The Devil wears Prada c7-10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chap 7.

Liên hoan giao thừa ở nhà Lily ấm cúng và không đông, chỉ có vài bạn cùng học và mấy người quen khác được lôi đến. Tôi chưa bao giờ thích liên hoan giao thừa. Nếu tôi không nhầm thì Hugh Hefner ( chủ báo Playboy ) có lần gọi liên hoan giao thừa là dành cho bọn trẻ ranh, và nói rằng hôm đó ông ở nhà, chỉ ra ngoài vào 364 tối còn lại trong năm. Tôi cũng thích như thế. Tất cả những trò nhảy nhót và rượu bia không nhất thiết gây hứng thú nhiều. Vậy là Lily sẵn sàng giơ tay nhận việc tổ chức một bữa tiệc nho nhỏ - thay vì quẳng 150 dollar lấy một vé dạ hội ở một nhà hàng và tệ hơn nữa là sau đó ra đứng giữa trời lạnh buốt ở quảng trường Times. Mỗi người tham gia đóng góp một chai loại kha khá, Lily mua ít pháo và giấy trang trí, và lúc giao thừa đã hơi chuếch choáng hơi men chúng tôi chạm cốc chúc mừng năm mới trên đỉnh khu Harlem. Hẳn nhiên chúng tôi cũng hơi quá chén, nhưng Lily là người uống hăng nhất và khi mọi người đứng dậy ra về thì cô đã bất tỉnh nhân sự . Tôi không muốn để Lily một mình trong tình trạng này, nhất là sau khi cô đã nôn mửa hai lần, nên tôi cùng Alex gói vài thứ đồ của cô vào túi rồi lôi cô lên taxi cùng về nhà. Cả ba ngủ qua đêm ở nhà tôi, Lily trên giường ngoài phòng khách, sáng hôm sau chúng tôi cùng đi ăn sáng một trận đã đời.

Tôi thấy may mắn là kì nghỉ đã qua. Cũng đã đến lúc tôi phải bắt đầu chỉnh đốn cuộc sống và - thực sự bắt đầu - ở nơi làm việc mới. Tuy có cảm giác như tôi đã làm việc hàng chục năm ở Runway nhưng thật ra tôi mới chập chững những bước đầu tiên. Tôi rất hy vọng là tình cảnh sẽ tốt lên, một khi tôi và Miranda hằng ngày trực tiếp làm việc với nhau. Trên điện thoại nhiều khi người ta cũng lạnh nhạt, nhất là khi không thích du lịch hoặc đang trong tâm trạng bất ổn khi ở xa công việc. Tôi tin là những vụ rắc rối trong tháng đầu sẽ qua đi, và vui mừng chờ đón một viễn cảnh hoàn toàn mới mẻ sắp mở ra trước mắt.

Hôm nay là mồng ba tháng Giêng, một ngày lạnh lẽo và xám xịt. Đã quá mười giờ, tôi đang ở nơi làm việc và trong tâm trạng vui vẻ. Emily đang hết lời ngợi ca một anh chàng mà cô mới gặp hôm liên hoan giao thừa ở Los Angeles, cực " hot," một ngôi sao sắp nổi chuyên sáng tác ca khúc. Anh ta hứa sẽ đến thăm cô ở New York trong mấy tuần tới. Tôi tán chuyện với cậu phó biên tập về thẩm mỹ ở phòng bên cạnh. Một chàng trai rất dễ thương, bố mẹ cậu không hề biết con trai mình là người đồng tính và quan hệ tình dục với đàn ông, mặc dù cậu ta học ở đại học Vassar ra - một trường chủ yếu dành cho con gái - và làm biên tập viên thẩm mỹ cho một tạp chí thời trang.

" Đi với tôi, Andy, tôi hứa với chị là ở đó rất vui. Tôi sẽ giới thiệu cho chị làm quen với những nhân vật siêu hạng, rồi chị sẽ thấy. Chị cứ tin tôi đi, tôi có cả mấy anh bạn dị tính đẹp trai ngất trời. Với lại, đây là một bữa tiệc của Marshall, bảo đảm bao giờ cũng hay tuyệt," James trầm trồ. Anh dựa vào bàn tôi trong khi tôi mở email. Còn Emily tiếp tục phấn khởi líu lo kể từng chi tiết trong cuộc gặp gỡ với chàng danh ca tóc dài của cô.

" Nếu không bận gì thì nhất định tôi sẽ đi cùng, nhưng tối nay tôi và bạn trai đã có kế hoạch, từ trước Noel rồi," tôi nói. " Từ mấy tuần nay chúng tôi định đi ăn tối một bữa thịnh soạn, mới đây tôi còn cắt kế hoạch vào phút cuối cùng."

" Thì chị hẹn anh ấy sau đó cũng được! Có phải ngày nào cũng có dịp thấy mặt nghệ sĩ nhuộm tóc tài ba nhất của thế giới văn minh đâu, đúng không nào? Sẽ có mặt hàng loạt các nhân vật nổi tiếng, và ai nấy đều diện tưng bừng, với lại, nhất định đây sẽ là bữa tiệc hoành tráng nhất tuần này! Đích thân công ty Harrison and Shriftman tổ chức buổi này - không còn gì sánh nổi. Chị gật đầu đi!" Anh ta nhìn tôi bằng cặp mắt tội nghiệp cường điệu như một chú chó con, khiến tôi phải phì cười.

" James, tôi cũng muốn, rất muốn - tôi cũng chưa bao giờ vào Plaza cả. Nhưng tôi không thể thay đổi kế hoạch được. Alex đã đặt chỗ ở nhà hàng Ý gần nhà anh ấy, tôi không thể phá chương trình lần nữa." Tôi biết là tôi không thể cắt hẹn, và cũng không muốn - tôi muốn ở với Alex một mình tối nay và nghe anh kể chương trình sinh hoạt buổi chiều với học sinh ra sao. Nhưng tôi cũng tiếc là cuộc hẹn rơi vào tối nay. Cả tuần qua báo chí viết nhiều về sự kiện này: có vẻ như cả Manhattan hồi hộp chờ buổi biểu diễn hằng năm vào dịp đầu năm mới của Marshall Madden, nghệ sĩ nhuộm tóc siêu hạng, và năm nay hứa hẹn sẽ còn tưng bừng hơn mọi khi, sau khi Marshall vừa cho ra quyển Màu Marshall. Tuy vậy, tôi không thể bỏ rơi bạn trai để đến xem một siêu sao nào đó biểu diễn.

" Thôi được, nếu chị không muốn, nhưng đừng trách tôi chưa bao giờ rủ chị đi cùng nữa nhé. Và mai đừng có hối hận khi đọc trong cột tin xã hội là tôi tán chuyện với Mariah Carey hay Jennifer Lopez. Chị muốn thế mà." Rồi James ngúng nguẩy bỏ đi, nửa như diễn vẻ giận dỗi, nửa bực dọc thực sự.

Tuần đầu tiên trong năm mới diễn ra suôn sẻ. Chúng tôi vẫn bận bịu mở các gói quà và liệt kê vào danh mục. Vừa sáng nay thôi, tôi mở ra một hộp đựng giày cao gót đẹp đứng tim, đính đầy những viên pha lê Swarovski. Chúng tôi không phải gói quà gửi đi nữa, và điện thoại cũng ít đổ chuông, vì phần lớn mọi người còn chưa đi nghỉ về. Miranda cuối tuần này sẽ từ Paris về, nhưng thứ hai mới đi làm. Emily yên tâm là tôi sẽ đảm đương được công việc của mình, tôi cũng tin thế. Chúng tôi soát đi soát lại mọi công việc mà tôi cần biết, và tôi chép lại các hướng dẫn gần kín một cuốn sổ tay. Tôi đọc trong đó và hy vọng sẽ nhớ ra mọi đều khi cần. Cà phê: chỉ mua của Starbucks, pha với sữa trong cốc lớn, hai viên đường, hai khăn giấy, thìa. Bữa sáng: mua của dịch vụ cung cấp Mangia, số điện 555-3948, một bánh bột xốp kẹp pho mát, bốn lát thịt muối xông khói, hai xúc xích nhỏ. Nhật báo: quầy báo ở tiền sảnh, mua các tờ Thời báo New York, Tin tức hàng ngày, Bưu điện New York, Thời báo tài chính, Bưu điện Washington, USA ngày nay, Tập san phố Wall, Thời trang Phụ nữ hằng ngày, và mỗi thứ Tư thêm tờ Người quan sát New York. Các tuần báo, mua vào thứ Hai: Thời báo, Tuần tin tức, Tin tức Mỹ,The New Yorker (!), New York giữa giờ, New York, Kinh tế. Và cứ thế tiếp tục hàng trang chi chít, Miranda thích loại hoa nào nhất, ghét loại nào nhất, tên, địa chỉ và số điện thoại riêng của các bác sĩ, các nhân viên dọn nhà, các đồ ăn vặt và loại nước khoáng ưa thích, kích cỡ mọi thứ quần áo, từ đồ lót cho đến ủng trượt tuyết. Tôi lên danh sách những người Miranda muốn nói chuyện ( đã duyệt ) , tách riêng danh sách những người Miranda không muốn tiếp ( Không bao giờ ). Tôi cắm cúi viết không ngưng tay, trong khi Emily mấy tuần liền nhồi nhét cho tôi đủ mọi thông tin, và khi đã ghi xong tôi cảm thấy không còn gì về Miranda Priestly mà tôi chưa biết. Tất nhiên, trừ câu hỏi tại sao bà ta quan trọng đến nỗi tôi phải ghi đặc một cuốn sổ về những gì bà ta thích hay ghét. Cớ gì mà tôi phải lo lắng đến thế?

" Anh ấy thật tuyệt vời làm sao," Emily thở dài não nuột, mơ màng xoắn dây điện thoại quanh ngón tay. " Có lẽ đó là kỳ cuối tuần thơ mộng nhất trong đời tôi."

Reng! Máy tính báo có email của Alex.

Bé cưng, ngày hôm nay của em tốt chứ?? Ở đây mọi thứ lộn tùng phèo cả, như mọi khi. Em còn nhớ có lần anh đã kể rằng Jerremiah dọa các bạn gái bằng một cái dao cắt bìa mà nó đem từ nhà đến? Có vẻ như không phải chuyện đùa. Hôm nay nó lại đem theo một con dao đến trường. Giờ ra chơi nó rạch vào tay một bạn gái và chửi là đồ đĩ. Vết rạch không sâu, nhưng khi giáo viên canh sân hỏi nó nghĩ gì khi làm việc ấy thì nó nói là bạn trai của mẹ nó cũng làm như thế với mẹ nó. Andy, em có thể tưởng tượng được không, thằng bé mới sáu tuổi? Tối nay ông hiệu trưởng triệu tập một cuộc họp khẩn cấp. Anh sợ là không đi ăn tối được. Anh xin lỗi nhé! Mặt khác thì anh cũng phải nói là anh hài hòng khi thấy người ta đã phản ứng khi xảy ra vụ này - anh tưởng chẳng ai quan tâm đến nữa. Em hiểu tại sao anh không thể gặp em chứ? Đừng giận anh. Lát nữa anh sẽ gọi điện cho em. Anh hứa sẽ đền em việc này.

Yêu em, Alex

Đừng giận anh? Em hiểu tại sao anh không thể gặp em chứ? Một đứa học sinh sáu tuổi của Alex tấn công học sinh khác bằng dao và anh mong tôi đừng giận vì anh không đi ăn với tôi được? Tôi đã cắt hẹn đi ăn lần cuối, sau khi tôi cho là những lúc được lái xe đưa đi khắp chốn và gói ghém quà tặng là quá mệt mỏi. Tôi suýt trào nước mắt, chỉ muốn gọi điện tắp lự là tôi rất tự hào khi thấy anh quan tâm đến bọn trẻ như vậy và nhận công việc ở đây. Tôi kích vào mục "Trả lời" và toan viết cho anh thì nghe tiếng gọi tên mình.

"Andrea, sếp đang trên đường. Mười phút nữa đến nơi," Emily lớn tiếng thông báo, rõ ràng là cố giữa bình tĩnh.

"Xin lỗi, tôi không nghe rõ chị nói gì..."

"Miranda đang trên đường, sẽ tới văn phòng ngay tắp lự. Mọi việc phải đâu vào đấy ngay."

"Đến văn phòng à? Tôi tưởng là bà ấy mãi thứ Bảy mới từ Pháp về cơ mà?"

"Vậy nghĩa là kế hoạch đã thay đổi chứ sao. Nhanh chân lên, chạy xuống tầng trệt lấy báo và xếp lên bàn như tôi đã chỉ cho chị. Xong rồi thì đánh bóng mặt bàn và đặt một ly Pellegrino bên mé trái, có đá và một lát chanh. Nhớ kiểm tra phòng vệ sinh xem có thiếu thứ gì không, rõ chưa? Chạy đi! Bà ấy lên xe rồi, nghĩa là tùy đường sá mà chậm nhất là mười phút nữa đến nơi."

Tôi phi khỏi phòng như tên bắn, còn kịp nghe Emily nhanh chóng gửi báo động qua máy đàm thoại: "Sếp đang trên đường tới đây, báo ngay cho mọi người biết!" Trong lúc chỉ cần ba giây đồng hồ để lướt qua hành lang và phòng thời trang tôi vẫn nghe được tiếng hét kinh hoàng "Emily nói là sếp đang trên đường tới đây" và thậm chí cả tiếng rú rợn người "Miranda về rồồồồồồồồi." Các trợ lý cuống cuồng chỉnh đốn lại mẫu quần áo treo trên giá, biên tập viên đổ xô về phòng làm việc, lẳng vội đôi giầy đi trong nhà vào góc và cố nhét chân vào đôi giày cao gót, tô lại son môi, uốn lông mi và xốc lại nịt vú cho ngay ngắn. Khi cửa phòng vệ sinh nam hé mở, tôi thoáng thấy James đang nhớn nhác phủi vai áo len cashmere đen và nhét vào mồm mấy viên kẹo bạc hà. Không hiểu anh chàng nhận từ đâu tin khẩn cấp, chẳng lẽ trong phòng vệ sinh nam cũng có loa truyền thanh?

Kể ra thì tôi cũng toan dừng chân mấy phút để ngắm cảnh này, song tôi chỉ còn chưa đầy mười phút để chuẩn bị cho cuộc chạm trán đầu tiên với tư cách là trợ lý mới của Miranda, và đương nhiên tôi không muốn làm hỏng việc. Tôi tăng tốc chạy tiếp.

"Andrea! Chị đã nghe tin Miranda đang tới văn phòng rồi chứ?" Sophy ở quầy lêc tân gọi khi thấy tôi lao qua.

"Tôi biết rồi, nhưng sao chị biết?"

"Cưng ơi, có gì mà tôi lại không biết? Giờ thì tôi khuyên chị rảo cẳng lên đi. Có một chân lý là: Miranda Priestly không quen đợi."

Tôi bước vào thang máy và cảm ơn Sophy. "Ba phút nữa tôi sẽ đem mấy tờ báo quay lại!" Hai người phụ nữ trong thang máy trố mắt nhìn, lúc ấy tôi mới nhận ra mình vừa hét quá to.

"Xin lỗi," tôi thở hổn hển. "Nhưng chúng tôi vừa được tin là sếp đang trên đường tới văn phòng. Chuyện quá bất ngờ, do vậy ở chỗ chúng tôi đang náo loạn cả lên." À mà tại sao tôi lại phải biện hộ trước mấy người này nhỉ?

"Trời ạ, vậy thì nhất định chị làm việc ở chỗ Miranda! Để tôi đoán xem nào. Chị là trợ lý mới của Miranda? Andrea, đúng chưa?" Cô gái tóc nâu chân dài để lộ hàm răng trắng loang loáng. Cô bạn cũng đột nhiên tỏ ra thân thiện hơn.

"Vâng, đúng thế, Andrea." Tôi nhắc lại tên mình, tựa như nó không thuộc về tôi. "Vâng, đúng thế, tôi là trợ lý mới của Miranda."

Thang máy vừa vặn xuống đến tầng trệt, cửa mở ra và tôi lấn qua hai cô gái để ra tiền sảnh bằng cẩm thạch sáng choang. Một cô gọi với theo: "Andrea, chị là người may mắn đấy, Miranda là một người tuyệt vời, và hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm công việc của chị đấy!"

Tôi vòng sát sạt qua một đám luật sư mặt mũi bực bội và suýt nữa đâm sầm phải quầy bán báo ở góc tiền sảnh. Đây là giang sơn của một người Kuwait nhỏ thó tên là Ahmed với hàng loạt sách báo sặc sỡ, bánh kẹo và đồ uống không đường mà trong quá trình tập huấn Emily đã giới thiệu với tôi từ trước lễ Giáng sinh. Hy vọng ông sẽ là cứu tinh của tôi trong cơn hoạn nạn này.

"Gượm đã nào!" Ông ta kêu lên khi thấy tôi gỡ mấy tờ báo trên giá xuống. "Chị là cộng tác viên mới của Miranda, đúng không? Thế thì lại đây."

Ahmed cúi xuống lục lọi trong một ngăn nào đó dưới két thu ngân. Khuôn mặt đỏ bừng của ông lại hiện ra: "Đây này!" Ông lại kêu lên, lăng xăng nói: "Của chị đây, không thì chị xới tung cả giá báo của tôi lên. Ngày nào tôi cũng cất riêng báo của Miranda, cũng để khỏi bị lỡ bán hết," ông nháy mắt.

"Cám ơn ông Ahmed. Ông đã giúp tôi rất nhiều. Liệu tôi có nên lấy luôn cả mấy tờ tạp chí không?"

"Nhất định rồi. Chị xem này, hôm nay đã là thứ Tư và tất cả các tờ tạp chí đã ra từ thứ Hai. Sếp của chị chắc sẽ không vui nếu thiếu báo đọc," ông nói vẻ đầy hiểu biết, lại chui lần nữa xuống ngăn dưới két tiền để lôi lên một chồng báo nữa. Tôi liếc nhanh danh sách xem có gì thiếu không - quả là không thừa và không thiếu một tờ.

Thẻ thông hành, cái thẻ thông hành chết tiệt của tôi đâu rồi nhỉ? Đây rồi, dĩ nhiên là nó treo lủng lẳng dưới sợi dây lụa mà Emily làm cho tôi bằng một chiếc khăn Hermès trắng của Miranda. "Thật ra thì không bao giờ Miranda được phép thấy chị như thế này," Emily nói, "nhưng nếu chẳng may chị quên tháo nó ra thì ít nhất nó cũng không bị treo dưới sợi cước nylon." Phải nói ra chữ nylon chị nhăn mặt như khỉ nhai gừng/

"Thẻ đây, ông Ahmed. Cám ơn ông lần nữa, tôi vội quá. Sếp đang tới."

Ông quẹt thẻ qua máy đọc để cạnh két tiền và đeo lại cho tôi sợi dây lụa vào cổ như vòng hoa. "Thế thì nhanh chân lên!"

Tôi vớ vội nylon đầy căng báo, vừa chạy vút đi vừa kéo cái thẻ thông hành ra để đi qua cửa xoay chắn trước dãy thang máy của tòa nhà Elias Clark. Tôi quẹt thẻ qua máy đọc rồi đẩy. Không được. Làm lại lần nữa, lần này đẩy mạnh hơn. Vẫn không được.

"Some boys kiss me, some boys hug me, I think they're okay-ay," Leonardo, tay bảo vệ béo tròn và luôn dâm dấp mồ hôi cất giọng the thé hát sau quầy thường trực. Khốn nạn thật. Không cần nhìn tôi cũng nhận ra kiểu gã bắt tôi cùng chơi trò chơi ngớ ngẩn của mình như gã vẫn làm hằng ngày trong mấy tuần qua. Có lẽ gã là một người thích hát và lúc nào cũng ư ử không dứt, và gã không bao giờ cho tôi đi qua cửa xoay mà lại không làm trò cùng với bài hát điên rồ của gã.

Hôm qua gã hành hạ tôi với bài. "I'm too sexy". Trong khi gã hát "I'm too sexy for Milan, too sexy for Milan, New York and Japan," tôi phải làm bộ đi trên sàn diễn thời thời trang tưởng tưởng giữa tiền sảnh. Lúc nào đang vui thì tôi cũng thích diễn trò đó với gã, thậm chí có lúc còn thấy thú vị. Nhưng hôm nay là cú chạm trán đầu tiên với Miranda và tôi không thể làm mọi việc quá muộn, hôm nay thì không. Bên phải bên trái tôi mọi người điềm nhiên đi qua cửa xoay; tôi chỉ muốn vả cho gã một phát lệch mặt.

Tôi nhăn nhó hát, kéo dài giọng ngân đúng kiểu Madonna "If they don't give me proper credit, I just walk away-ay".

Gã nhướng mày: "Vẫn thiếu bốc lửa lắm, cô bé ạ."

Chỉ nghe gã nói thêm một câu nữa là tôi phát rồ lên mất. Thôi được. Tôi quẳng túi báo lên mặt quầy, vung cả hai tay lên, lắc hông và chúm chím môi rất kịch, tiếp tục hát hay đúng hơn là hét lên trước khi lên cơn điên: "A material! A material! A material! A material... WORLD!". Gã cười và vỗ tay, cho tôi qua.

Ghi nhớ: phải nói cho Eduardo biết là bao giờ và ở đâu được phép đùa nhả như vậy.

Lại vào thang máy, lại lao ra, chạy ngang mặt Sophy, cô lẳng lặng ấn nút mở cửa cho tôi vào văn phòng. Thậm chí tôi còn nhớ chạy vào ngăn bếp tí xíu để lấy chiếc ly pha lê của Miranda trong giá treo trên lò vi sóng và ném vào đó mấy viên đá. Một tay cầm ly và tay kia cầm túi báo, tôi rẽ quặt qua góc nhà và đâm phải Jessica - cô gái có bộ móng tay tuyệt tác. Mắt cô lộ vẻ bực dọc pha lẫn khiếp sợ.

"Andrea, chắc chị đã biết là Miranda đang trên đường tới văn phòng rồi chứ?" Cô hỏi, trong khi ngắm tôi từ đầu đến chân.

"Tất nhiên rồi. Đây là báo, còn đây là ly của Miranda, tôi chỉ còn phải vào phòng Miranda để sắp xếp lại bàn làm việc cho tử tế. Chị cho tôi xin lỗi..."

"Andrea!" Cô hét lên khi tôi vội chạy qua mặt cô và làm một viên đá bắn tung ra ngoài ly. "Đừng quên thay ngay đôi giày!"

Tôi đứng sững lại như mọc rễ và nhìn xuống chân. Chết rồi, tôi đang đi đôi giày thể thao đế thấp cho thoải mái. Quy định chính thức và bất thành văn về trang phục cũng không được chấp hành nghiêm cẩn khi Miranda không có mặt. Đương nhiên các cộng tác viên trông vẫn lộng lẫy, nhưng tất cả đều cho phép mình mang một thứ gì đó mà nếu trước mặt Miranda thì họ không đời nào dám trưng ra. Thí dụ điển hình là đôi giày thể thao đỏ chót của tôi.

Tôi vã mồ hôi lạnh trong khi chạy vào phòng. "Tôi đã kiếm đủ nhật báo, cẩn thận lấy hết các tạp chí trong tuần. Nhưng có vấn đề: xem giày tôi này!"

Emily giật tai nghe xuống và quẳng lên bàn. "Không thể được, đồ này không thể xài được." Cô với điện thoại, quay một số nội bộ và ra lệnh: "Jeffy, đem ngay cho tôi một đôi Jimmy, cỡ..." cô nhìn tôi.

"Chín rưỡi." Tôi lấy một chai San Pellegrino nhỏ trong tủ ra và rót vào ly.

"Chín rưỡi. Không, bây giờ. Ngay tắp lự. Không, chuyện nghiêm chỉnh. Ngay bây giờ. Andrea đang đi giày thể thao, màu đỏ, và sếp sắp có mặt ở đây bất cứ lúc nào. Okay, cám ơn."

Lúc đó tôi mới nhận ra là trong bốn phút mà tôi chạy xuống tầng trệt Emily đã kịp đổi bộ cánh. Thay vì quần bò mài bây giờ cô mặc quần da, giày thể thao ngang tàng được thế chỗ bởi giày cao gót. Phòng cũng được dọn ngăn nắp. Giấy tờ bị đút vào ngăn kéo và các gói quà Noel chưa đưa đến nhà Miranda biến ngay vào tủ. Emily cũng tô lại môi bằng bút bóng và thoa chút son lên gò má. Cô cuống cuồng ra hiệu bảo tôi làm tiếp.

Tôi vớ lấy túi báo, chạy sang bên cạnh và đổ lên mặt bàn có lắp đèn ở dưới mà Miranda, như Emily đã cho tôi biết, đôi khi soi xét các bức hình chụp mẫu hàng tiếng đồng hồ. Ngoài ra, báo chí cũng phải bày lên đó. Tôi so sánh với tờ ghi chép để xếp báo theo đúng thứ tự. Trước tiên là tờ Thời báo New York, rồi đến Tạp san phố Wall và Bưu điện Washington, luôn đè lên nhau một chút và nhìn về tổng thể giống như hàng lính khi duyệt binh vậy. Ngoại lệ duy nhất là tạp chí Thời trang Phụ nữ Hằng ngày nằm chính xác ngay giữa bàn Miranda.

"Sếp đến rồi! Ra đi, Andrea! Sếp đang lên tầng," Emily nén giọng gọi. "Yuri gọi điện báo là sếp vừa ra khỏi xe được một giây."

Tôi đặt tờ Thời trang Phụ nữ Hằng ngày lên bàn giấy, ly San Pellegrino bên cạnh (phía nào nhỉ? Trời ơi, tôi không nhớ là bên phải hay bên trái nữa), đưa mắt kiểm tra lần cuối khắp phòng rồi chạy ra ngoài. Jeffy, một trợ lý thời trang phụ trách trang phục ném cho tôi hộp bìa đựng giày buộc băng chun rồi cũng biến luôn. Tôi mở hộp ngay. Một đôi xăng đan cao gót hiệu Jimmy Choo quai bằng lông lạc đà ngự trên nền giấy lụa, chắc chắn phải có giá đến 800 dollar. Khỉ gió thật! Thọc chân vào thế nào đây.

Tôi lột giày thể thao và đôi tất không còn mới lắm, tống hết xuống gầm bàn. Chiếc bên phải thì không vấn đề gì, nhưng khi xỏ chiếc kia thì móng tay quá ngắn của tôi mãi không mở được khóa. Lọ mọ mãi tôi mới làm xong. Cho được chân trái vào dép và đóng quai thì lông lạc đà cứa vào thịt. Một, hai giây sau thì cài xong khóa, tôi vừa ngồi dậy cho thẳng lưng thì đúng lúc Miranda bước vào.

Tôi đờ người ra. Ngồi cứng đờ trên ghế, tuyệt đối không động đậy gì cả. Miranda nhìn thấy tôi ngay, có lẽ vì bà vẫn nghĩ rằng Emily đang ngồi ở vị trí cũ. Bà đến chỗ tôi, chống cùi tay lên tấm che và ngả hẳn người qua bàn, ngày càng sát mặt tôi. Đôi mắt xanh thép của bà quét lên thân hình đờ dại của tôi, từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, quét lên chiếc sơ mi trắng, chiếc váy mini đỏ bằng nhung kẻ hiệu GAP tôi đang mặc, và trong tích tắc cuối cùng cũng nhìn đến đôi xăng đan Jimmy Choo có quai bằng lông lạc đà đã được cài tử tế. Tôi cảm nhận rõ tia mắt kiểm tra từng phân trên da, tóc và quần áo. Cho dù mắt bà lướt rất nhanh trên người tôi, nét mặt bà vẫn lạnh như băng. Bà ngả sát chút nữa về phía tôi, cho đến khi chỉ cách mặt tôi một gang tay và một làn hương thơm ngát xộc vào mũi tôi, một hương thơm trộn lẫn mùi nước gội đầu đắt tiền và nước hoa hảo hạng. Gần đến mức tôi nhìn thấy cả những nếp nhăn li ti quanh mắt và miệng bà mà nếu xa chút nữa thì chắc là tôi sẽ không nhận ra. Nhưng đằng nào thì tôi cũng không thể chịu đựng được lâu vụ đấu mắt, vì bà nhìn tôi một cách quá săm soi. Chẳng có một chút dấu hiệu gì chứng tỏ là a) bà đã nhận ra rằng hai chúng tôi đã từng gặp nhau một lần rồi, b) bà biết tôi là cộng tác viên mới, hay c) tôi không phải là Emily.

"Xin chào bà Priestly," tôi nghe mình lí nhí nói với giọng khản đặc, mặc dù bà không nói gì với tôi. Nhưng tôi căng thẳng không chịu nổi, phải thốt ra điều gì không thì nổ tung lên mất. "Tôi rất vui mừng được phép làm việc cho bà. Rất cám ơn bà đã tạo cơ hội cho tôi..." Im mồm đi nào, mi không có chút tự trọng hay sao!

Bà vươn thẳng người đi tiếp. Chấm dứt thị sát tôi, để mặc tôi ngồi trơ ra và mồm vẫn lắp bắp nói tiếp như một con ngố. Mặt tôi nóng bừng lên vì lúng túng, xấu hổ và nhục nhã. Thêm vào đó là cảm giác bị tia mắt sát thủ của Emily xuyên suốt làm tôi càng cuống hơn. Tôi ngẩng đầu lên nhìn cô, và đúng thế, Emily đang giận dữ ngó qua.

"Bản tin cập nhật rồi chứ?" Miranda vừa đi vào phòng mình vừa hỏi trống không; tôi sung sướng nhận thấy bà đi thẳng tới bàn lắp đèn, nơi tôi đã bày sẵn báo cho bà.

"Vâng, Miranda, đây ạ," Emily hăng hái đáp lời và xăng xái chạy theo chân bà để nộp cặp giấy mà chúng tôi vẫn kẹp những tin tức gửi đến cho bà.

Tôi không rời chỗ của mình và quan sát Miranda đi lại trong phòng mình: bóng bà hiện ra trong những khung ảnh lồng kính treo trên tường. Emily lại chạy từ đó về bàn của mình. Không ai nói câu nào. Không được nói chuyện với nhau nữa khi sếp ở văn phòng hay sao?, tôi tự hỏi. Rồi tôi đặt câu hỏi đó cho Emily, nhưng không nói ra mồm mà gửi email! Mấy giây sau tôi nhận được trả lời trên màn hình: chị học nhanh đấy, cô viết. Nếu mình có chuyện gì nói với nhau thì chỉ nói thầm thôi. Ngoài ra thì nên giữ mồm. À, chị KHÔNG BAO GIỜ nói với sếp nếu không được sếp hỏi tới. Và tuyệt đối KHÔNG BAO GIỜ được gọi sếp là bà Priestly, chỉ được gọi là Miranda. Hiểu chưa? Một lần nữa tôi có cảm giác vừa bị ăn một bạt tai. Nhưng tôi chỉ gật đầu. Đột nhiên tôi thấy chiếc măng tô. Một tuyệt tác bằng lông thú, bị lơ đãng vứt lên bàn giấy của tôi và tay áo thõng xuống gần chạm đất. Tôi ném cái nhìn đó hỏi qua Emily. Cô nhướng mắt, khoát tay về phía tủ tường và thì thào: "Treo lên!" Chiếc măng tô nặng như cái chăn lông vũ vừa lôi từ máy giặt ra, tôi phải nâng cả hai tay để nó khỏi quệt xuống sàn. Rồi thì tôi cũng loay hoay treo được nó lên mắc áo một cách cẩn thận và khép cửa tủ êm ru.

Tôi chưa kịp về đến bàn mình thì đã thấy Miranda đứng ngay bên cạnh. Lần này thì bà có dịp nhìn tôi từ mọi phía và đương nhiên không bỏ lỡ. Có cảm giác như trong ánh mắt xanh thép của bà từng điểm trên người tôi bắt lửa, nhưng tôi tê liệt hẳn và không về nổi ghế. Đúng lúc mái tóc của tôi sắp bùng cháy thì bà nhìn vào mắt tôi.

"Măng tô của tôi," bà nói khẽ, nhìn thẳng mặt tôi, và tôi không rõ là bà có biết tôi là ai, hay chẳng cần biết rằng có một người lạ đang đóng vai trợ lý của bà. Không có gì gợi nhớ là bà đã nhận ra tôi, mặc dù buổi phỏng vấn mới cách đây chừng bốn tuần.

"Có ngay," tôi thốt ra và chạy lại phía tủ tường. Nói dễ hơn làm, vì bà đứng chắn giữa đường. Tôi luồn qua bên cạnh, chú ý không chạm phải người bà khi mở cửa tủ. Bà không tránh ra lấy một phân, tôi có cảm giác mắt bà dõi theo. Rốt cuộc, may mắn thay, tôi túm cả hai tay để cẩn thận nâng chiếc áo lông thú ra. Thiếu chút nữa là tôi quẳng nó cho bà và đợi xem bà có bắt được nó không, nhưng trong giây cuối cùng tôi đã tự chủ được và mở nó ra như một người đàn ông lịch thiệp phục vụ một quý bà. Bà nhẹ nhàng luồn vào và lấy ra chiếc điện thoại di động, đồ vật duy nhất bà đem đến văn phòng.

"Emily, tối nay tôi muốn xem cuốn SÁCH," bà nói trong khi nhẹ bước ra khỏi phòng, bận bịu với những suy nghĩ riêng đến nỗi không nhận ra đám đàn bà con gái ngoài sảnh và nhanh chân túa đi mất khi nghe tiếng chân bà.

"Vâng, Miranda, tôi sẽ bảo Andrea đưa tới cho bà."

Thế là hết. Bà ta đã đi khỏi. Chuyến thăm viếng mà vì nó cả ban biên tập phát cuồng cả lên để thay quần áo và sửa sang son phấn sau bốn phút là chấm dứt, và - theo cách đánh giá ít hiểu biết của tôi - chẳng có ý nghĩa gì cả.

chap 8

"Đừng quay lại nhìn," James thì thào, môi không động đậy. "Tôi nghĩ là chếch sau lưng chị tôi vừa phát hiện ra Reese Witherspoon."

Tất nhiên là tôi quay phắt lại. James nói đúng: Reese đứng đó với ly sâm banh, đang ngả đầu ra sau cười. James phát ngượng vì sự tò mò của tôi, nhưng tôi không thế làm khác: Reese là một trong những nữ diễn viên mà tôi yêu thích nhất.

"James cưng, rất vui mừng vì anh đã đến dự buổi liên hoan nhỏ của tôi," một người đàn ông mảnh mai xinh xắn vừa đến sau lưng chúng tôi thỏ thẻ. "Cậu đem ai tới cùng thế này?" Hai người hôn nhau.

"Marshall Madden, vua của sắc màu, xin giới thiệu với anh Andrea Sachs. Andrea hiện nay là..."

"... trợ lý mới của Miranda," Marshall nói nốt câu và mỉm cười với tôi. "Tôi đã nghe hết mọi chuyện về cô rồi, bé con ạ. Chào mừng cô trong vòng tay gia đình. Hy vọng cô sẽ còn đến chơi. Tôi hứa là chúng ta sẽ cùng nhau làm gì đó cho... phong cách của cô." Ông ta âu yếm xoa đầu tôi, nâng ngọn tóc để so sánh màu với chân tóc. "Đúng rồi, thêm một chút màu mật ong nữa thì cô sẽ là siêu mẫu mới. Cô bảo James cho cô số điện của tôi nhé. Hôm nào kiếm được vài phút rảnh rỗi thì cô cứ qua chỗ tôi, okay? Nhưng chắc là cô bé bận lắm!" Ông nói trong khi lượn qua phía Reese.

James thở dài và đắm đuối ngó theo ông. "Một bậc thầy," anh thì thào. "Người xuất sắc nhất. Vĩ đại nhất. Đàn ông nhất. Nói thế vẫn còn quá ít. Thật tuyệt vời." Anh mê muội nói. Nhưng - đàn ông nhất? Buồn cười thật. Trước đó nghe ai xài chữ ấy thì chắc tôi nghĩ đến Shaquille O'Neal nhảy lên ném bóng vào rổ - chứ không phải một thợ nhuộm tóc!

"Ông ấy thật tuyệt với, tôi cũng nghĩ như anh. Anh đã có gì với ông ấy chưa?" Có vẻ như đó sẽ là một đôi lứa tương xứng: trợ lý biên tập thẩm mỹ của Runway đi với nghệ sĩ làm tóc đắt nhất thế giới.

"Đừng có mơ hão. Ông ấy từ bốn năm nay chỉ có một bạn trai duy nhất. Không thể tin nổi. Bốn năm liền! Từ bao giờ dân gay có giá như bọn này lại chung thủy thế? Thật không công bằng."

"Ơ kìa. Thế dân dị tính có giá mà chung thủy thì tốt hay sao? Nhưng, bạn trai tôi chung thủy thì okay." Tôi rít một hơi thuốc thật dài và thổi mấy vòng khói khá tròn.

"Thôi đi Andy, chị hãy công nhận là cũng bõ công đi cùng tôi tới đây, đúng không? Hay đây không phải là dạ hội hoành tráng nhất mọi thời?" Anh mỉm cười nói.

Sau khi Alex bỏ buổi hẹn, tôi quyết định đi cùng James, chủ yếu vì anh cứ bám nhằng nhằng không dứt ra được. Trí tưởng tượng của tôi phong phú đến mấy cũng không nghĩ ra là một cuốn sách về màu tóc lại có thể hay ho được, nhưng bây giờ phải thú nhận là tôi bị ngạc nhiên một cách dễ chịu. Khi Johnny Deep đến chỗ James chào hỏi, tôi giật mình vì anh ta không những chỉ nói ra được một câu có chấm phẩy tử tế mà còn biết kể tiếu lâm dí dỏm. Và sướng nhất là được thấy Gisele Bỳndchen, người mẫu hot nhất trong giới người mẫu hiện tại, hóa ra chỉ là một người bé tẹo. Dĩ nhiên tôi sẽ còn sướng hơn nếu cô ta béo phục phịch hay mặt đầy trứng cá khiến các thợ sửa ảnh phải tút hàng tiếng đồng hồ, nhưng thật ra được chứng kiến cô ta lùn tịt là tôi đã hài lòng lắm rồi. Tóm lại là cho đến lúc này thì buổi tối hôm nay khá ổn.

"Nói thế thì có lẽ hơi quá lời," tôi đáp và vươn người tới trước để quan sát một người đàn ông đẹp trai đang lui vào góc đằng sau bàn để sách. "Nhưng cho đến giờ thì mọi thứ đúng là không tồi tệ như tôi tưởng. Sau một ngày như hôm nay thì bất cứ cú lên giây cót nào tôi cũng thích."

Sau cú xuất hiện bất thình lình và ra đi cũng bất thình lình của sếp, Emily thông báo tối nay lần đầu tiên tôi có nhiệm vụ đem cuốn SÁCH đến nhà Miranda. Cuốn SÁCH này là một tập hợp các trang bản thảo của tạp chí Runway, đóng lại to như cuốn danh mục điện thoại. Theo lời Emily kể lại thì công việc biên tập và xuất bản chỉ thực sự bắt đầu khi Miranda đã về nhà. Các chuyên viên đồ họa và biên tập viên phải liên lạc suốt ngày với bà vì đều đặn mỗi giờ một lần bà tung hê mọi thứ và bắt làm lại từ đầu. Chỉ đến tối, khi bà bắt đầu chơi với hai đứa trẻ thì các cộng tác viên khác mới chính thức bắt tay vào việc. Lúc đó mọi đề nghị thay đổi được thực thi, các bài báo được Miranda duyệt và đánh dấu bằng chữ MP to tướng trên bản thảo được hoàn tất. Sau đó biên tập viên gửi tất cả các dự thảo cho trợ lý nghệ thuật để lùa bài viết và tranh ảnh qua một chiếc máy dán chất dẻo lên mặt sau từng trang và in vào SÁCH. Khi mọi việc đã xong, cuốn SÁCH được nộp cho Miranda ở nhà để đọc kiểm tra. Thông thường thì Miranda nhận được cuốn SÁCH vào khoảng từ tám đến mười một giờ tối, tùy thuộc vào công đoạn sản xuất. Hôm sau bà đem SÁCH đến văn phòng để ban biên tập kiểm tra lại từ đầu đến cuối một lần nữa.

Khi biết là tôi vẫn muốn cùng James đi dạ hội, Emily nói giọng cay cú: "Chắc chị biết là chị chưa được ra khỏi đây trước khi hoàn thành cuốn SÁCH chứ?"

Tôi trố mắt. Còn James nom như sắp lấy đà lao vào bóp cổ Emily.

"Thế đấy, tôi buộc phải nói rằng đó là một phần công việc của chị mà tôi may mắn không phải làm nữa. Việc này đôi khi kéo dài rất, rất lâu, nhưng tối nào Miranda cũng muốn được thấy cuốn SÁCH, chị biết đấy. Sếp làm việc ở nhà. Hôm nay thì tôi ở lại lâu hơn và chỉ dẫn cho chị mọi việc, nhưng từ mai trở đi thì chị tự làm hết."

"Okay, cám ơn chị. Liệu bao giờ sẽ xong nhỉ?"

"Sao mà biết được. Mỗi tối mỗi khác. Chị có thể sang phòng nghệ thuật hỏi xem sao."

May mà SÁCH hôm nay xong khá sớm, khoảng tám rưỡi. Sau khi nhận nó từ tay trợ lý nghệ thuật mệt rũ rượi, chúng tôi cùng nhau đi xuống phố 59. Emily vác một núi quần áo vừa giặt là bọc trong bao nylon, cô giải thích cho tôi biết là việc nộp SÁCH luôn đi kèm với vận chuyển quần áo. Mỗi sáng Miranda đem quần áo bẩn tới văn phòng, một người trong bọn tôi (từ hôm nay trở đi chính là tôi) gọi điện cho bên giặt là, họ đến ngay và hôm sau trả quần áo đã giặt là xong. Chúng tôi treo chúng vào tủ ở sảnh, đợi tới lúc chuyển tiếp cho Yuri hay tự đem đến nhà Miranda. Công việc của tôi quả là ngày càng đòi hỏi nhiều chất xám hơn!

"Chào Rich!" Emily thân mật gọi người phụ trách đội xem đang phì phèo tẩu thuốc mà tôi đã làm quen hôm đầu. "Đây là Andrea, từ hôm nay tối nào chị ấy cũng đi nộp SÁCH. Ông lo cho chị ấy luôn có một ô tô tử tế nhé."

"Được thôi, Tóc đỏ ạ." Ông lấy tẩu khỏi mồm và trở vể phía tôi. "Tôi sẽ chăm sóc Tóc vàng cẩn thận."

"Tuyệt quá. À, hôm nay xin ông cho thêm một xe đi theo nhé. Nộp xong SÁCH thì Andrea và tôi đi hai ngả khác nhau."

Hai chiếc Limousine to tướng đi ra. Người lái xe phục phịch của xe thứ nhất nhảy ra khỏi xe và mở cửa. Emily lên xe trước tôi, nói với lái xe: "Cho đến nhà Miranda Priestly" và lôi điện thoại di động ra. Anh ta gật đầu và cho xe chuyển bánh.

"Hôm nào cũng vẫn một lái xe ấy à?" Tôi ngạc nhiên vì không thấy lái xe hỏi địa chỉ.

Emily ra hiệu cho tôi im lặng trong khi nhắn tin cho người ở cùng nhà rồi mới trả lời: "Không, nhưng công ty không có nhiều lái xe. Tôi đã đi đến hai chục lần với mỗi người rồi, do đó họ đều biết đường cả." Cô lại bấm số điện thoại tiếp. Tôi quay lại và thấy chiếc xe thứ hai không chở ai đi cách sau một đoạn.

Chúng tôi dừng trước một ngôi nhà có bảo vệ, đặc trưng cho đại lộ Fifth Avenue: vỉa hè sạch bóng, bao lơn chỉn chu, tiền sảnh sáng dịu và thân thiện. Một người mặc áo đuôi tôm và đội mũ ra mở cửa xe và Emily bước xuống. Tôi ngạc nhiên vì nghĩ rằng chúng tôi chỉ đơn giản trao cho bảo vệ cuốn SÁCH và áo quần. Nếu tôi không nhầm - ở cái thành phố kỳ lạ này thì ai mà dám chắc - thì đó chính là công việc của những người canh cửa. Nhưng Emily đã lấy một túi da Louis Vuitton đựng chìa khóa trong chiếc túi Gucci của cô ra và dúi vào tay tôi.

"Tôi đợi ở đây. Chị đưa đồ lên gác, Penthouse A. Mở khóa cửa và đặt quyển SÁCH lên bàn con ở hàng lang, quần áo thì treo lên móc bên cạnh tủ, nhớ không treo vào tủ, mà cạnh tủ. Rồi đi ra. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được gõ cửa hay nhấn chuông, sếp không muốn bị quấy quả. Ra vào lặng lẽ, chớ gây ồn ào!" Cô đưa tôi túi chìa khóa và lại quay ra bấm điện thoại đi động. Okay, tôi làm xong ngay. Một quyển sách và máy thứ áo quần chứ có gì mà vẽ chuyện.

Người gác thang máy mỉm cười thân thiện và lặng lẽ ấn nút "Penthouse" sau khi quay chìa khóa. Trông ông như một bà lão ốm yếu, buồn bã buông tay chấp nhận mọi ngang trái của số phận.

"Tôi đợi chị ở đây," ông cúi đầu nói. "Chị chỉ cần một phút là cùng."

Khu tiền sảnh trải thảm màu vang chát, dày đến nỗi tôi suýt nữa trẹo mắt cá khi móc gót giày vào. Trên tường dán giấy màu kem có sọc nhỏ li ti. Cánh cửa lò xo trước mặt tôi có chữ Penthouse B; tôi quay lại và nhận ra Penthouse A. Tôi phải hết sức tự chủ để không nhấn chuông khi nhớ đến lời cảnh báo của Emily và đút chìa khóa vào ổ. Trước khi kịp vuốt tóc cho gọn hay tự hỏi đằng sau cánh cửa có gì thì tôi đã bước vào một hành lang rộng, sáng sủa và ngửi thấy mùi sườn cừu thơm phức. Rồi tôi thấy Miranda, đang lịch thiệp đưa dĩa lên miệng, bên phải và bên trái bà là hai đứa nhỏ tóc đen đang chành chọe, chúng giống nhau như hai giọt nước, bên đối diện là một người đàn ông cao to với nét mặt đanh, tóc trắng như cước và mũi sư tử đang đọc báo.

"Mẹ ơi, mẹ nói em không được tự tiện vào phòng con và dùng quần bò của con, em không nghe lời con gì cả," một trong hai đứa ngúng nguẩy nói với Miranda. Bà đặt dĩa xuống và uống một ngụm San Pellegrino với một lát chanh, đặt trên mặt bàn, phía trái!

"Caroline, Cassidy, đủ rồi. Mẹ không muốn nghe thêm câu nào nữa. Tomas, đưa món thạch bạc hà vào đi," bà gọi. Lập tức một người đàn ông tiến vào, chắc là đầu bếp, bưng trên tay một khay bạc tinh xảo với chiếc bát con bằng bạc.

Tôi chợt nhận ra là tôi đã đứng đực ra đến ba mươi giây để quan sát họ ăn. Họ chưa thấy tôi. Nhưng trong khi rón rén đi tiếp thì tôi cảm thấy rõ tia nhìn trên lưng. Thiếu chút nữa thì tôi cất tiếng chào, nhưng sực nhớ lần gặp mặt Miranda mới đây tôi đã lắp bắp và xử sự ngu ngốc ra sao nên tôi ngậm ngay miệng. Cái bàn con đâu nhỉ, à, đây rồi. Đặt SÁCH lên đó. Okay, xong rồi, giờ đến lượt quần áo. Tôi ngơ ngác nhìn quanh, nhưng lúng túng đến nỗi không tìm ra cái móc để treo đâu cả. Bàn ăn lặng hẳn đi, và tôi cảm thấy rõ họ đang quan sát mình. Nhưng không ai hé môi lấy một tiếng. Không chào hỏi. Ngay cả hai cô bé cũng chẳng có vẻ ngạc nhiên khi một phụ nữ lạ hoắc đứng giữa nhà. Rốt cuộc tôi cũng phát hiện ra một chiếc tủ quần áo nhỏ sau cửa. Tôi cẩn thận treo quần áo lên thanh ngang.

"Không treo vào tủ, Emily," Miranda từ tốn và chậm rãi nói. "Treo vào cái móc riêng cho chỗ quần áo này."

"Ồ, à, xin chào!" Đồ ngu! Im mồm đi! Bà ấy không cần câu trả lời, hãy làm những gì bà ấy nói. Nhưng tôi không nhịn được. Thật vô lý khi không người nào chào tôi hay hỏi tôi là ai. Và bà ta gọi tôi là Emily! Miranda thích đùa chăng? Hay mù? Bà ta thực sự không biết rằng tôi đâu phải Emily, người đã làm cho bà hơn một năm nay? "Miranda, tôi là Andrea, trợ lý mới của bà."

Im lặng. Một sự im lặng bao trùm lên tất cả, khó chịu, vô biên, choáng ngợp và đè nén.

Tôi biết là nói tiếp thì chẳng khác gì vác xẻng tự đào huyệt mình, nhưng tôi không thể đừng. "Xin lỗi là tôi đã sơ suất. Tôi treo đồ lên móc như bà nói rồi đi ngay." Đừng dông dài! Bà ấy đâu cần đếm xỉa mi đang làm gì. Làm nhanh rồi biến đi. "Vâng, chúc ăn ngon. Hân hạnh được làm quen với mọi người." Tôi quay ra. Thật khó tin là tôi không những chỉ mở miệng nói mà còn toàn thốt ra những lời ngu xuẩn. Hân hạnh được làm quen à? Có ai trong bọn họ nói một lời nào với tôi đâu cơ chứ?

"Emily!" Tôi nghe tiếng gọi sau lưng khi tay đã đặt lên tay nắm cửa. "Emily, đừng để chuyện đó xảy ra lần nữa! Chúng tôi không muốn bị quấy rầy." Cánh cửa như tự mở ra, tôi đã ra đến tiền sảnh. Toàn bộ sự việc diễn ra chưa đầy một phút, nhưng tôi thấy mệt rũ ra như vừa bơi hết một chiều dài bể bơi thi đấu Olympic mà không một lần lấy hơi.

Tôi thả phịch người xuống chiếc ghế băng ngoài sảnh và hít một hơi thật sâu. Mụ già chết tiệt! Gọi tôi lần đầu là Emily thì cứ cho là nhầm lẫn, nhưng lần thứ hai đích thực là có chủ ý. Còn có cách nào hạ thấp và khinh rẻ một người tốt hơn là gọi sai tên, sau khi không thèm nhận mặt người đó trong nhà mình? Đã đành là tôi thuộc vào hình thái sinh tồn thấp nhất ở Runway - Emily không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ cho tôi rõ điều đó - nhưng cớ gì mà cả Miranda cũng phải rắc muối vào vết thương ấy?

Có lẽ tôi sẽ ngồi đó suốt đêm và tưởng tượng ra cảnh bắn một loạt đại bác vào cánh cửa đề chữ "Penthouse A" nếu như không có tiếng đằng hắng của ông già gác thang máy ốm yếu đang kiên nhẫn chờ.

"Xin lỗi ông," tôi nói khi vào thang máy.

"Không sao," ông nói như gió thoảng trong khi mắt vẫn cắm xuống mặt sàn lát gỗ, "dần dần sẽ khá hơn."

"Gì cơ ạ? Xin lỗi, cháu không nghe rõ ông nói gì..."

"Không có gì, không có gì. Ta đến nơi rồi. Chúc chị buổi tối tốt lành." Cửa thang máy mở, tôi ra chỗ Emily đang nói to vào điện thoại. Cô tắt máy khi thấy tôi.

"Thế nào? Không có vấn đề gì chứ?"

Nếu không đoán trước là đằng nào cũng bị nghe chửi thì tôi đã kể cho cô nghe những gì đã xảy ra. Tiếc rằng cô không phải là một đồng nghiệp đồng cảm, được như thế thì chúng tôi sẽ là một nhóm ăn ý. Quên luôn chuyện này đi.

"Mọi việc ổn cả. Không có vấn đề gì. Họ đang ăn tối, tôi làm mọi việc chính xác như chị dặn."

"Tốt. Vậy thì từ hôm nay tối nào chị cũng làm như thế. Xong xuôi thì chị bảo xe đưa về nhà là hết việc. À, chúc chị vui vẻ ở dạ hội hôm nay của Marshall. Tôi cũng thích tới đó lắm, nhưng hôm nay lại có hẹn đắp sáp tẩy lông để mặc bikini, không bỏ được - chị có tin là chẳng còn buổi hẹn nào trống trong hai tháng tới không? Bây giờ đang giữa mùa đông và mọi người đều đi nghỉ đông mới đúng chứ? Tôi không hiểu tại sao toàn bộ đàn bà New York lại đi đắp sáp vào lúc này. Biết làm sao được, phải sống với lũ thôi."

Đầu tôi như vỡ bung ra vì nghe Emily nói hươu vượn, chẳng thèm để ý tôi có lắng nghe hoặc trả lời. Nếu biết trước là cô không dứt lời lảm nhảm chuyện đắp sáp thì tôi thà nghe chửi vì quấy bữa tối của Miranda còn hơn.

"Chà, đúng là không may. Bây giờ tôi phải đi đây. Tôi hẹn James lúc chín giờ mà bây giờ đã quá mười phút rồi. Mai gặp lại nhé."

"À, chuyện ngày mai nữa. Bây giờ đã quen việc rồi, chị sẽ bắt đầu làm việc vào bảy giờ, còn tôi đến lúc tám giờ. Miranda đã được thông báo. Trợ lý chính đi làm muộn hơn, vì phải làm việc nặng hơn." Tôi chỉ muốn vặn cổ cô ta lập tức. "Sáng sớm chị làm những việc thông thường như tôi đã nói. Khi cần thì gọi điện cho tôi, nhưng chắc chị cũng đã thạo việc rồi đấy. Bye," cô leo lên ghế sau của chiếc ô tô thứ hai vẫn đợi trước nhà.

"Bye!" Tôi toác miệng cười giả dối. Lái xe định ra mở cửa nhưng tôi nói cứ để tôi tự làm. "Cho tôi đến Plaza."

James đợi tôi ở bậc tam cấp bên ngoài, mặc dù trời lạnh đến năm độ là ít. Anh chàng đã về nhà thay đồ và trông gày teo tóp trong chiếc quần da đen và áo pull trắng, nhưng nó tôn nước da rám nâu nhân tạo cực gợi cảm giữa mùa đông. Trong chiếc váy GAP mini tôi còn thua xa.

"Chào Andy! Chị đã nộp SÁCH ổn thỏa rồi chứ?" Trong khi xếp hàng gửi áo khoác ngoài, người đầu tiên tôi nhìn thấy là Brad Pitt.

"Tôi có nhìn đúng không nhỉ, Brad Pitt ở đây?"

"Đúng thế, Marshall làm đầu cho Jennifer mà. Nghĩa là cô ta cũng phải có mặt ở đâu đó. Lần sau thì chị nên tin là đi theo tôi sẽ không uổng công. Ta uống chút gì đi."

Sau Brad Pitt là Reese Witherspoon rồi đến Johnny Depp, đến một giờ đêm thì tôi đã cạn bốn ly và hăng hái tán gẫu với một trợ lý thời trang của tạp chí Vogue. Chúng tôi tranh luận về tẩy lông bằng sáp để mặc đồ tắm hai mảnh. Rất say sưa, tôi hoàn toàn không phiền lòng tí nào. Ơn Chúa, tôi nghĩ bụng trong khi rẽ đám đông đi tìm James và mỉm cười hú họa về phía Jennifer Aniston, bữa dạ hội này khá ổn đây. Nhưng tôi đã khá chếnh choáng và chưa đầy sáu tiếng nữa lại phải xuất hiện ở văn phòng rồi, về đến nhà cũng đã nửa đêm. Tôi phát hiện ra James đang mải tán tỉnh một thợ nhuộm tóc của Marshall. Vừa định lẳng lặng chuồn thì tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên ngang eo.

"Ê," anh chàng đẹp trai mà tôi vừa nãy thấy trong góc gần bàn sách gọi. Tôi chờ câu xin lỗi, chắc là anh ta nhầm tôi với bạn gái mình từ phía sau. Nhưng anh ta cười trơ tráo: "Chị có vẻ không nhiều lời lắm nhỉ?"

"Thế hả, tôi đoán là anh cũng chỉ nói được chữ ê thôi, đúng không?" Andy, ngậm mồm lại đi! Tôi thầm trách mình. Một chàng trai như trong mộng đột nhiên bắt chuyện với mi ở dạ hội toàn nhân vật quan trọng, còn mi thì phản công ngay. Nhưng có vẻ như anh chàng không lấy đó làm bận tâm, thậm chí còn ngoác miệng cười to hơn.

"Xin lỗi," tôi khẽ nói và nhìn xuống ly rượu gần cạn của mình. "Ta bắt đầu lại cho tử tế đi, tên tôi là Andrea." Tôi đưa tay ra bắt, anh chàng muốn gì ở tôi nhỉ?

"Bắt đầu như thế cũng chẳng dở đâu. Tôi là Christian. Rất vui được làm quen chị." Anh vuốt lọn tóc nâu rủ xuống mắt trái và uống một ngụm trong chai Budweise. Trông anh ta quen quen, nhưng tôi không nhớ từ đâu.

"Bud à?" Tôi hỏi và chỉ vào tay anh. "Tôi không ngờ là người ta xài thứ đồ cao cấp này ở một dạ hội như hôm nay."

Anh cười khùng khục. "Chị quen nghĩ gì nói nấy, đúng không?" Chắc tôi trông lúng túng lắm, vì anh ta vừa cười vừa nói tiếp: "Không sao, không sao, thế là tốt. Và cũng hiếm nữa. Nhất là trong ngành này. Chị biết không, đơn giản là tôi không thể chịu được cảnh uống bằng ống hút từ một chai sâm banh con con. Mất cả vẻ đàn ông. Thế là tay phục vụ bar phải chạy đi kiếm đâu đó trong bếp cho tôi chai bia này." Lại một lọn tóc nữa rủ vào trán, nhưng anh vừa gạt lên thì tóc lại xõa xuống. Anh lấy bao thuốc từ túi áo khoác thể thao đen ra mời tôi. Tôi lấy một điếu và làm rơi ngay trước mũi giày anh ta, nhưng nhờ đó mà tôi có dịp thẩm định anh chàng từ dưới lên: giày lười Gucci màu đen cực hot, quần bò Diesel trễ cạp hơi loe, mài đúng chỗ và gấu hơi sờn, thắt lưng đen, hình như cũng đồ Gucci, T-shirt vải cotton trắng đơn giản, chỉ có con mắt trong nghề sành điệu mới nhận ra là của Armani hay Hugo Boss, chắc chỉ mặc lên để khoe nước da rám nâu tuyệt đẹp. Chiếc áo khoác đen trông rất đắt tiền, cắt đẹp, có thể may đo cũng nên, bó khít thân hình cao lớn trung bình nhưng sexy trên trung bình. Song đôi mắt xanh dương mới thực sự nổi bất. Xanh nước biển, tôi nghĩ bụng, hay xanh chai? Độ cao và toàn bộ thân hình hơi giống Alex, tuy nhiên ở đẳng cấp trội hơn. Ngang tàng hơn một chút, điển trai hơn một chút. Và già hơn hẳn, chừng ba mươi tuổi. Chắc cũng thuộc loại ma lanh.

Anh bật lửa ngay và ghé lại gần để điếu thuốc dễ bắt lửa hơn. "Có gì khiến chị đến những buổi dạ hội kiểu này, Andrea? Có phải chị là một trong những kẻ may mắn được Marshall Madden chăm sóc?"

"Được thế thì đã tốt. Nhưng cái gì chưa đến thì còn có thể đến, ông ta nói khá rõ là tôi có thể ghé qua làm tóc mà," tôi cười và nhận ra mình đã ra sức gây ấn tượng cho anh chàng lạ mặt này. "Không, tôi làm việc ở Runway, một anh bạn đẹp trai đã kéo tôi đi cùng."

"Tạp chí Runway, đúng không? Chỗ ấy hay đấy, dành cho những ai ưa roi vọt. Chị có thích ở đó không?"

Tôi chiếu cố là anh chàng ám chỉ công việc chứ không định nhấn mạnh chuyện roi vọt. Nhưng nghe có vẻ như anh ta biết mình nói gì. Có thể kinh nghiệm bản thân cho anh biết là nội bộ không hoành tráng như bên ngoài nhìn vào. Có nên kể cho anh chuyện kinh dị tối nay là tôi đã đi nộp SÁCH ra sao không nhỉ? Không, không, biết anh ta là người thế nào... Biết đâu anh ta cũng là người của Runway, trong một ban phòng xó xỉnh nào đó mà tôi chưa biết, hoặc ở một tờ báo khác của Elias Clark. Hay có khi, biết đâu đấy, là một trong những phóng viên lá cải mà Emily vẫn cẩn thận dặn tôi tránh xa: "Bọn ấy luôn xuất hiện bất ngờ. Có đủ mẹo để lừa mình và lượm tin tức về Miranda hoặc Runway. Nhớ chú ý." Chứng hoang tưởng bị theo dõi ở Runway không rời tôi nửa bước.

"Cũng được," tôi trả lời thật thản nhiên và lập lờ. "Ở đấy cũng lắm chuyện lạ đời. Tôi không quan tâm đến thời trang lắm, tôi thích viết bài hơn. Nhưng bước khởi đầu như thế cũng không dở. Còn anh làm gì?"

"Tôi làm nghề viết."

"Thật à? Chắc là thú vị lắm." Tôi hy vọng là nghe câu này không có vẻ khinh mạn lắm, nhưng quả thật tôi ngán đến tận cổ tất cả những kẻ ở New York tự gọi mình là văn sĩ hay diễn viên hay thi sĩ hay nghệ sĩ. Tôi đã viết báo tường ở đại học, tôi nghĩ bụng. Và hồi ở trường phổ thông, thậm chí một tiểu luận của tôi còn được đăng trên nguyệt san. Vì thế mà tôi cũng là nhà văn sao? "Anh viết gì?"

"Chủ yếu là sách văn học. Hiện giờ tôi đang viết tiểu thuyết lịch sử đầu tay." Anh làm một ngụm bia nữa và lại cố gạt mớ tóc nhiễu sự rủ xuống trán.

Tiểu thuyết lịch sử đầu tay đồng nghĩa với việc anh đã viết vài cuốn tiểu thuyết khác ngoài đề tài lịch sử. Được đấy. "Về đề tài gì?"

Anh nghĩ một lát. "Một truyện về cuộc sống ở đất nước này trong Thế chiến thứ hai, theo cách nhìn của một cô gái trẻ. Tôi sắp hoàn tất phần thu thập tài liệu, còn phải đánh máy các bài phỏng vấn và mấy việc tương tự. Do vậy tôi chưa viết được nhiều, nhưng khởi đầu khá thuận lợi..."

Anh tiếp tục kể, nhưng tôi chỉ nghe nửa tai. Thôi xin bố kể in ít cho con nhờ. Truyện này tôi nhớ ra rồi, có một bài viết về nó trong tờ The New Yorker, bình luận về cuốn tiểu thuyết tương lai bắt cả văn giới phải nín thở ngóng đợi và nữ nhân vật chính trong đó được tả thực như một người hùng đầy ấn tượng. Thì ra tôi đang trò chuyện với Christian Collinsworth, một thần đồng văn học từng xuất phát từ thư viện đại học Yale ở lứa tuổi hai mươi. Cuốn sách đầu tiên của bố này được giới phê bình khen ngợi không tiếc lời như một trong những tác phẩm đỉnh cao của thế kỷ hai mươi. Kế đó là hai tiểu thuyết nữa mà quyển nào cũng trụ lâu trên danh mục sách bán chạy nhất. Bài báo trong The New Yorker kèm phần phỏng vấn tác giả gọi Christian "không chỉ là ngôi sao mới mọc" trong làng sách, mà còn là một người đàn ông với "ánh mắt và phong thái sát thủ cũng như đủ sức quyến rũ bẩm sinh, đủ bảo đảm thành công suốt đời trước phái yếu, ngay cả trong trường hợp vô tưởng là thành công văn học không còn nữa."

"Wow, kinh khủng quá," tôi nói, quá mệt mỏi để nghĩ ra một câu trả lời hóm hỉnh hay khôi hài hay lanh lợi. Nhà văn vĩ đại này có lý do gì để lãng phí thời gian với tôi cơ chứ? Có lẽ anh ta chỉ định giết thời gian trong khi đợi bạn gái đứng làm mẫu chụp ảnh với giá 10.000 dollar/ngày. Dính dáng gì đến mi hả Andrea? Tôi nghiêm khắc tự hỏi mình. Chớ quên là mi đã có một người bạn trai vô cùng đáng yêu và giàu lòng tương ái vè dễ thương. Chấm dứt được rồi đấy. Lập tức tôi thoái thác phải về nhà ngay bây giờ, và Christian lộ vẻ thích thú.

"Chị sợ tôi," anh nhận xét với nụ cười giễu cợt.

"Sợ anh? Có lý do gì trên đời này khiến tôi sợ anh cơ chứ? Hay là..." tôi không thể không trêu ngược lại; chính anh ta gây ra tình huống đó.

Anh nắm cùi tay tôi và khéo léo xoay tôi ra phía cửa. "Nào, tôi đưa chị ra taxi." Chưa kịp nói rằng tôi đủ tỉnh táo để tự tìm ra đường về nhà và rất vui được nói chuyện với anh nhưng anh đừng tưởng sẽ được cùng tôi về nhà thì tôi đã ra đến ngoài Plaza và đứng trên tấm thảm đỏ cạnh anh.

"Hai người cần taxi không?" Người canh cửa hỏi.

"Vâng, một xe cho cô này," Christian đáp.

"Không, cám ơn, tôi có xe rồi," tôi nói và trỏ sang dãy xe đang xếp hàng đợi trên phố 58 trước Nhà hát Paris.

Không nhìn anh nhưng tôi có cảm giác là anh lại mỉm cười. Nụ cười sát thủ. Anh đưa tôi ra xe, mở cửa và lịch thiệp khoát tay về phía ghế sau.

"Cảm ơn anh, Christian." tôi nói kiểu cách và chìa tay ra bắt để từ biệt. "Thực sự hân hạnh được làm quen anh."

"Tôi cũng thế, chào Andrea." Anh nắm tay tôi chìa ra nhưng không lắc mà áp môi lên. "Hy vọng là chúng ta sớm tái ngộ." Tôi đã thả người xuống ghế saumà không bị vấp chân hay thất thố, tập trung tinh thần để không đỏ chín mặt mũi lên vì thẹn, tiếc rằng quá muọn. Anh đóng cửa rồi nhìn theo xe.

Con người thay đổi cũng lạ, cách đây hai tháng tôi chưa khi nào ngồi trong một chiếc xe Limousine, giờ thì gần như chuyện thường tình khi tôi có một lái xe đưa đi suốt sáu tiếng đồng hồ. Trước đây tôi chưa thực sự tiếp xúc với ai đó gọi là hơi hơi nổi tiếng, song hôm nay tôi đã sánh vai cạnh các nhân vật nổi tiếng của Hollywood, lại còn cho một trong số những chàng trai độc thân và rõ ràng cao giá nhất New York City hít tay - vâng, đúng thế, anh ấy đã hít tay tôi! Không, trò này chẳng có ý nghĩa gì cả, tôi nhắc đi nhắc lại để chính mình đừng quên, đó là một phần trong thế giới mà mi không có chỗ. Có thể nhìn từ bên ngoài thì rất hay, tôi nghĩ bụng, nhưng ở đó mi sẽ lạc vào ma trận ngay. Tuy nhiên tôi không thể rời mắt nhìn xuống tay và cố nhớ lại những chi tiết cuối cùng khi anh ta hôn lên đó, rồi thọc bàn tay tội lỗi ấy vào túi xách để lấy điện thoại ra. Tôi bấm số Alex và tự hỏi, nếu nói chuyện với anh thì nói chuyện gì bây giờ.

Chap 9

Mười hai tuần lễ trôi qua cho đến khi tôi bắt đầu tích trữ quần áo hàng hiệu mà Runway gần như ấn vào tay. Mười hai tuần dài đằng đẵng với ngày làm việc kéo dài mười bốn tiếng và đêm ngủ lâu nhất là năm tiếng. Mười hai tuần dài lê thê mà hằng ngày tôi bị xét nét từ đầu đến chân, không được nghe lấy một lời khen ngợi hay ít nhất cũng khích lệ đã làm được việc. Mười hai tuần dài kinh hãi với cảm giác là mình ngu dốt, bất tài và ngô nghê đủ mọi mặt. Bắt đầu vào tháng thứ tư ở Runway ( may quá, chỉ còn chín tháng nữa thôi! ) thì tôi quyết định trở thành một cô gái mới và ăn mặc đúng lệ bộ.

Cho đến nay thì tôi khốn khổ nhất khi chọn quần mỗi sáng. Ngay một người như tôi cũng phải ngộ ra là mặc đồ " chính thống" đỡ phiền toái hơn nhiều. Sáng sớm nào cũng khó nhọc, nhưng khó nhọc nhất vẫn là chuyện quần áo. Đồng hồ báo thức réo chuông sớm đến mức tôi không dám kể chuyện ấy cho ai, tựa như nhắc đến thời điểm đó đã đủ đau hết mình mẩy. Sáng nào cũng đúng bảy giờ có mặt ở văn phòng đã là một thử thách lớn đến phát khóc. Tất nhiên là đã có lúc tôi trèo khỏi giường trước bảy giờ, ví dụ như để ra kịp chuyến máy bay nào đó hay cố ôn thi vào phút cuối cùng. Chứ ngoài ra tôi chỉ biết thời gian đó như điểm kết của một đêm dạ hội, không có gì đáng sợ khi người ta có cả một ngày hôm sau để được thoải mái ngủ bù. Nhưng bây giờ thì khác. Đây là một kiểu mất ngủ liên tục, đều đặn và vô nhân đạo mà tôi thì không sao lên giường được trước nửa đêm. Hai tuần vừa rồi mới thật là lắm stress, vì công việc chuẩn bị ra số báo mùa xuân đang đi vào giai đoạn quyết định và có hôm tôi ngồi đợi đến gần mười một giờ đêm ở ban biên tập để đợi lấy SÁCH. Về đến nhà thì thường là đã xong đâu, tôi còn phải ăn chút gì đó và cởi quần áo trước khi lăn ra ngủ như chết.

Đúng năm rưỡi, một tiếng chuông xé tai chấm dứt giấc ngủ - tiếng động duy nhất mà tôi không lờ đi nổi. Tôi cố thò một chân ra khỏi chăn và duỗi về hướng đồng hồ báo thức ( được bố trí một cách chiến lược để tôi phải chuyển động mới với tới). Tôi lọ mọ dùng ngón chân tìm nút tắt để sau vài lần ấn trượt thì rồi cũng ngắt được chuông. Cứ sau bảy phút nó lại kêu lần nữa, và đúng 6 giờ 04 tôi hoảng hốt vùng dậy để lao vào nhà tắm.

Tiếp theo là cuộc chiến với tủ quần áo, thông thường từ 6 giờ 30 đến 6 giờ 37. Lily vốn quen đồng phục thống nhất ở trường là quần Jeans, áo pull, dây chuyền sợi gai và dĩ nhiên không phải chuyên gia thời trang; cô luôn ngạc nhiên khi chúng tôi gặp nhau: " Tớ vẫn không rõ cậu mặc đồ gì đến chỗ làm việc? Quần áo của cậu thì okay, nhưng làm sao mặc đến Runway được?"

Tôi không tiết lộ với cô rằng từ mấy tháng nay tôi chủ tâm dậy sớm và lì lợm quyết định sửa đổi phong thái thể thao của mình theo hướng Runway. Sáng nào tôi cũng đứng nửa tiếng trước tủ quần áo, tay cầm tách cà phê lấy trong lò vi sóng ra, lưỡng lự giữa đống bốt và thắt lưng, len và sợi micro. Sau khi thay tất năm lần để chọn được tông màu thích hợp thì mới nhớ ra là không được đi tất. Gót giầy của tôi luôn lùn quá, rộng quá, to quá. Tôi không có lấy một thứ đồ nào bằng len cashmere. Do chưa hề biết khái niệm xi líp dây nên tôi bận rộn rất lâu để chọn cái quần lót nào không hằn vết ra ngoài - một trong những chuyện được ưa đem ra đàm tiếu nhất trong giờ giải lao. Và cho dù đã ngập ngừng nhiều lần nhưng tôi vẫn chưa dám mặc áo không dây đến văn phòng.

Sau ba tháng thì tôi đầu hàng. Mệt mỏi quá. Việc chọn lựa trang phục hằng ngày đã làm tôi kiệt quệ về thể xác lẫn linh hồn. Sáng nào cũng thế, một tay tôi cầm tách cà phê đứng trước tủ, tay kia lục trong đống quần áo ưa thích ngày xưa. Sao phải khổ thế? Tôi tự hỏi. Đơn giản khoát hàng hiệu lên người không nhất thiết có nghĩa là tôi bán rẻ linh hồn mình. Sau khi bị nghe những câu góp ý ngày càng cay nghiệt hơn về vẻ bề ngoài của mình, tôi tự hỏi là liệu mình có vì vậy mà mất việc như chơi. Tôi ngắm mình trong tấm gương cao đến đầu và bật cười: cô gái trong chiếc áo nịt Maidenform ( tôi!) và xi líp vải bông Jockey kia ( cũng là tôi! ) định bước chân vào làng Runway hay sao? Cho vào thùng rác được rồi. Chả gì thì tôi cũng làm việc ở Runway, tạp chí thời trang có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Chỉ ăn mặc sạch sẽ và đứng đắn thôi chưa đủ. Tôi gạt mấy thứ đồ ngán ngẩm sang một bên, lấy ra chiếc váy đen tuýt Prada, áo cổ lọ đen Prada và đôi bốt thấp cổ Prada mà James đưa hôm buổi tối ngồi đợi lấy SÁCH.

" Gì thế?" Tôi hỏi khi mở bao đựng quần áo.

" Đồ để chị mặc. Andy ạ, nếu chị không muốn bị mất việc," anh mỉm cười nhưng tránh nhìn thẳng vào mắt tôi.

" Sao cơ?"

" Thế này nhé. Tôi nghĩ là chị cũng biết rằng kiểu... kiểu ăn mặc của chị không hẳn giống mọi người ở đây. Tôi hiểu, chơi hàng hiệu là thú vui đắt đỏ, nhưng đã có cách. Tôi có rất lắm đồ trong kho quần áo, sẽ chẳng ai nhận ra là chị thỉnh thoảng ... mượn vài thứ." Anh lấy ngón tay ra hiệu cho chữ mượn vào ngoặc kép. " Và đương nhiên là chị cũng nên gọi bên phòng quan hệ đại chúng để lấy thẻ giảm giá khi mua hàng hiệu. Tôi chỉ được giảm giá 30% thôi, nhưng chị làm việc cho Miranda nên tôi không tin là họ tính tiền với chị đâu. Chả có lý do gì để chị cố giữ phong cách... sinh viên của mình cả."

Tôi không muốn phải giải thích là mang đồ Nine West thay cho Manolo hay quần bò trẻ con ở hiệu Macy's chứ không mua ở tầng tám hiệu Barney sang trọng chính để chứng tỏ với mọi người xung quanh là tôi không bị lóa mắt bởi thế giới Runway. Ai xúi James làm việc này với tôi nhỉ? Emily? Hay chính Miranda? Nhưng ai giật dây cũng thế thôi. Nói cho cùng thì tôi đã sống sót qua ba tháng ở Runway, và nếu chiếc áo cổ lọ Prada chứ không phải đồ rẻ của Urban Outfitters giúp tôi vượt qua nốt chín tháng sắp tới thì cũng tốt thôi. Tôi quyết định kể từ hôm nay chỉ mang đồ mới tử tế hơn.

6 giờ 50 tôi ra khỏi nhà và cực kỳ hài lòng với bộ cánh của mình. Mấy gã ở quầy bán quà sáng cạnh nhà huýt sáo theo, và chưa đi tiếp lấy mười bước chân nữa thì một cô gái nói với tôi là cô vẫn băn khoăn từ ba tháng nay trước quyết định mua chính đôi bốt của tôi. Mi sẽ thích tình trạng này, tôi nghĩ bụng. Nói cho cùng thì chẳng ai trần truồng đi làm cả, cũng phải mặc thứ gì đó lên người, và mang đồ này tôi cảm thấy cao cấp hơn hẳn những quần áo ngày xưa của mình. Đến góc phố tôi lên taxi, lần này không phải vì trường hợp khẩn cấp nữa mà thành thói quen. Trong xe ấm áp dễ chịu nhưng tôi quá mệt mỏi để có sức mà vui mừng khi không phải chen chúc lên tàu điện ngầm với những người đi làm khác. Tôi nói khản đặc: " 640 Madison, nhanh lên nhé." Người lái xe nhìn tôi trong gương hậu - tôi thề là với ánh mắt đồng cảm - và hỏi: " Tòa nhà Elias Clark, đúng không?" Anh nhấn ga. Xe lao vun vút lên phố 97, rẽ qua Lex, bay xuyên qua hàng đèn của phố 59 về hướng Tây đến Madison. Sau đúng sáu phút - giờ này xe cộ thưa thớt - taxi phanh kít trước khối bê tông cao vút mảnh mai mà những người làm trong đó có vẻ muốn ganh đua thân hình với nó. Giá taxi hôm nào cũng 6,40 dollar, tôi đưa lái xe tờ 10 dollar và nói: " Cứ giữ chỗ tiền thừa." Và cũng như mọi hôm, tôi vui mừng nhìn bộ mặt ngạc nhiên và vui mừng của anh ta. " Runway cám ơn."

Cũng là chuyện thường. Sau tuần đầu tiên ở Runway tôi đã nhận ra thanh toán công tác phí không phải là mặt mạnh của Elias Clark. Ngày nào cũng 10 dollar tiền taxi? Không sao cả. Các công ty khác ắt sẽ kiểm tra xem tôi có được phép đi taxi đến chỗ làm không. Ở Elias Clark người ta chỉ ngạc nhiên tại sao tôi sử dụng mấy cái taxi vớ vẩn mà không gọi xe của công ty đến đón. Mỗi ngày xơi của Runway 10 dollar làm tôi cực kỳ khoái chí, cho dù công ty coi đó như muỗi đốt sắt. Người khác có thể cho là một dạng phản kháng ngầm, tôi gọi việc này là tái phân chia thu nhập.

Sung sướng vì ít nhất cũng làm cho một người vui vẻ bắt đầu ngày làm việc, tôi nhảy khỏi xe và đi về hướng 640 Madison. Tòa nhà tuy tên là Elias Clark Building nhưng phân nửa diện tích cho JS Bergmann, nhà băng danh tiếng nhất thành phố, thuê. Tuy hai bên không chung chạ gì, ngay cả thang máy cũng tách riêng, nhưng không tránh khỏi các nhân viên nhà băng phong lưu và người đẹp của làng thời trang cắt đường nhau ở tiền sảnh và để mắt nhòm ngó nhau.

Tôi đang thầm chuẩn bị cuộc trạm trán hằng ngày với Eduardo thì một giọng mệt mỏi và chán nản từ sau lưng làm tôi bất ngờ: " Ê, Andy! Khỏe không? Lâu ngày không gặp." Tôi quay lại thấy Benjamin, một trong vô số bạn trai ngày xưa của Lily ở trường đại học. Anh ngả người đánh phịch bên cạnh cửa vào tòa nhà, thậm chí có vẻ không phiền lòng là mình đang ngồi bệt trên vỉa hè. Anh chỉ là một trong nhiều bạn trai của Lily, nhưng là người đầu tiên mà Lily mến thực sự và chân thành. Tôi không hề tiếp xúc với Benji ( anh rất ghét bị gọi như thế ) từ khi Lily bắt quả tang anh ta với hai cô gái đang nằm ườn trong phòng ký túc xá. Hai cô này cùng hát với Lily ở dàn đồng ca accapella, một giọng cao và một giọng trầm, sau đó không dám nhìn thẳng vào mắt Lily nữa. Tôi cố giải thích cho Lily là họ chỉ định đùa ác, nhưng cô không tin và khóc ti tỉ mấy ngày liền, sau đó bắt tôi hứa không được kể cho ai chuyện mà cô phát hiện ra. Tôi giữ lời, bù lại thì Benji rêu rao khắp nơi thành tích đã " đóng đinh hai con bé xướng ca vô loài" trong khi "con bé thứ ba ngồi nhìn," cứ như là Lily tự nguyện chiêm ngưỡng màn diễn của sư phụ. Sau vụ này Lily thề không bao giờ thèm yêu nữa, và cho đến nay có vẻ như cô vẫn trung thành với lời thề đó. Cô lôi nhiều chàng lên giường, nhưng cũng tống tiễn họ ra cửa sớm vì sợ nhỡ đâu lại sa vào mê lộ của tình yêu.

Tôi nhìn xuống anh, cố tìm lại Benji ngày xưa trên khuôn mặt này. Anh ấy là người thể thao và lanh lợi như trăm nghìn người khác. Nhưng công việc ở Bergmann đã vắt kiệt anh. Bộ com lê của anh nhàu nhĩ và rộng thùng thình, anh rít điếu Marlboro một cách thèm khát như bị ma túy vật. Mặc dù mới bảy giờ nhưng trông anh đã mệt rũ, vẻ ngoài tàn tạ ấy làm tôi thấy trong người phấn chấn hơn. Vì nó cũng là một dạng trả đũa cho sự điểu cáng của anh đối với Lily và tôi không phải là đứa ngu xuẩn duy nhất phải đi làm vào lúc nhọ mặt người này. Chắc anh ta được trả mỗi năm 150.000 dollar để xuống dốc thê thảm như vậy, nhưng kệ xác.

Benji vẫy tôi với điếu thuốc trong tay, ra hiệu gọi tôi lại, đầu thuốc vẽ một vòng sáng trong bóng tối nhập nhoạng của buổi sớm mùa đông. Tôi ngập ngừng vì không muốn đến muộn, nhưng Eduardo đã phát tín hiệu " không lo, bà ấy chưa đi làm đâu, cứ bình tĩnh" và tôi đi ra chỗ Benji. Trông anh lờ đờ và tuyệt vọng. Rõ ràng anh cho là anh có một ông sếp hà khắc. Nếu như anh biết mọi chuyện! Tôi suýt phá ra cười.

" Này, tôi nhận thấy hằng ngày chị là người duy nhất đến làm việc sớm như vậy," anh lầm bầm nói trong khi tôi lục lọi túi xách tìm thỏi son môi trước khi đi tới thang máy. " Tại sao thế?"

Trông anh mệt mỏi và kiệt quệ làm lòng tôi trào lên chút thương cảm. Nhưng tôi cũng mệt chết đi được, và tôi nhớ lại vẻ mặt của Lily khi được một người trong số bạn thể thao của Benji hỏi là lúc xem mấy người kia làm tình có thích không hay cũng muốn tham gia, và chút thương cảm ấy cũng biến mất luôn.

" Tại sao à? Vì tôi làm việc cho một bà sếp có đòi hỏi rất khắc nghiệt nên phải đến sớm hơn tất cả mọi người ở tòa báo những hai tiếng rưỡi để chuẩn bị mọi việc," tôi đáp với giọng đầy cay nghiệt.

" Thôi, tôi chỉ hỏi thôi mà, xin lỗi chị. Nhưng nghe có vẻ tệ quá, chị làm cho báo nào vậy?"

" Tôi làm cho Miranda Priestly," tôi nói và cầu mong đừng thấy phản ứng gì. Tôi luôn thích thú khi gặp một người tương đối có đầu óc mà chẳng hề biết Miranda là ai cả, thích lắm. Cực kì thích là đằng khác. Và quả thật, lần này Benji không làm tôi thất vọng. Anh nhún vai, hít một hơi thuốc và nhìn tôi dò hỏi.

" Bà ấy là tổng biên tập tờ Runway," tôi hạ giọng và khoái trá kể tiếp, " và là mụ già ghê gớm nhất mà tôi từng gặp. Trước đó tôi không tưởng tượng ra có loại người như thế, thậm chí không phải là người nữa." Tôi chỉ muốn tuôn hết bài ca thán về bà ta cho Benji nghe, nhưng trước khi hăng hái vào cuộc thì cơ chế thụt vòi ở Runway đã lại thắng thế. Lập tức tôi luống cuống, thậm chí khiếp sợ rằng con người ngây ngô và lãnh đạm kia biết đâu là tay sai của Miranda hay cây bút của một tờ lá cải kiểu Observer và Page Six đến săn tin. Tôi biết đó là chuyện ngớ ngẩn và vô lý, vì tôi quen Benji từ nhiều năm nay và tin chắc rằng anh ta không làm việc cho Miranda ở bất kỳ tư cách nào. Nhưng sao mà tuyệt đối yên tâm được? Có thể ai đó sau lưng trong mấy giây vừa rồi đã nghe thấy những lời độc địa của tôi thì sao? Phải bắt tay vào hạn chế thiệt hại ngay mới được.

" Tất nhiên, bà ấy LÀ người phụ nữ có quyền lực nhất trong giới thời trang và xuất bản, và không ai suốt ngày dịu dàng phân phát bánh kẹo mà leo lên được đỉnh cao của hai lĩnh vực chính yếu ấy của New York City. Vào địa vị bà ấy thì tôi cũng làm thế. Thôi nhé, tôi phải đi đây. Tạm biệt." Thế là tôi biến luôn, hệt như khi nói chuyện với ai đó trong những tuần qua. Chỉ khi tán gẫu với Lily, Alex hay bố mẹ là tôi mới thoải mái chửi bới mụ phù thủy ấy.

" Đừng phiền muộn quá đáng như thế, Andy," Benji gọi với theo khi tôi đi về phía thang máy. " Tôi ngồi từ sáng thứ Năm ở đây rồi cơ," anh thả rơi mẫu thuốc xuống đất và hờ hững dí mũi giầy lên.

"Chào Eduardo," tôi nói và nhìn ông với cặp mắt mệt mỏi cố toát ra cảm xúc. "Sao mà tôi ghét những ngày thứ Hai thế."

"Kìa cục cưng, đừng bực bội thế. Ít nhất thì hôm nay chị cũng đến sớm hơn sếp," ông mỉm cười. Ông ám chỉ những buổi sớm chết tiệt mà Miranda xuất hiện từ năm giờ sáng và đòi có bảo vệ đưa lên tầng vì bà không bao giờ chịu đem thẻ thông hành theo người. Rồi bà lồng lộn đi lại trong văn phòng và nhấc điện thoại, liên tục tấn công tôi và Emily cho đến khi một trong hai chúng tôi vùng dậy mặc quần áo và phi đến chỗ làm việc, cứ như là vừa ban bố tình trạng khẩn cấp toàn quốc.

Tôi ấn vào cửa xoay, hy vọng vào ngày thứ Hai này được ông ta cho qua mà không cần rút thẻ. Nhầm to.

"Yo, tell me what you want, what you really, really want," ông hát với nụ cười toe toét và pha khẩu ngữ Tây Ban Nha. Thế là tiêu tan mọi niềm vui của tôi từng làm người lái taxi sung sướng và đến văn phòng sớm hơn Miranda. Như mọi hôm, tôi điên tiết đứng trước cửa xoay và chỉ muốn vặn cổ Eduardo. Nhưng vì tôi là người dễ tính và Eduardo thuộc vào nhúm bạn bè ít ỏi trong tòa nhà này nên tôi cắn răng phục tùng số phận: "I'll tell you what I want, what I really, really want, I wanna - I wanna - I wanna - I wanna - I really, really wanna zigga zig aaaaahhhh," tôi ngoan ngoãn tỏ lòng kính trọng với ca khúc đỉnh của Spice Girls hồi thập kỷ 90. Và Eduardo ngoác miệng cười, ấn nút cho tôi qua.

"Nhớ ngày mười sáu tháng Bảy đấy," ông gọi theo.

"Tôi biết rồi, mười sáu tháng Bảy..." tôi đáp lại, nhớ rằng đó là hôm chúng tôi cùng có sinh nhật. Không rõ bằng cách nào mà ông ta biết ngày sinh của tôi trùng với ông. Vì lý do nào đó, chuyện này trở thành một phần trong nghi lễ hàng ngày của riêng chúng tôi, thật ngớ ngẩn.

Tòa nhà phía công ty Elias Clark có tám thang máy, một nửa cho các tầng từ một đến mười bảy, nửa kia cho các tầng trên. Thật ra chỉ có bốn thang máy đầu tiên là quan trọng vì ban biên tập của các tạp chí danh tiếng nhất đều ở mười bảy tầng dưới. Trên các cửa thang máy có biển lớn sáng đèn, chỉ rõ địa chỉ từng văn phòng. Ở tầng hai là một phòng tập thể hình cực hiện đại cho nhân viên sử dụng miễn phí, trong đó có đủ kỹ thuật tối tân như máy luyện cơ chống đau lưng, tối thiểu một trăm máy tập leo thang, băng chạy và máy đạp xe. Chưa kể đến phòng tắm khô, bồn tắm kiểu Nhật, xông hơi, bên cạnh khu vực thay quần áo là phòng chăm sóc sắc đẹp, khi cần có thể chăm sóc móng tay móng chân hay đắp mặt nạ. Thậm chí người sử dụng không cần đem khăn riêng theo, nhưng đó là tôi nghe kể lại mà thôi - không chỉ vì tôi chẳng có thì giờ, mà còn vì từ sáu giờ sáng đến mười giờ tối ở đây chật cứng, không có chỗ đặt chân. Bất kể người viết bài, biên tập viên hay trợ lý kinh doanh đều phải gọi điện trước ba ngày để đặt chỗ ở lớp Yoga hay tập võ, nhưng vẫn có nguy cơ bị mất chỗ nếu không đến sớm mười lăm phút trước giờ vào lớp. Như hầu hết mọi lời mời nhằm cải thiện cuộc sống của nhân viên Elias Clark, tôi thấy tập luyện ở đây chỉ gây thêm stress.

Tôi cũng nghe phong phanh là ở tầng trệt có nhà gửi trẻ, nhưng tôi chẳng quen ai có con cả nên chưa biết thông tin đó có chính xác không. Tầng ba mới thực sự đáng chú ý với phòng căng tin. Miranda không đặt chân tới đó bao giờ, trừ những lần hẹn ăn trưa với Irv Ravitz, chủ tịch hội đồng quản trị của Elias Clark - ông thích ra vẻ thân mật dùng bữa cùng với nhân viên của mình.

Thang máy lên cao, cao nữa, lướt qua các danh vị khả kính. Hầu hết trong số họ dùng chung tầng, nhưng khu lễ tân thì tách riêng hẳn. Tôi ra khỏi thang máy trên tầng mười bảy, liếc nhìn bóng mình phản chiếu trong kính. Ở 640 Midison các kiến trúc sư nhạy cảm và thiên tài đã bỏ hẳn giương trong thang máy! Lại lần nữa tôi quên cái thẻ thông hành - vốn sinh ra để theo dõi mọi chuyển động, mua bán và hiện diện của chúng tôi trong tòa nhà - nên chỉ còn cách đột nhập vào văn phòng thôi. Sophy thì chín giờ mới đến, tôi phải tự lực vậy. Tôi luồn xuống dưới mặt quầy, ấn nút mở cửa và lấy đà lao qua khe cửa trước khi tấm kính tự đóng lại. Nhiều hôm tôi cần đến ba, bốn lần thử mới qua được cửa, hôm nay hai lần là đủ.

Như mọi hôm, tôi đi qua hành lang giờ này còn tối om đến phòng mình. Bên trái là ban quảng cáo, nơi các nữ nhân viên ưa diện T-shirt hiệu Chloé và bốt cao gót chạy đi chạy lại phân phát danh thiếp in chữ "Runway" to tướng. Họ sống và làm việc trong một thế giới riêng, chẳng dính dáng gì đến nửa bên kia hành lang dành cho bộ phận biên tập. Ban biên tập lựa ra mẫu quần áo cho các trang mốt, tìm cách lôi kéo các cây bút giỏi, thống nhất phụ kiện với trang phục, sửa bài, trang trí đồ họa và mời thợ nhiếp ảnh. Biên tập viên đến mọi ngóc ngách đẹp nhất thế giới để bố trí chụp hình, được các nhà tạo mốt dúi cho đủ quà tặng và phiếu giảm giá, bám sát các xu hướng thời trang cũng như mọi sự kiện quan trọng, vì họ "phải điều tra xem ai mặc gì".

Bộ phận kinh doanh quảng cáo có nhiệm vụ bán diện tích đăng quảng cáo. Đôi khi họ tổ chức lễ hội, nhưng do chưa có nhân vật danh tiếng nào xuất hiện ở đó nên chẳng dân New York có máu mặt nào (như Emily cay độc tiết lộ cho tôi biết) thèm đến. Tôi chỉ biết đến các buổi tiệc ấy khi người ngoài kể lại, khi điện thoại réo chuông suốt ngày vì những nhân vật tầm tầm hy vọng tôi kiếm hộ giấy mời. "Nghe nói Runway tổ chức tiệc, sao tôi không có giấy mời nhỉ?" Các biên tập viên không khi nào có giấy mời, vì đằng nào thì chúng tôi cũng không đến. Lũ đàn bà ở Runway chuyên khinh miệt, khủng bố và kỳ thị người ngoài, nhưng vẫn chưa đủ, họ còn tự dựng những rào cản giữa các thứ bậc nội bộ.

Sau bộ phận kinh doanh quảng cáo là một hành lang hẹp, dài hun hút, dẫn đến một phòng bếp nhỏ xíu. Ở đây có đủ loại trà, cà phê, thậm chí cả một tủ lạnh cho những người đem bữa trưa từ nhà đến. Dịch vụ này lẽ ra là thừa, từ khi Starbucks độc quyền cung cấp cà phê hằng ngày, các bữa ăn được cẩn thận lấy từ căng tin hay từ hàng nghìn dịch vụ cơm hộp trong thành phố. Nhưng căn bếp có gì đó dễ thương, dường như Elias Clark muốn nói: " Xem này, chúng tôi lo mọi bề cho nhân viên! Ở đây có trà Lipton, đường ăn kiêng, cả lò vi sóng để hâm món để lại từ đêm qua! Chúng ta là người nhà cả mà!"

Đúng 7 giờ 05 thì tôi cũng vào đến ốc đảo của Miranda, mệt không lê nổi bước nữa. Công việc đầu tiên hằng ngày là mở khóa phòng Miranda. Tôi nhìn ra ngoài trời còn tối, ngắm ánh điện của New York City và thấy mình như đang trong một cuốn phim (có các cặp tình nhân ôm nhau trên sân thượng bao la của căn hộ sáu triệu dollar với tầm nhìn ra sông), trên đỉnh cao thế giới, để khi ấn nút bật hết đèn lên thì giấc mơ ngày của tôi cũng chấm dứt cùng với cảm giác thăng hoa trong thành phố New York của mọi khả năng vô tận, thay vào đó là ảnh khuôn mặt cười giống nhau như đúc của cặp song sinh Caroline và Cassidy.

Tiếp theo là mở khóa tủ tường ngoài sảnh, nơi tôi treo chiếc măng tô thú của Miranda (hoặc măng tô của tôi, nếu hôm đó bà không tình cờ mặc lông thú. Miranda không ưa để áo của bà treo bên cạnh áo len mạt hạng của Emily hay của tôi) và cất giữ vô số các đồ khác: măng tô và quần áo bị loại bỏ có giá trị hàng chục nghìn dollar, đồ giặt là để đưa đến nhà Miranda, tối thiểu 300 chiếc khăn trắng Hermès khét tiếng. Emily cho biết là cô đã quyết định mua hết loại khăn này mà hồi đó có thể tìm được. Cô giải thích rằng nhờ vậy Miranda không bao giờ thiếu khăn và chúng tôi sẽ tránh được tình cảnh hốt hoảng đi mua sắm khi cần. Với cách suy luận đơn giản đó, cô mua hết 500 chiếc khăn tại toàn bộ thị trường Mỹ và Pháp. Tôi còn chưa kể với ai là đã mở một bức thư của ban lãnh đạo công ty Hermès từ Paris gửi đến cho "Madame Priestly," họ lải nhải dài dòng về niềm hân hạnh được Miranda chọn dùng khăn quàng của mình, rằng bà đã tôn vinh mác Hermès nhiều hơn bà tưởng, và họ vô cùng áy náy khi không còn sự lựa chọn nào khác là phải dùng mẫu hàng hơi khác mẫu mà bà vẫn ưa dùng. Trong phong bì có nửa tá mẫu lụa trắng kèm với mẫu Miranda vẫn thích xưa nay - một nghĩa cử xoa dịu nỗi bực dọc của Miranda trong giai đoạn khó khăn này. Tôi săm soi đến hai mươi phút mà không nhận ra sự khác biệt nào giữa các mẫu vải, nhưng tôi biết, Miranda liếc qua là nhận ra ngay. Đương nhiên là bức thư và mẫu vải vẫn nằm dưới đống giấy tờ vô thưởng vô phạt trong ngăn bàn tôi, thực sự tôi không biết làm gì khi chỗ khăn dự trữ bị dùng hết.

Miranda vứt khăn khắp nơi: ở nhà hàng, rạp phim, nơi trình diễn thời trang, phòng họp hay trên taxi. Bà bỏ quên chúng trên máy bay, ở trường của lũ trẻ hay sân tennis. Tất nhiên không bao giờ bà ra khỏi nhà mà lại thiếu chiếc khăn Hermès sang trọng, điều đó không có nghĩa là bà biết chúng biến đâu mất. Hay là bà sử dụng chúng như khăn giấy? Nhất định bà cho rằng đây là sản phẩm dùng một lần rồi vứt đi, và không ai dám cải chính! Elias Clark trả hàng trăm dollar cho mỗi chiếc khăn, còn Miranda tiêu thụ chúng nhanh như khăn giấy. Nếu bà còn tiếp tục như thế thì hai năm nữa là chẳng còn lấy một chiếc mà dùng.

Trong tủ tường vẫn còn nhiều hộp bìa cứng màu da cam. Cứ ba, bốn hôm một lần, khi đi ăn là Miranda lại gọi: "Aaa-dree-aa, tôi cần khăn mới." Niềm an ủi lớn của tôi là khi chỗ khăn này đã hết sạch thì tôi cũng đã biến khỏi đây từ lâu rồi. Người kế nhiệm mà tôi chưa biết sẽ là kẻ bất hạnh phải thông báo cho Miranda biết rằng không còn khăn quàng Hermès trắng nữa. Chỉ nghĩ đến đã thấy khiếp.

Tôi chuẩn bị xong mọi thứ thì Yuri gọi điện.

"Andrea? A lô, a lô. Yuri đây. Chị xuống tầng trệt được không? Tôi đang ở phố 58 gần Park Avenue, trước New York Sports Club."

Cho dù không chắc chắn tuyệt đối, cuộc gọi là một thông báo hữu hiệu rằng Miranda sắp đến nơi rồi. Có thể thế. Phần nhiều bà cho Yuri đến trước để đưa đồ giặt, báo, các bài viết bà đã biên tập ở nhà, giày và túi đem đi sửa, và cuốn SÁCH. Tôi khuân đống đồ ấy lên gác và làm mọi việc cần thiết để bà không bị quấy rầy bởi mấy chuyện vặt vãnh. Bình thường thì bà đến sau đó khoảng nửa giờ. Yuri giao đồ cho tôi rồi quay lại ngay để đón bà.

Không rõ Yuri đón bà ở đâu, vì như Emily kể thì bà không ngủ bao giờ. Thoạt tiên tôi không tin, cho đến một hôm tôi đi làm trước Emily và phải nghe các tin nhắn trong hộp thoại. Mỗi đêm, không hề có ngoại lệ, từ một đến sáu giờ sáng Miranda gửi cho chúng tôi tám đến mười tin nhắn khá mập mờ, đại loại như: "Cassidy thích một cái túi nylon như bọn con gái bây giờ hay dùng. Chị đặt mua một cái cỡ trung bình, màu mà nó vẫn thích," hay: "Tôi cần số điện và địa chỉ của cửa hàng đồ cổ ở giữa phố 70 và phố 80 có cái tủ cánh cong mà tôi đã thấy." Cứ làm như chúng tôi đương nhiên phải biết trẻ con mười tuổi dạo này thích mốt túi nylon nào, hoặc cửa hàng nào trong số hàng trăm cửa hàng đồ cổ có thứ hàng nào đó mà bà đã nhìn thấy. Tuy nhiên sáng nào tôi cũng ngoan ngoãn chép lại các tin nhắn từ băng ghi âm - một việc không đơn giản, vì tôi phải tua đi tua lại đoạn băng hàng chục lần mới hiểu được giọng Anh của bà cũng như tinh thần của các mệnh lệnh mà không phải trực tiếp hỏi lại cho rõ.

Có lần tôi đã phạm sai lầm khi đề nghị Emily gọi Miranda hỏi lại, và hình phạt là tia nhìn giết người của cô. Trực tiếp hỏi Miranda cho rõ chuyện là một việc không tưởng. Tốt nhất là cứ lọ mọ làm tiếp và sau đó nghe chửi vì lại hiểu sai lệnh. Tôi mất hai ngày rưỡi đi tìm cái tủ đồ cổ cánh cong mà Miranda thích, bắt xe chở đi vòng quanh Manhattan và chạy dọc hai chiều công viên. Bỏ qua đại lộ York (toàn nhà ở) lên phố 1, xuống phố 2, lên phố 3, xuống Lex. Bỏ qua Park (cũng toàn nhà ở) nhưng vẫn lên Madison rồi lặp lại từ đầu bên West Side. Trong tay bút giấy lăm lăm, mắt như cú vọ, sổ điện thoại mở sẵn trên đùi và sẵn sàng lao ra khi thấy một cửa hàng bán đồ cổ. Tôi đích thân vào từng cửa hàng kể cả nhiều hiệu bán đồ mới. Tới hiệu thứ tư thì tôi đã tìm ra kỹ thuật hỏi.

"Xin chào, ở đây có tủ cánh cong cổ không ạ?" Vừa qua cửa là tôi đã réo lên. Tới cửa hàng thứ sáu, tôi dừng chân ngoài cửa. Một con bé bán hàng nhìn tôi từ đầu xuống chân - chuyện dễ hiểu! - ước lượng xem có bõ công trả lời tôi không. Sau đó thì đa số cũng nhìn thấy chiếc Limousine đợi tôi ngoài đường và miễn cưỡng đáp "có" hay "không". Vài người khác còn bắt tôi miêu tả chi tiết loại tủ muốn tìm.

Nếu họ có đồ gỗ đúng như tôi hỏi bằng hai từ (tủ + cổ) tôi tiếp ngay: "Miranda Priestly hôm nọ mới vào đây phải không ạ?" Ai trước đó chưa đoán là tôi dở hơi thì bây giờ cũng chuẩn bị gọi cảnh sát. Nhiều người chưa nghe tên ấy bao giờ, tôi càng vui vì hai lẽ: thứ nhất là tôi được gặp những người bình thường, cuộc đời họ không bị Miranda chế ngự, sau nữa là tôi có thể đi ngay mà không phải tranh luận dài dòng. Những người ngô nghê có biết tên Miranda thì dỏng ngay tai lên. Nhiều khi họ muốn biết tôi là phóng viên cho tờ lá cải nào. Dù cho tôi bịa ra chuyện gì thì cũng chẳng ai thấy mặt bà ở cửa hàng của họ (trừ ba cửa hàng đã không thấy mặt bà từ vài tháng rồi, ôi, sao lâu quá chưa thấy đến lại! Xin chuyển lời chào nồng nhiệt của Franck/Charlotte/Sarabeth nhé!)

Sau khi hoài công đi tìm, trưa ngày thứ ba Emily bật đèn xanh cho phép tôi đến văn phòng hỏi Miranda lần nữa. Xe đỗ trước tòa nhà là tôi đã túa mồ hôi, và khi Eduardo không mở ngay cửa xoay thì tôi dọa sẽ trèo qua. Tôi lên tầng, áo ướt đẫm, tay run rẩy khi vào đến văn phòng, lúng túng quên tiệt những câu đã sắp sẵn trong óc để trình bày (Chào Miranda, tôi khỏe, xin cám ơn. Bà có khỏe không? Vâng, tôi muốn trình bày là tôi đã vất vả đi tìm cửa hàng đồ cổ như bà nói nhưng không gặp may. Bà có thể cho biết là nó bên Tây hay Đông Manhattan được không ạ? Hay bà nói lại lần nữa tên cửa hàng là gì ạ?). Thay vì viết ra giấy các câu hỏi và đem nộp như thường lệ, tôi xin gặp bà trực tiếp ở bàn giấy, và - có lẽ bị bất ngờ vì tôi không được hỏi mà vẫn lên tiếng - bà đồng ý cho gặp. Phần cuối tôi tóm gọn lại như sau: Miranda thở dài và chặc lưỡi và chán nản một cách lịch thiệp rất riêng của bà, rốt cuộc bà mở cuốn sổ da Hermès màu đen ghi kế hoạch (buộc bằng chiếc khăn Hermès trắng một cách bất tiện nhưng rất đẹp) và lấy ra... tấm danh thiếp của cửa hàng.

"Aan-dree-aa, tôi đã đọc địa chỉ cửa hàng cho chị vào băng rồi mà. Tôi nghĩ là khó khăn gì mà chị không chép lại chứ?" Tôi ước gì được vớ lấy tấm thiếp và quật lên mặt bà ta, song chỉ lẳng lặng gật đầu nghe lời trách cứ. Khi nhìn thấy địa chỉ trên thiếp, thiếu chút nữa thì tôi phát điên: 244 phố 68! Thảo nào tôi không tìm ra. Tôi mất toi ba mươi ba tiếng đồng hồ đi tìm cửa hàng ở một khu phố khác hẳn!

Tôi cứ nghĩ đến chuyện này trong khi chép lại những tin nhắn đêm qua của bà. Sau đó tôi vội xuống tầng trệt để nhận đồ ở chỗ hẹn với Yuri. Mỗi sáng ông báo chính xác địa điểm đỗ xe, nhưng tôi có nhanh chân đến mấy thì khi xuống đến nơi Yuri cũng đã lấy hết đồ khỏi xe và khuân vào nhà để tôi đỡ mất công tìm ông lâu. Hôm nay cũng thế. Ông đã đứng đợi tôi như một người ông hiền từ ở tiền sảnh trước cửa xoay, tay ôm đầy túi nylon, quần áo và sách báo.

"Đừng chạy nhanh thế, nghe chưa," ông nói đặc giọng Nga. "Suốt ngày tôi thấy chị chạy và chạy và chạy, chị vất vả quá đấy. Vì vậy tôi đem đồ tận tay cho chị," ông giúp tôi chất hết các túi và hộp lên tay. "Chị là một cô bé ngoan, nghe chưa. Chúc chị một ngày tốt lành."

Tôi nhìn ông đầy hàm ơn, ngó qua Eduardo với tia mắt nửa đùa nửa thật báo hiệu tôi sẽ bóp cổ ông nếu ông lại định bắt tôi diễn trò như mọi hôm, và bằng lòng thấy Eduardo nhấn nút cho tôi qua cửa xoay mà không nói một lời nào. Lạ lùng là tôi nhớ đảo qua quầy Ahmed để nhận báo. Mặc dù phòng báo chí cứ chín giờ sáng là chuyển báo cho Miranda, tôi vẫn phải lấy thêm một tập để bảo đảm cho bà không phải ngồi ở bàn lấy một giây thiếu báo đọc. Các tuần san cũng thế. Dường như không ai ngạc nhiên khi chúng tôi mua mỗi ngày chín tờ nhật báo và mỗi tuần bảy tạp chí cho bà sếp vốn chỉ quan tâm tới cột buôn chuyện và thời trang.

Trước hết tôi đẩy tất cả xuống gầm bàn, vì đã đến giờ đặt hàng rồi. Tôi quay số đã thuộc lòng của cửa hàng điểm tâm cao cấp Mangia ở trung tâm. Như mọi khi, Jorge nhấc máy.

" Chào ông anh, em đây," tôi kẹp ống nghe dưới cằm để rảnh tay kiểm tra e-mail. " Ta bắt đầu nào." Jorge và tôi rất thân nhau. Sáng nào cũng gọi điện cho nhau bốn, năm lần thì người ta dễ thành bạn.

" Chào bé con. Anh cho một cậu đến ngay chỗ cô đây. Bà ấy đến chưa?" Anh hỏi. Dù biết " bà ấy" là bà sếp điên dở của tôi và làm ở Runway, nhưng chắc anh không rõ người sắp dùng đồ ăn sáng mà tôi vừa đặt là người như thế nào. Jorge là một trong những người mà tôi ưa gọi điện buổi sáng. Eduardo, Juri, Jorge và Ahmed đảm bảo cho ngày làm việc khởi đầu tử tế. Điểm hay nhất ở họ là thật ra họ chẳng liên quan gì tới Runway, dù là sự tồn tại của họ có vẻ như chỉ xoay quanh việc kiến tạo cuộc sống hoàn hảo cho bà sếp của tôi. Không ai trong họ mảy may biết gì về quyền lực và danh tiếng của Miranda.

Gói quà sáng đầu tiên chỉ mấy giây sau là lên đường tới 640 Madison, song chắc cũng bị ném vào thùng rác ngay. Mỗi sáng Miranda dùng bốn lát ba chỉ dày mỡ, hai xúc xích nhỏ, pho mát, và cho tất cả xuống dạ dày theo một cốc cà phê sữa to đùng của Starbucks ( nhớ thêm hai viên đường mía!) Ở văn phòng, mọi người tranh cãi nhau về chuyện này. Người thì bảo Miranda luôn theo chế độ ăn kiêng kiểu Atkins, người khác cho rằng bà là người hạnh phúc vì bộ gene trao đổi chất siêu việt. Dù thế nào thì bà cũng không tăng lấy một gam trong khi ăn những đồ nhiều mỡ nhất, nhiều đường nhất, bổ béo nhất thế giới - một tội lỗi mà không người bình thường nào dám phạm. Vì quà sáng chỉ giữ nóng tối đa được mười phút, tôi liên tục đặt mới cho đến khi bà có mặt, đồ cũ cho vào thùng rác. Đã có lần tôi làm nóng lại trong lò vi sóng, chỉ mất có năm phút thôi ( nhưng đã bị gọi: Aan-dree-aa, tởm quá. Chị lấy cho tôi đồ tươi đi.") Cứ khoảng hai mươi phút là tôi lại đặt đồ mới, cho đến khi bà gọi từ điện thoại di động sai tôi đặt đồ ăn sáng ( Aan-dree-aa, tôi sắp đến văn phòng. Gọi quà sáng đi.")

Điện thoại đổ chuông. Giờ này chỉ có thể của Miranda.

" Văn phòng Miranda Priestly đây", tôi ríu rít, không mong đợi gì tốt lành.

" Emily, mười phút nữa tôi đến nơi, chị nhớ làm quà sáng sẵn sàng."

Bà đã quen gọi cả hai chúng tôi cùng là Emily, qua đó cho thấy - hoàn toàn có lý - hai người chẳng khác nhau điểm nào và hoàn toàn có thể tráo cho nhau được. Tôi thấy khá bị xúc phạm, tuy đến hôm nay cũng đã quen dần. Thêm nữa là cũng quá mệt mỏi để thực sự bực mình vì mấy trò vặt vãnh như bị gọi sai tên.

" Vâng, Miranda, xong ngay." Nhưng bà đã chấm dứt. Emily chính cống bước vào văn phòng.

"Ê, Miranda đến chưa?" Cô thì thào.Như mọi khi, cô len lén ngó về phía cửa phòng Miranda và không thèm phí một câu chào, giống hệt sếp.

" Không, nhưng vừa gọi điện báo là mười phút nữa đến nơi. Tôi quay về ngay."

Tôi đút điện thoại và bao thuốc vào túi áo khoác và lao ra ngoài. Mười phút, không hơn không kém, tôi có đúng chừng ấy thời gian để xuống tầng dưới, chạy qua quảng trường Madison đi mua cà phê rồi quay lại bàn giấy - dọc đường còn kịp rít điếu thuốc ngon lành đầu tiên trong ngày. Di tắt mẩu thuốc, tôi luôn vào hiệu Starbucks góc phố 57 vá Lex. Tôi ngắm hàng người mua: nếu không nhiều hơn tám người thì tôi xếp hàng như một khách hàng bình thường. Nhưng hầu như hôm nào cũng như hôm nay, có đến hai chục người lao động tội nghiệp hoặc nhiều hơn đang xếp hàng đợi liều cafein đẳt đỏ, và tôi phải chen hàng. Chẳng hay ho gì trò này, nhưng hình như Miranda không chịu hiểu là người ta không chỉ từ chối đưa cà phê sữa của bà đến tận nơi mà lúc đông người tôi mất đến nửa tiếng mới đến lượt. Mấy tuần liền tôi bị bà hành hạ qua điện thoại di động ( Aan-dree-aa, tôi không thể hiểu được. Tôi gọi chị trước hai mươi lăm phút là tôi sắp đến, thế mà quà sáng vẫn chưa xong. Không thể chấp nhận được.") Tôi xin gặp cô chủ cửa hàng.

" Chào bà, cám ơn chị có vài phút tiếp chuyện," tôi nói với người phụ nữ da đen nhỏ nhắn. " Tôi biết là chuyện này nghe hơi kỳ quái, tôi chỉ muốn hỏi chị, liệu có cách nào đó để tôi được phục vụ nhanh hơn một chút không?" Tôi lấy hơi để giải thích rằng tôi làm việc cho một bà sếp quan trọng và cứng đầu, không chấp nhận phải đợi cốc cà phê sáng. May quá. Cô chủ hiệu Marion đang học thêm buổi tối ở lớp tạo mốt.

" Trời ạ, tôi không nghe nhầm chứ? Chị làm việc cho Miranda Priestly? Và bà ấy dùng cà phê sữa của hiệu tôi? Cốc lớn? Sáng nào cũng thế? Thế mà tôi không biết. Vâng, vâng, tất nhiên rồi. Được ngay thôi. Tôi sẽ nói với nhân viên là chị luôn luôn được phục vụ đầu tiên. Chị không phải bận tâm gì cả. Bà ấy là nhân vật số một trong giới thời trang đấy," Marion hăng hái nói, và tôi cũng cảm ơn nồng nhiệt.

Và thế là tôi được thản nhiên lướt qua mặt những người New York mệt mỏi, cáu kỉnh và tự mãn đang rồng rắn xếp hàng từ lâu. Tôi chẳng vui thú hay kiêu hãnh gì, thậm chí còn ghét mỗi khi phải làm trò này, nhất là những hôm hàng dài đằng đặc như hôm nay. Để chuộc lỗi, tôi không đặt một cốc mà mua cả khay bưng ra. Mạch đập thình thịch, mắt cay; tôi cố quên đây là cuộc đời mình sau mấy năm trời học văn thơ và tốt nghiệp điểm cao. Thay vào đó là đi đặt cốc cà phê sữa lớn cho Miranda cộng thêm vài cốc cho mình. Tôi đặt một cốc Grande Amaretto Cappuccino, một Mocha Frappuccino và một Caramel Macchiato lên khay, lấy thêm nửa tá bánh flan và bánh sừng bò, tổng cộng tốn hết 28,83 dollar. Tôi cho hóc đơn vào ngăn riêng trong cái ví chật cứng để thanh toán với Elias Clark mà chưa bao giờ bị hỏi han lâu la.

Bây giờ phải rảo cẳng lên, vì từ lúc Miranda gọi điện đến giờ đã hai mươi phút trôi qua. Chắc chắn Miranda đã ngồi đó và bực dọc tự hỏi, sáng nào tôi cũng biến đi đâu lâu thế ( logo của Starbucks trên cốc lẽ ra đã đưa lại cho bà câu trả lời). Nhưng trước khi tôi kịp bưng các thứ lên thì đã có chuông điện thoại. Tim tôi đập rộn, lần nào cũng thế. Tôi biết nhất định đó là Miranda. Rõ quá, nhưng tôi vẫn hoảng. Số máy hiện ra khắng định phỏng đoán của tôi, nhưng tôi ngạc nhiên nghe giọng Emily - cô gọi từ máy của Miranda.

" Sếp đến rồi, đang điên tiết," cô thì thầm. " Chị chạy đi đâu thế?"

" Tôi không nhanh hơn được," tôi càu nhàu, cố bưng khay cho cân, một tay giữ túi bánh, tay kia cầm điện thoại.

Tôi và Emily giờ đây được nối bằng sự phản cảm mãnh liệt. Từ khi cô lên chức trợ lý trưởng thì chủ yếu tôi làm trợ lý riêng cho Miranda. Tôi gọi đồ ăn thức uống, giúp hai cô bé làm bài về nhà , sục sạo khắp thành phố để kiếm loại bát đĩa thích hợp cho bà tổ chức mời khách ăn tiệc. Emily lo tính toán chi tiêu, đặt vé máy bay, vài tháng một lần đặt mua áo quần mới cho Miranda - nhiệm vụ lớn nhất. Buổi sáng, khi tôi ra ngoài chạy việc thì một mình Emily phải canh văn phòng, bắt điện thoại và sẵn sàng phục vụ Miranda mọi bề. Tôi ghen ghét với Emily được mặc áo không tay trong văn phòng, vì chị không phải rời phòng ấm áp mỗi ngày sáu lần để chạy khắp New York lạnh như cắt ruột. Chị ghen ghét với tôi được rời khỏi văn phòng và luôn lợi dụng được vài phút để gọi điện nói chuyện riêng hay hút thuốc.

Thông thường thì đường về văn phòng lâu hơn đường đến Starbucks, vì tôi còn phải đi phân phát cà phê và bánh. Tôi đem cho một nhóm người vô gia cư, mấy người mà tôi đã quen mặt ở phố 57. Họ ngồi vất vưởng trên các bậc thang, ngủ trong lối đi vào nhà và trốn tránh nỗ lực của thành phố muốn dọn họ đi. Cảnh sát hay đi lùng vào sáng sớm, khi chưa có nhiều người ngoài phố, nhưng lúc tôi đi mua cà phê lần đầu thì họ vẫn còn đấy. Thật phấn chấn và thích thú khi thấy món cà phê đắt lòi mắt do Elias Clark tài trợ được đem đến cho những người bị thành phố hắt hủi nhất.

Người đàn ông hôi mùi nước tiểu ngủ trước nhà băng Chase ngày nào cũng được uống Mocha Frappuccino. Ông không bao giờ thức giấc khi tôi đặt cốc xuống cùi tay ông ( có ống thuốc! tất nhiên!) nhưng mấy tiếng sau, khi tôi đi mua cà phê lần nữa thì cà phê biến mất - cùng với ông già.

Cốc Caramel Macchiato dành cho bà già có xe mua hàng và tấm biển KHÔNG NHÀ/ TÌM VIỆC/ ĐÓI. Sau này tôi biết tên bà là Theresa, mới đầu tôi hay bưng cho bà một cốc lớn cà phê sữa như của Miranda. Bà luôn cảm ơn, nhưng không bao giờ uống một ngụm khi cà phê còn nóng. Một hôm tôi hỏi, liệu có phải bà không thích cà phê. Bà lắc đầu quầy quậy và móm mém nói là bà đâu có tính kén chọn, nhưng cà phê đặc quá và bà ưa uống ngọt hơn. Hôm sau tôi đem cho bà có vị vani và kem béo. Như thế đúng hơn? Vâng, ngon hơn nhiều, nhưng lần này có lẽ hơi bị ngọt quá. Hôm sau nữa thì tôi gãi đúng chỗ ngứa: không pha thêm vị gì, chỉ thêm một chút kem béo và si rô mạch nha. Theresa cười, miệng gần rụng hết răng, từ hôm đó uống hết ngay khi tôi đem cà phê đến.

Cốc thứ ba cho Rio, người Nigeria, anh ngồi trên tấm chăn và bán CD. Có vẻ như anh không phải vô gia cư, nhưng một lần tôi đem khẩu phần hằng ngày cho Theresa thì anh đi tới và hỏi, hay đúng hơn là hát: " Chị là cô tiên của Starbucks à? Phần tôi đâu?" Hôm sau tôi biếu anh một cốc Caramel Macchiato và từ đó chúng tôi thành bạn.

Mỗi ngày tôi chi lạm 24 dollar tiền cà phê ( cà phê sữa cho Miranda chỉ có giá hơn bốn dollar), thêm một cú đá ngầm của riêng tôi vào công ty, vì tôi đem đồ ăn thức uống cho những kẻ bẩn thỉu, hôi hám và điên dở - chứ không phải vứt tiền của Miranda đi theo nghĩa đen.

Tôi vào đến tiền sảnh khi Pedro, người Mexico giao hàng của Mangia, đang tán gẫu với Eduardo trước dãy thang máy.

" Xin chào, cô bé yêu của chúng ta đến kìa," anh nói, mấy con bé tọc mạch ngoái cổ lại nhìn. " Mọi thứ đây, như mọi khi, ba chỉ, xúc xích và món pho mát kinh dị. Hôm nay chị chỉ gọi có một lần. Đồ ăn chị cho đi đâu hết, trông chị gầy thế kia," anh cười. Gầy! Tôi mà gầy? Anh chàng này chẳng biết gì. Pedro biết rõ là đồ ăn không phải mua cho tôi. Nhưng cũng giống như mọi người tôi gặp trước tám giờ, anh không biết các chi tiết. Tôi ấn vào tay anh tờ 10 dollar cho gói quà sáng giá 3.99 và đi lên tầng.

Miranda đang gọi điện khi tôi vào phòng. Chiếc áo khoác Gucci bằng da rắn của bà nằm vắt ngang bàn tôi. Máu tôi dồn lên mặt. Mất gì mà bà không đi thêm hai bước, mở tủ tường và treo áo mình vào đó, thay vì quẳng nó lên bàn tôi? Tôi đặt cốc cà phê xuống, ngó qua Emily đang đồng thời bận bịu với ba máy điện thoại rồi đem chiếc áo da rắn đi treo. Chiếc măng tô của tôi thì đút xuống gầm bàn, vì tôi không muốn nó treo trong tủ làm nhiễm trùng áo sếp.

Tôi lấy hai viên đường mía, thìa và khăn ăn từ ngăn kéo ra và phải rất cố kiềm chế mình để khỏi nhổ một bãi vào cốc cà phê. Sau khi để mấy lát mỡ béo, xúc xích căn tròn và miếng " pho mát kinh dị" lên một đĩa sứ nhỏ, tôi chùi tay vào mấy đồ giặt còn giấu dưới bàn ( để Miranda không biết là chúng chưa được lấy đi). Về lý thuyết thì lẽ ra ngày nào tôi cũng phải rửa đĩa bằng nước nóng trong bếp, nhưng đơn giản là tôi không sao làm nổi. Đóng vai ô sin riêng của Miranda trước mặt bàn dân thiên hạ thì nhục quá. Do đó tôi lấy khăn giấy chùi đĩa, lấy móng tay cào chỗ pho mát dính trên đĩa. Nếu đĩa dính bẩn quá thì tôi lấy một ít San Pellegrino rỏ vào cho mềm. May cho Miranda là tôi không sử dụng cồn lau màn hình máy tính! Những suy nghĩ kiểu ấy chứng tỏ đạo đức của tôi đã đạt mức suy đồi tệ hại. Tôi chỉ thấy khiếp sợ, tại sao quá trình này diễn ra nhanh thế.

" Nhớ là tôi muốn các người mẫu cười," tiếng bà vang lên trong phòng. Nghe giọng thì biết là Miranda đang gọi điện cho Lucia, phụ trách thời trang trong buổi chụp ảnh sắp tới ở Brazil. " Tôi muốn thấy các cô gái hạnh phúc, cười rạng rỡ, khỏe mạnh. Không được mặt mũi đăm chiêu, cau có, nhăn nhó, không đánh phấn màu tối. Tôi muốn họ tỏa sáng. Nhớ chưa Lucia: chớ làm sai một li!"

Tôi vào phòng, đặt đĩa đồ ăn và cà phê lên bàn, khăn ăn, đường và thìa bên cạnh. Bà không thèm nhìn tôi. Tôi đợi một lát xem bà có đưa tài liệu nào để gửi fax hay lưu trữ, nhưng bà lờ đi và tôi lại ra khỏi phòng.

Tám rưỡi. Tôi ra khỏi giường cách đây ba giờ và mệt rũ như đã làm việc suốt mười hai tiếng; vừa định kiểm tra hộp thư điện tử lần nữa thì Miranda đi ra. Chiếc áo khoác buộc thắt lưng làm nổi rõ đáy lưng ong và làm chiếc váy bó sát của bà càng đẹp lý tưởng. Bà lên cơn thịnh nộ.

"Aan-dree-aa! Cà phê nguội ngắt. Tôi không hiểu tại sao. Chắc chắn chị đi lâu quá. Lấy cho tôi cốc khác."

Tôi hít hơi thật sâu và cắn răng không để lộ nét căm ghét ra mặt. Miranda đặt cốc cà phê bị chê lên bàn tôi và mở cuốn tạp chí Vanity Fair số mới nhất do một nhân viên gửi lại cho bà trên bàn tôi. Tôi cảm nhận được tia mắt của Emily có lẽ pha trộn giữa thông cảm và tức giận. Một mặt, cô thương tôi phải chạy ra ngoài lần nữa mua cà phê, nhưng mặt khác cô bực mình vì tôi không chịu tươi cười chấp nhận một điều bất khả kháng. Chả gì thì hàng triệu cô gái khác sẵn sàng xin chết để được làm công việc của tôi.

Với một tiếng thở dài không thể không nghe thấy, nhưng cũng không bị hiểu là công khai phản kháng, tôi chui vào chiếc măng tô và đi ra thang máy. Chuyện đã rõ ràng: hôm nay sẽ lại là một ngày rất, rất dài.

Chuyến đi mua cà phê lần thứ hai trôi chảy hơn lần đầu nhiều. Ở Starbucks không còn đông người nữa, và Marion bắt đầu rót ngay cốc cà phê sữa khi cô thấy tôi đi vào. Lần này tôi không mua nhiều thứ, tôi muốn hoàn thành công việc thật nhanh và quay về bàn của mình, chỉ lấy thêm cho Emily và tôi mỗi người một cốc Cappuccino. Tôi vừa định trả tiền thì có chuông điện thoại. Con mụ chết tiệt này. Không biết cách cư xử, kiên nhẫn và tôn trọng ai cả. Tôi ra ngoài chưa đầy bốn phút, cớ gì mà bà ta phải làm ầm lên? Tôi giữ khay cà phê bằng một tay, tay kia thọc vào túi áo măng tô tìm điện thoại. Tôi quyết định châm một điếu thuốc để phản kháng trò đàn áp nô lệ này thì thấy số máy gọi đến là số ở nhà Lily.

" Tớ có quấy cậu không?" Cô hỏi. Giọng cô nóng vội. Tôi nhìn đồng hồ. Tại sao giờ này cô lại ở nhà mà không đến trường?

" Không sao, tớ đang đi mua cà phê lần thứ hai. Có chuyện gì thế? Giờ này cậu đang ở trường mới đúng chứ?"

" Ừ, chính ra là thế. Nhưng tối qua tớ đi chơi với T-shirt-hồng và rất tiếc đã uống vài ly Margarita quá mức bình thường. Nói chính xác hơn là tám ly. Hắn còn ngủ, và tớ không muốn tự dưng bỏ đi. Nhưng tớ gọi cậu vì một chuyện khác."

" Sao nữa?" Tôi không tập trung nghe lắm. Một chiếc cốc giấy đựng Cappuccino đã bắt đầu ngấm ra ngoài, và với chiếc điện thoại kẹp dưới cằm thì phải thật khéo léo mới dùng một tay moi được điếu thuốc và châm lửa.

" Ông chủ nhà của tớ tám giờ sáng nay đến gõ cửa và nói rằng tớ phải ra khỏi nhà," cô nói giọng vui vẻ.

"Ra khỏi nhà à? Nhưng tại sao, Lily? Bây giờ cậu định làm gì?"

" Chắc là họ biết tớ không phải Sandra Gers, và cô ta không sống ở đây từ sáu tháng nay. Tớ không có họ với cô ấy, vì vậy không được thuê tiếp căn hộ được xã hội trợ giá. Chuyện ấy tớ biết ngay từ đầu, do đó tớ vẫn mang tên cô ta. Chẳng hiểu tại sao họ lại phát hiện ra. Nhưng chuyện cũng đã xảy ra rồi. Bây giờ tớ có một ý rất hay. Tại sao bọn mình không đến ở cùng nhau nhỉ? Phòng của cậu ở chỗ Shanti và Kendra thuê từng tháng một, đúng không? Và cậu dọn đến đó vì không có chỗ nào khác, đúng không?"

" Đúng."

" Okay. Vậy thì bọn mình cùng tìm một chỗ hợp lý!"

"Tuyệt" Tôi nói hơi to quá, mặc dù đúng là cũng thích kế hoạch của cô.

"Vậy là cậu đồng ý rồi nhé?" Cô nói, nghe chừng đã bớt phấn khởi một chút.

"Nhất định rồi, Lily. Sáng kiến của cậu rất hay. Tiếc là tớ không nhảy lên vì sung sướng được, vì tớ đang đứng ngoài mưa và cà phê nóng bỏng đang chảy dọc cánh tay trái..." Píp píp. Có một cuộc gọi khác đang chờ. Suýt nữa tôi phải bỏng vì điếu thuốc trong khi cầm điện thoại lên xem số điện gọi đến. Đó là Emily.

"Chết tiệt, Lily, Miranda gọi. Tớ phải chấm dứt đây, chúc mừng cậu bị đuổi khỏi nhà! Tớ rất mừng cho hai chúng mình. Lát nữa tớ gọi lại, okay?"

"Okay, thế thì..."

Tôi đã chuyển kênh và chuẩn bị tinh thần nghe chửi.

"Lại tôi đây," Emily cay nghiệt. "Chị biến đi đâu vậy? Việc của chị chỉ là mua cà phê, có gì ghê gớm đâu. Chị quên là ngày xưa tôi làm việc này của chị, và tôi biết là không thể lâu đến mức ấy..."

"Gì cơ?" Tôi lớn tiếng hỏi và che ngón tay lên máy. "Có chuyện gì thế? Tôi không nghe thấy gì cả. Chị có nghe thấy tôi nói không? Một phút nữa tôi về!" Tôi gập máy lại và dúi thật sâu vào túi áo. Sau đó tôi vứt điếu thuốc Marlboro vừa châm xuống vỉa hè, chạy vội về văn phòng.

Miranda lần này rộng lòng chấp nhận cốc cà phê sữa hơi nóng hơn một chút. Từ mười đến mười một giờ, bà không gọi Emily và tôi lần nào, vì còn mải tán chuyện điện thoại với Mr. Mờ-Cờ-Đờ. Về danh chính ngôn thuận thì tôi mới làm quen chồng bà tuần trước, vào tối thứ Tư khi đến nộp SÁCH. Tôi vào đến sảnh khi ông đang lấy măng tô khỏi tủ. Mười phút liền ông lảm nhảm kể cho tôi về "Mr. Tomlinson". Sau lần gặp gỡ ấy ông luôn đối xử đặc biệt ân cần với tôi, hỏi thăm sức khỏe và khen tôi làm việc tốt. Đương nhiên là sự thân mật đó không hề lây sang vợ ông.

Tôi toan gọi sang bên quan hệ đại chúng để kiếm vài đồ tử tế mặc trong văn phòng thì giọng Miranda lanh lảnh dứt tôi khỏi dòng suy nghĩ: "Emily, ăn trưa". Emily thứ thiệt gật đầu ra hiệu: việc của tôi. Tôi bấm số điện đã lưu của Smith and Wollensky, ở đầu dây bên kia là cô nhân viên mới.

"Chào Kim. Đây là Andrea, văn phòng Miranda Priestly. Sebastian có đấy không?"

"Xin chào. Xin cho biết tên một lần nữa." Mỗi tuần hai lần, tôi gọi điện đúng vào giờ này, vậy mà lần nào cô ta cũng như không biết tôi là ai.

"Văn phòng Miranda Priestly. Runway. Tôi không muốn tỏ ra khiếm nhã" - đúng thế - "nhưng tôi khá vội. Chị nối máy cho tôi với Sebastian được không?" Gặp một nhân viên khác thì nhất định tôi sẽ nhờ chuyển tiếp các món Miranda vẫn đặt, nhưng cô Kim này quá tối dạ, vì vậy tôi có thói quen nói trực tiếp với chủ nhà hàng.

"Xin đợi một chút. Tôi xem ông ấy có thì giờ nói chuyện không." Tất nhiên là có, cứ tin tôi đi cô Kim. Ông ấy sống nhờ vào Miranda Priestly đấy.

"Andy thân mến. Cô có khỏe không?" Giọng Sebastian như gió thoảng. "Tôi hi vọng được chị gọi vì bà tổng biên tập thời trang yêu mến của chúng ta muốn ăn trưa, đúng không?"

Không hiểu ông ta phản ứng ra sao, nếu tôi cho phép đùa ông là bữa trưa này không phải cho Miranda mà là cho tôi? Smith and Wollensky đâu phải là một hiệu cung cấp pizza, mà là nhà hàng năm sao, và chỉ cho phép nữ hoàng hưởng một ngoại lệ.

"Vâng, đúng thế. Miranda vừa nói là bà muốn thử đặc sản của nhà hàng ông, và gửi ông lời chào thân ái." Có lẽ cả đời Miranda không thốt ra mấy lời sến như thế, nhưng Sebastian là một fan lớn của bà nên tôi muốn dành cho ông niềm vui nho nhỏ này. Ông khúc khích cười rất xúc động.

"Tuyệt vời! Cực kỳ tuyệt vời! Chúng tôi bắt đầu ngay đây. Chị đến lấy thức ăn lúc nào cũng được," giọng ông vui vẻ tươi tắn. "Và tất nhiên hãy cho tôi gửi đến bà lời chào thân ái!"

"Nhất định rồi, tôi sẽ chuyển ngay, xin chào ông."

Nịnh ông một chút cũng bõ công, vì ông giúp tôi rất nhiều và đỡ việc cho tôi. Hôm nào Miranda không đi ăn, tôi dọn bữa cho bà trong văn phòng, và cất giữ trong tủ lạnh mấy thứ bát đĩa sứ cho mục đích này. Chủ yếu đó là hàng mẫu của các bộ đồ ăn mới do các nhà tạo mốt gửi đến, phần còn lại lấy từ căng tin. Kiếm khay, dao cắt bít tết và khăn ăn vải lanh thì quá phiền phức, tôi bảo Sebastian cung cấp luôn. Lại một lần nữa trong ngày tháng Hai lạnh lẽo và xám xịt này, tôi khoác lên người chiếc măng tô len đen, đút điện thoại và thuốc lá vào túi rồi đi ra ngoài. Mặc dù đi bộ đến nhà hàng chỉ mất mười lăm phút, tôi vẫn suy nghĩ có nên gọi ôtô không. Nhưng khi hít vào phổi không khí trong lành thì tôi thay đổi ý định, châm một điếu thuốc và lên đường. Không rõ vì khói hay vì gió lạnh nhưng tôi thấy phấn chấn hẳn.

Vào mùa này ít khi gặp nhiều khách du lịch lang thang đi lại. Ngày xưa tôi hay bực mình về những người vừa đi vừa gọi điện thoại, nhưng bây giờ chính tôi cũng có thói quen xấu đó. Tôi rút điện thoại và gọi đến trường của Alex, nếu trí nhớ kém cỏi của tôi không nhầm thì giờ này có thể anh đang nghỉ trưa ở phòng giáo viên.

Sau hai hồi chuông, thì tôi nghe một giọng phụ nữa rất chua trả lời.

"Alô, trường phổ thông số 277, tôi là Mrs. Whitmore. Quý vị cần gì?"

"Tôi muốn gặp Alex Feinman."

"Cho phép tôi hỏi chị là ai?"

"Tôi là Andrea Sachs, bạn gái của Alex. "

"A, Andrea đấy à. Chúng tôi đã nghe kể nhiều về chị. " Giọng bà không có vẻ vui, thậm chí ngược lại.

"Ồ, thế ạ? Xin cám ơn. Tôi cũng được nghe kể nhiều về bà Miranda Priestly. Vâng, Alex rất mến các đồng nghiệp ở trường."

"Cám ơn chị. Andrea, tôi muốn nói là, hình như chị có công việc rất thú vị, khi được làm cho một phụ nữ tài năng như vậy. Chị là người rất may mắn đấy."

Vâng, Mrs. Whitmore, tôi là người nhiều may mắn. Bà không biết tôi may mắn đến mức nào đâu. Nếu bà biết là mới ngày hôm qua tôi được phép đi mua tampon cho bà sếp của tôi và sau đó được biết là mua nhầm loại và tôi chẳng biết làm gì cho tử tế cả. May mắn là chữ duy nhất khả dĩ đúng với cảm nhận của tôi vào mỗi buổi sáng khi tôi phân loại đống quần áo dính đầy mồ hôi và thức ăn của bà sếp để đem đi giặt. À, còn nữa! Tôi không biết có gì làm tôi sung sướng hơn là ba tuần liền chạy đến những người nuôi chó tốt nhất thành phố để tìm mua hai con chó giống Bulldog của Pháp cho hai con bé được chiều chuộng và láo toét nhất. Vâng, may mắn là thế đấy!

"Vâng, đúng thế, đúng là một cơ hội tốt," tôi nói như con vẹt. "Hàng triệu cô gái xin chết để làm việc này đấy."

"Chị nói đúng quá. Ai thế nhỉ? À, Alex vừa đến. Chị nói chuyện với anh ấy nhé."

"Chào Andy, em có khỏe không? Ngày hôm nay ra sao?"

"Đừng hỏi thì hơn. Em đang đi mua đồ ăn cho BÀ ẤY. Còn anh thì sao?"

"Cho đến giờ thì ổn. Lớp của anh sau giờ ăn trưa sẽ học nhạc, nghĩa là anh sẽ rảnh một tiếng rưỡi, may quá. Sau đó còn phải tập phát âm!" Anh nói hơi chán nản. "Anh cũng không rõ bọn trẻ rồi sẽ học đọc cho tử tế sao nữa."

"Được, hôm nay có xảy ra chuyện đâm chém gì không?"

"Không."

"Thấy chưa, anh còn đòi gì nữa? Hôm nay anh có một ngày ít đau đớn nhé và không có máu chảy. Hãy vui đi chứ. Mai vẫn còn thì giờ tập đọc cơ mà. Anh đã nghe tin mới nhất chưa? Sáng nay Lily gọi điện, cô ấy bị tống ra khỏi nhà ở Harlem, bọn em sẽ đến ở cùng nhau. Hay đấy chứ?"

"Xin chúc mừng! Thời điểm rất thuận lợi, ở chỗ hai người sẽ rất vui đấy. Nhưng suốt ngày có Lily bên cạnh cũng mệt...và các bạn trai của Lily nữa... Em hãy hứa là thường xuyên đến chỗ anh hơn!"

"Tất nhiên. Nhưng anh cũng sẽ thích ở chỗ bọn em. Giống như ngày xưa ở ký túc xá sinh viên ấy mà."

"Thật rủi cho cô ấy phải bỏ căn hộ rẻ. Đối với em tất nhiên lại là may mắn."

"Vâng, em cũng chưa tin nổi. Em không có chuyện gì với Shanti và Kendra, nhưng có lẽ em đã quá tuổi ở nhờ ở đậu nơi người lạ." Cũng phải nói thêm là tôi rất thích đồ ăn Ấn Độ, nhưng không nhất thiết quần áo luôn luôn phải có mùi cà ri. "Em định đề nghị với Lily tối nay liên hoan mừng một khởi đầu mới. Anh có đi cùng không? Bọn mình sẽ đến East Village, anh đỡ phải đi xa."

"Rất hay. Chiều nay anh ở nhà với Joey, nhưng khoảng tám giờ tối anh phải vào thành phố. Lúc đấy em cũng chưa xong việc. Max sẽ đi cùng, mình sẽ gặp nhau sau. Này, dạo này Lily có bạn trai không? Max đang độc thân mà, nếu..."

"Sao cơ?" Tôi cười. "Anh định nói bạn gái của em là một đứa lăng nhăng hay sao? Cô ấy là người có tư tưởng tự do. Còn chuyện bạn trai thì nói thế nào nhỉ? Tối qua có một gã ngủ ở chỗ cô ấy tên là Mr. T-shirt-hồng, em cũng không biết tên thật là gì."

"Không quan trọng. Vừa có chuông báo giờ nghỉ. Gọi điện cho anh khi em đã nộp SÁCH xong nhé."

"Okay."

Tôi chưa kịp đút điện thoại vào túi thì lại có chuông. Số lạ, nghĩa là không phải Miranda hay Emily. Tôi thở phào.

"Văn ph...a lô?" Bất kể ở chỗ làm, ở nhà hay dọc đường, tôi luôn bắt điện thoại với câu "Văn phòng Miranda Priestly," nhiều khi phát ngượng, nếu người khác gọi điện (ngoài bố mẹ tôi hay Lily). Tôi phải khẩn trương bỏ thói xấu này đi mới được.

"Có phải đó là cô bé Andrea xinh đẹp mà tôi vô tình gây khiếp sợ ở buổi dạ hội của Marshall không đấy?" Một giọng khàn khàn và rất sexy hỏi. Christian! Tôi có cảm giác nhẹ người khi anh ta biến mất tăm sau vụ hôn tay. Song sau khi nghe tiếng anh trong điện thoại thì tôi lại cảm thấy một mong muốn khó tả - giống như hôm dạ hội - được quyến rũ anh bằng sự duyên dáng của mình, và tôi vội vàng hứa với mình sẽ thật tự chủ.

"Đúng thế. Cho phép tôi hỏi ai đấy ạ? Tối hôm đó có nhiều đàn ông làm tôi khiếp sợ lắm." Okay, bắt đầu thế là ổn. Lấy hơi thật sâu và bình tĩnh nào.

"Thế mà tôi không biết là hôm ấy lực lượng cạnh tranh hùng mạnh đến thế," anh nói trơn tru. "Có lẽ đúng thế thật. Chị có khỏe không, Andrea?"

"Rất khỏe, cực khỏe, siêu khỏe," tôi nói dối như chớp. Tôi vừa nhớ lại mấy chỉ dẫn tán tỉnh trong tờ Cosmopolitan, trong đó họ nói là khi mới quen ai thì luôn phải "nhẹ nhàng, tung tẩy và vui vẻ," bởi vì đa số đàn ông bình thường không ưa phụ nữ cay nghiệt. "Công việc của tôi rất thú vị, tôi không ước gì hơn! Càng ngày càng hấp dẫn, có nhiều chuyện để học và làm. Anh có khỏe không?" Bạn đừng nói nhiều quá về mình, hãy tạo điều kiện để anh ấy nói về đề tài mà anh ấy thạo nhất và cũng thích nói nhất: về chính bản thân mình.

"Chị là một người nói dối tuyệt với, Andrea. Người nào không sành sẽ tin những lời ca ngợi của chị lắm đấy. Nhưng chắc chị biết câu tục ngữ cổ: rất khó nói dối một người chuyên nói dối. Không sao, lần này tôi thứ lỗi cho chị." Thật ra thì tôi định căm phẫn bác bỏ lời buộc tội này, nhưng khó quá. Thay vào đó, tôi phá ra cười. Quả là không nói dối được anh ta. "Cho phép tôi vào chuyện luôn nhé, chả là tôi sắp bay đi Washington, và nhân viên an ninh ở đây sẽ không cho tôi vượt qua máy dò kim loại nếu điện thoại còn bật. Tối thứ Bảy này chị có kế hoạch gì chưa?"

Tôi ghét những người hỏi tôi có kế hoạch gì chưa mà không tiết lộ trước chủ ý của mình. Biết trả lời thế nào nhỉ? Người ta không thể biết sẽ có chuyện gì xảy ra. Có thể anh ta tìm cho bạn gái của mình một đứa ngốc nghếch giàu lòng tương ái và tôi là ứng cử viên lý tưởng cho trò này? Hoặc cần một người dắt chó đi ỉa trong khi anh ta lại phải đi trả lời phỏng vấn cho tờ New York Times? Trong khi tôi cố nghĩ ra một câu trả lời lập lờ, anh đã nói tiếp: "Tôi đặt trước một bàn ở Babbo lúc chín giờ. Sẽ có một vài bạn bè thân quen, ngày báo chí, tương đối thú vị. Một biên tập viên của The Buzz và vài phóng viên của The New Yorker. Rất dễ thương. Chị đến nhé?"

Một cuộc hẹn phải không nhỉ? Đúng thế, đúng là một cuộc hẹn. Anh ta hẹn tôi đi chơi! Anh ta hẹn tôi đi chơi ! Christian Collinsworth mời tôi đi chơi vào tối thứ Bảy. Không chỉ có vậy: anh mời tôi đến Babbo và tình cờ đặt bàn cho mình và cho tôi và một nhóm người thông minh và hấp dẫn, những người giống anh. Chưa kể đến mấy cây bút của The New Yorker! Hình như ở buổi dạ hội tôi tình cờ nhắc đến Babbo là nhà hàng New York trong mộng của tôi và tôi yêu bếp Ý và tôi biết Miranda thích nhà hàng này và tôi muốn chi cả núi tiền để đi ăn ở đó? Thậm chí đã có lần tôi định đặt bàn đi ăn cùng Alex nhưng trong năm tháng tới không còn bàn trống. Từ ba năm nay chưa ai hẹn hò với tôi nữa cả, trừ Alex.

"Hừm, Christian, vâng, tuyệt quá," tôi trả lời, cố quên ngay là tôi vừa nói "rất thích." Tuyệt quá! Ai lại nói thế? "Nghe rất hấp dẫn," - đồ ngu, mi đã nói câu ấy thì tự lo dẫn tiếp câu chuyện đi - "nhưng tôi không đến được. Tôi, à, tôi đã có kế hoạch khác cho thứ Bảy." Trả lời thế được đấy, tôi nghĩ bụng. Tôi phải hét lên để át tiếng còi xe cảnh sát, nhưng trả lời thế khá ổn. Vừa không thú nhận là không có kế hoạch thứ Bảy vừa không nói là mình có bạn trai. Đời tư của tôi thì liên quan gì tới anh ta?

"Thật là chị đã có kế hoạch khác, Andrea, hay chị sợ bạn trai chị không thích đi gặp một người đàn ông khác?" Anh ta đoán mò, tôi nghĩ thế.

"Không phải việc của anh," tôi giở giọng bà cô, tự ngạc nhiên về chính mình. Mải nói chuyện, tôi qua phố 3 lúc đèn chuyển tín hiệu và suýt bị một chiếc xe tải đâm phải.

"Vâng, tôi nghe chị lần này. Nhưng đây không phải lời mời cuối cùng, tôi tin bận sau chị sẽ đồng ý."

"Thật à? Ai nói với anh thế?" Sự tự tin của anh ta ngày càng mang vẻ kiêu căng. Tiếc rằng không vì thế mà anh bớt sexy.

"Tôi linh cảm thế thôi, Andrea ạ, vì linh cảm thôi. Chị đừng làm nhăn nếp trán xinh đẹp của mình vì điều đó nhé - hoặc của bạn trai chị. Tôi chỉ định thân mật mời chị đi ăn một bữa vui vẻ với một nhóm bạn vui vẻ. Có thể bạn chị cũng muốn đi cùng chăng, Andrea? Chắc chắn anh ta là người dễ mến, tôi thực sự thích làm quen."

"Không!" Tôi suýt hét lên, Christian và Alex ngồi đối diện cùng bàn, hai con người tuyệt vời nhưng không có chút gì trùng hợp. Tôi có thể hình dung rõ Christian sẽ phản ứng ra sao với Alex, người thiện tâm nhất thế giới này. Bên cạnh Christian thì Alex chỉ là một anh nhà quê ngô nghê và ngoan ngoãn. Nhận định của Alex chắc cũng chẳng hay ho gì về những mặt xấu của Christian mà tôi vô cùng cảm kích: thanh lịch, bặm trợn, bạo miệng và lòng tự tin bất khả suy suyển.

"Không," tôi cười gượng gạo, cố ra vẻ bình thản. "Tôi cho là ý định ấy không hay lắm. Mặc dù anh ấy chắc cũng vui được làm quen anh."

Christian cũng cười, nhưng có ý giễu cợt kẻ cả. "Đùa thôi, Andrea. Tôi tin anh ấy là người dễ mến, nhưng không phải cố làm quen bằng được."

"Vâng, tất nhiên. Tôi hiểu anh chỉ định..."

"Xin lỗi chị, tôi đang vội. Chị cứ gọi điện cho tôi nếu thay đổi ý định... hoặc thay đổi kế hoạch, okay? Tôi vẫn giữ lời mời. Vâng, chúc chị một ngày tốt lành." Trước khi tôi kịp trả lời, anh đã ngắt điện.

Tôi sửng sốt. Rồi điểm lại cuộc nói chuyện: nhà văn cực thờithượng kiếm ra từ đâu đó số điện thoại của tôi, gọi điện và mời ăn tối thứ Bẩy ở một nhà hàng loại cực thời thượng. Không rõ là trước đấy anh có biết tôi đã có bạn trai, song dù thế nào thì anh ta cũng không mảy may bận tâm vì lẽ đó. Điểm mấu chốt mà tôi nhận ra khi liếc xuống đồng hồ là: tôi đã nói chuyện điện thoại quá lâu. Tôi đã ra khỏi văn phòng trước đó ba mươi hai phút, lâu hơn quãng thời gian bình thường đi lấy thức ăn và quay về.

Tôi cất điện thoại và nhận ra đã tới trước nhà hàng. Tôi kéo cánh cửa gỗ nặng nề và bước vào phòng ăn lặng lẽ và ít ánh sáng. Tất cả các bàn đều có người, các nhân viên nhà băng và luật sư đang cưa cắt bít tết, song không gian im lặng như tờ, tựa như lớp thảm và màu sắc đàn ông nuốt chửng mọi tiếng động.

"Andrea!" Tôi nghe Sebastian gọi to từ phía quầy phục vụ. Ông vội lao về phía tôi, tựa như đến nhận liều thuốc cứu mạng do xe cấp cứu đem đến. "Rất vui mừng được tiếp chị!" Hai cô gái trẻ váy xám đứng sau ông nghiêm trang gật đầu khẳng định.

"Thật ạ? Nhưng vì sao cơ chứ?" Như mọi khi, nhìn thấy Sebastian tôi không cưỡng nổi ý định chọc ghẹo kẻ nịnh đầm này một chút.

Ông khom lưng, ghé về phía tôi với vẻ đồng lõa, giọng đầy xúc động: "Chị biết là toàn bộ nhân viên của Smith and Wollensky kính trọng bà Miranda Priestly như thế nào, đúng không ạ? Runway là một tạp chí danh giá, ảnh chụp tuyệt hảo, trình bày hoành tráng, và tất nhiên cả những bài viết quyến rũ! Cái gì cũng mê!"

"Những bài viết nữa à?" Tôi cố nhịn cười. Ông gật đầu tự hào, một người phục vụ khẽ đập vai ông và trao gói đồ ăn.

"Vâng, bữa ăn tuyệt đỉnh cho bà chủ tuyệt đỉnh - và cô trợ lý tuyệt đỉnh," ông vừa nói thêm vừa nháy mắt với tôi.

"Cám ơn, Sebastian, thay mặt cả Miranda." Tôi mở túi vải bông trông như mốt siêu sành điệu hiện nay của sinh viên các trường đại học New York đeo vai, tuy không in logo, và kiểm tra bên trong. Một suất sườn nửa ký, tươi gần như để sống nguyên, okay. Hai củ khoai tây nướng, to như con mèo con, còn bốc hơi, okay. Bát khoai tây nghiền trộn nhiều kem béo và bơ, okay. Đúng tám thanh măng tây trắng tinh, đầu mọng nước, okay. Thêm chén bạc đựng nước xốt, hộp nhỏ chứa muối tinh hạt to, dao ăn bít tết cán gỗ và khăn lanh trắng hồ cứng, hôm nay gấp thành hình chiếc váy.

"Rất tốt, Sebastian," tôi nói, giọng như khen con cún con đã biết chạy ra khỏi nhà đi ị. "Hôm nay ông đã vượt lên chính mình."

Ông rạng rỡ mặt mày, rồi khiêm tốn nhìn xuống. "Vân, xin cám ơn. Chị hiểu lòng kính trọng của tôi đối với bà Priestly, và, rất hân hạnh được..."

"... làm thức ăn mời bà?" Tôi nói đỡ ông.

"Vâng, đúng thế ạ. Niềm hân hạnh lớn, chị biết đấy."

"Dĩ nhiên, Sebastian. Tôi cam đoan là bà Priestly sẽ rất vừa lòng." Tôi không đủ tàn nhẫn để nói cho ông biết là về đến văn phòng, việc đầu tiên là phá ngay tác phẩm nghệ thuật khăn ăn, vì bà Priestly mà ông ngưỡng mộ sẽ nổi cơn tam bành khi thấy một chiếc khăn ăn không giống như một chiếc khăn ăn. Tôi cầm túi quay đi, đúng lúc có chuông điện thoại.

Sebastian hồi hộp nhìn tôi, tha thiết hy vọng giọng nói bên kia đầu dây là của người ông ngưỡng mộ và ý nghĩa cuộc đời ông. Và ông đã không thất vọng.

"Emily? Emily phải không? Nghe khó quá!" Giọng Miranda the thé chối tai, như súng máy.

"A lô, Miranda. Vâng, Andrea đây." Sebastian gần ngất đi khi nghe tên bà.

"Chị tự nấu bữa ăn cho tôi hay sao, Andrea? Theo đồng hồ của tôi thì chị ra khỏi đây đúng ba mươi lăm phút trước. Tôi chưa rõ vì bất cứ lý do nào mà đồ ăn chưa ở trên bàn tôi - nếu chị làm việc tử tế - chị nghĩ sao?"

Bà gọi đúng tên tôi! Quả là một thắng lợi nhỏ, nhưng bây giờ không phải lúc vui mừng.

"Vâng ạ, vâng, tôi xin bà thứ lỗi sự chậm trễ, có mấy vấn đề..."

"Chị chưa biết là tôi không quan tâm đến chi tiết cụ thể hay sao?"

"Vâng, tất nhiên, tôi hiểu rồi ạ. Xong ngay đây ạ..."

"Tôi gọi điện để báo cho chị là muốn ăn, ngay tắp lự, có gì để diễn giải lòng vòng cơ chứ, Emily. Tôi. Muốn. Ăn. Ngay!" Bà đặt máy, và tay tôi run bắn, thả rơi cả điện thoại xuống sàn, cứ như nó là cục than hồng. Sebastian như tỉnh khỏi cơn sốc, cúi xuống nhặt điện thoại đưa lại cho tôi.

"Bà ấy bực mình với chúng mình sao? Andrea? Tôi mong bà ấy đừng nghĩ là mình làm bà ấy giận! Phải thế không? Bà ấy có nghĩ thế không?" Ông há hốc mồm, một mạch máu hằn lên trán, lúc này tôi còn ghét ông không kém Miranda, nhưng kỳ thực tôi thấy thương hại ông. Cớ gì mà người đàn ông bạc nhược này phải phụ thuộc vào một Miranda Priestly đến nỗi ấy? Cớ gì mà ông phải tất bật xun xoe phục vụ và tỏ lòng trung thành với bà ta? Có lẽ ông là người lý tưởng cho vị trí của tôi. Ông có thể viết đơn xin việc được rồi, vì tôi sẽ tung hê tất cả. Tôi quyết định quay về văn phòng ngay lập tức và xin thôi việc. Vứt hết. Cái gì cho bà ta quyền ăn nói với tôi như vậy? Vị thế? Quyền lực? Danh tiếng? Nhãn hiệu Prada trời đánh? Ở đâu trong thế giới công bằng này chấp nhận lối đối xử đó?

Biên lai cho Elias Clark, 95 dollar như thường lệ cho bữa trưa, nằm trên mặt quầy. Tôi nguệch ngoạc một vệt xuống dưới, không thèm quan tâm đó là chữ ký của tôi, của Miranda, Emily hay Mahatma Gandhi. Tôi vớ túi đồ ăn và thình thịch đi ra khỏi nhà hàng, bỏ mặc Sebastian run rẩy đứng đó. Tôi vội nhảy lên chiếc taxi gần nhất, suýt xô ngã một ông già đi ngang. Không có thì giờ bận tâm, tôi sắp bỏ việc. Tuy xe cộ giữa trưa đang đông nhưng sau mười phút tôi đã về đến nơi. Tôi ấn tờ 20 dollar vào tay lái xe. Trong ví không có, chứ tôi cũng định đưa cho anh ta tờ năm chục và nghĩ cách lấy lại của Elias. Trong khi anh ta đếm tiền trả lại thì tôi đóng dập cửa xe và chạy mất. Cứ giữ lấy tờ hai chục, mua quà cho con gái hay sửa máy đun nước nóng cũng được, hoặc nốc vài vại bia với đồng nghiệp của mình ở bến đỗ taxi - tiền ấy dùng làm gì cũng có ý nghĩa hơn đi mua cà phê Starbucks.

Trong đầu sục sôi căm giận, tôi xông vào nhà, tảng lờ ánh mắt ngạc nhiên của bọn con gái tọc mạch đứng ở góc nhà. Benji vừa ra khỏi thang máy Bergmann, nhưng tôi xoay lưng thật nhanh về phía anh ta. Không để mất thì giờ, tôi quẹt thẻ và đẩy cửa xoay. Chết tiệt! Tôi va mạnh xương hông phải thanh kim loại, chắc chắn sẽ bị một vết bầm tím. Tôi ngẩng lên và thấy hàm răng lấp loáng cùng khuôn mặt tròn trịa rớm mồ hôi. Eduardo. Ông phải đùa bằng được. Đúng lúc này phải đùa.

Tôi quắc mắt nhìn ông. Mọi hôm thì hay có kết quả, nhưng hôm nay chẳng có tác dụng gì. Không rời mắt nhìn ông, tôi chạy vòng qua cửa xoay bên cạnh, quẹt thẻ và ấn vào thanh sắt. Quá muộn, Eduardo vẫn nhanh hơn. Trong lúc tôi đứng trơ ra trước hàng rào, Eduardo lần lượt cho từng người đi qua cửa xoay đầu tiên. Sáu người liền. Và tôi vẫn đứng đó, tức phát khóc lên. Eduardo không khoan nhượng.

"Kìa cô bé, đừng nhăn nhó thế. Đây không phải trò tra tấn, mà là trò vui. Nào, xin mời. Chú ý nhé, vì... I think we're alone now. There doesn't seem to be anyone a-rou-ound. I think we're alone now. The beatin' of our hearts is the only sou-ound."

"Eduardo, tôi không có thì giờ làm cái trò khỉ này!"

"Okay, okay, lần này tha diễn, chỉ hát thôi nhé. Tôi đoạn đầu, chị đoạn kết. Children, behave! That's what they say when we're together. And watch how you play! They don't understand, and so we're..."

Có lẽ tôi không cần phải cắt hợp đồng làm việc nữa, kể cả khi hôm nay còn kịp lên tầng. Vì đến lúc đó thì Miranda đã sa thải tôi từ lâu. Vậy thì đằng nào cũng thế, còn gì để mất nữa đâu. Hãy cho người khác một niềm vui nào. "Running just as fast as we can." Tôi tiếp lời, không để lỡ nhịp. "Holdin' on to one another's hand. Tryin' to get away into the night and then you put your arms around me and we tumble to the ground and then you say..."

Tôi vươn người về phía Eduardo khi thấy Mikey, gã đồng nghiệp khả ố mà tôi làm quen hôm đầu đang dỏng tai lên nghe. Eduardo hát nốt đoạn cuối: "I think we're alone now. There doesn't seem to be anyone a-rou-ound. I think we're alone now. The beatin' of our hearts is the only sou-ound." Ông cười vang, vung tay lên không. Tôi vỗ tay. Thanh sắt được mở thông.

"Ăn ngon miệng nhé, Andy!" Ông vui vẻ nói.

"Ông cũng thế, Eduardo, ông cũng thế."

Trong thang máy tôi dần dần hồi lại, nhưng đứng trước cửa văn phòng tôi mới thực sự suy nghĩ nghiêm chỉnh và quyết định không bỏ việc nữa. Ngoài lý do dễ hiểu nhất là tôi sợ chưa hề chuẩn bị gì mà đã ra trước mặt bà. Chắc chắn bà sẽ chỉ lạnh nhạt nhìn tôi và nói "Không, tôi cấm chị bỏ việc." Lúc ấy tôi sẽ nói gì? Tôi phải nhớ rằng, đây chỉ là một năm trong đời. Một năm có tác dụng mở mọi cánh cửa. Một năm, mười hai tháng, năm mươi hai tuần, ba trăm sáu mươi lăm ngày, rời khỏi xó này thì tôi muốn làm gì cũng được. Không sẵn lời mời. Thêm vào đó là tôi rất mệt mỏi khi nghĩ đến lúc đi tìm việc khác. Quá mệt mỏi.

Emily ngước mắt khỏi bàn khi tôi vào phòng. "Sếp sẽ về ngay. Chỉ ghé qua chỗ ông Ravitz một lát. Andrea, chị chạy đâu lâu thế? Chị biết là khi bị chị bắt đợi lâu là bà ấy đổ hết giận dữ lên đầu tôi. Lúc ấy tôi biết nói gì? Nói là chị thích hút thuốc hơn đi mua cà phê, thích buôn chuyện với bồ hơn là đi kiếm đồ ăn hay sao? Không công băng, thế là không công bằng." Cô chán nản quay sang computer.

Cô có lý, dĩ nhiên. Không công bằng đối với tôi, đối với cô, đối với bất cứ người nào có chút văn minh. Tôi cắn rứt quá, vì kéo dài giờ nghỉ mà bắt cô chịu khổ lây. Tôi hứa sẽ tử tế hơn.

"Emily, chị hoàn toàn có lý. Tôi xin lỗi. Và sẽ không để xảy ra lần nữa."

Nét mặt cô hơi ngạc nhiên và thỏa mãn. "Tôi rất hiểu, Andrea. Tôi muốn nói là tôi đã làm công việc của chị từ rất lâu. Tôi biết chị phải chịu gánh nặng nào. Có những hôm tôi phải chạy đi mua cà phê năm, sáu, bảy lần, bất kể có mưa bão hay tuyết rơi. Và tôi mệt không nhấc nổi chân lên nữa. Tôi biết hết. Có bữa tôi xuống đến tầng dưới thì sếp đã gọi điện theo để hỏi đã mua cà phê chưa, hay đồ ăn trưa, hay thuốc đánh răng đặc biệt cho răng nhạy cảm - kể ra cũng là một niềm an ủi lớn khi biết là bà ấy còn có chút nhạy cảm, ít nhất là trong hàm răng. Nhưng sếp mình là thế, phải sống chung với lũ thôi. Bà ấy không phải người độc ác, thật đấy. Nhưng kiểu bà ấy như thế."

Tôi gật đầu, nhưng không hẳn muốn chấp nhận. Cho dù chưa làm việc ở một công ty khác bao giờ, song tôi không tưởng tượng ra được mọi ông chủ bà chủ đều hành xử như Miranda. Biết đâu đúng thế thật?

Tôi đặt túi xuống và bắt đầu dọn bàn ăn. Tôi lấy tay bốc đồ ăn từ hộp bảo ôn, bày mọi thứ (thật kiểu cách, hy vọng thế) lên chiếc đĩa sứ lấy trong tủ ra. Rồi tôi chùi tay dính mỡ vào chiếc quần Versace của Miranda chưa đem đi giặt, đặt đĩa lên chiếc khay gỗ tếch lát gạch men vẫn cất dưới bàn. Cạnh đĩa là chén đựng nước xốt và bơ lỏng, muối và dao dĩa bạc vừa tháo ra khỏi khăn ăn (giờ đây không còn hình váy xếp nữa). Liếc mắt kiểm tra, tôi nhận ngay ra còn thiếu ly San Pellegrino. Nhanh chân lên - bất cứ lúc nào Miranda cũng có thể quay về! Trong bếp tôi lấy một nắm đá viên, phải thổi phù phù vào tay để khỏi bị bỏng lạnh. Thổi và liếm kỳ thực chỉ khác nhau tí tị tì ti. Không, Andrea! Hay giữ tư cách! Mi sẽ không nhổ vào đồ ăn, không liếm lên mấy viên đá. Mi không thể hèn hạ đến thế được!

Khi tôi ra khỏi phòng, Miranda vẫn chưa quay lại. Chỉ còn phải rót một chai nước và sắp xếp tử tế quanh khay đồ ăn trên bàn. Khi nào ngồi xuống cạnh chiếc bàn khổng lồ của mình, Miranda sẽ gọi chúng tôi đóng cửa phòng lại. Đó sẽ là mệnh lệnh duy nhất trong ngày mà tôi vui sướng chấp hành, không chỉ vì bây giờ chúng tôi sẽ có nửa tiếng rảnh rang trong khi bà buôn chuyện với Mr. Mờ-Cờ-Đờ như mọi trưa, mà cũng là lúc chính chúng tôi được đi ăn. Một người trong hai chúng tôi phi xuống tầng dưới, vớ lấy thứ gì ăn được rồi lại lao lên tầng; sau đó đến lượt người kia. Chúng tôi giấu đồ ăn dưới bàn hay sau màn hình máy tính, phòng khi Miranda bất ngờ đi đến. Nếu ở Runway có một đạo luật bất thành văn, nhưng bất di bất dịch, thì đó là: không ai được ăn trước Miranda Priestly. Chấm hết.

Theo đồng hồ thì đã là 2 giờ 15 phút. Theo dạ dày tôi thì phải tối khuya rồi. Trước đây bảy tiếng tôi được ăn miếng cuối cùng, một cái bánh xốp vội vàng trên đường từ Starbucks về văn phòng. Tôi đói đến mức chỉ rình xơi tái đĩa đồ ăn của Miranda.

"Emily, nếu bây giờ không được ăn gì ngay thì tôi xỉu luôn. Tôi chạy xuống nhà kiếm thứ gì nhé. Chị có cần gì ở đó không?"

"Chị điên à? Chị còn chưa phục vụ bữa trưa cho sếp mà. Miranda có thể về bất cứ lúc nào."

"Nhưng tôi thực sự không khỏe. Tôi không đợi được nữa." Thiếu ngủ cộng với đường huyết thấp làm tôi choáng váng. Tôi yếu đến nỗi ngay bây giờ Miranda xuất hiện cũng không đủ sức bưng cho bà khay đồ ăn.

"Andrea, suy nghĩ kỹ đi nào. Sẽ có chuyện gì khi chị chạm trán sếp trong thang máy hay ở khu lễ tân? Miranda sẽ biết là chị rời khỏi văn phòng và làm ầm lên! Thế thì nguy lắm. Đợi chút, tôi đi mua cho." Cô cầm ví tiền và đi ra ngoài. Chưa đầy bốn giây sau tôi thấy Miranda đang đi về. Cơn chóng mặt, đói và mệt đột nhiên biến mất khi tôi nhìn bộ mặt cau có của bà. Tôi thoăn thoắt vùng dậy, bưng khay đồ ăn sắp xếp đẹp mắt vào phòng rồi quay về ghế ngồi. Mũi giày Jimmy Choo của bà đưa qua ngưỡng cửa khi tôi đã ngồi xuống sau bàn, đầu quay cuồng và miệng khô rang. Bà không nhìn về phía tôi và, may mắn thay, có vẻ cũng không nhận ra là Emily không có mặt ở vị trí mình. Tôi có linh cảm là cuộc chuyện trò với Mr. Ravitz không được ổn lắm, song có thể bà khó chịu vì phải rời phòng làm việc của mình để đi lên chỗ ông. Mr. Ravitz là người duy nhất trong tòa nhà này được Miranda chiếu cố.

"Aan-dree-aa! Cái gì thế này? Nói cho tôi biết, của nợ gì thế này?"

Tôi lao như tên vào phòng bà. Trước mặt hai chúng tôi là món ăn mà bà vẫn gọi nếu bà không đi nhà hàng. Tôi thầm điểm qua các mục quan yếu. Không thứ gì thiếu, không thứ gì đặt sai vị trí hay sai bên, không thứ gì nấu sai. Bà ta có vấn đề gì vậy?

"Vâng, à, vâng, bữa trưa của bà mà," tôi khẽ nói, cố không để giọng mình đượm chút mỉa mai. "Có gì không đúng ạ?"

Nói cho công bằng thì tôi công nhận là bà chỉ nhúc nhích cặp môi, song trong trạng thái nửa mê sảng tôi dường như thấy bà nhe răng nanh đẫm máu.

"Có gì không đúng ạ?" Bà nhại lời tôi với giọng chua loét chẳng giống gì giọng tôi, cũng chẳng phải giọng người nữa. Bà nheo tịt mắt lại và cúi xuống. "Vâng, có gì đó không đúng. Hoàn toàn và tuyệt đối không đúng. Tại sao tôi phải về đây để nhìn thấy thứ này nằm chình ình trên bàn mình?"

Tôi như đứng trước một câu đố hóc hiểm. Tại sao bà phải nhìn thấy thứ này trên bàn mình nhỉ? Rõ ràng chuyện bà đặt bữa ăn trưa cách đây một tiếng không phải là câu trả lời chính xác. Nhưng tôi không tìm ra câu trả lời nào khác. Hay là bà không thích cái khay? Không, chuyện vô lý: bà đã thấy nó một triệu lần và chưa bao giờ ngỏ lời phàn nàn cả. Nhà hàng chọn sai loại thịt chăng? Đã có lần nhà hàng cung cấp miếng thịt thăn ngon tuyệt, vì họ cho rằng thịt này vừa ngon miệng hơn thịt sườn. Vừa trông thấy thịt là Miranda suýt nổi cơn đau tim. Bà bắt tôi gọi điện thoại cho ông bếp trưởng để mắng cho một trận, trong lúc bà đứng bên cạnh và bảo tôi phải nói gì.

"Xin lỗi bà, rất đáng tiếc," đầu bếp nói nhẹ nhàng như con người đáng yêu nhất hành tinh. " Lỗi của tôi. Tôi cứ nghĩ là nên mời một khách hàng đáng kính như Ms. Priestly những gì tốt nhất trong nhà hàng. Tôi cũng không tính thêm tiền. Xin bà yên tâm là không bao giờ xảy ra lần nữa. Tôi xin hứa." Tôi suýt phát khóc khi phải thốt ra rằng ông là đồ vô dụng và cho đến cuối đời chỉ xứng đáng được nấu cho một quán ăn hạng hai mà thôi. Ông ta xin lỗi lần nữa và đồng ý là " tôi" có lý. Từ hôm đó trở đi Miranda luôn được mời món sườn rán lòng đào. Vậy thì không phải lỗi của nhà hàng. Tôi không hiểu bà bất bình vì cái gì.

" Aan-dree-aa, trợ lý của ông Ravitz không cho chị biết là tôi và ông ấy lúc nãy vừa đi ăn ở cái phòng căng tin thảm hại dưới kia hay sao?" Bà hỏi chậm rãi, tựa như phải hết sức kiềm chế cơn thịnh nộ.

Bà ấy vừa làm gì cơ? Chạy đi chạy lại, nghe Sebastian nịnh nọt, nghe chửi mắng trên điện thoại di động, món ăn 95 dollar, bài hát của Tiffany, sắp đặt khay đồ ăn, cảm giác choáng váng, bụng lép kẹp ngồi đợi bà ta quay về - thì ra bà đã ăn rồi?

" À, không ạ, cô ấy không gọi điện đến đây. Vâng, à, nghĩa là bà không muốn ăn thứ này nữa ạ?" Tôi hỏi và chỉ vào khay.

Bà nhìn tôi như vừa nghe tôi đề nghị hãy ăn thịt một trong hai đứa song sinh. " Thế chị nghĩ tôi muốn gì, Emily?" Tiếc quá, suốt từ nãy bà nói đúng tên tôi rồi.

" Tôi nghĩ là, vâng, à, bà không muốn ăn."

" Chị nhanh trí quá, Emily ạ. Tôi thật hạnh phúc được gặp một người thông minh như chị. Dọn đi. Và đừng để xảy ra lần nữa. Chấm hết."

Tôi nghĩ là mình vừa nhập vào một cuốn phim. Tôi thấy cảnh diễn ngay trước mắt mà trong đó tôi vồ lấy khay đồ ăn trên bàn và liệng chéo qua phòng. Bừng tỉnh sau hành động ấy, Miranda hối hận xin tha tội đã ăn nói với tôi một cách miệt thị. Nhưng tiếng gõ tay sốt ruột lên mặt bàn của bà đã nhanh chóng kéo tôi trở về thực tế. Tôi bưng khay ra ngoài.

" Aan-dree-aa! Chị đóng cửa lại. Tôi cần nghỉ một lát," bà gọi với theo. Tôi đoán là đột nhiên nhận được món đặc sản do chính mình đặt thì thật là một cú sốc trong ngày hôm nay.

Đúng lúc đó Emily quay về với một lon Dier Coke và một túi nho khô để tôi sống sót qua bữa trưa. Và tất nhiên trong đó không có lấy một calo hay một hạt đường hay một gam chất béo. Nghe Miranda gọi, chị đặt đồ xuống và nhảy xổ ra đóng cửa.

" Có chuyện gì vậy?" Cô thì thầm và nhìn khay thức ăn còn nguyên mà tôi bưng trên tay trong khi đứng như mọc rễ cạnh bàn.

" Ồ, hình như bà sếp yêu quý của chúng ta đã ăn trưa rồi thì phải," tôi rít qua kẽ răng. " Lúc nãy tôi chỉ chạy đi mua đồ ăn vì tôi không có tài tiên tri và ngoại cảm, cũng chẳng nhìn thấu được vào dạ dày bà ấy để biết là bà không đói nữa."

" Thật à?" Emily nói. " Bà ấy mắng chị vì chị đã chạy đi mua đồ ăn cho mình và không biết bà ấy đã ăn rồi? Thật là đồ khốn kiếp."

Tôi gật đầu. Thật khó tin vào ngoại lệ là Emily hùa về phe tôi, thay vì giảng giải về những gì mà tôi tối dạ không làm được. Nhưng tôi vui mừng quá sớm! Trong vòng một giây, hệt như mặt trời lặn xuống và chỉ còn để lại mấy vệt xanh tím, vẻ bực dọc trên mặt chị đã nhường chỗ cho hối hận. Cú thụt vòi đúng kiểu Runway.

" Andrea, chị hãy nhớ lúc nãy mình bàn chuyện gì." À, run rồi phải không! " Bà ấy không định xúc phạm chị, không phải có ác ý. Nhưng không thể để bà ấy phải nghĩ đến từng chuyện lặt vặt. Đừng bực mình nữa. Đổ đồ ăn đi rồi quên mọi chuyện đi nhé." Emily quay đi và bật máy tính. Tất nhiên là cô ấy sợ Miranda cài rệp ở phòng và nghe hết mọi chuyện. Mặt cô đỏ dừ, chắc vì hối hận đã buột mồm nói thật. Tôi không hình dung ra làm sao cô ấy chịu đựng được công việc này lâu thế.

Tôi nghĩ xem có nên ăn béng đĩa sườn, nhưng nhớ lại trước đó mấy phút nó ở trên bàn Miranda là tôi muốn lộn mửa. Tôi bưng khay vào bếp và giữ nghiêng cho tất cả những gì trên đó trôi tuột thẳng vào thùng rác - toàn bộ món ăn được xào nấu và tra gia vị đúng kiểu, chiếc đĩa sứ, chén bạc đựng nước xốt, muối, khăn ăn, dao dĩa, dao bít tết, ly pha lê. Đi tong, chấm hết. Việc gì phải bận tâm. Trưa mai, hoặc lúc nào đó tôi lại mua đồ mới, nếu bà ta tình cờ gọi ăn trưa lần nữa.

Khi tôi mò được tới tiệm Drinkland thì Alex trông cáu bẳn và Lily mặt mũi phờ phạc. Tôi tự hỏi, liệu Alex có biết là hôm nay một người đàn ông khác muốn hẹn gặp tôi? Một người đàn ông không chỉ nổi tiếng và già hơn, mà cón điên điên nữa? Liệu anh có linh cảm thấy? Có nên kể cho anh biết không? Thôi, im đi thì hơn. Nói cho cùng thì tôi cũng không định nhận lời, và đằng nào anh ta cũng không hấp dẫn tôi lắm. Vẽ chuyện ra làm gì cho thêm rắc rối.

" Xin chào cô búp bê thời trang," Lily lè nhè, nâng cốc Gin pha Tonic lên chào. Một chút rượu sánh lên áo len song cô cũng không nhận ra. " Hay nên gọi là người cùng phòng tương lai thì hơn? Lấy thứ gì uống đi. Ta có dịp chút mừng."

Tôi hôn Alex và ngồi xuống cạnh anh.

" Trông em hôm nay hot quá," Alex nói và ngắm bộ đồ Prada đầy thán phục. " Lên đời từ khi nào thế?"

" Từ hôm nay. Từ khi người ta giải thích cho em hiểu là nên ăn mặc cho đúng kiểu nếu không muốn sớm bị ra đường. Đồ khá choáng đấy, nhưng cũng phải mặc đồ gì đó lên người. Bây giờ thì em phải xin lỗi mọi người vì đã đến muộn quá. SÁCH hôm nay mãi không xong, và nộp xong rồi thì Miranda lại sai chạy ra cửa hiệu đặc sản để lấy ít húng quế."

" Anh tưởng là bà ấy nuôi đầu bếp?" Alex chọc ngay. " Sao không sai bếp đi mua?"

" Đúng là bà ấy có đầu bếp. Có cả một cô giúp việc, một cô trông trẻ và hai con. Em hoàn toàn không hiểu nổi vì sao bà ấy lại sai chính em. Em đâu cần niềm vinh hạnh đó. Nhất là khi cả đại lộ 5 không có cửa hiệu đặc sản nào. Suốt đường Park và Madison cũng vậy. Ra đến Lex mới gặp một cửa hiệu, song tất nhiên ở đó họ lại không có húng quế. Em mất đúng bốn mươi lăm phút để mua được. Tốt nhất là em lấy tiền công ty mua cả tủ gia vị và hằng ngày đeo trên lưng. Nhưng mọi người nên biết là bốn mươi lăm phút ấy không hề uổng công vô ích, vì em đã học được nhiều điều quan trọng, nhiều kiến thức và kinh nghiệm cho tương lai làm báo của mình. Bây giờ em đang trên đường cao tốc tiến đến ghế biên tập viên!" Tôi mỉm cười đắc thắng.

" Mừng cho tương lai cậu!" Lily lên tiếng, chắc chắn không nhận ra giọng mỉa mai của tôi.

" Cô nàng hết biết trời đất rồi," Alex khẽ nói, lo lắng nhìn sang Lily như đi thăm một bà cô ốm nằm viện. " Chắc cô ấy đến sớm hơn Max và anh hàng mấy tiếng, hoặc có tốc độ uống rất nhanh. Max cũng đi rồi."

Lily luôn uống nhiều, nhưng không có gì lạ - đã làm gì là cô phải làm đến nơi đến chốn. Hồi học cấp hai, cô là người đầu tiên hút cần sa, và lên cấp ba cũng là người đầu tiên đánh mất sự trong trắng. Cô yêu tất cả những ai và những gì không đáp lại tình yêu ấy, cốt chỉ để cảm nhận được mình đang sống.

" Tớ không hiểu tại sao cậu có thể lên giường với thằng cha đó, mặc dù cậu biết rõ là hắn không bao giờ chịu chia tay bạn gái mình," có lần tôi nói về một bạn trai mà cô vụng trôm quan hệ ở trường.

" Còn tớ không hiểu tại sao cậu cứ ngoan ngoãn tuân thủ luật chơi," cô đả lại tức thì. " Ở cậu mọi thứ đều theo kế hoạch và quy định, hãy sống đi, hãy vui đi chứ, Andy! Cảm nhận đi chứ! Cuộc sống vui lắm!"

Có thể gần đây cô uống nhiều hơn ngày xưa thật, nhưng tôi biết là cô học cực kì vất vả, ngay cả khi cô là người có nhiều nghị lực. Và các giáo sư ở đại học Columbia đòi hỏi cao hơn và nghiêm khắc hơn ở Brown. Biết đâu, tôi nghĩ bụng trong khi vẫy tay gọi bồi bàn, có thể rượu lại là một thứ trợ lực. Tôi gọi một ly Absolut với nước bưởi và làm một ngụm lớn. Nhưng tôi xỉu hẳn đi, vì ngoài lon Diet Coke và gói nho khô Emily mua cho lúc trưa tôi chẳng có gì trong dạ dày.

" Em biết là mấy tuần nay Lily bị nhiều stress ở trường lắm," tôi nói với Alex, cứ như không có cô ngồi cạnh. Đằng nào thì cô cũng không nhận ra tôi nói về mình, vì đang mải đá lông nheo mời một tay điển trai cạnh quầy bar. Alex vòng tay ôm tôi, và tôi áp sát người anh. Thật dễ chịu khi ở gần anh, tôi có cảm giác mấy tuần liền chưa được anh ôm.

" Anh ghét phá cuộc vui, nhưng anh phải về nhà đây," Alex nói và tém tóc tôi ra sau tai. " Hai người ở lại có ổn không?"

" Anh đi rồi à? Sớm thế?"

"Sớm? Andy, anh ngồi đây và quan sát bạn gái thân nhất của em uống đã được hai tiếng rồi. Anh muốn đến với em, nhưng em không có mặt. Gần nửa đêm rồi, anh còn phải chữa bài cho học sinh nữa." Anh nói từ tốn, nhưng tôi nhận ra anh khó chịu.

" Em biết, em xin lỗi, thật đấy, anh biết là nếu có thể được thì em đã đến đúng giờ. Anh biết là..."

"Anh biết hết. Anh không bảo đó là lỗi của em. Anh hiểu em. Nhưng em cũng phải hiểu cho anh, okay?"

Tôi gật đầu và hôn anh, nhưng không thoát được mặc cảm tội lỗi. Tôi hứa nhất định sẽ đền đáp bằng cả một tối chỉ dành cho anh. Quả là anh phải chịu đựng nhiều vì tôi và công việc của tôi.

" Anh không muốn đến chỗ em hôm nay?" Tôi hỏi, giọng chan chứa hy vọng.

" Không, trừ khi em nhờ anh giúp đưa Lily về nhà. Anh phải về nhà, còn hàng chồng vở phải chữa." Anh lại ôm tôi, hôn Lily lên má rồi đi về phía cửa. " Nếu cần anh thì gọi điện," anh nói trước khi ra đến đường.

" Sao Alex bỏ đi sớm thế?" Lily hỏi, mặc dù suốt buổi cô ngồi cạnh hai chúng tôi. " Anh ấy giận cậu à?"

" Có thể," tôi thở dài. " Dạo này tớ đối xử với anh ấy quá tệ." Tôi ra bar lấy tờ thực đơn, khi quay về thì gã có dáng nhân viên chứng khoán đã sán cạnh Lily và ngồi sát đùi vào cô. Trông gã chưa đến ba mươi, nhưng trán hói hai bên vẻ già đi hơn nhiều.

Tôi ném chiếc áo khoác cho Lily. " Mặc vào đi, Lily, mình đi thôi," tôi nói, mắt nhìn gã. Đã đành gã không thuộc loại người cao lớn, nhưng chiếc quần kaki xếp li làm cho lùn một mẩu. Và cái miệng gã còn cách năm phân đến tai cô bạn gái thân nhất không làm tôi có thêm cảm tình với gã.

" Ê, sao vội thế?" Giọng gã lè nhè. " Bạn em và anh vừa mới làm quen nhau mà." Lily gật đầu và toan làm một ngụm từ cái ly cạn khô.

" Nghe rất hay, nhưng bọn tôi phải về. Anh tên gì?"

" Stuart."

" Rất vui được làm quen anh, Stuart. Sao anh không cho Lily số điện? Cô ấy sẽ gọi anh khi khỏe lên một chút - hoặc không gọi. Được không ạ?" Tôi nhe răng cười.

Tại sao không, thế cũng được, tạm biệt," gã nhỏm dậy và biến nhanh về phía quầy bar đến nỗi Lily không nhận ra là gã đã đi khỏi.

" Stuart và tớ vừa làm quen nhau một chút, đúng không? Stu..." cô quay sang bên cạnh, nhìn thấy chỗ trống và ngớ mặt ra.

" Stuart có việc gấp. Lily, ta đi thôi."

Tôi choàng chiếc áo khoác thủy thủ xanh lên trên áo len và kéo Lily dậy. Cô loạng choạng theo tôi ra cửa . Không khí bên ngoài lạnh như cắt, càng tốt.

" Tớ không được khỏe," cô lè nhè.

" Biết rồi, cưng ạ, biết rồi. Đi, ta kiếm taxi trở về nhà cậu, okay? Cậu có nghĩ mình tự làm được không?"

Cô gật đầu, thản nhiên cúi về phía trước và nôn ọc lên đôi bốt nâu của mình, bắn lên cả quần bò. Bây giờ mà mấy con bé Runway nhìn thấy bạn nối khố của mình nhỉ - tôi bất giác nghĩ bụng.

Tôi dựng Lily ngồi lên bậu cửa sổ một cửa hiệu mà tôi đoán không lắp hệ thống báo động, dặn cô không được động đậy rồi chạy qua bên đường vào một cửa hiệu Tây Ban Nha giờ này còn mở cửa. Trước khi tôi trở về cô còn nôn lần nữa, lần này nạn nhân là ngực áo, mắt cô đờ đẫn. Tôi vừa mua hai chai nước khoáng, một để uống và một để rửa. Nhưng thấy Lily thảm hại quá, tôi đổ cả hai chai lên áo và giày cô. Thà mặc đồ ướt hơn là bốc mùi tanh tưởi, chẳng taxi nào cho lên. Cô say đến nỗi không biết chuyện gì xung quanh.

Tôi phải xin đến gãy lưỡi để làm mềm lòng ông lái taxi chấp nhận chở Lily trong tình trạng này. Giá taxi đã đủ chóng mặt, tôi còn hứa cho thêm tiền bo hậu hĩnh vì chúng tôi phải đi từ Lower East Side đến tận Upper West Side, tôi đã nhẩm tính mất tới 20 dollar chứ không ít. Khoản này có lẽ phải ghi vào vụ mua sắm thứ gì đó cho Miranda để thanh toán. Chắc không khó.

Mấy bậc thang lên nhà Lily ở tầng bốn còn kém thú vị hơn đi hai mươi lăm phút taxi. Sau khi được tôi cởi quần áo, cô tự tắm một mình dưới vòi hoa sen. Tôi dìu cô thẳng vào giường, cô đổ sấp xuống nệm và thiếp đi luôn. Tôi nhìn Lily và trong lòng trào lên kí ức hồi tưởng thời đi học và tất cả những gì chúng tôi cùng làm với nhau. Bây giờ thì vui, rõ rồi, nhưng không bao giờ chúng tôi trở lại thanh thản được như hồi ấy.

Lily dạo này hơi quá trớn trong chuyện rượu chè và thường xuyên trong tình trạng say xỉn. Tuần trước Alex có nhắc tới chuyện ấy nhưng tôi bênh cô: Lily vẫn là sinh viên và chưa bước chân vào thế giới thực sự để gánh những trách nhiệm thực sự ( ví dụ như rót một ly Pellegrino cho tử tế ) Chính tôi cũng không phải là một con chiên ngoan đạo. Đã bao lần hai chúng tôi chè chén và cạn hết bao nhiêu chai vang chát. Sau buổi liên hoan mừng thi xong, Lily là người vỗ về tôi trong khi tôi cắm mặt vào bồn cầu mà nôn. Một tối mà tôi chẳng còn nhớ gì ngoài tám ly rượu Rum pha Coca và bài " Every Rose Hat Its Thorn" chuyển sang dạng karaoke kinh tởm, Lily đánh xe đưa tôi về nhà, dọc đường phải dừng bốn lần để tôi nôn. Hôm sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của Lily, tôi vác cô lên giường và cứ mười phút một lần kiểm tra xem cô còn thở không, cho đến khi chính tôi kiệt sức ngủ thiếp đi dưới sàn nhà. Đêm đó cô còn tỉnh dậy hai lần nữa, một lần vì lợm giọng, một lần để nói rằng tôi là người bạn tốt nhất đời mà cô có thể có được. Người ta có bạn để cùng đập phá, làm những trò ngu xuẩn và chăm sóc nhau, đúng không nào? Hay tất cả chỉ là những nghi thức phải trải qua ở đại học? Alex tin chắc lần này không chỉ là trò vui vô hại, nhưng tôi lại nghĩ khác.

Đúng ra thì đêm nay tôi không được để Lily ở nhà một mình, nhưng lúc này đã gần hai giờ đêm, năm tiếng nữa là tôi đã phải có mặt ở văn phòng. Quần áo tôi hôi hám mùi nôn mửa, và trong tủ quần áo của Lily nhất định không có bộ nào mà tôi mặc đến Runway được - lại càng bất khả thi từ ngày tôi lên hạng Prada. Tôi thở dài, đắp chăn cho cô và đặt đồng hồ báo thức bảy giờ, hy vọng cô đủ sức bò dậy để đi đến trường.

" Bye, Lily. Tớ về đây. Cậu ổn chứ?" Tôi đặt điện thoại xuống gối, cạnh đầu cô.

Cô mở mắt nhìn tôi mỉm cười. " Cám ơn," cô lẩm bẩm và mắt lại nhắm nghiền tại chỗ. Tình trạng của cô lúc này chắc chắn không cho phép lập kỷ lục chạy marathon, nhưng cũng chẳng có bệnh trạng gì, ngủ dậy là lại ổn.

" Không có gì." Tôi nhận ra là hai mươi mốt tiếng đồng hồ vừa qua chỉ làm con hầu đi phục dịch cho cả thế giới này. " Mai tớ gọi điện cho cậu," tôi nói lúc lê cẳng ra cửa, " nếu một trong hai chúng mình chưa chết." Giờ thì về, về nhà được rồi.

Chap 10

" Xin chào, may mà tôi tóm được chị," tôi nghe tiếng Cara bên kia đầu dây. Có chuyện gì mà chưa đến tám giờ sáng nghe giọng cô đã hụt hơi thế nhỉ?

" À, vâng, chị có bao giờ gọi sớm thế này đâu. Chuyện gì vậy?" Tôi hỏi, đồng thời vẽ ra hàng chục tình huống Miranda sẽ cần mình.

" Không, không, không có vấn đề gì. Tôi chỉ định cảnh báo là Mr. Mờ-Cờ-Đờ đã lên đường tới chỗ chị và rất khoái buôn chuyện đấy."

" Thế hả, tốt thôi. Ừ, dễ đến một tuần rồi, kể từ lần ông ấy hỏi tôi về đủ mọi chuyện đời. Tôi đã lo là có chuyện gì xảy ra với fan ruột của mình." Tôi viết xong các mục ghi nhớ và chuyển sang máy in.

" Chị là người nhiều may mắn mà, tôi biết. Ông ấy có thèm hỏi tôi câu nào đâu," cô làm bộ. " Ông ấy chỉ chú ý đến chị thôi. Tôi nghe nói là ông định cùng chị duyệt các chi tiết buổi dạ hội Whitney."

" Hay, hay tuyệt. Tôi rất hồi hộp chuẩn bị được yết kiến em trai của ông ta. Tôi mới chỉ nói chuyện qua điện thoại với ông ấy thôi, toàn phải nghe chuyện ấm ớ. Chị có chắc là Mr. Mờ-Cờ-Đờ đang tới đây không? Chẳng lẽ hôm nay không thánh thần nào trên trời rủ lòng thương tôi?"

" Quên đi, hôm nay chị không thoát đi đâu được. Miranda tám rưỡi đến chỗ chuyên gia chăm sóc chân, tôi nghĩ là ông ấy sẽ đi một mình."

Tôi xem lại các ghi chép trong lịch làm việc của Emily. Đúng thật, một buổi sáng không có mặt Miranda. " Thích quá, có diễm phúc nào lớn hơn là được hầu chuyện Mr. Mờ-Cờ-Đờ lúc mới sáng bảnh mắt. Này, sao ông ấy lắm mồm thế nhỉ?"

" Có gì khó hiểu đâu: ai lấy Miranda thì ắt không phải loại sáng suốt. Ông ấy nói chuyện ngớ ngẩn gì thì chị nhớ kể cho tôi nghe nhé. Tôi phải đi đây. Caroline, không rõ vì cớ gì, vừa lấy một thỏi son môi Stila của Miranda đâm thật lực vào gương nhà tắm."

" Bọn mình đúng là có cuộc đời nhiều biến động nhỉ? Nhưng vẫn ngoan cường lắm. Cảm ơn lời cảnh báo nhé, ta nói chuyện sau."

" Okay, bye."

Trong khi đợi Mr. Mờ-Cờ-Đờ, tôi xem lại những việc cần làm. Một lá thư của Miranda gửi ban lãnh đạo bảo tàng Whitney, bà xin phép tổ chức ở đó một bữa tiệc vào tháng Ba cho ông em chồng. Theo tôi biết thì Miranda không ngửi được ông này nhưng chẳng có cách gì để tẩy tên ông ra khỏi gia phả. Jack Tomlinson, cậu em trai ngỗ ngược của Mr. Mờ-Cờ-Đờ cũng mới tuyên bố sẽ bỏ vợ và ba đứa con để cưới cô gái chuyên mát xa cho ông. Anh em Mờ-Cờ-Đờ thật ra là dòng dõi đặc trưng của giới quý tộc Bờ Đông nước Mỹ, nhưng đến tuổi ba mươi là Jack tung hê hình tượng Harvard của mình và chuyển đến Nam California, chẳng mấy chốc kiếm được một núi tiền nhờ bất động sản. Theo lời Emily, ông trở thành một người miền Nam quê kệch thực thụ, mồm nhằn ống hút và nhổ nước thuốc lá toèn toẹt - cái gai trong mắt Miranda, vốn là hiện thân của đẳng cấp và văn hóa. Mờ-Cờ-Đờ nhờ Miranda tổ chức lễ đính hôn cho em trai, và với tư cách người vợ chu đáo thì dĩ nhiên bà không thể lắc đầu. Và khi đã nhận thì làm, tất nhiên, Miranda ưa làm phức tạp như có thể.

Thay vì làm tiệc ở một nhà hàng, ồ, không, Miranda muốn gây ấn tượng hơn cho khách mời bằng cách tổ chức tiệc ở một bảo tàng, cho dù bà thẳng tay gạch hầu hết các địa chỉ khỏi danh sách ( Bảo tàng nghệ thuật Met " cứng quá," Guggenheim " tối quá," Bảo tàng lịch sử tự nhiên " trông ngứa mắt lắm, nhất là từ khi có thêm cái đài thiên văn kinh dị"). Cuối cùng bà chọn Whitney ( " khiêm nhường, hiện đại, thân mật"). Tôi quá mừng khi bảo tàng đồng ý làm tiệc ở nhà hàng giá rẻ hoặc ở tiền sảnh tầng trệt, nhưng cũng biết là ở đó quá rẻ rúng. Lúc tôi báo tin cho Miranda, bà thở dài não ruột, đầy vẻ thương cảm với đầu óc ngu si của tôi, và cho biết rằng bà không chấp nhận địa điểm nào khác ngoài phòng trưng bày bộ tranh tuyển của Kooning. Rõ rồi. Kính thưa quý vị ( ...) chúng tôi xin phép được tổ chức một dạ hội nhỏ , nếu được, ở phòng cuối tầng hai ( ...) thức ăn, hoa và ban nhạc - tất nhiên - thuộc hạng cao cấp ( ...) mong đợi hồi âm (...) Sau khi kiểm tra không thấy lỗi gì, tôi nhanh tay ký nhái tên Miranda xuống dưới và gọi điện cho dịch vụ đưa thư lên lấy.

Mấy giây sau có tiếng gõ cửa. Giờ sáng sớm tôi luôn đóng cửa vì chưa có ai đến. Tôi đang ngạc nhiên vì tốc độ của dịch vụ bưu điện thì cửa mở tung ra và Mờ-Cờ-Đờ xuất hiện với nụ cười đến mang tai - quá lạ lùng ở thời điểm trước tám giờ.

" Andrea," ông bả lả, nhanh nhẹn tiến đến bàn tôi và nở một nụ cười đáng yêu đến nỗi tôi phải áy náy tại sao mình vẫn không thể có chút cảm tình nào với ông.

" Chào ông Tomlinson, có chuyện gì khiến ông phải đến sớm vậy?" Tôi hỏi. " Rất tiếc phải nói với ông là Miranda chưa có mặt ở văn phòng."

Ông nháy nháy cánh mũi như con nhím đánh hơi : " Vâng, vâng, Miranda sẽ không đến trước bữa trưa, nếu tôi không nhầm . Cô bé Andy, chúng ta gặp nhau lần cuối đã lâu rồi đấy nhỉ. Cho Mr. Tomlinson biết là sức khỏe của cô ra sao?"

" Để tôi cầm đỡ đồ hộ ông đã," tôi nói và đón lấy chiếc bao vải thô thêu kí tự MP đầy quần áo bẩn mà tôi sẽ phải đem đến chỗ giặt là. Tôi cũng giải phóng ông luôn khỏi chiếc túi Fendi, một tác phẩm độc bản do tự tay Silvia Venturini Fendi làm riêng để cảm ơn Miranda. Một trợ lý thời trang của Runway phỏng đoán nó có giá 10.000 dollar. Cầm nó vào tay, tôi phát hiện ra một trong hai quai da mỏng mảnh đã rời ra lủng lẳng. Bộ phận thời trang đã khiếu nại cả chục lần, và Fendi luôn khẩn trương sửa lại miễn phí. Túi này dùng để đựng một chiếc ví tiền, bí lắm thì chứa thêm cặp kính râm, và nếu không tránh được thì có thể đút thêm chiếc điện thoại di động tí xíu vào - những hạn chế mà Miranda chưa bao giờ để ý đến. Lần này bà tống vào đó một chai nước hoa Bulgari cỡ XL, một chiếc xăng đan gãy gót - chắc tôi phải đem đi sửa, quyển lịch công tác Hermès có khả năng đánh gục mọi laptop về kích cỡ và trọng lượng, một vòng cổ chó ngoại cỡ đóng gai nhọn mà tôi đoán không phải của Madeleine hoặc để dùng cho buổi chụp ảnh thời trang tới, và quyển SÁCH tôi nộp ở nhà tối qua. Phải tay tôi thì cái túi 10.000 dollar này đã được bán luôn với lãi cao nhất để trả tiền nhà cho cả năm. Đối với Miranda nó chỉ là sọt rác.

" Cám ơn Andy, cô chăm sóc chúng tôi tận tình quá. Bây giờ thì Mr. Tomlinson sốt ruột muốn nghe cô sống ra sao. Có gì hay ho không nào."

Có gì hay ho không? Có gì hay ho không? Hừm, ta xem nào, tôi nghĩ là chẳng có nhiều chuyện để nói. Phần lớn thời gian của tôi chỉ để hầu hạ bà vợ tàn ác của ông thôi. Mấy phút rỗi rãi hiếm hoi trong tuần - nếu vợ ông không bịa ra thêm việc gì để nhét thêm vào - cốt để tôi nỗ lực chống lại chứng nhũn não sinh ra từ những lời lảm nhảm của cô trợ lý chính. Trong những dịp ngày càng hi hữu tránh khỏi được vòng kiềm tỏa của Runway , tôi tự nhủ mỗi ngày tiêu thụ tám trăm calo là tốt và mình không phải quá béo với cỡ áo 38. Tóm lại, câu trả lời cho ông là : không có gì đặc biệt.

"Mr. Tomlinson, thật ra không có gì đặc biệt. Tôi nhiều việc phải làm lắm. Xong việc, tôi làm gì đó với cô bạn thân hoặc với bạn trai. Và còn gia đình nữa." Ngày xưa tôi đọc nhiều sách, tôi định nói thêm, nhưng bây giờ không còn sức đâu mà đọc nữa. Tôi cũng thích thể thao, nhưng bây giờ đơn giản

là chẳng có thì giờ.

" Cho phép tôi đoán tuổi cô nhé, hai mươi lăm, đúng không?" Chà, ông này có ý gì đây nhỉ?

" À, không, mới hai mươi ba. Tôi vừa tốt nghiệp hồi tháng năm vừa rồi."

" Thật à, hai mươi ba!" Ông không biết phải nói gì. Tôi nín hơi chuẩn bị tinh thần. " Cô cho Mr. Tomlinson biết đi, những người hai mươi ba tuổi có trò giải trí gì trong thành phố? Nhà hàng? Câu lạc bộ hay những chốn tương tự." Ông lại mỉm cười, và tôi tự hỏi, liệu ông có cần sự chú ý của tôi thật không. Có thể ông chẳng có ẩn ý gì cả mà chỉ đơn giản thích nói chuyện.

Có nhiều thứ để giải trí, tôi nghĩ thế. Không hẳn ở các câu lạc bộ, mà ở các quán nhỏ và quầy bar đẹp. Hay đi ăn, hoặc xem phim."

" Nghe có vẻ nhiều thứ hay đấy. Hồi ở tuổi cô thì tôi cũng thế. Bây giờ thì trong chương trình chỉ toàn ăn cơm khách và các bữa tiệc từ thiện. Cứ vui chơi thật nhiều vào, chừng nào còn có dịp, Andy." Ông nháy mắt kiểu bố già lẩm cẩm.

" Vâng, đúng thế," tôi gượng gạo đáp. Thôi biến đi, biến đi, biến đi cho rảnh, tôi nghĩ thầm. Mỗi ngày tôi chỉ có ba phút hòa bình và yên ổn, ông đừng có phá nốt.

Ông định nói gì đó thì cửa mở ra, Emily bước vào, uốn éo theo điệu nhạc trong tai nghe. Nhìn thấy khách, cô giật mình.

" Mr. Tomlinson!" Cô giật phắt tai nghe và đút chiếc iPod vào túi Gucci. " Mọi việc đều ổ chứ ạ? Hay có chuyện gì với Miranda?" Giọng nói và điệu bộ cho thấy cô lo lắng thực sự. Diễn xuất tuyệt hảo: xem đây, người trợ lý luôn luôn chuyên cần và lịch sự.

" Chào Emily, không, không có chuyện gì. Miranda sắp đến rồi. Mr.Tomlinson chỉ tạt qua đưa mấy thứ đồ. Cô có khỏe không?"

Emily tươi tỉnh nhìn ông. Cô vui thực sự khi thấy ông? " Rất khỏe, cảm ơn ông đã hỏi thăm. Còn ông? Andrea có giúp được ông như ý không?"

" Có chứ," ông nói và nở nụ cười thứ 1000 về hướng tôi. " Tôi định bàn mấy chuyện về lễ đính hôn của em trai tôi, nhưng có lẽ hôm nay còn sớm quá , phải không?"

Trong một thoáng, tôi tưởng ông nói "sớm quá" là ám chỉ giờ này. Tôi định nói "vâng" thì hiểu ra là kế hoạch chưa đi đến chi tiết cụ thể để có thể đem ra bàn.

Quay sang Emily, ông nói: " Cô có một trợ lý tuyệt vời đấy, Emily ạ."

" Nhất định rồi," cô nghiến răng," người giỏi nhất đấy ạ." Cô cười toe toét.

Tôi cũng cười toe toét.

Mr. Tomlinson cười toe toét gấp đôi. Tôi thầm hỏi, liệu ông có bị chứng rối loạn cân bằng chất, hay một dạng hưng cảm gì đó.

" Vâng, thế thì Mr. Tomlinson lại lên đường thôi. Chào các cô, nói chuyện với các cô rất vui, lần nào cũng thế. Chúc hai cô một buổi sáng tốt lành. Good-bye."

" Bye, MR. Tomlinson," Emily nói với theo trong khi ông đã ra đến góc quầy lễ tân.

" Sao chị thiếu lịch sự với ông ấy thế?" Cô hỏi trong khi cởi chiếc áo khoác da mỏng dính. Bên dưới là một chiếc áo the còn mỏng hơn, cổ khoét tròn và phía trước ngực xâu dây chằng như cooc xê.

" Thiếu lịch sự? Tôi nhận đồ từ tay ông và nói chuyện với ông trước khi chị đến. Có gì thiếu lịch sự đâu?"

"Ví dụ, chị không nói tạm biệt. Và kiểu nhìn của chị nữa."

" Kiểu nhìn?"

" Đúng. Kiểu chị nhìn khiến mọi người hiểu là chị cao hơn tất cả và chị ghét mọi thứ ở đây. Chị làm thế với tôi thì được, chứ không thể với Mr. Tomlinson. Ông ấy là chồng Miranda, chị không thể đối xử với ông như thế được."

" Emily, chị có thấy ông ấy hơi..., nói thế nào nhỉ, hơi ...kỳ khôi không? Ông ấy nói liên hồi kỳ trận. Tại sao ông ấy dễ mến thế, trong khi vợ ông ... không dễ mến lắm?" Emily liếc vào phòng Miranda xem tôi đặt báo trên bàn có đúng cách không.

" Kỳ khôi à? Sao chị lại nghĩ thế, Andrea? Ông ấy là một trong những cố vấn thuế cự phách nhất Manhattan đấy."

Nói nữa cũng vô nghĩa." Thôi quên đi, tôi không biết mình nói vớ vẩn gì nữa. Còn chị? Tối qua ra sao?"

"À, không đến nỗi nào. Tôi cùng Jessica đi sắm đồ cho các phù dâu của chị ấy. Chạy đủ mọi cửa hàng - Scoop, Bergdorf's, Infinity, khắp nơi. Và tôi mặc thử hàng đống quần áo có thể đem đi Paris, nhưng có lẽ hãy còn sớm quá."

"Paris? Chị đi Paris à? Nghĩa là chị để tôi một mình ở đây với bà ấy?" Câu cuối cùng đúng là tôi buột miệng. Emily nhìn tôi như muốn hỏi, liệu tôi có dở hơi không. " Ừ, tháng 10 tôi đi cùng Miranda sang Paris tới các show trình diễn thời trang mùa xuân. Miranda năm nào cũng đem trợ lý chính đi cùng để quan sát thực tế. Ở đây tôi đã tham gia một triệu buổi rồi, như show ở Châu Âu nhất định khác."

Tôi tính nhanh. " Tháng 10, nghĩa là bảy tháng nữa kể từ hôm nay. Còn bảy tháng nữa mới đi mà hôm nay chị đã thử quần áo?" Tôi không chủ ý nhưng giọng tôi quá gay gắt, và Emily lui vào thế thủ ngay.

" Ừ. Tôi cũng chẳng định mua gì, đến lúc đó thì mốt cũng thay đổi nhiều rồi. Nhưng tôi muốn ngó nghiêng xem có gì mới không. Chị biết không, rất đồ sộ nhé. Ở khách sạn năm sao, tối tối toàn dạ hội cực hoành tráng. Và, trời ạ, được đến các show thời trang hot nhất, chọn lọc nhất thế giới."

Đã có lần Emily kể là mỗi năm Miranda bay ba, bốn lần sang Châu Âu dự trình diễn thời trang. Như tất cả mọi người, bà tránh London nhưng đến Milan và Paris vào tháng 10 xem thời trang mùa xuân, tháng 7 xem bộ sưu tập mùa đông và tháng 3 xem mốt của mùa thu sắp tới. Đôi khi bà kèm thêm mấy ngày nghỉ. Chúng tôi phải làm việc không ngơi tay để chuẩn bị các show thời trang vào cuối tháng. Tôi băn khoăn tại sao Miranda rõ ràng không bao giờ cần trợ lý cho những buổi ấy.

" Vì sao sếp không đem chị đi cùng đến mọi nơi?" Tôi liều hỏi, tuy biết rằng câu trả lời sẽ là một kiểu giải thích dài dòng. Việc Miranda hai tuần liền ( Milan và Paris) không có mặt ở văn phòng đã đủ làm tôi mừng cuống lên rồi, nghĩ đến một nửa thời gian đó không phải nhìn mặt Emily làm tôi phát ngất vì sung sướng. Trong thâm tâm, tôi vẽ ra hình ảnh chiếc Cheeseburger kẹp thịt ba chỉ rán, lại được mặc quần bò rách te tua và đôi giày thấp gót ngày xưa của mình, thậm chí cả giày thể thao nữa cũng nên! " Tại sao chỉ trong tháng 10?"

" Không phải là sếp không có trợ lực ở bên đó. Tờ Runway ở Pháp và ở Ý nhất định sẽ cử trợ lý giúp Miranda, nói chung cả các biên tập viên cũng sẵn sàng phục vụ bà. Nhưng khi khai trương show thời trang mùa xuân Miranda luôn tổ chức một dạ hội khổng lồ - nghe tất cả nói đó là bữa tiệc lớn nhất và thú vị nhất trong ngành, năm nào cũng thế. Tôi chỉ bay đến Paris trong tuần mà bà ở đó, hiển nhiên vì bà chỉ tin cậy tôi ở đó." Hiển nhiên là như vậy.

" Chà chà, nghe có vẻ là một tuần hoành tráng lắm nhỉ. Trong lúc đó thì tôi ở đây canh văn phòng?"

" Đại khái là thế. Nhưng chẳng sung sướng gì đâu, tôi nói cho chị biết. Thậm chí có khi là tuần gian khó nhất trong năm, vì trên đường đi bà ấy luôn cần sự hỗ trợ nào đó. Chị sẽ thường xuyên nhận được điện thoại đấy."

" Sướng thật," tôi nói. Emily nhướng mắt nhìn.

Tôi lơ mơ ngủ trước màn hình trắng tinh cho đến khi mọi người lục tục đến và tôi bắt buộc phải chú ý. Khoảng mười giờ, các cô gái là lượt bắt đầu xuất hiện, họ kín đáo khắc phục hậu quả của mấy ky Champagner quá chén đêm qua bằng vài ngụm cà phê (với sữa gầy, không đánh bọt). Như mọi hôm, James ngó vào chỗ tôi nếu anh thấy Miranda chưa đến. Anh kể là tối qua ở Balthazar đã bắt quen được người chồng tương lai lý tưởng.

"Anh ấy ngồi ở bar và mặc cái áo khoác da màu đỏ bắt mắt nhất mà tôi từng thấy - và những đồ bên trong cũng không phải là hạng hai, chị biết không. Chị phải xem anh ấy để con sò lướt lên lưỡi ra sao..." Anh thở dài đánh sượt. "Trên cả tuyệt vời".

"Có xin được số điện thoại của anh ấy không?" Tôi hỏi.

"Xin số điện thoại? Xin cái quần thì đúng hơn. Mười một giờ đêm thì anh ấy đã nằm trần như nhộng trên ghế đệm nhà tôi, và trời ạ, chị phải biết là..."

"Được rồi, James, hay rồi, việc gì phải làm vòng vèo lâu la, đúng không? Nhưng thú thật là - anh có hơi nhẹ dạ quá không đấy? Thời buổi Aids, anh biết rồi đấy."

"Cưng ơi, cưng là thiên thần cuối cùng của thế giới này thật, nhưng chính cưng nếu nhìn thấy chàng thì cưng sẽ muốn quỳ sụp xuống và từ bỏ mọi lý tưởng của mình. Chàng là đỉnh cao. Đỉnh cao tuyệt đối."

Tới mười một giờ thì mọi việc đâu vào đấy: ví dụ như ai đã chộp được một cái quần trong xê ri mới nhất của Theory Max hay - điều không tưởng - của Sevens. Bây giờ đã đến lúc giải lao vài phút cạnh các giá treo đồ của Jeffy và nhân dịp ấy bàn tiếp về chuyện quần áo ở tầm cao hơn. Sáng nào Jeffy cũng đẩy ra ngoài mấy giá treo áo dài, áo tắm, quần sơ mi, măng tô, giày và tất cả những thứ khác có thể được dùng trong buổi chụp ảnh thời trang. Anh xếp giá treo thành một hàng liền nhau dọc tường, kín khắp tầng nhà. Các biên tập viên chỉ việc lựa chọn ra thứ đồ cần thiết mà không phải vất vả lục lọi trong kho quần áo.

Nói chính xác thì không thể gọi đó là kho quần áo, mà là một khu triển lãm nhỏ. Xung quanh là giày dép đủ kích cỡ, màu sắc và hình dạng, thiên đường của những kẻ nghiện giày: xăng đan thấp gót, xăng đan cao gót buộc dây, giày múa ba lê, bốt cao gót, giày mở, ủng nạm cườm. Các ngăn hộp, bất kể giấu trong tường hay chất thành núi ở góc nhà, chứa không trừ bất cứ loại nào của tất dài, tất ngắn, nịt vú, xi líp, váy lót, cooc xê, nịt lót. Ai cần gấp một chiếc nịt vú độn cao của La Perla in họa tiết da báo? Người nào tìm tất quần bằng vải lưới màu da hay kính râm thời thượng của Dior? Hãy vào đây. Các ngăn kéo và giá hàng chiếm hết toàn bộ chiều dài của hai bức tường hậu. Nhìn chỗ hàng - chưa tính đến giá trị - là đủ ngốt người. Bút máy, trang sức, vải trải giường, khăn quàng, găng tay, mũ len, áo ngủ, mũ lông, khăn phu la, đồ văn phòng, hoa giả, vô thiên lủng những mũ là mũ. Và túi nữa: túi đi mua sắm, túi du lịch, ví đầm, ba lô, túi đeo vai, túi quàng chéo, túi tài liệu, túi cặp nách - đơn giản là không thiếu gì trên đời, từ mini đến ngoại cỡ, tất cả đều mang nhãn hiệu nổi tiếng và bảng giá mà nhìn vào là một người Mỹ trung bình đủ choáng vì nó đắt hơn gấp bội tiền mua nhà trả góp hàng tháng. Diện tích còn thừa là dành cho các giá treo quần áo, kê sát nhau không cho ai đi lọt.

Nghĩa là suốt ngày Jeffy tất bật sắp xếp kho quần áo sao cho mọi người có thể đi lại một cách không quá vất vả. Ở đó các người mẫu (và trợ lý, kể cả loại muỗi như tôi) thử quần áo và thậm chí còn được leo được đến lớp thứ ba chứa giày và túi. Để làm được thế, Jeffy phải đẩy hết các giá treo ra hành lang. Tôi chưa từng chứng kiến một ai, bất kể phóng viên, sưu tầm, chở hàng hay trang điểm, khi nhìn thấy dãy quần áo vô tận ngoài hàng lang mà không đứng như trời trồng và trố mắt ra nhìn. Lần thì show thời trang (ở Sydney hay Santa Barbara) quyế tđịnh nội dung giá treo, lần thì chia theo danh mục (bikini, bộ kết hợp), nhưng phần nhiều thì tất cả trông như một kho sưu tầm ngổn ngang toàn những đồ đắt lòi mắt. Và tuy rằng ai cũng phải dừng chân để kính cẩn chạm tay vào chiếc khăn cashmere mềm như tơ hay những áo dài dạ hội nạm cườm tinh xảo, nhưng những chủ nhân đích thực - tự phong - lại là các cô người mẫu, họ luôn hăm hở canh giữ trang phục "của mình" và bàn tàn vô tận về từng chiếc một.

"Phụ nữ duy nhất trên thế giới này mặc được thứ quần Capri này là Maggie Rizzer," Hope phát biểu ngoài sảnh. Cô là trợ lý thời trang, nặng 47 kg và cao 1,80 mét. "Tôi có mặc vào thì mông cũng quá to."

"Andrea," bạn gái của cô gọi tôi, một người làm ở phòng phụ kiện mà tôi cũng chỉ quen sơ sơ. "Nói với Hope là chị ấy không béo đi."

"Chị không béo," tôi nhắc lại như con vẹt. Lẽ ra tôi nên in câu ấy lên ngực áo T-shirt hay xăm luôn lên trán thì tiết kiệm được khối thời gian. Tôi liên tục phải cả quyết với các nữ cộng tác viên ở Runaway là họ không béo.

"Ối trời ơi, sao mà tôi béo thế này, bụng như bà chửa, ghê quá!" Họ không có tí mỡ nào trên người, nhưng bù lại thì trong đầu chỉ nghĩ đến mỡ. Emily thề sống thề chết là đùi cô còn "to hơn cột đình". Jessica cho rằng bắp tay cô nhẽo như của Roseanne Barr vậy. Ngay cả James cũng than thở là một hôm ra khỏi phòng tắm anh thấy mông mình nom xấu dáng đến nỗi anh cân nhắc có nên xin công ty cho "nghỉ ốm vì chứng béo phì."

Thoạt tiên tôi còn trả lời những câu hỏi Tôi-có-béo-không một cách thản nhiên và hợp lý: "Hope, nếu chị béo thì tôi là gì? Tôi thấp hơn chị năm phân và nặng hơn."

"Thôi đừng đùa nữa, Andy. Tôi béo quá. Chị rất gầy và xinh."

Tất nhiên là tôi cứ nghĩ là cô ta xạo. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra là Hope - như tất cả các đồng nghiệp gầy như que củi của cô và hầu hết đàn ông ở văn phòng - có tài đoán trọng lượng chính xác từng gam. Duy chỉ khi ngó vào gương thì họ tá hỏa thấy một con voi ngó ra.

Tôi cố gắng đến mấy cũng vô ích, chẳng có cách nào để nhìn tất cả từ một góc độ biết điều và tự nhủ rằng tôi là một người bình thường chứ không như tất cả mọi người - những chuyện đàm tiếu xung quanh đề tài quá cân đã bắt đầu ngấm. Mới chỉ ở đây có bốn tháng nhưng tôi đã đủ nhạy cảm (hay hoang tưởng) để cho rằng mỗi nhận xét bình phẩm đều có thể chủ ý nhằm vào mình. Đại khái : tôi đây này, trợ lý thời trang, dong dỏng cao, quyến rũ, mảnh mai, nhưng ra vẻ kêu mình béo ục ịch, cốt chỉ để cậu, đồ nấm lùn trợ lý sai vặt, rốt cuộc nhận ra rằng chính CẬU mới là béo. Với 52 cân và 1,75 mét tôi được coi là thon thả so với bạn bè cùng lứa. Ngoài ra, cho đến giờ tôi vẫn cho là mình cao hơn 90% phụ nữ (và tối thiểu một nửa đàn ông) quanh mình. Chỉ từ khi vào làm việc trong vương quốc của những kẻ hoang tưởng này tôi mới thấu hiểu cảm giác từ sáng đến tối và 365 ngày trong năm tự thấy mình thấp và béo. Như một con hà mã giữa bầy tiên nữ. Lúc nào có được một giây quên đi là tôi mang đồ số 38 thì những cuộc đàm tiếu hằng ngày sẽ nhắc nhở tôi ngay lập tức.

"Bác sĩ Eisenberg nói, phong độ cao nhất chỉ đạt được khi từ bỏ cả hoa quả," Jessica nhảy vào tranh luận cùng, trong khi cô nhấc một chiếc váy Narcisco Rodriguez từ giá treo xuống. Mới đây cô hứa hôn với một phó chủ tịch tập đoàn Goldman Sachs và sống trong trạng thái stress liên miên, chỉ vì luôn nghĩ đến đám cưới diễm lệ sắp diễn ra. "Bà ấy nói đúng. Từ lần trình diễn cuối, tôi đã xuống tối thiểu năm cân." Tôi không quan tâm đến chuyện ăn kiêng của cô, nhưng cơ thể cô không còn đủ lượng mỡ để hoạt động bình thường nữa; cái mà tôi không tha thứ được là, cô còn nói về chuyện ấy. Kệ cho cô dẫn lời những thần tượng nào của ngành y hoặc khoe khoang thành tích nào mới, mối quan tâm của tôi về đề tài này chỉ là con số không tròn trĩnh.

Gần một giờ chiều, mọi người trong văn phòng tăng tốc làm hết phần việc dang dở để nghỉ trưa. Cần nói thêm là "nghỉ trưa" không liên quan tới ăn! Tôi uể oải quan sát nhóm quen thuộc gồm thợ làm tóc, cộng tác viên cơ hữu, dân làm hợp đồng và bạn bè tới đây để tắm mình trong thế giới thời trang - giữa những bộ quần áo sang trọng nhất, những khuôn mặt xinh như mộng và những cặp đùi dài đến nách.

Khi biết rõ là cả Miranda lẫn Emily đều đã đi nghỉ trưa, Jeffy đến chỗ tôi và dúi cho tôi hai túi mua hàng to tướng.

"Đây, chị thử xem, chắc sẽ đủ cho thời kỳ đầu."

Tôi đổ một túi ra sàn nhà cạnh bàn giấy và phân loại. Quần hiệu Joseph màu cát và than đá, dài và không bó, cạp trễ, cắt bằng len mềm như tơ. Quần da lộn nâu của Gucci, mặc vào thì một bà bán cá cũng thành siêu mẫu. Hai quần bò mài đúng độ của Marc Jacobs, cứ như may đo cho riêng tôi. Tám, chín áo quây bằng thun dệt nổi gân của Calvin Klein bó chét. Sơ mi kiểu dân gian, trong suốt và ngắn cũn, mác Donna Karan. Một váy quấn cực khêu gợi hiệu Diane Von Furstenburg xếp ngay ngắn cạnh bộ đồ xanh dương bằng nhung the của Tahari. Vừa nhìn là tôi mê ngay chiếc váy bò xếp ly của Habitual, dài đến đầu gối tôi và rất hợp với áo vest in hoa phá cách hiệu Katayone Adelie.

"Chỗ quần áo này... tất cả cho tôi à?" Hy vọng là giọng tôi thật hứng khởi chứ không có vẻ chạnh lòng.

"Vâng, chuyện vặt mà. Để trong kho rất lâu rồi. Có thể đã lấy ra dùng vài thứ để chụp ảnh thời trang, nhưng chưa bao giờ gửi trả lại bên cung cấp cả. Cứ vài tháng một lần, tôi phải dọn dẹp và vứt đi vài thứ, lần này tôi chợt nhớ đến chị. Chị mặc cỡ 38 chứ gì?"

Tôi gật đầu, vẫn chưa thốt nên lời.

"Tôi cũng đoán thế. Đa số mọi người mang cỡ 32 hoặc còn nhỏ hơn, chị cứ dùng thoải mái."

A! "Hay quá, hay tuyệt, Jeffy, tôi không biết cám ơn ra sao đây. Thích quá."

"Chị xem nốt túi kia đi," anh chỉ vào túi thứ hai trên nền nhà. "Chị đừng tưởng sẽ gây ấn tượng với bộ nhung the này nếu như vẫn tiếp tục xách cái túi đi chợ dặt dẹo kia."

Cái túi thứ hai còn đầy hơn, chứa một núi đồ cao cấp. Giày, túi, mấy chiếc măng tô liền. Bốt cao gót hiệu Jimmy Choo, cao đến mắt cá và đến đầu gối, hai đôi xăng đan mở có gót cao hiệu Manolo, giầy Prada kinh điển màu đen, giày lười của Tod (nhất định không được dùng ở văn phòng - Jeffy cảnh cáo ngay). Tôi quàng lên vai một túi mềm bằng da lộn màu đỏ, mặt trước có ký tự "CC" lồng nhau không lẫn vào đâu được - mặc dù không thể sánh được với túi mua hàng bằng da màu cà phê của Celine mà tôi đeo lên vai kia. Đỉnh cao là chiếc áo khoác dài, mốt quân sự, khuy cài to đùng nổi bật, mác Jacobs.

"Anh lại đùa rồi," tôi khẽ nói và vớ lấy chiếc kính râm Dior, hình như được nhồi thêm vào túi ở phút cuối. "Đúng là chuyện đùa."

Anh nhún vai hài lòng. "Chị hãy chiều tôi, và mặc chúng nhé! Và đừng đi kể ở đâu rằng chị là người đầu tiên được phép chọn, vì ai cũng tranh nhau đồ thanh lý của kho thời trang đấy." Anh biến nhanh như chớp khỏi cửa khi vừa nghe tiếng Emily gọi gì đó đầu hành lang, còn tôi lấy chân đẩy đống quần áo xuống gầm bàn. Emily đem mấy thứ quen thuộc từ căng tin về: sữa hoa quả, một bát nhựa đựng xà lách và súp lơ xanh trộn dấm. Không phải nước xốt, mà là dấm tinh. Miranda sắp đến văn phòng - Yuri gọi điện báo là Miranda vừa xuống xe, nghĩa là tôi không còn bảy phút xông xênh như thường lệ để lao bổ xuống quầy xúp rồi về bàn dốc tuột vào họng. Thời gian trôi đi vùn vụt, tôi đói lả cả người nhưng không có đủ ý chí để chen qua đám người mẫu, để cô thu ngân đánh giá mình rồi húp bát xúp nóng bỏng (và làm béo!) với tốc độ âm thanh xuống dạ dày sau khi làm hỏng thực quản. Chẳng bõ công, tôi nghĩ bụng. Thỉnh thoảng bỏ một bữa chẳng chết đâu mà lo, tôi tự nhủ. Ngược lại, nó sẽ làm mi mạnh hơn, như các nữ đồng nghiệp khỏe mạnh về thể xác và linh hồn của mi vẫn nói. Với lại, chiếc quần 2.000 dollar không hề đẹp khi cô gái mặc nó thuộc giống phàm ăn tục uống. Vậy thì tôi thả người ngồi xuống ghế và tự an ủi mình đã đại diện một cách xứng đáng cho tạp chí Runaway.

Sâu thẳm trong mơ, điện thoại di động của tôi đổ chuông - đủ dai dẳng để tôi thức giấc và tự hỏi, có phải bà ấy không. Sau giai đoạn định hướng nhanh bất ngờ - Ta ở đâu? "Bà ấy" là ai? Hôm nay thứ mấy? - tôi linh cảm có gì đó chẳng lành, khi chuông điện thoại reo lúc tám giờ sáng thứ Bảy. Trong đám bạn tôi không ai dậy vào giờ này, và sau nhiều năm bị chặn máy thì bố mẹ tôi cũng nghiến răng chấp nhận là con gái của ông bà không bao giờ bắt máy trước buổi trưa. Trong bảy giây đồng hồ để nghĩ những chuyện kể trên, tôi còn ngẫm nghĩ xem có cớ gì bắt tôi phải nhận cuộc gọi. Cho đến khi nhớ ra các lý do quan trọng mà Emily đã nói cho tôi hôm đầu tiên đi làm. Tôi thò tay khỏi chăn ấm, quờ quạng quét xuống nền nhà và túm được điện thoại trước khi chuông ngừng kêu.

"A lô?" Ái chà, giọng tôi rất mạch lạc và khỏe, cứ như là mấy tiếng vừa qua tôi chăm chú tập trung làm một việc gì khókhăn chứ không phải ngắc ngoải trong cơn hôn mê sâu.

"Xin chào con gái yêu! Rất vui thấy con đã dậy rồi. Mẹ chỉ muốn báo là bố mẹ đã vào đến đầu phố 3 và khoảng mười phút nữa là tới chỗ con, okay?" Tiếng mẹ tôi trong điện thoại làm váng tai. Chuyển nhà! Hôm nay là ngày chuyển nhà! Tôi quên khuấy là bố mẹ tôi muốn đến giúp chở mấy thùng quần áo, CD và album ảnh đến căn hộ mà Lily và tôi mới thuê. Cái giường quái vật thì phải nhờ dịch vụ xử lý thôi.

"Ôi, con chào mẹ," tôi lúng búng nói rồi chuyển về chế độ buồn ngủ. "Con cứ tưởng bà ấy gọi."

"Làm gì có chuyện, hôm nay con được nghỉ. Đỗ xe ở đâu đây? Ở gần đây có tầng ngầm đỗ xe không?"

"Có ạ, ngay dưới hầm nhà, lối vào từ phố 3 rẽ phải. Nói với họ số phòng thì được giảm lệ phí trông xe. Con dậy mặc quần áo ngay đây."

"Okay, con gái yêu, chuẩn bị bắt tay vào việc nhé!"

Tôi thả người lên gối và tính nhẩm xem có cơ may chợp mắt một lát nữa không. Nhưng sau khi bố mẹ đi cả đoạn đường từ Connecticut đến đây để giúp tôi thì... Đúng lúc đó thì đồng hồ báo thức réo lên. À, thì ra tôi cũng không quên hẳn vụ chuyển nhà. Từ đó suy ra là tôi chưa mất trí hẳn, cũng là một niềm an ủi nho nhỏ.

Trèo ra khỏi giường hôm nay còn khó nhọc hơn trong tuần, mặc dù tôi đã ngủ lâu hơn mấy tiếng. Cơ thể tôi bị lừa bởi ảo tưởng được bù lại chứng "thiếu ngủ" mà các khóa tâm lý học đại cương nào cũng nhắc đến. Cạnh giường là một chồng quần áo, cùng với bàn chải đánh răng là những thứ tôi chưa xếp vào thùng. Tôi xỏ chân vào quần gió Adidas, mặc áo liền mũ Brown rồi đi đôi giầy thể thao New Balance dơ dáy đã từng theo tôi đi khắp thế giới. Đúng lúc tôi nhổ nước súc miệng vào bồn thì chuông cửa vang lên.

"Chào bố mẹ, con mở cửa cho mọi người lên tâng đây, một giây thôi."

Hai phút sau có tiếng gõ cửa, và không phải bố mẹ tôi mà là Alex đứng đó trong bộ quần áo nhàu nát, nhưng trông vẫn đẹp trai như thường lệ. Quần bò bạc phếch không giấu nổi mông tóp, T-shirt xanh dương dài tay cộc cỡn. Sau cặp mắt kính không giọng mà anh chỉ đeo khi kính áp tròng gây vấn đề là đôi mắt đỏ ngầu, và tóc tai bù xù như cái chổi. Tôi ôm chầm lấy anh. Từ lần uống cà phê vội vã chiều thứ Bảy tuần trước tôi chưa gặp lại anh. Đáng lẽ chúng tôi định ở với nhau cả ngày và cả đêm nhưng Miranda đã làm hỏng kế hoạch vì bà phải đưa Caroline đến bác sĩ và khẩn cấp biến tôi thành cô giữ trẻ cho Cassidy. Về được đến nhà thì đã quá muộn để đi chơi với Alex, dạo này anh cũng bỏ thói quen cắm trại trên giường đợi tôi về - cũng dễ hiểu thôi. Đêm qua anh định ở lại đây, nhưng tôi vẫn đang trong giai đoạn nửa nạc nửa mỡ đối với bố mẹ: mọi người trong cuộc đều biết là hai chúng tôi ngủ với nhau, nhưng chớ có ai hé một câu về chuyện ấy. Vậy thì tôi không muốn anh có mặt trong phòng lúc phụ huynh đến.

"Bé cưng, anh nghĩ là hôm nay mọi người cần trợ lực," anh giơ một túi bánh lên, tôi biết chắc trong đó là loại bánh mặn tôi thích và mấy cốc cà phê lớn. "Bố mẹ em đã đến chưa? Anh mua cà phê cho cả mọi người đây."

"Em tưởng hôm nay anh phải dạy thêm," tôi hỏi, vừa lúc Shanti ra khỏi phòng ngủ trong bộ đồ đen. Cô nhìn xuống đất khi đi ngang qua và lẩm bẩm gì đó về chuyện hôm nào cũng đi làm rồi biến ra cửa. Hiếm khi chúng tôi nói chuyện với nhau, có lẽ cô cũng không biết là hôm nay tôi dọn khỏi đây.

"Đúng thế, nhưng anh đã gọi điện cho bố mẹ hai cô học sinh và họ nói là sáng mai học cũng được, thế là em toàn quyền sai bảo anh."

"Andy! Alex!" Bố tôi hiện ra trong hành lang sau lưng Alex, mặt mũi rạng rỡ cứ như hôm nay là ngày đẹp nhất thế kỷ. Mẹ tôi cũng tươi tỉnh không ngờ, khiến tôi tự hỏi có phải bà dùng chất kích thích. Tôi soát lại tình thế và đi đến kết luận, nhất định phụ huynh sẽ đoán rằng Alex vừa đến trước họ một lát, vì anh vẫn đang đi giày và cầm trong tay gói đồ ăn mới mua. May quá.

"Andy kể là hôm nay cháu không có thì giờ," bố tôi nói và đặt cà phê và gói giấy lên bàn phòng khách - chắc là bánh mặn. Ông tránh nhìn thẳng Alex. "Cháu vừa đến hay sắp đi?"

Tôi mỉm cười nhìn Alex và hy vọng anh không hối hận đã bỏ công đến đây từ sáng sớm tinh mơ.

"Cháu đến cách đây một phút, bác sĩ Sachs ạ," anh sôi nổi kể. "Cháu đã đổi giờ dạy thêm, vì cháu nghĩ là gia đình ta cần có người giúp một tay."

"Thế thì hay quá, chắc chắn sẽ cần hỗ trợ. Đây, cháu tự lấy bánh ăn đi, Alex. Tiếc là chỉ có ba cốc cà phê vì bác không biết cháu có mặt ở đây." Tôi cảm động thấy ông già áy náy ra mặt. Rõ ràng là ông không được tự nhiên lắm khi thấy con gái út của ông đã có bạn trai, nhưng ông cố gắng không để lộ ra.

"Không sao ạ, thưa bác sĩ Sachs. Cháu cũng đem đến mấy thứ, chắc sẽ đủ cho tất cả." Sau đó bố tôi và bạn tôi ngồi xuống ghế và chia nhau đồ ăn sáng, không hề làm khách.

Tôi nếm từ mỗi túi một chiếc bánh mặn và nhận ra mình đang mừng khấp khởi được dọn đến chỗ Lily. Ngót một năm kể từ khi tốt nghiệp chúng tôi tuy cố gắng gọi điện cho nhau, tối thiểu mỗi ngày một bận, nhưng hầu như không gặp nhau mấy khi. Từ nay trở đi chúng tôi sẽ cùng về phòng chung vào buổi tối và chuyện trò như thời xưa về những thảm họa xảy ra trong ngày. Alex và ông già tôi hàn huyên về thể thao (bóng rổ thì phải), trong khi mẹ và tôi viết chữ lên các thùng quần áo trong phòng tôi. Quả thật rất nghèo nàn: vài thùng bìa cứng đựng chăn gối, một thùng album ảnh và giấy bút (cho chiếc bàn giấy tưởng tượng), vài thứ đồ mỹ phẩm và vệ sinh cũng như một chồng quần áo hoàn toàn không phù hợp với Runway. Thật ra chẳng bõ công đánh dấu, nhưng người trợ lý mẫn cán trong tôi đã xuất hiện.

"Ta đi thôi," bố tôi gọi từ phòng khách.

"Suỵt! Bố làm Kendra thức dậy mất," tôi thì thào. "Mới có chín giờ sáng, hôm nay là thứ Bảy."

Alex lắc đầu. "Cô ấy đi cùng với Shanti lúc nãy rồi, anh nghĩ thế. Chắc chắn là anh thấy hai người, họ đều mặc trang phục văn phòng và trông không tươi tỉnh lắm. Em ngó vào phòng mà xem."

Cửa chỉ khép hờ, tôi khẽ mở ra. Chiếc giường tầng (cũng chẳng đủ chỗ cho hai giường đơn) được dọn gọn ghẽ, trên mỗi chiếc gối là một con chó bông giống nhau ngồi chễm chệ. Hôm nay tôi mới nhận ra là chưa bao giờ mình đặt chân vào phòng của hai cô cho thuê nhà. Trong mấy tháng chung sống, tôi chưa hề nói chuyện lâu quá ba mươi giây cùng một lúc với hai cô. Tôi cũng không rõ họ làm nghề gì, hay đi đâu và có bạn bè gì không. Không, chẳng có gì giữ tôi lại đây cả.

Alex và ông già tôi đã ăn xong, bây giờ họ phác thảo kế hoạch hành động. "Đúng, họ đi rồi. Con nghĩ là họ không hề biết con dọn đi hôm nay."

"Hay là con viết lại tin nhắn?" Mẹ tôi đề nghị. "Để trên bàn chơi xếp chữ của con được không?" Tôi thừa hưởng chứng nghiện chơi xếp chữ của bố tôi, cùng với lập luận là nhà mới phải có trò chơi mới, vậy nên tôi để lại trò chơi cũ ở đây.

Năm phút cuối cùng trong phòng này tôi dùng để xếp các miếng in chữ thành "Cám ơn và chúc may mắn, Andy". 108 điểm. Không tồi.

Một tiếng sau thì hai ô tô đã chất đầy đồ, nhiệm vụ của tôi chủ yếu là đứng giữ cửa và trông chừng hai chiếc xe trong khi một người vác đồ từ xe xuống. Nhóm thợ chuyên nghiệp của dịch vụ chuyển nhà đòi tiền chuyên chở cao hơn giá mua cái giường khốn kiếp ngày xưa. Chờ mãi chưa thấy họ đến, bố tôi và Alex đánh xe về phía trung tâm. Cho đến lúc ấy tôi chỉ biết căn hộ mới mà Lily tìm được trên trang quảng cáo của tờ Village Voice qua lời kể lại. Cô gọi tôi giữa giờ làm việc và hét vào điện thoại: "Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi! Rất tuyệt! Phòng tắm có nước, sàn gỗ tương đối phẳng phiu, tớ đứng đây đã bốn phút rồi mà chưa thấy con chuột hay con gián nào. Nhanh lên, đến đây xem!"

"Cậu có say rượu không đấy? Tôi thì thào. "Bà ấy đang ở đây, tớ không được đi đâu cả."

"Một là đến ngay, hai là không bao giờ. Cậu biết chuyện này ra sao rồi đấy. Tớ mang theo tập giấy tờ và mọi thứ cần thiết đây."

"Lily, nghe đây. Kể cả khi được hẹn tới bệnh viện ghép tim tớ cũng không được đứng dậy, nếu không muốn bị đuổi việc. Làm sao có thể xin đi xem nhà được?"

"Okay, nửa phút nữa là mất nhà. Đây là cuộc hẹn cho nhiều người, tối thiểu còn hai mươi lăm ứng cử viên khác nữa, họ đều đang điền đơn xin thuê nhà. Bây giờ hoặc không bao giờ."

Trong thị trường nhà cửa quái gở của Manhattan, phòng ở tương đối bình thường còn hiếm hơn - và quý hơn - là đàn ông dị tính tương đối bình thường. Nếu còn đòi hỏi giá thuê nhà khá dễ chịu thì khó khăn hơn đi tìm mua một hòn đảo tư nhân bờ biển phía Nam của châu Phi. Tôi đoán thế. Vậy thì đòi hỏi gì hơn, đa số những căn hộ kiểu ấy không hơn gì một ổ chuột với sàn gỗ mục nát, giấy dán tường bong lả tả và trang thiết bị từ thời đồ đá. Không có gián? Không có chuột? Lấy luôn!

"Lily, tớ tin cậu, làm đi. Miêu tả cho tớ qua email nhé?" Tôi phải đặt máy ngay lập tức - Miranda quay về bất cứ lúc nào, nếu bà ấy bắt gặp tôi nói chuyên riêng thì tong đời.

"Tớ có trong tay bảng lương copy của cậu - trông khá tanh đấy..., và giấy chứng nhận ngân hàng của cả hai cùng với chứng chỉ tín dụng và hợp đồng làm việc của cậu. Vấn đề duy nhất là bảo lãnh. Người bảo lãnh phải sống trong địa phận New York và lân cận, và có thu nhập gấp hơn bốn mươi lần tiền nhà của bọn mình. Bà tớ không thể nào có quá một trăm tờ, quên đi. Bố mẹ cậu có bảo lãnh cho bọn mình được không?"

"Lily, sao mà biết được. Tớ phải hỏi bố mẹ đã, nhưng bây giờ không gọi điện dược. Cậu làm hộ tớ đi."

"Được. Họ có thu nhập cao như thế không?"

Tôi không rõ, nhưng biết hỏi ai bây giò? "Cứ gọi họ đi," tôi nói. "Giải thích với họ chuyện Miranda, nói là tớ không thể nào tự nói chuyện với họ được."

"Tớ sẽ làm," cô nói. "Quan trọng nhất là lấy được phòng này. Tớ sẽ gọi lại," rồi cô đặt máy. Hai mươi giây sau lại có chuông, tôi thấy số của Lily trên điện thoại văn phòng. Emily ngó lên trần nhà, đúng kiểu như cô vẫn làm mỗi khi nghe tôi nói chuyện với bạn bè. Tôi với lấy ống nghe, nhưng trước tiên nhìn qua phía cô.

"Rất quan trọng," tôi nghiến răng. "Bạn gái tôi cố kiếm một căn phòng cho tôi qua điện thoại, bởi vì tôi không được ra khỏi đây lấy một giây..."

Ba giọng nói cùng lúc bổ xuống đầu tôi. Giọng của Emily nhẹ nhàng, thân thiện và mang chút cảnh báo. "Andrea, kìa," cô cất giọng, trong khi Lily hét vào tai tôi đúng lúc ấy: "Bố mẹ cậu gật đầu rồi, Andy, cậu nghe chưa?" Mặc dù cả hai cùng nói trực tiếp với tôi, nhưng tôi không hiểu ai chính xác. Giọng duy nhất mạch lạc và rõ ràng xuyên vào tai tôi là của Miranda.

"Có vấn đề gì không, Aan-dree-aa?" Sốc! Lần này bà ấy gọi đúng tên tôi. Miranda khom lưng đứng trước mặt tôi, sẵn sàng tấn công.

Lập tức tôi cắt cuộc gọi của Lily (hy vọng được cô thông cảm) và sẵn sàng nghênh chiến. "Không, Miranda, mọi việc ổn cả."

"Được. Thế thì tôi muốn một cốc kem, tốt nhất là trước khi nó chảy hết thành nước. Kem va ni, không phải sữa chua, chị hiểu rõ chứ, không phải sữa đóng băng, cũng không phải loại kiêng đường kiêng mỡ, kèm sô cô la lỏng và thật nhiều kem tươi. Không phải loại trong bình xịt, hiểu chưa? Kem tươi chính cống. Chấm hết." Bà quay gót đi. Có vẻ như bà chỉ mò vào để kiểm tra tôi. Emily nhếch mép cười đắc ý. Điện thoại đổ chuông. Lại Lily. Chết tiệt - tại sao cô ta không gửi email? Tôi nhấc máy, ép chặt ống nghe vào tai, không nói một lời.

"Tớ biết rồi, cậu không nói chuyện được, vậy chỉ nghe thôi nhé. Bố mẹ cậu bảo lãnh cho bọn mình, thế là tuyệt lắm rồi. Căn hộ có một phòng ngủ lớn và nếu mình làm một vách ngăn ở phòng khách thì vẫn còn đủ chỗ cho một giường đôi và một ghế bành. Không có bồn tắm, nhưng vòi hoa sen trông được. Không có máy rửa bát, tất nhiên. Máy điều hòa cũng không, nhưng mình có thể lắp vào cửa sổ được. Máy giặt ở tầng hầm, có người gác theo giờ, khá gần tuyến số 6, và - chú ý này - có ban công!"

Nghe tiếng tôi lấy hơi, cô nàng có cớ cao giọng: "Thật đấy! Trên cả tuyệt vời, đúng không nào? Trông như có thể đổ sập xuống bất cứ lúc nào, nhưng bây giờ vẫn còn dính vào nhà! Đủ chỗ cho hai người, bọn mình có thể ra đấy hút thuốc, không thể tin nổi!"

"Bao nhiêu?" Tôi gượng hỏi và tự thề rằng đây là hai chữ cuối cùng.

"Tổng cộng: 2.280 mỗi tháng. Cậu nghĩ xem, mỗi người trả 1.140 dollar là bọn mình có ban công, cơ hội trăm năm có một lần. Sao, tớ làm nhé?"

Tôi toan trả lời, nhưng đúng lúc đó Miranda đang từ từ quay về văn phòng, vừa đi vừa chửi mắng người điều phối trình diễn trước toàn bộ nhân viên có mặt. Rõ ràng bà đang có chuyện bực bội, và hôm nay tôi không việc gì phải đổ thêm dầu vào lửa. Cô gái bị khiển trách xấu hổ cúi xuống đất, má đỏ lựng, và tôi cầu nguyện để cô đừng khóc ré lên làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn.

"Andy! Thật là nực cười. Nói có hay không đi! Hôm nay tớ trốn học chưa đủ hay sao, còn cậu thì không được rời khỏi nơi làm để xem phòng. Cậu không thể mở mồm nói có hay không được à? Tớ nên làm gì..." Lily sắp nổi cơn thịnh nộ, tôi hiểu quá rõ, nhưng mặc dù vậy không thể làm gì khác là cúp máy. Cô hét trong máy to đến nỗi cả văn phòng đều nghe thấy, và Miranda chỉ đứng cách đó một mét. Ước gì tôi kéo cô gái điều phối trình diễn tội nghiệp vào nhà vệ sinh và cùng nhau khóc trong đó. Hay là hai chúng tôi hợp sức ấn Miranda vào một phòng vệ sinh và siết chiếc khăn Hermès quấn lỏng lẻo quanh cái cổ gà của bà ta chặt hơn chút nữa. Phần việc của tôi sẽ là gì - siết chặt khăn hay giữ chặt bà ta? Cuối cùng có lẽ gây tác động mạnh hơn nếu chúng tôi nhồi cái khăn khốn nạn vào họng và đứng ngắm bà cố gắng lấy hơi và...

"Aan-dree-aa!" Giọng bà giật cục và sắc lẹm. "Tôi nhờ chị làm gì cách đây năm phút?" Chết rồi! Kem. Tôi đã quên mua kem. "Có lý do đặc biệt gì để chị vẫn còn ngồi đấy, thay vì làm nhiệm vụ của mình? Phải chăng đó là kiểu khôi hài của chị? Trong tư cách hay lời nói của tôi có gì khiến chị hiểu là tôi không nói nghiêm chỉnh không? Có không?" Đôi mắt xanh của bà trông như lòi ra khỏi tròng, giọng bà gần như lạc đi. Tôi mở miệng, nhưng Emily đã chêm vào.

"Miranda, tôi vô cùng xin lỗi. Lỗi tôi đấy. Tôi bảo Andrea trả lời điện thoại vì tôi tưởng Caroline hay Cassidy gọi đến và tôi đang nói ở máy kia về chuyện chiếc sơ mi Prada bà muốn đặt. Andrea đã định đi rồi, xin lỗi bà, chuyện này sẽ không xảy ra lần nữa!"

Quả là vẫn còn phép màu! Con người mẫu mực đã lên tiếng, và bênh vực kẻ hèn hạ này.

Miranda có vẻ dịu xuống. "Thôi được. Bây giờ chị đi mua kem cho tôi, Andrea." Dứt lời bà đi vào phòng mình, nhấc điện thoại và lập tức rót ngay một lít mật vào tai ông Mờ-Cờ-Đờ.

Tôi nhìn sang Emily đang ra vẻ chăm chú làm việc. Email mà tôi gửi cho cô chỉ có mỗi hai chữ: Tại sao?

Câu trả lời đến ngay: Vì tôi tin là bà ấy sẽ sa thải chị, và tôi không có chút hứng thú nào tập sự cho một nhân viên mới. Vậy thì tôi bắt đầu cuộc săn lùng cốc kem lý tưởng và gọi Lily bằng điện thoại di động khi thang máy xuống đến tầng dưới.

"Xin lỗi, thật đấy, chỉ vì..."

"Nghe này, tớ không có thừa thời gian," giọng Lily đều đều. "Cậu có thấy cậu hơi quá đáng không? Cậu không thể nói có hay không trong điện thoại hay sao?"

"Tớ rất khó giải thích, Lily, chỉ vì..."

"Quên đi. Tớ phải đi đây. Tớ sẽ gọi cậu nếu thuê được phòng. Cho dù cậu không quan tâm lắm."

Tôi định phản đối, nhưng cô đã tắt máy. Chết tiệt! Nhưng làm sao Lily hiểu nổi những gì chính tôi trước đây bốn tháng còn coi là hoàn toàn ngớ ngẩn. Bắt cô chạy ngang chạy dọc Manhattan để tìm nhà cho cả hai rồi không thèm trả lời điện thoại, quả là không công bằng, nhưng tôi đâu có lựa chọn nào khác.

Quá nửa đêm, rốt cuộc tôi cũng tóm được cô trong điện thoại và nghe thông báo là chúng tôi đã có nhà.

"Không thể tin nổi, Lily. Biết cảm ơn cậu như thế nào bây giờ. Tớ xin nợ cậu chuyện này, hứa danh dự đấy!" Rồi tôi nảy ra một ý. Làm một cú bất ngờ đi! Gọi taxi, phóng xuống Harlem và cảm ơn cô bạn thân nhất đi! "Lily, cậu đang ở nhà hả? Tớ đến chỗ cậu, và mình liên hoan nhé?"

Tiếng hét vui mừng không vang lên. "Không phải cố," cô nói bình thản. "Tớ có một chai Southern Comfort trước mặt, và chàng Xỏ-khuyên-lưỡi đang ở đây. Hiện tại thế là đủ."

Tên bắn trúng đích. Nhưng tôi biết rồi. Hiếm khi Lily giận dỗi, nhưng khi đã xảy ra rồi thì phải để cô một mình, xong chuyện cô sẽ tự chui khỏi vỏ ốc. Tôi nghe tiếng chất lỏng rót vào ly và đá viên kêu lanh canh. Cô uống một ngụm lớn.

"Okay. Nhưng hãy gọi tớ, nếu cậu cần."

"Để làm gì? Để nghe cậu im như thóc trong điện thoại à? Cám ơn."

"Lily..."

"Chớ lo lắng gì, tớ rất ổn." Một ngụm nữa. "Tớ sẽ gọi lại. À, chúc mừng hai chúng ta."

"Chúc mừng hai chúng ta," tôi nói như tiếng vọng, nhưng cô đã bỏ máy.

Tôi gọi vào máy di động của Alex và hỏi có được ghé qua chỗ anh không. Cả anh cũng có vẻ không phấn khởi như tôi mong đợi.

"Andy, anh cũng muốn gặp em, em biết đấy. Nhưng anh đang đi chơi với Max và các bạn khác. Vì lý do nào đó mà cả tuần em đã không có thì giờ nên tối nay anh đã hẹn các bạn."

"Thế à? Các anh đang ở đâu? Brooklyn hay loanh quanh gần đây? Em đến cùng được không?" Có thể họ ở ngay đâu đây vì những người kia đều sống ở Upper East Side.

"Em nghe này, bình thường thì được ngay, nhưng hôm nay đơn giản là tối liên hoan đàn ông."

"Thôi được, okay, thật ra em định mừng nhà mới với Lily, nhưng bọn em bỗng dưng có chuyện hục hặc. Lily không thông cảm tại sao ở văn phòng em không gọi điện thoại thoải mái được."

"Chà, Andy, anh buộc phải nói là đôi khi anh cũng khó thông cảm nổi. Anh biết là Miranda này không vừa - em phải tin anh, anh biết thật đấy - nhưng vì sao đó mà anh có cảm tưởng là em coi trọng quá mức tất cả những gì dính dáng đến bà ta!" Nghe rõ ràng Alex cố không làm gì để chúng tôi sinh ra đối đầu.

"Có thể em như thế thật!" Tôi phản pháo. Tôi điên người lên vì anh không quỳ xuống xin tôi đến cùng tối nay, và cũng vì anh đứng về phía Lily, tuy rằng nói cho cùng thì cô có lý và anh cũng có lý. "Đây là cuộc sống của em, anh hiểu không? Đường công danh và tương lai của em! Em phải làm gì cơ chứ? Coi tất cả là trò cười chăng?"

"Andy, em bẻ cong lời anh. Em biết rõ là ý anh không phải như vậy."

Muộn rồi, máu tôi đã sôi đến một trăm độ. Đầu tiên Lily, giờ đến Alex. Thêm Miranda nữa, ngày này qua ngày khác? Giọt nước tràn ly. Tôi ức phát khóc, thay vào đó tôi gào lên.

"Tất cả là trò cười? Mọi người coi công việc của em là thế hả? Ồ Andy, em làm bên thời trang mà, chắc chẳng có gì ghê gớm lắm đâu?" Tôi nhại lại và tự thấy ngán mình. "Xin lỗi, không phải ai cũng là người hảo tâm hay sắp thành tiến sĩ! Xin lỗi, nếu..."

"Em hãy gọi điện cho anh khi đã bình tĩnh lại," anh nói. "Anh không muốn phải nghe thêm nữa." Ngắt máy. Tôi nghĩ là anh sẽ gọi lại, nhưng đến tận ba giờ sáng lúc tôi ngủ thiếp đi, cả Alex lẫn Lily đều im tiếng.

Chuyện xảy ra chẵn một tuần rồi, cả hai tuy không giận dỗi ra mặt nữa nhưng có vẻ thay đổi một cách không rõ rệt. Tôi không có dịp đích thân xin lỗi họ vì văn phòng đang giữa lúc biên tập giai đoạn cuối của số tạp chí sắp in, chỉ hy vọng là mọi thứ sẽ trở lại đâu vào đấy khi Lily và tôi lại sống chung nhà. Ở căn hộ mới chung nhau mọi thứ sẽ lại như ngày xưa ở đại học, khi cuộc sống còn cởi mở hơn nhiều với bọn tôi.

Dịch vụ chuyển nhà mãi mười một giờ mới thèm đến, họ mất đúng chín phút để tháo xong chiếc giường yêu quý của tôi ra từng mảnh và quẳng lên xe tải. Mẹ và tôi chui lên ca bin cùng người lái. Ở tiền sảnh nơi tôi chuyển đến, ông già tôi và Alex đang hăng hái tranh luận với nhân viên thường trực.

"May quá, con đến rồi, Andy. Ông Fisher tất nhiên có lý khi chỉ chịu mở khóa phòng nếu người thuê nhà có mặt," bố tôi vừa nói vừa cười tươi và nháy mắt với ông thường trực.

"Sao, Lily chưa đến à? Cô ấy định mười giờ hay mười rưỡi có mặt cơ mà."

"Chưa thấy đến. Anh gọi cô ấy nhé?"

"Vâng, thế thì tốt hơn. Em sẽ đi cùng ông Fisher lên nhà để mọi người có thể bắt tay vào việc. Hỏi xem Lily có cần giúp đỡ không."

Nụ cười của Mr. Fisher vô cùng dâm đãng. "Xin mời, chúng ta như người nhà mà," giọng ông cợt nhả, đồng thời mắt xoáy vào ngực tôi. "Chị cứ gọi tôi là John cho thân mật." Thiếu chút nữa thì tôi nghẹn vì ngụm cà phê đã nguội ngắt mà tôi vẫn cầm theo.

Alex gật đầu và lấy gấu áo lau kính, một cử chỉ đáng yêu vô cùng. "Em lên nhà với bố mẹ đi. Anh gọi Lily."

Tôi hơi ngần ngại khi thấy bố tôi bỗng dưng làm thân với ông thường trực, vì ông ta sẽ mặc nhiên biết mọi chi tiết về cuộc sống của tôi. Khu tiền sảnh rất dễ thương, tuy không hẳn đáng được gọi là hiện đại. Tường lát đá màu sáng, mấy chỗ ngồi không êm ái lắm trước thang máy và sau dãy hộp thư. Phòng chúng tôi, số 8C, hướng về Tây Nam, tôi nghe nói là một ưu điểm. John mở cửa với chìa khóa chính, tự hào như lần đầu tiên được làm bố, và lui lại một bước.

"Nhà đây," ông khoát tay hãnh diện. Tôi là người đầu tiên liều mạng bước vào phòng và chuẩn bị sẵn tinh thần, nhưng trong phòng không hề có mùi lưu huỳnh nồng nặc hay dơi bay chấp chới dưới trần nhà. Mọi thứ sạch sẽ một cách ngạc nhiên và sáng sủa, phía tay phải là bếp, một căn phòng nhỏ lát gạch men trắng, các cánh tủ hơi ngả vàng và mặt bàn bếp giả đá có nhiều vết ố. Phía trên bếp lò là một lò vi sóng ẩn trong tường.

"Được đấy chứ," mẹ tôi nói sau khi nhìn vào tủ lạnh. "Có cả khuôn làm đá." Mấy công nhân khuân vác ì ạch khuân chiếc giường của tôi qua hành lang.

" Andrea, sếp nói gì?"

" À, bà ấy muốn khẳng định chắc chắn lịch hẹn thợ làm tóc và trang điểm hôm thứ Năm, vì chắn chắn 99% vẫn chưa đủ để yên tâm. Còn chuyện phỏng vấn gì đó với cô trông trẻ mới thì phải, chắc là tôi hiểu nhầm chăng? Ba mươi giây nữa sếp sẽ gọi lại."

Emily hít một hơi thật sâu và cố lấy hết nghị lực để chịu đựng sự ngu xuẩn của tôi. Quả không dễ dàng cho cô. " Không, chị không hiểu nhầm chút nào cả. Sau khi Cara không làm ở chỗ Miranda lâu nữa, tất nhiên là bà cần một cô trông trẻ mới."

" Sao cơ? Không làm ở chỗ Miranda nữa nghĩa là gì? Không ở chỗ Miranda nữa thì ở đâu cơ chứ?" Tôi khó tin là Cara không kể với tôi là cô đột ngột cắt việc.

" Miranda cho là Cara thích làm ở một nơi khác hơn," Emily nói - nhất định là một cách nói ngoại giao hơn từ miệng Miranda. Cứ như Miranda có chút đồng cảm nào với số phận của người khác!

" Emily, tôi xin chị, nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra."

" Tôi hiểu theo lời Caroline là mới đây Cara đã bắt bọn trẻ lên phòng vì chúng cãi lại cô ấy. Miranda thấy Cara tự ra quyết định kiểu ấy là không thích đáng. Tôi hoàn toàn đồng ý với bà trong chuyện này. Nói cho đúng thì Cara không phải là mẹ bọn trẻ, phải không nào?"

Nghĩa là Cara bị sa thải vì cô bắt hai đứa trẻ ngồi phòng sau khi chúng cãi cô? " Vâng, tôi hiểu ý chị. Rõ ràng nghĩ chuyện tương lai của bọn trẻ không phải là nhiệm vụ của người trông trẻ, " tôi gật gù đầy vẻ nghiêm trọng. Cara đã đi quá giới hạn của mình."

Emily không bập vào ý mỉa mai rõ rệt của tôi đã đành, cô còn có vẻ không hề nghi ngờ gì. " Chính xác. Thêm vào đó là Miranda luôn luôn bất bình chuyện Cara không biết tiếng Pháp, làm thế nào bọn trẻ con học nói không bị pha cách phát âm Mỹ được?"

Tôi cũng không biết làm thế nào đây. Bọn trẻ vẫn đi học ở trường tư thục, học phí mỗi năm 18.000 dollar và cả ba giáo viên tiếng Pháp đều nói tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ mà? Mẹ chúng cũng sống nhiều năm ở Pháp, mỗi năm mấy lần qua đó, nói và viết tiếng Pháp hoàn hảo, phát âm cực du dương mà? " Chị nói đúng. Không biết tiếng Pháp không trông trẻ được. Tôi hiểu rồi."

" Ừ, thế nào thì thế, bây giờ chị chịu trách nhiệm tìm một cô trông trẻ mới. Đây là số điện của dịch vụ

mối người vẫn cộng tác với mình," cô nói và gửi qua email sang chỗ tôi. " Họ biết Miranda kỹ tính sao rồi - hàon toàn có lý, tất nhiên - và thường rất cố gắng trong tuyển chọn."

Tôi cảnh giác nhìn cô, không hiểu cuộc đời cô ra sao trước khi biết Miranda Priestly? Tôi mở mắt ngủ một lát, cho đến khi lại có chuông điện thoại. May thay, Emily bắt máy.

" A lô Miranda. Vâng, vâng, tôi nghe rõ. Không. Tuyệt đối không có vấn đề. Thợ làm tóc và trang điểm hôm thứ Năm đã chắc chắn. Và Andrea đã lấy các thông tin đầu tiên về cô trông trẻ. Khi nào về, bà sẽ có ba ứng cử viên tử tế đợi phỏng vấn tuyển chọn." Cô nghiêng đầu, để bút trượt trên môi. " À, vâng. Vâng, khẳng định chắc chắn. Không, không phải 99 phần trăm, 100. Nhất định. Vâng, Miranda. Vâng, chính tay tôi làm việc đó mà, và tôi tin chắc. Mọi người đều hồi hộp đợi . Okay. Chúc bà một chuyến bay tốt đẹp. Vâng, khẳng định rồi. Tôi gửi fax ngay. Okay. Good-bye." Cô đặt máy và toàn thân run lên vì giận dữ.

" Tại sao bà ấy không hiểu ra nhỉ? Tôi nói là lịch hẹn thứ Năm đã được khẳng định. Nhắc lại lần nữa. Tại sao phải nhai đi nhai lại năm mươi lần? Chị có biết bà ấy nói gì không?"

Tôi lắc đầu.

" Chị biết bà ấy nói gì không? Trong khi bà ấy bù đầu vì công việc thì tôi phải viết lại kế hoạch làm việc là lịch hẹn cho thợ làm tóc và trang điểm đã được khẳng định và fax sang khách sạn Ritz để lúc đến nơi là bà ấy có bản kế hoạch đã sửa đúng. Tôi làm tất cả cho bà ấy, hiến cả cuộc đời cho bà ấy, vậy mà phải chịu những lời lẽ như thế?" Trông cô nước mắt lưng tròng. Dù có hồi hộp theo dõi Emily trong cơn giận dữ hi hữu chống lại Miranda, tôi vẫn phải tiếp tục cẩn trọng vì bất cứ lúc nào cũng có thể diễn ra cú thụt vòi kiểu Runway. Bây giờ phải nói đúng giọng: thông cảm, nhưng không hùa vào bè.

" Emily, không phải lỗi chị, hoàn toàn không phải. Miranda biết chị làm việc vất vả ra sao và chị là một trợ lý cừ. Nếu bà ấy không cho rằng chị làm việc tốt thì đã tống chị đi từ lâu rồi. Bình thường ra bà ấy đâu có ngại chuyện đó."

Emily đã chặn xong nước mắt và chuyển sang giai đoạn thách thức, nghĩa là trong thâm tâm cô nhận là tôi đúng, nhưng sẽ bảo vệ Miranda ngay nếu tôi đi quá trớn. Trong môn tâm lý học tôi có nghe giảng về hội chứng Stockholm, khi nạn nhân hòa đồng với thủ phạm, nhưng không bao giờ hiểu rõ thực tế ra sao. Có lẽ khi nào có dịp tôi nên quay video một trong những tiểu cảnh với Emily và tôi rồi gửi cho giáo sư làm tài liệu trực quan dạy sinh viên năm thứ nhất. Tiếp tục cẩn trọng nữa thì quá mệt, tôi lấy hơi và liều bước tiếp.

" Bà ấy điên mà, Emily," tôi nói khẽ và chậm, đợi cô thuận ý mình. " Không phải lỗi chị, mà là lỗi bà ấy. Bà ấy là người rỗng tuếch, nông cạn và cay đắng, có hàng núi quần áo lộng lẫy và cũng chỉ có thế mà thôi."

Vẻ mặt Emily căng lên trông thấy, da má và cổ căng ra như sắp rách và tay cô không còn run nữa. Tôi biết cô sắp nghiền nát tôi bất cứ lúc nào, nhưng không dừng được nữa.

" Chị đã bao giờ thấy bà ấy có bạn bè nào không? Tất nhiên, suốt ngày những nhân vật trọng yếu nhất gọi điện đến, nhưng không phải để nói chuyện với bà về con cái, gia đình hay bố mẹ. Họ gọi vì họ muốn gì đó ở bà. Nhìn từ bên ngoài thì dĩ nhiên cực kì ấn tượng, nhưng chị tưởng tượng xem, mọi người đều gọi điện cho chị vì họ ..."

" Chấm dứt!" Cô hét lên, và nước mắt lại tràn xuống mặt. " Câm ngay mồm đi! Chị bước vào văn phòng này và tưởng mình hiểu hết mọi chuyện. Nàng công chúa chuyên mỉa mai và đứng cao hơn tất cả! Nghe đây, chị không hiểu gì cả, không hiểu tí gì cả!"

" Emily!"

" Không Emily gì cả, Andy, để tôi nói hết. Tôi biết Miranda là người khó tính. Tôi biết đôi khi bà ấy như mất trí. Tôi biết tình trạng không bao giờ được ngủ và luôn sợ bà ấy có thể gọi điện, và không ai trong đám bạn bè mình thông cảm. Tôi biết hết! Nhưng nếu chị thấy thế là đáng ghét, nếu chị không làm gì khác ngoài kêu ca suốt ngày về công việc, về Miranda, và về tất cả mọi người, sao chị không biến đi? Vấn đề thực sự ở đây là quan điểm của chị. Nếu chị bảo Miranda điên, được, còn tôi cho là nhiều người, rất nhiều người nghĩ rằng Miranda có tài và năng khiếu, và bảo chính chị mới là điên vì không bỏ hết sức phụng sự cho người đàn bà kiệt xuất này. Bởi vì bà ấy là người kiệt xuất, Andy, thực sự kiệt xuất."

Tôi cân nhắc một lát và phải công nhận cô nói đúng. Trong tầm đánh giá của tôi, Miranda là một chủ bút thượng hạng. Mỗi bài đưa vào tạp chí đều được bà biên tập từng chữ, và bà không ngần ngại đạp đổ tất cả để bắt đầu lại lần nữa, kệ cho hậu quả ra sao đối với mọi người. Tuy từng biên tập viên thời trang tự quyết định phục trang đem chụp ảnh, nhưng duy nhất Miranda chọn ra toàn bộ quần áo và từng người mẫu. Cả những cộng tác viên phụ trách hình ảnh thật ra cũng chỉ thi hành chính xác và cụ thể yêu cầu của Miranda. Bà nói lời cuối cùng - thường cũng cả lời đầu tiên và lời quyết định - trong mỗi số báo, từ vòng tay, túi xách, giày, phục trang và đầu tóc cho đến bài viết, phỏng vấn, ảnh, người mẫu, cả đến địa điểm chụp hình và thợ nhiếp ảnh. Không nghi ngờ gì, bà đứng ở vị trí tiên phong bảo đảm cho thành công đáng kinh ngạc của Runway, tháng này qua tháng khác. Thiếu Miaranda thì Runway không còn là Runway, không là gì cả, điều đó tôi cũng rõ như mọi người khác. Mặc dù vậy tôi vẫn chưa chấp nhận, tại sao bà có quyền đối xử thô bạo với mọi người như vậy. Bà có đủ tài năng khiến một cô người mẫu châu Á chân dài mắt gườm gườm mang áo dài Balmain trong một ngõ nhỏ ở San Sebastian mà vẫn được kính cẩn tôn sùng, song tại sao năng khiếu ấy cho phép bà không phải chịu trách nhiệm về cách hành xử của mình? Đó là chuyện tôi chưa hiểu nổi, nhưng tôi biết rồi, tôi chỉ là một đứa ngu xuẩn, trái hẳn với Emily.

" Emily, tôi chỉ muốn nói rằng chị là một trợ lý xuất sắc của Miranda, và bà ấy may mắn có được một người làm việc gian khổ và tận tụy như chị. Chị chỉ nên hiểu rằng chị không có lỗi khi bà ấy có gì không hài lòng. Bản chất bà ấy là không hài lòng. Chị đã làm tất cả những gì có thể."

" Tôi biết, tôi biết chứ. Nhưng chị không tôn trọng Miranda đủ mức, Andy. Hãy suy nghĩ lại đi. Bà ấy đã được rất nhiều và đã phải hy sinh rất nhiều, nhưng mọi nhân vật siêu thành công ở mỗi lĩnh vực đều thế cả. Hãy chỉ cho tôi một giám đốc, một đối tác kinh doanh hay một đạo diễn phim nào mà đôi khi không phải tỏ ra khắc nghiệt? Đó là một phần của công việc thôi."

Về chuyện này, có thể nói là chúng tôi sẽ không dung hòa được quan điểm. Rõ ràng là Emily đã hiến mình cho Miranda và Runway và mọi thứ trong đó, còn tôi thì đơn giản không hiểu nổi lý do tại sao. Cô hòan toàn không khác gì hàng trăm trợ lý riêng và trợ lý biên tập và trợ lý phó tổng biên tập và phó tổng biên tập và tổng biên tập khác của tạp chí thời trang. Nhưng dù vậy tôi vẫn chưa hiểu vì sao. Như tôi đã từng trải nghiệm, mỗi người trong số họ đều bị lãnh đạo trực tiếp của mình hạ nhục, đàn áp và hành hạ đủ điều - để rồi lại áp dụng chính những biện pháp đó với những người dưới quyền mình sau khi được thăng chức. Để đến cuối bậc thang dài lê thê và gian khổ họ có thể nói là, ta đã ngồi hàng đầu ở show thời trang của Yves Saint-Laurent và thỉng thoảng vớ được chiếc túi Prada miễn phí?

Đã đến lúc dàn hòa. " Tôi biết," tôi thở dài đầu hàng trước sự cứng đầu của cô. " Tôi hy vọng chị hiểu ra rằng chị làm bà ấy hài lòng khi ôm mấy việc chết tiệt ấy, chứ không phải ngược lại."

Tôi đợi cú phản công tức thì, nhưng Emily chỉ cười. " Chị biết đấy, tôi đã nói với bà ấy cả trăm lần là lịch hẹn hôm thứ Năm đã được khẳng định rồi."

Tôi gật đầu. Trông cô vui vẻ đáng ngờ.

" Tôi đã nói dối trơn tuột. Tôi chẳng gọi ai hay khẳng định chuyện gì hết!" Cô nói như hát.

" Emily, chị nói nghiêm chỉnh đấy chứ? Thế bây giờ chị sẽ làm gì? Chị thề sống thề chết là đã tự tay hàon tất vụ này." Lần đầu tiên từ khi vào làm việc ở Runway tôi muốn ôm chầm lấy cô.

" Andy, nghĩ cho kỹ xem, chị có thật lòng tin là một người còn đủ trí khôn lại lắc đầu khi Miranda gọi làm tóc và trang điểm? Cả sự nghiệp của hắn có thể thăng thiên,ai điên mà bỏ lỡ dịp này. Tôi tin là hắn đã vào kế hoạch từ lâu, có thể chỉ phải thay đổi kế hoạch đi lại hay gì đó. Tôi không khẳng định lại lịch hẹn, vì tôi biết hắn sẽ làm. Hắn chẳng có sự lựa chọn nào khác, vì đó là Miranda Priestly!"

Giờ đến lượt tôi muốn trào nước mắt, song tôi chỉ nói: " Tôi cần biết gì khi tuyển cô trông trẻ mới? Có lẽ tôi nên bắt tay vào việc luôn."

" Ừ," cô đồng ý, rõ ràng đang rất hài lòng với nước cờ thông minh của mình. " Có lẽ là một ý hay đấy."

Cô gái đầu tiên mà tôi phỏng vấn sửng sốt trông thấy.

" Trời ơi!" Cô rú lên khi tôi hỏi trong điện thoại, liệu cô có sắp xếp thời gian đến gặp tôi ở văn phòng. " Trời ơi! Chị có nói thật không? Trời ơi!"

" Hừm, thế nghĩa là có hay không?"

" Trời ơi, có, có, có, có! Ở Runway? Trời ơi! Tôi mà kể cho các bạn tôi thì họ lăn ra chết mất. Chết đứ đừ. Chị nói đi, ở đâu và bao giờ."

" Chị đã hiểu là Miranda đang đi xa và không trực tiếp gặp chị được?"

" Vâng, tôi biết rồi."

" Và chị cũng biết là chị sẽ trông hai con gái của Miranda? Và công việc này không liên quan gì đến Runway cả?"

Cô thở dài như cam chịu một sự thật buồn thảm, khốn khổ. " Vâng, tất nhiên. Trông trẻ, tôi rõ rồi."

Rõ đâu mà rõ. Vì lúc xuất hiện tuy bề ngoài cô ta khá thích hợp với các đòi hỏi ( cao lớn, chải chuốt không chê được, khá đúng mốt , và suy dinh dưỡng nghiêm trọng), nhưng hỏi đi hỏi lại sẽ làm việc ở đâu trong ban biên tập.

Tôi bắn sang một tia mắt chết người, song hình như cô không để ý. " Hừm, chả ở đâu cả. Chị nhớ là ta đã nói chuyện đó rồi chứ? Tôi chỉ được Miranda ủy nhiệm nói chuyện trước, và bây giờ ta đang ở văn phòng thôi. Còn hai đứa song sinh của bà ấy không sống ở đây, chị hiểu chứ?"

" Có chứ, có chứ," cô nói theo, nhưng tôi đã cho cô ra ngoài danh sách.

Ba người tiếp theo của công ty mối người đợi sẵn ngoài khu lễ tân cũng không hơn gì: tuy bề ngoài họ thích ứng với đòi hỏi của Miranda - quả thật công ty biết chính xác nguyện vọng của bà - nhưng không ai trong số họ đủ tin cậy để tôi cho trông giữ đứa cháu tương lai, và đó là tiêu chuẩn mà tôi đặt ra khi chọn người. Một người đã học nuôi dạy trẻ ở Cornell, nhưng khi tôi khéo léo nhắc là việc này hơi khác so với công việc ngày xưa thì cô chỉ trố mắt ra nhìn tôi. Một cô khác từng đi với một cầu thủ bóng rổ nổi tiếng của NBA và qua đó " quen giới nổi tiếng". Khi tôi hỏi cô đã va chạm với con cái những người nổi tiếng bao giờ chưa thì cô bất giác chun mũi và nói, con cái người nổi tiếng " luôn thuộc loại khó tiêu". Gạch tên. Ứng viên thứ ba sáng giá nhất, cô lớn lên ở Manhattan, vừa tốt nghiệp ở Middlebury và muốn làm trông trẻ một năm để kiếm đi du lịch Paris. Nghĩa là cô biết tiếng Pháp? Vâng. Vấn đề duy nhất : cô là người thành phố từ đầu đến chân mà lại không có bằng lái xe. Có nguyện vọng học lái xe không? Không, cô thấy đường sá đã đủ ùn tắc lắm rồi. Số ba thế là cũng bị loại. Thời gian còn lại trong ngày tôi vắt óc tìm cách thể hiện một cách khéo léo cho Miranda biết là một cô gái hấp dẫn, thể thao, thạo cư xử trong giới thượng lưu, nhà ở Manhattan, biết lái xe và biết bơi, có bằng đại học, nói tiếng Pháp và xông xênh giờ giấc thì khó thích hợp làm nghề trông trẻ lắm.

Không hiểu bà có đọc được suy nghĩ của tôi không mà lập tức có chuông điện thoại. Tôi nhẩm tính và biết ngay là Miranda đã xuống sân bay Charles de Gaule. Lịch trình chính xác từng giây mà Emily cẩn thận in ra cho biết Miranda đang trên xe về Ritz.

" Văn phòng Miran..."

" Emily!" Bà rít lên. Tôi khôn hồn nhận ra không phải lúc cải chính, " Emily! Lái xe đưa một chiếc điện thoại khác loại tôi vẫn dùng, có nghĩa là tôi không có một số điện thoại nào cả. Không thể chấp nhận được. Làm sao tôi có thể chỉ đạo công ty từ đây mà lại thiếu danh sách điện thoại được? Chị nối máy cho tôi ngay với ông Lagerfeld."

" Vâng, Miranda, bà đợi một chút." Tôi chuyển bà sang chế độ chờ và gọi Emily cầu cứu, tuy rằng nuốt chửng cả ống nghe điện thoại còn dễ tìm ra Karl Lagerfeld trước khi Miranda nổi cơn lôi đình cắt điện thoại, chỉ để gọi lại ngay lần nữa và hỏi: "Ông ấy đâu rồi? Tại sao chị không tìm thấy ông ấy? Chị không biết sử dụng điện thoại hay sao?"

" Sếp muốn nói chuyện với Karl," tôi gọi Emily. Cái tên khiến cô tức khắc lao vào lục đống giấy tờ trên bàn.

"Okay, nghe đây, mình còn hai mươi đến ba mươi giây nữa. Chị chọn số Biarritz và lái xe, tôi thử gọi Paris và trợ lý," cô nói trong khi tay thoăn thoắt ấn số. Tôi nhắp chuột vào danh sách hơn một nghìn tên mà hai chúng tôi cùng có trong ổ cứng và lấy ra đúng năm số để thử gọi: số chính ở Biarritz, số phụ ở Biarritz, Studio ở Biarritz, bể bơi ở Biarritz, lái xe ở Biarritz. Xem mục " Karl Lagerfeld" tôi biết Emily còn bảy số nữa để thử gọi, ngoài các số khác ở New York và Milan. Chúng tôi sẽ chết trước khi xong việc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#romance