thanhnhon

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Vì sao cuộc đấu tranh của nhân dân Nê-đéc-lan ở thế kỉ XVI được xem là cuộc cách mạng tư sản:

Trả lời:

Cuộc đấu tranh của nhân dân Nê-đéc-lan là một cuộc cách mạng tư sản đã lật đổ chế độ thống trị của phong kiến Tây Ban Nha, mở đường cho CNTB phát triển. Động lực chủ yếu của cách mạng là quần chúng nhân dân( nông dân, thợ thủ công, thị dân nghèo); giai cấp tư sản là lực lượng lãnh đạo, chính quyền thuộc về tay giai cấp tư sản lien kết với quí tộc. Tuy mới chỉ giải phóng được các tỉnh miền Bắc, còn duy trì nhiều tàn tích phong kiến nhưng một quốc gia độc lập đã ra đời và phát triển theo con đường TBCN. Nó tạo điều kiện cho kinh tế Nê-đec-lan phát triển nhanh chóng, trở thành một nước phát triển nhất châu Âu. “ Sau cách mạng, Hà Lan trở thành một nước tư bản chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và hùng mạnh bậc nhất đầu thế kì XVII”

Câu 2: Vì sao nói cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng tư sản không triệt để?

Trả lời:

Cách mạng tư sản Anh do tư sản và quý tộc mới lãnh đạo, đã lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến , mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Quần chúng nhân dân

 

- thợ thủ công, tư sản nhở và nông dân- giữ vai trò quyết định sự thắng lợi của cách mạn. Sau cMTS Anh, CNTB ở Anh phát triển mạnh mẽ, dẫn đến cuộc Cách mạng công nghiệp, từ đó đưa nước Anh trở thành một cường quốc về công nghiệp đầu tiên trên thế giới.

- Tuy nhiên, cuộc cách mạng kết thúc với sự thỏa hiệp…cách mạng tư sản Anh mang tính chất bảo thủ không triệt để vì chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, giai cấp tư sản không dám duy trì nền cộng hoà mà phải liên minh với thế lực phong kiến, thiết lập nên nhà nước quân chủ lập hiến.

Câu 3: Phân tích tiền đề dẫn tới cách mạng tư sản Pháp năm 1789?

Trả lời:

Cách mạng tư sản Pháp nổ ra vào cuối thế kỉ XVIII là cuộc cách mạng xã hội sâu rộng, đã xóa bỏ chế độ phong kiến mở đường cho CNTB phát triển. Dựa trên những tiền đề chính là tình hình kinh tế, chính trị-xã hội và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng.

Về kinh tế

, trước cách mạng nông nghiệp Anh kém phát triển: công cụ, kĩ thuật canh tác còn thô sơ, một phần ba diện tích đất bị bot hoàng, năng suất cây trồng thấp… Trong nông nghiệp Pháp quan hệ phong kiến vẫn được duy trì với hình thức bóc lột cũ. Công nghiệp đang trên đà phát triển. Nhiều thành thị như Booc-đô, Năng tơ,… lớn mạnh nhanh chóng do sản xuất và khẩu tơ lụa , vải, hàng hiệu, nữ trang.

Máy móc sử dụng ngày càng nhiều (dệt, khai mỏ, luyện kim), nhiều công trường thủ công thu hút nhiều công nhân làm thuê, nhiều nghề phát triển. Thương nghiệp trong và ngoài nước phát đạt các công ti thương mại mở rộng buôn bán với nhiều nước châu Âu và phương Đông. Song sự giao lưu trong nước và nước ngoài còn gặp cản trở: hệ thống đo lường không thống nhất, mỗi địa phương có một chế độ thuế quan riêng…Điều đó cản trở việc hình thành thị trường dân tộc. Độc quyền của nhà nước về lúa mì, muối và một số mặt hàng khác cũng hạn chế việc buôn bán với nhiều nước châu Âu.

Về chính trị-xã hội

,trước cách mạng Pháp là một nước quân chủ chuyên chế, với chế độ đẳng cấp rất khắt khe. Xã hội chia thành ba đẳng cấp: tăng lữ, quí tộc và đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp trên, gồm tăng lữ cấp cao và quí tộc phong kiến, là những đẳng cấp hưởng nhiều đặc quyền. Họ không phải đóng thuế, nắm giữ các chức vụ quan trọng trong giáo hội, bộ máy chính quyền và quân đội. Đẳng cấp thứ 3 gồm nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội có những quyền lợi và nguyện vọng không giống nhau: tư sản có thế lực kinh tế mạnh nhưng không có quyền lực chính trị, bị nhà vua và các lãnh chúa địa phương ngăn cản hoạt động kinh doanh. Nông dân chiếm hơn 90% dân số, phân lớn là những tá điền. Ngoài việc nộp tô họ phải nộp nhiều loại thuế, chịu nhiều nghĩa vụ phong kiến. Công nhân tập trung ở những thành thị lớn ( riêng Pa-ri có 30 van công nhân). Điều kiện lao động và đời sống của họ rất khó khăn ( ngày làm việc kéo dài, lương thấp…). Những người bình dân thành thị khác như thợ thủ công, người buôn bán nhỏ dân nghèo… sống tạm bợ, chen chúc trong những vùng ngoại ô. Mâu thuẫn giữa quí tộc phong kiến, nhà thờ với các tầng lớp nhân dân trong đẳng cấp thứ ba ngày một gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến nổ ra, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa của công nhân và nông dân ở Li-ông, Pa-ri vào những năm 80 của thế kỉ XVIII.

Về lĩnh vực tư tưởng

, thế kỉ XVIII ở châu Âu được gọi là thế kỉ ánh sáng. Nhiều nhà văn, nhà tư tưởng tiến bộ đã lên án mạnh mẽ sự áp bức, bóc lột của chế độ QCCC, đả kích giáo hội Kitô, muốn dung “ánh sáng” quét sạch bóng tối phong kiến và

 

“khai sáng” cho nhân dân. Ở Pháp, vào thế kỉ này xuất hiện 3 nhà tư tưởng tiêu biểu là: Mông-te-xki-ơ, Vôn-te, Ru-xô. Họ phê phán những quan điểm lỗi thời, giáo lí lạc hậu, mở đường cho xã hội phát triển. Tư tưởng và quan điểm của những nhà khai sáng có ý nghĩa tiến bộ, được quần chúng tin theo, tích cực chuẩn bị cho một cuộc cách mạng xã hội sắp tới.

Như vậy, những tiền đề trên đã tạo nên những điều kiện chín muồi cho cách mạng tư sản Pháp nổ ra, là những yếu tố quyết định cho cuộc cách mạng sắp tới.

Câu

 

4: Vì sao thời kì chuyên chính dân chủ Gia cô banh là đỉnh cao cách mạng tư sản Pháp năm 1789

?

Trả lời:

Sau khi chính quyền phái Gi-rông-đanh sụp đổ, chính chuyển sang tay những người Gia cô banh, đứng đầu là Rô-be-spie. Cách mạng Pháp chuyển sang gia đoạn cao nhất- giai đoạn chuyên chính dân chủ cách mạng.

Chính phủ Gia cô banh đã thực hiện nhiều biện pháp kiên quyết để chống thù trong giặc ngoài, ổn định đời sống nhân dân. Đạo luật tháng 6-1793 trả lại cho nông dân ruộng đất công đã bị phong kiến chiếm đoạt. Chính phủ còn tịch thu ruộng đất quí tộc chia thành nhiều mảnh bán cho dân nghèo, được trả dần trong thời hạn 10 năm. Các đặc quyền và phụ thu của phong kiến bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn. Chính phủ đưa các đội vũ trang về các tỉnh để trưng thu lúa mì của quí tộc địa chủ và phú nông, nhằm cung cấp bánh mì cho nhân dân thành thị, đặc biệt là Pa-ri đang thiếu lương thực.

Tháng 6-1793, hiến pháp mới được thông qua, qui định: thiết lập chế độ cộng hòa, xóa bỏ hoàn toàn sự bất bình đẳng về đẳng cấp, mọi công dân từ 21 tuổi trở lên được bầu cử. Trên thực tế, hiến pháp 1793 chưa được thi hành, song là văn kiện pháp lí tiến bộ hơn so với hiến pháp 1791.

Để bảo vệ cách mạng chống thù trong giặc ngoài, ủy ban cứu nước do Rô-be-spie đứng đầu đề nghị quốc hội thông qua và thi hành nhiều biện pháp kiên quyết. Ngày 23-8-1793, sắc lệnh tổng động viên toàn quốc được ban hành, huy động nhân dân tham gia quân đội cách mạng. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tham gia tình nguyện quân đội cách mạng.

Đầu năm 1794, nước Pháp có 14 đạo quân được trang bị đầy đủ, do những viên tướng trẻ trung thành với cách mạng chỉ huy. Quốc hội còn ban hành đạo luật xét xử những người tình nghi, luật giá tối đa đối với lương thực và thực phẩm để chống nạn đầu cơ, tích trữ, qui định mực tiền lương tối đa cho công nhân.

Chỉ trong thời gian ngắn, các cuộc bạo loạn dần dần được dập tắt, chính quyền cách mạng được thiết lập và bắt đầu được củng cố. Tình hình chiến sự cũng chuyển biến có lợi cho nước Pháp cách mạng: cuối năm 1793- đầu năm 1794, quân Pháp dành được thế chủ động trên chiến trường; mùa thu năm 1794, các đội quân xâm lược lần lượt bị đuổi ra khỏi biên giới, hoạt động quân sự lại diễn ra trên các nước thù địch. Cách mạng Pháp đạt tới đỉnh cao.

Tóm lại,

thời kì chuyên chính dân chủ Giacobanh là đỉnh cao cách mạng đã hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của một cuộc cách mạng tư sản và dân chủ: lật đổ chế độ Pk, thủ tiêu mọi tàn dư pk, đập tan nội phản và ngoại xâm, đưa g/c tư sản lên nắm chính quyền,giải quyết thỏa đáng vấn đề ruộng đất cho nông dân, mọi trở ngại đối với công thương bị xóa bỏ, hình thành thị trường thống nhất, tạo điều kiện cho CNTB phát triển nhanh chóng ở Pháp.

Câu 5: So sánh hiến pháp 1791 và hiến pháp 1793?

Hiến pháp 1791

Hiến pháp 1793

Thể chế chính trị

Quân chủ lập hiến

Cộng hòa

Quyền công dân

Công dân tích cực bầu cử

Công dân trên 21 tuổi bầu cử

Nghĩa vụ phong kiến

Chưa xóa bỏ

Xóa bỏ hoàn toàn

Câu 6: Vai trò của giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân trong cách mạng tư sản Pháp?

Trả lời:

Cách mạng tư sản Pháp là một cuộc cách mạng triệt để. Để được điều đó, vai trò của giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân là hết sức to lớn.

Về giai cấp tư sản

, Trong cuộc cách mạng tư sản Pháp, lực lượng lãnh đạo là giai cấp tư sản, nhưng trong quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp tư sản lần lượt bị phân hóa sâu sắc trong hang ngũ của mình. Điều này được thể hiện qua 3 giai đoạn cách mạng:

+Giai đoạn 1: ngày 14/7/1789 cách mạng do phái lập hiến (đại tư sản) lãnh đạo quần chúng nhân dân tấn công nhà ngục Ba-xti giành thắng lợi và thiết lập nền thống trị của đại tư sản hành chính. Nền quân chủ lập hiến được xác lập: hạn chế quyền hành của nhà vua, xóa bỏ nền thống trị hà khắc, chuyên chế tồn tại lâu đời ở Pháp.

+Giai đoạn 2: Khi nắm quyền thống trị trong tay, nhu cầu quyền lợi đã được thỏa mãn, đại tư sản ngả về triều đình phong kiến, chống lại nhân dân. Vì vậy, ngày 10/8/1792 phái tư sản công nghiệp Girongdanh đã lãnh đạo nhân dân lật đổ chính quyền quân chủ lập hiến và thiết lập nền cộng hòa Girongdanh.

+Giai đoạn 3: Phái Girongdanh nắm được chính quyền, họ lại phản bội tổ quốc, nhân dân khi tổ quốc bị Áo, Phổ tấn công. Ngày 02/6/1793, tư sản trí thức phái Giacobanh đã lãnh đạp nhân dân lật đổ phái Girongdanh, đưa cách mạng lên tới đỉnh cao với nền chuyên chính dân chủ Giacobanh. Tuy vậy, phái này cũng xa rời quần chúng nhân dân nên đã bị lật đổ ngày 27/7/1794, cách mạng tư sản Pháp chấm dứt.

Về quần chúng nhân dân

, Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển và thành công của cách mạng, là lực lượng chủ yếu từng bước đưa cách mạng đạt đến đỉnh cao, điều này thể hiện qua 4 sự kiện sau:

- Ngày 14-7-1789 quần chúng nhân dân phá ngục Baxti mở đầu cho cuộc cách mạng.

- Ngày 10-8-1792 quần chúng nhân dân lật đổ nền quân chủ lập hiến của phái đại tư sản vì họ thọa hiệp với phong kiến và không giải quyết quyền lợi ruộng đất cho nhân dân.

- Ngày 2-6-1793 quần chúng lật đổ nền cộng hòa của phái Gi-rông-đanh khi họ phản bội tổ quốc và nhân dân khi chống ngạo xâm, nội phản. Ủng hộ nèn chuyên chính cách mạng Gia-cô-banh, đưa cách mạng đến đỉnh cao.

- Ngày 27-7-1794 khi phái Gi-cô-banh đưa cách mạng đi quá xa mục đích và vẫn duy trì chính sách chuyên chính cũ thì quần chúng nhân dân lại vùng lên lật đổ và xử tử phái Gia-cô-banh, cách mạng tư sản chấm dứt.

Quần chúng nhân dân còn là lực lượng quan trọng trong việc đánh đuổi thù trong giặc ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng.

Câu 7: Phân tích tính triệt để cách mạng tư sản Pháp?

Trả lời:

Tính triệt để của cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII thể hiện:

-Cách mạng tư sản Pháp đã lật đổ chế độ phong kiến, thủ tiêu chế độ quân chủ chuyên chế, tấn công cung điện nhà vua, bắt và xử tử vua Lu-I XVI, tuyên bố thành lập nền cộng hòa ở nước Pháp. Các đặc quyền và phụ thu phong kiến bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn

-Cách mạng tư sản Pháp đã thông qua Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, với khầu hiệu nổi tiếng: “ tự do- bình đẳng- bác ái”. Tuyên ngôn đã xác nhận quyền bình đẳng giữa các công dân, thừa nhận các quyền tự do dân chủ, nhấn mạnh quyền sở hữu tài sản là quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng. Tư tưởng của Tuyên ngôn đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.

-Cách mạng Pháp, đặc biệt dưới thời kì chuyên chính dân chủ giacobanh đã giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất cho nông dân, trả lại cho nông dân ruộng đất đã bị quí tộc phong kiến chiếm đoạt, chính phủ còn tịch thu ruộng đất của quí tộc, chia từng mảnh nhỏ bán cho nông dân nghèo, được trả dần trong thời hạn 10 năm.

-Cách mạng ts Pháp ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ dân chủ triệt để còn thực hiện nhiệm vụ dân tộc, đã đánh bại các thế lực phong kiến châu Âu và nươc Anh tư sản, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng.

Câu 8:

Tính chất, ý nghĩa cách mạng tư sản Pháp?

Trả lời:

Do sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân, cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII thành công và “phát triển theo đường đi lên”. Đây là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất, đã lật đổ nền quân chủ chuyên chế, tuyên bố xác lập chế độ tư bản cùng các quyền tự do dân chủ, xóa bỏ chế độ đẳng cấp và quan hệ ruộng đất phong kiến, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển…

Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII không chỉ có ý nghĩa đối với nước Pháp mà còn ảnh hưởng to lớn đến nhiều nước khác: tư tưởng dân tộc, dân chủ được truyền bá sâu rộng ở châu Âu, chế độ quân chủ phong kiến ở nhiều nước bị lung lay, để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho phong trào cách mạng ở các nước.

Tuy nhiên cách mạng tư sản Pháp cũng như các cuộc cách mạng tư sản khác còn có nhiều hạn chế: tiếp tục duy trì chế độ tư hữu, không giải phóng người lao động khỏi ách áp bức,…

Câu 9: Tại sao cách mạng tư sản Pháp phát triển theo con đường đi lên còn CMTS Anh lại quanh co và phức tạp?

Trả lời:

Trong cách mạng tư sản Anh

, giai cấp tư sản và quí tộc mới lãnh đạo, nên khi đòi được quyền lợi thì quí tộc mới và tư sản không những không đáp ứng những yêu cầu của nhân dân mà đã thỏa hiệp với chế độ phong kiến, đàn áp đấu tranh.

Trong cách mạng tư sản Pháp

có sự mâu thuẫn sâu sắc giữa các đẳng cấp, cách mạng, trào lưu tư tưởng dọn đường, vai trò lãnh đạo của giai cấp tư sản. Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định đến quá trình phát triển và là động lực cách mạng. Đây là lực lượng đưa cách mạng tới đỉnh cao.

Câu 10: Phân tích những tiền đề dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp? Vì sao Anh là nước đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp? Phân tích hệ quả CMCN?

Trả lời:

Điều kiện quan trọng nhất của cuộc cách mạng công nghiệp là thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản: từ thế kỉ XVI đến XVIII, cách mạng tư sản đã bùng nổ và giành thắng lợi ở nhiều nước châu Âu và Băc Mĩ. Chính quyền về tay giai cấp tư sản, các rào cản của chế độ phong kiến bị xóa bỏ. Chế độ chính trị mới đã mở đường cho quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển.

Thứ hai, quá trình tích lũy tư bản được đẩy nhanh: từ cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XVIII, việc buôn bán hàng hóa giữa các châu lục, đặc biệt là những hoạt đông thương mại mang tính chất cướp bóc đối với các thuộc địa. Việc bóc lột thợ thủ công, công nhân trong cac công trường thủ công, cuộc cách mạng trong nông nghiệp cũng mang lại một nguồn vốn dư thừa lớn. Buôn bán nô lệ da đen từ châu Phi sang châu Mĩ cũng đem lại cho thương nhân những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Thứ ba, việc tập trung đất đai, cung cấp nhân công, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tạo thị trường tiêu thụ lớn trong nước.

Trong các công trưởng thủ công đã co những cải tiến lớn về kĩ thuật để tiến hành phân công lao động và sản xuất hàng loạt. Vì vậy, công trường thủ công không chỉ làm cho năng suất lao động không chỉ tăng cao mà còn tạo ra một đội ngũ công nhân thạo nghề, họ là lực lượng đi tiên phong trong quá trình phát minh ra máy móc và cải tiến các khâu kĩ thuật sản xuất.

Tất cả những điều kiện trên đây đã thúc đẩy cuộc cách mạng trong công nghiệp sớm bùng nổ. Nước Anh trở thành nước đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp. Từ nước Anh ( giữa thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, cuộc cách mạng này lan sang châu Âu và Bắc Mĩ: Pháp, Đức ( giữa XIX),

 

Mĩ (nửa cuối thế kỉ XIX đến đầu XX)…

*Anh tiến hành cách mạng công nghiệp sớm hơn các nước khác

Vì Anh sớm tiến hàmh c/m t

ư

sản nên nền kinh tế T

ư

bản chủ nghĩa sớm phát triển đồng thời sớm đẩy mạnh xâm thuộc địa nên có 1 hệ thống thuộc địa rộg lớn, ngoài ra giai cấp tư sản nắm chính quyền, nên có đủ những tiền đề để tiến hàh cuộc cm.

Cách mạng công nghiệp

đã để lại những hệ quả to lớn về kinh tế và xã hội.

Về mặt kinh tế, cách mạng công nghiệp là một cuộc cách mạng về kĩ thuật, vì vậy nó có tác dụng thúc đẩy sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ.

Công nghiệp: phát triển cân đối cả công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ.

Giao thông vận tải: nhất là đường sắt và đường thủy phát triển nhanh.

Thương mại: hình thành nhiều trung tâm thương mại lớn, nhiều nhất là nước Anh: Manchetxtơ, Livopun… Luân Đôn trở thành trung tâm thương mại hàng đầu thế giới.

Nhờ có cách mạng công nghiệp mà nước Anh nhanh chóng trở nên giàu có. Anh trở thành cường quốc công nghiệp hàng đầu, được mệnh dang là “công xưởng của thế giới”

Về chính trị-xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra sự biến đổi to lớn trong quan hệ xã hội và cơ cấu giai cấp. Hai giai cấp cơ bản trong xã hội công nghiệp được hình thành là vô sản và tư sản công nghiệp.

Sự phát triển mạnh mẽ của công trường thủ công đã tác động làm cho giai cấp tư sản bị phân hóa. Bộ mặt tư sản công nghiệp ngày càng giàu có, lớn mạnh và trưởng thành về nhiều mặt. Nhu cầu kinh doanh khiến cho họ có quyền lợi mâu thuẫn với đại tư sản và quí tộc mới. Họ có nguyện vọng thực hiện tự do mậu dịch, đòi cải cách chế độ tuyển cử.

Đội ngũ giai cấp vô sản ngày càng đông đảo, nhưng bị bóc lột nặng nề, đời sống khổ cực. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản sớm nảy sinh.

Sự phát triển mạng mẽ của công nghiệp đòi hỏi các nước có them nguồn cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ. Do đó đã dần đến việc xâm chiếm nhiều thuộc đia và bóc lột thuộc địa. Điều này làm thay đổi bản đồ kinh tế chính trị các nước.

Câu 11: Nguyên nhân của cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ? VÌ sao CTGDL ở Bắc Mĩ được xem là cuộc CMTS?

Trả lời:

Giữa thế kỷ XVIII, 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ đã có một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tương đối phát triển. Mặc dù bị chính quyền kìm hãm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ phát triển nhanh nhờ những điều kiện thuận lợi: tài nguyên thiên nhiên phong phú và lao động di dân hăng say.

Thủ công nghiệp phát triển tự do, không bị chế độ phường hội hạn chế, số công trừơng thủ công ngày càng tăng, những công xưởng tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện, lao động máy móc thay thế cho lao động thủ công. Thương nghiệp cũng phát triển, mang lại nhiều nguồn lợi to lớn cho giai cấp tư sản Bắc Mỹ, đặc biệt trong lãnh vực ngoại thương: trong vòng 50 năm kể từ 1700-1750, giá trị hàng xuất khẩu tăng 5 lần.

Vào thế kỉ XVII-XVIII, Anh xem Bắc Mỹ là vùng nông nghiệp phụ thuộc vào chính quốc, nhiệm vụ của nước Mỹ là cung cấp nguyên liệu và lương thực cho chính quốc. Trong nông nghiệp có hai vùng kinh tế phát triển đó là:

Miền Bắc và tây bắc: kinh tế trại chủ giữ vị trí chủ yếu. Những trại chủ là những nông dân khai khẩn dựa trên sức lao động của chính họ, không bị chế độ phong kiến ràng buộc; để có thêm thu nhập, họ làm các nghề thủ công.

Ở miền Nam: chế độ nô lệ đồn điền của chủ nô chiếm địa vị thống trị. Kinh tế đồn điền của miền Nam dựa vào lao động của nô lệ và gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sự bóc lột nô lệ ở các đồn điền miền Nam không khác gì thời cổ đại: nô lệ làm việc 18-19 giờ/ ngày; không được phép bỏ đồn điền và không được tụ tập. Họ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và không có quyền phản kháng.

Giai cấp thống trị xem thuộc địa là nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường cho họ, nên tìm mọi cách để buộc kinh tế thuộc địa lệ thuộc vào kinh tế chính quốc. Nhưng sự phát triển kinh tế mạnh mẽ ở Bắc Mỹ làm Anh lo ngại, vì thế Anh đưa ra một loạt biện pháp nhằm hạn chế sự kinh doanh của giai cấp tư sản Bắc Mỹ. Những chính sách này làm hại đến quyền lợi của chủ nô, tư sản, và ngay cả nhân dân thuộc địa, vì vậy họ phản kháng lại chính quyền Anh và đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh giành độc lập. Nói một cách khác, nguyên nhân của chiến tranh là do sự xung đột giữa giai cấp thống trị Anh với tư sản Bắc Mỹ và các tầng lớp nhân dân thuộc địa.

Sự kiện “ chè Bô-xton” làm bùng nổ cuộc chiến tranh ở Bắc Mĩ.

Ðây là một cuộc chiến tranh giành độc lập, do giai cấp tư sản lãnh đạo, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định, bao gồm nô lệ, công nhân, nông dân... nhưng cuộc chiến tranh này không chỉ giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà còn giải quyết những nhiệm vụ kinh tế và xã hội của một cuộc cách mạng tư sản, nó chống lại chế độ phong kiến do bọn thực dân Anh thiết lập và chống lại những biểu hiện khác của chủ nghĩa thực dân đang ngăn trở sự phát triển của công, thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Nó giải phóng Mỹ khỏi chủ nghĩa thưc dân Anh, đưa tư sản và chủ nô lên nắm chính quyền, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa Mỹ phát triển mạnh. Chính vì vậy mà chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ được xem là một cuộc cách mạng tư sản.

Câu 12: Vì sao nội chiến ở Mĩ được xem là cuộc cách mạng tư sản lần 2?

Trả lời:

+ Cuộc chiến tranh giành độc lập lần 1 chưa giải quyết hết những vấn đề đặt ra của một cuộc cách mạng tư sản, vì vậy cuộc nội chiến nổ ra để hoàn thành nó. Đó là xóa bỏ chế độ nô lệ.

+ Đây là cuộc chiến mà lực lượng lãnh đạo là giai cấp tư sản tiến bộ miền Bắc mâu thuẫn với chủ nô miền Nam. Với nhiệm vụ là lật đổ chế đố nô lệ, giải phóng nguồn lao động.

+Quần chúng nhân dân đóng vài trò quan trọng là động lực c/m

+Mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Mĩ.

Câu 13: Những tiến bộ của KH-KT cuối XIX đầu XX. Sự tiến bộ đó có tác động thế nào tới sự phát triển sức sản xuất?

Trả lời:

Khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX là thời kì CNTB tự do cạnh tranh chuyển sang CNTB độc quyền.

Trong thời kì này, nền kinh tế TBCN phát triển cực kì nhanh chóng, một phần là do chú trọng phát minh khoa học và áp dụng những tiến bộ về KH-KT vào sản xuất.

Các phát minh về điện của G.X. Ôm (1789-1854) người Đức, M. Pha-ra-đây ( 1791-1867) và G.P.Giun (1818-1889) người Anh, Len-xơ (1804-1865) người Nga, thuyết electron của Tôm-xơn ( Anh), phát hiện về năng lượng hạt nhân của Pi-e Quy-ri và Ma-ri Qui-ri( Pháp), phát minh về tia X của Rơn-ghen (1845-1923) người Đức, phát hiện về đinh luật tuần hoàn Men-đê-lê-ep (Nga), công trình về sinh lí học của Páp-lôp (Nga)… là những thành tựu to lớn tạo điều kiện cho việc ứng dụng và đẩy mạnh sản xuất.

Động cơ đốt trong đã được phát minh từ trước, nhưng mãi đến thập niên 90 của thế kỉ XIX, sau khi kĩ sư R.Đi-ê-den người Đức cải tiến, mới được sử dụng rộng rãi. Động cơ đốt trong sử dụng nguồn nhiên liệu long, không cần nổi hơi, so với máy hơi nước tiện lợi hơn nhiều.

Việc sử dụng động cơ đốt trong tạo khả năng phát triển cho ngành ô tô và ngành máy bay, đồng thời thúc đẩy ngành khai thác dầu mỏ.Năm 1870, lượng dầu mỏ được khai thác trên toàn thế giới là 80 vạn tấn, đến năm 1900 đã tăng lên 200 triệu tấn. Từ đó, cuộc cạnh tranh dầu mỏ giữa các nhà tư bản ngày cảng gay gắt.

Những phát minh về điện trước tiên được sử dụng trong ngành điện thoại và điện bào. Năm 1879, Ê-đi-xơn thí nghiệm thành công việc thắp sáng, bóng đèn điện ra đời. Việc chế tạo các loại máy phát điện và giải quyết các khả năng chuyền tải điện đi xa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất. Những ngành mới xuất hiện: thông tin vô tuyến, điện ảnh…

Việc sử dụng lò cao Bétxme đã làm tăng sản lượng thép, tạo nên chuyển biến lớn trong ngành luyện kim, chế tạo máy,… Công nghiệp hóa học đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực sản xuất hóa chất, dược phẩm, thuốc nhuộm. Năm 1867, A. Nô-ben phát minh ra thuốc nổ. Đến thập niên 80 của thế kỉ XIX, ông cải tiến và chế tạo thành công loại thuốc nổ không khói. Điều đó thúc đẩy ngành công nghiệp quân sư phát triển. Các loại vật lieu mới như : nhựa, sợi nhân tạo… cũng bắt đầu được đưa vào sử dụng trong các ngành sản xuất.

Giao thông vận tải chuyển biến mạnh mẽ.Tảu hỏa được cải tiến, mạng lưới đường sắt được mở rộng khắp châu Âu.

Xuất hiện lần đầu vào năm 1886, ô tô nhanh chóng trở thành phương tiện giao thông quan trongk. Máy bay được thử nghiệm thành công vào năm 1903. Tàu biển được trang bị mới, trọng tải từ 30000- 40000 tấn. Công trình kênh đào Xuy-ê và kênh đào Pa-na-ma đã rút ngắn đường vận chuyển trên biển.

Việc ứng dụng các tiến bộ KH-KT cho phép mở rộng sản xuất trên qui mô lớn, sản phâm được sản xuất hàng loạt, được tiêu chuẩn hóa về kích thước, mẫu mã và chất lượng.

Sản lượng nông nghiệp tăng nhanh nhờ việc dung phân bón hóa học, sử dụng các loại máy kéo, máy cày, máy gặt đậpvà tổ chức trạm bơm trong hệ thống thủy nông.

Câu 14: Những chuyển biến quan trọng nhất của CNTB Âu Mĩ cuối XIX, đầu XX?

Trả lời:

Cuối thế kỉ XIX, do sự cạnh tranh của các công ty nhỏ bị phá sản hoặc sáp nhập lại với nhau, tài sản tập trung dần vào các nhà tư bản lớn hơn. Xu hướng tập trung sản xuất dẫn tới sự xuất hiện của các công ty độc quyền.

Sự tập trung sản xuất, tập trung tư bản làm tăng vai trò ngân hàng. Nhiều ngân hàng với số vốn khổng lồ đã nắm luôn các cơ sở sản xuất trực tiếp. Sự dung hợp giữa tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp tạo nên tầng lớp tư bản tài chính.

Cùng với việc xuất khẩu hàng hóa, tầng lớp tư bản tài chính đẩy nhanh xuất khẩu tư bản.

Do nguồn lợi thu được quá lớn từ xuất khẩu tư bản, các nước đế quốc tăng cường xâm lược thuộc địa.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Câu 15: Nêu và phân tích các đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc?

Trả lời:

Chủ nghĩa đế quốc

là một giai đoạn của chủ nghĩa tư bản, ở đó xuất hiện những tổ chức độc quyển lớn có trình độc khoa học kĩ thuật cao, quá trình xuất khẩu tư

 

bản cùng với sự ra đời của tư bản tài chính, kéo theo sự tranh giành thuộc địa ngày càng căng thẳng trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các mâu thuẫn giữa người lao động với tư sản, giữa thuộc địa và đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau ngày càng sâu sắc và không thể dung hòa.

Khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX là thời kì chủ nghĩa tư bản cạnh tranh chuyển sang tư bản tự do độc quyền. Việc sử dụng những nguồn năng lượng mới cùng những tiến bộ kĩ thuật tạo khả năng xây dựng các ngành công nghiệp qui mô lớn. Các xí nghiệp nhỏ lẻ không có nhiều vốn để mở rộng đầu tư sản xuất,không mang lại được nhiều lợi nhuận đứng trước hai sự lựa chọn, hoặc là bị phá sản hoặc là sáp nhập vào các công ty lớn. Vì vậy, diễn ra một quá trình tập trung tư bản, tập trung sản xuất vào các nhà sản xuất lớn làm xuất hiện các công ty độc quyền. Mà tiêu biểu là Cacten và Xanh đi ca ở Đức và Phap, Tơ-rơt ở Mĩ.

Cac-ten và Xanh-đi-ca là sự lien kết bên ngoài về giá cả, mẫu mã, thị trường… Tơ-rơt là tổ chức tập trung độc quyền vào tay một nhà tư bản, có khi nắm độc quyền cả một ngành sản xuất.

Trong nông nghiệp, dưới làn song của công nghiệp hóa, máy móc được sử dụng cùng với sự chuyển môn hóa trong sản xuất, tạo ra một nguồn của cải lớn vừa cung cấp trong nước vừa xuất khẩu. Như vậy quá trình tập trung sản xuất, tư bản đã làm xuất hiện các công ty độc quyền . Sự ra đời của các tổ chức lũng đoạn đã đánh dấu sự tiến triển to lớn trong việc tổ chức quản lý sản xuất nhờ đó tạo ra khốisản  phẩm  ngày  càng  nhiều,  có  chất  lượng  tốt  hơn.  CNTB  giai  đoạn  này  có mức độ tập trung hoá cao hơn, khắc phục được phần nào sự bất ổn trong sản 

xuất. Quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng nhanh chóng và đẩy nhanh quá trình 

hình  thành  kinh  tế  thế  giới.  Đồng  thời  các  tổ  chức  độc  quyền  đã  sử  dụng 

phương pháp cạnh tranh khốc liệt nhằm đánh bại, thu phục đối thủ và bóc lột công nhân ở trình độ dã man, tinh vi hơn.

                                                                  

Sự tập trung sản xuất, tập trung tư bản làm tăng vai trò của ngân hang. Lúc đầu ngân hang là nơi cho vay, sau trực tiếp đầu tư, tham gia chỉ đạo sản xuất kinh doanh. Các ngân hang ở Pa-ri, Luân Đôn,… đầu tư vào đường sắt, khai mo, hải cảng, nhà máy. Bên cạnh ngân hàng nhà nước còn có các ngân hàng tư nhân.

Dần dần trong ngành ngân hàng cũng có sự tập trung hình thành những ngân hàng lớn. Một vài ngân hàng lớn khống chế mọi hoạt động kinh doanh trong cả nước. Nhiều chủ ngân hàng với số vốn khổng lồ đã nắm luôn được các cơ sở sản xuất trực tiếp kinh doanh công nghiệp. Sự dung hợp giữa tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp đã tạo ra tầng lớp tư bản tài chính, trong đó quyền lực nhất là tầng lớp đầu sỏ tài chính. Họ lập ra các các Vương triều tư bản như Vua dầu mỏ Rôc-phơ-le, Vua thép Mooc-gan,… có khả năng làm gián đoạn tài chính.

Quá trình sản xuất đã tạo ra nhu cầu về thị trường nguyên liệu , nguồn nhân công nên các nước đế quốc đã tăng cường đầu tư ra nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau như cho vay nặng lãi, đầu tư vào sản xuất các nước thuộc địa để thu lợi nhuận phát triển sản xuất. Hoạt động xuất khẩu tư bản chính là một trong những đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc. Ví dụ như Pháp cho Nga hoàng và Nhật vay lãi, ở Đức và Mĩ cũng đẩy nhanh xuất khẩu tư bản nhưng lại ít thuộc địa. Điều đó làm xuất hiện nhu cầu xâm lược thuộc địa, mở rông sản xuất và nhu cầu xuất khẩu tư bản cần thị trường, nguyên liệu, nhân công.

Các nước đế quốc còn có chung một đặc điểm là đẩy mạnh việc xâm lược thuộc địa. Trong cuộc chạy đua đó thì Anh đã nhanh chân hơn nên có thuộc địa lớn nhất. Riêng Đức và Mĩ do hoàn thành cách mạng tư sản muộn hơn nên có ít hoặc không chiếm được thuộc địa, nên đã dung vũ lực chia lại thị trường thế giới. Anh chiếm ¼ điện tích thế giới, gấp 14 lần thuộc địa Đức và 3 lần thuộc địa Pháp.

Tóm lại, sự xuất hiện các công ty độc quyền, sự ra đời của tư bản tài chính, sự tăng cường xuất khẩu tư bản và xâm lược thuộc đia là những đặc điểm đánh dấu bước chuyển từ tự do cạnh tranh CNTB sang chủ nghĩa đế quốc.

Câu 16: Nêu và giải thích đặc điểm chủ nghĩa đế quốc Anh, Pháp, Đức, Mĩ?

Trả lời:

Trong quá trình chuyển từ CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền, Anh, Pháp, Đức, Mĩ là những nước phát triển mạnh nhất và thể hiện rõ nhất những đặc trưng của CNDQ.

Anh: Chủ nghĩa đế quốc thực dân. Ở Anh chủ nghĩa tư bản phát triển sớm và là nước đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp. Nhưng ngay từ giữa tk XIX, Anh là nước đứng đầu thế giới tư bản từng bước chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Với lợi thế về sức mạnh kinh tế, quân sự, Anh tiên phong trong việc xâm chiếm thuộc địa. ngoài các thuộc địa đã hình thành ở châu Mĩ, Anh đã xâm chiếm các nước châu Á( Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc, Mã lai…) và các nước châu Phi. Đến cuối tk XIX, Anh có thuộc địa rộng lớn, trải dài từ Đông sang Tây bán cấu với diện tích 33 triệu Km2 và 400 triệu dân. Vì vậy Lê-nin gọi Anh là chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Pháp: Chủ nghĩa đế quốc cho vay nặng lãi. Cũng là một nước sớm phát triển, đến thập niên 70, Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa với sự hình thành các tổ chức độc quyền. Đặc điểm của các tổ chức độc quyền Pháp là việc tập trung ngân hàng đạt mức cao. Ngân hàng lớn ở Pa-ri nắm 70% tư bản các ngân hàng trong nước. Pháp là nước đứng thứ 2 sau Anh về xuất khẩu tư bản nhưng khác Anh ở chỗ tư bản được chia cho các nước chậm tiến chủ yếu là Nga, Thổ Nhĩ Kì, các nước Mĩ-latinh vay lãi nặng. Vì vậy chủ nghĩa đế quốc Pháp là chủ nghĩa đế quốc cho vay lãi.

Đức: Chủ nghĩa đế quốc quân phiệt hiếu chiến. Đặc điểm này phản ánh sự phát triển lịch sử của chủ nghĩa quân phiệt ở Đức. Trước 1870 Đức bị chia cắt thành nhiều vương quốc lớn nhỏ khác nhau. Giới quân phiệt Phổ đã thống nhất Đức bằng con đường chiến tranh ( sắt và máu). Trên thực tế nhà nước Đức được thiết lập bằng chính sách bạo lực nên sau khi thống nhất nước Đức đã bị Phổ hóa, tư tưởng quân phiệt có điều kiện phát triển mạnh mẽ ở Đức. Nước Đức đi vào con đường tư bản chủ nghĩa tương đối muộn nên khi trở thành cường quốc công nghiệp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vươn lên đứng thứ 2 thế giới, thì phần lớn đất đai trên thế giới đã là thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của Anh, Pháp. Ngay từ thập niên 90 của tk XX, Đức đã công khai dung vũ lực chia lại thế giới. Đây là nước hung hăng nhất trong chủ trương chiến tranh phân chia lại thị trường, là đầu mối của mọi mâu thuẫn xung đột ở chau Âu. Mâu thuẫn giữa Đức với Anh và Pháp trở nên hết sức gay gắt dẫn tới chiến tranh thế giới thứ nhất. Vì vậy có thể khằng định rằng tính quân phiệt hiếu chiến là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Đức.

Mĩ: Là đế quốc của các Tơ-rơt. Chủ nghĩa tư bản ở Mĩ phát triển muộn hơn Anh, Pháp. Nhưng Mĩ có những điều kiện thuận lợi( tài nguyên, lao động dồi dào, tàn tích CDPK mờ nhạt, tiếp thu các thành tựu khoa học kĩ thuật) nên đến giữa thế kỉ XIX sau khi nội chiến Mĩ đã được giải quyết các mâu thuẫn cản trở sự phát triển , thì kinh tế TBCN phát triển mạnh mẽ. Mĩ vươn lên hàng đầu thế giới trong sản xuất công nghiệp. Quá trình tập trung tư bản ở Mĩ phát triển ở mức cao, các ngành công nghiệp đã lần lượt rơi vào tay một số nhà tư bản kếch xù dưới hình thức Tơ-rơt_ một hình thức độc quyền ở Mĩ. Dẫn đến sự xuất hiện các ông vua công ngiệp đồng thời là các chủ ngân hàng chi phối toàn bộ đời sống chính trị và xã hội của nước Mĩ như vua dầu mỏ Rôc-phe-lơ, vua sắt thép Mooc-gan… Vì vậy nước Mĩ được mệnh danh là chủ nghĩa đế quốc của các Tơ-rơt.

Câu 17: Phân tích mặt tích cực và hạn chế của phong trào công nhân nửa đầu thế kỉ XIX?

Trả lời:

Về mặt tích cực:

Ở nửa đầu thế kỉ XIX, phong trào công nhân đã có những chuyển biến quan trọng, từ đấu tranh tự phát dần dần trưởng thành về mặt chính trị, trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Nếu như đầu thế kỉ XIX, công nhân chưa nhận thức đúng đắn về kẻ thù của họ, họ cho rằng chính máy móc đã gây ra tình trạng thất nghiệp và nỗi khổ của họ. Họ trút căm giận vào các cỗ máy, đốt nhà xưởng. Tuy những hành động này có gây tổn thất cho giai cấp TS nhưng đều bị chính quyền TS đàn áp, đời sống công nhân vì thế cũng không được cải thiện. Từ những năm 20-30 của thế kỉ XIX, công nhân đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức, từng bước hình thành các tổ chức nghề nghiệp, chủ động đấu tranh cho quyền lợi giai cấp mình, nhằm đúng vào kẻ thù là giới chủ TS

Phong trào công nhân đã diễn ra dưới nhiều hình thức từ đạp phá máy móc tới mittinh biểu tình, thu thập chữ kí đòi kiến nghị, tiêu biểu là phong trào hiến chương ở Anh. Bãi công đã trở thành hình thức đấu tranh đặc trưng của giai cấp công nhân. Sự xuất hiện hình thức này đã chứng tỏ, công nhân đã ý thức được vị trí của mình đối với nền kinh tế XH, biết đoàn kết đấu tranh để tạo ra áp lực, buộc giới chủ phải nhượng bộ. Bên cạnh đó, đấu tranh vũ trang diễn ra ở nhiểu nơi, tiêu biểu là khởi nghĩa Li-ong ở Pháp (1848) thể hiện sự xung đột mạnh mẽ về lợi ích của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản.

Mục tiêu đấu tranh được nâng dần lên từ đòi quyền lợi kinh tế sang đòi quyền lợi về chính trị, mục tiêu phổ biến của các phong trào đấu tranh là tăng điều kiện sống, tăng lương, giảm giờ làm… Tuy nhiên các mục tiêu chính trị đã xuất hiện như đòi quyền quyền bầu cử ở Anh (1832-1848) , đòi thành lập nền công hòa ở Pháp. Công nhân đã chứng tỏ các phong trào thể hiện tính quần chúng rõ nét tiêu biểu là Li-ông ở Pháp, Hiến chương ở Anh…

Về hạn chế:

-

        

Các cuộc đấu tranh còn lẻ tẻ, chưa có sự đoàn kết thống nhất trong đoàn thể giai cấp công nhân và mang nặng tính tự phát.

-

        

Các cuộc đấu tranh đều thất bai do thiếu tổ chức, thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn, một đường lối chính trị rõ rang

Với những mặt tích cực và hạn chế đó, sự phát triển của phong trào công nhân tuy thất bại nhưng đã tạo điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học.

Câu 18: Hoàn cảnh ra đời và nội dung CNXH không tưởng? mặt tích cực và hạn chế?

Trả lời:

Sự phát triển của CNTB ngày càng phơi bày những mặt tiêu cực của nó trong việc bóc lột tàn nhẫn người lao động và gây ra nhiều tệ nạn xã hội. Điều này đã tác động tới ý thức của một số nhà tư tưởng tiến bộ lúc bấy giờ như: Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê ở Pháp và R. Ô-oen ở Anh… Họ nêu tư tưởng về xây dựng một xã hội mới, không có chế độ tư hữu, không bóc lột, nhân dân làm chủ phương tiện sản xuất.

Xanh-xi-mông, nhà tư tưởng ở Pháp, cho rằng động lực phát triển của lịch sử là kiến thức khoa học đạo đức và tôn giáo. Ông chủ trương xây dựng một xã hội đang tồn tại chế độ tư hữu, vô sản và tư sản cùng chung sống hòa bình với nhau.

Sac-lơ Phu-ri-ê nhà xã hội không tưởng Pháp, phê phán mạnh mẽ chế độ tư bản, vạch kế hoạch xây dựng một xã hội phát huy mọi khả năng của con người. Ông cho rằng trong xã hội tương lai, lao động là nghĩa vụ, là nguồn vui và nhu cầu của tất cả mọi người, không có ai ăn bám.

Rô-be Ô-oen nhà xã hội không tưởng Anh, đề ra kế hoạch cải thiện đời sống của công nhân trong khuôn khổ chế độ tư bản. Ông chủ trương xóa bỏ tư hữu, giai cấp, sự bóc lột bằng con đường hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau.

Về mặt tích cực:

- Một là: Nhìn chung, các nhà tư tưởng XHCN không tưởng( ) đều thể hiện một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, nhiều giá trị nhân đạo đã vượt khỏi khuôn khổ hệ tư tưởng tư sản.

- Hai là: Các nhà không tưởng, ở mức độ khác nhau, đều đã phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ TBCN đương thời.

- Ba là: Trong một giai đoạn lịch sử khá dài, với những tư tưởng tiến bộ và bằng những hoạt động tích cực của mình, các nhà không tưởng đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng lao khổ và thúc đẩy lịch sử tiến lên không chỉ về mặt lý luận mà còn về cải tạo xã hội.

- Bốn là: Các nhà không tưởng đã nêu lên nhiều luận điểm có giá trị, nhiều dự đoán tài tình về sự phát triển của xã hội, về một xã hội tương lai tốt đẹp hơn ... đã làm phong phú thêm cho kho tàng tư tưởng XHCN, chuẩn bị những tiền đề lý luận quan trọng cho sự kế thừa và phát triển tư tưởng XHCN lên một trình độ mới.

Về hạn chế:

- Một là: Các nhà không tưởng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm của triết học cận đại về chân lý vĩnh cửu và cũng chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm về lịch sử. Do đó, họ trông đợi vào sự xuất hiện của "con người tài ba xuất chúng" sẽ phát hiện ra chân lý vĩnh cửu và thuyết phục toàn xã hội, lúc đó, ắt sẽ xây dựng được xã hội mới.

- Hai là: Chưa nhận thức được bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa.

- Ba là: Hầu hết các nhà không tưởng đều có khuynh hứng đi theo con đường ôn hoà để cải tạo xã hội - bằng thuyết giáo, cải cách pháp luật, thực nghiệm xã hội để nêu gương - đó đều không phải là những con đường cách mạng để có thể thủ tiêu chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới.

- Bốn là: Các nhà không tưởng đều không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ CNTB lên CNXH và CNCS - đó là giai cấp công nhân.

Tóm lại, Với các giá trị nêu trên, các tư tưởng XHCN không tưởng, nhất là tư tưởng XHCN không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX của Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thừa nhận là một trong 3 nguồn gốc lý luận của học thuyết mà các ông xây dựng và là tiền đề lý luận trực tiếp của CNXHKH.

Câu 19: TRình bày tóm tắt sự ra đời, nội dung và ý nghĩa tuyên ngôn đảng cộng sản?

Trả lời:

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một chừng mực nào đó ở Đức. Ở nhiều nước Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) diễn ra khá mạnh mẽ. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gây gắt. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đã trở nên không thể điều hòa được. Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của CNTB mà trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.

Do đó, ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp vô sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của quốc gia. Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang nước Đức. Giai cấp vô sản Đức tiến hành cuộc đấu tranh của mình nhưng sự giác ngộ của họ còn yếu kém. Giữa lúc đó, Mác và Ăng-ghen nhận thức sâu sắc rằng: cần phải làm cho giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập và làm cho họ tiến gần tới việc thực hiện những mục đích của cộng sản chủ nghĩa. Tại Luân Đôn (thủ đô nước Anh) tổ chức "Liên minh những người chính nghĩa" ra đời năm 1836 và cuối năm 1847 họp Đại hội lần thứ hai. Mác và Ăng-ghen được ủy nhiệm soạn thảo Cương lĩnh dưới hình thức một bản tuyên ngôn “ tuyên ngôn đảng cộng sản”

Về nội dung:

1-

   

Qui luật phát triển của xã hội loài người là từ thấp đến cao, đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội trong xã hội có giai cấp. Chủ nghĩa tư bản ra đời mặc dù tiến bộ hơn so với CDPK nhưng đến lượt mình nó sẽ được thay bằng một chế độ khác ưu việt hơn.

2-

   

Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản và vô sản tất yếu sẽ dẫn tới cuộc cách mạng XHCN và sứ mệnh của giai cấp vô sản là đấu tranh lật đổ CNTB.

3-

   

Trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của CNTB, giai cấp vô sản cần đặt dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cộng sản. Những người cộng sản là những người giác ngộ tiên tiến nhất là đội tiên phong của giai cấp vô sản.

4-

   

Cuộc đấu tranh chông giai cấp tư sản sẽ được tiến hành bằng bạo lực cách mạng

5-

   

Tuyên ngôn của đảng cộng sản phê phán trào lưu XHCN phi vô sản, những mặt tích cực và hạn chế của chủ nghĩa XH không tưởng.

6-

   

Sự cấp thiết phái đoàn kết giai cấp công nhân ở các nước.

·

       

Ý nghĩa:

-

        

Lí luận chủ nghĩa xã hội khoa học thể hiện được sự kết hợp giữa CNXH với phong trào công nhân

-

        

Tư tưởng này đã soi sáng con đường đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức.

-

        

Tư tưởng có giá trị lí luận thực tiễn và lâu dài.

Câu 20: Nguyên nhân, diễn biến và kết quả cuộc cách mạng 18-3-1871?

Trả lời:

Trước cách mạng, cả Pháp và Phổ đều muốn chiến tranh. Phổ gây chiến tranh với Pháp để thống nhất đất nước vì nước Pháp TB là một sự cản trở. Pháp muốn tiến hành chiến tranh để cứu vãn sự sụp đổ của đế chế II. Kết quả là quân Pháp liên tiếp thất bại trên chiến trường. Tháng 9-1870, Na-pô-lê-ông III cùng toàn bộ quân chủ lực bị bắt. Quân Phổ bắt đầu tiến vào nước Pháp.

Trước hành động xâm lược của Phổ, quần chúng nhân dân cùng các giai cấp công nhân ở Pa-ri đã nổi dậy khởi nghĩa đòi thiết lập chế độ cộng hòa, chuẩn bị lực lượng chống Phổ, cứu nguy cho Pa-ri.

Giai cấp tư sản Pháp đã thành lập chính phủ vệ quốc nhưng lại không chống cự lại Phổ khi chúng tiến vào Pa-ri. Chính phủ vệ quốc còn xin đình chiến với Phổ, tìm cách phá hoại cuộc kháng chiến nhân dân. Thực ra chính phủ vệ quốc là chính phủ phản quốc.

Thái độ đầu hàng của chính phủ vệ quốc đã làm cho quần chúng nhân dân bất bình đứng lện khởi nghĩa để lật đổ chế độ phản động của g/c TS bảo vệ tổ quốc…

Về diễn biến, 18/3/1871 cuộc cách mạng đã nổ ra và kết quả là dành được thắng lợi. Quân khởi nghĩa đã chiếm được các cơ quan chính phủ, nhà ga và tòa thị chính, xây dựng nhà nước vô sản ở Pa-ri. Ngày 26/3/1871 nhân dân Pa-ri đã tổ chức bầu cử hội đồng công xã. Ngày 28/3

 

hội đồng công xã làm lễ ra mắt. Đánh dấu sự thắng lợi của cách mạng.

Câu 21: Vì sao công xã Pa-ri là nhà nước kiểu mới? nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm?

Trả lời:

Công xã Pa-ri là nhà nước kiểu mới

.

       

Cơ cấu tổ chức của bộ máy chính quyền hoàn toàn khác so với các thời kì trước:

-

       

Cơ quan cao nhất là hội đồng công xã tập trung trong tay quyền lập pháp và hành pháp.

-

       

Công xã thành lập các ủy bản: ủy ban quân sự, ủy ban an ninh, ủy ban giáo dục,… đứng đầu mỗi ủy ban là một ủy viên công xã, chịu trách nhiệm trước công xã trước nhân dân và có thể bị bãi miễn bất cức lúc nào nếu đi ngược lại quyền lợi nhân dân.

-

       

Quân đội và cảnh sát cũ được thay bằng lực lượng vũ trang và lực lượng an ninh nhân dân.

-

       

Nhà thờ tách khỏi nhà nước và trường học, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng.

       

Nhà nước của dân:

-

       

Cơ quan cao nhất của nhà nước là hội đồng công xã được bầu theo phổ thông đầu phiếu. Đại biểu trúng cử hàu hết là công nhân và trí thức tiến bộ đại diện cho nhân dân lao động.

-

       

Công nhân dù không chiếm số đông nhưng là lực lượng lãnh đạo trong công xã và công nhân là giai cấp cách mạng nhất năm được lực lượng vũ trang và lôi cuốn tiểu tư sản.

       

Nhà nước do dân: nhân dân được quyền bầu cử và bãi miễn các cơ quan quyền lực của nhà nươc, được tham gia các lực lượng vũ trang để bảo vệ chính quyền.

       

Nhà nước vì dân:

-

       

Công xã không ngừng chăm lo đời sống nhân dân và đề ra nhiều biện pháp tổ chức nền kinh tế quốc dân.

-

       

Kinh tế:

+ Chuyển giao các xí nghiệp chủ bỏ trốn và một số xí nghiệp khác cho công nhân quản lí. Điều đó cho thấy lần đầu tiên công nhân được sở hữu về tư liệu sản xuất. Nhà nước kiểm soát chế độ tiền lương, bớt lao động ban đêm, nghiêm cấm việc đánh đập, cúp phạt công nhân. Hoàn trả tiền nợ tiền thuê nhà. Qui định giá bán bánh mì, tìm việc làm cho mọi người, bắt chủ hiệu cầm đồ phải trả lại cho người nghèo những vật đã cầm. Qui định ngày làm 10h. Phụ nữ được hưởng quyền công dân.

-

       

Giáo dục – xã hội:

+ Đề ra các hệ thống giáo dục thống nhất, bắt buộc và không phải trả tiền học. Giáo viên được nâng lương gấp đôi. Nhiều trường học các cấp được xây dựng. Trường học không được dạy kinh thánh.

+ Vận động

 

mọi người tham gia tích cực đời sống chính trị. Nhiều tổ chức quần chúng ra đời. Các ùy viên công xã tham gia các buổi sinh hoạt của tổ chức quần chúng, lắng nghe ý kiến của nhân dân để rút ra kinh nghiệm và nhanh chóng phát hiện ra sai lầm để sửa chữa.

Tóm lại, các chính sách và hoạt động của công xã Pa-ri chứng tỏ công xã Pa-ri là một nhà nước kiểu mới, hoản toàn khác với các kiểu nhà nước của giai cấp bóc lột trước kia, là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nguyên nhân thất bại

:

-

       

Khách quan: CNTB đang giai đoạn phát triển, dư sức đối phó với kiểu các mạng như công xã Pa-ri. Các thế lưc TS và lực lượng phản động ra sức đàn áp công xã Pa-ri.

-

       

Chủ quan: Giai cấp công nhân Pháp chưa trưởng thành, chưa đủ lực lượng và kinh nghiệm để đánh bại giai cấp tư sản. Họ chưa có một chính đảng của giai cấp vs, chưa có một đường lối cách mạng đúng đắn. Công xã cũng đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng như thiếu kiên quyết trấn áp kẻ thù, bỏ lỡ thời cơ, chưa hình thành được lien minh công nông, chưa có sự lien kết với các địa phương khác, chiến đấu một cách đơn độc.

Ý nghĩa:

-

       

Công xã Pa-ri là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nhằm xóa bỏ chế độ TBCN thiết lập nền chuyên chính vô sản. Cuộc cách mạng này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào sự thống trị của giai cấp tư sản.

-

       

Công xã Pa-ri đã cổ vũ tinh thần cách mạng cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng bản thân và giải phóng nhân dân lao động.

Bài học:

+ Công xã đã để lại nhiều bài học quí báu, đó là sự cần thiết phải có một chính đảng vô sản,phải thực hiện lien minh công nông, về tính thống nhất của phong trào, phải kiên quyết trấn áp kẻ thù, phải đập tan nhà nước cũ, thiết lập nhà nước mới của dân, do dân và vì dân.

“Đây là lần đầu tiên, giai cấp vô sản đã tấn công lên tận trời”

  

(C.Mac)

Câu 22: Vì sao nói đảng Bôn Sê Vich Nga là đảng kiểu mới?

Trả lời:

Là Đảng kiểu mới vì mang những đặc trưng:

+ Khác với các đảng trong quốc tế thứ hai, đấu tranh triệt để vì quyền lợi của giai cấp công nhân, mang tính giai cấp tính chiến

đấu triệt để.

+ Chống chủ nghĩa cơ hội, tuân theo nguyên lí của chủ nghĩa Mác (đánh đổ chủ nghĩa tư

bản xây dựng chủ nghĩa xã hội)

+ Đảng dựa vào quần chúng nhân dân, lãnhđạo quần chúng làm cách mạng.

Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga là đảng

kiểu mới của giai cấp vô sản.

Câu 23: Vì sao nói cách mạng Nga 1905-1907 là cuộc cách mạng tư sản kiểu mới? Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thất bại?

Trả lời:

Về lãnh đạo cách mạng: do giai cấp vô sản lãnh đạo.

Về lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân và binh lính.

Về nhiệm vụ: Làm nhiệm vụ của một cuộc cách mạng đan chủ tư sản, xóa bỏ chế độ chuyên chế của Nga hoàng.

Về hướng phát triển: Chuyển lên XHCN.

Đối với nươc Nga, Tuy thất bại nhưng đã đánh một đòn ngặn nề vào chính quyền Nga hoàng và giai cấp tư sản, Là bước chuẩn bị cần thiết cho cuộc cách mạnh chủ nghĩa xã hội mười năm sau đó ( năm 1917)

Đối với thê giới, cách mạng Nga đưa tới một cao trào đấu tranh của giai cấp vô sản trong các nước đế quốc. Đối vơi các dân tộc bị áp bức, thúc đẩy sự phát triển phong trào GPDT ở các nước phương Đông đầu thế kỉ XX. Tạo nên sự “thức tỉnh” của châu Á, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Về nguyên nhân thất bại:

Do sự phản bội của giai cấp tư sản. giúp hoàng đàn áp khởi nghĩa. Xét về tương quan lực lượng, lúc này Nga hoàng đang đủ sức đàn áp khởi nghĩa.

Giai cấp công nhân Nga còn thiếu kinh nghiệm tổ chưc.

Chưa có một chính đảng lãnh đạo cách mạng.

Binh linh và nông dân chưa được giác ngộ đầy đủ, chưa xây dựng được liên minh CN-ND.

Câu 24: Trình bày nguyên nhân, nội dung tính chất cuộc Duy tân minh trị ở Nhật bản?

Trả lời:

- Đầu thế kỉ XIX, chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản đứng đầu là Tướng quân (Sô- gun) làm vào khủng hoảng suy yếu.

* Về kinh tế:

-Nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Nông dân không có quyền chiếm hữu đất đai, các lãnh chúa phong kiến phát canh ruộng đat cho nông dân để thu tô, Địa chủ bóc lột nhân dân lao động rất nặng nề. Tình trạng mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra.

Nghề thủ công như dệt cải, làm giấy, nấu rượu,… phát triển nhanh chóng phía Tây Nam. Song tình trạng cát cứ làm xuất hiện hàng rào thuế quan ảnh hưởng tới sự phát triển công thương nghiệp.

- Công nghiệp :ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hoá phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều.

-Những mầm mống kinh tế tư sản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng.

*Về xã hội:

Chính phủ Sô-gun vẫn duy trì chế độ đẳng cấp. Tầng lớp Đaimyô gồm những quí tộc PK lớn, quản lí các vũng lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong lãnh địa của họ: có chế độ luật pháp thuế khóa, quân đội riêng. Tầng lớp Samurai, chừng hơn 1 triệu người, không có ruộng đất, chỉ phục vụ Đamyô bằng việc huấn luyện và chỉ huy quân đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Nhưng trong một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị Samurai suy giảm, lương bổng thất thường, đời sống khó khăn. Nhiều người rời khỏi lãnh địa tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công… dân dần tư sản hóa, trở thành lực lượng đấu tranh chông CDPK lỗi thời.

-Giai cấp tư sản vẫn còn yếu, không đủ sức xoá bỏ chế độ phong kiến, nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến khống chế mà còn bị các nhà buôn và bọn cho vay lãi bóc lột.

Do bị áp bực bóc lột nặng nề, các tầng lớp nhân dân lao động chủ yếu là nông dân thị dân liên tiếp nổi dậy chống phong kiến.

*Về chính trị:

-Đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là quốc gia phong kiến. Nhà vua được tôn là Thiên hoàng, có vị tối cao nhưng quyền hành chủ yếu thuộc về Tướng quân. Sau 200 năm thống trị của dòng họ Tô-ku-ga-oa, CDPK Nhật bản đã rơi vào tình trạng bế tắc suy thoái khong đáp ứng được những yêu cầu phát triển của xã hội, không đủ sức chống lại sự xâm nhập các nước đế quốc Âu- Mĩ.

-Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc Phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương Tây, trước tiên là Mĩ, dùng áp lực quân sự đòi Nhật Bản phải “mở cửa”.

Phong trào bài ngoại dâng cao, dư luận khắp nơi đòi đuổi người nước ngoài và tập trung mũi nhọn đả kích chế độ Tô-ku-ga-oa.

Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục con đường trì trệ, bảo thủ để các nước đế quốc xâu xé; hoặc canh tân, cải cách xoá bỏ chế độ phong kiến, đưa Nhật Bản hoà nhập với nền kinh tế phương Tây.

- Từ những hiệp ước bất bình mà Mạc phủ kí kết với nước ngoài làm cho tầng lớp xã hội phản ứng mạnh mẽ.

- Phong trào đấu tranh chống Sô gun nổ ra sôi nổi vào những năm 60 của thế kỉ XX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ.

-Tháng 01/1868 Sô-gun bị lật đổ. Thiên hoàng Minh Trị (Meiji) trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách.

* Nội dung cải cách Minh Trị:

- Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị (May-gi) đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc hâu.

*Về chính trị :

-Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, xóa bỏ tình trạng cát cứ, đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia thống nhất thuộc quyền chỉ đạo chính phủ trung ương, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do. Chính phủ được tổ chức lại theo kiểu châu Âu, gồm 12 bộ, có đại diện quí tộc, tư sản tham gia nhưng đóng vai trò quan trong là quí tộc tư sản hóa (samurai) vùng Tây Nam.

-Ban hành Hiến pháp 1889, chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập. Thiên hoàng là nguyên thủ tối cao, có quyền hạn rất lớn. Quốc hội gồm 2 viện: thượng viện và hạ viện. Đại biểu thượng viện do thiên hoàng chọn ra trong số những người hoàng thân, những người đóng thuế cao nhất và những người có công trạng đặc biệt. Đại biểu hạ viện bầu cử với điều kiện hạn chế. Trên thực tế chỉ có 1% dân số đủ điều kiện bầu cử.

*Về kinh tế:

- Thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, xoá bỏ sự độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến.

-Tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn.

-Xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, phục vụ giao thông liên lạc.

Nhà nước nắm giữ việc khai mỏ…

*Về quân sự:

Nhật bản xác định phương pháp vươn lên chủ yếu trong thế giới tư bản chủ nghĩa là chiến tranh giành dật thuộc địa, mở rộng lãnh thổ.

-Được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây.

-Chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh.

-Chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn dược.

*Về giáo dục:

-Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc.

-Chú trọng nội dung khoa học- kỹ thuật trong chương trình giảng dạy,.

-Cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây…

+ Tính chất :

-Cải cách Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản.

-Nhật thoát khỏi số phận bị các nước tư bản phương Tây xâm lược

- Mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật.

Như vậy Cuộc Duy tân Minh Trị như 1 cuộc cách mạng tư sản đã đưa Nhật từ một nước phong kiến lạc hậu thành một nước tư bản chủ nghĩa, chuyển lên đế quốc chủ nghĩa…

Câu 25: Trình bày dấu hiệu chứng tỏ 30 năm cuối thế kỉ XIX Nhật Bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Làm rõ đặc điểm đế quốc chủ nghĩa Nhật Bản?

Trả lời:

-Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX (sauchiến tranh Trung - Nhật (1894-1895), nhờ số tiền bồi thường và của cải cướp được tài Triều tiên và Đông bắc Trung quốc kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Trong vòng 14 năm(1900-1914) tỉ lệ giá trị công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã tăng từ 19% lên 42%.

-Quá trình tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp với ngân hành đã đưa đến sự ra đời những công ty độc quyền, Mít-xưi, Mit-su-bi-si chi phối đời sống kinh tế, chính trị Nhật Bản.

- Đầu thế kỉ XX, Nhật thi hành chính sách xâm lược và bành trướng:

+Năm 1874 Nhật xâm lược Đài Loan.

+Năm 1894 – 1895 Nhật gây chiến với Trung Quốc để tranh giành Triều Tiên, uy hiếp Bắc Kinh, chiếm cửa biển Lữ Thuận, nhà Thanh phải nhượng Đài Loan và Liêu Đông cho Nhật

+Năm 1904-1905 Nhật gây chiến với Nga buộc Nga phải nhường cửa biển Lữ Thuận, đảo Xa-kha-lin, thừa nhận Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên.

-Năm 1914, Nhật dùng vũ lực mở rộng ảnh hưởng ở Trung Quốc và chiếm Sơn Đông. Nhật trở thành đế quốc hung mạnh nhất châu Á.

- Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân lao động.

-Mặc dù tiến lên con đường TBCN song Nhật Bản vẫn duy trì quyền sở hữu ruộng đất phong kiến, tầng lớp quí tộc, đặc biệt là giới samurai có ưu thế chính trị rất lớn. Chủ nghĩa đế quốc Nhật được gọi là “Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt, hiếu chiến”

Sự phát triển kinh tế công thương nghiệp làm cho giai cấp công nhân Nhật Bản ra đời và không ngừng phát triểnRất phản động, bóc lột nặng nề nhân dân trong nước, nhất là giai cấp công nhân, công nhân Nhật phải làm việc từ 12 đến 14 giờ một ngày trong những điều kiện tồi tệ, tiền lương thấp.

-Sự bóc lột nặng nề của giới chủ đã dẫn đến nhiều cuộc đấu tranh của công nhân.

Câu 26: Sự ra đời và hoạt động của đảng quốc đại.

Trả lời:

Phong trào tư sản dân tộc Ấn

Độ ra đời từ những năm 70 của thế kỉ XIX thường do các trí thức chủ trì dưới hình thức là các hội khai hoá. Phong trào tư sản Ấn

 

Độ lúc này một mặt hoà quyện vào phong trào dân tộc có xu hướng tư sản mặt khác chính các phong trào tư sản lại được các phong trào dân tộc khác cũng như cuộc đấu tranh chống đế quốc của nhân dân Ấn

 

Độ thúc đẩy, cổ vũ vì thế phong trào của tư sản ngày càng phát triển. Từ các tổ chức

 

chớnh

 

trị-

 

 

hội

 

đơn

 

lẻ

 

của

 

 

sản,

 

địa

 

chủ

 

trong

 

những

 

năm

 

60-

 

70 của thế kỉ XIX, các tổ chức đó đã được thống nhất trên phạm vi toàn quốc từ những năm 80 trở đi. Tiêu biểu cho sự thống nhất ấylà sự ra đời của Đảng Quốc

 

dân

 

đại

 

hội

 

Ấn

   

Độ

 

gọi

 

tắt

 

 

Đảng

 

Quốc

 

Đại.

 

Đảng

 

được

 

thành

 

lập vào ngày 28- 12- 1885 ở Bombay. Đây là tổ chức chính trị thống nhất đầu tiên của giai cấp tư sản Ấn

 

Độ với thành phần một nửa là tầng lớp trí thức tư sản cao cấp, một nửa còn lại bao gồm các nhà công nghiệp, thương gia và địa chủ. Thực dân Anh ủng hộ sự thành lập Đảng Quốc đại với mục tiêu lái cuộc đấu tranh giành độc lập của giai cấp tư sản và nhân dân Ấn

 

Độ, đồng thời

 

biến

 

 

thành

 

công

 

cụ

 

xoa

 

dịu

 

nỗi

 

bất

 

bình

 

trong

 

dân

 

chúng

 

 

Đảng Quốc đại được coi như là “Cái van an toàn” cần thiết cho sự cai trị của thực dân Anh ở Ấn

 

Độ. Quá trình đi đến sự thành lập Đảng Quốc đại có vai trò tớch cực của các

 

tổ

 

chức

 

chớnh

 

trị

 

 

Ấn

   

Độ,

 

đặc

biệt

 

 

của

 

hiệp

 

hội Ấn

Độ

 

va

 

A.O. Hume, một quan chức người Anh đã nghỉ hưu. Sự ra đời của Đảng Quốc Đại đã kết thúc “thời đại của các hiệp hội” và là sự kết tinh của phong trào dân tộc Ấn độ về chính trị và tổ chức. Trong quá trình phát triển hoạt động của mình, trong khoảng 20 năm đầu từ khi thành lập hoạt động của Đảng mới chỉ đóng khung trong những

yêu sách về quyền tự trị và bình đẳng giưa người Ấn và người Anh, bảo vệ

 

 

phát

 

triển

 

công

 

nghiệp,

 

giảm

 

thuế,

 

chống

 

sự

 

khác

 

biệt

 

về

 

thuế quan…Đảng không hề đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc thực sự của Ấn Độ. Đảng cũng chủ trương thực hiện những yêu sách trên bằng các biện pháo hoà bình trong khuôn khổ hiến pháp, cải cách xã hội từng bước. Tuy vậy đảng vẫn tìm cách hạn chế hoạt động của Đảng quốc đại.

Thất vọng trước thái độ thỏa hiệp của những người lãnh đạo đảng quốc đại và chính sách hai mặt của chính quyền Anh, một phái dân chủ cấp tiến do Ti-lăc đứng đầu xuất hiện, thường được gọi là “phái cực đoan”. Phái này phán đối đường lối thỏa hiệp của “phái ôn hòa”, đòi hỏi có thái độ kiên quyết chống Anh.

Hai

 

mươi

 

năm

 

sau,

 

Đảng

 

mới

 

bắt

 

đầu

 

nói

 

được

 

tiếng

 

nói

 

riêng

 

của mình. Quá trình này gắn với quá trình trưởng thành của giai cấp tư sản Ấn Độ. Trong một thời gian dài, Đảng Quốc đại chưa xác định được phương hướng đấu tranh. Phải đến năm 1908, Đảng mới đề ra tự trị là mục tiêu đấu tranh cao nhất của Đảng. Đấu tranh tự trị nghĩa là đấu tranh để mở rộng sự tham gia của người Ấn Độ vào bộ máy chính quyền.

Như vậy,

Đảng Quốc Đại - chính đảng của giai cấp tư sản Ấn Độ dù có những hạn chế nhất định đã đóng vai trò của một tổ chức lãnh đạo có thế lực nhất và có ảnh hưởng nhất trong nhân dân, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng yêu nước Ấn Độ đã tham gia tích cực vào sự nghiệp của toàn dân tộc chống thực dân Anh.

Câu 27: Tình hình Trung Quốc giữa thế kỉ XIX?

Trả lời:

Từ thế kỉ XVIII và nhất là sang thế kỉ XIX, các nước tư bản tăng cường xâm chiếm thị trường thế giới. Nhiều nước ở châu Á như Ấn Độ, Mã Lai, Miến Điện… đã trở thành thuộc địa của các nước đế quốc Anh, Hà lan. Trung Quốc, một nước lớn, đông dân, giàu tài nguyên khoáng sản, có truyền thống văn hóa lâu đời, cũng đứng trước nguy cơ trở thành miếng mồi cho các nước đế quốc phân chia, xâu xé.

Để xâm chiếm Trung Quốc, các nước tư bản phương Tây, trước hết là Anh, tìm mọi cách đòi chính quyền Mãn Thanh mở cửa, đòi tự do buôn bán thuốc phiện, món hàng mang lại nhiều lợi nhuận cho giới tư bản.

Cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Anh gây ra từ tháng 6-1840 và kết thúc vào tháng 8-1842 gọi là chiến tranh thuốc phiện. Bị thất bại trong chiến tranh, chính quyền Mãn Thanh phải chấp nhận kí Hiệp ước Nam Kinh với các điều khoản nặng nề theo yêu cầu của thực dân Anh.

Hiệp ước Nam Kinh là hiệp ước đầu hàng của triều đình phong kiến Mãn Thanh, là xiềng xích đầu tiên mà các nước đế quốc tròng vào cổ nhân dân Trung Quốc. Nó đánh dấu mốc mở đầu của quá trình biến Trung Quốc từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến.

Sau chiến tranh thuốc phiện, các nước đế quốc từng bước nhảy vào xâu xé Trung Quốc.

Trước sự xâm lược của các nước đế quốc và sự thỏa hiệp của triều đình Mãn Thanh, từ giữa XIX, nhân dân Trung Quốc liên tục nổi dậy đấu tranh chống thực dân phong kiến.

Câu 28: Trình bày sự ra đời và tổ chức của TQDMH. Nêu và đánh giá mặt tích cực và hạn chế trong cương lĩnh của tổ chức này?

Trả lời:

Sự bành trướng của CNTB vào Trung Quốc, một mặt phá vỡ nền kinh tế thủ công nghiệp ở thành thị và kinh tế gia đình của nông dân, mặt khác lại thúc đẩy công thương nghiệp, kích thích sự phát triển của CNTB ở Trung Quốc. Giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời từ cuối thế

 

kỉ XIX và đã lớn mạnh lên rất nhiều vào đầu thế kỉ XX. Họ bị chèn ép, kìm hãm bởi bon thực dân và triều đình phong kiến Mãn Thanh. Dựa vào các cuộc đấu tranh bền bỉ liên tục của quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản Trung Quốc bắt đầu tập hợp lực lượng, thành lập tổ chức chính trị của mình. Tôn Trung Sơn là đại diện ưu tú và là lãnh tụ kiệt xuất của phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc.

Đầu năm 1905, phong trào đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến của nhân dân Trung Quốc đã lan rộng khắp các tỉnh. Hoa kiều ở nước ngoài cũng nhiệt liệt hưởng ứng phong trào. Trước tình hình đó, Tôn Trung Sơn từ châu Âu về Nhật Bản. Bàn với người đứng đầu các tổ chức cách mạng trong nước để thống nhất lực lượng thành một chính đảng. Tháng 8-1905, Trung Quốc đồng minh hội, chính đảng của giai cấp tư sản ra đời.

Cương lĩnh của Đồng minh hội dựa trên học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn là: “ Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Mục tiêu của hội là đánh đổ Mãn thanh khôi phục Trung Hoa, thành lập dân quốc ( chế độ cộng hòa) thực hiện quyền bình đẳng ruộng đất.

Tích cực: hội đã xác định được mục tiêu chống phong kiến, thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Về phương pháp: kiên quyết dung bạo lực cách mạng để thực hiện mục tiêu ấy.

Hạn chế: hội coi trọng của cuộc cách mạng Trung Quốc mới chỉ là đánh đổ tập đoàn phong kiến Mãn Thanh, chưa nhận ra kẻ thù chủ yếu của cách mạng là chủ nghĩa đế quốc và toàn bộ giai cấp địa chủ, phong kiến nên chỉ dừng lại ở mục tiêu dân chủ, chưa hướng đến mục tiêu dân tộc. Trong khi đối với một nước thuộc địa như Trung Quốc, nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc. CHế độ cộng hòa mà họ thành lập là chế độ cộng hòa tư sản cho nên chưa giải phóng được người lao động.

Câu 29: Trình bày nguyên nhân, kết quả, tính chất, ý nghĩa của cách mạng Tân hợi?

Trả lời:

Về nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn giữa nhân dân với chế độ phong kiến và đế quốc.

Về nguyên nhân trực tiếp, ngày 9-5-191, chính phủ Mãn Thanh ra sắc lệnh “ Quốc hữu hóa đường sắt” nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh đường sắt cho các nước đế quốc, bán rẻ quyền lợi dân tộc. Sự kiện này đã gây nên một làn sóng căm phẫn mạnh mẽ công khai trong quần chúng nhân dân và trong tầng lớp tư sản, châm ngòi cho một cuộc cách mạng.

Kết quả : thắng lợi.

Cách mạng Tân Hợi (1911) là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, do những người trí thức cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo, đã lật đổ triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại lâu đời ở Trung Quốc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, có ảnh hưởng nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước Châu Á.

Câu 30: Vì sao nói cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng không triệt để? Ảnh hưởng của cách mạng Tân Hợi với VN?

Trả lời:

Đây là cuộc cách mạng tư sản không triệt để.

+Không giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân, một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng. Chính vì vậy, họ không động viên được đông đảo quần chúng nông dân tham gia.

+Không thủ tiêu thực sự giai cấp phong kiến, mà chỉ thỏa hiệp. Việc đem toàn bộ chính quyền cách mạng giao cho Lê Nguyên Hồng, và sau nữa là Viên Thế Khải, là một minh chứng.

+Không dám đụng chạm đến các nước đế quốc xâm lược, tức là không dám đấu tranh giành lại quyền lợi của dân tộc. Để rồi họ câu kết với Viên, giúp Viên củng cố thế lực, quay lại đoạt công và chống phá cách mạng.

Ngoài ra, các hạt nhân lãnh đạo Đồng Minh hội hãy còn non yếu về mặt đường lối và tổ chức, nên sự phối hợp hãy còn lỏng lẻo, nhiều khi tư tưởng cũng không đồng nhất

Ảnh hưởng:

Cách mạng Tân Hợi có ảnh hưởng rất lớn tới cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX.

Tư tưởng dân chủ tư sản chống phong kiến của cuộc cách mạng đã được truyền bá vào VN, thúc đẩy khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản ở VN phát triển.

Trong 10 năm đầu, Phan Bội Châu đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, tiến hành bạo động vũ trang chống Pháp, xây dựng nền quân chủ lập hiến nhưng không thành. Phong trào Duy Tân nhanh chóng kết thúc Phan Bội Châu sang Thái Lan. Khi cách mạng Tân Hợi bùng nổ, lập trường của PBC đã thay đổi, ông chuyển sang lập trường xây dựng chế độ cộng hòa, thành lập Việt Nam Quang phục hội, đề ra cương lĩnh hoạt động trên cơ sở học tập cương lĩnh của Trung Quốc Đồng minh hội.

Trong những năm 20 của thế kỉ XX, tư tưởng C/m Tân Họi vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới Việt Nam, lực lượng tư sản dân tộc đã thành lập các tổ chức cách mạng trên cơ sở tiếp thu sự ảnh hưởng về mục tiêu và phương pháp của cuộc cách mạng này.

Câu 31 : Đánh giá chung về PTGPDT ở ĐNA cuối XIX?

Trả lời:

Cuối thế kỉ XIX, hầu hêt các nước Đông Nam Á đều bị các nước phương Tây xâm lược và đặt ách thống trị. Chính quyền phong kiến trở thành tay sai cho các nước thực dân. Do đó phong trào đấu tranh ở Đông Nam Á diễn ra trong một tình thế bất lợi và có sự chuyển tiếp từ chống xâm lược lên đấu tranh giải phóng dân tộc.

Các cuộc đấu tranh ở Đông Nam Á diễn ra lien tục sôi nổi dưới nhiều hình thức khác nhau thu hút được sự tham gia đông đảo của các lực lượng xã hội, phổ biến nhất là hình thức khởi nghĩa vũ trang. Như khởi nghĩa A-cha-xoa, pu-côm-bô, si-vô-tha ở Cam-pu-chia, khởi nghĩa Pa-ca-đuôc, Ong kẹo và Com-ma-dam, Pa-chay của Lào,…

Từ cuối XIX, chính sách cai trị của thực dân đã làm kinh tế-xã hội các nươc Đông Nam Á thay đổi. Sự du nhập của phương thức TBCN, sự ra đời của các giai cấp tầng lớp mới TS,CN… đã tạo điều kiện mới cho sự phát triển của phong trào dân tộc dân chủ. Vì vậy, đầu thế kỉ XX, phong trào có sự chuyển biến rõ rệt.

Câu 32: Vì sao trong một bối cảnh chung, Xiêm không trở thành thuộc địa?

Trả lời:

Trong bối cảnh chung của thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, nền kinh tế TBCN đang ở vào giai đoạn phát triển cực thịnh; giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước lớn làm tăng nhu cầu vế thuộc địa, cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa. Các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ngày càng được đẩy mạnh. Bước vào đầu thế kỷ XIX vùng Đông Nam Á rộng lớn trở thành mục tiêu của các nước đế quốc. Trước xu thế bành trướng của các nước đế quốc, nhiệm vụ lịch sử chung của các nước Đông Nam Á lúc này là: bằng mọi cách phải bảo vệ độc lập dân tộc. Con đường thực hiện điều này ở từng nước lại khác nhau. Trong khi hầu hết các quốc gia Đông Nam đều không chống chọi được với chủ nghĩa thực dân Phương Tây thì Xiêm (Thái Lan) là một nước Đông Nam Á ngoại lệ, đã sớm nhận thức được cục diện chính trị thế giới và xây dựng được chương trình hành động phù hợp để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Vậy nguyên nhân nào đã giúp Xiêm bảo vệ được nền độc lập cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong khi các nước Đông Nam Á khác không giữ được?

Khác với các quốc gia Đông Nam Á khác, trước sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây, Xiêm đã chủ trương “ mở cửa” đối với tất cả quan hệ với họ, tạo điều kiện hòa nhập vào thị trường thế giới. Chính sự xâm nhập của các nước tư bản phương Tây góp phần các nước tư bản kiềm chế lẫn nhau để Xiêm không là thuộc địa của riêng một nước nào. Hơn thế nữa đường lối ngoại giao uyển chuyển, “lựa chiều”, sự khôn khéo của các triều đại Rama III, Rama IV đã đưa Xiêm đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhưng quan trọng hơn hết là giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc trước áp lực xâu xé của các nước tư bản phương Tây.

Chính vị trí địa lý thuận lợi đã cho phép Xiêm trở thành “khu đệm” trong quan hệ Anh và Pháp. Lợi thế này giúp Xiêm lợi dụng tốt sự kềm tỏa của nhiều nước tư bản.

Bên cạnh đó chính sách “mở cửa” đã tạo nên một cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị đối với đất nước Xiêm được nảy sinh và phát triển, cụ thể là sự hình thành và phát triển của tầng lớp quý tộc tư sản hóa và tư sản Xiêm. Trên cơ sở đó, Chulalongkorn đã thực hiện những cải cách rất quan trọng: xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ vì nợ, giải phóng người lao động để họ làm ăn sinh sộng, đồng thới xóa bỏ nghĩa vụ lao dịch bắt buộc 3 tháng trên công trường nhà nươc, giảm thuế cho nông dân, khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh, xây dựng nhà máy, cửa hiệu buôn bán và ngân hàng. Cùng với đó là hàng loạt cải cách theo khuôn mẫu các nước phương Tây về hành chính, quân đội, trương học… Điều đó đã cho phép Xiêm hội đủ những điều kiện đối phó với những thách thức của các nước phương Tây, giữ vững được độc lập quốc gia.

Nhờ cải cách làm sức mạnh Xiêm tăng lên và đường lối của Xiêm theo quỹ đạo các nước phương Tây giúp Xiêm dễ hòa nhập vào thế giới phát triển. Chính các yếu tố trên đã tác động qua lai với nhau góp phần đưa nước Xiêm ra khỏi số phận là thuộc địa của tư bản Phương Tây cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.

Như vậy về những nguyên nhân giúp Xiêm giữ được nền độc lập của mình vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể được khái quát hóa như sau: Ban đầu là thực hiện chính sách mở cửa để rồi lợi dung vị trí địa lý và vị trí chính trị để kí các hiệp ước nhằm mục đích biến mình thành nước đệm và cuối cùng là thực hiện công cuộc cải cách nhằm củng cố thực lực quốc gia và dần xóa bỏ những hiệp ước đã ký với các nước Phương Tây trước đó.

Trường hợp của Xiêm cho thấy sự khôn ngoan của triều đình Băng Cốc là: đã tiến hành cải cách bắt kịp đà tiến của thời đại, gia nhập có ý thức và có tính toán vào cuộc hành trình của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó cũng cho thấy một khả năng, một giải pháp để thoát khỏi cảnh bị nô dịch thuộc địa mà nhiều nước kể cả triều đình phong kiến Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ.

Câu 33: So sánh đặc điểm của PTGPDT của Mĩ-latinh và châu Á?

Trả lời:

Châu Á

Mĩ-Latinh

Mục tiêu

Giải phóng dân tộc

Chống c/s bành trướng của

Đối tượng

Thực dân phương Tây

Phương pháp

Vũ trang

Chính trị, vũ trang

Kết quả

Thất bại

Thành sân sau của Mĩ

Câu 34: Quan hệ quốc tế dẫn tới CTTG thứ I? Nêu tính chất và kết cục chiến tranh?

Trả lời:

Sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB cuối thế kỉ XIX- đầu XX đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng giữa các nước đế quốc. Bên cạnh các nước đế quốc già ( Anh, Pháp,) với hệ thống thuộc địa mênh mông là các nước đế quốc “trẻ” ( Mĩ, Đức, Nhật) đang vươn lên mạnh mẽ về kinh tế nhưng lại ít thuộc đia. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa là không tránh khỏi và ngày càng gay gắt. Giới cầm quyền Đức đã vạch ra kế hoạch chiến tranh nhằm giành giật thuộc địa, chia thị trường. Nhật Bản và Mĩ cũng ráo riết hoạch định chiến lược bành trướng của mình. Vì vậy từ

 

ngay cuối thế kỉ XIX, đầu XX những cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên đã nổ ra để tranh giành thuộc địa.

Sau chiến tranh Trung Nhật( 1894-1895) Nhật Bản giành được bán đảo Triều tiên, Mãn Châu, Đài loan, Bành Hổ.

Sau chiến tranh Mĩ – Tây Ban Nha (1898) Mĩ chiếm được Phi-lip-pin, Cu-ba,…

Sau chiến tranh Anh- Bô Ơ (1899-1902) Anh chiếm được vùng đất Nam Phi.

Sau chiến tranh Nga Nhật (1904-1905) Nhật gạt Nga để khằng định quyền thống trị tại Triều Tiên, Mãn châu và phía Nam đảo Xa-kha-lin.

Trong cuộc chiến tranh giành thuộc địa, Đức là kẻ hung hăng nhất vì có tiềm lực kinh tế và quân sự nhưng lại ít thuộc địa. Thái độ của Đức đã làm thay đổi quan hệ quốc tế ở châu Âu, trở thành đầu mối mọi mâu thuẫn, mọi sự tranh chấp phức tạp và căng thẳng giữa các nước đế quốc với nhau.

Từ những năm 80 của thế kỉ XIX, giới cầm quyền Đức đã vạch ra kế hoạch chiến trang nhằm chiếm hết châu Âu, vươn ra cac thuộc địa của Anh, Pháp ở châu Á. Năm 188, Đức cùng Áo-hung và I-ta-li-a thành lập liên minh tay ba, gọi là phe liên minh.

Đối phó với âm mưu của Đức, Anh cũng chuẩn bị kế hoạch chiến tranh. Lúc này, Pháp cũng muốn đòi Đức trả lại 2 vùng An-dat và Lo-ren.

 

Nga ủng hộ các nước Ban-căng chống lại Áo-Hung. Vì thế Anh, Pháp, NGa tuy có tranh chấp về thuộc địa nhưng lại phải nhân nhượng lẫn nhau kí những bản hiệp ước tay đôi: Pháp-Nga(1890), Anh-Pháp(1904), Anh-Nga (1907), hình thành phe hiệp ước.

Như vậy đầu thế kỉ XX, châu Âu đã hình thành 2 khối quân sự đối đầu nhau. Cả hai khối này đều ôm mộng xâm lược, cướp đoạt lãnh thổ và thuộc địa của nhau, đều điêm cuồng chạy đua vũ trang. Cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc là không tránh khỏi. Nó bắt đầu từ qui luật phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị của các nước TBCN về vân đề thuộc địa, trước tiên là giữa đế quốc Anh và đế quốc Đức, là nguyên nhân cơ bán dẫn tới cuộc chiến tranh

Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa.

Chiến tranh thế giới thứ nhất(1914-1918) đã gây nên những thảm họa hết sức nặng nề đối với nhân loại: 38 nước với tổng số quân là 37 triệu người và 1,5 tỉ dân bị lôi vào vòng khói lửa; 10 triệu người chết, trên 20 triệu người bị thương. Nhiều thành phố làng mạc đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy. Số tiền các nước tham chiến chi phí cho chiến tranh lên tới 85 tỉ đô la. Các nước châu Âu đều bị biến thành con nợ của Mĩ. Riêng Mĩ được hưởng lợi từ chiến tranh nhờ buôn bán vũ khó, đất nước không bị ném bom tàn phá,thu nhập quốc dân tăng gấp đôi,vốn đầu tư ra nước ngoài tăng 4 lần. Nhật Bản chiếm lại một số đảo của Đức, nâng cao vị thế ở Đông Nam Á và Thái Binh Dương.

Câu 35: Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc tạo ra những biến đổi gì?

Trả lời:

Chiến tranh thế giới thứ nhất từ năm 1914 đến năm 1918 đã gây nên những biến đổi lớn trên thế giới. Các nước châu Âu đều bị biến thành con nợ của Mĩ. Riêng Mĩ được hưởng lợi từ chiến tranh nhờ buôn bán vũ khó, đất nước không bị ném bom tàn phá,thu nhập quốc dân tăng gấp đôi,vốn đầu tư ra nước ngoài tăng 4 lần. Nhật Bản chiếm lại một số đảo của Đức, nâng cao vị thế ở Đông Nam Á và Thái Binh Dương.

Trong quá trình chiến tranh, thắng lợi của Cách mạng tháng mười Nga và việc thành lập nhà nước Xô Viết đánh dấu một bước chuyển lớn trong cục diện chính trị thế giới.

Câu 36: Tình hình nước Nga trước cách mạng 2/1917?

Trả lời:

Đầu thế kỉ XX, Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế, đứng đầu là Nga hoàng Ni-cô-lai II. Chế độ quân chủ Nga hoàng cùng sự tồn tại những tàn tích phong kiến lạc hậu đã kìm hãm sự phát triên kinh tế TBCN ở Nga. Việc Nga hoàng tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước, phơi bày những sự lạc hậu về kinh tế chính trị và làm cho những mâu thuẫn xã hôi ngày càng gay gắt.

Sau 3 năm theo đuổi chiến tranh, đến đầu năm 1917 nền kinh tế quốc dân hoàn toàn kiệt quệ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đình đốn. Nạn thất nghiệp tăng nhanh, nạn đói xảy ra trầm trọng ở nhiều nơi. Mọi nỗi khổ đè nặng lên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân, công nhân và hơn 100 dân tộc khác trong đế quốc Nga.

Nền kinh tế của nước Nga lạc hậu, không chịu được tình trạng căng thẳng của chiến tranh. Ngoải mặt trận, quân đội liên tiếp thất bại. Tính đến đầu 1917, có tới 1,5 triệu người chết và hơn 4 triệu người bị thương.

Phong trào phản đối chiến tranh, đòi lật đổ chế độ Nga Hoàng lan rộng khắp nơi. Chính phủ Nga hoàng ngày càng trở nên

 

bất lực, không còn khả năng tiếp tục thống trị như cũ nữa. Nước Nga tiến sát tới một cuộc cách mạng.

Câu 37: Vì sao nước Nga có tới 2 cuộc cách mạng năm 1917?

Trả lời:

Năm 1917 ở Nga có 2 cuộc cách mạng là cách mạng tháng 2 và cách mạng tháng 10.

Với cách mạng dân chủ tư sản tháng 2 năm 1917. Trước cách mạng, Nga là nước quân chủ chuyên chế, đứng đầu là Nga hoàng. Kinh tế bị kìm hãm, công nông nghiệp còn rất lạc hậu, đời sống nhân dẫn Nga thấp nhất châu Âu. Vì thế cần phải có một cuộc cách mạng dân chủ tư sản để xóa đi càn trở phong kiến, mở đường cho CNTB phát triển ở Nga. Cách mạng tháng 2 đã nổ ra và thắng lợi.

Với cách mạng XHCN tháng 10 năm 1917:

Sau khi cách mạng tháng 2 năm 1917 thắng lợi, chế độ Nga hoàng bị lật đổ, nước Nga có hai chính quyền song song tồn tại: chính phủ tư sản lâm thời của giai cấp tư sản; Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Đây là hai chính quyền đối lập nhau, không thể cùng tồn tại lâu dài. Chính phủ tư sản lâm thời không triệt để phá bỏ phong kiến mà còn cấu kết với quí tộc phong kiến tiếp tục chiến tranh vơi Đức.

Do vậy, muốn giải phóng mọi sự áp bức,bất công, nước Nga phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản, lật đổ chính phủ tư sản, thiết lập nhà nước công nông, tiến lên xây dựng CNXH. Trước tình hình đó, Lê-nin và đảng Bôn-sê-vich đã vạch ra đường lối chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sáng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, trong năm 1917, nước Nga có hai cuộc cách mạng.

Câu 38: Phân tích tính chất và ý nghĩa của cách mạng tháng 10 Nga?

Trả lời:

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đã đạt tới đỉnh cao bằng việc giành chính quyền về tay nhân dân. Đây là một sự kiện lịch sử vĩ đại của loài người và nó mang cả ý nghĩa trong nước và quốc tế

.

Về tính chất, Lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Mười Nga là do giai cấp vô sản đứng đầu. Lực lượng tham gia bao gồm nhiều tầng lớp, giai cấp thế nhưng động lực chủ yếu là công – nông – binh.

- Kết quả: Chính quyền Xô viết giành

 

nược thắng lợi trên khắp nước Nga rộng lớn,

 

nạp tan ách áp bức bóc lột của phong kiến, tưsản, giải phóng công nhân và nhân dân lao nộng, nưa côngnhân và nhân dân lên nắm chính quyền, tiến lên chủnghĩa xã hội.

- Cuộc Cách mạng tháng Mười tuyệt nhiên không phải do âm mưu hay ý muốn chủ quan thấp hèn của bất cứ tổ chức, cá nhân có tham vọng chính trị nào ở nước Nga lúc nó cố tình gây ra, những gì diễn ra trước, trong và sau Cách

 

mạng tháng Mười

 

đã

 

chứng

 

minh thuộc tính khoa

 

học xã

 

hội

 

của Cách mạng diễn ra phù hợp với lịch sử phát triển không ngừng trong xã hội loài người, bất chấp thời gian và mọi biến thiên đã xẩy ra sau này có thay đổi

 

đến đâu thì mục

 

đích cao cả của Cách mạng tháng Mười được thể hiện qua những sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô viết là: Cương quyết chống chiến tranh tàn bạo, xây dựng nền hoà bình và ruộng nất cho nhân dân lao

 

động luôn luôn là mục

 

đích muôn

 

đời của xã hội loài người. Cách mạng tháng Mười Nga, có mục đích khác hẳn các cuộc cách mạng tư sản đầu Cận đại. Vì vậy, nó mang tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (cách mạng vô sản).

Về ý nghĩa, cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 đã giải phóng cho các dân tộc bị đế quốc Nga áp bức. Vì vậy, nó có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với nước Nga, mà còn có ý nghĩa sâu sắc với phong trào cách mạng thế giới.

Đối với nước Nga, Cách mạng tháng 10 đã mở ra một kỉ nguyên mới làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước: xóa bỏ ách thống trị của phong kiến và tư sản Nga, thành lập chính quyền Xô viết, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước. Lần đầu tiên nhà nước Xã hội chủ nghĩa được thiết lập trên thế giới, trên phạm vi diện tích bằng 1/6 diện tích thế giới

Đối với thế giới, cách mạng tháng 10 Nga có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lịch sử và cục diện thế giới:

- Đập tan chủ nghĩa đế quốc ở khâu yếu nhất là đế quốc Nga từ đó phân chia thế giới thành hai chế độ đối lập nhau là Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội.

- Mở ra con đường Cách mạng vô sản cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản và nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. Cách mạng tháng Mười như một tấm gương chói lọi, nó thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức đứng lên tự giải phóng.

- Cách mạng tháng Mười đã mở đầu sự gắn bó chặt chẽ giữa phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thành một mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc. Bởi vậy từ sau Cách mạng tháng Mười, phong trào cách mạng ở mỗi nước trong đó có Việt Nam đều là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.

- Cách mạng tháng Mười đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lê-nin đồng thời nó mở đường cho chủ nghĩa Mác Lê-nin thâm nhập vào tất các quốc gia, dân tộc khác nhau trên thế giới nhất là các nước thuộc địa và phụ thuộc.

- Cung cấp những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu cho phong trào Cách mạng thế giới.

- Cách mạng tháng Mười và Chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc thời kì Lịch sử thế giới cận đại và mở ra thời kì phát triển mới trong lịch sử loài người: Lịch sử thế giới hiện đại – giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Câu 39: So sánh chính sách kinh tê mới và chính sách cộng sản thời chiến?

Trả lời:

Tiêu chí so sánh

Chính sách cộng sản thời chiến

Chính sách kinh tế mới

Hoàn cảnh

1918-1920, tiến hành

 

chiến tranh cách mạng, chống thù trong giặc ngoài

1921-1925, khi đất nước bước vào thời kì hòa bình, xd CNXH trong điều kiện khó khăn

Nội dung

Nông nghiệp

Thực hiện chế độ lao động bắt buộc, nhà nước trưng thu lương thực thừa, nông dân không được tự do buôn bán lương thực

Thực hiện chính sách thu thuế lương thực, thu bằng hiện vật

Công nghiệp

Nhà nước năm quyền kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp

Tập trung khôi phục CN nặng, nắm các ngành CN chủ chốt, nhà nước chấn chỉnh tổ chức, quản lỉ sản xuất CN.

Thương nghiệp-tiền tệ

Nhà nước kiểm soát mọi hoạt động phân phối, cầm tự do buôn bán

Tư nhân được tự do buôn bán trao đổi, nhà nước mở các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ kinh tế giữa thành thị và nông thôn, phát hành đồng rúp thay cho các loại tiền cũ.

Tác dụng

Tập trung toàn bộ sức người sức của để chống thù trong giặc ngoài.

Bảo vệ thành quả cách mạng tháng 10

Phục hồi phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.

Tạo cơ sở kinh tế chính trị cho Liên Xô bước vào công cuộc xây dựng CNXH

Có thể thấy , chính sách kinh tế mới thể hiện sự chuyển đổi kịp thời từ nền kinh tế nhà nước nắm độc quyền về mọi mặt sang nền kinh tế nhiều thành phần và tự do buôn bán, do nhà nước điều phối và quản lí.

Chính sách kinh tế mới xuất phát từ những quan điểm của Lê-nin về việc xây dựng CNXH ở một nước trung bình. Trong thời kì đầu của CNXH, những thành phần kinh tế TBCN vẫn còn phát huy tác dụng thì cần phải được duy trì để thúc đẩy nền kinh tế. Nhà nước XHCN phát động vai trò điều tiết để kinh tế hàng hóa phát triển một cách tự do- hướng sang TBCN

Chính sách kinh tế mới đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng CNXH của các nước sau này.

Câu 40: Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga?

Trả lời:

Cách đây 91 năm, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lê-nin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã làm nên cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại mở ra một thời đại mới cho loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là do những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu sau đây:

-Một là, có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản Nga, một giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, được rèn luyện, thử thách, tập dượt trong quá trình cách mạng và có nhiều kinh nghiệm. Giai cấp công nhân Nga có một đảng vô sản kiểu mới - Đảng Cộng sản, đứng đầu là V.I.Lê-nin thiên tài, được vũ trang bằng học thuyết Mác. Giai cấp công nhân Nga vừa là động lực, vừa là người lãnh đạo cách mạng. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, nhạy bén của Đảng về chiến lược, sách lược là điều kiện quyết định bảo đảm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

- Hai là, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi vì có khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Đảng Cộng sản đã tranh thủ về mình những người đồng minh trung thành, hùng hậu, có tinh thần cách mạng là nông dân nghèo, tranh thủ được trung nông và các tầng lớp khác, đặc biệt là binh lính của giai cấp tư sản.

- Ba là, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra kịp thời trong điều kiện, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, khi cuộc chiến tranh thế giới giữa các nước đế quốc đang diễn ra quyết liệt, chúng không thể tập trung lực lượng để chống phá cách mạng. Hơn nữa, kẻ thù của cách mạng là giai cấp tư sản Nga vừa lạc hậu, vừa yếu đuối và bị phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản Anh, Pháp, có lúc còn phải dựa vào các đảng cơ hội -khác.

- Bốn là, Đảng Cộng sản và Lê-nin đã vận dụng một cách uyển chuyển, khôn khéo, nhanh nhạy về chính trị, tiến công kẻ thù để giác ngộ và vận động quần chúng. Đảng Cộng sản và Lê-nin đã đánh giá đúng tình hình và chuyển biến cách mạng kịp thời, làm cho cách mạng nhanh chóng thành công. Đảng Cộng sản và Lê-nin đã kết hợp được cuộc đấu tranh cho hoà bình, đấu tranh giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức với cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội thành một phong trào thống nhất.

Câu 41: Các giai đoạn của CNTB giữa hai cuộc chiến tranh thế giới?

Trả lời:

Trong những năm 1924-1929, các nước tư bản phát triển ổn định đạt mức tăng trưởng cao về mặt kinh tế. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế ồ ạt thiếu kế hoạch, không tương xứng với sự cải thiện đời sống của đời sống nhân dân, dẫn tới cung vượt quá xa cầu vì vậy khủng hoảng kinh tế nổ ra từ 1929 đến 1933

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) diễn ra đầu tiên ở Mĩ, trầm trọng nhất là vào năm 1932, đã tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản, đẩy hàng trăm triệu người vào tình trạng thất nghiệp đói khổ, gây mất ổn định về chính trị xã hội. Nhiều cuộc đấu tranh diễn ra, đe dọa nghiêm trong đến sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.

Từ thời kì 1934-1939 là thời kì các nước tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những con đường khác nhau. Hoặc tiến hành cải cách kinh tế như Anh, Pháp, Mĩ hoặc là phát xít hóa bộ máy chính quyền gây chiến tranh chia lại thế giới như Đức, Ý, Nhật. Điều đó đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối lập nhau, dẫn tới nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới mới là không thể tránh khỏi.

Câu 42: Nguyên nhân, đặc điểm, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933?

Trả lời:

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc khủng hoảng sản xuất “ thừa”, bởi vì sự sản xuất bừa bãi, ồ ạt chạy theo lợi nhuận trong những năm ổn định của chủ nghĩa tư bản 1924-1929 đã dẫn đến tình trạng hàng hoá ế thừa vì sức mua của quần chúng đã bị giảm sút nhiều do sự bóc lột tàn tệ của giai cấp tư sản.

Về đặc điểm, đây

 

là cuộc khủng hoảng thừa, khủng hoảng trầm trọng và kéo dài trong lịch sử các nước tư bản chủ nghĩa.

Về hậu quả, trong thời kì khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân thật là khốn khổ.
Thứ nhất là nạn thất nghiệp. Ở Mĩ, năm 1933, có 17 triệu người thất nghiệp, đó là chưa kể vô số nông dân bị phá sản, phải bỏ ruộng vườn đi ra thành phố sống lang thang. Ở Anh, năm 1931, có 3 triệu người thất nghiệp. Ở các nước khác cũng xảy ra tình trạng ấy.
- Thứ hai là tiền lương bị giảm xuống rất nhiều. Ở Mĩ, lương công nhân công nghiệp chỉ còn 56 % . Ở Anh lương giảm còn 66%; ở Pháp lương giảm từ 30 đến 40% . Đó là chưa kể giá đồng bạc sụt xuống làm cho tiền lương thực tế càng bị giảm sút hơn. Ở Pháp, mức thu nhập của nông dân giảm 2,7 lần và hàng vạn nông dân bị vỡ nợ và phá sản. Do đó đời sống của nhân dân lao động rất cùng cực. Năm 1931, riêng thành phố Niu-ooc ( Mĩ ) có hàng nghìn người chết đói.
Bị đẩy đến bước cùng cực, công nhân và nhân dân lao động nổi dậy đấu tranh. Ở Mĩ năm 1930 có 2 vạn công nhân biểu tình thị uy, từ năm 1929-1933, có 3 triệu rưỡi công nhân tham gia bãi công. Ở Đức, năm 1930, 15 vạn công nhân bãi công, năm 1933, 35 vạn công nhân mỏ bãi công.
Tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra từ xưa đến nay. Nó làm cho những mâu thuẫn trong xã hội tư bản và mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau đã gay gắt càng thêm gay gắt, chủ nghĩa tư bản thế giới càng thêm suy yếu. Báo hiệu nguy cơ một cuộc chiến tranh mới.

Câu 43: Trình bày các giai đoan phát triển của Đức từ 1918-1939?

Trả lời:

Sau thất bại nặng nề của Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và lan rộng khắp nước Đức vào những năm 1928-1923. Cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933) đã chấm dứt thời kì hồi phục ngắn ngủi của nền kinh tế và đưa Đức bước vào thời kì đen tối: thời kì thống trị và chuẩn bị phát động chiến tranh thế giới của chủ nghĩa phát xít Đức.

Các giai đoạn phát triển của nước Đức từ 1918- 1939.

Nước Đức và cao trào cách mạng 1918 - 1923.


* Hoàn cảnh lịch sử:


- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức là nước bại trận ,bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng
- Mâu thuẫn xã hội gay gắt
- Cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng 11/1918 đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, thiết lập chế độ cộng hòa tư sản (Cộng hòa Vaima).

- Tháng 6/1919 hòa ước Véc-xai được ký kết. Nước Đức phải chịu những điều kiện hết sức nặng nề, trở nên kiệt quệ và rối loạn chưa từng thấy.

+Với hòa ước Véc-xai, nước Đức mất hết 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt.


+ Đức phải bồi thường một khoản chiến phí là 100 tỷ mác.


+Đồng Mác sụt giá nghiêm trọng. Năm 1914, 1 đô la Mĩ tương đương 4,2 mác; tháng 9/1923: 1 đô la tương đương 98.860.000 mác.


+Đời sống giai cấp công nhân và nhân dân lao động khốn quẫn. Phong trào cách mạng bùng nổ và ngày càng dâng cao những năm 1918- 1923


-Từ 1919 - 1923 phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Đức.
- Đỉnh cao : nổi dậy của công nhân Ba-vi-e (4-1949), thành lập Cộng Hoà Ba-vi-e…
-Từ 10/1923 cao trào cách mạng tạm lắng do sự đàn áp của chính quyền tư sản.

Những năm ổn định tạm thời (1924 - 1929)


Từ cuối năm 1923 kinh tế, chính trị, xã hội Đức ổn định.


*Về kinh tế:


+Từ năm 1925, sản xuất công nghiệp Đức phát triển mạnh và đến năm 1929 đã vượt qua Anh, Pháp, đứng đầu châu Âu.
+Quá trình tập trung sản xuất diễn ra mạnh, các tập đoàn tư bản lớn xuất hiện , thâu tóm các ngành kinh tế chính .

Giai cấp tư sản Đức đã sử dụng những khoản tiền vay của Mĩ, Anh thông qua các kế hoạch Đao-ét (1924) và Yơng (1929) để ổn định tài chính, khôi phục công nghiệp và nâng cao năng lực sản xuất. Thực chất của các kế hoạch này là dọn đường cho tư bản nước ngoài, nhất là tư bản Mĩ, có thể đầu tư rộng rãi vào Đức. Từ năm 1924 - 1929, các nước đầu tư của Đức khoảng 10 - 15 tỉ mác, trong đó 70 % là của Mĩ.


*Chính trị:


-Về đối nội :

chế độ cộng hòa Vaima được củng cố, quyền lực của giới tư bản độc quyền được tăng cường. Đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân, công khai tuyên truyền tư tưởng phục thù cho nước Đức.

-Về đối ngoại:

vị trí quốc tế của Đức được phục hồi. Đức tham gia Hội Quốc liên, ký kế một số Hiệp ước với các nước tư bản châu Âu và Liên Xô.

Nước Đức trong những năm 1929 - 1939


1. Khủng hoảng kinh tế và quá trình Đảng Quốc xã lên cầm quyền.


- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 1929 đã giáng đòn nặng nề làm kinh tế - chính trị - xã hội, Đức khủng hoảng trầm trọng .
-Để đối phó lại khủng hoảng, giai cấp tư sản cầm quyền quyết định đưa Hit-le thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức lên nắm chính quyền.
- Đứng đầu Đảng Quốc xã là Hít le :


+ Công khai tuyên truyền tư tưởng phục thù cho nước Đức.
+ Chống cộng sản đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật và phân biệt chủng tộc .
+ Phát xít hoá bộ máy nhà nước
+ Thiết lập nền chuyên chính độc tài do Hit-le làm thủ lĩnh tối cao và tuyệt đối.
-Đảng Cộng sản Đức kiên quyết đấu tranh song không ngăn cản được quá trình ấy.

Ngày 30/1/1933, Hit-le lên làm Thủ tướng. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức.

Nước Đức trong thời kỳ Hit-le cầm quyền (1933 - 1939)


Trong thời kỳ cầm quyền (1933 - 1939) Hit-le đã thực hiện các chính sách tối phản động về chính trị, xã hội, đối ngoại.

*Chính trị:


+ Công khai khủng bố của Đảng phái dân chủ tiến bộ, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
+ Thủ tiêu nền cộng hòa Viama, thiết lập nền chuyên chính độc tài do Hit-le làm thủ lĩnh tối cao và tuyệt đối.

Tháng 2/1933, chính quyền phát xít Đức dựng lên “vụ đốt cháy nhà Quốc hội” để lấy cớ khủng bố, tàn sát những người cộng sản. Năm 1934 Tổng thống Hin-đen-bua qua đời. Hit-le tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn nền cộng hòa Vaima, thay vào đó là nền “Chuyên chế độc tài khủng bố công khai” mà Hit-le là thủ lĩnh tối cao và tuyệt đối.


+ Năm 1934 Hit le xưng là quốc trưởng suốt đời .

*Kinh tế:


+T

ổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung mệnh lệch, phục vụ nhu cầu quân sự.
+Thành lập Hội đồng kinh tế (7-1933), phục hồi công nghiệp , nhất là công nghiệp quân sự , giao thông vận tải , giải quyết thất nghiệp…

* Đối ngoại:

chuẩn bị chiến tranh
+Nước Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên để được tự do hành động.
+ Ra lệnh tổng động viên quân dịch (1935), xây dựng nước Đức trở thành một trại lính khổng lồ.
+ Ký với Nhật Bản “ Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản” hình thành khối phát xít Đức - Italia - Nhật Bản.
Mục tiêu: Nhằm tiến tới phát động cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới.

Câu 44: Vì sao chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức?

Trả lời:

Sau thất bại nặng nề của Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và lan rộng khắp nước Đức vào những năm 1928-1923. Cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933) đã chấm dứt thời kì hồi phục ngắn ngủi của nền kinh tế và đưa Đức bước vào thời kì đen tối: thời kì thống trị và chuẩn bị phát động chiến tranh thế giới của chủ nghĩa phát xít Đức.

Những nguyên nhân khiến chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức là:

+ Do cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã để lại những hậu quả nặng nề đối với nền kinh tế, chính trị xã hội. Giai cấp tư sản cầm quyền không đủ mạnh để duy trì chế độ CHTS, đưa đất nước vượt ra khỏi khủng hoảng.

+ Chủ nghĩa phát xít nhận được sự ủng hộ của các tập đoàn tư bản trong nước và sự giúp đỡ của Anh, Pháp, Mĩ. Tiêu biểu là đảng Quốc xã Đức. Đảng quốc xã đã được hỗ trợ về mặt tài chính, xây trụ sở, hỗ trợ tranh cử, nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 nổ ra sự ủng hộ đó càng gia tăng.

+Anh, Pháp, Mĩ muốn mượn Đức chống Liên Xô và quốc tế cộng sản, nên đã lợi dụng những khó khăn của Đức để thực hiện ý đồ. Vì vậy, 30-1-1933, dưới sức ép của câu lạc bộ các ông chủ, tổng thống Hin-đen-bua đã chỉ định Hit-le lên làm thủ tướng và thiết lập chính phủ mới.

+Do đảng quốc xã đã lợi dụng tâm lí bất mãn của người Đức với hòa ước Vec-xai đê tuyên truyền mị dân, lôi kéo, kích động quần chúng.

+Sự phản bội của đảng CHDC Đức, đảng cộng sản Đức đã không phát huy được vai trò của mình trong việc chống phát xít.

Như vậy, từ những nguyên nhân trên, chủ nghĩa phát xít đã thắng thế ở Đức.

Câu 45: Tình hình nước Mĩ 1918-1939. Nhận xét chính sách đối ngoại của Mĩ?

Trả lời:

Trong những năm 1918-1939, nước Mĩ đã trải qua những buớc thăng trầm, từ sự phồn vinh của nền kinh tế những năm 20 đến cuộc khủng hoảng và suy thoái nặng nề chưa từng thấy trong lịch sử vào những năm 1929-1933. “Chính sách kinh tế mới” của tổng thống Ru-dơ-ven đã đưa nước Mĩ thoát khỏi khủng hoảng và duy trì sự phát triển của CNTB.

Trong những năm 1918-1929:

Về tình hình kinh tế, Sau chiến tranh thế giới I, Mĩ có nhiều lợi thế. Chiến tranh đã đem đến những cơ hội vàng cho nước Mĩ:

+Thu lợi nhuận lợi nhờ buôn bán vũ khí và hàng hóa.

+Mĩ trở thành chủ nợ của châu Âu.

+Mĩ cũng trở thành nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm khoảng 1/3 số vàng của thế giới)

+Áp dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật, sử dụng phương pháp quản lý tiên tiến, mở rộng quy mô và chuyên môn hóa sản xuất đã góp phần đưa nền kinh tế Mĩ tăng trưởng hết sức nhanh chóng.

+Mĩ bước vào thời kỳ phồn vinh trong suốt thập niên 20 của thế kỉ XX.

- Biểu hiện :

+Từ

 

năm 1923 - 1929 kinh tế Mĩ đạt mức tăng trưởng cao.

+ Trong vòng 6 năm sản lượng công nghiệp tăng 69% năm 1929 Mĩ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới. Vượt qua sản lượng công nghiệp của 5 cường quốc, công nghiệp Anh, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản cộng lại

+ Mĩ đứng đầu thế giới về các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, thép, dầu lửa, đặc biệt là ô tô. Năm 1919 Mĩ có trên 7 triệu ô tô, đến năm 1924 là 24 triệu chiếc. Mĩ sản xuất 57% máy móc, 49% gang, 51% thép và 70% dầu hỏa của thế giới.

+ Về tài chính: Từ chỗ phải vay nợ của châu Âu 6 tỉ đô la trước chiến tranh, Mĩ đã trở thành chủ nợ của thế giới (riêng Anh và Pháp nợ Mĩ 10 tỉ đô la). Năm 1929 Mĩ nắm trong tay 60% số vàng dự trữ của thế giới...

+ Với tiềm lực kinh tế đó đã giúp Mĩ khẳng định vị trí số 1 của mình và ngày càng vượt trội các đối thủ khác.

- Hạn chế:

   

+ Nhiều ngành sản xuất chỉ sử dụng 60 đến 80% công suất, vì vậy nạn thất nghiệp xảy ra.

  

+ Không có kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng.

Về tình hình chính trị- xã hội, Đảng Cộng hòa nắm quyền:

- Ngăn chặn công nhân đấu tranh. đàn áp tư tưởng “tiến bộ” trong phong trào công nhân.

- Ở Mĩ người lao động luôn phải đối phó với nạn thất nghiệp, bất công, đời sống của người lao động cực khổ nên đấu tranh

- Phong trào đấu tranh của công nhân nổ ra sôi nổi

-Tháng 5/1921 Đảng Cộng sản Mĩ thành lập (ngay trong lòng nước Mĩ,chủ nghĩa cộng sản vẫn tồn tại, đó là thực tế.)

Trong những năm 1929-1939

Cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 - 1933) ở Mĩ.

* Nguyên nhân : do sản xuất ồ ạt, chạy theo lợi nhuận , cung vượt quá xa cầu , khủng hoảng kinh tế thừa, bắt đầu từ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Ngày

 

29/10/1929, giá cổ phiếu sụt xuống 80%. Hàng triệu người đã mất sạch số tiền mà họ tiết kiệm cả đời.

*Hậu quả:

    

+ Năm 1932 sản lượng công nghiệp còn 53,8% (so với 1929).

    

+ 11,5 vạn công ty thương nghiệp, 58 công ty đường sắt bị phá sản.

    

+ 10 vạn ngân hàng đóng cửa, 75% dân trại bị phá sản, hàng chục triệu người thất nghiệp

Chính sách mới của Tổng thống Ru-dơ-ven cuối 1932.

- Cuối năm 1932 Ru-dơ-ven đã thực hiện một hệ thống các chính sách biện pháp của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - tài chính và chính trị - xã hội được gọi chung là Chính sách mới.

*Nội dung:

+ Giải quyết nạn thất nghiệp

+ Thông qua các đạo luật: Ngân hàng, phục hưng công nghiệp, trong các đạo luật đó - đạo luật phục hưng công nghiệp là quan trọng nhất. Đạo luật này quy định việc tổ chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đồng chặt chẽ về sản phẩm và thị trường tiêu thụ, quy định việc công nhân có quyền thương lượng với chủ đề mức lương và chế độ làm việc.

+Điều chỉnh nông nghiệp: nâng cao giá nông sản, giảm bớt nông phẩm thừa, cho vay dài hạn đối với dân trại...

 

*Kết luận: nhà nước can thiệp tích cực vào nền kinh tế, dùng sức mạnh, biện pháp để điều tiết kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế chính trị, xã hội.

*Kết quả:

+ Giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, xoa dịu mâu thuẫn xã hội.

+ Khôi phục được sản xuất.

+ Thu nhập quốc dân tăng liên tục từ sau 1933.

+ Duy trì chế độ dân chủ tư sản .

     

*Chính sách ngoại giao:

+ Thực hiện

 

chính sách “láng giềng thân thiện”

+ Tháng 11/1933 chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô.

- Trung lập với các xung đột quân sự ngoài châu Âu.

Chính sách mới thực sự là một chính sách tiến bộ.

+ “Chính sách mới” của Ru-nơ-ven xét về bản chất và mục tiêu đều nhằm cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế nguy kịch, phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản Mĩ.

+ Song, những cải cách của Ru-nơ-ven đã có tác dụng tích cực làm phục hồi nền kinh tế Mĩ và mở ra giai noạn mới của chủ nghĩa tưbản – chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, góp phần làm cho nước Mĩ duy trì nược chế

 

độ dân chủ tư sản, không đi theo con

 

đường chủ nghĩa phát xít, và ở mức

 

độ nào đáp ứng được những đòi hỏi của người lao động Mĩ lúc bấy giờ.

Câu 46: Tình hình Nhật từ 1918-1939?

Trả lời:

Nhật Bản là nước thu lợi nhiều trong trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Qua những năm ôn định ngắn ngủi sau chiến tranh, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã giáng những đòn nặng nề vào nước Nhật. Để tìm lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, giới quân phiệt Nhật Bản đã tiến hành phát xít hóa bộ máy nhà nước, biến Nhật Bản thành một lò lửa chiến tranh ở châu Á và thế giới.

Trong những năm 1918-1929, những năm đầu sau chiến tranh (1918 - 1923)

* Kinh tế

- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật có nhiều lợi thế để phát triển công nghiệp.

+ Nhật không bị chiến tranh tàn phá.

+ Thu lợi nhuận do sản xuất vũ khí.

+ Lợi dụng châu Âu có chiến tranh, Nhật tranh thủ sản xuất hàng hoá và xuất khẩu.

=> Sản xuất công nghiệp của Nhật tăng nhanh.

+ Biểu hiện: Từ 1914 - 1919 sản lượng công nghiệp tăng 5 lần, tổng giá trị xuất khẩu gấp 4 lần, dự trữ vàng và ngoại tệ tăng gấp 6 lần.

- Từ 1920 - 1921, Nhật Bản lâm vào khủng hoảng.

- Về xã hội: Đời sống người lao động không được cải thiện lắm, bùng nổ phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân.

+ Tiêu biểu có cuộc bạo động lúa gạo.

+ Phong trào bãi công của công nhân lan rộng. Trên cơ sở đó tháng 7/1922, Đảng Cộng sản Nhật thành lập.

2. Những năm ổn định tạm thời (1924 - 1929)

* Kinh tế:

- Từ 1924 - 1929, kinh tế Nhật phát triển bấp bênh, không ổn định.

+ Năm 1926, sản lượng công nghiệp phục hồi và vượt mức trước chiến tranh.

+ Năm 1927, khủng hoảng tài chính bùng nổ.

- Về chính trị xã hội :

+ Những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ XX, Nhật Bản tiến hành một số cải cách chính trị.

+ Những năm cuối thập niên 20, chính phủ Ta-na-ca thực hiện những chính sách đối nội và đối ngoại hiếu chiến.

II. Nhật Bản trong những năm 1929 - 1933

1. Khủng hoảng kinh tế (1929 - 1933)

- Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 tác động vào nền kinh tế Nhật Bản làm kinh tế Nhật bị giảm sút nghiêm trọng, nhất là trong công nghiệp.

- Biểu hiện:

+ Sản lượng công nghiệp 1931 giảm 32,5%.

+ Nông nghiệp giảm 1,7%

+ Ngoại thương giảm 80%

+ Đồng yên sụt giá nghiêm trọng

- Hậu quả: Khủng hoảng đạt đỉnh cao vào năm 1931, tác động mạnh đến xã hội.

+ Nông dân bị phá sản.

+ Công nhân thất nghiệp 3.000.000 người.

+ Mâu thuẫn xã hội lên cao, những cuộc đấu tranh của nhân dân lao động bùng nổ quyết liệt.

2. Quá trình quân phiệt hóa bộ máy nhà nước

- Để thoát khỏi khủng hoảng giới cầm quyền Nhật chủ trương quân phiệt hóa bộ máy nhà nước, gây chiến tranh xâm lược.

- Đặc điểm của quá trình quân phiệt hóa:

+ Diễn ra sự kết hợp giữa chủ nghĩa quân phiệt với nhà nước, tiến hành chiến tranh xâm lược.

+ Quá trình quân phiệt hóa ở Nhật kéo dài trong thập niên 30.

- Song song với quá trình quân phiệt hóa Nhật đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thuộc địa.

+ Năm 1931, Nhật đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, biển Đông thành bàn đạp để tấn công châu Á.

3. Nhân dân Nhật Bản đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt

- Trong thập niên 30 của thế kỉ XX, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật diễn ra sôi nổi.

- Lãnh đạo Đảng Cộng sản.

- Hình thức: Biểu tình, bãi công, thành lập Mặt trận nhân dân.

- Mục đích: Phản đỗi chính sách xâm lược hiếu chiến của chính quyền Nhật.

- Tác dụng: làm chậm quá trình quân phiệt hóa bộ máy.

Câu 47: Quan hệ quốc tế dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai?

Trả lời:

Từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, ba nước Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã đi theo

 

đường lối gây chiến tranh chia lại thế giới. Đức và Nhật Bản rút khỏi Hội quốc liên (1933) để cùng với I-ta-li-a liên kết thành khối liên minh phát xít Đức- Italia- Nhật (1937), được mệnh danh là “Trục Béc-lin- Rô-ma- Tokio” hay gọi tắt là phe Trục. Khối liên minh này vừa chống quốc tế cộng sản ( ám chỉ Liên Xô) vừa nhằm gây chiến tranh chia lại thế giới.

Từ 1931 đến 1937, Nhật Bản mở rộng chiến tranh xâm lược Trung quốc, chiếm các tỉnh miền đông, khiêu khích biên giới Trung-Xô. Phát xit italia xâm lược Ê-ti-ô-pi-a (1935), cùng với Đức giúp đảng phát xít của Phran-cô gây nội chiến ở Tây ban Nha, lật đổ chính phủ cộng hòa. Hit-le đẩy mạnh chiến tranh xâm lược hướng tới mục tiêu xây dựng một nước “Đại Đức” bao gồm các lãnh thổ có dân Đức sinh sống ở châu Âu.

Trước các cuộc xâm lược của liên minh phát xít, các cường quốc tư bản dân chủ và Liên xô lại không có một đường lối hành động chung.

Hoa kì là nước giàu mạnh nhất, nhưng lại theo” chủ nghĩa biệt lập” ở Tây bán cầu, không tham gia Hội quốc liên và can thiệp vào các sự kiện bên ngoài châu Mĩ.

Liên Xô coi chủ nghĩa phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất, nên đã chủ trương hợp tác với các nước tư bản để chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh.

Anh và Pháp cũng lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít, đồng thời vẫn thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, họ không liên kết chặt chẽ vơi Liên-xô để cùng chống chủ nghĩa phát xít, mà thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít để đổi lại hòa bình.

Để thành lập nước “ Đại Đức”, trước hết là Hit-le quyết định sáp nhập vào Áo- một nước cùng dân tộc với Đức vào nước Đức.

Tháng 3-1938, quân Đức kéo vào chiếm thủ đô Viên” để ngăn chặn một âm mưu cộng sản” rồi phế truất luôn thủ tướng và sáp nhập Áo vào Đức.

Tiếp đó, Hit-le chủ trương mở rộng nước “Đại Đức” bằng cách yêu cầu chính phủ Tiệp Khắc chuyển giao xứ Xuy-đet, một vùng biên giới có khoảng 3 triệu người gốc Đức sinh sống. Chính phủ Tiệp Khắc, chấp thuận cho Xuy-đet được tự trị, nhưng chống lại việc sáp nhập xứ này vào Đức. Vấn đề Xuy-đet dẫn đến sự tranh chấp giữa Đức, Tiệp khắc, Liên Xô, Anh và Pháp…làm cho tình hình thế giới thêm căng thăng.

Tại hội nghị Muy-nich(29-9-1938) không có Tiệp Khắc và Liên Xô tham dự, một hiệp định đã được kí kết. Theo đó, Anh- Pháp trao vùng Xuy-đet của Tiệp Khắc cho Đức, để đổi lấy sự cam kết của Hit-le về việc chấm dứt mọi thôn tính ở Châu Âu.

Nhưng chỉ sau 6 tháng sau ngày chiếm xong Xuy-đet, Hit-le đã thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc (3-1939), sáp nhập các xứ Bô-hêm và Mô-ra-va của nước này vào Đại Đức, còn xứ Slô-va-ki-a thì được “độc lập” dưới sự bảo hộ của Đức. Noi theo Hit-le, Mút-xô-li-ni cũng cho quân chiếm An-ba-ni.

Chính sách nhượng bộ của Anh- Pháp đã không cứu được hòa bình mà lại còn khuyến khích bọn phát xít đẩy mạnh chiến tranh xâm lược.

Vừa chiếm xong Tiệp Khắc, Hit-le liên đòi Ba lan trao trả cho Đức thành phố cảng Đăng-dích và dải đất ở “hành lang Ba Lan” nối liền vùng Đông Phổ với lãnh thổ Đại Đức. Chính phủ Ba Lan khước từ. Anh-Pháp hiểu rằng không thể tiếp tục nhượng bộ thêm nữa, nên đã kí với Ba Lan và nhiều nước châu Âu khác hiệp ước liên minh. Anh- Pháp cũng tiến hành đàm phán với Liên Xô nhưng sự nghi kị lẫn nhau đã làm cho cuộc hội đàm không đi đến kết quả. Đức quyết định đánh chiếm Ba Lan.

Trước quan hệ quốc tế như vậy, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra.

Câu 48: Nêu tính chất và kết cục của chiến tranh thế giới thứ hai. Vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít?

Trả lời:

- Chiến tranh thế giới thứ hai là một hiện tượng xã hội phức tạp. Khác với chiến tranh thếgiới thứ nhất, chiến tranh thế giới thứhai lúc

 

nầu mang tính chất

 

đế quốc chủ nghĩa về cả hai bên tham chiến, dần chuyển sang một cuộc chiến tranh giải phóng, chính nghĩa, chống phát xít, kể từ khi Liên Xô tham chiến. Lê-nin

 

đã nhấn mạnh rằng

 

để giải thích tính chất của chiến tranh cần

 

đặt nó trong mối liên hệ với chính sách trước

 

đó của một nhà nước cụ thể, giai cấp cụ thể và cảnh báo trước về xác

 

định tính chất của chiến tranh. “Chiến tranh là một việc phức tạp, nhiều vẻ và phong phú. Không thể xem xét một cách dập khuôn dược”, mà phải tìm hiểu một cách cụ thể. Đúng như vậy, lúc đầu, Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra vì mâu thuẫn giữa hai phe đế quốc chủ nghĩa. Phe phát xít, đứng đầu là Đức, không chỉ nhằm phân chia thế giới mà còn thủ tiêu nền độc lập của các dân tộc, tiêu diệt chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ, đàn áp cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc. Tư tưởng hoang đường “thống trị thế giới”, lý luận ‘chủng tộc thù

 

địch” là cơ sở của các kế hoạch tàn sát hàng loạt nhân dân các nước.

 

đối với các nước phát xít, chiến tranh mang tính chất đế quốc chủ nghĩa.

-

 

Đối

 

với

 

Anh

 

 

Pháp,

 

trong

 

giai

 

đoạn

 

đầu,

 

chiến tranh cũng manh tính chất đế quốc

 

chủ nghĩa. Trong thời kỳ“chiến tranh kỳ quặc”, Anh và Pháp bị

 

động trong các hoạt

 

động quân sự chống lại

 

đức nhưng lại tích cực chuẩn bị các hành động quân sự

 

để chống Liên Xô. Tuy nhiên chính vào thời

 

điểm đó, nguy cơ của chủ nghĩa phát xít đã đe doạn tự do, độc lập dân tộc của nhiều nước, cho chinh sự tồn tại của dân tộc. Nó trở thành một thực tế quy định tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh của các dân tộc chống chủ nghĩa phát xít. Khuynh hướng này nược biểu hiện trong các cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc, Êtiôpia, Tây Ban Nha, Anbani. Quá trình từ các cuộc chiến tranh cục bộ chuyển sang Chiến tranh thế giới thứhai, kết thúc bằng việc đức tấn công Ba Lan. Năm 1940, một loạt các dân tộc châu Âu, kể cả Pháp, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Năm 1941, đến lượt các nước bán đảo Bancăng tham chiến. Sau khi Pháp thất bại, nước Anh bị uy hiếp. Chiến tranh từ các nước đối lập với đức, Italia đã mang tính chất chính nghĩa, chống chủ nghĩa phát xít.

- Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng này, quá trình thay đổi tính chất chiến tranh một phần quan trọng do tác động cuộc đấu tranh của nhân dân chống sự nô dịch của chủ nghĩa phát xít, đặc biệt là khi đức tấn công Liên Xô. Chiến tranh giữa phát xít Đức với Liên Xô mang tính chất một cuộc

 

đấu tranh giai cấp gay gắt, cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủnghĩa. Trong cuộc nấu tranh đó, bọn phát xít đức không chỉ theo nuổi mục đích xâm lược đế quốc chủ nghĩa mà còn theo đuổi mục đích xâm lược đế quốc chủ nghĩa mà còn theo đuổi mục tiêu chính nghĩa, tư tưởng là tiêu diệt nhà nước Xô viết, chế độ xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Nhân dân Liên Xô không chỉ bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Mười, bảo vệ xã hội chủ nghĩa, chính quyền Xô viết, một cuộc chiến đấu vĩ

 

đại vì tiến bộ xã hội. Do

 

đó nó quy định tính chất ác liệt, không

 

điều hoà, khoan nhượng của cuộc chiến tranh trên mặt trận Xô – đức.

Về kết cục:

Kết

 

cục của chiến tranh là phe đồng minh đánh bại hoàn toàn phe phát xít và diệt trừ tận gốc những kẻ gây chiến.

Hậu quả của chiến tranh là vô cùng nặng nề đối với nhân loại: khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế, nhiều thành phố làng mạc và cơ sở kinh tế bị tàn phá. Những giá trị về nhân quyền, nhân đạo và lương tâm đã bị xâm phạm nghiêm trọng vì những tội ác trong kĩ nghệ giết người của phát xít Đức( hàng triệu nạn nhân bị giết ở các trại tập trung), trong các cuộc oanh tạc hủy diệt những đô thị lớn, trong các vụ tàn sát hàng loạt dân thường hoặc tù binh, hoặc trong việc dùng bom nguyên tử giết hại dân thường…

Chiến tranh kết thúc đã tạo ra những chuyển biến to lớn trong tình hình thế giới.

Nhờ thắng lợi của Liên Xô trong chiến tranh, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời ở Đông Âu và châu Á.

Chiến tranh làm thay đổi thế và lực trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa: phát xít Đức, Nhật bị tiêu diệt; Anh và Pháp suy yếu; chỉ có Mĩ thêm lớn mạnh, trở thành một siêu cường quốc đứng đầu hệ thống này.

Chiến tranh tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa các nước đế quốc châu Âu, lập nên các quốc gia độc lập mới ở châu Á và châu Phi.

·

       

Vai trò Liên Xô, Mĩ, Anh trong chống chủ nghĩa phát xít:

Nước Anh đứng đầu trong danh sách các nước đồng minh chống Phát xít, là nước có tiếng nói quan trọng trong phe Đồng minh. Sự lớn mạnh của Phe phát xít ảnh hưởng mạnh mẽ tới quyền lợi của Anh, nhất là về vấn đề thuộc địa. Nhưng Anh và Pháp lại nhanh chóng tỏ ra hèn yếu khi ký các hiệp ước thỏa hiệp nhường thuộc địa cho các nước phát xít( trong đó có Việt Nam ) chính sự yếu hèn của chúng đã đẩy các nước Đông Âu vào tay Phát xít. Nhưng sau khi Anh bị Đức đe dọa đã nhanh chóng kiên kết với Liên Xô để đánh bại phát xít( gạt bỏ mâu thuẫn về thể chế chính trị, tư bản và xã hội chủ nghĩa). Anh cũng có tầm quan trọng rất lớn trong thế chiến thứ 2.

Mỹ.

Ban đầu Mỹ tham chiến với vai trò là kẻ cung cấp vũ khí cho cuộc chiến. Nhưng sau khi Nhật tấn công vào Trân Châu cảng thì Mỹ mới bắt đầu tham chiến với tư cách là thành viên các nước đồng minh. Tuy Mỹ tham chiến muộn nhưng việc Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki đã đánh 1 đòn mạnh vào phe phát xít, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Vì vậy mà phe đồng minh cũng có lợi, cuộc chiến kết thúc nhanh chóng hơn mong đọi vì ko có quá trình đàm phán và đưa điều kiện của phe Phát xít.

Tuy hai nước này cũng gây ko ít tổn thất cho những nước nhỏ ở phe đồng minh nhưng tầm quan trọng của nó thì ko thể ko kể đến bởi cả hai nước này đều đóng góp 1 phần quan trọng trong việc đánh bại phe phát xít.

Hai nước Anh và Mĩ còn có vai trò viện trợ vũ khí cho Liên Xô trong công cuộc chống Phát xít

Vai trò quan trọng thuộc về Liên Xô

Liên Xô đóng vai trò quan trọng, là một lực lượng đi đầu, chủ chốt và quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật, kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2. Chống phát xít và chống chiến tranh, song bị cự tuyệt.

Trong chiến tranh (1941 – 1945):

* Mặt trận Xô – Đức:

- Chiến thắng bảo vệ Mát-xcơ-va: hai tháng sau cuộc nội chiến, Đức bị tổn thất 40 vạn lính. Từ 6-12-1941, Liên Xô phản công ở Mát-xcơ-va. Chỉ còn cách Mát-xcơ-va 20 km, song quân Đức không vào được thủ đô, lại bị đẩy lùi 400 km. Chiến thắng Mát-xcơ-va có ý nghĩa quan trọng, tiêu hao sinh lực địch, phá tan kế hoạch đánh “chớp nhoáng” của Hít-le .

- Chiến thắng Xta-lin-grát: tiêu diệt đạo quân 35 vạn tên của thống chế Paolút là trận đánh lớn và tiêu biểu nhất về nghệ thuật quân sự cũng như có ý nghĩa xoay chuyển toàn cục của nó, đánh dấu sự thất bại của phe phát xít.

- Liên xô tham gia chiến tranh đã làm cho tính chất của chiến tranh thay đổi: Liên xô trở thành trụ cột, lực lượng đoàn kết của các nước chống phát xít, chính phủ Anh, Mỹ đứng về phía Liên xô và lực lượng dân chủ chống phát xít (mặt trận đồng minh chống phát xít thành lập (1/1/1942)

- Chiến thắng ở “vòng cung Cuốc-xcơ” (đầu 1943).

- Giải phóng toàn bộ lãnh thổ Xô viết (cuối 1944).

- Tiến qua Đông Âu, phối hợp giải phóng các nước Đông Âu (cuối 1944 – đầu 1945).

- Công phá Béc-lin (từ 16/5 đến 30/4/1945), gặp quân Đồng minh ở Toóc-gâu (bên bờ sông En- bơ).

- Đêm 8/5/1945, chính phủ mới ở Đức đã kí kết văn kiện đầu hành không điều kiện.

- Thắng lợi của Liên xô đã tạo điều kiện cho Anh, Mĩ có những thắng lợi khác ở Bắc phi, Italia.

* Đánh quân phiệt Nhật Bản:

+ Liên xô tham gia chống Nhật (8/8/1945), đánh tan đội quân Quan Đông mạnh nhất của Nhật ở Trung Quốc và Triều Tiên. Góp phần quan trọng buộc quân phiệt Nhật ký điều ước đầu hàng đồng minh không điều kiện (15/8/1945) kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hi.

Như vậy, Liên Xô giữ một vai trò là lực lượng đi đầu và là lực lượng chủ chốt góp phần quyết định thắng lợi, đánh bại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền văn minh nhân loại.

Một số khác không phủ nhận thắng lợi của Liên Xô nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hítle, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực... của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra số hàng viện trợ của Anh - Mỹ lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Song số vũ khí viện trợ đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất.

Việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức là bằng chứng không thể chối cãi được về sự bất lực của những kẻ xuyên tạc lịch sử. Không thể phủ nhận một sự thật là Quân đội Liên Xô đã giữ vai trò chủ lực, là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu.

Câu 49: Ý nghĩa của chiến thắng chống chủ nghĩa phát xít?

Trả lời:

Thắng lợi của lực lượng đồng minh và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo nên chuyển biến căn bản trong tình hình thế giới sau chiến tranh. Các nước xã hội chủ nghĩa ra đời ở Đông Âu và châu Á, cùng vơi Liên Xô tạo thành hệ thống XHCN. Liên Xô ngày càng vững mạnh, trở thành siêu cường đứng đầu hệ thống XHCN, đối trọng với Mĩ trong trật tự thế giới được thiết lập sau chiến tranh.

Chiến tranh đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước phát xít bị tiêu diệt. Anh và Pháp đều suy yếu. Riêng Mĩ ngày càng vượt trội về mọi mặt và đứng đầu hệ thống TBCN.

Việc chủ nghĩa phát xít bị đánh bại tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ và phát triển sau chiến tranh thế giới thứ hai, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa chủ nghĩa đế quốc, đưa hàng trăm nước thuộc địa và phụ thuộc trở thành các quốc gia độc lập.

Câu 50: Chuyển biến của Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ nhất? những điểm mới của phong trào gpdt ở Đông Nam Á giữa 2 cuộc ctranh thế giới?

Trả lời:

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất cùng với những chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, phong trào độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở khu vực Đông Nam Á. Ở nhiều nước trong khu vực, giai cấp tư sản lên nắm quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc . Từ thập niên 20 của thế kỉ XX, giai cấp vô sản trẻ tuổi bước lên vũ đài chính trị, mở ra một triển vọng mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực này.

Những chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị,

 

xã hội của các nước Đông

 

Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ nhất.

Về kinh tế:

 

đông Nam Á bị lôi cuốn vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản với tư cách là thị trường tiêu thụ hàng hóa và nơi cung cấp nguyên liệu tốt, rẻ tiền cho chính quốc. Ta có thể nhận định đây là “Sự hội nhập cưỡng bức” của các nước thuộc địa vào hệ thống kinh tế thế giới của chủ nghĩa tư bản.

 

Về chính trị:Bộ máy nhà nước đều bị chính quyền thực dân khống chế. Toàn bộ quyền hành về

chính trị đều tập trung trong tay chính quyền thực dân.

Về xã hội: Sự phân hóa giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc, giai cấp tư sản dân tộc lớn mạnh , giai cấp công nhân cũng trưởng thành tăng nhanh về số lượng và ý thức cách mạng.

Sự biến đổi quan trọng trong tình hình của các nước đông Nam Á đã tạo nên những yếu tố nội lực tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Không những vậy, trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Cách mạng tháng Mười ở Nga bùng nổ, giai cấp vô sản Nga bước lên vũ đài chính trịvới cương vị là người lãnh đạo xã hội và bắt tay vào xây dựng xã hội mới. Sự kiện này đã tạo nên hình ảnh về một xã hội mới công bằng, niềm tin, sức mạnh cho giai cấp vô sản, chỉ ra con

 

đường đấu tranh tự giải phóng mình. Những tác động và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười đã làm cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ hơn và mang màu sắc mới.

Nét mới trong phong trào dân tộc ở đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thếgiới

.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào giải phóng dân tộc

 

ở các nước đông Nam Á phát

triển, dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản và vô sản.

Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc do giai cấp tư sản lãnh đạo có bước tiến bộ rõ rệt, thể hiện:

+ Nếu như trước đo hoạt động chính trị của giai cấp tư sản dân tộc chỉ nhằm mục đích “khai trí để chấn hưng quốc gia” thì bây giờ mục tiêu giành độc lập đã được đề xuất rõ rang. Mục tiêu đấu tranh không chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh tế, mà bao gồm nhiều nội dung:

 

đòi tự do kinh doanh kinh tế; tự chủ về chính trị; dùng tiếng mẹ dẻ trong nhà trước (mục tiêu văn hoá – xã hội).

+

 

Các

 

cuộc

 

đấu

 

tranh

 

đều

bước đầu thu được thắng

 

lợi, một số chính đảng tư sản được thành

 

lập,

 

có ảnh hưởng rộng rãi: đảng dân tộc ở Innônêxia, phong trào Thakinh ởMiến điện, đại hội toàn Mã Lai…

- Phong trào đấu tranh do giai cấp vô sản lãnh đạo cũng có bước phát triển. Điển hình là khởi nghĩa vũ trang

 

ởInnônêxia (1926 – 1927), phong trào cách mạng (1930 – 1931), đỉnh cao là Xô viết – Nghệ Tĩnh

 

ởViệt Nam. Phong trào đấu tranh do giai cấp vô sản lãnh

 

đạo dẫn

 

đến sự ra

 

đời của

 

đảng Cộng sản Innônêxia (5/1930); đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930), đảng Cộng sản Mã Lai (4/1930)…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro