lần 2 - 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. Phân tích những tính chất cảu mối liên hệ phổ biến

1) Khái niệm. Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Cơ sở lý luận của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới; theo đó các sự vật, hiện tượng dù có đa dạng, khác nhau đến thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.

2) Tính chất của các mối liên hệ phổ biến

a) Tính khách quan. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động của bản thân thế giới vật chất. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng và cái tinh thần. Có cái liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động đó, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.

b) Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.

c) Tính đa dạng, phong phú. Có nhiều mối liên hệ. Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ chỉ đóng vai trò phụ thuộc (không bản chất). Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu v.v chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.

3) Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng a) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng. b) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. c) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. d) Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung.

II. Ví dụ chứng minh cho những quy luật của phép biện chứng duy vật

Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mối sự vật hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

Trong thế giới tồn tại nhiều laọi quy luật; chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.

Việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người.

Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia thành:

Quy luật tự nhiên: là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả cơ thể con người.  Ví dụ như quy luật tuần trăng gây ảnh hưởng chu kỳ thủy triều, lên nhịp sinh học của con người và chu kỳ sinh sản cảu một số loại động vật như ốc.

Quy luật xã hội: là quy luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội. Ví dụ như việc thờ cúng tổ tiên, tổ chức lễ tết, những truyền thống phong tục tập quán.

Quy luật của tư duy: là những quy luật thuộc mối liên hệ nội tại của những khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá trình phát triển nhận thức lý tính ở con người. Ví dụ như những thành tựu khoa học kỹ thuật của con người ngày nay.

III. Phân biệt quan điểm các nhà triết học trước Marx ( duy thực và duy danh ) với quan điểm triết học Marx – Lenin về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng

Cái chung và cái riêng là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa Cái riêng tức phạm trù chỉ về một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định với Cái chung tức phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.

Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Cụ thể là:

Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.

Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.

Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không hề đơn giản, Lênin đã cho rằng:

“ Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và cái chung.” – Lênin.

Triết học Mác-Lênin đặt ra và giải quyết câu hỏi: Cái riêng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian có hạn, vậy thì cái chung có tồn tại vĩnh viễn, vô hạn trong thời gian không?

Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.

Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.

"Chúng ta cũng tin chắc rằng, qua tất cả mọi sự chuyển hóa của nó, vật chất vẫn cứ vĩnh viễn như thế, rằng không bao giờ một thuộc tính của nó lại có thể mất đi, và vì thế, nếu như một ngày kia nó phải hủy diệt mất đóa hoa rực rỡ nhất của nó trên trái đất, tức là cái tinh thần đang tư duy thì nhất định nó lại phải... tái sinh ra cái tinh thần ấy ở một nơi nào khác và trong một thời gian khác.” - F. Enghen

Các quan điểm phi Mác-xít

Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lenin đề cập đến có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”, đó là phái duy thực và phát duy danh. Triết học Mác-Lenin cho rằng, cả quan niệm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.

 Phái duy thực

Phái duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không phụ thuộc vào "cái riêng", mà còn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra.

Ví dụ: Con người là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con người mới tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái niệm tạm thời vì những con người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi)

 Phái duy danh

Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm. Những khái niệm cụ thể đôi khi không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.

Ví dụ: Không thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà "con người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm bắt qua những con người thực thể cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.

Ý nghĩa phương pháp luận

Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, Triết học Mác-Lênin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:

Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ .

Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng.

Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.

IV. Ý nghĩa phương pháp luận của việc hiểu đúng quan điểm của Lenin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan

Nhận thức là quá trình phản ứng hiện thực khách quan gắn liền với hoạt động thực tiễn. VI Lênin đã khái quát quá trình đó như sau: "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn -đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan. 

1.Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng 

a.Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức,là sự phản ánh trực tiếp của các sự vật, hiện thực của hiện thực khách quan thông qua các giác quan của con người . Giai đoạn này, nhận thức được thực hiện qua các hình thức cơ bản là: Cảm giác, tri giác và biểu tượng. 

-Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, là sự phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác. 

-Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính , được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức nào cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật, nhưng đó vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện bề ngoài của sự vật khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan 

-Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. 

b.Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh gián tiếp của sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: Khái niệm, phán đoán và suy lý (Suy luận) 

-Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật, là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp các sự vật, là cơ sở hình thành nên những phán đoán 

-Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức 

Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chi làm ba loại là phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến . Phán đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực tại khách quan 

-Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hìh thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Điều kiện để có bất cứ một suy lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là những phán đoán, đồng thời phải tuân theo những quy tắc logic của các loại hình suy luận, đó là suy luận quy nạp (đi từ những cái riêng đến cái chung) và suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể) 

c.Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính: 

-Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn, hai cấp độ của chu trình nhận thức thống nhất. Trong đó nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, cấp độ thấp, còn nhận thức lý tính là giai đoạn kế tiếp, là cấp độ cao của quá trình nhận thức.

-Nhận thức cảm tính phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính, bề ngoài cảu khách thể, còn nhận thức lý tính phản ánh khách thể một cách gián tiếp, đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể. 

-Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, chúng đều dựa trên cơ sở thực tiễn: Nếu không có nhận thức cảm tính sẽ không có nhận thức lý tính, nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cảm tính cho nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính tác động trở lại đối với nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén, sâu sắc hơn. 

2 Tư duy trừu tượng đến thực tiễn: 

Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra tính chân lý của tri thức. Ngoài ra, mục đích của nhận thức là chỉ đạo, định hướng cho nó hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. 

Nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa thể biết đc. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ. 

-Quy luật chung, có tính chu kỳ (Lặp đi lặp lại) của quá trình vận động, phát triển của nhận thức là từ thực tiễn đến nhận thức... Thực tiễn vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc một chu trình nhận thức. Quá trình này lặp đi lặp lại, ko có điểm dừng điểm kết thúc một chu trình nhận thức. Quá trình này lặp đi lặp lại, ko có điểm dừng cuối cùng, trình độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về hiện thực khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức con trong quá trình phản ánh thực tế khách quan 

Sự vận động của quy luật chung trong quá trình vận động phát triển nhận thức chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần tới chân lý.

I. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất vào công cuộc đổi mới ở nước ta (phần chính là phần chữ to)

LỜI MỞ ĐẦU

Xã hội loài người đã trải qua năm chế độ xã hội: xã hội nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển của loài người là sự đấu tranh thay thế lẫn nhau của các chế độ xã hội, xã hội sau cao hơn xã hội trước. Sự thay thế các hình thái xã hội này là tất yếu do các quy luật kinh tế chi phối. Nghiên cứu triết học, kinh tế chính trị học cũng như nhiều môn khoa học kinh tế khác nhiều người đã có chung nhận xét : qui luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất" là qui luật chi phối toàn bộ hệ thống xã hội từ tước tới nay.

Nước ta phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa do đó nghiên cứu qui luật này không những làm chính sách chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta mà còn làm tiền đề cho sự dự đoán xu thế phát triển của thế giới để từ đó đề ra những biện pháp và quyết sách hợp lý. Nghiên cứu môn triết học em đã lựa chọn đề tài “ quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất và vận dụng quy luật trong quá trình CNH- HĐH ở nước ta”

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG

SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

C.Mác đã phát hiện ra: trong sản xuất có hai mặt không thể tách rời nhau, một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên; mặt khác là quan hệ giữa người với người. Theo ông” Trong sản xuất người ta không những chỉ tác động vào giới tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau nữa, người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và sự tác động của họ vào giới tự nhiên”(C.Mác, PhĂngghen, Tuyển tập, tập II, NXB Sự thật, Hà nội-1981). Trong hai mặt đó, một mặt là lực lượng sản xuất, mặt kia là quan hệ sản xuất.

1.1 Lực lượng sản xuất. 

Lực lượng sản xuất là gì? Ở đây có nhiều cách tiếp cận. Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sản xuất thì lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ trinh phục thiên nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa ngườilao động với tư liệu sản xuất.

Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì người lao động đóng vai trò quyết định.Theo V.I Lê nin “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Sản xuất được tiến hành như thế nào , trước hết tùy thuộc vào thể chất, tinh thần và trình độ của người lao động. Cùng với quá trình phát triển của sản xuất vật chất, trình độ của người lao động không ngừng được tăng lên, cơ cấu lực lượng lao động cũng được thay đổi một cách tương ứng. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động đang biến đổi theo xu hướng ngày càng trí tuệ hóa, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu trong lực lượng lao động; hàm lượng chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng.

Trong tư liệu sản xuất thì công cụ sản xuất đóng vai trò quyết định. Trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong quá trình lao động sản xuất, công cụ lao động không ngừng được đổi mới và phát triển. Đó là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.

Trong thời đại ngày nay, khoa khọc đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa xâm nhập vào yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan, làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất.

Lực lượng sản xuất không phải là phép cộng của các yếu tố mà là một hệ thống, trong đó chúng quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Các yếu tố của lực lượng sản xuất tồn tại trong một kiểu tổ chức, phân công lao động nhất định. Khi nói đến lực lượng sản xuất không thể không nói đến tổ chức, phân công lao động xã hội.

1.2 Quan hệ sản xuất:

Gắn liền với lực lượng sản xuất, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất xã hộilà quan hệ kinh tế giữ người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế – xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức.

Quan hệ kinh tế – xã hội biểu hiện hình thức xã hội của sản xuất, nó biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu:

Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong lịch sử nhân loại đã có hai loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là lọai hình sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong mỗi cộng đồng.

Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất. Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế – tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất. Nó do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.

Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra trực tiếp tác động đến lợi ích con người. Quan hệ này do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ quản lý sản xuất chi phối, song nó cũng có tác động tích cực trở lại hai mặt đó.

Sự thống thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động, phát triển, nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trường hợp quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngay cả trong trường hợp quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó cũng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất xã hội.

Quy luật kinh tế đó chi phối lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất xã hội, đồng thời cũng trực tiếp tác động tới sự vận động của mỗi phương thức sản xuất.

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao: phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

1.3 Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi , còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định; lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất , quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất.

- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất.

Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả hơn con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động kỹ năng sản xuất kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung là phương thức còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó hình thức thay đổi theo, tất nhiên trong quan hệ với nội dung và hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung.

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh còn quan hệ sản xuất có xu hướng ổn định khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: Sự hình thành, biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, có thể thúc đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó thúc đầy sản xuất phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thể bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất.

Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất (thúc đầy hoặc kìm hãm ), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động áp dụng những thành tựu khoa khọc và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động.

Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt, quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đầy con người hành động nhằm phát triển sản xuất. 

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loại người trải qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ đầu trong lịch sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ với lực lượng sản xuất thấp kém, quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ đời sống của họ chủ yếu thuộc vào săn bắt hái lượm.

Trong quá trình sinh sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ (lực lượng sản xuất ) đến sau một thời kỳ lực lượng sản xuất phát triển quan hệ cộng đồng bị phá vỡ dần dần xuất hiện hệ tư nhân nhường chỗ cho nó là một xã hội chiếm hữu nô lệ. Với quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thặng dư, chủ nô muốn có nhiều sản phẩm dẫn đến bóc lột, đưa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo vào sản xuất, những người lao động trong thời kỳ này bị đối xử hết sức man rợ. Họ là những món hàng trao đổi lại, họ lầm tưởng do những công cụ lao động dẫn đến cuộc sống khổ cực của mình nên họ đã phá hoại lực lượng sản xuất, những cuộc khởi nghĩa nô lệ diễn ra khắp nơi.

Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội mới ra đời giai cấp thời kỳ này là địa chủ, thời kỳ đầu giai cấp địa chủ nới lòng hơn chế độ trước, người nông dân có ruộng đất, tự do thân thể.

Cuối thời kỳ phong kiến xuất hiện công trường thủ công ra đời và dẫn tới lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, cuộc cách mạng tư sản ra đời chế độ tư bản thời kỳ này chạy theo giá trị thặng dư và lợi nhuận họ đưa ra những kỹ thuật mới những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất thời kỳ này lực lượng sản xuất mang tính chất cực kỳ hoá cao và quan hệ sản xuất là quan hệ sản xuất tư nhân về tư liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư sản và vô sản nổ ra xuất hiện một số nước chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ra đời quan tâm đến xã hội hoá công hữu nhưng trên thực tế chủ nghĩa xã hội ra đời ở các nước chưa qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa chỉ có Liên Xô là qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa nhưng chỉ là chủ nghĩa tư bản trung bình.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật vận dụng phát triển của xã hội sự tác động qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất.

- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng đựơc nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy, tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân (nhiều hình thức ) về tư liệu sản xuất.

Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ lực lượng sản xuất công nghiệp một người không thể sử dụng được nhiều mà chỉ một công cụ, hoặc một bộ phận, chức năng. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều người tham gia, sản phẩm lao động là thành quả của nhiều người, ở đây lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoa. Và tất yếu một quan hệ sản xuất thích hợp phải là quan hệ sản xuất sở hữu về tư liệu sản xuất. Ănghen viết: “Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu không biến những tư liệu sản xuất của cá nhân thành những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được”.

Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện ở chỗ:

Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ sản xuất. Công cụ sản xuất phát triển đến khi mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới. Như vậy, quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (ổn định tương đối), quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.

Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất, thể hiện trong sử dụng sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất. Sẽ không đúng nếu quan niệm trong chủ nghĩa tư bản luôn luôn diễn ra “không phù hợp”, còn dưới chủ nghĩa xã hội “phù hợp” giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.

VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa (CNH) và thực tiễn CNH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: CNH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Biểu hiện vận dụng của quy luật kinh tế luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH- HĐH ở nước ta được thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản sau:

2.1 Phát triển quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN – xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần

Công nghiệp hóa ở nước ta nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, công nghiệp hóa không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất mà còn là quá trình thiết lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đối với nước ta, đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: “nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.

Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một hướng đi phù hợp. Hướng đi đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay vừa thấp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất như trước đại hội VI. Làm như vậy là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực lượng sản xuất mà không khai thác hết những tiềm năng kinh tế của các tác nhân kinh tế. Xây nền kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, xây dựng năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đầy sản xuất phát triển.

Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, góp phần tạo ra. Vì vậy, Đại hội VIII khẳng định: “tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân trong nước khai thác tiềm năng ra sức đầu tư phát triển...”. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ. Trong khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, một mặt chúng ta cần phải thoát ra khỏi sự trói buộc của tư duy cũ, những nhận thức không đúng trước đây đối với các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân nhà nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó chủ động tháo gỡ những vướng mắc chủ động hướng dẫn các thành phần kinh tế này phát triển đúng hướng.

2.2 Phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN. Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu

Quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “không nắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất’’. Từ đó, Đảng đã rút ra kinh nghiệm vận dụng quy luật bằng cách gắn cách mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa khọc kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bước thích hợp.

Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH thực hiện CNH- HĐH, nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối trong đó nhấn mạnh phân phối theo lao động là hình thức chủ yếu. Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ CNH- HĐH, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả sự xâm nhập giữa chúng.Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động , phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể. Trong các hình thức trên thì phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất nhất của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta . Không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới trong quá trình phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú ý tới các yếu tố còn lại của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để chúng hỗ trợ nhau trở thành một quy luật kinh tế hiệu quả.

Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Quy luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội VI chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất ”, không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần phải cải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể để đưa nền sản xuất từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp”. Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển ”.

2.3 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa hợp lý và hiệu quả cao 

Qúa trình CNH-HĐH cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động , biến đổi do sự vận động, biến đổi của lực lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là tiến bộ, hợp lý là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.

Ở nước ta, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thông qua cách mạng khoa học và công nghệ và phân công lại lao động với những quy luật vốn có của nó thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã xác định “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh tế công – nông nghiêp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng . Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16-17%; công nghiệp 40-41%; dịch vụ 42-43%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương châm kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn – tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa cho phép phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện ; giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế và các vùng kinh tế. 

KẾT LUẬN

Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay đổi các phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất thay đổi bắt đầu từ lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất ra đời từ lực lượng sản xuất, nhưng khi ra đời nó có vai trò tác động trở lại tích cực. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, còn ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển đó. Trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá với nền kinh tế nhiều thành phần thì cần phải có sự phát triển cân đối giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ở nuớc ta, phát triển lực lượng sản xuất còn ở mức độ nhất định do chúng ta chưa nắm bắt được hết các thành tựu của khoa khọc kỹ thuật, vận dụng vào thực tế còn hạn chế. Quan hệ sản xuất cũng còn những mặt cần phải hoàn thiện để tương xứng với lực lượng sản xuất. 

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội. Chỉ ra tính chất phụ thuộc khách quan giữa chúng tạo tiền đề cho việc giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội được toàn diện hơn. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, với những nhận thức về vấn đề còn hạn chế em xin trình bày những vấn đề cơ bản nêu trên. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của thầy giáo cùng các bạn để bài viết của em được hoàn thiện ở những lần nghiên cứu sắp tới.

II. Sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã 

hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo 

về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai  

đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách  

mạng Tháng Mười Nga.  

Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng 

định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển 

của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc 

Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu 

hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. 

Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng 

nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ 

qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản 

xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu 

mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công 

nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. 

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về 

chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải 

trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh 

tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen 

và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ"1. 

Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực 

lượng sản xuất. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính 

sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường

có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế 

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"2. 

Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có 

nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò 

chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững 

chắc"2. 

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa 

phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát  

triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế 

độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.  

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao 

động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện 

đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công 

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ 

nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã  

hội ở nước ta. 

Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 

chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi 

mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng 

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, 

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa 

tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của 

nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi 

dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực 

hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro