Thành Kỳ Ý ( Full-1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Chương 1

PHẦN 1

CHƯƠNG 1: NHIỄU

Tháng mười một năm Canh Thân, Đại Bảo nguyên niên [1], đoàn tháp tùng nhà vua du ngoạn xuống phía Nam khi ngang qua xã Bố Vệ, huyện Đông Sơ [2] thì trời vừa sẩm tối. Từ trong kiệu lớn vén mành nhìn ra, thấy bên ngoài đã không còn nhìn rõ mặt người, Hoàng thượng liền ra lệnh cho đoàn người ngừng di chuyển. Viên Nội quan Đinh Phúc nhìn bao quát xung quanh, thấy đồng quê vắng vẻ không bóng người qua lại, chỉ có tiếng quạ kêu xế chiều não nề, cảm thấy không yên tâm liền đưa ra lời can ngăn với nhà vua:

"Bẩm Hoàng thượng, chỗ này cách tư dinh của Chuyển vận sứ [3] huyện Đông Sơn không còn bao xa, cứ đi thong thả cũng chỉ mất nửa canh giờ. Nô tài nghĩ ấy mới là chốn dừng chân an toàn. Nơi thôn xóm nghèo nàn này vừa vắng vẻ, vừa ảm đạm, tiết trời hiện giờ lại đang giữa đông, nghỉ lại ngoài trời với Long thể mà nói là việc không tốt".

[1] Đại Bảo: Niên hiệu của Lê Thái Tóng, vị vua thứ hai của triều Lê Sơ. dùng từ năm 1440 đến 1442. Đại Bảo nguyên niên là năm thứ nhất cứa niôn hiệu Đại Bảo. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, tác giả Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng ghi Lê Thái Tông lấy niên hiệu Đại Bảo từ năm 1439 đến năm 1442.

[2] Xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn: Nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.

[3] Chuyển vận sứ: Chức quan đứng đầu mệt huyện, được vua Lê Thái Tổ đưa vào quan chế nhà Hậu Lê. Đến năm Quang Thuận thứ bảy, tức năm Bính Tbất (1466), dưới thời vua Lê Thánh Tông, chức quan này được đổi thành "Tri huyện".

Vị vua trẻ bước hẳn ra ngoài kiệu, vươn người uể oải, xua tay mà rằng:

"Thôi đi, đối với trẫm bây giờ một khắc cũng là quá dài! Hãy mau dựng trại đốt lửa!"

''Bẩm Hoàng thượng..."

"Trẫm vừa mệt, vừa đói không muốn đôi co với ngươi nữa!" — Người lạnh nhạt cắt ngang.

Đinh Phúc đành giấu tiếng thở dài, tất tả chạy đi lo liệu công việc. Xem ra Hoàng thượng thực lòng tin tưởng đám thị vệ tinh nhuệ đem theo nhưng Đinh Phúc thì không thể suy nghĩ đơn giản, nhẹ nhàng như thế. Tính mạng của chủ nhân liên quan trực tiếp đến mạng sống của ông ta mà ông ta thì yêu quý cái mạng của mình vô cùng. Dù chỉ là một thái giám, cái kẻ đàn bà không phải, đàn ông chẳng còn, cuộc sống vốn chẳng có mục đích gì rõ rệt ngoài việc ngày ngày làm thân tôi tớ mua vui cho Hoàng thượng nhưng ông ta tuyệt đối không vì thế mà cảm thấy chán ghét bản thân mình. Ớ vị trí kề cận đấng chí tôn, vinh hoa phú quý trong cái cuộc đời này ông ta đã có cả, so với đấng mày râu chân chính, cái ông ta thiếu chỉ là chút hơi ấm đàn bà nhưng cái đó thì có gì quan trọng? Đàn bà cũng giống như ngọc ngà châu báu, vốn là thứ trang sức bên ngoài, càng đẹp thì càng đáng giá, càng làm tôn lên địa vị của kẻ đeo chúng trên người, phô chúng ra ngoài. Nhưng suy đi tính lại, thậm chí đàn bà lại chẳng bằng những món châu ngọc đắt tiền ấy. Châu ngọc vốn càng để lâu càng sáng, còn đàn bà càng già càng mất giá. Châu ngọc thích thì đeo lên, chán thì cất đi, đàn bà muốn trưng ra phải cho ăn, cho mặc, phải ghẹo cười, phải nịnh nọt. Châu ngọc trăm năm hay vạn năm cũng chỉ là thứ vô tri, câm lặng, còn đàn bà, cái miệng không biết phân biệt nặng nhẹ, đôi khi có thể gây ra cả mối họa diệt vong.

Bữa ăn của Hoàng thượng chẳng vì không được nấu trong gian bếp Hoàng gia mà trở nên đơn giản đi. Đầy đủ ba mươi bảy món được bày biện đẹp mắt trên những chiếc đĩa sứ: thức ăn mười bảy món, bánh sáu loại, mứt năm loại, trái cây bốn loại, xôi ba loại, chè hai loại. Gạo thổi cơm phải là loại thật trắng và chọn lựa từng hạt, nồi đất đều phải đập bỏ sau một lần nấu, đũa Hoàng thượng dùng vót bằng tre vừa mới trổ đủ lá và cũng thay bỏ sau mỗi lần ngự thiện. Khi cung nữ đang nếm thử từng món trước mặt vua và viên Nội quan để chắc chắn thức ăn không có độc thì nghe bên ngoài có tiếng người đến bẩm báo. Nhà vua phất tay ra hiệu cho Đinh Phúc bước ra xem có chuyện gì, ông ta nhanh nhẹn đi rồi quay trở lại tâu:

"Bẩm Hoàng thượng, Chuyển vận sứ huyện Đông Sơn là Nguyễn Tài Tông xin trình diện!"

Nhà vua khẽ gật đầu, Đinh Phúc từ trong trướng lớn tiếng nói vọng ra truyền lệnh:

"Cho quan Chuyển vận sứ vào!"

Hai tên lính gác chắn lối vào nghe lệnh liền đứng tách ra, rộng đường cho viên quan huyện bước qua. Chuyển vận sứ Đông Sơn vừa e dè khúm núm, vừa vui mừng khấp khởi tiến vào, trong hơn mười năm làm quan, đây là lần đầu tiên ông ta được diện kiến Long nhan. Từ nơi này đến Kinh thành khoảng cách địa lý không quá xa xôi nhưng từ phủ huyện đến Cung thành [4] thì quả là khoảng cách lớn về tầm vóc. "Đây quả là cơ hội ngàn vàng không thể bỏ qua, biết đâu lại có thể nâng cao vị thế của mình!" — Viên quan huyện nhẩm tính nhanh trong mấy bước chân di chuyển từ cửa lán tới chỗ khấu đầu trình diện đức vua.

[4] Cung thành: Là vòng thành trong cùng, nơi vua sống.

"Thánh thượng vạn tuế!" — Tài Tông quỳ mọp xuống đất, run giọng bái kiến.

"Ái khanh, miễn lễ!" — Một giọng nói trong sáng vang lên, đáp lời viên quan huyện.

"Đội ơn Hoàng thượng!" — Chuyển vận sứ Nguyễn Tài Tông khúm núm cảm tạ rồi từ từ đứng lên, trong ánh đèn cầy vàng vọt, ngồi bên bàn ăn thịnh soạn là một vị Hoàng đế tuổi còn rất trẻ, gương mặt tuấn tú, sáng ngời, toát lên vẻ cao quý. Người mặc Long bào màu vàng chính sắc thêu rồng ổ ở bụng và hai vai, đai đỏ nạm ngọc, đầu đội mũ Xung thiên bằng the đen, có đính sức vàng hình lửa và mây, chân đi đôi hia đen thêu rồng bằng chỉ vàng oai vệ.

''Chậm trễ trong tiếp đón, thần thật là tội đáng muôn chết! Vi thần ngay khi hay tin đã cho sửa soạn lại tư gia, tuy đơn giản, sơ sài nhưng kính mong người di giá tới đó. Nơi này đồng không vắng vẻ, lán trại không kiên cố, thần e ngại thú hoang và mưa gió sẽ làm người ngủ không ngon giấc".

"Trẫm không trách cứ gì khanh cả!" — Đại Bảo tỏ rõ sự rộng lượng — "Vốn trẫm cũng muốn lặng lẽ tuần du nhưng có vẻ như người hầu cận bên ta đã trở nên lắm chuyện chỉ vì lo lắng thái quá!" — Nói đoạn, người đưa mắt nhìn sang Đinh Phúc trách khéo, ông ta khẽ cúi đầu nửa như biết lỗi, lại nửa như tỏ ra đây là chuyện chẳng đặng đừng.

"Trẫm hiểu ý tốt của khanh nhưng ở đây cũng tốt! Ta vẫn mong được có dịp nghỉ lại ngoài trời, hít thở không khí trong lành nơi thôn dã như thế này".

''Muôn tâu..." — Viên quan ngập ngừng toan thuyết phục thêm nhưng lại bắt gặp cái lắc đầu kín đáo của Đinh Phúc liền hiểu Ý mà sửa lại lời nói - ''Vậy thì thần xin được bố trí thêm binh lính hộ vệ bên người!"

"Xin Hoàng thượng chấp nhận ý tốt của quan Chuyển vận sứ!" — Thái giám Đinh Phúc vội vã đỡ lời như sợ nhà vua sẽ từ chối — ''An nguy của người là ưu tiên hàng đầu, quan trọng hơn tất thảy!"

''Vậy cũng được! Trẫm không nên làm khó cho Chuyển vận sứ! Dù sao đây cũng là địa phận thuộc sự quản lý của khanh, cứ làm theo ý khanh!" — Đại Bảo gật đầu ưng thuận.

''Đội ơn Hoàng thượng!" — Viên quan huyện cúi gập người xuống tỏ ý vui mừng — "Vi thần xin cáo lui để Hoàng thượng dùng bữa! Xin người thứ lỗi cho thần vì xuất hiện không đúng lúc!"

Nói đoạn Nguyễn Tài Tông khom lưng, cúi mặt, bước lui từng bước, ra đến tận ngoài cửa mới dám quay đầu thẳng tiến. Đêm đó, số binh lính canh gác quanh Hoàng thượng tăng lên gấp ba lần.

''Hoàng thượng!" — Tiếng nữ nhân văng vẳng đâu đây, vừa xa lại vừa gần, yếu ớt nhưng đầy khẩn khoản khiến Đại Bảo không thể không chú ý. Người nhìn quanh, thấy nơi mình đang đứng như giữa một cánh rừng, hai bên cây cối um tùm, chỉ có một lối mòn dẫn về phía trước, bầu không khí âm u, tĩnh mịch. Xung quanh người không có lấy một bóng binh lính hộ vệ, cả thái giám Đinh Phúc cũng không ở bên.

''Hoàng thượng!" — Giọng nói ấy lại vang lên, lần này như vọng lại từ phía trước.

Nhà vua mạnh dạn bước tới, con đường mòn dẫn đến một bờ suối. Nơi đây u tịch, sương mù giăng giăng không còn thấy rõ cảnh vật. Bên bờ suối có một vật gì đó khẽ động đậy, Đại Bảo tiến lại gần thì nhận ra đó là một con rắn trắng rất lớn, bị chém ngang thân gần như đứt lìa, đang nằm thoi thóp. Thấy nhà vua, nó cất tiếng nói như người, chính là giọng nữ nhân văng vẳng ban nãy:

''Hoàng thượng! Xin hãy cứu thần thiếp!"

"Ngươi là ai? Tại sao lại ra nông nỗi này?" — Nhà vua gặng hỏi khi nhìn vết thương lớn trên người nó.

"Thần là con gái Bạch xà tướng quân [5], chẳng may lâm nạn, hiện đang rất nguy kịch. Xin Hoàng thượng hãy cứu lấy thần thiếp!"

[5] Bạch Xà tướng quân: Tượng rắn trắng quấn mình trên xà nhà trong điện thờ Mầu ở miền Bắc, cùng với Thanh Xà tướng quân là tượng rắn xanh.

"Ta phải làm gì?" — Nhà vua cúi người xuống để nhìn gần hơn, đột nhiên con rắn trở mình, quấn chặt lấy chân Hoàng thượng. Đúng lúc đó thì người giật mình choàng tỉnh giấc.

''Ra là một giấc mộng!" — Đại Bảo thở mạnh, cảm thấy mồ hôi lạnh túa khắp cơ thể. Nhưng thật kỳ lạ, giấc mơ vừa rồi không giống với những giấc mơ người từng gặp qua. Cảm giác vô cùng chân thực khiến người không sao gạt ra khỏi đầu óc. Đại Bảo bước xuống khỏi giường, xỏ chân vào giày, bước ra ngoài. Trông thấy nhà vua tiến tới bên cạnh, hai tên lính gác cửa vừa ngạc nhiên, vừa bối rối quỳ rạp xuống kêu lên:

"Hoàng thượng!"

Tiếng hô của bọn chúng khiến những người khác cũng vội vàng quỳ xuống. Nội quan Đinh Phúc gương mặt còn ngái ngủ hớt hải chạy tới, lo lắng gặng hỏi:

''Hoàng thượng! Sao người không ngủ mà lại ra đây? Ngoài này gió lạnh, sương muối, không tốt cho ngọc thể! Phải chăng Long sàng [6] chuẩn bị chưa dược chu đáo khiến người ngủ không ngon giấc? Hay người muốn truyền gọi điều gì?"

[6]: Long sàn: Giường vua nằm.

Nhà vua xua tay, người vẫn còn mải nghĩ về giấc ma kỳ lạ vừa rồi. "Đúng là chỉ có trong mơ mới không thấy bóng dáng binh lính và thái giám xung quanh!" — Vị vua trẻ nghĩ thầm. Phóng tầm mắt nhìn ra xa han, chợt người nhận thấy cảnh vật quanh đây quả thật quen thuộc như đã từng gặp qua.

''Đúng rồi! Đây chính là khung cảnh ta đã nhìn thấy trong giấc mơ!" — Người lẩm bẩm.

"Dạ?" — Đinh Phúc làm bộ dạng khó hiểu.

"Đinh Phúc! Phía trước là gì vậy?"

Viên thái giám quay người, nheo mắt nhìn về hướng Đại Bảo chỉ tay rồi tâu:

"Bẩm, chỉ là một cánh rừng!"

"Chúng ta hãy tới đó!" — Nhà vua ra lệnh, băng băng tiến tới, không để cho viên Nội quan thân cận kịp đưa ra lời can ngăn.

Đinh Phúc trông thấy thế liền hốt hoảng chạy theo, miệng không ngừng gọi lớn:

"Hoàng thượng! Hoàng thượng! Xin người cẩn thận! Đợi nô tài! Đợi nô tài với!"

Thoáng cái, nhà vua đã di chuyển tới gần, đúng như người dự đoán, lối vào khu rừng giống hệt với những gì người nhìn thấy trong giấc mơ, chỉ có điều nhà vua không bước vào đó một mình mà Đinh Phúc đã hất hàm ra hiệu cho một tên lính cầm đuốc tiến lên trước soi đường. Hơn mười năm theo hầu Đại Bảo từ khi người còn là một Hoàng thái tử, viên thái giám hiểu rất rõ con người bệ hạ, một khi đã quyết làm gì thì dù có can ngăn thế nào người cũng sẽ không để lọt tai. Ông ta đành để nhà vua làm theo ý mình, miễn là xung quanh có đông đảo binh lính theo sát hộ vệ.

Đoàn người men theo con đường mòn nhỏ hẹp ấy một quãng ngắn thì đến bên một bờ suối. Lúc này đã khoảng cuối giờ Tý [7], thời tiết giá lạnh khiến màn đêm càng thêm u tịch. Binh lính đốt đuốc sáng rực, đi dọc hai bên bờ suối lùng sục nhưng không thấy có gì khác lạ. Đoàn người tìm kiếm đã nửa canh giờ, viên thái giám nhìn sang thấy ánh mắt vị vua trẻ vẫn luôn chăm chú dõi theo đám lính, mới gặng hỏi:

"Hoàng thượng! Chính xác là người đang tìm kiếm gì ạ?"

[7] Giờ Tý: từ 11 giờ tối đến 1 giờ sáng.

Đại Bảo toan nói cho ông ta nghe về giấc mơ kỳ lạ của mình nhưng lại thấy Đinh Phúc co ro trong tấm áo phong phanh, có lẽ vừa nãy nghe tiếng lính canh hô lên "Hoàng thượng", ông ta liền bật dậy, chạy tới, không kịp mặc thêm áo ngoài. Nhà vua định không kể ra và toan dừng cuộc tìm kiếm vô nghĩa lại. Đúng lúc ấy một tên lính hớt hải chạy đến, hắn quỳ xuống trước mặt nhà vua và Đinh Phức, tâu lên:

"Bẩm Hoàng thượng, chúng thần vừa tìm thấy..."

Đại Bảo không đợi nghe hết câu, vội vã di chuyển về hướng tên lính vừa chạy tới, tại đó, vài tên lính khác đốt đuốc đứng vây quanh một bụi cây dại mọc cách bờ suối quãng chục bước chân.

"Hoàng thượng!" — Đám này quỳ rạp xuống khi nhà vua bước tới gần.

"Có chuyện gì?" — Đinh Phúc cất tiếng trước.

''Dạ muôn tâu, chúng thần phát hiện có tiếng động lạ phát ra từ bụi cây này!"

"Thế đó là gì? Đã ai kiểm tra chưa?" — Viên Nội quan tỏ ra sốt ruột.

"Dạ bẩm... chưa ạ!" — Tên lính bối rối nhận ra sơ suất của mình.

"Hồ đồ!" — Đinh Phúc tức giận — "Các người chưa kiểm tra xem đó là thứ gì mà đã dám chạy đến bẩm báo!"

Đại Bảo không để tâm đến những lời đôi co của hai bên, tiến lại gần hơn, khẽ vén đám lá ra.

"Hoàng thượng!" — Đinh Phúc hoảng hốt kêu lên — "Xin người cẩn thận!"

Nhà vua ra dấu như muốn nói Đinh Phúc không việc gì phải nhặng xị lên. Khi bụi cây được vén ra, thứ mà nhà vua nhìn thấy không phải là con rắn trắng như trong giấc mơ mà là một người con gái. Nàng ở trần, thứ che phủ lên da thịt nàng không phải là quần áo vải vóc mà là từng vệt máu lớn. Vị vua trẻ nhớ lại trong giấc mơ, con rắn trắng cũng bị thương tích rất nặng, máu chảy loang loáng, thấm đẫm đám cỏ bên bờ suối nơi nó nằm. Người vội vàng cởi áo bào, phủ lên người nàng, rồi bế nàng trong tay, lệnh cho Đinh Phức:

"Mau truyền gọi Thái y!"

Đã qua bảy ngày, bảy đêm từ khi người con gái lạ lùng kia được Đại Bảo phát hiện và cứu sống, nàng vần mê man chưa tỉnh lại. Theo như lời Thái y, vết thương sau lưng nàng là vết chém của đao kiếm. Đó là một vết thương rất sâu và hiểm mà ngay cả đàn ông trai tráng cũng khó vượt qua nổi. Nhưng thật kỳ diệu, cô gái ấy đã sống sót, dù còn hôn mê nhưng sắc mặt nàng đang dần trở nên hồng hào, tươi tắn, thần khí cũng tốt lên rất nhiều, chuyện nàng tỉnh lại không phải là không thể. vì việc này mà chuyến tuần du của Đại Bảo phải tạm dừng lại, thời gian người lưu lại huyện Đông Sơn cũng kéo dài hơn dự kiến. Hoàng thượng đã thuận theo lời Đinh Phúc và viên Chuyển vận sứ di giá về tư dinh của ông ta để tiện việc chữa trị cho cô gái cũng như sinh hoạt của người. Ngày nào người cũng tới thăm nàng ta và thấy rõ tình trạng của nàng chuyển biến theo chiều hướng tốt lên.

Đến ngày thứ mười tám, khi nhà vua đang thư thả thưởng trà, ngắm hoa trong sân vườn thì một nữ tì trong tư gia viên quan huyện chạy đến bẩm báo rằng người con gái nọ đã tỉnh lại, hiện Thái Y đang thăm khám cho nàng. Nhà vua vội vàng di giá tới đó. Khi đến nơi, người thấy nàng đã có thể ngồi dậy. Đại Bảo bước vào gian phòng, Thái Y và đám nô tì liền quỳ xuống khấu đầu cung kính:

''Hoàng thượng vạn tuế!"

"Miễn lễ! Miễn lễ!" — Nhà vua khoát tay ra hiệu cho mọi người nhưng mắt ngài chỉ mải nhìn vào gương mặt cô gái.

Nàng tỏ ra vô cùng bối rối khi chưa thể tùy ý cử động để hành lễ với nhà vua. Hiểu được tâm trạng ấy, Đại Bảo vội nói:

''Cả nàng nữa, trẫm miễn lễ!"

Nói đoạn, người quay sang Thái Y hỏi:

"Bệnh tình của nàng ấy thế nào rồi?"

"Muôn tâu, người đã tỉnh lại tức là bệnh đã được đẩy lùi ạ!"

''Nói như vậy là nàng ấy đã khỏe lại?"

"Dạ thưa, cũng có thể nói là như thế! Tuy cử động còn thấy đau nhưng rồi sẽ mau chóng bình phục hoàn toàn thôi ạ! Hơn ba mươi năm trong nghề, quả thật thần chưa từng thấy qua trường hợp nào gặp phải vết thương nặng mà lại có thể hồi phục nhanh đến thế. Nếu Hoàng thượng nhìn vết thương bây giờ người chắc chắn cũng sẽ vô cùng kinh ngạc, vết chém đã khép miệng, kéo da non, thật là thần kỳ!"

"Được rồi! Chuyện này cũng không có gì quá khó hiểu, ta vốn biết rõ khanh là một Thái y có năng lực xuất chúng! Nếu đã khám xong, khanh có thể lui ra!" — Vị vua trẻ tỏ rõ sự hài lòng.

"Các người cũng lui cả ra!" — Người nói với đám nô tì đang có mặt ở đó.

Khi tất cả đã lui đi, trong phòng chỉ còn lại Hoàng thượng và cô gái, người mới ngồi xuống giường, bên cạnh nàng, nhẹ nhàng hỏi:

"Bây giờ chỉ còn lại trẫm và nàng, nàng hãy nói cho trẫm nghe nàng là ai? vì sao lại bị thương nghiêm trọng như vậy?"

"Muôn tâu!" — Người con gái rụt rè thưa — "Có thể người sẽ thấy khó tin nhưng thần thiếp vốn khi tỉnh lại đã không còn nhớ gì về thân phận, gốc gác của mình, lại càng không có ý niệm gì về vết thương trên người!"

"Trước khi tìm thấy nàng, trẫm từng có một giấc mơ vô cùng kỳ lạ. Trong giấc mơ, trẫm nhìn thấy một con rắn trắng bị thương rất nặng và cầu xin trẫm hãy ra tay cứu giúp. Rắn trắng nói mình là con gái của Bạch Xà tướng quân. Khi trẫm tỉnh dậy, đã theo những gì nhìn thấy trong giấc mơ, băng qua cánh rừng, đến bên bờ suối và tìm được nàng, với một vết thương giống hệt. Phải chăng đây là ý trời? Là thần linh muốn ban nàng cho trẫm?"

''Thần thiếp..." — Nàng đáp, có chút ngập ngừng — "Nếu người đã tin vào điều đó thì thần thiếp cũng xin được nghe theo!"

Hoàng thượng mỉm cười trìu mến, lặng ngắm vẻ yêu kiều của người con gái: gương mặt thanh tú, nước da trắng hồng, mái tóc đen huyền phủ xuống bờ vai mảnh dẻ, ánh mắt nhìn người vừa rụt rè, vừa tha thiết khiến tâm trí vị Hoàng đế trẻ bị khuấy đảo mạnh mẽ.

Buổi chiều hôm ấy, nhà vua cho gọi Nội quan Đinh Phúc đến và căn dặn:

"Trẫm muốn nạp nàng ấy làm phi tần, nay lệnh cho ngươi ghi lại: nữ nhân Nguyễn Thị Anh [8], người xã Bố vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, nhập cung ngày rằm tháng mười một năm Đại Bảo nguyên niên. Tuyệt đối không được đề cập đến những chuyện khác đã xảy ra, khanh hiểu ý trẫm chứ?"

[8] Nguyễn Thị Anh: Chữ Anh có nghĩa là tinh túy của vạn vật. Chữ Nguyễn gồm Nguyên nguyên nghĩa là trăm họ, dân chúng. Còn một nét trong âm A nghĩa là tựa, tựa vào. Ý là cô gái này nương tựa được hoặc nương nhờ Thiên tử để sống.

"Nô tài tuân lệnh!" — Đinh Phúc liền cung kính đáp lời.

Chương 2

CHƯƠNG 2: LOẠN

Tháng mười một năm Tân Dậu, Đại Bảo năm thứ hai [1], vừa đúng một năm sau, Hoàng thượng đột ngột ra chiếu chỉ phế truất Thái tử Lê Nghi Dân, lập tam Hoàng tử Lê Bang Cơ lên thay thế. Đối với đám dân đen và nô tì quanh năm đầu tắt mặt tối, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, việc ai làm Thái tử vốn chẳng ảnh hưởng gì tới cuộc sống của họ. Nhưng dẫu thế họ vẫn thích bàn tán đến những chuyện thị phi trong Hậu cung, trong đó có việc Thái tử mới được lập là con đẻ của vị phi tần họ Nguyễn mới nhập cung đã được Hoàng thượng vô cùng sủng ái.

[1] Đại Bảo năm thứ hai: Năm 1441 dương lịch.

Khắp trong ngoài, ai ai cũng biết từ ngày có nàng, Hậu cung của nhà vua chẳng lúc nào sóng yên biển lặng. Quý phi họ Dương, tự là Tiếu Hoàn [2], còn có tên húy là Bí, trước đó từng là người có địa vị cao nhất trong Hậu cung vì sinh được cho bệ hạ đại Hoàng tử Lê Nghi Dân và nhị Hoàng tử Lê Khắc Xương. Dương Quý phi vốn được Hoàng thượng vô cùng sủng ái, tên tự Tiểu Hoàn của nàng cũng là do đức Hoàng thượng ban cho, ngầm có ý so sánh nhan sắc yêu kiều của nàng như một tiểu Quý phi Dương Ngọc Hoàn [3] thời Đường quốc. Những tưởng sau khi đại Hoàng tử được lập làm Hoàng thái tử, vinh hoa phú quý của Dương Quý phi từ nay về sau sẽ mãi đầy thêm, chẳng ngờ đang trong những tháng ngày nhận được ân điển mênh mông ấy, Thánh thượng lại đột ngột thay lòng đổi dạ, quay sang sủng ái một nữ nhân khác, người con gái bí ẩn người đưa cùng về sau chuyến tuần du xuống phía Nam.

[2]Tiểu Hoàn: Nghĩa là "chiếc vòng ngọc nhỏ", đây là tên tự mà tác giả cố ý đặt thêm cho nhân vật Dương Thị Bí.

[3] Quý phi Dương Ngọc Hoàn: thường được gọi là Dương Quý phi, một trong tứ đại mỹ nhân Trung hoa. Gồm có: Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Ngọc Hoàn.

Nguyễn Thị Anh nhập cung mà chẳng cần thông qua cuộc tuyển chọn tú nữ khắt khe như thường lệ, lại một bước được Hoàng thượng phong làm Quý phi, đứng hàng cao nhất trong: Tam phi, cửu tần, Lục chức [4], ngang hàng với mẫu thân của Hoàng thái tử, quả thực xưa nay chưa từng có tiền lệ nào như thế, thật khiến cho kẻ khác vừa ganh tị lại vừa kiêng nể. Hoàng thượng còn đích thân ban cho nàng phong hiệu "Thần" [5] để luôn nhớ tới giấc mơ kỳ lạ như có thần linh dẫn lối chỉ đường cho hai người gặp nhau. Trong lòng Thánh thượng, vị trí chủ nhân của trái tim người sớm đã được định đoạt, vì vậy mà việc Hậu cung thay chủ chỉ còn là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

[4]: Tam phi: Quý Phi, Minh Phi, Kính Phi. Cửu tần: Chiêu Nghi, Chiêu Dung, Chiêu Viên, Tu Nghi, Tu Dung, Tu Viên, Sung Nghi, Sung Dung, Sung Viên. Lục chức: Tiệp Dư, Dung Hoa, Tuyên Vinh, Tài Nhân, Lương Nhân, Mỹ Nhân.

[5] Ngoài cấp bậc phi tần được quy định theo quy chế như Quý Phi, Minh Phi, Kính Phi... phi tần được vua ban phong hiệu sẽ được gọi theo phong hiệu, ví dú Nguyễn Thị Anh sẽ được gọi là "Thần phi" nhưng thực chất vẫn là một Quý Phi.

Chẳng thế mà một Dương Quý phi cao quý bậc nhất, mẫu thân của Hoàng thái tử, người sẽ thừa kế ngai vàng, lại có thể mất đi quyền lực chỉ trong nháy mắt, bị giáng xuống làm Chiêu nghi [6], cuối cùng, cực điểm của sự thất sủng, nàng bị phế làm thường nhân, tẩm cung diễm lệ bỗng biến thành lãnh cung hoang vắng vì Hoàng thượng đã quyết đoạn tuyệt mọi quan hệ, chẳng bao giờ thèm ngó ngàng tới nàng nữa.

[6]: Chiêu nghi: Đứng hàng thứ nhất trong Cửu tần.

Hoàng thượng "yêu mẹ, bế con" không ngoài dự đoán, chẳng bao lâu sau khi mẫu thân bị phế, Hoàng thái tử Lê Nghi Dân mới vừa hai tuổi cũng không thể giữ được ngôi vị của mình. Tam Hoàng tử Lê Bang Cơ do Nguyễn Thần phi sinh ra được lập làm Thái tử, Hậu cung một lần nữa lại rung chuyển.

Trong chiếu thư Thánh thượng ban xuống đã nói rõ rằng:

"Đặt Thái tử để vững gốc rễ, lập con đích để chính danh phận. Đó là mưu xa của xã tắc, kế lớn của quốc gia. Hoàng tử Bang Cơ thể chất vàng ngọc, tư thái anh minh, vừa có uy vọng của một bậc quân vương, lại đúng danh phân là con đích tôn quý. vậy sai Nhập nội đại đô đốc Lê Liệt mang sắc mệnh lập làm Hoàng thái tử". [7]

[7]: Trích Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697)

Đại Hoàng tử Nghi Dân phong làm Lạng San Vương, nhị Hoàng tử Khắc Xương phong làm Tân Bình Vương.

Nguyễn Thần phi không ngừng đi đi lại lại trong tẩm cung của mình, sắc mặt kém vui hơn bao giờ hết. Nàng đang nghĩ tới giấc mộng kỳ lạ đêm qua.

Trong mơ, Thần phi thấy mình ở trước mặt Ngọc Hoàng đại đế sụp xuống cầu xin nhưng người lại một mực ngoảnh đi. Ngọc Hoàng bứt ra một viên dạ minh châu trên áo đưa cho vị tiên đồng bên cạnh, vị tiên đồng ấy ngậm dạ minh châu, lập tức biến thành đứa bé trai xinh xắn kháu khỉnh nằm gọn trong tay Ngọc Hoàng, người đã trao đứa trẻ cho Thái Thượng lão quân rồi chỉ tay về hướng Bắc. Mơ đến đây thì Thần phi giật mình choàng tỉnh giấc.

Nàng quờ tay sang bên cạnh, thấy giường chiếu lạnh ngắt, vậy là đêm nay Hoàng thượng cũng không đến. Đã hơn một tuần nay người không ghé qua cung Khôn Thái, trước đây, lâu nhất chỉ là ba ngày, xem ra sự mặn nồng người dành cho nàng đã nguội đi ít nhiều. Thần phi chợt rùng mình nhớ lại điệu cười ngạo mạn của Dương Quý phi trước khi cửa cung Vĩnh Xuân của nàng ta bị Nội quan thị hậu chánh trưởng [8] niêm phong vĩnh viễn, nàng ta đã chỉ tay vào mặt nàng mà nói:

"Có thể giờ trong lòng ngươi đang cảm thấy đắc thắng nhưng cứ chờ đi, Hoàng thượng còn trẻ, loại nữ nhân có chút nhan sắc và thủ đoạn như ngươi còn rất nhiều trên đời, ngươi rồi cũng sẽ sớm bị những kẻ đó tìm mọi cách tàn nhẫn nhất để kéo xuống! Hãy ghi nhớ thật kĩ hình ảnh của ta ngày hôm nay, biết đâu sau này ngươi sẽ còn bi thảm han gấp trăm ngàn lần!"

[8] Nội quan thị hậu chánh trưởng: Như đại tổng quản thái giám trong hậu cung.

Họ Dương kia nói chẳng sai, trong chốn Hậu cung này những kẻ muốn dìm nàng xuống chưa bao giờ ít, liệu nàng sẽ trụ vững được bao lâu ở vị trí chủ nhân Hậu cung và ở trong lòng Hoàng thượng? Không một ai, dù là nàng hay ngay bản thân Hoàng thượng có thể biết chắc.

"Đinh Thắng!" — Thần phi lớn tiếng gọi kẻ tâm phúc đang đứng túc trực bên ngoài.

"Có nô tài!" — Tiếng người đáp vọng vào, liền sau đó viên Nội quan đẩy cửa bước vào, khúm núm quỳ xuống trước mặt nàng — "Lệnh bà cần gì ạ?"

"Canh mấy rồi?"

"Dạ, đã sang canh hai [9] rồi ạ!"

[9] Canh hai: từ 9h đến 11h đêm.

"Đêm nay Hoàng thượng ngự lại cung nào?"

"Điều này... Nô tài..." — Đinh Thắng ấp úng.

"Nói!" — Thần phi quát lên một tiếng khiến tên nô tài đang quỳ dưới đất phải giật bắn người, lảo đảo suýt ngã.

"Dạ, là cung Khánh Phương, thưa lệnh bà!" — Hắn lắp bắp.

"Cung Khánh Phương chẳng phải của Ngô Tiệp dư sao?"

"Dạ bẩm, vâng!"

"Nếu là Ngọc Dao..." — Thần phi khẽ thở phào, mỉm cười khoát tay ra hiệu cho Đinh Thắng — "Được rồi, ngươi có thể lui ra!"

Trong Hậu cung này, người có thể khiến Thần phi an lòng tuyệt đối chỉ có mình Ngô Thị Ngọc Dao, không phải do nàng ta chỉ là một Tiệp dư mà vì lẽ con người nàng ta tính tình ôn hòa, nhã nhặn, chẳng bao giờ bon chen, tranh chấp với ai. Thần phi đã từng gặp qua Ngọc Dao vài lần, đều cảm thấy có ấn tượng tương đối dễ chịu về nàng ta. Nghe nói ngày trước, khi Ngô Tiệp dư sinh hạ cho Hoàng thượng một Hoàng nữ, đặt tên Diên Trường. Hoàng thượng đã lập tức sắc phong Hoàng nữ là Đà Quốc Công chúa, lại có ý định phong Ngọc Dao thành Chiêu nghi nhưng chính nàng lại một mực khước từ, nói rằng có thể cùng người đàn ông mình yêu thương sinh ra những đứa con khỏe mạnh chính là hạnh phúc lớn nhất của mọi người phụ nữ, nàng không cần có thêm bất kỳ phần thưởng nào khác nữa. Chính bởi lời nói và thái độ ấy mà Ngọc Dao không giống như bao kẻ khác, có thể sống những năm tháng bình yên ở nơi nhiều sóng gió này. Đã nhiều năm kể từ ngày nàng nhập cung đến nay, Ngô Tiệp dư luôn được tiếng là người khiêm nhường, hiền thục, luôn giữ mình đứng ngoài các cuộc tranh chấp của đám phi tần, mỹ nữ.

"Đã là người không màng tới danh vọng thì có gì đáng sợ chứ!" — Nguyễn Thần phi nghĩ thầm, cảm thấy an lòng dù đêm nay Hoàng thượng ở lại trong cung Khánh Phương.

Đinh Thắng thấy chủ nhân hạ rèm, ngả lưng nằm xuống thì biết ý định lặng lẽ lui ra. Đột nhiên, Thần phi nhỏm dậy, như sực nhớ ra điều gì, nàng gọi giật viên Nội quan lại, hỏi hắn:

"Cung Khánh Phương nằm ở hướng nào?"

"Bẩm, là chính Bắc, thưa lệnh bà!" — Thắng ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời.

"Chính Bắc?" — Nàng lặp lại, vẻ hoang mang.

"Bẩm, nô tài chắc chắn nhớ không sai bởi vì đã từng cùng Nội quan Đinh Phúc dành hơn một tháng để vẽ lại sơ đồ bố trí các cung, điện trong Cung thành để dâng lên Thánh thượng theo lệnh của người!"

"Được rồi! Ta biết rồi! Ngươi mau lui ra!" — Thần phi lần nữa ra lệnh cho hắn lui đi nhưng lần này thái độ căng thẳng khác hẳn vẻ dễ chịu trước đấy.

Thắng cúi đầu bước lui từng bước ra tới cửa, trong lòng cảm thấy có chút khó hiểu, tính khí của Thần phi dạo gần đây thật thất thường khiến kẻ làm bề tôi như hắn đến thở mạnh cũng không dám.

Nhưng nếu như Đinh Thắng biết về giấc mơ của chủ nhân hắn, và liền sau đó chuyện Ngô Tiệp dư đã đậu Long thai trở thành tin tức lan ra khắp Hậu cung thì viên Nội quan sẽ chẳng còn cảm thấy việc tâm tính Nguyễn Thần phi bỗng trở nên bất ổn là điều kỳ lạ nữa.

Ngọc Dao đã có mang! Người đàn bà lúc nào cũng tỏ ra ôn nhu, kín đáo mà ngay cả con người nổi tiếng là ngạo mạn và khắc nghiệt như Dương Tiểu Hoàn trước kia cũng chưa từng dám động tới, đến giờ Thần phi cũng bắt đầu cảm nhận được sức hút tiềm ẩn bên trong vẻ dịu dàng, khiêm tốn của Ngọc Dao, đồng thời hiểu ra nàng ta chính là kình địch đáng gờm nhất - vị phi tần ở Hậu cung chính Bắc.

Không giống như những nữ nhân khác trong Hậu cung, Ngọc Dao chưa bao giờ để mình bị lôi kéo vào những chuyện ghen tuông tranh sủng hay kéo bè kết cánh, có thể là vì tính cách nàng vốn ưa thích sự yên ổn hơn là danh vọng, cũng có thể đó là lòng tự tôn gia tộc, khi mà Tiệp dư có ông nội là Thái phó, Hưng quốc công Ngô Kinh và phụ thân là Thái bảo, Chương khánh công Ngô Từ, còn bên ngoại là dòng họ Đinh hiển hách, dứng đầu là Thái bảo Đinh Liệt, một trong những khai quốc công thần đã cùng sát cánh bên Thái Tổ Cao Hoàng đế [10] đánh dẹp đại quân Minh quốc khỏi bờ cõi Đại Việt, lập nên nhà Lê. Đối với người có thân thế cao quý như nàng, nếu cùng đám nữ nhân trong Hậu cung làm ra những việc tranh đoạt đáng xấu hổ thì chính là tự phá bỏ tôn nghiêm của mình.

[10] Thái Tổ Cao Hoàng đế hay Lê Cao Hoàng: Lê Lợi, hoàng đế đầu tiên của nhà Lê sơ.

Chính vì vậy, Thần phi đã sớm lường trước rằng để tìm ra điểm yếu của Ngọc Dao là điều chẳng dễ dàng gì nếu không muốn nói là khó khăn nhưng nếu bây giờ không hành động mà đợi đến lúc đứa trẻ trong bụng nàng ta ra đời thì đã quá muộn. Không chừng đúng như những gì nàng thấy trong mơ, đứa trẻ mà Ngô Tiệp dư đang mang thực sự là tiên đồng đầu thai. Nếu là vậy, dù có phải chống lại ông trời, Thần phi cũng quyết không để nó được sinh ra trên đời này, đe dọa đến ngôi Thái tử mà khó khăn lắm nàng ta mới đoạt được từ tay kẻ khác cho con trai mình.

Dù Ngọc Dao trước kia không phải là người thích bon chen tranh đoạt nhưng biết đâu đó là vì nàng ta chỉ sinh được cho Hoàng thượng một Hoàng nữ, Đà Quốc Công chúa. Dù được phụ hoàng yêu quý nhưng thân phận nữ nhi sinh ra vốn đã không thể so sánh với các Hoàng tử, cùng lắm cũng chỉ được ưu ái tìm cho một tấm chồng thật tốt để gả đi, yên tâm sống một cuộc đời an nhàn, sung túc. Còn nếu lần này, Long thai trong bụng Ngô Tiệp dư đích thị là Hoàng tử thì mọi việc sẽ xoay vần theo chiều hướng khác. Ai dám đảm bảo rằng một Ngọc Dao hiền lành, nhẫn nhịn không thể vì con trai mình mà nảy sinh dã tâm?

Trong chốn Hậu cung này, sinh được một Hoàng tử là phúc, hay là họa không ai nói trước được. Có đôi khi, "cây muốn lặng mà gió chẳng chịu dừng", dù không muốn bon chen nhưng liệu kẻ khác có chịu để yên? Sớm muộn gì cũng sẽ bị kéo vào vòng thị phi, phải trả giá bằng máu và nước mắt của mình hoặc người khác. Rồi sau này, khi đứa trẻ ấy lớn lên, thân làm Hoàng tử, sao có thể điềm nhiên đứng ngoài chính sự, cứ thêm một Hoàng tử được sinh ra, ngôi vị Hoàng thái tử lại lung lay thêm một chút, vậy thì chi bằng diệt cỏ, phải diệt tận gốc, diệt ngay từ khi nó chưa kịp bám rễ, đâm chồi.

Thần phi chưa bao giờ quên việc mình hạ sinh Bang Cơ chỉ sau sáu tháng nhập cung từng bị bao kẻ gièm pha. Hiện giờ, vì còn sủng ái mà Hoàng thượng luôn có lòng tin rằng nàng giống như những gì người được báo mộng, là con gái của Bạch xà tướng quân đầu thai chuyển kiếp, vì thế mà chuyện sinh nở cũng không hoàn toàn thuận theo lẽ tự nhiên. Nhưng ai biết lỡ đâu một mai, khi nàng không còn giữ nổi trái tim Hoàng thượng thì lòng tin của người cũng sẽ theo đó ra đi, đến lúc đó số phận hai mẹ con nàng ra sao chẳng ai biết trước được. Nghĩ đến đây, Thần phi thoáng rùng mình.

"Khởi bẩm Hoàng thượng, có tin mật báo!" — Đinh Thắng nói vọng từ ngoài vào bằng chất giọng the thé đặc trưng.

"Hoàng thượng!" — Thần phi tỉnh giấc, khẽ lay người dậy — ''Hoàng thượng! Dường như Đinh Thắng có điều gì cấp báo!"

Đại Bảo khẽ nhíu mày, cảm thấy khó chịu vì giấc ngủ bị quấy nhiễu, lớn giọng hỏi:

"Chuyện gì?"

"Muôn tâu, binh lính đi tuần bắt được một kẻ đang làm phép trong cung!"

Cái gì?" — Nhà vua mở choàng mắt, bật hẳn người dậy, tỏ ra phẫn nộ — "Có kẻ dám giở trò yêu thuật trong Hậu cung của trẫm ư?"

Nói đoạn, người khoác vội áo, bước xuống giường, xỏ chân vào giày, lệnh cho tên thái giám đẩy cửa bước hẳn vào trong tâu trình. Đinh Thắng trẻ hơn Đinh Phúc tới gần hai chục tuổi nhưng gương mặt hắn lại có vẻ dạn dày, tinh quái hơn hẳn so với viên Nội quan già Đinh Phúc chỉ suốt ngày mở miệng ra là can ngăn, khuyên nhủ. Đinh Thắng luôn khôn khéo nói đúng những điều mà Hoàng thượng muốn nghe. Tên thái giám lom khom tiến vào, gương mặt hắn tộ rõ vẻ căng thẳng đúng với điệu bộ của kẻ đang mang đến một tin tức tồi tệ. Hắn ngước nhìn nhà vua, lúc này đã đứng giữa phòng lớn, đằng sau bức hoành phi kia hẳn là Thần phi cũng đang chăm chú lắng nghe:

"Muôn tâu Hoàng thượng, là một mụ đàn bà, ăn mặc quái dị, đang đốt bùa ngải làm phép thì bị lính tuần phát hiện và bắt giữ!"

"Người đang ở đâu?" — Đại Bảo cảm thấy cơn thịnh nộ đang trào dâng trong người. Đối với nhà vua mà nói, có hai điều tuyệt đối không thể dung thứ, một là âm mưu tạo phản, và hai là sử dụng bùa chú yêu ma trong cung.

Trước đây, từng có nàng Lê Nhật Lệ, "vị cây dây leo" - nhờ phụ thân làm quan lớn trong triều mà được tiến cung phong làm Huệ phi. Phụ thân nàng ta, Nhập nội đại đô đốc Lê Ngân cảm thấy như thế là chưa đủ, muốn Hoàng thượng chỉ sủng ái con gái mình liền lập bàn thờ cúng, sử dụng bùa ngải. Thời gian đó, trong cung xảy ra rất nhiều biến cố, các phi tử của người kẻ bệnh chết, kẻ hóa điên, bản thân Đại Bảo cũng cảm thấy đầu óc u mê, mụ mị bất kể ngày đêm như có ai chuốc rượu, chỉ khi trở về bên cạnh Huệ phi mới thấy khoan khoái, dễ chịu lạ thường. Sau này, nhờ có người mật báo mà Hoàng thượng biết được, lập tức ra lệnh lục soát tư gia họ Lê, quả nhiên phát hiện tượng Phật cùng rất nhiều vàng, bạc, lụa màu dùng trong thờ cúng, liền bắt lũ nô tì xét hỏi, còn Đô đốc Lê Ngân bị giao tới tòa Pháp ti luận tội. Dù Đô đốc không thừa nhận nhưng Hoàng thượng vẫn ban cho được chết, tịch biên gia sản, giáng Huệ phi xuống làm thường nhân và bị người lạnh nhạt cả đời, khổ sở hơn cả cái chết.

"Dạ thưa, kẻ đó hiện đang quỳ ở ngoài ạ!" — Đinh Thắng tâu.

Nhà vua lập tức bước ra, tên thái giám quay người bám theo, làm điệu bộ lo lắng, hạ thấp giọng, e dè tâu:

"Bẩm Hoàng thượng, người này..."

Đại Bảo lập tức hiểu ra ý nghĩa của sự ngần ngại, lấp lửng trong câu nói bỏ ngang giữa chừng của hắn khi trông thấy người đàn bà đang quỳ gối giữa sân, hai bên là hai tên lính hộ vệ canh giữ. Ánh đuốc cháy bập bùng soi rõ gương mặt bà ta dù ngoài trời tối đen như mực. Thật là một đêm không trăng, không sao, bầu trời đầy mây âm u khiến người ta cảm thấy có đôi chút bất an trong lòng.

"Tại sao lại là ngươi?" — Nhà vua trừng mắt, nửa kinh ngạc, nửa căm giận.

"Hoàng thượng!" — Bà ta rú lên, quỳ mọp xuống đất, thảm thiết van xin — ''Xin người rộng lòng tha thứ! Nô tì hoàn toàn không có ý đồ gì xấu xa!"

Mụ đàn bà ấy chính là cung nữ hầu cận bên Ngô Tiệp dư, là người mà nàng ta luôn thân thiết, tin tưởng. Đinh Thắng liền dâng lên những tờ giấy cháy nham nhở các góc chưa kịp đốt hết. Rõ ràng đó là những lá bùa với nét chữ và hình vẽ nguệch ngoạc bằng mực màu đỏ ối bên trên.

"Đây là cái gì?" — Đại Bảo lớn tiếng hỏi lại bà ta.

''Hoàng thượng! Xin người tha tội cho nô tì! Nô tì không biết gì cả!"

"Vô lễ! Nhà ngươi còn không mau khai ra?" — Đinh Thắng thay mặt nhà vua lên tiếng thị uy.

"Nô tì... Nô tì chỉ làm theo lời chủ nhân! Đó là... là phải đôt bỏ những lá bùa cầu nhi tử [11]... phải đốt trong đêm nay, khi ánh trăng bị che khuất... ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc!" — Người đàn bà vừa khóc lóc, vừa run rẩy khai, câu nói đứt quãng từng đoạn.

[11] Nhi tử: Con trai.

"Nhi tử?" — Đại Bảo ngẩn, người. Người nghĩ đến Long thai mà Tiệp dư đang mang, cũng không còn bao lâu nữa là đến ngày sinh nở. Hơn ai hết, người mong mỏi đó sẽ là một Hoàng tử khôi ngô, tuấn tú, khí chất phi phàm, xứng với dòng dõi cao quý. Nhưng dùng đến cách này để cầu tự thì quả là trái với đạo lý, không thể chấp nhận dù chẳng phải là loại bùa ngải yêu ma nhằm trù úm hãm hại ai.

"Tiệp dư quả thật khiến trẫm thất vọng!" — Hoàng thượng khẽ than lên, cảm thấy trong lòng chua chát lẫn phẫn nộ.

Nguyễn Thần phi không chỉ có sắc đẹp mê hoặc lòng người mà còn là người vô cùng thông minh.

Khi mới bước chân vào Hậu cung, nàng dù được Hoàng thượng hết lòng sủng ái, yêu chiều nhưng sau lưng người, trước mặt những phi tần khác, nàng chỉ là một nữ nhân tầm thường, chân ướt chân ráo tới đây, không có lấy một kẻ thân cận ở bên để kết thành vây cánh. Thân thế không có, chỉ có một chút dung nhan đủ làm nhà vua mê muội ban đầu, chẳng có gì đảm bảo được ngày mai của nàng ta vẫn sẽ tươi đẹp như hôm nay. Trong Hậu cung này thiếu gì người có dung mạo xinh đẹp, lại cũng chẳng phải không có một hai tấm gương những mỹ nhân đã từng một thời được Hoàng thượng sủng ái nhưng rồi cũng nhanh chóng thất thế khi người vì mải ôm ấp giai nhân khác mà ngoảnh mặt làm ngơ. Chính vì thế mà đám phi tần trong cung chẳng mấy ai coi trọng Thần phi, cho rằng số phận nàng rồi cũng sẽ sớm giống như những giai nhân thoáng qua trước đây của Hoàng thượng, nhất là khi Hậu cung này vốn đã sớm định chủ nhân, chính là Dương Quý phi, người vừa xinh đẹp, lại là thân mẫu của Hoàng thái tử Lê Nghi Dân và nhị Hoàng tử Lê Khắc Xương, tiền đồ vô cùng sáng sủa.

Nhưng bấy nhiêu đó không làm Thần phi họ Nguyễn nao núng, nàng ta biết mình cần phải làm gì để tồn tại ở chốn thị phi này- Trong khi các nữ nhân khác chỉ mải xun xoe quanh Dương Tiểu Hoàn, người có địa vị cao nhất Hậu cung, rồi ngấm ngầm kéo bè kết đảng, cấu thành vây cánh, cắn xé lẫn nhau thì Thần phi đã đi nước cờ cao hơn. Hai quân cờ đầu tiên mà nàng muốn giành về tay mình chính là Đinh Phúc và Đinh Thắng, những Nội quan cận kề bên Hoàng thượng. Những lúc quấn quýt bên cạnh nhà vua, nàng luôn dành lời ngợi khen tới họ, mọi ân điển là ngọc ngà, châu báu, gấm vóc vua ban, nàng không bao giờ quên phần cho Phúc, Thắng. Chính điều này đã giúp nàng thu về dưới trướng hai tên nô tài tuy bề ngoài có địa vị thấp kém nhưng thực chất lại có vị thế vô cùng quan trọng bởi chúng mới đích thực là những kẻ gần gũi và được ở bên Hoàng thượng nhiều nhất. So với việc lấy lòng đám phi tần cả đời chỉ được gặp Hoàng thượng số lần đếm trên đầu ngón tay thì việc làm thân với hai tên Đĩnh Phúc, Đinh Thắng hẳn phải có ích hơn.

Đương lúc được Đại Bảo vô cùng sủng ái, lại có sự giúp sức đắc lực của hai thái giám bên cạnh nhà vua, Thần phi ngày càng nâng cao được vị thế của mình trong hậu cung. Thêm vào đó, Dương Quý phi vốn trước nay thấy được Hoàng thượng yêu chiều, lại nghĩ mình lập công lớn khi sinh được hai Hoàng tử nên mang thói kiêu căng, ngạo mạn, dù ngoài mặt mọi người tỏ ra kiêng nể nhưng trong lòng bất phục, thậm chí là căm ghét. Điều này giúp Nguyễn Thần phi chẳng mấy khó khăn để hạ bệ uy tín của họ Dương kia cả trong Hậu cung lẫn trong mắt Hoàng thượng.

Việc sớm đậu thai rồng càng củng cố thêm địa vị của nàng ta trong chốn cung cấm. Lúc này, Hậu cung hầu như đã nghiêng hẳn về phía Thần phi, Dương thị bị giáng xuống hàng Cửu tần chỉ còn có thể bám trụ vào lý do mình là thân mẫu của Hoàng thái tử mà giữ lấy vẻ cao ngạo. Nhưng khi Nguyễn Thần phi hạ sinh tam Hoàng tử Lê Bang Cơ chính là lúc dấu chấm hết được đặt lên danh phận của Dương Tiểu Hoàn và đe dọa đến tiền đồ của các con nàng ta. Chắng bao lâu sau, Hoàng thượng đã ra chiếu chỉ công bố với toàn dân việc phế Thái tử Nghi Dân, lập con thứ là Bang Cơ lên thay bất chấp nhiều lời sàm tấu cho rằng gốc gác của Banq Cơ có phần đáng nghi hoặc.

Tuy đã hạ bệ được Dương Quý phi nhưng Tiểu Hoàn kia cũng chính là tấm gương mà nàng luôn lấy ra để răn đe mình không bao giờ được lơ là mất cảnh giác, ngay cả trong những ngày tháng vinh quang nhất. Chốn Hậu cung này, không có chuyện gì là không thể xảy ra, không có nqôi vị nào là vĩnh viễn, cũng không có ai là hoàn toàn vô hại. Kẻ thù có thể nhìn thấy ít nguy hiểm hơn nhiều những kẻ không tự nhận mình là kẻ thù. Một người như thế đã xuất hiện, không dã tâm, không thủ đoạn nhưng dường như lại trở thành mối nguy hại vô cùng to lớn, đè nặng lên tâm trí Thần phi.

Ngô Tiệp dư có xuất thân cao quý, gia thế hiển hách, được lòng đám phi tần Hậu cung, lại được sự ủng hộ ngấm ngầm từ đa số đại thần trong triều. Hơn nữa nàng ta vốn xưa nay vẫn được Hoàng thượng coi trọng, tin yêu, chẳng thế mà Đà Quốc Công chúa được phụ hoàng đối đãi hơn hẳn những Hoàng nữ do các phi tần khác sinh ra. Đối phó với một Tiểu Hoàn kiêu căng, ngu xuẩn dễ hơn nhiều so với một Ngọc Dao khiêm nhường, thận trọng, điều này khiến Nguyễn Thần phị hao tâm tổn trí không ít. Nhưng cuối cùng nàng đã ngộ ra một điều: điểm mạnh của một người nếu không cẩn thận lại chính là tử huyệt của kẻ đó. Ngô Tiệp dư vốn thường ngày được Hoàng thượng hết mực tin tưởng nhưng một khi lòng tin ấy bị lung lay thì đó cũng chính là lúc tất cả mọi thứ sẽ sụp đổ theo.

"Hoàng thượng! Yểm bùa trong cung là tội khi quân không thể tha thứ!" — Thần phi tỏ ra vô cùng khó hiểu khi Hoàng thượng chần chừ không xuống tay khép Ngô Tiệp dư vào tội voi giày, hình phạt mà đáng lẽ một kẻ sử dụng bùa chú để cầu tự trong cung nếu bị phát giác sẽ phải gánh chịu

— "Nếu người có ý thương tiếc đứa con trong bụng Tiệp dư, người hãy nghĩ rằng có lẽ đứa bé ấy cũng bị bùa yểm rồi! Nếu để một đứa trẻ bị ma quỷ ám nhập được sinh ra, chưa biết chừng sẽ gây đại họa cho quốc gia này!"

Những điều Thần phi nói, Đại Bảo đều đã nghĩ đến. Nhưng Tiệp dư Ngọc Dao vốn xưa nay đoan chính, luôn đứng ngoài các cuộc tranh đoạt trong Hậu cung, thậm chí còn không màng đến tước vị, danh phận, một lòng giữ đúng lễ nghi, phép tắc, người như thế liệu có vì hoang mang không rõ Long thai trong bụng là nam hay nữ mà sử dụng bùa ngải để cầu tự? Nhân chứng vật chứng đều đã có đủ, đó là lời khai của cung nữ xưa nay luôn kề cận bên Ngọc Dao, những lá bùa cháy dở và cả những tấm bùa chú được tìm thấy tại cung Khánh Phương đều khiến Hoàng thượng có thể lập tức khép nàng vào tội voi giày. Nhưng phần vì cảm thương đứa con chưa được sinh ra, phần vì các đại thần mà đứng đầu là Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi hết mực can gián, bênh vực, xin giảm nhẹ án mà người chưa nỡ xuống tay.

Không chỉ các đại thần mà cả các nữ nhân trong chính Hậu cung của Đại Bảo cũng tỏ ý bênh vực Ngô Tiệp dư, thật là chuyện xưa nay hiếm. Ngay cả Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, vốn phụ trách việc dạy dỗ các cung nữ, người gần gũi và được nhà vua tôn kính, cũng nhất mực cho rằng những chuyện bùa chú yêu ma không phải là điều mà con người chân phương, hiền thục như Ngô Tiệp dư có thể bày ra. Quá nhiêu tiếng nói đứng ra bênh vực khiến Hoàng thượng không thể không động lòng mà trăn trở suy nghĩ.

Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi, khai quốc công thần nhất mực trung thành của hai triều đã ra mặt bênh vực Ngô Tiệp dư, cho rằng án này còn nhiều điểm khuất tất. Lại thêm Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, người xưa nay luôn khách quan, công bằng với những sự việc xảy ra trong Hậu cung của trẫm cũng tin tưởng vào đức hạnh, phẩm giá của Ngọc Dao. Trẫm là vua một nước, tuy nắm quyền sinh sát trong tay nhưng không vì thế mà có thể nhắm mắt bịt tai, khăng khăng làm theo ý mình, bỏ qua mọi lời can gián của các bậc trung thần. Hơn nữa, giết bỏ đứa con trong bụng còn chưa sinh ra, tự cổ chí kim, đều bị coi là việc làm vô cùng thất đức. Nhưng chuyện đến nước này, trẫm cũng không thể hoàn toàn coi như không có gì nên giáng Ngô Tiệp dư xuống làm thứ dân, đưa ra khỏi cung, giam lỏng ở Dục Khánh tự [12] chờ ngày sinh nở, ngày ngày phải ăn chay niệm Phật, tụng kinh hối cải những chuyện đã làm, để Phật tổ và chư vị Bồ tát gột rửa linh hồn Long nhi".

[12] Dục Khánh tự: chùa Dục Khánh ở làng Huy Văn, nay là chùa Huy Văn ở phường Văn chương, quận Đống Đa, Hà Nội.

Những lời Đại Bảo nói với nàng cũng giống như ý tứ người viết trong thánh chỉ ban xuống cho Ngọc Dao. Mức án không quá khắc nghiệt khiến những người đã đứng ra nói đỡ cho Ngô Tiệp dư cảm thấy yên lòng, ngược lại, khiến Nguyễn Thần phi hết sức tức qiận, bao nhiêu cônq sức đổ sông đổ bể, vậy là mối họa tiềm ẩn vẫn còn, chưa được trừ bỏ, sao có thể yên lònq ăn ngon ngủ kĩ?

"Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, ta nhất định sẽ nhớ những cái tên này!" — Thần phi rít qua kẽ răng, tức tối gạt phăng đồ đạc trên bàn. Những thứ nữ trang quý giá mà Hoàng thượng ban tặng vương vãi khắp nơi trên mặt đất lạnh lẽo.

Chương 3

CHƯƠNG 3: ĐỘNG

Nhiều năm trước, thi thoảng Ức Trai[1] tiên sinh vẫn thường lặp lại một giấc mơ kỳ lạ về phụ thân mình, Tư nghiệp Quốc tử giám thời nhà Hồ, Nguyễn Phi Khanh.

[1] Ức Trai: tên hiệu của Nguyễn Trãi

Trong giấc mơ, ông cụ khi còn dạy học có lần cho học trò dọn cỏ. Đêm trước đó, ông nằm mộng thấy một người phụ nữ đến khẩn khoản nói rằng xin thư lại cho ít hôm để dọn nhà vì chồng đi vắng, các con còn nhỏ. Nguyễn tiên sinh choàng tỉnh dậy, còn mơ hồ chưa hiểu ý nghĩa của giấc mơ thì học trò đã chạy vào báo thầy rằng họ đương lúc dọn cỏ đào phải một hang rắn, vì rắn định cắn nên đã đánh chết con mẹ cùng ba con con, còn một con con đã chạy thoát. Phi Khanh chợt hiểu ra người đàn bà trong giấc mơ là rắn đội lốt. Ông thở dài: "Thế là ta đã không cứu được họ rồi!"

Mấy ngày sau, khi ông cụ đang ngồi đọc sách thì trên xà nhà xuất hiện một con rắn trắng. Đuôi của nó nhỏ máu xuống trang sách của ông đúng vào chữ "đại"[2] và máu thấm qua ba trang giấy.

[2]: Đại: nghĩa là Đời.

Mơ đến đó thì Nguyễn Trãi choàng tỉnh giấc. Giấc mộng ngắn ngủi, lạ lùng và khó cắt nghĩa luôn khiến ngài băn khoăn. Nghe phu quân kể lại, tam phu nhân là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ nói:

"Phàm là nghiệp chướng đòi trước để lại thì khó mà tránh được, thôi thì đành phải chờ xem số mệnh ông trời ban cho rồi sẽ thế nào? Đến lúc cần hiểu ắt sẽ hiểu ra!"

Ngài cho là phải, thôi không nghĩ đến. Sau đó quả nhiên không còn gặp lại giấc mơ kỳ lạ ấy nữa, lâu dần thành, ra quên mất. Nhưng cầu chuyện đồn đại trong Hậu cung về duyên phận thần kỳ giữa Thánh thượng và vị sủng phi họ Nguyễn mà tam phu nhân trong những lần ra vào Cung thành dạy về lễ nghi cho các cung nữ nghe được từ đám này khiến một lần nữa dấy lên trong lòng ngài một mối dự cảm mơ hồ. Hai con rắn trắng trong giấc mộng của ngài và Hoàng đế liệu có liên quan gì đến nhau?

Đã như vậy đáng ra không nên động vào nhưng hiềm một nỗi, Nguyễn Trãi xưa nay vốn tính cương trực, thấy Hoàng thượng sắp phạm phải sai lầm lớn thì chẳng thể vì lo giữ thân mà nín thinh không can gián.

Cuộc đời ngài vốn nhiều thăng trầm, lắm nỗi truân chuyên. Mười năm phiêu dạt, rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, lại mười năm phò trợ Thái Tổ Cao, đánh đuổi giặc Ngô[3], giành lại quốc gia. Những tưởng khi xã tắc thái bình, một vị khai quốc công thần như ngài sẽ được triều đình trọng dụng nhưng những màn đấu đá và thói phe cánh chốn quan trường khiến những ngày tháng êm ả chẳng được là bao.

[3]Giặc Ngô: Tên gọi khác của quân Minh.

Lập công, rồi thất sủng, từng bị tống giam, rồi thả ra, lại được trọng dụng... con đường quan lộ mà Ức Trai tiên sinh đã bước chân đi quả thật gian nan. Nhưng xét cho cùng, những nỗi truân chuyên mà tiên sinh gặp phải cũng chỉ bởi người không muốn sống thẹn với lòng mình là thấy chuyện bất bình thì nhắm mắt làm ngơ, chọn cách yên lặng để mưu cầu bình an.

Lần này cũng vậy, vốn biết Nguyễn Thần phi được lòng Hoàng thượng, nắm quyền ở Hậu cung, lại thêm nhi tử mà nàng ta sinh ra vừa được lập làm Thái tử nhưng ngài chẳng vì e sợ mà không ra mặt can ngăn. Ngay cả tam phu nhân của người là Nguyễn Thị Lộ, tuy chỉ là phận nữ nhi mà còn chẳng nề hà, đã dám tâu lên Hoàng thượng, thẳng thắn bênh vực Ngô Tiệp dư. Có người thiếp can trường như thế chẳng nhẽ đường đường là nam tử hán đại trượng phu như ngài lại để thua kém sao? Vậy nên, hang rắn cũng đã chọc vào rồi, chỉ chưa biết nọc rắn độc đến đâu thôi.

"Ngọc Dao đã hạ sinh Hoàng tử! Là Hoàng tử đấy!" — Thần phi nổi giận quăng luôn chén ngọc trên tay xuống nền nhà ngay chỗ Đinh Thắng đứng, cái tin Thánh thượng mới có thêm Hoàng tử nối dõi truyền đến cung Khôn Thái ngay trong đêm khiến Thần phi bừng bừng lửa giận.

Kẻ mang tin đến chẳng ai khác chính là Đinh Thắng. Hắn dù không muốn làm cái việc này nhưng không phải hắn thì ngày hôm sau Thần phi cũng sẽ biết từ mồm kẻ khác mà như vậy thì tội của hắn còn lớn hơn. Biết mà không báo, hoặc không biết để mà báo, đối với người đàn bà nóng nảy, dã tâm như Nguyễn Thần phi cũng đều bị coi là đáng tội chết như nhau thôi.

"Nô tài đáng chết!" — Tên thái giám vẫn đứng lom khom, không nhích một bước dù biết trong can giận dữ, chủ nhân có thể vớ lấy bất kỳ thứ gì để quăng về phía hắn.

Thần phi hít lấy một hơi dài, kiềm chế tính nóng nảy, cười nhạt:

"Nói xem nhà ngươi phạm tội gì mà tự nhận mình đáng chết!"

"Dạ bẩm, tội chủ quan! Tội không chu đáo! Tội vô dụng! Tội ngu dốt! vì những tội ấy mà việc người giao nô tài mới làm không xong, để nên cớ sự này khiến người thất vọng! Ây là đáng muôn chết tâu lệnh bà!"

''Ta giao cho ngươi việc gì?" — Thần phi đanh giọng hỏi lại.

Đinh Thắng đứng chôn chân câm lặng. Nhiệm vụ mà Thần phi đã giao cho hắn ấy là phải nghĩ cách loại bỏ bằng được cái gai trong mắt người, khiến đứa trẻ kia đáng lẽ phải không được sinh ra, và vị Tiệp dư kia phải biến mất khỏi Hoàng cung. Nhưng hắn chỉ mới lo được một nửa, ấy là khiến Ngô Tiệp dư bị phế truất, đưa ra khỏi cung. Đáng lý ra hắn phải tính được rằng với Ngô Tiệp dư, người nổi tiếng đoan trang, hiền thục, chưa bao giờ thể hiện ra ngoài những tham vọng thì cái việc sử dụng bùa ngải kia mới nghe qua sẽ chẳng ai tin. Là lỗi của hắn khi đã quá chủ quan, vội vã ra tay mà chưa hiểu hết sức mạnh của kẻ địch, một kẻ được Hoàng thượng tin tưởng, đám nữ nhân kính trọng và quần thần ủng hộ. Lần này, cái mũi chó của hắn đã đánh hơi sai về kẻ thù.

Thần phi cười khẩy khi thấy Đinh Thắng dù câm như hến nhưng vẫn lộ rõ vẻ bối rối. Chiếc quạt trên tay bắt đầu phe phẩy, ấy là lúc nàng ta đang suy tính. Tháng bảy, trời oi bức, những làn hơi nóng theo chiều đưa của chiếc quạt phả vào mặt khiến Thần phi khẽ nhíu mày.

''Đúng là cái thứ khó chịu!" — Thần phi nghiến chặt răng sau câu nói, còn Đinh Thắng hoàn toàn không đoán được chủ nhân ý nói đến điều gì.

"Việc đã đến nước này..." — Thần phi ngưng lại lưng chừng, rồi khó nhọc kết thúc câu nói dang dở — ''Việc đã đến nước này, đành ẩn mình giữ yên ắng để chờ thời vậy! "

Đinh Thắng thừa biết Thần phi đang nghĩ gì. Bây giờ động đến Ngọc Dao chẳng khác tự đào mồ chôn mình, là việc làm tự rước họa vào thân. Cho dù Hoàng thượng có tin vào chuyện bùa ngải mà cả đời ghét bỏ mẹ con họ thì vẫn còn đó những đại thần, vì việc phế Nghi Dân để lập Bang Cơ lên ngôi Thái tử, Thần phi đã động đến khá nhiều người, cả Thần phi lẫn bọn Phúc, Thắng đều biết những kẻ bị động chạm ấy vô cùng gai mắt với vị sủng phi mới của Thánh thượng, người mà từ khi xuất hiện tới nay đã gây ra không ít sóng gió trong Hậu cung của Hoàng đế Đại Bảo. Trước đây, khi chưa rõ Long thai mà Ngọc Dao mang là Hoàng tử hay Hoàng nữ, việc ra tay còn có phần dễ dàng, nhưng bây giờ tứ Hoàng tử đã được sinh ra, nếu động đến mẹ con họ, không cẩn thận lại biến thành cái cớ hay để những kẻ muốn hạ bệ nàng nắm lấy. Con dao hai lưỡi này phần sắc nhọn hơn đang chĩa về phía Thần phi, nàng quyết không thể liều mạng mà sử dụng nó trong lúc này-

''Vậy thì nô tài sẽ cử người giám sát chặt chẽ quanh chùa Dục Khánh, nhất cử nhất động của mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao đều nhanh chóng bẩm báo lên người!" — Thắng khôn khéo đưa ra câu nói nhằm khiến chủ nhân yên lòng.

Thần phi không đáp lời, chỉ khẽ phẩy chiếc quạt về phía hắn ra hiệu hãy lui ra nhưng viên Nội quan lập tức hiểu rằng đó chính là sự bằng lòng không muốn nói hẳn thành lời của chủ nhân. Tên nô tài khẽ cúi đầu, lom khom bước đi. Còn lại một mình trong phòng, Thị Anh thả người ra sau ghế, thầm nghĩ: "Có lẽ cuộc chiến bây giờ mới thực sự bắt đầu! Đê xem ông trời sẽ đứng về phía ai!"

Ấy là ngày hai mươi tháng bảy, mùa thu năm Đại Bảo thứ ba [4], Ngọc Dao một mình hạ sinh tứ Hoàng tử bên ngoài Cung thành. Nhìn đứa trẻ mới lọt lòng còn đỏ hỏn trong tay nhưng đường nét gương mặt đã sớm lộ vẻ thanh tú, rạng rỡ, thật giống với phụ hoàng, Ngọc Dao không tránh khỏi quặn lòng khi nghĩ tới người, mới đặt cho con cái tên Tư Thành [5] để biểu đạt nỗi nhớ mênh mang.

[4] Đại Bảo năm thứ ba: Năm 1442 dương lịch.

[5] Tư Thành: Tư như trong từ "tương tư", mang nghía là mến nhớ, thương, nghi đến. Thành trong "lòng thành", mang nghĩa là thành thực, chân thực.

Mùa thu năm ấy, tiết trời oi bức khiến lòng người bồn chồn không yên. Ức Trai tiên sinh liên tục đi ra đi vào, cảm thấy trong lòng nóng như lửa đốt. Đắn đo một lúc lâu, mới đem ra giãi bày cùng tam phu nhân:

"Thánh thượng đã có tin vui rồi nhưng xem chừng chưa chắc đây đã là việc lành!"

Tam phu nhân biết chồng muốn nói đến điều gì. Người đang lo lắng cho số phận của mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao, nếu nàng sinh ra một Hoàng nữ, may ra còn có thể quay về Hậu cung, sống cuộc đời thanh đạm, yên ổn như trước đây. Có lẽ giờ này tin tức người vừa hạ sinh Hoàng tử đã bay vào cung Khôn Thái, đến tai Nguyễn Thần phi, tương lai thật là lành ít dữ nhiều.

"Có thể trước mắt mọi việc sẽ yên nhưng sau này có như thế nào chưa ai biết được! Phải chăng chúng ta nên liệu xa, đưa mẹ con họ lánh tới một nơi ít người biết đến trong một thời gian?" — Tam phu nhân nói ra suy nghĩ của mình với chồng.

"Lánh đi?" — ức Trai tiên sinh cẩn thận nhìn trước sau, rồi hạ giọng hỏi lại — ''Biết lánh đi đâư? cả Kinh thành này đâu đâu cũng có tai mắt của Thần phi!"

"Có lẽ Hoàng thượng vì chưa nguôi cơn giận nên chưa muốn đón Ngọc Dao về, mà như thế, để hai mẹ con người đơn độc bên ngoài Cung thành lại e an nguy không được đảm bảo. Tốt nhất chúng ta nên bí mật đưa người và Hoàng tử giấu đến nơi nào đó, xa khỏi tai mắt bọn người trong Hậu cung. Thiếp nghĩ, đưa họ về lánh tạm nhà mẹ đẻ ở làng Đô Kỳ [6] là đúng đắn hơn cả. Ngọc Dao vốn xuất thân trong gia đình thế hiển, một khi Thái bảo Ngô Từ và cả Nhập nội tư mã Đinh Liệt vẫn còn trụ vững trong triều đình thì không ai dám đến nơi đó làm bậy!"

[6] Làng Đô Kỳ khi ấy thuộc đất Thần Khê, Diên Hà, nay thuộc xã Đông Đô, huyện Hung Hà, tỉnh Thái Bình.

Nguyễn Trãi trầm ngâm suy nghĩ. Đàn bà thường hiểu lòng nhau, nói không chừng lời phu nhân tiên đoán là đúng, nếu để lâu dễ sinh chuyện, tính mạng của Ngọc Dao và Hoàng tử mới sinh sẽ bị đe dọa.

"Vậy cứ theo kế của nàng mà làm! Chẳng bao lâu nữa Hoàng thượng sẽ tuần du về miền Đông, rồi duyệt quân ở thành Chí Linh, ta cũng phải mau quay lại Côn Sơn, chờ đón rước người trên đường trở về Đông Kinh [7]. Thời gian chẳng còn bao nhiêu, phải làm cho xong việc này trước khi ta đi kẻo không còn cơ hội. Việc của Ngọc Dao sau này đành nhờ nàng khi có cơ hội hầu bên Thánh thượng thì liệu tình hình tâu lên với người, cho phép đón mẹ con họ trở về, hóa giải hiểu lầm".

[7] Đông Kinh: Tên gọi của Kinh thành Thăng Long thời Lê Sơ.

"Thiếp xin vâng!" — Nguyễn Thị Lộ nhẹ nhàng đáp lời.

Không ai biết đó lại là đêm cuối cùng họ ở bên nhau, và đó cũng là những lời cuối cùng họ nói với nhau.

Đúng như dự liệu, sau chuyến tuần du về phía Đông đế tham dự lễ duyệt quân ở thành Chí Linh, trên đường trở về kinh sư, nhà vua có ghé qua khu vườn vải [8] ở huyện Gia Định, tư gia của Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi, lúc này chỉ có tam phu nhân là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ ở nhà tiếp đón.

[8] Vườn vải: Tên thường gọi của Lệ Chi Viên.

Sở dĩ tam phu nhân đoán trước được sự tình bởi bà biết gần đây trong lòng Hoàng thượng có điều trăn trở khó tỏ cùng ai, mà những lúc như thế, người thường vời bà vào cung trút mọi nỗi niềm, nhờ bà hiến kế. Trước đây cũng từng có lần, sau khi Hoàng thượng xuống chiếu phế truất Quý phi Dương thị, ban bố cho thiên hạ biết ngôi Thái tử chưa định, người mới nhận thấy tẩm cung của mình thực vô cùng loạn, phi tần thì chia bè kết phái, cung nữ thì không biết nề nếp, phép tắc. Thấy Hoàng thượng phiền lòng, Lễ nghi học sĩ mới dâng lên kế bắt giam hạng đàn bà ngỗ nghịch, ấy là đánh một người để thị uy trăm kẻ, nhờ vậy mà trật tự, kỷ cương trong Hậu cung mới được thiết lập lại. Sau lần ấy, nhà vua càng thêm tin dùng Lễ nghi học sĩ, thường cùng bà đàm luận những chuyện ngoài chính sự.

"Hoàng thượng!" — Tam phu nhân lên tiếng, kéo Đại Bảo ra khỏi những suy nghĩ mông lung đang diễn ra trong đầu — "Kính mời người thưởng trà long nhãn, tuy chẳng có gì cao quý nhưng là thứ cây nhà lá vườn tốt nhất có thể dâng lên người, hi vọng người không chê cười!"

Nhà vua nhìn xuống chén trà tì nữ mới dâng lên đặt trên mặt bàn theo lệnh của chủ nhân, thứ nước trong chén màu lục trong vắt, tỏa ra một thứ mùi thơm dễ chịu, quyện giữa hương trà và vị nhãn lồng phơi nắng tháng sáu. Nhà vua đưa lên, nhấp một ngụm nhỏ, cảm thấy vị ngọt thanh tao thấm nơi đầu lưỡi, chảy xuống cổ họng, khiến tinh thần bỗng sảng khoái lạ thường, vẻ mặt người dãn ra, vô cùng thư thái.

"Trà ngon!" — Đại Bảo tấm tắc khen, rồi lại chợt trầm ngâm — "Quả nhãn còn tươi vốn trong, đẹp là thế, vậy mà lại không có được cái vị ngọt sắc như khi đã khô héo!"

"Muôn tâu Hoàng thượng, nghe lời người nói, thần thiếp chợt liên tưởng tới cuộc đời người phụ nữ: khi còn son trẻ thì người ta chỉ mải nhìn ngắm nhan sắc, đến khi sắc đã phai tàn, tâm hồn như thứ vị ngọt sắt son kia mới được người đời nhắc đến".

"Có phải ý khanh muốn nói đến những người đàn bà trong tẩm cung của trẫm? Kẻ có sắc chưa chắc đã nên hương, người có hương đôi khi lại không được trẫm nhận ra mà nâng niu cho đáng?"

"Muôn tâu, thần thiếp không dám mạo phạm, càng không có ý ám chỉ đến ai!" — Nguyễn Thị Lộ khẽ cúi đầu, tỏ ra cung kính.

Đại Bảo đặt tách trà xuống, nhìn sang viên Nội quan Đinh Phúc nói:

"Trẫm có việc muốn nói riêng với Lễ nghi học sĩ!"

Đinh Phúc hiểu ý, liền hất hàm ra hiệu cho các thái giám và cưng nữ trong phòng cùng lui cả ra ngoài, bản thân mình cũng mau chóng rời bước, nhẹ nhàng khép cửa phòng lại.

Khi đám người đã đi ra cả, trong gian phòng đan sơ, chỉ còn lại hai người, vừa là quân thần vừa là tri kỷ. Nhìn vị vua trẻ ngồi trước mặt, dung mạo anh tuấn, trong sáng, chợt Nguyễn Thị Lộ cảm thấy có chút chạnh lòng. Ông trời se duyên để bà về làm vợ Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi từ khi người còn phò tá Thái Tổ Cao Hoàng đế, thấm thoát cũng đã hai mươi năm, nếu sớm có con, có lẽ con của người và Ức Trai tiên sinh cũng tầm tuổi Hoàng thượng.

Nhà vua sớm lại mất di thân mẫu, mới chín tuổi đã ngồi lên ngai vàng, mang trên mình gánh nặng quốc gia. Những ngày đầu lên ngôi, kẻ làm bề tôi số ít là các bậc trung thần mẫn cán, còn lại, người thì tham quyền cố vị, nuôi dã tâm thâu tóm triều đình, kẻ thì tham lam vơ vét, nhân ấu chúa còn nhỏ mà giở trò lũng đoạn, tham ô, lại có kẻ tài cán chẳng có nhưng ham mê hư vinh danh lợi, thường buông lời siểm nịnh làm hại trung thần, tâng bốc bản thân, định lấy tay che mắt thánh. Trải qua bao biến loạn trong triều, cuối cùng, Hoàng thượng cũng đi đến được ngày hôm nay, một cách mệt mỏi và cô đơn. Đối với người mà nói, nữ nhân trong cuộc đời là sắc, là hương nhưng để thưởng ngắm chứ không có tình tri kỷ. Phải đến khi Hoàng thượng nghe tiếng Nguyễn Thị Lộ, tam phu nhân của Hành khiển Nguyễn Trãi là người hay chữ, vời đến phong làm Lễ nghi học sĩ, giúp người uốn nắn đám cung nữ trong cung, Đại Bảo mới cảm thấy tìm được một điều mà người vẫn thiếu bấy lâu nay. Bà với cái vẻ đoan trang, cứng cỏi, khi thì hiền hậu, thấu hiểu, lúc lại sắc sảo, mưu lược khiến vị vua trẻ vừa cảm phục, vừa mến mộ, thường tự hỏi nếu mẫu thân người vẫn còn, không biết có đối với người giống như tam phu nhân, vừa gần gũi, vừa nghiêm khắc?

"Hoàng thượng! Có phải trong lòng người đang có điều chi phiền muộn?" — Nguyễn Thị Lộ lên tiếng.

"Ưu phiền của trẫm chắc khanh cũng đã biết cả!"

"Có phải ý người muốn nói đến chuyện xảy ra trong Hậu cung gần đây với Ngô Thị Ngọc Dao?"

''Phải! Giờ thì Ngọc Dao đã sinh cho trẫm một Hoàng tử, các quan trong triều nhất định sẽ lấy cớ đó để ép trẫm đưa nàng ấy hồi cung!"

"Đó chẳng phải cũng là mong muốn của người sao?" — Tam phu nhân tỏ ra thấu hiểu tâm can nhà vua.

"Tuy trẫm không phản đối..." — Hoàng thượng đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng — "Nhưng lại cảm thấy các vị đại thần ấy nên lo cho tốt việc của mình hơn là luôn nhúng mũi vào những việc xảy ra trong Hậu cung của trẫm! Chính những tiếng nói đồng thanh của họ khiến trẫm cảm thấy khó chịu lắm, tiếng nói ấy càng lớn, trẫm lại càng muốn làm ngược lại!"

Hoàng thượng dù là đấng chí tôn, đứng cao hơn vạn người nhưng vẫn còn quá trẻ, ở cái tuổi mà lòng kiêu hãnh cá nhân được đặt cao hơn tất thảy, có lẽ tâm lý hiếu thắng của người không phải là quá khó để có thể lý giải. Nguyễn Thị Lộ mỉm cười, nhẹ nhàng tâu lên:

"Hoàng thượng, vậy thì chi bằng người nhân cơ hội này sớm ra chiếu chỉ khôi phục danh phận Tiệp dư cho Ngọc Dao, đồng thời cho phép mẹ con Hoàng tử trở về Hậu cung, đợi người hồi kinh. Như vậy chính là Hoàng thượng dã nghĩ trước, làm trước, quyết định của người chẳng phải do sức ép nào tác động".

Gương mặt Đại Bảo trở nên sáng rỡ, người bật cười thành tiếng.

''Đơn giản như vậy sao trầm lại không thể nghĩ ra? Làm theo ý khanh! Hãy làm theo ý khanh!"

Nói rồi, nhà vua lớn tiếng kêu Đinh Phúc:

''Người đâu, mau mang giấy mực đến đây, trẫm cần thảo chiếu chỉ!"

Bên ngoài, viên Nội quan nghe khẩu dụ, "vâng" lớn một tiếng rồi nhanh nhẹn sai người đi chuẩn bị theo lời nhà vua. Chốc lát, giấy, bút và nghiên mực đã sẵn sàng trước mặt Hoàng thượng, người cầm bút, thảo lên những nét phóng khoáng:

"Ngày hai mươi tháng bảy năm Nhâm Tuất, dân nữ Ngô Thị Ngọc Dao đã hạ sinh hạ cho trẫm một Hoàng tử. Trước đây do phạm phải điều cấm kị mà bị phế làm thường dân, đuổi ra khỏi cung. Nay vì công trạng ấy, cho khôi phục lại danh phận như cũ, đồng thời truyền đón mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao trở lại cung Khánh Phương".

Ngọc ấn đóng vào rồi trao lại chiếu chỉ cho Đinh Phúc, nhà vua căn dặn:

"Sáng sớm mai, ngươi đem chiếu chỉ này về làng Đô Kỳ, quan Hành khiển Nguyễn Trãi đã tâu trẫm biết hiện giờ Ngọc Dao đã được đưa về đó. Sau khi ban bố chiếu chỉ, lập tức đón mẹ con nàng ấy trở về kinh sư. Trẫm sẽ hồi cung sau!"

Đinh Phúc vâng mệnh, đón lấy, cẩn thận cất vào ống tay áo, lom khom bước ra. Đoạn ông ta gọi người sai đi chuẩn bị ngựa để sáng sớm mai sẽ lên đường theo lời dặn của Hoàng thượng. Sau khi Đinh Phúc đi khỏi, Nguyễn Thị Lộ cũng được phép của Hoàng thượng cho lui. Nhà vua như cất được một gánh nặng trong lòng, vừa có thể rộng lượng tha thứ cho Ngọc Dao, vừa không mất đi cái uy của bậc Quân vương. Ngày đoàn tụ còn có thêm niềm vui nữa là đứa con mới chào đời. Hoàng thượng thư thái đặt mình xuống giường, bên ngoài văng vẳng vọng lại tiếng mõ tuần báo đã canh hai, hẳn là đêm nay sẽ rất ngắn.

Nhưng không ngờ rằng đó là đêm dài nhất trong đời của Đại Bảo, Hoàng thượng đã vĩnh viễn không tỉnh lại nữa. Ngày đoàn tụ mà người mơ tới đã không bao giờ xảy ra, kéo theo sau đó là hàng loạt những sự kiện đẫm máu, tang thương được sử sách ghi lại dưới cái tên "Thảm án Lệ Chi Viên":

"Tháng tám, ngày mồng bốn vua về đến vườn vải huyện Gia Định, bỗng bị bạo bệnh rồi băng.

...

Ngày mồng sáu về tới kinh, nửa đêm vào cung rồi mới phát tang. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.

Ngày mười hai, đại thần là bọn Trịnh Khả, Nguyễn xí, Lê Thụ nhận di mệnh cùng với bọn Lê Liệt, Lê Bôi tôn Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi. Lúc ấy vua mới hơn một tuổi. Lấy năm sau là năm Thái Hòa thứ nhất.

Ngày mười sáu, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba họ [9]... " [10]

[9] Bắt tội đến ba họ: Chính là "tru di tam tộc".

[10] Trích Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697).

"Nhà vua được an táng tại Hựu Lăng: Lam Kinh, thụy hiệu là Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng đế, miếu hiệu là Thái Tông. Chính sử gọi tắt là Thái Tông Văn Hoàng đế hoặc Lê Văn Hoàng, Văn Hoàng, Văn Đế. [11]

[11] Trích văn bia Hựu lăng do Hàn lâm viện thị độc học sĩ Nguyễn Thiên Tích soạn năm 1442.

Chương 4

CHƯƠNG 4: BIẾN

Nhập nội hành khiến Nguyễn Trãi còn có một giấc mộng khác.

Ngài mơ thấy Phật mẫu Man Nương [1] hiển linh. Người vận áo giao lĩnh [2] sắc đỏ, đầu đội Phù dung quan [3], tiến đến bên tiên sinh mà rằng:

"Ngài sắp gặp phải kiếp nạn tuyệt diệt không thể tránh khỏi, kéo đến ba đời. Nay vì cảm phục ân đức mới mộng báo cho ngài biết trước. Tuy họa diệt thân là không thể ngăn chặn nhưng nạn tuyệt tự thì có thể tránh".

[1] Phật mẫu Man Nương: Vị Phật bà được cho là khởi nguồn Phật giáo đất Việt, là vị Phật mẫu tương truyền sinh ra Tứ pháp trong tôn gíâo Việt Nam là Pháp vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.

[2] Áo giao lĩnh; Áo cổ chéo, tay thụng.

[3] Phù dung quan: Mũ Phù dung, được hiểu là mũ của Đạo giáo.

Ức Trai tiên sinh liền hỏi:

"Phải tránh thế nào đây?"

"Ấy là tứ phu nhân Phạm thị [4] đang mang trong mình giọt máu cuối cùng của dòng họ Nguyễn, sinh ra sẽ là một đứa trẻ xuất sắc hơn người, nhất định phải bảo vệ lấy người con ấy. Hơn nữa, ngọc nữ thiên đình được ta cho phép đầu thai thế tục, trở thành con gái ngài, kiếp nạn hôm nay ngài và gia tộc gặp phải, sau này, người con gái ấy sẽ ra tay hóa giải phần nào".

[4] Phạm thị: Tức Phạm Thị Man.

Nói rồi, Phật bà bay mất nhưng câu nói của người vẫn văng vẳng đọng lại, rằng phải cứu lấy hai đứa trẻ.

Tỉnh dậy, Nguyễn Trãi ngồi trên giường hồi lâu, trầm ngâm suy nghĩ. Không như giấc mơ về phụ thân và con rắn, giấc mộng này ngài mới gặp lần đầu. Không biết do ban ngày phải suy nghĩ việc triều chính quá nhiều, đêm đến mới sinh ra mộng mị, hay thực sự đó là điềm báo gì?

Lúc này mới khoảng canh ba, bên ngoài trời tối đen như mực, nếu giấc mộng kia là thật, chậm một khắc cũng là không thể cứu vãn. Nghĩ vậy, người cho gọi lão quản gia vào, kêu sang nhà hậu đánh thức tứ phu nhân dậy.

Tứ phu nhân bước vào, nom người mệt mỏi, xanh xao hơn bình thường, vì bận công này việc nọ mà quả thực tiên sinh không nhận thấy. "Có lẽ nào... " — Một ý nghĩ thoáng hiện ra trong đầu ngài.

"Lão gia cho gọi thiếp có điều gì muốn dạy bảo?" — Tứ phu nhân nhẹ nhàng cất lời khi đã bước hẳn vào trong phòng, khép cửa lại.

"Mấy hôm nay nàng thấy trong người thế nào?

"Nhờ phúc tổ tiên, người vẫn mạnh khỏe, thưa lão gia!" - Người phụ nữ đáp.

"Có khi nào cảm thấy nôn nao, khó chịu, khẩu vị thay đổi?" — Tiên sinh gặng hỏi.

Lúc này, tứ phu nhân mới mỉm cười bẽn lẽn, ánh mắt hướng xuống, tay khẽ vê mép áo.

"Thiếp cũng nhận thấy trong người khang khác nhưng vì chưa dám chắc nên chưa nói với lão gia. Không ngờ người đã sớm đoán biết được!"

Nguyễn Trãi chầm chậm ngồi xuống ghế, dù không muốn tin nhưng dường như những điều ngài được mộng báo là có thật. Chuyện tứ phu nhân mang thai, đến bản thân nàng ấy còn không dám chắc thì làm sao có chuyện ngài tự nhiên nghĩ đến rồi nằm mộng.

"Lão Đại có ngoài đó không, mau cho mời cậu Lê Đạt qua đây!" — Tiên sinh gọi với ra bên ngoài, lệnh cho người quản gia đi mời vị khách trong nhà đến.

Lê Đạt là người học trò cũ của Ức Trai tiên sinh, tuy không phải dạng vô cùng xuất chúng nhưng con người ngay thẳng, lại cần cù, chăm chỉ nên Nguyễn Trãi tin dùng, giữ lại bên mình, coi như tâm phúc, lại coi như con cháu trong nhà, sau đó mai mối cho một đám rất được, lại cất căn nhà nhỏ tại Chí Linh cho hai vợ chồng trẻ. Nguyễn Trãi đối với người đó mà nói, chính là "ơn trọng như núi" nên cả đời đã quyết ghi lòng tạc dạ, chờ ngày báo đáp. Mấy bữa nay, biết ân sư về Côn Sơn vì việc công là chuẩn bị nghênh đón xa giá, Lê Đạt dù đường xa cũng phải cố lặn lội tới thăm hỏi người.

"Bẩm đại nhân! Người cho gọi con?" — Đạt lễ phép thưa.

Khi còn ba người trong phòng, tiên sinh mới từ tốn nói nhỏ: "Ta nằm mộng một giấc lạ lùng lắm! Thánh mẫu hiển linh báo cho ta tai họa sắp giáng xuống gia tộc này, là họa tuyệt diệt. Dù ta không muốn tin nhưng cứ thử cẩn thận một lần xem sao. Nay chỉ có con để ta tin tưởng, ta đành nhờ con ra tay cứu giúp một phen, đưa phu nhân đi xa khỏi chốn này, ngay trong đêm nay, đề phòng biến cố thật sự xảy ra!"

Cả tứ phu nhân và Lê Đạt đều tỏ ra lo lắng, toan thưa lại điều gì nhưng Nguyễn Trãi đã lên tiếng trước:

"Tai họa xảy đến là điều không ai mong muốn nhưng cuộc đời ta đã trải qua lắm phen thăng trầm, đành phải tin rằng số kiếp là do ông trời định đoạt, những gì phải đến ắt sẽ đến. Nếu chuyện báo mộng kia là có thật, ấy là ông trời muốn lưu lại cho gia tộc ta một con đường sống, vì vậy mà phu nhân đừng phụ lòng ta, nhất định phải vượt qua kiếp nạn này!"

Nói đoạn ngài giục giã hai người mau sửa soạn lên đường, lại đích thân tiễn ra khỏi cửa. Khi tiếng vó ngựa đã xa khuất mới trở vào trong, không quên dặn lão quản gia tuyệt đối không được hở cho ai biết chuyện đêm nay, nếu sau này có biến, ai hỏi đến tứ phu nhân thì đều phải nói trong lúc chạy loạn đã lạc mất tung tích người.

Nguyễn Trãi về phòng, khép cửa, nằm trên giường nhưng không ngủ được, cứ vậy mà chờ trời sáng. Giờ Mùi [5] ngày hôm sau, khi ngài đang thảo tấu chương trong thư phòng thì quan quân ập đến trói bắt cả nhà, bất kể chủ tớ cùng giải về kinh. Nằm trong ngục thất, tiên sinh mới hay đêm qua Hoàng thượng băng hà, tam phu nhân là Nguyễn Thị Lộ ở bên hầu hạ không tránh khỏi liên lụy. Mấy ngày sau, tin tức bên ngoài truyền vào cho biết Hoàng thái tử Bang Cơ đã đăng cơ. Nhà vua mới gần hai tuổi, còn nhỏ dại, lên làm vua chỉ là hình thức, quyền lực thực sự ắt hẳn phải nằm trong tay mẫu thân người, Thần phi Nguyễn Thị Anh, nay đã trở thành Hoàng thái hậu.

[5] Giờ Mùi: Từ 1 giờ đến 3 giờ chiều.

"Vậy thì họa này quả thật khó thoát!" — Trong ngục tối, Nguyễn Trãi đã lờ mờ cảm nhận được mối nguy hiểm cận kề.

Trải qua mấy ngày đòn roi tra khảo, cuối cùng, Nhập nội hành khiển kiêm Thừa chỉ đại học sĩ Nguyễn Trãi bị tuyên án tru di tam tộc. Lúc đao sắp chém xuống, người ngửa mặt lên trời kêu lớn một câu:

''Rắn báo oán là đây! Đáng tiếc không nghe lời Hoàng Phúc!" [6]

[6] Đại Việt sử ký toàn thư- Bảo kỷ thực lục, quyển 11: Kỷ nhà Lê - Thái Tông Văn hoàng đế, ghi "Hối không nghe lời của Thắng và Phúc".

Buổi sáng ngày hôm đó, thái giám Đinh Phúc dậy từ rất sớm. Đi theo hầu Hoàng thượng còn dăm ba tên Nội quan nữa nhưng Phúc biết chúng vốn lóng ngóng, lại không hiểu tâm tính người nên e rằng không tránh khỏi sơ sót, vì vậy mà viên thái giám già quyết định ở lại, chờ hầu điểm tâm rồi mới đi làm việc người giao, ấy là truyền chiếu chỉ tới nơi Ngô Thị Ngọc Dao đang tạm lánh.

Đã sang giờ Thìn [7], đáng lẽ theo thói quen, Hoàng thượng đã trở dậy từ lâu. Đinh Phúc đứng chầu bên ngoài trong lòng cảm thấy sốt ruột, lại nghĩ hay Long thể bất an, có gì mệt mỏi, mới lên tiếng gọi lớn:

"Hoàng thượng, đã tới giờ Thìn, người mau thức giấc!"

[7] Giờ Thìn: Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng

Gọi đến lần thứ ba vẫn không có tiếng trả lời, Phúc đành đánh liều, đẩy cửa bước vào. Đại Bảo nằm trên giường, quay lưng ra ngoài. Phúc tiến lại gần hơn, cất tiếng gọi:

''Hoàng thượng, người đã dậy chưa ạ?"

Không thấy nhà vua có động tĩnh gì, viên Nội quan mới với tay chạm vào người, định khẽ lay. Bỗng dưới bàn tay của mình, Phúc cảm nhận thấy cơ thể nhà vua cứng ngắc, hoảng hốt, ông ta lao bổ tới, lật người nhà vua nằm ngửa ra, quên cả phép tắc. Gương mặt người nhìn bình thản nhưng không còn trông thấy chút thần khí nào, kiểm tra thấy hơi thả và mạch đập đều không còn, mới la lên thét gọi Thái y. Nhưng đã quá trễ, Đại Bảo đã tịch [8] tự lúc nào.

[8] Tịch: Chết

Một canh giờ sau, thay vì phải đến làng Đô Kỳ tuyên đọc thánh chỉ như lệnh vua hôm trước, Đinh Phúc lại hoảng hốt phi ngựa về Hoàng cung, báo tin nhà vua băng hà. Cả triều đình trở nên hoang mang hỗn loạn, Phúc cũng chẳng còn tâm trí nào để nhớ đến khẩu dụ cuối cùng mà Hoàng thượng để lại về việc của mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao. Phải đến khi cả gia tộc quan Hành khiển Nguyễn Trãi bị bắt giam vào ngục, Thái tử đã đăng cơ làm Hoàng đế, mọi việc trong triều dịu xuống chút đỉnh, Nguyễn Thần phi, giờ đã là Nhiếp chính Hoàng thái hậu, mới gọi Phúc đến hỏi riêng những chuyện xảy ra trong đêm cuối cùng của Tiên đế vì ông ta chính là kẻ luôn bên cạnh hầu hạ người. Đến lúc này, viên Nội quan mới nhớ tới chiếu thư Tiên đế để lại mà hiện ông ta vẫn giữ, chưa kịp ban bố như lời dặn của người.

Nhẩm tính nhanh trong dầu, Phúc nhận thấy rằng ấu chúa lên ngôi mới chỉ hai tuổi, tự cổ chí kim, với những trường hợp như thế này, há chẳng phải sẽ xảy ra việc Thái hậu buông rèm nhiếp chính hay sao? Vậy thì Thái hậu không chỉ là người nắm quyền cao nhất trong Hậu cung mà chính là người đứng đầu triều đình. Di mệnh của Tiên đế tuy quan trọng nhưng cái mạng của Phúc còn quan trọng hơn, mạng của ông ta bây giờ chính là nằm trong tay Thái hậu, do người định đoạt. Nghĩ vậy, Đinh Phúc vội vàng dâng chiếu chỉ của Tiên đế lên cho người. Vừa mở ra đọc, Thái hậu liền sa sầm nét mặt, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, những ngón tay bấu lấy tờ chiếu như muốn xé nát ra thành trăm mảnh. Sau khi lấy lại bình tĩnh, Thái hậu mới hạ giọng nói nhỏ với viên Nội quan:

"Từ giờ trở đi, nhà ngươi hãy quên hết những việc có liên quan tới bức chiếu thư này đi!"

Đinh Phúc nhanh nhảư dạ vâng, rồi vội vã rút lui. Ông ta sợ rằng trong cơn nóng giận, Thái hậu sẽ trút mọi oán hận lên kẻ nô tài biết quá nhiều chuyện này. Tuy không rõ Thái hậu định làm gì với bức chiếu thư nhưng Phúc không quan tâm nữa, chủ nhân bảo quên làm sao ông ta dám nhớ. Vừa cúi gập người bước đi, Phúc ta vừa nghĩ: "Đàn bà thật là thứ sâu hại! Vừa tham lam, vừa quỷ quyệt, lại đố kị và nhỏ mọn!"

Vó ngựa vun vút lao đi trong đêm. Lê Đạt theo lời dặn của ân sư là Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi đưa tứ phu nhân họ Phạm tới làng Đô Kỳ không dám một phút chậm trễ. Khi hai người đến nơi thì trời vừa hửng sáng. Không mấy khó khăn để Lê Đạt tìm thấy tư ấp của ngài Đinh Thế Biểu, cháu gọi Nhập nội tư mã Đinh Liệt là ông nội. Gia nhân trong nhà ra mở cửa, thấy hai người lạ mặt thì tỏ vẻ e ngại, không dám mời vào. Lê Đạt đã được cho biết về việc Ngô Tiệp dư và tứ Hoàng tử hiện đang được giấu ở đây nên có thể hiểu được tâm trạng những người trong nhà này, không dám làm khó, chỉ đưa ra một miếng ngọc bội, dặn nô tì đưa cho "người con gái về thăm mẹ đẻ". Ây là ám hiệu mà cô đã được chủ nhân dặn dò rằng hễ nghe thấy lập tức bẩm báo lại. Cô gái vội chạy đi tìm Ngọc Dao, đưa người mảnh ngọc, nhận ra tín vật của quan Hành khiển, nàng liền hỏi lại:

''Người hiện đang ở đâu?"

Nô tì trở ra, mở cửa dẫn hai người khách lạ tới trước mặt chủ nhân, vừa nhìn thấy người tự xưng là tứ phu nhân Phạm Thị Man, Ngô Tiệp dư đã nhận ra ngay những nét xanh xao, mệt mỏi trên gương mặt kia là của một người phụ nữ đang kỳ ốm nghén, vội vàng đỡ nàng ta đứng dậy, miễn cho hành lễ.

"Phạm phu nhân chẳng hay vì nguyên cớ gì mà mới sáng sớm đã tìm tới tận đây?" — Ngọc Dao gặng hỏi khi chỉ còn ba người ngồi lại với nhau.

"Kính bẩm, tiện thiếp vốn phận đàn bà, không hay biết những chuyện xảy ra trong triều đình, không rõ đêm qua vì lý do gì, lão gia tỏ ra vô cùng lo lắng, đã đánh thức tiện thiếp dậy lúc nửa đêm, bảo phải đi ngay, cũng không được trở về nhà mẹ đẻ, tin tưởng cậy nhờ đại nhân Lê Đạt đây đưa tới nơi này, dặn rằng khi tới tìm gặp lệnh bà thì đưa ngọc bội ra, người ắt sẽ tiếp".

''Đại nhân có nói rõ xảy ra chuyện gì không?" — Ngọc Dao lại hỏi.

"Kính bẩm, người chỉ nói qua loa rằng có dự cảm không lành, sợ rằng liên lụy gia quyến!"

Ngọc Dao đọc được trên nét mắt của người phụ nữ cũng trạc tuổi mình sự lo lắng bất an khó nói. Phải chăng quan Hành khiển đã gặp chuyện gì chẳng lành? Có lẽ nào lại liên quan đến việc của người và Hoàng tử mới sinh? Nghĩ đến đại nhân, lồng ngực nàng thắt lại, chẳng phải con cái rứt ruột đẻ ra, cũng chẳng phải mắc nợ ân nghĩa mà lại dám đứng ra một lòng bảo vệ nàng cùng Hoàng tử. Con người chính trực như thế đứng ở chốn quan trường như cây ngay vươn thẳng chỉ e gió bão không bẻ cong được ắt sẽ cố công quật gãy.

"Thân phận của tiện thiếp, và cả chuyện tìm đến gặp người, xin lệnh bà hãy giấu kín. Không phải tiện thiếp lo lắng gì cho số phận của mình mà chỉ e xảy ra việc phiền lụy đến người. Dù lão gia không dặn nhưng hẳn ngài sẽ có ý đó!" — Tứ phu nhân khẩn khoản thưa.

"Ta hiểu ý người! Phu nhân cứ yên tâm! Giờ ta sẽ bảo người nhà sắp xếp cho người và đại nhân đây chốn nghỉ, hẳn là đường sá xa xôi mọi người đã mệt cả!"

"Kính bẩm, còn điều này nữa!" — Phạm thị ngập ngừng thưa — "Tin tức của lão gia cùng gia quyến, nếu người biết được điều gì, dù tốt hay xấu, xin đừng ngần ngại nói cho tiện thiếp biết!"

Ngô Thị Ngọc Dao gật đầu bằng lòng rồi giục giã nàng ta mau đi nghỉ ngơi vì sắc mặt xem ra không tốt. Sau đó người sai gia nhân chạy đi mời thầy thuốc trong vùng tới bắt mạch xem sao. Giờ Mùi hôm ấy, tin tức từ trong cung chuyển đến, báo rằng Hoàng thượng băng hà. Nửa canh giờ sau, hung tin về Hành khiển Nguyễn Trãi cùng toàn bộ gia quyến bị bắt giải về kinh sư cũng truyền về. Chỉ khoảng hơn mười ngày sau, đại nhân cùng con cháu ba đời đồng loạt bị lôi ra pháp trường xử chém. Hai người đàn bà cùng trở thành góa phụ khi vừa bước qua ngưỡng tuổi hai mươi mơn mởn nhựa sống.

Thái tử mới hai tuổi có thể thuận lợi đăng quang cũng nhờ sự ủng hộ của cả hai thế lực trong triều đình. Phía các bậc khai quốc công thần như Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Trịnh Khả, Lê Thụ, Lê Bôi vì lòng trung với Tiên đế mà chuyên tâm lập Hoàng thái tử do đích thân người sắc phong lên ngai vàng. Dù trước dây có nhiều điều dị nghị không hay về Thái hậu và Thái tử nhưng nghĩ về đại cục, các vị ấy không muốn vì đi ngược lại di nguyện của Tiên đế mà khiến triều đình xảy ra binh biến, bạo loạn. Còn bên phía bọn nịnh thần, hoạn quan như Phạm Đồn, Lê Khuyển, Đinh Phúc, Đinh Thắng, chúng vốn sớm coi mình là tâm phúc của Hoàng thái hậu nên việc hết lòng ủng hộ Bang Cơ lên ngôi là diều không cần bàn cãi.

Hoàng thái tử Lê Bang Cơ đăng cơ, đặt hiệu là Thái Hòa, Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính, lại có sự phò tá của các đại thần Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Trịnh Khả, Lê Khắc Phục, triều đình trong ngoài dần đi vào ổn định. Nhưng Thái hậu chưa thể kê cao gối ngủ ngon giấc vì một lý do không phải ai cũng biết.

Một đêm, thái hậu cho gọi Tổng quản thái giám Đinh Phúc đến hỏi chuyện:

"Lời nói của Hành khiển Nguyễn Trãi trước giờ hành hình là sao?"

"Dạ bẩm!" — Phúc rụt rè tâu — "Về rắn báo oán thì nô tài không rõ nhưng còn Hoàng Phúc thì thần biết. Ông ta chính là Thượng thư Hoàng Phúc, viên quan cai trị của nhà Minh, nô tài được biết ông ta trước đây khi xem mộ tổ Nguyễn Trãi có phán một câu: "Nhị Khê mạch đoản, họa thảm tru di!" rồi khuyên Trãi sớm từ quan chức về tránh hậu họa. Điều này chính Nguyễn Trãi nói ra với Tiên đế khi lần đầu người có ý mời Trãi quay về triều đình phò giúp việc nước, vì nô tài luôn ở bên theo hầu Tiên đế nên mới nghe được."

Thái hậu đứng lên, đi lại trong phòng, ngẫm nghĩ chốc lát rồi nói với Phúc:

''Vậy thì chi bằng tận dụng triệt để, nhân đó tung tin đồn!"

"Tin đồn ra sao ạ?" — Viên Nội quan dỏng tai lắng nghe.

"Ngươi đã bao giờ nghe được một câu chuyện thế này: Thị Lộ thực chất là con rắn thành tinh, vì có thù với nhà họ Nguyễn mà hóa ra người đàn bà có sắc đẹp mê hoặc lòng người, quyến rũ Tiên đế rồi ra tay sát hại người để giáng họa lên ba đời gia tộc quan Hành khiển: đàn ông bị xử chém, đàn bà bị dìm chết. Đến lượt Thị Lộ bị đem ra xử như án đã tuyên, khi chiếc cũi nhốt bà ta vừa nhấn ngập trong nước, Lộ bỗng rùng mình biến ra con rắn rồi bơi đi mất".

Đinh Phúc nghe tới dâu, đôi mắt đảo liên hồi tới đó.

"Chuyện này... là thật sao?" — Hắn ấp úng hỏi lại, nửa như tò mò, nửa lại bối rối.

Thái hậu không đáp, chỉ phá lên cười không dứt khiến mặt tên hoạn quan càng trở nên ngắn tũn lại, hắn không hiểu vì điều gì mà chủ nhân lại tỏ ra thích thú đến vậy.

Một hồi sau, Thái hậu lấy lại nét mặt nghiêm trang sắc lạnh của mình, nói với hắn:

"Ngươi là kẻ ngốc hay vì muốn lấy lòng ta mà ra vẻ tin vào câu chuyện hoang đường ấy?"

"Nô tài..." — Phúc ấp úng nói không nên lời, cảm thấy mình như đang há miệng mắc quai.

"Thôi bỏ đi!" — Thái hậu cười khẩy nhưng không phải vì khinh bỉ hắn mà bởi thấy tạm hài lòng với những tính toán trong đầu mình — "Chính vì nửa tin nửa ngờ nên người ta mới càng muốn bàn tán về nó! Cơi tàn của đống lửa theo gió bay xa, nếu gặp được một mồi lửa tốt sẽ lại bùng lên thành đám cháy, nhà ngươi hãy làm cơn gió ấy đi! Câu chuyện ta vừa mới kể, hãy mang nó gieo vào trong dân chúng!"

Phúc há hốc mồm kinh ngạc, y không ngờ bốn chục năm sống trong Hậu cung, làm tên nô tài chuyên việc nịnh hót bề trên, công kích kẻ dưới, nghĩ ra trăm phương ngàn kế để rộng đường tiến thân như y lại chẳng thể thâm hiểm bằng một người đàn bà mới hai chục xuân xanh, tiến cung chưa tới hai năm.

"Xin vâng, nô tài sẽ làm theo ý người là tạo ra một tin đồn, biến Thị Lộ thành con rắn báo oán, nung nấu cơ hội hãm hại gia tộc Nguyễn Trãi và rồi đổ mọi tội lỗi lên đầu bà ta!" — Phúc thận trọng xác nhận lại ý muốn, cũng là mệnh lệnh của Thái hậu.

"Đúng thế! Hành khiển Nguyễn Trãi vốn bậc khai quốc công thần, nổi tiếng trung thành, ngay thẳng. Tuy giờ ông ta đã bị xử chém cùng cái tội danh mưu phản, lập mưu hành thích Tiên đế nhưng ngươi nghĩ xem cái đám dân đen đã quen với việc coi hắn như thánh sống liệu có tin vào bản án ấy, hay sẽ đem lòng oán hận ấu chúa mới lên ngôi? Chi bằng, đổ hết lên đầu một mụ đàn bà, để lại trong thiên hạ một câu: ''Nữ sắc làm hại con người ta quá lắm!" [9] chẳng phải là ý hay hơn sao?"

[9] "Nữ sắc làm hại con người ta quá lắm!": Lời bàn của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư, nguyên văn như sau: ''Nữ sắc làm hại con người ta quá lắm! Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?"

Đinh Phúc thoáng rùng mình nhưng rồi nhanh chóng lấy lại được vẻ mặt xu nịnh, gượng cười tấm tắc ngợi khen:

"Hoàng thái hậu bệ hạ anh minh! Thật đúng là diệu kế, diệu kế!"

"Đã biết rồi thì mau lui ra! Ta muốn nghĩ ngơi!" — Thái hậu khoát tay ra hiệu cho hắn lui. Tên hoạn quan cúi đầu ra chiều hiểu ý, lom khom bước di. Chợt dừng lại ở bậu cửa, như nhớ ra điều gì, mới có ý hỏi thêm: "Vậy còn câu "Đáng tiếc không nghe lời Hoàng Phúc?" người định tính sao?"

Thái hậu không trả lời, chiếc quạt trên tay cũng ngừng phe phẩy, nét mặt tỏ vẻ không hài lòng nhìn tên nô tài khiến hắn giật thót, vội vàng sửa lại: "Nô tài đáng chết! Nô tài đã nhiều lời!" Rồi mau chóng lủi mất. Còn lại một mình trong phòng, Hoàng thái hậu mới điềm nhiên nhấp một ngụm trà, bật cười thành tiếng mà rằng:

"Tất nhiên là ta đã có tính toán khác, lần này là dành cho ngươi, cũng như những kẻ đã biết quá nhiều!"

Một tháng sau, ngày mồng hai tháng hai năm Quý Hợi, Thái Hòa nguyên niên, nhà vua ban chiếu trong thiên hạ:

"Mới rồi trời hiện điềm tai biến như sao sa, động đất. Trâm rất lo sợ, suy nghĩ nguyên nhân tai biến, không biết bởi đâu. Có phải vì trẫm mới cầm quyền, chưa biết giảm nhẹ lao dịch thuế khóa, có điều không lợi cho dân không? Hay là phụ quốc đại thần điều hòa trái lê nên khí âm dương không hài hòa mà đến thế chăng? Hay là việc ngục tụng không công bằng, hối lộ công khai, xử ổn còn nhiều oan uổng mà đến nỗi thế chăng? Hay là chức chú lệnh chưa được người giỏi, làm bừa trái phép, nhiễu hại dân chúng mà đến nỗi thế chăng? Hay là bọn cung nữ oán hờn chưa thả chúng ra nên hại tới hòa khí mà đến nỗi thế chăng? Có phải là bọn gièm pha âm mưu xảo quyệt, để công thần chịu oan khuất: chưa được rửa oan mà đến nổi thế chăng? Hay là vì bày việc thổ mộc, xây dựng cung điện chăng? Kẻ tiểu nhân được tiến dùng, còn người quân tử phải lui ẩn chăng? Đường nói năng bịt kín mà ơn trên bị che lấp chăng? Bọn phi tần lộng hành mà cửa sau bỏ ngỏ chăng? Lệnh cho khắp quan lại, quân dân, đều phải hết lòng bày tỏ những điều có thể xoay được ìòng trời, cỉập hết tai biến, hãy chẳng thắn nói ra, chớ nên ẩn giấu, để giúp trẫm sửa những điều thiếu sót". [10]

[10] Trích Đại Việt sử ký toàn thư, mộc khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697)

Bang Cơ mới ba tuổi nói còn chưa sõi nên những lời ấy thực chất là của Hoàng thái hậu, rõ là cái câu "bọn gièm pha âm mưu xảo quyệt" hay "kẻ tiểu nhân được tiến dùng" ý tứ sâu xa chính là muốn nhắm đến bọn Đinh Phúc, Đinh Thắng, lấy cớ cho phép mọi người "thẳng thắn nói ra, chớ nên ẩn giấu, để giúp sửa những điều thiếu sót" mà tìm vài kẻ trong Hậu cung vu cho Thắng, Phúc làm bừa, lộng hành, nhiễu loạn Hậu nội để tống giam vào ngục. Lại bóp méo lời nói Nguyễn Trãi trước khi xử tử thành "Đáng tiếc khồng nghe lời Thắng, Phúc!" để vu cho tội đồng mưu ám sát Tiên đế, lập tức lôi ra chém đầu.

Mấy ngày sau đó, tại tư ấp nhà họ Đinh ở Đô Kỳ, tứ phu nhân của Ức Trai tiên sinh hạ sinh hai đứa trẻ, một trai, một gái, đều mang thần sắc rạng rỡ, xinh đẹp khác lạ. Người liền đặt cho con trai cái tên Anh Vũ, nghĩa là võ nghệ cao cường, với tâm nguyện khi trưởng thành sẽ mạnh mẽ, anh dũng, trở thành bậc quân tử trượng nghĩa, giỏi tài thao lược. Còn người con gái đặt cho cái tên Ngọc Huyên, thanh trong như ngọc và ấm áp như ánh. nắng, mong mỏi cuộc đời cô bé sẽ tròn đầy, viên mãn, êm đềm.

Một năm sau, mùa thu, Thái Hòa năm thứ hai [11], Thái phó Đinh Liệt nhận thấy Thái hậu có nhiều hiềm khích với mình vì không ăn cánh với bè đảng trong triều của người, e sẽ sớm ra tay loại trừ, và có thể nhân cớ ấy bắt quàng sang mẹ con Ngọc Dao dù người đã sớm xa lánh những tranh chấp quyền lực chốn Hậu cung, an phận sống cuộc đời ẩn dật. Nghĩ vậy, ngài vội bí mật đưa nàng cùng Tư Thành trở về lánh tại chùa Dục Khánh, tránh không liên quan đến nhà họ Đinh. Ba mẹ con tứ phu nhân Phạm Thị Man, Anh Vũ và Ngọc Huyên cũng cùng đi theo dưới thân phận gia nhân. Quả nhiên một tháng sau, tháng bảy năm Giáp Tý, Thái hậu ra lệnh bắt giam Thái phó cùng vợ con gia quyến, đồng loạt tống vào ngục thất mà không công bố tội trạng gì rõ ràng.

[11]Thái Hòa năm thứ hai: Năm 1444 dương lịch.

Ngày tháng vẫn cứ trôi qua, trong triều có thêm nhiều biến động nhưng bên ngoài Cung thành, những đứa trẻ vần vô tư lớn lên bên nhau. "Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi", đến khi Ngọc Huyên có thể vừa chạy lon ton theo sau Tư Thành, Anh Vũ, vừa í ới gọi vang: ''Anh ơi! Anh ơi!" thì một chính biến khác lại xảy ra.

Tháng tư năm Ất Sửu, Thái Hòa năm thứ ba, Hoàng thái hậu dưới danh nghĩa Hoàng đế bất ngờ ra chiếu chỉ ân xá cho Ngô Thị Ngọc Dao, tìm rước mẹ con họ trở về Hoàng cung.

Tháng năm năm đó, vâng mệnh Hoàng thượng và Thái hậu, Ngô Thị Ngọc Dao đem Tư Thành cùng gia nhân trở về trình diện bề trên.

Tháng sáu, Hoàng thượng xuống chiếu phục vị danh phận Tiệp dư cho Ngô Thị Ngọc Dao, sắc phong làm Thái phi, đồng thời sắc phong tứ Hoàng đệ Tư Thành làm Bình Nguyên Vương, ban cho tư phủ trong Hoàng thành, cho phép được cùng các Thân vương khác ngày ngày tới điện Kinh Diên học tập.

Khi theo Tư Thành chuyển vào sống trong Vương phủ, tuy vẫn hồn nhiên không hề hay biết những chuyện lớn lao xảy ra trong triều đình và cả những cơn sóng ngầm vẫn ngày đêm âm thầm cuộn xô trong Hoàng cung nhưng bọn trẻ đã lờ mờ cảm nhận được sự thay đổi đến từ cách xưng hô thường ngày khi mà chúng không được phép gọi Tư Thành là ''anh" như trước đây nữa.

Năm ấy Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân lên bảy tuổi, Tân Bình Vương Lê Khắc Xương sáu tuổi, Hoàng đế Lê Bang Cơ năm tuổi, Bình Nguyên Vương Lê Tư Thành bốn tuổi, Anh Vũ và Ngọc Huyên cùng lên ba. Từ đây, sóng gió chốn kinh kỳ sẽ xoay vần quanh cuộc đời của những đứa trẻ có số mệnh sinh ra làm Thiên tử Đại Việt.

Chương 5

PHẦN II

HỎA CHƯƠNG: NGỌC HUYÊN

"Anh ơi, chất thắng văn tất dã" nghĩa là gì vậy?" — Nàng giương đôi mắt long lanh to tròn nhìn Tư Thành, không giấu nổi vẻ háo hức lẫn tò mò.

Đối với Ngọc Huyên, cô gái nhỏ mười một tuổi, thứ khiến nàng say mê, thích thú hơn cả chính là những quyển sách Thánh hiền mà Bình Nguyên Vương cùng đám con cái nhà quan lại được dạy ở trường. Nàng vẫn thường quẩn quanh bên Tư Thành mỗi khi người tới thư phòng luyện chữ, năn nỉ Bình Nguyên Vương giảng giải cho nghe những điều người đã học, những triết lý sâu xa của bậc Thánh hiền được đúc kết trong bao nhiêu trang sách.

Tư Thành dừng bút, ngẩng lên nhìn nàng, trông thấy điệu bộ háo hức đáng yêu của cô bé trước mặt thì mỉm cười, chậm rãi giải thích:

"Chất" là bản chất bên trong chúng ta, "văn" là dáng vẻ bên ngoài, còn "dã" là dân dã, quê mùa, vậy câu này có nghĩa là: chỉ chăm lo tới nội tâm mà bỏ quên dáng vẻ bề ngoài sẽ trở nên xuề xòa, cục mịch. Đó là lời răn dạy của đức Khổng Tử đến những người luôn cho rằng muốn trở thành bậc quân tử thì chỉ cần chú trọng vào việc trau dồi đức hạnh là đủ mà quên rằng dáng vẻ bề ngoài cũng cần phải được tôi rèn để trở nên đường hoàng, nho nhã".

Bình Nguyên Vương Lê Tư Thành, Hoàng đệ duy nhất của Hoàng đế, vừa tròn mười hai tuổi, là người có tư chất thông minh, không chỉ giỏi về văn chương, chữ nghĩa mà cả cưỡi ngựa, bắn cung, tài dùng thương, đao, côn, kiếm đều thành thục. Trong mắt người khác là một Thân vương đạo mạo, cao quý nhưng với Ngọc Huyên, Tư Thành chính là người bạn thanh mai trúc mã, cả hai cùng lớn lên bên nhau vì thế mà trở nên thân thiết, gắn bó như người thân ruột thịt.

"Nhưng chẳng phải còn có câu: "Xảo ngôn, lệnh sắc, tiên hỹ nhân" tức là: "Nói năng dối trá, trau chuốt nhan sắc, người như thế ít có đức nhân vậy." Muốn dáng vẻ bên ngoài đẹp đẽ, chẳng phải là cần "trau chuốt nhan sắc" sao? Mà như thế thì "ít có đức nhân", người có ít đức nhân sao có thể trở thành quân tử được?" — Ngọc Huyên tỏ ra bối rối.

"Em xem!'' — Bình Nguyên Vương chỉ vào một hàng trong trang sách trên tay nàng — "Câu em hỏi chẳng phải chỉ là một vế nhỏ trong: "Chất thắng văn tắc dã; văn thắng chất tắc sử. Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử" tức là "chăm lo bản chất hơn dáng vẻ bên ngoài là quê mùa; chăm lo dáng vẻ bên ngoài hơn bản chất là chải chuốt. Bản chất và dáng vẻ đều đầy đủ, vậy sau mới ra người quân tử." Đức Khổng Tử nói về việc người học đạo quân tử cần phải chú trọng tới cả hai: bản chất đạo đức bên trong và dáng vẻ tốt đẹp bên ngoài, không nên chỉ chăm chú trau dồi kiến thức, năng lực, đạo đức mà bỏ quên chăm sóc bề ngoài, biến mình thành kẻ thô kệch, cục mịch, cũng không nên chỉ mải mê chải chuốt ngoại hình mà không quan tâm đến tu dưỡng bản thân, dễ thành kẻ kém đức. Làm được đầy đủ cả hai mới xứng đáng là quân tử".

"Ồ phải rồi, lời của Thánh nhân không thể tách riêng từng vế! Cần đọc lên đầy đủ, giải nghĩa trọn vẹn mới ra được ý tứ sâu xa! Em đúng là vừa nông cạn lại hấp tấp, thật ước sao mình có thể thông tuệ được bằng một nửa của anh!" — Ngọc Huyên gật gù tâm đắc.

"Ngọc Huyên như thế đã là rất giỏi rồi, chỉ cần một lần nghe giảng là có thể ghi nhớ hết những điều đã được học!" - Tư Thành mỉm cười, khích lệ nàng bằng một lời khen, vừa nói, người vừa đưa tay vuốt nhẹ lên mái tóc Ngọc Huyên, dịu dàng, ân cần như một người anh trai đối với em gái.

Vừa lúc ấy, Anh Vũ xuất hiện trước cửa phòng, điệu bộ vui vẻ và gương mặt tươi tỉnh với nụ cười lúc nào cũng thường trực trên môi:

"Hai người học xong chưa? Ngọc Huyên, hôm nay đến đây thôi nhé, Điện hạ đã hẹn với các Vương gia khác cùng tham gia một trận thúc cúc [1] rồi!"

[1] Thúc cúc: Một trò chơi đối kháng giữa hai nhóm người với trái bóng bằng da, có nhiều điểm tương đong với môn bóng đá thời nay.

Nói rồi, Vũ bước tới bên Ngọc Huyên, kéo tay nàng đứng dậy. Trước khi khép cánh cửa phòng lại còn nháy mắt tinh nghịch, nói đùa với em gái:

"Đàn ông thay đồ, tuyệt đối không được nhìn lén!"

Lũ trẻ quần thảo quanh trái cầu may từ da trên một nền sân nện từ đất đỏ khiến cho bụi tung lên mù mịt. Chúng chia thành hai đội, mỗi bên bảy người. Đội của Tư Thành và Anh Vũ mặc áo màu xanh, còn đối phương mặc áo màu đỏ. Ba trong số đó là các Thân vương, huynh đệ của Hoàng đế, còn lại là đám thuộc hạ và gia thần trong Vương phủ, tất cả đều sàn sàn lứa tuổi mười hai, mười ba.

Khoảng sân hình chữ nhật rộng mười trượng, dài mười lăm trượng được kẻ vạch chia làm đôi, mỗi bên trấn giữ một nửa sao cho đối phương không thể tiến sâu vào phần sân của mình và đá trúng cầu môn rộng một trượng nằm chính giữa phía cuối sân. Luật chơi vô cùng đơn giản: chỉ được dùng chân và đầu để chơi bóng, trong khoảng thời gian nửa canh giờ, đội nào đá được vào cầu môn đối phương nhiều hơn sẽ là bên thắng cuộc.

Trẻ con thường khó có thể lúc nào cũng suy nghĩ cẩn trọng như người lớn, một khi đã nhập cuộc chơi, dù là quý tộc hay thường dân thì đều trở nên hăng say, chẳng còn màng tới những quy tắc cư xử mực thước, phân biệt kẻ trên người dưới. Chúng đều vì khao khát chiến thắng hoặc đơn giản là không muốn thua kém đối thủ mà chẳng ngại va chạm nảy lửa trong lúc cùng tranh cướp bóng.

Lần đầu tiên được tận mắt chứng kiến một trận thúc cúc, Ngọc Huyên hồi hộp đến nỗi đứng ngồi không yên. Nàng không phủ nhận nó cuốn hút và kịch tính nhưng cũng đem lại cảm giác bất an đến khó chịu. Tất cả cùng dồn tới tranh đoạt một quả bóng, thứ vô tri nhưng lại có sức mê hoặc to lớn, giây phút nó lăn tới chạm vào chân ai cũng là lúc người đó phải đối mặt với đố kị, mưu mô và tham vọng chiếm lại của kẻ khác. Mọi người đều vì nó mà chấp nhận đổ máu hoặc làm tổn hại lẫn nhau nhưng cuối cùng, không một ai có thể giữ lại nó cho riêng mình.

Đột nhiên, trái bóng lao như tên bắn về phía Ngọc Huyên, không biết là vô tình hay cố ý, một ai đó đã sút mạnh nó về hướng ấy. Tư Thành và Anh Vũ trông thấy chỉ kịp hét lên:

"Ngọc Huyên coi chừng!"

Nàng nhìn quả bóng lao thẳng về phía mình mà chẳng nghĩ được gì khác, dôi mắt mở to căng thẳng, cơ thể như dã đóng băng vì sợ hãi, bỗng như có bàn tay ai đó nắm lấy vai nàng, kéo mạnh sang bên. Trong khoảnh khắc, hai cơ thể cùng đổ ập xuống ngay bên cạnh điểm rơi của trái bóng bằng da nện mạnh vào mặt đất tạo nên âm thanh chát chúa, giả như đó là cơ thể của ai đó thì chắc chắn người ấy sẽ bị đau không hề nhẹ.

Tư Thành, Anh Vũ đều bỏ lại cuộc chơi, vội vàng chạy tới đỡ nàng đứng dậy, vừa phủi lớp đất cát bám trên quần áo Ngọc Huyên, vừa lo lắng gặng hỏi:

"Em có sao không?"

''Em không sao! May có vị đây kịp thời giúp đỡ!" — Ngọc Huyên gượng cười, ánh mắt khẽ hướng sang bên cạnh.

Bình Nguyên Vương buông tiếng thở phào nhẹ nhõm. Người nở một nụ cười cảm kích và chìa bàn tay ra cho người bên cạnh nàng nắm lấy để đứng dậy.

''Hoàng huynh, anh không sao chứ?"

"Anh không sao!" — Người ấy liền đáp.

"Ngọc Huyên, mau tạ ơn nhị Vương gia đã ra tay giúp đỡ đi!" — Anh Vũ khẽ kéo tay nàng ra hiệu.

Từ nhỏ tới giờ, Ngọc Huyên chỉ biết đến một vị Vương gia duy nhất là Tư Thành cho nên khi đứng trước một người khác cũng mang thân phận Thân vương cao quý, nàng không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Ngọc Huyên rụt rè bước tới, ngước nhìn người ấy bằng ánh mắt hiếu kỳ xen lẫn bối rối, nhỏ nhẹ cất lời:

"Đội ơn Điện hạ!"

"Lời cảm ơn khiến ta càng thêm áy náy!" — Khắc Xương khẽ xua tay — ''Quả bóng ấy chính là muốn chuyền cho ta nên mới đá về hướng này, tuy đã cố để em không bị bóng rơi trúng người nhưng xem ra lại khiến chân em bị thương mất rồi?"

Người nói và chỉ vào ngón chân hơi rớm máu của nàng.

''Đúng là bị chảy máu rồi! " — Tư Thành liền quỳ xuống bên cạnh, cẩn thận xem xét — ''Nhưng cũng may là chỉ trầy xước ngoài da! vết thương này cần rửa sạch và băng lại là được!"

''Có đau không Ngọc Huyên?" — Anh Vũ gặng hỏi, vẻ xót xa hiện cả lên mặt.

''Dạ không!" — Nàng lắc đầu.

''Hoàng huynh, thật là ngại quá! Mọi người đang cùng nhau chơi vui vẻ nhưng có lẽ em phải..."

"Hoàng đệ mau đưa cô bé này về băng bó lại vết thương đi! về phía đại huynh, anh khắc có cách nói lại!" — Khắc Xương là người tinh ý, không cần Tư Thành phải nói hết câu người cũng thừa đoán được mong muốn của Bình Nguyên Vương.

Tư Thành đáp lại Tân Bình Vương bằng cái gật đầu đầy cảm kích, rồi nhìn sang bên nói với Anh Vũ:

''Để anh dìu Ngọc Huyên, em mau qua đó kêu mọi người cùng về!"

"Ngọc Huyên!" — Anh Vũ ngồi thụp xuống, trỏ phía sau lưng ra hiệu cho em gái — "Lên đây anh cõng!"

"Em không sao! Chỗ bị xước trên chân cũng không nghiêm trọng đâu mà!" — Nàng lắc đầu nguầy nguậy, phần nhiều vì ngại ngùng trước những đứa trẻ khác.

Bình Nguyên Vương thấy vậy liền mỉm cười, nhấc bổng nàng lên xoay một vòng và nói lớn:

"Xem ra "tiểu thư" nhà ta đã lớn thật rồi, còn biết e thẹn nữa!"

Lũ trẻ cười ồ lên khiến nàng càng thêm bối rối.

''Thả em xuống đi!"

Mặc kệ Ngọc Huyên năn nỉ, Bình Nguyên Vương giữ chặt nàng hơn trong tay, vui vẻ bước đi, lũ trẻ nhảy chân sáo theo sau, cùng nhau cất tiếng hát vang quãng đường về:

Công chúa nhà ta

Năm mươi lông gà

Một trăm lông ngỗng

Sao vẫn nhẹ bỗng

Công chúa nhà ta!

Ngọc Huyên bấu chặt lấy bờ vai Tư Thành, bưng mặt xấu hổ nhưng không ngần nổi đôi môi hé nở một nụ cười rực rỡ hơn bình minh tháng sáu. Đối với nàng, không gì hạnh phúc hơn khoảnh khắc này, nàng chỉ muốn mình cứ mãi bé bỏng, nhẹ bẫng trong tay người như thế.

Đến một ngày, tất cả trẻ con đều sẽ phải lớn lên, Tư Thành sẽ thực sự trở thành một vị Vương gia cao quý, oai nghiêm, và những người xung quanh sẽ bắt đầu nhắc nhở nàng về sự khác biệt đẳng cấp giữa hai người, ép nàng vào những khuôn phép cư xử mực thước, vạch ra ranh giới của tôn ti trật tự... Nhưng đó là chuyện của sau này, còn bây giờ, khi bàn tay Tư Thành vẫn giữ chặt lấy nàng, Ngọc Huyên vẫn còn được sống trong thế giới bồng bềnh của mình, âm thanh duy nhất mà đôi tai nghe thấy là tiếng cười, dư vị duy nhất đọng lại trên đầu lưỡi là ngọt ngào, và mỗi ngày mở mắt ra để ngắm nhìn thế giới đều thấy một bầu trời cao trong xanh, với những dải mây trắng tựa như khuôn miệng cười rạng rỡ.

Ánh nắng chiều nhè nhẹ trải dài trên những vạt cỏ ven đường, những lùm cây khẽ xao động mỗi khi cơn gió thổi ngang qua, lũ chim ríu rít hòa vào tiếng bọn trẻ nô đùa. Những đứa trẻ còn quá ngây thơ, non nớt để nhận ra rằng tuổi thơ của chúng đang ngắn lại khi vòng xoáy của quyền lực và vương vị đã bắt đầu mở ra.

"Ngọc Huyên, khoan hẵng ngủ!''— Anh Vũ kéo chăn đắp trên người em gái ra, khẽ lay nàng thức dậy.

Ngọc Huyên dụi mắt, định mở miệng hỏi điều gì đó nhưng Anh Vũ đã nhanh tay bưng lấy miệng nàng, nói rất khẽ, chỉ đủ để hai anh em nghe thấy, ánh mắt liếc sang bên cạnh len lén canh chừng không muốn làm mẫu thân thức giấc:

"Suỵt! Nhanh ra đây đi! Phải đắp thuốc vào chân của em kẻo mai sẽ sưng lên không xỏ được vào giày đâu!"

Ngọc Huyên gật đầu, khẽ khàng ngồi dậy để không làm kinh động tới mẫu thân đang nằm bên cạnh rồi rón rén bước theo Anh Vũ ra ngoài.

Bầu trời đêm nay thật nhiều sao, lại có ánh trăng soi sáng cả khoảng sân trong phủ, trăng tháng bảy có màu vàng trong trẻo, vừa long lanh, vừa dịu dàng.

Anh Vũ bê đến một thau nước nhỏ, đặt xuống nền đất nơi nàng đang ngồi và nói:

"Ngọc Huyên, mau tháo tất của em ra, trước tiên phải rửa lại vết thương đã!"

"Nhưng lúc chiều em đã lau sạch và băng bó cẩn thận chỗ chảy máu lại rồi! Anh đừng lo!"

"Anh mà lại không hiểu em ư? Vì lo mẹ trông thấy mà em chỉ rửa qua loa rồi xỏ tất vào để giấu đi đúng không?" — Vừa nói, Anh Vũ vừa nâng chân em gái lên xem xét.

Máu chảy ra từ vết thương đã khô lại khiến lớp da chỗ đó gần như dính chặt vào chiếc tất bên ngoài. Vũ cố gắng gỡ nó ra một cách nhẹ nhàng, cẩn trọng nhất, vừa gỡ vừa thổi phù phù vào vết thương cứ như thể nếu làm thế thì sẽ không còn nhức nữa. Tháo được chiếc tất ra khỏi chân em, Vũ quay sang dặn Ngọc Huyên để nàng chuẩn bị tâm lý trước:

"Anh đã bỏ vào nước một nhúm muối nên sẽ hơi xót một chút nhưng như thế mới tránh được nhiễm trùng!"

Nàng liền gật đầu, tỏ ra can đảm.

Anh Vũ ngâm bàn chân em gái vào chiếc thau, nhẹ nhàng miết ngón tay cái dọc theo vết thương, vệt máu khô bám trên bề mặt dần mềm ra và hòa tan vào làn nước, để lộ một vết rách da khá dài.

"Có đau lắm không?" — Vũ hỏi.

"Không đau tẹo nào!" — Ngọc Huyên liền đáp, gương mặt đang cố tỏ ra tươi tỉnh như không có chuyện gì xảy ra.

''Con bé này! Lại còn biết nói dối nữa!" — Vũ ngẩng lên nhìn nàng, nhíu mày trách yêu.

"Anh này! "

"Hử?"

"Dù hai chúng ta được sinh ra cùng ngày cùng tháng cùng năm nhưng anh giống như là lớn hơn em cả chục tuổi vậy! "

Anh Vũ không đáp, chỉ khẽ mỉm cười, tâm trí như dồn hết vào công việc đang làm.

"Thật may vì dù sinh ra cùng ngày, mẹ đã để anh làm anh của em!"

"Vì mẹ muốn Ngọc Huyên có hai người yêu thương!" — Vũ nói, bọc bàn chân nàng vào một chiếc khăn khô rồi lấy ra từ túi áo một lọ thuốc mỡ, quết một lớp mỏng và nhẹ nhàng bôi vào vết thương của nàng.

"Lọ thuốc đẹp quá!" — Nàng khẽ reo lên khi nhìn thấy chiếc lọ sứ bọc bạc tinh xảo trên tay anh trai — "Ở đâu anh có vậy?"

"Là của lệnh bà [2]!" — Vũ đáp — "Điện hạ đã mượn từ chỗ lệnh bà đưa cho anh, chắc người cũng lo em sẽ làm ẩu với vết thương của mình!"

[2] Lệnh bà: chỉ Thái phi Ngô Thị Ngọc Dao.

"Anh này!"

"Gì nữa?"

"Dạo này em thường thấy anh hay gọi "Điện hạ", nghe cứ là lạ, khách sáo!"

Anh Vũ ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt tròn xoe long lanh của Ngọc Huyên:

"Người là bậc Thân vương mà!"

"Em biết!" — Nàng đáp, có chút đượm buồn.

"Vả lại, Huyên à..." — Vũ hít một hơi đầy, ngưng lại trong giây lát như thể cần thêm chút thời gian bởi vì những lời sắp nói ra sẽ chẳng may dễ chịu đối với cả hai người — "Đã đến lúc chúng ta cần phải lớn lên rồi!"

"Lớn lên?"

"Có nghĩa là không được nói năng tùy tiện, cư xử tùy tiện, suy nghĩ tùy tiện nữa! Em có hiểu ý anh không?"

Ngọc Huyên không trả lời, đưa ánh mắt nhìn ra xa xăm gượng nở một nụ cười. Nàng biết chứ, ai rồi cũng phải lớn lên, trở về đúng vị trí của mình. Vị trí của nàng là ở đây, nơi căn phòng này, đứa con gái của gia thần trong Vương phủ.

Có lẽ trên đời này, mọi việc đều có thể thay đổi, trừ xuất thân và gia thế của một người...

Chương 6

MỘC CHƯƠNG: KHẮC XƯƠNG

Nếu hỏi bọn trẻ trong Bình Nguyên phủ về công việc khiến chúng e ngại nhất thì đáp án chính là làm thị đồng theo hầu Vương gia tới Kinh Diên học chữ.

Chúng không ngại mùa đông phải trở dậy từ lúc trời còn tờ mờ sớm tinh mơ trước cả khi gà gáy, cũng không ngại mùa hè phải cuốc bộ một quãng đường xa dưới trời trưa nắng với cái bụng đói cồn cào. Điều khiến chúng e ngại chỉ có một: chính là bầu không khí trang nghiêm ở Kinh Diên, nơi mà các Thân vương và con cái đại quan triều đình theo học.

Triều đình nhà Lê rất đề cao việc học hành, khoa cử. Từ thời Thái tổ Hoàng đế khi mới lập quốc đã sớm chăm lo đến việc gây dựng nhân tài, trong kinh thì lập Quốc Tử Giám, lựa con cháu nhà quan và những người ưu tú trong dân sung làm giám sinh, ở từng lộ cũng lập trường học, sung con em những gia đình lương thiện hiếu học làm lộ hiệu sinh, cử những nhà nho đáng làm thầy đứng ra dạy dỗ, lại định ra lệ: nhi tử của các quan võ từ Đồng tri trở xuống đến Đội trưởng, quan văn từ Thượng thư trở xuống đến thất phẩm, khi lên chín tuổi đã có thể tới nhà Quốc học trong cung.

Trường học, tuy rằng việc dạy kiến thức ở đâu cũng như nhau nhưng Vương tôn quý tộc đi học đương nhiên không giống với hạng thứ dân tầm thường. Khác biệt lớn nhất có thể lập tức nhìn thấy chính là mỗi tiểu Vương gia và các vị công tử đều đưa theo bên mình một thị đồng giúp làm công việc mài mực, xếp giấy để chủ nhân có thể chuyên tâm cho việc học hành.

Kinh Diên là nơi học tập của các Vương tôn quý tộc và con cháu quan lại đại thần, một nai vừa tôn nghiêm, vừa trang trọng, không phải bất cứ ai cũng có thể tùy nghi ra vào hay hành xử tùy tiện. Cho nên, dù chỉ là đứa thị đồng đi theo hầu chủ nhân, bọn trẻ cũng phải ăn mặc chỉnh tề, tác phong nghiêm túc, ngồi trong lớp học tuyệt đối không được để bất cẩn phát ra tiếng động, thậm chí đến việc thở mạnh chúng cũng không dám.

Nhớ năm Bình Nguyên Vương lên sáu, bắt đầu đến tuổi vào học chữ ở Kinh Diên, bọn trẻ trong phủ háo hức tranh nhau được theo Vương gia tới lớp, so bì xem ai tỉ mỉ, chu toàn mới xứng đáng làm thị đồng bên người. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, từ tranh giành bọn trẻ đổi qua thành đùn đẩy, cuối cùng, trụ lại được chỉ còn có Anh Vũ và Đại Phúc vì chúng đều là những đứa trẻ chăm chỉ, hiếu học hơn người.

Mỗi tuần một người, Anh Vũ và Đại Phúc thay phiên nhau theo hầu Bình Nguyên Vương tới Kinh Diên, cứ thế trong suốt mấy năm, kiến thức về Nho học, Tứ thư Ngũ kinh, văn chương chữ nghĩa xem ra chẳng thua kém các tiểu Vương gia, công tử là bao, nhất là Anh Vũ càng tỏ ra thông minh, sáng dạ vượt trội khiến mẫu thân và Ngô Thái phi không giấu nổi hài lòng.

''Hai người bọn anh thực là may mắn!" — Nàng tì cằm lên cánh tay đang khoanh tròn giả đò ngoan ngoãn trên mặt bàn, chăm chú nhìn Anh Vũ đưa những nét bút nắn nót trên trang giấy, giọng điệu trong câu nói vẻ như ngưỡng mộ lại có chút ganh tị.

"Em vẫn chưa từ bỏ cái ý định ấy ư?" — Vũ dừng bút, quay sang em gái, khẽ nhíu mày nghiêm nghị.

''Một tuần thôi mà anh!" — Ngọc Huyên hạ giọng, chuyển sang năn nỉ, dai dẳng như cái cách mà cả tuần nay nàng đã đeo bám Anh Vũ — "Huống chi chính anh đã hứa..."

"Lời hứa đó coi như không tính!"

"Vì sao lại không tính?" — Nàng cự nự.

"Vì em lừa anh hứa trước sẽ đồng ý thì mới chịu nói ra nhưng dù cho anh có hứa rồi thì yêu cầu của em cũng thật hoang dường!" — Anh Vũ tỏ ra cứng rắn.

Vũ làm sao có thể ngờ ý tốt của mình lại biến ra thành việc khó xử này, vốn định tặng cho Ngọc Huyên một món quà nhân ngày sinh thần nên mới hỏi tiểu muội thích thứ gì, nàng nghĩ ngợi một hồi lâu rồi rụt rè nói mình chẳng cần vật dụng gì, chỉ có một mong ước từ lâu lắm rồi muốn được toại nguyện. Đang lúc vui vẻ, Vũ liền nhận lời mà chẳng chút đắn do, suy tính nào, chẳng ngờ nguyện vọng của em gái lại là được thay anh trai làm thị đồng theo hầu Bình Nguyên Vương đến trường học của các Thân vương.

''Một tuần thôi! Em hứa chỉ một tuần, không hơn!" — Ngọc Huyên tiếp tục năn nỉ.

"Không được! Nơi đó là nơi như thế nào, em không thể biết được đâu!"

''Cho nên em mới muốn biết!" — Nàng tỏ ra không nhân nhượng.

"Đó không phải là chỗ em có thể vì chút hiếu kỳ của mình mà liều mạng xông vào!"

"Em đâu có xông vào, em sẽ đi lại từ tốn, nói năng cẩn trọng! Mà không, em sẽ không mở miệng nói bất kỳ diều gì cả, chỉ im lặng ngồi bên Điện hạ, chăm chú nghe những điều thầy giảng!"

"Không được!" — Vũ kiên quyết bác bỏ — "Không phải chỉ riêng gì ở điện Kinh Diên mà tất cả trường học đều cấm nữ giới đặt chân tới!"

''Nhưng người đến trường đâu phải là nữ nhân tên Ngọc Huyên!" — Nàng đáp, đôi mắt sáng lên như vốn chỉ đợi huynh trưởng nói ra điều ấy.

"Không phải nữ nhân tên Ngọc Huyên?"

"Anh đợi em ở đây, đừng đi đâu hết!" — Nàng nói, lập tức đứng dậy ra ngoài, trước khi khép cánh cửa lại sau lưng, còn quay đầu dặn dò — "Một lát nữa dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì cũng nhất định không được bước ra, còn nữa, nhất định đừng để ai khác biết anh cũng ở trong này!"

"Cũng ở trong này là sao?" — Anh Vũ tự hỏi, cảm thấy có chút mơ hồ không hiểu rút cục Ý của em gái khi nói ra câu ấy là gì nhưng Ngọc Huyên đã khép cửa lại và đi mất.

Vũ không phải đợi lâu, chốc lát đã thấy có tiếng nói chuyện huyên náo ngoài sân, nhớ tới lời nàng dặn, Vũ không bước ra ngoài, cũng không mở toang cửa sổ, chỉ hé mắt nhìn qua khe xem xem là chuyện gì. Không ngờ cảnh tượng đập vào mắt khiến Vũ nếu không phải được Ngọc Huyên căn dặn trước thì suýt chút nữa đã kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc: có tới hai Anh Vũ, một ở ngoài sân vui vẻ đá cầu với bọn trẻ trong phủ, một chính là đang nấp sau khe cửa nhìn ra.

Vài giây sửng sốt qua đi, cuối cùng Vũ cũng hiểu Ngọc Huyên muốn để mình trông thấy điều gì, muốn cố gắng chứng minh điều gì.

Gần chục đứa trẻ cả trai lẫn gái quây quanh "Anh Vũ" cùng chơi đá cầu mà chẳng ai mảy may nhận ra có điều gì khác lạ. Điệu bộ, cung cách, gương mặt, dáng vóc, cả cái nhíu mày khi gặp cú tung cầu khó cũng giống hệt con người thực sự đang nấp trong phòng. Họ đúng là huynh muội song sinh, chỉ cần ăn vận, chải tóc như nhau sẽ trở nên giống hệt, đến Anh Vũ còn dụi mắt tưởng rằng mình đang soi gương, chẳng trách mà chúng bạn khồng thể nhạn ra sự khác biệt nào, cứ như là mặt trăng và cói bóng dưới nước.

Giây phút ấy, Vũ biết minh đã bị Ngọc Huyên thuyết phục.

"Trường học sẽ như thế nào nhỉ? Mơn nữa còn là trường học của các Thân vương!" — Ngọc Huyên háo hức tự hỏi, tung chân đá một cứ xoáy cầu về phía trước giống Y như thói quen của Anh Vũ.

Cái khoảnh khắc nhào tới kéo nàng sang một bên để né trái bóng đang lao đến, gương mặt ấy đã in đậm trong tâm trí Tân Bình Vương.

Thật là kỳ lạ, khi người khác sợ hãi thì thường nhắm chặt hai mắt, còn nàng lại chẳng hề như thế. Thậm chí khi hai người cùng đổ nhào xuống đất, đôi mắt trong veo ấy vẫn mở to nhìn người không chớp, nửa kinh ngạc, nửa lại tò mò như muốn hỏi:

"Anh là ai?"

Tân Bình Vương Lê Khắc Xương, nhị Hoàng tử của Tiên đế, vừa tròn mười bốn tuổi, là người thâm trầm, ít nói. Trong bốn huynh đệ, nếu Nghi Dân mạnh mẽ, Bang Cơ hoạt bát, Tư Thànỉi tài hoa thì Khắc Xương luôn tự thấy mình là người kém nổi trội hơn eả.

Người đã sớm xem cuộc sống là chuỗi ngày bình thản, muốn xa lánh quyền mưu để tịnh tâm tu dưỡng, bỗng lần đầu cảm thấy tâm trí đã thực sự bị xao động. Ánh mắt của nàng như nước giếng đêm trăng, vừa hun hút sâu thẳm, vừa đong đầy trong trẻo, long lanh, tinh khiết đến khó tả.

"Phải chăng đầy chính là tâm trạng tương tư luyến ái?"— Tân Bình Vương tự vấn bản thân.

Khắc Xương đã mải nghĩ về điều ấy cho đến khi tình cờ chạm ánh mắt của tên thị đồng theo hầu Bình Nguyên Vương.

"Là ta tu dưỡng chưa đủ! Là ta tu dưỡng chưa đủ!" — Khắc Xương vội quay mặt đi tránh né, nhẩm lại câu nói vẫn thường lấy ra tự răn đe mình nhưng dường như chẳng có mấy tác dụng bởi càng cố gắng trốn tránh, ánh mắt người càng bị hút về phía ấy.

Tân Bình Vương thường ngày không hay để ý đến những kẻ theo hầu bút nghiên các Thân vương khác nhưng kẻ đó không hiểu sao lại khiến người để tâm đến vậy. Gương mặt này có lẽ người đã từng trông thấy trước đây, khi hắn theo hầu Bình Nguyên Vương, hoặc khi cùng nhau chơi trong những trận thúc cúc. Không phải xa lạ nhưng cũng không giống như đã quen nhìn thấy, nhất là đôi mắt kia, sao cứ khiến tâm tư người bối rối? Cảm giác thật giống với khoảnh khắc ngắn ngủi ngày hôm ấy, khi người vô thức bị hút vào đôi mắt trong trẻo, sâu thẳm của một người con gái. ''Nhưng người này không thể là nàng ấy được! Nữ nhân đâu được phép bước vào điện Kinh Diên!"

"Nhị Vương gia! Tại sao người lại không chú ý vậy?" — Lời nhắc nhở của thầy giáo kéo tâm trí Khắc Xương trở lại, có vẻ như người vừa bỏ lỡ một phần bài học.

"Xin lỗi thầy! Là trò đã lơ là!"

Sự bối rối của Khắc Xương khiến những đứa trẻ khác thấy làm lạ, chúng đã quen với một Tân Bình Vương trang nghiêm, phàm là những việc liên quan đến học tập thì đều rất chú tâm, nghiêm túc, không bao giờ để mình phạm lỗi.

"Vậy người hãy thử giải thích câu: "Quan thư, lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương." — Thầy giáo ra đề cho Khắc Xương.

''Thưa thầy, đó là một câu trong sách Luận ngữ, Đức Khổng Tử nói: "Thơ Quan thư, vui mà không quá trớn, buồn mà không tổn hại" là Ý ngợi khen bài thơ Quan thư trong Kinh thi, bài thơ miêu tả tình cảm của một người quân tử, xốn xang đi tìm một người thục nữ để nên duyên vợ chồng, tương tự như đôi chim thư cưu [3] ríu rít tìm nhau trên bến sông".

[3] Chim cưu: Loài chim nước, lại có một tên khác là Vương thư, hình dạng giống chim phù y, chúng thường xuất hiện ở khoảng sông Trường Giang và sông Hoài. Loài chim này sống có đôi. Chúng thường lội chúnq, tình ý đậm đà nhưng không hề lả lơi (Theo Chu Hy).

"Trò thử đọc bài thơ ấy lên xem!"

''Thưa thầy!" — Tân Bình Vương đưa mắt nhìn sang, bỗng bắt gặp ánh mắt người đó cũng đang chăm chú nhìn mình. Đột nhiên người cảm thấy cảm xúc ập đến, đọc to bài thơ Quan thư một cách trôi chảy và đầy xúc động:

Quan quan thư cưu

Tại hà chi châu

Yểu điệu thục nữ

Quân tử hảo cầu.

"Tốt lắm! Đó chính là bài thơ Quan thư nổi tiếng trong Kinh thi!" — Thầy giáo ngợi khen kiến thức của Khắc Xương. Đoạn, thầy chắp tay sau lưng, vừa thong thả đi lại trong lớp học, vừa say sưa bình giảng — "Tương truyền, người quân tử trong bài thơ này ám chỉ Văn Vương, một người quân tử mở nghiệp nhà Chu sau này. Ngài cũng có đủ tình cảm như mọi người: có lúc vui, lúc buồn nhưng những nỗi vui buồn của ngài đều đúng chỗ, hợp đạo lý, không quá trớn đến độ gây nên tổn hại. Lứa tuổi của các trò đã bắt đầu cảm nhận được tình cảm luyến ái, ngoài tình cảm dành cho cha mẹ, anh em, bè bạn. Tình yêu nam nữ ẩn chứa một thứ sức mạnh vô hình, khiến con người ta trở nên cao thượng, vĩ đại nhưng cũng có thể biến một người thành kẻ tầm thường, thô tục. vì thế, học tập đạo lý, tu dưỡng bản thân chính là cách để chúng ta luôn phân biệt được đúng, sai trong mọi hoàn cảnh. Hãy trở thành một Văn Vương, đặt những vui, buồn trong chừng mực để không gây tổn hại đến bản thân và cả người xung quanh, ấy chính là quân tử vậy!"

''Thưa thầy! Nói đến ái tình có phải là hơi thừa thãi? Đối với những người sinh ra có thân phận, địa vị đặc biệt như chúng ta, hôn nhân chính là việc sát nhập hai gia tộc để bành trướng quyền lực, vì vậy mà không thể có việc nam nữ yêu nhau rồi kết duyên. Ái tình chỉ là thứ tình cảm tầm thường của những kẻ thấp kém!" — Người vừa lên tiếng cắt ngang mạch cảm xúc của thầy giáo là Lạng Sơn Vương Nghi Dân.

"Ư hừm! về việc này..." — Thầy tỏ ra khá bối rối trước lời nói của Nghi Dân. Sau một thoáng nghĩ ngợi, ông cố gắng lấy lại vẻ nghiêm nghị của một người thầy, trả lời: ''Tình yêu là một trong những tình cảm nguyên thủy, sơ khai nhất của loài người, có trước cả khi quyền lực ra đời, và không bị quyền lực chi phối. Bởi vì nó nhân bản như vậy nên thầy cảm thấy có trách nhiệm giảng cho các trò, để các trò hiểu được rằng dù là trong thế giới của những người có quyền lực, hay thế giới của những người bình thường, tình yêu đều có thể âm thầm len lỏi, nảy mầm."

"Thầy như đang nói về một thứ cỏ dại vậy!" — Nghi Dân ngắt lời, ý đó làm lũ trẻ bật cười thành tiếng, trong chốc lát, không khí trang nghiêm của lóp học bị phá vỡ hoàn toàn, thầy giáo phải gõ mạnh thước lên mặt bàn một hồi lâu mới có thể khiến tiếng ồn vãn bớt.

"Các trò! Các trò!" — Thầy giáo nói lớn — "Đủ rồi! Không được làm ồn! Hãy mở cuốn Mạnh Tử ra, hôm nay chúng ta sẽ học Lương Huệ Vương, phần trước, để hiểu được cái lợi của làm điều nhân nghĩa, nói điều nhân nghĩa."

Sau đó một tuần, ngày nào người thị đồng đó cũng theo Bình Nguyên Vương đến trường học. Cậu ta không bao giờ nói chuyện với ai, kể cả là những thị đồng của các Thân vương khác, chỉ chăm chú làm công việc của mình, không một chút lơ là. Khắc Xương đã tưởng qua vài ngày sự chú Ỷ của mình tới người đó sẽ không còn nhưng hóa ra lại không phải thế. Ngược lại, ánh mắt người luôn tìm đến người đó, và cả cảm giác bối rối mỗi lần vô tình chạm phải cái nhìn của cậu ta dành cho mình khi đứng dậy trả lời thầy giáo vẫn chẳng hề mất đi.

Không như những thị đồng khác, luôn tỏ ra miễn cưỡng hay mệt mỏi khi phải ngồi trong lớp khá lâu bởi chúng chẳng thể hiểu được, hoặc không có hứng thú tìm hiểu những triết lý sâu xa của Thánh nhân mà thầy giáo truyền thụ, thị đồng của Tư Thành có vẻ lại rất say mê tiếp thu, thường gật gù tâm đắc, hay mỉm cười phấn chấn khi được nghe giảng về một chân lý mới. Tân Bình Vương biết điều đó bởi người không thể ngừng lại được việc chăm chú quan sát cậu ta.

Cái cảm giác lạ lẫm với chính mình khiến Khắc Xương muốn một lần thử bắt chuyện với người đó, mong có thể giải tỏa những khúc mắc trong lòng, vì vậy mà khi nhìn thấy tên thị đong đứng một mình ngoài cửa lớp, có lẽ là đang chờ Tư Thành đàm đạo với thầy điều gì đó sau giờ học, Khắc Xương đã mạnh dạn bước đến hỏi chuyện.

"Nhà ngươi là thị đồng của tứ Vương gia phải không?" — Người lên tiếng.

"Bẩm vâng, thưa Điện hạ!" — Cậu ta lễ phép cúi chào khi nhận ra người đứng trước mặt minh là Tân Bình Vương.

''Dạo này ta thường thấy ngươi theo hầu Hoàng đệ!"

"Bẩm vâng!" — Cậu ta giữ phép, đáp mà không dám ngẩng lên nhìn Khắc Xương.

"Có phải trước đây chúng ta đã từng chơi thúc cúc cùng nhau?"

"Dạ?" — Ngọc Huyên thoáng giật mình bởi câu hỏi liên quan đến Anh Vũ, quên mất phép tắc, ngẩng mặt lên nhìn. Khi nhận ra mình vừa làm điều thất lễ, nàng lại vội vàng cúi đầu trả lời Thân vương — "À, bẩm vâng thua Điện hạ!"

Trong khoảnh khắc hai ánh mắt gặp nhau, Khắc Xương thấy trái tim mình bỗng đập mạnh.

''Ngươi... Cậu... tên gì?"

"Thưa Điện hạ, nô tài họ Nguyễn, tên Anh Vũ!

"Anh Vũ? Cái tên hay lắm! Cậu bao nhiêu tuổi?

"Thưa, mười một ạ!"

"Vậy là cậu kém ta ba tuổi, ta mười bốn! Cậu có biết chữ không?

"Thưa, nô tài có được huynh... à, mẫu thân dạy chữ!" — Suýt chút nữa Ngọc Huyên đã trả lời rằng mình được huynh trưởng dạy chữ nếu như không sực nhớ ra chính mình đang đóng giả Anh Vũ.

"Vậy ư, thật hiếm thấy được một nữ nhân đọc thông viết thạo, lại có thể dạy cho người khác, quả là không tầm thường!"

"Đội ơn Điện hạ! Thân mẫu là gia thần trong phủ Bình Nguyên đã nhiều năm ạ!" — Nàng khiêm tốn đáp.

''Anh Vũ!" — Tư Thành cất tiếng gọi, cắt ngang cuộc nói chuyện của hai người — "Hoàng huynh, anh chưa về sao?"

"Hoàng đệ đấy ư? Anh thấy thị đồng này đứng đây một mình nên dừng lại hỏi han đôi chút!"

"Nhà ngươi không làm gì thất lễ với nhị Vương gia đấy chứ?" — Tư Thành quay sang hỏi thị đồng của mình.

"Không có chuyện đo!" — Khắc Xương vội đỡ lời — ''Không thẹn là người trong phủ Bình Nguyen, nói năng cư xử đều rất lễ phép!"

''Vậy thì may quá! Anh Vũ, mau tạ ơn nhị Vương gia!"

"Đội ơn Điện hạ!" — Ngọc Huyên rụt rè.

''Không có gì!"

"Vậy Hoàng huynh, em xin cáo từ!" — Tư Thành chào từ biệt Khắc Xương rồi ra hiệu cho Ngọc Huyên cùng ra về — "Anh Vũ, chúng ta đi thôi!"

"Nô tài xin lui!" — Nàng rụt rè cáo từ Khắc Xương rồi rảo chân bước theo Tư Thành.

Khắc Xương nhìn theo hai người cho đến tận khi kiiuất bóng, tự hỏi có phải mình đã làm điều gì tlĩất lễ khiến Hoàng đệ không vui?

Từ điện Kinh Diên về tới phủ Bình Nguyên không xa nhưng không hiểu sao Ngọc Huyên luôn có cảm giác quãng đường lại dài đến vạy, nàng chỉ sợ nếu Tư Thành bắt chuyện sẽ nhận ra nàng không phải là Anh Vũ. Nhưng thạt may, trong suốt những ngày qua, dù đến trường hay về phủ, người đều lẳng lặng mà đi, không nói một câu, cũng không nhìn nàng, có lẽ người vẫn mải suy ngẫm về những bài học trên lớp, những triết lý sâu xa trong sách vở.

Đột nhiên, Tư Thành dừng lại, quay sang nhìn thẳng vào mắt nàng và nói:

''Khi ở trường, hãy cố gắng tránh việc giao tiếp với bất cứ ai, hiểu không Ngọc Huyên?"

Chương 7

THỦY CHƯƠNG: TƯ THÀNH

"Thái hậu bệ hạ, nô tài thật không hiểu vì sao người lại dang tay ra che chở cho mẹ con Ngô Thái phi? Chẳng phải trước kia người một mực muốn trừ bỏ cái gai trong mắt hay sao?" — Viên Nội quan An Quế e dè hỏi khi đang bóp vai cho Thái hậu.

"Ngươi theo hầu ta bao lâu rồi nhỉ?" — Hoàng thái hậu lim dim đôi mắt tận hưởng tài nghệ từ đôi tay tên thái giám. Thay vì trực tiếp trả lời câu hỏi, người lại hỏi hắn một câu khác.

"Dạ bẩm, từ ngày người tiến cung, là mười hai năm rồi ạ!"

''Có biết vì sao những ngày đầu nhập cung ta không trọng dụng ngươi mà lại là bọn Đinh Phúc, Đinh Thắng không?"

''Dạ, là vì nô tài tài hèn đức kém ạ!"

"Đúng là vì ngươi kém cỏi hơn bọn chúng! Những điều ta mong muốn, chỉ cần nói ra một phần, chúng lập tức hiểu cả chín phần còn lại, trong mắt kẻ khác mà nói, bọn chúng là những tên nô tài tinh ranh, được việc nhất! Nhưng ngươi có biết vì sao đến cuối cùng, những kẻ ta coi là được việc ấy lại không thể sống quá lâu không?"

"Nô tài ngu dốt không biết ạ!" — An Quế khúm núm trả lời.

"Cũng là vì chúng quá hiểu chuyện, quá hiểu ta, biết quá nhiều! Không có người chủ khôn ngoan nào muốn giữ lại bên mình kẻ nô tài quá hiểu mình, bởi trong những đtiều hắn hiểu ấy, chắc chắn sẽ có điểm yếu của chủ nhân. Cho nên, đến cuối cùng, ngươi còn, bọn chúng mất!"

Những lời nói của Hoàng thái hậu nhỏ nhẹ, đều đều, chậm rãi nhưng có sức mạnh như một chiếc dây thòng lọng khẽ xiết lấy cổ họng của An Quế, khiến hắn run rẩy sợ hãi. Hắn hiểu rằng người đang cảnh báo hắn đừng nhiều chuyện nếu không muốn đi vào vết xe đổ của Phúc, Thắng trước kia. Chúng tưởng mình là công thần trong thời loạn thì sẽ mãi là công thần về sau mà không ngờ được rằng khi cuộc săn kết thúc, chó săn ắt không cần đến nữa.

"Nô tài đáng chết! Nô tài không dám!" — An Quế vội vàng quỳ sụp xuống trước mặt người xin tha tội.

Thái hậu cười to một tiếng, khẽ phe phẩy chiếc quạt trong tay, nói với hắn:

''An Quế, ngươi nhạy cảm quá rồi! Ta đâu hẹp hòi đến độ chỉ vì ngươi lỡ miệng hỏi một câu mà đã khép ngươi vào tội trạng!"

Viên Nội quan vẫn quỳ mọp ở đó, không dám ngẩng mặt lên.

"Nói gì thì nói, tài nghệ đấm bóp của ngươi không kẻ nào theo được! Nào, lại đây tiếp tục công việc của ngươi đi! Bên vai trái!" — Thái hậu ra lệnh cho tên nô tài, hắn liền đứng dậy, lật đật tiến lại, bàn tay thành thục di chuyển trên hai vai của chủ nhân. Cái công việc hắn đã làm hơn hai mươi năm nay, thứ tài nghệ nhỏ nhoi duy nhất mà hắn tự tin rằng mình làm tốt, không ngờ chính nó đã mang đến cho hắn cơ hội được hầu cận trong cung Vĩnh Ninh.

''Nhưng dù sao, một khi đã coi ngươi là tâm phúc của mình..." — Thái hậu ngả người ra sau thư thái tận hưởng — "Ta cũng nên rộng lòng chia sẻ một chút tâm tư!"

"Nô tài không dám!" — An Quế vẫn chưa hết sợ hãi, hắn hoàn toàn không thể biết được những lời của Thái hậu lời nào là thật, lời nào là để răn đe, và lời nào là mồi nhử kẻ thù.

''Nhà ngươi không cần phải sợ!" — Thái hậu như đọc được suy nghĩ của hắn, liền tỏ ra rộng lượng mà trấn an — "Điều nhà ngươi hỏi cũng là điều ta thường đem ra tự vấn bản thân. An Quế, ngươi thử nói xem, nếu ngươi là Bình Nguyên Vương, ngươi sẽ nghĩ gì về ta?"

"Dạ, bẩm..." — Tên thái giám tỏ ra thận trọng — "Tứ Vương gia hẳn sẽ cảm thấy Thái hậu bệ hạ ân trọng như núi, mà không, còn hơn cả núi!"

''Phải thế không?" — Người lim dim đôi mắt, vẻ như đang suy tư.

"Bẩm, chắc chắn là thố! Bệ hạ chính là người đã mở rộng tấm lòng mà tha tội cho mẹ con họ, để họ không phải sống những tháng ngày ẩn dật. Người lại đón về Hoàng cung, ban cho họ cuộc sống sung sướng, thân phận cao quý, xuống chiếu phục vị cho Ngô Thái phi, phong vương cho Hoàng thân Tư Thành. Thật là ơn trời biển không thể báo đáp hết!"

"Suy nghĩ ấy, lòng biết ơn ấy chính là điều ta mong muốn ở bọn họ!" — Gương mặt Thái hậu toát lên sự mưu tính — ''Tiên đế khi băng hà mới hai mươi tuổi nhưng cũng đã có tới bốn Hoàng tử. Phế Thái tử Nghi Dân là kẻ mà ta biết rằng sẽ không bao giờ nắm được trong tay, nỗi hận bị truất ngôi, dù là việc xảy ra khi Nghi Dân chỉ là một đứa trẻ còn ẵm ngửa, không thể đảm bảo chẳng có chút vết tích gì trong lòng Lạng Sơn Vương. Khắc Xương tuy có vẻ hiền lành, an phận nhưng lại vốn cùng một mẹ sinh ra với Nghi Dân. Nỗi oán thán của mẫu thân và tham vọng của huynh trưởng, Tân Bình Vương có thể nào ngoảnh mặt làm ngơ? Hoàng thượng cần một đồng minh để cân bằng cán cân quyền lực, chỉ còn một người mà ta có thể lôi kéo, đó chính là Tư Thành, tứ Hoàng tử của Tiên đế, người có thân phận cao quý, lại có thân mẫu là Ngô Thị Ngọc Dao xuất thân trong gia tộc hiển hách".

Có rất nhiều điều mà An Quế muốn hỏi thêm nhưng lại không dám. Thái hậu chẳng đã khéo đe dọa rằng kẻ biết nhiều sẽ không có gì lợi lộc đó sao. Nghĩ vậy, tên Nội quan chỉ im lặng làm nốt công việc của mình, đến khi chủ nhân bảo dừng, hắn mới ngừng tay rồi rút lui êm, không mở mồm ra nói bất kỳ điều gì nữa.

Trong Hậu cung này, kẻ thông minh nhất sẽ trở thành chủ nhân nhưng kẻ thông minh thứ nhì sẽ bị tiêu diệt. Thái hậu cần những kẻ gần bên mình thể hiện sự khôn ngoan bằng lòng trung thành và sự im lặng nhiều hơn là tỏ ra hiểu biết và ranh mãnh. Có thể khiến Thái hậu tạm thấy yên lòng không có mấy kẻ, ngoài Hoàng thượng là con ruột chính người sinh ra thì chỉ còn lại vài người, một trong đó là Thái phi Ngô Thị Ngọc Dao.

Từ lần đầu chạm mặt nhau tại chốn Hậu cung lắm thị phi này, trải qua bao biến động cùng nhiều năm thăng trầm, đến khi gặp lại người đó, Thái hậu mới nhận ra rằng vật đổi sao dời vẫn không làm thay đổi được một Ngọc Dao hiền lành, cao quý. Con người ấy sẽ không vì danh lợi mà biến thành kẻ hủ bại, bất trung. Đó là người mà một khi nhận được từ ai chút ân huệ nào, sẽ mãi khắc cốt ghi xương, nằm lòng báo đáp, chính vì thế, Thái hậu đã làm một việc khiến ai nấy đều sửng sốt là mở rộng cánh tay đón mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao trở về Kinh thành.

Khi chuyện đó xảy ra, Tư Thành mới lên bốn, chỉ là một đứa trẻ thơ dại. Tám năm đã trôi qua từ cái ngày đầu tiên theo mẫu thân nhập cung, mang theo cả ba mẹ con Phạm Thị Man, Anh Vũ, Ngọc Huyên. Những tháng ngày sống thanh đạm, bần hàn nơi mái chùa cổ kính đã trở thành những ký ức xa mờ trong trí nhớ của bọn trẻ. Duy chỉ có một điều mà Tư Thành không bao giờ quên, đó là những tiếng gọi "anh ơi" vô tư mà Anh Vũ, Ngọc Huyên dành cho mình bất kể nơi đâu, điều đã trở thành cấm kị ở chốn này.

Khi còn sống ở ngoài, ngoài mẫu thân ra, Phạm phu nhân cũng giống như người mẹ thứ hai của Tư Thành nhưng giờ đây, chỉ có Thái hậu mới được coi là Hoàng mẫu của người. Ở nơi này, Anh Vũ, Ngọc Huyên không còn là đệ, muội của Bình Nguyên Vương nữa, người chỉ có ba vị Hoàng huynh là Lạng Sơn Vương, Tân Bình Vương và Thánh thượng. Điều đầu tiên mà Tư Thành học được khi trở thành một Vương gia chính là Hoàng cung là nơi mỗi bước chân đều cần phải cẩn trọng, mỗi lời nói phải kiêng dè.

Dù chỉ là một đứa trẻ mười hai tuổi nhưng Bình Nguyên Vương sớm đã trưởng thành cả về tư chất lẫn nhận thức. Những việc động trời xảy ra trong triều đình trước kia, khi Tư Thành còn chưa sinh ra, người cũng phần nào biết được từ những lần đàm đạo cùng Thái bảo Đinh Liệt. Tuy Ngô Thái phi không muốn con trai biết quá nhiều những việc thị phi đã từng xảy ra trong cuộc đời của hai mẹ con người nhưng Tư Thành chỉ nhẹ nhàng trấn an mẫu thân rằng:

''Đạo lý "đền ơn đáp nghĩa" con luôn khắc ghi trong lòng, vì vậy mẹ đừng lo con không hiểu chuyện mà làm điều thất lễ. Ân huệ của Thánh mẫu Hoàng thái hậu và Hoàng thượng con xin ghi tạc, sẽ không có việc con vì để bụng những chuyện bản thân mình không hiểu rõ căn nguyên mà sinh lòng oán hận, phản trắc".

Về phía Lạng Sơn Vương và Tân Bình Vương, vì cảm nhận được mối âu lo của Thái hậu mà Tư Thành luôn tỏ ra chừng mực trong tiếp xúc với hai vị Hoàng huynh, không để mình quá thân mật với họ và ngược lại, cũng không tạo ra cơ hội để họ trở nên thân thiết với mình. Điều này khiến Nghi Dân cảm thấy không ưa thích Tư Thành còn Khắc Xương thường băn khoăn tự hỏi vì sao Hoàng đệ lại luôn xa cách đến vậy.

Đối với Bình Nguyên Vương, chỉ có hai người có thể coi là bạn, là đệ muội, là người thân, chính là Anh Vũ và Ngọc Huyên, những đứa trẻ đã cùng lớn lên bên người, chia sẻ cùng người hai người mẹ. Chỉ có điều, Tư Thành không thể biết được phụ thân họ chính là Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi, vì có ơn cứu mạng mẹ con người mà động chạm đến quyền lực của Thái hậu, rốt cuộc phải trả giá bằng tính mạng và danh dự của mình. Gia thế đặc biệt của Anh Vũ và Ngọc Huyên chỉ có hai người là Ngô Thái phi và Phạm phu nhân biết, họ đã sớm quyết định sẽ giữ kín bí mật này để bảo vệ những đứa trẻ vô tội.

"Anh nhận ra em sao?" — Ngọc Huyên sửng sốt khi Bình Nguyên Vương gọi lên tên mình dù nàng đang trong bộ dạng của Anh Vũ.

"Em có biết vừa rồi nguy hiểm lắm không? Không như những người khác, nhị Vương gia là một người vô cùng nhạy bén, nếu lỡ nói sai điều gì để anh ấy nghi ngờ thì sẽ rất dễ bị lộ tẩy!" — Tư Thành không trả lời thẳng vào câu hỏi của nàng.

"Anh... biết từ lúc nào vậy?"

"Từ lần đầu tiên nhìn thấy em trong bộ dạng này!"

"Đã biết thế, sao anh còn bỏ qua cho em?" — Ngọc Huyên rụt rè hỏi.

Bình Nguyên Vương nhìn nàng trong giây lát. vì sao ư? Chính người cũng muốn biết câu trả lời. Mang nữ nhân vào điện Kinh Diên là tội bất kính, dù là Thân vương nếu để người khác phát hiện ra cũng không tránh khỏi trách nhiệm.. Một người luôn thận trọng như Tư Thành, sớm đã biết mọi hành động của mình đều đang bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của tất cả các phe phái trong triều đình, không chỉ là riêng Thái hậu, tại sao lại có thể hành động khinh suất đến vậy?

"Chúng ta mau đi thôi, đây không phải là nơi thích hợp để nói chuyện!" — Tư Thành cầm tay nàng dắt đi.

Như thường lệ, hai người về phủ theo lối cổng sau. Khi đóng giả Anh Vũ làm thị đồng theo hầu Bình Nguyên Vương, Ngọc Huyên chỉ mong không phải đi qua lối cổng chính bởi vì có thể nàng sẽ giáp mặt mẫu thân khi đi lối ấy. Ngọc Huyên biết mình có thể đánh lừa tất cả mọi người, trừ mẹ. Người đã sinh ra nàng và Anh Vũ, luôn theo sát, chăm sóc các con từng bữa ăn, giấc ngủ, làm sao người có thể nhầm lẫn hai anh em họ. Chính vì lý do đó, khi Tư Thành bỗng thay đổi thói quen, đi và về đều theo lối cổng sau, Ngọc Huyên đã quá mừng rỡ mà quên cả thắc mắc vì sao người lại trở nên khác hơn mọi khi. Bây giờ thì nàng mới hiểu đó là bởi vì người muốn bao che cho hành động liều lĩnh của nàng.

Ban đầu, chính nàng cũng cảm thấy vô cùng hồi hộp lo lắng mà chỉ định đóng giả Anh Vũ một ngày. Nhưng ngay lần đầu tiên đến trường học, nàng lập tức bị thu hút đến mức trở nên say mê. Từng bài học, từng lời giảng của thầy giáo, tất cả đều quá mới mẻ, quá hấp dẫn khiến Ngọc Huyên cảm thấy mình ngày càng trở nên tham lam, cứ muốn mãi được là Anh Vũ dể có thể được đến đó mỗi ngày, nghe giảng mỗi ngày.

Thật may là mỗi ngày đều trôi qua trong bình yên, lần nào thấy bóng dáng hai người bọn họ cùng trở về từ lớp học, Anh Vũ như trút được gánh nặng. Nhưng anh em họ đều chẳng hề hay biết rằng việc làm của Ngọc Huyên không chỉ nhận được sự đồng lõa của Anh Vũ mà còn có cả sự che giấu của Bình Nguyên Vương.

Hôm nay, thấy Tư Thành và Ngọc Huyên về trễ hơn mọi hôm, Anh Vũ có chút sốt ruột trong lòng. Khi thấy hai người từ xa, Vũ tưởng là đã có thể thở phào nhẹ nhõm nhưng Ngọc Huyên không về thẳng phòng như mọi hôm, thay vào đó lại lững thững theo Bình Nguyên Vương vào phòng bên đó. Anh Vũ vừa ngạc nhiên, vừa vô cùng lo lắng, lại không có cách nào biết được chuyện gì đang xảy ra vì Vũ sợ ra khỏi phòng sẽ bị những người khác phát hiện.

"Anh đã biết sao không trách tội em? còn giúp em che giấu nữa?" — Ngọc Huyên hỏi khi chỉ có hai người trong phòng.

"Vì anh nghĩ chắc em và Vũ phải có lý do gì đó, chỉ là anh đang chờ hai người tự tìm cơ hội để nói ra!"

Tư Thành đã định nói rằng người cảm thấy chẳng có gì sai trái khi một cô gái muốn được đi học, chỉ là thế gian này còn nhiều điều bất công. Hiện giờ, với khả năng còn hạn hẹp của mình, điều duy nhất người có thể làm để giảm bớt sự bất công trong cuộc sống của Ngọc Huyên chỉ là lẳng lặng giúp nàng che đậy chân tướng, nhìn nàng tận hưởng niềm vui sướng được đến lớp mỗi ngày. Bình Nguyên Vương nghĩ vậy nhưng lại không thể nói rõ ra được bởi sợ rằng lời nói ấy sẽ khiến cảm giác về sự khác biệt địa vị giữa hai người trong suy nghĩ của Ngọc Huyên thêm sâu sắc.

''Vậy từ mai, em có được theo anh đến lớp nữa không?" — Nàng nhìn Tư Thành bằng ánh mắt nửa cầu khẩn, nửa trông chờ.

Đó dường như là một câu hỏi không cần thiết. Nếu ngày hôm nay không có việc Khắc Xương bắt chuyện với nàng, Tư Thành sẽ vẫn tiếp tục làm lơ như chẳng hề biết người đi cùng mình là Ngọc Huyên, vẫn sẽ tiếp tục coi nàng là Anh Vũ thực sự. Những ngày qua, được ngồi bên nàng, chứng kiến sự háo hức của nàng với mỗi bài giảng, Bình Nguyên Vương cảm thấy những giờ học trở nên thật thi vị, thời gian hai canh giờ trôi qua thật nhanh, lời cổ nhân bỗng trở nên dễ hiểu đến lạ kỳ. Những tháng ngày như thế, Tư Thành muốn nó kéo dài mãi. Không chỉ ngày mai, ngày mốt mà cả những ngày sau nữa, người luôn muốn có Ngọc Huyên ngồi bên mài mực, xếp giấy và cùng chia sẻ với mình những điều được học trong sách Thánh hiền.

"Miễn là em đừng tùy tiện bắt chuyện với người lạ! Tuy anh thừa nhận em và Vũ rất giống nhau nhưng kể cả trong bộ dạng nam nhân này, có nhìn thế nào đi chăng nữa em vẫn rất xinh đẹp!"

Nói xong những lời này, Bình Nguyên Vương bỗng cảm thấy ngượng ngập, vội nắm vai xoay người Ngọc Huyên lại, đẩy nhẹ ra phía cửa, nói với nàng trước khi đóng cánh cửa lại:

"Em về phòng đi, anh muốn được nghỉ ngơi!"

*

"Nêu bị người khác phát hiện thì không hay chút nào!" - Anh Vũ nhíu đôi lông mày bày tỏ sự lo ỉắng nói với Tư Thành khi hai người cùng ngồi xuống nghỉ ngơi sau những giờ luyện kiếm.

''Anh biết!" — Tư Thành đáp mà không nhìn Anh Vũ, vẫn mải miết chà những vết xước trên thân kiếm gỗ.

"Thà như anh không biết, em cũng thấy có lỗi khi thông đồng với Ngọc Huyên che giấu anh!" — Anh Vũ tóm lấy cây kiếm trên tay Tư Thành, hạ nó xuống thấp, cốt để người quay lại nhìn mình — "Nhưng đằng này, Điện hạ đã biết sao còn tiếp tục bao che?"

"Vậy em bảo anh phải đóng vai ác, chỉ mình em được đóng vai thiện thôi sao? Anh cũng muốn là một người anh tốt và nuông chiều Ngọc Huyên!" — Tư Thành nửa đùa nửa thật.

"Điện hạ đừng đùa nữa! Bị anh phát hiện rồi e là Ngọc Huyên cũng không thể thản nhiên đóng kịch như trước nữa! Em chỉ sợ sớm muộn gì cũng bị người khác nhận ra Ngọc Huyên hành xử không giống một đứa con trai".

Tư Thành cũng đã nghĩ về điều này mấy hôm nay. Dù cố gắng đến mấy, Ngọc Huyên vẫn chỉ là một cô bé, sẽ có lúc sơ suất mà vô tình cư xử như một nữ nhi. Cách cười, cách nói, cách đi lại, cả cái cách nàng chăm chú nghe giảng, đều rất mềm mại. Điều may mắn duy nhất là thầy giáo rất nghiêm khắc, không trò nào được chuyện riêng trong giờ, tất cả phải tập trung nghe giảng, về điểm này, có thể giảm thiểu được cơ hội tiếp xúc của những người khác với Ngọc Huyên. Hai người sẽ tới trường sát giờ học và về ngay khi thầy giáo cho phép, nếu không bắt chuyện với ai có lẽ sẽ không bị người khác nhận ra.

Nhưng cho dù thế nào, Anh Vũ cũng cảm thấy chuyện này quá mạo hiểm. Vũ tuy chiều chuộng Ngọc Huyên nhưng khi sự việc đã đi xa khỏi tầm an toàn, lại có thể gây ra hậu quả làm liên lụy tới Bình Nguyên Vương thì đột nhiên trở nên cứng rắn.

"Không là không!" — Anh Vũ dứt khoát trả lời khi em gái nằn nì để được tiếp tục đến trường.

"Anh!" — Ngọc Huyên nài nỉ trong vô vọng, đây không phải là lần đầu tiên nàng chứng kiến thái độ dứt khoát của anh trai, những lúc như thế nàng biết Anh Vũ là người khó mà lay chuyển nhưng mong ước được đi học quá cháy bỏng khiến Ngọc Huyên không muốn từ bỏ dễ dàng.

"Anh đã nói là không được!" — Vũ lặp lại, nhấn mạnh từng từ để thể hiện quyết tâm — "Em vui chơi như thế là đủ rồi!"

Ngọc Huyên buông tay anh trai ra, nước mắt rơm rớm tràn mi. Nhìn thấy em gái phải rơi nước mắt là điều khiến Anh Vũ bất an nhất, và nét mặt tràn đầy thất vọng kia nữa, khiến Vũ cảm thấy day dứt biết chừng nào. Vũ dùng tay áo thấm khô hai hàng nước mắt lăn dài trên má Ngọc Huyên, nhẹ nhàng nói với nàng:

''Huyên này, Điện hạ của chúng ta là một người rất quan trọng. Người không chỉ là một Thân vương mà còn là người có khả năng sẽ trở thành Hoàng thái đệ [1], người sẽ kế vị Thiên tử!"

[1]Hoàng thái đệ: Em hoặc anh của vua được chọn làm người kế vị, địa vị tương tự như Hoàng thái tử.

"Hoàng thái đệ? Người kế vị Thiên tử?" — Có chút run rẩy trong giọng nói của nàng.

''Đúng thế! Nếu người được chọn để kế vị Thiên tử là em trai của người thì gọi là "Hoàng thái đệ", anh trai thì gọi là "Hoàng thái huynh", con trai thì gọi là "Hoàng thái tử", con gái thì gọi là "Hoàng thái nữ". Tất cả được gọi chung là "Trữ cung" [2] tức là "người kế vị Thiên tử".

[2] Trữ cung: Kểt hợp giữa Trữ quân và Đông cung, chỉ người thừa kế.

Ngọc Huyên lặng người không đáp, điều mà Anh Vũ vừa nói quả thực là quá xa vời với nàng. Vũ trông sắc mặt thoáng lạ lẫm, thoáng xa xăm của em gái thì nhẹ nhàng nắm lấy tay Ngọc Huyên, lòng sớm đã biết đột ngột nói ra những chuyện như thế này sẽ khiến nàng không khỏi cảm thấy hoang mang.

''Hoàng thượng cũng chỉ mới mười ba tuổi, chưa nạp phi tần vì vậy chưa có người nối dõi, ngôi vị Trữ cung vì thế mà chưa có chủ nhân. Thái bảo đại nhân [3] nói các đại thần đã sớm chuẩn bị dâng tấu biểu xin Thánh thượng lập người kế vị. Một khi đức vua chưa có người nối dõi, ngôi vị Trữ cung sẽ phải tìm một trong các Hoàng thân. Tuy Hoàng thượng có tới ba huynh đệ nhưng Điện hiạ chính là người có nhiều khả năng để ngồi vào vị trí đó nhất".

[3] Thái bảo đại nhân: Chỉ Đinh Liệt.

''Vì sao?" — Ngọc Huyên nghẹn giọng.

"Đại Vương gia tuy là huynh trưởng của Hoàng thượng nhưng người từng là phế Thái tử, việc khôi pliục ngai vị dường như rất khó. Hơn nữa, mẫu thân của người cũng từ Quý phi bị phế xuống thành thường nhân, vì thế người càng khó giành ưu thế trong cuộc cạnh tranh này. Một vị Hoàng huynh khác của Hoàng thượng là nhị Vương gia tuy tính tình nhân hậu, phong thái đường hoàng nhưng lại cùng một mẹ sinh ra với đại Vương gia, cũng tức là có cùng một người mẹ thân phận thấp kém. Chỉ còn lại tứ Vương gia, chẳng những tư chất thông minh, tài nănq xuất chúng mà mẫu thân người là con nhà dòng dõi, xuất thân cao quý, nội ngoại đều có người làm quan tam triều từ thời Thái Tổ Hoàng đế. Và một điều vô cùng quan trọng nữa, Điện hạ còn nhận được sự ủnq hộ từ người đang nắm quyền lực lớn nhất trong triều đình chính là Hoàng thái hậu".

"Vậy thì anh ấy chắc chắn sẽ trở thành Hoàng thái đệ ư?"

"Phần lớn khả năng!" — Anh Vũ tỏ ra tư lự — "Ít nhất so với các Thân vương khác, người có lợi thế hơn hẳn. Tuy nhiên, chuyện trong triều đình không đơn giản như vậy- Tuy nói đại Vương gia và nhị Vương gia có xuất thân thấp kém do mẫu thân là thường nhân nhưng họ vẫn là con của Thái Tông Hoàng đế, huynh trưởng của Hoàng thượng, cơ hội được chọn vào ngôi vị Trữ cung của họ không phải là không có. Nhất là hiện giờ trong triều đình bắt đầu chia thành các phe phái khác nhau, mỗi bên ủng hộ một Thân vương, họ đều muốn chủ nhân của mình ngồi được vào ngôi vị ấy, cho nên nếu có cách để hạ bệ người thuộc phe đối phương họ sẽ chẳng ngần ngại mà nắm lấy".

"Hạ bệ ư?" — Câu chuyện càng được hé mở, Ngọc Huyên càng thấy lo lắng không yên.

"Đúng vậy, chính vì thế thời gian này Điện hạ phải hết sức thận trọng từng lời nói, hành động! Sau cuộc cạnh tranh này, người chiến thắng sẽ được ngồi lên ngôi vị cao quý nhưng kẻ đại bại có thể sẽ bị trục xuất đi rất xa, tới nơi mà không còn chạm tới được quyền lực. Anh không muốn kết cục ấy xảy ra cho tứ Vương gia! Em cũng vậy phải không?"

Ngọc Huyên không trả lời, hay không cần phải trả lời. Đáp án trong lòng nàng là điều rất dễ đoán biết. Đối với nàng, Tư Thành quan trọng như chính hơi thở của mình, khi đã biết đến những biến cố quan trọng đang âm thầm diễn ra xung quanh Tư Thành, nàng sao có thể vô tư như trước đây.

Ngọc Huyên không sợ hãi, nàng chỉ cảm thấy có một sự trăn trở như tảng đá đè nặng trong lòng, rằng nàng có thể làm gì giúp ích cho người ấy?

Chương 8

KIM CHƯƠNG: NGHI DÂN

Khi mọi thứ trở về đúng quỹ đạo của nó hóa ra lại gây nên những điều khó chịu khác nhau trong lòng khá nhiều người.

Đầu tiên phải kể đến Ngọc Huyên. Được đi học khiến nàng cảm thấy từng ngày trôi qua đầy phép màu nhiệm. Lời dạy của cổ nhân như những tiếng chuông trong trẻo cứ mãi ngân nga trong tâm trí nàng, ngay cả khi không còn ngồi trong lớp học. Chưa từng có gì mang lại cho nàng cảm giác vui thích, hứng khởi đến thế, cho nên phải dừng lại việc thế chân Anh Vũ ít nhiều cũng khiến Ngọc Huyên cảm thấy hẫng hụt. Tuy đã tự nhủ trong lòng rằng đó là việc tốt nhất mà mình có thể làm cho Tư Thành bây giờ nhưng nàng cũng không thể ngăn cản được nỗi buồn cứ tự nhiên ùa đến trong lòng.

Đối với Bình Nguyên Vương, đó là cảm giác trống trải khi không được nhìn thấy Ngọc Huyên ngồi cạnh, dù là tỉ mẩn mài mực hay chăm chú nghe giảng. Tư Thành hiểu hơn ai hết việc để nàng trở lại đúng vị trí của mình là sự lựa chọn an toàn nhất cho người. Trong Hoàng cung, tai mắt của các phe phái ở khắp nơi, chỉ một sai phạm nhỏ cũng đủ trở thành cái cớ để bọn họ vin vào làm khó người và cả những vị đại thần luôn theo sát, ủng hộ Bình Nguyên Vương. Chính trịhông phải là cuộc dạo chơi đơn thuần để người ta có thể vô tư bước vào mà không trang bị cho mình áo giáp và vũ khí vô hình, đó chính là sự cẩn trọng, sự cảnh giác, sự nhạy bén và cả những mưu mô.

Tư Thành sớm đã biết mình không thể có được tuổi thơ bình thường như những đứa trẻ khác, thậm chí, cái gọi là "tuổi thơ" đối với người đã kết thúc vào tám năm trước, khi bàn chân non nót của đứa trẻ bốn tuổi lần đầu tiên theo mẫu thân bước vào Cung thành. Những gì còn lại của chuỗi ngày vô tư nô giỡn giờ đây người chỉ có thể tìm thấy khi ở bên cạnh Ngọc Huyên. Đôi mắt, nụ cười trong sáng của nàng như giấc mộng êm đềm mà Bình Nguyên Vương muốn mãi ngủ quên trong đó. Nhưng người buộc phải đánh thức mình dậy, và cả nàng nữa.

Tâm tư của hai người đó chỉ mình Anh Vũ hiểu nhưng chính Vũ lại không nhận ra những đổi thay to lớn đang âm thầm diễn ra trong mình.

Thái bảo Đinh Liệt đã sớm nhận ra tư chất của Anh Vũ, không chỉ thông minh, nhanh nhẹn, tài cung kiếm so với những đứa trẻ cùng lứa, thậm chí với cả người hơn tuổi đều tỏ ra vượt trội. Nhưng quan trọng hơn, Vũ lớn lên bên Tư Thành, sớm đã gần gũi và hiểu nhau, gắn bó chẳng khác nào anh em ruột thịt. Bình Nguyên Vương cần một người như thế để coi như tâm phúc, giữ ở bên mình, sau này ắt sẽ trở nên hữu dụng. Qua một thời gian dài quan sát, Thái bảo đại nhân cảm thấy có thể tin dùng mới truyền gọi Anh Vũ, nói cho cậu nghe những điều tưởng chừng như khá xa vời đối với một đứa trẻ chỉ mới mười một tuổi. Đó chính là những lời mà Anh Vũ đã chia sẻ với Ngọc Huyên, rằng tứ Vương gia có thể sẽ trở thành chủ nhân thiên hạ, sứ mệnh của chúng là phải ở bên bảo vệ người. Anh Vũ biết trò chơi thơ ấu đã đến lúc khép lại, nó và cả Ngọc Huyên cần phải mau chóng trưởng thành mới có thể được ở lại bên cạnh Bình Nguyên Vương.

Sự vắng mặt của Ngọc Huyên bên cạnh Tư Thành cũng khiến một người nữa cảm thấy có chút trống trải, đó chính là Hoàng huynh của người, Tân Bình Vương Lê Khắc Xương. Những tưởng cảm giác hân tioan khi nhìn thấy người ấy mỗi ngày đã là điều vô cùng kỳ lạ, không ngờ, tâm trạng thất vọng khi không còn trông thấy người ấy nữa càng khiến Khắc Xương bối rối với chínht bản thân mình hơn. Đã may lần người toan hỏi Tư Thành về cậu thị đồng kia sao không thấy xuất hiện nữa nhưng lại cố kiềm chế bằng những phỏng đoán của riêng mình, rằng có thể cậu ta bị ốm, hoặc được sai đi làm công việc khác, chắc sẽ chủ vắng mặt mấy hôm mà thôi, nếu hỏi han về một kẻ bình thường chẳng mấy ai quan tâm như thế, chưa biết chừng sẽ khiến Bình Nguyên Vương hiểu nhầm rằng mình đang bị quan sát. Vì thế Khắc Xương đã chọn cách im lặng và nhẫn nại chờ đợi ngày rnà người đó sẽ xuất hiện trở lại trước mặt người.

Còn có một người mà chẳng mấy ai ngờ tới cũng đang mang tâm trạng thất vọng khi không nhìn thấy Ngọc Huyên đến điện, chỉ có điều đó là một kiểu thất vọng khác, cả nàng và Tư Thành đều không biết rằng cuộc nói chuyện của hai người trên đường trở về phủ ngày hôm ấy đã vô tình lọt vào tai kẻ khác.

Vốn đã để ý từ lâu thị đồng của Bình Nguyên Vương có dung mạo thanh tú, dáng vẻ mềm mại, giọng nói trong tựa khánh ngọc, khác xa với vẻ sỗ sàng, cục mịch của đám con trai cùng tuổi nhưng kẻ đó giống như bao người khác chẳng tài nào tưởng tượng nổi một thị đồng ngày ngày theo hầu chủ nhân ra vào Kinh Diên thực chất lại là một cô gái.

Nếu quả thực thị đồng ấy là nữ giới giả trang thì tội của chủ nhân nha đầu đó quả là không hề nhỏ khi dám ngang nhiên vi phạm phép tắc, coi thường luật lệ, mang nữ giới vào nơi tôn nghiêm. Muốn hạ bệ thanh danh Bình Nguyên Vương thì đây thực sự là một cơ hội hiếm hoi trời cho, vì thế mà người này đã rất háo hức chờ đợi đến buổi học tiếp theo. Nhưng xuất hiện cùng Tư Thành ngày hôm sau không còn là người thị đồng ấy nữa, thay vào đó là một kẻ mà nhìn kiểu gì cũng không tìm ra được nét nữ tính nào. Như thế, người cảm thấy thất vọng nhất khi Ngọc Huyên quay về đúng thân phận nữ nhi của mình lại chính là Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân.

*

Phế Thái tử Lê Nghi Dân, đại Hoàng huynh của Thánh thượng, mười lăm tuổi, tướng mạo tuấn tú nhưng lại có nét dữ dằn, dáng người cao ráo, khỏe mạnh, mới nhìn qua đã biết là người kiếm cung thành thục. Tuy cùng một mẹ sinh ra với Tân Bình Vương Lê Khắc Xương nhưng tính tình trái ngược. Nếu Khắc Xương thâm trầm, hiền hòa thì Nghi Dân lại luôn tỏ vẻ ngạo nghễ, bề trên.

Lớn nhất trong số các anh em nên Nghi Dân sớm đã hiểu được hoàn cảnh của mình nhưng không vì thế mà tỏ ra bi thương, ngược lại càng sôi sục Ý chí phục thù, âm thầm nung nấu quyết tâm giành lại những gì vốn dĩ phải thuộc về mình.

Đối với Khắc Xương, Nghi Dân vô cùng tin tưởng đứa em ruột hiền lành, đôn hậu này. Nhưng để làm nên đại sự, Lạng San Vương biết mình cần một đồng minh uy dũng, cứng rắn hơn. Tư Thành là người mà Nghi Dân luôn mong muốn kéo vào phe cánh. Bình Nguyên Vương tuy mới mười hai tuổi nhưng văn võ song toàn, sớm tỏ ra là người có chính kiến, tính tình lại mạnh mẽ, dứt khoát, về điểm này, Khắc Xương còn thua vài phần.

Hơn nữa, có nhiều lời đồn đại trong triều đình rằng Thái hậu trước đây vì muốn để con mình là Bang Cơ được ngồi vững trên ngôi Thái tử, đã chẳng từ thủ đoạn, mưu hại không ít người. Có thể việc Tiệp dư họ Ngô suýt bị khép vào tội chết, sau đó lại bị đuổi ra khỏi cung một cách oan ức ngay trong lúc đang mang Long thai chỉ vì lời khai khó kiểm chứng của một cung nữ thuộc cung Khánh Phương cũng do một tay Thái hậu sắp đạt. Thời điểm xảy ra sự việc chấn động Hoàng cung ấy, chỉ có Thái hậu, lúc đó đang là Thần phi của Thái Tông Hoàng đế, là người duy nhất không mong đợi Tiệp dư sinh hạ Hoàng tử, và cũng chính bà ta là người hưởng lợi nhất từ việc Ngô Tiệp dư bị phế truất và đuổi đi. Những người tham gia vào sự kiện mập mờ năm đó, bao gồm cả thái giám Đinh. Thắng, Đinh Phúc đều đã chết dưới tay Thái hậu, điều đó chẳng phải là quá đáng ngờ hay sao?

Dù không ai nói ra, dù chính sử không ghi chép nhưng những nghi ngờ ngấm ngầm cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn bị dập tắt, miệng lưỡi thế gian đâu thể dùng quyền lực mà chặn lại được. Cho nên sau này, Thái hậu vì hối hận thật lòng, hay vì đang mưu tính điều gì khác mà dang tay đón nhận mẹ con Tư Thành, trở về thì mối hận thuở nào làm sao có thể bảo quên là quên sạch sẽ được. Chỉ riêng điểm này thôi đã đủ để Lạng San Vương coi Tư Thành như người cùng chung chiến tuyến, chẳng phải vẫn có câu "kẻ thù của kẻ thù là bạn" đó sao?

Nhưng có vẻ như Nghi Dân đã dần nhận ra chỉ mình mình nghĩ vậy. Tư Thành chẳng những từ chối kết thân với bọn Nghi Dân, Khắc Xương dù họ hằng ngày vẫn giáp mặt mà đối với Thái hậu và Hoàng thượng, người chẳng bao giờ để lộ ý bất bình hay oán thán. Sự chừng mực, cẩn trọng, luôn giữ khoảng cách của Bình Nguyên Vương khiến Nghi Dân ngày càng không vừa mắt.

Dạo gần đây, trong triều lại sục sôi ý kiến của các đại thần rằng ngôi vị Thái tử không thể để trống quá lâu. Hoàng thượng chưa từng nạp phi tần nên chưa có con nối dõi, chắc chắn ngôi vị ấy chỉ có thể dành cho một trong ba người huynh đệ còn lại của Thánh thượng. Một tia hi vọng vụt lóe lên trong đầu Nghi Dân nhưng cũng ngay lập tức Lạng Sơn Vương nhận ra rằng ngoài mình ra, Khắc Xương và Tư Thành cũng có ngang ngửa cơ hội trong cuộc cạnh tranh ngôi vị đó.

Bình Nguyên Vương có được sự ủng hộ của hơn một nửa số đại thần trong triều, cả công khai lẫn ngấm ngầm. Thậm chí, nếu phải chọn một người huynh đệ của Hoàng đế vào ngôi vị Trữ cung, Thái hậu thà chọn Tư Thành chứ không đời nào chấp nhận một Nghi Dân mang đầy oán hận, hay một Khắc Xương yếu mềm dễ bị huynh trưởng giật dây. và vì thế, từ chỗ muốn lôi kéo Bình Nguyên Vương, Nghi Dân buộc phải chuyển sang tìm cách, hạ bệ Hoàng đệ của mình.

Thành thực mà nói, Nghi Dân không thù ghét Hoàng đệ chỉ vì Tư Thành từ chối đứng chung vào hàng ngũ những kẻ thân tín của mình, với một kẻ không chấp nhận để bị lợi dụng, ắt sau này sẽ trở thành tảng đá cản đường, cần phải sớm loại bỏ. Tư Thành chính là người như vậy.

Thời cơ cuối cùng cũng đến. Việc tình cờ phát hiện ra thân phận thực sự của thị đồng theo hầu Bình Nguyên Vương đã mở ra cho Nghi Dân một cơ hội tốt ngoài mong đợi.

Nhưng Ngọc Huyên đã không xuất hiện nữa.

Hay đúng hơn là một Anh Vũ giả mạo đã biến mất cùng cái cớ mà Nghi Dân có thể vin vào để thực hiện ý đồ của mình.

Cũng như Khắc Xương, Nghi Dân dặn lòng phải im lặng, kiên nhẫn chờ đợi, bởi tin rằng cơ hội sẽ còn đến, nếu còn sống trên đời, kẻ đó ắt sẽ còn xuất hiện trước mặt người lần nữa.

Tư Thành không hề hay biết về những trông mong của Khắc Xương và cả toan tính của Nghi Dân.

Anh Vũ nói lại với người rằng em gái tuy buồn nhưng đã chấp nhận sự thật, bởi trò ngụy trang này dù có thể mang lại vui vẻ trong chốc lát nhưng hiểm họa của nó là không thể đoán trước được nên sẽ không đóng giả thành Vũ để theo Tư Thành tới Kinh Diên nữa. Ngày hôm ấy cũng vừa vặn đến phiên Đại Phúc làm thị đồng theo hầu Bình Nguyên Vương.

Liền một tuần sau đó, người mà Nghi Dân, Khắc Xương nhìn thấy bên cạnh Tư Thành là một thằng bé dáng vóc cao lớn, có phần thô kệch, không chút nào giống với vẻ thanh thoát, thư sinh của thị đồng trước đó.

Đến ngày quay trở lại trường học, Anh Vũ nói với Ngọc Huyên:

"Ngày mai anh lại cùng Điện hạ tới Kinh Diên, em ở nhà nếu thấy buồn thì cùng đám Như Mai, Tú Dung ra ngoài chơi, hoặc theo lệnh bà lên chùa dâng hương lễ Phật, đừng chỉ ở trong phòng sẽ cảm thấy bí bách!"

''Anh đừng lo, em sẽ tới thư phòng luyện chữ, đọc sách cho thời gian qua mau, chờ hai người về!"

Anh Vũ toan nói với nàng cũng đừng đến thư phòng, bởi vì những thứ sách vở sẽ chỉ càng khiến Ngọc Huyên nhớ tới những ngày ngắn ngủi được đặt chân tới trường mà trở nên buồn bực. Song nghĩ đi nghĩ lại, dường như bây giờ nơi đó lại là chốn duy nhất nàng tìm được nguồn an ủi từ những trang giấy đầy ắp chữ, hi vọng có thể phần nào khỏa lấp nỗi trống trải trong lòng.

''Cũng được!" — Vũ mỉm cười đáp.

Ngọc Huyên cảm nhận được vẻ tư lự trong ánh mắt của anh trai, nàng liền nở một nụ cười thật tươi để làm yên lòng Vũ:

"Còn anh nhớ học hành chăm chỉ nhé! Tuy rằng trường học và thầy giáo đều là dành cho các Thân vương nhưng cùng ngồi nghe giảng trong lớp ít nhiều cũng được hiểu những kiến thức cao rộng, thâm thúy. Em tin sau này anh nhất định trở thành một người không tầm thường!"

Thế là sáng nay, Anh Vũ dậy từ rất sớm, trang phục chỉnh tề. Trước khi ra khỏi cửa, Vũ nói với Tư Thành:

"Điện hạ, từ giờ trở đi em sẽ càng chăm chỉ văn ôn võ luyện! Nhìn em gái say mê học hỏi nhưng vì phận nữ nhi không được đến trường, lòng em vừa buồn, vừa thẹn. Những điều mà Ngọc Huyên mong mỏi, em sẽ làm tốt cả phần em và con bé!"

Tư Thành không đáp lời, chỉ khẽ gật đầu mỉm cười, nhìn về phía căn buồng nơi Ngọc Huyên đang đứng tựa vào bậu cửa, dùng ánh mắt thiết tha mà tiễn người và Anh Vũ lên đường.

"Vóc dáng và gương mặt thì đúng nhưng dường như lại có gì không phải lắm!" Đó là điều Khắc Xương đã nghĩ khi nhìn vào Anh Vũ nhưng Nghi Dân lại hoàn toàn không biết điều ấy cho nên đã cảm thấy rất vui mừng trong bụng, cả buổi học, Lạng Sơn Vương dường như không thể tập trung vào bài giảng bởi còn mải nghĩ cách khéo léo làm lộ ra bí mật của Tư Thành.

"Hoàng huynh, có gì không ổn sao?" — Khắc Xương thấy Nghi Dân nhấp nhổm thì lấy làm lạ, liền viết vào tờ giấy, nhân lúc thầy giáo không để ý, chuyển lên cho người.

"Hoàng đệ có biết thị đồng của Bình Nguyên Vương là nữ nhi không?" — Nghi Dân viết lại câu trả lời vào mảnh giấy-

Chính bức thư của Tân Bình Vương đã làm nảy ra trong đầu Nghi Dân một diệu kế, vừa có thể vạch mặt hai người kia, lại vừa khiến không ai oán trách được mình. Nghi Dân trao lại bức thư cho Khắc Xương nhưng thay vì làm một cách kín đáo thì lại cố tình tỏ ra vụng về để thầy giáo trông thấy.

Khi Khắc Xương vừa kịp mở ra đọc thì cũng đúng lúc thầy lớn tiếng hỏi:

"Đại Vương gia, nhị Vương gia, vì cớ gì lại mất tập trung?"

Khắc Xương giật thót, vừa hoang mang về điều Nghi Dân viết trong giấy, vừa lo thầy sẽ không bỏ qua cho hành động của mình. Quả đúng như dự tính, thầy bước xuống chỗ hai trò, quở trách:

"Hai vị Điện hạ thừa biết đi kèm với địa vị cao quý chính là trách nhiệm nặng nề, cớ sao không chuyên tâm tu dưỡng mà lại làm mất đi sự tôn nghiêm của việc học đạo?"

"Xin lỗi thầy!" — Nghi Dân và Khắc Xương đồng thanh hối lỗi.

''Nhị Vương gia! Xin trao lại mảnh giấy trong tay người!"

"Cái này---" — Khắc Xương ấp úng.

"Đã biết lỗi sao còn không sửa?" — Thầy nghiêm giọng - "Những thứ khiến cho tâm tư xao nhãng việc học hành không thể không thu lại, đó là quy tắc từ xưa tới nay trong lớp học này!"

Khắc Xương buộc phải đưa bức thư ra. Thầy giáo đón lấy từ tay người, chẳng ngần ngại mà mở ra tức thì, nét mặt thầy bỗng đổi khác, chân mày nhíu lại, không rõ vì giận hay vì sửng sốt. Thầy quay qua chỗ Bình Nguyên Vương, lại nhìn sang cậu thị đồng của người, vẻ đắn đo cân nhắc rồi nói lớn với các trò:

"Hôm nay chúng ta dừng tại đây! Giờ các trò có thể ra về, đừng quên ôn lại những gì thầy đã giảng trên lớp. Ba vị Vương gia xin hãy ở lại, cả thị đồng của tứ Vương gia cũng phải ở lại!"

Trong khi Khắc Xương tái mặt vì lo lắng, Nghi Dân cố nén cái cười mỉm đầy đắc ý thì Tư Thành và Anh Vũ lại hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra nên có đôi chút kinh ngạc nhưng không hề phản đối, đồng thanh đáp lời:

''Vâng, thưa thầy!"

Học trò đã lục tục kéo nhau ra về hết, chỉ còn bốn người ở lại tiieo yêu cầu của thầy giáo. Khắc Xương không ngừng nghĩ cách để dừng chuyện này lại. Điều Nghi Dân viết trong thư thoáng nhìn qua thì tưởng là chuyện vô lý nhưng nghĩ lại, người cũng cảm thấy ngờ ngợ. Người con gái có ánh mắt trong trẻo khiến Tân Bình Vương xao xuyến ngay lần đầu giáp mặt và sau đó không thể ngừng nghĩ đến. Rồi thị đồng của Bình Nguyên Vương, cũng với án h mắt ấy, gây ra trong lòng người một nỗi hoang mang không thể gọi tên. Giờ thì Khắc Xương đã hiểu ra hai người ấy hóa ra chỉ là một, và nếu thế thì những rung động của người trước thị đồng kia là hoàn toàn có căn cứ chứ không phải là thứ cảm giác hoang đường như người vẫn lo sợ. Chỉ có điều trong hoàn cảnh này, cô gái ấy và cả Hoàng đệ đều sẽ gặp rắc rối lớn.

Từ xưa đến nay, chưa từng có tiền lệ nữ nhân được đặt chân vào điện Kinh Diên, nơi vô cùng tôn nghiêm chỉ dành cho các Thân vương và con cháu đại thần triều đình tu học đạo Khổng. Không ai biết chính xác điều gì có thể xảy đến với người phạm luật, hình phạt là không giới hạn. Thân vương, quý tộc che giấu hành vi phạm tội của nữ tì nhẹ sẽ bị quở trách, nặng thì giáng cấp, còn bản thân nữ tì kia không những bị trừng phạt mà còn khiến phụ mẫu liên lụy, khó thoát được họa đòn roi, hoặc tệ hơn, có thể còn bị trục xuất khỏi Kinh thành.

Không còn cách nào khác, Khắc Xương đánh liều cầm tay người ấy kéo đi, chạy thoát ra cửa. Hành động của người khiến tất cả đều ngỡ ngàng nhưng khi kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì Khắc Xương đã kéo được Anh Vũ đi khuất dạng, không còn trông thấy nữa.

Không còn nhân chứng, chỉ có tờ giấy ghi lời một phía của Lạng Sơn Vương, thầy giáo vô cùng bối rối, không biết tiếp theo nên xử trí thế nào. Sau một hồi suy nghĩ, thầy quyết định hỏi thẳng học trò:

"Đại Vương gia, người viết trong giấy rằng thị đồng của tứ Vương gia là nữ nhân, ấy là làm sao?"

Tư Thành sửng sốt quay sang nhìn Nghi Dân, trong khi Nghi Dân cố gắng làm ra vẻ bối rối, ngập ngừng trả lời:

"Trò chỉ vô tình nghe được câu chuyện giữa hai người đó cách đây không lâu!"

''Chuyện như thế nào?" — Thầy hỏi.

''Hai người nói những câu đại loại như là Hoàng đệ hỏi cậu ta vì sao lại giả trang? Có biết là nếu để người khác phát hiện sẽ thế nào không? Rồi cậu ta lại hỏi Hoàng đệ rằng đệ ấy đã biết từ lúc nào? Vì sao đã biết mà vẫn bỏ qua?"

Thầy nhíu mày suy nghĩ về những lời Nghi Dân nói, lại nhìn sang nét mặt của Tư Thành để dò xét. Bình Nguyên Vương vẫn tỏ ra thản nhiên, sắc mặt không đổi, không rõ là đang nghĩ gì.

''Tứ Vương gia, những lời đại Vương gia vừa nói có đúng hay không?"

"Thưa thầy!" — Tư Thành mỉm cười hiền hòa — "Điều ấy sao có thể được? Trò luôn khắc ghi trong đầu rằng Kinh Diên là nơi tôn nghiêm, Thánh thượng nhìn xuống, quốc gia nhìn vào, hành vi đưa nữ giới tới nơi này không những phạm thượng mà còn là làm nhục tư cách nho sinh, chẳng phải là sẽ khiến quốc gia hổ thẹn đó sao?"

Vậy là điều gian dối đầu tiên mà Tư Thành làm là che giấu cho Ngọc Huyên, lời gian dối đầu tiên mà người nói cũng là để bảo vệ nàng.

Những lời biện minh của Tư Thành tất nhiên là hợp lý lẽ. Đối với điều cấm kị này, người đã biết luật thì không thể phạm phải, hơn nữa, cái giá phải trả cho lỗi lầm không nhẹ, thân là Vương gia, lại đang trong thời gian thử thách, Bình Nguyên Vương không thể mạo hiểm với vương vị của mình nhu thế được. Nhưng lời của Lạng Sơn Vương cũng không thể coi nhẹ rồi cứ thế cho qua. Nếu không có việc gì, làm sao người có thể nghĩ ra được câu chuyện vô lý như thế được. Thầy giáo băn khoăn không biết ai mới là người nói thật trong khi cách duy nhất để chứng minh thì đã bị Khắc Xương ngăn chặn. Nghĩ đến Tân Bình Vương, thầy càng cảm thấy khó hiểu. Tình huống này thực sự là không bình thường.

Không có cách nào để biết được sự thật, thầy đành để hai trò ra về.

Về phần Khắc Xương, người hoàn toàn không ngờ được rằng hành động của mình đã khiến nghi ngờ này mãi không được hóa giải. Thì ra người được lợi nhiều hơn trong chuyện này vẫn là Nghi Dân khi mà thị đồng của Bình Nguyên Vương hôm ấy chính là Anh Vũ, một nam nhân thực sự chứ không phải là nữ giới giả trang như suy đoán. Còn Tư Thành lại mất đi cơ hội chứng minh sự ngay thẳng của mình trước nghi ngờ của Hoàng huynh và cả thầy giáo.

Anh Vũ đã trải qua một ngày bị dẫn hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đầu tiên là việc cả hai vị Hoàng huynh của Bình Nguyên Vương cứ nhìn mình chằm chằm suốt buổi học, rồi đến chuyện thầy giáo vì một bức thư không rõ viết gì giữa hai người đó mà lập tức cho lớp học nghỉ sớm, chỉ yêu cầu ba vị Vương gia và mình ở lại. Rồi việc bỗng nhiên bị nhị Vương gia cầm tay lôi đi một mạch trước ánh mắt ngỡ ngàng của bao người. Hai người đã chạy liền một mạch cả quãng đường dài mà Vũ vẫn không dám mở mồm ra hỏi.

Tới lúc hơi thở đứt quãng vì quá mệt, Khắc Xương mới buông tay Vũ ra, dừng lại, ngồi phịch xuống đất mà thở hồng hộc. Đen khi cả hai đã định thần lại, Khắc Xương nhìn sang người đang ngồi thở cạnh mình, nói như trách:

"Em có biết là làm chuyện này nguy hiểm như thế nào không?"

"Thứ lỗi cho nô tài ngu dốt không hiểu dụng ý của Điện hạ?" — Vũ thành thật trả lời.

"Tại sao thân là nữ nhi lại dám đến Kinh Diên? Không chỉ nguy hiểm cho bản thân mà còn gây ra rắc rối lớn cho Bình Nguyên Vương! vừa rồi suýt chút nữa thì đã bị lộ!"

Anh Vũ tròn mắt kinh ngạc. Rồi như hiểu ra căn nguyên, nếu không phải cố gắng kiềm chế thì đã bật cười thành tiếng. Nhưng Vũ cũng cảm thấy hú hồn vì ngày hôm nay không phải Ngọc Huyên giả trang thành mình theo Tư Thành tới lớp, đúng là thoát nạn trong gang tấc. Anh Vũ tuy không hiểu vì sao Tân Bình Vương lại có Ỷ bao che cho Tư Thành nhưng trong lòng thấy vô cùng cảm kích, lại nghĩ đây chính là cơ hội tốt để chứng minh rằng nghi ngờ của mọi người dành cho Bình Nguyên Vương là sai lầm, liền cởi dải dây lưng, giật phăng mép áo, dể lộ ngực trần nói:

"Điện hạ nhầm rồi, nô tài chính là nam tử không sai!"

Khắc Xương choáng váng trước hành động dạn dĩ dó của Anh Vũ nhưng khi đã xác định được rằng người đó không thể là nữ nhi như nghi ngờ của Hoàng huynh thì cảm thấy vô cùng ngại ngùng.

Trước tình huống có phần tế nhị này, Anh Vũ không muốn kéo dài thêm sự bối rối của Tân Bình Vương, liền đưa tay ra cho Khắc Xương vịn vào để đứng lên:

''Điện hạ, chúng ta phải quay trở lại thôi, có thể mọi người vẫn đang đợi ở đó!"

Khi nắm lấy bàn tay đang chìa ra trước mặt, trong khoảnh khắc ngước lên nhìn thẳng vào gương mặt Anh Vũ, Khắc Xương chợt nhận ra điểm không giống với trước đây của người này khiến người mãi băn khoăn, chính là ở ánh mắt.

"Liệu có phải có một nữ nhân nào đó có vẻ ngoài giống hệt như ngươi không?" — Tân Bình Vương hỏi Anh Vũ nhưng khẩu khí lại giống như là một lời khẳng định.

..............

Chương 9

THỔ CHƯƠNG: BANG CƠ

"Bên phía các Thân vương gần đây thế nào?" — Nhà vua nâng tách trà lên, hít hà một hai, khoan khoái thưởng thức hương sen thoang thoảng bay lên theo làn hơi nghi ngút, trong lúc đang nhàn nhã thưởng trà chợt nhớ tới các huynh đệ mình, người liền quay sang hỏi.

"Bẩm, các Vương gia vẫn ngày ngày chăm chỉ tới điện Kinh Diên học tập!" — Đào Biểu, Nội quan thân cận Hoàng thượng, cũng là đứa nô tài trẻ nhất trong Hậu cung, chỉ sàn tuổi Bang Cơ, gương mặt trẻ măng, trắng trẻo, nghe thấy bề trên hỏi liền kính cẩn tâu.

"Vậy à? Nghĩ lại thì dạo này hiếm khi thấy Hoàng đệ vào cung, không có chuyện gì đặc biệt chứ?"

"Điều này..." Đào Biểu lưỡng lự, ánh mắt đảo quanh một vòng, ám chỉ là chuyện khó nói trước mặt người khác.

"Các người lui cả ra đi!" Bang Cơ hiểu ý, ra lệnh cho đám cung nữ, thái giám lui khỏi phòng.

Khi bọn họ đã ra ngoài hết, Đào Biểu mới thôi khom lưng, đứng thẳng người dậy, làm vài động tác vươn vai khoan khoái. Trước mặt người khác nó là tên nô tài của Hoàng thượng nhưng vì sàn sàn tuổi nhau, lại sớm hầu hạ bên cạnh người nên Bang Cơ coi Biểu như bạn, cho phép nó đi đứng, nói năng thoải mái khi chỉ có hai người với nhau.

"Mau nói ta nghe!" — Nhà vua tỏ vẻ sốt ruột.

"Bẩm, nghe nói là vì ngôi Trữ cung chưa định! Các đại thần vừa dâng tấu xin Hoàng thái hậu sớm chọn người kế vị. Có khả năng ngồi vào vị trí đó chỉ có thể là các huynh đệ của người mà thôi!" — Đào Biểu tỏ vẻ am tường.

"Là vậy sao?" — Bang Cơ xoa cằm ra chiều suy nghĩ — ''Vì thế mà không muốn vào cung, sợ bị hiểu nhầm là lợi dụng sự ủng hộ của ta và Hoàng mẫu để đạt được vương vị... Đúng là tính cách của Hoàng đệ!"

''Hiện giờ đang là thời điểm nhạy cảm, tuy ai cũng biết trong các Thân vương, Thái hậu bệ hạ luôn thiên vị tứ Vương gia hơn cả, nếu phải chọn một người vào ngôi Trữ cung, chắc chắn người sẽ không ủng hộ ai khác ngoài ngài ấy nhưng chính sự là những việc cần thể hiện ra ngoài cho người khác thấy sự khách quan. Nếu cứ vô tư ra vào Hậu cung như trước đây, sau này dù kết quả thế nào cũng không tránh khỏi những lời dị nghị khiến ngài ấy khó giữ được sự tôn kính trong mắt các đại thần trong triều."

"Đào Biểu!" — Hoàng thượng hắng giọng — "Ngươi không nói thì cũng không ai bảo ngươi câm! Những điều như thế chả nhẽ ta lại không hiểu sao?"

Viên Nội quan nhận ra sự thiếu tinh tế của mình, vội cười cầu hòa. Hoàng thượng vốn vô cùng không thích bị coi là người kém hiểu chuyện, cho rằng kẻ nào lên giọng giảng giải cho người nghe những điều người đã biết, hoặc lẽ ra phải biết thì chính là đang có suy nghĩ coi thường người. Đào Biểu vừa chớm phạm phải lỗi lầm đó liền bị người chặn họng nhắc nhở.

"Nào, lại gần đây nghe trẫm nói!" — Bang Cơ khoát tay ra hiệu cho tên thái giám lại gần để người nói thầm vào tai.

Tháng bảy năm Thuận Thiên nguyên niên [1], vua Lý Thái Tổ khởi sự dời đô, chuyển kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên là Thăng Long. Lý Thái Tổ cùng quần thần đã gấp rút xây dựng những công trình cơ bản của Kinh thành Thăng Long, đến đầu năm Thuận Thiên thứ hai [2] thì hoàn thành và theo mô hình Tam trùng thành quách, tức là ba vòng thành. Vòng ngoài cùng gọi là La thành hay Kinh thành, vòng thành thứ hai là Hoàng thành, giữa hai lớp thành này ỉà nơi sinh sống của cư dân, lớp thành còn lại là Tử cấm thành, Cấm thành, Long Phượng thành hay Cung thành là nơi ở của Hoàng đế. Các thời sau đều theo cách ấý mà phân chia. Từ bấy đến nay đã trải qua hơn bốn trăm năm thăng trầm với bốn triều đại và hàng chục lần ngai vàng thay chủ.

[1] Năm Thuận Thiên nguyên niên: Nãm 1010 dương lịch.

[2] Năm Thuận Thiên thứ hai: Năm 1011 dương lịch.

"Ngươi biết không Đào Biểu?" — Bang Cơ phe phẩy quạt, vừa thong dong thả bước trên con đường buổi sớm còn thưa thớt người qua lại, vừa vui thích ngắm nhìn nhà cửa hai bên, nói với viên Nội quan "Kinh thành Thăng Long sau thời Lý -Trần, đến thời Hồ đã đổi tên thành Đông Đô để phân biệt với thành nhà Hồ ở Thanh Hoa là Tây Đô. Năm ấy [3], khi quân nhà Minh sang xâm lược Đại Ngu [4], đánh bại cha con Hồ Quý Ly, đã đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Khi Thái Tổ Cao Hoàng đế dấy binh dẹp quân Ngô, giành được thắng lợi đã tiếp tục chọn nơi đây là Kinh đô, đổi từ Đông Quan thành Đông Kinh, hàm Ý đó là kinh đô của một nhà nước độc lập chứ không phải là phủ quan như ý muốn của nhà Minh. Sau khi đức Thái Tổ lên ngôi, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt, nơi đây mới một lần nữa trở thành kinh đô của Đại Việt ta".

[3] Tức năm 1408 dương lịch.

[4] Đại Ngu: Quốc hiệu nước ta dưới thời nhà Hồf được đặt vào năm 1400, chữ Ngu ở đây mang nghĩa là sự yên vui, hòa bình.

''Vâng, thưa Hoàng thượng!" — Đào Biểu tỏ ra hứng thú.

"Suỵt!" Nhà vua vội ra hiệu "Đã ra đến đây thì đừng gọi ta là "Hoàng thượng", hãy gọi là "công tử" đi!"

"Vâng, thưa Hoàng... à, thưa công tử!"

Chẳng mấy chốc hai người đã đến trước phủ Bình Nguyên. Cũng như các phủ đệ khác, Bình Nguyên phủ nằm giữa lớp Hoàng thành và Cưng thành. Nếu còn là Hoàng tử, Tư Thành cùng Nghi Dân, Khắc Xương sẽ sống trong Cưng thành. Nhưng một khi Hoàng đế băng hà, Thái tử đăng quang, các Hoàng tử trở thành Thân vương thì phải chuyển ra phủ đệ riêng bên ngoài Cung thành.. Đến khi đủ trưởng thành, các Thân vương lại một lần nữa phải rời khỏi Kinh thành, đi đến các châu, trấn [5] xa xôi, trên danh nghĩa là người đứng đầu một trấn nhưng điều hành các công việc hành chính, quân sự tại đó đã có các quan Chuyển vận sứ, Tuần sát sứ [6] đảm trách. Vì thế, việc điều chuyển ấy thực chất là chặt đi đôi cánh quyền lực để không cách, nào tơ tưởng tới ngai vàng.

[5] Đơn vị hành chính của nước ta thời xưa, tương đương với tỉnh, huyện bây giờ.

[6] Các chức quan đứng đầu một huyện từ thời Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông.

Dù nhìn từ ngoài hay khi đã bước vào trong, Bình Nguyên phủ đều toát lên vẻ thanh nhã hơn là phú quý. Ngô Thái phi và Bình Nguyên Vương trong những năm tháng lưu lạc đã có một thời gian dài nương nhờ cửa Phạt, sống đời chay tịnh, gần gũi đạo môn. Kể cả khi đã được Thái hậu và Hoàng thượng khôi phục danh phận, ban cho được hưởng vinh hoa phú quý giống như các Hoàng thân quốc thích khác thì nếp sống của người vẫn luôn giản dị, thanh đạm, không có gì đổi khác. Vì thế mà Bình Nguyên phủ tuy là tư phủ của một Vương gia nhưng lại toát lên vẻ thanh tịnh như chốn chân tu.

Buổi sớm tháng tám [7] đã là giữa mùa thu, tiết trời hơi se lạnh, sương giăng nhè nhẹ trên những ngọn cây, cành lá, cảnh vật lúc ẩn lúc hiện như sương khói càng làm quang cảnh nơi đây thêm phần thanh khiết, huyền ảo, khiến Bang Cơ bỗng có cảm giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.

[7] Tính theo lịch âm, tức khoảng tháng 10 hoặc 11 dương lịch.

"Đây là giống cày gì? Sao lại vừa mong manh, vừa cổ kính?" Trông thấy những cành cày mảnh khảnh, khẳng khiu như đã chết khô từ lâu nhưng lại có thể trổ ra vô số lộc lá xanh biêng biếc, lấm tấm điểm thêm sắc hoa trắng mong manh, thanh khiết, Bang Cơ cảm thấy làm lạ liền hỏi Đào Biểu.

"Thứ lỗi cho nô tài ngu muội, quả thực nô tài cũng không rõ đây là giống cây gì!" — Biểu tỏ vẻ băn khoăn.

Khi ấy bỗng có tiếng nữ nhân cất lên, chất giọng thanh trong như ngọc:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chị mai

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai

(Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch)

Giữa khung cảnh huyền ảo của khu vườn hoa trắng, một người con gái xiêm y trắng muốt như bước ra từ làn sương khói, khiến Bang Cơ sửng sốt, tưởng mình đang đối diện với tiên nữ. Đào Biểu sau giây phút ngỡ ngàng, bỗng như sực tỉnh, vội tiến lên đứng chắn trước nhà vua, lăm lăm cây kiếm trong tay sẵn sàng hộ giá, lớn tiếng hỏi người vừa mới đến:

"Ai đứng ở đó? Mau xưng danh tính?"

Nữ nhân kia nghe thấy mới tiến lại gần hơn để hai người trông cho rõ mình. Nhưng vừa nhìn thấy nàng, Bang Cơ càng thêm kinh ngạc trước vẻ xinh đẹp của người con gái. Dung mạo, dáng dấp nàng đều toát lên vẻ thanh tú, mong manh như hạt sương trong nắng sớm, vô cùng lấp lánh.

''Tiểu nữ là gia nhân trong phủ, thấy quan khách có ý tò mò về loài hoa quý mới bạo miệng trả lời, nếu chẳng may thất lễ, xin công tử rộng lòng tha thứ!" — Người con gái khẽ cúi đầu trước nhà vua và Đào Biểu, tỏ ra khuôn phép, mực thước như khuê nữ nhà quyền quý được nuôi dạy cẩn thận chứ không giống như lời nàng nói rằng chỉ là một gia nhân trong Bình Nguyên phủ.

''Hai câu thơ nàng vừa đọc có phải trích từ cáo tật thị chúng [8] của Mãn Giác Thiền sư [9] , vị cao tăng đời nhà Lý?" — Bang Cơ ướm hỏi.

[8] Cáo tật thị chúng: Có bệnh bảo mọi người.

[9] Mãn Giác thiền sư (1052 – 1096) là vị cao tăng thời Lý. Tên thật của ông là Lý Thường. Mãn Giác đại sư là pháp danh do vua Lý Nhân Tông tặng khi ông viên tịch. Đương thời ông thường được gọi là Sùng Tín trưởng lão.

''Thưa công tử, quả không sai! Chính là hai câu cuối trong bài thơ Cáo tật thị chúng của Sùng Tín Trưởng lão!"

"Đình tiền tạc dạ nhất chi mai", phải chăng đây chính là ''nhất chi mai" trong truyền thuyết? Cây mai trong "tứ quý": tùng - cúc - trúc - mai, cũng là nó?"

"Thưa công tử, quả vậy!" — Nàng mỉm cười.

"Thật hố thẹn cho ta, tuy vẫn thường nghe nhắc đến trong rất nhiều sách vở nhưng tới giờ mới được "Mục kích sở thị" [10] Bang Cơ nâng một nhánh cây, thích thú ngắm nhìn.

[10] Mục kính sở thị: Tận mắt trông thấy.

"Mai trắng tuy mảnh dẻ nhưng cứng cáp, hoa nhỏ nhưng đẹp thuần khiết, mùi thơm nhẹ nhàng, kín đáo. Người xưa lấy cái khí phách của mai ví như người quân tử. Các nhà nho gặp thời loạn lạc thường ví mình như cành mai nở trong gió đông để giữ mình thanh sạch. Người cao tuổi chuộng cái già nua của lão mai, mong muốn tuổi già khỏe mạnh, trường thọ. Vóc dáng của mai còn được ví như người con gái quyền quý, khuê các." Nàng thấy quan khách tỏ ra yêu quý loài cây này liền nhẹ nhàng giải thích thêm.

Nghe thế, Bang Cơ cao hứng đọc lên bốn câu vịnh:

Xuân thiên mai nhụy phô thanh bạch

Hạ nhật hồng hoa đấu hảo kỳ

Cúc ngạo thu tình hương vạn hộc

Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi

Trời xuân mai trắng khoe thanh bạch

Rực thắm hồng hoa giục hạ sang

Ngạo nghễ tình thu hương ngan ngát

Đông về ngàn tuyết bọc ôm cành

(Yên Ba dịch.)

Người và cảnh, hoa và thơ như hòa làm một, không còn phân biệt được ranh giới giữa thực và ảo, nơi đây là cõi trần gian hay chốn tiên cảnh, nàng là cô gái phàm trần hay tiên nữ thiên đình. Khi Bang Cơ còn đang say trong thi vị thì bỗng đâu có tiếng gọi từ xa vọng lại:

"Ngọc Huyên! Con đang ở đâu?"

Người con gái nghe thấy tiếng ai gọi mình liền thưa: "Dạ, thưa mẹ, con trở lại ngay!" Nàng cúi đầu xin phép: "Tiểu nữ xin cáo lui!" rồi nhanh chóng lùi bước, chẳng mấy chốc lại biến mất vào làn sương sớm, bí ẩn và ảo diệu giống như cái cách nàng xuất hiện khiến nhà vua không khỏi ngẩn ngơ.

"Ngọc Huyên là tên nàng sao? Thanh trong như ngọc và ấm áp như ánh nắng, thật là một cái tên đầy ý vị!"

Ngày hôm ấy, Bang Cơ không gặp được Tư Thành. Bình Nguyên Vương đã cùng mẫu thân tới chùa Dục Khánh đi lễ mồng một rồi ở lại một đêm vẫn chưa trở về. Lại thêm Đào Biểu liên tục thúc giục người trở về tẩm cung nên Bang Cơ không có cách nào nán lại lâu hơn được.

Trong số bốn anh em trai, Hoàng thượng luôn gần gũi và tỏ ra đặc biệt yêu mến Bình Nguyên Vương bởi Tư Thành tính tình phóng khoáng, cởi mở, tâm tư trong sáng, lại thêm tư chất thông minh, văn chương võ nghệ đều hơn người khiến Bang Cơ không khỏi thán phục, thường cùng Hoàng đệ luận bàn sách vở, tập tành cung kiếm. Bang Cơ từ lâu đã hiểu rõ Tư Thành là một nhân tài hiếm có, người luôn mong muốn có Hoàng đệ giúp sức trong việc triều chính.

Tuy là vua một nước nhưng Bang Cơ trước nay chưa từng tự mình đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào liên quan tới việc triều chính, thực quyền vẫn ở trong tay Hoàng mẫu và những vị quan tai to mặt lớn, giọng nói sang sảng hùng hồn như sấm sét mỗi khi có việc tấu trình. Nhưng Bang Cơ cũng chẳng lấy đó làm điều phiền não, người vốn yêu thích thơ phú, nghiên cứu học thuật hơn là làm chính trị, về điểm này, người cảm thấy mình có chút đồng cảm với Hoàng huynh Khắc Xương, có khác chăng chỉ là Bang Cơ đã được chọn để gánh vác trọng trách quốc gia.

Hoàng thượng vốn biết cái ngày người sẽ thực sự làm chủ ngai vàng, tự mình đưa ra những quyết định trọng đại, liên quan đến vận mệnh đất nước và hàng vạn con dân sẽ chẳng còn bao xa. Chính vì vậy mà người nửa thì muốn thả lỏng bản thân để tận hưởng nốt những tháng ngày nhàn tản không ưu tư phiền não, nửa lại muốn dốc sức học hành, nghiền ngẫm chính sự, dành chút thời gian còn lại dùi mài kinh sử, ngẫm kế tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Bang Cơ không nuôi tham vọng trở thành một Hoàng đế vĩ đại, mang quân đi chinh phạt mở mang bờ cõi nhưng người mong muốn chí ít mình có thể làm một vị vua sáng suốt, biết phân biệt phải trái, gần gũi trung thần, xa lánh nịnh thần.

Để làm được điều ấy, Hoàng thượng nhất thiết phải giữ được bên mình những người tài đức vẹn toàn như Hoàng đệ Tư Thành. Nhưng Tư Thành nếu chỉ là một Vương gia bình thường, sẽ phải sống xa Kinh thành, càng không được phép bước chân vào chốn quan trường, tham gia chính trị, đó là thông lệ muôn đời nay, kể cả Hoàng thất bên Minh quốc [11] cũng phải nghiêm chỉnh tuân theo. Điều này khiến Bang Cơ không khỏi vì luyến tiếc mà luôn cảm thấy trăn trở.

[11] Minh quốc: Chỉ nước Trung Quốc đời nhà Minh.

"Hoàng thượng, người đang nghĩ gì mà đăm chiêu vậy?"

Một giọng nói cất lên, kéo Bang Cơ trở lại thực tại. Người ngẩng lên, đứng trước mặt là Đà Quốc Trưởng công chúa [12], Diên Trường.

[12] Trưởng công chúa: Con gái của vua gọi là Hoàng nữ, khi được sắc phong thì trở thành Công chúa và có tên hiệu riêng, công chúa về sau có anh hay em Làm vua thì được gọi là Trưởng công chúa (để phân biệt với công chúa con vua đang trị vì). Ở dây, Hoàng nữ Diên Trường (con gái vua Lê Thái Tông) được sắc phong là Đà Quốc Công chúa, khi Thái Tông băng, Bang Cơ là em trai lên làm vua (vua Lê Nhân Tông), được gọi là Đà Quốc Trưởng công chúa.

"Hoàng tỷ! Chị mới đến ư?" — Bang Cơ mỉm cười, đặt quân cờ đang mân mê trong tay xuống.

"Người đang chơi cờ sao?" — Công chúa hỏi, nhìn xuống bàn cờ đang đánh dở.

"Chỉ là rảnh rỗi nên tự mình nghiền ngẫm vài ván cờ thôi!" — Hoàng thượng đáp.

Diên Trường nhìn chăm chú một hồi rồi với lấy một quân đen trong lọ đặt lên mặt bàn cờ, lập tức, thế cờ thay đổi, quân đen đang lép vế bỗng trở nên chiếm ưu thế.

"Nước cờ hay tuyệt!" — Bang Cơ bật lên xuýt xoa.

"Trong tứ tuyệt là cầm, kỳ, thi, họa, những món khác có thể không nói nhưng cờ chẳng phải nên chơi cùng người khác hay sao? Từ nay về sau, mỗi khi cần người cùng đánh cờ, hi vọng Hoàng thượng nhớ đến thần thiếp. Tuy chẳng phải là hạng cao thủ gì nhưng cũng tự tin vì đã nắm được luật lệ cơ bản, có thể hầu cờ người được".

"Hoàng tỷ quá khiêm tốn rồi! Chỉ đi một bước đã bộc lộ ra tài năng hơn người, thật là một nước cờ xuất chúng khiến trẫm không khỏi cảm thấy hổ thẹn!"

''Đội ơn Hoàng thượng ban khen ! Nhưng cũng dám xin người thứ tội!" — Diên Trường lém lỉnh nói lời cảm ơn và xin lỗi cùng lúc khiến Bang Cơ bật cười ha hả, liền khoát tay ra hiệu:

"Nào, Hoàng tỷ cũng ngồi xuống đây, cùng trẫm chơi nốt ván cờ, ít ra cũng phải cho trẫm cơ hội được gỡ gạc lại chút thanh danh chứ!"

Công chúa mỉm cười dịu dàng, đoạn ngồi xuống bên cạnh, nhập vai đối thủ mà tiếp tục ván cờ.

Đà Quốc Trưởng công chúa là Hoàng tỷ của Bang Cơ và Tư Thành, năm nay vừa tròn mười bốn tuổi, người chính là con đẻ của Ngô Thái phi. Khi mẫu thân vì phạm trọng tội mà bị đuổi ra khỏi cung đương lúc mang Long thai, Diên Trường lúc đó mới chưa đầy hai tuổi, bơ vơ, côi cút, vô cùng đáng thương. Sau đó, Ngô Thị Ngọc Dao khi trở về lánh nạn ở nhà ngoại, rồi một lần nữa được đem giấu đến chùa Dục Khánh, suốt bốn năm ròng rã, không một ngày nào người không khắc khoải ngóng tin con gái. Biết Công chúa được chính Thần phi Nguyễn Thị Anh, sau đó trở thành Nhiếp chính Hoàng thái hậu, đưa về tẩm cung của mình nuôi dạy, Ngọc Dao vừa kinh ngạc, lại vừa vô cùng cảm kích, đã nguyện trong lòng cả đời này sẽ ăn chay niệm Phật, sống cuộc đời ẩn dật, che giấu thân phận của mình và nhi tử, không để Thái hậu cảm thấy bất kỳ mối đe dọa nào từ sự tồn tại của họ, chỉ cốt mong sao người mãi mãi đối tốt với Diên Trường.

Chính vì lẽ đó, Diên Trường tuy là nữ tử [13] của Ngô Thái phi, chị ruột của Tư Thành nhưng lại lớn lên cùng Bang Cơ trong sự nuôi dạy của Thái hậu. Cũng bởi cơ duyên kỳ lạ đó mà mối quan hệ giữa ba người Bang Cơ — Diên Trường — Tư Thành gần gũi đến độ khó có thể dùng vài ba câu mà cắt nghĩa hết được.

[13]Nữ tử: Con gái.

"Sớm nay thấy người lặng lẽ rời khỏi tẩm cung, chẳng hay lại bắt Đào Biểu dẫn tới nơi nào?" — Diên Trường vừa chai cờ, vừa ướm hỏi.

"Hoàng tỷ trông thấy sao?" Bang Cơ tỏ ra kinh ngạc "Cứ ngỡ là lúc đó trời chưa sáng rõ, sẽ không ai nhận ra trẫm!"

''Thần thiếp chỉ là gặp hôm thức dậy quá sớm nên thong thả tản bộ rồi vô tình trông thấy! Hoàng thượng đừng lo, sẽ không có chuyện thần thiếp thưa lại với Hoàng mẫu!"

"À! Trẫm không lo việc ấy! Trẫm rất tin tưởng Hoàng tỷ, chẳng qua là có chút ngạc nhiên khi bị phát hiện!"

"Có thể nói cho thần thiếp hay người đã đi đâu vào lúc sớm như vậy không?"

"Trẫm tới tìm Hoàng đệ!"

"Tứ Vương gia ư?"

''Phải! Lâu rồi không thấy Hoàng đệ nhập cung, trẫm đoán là vì việc các đại thần dâng sớ xin lập một người trong số các Thân vương vào ngôi vị Trữ cung!"

"Có cả chuyện ấy sao?" — Công chúa sửng sốt quên cả việc đã đến lượt mình đi nước cờ tiếp theo.

"Theo trẫm đó là việc tốt! Nếu Hoàng đệ được chọn thì còn gì đáng mừng hơn? Người tài như Tư Thành không thể để bị mai một bởi việc cả đời chỉ được yên phận làm một Thân vương bình thường. Một khi chính thức chấp chính, trẫm muốn có Bình Nguyên Vương ở bên giúp sức!"

''Vậy người có gặp được Hoàng đệ không?"

"Đáng tiếc là không!" Bang Cơ thở dài nhưng bỗng nét mặt người trở nên rạng rỡ như nhớ ra điều vui mừng "Tuy nhiên trẫm lại gặp được một người khác! Thật sự là thần kỳ!"

"Ai vậy?" — Diên Trường tò mò.

"Một tiên nữ!"

"Tiên nữ?"

''Phải! Một tiên nữ giáng trần, vô cùng xinh đẹp, thoát tục! Xuất hiện và biến mất như một làn khói, khiến trẫm vẫn ngỡ như mình đang chìm trong ảo mộng!"

Quân cờ trong tay Diên Trường rơi xuống nền nhà. Bang Cơ ngẩng lên, sửng sốt nhận ra vẻ thất thần của Hoàng tỷ với hàng lệ lăn dài trên má. Công chúa bối rối quay mặt đi chỗ khác lảng tránh ánh mắt người, vừa vội vàng lau khô nước mắt, vừa gượng cười giải thích:

"Hoàng thượng đừng để tâm, là hạt bụi vô ý bay vào đó thôi!

Chương 10

PHẦN III

CHƯƠNG 1: TRỌNG

Bỗng nhiên Tư Thành trở thành nhân vật được tìm kiếm nhiều nhất ở Kinh thành.

Các vị đại thần phe ủng hộ tất nhiên muốn tìm đến người để bàn việc đại sự, họ cần biết chắc rằng Bình Nguyên Vương có được sự chuẩn bị tốt nhất cho việc lớn lần này. Cuộc đua tranh để ngồi vào được ngôi vị Trữ cung sắp tới thậm chí sẽ còn quyết liệt hơn rất nhiều so với việc chọn lựa Thái tử thường thấy trong Hậu cung. Một ván bài lớn mà các quan đại thần đều phải tham gia đặt cửa là chọn được cho mình một vị chủ nhân thích hợp. Đây không chỉ là việc liên quan đến vận mệnh quốc gia mà còn là sự kiện có thể quyết định tiền đồ của bọn họ sau này. Trong chốn quan trường, đi sai một nước cờ chẳng khác nào như đem tính mạng của mình ra đùa bỡn.

Những người ở các phe phái còn lại cũng không phải không có việc gì cần tìm đến Bình Nguyên Vương. Bọn họ tất nhiên muốn thăm dò đối thủ như vẫn thường có câu: "Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng".

Không có chung mục đích thâm sâu như các vị kể trên nhưng Nghi Dân, Khắc Xương, Bang Cơ và cả Diên Trường lại cũng cùng muốn tìm gặp bằng được Tư Thành, không gì khác là bởi vì họ cần xác minh một điều: Ngọc Huyên là ai?

Thị đồng của tứ Vương gia là ai?

Cô gái mà Tư Thành che giấu thân phận là ai?

Tiên nữ trong vườn mai Bình Nguyên phủ là ai?

Nữ nhân mà Thánh thượng đã gặp khi đến tìm Hoàng đệ là ai?

Và người đầu tiên nhận được câu trả lời hóa ra chính là Đà Quốc Trưởng công chúa nhưng đáp án không đến từ Tư Thành mà lại từ mẫu thân nàng, Ngô Thái phi, khi người nhập cung vấn an Thái hậu, và cũng là để thăm con gái.

"Có phải có một cô nương nào đó đang lưu lại phủ đệ nhà ta?" — Diên Trường vồn vã nắm lấy tay Thái phi dò hỏi khi chỉ còn hai người ngồi lại với nhau. Công chúa vì đang quá hiếu kỳ về một chuyện khác mà quên khuấy cả việc vấn an sức khỏe mẫu thân.

"Cô nương?" — Thái phi dặt tách trà xuống bàn, hỏi lại.

''Vâng! Một nữ nhân khá xinh đẹp, trạc tuổi Hoàng đệ!" — Công chúa cố gắng nhớ lại những gì nghe dược từ Bang Cơ.

Lần này Thái phi không phải suy nghĩ quá lâu để biết được đích xác người mà Diên Trường đang nhắc đến là ai. Trong Bình Nguyên phủ, đám con cái của các gia thần dù không ít nhưng người vẫn luôn quan tâm đến từng đứa trẻ, yêu thương chúng chẳng khác nào con cái mình. Không chỉ tên, tuổi, ngoại hình mà đến cả tính cách từng đứa, người chẳng bao giờ nhầm lẫn. Cô gái trạc tuổi Tư Thành, có dung mạo xinh đẹp khiến người khác chỉ cần gặp một lần là nhớ mãi có thể là ai khác ngoài Ngọc Huyên? Nhưng thân thế đặc biệt của nàng khiến Thái phi ngần ngại nhắc đến, ngay cả với Diên Trường. Người dè dặt hỏi lại:

''Sao Công chúa lại thắc mắc về một người chưa từng gặp mặt?"

Diên Trường tỏ ra bối rối trước câu hỏi của mẫu thân. Người không thể giấu được chuyện mình hoàn toàn chưa bao giờ trông thấy người ấy bởi cũng như các Công chúa khác, người sẽ luôn sống trong Hậu cung cho đến khi xuất giá, việc ra ngoài tự do đi lại, gặp gỡ người khác là điều không thể đối với một khuê nữ trong Hoàng thất. Nhưng Diên Trường cũng không thể nói rằng chính Hoàng thượng mới là người đã gặp nàng ta, nếu để việc này đến tai Thái hậu, không hiểu người sẽ giận dữ đến mức nào nữa khi biết được Bang Cơ đã lén xuất cung mà không mang theo đội hộ giá.

"Là bởi... Là bởi trước đây con từng được nghe Hoàng đệ nhắc đến người này nên hiếu kỳ muốn biết!" Công chúa ấp úng, khó khăn lắm nàng mới tìm được lý do có phần hợp lý.

"Đó là con gái của một gia thần trong phủ!"

"Ra chỉ là một tì nữ thấp kém!" Diên Trường thầm nghĩ.

"Nàng ấy tên gì? Bao nhiêu tuổi ạ?" Nàng tò mò hỏi thêm.

"Ngọc Huyên năm nay mười một tuổi, là đứa trẻ được sinh ra ở nhà ta. Đối với Hoàng đệ con mà nói như tiểu muội, đối với ta lại như cốt nhục! vốn ta từng nghĩ nếu Công chúa cũng cùng lớn lên trong vòng tay ta, chắc chắn người và Ngọc Huyên sẽ thân thiết như tỷ muội!"

"Không đâu, con tuyệt đối không thể cảm thấy thân thiết với nữ nhân mà Hoàng thượng ưu ái!" Công chúa nuốt những suy nghĩ ấy vào trong lòng, mỉm cười một cách miễn cưỡng để che đậy tâm sự của mình.

"Đố kị" là cảm giác hoàn toàn mới mẻ, lần đầu xuất hiện trong lòng Công chúa kể từ lúc sinh ra đến giờ. Một người xinh đẹp và cao quý như nàng, lại luôn được Thái hậu hết mực nuông chiều, bao bọc, chưa bao giờ cảm thấy thua kém bất kỳ ai cho đến khi nhận ra không giống như mình luôn chỉ duy nhất nhìn thấy Hoàng thượng, Bang Cơ đã hướng ánh mắt về một người con gái khác.

"Nàng ta mười một tuổi! Ta thậm chí đã hiểu rõ trái tìm mình khi còn nhỏ hơn cái tuổi bây giờ của nàng ta. Nàng ta chỉ là một nữ nhân có thân phận thấp kém nhưng so với ta, thậm chí còn may mắn hơn khi không có mối ràng buộc huyết thống với Hoàng thượng. Để nói chuyên kết tóc se duyên, so với xuất thân và địa vị, chẳng phải đó lại là điều quan trọng hơn sao?"

Dù Công chứa có đối với Hoàng thượng như thế nào đi chăng nửa, trong lòng người, nàng chỉ là một người chị thân thiết cùng lớn lên bên nhau. Nàng tuyệt vọng nghĩ rằng đây mới chỉ là khởi đầu của bất hạnh bởi vì rồi đây Hậu cung này sẽ sớm đón nhận những nữ nhân xinh đẹp như hoa như nguyệt. Ngọc Huyên kia có thể chỉ là một cơn gió mơ hồ thoảng qua trong đời Hoàng thượng nhưng cũng đủ khiến Diên Trường đau khổ. Vậy làm thế nào để nàng có thể bình tâm trước tất cả những diều sẽ xảy đến sau này? Liệu nàng có đủ rộng lượng để không căm ghét tất cả bọn họ, những kẻ sẽ được tiến cung để trở thành phi tần của Hoàng đế?

Nhưng Diên Trường hoàn toàn không biết rằng "Cơn gió mơ hồ" kia lại chính là người duy nhất khiến Công chúa phải suốt đời đố kị.

Hoàng thượng dù nôn nóng cũng không có cách nào biết được điều mình thắc mắc, trong lòng cảm thấy khó chịu vô cùng.

Bang Cơ không thể liều lĩnh một lần nữa lẻn ra khỏi Hoàng cung để đến gặp Tư Thành bởi sự việc lần trước đã bị Công chúa phát giác, tuy người chắc chắn sẽ không thưa lại với Hoàng mẫu nhưng nếu lỡ như lại vì hành động khinh suất mà để người khác trông thấy, rồi đến tai Thái hậu thì chẳng phải cũng khiến Công chúa bị trách phạt vì đã biết chuyện mà cố tình không bẩm báo hay sao? Hơn nữa dù người có muốn bất chấp tất cả thì cũng còn đó Đào Biểu, chắc chắn lần này Đào Nội quan sẽ không vì mệnh lệnh chủ nhân mà nhắm mắt liều lĩnh hùa theo, lần trước để lôi kéo được Biểu, Bang Cơ đã thuận miệng hứa rằng đó là lần đầu tiên và cuối cùng người ra khỏi Cung thành mà không mang theo đội hộ giá, quân tử "Nhất ngôn cửu đỉnh, tứ mã nan truy" huống hồ người lại đường đường là Thiên tử Đại Việt.

Tư Thành giờ đây lại không phải là người muốn gặp là có thể gặp ngay được. Nếu như trước kia, cứ không quá ba ngày, Bình Nguyên Vương lại vào vấn an Hoàng thượng và Thái hậu thì suốt cả tháng nay không còn thấy bóng dáng Hoàng đệ trong cung nữa. Nếu giờ tùy tiện cho vời người tới gặp thì dù có là Hoàng đế cũng sẽ bị Thái hậu trách mắng, đây chính là diều mà Bang Cơ không muốn đối mặt nhất.

Hoàng thượng không hề biết rằng câu trả lời mà mình mong mỏi có thể tìm thấy ngay ở người gần gũi mình nhất, chính là Diên Trường. Bang Ca cũng đâu hay biết Hoàng tỷ để tâm dến người con gái kia chẳng kém gì mình, cái hôm mà hai người cùng nhau chơi cờ, Diên Trường đã sơ Ý suýt làm lộ ra tâm tư của mình đối với Hoàng thượng nhưng người xưa nay vốn chẳng mảy may nghĩ ngợi về điều này nên Công chúa mới có thể dễ dàng che giấu được bằng lời giải thích qua loa, quả nhiên Bang Cơ tin ngay vào lời nói dối vụng về đó.

Rốt cuộc để biết được nàng là ai, Bang Cơ buộc phải chờ đợi.

Thời gian mà mọi thứ sẽ được hé lộ cũng chẳng còn bao lâu nữa khi mà kỳ sát hạch đặc biệt dành cho các Thân vương đã được ấn định là một tuần sau, đến lúc đó, ngôi vị Trữ cưng cũng sẽ tìm được chủ nhân của mình. Bỗng dưng nhà vua cảm thấy vô cùng tò mò về đề bài mà Thái hậu và các quan Thái học viện dã chọn để đưa ra cho các Thân vương lần này.

Tuy trên danh nghĩa đây chỉ là một kỳ sát hạch thông thường dành cho các Thân vương nhưng tất cả mọi người đều có thể đoán ra được lý do đột nhiên triều đình và Hoàng thất lại tổ chức kỳ thi này, ắt hẳn muốn thông qua đó để định ra chủ nhân của ngôi vị Trữ cung. Bang Cơ rất trông đợi vào việc Tư Thành sẽ thuận lợi vượt qua được thử thách ấy.

Nghi Dân tuy tức giận vì bị Hoàng đệ làm cho hỏng việc nhưng nghĩ lại hành động bất thường không giống với một Khắc Xương hiền lành, nhu nhược thường thấy càng khiến Lạng Sơn Vương thêm khó hiểu. Chắc chắn chuyện này không hề đơn giản chỉ là sự hiểu lầm, và như thế, mối nghi ngờ của Nghi Dân về thân phận của thị đồng kia càng có cơ sở, vậy nên người quyết phải tìm ra sự thật, nếu những gì người nghĩ là đúng thì đây có lẽ chính là quân cờ quan trọng để lật ngược thế cục, giành về phần thắng cho chính mình dù cho kết quả của cuộc thi kia có ra sao.

Trong lúc tất cả mọi người đều đang chờ đợi thời cơ, hoặc im lặng quan sát đối phương thì có một người đã hành động trước.

Tân Bình Vương Lê Khắc Xương, con người xưa nay vốn chẳng có hứng thú với bất kỳ điều gì khác ngoài sách vở, thơ phú, cũng không thường giao du, qua lại với ai, bỗng nhiên tìm ra cho mình một nguồn vui thích mới, ấy là tới vãn cánh chùa mỗi ngày rằm, mồng một hằng tháng.

Chùa Dục Khánh, nằm trên khu đất của thôn Huy Văn thuộc tổng Hoàn Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, "Dục Khánh "tức là"chung đúc sự tốt lành". Đây chính là nơi suốt một thời gian dài, vị phi tần họ Ngô đã che giấu thân phận, chỉ mong mình và Tư Thành có thể sống một cuộc đời yên lành, chay tịnh, tránh xa khỏi những quyền mưu và thị phi. Từ khi người được phục vị, còn Tư Thành được phong làm Bình Nguyên Vương, Thánh thượng đã ban cho Hoàng đệ tư phủ rộng lớn, bổng lộc vua ban dùng đến đời con cháu cũng không hết nhưng người vẫn giữ nguyên nền nếp ăn chay niệm Phật, vừa để thành tâm cầu chúc cho Thái hậu và Hoàng thượng "Vạn thọ vô cương" [1], vừa cầu xin sự bình an cho đám trẻ.

[1] Vạn thọ vô cương: sống lâu trăm tuổi.

Ngày thường, Ngô Thái phi tụng kinh tại phủ, chỉ đến mồng một và ngày rằm mới mang hương hoa lễ lạt lên chùa, nhân tiện vấn an vị sư trụ trì, người đã có ơn cưu mang năm nào. Tất nhiên, Ngọc Huyên luôn vui thích được đi cùng người thăm lại nơi ba anh em từng sống những ngày hồn nhiên thơ bé.

Có lẽ là ý trời để cho Khắc Xương tình cờ gặp được Ngọc Huyên tại chốn ấy.

Không còn nghi ngờ gì nữa, người con gái trong xiêm y sắc hồng tươi mới đứng ngay bên cạnh đây chính là cô gái mà người thầm mong nhớ, lại vốn tưởng không có cách nào gặp lại được.

Buổi chiều hôm người nhầm tưởng Anh Vũ là nàng, lo thân phận nàng bị bại lộ mới vội vàng cầm tay kéo đi, băng qua cả quãng đường dài, quên cả việc dừng lại thở, vậy mà cuối cùng hóa ra người đã lo lắng một việc thừa thãi.

Nhưng cũng nhờ thế, Khắc Xương mới làm sáng tỏ được một điều quan trọng rằng trái tim mình đã thực sự rung động trước một người con gái. Giờ đây, sau bao ngày nhưng nhớ, tương tư đến hao mòn tâm trí, ông trời bỗng run rủi cho người được gặp lại nàng, ngay khi Tân Bình Vương vừa mở mắt, chắp tay, khấu đầu thỉnh cầu Thần Phật.

Ngọc Huyên quỳ bên cạnh, nhắm mắt, lẩm nhẩm cầu nguyện một điều gì đó. Bỗng nhiên Khắc Xương nhớ đến một câu thơ mà tự nhiên bật cười:

Đường tác hợp trời kia run rủi,

Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.

Nghe thấy tiếng người cười khe khẽ cạnh bên, Ngọc Huyên mở mắt, khẽ liếc nhìn sang, giật mình nhận ra Tân Bình Vương liền vội vàng hành lễ:

"Khấu kiến nhị Vương gia!"

"Chẳng hẹn mà lại gặp nhau ở chốn linh thiêng này, liệu có phải ông trời đã nghe thấy lời thỉnh cẩu của ta?" Khắc Xương thầm nhủ trong đầu, mỉm cười hỏi nàng:

"Có phải là vị cô nương ở sân bóng hồi nào?"

"Dạ?" — Ngọc Huyên ngơ ngác. Nàng nhận ra Tân Bình Vương vì những ngày giả trang theo Bình Nguyên Vương tới cung Diên Ninh vẫn thường gặp người, chứ chẳng hề nhớ ra chuyện Khắc Xương chính là người từng giúp mình tránh kịp trái bóng hôm xưa.

"Em không nhớ về chuyện ở sân bóng sao? Thế thì thật là lạ, bởi vì đó là lần duy nhất chúng ta gặp nhau, vậy mà mới nhìn qua em lại có thể nhận ngay ra được ta!" — Khắc Xương cố Ý dò hỏi.

Bất ngờ bị hỏi khó, nàng càng thêm bối rối. Ngọc Huyên lúng túng tìm cách chuyển hướng câu chuyện, nàng sợ rằng cứ tiếp tục e là sẽ càng bị lộ:

''Chẳng hay Điện hạ có thường lui tới đây vãn cảnh chùa?"

''Cũng không hẳn, chỉ là đột nhiên cảm nhận được không khí vui tươi của ngày rằm, thấy mọi người nô nức cùng nhau đi chùa cúng bái, cầu xin sự lành mới chợt nhó ra lâu lắm rồi ta chưa thành tâm cầu khẩn!"

"Dám hỏi Điện hạ muốn cầu khấn điều gì?" Ngọc Huyên vui miệng hỏi.

"Ta cầu để gặp được người ta muốn gặp! Mà hình như đúng như lời đồn rằng ngôi chùa này rất linh thiêng, có vẻ như Phật tổ đã nghe được lời thỉnh cầu ấy!" Khắc Xương nhìn nàng trả lời, cái nhìn như xoáy sâu vào tâm can người đối diện ấy khiến Ngọc Huyên bỗng nhiên cảm thấy bối rối, ngại ngùng, vội cụp mắt nhìn xuống có ý né tránh.

"Ngọc Huyên!" — Tiếng Thái phi gọi nàng cắt ngang mạch câu chuyện giữa hai người.

Khắc Xương quay lại phía sau, nhận ra mẫu thân của Hoàng đệ, liền kính cẩn chào hỏi.

"Ngô Thái phi!"

''Chẳng phải đây là nhị Vương gia ư? Khéo sao gặp ở chốn này!" Thái phi cười hiền, lại liếc thấy Vương gia và Ngọc Huyên dường như đang dở dang câu chuyện thì lấy làm lạ mới vui miệng hỏi thêm:

''Hai người đã biết nhau từ trước rồi sao?"

"Thưa, trước đây có gặp đôi lần khi đi cùng Hoàng đệ!" — Người lễ phép đáp, không quên đưa ánh mắt nhìn sang kín đáo dò xét nét mặt nàng.

"Là vậy ư?" — Thái phi gật đầu — "Đã gặp ở đây rồi, chẳng hay Điện hạ có chút thời gian, mời cùng dùng chung với ta bữa cơm chay đạm bạc, cũng vừa hay đến giờ dùng bữa!"

Nhìn mặt trời treo trên đỉnh đầu, Khắc Xương mới nhận ra cũng sắp tới chính Ngọ [2], tuy bụng chẳng đói nhưng lại muốn có thêm chút thời gian ở bên tiểu nữ kia, liền vui vẻ nhận lời.

[2] Giờ Ngọ: Từ 11 giờ trưa đến 1 giở chiều. Chính ngọ là giữa trưa, khoảng 12 giờ.

Cơm chay được dọn ra ở Quá đường [3]. Tuy Phật môn luôn coi chúng sinh bình đẳng nhưng việc để Ngọc Huyên ngồi cạnh dùng bữa cùng mình và ngài trụ trì khiến Tân Bình Vương có cảm giác đối đãi này của Ngô Thái phi không giống như là đang cư xử với kẻ dưới. Người vốn đã thấy lệnh bà không coi nàng là nô tì của mình, giờ lại càng thêm khẳng định về điều cảm nhận đó.

[3] Quá đường: Nơi Tăng chúng đến thọ thực mà tâm không tham trước (theo Từ điển Phật Học Huệ Quang, trang 5752). Quá đường, nghĩa đen; Đường là nhà. Quá là đi qua. nghĩa là chưTãng đi từ Tăng đường, Khách dường. Tẩy đường. Đông đường... đến Trai đường để thọ thực nên gọi là Quá đường hoặc Phó đường.

Mọi người dùng bữa trong yên lặng. Người xuất gia tu hành ngày chỉ ăn một lần gọi là "Nhật trung nhất thực" tức là "Giữa ngày ăn một bữa" và không ăn sau giờ Ngọ, bữa ăn đó gọi là "Thọ trai". Trước khi ăn phải cúng dường, phải tưởng niệm và sau đó giữ chánh niệm trong lúc ăn. Nếu hành giả nghiêm trì và cẩn thận trong bữa ăn như vậy, phước và đức phát sinh và tăng trưởng từ đây. Như vậy, nghi thức thọ trai Quá đường trong Thiền môn, được xem là nghi thức dùng cơm trong chánh niệm áp dụng cho tất cả các bữa ăn. Hành giả cần phải thuộc lòng các bài kệ chú áp dụng trong bữa ăn để giúp mình giữ gìn chánh niệm, không tạp tưởng, mơ màng trong lúc ăn là mục đích chính. Tuy luôn ghi nhớ trong lòng quy tắc ấy của Phật môn nhưng lần này Tân Bình Vương lại không thể buộc mình tuân theo. Nhìn Ngọc Huyên ngồi ngay trước mặt, lòng người xao động một cách kỳ lạ, vì thế mà tâm không cách nào tịnh. Ngay cả cho tới tận khi nàng nói lời từ biệt để theo Thái phi ra về, Khắc Xương vẫn chưa thể kéo tâm trí mình trở lại trạng thái cân bằng được.

"Nhị Vương gia! Phải chăng trong lòng người có điều gì khó nghĩ?"

Khắc Xương quay đầu nhìn lại, ra là ngài trụ trì đã lặng lẽ đến bên tự lúc nào mà người không hề hay biết.

"Ra là Đại Đức Thiền sư! Tại sao người lại hỏi ta như vậy? Chẳng phải ai cũng từng giữ trong lòng những điều không thể chia sẻ với người khác hay sao?"

"Mong Điện hạ bỏ quá cho nếu bần tăng vô phép! Nhưng quả thực lý do bần tăng hỏi người điều đó là bởi theo lý thông thường mọi người đến chùa cầu an để mong được cất nhẹ gánh những mối ưu tư trong lòng nhưng có vẻ như tâm trạng của người bây giờ còn rối bời hơn cả lúc mới bưốc chân vào chốn này khiến bần tăng cảm thấy có chút băn khoăn!"

"Đại sư có thể nhìn ra ư?"

"Đối với những chuyện nhân tình thế thái ở đời, bần tăng cũng có chút ít hiểu biết! Có phải mối ưu tư trong lòng người mang bóng dáng một nữ nhân?"

Khắc Xương im lặng không trả lời, chỉ khẽ thở dài, chắp tay sau lưng mà nhìn về hướng mặt trời sắp lặn khuất núi.

''Thứ lỗi cho lời nói của bần tăng sẽ khiến Điện hạ trăn trở nhưng đối với người con gái ấy nhân duyên là nợ, tình duyên là khổ, vì mắc nợ nhau nên khổ cả một đời, khổ cả một đời cũng chưa chắc đã trả dứt nợ! Dù là với ai thì lương duyên trong kiếp này của cô gái ấy e rằng sẽ phải trải qua không ít bi ai, sóng gió mà vẫn chưa chắc đã được vẹn tròn như sở nguyện!"

"Xin trụ trì hãy nói cho ta những điều mà người biết!"

Đại Đức Thiền sư nhìn kĩ những đường nét trên gương mặt hiền hậu của Tân Bình Vương, suy ngẫm một chút rồi đọc lên mấy câu:

Ngọc nữ thiên đình thác trần gian

Bi thương phải trả lệ ngàn hàng

Một thân, mấy kiếp đền ân oán

Chờ tới ngày Long Phụng cùng hoàn. [4]

[4] Hoàn: Bức tường xây quanh cung điện.

"Ý của đại sư là..."

"Có lẽ đó là số phận đã định của người ấy! Bần tăng tin rằng một ngày nào đó người sẽ tự mình giải được đáp án!" Nói đoạn, vị trụ trì cúi đầu hành lễ trước khi quay người bước đi.

Khắc Xương nhìn theo, trộm nghĩ một người chân tu hành khổ hạnh, nhìn thấu nhân gian và lòng người, chắc chắn không bao giờ buông ra những lời dễ dãi, chỉ có điều lời nói của người ấy về "Long Phụng cùng hoàn" — rồng và phượng ở trong cung cấm, giống như là đang ám chỉ vua, hậu nơi Cung thành.

Muốn có "Phụng" phải trở thành "Long", tận sâu thẳm ý nghĩ, Tân Bình Vương bỗng chạm phải một suy tính mà người biết nó có thể khiến cán cân quyền lực trong Hoàng cung thay đổi. Người chỉ còn phải suy xét xem đối với mình điều gì mới là quan trọng nhất: sự kỳ vọng của huynh trưởng? Cuộc đời bình lặng tránh xa mọi gươm đao? Hay người con gái không thể dứt bỏ khỏi tâm trí?

"Ngọc Huyên!"

"Vâng!"

"Anh có thể hỏi em điều này được không?"

"Vâng!"

''Đối với em, ai là người quan trọng hơn cả?"

Ngọc Huyên ngưng tay, ngẩng lên nhìn Anh Vũ. Ánh mắt Vũ không lảng tránh cái nhìn của nàng, đó không phải là gương mặt của một người đang hỏi điều bâng quơ, càng không giống với vẻ đùa vui thường thấy.

"Là mẹ và anh!" — Ngọc Huyên đáp.

"Vậy Điện hạ thì sao?"

"Cũng quan trọng!" — Nàng cụp đôi mắt xuống — ''Vô cùng quan trọng!"

Bàn tay nàng lại tiếp tục chầm chậm đưa thoi mực xoay tròn trong nghiên, màu nước đen lay láy, sóng sánh quện vào thứ ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn cầy được phản chiếu trong đó.

"Còn anh thì sao?" — Ngọc Huyên hỏi mà không ngước nhìn Anh Vũ.

"Là cha!"

Câu trả lời của Anh Vũ khiến Ngọc Huyên quá đỗi ngạc nhiên.

"Cha ư?"

"Phải! Cổ nhân có câu: "Phụ tại, quan kỳ chí. Phụ một, quan kỳ hạnh. Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hỹ [5]" tức là "Cha còn, hãy xem chí hướng của người. Cha mất, hãy xem hành vi của người. Trong ba năm không thay đổi đường lối của cha có thể gọi là hiếu vậy." Còn chúng ta những gì biết về cha, chỉ là người mang họ Nguyễn. Trong lòng anh luôn mong muốn được hiểu nhiều hơn về cha, người là ai, khi còn sống là người như thế nào?"

[5] Lời Khổng Tử, sách Luận ngữ, chương 1: Học nhi.

"Ngộ nhỡ..."

"Phụ thân của chúng ta..." Anh Vũ vội ngắt lời như thể hiểu rõ điều mà em gái sắp nói ra, cũng là điều mà nàng ấy vì lo lắng cho mình mới trộm nghĩ đến — "Cha của chúng ta tuyệt đối không thể là loại người vô đạo hay phường trộm cướp bất lương. Tuy mẹ chưa bao giờ kể cho chúng ta nghe về người nhưng anh tin không phải do có điều gì đáng hổ thẹn cần phải giấu giếm, chỉ là vì sợ anh em ta còn nhỏ tuổi, trí tuệ chưa đủ để hiểu được những điều sâu xa. Thường ngày mẹ nuôi dạy, rèn giũa chúng ta vô cùng nghiêm khắc, nhất định là bởi không muốn làm mất mặt phu quân đã khuất núi. Người mà mẹ cả đời kính cẩn thờ phụng chắc chắn phải đáng trọng hơn bất cứ ai, cho nên dù sự thật thế nào tuyệt đối cũng không thể khiến chúng ta cảm thấy thất vọng hay hổ thẹn về gốc gác của mình!"

Ngọc Huyên không bàn luận gì thêm, âm thầm tán đồng suy nghĩ của huynh trưởng bởi nàng cũng tin vào điều đó. Nhưng họ không thể ngờ rằng sự thật mà mẫu thân che giấu bấy lâu nay thực sự quá xa vời so với những gì mà đầu óc non nớt của bọn trẻ có thể tưởng tượng. Phụ thân của họ cùng gia tộc ba đời đã bị kết án tru di bởi tội danh mưu phản, hành thích Tiên đế. Từ cổ chí kim đó vẫn bị xem là tội ác tày đình, vết nhơ muôn đời không thể rửa sạch. Ngọc Huyên, Anh Vũ cùng mẹ là những người cuối cùng trong gia quyến kẻ phạm trọng tội, nhờ vào chút may mắn và sự chở che của Ngô Thái phi mới giữ được tính mạng cho tới ngày hôm nay nhưng lại đang phải sống một cuộc đời chui lủi, ẩn dật. Tuy có rất nhiều điều đáng nghi xung quanh việc kết án Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi năm ấy nhưng không có cách nào để chứng minh cho sự trong sạch của ông, nhất là khi người kiên quyết khép ức Trai tiên sinh vào tội chết lại chính là Nhiếp chính Hoàng thái hậu, người đang nắm giữ quyền lực tối thượng trong triều. Phạm thị quyết định không nói cho hai đứa trẻ về thân thế gia đình vì sợ hai con còn nhỏ chưa hiểu chuyện thì ít mà vì lo ngại chúng sẽ gặp nguy hiểm khi biết được sự thật thì nhiều.

Nhưng dù khéo léo che đậy đến đâu, khi mà bọn trẻ ngày một trưởng thành, những thắc mắc trong lòng chúng cũng ngày một lớn hơn thì không một bí mật nào có thể an toàn mãi được. Chẳng bao lâu nữa, máu và nước mắt sẽ chảy, làm tan biến mọi điều tốt đẹp như thứ vỏ bọc mong manh, để lộ ra hạt nhân tàn độc, đáng sợ của thứ gọi là "Cuộc chiến giành quyền lực".

........

Chương 11

CHƯƠNG 2: MẬT

"Qua lễ Vu Lan [1] năm nay là đã sắp tới mười một cái giỗ của quan Hành khiển rồi nhỉ!" — Ngô Thái phi mân mê những tờ vàng mã trong tay, dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn nến, màn đêm tĩnh mịch như tờ, lời của người như tan vào hư vô bởi không nghe tiếng ai đáp lại.

[1] Lễ Vu Lan: Ngày rằm tháng bảy (15 tháng 7 âm lịch). Ngoài ra, ngày này còn gọi là ngày sá tội vong nhân, có lệ cúng chúng sinh, cúng cô hồn.

Khi lửa từ đèn cầy bắt vào chỗ tiền âm phủ kia, ánh lửa bập bùng mới soi rõ gương mặt người phụ nữ ngồi bên, ấy chính là tứ phu nhân Phạm Thị Mẫn. Hôm nay là rằm tháng bảy, hai người phụ nữ nhân lễ cúng chúng sinh cũng muốn sửa soạn một mâm cơm cúng đơn giản và đốt cho Ức Trai tiên sinh cùng những người trong gia tộc họ Nguyễn chút tiền vàng để an ủi vong linh.

Phu nhân Phạm thị là người thiếp thứ tư của quan Hành khiển Nguyễn Trãi. Khi tai họa xảy ra, bà mới qua cái tuổi đôi mươi vài năm, bỗng nhiên trở thành một góa phụ, lại phải một mình đơn độc nuôi hai đứa trẻ thơ dại, tương lai mịt mù. Chuyện tưởng vừa mới đấy, thế mà đã hơn chục tiết đông thấm thoát trôi qua, con người ấy giờ đã trở thành người đàn bà cận tứ tuần, gương mặt non trẻ năm nào giờ đã in hằn dấu vết thời gian và đau khổ. Phạm phu nhân vừa thả những tờ giấy xuống đống lửa, vừa lấy vạt áo khẽ thấm giọt nước mắt như chực nhỏ xuống.

"Xin lệnh bà thứ lỗi! Dù tiện thiếp đã dặn lòng rằng chuyện đã qua từ lâu nhưng vẫn không kìm được nước mắt những lúc thế này, thật khiến người bận lòng!"

Thái phi không nói, lặng lẽ hóa vàng cho người ở nơi chín suối.

''Lão gia là người chính trực, độ lượng, cả cuộc đời vinh hiển, thanh sạch. Cho đến tận bây giờ tiện thiếp vẫn cảm thấy người tuyệt đối không thể làm ra những chuyện đại nghịch vô đạo như vậy, chắc chắn là có điều chi oan khuất!"

"Ta chưa từng tin vào kết luận năm đó của bộ Hình!" — Ngô Thị Ngọc Dao nhìn thẳng vào mắt Phạm phu nhân nói lời khẳng định. Hơn ai hết, người luôn cảm thấy mang ơn quan Hành khiển, ông không chỉ đứng ra xin Tiên đế tha mạng chơ người và Tư Thành một lần mà sau đó còn dốc lòng lo lắng và chịu trách nhiệm về sự an nguy của hai mẹ con người đến cùng, hết đưa họ trốn ra trấn An Bang rồi lại bí mật dày công đưa trở về giấu ở Đô Kỳ, Thần Khê, cái ơn cứu mạng ấy làm sao Ngọc Dao có thể dù chỉ một giây một phút quên đi được — ''Nếu không có quan Hành khiển thì làm gì có ta và Điện hạ ngày hôm nay! Con người khẳng khái của tiên sinh sao ta lại không hiểu, sao ta lại hoài nghi chứ!"

Phạm phu nhân nghẹn ngào không nói lên lời, chỉ khẽ gật đầu tỏ ý biết ơn người đã cùng đứng trên một lập trường với mình mà suy xét sự việc năm ấy. Dù trong lòng bà tin rằng đại nhân trong sạch nhưng đứng trước mặt Thái phi, người có chồng bị chính phu quân mình mang danh sát hại, bà không khỏi cảm thấy đau khổ, mặc cảm. Ơn huệ của Thái phi dành cho bà cùng Anh Vũ, Ngọc Huyên càng nhiều thì nỗi day dứt ấy càng lớn lên, không có cách nào gỡ bỏ. Mười mấy năm qua, tuy ở bên hết lòng hầu hạ người nhưng bà luôn có suy nghĩ một lúc nào đó sẽ phải rời khỏi nơi này, nhìn lũ trẻ lớn lên trở nên thân thiết, quyết tâm ấy của bà lại thêm mạnh mẽ.

Phạm phu nhân không hề biết rằng đối với mình và bọn trẻ, Ngô Thái phi cũng luôn mang cảm giác có lỗi trong lòng. Chuyện Ngô Thị Ngọc Dao năm ấy được quan Hành khiển và tam phu nhân là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ ra tay giúp đỡ chỉ người trong cuộc mới biết, đối với tứ phu nhân và những gia quyến khác, người đã không cho hay về những việc rắc rối trong triều đình bởi cho rằng những chuyện phức tạp đó càng biết ít thì sẽ càng an toàn. Bao nhiêu năm nay, Thái phi vẫn luôn giữ kín một nỗi niềm đau đáu rằng có lẽ nào vì cứu giúp người mà tai họa mới giáng xuống cả một gia tộc đang hưng thịnh như thế?

Hai người phụ nữ, một người có chồng bị kết án sát hại phu quân của người kia, lại một người vì mình mà người kia trở thành góa phụ, đã sống bên nhau hơn mười năm, cùng trải bao thăng trầm, thương đấy, mến đấy nhưng cũng buồn khổ và day dứt đấy.

Chỉ có những đứa trẻ thơ ngây vẫn ngày ngày lớn lên bên nhau, hồn nhiên trao trọn cả tấm lòng mà không chút gạn mây trong suy nghĩ...

"Anh có thích trở thành Hoàng thái đệ không?" — Ngọc Huyên hỏi.

''Biết nói sao với em nhỉ? Chuyện đó không đơn giản là thích hay không!"

"Thích là thích, không thích là không thích, chẳng phải rất đơn giản sao?" — Nàng khẽ chớp hàng mi cong mềm như tơ liễu, hướng ánh mắt trong veo, hiếu ký sang Tư Thành.

"Việc đó giống như là em không được quyền lựa chọn xuất thân của mình, không thể quyết định mình sinh ra trong một gia đình giàu có hay nghèo hèn, cao quý hay bần cùng. Anh cũng như vậy, sinh ra đã là một Hoàng tử, dù muốn dù không cuộc đời nhất định sẽ không thoát khỏi việc những việc phức tạp như tranh giành ngôi vị."

"Điều gì sẽ xảy ra với những người bị cuốn vào đó?"

"Anh nghe nói trong Hoàng cung, không có cuộc tranh đấu nào mà không phải một mất một còn."

"Vậy thì..." — Ngọc Huyên khẽ rùng mình lo sợ, nàng nắm chặt tay Tư Thành, giọng như van lơn — "Hãy tránh xa nó ra!"

"Chỉ e là có những thứ thuộc về số phận, không thể trốn chạy được!" — Tư Thành nhìn sâu vào đáy mắt nàng, người biết có những điều dù nói ra Ngọc Huyên cũng không hiểu được, bản thân người còn không thể hiểu hết con đường mà mình sắp dấn thân vào thì làm sao có thể nói để nàng hiểu đây?

Bình Nguyên Vương nghĩ đến mẫu thân mình, bà chẳng phải là một minh chứng sống cho những điều mà người vừa nói đó sao? Cả cuộc đời bà chỉ cầu mong được bình yên làm vợ, làm mẹ, không tơ hào danh vọng, không thèm khát địa vị, cũng không tham lam của cải nhưng số phận đâu dễ dàng buông tha cho bà nên cũng đã từng lắm phen vào sinh ra tử, ngàn cân treo sợi tóc. Những người sống là người của Hoàng thất cho đến tận lúc chết cũng không thoát khỏi kiếp nạn tranh giành.

Ngọc Huyên tuy còn nhỏ tuổi, lại là phận nữ nhi, những chuyện như thế này nàng không thật hiểu rõ, nàng chỉ biết một cách rất mơ hồ rằng cuộc đời của một Vương gia tuy có thể yên tâm tận hưởng phú quý và bổng lộc cả đời nhưng con đường quan trường lại bị chặt đứt cả. Với một người tài năng như Tư Thành, điều đó quả là đáng tiếc.

"Anh muốn được giống như các vị quan lại, có thể tham gia vào việc triều chính ư?"

"Chính trị không phải là việc một đứa trẻ mười hai tuổi như anh có thể hiểu hết được. Nhưng anh biết rất rõ một điều: anh thực lòng muốn ở bên cạnh để chia sẻ nỗi cô đơn của Hoàng thượng."

"Hoàng thượng?" — Ngọc Huyên tỏ ra ngạc nhiên khi Tư Thành bỗng nhắc tới người.

"Phải, người chính là kẻ cô đơn nhất thế gian! Ai ở trong hoàn cảnh của người cũng sẽ trở thành như vậy, được bao quanh bởi trăm vạn binh mã và kẻ hầu người hạ nhưng thực chất lại chẳng có người bạn thực sự nào, không như anh luôn có em và Anh Vũ ở bên."

Bỗng Tư Thành dừng bước, nhìn sâu vào đôi mắt không bao giờ biết nói dối của Ngọc Huyên:

"Nhưng liệu... em có muốn anh ngồi vào vị trí ấy?"

"Em..." — Nàng bối rối vì câu hỏi đột ngột và vì cả cái nhìn như xoáy vào tâm can mình, vội lảng tránh ánh mắt ấy, trả lời một cách mơ hồ — ''Chỉ cần anh cảm thấy ổn!"

Thực ra Ngọc Huyên cũng không hề hoàn toàn hiểu rõ điều mình muốn. Kỳ vọng của Tư Thành, tâm tư của người thế nào, nàng vốn hiểu hết bởi vì người không bao giờ ngại ngần chia sẻ điều đó với nàng và Anh Vũ. Nhưng Ngọc Huyên lại chẳng thể dễ dàng nói ra thành lời tâm sự của mình, không phải nàng muốn che giấu mà vì nàng không cách nào lý giải được những mâu thuẫn đan xen trong lòng mà điều đó thì chỉ khiến Tư Thành bận lòng thêm.

Mọi thứ dường như đã đổi khác. Không biết từ lúc nào, cả Tư Thành và Anh Vũ đều trở nên vừa gần nhưng lại thật xa. Đối với Ngọc Huyên, họ vẫn là những người anh, người bạn thân thiết, không bao giờ che giấu hay ngờ vực nhưng chí hướng mà họ theo đuổi dôi khi nàng cảm thấy thật xa vời để mình bắt kịp.

Có đôi lần, Ngọc Huyên hỏi anh trai mình về điều đó, Anh Vũ chỉ nhìn nàng bằng ánh mắt trìu mến nhất và nói:

''Chúng ta sinh ra mỗi người có một sứ mệnh khác nhau, không riêng gì Điện hạ, anh, hay em mà đến cả thân phận nam tử và nữ nhi, chúng ta tồn tại vì những lý do mà chỉ bản thân mình mới biết!"

Ngọc Huyên không hiểu. Nàng hoàn toàn chới với và mơ hồ giống như cảm giác lúc này đây, khi Tư Thành đứng ngay trước mặt nàng nhưng Ngọc Huyên lại có cảm giác không thể chạm tới người.

"Huyên à!" — Người nắm lấy tay nàng kéo ra khỏi đám mây xao lãng — ''Chuyện gì anh có thể không biết nhưng có một điều mà anh luôn chắc chắn, đó là em và Anh Vũ mãi mãi là đệ muội tốt của anh, sướng khổ ngọt bùi có nhau, mãi mãi không bao giờ chia cách. Chỉ cần em ghi nhớ điều này là đủ!"

''Sướng khổ ngọt bùi có nhau, mãi mãi không bao giờ chia cách?"

"Phải rồi!" — Bình Nguyên Vương gật đầu quả quyết.

''Vậy thì ba chúng ta có thể "kết nghĩa vườn đào" như Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi trong Tam quốc chí hay không?" — Nàng ngây thơ hỏi.

"Không đâu!" — Tư Thành mỉm cười — "Kết nghĩa huynh đệ là dành cho anh và Anh Vũ, còn với em, nếu muốn không bao giờ chia cách thì phải dùng cách khác!"

"Là cách gì vậy anh?"

"Đợi sau này anh sẽ nói cho em biết!" — Bình Nguyên Vương vuốt nhẹ lên mái tóc của nàng, hơn cả cái cách một người anh cả dành sự thương yêu cho em gái.

''Không thể được!" — Suýt chút nữa Thái bảo đại nhân đã bật ra thành lời câu nói ấy* Sóng gió chốn quan trường đã không ít lần vùi dập ngài trong những tai họa vô đơn chí, nhấn chìm cả những chiến công hiển hách từng lập cho xã tắc nhưng cũng chính điều đó đã dạy cho ngài cách biết tiết chế cảm xúc, ngay cả trước một đứa trẻ mà nếu được sinh ra trong một gia đình bình thường thì theo thứ bậc phải gọi ngài là cụ trẻ.

"Điện hạ nói sao cơ?" — Đại nhân tỏ ra bình tĩnh, khác hẳn sự hỗn loạn đang diễn ra trong lòng.

''Cháu thích Ngọc Huyên!" — Tư Thành nhắc lại một cách rõ ràng, không hề bối rối.

"Ngọc Huyên?" — Đinh Liệt nheo mắt, làm ra vẻ đang nhớ lại gương mặt của người mang cái tên ấy — "Ý người muốn nói đến tì nữ trong Vương phủ, cô bé có người anh song sinh tên Anh Vũ?"

"Không phải tì nữ, thưa Thái bảo!" — Tư Thành sửa lại — "Cháu và cả mẫu thân chưa bao giờ xem ba mẹ con nàng ấy là gia thần. Đối vói cháu, họ thân thiết chẳng khác nào ruột thịt, từng bên nhau từ những ngày khổ sở, sao có thể dùng một từ "Tì nữ" để nhắc về nàng ấy!"

"À, ừm...!" — Đinh đại nhân hắng giọng — "Người thích con bé đó, vậy rồi sao?"

''Nếu có thể chiến thắng trong kỳ thi lần này để trở thành Hoàng thái đệ, cháu và mẫu thân sẽ phải chuyển vào sống trong cung Long Đức thì đến lúc đó hi vọng Thái bảo sẽ giúp cháu tìm được cách để ba mẹ con họ cùng được đi theo. Việc này cháu không thể nghĩ ra ai khác có thể giúp mình ngoài người!"

''Về chuyện này... " — Ngài nghĩ ngợi giây lát, rồi đột nhiên tỏ ra dễ dàng — "Cũng không phải là điều gì quá khó khăn, ta nhất định sẽ có cách!"

"Thật vậy ư?" — Tư Thành vui mừng ra mặt — "Cháu còn lo nhất định người sẽ phản đối!"

Bình Nguyên Vương đã lo nghĩ đúng, trong thâm tâm, Đinh Thái bảo kịch liệt phản đối mong muốn này của người nhưng ngài không muốn làm phiền lòng đứa trẻ ấy khi mà ngày thi đấu chẳng còn cách bao xa.

Đinh Liệt không phải là một con người hà khắc. Ngài là một võ quan có nhiều cống hiến lớn cho triều đình này ngay từ những ngày đầu khi tất cả mới chỉ là một nghĩa quân với quân lực mỏng manh như ngọn đèn leo lét trước gió bão. Nhưng tâm huyết, công trạng của ngài khi đến thời bình lại bị người ta xem nhẹ, điều ấy khiến một lão tướng như ngài cảm thấy không cam tâm. Bình Nguyên Vương là hi vọng cuối cùng của Đinh Liệt, và ngài quyết sẽ dùng hết ảnh hưởng của mình để đưa được người lên ngôi vị Trữ cung.

Đối với chính trị mà nói, hôn nhân không xảy ra giữa hai con người mà đó là đại sự của hai gia tộc. Trước khi mọi thứ bắt đầu, ngài cần phải chuẩn bị cho Bình Nguyên Vương một bệ đứng vững chắc. Không gì tốt hơn việc người có thể kết duyên với một nữ nhân xuất thân trong gia đình danh giá, quyền thế. Gia thế của nàng ta sẽ là một chống lưng tuyệt vời, đưa người càng tiến gần hơn tới cái đích vinh quang cuối cùng. Vì thế, không thể nào có chuyện ngài dễ dàng chấp thuận để một đứa con gái thân phận thấp kém, chỉ là gia thần trong phủ, cản trở bước tiến của Bình Nguyên Vương, của mình, của gia tộc họ Đinh. Hôm nay người nói thích cô bé đó, chuyện mà người đề cập đến là mong muốn không phải rời xa, nghe qua thì tưởng như chẳng phải điều gì lớn lao, chỉ là chút cảm xúc ngây thơ, thuần khiết nhưng ai biết đâu một mai khi hai người đó, một nam, một nữ, cứ ngày ngày quấn quýt bên nhau sẽ không nảy sinh ước muốn được thành thân thực sự? Sự chân thành và nồng nhiệt của tuổi trẻ như ngọn lửa, bùng lên trong phút chốc biết đâu chừng lại có thể thiêu rụi cả đại sự vinh quang.

Nhưng ngay lập tức gay gắt từ chối không phải là một kế sách hay. Ngài hiểu hơn ai hết đó là đứa trẻ trọng danh dự và tình cảm. Chính ngài đã cố gắng gieo vào tâm thức đứa trẻ ấy một chân lý: có quyền lực mới mong bảo toàn được những điều mình coi là quý giá, nếu như bây giờ, ngài vì nóng vội mà khiến người nhận ra để đạt được thứ quyền lực mà ngài đang muốn người hướng tới cần phải biết hi sinh tình cảm và đạp bằng mọi thứ, biết đâu chừng người sẽ chọn cách từ bỏ.

"Không! Sao ta lại phản đối một mong muốn chính đáng như thế? Dù là Hoàng thượng, Thân vương hay một đứa trẻ bình thường, ai cũng cần có những người bạn tri kỷ, Hoàng cung lạnh lẽo và hà khắc, có thể sự có mặt của những người đó bên cạnh sẽ giúp người cảm thấy an tâm và ấm áp hơn." Thái bảo nhấp một ngụm trà, tỏ ra vui vẻ — "Còn về Ngọc Huyên, tuy ta không thật ưng ý với xuất thân của con bé nhưng xét về dung mạo, tố chất, nó cũng hợp mắt ta, chuyện sau này hãy để ta từ từ suy nghĩ!"

"Cảm ơn Thái bảo!" — Tư Thành hoàn toàn tin tưởng lời nói đó.

"Tuy nhiên, Điện hạ hãy hứa với ta: Người phải đạt bằng được ngôi vị kia. Người phải hiểu rằng, nếu để vuột mất ngôi vị Hoàng thái đệ thì con đường chính trị của người sẽ trở nên khó khăn hơn bây giờ gấp trăm ngàn lần, mà như thế, đừng nói đến Ngọc Huyên, ngay cả mẫu thân, người cũng khó lòng bảo vệ được! Đen lúc đó, ta hi vọng người sẽ sáng suốt làm theo những chuyện mà kẻ tâm phúc này sắp đặt, không vì điều gì khác mà chính là muốn tốt cho người và mẫu thân." — Giọng của Đinh Liệt đều đặn, chậm rãi nhưng nghe sao thật nặng nề, sắt đá.

"Vâng, cháu đã hiểu ý Thái bảo!" — Tư Thành đáp, ngầm hiểu rằng Thái bảo đang muốn người đánh một ván cược lớn.

"Hoàng thượng! Người có bao giờ vì điều gì mà quay lưng lại với tứ Vương gia?"

"Sao bỗng nhiên Hoàng tỷ lại hỏi như vậy?" — Bang Cơ đặt quân cờ trong tay xuống bàn, một nước cờ không lấy gì làm xuất sắc, ngẩng lên hỏi Diên Trường.

"Chỉ là thần thiếp có chút tò mò! Thấy Hoàng đệ được lòng Hoàng thượng và Hoàng mẫu như vậy, thần thiếp rất vui mừng nhưng cũng cảm thấy khó hiểu bởi huynh đệ của người không chỉ mỗi Bình Nguyên Vương, còn có cả đại Vương gia, nhị Vương gia nhưng không ai nhận được nhiều sủng ái hơn Tư Thành. Chắc hẳn phải có điều gì đặc biệt ở Hoàng đệ khiến người yêu quý thế?"

''Chuyện này cũng đâu phải điều gì khó hiểu!" - Bang Cơ mỉm cười — "Con người có tính cách phóng khoáng, nội tâm trong sáng như Tư Thành thật khó mà không cảm thấy yêu mến, dù là ai đi chăng nữa!"

''Hoàng thượng, nếu như... có một thứ mà người và tứ Vương gia cùng yêu thích nhưng chỉ có thể thuộc về một người, người có bao giờ nghĩ rằng sẽ dùng danh phận Hoàng đế mà giành lấy?" — Công chúa rụt rè ướm hỏi.

''Có thể xảy ra điều đó sao?" Bang Ca bật cười ha hả ''Đừng nói là tranh giành, trên đời này nếu có điều gì Tư Thành mong muốn, trẫm là Hoàng đế sẽ thành toàn cho Bình Nguyên Vương!"

Công chúa khẽ chớp hai hàng mi cong vút, ánh mắt nàng nhìn Bang Cơ nửa như nao núng, nửa lại hi vọng. Hoàng thượng đâu biết rằng con người vốn rất ích kỷ. Bởi vì người là đấng chí tôn của đất nước này, đứng trên muôn vạn người mà cảm thấy rằng không có điều gì không khuất phục trước ý muốn của mình, chưa từng nếm trải cảm giác phải giành giật để có được nên người mới dễ dàng thốt ra những lời hứa hẹn nhẹ bẫng ấy.

Rất sớm thôi Bang Cơ sẽ học được trên đời này có những thứ là độc nhất, có những thứ buộc con người ta không từ thủ đoạn nào để chiếm hữu, lại có những thứ không thể vì người mong muốn mà dễ dàng có được, dù có là một vị Hoàng đế.

Chương 12

CHƯƠNG 3: KHỞI

Tháng tám năm Thái Hòa thứ mười một [1], trong Hoàng cung đã diễn ra một cuộc thi đấu vô cùng đặc biệt giữa các vị Thân vương mà mục đích ngấm ngầm của nó chính là để chọn ra người sẽ ngồi vào ngôi vị Trữ cung vốn đã bỏ trống quá lâu.

[1] Thái Hòa năm thứ mười một: Năm 1453 dương lịch.

Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân, Tân Bình Vương Lê Khắc Xương, Bình Nguyên Vương Lê Tư Thành lần lượt ở các độ tuổi mười lăm, mười bốn và mười hai, đều được đánh giá là những nhân tài hiếm thấy, văn võ song toàn, khí chất hơn người. Nhưng mọi người đều có cảm giác Thái hậu và Hoàng thượng dường như đã có sẵn lựa chọn của mình về vị trí người kế vị đó, cho nên cuộc thi này được tổ chức ra chỉ giống như là một cái cớ hay.

Ba vị Hoàng thân mặc Bổ phục [2] màu tía, Bổ tử [3] trên áo thêu hình Kỳ lân, mũ Phốc đầu [4] và đai sừng tê giác [5] đều gắn trang sức bằng vàng thể hiện địa vị tôn quý, đứng giữa triều, hai bên là các vị văn võ bá quan nghiêm trang trong triều phục, xếp thành những hàng thẳng tắp.

[2] Bổ phục: Áo cổ tròn đính Bổ tử.

[3] Bổ tử: Còn gọi là Hung bối, chỉ vuông vải thêu hình chim thú gắn trước ngực và sau lưng áo bào, dùng để phân biệt phẩm cấp của bá quan qua chính con vật được thêu trên dó như sư tử, hổ, báo, sếu...

[4] Mũ Phốc đầu: Loại mũ dáng vuông vức, có hai tầng, tầng sau nhô cao hơn tầng trước là nơi chứa búi tóc, gáy mũ đính hai cánh chuồn nằm ngang. Trên mũ, tùy theo tước hiệu người đeo mà có các trang sức bằng ngọc, bạc, vàng...

[5] Đai sừng tê giác: Thứ phục sức đeo ngang lưng bên ngoài áo bào, đươc gắn các mieiitj trang sức hỉnh tròn, hình quả trám Jàm bằng kim loại hoặc đồi mồi...

"Trẫm từ khi lên ngôi đến nay đã là mười một năm, nhờ có sự phò trợ từ các đại thần mới có thể làm tốt bổn phận của mình với giang sơn, xã tắc, giữ yên được đất nước, làm yên lòng bách tính. Nay cũng đã đến thời điểm trẫm tự mình chấp chính nhưng trước khi đó, trẫm muốn tìm ra một người tài đức vẹn toàn cho ngôi vị Trữ cung, vốn quan trọng nhưng lại bị bỏ trống quá lâu. Nay, các khanh đã tiến cử ba người có tư chất cao quý, phù hợp với ngôi vị đó là Lạng Sơn Vương, Tân Bình Vương và Bình Nguyên Vương, vậy trẫm tổ chức cuộc thi này, lấy làm một trong các căn cứ để có thể chọn ra người xứng đáng nhất để trở thành người kế vị của trẫm."

"Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!" — Văn võ bá quan đồng loạt hô vang ngay khi nhà vua vừa dứt lời.

"Có ba phần thi đấu, ai thắng hai trong ba sẽ là người thắng cuộc. Trong trường hợp chiến thắng chia đều cho cả ba thì sẽ có thêm một phần thi nữa để đưa ra quyết định cuối cùng. Trẫm chắc rằng các khanh đều đã được biết về điều này?"

"Chúng thần đã rõ, thưa Hoàng thượng!" — Nghi Dân, Khắc Xương và Tư Thành đồng thanh xác nhận.

"Tốt lắm! Ban tọa [6]!" — Bang Cơ ra lệnh cho bọn thái giám mang bàn ghế ra cho các Thân vương. Trên bàn có sẵn nghiên mực, giấy, bút.

[6]Ban tọa: cho ngồi.

Sau khi ba vị Vương gia đã ngồi vào ngay ngắn, chỉnh tề, nhà vua mới tiếp lời:

''Chẳng bao lâu nữa trẫm sẽ chính thức chấp chính, người trở thành Trữ cung chính là người mà trẫm có thể tin tưởng để cùng bàn bạc mọi việc triều chính. Vậy với tư cách là Trữ cung, các khanh hãy đưa ra cho trẫm một lời khuyên mà các khanh cho rằng trẫm cần phải luôn ghi nhớ nếu muốn trở thành một minh quân!"

Văn võ bá quan đều tỏ ra bất ngờ trước đề bài của Hoàng thượng. Không chỉ vậy, con người ít khi biểu đạt cảm xúc ra mặt như Thái hậu dường như cũng không giấu nổi vẻ kinh ngạc, cánh tay đang phe phẩy quạt bỗng ngưng lại vài nhịp. Ai cũng đinh ninh cho rằng Hoàng thượng sẽ dùng đến đề bài mà các quan Quốc Tử Giám đã soạn, thật không ngờ đến phút cuối cùng, người đã bất ngờ thay đổi ý định, tự mình đưa ra một đề bài mà chẳng ai được biết trước.

Các Thân vương thận trọng suy nghĩ rồi cầm bút bắt đầu viết ra ý tứ trong đầu mình. Phía bên ngoài, một vài vị quan kín đáo liếc nhìn, cố gắng đoán xem câu trả lời của họ là gì. Và khi cả ba đã đặt bút xuống, viên Nội quan thị hậu chánh trưởng An Quế nhìn lên chờ đợi hiệu lệnh từ Hoàng thượng, thấy người gật đầu hắn mới tiến lại gần, nhận lấy từ các Thân vương tờ giấy ghi đáp án, kính cẩn đưa lên cho nhà vua cùng Thái hậu xem xét. Phía bên dưới, bá quan đều tỏ vẻ ngóng chờ muốn biết các Thân vương đã viết những gì.

Thái hậu giữ vẻ bình thản, ánh mắt quét qua gương mặt từng vị đại thần, rồi dừng lại ở Lạng San Vương, bà cất giọng hỏi:

"Lạng Sơn Vương!"

"Có thần!" — Nghi Dân đứng dậy đáp lời, giữ vẻ cung kính.

"Trong số các Vương gia, khanh là huynh trưởng, vậy theo thứ bậc, khanh hãy là người trả lời trước! Hãy nói cho các vị đại thần có mặt ở đây biết đáp án của mình!"

"Thưa, trong số những lời dạy của Thánh hiền mà thần đã được truyền dạy, có một bài học khiến thần rất tâm đắc, muốn dùng làm lời khuyên gửi tới Hoàng thượng. Hoặc viết: "Dĩ đức báo oán, hà như?" Tử viết: "Hà dĩ báo đức? Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức." Tức là khi nghe người nói rằng: "Lấy ân huệ báo lại oán thù, như thế được chăng?" thì Đức Khổng Tử liền trả lời lại rằng: "Vậy lấy gì báo lại ân huệ? Lấy công chính báo lại oán thù, lấy ân huệ báo lại ân huệ".

"Khanh có thể giải thích rõ hơn không?" — Nhà vua tỏ ra hứng thú.

"Bẩm Hoàng thượng, trong khi Lão Tử, Phật Thích Ca đều chủ trương ''Dĩ đức báo oán" tức là lấy ân huệ báo lại oán thù thì Đức Khổng Tử lại chủ trương "Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức", lấy công chính báo oán thù, lấy ân huệ đền ân huệ, khiến xưa nay nhiều người cho rằng đạo đức trong Nho giáo hẹp hòi và Đức Khổng Tử đang dạy người ta phải báo thù nhưng thần lại không cho là như thế, "Trực" là sự ngay thẳng, dồng thời cũng là sự công chính, thực hiện công chính nghĩa là đem điều chính đến cho mọi người theo lẽ công bằng, có vay có trả. Đức Khổng Tử là bậc thầy nhưng cũng đã từng là một nhà cai trị, vì ngài đã từng là Đại tư khấu, Tể tướng của nước Lỗ, dĩ nhiên ngài phải dạy người ta lấy sự công chính tức là lấy pháp luật để giải quyết oán thù. Trên phương diện trị an, trị vì một đất nước, cần phải tỉnh táo để nhận biết rằng không phải tất cả người trong thiên hạ đều là những người tốt, ngay thẳng, vậy thì đối với kẻ tiểu nhân, phường trộm cắp, nếu áp dụng quy tắc đạo đức "Lấy đức báo oán", có lẽ bọn chúng sẽ tha hồ tung hoành mà không bị trừng trị, đất nước sẽ rối loạn mất."

''Hay! Rất hay!" — Bang Cơ không giấu nổi sự tâm đắc sau khi nghe những lời của Lạng Sơn Vương — "Đối với một xã hội vàng thau lẫn lộn ắt phải dùng luật pháp nghiêm minh để khắc chế tội phạm, đem sự công chính đến cho mọi người! Lời khanh nói cũng rất hợp với Ý trẫm!"

"Đội ơn Hoàng thượng đã khen ngợi!" — Nghi Dân rạp người kính cẩn cúi đầu tỏ vẻ hàm ơn trước lời tán dương của nhà vua.

Không ai nhìn ra một cái khẽ rùng mình của Thái hậu. Người có cảm giác đằng sau câu trả lời của Nghi Dân mang một ẩn ý sâu xa khác. Từng lời của người nói như đang chĩa mũi giáo vào kẻ đã gây nên "Oán thù" cho mình, mà người đó, không ai khác chính là vị mẫu nghi thiên hạ đang ngồi nhiếp chính sau bức rèm châu kia.

Không để Hoàng thượng có cơ hội kéo dài hơn nữa cuộc đối thoại với Lạng Sơn Vương, Thái hậu quay sang Khắc Xương và nói:

"Tân Bình Vương, về phần khanh thì sao?"

Đen lượt Khắc Xương đứng dậy, cung kính tâu lên:

"Thần tài mọn, tự cảm thấy mình không bằng huynh trưởng nhưng nếu được người hỏi, thần cũng xin đưa ra một lời khuyên, vốn là một câu nói của Đức Khổng Tử: "Dân chi ư nhân dã, thậm ư thủy hỏa. Thủy hỏa, ngô kiến đạo nhi tử giả by, vị kiến đạo nhân nhi tử giả dã." Có nghĩa rằng: "Dân chúng đối với đức nhân, rất cần hơn nước lửa. Nước lửa, ta thấy có người giẫm lên mà chết, chưa thấy người giẫm lên đức nhân mà chết".

Bang Cơ suy nghĩ một hồi rồi cất tiếng hỏi:

"Hoàng huynh giải thích rõ hơn xem!"

"Bẩm, chúng ta đều biết nước và lửa là hai yếu tố không thể thiếu của sự sống, vô cùng cần thiết cho dân chúng trong sinh hoạt. Thế nhưng, Đức Khổng Tử cho rằng có một điều còn quý giá và cần thiết hơn hai thứ đó, ấy chính là "Đức nhân". Không có đức nhân chủ trì có nghĩa là không có tình yêu thương giữa người với người, xã hội sẽ bạo loạn, dân chúng sẽ khổ sở khôn xiết. Như vậy, người cai trị dân chúng phải lấy đức nhân làm căn bản trong mọi hành động. ''Giẫm lên đức nhân" không phải là giẫm đạp, chà đạp mà ý của ngài là người trị vì dân chúng hãy xỏ vào chân mình một đôi giày "Đức nhân" để mang đi khắp nẻo đường".

"Vậy vế câu: "Nước lửa, ta thấy có người giẫm lên mà chết, chưa thấy người giẫm lên đức nhân mà chết" là ý làm sao?" — Nhà vua hiếu kỳ.

"Bẩm Hoàng thượng! Ý nghĩa của nó là: nước lửa tuy cần thiết nhưng đã có người giẫm lên nước bị chết đuối, giẫm lên lửa bị chết bỏng. Còn giẫm lên đức nhân, lấy đức nhân làm nền, đâu có ai chết bao giờ. Sâu xa hơn, Đức Khổng Tử muốn nói rằng nhà lãnh đạo nào lấy đức nhân cai trị còn được dân chúng lấy thân làm phên giậu che chở, vì thế mạng sống còn được bảo toàn lâu dài hơn nữa".

"Ra là vậy!" — Bang Cơ gật gù — "Thật sâu sắc, đáng để trẫm phải suy nghĩ!"

Thái hậu liếc nhìn thái độ của các quan trong triều, họ đều tỏ ra tâm đắc với câu trả lời của Tân Bình Vương. Đó là một đáp án xuất sắc, tỏ ra không hề thua kém trí tuệ của người huynh trưởng của mình, thật là một chín một mười khiến người ta khó lòng đưa ra quyết định ngay tức khắc.

Chỉ còn lại Bình Nguyên Vương, người nhỏ tuổi nhất trong số các Thân vương, thậm chí còn nhỏ tuổi hơn cả Hoàng thượng.

"Bình Nguyên Vương, khanh đã khuyên Hoàng thượng điều gì vậy?" — Thái hậu lên tiếng, chuyển hướng sự chú ý của bá quan trong triều.

"Phải, phải! Trẫm cũng muốn hỏi khanh điều đó! Chẳng phải trẫm đã nói rằng muốn được nghe những lời khuyên từ các khanh sao? Thay vì thế, tại sao khanh lại đặt ra cho trẫm một câu hỏi?" — Bang Cơ tỏ vẻ sốt sắng, vừa tò mò, vừa hồ nghi.

Phía dưới, các vị đại thần trở nên xôn xao, kẻ quay ra nhìn nhau, người liếc mắt về phía Tư Thành, lại có vị len lén nhìn lên nét mặt Thái hậu.

"Thưa Hoàng thượng, thần có thể mạn phép xin người đọc lên câu hỏi mà thần đã viết?" — Tư Thành đứng dậy, lễ phép tâu lên.

"Được thôi! Khanh đã viết: "Nhữ văn lục ngôn lục tế hỹ hồ?" Bởi câu khanh viết rất ngắn nên trẫm còn nhớ rõ!" — Nhà vua đọc to lên mà không cần phải nhìn lại tờ giấy đã viết.

"Bẩm Hoàng thượng, câu hỏi ấy nghĩa là: ''Người đã nghe về "Sáu đức" và "Sáu điều che lấp" chưa?" Vậy thần lại xin mạn phép được hỏi các vị ở đây, những người có phẩm hàm cao quý, đều là bậc danh tướng hoặc đại thần, hẳn các vị cũng từng được nghe về "Sáu đức" mà người học đạo quân tử luôn hướng tới ở đời?"

''Các khanh hãy mau trả lời câu hỏi của Bình Nguyên Vương!" — Hoàng thượng ra lệnh — ''Nhập nội hành khiển Đào Công Soạn, khanh thử nói xem!"

"Khải bẩm Hoàng thượng!" — Viên quan Hành khiển bước mấy bước ra đứng giữa đại điện, dõng dạc tâu lên — "Sáu đức ấy là: nhân, trí, tín, trực, dũng, cương."

''Nhập nội đô đốc Lê Ê, khanh có biết về sáu đức này không? Thử nói xem sao?" — Hoàng thượng chỉ về phía một viên quan khác thuộc hàng võ tướng.

''Khải bẩm, vi tướng kém cỏi chỉ là hạng võ biền [7] nhưng cũng xin nêu ra chút hiểu biết nông cạn của mình. Theo thần hiểu, đức nhân là tấm lòng tốt lành, đức trí là năng lực sáng suốt, đức tín là giữ lời đã hứa, đức trực là tính tình ngay thẳng, đức dũng là sự mạnh mẽ, đức cương là tính cứng rắn." — Lê Ê chắp hai tay trước mặt, giọng nói oang oang.

[7] Võ biền: là hai từ Việt gốc Hán "vũ biền" với nghĩa gốc là "mũ quan võ thời xưa". Nghĩa phát sinh của nó ám chỉ loại người chỉ có sức mạnh cơ bắp mà không có đầu óc. Thời phong kiến quan văn không thích quan võ và miệt thị giới võ quan là "võ biền."

''Những điều các vị đại thần nói đều đúng, đó là sáu đức mà những người bước vào đạo quân tử thường ưa thích, giữ mình tuân theo. Vậy còn "Sáu điều che lấp" mà khanh nhắc đến là gì?" — Nhà vua lại hỏi Tư Thành.

''Bẩm Hoàng thượng! Người ta thường chỉ chú ý đến sáu đức: nhân, trí, tín, trực, dũng, cương, cho rằng muốn trở thành người quân tử, nhất thiết phải có được sáu đức ấy, và ngược lại, khi sáu đức ấy tụ hội sẽ tạo nên một người quân tử chuẩn mực."

''Đúng! Nho giáo luôn đề cao những đức tính ấy, và trẫm cũng cho rằng dù không thể đạt tới điểm hoàn mỹ nhưng nhất thiết bản thân cần phải rèn luyện để có được sáu đức quý báu kia".

"Thưa, xin thứ lỗi cho thần nói thẳng!" — Bình Nguyên Vương mỉm cười, người biết bây giờ mới thật là lúc thích hợp để giãi bày hết ý tứ của mình — "Sáu đức ấy quan trọng nhưng điều càng quan trọng hơn chính là cái cách mà người ta hiểu về nó, học theo nó. vậy nên mới sinh ra sáu điều che lấp và làm hỏng sáu đức mà nếu không biết thì hậu quả của sự ưa thích sẽ dẫn đến nguy hiểm."

''Hãy nói rõ hơn đi!" — Bang Cơ nhoài người lên phía trước, chăm chú lắng nghe.

''Đức Khổng Tử nói: "Hiếu nhân, bất hiếu học, kỳ tế dã ngu" nghĩa là "Thích đức nhân mà chẳng thích học, điều che lấp là ngu muội". Nó giống như việc vì ngu muội, mù quáng mà đem tấm lòng tốt lành, tử tế của mình đi đối đãi với kẻ tàn nhẫn, xảo quyệt, ắt có ngày bị lường gạt, lợi dụng. Vậy chẳng phải là ngu muội chính là điều che lấp, làm hỏng đức nhân đó sao? Vì thế, cần phải học để biết cách thể hiện đức nhân một cách thích đáng trong từng trường hợp". "Đúng lắm!" — Vị vua trẻ reo lên thích thú.

"Tương tự như vậy, đức trí là năng lực sáng suốt, sự thông thái hơn người nhưng chính nó lại dễ khiến con người ta trở nên kiêu ngạo, khinh người và dễ nảy sinh hành động phóng túng. Đức tín giữ lời hứa để tạo niềm tin nơi mọi người nhưng nếu không học để biết cần phải dè dặt trong lời hứa thì dễ dẫn đến việc vướng vào những lời hứa làm tổn hại đến mình.

Người ưa thích đức trực là người ngay thẳng nhưng cũng chính những người này nếu thiếu sự hiểu biết lại thường mắc phải cái tật sỗ sàng, gắt gao khiến người khác phải ghét, như thế không thể hòa đồng với mọi người được. Đức dũng là sự mạnh mẽ, cần phải học để biết nên phát huy năng lực ấy ra sao, nếu mạnh mẽ quá mức, dẫn tới không biết kiểm soát bản thân, người ta sẽ trở thành kẻ phá rối, như một dòng nước lũ, lợi ít mà hại nhiều. Cuối cùng, đức cương là tính cứng rắn, cương quyết, Lão Tử có câu: "Thái cương tắc chiết" tức là "Cứng quá thì bị gãy", người cứng rắn thái quá dễ sinh ra ngông cuồng, bạo ngược, vì thế cần phải học để biết lúc nào cần cương, lúc nào cần nhu, ứng xử sao cho khôn khéo, hạn chế được sự tổn hại đến bản thân và mọi người".

''Ra là như vậy! Kể cả những điều được coi là tốt đẹp cũng sẽ trở nên có hại nếu ta không biết tiết che!" — Nhà vua tư lự suy xét.

''Câu nói đầy đủ của Đức Khổng Tử khi người dạy học trò về sáu đức và sáu điều che lấp là..." — Bình Nguyên Vương tiếp lời — "Hiếu nhân, bất hiếu học, kỳ tế dã ngu. Hiếu trí, bất hiếu học, kỳ tế dã đãng. Hiếu tín, bất hiếu học, kỳ tế dã tặc. Hiếu trực, bất hiếu học, kỳ tế dã giảo. Hiếu dũng, bất hiếu học, kỳ tế dã loạn. Hiếu cương, bất hiếu học, kỳ tế dã cuồng." Thích đức nhân mà chẳng thích học, điều che lấp là ngu muội. Thích đức trí mà chẳng thích học, điều che lấp là phóng túng. Thích đức tín mà chẳng thích học, điều che lấp là tốn hại. Thích đức trực mà chẳng thích học, điều che lấp là sỗ sàng. Thích đức dũng mà chẳng thích học, điều che lấp là phá rối. Thích đức cương mà chẳng thích học, điều che lấp là ngông cuồng. Như vậy, thưa Hoàng thượng, đối với một người muốn thực thi công lý, làm những việc lớn, điều hành đất nước, cai trị lòng dân, việc học là không thể lơ là, xem nhẹ. Hơn nữa, thần còn muốn nhấn mạnh với người rằng, không có điều gì thái quá mà còn giữ được sự tốt lành, kể cả những thứ mà thường ngày ta coi là tốt đẹp. Khi thiên hạ được xem là quá thái bình, dân chúng sẽ nảy sinh lười biếng, ỷ lại, khi quân đội được xem là quá hùng mạnh, binh sĩ sẽ nảy sinh kiêu căng, cuồng loạn. Sự thái bình và hùng mạnh ấy giống như một lớp vỏ che đậy sự mục ruỗng âm thầm đang xảy ra bên trong, sống trong vỏ bọc ảo tưởng, người ta dễ đánh mất cảnh giác, không biết trù bị cho mình, cho nên chỉ cần một biến cố nhỏ xảy ra cũng dễ khiến tất cả sụp đổ, đến lúc ấy mới xoay xở thì đã quá muộn. Là chủ quốc gia, người cần phải luôn mở to mắt để nhìn ra được những điều thái quá ấy bởi vì đằng sau nó sẽ tiềm ẩn sự bất ổn có thể gầy ra quả khôn lường".

Tư Thành vừa nói dứt câu, trong triều lại nổi lên những tiếng xầm xì bàn tán và cả tấm tắc ngợi khen của các vị văn võ bá quan, họ không giấu nổi sự kinh ngạc và thán phục dành cho Bình Nguyên Vương.

"Vậy vì sao khanh không nói rõ tất cả những điều đó ngay từ đầu mà lại dùng cách đặt câu hỏi cho Hoàng thượng?" — Thái hậu nói vọng ra từ sau bức rèm.

''Bẩm, thần không có ý làm trái với yêu cầu của Hoàng thượng nhưng lại nghĩ một câu nói dài dòng giống như dòng nước chảy đi, dễ dàng trôi mất, không kịp thấm vào lòng đất. Chi bằng, thần đặt ra một câu hỏi và kích thích người tự tìm ra câu trả lời trong đó. Con người bản tính vốn hiếu kỳ, đứng trước một ẩn số, khó lòng không nảy sinh ham muốn khám phá, tìm hiểu. Một chút thử thách không khiến con người ta vội nản chí, trái lại, khi đáp án được hé lộ, nó sẽ càng trở nên lý thú, dễ nhớ, như vậy mới khiến Hoàng thượng có thể ghi nhớ mãi trong lòng".

Bang Cơ vỗ hai bàn tay vào nhau để ngợi khen cho những lý lẽ sắc sảo của Bình Nguyên Vương. Dù luôn biết Tư Thành là một cậu bé thông minh nhưng người quả không ngờ Hoàng đệ của mình lại có thể bản lĩnh đến vậy.

"Hoàng thượng, người hẳn đã có được đáp án của mình về người chiến thắng vòng thi thứ nhất này rồi chứ?" — Thái hậu lên tiếng nhắc nhở mọi người về mục đích cuối cùng của màn đối đáp này.

"Với tư cách Thiên tử, trẫm sẽ không từ chối lời khuyên nào trong ba điều mà các Thân vương vừa nói. Do đó, trẫm không thể đánh giá được ai hơn ai. Trẫm chọn cả ba người!"

Tiếng xầm xì lại nổi lên, rõ ràng, Hoàng thượng trở nên rất kỳ lạ, không giống như đứa trẻ thường ngày vẫn ngoan ngoãn, im lặng ngồi nghe thiết triều. Hôm nay, người tỏ ra là một vị Hoàng đế có chính kiến rõ ràng, không chịu làm theo sự sắp xếp có sẵn của bất kỳ ai.

"Các khanh, sau khi nghe ba câu trả lời, trẫm muốn các khanh hãy tự chọn ra người khiến các khanh cảm thấy xứng đáng giành chiến thắng nhất! Hãy đến và đứng sau người các khanh lựa chọn!" — Nhà vua ướm hỏi các đại thần.

Bá quan văn võ trong triều lập tức chia làm ba nhóm với số lượng ngang ngửa nhau. Khắc Xương kín đáo liếc mắt đánh giá tình hình. Vậy là, dù câu trả lời của ba huynh đệ người thế nào thì trong lòng các vị đại thần kia vốn đã có sẵn đáp án về người chủ nhân mà họ ủng hộ.

"Thái hậu, phải chăng người cũng đã có quyết định của mình?" — Bang Cơ ướm hỏi Thái hậu.

''Ta không dùng nội dung các câu trả lời để đánh giá, bởi giống như Hoàng thượng đã nói, trên cương vị là một quân vương, cả ba lời khuyên dành cho người là hoàn toàn đúng đắn và xuất sắc, người cần phải thu nạp tất cả, chính vì thế không thể nói rằng ai hơn, ai kém. Điều mà ta dựa vào để đánh giá các khanh chính là các khanh đặt mình ở vị trí nào khi đưa ra lời khuyên với Hoàng thượng".

Ngưng một lát, Thái hậu mới tiếp tục:

''Lạng Sơn Vương!"

"Có thần!"

"Lời khanh nói rất xác đáng khiến Hoàng thượng vô cùng tâm đắc! Khanh đã đứng ở lập trường của ai để đưa ra lời khuyên ấy?"

"Thưa, thần luôn có suy nghĩ muốn khuyên nhủ một người, trước hết phải hiểu được tâm tư của người ấy, chính bởi vậy thần đã đứng ở lập trường của Hoàng thượng để suy nghĩ và đưa ra lời khuyên ấy!"

"Tân Bình Vương!"

''Muôn tâu, có thần!"

"Còn khanh thì sao?"

"Thưa, thần cho rằng quốc gia lấy dân chúng làm gốc rễ, giang sơn lấy bá tánh làm chuẩn mực, bởi thế thần mạo muội đưa ra lời khuyên nhủ Hoàng thượng khi bản thân tự xem mình là một thần dân bé nhỏ trong số hàng vạn con dân của người".

"Vậy Bình Nguyên Vương, khanh lấy tư cách gì để khuyên Hoàng thượng?"

"Thưa, khi đặt cho người câu hỏi, thần lấy tư cách là một người bạn. Khi yêu cầu người đọc nó lên và tìm lời giải đáp, thần lấy tư cách là một người thầy – Đến khi đáp án đã dần sáng tỏ, thần giải thích cặn kẽ lại cho người với tư cách là một quân sư. Trong cả quá trình ấy, thần lại tự coi mình là một bề tôi thân tín".

"Các khanh!" — Thái hậu tiếp lời — "Nên nhớ rằng, người đang yêu cầu các khanh lời khuyên là một vị vua, một nhà cai trị, cho nên, lập trường các khanh nên đứng, vị trí các khanh nên đặt mình vào không phải là Hoàng thượng, không phải là thần dân mà là những người thực thi luật pháp của người với dân chúng, mang nguyện vọng của dân chúng đến với người. Trữ cung là một người như thế, người ở cạnh Hoàng thượng, là bạn, là thầy, là quân sư nhưng không bao giờ được phép có hành động, suy nghĩ vượt ra khỏi giới hạn bề tôi, hay quá tách mình ra khỏi quyền lợi của Hoàng tộc".

Thái hậu dừng phe phẩy quạt, đứng lên, vén rèm bước ra, dõng dạc tuyên bố với bá quan:

''Chính vì lẽ đó, lựa chọn của ta là Bình Nguyên Vương!"

Hoàng đế không bác bỏ ai, văn võ bá quan trong triều lại chia làm ba phe ngang ngửa. Chính vì thế, lựa chọn của Hoàng thái hậu mang tính quyết định.

Vậy là vòng thi thứ nhất khép lại và người thắng cuộc là Tư Thành. Nhưng thay vì một chiến thắng gượng ép khi mà ai nấy đều biết Thái hậu và Hoàng thượng đều mong muốn điều dó xảy ra thì Bình Nguyên Vương đã xuất sắc khẳng định được mình là người hoàn toàn xứng với chiến thắng đó.

Chỉ còn hai vòng thi nữa, nếu Bình Nguyên Vương lại tiếp tục thể hiện được sự vượt trội thì ngôi vị kia sẽ thuộc về người trong sự tâm phục, khẩu phục của văn võ bá quan.

Hoàng thái hậu đã có một sắp xếp nho nhỏ để đảm bảo được điều ấy. Tuy là phần thi thứ nhất đã xảy ra một số chuyện ngoài tính toán như đề bài đã chuẩn bị trước bị Hoàng thượng bỏ qua, người cũng không ra mặt ủng hộ Hoàng đệ của mình nhưng may mà tất cả vẫn diễn ra suôn sẻ. Ở phần thi thứ hai Thái hậu càng chắc chắn sẽ không ai có thể gây trở ngại làm ảnh hưởng tới kết quả người mong muốn. Việc Bình Nguyên Vương trở thành Hoàng thái đệ đã hiển nhiên bày trước mắt.

Thái hậu giấu cái mỉm cười sau chiếc quạt, hạ lệnh cho đoàn người di chuyển ra trường đua.

.........

Chương 13

CHƯƠNG 4: ẨN

Thấy em gái cứ vuốt đi vuốt lại những nếp áo trên bộ trang phục của mình, Anh Vũ liền nắm lấy tay Ngọc Huyên, cúi xuống, nhìn vào đôi mắt đầy lo lắng của nàng, tìm lời dịu dàng nhất để trấn an:

"Đừng lo, Ngọc Huyên! Anh sẽ làm được, nhất định không phụ sự mong mỏi của lệnh bà và Điện hạ! Hơn nữa..." — Vũ ngập ngừng giây lát — "Chưa chắc Điện hạ đã cần đến sự giúp đỡ của anh. Thái bảo đại nhân đã chẳng nói rằng chỉ cần thắng hai trong ba phần thi sẽ là người chiến thắng chung cuộc đó sao? Chúng ta hãy chờ tin tốt từ Hoàng cung!"

Ngọc Huyên khẽ gật đầu, cố gắng nặn ra một nụ cười để làm an lòng huynh trưởng. Trong thâm tâm nàng cũng có cùng suy nghĩ với Anh Vũ nhưng không hiểu sao lòng vẫn nóng như lửa đốt. Thời gian cùng Bình Nguyên Vương tới Kinh Diên luyện chữ, nàng đã được biết về tài năng của các Hoàng thân và con cái những gia đình quyền quý, ai ai cũng tỏ ra thông minh, sáng dạ, nhất là hai vị Hoàng huynh của Bình Nguyên Vương, xét về tuổi tác, Tư Thành còn nhỏ hơn họ, xét về tư chất, cả ba người đều được thầy giáo hết lòng ngợi khen là xuất chúng, xưa nay hiếm thấy, bên tám lạng, người nửa cân, khó mà phân định được ai tài giỏi hơn ai.

Tiếng mõ văng vẳng vọng ra từ nhà lớn, nơi Thái phi cùng những người phụ nữ trong phủ đang chăm chú tụng kinh niệm Phật, thành tâm cầu nguyện để Bình Nguyên Vương có thể vượt qua được thử thách này.

Ai cũng muốn làm một điều gì đấy có ích, chí ít là trên phương diện tinh thần, chỉ có Ngọc Huyên là cảm thấy mình vô dụng, thậm chí nàng còn chẳng đủ bình tâm để cùng ngồi xuống tụng những bài kinh tốt lành kia.

Đúng lúc ấy, tin tức từ trong cung truyền tới, người quản gia dắt người đưa tin vào giữa sân lớn, vui mừng nói lớn cho mọi người cùng được biết:

"Bình Nguyên phủ có tin tốt lành!"

Người lớn, người nhỏ, người già, người trẻ, đàn ông, đàn bà, ai nấy đều bỏ dở việc đang làm, chạy ùa tới, lao nhao hỏi:

"Có tin tốt lành! Điện hạ đã chiến thắng sao?"

Phạm phu nhân đỡ Ngô Thái phi đứng dậy, đám người làm thấy chủ nhân bước tới liền dạt cả sang hai bên nhường lối cho người đi. Trông thấy Thái phi, người đàn ông nọ mới quỳ xuống hành lễ, chắp tay mà tâu:

"Thưa lệnh bà, hết phần thi thứ nhất tứ Vương gia được đích thân Hoàng thái hậu điện hạ chọn là người chiến thắng, văn võ bá quan cùng các vị Vương gia khác đều phải tâm phục khẩu phục trước kết quả đó! Nội tình thế nào, xin hãy đợi tới khi Thái bảo đại nhân về để hỏi rõ! Đại nhân lo lệnh bà nóng ruột nên đã sai nô tài chạy về đây bẩm báo. Bây giờ nô tài phải mau chóng quay lại trường thi, chắc giờ phần thi thứ hai đã bắt đầu!"

"Chẳng hay phần thi thứ hai là gì?" — Bà nhỏ nhẹ hỏi.

"Thưa, là thi bắn cung trên lưng ngựa ạ!"

Những tiếng xì xào lại rộ lên. Người trong Bình Nguyên phủ ai ai cũng biết hai món mà Tư Thành thành thục nhất chính là bắn cung và cưỡi ngựa bởi người cùng Anh Vũ vốn được đích thân Đinh Thái bảo dốc lòng kèm cặp. Chẳng thế mà người ta vẫn thường nói đùa rằng Bình Nguyên Vưcrng biết cưỡi ngựa trước cả tập đi.

''Vậy là chắc thắng rồi!" — Một người không kìm được sung sướng reo lên khe khẽ.

"Lão Đại, đừng nói trước điều gì!" — Ngô Thái phi lên tiếng nhắc nhở gia thần, đoạn người lại quay ra nói với người đưa tin: "Ngươi mau quay trở lại bên đại nhân kẻo trễ!"

"Nô tài xin đi trước!" — Người đàn ông khấu đầu vội vã rút lui.

"Nghe thấy không Ngọc Huyên!" — Anh Vũ quay sang nhìn nàng, mỉm cười rạng rỡ — "Anh chẳng đã nói với em rằng Điện hạ sẽ dễ dàng giành được chiến thắng sao? Phần thi thứ hai này chắc chắn người cũng sẽ không thể thua! Anh theo Điện hạ từ nhỏ nên rất hiểu tài nghệ cưỡi ngựa dùng cung của người ở tuổi đó khó ai sánh kịp!"

Ngọc Huyên thở phào nhẹ nhõm.

"Thật là may! Nếu không thì anh cũng không biết mình có gánh vác nổi trọng trách này không nữa! cầu trời cầu Phật để mọi việc diễn ra suôn sẻ, không phải dùng đến phần thi thứ tư để phân định thắng thua!" — Anh Vũ chắp hai tay vào nhau, ngửa mặt lên trời cầu khẩn.

Trong thâm tâm Vũ đã sớm tin rằng chiến thắng của Bình Nguyên Vương dường như đã ở ngay trước mắt.

Đề bài của phần thi thứ hai đã được công bố là cưỡi ngựa và bắn cung. Nhưng đến khi chiếc khăn phủ được lật lên để lộ ra vũ khí mà ba vị Hoàng thân sẽ dùng trong thi đấu, tất cả đều không khỏi kinh ngạc.

Thái hậu giấu nụ cười đắc thắng trong một cái nhếch mép rất nhẹ, liếc mắt về phía viên Nội quan thị hậu chánh trưởng ra hiệu cho hắn tiếp tục công việc của mình.

"Hẳn các vị đều từng nghe về giai thoại chiếc nỏ thần mỗi phát bắn được hàng trăm mũi tên do Tướng quân Cao Lỗ làm từ móng thần Kim Quy trong thời Thục Phán An Dương Vương và đặt tên là "Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ" [1]. Đương thời, đây chính là thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc, giúp An Dương Vương nhiều lần đánh tan quân Nam Việt, khiến Triệu Vũ Đế [2] phải xin cầu hòa." Viên Nội quan nâng chiếc nỏ lên và nói — "Trong thực tế, Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ do tướng quân Cao Lỗ làm ra là loại nỏ một phát bắn được nhiều mũi tên, đầu các mũi tên lại được bọc đồng nên có độ sát thương lớn khiến quân địch thương vong vô số, hàng ngũ rối loạn, kẻ chết, kẻ bỏ chạy giữ thân, chẳng mấy chốc mà tan tác, quân đội không còn sức chiến đấu! Đáng tiếc, Thục Phán An Dương Vương tuy có thể đánh tan được thù ngoài nhưng lại không phòng được giặc trong! Sau khi nhận lời cầu thân của Triệu Vũ Đế, cho phép Trọng Thủy được kết duyên cùng con gái mình là Mỵ Châu, chẳng bao lâu sau, bí mật về chiếc nỏ, loại vũ khí đã giúp Âu Lạc đứng vững trước sự xâm lăng của quân thù, đã bị Trọng Thủy đánh cắp mang về. Âu Lạc thất thủ trước quân Nam Việt, An Dương Vương tự tay trảm con rồi trầm mình xuống biển. Rồi nhiều năm sau, khi Nam Việt bị nhà Hán ở phía Bắc thôn tính, chiếc nỏ và kĩ thuật làm ra nó cũng bị thất truyền."

[1] Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ: Có rất nhiều sách và nguồn ghi chép khi nhắc về tích An Dương Vương và nỏ thần nước Âu Lạc đều gọi nó là "nỏ thần Liên Châu". Tuy nhiên, Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ của tướng quân Cao Lỗ và nỏ liên châu do Khổng Minh Gia cát Lượng chế ra là hai chiếc nỏ khác nhau và có lẽ công dụng của chúng cũng khác nhau.

[2] Triệu Vũ Đế: Tức Triệu Đà

"Một chiếc nỏ không làm nên thần thánh!" — Thái hậu lên tiếng — "Mà bí quyết làm ra và sử dụng nó mới khiến cho thần thánh phải đứng về phía chúng ta! Tuy những chiếc nỏ trước mặt các khanh không phải là loại nỏ thần diệu một phát bắn được nhiều mũi tên như Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ nhưng so với dùng cung, dùng nỏ trong thực chiến giúp cho người sử dụng chỉ cần dùng một tay vẫn có thể ngắm bắn chính xác. Đối với kỵ binh, là những binh sĩ chiến đấu trên lưng ngựa, loại vũ khí này tạo ra một lợi thế rất lớn khi vừa có thể cầm cương khiển ngựa, vừa nhắm bắn kẻ thù. Vì thế ta đã quyết định đổi loại cung bắn thông thường thay bằng loại vũ khí này trong phần thi thứ hai của các Thân vương!"

"Như vậy có phải là đã làm mất đi tính công bằng hay không, thưa Thái hậu bệ hạ?" — Nhập nội thái úy Lê Lăng lên tiếng tỏ ý phản đối. Tuy không nói thẳng ra nhưng ai cũng biết "Tính công bằng" mà Lê Thái úy nói đến là ám chỉ việc thầy dạy võ của Bình Nguyên Vương chính là Đinh Thái bảo, người từng là vị võ tướng uy dũng khi xông pha trận mạc, những vũ khí dùng trong thực chiến như gươm, đao, cung, kiếm và kể cả loại nỏ kia, chắc chắn Tư Thành đã được Thái bảo đại nhân này truyền dạy, trong khi đó Lạng Sơn Vương và Tân Bình Vương chỉ được học về những loại vũ khí cơ bản.

"Sự công bằng mà khanh nói chắc hẳn có liên quan đến sự hậu thuẫn mà tứ Vương gia có được?" — Thái hậu đọc ra ý nghĩ của Lê Thái úy — "Xuất thân là một trong những thứ con người ta không thể tự mình lựa chọn. Sự ưu ái của số mệnh sẽ quyết định người vinh quang và kẻ tầm thường, giống như việc Hoàng thượng sinh ra để làm Thiên tử trong khi những đứa trẻ khác mãi chỉ là kẻ bề tôi, trong trường hợp này, "công bằng" mà khanh nói đến có phải là đã có chút mạo phạm không?"

"Bẩm, thần thật không có ý đó!" — Lê Lăng bối rối.

"Ta biết khanh không có ý đó, càng không có ý trách móc gì khanh! Nhưng tiện nhắc tới hai chữ "công bằng", ta cảm thấy hậu thuẫn là một điều quan trọng mà người làm chính trị cần phải có, chẳng phải thông qua sự lựa chọn của chính các khanh về người thắng cuộc trong phần thi thứ nhất, tất cả chúng ta đều đã thấy rõ rằng các khanh ủng hộ ai trong ba vị Thân vương đây sao? Các khanh hãy làm đúng phận sự của mình, đừng băn khoăn về hậu thuẫn của người khác!"

Lời Thái hậu nói chẳng khác nào đang cảnh cáo những kẻ thuộc phe cánh chống đối mình. Thái hậu biết rằng chừng nào người còn là Nhiếp chính Hoàng thái hậu thì chừng đó những kẻ có ý bất tuân theo sẽ không thể có chỗ đứng trong triều đình này.

Nhưng thời điểm Hoàng thượng có thể tự mình chấp chính đang đến rất gần, đây chính là thời cơ tốt để những phe phái không vừa mắt với Thái hậu ngoi lên. Trước khi ngày đó đến, địa vị và sức ảnh hưởng của người trong triều cần phải được củng cố bằng ngôi vị Trữ cung mà không ai khác ngoài Bình Nguyên Vương được phép ngồi vào, nếu không, sớm muộn gì Thái hậu cũng sẽ bị đẩy lùi vào Hậu cung, chấp nhận sống một cuộc đời mờ nhạt và an phận như hầu hết các vị "mẫu nghi thiên hạ" của những triều đại trước.

"Để gạt bỏ đi những suy diễn vô lý của các khanh, ta có thể nói cho các khanh biết lý do khiến ta buộc phải thay đổi loại cung bắn chính là vì sự an nguy của các Thân vương. Các khanh thử nghĩ xem, tuy các Thân vương đều tài năng hơn người, thành thục cưỡi ngựa nhưng tuổi trẻ thường ham mê chiến thắng, nếu vì mải mê ngắm đích trong lúc bắn mà buông dây cương quá lâu, chẳng may ngã ngựa thì hậu quả thật khôn lường, cho nên với loại vũ khí này, các Thân vương có thể sử dụng ngựa một cách an toàn hơn. Đã biết như vậy, nếu ai còn cho rằng đổi vũ khí là không công bằng thì cứ việc đứng ra phía trước, nếu quá nửa đồng ý với ý kiến đó, ta sẽ để cuộc thi đấu được diễn ra với loại cung thông thường. Nhưng một khi các Thân vương gặp phải chuyện gì không may ảnh hưởng tới thân thể thì những người đó sẽ phải chịu trách nhiệm trước Hoàng thượng và ta!"

Thái hậu dứt lời, các vị đại thần quay ra nhìn nhau, không giấu được sự phân vân, chờ đợi một người đầu tiên bước ra nhưng không có ai cả. Họ làm sao dám đưa đầu mình ra để đảm bảo rằng trong lúc thi đấu, ba vị Hoàng thân tuổi còn niên thiếu kia không vì chút sơ sẩy hoặc mê mải mà xảy ra sát thương ngoài mong muốn. Rốt cuộc, trong vụ cá cược này, Thái hậu đã chiến thắng bằng một đòn tâm lý không dễ đối phó.

Cơn đau ập đến, bất ngờ và quằn quại khiến Anh Vũ tái mét mặt, đổ mồ hôi lạnh khắp người. Vũ co gập người lại để giảm bớt những hồi thúc như muốn đâm thủng bụng mình từ bên trong.

"Anh, chuyện gì thế?" — Ngọc Huyên chạy vội tới đỡ lấy Anh Vũ, lo lắng đến cuống lên.

"Đau... bụng anh đau quá!" — Vũ thều thào.

"Để em gọi người tới giúp!" — Ngọc Huyên đỡ Anh Vũ nằm lên giường, toan chạy đi thì Vũ đột ngột giữ chặt lấy tay nàng, ánh mắt nhìn nàng hoang mang cực độ.

"Việc của Điện hạ phải tính sao đây?"

"Anh đừng nói nữa kẻo lại càng đau hơn!" — Nàng cố gắng trấn an Anh Vũ — "Phải tìm cách chữa trị cho anh đã, những việc khác anh... đừng nghĩ đến nữa!"

Nói rồi, nàng buông tay ra, chạy đi cầu cứu những người lớn trong phủ. Trong lòng Ngọc Huyên bỗng hoang mang cực độ, mọi thứ dường như đang rất suôn sẻ, bỗng hóa thành nắm tơ vò rối bời mà những tin xấu lại dồn dập xảy đến một lúc khiến người ta càng thêm có dự cảm bất an.

Ba cột đích bắn tạo thành ba đỉnh tam giác đều nằm ở tâm đường tròn có đường kính mười trượng được rải đầy đá dăm để ngựa không thể giẫm vào. Mỗi cột được buộc một dải lụa màu khác nhau để phân biệt: màu trắng của Lạng Sơn Vương, màu lục của Tân Bình Vương và màu đen của Bình Nguyên Vương. Bên ngoài khu vực đá dăm là đường đua của ba vị Hoàng thân.

"Mỗi vị phải hoàn thành ba vòng đua, dùng chiếc nỏ đã lắp sẵn tên lấy ở vạch đích mỗi vòng để bắn vào cột đã được đánh dấu bằng màu của mình! Thời gian cho mỗi vòng đua là một hồi trống, hồi trống kết thúc mà ngựa chưa về đích thì sẽ bị trừ đi một mũi tên trên cột khi tính điểm cuối cùng". — Viên Nội quan dõng dạc giải thích về luật thi cho ba vị Thân vương cùng đám quan văn võ nghe trước khi ba người bưốc vào vị trí.

Bình Nguyên Vương là người mở đầu, dù áy náy với các Hoàng huynh bởi có lợi thế hơn họ, người cũng không vì thế mà thiếu cố gắng để giành lấy chiến thắng. Ba mũi tên trúng đích là kết quả không thể xuất sắc hơn khiến các đại thần trầm trồ thán phục, còn Thái hậu và Hoàng thượng thì khỏi nói hài lòng ra sao.

Đen lượt Tân Bình Vương, dù cũng được biết về loại vũ khí này nhưng vốn chỉ là bài giảng qua loa khiến người đã không thực sự chú tâm tới nó. Ai cũng biết đây là thứ vũ khí chỉ dùng trong thực chiến, một lần giương lên có thể bắn ra cùng lúc nhiều mũi tên để giết chết kẻ thù đang xông tới. Nhưng là một Hoàng thân, người chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có lúc mình phải cầm đến nó. Thứ mà thầy giáo chuyên tâm dạy người chỉ là loại cung thông thường mà những người trong Hoàng thất vẫn dùng để thỏa mãn thú vui mỗi khi mùa săn bắn tới. Tuy khoảng cách từ chỗ người đang đứng tới tâm bắn là không xa nhưng để vừa điều khiển ngựa, vừa sử dụng loại nỏ vốn không hề quen tay này, Khắc Xương đã không thể làm tốt được như Tư Thành. Chỉ hai trên ba mũi tên trúng đích là kết quả mà Tân Bình Vương đã đạt được, tuy là không tệ nhưng cũng chẳng đủ để giành được chiến thắng.

Lạng Sơn Vương là người cuối cùng thi đấu. Cũng giống như Khắc Xương, người không hề được chuẩn bị tâm lý để sử dụng một loại vũ khí không thông dụng trong thi đấu. Ngôi vị kia ngay từ đầu Thái hậu đã nhắm tới Tư Thành, và cuộc thi này chẳng qua là một cái cớ để hợp thức lựa chọn đầy thiên vị ấy của Thái hậu. Nhưng Nghi Dân không giống như nhị đệ hiền lành của mình, chỉ biết nỗ lực hết sức một cách mù quáng, người đã có trong đầu một kế hoạch khác cho tất cả. Và cho đến bây giờ, mọi việc vẫn đang đi theo đúng hướng mà người mong muốn.

"Cứ chờ xem, sẽ có một màn kịch hay đây!" — Lạng Sơn Vương giấu ý nghĩ ấy trong lòng, giật cương thúc ngựa chạy tới, bắt đầu phần thi của mình.

Chiếc nỏ thứ nhất được giật khỏi tay tên nô tài, khoảng cách tới đích bắn là năm trượng, hồi trống đã nổi lên, thúc giục Nghi Dân phải nhanh chóng bắn tên và phi về đích trước khi âm thanh đó kết thúc.

"Phập!" — Mũi tên thứ nhất lao vút đi, găm trúng đích. Nhưng không may, nó lại là cột đích buộc dải lụa màu lục chứ không phải màu trắng của Lạng Sơn Vương.

Nghi Dân quẳng chiếc nỏ xuống đất, quất ngựa lao về đích, giật lấy chiếc thứ hai và nhắm bắn.

Viên thái giám vẫy cờ đỏ, lượt bắn thứ hai đã trượt. Vậy là với một mũi tên găm vào đích của người khác, một mũi tên bắn trượt, Lạng Sơn Vương có vẻ như đã hoàn toàn thua cuộc, không cần phải tiếp tục cuộc thi bởi kết quả đã rõ mười mươi. Vậy mà người vẫn không chịu từ bỏ, giành lấy chiếc nỏ thứ ba, cẩn trọng ngắm đích như thể toàn bộ quyết định sẽ nằm ở phát bắn này chứ không phải mọi việc đã an bài.

"Phập!" — Cờ vàng vẫy lên, mũi tên trúng đích nhưng cũng giống như lượt bắn đầu tiên, nó găm thẳng vào cột buộc lụa xanh của Tân Bình Vương.

Từ trên lưng ngựa, Nghi Dân thấy Thái hậu đứng bật dậy, không giống như cái vẻ điềm tĩnh thường thấy.

"Cuối cùng thì cũng phát hiện ra rồi sao!" — Người mỉm cười đắc thắng, không giống với tâm trạng của một kẻ thua cuộc, phóng ngựa về đích trước khi hồi trống kịp dứt.

''Công tử đây bị trúng độc nhẹ!" — Thầy lang đưa ra kết luận sau khi đã cẩn thận bắt mạch.

"Có gì nguy hiểm không?" — Thái phi lo lắng hỏi lại.

''Thưa, không có gì nguy hiểm đến tính mạng! Nhưng vì độc tính vẫn nằm trong người nên ngoài việc uống thuốc giải độc như kê đơn, người bệnh cần phải nằm yên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng khoảng một ngày. Chất độc sẽ theo mồ hôi và đường bài tiết thoát ra ngoài, đến lúc đó là có thể hoàn toàn yên tâm!"

"Vậy cuộc thi..."

Anh Vũ cố gắng lên tiếng nhưng Thái phi đã trấn an:

"Con đã nghe rồi đấy, hiện giờ việc quan trọng nhất là phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng! Những việc khác ta tự khắc biết cách sắp xếp!"

Nói rồi người quay lại ra hiệu cho một cô bé đứng gần đó:

"Mai Hương, con theo lang trung đây về tiệm bốc thuốc, nhớ gửi tiền người cẩn thận!"

"Dạ vâng, thưa lệnh bà!" — cô bé đáp, rồi cùng vị thầy lang bước ra khỏi phòng.

Đúng lúc đó, bên ngoài có tiếng người hối thúc:

"Thưa lệnh bà, nếu không khởi hành bây giờ e là trễ mất!"

Thái phi vén màn nhìn ra, xe ngựa đã chuẩn bị xong xuôi, có lẽ giờ này phần thi đấu thứ ba đã bắt đầu, không rõ mọi việc có thể thuận lợi diễn ra không. Ngọc Huyên đưa mắt nhìn người, rồi lại nhìn huynh trưởng đang đổ bệnh trên giường, lòng nàng rối bời.

"Thưa lệnh bà, hãy để con đi thay Anh Vũ!" — Một đứa trẻ khác lên tiếng.

Thái phi ngoái lại nhìn, nhận ra nó là Đại Phúc, một trong hai thị đồng của Bình Nguyên Vương. So với Anh Vũ tuy không xuất sắc bằng nhưng Phúc cũng là một đứa sáng dạ, đọc thông viết thạo, cư xử lễ phép, lại cũng từng theo Tư Thành đến lớp, nề nếp, quy tắc cư xử với những người có tước vị, phẩm hàm thế nào hẳn nó cũng được dạy dỗ cẩn thận. Đây đúng là một lời gợi ý hợp tình, hợp lý vào lúc này.

Không còn lựa chọn nào tốt hơn, Thái phi gật đầu chấp thuận:

"Con mau thay quần áo tươm tất, để ta nói người lớn chuẩn bị cho con!"

"Thưa lệnh bà!" — Đại Phúc khẩn khoản van nài — ''Xin cho Ngọc Huyên cùng đi theo được không ạ? Trên đường đi có em ấy cùng ôn lại sẽ không vì quá run mà quên mất!"

Thái phi thấy lời của Đại Phúc nói cũng có lý, lại nhìn vào ánh mắt sáng rỡ đầy trông đợi của Ngọc Huyên, liền gật đầu ưng thuận.

"Hai người hãy cố gắng làm cho tốt nhé!" — Anh Vũ gắng sức dặn dò một câu trước khi hai đứa trẻ được người lớn bế lên xe ngựa, chuẩn bị nhập cung.

"Phải chú ý cử chỉ, lời nói nghe con!" — Phạm phu nhân cẩn thận dặn với theo.

''Bẩm Thái hậu bệ hạ, chuyện này là..." — Viên Nội quan lộ rõ vẻ bối rối khi nhìn vào kết quả của cuộc thi, không biết phải kết luận người chiến thắng như thế nào khi trên cột thắt lụa xanh của Khắc Xương có tới bốn mũi tên, nhiều hơn Tư Thành một điểm nhưng hai trong số đó lại được bắa ra từ Nghi Dân.

''Tất nhiên người thắng cuộc là Bình Nguyên Vương! Tất cả các khanh đều trông thấy rõ, chỉ có Bình Nguyên Vương là người cả ba lần bắn trúng đích!"

"Thưa!" — Nghi Dân lên tiếng — "Thánh mẫu Hoàng Thái hậu bệ hạ hẳn chưa quên luật thi? Thần ghi nhớ rất rõ rằng điểm được tính dựa trên số mũi tên cắm trên cột đích, không phân biệt là của ai bắn vào!"

Thái hậu thực sự lúng túng bởi không thể ngờ được rằng Nghi Dân đã tình nguyện hi sinh kết quả lần thi thứ hai để đoạt lấy chiến thắng từ tay Tư Thành về cho Khắc Xương.

"Có vẻ như khanh đã cố tình bắn trúng cột đích của Tân Bình Vương!"

"Thưa, người đã đề cao thần rồi! Chỉ là do thần kém cỏi nên đã sẩy tay nhưng cũng không nên vì thế mà phủ nhận chiến thắng của nhị Vương gia!"

"Ta không chấp nhận kết quả ấy! Đó rõ ràng là hành vi cố tình phạm luật, khanh đã dựa vào tình cảm cá nhân để hậu thuẫn cho Tân Bình Vương, gây bất lợi đối với Bình Nguyên Vương!"

"Thưa! Nếu thần nhớ không nhầm thì vừa mới đây thôi người chẳng đã nói rõ ràng rằng "hậu thuẫn là một điều quan trọng mà người làm chính trị cần phải có". Cuộc thi này là chính trị, ngôi vị kia là chính trị, vậy thì nếu như vì có được hậu thuẫn mà Tân Bình Vương giành được số điểm cao hơn thì như lời người đã nói, Hoàng đệ hoàn toàn đủ tư cách để là người thắng cuộc!" — Nghi Dân điềm tĩnh trả lời.

Lạng Sơn Vương rõ ràng đã chuẩn bị cho tình huống này, còn Thái hậu thì không, vì vậy mà trong chốc lát người không thể tìm ra được cách phản biện. Mọi thứ không còn nằm trong vòng kiểm soát của Thái hậu, Nghi Dân quá tinh ranh còn người lại quá xem thường đối thủ.

Lạng Sơn Vương đã để lộ quyết tâm không nhân nhượng trước Thái hậu nhưng chẳng nhẽ người đó thực lòng muốn nhường ngôi vị kia cho Hoàng đệ của mình sao? Điều này khiến Thái hậu không khỏi cảm thấy khó hiểu.

Nhưng trước mắt, kết quả của phần thi thứ hai vẫn phải công bố, không may là dường như các đại thần đều cảm thấy những lời của Lạng Sơn Vương là xác đáng. Thái hậu dù thế nào đi chăng nữa cũng không thể khăng khăng giữ lập trường của mình mà không đoái hoài gì đến suy nghĩ, thái độ của các vị quan văn võ trong triều, nhất là khi những lời mà Nghi Dân dùng để biện minh lại vốn do chính Thái hậu tự mình nói ra mới cách đấy không bao lâu.

Tin báo từ Hoàng cung về kết quả không như ý ấy truyền tới Bình Nguyên phủ chưa được nửa tuần hương thì lại thêm chuyện Anh Vũ trúng độc khiến Vương phủ náo loạn. Mọi việc bỗng trở nên kém suôn sẻ với Bình Nguyên Vương hơn lúc nào hết.

Gia thần mà đích thân ba vị Thân vương chỉ định tới tham dự phần thi thứ tư nếu như sau ba vòng thi chưa phân định nổi người chiến thắng được lệnh phải nhập cung trước giờ Mùi. Không đợi phần thi thứ ba bắt đầu, Đại Phúc và Ngọc Huyên vội vàng được đưa lên xe rời khỏi Bình Nguyên phủ để kịp giờ tiến cung. Trên cả quãng đường đi, nàng thầm cầu trời khấn Phật để Tư Thành có thể giành được chiến thắng ở phần thi thứ ba, chỉ có như vậy mới không xảy ra một phần thi nữa khiến cho chủ nhân ngôi vị cao quý kia, trớ trêu thay, lại được quyết định bằng cuộc so tài của những đứa trẻ ngây thơ vốn chẳng can hệ gì đến Hoàng thất và những phe phái trong triều đình.

Chương 14

CHƯƠNG 5: LỘ

Tư Thành không giành được chiến thắng trong phần thi thứ hai.

Nấu sau khi ba phần thi, vị trí người thắng cuộc chưa được định đoạt, phần thi thứ tư sẽ mang ý nghĩa quyết định.

"Người thi đấu không phải là các Thân vương mà lại là người hầu cận ư?"— Đám trẻ con trong phủ cùng há hốc mồm sửng sốt.

"Giống như đám cỏ dưới gốc cây cổ thụ, nhờ được tán cây che chắn mà mới xanh tươi mượt mà, ý nghĩa của phần thi này cũng như vậy, là muốn kiểm chứng xem một người khi tự nhận mình là kẻ học đạo quân tử thì những người thân cận xung quanh có được cái "khí" thanh cao của người ấy thấm vào chút nào không?" — Tư Thành chậm rãi giải thích.

"Vậy thì bọn em sẽ thi những gì?" — Một đứa trong bọn nhanh nhảu thắc mắc.

"Ta cũng chưa biết! Có lẽ là muốn xem các em có phải là những đứa trẻ biết phép tắc không, có được giáo dục tốt không?"

"Có khi nào bắt bọn em thử viết chữ và đọc thơ không nhỉ?" — Một đứa khác e dè đề cập đến.

"Có thể lắm chứ!" — Người khẽ nhún vai — "Tóm lại, thắng thua của ta đều do các em quyết định!"

Bọn trẻ nhớn nhác nhìn nhau, tỏ vẻ e ngại trước trọng trách quá lớn mà Bình Nguyên Vương vừa đặt lên vai chúng. Chúng không dám tin ngôi vị cao quý thứ hai ở đất nước này lại do chính mình quyết định, ý tưởng ấy khiến chúng vừa có chút vênh vang khoái chí nhưng phần nhiều là hoang mang, căng thẳng.

"Các vị Vương gia khác cũng chọn ra một người thân cận để dự thi sao?"

"Đúng thế! Nam nhân, tuổi từ mười tới mười bốn!'' — Bình Nguyên Vương trả lời, đồng thời hỏi lại chúng — ''Vậy ai dám đứng ra lãnh trọng trách này?"

Cả đám chẳng cần phải suy nghĩ lâu, lập tức đồng loạt chỉ tay về phía Anh Vũ. Điều này Tư Thành cũng đã đoán biết trước nhưng vẫn muốn ra chiều hội ý với đám trẻ trong phủ trước khi quyết định.

"Anh Vũ, em có sẵn sàng không?"

''Em sẽ dốc sức!" — Vũ đáp không chút lưỡng lự.

"Tốt lắm, cứ quyết định như vậy đi!"

Đó là câu chuyện mới một tuần trước của bọn trẻ. Khi nói với chúng những điều ấy, Bình Nguyên Vương vốn nghĩ sẽ làm hết sức để tự mình chiến thắng cuộc thi, không để Anh Vũ phải gánh vác trọng trách khó khăn ấy.

Nhưng thế cục đang dần xoay chuyển theo hướng không có lợi cho người khi mà Tư Thành nhận ra trong cuộc thi này người có phần đơn độc hơn hai Hoàng huynh.

Chỉ còn một phần thi nữa, nếu không thể kết thúc bằng một chiến thắng, hoặc là người sẽ thua cuộc, hoặc là Anh Vũ sẽ phải đảm đương phần khó khăn nhất như những gì mà người đã chủ quan không lường đến.

Nhưng Bình Nguyên Vương sẽ càng bất ngờ hơn nếu biết người đang trên đường nhập cung không phải Anh Vũ mà là một đứa trẻ khác.

Đại Phúc ngọ ngoạy không yên, nó chưa từng nghĩ có ngày mình sẽ được ngồi trên chiếc xe tứ mã vốn chỉ dành cho quan lớn trong triều như Thái bảo đại nhân. Thùng xe rộng thênh thang, tứ bề trang trí bằng loại gấm cao cấp, lại có cả đệm lót rất êm để dù ngựa có phi nhanh người ngồi bên trong cũng không hề cảm thấy xóc. Phúc đã thầm nghĩ nếu không phải nhờ đảm trách một việc đại sự thì có lẽ cả đời nó sẽ chẳng bao giờ có được cái vinh dự này.

"Huyên này!" — Nó lên tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ miên man của Ngọc Huyên.

"Vâng!" — Nàng thôi nhìn ra bên ngoài, thả tấm mành cửa xuống, quay lại nhìn nó đáp.

''Tôi... run quá!" — Mặt Phúc méo xệch, tai đỏ ửng lên, ấp úng mãi không nên lời.

"Đừng run!" — Nàng vội nắm chặt lấy hai bàn tay nó, giọng quả quyết — "Chắc chắn anh sẽ làm tốt! Cứ làm giống như những gì chúng ta đã được dạy dỗ!"

"Chuyện này hoang đường quá!" Phúc nói như sắp khóc "Tại sao lại để những kẻ thấp kém và thất học như chúng ta can dự vào chuyện trọng đại này? Tôi phải làm sao đây? Nếu như không làm được thì làm sao tôi dám quay về Vương phủ nữa!"

"Kể cả có như thế cũng không ai trách anh cả! Mọi người đều hiểu anh đã làm hết sức!"

"Không được đâu Huyên! Tôi không làm được!"

''Đại Phúc!" — Ngọc Huyên kêu lên vô vọng — "Giờ phút này anh không thể thối lui được!"

"Huyên này! Hay là... Huyên hãy thay tôi làm điều này?" Đại Phúc gợi ý.

"Anh nói gì vậy? Tôi là nữ nhi mà! Nếu không phải thế thì tôi sẽ chẳng từ nan đâu!"

"Vậy chỉ cần không phải nữ nhi là được!" — Nó tỏ ra hăm hở, khác hẳn thằng nhóc run sợ đến mức có thể khóc rống lên mới đây — "Hãy khoác quần áo của tôi vào, tôi sẽ giúp Huyên búi tóc! vốn dĩ Vũ và Huyên rất giống nhau, sẽ không ai nhận ra đâu!"

"Nhưng người lớn trong nhà đều biết anh mới chính là người đi thi, còn Anh Vũ thật thì đang trị bệnh ở nhà!"

"Chỉ cần sau khi kết thúc chuyện này, chúng ta nói thật với Điện hạ và nhờ người che giấu cho. còn nếu như đến cuối cùng lệnh bà vẫn biết được thì tôi xin nhận hết mọi trách phạt. Tất cả cũng chỉ vì tôi quá bất tài, nếu bây giờ đẩy tôi tới đứng trước mặt Thánh thượng cùng các vị quan lớn trong triều, tôi e mình sẽ vì lo sợ mà lăn ra ngất xỉu mất!"

Vừa dứt câu, bàn tay Phúc lại run lên. Ngọc Huyên lo lắng nghĩ đến lúc Phúc phải đối mặt với thử thách, không biết Phúc sẽ còn tỏ ra sợ hãi đến mức nào nữa. Thời gian gấp rút, xe ngựa đã rời phủ được một quãng khá xa. Nếu bây giờ thay đổi y phục may ra vẫn kịp, người đánh ngựa vốn không phải là gia thần trong phủ Bình Nguyên mà là người bên phía Thái bảo đại nhân nên chắc chắn không thể nhớ rõ mặt hai đứa trẻ.

Ngọc Huyên hít đầy một hơi trong lồng ngực, nói thật nhanh như sợ chính mình sẽ có đủ thời gian để do dự:

"Anh mau cởi áo khoác ngoài ra!"

"Liệu một đứa trẻ mười hai tuổi có thể chống lại hai đứa trẻ khác lớn hơn mình?" — An Quế vừa dâng trà, vừa nói khẽ đủ để Thái hậu có thể nghe thấy dù trong phòng chỉ có hai người là hắn, viên Nội quan thị hậu chánh trưởng và vị chủ nhân đang ngồi đăm chiêu kia.

Thái hậu nhấc lấy tách trà từ chiếc khay vàng, mở nắp và hít đầy lồng ngực hương thơm thoang thoảng bay lên theo làn khói hơi nghi ngút, hi vọng nó sẽ đánh thức tất cả các giác quan trong người dậy, lúc này đây, người cần mình phải tỉnh táo và sáng suốt hơn bao giờ hết.

"Dường như là ta đã tính sai một bước!" — Thái hậu lim dim đôi mắt nhưng không phải theo cái cách mà một người đang đắm chìm vào suy tưởng — "Cuộc thi này đáng lẽ đã phải kết thúc! Thật không ngờ Lạng Sơn Vương lại ranh ma như thế!"

"Thưa, Thái hậu bệ hạ có cao kiến gì không?"

"Theo những gì mà ta đang thấy thì có vẻ như Nghi Dân sẽ dồn sức để giúp Khắc Xương chiến thắng. Phần thi thứ ba Tư Thành dù giỏi giang tới đâu cũng sẽ không dễ dàng mà đánh bại được hai đứa trẻ lớn xác hơn mình, nhất là khi chúng lại cố tình liên thủ với nhau".

''Chúng ta có cần dùng đến chút xảo thuật, như là... một chút độc dược loại nhẹ khiến người bị đầu độc trong vài canh giờ mệt mỏi rã rời chỉ giống như gặp một cơn trúng gió, kết quả là sẽ phải bỏ dở cuộc thi nhưng không hề để lại manh mối nghi ngờ!" — Tên thái giám nheo đôi mắt tỏ vẻ cáo già.

''Không! Trước bao nhiêu cặp mắt của các đại thần trong triều, chúng ta không thể hành động liều lĩnh được! Hơn nữa, tới giờ phút này cũng đã quá muộn để ta ra tay, những đứa trẻ đó không phải là những đứa trẻ tầm thường, hơn ai hết chúng hiểu rõ về thân phận và cơ hội trước mắt, ngươi thấy đấy, xung quanh chúng vòng trong, vòng ngoài đều là gia thần tư phủ, người của ta khó lòng trà trộn ngay lúc này. Đành phải chờ xem số phận đứng về phía ai!"

Cuộc đối thoại rơi vào im lặng khi viên hoạn quan không tìm được kế sách gì hơn để hiến cho chủ nhân, còn Thái hậu cũng đã cạn kiệt mưu kế.

Vòng thi thứ hai kết thúc cũng đúng lúc trống canh báo giờ Ngọ, Thái hậu ban lệnh cho mọi người được nghỉ ngơi và vòng thứ ba sẽ bắt đầu sau một canh giờ nữa, vào giờ Mùi. Thời gian cuộc thi tiếp tục chẳng còn bao lâu, người cũng bất lực trong việc tìm cách xoay chuyển cục diện. Thái hậu cảm thấy uất nghẹn bởi thật không ngờ mình lại thua trí một đứa trẻ mười lăm tuổi.

"Lạng Sơn Vương! Ta đã đánh giá quá thấp đứa trẻ này!" Thái hậu rít qua kẽ răng "Tưởng như Dương thi [1] là một con rắn độc đã bị ta loại trừ nhưng không ngờ chút nọc độc còn lại của con rắn ấy vẫn còn đủ sức khiến ta bị trúng một đòn hiểm!"

[1] Ý chỉ Dương Thi Bí, mẫu thân đã bị phế truất làm thường dân của Nghi Dân.

"Xin người bớt nóng giận!" — An Quế kêu lên thảng thốt khi Thái hậu trong cơn tức tối đã gạt đổ mọi thứ trên bàn.

"Coi như ta đã thua một keo! Nhưng nếu kẻ thắng cuộc cuối cùng là Tân Bình Vương thì cũng không phải là điều gì quá tệ hại! Tuy ta không biết chúng đang mưu tính điều gì trong đầu nhưng nhất định Lạng Sơn Vương sẽ phải rời khỏi Kinh thành ngay sau khi ngôi vị Hoàng thái đệ kia được công bố! Nhất định ta phải chặt đứt mọi mối liên hệ của Nghi Dân tới Hoàng cung này!"

Trống canh đã điểm, phần thi thứ ba về võ thuật sắp bắt đầu.

Trên khán đài, Hoàng thượng, Thái hậu và các quan văn võ chăm chú dõi theo nhất cử nhất động của ba Thân vương dù họ mới chỉ đang được đám nô tài vây quanh giúp mặc lên người những bộ quần áo giáp.

"Các vị Vương gia hãy dùng những binh khí trên giá này!" Viên Nội quan nói lớn và chỉ vào số binh khí vừa được mang ra "Tất cả đều được làm bằng gỗ để không còn độ sát thương. Lớp sơn đỏ còn ướt này tượng trưng cho phần sắc nhọn dùng để hạ đối thủ, khi va chạm lên người sẽ để lại dấu vết của vệt chém, căn cứ vào đó sẽ tính xem người bị trúng đòn có được tiếp tục thi dấu được hay không!"

Hít một hơi, tên nô tài tiếp tục nhấn mạnh vào những điều quan trọng của luật thi:

"Vì vậy, xin lưu ý: đầu, cổ, ngực là ba phần mà nếu bị dính màu các vị sẽ bị xử thua tức thì! Khi một vị bị trúng đòn vào chỗ hiểm và bị xử thua, thần sẽ vẫy cờ hiệu mang màu của người đó. Cờ hiệu phất lên, người thua cuộc phải lập tức dừng cuộc thi và rời khỏi sân đấu. Phần thi này không giới hạn thời gian và số lần thay vũ khí, vì thế cuộc đấu chỉ kết thúc khi có hai người bị loại, người chiến thắng là người còn trụ lại cuối cùng".

Lạng Sơn Vương lim dim đôi mắt, không chú ý nhiều tới lời tên thái giám bởi những thứ đó người đã biết cả. Điều duy nhất Nghi Dân nghĩ đến lúc này là cuộc trò chuyện với Hoàng đệ Khắc Xương. Mọi thứ đều diễn ra đúng theo những gì mà người đã dự liệu và chỉ cần thêm một chút nữa thôi những mưu tính của Thái hậu về ngôi vị Hoàng thái đệ kia sẽ tan thành mây khói, người phá hủy tất cả, thật trớ trêu, lại chính là Bình Nguyên Vương. Một mũi tên bắn trúng hai con chim, một con sẽ bị chặt đi đôi cánh, con còn lại có thể sẽ phải trả giá bằng việc mãi mãi mất đi Vương vị hiện có của mình.

"Thật đáng để chờ đợi màn kịch hay còn ở phía trước!"— Nghi Dân nở một nụ cười mãn nguyện.

Và chỉ Khắc Xương mới hiểu được ý nghĩa của nụ cười ấy.

Thêm một hồi trống lệnh vang lên, áo giáp đã được mặc nghiêm chỉnh lên người, các Thân vương tiến lại chọn binh khí cho mình.

''Hoàng huynh! Vì sao anh lại làm vậy? Để giúp em chiến thắng anh đã phải hi sinh cơ hội của mình, chẳng phải anh rất muốn chiến thắng và giành được ngôi vị kia sao?"

Lạng Sơn Vương cầm lên một cây đoản đao.

"Phải nhưng ta đã hiểu chiến thắng không mang lại điều mình mong muốn! Nếu Bình Nguyên Vương vẫn còn đấy thì ngôi vị kia sớm muộn gì cũng thuộc về Tư Thành. Cuộc thi này vốn chẳng có giá trị gì nếu như một trong hai chúng ta là người thắng cuộc chứ không phải tứ đệ

Tân Bình Vương lựa chọn ngọn Tố anh thương [2].

[2] Tố anh thương: cây thương có tua chỉ đen ở phía dưới mũi thương, khác với Huyết đương thương là cây thương có tua chỉ đỏ.

" Vậy em càng không hiểu nổi lý do cho hành động đó của anh!"

Bình Nguyên Vương quyết định dùng cặp trường kiếm bởi có linh cảm mình sẽ phải chống đỡ với hai đối thủ cùng lúc.

"Lý do ư? Ta muốn nhân cơ hội này loại bỏ Bình Nguyên Vương vĩnh viễn!"

Hồi trống thứ ba nổi lên, trận đấu chính thức bắt đầu.

''Bằng cách nào?"

Ba người thận trọng quan sát nhau, đây là một trận đấu mà mỗi người sẽ phải tìm cách loại bỏ hai đối thủ.

"Ta sẽ cho em biết, vì ta cần sự giúp sức của em trong trận đấu sắp tới! Ta đã tìm ra được một cái tên có thể sẽ khiến Tư Thành phải thân bại danh liệt: Ngọc Huyên

Cùng lúc ấy, tại cổng phía Tây của Hoàng cung, xe ngựa tới từ Bình Nguyên phủ mang theo hai đứa trẻ vừa kịp vào thành.

"Đại Phúc! Hãy nhớ kĩ lời ta dặn đây: khi tin báo về sự thất bại của Tư Thành truyền tới phủ, ngươi phải tìm cách cho thằng nhóc Anh Vũ đó uống thứ thuốc này, pha vào nước hay trộn lẫn đồ ăn tùy ngươi, không ai có thể nhận ra bởi nó sẽ tan ngay mà không để lại màu sắc hay mùi vị lạ lùng nào cả".

"Vậy nó... nó có độc không ạ?" — Đứa trẻ lắp bắp hỏi lại.

"Nó sẽ gây ra một cơn đau bụng dữ dội nhưng không làm chết người đâu nên ngươi cứ yên tâm! Sau đó, hãy tìm cách xin được thay thế Anh Vũ tới dự cuộc thi tại Hoàng cung!"

''Rồi giả thua cuộc đúng không ạ?"

"Ngươi biết không..." — Nghi Dân ném cho nó một cái nhìn đầy khinh miệt, cúi người xuống thấp, ghé sát vào mặt Đại Phúc nói với nó bằng thứ giọng điệu vừa như cảnh cáo, vừa như thương hại — "Loại người mà ta ghét nhất là những kẻ thường hấp tấp nói ra suy đoán ngu ngốc của mình!"

"Xin... xin Điện hạ tha tội bất kính!" — Phúc thấy trong người ớn lạnh, nó run rẩy cúi rạp xuống đất để né tránh ánh nhìn đầy đe dọa của Nghi Dân.

"Trái lại, ta sẽ ban thưởng hậu hĩnh nếu như ngươi làm tốt được việc ta giao! Điều ta cần không phải là ngươi sẽ thay thế Anh Vũ mà hãy để tiểu muội của thằng nhóc đó làm việc này! Bằng mọi giá, hãy lôi kéo đứa con gái ấy đi theo và thuyết phục nó đóng giả làm người anh của mình, xuất hiện ở cuộc thi hôm ấy. Những việc sau đó không cần ngươi lo nữa!"

Đại Phúc im lặng như tờ, trong đầu nó mông lung vô vàn thắc mắc, nó không hiểu nổi rốt cuộc Lạng Sơn Vương muốn gì nhưng lại không dám mở mồm ra hỏi kĩ hơn. Người quyền quý họ luôn có những mưu tính mà những kẻ làm nô tài thấp kém như nó hoàn toàn không thể hiểu nổi, cũng không nên hiểu nếu muốn được tiếp tục sống yên ổn.

"Đại Phúc!"

''Dạ, thưa Điện hạ!"

"Xong việc này, ngươi sẽ được thưởng công xứng đáng! Nguyện vọng của ngươi ta hứa sẽ thực hiện nó!"

"Đội... ơn.. .Điện hạ!" — Phúc có vẻ như bị xúc động mạnh khi nghe Nghi Dân đột nhiên nhắc tới mong muốn thầm kín của mình.

Và suốt những ngày sau đó, nó chỉ mải tính cách làm thế nào để thực hiện được mệnh lệnh của Lạng Sơn Vương. Thật may cho Phúc, mọi việc dễ dàng hơn nó tưởng tượng bởi không ai mảy may nghi ngờ một đứa trẻ lớn lên trong Bình Nguyên phủ, thường ngày vẫn thân thiết với bọn Anh Vũ, Ngọc Huyên, lại chính là tai mắt của Lạng Sơn Vương và đang tận lực giúp Nghi Dân thực hiện mưu đồ của mình.

Tư Thành chắc chắn không phải là đối thủ ngang tầm một khi Nghi Dân và Khắc Xương liên thủ với nhau. Ngay khi trống lệnh vang lên, người đã thấy rõ mục tiêu của hai vị Hoàng huynh chính là muốn hợp sức cùng loại bỏ mình khỏi cuộc thi. Những đòn tấn công dồn dập, yểm trợ nhau của họ khiến Bình Nguyên Vương phải vất vả lắm mới chống đỡ nổi chứ đừng nói đến việc tìm được cơ hội để tấn công.

Khắc Xương thật sự khâm phục tài võ nghệ của Hoàng đệ, người thầm nghĩ nếu như không phải vì có Nghi Dân cùng tấn công thì chắc chắn người không thể nào hạ được đứa trẻ kém mình tới hai tuổi ấy. Tư Thành không chỉ bền về sức mà còn có thân thủ nhanh nhẹn, kĩ thuật điêu luyện. Ở mức độ ấy dễ thấy Bình Nguyên Vương vốn được rèn luyện khắt khe như con nhà binh chứ không phải chỉ là một Hoàng thân sống trong nhung lụa.

Nghi Dân vốn biết Tư Thành không phải là một đối thủ dễ đối phó nhưng người vững tâm bởi có Khắc Xương yểm trợ. Đối với Lạng Sơn Vương mà nói, đứa em này chính là người duy nhất mà người có thể tin tưởng được.

Bang Cơ hồi hộp theo dõi trận đấu. Tuy ngoài mặt người tỏ ra công bằng nhưng trong thâm tâm Hoàng thượng luôn ngầm ủng hộ Tư Thành, mong muốn Hoàng đệ sẽ trở thành người chiến thắng chung cuộc.

"Hoàng thượng, chuyện thắng bại hãy để thần đệ cố sức lo liệu! Điều người cần thể hiện ra bên ngoài cho tất cả mọi người nhìn thấy chính là sự công tâm, coi các huynh đệ đều như nhau! "

"Vì sao? Vốn dĩ mọi người đều hiểu Hoàng đệ chính là lựa chọn của trẫm và Hoàng mẫu!"

"Chính vì thế, người càng phải tỏ ra công bằng, không chỉ vì thần đệ mà còn vì người! "

"Tư Thành, Hoàng đệ đang có suy nghĩ gì vậy? Hãy nói thật rõ ràng cho trẫm hiểu!"

"Người là Hoàng đế của quốc gia này nhưng cho phép thần đệ nói thẳng, việc có nhiều huynh đệ từ xưa đến nay vốn dĩ đều khiến cho quyền lực của Hoàng đế bị chia sẻ. Muốn giang sơn được yên ổn, dân chúng không bị kéo vào những cuộc tranh giành quyền lực thì Hoàng thất không thể bị chia rẽ, mà như thế, người nhất định phải có được sự ủng hộ, phục tùng của các Thân vương".

"Trẫm đã hiểu rồi! Hoàng đệ mong muốn các Vương gia khắc đều nhìn thấy được sự công bằng của trẩm mà không sinh lòng phản trắc đúng không? Cũng phải, dù sao bốn chúng ta đều cùng là huynh đệ, nếu như trẫm cũng như Hoàng mẫu ra mặt ưu ái riêng mình Hoàng đệ thì sẽ không tránh khỏi việc làm phật ý các Hoàng huynh!"

"Hoàng thượng thật sáng suốt!"

Bang Ca nhớ lại lời đã giao ước với Bình Nguyên Vương nhưng vì lúc đó người vô cùng tự tin vào sắp xếp của Thái hậu. Bang Cơ vốn biết Thái hậu đã nhắm Tư Thành cho ngôi vị đó ngay từ đầu và người luôn là người rất giỏi trong việc hợp thức mọi ý muốn của mình. Nhưng dường như lần này Thái hậu đã gặp được một đối thủ đáng gờm mà chính người cũng không hề hay biết để có cơ hội đề phòng. Mà như vậy, lời hứa với Tư Thành, người không chắc có thể thực hiện được không nếu như Hoàng đệ không thể dành chiến thắng trong trận đấu này.

Thêm một đòn kép cùng giáng xuống khiến Tư Thành phải khụy gối mới trụ vững được.

"Anh có ý đồ gì khi muốn cô bé ấy xuất hiện trong cuộc thi đấu này? Không giống như anh nghĩ đâu, đó là một nữ nhân vô cùng xuất sắc, không chỉ say mê đọc sách, luyện chữ mà còn được nuôi dạy như một tiểu thư trong phủ Bình Nguyên, phong thái, khí chất đều hơn người. Nếu như anh nghĩ rằng cô gái ấy sẽ khiến Tư Thành thua cuộc thì là anh đã tính nhầm rồi đó!"

Khắc Xương rút lại ngọn thương, quét ngang qua mặt đất dưới chân Tư Thành, Bình Nguyên Vương vấp ngã.

"Không! Con bé ấy sẽ khiến Tư Thành không còn là Bình Nguyên Vương được nữa! Đưa một đứa con gái giả trang đến cuộc thi trang nghiêm này, một khi bị phát hiện, Tư Thành sẽ phải ăn nói ra sao trước Hoàng thượng và các vị đại thần đây? Thái hậu dù có dùng hết cách cũng không thể nào cứu tứ đệ thoát khỏi việc bị phế thành thường dân vì tội lừa dối Hoàng thất và phỉ báng triều đình!"

Nghi Dân nhân đà đó chém mạnh thanh đoản đao xuống, may mắn thay, Tư Thành đã nhanh nhẹn né được bằng cách lăn người qua bên.

"Vậy điều gì sẽ xảy ra với cô bé tội nghiệp kia? Nếu Hoàng đệ bị phế đi Vương vị thì một thường dân như Ngọc Huyên làm sao thoát khỏi tội chết? Chẳng nhẽ anh đã nghĩ qua nhưng vẩn bất chấp một mạng người?"

Nhung Tư Thành chỉ có thể thoát được một lần. Khi mũi thương của Khắc Xương phóng tới, người chỉ còn cách nhắm chặt mắt, cảm nhận mũi thương đâm xuống mảnh giáp trước ngực. Cờ hiệu màu đen phất lên. Hoàng thượng lập tức đứng bật dậy - Bình Nguyên Vương đã bị loại khỏi cuộc thi.

"Đó chỉ là một nô tì thấp kém! Hãy coi như hi sinh vì đại cuộc của đất nước này! Ngai vàng và giang sơn mà Thái tổ đã đổ bao công sức mới gây dựng được không thê để một đứa con hoang như Bang Cơ nắm giữ. Hơn nữa, đệ ta chẳng qua chĩ là một con rối trong tay Thái hậu. Muốn loại bỏ vây cánh của bà ta, cần phải bắt đầu từ Tư Thành, kẻ sẽ được nuôi dưỡng để trở thành Bang Cơ thứ hai. Nếu trong trường hợp khác, tứ đệ là một nhân tài hiếm có cần phải giữ ở bên cạnh nhưng một người như thế, nếu không có được chi bằng hãy loại bỏ để sau này không trở thành chướng ngại."

Nghi Dân chưa kịp mỉm cười hả hê thì ngọn thương trong tay Khắc Xương đã quét qua và để lại ở trên ngực mình một vệt màu đỏ thẫm. Cờ hiệu màu trắng phất lên trong ánh mắt ngỡ ngàng của Lạng Sơn Vương.

"Người thắng cuộc ở phần thi thứ ba là Tân Bình Vương!" Viên Nội quan trong vai trò trọng tài hét lớn thông báo kết quả cuối cùng.

Vậy là kết quả đã rõ ràng, hai lần chiến thắng của Khắc Xương khiến cho cuộc thi kết thúc mà không cần dùng đến phần thi thứ tư để phân định. Nhưng lời tuyên bố về kết quả chung cuộc vẫn bị bỏ ngỏ khi Thái hậu hậm hực đứng dậy bỏ đi, để lại đám quan lại bối rối không biết nên chạy theo Thái hậu hay ở lại bên Hoàng thượng.

Chương 15

PHẦN IV

CHƯƠNG 1: NHẬT NGUYỆT

Cứ mỗi buổi xế chiều, lũ trẻ lại túm tụm cả đám với nhau trên triền đê lộng gió, tiếng nô đùa, cười nói rộn vang cả quãng đồng nhưng hôm nay không khí có phần trầm lắng khác thường.

Bình Nguyên phủ có hơn mười đứa trẻ cả trai lẫn gái, là con cái của gia thần trong phủ hoặc là trẻ mồ côi bị bỏ lại nơi cửa Phật được Ngô Thái phi nhận về nuôi làm phúc. Trong số đó, đứa lớn nhất khoảng mười bốn tuổi, nhỏ nhất mới lên bảy, đều là những đứa trẻ nề nếp, ngoan ngoãn, rất mực tôn kính Thái phi và Vương gia.

Đào Hạnh, đứa con gái bé nhất bọn, lấm lét đưa mắt nhìn sang gương mặt ủ rũ của những người khác, rụt rè cất tiếng hỏi:

"Chúng ta... sẽ không được sống ở Kinh thành nữa ư?"

"Ai bảo thế? Nói bậy không à!" — Đứa khác nghe vậy liền gắt lên.

"Lân, đừng làm con bé sợ!" — Anh Vũ nhắc nhở nó, rồi quay sang Đào Hạnh nhẹ nhàng an ủi — "Ở đâu thì có quan trọng gì, miễn là chúng ta vẫn được gần Điện hạ và lệnh bà, phải không?"

Con bé gật gật mái đầu xanh mướt nhưng nét mặt không giấu nổi vẻ bồn chồn kém vui. Nó thích nơi này, vùng kinh kỳ sầm uất nhộn nhịp, chỉ nơi đây mới có phố xá tấp nập người, hàng quán đông vui, lễ hội đình đám, hơn nữa, bọn trẻ vẫn luôn tự hào vì mình là người thành thị. Không chỉ có nó mà những đứa trẻ khác cũng có cùng suy nghĩ ấy, chúng thực lòng chẳng muốn rời xa nơi đây, khi mà mọi thứ đã trở nên quá đỗi thân thuộc.

Có lẽ sau cuộc thi này, ngoài vị Vương gia được chọn trở thành Trữ cung, những người còn lại sẽ phải sớm rời khỏi Đông Kinh.

Ngọc Huyên đứng dậy, dùng tay phủi đi những vạt bụi cỏ lau bám trên thân áo, lẳng lặng rút lui khỏi nơi đám trẻ con tụ tập.

Nàng đi tìm Tư Thành.

Bình Nguyên Vương chẳng ở đâu khác ngoài thư phòng, vẫn dáng vẻ đường hoàng, thư thái như không mảy may bận tâm tới chuyện thắng thua đã qua.

"Huyên đấy à?" — Người ngẩng đầu lên, nở một nụ cười thân thiết khi thấy nàng bước vào.

''Anh đang luyện thư pháp đấy ư?"

"Là tập viết chữ!" — Tư Thành mỉm cười.

"Có gì khác ư?" — Nàng tròn xoe đôi mắt.

"Tuy thư pháp là "phép viết chữ" nhưng không đơn giản chỉ là viết sao cho đẹp mà hàm nghĩa sâu xa còn ià phương tiện để biểu hiện tâm, ý, khí, lực của người dựng bút. Còn anh lúc này cầm bút lên chỉ nghĩ tới việc luyện cho mỗi nét chữ viết ra được rõ ràng, thẳng thắn, không suy nghĩ gì thêm!"

Ngọc Huyên tiến tới bên người, nâng tay áo châm thêm chút nước vào nghiên rồi từ tốn mài thỏi mực theo hình vòng tròn.

''Em không ra ngoài kia chơi cùng mọi người ư?" — Tư Thành nhúng đầu bút lông vào nghiên mực đang mài, chăm chú nhìn nàng như muốn đọc ra suy nghĩ trong lòng.

"Em thích ở bên anh hơn!"

"Sao anh lại cảm thấy như Ngọc Huyên hôm nay có nhiều điều tâm sự?"

"Là em lo anh không vui!"— Nàng thẳng thắn trả lời.

Bình Nguyên Vương bật cười, phóng tay viết một mạch, nét chữ vừa mềm mại, vừa khoáng đạt như múa lượn trên mặt giấy thành hai chữ Nhật — Nguyệt. Viết xong, người cầm lên ngắm nhìn giây lát, mỉm cười nói với nàng:

''Tên của em thường gợi cho anh nghĩ đến điều nay!"

"Nhật Nguyệt?"

"Ngọc Huyên, ấm áp như ánh mặt trời, trong trẻo như ánh trăng! Cái tên ấy thật đúng với con người em, vừa sâu sắc lại thuần khiết. Chỉ cần Ngọc Huyên đến bên cạnh, dù lo âu hay muộn phiền đều dễ dàng tan biến hết!"

''Nói vậy giống như là trong lòng anh đang có điều gì lo âu, muộn phiền?" — Nàng nhẹ chớp hàng mi mong manh như tơ liễu, ánh mắt nhìn người trong veo như mặt hồ trong nắng sớm.

Tư Thành mỉm cười, nhẹ xoa đầu nàng, những ngón tay lùa qua mái tóc khiến cô bé mười một tuổi Ngọc Huyên chợt cảm thấy chút bối rối bâng quơ len lỏi trong tâm hồn, vừa mơ hồ, vừa kỳ lạ.

"Có phải em lo anh vẫn phiền lòng về chuyện đã qua?"

Nàng khẽ gật, nét mặt xinh đẹp phảng phất sự nuối tiếc. Tuy không tận mắt chứng kiến nhưng nàng đã nghe người ta nhắc nhiều về cuộc thi đó, nếu quả thật như những gì họ nói thì kết quả cuối cùng hoàn toàn chẳng công bằng với bất kỳ ai. Nàng không tài nào hiểu được nếu đã như vậy thì Hoàng thượng, Thái hậu và những văn võ bá quan trong triều cần gì phải tốn sức tổ chức ra một cuộc thi đấu? Chi bằng họ cứ tự mình chọn ra một cái tên trong số ba vị Thân vương thì hơn.

"Nếu là như vậy thì em đừng lo, anh sẽ không vì chuyện đó mà cảm thấy phiền lòng đâu!"

"Có phải cuộc thi vẫn chưa hoàn toàn kết thúc?" — Nàng hỏi — "Cho nên triều đình mới trì hoãn việc công bố người được chọn!"

"Ừ!" — Người nhẹ đáp — "Chúng ta có cuộc thi của chúng ta, và người lớn họ cũng có cuộc thi riêng của họ, chỉ khác là cuộc thi của bọn trẻ thì công khai, còn của người lớn lại không như vậy!"

Ngọc Huyên hiểu ý nghĩa câu nói ấy, thoáng bần thần nhưng Bình Nguyên Vương chẳng để nàng phải nghĩ ngợi rầu rĩ lâu, người lấy từ trong tay áo một chiếc trâm đặt vào lòng bàn tay nàng, mỉm cười mà nói:

"Quà Trung thu cho em!"

Nàng tròn xoe mắt nửa ngạc nhiên nửa vui thích, chăm chú nhìn ngắm món quà trong tay. Chiếc trâm bạc hình đóa thụy liên [1] e ấp nở, tầng tầng cánh hoa ôm lấy đài, một giọt sương mai bằng ngọc trai tỏa sáng lấp lánh khi ánh mặt trời chiếu rọi.

[1] Thụy liên: hoa sen ngủ.

''Đóa sen trắng mới đẹp làm sao!" — Ngọc Huyên khẽ reo lên.

"Liên hoa trâm", ấy là tên của nó!" — Tư Thành nhẹ nhàng giải thích — ''Ngọc Huyên lớn lên nơi cửa Phật, tấm lòng lương thiện, nội tâm trong sáng, như đóa thụy liên hoa trong đầm tỏa hương thơm ngát, tinh khiết cả một vùng sen nở!"

Hai má Ngọc Huyên thoáng ửng hồng, đôi mắt nàng lấp lánh niềm vui, sáng trong hơn cả viên dạ minh châu giữa đoa sen trên tay.

"Mấy ngày nữa đến rằm tháng tám rồi, trên phố sẽ treo rất nhiều đèn lồng, đến lúc ấy chúng ta sẽ cùng đi ngắm nhé!" — Bình Nguyên Vương cảm thấy có chút xúc động trong lòng khi thốt ra câu nói ấy.

Nàng gật đầu, nụ cười tươi tắn như ánh nắng xua tan đám mây u ám trên bầu trời tháng tám Đông Kinh.

Vừa lúc ấy Thái bảo đại nhân xuất hiện trước cửa thư phòng, trông thấy hai đứa trẻ đang chuyện trò, nét mặt ngài có phần đổi khác.

"Điện hạ!" — Đinh Liệt chắp tay hành lễ với Bình Nguyên Vương nhưng ánh mắt kín đáo liếc nhìn đứa trẻ bên cạnh người.

"Thái bảo đại nhân, người tới đó ư?" — Tư Thành ngước nhìn lên, mỉm cười đáp lễ.

Ngọc Huyên trông thấy ngài đến liền cung kính cúi đầu chào rồi lặng lẽ rút lui khỏi gian phòng, thoáng có cảm giác bầu không khí trở nên khác lạ kể từ lúc Đinh Thái bảo bước vào.

Cánh cửa sau lưng nàng từ từ khép lại như vạch ra một lằn ranh cho hai thế giới khác nhau.

*

"Đứa bé ấy..." — Đinh đại nhân ngần ngừ một lúc mới quyết định nói ra — "Vận số không tầm thường đâu!"

Ngô Thái phi ngừng tay thêu thùa, ngẩng lên nhìn ngài, thoáng vẻ ngạc nhiên:

"Chẳng hay người muốn nói tới ai?"

''Hai đứa trẻ một trai một gái vẫn thường quấn quýt bên tứ Vương gia!"

"Anh Vũ và Ngọc Huyên!" — Thái phi mỉm cười trìu mến khi nhắc về bọn trẻ — "Là những đứa trẻ rất thông minh, ngoan ngoãn!"

"Ta vốn định bồi dưỡng Anh Vũ trở thành tâm. phúc bên cạnh Điện hạ bởi nhìn ra tố chất hơn người của nó nhưng hôm nay lại chợt cảm thấy phải thay đổi suy nghĩ! Thật đáng tiếc, giá như đứa trẻ ấy không có một tiểu muội như thế!"

Thái phi đặt khung thêu xuống bàn, thái độ trở nên chăm chú han, người nhíu đôi lông mày, thận trọng hỏi lại:

"Tại sao người lại phải băn khoăn về một cô bé?"

"Đứa con gái ấy toát ra một thứ vượng khí kỳ lạ khiến người khác phải chú ý! Một người như thế nếu giữ bên cạnh Điện hạ không thể dám chắc sẽ tạo phúc lành hay tai họa?"

''Tai họa? Đại nhân, người đã nghiêm trọng quá rồi, đó chẳng qua chỉ là một đứa trẻ ngây thơ! "

Thái bảo nhấp một ngụm trà, khép hờ đôi mắt như muốn tịnh tâm suy nghĩ. Một thứ cảm giác băn khoăn bất an cứ đeo bám tâm trí ngài khi nhớ về hình ảnh hai đứa trẻ đứng bên nhau trong thư phòng ngày hôm nay. Ở Ngọc Huyên có gì đó khiến Đinh Liệt liên tưởng tới vị Thần phi họ Nguyễn năm xưa, người đã trở thành Nhiếp chính Hoàng thái hậu hơn mười năm trên triều, tự mình hô mưa gọi gió. Thần thái, khí chất, cung cách... mọi thứ đều rất giống. Nếu quả thực đứa trẻ này cũng có vận số ấy thì nó chính là mối đe dọa tiềm ẩn đối với ngôi vị của Bình Nguyên Vương và cả đất nước này.

"Ngây thơ là thứ dễ mất đi, mềm yếu khiến người ta dễ sai lạc!" — Ngài mơ hồ giải thích — "Điện hạ đã cho ta thấy một khía cạnh mềm yếu của người khi ở bên đứa trẻ ấy, điều này khiến ta cảm thấy không yên tâm!"

"Đại nhân!"

"Trừ phi có cách nào tách con bé ra khỏi tứ Vương gia! Lệnh bà thấy sao nếu đưa cả Ngọc Huyên và thân mẫu họ Phạm về lại tư gia nhà chúng ta ở làng Đô Kỳ? Ta sẽ lo cho họ được sống một cuộc đời bình yên, đầy đủ!"

"Việc này không được!" — Ngô Thái phi quả quyết.

"Ta biết lệnh bà là người nhân từ, yêu thương kẻ dưới nhưng là chuyện liên quan tới tiền đồ của Bình Nguyên Vương, chẳng nhẽ người không cảm thấy lo lắng?"

"Tiền đồ của Tư Thành sao có thể bị đe dọa bởi một cô bé? Hơn nữa họ không phải là những gia thần bình thường, có điều này ta luôn giấu người bấy lâu nay nhưng xem ra hôm nay đành phải nói rõ ràng tất cả: Phạm phu nhân và hai đứa trẻ ấy chính là gia quyến còn lại duy nhất trên đời của đại ân nhân!"

Đinh Liệt kinh ngạc tới độ đánh rơi chén trà đang cầm trên tay xuống mặt đất vỡ tan thành nhiều mảnh. Ngài sững người nhìn chằm chằm những mảnh vỡ dưới chân. Một lúc lâu sau mới có thể định thần, vội vàng nhìn ra xung quanh, thở phào khi thấy không còn ai ngoài mình và Ngô Thái phi.

''Đại ân nhân? Ý người nói tới..." — Thái bảo đại nhân muốn xác nhận lại nhưng không đủ dũng khí để đọc cái tên hiện ra trong suy nghĩ của mình.

Thái phi chỉ nhẹ nhàng gạt đầu, biết rõ ngài thừa hiểu vị ân nhân ấy là ai.

"Lệnh bà, đó là tội khi quân!" — Đinh Liệt run giọng — "Những ai biết được bí mật này? Bọn trẻ... Liệu chúng có biết?"

"Không! Chỉ có ta, Phạm thị và giờ thêm đại nhân, ngoài ra không còn ai khác! Anh Vũ và Ngọc Huyên cũng không hề biết về thân thế thực sự, chúng vốn luôn nghĩ phụ thân đã mất của mình chỉ là một người bình thường!"

Thái bảo đại nhân im lặng không nói, có một thứ cảm giác u uất đè nặng trong lòng khiến ngài bỗng thấy căn phòng mình đang ở trở nên ngột ngạt đến khó tả. Đinh Liệt từ từ đứng dạy, đi đi lại lại với hi vọng vận động cơ thể có lẽ sẽ giúp đầu óc tỉnh táo hơn để đưa ra được quyết định đúng đắn.

Nhưng ngài không thể một lúc mà thông suốt tất cả, đây là một vấn đề quá lớn, can hệ tới an nguy của hàng trăm người trong hai gia tộc Đinh — Ngô. Ngài cũng không thể trách cứ Thái phi, xét cho cùng đó là cái nghĩa muốn được đền đáp ơn cứu mạng, xét về tình hoàn toàn, chẳng có gì sai trái.

Cuối cùng, Đinh đại nhân thở dài mà nói:

"Lệnh bà, ta hiểu tấm lòng người nhưng chuyện này không thể cứ để như the! "Cái kim trong bọc sẽ có ngày lòi ra", đến lúc đó, không chỉ bọn họ mất mạng mà e rằng cả gia tộc của chúng ta cũng bị dồn vào con đường diệt vong!"

"Đại nhân!"

''Nếu người còn coi trọng ta thì xin hãy nghe lời khuyên của lão già này, không thể giữ họ lại đây, bên cạnh người và Điện hạ! Cứ để ta lo cho họ, ta hứa với người họ sẽ được đưa tới một nơi an toàn, sống cuộc đời mai danh ẩn tích, nhưng no đủ tới cuối đời!"

"Nhưng..."

''Lệnh bà đừng vội khước từ!" — Đinh Liệt ngắt lời — ''Đây là một sắp xếp có lợi cho tất cả mọi người! Ta sẽ lập tức trở về gấp rút chuẩn bị cho họ có thể sớm lên đường rời khỏi Đông Kinh, về phía Bình Nguyên Vương, xin người tạm thời giữ kín việc này với Điện hạ, ta tự khắc sẽ biết tìm thời điểm thích hợp để nói với ngài!"

Nói rồi, Đinh Thái bảo chắp tay cáo biệt, thẳng bước ra cửa chẳng để người đối diện có cơ hội mở lời thêm nữa. Ngài là võ tướng, bao năm đao thương vó ngựa, vào sinh ra tử nơi chiến trường đã trui rèn nên bản tính cứng rắn, dứt khoát, ý ngài đã quyết thì khó mà lay chuyển, hơn nữa Đinh đại nhân tin rằng quyết định của mình chính là lối thoát duy nhất để tránh khỏi tai họa về sau. Còn có ai hiểu rõ triều đình này và Thái hậu han Đinh Liệt?

Một cơn gió lớn thổi tới làm lay động cả võng [2], Thái bảo đại nhân vén rèn nhìn ra thấy từng đám bụi bên đường bị thối tung mù mịt, người ta đua nhau dọn dẹp hàng quán, chạy trốn cơn dông đang đến.

[2] Võng: Thời ấy, người có chức tước và giới quý tộc thường di chuyển bằng võng có mái che do hai hay bốn người khiêng.

''Đại nhân, gió lớn quá, chắc sắp có mưa! Ngài có muốn dừng trú chân ở phía trước?" — Viên quản gia theo hầu ướm hỏi ý chủ nhân.

"Không!" Ngài nói đầy cương quyết "Về thẳng tư phủ! Ta còn có việc gấp gáp hơn cơn dông này!"

"Thưa vâng!" — Viên quản gia đáp và dõng dạc ra hiệu cho những người khác — ''Rảo chân lên nào!"

Đinh Liệt có thể cảm nhận được sự vội vã và những bước đi như chạy của đám nô tài. Chiếc võng lắc lư mạnh hơn, trở nên kém thoải mái nhưng sự bất tiện cỏn con này ngài vẫn có thể chịu đựng được, nó nào thấm vào đâu so với cảm giác bất an ngài mang theo khi rời khỏi Bình Nguyên phủ.

Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống, đập vào lớp vải căng trên mái võng tạo nên âm thanh lộp bộp.

"Mới rồi còn tưởng trời đã hửng nắng!" — Đinh Thái bảo nghe thấy tiếng người quản gia bên ngoài lẩm bẩm.

Ngài khép hờ đôi mắt, ngả người ra sau, buông từng hơi thở đều đều, chầm chậm, muốn tịnh tâm nhưng hình ảnh hai đứa trẻ quấn quýt bên nhau cứ lởn vởn trong suy nghĩ.

"Nhật nguyệt tịnh minh" [3], tuy là vượng khí nhưng sao lòng ta lại cảm thấy hỗn loạn thế này? Trong một khoảnh khắc cùng xuất hiện cả mặt trăng lẫn mặt trời, đêm ngày bất phân, là phù hay phá [4] thực không thể đoán được!"

[2] Nhật nguyệt tịnh minh: Mặt trăng, mặt trời đều sáng.

[4] Phù (phò tá), phá (hủy hoại): Trong kinh văn có viết: "Mặt trăng, mặt trời cùng sáng phò tá Thiên tử tại cung son". Ý chỉ việc Đinh Liệt không biết chắc vận số của Ngọc Huyên sẽ là phò tá hay hủy hoại tiền đồ của Bình Nguyên Vương.

Chương 16

CHƯƠNG 2: TỬ HUYỆT

"Điện hạ!" — Viên tổng quản rụt rè gọi thử, lão không chắc chủ nhân của mình đã ngủ hay còn thức.

Mấy hôm nay trong phủ xảy ra không biết bao trận đòn roi trừng phạt, đều là vì những kẻ tôi tớ lỡ gây ra lỗi lầm nho nhỏ mà nếu là bình thường sẽ được rộng lượng bỏ qua nhưng vì tâm trạng đại Vương gia không vui nên bị thẳng tay trừng trị. Lão Hồng Vĩnh tuy là đại tổng quản phủ Lạng Sơn nhưng đứng trước người ấy cũng chỉ là thân phận hầu cận, can cuồng nộ của chủ nhân một khi đã phát ra thì bọn bề tôi làm gì có kẻ nào là ngoại lệ! Cũng vì hiểu rõ được điều ấy mà viên tổng quản càng trở nên thận trọng, chừng mực hơn mọi ngày.

"Hử?" — Tiếng đáp lại từ trong màn vọng ra, vẻ như người chỉ nằm mà không hề ngủ.

"Người xem, mưa lớn thế này, liệu có nên ra ngoài đó đỡ nhị Vương gia vào nhà?"

Nghi Dân nhỏm dậy, vén màn nhìn ra. Mưa to đến độ tiếng lùng bùng của mái hiên vọng vào tận bên trong phòng ngủ.

"Nhị Vương gia đã quỳ ngoài sân gần một canh giờ rồi, ngài ấy không phải là người có thể chất khỏe mạnh cường tráng, nếu để lâu hơn e rằng..

"Nhiều lời rồi đó!" — Nghi Dân lạnh lùng cắt ngang.

Không phải Lạng Sơn Vương không biết điều ấy, chỉ là chừng đó dường như chưa đủ để làm nguội đi cơn giận dữ trong lòng người. Chẳng những kế hoạch thất bại, không thể đứng giữa thanh thiên bạch nhật hạ bệ uy tín của Bình Nguyên Vương khiến Thái hậu dù có trăm phương ngàn kế cũnq không có cách nào cứu vãn mà chẳng ngờ kẻ phút cuối phản bội lại Nghi Dân lại chính là Khắc Xương, người duy nhất Lạng San Vươnq tin tưởng.

"Xin thứ tội cho nô tài nhiều chuyện!" — Hồng Vĩnh cúi mình lom khom, tỏ ra hối lỗi nhưng đứa trẻ đang quỳ dưới mưa kia cũng là chủ nhân của lão nên chẳng thể cứ thế mà bỏ mặc không nói đỡ — "Người còn nhớ lời dặn của lệnh bà trước lúc lâm chung rằng cho dù thế nào hai huynh đệ người cũng phải liên thủ với nhau nếu không muốn bị những thế lực khác tiêu diệt?"

Nghe lão tổng quản nhắc lại lời mẫu thân, sắc mặt Nghi Dân thoáng chút đổi khác. Từng là người đàn bà được Tiên đế hết mực sủng ái, phong cho làm Quý phi cai quản cả Hậu cung, lại là mẹ của hai vị Hoànq tử lanh lợi, đáng yêu, một trong số đó còn được lập làm Thái tử thì tương lai sẽ càng trở nên xán lạn, quyền lực và vinh hoa phú quý đều là những thứ đã ở sẵn trong tầm tay nhưng thật chẳng ngờ đến lúc từ giã cuộc đời lại phải ra đi trong thân phận thường dân, không còn ctược mấy kẻ trên đời nhớ tới, tủi nhục và cô quạnh biết bao nhiêu.

"Thế gian vạn sự dịch chuyển, chỉ có máu mủ là không bao giờ đổi thay! " — Lão Hồng Vĩnh kín đáo quan sát thái độ của Nghi Dân, thấy vẻ mặt người có phần dịu lại liền nhân đà thuyết phục thêm.

"Máu mủ?" — Nghi Dân chát giọng — "Quyền lực thì làm gì có tình thân? Hành động của Khắc Xương trong trận đấu ngày hôm đó nếu không phải vì muốn tranh đoạt với ta thì cũng là đã phản bội ta để đứng về phía khác, liệu lúc ấy nó có nghĩ đến hai chữ "máu mủ" mà ngươi vừa nhắc đến? Huống hồ..

Câu nói gần bật ra khỏi miệng trong tích tắc, Nghi Dân đã kịp nuốt lại.

Suýt chút nữa người đã thốt ra: "Huống hồ Khắc Xương với ta cũng không phải cùng một mẹ sinh ra như mọi người đều tưởng!"

Việc này nếu không phải chính miệng mẫu thân rủ rỉ vào tai người trước lúc lâm chung thì cả đời này Lạng Sơn Vương vẫn tưởng người và Tân Bình Vương đều là con đẻ của Quý phi Dương Tiểu Hoàn.

Trong hơi thở đứt quãng, yếu ớt như ngọn đèn dầu sắp cạn, vị phế phi gắng gượng kể lại cho Nghi Dân câu chuyện về người mẹ ruột của nhị Vương gia, vị Tài nhân họ Bùi.

Bùi Nguyệt Dung tuy có phụ thân là Ngự sử trung thừa Bùi Cầm Hổ, người được Hoàng thượng tin cẩn, trọng dụng nhưng bản thân sự tồn tại của nàng trong hậu cung Hoàng đế lại vô cùng mờ nhạt. Hoài thai chỉ sau một lần chịu ơn mưa móc nhưng suốt chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau lại chẳng được đấng lang quân nâng niu, trân quý, cuối cùng lại vì khó sinh mà chết khiến nhị Hoàng tử mới chào đời đã phải mồ côi.

Lúc đó, Dương Quý phi đang là người được Hoàng đế sủng ái hơn cả, cảm thấy đây là cơ hội tốt để củng cố địa vị của mình mới cầu xin Thánh thượng đồng ý để nàng bí mật nhận Khắc Xương làm con, coi như tự mình sinh ra. Chuyện xảy ra trong hậu cưng của Hoàng đế, theo ý nguyện của sủng phi họ Dương, Thanh thượng đã ra lệnh cho Thái y và đám cung nữ biết chuyện phải giữ kín mồm miệng nên người bên ngoài đều tưởng rằng nhị Hoàng tử là con đẻ của Quý phi Dương thị giống như Thái tử.

"Điện hạ!" — Hồng Vĩnh lại dè dặt lên tiếng cắt ngang mạch suy nghĩ của người, ý chừng vẫn muốn tìm lời xin hộ Khắc Xương.

"Đừng nói nữa! Hãy ra chuyển lời của ta tới Tân Bình Vương rằng muốn quỳ cứ quỳ, muốn làm ra vẻ ăn năn thì cứ việc nhưng người đã ngủ say thì không thể nhìn hay nghe thấy nên đừng làm chuyện tốn công vô ích!"

Nói rồi, Nghi Dân khoát tay ra hiệu cho Hồng Vĩnh đi ra. Lão tổng quản thấy ý chủ nhân kiên quyết khó lay đành lẳng lặng rút lui kẻo lại như đổ thêm dầu vào lửa giận trong lòng đại Vương gia.

Khi Hồng Vĩnh mới bước ra tới ngoài, toan khép cánh cửa buồng lại thì tên lính gác cổng tất tả chạy đến bên cạnh, ghé tai thì thầm với lão. Hồng Vĩnh nghe xong gật gù nhưng nhớ tới nhị Vương gia vẫn đang kiên trì quỳ gối ngoài sân lớn, lão liền dặn tên lính ra dẫn vị khách mới tới vào gặp Lạng Sơn Vương theo lối hành lang phụ để tránh bị người khác trông thấy. Hắn vâng mệnh trở ra, Hồng Vĩnh cũng rảo chân tới bên Tân Bình Vương, giương ô lên che cho người và quỳ xuống khẩn khoản khuyên nhủ:

"Nhị Vương gia! Người đã quỳ lâu như vậy rồi, cơn mưa này ngày càng nặng hạt, hà cớ gì phải tự làm khổ mình như thế?"

"Lão Vĩnh, đại huynh vẫn không chịu gặp ta sao?"

"Tuy bây giờ ngài ấy cố chấp chưa muốn gặp nhưng đã là huynh đệ với nhau những việc không thể nói lúc này vẫn còn lúc khác để nói!" Viên quản gia cố tìm lời thuyết phục ''Không phải nhị Vương gia không hiểu tính khí của huynh trưởng mình, xin nghe theo lời khuyên của lão già này cứ trở về tư phủ, rồi từ từ ngài ấy sẽ nguôi ngoai mà suy nghĩ lại!"

"Nếu hôm nay cứ thế này mà đứng dậy rời đi, ta e rằng mình sẽ chẳng còn cơ hội nào để xin anh lượng thứ cho việc làm sai của mình đối với anh ấy!" — Khắc Xương tỏ ra kiên định.

"Nhị Vương gia... thế này thì..." — Ông lão khổ sở nhăn nhúm nét mặt khi thấy lời can gián của mình hoàn toàn chẳng có tác dụng — "Vậy thì lão cũng cùng quỳ ở đây với người!"

Nói rồi, Hồng Vĩnh vứt bỏ chiếc ô đang cầm trên tay sang một bên để cả chủ tớ đều bị nước mưa tạt ướt.

"Lão Vĩnh! Ông làm gì vậy?" — Khắc Xương thảng thốt kêu lên, vội cầm chiếc ô che lên đầu người quản gia già.

Khiến kẻ khác vì mình mà liên lụy là điều mà Tân Bình Vương không bao giờ mong muốn, Hồng Vĩnh vì hiểu được bản tính này mà đành đánh liều dùng nó để ép người, quả nhiên đã có thể khiến Khắc Xương lung lay, do dự.

"Lão nô tài sao có thể dửng dưng đứng nhìn Điện hạ tự làm khổ mình! Nếu không thể khuyên giải được Điện hạ, chi bằng cứ để lão cùng người quỳ dưới mưa, có như thế lão mới không bị người đời xỉ vả là kẻ bề tôi bất trung, thấy chủ nhân chịu khổ mà điềm nhiên bỏ mặc!"

"Lão Vĩnh!" — Khắc Xương chộp lấy tay ông già, toan nói thêm điều gì nhưng lại thoáng liếc thấy hai bóng người di chuyển theo lối hành lang phụ vòng ra phía cửa sau căn phòng đại Vương gia thường dùng để tiếp khách.

Khoảnh khắc ấy, Tân Bình Vương bỗng cảm nhận được một mối hồ nghi khó tả ập đến trong lòng. Nếu không phải điều gì vô cùng cơ mật thì Lạng Sơn Vương sẽ không đón khách bằng lối cửa sau, giống như là đang cố tình tránh né ánh mắt của kẻ khác.

Khắc Xương cụp ánh mắt xuống để người quản gia không kịp phát hiện điều mình trông thấy. Rất nhanh, người suy tính trong đầu, cảm thấy một trong hai người vừa đi ngang qua kia rất quen mặt như đã từng gặp ở đâu đó ngoài Vương phủ này.

"Đứa trẻ đó... ta đã thấy ở đâu trước đây? Nếu là trẻ con... "

Một hình ảnh vụt qua trong trí nhớ, Khắc Xương cuối cùng đã có thể nghĩ ra cậu bé đó chính là một trong hai tiểu đồng thường theo hầu bút nghiên Bình Nguyên Vương. Nhưng nhớ ra được người ấy chẳng những không giúp suy nghĩ của Khắc Xương trở nên sáng tỏ, ngược lại còn khiến người thêm bối rối, hoang mang như đang đứng giữa một vùng sương trắng, xung quanh mịt mờ không thấy lối đi.

"Tại sao gia thần phủ Bình Nguyên lại tới tìm Hoàng huynh, hành tung thì lén lén lút lút như thể đang làm chuyện mờ ám, hơn nữa còn đúng vào thời điểm vô cùng nhạy cảm này? Liệu có khi nào là vì chuyện liên quan đến việc tranh giành ngôi vị Trữ cung?"

Khắc Xương nhớ lại những gì xảy ra ở cuộc thi lần trước, những điều huynh trưởng nói với người về mưu đồ khiến Tư Thành sẽ vĩnh viễn mất đi tư cách tranh giành ngôi Trữ cung. Tân Bình Vương chợt hiểu ra một điều: trong Bình Nguyên phủ nhất định đã cài nội gián của Lạng Sơn Vương, có như vậy đại huynh của người mới có thể nắm rõ mọi điều xảy ra xung quanh Tư Thành như lòng bàn tay.

Khắc Xương bỗng cảm thấy mắt hoa lên, toàn thân lảo đảo suýt ngã.

"Nhị Vương gia!" — Viên quản gia vội đỡ lấy người, đầy lo lắng — "Người cảm thấy không khỏe ở đâu?"

"Ta không..." — Khắc Xương định dùng lời nói khách sáo để làm yên lòng ông lão nhưng một suy nghĩ lóe lên trong đầu khiến người lập tức đổi ý, cảm thấy đây chính là cái cớ hay mà mình có thể sử dụng.

"Điện hạ sao rồi?" — Hồng Vĩnh lặp lại.

''Ta hơi chóng mặt!" — Tân Bình Vương giả bộ kiệt sức muốn khụy xuống trong tay ông lão.

"Không xong rồi! Có lẽ do đứng dưới mưa nãy giờ đã khiến người nhiễm lạnh! Để lão nô tài đỡ người vào trong nghỉ ngơi! Bởi vậy lão mới nói sao lại phải tự hành hạ mình ra nông nỗi này!"

Ông già vừa đỡ lấy Khắc Xương, vừa lớn giọng gọi thêm vài kẻ hầu hạ cùng xúm tới dìu người bước đi. Quả như Tân Bình Vương dự đoán, bọn họ liền đưa người vào gian buồng mọi khi Khắc Xương thường nghỉ lại mỗi lần ghé chơi, nơi ấy cách phòng đọc sách của đại Vương gia không xa.

"Điện hạ nằm xuống nghỉ ngơi, nô tài sẽ đi sắc thuốc giải cảm mang tới cho người!" — Viên quản gia nói với Khắc Xương ngay lúc vừa đỡ người nằm xuống, sau khi đã giúp người thay toàn bộ lớp áo ướt trên người bằng bộ quần áo mới sạch sẽ, khô ráo và còn thơm mùi nắng.

Tân Bình Vương nằm im không đáp, hai mắt nhắm nghiền giả như đã chìm sâu vào giấc ngủ. Ông già áp tay lên trán người, nhận thấy thân nhiệt người vẫn bình thường thì thở phào một tiếng như trút được mối lo. Khắc Xương có thể cảm nhận được tiếng bước chân khẽ khàng đi ra phía cửa, tiếng cửa đóng rất nhẹ, tiếng Hồng Vĩnh dặn dò đám người bên ngoài rằng không được gây ồn làm ảnh hưởng tới giấc ngủ của mình.

Khắc Xương nằm thêm một lúc, khi đã chắc rằng không còn ai lởn vởn quanh đây mới từ từ nhỏm dậy, tụt xuống giường, chân trần bước trên đất để tránh tạo ra tiếng động.

Căn phòng mà người đang đứng tuy không nằm sát bên cạnh phòng đọc sách của đại Vương gia, nơi Hoàng huynh ngoài việc học tập còn dùng để bàn bạc những việc cơ mật cùng người trong bè phái nhưng có một hành lang nhỏ chạy dọc suốt từ đó qua một vài căn phòng khác nối tới tận đây, chỉ cần trèo qua lối cửa sổ là có thể ra được hành lang, cứ việc men theo đó là đến được phía ngoài hậu thư phòng.

Khắc Xương bước lên ghế, mạnh dạn trèo ra, tuy biết việc mình sắp làm là vô lễ với đại huynh nhưng người chẳng còn cách nào khác để giải tỏa được mối nghi ngờ trong lòng, vì chuyện đấu đá tranh đoạt giữa các Thân vương mà suýt chút nữa Ngọc Huyên bị đem ra làm vật hi sinh, nguy tới cả tính mạng, chỉ cần nghĩ về điều đó Tân Bình Vương lại cảm thấy lo lắng không yên. Hơn nữa, người sợ rằng một khi đại Vương gia đã biết được nàng chính là điểm yếu chí mạng của tứ đệ thì sẽ không dễ dàng buông tha quân cờ tốt.

"Ngươi nói sao?" — Tiếng Lạng Sơn Vương vọng ra từ thư phòng. Nếu không phải vì Khắc Xương đang đứng bên ngoài áp tai vào vách thì khó có thể nghe thấy rõ ràng từng câu chữ — "Người đàn bà họ Phạm cùng hai đứa con Anh Vũ, Ngọc Huyên là gia quyến duy nhất còn lại trên đời của ân nhân Ngô Thái phi?"

''Thưa vâng, chính tai nô tài nghe thấy lệnh bà nói điều dó với ngài Thái bảo! Tuy không rõ chuyện này có gì quan trọng hay không nhưng vì Điện hạ đã dặn rằng bất cứ điều gì liên quan tới cái tên Ngọc Huyên đều phải tức tốc bẩm báo lại nên nô tài không dám bỏ qua!"

"Khoan đã!" — Nghi Dân khoát tay ra hiệu cho nó im lặng để người có thời gian suy nghĩ.

Lạng Sơn Vương đi đi lại lại trong căn phòng, vẻ mặt biến chuyển dữ dội. Người dừng lại, vồ lấy cổ áo đứa trẻ đang đứng đối diện, nhìn thẳng vào mắt nó tra hỏi một cách cặn kẽ:

"Thái độ của Đinh Liệt khi nghe Thái phi nói về điều đó như thế nào? Là thản nhiên? Bối rối? Hay sửng sốt?"

"Là... là..." — Đứa trẻ vì sợ hãi biểu hiện của Nghi Dân mà trở nên lắp bắp — "Ngài đã kinh động đến nỗi đánh rơi cả chén trà đang cầm trên tay xuống đất vỡ tan!"

Nghi Dân từ từ buông nó ra, hơi thở trở nên nông và gấp gáp.

"Sau đó thì sao?" — Lạng Sơn Vương hỏi — "Ngươi có nghe thấy bọn họ nhắc đến bất kỳ cái tên nào nữa hay không?"

"Không, thưa Điện hạ!"— Nó rụt rè trả lời — "Các vị ấy không còn nhắc tới ai khác nhưng ngài Thái bảo có nói một câu đại loại như đó là tội khi quân và hỏi lệnh bà rằng có còn ai biết về điều ấy nữa hay không?"

"Ân nhân? Tội khi quân?" — Lạng Sơn Vương lẩm nhẩm trong đầu, càng lúc càng chắc chắn vào điều mình nghi ngờ. Cơ hàm người chuyển động, kéo một bên mép lên thành nụ cười nửa miệng đắc thắng và nham hiểm.

''Dạ thưa, còn điều này nữa!" — Đứa trẻ chợt nhớ ra — "Ngài Thái bảo nói sẽ lo liệu để đưa mẹ con họ sớm rời khỏi Bình Nguyên phủ tới một nơi khác! Nhưng là nơi nào thì nô tài không nghe nhắc đến!"

''Được rồi! Tốt lắm! Làm rất tốt!" — Đại Vương gia gật gù tỏ ý hài lòng, lấy từ trong tay áo ra một túi tiền dúi cho nó — "Phần thưởng của ngày hôm nay! Ngươi mau trở về đó, nếu lại thấy có điều gì khác lạ thì mau tới gặp ta bẩm báo, nhất định ta sẽ thưởng như đã hứa!"

Đứa trẻ quỳ xuống rối rít tạ ơn, đút vội túi tiền vào ống tay áo rồi nhanh nhẹn đứng dậy toan lui. Khi nó vừa định mở cửa bước ra thì nghe Lạng Sơn Vương gọi giật lại, căn dặn:

''Đại Phúc! Nhớ dặn người làm đưa ngươi ra bằng lối cửa sau! Từ nay trở đi bản thân ngươi cũng nên thận trọng một chút, việc lớn của ta có thể hoàn thành hay không đều phải trông vào ngươi đó!"

''Vâng, thưa Điện hạ!" — Nó đáp, giọng đầy căng thẳng.

''Được rồi lui đi!" — Nghi Dân khoát tay ra hiệu.

Khi cánh cửa vừa khép lại, Lạng Sơn Vương dường như không thể kiềm chế lâu hơn nỗi vui mừng như muốn bùng nổ, người đấm mạnh tay xuống mặt bàn, âm thanh ở cổ họng bật ra thành một tràng cười giòn giã.

Tân Bình Vương ở ngoài đã chứng kiến tất cả nhưng với một tâm trạng hoàn toàn đối lập. Từng bước liêu xiêu trở về phòng mình, Khắc Xương cảm thấy toàn thân ớn lạnh, mồ hôi túa ra trên trán, cổ, và dọc sống lưng, lớp áo lót thấm ướt mồ hôi bám dính vào người càng khiến cơ thể bứt rứt khó chịu. Người đổ ập xuống giường, run lên từng chặp, đầu óc mơ màng tự hỏi điều gì đã khiến cơ thể này gục ngã? Là vì cảm lạnh sau mấy canh giờ dầm mưa? Hay vì bí mật khủng khiếp vừa chính tai nghe thấy? Khắc Xương cứ vậy thiếp đi, trong giấc ngủ chập chờn, người nhìn thấy máu tươi chảy lênh láng khắp nơi, nhuộm đỏ cả thành Đông Kinh...

Chương 17

CHƯƠNG 3: DỤNG TÂM

Bình Nguyên Vương thoáng ngạc nhiên khi vừa bước vào đã trông thấy Lạng Sơn Vương đang ngồi trò chuyện cùng Hoàng thượng một cách vui vẻ, quả là cảnh tượng hiếm gặp xưa nay.

Bang Cơ không để Ỷ tới nét mặt ấy của Tư Thành, cười nói:

"Hoàng đệ tới rồi đó ư?"

"Khấu kiến Hoàng thượng, Hoàng huynh!"

"Miễn lễ! Ban tọa! Vừa hay trẫm và Lạng Sơn Vương đang nhắc tới đệ!"

Bình Nguyên Vương tiến tới, ngồi xuống chiếc ghế bên tay phải nhà vua, đối diện với Nghi Dân.

"Nhắc tới đệ sao? Không phải đệ đã gây ra điều gì thất lễ chứ?"

"Không có! Hoàng thượng rất quan tâm tới việc học tập của các Thân vương nên mới hỏi ta chuyện ở Kinh Diên!" — Lạng Sơn Vương nói, kín đáo quan sát biểu hiện của Hoàng đệ nhưng tuyệt nhiên sắc mặt Tư Thành không chút đổi khác.

"Vừa rồi trên đại điện, Bình Nguyên Vương đã khiến bá quan văn võ hết sức khâm phục! Dù thường lên lớp cùng nhau, hiểu rõ tứ Vương gia là bậc nhân tài hiếm có nhưng ta vẫn không khỏi cảm thấy kinh ngạc trước trí tuệ của Hoàng đệ!" — Nghi Dân tiếp lời.

"Hoàng huynh quá khen!" — Tư Thành khách sáo.

"Không quá chút nào! Cổ nhân lại có câu "chủ nào tớ nấy" Bình Nguyên Vương tài năng như vậy nên đến cả kẻ tôi tớ trong phủ đệ cũng không hề tầm thường!"

"Vậy ư?" — Hoàng thượng hỏi lại, tách trà đang đưa lên môi bỗng ngưng lại một nhịp, tuy không cố tình nhưng chứng tỏ nhà vua rất lưu tâm tới lời nhận xét ấy của Lạng San Vương.

"Dạ phải, thưa Hoàng thượng! Tiếng lành đồn xa, nghe nói trong Bình Nguyên phủ có cặp nam nữ song sinh tài mạo song toàn, huynh trưởng tên Anh Vũ, tiểu muội là Ngọc Huyên, tuổi chừng thập nhất, thập nhị!' [1]

[1] Thập nhất, thập nhị: Là cách nói hoa mỹ, chỉ đứa trẻ 11, 12 tuổi.

Nghi Dân chỉ định đánh tiếng bâng quơ với Tư Thành, chẳng thể ngờ rằng cái tên "Ngọc Huyên" đã vô tình khuấy đảo tâm trí Bang Cơ, người nhoài người lên phía trước, hỏi dồn:

"Ngọc Huyên? Là Ngọc Huyên sao?"

"Hoàng thượng biết nàng ấy sao?" — Nghi Dân có đôi chút ngạc nhiên bởi vốn dĩ không hề biết Bang Cơ đã từng có duyên kỳ ngộ với nàng trước đó.

"Ả... không!" — Nhà vua nhận ra sự sơ ý trong lời nói của mình.

Lần duy nhất người gặp nàng chính là ở phủ Bình Nguyên khi cùng Đào Biểu nhân lúc sáng sớm lén rời khỏi Cung thành. Bang Cơ không muốn dể lộ ra chuyện ấy liền bối rối sửa lại:

"Chỉ là trẫrn. cảm thấy cái tên ấy rất đẹp! Hoàng đệ, liệu lần tới nhập cung có thể mang nàng ấy cùng theo không?"

Hoàng thượng hướng ánh mắt nhìn sang Tư Thành, trông đợi một cái gật đầu từ người em trai thân thiết, trong lòng vốn nghĩ đề nghị này chẳng có gì khó khăn, nào ngờ Bình Nguyên Vương lại tìm cớ thoái thác:

"Chẳng qua là một nữ nhân có xuất thân hèn kém, xin Hoànq thượng đừng để tâm nếu không thần đệ sẽ khó lòng ăn nói với Thái hậu!"

Lời từ chối khéo của Tư Thành khiến Bang Cơ tiu nghỉu, còn Nghi Dân trong lòng không khỏi cảm thấy kinh ngạc. Xưa nay có bao giờ Bình Nguyên Vươnq khước từ Hoàng thượng điều gì, vậy mà nay chỉ vì một nữ tì mà chẳng ngại nói lời trái với mong muốn của nhà vua, chẳng phải là kỳ lạ lắm sao?

Nghi Dân ghi nhớ rất rõ trong đầu những lời của Đại Phúc kể về cuộc nói chuyện giữa Ngô Thái phi và Đinh Thái bảo, Thái phi đã khẳng định rằng thân thế của ba mẹ con họ Phạm ngoài bà và Phạm phu nhân ra không còn ai khác biết. Lạng Sơn Vương hoàn toàn tin vào điều đó bởi vì những chuyện cơ mật liên quan đến tính mạng của nhiều người như thế thêm một người biết là thêm bao mối hiểm nguy, hai vị mẫu thân kia để bảo vệ những đứa trẻ của mình chắc chắn sẽ giấu chúng về thân thế thực sự của Anh Vũ, Ngọc Huyên. Nếu vậy, Bình Nguyên Vương từ chối để nàng xuất hiện trước mặt Hoàng thượng tất không phải vì ngăn chặn việc bí mật bị bại lộ.

Ngoài điều này ra, chỉ còn một lý do khác khiến Tư Thành khước từ Ý muốn của Bang Cơ, ấy là lo rằng Hoàng thượng sẽ động lòng trước nữ nhân mà mình yêu thích.

Lạnq Sơn Vương cảm thấy ngày hôm nay mình như kẻ đi câu trúng một mẻ cá iớn, chẳng cầu mà được.

"Ngọc Huyên, xem ra sự tồn tại của ngươi trên đời này chính là tử huyệt của Bình Nguyên Vương!" — Nghi Dân khéo giấu đi nụ cười sau tách trà trên môi.

Bang Cơ không nghĩ nhiều như hai vị huynh đệ của mình. Người lập tức tin vào cái cớ mà Tư Thành nêu ra, rằng việc gia thần trong Bình Nguyên phủ theo chủ nhân vào cung để gặp gỡ nhà vua nếu bị truyền ra ngoài thì Tư Thành sẽ bị các đại thần chỉ trích nặng nề, cho dù đó là vì làm theo ý nguyện của Hoàng thượng.

Cuộc thi đấu giữa các Thân vương đã khép lại với một kết cục không rõ ràng, tuy Tân Bình Vương đã chiến thắng hai trong ba vòng thi nhưng Thái hậu lại cự tuyệt không công nhận kết quả đó. Trên triều mỗi người một ý, kẻ đồng tình, người phủ nhận, tạo ra một cục diện vô cùng hỗn loạn, các phe phái đều nhăm nhe tìm cách hạ bệ uy tín của nhau để giành về cho mình thêm chút ưu thế. Mỗi lần thượng triều, thấy sắc mặt của Thái hậu thì kém vui còn các đại thần bên dưới lại như bất mãn, Bang Cơ cảm thấy ngao ngán vô cùng.

Thời điểm Hoàng thượng tự mình chấp chính chẳng còn bao xa, chính vì vậy mà gần đây trên triều, những người tỏ ra không thần phục Thái hậu lộ diện ngày càng nhiều, hầu hết đều thuộc phe phái ủng hộ Lạng Sơn Vương và Tân Bình Vương. Chính vì vậy Thái hậu càng tỏ rõ quyết tâm đưa Tư Thành vào ngôi Hoàng thái đệ, bắt đầu từ việc công khai triệu kiến Bình Nguyên Vương vào cung hằng ngày như cố ý ban bố với tất cả rằng đó mới là người được Nhiếp chính Hoàng thái hậu lựa chọn, định qua một thời gian nữa, khi chuyện thắng thua kia lắng xuống sẽ thúc giục Hoàng thượng ban chiếu thư sách lập làm người kế vị.

Nghi Dân nghĩ tới dụng tâm ấy của Thái hậu, không kìm được một tràng cười khùng khục trong cổ họng.

"Thái hậu hao tâm tổn trí, nghĩ ra trăm phương ngàn kế đê rộng đường cho Tư Thành tiến thân mà chẳng mảy may biết rằng những kẻ Bình Nguyên Vương nuôi trong phủ lại chính là kẻ thù của mình, Thái hậu như thế cũng khác nào tự mình "nuôi ong tay áo; nuôi cáo trong nhà" Lạng San Vương khẽ tặc lưỡi, dành cho Thái hậu một cái nhếch mép cười mỉa mai, đoạn lại liếc nhìn sang Hoàng đệ đang rảo bước bên cạnh, dáng vẻ nghiêm trang, ánh mắt nhìn thẳng như chẳng để tâm tới điều gì khác ngoài con đường trước mặt.

Vừa nãy, khi Tư Thành đứng dậy cáo từ Hoàng thượng, Nghi Dân cũng viện cớ xin lui, tuy thấy Hoàng huynh vẻ như có ý muốn gặp riêng mình nhưng Bình Nguyên Vương chẳng hề gặng hỏi, cứ điềm nhiên thả bước về hướng Vĩnh Ninh cung. Quả nhiên, Lạng Sơn Vương lặng lẽ đi chung đường một quãng xa, tới khi không còn trông thấy bóng dáng binh lính và cung nữ ở xung quanh mới cất lời mời mọc:

"Hoàng đệ có muốn cùng rời bước tới Di Nhiên đường [2] ở vườn ngự uyển chuyện trò đôi chút?"

[2] Di Nhiên đường: nơi dừng chân nghỉ ngơi.

''Thưa, được!" — Người đáp — "Hoàng huynh, xin mời!"

Di Nhiên đường nằm trên lối dẫn từ cung Thiên Hòa của Hoàng thượng tới tẩm cung của Thái hậu, là chốn dừng chân tránh nắng, trú mưa, hoặc chỉ đơn giản để ngồi nhàn tản thưởng hoa, ngắm nguyệt, nghe tiếng chim muông. Nhưng hôm nay, Tư Thành đoán chắc đại huynh của mình không vì thời tiết nắng mưa, cũng chẳng vì nổi lên nhã hứng mà đưa ra lời gợi ý tới đây.

Nghi Dân ngồi xuống một trong bốn chiếc ghế, lại chỉ tay vào vị trí đối diện sau bàn đá cẩm thạch trắng, khách sáo nói:

"Hoàng đệ, mời!"

Tư Thành khẽ gật thay cho lời đáp, thầm đoán định trong đầu hẳn đây sẽ là một cuộc chuyện trò không hề đơn giản, chỉ chưa biết đại Vương gia muốn nói về điều gì và liên quan đến ai mà thôi.

"Một nữ nhân có thân phận hèn kém, Hoàng thượng thì không thể nhưng một Thân vương như ta hoàn toàn có thể thu nạp nàng ấy!" — Nghi Dân úp mở vào đề.

"Đệ thực không hiểu ý của Hoàng huynh!" — Tư Thành đáp, chân mày khẽ động, tuy nét mặt vẫn nguyên vẻ bình thản nhưng tận sâu trong lòng bỗng dội lên thứ cảm giác dao động ma hồ tựa như ai đó ném một viên đá vào giữa mặt nước đang tĩnh lặng.

"Là về Ngọc Huyên! Tuy xuất thân thấp kém không thể ban làm chính thất nhưng trở thành tì thiếp của một Thân vương như ta cũng chẳng thiệt thòi chút nào!"

Mặt hồ trong lòng Tư Thành thực sự dậy sóng sau câu nói ấy, không chỉ là những gợn nước lăn tăn mà trở nên cuồn cuộn, lớp sau gối đầu lớp trước.

"Hoàng huynh khéo đùa rồi!" — Người gượng nở một nụ cười.

''Không giấu gì Hoàng đệ, mục đích tiến cung của ta hôm nay chính là vì việc này! Ngọc Huyên người đẹp, hay chữ, lại đoan trang, hiền thục, tuy giờ còn nhỏ tuổi nhưng sau này nhất định sẽ trở thành một kỳ nữ thiên hạ. Chỉ có điều, thân phận của nàng đúng là một vấn đề không thể không lưu tâm, cho nên ta mới nghĩ ra một cách là tìm tới cậy nhờ Thái hậu, dựa vào ảnh hưởng của người để sắp xếp cho nàng được nhận làm nghĩa nữ trong một gia đình tương đối danh giá, đợi thêm vài năm nữa khi nàng đủ trưởng thành sẽ làm một cái lễ nhỏ để chính thức đón về tư phủ! Đối với nàng ấy như vậy đã là hết sức chu toàn rồi, Hoàng đệ thấy sao?"

Tư Thành nghe tới đâu, sắc mặt kém vui tới đó, bản thân cũng không lý giải nổi tâm trạng của mình hiện giờ là giận dữ, lo lắng hay hỗn loạn. Nếu không phải giữa hai người là một chiếc bàn thì có lẽ Lạng San Vương đã dễ dàng nhìn ra đôi bàn tay tứ Vương gia đang siết chặt vào nhau như thường thấy khi người ta phải gò mình chịu đựng một tình thế không lấy gì làm thoải mái.

"Dù sao đó cũng là gia thần trong Bình Nguyên phủ nên ta nghĩ cũng cần nói qua với Hoàng đệ một tiếng mới phải phép!" — Nghi Dân tiếp tục, giả dò như đang say sưa với chuyện vui trong lòng nhưng thực chất là kín đáo đánh giá thái độ đối phương.

Chắc hẳn Lạng Sơn Vương sẽ cảm thấy rất hả hê nếu như biết được phải khó khăn lắm Tư Thành mới giữ được vẻ điềm tĩnh thường thấy, cười nhạt mà đáp lại:

"Còn em lại cho rằng "phải phép" phải là nghĩ cho tâm tư của Ngọc Huyên, liệu nàng ấy có đồng ý với điều Hoàng huynh vừa nói không? "Một bàn tay không làm nên tiếng vỗ", hôn sự vốn là việc của đôi bên, anh không thể áp đặt đối phương theo sắp xếp của riêng mình!"

Nghi Dân nghe vậy thì cười phá lên:

"Hoàng đệ à Hoàng đệ, em lấy đâu ra cái suy nghĩ tầm thường ấy? Đừng quên ta là một Thân vương, còn Ngọc Huyên kia chỉ là gia thần trong Vương phủ, là một kẻ tôi tớ mà địa vị thậm chí còn chẳng bằng một người dân thường! Làm gì có chuyện một Thân vương phải hỏi xin kẻ đầy tớ?"

"Hoàng huynh, nếu anh đã có ý coi thường nàng ấy như vậy thì xin thứ lỗi, em không thể giúp anh thành toại, trước mặt Thái hậu và Hoàng thượng em sẽ phản đối tới cùng ý kiến của Hoàng huynh!"

"Chỉ là một nữ nhân tầm thường, Hoàng đệ không cảm thấy mình đang làm quá lên ư?" — Lạng Sơn Vương thôi châm chọc, nhìn Tư Thành bằng ánh mắt nửa như dò xét, nửa lại thách thức.

''Cứ coi như là em có cùng cách nghĩ với Hoàng huynh thì Ngọc Huyên là gia thần trong Bình Nguyên phủ, cũng tức là người của tứ Vương, vậy thì phàm những việc có liên quan đến nàng ấy, em không thể không quản!"

"Hay cho câu "người của tứ Vương"!" — Nghi Dân nhắc lại, rành rọt từng chữ.

"Hoàng huynh, thứ lỗi cho em hôm nay trong người không khỏe nên chẳng tiện ngồi lâu chuyện trò cùng anh! Xin được đứng dậy cáo từ!"

Bình Nguyên Vương nói, chắp tay từ biệt rồi lập tức đứng lên, toan ngoảnh mặt bước đi, sợ rằng nếu phải ở lại nghe thêm những lời của Lạng Sơn Vương thì đến cả điệu bộ lạnh lùng này cũng không còn giữ nổi.

Nghi Dân biết mình đã không uổng phí một nước cờ thăm dò, tuy ngoài mặt Tư Thành vẫn tỏ ra điềm tĩnh nhưng cái vẻ lạnh nhạt này ở Hoàng đệ cũng là điều chưa từng thấy xưa nay.

Thực ra, trước khi đến đây, Nghi Dân còn chưa quyết định được nên sử dụng quần cờ Ngọc Huyên như thế nào. Tiết lộ bí mật kia có thể ngay lập tức lấy đi tính mạng của ba mẹ con Phạm thị nhưng chưa chắc đã gây nên ảnh hưởng lớn tới tiền đồ của Bình Nguyên Vương bởi vì xét cho cùng, người phạm tội khi quân là mẫu thân của Tư Thành chứ không phải Hoàng đệ. Ngô Thái phi hoàn toàn không phải đích nhắm của Lạng Sơn Vương, khiến bà ấy bị khép vào tội chết vốn chẳng mang lại lợi lộc gì cho người nếu như không muốn nói rằng việc chuốc thêm thâm thù từ người như Tư Thành là điều chẳng dễ chịu chút nào.

Nhưng vừa rồi gặp Bình Nguyên Vương, quan sát biểu hiện khác thường của Hoàng đệ đối với những việc có liên quan đến Ngọc Huyên, Nghi Dân cuối cùng cũng nghĩ thông một điều: loại bỏ kình địch không nhất thiết phải tìm đường tận diệt, cách tốt hơn là khiến kẻ đó trở nên thần phục dưới tay mình.

"Hoàng đệ!" — Nghi Dân lên tiếng trước khi Tư Thành kịp rời khỏi — "Nếu đã coi ai đó là người của mình thì hẳn em cũng nên ra tay giúp họ bảo toàn tính mệnh, tội khi quân nào phải trò đùa!"

Quả nhiên lời nói đó đã khiến Bình Nguyên Vương phải dừng bước. Tư Thành ngoảnh lại, trao cho đại Vương gia cái nhìn đầy thận trọng, bình tĩnh trả lời:

"Hoàng huynh nói đùa rồi! Ngọc Huyên xưa nay sống luôn giữ phận, hơn nữa thường chỉ quẩn quanh trong phủ giúp việc mẫu thân, chẳng có dịp tiếp xúc với nhiều người, sao có thể phạm vào hai tiếng "khi quân"!"

"Không phải nói đùa, cũng không phải hù dọa!" — Nghi Dân nhún vai, điệu bộ tự tin — "Hoàng đệ hẳn đã từng nghe tới cái tên: Vinh Lộc đại phu, Nhập nội hành khiển, Tri tam quán sự Nguyễn Trãi chứ?"

Nghe Lạng Sơn Vương nhắc đến tên người ấy, trong lòng Tư Thành càng thêm phần cảnh giác. Người im lặng không đáp.

"Từng là trọng thần từ thời Thái Tổ Cao Hoàng đế và Hoàng khảo [3] Thái Tông Văn Hoàng đế, vì dính đến vụ án Lệ Chi Viên năm Nhâm Tuất mà bị kết án tru di!" — Nghi Dân mỉm cười thâm thúy, thay người trả lời — "Ta cho rằng Hoàng đệ không thể không biết gì về người đó, dù sao cũng từng một lần chịu ơn cứu mạng!"

[3] Hoàng khảo: từ mà những người con gọi người cha làm vua đã mất.

"Đại huynh! Nếu là về những việc xảy ra trong quá khứ, thứ lỗi cho em từ chối luận bàn!"

"Là chuyện của quá khứ nhưng vẫn kéo dài dai dẳng tới tận ngày nay và e rằng tương lai có lẽ còn nhiều người phải chịu liên lụy!" — Lạng Sơn Vương úp mở - "Ta rất tò mò về việc Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ sẽ cảm thấy ra sao nếu như biết được Ngô Thái phi vì chút ân nghĩa xưa kia mà dám khi quân phạm thượng, che giấu tội thần của triều đình, còn lén cưu mang trong tư phủ?"

"Hoàng huynh nói sao?"

"Chắc hẳn người sẽ rất kinh ngạc khi biết được hậu duệ của tội thần Nguyễn Trãi vẫn còn lưu lại trên cõi đời này! Tru di tam tộc chẳng phải là xử chết tất cả hay sao? Vậy rnà vẫn bỏ sót ba mạng nhà họ Nguyễn! Quan thụ lý vụ án năm xưa hành sự tắc trách để lọt người lọt tội chắc chắn phải bị xử lý, nhẹ thì giáng cấp, nặng thì phế quan, còn mẫu thân Hoàng đệ, người đã khéo che đậy cho những kẻ ấy để chúng được thêm mười năm sống yên ổn, sẽ bị khép vào khung hình phạt nào ta thực không dám nghĩ tiếp!"

Tư Thành ngây người, những lời Nghi Dân vừa nói khiến tâm trí người tuy còn mơ hồ nhưng sao nặng nề tựa như bị ngàn khối núi đè lên. Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi, tru di tam tộc, hậu duệ còn sống sót, ba mạng người nhà họ Nguyen... những manh mối mà Lạng Sơn Vương tung ra chẳng phải có ý ám chỉ tới ba người là Phạm phu nhân, Anh Vũ, Ngọc Huyên hay sao?

"Trông sắc mặt của Hoàng đệ hẳn là đã đoán ra đám người trong câu chuyện? Nếu em còn nghi hoặc những lời ta nói hôm nay là trò hù dọa thì có thể trực tiếp đến hỏi Đinh Thái bảo, chỉ sợ càng khiến ông ấy thêm lo sợ mà đem ba mẹ con họ giấu đến nơi thâm sơn cùng cốc để cả đời này không ai có thể tìm ra dấu vết!"

"Thái bảo đại nhân?"

"À phải rồi!" — Nghi Dân giả bộ reo lên một tiếng — "Cách giấu kĩ nhất chẳng phải chính là ''giết người diệt khẩu" hay sao? Phải làm đến mức thần không biết, quỷ không hay để trên đời không còn ai có thể tìm ra sơ hở?"

Tư Thành cảm thấy đôi tai ù đi, mặt đất dưới chân bỗng rung chuyển mà không biết chính là do hai đầu gối mình đang run lên, chỉ muốn khụy xuống. Tứ Vương gia hít một hơi đầy lồng ngực, từ từ ngồi xuống, cố gắng giữ lấy một chút bình tĩnh còn sót lại, tự nhắc nhở bản thân gục ngã vào lúc này chính là để lộ ra sơ hở không thể cứu vãn.

"Tuy Ngô Thái phi nhân từ, trọng nghĩa, đối với gia quyến của ân nhân thì không ngại liều mạng chở che nhưng Đinh Liệt, theo ta thấy tuyệt đối không phải là người hồ đồ đến vậy!" — Lạng Sơn Vương không ngừng vẽ ra viễn cảnh đen tối cho tương lai của Ngọc Huyên — "Việc của ba mẹ con Phạm thị nếu bị bại lộ, họ bị khép vào tội chết đã đành còn có thể khiến nhiều người chịu chung kiếp nạn, như Ngô Thái phi, những người trong Bình Nguyên phủ, gia tộc họ Ngô, họ Đinh, cả Hoàng đệ nữa, liệu có thể không liên lụy gì? Nếu ta là Đinh đại nhân, ắt sẽ tự hỏi lòng: những người vốn dĩ phải chết từ nhiều năm trước, giúp họ được sống thêm mười năm đã là tận nghĩa rồi, nay vì đại sự trước mắt, cần họ hi sinh tính mạng để đổi lấy bình yên của nhiều người, bảo vệ tiền đồ của Bình Nguyên Vương, đó chẳng phải là đòi hỏi gì bất công hay quá đáng!"

Những lời của Nghi Dân có bao phần là thật, bao phần là giả, Tư Thành hoàn toàn chưa thể xác định nhưng người biết chính xác một điều rằng Lạng San Vương hành sự không bao giờ không vì một mục đích nào cụ thể, cả việc trò chuyện giữa hai người tại Di Nhiên đường ngày hôm nay cũng thế. Bình Nguyên Vương tuy trong lòng hoang mang nhưng không thể phủ nhận được một điều: so với lo lắng, người càng cảm thấy hiếu kỳ nhiều hơn, muốn biết mục đích đằng sau những lời rào đón của Lạng Sơn Vương là gì?

"Nếu như Hoàng đệ thực sự muốn bảo vệ mạng sống ba người ấy thì cách duy nhất chính là hãy giao bọn họ cho ta!" — Cuối cùng thì Lạng Sơn Vương cũng nói tới điểm mấu chốt nhất.

Tư Thành nhìn Nghi Dân, đôi mày khẽ nhíu lại:

"Hoành huynh dựa vào lý do gì?"

"Rất đơn giản! Sự tồn tại của họ đối với Hoàng đệ mà nói chính là mầm mống hiểm họa, vậy thì những người thuộc phe phái ủng hộ Bình Nguyên Vương sẽ chẳng từ thủ đoạn để loại bỏ đi mầm mống ấy. Ngược lại, Hoàng đệ với ta mà nói chính là đối thủ cùng tranh giành ngôi vị, những gì không có lợi cho kình địch của mình, ta ắt sẽ cố công bảo vệ! Hoàng đệ hãy coi việc để họ ở chỗ ta như là tín ước cho việc Bình Nguyên Vương từ nay về sau sẽ không đối đầu với Lạng Sơn Vương ta nữa. Bù lại, tính mạng của họ sẽ đưạc bảo đảm hơn lúc nào hết!"

Tư Thành nghe xong không đáp, dùng vẻ lạnh nhạt để che đậy nội tâm hỗn loạn.

"Hoàng đệ hãy suy nghĩ về những điều ta nói hôm nay! Thời gian không đợi người, chỉ sợ trong lúc Hoàng đệ còn đang đắn đo cân nhắc thì phe phái của mình đã hành động rồi!" — Lạng Sơn Vương khẽ nhếch môi, lần này tới lượt người đứng dậy trước — "Hoàng đệ, cáo từ!"

Nghi Dân quay người bước đi, khẽ phe phẩy chiếc quạt trên tay, tự cảm thấy tâm trạng hôm nay thư thái khác lạ, người nhẹ nở một nụ cười nửa miệng, ánh mắt đuổi theo đám diều hâu đang chao lượn tìm mồi trên cao.

Bởi vì thứ tình cảm thân thiết mà ba đứa trẻ dành cho nhau, Anh Vũ, Ngọc Huyên giống như chiếc dây trói vô hình quàng trên người Tư Thành, thật không may lại bị Lạng Sơn Vương nhìn ra.

Vì vậy mà giờ đây Nghi Dân đã hiểu: bảo toàn bí mật và mạng sống cho họ mới chính là điều nên làm vì đại sự về sau, chỉ cần bọn trẻ còn sống thì điểm yếu của Bình Nguyên Vương vẫn còn, giá trị lợi dụng của hai huynh muội Anh Vũ, Ngọc Huyên chính là ở chỗ ấy.

Chương 18

CHƯƠNG 4: THỎA HIỆP

Thuốc đắng đã đánh thức vị giác, kéo Tân Bình Vương ra khỏi can mê man. Người từ từ mở mắt, cảm thấy đầu nặng trĩu, cảnh tượng trước mặt mờ mờ ảo ảo như không có thực.

"Điện hạ, cuối cùng người cũng tỉnh lại rồi!"

"Ta đang ở đâu thế này?" — Khắc Xương khẽ cựa quậy, toàn thân ê ẩm chẳng có chút sức lực nào, nhận ra xung quanh là đám tôi tớ, kẻ đỡ lưng, người bón thuốc, lại có nữ tì ngồi bên cầm khăn khẽ khàng thấm đi dòng nước chảy ra ngoài khóe môi.

''Thưa, đây là phủ Lạng Sơn!" Tên nô tài túc trực ở đó đáp ''Người dầm mưa nhiễm lạnh, đã mê man ba ngày nay rồi!"

"Lạng Sơn phủ? Dầm mưa?" — Khắc Xương lặp lại, nhíu mày suy nghĩ về chuyện đã xảy ra. Những ký ức không hay ùa về khiến bụng dạ Tân Bình Vương quặn lên, người hỏi thêm, điệu bộ lo lắng, gấp gáp:

"Hôm nay là ngày bao nhiêu?"

"Thưa, là mười bốn!"

''Mười bốn tháng tám?" — Khắc Xương lẩm bẩm — "Ngày mai chính là ngày Tết Trung thu... Không hay rồi!" Tân Bình Vương vùng dậy nhưng cơ thể ốm yếu đã phản lại ý chí của bản thân khiến người lảo đảo suýt ngã.

"Điện hạ coi chừng!"

Bọn kẻ dưới kêu lên kinh hãi và vội xúm lại đỡ lấy chủ nhân nhưng Khắc Xương chẳng còn để tâm đến điều gì khác ngoài mối lo âu trong lòng.

Năm nào vào dịp Tết Trung thu, Hoàng thái hậu cũng tổ chức yến tiệc linh đình ở điện Vạn Thọ, mời đủ mặt văn võ bá quan trong triều được chưng vui, quân thần tề tựu, Hoàng tộc sum vầy.

Nhưng năm nay...

"Điều gì sẽ xảy ra nếu trước mặt đông đủ mọi người, Hoàng huynh lên tiếng tố cáo việc Ngô Thái phi kháng chỉ, che giấu tội thần triều đình trong Bình Nguyên phủ?" — Khắc Xương rùng mình kinh sợ bởi Ỷ nghĩ vừa thoáng vụt qua.

''Đại Vương gia đâu? Hoàng huynh ta còn ở trong phủ không?" — Người vội hỏi đứa nô tài bên cạnh.

"Thưa, mấy ngày Điện hạ mê man đại Vương gia rất lo lắng..."

"Ta hỏi Lạng Sơn Vương đang ờ đâu?" — Khắc Xương lớn tiếng cắt ngang khiến cả đám giật thót, cũng bởi xưa nay chúng chưa từng thấy người cao giọng với kẻ dưới bao giờ.

"Dạ, thưa..." Nó lắp bắp "Đại Vương gia giờ này có lẽ đã vào cung rồi ạ!"

Nghe tới đó, Khắc Xương cảm thấy tim mình thắt lại. Người túm lấy cổ áo đứa tiểu nô tài, kéo nó lại gần, ra lệnh:

"Mau mang quần áo lại dây, chuẩn bị xe ngựa nữa! Ta cần trở về Tân Bình phủ!"

Đứa trẻ lần đầu trông thấy biểu cảm nghiêm trọng ấy của nhị Vương gia thì không khỏi cảm thấy e sợ, liền cuống quýt dạ vâng. Khắc Xương vừa buông tay, nó đi giật lùi mấy bước rồi quay người chạy biến ra cửa, lo làm xong việc người giao không dám chút nào trễ nải.

Chiếc xe ngựa lộc cộc lăn bánh đưa Tân Bình Vương rời khỏi Lạng Sơn phủ. Khắc Xương vén rèm kín đáo nhìn ra, đến khi cảm thấy minh đã đi được một đoạn đủ xa, không còn trông rõ cờ hiệu Lạng Sơn Vương màu trắng tung bay trên đỉnh cột cờ, mới hắng giọng ra lệnh cho người phu xe:

"Ngô Phú, chúng ta không đi về hướng phủ Tân Bình nữa!"

"Thưa vâng! Điện hạ muốn đi đâu ạ?"

"Đưa ta tới tư gia nhà họ Đinh!" — Người đáp, đấm tay vào ngực cố chặn tràng ho rũ rượi.

Trong số những đứa trẻ là gia thần trong Bình Nguyên phủ, chịu ơn nuôi dưỡng của Ngô Thái phi mà lớn lên, từ nhỏ đã thân thiết với Tư Thành, Đinh Thái bảo đặc biệt chú ý tới Anh Vũ.

Không chỉ là đứa trẻ gần gũi Bình Nguyên Vương hơn cả, Vũ còn sớm tỏ ra là một người thông minh, ham học, tính tình điềm đạm, đáng tin. Sau một thời gian dài âm thầm quan sát, ngài nhìn nhận Vũ là đứa trẻ có thể chọn để bồi dưỡng trở thành tâm phúc số một bên cạnh Bình Nguyên Vương, giúp ích cho sự nghiệp của người. Chính vì vậy Đinh Liệt mới từng hỏi han Ngô Thái phi về ngày sinh bát tự của Anh Vũ để xem xét thêm về mệnh số của đứa trẻ ấy, quả nhiên kết quả khiến ngài hết sức hài lòng.

Lá số của Anh Vũ có cách cục Nhật Nguyệt tịnh minh: "Mặt trăng, mặt trời cùng sáng phò tá Thiên tử tại cung son", tính cách quang minh lỗi lạc, thuở nhỏ nổi tiếng về tài học, ngày càng phát triển vững vàng, công danh thịnh đạt, trợ lực minh chủ, sớm thỏa chí công danh... chính là người sinh ra mang Thiên mệnh phò tá Đế vương.

Nhưng trăm ngàn cái tốt lại không khỏa lấp được một điều: Ngọc Huyên, tiểu muội song sinh của Anh Vũ, tuy tuổi còn nhỏ nhưng dung mạo như hoa, thần thái bất phàm, chẳng trách Bình Nguyên Vương đã sớm có lòng yêu thích, khiến vị trưởng bối là Đinh Thái bảo trông vào bỗng cảm thấy có chút bất an.

Giờ đây, khi biết được thân thế thực sự của hai đứa trẻ ấy, Đinh Liệt bỗng nhận ra đối với Tư Thành chúng không phải phúc tinh nào cả mà chính là mầm mống tai họa cận kề, tuyệt đối không thể giữ lại bên cạnh.

Thái bảo đại nhân đi đi lại lại trong phòng, thầm tính tới những nơi có thể mang ba mẹ con họ đi giấu, không phải là một tuần, một tháng hay một năm mà là cả cuộc đời. Vì sự bình yên của Tứ vương gia và Thái phi, cũng tức là sự bình yên của chính mình, họ sẽ phải sống như không hề tồn tại, những đứa trẻ sau này lớn lên có thể lập thân, sinh con đẻ cái nhưng trước đó phải từ bỏ họ tên.

Đinh Thái bảo ngẫm nghĩ hồi lâu, cảm thấy không còn cách nào ổn thỏa hơn. Tuy năm xưa Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi có ơn cứu mạng Ngô Tiệp dư và Long thai trong bụng lệnh bà nên mới có Bình Nguyên Vương ngày hôm nay nhưng giờ đây điều duy nhất ngài có thể làm cho gia quyến của ức Trai tiên sinh chỉ là tìm cho họ một mái nhà đơn giản ở nai thật xa Kinh thành, chu cấp thêm ít vốn liếng để tự lo thân sau này rnà thôi.

Đinh Liệt toan cất giọng gọi nô tài trong phủ tới truyền dặn thì đã có đứa chạy vào bẩm báo rằng bên ngoài có Tân Bình Vương đang chờ được gặp Thái bảo đại nhân.

"Mau mời nhị Vương gia vào!" — Ngài gật đầu ra hiệu cho đứa nô tài, cảm thấy có chút kinh ngạc lẫn hiếu kỳ trong lòng, không thể đoán ra vì sao người chưa từng giao thiệp hôm nay lại có nhã hứng tìm tới đây!

Dáng vẻ Khắc Xương khi mới bước vào khiến Đinh Liệt không khỏi ngỡ ngàng. Mới vài ngày không trông thấy kể từ hôm diễn ra cuộc thi thố giữa các Thân vương trong Cung thành mà hôm nay khi gặp lại Tân Bình Vương đã trở nên tiều tụy đến suýt không nhận ra.

"Chẳng mấy khi Điện hạ hạ cố đến tệ xá, thật quý hóa!" Thái bảo đứng dậy hướng ra cửa, hai tay chắp vào nhau, khom người hành lễ.

Khắc Xương đáp lại bằng một tràng ho nặng nhọc, khẽ xua tay thay cho câu "miễn lễ" không sao nói ra giữa chừng cơn thở dốc. Người ngồi xuống chiếc ghế gần đó, gật đầu trấn an người xưng quanh rằng mình ổn cả.

Không cần chủ nhân phải đích thân ra lệnh, đứa tiểu nô tài đã nhanh nhẹn bưng trà nước vào, tay chân thoăn thoắt hầu trà hai vị. Nó rót ra hai chén, mang tới đặt trước mặt chủ nhân và thượng khách của ngài, xong đâu đó liền khom người bước lùi ra tới cửa. Bình thường người nho nhã lịch thiệp như Khắc Xương nếu trông thấy vậy nhất định sẽ dành lời khen tặng rằng đám nô tài nuôi trong nhà Thái bảo vừa lanh lẹ, vừa hiểu phép tắc nhưng hôm nay người chẳng có tâm trạng để dông dài dù chỉ là vài ba câu xã giao khách sáo.

Nhấp một ngụm trà, bụng dạ lại quặn lên như có ai cào cấu, Khắc Xương mới chợt nhớ ra từ lúc tỉnh lại đến giờ vẫn chưa kịp ăn cho lại sức đã vội tìm tới đây, thầm nghĩ chắc hiện giờ bộ dạng của mình trong mắt người khác thảm hại lắm, bất giác đưa tay vuốt dọc mép áo, chỉnh đốn y phục, gắng nén lại nỗi bất an trong lòng.

"Sức khỏe của Điện hạ.."

"Chỉ là cảm vặt, không có gì nghiêm trọng!" — Khắc Xương gượng cười, vừa kịp nghĩ tới việc nên bắt đầu câu chuyện từ đâu. Người đặt tách trà trên tay xuống bàn, nhìn sang Thái bảo ở phía đối diện, thẳng thắn vào đề: "Ta đột ngột tìm tới chắc khiến ngài ngạc nhiên không ít nhưng quả thực có điều khẩn cấp không thể chần chừ, là chuyện liên quan trực tiếp tới Hoàng đệ, không thể bàn bạc cùng ai khác ngoài ngài đây!"

Đinh Liệt nhướn đôi lông mày, quét ánh mắt từ gương mặt xanh xao của người ngồi trước mặt ra tới cửa, viên quản gia đang đứng túc trực trong phòng chờ khi chủ nhân có việc sai bảo trông thấy vậy lập tức hiểu ý, liền lui ra ngoài canh gác, đảm bảo không để những chuyện sắp được nói ra trong căn phòng này có cơ hội lọt vào tai kẻ khác.

"Xin Điện hạ cứ nói!"

Khắc Xương hít một hơi đầy lồng ngực để trấn an tinh thần, tự nhủ chắc chắn quyết định của mình là không sai.

''Đại Vương gia là con trưởng của Hoàng khảo, lại đã từng được đích thân Hoàng khảo lập làm Thái tử. Nếu năm xưa không phải vì mẫu thân vô cớ bị Hoàng khảo ghẻ lạnh thì ngai vàng mà Thánh thượng đang ngồi đáng nhẽ phải thuộc về Hoàng huynh!"

Đinh Liệt nghe tới đó thì đứng bật dậy như ngồi phải lửa, Khắc Xương đã lường trước phản ứng ấy của Đinh Liệt, chỉ cười nhẹ, phẩy tay ra hiệu cho ngài bình tĩnh để nghe hết những điều người sắp nói:

"Đại nhân đừng vội hốt hoảng, không phải ta có suy nghĩ đại nghịch bất đạo, chỉ là muốn nêu ra vài phán đoán cá nhân về tình hình chính sự gần đây liên quan đến ngôi vị Trữ cung. Điều mà ta vừa to gan nói ra trùng với suy nghĩ của không ít vị trong triều và cũng là chuyện đã nằm trong liệu tính của Thánh mẫu Hoàng thái hậu. Việc khác thì không nói nhưng chọn người kế vị của Hoàng thượng, việc liên quan tới tổ tiên tông miếu, không phải là chuyện nhỏ mà Thánh mẫu Hoàng thái hậu có thể một mình quyết định không màng tới ý kiến của các đại thần. Trong mắt họ, luận tuổi tác, luận vai vế, đại Vương gia chính là người đáng được cất nhắc đầu tiên cho nqôi vị Trữ cung. Mà tâm tư của Thánh mẫu Hoàng thái hậu lại hoàn toàn hướng về tứ Vương gia nên mới nghĩ cách để hợp thức hóa chọn lựa của mình. Hoàng thái hậu muốn mượn cuộc thi tài giữa các Thân vương để Bình Nguyên Vương chính thức xuất hiện trong triều, khiến các đại thần ai nấy đều được biết về tài năng, tư cách của Hoàng đệ. Chắc hẳn đã tính sẵn nếu Tư Thành chiến thắng, đó sẽ là cái cớ hay để người đường đường chính chính ban ý chỉ chọn tứ Vương gia làm người kế vị Hoàng thượng. Nhưng nếu không phải Tư Thành mà là một Thân vương khác chiến thắng, cuộc thi đó ắt sẽ chỉ được xem là có tính chất tham khảo".

"Xét về tài trí và phẩm hạnh, Bình Nguyên Vương xứng đáng trở thành người được chọn!" — Đinh Liệt bình thản đáp. Tân Bình Vương bật cười thành tiếng, lắc đầu nhè nhẹ: "Lời của đại nhân có phải đã có phần sáo rỗng rồi không? Một đứa trẻ mới mười hai tuổi sao có thể nói trước về "phẩm hạnh" kia chứ?"

Lại cảm thấy dường như lời vừa nói dễ bị hiểu lầm thành sự mỉa mai, Khắc Xương vội giải thích:

"Hoàng đệ là người như thế nào chúng ta đều biết. Nhưng đối với các vị ở trong triều kia, Bình Nguyên Vương tâm tính ra sao, tài cán thế nào đâu phải dễ dàng mà thuyết phục được họ nếu không phải để họ được tận mắt chứng kiến! Rốt cuộc, dù thắng hay thua, Tư Thành đều đã khiến văn võ bá quan được phen khâm phục, cho nên nước đi của Thánh mẫu Hoàng thái hậu có thể nói là ''vô cùng khôn ngoan". Chỉ có điều, Thánh mẫu Hoàng thái hậu lại chẳng thể ngờ rằng trên con đường dẫn tới quyền lực mà mình đã mở sẵn lối cho Tư Thành, suýt chút nữa Hoàng đệ đã sa chân vào cái bẫy thân bại danh liệt do người khác sắp đặt!"

Tách trà đang đà đưa lên dừng khựng ở lưng chừng, ánh mắt Đinh Liệt ngưng lại trên thành ly sóng sánh nước. Ngài nghĩ ngợi giây lát rồi ngẩng lên nhìn nhị Vương gia, cố giữ vẻ bình tâm trong cái mỉm cười khiên cưỡng:

"Thiết nghĩ Điện hạ nếu đã có lòng chia sẻ thì xin nói rõ ràng hơn để tôi được hiểu cho thấu?"

"Hẳn ngài biết trong Bình Nguyên phủ có hai đứa trẻ là Anh Vũ, Ngọc Huyên?"

Nghe Khắc Xương nhắc đến cái tên ấy, trong lòng Đinh Thái bảo dợn lên cảm giác lo lắng, tâm trí như mặt hồ đang yên ả bỗng bị ai đó vung tay ném xuống một tảng đá lớn. Ngài lặng im không đáp nhưng câu trả lời nằm cả nơi đáy mắt. Nếu như không phải đã có sẵn những bận tâm và lo nghĩ thì cái nhìn của Đinh Liệt đọng trên gương mặt Tân Bình Vương liệu có thể nào chứa đựng nhiều phòng bị đến thế?

Khắc Xương không ngoảnh mặt đi né tránh, chỉ điềm tĩnh tiếp lời:

"Thái bảo đại nhân không thể không biết Kinh Diên là nơi học tập của bậc Hoàng thân Quốc thích, nơi tôn nghiêm ấy phàm là nữ nhân thì tuyệt đối không được phép bước chân vào. Quy định nghiêm ngặt mà đến cả bậc mẫu nghi thiên hạ như Thánh mẫu Hoàng thái hậu cũng không thể tùy tiện làm trái, ấy vậy mà ta từng có lần giáp mặt cô bé Ngọc Huyên tại đó, giả trang thành huynh trưởng Anh Vũ để theo hầu Bình Nguyên Vương!"

"Điện hạ nói sao cơ?" — Đinh Liệt sửng sốt chẳng dám tin vào tai mình.

''Không phải ta mà chính đại Vương gia mới là người đầu tiên phát giác chuyện tày trời này! Thiết nghĩ, người xa lạ còn có thể nhìn ra thì Bình Nguyên Vương sao có thể chối rằng mình không hề biết về sự tráo đổi giữa hai anh em nhà ấy? Bọn trẻ hiếu động không hiểu chuyện đã đành nhưng một Thân vương luôn am hiểu phép tắc như Hoàng đệ thấy vậy cũng nhắm mắt cho qua, chưa biết chừng còn bao che, cổ vũ, chẳng phải Tư Thành đã nuông chiều thuộc hạ quá đáng rồi hay sao? Hành vi của chủ tớ bọn họ thực sự là diều sỉ nhục nặng nề tới Thánh hiền và những người học đạo nghiêm túc như chúng ta!"

Khắc Xương đập mạnh tay xuống mặt bàn, nước trong ly bắn ra tung tóe, tách trà di động theo sự rung chuyển chiếc bàn dưới tay nhị Vương gia. Dáng vẻ tức giận ấy của Tân Bình Vương, Đinh Liệt chưa từng trông thấy, không ngờ người nổi tiếng hiền lành, nho nhã như nhị Vương gia cũng có lúc tỏ ra quyết liệt đến vậy, trong lòng hẳn là đang vô cùng bức xúc.

Thái bảo vội chắp hai tay trước mặt, hướng về Tân Bình Vương tạ tội:

''Xin Điện hạ bớt giận! Việc này... Việc này hẳn có điều hiểu lầm chi đây!"

"Ngài cảm thấy ngỡ ngàng cũng là lẽ thường tình!" — Khắc Xương giả bộ cười khẩy, diễn tròn vai kẻ đắc chí — "Còn một chuyện nữa ta nhất định phải nói ra đây! Như ban nãy ta đã cảnh báo đại nhân, suýt chút nữa Tư Thành đã sa chân vào cái bẫy thân bại danh liệt nhưng là do chính Hoàng đệ dã mở lối cho người khác có cơ hội làm hại mình! Ấy là việc gia thần được điệu vào cung tham gia phần thi thứ tư không ai khác chính là Ngọc Huyên!"

Chẳng khó để nhìn ra sắc mặt Đinh Liệt bỗng chuyển sang tím tái, Thái bảo giận đến nỗi bàn tay để trên đùi vô thức siết chặt, làm nhăn nhúm cả tà áo chỗ đó.

"Chắc ngài đã hiểu vì sao mà đại Vương gia lại nhường cho phủ hạ hai mũi tên vào đích giúp ta dành chiến thắng ở phần thi thứ hai. Phần thi tiếp theo vốn là để Hoàng huynh cân bằng thắng lợi giữa ba người. Có thể nhìn thấy trước Tư Thành dù cố gắng thế nào cũng khó có thể chống đỡ một lúc hai người tinh thông võ nghệ, tất yếu sẽ phải diễn ra phần thi thứ tư. Ta chỉ có thể cứu vãn cục diện bằng cách phản lại lời giao ước với Hoàng huynh, giành chiến thắng về cho bản thân để Ngọc Huyên dù đã được đưa vào cung cũng không có cơ hội để ra mặt thi thố!"

Khắc Xương nói tới đây thì dừng lại, lặng yên quan sát biểu hiện của Đinh Liệt. Ngài dáng dấp vẫn bất động nhưng nét mặt đã dịu hơn đôi chút, ánh mắt nhìn người cũng bớt đi vẻ phòng thủ. Một lúc lâu sau, Đinh Liệt mới thở dài mà nói:

"Nếu quả thực như vậy, thật không lời nào nói hết được lòng cảm kích của tôi đối với Điện hạ, chính người đã cứu mạng tứ Vương gia!"

''Thái bảo đại nhân nặng lời rồi!" — Người khẽ lắc đầu — "Tư Thành dù sao cũng dòng dõi Đế vương, liệu có thể vì chuyện này mà mất mạng? Tuy nghiêm trọng nhưng không đến nỗi là tội "đại nghịch bất đạo", Hoàng đệ cùng lắm cũng chỉ bị coi là xem thường luật lệ và thể diện Hoàng thất, nhẹ thì phạt bổng lộc, cấm túc tại gia chép kinh sám hối, nặng thì tước Vương vị, giáng cấp bậc. Đại huynh ta hẳn cũng tự liệu được điều đó, không phải muốn hại chết Hoàng đệ, chỉ là muốn vĩnh viễn loại bỏ tư cách tranh ngôi Trữ cung của Tư Thành".

Đinh Liệt khẽ rùng mình, những điều đó ngài vừa nghĩ tới trong đầu, lại phải nghe từ miệng người khác nói ra, cảm giác kinh sợ càng tăng thêm gấp bội.

''Người ta muốn cứu mạng là tiểu nữ Ngọc Huyên!" — Khắc Xương cẩn trọng tiếp lời, biết rằng từ sau câu nói này mục đích của người khi tới đây sẽ hoàn toàn được phơi bày trước mắt Đinh Thái bảo — "Nếu mưu kế của đại huynh thành công, Bình Nguyên Vương bị Hoàng thượng trách phạt thì không có lý gì đứa trẻ ấy được tha không hỏi tới! Cái mạng nhỏ bé của Ngọc Huyên trước can thịnh nộ của các vị bề trên liệu có thể giữ được hay không chẳng cần nghĩ ngợi lâu cũng có thể tìm ra đáp án!"

"Cứu mạng đứa trẻ đó?" — Thái bảo nhíu đôi lông mày, nếp nhăn trên trán xô lại gần nhau như những đợt sóng — ''Vi sao?"

Ngài hỏi, bụng dạ lại thầm nhủ: "Chắc không phải vì Điện hạ nhân hậu có thừa, còn lo nghĩ cả cho tính mạng của gia thần phủ khác?"

Người đáp:

"Tiểu nữ ấy, bởi suy nghĩ ngây thơ đơn giản, suýt chút nữa đã vô tình gây hại tới tiền đồ của Bình Nguyên Vương nhưng đồng thời cũng vì sự tranh đoạt giữa huynh đệ chúng ta mà nàng ấy gần như đã bị đẩy tới bờ vực chết chóc! Ta lại không thể nói với đại Vương gia rằng đó là người mà mình đem lòng yêu mến dể cầu xin Hoàng huynh loại bỏ nàng ra khỏi kế hoạch của người, e rằng làm như thế tính mạng nàng càng trở nên nguy ngập mà thôi!"

Đinh Liệt tuy bất ngờ nhưng nghe xong câu trả lời ấy thì trong lòng như được cất đi tới tám phần gánh nặng. Ngài nhìn sang Khắc Xương, ánh mắt càng thêm chăm chú, bỗng bắt gặp một cảm giác vô cùng quen thuộc. "Quả là rất giống với vẻ đắm đuối si mê ngày trước từng thấy ở Tiên đế mỗi khi nhắc tới Thần phi. Xem ra Tân Bình Vương đối với tiểu nữ ấy là thực lòng yêu thích!"

''Vậy xin mạo muội hỏi thẳng Điện hạ một câu: vì sao người lại đem tất cả chuyện này ra nói với tôi?"

"Điều ta mong muốn..." — Khắc Xương khẽ hít vào một hơi, chỉ lo người ngồi phía đối diện cũng nghe được tiếng trống ngực đập thình thịch của mình — "Là sự trao đổi!"

"Trao đổi?"

"Đại nhân có thể tự mình cân nhắc sự tồn tại của Ngọc Huyên bên cạnh Tư Thành liệu có tốt cho Hoàng đệ hay không? Chừng nào ba mẹ con họ còn cần tới sự chở che của Bình Nguyên Vương thì chừng đó đại Vương gia vẫn còn cơ hội để nhắm vào điểm yếu của Tư Thành mà ra tay đối phó với Hoàng đệ! Vậy chi bằng, hãy để một người khác lo liệu cho cuộc đời bọn họ để đổi lấy sự yên ổn từ nay về sau cho Bình Nguyên Vương!"

Đinh Liệt lặng thinh không đáp, không phải ngài không hiểu rõ ý nghĩa trong câu nói của Khắc Xương, chỉ là đang cẩn thận cân nhắc hai mặt lợi, hại của việc trao vào tay người ba quân cờ khó lường.

"Họ là gia quyến của tội thần Nguyễn Trãi".

Phàm những ai đã biết rõ nhưng vẫn cố tình nhắm mắt làm ngơ mà chứa chấp họ chẳng khác nào giữ một món thuốc độc trong nhà, không cẩn thận sẽ có ngày tự mình uống nhầm mà chết.

Nhưng Khắc Xương thì lại khác. Tân Bình Vương vốn là "vô sư vô sách quỷ thần bất trách" [1], nếu để người giữ họ lại bên mình chưa biết chừng lại là một cách giúp Tư Thành hóa giải được mối họa liên quan đến thân thế hai huynh muội tiểu nữ Ngọc Huyên kia.

[1]: Vô sư vô sách quỷ thần bất trách: tương tự như câu "Kẻ không biết không có tội."

Chỉ hiềm nhà họ Đinh xưa nay chẳng qua lại với người của Tân Bình phủ, hiện giờ nhị Vương gia trong mắt Đinh Thái bảo mà nói chính là "tâm ý nông sâu khó bề đoán biết". Nếu chỉ dựa vào lời nói một phía của Tân Bình Vương, dù câu chuyện có mười phần hợp tình hợp lý thì Đinh Liệt cũng không thể dễ dàng tin tưởng. Suy đi tính lại, cuối cùng ngài chọn cách trả lời nước đôi:

"Ý của Điện hạ tôi đã hiểu, cũng cảm thấy để họ ra đi là việc nên làm! Nhưng có thế nào thì ba người bọn họ cũng là người của Bình Nguyên phủ, việc này cần phải có sự đồng Ý của tứ Vương gia mới được! Tôi nhất định sẽ lựa lời thuyết phục Bình Nguyên Vương!"

"Không thể được!" — Khắc Xương lập tức phản ứng — "Chuyện ngày hôm nay tuyệt đối không thể mang ra khỏi căn phòng này, càng không thể để lọt tới tai Hoàng đệ!"

Chợt nhận ra mình có phần hơi xúc động, hành động cảm tính để lộ sự nóng vội của bản thân, người kìm giọng, gượng lấy lại vẻ điềm đạm:

"Nếu ngài còn cảm thấy nghi hoặc về tâm ý của ta, ta có thể cầu Hoàng thượng và Thánh mẫu Hoàng thái hậu làm chứng cho!"

Những nếp nhăn trên trán Thái bảo hằn sâu như khắc, kéo hai đầu mày xích lại gần nhau trên gương mặt nghiêm nghị trừng trừng cảnh giác. Ngài nghĩ ngợi giây lát rồi hạ giọng gặng hỏi:

"Dám hỏi Điện hạ, làm chứng ra sao?"

"Đêm mai, tại yến tiệc Trung thu tổ chức ở điện Vạn Thọ, trước mặt Hoàng thượng, Thánh mẫu Hoàng thái hậu và toàn thể bá quan tham dự, ta sẽ tâu với bề trên rằng tự nhận thấy bản thân mình vô năng, kém cỏi nên xin được rút lui khỏi việc cạnh tranh ngôi Trữ cung về sau!"

Câu trả lời rành mạch của Tân Bình Vương khiến Đinh Liệt sững người, kinh ngạc đến độ bật người đứng dậy, buông cả tách trà trên tay rơi xuống đất vỡ tan thành trăm mảnh.

Chương 19

CHƯƠNG 5: NGỤ Ý

Tân Bình Vương rời đi đã được cả canh giờ nhưng Đinh Liệt vẫn một mình đi tới đi lui trong phòng kể từ lúc đó. Từng câu từng chữ người nói tuy rõ ràng, mạch lạc nhưng lại khiến đầu óc ngài mơ hồ, bối rối mãi không thôi.

Người quản gia đứng bên ngoài gian phòng, thi thoảng hé mắt nhìn vào thấy chủ nhân năm lần bảy lượt thở dài thườn thượt, dáng dấp bồn chồn mà nét mặt căng thẳng, đăm chiêu, tuyệt nhiên chẳng dám lên tiếng khuấy động tâm tư ngài. Đến quá trưa thấy ngài cũng chẳng màng tới cơm nước, mới đánh liều hỏi vọng vào:

"Bẩm, bữa trưa nên tính sao ạ?"

''Nói mọi người cứ dùng bữa như thường, không phải chờ ta!" — Ngài trả lời.

''Vậy nô tài dọn riêng mâm cho người dùng tại đây..."

''Không!" — Thái bảo ngắt lời, tỏ ý phiền hà — "Đi đi!"

Lão nô tài khẽ "dạ" một tiếng, toan bước đi thì ngài gọi giật lại căn dặn:

''Kêu mấy đứa nhỏ hầu hạ bà và các cậu là được rồi, còn lão đích thân đến Bình Nguyên phủ một chuyến, kín đáo mời tứ Vương gia tới đây!"

"Thưa vâng!" — Viên tổng quản rành rọt đáp rồi rảo chân bước đi, không hỏi thêm bất cứ điều gì. Lão sống trên đời đủ lâu và cũng phục vụ bên cạnh Đinh đại nhân đủ lâu để hiểu rõ một điều: Việc mà chủ nhân đã giao chỉ cần làm theo chính xác, những chuyện khác không cần phải để ý đến.

Nhưng lão mới đi được già nửa đường thì đại nhân lại sai người phi ngựa hộc tốc đuổi theo, gọi quay trở lại. Thì ra, Bình Nguyên Vương đã tự mình tìm đến trước.

Trà dành riêng để tiếp đãi thượng khách được mang lên, Đinh Liệt nâng chén, kín đáo liếc nhìn Tư Thành qua kẽ tay, có vẻ như Bình Nguyên Vương hôm nay tới đây không phải với mục đích thăm hỏi thông thường. Tuy mới lúc nãy Đinh Liệt còn sốt ruột muốn mau chóng mời người tới đây để bàn việc cơ mật nhưng khi Tư Thành đã hiện diện ngay trước mắt, ngài lại lúng túng không biết nên bắt đầu từ đâu, dù sao cũng là chuyện liên quan đến nữ nhân mà người có lòng ưa thích. Đứa trẻ này từ nhỏ tới lớn đều do một tay ngài dạy dỗ nhưng dẫu vậy vẫn là người nhà Đe vương, hành xử với bậc Thân vương có thể không cẩn trọng mà được hay sao?

"Tưởng rằng giờ này Điện hạ nên ở trong phủ nghỉ ngơi, chuẩn bị cho yến tiệc tối nay chứ? Sao lại cất công ghé chơi đây thế này?" — Đinh Liệt đặt tách trà xuống mặt bàn, quay sang nhìn người cười nhẹ, bâng quơ hỏi như chẳng có ý gì.

''Cháu có một chuyện muốn hỏi cho rõ!" — Tư Thành đáp, cố tình để Thái bảo trông thấy cái liếc mắt của người về phía đứa nô tài đứng khép nép bên cạnh chờ hầu trà chủ nhân. Đinh Liệt hiểu ý, liền khoát tay ra hiệu cho bọn chúng lui cả ra ngoài.

Còn lại hai người với nhau, Bình Nguyên Vương mới hạ giọng nói nhỏ vừa đủ nghe:

"Về vụ án Lệ Chi Viên và tội thần Nguyễn Trãi năm xưa.."

Thái bảo nghe tới đây thì giật thót, trợn mắt nhìn lại, thái độ kinh sợ.

"Cách đây hai hôm, cháu vào cung vấn an Hoàng thượng và Thánh mẫu Hoàng thái hậu. vì mải chuyện với Hoàng thượng mà lúc đứng dậy đã gần tới giờ Ngọ, sợ làm phiền Hoàng mẫu nghỉ ngơi nên cháu không tới cung Vĩnh Ninh, định bụng về thẳng. Trên đường trở ra, tình cờ đi ngang qua Quốc sử viện lại thấy thời gian còn sớm nên đã ghé vào một lát".

Tư Thành chậm rãi kể lại, điều lạ là người càng tỏ ra từ tốn bao nhiêu thì Đinh đại nhân lại càng nóng ruột bấy nhiêu. Ngài uống một hơi cạn tách trà trước mặt, toan ra hiệu cho kẻ hầu mang tới chén mới thì nhớ ra bọn chúng đã bị đuổi ra ngoài cả rồi, đành tự đứng dậy cầm cả ấm trà đem lại chỗ mình, rót ra một chén, không rõ là chân tay lóng ngóng vì chiếc bình trong tay quá nóng hay vì đầu óc đang căng thẳng suy nghĩ chuyện khác mà suýt chút nữa trà trong chén tràn cả ra ngoài mặt bàn, may sực tỉnh kịp ngừng tay nhưng nước trong ly đã đầy ầng ậng, không thể nhấc lên uống tiếp một cách tao nhã.

Bình Nguyên Vương tuy nhìn ra sự bối rối ở ngài nhưng cứ vờ như chẳng để tâm, tiếp tục câu chuyện của mình:

''Ngoài Hoàng thượng, đại thần và các Thân vương đều có thể lui tới đó để khảo cứu".

''Khảo cứu?" — Đinh Liệt vô thức lặp lại, nỗi sợ như thủy triều dâng lên trong lòng.

"Tội thần Nguyễn Trãi năm xưa phạm phải tội ác tày đình, chủ mưu hành thích Tiên đế, bản thân cùng đồng phạm là Thị Lộ bị xử cực hình, gia quyến ba đời cũng phải chịu chung án tử, chỉ trong một ngày hơn bốn trăm mạng người già, trẻ, lớn, bé đều bị đem ra chém đầu thị chúng!"

Bình Nguyên Vương rành rọt nhắc lại, ánh mắt nhìn thẳng vào dại nhân như chất vấn. Trong một khắc ngắn ngủi, Đinh Liệt cảm nhận được sự quyền uy từ cái nhìn như xoáy vào tâm can kẻ đối diện của người, bất giác nhổm dậy khỏi ghế, Quỳ sụp xuống sàn, dập đầu liền ba cái.

"Việc này có liên quan đến Hoàng thái hậu bệ hạ, xin Điện hạ đừng truy cứu thêm nữa!"

Nói rồi mới biết mình vừa lỡ lời, đến khi sực tỉnh ra thì đã quá muộn.

Thái bảo ngẩng lên nhìn, ánh mắt dừng lại trên gương mặt còn nguyên nét bàng hoàng của Bình Nguyên Vương. Không gian xung quanh bỗng chốc trở nên yên ắng đến nặng nề. Chờ rất lâu sau, sự bàng hoàng trong ánh mắt dần trở thành vẻ bần thần, u ám, Tư Thành khó nhọc cất lời:

"Liên quan tới Hoàng mẫu? vì sao?"

"Có những việc Điện hạ không biết thì tốt hơn! Là tốt cho người, cho Thái phi, cho cả mấy trăm mạng người hai gia tộc Đinh — Ngô và Bình Nguyên phủ!"

''Vậy đúng là chuyện này có uẩn khúc không thể nói ra? Bốn trăm mạng người bị xử chém trên pháp trường có uẩn khúc không thể nói ra? Người họ Nguyễn đã hàm oan mà chết?"

Thái bảo từ từ đứng dậy, nhìn thẳng mặt người mà đáp, từng câu từng chữ đều cố ý nhấn mạnh:

''Tự cổ chí kim, phàm những chuyện liên quan đến "tranh ngôi đoạt vị" thì vốn dĩ chẳng có đúng sai, chỉ có thắng - thua và được - mất! Người chiến thắng là chân lý, là vế đúng, là chính sử, kẻ thua cuộc sẽ vĩnh viễn mất đi tất cả, dù là mạng sống hay danh dự! Muốn bảo vệ bản thân và người của mình, không có cách nào khác Điện hạ phải trở thành người nắm quyền lực! Quyền lực càng lớn thì mới càng có đủ sức mạnh để hiện thực mọi ước muốn của bản thân! Vì thế, ván cờ này người tuyệt đối không thể bị thua trong tay huynh đệ mình!"

''Quyền lực?" — Tư Thành lẩm nhẩm, cảm thấy thần trí chơi vơi như người trong cõi mộng, chuếnh choáng, mơ hồ tựa vừa bước hụt chân rơi xuống một vùng sâu thăm thẳm chưa từng biết tới.

Có lẽ vì những suy nghĩ hỗn độn trong lòng mà suốt cả quãng đường dài từ tư gia nhà họ Đinh trở về, Tư Thành chẳng chút để tâm đến không khí rộn rã quanh mình. Đến khi xe ngựa dừng lại, lão quản gia chạy ra vén mành cho người bước xuống, Bình Nguyên Vương mới sực nhớ ra hôm nay là ngày trước Tết Trung thu, ai nấy đều đang tất bật sửa soạn đón rằm tháng tám: dọn dẹp bàn thờ hương án trong Từ đường [1], sửa soạn trang trí nhà trên nhà dưới, bày biện cỗ bàn hoa quả giữa sân, những mẻ bánh mới nướng còn nóng hôi hổi, tỏa hương thơm mời gọi được mang ra khỏi lò, đặt cạnh mâm bánh dẻo trắng tinh, xinh xắn càng là những món không thể thiếu trong Tết Trung thu... Tuy ai cũng bận rộn luôn tay nhưng miệng thì nói cười không ngớt, đủ biết là tâm trạng hứng khởi, mong chờ cái Tết này như thế nào!

[1] Từ đường: nhà thờ, gian thờ trong các đền, phủ xưa.

Tư Thành rảo bước qua khung cảnh náo nhiệt ấy, liên tục mỉm cười đáp lại những cái cúi đầu hành lễ của đám gia thần khi trông thấy chủ nhân hồi phủ. Người đặt chân vào nhà lớn, bắt gặp cảnh tượng quây quần ấm cúng giữa Ngô Thái phi và ba mẹ con Phạm phu nhân, tuy là đã rất quen thuộc nhưng hôm nay lại đặc biệt khiến người cảm thấy xúc động: hai vị thân mẫu ngồi cạnh nhau bên giá thêu thùa, một người giậm nét, một người cắt chỉ, chốc chốc lại liếc nhìn sang chỗ Anh Vũ đang ngồi luyện chữ có Ngọc Huyên giúp mài mực bên cạnh, ánh mắt chất chứa bao trìu mến. Trông thấy có bóng người bước vào tất cả cùng ngẩng lên, nhận ra đó là Tư Thành, trên môi mỗi người tươi tắn nở nụ cười chào đón.

"Con đã về đó ư?" — Ngô Thái phi ngừng tay thêu thùa, Phạm phu nhân đỡ người đứng dậy bước ra phía cửa.

"Thưa mẹ, con mới về!" — Bình Nguyên Vương đón lấy tay người, từ từ dìu bước vào bên trong phòng — "Mọi người không ra ngoài sân chơi ư? Vừa rồi con đi ngang qua liếc thấy cỗ bàn chuẩn bị linh đình quá!"

"Là công cán của Thục Loan! cỗ Trung thu năm nay ta để cho nó được tự ý bài trí! Thục Loan ở với chúng ta cũng nhiều năm rồi, nay đã mười sáu, mười bảy, tới tuổi phải tính đến việc gả chồng. Mẹ đã thay mặt phụ mẫu con bé tìm được cho Thục Loan một đám khá tốt. Nhân ít ngày còn lưu lại phủ ta, mẹ muốn rèn luyện cho con bé có thêm một chút bản lĩnh, hi vọng nó học được tính chu toàn để khi về làm dâu nhà người ta sẽ được thương yêu!"

"Tấm lòng của mẹ nhất định chị ấy hiểu hết!" — Tư Thành đỡ Ngô Thái phi ngồi xuống ghế, đón lấy chén trà Ngọc Huyên bưng đến, đặt trên mặt bàn trước mặt người.

Trong khoảnh khắc hai ánh mắt chạm nhau, Bình Nguyên Vương bỗng cảm thấy tâm tư mình bị khuấy đảo mạnh mẽ. Câu chuyện buổi chiều trong ngự hoa viên cùng đại Vương gia càng như hiển hiện trong đầu, từng câu từng chữ người ấy nói như những mũi kim chích vào cơ thể khiến người bất giác mím môi chịu đựng cơn đau vô hình.

''Điện hạ cảm thấy không khỏe ở đâu ư? sắc mặt người kém lắm!" — Phạm phu nhân vô tình trông thấy biểu hiện ấy của người thì cảm thấy lo lắng vô cùng.

Ngọc Huyên càng mở to đôi mắt nhìn người không chớp như muốn xác thực lời nói của mẫu thân. Ánh mắt trong trẻo chứa đầy quan tâm ấy của nàng khiến Tư Thành thêm phần bối rối, người vội lảng tránh bằng cách nhìn đi nơi khác, gượng cười giải thích:

''Chắc là do con thấy đói bụng thôi! Vì mải mê đàm đạo với Hoàng thượng mà quên cả dùng bữa!"

"Vừa hay mẻ bánh nướng đầu tiên do chính tay Ngọc Huyên làm đã kịp nguội, hay là chúng ra lấy ra ăn thử trước?" Anh Vũ liền gợi ý.

"Ngọc Huyên đích thân làm bánh ư? Quả là hiếm có!" — Bình Nguyên Vương mỉm cười, câu nói có chút tò mò lẫn thán phục

Hai má nàng ửng hồng e thẹn, đôi mắt cụp xuống nhìn như dính chặt vào mũi giày dưới chân, lí nhí đáp:

"Em tập làm trước vài mẻ, mai mốt dâng lên bàn thờ cha, hi vọng sẽ được mẻ bánh ngon hơn!"

Nghe câu trả lời của nàng, trống ngực Tư Thành đập thình thịch, nhớ ra đúng là sắp đến ngày giỗ của phụ thân họ, ngày mười sáu tháng tám, sau đêm Trung thu.

Tư Thành nhẩm lại ghi chép ở Quốc sử viện về tội thần Nguyễn Trãi mà mình mới đọc chiều nay. Nhập nội hành khiển cùng cả gia tộc bị xử tử vào ngày mười sáu tháng tám năm Nhâm Tuất, chưa dầy một tháng sau khi mẫu thân hạ sinh người ở chùa Huy Văn, đối chiếu với ngày giỗ phụ thân Anh Vũ, Ngọc Huyên cũng là ngày mười sáu tháng tám. Sự trùng hợp này, lại thêm lời nói của Lạng Sơn Vương ban sáng, lòng Tư Thành sẵn đã ủ ê, giờ càng như nặng trĩu.

"Mời lệnh bà, mời Điện hạ!" — Phạm phu nhân cắt bánh nướng thành những miếng nhỏ, chia vào đĩa đưa tới cho mọi người.

"Bánh ngon lắm!" — Thái phi đưa lên miệng nếm thử thì có phần ngạc nhiên xen lẫn thích thú, thật lòng ngợi khen.

"Vì lệnh bà thương tình nên không nỡ cười chê!" — Phạm phu nhân mỉm cười hiền hậu — "Bánh nướng quá lửa nên vỏ còn ám hơi khét, bột cán cũng chưa đều nên có chỗ dày, chỗ mỏng!"

"Vỏ bánh nướng non hay cháy là do kinh nghiệm, lần đầu thực hành không thể tránh khỏi việc điều chỉnh lửa lò và thời gian không thật chuẩn xác. Còn cán bột không đều tay là do sức vóc, Ngọc Huyên còn nhỏ, đôi tay lại mềm mại, n°n nớt, chưa quen dùng nhiều sức là điều dễ hiểu. Nhưng quan trọng là nhân bánh thì rất thơm ngon, vị bùi mà không ngán, ngọt thanh chứ không gắt, chẳng cần dùng tới nước trà để đẩy đưa!"

"Ngon lắm! Vị là lạ không như bánh nướng thông thường, càng ăn càng thấy thú vị nhưng chịu không nghĩ ra khác ở chỗ nào?" — Tư Thành cũng vừa nếm thử, mỉm cười nhận xét — ''Anh Vũ, em cũng thử xem!"

"Vâng!" — Vũ đáp, cầm lên cắn một miếng, nhai thật chậm rãi như tập trung thưởng thức, cuối cùng đáp lại ánh nhìn háo hức mong chờ của em gái bằng cái gật đầu ngụ ý tán dương — "Quả như lời Điện hạ, càng ăn càng thấy thú vị nhưng chịu không nghĩ ra khác ở chỗ nào?"

"Thưa, đây là bánh nướng hoa mai! Vỏ bánh thì không khác gì những bánh nướng khác nhưng nhân bánh là chay, dùng đường luyện hoa mai để tạo vị ngọt!"

"Hoa mai cũng có thể trở thành nguyên liệu làm bánh ư?" — Thái phi kinh ngạc.

"Thưa vâng! Con thấy người và mẹ mỗi ngày đều thành tâm tụng kinh niệm Phật, ăn uống thì thích thanh đạm, giản đơn nên vốn định làm ra một chiếc bánh từ hạt sen, tổ yến, vừa là những thức có lợi cho sức khỏe, vừa chay tịnh, tao nhã. Nhưng tổ yến vốn có vị tanh, hạt sen lại nhằng nhặng đắng, đường nấu thông thường không khử được hai vị tính này nên con đã nghĩ ra cách ngắt cánh hoa mai đem phơi ba sương, hai nắng đến khi trở nên gần như trong suốt thì tán thành bột, luyện cùng đường mật dùng làm bánh. Quả nhiên vị tanh của tổ yến, vị đắng của hạt sen không còn nữa mà thay bằng vị ngọt dịu, thơm mát của tinh hoa mai. Chỉ có điều vì con thiếu thành thục nên đã lỡ để quá lửa khi nướng!" — Nàng nhỏ nhẹ giãi bày.

"Ngọc Huyên còn nhỏ nhưng suy nghĩ lại tinh tế hiếm thấy!" — Thái phi mỉm cười trìu mến, liếc nhìn nàng bằng ánh mắt tràn ngập mến yêu. Phạm phu nhân nét mặt cũng rạng rỡ hẳn lên, vẻ hạnh phúc đan xen xúc động, miệng cười mà đôi mắt long lanh.

Hai người mẹ nhìn nhau, rồi nhìn đám trẻ, cái mỉm cười chứa nhiều nỗi niềm tâm sự. Cảnh tượng quây quần này tưởng như đã rất quen mà hôm nay sao bỗng gây ra một nỗi xúc động khó tả, Tư Thành cụp mắt xuống không nỡ nhìn lâu hơn, sợ bản thân không kìm nổi tiếng thở dài muốn bung ra khỏi lồng ngực, ánh mắt chạm phải đĩa bánh nhỏ xinh trên bàn, vội nhón thêm một miếng đưa vào miệng, vị hoa mai đọng mãi nơi đầu lưỡi, thanh khiết mà nghẹn ngào.

"Hôm nay anh có điều gì phiền não trong lòng hay sao?"

Ngọc Huyên nhỏ nhẹ lên tiếng cắt ngang mạch suy nghĩ của Tư Thành khi hai người đang cùng dạo bước trên đường trở về phủ, người nhìn sang, mỉm cười trìu mến:

"Sao em nghĩ vậy?"

"Anh nói thích nhất là đêm hội đèn lồng Tết Trung thu nhưng năm nay lại không mấy hưởng ứng! Vừa rồi khi chúng ta đi ngang qua dãy phố sáng rực ánh đèn, người xe náo nhiệt mà tâm trí anh dường như không hòa nhập!"

''Anh làm cho em mất hứng phải không?"

"Không có!" — Nàng vội lắc đầu — "Là em lo mình ở bên cạnh quấy rầy anh!"

Bình Nguyên Vương giơ cao chiếc đèn lồng trên tay, ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ nó khiến quãng đường phía trước cũng không trở nên sáng rõ hơn là bao.

"Anh chỉ đanq nghĩ là vừa rồi trên phố tràn ngập ánh đèn, mọi người dường như không còn để tâm đến việc trên trời trăng sáng hay không. Chỉ đến khi xung quanh là đêm toi, ngọn đèn leo lét trên tay có thể bị gió thổi tắt bất cứ lúc nào, người ta mới nhận ra ánh trăng trên cao đích thực là thứ ánh sáng vĩnh hằng không thể thay thế!"

"Nhưng trăng trên trời cũng có lúc tròn, lúc khuyết, khi tỏ khi mờ, có đêm trăng rằm sáng rỡ lung linh, lại có cả đêm không trăng mịt mù, tăm tối!"

"Phải rồi! Nhưng dù là đêm không trăng vì mây giăng che phủ hay vì đến chu kỳ trăng lấp, chỉ cần nghĩ đến việc mặt trăng vẫn ờ đâu đó trên cao kia, những ngày sau này chắc chắn vẫn còn được nhìn thấy, trong lòng người ta tự nhiên cũng thấy thêm phần an ủi!"

Ngọc Huyên nhoẻn cười hồn nhiên trước lời nói ấy của người:

"Mặt trăng tất nhiên là vẫn còn đó, ở trên cao kia, làm sao có thể biến mất mãi mãi được!"

"Dù vẫn biết là như thế nhưng vì đã từng trông thấy những đêm trăng sáng như hôm nay anh mới càng hiểu rõ đêm không trăng, bóng tối thật mênh mông biết chừng nào!" Tư Thành trầm mặc ngước nhìn lên bầu trời, ánh trăng mười bốn không rực rỡ như trăng rằm mười lăm, không tròn vành như trăng mười sáu, có chút non xanh, e ấp, vừa dịu dàng, vừa mong manh.

''Trăng lặn rồi lại mọc, ấy là quy luật tự nhiên, bóng tối chẳng qua cũng chỉ là một khoảnh khắc, không kéo dài vĩnh viễn!" — Nàng đáp, trong lòng vốn biết hẳn người đang có tâm sự nên mới mượn chuyện trăng để giãi bày.

"Ừ!" — Tư Thành mỉm cười, nắm lấy tay nàng cùng bước đi. Đèn lồng trong tay đã bị gió thổi tắt tự lúc nào nhưng cũng chẳng quan trọng, con đường trước mặt họ tuy quanh co nhưng đã có ánh trăng trên cao soi tỏ.

Đêm mai, trong cung tổ chức yến tiệc Trung thu do Hoàng thái hậu chủ trì. Đây là dịp đoàn viên hiếm có nên Hoàng thân quốc thích và đại thần văn võ bá quan đều được mời tham dự, ắt hẳn sẽ rất náo nhiệt.

Ngày mai khi có dịp gặp lại nhau, Lạng Sơn Vương chắc sẽ muốn nghe câu trả lời của người. Cũng giống như việc từng xảy ra ở điện Kinh Diên khi đại Vương gia phát hiện ra nghi vấn về thân phận của tiểu đồng bên cạnh người, câu chuyện mà Nghi Dân tiết lộ lần này e rằng có đến tám phần là sự thật. Việc bại lộ thì tính mạng của Phạm phu nhân, Anh Vũ, Ngọc Huyên, cả mẫu thân cùng gia tộc hai bên đều cùng bị đe dọa, việc được giữ kín thì cũng không có gì đảm bảo rằng ba mẹ con nàng sẽ được an toàn đến phút cuối. Nút thắt thòng lọng này có cởi bỏ được hay không đều nằm ở câu trả lời của người vào ngày mai.

Bình Nguyên Vương cuối cùng cũng hiểu được thế nào là "lòng rối như tơ vò", đích thực là phù hợp để dùng diễn tả tâm trạng người hiện giờ, đến nỗi Tư Thành chẳng hề nhận ra hai người đã về tới trước Bình Nguyên phủ nếu như không phải vì Ngọc Huyên vội vàng rụt tay ra khỏi bàn tay người.

Ánh mắt nàng dành cho người tự lúc nào đã có thêm nhiều phần bối rối khiến Tư Thành chợt nhận ra ý nghĩa của hành động ấy. "Nam nữ thọ thọ bất thân", từ trong sâu thẳm ý thức, Ngọc Huyên đã dần phát giác ra tâm tư của mình dành cho Tư Thành và Anh Vũ đã không còn như nhau nữa nên mới ngại ngùng không muốn để người khác trông thấy hành động thân thiết ban nãy.

"Tới phủ rồi! Anh vào trước đi, em sẽ vào bằng lối bên hông!"

Bình Nguyên Vương cốc nhẹ lên trán nàng, trách yêu:

"Em ngốc! Chúng ta rời khỏi phủ cùng lúc, hà cớ gì khi về phải kẻ trước người sau cho thêm phần rắc rối!"

''Nhưng... Lúc đi còn có đám Đại Phúc, Đào Hạnh đi cùng! Bây giờ khi về chỉ có hai ta, người lớn chắc sẽ lấy làm lạ!" — Nàng phân trần.

"Bọn trẻ ham vui, muốn ở lại chơi thêm không nỡ về sớm là thật, người lớn chẳng nghĩ nhiều như em lo đâu!"

"Dù sao em vẫn sẽ vào theo lối cửa bên, cũng vì lối đó dẫn với dãy nhà hậu nơi em ở! Phòng của anh ở gian trên, anh đi bằng cổng chính cho tiện!"

'Được rồi!" — Người đáp, vẻ nhường nhịn — "Để anh trông thấy em vào trong rồi sẽ gọi người ra mở cổng!"

Nàng gật đầu ngoan ngoãn, quay người bước đi. Tư Thành nhìn theo bóng dáng nhỏ nhắn bước xa dần mình, trong lòng bỗng trào lên một cảm giác hoang mang, sợ hãi như sắp đánh mất điều gì đó quý giá.

Người đã có câu trả lời của mình, tuy khó khăn nhưng vẫn phải đưa ra quyết định.

Ngọc Huyên dừng bước, đưa tay lên gõ mạnh vào cánh cổng gỗ trước mặt.

"Anh luôn tin rằng kể cả khi nhìn lên trời không thấy, mặt trăng vẫn tỏa sáng ở đâu đây!" — Bình Nguyên Vương nói với nàng một điều sau cuối.

Nàng nhìn người mỉm cười, khe khẽ gật đầu. Ngọc Huyên không dám đứng nấn ná lâu trước cửa, chỉ kịp trao cho người ánh mắt lưu luyến rồi vội bước vào trong, lầm tưởng rằng ngày mai và cả chuỗi ngày dài đằng đẵng về sau, hai người vẫn được gặp nhau khi đi qua lối ấy.

CHƯƠNG 6: NỘI TÌNH

Bình Nguyên phủ có nội gián của Lạng Sơn Vương!

Sau cuộc trò chuyện với Hoàng huynh Nghi Dân ở ngự hoa viên, Tư Thành đã nắm chắc điều đó. Nhưng khi biết kẻ nội gián không phải ai khác mà chính là Đại Phúc, Bình Nguyên Vương không tránh khỏi cảm giác thất vọng.

Đại Phúc không phải là con cái của gia thần trong Bình Nguyên phủ như hầu hết những đứa trẻ khác ở đây. Nó vốn là đứa trẻ mồ côi bị bỏ lại trước cổng chùa Dục Khánh từ khi mới lọt lòng còn đỏ hỏn, chính Ngô Thái phi đã nhận nó về nuôi nấng. Cái tên mang hàm ý cầu chúc cho đứa trẻ có được "phúc lớn, mạng lớn" để trưởng thành của nó cũng là do người đặt cho. Đối với Đại Phúc mà nói, Thái phi ân trọng như núi, vì vậy từ nhỏ tới giờ nó luôn là dứa trẻ mẫu mực, ngoan ngoãn, hết lòng tôn kính bề trên.

Đứa trẻ ấy không ngờ lại có ngày trở thành kẻ bán đứng chủ nhân.

''Lý do là gì?" — Bình Nguyên Vương buông giọng lạnh lùng hỏi Phúc khi chỉ có mình nó đứng đối diện với người trong thư phòng phía Đông.

"Dạ?" — Nó ấp úng, nửa tò mò, nửa bất an, không chắc chủ nhân đang tra hỏi mình điều gì.

"Lý do em ở trong Bình Nguyên phủ nhưng lòng dạ lại hướng về nơi khác, còn không ngại làm ra những chuyện phương hại tới người đã có ơn cưu mang mình là gì?" — Tư Thành lặp lại câu hỏi một cách rõ ràng.

Gương mặt Đại Phúc chuyển từ trắng bệch sang tái méc, vậy là điều nó lo sợ đã đúng, tứ Vương gia đã phát hiện ra việc làm của nó nhưng còn nước còn tát, Phúc cứ phải chối bay chối biến cái đã.

"Điện hạ nói sao ạ? Nô tài không..."

"Ta không nhớ mình với người bên ấy có giao thiệp gần gũi tới độ thị đồng ở Bình Nguyên phủ khi không lại chạy sang Lạng Sơn phủ làm khách quý!" — Người lạnh nhạt cắt ngang, không để nó có cơ hội nói hết câu, dù sao cũng là một lời bao biện dối trá, lúc này Tư Thành không có tâm trạng dể lắng nghe.

Trong câu nói của Bình Nguyên Vương, rõ ràng có cả mỉa mai lẫn oán trách, lại cố ý nhấn mạnh chữ "khách quý" để nó nghe một cách rõ ràng, và cũng hiểu một cách rõ ràng rằng có người đã tận mắt trông thấy cảnh tượng lạ lùng là đứa nô tài hèn kém như nó lại được đích thân tổng quản phủ Lạng Sơn dẫn thẳng vào thư phòng của đại Vương gia.

Vừa một khắc trước Phúc còn định phủ nhận đến cùng, giờ thì cứng họng không thể mở miệng, chỉ có thể đứng giữa căn phòng mà cúi gằm mặt, nhìn trân trân xuống mấy ngón chân đang cựa quậy khổ sở như cố sức vẫy vùng để không bị dán chặt xuống nền đất lạnh.

"Ta cho em một cơ hội cuối cùng dể thành thật! Ân hụệ này không phải vì ta thương xót em mà vì chút luyến tiếc mười mấy năm mẫu thân ta thương yêu chăm sóc một đứa trẻ không có gì kể cả cái tên!" — Bình Nguyên Vương nói, tuy thái độ không tỏ ra gay gắt nhưng giọng nói lại nghiêm nghị đến đáng sợ.

Đại Phúc khẽ rùng mình một cái, so với một Lạng Sơn Vương hà khắc thì sự lạnh lùng của Bình Nguyên Vương càng khiến nó run rẩy gấp bội nhưng nó đã không có cơ hội để nhận ra điều đó cho tới tận ngày hôm nay mà có lẽ trong Vương phủ này, ngoài nó ra, chưa từng ai khác biết.

"Nô tài... " — Phúc cố kìm nén để không bật ra tiếng khóc hu hu nhưng đối diện với ánh mắt xa cách, không khoan nhượng mà Bình Nguyên Vương dành cho mình, hai vai nó cứ rung lên từng chặp, kèm theo những tiếng nấc nghẹn ngào — "Điện hạ và lệnh bà đối với nô tài ân trọng như núi nhưng đại Vương gia lại đang nắm giữ trong tay tính mệnh của mẹ nô tài, nô tài không thể không nghe theo!"

Cậu trả lời của Phúc khiến Tư Thành không khỏi kinh ngạc, người nhíu mày đầy nghi hoặc, di chuyển mấy bước ra sau chiếc bàn duy nhất trong phòng, từ từ ngồi xuống ghế, ánh mắt vẫn dán chặt vào đứa trẻ đang khóc thút thít trước mặt.

"Mẹ?" — Người hỏi, giọng nói không ấm lên chút nào — ''Chẳng phải người đó đã để lại em trước cửa chùa rồi bỏ đi không để lại dấu vết sao?"

''Dạ đúng! Nhưng cách đây ít lâu, đại Vương gia cho người tới tìm và đưa cho nô tài một mảnh giấy, bên trong không viết gì, chỉ vẽ ra ba mươi sáu hình trăng khuyết. Nô tài đã từng được lệnh bà cho xem một mảnh giấy tương tự, người nói người ta tìm thấy nó được giắt trong mấy lần vải quấn quanh đứa trẻ bị bỏ rơi trước cổng chùa năm ấy, có lẽ đó là thứ duy nhất cha mẹ để lại cho nô tài! Tuy không hiểu ý nghĩa của hình vẽ bên trong nhưng chỉ cần nhìn qua tờ giấy mà Lạng Sơn Vương sai người đưa tới, nô tài liền nhận ra là từ cùng một người, và người ấy có thể chính là người đã sinh ra mình!"

"Sau đó thì sao?"

''Sau đó, nô tài đã tự mình tìm đến Lạng Sơn phủ, ở dó, quả nhiên, người nô tài được gặp là mẹ mình!"

Nói đến đây, Phúc không kìm được mà ngồi thụp xuống đất, khóc rấm rứt thành tiếng. Bình Nguyên Vương kiên nhẫn chờ đứa bé qua cơn xúc động cho đến khi nó bình tĩnh lại, thôi không khóc nữa, chỉ còn vài tiếng nấc khe khẽ, mới cất giọng hỏi:

"Người mới gặp lần đầu, chỉ thông qua một mảnh giấy vẽ điều gì đó không rõ nghĩa, sao em có thể dám chắc đó là mẹ mình?"

"Chắc chắn là mẹ nô tài!" — Nó ngẩng lên nhìn Tư Thành, dùng tay áo quệt qua loa vài đường trên gương mặt lấm lem nước mắt — "Mẹ nói một vầng trăng khuyết tượng trưng cho một tháng, vì mẹ không biết chữ nên chỉ có thể vẽ ra ba mươi sáu hình trăng, ý nói ba năm sau sẽ quay trở lại đón em, mẹ con chia lìa chẳng qua bởi miếng cơm manh áo, chứ không phải vì mẹ muốn dứt tình mẫu tử!"

"Ba năm? Chẳng phải đã hơn mười năm không hề có tin tức nào về người ấy hay sao? Bỗng nhiên xuất hiện trở lại và còn là do đại Vương gia tìm thấy?" — Tư Thành tỏ vẻ hồ nghi.

"Nô tài cũng đã hỏi mẹ vì sao tới tận bây giờ mới trở về tìm mình, mẹ chỉ khóc và nói rằng mình có lỗi với nô tài khi không thể giữ được lời hứa! "

Bình Nguyên Vương ngẫm nghĩ một lát, lòng cũng dịu lại, có lẽ một đứa trẻ mồ côi như nó từ bé đến giờ luôn phải chứng kiến cảnh mẹ con người khác quấn quýt bên nhau sẽ không tránh khỏi cảm giác chạnh lòng và khao khát mình cũng có được một người mẹ để yêu thương, chẳng trách mà nó vội vàng tin theo lời người khác. Gốc gác và cả mảnh giấy vẽ ba mươi sáu vầng trăng khuyết mà người ta để lại trong người nó khi bỏ rơi trước cổng chùa không phải là điều gì quá cơ mật, nếu là kẻ tinh ranh có thể dễ dàng biết được những chuyện đó khi dò hỏi những người sống lâu năm trong ngôi chùa nơi nó bị bỏ lại. Chỉ trách kẻ đã nghĩ ra độc kế đánh vào sự khao khát tình mẫu tử của một đứa trẻ vừa ngây thơ, vừa tội nghiệp.

"Nhưng đó là lần duy nhất nô tài được gặp mẹ, sau đó đại Vương gia đã ra lệnh cho nô tài ở trong phủ Bình Nguyên phải chú ý quan sát, ghi nhớ mọi điều liên quan tới Điện hạ và lệnh bà rồi bẩm báo lại, nếu không làm đúng như thế sẽ chẳng bao giờ nô tài được nhìn thấy mẹ mình nữa!"

"Em thật xuẩn ngốc khi tin vào tất cả những điều đó một cách vồ điều kiện!" — câu nói định thốt ra Tư Thành đã kịp kìm lại, thay bằng một tiếng thở dài đầy tâm trạng.

"Những điều hai người đã từng trao đổi với nhau, tại đây, hôm nay, hãy nói lại một cách cặn kẽ, không bỏ sót chi tiết nào!" — Bình Nguyên Vương ra lệnh cho nó.

Đã tới nước này, Phúc không thể làm trái ý người mà cũng không dám làm trái. Suốt bao tháng ngày nay, nó ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng giật mình thon thót, lo lắng việc làm sai trái của mình sẽ bị người khác phát hiện, bản thân sẽ bị chủ nhân oán ghét, hắt hủi. Nghĩ đến người mẹ đã bỏ lại mình từ lúc sơ sinh, mới gặp mặt một lần duy nhất, Phúc càng cảm thấy hổ thẹn với Thái phi đã dang tay cưu mang, nuôi nấng nó trong suốt mười năm qua.

Trong thư phòng chỉ có hai người, dưới ánh đèn cầy vàng vọt, leo lét, Phúc đã rành rọt kể lại đầu đuôi mọi việc giữa nó và Lạng Sơn Vương. Tư Thành chăm chú lắng nghe, đôi mắt hơi nhíu lại, hàm răng khẽ cắn lấy môi dưới, trong đầu ngổn ngang bao suy nghĩ.

Nghe xong câu chuyện, người lặng im một hồi khá lâu khiến Đại Phúc bồn chồn vặn tay không ngớt. Tâm trạng của tứ Vương gia hóa ra còn khó đoán biết hơn người mà nó vẫn luôn khiếp sợ là Lạng Sơn Vương, huynh trưởng của người.

"Lần này, đại Vương gia muốn em làm gì?" — Tư Thành hỏi Phúc.

''Dạ thưa, người căn dặn khi Điện hạ cùng lệnh bà vào Cung thành tham dự yến tiệc, nhân lúc binh lính chắn gác bên ngoài chẳng còn lại bao nhiêu, thêm tâm lý chủ quan vì người cần bảo vệ đã rời khỏi phủ, nô tài chỉ cần lén mở cổng phụ, rồi... sau đó..."

Phúc ngập ngừng không nói hết ý dường như là điều gì rất đáng hổ thẹn nên mới không thể rành mạch khai ra. Bình Nguyên Vương không gặng hỏi, cũng không mớm lời, trước sau chỉ giữ một thái độ yên lặng dò xét, chờ đợi Phúc tự tìm lời để nói ra, quả nhiên nó ấp úng mãi rồi cuối cùng cũng phải mở miệng:

''Sau đó người của đại Vương gia sẽ ập vào tiếp quản Bình Nguyên phủ!"

Ra là vậy, Lạng Sơn Vương ngoài mặt thì cho người ta thời gian suy nghĩ nhưng sau lưng lại không dể kẻ khác có cơ hội trở tay. Sắp đặt ấy của Nghi Dân vốn là một mẻ gom gọn nhân chứng vật chứng, trói chặt Tư Thành không để người còn đường thoái thác. Chắc hẳn là muốn dùng cách này để ép người tự mình tuyên bố sẽ mãi mãi từ bỏ việc cạnh tranh ngôi vị Hoàng thái đệ, nếu không, trước mặt Hoàng thượng, Thái hậu và tất thảy đại thần tham dự yến tiệc, dám cá Nghi Dân sẽ thẳng thừng báo lên việc làm kháng chỉ khi quân của Thái phi bởi trong tay đã sẵn có đầy đủ chứng cứ chính là mấy chục gia thần phủ Bình Nguyên đang giam lỏng nơi đây.

"Lần này, Lạng Sơn Vương hứa hẹn với em điều gì?"

''Dạ thưa, đại Vương gia đã hứa chỉ cần nô tài làm nốt việc này sẽ cho hai mẹ con nô tài đoàn tụ, lại cấp cho ít vốn liếng để tới nơi khác sinh sống làm ăn!"

"Em nghĩ rằng lòng mình có thể yên được khi nhận những đồng tiền ấy rồi cao chạy xa bay hay sao?"

Bình Nguyên Vương hỏi mà như trách móc, giọng nói bình thản nhưng Ỷ tứ trong câu chẳng hề nhẹ nhàng. Đại Phúc càng cúi gập cổ xuống, không dám ngẩng lên, miệng lí nhí nói điều gì chẳng nghe rõ.

Tư Thành thở dài một tiếng, chẳng rõ vì trong lòng bức bối hay để tỏ chút lòng thương hại đứa trẻ đang quỳ dưới đất. Cuối cùng, người nói với nó:

"Lạng Sơn Vương là người ngoài mà còn có thể giúp em tìm được mẹ đẻ xa cách bấy lâu. Niệm tình chúng ta lớn lên bên nhau, lần này ta cũng sẽ giúp em thành toàn tâm nguyện, để em được cùng mẹ mình đoàn tụ như lời hứa của đại Vương gia!"

"Nô tài... không hiểu!" — Phúc bối rối hỏi lại.

"Lời dặn của đại Vương gia, em hãy làm theo, không để sai sót!" — Người đáp, không chút lưỡng lự.

Phúc nghe những lời đó mà như sấm nổ bên tai, vừa u mê, vừa choáng váng, nó rất muốn lắc đầu thật mạnh để kiểm chứng xem có phải tai mình bị ù mà nghe nhầm hay không nhưng nhìn nét mặt nghiêm nghị của chủ nhân, nó mười phần không dám hành động thất thố.

Phúc chỉ còn biết ngồi ngẩn người chăm chăm nhìn lên, đôi mắt mở to với cái nhìn ngơ ngẩn về phía Bình Nguyên Vương. Nó hoang mang tự hỏi có phải đây là một phép thử khác dành cho mình.

Tư Thành có thể nhìn ra sự hỗn loạn trong lòng nó lúc này, người cũng hiểu rõ ngoài việc răm rắp làm theo những điều Lạng Sơn Vương chỉ thị, Phúc không biết chút nào về nội tình câu chuyện và động cơ phía sau của người sai khiến nó.

"Dù sao cũng chỉ là nhốt chung mấy chục người lại với nhau trong vài canh giờ, chẳnq phưang hại gì tới ai!" — Tư Thành rộng lượng giải thích cho nó hiểu ý định của mình — "Sau khi từ yến tiệc trở về ta sẽ tìm cách thả họ ra!"

Đại Phúc "a" lên một tiếng như vỡ lẽ, nét mặt thoáng mừng rỡ như trút được gánh nặng trong lòng, nó ngô nghê thở phào một tiếng khá to, quên cả phép tắc chủ tớ.

"Còn nữa, việc ta gọi em tới hôm nay không được để lộ cho ai khác biết, cứ coi như mọi việc vẫn diễn ra bình thường, có như thế đại Vương gia mới giữ lời mà ban thưởng cho em như đã hứa. Những việc sau khi em rời đi, ta sẽ tự biết lo toan!"

Phúc dập đầu xuống sát đất, "dạ" một tiếng dõng dạc, có phần cảm khái. Bình Nguyên Vương khoát tay nói với nó ''đi đi", rồi quay mặt nhìn sang chỗ khác, không buồn dõi theo những bước thụt lùi rón rén, e ngại của nó.

Phúc ra ngoài khép cửa lại rồi, Tư Thành mới thở dài một tiếng, vẻ như phiền não, tự lẩm nhẩm với mình:

"Chuyện tới nước này cũng không thê dùng dằng nữa, chi bằng dứt khoát một lần cho xong!"

Đó là buổi khuya sau khi Tư Thành chào từ biệt Ngọc Huyên trước cổng Bình Nguyên phủ, nhìn theo cái bóng thanh mảnh của nàng mà trong lòng trực trào bao nỗi xót xa.

Một ngày quá dài với bao nhiêu biến cố nội tâm.

Bình Nguyên Vương ngả người ra sau lưng ghế, khép hàng mi và nhận ra nó nặng trĩu khôn tả cùng cảm giác toàn thân rã rời, mệt mỏi. Từng gương mặt điểm qua trong tâm trí Tư Thành, những con người đã gặp ngày hôm nay: Hoàng thượng, Lạng Sơn Vương, Đinh Thái bảo, mẫu thân, Phạm phu nhân, Anh Vũ, Ngọc Huyên, Đại Phúc. Từ cao quý tới thấp hèn, từ dạn dày tới non nớt, từ thân thiết tới lạnh nhạt, từ mưu mô tới xuẩn ngốc... Dù yêu hay ghét, thương hay giận, từng người, từng người một như những chiếc dằm găm vào trái tim Tư Thành khiến đớn đau khôn xiết, cảm giác ấy lần đầu tiên người phải đối mặt trong đời. Thì ra càng vấn vương người ta càng sầu khổ, càng gần gũi lại càng khó xuống tay, càng trân quý chỉ càng thêm dây nợ.

Chi bằng một lần quyết liệt cho xong!

Hơn chục năm ân nghĩa, chỉ một cái phẩy tay là tan thành mây khói...

CHƯƠNG 7: MỘNG MỊ

Tước vị, phẩm trật, cơ ngơi phủ đệ... đều là ân điển bề trên ban xuống khi ra lệnh ân xá rồi đón Lê Tư Thành và mẫu thân người là Ngô Thị Ngọc Dao trở về Cung thành, chấm dứt những ngày tháng sống lưu lạc ngoài dân gian, bần hàn và không danh phận. Đến cả mấy chục gia thần trong phủ cũng là dần dần thu nhận về sau.

Ngày trở về, những gì Ngô Thị Ngọc Dao đem theo bên mình chỉ là vài ba cái tay nải gói ghém mấy thứ đồ dùng sinh hoạt giản tiện nhất, cùng một người đàn bà và hai đứa trẻ lon ton chạy theo, vừa háo hức, vừa sợ sệt, rụt rè nấp sau vạt váy mẹ, giương đôi mắt to tròn ngơ ngác ngắm nhìn cảnh vật lạ lẫm xung quanh, tuy là trẻ con nhưng cũng biết choáng ngợp trước sự bề thế chưa từng trông thấy bao giờ.

Cũng có vài người từng thắc mắc về thân thế của ba mẹ con người đàn bà họ Phạm đi theo Ngô Thái phi, gốc gác ra sao chẳng rõ, chỉ biết là chị em kết nghĩa với Ngọc Dao từ thuở hàn vi. Bởi vậy, tuy danh phận chỉ như bao gia thần khác trong phủ nhưng lại được lệnh bà đối đãi hơn hẳn, nếu không muốn nói là vô cùng xem trọng. Ngay đến Bình Nguyên Vương trong cách xưng hô thường ngày cũng kính cẩn gọi "dì Mẫn" xưng "con" nên những người khác càng không dám có chút nào mạo phạm, coi thường.

Người ta thầm đoán già đoán non người phụ nữ ấy có duyên gặp gỡ với Ngô Thái phi khi người lưu lạc bên ngoài, cùng trải qua những tháng ngày cơ cực, đơn thân chăm bẵm con thơ côi cút, vì đồng cảnh ngộ mà nương tựa lẫn nhau, kết tình chị em. Ngô Thái phi là người xem trọng tình nghĩa, vinh hoa phú quý không quên hậu đãi người xưa, tuy danh phận là chủ tớ nhưng tình cảm chị em thì không thay đổi, đối xử với Phạm thị càng ân cần, thân thiết.

Có mẫu thân được chủ nhân xem trọng như vậy, cố nhiên Anh Vũ, Ngọc Huyên cũng được gia thần lớn nhỏ trong phủ đối đãi hơn hẳn đám trẻ cùng chơi, khác từ miếng ăn, cái mặc, đến cách gọi "cô", "cậu" xưng "tôi" có phần trịnh trọng của mọi người. Nghĩ lại những điều ấy, Thái bảo đại nhân thầm tự trách mình năm xưa rõ ràng thấy lạ mà chẳng lưu tâm, biết khác mà không gặng hỏi nên mới để lọt mắt vụ việc tày đình, đến khi tỏ tường mọi chuyện thì đã bị đặt vào tình thế nguy ngập sắp biến thành đại họa.

Vốn định lẳng lặng đưa họ đi xa khỏi Kinh thành, tới một nơi không còn chút liên hệ nào với tứ Vương gia, sắp xếp nơi ăn chốn ở và cấp thêm cho ít vốn liếng để họ có thể bình yên tới tận cuối đời, chẳng ngờ sự tồn tại của những người ấy đã vượt ra ngoài khuôn khổ phủ Bình Nguyên, khiến cả các vị Hoàng thân Quốc thích như Lạng Sơn Vương, Tân Bình Vương cũng đã để tâm chú ý, thực là tiến thoái lưỡng nan, đã khó càng thêm khó!

Sự biệt đãi của Tư Thành với Anh Vũ, Ngọc Huyên khiến Nghi Dân nảy sinh mưu đồ lợi dụng, còn Khắc Xương vì đem lòng cảm mến Ngọc Huyên nên tỏ ý muốn thu nhận nàng ta cùng gia quyến. Cũng có lúc Đinh Liệt từng nghĩ hay cứ mượn dòng nước đẩy thuyền đi, chỉ cần họ trở thành người của Tân Bình phủ thì ngọn nguồn thân thế họ ra sao, Lạng Sơn Vương từ nay sẽ chẳng tìm cách bới móc nữa, cũng là một cách để Tư Thành thoát ra khỏi mối họa kề bên nhưng suy đi tính lại chỉ thấy trong lòng càng dấy lên một mối bất an khôn xiết, bởi đó đúng là kế hoãn binh trước mắt nhưng lâu dài lại khó đoán được rủi ro.

Thái bảo trắng đêm không ngủ, cuối cùng đã nghĩ ra được cách giải quyết tận gốc rễ vấn đề, tuy tuyệt tình với kẻ phải ra đi nhưng làm vậy mới có thể cứu mạng người ở lại. Hiềm một nỗi chắc chắn Ngô Thái phi sẽ cự tuyệt đến cùng, dễ đánh động nhiều bên nên cần phải hành động kín kẽ để không ai kịp nhận ra cho đến khi xong xuôi tất cả.

Đinh Liệt nhẩm lại trong đầu từng bước kế hoạch, đúng lúc tiếng gà gáy canh tư cất lên, xé toang màn đêm tịch mịch. Thái bảo vén rèm nhìn ra bên ngoài, thấy xung quanh chỉ đặc một màu đen quánh, bầu trời như chiếc vung khổng lồ úp lên mặt đất, vừa tăm tối, vừa ngột ngạt, bất giác ngài buông tiếng thở dài chất đầy tâm sự u ám:

"Đêm dài lắm mộng, tỉnh giấc bi ai!"

Đang giữa mùa thu, nắng gắt đã qua nhưng cái ỉạnh chưa về, mấy ngày nay chỉ thấy độc một kiểu tiết trời oi bức, kéo từ lúc mặt trời ló dạng tới tận khi trăng lên cũng không thấy mát mẻ hơn là bao. Ai nấy đều uể oải, vận động thì chóng mệt mà ngồi yên một chỗ lại đổ mồ hôi đầm đìa.

Trung thu năm nay quả nóng nực hơn hẳn mọi năm.

Ngọc Huyên đứng tựa vào thành cửa, tay cầm chiếc quạt giơ cao ngang trán, nheo nheo đôi mắt, ngẩng mặt chênh chếch nhìn lên, lim dim ngắm nghía vầng thái dương treo trên đỉnh ngọn tre. Bầu trời xanh ngắt tịnh không bóng mây, cây cối im lìm không lay không động, nghiêm trang, đứng đắn, chẳng buồn ngả ngốn đưa đẩy như những hôm có gió.

"Bữa nay thật oi bức quá!" — Anh Vũ vừa bước từ nhà trong ra, vừa tiện miệng than thở một câu.

Nàng nghe tiếng anh trai, liền hẩy người đứng thẳng. ngoái đầu ra sau, lọt vào mắt hình ảnh Tư Thành trong Công phục sắc tía, bên ngoài đeo đai lưng sừng tê sức vàng, đang thong thả tiến lại. Nàng nhớ đã từng được anh trai giải thích cho nghe sắc tía là dành riêng cho bậc Thân vương và hàng quan nhất phẩm nhưng chỉ có các Thân vương mới được dùng vàng trang trí để tỏ rõ sự quyền uy và sang quý.

Anh trai giúp Vương gia vận đồ, mẫu thân giúp lệnh bà sửa soạn, chỉ có nàng vì không cần góp sức bên nào nên nhàn tản đứng ngoài, vơ vẩn ngắm trời ngắm đất trong lúc chờ đợi mọi người chuẩn bị xong xuôi. Nhưng xem chừng đất trời yểu điệu, cây cối tự tình hay chim muông sinh động đều không khiến nàng say sưa, ngơ ngẩn bằng ngắm nhìn trang nam tử dáng vẻ đường hoàng đĩnh đạc đương đứng trước mặt mình đây.

Trông thấy ánh mắt đăm đăm hướng về phía mình của Ngọc Huyên, Tư Thành nhoẻn cười thân thiết, bất giác nàng đỏ mặt lúng túng ngoảnh đi, rồi tự trách mình "Làm vậy chẳng phải kỳ lạ lắm sao!" nên lưỡng lự đôi chút rồi quyết định xoay hẳn người về, mỉm cười đáp lại.

"Mỗi lần Điện hạ mặc lên người bộ Công phục này lại cảm thấy không khí trong nhà long trọng hẳn lên!" — Tiếng mẹ nàng cất lên, bà cũng vừa dìu Thái phi bước ra từ gian phòng kế bên, lệnh bà mặc áo giao lĩnh màu xanh ngọc, thường [1] xanh cùng gam nhưng màu sậm hơn, tế tất [2] rủ mềm thướt tha qua gối, khẽ lay động theo từng bước chân. Thái phi bên ngoài khoác áo đối khâm [3] bằng gấm vân chìm thượng hạng, sắc hơi biêng biếc, thêu hoa thêu cỏ chạy suốt nẹp viền cổ áo và hai tay, vui mắt mà lại nhã nhặn. Tóc người búi thành một búi nhỏ trên cao, gài một chiếc trâm vàng giữ lại, đuôi tóc buông xõa, rủ qua vai như suối. Trông thấy diện mạo cao quý khác với thói quen ăn vận giản đơn, khiêm tốn thường ngày của lệnh bà, đôi mắt nàng ánh lên vẻ vui thích lẫn ngưỡng mộ, cứ chăm chú nhìn mãi không thôi.

[1]Thường: váy quây.

[2] Tế tất: Yếm che bụng.

[3] Đối khâm: áo khoác ngoài, không có khuy cài, ống tay rộng.

"Có đẹp không?" — Thái phi trông thấy thế thì cười hiền hỏi nàng.

Ngọc Huyên gật gật đầu, sôi nổi trả lời:

''Đẹp lắm ạ!"

"Thế còn ta có đẹp không?" — Tư Thành đứng bên này cũng lên tiếng hỏi.

Mọi người đều quay cả lại, tứ Vương gia đón mũ Phốc đầu từ tay Anh Vũ, ngay ngắn đội lên đầu, điệu bộ thì uy nghiêm nhưng nét mặt còn nguyên nụ cười thân thiết.

"Đẹp quá! Ai cũng đẹp hết!" — Phạm phu nhân vui vẻ đáp, còn nàng thì gật đầu phụ họa, mỉm cười không nói.

Vừa đúng lúc lão quản gia bước tới, trông thấy chủ nhân đứng trong nhà lớn thì dừng lại khấu đầu thưa lên:

"Kính bẩm Điện hạ, lệnh bà! Xe đã chuẩn bị xong!"

"Ta biết rồi!" — Tư Thành nhẹ giọng đáp lại, mắt nhìn quanh một lượt tất cả mọi người, nấn ná trên gương mặt Ngọc Huyên lâu hơn một chút trước khi rời sang Thái phi — ''Thưa mẹ, chúng ta đi chứ?"

Lệnh bà gật đầu, khẽ khàng di chuyển, ai nấy có mặt đều bước theo sau, tiễn người và tứ Vương gia ra tận xe ngựa. Người quản gia đã kê sẵn bậc tam cấp gỗ ở cửa lên xuống, Tư Thành bước vào xe trước, kế đến đưa tay đón lấy Thái phi, bên ngoài lại có Phạm phu nhân dìu người bước lên.

Mành hạ, người phu xe nhảy lên chỗ ngồi bên ngoài phía trước, tay thúc roi, tay ghìm cương để ngựa di chuyển từ từ. Xe vừa lăn bánh, Tư Thành vén rèm cửa sổ bên hông kiệu lên, nhìn ra bên ngoài, quả nhiên gặp được ánh mắt tiễn chân của Ngọc Huyên. Nàng đứng cách kiệu vài bước, chầm chậm đi theo, vừa trông thấy gương mặt Tư Thành qua ô cửa nhỏ liền đưa tay lên vẫy, mỉm cười xinh đẹp.

"Em về đi, đừng tiễn nữa!" — Người nói.

Ngọc Huyên gật đầu nhưng chân vẫn bước theo.

"Ở nhà ngoan ngoãn..."

"Đợi anh về!" — Nàng thay người kết thúc câu nói.

Tư Thành ngẩn người giây lát, rồi như sực tỉnh, gượng nở nụ cười, gật gù ra chiều ưng thuận.

Người phu xe kéo cương bên trái, con ngựa ngoan ngoãn xoay về phía đó, bốn vó hoạt hơn, cả ngựa cả xe cùng tăng tốc. Xe đổi hướng, từ ô cửa sổ, Tư Thành không còn trông thấy bóng dáng Ngọc Huyên nữa. Người thả tay buông rèm rủ xuống, nắng gắt ở ngoài không còn lọt vào bên trong nhưng sự oi bức thì chẳng hề thuyên giảm. Thái phi xòe quạt, khẽ khàng phe phẩy để tạo ra chút gió xua bớt nóng nực. Bình Nguyên Vương tựa hẳn người vào thành xe, qua cái lắc lư dễ dàng cảm nhận con đường gồ ghề dưới chân. Không khí xung quanh tương đối tĩnh lặng, có thể nghe rõ tiếng vó ngựa nện cồm cộp xuống nền đất sỏi, thi thoảng tiếng người khiển ngựa cất lên "Họ! Họoo!"

Người khép hờ đôi mắt, tâm trí mơ màng, lấp đầy bởi câu nói:

"Đợi anh về! Đợi anh về... "

"Huyên ơi! Huyên ơi!" — Phúc vừa chạy vừa gào to gọi tên nàng. Giờ Dậu gần kề mà không thấy bóng dáng Ngọc Huyên trong phủ, nó đoán chừng chắc nàng chỉ quanh quẩn gần đây thôi.

Gánh rối nước đã tới được một tuần trà [4] và chuẩn bị xong xuôi: giữa ao cạn trong vườn dựng một thủy đình [5] hay còn gọi là buồng trò rối nước, căng vải che, xung quanh trang trí cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... Mọi người trong phủ có mặt đông đủ, đang háo hức chờ tới giờ mở màn. Đại Phúc đứng sau mọi người, lặng lẽ điểm qua từng gương mặt, đương ngờ ngợ thì trông thấy dáng điệu ngó nghiêng tìm kiếm của Vũ, nó sực nhận ra là thiếu mất Ngọc Huyên.

[4] Tuần trà: nửa canh giờ, khoảng 1 tiếng đồng hồ.

[5] Thủy đình: sân khấu múa rối nước.

Đại Vương gia đã căn dặn rõ ràng rằng ngoại trừ Bình Nguyên Vương và Ngô Thái phi ra, dù chỉ một người cũng không được để thiếu. Khi tiếng kèn trống màn múa thứ hai nổi lên, đó là ám hiệu để người của Lạng Sơn phủ biết giờ hành động, sẽ theo lối cửa sau đã mở sẵn để lọt vào bên trong.

Hôm trước, chính Phúc đã khai báo với Lạng Sơn Vương rằng Trung thu năm nào Bình Nguyên Vương cũng mời về một nhóm nghệ nhân múa rối nước để biểu diễn cho mọi người xem, tăng thêm không khí vui vẻ cho Vương phủ dịp lễ tết. Đại Vương gia nghe thấy thế, nhếch mép cười gằn, giọng như châm biếm:

''Người thì dự yến ẩm trong cung, còn khéo lo bọn nô tài ở nhà buồn chán! Thừa rảnh rỗi để hậu đãi tiểu nhân!"

Ngài ra lệnh cho Phúc lợi dụng việc gánh rối nước đang diễn để ra tay hành động, việc của nó chỉ đơn giản là lén mở cổng từ bên trong. Lính canh chắn gác bên ngoài Lạng Sơn Vương tự khắc sẽ có cách giải quyết, xong việc này sẽ cho mẹ con nó đoàn tụ như mong ước.

Bình Nguyên Vương đã biết, không những không ngăn chặn, còn bảo nó cứ việc làm theo miễn đừng để ai khác biết. Những tưởng là nhiệm vụ dễ dàng thực hiện. Người trong phủ từ trên xuống dưới, già trẻ, gái trai đều mong mỏi nhất tiết mục này, khi chưa đến giờ đã tập trung đông đủ, chẳng ngờ, chuẩn bị mở màn lại thiếu mất Ngọc Huyên.

"Anh đi đâu vậy?" — Trông thấy Anh Vũ rời hàng, Phúc càng cuống lên — "Sắp biểu diễn rồi!"

"Không thấy Huyên đâu!" — Vũ đáp.

"Anh ở lại đi, để em tìm giúp!"

Lại như sợ Vũ nhìn ra vẻ sốt sắng lạ thường của mình, nó vội giải thích:

"Ban nãy em thoáng trông thấy Ngọc Huyên đằng kia! Để em chạy qua phía đó, anh không biết chỗ, tìm mất thời giờ!"

Anh Vũ không chút ngờ vực, gật đầu đồng ý, lại ân cần dặn thêm:

"Nếu ở chỗ em không thấy thì ra phía bờ sông, có lẽ Huyên đang rải tro hóa vàng ở đó! Đi sớm về sớm kẻo uổng màn hay!"

"Vâng!" — Nó đáp, lật đật chạy đi.

Thực ra Phúc không hề nhìn thấy nàng nhưng phải nói vậy để cầm chân Anh Vũ. Thời gian đã cận kề, đã vắng mất một người, không thể để thiếu thêm một người nữa, chi bằng nó tự rảo cẳng đi tìm, càng nhanh càng tốt.

Phúc chạy dọc bờ sông theo lời Anh Vũ chỉ, vừa chạy vừa gào dứt hơi:

''Huyên ơi! Huyên ơi!"

''Tôi đây!" — Tiếng nàng cất lên, vẻ không xa lắm.

Phúc quay người nhìn thấy Ngọc Huyên đang từ tốn rẽ đám cỏ lau tiến về phía mình. Trông thấy nàng, Phúc mừng rơn trong bụng nhưng không dám tỏ ra vồn vã, chỉ khoát tay ra hiệu:

"Mau về thôi, vở diễn bắt đầu rồi!"

"Ừ về thôi!" — Nàng gật đầu đáp.

"Huyên đi đâu ra tới bờ sông vậy?" — Phúc sải bước đi trước, thuận miệng hỏi.

"Người lớn đều bảo tro hóa vàng phải mang ra bờ sông rải xuống nước mới thiêng! Nước sông thông với cửu tuyền, sẽ mang những thứ người trần gian trao gửi tới tận tay thân nhân nơi địa phủ".

"Huyên hóa cho ai?"

"Cha tôi!"

"Thật là tốt vì ít nhất còn biết được ngày giỗ của mẹ cha để dâng hương cúng bái! Như tôi đây chẳng có khái niệm gì về quê hương, gốc gác, đến cả thân sinh còn hay thác cũng chịu không cách nào biết được!"

''Xuất thân quan trọng cũng không bằng nhân cách, gốc rễ quan trọng cũng không bằng suy nghĩ vươn lên. Có kẻ từ trong trứng nước đã giàu sang phú quý nhưng ỷ vào gia thế, chỉ mải ăn chơi, trở thành đứa con phá gia chi tử khiến gia đình sa sút, bản thân bị người đời cười chê đã đành, còn khiến cha mẹ chịu khiển trách trước ông bà tổ tông. Lại có người sinh ra trong nghèo khổ, thân thế hèn mọn chẳng sánh bằng ai, có thể chẳng dám mơ lập nên công danh sự nghiệp lẫy lừng nhưng sống có hậu, thành thực thẳng ngay, ắt đều được người xung quanh trọng nể, trân quý, cần gì phải nhờ đến gốc gác cao sang, cốt sao sống nên người tử tế, cha mẹ còn ắt sẽ thầm vui, cha mẹ mất thì được phần an ủi!" — Nàng cất lời khích lệ.

Phúc đang bước thì dừng khựng lại, quay về phía nàng, bắt gặp đôi mắt cười chan chứa động viên, lòng nó bỗng dâng đầy cảm giác áy náy.

"Sống mà phải ngó nghiêng rình rập liệu có phải cung cách của người tử tế? Biết việc mình làm liên lụy tới nhiều người thân thuộc nhưng phần vì sợ quyền uy, phần lại do tư lợi mà phớt lờ, nhắm mắt đưa chân, liệu có còn nhân cách hay không?" — Nó xịu mặt tự vấn lương tâm.

''Anh không "về ư?" — Ngọc Huyên hỏi khi thấy Phúc cứ đứng ngẩn ngơ không bước tiếp.

"Tôi..."

Câu nói định thốt ra bỗng tắt lịm giữa chừng. Mặt nó biến sắc, đôi mắt ánh lên sự kinh hãi tột cùng, run rẩy chỉ về phía sau lưng nàng, mồm há ra nhưng không thể cất tiếng, hớp vài ngụm không khí hệt như con cá đang mắc cạn.

Ngọc Huyên vụt quay lại, trong đôi mắt mở to trân trối, ánh lửa bập bùng như hình ảnh phản chiếu qua gương.

Cột khói cao nhuộm xám cả khoảng không trước mắt, dưới đó là biển lửa rừng rực trùm kín phủ Bình Nguyên. Hai đứa trẻ sau giây phút kinh hoàng như chôn chân xuống đất, cùng bừng tỉnh quay lại nhìn nhau nhưng thay vì cùng Ngọc Huyên cắm đầu chạy về hướng ấy thì Phúc lại vội đuổi theo níu lấy cánh tay nàng ngăn cản.

"Đừng về đó!" — Nó run rẩy van nài.

Nàng trừng trừng nhìn Phúc, khi cảm giác bất ngờ qua đi liền gạt phắt tay nó ra nhưng Phúc lại càng giữ chặt, năm ngón tay như găm vào da thịt khiến Ngọc Huyên đau thấu. Cơn nhức nhối vụt qua khiến nàng thêm phẫn nộ.

"Không được về!"

''Buông tôi ra!" — Nàng hét lên — ''Mọi người đều ở phía đó!"

''Họ đã chết cả rồi!" — Phúc nói như quát, tự nhiên cũng không còn phân biệt được để khiến nàng chùn bước hay đang tự mắng chửi bản thân.

Sắc mặt nàng vụt chuyển thành tái mét, thoáng ngây dại rồi bừng bừng nộ khí:

"Nói bậy!"

"Không được quay trở về đó!" — Nó lặp lại, đôi mắt thẫn thờ ngây dại, nhìn nàng mà như không thấy, nói với nàng mà như kẻ mộng du — "Không được về!"

Ngọc Huyên giật mạnh tay ra, những móng tay của Phúc để lại trên da thịt nàng năm vệt hằn rớm máu. Nàng cắm đầu chạy về hướng Bình Nguyên phủ đang chìm trong khói lửa, ngã dúi dụi, rồi lại hấp tấp đứng lên, quên cả đau đớn bước trên đôi chân cà nhắc, một chiếc hài cũng văng mất tự bao giờ mà không hề hay biết. Ngàn bước, trăm bước, chục bước... khoảng cách càng gần lồng ngực càng đau nhói, vì kinh hãi, hoảng loạn và vì luồng khí nóng táp vào người như hơi thở của thần Hỏa bủa vây.

"Nếu mọi người đã chạy thoát ra ngoài cả thì cớ gì xung quanh đây chẳng thấy bóng dáng ai?" — Một ý nghĩ bi quan xẹt qua trong tâm trí, lan tới từng thớ thịt khiến toàn thân Ngọc Huyên run bắn như ngâm nước đá giữa tiết trời tháng giêng dù đang đứng rất gần biển lửa. Nàng rùng mình khiếp sợ, lắc mạnh đầu để gạt đi suy nghĩ ấy, liền sau đó cúi xuống mạnh tay xé toạc một dải chân váy, quấn ngang mặt che kín mũi miệng, lột bỏ bớt lớp áo xống bên ngoài để lửa không bắt cháy.

Lưỡi lửa liếm khắp xung quanh, dựng lên một bức tường đỏ rực chết chóc, thách thức mọi ý định xâm nhập. Ngọc Huyên chạy men theo, mắt dán chặt vào tường lửa cố tìm ra sơ hở, may thay một cánh cửa bị thiếu mồi dẫn nên lửa chưa kịp lan đến, nàng cả mừng xáp tới, bất chấp hơi nóng như nung quấn lấy tấm thân nhỏ bé như muốn quật ra xa. Chợt nhận ra cánh cửa đã khóa trái từ bên ngoài, đôi tay bé nhỏ vội vồ lấy thanh chốt đồng, vừa giằng vừa lay, những mong có thể khiến nó bật tung ra dưới sức vặn và kéo.

"Mẹ ơi! Anh ơi! Mọi người ơi!" — Nàng gào lên thê thiết, hi vọng có thể nghe tiếng ai đó đáp lại nhưng đằng sau cánh cổng gỗ sơn màu hoa mười giờ khép kín như bưng, một chút âm thanh của sự sống cũng không có, dù là tiếng kêu la thảm thiết, hay những lời cầu cứu van xin.

Lửa đã bắt tới, Ngọc Huyên cảm nhận được cái nóng khủng khiếp trùm lên xung quanh, giống như sắp bị đẩy vào vạc dầu sôi của Diêm vương. Nàng bật người lùi lại mươi bước, mồ hôi và nước mắt hòa lẫn vào nhau mặn chát trên môi, bấy giờ mới nhận thấy cảm giác nóng rát ở bàn tay, cánh tay, bắp chân, vùng cổ lẫn gáy... Mái tóc đen dài cũng cháy sém nham nhở.

"Cửa không mở được, không rõ còn ai ở trong đó hay không? Làm thế nào bây giờ? Ta phải làm sao đây?" — Nàng giật vuông vải che ngang nửa mặt, hớp mấy hơi không khí đầy lồng ngực, tự nhủ với mình càng những lúc tâm tư hỗn loạn, càng cần đầu óc tỉnh táo để đưa ra phán đoán.

Chợt thấy ánh đuốc lập lòe tiến lại từ xa, nàng thoáng bừng lên hi vọng, bật người đứng dậy, chạy như bay về hướng ấy.

Đang cắm đầu cắm cổ thì đụng phải ai đó, Ngọc Huyên bật lùi một bước, định thần nhìn lại thì nhận ra đó chính là Đại Phúc, mặt cắt không còn giọt máu, chỉ kịp mấp máy một câu: "Trốn mau!" rồi túm lấy cổ tay nàng lôi theo.

''Buông ra! Đằng kia có người, ta phải nhờ họ tới giúp!" — Ngọc Huyên kêu lên.

"Đừng la lớn! Bọn chúng nghe được sẽ chạy tới tìm giết cả chúng ta!" — Phúc ngoái lại vừa chạy vừa nói, không hề có ý định buông tay hay chạy chậm lại.

"Giết... ai?" — Nàng nghe tiếng mình lạc đi vì kiệt sức, dùng hết mũi, miệng, thậm chí cả tai cũng không đủ để thở.

Phúc không trả lời, cứ cắm đầu chạy, càng nắm chắc lấy cổ tay nàng như sợ bị lạc mất. Đá dăm dưới đất rạch nát đôi bàn chân non nớt, mỗi bước giậm xuống lại nhói lên đau thấu. Cho đến lúc chính Phúc cũng không còn chạy tiếp được nữa, nó kéo nàng cùng ngồi nấp trong một lùm cây rậm rạp. Trời tối rất nhanh, con đường phía trước và phía sau đều đã chìm trong u ám, đến lúc này Ngọc Huyên mới nhận ra cảnh vật xung quanh hoàn toàn xa lạ, nàng chưa từng đặt chân tới bao giờ.

"Đây là đâu?"

"Suỵt!" — Phúc đưa bàn tay nhem nhuốc lên chặn miệng nàng.

Hóa ra nó không làm thế một cách vô cớ. Loáng thoáng đâu đây tiếng bước chân dồn dập, càng lúc càng gần, cho đến khi ánh lửa lập lòe tụ lại soi sáng một góc khu rừng cả hai đang ẩn nấp. Từ trong bụi cây nàng len lén nhìn ra, một toán người tay cầm đuốc, tay lăm lăm dao rựa đang hùng hổ sục sạo xung quanh. Nàng không biết họ là ai nhưng chắc chắn có liên quan đến việc Phúc lôi nàng cùng chạy trốn.

Ngọc Huyên ngồi bên cạnh có thể cảm nhận rõ ràng tiếng tim đập thình thịch của Đại Phúc. Đôi tay nó đã buông nàng ra, giờ đang đưa lên quấn chặt lấy đầu, úp mặt xuống hai đầu gối như không còn đủ can đảm để tiếp tục nhìn ra.

"Người đi đâu mất rồi?" — Tên dẫn đoàn hằm hằm lên tiếng.

"Mày có chắc không đó?" — Một tên trong nhóm hỏi.

"Rõ ràng chính mắt tao trông bóng hai đứa trẻ lướt qua trước mắt!" — Hắn khẳng định — "Lúc đó trời còn sáng rõ!"

''Trong phủ có bao nhiêu người?" — Lại một kẻ khác lên tiếng.

"Năm mươi tám người cả già lẫn trẻ! Trước khi chốt cửa châm lửa đã đếm đi đếm lại!"

Nàng nghe đến đây thì tay chân như muốn rụng rời. Năm mươi tám người mà bọn chúng nhắc tới là những ai? Toán lính canh gác? Đoàn nghệ nhân múa rối? Có bao gồm người của phủ Bình Nguyên, có bao gồm mẹ và anh trai nàng hay không?

"Hai đứa tao đứng canh bên ngoài khi chúng mày hành sự bên trong, không thể có chuyện để lọt ai trốn thoát!" — Một tên khẳng định chắc nịch.

''Các ông đây ra tay nhát một, làm gi có cơ hội chạy ra đến cửa!" — Đồng bọn của hắn vỗ ngực tự mãn khiến tất cả cùng cười ré lên.

Càng nghe, Ngọc Huyên càng rùng mình kinh hãi. Bọn chúng đã làm gì? Chuyện gì đã xảy ra với những người trong Bình Nguyên phủ? Đứa trẻ ngồi bên nàng run lên từng chặp, ánh mắt đờ đẫn và gương mặt còn u ám hơn bóng tối.

"Mau rời khỏi đây thôi! Chắc phía ấy đã có đầy rẫy kẻ hiếu kỳ bu lấy!" — Hắn nói và trỏ tay về phía Vương phủ.

"Dù có dập tắt được lửa cũng chỉ có thể moi ra được mấy chục cái xác cháy đen thôi! Tứ Vương gia lại có thể ăn ngon ngủ yên!"

"Im mồm!" — Một tên xẵng giọng quát, chặn ngay họng tên vừa nói — "Cũng muốn biến thành cái xác cháy đen hay sao? Chuyện ngày hôm nay phải mang theo xuống mồ nghe chưa cả lũ!"

''Biết rồi!" — Bảy, tám gã đồng thanh lên tiếng đáp lại lời dặn dò của tên đầu sỏ, hắn gật đầu tỏ ý hài lòng rồi vẫy tay ra hiệu cho cả đám rời đi, ngược với hướng bọn chúng vừa đi tới.

Khi những kẻ đó đã rời đi đủ xa để không còn nghe thấy tiếng nói cười hô hố, không còn trông thấy đèn đuốc dù chỉ là một đóm lập lòe, Phúc mới òa lên khóc hu hu.

''Chuyện này là sao?" — Nàng ngồi bệt ra đất, nói trong thơi thở đứt quãng như chẳng còn chút sức lực nào — ''Có liên quan gì đến tứ Vương gia? Bọn chúng vừa nói bậy gì thế? Hay tai tôi nghe lầm hở Phúc?"

Nó không nói gì, chỉ cúi gằm mặt khóc rưng rức.

"Thật kỳ lạ! Tại sao anh lại ngăn cản tôi trở về? Tại sao ngay từ đầu lại có thể khẳng định với tôi mọi nguời chết cả rồi? Tại sao trong khi tôi nghĩ rằng họ là những người có thể giúp được chúng ta thì anh lại biết trước bọn chúng là lũ sát nhân? Rốt cuộc là vì sao? Trả lời tôi đi!" — Nàng hét lên, cảm thấy lồng ngực mình đau nhói.

Phúc rạp người hướng về phía nàng, dập đầu mấy lần xuống đất như cúi lạy, vừa khóc vừa nói:

"Đều là tại tôi để người ta sai khiến! Nhưng tôi không biết Điện hạ lại có ý giết người diệt khẩu, rõ ràng người đã nói rằng khi trở về sẽ có cách thả mọi người ra!"

Nàng dán chặt ánh mắt vào nó, một lúc lâu sau mới thốt được lên lời:

"Giết người diệt khẩu? Là ý gì đây?"

Phúc biết chẳng thể giấu giếm thêm nữa, sụt sùi kể ra câu chuyện giữa nó và hai vị Vương gia. Nó làm nội gián cho Lạng San Vương như thế nào, định gài bẫy Bình Nguyên Vương ra sao, chuyện nó thuyết phục nàng giả trang để vào cung thi thố, chuyện nó mật báo cho đại Vương gia về nội dung cuộc nói chuyện giữa Ngô Thái phi và Đinh Thái bảo, chuyện người đó lệnh cho nó lén mở cổng từ bên trong và cả chuyện tứ Vương gia đã biết tất cả, chẳng những không ngăn cản còn căn dặn nó phải làm chính xác việc được giao.

Ngọc Huyên nghe tới đâu thì run lên tới đó. Sợ hãi, tức giận, ghê tởm... đều có cả trong những cái rùng mình. Nàng thình lình bịt chặt hai tai, hét lên: ''Đừng nói nữa! Tôi không tin!" rồi vụt đứng lên.

"Huyên!" — Phúc chỉ kịp kêu một tiếng, đã thấy nàng lao vụt đi như cơn gió.

Nó lập cập toan đứng dậy, lúc này mới nhận ra hai cẳng chân mỏi nhừ chưa hồi lại. Ngước nhìn lên thấy nàng chỉ còn là một cái bóng nhỏ xa tít tắp, sắp lẫn vào tầng tầng cây cối, hướng ấy hẳn là phủ Bình Nguyên.

Chợt một cơn nhói buốt xông lên tận óc. Phúc loạng quạng bật tiến lên hai bước, mặt đất dưới chân như chao đảo khiến nó đứng không vững chỉ muốn sụp xuống. Cơn đau lan tỏa từ một điểm trên lưng ra khắp từng thớ thịt, xâm lấn vào ruột gan. Nó thở hắt ra, từ từ quay người lại nhưng chỉ gắng gượng được nửa chừng thì toàn thân như tòa thành mục nát đổ ập xuống nền sỏi đá.

Qua hàng mi phủ đầy cát bụi, nó mơ hồ nhìn ra có rất nhiều đôi chân ở trên mặt đất xung quanh mình. Hình ảnh ấy nhòe dần, mờ dần, tan biến vào bóng tối cùng tiếng người văng vẳng thoạt gần lại thoạt xa:

"Tao đã nói là trông thấy rõ ràng hai bóng người chạy ra từ hướng lửa cháy mà chúng mày không tin! Ở đây một đứa, còn một đứa nữa đâu? Mau chia nhau ra tìm kĩ đi! Bắt được giết ngay, không được để lại nhân chứng!"

"Ngọc... Huyên... đừng để... bị bắt... Điện hạ... sẽ giết..." - Phúc nghe tiếng nói trong đầu mình bật ra ngoài cổ họng hóa thành chuỗi âm thanh "ư ử".

Thêm một nhát dao đâm thẳng xuống tấm lưng đang oằn trên đất, một vệt đỏ tươi loang loáng tuôn ra thấm ướt cả nền đất lạnh nó nằm.

Tiếng người nói:

"Xin lỗi nhé!"

Phúc nhếch mép cười chế nhạo mình, một giọt nước mắt lăn dài trên má, chảy xuống khóe môi, chạm vào đầu lưỡi đọng lại dư vị mặn chát.

Chương 20

PHẦN V

CHƯƠNG 1: BÍ MẬT

"Đường xa vạn dặm, cuối cùng cũng đến!" — Đại công tử họ Nguyễn hé mắt nhìn qua tấm rèm thưa. So với mười năm trước, cảnh vật nơi đây đã có nhiều thay đổi nhưng công tử vẫn nhận ra đây chính là con đường dẫn vào Kinh thành.

"Thấm mệt rồi ư?" — Người đàn ông cùng ngồi trong xe lên tiếng cắt ngang mạch suy nghĩ của vị thiếu gia trẻ tuổi — "Có lẽ chúng ta nên dừng chân tìm chốn nghỉ ngơi, trời cũng gần tối rồi!"

"Thưa cha, con không sao!" — Công tử liền đáp — "Công việc của cha vẫn là quan trọng hơn cả!"

Nguyễn Đức Trung nhìn con trai, suy nghĩ giây lát rồi lắc đầu:

"Từ đây đến Cung thành còn cần phải đi thêm canh giờ nữa, đã di chuyển cả ngày rồi chắc mọi người đều thấm mệt, hãy dừng lại nghỉ ngơi trước rồi sáng mai tiếp tục! Huống chi đây chỉ là một buổi yến tiệc, người cần vui cũng không phải là chúng ta!"

''Nhưng Thái hậu bệ hạ đã có ý muốn gặp, cha không có mặt liệu có bị người quở trách hay không?"

Nghe con trai nhắc tới người ấy, Nguyễn Đức Trung chỉ cười hiền không đáp. Trên đời này, không có quá ba người biết được một kẻ gần chục năm không còn trên quan trường như ngài vần giữ mối liên hệ mật thiết với Nhiếp chính Hoàng thái hậu.

Mười năm về trước, nếu không xảy ra một tai nạn cướp đi sinh mạng của trưởng nữ ngài hết mực yêu thương, khiến phu nhân đau lòng đến ngã bệnh, khiến Điện tiền đô chỉ huy sứ [1] Nguyễn Đức Trung lo nghĩ cho vợ con mà chấp nhận buông bỏ công danh, đưa cả gia đình trở về quê ngoại sống cuộc đời bình lặng thì giờ này, với thân thế và năng lực của mình, lại có sự hậu thuẫn ngấm ngầm của Thái hậu, việc ngài trở thành Nhập nội Thái úy chánh nhất phẩm võ giai là điều hoàn toàn nằm trong tầm với. Nguyễn Đức Trung mỗi khi nghĩ về chuyện đó, ngoài niềm đau xót mất con thì chưa từng cảm thấy luyến tiếc cho con đường công danh dang dở của mình. Người làm cha còn khó nguôi ngoai như vậy, chẳng trách suốt mười năm nay Nguyễn phu nhân luôn ủ dột như cây cỏ thiếu nước, sức khỏe cũng không mấy chuyển biến.

[1] Điện tiền đô chỉ huy sứ: Là trưởng quan của Điện tiền tỵ. "Điện tiền tỵ: có chức đô chỉ huy sứ và chức chỉ huy nhưng chức này đều là tướng hiệu chầu chực ở trong nội điện" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển XIV).

Lần này Nguyễn Đức Trung về kinh, ngoài mặt là đưa phu nhân đi thăm thú cảnh sắc Bắc Nam mà chục năm chưa từng nhìn lại, nhân tiện ghé qua ngôi chùa ở Kinh thành, nơi đặt bài vị trưởng nữ không may mất sớm để thắp nén nhang an ủi hương hồn con gái, thực chất bên trong là tuân theo mật chỉ triệu hồi của Thái hậu.

"Hoàng thái hậu đã phải vời đến kẻ từ quan quy ẩn bấy lâu như ta thì hẳn là chuyện này vô cùng cơ mật!" — Ngài thầm nghĩ, với tay vén tấm mành cửa lên cao, nhìn ra bên ngoài.

Những chiếc xe ngựa lốc cốc ngược xuôi, người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, ngọn đèn trên tay khẽ đong đưa theo mỗi nhịp chân bước. Sang thu, buổi tối dường như đến mau hơn, mới vào giờ Tuất mà mặt trăng đã treo cao trên nền trời đen thẫm. Nếu hôm nay không phải là Trung thu thì có lẽ giờ này mọi người đã thu dọn hàng quán để trở về nhà cả rồi. Yến tiệc trong cung chắc cũng đã bắt đầu từ lâu. Thực ra trên suốt quãng đường đi, Nguyễn Đức Trung đã suy nghĩ về việc có nên theo lời mời của Thái hậu mà góp mặt tại buổi thiết yến, cuối cùng ngài cảm thấy một kẻ bao năm không liên hệ với chốn quan trường bỗng đột ngột xuất hiện trong bữa tiệc dành cho Hoàng tộc và quan viên ắt sẽ càng gây ra sự chú ý không mong muốn.

"Phía trước là An Xương quán, đêm nay hãy nghỉ lại đó!"Ngài nói lớn để người đánh xe có thể nghe rõ mệnh lệnh.

"Dạ!" — Anh ta đáp và hãm ngựa đi chậm lại để rẽ sang lối khác, ra khỏi đường cái. Từ đây, quang cảnh trở nên vắng vẻ, thưa thớt dần.

Nguyễn lão gia buông rèm thôi không nhìn ra xung quanh, ngài quay người tựa vào thành xe, khép hờ đôi mắt, buông từng hơi thở đều đặn, chậm rãi như trong lòng hoàn toàn không còn điều gì cần phải nghĩ ngợi.

''Thưa cha!" — Công tử rụt rè lên tiếng.

"Con cứ nói!" — Ngài mở mắt nhìn con, khẽ gật đầu.

"Có điều này con nghĩ mãi mà không sao lý giải nổi, ấy là việc Thái hậu bệ hạ và triều đình nôn nóng muốn lập ngôi Trữ cung! Thánh thượng của chúng ta đang còn trẻ, lo gì việc sau này sẽ không có đích tử [2] nối dõi?"

[2] Đích tử: con ruột.

Nguyễn Đức Trung không trả lời ngay, ngài đưa tay khẽ vuốt chòm râu đốm bạc, những nếp nhăn trên trán như sóng xô vào nhau. Câu hỏi của con trai khiến ngài nhớ lại sự việc xảy ra cách đây tám năm, khi đó, Hoàng thượng mới lên năm tuổi đã bị một trận ốm rất nặng.

Ban đầu là sốt cao, sang ngày thứ hai thì trên khắp trán nổi lên những nốt nhỏ, các nốt phát ban sau đó nhanh chóng lan rộng cả khuôn mặt, xuống cổ, ngực, rồi toàn cơ thể. Ngày thứ ba những nốt ấy biến thành các nốt sần, bên trong chứa một chất dịch màu trắng đục và trở thành mụn nước. Các Thái Y trong triều chẩn bệnh đều đưa ra cùng một kết luận rằng Hoàng thượng đã nhiễm phải căn bệnh đậu mùa và khẩn xin Thái hậu cho cách li người để tránh lây lan diện rộng. Không còn cách nào khác, Thái hậu miễn cưỡng phải đồng ý.

Sau khi mệnh lệnh được ban ra, tâm lý của tất thảy mọi người trong Hậu cung đều trở nên hoang manq, rối loạn. Ai cũng biết đó là căn bệnh truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, chỉ trong một thời gian rất ngắn, bệnh nhân sẽ nổi mụn nước khắp người, sốt li bì khó hạ rồi chết nên căn bệnh này còn được gọi là "thất nhật nhiệt" tức là bảy ngày sốt cao. Những kẻ phải hầu hạ quanh Hoàng thượng trong thời gian này chẳng khác nào lãnh một án tử treo lơ lửng trên đầu, ngay đến các Thái y y thuật cao cũng phải nhiều phần dè chừng mỗi lần tiếp xúc.

Nhưng người cảm thấy lo lắng nhất lúc bấy giờ chính là Thái hậu. Hoàng thượng đăng cơ được ba năm, cũng là từng ấy thời gian Thái hậu buông rèm nhiếp chính, khắp trong ngoài triều luôn có rất nhiều thế lực chống đối, đe dọa đến ngôi vị của người. Nay Hoàng thượng bệnh nặng, tình hình vô cùng nguy cấp, có thể bịt được miệng của kẻ dưới trong một sớm một chiều chứ không thể bưng bít mãi, lại nhỡ may, Hoàng thượng có bề gì ...

Thái hậu trăm tính, ngàn tính, cuối cùng quyết định phải đi trước một bước. Lần đó cũng giống như bây giờ, Nguyễn Đức Trung đã nhận được một mật lệnh đặc biệt từ Thái hậu là bí mật tìm kiếm tung tích mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao và mật báo cho người.

Xa tận chân trời, gần ngay trước mặt, sau gần nửa tháng âm thầm tìm kiếm khắp vùng Thần Khê, Diên Hà [3] rồi vòng ra An Định, Thanh Hóa [4], cuối cùng, người ngài muốn tìm lại tìm thấy trong chùa Dục Khánh ngay giữa Kinh thành. Nhận được mật báo của Nguyễn Đức Trung, Thái hậu lập tức sai phái người của mình tới đón điệu mẹ con họ vào Cung thành, liền trong ngày hôm ấy lại nhân danh Thánh thượng ban chiếu chỉ ân xá cho mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao, phục vị Tiệp dư như trước kia và sách phong cho tứ Hoàng tử của Tiên đế là Lê Tư Thành làm Bình Nguyên Vương.

[3] Thần Khê, Diên Hà: nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

[4] An Định, Thanh hóa: nay là Yên Định, Thanh Hóa.

Giữa lúc mọi việc trong cung đang rối tung, còn lòng người hoang mang tột độ, động thái ấy của Thái hậu khiến triều đình dậy sóng. Mọi người đều có thể nhìn ra Thái hậu đang chuẩn sẵn bị một người kế vị ngai vàng phòng khi Đương kim Thánh thượng không qua khỏi.

Ngày Tư Thành nhận sách phong vương cũng là ngày thứ hai mươi kể từ khi Hoàng thượng phát bệnh. Những ngày sau đó, lớp vảy bao phủ toàn bộ các vết thương trên cơ thể người đã bắt đầu bong ra, các cơn sốt thưa dần rồi dứt hẳn, vậy là Hoàng thượng đã qua cơn nguy kịch.

Nhưng cũng chính lúc ấy, Thái hậu càng chắc chắn rằng quyết định của mình không hề sai lầm, đặc ân dành cho mẹ con Ngô Thị Ngọc Dao không hề thừa thãi: Hoàng thượng tuy có thể giữ được tính mạng nhưng sau này người sẽ khó mà có được đích tử.

Đó cũng chính là đáp án cho câu hỏi của con trai ngài nhưng Nguyễn Đức Trung còn đang phải nghĩ xem mình nên giải thích từ đâu.

Đột nhiên có tiếng nhốn nháo vọng tới từ phía sau, nghe rõ cả tiếng ngựa hí vang hoảng loạn lẫn tiếng người la lối thất thanh.

"Thưa cha, chắc có điều chi không ổn!" — Công tử lo lắng nhìn sang nói với ngài, rồi lớn tiếng ra hiệu cho người đánh xe dừng lại.

Nguyễn Đức Trung vội nhảy xuống. Chiếc xe chở phu nhân cũng vừa kịp thắng lại, đôi ngựa vần lồng lên khiến người đánh xe phải khó khăn lắm mới ghìm được cương. Ngài xáp lại gần, giúp ông ta một tay vỗ yên đôi ngựa, chúng thở phì phì như đương cơn tức khí. Giống ngựa này rất thuần tính, lại thêm được huấn luyện để kéo xe chở phu nhân, nếu không phải gặp điều gì hoảng hốt thì chúng sẽ không phản ứng như thế.

Khi đôi ngựa đã yên, ngài mới lật rèm nhìn vào trong xem xét, cả phu nhân và tì nữ đi cùng đều trải qua một phen kinh hãi khi xe đột ngột nảy lên rồi đảo điên rung lắc.

"Có chuyện gì vậy?" — Ngài ngoái lại hỏi người đánh xe.

"Có... Có người!" — Ông ta mặt mày tái mét chưa kịp hoàn hồn, lắp bắp chỉ về phía sau — "Thình lình lao tới từ bên ngoài khiến nô tài không kịp tránh! Hình như... Hình như là đã đụng phải!"

Nguyễn Đức Trung nhìn theo hướng tay chỉ của người đánh xe, quả thực giật mình khi trông thấy một thân hình nằm bất động dưới nền đất cách đó không xa. Ngài chạy lại ghé xuống xem xét thì ra là một đứa bé.

"Cháu bé!" — Ngài khẽ gọi, lại luồn bàn tay xuống gáy. nhẹ nhàng nâng đầu nó lên. Ánh trăng trên cao bị tầng tầng mây mù che khuất, không gian xung quanh trở nên đen thẫm mịt mùng, ngài không trông rõ mặt mũi đứa trẻ nhưng có thể cảm nhận được sự sống trên đôi tay mình. Nhận ra có người, nó khe khẽ rên rỉ như muốn nói điều gì đó. Nguyễn Đức Trung liền cúi thấp hơn, áp tai lắng nghe.

"Cứu... người nhà... cháu với!"

Tiếng đứa trẻ yếu ớt như hai thở của gió nhưng cái cách nó bấu chặt lấy cánh tay ngài thật quyết liệt, khẩn thiết. Nguyễn Đức Trung nhíu mày, hô lớn gọi người nhà:

"Mau mang đèn lại đây!"

Vợ và con trai ông cũng vừa tiến đến bên cạnh.

"Là người nào vậy?" — Phu nhân rụt rè ướm hỏi, dường như chưa hết bàng hoàng.

"Một đứa trẻ! Có lẽ gia đình con bé đã xảy ra chuyện gì đó! Người nó ám mùi khói khét như thể vừa thoát ra từ một đám cháy, lại chẳng may đụng phải xe ngựa của ta nên sức khỏe yếu lắm!"

Nguyễn lão gia trao cô bé vào tay con trai, căn dặn:

"Hãy đưa mọi người nhà ta và cả đứa trẻ này tới An Xương quán chăm sóc, nhớ gọi một thầy lang tới xem xét cẩn thận! Cha cần phải đánh xe quay lại phía sau xem sao, biết đâu còn có thể cứu được thêm ai đó!"

Nói xong ngài quay người toan bước đi nhưng Nguyễn công tử đã kịp kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc:

''Chuyện gì thế này?"

Mây trên trời như rẽ ra lộ diện trăng mười lăm vằng vặc sáng, dưới ánh trăng soi tỏ, Nguyễn Đức Trung bàng hoàng nhận ra những nét quen thuộc từ gương mặt lấm lem của cô bé xa lạ đang nằm bất động trong vòng tay con trai. Nguyễn Đức Trung đưa mắt nhìn sang phu nhân đứng bên cạnh, dường như bà cũng có cùng cảm nhận với ngài, xúc động đến nỗi phải vịn vào tay chồng mới có thể đứng vững.

"Hằng!" — Phu nhân thảng thốt gọi tên — "Con ơi!"

Cả ba người trong gia đình họ Nguyễn đều thảng thốt khi nhìn vào gương mặt giống hệt như đại tiểu thư, trưởng nữ đã mất cách đây mười năm của Nguyễn lão gia và Nguyễn phu nhân.

Bần thần một hồi không nói nên lời thì bỗng nghe có tiếng người sầm sập chạy tới từ đằng xa, vừa phạt cây bạt cỏ, vừa lớn lối quát nạt.

"Tìm mau, chỉ ở quanh đây thôi!"

''Mau đỡ phu nhân lên xe!" Ngài ra lệnh cho người nhà "Ai nấy đều trở về chỗ của mình cả đi!"

Mọi người răm rắp nghe theo, phu nhân trỏ tay ra hiệu cho công tử Vĩnh bế đứa bé lên xe mình rồi gật đầu, khoát tay cho con trai yên tâm về lại chiếc xe kia. Công tử vừa rời khỏi, tì nữ liền theo lệnh chủ nhân hạ kín rèm tứ phía, lại mở rộng chăn giúp phu nhân che giấu cô gái nhỏ bà đương ôm chặt trong tay.

Xe vừa lăn bánh chưa được bao xa thì lại dừng khựng lại, có tiếng quát từ bên ngoài:

''Ai ở trong xin ra nói chuyện!"

''Có chuyện gì?" — Người đánh xe bên phía lão gia lên tiếng — "Sao vô duyên vô cớ chặn đường?"

"Xe này chở ai? Từ đâu tới?" — Gã cố ý phớt lờ câu hỏi của người đánh xe, xẵng giọng hách dịch.

"Tôi họ Nguyễn, tên Đức Trung, tới từ lộ Lang Giang [5]!" Giọng lão gia cất lên.

[5] Lang Giang: Đời cổ là đất Lạc Long. Tần là quận Nam Hải, Hán thuộc quận Giao Chỉ, Đường đổi là Giao Châu. Đời Trần là lộ Lang Giang. Buổi đầu nhà Lê cũng theo như thế. Giữa năm Quang Thuận [1466] đặt làm Thừa tuyên Lạng Sơn, có một phủ và 7 châu thuộc vào (Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 1, trang 267, NXB Trẻ, 2014).

''Danh tính đã biết, mời xuống xe gặp mặt!"

Sau câu nói của hắn, bên ngoài trở nên im ắng. Phu nhân vén rèm vừa đủ trông ra. Nguyễn Đức Trung đã bước xuống như yêu cầu của gã, người đánh ngựa cũng hấp tấp nhảy khỏi vị trí, cầm đèn chạy tới trước soi đường cho ngài.

Gã đàn ông nọ lùi lại mấy bước khiến đồng bọn cũng vội lùi theo, đưa mắt nhìn nhau tỏ ý lấy làm kỳ lạ. Gã chắp tay, tỏ vẻ thận trọng, cả giọng điệu và lời nói cũng thay đổi thấy rõ, từ xấc xược hùng hổ trở nên cung kính:

"Cảm phiền ngài, chúng tôi đang truy đuổi một tì nữ trộm đồ của gia chủ rồi bỏ trốn, không biết ngài có tình cờ trông thấy bóng đứa trẻ nào băng ngang qua đây?"

"Trời tối, xe ngựa chạy nhanh, ta ở trong xe nên không trông thấy!" — Ngài đáp, lại quay sang hỏi người bên cạnh "Trương Hòe, anh đánh xe khiển ngựa, có thấy điều chi bất thường?"

"Thưa, nô tài chăm chú khiển ngựa, tuyệt nhiên không trông thấy gì kỳ quái trên đường!" — Ông ta trả lời không chút ngập ngừng, tuy là người thất học nhưng theo hầu chủ nhân bao năm cũng học được chút ít sáng suốt.

"Xin hỏi trong hai xe này còn những ai?" — Gã chưa chịu từ bỏ.

Nguyễn Đức Trung đưa mắt về phía phu nhân, trông thấy cái liếc nhìn tỏ ý dò hỏi của chồng, bà kín đáo lắc đầu, mím chặt môi, đôi mắt ánh lên sự khẩn nài tha thiết.

"Xe này ngoài ta chỉ có trưởng tử, xe kia là đám đàn bà con gái trong nhà!" — Ngài ôn tồn trả lời gã.

''Xin phép cho kẻ hèn này được ngó qua một chút!"

"Vô lễ!" — Công tử Vĩnh vừa xuống khỏi xe, nghe gã nói thì xẵng giọng quát — "Các ngươi cho rằng nhà chúng ta thèm che giấu một đứa nô tì lạ mặt hay sao? Cha ta đang trên đường hồi kinh, còn bọn ngươi cứ việc tìm người của mình, hai bên đều có việc cần làm, cứ việc ai đi đường nấy miễn là không phạm đến nhau!"

Gã nhìn vị thiếu gia trẻ tuổi, dáng dấp thanh tao cao quý, lại nhìn sang phụ thân chàng, một ônq lão dáng người quắc thước, râu tóc điểm bạc, tuy ăn vận giản dị nhưng uy nghi không hề suy giảm. Hắn thoáng chùn lòng, đang lưỡng lự trong đầu thì ngài cất giọng ôn tồn:

"Không sao! Cứ để các vị đây ngó qua cho yên lòng họ!"

"Không dám! Kẻ hèn thất thố rồi!" — Gã vội đáp, cúi đầu kính cẩn — "Xin không phiền ngài đây và công tử nữa!"

Nói rồi quay lại khoát tay ra lệnh cho đồng bọn rút lui, chạy ngược về phía sau tiếp tục lùng kiếm.

Bọn chúng đi rồi, Nguyễn Đức Trung mới quay lại gật đầu với con trai và người khiển ngựa ra hiệu lên xe đi tiếp.

Bên chỗ phu nhân, người tì nữ khẽ thở phào một hơi khi thẩy bọn người hung hăng ấy buông tha không lùng soát.

Xe ngựa lộc cộc chuyển bánh, Nguyễn phu nhân nhìn vẻ dáo dác của người bên cạnh thì mỉm cười hỏi:

"Hồi hộp đến thế sao?"

"Quả là chưa từng cảm thấy lo lắng như thế bao giờ, thưa phu nhân!"

''Sao cô lại cho rằng bọn chúng dám lật rèm lên xem?"

"Ôi!" — Cô ta thốt lên — "Chẳng nhẽ phu nhân đã biết trước bọn chúng không làm thế hay sao?"

''Bọn chúng không phải đám người bình thường đâu!" — Bà đáp — ''Vừa rồi khi lão gia bước xuống xe, bọn chúng mới trông thấy thì lập tức thái độ khác hẳn, đến khẩu khí cũng thay đổi!"

"Xem ra bọn người đó cũng có mắt mũi đấy, nhìn ra được cái thần thái uy nghiêm của lão gia nhà chúng ta!"

"Đúng là có mắt nhìn nhưng không phải nhìn người mà là nhìn thanh bảo kiếm mà lão gia đeo bên mình. Thanh kiếm ấy là vật Tiên đế đích thân ban tặng, nếu là người bình thường, có nhìn kĩ thế nào cũng không thể nhận ra đó là bảo vật quyền uy!"

"Ý phu nhân là..." Người tì nữ tròn mắt lắng nghe.

"Bọn chúng tuy thực chỉ là đám lâu la nhưng chủ nhân của bọn chúng thì nhất định phải là người có địa vị vô cùng cao quý, nếu ta không lầm thì người ấy phải là bậc Hoàng thân Quốc thích! Dưới chân một người chủ như thế bọn chúng mới có dịp thường xuyên trông thấy những thứ tương tự để "nhìn vật đoán người", xem chừng tuy không biết đích danh lão gia nhưng bọn chúng đã lờ mờ đoán ra nhất định ngài không phải thứ dân tầm thường nên mới chẳng dám mạo phạm!"

"Nhưng vừa rồi, gã cầm đầu còn định lục soát hai xe!" — Người tì nữ thắc mắc.

"Đúng, điều đó càng chứng tỏ chủ nhân của bọn chúng là một nhân vật vô cùng hiển hách ở chốn Kinh thành. Vì có chủ nhân cao quý, lại đang đứng giữa địa bàn quen thuộc nên nhất thời gã đã có ý chủ quan, cho rằng trên đầu đã có tán cây to che chắn. Dấu vậy, khi lão gia bằng lòng cho người khám xét thì gã chẳng dám động thủ, là bởi vì gã không biết rõ đối phương, chỉ cảm thấy rằng người sở hữu thanh kiếm quý báu như thế kia khó có thể là quan viên hoặc kẻ giàu có thông thường. Đã biết thanh kiếm lão gia đeo bên mình nhưng không biết danh tính lão gia chỉ có thể có hai khả năng: một là bọn chúng mới theo hầu chủ nhân chưa được bao lâu và hai là chủ nhân của bọn chúng là người trước nay không thường giao thiệp với với lão gia, hoặc chưa từng quen biết. Trong Kinh thành này, nghe nói có tới ba vị Thân vương là anh em của Thánh thượng, năm xưa khi lão gia từ quan đưa gia đình rời khỏi Đông Kinh, ba vị ấy đều mới chỉ là những đứa trẻ chập chững tập đi hoặc còn ẵm ngửa!"

''Chao ôi!" — Người tì nữ thốt lên một tiếng đầy thán phục.

Vừa đúng lúc đứa trẻ trên tay phu nhân khẽ động đậy. Hai người phụ nữ ngừng trò chuyện, chăm chú quan sát. Cô bé từ từ mở mắt nhìn lên phu nhân, thoáng chốc hai khóe mắt đã ầng ậng nước, nó mấp máy môi nhưng không thể thốt nên lời, rồi vì kiệt sức lại rơi vào trạng thái mê man.

Nguyễn phu nhân gương mặt thoáng đờ đẫn, vòng tay ôm lấy cô bé càng siết chặt như sợ buông ra cô bé sẽ biến mất. Bà lẩm nhẩm khe khẽ, giọng thoảng gần, thoảng xa:

"Đừng lo, ta sẽ bảo vệ con!"

CHƯƠNG 2: GIẢ TẠO

Trung thu, Thái Hòa năm thứ mười một, điện Vạn Thọ rực rỡ đèn hoa, từ trong ra ngoài tiếng nói cười rộn rã, không khí lễ Tết tràn ngập khắp nơi nơi, trong ánh mắt, nụ cười, đến cả trong những lời tán dương, chúc tụng lẫn nhau. Xem ra, Đại Việt giống như đang trong thời thái bình thịnh trị, ai nấy đều cùng mang một tâm trạng hân hoan, vui vẻ.

Sau khi đi hết một vòng, chào hỏi khách sáo đủ mặt mọi người, Lạng Sơn Vương kín đáo rút lui vào một góc, lặng lẽ quan sát biểu hiện của mọi người xung quanh. Quả đúng như Nghi Dân dự đoán, nhân vật chính — người trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý khi Hoàng thượng và Thái hậu chưa xuất hiện ở buổi yến tiệc - chính là Bình Nguyên Vương. Trong cuộc thi lần trước, dẫu cho Khắc Xương giành được chiến thắng chung cuộc nhưng biểu hiện xuất sắc của Tư Thành mới chính là điều khiến người ta cảm thấy ấn tượng hơn cả.

Tư chất, tài năng là điều không còn phải bàn cãi, lại được Nhiếp chính Hoàng thái hậu ủng hộ, xem ra Bình Nguyên Vương đã có một sự khởi đầu vô cùng thuận lợi, tương lai sẽ càng không đơn giản! Chỉ suy nghĩ ấy thôi cũng đủ khiến lòng người lung lạc, bởi thế cho nên đã có rất nhiều vị trước nay đều ở phái trung lập giờ lại công khai bày tỏ thái độ ủng hộ Bình Nguyên Vương, chưa biết chừng chính trong nội bộ phe đối lập cũng đã có kẻ không giữ nổi lập trường của mình. Chủ nhân của ngai vàng vẫn là Thánh thượng nhưng một khi Thái hậu lui vào Hậu cung, người có vị trí quan trọng thứ hai chỉ sau Hoàng đế chính là một trong ba vị Vương gia có mặt tại đây ngày hôm nay. Mọi người tuy không ai nói ra nhưng đều ngấm ngầm hiểu rằng thời khắc này chính là lúc cần sáng suốt để đưa ra lựa chọn: nên ngả về phe ai?

Ánh mắt Nghi Dân quét tới chỗ Khắc Xương đứng cách mình không xa. Mới trải qua một trận ốm nặng khiến thần sắc Tân Bình Vương tiều tụy thấy rõ, dù từ lúc xuất hiện tới giờ người vẫn gắng hòa mình vào không khí vui tươi nhưng vẻ thẫn thờ trong ánh mắt thì không thể dùng nụ cười lấp liếm. Bắt gặp cái nhìn của Nghi Dân về phía mình, Khắc Xương thoáng tần ngần, nửa như muốn tiến lại, nửa ngại ngần không dám. Sau cuộc thi ấy, hai huynh đệ vẫn chưa có dịp nào để trò chuyện với nhau, đúng hơn là Lạng Sơn Vương chưa cho phép em trai được gặp, rồi sau đó... Khắc Xương vừa chợt nghĩ tới buổi chiều mưa tầm tã cùng điều bí mật được tiết lộ vội vàng trong thư phòng phủ Lạng Sơn thì lại rùng mình ớn lạnh, bất giác bỏ rơi ánh mắt của huynh trưởng để dõi tìm bóng dáng một nhân vật khác giữa bao con người đang đứng nói cười hể hả quanh đây.

Vừa đúng lúc Đinh Thái bảo thong thả bước vào, khóe môi đã nở sẵn nụ cười thân thiện để đáp lại lời chào hỏi nhiệt tình của mọi người xung quanh. Ngài vận Công phục sắc tía, bên ngoài đeo đai sừng tê sức bạc, hai cánh chuồn trên mũ Phốc đầu khẽ động theo từng nhịp chân bước khoan thai. Kể cả khi không khoác lên người Công phục dành cho bậc võ giai chánh nhất phẩm thì Đinh Liệt cũng không phải là người dễ bị hòa lẫn vào đám đông. Ngài có dáng dấp cao lớn của người nhà binh, tuổi tác không làm mất đi thần thái uy nghiêm của vị dũng tướng một thời, đôi mắt ánh lên vẻ tinh anh từng trải như thấu suốt thế sự. Đứng trước Đinh Thái bảo, người ta dễ có cảm giác tiếng cười hào sảng và giọng nói trầm ấm làm toát lên vẻ thân thiện, gần gũi ở ngài chính là điểm tương phản lớn nhất đối với những đường nét khắc khổ nghiêm trang trên gương mặt của bậc lão thần tuổi đã ngũ tuần.

Đinh Liệt bước tới hành lễ với Lạng Sơn Vương, người khách sáo đáp lại, đôi bên không trao đổi thêm điều gì. Ngài tiếp tục bước ngang qua chỗ Khắc Xương, vừa hành lễ, vừa kín đáo gật đầu đáp lại cái nhìn đầy trông đợi của Tân Bình Vương, thông điệp mà hai người trao đổi với nhau qua ánh mắt chỉ mình họ hiểu. Ngài nở một nụ cười tỏ ý trấn an như cơn gió thổi tới xua tan đám mây nhuốm màu âu lo che phủ trên gương mặt Khắc Xương suốt cả ngày hôm nay, khiến sắc diện người vụt tươi tắn như hoa bừng nở khi nắng lên, ánh mắt lấp lánh tia hi vọng.

Cái gật đầu của Đinh Liệt chính là lời đảm bảo cho việc ngài đã thực hiện đúng phần giao ước của mình trong thỏa thuận trao đổi giữa hai người, ấy chính là khi tất cả mọi người còn đương hân hoan say đón Trung thu, uống rượu thưởng trăng lâng lâng cao hứng thì người của Thái bảo đại nhân đã đưa ba mẹ con Phạm thị tới địa điểm mà nhị Vương gia đã thu xếp sẵn, phần còn lại chính là việc người cần phải giữ đúng lời giao ước của mình để những người đó có thể được an toàn đến tận phút cuối.

Đinh Liệt nhận được cái gật đầu xác nhận sẽ theo đến cùng lời đã hứa của Tân Bình Vương thì mỉm cười đáp lại, hai người đứng cách nhau chừng dăm bước chân, giữa xung quanh bao người đang rôm rả hỏi chuyện lẫn nhau, tuy chẳng ai mở miệng nói riêng với ai câu nào nhưng những điều cần hiểu thì đều hiểu hết.

Không tiện nấn ná lâu hơn, Đinh Thái bảo miệng cười tươi tỉnh, chắp tay đưa lên trước mặt cáo từ đám người phía ấy, bọn họ hoan hỉ đáp lại, chắp tay cung kính chào tiễn ngài. Đinh Liệt quay gót, bước tới chỗ Bình Nguyên Vương và Ngô Thái phi hành lễ, nán lại trò chuyện dăm ba câu với vài vị đại thần khác đứng gần đó rồi mỉm cười cáo từ, xoay người bước tiếp, cứ thế các vị lần lượt chào hỏi lẫn nhau, không ai bỏ sót ai, rôm rả náo nhiệt cho tới khi đã đông đủ mặt những người quan trọng.

Nội quan thị hậu chánh trưởng hô vang một tiếng: "Hoàng thượng, Hoàng thái hậu giá lâm!" Ai nấy đều ngừng việc đang làm, đưa tay chỉnh trang mũ mão, y phục và cùng quỳ rạp cả xuống, đồng thanh hô to:

"Thánh thượng vạn tuế! Hoàng thái hậu thiên tuế!"

Chỉ đến khi nghe Hoàng thượng cất giọng ân cần: "Bình thân!" tất thảy mới lục tục đứng dậy, lại thêm một lần sửa soạn mũ áo chỉnh tề, ngay ngắn.

"Ban tọa!" — Hoàng thượng nở nụ cười niềm nở, khoát tay ra hiệu cho Nội quan chánh trưởng bắt đầu yến tiệc.

Âm nhạc lập tức nổi lên, dàn đường hạ chi nhạc [1] tấu khúc "Vạn thọ khai hoa" vui tươi rộn rã như thay lời chúc phúc gửi tới Hoàng thượng và Thái hậu. Tiếng gõ thanh vang, ngân nga của huyền phương hưởng [2], tiếng chầy, tiếng phi [3] bay bướm của tứ huyền cầm [4], tiếng đàn không hầu [5] du dương, trong sáng, tiếng sáo quản địch [6] lảnh lót, véo von, trên nền nhịp đập rộn ràng của trống quân cổ [7].

[1] Đường hạ chi nhạc: "đàn nhạc tấu dưới thềm", góp vui trong yến tiệc, khác với "đường thượng chi nhạc" là dàn nhạc tấu trên triều đường trong những nghi thức, lễ tế trang nghiêm, chính thống.

[2] Huyền phương hưởng: Nhạc khí gồm 16 miếng kim loại hình chữ nhật, dày mỏng khác nhau, treo trên giá, tấu bằng cách dùng dùi gõ vào

[3] Tiếng chầy, tiếng phi: kỹ thuật đánh đàn tỳ bà.

[4] Tứ huyền cầm: đàn bốn dây, là tên gọi khác của đàn tỳ bà.

[5] Đàn không hầu: đàn cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc.

[6] Quản địch: Sáo cổ, dài hơn 1 thước.

[7] Quân cổ: một loại trống cổ truyền.

Liền sau đó, đoàn cung nữ lần lượt nối nhau mang lên đủ thức sơn hào hải vị, nem công chả phượng trình bày đẹp mắt, đặt trên mặt bàn trước mặt từng vị quan khách, kế đến là trà thơm, mĩ tửu được dâng lên trong ấm nạm ngọc, bình bọc vàng vô cùng tinh xảo, độc đáo.

Nhạc hay, thịt ngon, rượu say, lòng người phơi phới tràn đầy hứng khởi. Giữa lúc cao hứng, nhà vua nâng chén của mình lên cao, nhìn xuống đám quần thần đang hân hoan vui vẻ, mỉm cười mà nói:

"Trẫm dùng trà thay rượu, nâng ly này chúc cho: Thiên khai thục cảnh, nhân lạc phong niên!"

''Trời mở cảnh thịnh, người vui bội thu!" Đây quả thực là lời chúc ý nghĩa tới con dân bách tính!" [8] — Thái hậu gật gù khen ngợi — ''Xem ra việc học tập, trau dồi của Hoàng thượng ngày càng tiến bộ, -ắt hẳn là công lớn của thầy giáo, ta cảm thấy cần phải trọng thưởng!"

[8] Lễ hội Trung thu có nguồn gốc gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mùa thu là mùa thu hoạch, mùa cây trái trưởng thành, người làm nghề nông thường tổ chức ăn mừng mùa màng bội thu, một năm lao động vất vả đến ngày hái quả.

Nói rồi đưa mắt ra hiệu cho Nội quan chánh trưởng An Quế, y cung cúc làm theo, thoáng cái đã thấy trở ra, theo sau là vài đứa tiểu thái giám, trên tay nào hòm to, hòm nhỏ, y dõng dạc đọc lên:

"Trực học sĩ Nguyễn Bá Ký cùng các quan Thái học viện! Ban thưởng!"

Đám người Nguyễn Bá Ký lập tức đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi, bước ra chính giữa quỳ xuống tạ ân:

"Đội ơn Hoàng thái hậu bệ hạ rộng lượng khen tặng! Chúng thần không dám nhận ban thưởng, chúng thần chẳng qua chỉ cố gắng làm hết chức phận của mình, không dám có chút nào sao nhãng. Hoàng thượng tư chất thông minh, học một hiểu mười, lại chăm chỉ, chú tâm, ấy mới thực là lý do cho việc học tập ngày càng tiến bộ, tuệ mẫn ít ai bì kịp của người!"

"Đứng dậy cả đi!" — Thái hậu khoát tay ra hiệu cho đám người đang quỳ trước mặt miễn lễ — "Có gì mà không dám? Tuy là chức phận nhưng làm tốt thì nên ban thưởng! Hơn nữa, sắp tới đây khi ta rút lui khỏi việc triều chính để an hưởng tuổi đã xế chiều ở nơi Hậu cung thanh tĩnh, Hoàng thượng có thể thuận lợi chấp chính, trở thành một vị vua anh minh, sáng suốt thì công đầu phải kể đến các khanh, những người làm thầy bấy lâu nay luôn tận tụy bảo ban, kèm cặp!"

Giữa tiếng đồng thanh "Chúng thần muôn vàn đội ơn Hoàng thái hậu bệ hạ!" từ đám Nguyễn Bá Ký là những âm thanh xôn xao bàn tán của những người đang có mặt tại đây. Vậy là chính miệng Thái hậu vừa mới nói ra thời điểm mà Nhiếp chính Hoàng thái hậu từ bỏ vị trí của mình, trao lại thực quyền cho Hoàng thượng đã rất cận kề. Tuy đã chuẩn bị tâm lý từ trước khi cuộc thi đấu giữa các Thân vương diễn ra nhưng lời tuyên bố của Thái hậu vào giữa lúc này vẫn khiến tất thảy mọi người đều kinh ngạc. Hoàng thượng cũng không ngoại lệ.

''Hoàng mẫu bệ hạ..." — Người ngập ngừng nhìn sang.

"Hoàng thượng không phải lo lắng!" — Thái hậu mỉm cười — "Ta quan sát đã lâu, nhận thấy người đã trưởng thành, có thể tự mình quyết định mọi việc. Người có tài năng, có tấm lòng, lại có cả các nghị chính đại thần ở bên dốc lòng phò trợ, tin rằng Hoàng thượng sẽ trở thành một Hoàng đế anh minh! Để ta rút lui khỏi mọi việc triều chính còn có lúc nào thích hợp hơn lúc này?"

"Nói hay lắm, còn có lúc nào thích hợp hơn lúc này?" — Nghi Dân nhủ thầm, khẽ nhếch môi kín đáo mỉa mai — "Thái hậu quả thực đã khổ công tính toán, mượn yến ẩm để chuốc say lòng người, cầu hân hoan để đập tan phòng bị! Bấy lâu nay bà luôn chọn cách im lặng để đo dò dư luận, còn dùng thái độ lạnh nhạt để trấn áp các phe phái trên triều, giờ đột nhiên giữa lúc tiệc tùng vui say lại đem ra bàn bạc, hẳn là muốn tự mình lèo lái không cho kẻ khác có cơ hội trở tay!"

Lạng Sơn Vương liếc mắt nhìn quanh đánh giá tình hình. Không khí của buổi tiệc quả nhiên đã chùng hẳn xuống, các vị hết nhìn lên Hoàng thượng, Thái hậu, lại ngơ ngác quay sang nhìn nhau, đùn đẩy, thăm dò, chờ đợi có người tiên phong lên tiếng nhưng chẳng có ai ngoài giọng Thái hậu cất lên:

"Các khanh đã nghe rõ cả rồi chứ! Đây là đại hỷ, cũng là đại sự của nước nhà! Hi vọng từ nay về sau khi ở bên giúp việc cho Hoàng thượng các ái khanh sẽ càng nỗ lực, tận tâm hơn!"

''Chúng thần rõ cả!" — Tất cả đồng thanh hô lên.

''Sau khi Hoàng thượng đích thân chấp chính, mùa xuân sang năm sẽ bắt đầu tuyển tú!" — Thái hậu cao giọng dõng dạc — "Chuyện lập Trữ cung hãy dời lại sau đó!"

Đám đại thần phía dưới lại được phen xôn xao, tất thảy đều vì quá bất ngờ mà chẳng biết nên bày tỏ thái độ gì vào lúc này. Nếu là đang đứng trên đại điện luận bàn chính sự các vị sẽ chẳng ngại ngần đưa ra ý kiến nhưng hiện giờ lại đương là lúc giữa buổi tiệc rượu yến ẩm vui ca, liệu ai dám lên tiếng phản bác lời của Thái hậu, chỉ e ý chưa toại lại phải gánh tội danh bất kính làm mất nhã hứng của bề trên.

Lạng Sơn Vương nhíu mày suy nghĩ, cảm thấy mình như đang lạc giữa một vùng sương mù mờ mịt. Thâm ý Thái hậu quả thực khó dò, những tưởng Thái hậu sẽ tìm mọi cách đưa người của mình ngồi lên ngôi vị Trữ cung rồi mới bằng lòng rút khỏi việc can dự triều chính, chẳng ngờ đột nhiên lại tuyên bố điều ngược lại.

Thái hậu lui vào Hậu cung khi ngôi Trữ cung vẫn còn bỏ trống, hành động ấy giống như của một người chẳng còn chút toan tính, luyến lưu nào tới quyền lực. Dễ dàng buông tay như vậy, chẳng lẽ Thái hậu là thực lòng cam tâm tình nguyện đứng ngoài cuộc tranh đoạt này, an phận để mặc mọi chuyện được định đoạt bởi tay kẻ khác hay sao? Lạng Sơn Vương càng nghĩ càng cảm thấy đây hoàn toàn chẳng giống với tác phong của Thái hậu, phải chăng hậu trường phía sau màn kịch còn ẩn giấu một điều gì khác?

Nghi Dân liếc nhìn về phía Tư Thành, vẻ mặt Hoàng đệ hoàn toàn tĩnh lặng như thể những lời vừa rồi của Thái hậu chẳng làm người có chút động trong tâm. Bắt gặp cái nhìn dò xét của Lạng Sơn Vương, Tư Thành bình thản nhìn lại, ánh mắt lạnh lẽo sâu thẳm như đáy giếng khiến Nghi Dân tự nhiên ớn lạnh, bỗng cảm thấy nghi ngờ bản thân, cho rằng hình như mình đã tính toán sai điều gì đó.

"Đại huynh! Là em đã phụ lòng anh! Nhưng em hoàn toàn không có mưu đồ tranh đoạt ngôi vị! Vì anh không muốn gặp để em có cơ hội giải thích nên em chỉ còn cách tự mình chứng minh mà thôi!"

Mạch suy nghĩ của Lạng Sơn Vương bị gián đoạn bởi tiếng ai nói khẽ bên tai, chỉ vừa mới kịp nhận ra đó là giọng của Khắc Xương, chưa kịp phản ứng thì đã thấy Tân Bình Vương vụt đứng dậy, tiến ra giữa hai hàng quan khách, quỳ xuống tâu lên:

''Thần xin chúc mừng Hoàng thượng! Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ anh minh sáng suốt! Hoàng thượng vạn tuế! Hoàng thái hậu thiên tuế!"

Lời của Tân Bình Vương khiến tất cả như bừng tỉnh, cùng lũ lượt đứng dậy, tiến ra giữa thềm quỳ xuống hô vang:

"Chúng thần xin chúc mừng Hoàng thượng! Hoàng thái hậu anh minh! Hoàng thượng vạn tuế! Hoàng thái hậu thiên tuế!"

Nghi Dân quỳ giữa đám người, lòng đầy bất an. Điều an ủi duy nhất chính là cục diện trước mắt không gây bất lợi cho toan tính tranh đoạt ngôi vị của Lạng Sơn Vương. Thái hậu đã buông tay, dù là thật lòng từ bỏ hay chỉ mượn kế hoãn binh để có thêm thời gian chuẩn bị cho điều gì đó sâu xa hơn, đối với Nghi Dân mà nói cũng là một cơ hội tốt để củng cố cho sức mạnh của chính mình. Điều quan trọng nhất chính là sự hiện diện của người trong Kinh thành này sẽ giúp phe phái ủng hộ Lạng Sơn Vương thêm vững tâm. Dù trong lòng Thái hậu chọn ai và đanq mưu tính điều gì, Lạng Sơn Vương vẫn là trưởng tứ của Thái Tông Hoàng đế, huynh trưởng của Hoàng đế, chính là lựa chọn số một cho ngôi vị đã từng bị kẻ khác cướp mất cách đây mười ba năm.

"Chư vị ái khanh mời bình thân!" — Giọng Hoàng thượng cất lên, vui vẻ xen chút ngượng ngùng.

Đám người cùng hô: "Đội ơn Hoàng thượng!" và lần lượt đứng dậy lui về chỗ ngồi. Nghi Dân nhân đà náo nhiệt ấy, trong lúc không ai để ý đã quay sang nói thầm vào tai Tư Thành quỳ ngay bên cạnh:

"Hoàng đệ hãy liệu tính, nếu đồng ý với điều kiện ta đưa ra thì ngay sau đây hãy tâu lên việc từ bỏ cạnh tranh ngôi vị, bằng không ta coi như là lời từ chối cơ hội cuối cùng để bảo toàn danh dự và mạng sống cho Ngô Thái phi! Toàn bộ phủ Bình Nguyên giờ này đã được người của ta tiếp quản, nội bất xuất, ngoại bất nhập, chỉ còn chờ một cái lắc hay gật đầu của Hoàng đệ mà thôi!"

Nói rồi đứng dậy, quay bước về bàn của mình.

"Bẩm Hoàng thượng, thần có điều muốn nói! Thần xin được rút lui khỏi việc cạnh tranh ngôi vị Trữ cung!"

Lạng Sơn Vương nghe thấy giọng nói vang lên sau lưng, ngoảnh đầu nhìn lại để xác minh thì nhận ra người vừa tấu xin không phải là Tư Thành.

''Kìa Hoàng huynh! Sao đột nhiên..."

"Xin Hoàng thượng thành toàn cho thần!" — Khắc Xương tỏ rõ sự quyết tâm của mình bằng cái cúi gập người, đặt trán trên nền đất.

"Tân Bình Vương, khanh có lý do gì không?" — Đốn lượt Thái hậu lên tiếng cắt ngang tiếng xì xào bàn tán nổi lên mỗi lúc một lớn hơn của đám đại thần văn võ.

"Thưa, thần cảm thấy gần đây sức khỏe của mình không được tốt, muốn rời xa Kinh thành ồn ào náo nhiệt đi tới vùng quê thanh vắng để tĩnh dưỡng một thời gian!"

Nói rồi ho lên mấy tiếng nặng nhọc. Đám đại thần theo phe ủng hộ Tân Bình Vương quay sang nhìn nhau, mặt mũi ai nấy đều xám xịt, đầy bất mãn mà chẳng dám lên tiếng can ngăn. Họ chẳng ngờ vị chủ nhân mà mình đã lựa chọn để đặt cược cả tiền đồ mai sau lại dễ dàng buông tay đến vậy, không phải bị ngã ngựa trong chiến đấu mà lại là tự mình rời bỏ cuộc chơi.

"Là vì như vậy sao?" — Thái hậu chăm chăm nhìn xuống, hồi lâu sau hai đầu mày từ từ dãn ra, nơi khóe môi khẽ đọng một nụ cười nhưng không đủ làm tan giá băng trên gương mặt uy nghi, lạnh lẽo.

"Trẫm... chuẩn y!" — Hoàng thượng ngập ngừng nói lời đồng ý.

"Thần đội ơn Hoàng thượng! Hoàng thượng vạn tuế!" — Khắc Xương dập đầu khấu tạ ba lần.

Lạng Sơn Vương từ từ thả người xuống ghế, hóa ra cái gọi là "tự mình chứng minh không có mưu đồ tranh đoạt ngôi vị" mà nhị Vương gia nói thầm với người ban nãy chính là điều này. Nghi Dân tự rót đầy ly rượu trước mặt, nâng lên dốc cạn, hơi rượu cay nồng xộc thẳng lên mũi khiến người thoáng váng vất.

Tân Bình Vương đã từ bỏ tư cách tranh ngôi, nếu tại đây hôm nay cả Bình Nguyên Vương cũng xin rút lui vĩnh viễn thì ngôi vị kia há chẳng phải chỉ còn lại mình Lạng Sơn Vương để tiến cử đó sao?

Siết chặt chiếc ly trên tay, Nghi Dân ném về phía Tư Thành một cái nhìn đầy ẩn ý, cả hăm dọa lẫn hối thúc.

"Thưa, thần đệ cũng có điều muốn thỉnh cầu Hoàng thượng!" — Tư Thành đứng dậy, tiến lại quỳ xuống bên cạnh Khắc Xương,

"Có chuyện gì khiến các huynh đệ của trẫm ngày hôm nay mang nhiều tâm sự như vậy? Bình Nguyên Vương nói thử xem!"

''Thần đệ..."

"Bẩm Hoàng thượng, Hoàng thái hậu bệ hạ, mạt tướng xin được cấp báo!" — Điện tiền ty chỉ huy Lê Đắc Ninh xồng xộc xông vào, chạy lại quỳ xuống đằng sau hai vị Vương gia, vẻ gấp gáp nghiêm trọng.

"Điện tiền ty, có chuyện gì mà vội vội vàng vàng quên hết phép tắc như vậy?" — Thái hậu nhíu mày, tỏ ý không vui.

Viên tướng chắp hai tay giơ lên trước mặt, vừa thở hồng hộc vừa bẩm báo:

"Mạt tướng vô phép xin Hoàng thượng, Hoàng thái hậu bệ hạ lượng thứ! Nhưng quả thực có việc vô cùng cấp bách phải lập tức bẩm báo lên không dám chậm trễ!"

"Mau nói!"

"Bẩm, ngoại vi phía Tây Nam thành, cơ ngơi của Bình Nguyên Vương đã xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, thiêu rụi gần như mọi thứ! "

Lê Đắc Ninh vừa nói dứt câu, Ngô Thái phi và Bình Nguyên Vương đều đồng loạt đứng bật dậy quay lại nhìn hắn, Thái phi thốt lên một tiếng đầy lo lắng:

''Sao cơ?"

"Thiệt hại thế nào khanh mau trình báo!" — Đến lượt Hoàng thượng thúc giục.

''Bẩm... thiệt hại..." — Viên Điện tiền ty chỉ huy hít một hơi thật sâu, cảm thấy có chút khó mở lời vì những điều sắp phải nói ra đây quả thực chẳng dễ chịu chút nào — "Trong đống tro tàn chỉ tìm thấy năm mươi tám cái xác người đã cháy đen không còn nhận diện được!"

Hoàng thượng, Thái hậu, Lạng Sơn Vương, Tân Bình Vương và tất thảy những người có mặt lúc đó đều không giấu nổi vẻ sửng sốt, kinh hãi. Ngô Thái phi đổ ập vào vòng tay Bình Nguyên Vương ngất lịm, mọi người nhốn nháo rời khỏi vị trí, xen lẫn tiếng lay gọi của Tư Thành là giọng viên Nội quan An Quế hô hoán gọi Thái y. Đám thái giám, cung nữ xúm xít chạy lại, khẩn trương đỡ lấy Thái phi từ tay Bình Nguyên Vương dìu vào bên trong.

Thái hậu tiến tới trước mặt Lê Đắc Ninh, cao giọng hỏi y:

''Khanh còn điều gì khác cần bẩm báo không? Đã điều tra được nguyên nhân gây hỏa hoạn chưa? Có người nào trong phủ may mắn sống sót để làm nhân chứng không?"

"Bẩm, tất cả người trong Bình Nguyên phủ đều chết cả, không còn ai để đối chứng! Tuy nhiên, gần hiện trường đám cháy bắt được một toán người có hành tung khả nghi lại đem theo bên mình một lượng lớn dầu hỏa!"

''Những kẻ đó hiện ở đâu? Chúng khai nhận những gì?"

"Bẩm, mạt tướng đã ra lệnh giam giữ chúng ở ty Hình, bước đầu bọn chúng khai nhận..." — Lê Đắc Ninh nói đến đây thì chợt dừng lại, len lén đưa ánh mắt về phía Lạng Sơn Vương, vẻ ngập ngừng lo lắng như sắp phải bẩm báo điều khó khăn.

Nghi Dân bắt gặp cái nhìn kỳ lạ ấy của viên Điện tiền ty thì giật thót, linh cảm chẳng lành ập đến vây bủa toàn thân.

"Tất cả bọn chúng đều khai nhận mình là người của đại Vương gia!" — Lê Đắc Ninh kết thúc câu nói còn dang dở.

"Láo toét!" — Nghi Dân đập bàn đứng dậy, chỉ thẳng tay vào mặt y quát lớn — "Ngươi định vu khống ta ư?"

''Lạng Sơn Vương hãy bình tĩnh!" — Thái hậu lên tiếng can ngăn — "Ta không phải người hồ đồ đến mức nghe sao tin vậy! Nếu quả thực Bình Nguyên phủ không tự nhiên bốc cháy mà là do có kẻ cố ý phóng hỏa thì kẻ đó chắc sẽ đủ thông minh để đổ vấy nqhi ngờ lên người khác! Việc này cần phải điều tra cho rõ nhưng trước mắt các vị đều trở về cả đi, ta sẽ sai phái quân cấm vệ canh giữ bên ngoài để bảo đảm an toàn cho hai vị Vương gia! Còn Bình Nguyên Vương, vì phủ đệ đã cháy nên tạm thời hãy ở lại trong cung Long Đức, chờ cho Ngô Thái phi được Thái y điều trị khỏi bệnh!"

"Nhi thần xin nghe theo sự sắp đặt của Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ!" — Tư Thành khấu đầu nhận ý chí từ Thái hậu. Đám đại thần cũng lục đục tiến ra giữa kính cẩn làm theo.

Tân Bình Vương đờ đẫn đưa mắt nhìn khắp lượt mọi người. Nhìn Đinh Liệt, đáy mắt dâng đầy oán giận:

''Năm mươi tám mạng người cháy đen không thể nhận diện?"

Nhìn Bình Nguyên Vương, giọng nghẹn ngào chất chứa khổ đau:

"Không còn ai sống sót để làm chứng, chỉ có một đám người mang theo mồi lửa tự nhận là người của Lạng Sơn Vương?"

Nhìn Thái hậu khóe môi khẽ nhếch lên chua chát:

"Cung Long Đức vốn là dành cho Thái tử, chỉ vì phủ Bình Nguyên không còn mà Hoàng đệ sẽ vào ở bên trong?"

Cuối cùng, ngoảnh lại nhìn Nghi Dân, cười phá lên cay đắng:

''Hoàng huynh, anh thua rồi! Bao năm toan tính cũng chỉ để biến thành quân cờ trong tay kẻ khác mà thôi!"

Từng gương mặt tưởng đã thân quen mà hóa ra xa lạ cứ bày trước mắt, căm phẫn có, nhâng nháo có, u uất có, hả hê có... Tất. thảy đều khiến Khắc Xương cảm thấy cổ họng dâng lên một cơn buồn nôn khó tả, cứ nuốt xuống nó lại đầy lên, càng cố kìm nén, lồng ngực càng như muốn vỡ tung ra vì đau đớn.

Cuối cùng không thể chịu đựng nổi, Tân Bình Vương dồn sức gào lên một tiếng thê thiết như mắng chửi, lại như oán trách:

"Rốt cuộc các người đang diễn vở kịch gì đây?"

Rồi hộc ra một ngụm máu đen, chảy tràn qua kẽ tay xuống cổ áo, hòa lẫn vào dòng lệ không màu nhưng mặn chát.

Bên tai loáng thoáng những âm thanh la lối khẩn trương:

"Nhị Vương gia thổ huyết rồi!"

''Mau đỡ lấy Điện hạ!"

"Thái y! Thái y đâu?"

Những gương mặt quen thuộc với muôn vàn biểu cảm xa lạ lại bày ra phía trước, Khắc Xương khép chặt mắt lại để khỏi phải tiếp tục nhìn thấy. Giữa một vùng u tối mênh mang, gương mặt xinh đẹp tựa như ánh trăng với đôi mắt xanh trong như màu nước giếng hòa lẫn với màu trời cứ trông về phía người mỉm cười duyên dáng. Khắc Xương đưa tay ra với hình bóng tưởng tượng ấy, thều thào trong cơn mê man:

"Là sự hèn kém của ta đã hại chết em rồi!"

.......

Chương 21

CHƯƠNG 3: TỈNH GIẤC

"Chết hết rồi, năm mươi tám mạng người!"

Nguyễn Đức Trưng thả mình xuống ghế, mồ hôi trên trán chảy thành dòng xuống gương mặt lấm lem bụi khói. Ngài nói, không giấu nổi vẻ thẫn thờ trong ánh mắt khi vừa phải tận mắt chứng kiến gần sáu chục xác người cháy đen co quắp được người ta cật lực bới ra từ đống tro tàn đổ nát sau trận hỏa hoạn kinh hoàng.

''Năm... mươi tám?" — Đại công tử run giọng nhắc lại, gương mặt vốn đã xanh xao lại như càng thêm tái.

"Khi ta tới nơi, ngọn lửa đã bốc cao hơn đầu, vòng trong vòng ngoài bốn bề đều một màu đỏ rực, không có cách nào tiến gần, đành bất lực đứng nhìn thần lửa tàn phá mọi thứ trước mắt..."

''Khủng khiếp quá!" — Người tì nữ của phu nhân nghe vậy thì bưng mặt sợ hãi, không dám nghĩ tiếp.

''Đứa trẻ đó thế nào rồi?" — Nguyễn lão gia thở dài buồn bã — "Đã tỉnh lại hay chưa?"

Công tử Vĩnh đáp lại câu hỏi của cha bằng một cái lắc đầu chậm rãi.

"Thầy lang nói sao?"

"Thưa cha, cô bé bị kiệt sức, thêm vào đó tinh thần lại hoảng loạn quá độ!"

"Dù sao cũng phải đợi con bé tỉnh lại mới có thể hỏi kĩ về chuyện đã xảy ra! Trong khi ta ở đó, quân lính cũng vừa hay tin mà kéo tới nhưng đã quá muộn, ngọn lửa đã thiêu rụi tất cả, những gì còn lại chỉ là một đống tro tàn đổ nát cùng những xác người cháy đen không thể phân biệt già trẻ, gái trai!"

"Cha có nói cho họ biết về việc cô bé ấy chạy tới cầu cứu?"

"Chưa!" — Ngài trả lời ngắn gọn, đơn giản hơn nhiều so với những gì đang suy nghĩ trong đầu. Linh tính mách bảo ngài có chuyện gì đó rất kỳ lạ, khó hiểu, thậm chí là mờ ám đằng sau vụ hỏa hoạn tàn khốc ấy. Tuy cảm giác đó chỉ mơ hồ thoáng qua nhưng vẫn khiến Nguyễn Đức Trung bận lòng không yên, cho nên ngài đã lặng lẽ rời đi mà không nói với bất kỳ ai khác về đứa trẻ đang ở chỗ mình.

''Mẹ con đâu?"

''Thưa cha, từ lúc bấy đến giờ mẹ vẫn luôn ở bên cô bé!"

Nguyễn lão gia khẽ gật đầu, cầm lấy chiếc khăn nhúng vào thau nước mà tì nữ vừa bưng tới cho mình, dùng nó để lau sạch mặt và đôi bàn tay ám khói, lại thay lớp áo ngoài bằng một tấm áo mới sạch sẽ, xong đâu đó mới bước vào gian phòng bên trong.

Trên chiếc giường đơn giản kê sát tường, đứa trẻ nằm bất động, mồ hôi rịn lấm tấm trên trán được phu nhân nhẹ nhàng thấm khô. Bà nắm lấy bàn tay với những ngón dài mảnh dẻ của cô bé trong tay, ánh mắt không lúc nào rời khỏi gương mặt tái nhợt non nớt ấy, ngay cả khi cảm nhận được những bước chân khẽ khàng của chồng đang tiến đến bên cạnh.

"Thật tội nghiệp! Con bé không ngừng khóc cả trong cơn mê sảng!" — Bà nói mà không ngẩng lên nhìn chồng.

''Những người chết ở đám cháy đó có lẽ đều là người thân của cô bé!" — Ngài buông tiếng thở dài đầy thương cảm.

"Có chuyện gì đã xảy ra với gia đình con bé vậy?"

"Đó là..." — Nguyễn Đức Trung ngập ngừng giây lát rồi mới tiếp tục — "Nơi xảy ra vụ hỏa hoạn là phủ Bình Nguyên!"

Phu nhân nghe nói, đôi mắt ánh lên vẻ sững sờ, rất lâu sau mới cất nên lời:

"Năm mươi tám mạng người phủ Bình Nguyên ư? Điều này còn hơn cả sự kinh khủng! Thực khiến lòng thiếp hồi tưởng lại sự việc xảy ra với chúng ta năm đó!"

Bà nghẹn ngào, biết bao suy nghĩ trong đầu chỉ muốn giãi bày ra cùng chồng nhưng lời nói bỗng tắc nghẹn nơi cổ họng, biến thành tiếng nấc khẽ tuôn ra cùng hai hàng nước mắt.

Ngài xích lại gần hơn, áp đầu vợ vào mình, đôi bàn tay chai sạn thô ráp vì nghiệp cung kiếm nhẹ nhàng trượt theo mái tóc đã điểm bạc, không còn mượt mà xuống tới đôi bờ vai đang rung lên khe khẽ.

Phu nhân bất giác thả lỏng mình, tựa hẳn vào người chồng rấm rứt thành tiếng. Họ ôm lấy nhau, mỗi người một tâm trạng nhưng ánh mắt cùng nhìn về đứa trẻ đang nằm mê man trên chiếc giường bên cạnh.

"Nghĩ lại thì chuyện này quả thực vô cùnq kỳ lạ!" — Phu nhân đột nhiên nhớ ra, vội rút khăn thấm khô nước mắt trên hai gò má, ngẩng lên nhìn chồng — "Rõ ràng ban nãy toán người ấy còn hùng hổ nói rằng đang lùng bắt một nô tì trộm đồ của chủ nhân! Sao đứa trẻ trộm đồ ấy giờ lại biến thành thân nhân của những người chết cháy ở phủ Bình Nguyên?"

Nguyễn Đức Trung gật gù:

"Ngay từ lúc bọn chúng xộc đến chặn đầu nằng nặc đòi khám xét xe ngựa của người qua đường, ta đã cảm thấy có điều gì đó khuất tất! Lại thêm đứa trẻ này được tìm thấy trên người còn nguyên mùi khói khét, quần áo cháy xém, nhiều chỗ trên cơ thể phỏng rộp, khi được đỡ lên chỉ nói được một câu xin hãy cứu lấy người nhà con bé. Kế cả phu nhân không có ý bao che thì ta cũng không định tin lời đám người đó mà giao nộp đứa trẻ này ra!"

"Chủ nhân của phủ Bình Nguyên chẳng phải là tứ Vương gia và Ngô Thái phi hay sao? Liệu các vị ấy có gặp nạn trong đám cháy hay không?" — Phu nhân hỏi, giọng căng thẳng.

Ngài ngẫm nghĩ giây lát rồi lắc đầu, khẳng định chắc nịch:

"Ta đoán là không đâu! Hôm nay là Tết Trung thu, trong cung hẳn đang tổ chức yến tiệc lỉnh đình. Khách khứa được mời tới dự chắc chắn đều đã nhập cung trước giờ Dậu. Từ Bình Nguyên phủ tới Cung thành muốn đi thong thả mà vẫn đến đúng giờ, ta đoán Vương gia và lệnh bà đã rời khỏi phủ muộn nhất cũng là đầu giờ Thân. Còn phủ Bình Nguyên bất lắm cũng chỉ mới bốc cháy chừng độ hơn canh giờ trước thôi, thời gian ấy tứ Vương gia và lệnh bà đã yên vị trong cung lâu rồi!"

Nguyễn phu nhân khẽ thở phào khi biết được Bình Nguyên Vương và Ngô Thái phi vẫn bình an, nếu không Tết Trung thu lại trở thành ngày đại tang của đất nước.

"Vậy thì đám người kỳ lạ kia hẳn có liên quan tói nguyên nhân của vụ cháy! Đây có lẽ không phải là tự nhiên phát hỏa mà do có người cố ý gây nên!"

''Phu nhân cũng cảm thấy như vậy ư?" — Nguyễn Đức Trung gật gù đồng tình — "Cho nên ta đã không nói với ai về việc tìm thấy đứa trẻ này! Chúng ta cần đợi cô bé tỉnh dậy để nghe chính miệng cô bé kể lại những gì nó biết hoặc nhìn thấy!"

"Con bé... thật là... giống với..." — Phu nhân nhìn chăm chăm xuống đôi mắt nhắm nghiền của đứa trẻ, nghẹn ngào nói không nên câu.

Nguyễn lão gia ngồi xuống bên vợ, nắm chặt lấy đôi bàn tay đang run rẩy của bà, nhẹ nhàng khuyên nhủ:

"Con gái chúng ta đã qua đời cách đây mười năm! Đứa trẻ này tuy có vẻ ngoài rất giống nhưng không phải là Hằng, phu nhân đừng nghĩ ngợi nhiều!"

"Thiếp biết chứ!" — Bà đáp, đôi mắt ngân ngấn lệ — "Nhưng quả thực là chúng giống nhau đến kỳ lạ! Dù thêm chục năm nữa, thiếp cũng không thể quên được gương mặt con gái chúng ta! Con bé mới xinh đẹp làm sao, ngoan ngoãn làm sao, đáng thương làm sao! Hằng, con ơi!"

Nguyễn Đức Trung thở dài không nói. Chẳng riêng gì phu nhân, bất cứ ai đã từng biết mặt Hằng nếu nhìn vào đứa trẻ ngày hôm nay chắc sẽ đều lầm tưởng trông thấy cùng một người. Ngay cả ngài, một người đầy lý trí cũng không tránh khỏi một khoảnh khắc đầy nghi hoặc, bối rối.

Đứa con gái đầu lòng của ngài, một đứa trẻ thật xinh đẹp, đáng yêu mà sau mãi bảy năm lấy nhau vợ chồng ngài mới có được. Phu nhân vẫn luôn tin rằng đó là đứa con cầu tự thần Phật ban cho, con bé cũng được sinh ra vào một đêm trăng rằm sáng rõ như đêm nay nên ngài đã chọn đặt cho con cái tên Hằng vừa dịu dàng, vừa diễm lệ.

Năm năm sau đó, tin vui lại đến trong nhà, phu nhân sinh hạ một tiểu công tử kháu khỉnh đặt tên là Vĩnh, ghép tên con trai và con gái được chữ "vĩnh hằng", ngụ ý nguyện ước cuộc đời bọn trẻ sẽ mãi được ấm êm, an lành. Gia đình đầy đủ cả nếp lẫn tẻ, tròn đầy viên mãn khiến người khác nhìn vào thì không khỏi ngưỡng mộ.

Thêm mấy năm nữa, trong triều xảy ra rất nhiều biến cố, lôi kéo hầu hết đại thần văn võ vào vòng thị phi sóng gió. Theo ai, chống ai, từng đường đi nước bước đều phải cân nhắc kĩ lưỡng nếu không muốn chịu cùng số phận thảm khốc như Đại tư đồ Lê Sát, Đại đô đốc Lê Ngân, Quận vương Lê Tư Tề... cuộc đời từng có lúc vô cùng oanh liệt, đến cuối cùng lại ê chề bỏ mạng vì một chén độc tửu vua ban.

Chiến trường và triều chính đều khốc liệt như nhau, có khác chăng một bên là những trận chiến thiên binh vạn mã, máu chảy thành sông nhưng ít nhất còn có thể nhìn rõ kẻ địch phía trước, còn một bên là những cuộc đấu đá ngấm ngầm, không chỉ bàn tay vấy máu mà nội tâm cũng hôi tanh, mới vừa là bằng hữu nhưng chỉ cần một cái ngoảnh mặt quay lưng, tức thì đã biến thành kẻ thù chẳng đội trời chung.

Giữa vòng xoáy thị phi ấy, sự xuất hiện của sủng phi họ Nguyễn bên cạnh Hoàng đế đã làm thay đổi tất cả. Chỉ sau một cái chớp mắt của mỹ nhân, Hậu cung thay chủ khiến cho cán cân quyền lực giữa các phe phái trong triều đình cũng phải xoay chuyển theo.

Sau khi Tiên đế băng hà, tam Hoàng tử lên nối ngôi, Thần phi trở thành Nhiếp chính Hoàng thái hậu. Tuy bề ngoài nhìn vào mọi việc đều thuận lợi nhưng bên tronq Thái hậu và ấu chúa chính là cảnh mẹ góa con côi, phải đối mặt với biết bao hiểm nguy không thể nhìn thấy trước. Thế lực lớn nhất đe dọa tới ngôi vị và mạng sống của họ chính là phe thân cận Thái tử Lê Nghi Dân, cho rằng Tiên đế vì yêu mẹ bế con mà phế trưởng lập thứ là quyết định chẳng những không thỏa đáng mà còn đi ngược lòng người. Cục diện trong triều khi ấy hết sức rối loạn, nếu không phải Thái hậu là người cứng rắn, khôn ngoan, lấy được sự ủng hộ từ những đại thần như Trịnh Khả, Lê Thụ thì có lẽ người và Hoàng thượng đã sớm bị kéo xuống khỏi ngai vàng tuy vinh quang mà chông gai, lạnh lẽo.

Trong những tháng ngày căng thẳng ấy, công lao của Điện tiền đô chỉ huy Nguyễn Đức Trung đối với hai vị chủ nhân Cung thành là không hề nhỏ. Tuy không phải nghị chính đại thần, cũng không ở trên triều trực tiếp tham gia luận bàn chính sự nhưng an nguy của người trong Hoàng thất, đặc biệt là Thái hậu và Hoàng thượng, đều đặt cả trong tay Điện tiền đô chỉ huy. Không ít kẻ từng tìm đủ mọi cách để lôi kéo thậm chí gây sức ép buộc Nguyễn tướng quân về theo phe lật đổ ấu chúa, nếu khi đó, Đức Trung ngài là kẻ hám lợi hay hèn nhát, nảy sinh chút lòng nào phản trắc thì e rằng tính mạng của bề trên đã khó mà giữ được.

Đêm ấy, Nguyễn tướng quân ở trong cung nhận được mật báo đã bày binh mai phục, một mẻ quét sạch đám loạn đảng, đập tan âm mưu hành thích Thái hậu. Thật chẳng ngờ, cùng lúc đó, phủ Điện tiền xảy ra một trận hỏa hoạn lớn. Nguyễn Đức Trung bảo vệ được Thái hậu và Hoàng thượng nhưng lại không ngăn chặn được tai họa giáng xuống gia đình mình, vĩnh viễn để mất đi đứa con mà vợ chồng ngài yêu thương hết mực trong tai nạn đó.

Có lẽ cả cuộc đời này, Nguyễn tướng quân sẽ không bao giờ quên được hình ảnh vợ mình ở giữa đống tro tàn, ôm trong tay thi thể đứa con bé bỏng bị ngọn lửa hung tàn hủy hoại, miệng không ngừng gào khóc gọi tên Hằng.

Phải tận mắt chứng kiến cái chết của con gái, hằng ngày nhìn con trai vật lộn trong đau đớn vì hít phải nhiều khói độc, phu nhân đau lòng đến ngã bệnh.

Một năm sau ngày giỗ của con, mọi việc trong cung cũng đã dần ổn thỏa, Nguyễn Đức Trung quyết định từ quan, đưa gia đình rời khỏi Đông Kinh về quê hương phu nhân ở lộ Lang Giang để bà được ở nơi cảnh sắc yên bình, thân thuộc mà an tâm dưỡng bệnh. Thái hậu tuy muốn giữ ngài ở lại nhưng trước sự khẩn cầu tha thiết của ngài, lại nghĩ đến nỗi đau mà Nguyễn Đức Trung đã phải trải qua, đành miễn cưỡng gật đầu chấp thuận.

Lời cuối cùng người nói với ngài trước lúc rời khỏi Đông Kinh chính là:

"Quan tướng đau lòng vì việc nhà, ta hoàn toàn thấu hiểu nhưng thiếu đi một người có thể tin tưởng đối với ta mà nói chính là một tổn thất không nhỏ. Nay tuy khanh không còn muốn lưu lại trên chốn quan trường nhưng vẫn là người của ta, đến một lúc nào đó khi ta và Hoàng thượng cần quan tướng góp sức, khanh nhất định không được chối từ!"

Và như thế, gần mười năm Nguyễn Đức Trung sống cuộc đời lặng lẽ cách xa Kinh thành là mười năm ngài âm thầm dõi theo những biến cố xảy ra trong Hoàng cung, linh tính sẽ có một ngày phải trở lại nơi ấy. Thật không ngờ ngày trở lại Đông Kinh ngài đã gặp được đứa trẻ giống hệt với đứa con đã mất của mình, chạy thoát khỏi bàn tay thần lửa - kẻ năm xưa đã tước đoạt mạng sống của Hằng, cũng vào một đêm trăng tròn như đêm nay.

"Phải chăng đây chính là số mệnh?" — Ngài nhìn đứa trẻ được phu nhân ôm trong vòng tay, miệng mấp máy muốn nói nhưng chẳng bật thành lời.

"Cháy! Cháy rồi!"

"Mau dập lửa!"

"Cứu hỏa! Cứu hỏa! Mang nước lại đây nhanh lên!"

Giữa những tiếng hô hoán, giục giã, đám người làm trong nhà phải cố gắng lắm mới phá được một phần vách tường bên hông căn buồng để đưa phu nhân thoát ra ngoài sau khi không cách nào vào bằng đường cửa chính vì lửa bén dữ dội đã khiến những thanh xà trên trần rơi rụng xuống đất chắn ngang lối đi.

Phu nhân cơ thể mềm oặt vì sặc khói, đôi mắt cay xè không thể nhìn rõ những ai xung quanh, vẫn cố túm lấy cánh tay đang dìu mình bước xa khỏi đám cháy, giọng hoảng loạn pha lẫn cầu xin:

''Còn công tử Vĩnh! Các người mau quay lại cứu con trai ta!"

''Phu nhân nói sao cơ? Đêm qua công tử không ngủ với bà vú mà ở lại chỗ người ư?" — Đứa nô tì kinh hãi kêu lên.

Bà gật đầu lia lịa, chỉ tay về phía đám cháy, nơi bà vừa được kéo ra, hổn hển nói:

"Công tử vẫn còn ở trong đó! Mau lên!"

Gã cuống quýt quay sang gắt bọn nô tài:

''Còn không nghe thấy sao? Mau đi cứu công tử!"

"Nhưng lửa bốc dữ quá rồi! Chỉ e là bây giờ..." — Giọng một người khác vang lên bên tai.

Phu nhân mở bừng mắt, lao bổ lại túm lấy cổ áo hắn, bao nhiêu sức lực còn lại trong người đều dồn cả vào cái gồng mình ấy. Bà nói như hét, lại như kêu khóc van xin:

"Mau cứu lấy con ta! Xin các người!"

Gã bật lùi lại mấy bước, ánh mắt hoang mang liếc nhìn về nơi lửa đang bốc cao ngùn ngụt. Ban nãy xông vào để cứu phu nhân, khắp nơi trong căn phòng đều là một màu đỏ rực, khói bốc mù mịt vây bủa toàn thân, suýt nữa thì không thở được, gã chỉ kịp nhìn thấy một cơ thể người lớn đang nửa nằm, nửa ngồi dưới chân giường, rũ ra vì ngạt khói, chẳng kịp nghĩ ngợi quan sát, vội lao tới xốc nách phu nhân chạy băng ra ngoài. Vừa chạy vừa cảm thấy sau lưng lưỡi lửa gần táp đến, chui ra tới bên ngoài thì nghe tiếng loảng xoảng rơi vỡ vọng ra, xem chừng lại có thêm nhiều xà nhà bị lửa bắt cháy rơi rụng xuống dưới. Ngay lúc ấy nếu có biết là công tử vẫn còn ở bên trong chưa chắc đã có người dám quay trở vào để ứng cứu chứ đừng nói là đến tận giờ này.

"Phu nhân..."

Đương khi gã còn đang bối rối tìm lời thoái thác thì một bóng người chạy vụt qua, lao về biển lửa. Những người có mặt chỉ kịp hét lên một tiếng: "Tiểu thư!" thì cái bóng đã chui vào màn lửa.

Phu nhân kinh hãi nhìn theo, ú ớ không ra hơi, ánh mắt dâng đầy sự bất lực, lảo đảo suýt ngã.

Tất cả cùng nhào về phía ấy, kẻ hét, người la, í ới gọi tên:

"Tiểu thư! Mau quay ra! Nhà sắp sập rồi, nguy hiểm lắm!"

Sau màn lửa bập bùng, Hằng bỏ ngoài tai những lời can ngăn ấy, thoăn thoắt trở mình luồn lách qua những chướng ngại để tìm ra khe hỡ mà chỉ có cơ thể trẻ con mới có thể lọt qua. Thoắt cái đã không còn thấy bóng dáng nàng đâu nữa. Ai nấy đứng ngoài đều nín thở chờ đợi.

Những tiếng nổ lách tách mỗi lúc một mau hơn, từng đợt gió thổi đến như luồng hơi từ chiếc quạt ba tiêu làm bùng thêm ngọn lửa.

Đúng lúc ấy thì cánh cửa thông gió bật ra, công tử Vĩnh thò đầu ra ngoài vừa ho sặc sụa, vừa khóc mếu vì sợ hãi. Mọi người ùa tới, hò nhau bắc ghế đứng lên phụ đỡ công tử trườn ra.

Cái cửa thông gió ấy chỉ cỡ trẻ con chín mười tuổi trở xuống mới chui lọt, lại ở tít trên cao nên ban nãy không ai nghĩ tới việc chui vào bằng đường ấy- Nay tiểu thư liều lĩnh xông vào bên trong mói phát giác ra chỗ đó lửa chưa kịp bắt tới, đủ thông thoáng để hai đứa trẻ cùng thoát. Hằng tìm thấy Vĩnh đang một mình khóc mếu ở góc nhà, vội chạy tới xé mảnh chân váy làm dải khăn bịt quanh mũi miệng cậu bé, kéo tay em trai chạy về hướng mình vừa chui vào nhưng lửa phía ấy đã bốc lên ngùn ngụt, không thể luồn qua được nữa. Đảo mắt một vòng đánh giá tình hình, cuối cùng Hằng quyết định chạy về phía chưa bắt lửa. Hằng trông lên ô cửa thông gió rồi quỳ xuống nhìn thẳng vào mắt Vĩnh, dặn dò:

''Em nín đi! Bây giờ đứng lên vai chị, xô mạnh cánh cửa trên cao kia ra, đến lúc ấy tha hồ khóc thật to để gọi người lớn tới, nghe không?"

Đứa trẻ tròn năm tuổi đang cơn hoảng loạn vẫn cố gắng gật đầu đáp lại lời dặn của chị gái. Hằng dùng hết sức bình sinh nhấc bổng Vĩnh đặt lên vai mình, gồng người vịn vào tường đứng thẳng dậy. Chiều cao của hai đứa trẻ gộp lại vừa đủ để Vĩnh tới được ô cửa ấy. Nhớ lời chị dặn, cậu bé xô mạnh một cái, cánh cửa bật mở, luồng dưỡng khí từ bên nqoài lùa vào khiến đứa trẻ trở nên tỉnh táo hơn, Vĩnh vừa ho, vừa cố gào thật to.

Công tử được người lớn lôi ra ngoài lành lặn, tuy toàn thân mềm nhũn vì vừa phải trải qua những phút giây kinh sợ nhưng sắc mặt vẫn hồng hào. Mọi người khẽ thở phào mừng rỡ. Nhưng tiểu thư vẫn kẹt lại bên trong, cửa thông gió lại cao hơn khả năng với tới của một đứa trẻ.

"Tiểu thư đâu rồi?" — Đám người làm nhốn nháo giục giã.

"Tôi ở ngay đây! Tôi không sao! Giờ sẽ đứng lên ghế để chui ra!"

Nhưng đó là câu nói cuối cùng mà người ta nghe thấy từ nàng.

Hàng loạt những âm thanh rơi vỡ khủng khiếp vang lên tạo ra một cơn rung lắc kinh hoàng. Đám người bên ngoài hét lên một tiếng, bám tay nhau bật lùi, bất lực nhìn toàn bộ ngôi nhà đổ sập xuống. Lửa chờm lên, khói bụi phun ra tạo thành một lực đẩy rất mạnh ủn tất cả mọi thứ xung quanh bắn ra xa.

Gương mặt thoáng bừng lên hi vọng khi công tử Vĩnh được đưa ra ngoài lành lặn của phu nhân chợt chuyển màu tím ngắt, bà rú lên một tiếng thê lương rồi đổ ập người xuống như thân cây bị quật ngã trong dông tố.

"Thí chủ! Người vừa trông thấy ác mộng sao?"

Nguyễn phu nhân choàng mở mắt, giọng của vị đại sư trầm trầm vang lên bên tai. Bà đờ đẫn đưa mắt nhìn ngài, cảm nhận rõ rệt dòng chảy của những giọt mồ hôi lăn từ trên trán qua má xuống hõm vai.

Phu nhân mệt mỏi cúi đầu trước vị đại sư, sực nhớ ra mình đang trong thời gian tụng kinh cầu siêu cho con gái, vừa nhắm mắt lại lắng nghe tiếng gõ mõ thì đã chìm sâu vào cơn mộng mị hoang đường.

"Bạch thầy! Phật tử vừa trông thấy lại cảnh tượng kinh hoàng trước đây, chính là vụ hỏa hoạn đã cướp đi sinh mạng đứa con gái bé bỏng của con! Mọi thứ bày ra trước mắt chân thật quá khiến con tưởng như trái tim mình phải chết lần thứ hai!" — Bà nói, lồng ngực như thắt lại.

"Điều mà thí chủ vừa trải qua ấy gọi là "thân trung uẩn chiêm bao".

''Thân trưng uẩn chiêm bao? Bạch thầy, xin thứ lỗi cho Phật tử mông muội không hiểu hết ý tứ sâu xa!"

"Thân trung uẩn là "trạng thái trung gian", thời gian quá độ giữa "chết" và "đầu thai", có thể hiểu nôm na đó là sự sống sau khi chết, trước khi thần thức của con người đi tái sinh vào nơi mà mình có thể khế hiệp với nghiệp của mình trong sáu cõi [1]. "Thân trung uẩn chiêm bao" là một trong sáu "thân trung uẩn", cũng là một trạng thái trung gian dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, tuy chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi lẫn lộn giữa thực và ma nhưng đã thấy được những sự vật mà người trần mắt thịt không thấy được".

[1] Sáu cõi: lục đạo luân hồi. Theo quan điểm Phật giáo, tùy vào nghiệp của chún sinh mà sau khi chết, chúng sinh đó có thể tồn tại dưới dạng thân trung ẩn một thời gian, rồi tái sinh vào một trong sáu cõi với cuộc đời mới. Sáu cõi bao gồm: Cõi trời (deva)/ Cõi thần (asura)/ Cõi người (manussa)/ Cõi súc sinh (tiracchanayoni)/ Cõi ngạ quỷ (quỷ đói) (petta)/ Cõi địa ngục (niraya). Sau khi tái sinh, đa số các chúng sinh sẽ không còn nhớ bất cứ điều gì về kiếp trước đó.

"Bạch thầy, vậy điều Phật tử đã thấy mang ý nghĩa gì?"

"Giấc mơ về cái chết chính là điềm báo của sự sống! Người mà thí chủ nhìn thấy có lẽ đã sớm được đầu thai chuyển kiếp!"

"Nếu đã đầu thai, còn sống trong kiếp này liệu có cách nào để Phật tử nhận ra thế thân của con gái mình?" — Phu nhân vội hỏi lại, đôi mắt ánh lên tia hi vọng xen lẫn hồi hộp.

"Đứa trẻ của thí chủ là nhờ thành tâm cầu khẩn mà có được, tuy sinh ra mang tới bao hạnh phúc cho cha mẹ nhưng đáng tiếc lại sớm phải lìa xa. Trước đây bần tăng từng nói với thí chủ: Những đứa con cầu tự cũng giống như người thần tiên thác xuống trần gian, đối với họ, sự sống và sự chết xảy ra trong cõi đời trần tục đều bởi vì cần gánh vác một sứ mệnh nào đó. Nay thí chủ hỏi về việc có thể nào nhận ra được chuyển thế của con gái mình, bần tăng chỉ có thể trả lời bằng một câu: "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng". Nếu sứ mệnh người ấy gánh vác ở lần đầu thai chuyển kiếp này có liên quan tới thí chủ thì sớm muộn gì hai người cũng sẽ nhận ra nhau, bằng không hãy cứ sống cuộc đời của mỗi người đừng kiếm tìm vô ích!"

Vị đại sư nói rồi chậm rãi đứng lên, bước ra ngoài. Phu nhân một mình ngồi dưới chân tòa Tam bảo, bần thần nhẩm lại những lời ngài nói, đôi mắt dán chặt vào bóng dáng đang dần đi xa. Chợt đại sư dừng bước, không ngoảnh lại, giọng nói âm vang như khánh ngọc vẳng đưa tới bên tai phu nhân:

''Người đã đầu thai, hà tất phải tụng kinh cầu siêu! Từ nay về sau thí chủ không cần tiếp tục làm những việc này nữa, cũng đã tới lúc nên buông bỏ nỗi khổ đau giày vò tâm trí ấy đi rồi!"

Tiếng nói còn ở lại mà bóng người đã khuất dạng từ lâu, phu nhân ngỡ ngàng nhìn quanh nhưng chỉ thấy một vùng trống vắng, tòa Tam bảo trước mặt cũng tự nhiên nhạt nhòa đi không còn trông rõ nữa. Phu nhân cất giọng thảng thốt gọi với theo: ''Thưa đại sư! Thưa đại sư!"

"Phu nhân! Thưa phu nhân!"

Phu nhân giật mình mở mắt mới biết rằng mình vừa thiếp đi trên ghế, hóa ra tất cả đều là mơ.

Mộng lồng trong mộng khiến người ta không khỏi cảm thấy mơ hồ như người lạc trong màn sương mà mất phương hướng. Bà mệt mỏi ngước lên nhìn người tì nữ vừa lay gọi mình, khẽ hỏi:

"Có chuyện gì thế?"

"Thưa, hình như đứa trẻ ấy đã tỉnh lại rồi!" — Cô ta đáp, rụt rè đưa mắt liếc nhìn về phía chiếc giường bên cạnh.

Phu nhân nghe xong thì bừng tỉnh, bật khỏi lưng ghế, ghé sát lại gần gương mặt đứa trẻ, nỗi vui mừng khấp khởi vô cớ dâng lên trong mắt.

Cô bé quả thực đã tỉnh lại, hai hàng mi khẽ động đậy rồi từ từ mở ra, để lộ đôi mắt đen thăm thẳm. Đứa trẻ nhúc nhích cánh tay, khó nhọc giơ lên, hướng về phía người phụ nữ ngồi trước mặt mình, miệng mấp máy muốn nói điều gì đó. Nguyễn phu nhân chìa tay đỡ lấy bàn tay đang cố với lên ấy, lại trao về con bé cái nhìn vừa chăm chú, vừa âu lo.

"Mẹ... ơi!" — Đứa trẻ nhìn sâu vào đôi mắt bà, khẽ cất tiếng gọi, đứt quãng nhưng rõ ràng.

...............

Chương 22

CHƯƠNG 4: MƠ HỒ

Tháng tám, Thái Hòa năm thứ mười một, phủ Bình Nguyên ở phía Tây Nam Hoàng thành đã bị thiêu rụi hoàn toàn trong một trận hỏa hoạn nghiêm trọng.

Gần sáu mươi sinh mạng đã bị thần lửa cướp đi, phần lớn là phụ nữ và trẻ nhỏ.

Cấm quân đã phong tỏa khu vực xảy ra tai nạn suốt gần một tháng để phục vụ điều tra, cũng là chừng ấy thời gian người ta thấy số binh lính canh giữ bên ngoài phủ Lạng Sơn và phủ Tân Bình tăng lên gấp nhiều lần. ''Nội bất xuất, ngoại bất nhập", các Thân vương gần như bị giam lỏng trong tư phủ của chính mình, chờ đợi phán quyết từ Cung thành.

Trong những ngày đó, bên phía Tân Bình Vương, ngoài Nội quan lo việc tiếp thực từ Hoàng cung, người còn lại có thể thường xuyên ra vào phủ là hai vị Thái y mà Hoàng thượng đích thân cử tới. Sau hôm trở về từ yến tiệc Trung thu, nhị Vương gia đã đổ bệnh rất nặng, mê man suốt nhiều ngày liền khiến Hoàng thượng vô cùng lo lắng. Các vị ở Thái y viện đã tận lực chạy chữa, cuối cùng Tân Bình Vương cũng hồi tỉnh nhưng sức khỏe yếu đến nỗi mới chuyện trò dăm ba câu đã thở dốc.

Còn một người nữa khiến các quan Thái y viện phải đau đầu, bất an không kém là Thái phi Ngô Thị Ngọc Dao. Vừa hay tin dữ tư phủ xảy ra việc chẳng lành khiến toàn bộ gia thần chết không còn một ai, Thái phi đau lòng tới suy sụp, chẳng thiết, ăn uống, bỏ cả thuốc thang khiến bệnh tình khó lòng thuyên giảm cho dù Thái y đã dốc lòng dốc sức. Túc trực bên giường bệnh Ngô Thái phi trong những ngày ấy luôn là Bình Nguyên Vương.

Tuy chỉ là sinh mạng của gần sáu chục thường dân và gia thần một phủ nhưng cả Đông Kinh bỗng chìm trong bầu không khí u ám kỳ lạ với vô số lời đồn thổi bủa vây cho rằng đây vốn là âm mưu hành thích tứ Vương qia được che giấu trong một vụ hỏa hoạn.

Giữa lúc tất cả mọi người còn đang hoang mang phỏng đoán, lẫn lộn giữa hư và thực thì một nhân vật quan trọng khác đã có mặt ở Đông Kinh mà không một ai lưu tâm chú ý, đó chính là nguyên Điện tiền đô chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung.

Con người này luận tài năng, luận công trạng đều xuất chúng hơn người, luận xuất thân, gia thế lại càng không đơn giản.

Dòng họ Nguyễn (Gia Miêu) [1] có sơ tổ Nguyễn Bặc là người bạn thời niên thiếu của ngài Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, đã cùng người sát cánh dẹp loạn mười hai sứ quân. Sau khi thống nhất giang sơn, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ngài Nguyễn Bặc được nhà vua phong làm Định Quốc công, khai quốc công thần. Dòng dõi các đời sau đều có nhiều vị làm quan tới chức đại thần trải suốt các triều đại Lý, Trần.

[1] Nguyễn (Gia Miêu): Dòng họ Nguyễn từ ngài Nguyễn Bặc truyền đến đời thứ 10 là ngài Nguyễn Biện, được phong làm Phụ đạo Huệ quốc công đời nhà Trần. Lúc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, ngài Hiện đem gia quyến vào Tây Đô (Thanh Hóa), khai sáng lãng Giíi Miêu Ngoại Trang (tức làng Quý Hương, thuộc Tông Thương Bạn, huyện Tống Sơn). Từ đó về sau con cháu lấy đó làm quê quán (nguyên quán), gọi là họ Nguyễn Gia Miêu (Theo Gia Miêu Bắc Phổ).

Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần rồi để giang sơn rơi vào tay nhà Minh, hậu duệ đời thứ mười hai của dòng họ Nguyễn Gia Miêu là ngài Nguyễn Bá Lân cùng người con trai Nguyễn Khản và cháu trai là các ngài Nguyễn Du, Nguyễn Dạ, Nguyễn Công Duẩn đã tụ nghĩa dưới ngọn cờ kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của Bình Định Vương Lê Lợi. Trải hơn mười năm nếm mật nằm gai, chiến đấu gian khổ, cuối cùng đã có thể quét sạch bóng giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi nước Nam.

Đức Cao Hoàng sau khi lên ngôi đã phong Nguyễn Bá Lân làm Phủ nghị đồng Tam Ty bình chương quốc quân trọng sự, Nguyễn Khản làm Trấn Quốc đại tướng quân, Nguyễn Du làm Tuần kiểm, Nguyễn Dạ làm Dũng quốc công, Nguyễn Công Duẩn làm Trung Dũng đức khai quốc công thần, Phụng trực Đại phu Đô đốc và làm thêm Phụ đạo coi việc dân sáu huyện Thanh Ba. Gia tộc Nguyễn Gia Miêu chưa có lúc nào rỡ ràng hơn thế.

Nguyễn Đức Trung là con trưởng của Khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn, ngài nối chí cha ra làm quan từ thời đức Văn Hoàng [2], từng giữ chức Điện tiền đô chỉ huy, thuộc võ giai chánh tứ phẩm, cầm đầu cấm quân bảo vệ Cung thành và trị an Đông Kinh.

[2] (Lê) Văn Hoàng: Thái Tông hoàng đế, vị vua thứ hai của triều Lê Sơ, vốn là con thứ của thái tổ Lê Lợi, tên húy là Lê Nguyên Long.

Khi Tiên đế đột ngột băng hà, các đại thần đã phò trợ Thái tử chưa tròn hai tuổi lên ngôi, mẫu thân người là Thần phi họ Nguyễn trở thành Hoàng thái hậu, buông rèm nghe chính sự cùng chúng thần bàn bạc việc nước.

Những năm đầu khi Thánh thượng mới đăng cơ là những năm tháng không hề yên ả.

Hoàng thượng còn thơ bé, quyết định mọi việc triều chính là một người đàn bà và đám đại thần râu tóc bạc phơ. Triều cương rối loạn vì các phe phái ngấm ngầm đấu đá. Trong nước, thiên tai, dịch bệnh hoành hành khiến bách tính lầm than, khốn khổ. Bên ngoài, phía Nam là Chiêm Thành, phía Tây là Bồn Man liên tục đem quân quấy nhiễu vùng biên thùy, lại thêm phía Bắc là Minh quốc chưa từng thôi dòm ngó. Cảnh mẹ góa, con côi ngồi chênh vênh trên ngai vàng quyền lực thực dễ khiến kẻ khác nảy sinh tà tâm ác ý. Dù trên triều có là người quyền uy, sắt đá đến đâu thì khi trở về Hậu cung, Thái hậu cũng chỉ là một người đàn bà sức không mang nổi một thanh kiếm sắt. Trong hoàn cảnh ấy, mọi hành vi của những bề tôi kề cận đều có liên quan trực tiếp tới an nguy của người và Hoàng thượng.

Giống như sự việc xảy ra vào đêm Tết Nguyên tiêu [2] năm Thái Hòa nguyên niên, bọn loạn đảng đã lợi dụng việc trong cung tổ chức yến tiệc linh đình cúng sao giải hạn cầu an năm mới để trà trộn giả trang thành đám Nội quan và pháp sư lập mưu hành thích Thái hậu, nếu không nhờ Điện tiền ty Lê Đắc Ninh khi đó mới chỉ là một lính cấm vệ đương phiên trực kịp thời phát giác rồi nhanh chóng trình báo lên cấp trên để Điện tiền đô đương nhiệm Nguyễn Đức Trung có hành động quyết đoán, ra tay nhanh gọn, một mẻ tóm gọn lũ phản nghịch khi chúng chưa kịp động thủ thì Cung thành đã xảy ra biến cố lớn.

[2] Tết Nguyên tiêu: ngày rằm tháng Giêng (15 tháng 1 âm lịch).

Nhưng đáng tiếc rằng chính vào đêm ấy, Điện tiền đô lại mất đi đứa con gái mình hết mực yêu thương bởi tay thần hỏa, mọi sự ban thưởng hậu hĩnh của Thái hậu cũng không thể khỏa lấp được nỗi đau đớn vì mất mát ấy. Một năm sau ngày đó, Nguyễn Đức Trung xin Thái hậu ân chuẩn cho từ quan, đưa vợ con về lộ Lang Giang, yên vị với cuộc sống điền viên không danh phận chức tước trong suốt gần mười năm.

"Đã lâu quá rồi!" — Thái hậu chầm chậm đưa mắt nhìn một lượt từ đầu tới chân con người đang quỳ trước mặt mình hành lễ.

Đám Nội quan và cung nữ vừa trông thấy cái phẩy tay ra hiệu của Thái hậu liền cúi đầu lui ra. Đợi bọn chúng đi khỏi, Thái hậu mới cất giọng ôn tồn nói với người đó:

''Quan tướng mau bình thân!"

Nguyễn Đức Trung khấu đầu thêm lần nữa rồi mới đứng lên, chắp hai tay trước mặt kính cẩn thưa:

"Đội ơn Hoàng thái hậu bệ hạ! Kẻ hèn chỉ là hạng thường nhân, không dám nhận về mình hai chữ "quan tướng"!"

"Khanh ngồi đi!" — Thái hậu phớt lờ câu nói ấy, chỉ tay vào một chiếc ghế trong phòng.

Nguyễn Đức Trung tỏ ra ngần ngại, kể cả trước đây khi còn là quan tứ phẩm triều đình ngài cũng chưa từng ngồi trước mặt Hoàng thái hậu nữa là giờ đây khi chỉ là một dân thường thân phận thấp kém.

"Đừng ngại!" — Thái hậu như đọc ra được ý nghĩ trong đầu ngài, mỉm cười trấn an — ''Cứ coi như chúng ta là cố nhân gặp mặt, ngồi hàn huyên dăm ba câu chuyện về thời gian đã qua!"

"Mạt tướng... Kẻ hèn không dám!"

Thái hậu bật cười, chiếc quạt trong tay phe phẩy mau hơn.

"Xem ra khanh vẫn còn nhiều lưu luyến chốn quan trường hơn bản thân mình vốn tưởng đấy! Thôi được, nếu khanh cảm thấy không thoải mái thì cứ đứng hầu chuyên, ta không nỡ ép!"

"Kẻ hèn xin đội ơn Hoàng thái hậu bệ hạ!"

"Quả là "giang san dễ đổi, bản tính khó dời", suốt mười năm sống cuộc đời thường dân giản tiện mà khanh vẫn còn nguyên tính đa lễ khi xưa!"

"Kẻ hèn xin..."

"Thôi được rồi, những tiếng "đội ơn", "thứ lỗi" hãy bớt nói đi một chút!" — Thái hậu khoát tay — "Lần này cho gọi khanh hồi kinh là vì có một việc không thể truyền đạt qua thư mà phải trực tiếp gặp mới có thể nói rõ ý được!"

Người nói tới đây thì ngưng lại giây lát, chăm chú nhìn về phía ngài như muốn tìm kiếm một sự phản ứng nhưng Nguyễn Đức Trung trước sau chỉ im lặng cúi đầu chờ đợi. Thái hậu mỉm cười nửa miệng, vẻ hài lòng tỏa ra từ ánh mắt, lan khắp gương mặt.

''Ta luôn cho rằng ở khanh, sau trung thành thì kiệm lời chính là đức tính đáng quý nhất! Suy đi tính lại, tuy bên cạnh ta không thiếu thuộc hạ đáng tin cậy nhưng việc đại sự lần này nhất định không thể giao cho ai khác ngoài khanh! Nhưng trước tiên ta cần khanh quay trở lại phục vụ triều đình!"

Nguyễn Đức Trung quỳ sụp xuống, muốn nói điều gì nhưng Thái hậu đã kịp chặn lại:

''Mấy năm qua khanh sống cuộc đời ẩn cư như vậy là đủ rồi! Khi xưa nể tình khanh vì chuyện của lệnh nữ mà thương tâm không ngớt đã chuẩn y cho cáo mọi chức tước đưa gia đình rời xa khỏi Đông Kinh. Nhưng còn nhớ lời ta đã nói, rằng khanh là người của ta, đến một lúc nào đó khi ta và Hoàng thượng cần quan tướng góp sức, khanh nhất định không được chối từ, nay thời điểm ấy đã đến!"

"Kẻ hèn không dám quên!"

"Tốt! Nếu đã không quên thì cũng nên sửa lại cách xưng hô mới phải, ta nghe hai tiếng "kẻ hèn" thốt từ miệng khanh thực chẳng quen tai chút nào! Mau đứng lên đi!"

"Mạt tướng... tuân lệnh!"

"Phải vậy chứ!" — Thái hậu gật gù tỏ vẻ hài lòng, đoạn với tay nâng chén trà lên, thong thả nhấp một ngụm, đôi mắt đưa về xa xăm như đang giữ bao suy nghĩ trong đầu — "Khanh trở về Kinh thành đã hơn nửa tháng, liệu đã nghe về vụ việc đáng tiếc xảy ra ở phủ Bình Nguyên cách đây không lâu?"

"Bẩm, mạt tướng có biết!"

"Vậy chắc cũng biết về việc những kẻ tình nghi bị bắt gần hiện trường vụ việc trong đêm xảy ra tai họa tự nhận là thuộc hạ của Lạng Sơn Vương sau khi bị tống vào ngục thất để chờ thẩm tra thì đã bị hạ độc chết cả, mọi manh mối tới đây đều bị cắt đứt, việc điều tra rơi vào bế tắc?"

Nguyễn Đức Trung im lặng không đáp. Ngài quả là đã nghe về chuyện đó cùng nhiều lời đồn đại khác từ tin tức được truyền miệng trong Kinh thành nhưng không dám tự xét đoán có bao phần thực hư.

"Khanh tỏ ra thận trọng như vậy hẳn là đã biết cả! Lạng Sơn Vương có liên quan gì đến vụ việc này hay không hiện giờ chẳng còn căn cứ nào để xác minh. Người đó lại là bậc Thân vương, không thể tùy tiện bắt bớ thẩm tra, giam lỏng trong tư phủ như hiện giờ cũng đã là quá lắm, e rằng cách này không thể dùng lâu. Nhưng cũng không thể cứ để mặc cho mọi chuyện trôi qua như thế!"

Đức Trung chăm chú lắng nghe, vẻ điềm tĩnh nhẫn nại không bộc lộ thái độ gì rõ rệt khiến cho cuộc đối thoại giữa hai người thi thoảng lại rơi vào những khoảng lặng suy tư của Thái hậu.

"Trộm nghĩ, đại Vương gia nếu thực sự có thể vì việc tranh đoạt ngôi Trữ cung mà chẳng ngại ra tay với em mình thì e là sau này còn dám làm những điều hơn thế. Vì vậy mà ta hết sức lo ngại, cảm thấy tuyệt đối không thể giữ Lạng Sơn Vương ở lại Kinh thành, gần bên Hoàng thượng nhưng nếu đẩy người đó đi xa thì càng cần phải tăng cường chú ý! Hiện giờ, người mà ta có thể tin tưởng giao cho việc bí mật giám sát ấy không có ai thích hợp hơn khanh, Nguyễn Đức Trung!

Ngài nghe tới đó thì sắc mặt thoáng chút đổi khác, nửa kinh ngạc xen lẫn đăm chiêu nhưng rất nhanh lấy lại vẻ điềm đạm, tận tụy.

"Tuyên úy đại sứ lộ Lang Giang vừa qua đời vì bạo bệnh, chức quan đó hiện giờ đang để trống. Theo lý thì có thể cất nhắc Tuyên úy sứ lên thay nhưng nếu để một cựu võ quan của triều đình tiếp quản vị trí ấy cũng sẽ không gây ra thắc mắc gì lớn. Đức Trung khanh vốn là võ giai chánh tứ phẩm, bấy nhiêu năm sinh sống làm ăn ở đó đã có thể coi là dân địa phương. Chuyến này trở về khanh sẽ nhanh chóng nhận được chỉ dụ của Hoàng thượng thăng làm Tuyên úy đại sứ!"

"Có lẽ nào Thái hậu bệ hạ định đưa Lạng Sơn Vương về nơi biên thùy xa xôi hẻo lánh ấy?"

"Đúng vậy!" — Thái hậu gật đầu xác nhận — "Chậm nhất là một tháng sau khi lộ Lang Giang có Tuyên úy đại sứ mới, đại Vương gia sẽ tiếp nhận ý chỉ rời khỏi Kinh thành để tói đó. Không chỉ mình Lạng Sơn Vương mà cả Tân Bình Vương cũng sẽ đi khỏi Đông Kinh tới một nơi yên tĩnh để tiện việc dưỡng bệnh, về phía nhị Vương gia, ta sẽ tự có sắp xếp khác!"

Trong lúc mọi người còn đang lạc lối giữa màn sương mù của những điều ngờ vực, Thái hậu đã đi xong một nước cờ quan trọng.

Kết thúc của việc cạnh tranh ngôi vị Trữ cung, không ai trong số các huynh đệ của Hoàng đế được chọn ngoài người duy nhất có thể ở lại Kinh thành là Bình Nguyên Vương.

Đại Vương gia vướng phải nghi án lớn, nhị Vương gia đổ bệnh trầm trọng, các đại thần tâm phúc luôn theo ủng hộ cũng đành bó tay không có cách gì lật lại tình thế. Xem ra sau tai họa kinh hoàng xảy đến với Bình Nguyên phủ, người được lợi nhất lại chính là tứ Vương gia.

"Vị Vương gia mười hai tuổi, người con cuối cùng của Tiên đế, Hoàng tử duy nhất không được sinh ra trong nhung gấm!" — Những ý nghĩ về Bình Nguyên Vương cứ vương vấn mãi trong đầu Nguyễn Đức Trung kể từ lúc ngài bước chân ra khỏi cửa cung Vĩnh Ninh cho tới tận khi xe ngựa dừng lại trước cửa An Xương quán.

Người đánh xe thắng ngựa, nhanh nhẹn nhảy xuống, vòng ra phía sau vén rèm cho chủ nhân bước ra.

Rèm vừa vén, ngài chợt sững lại trước những gì đang bày ra trước mắt : phu nhân, con trai ngài và cả đứa con gái tưởng như không bao giờ có thể nhìn thấy lại nữa, tất cả đều đang nở nụ cười ấm áp chào đón người cha mới đường xa trở về.

"Không! Đứa trẻ đó không phải là Hằng!" – Ngài nhắm mắt lại, âm thầm nhắc nhở mình.

Nhưng khi đôi mắt vừa mở ra, nụ cười mong manh trên gương mặt ngọt ngào non nớt ấy lại như những hạt muối xát vào vết thương chưa khép miệng khiến Nguyễn Đức Trung bất giác phải gồng mình chống chọi lại cảm giác đau đớn tận tâm can.

"Mọi người ra đây là gì?" Ngài hỏi, né tránh nhìn về phía cô bé "Hôm nay trời nổi gió, mau đưa mẹ các con vào nhà!"

"Vâng, thưa cha!" Công tử Vĩnh lễ phép đáp.

"Vâng, thưa cha!" Liền sau đó là một giọng nói trong như khánh ngọc.

Nguyễn Đức Trung dừng lại một nhịp, đưa mắt về phía ấy, bắt gặp cái nắm tay rất chặt như không muốn buông của phu nhân đối với cô bé. Trên gương mặt thường u ám của bà dường như sắc xuân đang trở lại. Phu nhân nhìn chồng, nhoẻo miệng cười hiền từ, vẻ mãn nguyện dâng đầy nơi đáy mắt. Ngài mỉm cười đáp lại, dẫu có bao suy nghĩ khác đều gượng nén chặt trong lòng, vùi xuống mấy tầng sâu, chìa tay về phía trước, có ý ân cần đón lấy tay vợ từ tay cô bé.

"Vào nhà cả thôi!" Phu nhân nói với mọi người, một tay đưa ra nắm lấy tay chồng, tay kia vẫn giữ chặt năm ngón tay mảnh dẻ của con bé không rời cứ như thể sợ rằng nếu buông ra thực tại viên mãn này sẽ biến mất, đứa con gái mà bà thương nhớ suốt mười năm nay sẽ tan như ảo ảnh. Ví như đây chỉ là một giấc mơ, bà ao ước mình sẽ không bao giờ tỉnh lại, nếu không bà làm sao có thể chịu được việc mất đi con gái lần thứ hai?

Theo như khẩu dụ của Hoàng thái hậu, những ngày gia đình ngài có thể lưu lại Đông Kinh không còn bao nhiêu, cần phải mau chóng trở về Lang Giang trước khi chiếu chỉ của Hoàng thượng ban xuống. Nguyễn Đức Trung đã lệnh cho gia nhân sắp xếp đồ đạc để chuẩn bị lên đường. Điều khiến ngài còn băn khoăn duy nhất chính là đứa trẻ xa lạ mới xuất hiện trong gia đình mà phu nhân luôn quấn quýt, coi như thế thân của ái nữ đã mất cách đây mười năm.

Đứa trẻ chạy thoát từ vụ hỏa hoạn kinh hoàng đêm Trung thu liệu có mấy phần liên quan tới những nghi vấn xung quanh ba vị Vương gia và những gì đã xảy ra đêm ấy? Vì sao cả đám người hùng hổ phải cất công lùng sục khu rừng, xới tung từng ngọn cỏ để bắt lại bằng được chỉ một đứa trẻ non nớt? Và điểm kỳ lạ nhất chính là sau khi con bé tỉnh lại, những điều nó có thể kể ra là chuyện đã xảy ra trong gia đình họ Nguyễn mười năm trước, cứ như thể nó chính là Hằng chứ không phải ai khác. Nhưng làm sao có thể? Hằng đã chết rồi, tự tay ngài đã chôn cất đứa con gái xấu số đáng thương của mình bằng tất cả nỗi thống khổ như cào nát trái tim mà đến nay vẫn còn lưu lại sẹo.

"Thưa cha, cha đang có điều gì bận tâm ư?" — Tiếng công tử Vĩnh cất lên bên tai cắt ngang mạch suy nghĩ của ngài.

Nguyễn Đức Trung ngẩng lên nhìn con, mỉm cười hiền từ:

"Không có gì nhiều! Nhìn mẹ con mỗi ngày lại thêm hồng hào tươi tắn cha tự thấy vui trong lòng!"

Công tử đưa mắt trông theo hướng phụ thân mải nhìn nãy giờ, ra là ngoài hiên nhà, mẫu thân đang thêu áo còn cô bé gối đầu kề bên, cảnh tượng ấy vừa êm đềm, vừa ấm áp,tưởng như quá đỗi thân thuộc vậy mà bao lâu nay trong gia đình này không còn thấy được. Trên môi công tử bất giác nở một nụ cười.

Nguyễn Đức Trung trông vậy liền hỏi con trai:

"Con cảm thấy chuyện này ra sao?"

''Thưa cha, có phải ý cha là về chuyện cô bé ấy đột nhiên xuất hiện trước mắt chúng ta, có gương mặt giống hệt chị gái con năm xưa?"

"Phải, không chỉ gương mặt mà giọng nói, cử chỉ, thói quen đều như khuôn đúc! Cha lo rằng mẹ con sẽ không thể xa rời được đứa trẻ ấy! "

"Xa rời ư, thưa cha?" — Công tử tỏ ra kinh ngạc — "Vì sao?"

"Đến từ đâu phải trả về nơi ấy!" — Ngài đáp, vẻ cương quyết — "Chẳng lẽ con đã quên đứa trẻ này được tìm thấy trong đêm phủ Bình Nguyên bốc cháy? Lai lịch của nó ra sao không ai rõ nhưng đây là chuyện có liên quan tới Hoàng thất và triều đình, chúng ta không thể suy nghĩ đơn giản!"

"Thưa cha, con lại nghĩ một đứa trẻ yếu ớt nhường ấy thì có thể góp phần gì trong sự vụ kinh hoàng liên quan tới những nhân vật quyền thế nhất đất nước này? Con chỉ biết từ khi có cô bé ấy, mẹ của con đã không còn ủ rũ, thuốc không cần uống mà bệnh cũng tự khỏi. Đứa trẻ ấy không là gì khác ngoài thang thuốc chữa tâm bệnh của mẹ con!"

Nguyễn Đức Trung im lặng không đáp, ánh mắt nhìn về xa xăm. Lời của con trai không phải không có ý đúng, ngược lại, đó còn là một nửa suy nghĩ trong ngài, đối lập với phần âu lo ngờ vực kia.

"Thưa cha!"

"Con cứ nói!"

"Đứa trẻ này áng chừng chỉ mười, mười một tuổi, cũng là chừng ấy năm chị gái con không may qua đời. Ngày thường nghe mẹ tụng kinh niệm Phật, giờ lại tận mắt trông thấy điều này, dường như con cũng tin là trên đời này thực sự có chuyện đầu thai chuyển kiếp!"

Công tử nói rồi quỳ sụp xuống chân ngài, dập đầu sát đất.

"Mẹ con trải qua từng ấy năm sống leo lét như ngọn đèn trước gió, yếu đuối đến nỗi cứ như thể chỉ cần thở mạnh một hơi cũng có thể vụt tắt bất cứ lúc nào! Trước khi cô bé xuất hiện, bấy lâu nay con chưa từng trông thấy mẹ tươi cười trở lại. Đứa trẻ đó dù có là ai và đến từ đâu đi chăng nữa trong lòng con đã sớm coi như người chị đã mất của mình!"

Lời của con trai như gõ mạnh vào tâm trí ngài khiến dư âm còn mãi, văng vẳng lúc gần lúc xa. Lại có lúc ông cảm thấy đây có lẽ là định mệnh sắp đặt, dù may mắn hay tai họa cũng đã là số kiếp không thể tránh khỏi.

Nhìn phu nhân cười nói quấn quýt bên đứa trẻ khác hẳn với tâm trạng ủ dột thiểu não nhiều năm nay, Nguyễn Đức Trung càng thêm quyết tâm gạt đi mối âu lo mơ hồ trong lòng. Khuya hôm đó, ngài nói với vợ:

"Hai ngày nữa chúng ta sẽ rời khỏi Đông Kinh trở về Lang Giang!"

Phu nhân nghe chồng nói thì giật mình thảng thốt, liếc nhìn sang đứa trẻ đang gối đầu ngủ yên lành bên cạnh.

"Con cái tất nhiên phải đi cùng cha mẹ!" — Ngài hiểu điều vợ mình lo lắng, liền mỉm cười trấn an.

Đôi mắt bà đầy ắp niềm vui mừng lẫn nhẹ nhõm, phu nhân đáp lại chồng bằng nụ cười ẩn chứa bao cảm kích, rồi đưa tay vuốt nhẹ lên mái đầu xanh mướt của con bé, khe khẽ gọi:

''Hằng, con ngoan!"

''Mọi người mau lên xe thôi!" — Tiếng hô lớn của người đánh xe ngựa bên phía Nguyễn lão gia là hiệu lệnh khởi hành.

Khi tới đây chỉ có hai chiếc xe ngựa và sáu người lớn, tới lúc trở về số xe đã tăng gấp năm lần. Tám chiếc xe chở đầy của cải cùng đám gia nhân mới đến là phần thưởng bí mật ban xuống của Thái hậu, Nguyễn Đức Trung hiểu rằng mình chỉ có thể nhận mà không được phép từ chối.

Trong đám người mới ấy có một bé gái tên Mai cũng trạc tuổi Hằng, mặt mũi sáng sủa, tác phong nhanh nhẹn, tính tình lại xởi lởi, hồn nhiên. Phu nhân cảm thấy rất ưng ý nên đã chỉ định nó làm tì nữ riêng theo hầu nhị tiểu thư.

Hằng và đứa tì nữ ngồi riêng một xe, Nó có vẻ phấn khởi, háo hức khi lần đầu tiên được ở trong một chiếc xe rộng, đẹp đến vậy, cứ liên tục ngó nghiêng, lật lên xem xét hết cái này tới cái khác rồi lại xuýt xoa tán thưởng. Một hồi lâu mới giật mình sực tỉnh, len lén nhìn về phía tiểu thư thăm dò nét mặt như sợ rằng mình đã khiến chủ nhân bực dọc vì hành xử vô phép. Nhưng nhị tiểu thư chẳng mấy để tâm tới nó, chỉ ngồi im nhìn qua khung cửa, ánh mắt xa xăm hướng ra bên ngoài, người khẽ rung rinh theo nhịp của bánh xe.

"Tiểu thư!" — Con bé Mai rụt rè lên tiếng.

"Ừ!" — Hằng đáp, không ngoái đầu lại.

"Cô đang nhìn gì vậy?" — Chịu không nổi, nó tò mò sán lại ngồi bên, ngó qua cửa sổ trông theo hướng Hằng đang nhìn.

Ráng chiều đỏ rực như vệt máu loang loáng cuối chần trời, thi thoảng lại dội lên âm thanh tiếng quạ thê lương, càng khiến không gian thêm não nề, u ám.

Đằng xa là khung cảnh tiêu điều của nơi từng là phủ đệ vị Thân vương được Hoàng thượng sủng ái nhất, bây giờ chỉ còn trơ lại những cột nhà cháy đen nham nhở, những tầng mái đổ nát trên nền gạch kìn kịt tro tàn và bùn đất.

"Đằng ấy là Bình Nguyên phủ, nơi ở cũ của tứ Vương gia và vị Thái phi họ Ngô! Tiểu thư là người ở xa đến chắc không biết cách đây hơn một tháng chỗ ấy đã xảy ra một trận hỏa hoạn vô cùng thảm khốc làm chết gần sáu chục mạng người nhưng may mà hai vị chủ nhân tối đó đều dự yến tiệc trong cung nên không có bề gì nguy hiểm!"

"Vậy sao?" — Hằng hững hờ đáp.

Lại một tiếng quạ vang lên như muốn xé nát không gian. Mùi tang tóc theo cơn mưa giội xuống ngấm vào lòng đất, len lỏi, luồn lách, hòa vào những mạch nước ngầm dưới tận tầng sâu nhất.

"Mưa rồi! Mưa trái mùa!" — Con bé Mai bật kêu lên, thò bàn tay ra cửa sổ hứng lấy những giọt nước mắt của trời.

"Ta chợp mắt một lát!" — Hằng nói, quay người vào trong, ánh mắt thôi không hướng ra bên ngoài.

Mai khẽ "vâng" rồi vội vàng với tay rút cho sợi dây buộc bung ra để rèm cửa hạ xuống.

Chiếc xe vẫn lắc lư đều đặn, tiếng mưa rơi xuống đập vào nóc thùng xe tạo ra âm thanh "lộp bộp". Con bé Mai lắng tai nghe tiếng ếch nhái kêu trong bụi, tiếng mời gọi bạn tình ra rả, râm ran.

"Cơn mưa này chắc sẽ rơi lâu đấy!" — Nó lẩm nhẩm một mình, liếc mắt về phía tiểu thư. Lần đầu tiên nó được đàng hoàng thong thả ngắm nhìn nàng ở vị trí gần như thế.

Ráng chiều đỏ ối len qua khe cửa rọi sáng gương mặt nàng, đôi môi mềm mại, sống mũi thanh cao, hai hàng mày xanh mướt mềm như liễu rủ, đôi mi khép chặt cong như cánh cung. Bất chợt một hạt châu sa rơi ra từ khóe mắt, vẻ xinh đẹp lộng lẫy bỗng nhuốm màu đau thương thê thiết khiến con bé Mai không khỏi kinh ngạc.

"Tiểu thư khóc đấy ư?" — Nó hỏi nhưng không có tiếng ai trả lời, chỉ có âm thanh "lộp độp" của mưa rơi đập trên mái.

Thêm một giọt lạnh buốt rơi ngay má nó, Mai ngẩng lên, phát hiện ra một lỗ hổng nhỏ trên nóc thùng xe. Nó vừa rút khăn trong túi nhét tam vào chỗ thủng, miệng vừa lẩm nhẩm:

"Té ra là nước mưa, không phải nước mắt!"

Đoàn xe cứ thong thả lăn bánh, mỗi lúc một đi xa khỏi An Xương quán, xa Cung thành, xa nơi đổ nát tiêu điều từng một thời là tư phủ vị Thân vương được sủng ái nhất trong số các huynh đệ của Hoàng đế, người được dân chúng trong vùng ca tụng là bậc tài hoa xuất chúng, cốt cách thanh cao hiếm có trên đời.

Đoàn xe dừng lại chốc lát, cũng vừa lúc Hằng tỉnh giấc, nàng mở mắt nhìn đứa nô tì thấy con bé đang vén rèm trông ra bên ngoài.

"Tại sao không đi nữa?"

"Tiểu thư, cô dậy rồi ư?" — Con bé Mai quay lại, nhoẻn cười tươi tắn với nàng — "Đã đến cổng Nam thành rồi, bất cứ ai đi qua lại đều phải dừng để quan binh kiểm tra giấy thông hành! Chúng ta đã ra tới vùng ngoại ô rồi! Từ đây trở đi không còn là Hoàng thành nữa! Ra khỏi đây đi thêm một đoạn ngắn sẽ tới bến thuyền, muốn đi lên phía Bắc phải đổi từ xe ngựa qua thuyền lớn!"

Nàng gật nhẹ đầu, không đáp.

"Ôi chết, em lại nhiều lời rồi! Chẳng nhớ ra tiểu thư vốn là người miền Bắc!"

"Ngươi là người ở đâu tới? Ở đây bao lâu rồi?"

"Thưa, em theo cha mẹ lưu lạc tới đây đã được ba năm, trước kia nhà ở phủ Diễn Châu [3]!"

[3] phủ Diễn Châu: nay thuộc tỉnh Nghệ An.

"Ừm, nghe giọng cũng đoán ngươi là người miền Nam [4]! Ngươi đi theo ta, vậy còn thân phụ mẫu thì sao?"

[4] Miền Nam: thời này, nước ta chưa có lãnh thỗ mở rộng tới tận phía nam như ngày nay, nên vùng Nghệ An được gọi là "miền Nam".

"Thưa..." — Nó ngập ngừng, vẻ xúc động lộ rõ trong giọng nói — "Vừa tới đây được nửa năm thì cha mẹ em cùng nhiễm phải bệnh dịch, bệnh nặng lại không có tiền mua thuốc chữa trị nên đều không qua khỏi!"

Tới lúc này, Hằng mới chăm chú nhìn nó từ đầu tới chân, ánh mắt cảm thông, nhẹ nhàng hỏi:

''Vậy còn mộ phần, ngươi đi thế này, lấy ai chăm sóc mộ phần cho họ?"

"Thưa, vì là mọi dân chết bởi bệnh dịch nên không được chôn cất như bình thường, bị gom chung với những tử thi khác rồi hỏa thiêu tập thể!"

Vẻ kinh hoàng hiện cả trên gương mặt Hằng, lần đầu tiên nàng nghe thấy những điều kinh khủng đến thế.

"Hố thiêu tập thể ấy ngoài những người có chức trách, dân chúng không ai được phép đến gần để tránh lây lan mầm bệnh!" — Con bé Mai tiếp tục — "Đến khi thiêu xong chỉ còn lại tro cốt cũng không được lấy mang về, cho nên cha mẹ em và những người cùng bị hỏa thiêu đều không ai có mộ phần!"

Hằng khẽ thở dài, muốn nói vài câu an ủi nhưng đầu óc trống rỗng chẳng tìm ra được lời nào thích hợp, đành im lặng quay người, vén rèm nhìn ra xa xăm.

Việc xuất trình dường như đã xong xuôi, người đánh xe vút roi quất ngựa, chiếc xe chầm chậm lăn bánh khởi hành. Từ bên trong nhìn ra, Hằng thoáng có cảm giác choáng ngợp trước bức tường thành cao lừng lững uy nghiêm. Cánh cổng bằng gỗ lớn màu nâu trầm không rõ vì mưa nắng hay vốn dĩ là nước sơn nguyên bản dần dần khép lại phía sau.

Đoàn người rời khỏi Đông Kinh, trời mưa vẫn không ngớt, một cơn mưa kéo dài như lời con bé Mai tiên đoán.

''Tiểu thư!" — Nó ngoảnh lại nhìn nàng, rụt rè lên tiếng.

"Ừm?"

''Chúng ta có bao giờ quay trở lại Đông Kinh nữa hay không?"

Hằng không vội đáp, ánh mắt cứ hướng mãi về nơi đoàn xe vừa đi qua. Cho tới khi con bé Mai cũng tưởng nàng chẳng hề để tâm tới điều nó hỏi thì đột nhiên nhận được câu trả lời khẽ khàng tựa tiếng gió thoảng bên tai, mơ hồ như làn sương khói giăng ngang bầu trời chiều tàn úa:

"Chết trong biển lửa, tái sinh cũng từ lửa... Đông Kinh, duyên nợ này sao có thể dễ dàng chặt đứt ở đây?"

Đó là một ngày tháng chín năm Quý Dậu, Thái Hòa năm thứ mười một.

Hai tháng sau, ngày hai mươi mốt tháng mười một, Hoàng thượng bắt đầu đích thân coi chính sự, đổi miếu hiệu, đại xá thiên hạ. Từ tháng giêng năm sau đổi là Diên Ninh nguyên niên.[5]

[5] Trích Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro