. Chủ ý đã định, Cẩn phi bèn lặng lẽ bước lên gác. Chân nàng bước đã nhẹ, mặt đất lại lót bằng thảm nhung êm dày.

Cẩn phi bước đã lên đến từng trên gác, mà hoàng hậu vẫn không hay biết một tí gì. Đợi đến khi Cẩn phi bước hẳn vào bên trong cửa, nghe mấy tiếng động nhẹ, hoàng hậu mới tưởng là tên tiểu thái giám thường hầu hạ bà. Bà lên tiếng hỏi:

- Đứa nào chạy lộn xộn ngoài đó đấy?

Theo lệ, thường thì khi phi tần vào yết kiến Đế hoặc Hậu, họ đều phải có một tên tiểu thái giám chạy vào báo trước, Cẩn phi đã vào đây nhiều lần, quá quen rồi, cho nên chẳng để ý đến thông lệ này. Bỗng tiếng hỏi bất ngờ của hoàng hậu làm cho Cẩn phi dừng ngay gót lại, không dám tiến sâu vào nữa.

Hoàng hậu thấy người nào dừng lại, không bước thêm liền sinh nghi, vội chạy ra. Vừa thấy bóng hoàng hậu, Cẩn phi vội vàng cúi xuống thỉnh an. Nhưng cũng cái lúc thảng thốt mà hoàng hậu chạy ra thì Cẩn phi đã thấy trên giường của hoàng hậu anh chàng Tiểu Đức trần như nhộng, đang nằm dài thườn thượt như có vẻ đã được thoải mái quá rồi, đến lúc phải nghi ngơi đôi chút.

Hoàng hậu lúc đó, cử chỉ có vẻ hơi bấn loạn, vội lên tiếng quát bảo Tiểu Đức:

- Thằng kia! Mi không cút đi ngay phải không? A thì ra cái thằng này láo lếu bừa bãi thực?

Tiểu Đức đâu có ngờ tới Cẩn phi bất chợt bước vào, không một tiếng động, không một lời báo trước. Cho nên ngay cả lúc hoàng hậu đứng nói chuyện với nàng, hắn cũng cứ thản nhiên nằm trên giường dương dương tự đắc, chứ đâu có ngờ rằng oan gia gặp đường hẹp. Nhưng đến lúc biết là Cẩn phi rồi, thì Tiểu Đức mới hoảng hốt vùng dậy, tay chân run lên, quơ bên này cào bên nọ, lôi cái áo, rút cái quần, quýnh quýnh đúng như một thằng ăn vụng có tội. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan của Tiểu Đức, may thay cho hắn được hoàng hậu quát thêm lên vài tiếng bảo hắn đi lấy phất trần để quét bụi trên bàn. Ấy thế mà hắn cúng quýnh quýnh mãi một hồi nữa mới mặc xong quần áo mà vội vã chạy đi.

Long Dụ hoàng hậu bị bắt tại trận, tất nhiên không thể nào bình tĩnh được. Mặt bà bỗng đỏ ửng lên, mắt bà như tá hoả thành trăm ngàn tia lửa nhưng rồi dễ tắt lịm đi, tối om. Đôi tay bà nêu có ai để ý thì sẽ thấy mười ngón tay chúng bắt chuồn chuồn không ngớt.

Cẩn phi nhìn thấy quang cảnh này dù chỉ trong chớp nhoáng cũng phải biết tại nơi đây, đã xảy ra chuyện gì rồi. Nàng chẳng còn cách gì hơn là thăm hỏi vài ba câu qua loa, để từ giã hoàng hậu ra đi, cho đỡ bẽ cả đôi đường.

Trên đường đi trở về Doanh đài, Cẩn phi càng nghĩ càng lấy làm lạ cái cảnh vừa qua. Gặp Quang Tự hoàng đế, định nói toạc ra nhưng lại ngập ngừng không dám nói. Tại sao vậy.

Số là sau ngày thổ huyết, bệnh tình của Quang Tự hoàng đế không thuyên giảm được bao nhiêu. Hơn nữa, chính hôm thổ huyết té ngửa đó, hoàng đế đã trợn mắt lên, nghiến răng ken két như có điều vô cùng căm hận đối với hoàng hậu. Bởi thế, nếu đem nói toạc trò quỷ quái vừa thấy ra, nàng e rằng có hại cho sức khoẻ của hoàng đế. Tuy nhiên, sực nhớ lại những lúc hoàng hậu ton hót với thái hậu, và những lúc đánh đập làm khổ nàng nhiều phen, nàng lại thấy máu uất bốc lên, tiếng kêu gọi trả thù lại vang lớn trong thâm tâm. Thế rồi cuối cùng hận thù đã thắng, nàng bèn rỉ tai Quang Tự hoàng đế thuật lại một lượt tất cả những gì nàng vừa thấy trong phòng ngủ của hoàng hậu.

Quang Tự nghe xong chuyện kể, nhảy đến vù một cái từ mặt giường lên khoảng không, để rồi lại rơi xuống mặt giường, miệng quát lên như điên:

- Con tiện tỳ khốn nạn! Con khốn nạn! Tao phải giết mi! Tao phải giết mi.

Quát xong, Quang Tự hoàng đế nhoài ra cạnh giường, đứng dậy, tính bận quần áo chạy đến gặp Tây thái hậu. Cẩn phi thấy quang cảnh sôi động bất ngờ và nhất định là tai hại không biết tới đâu mà lường, vội chạy lại ôm lấy ngài để khuyên can, nàng nói:

- Bệnh tình của hoàng thượng vừa mới bớt, cần nên tĩnh dưỡng. Chuyện này, sớm chiều gì rồi sẽ giải quyết, vội vã làm gì? Hơn nữa, chuyện này, chính mắt thần thiếp được mục kích. Nếu câu chuyện nổ ra tùm lum thì thế nào mà thần thiếp chẳng bị luỵ vào đấy.

Quang Tự hoàng đế suy nghĩ một lát rồi nói:

- Ta đã biết vậy rồi. Nhưng nếu không cho chúng biết tay một phen, thì về sau còn làm gì được nữa? Nếu không gặp Thái hậu để tố cáo cho bà biết chuyện của con khốn nạn nọ thì rồi ta cũng phải gọi cái thằng khốn kiếp kia đến đây để cho nó một bài học mới được.

Nói đoạn. Quang Tự hoàng đế liền gọi một tên tiểu thái giám chạy đi triệu tên Tiểu Đức đến Doanh đài ngay để kiến giá.

Lại nói khi Cẩn phi trở về Doanh đài rồi, Tiểu Đức biết câu chuyện vỡ lở, thế nào cũng gây hoạ, liền nói với Long Dụ hoàng hậu:

- Tiểu yêu chuyến này chắc nguy rồi đây! Vạn nhất mà hoàng thượng truy ra vụ này thì tiểu yêu chỉ còn biết nhờ vào sức che chở của hoàng hậu mà thôi.

Hoàng hậu nghe nói, nét mặt vừa buồn vừa giận, cất tiếng nói:

- Biết làm sao được bây giờ? Chỉ tại con khốn nạn đó nó thấy? Và cũng tại bọn ta không cẩn thận đề phòng mà ra. Ngươi đâu có hiểu được ta với hoàng thượng vốn không thuận đã từ lâu. Giả thử hoàng thượng cho chuyện đó là đúng là thực, thì đến ta cũng chịu, chẳng biết làm sao hơn. E đến cái mạng ta cũng khó thoát nữa là!

Tiểu Đức nghe xong, miệng câm như hến, đứng ỳ ra như một pho tượng đất, mặt thộn hẳn ra. Giữa lúc khó xử này, bỗng một tên tiểu thái giám chạy tới triệu Đức. Long Dụ hoàng hậu biết câu chuyện đã bị phát giác rồi, chỉ còn biết lấy đôi mắt nhìn theo Tiểu Đức, miệng lặng thinh không nói một lời nào.

Tiểu Đức thấy vô phương thoát tội, toàn thân run lên lẩy bẩy, líu ríu theo gót tên tiểu thái giám ra đi về ngả Doanh đài.

Tiểu Đức bước lại gần giường nằm của Quang Tự hoàng đế. Hắn nhìn thấy mặt ngài đầy vẻ căm giận bực tức, vội quỳ xuống, dập đầu, không dám ngẩng đầu lên nữa:

Quang Tự hoàng đế lớn tiếng quát:

- Mi đã làm một việc quá đẹp. Ta khỏi cần phải giảng giải gì cho mi thêm.

Quát xong Quang Tự hoàng đế gọi mấy tên nội giám kéo cổ Đức ra phía ngoài đánh một trăm gậy, tung toé máu đít, tống cổ sang bên cung Thái hậu.

Bọn nội giám lãnh chỉ, kéo cổ Tiểu Đức ra ngoài, đánh đúng một trăm gậy, xong rồi ngồi chờ giấy của hoàng đế. Quang Tự hoàng đế viết bốn chữ "Tiểu Đức vô lễ" vào một tờ giấy rồi sai bọn nội giám cầm tờ giấy đó, đồng thời áp giải tên Tiểu Đức sang bên cung Tây thái hậu.

Lúc này Tây thái hậu được biết tin, liền cho gọi hoàng hậu sang trách mắng một hồi. Bỗng bà thấy bọn nội giám áp tải Tiểu Đức tới, vội truyền lệnh cho hoàng hậu hãy tạm lánh mặt vào phía trong. Tiểu Đức vừa thấy thái hậu, vội quỳ xuống đất, mắt sa lệ, cất tiếng van xin:

- Cầu xin Lão Phật gia tha thứ cho.

Tây thái hậu nói:

- Mi đã tự tay làm chuyện đồi bại thì đến ta cũng chịu. Hiện hoàng thượng đã bảo ta phát lạc. Vậy cung nội này không có cách gì giữ mi lại được nữa cả. Mi nên quay lẹ về nhà, thu xếp khăn gói mà đi đi.

Tiểu Đức chỉ còn biết dập đầu một cái, rồi đứng dậy, chạy đi thu xếp hành trang để xuất cung.

Lại nói Quang Tự hoàng đế trách mắng đánh đòn tên Tiểu Đức xong rồi nhưng lòng giận vẫn chưa nguôi, bệnh thế của ngài vốn đã trầm trọng từ lâu, nay lại trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần quá kịch liệt, khiến càng trở nên nguy nan thêm. Từ đấy, bệnh ngài đã chẳng thuyên giảm đi mà càng ngày càng nặng mãi, để đến mùa đông năm đó, ngài chỉ còn lại như một đống xương khô hay như một bó củi khô mà thôi. Thân xác cũng như tinh thần của ngài lúc này đều đã mất gần hết và cái chết coi như đã gần kề.

Thế rồi một hôm, Quang Tự hoàng đế bỗng nhiên biến chứng, ngài đâm ra thở dốc, cuối cùng cứ thở giật từng hồi như hắt ra. Cẩn phi ngồi trông nom bên cạnh hất hoảng đến cực độ một tay cố giữ lấy ngực cho ngài, còn một tay khoát gọi tên tiểu thái giám hầu cận chạy ngay đi phi báo cho Tây thái hậu biết.

Chỉ một lát sau. Tây thái hậu đã cùng viên ngự y bước vội vào cung. Bắt mạch chẩn bệnh một lát, viên ngự y tâu với thái hậu.

- Bệnh tình của hoàng thượng do ở chỗ nguyên khí bị tổn thương, động tới can phong, cho nên thở dốc không chỉ. Thở mãi mà không chỉ, ta nên đề phòng có khi ngất đi đấy.

Một viên ngự y nói vậy, bảy, tám viên ngự y khác xem mạch chuẩn bệnh cũng đều nói thế. Tây thái hậu lúc này đã thấy xốn xang bối rối lắm. Bà bảo Cẩn phi trông nom nhà vua, còn mình thì hối hả chạy về Dưỡng tâm điện triệu tập tức khắc bọn quân cơ đại thần vào ngay đêm đó để nghị sự.

Hồi này, Trương Chi Động đã nghỉ chức, chỉ còn lại có bọn Na Đồng. Bọn đại thần này vào đến cung yết kiến thái hậu, bà tuyên bố bệnh tình của Quang Tự hoàng đế cho họ nghe rồi nói:

- Nếu chẳng may hoàng thượng có mệnh hệ nào, thì biết chọn ai kế vị?

Khanh thân vương Dịch Khuông tâu:

- Theo như trước đây thì đến Phổ Tuấn như vậy là không thể nối ngôi được nữa. Đếm ngón tay ta thấy muốn kế vị Đức Mục tôn nghi hoàng đế, ắt vẫn phải chọn người có chữ lót là Phổ mới được.

Tây thái hậu gật đầu nói:

- Ta đã nghĩ tới điều đó. Trong số người có chữ Phổ trừ con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi và con trai Cung thân vương là Phổ Huân ra, là hết. Con của bọn Tải Tuân đã thuộc chi xa, lại còn nhỏ tuổi hơn cả Phổ Nghi. Hơn nữa người như Tải Tuân thực chẳng đáng để trao phó cho đại quyền. Theo ta, thì trong Phổ Nghi và Phổ Huân, hai người ấy nên chọn lấy một. Y ta là như thế, nhưng không biết các vị thân vương nghĩ như thế nào?

Dịch Khuông nghe Tây thái hậu hỏi, vội cúi đầu tâu:

- Đây vốn là việc đại sự quốc gia, tự nhiên đã có Lão Phật gia anh minh quyết đoán, hà tất phải hỏi bọn thân vương có đồng ý hay không đồng ý mà làm gì. Công việc trong tôn tộc, có khác gì công việc ngoài quốc gia, cả hai cũng chỉ là một, xin Lão Phật gia minh xét cho.

Na Đồng cũng tâu lên:

- Lời nói của Khánh vương rất đúng. Y kiến của nô tài cũng y hệt như thế đấy.

Tây thái hậu nói:

- Tuy lời nói đó có lý đấy, song đại quyền vẫn thuộc về hoàng thượng. Ta bất quá chỉ thay thế nhất thời mà thôi. Quyết nhiên lúc này phải là ta hạ lệnh, nhưng trong tương lai chỉ sợ có chuyện xảy ra này nọ đó thôi.

Dịch Khuông vội nói:

- Bất tất phải quá lo xa như vậy. Đến lúc đó, ta hãy giải quyết cũng không muộn.

Giữa lúc Tây thái hậu và bọn đại thần đang còn hội nghị, bỗng một tên nội giám chạy vội vào tâu:

- Hoàng thượng mê đi rồi!

Vừa được tên nội giám chạy đến báo tin cho biết Quang Tự hoàng đế đã mê đi, Tây thái hậu vội vàng cùng bọn Dịch Khuông kéo nhau tới Doanh đài để xem tình trạng hoàng đế ra sao. Nhìn vào thân thể ngài, họ chỉ thấy mặt ngài trắng bệch ra như tờ giấy trắng, đôi hàm răng cắn chặt lại, đôi mắt trợn ngược lên.

Cẩn phi mặt đầy nước mắt vừa xụt xịt khóc vừa lay gọi, Long Dụ hoàng hậu lúc này được báo tin cũng đã chạy tới. Bà nhìn thấy Quang Tự hoàng đế trong tình cảnh như vậy, cũng không khỏi rỏ vài giọt nước mắt.

Tây thái hậu ngồi bên cạnh bảo hai người đừng có hoảng hốt. Bà bảo hoàng thượng đuối sức một lúc sẽ tỉnh lại, chứ không có chi đáng ngại. Một mặt, bà cho một tên tiểu thái giám tức tối đi gọi cả thái y viện tới để chạy chữa. Bọn Dịch Khuông thì ngồi yên lặng tại phía dưới điện Hàm Nguyên chờ đợi.

Chỉ một lát, người ta đã thấy bọn thái y lóc cóc chạy tới, nào dao cầu thuyền thuốc, đầy đủ đồ nghề. Nhưng bọn nội giám sớm đã reo lên:

- Hoàng thượng tỉnh lại rồi! Hoàng thượng tỉnh lại rồi!

Giữa lúc đang mơ mơ màng màng như người đi trong mộng, Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, thấy mọi người vây khắp quanh mình, người thì đứng kẻ thì ngồi, bất giác tỏ vẻ lạ lùng bèn hỏi:

- Các người tới đây làm gì vậy?

Cẩn phi ghé sát vào mặt nhà vua khẽ nói:

- Họ tới để hầu hạ bệ hạ đó.

Quang Tự hoàng đế nói:

- Ta khoẻ mà. Hầu hạ làm gì?

Nói đoạn, ngài thở dài một tiếng, quay mình vào trong dỗ giấc ngủ. Tây thái hậu bảo với mọi người:

- Hoàng thượng mê đi vừa mới tỉnh, thần kinh đang thác loạn. Các ngươi không nên nói chuyện với ngài. Cho gọi thái y chẩn mạch cho ngài xem ra sao.

Thế là bọn thái y được gọi lại, chẩn mạch xong, chạy ra phía ngoài hất thuốc, rồi lại chạy vào ngay. Cẩn phi đích thân lo việc sắc thuốc, sau đó đổ cho ngài uống.

Tây thái hậu đợi cho Quang Tự hoàng đế thần sắc trở về nguyên trạng rồi lúc đó mới quay trở về cung. Hoàng hậu và bọn đại thần Dịch Khuông cũng tiến vào cung để vấn an thái hậu rồi mới giải tán, ai nấy về nhà mình.

Quang Tự hoàng đế thấy mọi người đi hết rồi, mới quay mình lại, nhìn Cẩn phi hỏi:

- Bọn họ đi hết rồi ư?

Chỉ hỏi được có mỗi một câu đó, Quang Tự hoàng đế lại đã lên cơn suyễn, tắc họng lại, không thể nói được nữa. Cẩn phi vội nằm sát xuống bên giường, ghé miệng sát vào tai nhà vua mà nói:

- Xin bệ hạ bảo trọng thân thể. Đừng có nói gì, đợi đến khi khỏi rồi hãy trò chuyện.

Quang Tự hoàng đế bèn thò cái tay chỉ có xương và da ra nắm lấy bàn tay ngọc ngà của Cẩn phi rồi nói qua hơi thở khò khè:

- Bệnh tình của ta xem ra khó lành được rồi. Hôm nay tá muốn nói vài câu tối hậu với ngươi.

Cẩn phi nghe đến đây, bỗng đôi dòng lệ chảy ra, ướt cả vạt áo phía trước ngực. Quang Tự hoàng đế khoát nhẹ bàn tay, như ra hiệu thôi đừng khóc nữa, rồi nói tiếp:

- Theo ý ta lúc này thì chả còn gì để phải lưu luyến nữa. Khi đôi mắt nhắm lại, thế là hết, hết sạch. Tiếc thay! Con nối dõi ta không có. Quyền bính đều nằm trong tay mẫu hậu. Khi ta chết rồi, không biết ai là người kế thừa đại thống? Ta thực chưa từng biết. Mà cũng chẳng can dự gì đến ta. Ta cứ im lặng, chẳng nói một câu nào là hơn, cứ để cho mọi việc trôi qua đến đâu thì đến. Ấy thế nhưng, dù sao, ta cũng không thể bình thản được trước mọi chuyển biến. Ta nhớ lại từ khi bước vào cung để thừa kế đại thống, tính đến nay đã hơn ba mươi năm rồi. Suốt trong thời gian lâu lắc này, tuy ta không có công trạng gì nhưng nói cho cùng thì cuộc đời ta cũng đã được an bài. Đến như chuyện quyền chính được rồi mất đó, thực chỉ tại ta quá nhu nhược mà ra. Buồn thay cho ta là từ khi bước chân vào cung, trong không có ai là người tâm phúc, ngoài không có ai là người trung lương phò trợ, muốn phấn phát tinh thần mà làm việc đấy nhưng lại không biết hoạt động vào đâu. Năm Mậu Tuất, có cuộc binh biến. Ta vốn tưởng đem cựu chế mà cải cách một phen, chỉnh đốn lại chiêng trống, phóng động lên một phong trào, huy trương lại nhuệ khí, khiến cho mọi người hăng hái canh tân lại xứ sở. Không ngờ mẫu hậu không lượng tính, giữa đường đánh quy ta, biến ta thành một loại tội tù không hơn không kém. Lần đả kích ta này, quả thực khiến ta vô cùng chán nản. Bởi thế, từ đó ta đâu có còn tha, thiết đến chính sự nữa. Bất luận là chuyện trong hay việc ngoài, ta có thèm mở miệng ra nói một lời nào nữa đâu. Giả thử lúc ban sơ đó, mẫu hậu có nghe theo lời ta, thực hiện theo kế hoạch của ta thì quốc gia này đâu có đến nỗi như ngày nay. Về sau, năm Canh Tý, trải qua một cuộc loạn quyền phỉ, chạy lên Tây An rồi lại trở về, lúc đó mẫu hậu mới tỉnh ngộ cải quả, thì sự đã trễ rồi. Tóm lại mà nói, giang sơn nhà Thanh ta chẳng bao lâu nữa sẽ bị người khác cướp mất đó thôi.

Quang Tự hoàng đế nói đến đây, lại ho rốc lên một hồi.

Cẩn phi nuốt lệ nói:

- Bệ hạ nói ít thôi!

Đợi cho hết ho, dễ thở, Quang Tự hoàng đế thu hết tàn lực lại để cố nói cho được lớn:

- Nay không nói, còn đợi đến lúc nào nữa?

Quang Tự hoàng đế khựng lại một chút để lấy hơi, rồi tiếp để dặn dò Cẩn phi:

- Ta có câu nói khẩn yếu này, muốn nghe hay không, tuỳ ý họ. Nếu ngươi không nói ra, ta sê có tội đối với tổ tiên. Sau khi ta mất rồi, người kế vị chưa được định rõ, trong số mấy người thôi. Song Tải Tuân là người kém tháo vát, nếu giao phó cho đại chính e có chỗ chưa đủ, mất nước là cái chắc! Đến Phổ Tuấn, người đã từng lập làm Đại A Kha, Tuấn hết sức ngu ngốc cầm quyền làm sao được chứ? Lại đến Phổ Nghi? Nghi vào thừa kế đại thống e rằng quá con nít. Chẳng biết khi trưởng thành, Nghi sẽ ra sao. Một đứa con nít lâm trào, cần phải có một người lớn nhiếp chính. Mà cái người nhiếp chính ấy phải chăng là Thuần thân vương Tải Thuần? Hai người có cái tình phụ tử với nhau, tất nhiên việc phụ chính sẽ được tận tâm kiệt sức khỏi phải nói. Song Tải Thuần lại phải cái nhu nhược mà võ đoán. Thuần cũng chẳng phải là người an bang định quốc, lỡ gây ra chuyện bất hảo, ta e rằng quốc gia này sẽ đi đứt do tay y. Theo ý kiến ta thì cái đám Phổ này đều còn nhỏ cả, cần phải có người nhiếp chính, trong khi chúng chỉ làm bù nhìn thôi. Như vậy, thì chi bằng chọn một người kế vị lâm chính ngay trong tầng lớp của ta có hơn không? Chẳng biết mẫu hậu quyết định ra sao?

Trong lúc nói mấy câu trên, Quang Tự hoàng đế mắt nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi. Rồi đến khi nói xong, đôi mắt ngài như đứng hẳn lại, có ý chờ đợi một câu đáp của Cẩn phi. Hiểu được ý đó của nhà vua, Cẩn phi bèn gật đầu nói:

- Để thần thiếp tâu lại cho thái hậu rõ.

Nghe được vậy, Quang Tự hoàng đế se sẽ gật đầu rồi nhắm dần mắt lại. Hơi thở của ngài lúc này lại trở nên gấp gáp hơn trước. Cẩn phi cho rằng bệnh tình của ngài xem ra lành ít dữ nhiều. Nàng một mặt thút thít khóc, một mặt nằm nép xuống cạnh giường. Nhân lúc thấy Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, nàng ghé vào tai ngài khẽ hỏi:

- Bệ hạ có thấy đỡ phần nào không?

Quang Tự nghe hỏi chỉ khe "ừ" một tiếng và thêm một cái gật đầu như ra hiệu. Cẩn phi lại hỏi tiếp:

- Ví thử bệ hạ có thực mệnh nào, thì bảo thần thiếp phải làm sao?

Nghe xong câu hỏi của Cẩn phi, Quang Tự hoàng đế nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi, ngừng một lát rồi mới thì thào nói:

- Ngươi tất phải lo. Khi ta còn sống, bọn chúng tác oai, tác phúc. Rồi đây khi ta chết rồi, một triều đại mới ắt sẽ có một quần thần mới. Bọn chúng cũng chỉ đối với ngươi vậy thôi. Lúc đó, ta e rằng chúng còn phải lo cho mình chưa xong chứ còn lấy thì giờ đâu mà chống đối với ngươi nữa. Ngươi chắc chắn lúc đó còn sướng hơn bây giờ nữa là khác.

Cẩn phi còn muốn hỏi nữa, nhưng Quang Tự hoàng đế xem ra thần trí đã mơ hồ, không nhận định rõ được mọi vật nữa. Cẩn phi thấy hình sắc ngài có vẻ biến thái nhiều rồi, cho nên không dám rời khỏi bên ngài.

Cho mãi đến hửng sáng, Quang Tự hoàng đế thực không còn có thể nói nữa. Ngài chỉ còn biết lấy tay chỉ vào miệng mà thôi. Giờ Thìn, Long Dụ hoàng hậu chạy tới. Vừa nhìn thấy bà, Quang Tự hoàng đế ngước mắt lên vài lượt, rồi bỗng nắm tay lại đấm vào đầu giường mấy cái, tựa hồ như có ý tức giận lắm.

Long dụ hoàng hậu vừa gạt lệ, vừa se sẽ hỏi Cần phi về bệnh tình của hoàng đế. Một lát sau, thái y viện lại đến để chẩn mạch cho ngài. Tuy bề ngoài nói rằng bệnh tình của Quang Tự hoàng đế còn có cơ hội vãn hồi được, nhưng thái y viện đã tâu nhỏ với Tây thái hậu là nên chuẩn bị chuyện hậu sự cho nhà vua đi là vừa.

Lại nói Tây thái hậu ngay từ hôm qua sau khi ở Doanh đài về, bà bỗng cảm thấy khó ở. Tuy đã được thái y chẩn mạch và hết thuốc, nhưng bệnh tình của bà đã từ nhẹ chuyển sang nặng. Do đó, bà không có thể gắng gượng đi đây chạy đó. Cho đến khi nghe nói Quang Tự hoàng đế bệnh nguy, bà tính đích thân mình tới Doanh đài nhưng bị bọn nội giám cung nhân khuyên can nên lại thôi,: mà chỉ sai Long Dụ hoàng hậu qua thăm để xem tình thế bệnh trạng ra sao mà thôi.

Buổi chiều hôm đó, Quang Tự hoàng đế chỉ còn lại có chừng ba phần khí lực. Tây thái hậu tuy lúc đó đầu choáng mắt hoa nằm quỵ tại một nơi rồi, nhưng vẫn còn nghĩ được cách lo liệu hậu sự cho nhà vua. Bà tức tốc truyền lệnh cho triệu ngay bọn quân cơ đại thần như Na Đồng, Thế Tích vào cung để nghị sự.

Lúc này Khánh vương Dịch Khuông đã đi yết Đông Lăng cho nên không có mặt tại triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích vào cung thấy Tây thái hậu đầu buộc một cái khăn xanh biếc đang ngồi tựa vào thành giường. Vừa thấy bọn Na Đồng vào, bà liền cất tiếng hỏi:

- Ta định lúc này lập sử đây. Bọn ngươi có ý kiến gì không?

Thế Tích nghe hỏi, vội tâu:

- Hoàng thượng thánh thể không được an. Thái hậu rất nên quyết định ngay đại kế lúc này.

Tây thái hậu sẽ gật đầu nói:

- Ta định chọn một vương tử trong số các thân vương cận chi. Các ngươi nghĩ sao?

Na Đồng lặng thinh, không nói, Thế Tích cúi đầu tâu:

- Ý kiến chọn sử của thái hậu chính như cái tâm của Văn vương chọn hiền. Đấy là việc vô cùng khẩn yếu, và cũng còn là việc vì xã tắc đời sau mà mưu tính. Hiện nay, quốc gia gặp phải lúc hết sức đa sự, thiết tưởng thái hậu cần phải chọn người lớn tuổi mới có thể lâm chính độc lập, mong hữu vọng ở tương lai, không đến nỗi phải giao quyền cho người tá thần. Ý kiến của thần là như thế.

Tây thái hậu nghe xong lời tâu, giơ thẳng cánh tay đập xuống bàn đánh thình một cái, mắt trợn ngược lên, miệng quát lớn:

- Lập sử là một chuyện trọng đại. Ngươi dám nói bậy nói bạ như vậy à?

Thế Tích hoảng hồn bạt vía, vội dập đầu như tế sao, một lúc lâu mà chưa thấy y thôi. Tây thái hậu lại ngó về phía Na Đồng mà nói:

- Còn ngươi? Ý ngươi như thế nào?

Na Đồng bị hỏi, mặt tái xanh lại, tự nghĩ dại gì mà nói khác, để lại phải dập đầu đến trớt trán như Thế Tích. Nghĩ vậy Đồng sẽ cất tiếng đáp:

- Chọn sử là một việc lớn của quốc gia. Xin thái hậu quyết định.

Tây thái hậu chậm rãi nói:

- Nếu vậy, Phổ Nghi, con Thuần thân vương, có được không? Nghi chỉ phải cái con nít quá. Bởi thế, cái người phò tá tất phải chọn lựa một cách thận trọng.

Na Đồng biết Tây thái hậu đã quyết định xong, có tranh luận thêm cũng vô ích. Do đó, Đồng chỉ còn biết thừa thời gian mà tâu thêm vào:

- Dạ đúng thế! Thuần thân vương có tình phụ tử, hơn nữa, còn hiền minh hơn người, rất nên cử để phò tá.

Tây thái hậu nghe câu nói gần với ý mình, bèn nói tiếp:

- Đã như thế thì người nên đi thảo chiếu thư đi rồi đem lại đây!

Na Đồng cúi đầu tâu:

- Khánh thân vương đi Yết Lăng chưa về. Ngày mai quyết phải tới đây. Lúc đó, bọn đại thần sẽ cùng nhau thương nghị và đệ trình thái hậu.

Tây thái hậu suy nghĩ một lát rồi khoát tay một cái, bảo cả bọn rút lui.

Qua ngày hôm sau, Khánh thân vương hồi triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích thuật lại những lời nói của thái hậu cho Khánh thân vương nghe. Dịch Khuông nghe qua thở dài đến thượt một cái nói:

- Trời ơi! Làm sao mà lại lập một thằng bé con như thế kia? Thời thế hiện nay, quốc gia đa sự, cần phải lập một người lớn mới phải chứ?

Thế Tích vội nói:

- Ấy bọn tôi cũng nói như vậy đó. Không ngờ Thái hậu vì thế mà cả giận đấy.

Lại nói bọn Na Đồng thảo chiếu xong, đưa cho Dịch Khuông mang vào cung. Cả bọn còn dặn dò Khuông là trước mặt thái hậu cố tìm cách can ngăn thế nào để có thể huỷ bỏ được cái thành nghị trước đó là tốt, để mong lập được một người lớn tuổi.

Dịch Khuông ừ hữ luôn mồm, rồi chạy vội vào cung yết kiến thái hậu. Lúc Khuông xin vào trước giường để tiến kiến, Tây thái hậu cũng đang trong tình trạng hôn mê bất tỉnh.

Bởi thế Khuông chưa được vào ngay mà còn phải ngồi đợi bên ngoài một lúc lâu.

Bỗng tên nội giám thò đầu ra ngoài cửa sổ lên tiếng ra hiệu cho Khuông:

- Lão Phật gia tỉnh rồi đấy!

Được thông báo như vậy, song trước hết phải chờ bọn nội giám và cung nhân lăng xăng đi lại, kẻ đệ nước, người dâng trà, rối tinh lên mất một lúc rồi mới thấy có lệnh triệu Dịch Khuông. Khuông rón rén bước tới bên giường Tây thái hậu cúi đầu hành lễ, xong Tây thái hậu hỏi:

- Ngươi đã về rồi đấy ư! Việc lập sử, bọn chúng đã cho ngươi biết rồi chứ?

Dịch Khuông vội tâu:

- Nô tài đã biết cả rồi. Hiện chiếu đã thảo xong và đem theo đây, xin Thái hậu ngự giám:

Tây thái hậu tiếp lấy tờ chiếu, đọc một lượt, rồi nhìn Dịch Khuông mà nói:

- Ý kiến ngươi như thế nào?

Dịch Khuông vốn giảo hoạt, tinh ranh, xưa nay chỉ một màu tâng bốc, nịnh nọt Tây thái hậu để thủ lợi, nên khi thái hậu hỏi vậy thì Khuông đã chẳng có can gián gì, trái lại còn im lặng, tỏ ý đồng tình.

Tây thái hậu coi như không có ai có ý kiến gì chống đối nữa, bèn bảo Dịch Khuông:

- Thế là được rồi! Ngươi có thể hạ chiếu, bố cáo thiên hạ ngay đi!

Dịch Khuông lãnh chi bước ra khỏi cung, họp cùng bọn Na Đồng phát chiếu, bố cáo khắp thiên hạ việc lập sử. Sau đó Khuông lại chạy vào cung phúc chỉ, rồi quay ra triệu tập nội ngoại thần cùng tuyên đọc chiếu thư. Mặt khác, Khuông giao cho Thế Tích tới phủ của Thuần thân vương, triệu Tải Phong vào cung.

Chẳng bao lâu, người ta đã thấy Tải Phong cùng đi với Thế Tích vào cung yết kiến thái hậu, Tây thái hậu bảo Thuần thân vương:

- Ta đã lập con ngươi làm sử quân. Y ngươi như thế nào?

Tải Phong dập đầu tâu:

- Nô tài xin hoàn toàn nghe lệnh của Thái hậu.

Tây thái hậu bảo tiếp:

- Con ngươi còn quá nhỏ, không thể không có người chỉ bảo dạy dỗ. Ta đã sai Thế Tích làm thái phó, còn ngươi cũng nên đồng tâm phò tá, chớ phụ lòng ta.

Thuần thân vương Tải Phong tạ ơn lui ra ngoài. Bọn đại thần gồm đủ Mãn, Hán bưng chiếu thư tới phủ Thuần thân vương để đón rước Phổ Nghi vào cung. Không ngờ bà Thái phúc tấn của Thuần thân vương ôm ghì lấy Phổ Nghi, quyết không cho mang đi.

Bọn đại thần đôi ba lần khuyên giải, chỉ thấy bà Thái phúc tấn khóc rống lên bảo:

- Bọn chúng đã giết chết con ta rồi (tức Quang Tự), nay lại tới mang cháu ta đi để giết nữa sao? Ta quyết không bao giờ cho như thế!

Bà Thái phúc tấn vốn là vợ của Lão Thuần vương Dịch Hoan, mà cũng là em gái của Tây thái hậu. Quang Tự hoàng đế chính là con trai của Lão Thuần vương, anh em với Thuần vương Tải Phong. Nếu Phổ Nghi vào kế vị, thì tức là kế vị ngai vàng của chú ruột mình.

Hiện tại, Thái phúc tấn đã không chịu, tự nhiên bọn quần thần thúc thủ vô sách. Phải đợi mãi tới lúc Thuần vương Tải Phong từ trong cung trở về phủ, rõ chuyện, biết bà thương tiếc cháu nội, bỗng tự nhiên rơi lệ. Thuần vương gạt nước mắt bẩm cáo với Thái phúc tấn là chỉ dụ không thể trái nghịch được sau đó, còn khuyên giải một hồi lâu mới có kết quả.

Thái phúc tấn đến lúc này mới biết mình bất lực, đành phải bế Phổ Nghi ra, đặt ngồi trên xe, khóc rống lên một hồi, rồi mới gạt lệ quay vào trong phủ.

Bọn vương công đại thần đưa rước Phổ Nghi kéo thành một đoàn dài y như một đàn ong. Khi đã vào trong cung, chân chưa dừng được một phút, cả bọn đã thấy nội giám hối hả chạy ra phi báo là Quang Tự hoàng đế ở Doanh đài đã băng hà.

Tây thái hậu được tin Quang Tự hoàng đế chết rồi, thở dài một tiếng, quay mình lại, nằm ngay trên giường một lúc lâu mới ngồi dậy. Khi đó, bọn vương công đại thần đã tề tựu đông đủ ở phía trước giường bà để chờ đợi chỉ dụ. Tây thái hậu bèn sai thảo di chiếu. Mặt khác, bà truyền lệnh cho bọn họ trước hết đưa Phổ Nghi lên ngai vàng để chính vị, sau đó Khánh thân vương phải bố cáo vương chiếu cho thiên hạ xa gần đều biết. Trên tờ di chiếu bà không quên cho ghi điều quan trọng nữa là: "Thuần thân vương Tải Phong tạm thời làm Chính sự nhiếp chính vương, chiếu theo lệ phụ chính của Duệ thân vương khai quốc. Với chức vụ này, Nhiếp chính vương sẽ quyết định hết tất cả mọi việc trọng đại, sau đó mới trình lên ngự lãm và đem thi hành".

Như thế mọi việc tiên quyết đã xong. Đến việc tang lễ Quang Tự hoàng đế. Bọn đại thần, mỗi anh một việc, chạy đi như đèn kéo quân để lo liệu đủ thứ, đủ bề. Nhưng giữa lúc rối tinh lên này, bỗng có tin báo Lão Phật gia bệnh nguy.

Lệnh triệu bọn đại thần tiến cung ngay, để chịu di mệnh.

Tin động trời này loan truyền đi nhanh như điện. Cung nội đã loạn rồi, giờ còn loạn thêm. Long Dụ hoàng hậu, Thọ Xương công chúa cùng cả bọn đại thần thân vương hớt hơ hớt hải chạy về cung Tây thái hậu. Họ thấy Tây thái hậu đôi mắt nhắm nghiền, một lời cũng chẳng nói, cả bọn rón rén lại gần rồi đứng im chờ đợi. Long Dụ hoàng hậu đứng sát ngay bên cạnh giường được coi như gần nhất.

Bỗng Tây thái hậu mở choàng mắt ra hỏi:

- Phổ Nghi đã chính vị chưa?

Long Dụ hoàng hậu ghé sát gần lại đáp:

- Chính vị hôm nay rồi. Và cũng đã bố cáo cho thiên hạ biết rồi.

Tây thái hậu im lặng, chẳng biết bà có nghe câu đáp của hoàng hậu hay không. Người ta phải đợi một lúc nữa mới lại thấy bà ấp úng nói lên mấy câu sau đây:

- Chính trị từ nay về sau, ngươi nên cùng với nhiếp chính vương bàn tính rồi hãy thi hành.

Tây thái hậu lại triệu nhiếp chính vương Tải Phong bước lại gần giường, thì thào bàn:

- Ngươi đã chịu trọng nhiệm nhiếp chính vương. Đối với việc quốc gia đại sự, ngươi nên theo ý chỉ của Long Dụ hoàng hậu mà thi hành, không được độc tài, khiến có thể xảy ra tai hoạ về sau.

Tải Phong cúi đầu chịu mệnh. Tây thái hậu có ý muốn nói thêm mấy câu nữa, nhưng đờm đã ào ạt kéo lên bà khiến cho bà nghẹt lại, đầu lưỡi cũng tự nhiên cứng ngắc.

Lời nói của bà vì vậy mà trở thành O ề, nghe không thấy rõ nữa. Bà hình như tức tối lắm, cho nên chỉ thấy hai tay nắm lại rồi cứ mặt giường mà nện xuống thình thình.

Tình trạng đó kéo dài một lúc lâu. Bọn đại thần hầu hạ bên giường đứng im phăng phắc, đợi chờ, lo lắng, nhưng mọi người bỗng thấy Tây thái hậu co giò nhảy bổng một cái ngược lên trên giường, trợn trừng đôi mắt trong tình trạng thực vô cùng đáng sợ.

Long Dụ hoàng hậu vội vàng chạy lại, hợp lực với bọn thái giám, cố giữ lấy bà. Bọn họ có đến ba, bốn người ôm giữ, ấy thế mà Tây thái hậu vẫn nhảy cỡn lên được. Bà lắc bên này, bên kia, tung người lên, dãy dụa, chẳng khác gì một con khỉ cựa dây để mong thoát khỏi khi biết rằng tử thần đang giữ chặt lấy mình.

Bà dãy dụa như vậy một lúc lâu, mới duỗi đôi chân thẳng ra và từ từ im lặng. Trạng thái đó tỏ ra trong ngực, trong ruột bà có một sự đau đớn khủng khiếp, không thể chịu nổi, nằm không được mà ngồi cũng không, chi muốn cựa quậy, đấm đạp, nhưng sức kiệt lực cùng.

Về trạng thái khủng khiếp này, về sau bọn nội giám có kể lại là sức lực của Tây thái hậu lúc bấy giờ có thể nói còn mạnh hơn bất cứ một người nào khác. Chuyện lạ này là tại vì lúc bình thời không bệnh tật, Tây thái hậu rất ham tập luyện quyền thuật. Mỗi ngày, cứ vào lúc sáng sớm tinh mơ, vừa thức dậy, bà thường ngồi trên giường luyện một hồi Bát đoạn cẩn công phu. Khi bà luyện xong, nội giám đệ lên một chén sữa người để bà uống. Uống sữa xong, bà lại ngồi tĩnh toạ một hồi, uống vài hớp nước sâm Cao Ly, rồi mới mặc áo đứng dậy. Sau khi súc miệng, rửa mặt bà lại còn ăn một bát yến sào, xong xuôi cả rồi mới lững thững bước vào lâm triều.

Từ khi ở Tây An hồi loan, ngày nào bà cũng theo lệ đó mà tập thành thói quen. Bởi thế thân thể của bà kháng kiện dị thường. Trước khi chết bà chỉ cảm mạo xoàng, thực không thể nặng đến chết được. Ngay cả trước khi Quang Tự hoàng đế chết một hôm bà cũng còn đủ sức để phát di chiếu, đọc lại do chính mắt mình, hình sắc vẫn thư thái ung dung chẳng có gì nói được là sắp chết cả. Ấy thế mà quanh quẩn chỉ có hai ngày bà đã lâm bạo bệnh. Thật là một sự lạ. Do đó, có người nghi là bà đã uống thuốc độc chết. Lại cũng có kẻ cho là bà đã nuốt vàng mà chết.

Tây thái hậu đã chết. Thân thể bà từ xanh mét tự nhiên biến ra màu đen tím, có người cho thế là bà đã uống thuốc độc mà chết. Thực ra, câu nói đó chỉ là do người đời ghét bà mà gán cho như thế để bõ ghét đó thôi. Nguyên do về cái chết của bà chỉ là do nghiệt căn của a phiến (thuốc phiện) chứ chẳng phải cái gì khác.

Số là năm Nhâm Tý, đời vua Đạo Quang, năm hải khẩu bị ngoại quốc bắt mở toang ra cho bọn ngoại quốc ra vào buôn bán, thì lệnh cấm a phiến cũng phải dẹp. A phiến từ Ấn Độ sang hàng tầu lớn. Người Anh tha hồ chở vào để móc túi người Trung Quốc, khiến từ viên quan người Hán cũng như người Mãn cho đến những tay phú hộ, những bậc nho sinh, tất cả đều phải coi thuốc phiện như chính cái mạng sống của mình.

Tới năm Mậu thân đời Quang Tự, triều đình nhà Thanh xét thấy a phiến có hại lắm, bèn lại quyết định cấm. Tây thái hậu thấy các thân vương giòng tộc Mãn, hút thuốc phiện quá nhiều, sợ rằng nhất thời không thể thực hiện được, bèn nghĩ ra một cách là lấy mình làm gương. Thế là tự thân mình cai trước. Ai ngờ chất thuốc đã ngấm sâu, muốn ngay tức khắc trừ đi cũng đâu có được. Cho nên chỉ hôm sau, bà tự nhiên thấy trong người vô cùng khó chịu. Lúc Quang Tự hoàng đế lâm trọng bệnh cũng là lúc Tây thái hậu giới yên, muốn làm gương cho kẻ khác. Lần đầu vua Quang Tự hôn mê, Tây thái hậu còn có thể cưỡng được. Về sau, đến khi được tin nhà vua đã hắt hơi thở chót ra rồi thì bà cũng đã nằm liệt giường, không còn ngồi dậy được nữa. Và cũng vì thế cho nên bà mới sai Long Dụ hoàng hậu tới thăm bệnh tình của Quang Tự hoàng đế thay mình.

Thế là Quang Tự hoàng đế cùng Tây thái hậu, cả hai đều về chầu trời, chỉ cách nhau trong vòng có hai ngày. Tang tóc trọng đại đó đã xảy ra cho nhà Thanh đúng vào năm Mậu Thân. Tin tức bay đi lẹ như tên bắn. Bọn thân vương, đại thần vội vàng đưa con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi lên ngôi, tôn Quang Tự hoàng hậu lên làm Long Dụ hoàng thái hậu, Thuần thân vương làm nhiếp chính vương.

Mọi việc trọng đại này được thu xếp xong, lúc đó mới nói tới việc tang ma. Từ việc thay bậc đổi ngôi đến việc tang ma, rồi biết bao nhiêu việc khác làm cho chốn cung đình trước đây vắng vẻ trang nghiêm bao nhiêu thì ngày nay ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu.

Thây ma Tây thái hậu nằm ở nơi ngoại điện, một bọn hơn mười anh nội giám tay cầm nhang cháy, khói toả nghi ngút, quỳ lạy chung quanh để giữ xác. Nếu có kẻ tò mò để ý thì sẽ thấy xác Tây thái hậu hôm đó chỉ đắp có mỗi một tấm vải vàng dài, trong ánh nhọt nhạt của ngọn đèn dầu le lói.

Qua ngày hôm sau, mãi tới trưa, người ta mới thấy có mười mấy chú sư Lạt ma, đầu trọc lốc, mặt lầm lỳ, uể oải bước vào điện để lo việc tụng kinh niệm Phật, siêu độ vong linh cho thái hậu.

Những bát nhang lúc này mới được hỏi tới. Những cái lư hương cao nghều nghệu bắt đầu nhả khói. Rồi những tiếng nam mô lúc dài lúc cụt được rên rỉ trong cung cấm thâm nghiêm.

Lúc sinh thời, Tây thái hậu oai quyền hống hách như thế nào, vậy mà nay, mắt vừa nhắm lại, hai chân vừa duỗi, tình cảnh thực không sao tả xiết được cái thê lương ảm đạm. Phải chăng đây đã là một cái gương cho những kẻ hăm hở chạy theo bả vinh hoa, cong đuôi tìm thế lợi.

Lại nói Long Dụ hoàng hậu, sau khi nhận di huấn của Tây thái hậu, cũng bắt chước bà cô mình buông rèm nhiếp chính, dự hẳn vào việc triều đình, chẳng thèm úp mở gì hết.

Còn nhiếp chính vương Tải Phong cũng được lời dặn dò của Tây thái hậu lúc lâm chung, tuân theo mệnh lệnh của Long Dụ thái hậu mà hoàn toàn phục vụ cho bà hơn là cho dân cho nước. Do đó, bất luận gặp một việc khẩn yếu nào, Phong cũng đều lon ton chạy tới thỉnh mệnh của bà ta.

Còn bọn vương công đại thần, lúc Tây thái hậu lâm chung cũng đã được dặn dò kỹ lưỡng, cứ việc làm theo như cái máy.

Trước hết họ lập Phổ Nghi lên làm sử quân, rồi đưa Phổ Nghi lên ngai vàng để chính vị hoàng đế, đổi niên hiệu Quang Tự là Tuyên Thống nguyên niên, đại xá tù tội khắp toàn quốc.

Người cầm vận mạng Trung Quốc lúc này chính là Long Dụ hoàng hậu. Lên ngôi thái hậu rồi, bà bèn nắm hết quyền bính vào tay, giải quyết bất cứ việc chính trị nào dù to dù nhỏ, chẳng đề cho bết cứ ai xen vào. Bởi thế Tải Phong tuy làm đến nhiếp chính vương mà đại quyền chẳng bao giờ có ở trong tay dù chi một ngày. Phong quả thật chỉ là một loại nhiếp chính bù nhìn không hơn không kém, có danh mà chẳng có thực. Chưa hết, Long Dụ thái hậu ngẫu nhiên có chuyện không hợp ý với Tải Phong tức thì cho gọi ngay Phong vào cung, trước là buộc tâu bày rành rọt, sau là nghe bà la rày quở trách. Chính vì vậy, cho nên giữa Long Dụ thái hậu với Tải Phong không thể nào không có chuyện bực bội chán chường lẫn nhau, nhất là đối với Phong. Chính sự bên trong, cũng như bên ngoài vì sự lủng củng này mà bị ảnh hưởng lây rồi dần dần đi tới chỗ đổ nát hư hoại.

Nếu đem so sánh Tây thái hậu và Long Dụ thái hậu, ai cũng đều thấy rằng: Tây thái hậu có tài nhưng vô đức, còn Long Dụ thái hậu đã chẳng những vô đức lại còn bất tài nữa.

Tài của Tây thái hậu có trăm ngàn vạn triệu thì Long Dụ thái hậu hoạ chỉ có được một vài. Ấy thế mà bà ta dám bắt chước Tây thái hậu cho bằng được, cũng buông rèm nghe chính, cũng bắt hết các thân vương, các đại thần phải quỳ mọp trước mặt mình để nghe chỉ, nghe lệnh.

Long Dụ thái hậu bắt chước Tây thái hậu sủng ái tên thái giám Lý Liên Anh, bèn nghĩ tới chuyện tái đưa tên nội giám thân tín trước đây của mình bị Tây thái hậu đuổi cổ ra thuở nọ vào cung để làm tay chân mắt mũi cho mình. Tên nội giám đó chính là Tiểu Đức Trương.

Nghĩ vậy rồi, bà vội cho người ra ngoài tìm cho bằng được Tiểu Đức Trương vào. Biết bao bùi ngùi, biết bao mừng rỡ, bà cắt đặt ngay cục cưng của mình lên chức Nội vụ tổng quản.

Giao cho chức này rồi, bà mới bảo ngầm Tiểu Đức giữ cái vai trò mật thám cho bà, trước tiên phải điều tra tường tận mọi hành động của nhiếp chính vương và báo cho bà hay. Tiểu Đức Trương chuyến này có gió tha hồ phất cờ. Hắn xun xoe chạy vạy, hết đông sang tây, vào cửa này ra cửa nọ, tự biến thành một con chó săn vô cùng đắc lực cho Long Dụ thái hậu. Thế của hắn cũng từ đó trở nên lớn không biết chừng nào mà tưởng. Chỉ trong có mấy ngày thôi, Tiểu Đức bỗng to phồng lên như một Đại Đức.

Tiểu Đức của Long Dụ thái hậu nào có thua gì Lý Liên Anh của Tây thái hậu. Long Dụ thái hậu thấy vườn Di Hoà phong cảnh quá cũ, quá quen, không thích nữa, bèn nảy ra ý mới làm một cái vườn khác tân kỳ hơn. Tiểu Đức đánh hơi được ý kiến này, vội chạy ra ngoài kinh thành tìm một bọn kiến trúc sư vẽ sơ đồ nào điện nọ, nào cung kia, nào lầu này, nào gác nọ... để trình lên thái hậu.

Về việc này, Tiểu Đức chạy mất đến mười ngày, sau đó vào tâu với Long Dụ thái hậu:

- Nô tài đã tính toán xong xuôi cả, chỉ còn phải tìm một khu đất nữa là có thể khởi công. Hiện nay, nô tài tìm một khu đất toạ lạc tại phía đông Ngự hoa viên rất đẹp. Hồi sinh thời vua Đức Tông ngài nghe bọn thầy địa lý nói khác, không chịu cho cất nhà phá cửa gì nơi đây. Theo thiển ý của nô tài thì chuyện đất cát long mạch của mấy anh địa lý nọ chỉ là mê tín tào lao, tin làm sao được. Nếu tài khu đất này mà thái hậu cho xây cất một khu hoa viên tối tân thì tuyệt biết chừng nào! Bốn bên có ao hồ vây quanh, lại có cả suối, cả khe đưa nước từ núi Ngọc Tiến về khiến nước ở các nơi lưu thông được với nhau. Hoa viên này phía trên nếu thái hậu lợp toàn bằng pha lê nữa, thử hỏi có phải là một toà Thuỷ Tinh cung đệ nhất thế giới không? Còn gì đáng kiêu hãnh hơn khi thái hậu có một cái cung gọi là Thuỷ Tinh cung?

Long Dụ thái hậu nghe Tiểu Đức hót, trong lòng khoái sướng lạ thường, nhất là khi bà nghĩ tới lúc hoàn thành rồi, nằm vuốt ve "cục cưng" của bà thì còn gì bằng. Bà vội ra lệnh khởi công ngay. Bà còn bảo Tiểu Đức chọn một số hoạ sư để đưa vào cung vẽ tranh. Bất luận chỗ nào tại cung này, đặc biệt là ở chung quanh tường bà đều cho vẽ cả, màu sắc vô cùng lộng lẫy. Nói đến vấn đề trần thiết bày biện, thì ôi thôi, tất thảy mọi thứ đều phải làm bằng pha lê cho bà. Ở chính giữa cúng, bà cho đặt một trái cầu lớn bằng pha lê trong vắt, rồi gài vào bên trong một trăm chiếc đèn cũng bằng pha lê, sáng quắc. Cứ mỗi buổi tối đến, trăm ngọn đèn được thắp lên, ánh lửa sáng trưng như ban ngày, rực rỡ khắp trong ngoài, chẳng khác chi thế giới thuỷ tinh chút nào.

Toà Thuỷ Tinh cung này khởi công từ năm Tuyên Thống nguyên niên, làm mãi cho tới mùa đông năm thứ hai mới được chừng một nửa. Long Dụ thái hậu tự tay đề tên cho cung này bốn chữ "Nhật linh chiểu hản". Bà lại còn bảo Tiểu Đức trùng tu lại cái mật thất trong cung nội để cho bà "dùng".

Cái mật thất này có chừng hơn mười căn, vô cùng bí mật. Đây là công trình của Tây thái hậu. Những tên nội giám tầm thường không bao giờ có thể biết được. Mật thất này chỉ có mỗi một cửa ra vào. Mà cửa ra vào này lại chỉ có mỗi một mình Tây thái hậu biết được mà thôi. Ngoài cái cửa duy nhất này ra, không còn có gì khác hơn là tường với tường.

Năm Canh Tý, bát quốc liên quân đánh phá kinh thành, Tây thái hậu hạ lệnh cho mấy tên nội giám khuân hết tất cả những đồ bảo vật vào trong mật thất. Rồi sau đó, dìm tất cả mấy tên nội giám này xuống ao cho chết đuối hết, mong tuyệt khẩu, khỏi bị bộ. Nhờ kế đó và nhờ mật thất đó, khi Tây thái hậu trở về cung năm Tân Sửu, tất cả mọi bảo vật tại nơi đây vẫn còn nguyên, chỉ mất những đồ đạc ở nơi khác mà thôi.

Nhưng sau khi Tây thái hậu mất rồi, mật thất này không còn bí mật được nữa. Hon nữa, đã lâu năm không có ai ở nơi đây trông coi, mật thất này cũng đổ nát theo. Vì thế Long Dụ thái hậu cho gọi thợ mộc, thợ hồ vào sửa sang lại.

Mặt tiền của mật thất này còn một bức hoạ thật lớn, vẽ ngay lên bức tường quét vôi trắng xoá. Thật ra bức tường này bằng đá, loại đá xanh vô cùng cứng rắn và mịn màng. Phía dưới bức tường này, giấu kín một bộ phận, chỉ cần lấy ngón tay gạt một cái nhẹ là tự nhiên cả phiến đá dùng làm tường đó từ từ mở ra, để lộ một căn phòng phía trong. Tiến vào căn phòng này rồi ta lại lấy tay gạt một cái chốt ở phía trong, tức thì một bức tường khác lại quay tròn đi, để lộ ra một căn phòng khách khác. Bước vào căn phòng khách mới này, tức thì ta lại thấy một căn phòng khác nữa phía trong. Đó chính là phòng ngủ của Tây thái hậu trước đây. Nhưng để bước vào được căn phòng ngủ này ta lại phải tìm cái bộ phận bí mật để gạt chốt, lúc đó tự nhiên căn phòng vụt biến thành thiên tỉnh rồi từ thiên tỉnh lại vụt biến thành thư trai, rồi thư trai vụt biến thành thiên tỉnh, thiên tỉnh lại biến thành phòng khách, cứ như thế biến đi biến lại nhiều lần, có thể nói là biến mãi không cùng, và cứ lần lần đi sâu mãi vào, hết từng nọ đến từng kia, cuối tận chót cùng lúc đó mới tới được phòng ngủ của Tây thái hậu.

Nói đến phòng ngủ của Tây thái hậu này thì phải kể tới một cái "không quản" (tức là cái ống rỗng hai đầu) đặt ngay tại giường ngủ của bà. Cứ mỗi lần đi ngủ, bà đặt cái "không quản" này bên cạnh gói, điều quái lạ là bà có thể nghe được những tiếng động xa hàng trăm bước mà vẫn rõ mồn một. Những tiếng nói tiếng cười, những câu chuyện thì thào mưu tính bên ngoài, bà đều nhờ cái ổng "không quản" mà nghe, như ngồi nghe ở trước mặt vậy.

Lúc sinh thời, Tây thái hậu rất sợ có kẻ ám toán mình, nên bà mới phải dùng đến loại máy móc tinh vi và tối tân đến như thế. Bọn nội giám cũng có kẻ đã nhìn thấy cái ống này.

Cái ống này vốn do đại tướng Triệu Huệ xuất chinh trước đây đã tìm được trong cung vua Miến Điện. Nó được làm từ một cái sừng thú đẽo gọt mà thành. Có điều là không ai biết nó là sừng của giống thú nào và ở đâu.

Long Dụ hoàng thái hậu sửa chữa lại mật thất rồi từ đó mặc tình hành lạc trong cung cấm, dần dần đi đến chỗ tồi tệ, không còn ra thể thống nào nữa. Giữa lúc này, bỗng một câu chuyện xảy ra không ngờ.

Số là Mục Tông còn có một vị phi tử tên gọi Du quý phi. Bà này đã thông minh lại còn có tài. Bất luận cầm kỳ thi hoạ, tất cả đều tinh thông cả. Lúc Mục Tông (tức Đồng Trị) lập hoàng hậu, thì Tây thái hậu có ý muốn sách lập Du phi làm hoàng hậu, bởi vì nàng là con gái của Phương Tú. Ý của Tây thái hậu thì thế, nhưng ý của Hiếu Trinh thái hậu lại khác. Bà không tán thành. Kết quả như ta đã biết là cả hai để mặc cho hoàng đế tự, chọn lấy. Có quyền rồi, ngài bèn chọn con gái của Sùng Y làm hậu, còn con gái của Phượng Tú thì được phong làm phi, tức là Du phi.

Tây thái hậu trong lòng tuy không vừa ý chút nào nhưng việc đã xảy ra như thế, biết làm sao hơn. Song bà thường hay dặn bảo hoàng đế rằng:

- Hoàng hậu tuổi quá trẻ. Du phi có tài. Ngươi nên coi trọng nàng một chút.

Đồng Trị chỉ biết dạ dạ luôn mồm để làm vừa lòng thái hậu mà thôi. Thực ra, ngài chỉ đặc biệt sủng ái có Hiếu Triết hoàng hậu, con gái của Sủng Y. Tây thái hậu vì thấy Du phi không được lập làm hoàng hậu, cho nên bà cũng có ưu đãi hơn. Rồi đến lúc Quang Tự lên nối ngôi, Du phi vẫn ở bên cạnh Tây thái hậu để hầu hạ như cũ. Điểm đặc biệt nhất khiến Tây thái hậu ưu đãi Du phi, là nàng có cái tài ăn nói hoạt bát, xử sự khéo léo, tất cả mọi việc, mọi chuyện đều có thể làm vừa lòng Tây thái hậu. Vì thế Tây thái hậu rất thích nàng, và không muốn cho nàng ở xa mình.

Hồi đó, Long Dụ hoàng hậu tuy là cháu ruột của Tây thái hậu, nhưng lại không được bà yêu quý. Hậu thấy mình không bằng được Du phi, tự nhiên đem lòng ghen ghét. Bởi thế, trong những lúc trò chuyện, hậu thường dùng những lời mỉa mai để miệt thị nàng. Du phi không chịu nổi, bèn đem chuyện này khóc lóc tố cáo trước Tây thái hậu.

Tây thái hậu cả giận, lập tức triệu Long Dụ hoàng hậu tới trách mắng cho một mẻ. Bà bảo:

- Mi đường đường là một hoàng hậu, còn Du phi chỉ là một con nhạn lẻ loi đơn chiếc. Bất luận trường hợp nào, mi phải thương lấy hắn mới được chứ? Mi là cháu gái ta đương nhiên là mi phải quý những người mà chính ta đây quý mến mới phải chứ? Ta thật không ngờ mi lại cậy thế khinh người đến vậy, để cho một con mẹ goá phải than thở, khóc lóc với ta. Đáng lý mi phải giúp đỡ hắn mới đúng chứ?

Chỉ vài câu mắng mỏ đó thôi cũng đã quá đủ để cho Long Dụ hoàng hậu tởn đến già. Mỗi lần gặp Du phi, đến một cái liếc bà cũng không dám nữa chứ đừng nói đến chuyện xoe xiên. Thói đời được cưng thì lại làm bộ lên mặt. Thực thế, từ hôm đó, Du phi đâm ra kiêu căng ngạo mạn. Cung tần phi tử, có còn ai được nàng coi trọng nữa đâu. Song đối với hai phi Trân, Cẩn của Quang Tự hoàng đế, nàng lại hết sức tử tế, đem hết tâm ngầm giúp trước Tây thái hậu.

Năm Canh Tý loạn quyền phỉ, Tây thái hậu bức tử Trân phi, Du phi thường trong những lúc vắng vẻ khóc lóc thương tiếc Trân phi không lúc nào nguôi. Rồi những lúc thấy Long Dụ hoàng hậu bắt nạt Cẩn phi, Du phi cố đem hết sức mình để che chở cho Cẩn. Nàng nói thẳng với hoàng hậu:

- Nàng ta có hai chị em đồng thời tiến cung hầu hạ hoàng thượng. ân sủng chưa thấy đâu, mà một đã chết tức tưởi rồi. Ấy thế mà bọn ta lại còn bắt khoan, bắt nhặt này nọ, thì chẳng hoá ra bọn ta nhẫn tâm quá sao? Mà cũng tiểu nhân quá sao?

Long Dụ hoàng hậu bị Du phi "dạy" cho một hồi như vậy, từ đó cạch luôn, không dám nạt nộ Cẩn phi nữa. Chính nhờ được Du phi ám trợ tích cực như vậy, cho nên Cẩn phi mới dễ thở trong những ngày về sau này. ân nhân đem hết tâm lực vì mình như vậy đấy, nhưng Cẩn phi nào có biết gì. Âu cũng là một điều đẹp trong muôn vàn cái xấu xa bẩn thỉu của cung Thanh.

Nhưng từ khi Quang Tự hoàng đế mất rồi, thì tình thế này khác hẳn. Tây thái hậu mất theo sau vài hôm. Phổ Nghi lên ngôi, nắm quyền đại thống, Long Dụ hoàng hậu được phong là hoàng thái hậu, Cẩn phi cũng được phong lên làm thái phi. Duy chỉ có Du phi, vốn là phi tử của Mục Tông hoàng đế nên không được gia phong.

Chiếu lệ phi tử, khi vào yết kiến thái hậu, miệng phải tự xưng mình là nô tài. Du phi đối với Long Dụ hoàng hậu trước vốn bằng vai. Ấy thế mà ngày nay, bắt Du Phi phải tự xưng mình là nô tài khi gặp Long Dụ hoàng hậu thì thật là một chuyện khó thuận tai quá. Bởi vậy, Du phi quyết không chịu tới gặp nữa. Trong cung cấm, ai cũng cố khuyên Du phi, nhưng nàng vẫn không chịu, chết cũng không chịu.

Ít lâu sau, ngày đi yết lăng đã tới. Đó là lăng Tây thái hậu. Từ nhiếp chính vương trở xuống cho tới bọn vương công đại thần, ngay cả Long Dụ thái hậu nữa, cũng như toàn thể phi tần trong cung cấm, tất thảy đều phải có mặt.

Đoàn người tới lăng làm lễ xong xuôi. Du phi trò chuyện với Tấn phi, Cẩn phi, lúc này đều đang có mặt tại đấy. Du phi thấy bọn thân vương đại thần tề tựu đầy đủ, bèn bước lên, nghiêm nét mặt hỏi Thuần thân vương:

- Ta xin hỏi chư vị: hoàng thượng nối ngôi báu, vậy chỉ nối ngôi Đức Tông hoàng đế hay có cả Mục Tông hoàng đế nữa?

Thuần thân vương bị Du phi hỏi một cách đột ngột, thộn mặt ra một lúc rồi mới trả lời:

- Tự nhiên là nối cả ngôi Mục Tông hoàng đế nữa chứ!

Được Thuần thân vương xác định như vậy rồi, Du phi tự cho mình như đã có một cái thế quá mạnh, bèn dõng dạc tuyên bố:

- Mục Tông Hiếu Triết hoàng hậu nay đã quy tiên, người độc nhất còn lại duy chỉ có ta, hoàng thượng đã gọi là thừa kế cả ngôi báu của Mục Tông hoàng đế, thế thì tại sao Long Dụ hoàng hậu lại gọi được là mẫu hậu còn ta chỉ là một tên nô tài?

Thuần thân vương nghe hỏi xong, ớ ra, mắt trợn ngược lên, không biết trả lời cách nào. Thế là Du phi quỳ ngay gối xuống trước lăng Tây thái hậu bù lu bù loa, khóe rống lên.

Đứng trước tình trạng nan giải này, Thuần thân vương đành phải khuyên về cung rồi sẽ bàn tính lại. Được lời hứa hẹn đó trước quần thần, Du phi mới chịu gạt lệ, lên xe về cung.

Nhưng khi về kinh rồi, bọn Thuần thân vương ngày một ngày hai quên béng ngay lời hứa trên đối với Du phi.

Đến kỳ yết lăng thứ nhì, Thuần thân vương bận việc không đi được phái Tải Chấn thay mặt mình. Trong cung, phi tần tất nhiên kỳ này lại cũng đủ mặt như lần trước. Du phi lần này nhắc lại chuyện, sau đó đòi Tải Chấn lập tức tuyên cáo cho bà. Tải Chấn không dám giải quyết, lấy cớ là không có mặt Thuần thân vương. Sự trả lời né tránh này làm cho Du phi nổi máu điên lên. Phi cho rằng Thuần thân vương lần trước thất tín, tất nhiên là có dụng ý xấu với bà, không thể tin được. Lần này bà đòi sự việc phải rõ ràng, nếu không, bà nhất định sẽ chết ngay tại trước lăng. Vừa nói xong lời, bà liền xông thẳng vào cây cột trụ, định đập đầu tự tử. Tấn phi và Cẩn phi đứng cạnh thấy thế, hoảng hồn bạt vía, vội nhào tới níu lại, rồi cố tìm lời khuyên can an ủi, đồng thời đòi Tải Chấn quay về ngay Bắc Kinh, bàn tính gấp việc này với Thuần thân vương. Chẳng mấy chốc một tờ chiếu chỉ đã hạ xuống. Tải Chấn chạy thẳng lên lăng, tuyên đọc phong cho Du phi làm thái phi, và khi tới Thái hậu khỏi phải xưng nô tài, đồng thời chu cấp chiếc xe loan nữa, đón bà vào cung.

Nghe rõ ràng chiếu chi rồi, Du phi mới chịu thôi. Việc rắc rối đến đây coi như chấm dứt.

Nếu truy nguyên ra thì việc này có một nguồn gốc xa xôi nhưng rất rõ rệt. Số là Long Dụ hoàng hậu ở trong cung cấm làm bậy quá nhiều, có thể nói không việc bậy nào mà bà không làm, cho nên Du phi lấy làm khinh, quyết nhất định không chịu xưng nô tài. Nguyên do chuyến này quá nửa là chỗ đó.

Lúc còn sinh thời Tây thái hậu mỗi khi trong cung có diễn tuồng, hát bồi, Long Dụ hoàng hậu thường hay ngồi bên cạnh Tây thái hậu để xem hát. Hồi đó, những cuộc vui như vậy được tổ chức vào những khi gặp thời gặp tiết, ví dụ như Nguyên đán, Trung thu... Bọn kép hát, đào nương theo lệnh triệu như các năm trước, lục đục kéo vào cung để diễn. Ngoài bọn phi tần, cung nhân trong cung nội ra, ngay cả các phúc tấn cũng như cách cách của các thân vương, hôm đó, cũng ùn ùn kéo vào cung để dự cuộc vui.

Trong số kép hát, Liễu Du Các được thái hậu sủng ái, cho cả vợ và con gái vào cung để hầu hạ thái hậu. Cậy thế được cưng yêu đó, Các cũng tòn tòn vào cung cấm, ném tất cả những kẻ ghen ghét với vợ con mình ra sau ót. Nhưng từ khi Tây thái hậu chết rồi, vợ và con gái của Các đương nhiên không còn lý do gì ở lại cung nội, đành phải cuốn gói trở về nhà. Lúc này, Long Dụ hoàng hậu cũng muốn xem hát lắm, nhưng gặp lúc đại tang, thành thử sợ có điều phạm vào lễ nghi, luật lệ. Mãi về sau, một là tang cớ đã gần như nhạt, hai là thèm đến không chịu nổi, thế là bà cũng theo bọn phi tần đi xem hát. Tên kép hát Liễu Du Các lúc này cũng được vời vào cung nội để diễn cho bà xem. Võ hi của Các kể ra thì hay tuyệt, ít người bì kịp. Hồi Tây thái hậu còn sống, mỗi lần Các hát xong một tuồng, bà thường hay thưởng cho hắn một số tiền, Long Dụ hoàng hậu cũng muốn tỏ ra ta đây oai, cũng bắt chước Tây thái hậu ban ơn cho bọn kép hát mỗi lần hát xong một tuồng, nhất là cho Liễu Du Các, ít ra cũng được một trăm lạng.

Cũng vì cái lợi đó, cho nên Các cố hết sức để đóng tuồng để được ơn thưởng đặc biệt. Trớ trêu thay, trong khi Các trổ tài trổ lực, bỗng một bà phúc tấn "dính" ngay phải mới chết chứ. Thực ra, thì vào cuối đời Thanh chuyện vợ con của bọn vương công đại thần mèo chuột với đám kép hát không thiếu gì coi như biết cũng để đấy mà thôi. Nhưng trường hợp kép Liễu Du Các này thì thật hy hữu, bởi vì Các dám chơi trèo mãi lên cho tới bà phúc tấn đệ nhất của triều đại nhà Thanh, là bà phu nhân của Thuần vương, mới nhiều chuyện chứ. Bà Đại phúc tấn này chính là mẹ đẻ ra Phổ Nghi hoàng đế tại triều hồi đó.

Lúc mới đầu, bà với Liễu Du Các mới có chuyện mắt đi mày lại, nhưng dần về sau, người ta đã thấy hai người "dính cục", lại với nhau như keo sơn. Có điều, tại nơi cung đình, không giống như ở các chỗ khác. Bởi vì nơi đây, tai mắt nhiều, chạy đâu cho thoát bọn cung nhân dòm ngó. Bởi vậy, bà Đại phúc tân nhân một lúc tạm nghỉ trên sân khấu, không ai đề ý, bèn lén ra bên Thái hồ thạch đứng nấp đó để đợi kép. Thực thế, bà chẳng phải tốn bao nhiêu thì giờ, kép Các đã khéo léo theo đến gặp bà rồi. Vừa thấy mặt kép yêu, bà khẽ vả một cái nhẹ vào má trái kép Các, bảo:

- Cậu hát quả hay thiệt! Minh khoái xem cậu hát quá!

Liễu Du Các được khen, phổng mũi lên, nhưng cố làm ra vẻ khiêm nhường, khê cất tiếng thưa:

- Không dám, phúc tấn quá khen đó thôi!

Bà Đại phúc tấn lại nói:

- Nơi đây đông người quá, sợ có kẻ dòm ngó, bất tiện trò chuyện. Nếu cậu rảnh, mời cậu lại phủ chơi. Vương gia cứ sáng sớm lên triều, mãi quá trưa mới về. Trong khoảng thời gian đó, cậu có thể tới phủ, bọn mình trò chuyện thì không còn gì phải lo ngại nữa.

Liễu Du Các vốn đa tình đa dục, lẳng lơ giảo hoạt khi nghe được lời dặn dò của bà Đại phúc tấn, sướng đến điên người, biết đây là một cơ hội ngàn năm một thuở, đời nào chịu bỏ lỡ, vội dạ dạ mấy tiếng liên tiếp, tỏ ý vâng chịu rồi mới vội vã quay trở lại sân khấu.

Đêm đó, xem xong tuồng, bà Đại phúc tấn tạ ơn Long Dụ hoàng hậu rồi ra về, trong lòng khấp khởi mừng thầm.

Qua ngày hôm sau mặt trời đã lên cao, Liễu Du Các quả nhiên mò tới. Hắn nhắm cửa phủ Thuần thân vương mà tiến bước. Đến cổng hắn thấy quân cảnh vệ đứng lố nhố khắp đó đây, không dám vào. Hắn đứng xớ rớ một hồi, ngó mãi, nhưng rút cuộc cũng không dám. Hắn đứng thẫn thờ thêm một lúc nữa, phân vân không biết làm sao. Bỗng tự nhiên, khi phúc đến thì tâm linh hắn sáng nhanh lạ lùng. Hắn đi ngay ra cổng sau. Hắn cho rằng cổng trước có nhiều lính gác, ắt cổng sau phải ít đi, đôi khi không có nữa.

Phủ đệ của Thuần thân vương có một khu vườn hoa ở mặt sau rất lớn. Khi Các chạy vòng ra mặt sau, đến cổng vườn hoa, thì thấy ngay trước cửa cổng, có một tiểu cung nữ đang đứng chờ. Tiểu cung nữ thấy mặt Các thì cười khì khì, cất tiếng hỏi:

- Ông có phải là Liễu đại quan nhân đó không?

Các thấy hỏi, vội gật đầu lia lịa đáp:

- Phải! Phải! Chính phải đấy!

Con tiểu cung nữ bèn nói:

- Phúc tấn bảo tôi đợi ở đây đã từ lâu rồi.

Nói đoạn, con tiểu cung nữ tủm tỉm cười, nguýt Các một cái thật dài, ngoắc Các theo. Liễu Du Các theo tiểu cung nữ vào trong vườn, quanh hết lối tắt đến đường ngang, đi xuyên qua bên này một lát rồi lại xuyên sang bên kia một lúc, đi loanh quanh một lúc lâu, hết mấy khúc đường quanh nữa mới đến một nơi mà Các chỉ thấy có lầu son gác tía trùng trùng điệp điệp.

Cung nữ bảo Các:

- Quan nhân hãy ngồi đây chơi, tôi vào báo cho phúc tấn hay đã nhé.

Nói đoạn, nó ba chân bốn cẳng chạy vào phía trong.

Một lát sau, con cung nữ chạy ra, miệng cười tủm tỉm bảo Các:

- Quan nhân hãy vào chơi. Theo tôi nhé!

Liễu Du Các gật đầu, lòng vừa mừng nhưng cũng vừa run, vội theo con tiểu cung nữ đi vào phía trong toà lâu đài, bước vào trong một căn phòng khách trần thiết hết sức trang nhã.

Mời Các ngồi xong tên tiểu cung nữ rót một chén trà nóng đặt lên bàn đãi khách. Đúng lúc đó, Các bông nghe tiếng động của bước chân đi tới gần. Hắn quay đầu lại, thì ra chính là bà Đại phúc tấn đêm qua. Bà nói tiếng Bắc Kinh rất thạo, miệng cười tủm tỉm, bảo Các:

- Hay lắm! Làm thế nào mà cậu tới đây được? Và tại sao mãi đến bây giờ mới tới vậy?

Liễu Du Các vội cười đáp:

- Trễ là tại tiểu nhân không biết đường, lại mất lối, phúc tấn tha lỗi cho.

Bà Đại phúc tấn bảo Liễu Du Các:

- Chỗ này trò chuyện không tiện. Bọn mình vào trong này kín đáo hơn.

Thế là hai người lại đi vào phía trong thêm một đoạn nữa về phía đông, qua không biết mấy căn nhà căn phòng nữa.

Tại điểm mới này lại còn đặc biệt hơn nữa. Nơi đây, trang trí toàn là đổ cổ quý giá, rồi vàng, rồi ngọc, rồi châu báu, hoa cả mắt. Bà Đại phúc tấn bảo Các ngồi xuống. Nước trà, bánh ngọt được mang lên, chuyện trò hàn huyên bắt đầu.

Được lúc lâu, bà Đại phúc tấn bảo con tiểu cung nữ vào trong nhà lấy một bình rượu cúc ra. Nói rồi, lúc đó thấy vắng người, Liêu Du Các mới hỏi Bà Đại phúc tấn:

- Vương gia lúc này vẫn chưa về?

Bà phúc tấn đáp:

- Ngày thường thì đã về rồi. Nhưng hôm nay có ý chỉ của Thái hậu, vương phải vào cung để hội nghị. Có lẽ phải đến chiều tối mới về tới nhà.

Giữa lúc hai người trò chuyện, con tiểu cung nữ đã chạy lên một tay bưng một mâm cơm rượu thịnh soạn, miệng cười chúm chím, đặt lên bàn.

Sau đó, nó mở cái lồng bàn, thật là đủ sơn hào hải vị so hai đôi đũa bằng bạch ngọc, bày ra trước mặt môi người chiếc chén cũng bằng bạch ngọc rồi nắp bình rượu, rót đầy hai chén, rồi mới khoanh tay đứng hầu bên cạnh.

Kép Liễu Du Các ngửi thấy mùi rượu trong chén thơm phưng phức, một mùi thơm kỳ lạ, tưởng như hôm nay mình được lên ăn yến trên Diêu trì của bà Tây vương mẫu. Mùi thơm phưng phức càng xông lên mũi Các. Hắn không chịu nổi nữa, liền nâng đại ly rượu đưa lên môi nhấm nháp, chẳng cần đợi cho bà Đại phúc tấn mời mọc. Hắn vừa mới nhắp có một hớp, mà cảm thấy như rượu chạy khắp toàn thân, lồng vào ruột, chạy vào mạch máu, tuôn ra cả lỗ mũi, không chỗ nào là không thấy mùi thơm kỳ lạ của rượu. Nhân lúc khoái sướng đến cực độ vì thứ rượu quý, Các bèn cất tiếng hỏi bà Đại phúc tấn.

- Là thứ rượu gì, mà thơm ngon quá vậy? Thực là một thứ rượu hiếm có trên đời.

Bà Đại phúc tấn cười đáp:

- Đấy chính là ngự tửu của Lão Phật gia đấy. Hồi nọ, quốc vương Cao Ly đã chẳng tiến cống đó sao. Năm đó, lễ vạn thọ Cao Tông hoàng đế, quốc vương Cao Ly sai sứ tiến cống bản triều ta. Trong số đồ cống, có mười bình rượu tân kỳ này. Cứ theo như lời tường thuật của sứ thần Cao Ly, thì thứ rượu này chính do tay quốc vương Cao Ly ủ men, gây mốc, và cất đấy Khi cất, nhà vua lấy năm thứ cúc đủ năm mầu, đem tẩm với mật ong, rồi trộn vào. Cất thứ rượu này nghe nói phải có lối cất riêng, vô cùng đặc biệt, chứ không như cất thường. Rượu cất thành được gọi là "Cúc Hoa Băng Lân Tửu". Người được uống thứ rượu này, đã thêm tuổi thọ lại tráng linh, kiện sức nữa. Từ đời vua Cao Tông rượu để lại cho đến nay, chỉ còn có một nửa, nghĩa là mười bình chỉ còn lại có năm. Có một hôm, Tây thái hậu bỗng nhớ tới chiếc bình rượu này. Bà bèn cho Thuần thân vương hai bình. Vương thấy đây là rượu quý nếu không phải là ngày lễ tế, quyết không đem ra uống bừa bãi. Hiện nay còn một bình nữa chưa khui. Rượu mà hôm nay bọn mình đang uống đây chỉ là rượu chiết trong chiếc bình uống dở đó thôi.

Nói đoạn, bà Đại phúc tấn có lẽ cao hứng lắm, giơ cao chén rượu của mình tợp cạn. Từ đó, cả hai đều đắc ý với thứ rượu quý, cất chén liên hồi, có vẻ tâm đầu ý hợp lắm rồi.

Con tiểu cung nữ đứng bên cạnh thấy tửu lượng hai người khá lắm, cứ việc thả dàn rót tiếp. Chuyến này thấy của lạ, lại có người đẹp ngồi trước mắt, Liễu Du Các đâm ra quá chén, mặt đã thấy đỏ, người đã thấy lắc lư, ngồi hình như không vững nữa. Còn bà Đại phúc tấn mặt hôm nay đỏ còn hơn gấc chín. Mắt bà liếc lia liếc lịa, tình trong người dường như đã có cơ muốn phá trái tim mà nhảy ra ngoài. Cặp tình nhân, một đệ nhất phu nhân với một kép hát, thực đã đến lúc mùi mẫn. Hai người cùng cười cùng kề vai sát vế, cùng mắt đi mày lại. Đã đến lúc quá sây rồi, không những say về rượu mà còn say về tình, bà Đại phúc tấn, bèn bảo con tiểu cung nữ dẹp hết mâm rượu, để đưa bà cùng với tên kép Các vào phòng trong vầy duyên cá nước.

Thế là từ đó, kép hát Liễu Du Các ngày ngày ngang nhiên vào trong phủ đệ của Thuần thân vương. Trong phủ, nào là cung nhân, nào là bộc phụ, nào nô, nào tỳ, không một kẻ nào là không biết chuyện này, nhưng biết mà đâu dám nói, và nói để làm gì, để kệ cho những kẻ giàu sang quyền thế ăn vụng chứ, mình cũng có chút lợi là được rồi.

Thực thế, từ khi lén lút vào trong phủ, ngoại tình với Đại phúc tấn, Liễu Du Các cũng chịu khó bỏ tiền ra để đấm móm mấy đứa nô tỳ biết chuyện. Trong phủ Thuần thân vương, không một đứa nô tỳ nào là không được. Ấy thế nhưng sự đời thường có những việc xảy tới mà không ai có thể ngờ trước được. Số là kép Các trong khi quá sướng, quá đắc ý, đã quên mất một tên: đó là tên quan sĩ Lão Cửu. Các đã quên rằng Lão Cửu đang ghen ngược với hắn, bởi vì trước đó chính bà Đại phúc tấn là con mồi của Cửu, khiến Cửu không còn được một chút phần thừa hương rớt nữa mà đến cả tiền cũng chẳng được một cắc thêm. Các chính là kẻ thù cướp cả tiền lẫn tình của Cửu.

Không tính được cái chuyện tình nữa ta phải xoay sang chuyện tiền, Lão Cửu liền tìm cách gỡ gạc kép Các. Cửu ta cứ sáng sớm đã tới chực sẵn tại cửa vườn hoa. Vừa thấy mặt kép Các, Cửu hỏi tiền thẳng cánh, không do dự, e dè gì. Tiền mới xong, chứ nếu không ắt là có chuyện. Cửu doạ thế, thử hỏi Các không "xuỳ" ra sao được? Khổ cái là Cửu ta bắt được thóp Các, lần đầu thì ít, nhưng lần thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư, thứ năm...

Cửu ta đâu có chịu cái số tiền mà hắn cho là tiền "gà chết" đó? Hắn đòi càng ngày càng cao, đến độ anh chàng kép Các tự thấy mình không còn cách gì để cung ứng cho hắn nữa. Các cảm thấy mình bị "làm tiền" một cách trắng trợn quá, vừa giận vừa tức, đâm liều, không thèm cho nữa, mặc cho mọi việc đến đâu thì đến.

Lão Cửu thấy kép Các bắt đầu lờ hắn đi, thì nổi xung lên, răng nghiến ken két, chỉ vào mặt Các mà doạ nạt:

- Coi chừng. Thằng khốn kia, ông mách cho vương gia biết thì bỏ mẹ mi có chầu, nghe chưa?

Từ khi quen biết bà Đại phúc tấn, Liễu Du Các tự nhiên ăn xài sang. Nhất cử nhất động, cái gì cũng tỏ vẻ quý phái ra mặt. Nào ăn vận, nào đãi đằng, tất cả đều phải hơn người.

Đến vợ con, Các cũng đều cho xài của lạ, của quý, nào trâm giắt đầu, nào xắc tay, nào vòng, nào xuyến, hết thảy đều là của lạ. Người ta tự hỏi Các chỉ là một tên kép hát, tại sao lại có thể có được những đồ quý giá, phần lớn đều là những đồ tiến cống từ nước ngoài đưa vào? Đừng nói đến một tên kép hát, ngay đến các bậc quan to, quan lớn, nhất phẩm, nhị phẩm cũng chưa chắc đã có được những bảo vật như vậy nữa là! Một tên kép hát, dù có hay được thái hậu ân thưởng đi nữa, thì quyết cũng không thể có những của lạ như thế được.

Người xài bảnh nhất khoái thưởng cho bọn con hát nhất là Tây thái hậu, ấy thế mà cũng chỉ cho bọn này vàng bạc, tơ lụa là cùng, chứ chưa từng nghe nói đến bảo vật.

Những nghi vấn đó không cần phải tìm lâu mới ra câu đáp. Người ta đã nghĩ ngay tới mối tình vụng trộm giữa Các và bà Đại phúc tấn.

Chính giữa lúc lời ong tiếng ve xộn xao này, Các lại bị Lão Cửu chỉ vào mặt hăm doạ đòi quyết ăn thua đủ với hắn. Mà trong vương phủ, Lão Cửu đâu có phải tay xoàng.

Bà phúc tấn được rò câu chuyện, đùng đùng nổi giận, nghiến răng dằn giọng nói:

- Hừ! Ta nghĩ hắn làm việc lâu năm nên mới cho hân có địa vị ngày nay. Không ngờ hắn lại dám vô lễ như thế. Để ta bảo vương gia đuổi cổ nó đi cho rảnh.

Quả nhiên, vài ngày sau, Thuần thân vương cho gọi Lão Cửu lên nhà trên và bảo:

- Ngươi theo ta đã lâu, ta lấy làm bất nhẫn phải đuổi ngươi đi. Song phúc tấn lại không vừa lòng ngươi. Vậy ngươi hãy thu xếp theo ta qua nơi khác ở ít láu.

Lão Cửu không dám trái lệnh, đành dạ dạ luôn miệng rồi lui ra. Sau đó, Cửu thu xếp hành trang đi chỗ khác theo như lời Thuần thân vương dạy. Đi rồi, nhưng Cửu đâu có chịu bỏ cuộc, hơn nữa thua như thế này, Cửu tức lắm.

Vốn không phải kẻ thường gặp việc khó mà nản chí, Cửu tức tốc huy động bạn bè vẫn thường chè chén xưa nay với nhau, kéo rốc tới cổng vương phủ để chờ đợi Các, quyết ăn thua đủ.

Chẳng bao lâu, kép Các như thường lệ nghênh ngang bước những bước thật dài tới vương phủ, như chẳng coi ai ra gì hết. Vừa đến cổng, Các chạm mũi ngay vào mặt Lão Cửu, Cửu chẳng nói chẳng rằng, chìa ngay cánh tay phải ra, hất cao cái bàn tay bự vào mặt Các để đòi tiền. Thái độ của Cửu hôm nay có vẻ hống hách hơn những ngày nọ, có lẽ hắn ỷ có đồng bọn đang nấp sẵn đâu đây chăng.

Nhưng lúc này, Các đã biết Cửu bị tống khứ đi chỗ khác rồi, Các đâu có sợ Cửu nữa. Thế là Các ngoảnh mặt làm thinh, như có ý không thèm đếm xỉa tới. Cửu đòi gắt. Lời qua tiếng lại đôi lần, câu chuyện đâm ra găng. Găng quá đôi bên dùng đến võ lực để giải quyết.

Lúc ra đi, Cửu định tâm chuyến này cho Các một phen vỡ mày vỡ mặt, cho nên chỉ mong Các ta gây ra chuyện để gọi đồng bọn tới cho Các ăn đòn hội chợ. Việc đã đến lúc phải đấm đá, Cửu vội ra ám hiệu, tức thì đồng bọn của Cửu từ trong các góc tường, trong các ngõ kẹt xông ra.

Nhưng Cửu không ngờ Liễu Du Các vốn xuất thân từ một tên xướng võ sinh, đôi tay cũng thuộc loại có hạng, chứ đâu phải vừa. Các thấy bọn Cửu xông ra, nghĩ rằng không dùng tới võ lực không xong, tức thì tay đấm chân đá tới tấp, bao nhiêu bản lãnh vốn có đều mang ra hết rồi, liếc nhìn thấy có một khoảng trống, hắn nhảy vút ra, để dễ bề xoay trở.

Ra được nơi đất trống rồi, Các tả xung hữu đột, gạt bên nọ, đấm bên kia, thi thố hết mọi sở trường về võ thuật của mình ngày trước. Bọn Cửu không ngờ vớ phải tay độc, cứ tưởng đông người xông đại vào, ôm đại lấy, đấm mỗi người một đấm là kẻ khốn kia phải bỏ mạng. Sự đời nhiều khi biết đâu mà tính trước. Cả bọn em út của Cửu bị Các đánh cho một trận tơi tả Ngay cả Cửu cũng bị Các chặt cho một cái vào cánh tay trái gây luôn, chỉ còn cách ôm kẹp vào người mà chạy trốn. Chiến trường sôi động không mấy phút mà đã phải thu dọn cấp kỳ. Cửu vội hè bọn anh em chạy mất dạng.

Liễu Du Các đại thắng keo đầu, lấy làm đắc chí lắm. Hắn lại ngang nhiên cất bước vào vương phủ, chẳng thèm để ý tới Cửu nữa.

Lão cửu đã bại, nhưng đâu có chịu thua. Cửu còn phải báo thù chứ? Suy nghĩ mãi một hồi, Cửu vô mạnh vào đùi đến đét một cái, buột miệng nói:

- Có rồi! Có rồi! Kế ở đấy chứ đâu mà phải suy nghĩ mãi?

Thoạt đầu, Cửu nghĩ rằng hắn sẽ đem câu chuyện này tố cáo với Thuần thân vương, nhưng sau nghĩ lại và lý đoán rằng vương gia sẽ không tin hắn, cho rằng hắn bị bà phúc tấn đuổi sinh đặt điều. Rất có thể vương giả về phủ cật vấn chuyện này, bà phúc tấn lại mồm năm miệng mười, dùng lời ngon lẽ ngọt chối khéo thì câu chuyện chắc phải đi đến hậu quả tai hại cho hắn. Đánh cọp không bẹp đầu thì chỉ tổ mang hoạ vào thân. Nghĩ vậy, hắn tìm kế thứ hai. Hắn đợi lúc Liễu Du Các không đề phòng, lén vào trong phủ tự tình sẽ thi hành thủ đoạn.

Rồi một hôm, Thuần thân vương sau khi bãi chầu, đang thẳng đường về phủ. Vương liếc nhìn thấy Cửu vội thò đầu từ trong xe ra hỏi:

- Lão Cửu? Vội chạy đi đâu vậy?

Lão Cửu nghe hỏi, giả bộ hoảng hết, rồi tỏ ý nghi ngại, cất tiếng run run đáp:

- Nô tài vốn ở trong biệt thự. Không phải vương gia cho gọi sao?

Thuần thân vương lấy làm lạ hỏi tiếp:

- Ta cho gọi ngươi lúc nào?

Lão Cửu đáp:

- Dạ! Vừa có một tên tiểu thái giám tới gọi mà? Hắn nói vương gia hôm nay cho dọn tiệc để khoản đãi Liễu Du Các. Bởi thế, vương gia cho gọi nô tài tới Tụ Phong lâu để hầu rượu.

Thì ra, hôm đó, Lão Cửu được tin đích xác là bà Đại phúc tấn có mời Liễu Du Các tới phủ để uống rượu tìm vui, hắn mới tạo ra câu chuyện đó để thi hành kế hoạch của mình.

Thuần thân vương nghe Cửu nói vậy, cả giận mắng:

- Ta có mời khách đâu? Mà sao lại có chuyện mời một kép hát hạ lưu hạ cấp như vậy được? Ngươi trông gà hoá cuốc rồi phải không?

Lão Cửu tỏ vẻ trang trọng nói:

- Thực vậy, chính nô tài cũng nghi ngờ điều này. Chẳng lẽ vương gia lại đi mời một tên kép hát tới ăn tiệc? Quả là một việc đáng cười. Song tên tiểu thái giám nói rõ ràng như vậy, chẳng lẽ nô tài lại không tuân mệnh của vương gia? Do đó, nô tài vội vã lên đường đi ngay, kẻo phạm tội bất kính với vương gia. Nếu không có chuyện đãi tiệc, thì tại sao có chuyện vương gia cho gọi như vậy nhỉ? Chẳng lẽ có kẻ xấu mồm đặt điều? Nhưng ở đó không có lửa sao lại có khói? Thực là kỳ!

Thuần thân vương nghe Lão Cửu nói xong, như người vừa tỉnh mộng, bỗng đâm nghi, Vương nhớ lại ngày nọ, lúc sinh thời Tây thái hậu, Liễu Du Các thường có những hành vi ám muội khiến đã có lời đồn đại tới tai vương. Cũng có đôi lần, chính mắt vương đã thấy Các vào trong cung cấm, đã không biết an phận mà còn dám làm những điều ngang tai trái mắt.

Bởi thế, hôm nay nghe đến tên Các và có chuyện lạ xảy ra ngay trong gia đình mình, thì đem lòng nghi. Vương tự nhủ:

- Biết đâu chính tên Liễu Du Các đã lẻn vào phủ đệ mình gây ra chuyện bê bối gì chăng? Đúng, biết đâu được?

Suy nghĩ một lát, Thuần thân vương đổi hướng đi. Ngài không cho xe chạy tới nhà Tải Chấn nữa mà quay về phủ đệ mình.

Lão Cửu thấy thế, biết kế mình đã đắc, vội tiến lên mở đường lòng khấp khởi mừng thầm. Cửu dùng mắt ra hiệu cho đồng bọn chạy trước về vương phủ, khoá chặt cổng sau lại. Còn chính mình thì thôi thúc bọn đô tuỳ cho xe chạy thật nhanh.

Chẳng bao lâu xe của Thuần thân vương đã về tới cổng phủ. Chiếu lệ thì cứ mỗi khi vương gia về tới cổng bọn lính thị vệ phải tung hô rầm rộ để lấy oai cho vương gia. Nhưng hôm đó, được Lão Cửu báo trước với những mật hiệu đặc biệt, tất cả đều im lặng như không có chuyện gì xảy ra. Bởi thế, đám hầu gái ở mãi trong nhà trong chẳng biết một tí gì về chuyện quan ông đã về.

Chính giữa lúc này, bà Đại phúc tấn đang cùng kép Các cất chén mua vui, hể hả kê đùi kề vế ở trong trướng, tại hoa đình. Có ai ngờ được lúc này vương gia lại trở về? Bà phúc tấn thì cho rằng phủ đệ lầu ngang gác dọc, nhà cửa rộng thênh thang, vườn ao trông bát ngát, chỉ cần có vài tiếng ồn ào ngoài cổng báo hiệu quan ông đã về là có thể lẩn tránh được ngay.

Chỗ nào chả là chỗ trốn, cất sao khỏi bị bắt quả tang còn sau đó, con hầu thân tín đưa Các luồn qua mấy dãy nhà thấp ra khỏi vườn hoa, chuồn qua cổng sau, thế là êm chuyện.

Đường lối này thực ra đã xảy ra vài ba lần rồi. Bởi thế sau mấy phen kinh nghiệm, bà phúc tấn thấy cách bố trí của mình quá chu đáo, cho nên khỏi cần phải đề phòng, mặc sức cười cợt với kép Các, coi như quan ông tài thánh cũng chẳng thể biết được.

Bà Đại phúc tấn lâu dần càng can đảm hơn, bà bày ngay tiệc, nào rượu quý, nào trân tu mỹ vị để thết đãi tình nhân ở tại hoa đình, trong vườn hoa phía sau, thả sức chè chén say sưa, chẳng thèm để ý tới việc đề phòng.

Hoa đình này vốn là chỗ của Thuần thân vương nghỉ mát mỗi khi hè tới oi bức nóng nực. Trong đình, ngoài mấy cái án thư lớn nhỏ ra, toàn là đồ cổ quý giá. Cũng có một số báu vật rất đắt tiền nữa, ví dụ như một cây bảo kiếm, bao làm bằng da cá xanh, trên có cẩn ngọc bích, mỗi khi rút ra, kiếm loé ánh sáng, rọi thẳng vào đến choá mắt, tóc gáy dựng ngược lên. Cây kiếm này tên gọi Trạm Lư. Nó là một trong số sáu cây kiếm báu của Âu Dương Tử đúc ra, còn truyền lại hậu thế, và nổi danh khắp hoàn vũ. Thời trước, Âu Dương Tử chi đúc được có sáu cây kiếm trong suốt cuộc đời mình. Sáu cây kiếm báu đó là: hai cây kiếm Thư Hùng, cây kiếm Cự Khuyết, cây kiếm Thanh Hồng, cây kiếm Thái A, còn cây nữa chính là cây Trạm Lư này. Nói đến kiếm Trạm Lư thì người can đảm đến đâu cũng phải rùng mình. Chỉ cần thổi nhẹ sợi tóc cũng đứt ngay trên lưỡi kiếm. Kiếm chém người ngọt xớt, không thấy vấy máu. Kiếm chặt vào vàng bạc, sắt đá, như chém vào bùn. Khi đức Thánh tổ (nhà Mãn Thanh) kéo binh đánh Đại, Tiểu Kìm Xuyên, đức Cao tổ của Thuần thân vương đi tuần doanh đến một địa điểm thấy có ánh lửa sáng rực một góc trời. Sợ có quân mai phục, ngài bèn cho quân đi tuần thám xem sao. Quân chạy về báo nơi đó chỉ có một cái giếng khô, còn luồng ánh sáng thì từ đáy giếng phát lên, không biết do một vật gì. Đức Cao tổ tới bên giếng sai bọn lính nhảy xuống giếng, đào cho bằng được để xem cái gì. Thì ra là một cây bảo kiếm.

Cây bảo kiếm đào được này chính là cây kiếm Trạm Lư hiện dùng làm vật truyền gia chi bảo trong phủ Thuần thân vương. Thường vào những ngày mưa gió, cây kiếm này tự nhiên kêu lên vo vo.

Nếu đeo cây kiếm này mà lỡ giữa đường gặp giặc cướp hoặc thích khách thì tự nhiên cây kiếm này bật lên thành tiếng để cảnh cáo cho người đeo hay. Ví thử trong phủ của vương gia có giặc cướp hoặc những chuyện nguy hiểm sắp xảy ra, tức thì cây kiếm nhảy vọt ra khỏi vỏ chừng ba tấc và kêu lên ù ù...

Khi Quang Tự hoàng đế vào cung nối ngôi, cây kiếm này đã một lần kêu lên ù ù như vậy. Do đó, bà Đại phúc tấn đã biết trước lành ít dữ nhiều, không muốn cho Quang Tự vào là vì thế. Chưa hết, trong phủ đệ Thuần thân vương còn có một cái lạ nữa: đó là cây Dao cầm. Tại sao cây Dao cầm được gọi là của lạ? Xin mời nghe qua chút ít lịch sử kỳ bí của nó.

Cây Dao cầm gia bảo của nhà Thuần thân vương có một lai lịch khá ly kỳ. Cây đàn xuất hiện từ đời vua U vương nhà Chu (cách nhà Thanh chừng hai ngàn năm trăm năm), do chúa Khuyển Nhung đem tiến. Đàn có cẩn ngọc xưa, chạy dây vàng, thanh âm trong trẻo dị thường. Trong những đêm trăng trong gió mát, nếu có tay danh thủ đàn lên, tiếng du dương có thể nghe xa đến vài dặm.

Thuần thân vương coi cây kiếm và cây đàn này như là sinh mạng của mình, không khi nào chịu để cho người ngoài xem và thưởng lãm. Trong vương phủ, trước đây có một người thị cơ (nàng hầu) có thể đánh được đàn này. Bà Đại phúc tấn rất thích chiếc đàn. Vì thế, bà bảo người thỉ cơ dạy cho bà học. Nhưng bà mới học có một nửa, thì người thị cơ bỗng lăn ra chết, thế là ngón đàn của bà bị gián đoạn.

Thuần thân vương nhìn vật nhớ người, lại càng thêm quý cây đàn. Hiên nay, ngoài bà Đại phúc tấn đàn được vài bản ra, không còn có ai đàn được nữa.

Hôm đó, giữa bàn tiệc đối ẩm trong hoa đình, Liễu Du Các bỗng chỉ chiếc đờn, hói bà ĐạI phúc tấn:

- Phúc tấn có thể đàn vài bản được không?

Bà đại phúc tấn cười đáp:

- Trước đây, ta được người thị cơ dạy cho được ít bài, nhưng từ khi nàng chết đi rồi thì nghệ thuật đành bỏ. Chiếc đàn từ đó đến nay bỏ không, chẳng ai chơi cả.

Các cười nói:

- Tại hạ biết phúc tấn chơi đàn sành lắm. Hôm nay nhân tửu hứng, xin phúc tấn đàn cho nghe vài bản.

Bà đại phúc tấn nghe lời yêu cầu của Các, cười duyên nói:

- Ta học được đôi chút, có gì gọi là tài nghệ đâu mà đàn cho rườm tai. Thôi xin cho miễn!

Liễu Du Các nhất định không chịu, quyết bức Đại phúc tấn đàn cho bằng được mới nghe. Bà Đại phúc tấn thấy tình nhân nài nỉ mãi chẳng tiện khước từ đành một mặt cười tình, một mặt đứng dậy đi lấy đàn.

Bản đẩu tiên bà gảy là bản Bình sa lạc nhạn. Bản thứ nhất vừa ngừng, thì tiếng khen của Các làm cho bà vô cùng sung sướng. Bà đàn tiếp bản Lưu Bị tháo linh. Tiếng đàn nghe lảnh lót du dương, không thể chê được. Bà đàn sang bản thứ ba Phong tông tùng thanh. Rồi đến bản thứ tư Cảnh dương khai thái. Càng về sau, tiếng đàn của bà càng ảo não lâm ly. Các ngồi đó mà hồn như thân mãi nơi đâu.

Bà Đại phúc tấn đờn hết bản thứ tư, bỗng ngừng ngay lại cười bảo Du Các:

- Thế nào? Không đến nỗi làm trò cười chứ?

Các vốn là một tên giảo hoạt, thấy hỏi, vội tìm những câu thật mùi mẫn để nịnh bà Đại phúc tấn, mong lấy lòng bà, rồi sau đó cũng giở giọng phê bình này nọ, cho ra điều ta đây cũng giỏi đàn, rành nhạc. Hắn lên tiếng:

- Tiếng đàn của phúc tấn như có vẻ thiếu vui.

Bà Đại phúc tấn cười nói:

- Muốn vui, muốn nhộn ư? Có khó gì? Để ta gảy bản Xích bích ao binh cho mà nghe.

Nói đoạn, bà Đại phúc tấn sửa lại dây đàn chút xíu, cho hợp với giọng ca, rồi bắt đầu bản nhạc. Mười ngón tay trắng như ngọc của bà thoăn thoắt chạy trên làn phím đường tơ, làm nảy bật lên những tiếng đàn vừa mau vừa mạnh, sát phạt như kiểu đao thương chạm nhau ngoài trận địa, những tiếng chiêng tiếng trống hãi hùng giữa ba quân. Nếu tinh ý, người nghe như nghe, như nhìn thấy một cuộc chém giết tơi bời trên chiến trường, chứ không còn là những âm thanh du dương, lâm ly, ảo não như mấy bản đờn trước nữa.

Bà Đại phúc tấn đàn xong, liếc nhìn Các, nhoẻn miệng cười, tỏ vẻ kiêu hãnh phần nào về tài nghệ của mình.

Nhưng khổ cái là tên kép Các quả tình dốt nhạc thật, hắn lại đành dùng chiến thuật khen bừa đi để nịnh người đẹp.

Hắn khen được vài câu, bỗng nhớ ra rằng khi hắn lên sân khấu, thường nghe tiếng thanh la, tiếng chiêng, tiếng trống chung quanh, mà người ta thường bảo tình cảnh thật giống lúc Thập diện mai phục và hắn không ngờ rằng ngay ở trong bản đàn mà cũng có cái điệu này. Hắn nghĩ vậy, càng thêm ngạc nhiên cho đàn là một vật lạ, bèn cất tiếng ngây thơ hỏi bà Đại phúc tấn:

- Cái đàn này mà cũng gảy thành Thập diện mai phục được sao?

Bà Đại phúc tấn thấy hỏi, cười lên khanh khách, càng tỏ vẻ đắc chí, bảo Các:

- Có chứ! Chỉ phải cái khó đàn được mà thôi. Ngón này, ta còn chưa luyện được tinh thục lắm.

Sở dĩ bà Đại phúc tấn có lời lẽ khiêm nhường này là vì bà nghe Các hỏi câu trên, xem hắn như người sành điệu, sợ mình trở thành người dám múa rìu qua mắt thợ, làm trò cười cho thiên hạ. Thực ra bà đã lầm. Hắn chỉ có nghề đóng tuồng trên sân khấu, thường diễn tuồng Cửu bại Chương Cam mà biết được cái điệu trống, điệu chiêng của cuộc thập diện mai phục kia thôi. Đó là khi Sở bá vương xuất đài lên ngựa xông trận giữa những âm thanh rộn rã của đôi bên có vẻ tương tự, kép Các ta đoán bừa, may trúng, rủi trật, bất quá cũng chỉ bị bà Đại phúc tấn cười cho là cùng. Không ngờ Các ta đoán mò mà đúng, khiến bà Đại phúc tấn càng thêm giật mình, đành phải xuống nước y như một tay võ xoàng biết kẻ đứng trước mặt mình chính là một võ lâm cao thủ.

Tại Bắc Kinh thời đó, ngón đàn của bà Đại phúc tấn kể đã được liệt vào loại tên tuổi. Đối với nhóm người Mãn có lẽ không có kẻ nào ăn đứt được bà. Ngay cả đến người Hán cũng chẳng có mấy ai hơn. Tên kép Các kể cũng là kẻ nhiều cơ duyên nên mới gặp được trường hợp hy hữu này.

Liễu Du Các ngồi ngây như tượng gỗ. Hắn tuy dốt đặc về nhạc, nhưng tiếng đàn hay dở cũng có thể biết. Hắn vừa phục tài vừa tôn kính bà Đại phúc tấn. Hắn tự nhận mình thua hẳn một bực. Nhưng hắn lại tự kiêu, bởi vì không ngờ tạo hoá lại gia ân cho hắn được ân ái với một mệnh phụ phu nhân, được một tay nhạc trứ danh đàn cho nghe, hắn tự thấy mình như kẻ đang được hưởng hạnh phúc trên trần thế. Trong khi Các thả hồn mình bay bổng theo tiếng đàn du dương êm ái, thì bà Đại phúc tấn cũng đã đàn đến lúc say sưa, đắm đuối. Bà say sưa với men tình đang mơn trớn lòng bà, bà đắm đuối với những âm thanh lả lướt, mê ly quyến rũ...

Giữa lúc hai người đang chập chờn theo tiếng nhạc điệu đàn, bỗng từ bên ngoài có một người khách "tri âm" bước vào...

Người đó chẳng phải ai xa lạ mà là Thuần thân vương.

Theo lệ thường thì Thuần thân vương hằng ngày trở về phủ, trước hết là tới thư phòng xem tất cả những công văn giấy tờ từ các nơi gửi đến, và danh sách của bọn ngoại thần, nội thần đem dâng cho vương lễ vật này nọ, sau đó mới vào phòng trong trò chuyện cùng Đại phúc tấn. Sau khi cơm nước xong, vương mới ra công đường để giải quyết mọi việc trong vương phủ. Thường đến giờ này, thì cũng là lúc Liễu Du Các đã ra đi, cho nên không bao giờ hai bên chạm phải mặt nhau.

Những hành động này lâu ngày đã trở thành thói quen, cho nên anh kép Các hôm đó cứ ung dung ngồi nghe đàn, chẳng có gì đáng lo ngại. Nào ngờ Thuần thân vương đột nhiên trở về trước giờ đã định, nhất là lại còn quá sớm.

Hôm đó, Thuần thân vương được Lão Cửu đưa đường, bỏ cái lệ thường vào qua thư phòng, đi thẳng vào hậu đường rồi ra phía sau xông thẳng tới vườn hoa, nghe tiếng đàn văng vẳng từ phía hoa viên vọng lại, vương biết tiếng đàn đó là của bà Đại phúc tấn. Trong phủ có còn ai gảy được chiếc đàn này nữa?

Thuần thân vương lúc đó đã hoài nghi càng hoài nghi thêm.

Vương bước những bước thật dài, y như chạy, vượt lẹ qua cổng vườn. Lão Cửu theo vương đến đây, nhưng hắn không theo vào. Thuần thân vương thấy Lão Cửu đứng lại bên cạnh, lòng càng xốn xang, bối rối, tin rằng ở bên trong nhất định phải có gì quái lạ, vương thấy mình tối tăm mặt mũi, lửa giận bốc lên ngùn ngụt. Đến lúc này, vương không còn gì phải thắc mắc. Những lời của Lão Cửu trước đây bỗng vụt tới, đánh thức mối nghi ngờ của vương.

Giữa lúc lửa giận bùng lên phừng phừng vương bỗng thấy một tên đầy tớ cầm một cái be rượu, từ trong ĩ hoa bước ra. Hắn thấy Thuần thân vương, vội rụt cổ trở lui. Thuần thân vương thấy dáng bộ che che giấu dấu đó, lòng nghi ngờ tăng lên đến cực độ. Vương vội quát tên đầy tớ đứng lại rồi tự mình bước mạnh trên con đường đá, theo hướng tiếng đàn mà vào.

Vườn hoa này của vương cho nên vương chỉ cần liếc mắt là biết. Vương biết rằng tiếng đàn phát ra từ hướng hoa đình thì Đại phúc tấn của vương nhất định ở tại nơi đấy. Thế là vương thăng bước lẹ tới hoa đình.

Khi bước tới cạnh hoa đình, vương nghe thấy tiếng đàn đang lúc trầm bổng vô cùng du dương, quyến rũ, bỗng quát một tiếng lớn khen hay. Tiếng quát vừa dứt, thì tiếng đàn trên hoa đình cung câm bặt. Đại phúc tấn đã nghe rõ tiếng quát đó là chính của Thuần thân vương thì giật mình đánh thót một cái, hồn vía bay lên tận mây xanh. Ả vội đẩy cái đàn ra, nghiêng đầu nhìn ra ngoài. Sắc mặt bà Đại phúc tấn lúc này vụt biến từ đỏ sang xám rồi tím lại.

Không để chậm một phút, Thuần thân vương đã bước lẹ lên hoa đình. Vương đã thấy rõ ràng Liễu Du Các đang ngồi, còn bà Đại phúc tấn thì đứng cạnh cửa sổ, người ngây ra như chết rồi, đôi mắt trợn ngược lên, hướng thẳng về phía vương.

Lửa giận dâng cao đến chín tầng mây, lòng ghen sôi lên như nồi nước luộc, Thuần thân vương há rộng mồm quát vang lên như một con trâu điên:

- Quân khốn nạn! Quân khốn nạn!

Liễu Du Các đột nhiên thấy Thuần thân vương hiện ra, giật mình đánh thót một cái, trống ngực nện thình thịch. Trong lúc nguy cấp, thường thì trí vụt sinh. Thực thế, Liễu Du Các thấy Thuần thân vương nhô ra ở cửa đình, vụt đứng dậy, xông thẳng ra trước mặt vương như một chiếc tên bắn, rồi thừa lúc vương không đề phòng, hắn phóng một đá đánh huỵch vào ngực khiến vương lộn nhào đi mấy vòng, lăn luôn xuống cầu thang và cuối cùng nằm sóng sượt trên mặt đất. Không để mất thì giờ quý báu, kép Các ta nhảy vút một mạch ra khỏi hoa viên. Thật là một phen hú vía.

Lão Cửu, tên oan gia của bà Đại phúc tấn đến nửa đường, thấy diệu kế đã thành công, liền rút lui ra ngoài. Nhưng tại sao trong một vương phủ rộng lớn, há lại không có lấy một kẻ hầu người hạ biết chuyện để phò cứu Thuần thân vương và bắt lấy tên kép hỗn xược dám co căng đá vương?

Số là trong hoa viên, bọn con hầu đày tớ nếu không có lệnh không được lảng vảng tại đây. Chỉ riêng có quyến thuộc của vương là được quyền vào hoa viên mà thôi. Ấy cũng chính vì thế nên Lão Cửu khi vào tới hoa viên, liền dừng lại. Thành thử nơi hoa viên rộng rãi, Thuần thân vương tuy bị nạn mà vẫn không có ai tới để phò cứu. Hơn nữa, khi kép Các co giò đá một đá như trời giáng vào vương, khiến vương lộn nhào xuống đất, đầu va vào chân tường, bất tỉnh nhân sự, nằm lịm trên mặt đất một lúc khá lâu mới hồi tinh và gượng dậy được.

Đến khi vương tỉnh đậy được thì tên gian phu nọ đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Nếu không có cái đá cứu mạng ấy, thì chỉ cần một tiếng hô "bắt" đủ để Các ta vào ngồi nhà đá từ lâu.

Tên gác cổng hoa viên thấy Các hối hả chạy ra, đã định xông lên chặn lại để bắt, nhưng hắn nghĩ Các vốn là người tình của Đại phúc tấn, chẳng dại gì mà can thiệp, mặc dầu hắn đả có lời căn dặn trước của lão Cửu, hơn nữa, hắn còn nhớ rằng lão Cửu chỉ nói giữ cửa, chứ không dặn bắt người.

Hắn cũng còn đắn đo khi so sánh hai thế lực: thế lực của Lão Cửu và thế lực của bà Đại phúc tấn. Tất nhiên thế lực của bà Đại phúc tấn lớn hơn thế lực của lão Cửu nhiều. Vậy thì dại gì mà can thiệp vào chuyện của người có thế lực lớn để hại đến mình, khi mình chỉ là một anh chàng gác cổng? Thế là tự nhiên tư tưởng chống đối bà Đại phúc tấn để đi theo lão Cửu tiêu tan ngay như mây khói. Hắn để mặc cho Các phóng mạnh ra khỏi cổng, mất hút tận khúc quẹo đường lộ bên ngoài.

Thuần thân vương lúc này lửa giận cao ngất trời xanh, chỉ tiếc là không mang cây kiếm đi để cho bà vợ một nhát cho xong đời con dâm phụ làm xấu xa ô nhục cả tông môn.

Vương gầm lên như hổ rống, hai mắt quắc sáng như mắt con tinh, chỉ chực nuốt con mồi đang bò lăn dưới chân. Nhưng gầm thét mới có được vài phút, vương bỗng nhớ đến thân phận mình, đến địa vị mình, địa vị một nhiếp chính vương, vội câm bặt ngay, chỉ còn biết nghiến răng lên ken két, tỏ vẻ như hằn học đến khó có thể sống nổi. Vương nghĩ rằng nếu mình làm om sòm lên, câu chuyện đổ bể ra thì chỉ xấu mặt mình, mất danh dự của mình mà thôi. Thực thế, nếu triều đình văn võ bá quan mà biết chuyện động trời và ô nhục này thì ai còn trọng vương nữa? Máu hận của vương to thật nhưng hoàn cảnh đã bắt vương phải xuống nước trước một chuyện đã rồi. Hơn nữa, vương còn nghĩ dù sao bà phúc tấn của vương cũng đã có bao năm tình nghĩa vợ chồng với vương khiến vương càng chẳng nỡ. Đương kim hoàng đế Phổ Nghi lại chính là con đẻ của bà, vốn được thái hậu rất cưng chiều, và còn là mối hy vọng của bà nữa. Nếu ví thử đổ bể, điều tiếng bay đi rất có thể còn nguy hại cho cả sự nghiệp của con mình là khác.

Nghĩ đến đây, Thuần thân vương đổi hẳn thái độ. Vương không còn dữ tợn như khì nãy nữa. Vương thở dài một tiếng, khẽ cất tiếng dặn dò bà Đại phúc tấn:

- Lần sau, cấm bà không được lui tới với tên kép hỗn xược ấy nữa, nghe chưa? Nếu không, coi chừng cái đầu của bà.

Bà Đại phúc tấn nuốt lệ, run run nhận tội và cam đoan chẳng dám, mặt trắng bạch ra như sắc đất, đúng là sắc mặt của mấy con dâm phụ ngoại tình bị chồng bắt được quả tang.

Lại nói tới chuyện cách mạng lâu nay sôi động khắp nước, Đảng cách mạng tuy đã khởi nghĩa nhiều lần nhưng đều bị thất bại, hy sinh quá nhiều đồng chí, thật là một điều đáng hận và cũng là đáng ngại. Nhưng đã gọi là hy sinh cho tổ quốc hoạt động cho cách mạng, thì mấy ai chịu đành bó tay.

Lần này, họ đi vào thuyết phục đám quân nhân, bởi vì quân nhân mới có sức mạnh thực tế. Họ vận động khởi nghĩa.

Rồi cuộc khởi nghĩa Vũ Xương nổ lớn. Tiếng đồn đại xa dần, máu ái quốc của người Trung Hoa lúc này sôi lên sùng sục.

Thế là khắp các nơi hưởng ứng lời kêu gọi của cách mạng, của các nhà lãnh tụ từng nêu danh.

Triều đình Mãn Thanh được tin động trời này, chân tay ai nấy run lên cầm cập, chạy ngả trước không đường, chạy lối sau không ngõ. Hơn nữa lúc bình thời, họ lại chẳng có đề phòng gì, làm sao lúc này đương đầu với quần chúng cách mạng đông đảo được. Bởi thế, Phổ Nghi, ông vua chót của nhà Thanh chỉ còn cách nhường ngôi...

Các đảng cách mạng đã đồng loạt nổi dậy tại khắp nơi.

Tiếng súng nổ, tiếng reo hò, tiếng đả đảo, tiếng chân chạy, tiếng ngựa hý vang rầm khắp thành phố Vũ Xương. Quân cách mạng trước nổ súng xa xa, nhưng chỉ trong vài tiếng đồng hồ đã xáp lại gần dinh quan hiệp thống. Nào nha, nào dinh, nào thự, nào công đường, tất cả đều bị vây hăm tứ phía. Có những cái ống loa bắc từ ngoài thét to vào bên trong dinh, bức bách quan hiệp thống họ Lê phải thừa nhận cách mạng, nếu không sẽ bị trừ diệt. Lê hiệp thống nghe tiếng loa, càng hoảng, ông nhất định không chịu cho mở cửa thành.

Bà Nguỵ thị là vợ bé của quan hiệp thống thấy nguy, vội tương kế tựu kế, cho rằng nếu không thừa nhận giùm quan ông thì quyết là mất mạng. Bởi thế, bà vội vàng chạy ra trước công đường đứng ngang nhiên trước mặt mọi người, la lớn:

- Quan hiệp thống, ngài chấp nhận rồi đấy! Ngài rất vui lòng hưởng ứng cách mạng, các người hãy chia nhau đi các nơi tiến hành công việc đi thôi.

Thật là một câu nói đắt giá vào lúc đó. Quân cách mạng cho rằng đã chinh phục được một tướng lãnh của đối phương về mình. Trong khi bà Nguy thị thì mừng vì đã tìm được sự sống cho chồng và cả cho chính mình.

Lời của bà Nguy vừa ban ra, quân cách mạng tin là thực đồng thanh hô vang mấy tiếng "Muôn năm! Muôn năm!" rồi ùn ùn kéo nhau sang hướng nha môn của quan tuần phủ Ngọc Châu.

Tin cách mạng thành công ở Ngọc Châu chẳng mấy chốc loan truyền đi khắp nước. Chính phủ nhà Thanh được tin cấp báo từ bốn phương gửi về như bươm bướm, từ quan đại thần đến chú lính lệ các nhà quan, đều sờ lên gáy để xem cái đầu lâu của mình liệu còn tồn tại bao lâu nữa. Bọn thân vương thì chân tay rụng rời, mặt mày xanh xám.

Bọn đại thần nhà Thanh lúc đó là Thế Tích, Cù Hồng Cơ, Thịnh Hanh Tôn, tất cả đều chỉ là một bọn giá áo túi cơm, thật là vô dụng cho đại cục. Trong lúc nguy khốn đó, một cuộc hội họp khẩn cấp được triệu tập, rồi loanh quanh mãi cả buổi, bọn đại thần sợ chết này bỗng nhớ đến Viên Thế Khải.

Viên Thế Khải lúc đó hiện đang bị mất chức, nhưng không còn cách nào hơn, nếu không đưa Viên ra để cáng đáng công việc khốn nguy hiện tại. Thế là cả bọn nhao nhao lên đề cử họ Viên, phục chức lại cho Viên, sai Viên đi chỉ huy quân đội để chống lại quân cách mạng.

Viên Thế Khải vốn là một tay túc trí đa mưu, trong lòng ôm ấp trí lớn. Viên người Hạng thành, xuất thân chỉ là một anh giám sinh. Viên nhờ được lão sư Lý Hồng Chương dẫn dắt, đã từng được chức Triều Tiên uỷ viên.

Lúc Viên còn nhỏ tuổi, ông già của Viên là Viên Giáp Tam vốn đã từng làm mạc phủ của họ Lý. Có lẩn, Viên được vào yết kiến họ Lý. Quan sát tướng mạo cũng như hành động của Viên, dù rằng lúc đó còn nhỏ tuổi, Lý Hồng Chương đã phải thán phục, và thường nói với bọn mục hữu ở trong phủ:

- Thằng bé này về sau công danh phú quý còn hơn lão phu xa! Các ngươi chớ có khinh thị hắn.

Nhờ được sự trọng thị đó, Viên ở dưới trướng của họ Lý luôn một lèo được đến mười hai năm. Có một hôm, xảy ra chuyện ghen tuông rồi đánh nhau giữa một tên đầy tớ và một tên nhà bếp. Tên nhà bếp quá ghen, hung tiết, xách dao rượt tên đầy tớ. Tên đày tớ chạy cùng cả nhà trong, nhà ngoài, cuối cùng không còn chỗ nào trốn nấp được nữa, đành phải chạy đại vào thư phòng của Lý Hồng Chương.

Tên nhà bếp đuổi theo quyết không bỏ, mặc dầu thấy ông chủ đang ngồi đường bệ trong đó xem sách, có Viên đứng hầu bên cạnh. Tên đầu bếp xách dao rượt vào thư phòng, đuổi chém tên đầy tớ: Lý Hồng Chương vẫn thản nhiên xem sách, giả tảng như không biết, hoặc có biết mà mặc kệ, không thèm đếm xỉa gì đến. Tên đầy tớ vào đến đây bí lối, bị tên đầu bếp tóm cố được điệu ra bên ngoài, dùng dao chém đứt lìa cổ, chết ngay tại trận. Câu chuyện xảy ra xong, về sau có người hỏi Viên Thế Khải:

- Lý lão sư không để ý tới chuyện của kẻ khác, đó là cái tính cố hữu của ông chẳng nói làm chi. Ngươi ở ngay bên cạnh, tại sao lúc bấy giờ, thấy người ta sắp chết mà không cứu?

Khải nói:

- Tất cả bọn ngươi đều thấy tên đầu bếp cầm dao lăm lăm chực giết tên đầy tớ chứ, phải không? Tên đầy tớ cũng có đôi tay như tên đầu bếp, tại sao hắn lại không biết cầm dao mà chống lại? Hắn thấy rõ ràng có kẻ xách dao chém mình, ấy thế mà không dám chống lại, trong đời này, có kẻ nào hèn hơn hắn nữa không? Tên đầy tớ quả thực chẳng có nghị lực, có đởm lượng gì cả. Hèn mạt đến như hắn, thử hỏi để cho nó sống trên thế gian này có được ích gì? Để cho hắn chết đi, chính là một điều rất nên, rất phải, Lý lão sư không cứu tên đầy tớ chính là do ý kiến đó. Ý kiến của Lý lão sư thế, thì hà tất tôi phải cứu giúp tên đầy tớ vô dụng kia?

Câu đối đáp này của Viên Thế Khải lọt đến tai Lý Hồng Chương. Lý vuốt râu cười khà khà bảo với tả hữu:

- Thằng bé quả đã hiểu được lòng ta.

Từ đó, Lý Hồng Chương càng thêm trọng thị Viên Thế Khải. Nhờ đó, chỉ vài năm sau, Viên nhảy ngay lên chức uỷ viên đồn trú tại Triều Tiên.

Nguyên Lý Hồng Chương có tính rất lạ là chỉ thích kẻ can trường, dũng lược, trái lại rất ghét và rất khinh bọn người nhát gan, yếu hèn. Bởi thế, trong nhà, mỗi khi có bọn đầy tớ bộ hạ gây chuyện đánh nhau, đâm chém nhau, vô phúc cho kẻ nào thua trận, chạy lên mách thưa, tố cáo, đã không những không được bênh mà trái lại còn bị quở trách, chửi bới nữa là khác. Mặt khác kẻ nào thắng trận không những không bị trừng phạt mà còn được khen thưởng, khuyến khích nữa.

Ấy chính vì cái tính quái lạ đó của chủ, cho nên bọn bộ hạ trong nhà Lý Hồng Chương mỗi khi phải chiến đấu, chúng thường rất quyết liệt, chỉ có tiến chứ không bao giờ lùi.

Đó là tính của Lý, còn con người của Viên cung chẳng để cho ta có thể khinh thị được.

Viên là một nhân vật vô cùng trọng yếu trong lịch sử đời Thanh mạt. Từ khi bị bãi chức ở Triều Tiên, Viên trở về Trung Quốc, được Vinh Lộc biết đến tên tuổi. Lộc sai Viên làm đốc biện tại Tiểu trạm luyện binh. Nắm được cơ hội nghìn năm một thuở Viên bèn sửa soạn ngay thế lực cho mình. Viên để ý thu dụng những tướng lãnh có khả năng ở dưới trướng để chờ lúc dùng tới. Hồi đó, người ta thường nghe nói tới danh từ "Lục quân tứ kiệt", đó là bốn tay tướng lãnh nổi danh một thời của Viên: Phùng Quốc Chương, Đoàn Kỳ Thuỷ, Vương Sỹ Trân và Trương Huệ Chi.

Năm Mậu Tuất chính biến, bọn quyền phỉ làm náo loạn cả Trung Quốc, Viên Thế Khải đã làm tuần phủ tỉnh Sơn Đông.

Rồi đến năm Tân Sửu, Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế hồi loan, Viên được tiến cử làm Tổng đốc tỉnh Trực Lệ. Lại đến năm mạt niên đời Quang Tự, cả hai cùng mất (tức Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế) Phổ Nghi vào cung kế vị, Thuần thân vương Tải Phong nhiếp chính, thì Viên bị mất chức về vườn.

Tuy bị về vườn, nhưng Viên Thế Khải vẫn thường nói với những người thân cận của Viên:

- Triều đình nhà Thanh không biết người biết của chút nào! Hiện nay, ta bị mất chức, nhưng ta biết chẳng bao lâu nữa họ lại phải dùng đến ta...

Kịp đến khi quân cách mạng khởi nghĩa tại Vũ Xương, đúng vào năm Tân Hợi đời Tuyên Thống, Viên lúc đó đang ở nhà bỗng được tin Thanh triều cho công văn gấp đến triệu ra cầm binh chống cách mạng như trên đã kể.

Được tin này, Viên nhảy lên vì sung sướng và quát vang cả nhà, đến nỗi vợ con, đầy tớ giật mình không hiểu chuyện gì.

- Thời kỳ xuất sơn của ta đã đến. A ha ha! A ha ha! Thời của ta đã đến. A ha ha! A hà ha!

Nghe Viên la lối om sòm, gia đình tuy đã biết lý do, nhưng đều cho là chuyện không tưởng. Không ngờ, ba hôm sau, câu chuyện lạc quan của Viên quả chẳng tếu tí nào. Triều đình nhà Thanh đã hạ chi triệu Viên vào cung, trao cho Viên quyền hành chỉ huy toàn quân đội. Thanh triều khi gặp Viên, liền huấn miễn Viên đôi ba câu, gia phong quan tước cho Viên, rồi giục giã Viên lên đường đi đối phó quân cách mạng.

Viên thấy thời cơ đã tới cuộc đời của mình đã lên hương, liền làm bộ bất cần, đến nỗi Thanh triều phải hạ một đặc mệnh, coi Viên y như Tăng Quốc Phiên thời Hồng Tú Toàn thuở nọ.

Đến lúc được thoả mãn lòng tự ái cũng như được đãi ngộ tương xứng Viên Thế Khải mới xuất đầu lộ diện với một vinh hiệu thật hiếm có trong thời đó. Viên thấy đại quyền đã nắm trong tay mình, bèn một mặt cho bố trí ngầm thế lực, một mặt sai Phùng Quốc Chương xuất quân, chống trả quân cách mạng.

Thủ hạ của Phùng Quốc Chương lúc đó có khá nhiều những tay tướng giỏi nổi danh là thiện chiến, bởi thế khi giáp đấu với quân cách mạng chưa từng luyện chiến, Phùng đã thắng được vài ba trận đầu.

Tuy thanh thế của Phùng bốc lên mây xanh, nhưng thế lực cách mạng lúc này đã thành tựu đến tám, chín phần, khó có thể đảo ngược được. Nhà Thanh nếu chỉ hy vọng vào đội quân của Phùng thì không thể nào nắm được phần thắng. Hơn nữa ngay lúc đôi bên đang chiến đấu kịch liệt nảy, Tôn Văn, nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc có uy danh lớn đương thời đã được đám dân quân cách mạng suy tôn lên làm Đại Tổng thống lâm thời tại Kim Lăng (tức Nam Kinh). Ý dân trong thiên hạ đều hướng về cách mạng, về chế độ cộng hoà. Triều đình nhà Thanh chỉ nhờ vào có mỗi một quân lực của họ Viên cũng như họ Phùng, thực chẳng thấm tháp vào đâu.

Viên Thế Khải tự biết rằng mình cưỡng lại với lòng trời quả là một việc khó khăn nguy hiểm. Do đó, sau khi chiến thắng được vài phen bèn án binh bất động, chờ đợi xem tình thế xoay chiều ra sao.

Mặt khác, trong triều đình nhà Thanh lúc này tình trạng chẳng khác chi nồi nước sôi. Nhiếp chính vương Tải Phong ngay trong đêm vội vã chạy vào cung gặp Long Dụ hoàng thái hậu để triệu tập một cuộc hội nghị quan trọng. Hoàng hậu liền cho đi triệu Cẩn phi cùng tất cả những thân vương đại thần trong Mãn tộc như Tải Chấn, Tải Tuân, Thế Tục, Lục Nhuận Tường, Thái Phó để mở ngay một cuộc đại hội gọi là "Ngự tiền đại hội nghị". Trong cuộc họp, cả Mãn tộc được thông báo tình hình tường tận như sau:

Viên Thế Khải án binh bất động, không chịu tiến quân.

Các tỉnh kéo cờ trắng đầu hàng. Bọn Đoạn Ngọ Kiều đều tuẫn tiết cả Trương Lưu thua trận, đang đêm trốn chạy về Từ Châu.

Trương Huân bỏ Nam Kinh rút lui chạy ra bên ngoài. Cái thế lớn của Thanh triều như thế là đã hết nếu có muốn miễn cưỡng hành động, cũng khó có thể khôi phục được.

Với tình hình này, Mãn tộc quả thực đang lâm vào cảnh nguy khốn đến cùng độ.

Được báo cáo tình hình vô cùng khôn nguy như vậy, tất cả Mãn tộc rúm người, mặt xanh như chàm đổ, đồng thanh quyết liệt xin nghị hoà với quân cách mạng. Tất nhiên chuyện nghị hoà phải dẫn tới trường hợp triều đình nhà Thanh bắt buộc phải hạ chiếu nhường ngôi, song song với những điều kiện được đặt ra. Những điều kiện như thế nào?

Trước hết triều đình nhà Thanh yêu cầu phải được ưu đãi, quân dân cách mạng không được chém giết người Mãn. Mặt khác, Chính phủ Dân quốc được chính thức thành lập, nhưng chính phủ này phải hằng năm trợ cấp cho con cháu nhà Thanh ba trăm vạn đồng bạc.

Đến đây, vương triều nhà Thanh coi như đã chấm dứt.

Nếu kiểm lại cả một giai đoạn lịch sử Trung Quốc gần ba trăm năm dưới triều đình nhà Thanh ta thấy từ khi Ngô Tam Quế, chỉ vì một cô vợ bé đã nhẫn tâm đem người Mãn vào thống trị Trung Quốc, cõng rắn cắn gà nhà. Đa Nhĩ Cổn định đô cho nhả Thanh ở Yên Kinh, lấy nhiếp chính vương sự nghiệp mà mở nước, làm chủ nước Trung Hoa, đến đầu thế kỷ thứ hai mươi này, cũng lấy sự nghiệp của một vị nhiếp chính vương mà chấm dứt, tổng cộng tất cả là mười đời vua, trong khoảng hai trăm sáu mươi tám năm. Nhà Mãn Thanh trước khi vào Trung Quốc, lúc còn ở Mãn Châu đã có ba đời vua, bởi thế cộng lại là mười ba đời, do đó bộ tiểu thuyết lịch sử này mới có tên Thanh cung mười ba triều. Thực ra, cái tên này không chính xác lắm về mặt nội dung bởi bộ sách đầy rẫy những chuyện ly kỳ, rùng rợn, những chuyện xấu xa, tàn ác, lại cũng chẳng ít những chuyện hoang đường, những chuyện mưu mô của những kẻ sống trong cung cấm. Bởi thế, nếu gọi bộ tiểu thuyết này là "Thanh cung bí sử" có thể sẽ phù hợp hơn chăng?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro