thansau tonghopthi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MAÏNG MAÙY TÍNH 1

A. MUÏC ÑÍCH

- Trang bò nhöõng kieán thöùc cô baûn veà maïng maùy tính

- Giuùp cho hoïc vieân söû duïng ñöôïc maïng internet, quaûn trò ñöôïc caùc phoøng maùy tính cuïc boä LAN vôùi heä ñieàu haønh Windows NT.

B. SOÁ TIEÁT:

Lyù thuyeát: 30

C. TAØI LIEÄU THAM KHAÛO

1. Giaùo trình maïng maùy tính, Taäp 1,2 NXB Giaùo Duïc 1998

2. Upgrading and Repairing Network, Press QUE, Robert Thomson, Kevil Makela

Baøi 1: TOÅNG QUAN VEÀ MAÏNG MAÙY TÍNH

1./ Khaùi nieäm maïng maùy tính

- Laø moät heä thoáng maùy tính keát noái vôùi nhau qua nhöõng giao thöùc truyeàn naøo ñoù vaø cuøng khai thaùc caùc taøi nguyeân treân heä thoáng.

- Heä thoáng maïng thoâng thöôøng goàm coù: Maùy tính, Card giao tieáp vôùi ñöôøng truyeàn, Giao thöùc truyeàn vaø Heä ñieàu haønh maïng

Hình 1: moâ hình maïng maùy tính

2./ Ích lôïi cuûa heä thoáng maïng

- Chi phí cho heä thoáng maùy traïm thaáp

- Chia seû taøi nguyeân do ñoù giaûm chi phí caùc thieát bò ngoaïi vi

- Xöû lyù thoâng tin chính xaùc, caäp nhaät ñoàng boä.

- Coù theå truy caäp ôû baát kyø vò trí naøo vaø coù khaû naêng giao tieáp tröïc tuyeán vôùi nhau.

3./ Caùc thaønh phaàn heä thoáng maïng

3.1 Server:

+ Laø moät maùy chuû hoaëc heä thoáng maùy chuû: chaïy heä ñieàu haønh maïng, cung caáp caùc dòch vuï, quaûn lyù ñieàu haønh treân heä thoáng.

+ Maùy server coù theå chöùa taøi nguyeân nhö oå ñóa, maùy in, ñöôøng truyeàn ra caùc maïng laân caän hoaëc internet.

+ Maùy server thoâng thöôøng laø caùc heä maùy chuyeân duïng coù caáu hình maïnh vaø ñoä an toaøn cao. .

3.2 Client (traïm)

+ Laø caùc maùy tính thoâng thöôøng chaïy caùc chöông trình Client keát noái vôùi heä thoáng maùy chuû qua ñöôøng caùp truyeàn, khai thaùc, trao ñoåi thoâng tin, taøi nguyeân duøng chung.

VD: Windows 95 - 98 - Win Nt Workstation, Linux

3.3 Heä ñieàu haønh maïng

- Laø caùc chöông trình chuyeân duïng caøi ñaët treân caùc heä maïng cho pheùp ngöôøi söû duïng: ñaêng nhaäp, quaûn lyù, chia seû taøi nguyeân cho caùc client vaø server khaùc nhau treân maïng.

- Hieän nay coù raát nhieàu heä ñieàu haønh maïng treân theá giôùi nhöng phoå bieán laø caùc heä: Unix, Linux, Windows NT, Novell Netware...

3.4 Giao thöùc truyeàn

+ Treân nhieàu heä ñieàu haønh maïng khaùc nhau nhöng coù theå giao tieáp vôùi nhau, trao ñoåi thoâng tin cho nhau ñöôïc laø nhôø heä thoáng maïng coù nhöõng phöông thöùc truyeàn chuaån vaø baát kyø heä thoáng naøo ñeàu duøng ñeán.

+ Giao thöùc truyeàn (protocol): thöôøng ñöôïc söû duïng treân caùc heä thoáng maïng laø:

TCP/IP, IPX/SPX, NETBUI,

3.5 Döõ lieäu duøng chung

+ Ñaây laø toaøn boä taøi nguyeân cuûa heä thoáng ñöôïc phaân caáp söû duïng theo caùc quyeàn haïn khaùc nhau cuûa ngöôøi söû duïng treân maïng

+Döõ lieäu naøy ñöôïc ñaët treân toaøn heä thoáng maïng, do moät hoaëc nhieàu maùy chuû quaûn lyù.

3.6 Caùc thieát bò ngoaïi vi duøng chung

+ Ñaây cuõng laø caùc öu ñieåm cuûa heä thoáng maïng , cho pheùp user duøng chung caùc thieát bò phaàn cöùng treân caùc maùy khaùc nhau cuûa heä thoáng maïng.

Baøi 2 SÖÛ DUÏNG MAÙY IN, DÖÕ LIEÄU TREÂN MAÏNG

1. Caøi ñaët maùy in (Start-Settings-Printers)

-Xoùa moät maùy in (Delete)

-Vaøo thuoäc tính cuûa maùy in

1. 1. Caøi maùy in cuïc boä: choïn Add Printer-Next

-Choïn Local printer (choïn maùy in cuïc boä, trong tröôøng hôïp coù maùy in)

-Choïn haõng saûn xuaát (Manufactures) vaø kieåu maùy in (Printers) - Next

-Coù hay khoâng giöõa laïi Driver cuõ hay chaáp nhaän thay theá? - choïn Next

-Choïn coång xuaát (thöôøng laø Port LPT1) - choïn Next

-Choïn teân nhaõn cuûa maùy in vaø coù hay khoâng laáy maùy in naøy laø maëc nhieân (Default) - choïn Next

-Coù hay khoâng in thöû moät trang giaáy? - choïn Finish

1. 2. Caøi maùy in qua maïng: choïn Add Printer-Next

-Caùc böôùc ñaàu cuõng töông töï nhö Maùy in cuïc boä.

-Choïn Browse vaø choïn Computer name coù maùy in ñaõ Share

-Caùc böôùc sau töông töï nhö caøi ñaët maùy in cuïc boä

1. 3. Chia seõ maùy in:

2. Chia seû döõ lieäu

-Caùc Computer name trong cuøng moät nhoùm

-Coù theå truy caäp caùc Computer nam khaùc ôû caùc nhoùm khaùc: choïn Entire Network

-Truy caäp vaøo Computer name: CDWRITE, vôùi caùc Folder, maùy in ñaõ ñöôïc chia seõ (Share).

-Choïn Folder ñeå thöïc hieän caùc thao taùc (copy, delete (neáu coù theå), ....)

-Thöïc hieän vieäc (Share) chia seõ Folder cho caùc maùy tính treân maïng coù theå truy caäp

-Thöïc hieän vieäc chia seõ (Share) vôùi teân Software

-Coù theå ñaët Password theo Read-Only, Full, Depends on Password

-Thöïc hieän vieäc loaïi boû Not Share

Baøi 3 SÖÛ DUÏNG DÒCH VUÏ MAIL POST OFFICE

1/Taïo Client Mail PostOffice

-Vaøo Properties cuûa Inbox - Add

Choïn Microsoft Mail (boûcaùc dòch vuï khaùc)

-Tìm Computer Name coù chöùa MailPostOffice - choïn Browse

-Choïn User name töø danh saùch (do ngöôøi quaûn trò caáp)

-Nhaäp maät khaåu neáu coù

-Xaùc ñònh oå ñóa löu tröõ

-Muïc Add.......: Sau laàn khôûi ñoäng vaøo thì Inbox seõ ñöôïc khôûi ñoäng

-Muïc Do not .......: Chæ kích hoaït khi ngöôøi duøng khôûi ñoäng

-Choïn Finish: ñeå keát thuùc

2/ Chænh söûa:

-Vaøo Properties cuûa Inbox - choïn Microsoft Mail - choïn Properties

-Choïn the Logon vaø coù theå ñoåi teân User name + Password (neáu coù)

3/ Xoùa:

-Vaøo Properties cuûa Inbox

Xoùa caùc dòch vuï töø Profile

Xoùa Show Profile

4/Göûi - nhaän mail:

-Khôûi ñoäng Inbox

-Soaïn thö (Ctrl-N)

Address Book: choïn nhöõng ñòa chæ caàn göûi (Ctrl-Shift-B)

-Hoài ñaùp thö:

-Cheøn file: (töø menu Insert hoaëc )

Baøi 4: MOÂ HÌNH MAÏNG

1 Phaân loaïi theo moâ hình (logic maïng)

a. Peer to peer (ngang haøng)

- Caùc maùy keát noái vôùi nhau khoâng caàn ñeán maùy chuû ñieàu haønh

- Tính naêng: Keát noái ñôn giaûn, deã ñieàu haønh, baûo maät thaáp.

Hình 2: Moâ hình maïng maùy tính ngang haøng

b. Client/Server

- Trong moâ hình chuû/tôù naøy caàn coù maùy chuû ñieàu khieån vaø maùy traïm khai thaùc taøi nguyeân:

- Tính naêng: Ñaây laø heä maïng chuyeân duïng, baûo maät cao, chia seû taøi nguyeân toát, quaûn lyù ñieàu haønh phöùc taïp.

- Thöôøng söû duïng Linux, - Windows 95 -98 - 2000,hoaëc Windows NT server - Windows 95 -98 -2000

c. Hoãn hôïp: Peer to peer vaø Client/Server

+ Keát hôïp caû hai moâ hình: Tuøy theo öùng duïng maø ngöôøi söû duïng choïn caùc moâ hình maïng nhöng khi heä thoáng khoâng caàn thöôøng xuyeân keát noái vaøo maïng hoaëc chæ söû duïng moät soá chöùc naêng maïng ngoaøi ra coøn duøng moät heä thoáng ngang haøng deã ñieàu haønh hôn.

2 Phaân loaïi theo vò trí ñòa lyù:

a. Maïng cuï boä (LAN)

- Heä thoáng maïng trong caùc cô quan, nhaø maùy, xí nghieäp coù ít hôn 100 maùy tính keát noái vôùi nhau, trong phaïm vi caùc phoøng laøm vieäc gaàn nhau (khoâng quaù 200 m).

- Thöôøng duøng caùc giao thöùc truyeàn IPX/SPX, NETBUI vaø caùc heä ñieàu haønh Windows 9x, Novell Netware (phoøng maùy tính) Windows NT..

Hình 3: Moâ hình maïng LAN

b. Maïng dieän roäng (WAN)

Hình 5: Moâ hình maïng WAN

- Maïng keát noái nhieàu LAN

- Duøng giao thöùc truyeàn chính laø TCP/IP

- Maïng cuûa moät Tröôøng Ñaïi Hoïc, Quoác Gia, Tænh thaønh...

- Thöôøng goïi laø Intranet

3 Phaân loaïi theo moâ hình keát noái (Topology)

a. Ñöôøng thaúng: (Bus)

- Hình 7: Moâ hình noái kieåu Bus

- Caùc maùy tính noái vôùi nhau treân moät daây caùp lieân tuïc

- Öu ñieåm: keát noái ñôn giaûn, giaù thaønh reû

- Nhöôïc ñieåm: möùc ñoä an toaøn thaáp deã hö hoûng. Toác ñoä ñöôøng truyeàn thaáp. <=10 Mbps

b. Ring

Hình 8: Moâ hình maïng kieåu Ring

- Caùc maùy tính keát thaønh voøng, khoâng coù ñieåm baét ñaàu vaø keát thuùc

c. Phoái hôïp

Hình 9: Moâ hình hoãn hôïp lieân keát giöõa Star vaø Bus

Baøi 5 THIEÁT BÒ MAÏNG

1. Maùy chuû Server

+ Choïn heä thoáng maùy coù caáu hình maïnh, hoaït ñoäng oån ñònh, ñoä an toaøn cao.

+ Neân choïn caùc loaïi maùy Server chuyeân duïng nhö: IBM, Compag, HP, Acer

VD: Choïn moät maùy Server chaïy heä ñieàu haønh Windows NT server: phuïc vuï cho coâng taùc quaûn lyù hoà sô, coâng vaên, thö ñieän töû, Website thoâng tin noäi boä cho cô quan <100 maùy. Neân choïn maùy coù caáu hình sau:

+ Boä vi xöû lyù Pentium IV - 500 MHz trôû leân

+ Boä nhôù: RAM : 256 MB trôû leân

+ Ñóa cöùng E_IDE hoaëc SCSI 20GB trôû leân

+ Card maïng 100 Mbps

2. Maùy traïm Workstation

+ Taát caû caùc maùy PC thoâng thöôøng ñeàu coù theå duøng laøm Workstation cho caùc heä thoáng maïng.

+ Toát nhaát neân choïn caùc maùy chaïy ñöôïc HÑH Windows 95 trôû leân

3. Boä card giao tieáp (NIC):

+ Chöùc naêng:

- Maõ hoaù döõ lieäu vaø truyeàn treân daây caùp

- Giaûi maõ döõ lieäu töø caùp truyeàn chuyeån vaøo maùy tính xöû lyù

+ Hieän nay coù caùc loaïi sau:

Card ISA toác ñoä truyeàn 10 Mbps

Card PCI coù caùc toác ñoä truyeàn 10 vaø 100 Mbps

Hình 9: Card maïng PCI vôùi caùc ñaàu noái BNC vaø UTP - AUI

4. Caùc nuùt noái maïng

a. Caùp ñoàng truïc:

+ Thin caùp: Terminal, T connector, BNC connector

Hình daây caùp RG 58 caét ngang -

Ñaàu noái BNC connect tor

Hình T connector

+ Thick caùp: Transceiver, Transceiver cable

Hình caùp RJ 45 vaø ñaàu noái UTP

c. Caùp quang

5. Ñöôøng truyeàn keát noái maïng

5.1 Kyõ thuaät ñöôøng truyeàn

- Base band

- Broad band

- Band width: löôïng thoâng tin truyeàn taûi.

5.3 Ñöôøng tuyeàn voâ tuyeán:

- Truyeàn theo soùng Radio

- Truyeàn theo soùng vi ba

- Truyeàn theo tia hoàng ngoaïi (Infrare)

5.4 Heä thoáng Cable theo IBM

6. Caùc thieát bò khaùc:

Chöùc naêng vaø öùng duïng

a. Hub:

+ Passive Hub

+ Active Hub

+ Intelligent Hub

b. Repeater

c. Bridge

d. Router

e. Gateway

f. Modem: Internal, External

Baøi 6: GIÔÙI THIEÄU VEÀ BAÛO MAÄT TREÂN MAÏNG

I. Khaùi nieäm

+ Baûo maät heä thoáng

+ An toaøn cho heä thoáng

II. Caùc caáp baûo maät

1. Baûo maät ñaêng nhaäp (login)

2. Baûo maät truy caäp taøi nguyeân file, thö muïc...

III. Heä thoáng quyeàn treân maïng

1. Moâ hình chung veà heä thoáng quyeàn vaø taøi nguyeân

2. Quyeàn cuûa Administrator, Root...

3. Quyeàn cuûa User, caùch gaùn quyeàn, gôõ boõ quyeàn

4. Quyeàn cuûa User treân thö muïc, taäp tin

Baøi 7 GIÔÙI THIEÄU INTERNET

I. Internet

1. Khaùi nieäm

2. Caùc taøi nguyeân treân Internet

a. WWW

b. Email

c. FTP

d. Chatting & Conferrencing, ...

II. Hoaït ñoäng Internet

1. Moâ hình Client - Server

a. Chöông trình Client

b. Chöông trình Server

2. Noái keát Internet vôùi ISP

a. Noái keát qua LAN:

+ Noái tröïc tieáp ñöôøng lease line, veä tinh, Backbone

+ Noái qua Proxy Server

+ Noâi qua Firewall

+ Intranet

b. Noái Internet vôùi PPP/SLIP

+ Noái qua Modem vôùi chöùc naêng Dial-up söû duïng phone line

THÖÏC HAØNH

Baøi 1: Quan saùt caùc thieát bò maïng

1. Chuaån bò caùc thieát bò maïng sau:

+ Card maïng: BNC, UTP, AUI

+ Caùp maïng RG 58, RJ45, Caùp quang Indoor, Outdoor

+ Caùc thieát bò noái caùp: Ñaàu BNC connector, UTP connector, Kìm baám daây, T connector, HUB

2. Caùch laép raùp vaø caøi ñaët

+ Caùch laép card vaøo maùy tính

+ Caøi ñaët vôùi caùc loaïi card Jumper, PNP, treân heä ñieàu haønh Windows, Winnt

3. Kieåm tra vieäc laép raùp card vaøo heä thoáng Server hoaëc Client

Baøi 2: Ñieàu haønh maïng Windows NT

1. Chuaån bò moät heä thoáng Windows NT server, vaø Windows 95

+ Hoïc vieân thöïc haønh taïo user, maät khaåu, login

+ Gaùn quyeàn treân thö muïc, oå ñóa, taäp tin

2. Hoïc vieân ñaêng nhaäp töø heä thoáng Workstation vaøo heä thoáng Winnt truy caäp taøi nguyeân nhö CD ROM, Ñóa, Thö muïc

Baøi 3: Söû duïng dòch vuï Mail Post Office Treân heä thoáng Windows NT

1. Hoïc vieân taïo ra hoäp thö, taïo user

2. Söû duïng hoäp thö gôûi nhaän email noäi boä

Baøi 4: Söû duïng dòch vuï Internet

1. Truy caäp Web site

2. Gôûi email quoác teá

3. Khai thaùc thö vieän phaàn meàm treân maïng

4. Caùc dòch vuï khaùc

GIỚI THIỆU INTERNET

Internet - cũng được biết với tên gọi Net - là mạng máy tính lớn nhất thế giới, hoặc chính xác hơn là mạng của các mạng, tức bao gồm nhiều mạng máy tính được nối lại với nhau. Một số mạng máy tính bao gồm một máy tính trung tâm (còn gọi là máy chủ hay máy phục vụ) và nhiều máy khác (còn gọi là máy khách hàng hay trạm làm việc) nối vào nó. Các mạng khác, kể cả Internet, có quy mô lớn hơn, bao gồm nhiều máy chủ và cho phép bất kỳ một máy tính nào trong mạng có thể kết nối với bất kỳ máy nào khác để trao đổi thông tin thoải mái với nhau. Một khi đã được kết nối vào Internet, máy tính của bạn sẽ là một trong số hàng chục triệu thành viên của mạng khổng lồ này.

Mạng của các trường đại học và viện nghiên cứu là những thành viên lâu đời của Internet. Sự bùng nổ Internet trong vòng hai năm trở lại đây cũng giống như khi TV xuất hiện vào đầu những năm 50. Số người dùng gia nhập Internet tăng với tốc độ rất nhanh. Theo ước tính, con số này sẽ là 16 triệu vào cuối năm nay.

Có thể làm được gì với Net?

Về thực chất, Internet là công nghệ thông tin liên lạc mới, nó tác động sâu sắc vào xã hội, cuộc sống của chúng ta, là một phương tiện cần thiết như điện thoại hay TV, nhưng ở một mức độ bao quát hơn nhiều. Chẳng hạn, điện thoại chỉ cho phép bạn trao đổi thông tin qua âm thanh, giọng nói. Với TV thì thông tin bạn nhận được sẽ trực quan hơn. Còn Internet lại hơi khác. Nó đưa bạn vào một thế giới có tầm nhìn rộng hơn và bạn có thể làm mọi thứ: viết thư, đọc báo, xem bản tin, giải trí, tra cứu và thậm chí còn có thể thực hiện những phi vụ làm ăn.

Ngày nay, khi nói về Internet, mọi người thường đề cập đến việc họ có thể làm gì và đã gặp ai. Khả năng của Internet rất lớn, và chỉ có thể tóm lược một số điểm chính sau đây.

Thư điện tử (E-mail)

Đây là dịch vụ của Internet được sử dụng nhiều nhất. Bạn có thể trao đổi thư (e-mail) với hàng triệu người khắp thế giới. Người ta sử dụng e-mail vào bất cứ việc gì mà họ có thể làm với giấy hay điện thoại: bàn công việc, tán gẫu, hỏi thăm, tỏ tình... và cả những chuyện phi pháp nữa. Danh sách thư điện tử (mailing list) cho phép bạn gia nhập vào những cuộc bàn luận theo nhóm người có cùng mối quan tâm và gặp gỡ thông qua mạng. Dịch vụ thư tín (Mail Servers) giúp bạn truy cập những thông tin cần thiết.

World Wide Web

Đây là khái niệm mà người dùng Internet quan tâm nhiều nhất hiện nay. Người ta viết tắt là WWW hay gọi ngắn gọn là Web. Web là một công cụ, hay đúng hơn là dịch vụ của Internet. Khác với các dịch vụ trước đây của Net, Web chứa thông tin bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh và thậm chí cả video được kết hợp với nhau. Web cho phép bạn có thể chui vào mọi ngõ ngách trên Net, là những điểm chứa CSDL gọi là Web site. Nhờ có Web, nên dù không phải là một chuyên gia, bạn vẫn có thể sử dụng Internet. Phần mềm sử dụng để định hướng Web gọi là bộ duyệt (browser). Hiện nay, bộ duyệt thông dụng nhất là Navigator của Netscape, tiếp đó là Internet Explorer của Microsoft (kèm theo HĐH Windows 95).

Truy xuất dữ liệu

Nhiều máy tính (server) trên Internet chứa các tập tin mà bạn có thể truy xuất tự do. Đây là những thư viện catalog, sách, tạp chí, hình ảnh số hoá và vô số phần mềm máy tính, từ trò chơi đến HĐH. Nói chung, Internet là cả một kho thông tin khổng lồ mà chỉ cần ngồi một chỗ, bạn có thể với tới.

Nhưng cần lưu ý một điều: thông tin trên Net bạn có thể lấy thoải mái không mất tiền, nhưng chắc chắn khi nhận được phiếu thanh toán cước điện thoại sau đó, bạn sẽ rút ra được một điều là ít khi người ta cho không cái gì! Không tin? bạn hãy tiếp tục đọc những phần tiếp theo.

Nguồn gốc của Internet

Nếu không thích chuyện của quá khứ, bạn hãy bỏ qua mục này.

Tiền thân của Internet là ARPANET, mạng máy tính được xây dựng bởi Bộ Quốc Phòng Mỹ (DOD) vào năm 1969 vừa để thử nghiệm độ tin cậy của mạng và vừa nhằm kết nối những cơ sở nghiên cứu với mục đích quân sự, bao gồm một số lượng lớn các trường đại học, viện nghiên cứu. ARPANET khởi đầu với quy mô nhỏ, nhưng đã nhanh chóng bành trướng ra khắp nước Mỹ.

Một phần của độ tin cậy mạng thuộc về vấn đề định hướng động (dynamic routing). Nếu một trong số nhiều liên kết của mạng bị gián đoạn do tấn công từ bên ngoài, lưu thông trên đoạn đó phải được tự động chuyển sang liên kết khác. Thật may mắn, chưa có sự tấn công nào xảy ra cả ....

Thành công của ARPANET được nhân lên gấp bội, tất cả các trường đại học đều đăng ký gia nhập. Tuy nhiên, quy mô lớn của mạng đã gây khó khăn trong vấn đề quản lý. Từ đó, ARPANET được chia làm hai phần: MILNET là hệ thống mạng dành cho quân sự và ARPANET mới nhỏ hơn, không thuộc DOD. Tuy nhiên hai mạng vẫn liên kết với nhau nhờ giải pháp kỹ thuật gọi là IP (Internet Protocol), cho phép thông tin truyền từ mạng này sang mạng khác khi cần thiết. Tất cả các mạng được nối vào Internet đều sử dụng IP.

Tuy chỉ có hai mạng lúc bấy giờ nhưng IP được thiết kế cho hàng chục nghìn mạng. Một điều khác thường trong thiết kế của IP là bất kỳ một máy nào trong IP đều có thể liên lạc được với một máy khác bất kỳ. Điều này có vẻ như là hiển nhiên nhưng bạn nên biết rằng vào thời điểm đó, trong phần lớn những mạng máy tính, máy đầu cuối (terminal) chỉ có thể kết nối với máy trung tâm, mà không thể với máy đầu cuối khác.

World Wide Web xuất hiện bởi nhu cầu của các viện và trường đại học và mặc dù các cơ sở khoa học này vẫn đóng vai trò chủ đạo nhưng Web đã biến thành nơi chứa thông tin multimedia, giải trí và liên lạc. Tốc độ phát triển của Web nhanh hơn bất kỳ phương tiện nào có từ trước tới nay.

Internet có thể chống lại sự tấn công

Trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, quân đội Mỹ đã không thành công trong việc phá hủy hệ thống chỉ huy của quân đội Iraq. Sau đó, mới vỡ lẽ ra là Iraq đã sử dụng các bộ định hướng (router) mạng có trên thị trường với công nghệ khôi phục và định hướng chuẩn của Internet. Điều này cho thấy định hướng động thực sự có tác dụng.

• World Wide Web xuất hiện bởi nhu cầu của các viện và trường đại học và mặc dù các cơ sở khoa học này vẫn đóng vai trò chủ đạo nhưng Web đã biến thành nơi chứa thông tin multimedia, giải trí và liên lạc. Tốc độ phát triển của Web nhanh hơn bất cứ phương tiện nào có từ trước tới nay.

• Với người dùng Internet, Web có sức hấp dẫn bởi vài lý do. Trước hết, nó cho phép hiển thị thông tin bạn truy tìm theo chế độ đồ hoạ, hơn hẳn những dòng text buồn tẻ của Internet "trước đây".

• Web cũng là chỗ của nơi buôn bán. Tiếp thị vẫn còn là từ không mấy dễ chịu trong một số nơi trên Net, nhưng nó lại là động lực chủ đạo của Web. Người ta mua bán đủ thứ trên Web, từ phần mềm cho đến cà phê, đồ chơi trẻ em.

• World Wide Web được coi như một xa lộ thông tin tốt nhất. Với những công nghệ tiên tiến đang được triển khai, chúng ta sẽ có được âm thanh, hình ảnh chất lượng cao từ Web.

• Tuy nhiên, điều đáng nói nhất khi đề cập về Web là khả năng bao trùm rộng lớn của nó. Chẳng hạn nếu điều kiện tài chính hạn hẹp không cho phép bạn thực hiện một ấn phẩm mang tính toàn cầu, ví dụ như tạp chí Time, thì Web là giải pháp tốt nhất cho bạn. Trên Web, thông tin của bạn có thể đến với tất cả mọi người.

• Web server là máy chủ trong đó có chứa thông tin dưới dạng trang Web. Các Web server được nối với nhau trên Internet, mỗi server có địa chỉ riêng, bắt đầu bằng:

• http://...

Web server còn có tên gọi là Web site - vị trí Web.

• Nào, còn điều gì bạn muốn nói? bạn có thể cho cả thế giới biết.

INTERNET CÓ TỪ ĐÂU VÀ KHI NÀO...?

Những cột mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển Internet

Thập niên 1950

1957

* Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên Sputnik. Hoa Kỳ đáp lại bằng cách thành lập Cơ quan Dự án Nghiên cứu Cao cấp (Advanced Research Projects Agency - ARPA) thuộc Bộ quốc phòng Mỹ (DOD) nhằm đưa khoa học và kỹ thuật vào quân đội.

Thập niên 1960

1962

* Paul Baran, RAND: "Mạng truyền thông phân tán" - Mạng chuyển mạch gói (Packet-switching - PS); không còn một điểm dừng duy nhất nữa.

1965

* ARPA tài trợ nghiên cứu về mạng cộng tác gồm các máy tính chia sẻ theo thời gian. - TX-2 của MIT Lincoln Lab và Q-32 của hãng System Development Corporation (Santa Monica, California) được nối trực tiếp với nhau (không dùng chuyển mạch gói).

1967

* Hội nghị ACM về những Nguyên lý Hoạt động - Kế hoạch giới thiệu mạng chuyển mạch gói. - Tài liệu đầu tiên về ARPANET do Lawrence G. Roberts xuất bản.

* Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia (NPL) ở Midlesex, Anh phát triển mạng dữ liệu NPL Data Network do D. W. Davies phụ trách.

1968

* Mạng PS được giới thiệu cho ARPA.

1969

* DOD ủy nhiệm ARPANET nghiên cứu lĩnh vực mạng.

- Nút đầu tiên tại UCLA [Network Measurements Center - SDS SIGMA 7:SEX] và không lâu sau đó tại [legend = function - system:os]

Viện nghiên cứu Stanford Research Institute (SRI) [NIC-SDS940/Genie]

UCSB [Culler-Fried Interactive Mathematics - IBM 360/75:OS/MVT]

U của Utah [Graphics-DEC PDP-10:Tenex]

-Dùng bộ xử lý thông điệp thông tin (Information Message Processors - IMP) [minicomputer Honeywell 516 với bộ nhớ 12K) do công ty Bolt Beranek và Newman (BBN) phát triển.

* Request for Comment (RFC) đầu tiên: "Host Software" của Steve Crocker

Thập niên 1970

1970

* Mạng Store-and-Forward

• Dùng công nghệ thư điện tử và mở rộng nó vào hội nghị

• ALOHAnet do Norman Abrahamson, U of Hawaii (:sk2:) phát triển

• Kết nối với ARPANET vào năm 1972

* Các máy chủ ARPANET bắt đầu dùng giao thức Network Control Protocol (NCP)

1971

* 15 nút (23 máy chủ): UCLA, SRI, UCSB, U of Utah, BBN, MIT, RAND, SDC, Harvard, Lincoln Lab, Stanford, UIU (C), CWRU, CMU, NASA/Ames

1972

* Hội nghị quốc tế về Truyền thông máy tính với sự trình diễn của mạng ARPANET giữa 40 máy và Terminal Interface Processor (TIP) do Bob Kahn tổ chức.

* InterNetworking Working Group (INWG) ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập giao thức bắt tay (agreed-upon). Chủ tịch: Vinton Cerf.

* Ray Tomlinson của BBN phát minh chương trình e-mail để gửi thông điệp trên mạng phân tán (:amk:) Chi tiết kỹ thuật Telnet (RFC 318)

1973

* Kết nối quốc tế đầu tiên vào ARPANET: University College of London (Anh) và Royal Radar Establishment (Na Uy).

* Luận văn tiến sĩ đại học Harvard của Bob Metcalfe phác họa ý tưởng cho Ethernet (:amk:)

* Bob Kahn đưa ra vấn đề Internet, khởi đầu chương trình nghiên cứu liên mạng tại ARPA. Vào tháng 3, Vinton Cerf phác thảo cấu trúc gateway trên mặt sau phong bì tại phòng chờ của một khách sạn ở San Francisco (:vgc:).

* Cerf và Kahn trình bày những ý tưởng cơ bản của Internet tại INWG vào tháng 9 ở U of Sussex, Brighton, Vương Quốc Anh (:vgc:).

* Chi tiết kỹ thuật File Transfer (RFC 454).

1974

* Vint Cerf và Bob Kahn xuất bản quyển A Protocol for Packet Network Intercommunication, trình bày thiết kế chi tiết Transmission Control Program (TCP) [IEEE Trans Comm] (:amk:).

*BBN mở dịch vụ truyền dữ liệu Telenet đầu tiên (phiên bản thương mại của ARPANET) (:sk2:).

1975

* Điều hành hoạt động Internet được chuyển cho DCA (hiện nay là DISA)

* Phiên bản "Jargon File" đầu tiên của Raphael Finkel tại SAIL

1976

* Nữ hoàng Anh Elizabeth đệ nhất gửi thông điệp bằng e-mail (các mạng khác có e-mail từ 1971 đến 1978, nhưng e-mail 1976 là trịnh trọng nhất và được in ra).

* UUCP (Unix-to-Unix-CoPy) phát triển tại AT&T Bell Labs và được phát hành cùng với UNIX một năm sau.

1977

* Larry Landweber cho ra đời mạng THEORYNET tại U - Wisconsin cung cấp dịch vụ thư điện tử cho hơn 100 nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học máy tính (dùng hệ thống thư điện tử cục bộ và TELENET để truy xuất đến server)

* Chi tiết kỹ thuật về Mail (RFC 733)

* Tymshare đưa ra mạng Tymnet

* 7/1977, lần đầu tiên trình diễn về ARPANET/Packet Radio Net/SATNET trên hoạt động của các giao thức Internet với những gateway do BBN cung cấp (:vgc:)

1979

* Họp mặt giữa U - Wiscosin, DARPA, NSF và các nhà khoa học máy tính của nhiều trường đại học khác để thành lập khoa Khoa học Máy tính (Computer Science Department) chuyên nghiên cứu mạng máy tính (do Larry Landweber tổ chức).

* Mạng USENET do Tom Truscott và Steve Bellovin thành lập dùng giao thức uucp giữa Duke và U của đại học Bắc California.

* Richard Bartle và Roy Trubshaw ở U - Essex thành lập MUD và MUD1 đầu tiên.

* ARPA thành lập Ban Điều khiển Cấu hình Internet (Internet Configuration Control Board - ICCB)

* Bắt đầu thử nghiệm mạng Packet Radio Network (PRNET) nhờ ngân sách của DARPA.

* ARPANET nối qua SRI

Thập niên 1980

1981

* Mạng BITNET (Because It's Time Network)

- Được khởi đầu như một mạng cộng tác tại đại học City University ở New York, kết nối đầu tiên với đại học Yale. (:feg:)

- Nếu thay từ Time trong tên BITNET bằng từ There thì đó là tên giao thức NJE miễn phí của IBM.

- Cung cấp dịch vụ thư điện tử và máy chủ cho phép phân phối thông tin cũng như truyền file.

* Mạng CSNET (Computer Science NETwork) do nhiều nhà khoa học máy tính phối hợp với các trường đại học University of Delaware, Purdue, University of Wisconsin, công ty RAND và BBN lập nên nhờ tài trợ của NSF. CSNET cung cấp các dịch vụ về mạng cho các khoa học gia ở trường đại học mà không cần truy xuất vào mạng ARPANET. CSNET sau này được xem như mạng phục vụ cho khoa học và máy tính (Computer and Science Network) (:amk,lhl:)

1982

* Giao thức TCP (Transmission Control Protocol) và IP (Internet Protocol) được DAC và ARPA xây dựng cho ARPANET, gọi chung là bộ giao thức TCP/IP (:vgc:)

- Điều này dẫn đến một trong những định nghĩa đầu tiên về Internet như là một tập hợp các mạng nối với nhau, và đặc biệt là các mạng này đều dùng giao thức TCP/IP. Như vậy, Internet được xem như hình thành từ những mạng dùng giao thức TCP/IP kết nối với nhau.

- DOD tuyên bố bộ TCP/IP là giao thức chuẩn cho DOD (:vgc:).

* Mạng EUnet (European UNIX Network) do EUUG thiết lập nhằm cung cấp dịch vụ thư điện tử và các dịch vụ USENET khác. (:glg:)

- Nối kết trực tiếp giữa các nước Hà Lan, Đan Mạch, Thụỵ Điển và Anh quốc

* Chi tiết kỹ thuật cho giao thức gateway mở rộng (External Gateway Protocol - EGP). EGP được dùng cho các gateway giữa các mạng.

1983

* Server Name được phát triển tại trường đại học Wisconsin, không cần người dùng phải nhớ chính xác các đường dẫn đến những hệ thống khác .

* Mạng FidoNet do Tom Jennings xây dựng.

* Chuyển từ giao thức NCP sang giao thức TCP/IP.

* Gateway CSNET/ARPANET được cài đặt .

* ARPANET được tách ra thành ARPANET và MILNET. MILNET tích hợp cùng với Mạng dữ liệu quốc phòng (Defense Data Network) .

* Ban hoạt động Internet (Internet Activities Board - IAB) ra đời thay thế cho ICCB.

* Các phiên bản Berkeley 4.2BSD kết hợp với giao thức TCP/IP.

* EARN (European Academic and Research Network) được thành lập, Rất giống cách vận hành của BITNET với một gateway do IBM tài trợ.

1984

* Giới thiệu Domain Name Server (DNS) . Số lượng máy chủ vượt qua con số 1000 l Thiết lập mạng JUNET (Japan Unix Network) dùng UUCP .

* Thiết lập mạng JANET (Joint Academic Network) tại Anh dùng giao thức Coloured Book .

* William Gibson xuất bản quyển Neuromancer.

1985

* Bắt đầu kết nối Whole Earth'Lectronic Link (WELL) .

1986

* Thiết lập mạng NSFNET (tốc độ của backbone là 56 Kbps).

- NSF thành lập 5 trung tâm siêu tính toán cung cấp những khả năng tính toán cao cấp cho các nơi: JVNC@Princeton ...

- Bùng nổ kết nối, đặc biệc là ở trường đại học.

* Mạng Freenet đầu tiên (tại Cleveland) ra mắt vào ngày 16 tháng 7 dưới sự bảo trợ của công ty SoPAC (Society for Public Access Computing). Vào năm 1989, chương trình quản lý Freenet được National Public Telecomputing Network (NPTN) đảm nhận (:sk2,rab:).

* Thiết kế giao thức Network News Transfer Protocol (NNTP) nhằm mở rộng khả năng khai thác thông tin trên Usenet thông qua giao thức TCP/IP.

* Mail Exchanger (MX) do Craig Partridge phát triển, cho phép những chủ không dùng giao thức IP có địa chỉ khu vực (domain address).

* Xây dựng mạng BARRNET (Bay Area Regional Research Network) với những kết nối tốc độ cao.

1987

* Số lượng máy chủ vượt quá 10.000

* Số lượng máy chủ BITNET vượt quá 1.000 .

1988

* 1 tháng 11, virus Internet "đào bới" làm ảnh hưởng gần 6.000 trong số 60.000 máy chủ của Internet

* CERT (Computer Emergency Response Team) được DARPA thành lập đáp lại sự xuất hiện của virus làm ảnh hưởng đến mạng.

* DOD chấp nhận OSI, xem việc sử dụng giao thức TCP/IP như là một thời kỳ quá độ .

* Mạng CERFnet (California Education and Research Federation network) được Susan Estrada sáng lập.

* Một số vùng ở Canada nối vào NSFNET đầu tiên: Onet qua Cornell, RISQ qua Princeton, BCnet qua trường đại học ở Washington .

* FidoNet nối với Net, cho phép trao đổi thư điện tử và tin tức.

* Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Na Uy, Thụy Điển nối vào NSFNET.

1989

* Số lượng máy chủ vượt quá 100.000 l RIPE (Réseaux IP Européens) ra đời, đảm bảo sự hợp tác kỹ thuật và quản trị cần thiết cho hoạt động của mạng toàn châu Âu

* Những truyền tải đầu tiên giữa e-mail thương mại và Internet: MCI Mail và CompuServer

* CREN (Corporation for Research and Education Networking) được thành lập do phối hợp của CSNET vào BITNET.

* úc, Đức, Israel, ý, Nhật, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Puerto Rico, U. K. nối vào NSFNET.

Thập niên 1990

1990

* Máy tính hoạt động từ xa đầu tiên: Internet Toaster được nối thành công vào Internet

* ARPANET ngừng hoạt động

* Tổ chức EFF (Electronic Frontier Foundation) do Mitch Karop sáng lập.

* Archie được đưa ra

* Hytelnet ra đời

* World - nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet qua điện thoại đầu tiên

* CA*net do 10 mạng khu vực khác nhau hình thành, có vai trò như một backbone quốc gia của Canada, nối trực tiếp vào NSFNET.

* Argentina, áo, Bỉ, Brazil, Chi Lê, ấn Độ, Ireland, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ nối vào NSFNET.

1991

* Thinking Machines Corporation công bố Wide Area Information Servers (WAIS) do Brewster Kahle phát minh.

* Paul Lindner và Mark P. McCahill ở đại học Minnesota đưa ra Gopher

* World Wide Web (WWW) ra đời, được CERN công bố, do Tim Berners-Lee phát triển.

* NSFNET backbone được nâng cấp, đạt tốc độ 44736 Mbps

* NSFNET truyền 1 tỷ tỷ byte/tháng và 10 tỷ gói tin/tháng

* Croatia, CH Séc, Hồng Kông, Hungary, Bồ Đào Nha, Singapore, Nam Phi, Đài Loan, Tunisia nối vào NSFNET.

1992

* Internet Society bước vào hoạt động Số lượng máy chủ vượt quá con số một triệu

* IAB tiếp tục vai trò Internet Architecture Board và trở thành một phần của Internet Society.

* Cameroon, Cyprus, Ecuador, Estonia, Kuwait, Latvia, Luxembourg, Malaysia, Slovakia, Slovenia, Thailand, Venezuela nối vào NSFNET

1993

* NSF cho ra đời InterNIC, cung cấp các dịch vụ Internet như:

- Dịch vụ về cơ sở dữ liệu và thư mục (AT&T).

- Dịch vụ đăng ký (Network Solution Inc.).

- Dịch vụ thông tin (General Atomics/CERFnet).

* Liên hiệp quốc trực tuyến (UN) l Bungari, Costa Rica, v.v. nối vào mạng NSFNET.

1994

* Kỷ niệm sinh nhật thứ 25 ARPANET/Internet.

* NIST (The National Institute for Standards and Technology) đề nghị thống nhất TCP/IP và giảm bớt yêu cầu chỉ dùng chuẩn OSI.

* NSFNET chuyển tải 10 tỷ tỷ byte hàng tháng.

* WWW trở thành dịch vụ phổ biến thứ nhì sau dịch vụ FTP, căn cứ trên phần trăm số gói dữ liệu và byte truyền trên mạng NSFNET.

* TERENA (Trans-European Research and Education Network Association) thành lập bằng việc sát nhập hai tổ chức RARE và EARN, đại diện cho 38 quốc gia cũng như cho cả CERN và ECMWF. Mục đích của TERENA là "thúc đẩy và tham gia vào việc phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông và thông tin quốc tế chất lượng cao phục vụ cho lợi ích của nghiên cứu và giáo dục"

1995

* NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu

* Trong tháng 3, WWW vượt trội hơn FTP trở thành một dịch vụ có sự lưu thông lớn nhất căn cứ trên số lượng gói tin truyền, và trong tháng 4 căn cứ trên số byte truyền.

* Các hệ thống quay số trực tuyến truyền thống như CompuServe, American Online, Prodigy bắt đầu cung cấp khả năng tiếp cận Internet.

* Việc đăng ký tên khu vực không còn miễn phí nữa. Bắt đầu từ ngày 14 tháng 9, lệ phí hằng năm là 50 USD, trước đây được bao cấp bởi NSF. NSF vẫn tiếp tục trả chi phí cho những đăng ký thuộc lĩnh vực giáo dục.

* Kỹ thuật trong năm: WWW, các công cụ tìm kiếm

* Những kỹ thuật nổi bật: mobile code (Java, Javascript), virtual environments (VRML), những công cụ cộng tác

1996

* Triển lãm Internet 1996 World Exposition là triển lãm thế giới đầu tiên trên Internet .

Nguồn tin từ PCworld

INTERNET - CHẲNG CÓ GÌ LÀ CAO SIÊU

Công Nghệ Thông Tin (CNTT) sẽ chẳng là gì nếu không trở thành rất quen thuộc như cái cuốc trong xã hội nông nghiệp, cái công tắc điện trong xã hội công nghiệp...

Với chuyên mục này, chúng tôi sẽ làm cho những vấn đề như Internet, Browser, Windows, Object... trong CNTT trở thành "dễ cầm" như cái cuốc, "dễ bật" như cái công tắc điện...

Nếu có hai máy tính được nối với nhau để có thể trao đổi thông tin cho nhau thì đó là mạng máy tính. Mạng máy tính là nhiều máy tính (không hạn chế số lượng) được kết nối với nhau, tương tự mạng có nhiều điện thoại liên lạc với nhau. Mục đích của việc kết nối là trao đổi thông tin giữa các máy, chia sẻ tài nguyên (đĩa cứng, máy in) của các máy trong mạng với nhau, và hơn nữa là quản lý được toàn bộ hoạt động của các máy được kết nối.

Có thể nối hai hoặc nhiều mạng máy tính thành một mạng lớn hơn. Một máy tính trong mạng nhỏ này có thể gửi thông tin đến cho một máy tính khác nằm trong mạng nhỏ thứ hai nếu hai mạng nhỏ trên được nối với nhau.

Có thể đặt ra câu hỏi: "các máy tính được nối với nhau như thế nào, bằng phương tiện gì?". Câu trả lời là các máy tính nối với nhau có thể là hữu tuyến, và cũng có thể là vô tuyến. Kết nối hữu tuyến là kết nối bằng các loại dây cáp, kể cả dây điện thoại, cáp quang. Còn kết nối vô tuyến thông qua sóng vô tuyến, hồng ngoại...

Từ đây, bắt đầu xuất hiện khái niệm Internet. Internet là mạng máy tính bao gồm nhiều mạng của các tổ chức, quốc gia trên toàn thế giới. Internet là mạng máy tính lớn nhất thế giới, hay hiểu đơn giản Internet là mạng của các mạng.

Như trên đã nói, khi đã được nối với Internet, từ bất kỳ một máy tính nào cũng có thể gửi thông tin đến một địa chỉ xác định. Ví dụ, bạn cần gửi thư điện tử (e-mail) cho một người đang ở Mỹ. Đầu tiên, bức thư từ máy tính của bạn được chuyển đến nơi bạn đăng ký dịch vụ thư điện tử - thường gọi là nhà cung cấp dịch vụ Internet (tiếng Anh là ISP, các ISP tại Việt Nam hiện nay là VDC, FPT, Sài Gòn Postel, Viện Khoa Học Công Nghệ) thường là theo đường điện thoại. Tiếp theo đó, ISP này thông qua một tổ chức khác gọi là IAP, tức là nơi quản lý cổng vào Internet (hiện nay chỉ có VDC - thuộc Tổng Công Ty Bưu Chính Viễn Thông VN - đảm trách công việc này) để gửi bức thư của bạn lên Internet. Sau khi đã lên Internet, thư của bạn sẽ đi đến địa chỉ mà bạn đã chỉ ra khi gửi - thường là một server thư tín của ISP đang cung cấp dịch vụ cho người mà bạn gửi thư. Bức thư được lưu vào

“hộp thư” riêng của người nhận nằm trên máy chủ của ISP. Người nhận thư sau đó sẽ truy cập vào hộp thư của mình (tất nhiên cũng bằng máy tính) để lấy bức thư đó. Toàn bộ quá trình trên được thực hiện tự động và chỉ xảy ra trong thời gian vài phút, tùy thuộc vào lưu lượng giao dịch trên Internet (xem hình minh họa).

Qua ví dụ trên, ta thấy Internet đóng vai trò của một đường truyền tải thông tin khổng lồ, trong đó IAP, ISP như là các trạm trung chuyển để kết nối và cung cấp dịch vụ. Như vậy, có thể hình dung Internet như một con đường cao tốc kết nối các quốc gia, các tổ chức lại với nhau. Bởi vậy khái niệm “xa lộ thông tin” cũng là một khía cạnh của Internet.

Internet tồn tại như là sự kết nối của rất nhiều mạng thông qua các phương tiện viễn thông trên toàn thế giới như vệ tinh viễn thông, cáp quang, đường điện thoại... Khả năng truyền tải của những phương tiện này rất lớn, có thể chứa được nhiều loại thông tin như dữ liệu, hình ảnh, tiếng nói, hình ảnh động...

Ta hay nói “lấy tin từ Internet”. Những thông tin mà ta gọi là “lấy từ Internet” là do các nhà cung cấp thông tin lên Internet mà ra. Ví dụ, công ty A muốn giới thiệu trên Internet các loại sản phẩm mới của mình. Trước tiên công ty A tổ chức và đưa thông tin sản phẩm lên một máy chủ. Máy chủ này phải nối với một ISP nào đó và có địa chỉ được đặt theo nguyên tắc xác định chung. ISP thông qua IAP để kết nối với Internet. Người dùng Internet có thể truy cập trực tiếp vào máy chủ của công ty A để xem thông tin (xem hình minh họa). Số máy chủ chứa dữ liệu như trên được nối với Internet lên tới hàng triệu. Từ đó có thể thấy lượng thông tin có trên Internet nhiều tới mức nào.

Đứng từ góc độ người dùng, Internet không có gì là cao siêu, khó hiểu. Tại nhiều nước phát triển, người dân bình thường có máy tính trong gia đình đã sử dụng Internet như một phương tiện truyền thông hữu ích. Vấn đề mà chúng ta quan tâm hiện nay là sử dụng và quản lý Internet như thế nào để việc "nối mạch" diễn ra trôi chảy và giá cước ngày càng rẻ. Để đạt được sự "trôi chảy" khi nối mạng điện thoại quốc tế ta cũng phải mất nhiều năm. Còn giá cước hợp lý thì nhiều năm nay vẫn chưa đạt được.

*Chi phí bao nhiêu để có thể sử dụng Internet

Muốn trở thành người dùng Internet, điều trước tiên là bạn phải có máy tính với cấu hình tối thiểu:

o Bộ xử lý 486 DX2-66MHz

o 8MB RAM

o 20 MB đĩa cứng trống

o Hệ điều hành Windows 3.1, hay Windows 95

o Và cho rằng bạn đã lắp đặt điện thoại.

Tiếp theo đây là những chi phí bổ sung để sử dụng Internet

o Modem tốc độ 14,4 kbps (loại lắp trong) 450.000 ĐVN

o Đăng ký truy nhập Internet với ISP (lắp đặt thuê bao) 450.000 ĐVN

o Cước sử dụng 400 ĐVN/phút

Như vậy, chi phí ban đầu để sử dụng Internet là 900.000 ĐVN

Với mức sử dụng Internet 1 tiếng/ngày, bạn sẽ phải trả 60 x 400 = 24.000 ĐVN mỗi ngày, và 26 x 24.000 = 624.000 ĐVN mỗi tháng.

*Intranet - một Internet thu nhỏ

Nói đến Internet, tức là ta đã nói đến một mạng máy tính rất lớn với quy mô toàn cầu, trong đó các máy tính được nối với nhau và truyền thông tin cho nhau, tuân theo những quy cách chung để đảm bảo sự nhất quán trong toàn hệ thống.

Hãy hình dung, nếu ta thu nhỏ mô hình mạng máy tính kiểu Internet vào trong một cơ quan, xí nghiệp có nhiều mạng nhỏ nằm ở những vị trí khác nhau, và cũng sử dụng những cách thức, phương tiện kỹ thuật như trong Internet để trao đổi thông tin, thì đó chính là mạng intranet.

Trong intranet, bạn cũng dùng bộ duyệt Web để xem thông tin được lưu trữ trên các máy chủ (còn gọi là Web server) trong phạm vi cơ quan, xí nghiệp của mình.

Mạng intranet có thể nối với Internet. Và để bảo vệ intranet khỏi sự truy cập không hợp pháp từ bên ngoài, người ta phải sử dụng những phương tiện kiểm soát luồng thông tin ra vào intranet, gọi là bức tường lửa.

WORLD WIDE WEB, LINH HỒN CỦA INTERNET, LẠI CÀNG ĐƠN GIẢN

Người ta nói rằng Internet chỉ trở nên thực sự hấp dẫn khi World Wide Web xuất hiện. World Wide Web - viết tắt là WWW, hay gọi ngắn gọn là Web - là công cụ, phương tiện hay đúng hơn là một dịch vụ của Internet. Hiểu thế nào là dịch vụ Internet? Đó là những phương tiện, cách thức được sử dụng trên Internet nhằm giúp cho việc trao đổi thông tin trở nên thuận tiện và dễ dàng.

Không giống với những dịch vụ khác của Internet, Web cung cấp thông

tin rất đa dạng, bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, video, nghĩa là những gì chúng ta có thể cảm nhận được. Thông tin được biểu diễn bằng “trang Web” theo đúng nghĩa của một trang mà chúng ta có thể nhìn thấy trên màn hình máy tính. Mọi

thông tin đều có thể biểu thị trên trang Web đó, kể cả âm thanh, hình ảnh động.

Nhưng nếu chỉ có như vậy thì cũng chẳng có gì phải bàn nhiều về Web.

Vấn đề lý thú nhất của Web nằm ở khía cạnh khác.

Trang Web bạn nhìn thấy trên màn hình máy tính có khả năng liên kết với những trang Web khác, dẫn ta đến những nguồn thông tin khác. Chẳng hạn trên một trang thông tin bạn đọc thấy câu thơ của Tố Hữu:

Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

...

Người thiết lập trang Web có thể cho phép bạn khi đó "nhấn chuột" vào chữ tuyết tan và lập tức bạn được xem một đoạn phim về tuyết tan được lưu trữ ở một máy chủ nằm đâu đó tận Moscow hay Warzava.

Khả năng này của Web có được nhờ thông qua các “siêu liên kết” (hyperlink). Siêu liên kết dẫn ta từ trang Web (có đoạn thơ Tố Hữu) ở Việt Nam tới trang Web khác (phim về tuyết tan) ở tận Nga. Như vậy, siêu liên kết về bản chất là địa chỉ trỏ tới nguồn thông tin (trang Web) nằm đâu đó trên Internet. Bằng những siêu liên kết này, các trang Web có thể liên kết với nhau thành một mạng chằng chịt (bản thân Web theo tiếng Anh là mạng nhện), trang này chỉ tới trang khác, cho phép ta chu du trên biển cả thông tin (người ta vẫn hay gọi là lướt trên Web là vậy).

Để có thể xem được trang Web, người ta phải sử dụng những chương trình đặc biệt gọi là Web Browser. Hiện tại có hai Web browser thông dụng nhất là Navigator của Netscape và Internet Explorer của Microsoft.

Nguồn tin từ PCworld

TỪ INTERNET VÀ WORLD WIDE WEB ĐẾN INTRANET

Intranet: Internet thu nhỏ trong cộng đồng

Là một người dùng Internet, và theo thói quen cố hữu của người làm toán, tôi thử tìm một số định nghĩa cho Intranet và thấy rằng các tài liệu có cách viết khác nhau nhưng chung quy là Intranet "na ná" như Internet thật, nhất là với trình độ tiếng Anh "miền núi" như tôi thì nghe người Mỹ họ phát âm hai từ ấy cũng chẳng thấy khác nhau. Intranet cũng dùng thủ tục truyền TCP/IP như Internet và công nghệ duyệt tin World Wide Web. Internet không có chủ sử hữu, chỉ có những trang WEB là có chủ, nhưng mạng Intranet thì luôn có người chủ thực sự của mình. Intranet thực chất là sự kết hợp công nghệ Internet và WEB trong nội bộ một công ty, một cơ quan hay một quốc gia - ta tạm gọi là một cộng đồng - với một bức tường lửa (firewall) giúp cho người dùng được đăng ký trong mạng có thể truy nhập thông tin trong Intranet và ra ngoài Internet thoải mái. Người dùng Internet có thể truy nhập vào Intranet để lấy được những thông tin lọc bởi bức tường lửa.

Intranet: Giải pháp mới cho vấn đề cũ

Ta cứ thử tưởng tượng một công ty đa quốc gia với khoảng chục ngàn nhân viên, có hàng trăm văn phòng, trụ sở trên khắp thế giới nếu muốn thiết lập một mạng toàn cầu riêng sẽ tốn kém biết bao nhiêu. Họ cần lưu trữ một số lượng lớn thông tin về văn phòng, nguồn nhân lực, vật lực, giá cả hàng hóa hay danh bạ điện thoại... Theo ông Dennis Tsu, giám đốc tiếp thị về các sản phẩm phần mềm Internet của công ty Sun Microsystems thì hàng năm, chi phí cho in ấn, phân phát tài liệu cho một nhân viên công ty từ 50 đến 100 USD. Giả sử công ty có độ 200 nhân viên thì chi phí trên trong một năm có thể mua được nửa tá Web server và mỗi phân ban chỉ cần chịu trách nhiệm cập nhật thông tin thường xuyên trên máy chủ thay vì in ấn và phân phát thì rất có thể sau 12 tháng, vốn đầu tư hàng năm cho từng nhân viên trên sẽ trở về két bạc của công ty.

Ngoài ra, các công ty đa quốc gia có thể được thành lập từ những công ty con khác nhau thuộc nhiều quốc gia nên một điều dễ xảy ra là họ có các hệ thống máy tính khác nhau về kiến trúc. Đó có thể là IBM PC, Macintosh, máy tính mini hay siêu máy tính và chạy trên hệ điều hành Unix, DOS, Windows... Chỉ có TCP/IP là ngôn ngữ giúp các máy tính khác biệt về kiến trúc "nói chuyện" được với nhau, trong khi công nghệ Web giúp người sử dụng không biết nhiều về máy tính có thể xem từ tài liệu trên siêu máy tính Cray đến văn bản Word, Excel trên PC hay Macintosh một cách dễ dàng. Chính điều này có thể giúp họ nhanh chóng hòa mạng trong nội bộ công ty và tiếp cận với thế giới Internet bên ngoài.

Công nghệ Web từ khi ra đời đã tỏ ra rất hiệu quả vì khả năng thiết lập nhanh với giá thành rẻ. Cấu hình cơ bản chỉ cần một Web server và phần mềm đi kèm. Vì mạng Internet đã có sẵn chỉ cần nối Web server vào một gateway gần nhất và trả tiền thuê bao trên đoạn đường truyền đó là có thể nối mạng với bất kỳ điểm nào trên thế giới. Trên mỗi máy lẻ của người dùng đầu cuối chỉ cần cài một phần mềm duyệt tin (browser) và nếu dùng sản phẩm của Microsoft thì có thể sao chép miễn phí bộ duyệt Internet Explorer trên Internet. Tính hiệu quả kinh tế có lẽ không cần bàn cãi ở đây.

Một nhân tố quan trọng nữa thúc đẩy sự phát triển rất nhanh của Intranet trên thế giới là công nghệ Web rất trực quan và dễ đọc, không cần đầu tư lớn cho huấn luyện và đào tạo. Sự liên kết siêu văn bản giúp người sử dụng đầu cuối đi từ văn bản này đến văn bản khác cho dù đó là bài phát biểu được ghi âm, một băng video hay đoạn phim, thậm chí có thể là các bức ảnh hay đồ thị minh họa. Tất cả các loại siêu văn bản đó được tổ chức dễ dàng trong một trang gốc (home page) đặt trên một máy chủ. Một họa sĩ với đôi chút hiểu biết về Web sẽ thiết kế các trang Web đẹp và trang nhã dễ hơn là họ vẽ trên vải. Các công ty thường tốn nhiều tiền để in ấn các hướng dẫn, giới thiệu về công ty, các báo cáo hàng năm, danh sách giá các loại mặt hàng... nhưng khi đến tay người dùng thì thông tin đã lỗi thời. Nếu được cập nhật bằng Web thì thông tin sẽ là mới nhất. Giá thành đưa sản phẩm tới thị trường sẽ thấp đi rất nhiều và thời gian cũng sẽ giảm đi tối thiểu. Intranet giúp công ty nâng cấp phần mềm, hướng dẫn tiếp thị và bán hàng. Các tài liệu về huấn luyện và đào tạo, trợ giúp trực tuyến trên Web giúp cho các nhân viên dù xa nhau về khoảng cách địa lý vẫn liên lạc với nhau nhanh chóng và hiệu quả.

Điều tiện lợi cuối cùng, Intranet sẽ giúp những người lãnh đạo cao cấp nắm được thông tin thông suốt từ trên xuống. Họ sẽ không còn sợ con "ngoáo ộp" vi tính đe dọa nữa vì giờ đây dùng máy vi tính cũng tựa ta dùng tivi trong gia đình vậy. Họ chỉ cần biết di chuột trên màn hình và nhấn vào tiêu đề của văn bản cần xem mà không cần biết thế nào là hệ điều hành DOS, thế nào là tập tin hay phải sao chép trên đĩa ra sao. Intranet đã lựa chọn những ưu điểm của Internet để sử dụng hiệu quả trong một cộng đồng.

Intranet: Sự lựa chọn cho thành công

Nếu cho rằng năm 1995 là năm Internet thì 1996 thuộc về Intranet. Chỉ riêng năm 1995, số lượng Web server dùng cho Intranet đã chiếm 55% so với 45% của Internet. Theo dự đoán của IDC thì tới năm 2000, tỷ số này sẽ là 10:1 nghiêng về Intranet. Riêng trong năm 1996, theo thống kê của Forrester sau khi phỏng vấn 50 trong số 500 công ty thành đạt nhất thế giới thì hiện có 16% đang dùng Intranet, 26% sẽ cài đặt, 24% đang xem xét, còn 34% trả lời là chưa có kế hoạch cụ thể.

Nói đến sự thành công huyền thoại trên Intranet phải kể đến công ty FedEx, chuyên vận chuyển hàng trên khắp thế giới. Mỗi ngày công ty vận chuyển khoảng 2,4 triệu kiện hàng đi khắp năm châu. Họ đã lắp đặt Web server từ tháng 11 năm 1994 và hàng ngày cho phép khoảng 12.000 khách hàng có thể theo dõi trực tiếp từng giờ xem kiện hàng của mình được luân chuyển như thế nào tới địa chỉ của người nhận thông qua vài thao thác trên máy vi tính. Người gửi và nhận không phải mất thời gian và tiền bạc để hỏi qua điện thoại hay fax xem kiện hàng đã tới nơi chưa. FedEx đã tiết kiệm 2 triệu USD mỗi năm vì có mạng Intranet. Công ty FedEx có khoảng 60 trang gốc với hàng trăm ngàn trang Web nhằm cung cấp thông tin cho khoảng 30.000 nhân viên trên toàn thế giới.

Hãng ô tô Ford dùng Intranet để nối các trung tâm thiết kế từ châu á sang châu Mỹ và châu Âu. Từ hãng AT&T đến hãng quần jean Levi Strauss đều đặt cược cho Intranet để kinh doanh. Silicon Graphics với 7200 nhân viên tạo ra 114.000 trang Web được lưu trên 800 trang Web gốc dùng trong nội bộ công ty. Họ có Intranet từ thuở Mosaic và WWW mới được sinh ra. Ngân hàng Thế giới (The World Bank) cũng trang bị một Intranet cho khoảng 10.000 nhân viên, giúp họ trao đổi thông tin và đó chính là một trong những yếu tố tạo cho hoạt động của Ngân hàng Thế giới trẻ nên hiệu quả hơn. Ngồi tại văn phòng ở Hà Nội hay Washington có thể xem chi tiết tình hình giải ngân của từng dự án đang thực hiện tại Việt Nam hay bất kỳ.

Năm 1996, tổng giá trị các phần mềm Intranet được bán ra trên thế giới khoảng 467 triệu USD. Theo dự đoán có thể lên tới 4 tỷ trong năm 1997 và đạt 8 tỷ trong năm 1998, gấp 4 lần so với Internet. Đó là chưa kể đến các ứng dụng, công cụ lập trình cho Intranet. Đây là dịp làm ăn lớn của các công ty chuyên sản xuất phần mềm cho Intranet như Netcape, Sun, Microsoft, IBM, Oracle, Computer Associates... Cuộc chiến thực sự giữa các công ty khổng lồ đã bắt đầu nhằm chiếm lĩnh thị trường Intranet. Họ đưa ra các chuẩn khác nhau, kể cả phần cứng và phần mềm nhằm thu hút khách hàng đi theo công nghệ của mình. Nhưng như người ta thường nói: "Hãy để cho trăm hoa đua nở, ta sẽ ngắt những bông nào đẹp nhất".

Intranet: Những thách thức và giải pháp

Khi tôi viết những dòng trên và đọc lại thấy Intranet quả là dễ "ăn". Chỉ cần mua server và phần mềm về cài đặt thế là xong. Nhưng sự đời đâu có dễ như ta tưởng. Nếu anh dễ dàng truy nhập tin thì chắc tôi cũng khá nhanh tìm được bí mật của công ty anh trên mạng. Vì vậy, độ an toàn của thông tin trên mạng Intranet được đặt ra hàng dầu khi các nhà quản lý đồng ý chi tiền cho Intranet. Những bí mật tế nhị như tiền lương, lý lịch từng người, doanh số bán ra, thu nhập của công ty, xa hơn nữa là bí mật quốc gia... không thể cung cấp cho mọi người cùng biết. Intranet phải đảm bảo người sử dụng truy nhập vào thông tin mà họ cần và điều quan trọng là quyền truy nhập của họ đến đâu.

Giải pháp firewall sẽ giúp người quản lý mạng thiết lập các quyền truy nhập của người sử dụng một cách dễ dàng. Những dữ liệu truyền trên mạng xuyên quốc gia, hay lục địa phải được mã hóa sao cho trên đường đi không thể có ai có khả năng đọc được những dữ liệu đó. Hệ thống bảo mật thông tin ngày nay đã phát triển tới mức mà muốn giải mã một đoạn tin được mã hóa bằng phương pháp hiện đại người ta phải mất hàng nghìn năm mới có cơ may tìm ra.

Ngay tại Việt Nam, bạn đọc có thể tìm tới nhóm phát triển phần mềm "Bảo mật thông tin" dười sự hướng dẫn của Giáo sư Phan Đình Diệu tại Hà Nội để xem một hệ thống bảo mật thông tin an toàn tuyệt đối và Giáo sư có thể chứng minh bằng phương pháp toán học chặt chẽ. Sự bí mật của công ty cũng cần được đặt ra nghiêm chỉnh khi cài Intranet. Nếu không thì mọi thư từ bí mật của cá nhân, của cơ quan bị người khác nhòm trộm không thương tiếc và đó là nguy cơ phá sản. Và điều thách thức cuối cùng là tính hiện thời của trang Web. Nếu các thông tin không được cập nhật thường xuyên thì những trang Web trở nên vô ích vì thông tin quá lỗi thời. Nhưng với một vài người luôn lo nội dung của các trang Web thì việc cập nhật định kỳ không phải là vấn đề khó.

Đôi lời kết

Năm 1945, ông Vannevar Bush, cố vấn khoa học của Tổng thống Mỹ Frank Roosevelt trong Thế chiến thứ hai đã tưởng tượng ra một thế giới mới cho các nhà khoa học cần chinh phục. Một trong những ý tưởng đó là ông tưởng tượng ra một thiết bị có tên là Mermex (nguồn gốc từ tiếng Anh Memory Mimic nghĩa là bắt chước cách suy nghĩ của bộ não người) giúp người ta có thể truy nhập thông tin như cách người ta thường tư duy: đi từ thông tin này sang thông tin khác như là đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách thoải mái và thông tin lại được lưu trữ lại như ý tưởng được lưu trong bộ não người để sau này có thể lục lại dễ dàng. Memex giúp người ta liên kết các văn bản lại với nhau. Thời đó, người ta cho Memex là điều không tưởng và điên rồ. Nhưng đến hôm nay, đã trải qua nửa thế kỷ, cái Web "rối rắm" của ông V.Bush tưởng tượng đã thành hiện thực. Công nghệ Internet và Web đã sinh ra Intranet và giúp con người trong một cộng đồng liên kết với nhau, cùng chia sẻ thông tin và lao động có hiệu quả. Intranet sẽ là chìa khóa của sự thành công cho các cộng đồng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin.

Khi bài viết tới tay bạn đọc thì có thể đất nước đã sang xuân 1997 - chỉ còn ba năm nữa sẽ tới thế kỷ 21. Hy vọng những chuyên gia hàng đầu về mạng từ các công ty tin học trẻ và năng động như ONE, hùng mạnh như FPT, 3C hay thâm trầm như Lạc Việt... sẽ thiết lập và đưa vào ứng dụng thành công mạng Intranet tại Việt Nam giúp nền công nghệ thông tin tiên tiến thêm một bước mới.

Intranet: Những công ty nên tìm đến

Dưới đây là danh sách một số công ty cung cấp các dịch vụ kể cả phần cứng và mềm cho Intranet mà tôi sưu tầm được theo quan điểm của tạp chí Fortune.

• Internet/Intranet/Web Software:

• Adobe Systems, Attachmate, Clarify, Hyperion, Software, Lotus, Microsoft, Servlets, Software.com, Vantine.

• Network Operating Software: Novell, Sun Microsystems

• Security: Information Resource Engineering

• Database: Informix

• Fast LAN Technologies: Cabletron

• Internetworking: Cascade Communications, Cisco Systems, U.S. Robotics

• Servers: Apple Computer

• Content Providers: DataTimes

Nguồn tin từ PCworld

INTERNET THẾ HỆ MỚI

Mạng tương lai, đang được các nhà nghiên cứu và hàn lâm xây dựng, sẽ sử dụng những backbones mới, các giao thức mới, và triển khai các ứng dụng mới.

Internet ngày nay, tuy tốc độ nhanh hơn trước đây và đang tăng trưởng hàng tháng, vẫn còn quá chậm và không đáp ứng nhu cầu người sử dụng. Chính vì vậy mà đang có cả "đoàn quân" chuyên gia dồn hết tâm sức xây dựng mạng Internet thế hệ mới.

Mặc dù những đường trục chính (backbone) có băng thông rộng trong khoảng OC-12 (622 Mbps), thông lượng giữa các đầu cuối trên mạng Internet công cộng được đo giữa các trạm làm việc của mạng LAN và chỉ cỡ 40 Kbps - tương đương với tốc độ liên lạc giữa hai modem và hơi chậm hơn của mạng ARPANET gốc, trục chính tiền-Internet chạy ở tốc độ 56 Kbps.

Đối với những nhà nghiên cứu, băng thông này và khả năng bất ổn của nó không đủ để hỗ trợ nhiều ứng dụng mới mà họ muốn và cần. Trong nhiều trường hợp, nếu không có được hệ thống mạng thích hợp, họ buộc phải mua các thiết bị đắt tiền, thay vì có thể dùng chung (chẳng hạn như kính hiển vi điện tử). Hoặc họ phải đi xa để xem trình diễn trực tiếp dữ liệu cần thiết từ các dự án liên quan.

Vấn đề không chỉ đơn giản là yêu cầu "làm ơn cho thêm băng thông". Internet ngày nay không hỗ trợ nhiều tính năng khác, những tính năng quan trọng đối với thế hệ phần mềm ứng dụng sắp tới cần có tốc độ cao hơn.

Internet hiện thời cung cấp cái được gọi là "dịch vụ cố gắng nhất". Phiên bản 4 của TCP/IP, đang chạy trên Internet hôm nay, không dự phòng được khả năng xác định hay bảo đảm yêu cầu chất lượng dịch vụ (quality-of-service - QoS) và các mức độ khả dĩ của những yêu cầu này. IPv4 cũng không thể dự phòng băng thông, không bảo đảm hiệu năng mạng tối đa, không cung cấp đủ tính năng an toàn cần thiết.

Các trường đại học và các viện nghiên cứu hiện nay đang cần đến những tính năng này. Còn giới các công ty và người dùng thông thường cũng bắt đầu cần đến và nhận thức được giá trị của các tính năng đó trong Internet thương mại.

Để đạt đến Internet thế hệ tiếp theo cần có phần cứng (ví dụ như các bộ chuyển mạch, bộ dẫn đường) và các dịch vụ truyền tải, viễn thông thế hệ mới. Nó còn đòi hỏi những giao thức mới, những công cụ điều hành mạng mới, và sự hiểu biết sâu sắc hơn về nhu cầu mạng đối với các ứng dụng tốc độ cao. Cũng cần có kế hoạch quản lý dự án và chương trình trọng yếu để có thể triển khai và điều phối những thay đổi này mà không làm hỏng dịch vụ Internet đang tồn tại. Cần có cách thức làm cho những tính năng này trở nên khả dụng đối với người dùng và các ứng dụng của họ, theo dạng đơn giản, dễ-đặc-tả-và-dễ-sử-dụng - cộng với việc giáo dục và đào tạo các nhà phát triển và người dùng.

Một điều dễ làm nản chí là quy mô của nó vượt khỏi tầm của bất kỳ một nhà sản xuất, một trường đại học, hay tổ chức chính quyền nào. Nhưng nó lại nằm trong khả năng của nhiều đơn vị này kết hợp thành đội ngũ cùng làm việc - đó là điều đang diễn ra hiện nay.

Bước dọn đường

Các cộng đồng giáo dục Hoa Kỳ đã hợp tác hơn một thập niên để xác định được nhu cầu mạng của họ. Một số khởi xướng có liên quan với nhau đang được thực hiện và dọn đường cho những bước phát triển Internet thế hệ mới; đó là:

• Sáng kiến Internet thế hệ mới (Next-Generation Internet - NGI) của Nhà Trắng.

• Dịch vụ mạng băng thông cực cao (VBNS) của National Science Foundation.

• Internet2, một cố gắng của nhóm các trường đại học đang làm việc với các công ty và đối tác nhà nước.

• IPng, giao thức Internet thế hệ mới - IPv6.

Những sáng kiến này đang thúc đẩy tạo ra những giao thức mới, phần cứng, phần mềm mới, kiến thức mới, và các mẫu thử nghiệm mạng mới trình diễn những ứng dụng thể hiện tính năng mới.

NGI

NGI là sáng kiến tập thể của Nhà Trắng, công bố từ tháng 10/1996. Được phát triển từ sáng kiến tính toán và truyền thông tốc độ cao, hiện giờ NGI trở thành một phần của dự án tính toán mạng qui mô lớn (Large-Scale Networking) của chính quyền Hoa Kỳ. Mùa thu năm trước, các nhà nghiên cứu đã trình diễn năm "ứng dụng tiền thân" cho Internet thế hệ mới. NGI nghiên cứu các giao thức, phát triển và khai thác các mẫu thử nghiệm đầu cuối, cộng thêm các ứng dụng minh họa. Một số mục đích tương tự cũng được đưa ra trong Internet2 và VBNS.

Trong tất cả các sáng kiến thì NGI là cấp tiến nhất, đặc biệt là loại mạng Class 1 của nó, ở đó các công nghệ mạng được kiểm nghiệm thích đáng. Một số trong những mạng này không liên quan gì đến TCP/IP. Chúng bao gồm:

• Collaborative Advanced Interagency Research Network (CAIRN) cung cấp bộ Ascend Gigarouters cho các nhà nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc để thí nghiệm với RSVP, multicast (kỹ thuật cho phép gửi lên mạng chỉ một bản, khi cần thiết sẽ tự động nhân bản để gửi đến nơi yêu cầu), và các giao thức IPv6 khác.

• National Transparent Optical Network Consortium (NTONC) có kế hoạch xây dựng mạng mẫu trị giá 40 triệu USD ở California để làm mô hình thử nghiệm và đánh giá hiệu năng của các thành phần truyền thông quang học cao cấp. Người ta hy vọng rằng những tiến bộ kỹ thuật này giúp xây dựng được mạng có khả năng truyền dữ liệu 10-100 Tbps - dung lượng vượt xa những gì đang dự định hiện giờ.

• Mạng Multiwavelength Optical Network (MONET), trải từ Washington D.C. đến New Jersey, giúp định hình được cách xây dựng mạng quang học quốc gia hỗ trợ nhiều độ dài sóng.

• Advanced Technology Demonstration Network (ATDNet) khởi đầu là mạng ở vùng Washington D.C. có băng thông cỡ OC-48 (2,4 Gbps). Nó được tạo ra để giúp các cơ quan liên bang triển khai việc sát nhập các công nghệ chế độ truyền dẫn không đồng bộ (ATM) và mạng quang học đồng bộ (Synchronous Optical Network - SONET).

• Advanced Communi-cations Technology Satellite ATM Internetwork liên kết một vài trung tâm tính toán tốc độ cao (một phần được biết dưới mô hình thử nghiệm có tên gọi Defence Research and Engineering Network [DREN]) và các mô hình thử nghiệm Multi-dimensional Applications Gigabit Internetworking Consortium (MAGIC) và ATDNet tốc độ cỡ gigabit. Những đề tài nghiên cứu bao gồm kỹ thuật tín hiệu trên mạng, quản lý vấn đề tắc nghẽn, ATM và IP multicast, và cổng (gateway) cho các mạng LAN phi ATM.

Mục đích chủ yếu của NGI là phát triển và trình diễn hai mô hình thử nghiệm nhanh hơn 100 và 1000 lần so với Internet ngày nay nếu tính về hiệu năng liên lạc giữa các đầu cuối (end-to-end) - tức là khoảng 100 Mbps và 1 Gbps. Những dịch vụ mạng mà NGI sẽ làm việc bao gồm những lĩnh vực như an toàn tác vụ và quản trị mạng. Đang có nhiều cố gắng làm cho NGI dễ sử dụng đối với những công ty làm việc với nó. Mùa thu năm ngoái có hơn 150 công ty ở Silicon Valley đã tham gia với vai trò đối tác.

VBNS

Trước NGI, trước Internet2, NSF đã hoạt động để cung cấp những dịch vụ mà Internet thương mại chưa làm được. NSF bắt đầu bằng mạng chuyên dùng VBNS với mục đích cung cấp dịch vụ mạng thế hệ mới cho các nhà nghiên cứu cao cấp và người dùng trong giới khoa học.

Vào mùa xuân 1995, NSF ký kết hợp đồng hợp tác 5-năm thực hiện VBNS trị giá 50 triệu USD với hãng MCI. Mạng này, hoạt động từ tháng 4/1995, nối 5 trung tâm máy siêu tính của NSF, ở những nơi như Cornell Theory Center và National Center for Supercomputing Applications (NCSA). Mạng này sẽ mở rộng đến khoảng 100 viện nghiên cứu.

Đến mùa thu năm trước, "VBNS có khoảng 23.500 Km liên kết OC-12, và chúng tôi cũng cung cấp các kênh ảo chuyển mạch (switched virtual circuits - SVC)", Charles Lee, Giám đốc Chương trình VBNS của MCI Telecommunications, phát biểu. "Hai trạm có thể gửi tín hiệu trực tiếp đến các bộ chuyển mạch ATM của MCI và đi xuyên qua mạng MCI bằng tầng Layer 2 từ đầu này đến đầu kia mà không cần đến bất kỳ bộ dẫn đường (router) nào".

"Đó là lồng ấp dành cho việc phát triển những ứng dụng thế hệ mới", Lee nói. "Bạn cần phải phá vỡ nghịch lý trứng-và-gà - không ai phát triển các ứng dụng cho một mạng không tồn tại, và ngược lại. VBNS là bàn đạp tiến đến công nghệ thế hệ mới".

MCI đang cố gắng mang IPv6 vào VBNS trong tháng Ba này, nhưng điều này có thể bị kéo dài do vấn đề phần mềm hỗ trợ IPv6.

Đến tháng sáu, MCI hy vọng sẽ đưa ra được những dịch vụ hỗ trợ băng thông dự phòng (reserved-bandwidth services). "Dịch vụ khởi đầu của chúng tôi sẽ bổ sung dịch vụ băng thông dự phòng cho kỹ thuật chuyển tiếp IP-datagram truyền thống", Lee nói. "Tính năng này dành cho những ứng dụng cần băng thông cao để bảo đảm độ trễ và mất mát rất thấp. Nó thiết lập, trên cơ sở từng ứng dụng, một đường dẫn đặc biệt qua Internet bằng cách gởi tín hiệu từ hệ thống đầu cuối sử dụng RSVP, và một trong nhưng bộ dẫn đường của chúng tôi sẽ chuyển nó thành kênh ảo ATM".

Băng thông dự phòng rất quan trọng, Lee nhấn mạnh, "những khi mà các dịch vụ thương mại không thể hỗ trợ nó cho các trạm cuối". Tương tự, việc sử dụng kỹ thuật Protocol-Independent Multicast (PIM) hiện đang cho phép thực hiện một số hoạt động mà trước đây không thể làm được, chẳng hạn như kết nối đến mạng CAnet - một mạng nghiên cứu lớn của Canada, để cung cấp tính năng IP-multicasting.

Mặc dù bạn có thể sử dụng Multicast Backbone (Mbone) cho tiếng nói và video, "nói chung là được thực hiện bằng cách dùng các bộ dẫn đường hay các trạm làm việc đặc biệt để làm các IP đường ngầm", Lee nói.

Đến cuối năm này, MCI có kế hoạch tiếp tục nâng cấp cho VBNS thêm kỹ thuật dẫn đường theo nguồn, với hơn 100 đường liên lạc quốc nội và khoảng 20 đường liên lạc quốc tế. Đến năm 2000, tốc độ đường trục chính sẽ đạt đến OC-48.

"Chúng ta có thể thực hiện kỹ thuật dồn kênh phân sóng (wave division multiplexing - WDM) tốc độ rất cao và nhận được băng thông rất rộng", Rick Wilder - Giám đốc Công nghệ Internet ở MCI - phát biểu. "Chúng tôi có một số chặng 40-Gbps, và ở phòng thí nghiệm Reston, Virgina, của chúng tôi có các bộ dẫn đường Cisco 12,000 được thiết lập phù hợp với OC-48. Nhưng bạn cần có khả năng cắm nó vào chỗ nào đó, và hiện tại OC-12 là thứ mới nhất mà bạn có thể mua trong các bộ dẫn đường địa chỉ IP hay các bộ chuyển mạch ATM đáng tin cậy."

(WDM kéo theo việc đóng gói nhiều chuỗi truyền dẫn quang học vào trong một sợi quang bằng cách gửi mỗi chuỗi trên một kênh màu khác nhau.)

Trong khi đó, hoạt động liên quan VBNS đã đơm hoa kết quả. MCI đã phát triển, và đang dùng chung thông tin trên đó, khả năng quan sát cho phép họ theo dõi thông lượng IP bên trong các chuỗi tế bào khi chúng truyền qua với tốc độ cao. Đây là chuyển giao công nghệ đầu tiên mà MCI có thể đưa ra từ những cố gắng thực hiện dự án VBNS.

VBNS cũng sẽ là một phần của dự án NGI, nó cung cấp chỗ để thử nghiệm những ứng dụng mới và triển khai các công nghệ mạng tiên tiến nhất.

Internet2: Bến đỗ tiếp theo của Academia

Sau khi VBNS cất cánh, các trường đại học thỏa thuận đưa tài nguyên của mình lên một mức nối liên mạng mới. Kết quả là một dự án "mù mờ" ra đời, Internet2. Dự án này lầm lẫn theo nghĩa là mặc dù vẫn theo đuổi công nghệ Internet thế hệ mới, nó lại không có ý định thay thế Internet đang có, cũng không xây dựng một mạng mới cho người dùng tổng quát.

UCAID (University Corporation for Advanced Internet Development) được thành lập vào tháng 9/1997 để quản lý Internet2 và trợ giúp các liên đoàn khác, chẳng hạn như một Gigabit Point of Presence (GigaPOP) của North Carolina. Các GigaPOP sẽ giúp đỡ kết hợp thông lượng từ các trường đại học, tránh nhiều vấn đề nảy sinh do kiến trúc của các Network Access Point (NAP) của Internet hiện nay.

Chín công ty thành viên của UCAID - Advanced Network and Service, Bay Networks, Cisco System, Fore Systems, IBM, Newbridge Networks, Nortel, Starburst Communi-cations, và 3Com - đã liên kết ở cấp độ đối tác. Điều đó có nghĩa là họ đã cam kết mỗi bên đóng góp hơn 1 triệu USD cho Internet2 trong 3 đến 5 năm tới.

Internet2, VBNS, và NGI cũng có quan hệ tương hỗ,dù rằng Internet2 và VBNS tự thân chúng cũng có sứ mạng riêng, độc lập với NGI và độc lập với nhau. Hiện tại, VBNS cung cấp dịch vụ mạng trục chính cho Internet2. Internet2 và UCAID cũng có tham gia phần nào trong dự án NGI thông qua khối đào tạo cao cấp. Thật vậy, Internet dường như đã đạt được mục đích đầu tiên của chương trình NGI khi nó nối kết 100 trường đại học hàng đầu và phát triển những chương trình ứng dụng trên mạng thế hệ mới.

Các kế hoạch của Internet2 dự định sẽ tiến hành thử nghiệm hoạt động vào mùa thu năm nay, dù rằng khi sử dụng VBNS một số ứng dụng đã được trình diễn, trong đó có một số ứng dụng trình diễn ở các buổi hội thảo ở Washington D.C. vào mùa thu trước. Các ứng dụng Internet2 bao gồm nhiều ngành nghiên cứu, giáo dục khác nhau. Một số sẽ là môi trường cộng tác, một số khác sẽ là các thư viện số. Một số sẽ hỗ trợ nghiên cứu, và một số khác sẽ cho phép dạy học từ xa.

Internet2 cũng là nơi thử nghiệm nhiều vấn đề mang tính chính sách, chẳng hạn như làm thế nào để định giá và tính phí đối với kỹ thuật dự phòng băng thông. Nó cũng là chỗ để thí nghiệm các biện pháp thúc đẩy các GigaPOP, chẳng hạn với cache cục bộ và các server nhân bản, và với các đường liên lạc vệ tinh lên và xuống để cải tiến hiệu quả mạng.

Bên cạnh những công cụ từ xa được nhắc đến ở trên, các môi trường cộng tác sẽ cho phép các cuộc hội đàm dùng audio, video, text, và "bảng trắng" thực hiện được theo thời gian thực. Các ứng dụng khác hỗ trợ những hình thức cộng tác mới thông qua kỹ thuật trình diễn ảo 3 chiều. Cuối cùng, telemedicine, bao gồm chẩn đoán và theo dõi từ xa, sẽ được đẩy mạnh nhờ Internet2.

Loại ứng dụng sử dụng tối đa khả năng đồ họa/multimedia cũng là những ứng cử viên chính đối với NGI nhằm phục vụ cho cho khả năng trực quan hóa các kết quả khoa học, thực tại ảo (Virtual Reality - VR) cộng tác, môi trường 3-chiều, chẳng hạn như môi trường ảo hỗ trợ bởi máy tính (CAVE - computer-assisted virtual environment); mạng nghiên cứu CAVE (CAVERN);ImmersaDesk; Narrative, Immersive, Contructivist/Collaborative Environment (NICE); và Tele-Immersion (tổ hợp VR và video nối mạng).

Mặc dù những nhà tổ chức Internet2 ban đầu nghĩ rằng có ít hơn hai nhóm trường học có thể cần phần nào đó của mạng mới này, khi sự việc lan rộng ra đã có đến 114 viện đại học Hoa Kỳ muốn tham gia. Để tham gia, mỗi trường đại học phải cam kết bỏ ra nửa triệu USD để nâng cấp mạng WAN của chính họ, để trả chi phí điều phối hàng năm 25,000 USD cho nhóm trung tâm, và để tạo ra ít nhất là một ứng dụng.

Tốc độ cỡ Terabits đã là hiện thực

Không có gì ngạc nhiên khi cộng đồng nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm những mạng nhanh hơn nữa để đưa vào sử dụng. Ông Roberts của Educom nói rằng đã có những cuộc thảo luận về mạng OC-192 (gần 10 Gbps) dành cho các nhà nghiên cứu cao cấp (khoảng từ 50 đến 100 người).

"Những nhà triển khai ứng dụng tiên tiến nhất đang sẵn sàng cung cấp 40-60 Gbps trong một sợi quang ... và giới hạn lý thuyết của một sợi quang là 100 Tbps", Craig Partridge của BBN/GTE nói - 2000 lần lớn hơn khả năng phân phối hiện thời và hơn 100 lần so với giới hạn của phòng thí nghiệm.

"Điều đó có thể cần đến một thập niên nữa tùy thuộc vào mọi chuyện như thế nào ... và tất nhiên, chúng ta cũng sẽ đặt nhiều sợi quang hơn", Partridge nói.

Những công nghệ cần thiết cho Internet thế hệ mới

Internet ngày nay đang muốn vỡ tung từ những chỗ chắp vá. Thiết kế ban đầu không ngờ được kích thước và tính phổ dụng như hiện nay. Xét theo nhiều tiêu chuẩn, nó hoàn toàn không đáp ứng được nhu cầu liên mạng hiện đại. Các kiến trúc sư mạng Internet chưa bao giờ ngờ đến những yêu cầu an toàn dữ liệu và quy mô phát triển quá nhanh.

Quy mô Mạng: Khả năng đánh địa chỉ 128-bit cho mạng mở rộng

Thay đổi hiển nhiên nhất đối với các giao thức Internet sẽ là tăng cường khả năng đánh địa chỉ rộng hơn nhiều so với hiện nay đang hỗ trợ. IPv6 sẽ sử dụng 128 bit - đủ để gán 665 triệu tỉ tỉ (665x1024) địa chỉ trên một mét vuông diện tích bề mặt trái đất.

Khả năng này cung cấp thừa rất nhiều chỗ so với nhu cầu trong tương lai gần. Trong thực tế, với 128 bit này người ta chỉ dành cho vài trăm triệu địa chỉ trên một mét vuông, phần không gian còn lại sẽ được dùng cho kỹ thuật dẫn đường và cho các mục đích quản lý khác. Dù sao đi nữa thì sự mở rộng không gian này vượt quá nhu cầu thực sự của chúng ta.

Kỹ thuật Multicasting: Làm cho việc truyền thông tin đến nhiều người nhận hiệu quả hơn

Thay đổi tiếp theo cho các giao thức sẽ là việc hỗ trợ kỹ thuật data-multicasting. Đây là phương tiện cho phép người sản sinh thông tin chỉ cần gửi một bản sao lên mạng, bất kể có bao nhiêu người nhận. Mạng sẽ tự động sao lại bản này khi cần thiết, dẫn nó đến những máy chủ yêu cầu nó.

Kỹ thuật Multicasting hiện đang được thực hiện trên Internet thông qua phân mạng ảo (virtual subnet) - Multicast Backbone (Mbone). Tuy nhiên, trong khuôn khổ IPv4 và tốc độ tương đối hạn chế của Internet, nó chỉ đóng vai trò "gợi ý" là có thể và sẽ làm được gì với kỹ thuật multicasting trong môi trường Internet thế hệ mới.

An toàn: Định danh nguồn gốc thông điệp và che chắn nội dung

An toàn mạng và dữ liệu là những vấn đề tối quan trọng của Internet thế hệ mới. Chúng ta đã và đang chứng kiến những khe hở trong kỹ thuật an toàn bị lợi dụng trong thực tế sử dụng, chẳng hạn như việc dùng giả địa chỉ IP và lạm dụng e-mail cũng như Usenet. Các giao thức IPng sẽ có hai tính năng được thiết kế nhằm cung cấp an toàn liên lạc ở mức cao hơn: một đầu tin chứng thực (authentication header) và một đầu tin bao bọc an toàn (encapsulating security header). Đầu tin chứng thực sẽ bảo đảm rằng thông điệp có nguồn gốc rõ ràng, xác thực, và một khi đang ở trên mạng, bạn có thể lần theo thông điệp này để truy ngược đến nguồn gốc gửi nó. Nói cách khác, đầu tin chứng thực sẽ định danh được cả nguồn gửi thông điệp lẫn sự kiện rằng nguồn này là đã biết và xác thực. Đặc tính này chỉ biết về nguồn gửi chứ không biết gì về nội dung.

Đầu tin bao bọc an toàn cung cấp công cụ bảo đảm cho các thông điệp được truyền đi nguyên vẹn một cách kín đáo, tránh được ánh mắt tò mò của những kẻ phá hoại. Định nghĩa của đầu tin này hỗ trợ nhiều dạng thức và thuật toán khả dĩ. Đây có thể là một công cụ linh động bảo đảm tính an toàn và thống nhất, sao cho khi có các biện pháp an toàn mới bạn có thể dễ dàng sát nhập chúng vào hệ thống hiện hành.

Chất lượng Dịch vụ: ở phần lõi và cả bên ngoài

Cho đến gần đây, Internet chưa bao giờ cho phép chọn lựa các mức độ, điều kiện về Chất lượng Dịch vụ (Quality of Service - QoS) có thể có được từ các nhà cung cấp, người dùng cũng không thể yêu cầu, và trả tiền tương ứng, sử dụng dịch vụ theo từng ứng dụng, từng phiên làm việc, theo thời gian, hay từng phần. Ví dụ, trên màn hình chưa bao giờ thấy biểu tượng với hàng chữ "Cho tôi dịch vụ tốt hơn, và cứ tính thêm phí", cũng như chưa bao giờ thấy "Hãy bảo đảm chất lượng cho các dịch vụ cuộc gọi video từ người cố vấn đề tài cho tôi, nhưng chỉ cần chất lượng thấp và rẻ đối với các cuộc gọi từ bạn bè nếu như họ không tự thanh toán phí". Các ISP riêng lẻ như Uunet và BBN/GTE bắt đầu cung cấp một số loại hình dịch vụ bảo đảm, nhưng vẫn còn hàng lô dịch vụ chưa thực hiện được trong khuôn khổ các giao thức hiện nay.

Nhiều loại ứng dụng khác nhau và nhiều tình huống khác nhau có độ ưu tiên khác nhau theo cấp độ QoS. Lấy ví dụ, tiếng nói thời gian thực có thể chấp nhận mất tín hiệu chứ không được trễ, trong khi dữ liệu thời gian thực có thể chịu độ trễ ở mức độ nào đó và thường cần độ chính xác 100%.

Khi các gói thông tin truyền đến đích, một số đặc tính cần được bảo đảm và được kiểm soát, chẳng hạn như:

- Dung lượng - Nếu ứng dụng yêu cầu 10Mbps giữa các điểm liên lạc, nó cần có khả năng khai thác dự trữ mạng nhằm hỗ trợ nhu cầu của nó.

- Quản lý mất mát gói thông tin - nếu sự mất mát gói thông tin là không thể tránh khỏi thì mức độ mất chừng nào là chấp nhận được?

- Thời điểm truyền, nhận gói thông tin - Vào thời điểm nào gói thông tin cần cho ứng dụng? Hạn chế về chính xác thời điểm đến chừng nào là chấp nhận được?

- Tương tự, khi các gói thông tin đạt đến đích, những đặc tính nào cần được kiểm soát?

- Kiểm soát điểm vào - Những gói thông tin nào được phép vào chỗ nhận? Đối với những tầng nào thì đây là vấn đề cần xét.

- Phân biệt các gói thông tin - Có những gói thông tin nào quan trọng hơn các gói khác? Chúng ta có thể dẫn các gói thông tin đến nơi nhận dựa trên nội dung của chúng hay không?

- Kế toán và thanh toán - Ai sẽ phải trả phí cho việc truyền gói thông tin, và chúng ta sẽ theo dõi việc thanh toán bằng cách nào?

Giao thức Internet thế hệ mới - IPng

Tổ chức Internet Engineering Task Force (IETF) đang phát triển giao thức IPng. IETF là một liên minh các nhà nghiên cứu máy tính và những thành phần quan tâm khác, và là nguồn tạo ra tất cả các chuẩn Internet chính thức. Nó sẽ triển khai IPng,ở dạng này hay dạng khác, vào lúc nào đó sau năm 1999. Những vấn đề mà tổ chức này đặt ra không phải là nhỏ.

Mẫu thử nghiệm lớn nhất cho các giao thức IPng là mạng các trạm nghiên cứu và thương mại trong 29 nước, gọi là 6-Bone. Trong phạm vi nước Mỹ, IPng cũng đang chạy VBNS.

Nguồn tin từ PCworld

GIAO THỨC INTERNET PHIÊN BẢN 6 (IPV6)

Định nghĩa: Là tập những đặc tả về nâng cấp IP phiên bản 4. IP phiên bản 6 (IPv6) đang được ủy Ban Chuyên Trách Internet Engineering Task Force (IETF) Standars Committee xem xét; nó còn được coi là giao thức Internet thế hệ mới và được thiết kế để những gói thông tin được định dạng cho IP4 hay IP6 đều có thể làm việc được. Những giới hạn về dung lượng địa chỉ và tốc độ tìm đường thấp đã thúc đẩy việc phát triển IPv6; với dung lượng 128 bit và cách định địa chỉ đơn giản hơn, giao thức mới sẽ giải quyết phần nào những vấn đề đau đầu trên. Các tính năng được tăng cường khác là mã hóa 64 bit và tự động cấu hình được thiết kế sẵn của địa chỉ IP.

Tranh luận về sự khẩn thiết của việc nâng cấp IP

Khi đường xương sống của Internet chuyển sang chuẩn mới có tên là IP Version 6 (IPv6), các mạng cộng tác cũng sẽ phải chuyển đổi để có thể bắt kịp trào lưu. Tuy nhiên, theo ý kiến thống nhất của giới quan sát viên thì đây là quá trình lâu dài và gian khó.

Nguyên nhân của việc chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6 một phần là do sự thiếu hụt số lượng địa chỉ IP. Số lượng địa chỉ này trở nên bị hạn chế khi có quá nhiều máy tính và thiết bị khác nối vào Internet. Những ưu điểm của giao thức mới về sự đơn giản trong việc triển khai các thiết bị IP cũng như khả năng bảo mật được tăng cường sẽ trợ giúp cho người dùng cộng tác.

Những công ty lớn nhất cần phải bắt đầu quá trình chuyển đổi này sớm nhất. Theo khuyến cáo của một công ty nghiên cứu, công ty nào có trên 1000 địa chỉ IP thì phải có kế hoạch ngay từ bây giờ. Quá trình chuyển đổi này cũng đặc biệt quan trọng đối với những khách hàng phụ thuộc vào Internet để hoạch định tài nguyên xí nghiệp, trao đổi dữ liệu điện tử và thương mại điện tử. Những ứng dụng này thường là loại đòi hỏi nhiều băng thông cho xử lý giao dịch, môi trường tương tác hay các ứng dụng "phát tin" và tiếng nói qua IP.

Bây giờ hay tương lai?

Vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là nên làm gì và vào thời điểm nào. Một số người cho rằng giao thức này sẽ có mặt trước khi các mạng diện rộng cần được chuyển đổi từ 3-5 năm nhưng một số khác thì lại nói sự chuyển đổi này cần được chú ý sớm hơn và đòi hỏi của nó là không nhỏ. Phần cứng, phần mềm và các ứng dụng mạng cần được nâng cấp để làm việc với những trường địa chỉ mới, dài hơn. Các cơ sở IP lớn phải có sẵn Network Address Translation (NAT) và Dynamic Host Control Protocol (DHCP) để giải quyết những vấn đề khi gán địa chỉ mới và gia tăng tính năng của việc định danh địa chỉ này. Hiện thời, trong vòng hai năm tới, những nhà quản trị mạng vẫn còn nhiều vấn đề lớn hơn cần giải quyết là năm 2000 và chuyển sang cộng đồng chung châu Âu.

Ban chuyên trách công nghệ Internet (IETF) chịu trách nhiệm thúc đẩy và hiện thực IPv6; tổ chức này cũng đã có kế hoạch hiện thực và môi trường thử nghiệm gọi là 6bone, đặt tại úc và hiện liên kết những thiết bị IPv6 trên 32 quốc gia.

Thách thức mà IETF phải giải quyết là hoàn tất việc chuyển đổi sang IPv6 trước khi IPv4 đổ vỡ; họ cũng đã có kế hoạch thực hiện từng bước quá trình chuyển đổi này. Sẽ có giai đoạn mà cả hai giao thức cùng tồn tại trên Internet công cộng. Các chuyên gia ước tính quá trình chuyển đổi này mất khoảng từ 4-10 năm.

Tính năng tăng cường trong IPv6 so với IPv4

Mở rộng địa chỉ và tính năng dẫn đường: kích thước địa chỉ IP lên đến 128 bảo đảm rằng IPv6 sẽ là giao thức Internet lâu dài. Khả năng mở rộng của việc định tuyến một-nhiều được cải tiến để truyền một cách hiệu quả các ứng dụng băng thông cao như video và audio.

Tốc độ mạng: những thay đổi thực hiện trong định dạng địa chỉ giúp giảm yêu cầu về băng thông và cho phép tăng tính hiệu quả và linh hoạt của việc định tuyến và phát tiếp thông tin.

Khả năng bảo mật thiết kế sẵn: những mở rộng để hỗ trợ khả năng kiểm tra tính hợp lệ, tích hợp và bảo mật dữ liệu là một phần của IPv6.

Khả năng để gán các mức ưu tiên cho các gói thông tin: các gói thông tin có thể được gắn nhãn để được thao tác đặc biệt, chẳng hạn "độ ưu tiên". Gói thông tin về hội đàm video có thể có độ ưu tiên cao hơn gói về mail thông thường.

Từ vựng về IPv6

6bone: nền thử nghiệm IPv6 dựa trên giao thức IPv4; dùng cơ chế đường ống và chồng kép.

Anycast: một loại gói thông tin IPv6, cho phép cập nhật hiệu quả nhất bảng dẫn đường cho một trong các nhóm máy chủ.

Dual stacking: cơ chế truyền IPv6 "Transition Mechanics for IPv6 Hosts and Routers"; đặc tả cơ chế chồng kép như một phương pháp chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6 và hỗ trợ cho cả IPv4 cũng như IPv6 trong các máy chủ và bộ dẫn đường.

Dynamic Host Control Protocol (DHCP): chiến lược để giảm những vấn đề thường gặp do thiếu địa chỉ IP; cho phép định vị địa chỉ IP một cách tự động.

Internet Engineering Task Force (IETF): chịu sự giám sát của Ban Kiến Trúc Internet (IAB) thuộc Hiệp Hội Internet (IA); chịu trách nhiệm phát triển và triển khai các giao thức Internet.

Địa chỉ IP (địa chỉ Internet): xác định thông tin người gửi và người nhận trên các gói thông tin. Để có mặt trên Internet, một tổ chức cần có địa chỉ mạng. Địa chỉ trong phiên bản IPv4 là 32 bit; trong phiên bản IPv6 là 128 bit, gia tăng theo cấp số mũ số địa chỉ có thể có.

Multicast: cho phép truyền thông giữa một người gửi và nhiều người nhận. Trong IPv6, cho phép nhận dữ liệu băng thông cao như video và âm thanh.

Network Address Translation (NAT): chiến lược để giảm những vấn đề thường đi kèm với thiếu địa chỉ IP; cho phép truy cập đến những địa chỉ IP riêng, không đăng ký.

Nguồn tin từ PCworld

NHỮNG ĐIỀU TRÔNG ĐỢI Ở INTERNET

Internet đang sụp đổ rồi chăng? Điều đó phụ thuộc vào việc bạn nói chuyện với ai, và đối với họ Internet là gì. Nhưng có điều không thể chối cãi được là quan điểm chung của người sử dụng cho rằng Internet - hay ít nhất là World Wide Web - dường như đang bị sa lầy.

Các nhà quản lý hệ thống thông tin có thể thực hiện một số bước để đảm bảo chất lượng truy cập Internet cho người sử dụng trong nội bộ, cũng như hiệu quả tốc độ cho các Web server được truy cập bởi người sử dụng bên ngoài. Song vấn đề là Internet đã không được thiết kế để hỗ trợ cho số lượng người sử dụng cũng như các kiểu ứng dụng và dữ liệu hiện đang lưu thông trong Internet mà người sử dụng kỳ vọng có thể đáp ứng lập tức như ở các CD-ROM hoặc các ứng dụng trên máy tính để bàn của mình.

Ngày càng nhiều đoàn thể và cá nhân tham gia vào Internet thì hố sâu ngăn cách giữa những điều trông mong của họ và thực tại giới hạn của Internet cũng ngày càng rộng lớn thêm. Một số người sử dụng nói rằng Internet chậm và không đáng tin cậy. Nhưng khi bạn hỏi những người đã xây dựng Internet họ sẽ cho bạn con số phát triển lên trong suốt hai năm qua, và bạn phải sửng sốt về khả năng của nó.

Internet sẽ phải đáp ứng như thế nào? Cho dù có cải tiến tốc độ truyền và phần cứng đến đâu đi nữa, cho dù có bao nhiêu nghi thức linh hoạt cho 'net được đưa ra, thì chất lượng phục vụ sẽ vẫn là dưới mức kỳ vọng của người sử dụng. Còn có một nhu cầu cấp thiết đối với một phương thức phân phối dữ liệu mới (tương tự như vấn đề của Usenet) có thể đưa ra những nội dung gần với người dùng trước khi yêu cầu.

Khi các công ty và cá nhân bắt đầu đặt niềm tin vào Internet và Web thì họ đều mong chờ ở nó một dịch vụ có chất lượng cao.

Mọi người trông đợi rằng nó phải luôn luôn hiệu quả, bất kể họ đang làm gì, đang cố gắng chuyển e-mail cho ai, hay họ đang xem xét trang Web nào! Netscape FTP đã chuyển tải hàng triệu bản sao chép một giờ và thường là quá tải. Như vậy nó hoạt động có hiệu quả hay không thì cũng đã rõ.

Chờ đợi kết nối

Câu chuyện về sự thoái vị sắp tới của Internet là một chủ đề mà nhiều người đã nói bóng gió trong vài năm nay. Trong mục thư tín "Com-priv" trên Internet, người ta đặt câu hỏi rằng có phải Internet không phân phối được một cách thỏa đáng, và nếu vậy phải làm gì đây? (Mục thư tín Com-priv là nơi các nhà phát triển Internet, các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISPs= Internet service providers) và những người quan tâm khác thảo luận các vấn đề liên quan đến Internet thương mại)

Đối với người sử dụng cá nhân, việc dùng Internet thường mất thời gian chờ đợi để được kết nối tới một địa chỉ hay thực hiện truy tìm vì nó chậm chạp và luôn bận rộn.

Đó thực sự không phải là lỗi của Internet. Các chủ sở hữu cơ sở Web đã không cung cấp đủ năng lực theo đòi hỏi của người dùng. Họ có thể quyết định tăng sức mạnh cho server, nhưng đó là điều không chắc xảy ra trong phút chốc. Các nhà cung cấp địa chỉ Web chủ yếu như BBN Planet Corp., Digital Express Group Inc., và The Internet Co. theo dõi mức độ máy server một cách thận trọng, và nếu như một server không thể đáp ứng được đòi hỏi của người dùng, các công ty này sẽ khuyến cáo chủ nhân của nó nên mua máy mạnh hơn.

Vấn đề đối với phương án tiếp cận này là có lẽ nó đáp ứng không kịp thời. Nếu một khách hàng đến với bạn và phải bỏ đi, hoặc buộc phải chờ đợi quá lâu, họ có thể sẽ không bao giờ quay trở lại.

Khi các ISP và các nhà quản lý địa chỉ (site administrator) đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng thì nhiều người sẽ phải kinh ngạc về khả năng của Internet - một ngành công nghiệp phát triển qua 7 - 8 năm, từ chỗ không có gì lên đến 2.000 công ty cung cấp dịch vụ, và phải chăng nó vẫn đang hoạt động tốt? Đó là một điều kỳ diệu về sự lớn mạnh của Internet.

Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cơ bản cũng quan trọng như đường truyền và các máy Web server trong việc hình thành nhận thức của người sử dụng về chất lượng phục vụ.

Tuỳ vào vùng lãnh thổ và thời điểm trong ngày, những người sử dụng phải chờ một phút hoặc hơn để DNS (Domaine Name System = hệ thống tên vùng) tìm kiếm khi nhập URL (Uniform Resource Locator - địa chỉ Web) trong trình duyệt xét.

DNS lấy tên vùng, chẳng hạn như www.infoworld.com, mà người dùng nhập vào trong trình duyệt xét của họ và chuyển đổi thành các địa chỉ IP (Internet Protocol) tương ứng.

Điều đó có nghĩa là việc tìm kiếm DNS đã trở thành cửa xoay thực tế để vào các địa điểm Web, mà chất lượng dịch vụ của nó thì người chủ Web không thể thấy hay đảm bảo được.

Dĩ nhiên, nếu như cơ sở Web không thể đầu tư để cải tiến dịch vụ, dù từ quảng cáo, tiền đăng ký hay kinh phí nội bộ... thì sự tắc nghẽn khó có thể khắc phục. Nếu cộng đồng Internet quan tâm đến thông tin này thì có thể tìm thấy khoảng trống trên các máy chủ khác nhằm chia sẻ gánh nặng.

Trong chừng mực nào đó, điều mà người ta thường nói "đông đến nỗi không còn ai qua đó nữa" có thể xảy ra trên Internet. Nhưng với các doanh nghiệp đang cố gắng cung cấp truy cập không hạn chế tới các dịch vụ của họ trên Internet thì không phấn khởi chút nào.

Đáng tiếc là chẳng có cách gì cho những người sử dụng cá nhân cải thiện dịch vụ của riêng họ ngay tức thời thông qua một biểu tượng kiểu "Hãy lấy thêm 50 xu nữa và cho tôi dịch vụ tốt hơn". Chuyển sang nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng cải thiện hơn có thể cũng chẳng giúp ích được gì.

Các giả thiết đánh giá

Một phần của vấn đề là ở các ứng dụng, một số không được coi là tốt theo khái niệm chất lượng dịch vụ. SMTP (nghi thức truyền thư đơn giản) biểu hiện là tốt, còn HTTP (nghi thức truyền siêu văn bản) thì không được như vậy.

Vấn đề khác nữa là những người dùng Internet đang thử chạy các ứng dụng cao cấp dùng dịch vụ mạng hiện không hỗ trợ họ.

Hầu hết những cải tiến trong Internet hiện nay đều ở mức độ hệ thống mạng, chúng ta đang khai thác Internet thế hệ thứ ba nhưng với các ứng dụng thế hệ thứ nhất. Các ứng dụng cần tốc độ truyền lớn như vậy sẽ mở ra và chấp nhận một mô hình phân bố: dữ liệu lặp và phân tán, đó là Usenet. Chuyển dữ liệu hàng ngàn dặm tạo ra nhu cầu tốc độ truyền và hiện chẳng có gì khác nhau khi người sử dụng lựa chọn các địa chỉ Web khác nhau.

Những người xây dựng Internet cũng phải kiểm tra lại các giả định mang ý nghĩa nào đó khi mà lúc đầu Internet chỉ là công cụ nghiên cứu và phòng thủ chứ không ứng dụng rộng rãi như ngày nay.

Giả định đầu tiên là bạn có thể xây dựng nên một hệ thống mạng và cho phép người sử dụng xem nó là nguồn tài nguyên chung. Theo thông tin từ các nhà phân phối dịch vụ Internet, hiện nay Cầu đã cao hơn Cung rất nhiều, đến nỗi những gì xây dựng xong là gần như lập tức bão hoà, không có khả năng làm thỏa mãn đầy đủ những đòi hỏi không ngừng của người sử dụng.

Giả định khác là do hệ thống mạng là một nguồn tài nguyên chia sẻ và đã được xây dựng quá nhiều, nên sự phân chia hiệu quả nhất có thể chấp nhận được, thực tế, là mô hình dịch vụ. Chúng ta ngày nay đi đến một hiện thực rằng không chỉ phân phát hiệu quả nhất là mô hình dịch vụ duy nhất. Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu mà hoạt động của họ đòi hỏi hiệu suất cao, thì các hệ thống mạng tiềm năng thấp không thể đạt những khả năng như vậy từ Internet tương lai, nhất là nếu các thế hệ tiếp theo của hệ thống mạng được xây dựng từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet chỉ nghĩ đến số lượng khách hàng.

Khi thiết kế các thế hệ tiếp theo của hệ thống mạng, chúng ta cũng phải tính đến những trường hợp như khi một nhà thiên văn cần một vài megabits mỗi giây để điều khiển kính viễn vọng, hay các nhà nghiên cứu trong một khu rừng mưa với máy tính xách tay muốn giao tiếp với các cộng sự...

Các nghi thức, kế hoạch được hoàn thiện

Còn nhiều việc phải thực hiện để Internet làm việc tốt hơn cho hôm nay và ngày mai.

Cách thức mà HTTP của Web hiện đang hoạt động gây ra những vấn đề về tốc độ do một số đặc trưng của TCP/IP không thể thực hiện đúng lúc.

Internet không xử lý tốt các nghi thức (protocol) ở mức sử dụng cao. Các protocol không được thiết kế để hỗ trợ cho các mức độ này. Một cách giải quyết là phải hoàn thiện các protocol. HTTP phiên bản 1.1 và 1.2, các phiên bản tới của protocol truyền thông của Web sẽ phải đi một con đường dài để khắc phục các vấn đề hiện tại.

Đối với người sử dụng server, các nhà phân phối dịch vụ Internet sẽ không cần địa chỉ IP cho mỗi tên vùng. Chúng ta sẽ có các kết nối bền bỉ, bạn có thể chuyển cả loạt biểu tượng hoặc các tập tin nhỏ một lúc chứ không cần từng kết nối tách biệt cho mỗi file.

Caching (truy nhập nhanh) cũng được cải tiến trong HTTP phiên bản 1.1, và một đặc tính cho phép tường trình các xung đột trong vùng truy nhập nhanh sẽ có trong HTTP 1.2.

Sử dụng HTTP 1.1 sẽ hầu như khắc phục được hiện tượng thất lạc khoảng 20% bó được truyền hiện tại. Vì thế mọi người nên chuyển sang các phiên bản mới của HTTP trong server và trình duyệt xét càng sớm càng tốt.

Còn có gánh nặng khác đè lên các nhà phân phối dịch vụ Internet và các công ty viễn thông đang hỗ trợ hoặc sẽ phân phối dịch vụ Internet.

Các nhà cung cấp Internet tự họ cần phải thực hiện thận trọng và tuần tự trước hết. Với giao dịch qua đại dương tăng 100% một năm, các hệ thống cáp ngầm dưới biển sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn. Dự đoán một số nhà phân phối dịch vụ Internet sẽ kết hợp với nhau mua hệ thống cáp riêng.

Tổ hợp các sự nâng cấp liên tiếp đối với router và backbone về lý thuyết thì dường như đạt được một điều gì đó, song trong thực tế thì chỉ tạo điều kiện phát triển và bão hòa. Các công nghệ mới, các cải tiến protocol, và việc thiết kế lại chuyển động dữ liệu có lẽ mang nhiều ý nghĩa thiết thực hơn. Tuy nhiên, tất cả đều là dự kiến của các nhà phân phối dịch vụ Internet và các công ty viễn thông, chưa có gì an ủi được người sử dụng trong thời gian ngắn.

Và TCP cũng sẽ cần phải hoạt động.

Trong một thời gian ngắn nữa TCP/IP sẽ hoạt động tốt. Nhưng về lâu dài, một số cải tiến, bao gồm IPv6, sẽ cải thiện chất lượng dịch vụ của IP backbone.

Dịch vụ bảo đảm

Hầu hết các chuyên gia Internet đều đồng ý rằng bản chất truyền thống chia sẻ-nhưng-không bảo đảm của dịch vụ Internet là không đáp ứng được nhiều nhu cầu sắp tới. Thêm vào đó, đa số khách hàng cần sự bảo đảm trong dịch vụ về các mức độ sẵn sàng, tốc độ, tiềm năng...

Khi Internet hoàn hảo, chúng ta sẽ thấy bước chuyển từ các mức độ dịch vụ "mặc định" sang tình trạng quan hệ hợp đồng của các nhà phân phối dịch vụ Internet nhằm tạo các mức độ dịch vụ bảo đảm cho truyền thông giữa các nhà phân phối.

Nhiều nhà phân phối dịch vụ Internet đang xem xét một số kiểu tính giá trên mức độ sử dụng: khách hàng trả tiền dựa trên mức độ sử dụng bình thường hàng tháng, trả tiền theo bó, hoặc một cách khác là dựa trên mức độ tải được xác nhận.

Để đưa ra các loại dịch vụ khác nhau, các ISP cần công nghệ cơ bản thích hợp. MIT (Viện Công Nghệ Massachusette) đang thử nghiệm mô hình nhận biết khả năng được phân phối.

Bạn có thể có hai TCP thông qua mạng và thiết lập tốc độ truyền tải mà mỗi TCP cần đạt, chẳng hạn 10 megabit/giây cho TCP thứ nhất, và 1/2 megabit/giây cho TCP thứ hai. Và bạn có thể xác định khả năng của mỗi TCP làm cơ sở để tính giá chênh lệch.

Còn một nhu cầu cấp thiết nữa là cách kiến trúc dữ liệu khác để phân phối thông tin, nếu không thì dù có thêm tốc độ truyền bao nhiêu cũng không đủ. Chúng ta sẽ có một kiểu kiến trúc dữ liệu Web thành công khi 80% giao thông được đáp ứng.

Các nỗ lực nhằm cải thiện tốc độ và độ tin cậy sẽ giúp giải quyết được nhiều vấn đề cốt lõi của Internet ngày nay. Nhưng Internet vẫn tiếp tục hoạt động tốt ở nơi này và không tốt lắm ở nơi kia bởi vì người ta đòi hỏi ở nó các dịch vụ mà nó không được xây dựng để thực hiện và những sản phẩm mà nó không hỗ trợ. Ngay cả các nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn cũng không đáp ứng được đầy đủ. Netcom On-Line Communications Services Inc., một nhà cung cấp tầm cỡ quốc gia (Mỹ), mới đây vừa bị trục trặc làm 400.000 người dùng của họ không truy cập được Internet trong hơn 12 tiếng đồng hồ vào một ngày giữa tháng 6.

Điều cần thiết bây giờ có lẽ là việc đưa ra nhiều mức độ dịch vụ và giá cả - hoặc là, cuối cùng thì cũng phải tạo ra một kế thừa cho Internet hiện tại, có khả năng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về xa lộ dữ liệu cho người dùng kết hợp và cho người tiêu dùng trong thập kỷ tới.

Lịch sử ghi nhận về Internet

Chúng ta không còn ở thời kỳ mà một đường truyền chủ yếu bị đứt làm tất cả những người dùng từ bờ Đông không liên lạc được đến bờ Tây đại dương.

Theo các nhà cung cấp dịch vụ Internet hàng đầu, các nhà phát triển protocol và các chuyên gia Internet khác thì hiện Internet đang mở rộng quy mô lưu thông, trung bình từ 5 đến 10 phần trăm mỗi tuần.

Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP - Internet Service Provider) tiếp tục nâng cấp backbone (đường mạch chính) của họ lên tốc độ T3 (45 Megabit/giây) và OC3 (155 Megabit/giây). Còn những nhà cung cấp không nâng cấp backbone hay các kết nối với các ISP khác thì thường trở nên yếu kém. Điều này cũng xảy ra với các hub cũ như NAPs (National Attachment Points), MAEs (Metropolitan Area Exchanges), FIXes (Federal Internet Exchanges) hoặc CIXes (Commercial Internet Exchange). Còn các nguồn đắt tiền và hạn chế khác như đường thông tin liên đại dương cũng đã trở nên quá tải.

Tuy nhiên, theo các nhà quan sát thì công nghệ đường truyền và các dịch vụ chuyển tải cần có khả năng phát triển gấp hàng chục lần về mức độ giao thông. Dĩ nhiên các ISP và những người phối hợp mạng (network "meet point") phải tiếp tục nâng cấp thiết bị của mình.

Một số protocol của Internet, như TCP/IP và SMTP được đánh giá tốt, còn những cái khác như HTTP thì không. Các phiên bản mới hơn và protocol mới có thể xử lý tốt hơn các lưu thông mức độ cao.

Tuy vậy, hầu hết mọi người đều tin rằng, cách thức cung cấp dịch vụ của Internet hiện tại, như phân phối hết khả năng (best-effort delivery) sử dụng nguồn tài nguyên chung, không thể cung cấp lưu lượng và tiềm năng bảo đảm cho nhu cầu của các ứng dụng mới đòi hỏi tốc độ cao như điện thoại Internet hay videoconferencing. Những gì cần thiết là cung cấp dịch vụ Internet bổ sung, bảo đảm tốc độ truyền nhanh hơn, và dĩ nhiên, sẽ phải chịu một giá cao hơn.

Tắc nghẽn nhưng vẫn hoạt động

Nếu như Internet thực sự bị bít kín hay tắc nghẽn nhưng vẫn đòi hỏi nó thực hiện một điều gì đó thì ta thực sự sửng sốt khi nó vẫn hoàn thành được.

Dĩ nhiên Internet bị bít kín và tắt nghẽn ... và nó đã luôn luôn như vậy. Điều đó phụ thuộc vào việc bạn đang so sánh nó với cái gì. Việc sử dụng dĩ nhiên thay đổi theo thời gian trong ngày.

Nhiều người cảm thấy Internet vận hành rất tốt, tùy theo tình huống.

Trong tất cả các cuộc thảo luận về sự sụp đổ đang lơ lửng trên đầu và các kết nối chậm chạp, một số người vẫn nói rằng đã nhận được dịch vụ tốt hơn trong những năm gần đây. Điều đó không chứng minh rằng mọi sự đang tốt hơn, nhưng cũng không ủng hộ cho những dự đoán về một sự kết thúc sẽ xảy ra.

Cũng khó đưa ra những kết luận chung, bởi vì Internet không phải là một thực thể đơn độc. Backbone của Internet không thể suy sụp bởi vì không chỉ có một Internet backbone duy nhất mà mỗi nhà phân phối có backbone riêng của họ. Digital Express, chẳng hạn, vừa hoàn tất việc phát triển vòng cung tốc độ DS3 (45 Megabit mỗi giây) xuyên suốt hầu khắp Hoa Kỳ.

Hỗ trợ cho một backbone mạnh

Không phải tất cả các vấn đề về tốc độ đều chồng chất lên backbone của nhà cung cấp. Có nhiều lý do sinh ra sự tắc nghẽn. Hệ thống chủ (host) quá tải; các tuyến truy cập hệ thống chủ bị quá tải hoặc khả năng quá thấp đối với nhu cầu đặt lên nó.

Có các trường hợp tắc nghẽn, như NAPs chẳng hạn, và không phải tất cả các mạng backbone trong hơn 100.000 mạng của Internet được mở rộng cùng tốc độ. MCI đã triển khai một backbone OC3 (155 Megabit/giây), các ISP khác cũng đang tiếp bước, và tất cả đang hướng tới OC12 với tốc độ chừng gigabit.

Internet có những vùng hoạt động tốt và những vùng yếu. Có những nơi bạn sẽ thấy đến 30% bó thông tin bị thất lạc và bạn chẳng thể lấy được gì hoàn thiện. ở các chỗ khác (có kiến trúc dữ liệu tốt) mọi việc rất trôi chảy. Điều này thường phản ánh qua chi phí bạn phải trả cho kết nối mạng. Nhà phân phối A chỉ lấy 300 USD mỗi tháng cho 56Kbps frame relay, trong khi nhà phân phối B là 500 USD. Sự khác biệt có lẽ sẽ là tốc độ và độ tin cậy. Bạn sẽ nhận được tương xứng với số tiền bạn bỏ ra.

Các đường truyền (router) quản lý NAP và các điểm kết nối khác rất khó khăn trong việc theo được tốc độ (với các nâng cấp backbone của các nhà phân phối) để cho các nâng cấp này không nhất thiết phải hỗ trợ cho tốc độ tổng thể của Internet. Một số yếu tố khác cũng gây áp lực cho NAP như sự gia tăng nhanh chóng về lưu lượng âm thanh và hình ảnh trên Internet, tăng lưu lượng từ châu á, châu Phi và châu Âu. Hiện tại cũng không ít trường hợp 20% bó thông tin bị thất lạc tại các điểm trao đổi, làm cho người dùng cuối thấy rằng Internet chậm chạp hơn.

Phương thuốc hiện đại

Các chuyên gia Internet kỳ cựu khác xem xét những vấn đề tồn tại của Internet và nói rằng họ mong nó tốt được như những ngày xưa. Họ muốn nói đến những ngày ban đầu của Internet. Ngày đó các vấn đề trục trặc chỉ ảnh hưởng đến một nhóm nhỏ người sử dụng. Chúng ta không còn ở thời kỳ mà một đường truyền chủ yếu bị đứt làm tất cả những người dùng từ bờ Đông không liên lạc được đến bờ Tây đại dương.

TCP đã làm việc kém đến nỗi Internet thực sự tắc nghẽn. Chưa bao giờ có hiện tượng như vậy với công nghệ truyền. Công nghệ vẫn luôn vận hành tốt, nó không phải là nguyên nhân của trục trặc. Mọi sự tắc nghẽn là do nguyên nhân khác, chẳng hạn không đủ tài nguyên.

Giới trí thức Internet giáo điều chứ không hiện thực

Niềm tin của giới trí thức Internet đang tụt hậu so với thời đại và những lệch lạc với thực tại ngày càng tăng. Vấn đề là chúng ta cần biết thực tế về Internet trong khi giới này lại không quan tâm đến chúng.

Đã có một số sự kiện về sự sụp đổ sắp xảy ra của Internet, nhưng giới trí thức cho là: "Internet chưa bao giờ sụp đổ. Chúng ta đang đâm thọc vào các tín điều, vào cái đã phụng sự chúng ta hàng chục năm qua. Hãy xem kết cục vào lúc 11 giờ đêm".

Điều gì đã làm chúng ta nghĩ về sự sụp đổ không nhằm mục đích khác hơn là làm mất uy tín của giới trí thức này và niềm tin của họ. Tiếp theo đó ta có thể cám ơn họ đã xây dựng nên Internet và nó đã thành công xa hơn những giấc mơ hoang tưởng, rồi chúng ta lại nói tiếp: "Hãy về nhà và phát minh ra một thứ gì đó khác kỳ diệu bằng một nửa Internet thôi!"

Internet ngày nay thiếu sự an toàn, các hệ thống quản lý, cơ cấu lập hoá đơn thích hợp, và các bảo đảm về chất lượng phục vụ. Chúng ta thường xuyên nghe giới trí thức nói rằng muốn giải quyết các thiếu hụt này có nghĩa là ta không "có nó".

Không ai ở những nơi cỡ như MIT (Viện Công Nghệ Massachussete) hoặc Harvard dám can đảm thú nhận một sự thật đơn giản là Internet bị què quặt theo những chiều hướng đó, bởi vì các nhà nghiên cứu đã xây dựng Internet trong một thời gian dài, và đã từng thấy rằng sự an toàn, quản lý và lập hoá đơn là rất đơn điệu. Còn chất lượng dịch vụ, chúng ta đã làm tất cả những gì để Internet chuyển tải e-mail dạng ASCII, chưa kể đến tiếng nói và hình ảnh tương tác hai chiều.

Hiện nay Internet đã vươn lên lớn mạnh, thành công, quan trọng, và là một Internet có sức mạnh công nghiệp, vững chắc, quản lý bằng các sự kiện, và trả tiền theo mức sử dụng, với chất lượng dịch vụ ngày càng tăng chứ không giảm. Vì thế hãy cứ tiếp tục với nó trước khi có thảm họa sụp đổ.

Trong hầu hết các báo cáo mới đây, giới trí thức Internet vẫn tiếp tục phủ nhận mọi mối đe dọa sắp xảy đến sẽ làm sụp đổ backbone của Internet. Họ nói rằng Internet vẫn còn tốt, thậm chí Internet cũng chẳng có backbone. Tốc độ và độ tin cậy của Internet thì từ xưa đến giờ cũng vẫn thấp như vậy. Rồi họ nói rằng sự xuống dốc của tốc độ là tại các server bị bận rộn.

Việc Internet hoàn thành nhiệm vụ tốt hay không còn tùy vào nơi bạn nhận dịch vụ này. Rồi họ lại nói rằng TCP/IP đang làm việc tốt, còn HTTP thì chưa được như vậy. Sau đó họ lại cho rằng những cố gắng của TCP/IP là không đủ.

Họ nói: "Đừng lo, các đường truyền (router) của Internet có thể xử lý hệ số 10 khác trong lưu thông". Điều gì sẽ xảy ra khi các router của Internet không thể vận hành các lưu thông trên Internet nữa, và điều này sẽ xảy ra với nhịp độ lưu thông này cứ tăng từ 5 đến 10% một tuần, trong vòng từ sáu tháng đến một năm tới.

Nhưng chúng ta đã từng nghe trong suốt một thời gian dài là Internet trưởng thành rất nhanh, thế thì tại sao sự lớn mạnh mau lẹ này lại làm các nhà trí thức sửng sốt?

Nhóm Routing Arbiter xác nhận sự thật mà hầu hết người sử dụng đều biết: Internet đang ngày một tồi hơn. Tỉ lệ bó tin bị thất lạc giữa các nhà cung cấp dịch vụ lớn ngày càng tăng, đầu tiên hồi tháng 12/95 là 10%, rồi bây giờ là 20%, 30%, 40% và còn cao hơn nữa.

Các sự kiện này là sai chăng? Hay chưa được thích đáng? Liệu giới trí thức có chịu ngưng cái ngón giáo điều ngớ ngẩn để bắt đầu đối mặt với các sự kiện chăng?

Nếu như Internet thực sự đang có hàng chục triệu người sử dụng, như các nhà trí thức nói, thì liệu mỗi ngày có bao nhiêu lần một người này hay người khác trong số họ nói mơ hồ rằng server mà họ đang cố gắng truy xuất đến là không tồn tại, không phản ứng hoặc từ chối yêu cầu bằng một thông báo như: "Xin hãy kiểm tra lại các yêu cầu và cố gắng thử lại vào một lúc khác!". Và bao nhiêu lần một ngày họ phải chờ đợi trong hư không cho đến khi Internet tải đầy đủ? Liệu chúng ta có thể có các protocol và công cụ để làm cho các thông báo lỗi ngày càng tăng của Internet trở nên dễ hiểu hơn?

Hàng triệu người trong chúng ta đang chờ xem hồi kết cuộc lúc 11 giờ đêm!

Nguồn tin từ PCworld

ĐIỆN ĐÀM QUA INTERNET

Điện thoại Internet (Internet telephony) là sự tích hợp tiếng nói/dữ liệu và là cơ hội giảm phí điện đàm cho bạn.

Cụm từ "Internet telephony" thường gợi lên hình ảnh những tay ham mê máy tính cắm bo mạch âm thanh vào PC của họ để có thể trò chuyện "miễn phí" với các đồng minh trên toàn thế giới vào những giờ rảnh rỗi. Hay như những kẻ vụ lợi tranh thủ các cuộc gọi điện thoại quốc tế rẻ tiền được thực hiện mỹ mãn qua Internet. Hãy loại bỏ những ý tưởng đó ra khỏi đầu bạn vì chúng đã cổ xưa rồi.

Điện thoại Internet đang nổi lên như một công cụ truyền tải tiếng nói và fax trên thế giới với cước phí rẻ. Và không chỉ có thế, các hãng còn nhìn thấy nhiều lợi ích khác từ những ứng dụng kết hợp tiếng nói và dữ liệu truyền qua các mạng dùng giao thức Internet (IP - Internet Protocol), cho phép họ hỗ trợ các trung tâm điện đàm dùng Web, và tổ chức hội đàm trao đổi cả tiếng nói lẫn dữ liệu trên bảng động (live whiteboard).

Nhiều nhà sản xuất, từ Lucent Technologies Inc., Micom Communications Corp., cho đến Array Telecom Inc. đang hướng đến các cổng điện thoại Internet và phần mềm cho môi trường truyền thông và cộng tác, đưa điện thoại và fax đến gần với Internet. Một số hãng truyền thông và các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP - Internet Service Provider) nhỏ đang tận dụng những đặc tính của các sản phẩm này để cung ứng các dịch vụ fax và điện đàm qua Internet.

Các hãng truyền thông và ISP lớn còn lừng khừng với lời than phiền về một số vấn đề trong việc tích hợp và thiếu thiết bị truyền thông tầm cỡ. Nhưng bạn có thể trông chờ sự đổi ý của họ khi các hãng nhỏ trong ngành thúc ép và khi có nhiều thiết bị được đưa ra ứng dụng hơn.

Ngành điện thoại Internet

Tính kinh tế của điện thoại Internet rất hấp dẫn. Nó cho phép tăng hơn từ 5 đến 10 lần các cuộc điện thoại qua cùng một dải tần so với điện thoại chuyển mạch thông thường, và thậm chí còn nhiều hơn đối với truyền fax. Điều này khiến cho cước phí các cuộc gọi đường dài có thể giảm đi một nửa hoặc hai phần ba. Bạn còn tiết kiệm được hơn nữa đối với các cuộc gọi quốc tế, và đặc biệt là các dịch vụ truyền fax hoặc thông điệp, nhờ chúng không đòi hỏi đáp ứng thời gian thực (real- time) như các cuộc điện thoại.

Những công ty phải chi 10.000 USD hàng tháng cho điện thoại và fax giữa các địa điểm có thể thu hồi vốn đầu tư cho máy chủ điện thoại Internet ở mỗi địa điểm trong vòng không quá một năm nếu họ chỉ sử dụng các cuộc gọi đường dài, khoảng chừng 3 tháng nếu phải gọi cho một hay nhiều nơi ngoài nước. Họ sẽ tiết kiệm được chừng 30-40% đối với các cuộc gọi quốc nội, và khoảng 50% cho các cuộc gọi quốc tế.

Điện thoại Internet đang trở thành thực tế. Theo một nhà tư vấn hàng đầu trong ngành điện thoại Internet, đến cuối năm 1997 sẽ có ít nhất là 50 trong số 500 công ty lớn sử dụng các sản phẩm điện thoại Internet. "Fax qua Internet" sẽ là một trong những ứng dụng quan trọng nở rộ đầu tiên nhờ không gặp vấn đề thời gian thực như của điện đàm, và do nó chiếm tỉ lệ trung bình khá lớn (khoảng 40%) trong chi phí điện thoại (tính trên 1,000 công ty hàng đầu nước Mỹ). Và người ta dự báo rằng điện đàm - công nghệ đòi hỏi thời gian thực - sẽ là bước ứng dụng tiếp theo.

Những chướng ngại

Cần phải thừa nhận rằng có một số trở ngại trong việc triển khai và ứng dụng điện thoại Internet. Thứ nhất, tiếng nói có thể không có được chất lượng thực (toll quality), đặc biệt nếu như dải tần bị hạn chế hoặc nếu khả năng của mạng không đủ mạnh gây mất mát các gói thông tin trên đường truyền tải. Hiệu ứng trễ (latency) - sự chậm trễ do mất thêm thời gian cho việc số hóa, nén và "đóng gói" thông tin, và do truyền các gói thông tin này qua mạng và các bộ dẫn đường (router) - chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng âm thanh.

Tuy nhiên, người dùng cũng có thể chấp nhận các cuộc gọi chất lượng không cao, như đã xảy ra đối với trường hợp điện thoại di động (cellular). Hơn nữa, chất lượng điện đàm Internet đang trở nên tốt hơn, đến tháng 6/1997 nó đạt khoảng 85% chất lượng thực, tăng 65% so với đầu năm.

Chất lượng đang tiếp tục được cải tiến. Việc sử dụng các sản phẩm ở mức máy chủ thay vì dùng các card âm thanh thông thường trên máy PC đã cung cấp sức xử lý cần thiết để giảm thiểu hiệu ứng trễ và cho âm thanh chất lượng cao.

Công nghệ điện thoại Internet sử dụng trong các mạng và ứng dụng cộng tác cũng cần có các tính năng điện thoại truyền thống, chẳng hạn như hội thảo, chuyển cuộc gọi, v.v..., kể cả các hệ thống kế toán và gởi trước phiếu thanh toán. Các dịch vụ này sẽ phải tích hợp với các PBX và các nhà phân phối cuộc gọi tự động (ACD - Automatic Call Distributor). Họ đang phân phối các sản phẩm đáp ứng một số vấn đề này, tuy rằng việc tích hợp với các PBX và ACD chỉ có thể là việc trong tương lai.

Hơn nữa, các ISP và các hãng truyền thông sẽ cần các thiết bị có quy mô như các hệ thống chuyển mạch điện thoại hiện nay - có khả năng hỗ trợ không chỉ hàng chục hay hàng trăm cuộc gọi đồng thời, mà là hàng chục ngàn cuộc gọi. Điều này còn chưa hiện thực, nhưng người ta hy vọng sắp có những hệ thống chuyển mạch điện thoại Internet lớn của các nhà sản xuất tầm cỡ như Alcatel Telecom, Lucent, Northern Telecom Inc., và Vienna Systems. Một phát ngôn viên của MCI Communications Corp. cho rằng các hệ thống chuyển mạch như thế sẽ xuất hiện đầu tiên vào quý I năm 1998.

Vấn đề khác, như thông thường, là các hệ thống tiêu chuẩn. Về phía máy khách, chuẩn H.323 đã được chấp nhận, và hầu hết các nhà sản xuất đều tuân thủ chuẩn này. Các chuẩn cho cổng liên mạng (nối các mạng dùng giao thức Internet với các mạng điện thoại thông thường) sẽ ra đời trễ hơn.

Máy chủ điện thoại Internet

Hiện giờ bạn đã có thể trang bị cho mạng của mình các cổng liên mạng từ nhà cung cấp để áp dụng kỹ thuật điện thoại Internet trong nội bộ công ty. Phần mềm và phần cứng cần thiết đều có thể mua được từ hàng lô nhà cung cấp, trong đó có những hãng được liệt kê ở bảng kèm theo.

Các sản phẩm kiểu card hay kiểu máy chủ không chỉ để xây dựng các hệ thống điện thoại Internet, mà còn cho phép tích hợp chúng với các mạng PBX, LAN, và ACD hiện có. Nói chung, các sản phẩm này hỗ trợ kỹ thuật xử lý tín hiệu số, số hóa và nén/giải nén tín hiệu tiếng nói (loại tương tự), và các cổng nối mạng dùng giao thức IP với mạng điện thoại công cộng (xem hình vẽ). Một số máy chủ và cổng liên mạng cũng có các tính năng kế toán.

Chúng ta hãy thử tham khảo một số ý kiến thực tế. Dave Pearson, trưởng phòng công nghệ mới của The Boston Globe, rất quan tâm đến sản phẩm này. Ông muốn dùng điện thoại Internet để giảm chi phí và cải tiến dịch vụ khách hàng ở hai trung tâm điện thoại của Globe chuyên giải quyết việc đăng ký sử dụng và đăng quảng cáo của khách hàng. Ông cũng muốn dùng nó hỗ trợ cho việc liên lạc điện thoại giữa 40 cơ sở của Globe ở Massachusetts.

Khi khách hàng vào Web site của Globe để đăng quảng cáo, Pearson muốn cho người khách chỉ cần nhấp chuột trên biểu tượng thích hợp là có thể liên lạc điện thoại được với đại diện bán hàng. "Tôi muốn một mạng duy nhất", ông nói. "Chúng tôi sử dụng công nghệ trả lời bằng tiếng nói theo kiểu tương tác để giảm chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ. Tôi xem Internet như là một phương tiện khác, chứ không hoàn toàn thay thế phương tiện cũ, để đến với khách hàng."

Tất nhiên, tiền bạc cũng là một động cơ. "Chúng tôi sử dụng Centrex. Phí cài đặt cho một đường Centrex ISDN (mạng dịch vụ tích hợp dùng kỹ thuật số) khoảng 800 USD, và thêm vài trăm USD nữa cho chiếc điện thoại có màn hình. Thật là hấp dẫn, nếu như giảm được chi phí", theo lời Pearson, "nhưng còn quá sớm để khẳng định rằng điện thoại Internet sẽ giúp tiết kiệm chi phí, hay chỉ giúp tạo ra dịch vụ khách hàng tốt."

ý kiến từ những người đã sớm thiết lập các hệ thống này cho thấy ít nhất là chúng cũng giúp tiết kiệm chi phí.

Ví dụ, hãng Lucent cho biết một công ty ở Đức, khách hàng dùng cổng liên mạng điện thoại Internet của họ, trước đó gặp rắc rối về vấn đề thuê nhân viên quản lý dịch vụ khách hàng ngoài giờ hành chính. Giờ đây công ty này thuê nhân viên ở Florida và dùng các hệ thống điện thoại Internet của Lucent để xử lý liên lạc điện thoại và máy tính giữa Florida và Đức, làm giảm đáng kể chi phí liên lạc đường dài.

Jablon của IBM cho biết nhóm của ông đã xem xét các cổng điện thoại Internet của một số công ty trước khi quyết định cài cổng liên mạng của VocalTec Ltd. ở 4 văn phòng, với 4 đường dây trực tuyến bắt đầu hoạt động vào mùa hè này. Trong nỗ lực tìm hiểu xem các khách hàng của IBM sẽ sử dụng công nghệ này như thế nào và những cơ hội kinh doanh nào có thể có, nhân viên của họ ở các văn phòng đang sử dụng thiết bị điện thoại Internet để hỗ trợ cho các cuộc đàm thoại.

"Mọi người đã ngạc nhiên về chất lượng các cuộc gọi - sự ngạc nhiên thú vị, nó tốt hơn điện thoại di động", Jablon nói. Ông cho rằng công nghệ này cũng cần thiết cho môi trường viện và trường học, nó hỗ trợ liên lạc tiếng nói và dữ liệu qua một đường dây duy nhất cho hàng nghìn người dùng, có thể nằm phân tán".

Các hãng truyền thông

Có một số dịch vụ hạn chế do các ISP lớn cung cấp, đặc biệt là PSINet Inc., kết hợp với NetCentric Corp. để cung cấp dịch vụ chuyển fax với cước phí thấp nhờ sử dụng kỹ thuật truyền fax số hóa ở dạng các gói thông tin TCP/IP qua mạng dữ liệu của PSINet.

Nhưng hầu hết những bước triển khai nhiều hứa hẹn nhất lại do các hãng nhỏ thực hiện. Ví dụ GXC đang xây dựng mạng "xương sống" (backbone) điện thoại Internet dựa trên cổng của Vienna Systems - nhà sản xuất máy chủ thực hiện chức năng cổng liên mạng và xử lý các cuộc gọi điện thoại Internet kiểu PBX. Hãng sẽ bán lại dịch vụ này cho các hãng truyền thông khác để họ cung cấp dịch vụ điện thoại và fax giá hạ cho người dùng cuối.

Mạng đầu tiên sẽ có 8 cổng ở các nước khác nhau, bao gồm Mỹ, Đức, Israel, Nhật, Hàn Quốc, New Zealand và Anh, và sau đó số cổng sẽ nhanh chóng tăng lên.

Lĩnh vực kinh doanh này có vẻ đang bùng nổ. Dịch vụ của GXC bắt đầu vào tháng 6/1996 - họ là hãng đầu tiên thực hiện và thu tiền điện thoại Internet - và giờ đây đang quản lý khoảng 200.000 phút sử dụng một ngày, mà chỉ dùng 15% công suất của GXC, với tốc độ tăng trưởng gấp đôi hàng tháng. Hoạt động của GXC phần nào cho thấy sự phát triển nhanh chóng của ngành điện thoại Internet.

Rimnet Corp. ở Tokyo là một khách hàng khác của Vienna Systems. Công ty này đã triển khai các cổng IP tại 6 thành phố lớn nhất của Nhật Bản, với 600 đường liên lạc nối từ những cổng này vào mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) của nước này - đủ để phục vụ khoảng 9000 người dùng. Các cuộc gọi qua mạng của Rimnet có cước phí khoảng 60 Yen cho 3 phút, cỡ một nửa cước phí tối đa cho cuộc gọi đường dài trong những vùng này.

Theo chủ tịch Rimnet, người dùng cho biết chất lượng cuộc gọi đạt khoảng 70-90% chất lượng điện thoại thông thường, và có 85% người dùng cho rằng chất lượng tốt hơn điện thoại di động. Tại Mỹ, các ISP và hãng truyền thông có tên tuổi không vội vàng vào cuộc mặc dù họ không phủ nhận điện thoại Internet. PSINet có cung cấp dịch vụ fax Internet, nhưng không hứa hẹn gì về điện thoại Internet trong tương lai gần. Họ cho rằng không có trở ngại ở công nghệ nền tảng, mà có vấn đề lớn trong việc tích hợp các mạng điện thoại Internet với hệ thống tính cước. Quy mô hệ thống cũng là vấn đề còn ngỏ.

Các hãng truyền thông như AT&T, MCI, và Sprint Corp. thì có để mắt đến và thử nghiệm điện thoại Internet, nhưng họ không thể đưa ra khai thác dịch vụ này chừng nào chưa có các bộ chuyển mạch cỡ lớn. MCI chẳng hạn, hiện đang dùng Wintel-card của DiaLogics Corp. "Nó làm việc tốt, nhưng bị hạn chế về dung lượng giống như đường T-1", ông Robert Hagens - Giám đốc Công nghệ Internet của MCI phát biểu. "Bạn không thể cung cấp dịch vụ cho 100,000 khách hàng với thiết bị như thế được."

Ông Hagens nói MCI đang chờ các nhà cung cấp cỡ như Nortel đưa ra các bộ chuyển mạch dành cho truyền thông. Một phát ngôn viên của MCI cũng nói rằng người sử dụng có thể thấy các đợt thử nghiệm vào Quý III năm 1998.

Trong khi đó, Sprint cho rằng việc thiếu các bộ chuyển mạch cho hãng truyền tải gây khó khăn cho sự phát triển kinh doanh điện thoại Internet. Họ nói các chi phí cho việc kinh doanh này còn chưa rõ ràng: do cổng liên mạng dành cho các ISP lớn vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm beta nên họ không đủ thông tin để thiết lập mô hình chi phí nhằm xác định kỹ thuật nào kinh tế hơn.

AT&T đi trước một bước so với các đối thủ của mình. Hãng truyền thông này đang xem xét 4 hạng dịch vụ: "Hạng A" - liên lạc đường dài chất lượng thực của mạng PSTN, cho đến "Hạng D" - nối các cổng liên mạng từ/đến mạng Internet. "Chúng tôi cho rằng điện thoại Internet là một cơ hội có tiềm năng lớn", phát ngôn viên AT&T nói, mặc dù ông cũng nói thêm rằng AT&T chỉ mới có những ý tưởng "sơ khai" về hình thức hoạt động của dịch vụ này.

Những người lạc quan nhìn thấy ở điện thoại Internet khả năng kết hợp tiếng nói và dữ liệu, vấn đề mà người ta đã bàn luận quá nhiều mà vẫn chưa kết thúc. Khi công nghệ này được ứng dụng rộng rãi, sẽ xuất hiện lớp ứng dụng mới hòa trộn tốt nhất dữ liệu và tiếng nói, chẳng hạn những trung tâm điện thoại và chia sẻ dữ liệu bằng công nghệ WEB. Người ta cũng sẽ sử dụng điện thoại Internet để hội đàm, kết hợp với thuyết trình bằng hình ảnh và trao đổi dữ liệu.

Những công dụng khác có thể dành cho các bộ phận, nhân viên làm việc ở xa văn phòng chính, chẳng hạn như đại diện bán hàng ở nước ngoài, liên lạc điện thoại về văn phòng chính qua Internet thay vì chỉ trao đổi các thông điệp và dữ liệu như trước đây.

Đã đến lúc người dùng có thể bắt đầu thử nghiệm. Bạn hãy xem xét lưu lượng thông tin liên lạc của bạn, đặc biệt là truyền fax và điện thoại quốc tế, để tìm ra chỗ nào có thể ứng dụng điện thoại Internet.

Điểm hay của điện thoại Internet là các công ty có thể thiết lập dần dần, từ văn phòng này qua văn phòng khác, chứ không nhất thiết phải làm đồng loạt.

Một điều rất rõ ràng: nếu cước phí fax và điện thoại quốc tế hàng tháng của bạn khá lớn, hãy xem xét ngay vấn đề sử dụng điện thoại Internet. Nếu cước phí bạn đang phải trả không đáng cho bạn sử dụng các máy chủ riêng, hãy thăm dò nhà cung cấp dịch vụ Internet bạn đã biết, nên để ý đến những nhà cung cấp mới và các hãng truyền thông nhỏ - họ có thể cung cấp dịch vụ này trong những vùng bạn cần.

Mô hình làm việc của Điện thoại Internet

(1) Người dùng 1 quay số điện thoại thông thường cho Người dùng 2. PBX sẽ dẫn cuộc gọi này đến ITS 1, xem nó một nút PBX.

(2) ITS 1 truyền cuộc gọi qua Internet đến ITS 2.

(3) ITS 2 nối cuộc gọi này thông qua PBX liên quan với nó. Cuộc gọi này tiếp tục được thực hiện như là đang gọi qua mạng điện thoại bình thường. Các cuộc chuyển fax cũng được xử lý như vậy.

Nguồn tin từ PCworld

HỆ ĐIỀU HÀNH VÀ INTERNET

Các nhà sản xuất đang nổ lực tích hợp Internet với hệ điều hành thế hệ mới của mình

Từ nay, một hệ điều hành mới phải cho phép truy cập Internet một cách liền mạch và người dùng có thể mở tập tin của mạng toàn cầu này như mở tập tin trong đĩa cứng cục bộ của mình, chưa nói đến khả năng của máy tính cầm tay (laptop) nối với các mạng LAN của công ty ở mọi nơi, mọi chổ. Bức tranh đó đang trở thành hiện thực nhờ cố gắng của các hãng lớn như Miceosoft, IBM, Novell,... Trước hết phải tìm cách kết hợp Internet browser với giao diện GUI của deskop để tạo ra một môi trường cho phép người dùng tìm kiếm và mở tập tin cho dù nằm ở bất cứ vị trí địa lý nào. Bước tiếp theo phải làm sao để người dùng cuối (end-user) không phải biết gì về nơi lưu giữ tập tin và Internet trở thành một phần của ổ đĩa phân tán lớn toàn cầu.

"Chúng ta đang phấn đấu theo hướng đó, một hướng mũi nhọn cần quan tâm", Dan Kuznetsky, một phân tích viên của International Data Corp. (IDC) ở Franingham, Mass nói. "Một số công nghệ đã và sẽ có trong tương lai gần. Các hệ điều hành mới chắc chắn phải có những tính năng như vậy".

Giữa tháng 3, tại hội nghị của các nhà phát triển Internet chuyên nghiệp tổ chức ở San Francisco, Microsoft giới thiệu bản Beta của Internet Add-on cho phép nối trực tiếp Exploner 3.0 browser với trình đơn (menu) Explorer của Windows 95. Nổ lực mới nhất này chỉ là một phần nhỏ của những gì sẽ đạt được trong thời gian tới, bởi vì nhiều vấn đề về công nghệ đã được giải quyết xong. Trong môi trường mới, các nhà quản trị IS đang gấp rút xây dựng mạng nội bộ dựa vào giao thức TCP/IP trên cơ sở các mạng ảo (Virtual network) và người dùng có thể với tới mọi nơi trên thế giới.

Tuy vậy, quản lý các môi trường như vậy là công việc hết sức khó khăn bởi vì Domain Naming System (DNS-hệ thống định danh phân vùng) của Internet Protocol rất phức tạp, đặc biệt khi phải làm việc với các môi trường cộng tác luôn biến động.

"Nếu tất cả đều tĩnh thì IP chẳng có gì đáng nói. Thế nhưng, với DNS buộc phải tự ấn định tất cả các địa chỉ IP cho mổi máy khi nối mạng", một chuyên gia kỹ thuật yêu cầu giấu tên, của Comdisco Inc. ở Rosemont, ILL., nói.

Mơ ước

Những khó khăn trong việc định hình và bảo trì hệ thống định danh phân vùng của IP làm cho việc sử dụng Internet để chia sẻ dữ liệu bị hạn chế, và giải quyết vấn đề này đang trở thành ưu tiên hàng đầu để có thể tiếp cận được các ứng dụng Client/Server phân tán.

"Các khung ứng dụng hiện đại phải đảm bảo cơ chế liên lạc. Nếu cơ chế này dùng TCP/IP như một giao thức truyền tải cơ sở thì mọi ứng dụng có thể bắt tay được với ứng dụng khác ở mọi chổ trên Internet", Steve Jobs, tổng giám đốc điều hành và chủ tịch của Next Software Inc nói. Điều này nghĩa là trong tương lại mổi Server sẽ kèm theo các dịch vụ cơ bản của Internet. Theo Kuznetsky của IDC, trong số đó ít nhất sẽ có: TCP/IP, cổng nối IPX với IP để nối các mạng Novell NetWare với Internet, server File Transfer Protocol, Simple Mail Transfer Protocol E-Mail Server, server World Wibe Web, một cơ chế quản lý CSDL và một bộ tìm kiếm Gopher. Internet Information Server của Microsoft có phần lớn các tính năng kể trên và sẽ phát hành cùng với Windows NT 4.0 Server vào tháng 6 tới.

Thế nhưng, quan trọng hơn cả là các hãng lớn như Microsoft, IBM SCO và Sun Microsystems đang quấy quá với DNS để cho phép các địa chỉ IP trở nên "động", nghĩa là được tìm thấy và được sử dụng một cách tự động mổi khi máy tính nối với mạng.

Những nổ lực này đảm bảo người dùng có khả năng tìm kiếm được mọi tài nguyên trên Internet.

"Trước kia, nếu bạn muốn tìm một tập tin nào đó trên máy cụ thể, bạn không thể tìm được máy đó nếu người quản trị không cho biết địa chỉ", Enzo Schiano, quản trị sản phẩm Windows NT Server của Microsoft nói.

Microsoft sẽ cung cấp Domain Name Service/Windows Naming Service (DNS/WINS) tích hợp với Windows NT 4.0.

Cơ chế

Khi một Client của Windows NT dùng giao thức NetBIOS-to-IP để yêu cầu được nối với tập tin cụ thể nào đó trong vùng định danh, ví dụ microsoft.com, DNS/WINS sẽ tự động cập nhật cơ sở dữ liệu NETBIOS, trong đó có địa chỉ IP của tập tin đó trong microsoft.com. "DNS động thực sự hữu ích đối với các hãng lớn, khi mà người dùng vẫn có thể sử dụng Internet để nối mạng, mặc dù nhân viên và máy tính luôn thay đổi vị trí", Jonathan Handler, một nhà quản trị IS của Blue Cross/Blue Shield cho ý kiến nhận xét.

Tuy quảng cáo rùm beng, chàng khổng lồ ở Redmond (ám chỉ Microsft) vẫn không đưa ra được DNS động thực sự: Sản phẩm này của Microsoft chỉ làm việc được với các hệ dùng NetBIOS. Hãng không cho biết thời gian đưa ra hổ trợ các chủ IP khác; trong khi đó, các hãng khác đã có những bước dài trong việc nhúng DNS như một dịch vụ trực tiếp vào các hệ điều hành của họ.

Tháng 2, OS/2 Warp Server của IBM đã được phát hành cùng với Dynamic Host Configuration Protocol/Dynamic Domain Naming System (DHCP/DDNS) cho phép mọi máy tính tự định hình mổi khi cắm vào mạng IP. Tất cả các địa chỉ DNS đều được cập nhật, không chỉ có tập con của các địa chỉ NetBIOS.

Sun cũng bắt đầu đưa ra DHCP cho Sun Solaris SCO, có kèm DNS động thực sự trong phiên bản đầu tiên của Atlas Unix Server vào tháng 4. Trong khi đó, Novell Inc. đưa ra DHCP nối với các chủ của DNS.

Từ phía người dùng, những thay đổi công nghệ như vậy là một cuộc cách mạng trên desktop.

Internet Add-on của Microsoft, cho phép hòa trộn hai giao diện của File Explorer (Windows 95) và Explorer 3.0 (Internet) để tạo ra Shell tùy biến được mà người dùng có khả năng mở các địa điểm phân vùng của IP, kể cả các địa chỉ Web, từ mọi nút trên cây thư mục. Microsoft không là hãng duy nhất nhìn thấy xu thế phát triển. Apple Computer Inc. sẽ tích hợp giao diện Cyberdog Internet với hệ điều hành Copland ra vào cuối năm.

Người dùng Copland có thể xem Internet từ mọi ứng dụng OpenDoc, trong đó có bộ quản lý tập tin của MacOS, có thể kéo và thả các liên kết vào ứng dụng.

Tại hội nghị hàng năm của Phoenix OS/2 Society vào tháng 2, tổng quản trị của Personal Systems Products (IBM) hứa rằng Big Blue sẽ tích hợp Web browser của OS/2 Warp với Merlin (Phiên bản kế tiếp của Warp) vào quý 2.

Thách thức

Các nhà sản xuất hệ điều hành đang vội vã. "Rõ như ban ngày là Microsoft và các hãng OS đang tranh cướp để nuốt gọn Internet", Edwand Wedd, một phân tích viên của Barclays de Zoet Wedd (Hồng Kông) nói. Hệ điều hành với tính năng Internet là câu trả lời trực tiếp cho những thách thức của các hãng như Netscape Comminications Corp., Sun và Oracle Corp... những hãng này đang đánh cuộc trên ý tưởng rằng Internet là công nghệ hoàn toàn khác biệt, yêu cầu các giải pháp đặc biệt mà các hãng OS truyền thống không có khả năng cung cấp.

Các công ty đó thu phần lớn lợi nhuận từ các ứng dụng Server, muốn người dùng quên đi Client OS và chỉ nghĩ về Browser cũng như các ứng dụng Java. Họ cho rằng Server với đặc tính Internet là cửa khẩu được ưa chuộng hơn cả. Thế nhưng, trong thế giới mà Internet đang trở thành một phần mở rộng của OS, cho phép các server tìm và mở mọi tập tin dựa trên IP mà không thấy sự khác biệt rõ rệt giữa Internet và ổ đĩa cục bộ, các đối thủ đó sẽ nhanh chóng nhận thức rằng các công ty sản xuất OS truyền thống đã thừa hưởng vũ khí của họ.

"Nếu tôi ở vị trí của Netscape hoặc là một trong các chàng trai này, tôi lo lắng thực sự. Có nhiều lý do để người ta vẫn trung thành với các hãng quen thuộc của mình", Rob Enderle, một nhà phân tích của Giga Information Group ở Santa Clara, Calif. nói.

Các hãng lớn dự kiến sẽ hỗ trợ Domain naming system động

Hãng Hệ điều hành Thời gian

Microsoft Corp Windows NT 4.0 Tháng 6

IBM OS/2 Warp Server đã có

Sun Microsystem Inc. Solaris đã có

The Santa Canz Openration Inc (SCO) Atlas Tháng 4

Caldera Inc Caldera Network Desktop Trong năm nay

NT 4.0 chỉ hỗ trợ động cho các Client chạy NetBIOS

Nguồn tin từ PCworld

INTERNET - KINH NGHIỆM SINGAPORE

Mặc dù có một số tranh luận nhưng Chính phủ Singapore đã nhận rõ tầm quan trọng của Internet và Internet đã phát triển rất nhanh tại Singapore trong 5 năm qua. Hiện nay đã có hàng trăm ngàn máy tính ở Singapore nối vào Internet. Singapore là nước dẫn đầu về tỷ lệ người dùng Internet tại Đông Nam á.

Hiện ở Singapore có 3 con đường vào Internet:

-Một là qua Technet, mạng giáo dục, nghiên cứu triển khai được tổ chức sớm nhất tại Singapore.

-Hai là Singnet do Singapore Telecom thiết lập, và

-Ba là TeleView là một mạng Videotext cũng của Singapore Telecom.

Một lĩnh vực sôi động trong phát triển Internet ở Singapore là World Wide Web. Tại Singapore đã thiết lập được rất nhiều các Web. Mỗi Web là một mạng hoàn chỉnh (có thể bao gồm các nút đơn hoặc nút lại là các mạng hoàn chỉnh). Các Web đó có rất nhiều tại các tổ chức khác nhau, các đại học, các cơ quan chính phủ v.v...

Một số nút đặc sắc nữa của hoạt động Internet ở Singapore là các dịch vụ MBONE, Multicast Backbone, CuSeeMe cho phép giao tiếp rộng rãi các thông tin hình ảnh giữa những người sử dụng Internet, hoặc dịch vụ INTV do Tổ hợp Truyền hình Singapore tổ chức cho phép người dùng Internet lấy được nhiều loại thông tin về tài chính, thương mại và về Singapore nói chung.

Trước khi trình bày chi tiết thêm về sự phát triển Internet của Singapore, chúng tôi muốn bạn đọc hiểu thêm về một bản chất vô cùng quan trọng của vấn đề Internet. Thường chúng ta chỉ hiểu rằng nối vào Internet để mà lấy hoặc nhận thông tin nào đó từ ngoài nước, gửi thông tin nào đó ra ngoài nước hoặc cho phép người ngoài lấy thông tin nào đó của mình. Nói cách khác thường chúng ta hiểu rằng sự giao tiếp thông tin trên Internet chủ yếu diễn ra giữa trong nước và ngoài nước.

Quan niệm như vậy không sai nhưng hoàn toàn không đầy đủ. Như trên vừa nói về tình hình Singapore và ở các phần sau ta thấy rõ rằng, cái rất quan trọng là Internet trở thành môi trường giao tiếp cho rất nhiều các Web của họ, trong đó có cả các Web dịch vụ thông tin công cộng như INTV v.v...

Như vậy Internet là môi trường hòa mạng. Các Thông Tin Khoa Học - Công Nghệ "IDNET", mạng Thông Tin Thương Mại "VINANET" v.v... có thể coi là các Web đơn sơ nhất. Một mặt tự thân chúng cần được phát triển hoàn thiện thành các mạng thật sự nghiêm túc và rồi chúng phải hòa với nhau. Môi trường hòa sẽ phải là Internet. Nói rõ hơn là các chuẩn Internet, các nghi thức giao tiếp Internet sẽ giúp chúng ta hòa các mạng rất riêng rẽ trong chính nước ta.

Technet

Technet được khởi đầu dưới dạng một dự án được Bộ Khoa Học và Công Nghệ Quốc Gia (National Science and Technology Board) quản lý. Mục tiêu là xây dựng Cổng (Gateway) Internet tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore nối với Mỹ. Cổng này được thực hiện hồi tháng 3/1991 nối bởi đường thuê riêng (leased line) qua vệ tinh với mạng JVN net tại Đại học Princeton Bang New Jesey. Máy chủ do hãng DEC tặng và Cổng Internet này trở thành cổng nối mạng NUSnet (mạng của Đại Học Tổng Hợp Quốc Gia Singapore) với thế giới Internet.

Tháng 2/1992 Technet chính thức bắt đầu hoạt động phục vụ các cơ quan nghiên cứu phát triển nối với NUSnet Gateway bằng Leasedline hoặc điện thoại. Sau khoảng 1 năm thì tất cả các mạng của các tổ chức nghiên cứu - phát triển lớn bao gồm 94 mạng nhỏ và 6 mạng lớn đã kết vào Technet. Tháng 11/1992 Singapore International Foundation đã đưa vào mạng Technet một năng lực đáng kể đầu tiên phục vụ như một Server dưới hình thức dịch vụ GPHER (một loại hình dịch vụ thông tin của Internet) đó là Server SIFlash. Kho thông tin này cung cấp rất nhiều tin tức về Singapore.

Tháng 6/1994, mạng của Bộ Giáo dục cũng đã nối vào Technet. Việc kết nối mạng này được thực hiện như một dự án với tên là STW, theo đó đầu tiên là nối mạng cầu 6 trường trung học vào Technet và tiếp theo sẽ nối tất cả các trường trung học khác vào Technet trong vòng 2 năm qua.

Hiện Technet có 490 Web với trung bình là 100 máy trong mỗi mạng đó. Chúng được nối với nhau bởi giao thức SLIP/PPP thông qua các leased line. Trong số các Web này thì lớn nhất là Đại Học Tổng Hợp Quốc Gia với 17.000 máy. Đại học Công nghệ Quốc Gia với 12.000 máy, ba trường kỹ thuật với mỗi trường khoảng 2.000 máy kết nối vào Technet. Ngoài ra Technet còn có khoảng 12.000 máy lẻ kết vào Technet Gateway qua thủ tục DIAL-UP (đường điện thoại bình thường). Nhóm kết nối vào Technet lớn nữa như đã nói trên là các trường phổ thông trung học với hàng ngàn máy ở mỗi trường, tiếp đến là hơn 30 cơ quan nghiên cứu phát triển với khoảng 2.000 máy kết nối vào Technet.

Hiện Technet đang trong quá trình nâng cấp đường trục và sẽ dùng Cisco 7000 để quản lý các đường truyền của hàng trăm ngàn người dùng trong tương lai rất gần. Nói về Technet ta cần hiểu một chút về mạng Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore vì nó là khởi thủy của Technet. Mạng NUSnet này đã bắt đầu sử dụng giao thức FDDI (fibre Digital Data Interface) với tốc độ 100 Mbit/s từ 1990, kết nối trên 17.000 máy. Đây là mạng cục bộ lớn nhất Singapore. Máy quản lý mạng ở đây rất mạnh, họ sử dụng DEC 7000 như một máy chủ, có thể quản lý cùng một lúc 300 người. Ngoài ra hàng loạt máy DEC 5000, DEC 5500 và Sun SparStation còn được dùng làm các máy trợ lực. Ngoài các máy trên chạy với UNIX, mạng còn sử dụng máy cực lớn Cray J916.

Tháng 1 năm nay Đại học Tổng Hợp Quốc Gia bắt đầu sự nâng cấp rất đáng kể NUSnet lên thành NUSnet II như một bước chuyển NUSnet theo kế hoạch Quốc Gia về Công Nghệ Thông Tin tới năm 2000.

Những yếu tố nâng cấp cơ bản bao gồm:

* Chuyển tuyến đường trục thực sự thành 100 Mbit/s theo chuẩn FDDI.

* Đưa vào sử dụng 3 thiết bị hub SynOptics 5000 cho phép đưa NUSnet II thành mạng ATM.

* Mở thêm nhiều kho thông tin với các dịch vụ rất phong phú về tin tức hàng ngày, về thị trường chứng khoán, về các chuyến bay hàng không v.v...

Singnet

Tháng 6/1994 Singapore Telecom bắt đầu cho Singnet hoạt động. Trong 9 tháng (tới tháng 3/1995) đã có trên 3.000 máy và mạng nối vào Singnet, chủ yếu là các công ty thương mại, nhà sản xuất... Singnet cũng sử dụng DEC 7000 làm máy chủ.

Ngoài việc nối với một Internet Gateway ở Mỹ như Technet thì Technet và Singnet cũng đã nối trực tiếp với nhau. Như vậy Technet và Singnet vừa liên thông trực tiếp vừa liên thông gián tiếp qua Internet ngoài Singapore.

TeleView

TeleView là một mạng phục vụ 30.000 khách hàng và mới đây được nâng cấp để có thể phục vụ tới 100.000 khách hàng. Tháng 12 năm ngoái TeleView cho phép người sử dụng trên mạng này bắt đầu sử dụng trên mạng này bắt đầu sử dụng các dịch vụ Internet. Bản thân TeleView không tổ chức Gateway ra ngoài Singapore mà nó được nối vào cộng đồng Internet qua Singnet. Hiện có khoảng 5.000 khách hàng của TeleView đã sử dụng các dịch vụ Internet. WEB ở Singapore Rất nhiều dịch vụ Web được bắt đầu ở Singapore kể từ 9/1993 khi trạm Web đầu tiên được tổ chức ở Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore. Hè năm ngoái đã thống kê được hàng tháng có tới trên 60.000 yêu cầu tin hỏi tới Web Server tại ĐHTHQG. Việc tổ chức dịch vụ Web với mật độ tìm tin cao như vậy đòi hỏi giải quyết vấn đề đường truyền tải. ở Mỹ người ta dùng tới đường truyền 45 Mbit/s cho các Web trả lời tin khi mà đường truyền của các Web ở Singapore mới khoảng từ 64 Kbit/s tới 1.5 Mbit/s thì rõ ràng tốc độ bị hạn chế nhiều. Chẳng hạn hiện nay đường nối Internet của Technet thực sự mới chỉ là 768 Kbit/s, việc truy cập các nguồn lực Web sẽ khá chậm. Ngoài ĐHTHQG và Technet, nhiều kho thông tin lớn tham gia dịch vụ Web như:

* Sun MicroSystem với Sunsite Singapore

* Accel Infortech với Singapore Online

* Singapore InfoWeb v.v...

Nhiều cơ quan nhà nước Singapore cũng tổ chức các CSDL tham gia Web như Bộ Giáo Dục, cơ quan thông tin Singapore, phần lớn các đại học trung tâm nghiên cứu sinh học, Viện Khoa học Hệ thống, Viện Công Nghệ Thông Tin, Trung tâm Digital Media của ủy Ban Máy Tính Quốc Gia....

Technet đã tổ chức thông tin thị trường chứng khoán trên Web. Technet cũng tổ chức trên Web mạng SellaNet chứa đựng rất nhiều thông tin thương mại. Những kho dữ liệu thực hiện theo chuẩn Web này phục vụ rất nhiều nhu cầu khu vực kinh tế tư nhân sử dụng Internet.

Singapore SunSITE Web

Đây là một mạng dịch vụ Web cung cấp rất nhiều thông tin về các công nghệ của SUN, các phần mềm SUN. Hãng Sun có 6 trung tâm thông tin như vậy tại Brazil, London, Moscow, North Carolina (Mỹ), South Africa và Singapore.

Web này không phải chỉ bao gồm các thông tin về hãng Sun mà là mạng chứa thông tin của nhiều tổ chức lớn của Singapore như Port Authority of Singapore, Asian Mass Communication Research, Singapore Press Holdings v.v...

Singapore IntoMap Web

Đây là một mạng dịch vụ Internet Web mới tổ chức 2 năm nay bởi Bộ Thông Tin và Nghệ thuật. Hệ thống thông tin này cung cấp thông tin về các sự kiện diễn ra tại Singapore.

Giá cả dịch vụ Internet tại Singapore

Dù rằng dã có hàng trăm ngàn máy đang sử dụng các dịch vụ Internet tại Singapore, đây vẫn là lĩnh vực còn mới mẻ và giá sử dụng còn chưa định rõ. Có thể tạm coi là có 2 loại phục vụ chính:

- Theo kiểu trợ giá

- Theo kiểu thương mại

Technet được hổ trợ nhiều mặt khi tổ chức xây dạng và do đó những người dùng Internet qua Technet thực chất là không phải chịu mọi chi phí của hệ thống. Nghĩa là Technet phục vụ theo kiểu có trợ giá, do đó rẻ hơn so với Singnet là mạng thương mại. Thực ra bản thân Singnet cũng đang xây dựng để trở thành một dịch vụ Internet tự trang trải. Do đó cấu trúc giá cả dịch vụ của họ phải tính toán khá phức tạp để quản lý và thu phí hợp lý của người dùng.

Hiện nay giá của Singapore là 16,7 cent (S) cho 1 phút làm việc từ 8 giờ sáng tới 18 giờ và phân nửa (8,3 cents) vào các giờ còn lại. Singnet còn phải tính phí đăng ký vào mạng, phí không gian lưu trữ v.v...

Hiện Technet đang có khả năng sẽ tư nhân hóa và khi đó Technet và Singnet sẽ là các thực thể cạnh tranh.

Nguồn tin từ PCworld

KHÔNG CÒN GÌ RIÊNG TƯ TRÊN INTERNET

Đừng nghĩ là có thể giấu mình trong thế giới bao la của không gian điều khiển này. Hoàn toàn ngược lại: sử dụng Internet, đời tư của bạn như một trang sách mở. Từ những Web site mà bạn vào thăm cho đến bức thư điện tử mà bạn vừa gửi, có thể ai đó đang theo dõi. Sau đây là cách tự bảo vệ mình đối với những cặp mắt tò mò.

Lần đây, Christopher Kantzes mới nhận ra rằng Internet giữ bí mật rất kém.

Vào khoảng một năm nay, người kỹ sư này thỉnh thoảng vẫn lân la vào các nhóm thảo luận ít tranh cãi - như bàn về giải trí, thức ăn, đồ uống, bia, ... - và đã đóng góp ý kiến với hàng chục người khác. Cho đến khi tạp chí Minneapolis Star-Tribune ngẫu nhiên chọn ông để thử nghiệm việc chắp nối một tiểu sử sơ lược dựa trên những đóng góp trực tuyến của ông lâu nay, thì câu chuyện mới vỡ lở.

Bằng cách sử dụng DejaNews, một Web site cho phép tìm kiếm các nhóm tin Internet thông qua tên riêng, tạp chí này đã tạo được hồ sơ hoàn chỉnh về Kantzes một cách khách quan và ngay thật. Ông ta sinh ở Salisbury, Maryland; học ở các trường University of Delaware và Syracuse University; đã làm việc tại Magnavox thuộc Fort Wagne, bang Indiana, trước khi tìm được chỗ làm hiện tại; ông dự định sẽ đóng kịch tại nhà hát Theatre de la Jeune Lune ở Minneapolis, là người yêu thích Garrison Keillor, bia lên men, các nhà hàng ăn ngon, và máy tính Macintosh; ông không ưa Bill Gates, và đã đi nghỉ ở Paris và Rome vào năm 1995.

Ngay sau khi Star-Tribune cho đăng bài báo của họ, Kantzes đã chuyển đi nơi khác. Nhưng chỉ trong vòng vài tuần, trên các trang trắng điện tử của Internet đã có một bảng liệt kê địa chỉ và số điện thoại của ông ta. "Đây là một bài học mà không bao giờ tôi muốn tin - rằng, tôi không thể nào yên thân, ngay cả khi đang ngồi một mình trước máy tính", Kantzes phát biểu một cách chua chát.

Mặc dầu bài báo của Star-Tribune đã được công bố với sự cho phép của Kantzes, nhưng đó cũng là một ví dụ gây ớn lạnh về câu hỏi có bao nhiêu dữ liệu cá nhân đã bị sưu tập trộm trên Internet. Không những ai cũng có thể dễ dàng tập họp từng từ mà bạn đã ghi trên các nhóm tin và tìm ra Web site bạn hay đến, mà mọi điều, từ thư điện tử cho đến mua sắm và gửi tiền ngân hàng bằng trực tuyến, đều có thể bị rình mò.

"Điều nguy hiểm của Internet là gây ảo tưởng có thể giấu tên", lời phát biểu của Janlori Goldman, một luật sư của Centre for Democracy and Technology ở Washington, DC. Mặc dù mọi người đều tưởng rằng mình là một trực tuyến tàng ẩn, nhưng thực tế có thể nhìn thấy họ rất rõ.

Nguyên nhân mất riêng tư là do bản chất bỏ ngỏ của Internet. Không có nguyên tắc quy định loại thông tin nào trên Internet là thuộc cá nhân, và cũng không có một hạn chế nào đối với thành phần thứ ba trong việc sử dụng những thông tin này. Rất nhiều dữ liệu về bạn có thể sẵn sàng cho lấy ra. Và cũng có rất nhiều người muốn lấy. Internet đã "cưu mang" cho các hãng chuyên tiến hành theo dõi việc sử dụng Web - họ chọn lọc dữ liệu từ tiểu sử cá nhân được lập nên khi bạn đến thăm Web site, rồi gửi cho các nhân viên tiếp thị.

Dễ dàng xem trộm

Tệ hại hơn nữa, World Wide Web cực kỳ thiếu an toàn và bọn tội phạm máy tính dễ dàng xem trộm đến mức hầu như không cần thủ đoạn. Internet cũng đang trở thành thiên đường cho những người lấy thông tin bằng phương pháp điện tử. ít nhất có đến nửa tá site cung cấp hàng triệu số điện thoại và địa chỉ ở Mỹ; còn số khác thì cung cấp cả dữ liệu về các bằng lái xe. Thông điệp thư điện tử và giao dịch tài chính trên các mạng công cộng cũng đều không an toàn vì những cặp mắt xoi mói này.

Tóm lại, dù trực tuyến để kinh doanh hay giải trí, bạn đều dễ bị "lộ" đối với những ai muốn thu thập dữ liệu về bản thân bạn mà bạn không hề hay biết. Rất may, bằng cách sử dụng những biện pháp như mã hóa (encryption) hoặc hòm thư dấu tên (anonymous remailers) - và bằng cách chọn site để đến thăm cũng như chọn thông tin mà bạn sẽ cung cấp - bạn có thể giảm đến mức tối thiểu, nếu chưa loại được hẳn, khả năng bị xâm phạm "đời tư".

Ai đọc e-mail của bạn?

Hầu hết thư điện tử trên Internet đều mang nội dung riêng tư như bưu thiếp vậy. Sau khi rời khỏi máy tính của người gửi, thông điệp đó đi từ server mạng này đến server mạng khác, trên đường tới người nhận. Như vậy, bọn tội phạm rất dễ "chặn" thông điệp giữa đường - và không thể biết có ai đã đọc những thư từ được giả thiết là riêng tư này hay chưa, trước khi chúng đến đích.

Bọn tội phạm máy tính dùng nhiều thủ đoạn để "cướp" e-mail khi nó đang đi giữa các server. Ngay cả khi server được bảo vệ bằng firewall - phần mềm ngăn chặn sự thâm nhập vào hệ thống mà không được phép - thì cũng không bảo đảm an toàn tuyệt đối. Bọn tội phạm có thể cho chạy một chương trình để hoán vị các mật khẩu đơn giản qua mọi vị trí, cho đến khi đúng vào nơi có thể mở khóa vào mạng đó. Hoặc chúng cũng có thể tấn công vào server World Wide Web của một công ty - server này thường đặt ngoài firewall vì được xem như là một site ngoài - rồi lẻn vào trong mạng của công ty dưới danh nghĩa là người dùng nội bộ.

Thư điện tử có tính hấp dẫn khó cưỡng nổi việc đọc trộm vì nó thường chứa đầy thông tin lý thú, từ chiến lược hợp tác bí mật cho đến số thẻ tín dụng. Một số thư còn có cả tiêu đề chứa mật khẩu và mã đăng nhập, để cho bọn tội phạm có thể sử dụng và được thâm nhập toàn bộ, ngay cả những khu vực nghiêm ngặt nhất.

Chỉ có một cách duy nhất bảo vệ e-mail chống bọn đọc trộm là mã hóa nó - xáo trộn lẫn lộn nội dung của thông điệp sao cho chỉ có người nhận đã xác định là có thể đọc được. Bức thư này lại được bỏ vào một "phong bì" số hóa an toàn mà bọn tội phạm không thể thâm nhập. Cách mã hóa bất nghi thức tốt nhất trên Internet là dùng một chương trình có tên gọi Pretty Good Privacy, viết tắt PGP, do chuyên gia về bảo mật máy tính là Phil Zimmermann phát triển (http://www.pgp.com). RSA Data Security (http://www. rsa.com) cũng tạo ra các chương trình mã hóa rất công phu.

Cả PGP lẫn RSA đều phù hợp với cách hoạt động gọi là public key/private key (khóa chung/khóa riêng). Phương pháp này dùng một thuật toán phức tạp để mã hóa riêng cho từng e-mail bằng một công cụ gọi là public key. Khóa đó bao gồm những dữ liệu mô tả tỉ mỉ về người nhận. Chỉ có private key tương ứng mới có thể giải mã để mở khóa cho thông điệp đó.

Để hoạt động theo cách này, người gửi và người nhận phải dùng phần mềm tương hợp nhau. Mặc dù PGP và RSA là các phần mềm tương hợp, nhưng những phương pháp mã hóa khác thì không.

Trong trường hợp không mã hóa được thì phải luôn nhớ rằng e-mail của bạn không còn là của riêng nữa và phải hạn chế người nhận. Không nên gửi thông tin bằng e-mail thay cho bưu thiếp. Và nếu cần trao đổi những thông tin bí mật thì gửi bằng đĩa hay fax là an toàn hơn cả.

Hãy xem kỹ trước khi duyệt

Chỗ thiếu sót của việc bảo vệ và sự riêng tư trên Internet nằm trong bản thân browser. Cả Netscape Navigator lẫn Internet Explorer của Microsoft đều có những công cụ cho phép các Web site thâm nhập vào đĩa cứng trên PC của bạn và chạy các chương trình. Các applet này - nổi tiếng nhất là Java và ActiveX - đều có thể tuỳ biến những truy cập vào một Web site dựa trên các thông số mà bạn đã nhập trước.

Applet đó sẽ thu thập chi tiết về các hoạt động của bạn rồi ở lại trên đĩa cứng cho đến khi bạn quay về site này - khi bạn làm việc, nó sẽ chạy các chương trình nhằm tránh cho bạn khỏi phải nhập lại tên, những điều quan tâm, và các thông tin khác. Tuy nhiên, để nhận được hiệu quả này, bạn phải trả giá khá đắt. Vì applet lưu trú trong PC của bạn nên nó cũng có thể ăn trộm một cách kín đáo dữ liệu hoặc những chương trình trên đĩa cứng. Thêm vào đó, bọn tội phạm máy tính sẽ có điều kiện ẩn náu trong applet để thâm nhập vào PC của bạn, hoặc thậm chí có thể rong chơi trên mạng để lấy ra dữ liệu hợp tác hoặc gieo rắc virus cho các máy PC khác.

Microsoft và Netscape đều đã cấy sẵn các lớp bảo vệ vào trong applet browser của mình nhằm đề phòng bị lợi dụng. Tuy nhiên đội ngũ làm máy tính ở trường đại học Princeton University đã phát hiện ra hàng chục khiếm khuyết về an toàn trong Java và ActiveX. Cả Netscape lẫn Microsoft đều có những phiên bản cập nhật để lấp kín các lỗ hổng này, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn còn lo lắng về vấn đề an toàn khi bọn tội phạm tiếp tục tạo ra các applet thù

nghịch.

Mặc dù hầu hết các Web site đều sử dụng applet một cách hoàn toàn hợp pháp, nhưng thường thì không thể phân biệt được các Web site an toàn với Web site nguy hiểm. Và bạn không làm được gì nhiều để đề phòng applet ác tâm, ngoại trừ tránh xa các Web site có nghi vấn, hoặc tắt khả năng Java và ActiveX, tức là từ chối hiệu quả và tốc độ mà chúng mang lại. Java và ActiveX đều có thể bị vô hiệu hóa thông qua các tùy chọn của trình đơn trong Navigator và Explorer.

Các cookie và e-mail rác rưởi

Applet ẩn chứa nhiều nguy cơ mất an toàn trầm trọng, nhưng thường chúng không thể được tải xuống nếu bạn không biết rõ chúng, đồng thời bạn có thể xóa các tập tin này khỏi ổ đĩa cứng của mình (nếu biết chúng đang ở đâu). Các cơ chế sưu tập dữ liệu khác thì khó đối phó hơn.

Một cơ chế như vậy được gọi là cookie (chiếc bánh quy). Các "trang bìa" cá nhân hoá này được tự động tạo thành khi bạn đăng ký tại một số Web site, và thường bạn không biết. Những người quản trị site sẽ nhận ra bạn khi bạn đến thăm lại, đồng thời chào đón bạn bằng các màn hình và dịch vụ tuỳ biến. Giống như applet, cookie

nằm trên PC.

Cookie trước hết là một công cụ tiếp thị. Nó cho phép người sở hữu Web site có thể kiểm tra xem bạn đến thăm site có thường xuyên không và bạn đã làm gì ở đó. Người quản trị site có thể tổng hợp dữ liệu này với những thông tin bạn đã đóng góp khi đăng ký, rồi tạo ra một cơ sở dữ liệu nhân khẩu học về những người dùng để bán cho nhân viên tiếp thị.

Ví dụ, các cuộc thăm viếng site World Wide Web ngày càng được theo dõi chặt chẽ bởi các tổ chức làm dịch vụ kiểm tra như Web Track và Doubleclick, họ đo lường ý thích của bạn theo những gì mà bạn đã làm tại các địa điểm này, các quảng cáo mà bạn đã đọc và đáp ứng. Người kiểm tra lập ra cơ sở dữ liệu người dùng theo phương pháp thống kê dựa vào nhân khẩu học và thị hiếu từng người rồi bán lại cho chủ nhân của Web site đó. Chủ site lại dùng dữ liệu này để thay đổi những nội dung cho bạn xem trong lần đến thăm sau.

Mặc dù rất khó tránh được các cookie, nhưng không phải là không thể làm được: bạn có thể loại bỏ các tập tin cookie bằng cách xóa tập tin cookies.txt của Netscape hoặc thư mục cookies của Explorer. Nhưng bạn sẽ phải đăng ký lại tại một số site và có thể bị mất các tính năng đã được đặt hàng.

Một phương pháp tương đương khác là sử dụng Anonymizer Web site (http:// www.anonymizer.com); dịch vụ này sẽ ngăn các tập tin cookie thành lập trong khi bạn đang tiến hành duyệt bằng browser. PGP có kế hoạch sẽ đưa ra một sản phẩm giữ cho bạn không bị cookie quấy rầy gọi là PGP cookie cutter.

Song song với việc tránh các cookie, bạn cũng có thể hạn chế một số e-mail "rác rưởi" mà bạn phải nhận. Đơn giản nhất là than phiền với những người quản lý Web site, với nhà cung cấp dịch vụ Internet, hoặc dịch vụ trực tuyến của bạn.

Vì hầu hết thông tin trực tuyến đều được cung cấp bởi chính người dùng cho nên lời khuyên tốt nhất đối với việc tránh các quảng cáo không mong muốn là: đừng khai báo gì với nhân viên tiếp thị. Nếu việc ẩn danh để tự bảo vệ là cần thiết thì chớ đưa ra tiểu sử cá nhân và điền các kết quả điều tra; nếu site có hỏi về các dữ liệu cá nhân khi đăng ký, bạn hãy sử dụng các thông tin giả.

Tán chuyện riêng tư cũng không còn riêng tư nữa

Có một thực tế đơn giản, nhưng hầu hết mọi người đều khó tiếp thu, là: không có ai là ẩn danh, và không có gì là bí mật trong "phòng" tán gẫu cũng như các nhóm tin. Mọi thông điệp mà bạn gửi đi không chỉ đến với các thành viên trong nhóm để đọc ngay lúc đó, mà còn đến với bất kỳ ai cố ý lục tìm trong kho lưu trữ nhiều tháng hoặc nhiều năm sau này.

Như Kantzes đã phát hiện, các site tìm kiếm như DegaNews và AltaVista đã cho phép những kẻ chuyên đi trinh thám có thể tìm kiếm theo tên đối với tất cả các tác phẩm trực tuyến mà bạn đã viết. Chỉ cần lộ ra đủ dữ liệu trong các thông điệp gửi đi là bạn sẽ cung cấp nội dung cho một hồ sơ thực sự hoàn chỉnh về chỗ ở, lý lịch, các mối quan hệ, và các ý nghĩ của bạn ở một nơi khác.

Do nhiều nguyên nhân chính đáng, những người tuy tôn trọng luật pháp nhưng vẫn tìm kiếm tên tuổi và những chuyện riêng tư trên Internet. Nếu bạn làm việc cho một xí nghiệp lớn, bạn lo lắng và muốn nói về khiếm khuyết của một sản phẩm mới mà xí nghiệp này lại cố ý che giấu, thì làm sao đây? Chắc bạn cũng không muốn ông chủ cho rằng bạn là kẻ "lẻo mép".

Ngay cả trường hợp muốn tránh nhận loại e-mail vớ vẩn của dân tiếp thị thì bạn cũng phải khôn ngoan tìm mọi cách giấu kín định danh trực tuyến của mình.

May mắn là bạn có thể giấu mình khi đang hoạt động trong những nhóm tin trực tuyến bằng cách dùng anonymous remailer - một chương trình giúp ngụy trang các tiêu đề thông điệp điện tử, sao cho tên và địa chỉ của người gửi trở nên không thể giải đoán nổi. Bất kỳ ai muốn trả lời cho địa chỉ mã hóa này đều phải gửi cho anonymous remailer, ở đây sẽ phát tất cả các thư trả lời trực tiếp cho bạn. Có đến hàng chục anonymous remailer đang sẵn sàng phục vụ miễn phí trên Internet.

Dĩ nhiên, anonymous remailer chỉ an toàn và bí mật với những ai dùng các dịch vụ này, vì chúng chỉ có thể giữ bí mật định danh của những người gửi thông điệp theo cách này. Cho nên phải thật thận trọng khi dùng remailer.

Vậy thì có cái gì hoàn toàn bí mật trên Internet? Rất tiếc là chưa! Hiếm gặp trường hợp báo chí địa phương công bố về đời tư của bạn dựa trên thông tin nhặt nhạnh trong số e-mail mà bạn đã gửi, nhưng những điều riêng tư của bạn thì vẫn luôn bị rủi ro.

Nếu không chú ý đúng mức thì bất cứ lúc nào gửi e-mail, thâm nhập vào một Web site, gửi thông điệp cho nhóm tin, hoặc dùng Internet để gửi tiền ngân hàng hay mua sắm, bạn đều mất khả năng chống lại âm mưu ăn cắp thông tin. Janlori Goldman, một chuyên viên của Centre for Democracy and Technology, đã nói: "Nhiều người cho là mình an toàn và không ai có thể nhìn thấy khi bước vào trực tuyến; nhưng thực tế, họ lại thể hiện rõ mồn một".

Vì việc sử dụng Internet ngày càng phát triển nên lượng dữ liệu cá nhân mà nó chuyển tải cũng ngày càng lớn. Và như Christopher Kantzes đã nhận ra: những thông tin riêng tư rất dễ trở nên công cộng.

Các Web site báo cho bạn biết những gì?

Nếu bạn quan tâm muốn biết có bao nhiêu thông tin sẽ thu gom được khi duyệt bằng browser, hãy tìm xem trang privacy demonstration, do Centre for Democracy and Technology (http://www.cdt.org) ở Washington, DC đưa ra. Đây là một tổ chức phát triển và bảo vệ những chính sách nhằm duy trì các quyền dân sự và tự do trong truyền thông và công nghệ máy tính.

Chỉ cần gõ địa chỉ (http://www.13x.com/cgi-bin/cdt/snoop.pl) là trang này sẽ phản ảnh lại tên, địa chỉ e-mail, vị trí địa chỉ e-mail của bạn, vị trí địa lý, cũng như loại máy tính và browser mà bạn đang sử dụng. Phần trình diễn cũng lần lượt hiện ra các phương pháp được dùng để thu gom dữ liệu cá nhân, giải thích tại sao bạn bị liên quan, và cung cấp những mối liên kết với các site có thể giúp bạn bảo vệ sự riêng tư của mình.

Các site khác thì có thể chỉ ra bạn bị sơ hở như thế nào, và nơi có thể giúp bạn tự bảo vệ là Home Page của Stalker (http://pages.ripco.com:8080/~glr/stalk.html), nó có nhiều nguồn tài nguyên riêng và các cơ sở dữ liệu có thể tìm của Internet. Discreet Data (http://www .discreetdata.com) cho phép bạn có thể kiểm tra xem có bao nhiêu dữ liệu sống còn của bạn đang có nguy cơ bị dòm ngó trực tuyến!

Thư điện tử ẩn danh

Các remailer ẩn danh, phương pháp dùng để che dấu định danh trực tuyến của bạn, có thể bảo vệ bạn tránh bọn chuyên nhòm ngó vào các nhóm tin, cũng như các hãng tiếp thị đang đói thông tin về nhân khẩu. Dưới đây là một số site sẽ giúp bạn gửi đi bài viết của mình trong sự bí mật.

• The Replay Remailer (http://www.replay.com/remailer)

• The Shinobi Remailer (http://www.ee.sine.edu/~avankla/mix.help.html)

• MixMaster (http://www.obscura.com/~loki)

• Raph Leviens's Remailer list (http: //www.cs.berkeley. edu/~ raph/remailer-list.html)

Những điều nên và không nên làm đối với sự riêng tư trực tuyến

Mật mã hóa e-mail

Đừng gửi đi những bức thư điện tử quan trọng trừ phi đã được mật mã hóa. Để mã hóa những thông điệp, bạn dùng PGP hoặc bất kỳ chương trình nào có khả năng mã hóa public-key/private-key. Hãy chắc chắn là người nhận cũng sử dụng cùng chương trình mã hóa như bạn, hoặc một chương trình tương thích với nó.

Giấu kín định danh

Để che giấu định danh khi trao đổi thư tín với một nhóm tin, bạn hãy dùng một anonymous remailer. Chương trình này giúp ngụy trang tiêu đề của thông điệp e-mail, làm cho tên và địa chỉ của người gửi trở nên không thể giải đoán được.

Không nên chuyện trò với người lạ

Khi sử dụng dịch vụ trực tuyến hoặc đến thăm một Web site, bạn đừng đưa số điện thoại hoặc mật khẩu của mình cho bất kỳ ai đang tìm bạn - ngay cả khi họ tự giới thiệu là cộng tác viên của hãng cung cấp.

Đứng ngoài các danh sách

Để tránh bị quấy rầy bởi các hãng tiếp thị, bạn hãy yêu cầu dịch vụ trực tuyến của mình hoặc người quản lý Web site không được bán tên bạn cho các hãng cung cấp danh sách địa chỉ thư, hay đưa thông tin về bạn vào trong các danh sách gửi thư. Chớ nên để lộ thông tin riêng tư và những điều quan tâm cá nhân trên các home page hay dịch vụ trực tuyến.

Nguồn tin từ PCworld

AN TOÀN TRÊN INTERNET

Những phần cứng và phần mềm mới có thể bảo đảm an toàn cho việc kinh doanh của bạn. Tuy nhiên, công nghệ chỉ tốt như kế hoạch an toàn mà nó hỗ trợ.

An toàn trên Internet được coi là một thuật ngữ chứa đầy mâu thuẫn. Nguy cơ xâm phạm đến từ nhiều phía: những tay chuyên bẻ khóa chương trình, những nhân viên thích "xoáy" đồ của công ty hay các tên trộm không gian. Những nguy cơ này có thể gây nên hỏng hóc trong quá trình kết nối vào Internet của các doanh nghiệp bất cứ lúc nào, nhưng có lẽ sự tồi tệ cũng chỉ đến đó mà thôi. Tiến bộ về công nghệ hiện nay đang đưa ra các công cụ để có thể biến Internet thành một nơi làm việc an toàn hơn (tất nhiên là không thể đạt tới mức tuyệt đối).

Những công cụ này chiếm lĩnh thị trường với tốc độ khá nhanh; và sẽ không dễ dàng chút nào nếu bạn muốn điểm mặt từng công cụ để chọn ra cho mình một sản phẩm tốt nhất. Theo các chuyên gia, sự an toàn của Internet có thể giúp định hướng cho những đầu tư của một doanh nghiệp.

Bức tường lửa: Hàng rào chắn đầu tiên

Bức tường lửa (Firewall)* là hàng rào chắn đầu tiên của một công ty chống lại những kẻ chuyên rình mò trên Internet. Kế hoạch xây dựng một firewall nghiêm chỉnh phải là một phần trong chiến lược bảo toàn của một doanh nghiệp. Trong khi việc định nghĩa chính xác firewall là gì vẫn còn phải tranh cãi thì đa số các sản phẩm trong lĩnh vực này vẫn đảm bảo một trong hai tiêu chuẩn chính là gateway (thiết bị điều khiển giao dịch giữa các mạng dựa trên địa chỉ mạng) và bộ lọc các gói thông tin (packet filter). Một số sản phẩm lại phối hợp cả 2 tiêu chuẩn trên.

Gateway, bản thân nó đã có rất nhiều hình thức khác nhau. Cổng ứng dụng, thông thường, hạn chế người dùng truy cập vào một ứng dụng cụ thể nào đó. Theo cách này, người dùng buộc phải đăng nhập theo một thủ tục riêng để đến được cơ sở dữ liệu hay ứng dụng do gateway bảo vệ. Hai kỹ thuật gateway phổ biến khác nữa là circular gateway và proxy server cũng có tác dụng giữ không cho những người dùng không hợp pháp xâm nhập vào vùng cần được bảo vệ. Mặc dù gateway đảm bảo tính an toàn cao nhưng nó lại làm cho các nhà quản trị mạng khó định được cấu hình, còn người dùng cuối thì khó mà kiểm soát được. Ngoài ra, sự cần thiết phải dẫn toàn bộ lưu thông cả trong và ngoài luồng qua một điểm duy nhất sẽ làm tăng nguy cơ tạo các tắc nghẽn dữ liệu nghiêm trọng. Cuối cùng, các nhà sản xuất gateway trộn lẫn kỹ thuật này với bộ lọc gói thông tin, mặc dù tính an toàn của giải pháp này kém hiệu quả hơn. Bộ lọc gói thông tin gửi đi những gói giao thức Internet Protocol (IP) theo địa chỉ khởi đầu của một gói thông tin. Một gói chỉ được chấp nhận khi nó gửi đi từ 1 điểm đã được đăng ký. Điều đó đảm bảo rằng các gói thông tin từ những người dùng hợp pháp sẽ có thể đi vào mạng được, còn từ các nguồn khác thì không.

Tuy nhiên, do có cấu trúc không phức tạp, ví dụ như loại chuẩn với nhiều kiểu router khác nhau, nên bộ lọc các gói thông tin có thể bị những tay hacker chuyên nghiệp làm vô hiệu hóa. Một địa chỉ IP có thể dễ dàng bị thay đổi để trở thành như một gói thông tin đến từ một hệ thống hợp pháp.

Một cách tiếp cận an toàn hơn đòi hỏi phải có bộ lọc gói thông tin kiểm tra tính hợp pháp của gói thông tin đó và cũng để đọc dữ liệu chứa trong nó. Kỹ thuật này cho phép firewall thực hiện những động tác đặc biệt trên cơ sở thông tin nó đọc được (ví dụ như ngắt kết nối FTP khi giao dịch hoàn tất). Nhiều bộ lọc gói thông tin còn phân tích được đến từng packet riêng để đảm bảo rằng nguyên bản về mặt vật lý phù hợp với địa chỉ IP của nó.

Trong hai lựa chọn về firewall trên, bộ lọc gói thông tin có vẻ ưu thế hơn, nhất là những sản phẩm có cài đặt sẵn "trí tuệ". Bộ lọc gói thông tin hiện nay đang trở thành một tiêu chuẩn trong lĩnh vực an toàn trên Internet.

Bên cạnh việc giúp chống lại những tên trộm chương trình và người dùng bất hợp pháp, firewall còn có tác dụng trong việc ngăn chặn virus tin học và các mã lạ, mặc dù việc sử dụng khía cạnh công nghệ này còn chưa được phổ biến. Các công cụ có thể quét được các loại virus khi dữ liệu đến firewall hiện đang bắt đầu có trên thị trường. Frend Micro Inc. chẳng hạn đưa ra InterScan VirusWall. Sản phẩm này chạy trên các hệ thống của Sun Solaris và có thể quét được một số virus trên e-mail và FTP, gồm cả unencode, base64, binhex và PKZIP đối với các loại virus có thể. Người ta có thể làm cho nó có khả năng thông báo đến cho nhiều người về một nguy cơ có thể xảy ra, lưu file đe dọa bị hỏng vào vùng an toàn hay xóa hẳn nó đi. Giá khởi điểm là 20 USD cho 50 người sử dụng và tất nhiên cho nhiều người dùng thì giá còn rẻ hơn nữa.

Ngoài ra, firewall còn giúp chống các loại virus bằng cách hạn chế truy cập tới người dùng hợp pháp.

Tuy nhiên, có người lại phản đối việc sử dụng firewall như một công cụ phòng chống virus, bởi đối với một tên trộm chương trình chuyên nghiệp, việc "trèo qua" firewall bằng những thủ thuật dấu hoặc nén mã quả là quá dễ dàng. Kiểm tra file bằng các chương trình quét virus thông thường là một giải pháp dễ chấp nhận hơn, thậm chí trong cả trường hợp nó đòi hỏi nhiều hơn thế nữa.

Công nghệ tunnell

Trong khi các loại firewall đang đảm đương nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Internet thì nhiều tổ chức vẫn tiếp tục tìm kiếm một công nghệ khác tốt hơn và hiện nay tunneling - khái niệm về việc sử dụng gói IP được mã hóa để tạo nên một mạng riêng biệt ảo, đang bắt đầu được chấp nhận.

Hy vọng chi phí thấp cho mạng là lý do chính yếu của những ai đang quan tâm đến tunnel, đặc biệt là những công ty cần kết nối nhiều mạng hoặc nhiều nhân viên làm việc ở xa mạng. Hay cụ thể hơn nữa là những công ty cần kết nối hai mạng LAN riêng biệt đặt xa nhau bằng một đường dây riêng và tạo thành một mạng WAN. Với tunnel, các mạng được nối với nhau qua Internet, từ firewall này đến firewall kia, và dữ liệu được gửi qua những gói IP được mã hóa. Về bản chất chính đây là sự chuyển từ việc sử dụng đường thuê bao (leased-line) đắt tiền sang một Internet rẻ tiền hơn.

Công nghệ tunnel còn có thể được sử dụng để bảo vệ cho những mạng riêng biệt trong một công ty. Ví dụ, firewall có thể ngăn chặn những nhân viên không hợp pháp thuộc phòng kế toán của công ty muốn truy cập file trên mạng của phòng quản lý nhân sự.

Thông tin gửi qua các tunnel Internet được đảm bảo an toàn đến từng bit như phương pháp truyền bằng đường thuê bao.

Việc kết nối từ một PC đến mạng khi một nhân viên ở xa văn phòng muốn thực hiện cũng dễ như kết nối giữa 2 mạng với nhau.

Tuy nhiên tunnel cũng thể hiện một vài yếu điểm, đặc biệt là về khả năng tương thích. Thực tế là các công nghệ tunnel hiện nay do nhiều nhà sản xuất khác nhau cung cấp, điều đó có nghĩa là tất cả các điểm cuối của một mạng (cả về phiá mạng và người dùng từ xa) phải được xem xét và phối hợp với nhau chặt chẽ.

Một nhược điểm khác là những người ủng hộ cho tunnel lại bị hạn chế tính "tuyệt đối", điều mà họ nghiễm nhiên có được khi sử dụng các đường thuê bao. Nhưng theo kinh nghiệm của Digital thì tunnel có tốc độ cao hơn một đường thuê bao 56Kbps.

Những hạn chế về mặt an toàn

Mặc cho firewall và tunnel phô trương sức mạnh của mình, người ta vẫn khuyên là chỉ nên coi chúng như những chiếc hòm có khóa chứ không phải hầm cất tiền kiên cố của nhà băng. Và đặc biệt là firewall không thể đảm bảo cho toàn bộ nhu cầu an toàn đối với đường nối vào Internet của một công ty. Điều này giống như bạn phải xây một bức tường bao xung quanh thành phố chỉ vì không muốn mỗi gia đình trong thành phố đó phải khóa cửa nhà họ.

Để đạt được hiệu quả tối đa, firewall phải được thiết kế một cách sáng tạo và thông minh mới đáp ứng được nhu cầu của người sở hữu nó. Điều đó có thể là cất những file không thể sử dụng công khai vào một server riêng được bảo vệ kỹ càng hay hạn chế bớt một vài tính năng của server.

Nhưng firewall hay tunnel gì thì cũng chỉ tốt như kế hoạch an toàn mà nó hỗ trợ. Firewall thường không được sử dụng một cách đúng đắn. Có thể có rất nhiều lỗ hổng trên firewall nếu đó là công cụ bảo toàn duy nhất. Điều đó cũng giống như việc xây một cổng khổng lồ bằng đá ở giữa sa mạc.

Những nhân viên trung thực nhưng không được hướng dẫn đầy đủ có thể gây hại cho tính an toàn của Internet bất cứ lúc nào. Giá modem bây giờ rất rẻ, vì thế người ta có thể cài đặt chúng trực tiếp lên máy tính của họ và quay số vào buổi tối để tránh những bất tiện do firewall gây ra.

Ngoài ra, còn một số không nhỏ các nhân viên đã để cho password, địa chỉ IP và khóa mã hóa của họ rơi vào tay người lạ. Công nghệ là một thứ công cụ tuyệt vời nhưng nó không thể thay thế những nguyên tắc bảo mật truyền thống như việc thay đổi thường xuyên các password, giải thích cho các nhân viên hiểu rõ về những đe dọa an ninh có thể xảy ra. Thậm chí với công nghệ tunnel, việc quản lý an ninh luộm thuộm có thể gây ra những rắc rối đau đầu.

Các công ty cũng cần phải xem xét tính an toàn trên Internet từ bên ngoài, Việc giảm bớt những gì đi ra từ Internet cũng quan trọng như hạn chế những gì đi vào đó.

Việc quản lý an ninh

Người ta đã nhận thấy rằng việc thực hiện, định cấu hình hay quản lý firewall hoặc tunnell là công việc rất phức tạp và khó khăn đối với nhiều công ty. Từ khi các firewall điển hình hay phối hợp firewall-tunnel được cấu thành bởi nhiều công cụ, thường là từ những nhà sản xuất khác nhau, việc đưa công nghệ vào thực hiện những gì có thể là rất đơn giản. Mặc dù hầu hết các sản phẩm đều đưa ra giao diện sử dụng đồ họa (GUI), còn những tính năng khác được thiết kế theo hướng dễ sử dụng thì thách thức vẫn còn đó.

Công nghệ tunnel có thể trở nên đặc biệt rối rắm. Đây không phải là loại công nghệ mà một ai đó có thể đọc bảng hướng dẫn rồi có thể mua nó ngay.

Các công ty và nhà quản lý cũng nên phải theo sát thị trường để có thể chọn ra các giải pháp an ninh cho Internet. Nếu chỉ có một sản phẩm duy nhất được tung ra thị trường, tất cả mọi người sẽ dùng nó. Sự lựa chọn phải được dựa trên cơ sở môi trường và giá cả cuối cùng đối với công ty của bạn nếu những thông tin quan trọng lại đi lạc địa chỉ.

________________________________________

* Bức tường lửa: là sự kết hợp phần cứng - phần mềm, có tác dụng như một tấm ngăn cách giữa nguồn thông tin Internet của một công ty với thế giới bên ngoài.

Nguồn tin từ PCworld

MẠNG MÁY TÍNH TOÀN CẦU INTERNET: CƠ HỘI VÀ THỬ THÁCH

Trong thời gian Đại hội Đảng 8, tôi có dịp theo dõi bài phát biểu của các đại biểu đủ mọi ngành nghề trên tivi, báo chí. Hầu hết, họ đều có nhắc đến nhóm từ "sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa" không chỉ một lần. Điều đó cũng đủ nói lên tầm quan trọng của sự nghiệp này trong những năm sắp tới của đất nước ta. Nhìn vào thực tế thì Việt Nam bị xếp vào những nước nghèo trên thế giới và nhất là nghèo về thông tin dẫu rằng những năm qua chúng ta đã đạt được một số thành tích nhất định về kinh tế. Chúng ta thành công nhờ cơ chế mở cửa với thế giới bên ngoài. Nhưng cũng có thất bại vì nhiều lý do trong đó có lý do thiếu thông tin: thiếu thông tin tại chỗ, thiếu thông tin về đối tác, thiếu phương pháp xử lý thông tin hiện đại dựa trên cơ sở hệ thống máy tính và mạng máy tính.

Khi gia nhập mạng Internet sẽ có một lợi thế rất lớn đó là quyền truy nhập vào tất cả các kho dữ liệu điện tử cài đặt trên máy chủ ở các quốc gia khác nhau. Tài liệu về chính trị, luật pháp, nghiên cứu khoa học, tin tức, hội họa, nghệ thuật, các loại sách mới xuất bản, tin tức về thị trường chứng khoán, giá cả thị trường, giới thiệu các mặt hàng... được cập nhật liên tục trên mạng. Các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều dùng Internet để đưa tin. Ngồi tại Tokyo truy cập qua mạng có thể biết được giờ tàu ở Paris, chàng sinh viên ở New York có thể dự lớp tiếng Việt ở Hà Nội.

Trong một "cộng đồng ảo" (virtual communit), người ta có thể dùng thư tín điện tử để cùng bàn một vấn đề hết sức nhanh chóng và hiệu quả trong khi vẫn ở rất xa nhau trên trái đất. Nhiều công ty lớn đã bắt đầu giao dịch bán hàng trên Internet. Người Việt sống xa tổ quốc sẽ rất cảm động nếu được nhìn thấy tin tức nóng hổi từ báo chí Việt Nam xuất bản hàng ngày trên những trang WEB. Nhiều công ty đã lưu trữ các tài liệu kỹ thuật trên Internet nhằm giúp người sử dụng xa hàng ngàn dặm có thể truy nhập nhanh chóng và tìm ra giải đáp. Các hãng bán máy tính, ô tô, máy móc đều có công bố giá trên mạng nếu khách hàng quan tâm. Hãng Toyota có trang WEB giới thiệu những mẫu ô tô mới nhất cùng đơn đặt hàng đã viết sẵn, người dùng chỉ việc điền họ, tên và tất nhiên là số tiền gửi theo. Chỉ vài ngày, thậm chí trong ngày là có thể mua được chiếc ô tô họ muốn. Với một máy tính xách tay nếu được nối mạng, trên đường đi công tác, ta có thể tìm hiểu khá chi tiết về nơi sẽ đến, mặt mạnh hay yếu của công ty đối tác thậm chí cả lý lịch của người sẽ đối thoại.

Với các công ty đa quốc gia, cơ quan, chính phủ, các bộ, ngành thì việc có một hay nhiều trang WEB trên Internet là điều không thể thiếu trong thời đại thông tin. Các nguyên tắc bảo mật đang được phát triển để việc sao chép các giao dịch trên mạng được an toàn và bí mật. Ngày nay, trên danh thiếp của các doanh nhân, các nhà khoa học hay chuyên viên, ngoài địa chỉ, số phone, fax còn có cả địa chỉ trên Internet. Hòa mạng Internet sẽ giúp quốc gia tiến nhanh tới xã hội được tin học hóa. Theo Bill Gates - chủ tịch hãng Microsoft - nếu ai đặt cược cho Internet rất có thể là người chiến thắng, còn ai chống lại Internet chắc chắn sẽ thua cuộc.

Nhưng Internet cũng có mặt trái. Vì là hệ thống mở nên ai cũng có thể truy nhập và tạo ra những trang WEB riêng cho mình (tất nhiên là phải bỏ ra ít tiền để đăng ký tài khoản với một máy chủ nào đó). Những quốc gia đối địch thì dùng Internet như một phương tiện để tuyên truyền kích động. Những kẻ rời bỏ tổ quốc ra đi vì hận thù thì Internet là công cụ tuyệt vời để "chuyển lửa về quê". Nhiều thông tin về quốc gia, cơ quan nhà nước và các công ty bị lộ bí mật. Có những ngân hàng bị thất thoát hàng triệu đô la chỉ vì các dịch vụ chuyển tiền trên mạng không an toàn. Các sản phẩm trí tuệ bị đánh cắp một cách không thương tiếc. Tạp chí về tình dục, sách kích động tội ác thậm chí cả tình dục trẻ em cũng đầy rẫy trên Internet. Điều nguy hại là trẻ em, thanh thiếu niên mới lớn rất tò mò trên mạng và gặp phải những trò tiêu khiển độc hại trong khi Internet lại không phân biệt người dùng là ai miễn anh có đăng ký là có thể hòa mạng. Có chăng hệ thống cũng chỉ đưa ra câu nhắc nhở ngớ ngẩn đại loại: "Nếu anh dưới 18 tuổi hãy ra khỏi trang WEB này" hay "Đây là vấn đề dành cho người lớn". Một đứa bé lớp ba hoàn toàn có thể trả lời "Vâng, tôi là người lớn đây!" và vào được trang WEB bậy bạ này để thỏa trí tò mò trong khi bố mẹ chúng đi vắng suốt ngày.

Có hai thái cực về cách nhìn nhận Internet. Một số cho rằng hoàn toàn mở và ai muốn làm gì thì làm, không cần có luật pháp, là cái ao làng ai rửa chân cũng được. Những vấn đề như sở hữu trí tuệ, bí mật quốc gia, tình dục rẻ tiền có thể tự do đưa lên Internet. Thái độ này hoàn toàn sai vì Internet cũng là một phần của cuộc sống và như thế, nó phải dựa trên nền tảng pháp luật và hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội chúng ta đang sống. Một số khác thì cho rằng phải kiểm tra thật gắt gao. Thái độ này lại làm cho Internet mất hết ý nghĩa quan trọng trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay và sẽ kìm hãm sự phát triển của công nghệ.

Giải pháp dung hòa là cần thiết với mỗi quốc gia. Chính phủ nào trên thế giới cũng đều đau đầu vì Internet. Quốc hội Mỹ có hẳn đạo luật cấm đưa hình ảnh khiêu dâm trẻ em lên Internet. Tại Anh, vấn đề nhạy cảm là đời tư và bí mật quốc gia được pháp luật luôn để mắt tới trên từng trang WEB. Người Trung Quốc thì lo về an ninh chính trị vì muốn có sự ổn định để đi lên nên người dùng Internet phải đăng ký với nhà nước. Họ đã cấm khoảng 100 địa chỉ trên mạng. Nếu người dùng cố truy nhập vào đó thì chỉ nhận được những trang trắng. Người Pháp luôn tự hào về tự do báo chí cũng đang ầm ĩ về vụ xuất bản cuốn sách đời tư của cố tổng thống Mitterand trên Internet. Người Đức lại sợ bọn tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít mà dùng những trang WEB thì sẽ rất nguy hại.

Mỗi quốc gia đều có biên giới của mình và họ muốn rằng những gì đi qua biên giới phải được kiểm soát. Họ có hàng rào biên phòng, hải quan để bảo vệ đất nước. Chỉ có điều, kiểm soát những gì đi qua cổng Interent phải có những phương pháp hiện đại, người lính biên phòng bấy giờ phải là điện tử, phần mềm máy tính, người quản lý các cổng đó phải là những chuyên gia tin học, truyền thông, mạng máy tính và tất nhiên có phẩm chất chính trị tốt. Mỗi trang WEB đều có một địa chỉ vật lý tại một máy chủ đặt ở đâu đó trên thế giới. Nhóm quản lý cổng Internet chỉ cần thấy nội dung trang WEB đó không phù hợp với yêu cầu thì có thể đưa địa chỉ đó vào hệ thống phần mềm gọi là "bức tường lửa" (firewall) ngăn không cho thông tin từ trang WEB đi qua cổng. Bức tường lửa thực chất là đội biên phòng điện tử. Có thể tạo ra một danh sách các địa chỉ "cấm" và cung cấp cho firewall. Đây là công việc rất khó vì có hàng triệu trang WEB cần phải duyệt và số lượng tăng lên hàng ngày. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là không thể làm được.

Hiện nay, để đảm bảo bí mật cho công ty hay quốc gia, người ta tạo ra một kiểu mạng nội bộ diện rộng Intranet. Nguyên tắc kết nối giống như mạng Internet nhưng có một bức tường lửa canh gác sao cho người trong Intranet có thể truy nhập thoải mái nhưng người ngoài thì chỉ nhận được những gì mà bức tường lửa cho qua. Có rất nhiều công ty đang phát triển các phần mềm firewall. Giải pháp firewall không thể gọi là hoàn hảo, sẽ có một số thông tin không có lợi vượt tuyến nhưng ta cũng phải nhìn vào thực tế là biên giới nước nào chả có buôn lậu, người vượt biên trái phép nhưng vì lợi ích lớn hơn của đất nước, không chính phủ nào lại đi đóng cửa biên giới cả! Một thực tế nữa khó ngăn ngừa được là người ta có thể dùng một máy tính có gắn modem gọi tới một địa chỉ Internet ở nước ngoài giống như ta gọi điện thoại quốc tế để lấy tin. Với cách này thì không bức tường lửa nào có thể kiểm soát nổi, cũng may là cước phí đàm thoại quốc tế quá cao nên chắc ít người đủ tiền để dùng Internet kiểu này.

Hiện nay tại Việt Nam, chúng ta cũng đang nói rất nhiều về Internet. Sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ hòa mạng Internet. ở Hà Nội có nhiều cơ quan, công ty có thể cung cấp dịch vụ Internet vì thực ra tạo ra một mạng để cung cấp các dịch vụ Internet không phải là vấn đề quá khó hiện nay. Tôi cũng để ý thấy là một vài cơ quan, công ty có dịch vụ trao đổi thư điện tử với Internet - một dịch vụ khá đơn giản và dễ thực hiện - nhờ tạm vào cổng ở nước ngoài mà lại luôn tuyên truyền là chính họ mới có quyền và đủ kỹ thuật để cung cấp dịch vụ Internet. Thực chất, nhà nước chỉ cần cho phép mở hai cổng tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và quản lý thật tốt hai cổng này. Các công ty và cơ quan khác có thể tự do khai thác dịch vụ do hai cổng này cung cấp. Tương lai không xa chúng ta sẽ bước vào "Xa lộ thông tin" của thế giới một cách thoải mái mà không phải lo sợ khi mở cửa thì "rác rưởi sẽ vào theo". Hy vọng rằng các nhà hoạch định chính sách thông tin đừng vì sợ một số "rác rưởi" mà đánh mất đi phần lớn rất tốt đẹp của Internet. Và tôi tin rằng sự nghiệp công nghệp hóa, hiện đại hóa chắc chắn sẽ thành công một phần nhờ có Internet - sự diệu kỳ của nhân loại vào cuối thế kỷ 20.

Nguồn tin từ PCworld

Lý thuyết viễn thông

1. Hệ thống viễn thông điện tử

1.1 Hệ thống viễn thông điện tử ngày nay

Công nghệ viễn thông điện tử đã tiếp tục tiến bộ nhanh chóng kể từ khi có phát minh hệ thống điện tín và điện thoại đến mức nó đã cách mạng hoá các phương tiện thông tin truyền thông khoảng một thế kỷ trước đây. Ngày nay, hệ thống viễn thông điện tử được xem như các phương tiện kinh tế nhất có được để trao đổi tin tức và các số liệu. Ngoài ra song song với tǎng trưởng về xã hội kinh tế, việc hình thành các phương tiện cần thiết cho viễn thông điện tử đã trở nên phức tạp hơn và có khuynh hướng kỹ thuật cao nhằm đáp ứng nhu cầu đang tǎng về các dịch vụ có chất lượng cao và dịch vụ viễn thông tiên tiến hơn; mặc dù vậy các thiết bị có thể được hình thành theo các cách khác nhau và có các mức độ phức tạp khác nhau theo các yêu cầu của người sử dụng.

Về cơ bản chúng được mô phỏng như sau (diễn giải) :

Hình 1.1. Cấu tạo của mạng lưới viễn thông.

a. Nguồn thông tin: Con người hay máy để phát ra thông tin cần truyền đi. Thông tin phát ra được phân loại thành tiếng nói, mã, và hình ảnh (ký tự, ký hiệu và hình ảnh).

b. Thiết bị truyền: Bộ phận hay thiết bị để chuyển thông tin phát ra thành các tín hiệu để được truyền đi qua đường truyền dẫn.

c. Đường truyền dẫn: Một phương tiện để truyền các tín hiệu từ thiết bị truyền đến thiết bị nhận. Các loại cáp đồng trục, cáp quang, không gian, và các hướng sóng được dùng rộng rãi cho mục đích này. Các tín hiệu được gửi đi qua đường truyền bị nhiễu bởi các yếu tố như tiếng ồn.

d. Thiết bị nhận: Là một bộ phận hay thiết bị dùng để biến đổi các tín hiệu đã nhận được thành các tín hiệu ban đầu.

e. Người sử dụng: Là con người hay máy nhận thông tin đã được phục hồi từ thiết bị nhận. Hệ thống viễn thông điện tử được sử dụng phổ biến nhất là hệ thống thông tin điện thoại trong đó con người là nguồn thông tin cũng lại là người sử dụng, còn máy điện thoại dùng làm thiết bị truyền thiết bị nhận. Hiện nay loại máy (bǎng) dịch vụ thông báo thông tin trong đó máy hoạt động như nguồn thông tin và con người như là người sử dụng có như cầu cao. Ngoài ra, việc giao tiếp giữa máy với máy như việc trao đổi số liệu hiện cũng đang hoạt động. Như trình bày ở hình 1.2, các quá trình trao đổi được tiến hành thông qua giao diện giữa người với máy, và giữa máy với máy, như trong trường hợp các phương pháp thông thường, sẽ trở nên ngày càng thông dụng hơn.

Hình 1.2. Truyền, nhận thông tin

Xu thế phát triển các mạng lưới viễn thông hiện nay được mô tả ngẵn gọn ở phần sau. Trước hết, là giải thích về việc đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông và các phương tiện.

Cùng với các dịch vụ viễn thông điện tử thông dụng dựa trên cơ sở các hệ thống điện thoại và điện tín hoạt động một cách độc lập thông qua việc sử dụng mạng lưới thuê bao điện thoại, mạng lưới chuyển mạch rơ-le điện tín, và mạng lưới thuê bao điện tín, một số các phương tiện có độ phức tạp cao và rất mạnh càng tǎng lên như các các phương tiện truyền số liệu và hình ảnh để truyền thông tin các loại và cho phép thực hiện các dịch vụ phi điện thoại đang được lắp đặt và vận hành, đang cách mạng hoá cuộc sống của chúng ta.

Dịch vụ phi điện thoại được đưa ra hiện nay yêu cầu các thiết bị và phương tiện viễn thông tiên tiến và chuyên môn hoá cao độ.Thực tế này càng trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta kiểm tra các loại tần số hiện đang dùng; không giống như các phương tiện phổ thông chỉ yêu cầu các dường tín hiệu 4 KHz cho các loại dịch vụ, các dải tần 1-4 MHz, 12-240 KHz, và 12-240 KHz đang được sử dụng, một cách tương ứng cho Video, các số liệu tốc độ vừa và cao, truyền fax để đáp ứng các đặc tính dịch vụ của chúng; đồng thời khi cung cấp một dịch vụ, các tần số khác nhau có thể được sử dụng để có kết quả tối ưu. Theo đó, việc thiết lập nhiều mạng lưới viễn thông khác nhau, sử dụng các dải tần khác nhau và các dịch vụ khác nhau là điều không thực tế và không kinh tế. Do vậy một nhu cầu cấp bách là phát triển công nghệ các mạng lưới viễn thông với dung lượng có thể giao tiếp với nhau, có khả nǎng xử lý các loại dịch vụ khác nhau để có thể đưa ra sử dụng trong tương lai gần. Với mục đích này, các nhà nghiên cứu và kỹ sư tham gia vào lĩnh vực này đang cố gắng kết hợp các mạng lưới viễn thông hiện nay một cách có hệ thống và có hiệu quả.

Thứ nhì, xu hướng gần đây có đặc điểm là tǎng nhu cầu đối với mạng lưới số. Từ khi phát hiện ra các nguyên lý về điện thoại từ việc chuyển nǎng lượng âm thanh thành nǎng lượng điện để truyền đi tiếng nói cho đến khi phát sinh ra phương pháp truyền bằng ghép kênh điện thoại, các dịch vụ điện thoại đưa ra sử dụng các hệ thống chuyển mạch phân chia không gian thông qua các đường truyền tương tự. Điều này cũng dựa vào công nghệ tương tự. Vào đầu những nǎm 1960, phương pháp PCM-24 đã được thương mại hoá một cách thành công vì vậy chứng minh rằng phương pháp truyền dẫn số là kinh tế hơn nhiều so với phương pháp truyền dẫn tương tự. kể từ đó, các hệ thống tổng đài số sử dụng hệ thống truyền dẫn số đã được lắp đặt và vận hành một cách rộng rãi.

Những ưu điểm của các mạng lưới viễn thông số là: Khi sử dụng hệ thống tổng đài tương tự và đường truyền dẫn số, bộ mã hoá và bộ giải mã được sử dụng cho các dịch vụ thoại để biến đổi các tín hiệu ngược lại thành tiếng nói tại thời điểm chuyển mạch; Khi sử dụng hệ thống số và đường truyền dẫn số, chỉ cần có một thiết bị đầu cuối với khả nǎng thực hiện chức nǎng đơn giản vì các tín hiệu số đã dược đấu nối ở mức ghép kênh. Một ưu điểm khác của việc sử dụng hệ tổng đài số là nó làm tǎng chất lượng truyền dẫn. Trong mạng lưới điện thoại số, các tín hiện đã được mã hoá tại tổng đài chủ gọi được giải mã, sau đó được mã hoá tại tổng đài trung chuyển và cuối cùng được gửi đến tổng đài bị gọi.

Theo đó, bằng cách sử dụng phương pháp này, có thể tránh được việc tǎng lượng tiếng ồn phát ra khi chuyển các tín hiệu tương tự thành các tín hiệu số. Ngoài ra, do đường truyền dẫn số trải qua ít thay đổi về mức hơn là đường truyền dẫn tương tự, hiện tượng mất đường truyền sẽ có thể đặt nhỏ hơn. Để thực hiện mục đích này, nếu sử dụng một đường truyền số giữa hai tổng đài, thì sự mất đường truyền có thể được giảm bớt từ 10 dB xuống còn 6dB. Đồng thời, trong mạng điện thoại số, đối với một đường điện thoại, 64 kbps được dùng như tốc độ bít cơ sở; các số liệu, fax, và thông tin video có tốc độ nhỏ hơn mức bít này có thể được gửi đi một cách tương đối dễ dàng hơn thông qua mạng điện thoại số. Như đã trình bày, các thiết bị có thể được chia sẻ theo các yêu cầu dịch vụ và vì thế có thể được sử dụng một cách linh hoạt để ứng dụng cho các loại dịch vụ hiện đang tồn tại cũng như các dịch vụ mới.

Hình 1.3. Tiến trình trong số hoá

Các nhà nghiên cứu và kỹ sư ở các nước tiên tiến đang cố gắng phát triển loại mạng truyền thông số này. Tiến bộ thực hiện được trong công nghệ số được giải thích sử dụng mô hình ở Hình 1.3. Một đường truyền số dược sử dụng giữa hai tổng đài trong mạng lưới số tích hợp được mô phỏng trong sơ đồ. Đồng thời mạng ISDN (mạng đa dịch vụ số) cũng được phát triển trong đó các dịch vụ tích hợp được cung cấp với các thiết bị đầu cuối được số hoá. Ngoài ra, do các loại dịch vụ viễn thông được đưa ra ngày càng trở nên phong phú, một phạm vi rộng lớn các loại thiết bị đầu cuối, một trong 3 phần quan trọng mạng lưới viễn thông, chủ yếu là, các thiết bị đầu cuối, đường truyền dẫn và các thiết bị tổng đài, hiện nay được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các thiết bị đầu cuối công cộng hiện nay đều được thiết kế để vận hành càng dễ dàng càng tốt, tuy nhiên một số các thiết bị đầu cuối này gọi là các thiết bị đầu cuối tích hợp, được trang bị với các tính nǎng tiên tiến dùng cho các dịch vụ đặc biệt. Từ đó, việc sử dụng truyền thông sẽ trở nên đa dạng hoá hơn, và việc cố gắng phát triển công nghệ phù hợp cho các mục đích đó cũng sẽ được thực hiện.

1.2 Lịch sử phát triển công nghệ viễn thông điện tử

Trong suốt lịch sử của loài người, việc phát minh ra ngôn ngữ là cuộc cách mạng truyền thông lớn nhất đầu tiên. Sau đó ít lâu con người phát sinh ra tín hiệu bằng lửa có khả nǎng truyền đạt các thông tin có hiệu quả và nhanh chóng tới các vùng xa. Câu truyện lịch sử cho thấy vào khoảng nǎm 1000 trước công nguyên, các đội quân Hy Lạp sử dụng phương pháp này để thông báo các chiến thắng của họ cho các công dân đang nóng lòng của Hy Lạp. Trong một thời gian dài, phương pháp này đã được sử dụng một cách rộng rãi để đáp ứng các nhu cầu về truyền thông. Một cuộc cách mạng thông tin khác nữa lớn hơn đã xảy ta khi con người biết được làm thế nào để ghi lại ý nghĩ và tư tưởng của mình bằng cách dìng cách dùng các chữ viết. Với khả nǎng này, con người có khả nǎng truyền thông tin mà không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Đồng thời, việc phát minh này đã đưa ta các dịch vụ đưa thư và thông báo. Hoàng đế Rô-ma đã có thể truyền đi thông tin cần thiết đến các vùng xa đến 160 km cách xa thành Rôm trong một ngày bằnghệ thống (mạng lưới) đường bộ họ đã xây dựng nên trong toàn quốc. Việc phát minh ta công nghệ in đã thúc đẩy hơn nữa việc phát triển các phương tiện truyền tin và cho con người có khả nǎng thông tin với nhiều người hơn và với các khu vực ở cách xa nhau.

Từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, công nghệ phát thanh và truyền thông bằng điện đã được phát triển và bắt đầu được dùng rộng khắp. Đài phát thanh và truyền hình được phát minh và thời gian này đã làm thay đổi thế giới chúng ta rất nhiều. Trong phần tiếp theo, các phát minh lớn khác và những phát hiện liên quan đến công nghệ thông tin điện tử đã xảy ra trong suốt 160 nǎm qua cũng như xu hướng phát triển của chúng ở tương lai đã được thảo luận một cách ngắn gọn. Nǎm 1820, Georgo Ohm đã đưa ta công thức phương trình toán học để giải thích các tín hiệu điện chạy qua một dây dẫn rất thành công. Và nǎm 1830, Michall Faraday đã tìm ta định luật dẫn điện từ trường. Nǎm 1850, đại số Boolean của George Boolers đã tạo ta nền móng cho lôgíc học và phát triển các rơ-le điện. Chính vào khoảng thời gian này khi các đường cáp đầu tiên xuyên qua Đại Tây Dương để đánh điện tín được lắp đặt. James Clerk Maxwell đã đưa ra học thuyết điện từ trường bằng các công thức toán học nǎm 1870. Cǎn cứ vào học thuyết này, Henrich Hertz đã truyền đi và nhận được sóng vô tuyến thành công bằng cách dùng điện trường lần đầu tiên trong lịch sử. Tổng đài điện thoại đầu tiên được thiết lập đầu tiên nǎm 1876 ngay sau khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại. 5 nǎm sau, Bell bắt đầu dịch vụ gọi điện thoại đường dài giữa New York và Chicago và Guglieno Mareconi của Italia đã lắp đặt một trạm phát sóng vô tuyến để phát các tín hiện điện tín. Trong thế kỷ 21 việc phát triển và áp dụng có tính thực tế về công nghệ liên quan đang tiếp tục phát triển nhanh chóng và trong quá trình đó, cách mạng hoá thế giới chúng ta. Nǎm 1900, Einstein, một nhà vật lý nổi tiếng về học thuyết tương đối, đã viết rất nhiều tài liệu quan trọng về vật lý chất rắn, thồng kê học, điện từ trường, và cơ học lượng tử. Vào khoảng thời gian này phòng thí nghiệm Bell của Mỹ đã phát minh và sáng chế ra ống phóng điện cực cho các kính thiên vǎn xoay được và Le de Forest trở thành người khởi xướng trong lĩnh vực vi mạch điện tử thông qua phát minh của ông ta về một ống chân không ba cực. Việc này được tiếp theo bằng phát minh một hệ thống tổng đài tương tự tự động có khả nǎng hoạt động không cần có bảng chuyển mạch. Nǎm 1910, Erwin Schrodinger đã thiết lập nền tảng cho cơ học lượng tử thông qua công bố của ông ta về cân bằng sóng để giải thích cấu tạo nguyên tử và các đặc điểm của nguyên tử và R.H Goddard đã chế tạo thành công tên lửa bay bằng phản lực chất lỏng, và máy tê-lê-típ đã được phát minh. Đồng thời, vào khoảng thời gian này, phát thanh công cộng được bắt đầu bằng cách phát sóng. Nǎm 1920, Ha rold S. Black của phòng thí nghiệm nghiên cứu Bell đã phát minh ra một máy khuếch đại phản hồi âm bản mà ngày nay vẫn còn dùng trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ máy điện toán. V.K. Zworykin của RCA, Mỹ đã phát minh ra đèn hình bằng điện cho vô tuyến truyền hình, và các cáp đồng trục, phương tiện truyền dẫn có hiệu quả hơn các loại dây đồng bình thường, đã được sản xuất. Nǎm 1939, dịch vụ phát sóng truyền hình thường xuyên được bắt đầu lần đầu tiên trong lịch sử và nǎm 1930, Claude Schannon của phòng thí nghiệm Bell, bằng cách sử dụng các công thức toán học tiên tiến đã thành công trong việc đặt ra học thuyết thông tin dùng để xác định lượng thông tin tối đa mà một hệ thống viễn thông có thể xử lý vào một thời điểm đã định. Học thuyết này đã được phát triển thành học thuyết truyền thông số. Đồng thời, ra-đa đã được phát minh trong thời kỳ này. Nǎm 1940, phòng thí nghiệm Bell đã đặt nền móng cho các chất bán dẫn có độ tích hợp cao ngày nay qua việc phát minh ra đèn ba cực và Howard Aiken của đại học Harvrd, cùng cộng tác với IBM, đã thành công trong việc lắp đặt một máy điện đầu tiên có kích thước là 50feet và 8feet. Sau đó ít lâu, J. Presper Ecker và John W. Mauchly của đại học Pennsylvania lần đầu tiên đã phát triển máy điện toán phân tách gọi là ENIAC. Von Neuman dựa vào máy này, đã phát triển thành công sau đó máy điện toán có lưu giữ chương trình. PCBs được đưa ra vào những nǎm 50, đã làm cho việc tích hợp các mạch điện tử có thể thực hiện được. Cùng trong nǎm đó, RCA đã phóng thành công vệ tinh nhân tạo vào không trung và la-re dùng cho truyền thông quang học đã được phát minh. Vào những nǎm 60, các loại LSIs, các máy điện toán mini có bộ nhớ kiểu bong bóng, cáp quang, và máy phân chia thời gian được phát triển và thương mại hoá một cách thành công vào các nǎm 70, các loại CATVs hai hướng, đĩa Video, máy điện toán đồ hoạ, truyền ảnh qua vệ tinh, và các hệ thống tổng đài điện tử hoá toàn bộ được đưa ra.

2. Công nghệ chuyển mạch

2.1 Khái quát chung

2.1.1 Nhu cầu đối với hệ thống chuyển mạch

Máy điện tín được Samuel F.B Morse phát minh nǎm 1837, lần đầu tiên trong lịch sử, các tín hiệu điện đã được sử dụng để truyền tin; các số liệu được mã hoá được dùng như một phương tiện truyền dẫn. Việc truyền tiếng nói trở thành có thể thực hiện được khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại nǎm 1876. Nói chung, việc truyền thông tin đề cập đến quá trình chuyển thông tin từ người phát thông tin đến người sử dụng. Thông tin được xác định là các tư tưởng và các số liệu cần thiết cho người sử dụng. Đồng thời, một số phương tiện truyền tin đã được sử dụng trong suốt lịch sử loài người. Loại tín hiệu lửa đã được dùng rộng khắp trong quá khứ là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, vì nhu cầu về các dịch vụ truyền thông chất lượng cao và đáng tin cậy càng tǎng lên, con người bắt đầu dùng điện thay cho lửa để làm phương tiện truyền thông quan trọng nhất. Trong tương lai gần, người ta dự định là ánh sáng sẽ thay thế điện để làm phương tiện chính. Hệ thống truyền thông đề cập đến một số thiết bị hay các bộ phận sử dụng để cho phép người cấp tin chuyển thông tin cho người sử dụng; các bộ phận này hay thiết bị được phân loại thành các hệ thống truyền tin phân tán và hệ thống truyền thông tổng đài như ghi ở Hình 2.1. Trong trường hợp đầu, người cấp tin chỉ cấp thông tin trong đó người sử dụng chỉ nhận được thông tin truyền đi. Một trong các ví dụ rõ ràng cho các loại này bao gồm có đài phát thanh và vô tuyến truyền hình.

Hệ truyền thông • Hệ truyền thông phân tán

• Đài và vô tuyến, truyền hình v.v.

• Hệ truyền thông tổng đài

• Mạng lưới truyền thông điện thoại v.v.

Hình 2.1. Phân loại các hệ thống truyền thống.

Trong hệ truyền thông tổng đài, người cấp thông tin và dùng thông tin chưa được xác định và hệ thống sử dụng có khả nǎng cung cấp và sử dụng thông tin vào cùng một thời gian. Ví dụ cho việc này là hệ thống truyền thông điện thoại. Hệ truyền thông tổng đài đề cập đến quá trình chọn lựa chọn những người đang ở cách xa nhau hoặc giữa các máy đặt cách biệt nhau và sau đó giao tiếp với nhau bằng tiếng nói hoặc bằng các số liệu. Để phân tích một cách có hiệu quả, thì các điều kiện sau đây phải được đáp ứng.

Trước hết, chọn một bên nhận thông tin và sau đó chọn đường giao tiếp, một hệ tổng đài được dùng cho mục đích này. Các loại hệ tổng đài hiện có thể có để truyền tin bao gồm các hệ tổng đài điện tử chủ yếu dùng cho các dịch vụ điện thoại và các hệ chuyển mạch số liệu dùng để truyền số liệu.

Thứ hai, các hệ truyền dẫn được dùng để truyền thông tin ở các mức chất lượng có thể chấp nhận được không kể đến khoảng cách cần phải được đảm bảo. Hiện vay các hệ thống truyền dẫn bằng dây như các loại cáp cân bằng, cáp đồng trục, sợi quang và các hệ thống truyền dẫn không dây (vô tuyến) sử dụng các sóng cực ngắn đang được dùng rộng rãi.

Thứ ba, các mạng lưới truyền tin phải được thiết lập có xem xét đến việc bố trí hệ tổng đài và đường truyền dẫn, chất lượng giao diện tổng thể, và duy trì chất lượng truyền dẫn, ngoài ra, mạng lưới tuyến được lập ra, phân phối sự mất đường truyền, kế hoạch đánh số, các vấn đề liên quan đến tính cước phải được thiết kế theo nhu cầu của người sử dụng. Các hệ thống truyền thông tổng đài đã tiếp tục được nâng cấp một cách nhanh chóng kể từ khi phát minh ra hệ thống điện thoại cách đây gần 100 nǎm. Về cơ bản, tất cả các hệ thống đó đều cần máy điện thoại để chuyển các tín hiệu tiếng nói thành tín hiệu điện và ngược lại cũng như các hệ truyền dẫn để truyền các tín hiệu điện. Một mạng lưới truyền tin có thể được xây dựng bằng cách nối trực tiếp các thuê bao cung cấp và nhận thông tin qua mạng lưới khi số lượng thuê bao này chưa phải nhiều quá. Ví dụ, được minh hoạ ở (a) của hình 2.2, 8C2=28 đường là cần thiết trong trường hợp ở đó chỉ có 8 thuê bao được đǎng ký trong hệ thống. Tuy nhiên, khi sử dụng hệ tổng đài với chức nǎng giao tiếp giữa các thuê bao như trình bày ở (b) hình 2.2 số các đường điện thoại cần thiết phải bằng với số thuê bao đã đǎng ký trong hệ thống. Như đã trình bày, điều quan trọng thiết lập các mạng lưới thông tin một cách kinh tế và có hiệu quả.

Hình 2.2. Các phương pháp của mạng chuyển mạch cho 8 thuê bao

2.1.2 Phát triển công nghệ chuyển mạch

Hệ tổng đài dùng nhân công gọi là loại dùng điện từ được xây dựng ở New Haven của Mỹ nǎm 1878 là tổng đài thương mại thành công đầu tiên trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng tǎng về các dịch vụ điện thoại một cách thoả đáng và để kết nối nhanh cán cuộc nối chuyện và vì mục đích an toàn cho các cuộc gọi, hệ tổng đài tự động không cần có nhân công được A.B Strowger của Mỹ phát minh 1889. Version cải tiến của mô hình này, gọi là hệ tổng đài kiểu Strowger trở thành phổ biến vào các nǎm 20. Trong hệ tổng đài Strowger, các cuộc gọi được kết nối liên tiếp tuỳ theo các số điện thoại trong hệ thập phân và do đó được gọi là hệ thống gọi theo từng bước. EMD (Edelmatall-Drehwahler) do công ty Siemens của Đức phát triển cũng thuộc loại này; hệ thống này còn được gọi là hệ tổng đài cơ vì các chuyển mạch của nó được vận hành theo nguyên tắc cơ điện.

Do đại chiến thế giới thứ II bùng nổ, sự cố gắng lập nên các hệ tổng đài mới bị tạm thời đình chỉ. Sau chiến tranh, nhu cầu về các hệ tổng đài có khả nǎng xử lý các cuộc gọi đường dài tự động và nhanh chóng đã tǎng lên. Phát triển loại hệ tổng đài này yêu cầu phải có sự tiếp cận mới hoàn toàn bởi vì cần phải giải quyết các vấn đề phức tạp về tính cước và việc truyền cuộc gọi tái sinh yêu cầu phải có xử lý nhiều khâu. Ericsson của Thuỵ Điển đã có khả nǎng xử lý vấn đề này bằng cách phát triển thành công hệ tổng đài có các thanh cheó (Cross bar). Hệ tổng đài có các thanh chéo được đặc điểm hoá bởi việc tách hoàn toàn việc chuyển mạch cuộc goị và các mạch điều khiển được phát triển đồng thời ở Mỹ. Đối với mạch chuyển mạch chéo, loại thanh chéo kiểu mở /đóng được sử dụng; bằng cách sử dụng loại chuyển mạch này có một bộ phận mở/đóng với điểm tiếp xúc được giáp vàng, các đặc tính của cuộc gọi được cải tiến rất nhiều. Hơn nữa, một hệ điều khiển chung để điều khiển một số các chuyển mạch vào cùng một thời điểm được sử dụng. Đó là các xung quay số được dồn lại vào các mạch nhớ và sau đó được xác định kết hợp trên cơ sở của các số đã quay được ghi lại để lựa chọn mạch tái sinh.

Nǎm 1965, Một hệ tổng đài điện tử thương mại có dung lượng lớn gọi là hệ ESS số 1 được thương mại hoá thành công ở Mỹ do vậy đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các hệ tổng đài điện tử. Không giống với các hệ tổng đài thông thường sử dụng các chuyển mạch cơ, hệ thống ESS số 1 là hệ tổng đài sử dụng các mạch điện tử. Việc nghiên cứu loại hệ tổng đài này đã được khởi đầu từ đầu những nǎm 40 và được xúc tiến nhanh sau khi có phát minh ra đèn ba cực vào những nǎm 50. Hệ tổng đài điện tử mới được phát triển khác về cơ bản với các hệ thông thường ở điểm là trong khi hệ sau này sử dụng mạch điều khiển chuyển mạch dùng các lô-gíc kiểu dây thì hệ trước đây dùng các thao tác logic bằng các phương tiện phần mềm lắp đặt trong hệ thống. Ngoài ra, hệ tổng đài điện tử mới triển khai tạo được sự điều khiển một cách linh hoạt bằng cách thay thế phần mềm cho phép người sử dụng có dịch vụ mới. Đồng thời, để vận hành và bảo dưỡng tốt hơn, tổng đài này được trang bị chức nǎng rự chẩn đoán. Tầm quan trọng việc trao đổi thông tin và số liệu một cách kịp thời và có hiệu quả đang trở nên quan trọng hơn khi xã hội tiến đến thế kỷ 21. Để đáp ứng đầy đủ một phạm vi rộng các nhu cầu của con người sống trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên thông tin, các dịch vụ mới như dịch vụ truyền số liệu, dịch vụ truyền hình bao gồm cả dịch vụ điện thoại truyền hình, các dịch vụ truyền thông di động đang được phát triển và thực hiện. Nhằm thực hiện có hiệu quả các dịch vụ này, IDN (mạng lưới số tích hợp) có khả nǎng kết hợp công nghệ chuyển mạch và truyền dẫn thông qua qui trình sử lý số là một điều kiện tiên quyết. Ngoài ra, việc điều chế xung mã (PCM) được dùng trong các hệ thống truyền dẫn đã được áp dụng cho các hệ thống chuyển mạch để thực hiện việc chuyển mạch số. Dựa vào công nghệ PCM này, một mạng đa dịch vụ số (ISDN) có thể xử lý nhiều luồng với các dịch vụ khác nhau đang được phát triển hiện nay.

2.1.3 Các chức nǎng của hệ thống tổng đài

Mặc dù các hệ thống tổng đài đã được nâng cấp rất nhiều từ khi nó được phát minh ra, các chức nǎng cơ bản của nó như xác định các cuộc gọi của thuê bao, kết nối với thuê bao bị gọi và sau đó tiến hành việc phục hồi lại khi các cuộc gọi đã hoàn thành, hầu như vẫn như cũ. Hệ tổng đài dùng nhân công tiến hành các quá trình này bằng tay trong khi hệ tổng dài tự động tiến hành các việc này bằng các thiết bị điện.

Trong trường hợp đầu, khi một thuê bao gửi đi một tín hiệu thoại tới một tổng đài, nhân viên cắm nút trả lời của đường dây bị gọi vào ổ cắm của dây chủ gọi để thiết lập cuộc gọi với phía bên kia. Khi cuộc gọi đã hoàn thành, người vận hành rút dây nối ra và đqa nó về trạng thái ban đầu. Hệ tổng đài nhân công được phân loại thành lloại điện từ và hệ dùng ǎc-qui chung. Đối với loại dùng điện từ, thì thuê bao lắp thêm cho mỗi ǎc-qui một nguồn cấp điện. Các tín hiệu gọi và tín hiệu hoàn thành cuộc gọi được gửi đến người thao tác viên bằng cách sử dụng từ trường. Đối với hệ dùng ắc qui chung, nguồn điện được cung cấp chung và các tín hiệu gọi và tín hiệu hoàn thành cuộc gọi được đơn giản chuyển đến người thao tác viên thông qua các đèn. Đối với hệ tổng đài tự động, các cuộc gọi được phát ra và hoàn thành thông qua các bước sau:

1) Nhận dạng thuê bao chủ gọi: Xác định khi thuê bao nhấc ống nghe và sau đó cuộc gọi được nối với mạch điều khiển.

2) Tiếp nhận số được quay: Khi đã được nối với mạch điều khiển, thuê bao chủ gọi bắt đàu nghe thấy tín hiệu mời quay số và sau đó chuyển số điện thoại của thuê bao bị gọi. hệ tổng đài thực hiện các chức nǎng này.

3) Kết nối cuộc gọi: Khi các số quay được ghi lại, thuê bao bị gọi đã được xác định, thì hệ tổng đài sẽ chọn một bộ các đường trung kế đến tổng đài của thuê bao bị gọi và sau đó chọn một đường rỗi trong số đó. Khi thuê bao bị gọi nằm trong tổng đài nội hạt, thì một đường gọi nội hạt được sử dụng.

4) Chuyển thông tin điều khiển: Khi được nối đến tổng đài của thuê bao bị gọi hay tổng đài trung chuyển, cả hai tổng đài trao đổi với nhau các thông tin cần thiết như số thuê bao bị gọi.

5) Kết nối trung chuyển: Trong trường hợp tổng đài được nối đến là tổng đài trung chuyển, mục 3) và 4) trên đây được nhắc lại để nối với trạm cuối và sau đó thông tin như số thuê bao bị gọi đưọc truyền đi.

6) Kết nối tại trạm cuối: Khi trạm cuối được đánh giá là trạm nội hạt dựa trên số của thuê bao bị gọi được truyền đi, thì bộ điều khiển trạng thái máy bận của thuê bao bị gọi được tiến hành. Nếu máy không ở trạng thái bận, thì một đường nối được nối với các đường trung kế được chọn để kết nối cuộc gọi.

7) Truyền tín hiệu chuông: Để kết nối cuộc gọi tín hiệu chuông được truyền và chờ cho đến khi có trả lời từ thuê bao bị gọi. Khi trả lời, tín hiệu chuông bị ngắt và trạng thái được chuyển thành trạng thái máy bận.

8) Tính cước: Tổng đài chủ gọi xác định câu trả lời của thuê bao bị gọi và nếu cần thiết, bắt đầu tính toán giá trị cước phải trả theo khoảng cách gọi và theo thời gian gọi.

9) Truyền tín hiệu báo bận: Khi tất cả các đường trung kế đều đã bị chiếm theo các bước trên đây hoặc thuê bao bị gọi bận, thì tín hiệu bận được truyền đến cho thuê bao chủ gọi.

10) Hồi phục hệ thống: Trạng thái này được xác định khi cuộc gọi kết thúc. Sau đó, tất cả các đường nối đều được giải phóng.

Như vậy, các bước cơ bản do hệ thống tổng đài tiến hành để xử lý các cuộc gọi đã dược trình bày ngắn gọn. Trong hệ thống tổng đài điện tử, nhiều đặc tính dịch vụ mới được thêm vào cùng với các chức nǎng trên. Những điều này sẽ được bàn thêm sau này.

Các điểm cơ bản sau đây phải được xem xét khi thiết kế các chức nǎng này.

1) Tiêu chuẩn truyền dẫn: mục đích đầu tiên của việc đấu nối điện thoại là truyền tiếng nói và theo đó là một chỉ tiêu của việc truyền dẫn để đáp ứng chất lượng gọi phải được xác định bằng cách xem xét sự mất mát khi truyền, độ rộng dải tần số truyền dẫn, và tạp âm.

2) Tiêu chuẩn kết nối: điều này liên quan đến vấn đề duy trì dịch vụ đấu nối cho các thuê bao. Nghĩa là, đó là chỉ tiêu về các yêu cầu đối với các thiết bị tổng đài và số các đường truyền dẫn nhằm bảo đảm chất lượng kết nối tốt. Nhằm mục đích này, một nạng lưới tuyến linh hoạt có khả nǎng xử lý đường thông có hiệu quả với tỷ lệ cuộc gọi bị mất ít nhất phải được lập ra.

3) Độ tin cậy: các thao tác điều khiển phải được tiến hành phù hợp, đặc biệt các lỗi xuất hiện trong hệ thống với các chức nǎng điều khiển tập trung có thể gặp phải hậu quả nghiêm trọng trong thao tác hệ thống. Theo đó, hệ thống phải có được chức nǎng sửa chữa và bảo dưỡng hữu hiệu bao gồm việc chẩn đoán lỗi, tìm và sửa chữa.

4) Độ linh hoạt: số lượng các cuộc gọi có thể xử lý thông qua các hệ thống tổng đài đã tǎng lên rất nhiều và nhu cầu nâng cấp các chức nǎng hiện nay đã tǎng lên. Do đó, hệ thống phải đủ linh hoạt để mở rộng và sửa đổi được.

5) Tính kinh tế: Do các hệ tổng đài điện thoại là cơ sở cho việc truyền thông đại chúng, chúng phải có hiệu quả về chi phí và có khả nǎng cung cấp các dịch vụ thoại chất lượng cao. Cǎn cứ vào các xem xét trên đây, một số loại tổng đài tự động đã được triển khai và lắp đặt kể từ khi nó được đưa vào lần đầu tiên.

2.2 Chuyển mạch cuộc gọi

2.2.1 Phân loại chuyển mạch cuộc gọi

Có nhiều loại chuyển mạch cuộc gọi bao gồm các chuyển mạch loại cơ điện và điện tử được sử dụng trong các tổng đài. Chúng có thể được phân loại rộng lớn thành các loại chuyển mạch phân chia không gian và các loại chuyển mạch ghép.

Hình 2.4. Chuyển mạch xoay kiểu đứng.

A. Loại chuyển mạch phân chia không gian

Các chuyển mạch phân chia không gian thực hiện việc chuyển mạch bằng cách mở/đóng các cổng điện tử hoặc các điểm tiếp xúc được bố trí theo cách quǎng nhau như các chuyển mạch xoay và các chuyển mạch có thanh chéo. Loại chuyển mạch này được cấu tạo bởi các bộ phận sau:

1) Chuyển mạch cơ kiểu chuyển động truyền

1. Chuyển mạch cơ kiểu mở/đóng

2. Chuyển mạch cơ kiểu rơ-le điện từ

3. Chuyển mạch điện tử kiểu chia không gian

Như được trình bày ở hình 2.3 và 2.4, loại chuyển mạch cơ kiểu chuyển động truyền là loại chuyển mạch thực hiện việc vận hành cơ tương tự như chuyển mạch xoay. Chuyển mạch lựa chọn dây rỗi trong quá trình dẫn truyền và tiến hành chức nǎng điều khiển ở mức nhất định. Do tính đơn giản của nó, nó được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống tổng đài tự động đầu tiên phát triển. Tuy nhiên, do tốc độ thực hiện chậm, sự mòn các điểm tiếp xúc, và thay đổi các hạng mục tiếp xúc gây ra do việc rung động cơ học, ngày nay nó ít được sử dụng. Loại chuyển mạch cơ kiểu mở/đóng đã được phát triển để cải tiến yếu điểm của công tắc cơ kiểu chuyển động truyền bằng cách đơn giản hoá thao tác cơ học thành thao tác mở/đóng. Loại chuyển mạch này không có chức nǎng điều khiển lựa chọn và được thực hiện theo giả thuyết là mạch gọi và mạch điều khiển là hoàn toàn tách riêng nhau. Như vậy, với khả nǎng cung cấp điều khiển linh hoạt, nó được dùng rộng rãi hiện nay và được coi là chuyển mạch tiêu chuẩn, và loại được sử dụng nhiều nhất là loại chuyển mạch thanh chéo.

Chuyển mạch kiểu rơ-le điện tử là loại chuyển mạch có rơ-le điện tử ở mỗi điểm cắt của chuyển mạch loại thanh chéo. Đối với chuyển mạch cơ loại mở/đóng được mô tả trên đây, thì thao tác mở/đóng được thực hiện nhờ việc định điểm cắt thông qua thao tác cơ học theo chiều đứng/chiều ngang trong khi chuyển mạch kiểu rơ-le điện tử, thì điểm cắt có thể được lựa chọn theo hướng của luồng điện trong cuộn dây của rơ-le.

Vì vậy về nguyên tắc các thao tác cơ học cũng như việc mở/đóng của các điểm tếp xúc thể được tiến hành nhanh chóng hơn.

Chuyển mạch điện tử hiểu phân chia không gian có một cộng điện tử ở mỗi điểm cắt của chuyển mạch có thanh cắt chéo. Nó có những bất lợi sau đây so với loại chuyển mạch điểm tiếp xúc; không tương thích với phương pháp cũ do có sự khác nhau về mức độ tín hiệu hoặc chi phí và các đặc điểm thoại khá xấu bao gồm cả hiện tượng mất cuộc gọi và xuyên âm.

Theo đó, trừ trường hợp đặc biệt, nó chưa đưlợc sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, do các mạch điện tử như các ICs hay các LSIs trở nên tích hợp hơn, dự kiến chúng được sử dụng nhiều hơn trong tương lai gần đây.

B. Chuyển mạch ghép

Các loại chuyển mạch ghép được vận hành trên cơ sở công nghệ truyền tải tập trung được sử dụng rộng rãi trong hệ thống truyền dẫn. Các chuyển mạch này có cùng chung một cổng để có hiệu quả và kinh rế cao hơn. Có các loại chuyển mạch ghép phân chia thời gian để ghép các cuộc gọi dựa vào thời gian và chuyển mạch ghép phân chia tần số để ghép các cuộc gọi trên cơ sở tần số.

Nguyên lý sử dụng cho loại chuyển mạch phân chia thời gian là nó tách nhịp thông tin có pha đã định bằng cách sử dụng ma trận nhịp có pha thay đổi trong khi nguyên lý dùng cho phương pháp phân chia tần số là tách các tín hiệu có các tần số cần thiết bằng cách sử dụng bộ lọc có thể thay đổi. Phương pháp chia tần số được biết là có các vấn đề kỹ thuật như là việc phát sinh các loại tần số khác nhau và việc cung cấp và ngắt các tần số này cũng như bộ lọc có thể thay đổi. Đồng thời nó không kinh tế. Theo đó, phương pháp này được nghiên cứu rộng rãi trong thời kỳ đầu của sự phát triển hệ thống tổng đài điện tử nhưng chưa được vào sử dụng cho hệ tổng đài phân tải. Mặt khác, phương pháp phân chia thời gian được đề nghị vào thời kỳ đầu phát triển hệ tổng đài điện tử và nó đang được nghiên cứu tiếp ngày nay. Phương pháp điều chế này được phân loại thêm thành điều chế theo biên độ xung (PAM) tiến hành bằng chuyển mạch PAM và điều chế xung mã được thực hiện nhờ chuyển mạch PCM. Mỗi chuyển mạch được phân loại thêm như sau.

Hình 2.5. Phân loại chuyển mạch ghép.

Đã mất nhiều thời gian để phát triển thành công chuyển mạch PAM. Khi được đưa ra, do thiết kế đơn giản của nó, chuyển mạch PAM được sử dụng cho hệ tổng đài có dung lượng loại vừa. Ví dụ cụ thể của nó là ESS kiểu 101, một loại PBX điều khiển từ xa được dùng ở Mỹ cho các mục đích đặc biệt vì nó chưa phù hợp cho các hệ thống tổng đài dung lượng lớn với những vấn đề của nó về các đặc điểm thoại như tạp âm và xuyên âm. Đồng thời, vì nó là loại tương tự, tương lai của nó là không rõ ràng. Chuyển mạch PCM được dự kiến là một trong các thành phần chính của IDN hay ISDN để xử lý nhiều loại thông tin cùng một lúc bao gồm cả số liệu.

Mạng số tích hợp kết hợp hệ truyền dẫn và hệ chuyển mạch thông qua sử dụng công nghệ PCM. Do phương pháp này sử dụng mạch số, nó được dự định được vi mạch hoá trực tiếp trong tương lai gần đây. Khi sử dụng loại chuyển mạch này, việc chuyển mạch được tiến hành trong giai đoạn dồn kênh theo các đặc tính thoại ổn định của PCM. Do vậy, bởi vì chuyển mạch rơ-le nhiều mức có thể thực hiện được nhờ sử dụng chuyển mạch này, một mạng lưới truyền thông mới có thể được thiết lập dễ dàng thông qua việc dùng loại chuyển mạch nay. Như đã được trình bày, phương pháp này sẽ được sử dụng rộng rãi trong tương lai.

2.2.2 Chuyển mạch PCM.

Chuyển mạch PCM là loại chuyển mạch ghép hoạt động dựa vào công nghệ dồn kênh chia thời gian và điều chế xung mã. PCM là phương pháp truyền biên độ của PAM sau khi đã lượng hoá nó và sau đó biến đổi nó thành ra mã nhị phân. Theo đó, việc tái mã hoá có thể được tiến hành dễ dàng vì nó có thể dễ dàng phân biệt được với các tín hiệu ngay cả khi có tạp âm và xuyên âm trong đường truyền dẫn. Ngoài ra, để thực hiện chuyển mạch phân chia thời gian có thể dùng, các chuyển mạch thời gian để trao đổi khe thời gian và chuyển mạch phân chia thời gian để trao đổi theo không gian các khe thời gian được phân chia theo thời gian.

A. Chuyển mạch T

Các số liệu đưa vào được nạp vào các khe thời gian trong một khung (frame). Để kết nối một đường thoại, thông tin ở các khe thời gian được gửi từ bên đầu vào của mạch chuyển mạch đến phía đầu ra. Mỗi một đường thoại được định hình với một khe thời gian cụ thể trong một luồng số liệu cụ thể. Theo đó mạch chuyển mạch thay đổi một khe thời gian của một luồng số liệu cụ thể đến khe thời gian của một luồng số liệu khác. Quá trình này được gọi là quá trình trao đổi các khe thời gian. ở hình 2.6 mô tả qui trình chuyển mạch các khe thời gian. Khe thời gian đưa vào được ghi lại tạm thời trong bộ nhớ đệm. Như thể hiện trên hình vẽ, các khe thời gian đưa vào được lưu giữ ở địa chỉ 1 (address 1) đến chỉ x (address x) của khung thể hiện luồng đầu vào. Số liệu của khe thời gian 1, khe thời gian 2, và khe thời gian X được lưu giữ lại ở các từ thứ nhất, thứ hai và thứ X tương ứng. Vào lúc này, số liệi của mỗi frame đã được thay thế bởi số liệu mới một lần.

Chức nǎng chuyển mạch khe thời gian liên quan đến việc chuyển mạch từ một khe thời gian được đưa vào đến khe thời gian được lựa chọn ngẫu nhiên được đưa ra. Ví dụ, nếu chuyển từ khe thời gian 7 của luồng đầu vào đến khe thời gian 2 của luồng đầu ra, thông tin từ thuê bao được ghi ở khe thời gian đưa vào số 7 được gửi đến thuê bao được chỉ thị bằng khe thời gian số 2 ở đầu ra.

Hình 2.6. Qui trình chuyển mạch theo khe thời gian.

Có sẵn cho loại qui trình này là phương pháp đọc ngẫu nhiên theo dãy ghi lần lượt (SWRR) trong đó các số liệu được ghi lần lượt từ phía đầu vào và được đọc một cách ngẫu nhiên từ phía đầu ra. Phương pháp đọc lần lượt ghi ngẫu nhiên (RWSR) là phương pháp ghi các số liệu một cách ngẫu nhiên từ phía đầu vào và đọc chúng theo trình tự ở phía đầu ra, còn phương pháp ghi ngẫu nhiên đọc ngẫu nhiên (RWRR) là viết và đọc các số liệu một cách ngẫu nhiên.

B. Chuyển mạch không gian

Chức nǎng chuyển đổi khe thời gian giữa các khe thời gian đầu vào/đầu ra được giải thích ở phần trên chịu trách nhiệm cho chức nǎng chuyển mạch hoàn thiện đối với tất cả các khe thời gian. Bây giờ, nếu mạch chuyển mạch xử lý thuê bao M như là một điểm cuối của khe thời gian đơn, thì càn có bộ nhớ có số "M" được tạo bởi các từ được dùng ở tốc độ thích hợp. Ví dụ, trong trường hợp tần số mẫu là 8 KHz, thì hệ thống có 128 khe thời gian có thể có khả nǎng viết và đọc các số liệu vào bộ nhớ mỗi 125 u giây/128=976 nano giây (nsec.). Tuy nhiên, nếu hệ thống trở nên lớn hơn, thì các yêu cầu về bộ nhớ và tốc độ truy nhập có thể không đáp ứng nổi với công nghệ đang có hiện nay. Ví dụ như, hệ thống với 16.384 khe thời gian có khả nǎng viết và đọc các số liệu cho mỗi 76,3 nano giây (125u giây/16.384). Do vậy để tǎng hiệu suất của hệ thống, một phương pháp mở rộng dung lượng sử dụng các bộ phận tiêu chuẩn là cần thiết. Một trong các phương pháp có sẵn cho mục đích này là việc đổi các khe thời gian trong một luồng khe thời gian tới các khe thời gian của một luồng khác bằng cách đấu nối qua lại các nhóm chuyển mạch khe thời gian với cổng lôgíc. Công nghệ này được gọi là chuyển mạch phân chia không gian - thời gian sử dụng các thanh đấu chéo theo không gian. ở đây, thanh đấu chéo theo không gian tương tự như thanh quét sử dụng các tiếp điểm rơ-le trừ trường hợp yêu cầu một cổng logic vận hành ở tốc độ cao. Một thanh quét được mô phỏng với bên đầu vào của trục đứng và bên đầu ra của trục nằm ngang. Một cổng lôgic được dùng ở điểm cắt chéo của trục đứng và trục nằm ngang. Sự tiếp xúc phù hợp được tiến hành thông qua việc kích hoạt cổng lôgic tương ứng trong thời hạn của khe thời gian và nhờ đó thông tin được truyền đi từ bên đầu vào đến phía đầu ra.

Hình 2.7. Thanh cắt chéo không gian

trong chuyển mạch phân chia thời gian.

Ví dụ, một khe thời gian trong luồng đầu vào liên tục có "K" các từ PCM khác nhau kích hoạt một cổng thích hợp để thực hiện việc chuyển mạch tới trục nằm ngang mong muốn. Đầu vào của trục đứng còn lại có thể được nối với đầu ra của trục nằm ngang bằng cách kích hoạt một cách phù hợp các cổng tương ứng. Đồng thời, ở khe thời gian tiếp theo, một đường dẫn hoàn toàn khác với đường trước đó có thể được lập ra.

ở đây chú ý là các khe thời gian của trục đứng và trục nằm ngang được phát sinh một cách tương ứng trong cùng một thời điểm và vì vậy ở thanh quét, việc chuyển khe thời gian không được thực hiện. Như trong trường hợp chuyển đổi khe thời gian, một bộ nhớ điều khiển có thông tin để kích hoạt các cổng tại các khe thời gian mong muốn là cần thiết. Hệ thống có thể có "m" các đầu vào và "n" các đầu ra được mô tả ở hình 2.7. "m" và "n" có thể là giống nhau hoặc khác nhau tuỳ thuộc vào cấu hình của hệ để thực hiện việc tập trung, phân phối, và các chức nǎng mở rộng.

Vì vậy, đối với mạng chuyển mạch không gian, một thanh quét nhiều mức có thể được sử dụng. Khi muốn gửi các tín hiệu từ đầu vào 1 đến đầu ra 2, cổng S21 phải được kích hoạt trong thời hạn của khe thời gian mong muốn. Nếu Sm1 được kích hoạt vào cùng thời gian đó, đầu vào "m" được gửi đến đầu ra 1. Như đã giải thích, một vài thanh quét có thể được kích hoạt đồng thời trong thời hạn của khe thời gian nhất định và vì vậy số các đường nối đồng thời có thể được là một trong hai số "m" hoặc "n" tuỳ theo số nào là nhỏ hơn.

2.2.3 Phương pháp thiết lập mạng chuyển mạch kiểu phân chia thời gian

Một mạng lưới có thể được lập nên bằng các sử dụng một trong các chuyển mạch T, chuyển mạch S, hay phối hợp cả hai, theo đó mạng lưới có thể được thiết lập như sau:

• Chuyển mạch T đơn

• Chuyển mạch S đơn

• Chuyển mạch T-S

• Chuyển mạch S-T

• Chuyển mạch T-S-T

• Chuyển mạch S-T-S

• Sự phối hợp phức tạp hơn của S và T

A. T-S-T

Cấu hình này cho phép hệ thống xử lý các cuộc gọi một cách không bị ngắt quãng do bị khoá như ở hình 2.8. Trong việc điều khiển mạng, việc lựa chọn khe thời gian ở đầu vào/đầu ra và khe thời gian ở chuyển mạch không gian là không liên quan đến nhau. Nghĩa là trong trường hợp của T-S-T, thì khe thời gian đầu vào có thể được đấu nối với khe thời gian đầu ra bằng cách dùng khe thời gian trong đường chéo của chuyển mạch không gian. Trong trường hợp khe thời gian 3 của đầu vào được xác định với các cuộc gọi phải đấu nối với khe thời gian 17 của đầu ta mong muốn để giải thích việc khóa trong mạng lưới số và đầu cuối không gian có thể cấp đường nối từ chiều dài đầu vào đến chiều rộng đầu ra, khe thời gian 3 và 17 phải được trao đổi với nhau. Như thế, việc đấu nối đạt được khi khe thời gian 3 của đầu vào và khe thời gian 17 của đầu ra còn rỗi. Vào lúc này chỉ có thể có được một đường thông, nếu khe thời gian 3 đã được dùng, khe thời gian 17 có thể được sử dụng nhưng vào lúc này các cuộc gọi đã bị khoá.

Trong trường hợp mạng T-S-T, bộ biến đổi khe thời gian đầu vào có thể chon một trong các khe thời gian để sử dụng. Nếu hệ thống có 128 khe thời gian, khe thời gian đầu vào 3 có thể được nối với một khe thời gian bất kỳ của không gian trừ khe thời gian đầu vào 3. Theo đó trong trường hợp của T-S-T điều quan trọng phải tìm kiếm đường dây rỗi cũng như các khe thời gian sẽ sử dụng. Trong hầu hết các trường hợp, mạng lưới có thể cung cấp ít nhất một hay nhiều đường để nối các khe thời gian đầu vào/đầu ra.

Hình 2.8. Cấu trúc mạng T-S-T.

S-T-S

Trong trường hợp của S-T-S, quá trình tương tự như T-S-T được tiến hành. Trên hình 2.9, một mạng S-T-S được mô tả. Việc lựa chọn khe thời gian đầu vào/đầu ra được xác định bằng đường giao tiếp theo yêu cầu. Do bộ biến đổi khe thời gian có thể được thay đổi bằng cách dùng hai chuyển mạch không gian, độ linh hoạt của đầu nối được cải thiện. Ví dụ, nếu khe thời gian 7 cần phải được nối đến khe thời gian 16, thì chỉ có một yêu cầu duy nhất là khe thời gian đó phải có khả nǎng trao đổi khe thời gian 7 và 16.

Điều này có thể đạt được bằng cách sử dụng một trong các số "n" bất kỳ của thời gian. Các mạng lưới T-S-T và S-T-S có thể được thiết kế để có cùng khả nǎng kết nối cuộc gọi và tỷ lệ khoá cuộc gọi. Việc này chứng tỏ là tỷ lệ phân bố 1:1 được tiến hành giữa việc phân chia thời gian và phân chia không gian.

Hình 2.9. Cấu trúc mạng S-T-S.

2.3 Phương pháp điều khiển

2.2.1 Phân loại phương pháp điều khiển

Mặc dù có nhiều loại hệ thống tổng đài đang có hiện nay, tất cả các hệ thống đó có thể được phân loại như được ghi ở Bảng 2.1. Đầu tiên chúng có thể được phân loại theo phương pháp điều khiển mở/đóng của chuyển mạch cuộc gọi thành phương pháp điều khiển độc lập, phương pháp điều khiển chung, và phương pháp điều khiển theo chương trình lưu giữ.

Các phương pháp Quá trình

đấu nối Điều khiển

độc lập Điều khiển

chung Điều khiển

bằng chương trình

được lưu giữ

Loại điều khiển

trực tiếp 0 x x

Loại điều khiển

gián tiếp 0 0 0

0 : Có tồn tại

x : Không có hiện nay trừ các trường hợp đặc biệt

Bảng 2.1 Phân loại phương pháp điều khiển chuyển mạch.

Phương pháp điều khiển độc lập còn được gọi là phương pháp điều khiển đơn chiếc; Đây là phương pháp lựa chọn các đường nối khi mỗi chuyển mạch tiến hành một cách độc lập việc điều khiển lựa chọn vì mỗi chuyển mạch được trang bị bằng một mạch điều khiển. Bởi vì tính đơn giản của mỗi mạch phương pháp này được sử dụng rộng rãi cùng với phương pháp từng bước trong các hệ tổng đài đầu tiên được phát triển. Tuy nhiên, việc lựa chọn đường có hiệu quả cho toàn bộ hệ thống là khó khǎn bởi vì phạm vi lựa chọn của mỗi mạch điều khiển phần nào đó bị giới hạn. Phương pháp điều khiển thông thường là phương pháp tập trung các mạch điều khiển vào mỗi chỗ và sau đó theo dõi trạng thái đấu nối của toàn mạch để lựa chọn các đường nối. Khi sử dụng phương pháp này, các mạch điều khiển được tập trung để chia sẻ số lượng lớn các cuộc gọi cho nên khả nǎng của các mạch điều khiển là rất lớn. Đồng thời các chức nǎng phức tạp có thể được tiến hành một cách kinh tế. Hầu hết các hệ tổng đài kiểu cơ học phân chia không gian bao gồm cả hệ tổng đài thanh chéo cùng sử dụng phương pháp này. Phương pháp điều khiển theo chương trình được lưu giữ là một trong các loại phương pháp điều khiển chung; chúng được tập trung khá cao độ về chức nǎng và như là thiết bị xử lý thông tin đa nǎng, nó tiến hành một số điều khiển đấu nối. Hầu hết các hệ tổng đài điện tử đang dùng hiện nay đều áp dụng phương pháp này. Các đầu vào điều khiển trực tiếp cho một hệ tổng đài là các xung quay số dược gửi đến từ các máy điện thoại. Các đặc điểm xử lý đấu nối thay đổi rất lớn tuỳ thuộc vào việc sử dụng các loại đầu vào này. Phương pháp điều khiển trực tiếp là phương pháp trong đó các xung nhận được trực tiếp kích hoạt các mạch điều khiển nhằm để chọn các đường nối một cách liên tiếp. Khi áp dụng phương pháp này, việc vận hành có thể được tiến hành một cách đơn giản tuy nhiên cấu hình mạng lưới tuyến và số quay, là đường nối, phải có mối quan hệ tương đương 1-1. Theo đó, cấu hình mạng là ít linh hoạt và khả nǎng thấp hơn. Do đó, phương pháp này là không phù hợp với hệ tổng đài có dung lượng lớn có khả nǎng xử lý các cuộc gọi đường dài.

Phương pháp điều khiển gián tiếp là phương pháp tập trung các xung quay số vào mạch nhớ, đọc tất cả các số và sau đó lựa chọn các đường nối cuộc gọi thông qua việc đánh giá tổng hợp. Theo đó với phương pháp này được đặc tính hoá bởi dung lượng xử lý đường thông cao và có khả nǎng biến đổi các số gọi, tương đương, các số gọi và các đường nối có thể được xác định độc lập để lập nên mạng lưới tuyến linh hoạt. Đặc biệt, chức nǎng này là cần thiết để có thể sử dụng một cách có hiệu quả các tuyến gọi đường dài. Tốc độ vận hành của mạch điều khiển trong các phương pháp điều khiển chung và điều khiển theo chương trình lưu giữ là nhanh hơn nhiều so với thao tác quay số. Theo đó các số đựoc quay được tập hợp lại trong một mạch nhớ tách biệt tạm thời nhằm để sử dụng mạch điều khiển tích hợp cao và sau đó chúng được đọc với tốc độ cực kỳ nhanh để điều khiển toàn bộ chúng ngay lập tức. Vì lý do này, hầu hết các hệ tổng dài sử dụng phương pháp điều khiển chung và điều khiển theo chương trình lưu giữ đều dùng phương pháp điều khiển gián tiếp loại trừ một số trường hợp trong thời kỳ ban đầu cuả quá trình phát triển.

2.3.2 Phương pháp điều khiển độc lập

Các hệ tổng đài theo từng bước như của Strowger hoặc hệ tổng đài EMD sử dụng phương pháp điều khiển độc lập trong đó từng mạch điều khiển riêng được bố trí kèm theo cho mỗi chuyển mạch. Mặc dù đã cũ, đây vẫn là ví dụ tốt của cái gọi là điều khiển phân tán; nó tiến hành việc điều khiển chuyển mạch một cách thống nhất bằng cách kích hoạt một cách độc lập các điều khiển chuyển mạch phân tán. Mạch phân tán có bất lợi là nó làm giảm khả nǎng chuyển mạch hoặc các chức nǎng chuyển mạch. Tuy nhiên, vì hệ thống có trang bị loại mạch này có khả nǎng cô lập các lỗi một cách có hiệu quả, hệ này có thể được thay đổi hoặc được mở rộng dễ dàng. Đặc biệt, phương pháp này rất có thể được dùng rộng rãi khi công nghệ thiết bị mới bao gồm độ tích hợp cao của mạch điện tử trở nên pháp triển hơn. Phương pháp điều khiển độc lập đựoc phân loại thêm thành các loại điều khiển trực tiếp và điều khiển gián tiếp. ở phần tiếp theo, chúng được xem xét chi tiết hơn.

A. Kiểu điều khiển trực tiếp

Như đã mô tả ở phần trước đây, các xung sinh ra khi thuê bao quay số được đưa vào trực tiếp, tiếp đến được xử lý một cách liên tục để lựa chọn đường nối. Theo đó, một chuyển mạch để chọn đường được định ra bằng số quay đã nhận được và sau đó chọn đường dây rỗi trong số đó. Hệ thống được tạo nên bởi một nhóm các chuyển mạch như vậy.

Hai loại chuyển mạch hiện có là loại chuyển mạch cơ học kiểu chuyển động đơn để chọn các đường ra thông qua việc dịch chuyển nhiều chiều đơn như dịch chuyển quay và chuyển theo đường thẳng và một loại chuyển mạch cơ học kiểu chuyển 2 cấp để phối hợp hai cách chuyển nhiều chiều như chuyển theo chiều đứng. Có nhiều phương pháp kích hoạt các chuyển động được nói trước đây; một phương pháp quay bánh rǎng đồng hồ sử dụng các phương tiện điện từ hoặc động cơ đặc biệt và một hệ thống nguồn chuyển động dịch chuyển từng chuyển mạch bằng cách lắp đặt một máy phát điện chung ở một số chuyển mạch hoặc thông qua các bánh rǎng hoặc các phối hợp phức tạp khác.

B. Kiểu điều khiển gián tiếp

Phương pháp điều khiển trực tiếp có thể được sử dụng cho các hệ tổng đài dung lượng nhỏ một cách không khó khǎn. Tuy nhiên, khi sử dụng cho hệ thống có dung lượng lớn, cấu hình mạng trở nên phức tạp và khi lắp đặt một đường trung kế giữa các tổng đài có lưu lượng nhỏ, thì hiệu quả của nó bị giảm xuống đáng kể. Để giải quyết các vấn đề này, phương pháp điều khiển gián tiếp được phát triển. Nghĩa là mạch nhớ số gọi được lắp đặt trong hệ tổng đài để đọc các số gọi đã được lưu giữ. Khi tổng đài bị gọi được xác định, việc chuyển đổi số phải được tiến hành tuỳ theo việc thiết lập mạng lưới dây cũng như việc thực hiện nhận số liên tục và thêm các số được quay. Phương pháp này được gọi là phương pháp điều khiển gián tiếp hay phương pháp chuyển đổi có lưu giữ. Hướng của đường trung kế có thể được chọn bằng cách quay một số thập phân giới hạn đến 10; vì vậy khi dùng phương pháp điều khiển độc lập cấu hình mạng lưới tuyến phần nào bị hạn chế trong khi đối với phương pháp điều khiển gián tiếp thì đường truyền dẫn có thể hoạt động với hiệu qủa cao vì cấu hình mạng lưới tuyến không quan hệ trực tiếp với các số được quay. Như đã trình bày ở trên, phương pháp điều khiển độc lập là ví dụ đặc biệt của điều khiển phân tán. Có thể phân bố các chức nǎng chuyển mạch (xác định cuộc gọi, nhận số được quay, xác định đường trung kế, chọn đường dây rỗi, cấp điện, truyền/nhận một số tín hiệu, gọi lại, xác định thời điểm kết thúc gọi, hồi phục và các chức nǎng khác) cho các loại mạch khác nhau để đấu nối các nhánh. Mỗi mạch được kết cấu đơn giản và một vài chuyển mạch được tập hợp thành nhóm để hình thành hệ tổng đài.

2.3.3 Phương pháp điều khiển chung

Hệ điều khiển chung là phương pháp tách giữa mạch chuyển mạch gọi của hệ tổng đài và mạch điều khiển và phân chia một số nhỏ các mạch điều khiển thành nhiều điều khiển đầu nối để đạt hiệu quả cao hơn. Điều khiển đầu nối được tiến hành thông qua các quá trình sau: giai đoạn tập trung đường khi các cuộc gọi phát sinh từ các thuê bao được tập hợp lại sau đó được nối với mạng chuyển mạch gọi, giai đoạn phân bổ trong đó các cuộc gọi đã tập hợp được phân loại theo các hướng, thời kỳ tái phát sinh trong đó các cuộc gọi từ phía tổng đài đối diện được tái phát lại và sau đó được chuyển đến tổng đài bên kia, và một đoạn chọn cuối cùng khi các cuộc gọi đến được nối với phía bị gọi. Phương pháp điều khiển chung từng phần hay là hệ thống đánh dấu theo giai đoạn là phương pháp chia các chức nǎng trên đây thành các thời kỳ khác nhau và sau đó phân bổ chúng cho một số loại các mạch điều khiển chung. Mặt khác hệ đánh dấu chung là phương pháp cho phép mạch điều khiển chung điều khiển các đấu nối thông qua mạng chuyển mạch gọi của một tổng đài.

Khi sử dụng phương pháp điều khiển chung từng phần, hệ tổng đài có thể được tách ra thành các ngǎn và theo đó khi nào cần thiết, có thể bổ sung các ngǎn một cách dễ dàng để mở rộng hệ thống. Tuy vậy, những bất lợi sau đây thường gặp khi sử dụng phương pháp này: việc xử lý thông tin điều khiển giữa mỗi ngǎn là khó khǎn, số lớn các thiết bị trung kế được đưa vào thông qua khoảng trống trong các mạch gọi tách riêng, dung lượng xử lý đường thông bị giảm đáng kể do toàn bộ hệ thống không được tích hợp hoàn toàn và các chức nǎng phức tạp. Do vậy, hiện nay hệ đánh dấu chung được dùng rộng rãi hơn. Hệ tổng đài số 5 của Mỹ là ví dụ điển hình sử dụng phương pháp đánh dấu theo giai đoạn và hệ tổng đài kiểu C45 của Nhật dùng hệ đánh dấu thông thường.

A. Hệ đánh dấu thông thường

Như đã trình bày ở phần trước đây, hệ đánh dấu thông thường là phương pháp điều khiển toàn bộ vận hành của việc đấu nối chọn lọc trên mạng thông qua việc sử dụng chuyển mạch cuộc gọi.

Điều này không có nghĩa là chỉ có một mạch điều khiển hoặc một hệ tổng đài được sử dụng. Thay vì, nó có nghĩa là một mạch điều khiển điều khiển toàn bộ hệ thống thoại. Trong trường hợp đối với hệ tổng đài thanh chéo, cách thực hiện chung là việc điều khiển các cuộc gọi được thực hiện thông qua việc sử dụng các mạch điều khiển chung khác nhau tuỳ thuộc vào tốc độ điều khiển yêu cầu. Vì vậy, đôi khi có 2 thiết bị để thực hiện các chức nǎng khác nhau được lắp đặt cạnh kề nhau. Khi sử dụng phương pháp này, chuyển mạch gọi toàn bộ được kiểm tra đầu tiên và sau đó thông tin chưa được chiếm giữ của mỗi phần được tập hợp lại để chọn đường nối. Vì vậy, hiện tượng khoá đường thông, phát sinh do tình trạng máy bận, có thể được giữ ở mức tối thiểu để có hiệu quả cao hơn. Do có các lý do này, nên hầu hết các hệ tổng đài được phát triển gần đây sử dụng hệ đánh dấu chung. Trên hình 2.10, đường nối cuộc gọi của hệ tổng đài số 5 được thể hiện.

Hình 2.10. Đường nối cuộc gọi của hệ tổng đài số 5.

Thao tác nối cuộc gọi của hệ thống chuyển mạch thực hiện như sau:

• (1) Nối mã: từ lúc thuê bao nhấc ống nói cho đến khi truyền tín hiệu mời quay số.

• (2) Tiếp nhận xung quay số: số được ghi vào thanh ghi khi máy thuê bao chủ gọi quay số.

• (3) Nối cuộc gọi đi: Dựa vào số nhận được trong thanh ghi chủ gọi đường ra của tổng đài trung chuyển nối với máy thuê bao bị gọi được xác định

• (4) Nối trong nội bộ tổng đài: Nếu máy thuê bao bị gọi nằm trong tổng đài nội hạt, thì đường gọi trong tổng đài nội hạt được lựa chọn.

• (5) Nối cuộc gọi đến: Khi cuộc gọi đến từ một tổng đài khác, thanh ghi đầu vào bị chiếm bởi một đường trung kế vào.

• (6) Nối trung chuyển: Nếu hệ thống chuyển mạch là trung chuyển, thì cuộc gọi đến được chuyển tới tổng đài xa hoặc tổng đài cuối.

Để kiểm tra xem những chức nǎng trên có thực hiện bình thường không, hệ thống chuyển mạch thường được trang bị thêm chức nǎng quản lý, vận hành và bảo dưỡng của bộ điều khiển tự động, chức nǎng phát hiện lỗi, vị trí, thời gian gây lỗi và thiết bị ghi.

B. Phương pháp điều khiển chung từng phần

Việc điều khiển đấu nối của hệ thống chuyển mạch được thực hiện qua những quá trình sau: giai đoạn tập trung đường theo lưu lượng cần xử lý sau khi xác định có tín hiệu gọi, giai đoạn phân phối các cuộc gọi cho các địa chỉ dựa trên số đã quay, giai đoạn thực hiện nối rơ-le, và cuối cùng là giai đoạn lựa chọn cuối cùng khi các cuộc gọi được nối tới các thuê bao bị gọi. Theo như trên, mỗi giai đoạn có sự điều khiển khác nhâu, Hệ thống đánh dấu giai đoạn là phương pháp phân chia sự điều khiển thành nhiều nhóm và sau đó phân loại phạm vi điều khiển đấu nối tương ứng để phân phối.

Hệ thống này khác với hệ thống đánh dấu chung ở chỗ phạm vi giám sát của một mạch điều khiển chung là một bộ phận của mạng chuyển mạch cuộc gọi như chỉ rõ trong hình 2.11

Hình 2.11. Phương pháp điều khiển chung từng phần.

Phương pháp này có đặc điểm như sau:

• (1) Phạm vi mạng chuyển mạch gọi do một mạch điều khiển nhỏ

• (2) Hệ thống chuyển mạch có thể phân chia và xếp đặt lại bằng cách kết hợp các bộ phận một cách khác nhau để linh hoạt hơn.

• (3) Vận hành mạng tuyến có thể thực hiện linh hoạt tuỳ theo yêu cầu về đường thông.

• (4) Những lỗi xảy ra chỉ có ảnh hưởng ít nhất đối với toàn hệ thống vì các mạch điều khiển đã được mô-đun hoá.

• (5) Khả nǎng của mạng chuyển mạch gọi bị giảm bớt rõ rệt.

• (6) Hiệu quả của đường trung kế giảm xuống nhiều

• (7) Cần có những đường trung kế dẹ phòng giữa các mạng chuyển mạch phân phối

• (8) Thông tin về điều khiển phải truyền giữa các mạch điều khiển chung

Như trên, phương pháp điều khiển chung từng phần thiết kế đơn giản đã được sử dụng rộng rãi trong các mô hình hệ thống tổng đài có đường nối chéo trước đây.

2.3.4 Phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ

Việc điều khiển độc lập và điều khiển chung được phân loại trong khía cạnh sơ đồ của hệ thống điều khiển. Trái lại, nếu chúng ta xem xét hệ thống từ khía cạnh phép tính xử lý các biến đổi logic thì mạch điều khiênr của hệ thống chuyển mạch có thể phân loại tiếp thành mạch logic dây và mạch logic lưu trữ. Nói chung mạch điều khiển số được thực hiện với những phép tính logic như (AND), (OR), và (NOT), và kết hợp với thao tác bộ nhớ để xác định trạng thái tiếp theo sau khi đã lưu trữ phần ghi trước đó. Với mục đích đó, có 2 phương pháp thao tác: logic dây là phương pháp kết hợp các rơ-le, mạch điểm tiếp xúc hay cổng điện tử và sau đó nối các thao tác logic cần thiết để thiết lập hệ thống. Thao tác điều khiển được xác định bằng phương pháp nối dây. Những mạch điều khiển của phần lớn các hệ thống chuyển mạch kể cả hệ thống chuyển mạch thanh cheó phát triển trước đây đều được thực hiện theo phương pháp này.

Mạch logic lưu trữ là phương pháp thực hiện các phép tính logic theo chỉ thị trên mạch nhớ bằng cách sử dụng một máy tính điện tử đa nǎng. Thí dụ, CPU của máy tính điện tử chỉ gồm có một mạch cộng và mạch logic cơ sở.Những phép tính và thao tác phức tạp có thể thực hiện bằng cách dùng mạch cơ sở nhiều lần theo thông tin nhớ đã ghi lại trong chương trình. Các loại thao tác này được xác định bởi các mạch dây đặc định (hardware: phần cứng) và các chương trình đưa vào bộ nhớ (phần mềm) quyết định, và các thao tác đó được gọi là những phép logic lưu trữ. Phương pháp điều khiển dùng các mạch logic lưu trữ gọi là điều khiển bằng chương trình lưu trữ (SPC). Mạch nối dây toàn phần dùng cho các thao tác chuyển mạch nhất định như xác định thuê bao chủ gọi, chọn đường, hệ số xung quay số không có ở trong CPU thực hiện điều khiển chung trong phương pháp này. Như trong trường hợp máy tính điện tử tổng hợp, hệ thống chỉ có các mạch cơ bản có chức nǎng logic và số học. Trình tự thực hiện thao tác chuyển mạch được lưu trong mạch nhớ dưới dạng những lệnh chương trình và sau đó theo các lệnh đó thực hiện thao tác chuyển mạch bằng cách kích hoạt các mạch cơ sở nhiều lần. Phương pháp này đòi hỏi sự biến đổi logic tốc độ cáp và mạch nhớ có dung lượng lớn. Do đó nó được sử dụng rộng rãi với sự xuất hiện của mạch điện tử vận hành đơn giản.

Lợi thế đáng kể nhất của phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ là điều khiển rất linh hoạt. Trước đây, các hệ thống truyền thông chủ yếu sử dụng truyền tiếng nói 1:1. Tuy nhên ngày nay các hệ thống chuyển mạch phải có khả nǎng xử lý những dịch vụ truyền thông mới như truyền tiếng nói/hình ảnh và các loại trao đổi số liệu và dịch vụ chuyển mạch điện thoại như quay số tắt và điện thoại hội nghị, điều đó đòi hỏi phải có tính linh hoạt, tính có thể mở rộng và tính sẵn sàng. hệ thống tổng đài điện tử (ESS) đã được phát minh để phục vụ những loại dịch vụ này. ESS hoạt động theo phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ này.

A. Nguyên tắc mạch logic lưu trữ

Trước hết, nó khác với các mạch logic nối dây thông thường ở những điểm sau. Hình 2.12 minh hoạ một mạch tuần tự sử dụng logic nối dây gồm các cổng logic như Và, Hoặc và Không, những mạch logic kết hợp bằng nối dây để đáp ứng các nhu cầu của mạch điểm tiếp xúc và mạch nhớ để lưu trữ các bản tin về thao tác đã qua và sau đó chỉ thị trạng thái thao tác. Hoạt động của mạch logic nối dây được xác định thông qua việc thực hiện nối dây. Quá trình này tương tự như việc vận hành của công nhân lành nghề.Nghĩa là, mạch này xử lý những công việc thường lệ đơn giản liên quan tới trạng thái dòng điện và thông tin đưa vào. Do đó nó có thể thực hiện những công việc đặc biệt nhưng không thực sự linh hoạt. Mạch logic lưu trữ đặc biệt đưlợc thể hiện trong hình 2.13. Chương trình lưu trữ trong mạch nhớ là một bộ lệnh thể hiện mức thao tác. Mặt khác nó thể hiện chức nǎng phù hợp với đơn vị mạch logic kết hợp của mạch logic dây dẫn. Mạch xử lý số học logic diễn giải các mệnh lện đã được đọc và chỉ định địa chỉ bộ nhớ của lệnh được đọc tiếp đó. Phần lớn những thông tin trong địa chỉ này được ghi lại khi nhập lệnh. Mạch xử lý số học logic qua đánh giá địa chỉ từng phần và thông tin đàu vào tại thời điểm đó để xác định địa chỉ đầy đủ của mệnh lệnh sẽ được xử lý tiếp theo. Khi hoàn tất một loạt các thao tác bằng cách thực hiện các lệnh một cách tuần tự như đã bàn tới, và sau đó đi tới những lệnh thể hiện kết quả điều khiển đó là đầu ta và sau đó đọc.

B. Phương pháp chuyển mạch điều khiển bằng chương trình lưu trữ

Việc điều khiển bằng chương trình lưu trữ của hệ thống tổng đài điện tử có một bộ nhớ cố định để ghi nhớ các chương trình và một bộ nhớ tạm thời để viết và đọc các dữ liệu một cách tự do. Trong bộ nhớ cố định, các lệnh thao tác chuyển mạch, số điện thoại, số của thiết bị đầu cuối, thông tin chọn đường trong mạng, loại dịch vụ đầu cuối, và các loại thông tin dịch số được lưu trữ cố định. Mặt khác, bộ nhớ tạm thời được dùng để nhớ trạng thái của từng thiết bị đàu cuối và các cuộc gọi được điều khiển, các giai đoạn

Hình 2.12. Mạch logic dây dẫn.

Hình 2.13. Mạch logic lưu trữ.

điều khiển, và kết quả tạn thời của các phép tính số học đang thực hiện. Trong hình 2.14, cấu hình của hệ thống tổng đài điện tử sử dụng điều khiển bằng chương trình lưu trữ được minh hoạ. Mạng chuyển mạch cuộc gọi thực hiện nối và cắt các cuộc gọi. Bộ quét được sử dụng để xác định trạng thái của từng trạm đầu cuối của mạch gọi, như các mạch đường thuê bao, đường trung kế, và thiết bị nhận xung quay số; nó quét trạng thái bật-tắt theo chu kỳ và sau đó gửi thông tin đầu vào cho mạch điều khiển trung tâm. Mạch điều khiển trung tâm, một mạch điều khiển điện tử gồm một mạch điều khiển và từng thanh ghi, để quản lý và vận hành toàn bộ hệ thống điều khiển.

Nó cũng được dùng cho thiết bị thao tác số học của máy tính điện tử tổng hợp. Nó hoạt động theo chương trình lưu trữ trong mạch nhớ cố định. Bằng cách truyền các trạng thái ghi trong mạch nhớ tạm thời một cách tuần tự theo thông tin đầu vào, nó thực hiện điều khiển cuộc gọi bằng cách sử dụng phương pháp phân chia thời gian. Mạch bộ nhớ cố định là một bộ lưu trữ chương trình sử dụng chủ yếu để nhớ các chương trình và mạch nhớ tạm thời được dùng để nhớ trạng thái xử lý cuộc gọi và do đó gọi là bộ lưu trữ cuộc gọi. Bộ xử lý trung tâm gồm 2 bộ phận đó.

Chức nǎng điều khiển mạng chuyển mạch được dùng để thực hiện mở/đóng chuyển mạch gọi, điều khiển đường trung kế hoặc các phép kiểm tra có liên quan với các đường gọi. Mạch điều khiển trung tâm, dựa vào kết quả các giai đoạn lệnh đã thực hiện, ghi ra danh sách các lệnh có liên quan tới trình tự thao tác của mạch chuyển mạch gọi trong mạch nhớ tạn thời: Danh sách lệnh đã hoàn tất được gửi đến mạch kích hoạt chuyển mạch để chỉ thị phương pháp thao tác cho mạch chuyển mạch gọi.

Hệ thống tổng đài điện tử, cùng với các mạch cơ bản nói trước đây, nói chung có một bàn vận hành và bảo dưỡng cho các dịch vụ sửa chữa. Hệ thống này cũng thực hiện một chương trình sửa chữa phục hồi những lỗi xảy ra trong hệ thống và tự động chẩn đoán các vị trí lỗi. Kết quả thực hiện

Hình 2.14. Thiết lập hệ thống tổng đài điện tử.

những chức nǎng này được in ra qua máy in. Nhân viên sửa chữa cǎn cứ vào các bản báo cáo đó, thay các bảng lỗi để sửa chữa. Ngoài ra bàn bảo dưỡng và sửa chữa được dùng để thay các số quay, đường rơ- le và các chức nǎng dịch vụ. Người quản trị có thể thực hiện việc này bằng cách thay đổi thông tin diễn giải tương ứng hoặc các chương trình. Nói chung, những điều kiện sau đây phải được đáp ứng cho hoạt động thích hợp của hệ thống tổng đài điện tử sử dụng phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ.

• (1) Viết các chương trình hiệu quả

• (2) Dung lượng lớn và mạch nhớ tiết kiệm

• (3) Điều khiển tốc độ cao

• (4) Độ tin cậy cao

• (5) Dịch vụ mới dễ thích ứng

• (6) Mạch được tiêu chuẩn hoá

• (7) Chức nǎng tự chẩn đoán và sửa chữa

C. Các loại dich vụ chuyển mạch cuộc gọi

Có 2 loại dịch vụ trong hệ thống chuyển mạch chung: thông tin và dịch vụ chuyển mạch cuộc gọi và truyền và xử lý dữ liệu. Trong phần sau đây sẽ mô tả vắn tắt các dịch vụ thoại trong hệ thống chuyển mạch chung:

• (1) Quay số tắt: Các số của máy thuê bao thường gọi tắt bằng 2 hay 3 số đặc biệt

• (2) Giữ chỗ: Nều máy thuê bao bị gọi bận, thì cuộc gọi tới thuê bao đó được tự động thực hiện lại khi thuê bao được giải phóng bằng cách quay một số đặc biệt

• (3) ấn định cuộc gọi tự động: Một cuộc gọi có thể thiết lập giữa bên chủ gọi và bên được gọi vào thời gian định trước.

• (4) Hạn chế gọi: Hạn chế gọi đi (PBX và loại khác )

• (5) Gọi vắng mặt: Bản tin đã ghi được kích hoạt khi thuê bao bị gọi vắng mặt

• (6) Hạn chế gọi đến : Còn gọi là vận hành đối ngẫu. Chỉ những thuê bao dặc biệt mới được phép gọi.

• (7) Chuyển thoại: Một cuộc gọi đến sẽ được chuyển tới một máy điện thoại khác

• (8) Tự động chuyển tới số mới: Dùng khi thay đổi số điện thoại

• (9) Chọn lựa số đại diện: Số đại diện có thể lựa chọn tự do

• (10) Nối số đại diện phụ: Một cuộc gọi được tự động chuyển tới số tiếp theo khi không có trả lời của số đại diện đã quay

• (11) Báo có cuộc gọi đến khi đang bận: Khi nhận được các cuộc gọi khác trong lúc đang bận

• (12) Chờ cuộc gọi: Nhận được cuộc gọi từ bên thứ ba khi đang bận thì có thể đặt tự động cuộc gọi với bên thứ ba

• (13) Gọi cho thao tác viên khi bận : Gọi cho điện báo viên khi bận

• (14) Thoại 3 đường: 3 Thuê bao có thể gọi cùng lúc

• (15) Gọi hội nghị: 3 hay nhiều hơn máy thuê bao có thể tham gia gọi cùng lúc

• (16) Giữ máy: Thuê bao có thể gọi cho bên thứ ba sau khi giữ máy với người đang nói

• (17) Đặt gọi tất cả: Tất cả hay một số điện thoại trong tổng đài được gọi cùng lúc để thông báo

• (18) Tính cước tức thì: Có thể tính cước ngay lập tức

• (19) Dịch cụ tính cước chi tiết: Có chi tiết về cước cho các cuộc gọi

• (20) Báo thức: Tín hiệu báo thức vào giờ định trước

• (21) Tìm cuộc gọi ý đồ xấu: Có thể tự động tìm ra số của máy chủ gọi

Một trong số các chức nǎng nói trên đang được đưa vào hệ thống chuyển mạch dùng thanh chéo. Tuy vậy, hệ thống tổng đài điện tử sử dụng mạch nhớ dung lượng lớn và phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ có tính linh hoạt có thể cung cấp dịch vụ đó một cách tiết kiệm và hiệu quả hơn.

2.4 Thiết bị ngoại vi

2.4.1 Tổng quát

Các hệ thống chuyển mạch số hiện nay đang thay thế hệ thống chuyển mạch tương tự là những hệ thống chuyển mạch lớn đang hoạt động. Như vậy các hệ thống chuyển mạch số cần phải được trang bị khả nǎng giao tiếp với mạng tương tự hiện tồn tại. Các hệ thống chuyển mạch số trên mạng điện thoại công cộng phải làm nhiều hơn là việc đáp ứng các điện thoại số. Nghĩa là, các hệ thống chuyển mạch số phải có khả nǎng xử lý nhiều loại điện thoại khác nhau kể cả loại tương tự. Do đó các mạch giao tiếp tương tự như mạch thuê bao tương tự hay mạch đường trung kế tương tự (analog) là phần chính của các hệ chuyển mạch số. Một số các thiết bị giao tiếp analog trong hệ thống là một trong những nhân tố quan trọng nhất để xác định những tham số như giá cả, kích thước, mức tiêu thụ điện. Giá của những mạch thuê bao tương tự chiếm khoảng 80% hoặc hơn trong giá thành sản xuất toàn bộ hệ thống. Vì vậy các nhà sản xuất hệ chuyển mạch dùng mạch VLSI thay thế cho mạch giao tiếp analog để giảm giá thành của mạch thuê bao analog

Hình 2.15. Kết cấu của hệ thống chuyển mạch số chung.

Hình 2.15 minh hoạ cấu hình của hệ thống chuyển mạch số điển hình. Các nguồn thông tin về thuê bao tương tự gồm các điện thoại dân dụng, thương mại và công cộng. Modem dữ liệu có thể dùng làm nguồn thông tin tương tự. Vì modem dùng để gửi thông tin số sử dụng mạch tương tự. Mạch trung kế dùng để giao tiếp với các hệ chuyển mạch khác, với điện thoại viên và mạch dịch vụ cũng nằm trong số này. Thông tin tương tự được nối với hệ chuyển mạch số qua một giá phối tuyến MDF. MDF trang bị với các bộ phận hạn chế vượt thế điện do bị sét hay các nguồn cao thế khác, cung cấp các địa điểm tiện lợi cho việc nối hệ chuyển mạch với các nguồn bên ngoài. Thiết bị bảo vệ sơ cấp này cùng với thiết bị bảo vệ thứ cấp, được dùng để bảo vệ các bộ phận điện tử trong hệ thống chuyển mạch số.

2.4.2 Thiết bị giao tiếp tương tự

Các chức nǎng cơ bản của mạch thuê bao tương tự có thể tóm tắt bằng từ "BORSCHT" gồm chữ đầu, của từng chức nǎng, đó là:

• Nguồn ắc qui (B)

• Bảo vệ điện áp cao (O)

• Báo chuông (R)

• Báo hiệu hoặc giám sát (S)

• Bộ lập/giải mã (C)

• Hybrid (chuyển đổi 2 dây/4 dây) H

• Đo thử (T)

A. Bộ nạp ắc qui

Bộ này dùng để cung cấp điện gọi cho từng máy điện thoại thuê bao và đồng thời dùng để truyền các tín hiệu như nhấc máy hoặc xung quay số.

B. Bảo vệ điện áp cao

Các bộ phận điện tử nhậy cảm của hệ thống chuyển mạch cần phải được bảo vệ một cách đầy đủ để chống không để bị vượt quá điện áp do chớp hoặc điện thương mại không ổn định. Như vậy cần phải lắp đặt sẵn các phần tử bảo vệ trong hệ thống chuyển mạch dể cho hệ thống này có thể chống lại được tác động và dòng do điện áp quá cao sinh ra. Mặt khác dòng điện này có thể đưa vào cả 2 đầu cuối của hai dây điện thoại hoặc giữa một trong hai dây và đất (GND).

C. Chuyển tín hiệu gọi

Chức nǎng này dùng để chuyển các tín hiệu gọi để thông báo rằng cuộc nói chuyện của khách hàng sắp bị chấm dứt. Bởi vì tín hiệu cao thế xoay chiều được dùng làm tín hiệu gọi, hệ thống này có khả nǎng xử lý hiện tượng phóng điện trong quá trình truyền và được trang bị các phương tiện ngǎn cản thao tác sai trên mạch. Hệ thống này cũng cần phải được trang bị quạt gió.

D. Xác định tín hiệu

Chức nǎng này dùng dể phát hiện các tín hiệu nhấc máy/đặt máy phát sinh từ thuê bao hoặc các tín hiệu xung quay số. Mạch này phải có độ tin cậy cao.

Mã hóa, giải mã

Chức nǎng này dùng để mã hoá các tín hiệu tiếng nói tương tự thành các tín hiệu tiếng nói số và ngược lại.

Hybrid

Chức nǎng chính của hybrid là chức nǎng chuyển đổi 2 dây thành 4 dây. Như các chức nǎng phụ, việc chấm dứt, cách điện và các chức nǎng chuyển đổi từ cân đối sang không cân đối cho các tín hiệu xoay chiều có sẵn.

Đo thử

Các đường dây thuê bao thường bị hỏng do bị ngập nước, chập mạch với đường dây điện hoặc bị đứt dây. Người ta đã nghiên cứu ta một lại thiết bị kiểm tra tự động để phát hiện trước các loại lỗi này bằng cách theo dõi các đường dây thuê bao một cách thường xuyên theo chu kỳ. Thiết bị này được nối vào đường dây trong phương pháp analog kiểm tra và đo thử.

Như vậy, thiết bị giao tiếp analog của hệ thống chuyển mạch số thường có một bus test-in (đo thử đầu vào) và test - out (đo thử đầu ra)cho các loại giao tiếp này. Nói chung, để thực hiện chức nǎng đo thử vào và đo thử ra người ta dùng một rơ-le.

2.4.3 Thiết bị giao tiếp số

Một trong những ưu điểm quan trọng của hệ thống chuyển mạch số là nó có thể sử dụng các tín hiệu để truyền dẫn số mà không phải thay đổi chúng. Như vậy có nghĩa là các dòng bít PCM (ghép kênh chia thời gian) sử dụng trong hệ thống chuyển mạch cũng giống như các dòng bít sử dụng trong hầu hết các thiết bị truyền dẫn. Kết quả là người ta có thể sử dụng các mạch tương đối đơn giản để giao tiếp giữa các hệ thống chuyển mạch và thiết bị truyền dẫn và để tiết kiệm hơn. Hệ thống phân cấp số là tổ hợp các thiết bị truyền dẫn số chạy với nhiều loại tốc độ bit. Mỗi nước định ra tốc độ bit cho các hệ thống của họ. Trong trường hợp nước Mỹ, thiết bị đường truyền dẫn số được gọi là thiết bị tải T và hệ thống được sử dụng rộng rãi nhất là các thiết bị tải T. T1 truyền dòng bit tốc độ 2 hướng 1,544 Mbps (mega bites per second). Các thiết bị tải T khác đã có là T1C, T2, T3 và T4. Việc sử dụng chúng được xác định theo các kiểu ghép kênh. Vì 1.544 Mbps là tốc độ bit cơ sở, nên hầu hết các hệ thống chuyển mạch số có các mạch giao tiếp với tốc độ bit này. Các nước ở Châu Âu sử dụng 2.048 Mbps là tốc độ bit cơ sở. Hai điều kiện dưới đây phải được đáp ứng để giao tiếp một cách có hiệu quả giữa hệ thống chuyển mạch số và thiết bị truyền dẫn số.

1) Yêu cầu về điện: liên quan đến điện áp, xung điện, dạng sóng, trở kháng và tốc độ bit. được ứng dụng cho tất cả các hệ thống chuyển mạch và các thiết bị truyền dẫn.

2) Yêu cầu về loại bit: Xác định rõ các bit này là tiếng nói các dữ liệu, sự định dạng khung, sự định dạng tín hiệu hay là các số liệu bảo dưỡng và sửa chữa. Ngoại trừ vài trường hợp ít ỏi, các bit này không liên quan trực tiếp đến các thiết bị truyền dẫn và chúng chỉ được ứng dụng cho các hệ thống chuyển mạch.

Hai điều kiện trên đây xác định 1 cách đầy đủ các tín hiệu được truyền qua các thiết bị truyền dẫn. DS1 (tín hiệu số 1) là tín hiệu được sử dụng rộng rãi nhất. Tín hiệu này định rõ yêu cầu về điện cho các tín hiệu được truyền thông qua việc sử dụng thiết bị truyền dẫn T1 và giá trị của từng bit có dòng bit. Vì vậy, các loại kênh như D1, D2, D3 và D4 mà đã đáp ứng được các đặc điểm kỹ thuật của DS1 (tín hiệu số 1) có khả nǎng hoạt động cùng với thiết bị truyền dẫn. Ngoài ra, các yêu cầu cho các thiết bị giao tiếp số có liên quan đến giá trị bit của dòng bit như sau.

• Dòng bit này được xác định cho mật độ 1, được sử dụng để lấy thông tin đồng bộ từ thiết bị tải T. Một dòng bit phải có ít nhất là 1, trong số 12,5% hay hơn Os sẽ không được phát ra liên tục.

• ở các nước sử dụng luật m , dòng bit được tạo thành từ các khung bao gồm 193 bit trong 1 khung (frame). Một khung bao gồm 1 bit khung và 24 kênh, và mỗi kênh có 8 bit. Các bit khung được sử dụng để gửi thông tin tín hiệu và để xác định vị trí của mỗi mẫu tin.

• Thông tin tín hiệu (nhấc máy, đặt máy) của mỗi kênh được đưa vào trong LSB (bit ít quan trọng nhất ) của mỗi kênh của mỗi khung thứ 6. Bit này được gọi là bit dịch chuyển.

Ngoài các yêu cầu về tín hiệu số 1 kể trên (DS1), hệ thống chuyển mạch số còn thực hiện các chức nǎng sau:

• Các mã kênh đã được chọn phù hợp phải được gửi đến tất cả các đường trung kế còn rỗi. Các mã này phải đáp ứng tỷ trọng 1 và chúng phải được giải mã thành hầu như là điện 1 chiều 0 volt. Thông thường, chúng được truyền thông qua việc lặp 01111111.

• Thông thường, "0" được thêm vào để kết thúc không gửi đi các từ mà các bit của nó là 0. Điều đó có nghĩa là nếu mã số 00000000 được đưa ra hiển thị, nó sẽ được thay thế bằng 00000010. Quá trình này được thực hiện trong khung cùng với bit dịch chuyển. Do đó nếu việc thêm "0" và sự dịch chuyển xảy ra cùng 1 lúc mà kênh chỉ được sử dụng cho việc truyền dữ liệu, thì chỉ có 6 bit trong mỗi kênh được dùng và tốc độ bit lúc bấy giờ sẽ là 48 Kbps. Để giải quyết vấn đề này, người ta đang mong đợi 1 qui luật DS1 mới cấm bit dịch chuyển và việc thêm "0", sẽ được đưa ra trong tương lai gần.

• Thậm chí nếu các dòng bit đưa vào được đồng bộ hoá, pha có thể được thay đổi. Do đó, mỗi dòng bit phải có khả nǎng chậm lại để mối liên hệ pha thích hợp được thành lập trước khi thực hiện việc chuyển mạch.

• Việc giao tiếp DS1 phải có khả nǎng bảo đảm được việc bảo dưỡng sửa chữa và các chức nǎng báo cáo về cảnh báo.

Ngoài các chức nǎng trên, thiết bị giao tiếp số phải được trang bị các chức nǎng báo lỗi 2 cực, phát ra số lần định khung lại và trượt quá độ. Đấy thường là những lần được nói đến như "GAZPACHO", 1 từ dựa theo các ký tự đầu tiên của mỗi chức nǎng. Đó là

• Việc phát ra mã khung

• Việc xắp hàng khung

• Nén dây 0 (Zero)

• Đổi cực

• Xử lý cảnh báo

• Khôi phục lại đồng hồ

• Tìm trong khi định lại khung

• Báo hiệu giữa các tổng đài

2.5 Mạng lưới truyền thông công cộng

2.5.1 Mạng lưới truyền thông và điều kiện kết cấu

Mạng lưới truyền thông có thể được định nghĩa đại khái là một hệ thống chuyển thông tin. Các mạng lưới truyền thông điện hiện nay đang được sử dụng để xử lý các loại thông tin khác nhau bao gồm mạng lưới điện thoại, mạng lưới điện tín, và mạng lưới truyền số liệu. Ngoài ra, ISDN là một mạng lưới có khả nǎng xử lý tích hợp các loại thông tin trên. Về khía cạnh loại cuộc gọi và các dịch vụ, các mạng lưới truyền thông có thể được phân chia thành mạng truyền thông công cộng, mạng truyền thông chuyên dụng và mạng truyền thông di động. Dựa vào phạm vi các dịch vụ truyền thông được đưa vào hoạt động, các mạng truyền thông có thể được phân loại tiếp thành mạng truyền thông nội bộ, mạng truyền thông nội hạt, mạng truyền thông liên tỉnh, mạng truyền thông quốc tế. Nếu chúng ta phân loại chúng về xử lý chuyển mạch, ta có thể có mạng truyền thông tức thời và mạng truyền thông nhanh (dash). Như đã nói trên, các mạng truyền thông có thể được phân ra nhiều hơn nữa tuỳ theo nhu cầu và đòi hỏi của người sử dụng. Về cǎn bản, mạng truyền thông bao gồm một hệ thống chuyển mạch để định rõ đường nối cuộc gọi theo yêu cầu của thuê bao và một hệ thống truyền dẫn để truyền thông tin gọi đến người nhận. Về cǎn bản, nó phải đáp ứng những điều kiện sau đây.

1. Có khả nǎng kết nối các cuộc gọi được gọi đi từ tất cả các thuê bao chủ gọi có đǎng ký trong hệ thống đến thuê bao bị gọi vào bất cứ lúc nào hoặc vào thời gian đã định trước.

2. Có khả nǎng đáp ứng các yêu cầu và những đặc tính của truyền dẫn.

3. Số của thuê bao bị gọi phải được tiêu chuẩn hoá.

4. Có khả nǎng thực hiện việc truyền tin một cách cẩn thận và độ tin cậy cao.

5. Cần có một hệ thống ghi hoá đơn hợp lý.

6. Hoạt động của nó cần phải vừa tiết kiệm vừa linh hoạt.

Để thực hiện được những điều trên, mạng tổng đài phải được thiết kế, sau đó đưa vào hoạt động một cách đúng đắn bằng cách xem xét chất lượng cuộc gọi, khả nǎng xử lý cuộc gọi, chi phí lắp đặt và chi phí vận hành, mối liên hệ giữa hệ thống truyền dẫn và hệ thống chuyển mạch. Các mục được nêu ra trên đây có thể được tổng hợp thành sự kết nối cuộc gọi và tiêu chuẩn truyền dẫn, kế hoạch đánh số, độ tin cậy và hệ thống ghi hoá đơn.

2.5.2 Mạng chuyển mạch và điện thoại

Vì các thuê bao đã đǎng ký trong hệ thống ở rải rác, nên về cǎn bản mà nói thì hệ thống này phải có khả nǎng xử lý tất cả cuộc gọi của họ một cách tiết kiệm, tin cậy và nhanh chóng. Để đạt được mục đích này, các đặc tính và những yêu cầu đòi hỏi của thuê bao phải được xem xét để đảm bảo các dịch vụ thoại chất lượng cao. Một mạng nội hạt với một hoặc hai hệ thống chuyển mạch có thể được thiết lập nếu cần thiết. Đối với các thuê bao sống trong một vùng riêng biệt có thể chỉ cần một hệ thống tổng đài. Nhưng nếu số thuê bao trong một vùng riêng biệt vượt quá một giới hạn nào đó, có thể lắp đặt nhiều tổng đài. Nói chung, các mạng lưới đường dây có thể được lập ra như minh hoạ trong hình 2.16. Mạng lưới mắc nối tiếp trong hình (a) được lập ra bằng cách nối tất cả các mạng lưới dây của tất cả các vùng theo kiểu nối tiếp. Trái lại, mạng lưới vòng trong hình (b) được thiết lập theo kiểu tròn. Như được mô tả trong hình (c), mạng hình sao được tập trung vào 1 điểm chuyển mạch. Trong hình (d) trường hợp mạng được mắc theo kiểu lưới các đường nối các phía với nhau được thực hiện. Cũng vậy, nếu được yêu cầu, mạng lưới ghép có thể được lắp đặt như hình (e).

Hình 2.16. Các kiểu mạng lưới đường dây

Hình 2.17. Thiết lập mạng tổng đài

Bất cứ mạng lưới nào được đề cập trước đây có thể được lắp đặt để đáp ứng những nhu cầu và yêu cầu của thuê bao. Trong trường hợp có một vùng rộng lớn cần nhiều hệ thống chuyển mạch, thông thường thì mạng mắc theo hình lưới được thiết lập. Đối với những vùng nông thôn hoặc những vùng xa xôi như nông trại hoặc các làng chài có mật độ gọi thấp, người ta sử dụng mạng hình sao. Các phương pháp nối mạng có thể dùng cho các mạng lưới đường dây có phần nào phức tạp hơn. Thông thường việc nối mạng được thực hiện theo 4 mức như được minh hoạ trong hình 2.17; trung tâm nội hạt, trung tâm liên tỉnh, trung tâm khu vực, trung tâm vùng. Trong mạng lưới phân cấp có các mức như trên, việc tạo hướng thay thế bao gồm các hướng có mức sử dụng cao và các hướng thay thế được sử dụng. Nếu 1 cuộc gọi được phát sinh, hướng có mức sử dụng cao sẽ được tìm đầu tiên. Cuộc gọi này được nối với bên bị gọi thông qua hướng thay thế của tổng đài ở mức cao kế tiếp.

2.5.3 Mạng dữ liệu chuyển mạch tuyến

Để đáp ứng một cách thích đáng nhu cầu ngày càng tǎng của việc truyền số liệu và các dịch vụ thoại mới, các dịch vụ chuyển mạch số liệu được phát triển và được thực hiện bằng cách sử dụng mạng dữ liệu chuyển mạch tuyến và mạng dữ liệu chuyển mạch gói.

A. Mạng dữ liệu chuyển mạch tuyến :

Mạng dữ liệu chuyển mạch là một phơng pháp nối các đường dây thông tin từ các bên gọi đến các bên nhận và sau đó thực hiện việc trao đổi thông tin giữa các bên với nhau. Mạng lưới điện thoại là một ví dụ điển hình. Mạng lưới điện thoại được lập ra để thực hiện việc trao đổi thông tin tiếng nói, còn mạng dữ liệu chuyển mạch tuyến được lắp đặt để trao đổi dữ liệu. Nó biểu thị các điều kiện giao tiếp của mạng và cung cấp các thiết bị đầu cuối cần thiết cho các dịch vụ truyền mã số như các thông tin dữ liệu, fax bằng số; dịch vụ telex. Với mạng lưới này, các dữ liệu có thể được truyền đi nhanh hơn, tin cậy hơn và tiết kiệm hơn là sử dụng mạng lưới điện thoại hiện có hay mạng lưới thuê bao cho các dịch vụ điện thoại số. Thời gian đòi hỏi để kết nối cũng ngắn hơn nhiều. Mạng dữ liệu chuyển mạch gói (ở đây đang nói đến là "mạng chuyển mạch gói") thiết lập đường trao đổi thông tin như trong trường hợp mạng lưới điện thoại thông thường, và sau đó trao đổi thông tin. Một khi cuộc gọi được thiết lập, một đường mạch độc lập giữa 2 người sử dụng được lập ra sao cho sử dụng mạch này như một đường dây chuyên dụng cho đến khi chấm dứt cuộc gọi. Bởi vì hệ thống chuyển mạch không liên quan trực tiếp với thông tin đang truyền qua đường dẫn, nó không gây bất cứ hạn chế nào về các kiểu thông tin, các mã thông tin và trật tự điều khiển truyền dẫn. Ngoài ra, không có sự chậm trễ trong truyền dẫn do thời gian xử lý trong hệ thống chuyển mạch. Nghĩa là, có thể nói rằng mạng chuyển mạch gói có một độ thông suốt cao trong mạng lưới. Mạng lưới điện thoại công cộng (PSTN) được dùng cho việc trao đổi thông tin tiếng nói và nó được trang bị các hệ thống chuyển mạch và truyền dẫn cần thiết. Trong bảng 2.2 có ghi các hệ thống chuyển mạch đang dùng hiện nay và đặc tính của chúng.

Phương pháp chuyển mạch Phương pháp chuyển mạch gói Phương pháp chuyển bản tin

Phân bố mạch trao

đổi thông tin Cho mỗi cuộc gọi Cho mỗi packet Cho mỗi bản tin

Phương pháp phân phối mạch trao đổi thông tin Ngay tức thì Chuyển ngay tức thì theo luồng Ngay tức thì

Thời gian trì hoãn Không đáng kể (cuộc đàm thoại có thể thực hiện được) Một chút (cuộc đàm thoại vẫn có thể được) Nhiều

Loại thông tin trao đổi Không hạn chế Dạng gói Có thể định dạng bản tin

Tính thông suốt của thời gian * Có Không Không

Điều khiển lỗi trong mạng Không Có Có (đối với một ít số khác không có)

Phạm vi các dịch vụ phụ được đưa vào hoạt động ít Trung bình Nhiều

Bảng 2.2. Các đặc tính và phân loại hệ thống chuyển mạch

* Đây là một đặc tính để duy trì quãng thời gian giữa các tín hiệu và việc chuyển chúng. Đặc tính này phải được đáp ứng trong việc truyền tín hiệu dạng sóng như tiếng nói.

Mạng chuyển mạch gói bao gồm các thiết bị đầu cuối, thiết bị mạch dữ liệu, các chuyển mạch địa phương, bộ tập trung địa phương và máy phát lại. Các nguyên tắc hoạt động của mạng lưới này được minh hoạ trong hình 2.18. Các tín hiệu số từ thuê bao đầu cuối được mẫu hoá tuỳ theo tốc độ của đồng hồ nhận được từ DCE và sau đó gửi đến đường dây thuê bao. Bộ tập trung địa phương ghép các tín hiệu này cùng với các tín hiệu được gửi đến từ các mạch thuê bao khác và sau đó truyền chúng đến hệ thống chuyển mạch. Hệ thống chuyển mạch thực hiện việc chuyển mạch những tín hiệu này và sau đó truyền chúng đến thuê bao muốn gọi theo trình tự ngược lại. Các đường dây thông tin sử dụng trong mạng chuyển mạch gói là loại 4 dây, có thể thực hiện phương pháp trao đổi thông tin đối ngẫu toàn bộ, tuy nhiên thuê bao đầu cuối kia cũng có khả nǎng thực hiện phương pháp thông tin nửa đối ngẫu.

Các dịch vụ được đưa vào hoạt động trong mạng chuyển mạch gói bao gồm các đường dây thuê bao thông thường cho các cuộc gọi đi và đến, dịch vụ chuyên dụng gọi và nhận, dịch vụ kết nối, dịch vụ gọi trực tiếp để bắt đầu các cuộc gọi mà không cần quay số, dịch vụ nhận dạng trạm đầu cuối và dịch vụ gọi tắt.

Hình 2.18. Nguyên tắc hoạt động của mạng chuyển mạch tuyến.

B. Thiết lập mạng lưới

1) Khái niệm về thiết lập mạng lưới

Mạng dữ liệu chuyển mạch tuyến như trong trong hình 2.19 bao gồm phân cấp chuyển ở mức thấp, phần từ một trạm đầu cuối đến LS (chuyển mạch địa phương) được sử dụng để thu nhập và ghép kênh các dữ liệu để chuyển mạch và một phân cấp ở mức cao để thực hiện chức nǎng chuyển mạch. Thông thường ở phân cấp mức thấp của mạng lưới điện thoại, các bộ phận tập trung địa phương chỉ được lắp đặt trong các trạm chuyển mạch có trang bị các hệ thống đài. Trái lại, ở trong mạng chuyển mạch gói các bộ tập trung địa phương mà được đặt rải rác, ở các xa hệ thống chuyển mạch, tập trung lưu lượng gọi về một nơi mà hệ thống tổng đài được lắp đặt.

Tín hiệu số đã được tập trung và được ghép kênh như nói ở trên được chuyển mạch tại hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian và sau đó chuyển tới thuê bao đầu cuối bị gọi.

Hình 2.19. Phân cấp mạng chuyển mạch

Trong phân cấp bộ tập trung địa phương, những tín hiệu cần thiết cho hệ thống chuyển mạch được chuyển đổ thành các dữ liệu dồn kênh / tách kênh từ trạm đầu cuối. Các thuê bao được nối với các hộ tập trung địa phương hoặc trực tiếp với các trạm địa phương LS. Trên tuyến truyền dẫn giữa người thuê bao và hệ thống chuyển mạch, có những mạch thuê bao, bộ phận phục hồi giữa các tổng đài và mạch đặc nhiệm. Ngoài ra bộ phận phản hồi không bao gồm trong mạch thuê bao của mạng điện thoại trong khi đối với trường hợp mạng tuyến, bộ phận phản hồi bao gồm trong bộ phận mạch thuê bao.

2. Các thiết bị mạng

1) Phương pháp Rơ- le

Phương pháp rơ - le trong phương pháp chuyển mạch tuyến được minh hoạ trong hình 2.20. Thiết bị dùng trong mạng chuyển mạch gồm những thiết bị điều khiển thuê bao, thiết bị truyền dữ liệu tốc độ cao, các bộ tập trung địa phương và một hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian. Các thiết bị điều khiển thuê bao là các thiết bị đặt ở khu vực từ trạm đầu cuối đến bộ tập trung địa phương. Các thiết bị này bao gồm những khối dịch vụ dữ liệu, bộ dồn kênh 0, dồn kênh 1 và một khối điều khiển mạng (NCU). Bộ dồn kênh 0 chuyển các tốc độ dịch vụ khác nhau của người sử dụng sang 64 Kbps và Bộ dồn kênh 1 lại chuyển các tín hiệu của nhóm 0 từ 64 Kbps sang 1,544 Mbps trước khi truyền chúng đi. Thiết bị truyền dữ liệu tốc độ cao là một đường 1,544 Mbps để nối từ bộ tập trung địa phương đến hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian. Nó bao gồm một thiết bị đồng bộ khung, thiết bị đồng bộ dòng tập trung, thiết bị cung cấp tín hiệu đồng hồ số, và bộ dồn kênh 1. Giữa thiết bị đồng bộ dòng tập trung của bộ tập trung địa phương và thiết bị đồng bộ khung của hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian, thông tin và đồng bộ cần thiết cho việc nhận dạng kênh được trao đổi trong khi báo hiệu về truyền dẫn dữ liệu cao tốc. Bộ dồn kênh 1, trong trường hợp là bộ phận của thuê bao, ghép tốc độ nhóm 0 từ 64 Kbps thành nhóm sơ cấp 1,544 Mbps hoặc ngược lại. Đồng hồ đồng bộ cần để kích hoạt thiết bị này nhận được từ thiết bị cung cấp tín hiệu đồng hồ số. Bộ tập trung địa phương thu nhập những tín hiệu dữ liệu được ghép thành nhóm 0 với 64 Kbps từ những trạm đầu cuối khác nhau và ghép chúng thành nhóm sơ cấp 1,544 Mbps. Ngoài ra, nó cũng phát hiện nguồn chủ gọi và ngắt mạch theo yêu cầu của từng trạm đầu cuối.

Hình 2.20. Phương pháp rơ-le của mạng chuyển mạch tuyến

2) Hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian

Hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian, như đã bàn tới trước đây, bao gồm một thiết bị đường thoại phân chia thời gian, thiết bị xử lý trung tâm và thiết bị vào ra. Thiết bị xử lý trung tâm là một thiết bị điều khiển, một trong những thiết bị quan trọng nhất của hệ thống chuyển mạch. Thiết bị vào/ra chuyển và nhận thông tin để xử lý chuyển mạch giữa các thiết bị xử lý trung tâm và kết quả của nó đến và đi từ bảo dưỡng và sửa chữa. Nó gồm một thiết bị đĩa từ, thiết bị bǎng từ, thiết bị hiển thị và máy in dòng. Thiết bị gọi phân chia thời gian là một thiết bị trong đó chuyển mạch phân chia thời gian được thực hiện, thiết lập một đường gọi bằng cách biến đổi các khe thời gian trên đường truyền ghép kênh phân chia thời gian của nhóm sơ cấp, dưới sự điều khiển của CPU.

Hình 2.21. Nguyên tắc hệ thống chuyển mạch số phân chia thời gian

Trong hình 2.21 minh hoạ hệ thống chuyển mạch số phân chia thời gian gồm các chuyển mạch thời gian và không gian. Như hình vẽ, có 2 đường vào và mỗi đường được ghép với 3 kênh, và 2 đường ra mỗi đường được ghép với 3 kênh. Đường vào/ra đã được ghép kênh được gọi là xa lộ (Đường truyền tốc độ cao - highway). Chuyển mạch thời gian thực hiện chức nǎng thay đổi trật tự thời gian của các khe thời gian trên highway, còn chuyển mạch không gian bố trí các cổng theo cách đặc biệt và thay đổi các kênh highway với nhau để kết nối. Khi định kết nối cuộc gọi X vào kênh thứ nhất của đường ra 1 với đường ra 1, thứ tự kênh của X phải thay đổi vì kênh thứ nhất của đường ra 1 đã bị A chiếm. Như vậy việc biến đổi khe thời gian được thực hiện ở chuyển mạch thời gian và do đó X của kênh thứ nhất bị chuyển sang kênh thứ 2. Sau đó, cuộc gọi X được nối vào kênh thứ 2 của đường ra 1 khi cổng phân chia thời gian G22 được mở/đóng trong pha thứ 2 của xung P2. Việc kết nối được thực hiện trên cơ sở các thủ tục trên. Trong hệ thống chuyển mạch phân chia thời gian, những tín hiệu đã được ghép kênh được chuyển mạch và được đưa đến những tuyến dồn kênh theo hướng mong muốn mà không phải qua quá trình mã hoá và giải mã.

2.5.4 Mạng dữ liệu chuyển mạch gói

A. Lịch sử phát triển

Công nghệ chuyển mạch gói do lực lượng không quân Mỹ sáng tạo dựa theo đề nghị của Paul Baran nǎm 1961 để đáp ứng nhu cầu lập một hệ thống truyền thông có độ tin cậy cao. Không quân Mỹ đã khởi đầu việc nghiên cứu công nghệ này nhằm có được hệ thống truyền tin cậy có thể chống lại sự tấn công bất ngờ của kẻ địch. Kết quả của cuộc nghiên cứu như sau:

• (1) Mạng truyền tin phân tán

• (2) Dữ liệu lưu trữ trong các khối (gói)

• (3) Cần phải có chuyển mạch lưu trữ

Cǎn cứ vào những kết quả nghiên cứu này, Bộ Quốc phòng Mỹ đã ký một hợp đồng phát triển với công ty BBN (Bolt Beranek and Newman) và trong nǎm 1969, công ty này đã sáng chế thành công mạng ARPA (Các công trình nghiên cứu tiên tiến). Để truyền tin, mạng ARPA gắn với hệ thống chuyển mạch IMP (bộ xử lý thông báo giao tiếp) và nối với các trung tâm máy tính lớn của Đại học Illinois, U.S.C., và các nơi khác qua một mạng 50 Kbps nối giữa các hệ thống chuyển mạch. Trên cơ sở thành công của mạng PRPA và công nghệ chuyển mạch gói, nhiều nước đã khởi xướng nghiên cứu về mạng dữ liệu chuyển mạch gói và dựa trên kiến nghị chuẩn X.25 cần cho việc tiêu chuẩn hoá việc giao tiếp giữa mạng chuyển mạch gói công cộng và trạm đầu cuối của ITU - T, phát triển thành công và đưa vào sử dụng các dịch vụ khoảng nǎm 1975. Những ví dụ điển hình là TYMENET của Hoa Kỳ, GTE TELENET dịch vụ thương mại của mạng ARPA, DATAPAC của Canada, TRANSPAC của Pháp, PSS của Anh, DATEX-P của Đức, DDX-P của Nhật, và DACOMNET của Hàn Quốc.

2) Những nguyên tắc:

Mạng dữ liệu chuyển mạch gói chỉ sử dụng những ưu điểm của chuyển mạch tuyến và mạng dữ liệu chuyển thông báo; dữ liệu truyền dẫn được chia thành các đơn vị truyền dẫn có kích thước nhất định gọi là gói (128 bytes hoặc 256 bytes) trước khi đưa vào mạng chuyển mạch gói (từ đây gọi là "mạng gói"). Mạng gói chuyển mạch các đơn vị gói và rồi chuyển tới trạm đầu cuối nhận gói. Những nguyên tắc này được minh hoạ trong hình 2.22. Dữ liệu do người sử dụng gửi đi được chia thành những đơn vị gói và sau đó chuyển theo trình tự và mạng gói.

Do đó, thông tin ngắn được đưa vào một gói, trong khi thông tin dài chỉ được gửi đi sau khi bị chia thành nhiều gói. Trong mỗi gói có địa chỉ của trạm đầu cuối gọi là ID của trạm. Các gói chuyển đi từ trạm chủ gọi được tạm thời giữ trong hệ thống chuyển mạch gói. Hệ thống chuyển mạch gói, dựa theo địa chỉ của trạm đầu cuối ghi trong gói nhận, lựa chọn con đường tốt nhất tới địa chỉ đã cho và rồi chuyển nó vào hệ thống chuyển mạch tiếp theo. Hệ thống chuyển mạch ở địa chỉ đến nhận lấy và phân phối cho các trạm đầu cuối tương ứng và như vậy truyền toàn bộ thông tin của một gói. Các thủ tục (Protocol) truyền tin như lập đường truyền dẫn, xoá bỏ những lỗi trong truyền dẫn và gói lại những thông báo truyền dẫn được thực hiện khi trao đổi dữ liệu giữa trạm đầu cuối và hệ thống chuyển mạch và giữa các hệ thống chuyển mạch với nhau. Các trạm đầu cuối để trao đổi gói lại được phân loại thành trạm đầu cuối chế độ gói và trạm đầu cuối chế độ không gói tuỳ theo chế độ trao đổi thông tin, nghĩa là có dùng các thủ tục hay không. Khác với các mạng truyền dẫn thông suốt như điện thoại hiện nay hay các mạng chuyển mạch, chế độ chuyển mạch gói trì hoãn việc truyền dẫn vì nó thực hiện truyền dẫn lưu trữ trong mạch và hoạt động dựa theo các thủ tục truyền tin. Tuy nhiên, do những lý do trên, những trạm đầu cuối chạy theo những tốc độ khác nhau và các mã sử dụng có thể trao đổi với nhau để có thể cung cấp nhiều dịch vụ hơn, có khả nǎng mở rộng và chất lượng truyền tin cao. Ngoài ra, nó khác với các mạng điện thoại hiện có là hệ thống ghi hoá đơn của nó có thể tính cước các cuộc gọi theo tỷ lệ khối lượng thông tin được truyền dẫn.

Hình 2.22. Nguyên tắc chuyển mạch gói

3) Đặc điểm

Đây là một mạng truyền tin rất tin cậy có thể chọn đường bình thường khác bằng đơn vị gói để có thể gọi thay thế ngay cả khi hệ thống chuyển mạch và mạch của mạng gói có lỗi vì đã có địa chỉ của đối tác trong gói được truyền đi.

(1) Độ tin cậy cao

Đây là một mạng truyền tin rất tin cậy có thể chọn đường bình thường khác bằng đơn vị gói, có thể gọi thay thế ngay cả khi hệ thống chuyển mạch và mạch của mạng gói có lỗi vì đã có địa chỉ của đối tác trong gói được truyền đi.

(2) Chất lượng cao

Vì chuyển mạch gói hoạt động theo chế độ truyền dẫn số biểu hiện bằng 0 và 1, chất lượng truyền dẫn của nó là tuyệt hảo. Nó cũng có thể thực hiện truyền dẫn chất lượng cao bằng cách kiểm tra xem có lỗi không trong khi truyền dẫn gói giữa các hệ thống chuyển mạch và giữa thuê bao với mạng.

(3) Kinh tế

Hệ thống chuyển mạch gói dùng các đường truyền tin tốc độ cao để nối với các hệ thống chuyển mạch nằm trong mạng nhằm ghép kênh các gói của các thuê bao khác nhau để tǎng tính kinh tế và hiệu quả truyền dẫn của các đường truyền dẫn.

(4) Tiến trình chuyển mạch

Do hệ thống chuyển mạch gói, để chuyển mạch, phải sử dụng chế độ chuyển mạch lưu trữ để đưa dữ liệu vào bộ nhớ trong hệ thống chuyển mạch bằng đơn vị gói, những tiến trình này có thể thực hiện dễ dàng trong hệ thống chuyển mạch và có thể phát triển một phạm vi dịch vụ rộng lớn. Ngoài ra, hệ thống này có thể thay đổi tốc độ truyền tin của từng thuê bao, chuyển đổi mã thuê bao và thủ tục truyền và nhận theo trình tự điều khiển truyền dẫn thuê bao. Nghĩa là, hệ thống này cho phép thuê bao đǎng ký ở những dạng hệ thống chuyển mạch khác nhau hoạt động với các tốc độ và chế độ thủ tục khác nhau để liên lạc với nhau.

(5) Các dịch vụ bổ sung

Hệ thống chuyển mạch gói có thể cung cấp những dịch vụ bổ sung như trao đổi thông báo, thư điện tử và dịch vụ khép kín khi các gói được lưu trữ trong hệ thống chuyển mạch. Hơn nữa, một dịch vụ lựa chọn nhanh chóng đưa dữ liệu vào các gói yêu cầu cuộc thoại của thuê bao chủ gọi, quay số tắt và các dịch vụ thay thế tiếp viên có thể được thực hiện.

B. Thiết lập mạng

1) Khái niệm về thiết lập mạng

Mạng chuyển mạch gói như chỉ rõ trong hình 2.23, gồm một hệ thống chuyển mạch cấp cao để nối những hệ thống chuyển mạch và một hệ thống tập trung cấp cao từ các trạm đầu cuối tới các hệ thống chuyển mạch. Hệ thống tập trung cấp thấp gồm có một PMX và các trạm đầu cuối. Thiết bị ghép kênh gói phục vụ các trạm đầu cuối loại chung và loại gói. Đó là một thiết bị dùng để tập hợp dữ liệu từ các trạm đầu cuối loại chung ở dạng gói, lưu trữ tạm thời dữ liệu từ các trạm đầu cuối loại gói trong thiết bị và sau đó ghép kênh/tách kênh những gói đó trước khi gửi chúng đi các hệ thống chuyển mạch. Những thiết bị ghép kênh gói này được thiết lập dưới dạng hình sao trong hệ thống chuyển mạch gói như sau:

Hình 2.23. Phân cấp mạng chuyển mạch gói

2) Các phương tiện dùng cho mạng chuyển mạch gói

(1) Chế độ rơ-le

Chế độ rơ-le của hệ thống chuyển mạch gói được chỉ rõ trong hình 2.24. Trạm chuyển mạch gói gồm những hệ thống chuyển mạch gói, thiết bị ghép kênh gói và những thiết bị đo thử để điều khiển.

Thiết bị ghép kênh gói dùng để lưu trữ tạm thời thông báo nhận được từ những trạm đầu cuối loại chung vận hành theo chế độ đồng bộ và rồi biến đổi sang dạng gói. Những gói này được ghép kênh trước khi truyền cho những hệ thống chuyển mạch gói. Các thiết bị đầu cuối có thể được dùng trong hệ thống chuyển mạch gói được tiếp tục phân loại thành các thiết bị đầu cuối loại gói và những thiết bị đầu cuối loại chung. Thiết bị đầu cuối loại gói là những thiết bị hoạt động trên cơ sở chuẩn X.25 theo khuyến nghị của ITU-T. Các thiết bị đầu cuối khác có thể phân loại theo tốc độ vận hành và phương pháp đồng bộ được gọi là các thiết bị đầu cuối loại chung. Chúng được phân loại giống như mạng chuyển mạch tuyến. Đường truyền dẫn giữa thiết bị ghép kênh gói và hệ thống chuyển mạch cũng giống như đường truyền dẫn của mạng chuyển mạch tuyến.

(2) Hệ thống chuyển mạch gói

Hệ thống chuyển mạch gói có thể được phân loại thêm thành một hệ thống xử lý trung tâm và điều khiển tín hiệu cao tốc. Hệ thống xử lý trung tâm điều khiển thiết bị điều khiển báo hiệu cao tốc và thiết bị vào/ra thông qua việc sử dụng phương pháp điều khiển bằng chương trình ghi sẵn. Nó cũng đưa ra những thông tin cần thiết qua đĩa từ hoặc máy in dòng cũng như phân tích thông tin trong hệ thống chuyển mạch gói và rồi truyền những mệnh lệnh chi tiết tới từng thiết bị theo kết quả thu được. Thiết bị điều khiển báo hiệu cao tốc nhận một gói đã được ghép kênh từ thiết bị ghép kênh gói và trao đổi những tín hiệu giữa các hệ thống chuyển mạch gói. Nó truyền/nhận thông tin để truyền dữ liệu một cách chính xác, kiểm tra các dạng thông tin liên quan tới các thiết bị và các lỗi. Ngoài ra nó còn có thể yêu cầu truyền lại khi có lỗi.

(3) Mạng chuyển mạch gói

Mạng chuyển mạch dữ liệu gói thường có những chức nǎng sau:

(A) Điều khiển việc định tuyến

Trong trường hợp một mạng gói với 4 hệ thống chuyển mạch gói như trong hình 2.25, thuê báo số 1 được gắn với một thuê bao duy nhất khi nó được đǎng ký trong mạng.

Hình 2.24. Phương pháp phục hồi mạng chuyển mạch gói

Khi thuê bao 1 muốn truyền các gói cho thuê bao 2, thuê bao 1 đặt một bộ nhận dạng (số của thuê bao khác/số của kênh logic) để xác định nơi đến của gói đó ghi vào trong gói và rồi gửi nó vào hệ thống chuyển mạch A. Hệ thống chuyển mạch gói A xác định một hệ thống chuyển mạch mà nó phải gửi gói đã nhận đó đến. Tiến trình này gọi là điều khiển định tuyến. Như chỉ rõ trong hình 2.25, gói của bao 1 có thể gửi đi tới bất kỳ một con đường nào trong số b, c và d. Tuy vậy hướng d cần phải được chọn để bảo đảm khoảng cách ngắn nhất và hiệu quả cao nhất. Nếu hướng d bị trục trặc hoặc lưu lượng quá lớn, gói đó cần được gửi theo b và c. Thực tế, hệ thống chuyển mạch hoạt động trên cơ sở một bảng lộ trình; nội dung của bảng này có thể thay đổi khi cần tuỳ theo tình trạng của hệ thống chuyển mạch kế cận và sự lưu thông của mạng. Bảng này cần phải được soạn thảo và sử dụng theo những nguyên tắc định sẵn như là thuật toán định tuyến cố định.

Hình 2.25. Ví dụ về mạng chuyển mạch gói

B) Kênh logic

Trong việc truyền dữ liệu, quá trình truyền tin giữa 2 thuê bao không được thực hiện một cách tự động ngay cả khi đường thông tin đã được kết nối bằng điện. Trong trường hợp một cuộc gọi điện thoại, chỉ có một đường liên lạc được nối khi phía được gọi trả lời điện thoại. Như vậy chỉ có kênh vật lý là được thiết lập. Loại kênh này gọi là kênh logic. Trong mạng gói, kênh logic này được phân loại thành cuộc gọi ảo, cuộc gọi ảo vĩnh viễn và dữ liệu biểu tuỳ theo loại của chúng.

Cuộc gọi ảo

Khi một đường thoại được thiết lập trên mạng điện thoại, kênh đó được dùng cho đến khi gọi xong. Điều này cũng giống như trường hợp cuộc gọi ảo của mạng gói. Như trình bày trong hình 2.26, khi một thuê bao chủ bắt đầu gọi thuê bao này gửi một gói yêu cầu gọi bao gồm số điện thoại của đối tác và số kênh logic thuê bao sẽ dùng trên mạng.

Hình 2.26. Thủ tục truyền tin gói

Khi nhận được gói này, mạng gửi đi gói gọi đầu vào trong đó có kênh logic mà thuê bao đầu cuối sử dụng đến cho thuê bao số 2. Nếu thuê bao số 2 dạng ở trong trạng thái có thể nhận được cuộc gọi, nó gửi gói thông tin chấp nhận gọi cho mạng. Mạng gửi gói thông tin nhận được cho thuê bao số 1 như là một gói kết nối cuộc gọi và như vậy lập được đường liên lạc logic giữa thuê bao 1 và 2. Sau đó việc truyền gói dữ liệu được thực hiện qua kênh logic lúc đó đã được thiết lập. Một cuộc gọi ảo đã được thiết lập thông qua các thủ tục trên. Một gói yêu cầu xoá được gửi đi khi chấm dứt liên lạc và kênh logic này được giải phóng qua việc dùng một gói chỉ thị xoá và gói xác nhận xoá. Cũng như trong trường hợp gọi điện thoại, cuộc gọi ảo là cuộc gọi thiết lập ra một mạch logic cho trao đổi dữ liệu và sau đó gửi dữ liệu chỉ qua kênh đó và cuối cùng xoá kênh đi khi hoàn tất liên lạc.

Gọi ảo vĩnh viễn

Gọi ảo vĩnh viễn là phương pháp thiết lập đường liên lạc logic vĩnh viễn giữa 2 thuê bao và do đó không cần phải thiết lập hoặc xoá kênh logic như trong trường hợp gọi ảo.

Dữ liệu biểu

Không như những kênh logic nói trước đây, đây là một phương pháp không cần thiết lập một kênh logic giữa 2 thuê bao. Thay vào đó, thuê bao chủ gọi chỉ việc gửi một gói có số của phía đối diện trong mỗi gói và dựa theo số đó ở mỗi gói, mạng gửi gói đó tới hệ thống chuyển mạch tiếp theo. Các gói sẽ được gửi đi qua các loại tuyến khác nhau. Phương pháp này đặc biệt cólợi khi chuyển và nhận những thông báo ngắn.

(C) Ghép kênh gói

Nói chung, một thuê bao có thể có nhiều số kênh logic ngay khi nếu một đường dây được nối vật lý với mạng gói. Nếu thiết bị đầu cuối có thể xử lý dữ liệu từ nhiều nguồn cùng một lúc, một cuộc gọi cho nhiều hơn 2 thuê bao có thể thiết lập được. Đây gọi là ghép kênh gói.

Hình 2.27. Ghép kênh gói

(D) Điều khiển trình tự

Do các gói dữ liệu chuyển qua một kênh logic có thể chuyển theo nhiều đường khác nhau, trình tự gói dữ liệu có thể thay đổi. Việc điều khiển trình tự là một quá trình sửa chữa và ngǎn ngừa việc đó xảy ra. Trong một gói dữ liệu có một trường thủ tục truyền và trường thủ tục nhận; Thuê bao truyền gán số thủ tục truyền khi truyền đi một gói. Trình tự của gói dữ liệu nhận qua mạng được kiểm tra tại hệ thống chuyển mạch cuối cùng gắn với người thuê bao bị gói; trình tự sai sẽ được sửa lại và gói nhận trùng lặp sẽ được loại bỏ. Những gói thấp hơn gói bị mất cũng bị loại bỏ để gửi đi những gói đúng tới thuê bao cuối theo đúng trình tự.

Vì phương pháp biểu dữ liệu không có một đường liên lạc logic nên việc điều khiển trình tự được thực hiện ở thuê bao đầu cuối chứ không phải ở trên mạng.

(E) Trạng thái ngõ cụt

Hệ thống chuyển mạch gói là một hệ thống chuyển mạch lưu trữ, lưu giữ tạm thời các dữ liệu trong bộ nhớ. Nhiều máy thuê bao có chung một hệ thống chuyển mạch và vì cỡ của bộ nhớ trong hệ thống có giới hạn, nên xảy ra tình trạng ách tắc do thiếu bộ nhớ. Đôi khi ách tắc có thể lan sang các hệ thống chuyển mạch bên cạnh cho đến khi ngừng lại toàn bộ luồng của các gói thông tin trên mạng. ách tắc có xảy ra do nhiều vấn đề kể cả do khác nhau về tốc độ truyền tin giữa các thuê bao.

(F) Điều khiển luồng

Số lượng gói dữ liệu đưa vào mạng cần có giới hạn để tránh ách tắc. Những phương pháp dùng cho mục đích này gồm một tiến trình hạn chế bộ đệm để hạn chế số lượng tối đa các gói dữ liệu truyền đi, một tiến trình gọi là phương pháp điều khiển cửa sổ để truyền đi một số lượng nhất định các gói dữ liệu qua mạng đến trạm đầu cuối đối diện và chỉ tiếp tục truyền gói dữ liệu tiếp theo sau khi có sự xác định đã nhận được các gói đó, một tiến trình gọi là WABT, phương pháp này gửi tín hiệu không sẵn sàng nhận khi thiếu bộ đệm để hạn chế đầu vào, và một tiến trình gọi là phương pháp trung tâm quản lý mạng, điều khiển trạng thái của đường thông trong mạng bằng cách tạo ra một trung tâm quản lý mạng. Trong thực tế, một số tiến trình mô tả trên cũng được sử dụng cùng một lúc trong mạng gói.

(G) Dịch vụ bổ xung

Hệ thống chuyển mạch nhóm có những dịch vụ bổ sung để thoả mãn một cách hiệu quả hơn những nhu cầu của người sử dụng.

Kết nối khép kín

Như minh hoạ trong hình 2.28, kết nối khép kín là một dịch vụ cho phép người sử dụng dùng mạng gói như là một mạng thuê. Việc truyền tin của kết nối khép kín và máy thuê bao chung khác không thể thực hiện được.

Hình 2.28. Kết nối khép kín

2.5.5 Phương pháp báo hiệu

Để thực hiện việc nối mạch, thông tin cần thiết để điều khiển phải được trao đổi giữa điện thoại và hệ thống chuyển mạch và giữa các hệ thống chuyển mạch với nhau. Phương pháp báo hiệu là một thủ tục về phương pháp truyền những thông tin này, ví dụ, giữa điện thoại và hệ thống chuyển mạch, những yêu cầu tiếp nối và phục hồi, chỉ định lựa chọn bằng xung quay số, trả lời thông báo bằng âm chủ gọi hoặc âm chuông trao đổi với nhau.Ngoài ra, những tín hiệu giữa các tổng đài với nhau như kích hoạt, trả lời, lựa chọn, kết thúc, ngắt và thông tin cước được trao đổi giữa các hệ thống chuyển mạch trên mạng điện thoại. Trong hình 2.29 minh hoạ luồng tín hiệu cơ bản.

Hình 2.29. Luồng tín hiệu cơ bản

Phương pháp chuyển báo hiệu lại được phân loại thành phương pháp báo hiệu kênh kết hợp và báo hiệu kênh chung (CCS). Trong hệ thống chuyển mạch thông thường, tín hiệu được phát và thu qua một kênh thoại riêng lẻ. Đó gọi là báo hiệu kênh kết hợp. Trong phương pháp báo hiệu kênh chung, những kênh gọi tách biệt nhau và do đó các tín hiệu được thu thập vào những kênh truyền cao tốc đặc biệt trước khi được truyền và nhận. Phương pháp này có thể chuyển nhiều thông tin theo 2 chiều dù các kênh thoại có bị bận hay không. Do đó nó tǎng cường được hiệu quả của toàn bộ hệ thống bằng cách kiểm tra toàn bộ mạng tuyến và nó đủ linh hoạt để đáp ứng những dịch vụ mới. Vì những lí do đó, nó là điều lý tưởng đối với ISDN. Phương pháp này như trường hợp phương pháp điều khiển chương trình lưu trữ, phù hợp với hệ thống chuyển mạch điện tử có các chức nǎng tập trung.

Hình 2.30. Báo hiệu kênh kết hợp (a) và Báo hiệu kênh chung (b)

Báo hiệu kênh kết hợp được chia thành hệ thống báo hiệu trong bǎng sử dụng dải tần tiếng nói và hệ thống báo hiệu ngoài bǎng sử dụng tần số báo hiệu khác với dải tần tiếng nói. Mã đa tần dùng để tạo mã bằng cách kết hợp tần số sử dụng 2 trong số 6 tần số của dải tần tiếng nói. Đó là một ví dụ điển hình về báo hiệu trong bǎng. Xung quanh số hay đấu vòng trực tiếp là thí dụ về hệ thống báo hiệu ngoài bǎng. Báo hiệu kênh chung giúp hệ thống sử dụng các thiết bị báo hiệu; những phương tiện phức tạp có thể được thiết lập một cách kinh tế và có thể truyền nhiều thông tin hai chiều với tốc độ cao. Phương pháp báo hiệu số 6 / số 7 theo khuyến nghị của ITU-T là ví dụ điển hình thuộc về phương pháp này.

A. Phương pháp báo hiệu R2 - MFC

Đây là một cách báo hiệu kênh kết hợp và một ví dụ điển hình là phương pháp R2 - MFC. Phương pháp này đã được ITU-T tiêu chuẩn hoá nǎm 1968. Nó có thể được phân loại thêm thành báo hiệu giám sát và báo hiệu chọn lọc như sau:

1/ Báo hiệu giám sát

Những tín hiệu giám sát được chuyển tới hệ thống chuyển mạch tuỳ theo các trạng thái thay đổi của mạng xảy ra ở cả hai đầu của đường gọi, ví dụ như sau:

• Rỗi (Idle): đường trung kế sẵn sàng để sử dụng

• Chiếm (Seizure): tín hiệu báo rằng hệ thống chuyển mạch phía chủ gọi đã chiếm đường trung kế đi tới hệ thống chuyển mạch phía bị gọi

• Chấp nhận chiếm (Seizure acknwledgement): tín hiệu thông báo xác nhận tín hiệu chiếm của hệ thống chuyển mạch phía chủ gọi.

• Trả lời / Xung đo (Answer/meter): tín hiệu báo trả lời của máy thuê bao bị gọi cho hệ thống chuyển mạch phía chủ gọi

• Xung tính cước / Chấp nhận chiếm (Metering/Seizue acknwledgement): tín hiệu liên quan tới xung tính cước của điện thoại công cộng. Đôi khi dùng làm tín hiệu báo chiếm.

• Xoá về (Clear back): tín hiệu thông báo tới hệ thống chuyển mạch phía bị gọi rằng thuê bao bị gọi đã đặt máy.

• Xoá đi (Clear forward): tín hiệu thông báo tới hệ thống chuyển mạch phía bị gọi rằng thuê bao chủ gọi đã đặt máy.

• Khoá: tín hiệu báo rằng tín hiệu tương ứng không thể đưa ra ngoài được.

2) Tín hiệu lựa chọn:

Tín hiệu lựa chọn xem xét số của máy thuê bao bị gọi. Trên cơ sở đó, có thể xác định được vị trí của máy thuê bao bị gọi. 15 tín hiệu hướng đi và 15 tín hiệu hướng về được tạo ra bằng cách sử dụng kết hợp tần số của 2 trong số 6 tần số trong bǎng để truyền và nhận các loại thông tin khác nhau.

Tần số sử dụng

Tín hiệu hướng đi: 1,380Hz, 1.500Hz, 1.620Hz, 1.740Hz, 1.860Hz và 1.980Hz

Tín hiệu hướng về: 540Hz, 660Hz, 780Hz, 900Hz, 1.020Hz và 1.140Hz

Nhiều ý nghĩa được chỉ định cho từng tín hiệu trên và những ý nghĩa tín hiệu được diễn giải khác nhau tuỳ theo vị trí tại tín hiệu hướng về A - 3, A - 5, hoặc chuỗi báo hiệu để truyền và nhận số lượng lớn thông tin.

Tín hiệu hướng đi

Phân loại vào nhóm I, II: I - 1, I - 2,........................................... I 15

II - 1, II - 2,.......................................................II - 15

Tín hiệu hướng về

Phân loại vào nhóm A, B: A - 1, A - 2,........................................ A - 15

B - 1, B - 2,....................................................... B - 15

(1) Tín hiệu hướng đi

Có 15 tín hiệu hướng đi trong nhóm I và 15 trong nhóm II. Tín hiệu nhóm I chủ yếu là thể hiện các số của máy thuê bao bị gọi. Tín hiệu đầu tiên trên chuỗi báo hiệu phát đi được diễn giải là tín hiệu nhóm I. Cũng như vậy, tín hiệu về đầu tiên được diễn giải là tín hiệu nhóm A. Sử dụng tín hiệu về cụ thể (A - 3, A - 5) thì có thể thực hiện được việc chuyển đổi từ nhóm I sang nhóm II. Khi được chuyển sang nhóm nhóm II bằng tín hiệu về A - 5, thì có thể chuyển đổi được sang nhóm I. Việc chuyển đổi từ nhóm A sang nhóm B chỉ có thể thực hiện được với tín hiệu về A - 3. Một khi đã chuyển sang nhóm B thì không thể chuyển sang nhóm A được.

Tín hiệu số Tần số Ghi chú

1.980 1.860 1.740 1.620 1.500 1.380 Đi

540 660 780 900 1.020 1.140 Về

1 0 0

2 0 0

3 0 0

4 0 0

5 0 0

6 0 0

7 0 0

8 0 0

9 0 0

10 0 0

11 0 0

12 0 0

13 0 0

14 0 0

15 0 0

Bảng 2.3. Địa chỉ tần số báo hiệu R2 - MFC

Tín hiệu đi nhóm I

Trong nhóm I, có 2 ý nghĩa như trong Bảng 2.4

Tín hiệu I - 1 ~ I - 10

Nói chung, chúng tương ứng với chữ số của số máy thuê bao bị gọi

(I - 1 = 1, I - 2 = 2, ....... I - 9 = 9 , I - 10 = 0 )

Đối với những cuộc gọi quốc tế, ngôn ngữ chữ số được sử dụng để nối với điện báo viên, cụ thể khi cuộc gọi quốc tế kết thúc ở tổng đài cuối (ý nghĩa 1). Nếu không cần tới ngôn ngữ, chúng được sử dụng như là những chữ số phân biệt để thể hiện những tổng đài cuối. Chúng chỉ được truyền đi khi hệ thống chuyển mạch rơ-le quốc tế yêu cầu những chữ số phân biệt và ngôn ngữ bằng tín hiệu hướng về A - 12.

Tín hiệu Nhóm I Nhận xét

Nghĩa 1 Nghĩa 2

I - 1 Ngôn ngữ: Pháp Chữ số 1

I - 2 Ngôn ngữ: Anh Chữ số 2

I- 3 Ngôn ngữ: Đức Chữ số 3

I - 4 Ngôn ngữ: Nga Chữ số 4

I - 5 Ngôn ngữ: Tây Ban Nha Chữ số 5

I - 6 Dự phòng (ngôn ngữ) Chữ số 6

I - 7 Dự phòng (ngôn ngữ) Chữ số 7

I - 8 Dự phòng (ngôn ngữ) Chữ số 8

I - 9 Dự phòng (số phân biệt) Chữ số 9

I - 10 Số phân biệt Chữ số 0

I - 11 Chỉ thị Mã nước (cần Bộ triệt nửa âm dội O/G) Truy nhập tới I/C điện báo viên (mã II)

I - 12 Chỉ thị Mã nước ( không cần bộ triệt âm dội ) Truy nhập tới điện báo viên trì hoãn (mã 12) yêu cầu không được chấp nhận

I - 13 Chỉ thị gọi thử (gọi bằng thiết bị đo thử tự động) Truy nhập tới thiết bị thử (Mã 13) không kể nối với vệ tinh

I - 14 Chỉ thị Mã nước (gắn bộ triệt nửa âm dội O/G) Cần bộ triệt nửa âm dội I/C kể cả nối với vệ tinh

I - 15 Dự phòng Chấm dứt xung (Mã 15) chấm dứt nhận dạng

Bảng 2.4. Nhóm I tín hiệu hướng đi

Tín hiệu I - 11 ~ I - 15

Do các hệ thống tạo ra (không kể các máy thuê bao)

Trong hệ thống chuyển mạch rơ-le quốc tế, nghĩa 1 chỉ được sử dụng cho tín hiệu đầu tiên, nghĩa 2 dùng cho các tín hiệu khác.

Tín hiệu Nghĩa Nhận xét

II - 1 Máy thuê bao không ưu tiên

II - 2 Máy thuê bao ưu tiên

II - 3 Thiết bị bảo dưỡng

II - 4 Dự phòng

II - 5 Điện báo viên

II - 6 Truyền dữ liệu

II - 7 Máy thuê bao (hoặc điện báo viên không có phương tiện chuyển tín hiệu đi)

II - 8 Truyền dữ liệu

II - 9 Máy thuê bao ưu tiên

II - 10 Điện báo viên có phương tiện truyền tín hiệu đi

II - 11 - 15 Dự phòng cho sử dụng của quốc gia

Bảng 2.5. Nhóm II tín hiệu hướng đi cổng trung chuyển

Nhóm II Tín hiệu hướng đi

Những tín hiệu của nhóm II thể hiện các cấp của phía chủ gọi. Biến đổi từ nhóm I sang bằng tín hiệu hướng về A - 3 hay A - 5

• Tín hiệu II - 1 ~ II - 6: Dùng cho các cuộc gọi trong nước

• Tín hiệu II - 7 ~ II - 10: Dùng cho các cuộc gọi quốc tế

• Tín hiệu II - 11 ~ II - 15: Dự trữ cho các cuộc gọi trong nước

Tín hiệu Nghĩa Nhận xét

A - 1 Gửi số tiếp theo (n + 1) của số bên bị gọi

A - 2 Gửi số áp chót (n - 1)

A - 3 Đã nhận địa chỉ đầy đủ, chuyển sang nhận tín hiệu

của nhóm B

A - 4 Tắc nghẽn trong mạng quốc gia

A - 5 Gửi cấp máy chủ gọi

A - 6 Địa chỉ đầy đủ, tính cước, thiết lập các điều kiện thoại

A - 7 Gửi số thứ n - 2

A - 8 Gửi số thứ n - 3

A - 9 Dự trữ cho sử dụng trong nước

A - 10 Dự trữ cho sử dụng trong nước

A - 11 Yêu cầu thông tin về sử dụng Bộ triệt âm dội

A - 12 Gửi digit về ngôn ngữ hoặc chữ số phân biệt

A - 13 Gửi thông tin về bản chất kênh

A- 14 Yêu cầu thông tin về sử dụng Bộ triệt âm dội

A - 15 Tắc nghẽn trong tổng đài quốc tế hoặc tại đầu ra của nó

Bảng 2.6. Nhóm A tín hiệu hướng về

(2) Tín hiệu hướng về

Do các hệ thống tạo ra (không kể các máy thuê bao)

Nhóm A tín hiệu hướng về

Tạo ra do tín hiệu hướng đi của Nhóm I hoặc tín hiệu hướng đi của Nhóm II cho những trường hợp đặc biệt. Chúng thể hiện những yêu cầu về số thuê bao bị gọi và nhận thông báo đầy đủ.

Tín hiệu Nghĩa Nhận xét

B - 1 Dự trữ cho sử dụng quốc gia

B - 2 Phát tone thông tin đặc biệt

B - 3 Đường thuê bao bận

B - 4 Tắc nghẽn (sau khi chuyển từ nhóm A sang Nhóm B)

B - 5 Số chưa được gán

B - 6 Đường thuê bao rỗi, tính cước

B - 7 Đường thuê bao rỗi, không tính cước

B - 8 Đường thuê bao không hoạt động được

B - 9 - 15 Dự trữ cho sử dụng quốc gia

Bảng 2.7. Nhóm B tín hiệu hướng về

- Nhóm B tín hiệu hướng về

Được chuyển đổi bằng tín hiệu hướng đi nhóm II hay tín hiệu về A-3. Chúng thể hiện thông tin về trạng thái của những máy thuê bao bị gọi và thiết bị chuyển mạch của các hệ thống chuyển mạch phía bị gọi.

B. Báo hiệu số 7

Hệ thống báo hiệu số 7 (SS No.7) của ITU-T được thiết lập để đáp ứng những yêu cầu phát triển báo hiệu của mạng số hoá hoàn toàn dựa trên kênh 64 Kbps. SS No.7 là một hệ thống báo hiệu kênh chung. Những hệ thống báo hiệu SS No.7 trước đây hoạt động ở 2.400bps và được thực hiện trên những kênh tương tự chuẩn VF. Chúng không có công nǎng đầy đủ và cũng không phù hợp với mạng số hiện nay và đặc biệt là với ISDN. Tuy nhiên người ta có thể thấy rằng có nhiều điểm tương đồng trong hoạ đồ và cấu trúc thông báo giữa CCIS/ITU-T và SS No.7.

Nói một cách đơn giản, ITU-T SS No.7 được mô tả như là một hệ thống báo hiệu kênh chung đa dụng được tiêu chuẩn hoá quốc tế:

• Tối ưu hoá vận hành với các mạng số có chuyển mạch sử dụng Bộ điều khiển chương trình lưu trữ (SPC).

• Có thể đáp ứng những nhu cầu hiện nay và tương lai về chuyển thông tin cho những bộ liên xử lý biến động với những mạng thông tin số để điều khiển gọi, điều khiển từ xa, sử dụng và quản lý mạng dữ liệu cơ sở và bảo dưỡng báo hiệu.

• Cung cấp một phương tiện tin cậy để chuyển thông tin đúng trình tự không thất lạc hoặc trùng lặp.

ITU-T SS No.7, trong những nǎm từ 1980, đã được biết đến như một hệ thống báo hiệu cho ISDN. Sự thật đúng như vậy. Không có cơ cấu hạ tầng SS No. đặt trong mạng số, thì không có ISDN với sự truy nhập khắp mọi nơi. Cần phải làm rõ một điều quan trọng. ITU-T SS No.7 bản thân nó là sự lựa chọn để báo hiệu trong mạng số PSN (Mạng điện thoại công cộng - khi không có ISDN). Nó có thể tự đứng vững một mình trong chức nǎng này. SS No.7 là một hệ thống truyền dữ liệu thiết kế cho một mục đích duy nhất: báo hiệu. Nó không phải là một hệ thống đa nǎng. Do vậy chúng ta phải nhìn nhận SS No.7 như là (1) một mạng dữ liệu chuyên dụng và (2) một hệ thống báo hiệu.

1) Mối liên hệ của SS No.7 với OSI

ITU-T SS No.7 có liên hệ với OSI tới một mức độ nhất định. Có một nhóm người ta đã tin rằng SS No.7 cần được hoàn toàn thích ứng với 7 tầng của OSI. Tuy nhiên, các nhóm làm việc ITU-T chịu trách nhiệm cho ý tưởng và thiết kế SS No.7 đã ngần ngại vì sự chậm trễ hoặc là cho người sử dụng số liệu, hoặc là cho người sử dụng điện thoại của mạng số PSN hay ISDN. Việc chậm trế trong lúc quay số đầu tiên là một trong những biện pháp vận hành chủ yếu của một hẹe thống báo hiệu. Để tối thiểu hoá mức trễ, 7 tầng OSI đã được bỏ bớt ở tầng 4. Thực ra, khuyến nghị ITU-T Q.709 đã qui định không nhiều hơn 2.2 giâycho mức trễ quay số của 95% các cuộc gọi. Để hạn chế mức trễ này, một giới hạn được đặt ra cho số lượng các điểm làm trễ, nó được gọi là STPs, mà có thể được truyền qua bởi một bản tin báo hiệu và một thiết kế vốn có của SS No.7 dưới dạng một hệ thống 4 tầng. Hình 2.31 chỉ ra liên quan giữa thủ tục SS No.7 với các tầng của OSI. Chúng ta nên ghi chú rằng những chức nǎng mạng báo hiệu SS No.7 tầng 3 bao gồm các chức nǎng xử lý bản tin báo hiệu và các chức nǎng quản lý mạng. Hình 2.32 cho thấy cấu trúc tổng quát của hệ thống báo hiệu SS No.7 Schlanger đã có những nhận xét thích hợp như sau:

:Báo hiệu được thực hiện một cách đặc thù để tạo ra một mạng lưới liên lạc phụ cho 'người sử dụng ở đầu cuối mạng'. Cũng như vậy một số người lập luận cho rằng toàn bộ mẫu chuẩn của SS No.7 như là một thủ tục trong hệ thống liên lạc phụ chỉ còn tồn tại tầng 3 OSI (tầng mạng lưới) và phía dưới."

Hệ thống liên kết mở

OSI Hệ thống báo hiệu

No.7 (SS No.7)

7 Tầng ứng dụng

6 Tầng giới thiệu

5

4 Tầng vận tải 4 Phần người sử dụng (SCCP)

3 Tầng mạng lưới 3 Các chức nǎng mạng lưới báo hiệu

2 Tầng liên kết số liệu 2 Điều khiển liên kết báo hiệu

1 Tầng vật lý 1 Liên kết số liệu báo hiệu

"Các quá trình ứng dụng trong phạm vi một mạng thông tin gợi lên chức nǎng tạo thủ tục để liên lạc với nhau y hệt như những người sử dụng ở các đầu cuối. Do vậy mẫu chuẩn 7 tầng tương tự cần áp dụng trong ứng dụng này".

"Thủ tục hệ thống báo hiệu được thấy bao hàm các hoạt động, điều hành và bảo dưỡng (OA & M) có liên quan tới viễn thông. Vì các thợ giỏi có thể bị lôi cuốn vào các hoạt động như vậy (những người sử dụng thực sự ở các đầu cuối), cũng như các quá trình ứng dụng OA & M, nên sự phân biệt giữa các thực thể tầng mạng lưới và người sử dụng đầu cuối trở nên mờ nhạt".

Dường như đã có nhiều cố gắng nhằm đưa SS No. 7 vào OSI từ tầng 4 và phía trên. Các cố gắng này kết quả đã tạo ra sự tạo thành tầng phụ của tầng 4 trong SCCP (phần điều khiển đấu nối báo hiệu) và các phần của người sử dụng.

Phần 2 sẽ mô tả một cách ngắn gọn các chức nǎng của các tầng trong hệ thống báo hiệu số 7 SSNO7 4 tầng.

- Luồng bản tin báo hiệu

TUP phần người sử dụng telephone

"Other type" ám chỉ ISDN

DUP điều khiển và chỉ thị. Dữ liệu phần người sử dụng

Hình 2.32 Cấu trúc tổng quát các chức nǎng của ITU-T SS No.7

Trích từ ITU-T Rec. Q701

2) Cấu trúc hệ thống báo hiệu

Hình 3.22 minh hoạ cấu trúc cơ bản của SS No.7 cho thấy hai phần của hệ thống: phần truyền bản tin (MTP) và các phần cho người sử dụng. Có 3 phần cho người sử dụng:

- Cho người sử dụng điện thoại (TUP)

- Cho người sử dụng số liệu (DUP) và một bộ phận "khác" mà trong ngữ cảnh này muốn nói tới phần người sử dụng ISDN (ISUP). Hình 3.21 và 3.22 cho thấy các tầng 1, 2 và 3, là các tầng cấu thành MTP. Các đoạn chỉ dẫn kế tiếp mô tả chức nǎng của từng tầng này theo quan điểm hệ thống.

Tầng 1 xác định các đặc tính vật lý, điện và chức nǎng của đường liên kết số liệu báo hiệu và phương tiện để truy nhập nó. Trong môi trường mạng số liệu đường số 64 Kbps là phần kết nối cơ bản bình thường. Phần kết nối báo hiệu có thể truy nhập được bằng chức nǎng chuyển mạch cung cấp khả nǎng tự động tái tạo lại cấu hình liên kết báo hiệu.

Tầng 2 thực hiện chức nǎng liên kết báo hiệu. Nó xác định các chức nǎng và các thủ tục để truyền các bản tin báo hiệu qua một đường liên kết số liệu báo hiệu riêng lẻ. Một bản tin báo hiệu được truyền qua đường liên kết báo hiệu theo các đơn vị tín hiệu có chiều dài thay đổi. Một đơn vị tín hiệu bao gồm thông tin điều khiển truyền tin thêm vào với nội dung thông tin của bản tin báo hiệu.

Chức nǎng liên kết báo hiệu bao gồm:

• Giới hạn một đơn vị tín hiệu bằng các cờ.

• Chống nhầm lẫn cờ bằng việc chèn thêm các bit.

• Điều khiển lỗi bằng cách phát lại và điều khiển chuỗi đơn vị tín hiệu bằng dãy số trong từng đơn vị tín hiệu và thông báo xác nhận liên tục một cách rõ ràng.

• Phát hiện lỗi liên kết báo hiệu bằng cách kiểm tra lỗi trong đơn vị tín hiệu và phục hồi liên kết báo hiệu bằng các thủ tục đặc biệt.

Tầng 3 với chức nǎng mạng báo hiệu, về nguyên tắc, đưa ra định nghĩa các chức nǎng và thủ tục truyền chung và độc lập của các liên kết báo hiệu riêng lẻ. Có 2 loại chức nǎng ở tầng 3:

• (1) Các chức nǎng xử lý bản tin báo hiệu. Trong khi truyền bản tin, những chức nǎng này hướng bản tin tới liên kết báo hiệu hoặc phần cho người sử dụng tương ứng.

• (2) Các chức nǎng quản lý mạng báo hiệu. Chức nǎng này điều khiển xác định hướng theo thời gian thực, điều khiển và tái tạo lại cấu hình mạng khi cần thiết.

Tầng 4 là phần cho người sử dụng. Mỗi phần cho người sử dụng xác định các chức nǎng và các thủ tục đặc trưng cho từng người sử dụng riêng biệt, dù đó là điện thoại, số liệu hay phần người sử dụng ISDN.

Bản tin báo hiệu được định nghĩa bởi chuẩn ITU-T Reg. Q.701 như là một tập hợp thông tin, được định nghĩa tại tầng 2 hay 4, có liên quan tới 1 cuộc gọi, sự quản lý v.v. mà sau đó được chuyển đi như một thực thể bởi chức nǎng chuyển bản tin. Mỗi một bản tin đều chứa đựng "thông tin dịch vụ" bao gồm 1 chỉ số dịch vụ nhận dạng phần người sử dụng nguồn và có thể là xác định bản tin liên quan tới việc ứng dụng nội địa hay quốc tế của phần người sử dụng.

Thông tin báo hiệu của bản tin chứa đựng thông tin của người sử dụng, như các số liệu hoặc các tín hiệu điều khiển các cuộc gọi, thông tin quản lý và bảo dưỡng, dạng và kích cỡ bản tin. Nó cũng bao gồm 1 "nhãn". Nhãn này giúp cho việc định hướng bản tin bởi tầng 3 qua mạng báo hiệu tới đích của nó và hướng bản tin tới phần người sử dụng hoặc tuyến mong muốn.

Trong liên kết báo hiệu, thông tin báo hiệu như vậy được chứa trong các đơn vị tín hiệu bản tin (MSUs) mà các đơn vị này lại bao gồm các chức nǎng điều khiển truyền có liên quan tới các chức nǎng ở tầng 2.

Trong SS No.7 có một số thuật ngữ được sử dụng cần phải hiểu trước khi đi tiếp các bước sau:

• Các điểm báo hiệu (signalling Points): là những nút trong mạng có sử dụng báo hiệu kênh chung.

• Quan hệ báo hiệu (Signaling Relation) (tương tự với quan hệ lưu lượng): là bất cứ hai điểm báo hiệu nào mà khả nǎng liên lạc giữa các phần người sử dụng tương ứng với chúng tồn tại, được gọi là có 1 quan hệ về báo hiệu.

• Các liên kết báo hiệu (Signaling links) các liên kết báo hiệu chuyển các bản tin báo hiệu giữa 2 điểm báo hiệu.

• Các điểm nguồn và đích (Originating and Destination Points): là các vị trí của chức nǎng phần người sử dụng nguồn và vị trí của chức nǎng phần người sử dụng nhận tương ứng.

• Điểm truyền báo hiệu (Signaling Transfer Point (STP)): là một điểm mà trong đó một bản tin nhận được trên một liên kết báo hiệu được truyền đi tới một liên kết khác.

• Nhãn ở tin (Massage Label): mỗi bản tin có mang theo một nhãn. ở nhãn tiêu chuẩn, phần được sử dụng cho việc định tuyến được gọi là nhãn định tuyến (routing label). Nhãn định tuyến bao gồm:

Điểm đích và nguồn của bản tin

Một mã số dùng để phân tải, đây có thể là phần ít quan trọng nhất trong kết cấu của một nhãn mà nó định ra phần giao dịch của người sử dụng ở tầng 4.

Nhãn tiêu chuẩn nêu rằng mỗi một điểm báo hiệu trong mạng báo hiệu được gán cho một mã nhận dạng theo sơ đồ mã được thiết lập cho mục đích tạo nhãn.

• Định tuyến bản tin (Message Routing): là quá trình lựa chọn các liên kết báo hiệu được sử dụng cho từng việc định tuyến bản tin báo hiệu trên cơ sở phân tích nhãn định tuyến của bản tin kết hợp với các số liệu định tuyến đã được định trước tại một điểm báo hiệu đặc biệt nào đó.

• Phân bố bản tin (Messaga Distribution): là quá trình xác định phần người sử dụng mà một bản tin sẽ được gửi tới. Sự lựa chọn được thực hiện nhờ sự phân tích chỉ số dịch vụ.

• Phân biệt bản tin (Message Discrimination): là quá trình xác định sự nhận một bản tin tại một điển báo hiệu là điểm đích cuả bản tin. Quyết định này dựa trên sự phân tích mã đích của nhãn định tuyến trong bản tin. Nếu điểm báo hiệu là điểm đích, bản tin được chuyển tới chức nǎng đích của bảnt tin. Còn nếu không, bản tin sẽ được chuyển tới chức nǎng định tuyến để chuyển tiếp trên đường liên kết báo hiệu.

• Quản lý mạng báo hiệu (Signaling Network Management): Được thiết lập bởi 3 lĩnh vực kỹ thuật:

- Quản lý lưu lượng báo hiệu.

- Quản lý liên kết báo hiệu.

- Quản lý định tuyến báo hiệu.

Các chức nǎng quản lý lưu lượng báo hiệu là:

• Điều khiển định tuyến bản tin, kể cả sửa đổi tuyến bản tin để duy trì sự kết nối.

• Đảm bảo luồng bản tin cùng với các sửa đổi về định tuyến bản tin.

• Các thao tác điều khiển luồng để hạn chế ảnh hưởng của quá tải.

Các chức nǎng quản lý liên kết tín hiệu điều khiển các bộ liên kết đấu nối theo khu vực, bao gồm cả việc khôi phục liên kết. Chức nǎng này cung cấp các số liệu liên kết của các liên kết khu vực tới các chức nǎng quản lý lưu lượng tín hiệu.

Chức nǎng quản lý định tuyến báo hiệu. Chức nǎng quản lý định tuyến báo hiệu chỉ được sử dụng khi liên kết báo hiệu hoạt động ở chế độ gần như kết hợp (quasi - associated). Chế độ gần như kết hợp liên quan tới những liên kết báo hiệu mà sử dụng 1 tuyến khác với tuyến bản tin thông thường. Nhiệm vụ quản lý tuyến là truyền thông tin về những thay đổi trong khả nǎng có thể có các tuyến báo hiệu trong mạng lưới báo hiệu để tạo điều kiện cho các điểm báo hiệu ở xa có thể có các tác động quản lý lưu lượng báo hiệu một cách thích hợp.

Một danh sách các đặc tính kỹ thuật về mạng lưới thông tin số được trình bày ở bảng 3.2. Những đặc tính này được liệt kê theo thứ tự mà tác giả cho là tương xứng với tầm quan trọng của chúng đối với lĩnh vực điện thoại nói chung. Tuy nhiên trong các ứng dụng riêng biệt khác, sự cân nhắc nào đó có thể cho là ít nhiều quan trọng hơn. Chẳng hạn, ở mục cuối cùng, sự giảm bớt tính rắc rối khó hiểu là đặc điểm nổi trội khiến mạng số được ưa chuộng trong quân sự.

3) Đơn vị báo hiệu số 7

Có thể có 3 dạng đơn vị tín hiệu cho SS No.7 như sau; Cấu hình của mỗi đơn vị tín hiệu được trình bày ở hình 2.23

• MSU (đơn vị tín hiệu bản tin). Truyền các số liệu giữa tầng 3 và tầng 4.

• LSSU (đơn vị tín hiệu trạng thái liên kết). Thông tin về trạng thái các liên kết tín hiệu chuyển phát số liệu

• FLSU (đơnvị tín hiệu chèn thêm). Được chuyển phát khi MSU và LSSU không được chuyển phát

Hình 2.33. Kích thước của đơn vị tín hiệu SS No.7

(1) Kích thước đơn vị tín hiệu số 7

Như trên cho thấy, các kích thước đơn vị tín hiệu dùng cho hệ thống báo hiệu SS No.7 khác với MSU, LSSU và FISU. Mỗi trường của đơn vị báo hiệu có ý nghĩa như sau

A- Trường chung

• DF (cờ dữ liệu). Chỉ định điểm bắt đầu và kết thúc của đơn vị báo hiệu.

Mẫu: h'7e (0 1 1 1 1 1 1 0)

• BSN (dãy số lùi). Thể hiện dãy số của đơn vị tín hiệu cuối cùng đã thu nhận được một cách chính xác.

• BIB (bit chỉ thị lùi). Dùng cho yêu cầu phát lại của các đơn vị báo hiệu khi có lỗi xuất hiện.

• FSN (Dãy số tiến). Thể hiện dãy số của đơn vị tín hiệu sẽ được phát.

• FIB (Bit chỉ thị tiến). Dùng để chỉ thị việc phát lại của đơn vị báo hiệu bằng BIB

• LI (Chỉ thị độ dài)

Chỉ ra số Octet của trường giữa LI và CK (1 octet = 8 bits). Hệ thống chuyển mạch đầu cuối bị gọi thực hiện CRC để so sánh tình trạng lỗi của đơn vị báo hiệu để đánh giá. Trường này được sử dụng cho việc đánh giá này.

B-Trường duy nhất LSSU

- SF (Trường trạng thái). Trường này thể hiện trạng thái của liên kết báo hiệu

C- Trường duy nhất MSU.

- SIO (Tám bit thông tin dịch vụ). Đây là một bộ tám bit để xác định phần người sử dụng mà trong đó sẽ bao gồm thông tin được phát đi.

- SIS (Trường thông tin báo hiệu). Mã điểm đích, mã điểm nguồn, mã liên kết báo hiệu, và bộ tám bit từ 2 ~ 272 có thể thay đổi

(2) Phân loại nhóm đơn vị báo hiệu

• FAM (Bản tin địa chỉ tiến). Các bản tin sẽ được chuyển tiếp theo thông tin địa chỉ

• FSM (Bản tin thiết lập tiến). Các bản tin sẽ được chuyển đi tiếp sau các bản tin địa chỉ. Các bản tin này sẽ lại được phân loại thành các bản tin chung có các thông tin cần thiết cho việc nhận dạng các đường chủ gọi hoặc thiết lập cuộc gọi và các bản tin có các tín hiệu liên tục. Những bản tin này được gửi ngược lại để yêu cầu có thêm thông tin cho thiết lập cuộc gọi.

• SBM (Bản tin thông báo thiết lập thành công gửi về). Đây là một nhóm bản tin sẽ gửi các thông tin liên quan tới sự thành công của việc thiết lập cuộc gọi. Có các bản tin hoàn thiện địa chỉ và bản tin tính cước.

• UBM (Bản tin thông báo thiết lập không thành công gửi về). Đây là một nhóm bản tin để chuyển về các thông tin về việc thiết lập cuộc gọi không thành công.

• CSM (Bản tin giám sát cuộc gọi). Đây là một nhóm bản tin để theo dõi các cuộc gọi đã được thiết lập

• CCM (Bản tin giám sát mạch). Là nhóm bản tin theo dõi các nhóm đường thuê bao

2.5.6 Mạng truyền thông tích hợp

Các điện thoại thông thường chỉ được sử dụng để nối với một phía đối diện tương ứng nhằm thiết lập một cuộc gọi. Trong truyền số liệu, các đường dây chuyên dụng dùng cho một số lượng hạn chế các thuê bao cũng được sử dụng. Ngoài ra, các mạng lưới điện tín hiện nay đang hoạt động như là các hệ thống độc lập với các hệ thống thông tin khác. Mặt khác, tầm quan trọng của việc đảm bảo các phương tiện thích hợp để trao đổi thông tin ngày càng tǎng khi xã hội ngày càng tiến gần tới thời đại thông tin. Để đương đầu với những thay đổi ấy, các hệ thống chuyển mạch điện tử đang được tích hợp và những đặc điểm mới được phát triển. Thêm nữa, việc nghiên cứu các dịch vụ mới hoang toàn đáp ứng các yêu cầu của người sử dụng cũng đang được tiến hành. Mới gần đây, các cố gắng nhằm kết hợp các hình thức khác nhau của các hệ thống thông tin đang đựợc thực thi nhằm tạo được hiệu quả cao hơn và chi phí ít hơn. Nói chung, mục tiêu cơ bản của truyền thông có thể được coi như là quá trình gửi và nhận các thông tin cần thiết qua các loại phương tiện truyền thông khác nhau. Đồng thời, sự giao tiếp máy-máy được sử dụng để xử lý các số liệu cũng như điều khiển các tín hiệu.

Những dịch vụ kể trên có thể phân loại theo chức nǎng thành các dịch vụ chuyển mạch điện thoại, video và thông tin số liệu. Tuỳ theo dạng thông tin được xử lý, mà các phương pháp phục vụ, các đặc tính lưu lượng, độ rộng các dải tần truyền dẫn, và các đặc tính của các thiết bị đầu cuối sẽ được xác định. Kết quả là, nếu một mạng lưới thông tin với mục đích đặc biệt và dễ thiết kế được thiết lập, nó có thể sẽ không đủ linh hoạt để đáp ứng những đòi hỏi mới một cách có hiệu quả. Ngược lại, nếu nhiều loại dịch vụ thông tin được kết hợp thành một mạng lưới để hoạt động thì mạng lưới đó, cho dù hơi kém hiệu quả đôi chút, vẫn có thể dễ dàng vận hành, thay đổi và mở rộng. Ngoài ra, các tổng đài như vậy sẽ dễ dàng điều khiển. Nhằm mục đích ấy, ISDN (Mạng số đa dịch vụ) có khả nǎng kết hợp nhiều hệ thống khác nhau vào một hệ thống có hiệu quả đang có nhu cầu rất cao.

Các dải tần số dưới đây do ISDN xử lý. Một thông tin dải tần hẹp có độ rộng khoảng 4 KHz cần cho các điện thoại và truyền số liệu tốc độ chậm; Thông tin dải tần trung có độ rộng khoảng vài chục lần 4 KHz sử dụng cho phát thanh, truyền hình chất lượng cao hoặc gửi fax tốc độ nhanh; thông tin dải tần rộng có độ rộng khoảng vài trǎm KHz dùng cho truyền số liệu tốc độ cao giữa điện thoại truyền hình bǎng hẹp và các máy vi tính ; và cuối cùng là các thông tin dải tần cực rộng có độ rộng MHz dùng cho các chương trình tivi thương mại hoặc thông tin hình ảnh chính xác. Hãy xem bảng 2.8

Phân loại Thông tin dải bǎng hẹp Thông tin dải

bǎng trung bình Thông tin dải

bǎng rộng Thông tin dải

bǎng rộng cực đại

Độ rộng dải tần 2 4 3 16 48 hơn 1000

Truyền thông bằng tiếng nói Telephone phổ dụng

Truyền thông bằng hình ảnh TV tĩnh TV dải tần hẹp; telephone

Truyền bản tin Fax tốc độ chậm; Đồ thị nằm ngang khoảng cách xa

Truyền số liệu bǎng giấy, thẻ Computer VS Computer

Bǎng từ

Ngoài ra, chúng có thể được phân loại theo dạng dịch vụ chuyển mạch sẽ được cung cấp như sau: xử lý lưu lượng tức thời cho điện thoại và các TV, xử lý lưu lượng nhanh ở nơi có liên lạc máy-máy hoặc không có người vận hành và xử lý lưu lượng không tức thời. Thành công của mạng lưới truyền thông tích hợp phụ thuộc vào việc các thông tin đề cập ở trên được kết hợp với nhau như thế nào cho hiệu quả. Nhằm đạt được mục đích ấy, các điều kiện sau đây phải được thoả mãn:

• Phương pháp báo hiệu : Nên dùng phương pháp báo hiệu kênh chung có chức nǎng chuyển mạch điều khiển từ xa

• Kế hoạch đánh số : Hệ thống đánh số cho các thuê bao chung cần được tiêu chuẩn hoá. Một phương án số kín giới hạn việc truy nhập các cuộc gọi trong phạm vi một nhóm nhất định cần được vận dụng

• Phương pháp tính cước : Việc tính cước chi tiết cần được thực hiện tuỳ theo khoảng cách, thời gian gọi, độ rộng dải tần truyền dẫn và các loại dịch vụ

• Thiết bị đầu cuối : Thiết bị đầu cuối loại đa nǎng

3. Kỹ thuật truyền dẫn

3.1 Phần mở đầu

3.1.1 Nguyên lý

Truyền dẫn là chức nǎng truyền một tín hiệu từ một nơi này đến một nơi khác. Hệ thống truyền dẫn gốm các thiết bị phát và nhận, và phương tiện truyền cùng bộ lặp lại giữa chúng như trong hình 3.1

Những phương tiện phát sẽ truyền và phát đi những tín hiệu đầu vào (tín hiệu gốc) để truyền chúng một cách hiệu quả qua phương tiện, thiết bị nhận tách ra những tín hiệu gốc trong những tín hiệu nhận được. Đồng thời bộ lặp lại xử lý việc bù lại trong quá trình truyền. Các phương tiện truyền bao gồm dãy đồng, cáp đồng trục, radio, ống dẫn sóng và cáp sợi quang.

Hình 3.1. Cấu hình của hệ thống truyền dẫn

Truyền dẫn bao gồm phần truyền dẫn thuê bao nối liền máy thuê bao với tổng đài và phần truyền dẫn tổng đài nối tổng đài với tổng đài. Truyền dẫn gồm truyền bằng cáp, truyền radio, liên lạc vệ tinh, truyền TV, liên lạc sợi quang, ống dẫn sóng, liên lạc dưới đất cùng bộ chuyển tiếp phục hồi sử dụng các phương tiện truyền dẫn, kết cấu kết hợp và mạng đồng bộ hoá của các thiết bị này, việc bảo dưỡng và phần quản lý mạng của mạng truyền dẫn v.v. Do đó không phải là quá đáng khi nói rằng sự phát triển kỹ thuật truyền dẫn đã đưa tới sự phát triển liên lạc thông tin mà trong phần này sẽ trình bày về truyền dẫn tương tự và truyền dẫn số.

3.1.2 Lịch sử phát triển của truyền dẫn

Sự phát triển liên lạc viễn thông đã bắt đầu từ khi phát minh ra hệ thống điện tín hoạt động theo chế độ chữ số. Nghĩa là khi Morse phát minh ra máy điện tín nǎm 1835 và việc liên lạc viễn thông số bắt đầu bằng phát dòng chấm và gạch ngang nǎm 1876, việc sử dụng chế độ tương tự bắt đầu với phát minh điện thoại của A.G. Bell. Từ đó công nghệ liên quan đã được phát triển khá mạnh mẽ.

Phương pháp truyền dẫn đa lộ cũng đã bắt đầu từ khi có dây dẫn ba mạch thực hiện ở Mỹ nǎm 1925 và qua phát triển cáp đồng trục có 240 mạch, hiện nay đã sử dụng phương pháp liên lạc cơ bản với cáp đồng trục có 3.600 - 10.800 mạch, FDM (Ghép kênh theo tần số) nhiều mạch 1.800 mạch bởi vi ba.

Mặt khác từ nǎm 1930, phương pháp 24 mạch PAM (Điều chế biên độ xung) và PWM (Điều chế độ rộng xung) đã phát triển nhưng chưa phổ biến. Ngay sau đó A.H. Reeves phát huy PCM (Điều chế mã xung).

Nhưng phương pháp liên lạc viễn thông mới kết hợp những phương pháp PCM cũng không được áp dụng thuận lợi. Nǎm 1948, ngay sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, thiết bị PCM để thí nghiệm đã được thiết kế và sản xuất ở Mỹ. Nhưng nó cũng không được thực hiện vì lúc đó ống điện tử chỉ là một phần tử tích cực và ống mã dùng cho mã hoá bị có nhiều vấn đề khi thực hành. Sự phát minh kỹ thuật bán dẫn tiếp theo phát minh chất bán dẫn đóng vai trò quyết định trong việc áp dụng PCM. Lúc đó việc ghép kênh cáp tiếng nói bởi phương pháp PCM đã đánh dấu bước phát triển to lớn trong lịch sử liên lạc viễn thông. Phương pháp PCM có tính thời đại đã ra đời khi có nhu cầu mạch sóng mang gần tǎng lên và việc ghép không thể thực hiện được vì có khó khǎn trong việc thiết lập mới hoặc thêm cáp trao đổi. Dĩ nhiên cũng có sẵn phương pháp sóng mang gần FDM nhưng nó không thể so sánh được với phương pháp PCM về mặt kinh tế và chất lượng truyền dẫn. Hơn nữa phương pháp FDM cũng không thể hoạt động được trong điều kiện yếu kém của cáp địa phương và đưòng dài, nhưng phương pháp PCM có ưu điểm lớn là có thể hoạt động được trong điều kiện như vậy. Do đó hệ thống T1 (bộ điện thoại 1) dùng trong liên lạc viễn thông công cộng sử dụng phương pháp PCM ở Chicago (Mỹ) trong nǎm 1962, phương pháp PCM-24 áp dụng ở Nhật nǎm 1965, phương pháp Châu Âu hiện nay (CEPT) đã phát triển và sử dụng trong những nǎm 1970. Lúc đó ITU-T đã kiến nghị G.733 như là một phương pháp Bắc Mỹ (NAS) và G.732 như là phương pháp Châu Âu. Mặt khác liên lạc quang cũng đánh dấu bước phát triển về liên lạc viễn thông đã được tích cực nghiên cứu với việc phát minh laser nǎm 1960. Khi đó, việc nghiên cứu sử dụng sóng không gian và ống dẫn chùm tia quang học là phương tiện truyền dẫn rất sôi động, khả nǎng truyền dẫn quang học sử dụng sợi quang làm phương tiện truyền dẫn được phát huy nǎm 1966, phần chính của nghiên cứu liên lạc quang học tập trung vào truyền dẫn sợi cáp quang sử dụng sợi quang học làm phương tiện truyền dẫn qua việc bổ sung tổn hao truyền dẫn sợi cáp quang 20 dB/km trong nǎm 1970. Hiện nay với việc phát triển phương pháp khả nǎng siêu đại FT-1.7G, F-1.6G v.v. Trong tương lai ngoài việc phát triển liên tục về ghép kênh và kỹ thuật liên lạc quang học như trên, chúng ta có thể phát triển kỹ thuật liên quan như truyền dẫn thuê bao số và phát triển kỹ thuật đấu nối, kỹ thuật CCC (khả nǎng kênh xoá ) trên mạng đã có, kỹ thuật UNI (giao tiếp mạng - người sử dụng) về tiếng nói, số liệu, thông tin hình ảnh và kỹ thuật NNI (giao tiếp nút - mạng), kỹ thuật tổ hợp siêu cao VLSI (tổ hợp quy mô rất lớn) bao gồm các loại kỹ thuật mã hoá, kỹ thuật truyền dẫn số đồng bộ, mạng nối chéo, và bảo dưỡng mạng, mạng CCR (cấu hình lại điều khiển khách hàng), IN (mạng thông minh) và v.v. để chuẩn bị cho dải hẹp ISDN trong giai đoạn đã thực hiện một phần.

3.2 Truyền dẫn số và tương tự

3.2.1 Tín hiệu tương tự

Có hai nguồn thông tin mà nguồn thông tin tương tự liên tục theo sự thay đổi của giá trị vật lý thể hiện

thông tin với đặc tính chất lượng như tiếng nói, tín hiệu hình ảnh, và một nguồn thông tin số là tín hiệu gián đoạn thể hiện thông tin bởi nhóm các giá trị gián đoạn xác định đặc tính chất lượng bằng quan hệ thời gian như tín hiệu số liệu. Trong quá khứ, kiểu AM (điều chế biên độ) và kiểu FDM (Ghép kênh theo tần số) g3/4n trong truyền dẫn tiếng nói được chọn là một kiểu truyền dẫn vì chỉ có tiếng nói là chủ đề chính của nguồn thông tin như là một máy điện thoại.

Kiểu truyền dẫn FDM có một kiểu AM gọi là kiểu truyền dẫn tương tự. Kiểu cơ bản của truyền dẫn tương tự là kiểu ghép kênh SSB (đơn biên) của dải 4 KHz triệt sóng mang để giảm công suất truyền dẫn và hạn chế dải truyền dẫn ở tỷ lệ tiêu hao ít nhất của phương tiện truyền dẫn cho một cǎn phương của một tần số.

3.2.2 Thiết kế mạch

Khi thiết kế kiểu truyền dẫn ghép kênh tương tự cự ly xa, cần phải lưu ý tới S/N (tỷ lệ tín hiệu đối với tạp âm). Có 2 tạp âm trong hệ thống truyền dẫn, một tạp âm nhiệt tạo ra do mức độ đầu vào của bộ lặp lại và tạp âm méo phi tuyến tạo ra do sự biến dạng của bộ lặp lại và mức đầu ra. Mạch tương tự cần phải được thiết kế để giảm tối thiểu những tạp âm đó trong mỗi tầng mạch vì tạp âm tích tụ liên tục theo chế độ tương tự khác với việc tái tạo của chế độ số.

Để thiết kế kiểu FDM, ITU-T đã xác định 3 loại HRC 2.500 km (mạch chuẩn giả thiết) trong khuyến nghị G.222 và HRC 5.000 km trong khuyến nghị G.215. HRC 2.500 km khuyến nghị thay đổi cấu hình số của bậc chuyển đổi theo cấp của ghép kênh nhưng dù sao những khu vực không biến điện đã rất phổ biến. Tổng số tạp âm mạch 10.000pWOp được chia thành tạp âm đường truyền dẫn 7.500pWOp (3pWOp/km) và tạp âm tổng đài cuối 2.500pWOp, HRC 5.000km bao gồm 12 khu vực đồng bộ khoảng 420km.

Hình 3.2. Mạch chuẩn giả thiết (kiểu đồng trục 60 MHz)

3.2.3 Cấp ghép kênh

Cấp ghép kênh FDM do ITU-T khuyến nghị thể hiện trong bảng 3.1 BG (nhóm cơ bản) là một nhóm chuyển 12 mạch thoại có bǎng tần 0.3 ~ 3.4 KHz lên dải 60 ~ 108 KHz, SG (siêu nhóm) là nhóm ghép liền 5 BG.

Nhóm Viết t3/4t Số kênh (ch) Dải tần (KHz) Thành phần Tần số sóng mang (KHz) Tần số

Pilot(KHz)

Nhóm cơ bản BG 12 60 ~ 108 84,08

Siêu nhóm SG 60 312 ~ 552 BG x 5 420, 468, 516, 564, 612 411,92

Nhóm chủ MG 300 812 ~ 2044 SG x 5 1364, 1612, 1860, 2108, 2356 1.552

Nhóm siêu chủ SMG 900 8516 ~ 12388 MG x 3 10560, 11880, 13200 11.096

Nhóm Jumbo JG 3.600 42612 ~ 59684 SMG x 4 55000, 59400, 63800, 68200 40.920

Bảng 3.1. Cấp ghép kênh

Mỹ đã chọn 600 mạch của 564 ~ 3.084 KHz cho MG, 3.600 mạch của 564 ~ 17.548 KHz cho JG, và 10.800 mạch của 3.000 ~ 60.000 KHz cho JGM.

3.2.4 Chế độ truyền dẫn tương tự

Cáp đôi cân bằng 2 dây đối xứng bằng dây đồng 2 đôi được sử dụng trong chế độ truyền những tín hiệu bǎng gốc, không ghép kênh (kể cả tiếng nói, dữ liệu, tín hiệu hình) và ghép kênh tiếng nói với một số dòng cùng cỡ và truyền dẫn đi. Cáp đôi cân bằng sử dụng dài 500 KHz giá rẻ và dễ l3/4p đặt nhưng dễ làm hỏng dây cáp và xuyên âm và những nhược điểm khác.

Cáp đôi cân bằng chỉ là một phương tiện truyền dẫn sử dụng giữa máy thuê bao và tổng đài điện thoại. Hy vọng cáp đôi cân bằng sẽ là phương tiện chính trong ISDN trong tương lai. Điều kiện tối thiểu của một bộ suy giảm mạch trên mạch thông thường, là RC>LG, nhưng một mạch đồng bộ là RC = LG: Tải sẽ đóng với điều kiện trên cộng với L, được sử dụng rộng rãi từ trước cho đến 1930 không phát triển kiểu tải ba FDM hoặc PCM. Do cáp tải không thể dùng để truyền dẫn tín hiệu số vì có những nhược điểm, chủ yếu là tần số c3/4t và tǎng độ trễ truyền dẫn, nên hiện nay nó chỉ dùng hạn chế cho đường trục địa phương hay đường quốc gia cỡ nhỏ đoạn ng3/4n. Hệ thống tải ba dây trần đ* nhanh chóng rút lui khi nó dùng cho đoạn ng3/4n, mạch địa phương và sau đó áp dụng cáp hoá mạch dây trần, hệ cáp không tải, một hệ thống tải ba đoạn ng3/4n từ khi loại "A" của tải ba dây trần được áp dụng ở Mỹ nǎm 1918 đầu tiên trên thế giới. Hiện nay ITU-T khuyến nghị đường 3 mạch (khuyến nghị G.361) và đường 12 mạch (khuyến nghị G.311). Mạch dây trần có tổn hao ít nhưng thường xuyên bị âm và thường thay đổi suy hao do thời tiết, khả nǎng chống lại những cảm ứng bên ngoài kém so với cáp cân bằng. Hệ thống cáp không tải được dùng làm hệ thống tải ba đường dài cho đến nǎm 1930 - 40 khi có cáp đồng trục. Cáp không tải 1,2 mm được sử dụng và dùng tới 360 KHz.

Hệ thống tải ba cự ly ng3/4n dùng cho khoảng cách dưới 100Km đã được phát triển để tiết kiệm cáp quốc gia trước khi l3/4p đặt. Nó đã được thực hiện ở Tây Đức và Pháp, sau đó thực hiện hệ thống "N" ở Mỹ nǎm 1950. Một cáp quốc gia đ* được l3/4p đặt dùng đường 2 dây mỗi nhóm để tránh xuyên nhiễu đoạn cuối đi xuống và đi lên vì hầu hết là ở đoạn đầu. Nó bao gồm 8 ~ 12 mạch sử dụng nhóm thấp hơn 12 ~ 60 KHz (6 ~ 54 KHz), hay nhóm cao hơn 72 ~ 120 KHz (60 ~ 180 KHz). Nǎm 1934 Mỹ công bố rằng cáp đồng trục là phương tiện truyền dẫn thích hợp cho truyền dẫn siêu ghép kênh, hệ thống LI (cự ly ng3/4n 480 mạch, cự ly dài 600 mạch) được áp dụng trong nǎm 1941 là hệ thống cáp đồng trục đầu tiên trên thế giới, và trở thành dạng hệ thống truyền dẫn dây với tuyến đường cơ bản trên kh3/4p đất nước vì siêu ghép kênh tới 10.800 mạch được dùng cho tới hiện nay. Ngày nay đang sử dụng cáp đồng trục tiêu chuẩn 2,6/9,5 mm và cáp đồng trục nhỏ 1,2/4,4 mm kích thước bên trong và bên ngoài. Hệ thống cáp đồng trục đặt dưới đáy biển b3/4t đầu được xem xét từ những nǎm 1930 và hệ thống đầu tiên đặt ở Anh nǎm 1943 và ở Mỹ nǎm 1950. Cáp 8,3/38 mm được dùng cho biển sâu và biển nông dùng 5,6/25 mm. Chúng được thiết kế để có độ tin cậy gấp 10 lần hệ thống trên đất liền.

3.2.5 Đặc điểm của truyền dẫn số

Truyền dẫn số có nhiều ưu điểm hơn so với truyền dẫn tương tự, ví dụ nó chống tạp âm và gián đoạn ở xung quanh tốt hơn vì có bộ lặp để tái tạo, cung cấp chất lượng truyền dẫn tốt hơn bất kể khoảng cách truyền dẫn, kết hợp được mọi nguồn dịch vụ đang có trên đường truyền dẫn số và truyền sau khi chuyển thành tín hiệu số bất kể tín hiệu thông tin loại nào, tạo ra một tổ hợp truyền dẫn số và tổng đài số. Nó cũng tạo ra sự kinh tế cho hệ thống vì những phần tử bán dẫn dùng cho truyền dẫn số là những mạch tổ hợp số được sản xuất hàng loạt, và mang liên lạc có thể trở thành rất thông minh vì dễ thực hiện việc chuyển đổi tốc độ cho các dịch vụ khác nhau, thay đổi thủ tục, DSP (xử lý tín hiệu số), chuyển đổi phương tiện truyền dẫn v.v.

Qua việc áp dụng kỹ thuật liên lạc và máy vi tính. Tuy vậy truyền dẫn số có những nhược điểm như dải tần công tác tǎng lên do việc số hoá tín hiệu, cần có bộ chuyển đổi A/D, D/A và đồng bộ giữa phát và thu, một thiết bị chuyển đổi cần có để kết hợp hệ FDM và hệ TDM vì hệ thống số không tương thích với các hệ thống hiện có. Trước đây, trong trường hợp đường thuê bao và đường giữa các tổng đài khu vực dùng cáp âm tần 2 hay 3 dây và gọi đường dài chủ yếu dựa vào chế độ tương tự như cáp đồng trục, radio FDM v.v. Nhưng với sự xuất hiện của kiểu tải ba T1, các thiết bị sau đây cần phát triển để tương thích nhằm giảm chi phí mỗi đường cho đến cuối thập kỷ 1970 : hệ thống ghép kênh số kể cả PCM dây, g3/4n thêm chế độ tương tự vào chức nǎng truyền dẫn số kể cả DOV (dữ liệu trên tiếng nói), bộ ghép kênh - ghép (ITU-T khuyến nghị G.794) nối mạng FDM với mạng TDM. Với sự xuất hiện của tổng đài số, chiều hướng số hoá ngày một tǎng nhanh đẩy lùi kiểu tương tự, trên kh3/4p đất nước mọi nơi đều lựa chọn kiểu số làm nguyên lý chủ yếu khi liên lạc quang số được áp dụng đến đầu những nǎm 1980, tạo ra sự chờ đợi và mong muốn về tổ hợp truyền dẫn đa dịch vụ ISDN. HRX (nối chuẩn giả thiết) của khoảng cách dài nhất của hệ thống truyền dẫn số chia mục tiêu tổ hợp của chất lượng mạng thành bộ phận mạng phù hợp với hệ truyền dẫn số như trong hình 3.3.

Hình 3.3. HRX tiêu chuẩn quốc tế (cấp dài nhất)

Nói chung, mạch PCM có đặc điểm ưu việt hơn về tạp âm so với mạch FDM như nhận tín hiệu radio trình bày trong hình 3.4. Trái với mạch FDM liên tục tǎng tạp âm tỷ lệ nghịch với tín hiệu đầu vào, mạch PCM có đặc điểm ưu việt không tǎng tạp âm trong mức ngưỡng tuy có tạp âm hơn do chế độ.

Hình 3.4. Đặc điểm tạp âm

BER (tỷ lệ lỗi bit) của hệ thống PCM xung quanh mức ngưỡng được nhanh chóng làm giảm bằng cách tǎng tỷ số S/N. Bởi vì tạp âm của kiểu FDM nhạy hơn với S/N, trái với đặc điểm tạp âm của hệ thống PCM bất kể tạp âm của truyền dẫn trung kế và chỉ nhận thấy tạp âm lượng tử hoá và tǎng lỗi quá mức nếu giữ BER ở một mức độ nào đó.

Nói chung, truyền tiếng nói trong tình trạng tốt nếu BER nhỏ hơn 10-5 và cho phép tới 10-4 nhưng có cảnh báo khẩn cấp và thông tin gián đoạn nếu BER là 10-3 . Dữ liệu hay tiếng nói cho phát thanh, truyền hình phải ưu việt hơn về những giá trị này. Một lợi thế của mạng mạch số là có những đặc điểm ưu việt như sau:

Hầu hết các đặc tính của mạng tiếng nói số hoá được liệt kê ở bảng 3.2 và được thảo luận trong những phần sau g3/4n liền với những ưu điểm của việc truyền dẫn số hoặc chuyển mạch số có liên quan đến những phía đối tác là tương tự. Trong một số trường hợp cá biệt, các đặc trưng chỉ g3/4n liền với mạng số hoàn toàn. Thí dụ, mã hoá (Encryption) là thực tế và nhìn chung chỉ có ích nếu dạng an toàn của bản tin được thiết lập ở nguồn và chỉ chuyển ngược lại thành rõ ràng tại nơi gửi tới. Như vậy, hệ thống số điểm tới điểm hoạt động với sự không hiểu biết về bản chất của đường thông (có nghĩa là cung cấp sự truyền tin rõ ràng) là nhu cầu tất yếu đối với các ứng dụng mã hoá. Vì những nguyên nhân tương tự, việc truyền dẫn số điểm tới điểm là cần thiết đối với các ứng dụng có liên quan đến số liệu.

Khi một mạng lưới bao gồm các thiết bị hỗn hợp cả tương tự và số, việc sử dụng tổng hợp mạng cho các dịch vụ như truyền tin số liệu yêu cầu sự phù hợp với mẫu số chung nhỏ nhất của mạng : Kênh tương tự.

1. Sự thuận tiện của ghép kênh

2. Sự thuận tiện của báo hiệu

3. Sử dụng công nghệ hiện đại

4. Hợp nhất việc truyền và chuyển mạch

5. Phục hồi tín hiệu

6. Điều khiển hiệu suất

7. Thích ứng với các dịch vụ khác

8. Hoạt động tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm/ tín hiệu trên nhiễu thấp

9. Sự thuận tiện của mã hoá

Bảng 3.2. Tiến bộ kỹ thuật của mạng thông tin số hoá

1) Sự thuận tiện của ghép kênh :

Kỹ thuật số hoá đã được ứng dụng đầu tiên đối với điện thoại tổng thể trong hệ chuyển tải T giữa các tổng đài (Ghép kênh phân chia thời gian). Về thực chất các hệ thống này trao đổi điện tử gây tổn thất ở các điểm cuối của đường truyền tin do sự phí tổn của cặp bội dây dẫn giữa chúng (sự trao đổi đó hàng nǎm gây phí tổn càng nhiều). Tuy nhiên sự ghép kênh phân chia tần số của các tín hiệu tương tự cũng được sử dụng trong quá khứ để giảm chi phí dây cáp. Thiết bị ghép kênh phân chia tần số (FDM) đ3/4t hơn nhiều so với thiết bị ghép kênh phân chia thời gian (TDM), thậm chí khi giá thành của số hoá được tính vào. Sau khi tín hiệu tiếng nói được số hoá, giá thành thiết bị TDM hoàn toàn nhỏ hơn khi mang so sánh. Vì số hoá chỉ xuất hiện ở mức đầu tiên của hệ thống phân cấp TDM, TDM số hoá mức cao thậm chí kinh tế hơn các bộ phận tương ứng FDM mức cao.

Điều đó chỉ ra rằng việc ghép kênh phân chia thời gian của các tín hiệu tương tự cũng rất đơn giản và không yêu cầu số hoá các giá trị mẫu. Mặt không thuận tiện của TDM tương tự nằm trong tính chất có thể bị tổn thương của những xung tương tự hẹp do nhiều tạp âm, méo tiếng, xuyên âm và nhiễu ký hiệu.

Sự suy biến này không thể bị loại bỏ bằng tái tạo như trong hệ thống số hoá. Vì thế TDM tương tự cũng không thể thực hiện được loại trừ môi trường tự do không có tạp âm, biến dạng. Về thực chất, khả nǎng đối với việc tái tạo tín hiệu thậm chí ở việc tiêu hao của độ rộng dải tần số lớn hầu như là một nhu cầu đối với truyền tin TDM.

2) Sự thuận tiện của hệ thống báo hiệu :

Những thông tin điều khiển (tín hiệu nhấc máy, đặt máy, các chữ số địa chỉ, gửi tiền v.v. ) vốn có số hoá và vì thế dễ dàng hợp nhất trong một hệ truyền dẫn số, như thế có nghĩa là về thông tin điều khiển kết hợp trong liên kết truyền tin số hoá gồm ghép kênh phân chia thời gian, sự điều khiển như là tách biệt nhưng dễ dàng có thể nhận biết kênh điều khiển. Cách tiếp cận khác gồm việc gài các mật mã điều khiển đặc biệt trong kênh truyền tin và có mạch logic số hoá trong thiết bị đầu cuối nhận và giải mã thông tin điều khiển. Trong mỗi trường hợp, hệ thống truyền tin càng được quan tâm hơn thì thông tin điều khiển không thể nhận biết từ đường truyền bản tin.

Trong sự tương phản, các hệ thống truyền tin tương tự yêu cầu sự quan tâm đặc biệt tới hệ thống tín hiệu điều khiển. Nhiều hệ thống truyền tin tương tự thể hiện sự duy nhất và đôi khi hoàn cảnh khó khǎn cho cài đặt thông tin điều khiển. Một kết quả không may m3/4n là nhiều sự khác biệt của khuôn khổ tín hiệu điều khiển và thủ tục tiến hành. Khuôn khổ điều khiển phụ thuộc vào bản chất của cả hai hệ thống truyền dẫn và thiết bị đầu cuối của chúng. Trong một số giao diện giữa các hệ thống của mạng, thông tin điều khiển phải được chuyển đổi từ khuôn khổ này sang khuôn khổ khác. Vì thế hệ thống báo hiệu trên các đường truyền tin tương tự tương ứng với một gánh nặng nề về quản trị và tài chính đối với các công ty điện thoại công cộng.

Sự chuyển đổi sang báo hiệu kênh chung loại bỏ hầu hết chi phí báo hiệu có liên quan với các trục đường trung kế nhưng không thay đổi tình trạng đối với các đường dây thuê bao riêng biệt, trong đó báo hiệu thực hiện trên cùng một phương tiện như kênh thông tin. Việc sử dụng các đường dây thuê bao số hoá (DSLs) giảm chi phí truyền tín hiệu liên quan tới các đường dây thuê bao tương tự, giúp bù đ3/4p giá thành cao hơn của (DSL) và điện thoại số. DSLs là khía cạnh nền tảng của ISDN.

Tóm lại, các hệ thống số cho phép điều khiển thông tin được cài đặt vào và tách từ dòng thông tin một cách độc lập với bản chất của các phương tiện truyền tin (dây cáp, sợi quang, vi ba, vệ tinh, ...). Vì vậy thiết bị báo hiệu có thể được thiết kế riêng biệt với hệ thống truyền dẫn. Sau đó chức nǎng điều khiển và khuôn khổ có thể được thay đổi không phụ thuộc vào hệ thống truyền dẫn. Ngược lại, các hệ thống truyền dẫn số có thể được nâng cấp không ảnh hưởng tới các chức nǎng điều khiển ở cả hai đầu của đường truyền.

3) Sử dụng công nghệ hiện đại

Một bộ ghép kênh hoặc ma trận chuyển mạch cho các tín hiệu số hoá phân chia thời gian được áp dụng với cùng mạch cơ sở được sử dụng để xây dựng các máy tính số hoá, các cổng logic và bộ nhớ. Điểm c3/4t cơ sở của chuyển mạch số hoá không có gì hơn là cổng "AND" với một đầu vào logic được gán cho tín hiệu thông tin và các đầu vào khác được sử dụng cho điều khiển (lựa chọn điểm c3/4t qua). Vì vậy những phát triển gây ấn tượng mạnh mẽ của công nghệ mạch tích hợp số hoá cho mạch logic và bộ nhớ máy tính là ứng dụng một cách trực tiếp đến truyền dẫn số hoá và các hệ thống chuyển mạch. Qua thực tế, nhiều mạch tiêu chuẩn đã phát triển để sử dụng trong các máy tính đã có hữu hiệu trực tiếp trong ma trận chuyển mạch hoặc bộ ghép kênh . Hình 3.5 trình bày các ứng dụng cơ bản của bộ ghép kênh phân chia thời gian số hoá, 16 kênh, bit xen giữa sử dụng mạch logic số hoá chung. Như đã ký hiệu chức nǎng ghép kênh gồm không có gì ngoài lấy mẫu theo chu kỳ từ 16 luồng dữ liệu đầu vào. Hoạt động như vậy tổng hợp toàn bộ các luồng dữ liệu được đồng bộ với nhau. Tiến trình đồng bộ các luồng dữ liệu đòi hỏi mạng logic rất phức tạp. Tuy nhiên, việc ứng dụng bộ ghép kênh TDM rẻ hơn nhiều so với FDM tương tự. Thậm chí, những tiến bộ vượt bậc của công nghệ hiện đại thành đạt do sử dụng các mạch tích hợp tỷ lệ lớn (LSI) được thiết kế đặc biệt cho chức nǎng thông tin viễn thông như lập/giải mã mật mã tiếng nói, các bộ ghép kênh, ma trận chuyển mạch, bộ xử lý tín hiệu số mục đích đặc biệt và mục đích chung (DSPs). Giá thành hạ tương đối và nǎng suất cao của mạch số cho phép các ứng dụng số hoá được sử dụng trong một số ứng dụng rất đ3/4t khi dùng một số linh kiện tương tự. Thí dụ, các chuyển mạch hoàn toàn không bị khoá là không thực tế với các ứng dụng tương tự thông thường trừ trường hợp kích thước nhỏ. Trong chuyển mạch số hiện đại, chi phí của chính các ma trận chuyển mạch là không đáng kể. Tuy nhiên, đối với những ứng dụng kích thước trung bình, kích thước của ma trận chuyển mạch có thể được tǎng để cung cấp những hoạt động không khoá nếu yêu cầu. Điện thoại tự động phân tán được Collins-Rockwell phát triển là một thí dụ về hoạt động chuyển mạch số trong môi trường tương tự. Việc ứng dụng số được chọn một cách rộng rãi bởi vì nó có thể cung cấp một cách kinh tế những hoạt động không khoá.

Hình 3.5. Bộ ghép kênh TDM 16:1

Lợi ích của công nghệ máy móc hiện đại không bị hạn chế đối với các mạch số đơn lẻ. Các mạch tích hợp tương tự cùng tiến bộ một cách đáng kể, cho phép các ứng dụng tương tự truuyền thông phát triển một cách đáng kể. Tuy nhiên một trong những nhu cầu cơ bản đầu tiên của phần tử tương tự là chúng phải là đường tuyến tính. Như vậy, nếu chỉ bởi vì sự nhấn mạnh việc nghiên cứu và phát triển, các phân tử số nhanh dễ sản xuất hơn các linh kiện tương tự tuyến tính. Ngoài ra, những ứng dụng số có thể có ưu việt hơn về tính nǎng tiềm tàng so với những ứng dụng tương tự. Lợi thế này được b3/4t nguồn từ sự thuận tiện tương đối là những tín hiệu số có thể được ghép kênh. Một hạn chế lớn với việc sử dụng toàn bộ linh kiện LSI gây nên do khả nǎng hạn chế của những mối nối bên ngoài đối với thiết bị. Với kỹ thuật ghép kênh phân chia thời gian một chân vật lý đơn độc có thể được sử dụng để truy nhập nhiều kênh trong thiết bị. Như thế, cùng một kỹ thuật được ứng dụng để giảm giá thành của các hệ thống truyền dẫn có thể cũng được dùng bên trong một modun địa phương để giảm tối thiểu những đường nối bên trong và tǎng tối đa việc sử dụng tích hợp tỷ lệ lớn. Cuối cùng: "chuyển mạch trên một vi mạch" chỉ có thể nếu số lớn kênh có thể được ghép kênh thành số lượng nhỏ các đường nối ngoài tương ứng.

Sự phát triển công nghệ để có ảnh hưởng quan trọng nhất trên mạng lưới điện thoại là truyền dẫn bằng cáp sợi quang. Tuy nhiên chính các cáp sợi quang không làm thuận lợi cho truyền tin số hơn truyền tin tương tự, sự giao tiếp các mạch điện tử với hệ thống sợi quang thực hiện lần đầu tiên trong chế độ đóng/mở (hoạt động không tuyến tính). Như thế truyền tin số chiếm ưu thế so với các ứng dụng cáp sợi quang, m3/4c dầu việc nghiên cứu công nghệ sợi quang tương tự là quan trọng đặc biệt đối với tín hiệu video.

4) Hợp nhất việc truyền tin và chuyển mạch

Theo truyền thống truyền tin tương tự và các hệ thống chuyển mạch của mạng lưới điện thoại được thiết kế và quản lý bởi các tổ chức độc lập về mặt chức nǎng. Trong các công ty điện thoại, hai loại thiết bị này được coi như là nhà máy bên ngoài và nhà máy bên trong tương ứng. Những thiết bị này cần cung cấp các mặt giao diện chuẩn, song ngoài ra thiết bị truyền tin phải độc lập về mặt chức nǎng với thiết bị chuyển mạch.

Khi ghép kênh phân chia thời gian của các tín hiệu tiếng nói số được đưa vào trong lĩnh vực tổng đài và các kỹ sư truyền thông b3/4t đầu quan tâm đến chuyển mạch số, thì một điều trở nên rõ ràng là các thao tác dồn kênh phân chia thời gian rất giống với chức nǎng chuyển mạch phân chia thời gian. Trong thực tế, các giai đoạn đầu của chuyển mạch số tạo ra các tín hiệu TDM mức đầu tiên do bản chất, thậm chí cả khi giao tiếp với những đường truyền tin tương tự.

Vì thế các thao tác ghép kênh của hệ thống truyền dẫn có thể dễ dàng được tích hợp trong một thiết bị chuyển mạch.

Tiến bộ cơ bản của việc kết hợp 2 hệ thống được thể hiện ở hình 3.6. Thiết bị tách kênh (các ngân hàng kênh) ở các trạm chuyển mạch không cần thiết và thiết bị chuyển mạch giai đoạn đầu được loại bỏ. Nếu 2 đầu của các đường trung kế số TDM được tập hợp trong chuyển mạch số, các ngân hàng kênh ở cả 2 đầu của đường trung kế được loại bỏ. Trong mạng tích hợp tổng thể, tín hiệu tiếng nói được số hoá ngay hoặc gần nguồn và giữ nguyên số hoá cho đến khi chúng được phân phát tới địa chỉ đích của chúng. Hơn nữa, toàn bộ các đường trung kế nối giữa các tổng đài và đường liên kết nội bộ của hệ thống chuyển mạch mang tín hiệu TDM một cách độc quyền. Vì thế sự ghép kênh và tách kênh mức đầu tiên là không tồn tại ngoại trừ ở bên ngoài của mạng lưới. Mặc dầu sự tích hợp của các tín hiệu DSI trong các thiết bị chuyển mạch là phổ biến, sự tích hợp của các tín hiệu mức cao hơn bị phức tạp hoá bởi dạng ghép kênh mức cao hơn (lấp đầy xung). Một dạng dồn kênh mới hơn (SONET) dễ thay đổi hơn nhiều để hướng những đường liên kết vào trong hệ thống chuyển mạch.

Hình 3.6. Tích hợp của truyền dẫn và chuyển mạch

Tích hợp các chức nǎng truyền dẫn và chuyển mạch không chỉ loại bỏ được nhiều thiết bị mà còn cải thiện đáng kể chất lượng tiếng nói giữa điểm tới điểm. Bằng cách loại bỏ các biến đổi lặp nhiều lần tương tự sang số và số sang tương tự và bằng cách sử dụng các đường truyền có tỷ lệ lỗi thấp, chất lượng tiếng nói được xác định chỉ bằng quá trình mã hoá. Tóm lại, lợi ích của việc thực hiện của mạng số tích hợp toàn bộ là :

1. Chất lượng tiếng nói đường dài là tương đồng với chất lượng tiếng nói khu vực trong mọi phương diện của tạp âm, mức tín hiệu và độ biến dạng.

2. Vì mạch số vốn là 4 dây, tiếng vang được loại bỏ và việc ghép đôi hoàn toàn thực hiện mạch số 4 dây là có khả nǎng.

3. Nhu cầu cáp đầu vào và sự phân bố khung chính (mainframe) của đôi dây ghép giảm đáng kể bởi vì toàn bộ các đường trung kế được ứng dụng như là các kênh con của tín hiệu TDM.

5) Tái tạo tín hiệu

Sự có mặt của tiếng nói (hoặc một tín hiệu tương tự nào đó) dưới dạng số kéo theo việc biến đổi các tín hiệu dạng sóng tương tự liên tục thành các chuỗi các giá trị mẫu rời rạc. Mỗi giá trị mẫu rời rạc được biểu diễn bởi một số các chữ số thông tin nhị phân. Khi được truyền đi, mỗi chữ số nhị phân chỉ được biểu diễn bởi một trong hai giá trị tín hiệu có thể có (có nghĩa là có xung / không có xung hoặc xung dương / xung âm). Công việc của thiết bị nhận tin là quyết định giá rời rạc nào đã được chuyển đi và thể hiện thông tin như một dãy các mẫu thông tin rời rạc được mã hoá dưới dạng nhị phân. Nếu chỉ có số lượng nhỏ tạp âm, nhiễu hoặc biến dạng ảnh hưởng đến tín hiệu trong quá trình truyền tin, các số liệu nhị phân trong máy thu đồng nhất với dãy nhị phân được sinh ra trong số hoá hoặc quá trình mã hoá. Như trình bày ở hình 3.7. Quá trình truyền tin, không kể sự tồn tại của sự không hoàn hảo nào đó, không thay đổi bản chất cần thiết của thông tin. Tất nhiên, nếu sự không hoàn hảo gây nên những thay đổi đáng kể trong tín hiệu, những lỗi tách sóng xảy ra và các số liệu nhị phân trong máy thu không thể hiện số liệu nguyên thuỷ một cách chính xác.

Thuộc tính nền tảng của hệ thống số là xác suất của lỗi truyền tin có thể được thực hiện nhỏ tuỳ ý do cài đặt các bộ lặp tái sinh ở các điểm giữa trên đường truyền tin. Nếu các địa điểm gần nhau, các nút trung gian này tách sóng và tái sinh tín hiệu số trước khi sự thoái hoá cảm ứng kênh trở nên đủ rộng để gây nên các sai số quyết định. Tỷ lệ sai số điểm đến có thể được tạo nên độ nhỏ tuỳ ý do cài đặt số lượng thích hợp các nút tái sinh trên đường truyền tin.

Hình 3.7. Tái sinh tín hiệu trong đường lặp lại số

Lợi ích trực tiếp nhất của quá trình tái sinh là khả nǎng cô lập các hiệu ứng thoái hoá tín hiệu. Vì sự thoái hoá trên bộ phận tái sinh đặc biệt nào đó của đường truyền tin không gây nên các sai số, hiệu ứng của nó được loại bỏ. Ngược lại, sự suy yếu tín hiệu trong truyền tin tương tự tích luỹ từ bộ phận này đến bộ phận kia. Hệ thống con riêng rẽ của mạng lưới tương tự rộng phải được thiết kế với việc điều khiển một cách chặt chẽ trên hiệu suất truyền tin để chất lượng truyền điểm tới điểm có thể chấp nhận được. Mặt khác, một hệ thống con riêng rẽ của mạng lưới số chỉ cần được thiết kế để đảm bảo tỷ lệ sai số tối thiểu nào đó, một mục tiêu có thể thực hiện được dễ dàng. Khi một mạng lưới số hoàn toàn được thiết kế với đủ các điểm tái sinh để loại bỏ sai số kênh một cách hữu hiệu, chất lượng truyền tin của toàn bộ mạng lưới được xác định bởi quá trình số hoá và không phải bằng hệ thống truyền tin. Xử lý đảo tương tự sang số vốn mất độ tin cậy của tín hiệu vì nguồn tín hiệu dạng sóng tương tự liên tục chỉ có thể được thể hiện bằng giá trị mẫu rời rạc. Tuy nhiên, bằng cách thiết lập đủ các mức rời rạc, các tín hiệu dạng sóng tương tự có thể được thể hiện với sai số đảo ít như mong muốn.

Quyết định tǎng đòi hỏi nhiều bit hơn và do đó độ rộng dải tần lớn hơn đối với truyền tin. Vì thế hệ thống truyền tin số cung cấp dễ dàng sự trao đổi giữa chất lượng truyền tin và độ rộng dải tần (Trao đổi tương tự tồn tại đối với các tín hiệu tương tự điều biến tần số).

6) Hiệu suất điều khiển

ích lợi bổ sung của cấu trúc tín hiệu độc lập theo nguồn trong một hệ truyền tin số là ở chỗ chất lượng của tín hiệu nhận được có thể được xác định không cần sự hiểu biết nào về bản chất của đường thông. Đường truyền tin được thiết kế để sản ra các xung được xác định tốt với các mức rời rạc. Bất kỳ sự chệch nào trong tín hiệu nhận được khác với các số dự tính ban đầu được lập ra trong thiết kế, thể hiện sự thoái hoá trong chất lượng truyền tin. Nhìn chung các hệ thống tương tự không thể điều khiển, hoặc thử nghiệm về mặt chất lượng trong khi đang phục vụ vì cấu trúc tín hiệu được truyền là không rõ. Các tín hiệu ghép kênh FDM bao gồm một loại đặc trưng tín hiệu chuẩn để đo sự liên tục của kênh và các mức nguồn. Mức nguồn của một tín hiệu chuẩn là một phương tiện hiệu quả để đánh giá tỷ lệ tín hiệu đối với âm tạp - chỉ trong môi trường âm tạp cố định. Vì thế, âm tạp và biến dạng đôi khi được xác định bằng cách đo mức nǎng lượng trong khe bản tin chưa được dùng hoặc ở rìa của bǎng truyền tín hiệu. Tuy nhiên không có trường hợp nào, chất lượng của kênh đang phục vụ được đo trực tiếp.

Một phương pháp chung đo chất lượng đường truyền tin số là thêm bit ch1/2n lẻ hoặc các bit CRC vào các luồng thông tin. Sự cấu trúc thừa được đưa vào luồng dữ liệu bằng các bit ch1/2n lẻ cho phép các mạch logic số trong máy thu xác định dễ dàng tỷ lệ sai số kênh. Nếu tỷ lệ sai số vượt quá một vài giá trị ban đầu thì đường truyền tin bị thoái hoá.

Kỹ thuật khác để đo chất lượng truyền tin trong khi đang phục vụ được sử dụng các đường hệ chuyển tải T. Kỹ thuật này gồm việc theo dõi sự dư thừa ch3/4c ch3/4n trong dạng sóng của chính tín hiệu. Khi mẫu dư thừa ở máy thu chệch khỏi mức bình thường, việc giải quyết sai số xảy ra.

7) Sự thích ứng với các dịch vụ khác :

Điều này đã được chỉ ra trước đây rằng hệ thống truyền dẫn số thích ứng một cách dễ dàng thông tin điều khiển (hệ thống báo hiệu). Thực tế này thể hiện hướng nền tảng của truyền dẫn số : bất kỳ thông tin mã hoá dưới dạng số nào (dù là bản chất tiềm tàng là số hay được biến đổi từ tương tự) thể hiện dạng tín hiệu chung đối với hệ thống truyền dẫn. Do vậy, hệ thống truyền dẫn không cần cung cấp một sự chú ý đặc biệt nào đối với dịch vụ riêng lẻ và có thể, trong thực tế, một cách tổng quát là không khác biệt đối với bản chất của đường thông mà nó chuyển tải.

Trong mạng lưới tương tự, tiêu chuẩn truyền dẫn là mạch tiếng nói 4 KHz. Tất cả những dịch vụ đặc trưng như số liệu hoặc fax phải được chuyển đổi "giống như tiếng nói". Đặc biệt tín hiệu số liệu phải được đảo thành dạng tương tự thông qua việc sử dụng các bộ điều biến (modem). Các kênh tương tự chuẩn cần thiết phải được tối ưu hoá đối với chất lượng tiếng nói. Trong cách làm tương tự, các đặc tính truyền dẫn nào đó (như sự tương ứng về pha và tạp âm của xung) thu nhận chú ý ít hơn so với sự sút kém chất lượng tiếng nói. Một vài sự cân nh3/4c ít được nhấn mạnh, đặc biệt biến dạng pha là tình trạng khẩn đối với các dịch vụ số liệu tốc độ cao. Việc sử dụng mạng tương tự đối với các dịch vụ phi tiếng nói có lẽ cần đến sự bù đặc biệt đối với các suy yếu truyền dẫn tương tự khác nhau. Nếu như kênh tương tự quá kém nó không thể sử dụng được đối với những ứng dụng đặc biệt. Ngược lại thông số chính của chất lượng trong hệ thông số là tỷ lệ lỗi. Các kênh có tỷ lệ lỗi thấp đạt được một cách dễ dàng. Hiệu ứng của lỗi kênh có thể được loại bỏ một cách hữu hiệu bằng các thủ tục điều khiển lỗi được thực hiện bởi người sử dụng. Lợi ích tǎng thêm của dạng truyền dẫn chung là đường thông từ các loại nguồn khác nhau có thể bị phá trộn bên trong trong đường truyền dẫn đơn mà không bị nhiễu tương hỗ. Việc sử dụng phương tiện truyền dẫn chung đối với các tín hiệu tương tự đôi khi phức tạp bởi vì các dịch vụ riêng lẻ đòi hỏi sự phân biệt các mức chất lượng. Thí dụ, tín hiệu vô tuyến đòi hỏi chất lượng truyền dẫn lớn hơn tín hiệu tiếng nói, chúng không thường xuyên kết hợp với các kênh tiếng nói FDM trong hệ thống truyền dẫn tương tự dải rộng. Mặc dù vậy, các công ty điện thoại lo l3/4ng chính đến dịch vụ tiếng nói (PDTS), sự phát triển rất nhanh trong truyền tin số liệu thúc đẩy sự quan tâm tǎng đối với nhu cầu thích ứng truyền dẫn số liệu. Những tiến bộ vốn có của các hệ thống số đối với thông tin số liệu sẽ giúp thúc đẩy phát triển hơn nữa các dịch vụ phi tiếng nói khi các kênh số trở nên dễ truy nhập tới thông qua ISDN.

8) Hoạt động ở tỷ lệ tín hiệu / tạp âm hoặc tín hiệu / nhiễu thấp :

Tạp âm và nhiễu trong mạng tiếng nói tương tự hầu hết trở nên rõ ràng trong thời gian dừng lời khi biên độ tín hiệu thấp. Một khối lượng nhỏ tương ứng tạp âm xuất hiện trong khi dừng nói có thể làm bực mình người nghe. ở những mức độ tương tự của tạp âm hoặc nhiễu hầu như là không đáng kể khi tiếng nói thể hiện. Vì thế nó là mức tạp âm tuyệt đối của kênh rỗi xác định chất lượng tiếng nói tương tự. Đánh giá chủ quan về chất lượng tiếng dẫn đến các tiêu chuẩn mức tạp âm cực đại gồm 28 dBrn CO (-62 dBmO) cho các hệ thống chuyển tải ng3/4n và 34 dBrn CO (-56 dBmO) cho các hệ thống chuyển tải dài. Để so sánh, mức cường độ mạnh của người nói tích cực điển hình là - 16 dBMO. Vì thế tỷ lệ điểm tới điểm và từ tín hiệu đến tạp âm đặc trưng trong các mạng tương tự là 46 và 40 dB đối với các hệ chuyển tải ng3/4n và dài tương ứng. Tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm trên các hệ thống truyền dẫn riêng lẻ cần thiết cao hơn. Trong hệ thống số, điểm dừng tiếng nói được mã hoá với mẫu số liệu đặc biệt và truyền đi ở mức cường độ tương tự như tiếng nói mạnh. Bởi vì tái sinh tín hiệu hầu như loại bỏ một cách vô hình toàn bộ tạp âm nảy sinh trong môi trường truyền dẫn. Tạp âm trong kênh rỗi được xác định bằng trong quá trình mã hoá chứ không phải bằng đường truyền dẫn. Vì thế chỗ ng3/4t tiếng nói không xác định các mức tạp âm cực đại như chúng làm trong hệ thống tương tự. Các đường dây truyền dẫn số cho phép không có lỗi ở tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm là từ 15 tới 25 dB phụ thuộc vào kiểu mã đường hay sự điều biến được sử dụng.

Khả nǎng của hệ thống truyền dẫn số trong việc loại bỏ xuyên âm đôi khi quan trọng hơn khả nǎng của nó để hoạt động ở các nức cao tương ứng của tạp âm ngẫu nhiên. Một trong những quan niệm r3/4c rối nhất trong thiết kế và bảo dưỡng mạng tương tự là sự cần thiết loại bỏ xuyên âm giữa các cuộc đàm thoại. Vấn đề nổi lên rõ nhất là khi tạm dừng trên một kênh trong lúc kênh khác bị nhiễu ở cường độ cực đại. ở thời điểm đó xuyên âm ở mức độ thấp cũng có thể thấy rõ. Xuyên âm đặc biệt không mong đợi nếu nó là dễ hiểu và vì vậy vi phạm đến riêng tư của một người nào đó. Chỗ ng3/4t tiếng nói không sản ra những tín hiệu biên độ thấp trên đường truyền dẫn số. Đường truyền dẫn số bảo tồn tín hiệu số biên độ không đổi. Do đó các mức thấp của tiếng nói chuyện chen vào được loại bỏ bằng quá trình tái sinh trong bộ lặp số hoặc máy thu số. Thậm chí nếu xuyên âm ở biên độ thích hợp gây nên lỗi tách sóng, hiệu ứng xuất hiện như tạp âm ngẫu nhiên và như vậy sẽ là khó hiểu.

Vì thực tế hệ thống số cần độ rộng dải tần lớn hơn hệ thống tương tự có thể so sánh được và như thế các độ rộng dải tần rộng hơn cũng có nghĩa là xuyên âm và các mức tạp âm lớn hơn, khả nǎng hoạt động ở mức SNRs thấp hơn có lẽ cũng là một yêu cầu của hệ thống số như là tính ưu việt của nó.

9) Sự thuận tiện của mã hoá

Mặc dầu hầu hết người sử dụng điện thoại cần ít đễn mã hoá tiếng nói, song sự thuận tiện mà các luồng bit số có thể được ngẫu nhiên hoá và giải ngẫu nhiên, nghĩa là mạng lưới số cung cấp thêm thuận lợi cho người sử dụng với những cuộc đàm thoại nhạy cảm. Ngược lại, tiếng nói tương tự vô cùng khó mã hoá và nhìn chung không được an toàn như tiếng nói được mã hoá số. Như đã đề cập trước đây, nó là sự mã hoá của tiếng nói số thu hút sự quan tâm của quân đội.

3.2.6 Hệ phân cấp số

Như trong trường hợp của phương pháp truyền dẫn tương tự nó được phân cấp theo BG, SG và MG, phương pháp truyền dẫn số cũng được phân cấp từ mức ghép kênh sơ cấp đến mức ghép kênh cấp cao.

Tốc độ Mb/s Châu Âu B3/4c Mỹ Nhật Bản

1.544 DS1 (24ch) Nhóm sơ cấp

2.048 CEPT1 (30ch) (24ch)

3.152 DS1C (48ch)

6.312 DS2 (96ch) Nhóm cấp hai

8.448 CEPT2 (120ch) (96ch)

32.064 Nhóm cấp ba

34.368 CEPT3 (480ch) (480ch)

44.736 DS3 (672ch)

97.728 Nhóm cấp tư

(1,440ch)

139.264 CEPT4 (1,920ch) DS4E (2,016ch)

274.176 DS4 (4,032ch)

397.200 Nhóm cấp nǎm

564.992 CEPT5 (7,680ch) DS5E (8,064ch) (5,760ch)

1.600.00 Nhóm cấp sáu

(23,040ch)

Bảng 3.3. Hệ thống phân cấp truyền dẫn TDM của mỗi nước

Mỗi nước xác định hệ thống phân cấp truyền dẫn bằng việc xem xét tốc độ bit của mỗi môi trường truyền dẫn, mã hoá tốc độ bit của các tín hiệu khác nhau, kết nối với hệ thống chuyển mạch, cấu hình mạng, và xu hướng của những tiêu chuẩn quốc tế khác. Đó là, ở Châu Âu chúng được xác định là 2.048 - 8.448 - 34.368 - 139.264 - 564.992 và ở Mỹ 1.544 - 6.312 - 44.736 - 274.176. ở Nhật Bản chúng được xác định là 1.544 - 6.312 - 32.064 - 97.728 - 397.200.

Trong hệ thống phân cấp ở B3/4c Mỹ hiện nay, khả nǎng truyền dẫn kênh toàn bộ là 64 Kbps, đó là tốc độ cơ sở của ISDN không được khuyến nghị trên trường quốc tế ở mức DSI, và nó sẽ không được phát triển. Tất nhiên, các phương pháp như B8ZS (lưỡng cực với 8 số 0 thay thế) có thể thoả mãn cho việc đảm bảo toàn bộ công suất kênh ở mức DSI. Tuy nhiên để áp dụng chúng tất cả các mạng tồn tại, công nghệ hiện nay đòi hỏi phải được nâng cấp đáng kể. Hệ thống phân cấp truyền tín hiệu số hiện nay được dựa trên công nghệ ghép kênh không đồng bộ và tốc độ hoặc cấu hình khung của nó là cố định. Vì thế trong trường hợp môi trường ghép kênh đồng bộ trong đó việc xem xét hoặc chuyển mạch đường dây phải được tiến hành một cách ngẫu nhiên ở từng mức ghép kênh, chúng không phù hợp.

Kết quả, từ 1986 ITU - T đ* điều tiết toàn bộ hệ thống phân cấp truyền tín hiệu không đồng bộ B3/4c Mỹ và Châu Âu, và được tiến hành nghiên cứu trên hệ thống cấp bậc số đồng bộ có khả nǎng điều tiết các tín hiệu dải bǎng rộng (H2, H4) dải bǎng rộng ISDN (B - ISDN) và những mặt giao diện liên quan. Kênh H2 là kênh với tốc độ thay đổi từ 30Mbps đến 45 Mbps, chúng có thể được sử dụng cho truyền dẫn các chương trình phát thanh truyền hình tổng hợp. Kênh H4 có tốc độ khoảng 135 Mbps. Chúng mong đợi được sử dụng cho truyền dẫn của vô tuyến có độ phân dải cao (HDTV) trong tương lai gần.

Những đề nghị B3/4c Mỹ Châu Âu

Giao diện G703 G703

Thiết bị đầu cuối Nhóm thứ nhất G733 G732, 735

Nhóm thứ 2 G746 G744

Nối chuyển mạch Nhóm thứ nhất G705, Q502, 512 G705, Q503, 513

Nhóm thứ 2 G705, Q503, 513 G705, Q503, 513

Thiết bị ghép kênh Nhóm thứ nhất G734 G736

Nhóm thứ 2 G743 G742, 745

Nhóm thứ 3 G752 G751, 753

Nhóm thứ 4 G751, 754

Thiết bị truyền Nhóm thứ nhất G911, 951 G921, 952, 956

dẫn đường Nhóm thứ 2 G912, 951, 955 G921, 952, 954, 956

Nhóm thứ 3 G914, 953, 955 G921, 952, 954, 956

Nhóm thứ 4 G921, 954, 956

Hội nghị video H120, 130 H120, 130

Ghép kênh G 794 G 793

truyền dẫn

Mã truyền dẫn G 761

Bảng 3.4. Khuyến nghị chính của ITU-T về hệ thống phân cấp truyền tín hiệu số

3.3 Công nghệ báo hiệu PCM

3.3.1 Cấu hình cơ bản của kiểu truyền tin PCM

Mã hoá là quá trình biến đổi các giá trị rời rạc thành các mã tương ứng. Nhìn chung, việc lấy mẫu liên quan tới quá trình biến đổi các tín hiệu liên tục thành các tín hiệu rời rạc của trường thời gian gọi là PAM. Việc mã hoá là quá trình lượng tử hoá các giá trị mẫu này thành các giá trị rời rạc của trường biên độ và sau đó biến đổi chúng thành mã nhị phân hay các mã ghép kênh. Khi truyền thông tin mã, nhiều xung được yêu cầu cho mỗi giá trị lấy mẫu và vì thế độ rộng dải tần số cần thiết cho truyền dẫn phải được mở rộng. Đồng thời xuyên âm, tạp âm nhiệt, biến dạng mẫu, mất xung mẫu, biến dạng nén, tạp âm mã hoá, tạp âm san bằng được sinh ra trong lúc tiến hành lấy mẫu và mã hoá. Việc giải mã là quá trình khôi phục các tín hiệu đã mã hoá thành các tín hiệu PAM được lượng tử hoá. Quá trình này tiến hành theo thứ tự đảo đúng như quá trình mã hoá. Mặt khác quá trình lượng tử hoá, nén, và mã hoá các tín hiệu PAM được gọi là quá trình mã hoá và quá trình chuyển đổi các tín hiệu PCM thành D/A, sau đó, lọc chúng sau khi giãn để đưa về tiếng nói ban đầu gọi là quá trình giải mã. Cấu hình cơ sở của hệ thống truyền dẫn PCM đối với việc thay đổi các tín hiệu tương tự thành các tín hiệu xung mã để truyền dẫn được thể hiện ở hình 3.8. Trước tiên các tín hiệu đầu vào được lẫy mẫu một cách tuần tự, sau đó được lượng tử hoá thành các giá trị rời rạc trên trục biên độ. Các giá trị lượng tử hoá đặc trưng bởi các mã nhị phân. Các mã nhị phân này được mã hoá thành các dạng mã thích hợp tuỳ theo đặc tính của đường truyền dẫn.

Hình 3.8. Cấu hình cơ bản phương pháp thông tin PCM

Thiết bị đầu cuối mã hoá chuyển đổi các tín hiệu thông tin như tiếng nói, video và các số liệu thành các tín hiệu số như PCM. Khi các tín hiệu thông tin là các tín hiệu tương tự, việc chuyển đổi A/D được tiến hành và việc chuyển đổi D/D được tiến hành ở trường hợp của các tín hiệu số.

Đôi khi, quá trình nén và mã hoá bǎng tần rộng được tiến hành bằng cách triệt sự dư thừa trong quá trình tiến hành chuyển đổi A/D hoặc D/D.

3.3.2 Lấy mẫu

Nguyên tắc cơ bản của điều xung mã là quá trình chuyển đổi các tín hiệu liên tục như tiếng nói thành tín hiệu số rời rạc và sau đó tái tạo chúng lại thành thông tin ban đầu. Để tiến hành việc này, các phần tử thông tin được rút ra từ các tín hiệu tương tự một cách tuần tự. Quá trình này được gọi là công việc lấy mẫu.

(a) Tín hiệu tiếng nói m(t)

(b) Xung lấy mẫu s(t)

(c) Chức danh lấy mẫu

(d) Tín hiệu PAM đã lấy mẫu

Hình 3.9. Quá trình lấy mẫu

Theo thuyết lấy mẫu của Shannon, các tín hiệu ban đầu có thể được khôi phục khi tiến hành công việc lấy mẫu trên các phần tử tín hiệu được truyền đi ở chu kỳ hai lần nhan hơn tần số cao nhất. Nói cách khác, khi độ rộng dải tần của tín hiệu được truyền đi gọi là BW, tỷ lệ lẫy mẫu tới hạn là tỷ lệ Nyquitst trở thành Rmax = 2 x BW. Các tín hiệu xung lấy mẫu là tín hiệu dạng sóng chu kỳ, là tổng các tín hiệu sóng hài có đường bao hàm số sin đối với các tần số. Vì thế, phổ tín hiệu tiếng nói tạo ra sau khi đã qua chức nǎng lấy mẫu được thể hiện ở hình 3.10.

Hình 3.10. Phổ trước và sau quá trình lẫy mẫu

Có hai kiểu lấy mẫu tuỳ theo dạng của đỉnh độ rộng xung, lấy mẫu tự nhiên và lấy mẫu đỉnh bằng phẳng. Lấy mẫu tự nhiên được tiến hành một cách lý tưởng khi phổ tần số sau khi lấy mẫu trùng với phổ của các tín hiệu ban đầu. Tuy nhiên trong các hệ thống thực tế, điều này không thể có được. Khi tiến hành lấy mẫu đỉnh bằng phẳng, một sự nén gọi là hiệu ứng biên độ lấy mẫu làm xuất hiện méo. Ngoài ra, nếu các phần tử tín hiệu đầu vào vượt quá độ rộng dải tần 4 KHz, xuất hiện sự nén quá nếp gấp. Vì vậy, việc lọc bǎng rộng các tín hiệu đầu vào phải được tiến hành trước khi lấy mẫu.

3.3.3 Lượng tử hoá

PAM với biên độ tương tự chuyển đổi thành các tín hiệu số là các tín hiệu rời rạc sau khi đi qua quá trình lượng tử hoá. Khi chỉ thị biên độ của tiếng nói liên tục với số lượng hạn chế, nó được đặc trưng với dạng sóng xấp xỉ của bước. Tạp âm lượng tử NQ = Q - S tồn tại giữa dạng sóng ban đầu (S) và dạng sóng dã lượng tử (Q); nếu bước nhỏ tạp âm lượng tử được giảm đi nhưng số lượng bước đầu cần thiết cho lượng tử toàn bộ dải tín hiệu đầu vào trở nên rộng hơn. Vì thế số lượng các dãy số mã hoá tǎng lên.

Hình 3.11. Tạp âm lượng tử theo biên độ tín hiệu đầu vào

Tạp âm tạo ra khi biên độ của các tín hiệu đầi vào vượt quá dãy lượng tử gọi là tạp âm quá tải hay tạp âm bão hoà. S/NQ được sử dụng như một đơn vị để đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp PCM. Khi số lượng các dãy số mã hoá trên mỗi mẫu tǎng lên 1 bit, S/NQ được mở rộng thêm 6 dB.

(Số lượng các bước)

3.3.4 Sự nén và giãn

Như phương pháp tiến hành mã hoá hoặc giải mã, mã đường, mã không phải mã đường và mã đánh giá có thể được lựa chọn theo các kiểu của nguồn thông tin. Mã đường là một quá trình triệt số lượng tạp âm lượng tử sinh ra trên thông tin được gửi đi bất chấp mức đầu vào. Nó được sử dụng trong một hệ thống ở đó giá trị tuyệt đối của số lượng tạp âm là tới hạn hơn S/NQ. Mã không phải là mã đường được sử dụng rộng trãi trong một hệ thống ở đó S/NQ của hệ thống thu được quan trọng hơn số lượng tuyệt đối của tạp âm như tiếng nói. Khi bước lượng tử là một hằng số, S/NQ thay đổi theo mức tín hiệu. Chất lượng gọi trở nên xấu hơn khi mức tín hiệu thấp. Vì thế đối với các tín hiệu mức thấp, bước lượng tử được giảm và đối với các tín hiệu mức cao nó được tǎng để ít hoặc nhiều cân bằng S/NQ với mức tín hiệu đầu vào. Những vấn đề trên được tiến hành bằng cách nén biên độ. Một cách lý tưởng, đối với các tín hiệu mức thấp đường cong nén và giãn là truyến tính. Đối với các tín hiệ mức cao chúng đặc trưng bởi đường cong đại số.

Hình 3.13. Đặc tính nén và giãn

Hiện nay, ITU-T khuyến nghị luật m (m =255) là phương pháp 15 đoạn và luật (A= 87,6) là phương pháp 13 đoạn như là phương pháp nén đoạn mà các hàm đại số được biểu diễn gần đúng với một vài đường tuyến tính.

Với việc sử dụng công nghệ nén được mô tả ở trên, những đặc tính tạp âm ở các tín hiệu mức thấp có thể được giảm đến mức hầu như giống với mức của mã tuyến tính 13 bits. Một bộ nén - giãn đôi khi được nói tới như là một từ viết tắt kết hợp nén và bộ dãn.

Hình 3.14 Các đặc tính S/NQ của các phương pháp mã hoá

Cả hai phương pháp mã hoá và phương pháp nén là đồng thời được tiến hành qua bước nén số - số hoặc tự mã hoá mà không thêm những mạch riêng rẽ khác bởi sử dụng tính chất tuyến tính của phương pháp nén đoạn trong số. Một bảng giá trị với phương pháp mã hoá và cách nén mã m =255 được chỉ ra trên bảng 3.5

Bảng mã hoá m 255 Bảng giải mã m 255

Mã vào hướng tuyến tính Mã nén Mã ra hướng tuyến tính

0 0 0 0 0 0 0 1 w x y z a

0 0 0 0 0 0 1 w x y z a b

0 0 0 0 0 1 w x y z a b c

0 0 0 0 1 w x y z a b c d

0 0 0 1 w x y z a b c d e

0 0 1 w x y z a b c d e f

0 1 w x y z a b c d e f g

1 w x y z a b c d e f g h 0 0 w x y z

0 0 w x y z

0 1 w x y z

0 1 w x y z

1 0 w x y z

1 0 w x y z

1 1 w x y z

1 1 w x y z 0 0 0 0 0 0 0 1 w x y z 1

0 0 0 0 0 0 1 w x y z 1 0

0 0 0 0 0 1 w x y z 1 0 0

0 0 0 0 1 w x y z 1 0 0 0

0 0 0 1 w x y z 1 0 0 0 0

0 0 1 w x y z 1 0 0 0 0 0

0 1 w x y z 1 0 0 0 0 0 0

1 w x y z 1 0 0 0 0 0 0 0

Bảng 3.5. m =255 Mã hoá và Giải mã

3.3.5 Mã hoá và Giải mã

Mã hoá là một quá trình so các giá trị rời rạc nhận được bởi quá trình lượng tử hoá với các xung mã. Thông thường các mã nhị phân được sử dụng cho việc mã hoá là các mã nhị phân tự nhiên, các mã Gray (các mã nhị phân phản xạ), và các mã nhị phân kép. Phần lớn các kí hiệu mã so sánh các tín hiệu vào với điện áp chuyển để đánh giá xem có các tín hiệu nào không. Như vậy, một bộ phận chuyển đổi D/A hoặc bộ giải mã là cần thiết cho việc tạo ra điện áp chuẩn. Trong liên lạc công cộng PCM, tiếng nói được biểu diễn với 8 bits. Tuy nhiên trong trường hợp của luật m , các từ PCM được lập nên như sau (8 bits).

Bit phân cực = ớ 0,1ý

Bit phân đoạn = ớ 000, 001,..., 111ý

Bit phân bước = ớ 0000, 0001,... , 1111ý

Từ đoạn thứ nhất của tín hiệu "+" và tín hiệu "-" là các đượng thẳng, có 15 phân đoạn. Cực "+" của dạng sóng tín hiệu tương ứng với bit phân cực 0 và cực "-", với "1".

Hình 3.15. Mã hoá từ PCM

Việc báo hiệu được thực hiện sau khi thay đổi "0" của từ PCM sang "1" và "1" sang "0" và vì thế, một lượng lớn số 1 đã được thu thập chung quanh mức 0 và sự tách các tín hiệu thời gian trong khi thu nhận có thể dễ dàng thực hiện. B8 là bít thứ 8 của từ PCM, đôi khi được dùng như là một bit báo hiệu. B7 (hoặc B8) chuyển đổi sang "1" khi mọi từ của PCM là "0". Như vậy, trong các tín hiệu PCM được gửi đi, các số "0" liên tục luôn luôn ít hơn 16. Mặt khác, khi sử dụng phương pháp Bắc Mỹ, bit B2 của mọi kênh được thay đổi thành "0" nhằm chuyển đi thông tin cảnh báo cho đối phương. ở Nhật Bản, bit "S" đó là một phần của khung các bit chỉ định được dùng thay thế cho mục đích này. Các từ PCM nhận được được chuyển đổi thành các tín hiệu PAM bởi bộ giải mã. ở phía thu, các xung tương ứng với mỗi kênh được chọn lọc từ các dẫy xung ghép kênh để tạo ra các tín hiệu PAM. Rồi, các tín hiệu tiếng nói được phục hồi bằng một bộ lọc thông thấp.

Trong hình 3.17, quá trình tạo ra các tín hiệu tiếng nói từ các tín hiệu PAM sử dụng phổ để minh hoạ. Như đã thấy, quá trình này được thực hiện trong thứ tự ngược lại chính xác với quá trình lấy mẫu được mô tả ở hình 3.10.

Hình 3.16. Quá trình giải mã

Phổ của tín hiệu đã lấy mẫu

Hình 3.17. Quá trình giải mã và phổ

3.3.6 Báo hiệu

Chức nǎng báo hiệu của thiết bị đầu cuối PCM được dùng để truyền các tín hiệu giám sát như là các tín hiệu nhấc máy, đặt máy, xung quay số của điện thoại, bảo dưỡng và điều hành thông tin, Theo phương pháp châu Âu dùng phương pháp báo hiệu mạch chung hoặc báo hiệu kênh chùm, chia các kênh cho các bit báo hiệu có sẵn để sử dụng, trong khi theo phương pháp Bắc Mỹ thì truyền tin dựa trên cơ sở phương pháp báo hiệu theo đường gọi hoặc báo hiệu kênh kết hợp, một LSB (bit đánh dấu nhỏ nhất) ở trong mỗi kênh PCM của khung thứ 6 và thứ 12 của đa khung 12 khung chỉ được sử dụng để báo hiệu. Nói cách khác, tiếng nói được lấy mẫu và duy trì mỗi 125m s và rồi được mã hoá, và bit B8 của mỗi giá trị mẫu thứ sáu (báo hiệu A) và giá trị mẫu thứ 12 (báo hiệu B) được sử dụng đặc biệt làm các bit báo hiệu. Do đó, số các bit báo hiệu cho mỗi kênh trở thành 1,333 bits/giây.

3.3.7 Các phương pháp mã hoá khác

Những khuyến nghị của G711 của ITU-T ghi rõ mối quan hệ giữa báo hiệu tiếng và các quy luật mã hoá/giải mã PCM. Cũng vậy, các quy luật đối với PCM vi phân thích ứng 32Kbps có nén giãn như mã hoá dự đoán của các tín hiệu tiếng được chỉ rõ trong các khuyến nghị G712 của ITU-T. Phương pháp ADPCM 32 Kbps được chấp nhận vào tháng 10 nǎm 1984 được dùng để chuyển đổi các tín hiệu PCM 64 Kbps theo luật A hay luật m hiện nay sang các tín hiệu ADPCM.

Phương pháp 32 Kbps ADPCM có khả nǎng chuyển một lượng tiếng nói lớn gấp hai lần phương pháp qui ước 64 Kbps PCM và hơn nữa, được chấp nhận một cách rộng rãi bởi bộ chuyển mã hoặc các thiết bị đầu cuối mã hoá với hiệu quả cao. Hiện nay các nước tiên tiến trên thế giới đang tiến hành nghiên cứu một cách ráo riết về công nghệ mã hoá mới như là mã hoá tiếng nói 16 Kbps, mã hoá chất lượng cao 64 Kbps, mã hoá tín hiệu tiếng nói 384 Kbps và mã hoá tín hiệu truyền hình.

3.4 Truyền dẫn chuyển tiếp

3.4.1 Bộ lặp tái tạo

Phương pháp chuyển tiếp số được đặc trưng bởi các mặt sau: trước hết, các tín hiệu số bị méo bởi sự suy hao và tạp âm trong khi truyền được tái tạo thành các tín hiệu không bị méo như trong trường hợp truyền các tín hiệu đối với tái tạo. Bộ lặp tái tạo sẽ cân bằng (hoặc tạo lại hình dạng) dạng sóng bị méo thành dạng sóng được mã hoá với tỷ số S/N cao, tái tạo dạng sóng đã cân bằng thành các xung mà nó giống như là truyền xung bằng cách nhận dạng '1' và '0' của thông tin nhị phân trên các dạng sóng cân bằng và định thời các pha của các xung truyền ở những khoảng thời gian chính xác.

Thiết bị chuyển tiếp đầu cuối được dùng để tái tạo và khuyếch đại các tín hiệu, chia các dòng cho bộ lặp lại đường. Cũng vậy, nó tiến hành việc chuyển đổi mã (cực đơn sang đa cực), ngẫu nhiên hoá và giải ngẫu nhiên mã, nhập và tách các tín hiệu điều khiển và kiểm tra. Bộ lặp tái tạo có chức nǎng tái tạo các xung bị méo mó trên đường. Cũng vậy, nó được lắp một mạch để phát hiện lỗi. Dùng các bộ lặp tái tạo, các thiết bị điện thoại có thể phát hiện các lỗi trên thông qua điều khiển từ xa. Rõ hơn là, chúng phát hiện các lỗi mã hoá bằng cách kiểm tra tính chẵn lẻ, việc khử mã truyền để cho người kiểm tra tình trạng vận hành của các trạm lặp lại; nếu lỗi được tìm thấy, các bộ lặp lại hư hỏng được chẩn đoán bằng cách dùng bộ ba xung và dò tìm pha. Bộ lặp lại được hoạt động bằng dòng điện tỷ lệ (thường 60 mA) được trùng lặp trên các tín hiệu cung cấp từ trạm đầu cuối. Tạp âm sinh ra từ hệ thống tái tạo chủ yếu do tạp âm lỗi mã và tạp âm jitter. Chất lượng của các đường truyền tái tạo được đánh giá trên những cơ sở này. Tạp âm lỗi mã tạo ra tuỳ thuộc vào tạp âm nhiệt và sự méo dạng sóng. Còn tạp âm jitter tạo ra bởi sự thay đổi mẫu mã hoá và các phần tử khác không phụ thuộc vào các mẫu mã hoá.

Độ lớn tạp âm của bộ tạo dạng tỷ lệ với số lượng bộ lặp lại và cái sau tǎng lên tỷ lệ với cǎn bậc hai của số lượng bộ lặp lại. Các vòng khoá pha được sử dụng để triệt jitter. Các đặc tính jitter tuỳ thuộc vào cấp báo hiệu được khuyến nghị trong G823 và G824 của ITU-T. Các tín hiệu sóng hình sin được phân bố theo thời gian khi đi qua đường truyền và các mã đầu/cuối là đối tượng tạo ra sự giao thoa. Đó được gọi là một sự giao thoa liên kí hiệu hoặc sự xuyên âm thời gian. Biểu đồ mẫu mắt được dùng để chỉ thị các đặc tính của đáp tuyến dạng sóng của các dãy mã truyền; mắt của biểu đồ trở nên hẹp khi sự giao thoa hoặc jitter được tạo nên trên các mã. Định thời gian được thực hiện để nhận dạng các lỗi tại điểm mà mắt biểu đồ mở. Nếu chúng ta lấy tỷ lệ lỗi của mỗi bộ lặp lại là Pe và giá trị thực tế của jitter là Oj thì tỷ lệ lỗi truyền dẫn được tiến hành với số N bộ lặp lại sẽ là N x Pe (khi chức nǎng bộ lặp tái tạo là có, hầu hết cũng giống như tiết diện đơn P(e). Cũng vậy, giá trị thực tế của jitter được biểu thị bằng a(N x Oj) (a: hằng số). Do đó, những bộ lặp lại có khả nǎng nhận dạng và tái tạo các tỷ lệ lỗi. Về jitter, chúng sẽ có 1 chức nǎng cân bằng dạng sóng với độ chính xác cao để thực hiện tái tạo thời gian một cách chính xác.

3.4.2 Mã truyền dẫn

Nếu cùng các loại số liệu được truyền liên tục, lỗi có thể phát sinh khi nhận chúng, vì thế việc phục hồi số liệu cực kỳ khó khǎn. Đó là lý do số liệu phát qua đường truyền dẫn phải được mã hoá. Quá trình này được gọi là mã truyền dẫn, phương pháp mã hoá truyền dẫn được lựa chọn bởi xem xét sự chặn dải bǎng thấp, nén độ rộng dải bǎng, tách các tín hiệu thời gian, khử jitter, kiểm tra hướng đường truyền và đơn giản hoá các mạch. Mã lưỡng cực hoặc AMI (luân phiên đổi chiều điểm đánh dấu), B6ZS và B8ZS được dùng tương ứng trong T1, T2 và tín hiệu kênh xoá 64 Kbps. Theo phương pháp châu Âu HDB3 (mã lưỡng cực mật độ cao 3) và 4B3T được sử dụng.

Mặt khác, các phương pháp mã truyền dẫn như là lưỡng pha, MDB (nhị phân kép biến đổi), 4B3T (MS43), 3B2T và 2B1Q đã được nghiên cứu hiện nay đối với phương pháp truyền dẫn thuê bao số. Xu hướng phát triển gần đây là AMI với phần cứng đơn giản được dự kiến sử dụng trong phương pháp truyền dẫn TCM (ghép kênh nén thời gian) và cũng vậy cho 2B1Q trong ECH (sự triệt tiếng đối với Hybrid).

A- Mã lưỡng cực

Đó là một phương pháp chuyển đổi '0' của tín hiệu vào nhị phân sang xung của mức '0' và 1 thành xung của hai mức +A, -A.

Mã lưỡng cực không có phần tử một chiều và sử dụng luân phiên +A, -A để có thể phát hiện lỗi mã lưỡng cực và có khả nǎng tiến hành chuyển đổi và tương ứng có các đặc trưng tuyệt vời như các mã truyền. Từ đó không có chức nǎng khử trên các mã 0 liên tục, người nhận có thời gian khó khǎn để tách riêng thời gian của nó.

Để giải quyết những vấn đề nêu trên, một loại mã liên tục không có một độ dài nhất định được chuyển sang các mẫu đặc biệt dùng một mã lưỡng cực mật độ cao (BNZS, HDBN, mã).

AMI được dùng cho phương pháp Bắc Mỹ của hệ thống 1,544 Mbps.

Hình 3.23. Hình thức mã hoá AMI

B- Mã BNZS (Lưỡng cực với sự thay thế N số 0)

Đó là một phương pháp chuyển đổi N số các mã liên tục số '0' thành N số các mã đặc biệt có các xung vi phạm lưỡng cực. Về mặt thu nhận tin tách, các mã vi phạm lưỡng cực và rồi chuyển chúng thành N số O để nhận được các mã gốc. Các mã BNZS gồm các loại sau:

B6ZS

B6ZS là các mã nhận được do chuyển đổi sáu chữ 0 liên tục thành các mẫu OVBOVB. Các mã này được dùng bởi AT & T và coi như tiêu chuẩn giao tiếp của hệ thống tiêu chuẩn T2. ITU-T khuyến nghị điều này cho sự giao tiếp của việc báo hiệu ghép kênh cấp 2 (6,312 Mbps).

• B: Xung lưỡng cực thông thường (cực thay đổi)

• V: Xung vi phạm

• O: Xung mức ặ

B3ZS

Nếu số các xung ở giữa 3 số O liên tục và xung V ngay trước, các mã này được chuyển đổi thành BOV và nếu lẻ, nó được chuyển đổi thành mẫu OOV. ở Bắc Mỹ, chúng được sử dụng như là tiêu chuẩn giao tiếp của hệ thống 44.736 Mbps.

B8ZS

Đó là các mã nhận được bởi chuyển đổi 8 số 0 liên tục thành mẫu OOOVBOVB. Chúng được sử dụng trên hệ 1.544 Mbps của Bắc Mỹ.

C- Mã lưỡng cực mật độ cao HDBN

Đây là một phương pháp chuyển đổi các mã số thành các xeri gồm xung vi phạm lưỡng cực (V) tại bit cuối cùng số (N+1) của các mã số 0 liên tục. Bộ giải mã, để loại bỏ những yếu tố DC có thể được gây ra bởi các xung không liên tục, phải luôn luôn bảo đảm sao cho số xung B giữa xung V nói trên và xung đi sau nó là số chẵn. Do sự phân cực của xung V luôn luôn thay đổi, nên các yếu tố DC bị triệt tiêu. Các dạng đặc biệt hiện có gồm BOO...V hoặc OOO..V, ở đây vị trí bit đầu tiên được sử dụng để biến số xung B giữa các xung V thành số lẻ. Vị trí của bit cuối cùng phải luôn luôn là (V). Tất cả các vị trí bit còn lại là O. Thí dụ về mã số N lưỡng cực mật độ cao như sau:

o HDB2: giống như B3ZS

o HDB3

Đây là mã số mà 4 số O liên tục của nó được chuyển đổi thành dạng OOOV hoặc BOOV. Nếu tạo ra quá 4 O, bit thứ 4 luôn luôn được biến thành V. Nếu sau đó O vẫn cứ tiếp tục, thì bit đầu tiên sẽ chuyển đổi thành B khi có bit V đi trước, để làm ổn định các yếu tố DC. ITU-T đề nghị mã này làm giao diện giữa các mối liên lạc ghép kênh CEPT1.

Hình 3.25. Kiểu mã HDB3

Mã CMI (Đảo dấu mã)

Đây là một kiểu các phương pháp mã số 2 mức; cũng như trong trường hợp phương pháp mã số lưỡng cực, mã số NRZ (không trở về 0) được chuyển đổi luân phiên. Không được mã số thành các sóng vuông "-+" hoặc "+-" có pha riêng tại điểm trung tâm của 1 bit. Tương ứng, nǎng lượng DC không tồn tại và trạng thái tín hiệu thay đổi nhiều, vì vậy nó có hiệu ứng định thời gian tốt hơn so với NRZ. ITU-T đã đề xuất mã số này như một giao diện chuẩn cho các liên lạc ghép kênh của hệ thống CEPT4.

3.5 Ghép kênh phân chia theo thời gian

và công nghệ truyền dẫn đồng bộ

3.5.1 Ghép kênh nhóm sơ cấp:

Trong hệ thống sử dụng phương pháp ghép kênh hoá phân chia thời gian, liên lạc không có lỗi chỉ có thể thực hiện được nếu các bit, các khung và các kênh ghép kênh được đồng bộ hoá cùng kiểu như nhau tại nơi phát và nơi thu. Ghép kênh là một quá trình chuyển đổi một số tín hiệu số thành tín hiệu số tốc độ cao. Hiện có một số phương pháp kết hợp dựa theo sự xen kẽ các nhóm, từ và bit. Trong nhóm sơ cấp PCM, người ta sử dụng một phương pháp xen từ để đơn giản thiết lập sự mã hoá chung cho nhiều đường gọi. Ngược lại trong các nhóm cấp cao nói chung người ta sử dụng phương pháp xen bit chỉ đòi hỏi một bộ nhớ cỡ nhỏ. Ngoài ra khi ghép kênh các tín hiệu, người ta bổ sung thêm các kiểu tín hiệu điều khiển khác nhau như các xung đồng bộ khung để thiết lập các khung đồng bộ hoá; những xung đồng bộ khung này được xen vào theo kiểu phân bố sử dụng ở Bắc Mỹ và kiểu tập trung sử dụng ở châu Âu.

Sự ghép kênh sơ cấp hoặc giải kênh của thiết bị đầu ra PCM có khả nǎng ghép kênh đồng bộ 24 kênh (kiểu Bắc Mỹ) hoặc 30 kênh (kiểu Châu Âu) của các tín hiệu âm thanh. Hiện nay, các phương pháp ghép kênh tín hiệu PAM và PCM khác đang được sử dụng với PCM-24B, D4 của Mỹ và DE-4 của Canađa ghép kênh các tín hiệu PAM, các tín hiệu tương tự và sau đó chuyển đổi chúng thành các tín hiệu PCM tại CODEC chung, CODEC đơn tuyến biến từng kênh thành tín hiệu PCM để ghép kênh số. CODEC đơn tuyến đã trở thành thương mại hoá do sự phát triển thành công của công nghệ xử lý tín hiệu số và bán dẫn như LSI. Nó đang được nâng cấp để có cả chức nǎng kiểm soát các đặc tính và kết quả của việc truyền tin qua việc sử dụng bộ lọc lai ghép - 2w/4w và chương trình cùng với chức nǎng CODEC của nó. Hiện nay nó được sử dụng rộng rãi hơn trong các hệ thống chuyển mạch số hơn là các hệ thống truyền dẫn.

Hình 3.27. Các phương pháp ghép kênh của thiết bị đầu cuối PCM

Các nước tiên tiến như Mỹ và Nhật đang sử dụng kiểu PCM24 kênh theo G733 trong khuyến nghị của ITU-T, phần lớn các nước châu Âu đều đang sử dụng kiểu PCM30 kênh.

Mỗi khung của kiểu Bắc Mỹ là 125 MS; một bit 'S', nghĩa là một bit đồng bộ khung được bổ sung vào 192 bit (24 kênh x 8 bit) âm thanh được ghép kênh để cấu hình nó với 193 bit. Một đa khung ghép kênh được hình thành gồm 12 khung thuộc kiểu này. Các đa khung ghép kênh được hình thành để phát một cách hiệu quả các tín hiệu có các tốc độ khác nhau như tín hiệu tiếng nói 24 x 64 Kbps, báo hiệu 24 x 1,33 Kbps, và 'S' bit 8 Kbps. Trong kiểu châu Âu, vì cần phải có 256 bit cho một khung nên phải sử dụng 16 khung để tạo 1 đa khung. Khe thời gian đầu tiên của các khung được sử dụng để đồng bộ khung và khe thời gian thứ 17 (kênh số 16) được sử dụng để đồng bộ đa khung và báo hiệu. Vì vậy, chỉ có 30 khe thời gian được sử dụng cho tiếng nói.

Hình 3.28. Cấu hình khung của nhóm sơ cấp theo kiểu Bắc Mỹ

Hình 3.29. Cấu hình khung của nhóm sơ cấp theo kiểu E1

Loại Kiểu Bắc Mỹ Kiểu Châu Âu

Đặc tính

cơ bản Tốc độ truyền 1,544 Mb/s ? 50 ppm 2,048 Mb/s ? 50 ppm

Số bit trong 1 khung 24 x 8 + 1 = 193 32 x 8 = 256

Số khung ghép kênh (chu kỳ) 12 (1,5ms) 16 (2,0ms)

Đồng bộ khung Kiểu phân phối Kiểu tập trung

Số khe thời gian trên 1 khung 24/24 32/30

Đặc tính đường gọi Tần số mẫu (chu kỳ) 8 KHz (125 m s) 8 KHz (125 m s)

Số bit được mã hoá 75/6 8

Quy luật nén giãn Luật U (=255) 15 đoạn Luật A=87,6 13 đoạn

Đặc tính tín hiệu Số bit để báo hiệu 1,333 Kb/s 2 Kb/s

Báo hiệu kênh kết hợp Phương pháp trong khe (bit số 8 của khung thứ 6 hoặc khung thứ 12) Phương pháp ngoài khe (kênh thứ 16)

Báo hiệu kênh chung Cần sử dụng kênh riêng biệt 4 Kb/s không hợp lý Sử dụng kênh 16 (64 Kbps)

Đặc tính truyền dẫn Mã đường AMI hoặc B8ZS HDB3

Giá trị suy hao do cáp cho phép 7-35 dB 8-42dB

Bảng 3.6 So sánh phương pháp PCM kiểu Bắc Mỹ và Châu Âu

3.5.2 Công nghệ ghép kênh cấp cao

Để ghép kênh cần phải đồng bộ một cách hợp lý tần số và pha của từng tín hiệu số: Hiện có các kiểu phương pháp ghép kênh như sau: phương pháp ghép kênh đồng bộ và phương pháp ghép kênh không đồng bộ. Trong ghép kênh đồng bộ các bit được xen theo thứ tự để ghép kênh vì tất cả đầu vào đã được đồng bộ hoá; trong khi đó ghép kênh không đồng bộ thì việc đồng bộ được tiến hành để ghép kênh bằng cách chèn xung vì tất cả đầu vào đều được dị bộ hoá. Mặt khác trong những mạng lưới đã được đồng bộ hoá hợp lý, việc ghép kênh phân chia thời gian được tiến hành bằng cách đồng bộ hoá các pha. Sự ghép kênh sơ cấp PCM thuộc kiểu ghép kênh đồng bộ hoá, và sự ghép kênh cấp cao như M12 và M13 thuộc loại ghép kênh dị bộ.

Hình 3.30. Đồng bộ hoá việc chèn xung

G.701 trong khuyến nghị ITU-T định nghĩa việc chèn xung như một sự cǎn chỉnh. Nó đề xuất sự cǎn chỉnh dương, âm và dương âm. Trong việc đồng bộ hoá sự chèn xung, sự định thời gian được thiết lập một cách sao cho nó nhanh hơn tốc độ của tất cả các tín hiệu vào một chút. Khi chúng chỉ khác một byte, xung chèn được đưa vào vị trí thời gian đã được định trước. Sau đó, các tín hiệu đã được đồng bộ hoá như nói trên đây được ghép kênh bằng đơn vị bit.

Hình 3.31. Quá trình ghép kênh của tín hiệu DS2

Phía phát của thiết bị ghép kênh ghi lại các tín hiệu nhóm cấp thấp vào bộ nhớ đàn hồi và đọc ra bằng cách sử dụng một đồng hồ kiểm soát để thu được các tín hiệu cấp thấp đồng bộ hoá trên đó đã được các xung chèn vào. Những tín hiệu này được ghép kênh bằng các bit và sau đó, các xung đồng bộ khung và chỉ thị chèn được đưa vào và tiếp đó được xáo trộn để thu được tín hiêụ ra cấp cao. ở phía nhận, các tín hiệu thu được phân giải và sau đó tách ra để loại bỏ các xung chèn và cuối cùng các tín hiệu ban đầu lại được tạo ra sau khi ổn định thời gian của chuỗi xung. Thiết bị ghép kênh kiểu M12 biến đổi các tín hiệu lưỡng cực DS1 (1,544 Mbps) từ 4 thiết bị đầu cuối PCM thành các tín hiệu đơn cực và sau đó ghép kênh thành các tín hiệu DS2 (6,312 Mbps). Các tín hiệu DS2 thu được bằng cách ghép kênh 4 tín hiệu DS1 được thể hiện bằng phương trình sau:

Trong phương trình trên, 49/48 có nghĩa là 1 bit đồng bộ khung được cộng với từng 48 bit, S là số bit chèn (tỉ số cǎn chỉnh) tồn tại ở mỗi 288 bit. Trong phần lớn các trường hợp chúng được phân định với 0,333. (48) nghĩa là các tín hiệu có 4 bit DS1 được ghép kênh theo thứ tự ở kiểu khung DS2 minh hoạ ở hình 3.32. M là các bit đồng bộ đa khung, F là số bit đồng bộ khung. Cuối cùng ký tự đầu tiên có nghĩa là tín hiệu được cố định ở 0 hoặc 1.

Như một thí dụ của việc chèn xung, nếu 3 bit C của một cột thứ nhất tất cả đều là 1, thì có nghĩa là : bit thứ nhất ở cuối cột là 1 bit chèn. Một kênh nhận được tín hiệu thấp hơn 1,544 Mbps gây cho số bit nhồi tǎng lên vì vậy các tín hiệu ghép kênh luôn luôn giữ ở 6,312 Mbps. Kết quả là, khung DS2 được thiết lập với 1176 bit. Trong số chúng, các bit thông tin là 1148 bit (48 x 16). Và những bit còn lại được sử dụng để tạo khung, kiểm soát sự chèn và giám sát.

Hình 3.32. Kiểu khung DS2

Hệ thống phân cấp Tốc độ Phương trình

DS0 64 8,000b/s x 8bit

DS1 1,544 64Kb/s x 24 +8Kb/s

DS2 6,312

DS3 44,736

DS4 274,176

Bảng 3.7. Tốc độ nhóm cấp cao kiểu Bắc Mỹ

Hệ thống phân cấp Tốc độ Phương trình

CEPT0 64 8,000b/s x 8bit

CEPT1 2,048 64Kb/s x 32

CEPT2 8,448

CEPT3 32,368

CEPT4 139,264

Bảng 3.7. Tốc độ nhóm cấp cao kiểu Châu Âu

Ngoài ra G.802 đã kiến nghị sự phân cấp báo hiệu lai ghép 2,048 - 6,312 - 44,736 - 139,264. Mbps để đáp ứng tiêu chuẩn của giao diện giữa các cấp báo hiệu. G747 khuyến nghị giao tiếp giữa 2,048 và 139,264 Mbps và G755 khuyến nghị các đặc tính ghép kênhlai ghép cho giao tiếp giữa 44,736 và 139,264 Mbps.

3.6 Truyền dẫn số đồng bộ và đồng bộ hoá mạng lưới:

3.6.1 Công nghệ truyền dẫn số đồng bộ:

Trong hệ thống phân cấp số đồng bộ hiện có được chấp nhận trên thế giới, các tín hiệu số sử dụng các nguồn đồng hồ độc lập được ghép kênh để có lợi về mạch trên đường truyền để có hiệu quả kinh tế, khiến chúng phù hợp để áp dụng chuyển qua hai điểm. Tương ứng, hiện có 1 số những bộ điều khiển báo hiệu và các bước ghép kênh chưa hoàn hảo để bù những sự khác biệt về thời gian giữa các tín hiệu số đầu vào trong quá trình ghép kênh tín hiệu. Trong những nǎm 1980 do sử dụng nhiều hệ thống chuyển mạch số và thiết bị truyền dẫn số và nhu cầu thiết lập ISDN càng ngày càng lớn, việc đồng bộ hoá mạng lưới đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Ngoài ra, qua việc áp dụng công nghệ máy tính điện tử trong các thiết bị truyền dẫn, các cấu hình mạng lưới đơn giản và linh hoạt hơn đã được thực hiện. Điều này nghĩa là các chức nǎng phân chia/phân phối, vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa của các thiết bị truyền dẫn được nâng cấp. Tương ứng, việc nghiên cứu phát triển các phương pháp truyền dẫn đồng bộ đã được bắt đầu ở nhiều nước tiên tiến. Các hướng nghiên cứu như sau:

1. Sử dụng cấu trúc đa khung dị bộ hiện có.

2. Cải tiến cấu trúc khung dị bộ hiện có.

3. Thiết lập sự phân cấp đồng bộ mới.

Để đạt được mục đích nêu ở mục 1/. ; các cấu trúc đa khung dị bộ hiện có đã được sử dụng không cần thay đổi. Ngoài ra các bộ điều khiển nhồi và các bit chèn đã trở thành không cần thiết do sự nối các tín hiệu nhánh đồng bộ đã được sử dụng như những thiết bị bổ xung ngoài các đường truyền dẫn. Đồng thời các chu kỳ khung của các bội số 125m s được thiết lập và sử dụng như một siêu khung để nhận biết các tín hiệu ở các cấp ghép kênh. Thí dụ điển hình là format syntran (truyền dẫn đồng bộ tại DS3), nó cải tiến khung tín hiệu DS3 hiện có thành một format báo hiệu đồng bộ để sử dụng. Để đạt được mục đích nêu ở (2/.), tín hiệu dị bộ hiện có được tái cấu hình thành format tín hiệu đồng bộ có chu kỳ khung 125m s để phân phối mạch dễ hơn. Những thí dụ điển hình của 2 loại trên là DST (đầu cuối đồng bộ số) loại 6 Mbps và SDTT (đầu cuối truyền dẫn số đồng bộ) do NTT của Nhật xây dựng. Mục nêu ở 3/., do những tác động của nó tới sự phát triển các mạng lưới truyền dẫn trong tương lai, sẽ được trình bày chi tiết trong phần sau.

3.6.2 Kiểu tín hiệu phân cấp số đồng bộ:

Một cấu trúc khung thích hợp để đảm bảo có được những dịch vụ số và đáp ứng những nhu cầu cấu hình và vận hành mạng lưới cần phải xác định trước hết để định tốc độ thích hợp của sự phân cấp số đồng bộ. Phần lớn các dịch vụ liên lạc đang được thực hiện hiện nay là ở dạng tiếng nói và tốc độ PCM của chúng là 64 Kbps; tốc độ của dịch vụ ISDN nhanh hơn tốc độ này vài lần. Tương tự, khi chu kỳ khung được đạt ở 8 KHz và cấu trúc khung, với đơn vị 8 bit (byte), tất cả các kênh dịch vụ có thể đáp ứng được 1 cách dễ dàng qua việc phân định 1 số khe thời gian nhất định, chúng chiếm những vị trí cố định của khung và do đó, việc ghép kênh những đơn vị này giúp sự nhận biết tín hiệu trực tiếp được dễ dàng trong các cấp ghép kênh, và tạo cho phần cứng linh hoạt hơn. Hơn nữa đối với việc để cấu hình mạng lưới linh hoạt, việc nhận biết và phân tách tín hiệu ở các cấp ghép kênh cần phải dễ dàng. Nghĩa là cấu trúc khung phải được thiết kế đơn giản sao cho các kênh dịch vụ hoặc các tín hiệu số cần được đưa vào và lấy ra một cách dễ dàng.

Để đạt được mục đích này thông tin cần phải xen kẽ theo hướng xuôi bằng đơn vị bit hoặc byte trong 1 khung với chu kỳ 125m s. Để có kết quả tốt nhất, số hàng và cột cần phải được xác định bằng cách xem xét độ rộng bǎng tần của các tín hiệu số và các kênh dịch vụ cần thích ứng. Những mạng trong tương lai được hy vọng phức tạp hơn vì quy mô truyền dẫn cũng như số lượng dịch vụ cũng tǎng lên. Tương ứng, để làm cho việc vận hành bảo dưỡng và sửa chữa mạng dễ dàng hơn, cần phải bảo đảm bổ xung đủ trong các khung tín hiệu truyền dẫn. Những nhu cầu này sẽ được đáp ứng khi các sợi quang học, phương tiện truyền dẫn không bị giới hạn bởi dải thông, có thể được sản xuất và lắp ráp 1 cách kinh tế. Các tín hiệu phân cấp số đồng bộ cần phải có khả nǎng thực hiện được cấu trúc khung nêu trên. Ngoài ra chúng cần phải được thiết lập, xem xét xu hướng phát triển của các thiết bị liên quan, các kiểu thiết bị số cần thích nghi và khả nǎng nâng cấp chúng lên cao hơn. Công nghệ sản xuất các thiết bị liên quan cũng được nâng cấp với tốc độ nhanh; công nghệ CMOS thường được coi là công nghệ tiên tiến nhất hiện có, sẽ tạo khả nǎng xử lý thông tin loại 150-200 MHz sau vài nǎm. Hơn nửa dịch vụ loại H4 tốc độ cao có khả nǎng được đưa ra với loại 135 Mbps để có thể thích ứng đối dịch vụ tiếng nói giải thông hẹp hiện có cũng như dịch vụ VIDEO. Trong trường hợp các tín hiệu số, các tín hiệu phân cấp dị bộ hiện có được kiến nghị sử dụng vì chúng kinh tế. Kết quả là, có thể thích ứng tới DS4 (139 Mbps).

Mặt khác trong tương lai gần các tín hiệu phân cấp cơ bản đồng bộ sẽ được sử dụng như những tín hiệu cơ bản của các mạng truyền dẫn số, đặc biệt loại ISDN giải rộng, nếu nhu cầu đồng bộ mạng lưới và dịch vụ dải rộng tǎng lên như dự kiến. Do đó chắc chắn nó sẽ được nâng cấp thành các tín hiệu phân cấp bậc cao.

Hình 3.33. Cấu trúc khung STM.1.

ITU-T đã thiết lập mức cơ bản của phân cấp số đồng bộ là 155,520 Mbps bằng cách xem xét những yêu cầu về cấu trúc khung và tốc độ phân cấp cơ bản được mô tả trên đây. Ngoài ra, cuốn sách xanh của ITU-T đã kiến nghị STM-1 (kiểu chuyển đồng bộ cấp 1) có cấu trúc hướng xuôi 9 x 270 byte. Như thể hiện ở hình 3.33 minh hoạ khung tín hiệu có chu kỳ lặp lại 125 Ms. Đặc điểm của cấu trúc khung ghép kênh như sau:

1. Có khả nǎng phát triển thành cấp cao.

2. Thích ứng các tín hiệu phân cấp số do G702 ITU-T đề xuất.

3. Thích ứng các dịch vụ ISDN giải rộng.

4. Thực hiện mạng lưới minh.

Theo 1/. các tín hiệu phân cấp cơ bản được sắp xếp theo khung để ghép kênh bằng phương pháp xen byte đơn giản. Các chức nǎng xử lý tín hiệu đòi hỏi vào lúc này là chức nǎng xử lý 1 phần thông tin bổ xung.

Tương ứng, tốc độ phân cấp bậc cao được xác lập bởi các bội số nguyên của tốc độ phân cấp cơ bản và chức nǎng ghép kênh sẽ trở nên rất đơn giản. Theo 2/. những tín hiệu phân cấp 1,544 Mbps và 2,048 Mbps được cấu trúc như sau để chúng có thể chiếm 1 cột đơn vị 9 byte trong 1 khung đồng bộ.

Tín hiệu 1,544 Mb/s 2,048 Mb/s

DS1 (CEPT1) 9 cột x 3 hàng 9 cột x 4 hàng

DS2 (CEPT2) 9 cột x 12 hàng 9 cột x 16 hàng

DS3 (CEPT3) 9 cột x 85 hàng 9 cột x 65 hàng

DS4 (CEPT3) 9 cột x 261 hàng

Bảng 3.9. Cấu trúc khung đồng bộ

Đối với những tín hiệu trên, sự chèn và những sự bổ xung cần thiết được bổ xung vào cho tốc độ tín hiệu cơ bản. Chúng được xác lập bởi đơn vị 9 cột. Việc xác lập những đơn vị này chỉ đòi hỏi 1 hàm xác nhận về 270 hàng trong cấu trúc 9 x 270 byte của các tín hiệu cơ bản thay vì việc xác nhận tín hiệu chiếm ở tất cả các byte hiện có trong khung. Tương ứng các chức nǎng xác nhận, tách và xen đối với những tín hiệu trên có thể được tiến hành dễ dàng hơn ở cấp ghép kênh.

Theo 3/. , các dịch vụ giải thông như H2 và H4 nên là bội số của 64Kb/s để tối đa hoá những ưu điểm của việc sử dụng các tín hiệu số mô tả trên đây. Ngoài ra, nếu có thể, tốc độ dịch vụ cần phải được xác lập sao cho có thể đảm bảo được cấu trúc 9 x N byte (N là số nguyên). Để thực hiện các mạng thông minh cần bảo đảm đủ các phần bổ xung trong format tín hiệu. Phần bổ xung của phân cấp đồng bộ được xác lập ở hình 3.34 cho mục đích này. Nghĩa là, những phần bổ xung hiện có là bổ xung từng phần (SOH) được yêu cầu bởi những yếu tố khác nhau trong các thiết bị ghép kênh và trên mỗi đường đi của tín hiệu được thích ứng trong khung.

Ngoài ra, có thể có 1 số cách phân định phần bổ xung. Trong kênh bổ xung từng phần, gồm có các bộ tạo khung (A), bộ phận điều khiển hoạt động từng phần (B), phần bổ xung cho nghiệp vụ (E1), thông tin chuyển mạch cơ động (K), số liệu người sử dụng (F1) và những kênh số liệu dung lượng lớn (D). Hơn nữa vì những kênh bổ xung theo đường được xây dựng từ những thông tin như dấu vết (J1) của đường tín hiệu tương ứng, trạng thái hình dạng tín hiệu (C,H), hiệu suất truyền dẫn (B3) về việc chuyển các dữ liệu thông tin liên quan đến hiệu suất và cảnh báo (G1) và các dữ liệu của người sử dụng (F2), các tuyến truyền dẫn thông minh có thể được thực hiện không khó khǎn gì.

Hình 3.34. Phần tử bổ xung của khung STM.1.

3.6.3 Phương pháp ghép kênh phân cấp đồng bộ:

Các tín hiệu DS1, DS2 và DS3 của xeri 1,544 Mb/s, CEPT1, CEPT2, CEPT3, CEPT4 của xeri 2,048 Mb/s và các tín hiệu dịch vụ dải thông rộng là tín hiệu nhánh thích ứng trên STM-1, một format tín hiệu cơ bản đồng bộ. Những tín hiệu này được bố trí 1 cách linh hoạt trong khung STM-1 sau khi đã được xử lý qua các phần tử ghép kênh như C, CV, TU, và AU.

Trong số những yếu tố trên, C và CV được sử dụng để truyền (điểm tới đa điểm) tín hiệu thành phần trên mạng truyền dẫn đồng bộ; Một vùng nhất định của khung STM-1 được hình thành như một VC trên đó các tín hiệu hoặc kênh dịch vụ tương ứng được náp để chuyển đi. Một đường đi kéo dài từ 1 điểm trong đó VC được tạo thành tới 1điểm nơi nó được huỷ bỏ. Phần bổ xung được sử dụng trên tuyến đường này được gọi là POH, ở đây bổ xung thêm 1 ký tự đầu để thể hiện kiểu. AU và TU là những đơn vị hiện có. AU có một con trỏ để thể hiện điểm khởi đầu của khung VC chiếm trọng tải của STM-1, trong khi đó TU có 1 con trỏ để thể hiện điểm khởi đầu của VCn-1 cấp thấp chiếm trọng tải trong VC. Chúng được yêu cầu cho việc bố trí linh hoạt trên trọng tải trong của Vcn, VCn+1, hoặc khung STM-1. Chúng đặc biệt có lợi cho việc bù sự chênh lệch về thời gian giữa 2 tín hiệu ghép kênh trong khi thực hiện chức nǎng phân chia/phân phối báo hiệu của đơn vị VC. Để ghép kênh, các tín hiệu thành phần được chuyển đổi thành STM-1 sau khi qua các phần tử ghép kênh nói trên. Nghĩa là quá trình ghép kênh như sau:

• Các tín hiệu thành phần: Tín hiệu DSn hoặc dịch vụ Hn (n= 1,2, 3,4)

• Cn: DSn + OH, Hn + OH (OH là 1 bit chèn cố định và phần bổ xung)

• Vcn: Cn + POHn (POH là phần bổ xung theo đường)

• Tun: VCn + THn PTR (PTR là 1 con trỏ)

• Vcn+1: N x TUn + POHn+1 (N là 1 số nguyên, n=1,2,3)

• Aum: VCm + AUm PTR (m=3 hoặc 4)

• STM-1: AUm+ SOH (SOH là 1 phần bổ xung theo phần)

• STM-N: STM-1 x N (N=1,4,8...)

ở đây, để ghép kênh N số STM-1 thành STM-N, có thể dùng phương pháp xen byte đơn giản thể hiện ở hình 3.35.

Hình 3.35. Phương pháp ghép kênh đồng bộ

Mặt khác, tín hiệu phân cấp dị bộ DSn và dịch vụ Hn được ghép kênh thành STM-N bằng cách qua những quá trình sau:

Hình 3.36. Ghép kênh thành STM-N

3.6.4 Tiêu chuẩn hoá phân cấp số đồng bộ:

ở Mỹ, việc nghiên cứu mạng quang học đồng bộ SONET, một mạng truyền dẫn quang học đồng bộ sử dụng như những trục truyền thông được nối với nhau bằng các sợi quang học đã được tiến hành từ 1984; một sợi quang học chứa một vài tuyến trục truyền thông chính để chuyển các tín hiệu tiêu chuẩn hoá một cách song song. Hệ thống này đã được chấp nhận như 1 tiêu chuẩn của ITU-T. Tương ứng, ở những vị trí tương ứng rời cổng thu trên các đường, những tín hiệu chuẩn của mỗi đường hoặc tín hiệu dưới cấp đó được tách ra và xen vào để phân chia hoặc kết hợp các tín hiệu. Các đường được phân phối tại các điểm giao nhau của các đường trục cũng giống như những chiếc ô tô thay đổi tuyến đi dựa theo điểm đích của chúng. Format đồng bộ đã được chấp nhận như một tiêu chuẩn Mỹ như sau: Các tín hiệu STS1 (tín hiệu chuyển đồng bộ cấp 1) với tốc độ cơ bản 51,840 Mb/s đã được chọn làm những tín hiệu cơ bản sẽ chiếm mỗi làn trên đường trục thông tin và những tín hiệu STS-N (tốc độ 51,840 Mb/s) đã được chọn làm những tín hiệu N làn (đơn hướng). Cũng như thế một vật mang quang học cấp 1 (OC-1) và OC-N đã được chọn để sử dụng làm giao diện quang học. Giao diện nút mạng (NN1) sử dụng cả giao diện của mạng trung kế và giao diện mạng người sử dụng (UNI) là giao diện giữa các thuê bao và mạng, giao diện này tiếp theo được phân thành những NNI dị bộ và NNI đồng bộ. ITU-T đã nghiên cứu việc tiêu chuẩn hoá liên quan đến vấn đề này. Trong trường hợp NNI dị bộ sử dụng từ 1988, việc tiêu chuẩn hoá giao diện tới loại DS4 đã được hoàn thành. Đối với những tốc độ cao hơn việc nghiên cứu tập trung vào tiêu chuẩn hoá quốc tế của NNI đồng bộ đã được tiến hành. Kết quả là, vào 11/1988 STM-1 và STM-4 (622,080 Mb/s) với tốc độ cơ bản 155,520 Mb/s đã được kiến nghị. Sự khác biệt là ở chỗ cấu trúc ghép kênh của tín hiệu STS-3 cũng giống như STM-1 và ở chỗ nó có thể thích ứng tới các tín hiệu loại DS4 (hoặc dịch vụ loại H4) với nội dung thông tin về phần bổ xung từng phần và dung lượng tải

3.6.5 Sự đồng bộ hoá mạng

Để thực hiện một cách linh hoạt việc trao đổi, tách và xen vào sự chia thời gian của các tín hiệu ghép kênh, xung thu/phát của mỗi nước nên được đồng bộ hoá về mặt thời gian. Nếu không làm được điều này thì sự trượt sẽ xảy ra.

Ba loại đồng bộ mạng hiện có gồm: phương pháp đồng bộ hoá gần đồng bộ được thực hiện bằng cách lắp đặt một dao động tách biệt ở từng tổng đài, sự đồng bộ chủ/tớ được thực hiện bằng cách đảm bảo để bộ dao động ở tổng đài là mức cao nhất và sau đó, cung cấp đồng bộ cho các tổng đài nhánh mức cao (high-level) để đồng bộ toàn mạng, và phương pháp đồng bộ hoá tương hỗ được thực hiện bằng cách đảm bảo để một bộ dao động tần số thay đổi ở mỗi tổng đài, so sánh sự khác pha giữa đồng hồ của các tổng đài khu vực với đồng bộ ở các tổng đài khác trong mạng, và sau đó điều khiển tần số dao động để giá trị trung bình của những sự khác pha này bằng 0 nhằm đồng bộ toàn mạng.

Hình 3.37. Sự đồng bộ hoá mạng qua sự đồng bộ hoá các nhánh.

Trong trường hợp đồng bộ hoá gần đồng bộ, bộ dao động phải được vận hành ở mức độ ổn định cao bởi vì các tổng đài khác thu được sự trượt ra sự xuất hiện thường xuyên của sự khác biệt tần số đồng hồ. Trong trường hợp đồng bộ hoá tương hỗ, các tổng đài hay các tuyến truyền dẫn có lỗi sẽ có ảnh hưởng tối thiểu với các tổng đài hay các tuyến truyền dẫn có lỗi sẽ có ảnh hưởng tối thiểu với các tổng đài hay tuyền truyền dẫn khác. Trong trường hợp ngược lại, việc phát hiện lỗi sẽ rất khó thực hiện và các thiết bị đồng bộ hoá phức tạp hơn sẽ cần thiết cho sự vận hành.

G.811 của các khuyến nghị ITU-T đã đưa ra ý kiến về việc sử dụng đồng bộ trên bình diện quốc tế và việc duy trì sự chính xác của tần số của các cổng quốc tế ở độ trượt là 1 trượt /70 ngày (1 slip/7 days) (độ trượt 10-11 ). Để đạt mức độ chuẩn xác này, cần phải sử dụng một bộ dao động hạt nhân có Cesium hoặc Rudiem.

3.7 Sự phát triển của công nghệ truyền dẫn

3.7.1 Hệ thống chuyển mạch tương tự và truyền dẫn số.

Nǎm 1877, một nǎm sau khi phát minh ra điện thoại, dịch vụ chuyển mạch được khởi sự tại Boston, Mỹ. Nǎm 1889, A.B.Strowger của Mỹ đã sáng chế ra một hệ thống chuyển mạch tự động và sau đó, vào nǎm 1920, hệ thống chuyển mạch ngang dọc được lắp đặt lần đầu tiên tại Thuỵ Điển. Nǎm 1948, hệ thống chuyển mạch ngang dọc thứ 5 được lắp đặt ở Mỹ. Vào khoảng thời gian này, phòng thí nghiệm Bell của Mỹ công bố sự phát triển thành công phương pháp điều khiển chương trình được lưu trữ mà đã trở thành nền tảng cho các hệ thống chuyển mạch (switching) điện tử đang được sử dụng hiện nay.

Mặt khác, lịch sử liên lạc số bắt đầu từ khi mà các hệ thống truyền dẫn được số hóa, nó xuất hiện trước sự phát minh ra hệ thống chuyển mạch. Việc truyền số có thể gửi 12 lần số lượng thông thường qua một đường tiếng thông qua quá trình ghép kênh, đồng thời cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Vì lẽ đó, việc số hoá được thực hiện từ các chặng ngắn, quan trọng thông qua việc sử dụng các hệ thống chuyển mạch tương tự; Kết quả là, giao tiếp với hệ thống chuyển mạch được thực hiện bởi đơn vị tiếng. Hơn nữa, nó có khả nǎng thực hiện một cách vừa đủ các thông tin báo hiệu khác nhau và chính vì lẽ đó, công nghệ truyền dẫn được cải tiến không dựa vào sự phát triển của công nghệ chuyển mạch. Các yêu cầu vào thời điểm này, là những khía cạnh kinh tế được xem xét cho việc truyền dẫn giữa các điểm; Qua đó, việc số hoá các tuyến truyền dẫn được coi là chức nǎng giá cả của các tuyến dây, các bộ ghép kênh và các bộ chuyển đổi A/D. Ngoài ra, hệ thống chuyển mạch vào thời điểm này không tạo ra bất kỳ hạn chế nào đối với sự đồng bộ được thực hiện bởi chức nǎng ghép kênh. Vì vậy, chỉ có cải tiến các nguồn đồng hồ tinh thể trong các thiết bị truyền dẫn và sự ổn định của đường thông là vấn đề phải xem xét. Tuy nhiên, những lỗi đồng hồ tạo ra do các hệ thống chuyển mạch không phải là những vấn đề nghiêm trọng bởi sự sử dụng phương pháp chèn xung. Các thiết bị truyền dẫn được vận hành một cách ổn định bởi sự đồng bộ chủ / tớ của các đường báo hiệu thu và phát được thực hiện một cách bình thường. Hơn nữa, các dịch vụ được cung cấp hiện nay chủ yếu là dịch vụ tiếng nên các qui chế vừa phải được áp dụng đối với tốc độ lỗi bit (10-4).

Trên cơ sở này, phương pháp T2 (locap 96 đường), phương pháp T4 (274 Mbps), FT-2 và FT-3, là những phương pháp thông tin quang dung lượng lớn được phát triển một cách thành công và được thương mại hoá cùng với các bộ ghép kênh như M12, M23 và M34. Tất cả các bộ ghép kênh này được ghép kênh theo phương pháp dị bộ qua việc chèn xung.

3.7.2 Giới thiệu hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số.

Việc số hoá các hệ thống thông tin liên lạc là chủ đề rất đáng quan tâm và nghiên cứu bởi vì truyền dẫn số đã được sử dụng rộng rãi. Mỗi khi loại hệ thống chuyển mạch bằng số mới được sáng chế thì các hệ thống chuyển mạch bắt đầu có các yêu cầu dỡ bỏ các phần quá tải A/D - D/A để giảm bớt chi phí của phần giao tiếp giữa các hệ thống chuyển mạch với các thiết bị truyền dẫn và một số hệ thống chuyển mạch đã ghép thêm các thiết bị truyền dẫn và một số hệ thống chuyển mạch đã ghép thêm các thiết bị truyền dẫn vào với chúng. Và để có hiệu quả và kinh tế lớn hơn, việc sử dụng các hệ thống truyền dẫn cáp quang cho các hệ chuyển mạch đã được phát triển thành công. Hơn nữa, các hệ thống chuyển mạch bắt đầu yêu cầu sự đồng bộ mạng. Nghĩa là, khi mà các hệ thống chuyển mạch được số hoá thì tất cả các hệ thống chuyển mạch phải được đồng bộ với cùng một đồng hồ chuẩn.

Nói cách khác, nếu tốc độ đồng hồ của 2 hệ chuyển mạch số khác nhau thì các hệ thống không thể tránh khỏi sự trượt. Các dịch vụ dữ liệu như DDS (hệ thống dữ liệu số) không cho phép sự việc này xảy ra và một sự đồng bộ thích hợp giữa hai hệ chuyển mạch trở thành một vấn đề lớn. Và, như các vấn đề cơ bản, một sự đồng bộ hoàn toàn phải được thực hiện tại mỗi điểm cuối của ghép kênh bởi vì hệ thống ghép kênh dị bộ được vận hành đối với các nguồn vào độc lập và còn gì tồi tệ hơn một hệ thống không thể phân biệt một cách trực tiếp các bit tiếng nói từ các tín hiệu khác. Công nghệ hiện có có thể thực hiện chức nǎng chuyển mạch một cách trực tiếp bởi đơn vị đường tiếng tại mức độ khoảng 50 Mbps. Tuy nhiên, về các hệ thống truyền dẫn dị bộ hiện nay, chúng phải được hạ thấp tới cấp ghép kênh đồng bộ 1.544 Mbps một cách không điều kiện cho việc phân biệt rõ bit tiếng nói. Như vậy, có thể tránh sự quá mức của A/D - D/A nhưng không phải sự quá mức của ghép kênh/phân kênh.

Để giải quyết vấn đề này, một loạt phương pháp mới thực hiện ghép kênh đồng bộ để tìm kiếm một cách dễ dàng các bit tiếng nói trên tín hiệu mà đã được ghép kênh vào nhóm mức cao, đã được đề xuất; SYNTRAN sử dụng cấu trúc khung cơ bản, phương pháp sử dụng tốc độ của phương pháp dị bộ hiện có như DST của Nhật Bản trong việc tạo ra các khung mới, và phương pháp cho mạng điều khiển phần mềm trong tương lai trong đó người sử dụng có thể cấu hình các mạng. Hơn nữa, bằng cách mở rộng công việc này, ta có thể thiết lập một mạng hiệu quả bao gồm các hệ thống chuyển mạch, các thiết bị nối qua và cáp quang.

3.7.3 Chuyển mạch gói, chuyển mạch tuyến và truyền dẫn số.

Các mạng thông tin liên lạc của thế kỷ 21 cho phép những người sử dụng lựa chọn các dải dịch vụ và tiếp cận các loại dịch vụ một cách tự do dựa vào những tiến bộ trong công nghệ truyền tải. Và kết quả là, chúng sẽ được liên kết vào các hệ thống có khả nǎng đáp ứng các nhu cầu liên lạc hiện có và tương lai như các máy điện thoại, số liệu truyền hình hay việc nối các mạng LAN tốc độ cao (1,2 Kbps ~ hàng trǎm Mbps) thông qua việc thực thi B-ISDN với khả nǎng xử lý thông tin bằng đơn vị gói (packet). Như đã nêu trên, các mạng liên lạc trong tương lai sẽ có chức nǎng chuyển mạch mạch cũng như chức nǎng chuyển mạch gói. Qua đó, các hệ thống truyền dẫn phải được phát triển với khả nǎng đáp ứng các yêu cầu và đặc tính của thông tin. Thông tin mạch hiện có và thông tin gói là riêng biệt với nhiều tốc độ bit khác nhau. Và, các độ rộng bǎng tần của chúng thay đổi thường xuyên và chúng không tạo ra những yêu cầu đồng bộ mạng. Tuy nhiên, khi một mạng liên lạc gói mới được áp dụng, nó sẽ không làm tổn hại chất lượng hệ thống trong khi giao tiếp với mạng liên lạc hiện có. Hơn nữa, trong việc ghép kênh đồng bộ đã nêu bên trên, nó phải có khả nǎng xác định các gói trên các bit được truyền đi và vì vậy, sự liên lạc phải được thực hiện bởi đơn vị khối.

Trong trường hợp này, phương pháp không đặt các khe thời gian một cách cố định được gọi là phương pháp truyền dị bộ (ATM). Dựa vào sự linh hoạt đối với các loại dịch vụ, ATM được coi là một phương pháp truyền tin quan trọng. Ngoài ra, ITU-T hy vọng có thể đưa ra một loại lai ghép mà có thể thích ứng với ATM và STM để phản ánh các yêu cầu của SONET qua việc áp dụng phương pháp truyền đồng bộ. Họ đề xuất một cấu trúc truyền bǎng rộng 2 bậc cho một mạng thuê bao bằng cách sử dụng đồng thời chuyển mạch gói và chuyển mạch tuyến; nghĩa là, trong mạng thuê bao có thể xử lý nhiều loại thông tin và tốc độ, ghép kênh sơ cấp được thực hiện với phương pháp DTDM (TDM động lực) và sau đó, tại tổng đài, kết quả ghép kênh được phân kênh lại với phương pháp TDM.

Về phần này, việc ghép kênh các phần thuê bao trở nên quan trọng hơn việc ghép kênh của truyền dẫn giữa các tổng đài và vì lẽ đó, một trong các mục tiêu lớn trong lĩnh vực truyền dẫn là phát triển các thiết bị điều khiển và ghép kênh cuả các đầu cuối thuê bao cần thiết cho việc cung cấp các dịch vụ một cách kinh tế và hiệu quả.

Hình 3.38. Cấu trúc DTDM của mạng thuê bao

3.8 Công nghệ truyền dẫn thuê bao

3.8.1 Phần giới thiệu.

Mạng thuê bao được sử dụng để nối các đầu cuối thuê bao trong nhà của các thuê bao với mạng thông tin. Có thể sử dụng nhiều phương pháp liên tục kiểu có dây/không có dây. Tuy nhiên, đối với các thuê bao chung, loại được sử dụng rộng rãi nhất là phương pháp truyền bǎng tần tiếng nói tương tự bằng cách sử dụng cáp kim loại 2 hoặc 4 dây. Kể từ khi sáng chế ra các hệ thống điện tín và điện thoại khoảng 100 nǎm trước, các loại cáp kim loại được sử dụng rộng rãi như là một phương tiện tốt nhất để nối các thuê bao với các mạng thông tin. Trừ một vài sửa đổi vật lý như việc lắp thêm các cuộn tải và cuộn hybrid, các dây cáp được sử dụng ngày nay chủ yếu là giống với các loại dây được sử dụng trong giai đoạn khởi đầu của sự phát triển. Nói cách khác, trong số các thuê bao, sự truyền dẫn và các phương tiện chuyển mạch, 3 bộ phận quan trọng của truyền thông, sự truyền dẫn và các phương tiện chuyển mạch đã được cải tiến một cách đáng kể theo những tiến bộ trong công nghệ thông tin liên lạc, máy tính điện tử và công nghệ bán dẫn. Mặt khác, các phương tiện thuê bao chủ yếu vẫn được duy trì như trước và mục tiêu xử lý tiếng nói tương tự có dải bǎng rộng 300-3400Hz vẫn có giá trị đến ngày nay.

Trong những nǎm 1980, SLIC (mạch giao tiếp đường thuê bao) cho việc thay thế các cuộn hybrid bằng các phần tử bán dẫn, và các phần tử bán dẫn mới và các thiết bị truyền dẫn như các thiết bị tập trung/ghép kênh thuê bao dạng số để tiết kiệm các mạch thuê bao đang được áp dụng từng bước vào mạng thuê bao. Tuy nhiên, chúng được sử dụng chủ yếu cho việc xử lý dải tần tiếng nói tương tự chẳng hạn trong trường hợp các phương pháp hiện có.

Trong suốt thời gian khi các mạng lưới thông tin liên lạc được sử dụng chủ yếu cho việc chuyển các thông tin tiếng nói và có ít nhu cầu cho những liên lạc dữ liệu tốc độ cao, các yêu cầu của người sử dụng được đáp ứng chỉ với các cáp kim loại hoạt động với dải tần 300Hz~3400Hz. Tuy nhiên, vì các nhu cầu ngày càng tǎng, nhu cầu thiết lập các mạng lưới thuê bao tân tiến và ISDN (mạng đa dịch vụ) là cần thiết. ISDN có thể được xác định là một mạng lưới liên lạc có khả nǎng cung cấp sự kết nối số từ các máy thuê bao chủ gọi đến các máy thuê bao bị gọi và xử lý hàng loạt loại dịch vụ tiếng nói và phi tiếng nói.

Như vậy, việc số hoá toàn bộ mạng lưới liên lạc là cần thiết phải thực hiện trước tiên trong trình tự thiết lập loại mạng truyền thông này. Vì những ưu điểm của chúng, phương pháp truyền thông số đã được áp dụng vào lĩnh vực truyền dẫn từ những nǎm 1960 và vào lĩnh vực chuyển mạch từ những nǎm cuối thập niên 1970. Việc nghiên cứu về số hoá các tuyến thuê bao đã được tiến hành từ những nǎm cuối của thập niên 70. Một loạt phương pháp khác như việc lắp đặt các phương tiện truyền dẫn mới có giá trị cho việc số hoá các tuyến thuê bao; khi nhận ra rằng chi phí thiết lập các thiết bị thuê bao chiếm khoảng 40% tổng đầu tư thiết lập mạng liên lạc thì cách tốt nhất là truyền các tín hiệu số theo đường cáp kim loại hiện có. Tuy nhiên, dù các tuyến thuê bao đã được số hoá thông qua việc sử dụng công nghệ tân tiến nhất, thì tốc độ truyền vẫn bị hạn chế ở khoảng 100Kbps~200Kbps để duy trì khoảng cách truyền tin lớn nhất. Do đó, những mạng lưới thuê bao hiện có cần phải được sắp xếp lại toàn bộ trong quá trình chuẩn bị cho ISVN (mạng đa dịch vụ hình) hoặc ISDN bǎng rộng, được coi là thế hệ kế tiếp của ISDNs. Nghĩa là, trong các mạng liên lạc thông tin hình tích hợp, khả nǎng cho việc xử lý hình ảnh là cần thiết và để truyền các tín hiệu hình, cần có 1 bǎng rộng hàng trǎm Mbps từ các mức thuê bao. Các phương pháp thuê bao cáp quang và không dây đang được xem xét như các phương tiện truyền dẫn để xử lý thông tin bǎng rộng như vậy. Trừ những địa điểm đặc biệt như các khu vực rừng núi, việc áp dụng cáp quang được coi là khả thi nhất.

3.8.2 Đường truyền dẫn.

Các cáp kim loại cho loại liên lạc dùng dây còn được phân chia thành cáp sợi dây trần, các cáp đôi cân bằng và các cáp đồng trục. Các cáp sợi dây trần là những dây không có vỏ cách điện và đã được sử dụng một cách rộng rãi nhất từ khi phát minh ra các hệ thống điện thoại và điện tín. Tuy nhiên, hiện nay loại dây này rất ít được sử dụng bởi những mức độ thất thoát lớn, xuyên âm và tạp âm do nhiễu.

Các cáp đôi là hai dây lõi xoắn lại với vỏ cách điện. Loại này còn được coi là cáp đôi xoắn. Nhiều dây lõi được thêm vào để hình thành một dây cáp. Về vỏ cách điện, người ta sử dụng các nguyên liệu plastic như giấy hoặc polyethylene. Chúng chủ yếu được sử dụng trong bǎng tần dưới một MHz. Các dây cáp đồng trục là các cáp có dây dẫn ngoài và trong. Dựa vào các đặc tính giảm xuyên âm này sinh từ những liên kết điện giữa mạch của các cáp này, chúng chủ yếu được sử dụng cho việc truyền các tính hiệu tần số cao từ hàng chục MHz đến hàng trǎm MHz. Những tuyến truyền tin này, được nêu trong hình 3.39, có thể được giải thích qua việc đánh giá điện trở (điện trở ohm/khoảng cách); độ tự cảm (độ tự cảm, H/đơn vị khoảng cách), điện dung (F/đơn vị khoảng cách) và độ dẫn điện (MHO/đơn vị khoảng cách). Chúng được gọi là hằng số cơ bản.

Hình 3.39. Hằng số cơ bản của đường truyền dẫn

Trong những đơn vị trên, điện trở R được xác định qua các phần tử trở kháng của các dây dẫn tạo nên đường và nó là hằng số ở dải tần của tiếng nói; tuy nhiên, vì hiệu ứng của vỏ, nó gia tǎng theo tỉ lệ cǎn bậc hai của tần số khi tần số tǎng. Độ điện cảm L, bởi vì các lý do tương tự, bị giảm đi theo tần số. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng với các phần tử điện dung của tần số là nhỏ nhất. Độ dẫn C được sản sinh bởi những sai sót về chất cách nhiệt được sử dụng ở vỏ các cuộn dây lõi hoặc sự thất thoát điện môi. Tuy vậy, khi sử dụng các chất liệu cách điện tốt như polyethylene, độ dẫn có thể loại trừ. Những thay đổi của các hằng số cơ bản theo tần số cho PIC (cáp cách điện polyethylene) của 22-gauge được chỉ rõ ở hình 3.40

Hình 3.40. Sự thay đổi trong hằng số cơ bản theo tần số

Khi sóng điện tử được đưa đến tuyến truyền dẫn, nó sẽ gặp thành phần trở kháng được gọi là trở kháng đặc trưng. Nó được xác định như sau bởi một hằng số cơ bản:

Tuy nhiên, W = 2Hf và f đặc trưng cho tần số của sóng điện tử. Và, vận tốc truyền và lượng suy giảm của sóng điện tử trên tuyến được xác định bằng hằng số truyền.

Các hằng số của sóng điện tử còn được phân chia thành a và b. Vào thời điểm này, a là hằng số suy giảm đặc trưng cho lượng suy giảm và b đặc trưng cho hằng số pha liên quan đến sóng điện tử. Nghĩa là, a đặc trưng cho lượng suy giảm từ nguồn ra đến phía nguồn ra (dB/đơn vị khoảng cách), b là độ lệch pha giữa tín hiệu vào và tín hiệu ra (Radian/đơn vị khoảng cách). Do đó, vận tốc truyền hiện tại Vp (vận tốc pha) bằng w/b.

Hằng số điện tử r của sóng điện tử được xác định như trong phương trình (3.2). Và, cùng với trở kháng đặc trưng Zo, nó là hằng số thứ cấp của đường đi (path).

Cùng với hằng số cơ bản, hằng số thứ cấp là một nhân tố quan trọng được sử dụng để xác định các đặc tính điện của đường đi. Những đặc tính của chúng trong mỗi bǎng tần số như sau :

a) Trong trường hợp DC (v = 0)

ở đây, vì G rất nhỏ, Zo có giá trị rất lớn và a có một giá trị tương đối thấp.

b) Trong trường hợp tần số thấp

Vì G có thể bỏ qua,

Như được chỉ ra ở phương trình trên, trở kháng đặc trưng giảm khi tần số tǎng và lượng suy giảm tǎng đều. Và, vận tốc pha Vp của sóng điện tử tần số thấp thu được bằng cách sử dụng phương trình sau :

c) Trong trường hợp tần số cao (wL >> R, wC >> G)

Khi bỏ qua G :

________________________________________

Trong phương trình (3.8), Zo không được chỉ ra bởi vì chức nǎng tần số không còn nữa và chỉ có phần tử điện trở. Vào thời điểm này, giá trị Zo bằng giá trị trở kháng đặc trưng mà nhà sản xuất cáp ấn định. Như đã chỉ ra ở phương trình (3.9), a và Vp được xác định với một giá trị nào đó và không thay đổi theo tần số nữa. ở hình 3.41, sự thau đổi của giá trị hằng số thứ cấp theo tần số thay đổi như đã được chứng minh bên trên.

Nói chung, hằng số suy giảm a tǎng cùng với sự tǎng của R và G, và có một điểm tối thiểu của lượng suy giảm đối với sự thay đổi của L và C. Khi phân biệt bằng cách sử dụng L như một hằng số để đạt được giá trị tối thiểu của hằng số suy giảm a, giá trị tối thiểu của a sẽ thu được dưới điều kiện sau.

LG = RC (3.10)

ở đây, phương trình sau đây sẽ đạt được khi có Z = R = jw,

Y = G + jw (và thay thế phương trình (3.10) vào Y).

Hình 3.41. Sự thay đổi hằng số thứ cấp theo tần số

"r" có thể đạt được như sau từ phương trình (3.2)

Qua đó, thu được phương trình sau :

Trong phương trình (3.13), a có giá trị tối thiểu của ệ RG và a và Vp trở thành những giá trị không liên quan gì tới từng tần số. Tương tự như vậy, phương trình (3.10) ở trong một điều kiện được gọi là điều kiện không biến dạng (distortionless condition).

Tuy nhiên, trong thực tế giá trị của RC là một giá trị lớn gấp trǎm lần giá trị của LG và theo đó, để đáp ứng điều kiện không biến dạng, hoặc là R hoặc C phải được giảm đi hoặc là G hoặc L phải tǎng lên. Để giảm R, bán kính của dây dẫn phải tǎng hoặc phải sử dụng dây dẫn có chất lượng tốt và như thế thì không kinh tế. Để giảm C, khoảng cách giữa các dây dẫn phải được mở rộng và vì thế sẽ gặp khó khǎn trong việc sản xuất dây cáp. Ngược lại, a sẽ tǎng khi G tǎng và qua đó, sẽ không hiệu quả. Như vậy thì phương cách hiệu quả nhất là tǎng L.

Tải là quá trình thêm L một cách giả tạo cùng với L của tuyến để tǎng phần tử điện cảm. Hai loại tải hiện có là tải phân bố và tải tập trung. Đối với loại tải tập trung, các cuộn tải có phần tử điện cảm được lồng vào bất kỳ đoạn nào của một tuyến. Khi áp dụng tải phân bố, vật liệu từ tính như dây thép thậm chí được cuộn vào cốt dây cáp và qua đó, L toàn tuyến được tǎng lên. Vì sự phức tạp của cấu trúc dây cáp, việc tải phân bố sẽ rất đắt cho việc thực hiện và chủ yếu được sử dụng cho những ứng dụng đặc biệt như là các loại cáp biển.

Giá trị suy giảm tối thiểu có thể thu được thông qua tải; trong trường hợp tải tập trung, các tuyến hoạt động như các bộ lọc tần số thấp và do đó, sự mất mát ở tần số cao hơn tần số cắt tǎng nhanh như trong hình 3.43.

Hình 3.42. Cuộn tải

Hình 3.43. Đồ thị suy giảm đường bởi tải

Vì lẽ đó, khi truyền đi các tín hiệu tần số cao như các tín hiệu số theo các tuyến thì nên loại bỏ đi các cuộn tải để hạn chế mức thấp nhất của nhiễu.

Trên phần lớn các tuyến thuê bao, các cáp đôi được sử dụng bởi vì chúng dễ dàng cho việc thực hiện và rất kinh tế. Những dây cáp đôi này được cách điện cẩn thận bằng polyvinyl Chloride, Polyethylene hay bằng giấy và sau đó, được xoắn vào một sợi cáp. 10~2400 chiếc cáp đôi được nhóm lại để tạo thành nhiều loại cáp khác nhau. Để tǎng thêm các đặc tính kỹ thuật của dây cáp, PVCs hoặc PEs được sử dụng và sau đó, lớp bọc cáp sẽ được phủ vào phía bên ngoài của các dây cáp. Và, để tránh bị hư hỏng vì bị ẩm, hở/ngắt mạch điện, người ta lồng bǎng nhôm hoặc đồng vào giữa các vỏ.

Các dây cáp được phân loại thành cáp alpeth, cáp stalpeth và cáp wellmantel dựa vào các chất liệu được sử dụng và cấu trúc cáp.

Một cách chung nhất, với các loại cáp địa phương, các dây điện cốt có đường kính 0.4, 0.5, 0.65 và 0.9 mm được sử dụng một cách rộng rãi. Các đặc tính điện của các dây cáp cách đất được sử dụng cho 1 KHz được liệt kê ở bảng 3.11

Đường kính

lõi dây điện (mm) Tổn hao trên

đường dây (dB/km) Điện trở DC

(W /km vòng) Trở kháng

đặc trưng (W )

0.4 1.780 272 918

0.5 1.400 171 726

0.65 1.090 104 575

0.9 0.788 54 407

Bảng 3.11. Các đặc tính điện của các dây cáp địa phương

Các tuyến từ các hệ thống chuyển mạch tới các đầu cuối thuê bao được tóm lược ở hình 3.44. Các tuyến lược sử dụng được chỉ rõ ở bảng 3.12.

Hình 3.44. Sơ đồ tuyến thuê bao

Cáp,

loại dây Cấu trúc ứng dụng

Đường kính lõi dây Số đơn vị Cách điện Vỏ bọc

TOV 1,2 1 PVC Nhánh thuê bao (trong nhà)

Dây SD 1,0 1,2,3,6 PE PVC Cho dây điện thuê bao

Cáp CCP

địa phương 0,5; 0,65; 0,9 15~200 PE Alpeth Cáp dây thuê bao

Cáp PE

địa phương 0,5; 0,65; 0,9 5~200 PE PVC Cáp dây thuê bao

Cáp WT Stalpeth

địa phương 0,4;0,5; 0,65; 0,9 150~2.400 bằng giấy Stalpeth wellmantel Cáp nhánh thuê bao

Cáp thuê bao

Cáp luyện

địa phương 0,4;0,5; 0,65; 0,9 50~1.800 bằng giấy Vỏ được tôi luyện Dây nhánh

Bảng 3.12. Các đặc tính tuyến thuê bao.

Khoảng cách tối đa có thể tới các thuê bao được hạn chế bởi kháng trở DC của các tuyến và giá trị suy hao về tiếng. Điện trở DC được xác định bởi dòng điện DC nhỏ nhất cần thiết của các hệ thống chuyển mạch để đánh giá tình trạng của các trạm đầu cuối thuê bao (chuyển trạng thái nhấc đặt máy, xung quay số).

3.8.3 Kết nối đầu cuối thuê bao.

Các loại hiện đang được sử dụng là điện thoại để truyền tiếng nói và các modem cho việc truyền dữ liệu. Các ví dụ đặc trưng nhất là các trạm thuê bao đầu cuối. Các trạm này được nối với các mạng thông tin liên lạc qua các cáp kim loại 2 dây nhằm có hiệu quả kinh tế cao hơn. Vì thế những tín hiệu thu/phát có bǎng tần giống nhau có thể được tiến hành bằng tuyến truyền dẫn giống nhau. Để bù đắp hao tổn truyền dẫn trên các tuyến này, cần có các bộ khuyếch đại 2 chiều được chỉ ra ở hình 3.45.

Hình 3.45. Bộ khuyếch đại 2 chiều

Tuy nhiên, nếu bộ khuyếch đại này chịu đựng hệ số khuyếch đại thì sự hoạt động ổn định sẽ không thể thực hiện được vì sự phản hồi. Do đó, phương pháp hiệu quả cho việc tách riêng các tín hiệu phát và thu thông qua việc chuyển đổi tuyến 2 dây sang tuyến 4 dây là cần thiết. Để đạt được mục đích này, một cuộn hybrid chỉ ra trong hình 3.46 được áp dụng.

Hình 3.46. Cuộn dây hybrid

Như đã chỉ ra ở hình 3.46, những tín hiệu được đưa đến tuyến thu được sử dụng để duy trì điện thế giống nhau tại các cuộn dây điện số (1) và số (2), và trong trường hợp các trở kháng ở tuyến 2 dây và mạch cân bằng bằng nhau thì sẽ tạo ra sự truyền cùng dòng điện ở các cuộn dây này. Điện thế được đưa đến các cuộn dây của cùng phía truyền dẫn bởi dòng điện này, cuộn dây số (3), và số (4), và kết quả đưa đến là các điện thế này được bù đắp tương hỗ, làm cho không có điện thế nào chạy qua phía tuyến truyền dẫn. Trong trường hợp này, dòng điện thu được phân chia thậm chí ở cuộn dây số (1) và số (2). Chính vì lẽ đó, nếu tổn hao 3dB được tạo ra ở cuộn lai ghép thì tổn hao của cuộn dây và lõi sẽ tǎng khoảng 0.5dB. Vì lý do tương tự, các tín hiệu được đưa đến tuyến 2 dây nhận được tổn hao 3.5dB và sau đó, phần này sẽ được áp dụng vào phía tuyến truyền dẫn. Các tín hiệu được đưa vào tuyến thu sẽ tự triệt tiêu nhau.

Qua đó, nếu trở kháng tuyến 2 dây và trở kháng của mạch cân bằng bằng nhau, các phía phát và thu có thể hoàn toàn riêng biệt. Tuy nhiên, vì trở kháng của đường dây thay đổi theo tần số và vì sự thay đổi của đường 2 dây được nối với cuộn lai ghép, trở kháng hoàn toàn phù hợp là không thể thực hiện và vì lẽ đó, một số tín hiệu thu/phát sẽ được đưa đến đường dây của phía đối diện. Mức độ kết hợp của các tín hiệu phát và thu được gọi là tổn hao lai ghép truyền tải và phương trình của nó được nêu ở 3.14.

Trong phương trình này, Zn và Z1 là trở kháng mạch cân bằng và trở kháng 2 dây. B cao hơn 50dB trong trạng thái bình thường nhưng trong thực tế, nó vào khoảng 15~17dB. Các cuộn dây lai ghép này được sử dụng ở cả các điểm kết cuối của đường trung kế 4 dây và đường thuê bao 2 dây. Và, chúng được sử dụng cho việc tách đàm thoại thu và phát.

Hình 3.47. Giao tiếp đầu cuối thuê bao

3.8.4 Thiết bị tải thuê bao

Để mở rộng khoảng cách tối đa có thể đến các thuê bao bị hạn chế bởi điện trở đường DC và giá trị tổn hao tiếng nói, điện thế được cung cấp trên các đường dây tǎng lên và những bộ lặp đặc biệt có thể được sử dụng. Tuy nhiên. các thiết bị tải tương tự với các thiết bị đó cho sự tái tạo liên tổng đài để đáp ứng các thuê bao từ xa hoặc các thuê bao đặt trong các nhóm được ứng dụng trên mạng thuê bao này.

ở các thành phố cũng như các khu vực nông thôn và xa xôi, nhiều mạng thông tin điện đang được lắp đặt và vận hành nhằm đáp ứng các nhu cầu và yêu cầu của người sử dụng. Các khu vực nông thôn được đặc trưng hoá bởi số lượng hệ chuyển mạch ít ỏi được lắp đặt và sự hạn chế về mức độ của khu vực lắp đặt và mức độ tự động của các hệ chuyển mạch. Do đó, các phương pháp mới nhất cần được áp dụng cho việc tạo ra các cuộc gọi chất lượng cao và tin câỵ. Các thiết bị tải thuê bao đã được đề xuất như những giải pháp cho vấn đề trên. Các thiết bị tải thuê bao hiện có gồm RSSs (Hệ thống chuyển mạch từ xa), RSMs (Bộ ghép kênh thuê bao từ xa) và RSCs (Bộ tập trung thuê bao từ xa).

Các thiết bị phù hợp nhất có thể được lựa chọn cho việc lắp đặt dựa trên mức độ của các thuê bao được đǎng ký và mức độ lưu lượng cuộc gọi. Và, chúng còn được phân chia thành các hệ thống tập trung hoặc các hệ thống phân bố như trong hình 3.48 dựa vào vị trí các thuê bao. Hệ thống tập trung là hệ thống lý tưởng cho những nơi mà các thuê bao được tập trung ở một khu vực nhỏ trong khi hệ thống phân bố được sử dụng rộng rãi ở các nơi mà các thuê bao được trải rộng ở một khu vực lớn.

Trong hệ thống tải thuê bao được nêu ở trên, các thuê bao được nối với các trạm từ xa (RT) sẽ được lắp đặt ở khu vực để ghép kênh hoặc tập trung các thuê bao này trước khi truyền chúng đến tổng đài bằng hệ thống tải số hoặc tương tự. Do vậy, tuỳ theo mức độ ghép kênh mà số đường dây cần thiết cho các thuê bao sẽ ít hơn. Ví dụ, khi sử dụng hệ thống tải số T1 với 24 kênh, cần có các đường 2 dây cho việc nối với các thuê bao. Tuy nhiên, khi các đường dây được nối với tất cả các thuê bao thì cần có 24 đường 2 dây. Trong trường hợp các thiết bị tập trung, có thể đáp ứng được số thuê bao nhiều hơn số kênh của hệ truyền tải. Bằng cách đặt các kênh có thể sử dụng tới các thuê bao, số đường dây cần thiết cho dịch vụ sẽ ít hơn. Ví dụ, khi lắp đặt 96 thuê bao trên hệ truyền tải số T1 bằng cách sử dụng thiết bị tập trung thuê bao, số lượng đường dây cần thiết có thể giảm đi đáng kể (từ 96 đường xuống còn 2 đường)

Hình 3.48. Hệ thống tập trung và phân bố

Trong hình 3.49, phần kinh tế của thiết bị tải thuê bao được mô tả. Chi phí của các đường thuê bao thực tế đang dùng tǎng khi chiều dài đường dây tǎng. Khi sử dụng thiết bị tải thuê bao, tuy nhiên do chi phí lắp đặt ban đầu của thiết bị, thiết bị này không nên sử dụng cho các khoảng cách gần. Tại thời điểm này, nó không bị ảnh hưởng bởi sự tǎng độ dài của đường dây vì số lượng các đường dây cần thiết là tương đối nhỏ.

Khi phương pháp số được áp dụng cho hệ thống tải, chi phí của các thiết bị tải thuê bao giảm và nhu cầu về thiết bị này tǎng lên. Vì vậy trong vòng 10 nǎm gần đây, phần kinh tế của hệ thống tải thuê bao đã giảm từ 7.5 km xuống 4.5 km. Ngoài ra, vì việc giao tiếp trực tiếp giữa hệ thống tải và các bus bên trong của hệ thống chuyển mạch số là có thể được thực hiện được, phần kinh tế này giảm xuống còn 3 Km.

Vì vậy, ngày càng có nhiều các thiết bị tải thuê bao và khả nǎng có thể phục vụ cho các thuê bao xa đã đưọc sử dụng thường xuyên để phục vụ các thuê bao trong thành phố một cách kinh tế. Điều này phụ thuộc vào hiệu suất tiết kiệm đường của các thiết bị tải thuê bao và do đó các thiết bị tập trung/ghép kênh thuê bao được gọi là các hệ thống khuyếch đại đôi dây.

Hình 3.49. Phần kinh tế của thiết bị tải thuê bao

3.8.5. Những hạn chế về việc số hoá tuyến dây.

Để có được sự thực hiện thành công ISDN, các đường dây thuê bao phải được số hoá đầu tiên. Việc này có thể được thực hiện qua việc truyền các tín hiệu mã trên các đường dây thuê bao kim loại hiện có hoặc qua việc lắp đặt phương tiện truyền dẫn mới như cáp quang cho sự truyền dẫn số dung lượng lớn giữa các bộ phận của thuê bao. Bởi vì cáp quang có thể thực hiện các dịch vụ bǎng rộng như dịch vụ video, chúng sẽ được sử dụng rộng rãi trong các mạng thuê bao. Tuy nhiên, mặt kinh tế của ISDN dường như không được chú ý đúng đắn bởi vì sự lắp đặt sẽ mất nhiều thời gian và lượng đầu tư lớn. Qua đó, bước đầu tiên, nên thực hiện truyền các tín hiệu số theo các tuyến dây hiện có. Hiện tại, công nghệ truyền thuê bao cần thiết cho mục đích này đang được nâng cấp. Nghĩa là, khi truyền các tín hiệu số tốc độ cao có bǎng rộng trên các đường dây thuê bao hiện có thì một số hạn chế như các đặc tính của tần số được gửi đi theo các đường dây và sự ảnh hưởng của môi trường tuyến dây mà trước đây đã được coi là không quan trọng, sẽ nảy sinh. Cần phải có công nghệ tân tiến để giải quyết vấn đề này. ở trường hợp trước, vì các tuyến dây thuê bao hiện có đã được thiết kế cho phù hợp với việc truyền tín hiệu của bǎng tần tiếng từ 0.3~3.4KHz, các đặc tính của sự suy giảm tín hiệu này sinh từ sự gia tǎng tần số, nên được xem xét lại một cách cẩn thận. ở trường hợp sau, những ảnh hưởng mà những yếu tố sau gây ra cũng cần được xem xét kỹ càng; những thay đổi trong các đặc tính tần số khi dây lõi của tuyến đường dây thay đổi, tiếng vọng do các tín hiệu tốc độ cao gây ra, các vấn đề nảy sinh do các tuyến dây tương tự cùng tồn tại, nhiễu và tạp âm mà điện thế cảm ứng gây ra, và sự ảnh hưởng của các đặc tính xuyên âm giữa các đường dây số ở cùng một cáp.

A. Các đặc tính suy giảm.

Khi tần số trên tuyến dây tǎng thì lượng suy giảm đối với đơn vị khoảng cách của tín hiệu cũng tǎng. Để tiến hành việc tách tín hiệu một cách ổn định trên máy nhận, các tín hiệu cao hơn mức nhận bé nhất được xác định bởi tỷ lệ mức tín hiệu và mức âm phải được nhận. Do đó, khoảng cách truyền tối đa của tín hiệu sẽ ngắn hơn vì tần số tǎng.

Ví dụ, nếu lượng suy giảm lớn nhất có thể trên đường dây là 40dB thì khoảng cách truyền lớn nhất vào khoảng 5.7 km khi các tín hiệu có âm lượng tối đa 20 KHz qua đường dây cách đất 0.4 mm. Tuy nhiên, với 200KHz, khoảng cách truyền tối đa là khoảng 3.2 km. Do vậy, để giảm tần số có âm lượng tối đa trong số các phần tử tần số tín hiệu của các tín hiệu sẽ được truyền nên áp dụng một code đường dây thích ứng. Và, như đã được nêu ở 3.8.2, các cuộn tải mà đã được lồng một cách giả tạo vào các đường dây cho việc truyền tiếng phải được tháo bỏ bởi vì chúng làm tǎng lượng suy giảm trong các thông tin liên lạc tần số cao. Nếu các code đường dây là giải pháp cho các tần số có âm lượng cao thì các bộ cân bằng đường dây được sử dụng để bù đắp tất cả các phần tử tần số của các tín hiệu. Nghĩa là, dựa vào sự thay đổi trong lượng suy giảm tần số, các phần tử tần số của tín hiệu là chủ thể đối với những suy giảm khác. Bởi vì sự khác biệt suy giảm này làm sai lệch các tín hiệu, lượng suy giảm mà các tín hiệu thu nhận được, phải được duy trì ở mức nào đó. Để đạt được mục đích này, bộ cân bằng đường dây được sử dụng. Các đặc tính hoạt động của nó được nêu trong hình 3.50.

Hình 3.50. Các đặc tính hoạt động của bộ cân bằng.

Ngoài ra, độ dài của các đường dây thuê bao (Subscriber Line) thay đổi nhiều tuỳ thuộc vào các dạng trạng thái phân bố khác nhau của các thuê bao. Do đó, các đặc tính suy hao của mỗi đường dây cũng thay đổi theo và vì thế bộ cân bằng phải có khả nǎng điều chỉnh phù hợp với các dạng đặc tính suy hao khác nhau. Các đặc tính suy hao của bộ cân bằng (Equalizer) phải tự động thay đổi theo độ dài của các đường dây và vì vậy cần dùng bộ cân bằng thích ứng.

B. Thay đổi về đường kính dây.

Đôi khi người ta dùng các loại cáp có lõi với những đường kính khác nhau làm các đường thuê bao. Những đường này có các đặc tính về trở kháng và tần số khác nhau. Khi dùng chung những cáp có lõi với những đường kính khác nhau như trên thì thấy hiện tượng phản xạ tín hiệu và đặc tính tần số biến đổi ở những điểm nối, nguyên nhân là do trở kháng của chúng khác nhau. Điều này làm cho việc tách tín hiệu trở nên cực kỳ khó khǎn và sự thay đổi về dặc tính tần số gây nên các đặc tính biến dạng của tín hiệu không ổn định.

C. BT (Rẽ nhánh)

Trong hình Figure 3.51 ta thấy rõ BT liên quan đến việc đặt cáp dự trữ khi lắp đặt 1 đường dây mới.

Hình 3.51. Rẽ nhánh

Với những nhánh rẽ này (BT) mạng thuê bao có thể được khởi tạo lại một cách linh hoạt. Tuy nhiên, điểm cuối của chúng mở gây ra sự mất cân bằng và tạo ra sự phản hồi tín hiệu do sự khác nhau của trở kháng tại các điểm cuối. Sự mất câng bằng làm thay đổi đặc điểm tần số của các đường dây và sóng phản xạ xuất hiện ở những điểm cuối bị chậm lại tuỳ theo độ dài của BT và sau đó đi đến đầu nhận tín hiệu. Sóng phản xạ này gây nhiễu giữa các mã và điều đó gây ảnh hưởng xấu đến độ chính xác của việc xác định các tín hiệu số. Trong hình 3.52 đồ thị chỉ rõ sự thay đổi về đặc tính tần số do ảnh hưởng của BT trong khi truyền tín hiệu ở tần số 100 KHz. Phương pháp hạn chế ảnh hưởng này được trình bày trong phần 3.8.7.

Hình 3.52. Sự thay đổi dặc tính tần số do BT

Hình 3.53. Thay đổi trong tín hiệu nhận

D. Cùng với đường Analog.

Trong giai đoạn đầu vận hành mạng đa dịch vụ với một vài thuê bao có đǎng ký, một số lớn các đường thuê bao số và các đường thuê bao analog thường dùng chung một loại cáp. Trên các đường thuê bao analog, có rất nhiều tín hiệu như điện áp chuông điện thoại, xung quay số tín hiệu telex có sự khác biệt về điện áp khá lớn.

Khi các tín hiệu này thâm nhập vào các đường thuê bao số thì khả nǎng xuất hiện lỗi tǎng lên rất nhiều. ảnh hưởng của tiếng ồn có thể hạn chế được ở mức tối đa bằng cách thay thế các đường Analog (điều này thực hiện bằng cách số hoá các đường telex và thay đổi phương pháp báo hiệu) nhưng làm như vậy rất tốn kém. Vì thế, các đường thuê bao số có thể được tách khỏi các đường thuê bao Analog bằng cách phân bố lại chúng.

E. Điện áp cảm ứng.

Nhiễu và tiếng ồn phát sinh từ các nguồn bên ngoài kể cả sự nhiễu xung do sét, điện áp cảm ứng từ các dây dẫn điện, đường điện ngầm, đường liên lạc vô tuyến và nhiều nguyên nhân khác gây ra. Những tiếng ồn ngoài vào có các đặc tính tần số khác nhau, kích thước và số lần xuất hiện khác nhau, và vì vậy rất khó có thể triệt tiêu chúng một cách trực tiếp. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng đường số để cấp nguồn cho các thiết bị thuê bao, hay bằng cách nối hoặc tách các đường cáp hoặc tǎng mức tín hiệu trên các đường dây thì có thể hạn chế tối đa ảnh hưởng của chúng.

F. Xuyên âm

Nhìn chung đối với các đường truyền dẫn người ta thường dùng nhiều đường dây trong cùng dây cáp, các tín hiệu truyền đi trên một đường này gây ảnh hưởng đến đường kia là do trường điện từ mà chúng tạo ra. Hiện tượng này gọi là xuyên tâm. Đây là một trong những yếu tố làm giảm chất lượng đường truyền. Khi đường này gây hiện tượng xuyên âm sang đường kia thì đường đầu tiên gọi là đường cảm ứng còn đường thứ hai gọi là đường không cảm ứng. Hiện tượng xuyên âm do chập trực tiếp giữa hai đường thì gọi là xuyên âm trực tiếp. Xuyên âm thông qua đường thứ ba gọi là xuyên âm gián tiếp. Xuyên âm ở đầu cuối nhận của một đường không cảm ứng (gây ra do tín hiệu truyền đi trên hai đường đến các hướng ngược chiều nhau) gọi là xuyên âm ở điểm cuối gần. Xuyên âm do tín hiệu truyền đi trên hai đường cùng hướng là xuyên âm xa.

Hình 3.54. Đường xuyên âm

Trong trường hợp xuyên âm gần, vì mức tín hiệu phát đi lớn hơn nhiều so với mức tín hiệu nhận, và một số lượng lớn xuyên âm phát sinh trên đường không cảm ứng. Vì thế, trường hợp xuyên âm ở điểm cuối gần thì nghiêm trọng hơn nhiều so với xuyên âm ở điểm cuối xa.

Hình 3.55. Các dạng xuyên âm

NEXT: Xuyên âm gần

FEXT: Xuyên âm xa

Mức độ suy hao của xuyên âm đầu cuối gần thay đổi phụ thuộc vào cấu trúc cáp và mức độ liên kết giữa hai đường. Trong đa số các trường hợp, khoảng 50-85dB. Giả sử suy hao đường truyền giữa các bộ khuyếch đại là 40dB, tỷ lệ giữa tín hiệu và nhiễu tại đầu nhận của mạch không cảm ứng sẽ là 10-45dB. Khả nǎng phát sinh lỗi tǎng lên nhanh khi giá trị tín hiệu/nhiễu vượt quá giá trị 15dB trên các hệ thống số.

Ví dụ, khi nhiễu Gaus tồn tại trong quá trình truyền xung đơn cực, khả nǎng phát sinh lỗi theo tỷ lệ tín hiệu/nhiễu được thể hiện ở hình 3.56.

Xuyên âm ở điểm cuối xa thường từ 38-70dB. Giống như trong trường hợp của tín hiệu, xuyên âm xa bị suy hao do đường truyền (giả sử là 40dB), mức độ xuyên âm xa sinh ra tại đầu vào của bộ khuếch đại sẽ là 78-110dB. Tuy nhiên, xuyên âm đầu gần trong hệ thống được số hoá nghiêm trọng hơn xuyên âm đầu xa. Có thể loại bỏ điều đó bằng cách đặt lớp ngǎn cách trên cáp để cách điện giữa đường truyền và đường nhận hay tạo ngǎn cách vật lý bằng việc sử dụng cáp riêng biệt. Hơn nữa, xuyên âm đầu gần, theo sự tǎng tần số, sẽ lên đến 4,5dB/octave và xuyên âm đầu xa sẽ lên đến 6dB. Như vậy tần số càng cao, mức độ xuyên âm càng lớn.

3.8.6 Cấu trúc thuê bao của mạng đa dịch vụ ISDN

A. Cấu trúc cơ bản:

ITU-T, một cơ quan tư vấn quốc tế về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực viễn thông điện đã hoàn thành việc nghiên cứu về ISDN và xuất bản một loạt các bộ sách hướng dẫn về nó. Trong bộ số 1.400 ITU-T đã giới thiệu về cấu trúc thuê bao của mạng ISDN. Về cơ bản, nó có dạng như ở hình 3.5.7:

Hình 3.57. Cấu trúc thuê bao của mạng ISDN

Việc phân nhóm theo chức nǎng như trên trong hình 3.57 liên quan đến nhiều loại chức nǎng cần có trong cấu trúc của thuê bao trên mạng ISDN. Các chức nǎng này có thể được thực hiện bằng sự kết hợp của một hay nhiều thiết bị thuê bao. Tương tự tất cả chức nǎng được yêu cầu tuỳ thuộc vào kích thước của thuê bao và dạng cấu hình. Trong số đó chỉ một số chức nǎng là có thể cần đến. Điểm qui chiếu là khái niệm để phân loại từng nhóm chức nǎng. Các điểm qui chiếu có thể được xác định thông qua các giao diện vật lý giữa các thiết bị thuê bao. Trong số các nhóm chức nǎng NT (trạm đầu cuối mạng, có chức nǎng trạm đầu cuối của mạng thông tin. Các chức nǎng của NT được phân thành các chức nǎng nhỏ hơn là NT1 và NT2. NT1 là chức nǎng vật lý, điện từ của mạng thông tin. Nó bao gồm các chức nǎng sau thuộc phân cấp 1 của bản tin (Protocol) trong môi trường liên kết hệ thống mở 7 lớp OSI.

• Chức nǎng trạm cuối đường thuê bao.

• Bảo dưỡng, sửa chữa, giám sát đường thuê bao.

• Cấp tín hiệu đồng hồ.

• Cung cấp nguồn.

• Trạm đầu cuối giao diện số cho điểm qui chiếu T.

• Dồn kênh phân chia thời gian (phân cấp 1).

NT2 là chức nǎng thuộc phân cấp 2 và 3. Các chức nǎng đặc trưng của NT2 là tổng đài cơ quan tự động (PABX) và mạng nội hạt (LAN). Tuỳ theo các loại hình thuê bao đôi khi chức nǎng NT2 không cần đến. Chức nǎng NT2 là :

• Xử lý bản tin (Protocol) thuộc phân cấp 2 và 3.

• Chức nǎng chuyển mạch.

• Chức nǎng tập trung.

• Chức nǎng sửa chữa và bảo dưỡng.

• Trạm đầu cuối giao diện số cho các điểm qui chiếu S, T.

Thiết bị đầu cuối (TE) bao gồm các thiết bị như điện thoại số, thiết bị đầu cuối số liệu và các thiết bị đầu cuối dùng cho các loại dịch vụ mới. Do đó TE thực hiện chức nǎng ghép nối với các thiết bị khác, giao diện S, chức nǎng bảo dưỡng và sửa chữa, xử lý bản tin. TE1 là thiết bị đầu cuối thuê bao chuyên dụng của mạng ISDN. Nó có thiết bị giao tiếp, có thể giao tiếp với điểm qui chiếu S. TE2 là thiết bị đầu cuối thuê bao hiện nay có giao diện thuộc X - Series của ITU-T. Do đó TE2 được nối với ISDN thông qua bộ thích ứng đầu cuối (TA). TA được dùng để biến đổi các bản tin cần thiết cho mục đích này.

LT (điểm cuối đường) là một thiết bị đầu cuối đường của phòng chuyển mạch. Các thuê bao được nối với hệ thống chuyển mạch thông qua thiết bị này. Khi các chức nǎng này được thực hiện, chúng có thể phát triển thành nhiều dạng khác nhau như trong hình 3.58. Do đó, giao diện giữa các thiết bị vẫn có thể tồn tại như trên lược đồ.

Hình 3.58. Ví dụ về cấu hình của thiết bị thuê bao

Việc tiêu chuẩn hoá các thiết bị thuê bao đã thúc đẩy sự phát triển riêng rẽ của mạng thông tin và các thiết bị đầu cuối thuê bao. Ngoài ra, khả nǎng di chuyển của các thiết bị đầu cuối như telephone đã có thể thực hiện được. Điều đó có nghĩa là các thiết bị đầu cuối thuê bao có giao diện chuẩn ISDN có thể được nối với mạng ISDN tại bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu.

B. Cấu trúc giao diện :

Cấu trúc giao diện có nghĩa là một lượng tối đa các thông tin số có thể được xử lý bởi các giao diện sử dụng tại các điểm qui chiếu S hay T. Nó được thể hiện bởi tập hợp kênh như B, D và H. Kênh B có dung lượng thông tin 64 Kbps. Với 64 Kbps nó có thể cung cấp dữ liệu tốc độ cao liên quan đến tiếng nói đã được mã hoá số dưới dạng chuyển mạch đơn hay chuyển mạch gói. Tuy nhiên kênh B không có thông tin báo hiệu cần thiết cho chuyển mạch đơn trên mạng ISDN.

Thông tin báo hiệu được chuyển đến các mạng thông tin qua các kênh khác như kênh D. Kênh D có dung lượng thông tin là 16 hoặc 64 Kbps và cấp thông tin báo hiệu cần thiết cho chuyển mạch đơn. Các thông tin báo hiệu này hoá dựa vào LAPD (thủ tục truy nhập đường truyền kênh D). Thêm vào đó, kênh D có thể cung cấp thông tin vận hành từ xa như số liệu chuyển mạch gói tốc độ chậm và xác định từ xa. Kênh H được chia thành kênh H0 và H1. Kênh H0 có dung lượng thông tin 384Kbps còn H1 theo tiêu chuẩn Bắc Mỹ có lượng thông tin 1536 Kbps, theo chuẩn châu Âu có dung lượng 1920 Kbps. Những kênh H này không có thông tin báo hiệu cho chuyển mạch đơn. Chúng có thể cung cấp các tín hiệu fax cao tốc, video, dữ liệu cao tốc, và âm thanh chất lượng cao. Kênh H2 và H4 có lượng thông tin hàng chục và hàng trǎm Mbps cho giải tần rộng ISDN ngoài kênh H0 và H1 đã xác định trên.

Nhiều dạng giao diện được hình thành sau khi các kênh này được tập trung lại. Trong số đó giao diện cơ bản nhất là giao diện có cấu trúc 2B+D. Điều đó có nghĩa là cấu trúc giao diện dùng cho truy nhập cơ sở có thể xử lý một lượng thông tin tương ứng với một kênh D. Tại thời điểm đó, lượng thông tin xử lý trên kênh D là 16 Kbps.

Thêm vào đó ITU-T đã giới thiệu cấu trúc dồn kênh sơ cấp kết hợp với cấu trúc dồn kênh sơ cấp B (chuẩn Bắc Mỹ : 23 B+D, chuẩn Châu Âu : 30 B+D), với cấu trúc dồn kênh sơ cấp H0 (chuẩn Bắc Mỹ: 4H0 hay 3H0+1, chuẩn Châu Âu: 5H0+D), cấu trúc dồn kênh sơ cấp H1 (chuẩn Bắc Mỹ: Hi, chuẩn châu Âu: H1+D), kênh B và các kênh H0. Lượng thông tin của kênh D, sử dụng trong giao diện dồn kênh sơ cấp là 64 Kbps và do đó tốc độ truyền dẫn của giao diện là 1.544 Kbps (trong chuẩn Bắc Mỹ) và là 2.048 Kbps đối với chuẩn Châu Âu thông qua việc cộng thêm một số bit khung.

Người ta có thể dùng giao diện này tuỳ theo chức nǎng và kích cỡ của các thiết bị sẽ đưlợc lắp đặt cho thuê bao. Hình 3.59 là một ví dụ điển hình về hệ thống chuyển mạch thuê bao tư nhân. ở đây tại điểm qui chiếu S, một giao diện cơ sở có thể được sử dụng. Tại điểm qui chiếu T, người ta dùng nhiều loại giao diện cơ sở hoặc giao diện dồn kênh sơ cấp B.

Hình 3.59. Ví dụ về ứng dụng của giao diện

3.8.7 Phương pháp truyền dẫn thuê bao số.

A. Phương pháp truyền dẫn 4 dây:

Những chức nǎng cơ sở được chỉ rõ trên hình 3.60 phải được thực hiện tương ứng với các đặc tính của giao diện T và V. Để cung cấp các loại dịch vụ ISDN khác nhau cho các thuê bao. ITU-T đã đưa ra chuẩn 144Kbps và coi đó là lượng thông tin cơ bản được xử lý tại dao diện U. Lượng thông tin 144 Kbps có thể xử lý 2 kênh B, và 1 kênh D (2B+D, 64Kbps+64Kbps+16Kbps). Thông qua những kênh này các thuê bao được cung cấp các dịch vụ như dữ liệu tiếng nói tốc độ cao, và số liệu tốc độ thấp trong cùng một thời điểm. Do đó quá trình báo hiệu giữa các thuê bao và mạng thông tin và giữa các thuê bao với nhau luôn được thực hiện. Các kênh như trên có thể được dồn lại thành một tín hiệu bằng phương pháp dồn kênh phân chia thời gian (TDM) và do đó, các kênh này có thể lại được tách ra từ điểm nhận đầu cuối. Để phục hồi tín hiệu ban đầu, việc đồng bộ khung cần phải được sử dụng.

Hình 3.60. Chức nǎng truyền dẫn giữa LT và NT

Đồng bộ khung được tiến hành bằng cách thêm vào một số các bit hoặc từ khung theo các nguyên tắc sơ bộ định trước để dồn các kênh trên các thiết bị đầu cuối nhận và sau đó các thông tin khung được tìm kiếm trên luồng số liệu nhận được ở đầu cuối nhận để xác định vị trí chính xác của các kênh đã bị dồn để xử lý. Do đó tốc độ truyền dẫn trên giao diện U trở lên nhanh hơn 144 Kbps đối với các bit khung và chức nǎng bảo dưỡng (VD: 160 Kbps) việc báo hiệu trong phương pháp liên lạc Analog được thực hiện theo trục tần số và mặt khác việc báo hiệu trong phương pháp liên lạc số lại được thực hiện theo trục thời gian. Và như vậy, nếu lỗi phát sinh giữa các tần số hoạt động của phía truyền đi và phía nhận, tức là nếu có sự khác nhau về mặt thời gian giữa bên truyền và bên nhận thông tin, thì sự mất thông tin hoặc hiện tượng lẫn thông tin tương ứng với sự khác nhau này sẽ nảy sinh. Hiện tượng này gọi là sự trượt số liệu. Đây là một trong số các yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của tín hiệu số. Các tín hiệu số trong mạng ISDN sẽ kết thúc tại các thiết bị đầu cuối là những thiết bị đầu cuối thuê bao. Điều đó có nghĩa là toàn bộ mạng thông tin số kể cả đầu cuối thuê bao đều phải được đồng bộ hoá với một tần số mẫu. Sự đồng bộ này gọi đồng bộ các bit hoặc đồng bộ nhịp thời gian.

Vì phương pháp đồng bộ bit có thể thực hiện được ở mức thuê bao, người sử dụng một chế độ tạo nhịp thời gian theo vòng lặp dùng đồng bộ chủ theo kiểu đơn giản. Điều này nghĩa là, như được minh hoạ trong hình 3.61. Thiết bị đầu cuối đường được kích hoạt khi nhận được tín hiệu nhịp thời gian từ hệ thống chuyển mạch. Khi chuyển dữ liệu sang mạng đầu cuối (NT) thông tin thời gian cũng được chuyển theo bằng cách sử dụng các mã truyền dẫn thích hợp.

NT tái tạo lại nhịp thời gian từ các dữ liệu nhận được, rồi chuyển chúng tới điểm cuối mạng. Đồng thời chúng được quay vòng và được sử dụng như nhịp thời gian cho truyền dẫn.

Hình 3.61. Phương pháp đồng bộ hoá thuê bao

ở đây phía hệ thống chuyển mạch trở thành chủ và phía NT trở thành thợ. Quá trình sử dụng nhịp thời gian cho truyền dẫn gọi là chế độ tạo nhịp thời gian theo vòng lặp.

Các máy điện thoại đǎng ký trên mạng thông tin hiện có nhận nguồn từ hệ thống chuyển mạch thông qua các đường dây thuê bao để kích hoạt. Thậm chí nếu nguồn của phía thuê bao bị hỏng thì chúng vẫn nhận được nhiều thuê bao các dịch vụ điện thoại một cách dễ dàng. Các thiết bị đầu cuối dùng trong mạng ISDN có khả nǎng xử lý các dịch vụ điện thoại và dữ liệu và như thế, chúng sẽ tiêu thụ 1 lượng điện lớn hơn. Vì thế các hệ thống chuyển mạch không thể cung cấp đủ nguồn đáp ứng cho sự vận hành của thiết bị đầu cuối. Tuy vậy hệ thống này cần phải cung cấp 1 lượng nguồn tối thiểu cấp thiết cho các dịch vụ cơ sở như dịch vụ điện thoại trong trường hợp khẩn cấp. Để tǎng hiệu suất của các thiết bị cung cấp nguồn, nguồn điện cung cấp đến các mạch không liên quan đến các chức nǎng cụ thể đang vận hành sẽ bị ngắt. Nguồn chỉ được cung cấp khi các thuê bao yêu cầu dịch vụ (cấp nguồn theo từng cuộc gọi). Hiện tượng này gọi là kích hoạt hoặc khử kích hoạt.

Nhằm đáp ứng một cách đúng đắn nhu cầu ngày càng tǎng đối với các loại dịch vụ mới, các mạng thuê bao thường trở lên phức tạp hơn và do đó cần phải vhuẩn bị những phương pháp hữu hiệu trong quản lý, vận hành, sửa chữa và chẩn đoán hệ thống. Một trong những biện pháp này gọi là kiểm tra theo vòng lặp. Phương pháp này được mô tả trong hình 3.62.

Hình 3.62. Kiểm tra theo vòng lặp

Phép kiểm tra được tiến hành như sau: tín hiệu được lặp lại điểm đầu vào/đầu ra của một chức nǎng nào đó cần được kiểm tra. Sau đó một loạt mẫu kiểm tra được truyền đi rồi lại nhận lại để đánh giá về lỗi và những vị trí lỗi. Thường thì người ta tiến hành kiểm tra từ phía hệ thống chuyển mạch bằng cách truyền đi thông tin điều khiển thích hợp. Cũng tương tự, để chẩn đoán trạng thái của đường dây thuê bao, các tín hiệu nhận được từ phía LT và NT được giám sát thường xuyên để tìm ra lỗi.

Theo nguyên tắc, đối với dao diện U, vì lý do kinh tế, loại cáp kim loại hiện dùng trong mạng thuê bao được sử dụng. Người ta cũng dùng phương pháp truyền dây để truyền và nhận tín hiệu sử dụng một đôi dây cáp, hoặc dùng phương pháp truyền 4 dây để tách đường truyền và đường nhận sử dụng hai đôi dây cáp.

Phương pháp truyền tín hiệu số trên đường truyền 4 dây ở mức thuê bao đã được ứng dụng trong hệ thống dữ liệu số của Mỹ.

DDS là mạng dữ liệu số chuyên dụng được đưa vào hoạt động từ nǎm 1974. Mặc dù về nguyên lý nó hoạt động khác với mạng ISDN, nhưng nó có thể truyền trực tiếp các tín hiệu số thông qua các đường thuê bao. DDS sử dụng tốc độ truyền dẫn 2,4; 4,8 và 9,6 và 56 Kbps. Phương pháp truyền 4 dây có thể dễ dàng truyền lại tín hiệu. Để đưa vào sử dụng các hệ thống truyền dẫn không cần có công nghệ mạch tiên tiến nhưng lại cần những đường dây riêng rẽ. Do đó khi sử dụng phương pháp này, mạng thuê bao cần phải được phân bố lại và các đường dây thuê bao mới phải được lắp đặt. Từ đó, ta thấy không thể nối tất cả các thuê bao với mạng thông tin bằng đường truyền dẫn 4 dây để truyền lượng thông tin khoảng 160Kbps. Tuy nhiên, có thể sử dụng một cách có lựa chọn ở giai đoạn đầu của mạng ISDN trước khi phương pháp truyền dẫn 2 dây trở nên phổ biến. Phương pháp truyền dẫn 4 dây có vẻ như được sử dụng rộng rãi trong việc truyền dẫn thông tin có dung lượng lớn hơn 160Kbps. Hiện nay, với mục đích này ITU-T đã giới thiệu một kiểu ghép nối dồn kênh sơ cấp tốc độ trung bình 1.544Mbps hoặc là kiểu hoà trộn giữa ghép nối cơ bản và ghép nối dồn kênh sơ cấp. Khoảng cách truyền dẫn không tái sinh cho các tốc độ giới hạn trong khoảng cách từ 1 tới 2 km. Theo đó, để điều tiết các thuê bao một cách hiệu quả, các tín hiệu phải được tái tạo lại. Trong trường hợp này, người ta sử dụng phương pháp truyền dẫn 4 dây. Các loại hệ thống truyền dẫn này sẽ được sử dụng để ghép nối các thuê bao ở xa với mạng thông tin bằng cách dồn và tập trung chúng.

Điều đó có nghĩa là nó sẽ hoạt động như thiết bị truyền tải thuê bao trong hệ thống Analog và sẽ hữu dụng trong việc điều tiết các thuê bao được phân bố ở xa khi mật độ phân bố của hệ thống chuyển mạch số thích hợp cho mạng ISDN đang ở mức rất thấp, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của mạng ISDN. Hình 3.63 là một ví dụ về thiết bị truyền tải thuê bao của mạng ISDN.

Hình 3.63. Thiết lập thiết bị truyền tải thuê bao của mạng

Như đã được chỉ dẫn rõ trong hình vẽ, thiết bị truyền tải được nối với hệ thống chuyển mạch thông qua đường truyền 4 dây. Tốc độ truyền dẫn của giao diện U lúc này tương ứng với ghép nối dồn kênh sơ cấp hay dung lượng thông tin trung bình. Các giao diện S, T và U có thể được dùng như các giao diện về phía thuê bao của các thiết bị truyền dẫn. Điều đó có nghĩa là TE (thiết bị đầu cuối) có thể được ghép nối trực tiếp qua giao diện S và TE có thể được ghép nối trực tiếp sau khi NT2 (điểm cuối mạng) được nối qua giao diện T. Thêm vào đó các thuê bao từ xa mà giao diện T không thể điều tiết được thì có thể ghép nối thông qua giao diện T bằng cách dùng giao diện U.

Phương pháp truyền dẫn 2 dây khác với phương pháp truyền dẫn 4 dây ở chỗ là các tín hiệu được truyền và nhận thông qua cùng một đường dây. Do đó, phương pháp tách tín hiệu truyền/nhận ở đầu nhận là cần thiết. Các phương pháp này có thể là FDM (dồn kênh phân chia tần số), ECM (phương pháp loại bỏ tiếng vọng) và TCM (dồn kênh nén thời gian) đều cần dùng trong phương pháp này. Trong trường hợp dùng phương pháp analog thì FDM là phương pháp điều chế các tín hiệu truyền nhận theo các tần số khác sao cho các tín hiệu truyền nhận có dải tần khác. Sau đó, các tín hiệu truyền nhận được tách ra bằng một bộ lọc có dải thông tin thích hợp. Tuy nhiên người ta không sử dụng rộng rãi phương pháp FDM bởi vì các phân tử cao tần có trên đường dây và các mạch cần thiết có thể được chế tạo một cách dễ dàng thành mạch tích hợp ở phạm vi rộng VLSIs.

TCM là phương pháp phân chia thời gian để nén thông tin sẽ được chuyển đi theo từng đơn vị thời gian và sau gửi các thông tin đã nén đi trong một khoảng thời gian ngắn hơn đơn vị giờ và cuối cùng, phân bổ thời gian còn lại cho phía đối diện để phía này có thể truyền thông tin sử dụng khoảng thời gian đó. Điều đó có nghĩa là, dung lượng thông tin sẽ được truyền từ phía LT và NT tương ứng là R trong một đơn vị thời gian T, phía LT có thể truyền đi tất cả thông tin mà nó có trong thời gian T/3 chỉ bằng cách tǎng lượng thông tin sẽ được chuyển đi trên một đường dây (chẳng hạn tǎng thành 3R). Phía NT với khoảng thời gian là 2T/3 truyền thông tin của phía NT trong thời gian là T/3 và thời gian còn lại T/3 được dùng như thời gian trễ truyền dẫn và bảo vệ trên đường dây. Theo đó, trên đường dây thuê bao thong tin truyền dị/nhận về vẫn tồn tại cùng lúc đối với từng khối và sự truyền dẫn một hướng được tiến hành trên đường dây vào một thời gian bất kỳ. Điều đó có nghĩa là, phía LT chuyển thành trạng thái nhận khi phía NT đang ở trạng thái phát, Vì phương pháp TCM có các chế độ truyền dẫn như vậy nên đôi khi người ta gọi nó là truyền dẫn ở chế độ gián đoạn hay là kiểu truyền dẫn qua lại (kiểu ping-pong).

Phương pháp ECM tách các tín hiệu phát/nhận bằng việc sử dụng cuộn dây hybrid, một bộ biến đổi 2 dây/4 dây dùng trong truyền tin Analog được mô tả ở hình 3.64. Do đó, tốc độ truyền dẫn trên đường dây sẽ bằng với lượng thông tin sẽ được phát đi.

Phương pháp ECM sẽ được dùng khi ITU-T giới thiệu 144Kbps. Điều đó có nghĩa là, cho dù ở mỗi nước khác nhau, cần có một hệ thống có tốc độ truyền dẫn từ 4 đến 5km để điều tiết hơn 90% các thuê bao. ECM phải được dùng để đảm bảo khoảng cách nói trên nếu lượng thông tin cần được xử lý là 144 Kbps.

Các tồn tại của ECM như là các mạch phức hợp, tính kinh tế, thời gian hội tụ của bộ chuyển tải... là những yếu tố kỹ thuật cần khắc phục vì sự tiến bộ của công nghệ liên quan và các thuật toán mới đã được giới thiệu.

Hình 3.64. Sơ đồ phương pháp ECM

3.8.8 Xu hướng phát triển của công nghệ.

A. Giới thiệu chung :

Như đã tranh luận ở các phần trước, các thuê bao của mạng ISDN được phục vụ với các dịch vụ dữ liệu số với tốc độ chậm hoặc trung bình như tiếng nói, telex, videotext, fax và thông tin dữ liệu vì các đường dây thuê bao kim loại đã được số hoá. Bên cạnh những dịch vụ kể trên, các thuê bao còn yêu cầu các dịch vụ bǎng rộng như loại dịch vụ CATV, Video phones (điện thoại có hình) hay Video conference (toạ đàm có hình ảnh).

Truyền dẫn số sử dụng cáp kim loại hiện có chỉ có thể tải được một lượng thông tin hạn chế trong chế độ giao diện cơ bản 2B+D 144Kbps. Thậm chí, nếu dùng phương pháp truyền dẫn 4 dây thì lượng thông tin tối đa tải trên cáp kim loại không vượt quá 1,5 đến 2Mbps. Tuy nhiên các dịch vụ hình (video), như mô tả trong hình 3.65 lại cần có hàng chục Mbps đến hàng trǎm Mbps thông tin và các đường thuê bao hiện có không thể đáp ứng được các dịch vụ này.

Kết quả là người ta cần có mạng ISDN bǎng rộng có khả nǎng xử lý các dịch hình (video) kèm theo chức nǎng của mạng ISDN. Phương tiện truyền dẫn có thể có cho các loại dịch vụ này bao gồm các loại cáp đồng trục, cáp quang và các thuê bao số không dây dùng viba.

Hình 3.65. Các yêu cầu về dịch vụ thuê bao

trong tương lai và lượng thông tin

Đôi khi người ta dùng cáp đồng trục trong CATV. Tuy nhiên do giá thành cao và do độ rộng dải tần bị hạn chế cho nên người ta không dùng nó làm phương tiện truyền dẫn bǎng rộng. Các tuyến truyền dẫn không dây có thể được thiết lập một cách nhanh chóng không phụ thuộc vào địa hình của khu vực. Những đường này cũng có thể dễ dàng thích ứng được với những thay đổi trong nhu cầu về thông tin và mật độ phân phối của thuê bao. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều đầu tư hơn cho việc thiết lập đường dây. Vì nhu cầu phát triển các vùng xa xôi như thị trấn vùng núi cao, hải đảo ngày càng tǎng và công nghệ MIC (IC dùng cho viba số) đã sẵn sàng cho thương mại hoá. Các thiết bị thu và phát không dây trở nên gọn nhẹ và đỡ tốn kém hơn. Cũng do vậy, người ta mong muốn sử dụng rộng rãi công nghệ cao. Tuy nhiên do các vấn đề kinh tế kỹ thuật và do thiếu nguồn sóng nên có vẻ nó không được sử dụng rộng rãi như là một phương tiện truyền dẫn chính trong mạng ISDN bǎng rộng. Thay vào đó nó chỉ được dùng để hỗ trợ cho phương tiện truyền dẫn chính. Cuối cùng cable quang có thể được sử dụng làm phương tiện truyền dẫn. Công nghệ thông tin liên lạc quang học được dùng rộng rãi trong các hệ thống liên lạc nội bộ cỡ nhỏ hoặc vừa, hệ thống tổng đài đường dài liên tỉnh dung lượng lớn, hệ thống truyền dẫn quang học dưới biển vì công nghệ đang được cải tiến và giá cáp quang đang giảm dần.

Như đã bàn luận từ trước, người ta có thể dùng chúng một cách dễ dàng trong mạng thuê bao. Tuy nhiên cáp sợi quang học hiện nay đang còn có những khó khǎn trong việc cung cấp nguồn nuôi cho thuê bao bằng dây có lõi, đây là vấn đề đặc biệt nảy sinh trong mạng thuê bao. Và tất nhiên, cáp sợi quang đắt hơn nhiều so với cáp đôi. Nhưng nó có lợi thế là hạn chế sự mất đường truyền ở mức tối đa, hiện tượng xuyên âm đường kính sợi dây nhỏ hơn, khả nǎng điều tiết dải tần rộng nhất sẽ làm cho phương tiện truyền dẫn trên cáp quang trở thành một trong các phương tiện truyền dẫn chính.

ở nhiều nước phát triển, các công trình nghiên cứu về hệ thống thuê bao quang học đã được tiến hành. Một số công trình đang được đưa ra thử nghiệm trên thực tế với hàng ngàn thuê bao.

B. Hệ thống thuê bao quang.

Phần dưới đây sẽ giải thích kỹ về các điểm cần xem xét khi áp dụng công nghệ thông tin quang học với các thuê bao.

Một hệ thống thuê bao quang học sẽ được thiết lập với một giả thiết là các đường dây thuê bao kim loại hiện có sẽ được thay thế bằng cáp quang. Như với các cáp đang có hiện nay cáp quang bao gồm cáp ngầm, cáp treo, cáp dây. Vì cáp quang có nhiều đặc tính khác biệt so với các loại cáp hiện hành nên việc thiết kế các đầu nối, cách bố trí, độ dài và lắp đặt cần phải làm thật chính xác. Điều đó có nghĩa là, (không giống cáp đồng hiện nay) khi ghép nối hai dây cáp quang thì hiện tượng hụt đi là không tránh khỏi. Cũng do đó, cần phải tính thêm một lượng cáp quang dự trữ khi bố trí đường cáp quang để chuẩn bị ghép nối các đường dây trước khi sắp xếp lại các mạng thuê bao. Các phương pháp nối cáp hiện nay gồm ghép nối hợp nhất và phương pháp sử dụng các đấu nối. Cách thứ nhất thường được dùng trong các tủ đấu nối đặt ngầm hoặc treo để thực hiện các đấu nối dưới mặt đất, treo cao hoặc giữa các cáp đã có sẵn. Cách thứ hai chủ yếu hay được áp dụng cho MDF (giá đấu dây) ở các phòng chuyển mạch, các thiết bị đầu cuối treo và cáp thuê bao ngoài trời. Một khi cáp quang đã được nối với các thuê bao như mô tả ở trên, thì các thuê bao thông giao các đường cáp này, sẽ đồng thời có dịch vụ tiếng nói và chức nǎng đảm bảo từ xa (hàng chục bps cho dịch vụ dữ liệu tốc độ thấp) và các dịch vụ bǎng rộng gồm từ vài chục đến vài trǎm Mbps như video. Quá trình thương mại hoá hệ thống thuê bao cáp quang sẽ được thực hiện trong khoảng 10 đến 20 nǎm tới. Vì thế khó có thể thiết kế một cách chính xác các loại dịch vụ mà nó sẽ cung cấp trong tương lai. Nhìn chung, các loại dịch vụ được cung cấp thông qua ISDN chưa được xác định vì mạng thông tin của nó chỉ cung cấp các kênh dịch vụ, là các giao diện truy nhập được tới tất cả các loại dịch vụ.

Do đó, mỗi một thuê bao sẽ sử dụng mạng tuỳ theo yêu cầu riêng của mình. Để cho tiện lợi, các dịch vụ do ISDN cung cấp được phân loại như sau : các dịch vụ dải tần hẹp tốc độ vừa và thấp, các dịch vụ dải tần rộng như video. Các dịch vụ dải tần rộng được chia thành các dịch vụ phân tán như CATV hay các dịch vụ tương giao như điện thoại hình ảnh. Trong khi đó các dịch vụ dải tần hẹp được chia thành các dịch vụ cấp D, B, H0, H1 theo ITU-T; Các dịch vụ này có thể sẽ được tách biệt nhau tại các trạm cuối và được xử lý thông qua mạng ISDN. Các dịch vụ dải tần rộng có thể sẽ được nối với các trung tâm thông tin video như các trung tâm phát sóng ngày nay. Vì số lượng kênh video cung cấp cho các thuê bao sẽ bị hạn chế cho nên cần phải dùng thiết bị chọn chương trình ở trạm đầu cuối để chọn chương trình mà các thuê bao mong muốn. Trong các dịch vụ đối thoại như trường hợp mạng điện thoại hiện nay, chức nǎng chuyển mạch các tín hiệu hình ảnh là cần thiết và vì thế phải được nối với các mạng chuyển mạch bǎng rộng mới.

Vì thế, các dịch vụ phân tán thường được gọi là dịch vụ phát sóng còn các dịch vụ tương giao được gọi là các dịch vụ chuyển mạch. Cuối cùng thì tất cả các loại hình dịch vụ đều phải qua xử lý ở một mạng thông tin bǎng rộng.

Cũng như các thiết bị chọn chương trình, phương pháp analog và phương pháp số cũng được dùng tuỳ theo các dạng của tín hiệu video. Nếu tín hiệu video là Analog thì các thiết bị bán dẫn như rơle logic loại đơn giản chuyển mạch Analog, các bộ điều chỉnh TV chung có thể được sử dụng. Nếu các tín hiệu này là số thì việc vận hành phải được thực hiện dựa vào bộ dồn kênh đa đường vào và đường ra đơn. Nếu một số lượng "n" các kênh video được đưa đến trạm cuối cùng và một số lượng "m" kênh dẫn đến các thuê bao ( tuy nhiên n>m), một số lượng m bộ dồn kênh được nối song song sao cho trong số n kênh đầu vào m kênh đầu ra được lựa chọn bởi tín hiệu chọn kênh từ các thuê bao trước khi được đưa ra. Vì các dịch vụ bǎng rộng trong chế độ tương giao phải thông qua mạng chuyển mạch phức hợp (như telephone), thì tốt hơn là nên dùng phương pháp số để tránh được sự suy hao tín hiệu, tiếng ồn hay các đặc tính xuyên âm.

Chuyển mạch thời gian và không gian là phương pháp chuyển mạch có thể được sử dụng trong hệ thống chuyển mạch điện thoại số. Tuy nhiên để chuyển đổi tín hiệu video thành tín hiệu số thì cần 90 Mbps (đối với tín hiệu NTSC) còn đối với tín hiệu PAL thì cần 140 Mbps. Thậm chí ngay cả khi có sử dụng công nghệ nén độ rộng giải tần thích hợp, chẳng hạn như DPCM (điều chế xung mã vi phân) thì vẫn cần một lượng thông tin ít nhất là 45 Mbps và 700 Mbps để bảo đảm chất lượng TV thông thường. Để xử lý lượng thông tin này sử dụng chuyển mạch thời gian thì cần một lượng rất lớn các phần tử bộ nhớ tốc độ cao mà điều đó chưa có sẵn trong các hệ thống chuyển mạch dung lượng lớn. Các hệ thống chuyển mạch dải tần rộng thường tạo bởi các chuyển mạch không gian. Các phần tử ECL (Emitter coupled logic) để dùng làm các khối có cấu hình cơ bản sẽ được dùng ở đây có ma trận chuyển mạch n x n đang được nghiên cứu. Tuy nhiên với những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ CMOS, CMOS có thể được ứng dụng cho tốc độ đến 100Mbps.

Việc nghiên cứu ứng dụng các phần tử bán dẫn GzAS và phần tử quang tích hợp cũng đang được tiến hành. Nếu những công trình nghiên cứu này thành công thì sự phát triển chuyển mạch thời gian sẽ là có triển vọng. Dẫu sao, hiện nay phương pháp chuyển mạch gói tốc độ cao (chuyển mạch gói nhanh) có thể chuyển đổi tất cả các tín hiệu thành gói để xử lý đang được chú ý.

Các chuyển mạch đã đề cập đến ở trên được áp dụng sau khi chuyển đổi tất cả tín hiệu quang thành tín hiệu điện và do đó cơ chế chuyển đổi quang/điện và điện/quang cần phải được áp dụng giữa hệ thống chuyển mạch và thiết bị truyền dẫn. Việc nghiên cứu các hệ thống chuyển mạch quang có chức nǎng chuyển mạch trực tiếp đang tiến triển tốt để cải thiện các vấn đề này cũng như việc nghiên cứu chuyển mạch cơ cấu quang sử dụng các đǎc tính phản xạ và ánh sáng phân cực của lǎng kính và hệ thống chuyển mạch sử dụng các phần tử logic quang như các ma trận chuyển mạch quang đang tiến triển. Giữa mạng thông tin và thuê bao có thể lắp đặt nhiều hơn một sợi cáp quang. Tuy nhiên vì lý do kinh tế và để dễ sửa chữa, bảo dưỡng thì nên lắp đặt một sợi quang cho mỗi thuê bao. Một phương pháp dồn kênh thích hợp cho các tín hiệu điện và quang cần được giới thiệu để có thể sử dụng các đường dây một cách có hiệu quả. Để dồn kênh các tính hiệu điện nên dùng phương pháp dồn kênh phân chia thời gian hiện có, còn đối với tín hiệu quang nên dùng phương pháp WDM (dồn kênh phân chia bước sóng). WDM có thể dồn các sóng lan truyền theo cùng hướng hoặc ngược hướng do đó, mỗi sợi cáp quang có thể xử lý toàn bộ các tín hiệu thu và phát. Vì các tín hiệu số và tín hiệu Analog có thể được truyền đi dưới những dạng sóng khác nhau trong cùng một thời gian nên phương pháp WDM đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống thuê bao quang.

Cấu trúc mạng thuê bao quang phải được xác định trên cơ sở cân nhắc thận trọng các đặc tính, yếu tố kinh tế, mật độ cuộc gọi, tính bảo mật thông tin và sự phân bố các thuê bao. Cấu trúc chung của mạng được mô tả trong hình 3.66. Các ví dụ điển hình về phương pháp ghép nối từ trạm đầu cuối đến các thuê bao cũng được minh hoạ trong hình 3.66. Nhìn chung kiểu nối vòng tròn rất kinh tế và phù hợp với mạng thông tin cục bộ. Tuy nhiên nó không thích hợp cho hệ thống thuê bao quang vì nó không có khả nǎng mở rộng và tính bảo mật, hơn nữa đường thông tin chính chỉ có thể xử lý một lượng thông tin nhất định.

Hình 3.66. Cách nối mạng

Cấu trúc hình cây được áp dụng rộng rãi trên các mạng CATV; mặc dù khá kinh tế, nhiều thuê bao cùng dùng chung đường dây trong trường hợp dịch vụ tương giao, nên việc điều khiển để tránh sự va chạm thông tin giữa các thuê bao rất cần thiết. Các cấu trúc hình sao là không kinh tế vì như vậy mỗi hướng truyền dẫn phải được phân bổ cho một thuê bao. Tuy nhiên nó sẽ có đủ khả nǎng xử lý các dịch vụ tương giao khi mạng chuyển mạch dải tần rộng tương tự như mạng chuyển mạch điện thoại hiện nay được thiết lập. Điều đó có nghĩa là, cấu trúc hình cây rất phù hợp với các dịch vụ phát thanh và truyền hình. Trong khi cấu trúc hình sao thích hợp cho các loại dịch vụ dạng chuyển mạch. Vì hệ thống thuê bao quang bao gồm các dịch vụ dạng chuyển mạch cấu trúc hình sao tương tự như mạng điện thoại hiện nay được giới thiệu để dùng cho mạng chuyên mạch dải tần rộng trong tương lai.

4. ứng dụng của điện thoại

4.1. ATM

4.1.1 Dẫn nhập

Người ta hy vọng mạng đa dịch vụ bǎng rộng (B-ISDN) sẽ cung cấp các dịch vụ khác nhau từ điện báo vơí tốc độ vài bit/s đến video độ phân giải cao tốc độ 150 Mbit/s. Để hỗ trợ đa dịch vụ, mạng B-ISDN cần dải tần rộng (bǎng rộng) và công nghệ chuyển mạch linh hoạt.

Việc sử dụng cáp quang cung cấp cho ta một môi trường truyền dẫn bǎng rộng ở tốc độ mức Gbit/s và người ta còn hy vọng sẽ tǎng dải tần lên được hàng ngàn lần. Tuy nhiên, công nghệ chuyển mạch cần thiết cho việc xây dựng mạng B-ISDN còn đang tụt hậu so với sự tiến bộ của khả nǎng truyền dẫn. Sự khác biệt này thể hiện một thách thức cho việc tạo ra một công nghệ nhanh hơn, không đắt hơn và linh hoạt hơn.

Chế độ truyền không đồng bộ (ATM) là kỹ thuật được ITU khuyến nghị cho mạng B-ISDN (1.121). ATM hứa hẹn một kỹ thuật cho việc thực hiện việc truy nhập tích hợp và một mạng truyền dẫn có thể dễ chia sẻ giữa các người sử dụng đầu cuối sử dụng các truy nhập đa dịch vụ. ở ATM, thông tin được chia thành gói có độ dài cố định (tế bào ATM) và được truyền đến đích, được đánh dấu chỉ bởi phần đầu tế bào khi thông tin được tạo nên. Mạng truyền số liệu chuyển mạch gói thông thường có vẻ tương tự với mạng ATM khi nhìn từ sự việc tạo nên các block trong gói dữ liệu. Tuy nhiên, chuyển mạch gói bao gồm một máy tính chạy một chương trình truyền số liệu. Vì thế, khả nǎng chuyển mạch bị giới hạn bởi sự thực hiện của bộ xử lý và bộ xử lý không thể truyền đi một lượng lớn thông tin ở tốc độ cao. Ngược lại, giao thức mạng ATM rất đơn giản và phần cứng được dành riêng để chuyển mạch một lượng lớn thông tin (như video chẳng hạn) cần được truyền với tốc độ cao qua các đường truyền liên kết tới đích.

Như được xác định trong kỹ thuật chuyển tải ATM, các gói có độ dài cố định được hình thành bởi các dịch vụ khác nhau như tiếng nói, dữ liệu hay video. Việc chọn ATM làm kỹ thuật truyền dẫn cho B-ISDN đã dẫn đến việc chuyển mạch các gói hay các tế bào có độ dài cố định thay thế cho kỹ thuật chuyển mạch tuyến thông thường. Nhiều loại chuyển mạch đã được đưa ra để đảm bảo khả nǎng chuyển mạch gói tốc độ cao theo yêu câù của TAM. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét những yêu cầu chuyển mạch đặc biệt cho B-ISDN

4.1.2 Thuật ngữ

Dưới đây chúng ta sẽ mô tả một số thuật ngữ dùng trong phần này.

1) Chế độ chuyển đổi đồng bộ (STM):

Nhóm nghiên cứu XVIII của ITU-T gọi các khía cạnh chuyển mạch và dồn kênh là " các chế độ chuyển đổi" STM phân bổ các khe thời gian trong một cấu trúc tuần hoàn gọi là "Khung" cho một dịch vụ với khoảng thời gian một cuộc gọi. Tất cả các kênh STM được xác định bởi vị trí các khe thời gian trong một khung đồng bộ như mô tả trong hình 4.1. Khi một khe thời gian được gán cho một kênh nhất định nào đó, khe thời gian đó sẽ được dành riêng cho khoảng thời gian của một cuộc gọi. Điều này đảm bảo sự cung cấp dịch vụ trong khoảng thời gian gọi và nó cũng thích ứng cho các dịch vụ tạo ra thông tin một cách liên tục theo một tốc độ cố định. Tuy nhiên, việc dành riêng một khe thời gian của khung cho khoảng thời gian một cuộc gọi đã dẫn đến việc không sử dụng hết độ rộng dải tần khi nguồn không tạo ra thông tin liên tục theo một tốc độ cố định.

Hơn thê, cấu trúc STM cứng nhắc là không linh hoạt trong việc phân bố độ rộng dải tần cần thiết cho phạm vi lớn các dịch vụ mà B-ISDN cung cấp. Mặc dù việc gán linh hoạt các tập hợp, khe thời gian cho một kênh để thực hiện các dịch vụ chuyển mạch là có thể được, thì vẫn cần sự phối hợp các chức nǎng ánh xạ tương đối phức tạp từ phía người sử dụng và phía mạng trong một giao diện. Để đơn giản hoá chức nǎng ánh xạ này STM có thể được kết cấu thuận lợi cho các kênh đa tốc độ, trong đó mỗi khung được phân chia thành các tập hợp khác nhau của một số lượng cố định các khe thời gian, và nhờ đó có thể đáp ứng được các tốc độ khác nhau. Trước tiên, việc tìm ra đúng tập hợp các kênh đa tốc độ không phải là một việc dễ dàng vì các dịchvụ do mạng B-ISDN cung cấp vẫn chưa được xác định một cách đầy đủ. STM đa tốc độ làm phức tạp thêm mạng chuyển mạch. Xét theo góc độ sử dụng độ rộng dải tần chuyển mạch trên cơ sở từng điểm nối thì việc sử dụng câú trúc chuyển mạch riêng rẽ cho từng tốc độ kênh sẽ có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng cấu trúc chuyển mạch phức hợp sẽ làm cho việc quản lý, cung cấp, bảo dưỡng mạng thêm phức tạp. Do độ rộng dải tần là không đổi, nên STM trở nên quá hạn chế không thể thích ứng với sự thay đổi liên tục của nhiều loại dịch vụ dữ liệu với các tốc độ kênh cố định.

2. Chế độ chuyển đổi không đồng bộ (ATM)

ATM được đưa ra để loại trừ các hạn chế của STM. ATM là chế độ chuyển đổi do nhóm nghiên cứu XVIII về mạng ISDN bǎng rộng của ITU-T chọn lựa làm cơ sở của mạng B-ISDN. ATM là kỹ thuật dông kênh, chuyển mạch kiểu gói có độ trễ thấp và có độ rộng dải tần cao.

Trong ATM, độ rộng dải tần sử dụng có thể được gán một cách nǎng động theo yêu cầu. ATM có lợi thế là đạt được kết quả một cách ổn định đối với các dịch vụ mới bùng nổ trong khi đó vẫn đảm bảo thực hiện ở mức chấp nhận được các dịch vụ có tốc độ bit liên tục. Một cấu trúc đơn có thể được sử dụng để chuyển mạch tất cả dịch vụ.

Với ATM, dòng bit được chia thành một số các gói hay tế bào có độ dài nhất định. Mỗi gói bao gồm 1 trường tiêu đề chứa thông tin điều khiển mạng và một trường thông tin chứa dữ liệu của người sử dụng. Không giống như STM, là một chế độ nhận biết các cuộc gọi thông qua vị trí của khe thời gian trong khung, ATM thiết lập nối liên hệ giữa các tế bào và các cuộc gọi bằng một nhãn tiêu đề (Header) của tế bào đó. Việc kết nối cuộc gọi được thiết lập bằng cách lập ra các bảng dịch số tại các chuyển mạch và các điểm dồn kênh trong đó liên kết một nhãn đầu vào với các đường nối và nhãn ở đầu ra. Việc kết nối theo yêu cầu này được gọi là các mạch ảo vì không có độ rộng dải tần nào được phân bổ cho toàn bộ khoảng thời gian thực hiện một cuộc gọi. Ưu điểm của ATM là tiết kiệm độ rộng dải tần khi nguồn tạo các tế bào với các tốc độ thay đổi theo thống kê.

Hình 4.2. Cấu trúc của ATM

Thuật ngữ "Không đồng bộ" trong ATM không ngụ ý về sự không đồng bộ theo nghĩa là không có sự tuần hoàn theo trình tự của các dòng thông tin riêng biệt tạo ra kênh ATM đã được dồn kênh như trong hình 4.2. Vì một nguồn tạo ra các tế bào tuỳ theo tốc độ dịch vụ nên không cần phải cố định tốc độ kênh.

Do vậy chỉ cần một loại cấu trúc chuyển mạch. Chúng ta tập trung xem xét về khía cạnh chuyển mạch này của ATM cho mạng B-ISDN trong phần này.

3. Chuyển mạch ATM (chuyển mạch gói nhanh):

Chuyển mạch gói được Baran giới thiệu lần đầu tiên vào nǎm 1964. Trong chuyển mạch gói, các khối dữ liệu gọi là gói được truyền từ nguồn đến đích thông qua nhiều chuyển mạch trong mạng thông tin. Chuyển mạch gói được thực hiện bằng máy tính xử lý các quá trình thông tin thay cho phần cứng chuyên dụng.

Chuyển mạch gói thông thường có vẻ giống như chuyển mạch ATM nếu xét trên góc độ tạo các khối dữ liệu thành gói hay tế bào và định tuyến các gói theo nhãn của chúng. Tuy nhiên chuyển mạch ATM khác chuyển mạch gói thông thường ở nhiều điểm. Việc sử dụng các thiết bị truyền dẫn số tốc độ cao với khả nǎng kiểm soát lỗi cao cho phép các bản tin ở mức liên kết trở nên đơn giản.

Đặc biệt là ở đây không có thủ tục kiểm tra lưu lượng hay sửa lỗi nào được thực hiện ở mức liên kết như trong X.25. Các chức nǎng thông tin mức cao như kiểm tra lỗi và kiểm tra lưu lượng được thực hiện trên cơ sở từ điểm cuối đến điểm cuối (end to end) và phụ thuộc vào ứng dụng. Các gói có độ dài cố định cũng làm đơn giản hoá quá trình xử lý gói và các khía cạnh về đồng bộ.

4. Những nguyên tắc của chuyển mạch.

Chức nǎng chuyển mạch là chức nǎng kết nối các đường thông từ các đầu vào đến các đầu ra tương ứng. Cấu trúc chuyển mạch N x N có N cổng vào: Nơi xuất phát của đường thông và N cổng ra nơi đường thông đi ra ngoài. Trong phần này chúng ta chỉ quan tâm đến đường thông tin gói.

Các gói có độ dài cố định được đưa đến N đầu vào dưới dạng các khe thời gian như đã được mô tả trong hình 4.3. Mỗi gói có một địa chỉ của cổng ra hoặc chuyển mạch mà gói sẽ được chuyển đến theo đã định trước.

Địa chỉ này của gói được chuyển mạch sử dụng để định tuyến cho từng gói thông tin vào đến cổng tương ứng ở đầu ra.

Hình 4.3. Chuyển mạch gói NxN

Hình 4.4. Cấu trúc chuyển mạch

Mỗi chuyển mạch thường được tạo bởi các phần tử chuyển mạch và các đường nối (tức là đường dữ liệu) như mô tả ở hình 4.4. Phần tử chuyển mạch 2x2 có 2 đầu vào và 2 đầu ra và hướng cho các gói đi đến các đầu ra thích hợp tuỳ theo tín hiệu điều khiển tạo ra bởi bộ điều khiển tập trung hay chính từ các gói để định hướng các gói. Kỹ thuật định hướng trước đây được gọi là định hướng theo sự điều khiển trung tâm còn kỹ thuật sau này được gọi là tự định hướng.

Các phần tử chuyển mạch có thể có các kích cỡ khác nhau. Các đường nối là các đường dữ liệu thụ động liên kết các phần tử chuyển mạch khác nhau.

4.1.3 Động lực.

Thông thường các chuyển mạch ATM cần thiết để xử lý các gói có độ dài cố định (32 đến 64 byte chiều dài) ở tốc độ cao nhất là 150Mbps. Các gói được tạo ra bởi các loại dịch vụ khác nhau như tiếng nói, dữ liệu và video. Các gói tiếng nói và video được tạo ra với tốc độ 64kbps và 150Mbps tương ứng. Những gói thông tin này không thể bị trễ lâu bởi vì nếu thế sẽ làm giảm chất lượng của các dịch vụ tiếng nói và hình ảnh. Như vậy chuyển mạch ATM phải có khả nǎng xử lý các gói với tốc độ 150Mbps và chịu mức trễ thấp.

Các yêu cầu quan trọng khác nữa là giá thành hạ và dễ sử dụng. Những yêu cầu này chỉ có thể được đáp ứng bằng các chuyển mạch với cấu trúc điều khiển đơn giản như tự định hướng, tốc độ cao, có khả nǎng phát sóng. Việc định hướng phức tạp hơn ví dụ như kiểu liên kết điểm đến đa điểm có thể cần thiết trong môi trường phát sóng hình hơn là kiểu thông tin điểm tới điểm.

Nhiều kiểu chuyển mạch có dung lượng chuyển mạch lớn và tốc độ chuyển mạch cao đã được đề xuất. Những kiểu chuyển mạch này được chia thành loại chuyển mạch có khoá và chuyển mạch không khóa (non-blocking). Nếu các gói ở cổng vào của chuyển mạch có địa chỉ cổng ra rõ ràng nhưng không được đưa đến các đầu ra do tắc nghẽn gói trong mạng chuyển mạch thì gọi là chuyển mạch khóa. Sự tắc nghẽn gói nảy sinh trong mạng chuyển mạch khi hơn một gói cần truy nhập đến cùng một đường nối hay cùng một vùng bộ đệm bên trong mạng chuyển mạch.

Các chuyển mạch khóa không có độ thông cao do hiện tượng khóa bên trong. Ví các chuyển mạch không khóa không bị khóa ở bên trong nên độ thông của nó cao hơn so với chuyển mạch khóa.

Các chuyển mạch không khóa có thể được chia thành hàng đợi đầu vào, hàng đợi đầu ra hay kiểu bộ đện dùng chung. Các chuyển mạch có hàng đợi đầu vào có khả nǎng truyền dẫn thông suốt bằng khoảng 58% so với chuyển mạch có hàng đầu ra hay các chuyển mạch có bộ đệm dùng chung.

Mặc dù các chuyển mạch có hàng đợi đầu ra có độ thông suốt là 100% chúng vẫn cần có 1 lượng phần cứng lớn hơn nhiều so với chuyển mạch có hàng đợi đầu vào. Các chuyển mạch có bộ đệm dùng chung cũng có khả nǎng hoạt động tốt nhất nếu nhìn từ khía cạnh độ thông tối đa. Tuy nhiên, chúng có các sơ đồ định hướng phức tạp và bị hạn chế ở mức chuyển mạch cỡ nhỏ. Trong phần này, chúng ta tìm kiếm kiểu cấu trúc chuyển mạch ATM thay thế để đáp ứng cho các dịch vụ mạng B-ISDN.

tài liệu tham khảo.

• 1). Stalling, Tutorial: Mạng đa dịch vụ số (ISDN),

IEEE Coumputer Socicty, Washington D.D.,1985.

• 2). G.G Schlangger: "Tổng quát về hệ thống báo hiệu số 7",

IEEE J. Selected reas in Comm, 7(3) (Tháng 5/1986)

• 3). M.Karol, M.Hluchyj và S.Mongan "So sánh giữa hàng đợi đầu vào và hàng đợi đầu ra trong chuyển mạch gói phân chia không gian", IEEE Trans. or Communications, vol. COM-35 Tháng 12/1987.

• 4). S.Minzer, "Mạng đa dịch vụ số bǎng rộng và chế độ chuyển đổi không đồng bộ (ATM)", IEEE Communication Magazine, Vol. 27/12/1989.

• 5). Thomas, J.Condreuses và M.Servel, "Các kỹ thuật phân chia thời gian không đồng bộ: Một mạng gói thí nghiệm hết hợp thông tin hình ảnh", in Proc.of ISS 84 (Florence, Italy), tháng 5/1984.

• 6). L.Wu, S.Lee và T.Lee "Dynamic TDM: a packet approach to boardband networking", in Proc. of ICC 87 (Seattle,Wa.), IEEE, 6/87.

• 7). P.Baran, "Mạng thông tin phân tán", IEEE Trans. on Communications, vol CS-12, tháng 3/1964.

• 8). N.Kitawaki, H.Hagabuchi, M.Taka và K. Takahashi, "Công nghệ mã hoá tiếng nói cho các mạng ATM", IEEE Journal on Selected Areas in Communication, vol. 28, tháng 1/1990.

• 9). V.Veribiest, L.Pinnoo và B. Voeten "ảnh hưởng của khái niệm ATM lên mã hoá hình ảnh", IEEE Journal on Selected Areas in Communications, vol. SC-6, tháng 12/1988.

• 10). H. Ahmadi và W.Denzel, "Nghiên cứu về các kỹ thuật chuyển mạch tính nǎng cao hiện đại", IEEE Journal on Selected Areas in Commnications, vol. SAC - 7, tháng 9/1989.

• 11). K. Lutz, "Một số điều cân nhắc về kỹ thuật chuyển mạch ATM", Internationnal Journal of Digital and Analog Cabled Systems, vol. 1, 1988. 12. J.Degan, G.Luderer và A.Vaidya, "Công nghệ gói nhanh cho chuyển mạch tương lai", AT&T Technical Journal, vol. 68, tháng 3 và 4/1989.

• 12). J.Degan, G.Luderer and A.Vaidya, "Fast packet technology for future switches", AT&T Technical Journal, vol.68, March/April 1989

• 13). YUN SEOK HUYN, kỹ thuật truyền thông PCM, Chung- Arm Publishing Company, 1986.

• 14). LIM JU HWAN, "Những điều cơ bản về điện thoại số", "Kỹ thuật chuyển mạch điện tử", Tập 1, First issue.

• 15). LEE YOUNG KYU, "Lý thuyết truyền dẫn, mạch truyền dẫn bằng dây". Kidali Publishing Company 1988.6.

• 16). LEE YOUNG KYU, "Công nghệ kết hợp truyền dẫn và chuyển mạch", "Công nghệ chuyển mạch điện tử", Tập 2, Second Issue.

• 17). John Bellamy, Điện thoại số, John & Willey Sons, 1991.

• 18). Frank F.E.Owen, PCM và các hệ thống truyền dẫn số, Mc Graw - Hill Book Company, 1982.

• 19). Sang H.Lee, "Kỹ thuật truyền tải tích hợp cho đường chuyển mạch gói và chuyển mạch tuyến", ICC, 1988.

• 20). R.Vicders và T.Vilmansen, "Sự phát triển của công nghệ viễn thông", Proc. of the IEEE, vol. 74, No.9, Sept.1984.

• 21). BCR, Synchronous DS3 Format Interface Specification, Technical Reference TR - TSY - 000021, tháng 6/1984.

• 22). G.R. Titchie, "SYNTRAN - A phương hướng mới cho thiết bị đầu cuối truyền dẫn số", Communication, Volume 23, tháng 11/1985.

• 23). Hiroshi Fukinuki, M.Matsushita, K.Aihara và K.Hiraide, "Các thiết bị đầu cuối số đồng bộ", Review of ECL, tháng 9/1979.

• 24). G.J. Beveridge và S.S. Gorshe, "Clear channel shortcut to ISDN", Telephone Engineer.

• 25). N.F.Dinn, A.G.Weygand và D.M. Garvey, "Digital Interconnection of Dissimilar DigitalNetwork", IEEE communication Magazine, vol. 24, No4, tháng 4/1986.

• 26).Loud Reaume, "Cầu nối giữa thiết bị chuyển tải T và CEPT', Communication Int' 1, tháng 7/1985.

• 27). Atkin J.W., "Burst Switching-An Int roduction", ISS '84, Florence, tháng 5/1984.

• 28). W. Shnnema, "Digital, Analog and Data Communications", Prentic - Hall, Inc, Reston, Virginia, 1982.

• 29). SIN YOUNG CHEOL, "Công nghệ truyền thông bằng dây", Moon Yun Dang Publishing Company, 1976.

• 30). LEE SUNG KYUNG, SINMU SIK, "Multi-Convéation by Feeder Cable", Electronic Telecommunication Research Institute, ETRI Journal Forth vol.

• First Issue, 1982.

• 31). G.E.Harrington, "Survey of Pair-Gain System Applications", in Proc. Int. symp. Subscriber Loops and Services (ISSLS), 1980.

• 32). LEE YOUNG KYU, KIM TEA HO và 5 người khác, "Nghiên cứu hệ thống truyền dẫn thuê bao", Electronic Telecommunication Research Instirute, Research Paper, 1981.

• 33). A.J. Karia, S.Rodi, "A Digital Subcriber Carrier System for the Evolving Subcriber Loop Network", IEEE Trans. Commun, Vol. COM - 30, 1982.

• 34). Y.S.Cho, E.F. Carr, "Application of Digital Pair-Gain System SLC - 96, in Developing Coutries", IEEE Tran., COM - 30, 1982.

• 35). Kil Sun - Jung, Ha chel - Lee và 2 người khác, "Phân tích kỹ thuật về mạch".

• 36). M.Oimura, I.Koga và 1 người khác, "Đặc tính của tiếng ồn đối với mạch vòng thuê bao hiện nay", Review of ECL, vol. 32, 1984.

• 37). T.Higashi, M.Ohmura và 1 người khác, "Đánh giá tiếng ồn xung cho hệ thống truyền dẫn tín hiệu số", Review of ECL, vol. 32, 1984.

• 38). R.F.Rous, J.D.Weston, "Đánh giá khả nǎng hoạt động của cáp thuê bao", Electrical Communication, vol.56, 1981.

• 39). CCITT I Series Recommendations, Geneva, 1985.

• 40). M.Decina, "Tiến bộ trong việc phân bổ truy nhập cho người sử dụng trong mạng đa dịch vụ số", IEEE Trans, Coom., vol. COM-30, 1982.

• 41).E.Arnon, E.A.Munter và 3 người khác, "Thiết kế hệ thống truy nhập khách hàng", IEEE Trans, Comm., vol. COM-30, 1980

• 42). K.Gotoh, E. Iwahashi, "Kiến trúc hệ thống cho mạng thuê bao số", Review of EVL, vol. 32, No.2, 1984.

• 43). G.Gobin, "Customer Installations for the ISDN", IEEE Commun. Manazine, vol.22, 1984.

• 44). J.M.Cambords, R Cardorel, "Digital Transmission on Subscriber Loops", L'Echo des reche rches, English issue, 1983.

• 45). S.V.Ahmed, P.P.bohn và 1 người khác, "A Tutorial on Two-wire Digital Transmisson in the Loop Plant", IEEE Trans. Commun., vol. COM-29, 1981.

• 46).F.Ma rcel, A.J.Schwartz, "PRANA at the age of four Multiservice Loops Rfeach out"s IEEE Trans., vol. COM-29,1981.

• 47).J.Meyer, T.Roston và 1 người khác, "Máy điện thoại thuê bao số", IEEE Trans., Commun., vol. COM-27,1979.

• 48).B.S.Bosik, "The case in Favor of Burst - Mode Transmission for Digital Subcriber Loops", in Proc. ISSLS, 1980.

• 49). A.Brosio, V.Lazzari và 3 người khác, "So sánh hệ thống truyền dẫn trên đường thuê bao số sử dụng các mã đường dây khác nhau", IEEE Trans. Commun., vol. COM-29, 1981.

• 50). B.S. Bo sik, S.V. Kartalopoulos, "Hệ thống dồn kênh nén thời gian cho dung lượng số chuyển mạch tuyến", IEEE Trans. Commun., volCOM - 30, 1982.

• 51). H.Ogiware, Y. Tferada "Design philosophy and Hardware Implimantation for Digital Subscriber Loops" IEEE Trans. Commun., vol. COM -39, 1982.

• 52). H.Shimizu, H.Goto, "Thiết bị đầu cuối tích hợp tiếng nói/dữ liệu với các mạch đồng bộ đơn giản sử dụgn phương pháp ping-pong 80kbps", IEEE Trans. Commun., vol. COM - 30, 1982.

• 53). J.E.Savage, "Một số bộ trộn dữ liệu số tự đồng bộ đơn giản", Bell Syst. tech.J., vol. 46, 1967.

• 54).S.Qureshi, "Cân bằng thích ứng", IEEE Commun., Magazine, vol.20, 1982. 55.R.R.Cordell, "Một họ mới các bộ cân bằng có thể thay đổi chủ động", IEEE Trans, Ci rcuits and Systems, vol. CAS-29, 1982.

• 55). R.R.Cordell, "Một họ mới các bộ cân bằng có thể thay đổi chủ động", IEEE Trans, Circuits and Systems, vol. CAS-29, 1982

• 56). H.Takatori, TSuzuki, "Bộ cân bằng đường dây điện áp thấp cho mạch thuê bao số", in Proc. Globcom, 1984.

• 57). T.Chujo, N.Ueno và 3 người khác, "A Line Termination Circuit for Burst Mode Digital Subcriber Loop Transmission", in Proc. Globcom, 1984.

Những chữ viết tắt

ADPCM Adaptive Diferential PCM PCM dạng vi phân thích ứng.

AD Analog/Digital Converter Chuyển đổi tương tự/số.

AM Amplitude Modulation Điều chế biên độ.

AMI Alternate Mark Inversion Mã đảo dấu luân phiên.

ARPA Advanced Research Projects Agency Tổ chức các dự án nghiên cứu tiên tiến.

ATM Asynchronous Transfer Mode Chế độ truyền không đồng bộ.

AU Administrative Unit Đơn vị quản lý.

B-ISDN Broadband ISDN Mạng đa dịch vụ bǎng rộng.

B8ZS Bipolar with 8 Zero Substitution Phương pháp mã hoá lưỡng cực thay thế 8 số 0.

BBN Bolt Beranek and Newman Ngưỡng Be ranek và Newman.

BER Bit Error Rate Tỷ lệ bit lỗi.

BSN Backward Sequence. Number Số thứ tự tín hiệu hướng về.

BT Bridged Tap Cửa trung chuyển.

CAS Channel Associated Signaling Báo hiệu liền kênh.

CCC Clear Channel Capability Dung lượng kênh trống.

CCI-S Common Channel Interexchange Sibnaling Báo hiệu liên đài kênh chung.

CCR Customer Controlled Reconfiguration Tái định hình theo yêu cầu khách hàng.

CCS Common Channel Signaling Báo hiệu kênh chung.

CODEC Code and Decode Mã hoá và giải mã.

CMI Code Mark Inversion Mã đảo dấu.

CPU Cyclic Redundancy Check Đơn vị điều khiển trung tâm.

CRC Call Supervision Message Kiểm tra chồng chập theo chu kỳ.

CSM Call Supervision Message Bản tin giám sát cuộc gọi.

DCE Data Circuit Equitment Thiết bị truyền số liệu.

DDS Digital Data System Hệ thống dữ liệu số.

DF Data Flag Cờ số liệu.

DPCM Differential PCM Điều xung mã vi phân.

DOV Data Over Voice Dữ liệu tiếng nói.

DS1 Digital Signal 1 Báo hiệu số 1.

DSL Digital Subscriber Line Đường thuê bao số.

DSP Digital Signal Processor. Bộ xử lý tín hiệu số.

DST Digital Synchronous Terminal Đầu cuối số đồng bộ.

DSU Data Service Unit Đơn vị dịch vụ số liệu.

DSX Digital Signal Cross-connect Nối chéo tín hiệu số.

DTDM Dynamic TDM Kỹ thuật dồn kênh phân chia khe thời gian động.

DTE Data Terminal Equipment Thiết bị đầu cuối số liệu.

DUP Data User Part Dữ liệu người sử dụng.

ECH Echo Cancellation Hybrid Sai động triệt tiếng dội.

EMD Edelmetall Motor Drehvaler Edelmetall Motor Drechvaler.

ESS Electronic Switching System Hệ thống chuyển mạch điện tử.

FAM Forward Address Message Thông tin địa chỉ hướng đi.

FDM Frequency Division Multiplex Ghép kênh phân chia tần số.

FSM Forward Setup Message Bản tin thiết lập hướng đi.

FEXT Far End Crosstalk Xuyên âm đầu xa.

FIB Forward Indicator Bit Bít chỉ thị hướng đi.

FSN Forward Sequence Number Số thứ tự hướng đi.

FLSU Fill in Signal Unit Đơn vị chèn tín hiệu.

GND Ground Tiếp đất.

HDB3 High Density Bipolar3 Mã lưỡng cực mật độ cao thay thế 3 số 0.

HRC Hypothetical Reference Circuit Mạch tham khảo giả thiết.

HRX Hypothetical Reference Connection Đường nối tham khảo giả thiết.

ICT Incoming Trunk Trung kế đến.

IDN Integrated Digital Network Mạng số tích hợp.

IMP Interface Message Processor Bộ xử lý thông tin giao diện.

IN Intelligent Network Mạng thông minh.

IOT Intra Office Connection Ghép nối nội đài.

ISDN Integrated Services Digital Network Mạng số đa dịch vụ.

ISUP ISDN User Part Phần người sử dụng ISDN.

ISVN Integrated Services Video Network Mạng video đa dịch vụ.

ITU-T Telecommunication Standardization Sector of ITU Ban tiêu chuẩn hoá viễn thông của tổ chức ITU.

LAN Local Area Network Mạng cục bộ.

LAPD Link Access Procedure on D channel Thủ tục truy nhập kết nối kênh D.

LC Line Concentrator Bộ tập trung đường.

LI Length Indicator Bộ chỉ thị độ dài.

LS Local Swich Chuyển mạch vùng.

LSI Large Scale Integrated Mạch tích hợp mật độ cao.

LSB Least Significant Bit Bít trọng số thấp nhất.

LSSU Link Status Signal Unit Đơn vị báo hiệu trạng thái kết nối.

LT Line Termination Kết cuối đường.

MDB Modified Duo Binary Mã MDB.

MFC Multifrequency Code Mã đa tần

MDF Main Distribution Frame Giá phối tuyến chính.

MF Multi-Frequency Đa tần.

MIC Microware IC Vi mạch siêu cao tần.

MSU Message Signal Unit Đơn vị bản tin báo hiệu.

MTP Messae Transfer Part Phần chuyển thông báo.

NCU Network-Control Unit Đơn vị điều khiển mạng.

NEXT Near End Crosstalk Xuyên âm đầu gần.

NNI Network-Node Interface Giao tiếp nút mạng.

NT Network Termination Kết cuối Mạng.

NPT Non-Packet Terminal Đầu cuối không gói.

OAM Operations, Administration and Maintenance Vận hành, quản lý và bảo dưỡng.

OC-1 Optical Carrier level 1 Truyền tải quang cấp 1.

OGT Outgoing Frunk Trung kế đi.

OSI Open System Interconncetion Giao tiếp hệ thống mở.

PABX Private Automatic Branch Exchange Tổng đài cơ quan tự động.

PBX Private Branch Exchange Tổng đài nội bộ.

PAM Pulse Amplitude Modulation Điều biên xung.

PCM Pulse Code Modulation Điều xung mã.

PIC Polyethylene Insulated Cable Cáp cách điện bằng polietylen.

PMX Packet Multiplex Exchange Tổng đài dồn kênh gói.

POH Path Overhead Tuyến cao.

PSN Public switched Network Mạng chuyển mạch công cộng.

PSTN Public switched Telephone network Mạng chuyển mạch điện thoại công cộng.

PWM Pulse Width Modulation Điều chế độ rộng xung.

RSC Remote Subscriber Concentrator Bộ tập trung thuê bao xa.

RSM Remote Subscriber Multiplexer Bộ dồn kênh thuê bao xa.

RSS Remote Switching System Hệ thống chuyển mạch vệ tinh.

RT Remote Terminal Đầu cuối xa.

RWRR Random Write Random Read Phương pháp ghi ngẫu nhiên đọc ngẫu nhiên.

RWSR Random Write Sequential Read Phương pháp ghi ngẫu nhiên đọc tuần tự.

SCCP Signaling Connection Control Part Phần điều khiển ghép nối báo báo hiệu.

SDTT Synchronous Digital Transmission Terminal Đầu cuối truyền dẫn số đồng bộ.

SIF Sigualing Information Field Truyền thông tin báo hiệu.

SLIC Subscriber Line Interface Circuit Mạch giao tiếp đường thuê bao.

SIO Service Information Octet Octet thông tin dịch vụ.

SOH Section Overhead Tiết diện cao.

SONET Synchronous Optical Network Mạng quang đồng bộ.

SPC Stored Program Control Điều khiển bằng chương trình lưu trữ.

SSB Single Side Band Bang đơn vế.

STM-1 Synchronous Transfer Mode level 1 Chế độ truyền đồng bộ cấp 1.

STP Signaling Transfer Point Điểm chuyển báo hiệu.

STS-1 Synchronous TRansport Signal level 1 Tải tín hiệu đồng bộ cấp 1.

SWRR Sequential Write Random Read Phương pháp ghi tuần tự đọc ngẫu nhiên.

SYNTRAN Synchronous Transmussion at DS3 Truyền dẫn đồng bộ tiêu chuẩn DS3.

TA Terminal Adaptor Bộ tiếp hợp đầu cuối.

TU Tributary Unit Đơn vị nhánh.

TCM Time Compression Multiplex Kỹ thuật ghép kênh nén thời gian.

TDM Time Division Multiplex Kỹ thuật ghép kênh phân chia thời gian.

TE Terminal Equipment Thiết bị đầu cuối.

TUP Telephone User Part Phần người sử dụng điện thoại.

UNI User-Network Interface Giao diện người sử dụng mạng.

VC Virtual Channel Kênh ảo.

VNSI Very large SCale Integration Mạch tích hợp mật độ siêu cao.

WABT WAit Before Transmission Thủ tục đợi trước khi truyền.

WDM Wavelength Division Multiplexing Phương pháp ghép kênh phân chia dải tần.

ZBTSI Zero byte Time Slot Interchange Hoán đổi khe thời gian của bite 0.

1. GIỚI THIỆU

1.1. Các đặc điểm của mạng viễn thông ngày nay

Hiện nay, các mạng viễn thông hiện tại có đặc điểm chung là tồn tại một cách riêng rẽ, ứng với mỗi loại dịch vụ thông tin lại có ít nhất một loại mạng viễn thông riêng biệt để phục vụ dịch vụ đó. Thí dụ:

• Mạng Telex: dùng để gửi các bức điện dưới dạng các ký tự đã được mã hoá bằng mã 5 bit (mã Baudot). Tốc độ truyền rất thấp (từ 75 tới 300 bit/s).

• Mạng điện thoại công cộng, còn gọi là mạng POST (Plain Old Telephone Service): ở đây thông tin tiếng nói được số hoá và chuyển mạch ở hệ thống chuyển mạch điện thoại công cộng PSTN (Public Swiched Telephone Network).

• Mạng truyền số liệu: bao gồm các mạng chuyển mạch gói để trao đổi số liệu giữa các máy tính dựa trên các giao thức của X.25 và hệ thống truyền số liệu chuyển mạch kênh dựa trên các giao thức X.21.

• Các tín hiệu truyền hình có thể được truyền theo ba cách: truyền bằng sóng vô tuyến, truyền qua hệ thống mạng truyền hình CATV (Community Antenna TV) bằng cáp đồng trục hoặc truyền qua hệ thống vệ tinh, còn gọi hệ thống truyền qua hệ thống vệ tinh, còn gọi hệ thống truyền hình trực tiếp DBS (Direct Broadcast System).

• Trong phạm vi cơ quan, số liệu giữa các máy tính được trao đổi thông qua mạng cục bộ LAN (Local Area Network) mà nổi tiếng nhất là mạng Ethernet, Token Bus và Token Ring.

Mỗi mạng trên được thiết kế cho các dịch vụ riêng biệt và không thể sử dụng cho các mục đích khác. Thí dụ, ta không thể truyền tiếng nói qua mạng chuyển mạch gói X.25 vì trễ qua mạng này quá lớn.

Hậu quả là hiện nay có rất nhiều loại mạng khác nhau cùng song song tồn tại. Mỗi mạng lại yêu cầu phương pháp thiết kế, sản xuất, vận hành, bảo dưỡng khác nhau. Như vậy hệ thống mạng viễn thông hiện tại có rất nhiều nhược điểm mà quan trọng nhất là:

• Chỉ truyền được các dịch vụ độc lập tương ứng với từng mạng.

• Thiếu mềm dẻo: Sự ra đời của các thuật toán nén tiếng nói, nén ảnh và tiến bộ trong công nghệ VLSI ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc độ truyền tín hiệu. Ngoài ra còn có nhiều dịch vụ truyền thông trong tương lai mà hiện nay chưa dự đoán trước được, mỗi loại dịch vụ sẽ có tốc độ truyền khác nhau. Ta dễ dàng nhận thấy rằng hệ thống hiện nay rất khó thích nghi với yêu cầu của các dịch vụ khác nhau trong tương lai.

• Kém hiệu quả trong việc bảo dưỡng, vận hành cũng như việc sử dụng tài nguyên. Tài nguyên sẵn có trong một mạng không thể chia sẻ cho các mạng cùng sử dụng.

1.2. Sự ra đời của hệ thống viễn thông mới - B-ISDN

Như đã nêu ở trên, yêu cầu có một mạng viễn thông duy nhất ngày càng trở nên bức thiết, chủ yếu là do các nguyên nhân sau:

• Các yêu cầu dịch vụ băng rộng đang tăng lên.

• Các kỹ thuật xử lý tín hiệu, chuyển mạch, truyền dẫn ở tốc độ cao (cỡ khoảng vài trăm Mbit/s tới vài Gbit/s) đã trở thành hiện thực.

• Tiến bộ về khả năng xử lý ảnh và số liệu.

• Sự phát triển của các ứng dụng phần mềm trong lĩnh vực tin học và viễn thông.

• Sự cần thiết phải tổ hợp các dịch vụ phụ thuộc lẫn nhau ở chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói vào một mạng băng rộng duy nhất. So với các mạng khác, dịch vụ tổ hợp và mạng tổ hợp có nhiều ưu điểm về mặt kinh tế, phát triển, thực hiện, vận hành và bảo dưỡng.

• Sự cần thiết phải thoả mãn tính mềm dẻo cho các yêu cầu về phía người sử dụng cũng như người quản trị mạng (về mặt tốc độ truyền, chất lượng dịch vụ .v.v.).

Khuyến nghị ITU-T I.121 đưa ra tổng quan về khả năng của B-ISDN như sau:

Mạng tổ hợp dịch vụ số băng rộng (Broadband Integrated Services Digital Network - B-ISDN) cung cấp các cuộc nối thông qua chuyển mạch, các cuộc nối cố định (Permanent) hoặc bán cố định (Semi-Permanent), các cuộc nối từ điểm tới điểm tới điểm hoặc từ điểm tới nhiều điểm và cung cấp các dịch vụ yêu cầu, các dịch vụ dành trước hoặc các dịch vụ yêu cầu cố định. Cuộc nối trong B-ISDN phục vụ cho cả các dịch vụ chuyển mạch kênh, chuyển mạch gói theo kiểu đa phương tiện (Multimedia), đơn phương tiện (Monomedia), theo kiểu hướng liên kết (Connection-Oriented) hoặc không liên kết (Connectionless) và theo cấu hình đơn hướng hoặc đa hướng.

B-ISDN là một mạng thông minh có khả năng cung cấp các dịch vụ cải tiến, cung cấp các công cụ bảo dưỡng và vận hành (OAM), điều khiển và quản lý mạng rất hiệu quả.

2. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ATM

2.1. Định nghĩa và các đặc điểm chính của ATM

B-ISDN theo ITU-T dựa trên cơ sở kiểu truyền không đồng bộ ATM (Asynchronous Transfer Mode). Như vậy ATM sẽ là nền tảng của B-ISDN trong tương lai.

Trong kiểu truyền không đồng bộ, thuật ngữ "truyền" bao gồm cả lĩnh vực truyền dẫn và chuyển mạch, do đó "dạng truyền" ám chỉ cả chế độ truyền dẫn và chuyển mạch thông tin trong mạng.

Thuật ngữ "không đồng bộ" giải thích cho một kiểu truyền trong đó các gói trong cùng một cuộc nối có thể lặp lại một cách bất bình thường như lúc chúng được tạo ra theo yêu cầu cụ thể mà không theo chu kỳ.

Để minh họa, hình 1.1 và 1.2 biểu diễn sự khác nhau giữa dạng truyền đồng bộ và dạng truyền không đồng bộ. Trong dạng truyền đồng bộ STM (Synchronous Transfer Mode), các phần tử số liệu tương ứng với kênh đã cho được nhận biết bởi vị trí của nó trong khung truyền (hình 1.1) trong khi ở ATM, các gói thuộc về một cuộc nối lại tương ứng với các kênh ảo cụ thể và có thể xuất hiện tại bất kỳ vị trí nào (hình 1.2).

ATM còn có hai đặc điểm quan trọng:

Thứ nhất, ATM sử dụng các gói có kích thước nhỏ và cố định gọi là các tế bào ATM (ATM Cell), các tế bào nhỏ cùng với tốc độ truyền lớn sẽ làm cho trễ truyền và biến động trễ (Delay Jitter) giảm đủ nhỏ đối với các dịch vụ thời gian thực, ngoài ra kích thước nhỏ cũng sẽ tạo điều kiện cho việc hợp kênh ở tốc độ cao được dễ dàng hơn.

Thứ hai, ATM còn có một đặc điểm rất quan trọng là khả năng nhóm một vài kênh ảo (Virtual Channel) thành một đường ảo (Virtual Path), nhằm giúp cho việc định tuyến được dễ dàng.

2.2. Các lĩnh vực công nghệ mới quyết định sự ra đời và phát triển của ATM

Có hai yếu tố ảnh hưởng tới ATM, đó là:

• Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ bán dẫn cũng như công nghệ quang điện tử.

• Sự phát triển các ý tưởng mới về khái niệm hệ thống.

2.2.1. Các tiến bộ về mặt công nghệ

Công nghệ bán dẫn:

Công nghệ CMOS là công nghệ rất có triển vọng bởi độ tích hợp lớn, tốc độ cao (cỡ vài trăm Mbit/s tới vài Gbit/s), độ rộng băng truyền lớn, kích thước nhỏ, độ mềm dẻo cơ học cao, tránh được nhiễu của trường điện tử, xác suất truyền lỗi thấp và không có nhiễu xuyên âm.

2.2.2. Các ý tưởng mới về khái niệm hệ thống

Các quan điểm mới về hệ thống được phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, đó là hệ thống phải có độ mềm dẻo thích hợp, độ rộng băng của hệ thống phải tuỳ thuộc vào yêu cầu của từng dịch vụ cụ thể, các dịch vụ thời gian thực được truyền theo phương pháp chuyển mạch gói.

Các ý tưởng này phải thoả mãn hai chức năng chính của mạng là:

Tính trong suốt về mặt nội dung:(Semantic Transparency):

Tính trong suốt về mặt nội dung là chức năng đảm bảo việc truyền đúng các bit từ đầu phát tới đầu thu (tức là sự chính xác về mặt nội dung).

Khi mới ra đời, trong các mạng chuyển mạch gói, chất lượng truyền số liệu còn kém, do đó để đảm bảo chất lượng truyền chấp nhận được, người ta phải thực hiện chức năng điều khiển lỗi trên mọi liên kết (Link).Việc điều khiển lỗi này được thực hiện bởi các giao thức HDLC (High-Level Data Link Control) bao gồm các chức năng: giới hạn khung (Frame Delimiting), đảm bảo truyền bit chính xác, kiểm tra lỗi (kiểm tra mã dư vòng CRC-Cyclic Redundancy Check), sửa lỗi bằng các thủ tục truyền lại. Hình 1.3. trình bày thủ tục điều khiển lỗi đầy đủ của mạng chuyển mạch gói thông qua mô hình liên kết các hệ thống mở OSI. Ta thấy quá trình điều khiển lỗi được thực hiện trên mọi liên kết (Link-by-Link) thông qua nút chuyển mạch, do đó nút chuyển mạch phải xử lý một loạt các thủ tục phức tạp khác nhau làm ảnh hưởng đến tốc độ xử lý chung của hệ thống.

Sau này do chất lượng của hệ thống truyền dẫn và chuyển mạch tăng lên nên tỷ lệ lỗi trên mạng giảm. Với một mạng chất lượng cao như vậy, người ta chỉ cần thực hiện một số chức năng của thủ tục HDLC như chức năng giới hạn khung, chức năng truyền bit chính xác, kiểm tra lỗi trên cơ sở từ liên kết tới liên kết (Link-by-Link). Như vậy chỉ có những chức năng này được cung cấp bởi các nút chuyển mạch trong mạng còn các chức năng khác như sửa lỗi sẽ được thực hiện trên cơ sở từ đầu cuối tới đầu cuối (End-to-End). Bằng cách này người ta đã giảm được khối lượng thông tin mà nút chuyển mạch cần sử lý, nhờ đó mà tốc độ xử lý của nút tăng lên. Như vậy lớp 2 trên mô hình OSI được chia thành hai lớp con, lớp 2a chuyên cung cấp các chức năng cơ bản của lớp 2, lớp 2b cung cấp các chức năng bổ sung. Các hệ thống ứng dụng nguyên lý này được gọi là chuyển tiếp khung (frame relay). Các nguyên lý này được trình bày trên hình 1.4.

Đối với B-ISDN ý tưởng này còn được mở rộng hơn nữa, các chức năng điều khiển lỗi không còn được cung cấp ở các nút chuyển mạch trong mạng nữa mà trong trường hợp cần thiết, sẽ được cung cấp bởi các thiết bị đầu cuối. Như vậy các chức năng được thực hiện trong mạng được giảm từ điều khiển lỗi đầy đủ (Full error Control) ở mạng chuyển mạch gói X.25 xuống còn cực kỳ tối thiểu ở mạng ATM, do đó các nút của ATM có độ phức tạp tối thiểu và vì thế có tốc độ truyền rất cao, có thể lên tới 600 Mbit/s (hình 1.5). Bảng 1.1 trình bày các chức năng được thực hiện ở nút mạng ATM so với mạng chuyển mạch gói và chuyển tiếp khung.

Bảng 1.1: Các chức năng được thực hiện ở nút mạng của X.25, chuyển tiếp khung, ATM

Chức năng Chuyển mạch gói Chuyển tiếp khung ATM

Truyền lại gói x - -

Giới hạn khung x x -

Kiểm tra lỗi x x -

Rõ ràng nút mạng ATM hầu như không phải xử lý một thông tin điều khiển nào trong khi nút chuyển mạch X.25 và chuyển tiếp khung phải thực hiện một loạt các thủ tục phức tạp khác nhau.

Tính trong suốt về mặt thời gian: (Time Transparency)

Các dịch vụ thời gian thực yêu cầu dòng bit có trễ rất ngắn khi được truyền từ đầu phát tới đầu thu, tức là chúng yêu cầu tính chính xác về mặt thời gian. Có thể phân biệt hai loại trễ: trễ do chuyển mạch và trễ từ điểm đầu tới điểm cuối.

Hệ thống chuyển mạch gói và chuyển tiếp khung rất khó khăn khi thực hiện các dịch vụ thời gian thực vì độ trễ cao. Do độ phức tạp của các nút chuyển mạch, chúng chỉ có thể hoạt động ở tốc độ vừa và thấp. Mạng ATM, mặt khác, chỉ cần những chức năng tối thiểu ở nút chuyển mạch, do đó nó cho phép truyền số liệu tốc độ rất cao, trễ trên mạng và các biến động trễ giảm xuống còn vài trăm micro giây, do đó quan hệ thời gian được đảm bảo như trong trường hợp chuyển mạch kênh.

3. CÁC DỊCH VỤ TƯƠNG LAI CỦA B-ISDN TRÊN CƠ SỞ ATM

3.1. Các dịch vụ phục vụ cho các thuê bao gia đình

Các dịch vụ quan trọng cho các thuê bao gia đình là những dịch vụ truyền hình (TV) bao gồm dịch vụ truyền hình cáp CATV, truyền hình số chuẩn SDTV(Standard Digital TV) hay trong tương lai là dịch vụ truyền hình độ phân giải cao HDTV (High Definition TV). Tuy vậy người ta còn phải giải quyết các vấn đề về tính tương thích giữa các tín hiệu video nói trên sao cho một chương trình SDTV có thể xem được trên màn hình HDTV và ngược lại.

Tất cả các tín hiệu video nói trên có thể được cung cấp bằng nhiều cách khác nhau. Dễ thực hiện nhất là phương pháp mô phỏng CATV trong đó một loạt các chương trình TV được đưa tới thuê bao theo các đường nối bán cố định. Một phương pháp khác là các kênh TV được truy nhập theo kiểu chuyển mạch, nghĩa là khách hàng có thể chọn một chương trình mong muốn theo một kênh thông tin xác định. Xa hơn nữa, người sử dụng có thể gọi tới một thư viện video sau đó chọn lấy một kênh từ rất nhiều các kênh truyền hình sẵn có.

Một ứng dụng quan trọng nữa là dịch vụ điện thoại truyền hình trong đó các hình ảnh chất lượng cao được truyền đi ở tốc độ từ 2 tới 5 Mbit/s với giá thành phải chăng.

Ngoài ra còn một loạt các ứng dụng thú vị khác như mua hàng tại nhà (Video-Shopping), dạy học tại nhà (Home-Education), các dịch vụ thông tin quảng cáo .v.v.

3.2. Các dịch vụ phục vụ trong lĩnh vực kinh doanh, giao dịch

Các thuê bao trong phạm vi công sở, văn phòng có những đặc điểm hoàn toàn khác so với các thuê bao gia đình. Điểm chung duy nhất giữa hai lĩnh vực này là điện thoại truyền hình. Tuy vậy dịch vụ này cũng phải được mở rộng để tiến tới điện thoại hội nghị truyền hình, sao cho người sử dụng có thể dùng dịch vụ điện thoại truyền hình để liên lạc giữa vài điểm cùng một lúc.

Có thể dự đoán nhiều dịch vụ của B-ISDN cho mạng LAN sẽ được đưa vào ứng dụng trong tương lai. Các hệ thống ATM-LAN được nối với nhau sẽ tạo khả năng truy nhập hệ cơ sở dữ liệu phân tán với tốc độ rất cao, điều này rất quan trọng do khả năng của PC đang tăng lên không ngừng về mặt tốc độ xử lý cũng như khả năng lưu trữ thông tin, do đó sẽ có ngày càng nhiều các phần mềm ứng dụng chạy trên các máy khác nhau trong môi trường dữ liệu phân tán. Ngoài ra còn phải kể đến các dịch vụ khác như: truyền ảnh y tế chất lượng cao để phục vụ cho việc chữa bệnh từ xa, giáo dục phân tán, truyền thông đa phương tiện, thư tín điện tử.

Trong lĩnh vực sản xuất, các ứng dụng sẽ là điều khiển/giám sát từ xa, phân phối các thông tin hình ảnh về sản xuất/xử lý tới công nhân trong nhà máy. Bảng 1.2. tóm tắt các dịch vụ băng rộng cơ bản và tốc độ tương ứng của chúng.

Bảng 2: Đặc điểm các dịch vụ băng rộng cơ bản

Dịch vụ Tốc độ (Mbit/s)

Truyền số liệu (hướng liên kết) 1,5 -130

Truyền số liệu (không liên kết) 1,5 -130

Truyền văn bản, tài liệu 1,5 - 45

Điện thoại truyền hình / Hội nghị truyền hình 1,5 -130

TV 30 - 130

Truyền hình phân giải cao 130

4. TÓM TẮT

Chương này đã trình bày các đặc điểm của các mạng viễn thông hiện hữu cũng như các mặt hạn chế cuả chúng và các nhu cầu dịch vụ băng rộng đang tăng lên. Từ đó đặt ra vấn đề phải có một mạng tổ hợp băng rộng duy nhất ( B-ISDN) thay thế tất cả các mạng viễn thông nói trên, chính trên cơ sở này mà ATM hình thành và phát triển. Sự phát triển của kỹ thuật ATM là kết quả trực tiếp của các ý tưởng mới về khái niệm hệ thống được hỗ trợ bởi các thành tựu to lớn trong công nghệ bán dẫn và công nghệ quang điện tử. ATM có khả năng đáp ứng được một loạt các dịch vụ băng rộng khác nhau, kể cả trong lĩnh vực gia đình cũng như trong thương mại.

Mạng máy tính (Computer Networks)Về cơ bản, một mạng máy tính là một số các máy tính được nối kết với nhau theo một cách nào đó. Khác với các trạm truyền hình chỉ gửi thông tin đi, các mạng máy tính luôn hai chiều, sao cho khi máy tính A gửi thông tin tới máy tính B thì B có thể trả lời lại cho A.Nói một cách khác, một số máy tính được kết nối với nhau và có thể trao đổi thông tin cho nhau gọi là mạng máy tính. Từ nhiều máy tính riêng rẽ, độc lập với nhau, nếu ta kết nối chúng lại thành mạng máy tính thì chúng có thêm những ưu điểm sau:Nhiều người có thể dùng chung một phần mềm tiện ích.Một nhóm người cùng thực hiện một đề án nếu nối mạng họ sẽ dùng chung dữ liệu của đề án, dùng chung tệp tin chính (master file) của đề án, họ trao đổi thông tin với nhau dễ dàng.Dữ liệu được quản lý tập trung nên an toàn hơn, trao đổi giữa những người sử dụng thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn.Có thể dùng chung thiết bị ngoại vi hiếm, đắt tiền (máy in, máy vẽ,...).Người sử dụng trao đổi với nhau thư tín dễ dàng (E-Mail) và có thể sử dụng hệ mạng như là một công cụ để phổ biến tin tức, thông báo về một chính sách mới, về nội dung buổi họp, về các thông tin kinh tế khác như giá cả thị trường, tin rao vặt (muốn bán hoặc muốn mua một cái gì đó), hoặc sắp xếp thời khoá biểu của mình chen lẫn với thời khoá biểu của những người khác,...Một số người sử dụng không cần phải trang bị máy tính đắt tiền (chi phí thấp mà chức nǎng lại mạnh).Mạng máy tính cho phép người lập trình ở một trung tâm máy tính này có thể sử dụng các chương trình tiện ích của một trung tâm máy tính khác đang rỗi, sẽ làm tǎng hiệu quả kinh tế của hệ thống. Rất an toàn cho dữ liệu và phần mềm vì phần mềm mạng sẽ khoá các tệp tin (files) khi có những người không đủ quyền hạn truy xuất các tệp tin và thư mục đó. Phân loại mạng máy tính theo phạm vi địa lýMạng máy tính có thể phân bổ trên một vùng lãnh thổ nhất định và có thể phân bổ trong phạm vi một quốc gia hay quốc tế.Dựa vào phạm vi phân bổ của mạng người ta có thể phân ra các loại mạng như sau: GAN (Global Area Network) kết nối máy tính từ các châu lục khác nhau. Thông thường kết nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông và vệ tinh. WAN (Wide Area Network) - Mạng diện rộng, kết nối máy tính trong nội bộ các quốc gia hay giữa các quốc gia trong cùng một châu lục. Thông thường kết nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông. Các WAN có thể được kết nối với nhau thành GAN hay tự nó đã là GAN.MAN (Metropolitan Area Network) kết nối các máy tính trong phạm vi một thành phố. Kết nối này được thực hiện thông qua các môi trường truyền thông tốc độ cao (50-100 Mbit/s).LAN (Local Area Network) - Mạng cục bộ, kết nối các máy tính trong một khu vực bán kính hẹp thông thường khoảng vài trǎm mét. Kết nối được thực hiện thông qua các môi trường truyền thông tốc độ cao ví dụ cáp đồng trục thay cáp quang. LAN thường được sử dụng trong nội bộ một cơ quan/tổ chức...Các LAN có thể được kết nối với nhau thành WAN. Trong các khái niệm nói trên, WAN và LAN là hai khái niệm hay được sử dụng nhất.Mạng cục bộ - LAN Mạng cục bộ (LAN) là hệ truyền thông tốc độ cao được thiết kế để kết nối các máy tính và các thiết bị xử lý dữ liệu khác cùng hoạt động với nhau trong một khu vực địa lý nhỏ như ở một tầng của toà nhà, hoặc trong một toà nhà.... Một số mạng LAN có thể kết nối lại với nhau trong một khu làm việc.

Các mạng LAN trở nên thông dụng vì nó cho phép những người sử dụng (users) dùng chung những tài nguyên quan trọng như máy in mầu, ổ đĩa CD-ROM, các phần mềm ứng dụng và những thông tin cần thiết khác. Trước khi phát triển công nghệ LAN các máy tính là độc lập với nhau, bị hạn chế bởi số lượng các chương trình tiện ích, sau khi kết nối mạng rõ ràng hiệu quả của chúng tǎng lên gấp bội. Để tận dụng hết những ưu điểm của mạng LAN người ta đã kết nối các LAN riêng biệt vào mạng chính yếu diện rộng (WAN).

Các thiết bị gắn với mạng LAN đều dùng chung một phương tiện truyền tin đó là dây cáp, cáp thường dùng hiện nay là: Cáp đồng trục (Coaxial cable), Cáp dây xoắn (shielded twisted pair), cáp quang (Fiber optic),....

Mỗi loại dây cáp đều có tính nǎng khác nhau.

Dây cáp đồng trục được chế tạo gồm một dây đồng ở giữa chất cách điện, chung quanh chất cách điện được quán bằng dây bện kim loại dùng làm dây đất. Giữa dây đồng dẫn điện và dây đất có một lớp cách ly, ngoài cùng là một vỏ bọc bảo vệ. Dây đồng trục có hai loại, loại nhỏ (Thin) và loại to (Thick). Dây cáp đồng trục được thiết kế để truyền tin cho bǎng tần cơ bản (Base Band) hoặc bǎng tần rộng (broadband). Dây cáp loại to dùng cho đường xa, dây cáp nhỏ dùng cho đường gần, tốc độ truyền tin qua cáp đồng trục có thể đạt tới 35 Mbit/s.

Dây cáp xoắn được chế tạo bằng hai sợi dây đồng (có vỏ bọc) xoắn vào nhau, ngoài cùng có hoặc không có lớp vỏ bọc bảo vệ chống nhiễu.

Dây cáp quang làm bằng các sợi quang học, truyền dữ liệu xa, an toàn và không bị nhiễu và chống được han rỉ. Tốc độ truyền tin qua cáp quang có thể đạt 100 Mbit/s.

Nhìn chung, yếu tố quyết định sử dụng loại cáp nào là phụ thuộc vào yêu cầu tốc độ truyền tin, khoảng cách đặt các thiết bị, yêu cầu an toàn thông tin và cấu hình của mạng,....Ví dụ mạng Ethernet 10 Base-T là mạng dùng kênh truyền giải tần cơ bản với thông lượng 10 Mbit/s theo tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 8802.3 nối bằng đôi dây cáp xoắn không bọc kim (UTP) trong Topology hình sao.

Việc kết nối các máy tính với một dây cáp được dùng như một phương tiện truyền tin chung cho tất cả các máy tính. Công việc kết nối vật lý vào mạng được thực hiện bằng cách cắm một card giao tiếp mạng NIC (Network Interface Card) vào trong máy tính và nối nó với cáp mạng. Sau khi kết nối vật lý đã hoàn tất, quản lý việc truyền tin giữa các trạm trên mạng tuỳ thuộc vào phần mềm mạng.

Đầu nối của NIC với dây cáp có nhiều loại (phụ thuộc vào cáp mạng), hiện nay có một số NIC có hai hoặc ba loại đầu nối. Chuẩn dùng cho NIC là NE2000 do hãng Novell và Eagle dùng để chế tạo các loại NIC của mình. Nếu một NIC tương thích với chuẩn NE2000 thì ta có thể dùng nó cho nhiều loại mạng. NIC cũng có các loại khác nhau để đảm bảo sự tương thích với máy tính 8-bit và 16-bit.

Mạng LAN thường bao gồm một hoặc một số máy chủ (file server, host), còn gọi là máy phục vụ) và một số máy tính khác gọi là trạm làm việc (Workstations) hoặc còn gọi là nút mạng (Network node) - một hoặc một số máy tính cùng nối vào một thiết bị nút.

Máy chủ thường là máy có bộ xử lý (CPU) tốc độ cao, bộ nhớ (RAM) và đĩa cứng (HD) lớn.

Trong một trạm mà các phương tiện đã được dùng chung, thì khi một trạm muốn gửi thông điệp cho trạm khác, nó dùng một phần mềm trong trạm làm việc đặt thông điệp vào "phong bì", phong bì này gọi là gói (packet), bao gồm dữ liệu thông điệp được bao bọc giữa tín hiệu đầu và tín hiệu cuối (đó là những thông tin đặc biệt) và sử dụng phần mềm mạng để chuyển gói đến trạm đích.

NIC sẽ chuyển gói tín hiệu vào mạng LAN, gói tín hiệu được truyền đi như một dòng các bit dữ liệu thể hiện bằng các biến thiên tín hiệu điện. Khi nó chạy trong cáp dùng chung, mọi trạm gắn với cáp đều nhận được tín hiệu này, NIC ở mỗi trạm sẽ kiểm tra địa chỉ đích trong tín hiệu đầu của gói để xác định đúng địa chỉ đến, khi gói tín hiệu đi tới trạm có địa chỉ cần đến, đích ở trạm đó sẽ sao gói tín hiệu rồi lấy dữ liệu ra khỏi phong bì và đưa vào máy tính.

Các kiểu (Topology) của mạng LAN

Topology của mạng là cấu trúc hình học không gian mà thực chất là cách bố trí phần tử của mạng cũng như cách nối giữa chúng với nhau. Thông thường mạng có 3 dạng cấu trúc là: Mạng dạng hình sao (Star Topology), mạng dạng vòng (Ring Topology) và mạng dạng tuyến (Linear Bus Topology). Ngoài 3 dạng cấu hình kể trên còn có một số dạng khác biến tướng từ 3 dạng này như mạng dạng cây, mạng dạng hình sao - vòng, mạng hỗn hợp,v.v....

Mạng dạng hình sao (Star topology)

Mạng dạng hình sao bao gồm một trung tâm và các nút thông tin. Các nút thông tin là các trạm đầu cuối, các máy tính và các thiết bị khác của mạng. Trung tâm của mạng điều phối mọi hoạt động trong mạng với các chức nǎng cơ bản là:

• Xác định cặp địa chỉ gửi và nhận được phép chiếm tuyến thông tin và liên lạc với nhau.

• Cho phép theo dõi và sử lý sai trong quá trình trao đổi thông tin.

• Thông báo các trạng thái của mạng...

Các ưu điểm của mạng hình sao:

• Hoạt động theo nguyên lý nối song song nên nếu có một thiết bị nào đó ở một nút thông tin bị hỏng thì mạng vẫn hoạt động bình thường.

• Cấu trúc mạng đơn giản và các thuật toán điều khiển ổn định.

• Mạng có thể mở rộng hoặc thu hẹp tuỳ theo yêu cầu của người sử dụng.

Nhược điểm của mạng hình sao:

• Khả nǎng mở rộng mạng hoàn toàn phụ thuộc vào khả nǎng của trung tâm . Khi trung tâm có sự cố thì toàn mạng ngừng hoạt động.

• Mạng yêu cầu nối độc lập riêng rẽ từng thiết bị ở các nút thông tin đến trung tâm. Khoảng cách từ máy đến trung tâm rất hạn chế (100 m).

Nhìn chung, mạng dạng hình sao cho phép nối các máy tính vào một bộ tập trung (HUB) bằng cáp xoắn, giải pháp này cho phép nối trực tiếp máy tính với HUB không cần thông qua trục BUS, tránh được các yếu tố gây ngưng trệ mạng. Gần đây, cùng với sự phát triển switching hub, mô hình này ngày càng trở nên phổ biến và chiếm đa số các mạng mới lắp.

Mạng hình tuyến (Bus Topology)

Theo cách bố trí hành lang các đường như hình vẽ thì máy chủ (host) cũng như tất cả các máy tính khác (workstation) hoặc các nút (node) đều được nối về với nhau trên một trục đường dây cáp chính để chuyển tải tín hiệu.

Tất cả các nút đều sử dụng chung đường dây cáp chính này. Phía hai đầu dây cáp được bịt bởi một thiết bị gọi là terminator. Các tín hiệu và gói dữ liệu (packet) khi di chuyển lên hoặc xuống trong dây cáp đều mang theo điạ chỉ của nơi đến.

Loại hình mạng này dùng dây cáp ít nhất, dễ lắp đặt. Tuy vậy cũng có những bất lợi đó là sẽ có sự ùn tắc giao thông khi di chuyển dữ liệu với lưu lượng lớn và khi có sự hỏng hóc ở đoạn nào đó thì rất khó phát hiện, một sự ngừng trên đường dây để sửa chữa sẽ ngừng toàn bộ hệ thống.

Mạng dạng vòng (Ring Topology)

Mạng dạng này, bố trí theo dạng xoay vòng, đường dây cáp được thiết kế làm thành một vòng khép kín, tín hiệu chạy quanh theo một chiều nào đó. Các nút truyền tín hiệu cho nhau mỗi thời điểm chỉ được một nút mà thôi. Dữ liệu truyền đi phải có kèm theo địa chỉ cụ thể của mỗi trạm tiếp nhận.

Mạng dạng vòng có thuận lợi là có thể nới rộng ra xa, tổng đường dây cần thiết ít hơn so với hai kiểu trên. Nhược điểm là đường dây phải khép kín, nếu bị ngắt ở một nơi nào đó thì toàn bộ hệ thống cũng bị ngừng.

Mạng dạng kết hợp

• Kết hợp hình sao và tuyến (star/Bus Topology)

Cấu hình mạng dạng này có bộ phận tách tín hiệu (spitter) giữ vai trò thiết bị trung tâm, hệ thống dây cáp mạng có thể chọn hoặc Ring Topology hoặc Linear Bus Topology.

Lợi điểm của cấu hình này là mạng có thể gồm nhiều nhóm làm việc ở cách xa nhau, ARCNET là mạng dạng kết hợp Star/Bus Topology. Cấu hình dạng này đưa lại sự uyển chuyển trong việc bố trí đường dây tương thích dễ dàng đối với bất cứ toà nhà nào.

• Kết hợp hình sao và vòng (Star/Ring Topology)

Cấu hình dạng kết hợp Star/Ring Topology, có một "thẻ bài" liên lạc (Token) được chuyển vòng quanh một cái HUB trung tâm. Mỗi trạm làm việc (workstation) được nối với HUB - là cầu nối giữa các trạm làm việc và để tǎng khoảng cách cần thiết.

Các giao thức (Protocol)

Một tập các tiêu chuẩn để trao đổi thông tin giữa hai hệ thống máy tính hoặc hai thiết bị máy tính với nhau được gọi là giao thức (Protocol).

Các giao thức (Protocol) còn được gọi là nghi thức hoặc định ước của mạng máy tính.

Để đánh giá khả nǎng của một mạng được phân chia bởi các trạm như thế nào. Hệ số này được quyết định chủ yếu bởi hiệu quả sử dụng môi trường truy xuất (medium access) của giao thức, môi trường này ở dạng tuyến tính hoặc vòng.... Một trong các giao thức được sử dụng nhiều trong các LAN là:

1. Giao thức tranh chấp (Contention Protocol) CSMA/CD

CSMA là viết tắt từ tiếng Anh: Carrier Sense Multiple Access, còn CD là viết tắt từ: Conllision Detect.

Sử dụng giao thức này các trạm hoàn toàn có quyền truyền dữ liệu trên mạng với số lượng nhiều hay ít và một cách ngẫu nhiên hoặc bất kỳ khi nào có nhu cầu truyền dữ liệu ở mỗi trạm. Mối trạm sẽ kiểm tra tuyến và chỉ khi nào tuyến không bận mới bắt đầu truyền các gói dữ liệu.

CSMA/CD có nguồn gốc từ hệ thống radio đã phát triển ở trường đại học Hawai vào khoảng nǎm 1970, gọi là ALOHANET.

Với phương pháp CSMA, thỉnh thoảng sẽ có hơn một trạm đồng thời truyền dữ liệu và tạo ra sự xung đột (collision) làm cho dữ liệu thu được ở các trạm bị sai lệch. Để tránh sự tranh chấp này mỗi trạm đều phải phát hiện được sự xung đột dữ liệu. Trạm phát phải kiểm tra Bus trong khi gửi dữ liệu để xác nhận rằng tín hiệu trên Bus thật sự đúng, như vậy mới có thể phát hiện được bất kỳ xung đột nào có thể xẩy ra. Khi phát hiện có một sự xung đột, lập tức trạm phát sẽ gửi đi một mẫu làm nhiễu (Jamming) đã định trước để báo cho tất cả các trạm là có sự xung đột xẩy ra và chúng sẽ bỏ qua gói dữ liệu này. Sau đó trạm phát sẽ trì hoãn một khoảng thời gian ngẫu nhiên trước khi phát lại dữ liệu. Ưu điểm của CSMA/CD là đơn giản, mềm dẻo, hiệu quả truyền thông tin cao khi lưu lượng thông tin của mạng thấp và có tính đột biến. Việc thêm vào hay dịch chuyển các trạm trên tuyến không ảnh hưởng đến các thủ tục của giao thức. Điểm bất lợi của CSMA/CD là hiệu suất của tuyến giảm xuống nhanh chóng khi phải tải quá nhiều thông tin.

2. Giao thức truyền token (Token passing protocol)

Đây là giao thức thông dụng sau CSMA/CD được dùng trong các LAN có cấu trúc vòng (Ring). Trong phương pháp này, khối điều khiển mạng hoặc token được truyền lần lượt từ trạm này đến trạm khác. Token là một khối dữ liệu đặc biệt. Khi một trạm đang chiếm token thì nó có thể phát đi một gói dữ liệu. Khi đã phát hết gói dữ liệu cho phép hoặc không còn gì để phát nữa thì trạm đó lại gửi token sang trạm kế tiếp.

Trong token có chứa một địa chỉ đích và được luân chuyển tới các trạm theo một trật tự đã định trước. Đối với cấu hình mạng dạng xoay vòng thì trật tự của sự truyền token tương đương với trật tự vật lý của các trạm xung quanh vòng.

Giao thức truyền token có trật tự hơn nhưng cũng phức tạp hơn CSMA/CD, có ưu điểm là vẫn hoạt động tốt khi lưu lượng truyền thông lớn. Giao thức truyền token tuân thủ đúng sự phân chia của môi trường mạng, hoạt động dựa vào sự xoay vòng tới các trạm. Việc truyền token sẽ không thực hiện được nếu việc xoay vòng bị đứt đoạn. Giao thức phải chứa các thủ tục kiểm tra token để cho phép khôi phục lại token bị mất hoặc thay thế trạng thái của token và cung cấp các phương tiện để sửa đổi logic (thêm vào, bớt đi hoặc định lại trật tự của các trạm).

Các chuẩn của mạng máy tính

Để mạng đạt khả nǎng tối đa, các tiêu chuẩn được chọn phải cho phép mở rộng mạng để có thể phục vụ những ứng dụng không dự kiến trước trong tương lai tại lúc lắp đặt hệ thống và điều đó cũng cho phép mạng làm việc với những thiết bị được sản xuất từ nhiều hãng khác nhau.

Hội đồng tiêu chuẩn quốc tế là ISO (International Standards Organization), do các nước thành viên lập nên. Công việc ở Bắc Mỹ chịu sự điều hành của ANSI (American National Standards Institude) ở Hoa Kỳ. ANSI đã uỷ thác cho IEEE (Institude of Electrical and Electronics Engineers) phát triển và đề ra những tiêu chuẩn kỹ thuật cho LAN.

ISO đã đưa ra mô hình 7 mức (layers, còn gọi là lớp hay tầng) cho mạng, gọi là kiểu hệ thống kết nối mở hoặc mô hình OSI (Open System Interconnection).

Chức nǎng của mức thấp bao gồm cả việc chuẩn bị cho mức cao hơn hoàn thành chức nǎng của mình. Một mạng hoàn chỉnh hoạt động với mọi chức nǎng của mình phải đảm bảo có 7 mức cấu trúc từ thấp đến cao.

• Mức 1: Mức vật lý (Physical layer)

Thực chất của mức này là thực hiện nối liền các phần tử của mạng thành một hệ thống bằng các phương pháp vật lý, ở mức này sẽ có các thủ tục đảm bảo cho các yêu cầu về chuyển mạch hoạt động nhằm tạo ra các đường truyền thực cho các chuỗi bit thông tin.

• Mức 2: Mức móc nối dữ liệu (Data Link Layer)

Nhiệm vụ của mức này là tiến hành chuyển đổi thông tin dưới dạng chuỗi các bit ở mức mạng thành từng đoạn thông tin gọi là frame. Sau đó đảm bảo truyền liên tiếp các frame tới mức vật lý, đồng thời xử lý các thông báo từ trạm thu gửi trả lại.

Nói tóm lại, nhiệm vụ chính của mức 2 này là khởi tạo và tổ chức các frame cũng như xử lý các thông tin liên quan tới nó.

• Mức 3: Mức mạng (Network Layer)

Mức mạng nhằm bảo đảm trao đổi thông tin giữa các mạng con trong một mạng lớn, mức này còn được gọi là mức thông tin giữa các mạng con với nhau. Trong mức mạng các gói dữ liệu có thể truyền đi theo từng đường khác nhau để tới đích. Do vậy, ở mức này phải chỉ ra được con đường nào dữ liệu có thể đi và con đường nào bị cấm tại thời điểm đó. Thường mức mạng được sử dụng trong trường hợp mạng có nhiều mạng con hoặc các mạng lớn và phân bổ trên một không gian rộng với nhiều nút thông tin khác nhau.

• Mức 4: Mức truyền (Transport Layer)

Nhiệm vụ của mức này là xử lý các thông tin để chuyển tiếp các chức nǎng từ mức trên nó (mức tiếp xúc) đến mức dưới nó (mức mạng) và ngược lại. Thực chất mức truyền là để đảm bảo thông tin giữa các máy chủ với nhau. Mức này nhận các thông tin từ mức tiếp xúc, phân chia thành các đơn vị dữ liệu nhỏ hơn và chuyển chúng tới mức mạng.

• Mức 5: Mức tiếp xúc (Session Layer)

Mức này cho phép người sử dụng tiếp xúc với nhau qua mạng. Nhờ mức tiếp xúc những người sử dụng lập được các đường nối với nhau, khi cuộc hội thoại được thành lập thì mức này có thể quản lý cuộc hội thoại đó theo yêu cầu của người sử dụng. Một đường nối giữa những người sử dụng được gọi là một cuộc tiếp xúc. Cuộc tiếp xúc cho phép người sử dụng được đǎng ký vào một hệ thống phân chia thời gian từ xa hoặc chuyển một file giữa 2 máy.

• Mức 6: Mức tiếp nhận (Presentation Layer)

Mức này giải quyết các thủ tục tiếp nhận dữ liệu một cách chính quy vào mạng, nhiệm vụ của mức này là lựa chọn cách tiếp nhận dữ liệu, biến đổi các ký tự, chữ số của mã ASCII hay các mã khác và các ký tự điều khiển thành một kiểu mã nhị phân thống nhất để các loại máy khác nhau đều có thể thâm nhập vào hệ thống mạng.

• Mức 7: Mức ứng dụng (Application Layer)

Mức này có nhiệm vụ phục vụ trực tiếp cho người sử dụng, cung cấp tất cả các yêu cầu phối ghép cần thiết cho người sử dụng, yêu cầu phục vụ chung như chuyển các file, sử dụng các terminal của hệ thống,.... Mức sử dụng bảo đảm tự động hoá quá trình thông tin, giúp cho người sử dụng khai thác mạng tốt nhất.

Hệ thống kết nối mở OSI là hệ thống cho phép truyền thông tin với các hệ thống khác, trong đó các mạng khác nhau, sử dụng những giao thức khác nhau, có thể thông báo cho nhau thông qua chương trình Pastren để chuyển từ một giao thức này sang một giao thức khác.

Chuẩn IEEE

Tiêu chuẩn IEEE LAN được phát triển dựa vào uỷ ban IEEE 802. Tiêu chuẩn IEEE 802.3 liên quan tới mạng CSMA/CD bao gồm cả 2 version bǎng tần cơ bản và bǎng tần mở rộng. Tiêu chuẩn IEEE 802.4 liên quan tới sự sắp xếp tuyến token và IEEE 802.5 gồm các vòng truyền token.

Theo chuẩn 802 thì móc nối dữ liệu được chia thành 2 mức con: mức con điều khiển logic LLC (Logical Link Control Sublayer) và mức con điều khiển xâm nhập mạng MAC (Media Access Control Sublayer). Mức con LLC giữ vai trò tổ chức dữ liệu, tổ chức thông tin để truyền và nhận. Mức con MAC chỉ làm nhiệm vụ điều khiển việc xâm nhập mạng. Thủ tục mức con LLC không bị ảnh hưởng khi sử dụng các đường truyền dẫn khác nhau, nhờ vậy mà linh hoạt hơn trong khai thác.

Chuẩn 802.2 ở mức con LLC tương đương với chuẩn HDLC của ISO hoặc X.25 của CCITT.

Chuẩn 802.3 xác định phương pháp thâm nhập mạng tức thời có khả nǎng phát hiện lỗi chồng chéo thông tin CSMA/CD. Phương pháp CSMA/CD được đưa ra từ nǎm 1993 nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mạng. Theo chuẩn này các mức được ghép nối với nhau thông qua các bộ ghép nối.

Chuẩn 802.4 thực chất là phương pháp thâm nhập mạng theo kiểu phát tín hiệu thǎm dò token qua các trạm và đường truyền bus.

Chuẩn 802.5 dùng cho mạng dạng xoay vòng và trên cơ sở dùng tín hiệu thǎm dò token. Mỗi trạm khi nhận được tín hiệu thǎm dò token thì tiếp nhận token và bắt đầu quá trình truyền thông tin dưới dạng các frame. Các frame có cấu trúc tương tự như của chuẩn 802.4. Phương pháp xâm nhập mạng này quy định nhiều mức ưu tiên khác nhau cho toàn mạng và cho mỗi trạm, việc quy định này vừa cho người thiết kế vừa do người sử dụng tự quy định.

Mạng ETHERNET

Ethernet là mạng cục bộ do các công ty Xerox, Intel và Digital equipment xây dựng và phát triển. Ethernet là mạng thông dụng nhất đối với các mạng nhỏ hiện nay. Ethernet LAN được xây dựng theo chuẩn 7 lớp trong cấu trúc mạng của ISO, mạng truyền số liệu Ethernet cho phép đưa vào mạng các loại máy tính khác nhau kể cả máy tính mini. Ethernet có các đặc tính kỹ thuật chủ yếu sau đây:

• Có cấu trúc dạng tuyến phân đoạn, đường truyền dùng cáp đồng trục, tín hiệu truyền trên mạng được mã hoá theo kiểu đồng bộ (Manchester), tốc độ truyền dữ liệu là 10 Mb/s.

• Chiều dài tối đa của một đoạn cáp tuyến là 500m, các đoạn tuyến này có thể được kết nối lại bằng cách dùng các bộ chuyển tiếp và khoảng cách lớn nhất cho phép giữa 2 nút là 2,8 km.

Sử dụng tín hiệu bǎng tần cơ bản, truy xuất tuyến (bus access) hoặc tuyến token (token bus), giao thức là CSMA/CD, dữ liệu chuyển đi trong các gói. Gói (packet) thông tin dùng trong mạng có độ dài từ 64 đến 1518 byte.

Mạng TOKEN RING

Ngoài Ethernet LAN một công nghệ LAN chủ yếu khác đang được dùng hiện nay là Token Ring. Nguyên tắc của mạng Token Ring được định nghĩa trong tiêu chuẩn IEEE 802.5. Mạng Token Ring có thể chạy ở tốc độ 4Mbps hoặc 16Mbps. Phương pháp truy cập dùng trong mạng Token Ring gọi là Token passing . Token passing là phương pháp truy nhập xác định, trong đó các xung đột được ngǎn ngừa bằng cách ở mỗi thời điểm chỉ một trạm có thể được truyền tín hiệu. Điều này được thực hiện bằng việc truyền một bó tín hiệu đặc biệt gọi là Token (mã thông báo) xoay vòng từ trạm này qua trạm khác. Một trạm chỉ có thể gửi đi bó dữ liệu khi nó nhận được mã không bận.

Các thiết bị kết nối chính của LAN

Hub

Hub là một trong những yếu tố quan trọng nhất của LAN, đây là điểm kết nối dây trung tâm của mạng, tất cả các trạm trên mạng LAN được kết nối thông qua HUB. Một hub thông thường có nhiều cổng nối với người sử dụng để gắn máy tính và các thiết bị ngoại vi. Mỗi cổng hỗ trợ một bộ kết nối dùng cặp dây xoắn 10BASET từ mỗi trạm của mạng. Khi bó tín hiệu Ethernet được truyền từ một trạm tới hub, nó được lặp lại trên khắp các cổng khác của hub. Các hub thông minh có thể định dạng, kiểm tra, cho phép hoặc không cho phép bởi người điều hành mạng từ trung tâm quản lý hub.

Có ba loại hub:

• Hub đơn (stand alone hub)

• Hub phân tầng (stackable hub, có tài liệu gọi là HUB sắp xếp)

• Hub modun (modular hub)

Modular hub rất phổ biến cho các hệ thống mạng vì nó có thể dễ dàng mở rộng và luôn có chức nǎng quản lý, modular có từ 4 đến 14 khe cắm, có thể lắp thêm các modun Ethernet 10BASET.

Stackable hub là lý tưởng cho những cơ quan muốn đầu tư tối thiểu ban đầu nhưng lại có kế hoạch phát triển LAN sau này.

Chú ý: Uỷ ban kỹ thuật điện tử (IEEE) đề nghị dùng các tên sau đây để chỉ 3 loại dây cáp dùng với mạng Ethernet chuẩn 802.3.

• Dây cáp đồng trục sợi to (thick coax) thì gọi là 10BASE5 (Tốc độ 10 Mbps, tần số cơ sở, khoảng cách tối đa 500m).

• Dây cáp đồng trục sợi nhỏ (thin coax) gọi là 10BASE2 (Tốc độ 10 Mbps, tần số cơ sở, khoảng cách tối đa 200m).

• Dây cáp đôi xoắn không vỏ bọc (twisted pair) gọi là 10BASET (Tốc độ 10 Mbps, tần số cơ sở, sử dụng cáp sợi xoắn).

• Dây cáp quang (Fiber Optic Inter-Repeater Link) gọi là FOIRL

Liên mạng (internetworking)

Việc kết nối các LAN riêng lẻ thành một liên mạng chung được gọi là Internetworking. Internetworking sử dụng ba công cụ chính là: bridge, router và switch.

Cầu nối (bridge):

Là cầu nối hai hoặc nhiều đoạn (segment) của một mạng. Theo mô hình OSI thì bridge thuộc mức 2. Bridge sẽ lọc những gói dữ liệu để gửi đi (hay không gửi) cho đoạn nối, hoặc gửi trả lại nơi xuất phát. Các bridge cũng thường được dùng để phân chia một mạng lớn thành hai mạng nhỏ nhằm làm tǎng tốc độ. Mặc dầu ít chức nǎng hơn router, nhưng bridge cũng được dùng phổ biến.

Bộ dẫn đường (router)

Chức nǎng cơ bản của router là gửi đi các gói dữ liệu dựa trên địa chỉ phân lớp của mạng và cung cấp các dịch vụ như bảo mật, quản lý lưu thông...

Giống như bridge, router là một thiết bị siêu thông minh đối với các mạng thực sự lớn. router biết địa chỉ của tất cả các máy tính ở từng phía và có thể chuyển các thông điệp cho phù hợp. Chúng còn phân đường-định truyền để gửi từng thông điệp có hiệu quả.

Theo mô hình OSI thì chức nǎng của router thuộc mức 3, cung cấp thiết bị với thông tin chứa trong các header của giao thức, giúp cho việc xử lý các gói dữ liệu thông minh.

Dựa trên những giao thức, router cung cấp dịch vụ mà trong đó mỗi packet dữ liệu được đọc và chuyển đến đích một cách độc lập.

Khi số kết nối tǎng thêm, mạng theo dạng router trở nên kém hiệu quả và cần suy nghĩ đến sự thay đổi.

Bộ chuyển mạch (switch)

Chức nǎng chính của switch là cùng một lúc duy trì nhiều cầu nối giữa các thiết bị mạng bằng cách dựa vào một loại đường truyền xương sống (backbone) nội tại tốc độ cao. Switch có nhiều cổng, mỗi cổng có thể hỗ trợ toàn bộ Ethernet LAN hoặc Token Ring.

Bộ chuyển mạch kết nối một số LAN riêng biệt và cung cấp khả nǎng lọc gói dữ liệu giữa chúng.

Các switch là loại thiết bị mạng mới, nhiều người cho rằng, nó sẽ trở nên phổ biến nhất vì nó là bước đầu tiên trên con đường chuyển sang chế độ truyền không đồng bộ ATM.

Hệ điều hành mạng - NOS (Network Operating System)

Cùng với sự nghiên cứu và phát triển mạng máy tính, hệ điều hành mạng đã được nhiều công ty đầu tư nghiên cứu và đã công bố nhiều phần mềm quản lý và điều hành mạng có hiệu quả như: NetWare của công ty NOVELL, LAN Manager của Microsoft dùng cho các máy server chạy hệ điều hành OS/2, LAN server của IBM (gần như đồng nhất với LAN Manager), Vines của Banyan Systems là hệ điều hành mạng dùng cho server chạy hệ điều hành UNIX, Promise LAN của Mises Computer chạy trên card điều hợp mạng độc quyền, Widows for Workgroups của Microsoft, LANtastic của Artisoft, NetWare Lite của Novell,....

Một trong những sự lựa chọn cơ bản mà ta phải quyết định trước là hệ điều hành mạng nào sẽ làm nền tảng cho mạng của ta, việc lựa chọn tuỳ thuộc vào kích cỡ của mạng hiện tại và sự phát triển trong tương lai, còn tuỳ thuộc vào những ưu điểm và nhược điểm của từng hệ điều hành.

Một số hệ điều hành mạng phổ biến hiện nay:

• Hệ điều hành mạng UNIX: Đây là hệ điều hành do các nhà khoa học xây dựng và được dùng rất phổ biến trong giới khoa học, giáo dục. Hệ điều hành mạng UNIX là hệ điều hành đa nhiệm, đa người sử dụng, phục vụ cho truyền thông tốt. Nhược điểm của nó là hiện nay có nhiều Version khác nhau, không thống nhất gây khó khǎn cho người sử dụng. Ngoài ra hệ điều hành này khá phức tạp lại đòi hỏi cấu hình máy mạnh (trước đây chạy trên máy mini, gần đây có SCO UNIX chạy trên máy vi tính với cấu hình mạnh).

• Hệ điều hành mạng Windows NT: Đây là hệ điều hành của hãng Microsoft, cũng là hệ điều hành đa nhiệm, đa người sử dụng. Đặc điểm của nó là tương đối dễ sử dụng, hỗ trợ mạnh cho phần mềm WINDOWS. Do hãng Microsoft là hãng phần mềm lớn nhất thế giới hiện nay, hệ điều hành này có khả nǎng sẽ được ngày càng phổ biến rộng rãi. Ngoài ra, Windows NT có thể liên kết tốt với máy chủ Novell Netware. Tuy nhiên, để chạy có hiệu quả, Windows NT cũng đòi hỏi cấu hình máy tương đối mạnh.

• Hệ điều hành mạng Windows for Worrkgroup: Đây là hệ điều hành mạng ngang hàng nhỏ, cho phép một nhóm người làm việc (khoảng 3-4 người) dùng chung ổ đĩa trên máy của nhau, dùng chung máy in nhưng không cho phép chạy chung một ứng dụng. Hệ dễ dàng cài đặt và cũng khá phổ biến.

• Hệ điều hành mạng NetWare của Novell: Đây là hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay ở nước ta và trên thế giới trong thời gian cuối, nó có thể dùng cho các mạng nhỏ (khoảng từ 5-25 máy tính) và cũng có thể dùng cho các mạng lớn gồm hàng trǎm máy tính. Trong những nǎm qua, Novell đã cho ra nhiều phiên bản của Netware: Netware 2.2, 3.11. 4.0 và hiện có 4.1. Netware là một hệ điều hành mạng cục bộ dùng cho các máy vi tính theo chuẩn của IBM hay các máy tính Apple Macintosh, chạy hệ điều hành MS-DOS hoặc OS/2.

Hệ điều hành này tương đối gọn nhẹ, dễ cài đặt (máy chủ chỉ cần thậm chí AT386) do đó phù hợp với hoàn cảnh trang thiết bị hiện tại của nước ta. Ngoài ra, vì là một phần mềm phổ biến nên Novell Netware được các nhà sản xuất phần mềm khác hỗ trợ (theo nghĩa các phân mềm do các hãng phần mềm lớn trên thế giới làm đều có thể chạy tốt trên hệ điều hành mạng này).

Các Phương tiện Kết nối mạng

liên khu vực (WAN)

Bên cạnh phương pháp sử dụng đường điện thoại thuê bao để kết nối các mạng cục bộ hoặc mạng khu vực với nhau hoặc kết nối vào Internet, có một số phương pháp khác:

• Đường thuê bao (leased line). Đây là phương pháp cũ nhất, là phương pháp truyền thống nhất cho sự nối kết vĩnh cửu. Bạn thuê đường dây từ công ty điện thoại (trực tiếp hoặc qua nhà cung cấp dịch vụ). Bạn cần phải cài đặt một "Chanel Service Unit" (CSU) để nối đến mạng T, và một "Digital Service Unit" (DSU) để nối đến mạng chủ (primary) hoặc giao diện mạng.

• ISDN (Integrated Service Digital Nework). Sử dụng đường điện thoại số thay vì đường tương tự. Do ISDN là mạng dùng tín hiệu số, bạn không phải dùng một modem để nối với đường dây mà thay vào đó bạn phải dùng một thiết bị gọi là "codec" với modem có khả nǎng chạy ở 14.4 kbit/s. ISDN thích hợp cho cả hai trường hợp cá nhân và tổ chức. Các tổ chức có thể quan tâm hơn đến ISDN có khả nǎng cao hơn ("primary" ISDN) với tốc độ tổng cộng bằng tốc độ 1.544 Mbit/s của đường T1. Cước phí khi sử dụng ISDN được tính theo thời gian, một số trường hợp tính theo lượng dữ liệu được truyền đi và một số thì tính theo cả hai.

• CATV link. Công ty dẫn cáp trong khu vực của bạn có thể cho bạn thuê một "chỗ" trên đường cáp của họ với giá hấp dẫn hơn với đường điện thoại. Cần phải biết những thiết bị gì cần cho hệ thống của mình và độ rộng của dải mà bạn sẽ được cung cấp là bao nhiêu. Cũng như việc đóng góp chi phí với những khách hàng khác cho kênh liên lạc đó là như thế nào. Một dạng kỳ lạ hơn được đưa ra với tên gọi là mạng "lai" ("hybrid" Network), với một kênh CATV được sử dụng để lưu thông theo một hướng và một đường ISDN hoặc gọi số sử dụng cho đường trở lại. Nếu muốn cung cấp thông tin trên Internet, bạn phải xác định chắc chắn rằng "kênh ngược" của bạn đủ khả nǎng phục vụ cho nhu cầu thông tin của khách hàng của bạn.

• Frame relay. Frame relay "uyển chuyển" hơn đường thuê bao. Khách hàng thuê đường Frame relay có thể mua một dịch vụ có mức độ xác định - một "tốc độ thông tin uỷ thác" ("Committed Information Rale" - CIR). Nếu như nhu cầu của bạn trên mạng là rất "bột phát" (burty), hay người sử dụng của bạn có nhu cầu cao trên đường liên lạc trong suốt một khoảng thời gian xác định trong ngày, và có ít hoặc không có nhu cầu vào ban đêm - Frame relay có thể sẽ kinh tế hơn là thuê hoàn toàn một đường T1 (hoặc T3). Nhà cung cấp dịch vụ của bạn có thể đưa ra một phương pháp tương tự như là phương pháp thay thế đó là Switched Multimegabit Data Service.

• Chế độ truyền không đồng bộ (Asynchoronous Trangfer Mode - ATM). ATM là một phương pháp tương đối mới đầu tiên báo hiệu cùng một kỹ thuật cho mạng cục bộ và liên khu vực. ATM thích hợp cho real-time multimedia song song với truyền dữ liệu truyền thống. ATM hứa hẹn sẽ trở thành một phần lớn của mạng tương lai.

• Đường vi sóng (Microware links). Nếu cần kết nối vĩnh viễn đến nhà cung cấp dịch vụ nhưng lại thấy rằng đường thuê bao hay những lựa chọn khác là quá đắt, bạn sẽ thấy microware như là một lựa chọn thích hợp. Bạn không cần trả quá đắt cho cách này của microware, tuy nhiên bạn cần phải đầu tư nhiều tiền hơn vào lúc đầu, và bạn sẽ gặp một số rủi ro như tốc độ truyền đến mạng của bạn quá nhanh.

• Đường vệ tinh (satellite links). Nếu bạn muốn được chuyển một lượng lớn dữ liệu đặc biệt là từ những địa điểm từ xa thì đường vệ tinh là câu trả lời. Tầm hoạt động của những vệ tinh cùng vị trí địa lý với trái đất cũng tạo ra một sự chậm trễ (hoặc "bị che dấu") mà những người sử dụng Telnet có thể cảm nhận được

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro