thanh tuu du lich viet nam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TỔNG CỤC DU LỊCH

____________

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

_______________

        Hà nội, ngày 30  tháng 11  năm 2005

 

                                                     

BÁO CÁO TÓM TẮT THÀNH TÍCH

45 năm xây dựng và trưởng thành của Ngành Du lịch Việt Nam

(Tài liệu phục vụ Hội nghị Tổng kết và Lễ đón Huân chương Hồ Chí Minh

nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Ngành)

 

I. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, ngành Du lịch luôn được Đảng và Nhà Nước quan tâm ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của Du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu cách mạng.

Giai đoạn đất nước còn tạm thời bị chia cắt, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, từ năm 1960 đến 1975, Du lịch ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, khách Du lịch vào nước ta theo các Nghị định thư. Để thực hiện mục tiêu này, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 26/CP, ngày 09/07/1960, thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương. Quản lý nhà nước về Du lịch thuộc chức năng của Bộ Ngoại thương với một Phòng chuyên trách 4 người; năm 1969 chức năng này chuyển về Phủ Thủ tướng; sau đó chuyển sang Bộ Công an. Trong điều kiện rất khó khăn của chiến tranh và qua nhiều cơ quan quản lý, ngành Du lịch đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi thử thách, từng bước mở rộng nhiều cơ sở Du lịch ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tam Đảo, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An… Ngành Du lịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, phục vụ an toàn, có chất lượng; một lượng lớn khách của Đảng và Nhà nước, các đoàn chuyên gia các nước Xã hội chủ nghĩa anh em vào giúp Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ là xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước; đồng thời đón tiếp phục vụ, đáp ứng nhu cầu du lịch, tham quan nghỉ mát của cán bộ, bộ đội và nhân dân.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giả phóng, đất nước thống nhất, hoạt động Du lịch dần trải rộng ra các miền Tổ quốc. Ngành Du lịch bước vào xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ lao động, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, ngành Du lịch hoạt động trong điều kiện đất nước vừa phải qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài, phải tập trung sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và phá thế bao vây cấm vận của Mỹ; đồng thời lại phải tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc và Tây Nam. Từ năm 1975 đến 1990, hoà vào khí thế chung của đất nước đã được thống nhất, ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ  tiếp quan, bảo toàn và phát triển các cơ sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới từ Huế, Đà Nẵng, Bình Định đến Nha Trang, Lâm Đông, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ… từng bước thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc Tổng cục Du lịch và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Du lịch .

Trong giai đoạn này, ngành Du lịch đã phấn đấu vượt qua những khó khăn, thử thách mới, tổ chức đón tiếp và phục vụ khách du lịch quốc tế từ các nước Xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác trên thế giới đến Việt Nam. Du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu hai miền Nam -  Bắc, thiết thực góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. Thông qua du lịch, thế giới hiểu rõ thêm quan điểm, nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sau chiến tranh muốn là bạn của  tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, góp phần phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Về mặt kinh tế - xã hội, ngành Du lịch đã phát triển thêm một bước, hoạt động có kết quả tốt, đặt nền móng cho ngành Du lịch bước vào giai đoạn mới.

Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước ngành Du lịch đã khởi sắc, vươn lên đôi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất luợng, dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII tháng 10 năm 1994 đã khẳng định “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nuớc”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bước được hình thành, thể chế hoá bằng văn bản quy phạm phát luật, tạo môi trường cho du lịch phát triển, nâng cao hiểu lực quản lý.

Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hoá – Thông tin, rồi vào Bộ Thương mại, tháng 11 năm 1992 Tổng cục Du lịch được thành lập lại, là cơ quan thuộc Chính phủ. Tổng cục Du lịch đã nhanh chóng củng cố, ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, khắc phục khó khăn, vươn lên về mọi mặt để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Trong quá trình cải cách hành chính, đến nay bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch , 2 sở Du lịch – Thương mại, 46 sở Thương mại - Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch .

45 năm hình thành và phát triển, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp phối hợp, giúp đỡ, nhân dân hưởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, công nhân viên toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc chuẩn bị hành trang để vững bước tiến vào thế kỷ 21 với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

 

II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

Trải qua hơn 45  năm phát triển, một quãng thời gian không dài đối với sự nghiệp phát triẻn của một ngành, song cũng có thể thấy được những bứoc chuyển biến mạnh mẽ cả về số lưọng và chất của Du lịch Việt nam, là một trong những ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tinh liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, có tốc độ tăng trưởng khá trong thời gian vừa qua, kể cả trong điều kiện khủng hoảng kinh tế tại Châu Á, thiên tai, dịch bệnh diện rộng, toàn cầu và chiến tranh xung đột cục bộ và khủng bố ở nhiều nơi trên thế hiới những năm gần đây

1. Đổi mới, nâng cao nhận thức quan điểm về du lịch: Toàn Ngành đã chú trọng huy động công sức và trí tuệ nhiên cứu lý luận và khảo nghiệm, tổng kế thực tiễn phát triển du lịch trong nước và quốc tế, hình thành, đề xuất và hoàn chỉnh dần hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển du lịch với Đảng và Nhà nước. Những chủ trưong, chính sách phát triển du lịch và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thể hiện trong các Nghị quyết Đại hôi đảng toàn quốc, trong Chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994, của Ban Bí thư trung ương, Thông báo số 179 TB/TW, ngày 11/11/1998, của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 45/CP, ngày 22/6/1993, của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành Du lịch đã được Ngành quán triệt, triển khai thực hiện đưa nhanh vào cuộc sống. Ngành Du lịch đã phối hộ với các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương và vácc cơ quan thông tin đại chúng tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, các cuộc thi tìm hiểu, tuyên truyền du lịch sâu rộng trong các cấp, các ngành và trong nhân dân.

Ngành Du lịch được Đảng và Nhà nước xác định là “Một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” với mục tiêu: “Phát triển mạnh du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực” Quan điểm đó được kiểm nghiệm trong thực tiễn phát triển du lịch Việt Nam trong suốt nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và đến nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX được nâng lên: “Phát triển nhanh du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội  5 năm 2006 - 2010) xác định: Phát triển du lịch, một ngành kinh tế mũi nhọn”; phấn đấu sau năm 2010, Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch chất lượng… để góp phần tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ. Nhiều tỉnh, thành phố, tỉnh uỷ, thành uỷ đã có kế hoạch và nghị quyết về phát triển du lịch, xác định vai trò, vị trí của du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển du lịch của địa phương mình. Các địa phương trong cả nước đã có sự chuyển biến nhận thức về vai trò, vị trí và hiệu quả của sự phát triển du lịch, đã quan tâm, chú trọng đến phát triển du lịch, coi du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế động lực, một hướng quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác của địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy văn hoá, tăng cường giao lưu với các địa phương trong nước và quốc tế, tạo việc làm cho các tầng lớp dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo và là một phương thức làm giàu ngành và toàn xã hội về vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của du lịch và trách nhiệm phát triển du lịch. Việc nâng cao nhận thức về du lịch và phát triển dulịch đã chuyển hoá thành hành động cụ thể, để huy động ngày càng tăng các nguồn lực khai thác tiềm năng và lợi thế du lịch của đất nước cho sự nghiệp phát triển du lịch nước nhà theo hướng bền vững.

 

2. Bộ máy và năng lực quản lý nhà nước về du lịch, hệ thống kinh doanh du lịch được kiện toàn, hoạt động thích nghi dần với cơ chế mới: Nhìn chung, giai đoạn từ tháng 10 năm 1992 trở về trước, hệ thống tổ chức bộ máy ngành Du lịch chưa thực sự định hình và thiếu tính thống nhất về mô hình tổ chức ở các địa phương. 32 năm (1960 - 1992) đã có 6 lần chuyển đổi tổ chức bộ máy ngành Du lịch. Vì vậy sự chỉ đạo trực tiếp của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương xuống các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp mất tính liên tục và kế thừa dẫn đến quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp lỏng lẻo, hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch, hiệu quả kinh doanh không cao và ngành Du lịch tụt hậu so với du lịch các nước có điều kiện tương đồng. Tổ chức bộ máy chưa ngang tầm với vị trí, vai trò yêu cầu phát triển của ngành Du lịch; cán bộ phân tán, mất đi tính thừa kế.

Trước tình trạng đó, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, ngày 17/10/1992, Chính phủ đã có Nghị đinh số 05/CP thành lập lại Tổng cục Du lịch; tiếp đó có Nghị định số 20-CP, ngày 27/12/1992 và Nghị định số 53-CP, ngày 07/8/1995, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Theo đó Tổng cục Du lịch có 5 vụ, Thanh tra, Văn phòng Tổng cục Du lịch; 4  đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp trực thuộc. Nhờ ổn định và từng bước được kiện toàn về tổ chức, du lịch nước ta mới khởi sắc và phát triển.

Ngày 18/9/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2003NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch . Theo Nghị định này, Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn lý nhà nước về du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong du lịch; và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu  phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp trực thuộc. Từ chức năng đó, Tổng cục Du lịch có 20 nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức gồm 6 Vụ, Thanh tra, Cục Xúc tiến, Văn phòng Tổng cục, 8 đơn vị sự nghiệp và 15 doanh nghiệp trực thuộc.

Cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về Du lịch từ năm 1993 đến nay đã từng bước được quan tâm thành lập, củng cố và phát triển. Trước tiên là việc thành lập 14 Sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố là trung tâm Du lịch và nơi có nhiều tiềm năng du lịch; các tỉnh khác thành lập phòng Du lịch nằm trong cơ sở Thương mại – Du lịch. Một số địa phương ở cấp quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh đã thành lập phòng quản lý Du lịch hoặc giao chức năng quản lý Du lịch cho phòng kinh tế.

Đến nay bộ máy quản lý nhà nuớc về Du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch, 2 sở Du lịch-Thương mại, 46 sở Thương mại-Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch, hình thành một hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về Du lịch từ Trung ương đến địa phương, đang vươn lên thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Du lịch trên phạm vi cả nước và từng địa phương, hoàn thành nhiệm vụ như vai trò của một Bộ.

Các cơ chế chính sách phát triển Du lịch được bổ sung, tạo môi trường cho du lịch phát triển. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; quy hoạch các vùng Du lịch và các trọng điểm Du lịch đã được xây dựng; trên 50 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và một số điểm Du lịch, khu Du lịch đã có quy hoạch Du lịch, tạo điều kiện để đẩy mạnh quản lý du lịch và xây dựng các dự án đầu tư. Hàng trăm dự án quy hoạch chi tiết du lịch và hàng chục dự án quy hoạch Du lịch khách đang được khẩn trương thực hiện, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần quản lý, khai thác tài nguyên Du lịch ngày một hiệu quản. Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7/2002. Chương trình hành động quốc gia về Du lịch được phê duyệt thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn 2001-2005 và Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2006-2010 đang trình Chính phủ phê duyệt.

Chính sách, thể chế tạo nền tảng thúc đẩy Du lịch phát triển đã được hình thành và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát triển Du lịch thế giới và trong nước. Pháp lệnh Du lịch ra đời năm 1999 là khung pháp lý cao nhất, là bước ngoặt quan trọng khẳng định vai trò của Ngành và thể chế hoá đường lối phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; tạo điều kiện cho hoạt động Du lịch phát triển đi vào nề nếp và có định hướng mục tiêu rõ ràng. Các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Du lịch về các lĩnh vực quản lý chi nhánh, văn phòng đại diện Du lịch ở trong và ngoài nước; lữ hành, hướng dẫn du lịch; lưu trú; thanh tra Du lịch; xử phạt hành chính; quản lý môi trường Du lịch…đã được ban hành và thực hiện có hiệu quả. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Du lịch để điều chỉnh các quan hệ Du lịch ở tầm cao hơn; khẳng định một lần nữa vị thế của ngành Du lịch ngay từ trong đường lối, chính sách và thể chế. 5 Nghị định và 1 Quyết định hướng dẫn Luật Du lịch đang được khẩn trương dự thảo và trình Chính phủ, Thủ  tướng Chính phủ ban hành, sẽ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch.

Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Du lịch như Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, di lại cho người Việt Nam; cho người nước ngoài và các văn bản liên quan khác được bổ sung; thủ tục nhập, xuất cảnh, cư trú, đi lại, hải quan liên tục được cải tiến thuận tiện hơn cho khách cho khách và các nhà đầu tư. Việc áp dụng miễn thị thực song phương cho công dân một số nước, miễn thị thực đơn phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc và 4 nước Bắc Âu và đang triển khai miễn thị thực cho một số nước khác là giải pháp chủ động, tích cực và khá mạnh bạo trong bối cảnh an ninh hiện nay để thu hút du khách vào nước ta tăng nhanh.

Lực lượng kinh doanh du lịch phát triển mạnh, thích nghi dần cơ chế mới, từng bước làm ăn có hiệu quả: Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của cả 6 thành phần kinh tế (nhà nuớc; tập thể; cá thể, tiểu chủ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước; 100% vốn nước ngoài). Trước Đại hội Đảng lần thứ IX, trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành chỉ có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được phép hoạt động, nay mở rộng cho cả doanh nghiệp tư nhân. Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 6.000 cơ sở kinh doanh lưu trú; 399 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 203 doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, 124 doanh nghiệp nhà nước, 63 doanh nghiệp cổ phần, 8 liên doanh và 2 doanh nghiệp tư nhân. Các địa phương có số doanh nghiệp lữ hành quốc tế nhiều nhất là Hà Nội (148 DN), Thành phố Hồ Chí Minh (144), Quảng Ninh (17), Đà Nẵng (14) và Hải Phòng (8); hơn 10 nghìn doanh nghiệp lữ hành nội địa. Số lượng cơ sở kinh doanh vận chuyển du lịch (tư nhân, cổ phần và hợp tác xã chiếm tỷ trọng lớn) chưa có số liệu thống kê, nhưng xu hướng phát triển rất mạnh. Ngoài ra còn có khoảng hàng nghìn hộ tư nhân kinh doanh du lịch hoạt động ở hầu hết các địa phương cả nước.

Việc sắp xếp, đôi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Du lịch nhà nước được địa phương và Tổng cục Du lịch quan tâm. Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã có chị thị, nghị quyết và đề án sắp xếp doanh nghiệp Du lịch nhà nước. Tổng công ty Du lịch Sài Gòn (Saigon Tourist), Tổng công ty Bến Thành và một số công ty du lịch đã phát huy vai trò chủ đạo trong hoạt động lữ hành, quảng bá, phát triển thị trường, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Du lịch. Hà Nội đã thành lập Công ty mẹ - Công ty con trong du lịch. Đề án sắp xếp lại doanh nghiệp trực thuộc Tổng cục Du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đang tổ chức triển khai trong năm 2003 – 2005, theo hướng để lại 4 doanh nghiệp mạnh ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu; hình thành “Công ty mẹ - Công ty con” trên cơ sở 8 công ty; cổ phần hoá các công ty hiện có. Cả nước đã cổ phần hoá được trên 100 doanh nghiệp, nhìn chung sau khi cổ phần hoá hoạt động hiệu quả hơn, trước mắt đời sống người lao động được nâng lên.

3. Huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất luợng và đa dạng hoá sản phẩm Du lịch: Toàn Ngành và các địa phương, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. 5 năm vừa qua, Chính phủ đã cấp 2.146 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khu du lịch trọng điểm. Đã phối hợp với các ngành và địa phương chỉ đạo phát triển các trọng điểm du lịch, các vùng du lịch mà Nghị quyết Đại hội Đàng lần thứ IX đã xác định; khai thác và phát  huy lợi thế về hạ tầng và điều kiện kinh tế - xã hội của các khu kinh tế mở và vùng kinh tế trọng điểm để phát triển du lịch; gắn kết hoạt động du lịch với hoạt động của các khu kinh tế mở, các vùng kinh tế trọng điểm.

 

Bảng 1. Vốn ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch

Năm

2001

2002

2003

2004

20051

Tổng số

Lượng vốn (tỷ đồng)

266

380

450

500

550

2.146

Số dự án

23

73

167

122

-

3852

(1) Năm 2005 vốn đầu tư hạ tầng du lịch được ghi cho 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, không ghi cho dự án

(2) Không tính năm 2005

Nguồn: Tổng cục Du lịch

 

Vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách nhà nước đã khuyến khích các địa phương, các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn tỷ đồng đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Cùng với đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, ngành Du lịch đã thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến nay cả nước có 190 dự án với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 4,64 tỷ USD, ở 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Khánh Hoà.

 

Bảng 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời kỳ 1995 – 2004

Năm

1995

2000

2001

2002

2003

2004

Thời kỳ

1995- 2004

Số dự án

24

02

04

25

13

15

83

Vốn (Triệu USD)

1.381,23

22,8

10,3

174,2

239

111,17

1.938,67

(3) Tính đến năm 1995

Nguồn: Tổng cục Du lịch

 

Việc tăng cường mở rộng hợp tác, thu hút vốn đầu tư, tài trợ củ quốc tế đã đạt được những thành quả đáng kích lệ. Đặc biệt ngành Du lịch đã tranh thủ được nhiều tổ chức quốc tế các chính phủ và tổ chức phi chính phủ tài trợ cho phát triển du lịch như về các lĩnh vực quy hoạch phát triển du lịch, phát triển nguồn nhân lực, du lịch, cải cách hành chính, xây dựng văn bản quy phạm phát luật du lich. Tổng cục Du lịch cũng đã chỉ đạo toàn Ngành tích cực tìm kiếm, khai thác nguồn đầu tư quốc tế. Nhiều Hội nghị xúc tiến đầu tư của các địa phương được tổ chức ở trong và ngoài ngước đã dành ưu tiên đặc biệt cho kêu gọi đầu tư phát triển du lịch.

Cùng với dự án phát triển nguồn nhân lực do Luxenbourg với số vốn trên 10 triệu Euro và dự án EU tài trợ với số vốn khoảng 12 triệu EURO, Tổng cục Du lịch đã tiếp nhận và điều hành dự án “Phát triển du lịch Mekong” do ADB tài trợ, với khoản kinh phí 12,2 triệu USD (có 8,47 triệu USD vốn vay ưu đãi) tập trung chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạn tầng du lịch tại đồng bằng sông Cửu Long. Từ năm 1998 đến 2004 đã có 190 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực du lịch với tổng số vốn là 4.635.357.029 USD, nâng tổng số dự án tới nay là 239 dự án với tổng số vốn là 6,112 tỷ USD.

Đầu tư ra nước ngoài, tuy còn mới đối với Du lịch Việt Nam, song bước đầu cũng được thực hiện với chủ trương dựa vào lợi thế so sánh trong khai thác giá trị văn hoá, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ… Các dự án đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, với các hình thức kinh doanh ăn uống tại một số nước láng giềng và các nước Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Tuy các dự án đầu tư ra nước ngoài chưa nhiều (5 dự án), quy mô nhỏ, nhưng đây là hướng đi đúng, đạt hiệu quả và phù hợp với xu hướng chung của hội nhập kinh tế thế giới.

Trong thời gian hơn 10 năm qua, cả nước đã nâng cấp, xây mới 50.000 phòng khách sạn (tăng gấp trên 2 lần của hơn 30 năm trước). Đến nay, cả nước có khoảng 6.000 cơ sở lưu trú, với 130.00 buồng trong đó 2.575 cơ sở được xếp hạng tự đạt tiêu chuẩn đến 5 sao với tổng số 72.458 buồng (18 Khách sạn 5 sao với 5.251 buồng; 48 khách sạn 4 sao với 5.797 buồng; 119 Khách sạn 3 sao với 8.724 buồng; 449 Khách sạn 2 sao với 18.447 buồng; 434 Kháh sạn 1 sao với 10.757 buồng và 923 Khách sạn đạt tiêu chuẩn tối thiểu với 23.482 buồng).

Phương tiện vận chuyển khách du lịch phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường sắt, đường thuỷ và dần được hiện đại hoá. Một số khu du lịch nghỉ dưỡng, sân golff, công viên chủ đề và cơ sở giải trí được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và nhân dân.

Năng lực vận chuyển khách du lịch tăng, chất lượng được nâng lên. Phương tiện vận chuyển khách du lịch chuyên ngành với hàng nghìn xe ô tô, tàu thuyền các loại, chất lượng phương tiện được tăng cường đổi mới thường xuyên; nhiều đội xe taxi ở các điểm du lịch được thành lập, đáp ứng phục vụ kịp thời nhu cầu đi lại của khách du lịch; nhiều tuyến du lịch đường biển, đường sông như Hải Phòng - Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ…đã sử dụng tàu cao tốc với trang thiết bị hiện đại.

Với cơ sở vật chất kỹ thuật như hiện nay, ngành Du lịch nước ta đã đảm bảo phục vụ hàng chục triệu lượt khách quốc tế và nội địa, tổ chức được các sự kiện, hội nghị quốc tế lớn.

Toàn ngành đã chú trọng xây dựng phát triển nhiều loại hình du lịch, các tuyến du lịch mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở cả miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo. Hình thành các loại hình du lịch mới, đặc thù như đi bộ, leo núi, lặn biển, hang động… du lịch đường bộ xuyên Việt bằng xe đạp, mô tô, ô tô du lịch đồng quên, du lịch trở về cội nguồn, du lịch sinh thái, du lịch hang động, du lịch sông nước, lặn biển, du lịch giải trí thể thao. Chú trọng khai thác giá trị nhân văn giầu bản sắc văn hóa dân tộc, tổ chức nhiều hội thi nấu ăn dân tộc, thi hướng dẫn viên du lịch để tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn, được du khách ưa chuộng. Mỗi năm đều có chủ đề về du lịch, bám vào các sự kiện lớn của đất nước, các lễ hội để tổ chức các hoạt động du lịch với nhiều sự kiện du lịch độc đáo, hấp dẫn. Những sản phẩm du lịch mới được nghiên cứu xây dựng có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.

4. Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được tăng cường:

Những năm qua, Ngành Du lịch đã chú trọng xúc tiến quảng bá du lịch ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Công tác xúc tiến quảng bá được chú trọng hơn: Đã thành lập Cục Xúc tiến Du lịch; đã có chương trình xúc tiến cho thời gian 5 năm; tính chuyên nghiệp được nâng dần; chất lượng tổ chức các sự kiện tốt hơn. Tổng cục Du lịch đã chủ động phối hợp với Hàng không Việt Nam, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Văn hóa – Thông tin, các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh truyền hình, tổ chức nhiều sự kiện xúc tiến du lịch ở nước ngoài: Hàng năm tham gia Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) tổ chức ở các nước trong khu vực ASEAN; các hội chợ Báo Nhân đạo, Top Resa tại Pháp, ITB tại Đức; các hội chợ du lịch tại Malaysia, Thái Lan; Hội chợ JATA tại Nhật Bản, WTM tại Anh; Tuần Việt Nam tại Nhật Bản; các buổi giới thiệu du lịch Việt Nam tại các nước Thuỵ Điển, Đức, Anh, Pháp, Mỹ, Singapore, Thái Lan và Úc. Triển khai các Chương trình Roadshow giới thiệu điểm đến du lịch Việt nam tại các thị trường Đức, Pháp, Anh, Nhật Bản, Bắc Âu, Hồng Kông, Thái Lan, Úc…

Các đơn vị trong ngành Du lịch đã tích cực tham gia nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế để quảng bá thu hút khách du lịch và vốn đầu tư. Tổng cục Du lịch đã liên tục xuất bản sách hướng dẫn, sản xuất băng video và đĩa CD-ROM giới thiệu về Đất nước, Con người và Du lịch Việt Nam đến các nước trên thế giới. Các thông tin được cập nhật trên Internet ngày càng nhiều, bám sát tình hình hoạt động thời sự của các đơn vị trong Ngành và đáp ứng nhu cầu của các đối tượng trong lĩnh vực du lịch và những lĩnh vực liên quan. Số người truy cập những website ngày càng nhiều, chỉ riêng website vietnamtourism.com đã có gần 9 triệu lượt người truy cập, góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch, thu hút khách du lịch đến Việt Nam.

Tăng cường thông tin đối ngoại, thông tin du lịch trên phương tiện thông tin đại chúng trong nước như phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, các báo lớn và ở nước ngoài như CNN, Canal+, NHK… nhằm thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế, 13 doanh nghiệp lữ hành quốc tế của ngành Du lịch đã đặt 23 văn phòng đại diện ở 12 nước trên thế giới.

Đầu tư cho tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch thông qua Chương trình hành động quốc gia về du lịch được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã đầu tư ngân sách cho Chương trình hành động quốc gia về du lịch với tổng số 112 tỷ đồng. Các doanh nghiệp du lịch và hàng không Việt Nam, các doanh nghiệp và cơ quan ngoại giao, thông tấn báo chí, các cơ quan tuyên truyền đối ngoại đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho tuyên truyền quảng bá đất nước, con người và sản phẩm Việt Nam và quảng cáo sản phẩm của bản thân doanh nghiệp ra nước ngoài. Ngoài ra còn phải kể đến việc huy động các tổ chức quốc tế, các hãng du lịch, hàng không nước ngoài đưa khách vào Việt Nam đầu tư hàng chục triệu USD cho tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt Nam.

Kết quả của việc đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ở cả trong và ngoài nước thành những chiến dịch xúc tiến mạnh mẽ và thường xuyên hơn đã góp phần đưa Du lịch Việt Nam vượt qua khủng hoảng, khó khăn, đồng thời quảng bá được hình ảnh Du lịch Việt Nam giàu tiềm năng, mở rộng được thị trường và mở ra triển vọng phát triển mới, góp phần đẩy mạnh thông tin đối ngoại của đất nước.

5. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch:

Trong sự nghiệp đổi mới phát triển du lịch thời gian vừa qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được chú trọng và đạt được những tiến bọ đáng ghi nhận: Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã có những cố gắng trong hình thành đội ngũ cán bộ, quản lý, tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường kiểm tra chuyên ngành và liên ngành đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; quy mô tuyển sinh ngày càng tăng, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế; mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng (với khoảng gần 40 trường), trunghọc chuyên nghiệp, dạy nghề (trên 30 trường) và nhiều trung tâm dạy nghề được hình thành và phát triển nhanh, đang được định hướng, quy hoạch và điều chỉnh hợp lý; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch được nâng cấp, xây dựng mới, trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại; đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên, nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch, tăng nhanh về số lượng, nâng dần về kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ và có trách nhiệm với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng, từng bước được chuẩn hóa; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên một bước, lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đã được hình thành; nguồn lực trong nước đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được tăng cường; nguồn lực bên ngoài được thu hút ngày một tăng, đến nay đã thu hút được trên 30 triệu USD cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch và sử dụng ngày một hiệu quả, thông qua hợp tác quốc tế về đạo tạo đã hỗ trợ đáng kể về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ phục vụ đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân lực du lịch.

Những tiến bộ và cố gắng nêu trên của công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đội ngũ lao động của Ngành. Năm 1990 toàn Ngành mới có hơn 17.000 lao động trực tiếp, đến nay đã có trên 23 vạn lao động trực tiếp (tăng gần 10 lần so với 30 năm trước, phần đông từ các ngành khác chuyển sang) và trên 50 vạn lao động gián tiếp, chiếm 2,5% lao động toàn quốc, phần lớn là ở độ tuổi dưới 30 (60%); phân bổ trên phạm vi cả nước (miền Bắc 40%, miền Trung 10%, miền Nam 50%). Lao động quản lý chiếm tỷ trọng khá cao (25%); lao động phục vụ trực tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu chiếm 75%, trong đó lễ tân là 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ ăn uống (bàn, bar) là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%, nhân viên lữ hành và hướng dẫn viên là 4,9%, nhân viên lái xe, tàu du lịch là 10,6% và 36,5% còn lại là các lao động làm các nghề khác. Đã có 56,86 lao động được đào tạo (0,21% cán bộ đạt trình độ sau đại học; 12,75% đại học và cao đẳng; 25,8% trung cấp và 18,1% sơ cấp (nghề). Có 32% lao động phục vụ trực tiếp biết tiếng Anh; 3,2% biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau; các ngoại ngữ khác cũng đã được quan tâm đào tạo, nhưng số lượng người thông thạo không nhiều. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức ngành Du lịch mặc dù với biên chế rất hạn hẹp (Cơ quan Tổng cục Du lịch hiện có 135 biên chế; các Sở Du lịch khoảng 15 biên chế; Sở Du lịch-Thương mại và sở Thương mại-Du lịch biên chế khoảng 3-5 người), đã nỗ lực vượt bậc, hoàn thành được chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở cả tầm chiến lược và tác nghiệp cụ thể. Chủ trương xã hội hóa trong đào tạo du lịch, có sự kết hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp, người học để xây dựng đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất và trách nhiệm, đổi mới công nghệ, tăng cường quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.

6. Sự phối hợp liên ngành và địa phương có nhiều tiến bộ:

Sau khi Bộ Chính trị có Kết luận 179-CT/TW về phát triển du lịch trong tình hình mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX trong lĩnh vực du lịch, chủ trương phát triển du lịch được quán triệt sâu rộng trong cả nước; cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn dần được làm rõ; các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tổng cục Du lịch phối hợp với các bộ, ngành trung ương, tăng cường làm việc với cấp uỷ và chính quyền địa phương các cấp để quán triệt và thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy tỉnh uỷ, thành uỷ nhiều địa phương đã có nghị quyết hoặc chỉ thị về phát triển du lịch; các địa phương đã tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch.

Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch được thành lập, do Phó Thủ tướng làm Trưởng ban, các thành viên là đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan trực tiếp đến du lịch. Ở địa phương, đã có 51 tỉnh, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo phát triển du lịch của địa phương. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đi vào cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức và hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và toàn xã hội, huy động được nhiều nguồn lực cho sự nghiệp phát triển du lịch. Các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng quy hoạch phát triển du lịch địa phương mình. Chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình hành động quốc gia về du lịch trong 5 năm qua đạt hiệu quả, làm cho hoạt động du lịch sôi động cả trong và ngoài nước. Các tiềm năng, thế mạnh về du lịch của đất nước đã được khai thác tốt hơn để đa dạng hóa và nâng dần chất lượng sản phẩm, tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh. Đã phối hợp liên ngành và địa phương khôi phục và tổ chức thành công hàng chục lễ hội truyền thống, tạo sự chú ý của công chúng và du khách trong và ngoài nước, từng bước khai thác thế mạnh văn hóa, lịch sử và sinh thái của đất nước để phát triển du lịch.

Cùng với việc chú trọng đẩy mạnh phối hợp liên ngành và thực hiện xã hội hóa hoạt động du lịch, 5 năm gần đây Tổng cục Du lịch đã chú trọng phối hợp các địa phương để nâng cao tính liên ngành của hoạt động du lịch. Nét nổi bật trong quản lý nhà nước về du lịch mấy năm gần đây là sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ của các địa phương, các ngành trong hoạt động du lịch bằng việc ký kết các thỏa thuận hợp tác để đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch theo các tuyến liên vùng; phối hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ du lịch. Trên cơ sở các văn bản thỏa thuận hợp tác, Lãnh đạo địa phương chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp triển khai các chương trình hợp tác với đối tác trong địa phương kết nghĩa. Các Sở quản lý du lịch đã hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị thực hiện các dự án xây dựng sản phẩm du lịch, liên doanh, lập dự án đầu tư nhằm tăng cường mối liên kết, mở rộng phạm vi các chương trình, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Du lịch Hà Nội đã phát huy lợi thế là trung tâm du lịch đầu tầu của Du lịch cả nước làm tốt công tác hợp tác và là hạt nhân liên kết trong quản lý phát triển du lịch: Sở Du lịch Hà Nội đã có văn bản thỏa thuận hợp tác với 10 Sở; Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận hợp tác với 8 Sở; phối hợp chặt chẽ với các Sở tại địa phương liên quan triển khai có kết quả các nội dung thỏa thuận hợp tác. Các liên kết khu vực giữa các địa phương được hình thành dưới nhiều hình thức như: Chương trình hợp tác du lịch Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai; Chương trình du lịch “Theo dấu chân Bác Hồ” của Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; Chương trình “Con đường Di sản miền Trung” của các Sở quản lý nhà nước về du lịch miền Trung; Chương trình phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long;… Các sự kiện du lịch được tổ chức tại một địa phương đã được các địa phương khác hưởng ứng và tham gia tích cực nên đã tạo ra chuỗi sự kiện đều khắp cả nước, thể hiện rõ tính liên vùng. Hoạt động kinh doanh du lịch nhờ thế có điều kiện thuận lợi để phát triển, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập của du lịch mỗi địa phương và cả nước.

7. Công tác hợp tác quốc tế được mở rộng, khai thác tốt tiềm lực bên ngoài:

Với nỗ lực mở rộng hợp tác quốc tế, Du lịch Việt Nam đã ký và thực hiện tốt 26 hiệp định hợp tác du lịch song phương với các nước là thị trường du lịch trọng điểm và trung tâm giao lưu quốc tế, tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác. Ký Hiệp định hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; thiết lập và tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác; tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch Tiểu vùng Mêkông mở rộng, hợp tác hành lang Đông-Tây, hợp tác sông Mêkông-sông Hằng, hợp tác ASEAN, APEC, ASEM, hợp tác trong Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA), trong Tổ chức Du lịch thế giới (WTO)…; có quan hệ bạn hàng với 1.000 hãng của 60 nước và vùng lãnh thổ.

Nhờ thế đã tranh thủ được vốn, kinh nghiệm, công nghệ, nguồn khách, đẩy mạnh xúc tiến du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động gắn kết hoạt động du lịch Việt Nam với du lịch khu vực và thế giới. Một số chính phủ và tổ chức quốc tế như Luxembourg, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Hà Lan, Cu Ba, cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp, EU, WTO… cam kết và viện trợ không hoàn lại gần 40 triệu USD về đào tạo nhân lực và hỗ trợ kỹ thuật cho Du lịch Việt Nam; thu hút 6,112 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào 239 dự án (chiếm 20% tổng số vốn FDI cả nước – không tính số dự án đầu tư vào văn phòng và căn hộ cho thuê). Ngành Du lịch đã thực hiện chủ trương dựa vào lợi thế so sánh (như văn hóa, ẩm thực, nguyên liệu, lao động…) đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nước láng giềng, Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ.

Kết quả hoạt động hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế đa phương và song phương trong du lịch; việc đón tiếp gần 3 triệu khách du lịch quốc tế mỗi năm và đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ra nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền về đất nước, con người và du lịch Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, tăng cường ngoại giao nhân dân, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước.

8. Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng lớn và toàn diện:

Về khách du lịch: Lượng khách năm 1994 đạt một triệu, đã về trước kế hoạch 1 năm và vượt dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới 6 năm. Từ 1990 đến nay lượng khách du lịch luôn duy trì được mức tăng trưởng cao 2 con số (trung bình năm trên 20%). Khách du lịch quốc tế tăng 11 lần từ 250.000 lượt (năm 1990) lên xấp xỉ 3 triệu lượt (năm 2004). Khách du lịch nội địa tăng 14,5 lần, từ 1 triệu lượt (năm 1990) lên 14,5 triệu lượt (năm 2004). Số lượng người Việt Nam đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng, hàng năm trên 1 vạn người.

 

Bảng 3: Số lượng khách du lịch hàng năm

Chỉ tiêu

1990

1995

2000

2001

2002

20034

2004

Khách quốc tế

(triệu lượt)

0,25

1,35

2,14

2,33

2,62

2,43

2,93

Khách nội địa

(triệu lượt)

1,0

6,9

11,2

11,7

13,0

13,5

14,5

(4) Năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS nên các chỉ tiêu du lịch giảm so với năm 2002. Năm 2004 chỉ tiêu tăng trưởng du lịch đã phục hồi và vượt mức trước SARS

Nguồn: Tổng cục Thống kê

 

Về thu nhập xã hội từ Du lịch: Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004, con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp 20 lần.

Riêng năm 2005, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, song hoạt động du lịch vẫn diễn ra sôi động, Ước tính năm 2005, ngành Du lịch đón được khoảng 3,43 triệu lượt khách quốc tế, vượt chỉ tiêu kế hoạch 7% và tăng 17% so với năm 2004; Khách du lịch nội địa đạt trên 16 triệu lượt người, vượt chỉ tiêu 7% và tăng 11% so với kế hoạch năm 2004. Thu nhập du lịch sẽ đạt 30 ngàn tỷ đồng, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch ngày càng rõ nét, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho xã hội: Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành Du lịch trong khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt như Sa Pa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Huế (Thừa Thiên-Huế), Hội An (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hòa), Mũi Né (Phan Thiết), Bình Châu (Xuyên Mộc – Bà Rịa Vũng Tàu), một số địa phương đồng bằng sông Cửu Long…); tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục nhiều lễ hội và nghề thủ công truyền thống; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài. Ước hiện nay, hoạt động du lịch đã tạo ra việc làm cho trên 234.000 lao động trực tiếp và khoảng 510.000 lao động gián tiếp cho nhiều tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh niên mới lập nghiệp và phụ nữ.

Du lịch đã thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, mở rộng giao lưu văn hoá và nâng cao dân trí, phát triển nhân tố con người, đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội: Hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích, di sản và nâng cao ý thức, trách nhiệm giữ gìn, phát triển di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; khôi phục lễ hội, làng nghề truyền thống, truyền tải giá trị văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế... tạo thêm sức hấp dẫn thu hút khách du lịch. Thông qua du lịch các ngành kinh tế xã hội khác phát triển; mở thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho các ngành khác, thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông, xây dựng, viễn thông, văn hoá nhờ phát triển du lịch mà những năm qua đã có thêm động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế - xã hội được cải thiện và nâng lên trình độ cao hơn. Điểm mấu chốt là thông qua du lịch đã kích cầu có hiệu quả cho các ngành kinh tế khác phát triển. Hoạt động du lịch phát triển đã kéo theo sự mở rộng giao lưu kinh tế văn hoá giữa các vùng, miền và với quốc tế, góp phần giáo dục truyền thống, đào tạo kiến thức và rèn luyện, bồi dưỡng thể chất, tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư.

Trong quá trình phát triển du lịch, nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại được đặc biệt coi trọng. Từ các chủ trương đến các công việc điều hành cụ thể hoạt động du lịch liên quan đến an ninh, quốc phòng đều có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Trong chỉ đạo phát triển du lịch, nhất là phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tổ chức các tour du lịch..., vấn đề an ninh quốc gia luôn được nhấn mạnh. Cán bộ công nhân viên chức và người lao động ngành du lịch, đặc biệt là các cán bộ quản lý những người tiếp xúc trực tiếp với khách và cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch, hội nhập kinh tế quốc tế đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh, quốc phòng và có ý thức bảo vệ Tổ quốc, nêu cao tinh thần cảnh giác. Hoạt động du lịch trong thời gian qua rất sôi động, nhưng cơ bản vẫn giữ được an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm xây dựng lực lượng tự vệ, chấp hành tốt qui định về sĩ quan dự bị, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Việc phát triển du lịch ở các vùng biên giới, hải đảo đã góp phần rất tích cực khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển và đất liền.

9. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát triển du lịch:

Các quan điểm, chủ trương và nhiệm vụ trong các nghị quyết của Đảng, gần đây là nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, nói chung và nội dung chỉ đạo phát triển du lịch nói riêng, được quán triệt sâu rộng trong cả nước; các bộ, ngành và địa phương tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng tạo động lực mới để phát triển du lịch, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước; 51 tỉnh, thành phố đã lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch; 14 bộ, ngành có kế hoạch triển khai; nhiều tỉnh uỷ có nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo công tác du lịch địa phương. Nhờ vậy, chủ trương phát triển du lịch trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đi vào cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức và hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và toàn xã hội, huy động nhiều nguồn lực cho sự nghiệp phát triển du lịch.

Ban Cán sự Đảng Tổng cục Du lịch luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, phối hợp với thành uỷ, tỉnh uỷ trong kiện toàn cán bộ chủ chốt các Sở quản lý nhà nước về du lịch và phối hợp với Đảng uỷ khối Cơ quan Kinh tế  TW kiện toàn tổ chức Đảng uỷ Cơ quan Tổng cục Du lịch (có Bí thư chuyên trách, có Văn phòng Đảng uỷ Cơ quan Tổng cục), giáo dục đảng viên làm tốt vai trò nòng cốt trong tham mưu và tổ chức thực hiện công tác quản lý nhà nước về du lịch, chỉ đạo nắm bắt tư tưởng, giải quyết những vấn đề nội bộ phát sinh, giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, đơn vị để tập trung hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (Khoá VIII), Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 (Khoá IX) và các Nghị quyết Trung ương về công tác giáo dục tư tưởng chính trị, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ... được triển khai nghiêm túc. Những vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm trước để lại đã được giải quyết cơ bản. Nhìn chung đội ngũ cán bộ, đảng viên trong ngành kiên định về lập trường, tư tưởng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, có phẩm chất đạo đức lối sống cách mạng, gắn bó với quần chúng, yêu ngành, yêu nghề, hoàn thành nhiệm vụ. Công tác cán bộ được tiếp tục đổi mới: Quy hoạch cán bộ ngành du lịch đã cơ bản hoàn thành; hàng năm đều thực hiện công tác đánh giá cán bộ làm cơ sở tạo nguồn quy hoạch; việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển cán bộ quản lý được tiến hành đúng nguyên tắc, quy trình và thủ tục; việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ được quan tâm.

Hầu hết các đảng bộ, chi bộ trong Ngành đã thực đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch từ năm 2002 đến nay đã liên tục được công nhận là đảng bộ trong sạch vững mạnh. Một số đảng bộ, chi bộ yếu kém đã được kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ. Công tác Đảng, công đoàn tại các liên doanh với nước ngoài, công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn trong lĩnh vực du lịch được duy trì và phát huy vai trò của mình trong phát triển kinh tế và phát triển doanh nghiệp.

Ban cán sự Đảng Tổng cục Du lịch và các cấp uỷ Đảng trong ngành đã chú trọng duy trì và cải tiến lề lối làm việc và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, đẩy mạnh thực hiện dân chủ cơ sở. Ban Cán sự Đảng kiên trì trong chỉ đạo giải quyết những vướng mắc, tồn đọng và kiên quyết xử lý sai phạm với ý thức xây dựng nội bộ vững mạnh. Sự thống nhất cao từ chủ trương đến hành động đã thể hiện được sức mạnh đoàn kết nội bộ trong hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Đồng thời với việc chỉ đạo quán triệt và triển khai các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và đảm bảo điều hành trôi chảy nhiệm vụ thường xuyên, sinh hoạt đảng đã được cải tiến, tập trung bàn sâu những chuyên đề trọng tâm, những phát sinh đột xuất, để có kế hoạch và biện pháp triển khai cụ thể, hoàn thành dứt điểm trong từng thời gian, đáp ứng yêu cầu nhanh nhạy trong quản lý điều hành ngành kinh tế du lịch có tính đặc thù và nhạy cảm. Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Tổng cục Du lịch đã chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan đi cơ sở nắm tình hình, chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch. Đã khảo sát thực tế và làm việc với  Lãnh đạo các tỉnh, thành phố bàn đẩy mạnh phát triển du lịch; kiểm tra công tác đầu tư hạ tầng du lịch và công tác quản lý nhà nước về du lịch. Do đó, đến nay hầu hết các địa phương đều có chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ Đảng và UBND về phát triển du lịch, coi du lịch là ngành “kinh tế mũi nhọn”, “kinh tế quan trọng”, “kinh tế động lực” của địa phương, làm cho nhận thức về du lịch đã được nâng lên và biến thành hành động thúc đẩy hoạt động du lịch sôi động, mở ra trên diện rộng cả nước và hiệu quả cao hơn.

Các đảng viên, cán bộ, công chức thuộc diện Tổng cục Du lịch quản lý khi ra nước ngoài công tác, học tập, đều được lựa chọn đúng đối tượng và tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, các cấp có thẩm quyền xét duyệt và được tổ chức chặt chẽ như phân công đoàn trường phụ trách, họp giao nhiệm vụ trước khi đi… Đảng viên ra nước ngoài đã thực hiện tốt 8 nhiệm vụ nêu trong Quy định 17 của Bộ Chính trị, chấp hành tốt Điều lệ Đảng, luật pháp của nước ta và nước sở tại, hoàn thành nhiệm vụ được giao, không có đảng viên nào ở lại hoặc bị mua chuộc, lôi kéo.

Trong quá trình đổi mới phát triển Ngành Du lịch, Ban Cán sự Đảng Tổng cục Du lịch đã phối hợp với các cấp uỷ đảng tập trung chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương, các đơn vị sự nghiệp phát triển Ngành, chỉ đạo sắp xếp lại và đổi mới hệ thống doanh nghiệp du lịch. Quy chế dân chủ cơ sở ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Ngành được thực hiện tốt. Riêng Cơ quan Tổng cục du lịch hàng năm đều tổ chức tốt Hội nghị cán bộ, công chức cơ quan. Do quan tâm chỉ đạo công tác cán bộ, nên đội ngũ cán bộ trong Ngành làm việc tốt hơn, phát huy trách nhiệm và tính sáng tạo, tăng cường phối hợp trong và ngoài cơ quan. Nhờ thế công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được quan tâm và thực hiện nghiêm túc. Chưa thấy có biểu hiện diễn biến hòa bình trong hoạt động du lịch.

10. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, góp phần phát triển văn hóa-xã hội, giải quyết vấn đề xã hội bức xúc:

Ngành Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với ngành Văn hóa-Thông tin và các bộ, ngành, địa phương liên quan gắn kết các hoạt động văn hóa, lễ hội, thể thao với sự kiện du lịch. Hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trung tu các di tích và nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư trong giữ gìn, phát triển di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Kết hợp giữa tuyên truyền, quảng bá du lịch ở nước ngoài với tuyên truyền quảng bá tại chỗ đã truyền tải được giá trị văn hóa dân tộc đến khách du lịch và nhân dân. Sự phối hợp liên ngành, địa phương chặt chẽ trong đầu tư, định hướng và chỉ đạo sát sao việc khôi phục và tổ chức nên các lễ hội dân gian trong các năm qua đã dần đi vào nền nếp và lành mạnh, phát huy được thuần phong mỹ tục. Văn hóa doanh nghiệp trong du lịch được quan tâm hơn, đặc biệt là đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội trong hoạt động du lịch. Do sức hút của hiệu quả kinh tế trong phát triển du lịch và do phối hợp tốt giữa các ngành, địa phương, cộng đồng dân cư và du lịch nên nhiều làng nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển đã tạo các điểm du lịch hấp dẫn và sản xuất hàng lưu niệm, thủ công mỹ nghệ phục vụ khách du lịch.

Theo báo cáo chưa đầy đủ của các đơn vị, 10 năm qua toàn Ngành Du lịch đã: Xây dựng được 32 nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, thương binh, liệt sỹ; nhận phụng dưỡng 643 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; đỡ đầu 2 trại trẻ mồ côi (gần 100 em); đóng góp nhiều đợt ủng hộ đồng bào bị thiên tai (lũ, bão, lụt) gần 1 tỷ đồng và nhiều quần áo, thuốc men; tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo và đấu tranh, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào du lịch.

Phong trào đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ người nghèo (hưởng ứng “Ngày vì người nghèo”), ủng hộ trẻ em bị chất độc màu da cam… do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động thu hút sự tham gia nhiệt tình của toàn Ngành.

11. Được Đảng và Nhà nước khen tặng nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý:

Trong thời kỳ đổi mới, trong ngành Du lịch đã có 2 tập thể và 3 cá nhân đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động; có 9 cá nhân được công nhận là Chiến sĩ thi đua toàn quốc; toàn ngành đã có 247 tập thể và cá nhân được tặng huân chương Độc lập, huân chương Lao động, cờ Chính phủ và bằng khen Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể như sau:

 

Danh hiệu

Số lượng

Ghi chú

Huân chương Độc lập hạng Nhì

1

 

Huân chương Lao động hạng Nhất

3

(2 tập thể, 1 cá nhân)

Huân chương Lao động hạng Nhì

9

(7 tập thể, 2 cá nhân)

Huân chương Lao động hạng Ba

31

(15 tập thể, 16 cá nhân)

Cờ Thi đua Chính phủ

60

(60 tập thể)

Bằng khen Thủ tướng Chính phủ

134

(57 tập thể, 77 cá nhân)

Chiến sĩ thi đua toàn quốc

9

(9 cá nhân)

Ngoài ra, Tổng cục Du lịch còn tặng 123 Cờ, 2.785 Bằng khen, 456 Chiến sĩ thi đua cơ sở, 316 Tập thể Lao động xuất sắc và 8.204 Huy chương vì sự nghiệp Du lịch.

Tóm lại, Trong bối cảnh đất nước ổn định, nước ta có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự chuyển biến nhận thức đã chuyển hoá thành chủ trương và hành động của các cấp lãnh đạo địa phương trong phát triển du lịch, sự hưởng ứng của nhân dân, sự hỗ trợ quốc tế và nỗ lực của toàn ngành, ở tất cả các thời kỳ, du lịch Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó; đã xây dựng ngành trưởng thành và phát triển về mọi mặt, từng bước hội đủ điều kiện của một ngành kinh tế mũi nhọn: (1). Có tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ trọng trong GDP tăng nhanh và liên tục; (2). Có thị trường rộng lớn; (3) Sức lan toả mạnh, thúc đẩy nhiều ngành và địa phương phát triển, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển văn hoá, xã hội; (4). Thu hút được ngày càng nhiều lao động, góp phần phát triển yếu tố con người; (5). Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế; và đã tạo được tiền đề vững chắc cho du lịch phát triển ở mức cao hơn trong thiên niên kỷ mới.

 

Với những thành tích đáng ghi nhận nêu trên của toàn ngành, nhân kỷ niệm 45 năm hình thành và phát triển, Đảng và Nhà nước đã xem xét và quyết định tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành du lịch Việt Nam. Đây là phần thưởng cao quý nhất từ trước đến nay đối với Ngành, đã động viên khích lệ toàn Ngành phát huy truyền thống 45 năm xây dựng và trưởng thành, giai đoạn 2006 -2010, phấn đấu để toàn ngành Du lịch bứt lên phát triển nhanh và bền vững, phát huy đầy đủ vai trò của một ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

 

TỔNG CỤC DU LỊCH

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro