the hunger game 1: Đấu trường sinh tử

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN I: CỐNG PHẨM



CHƯƠNG 1

Khi tôi tỉnh dậy, phía bên kia chiếc giường đã lạnh. Tôi duỗi thẳng các ngón tay, tìm kiếm hơi ấm của Prim nhưng chỉ cảm nhận được sự thô nhám của tấm vải bạt trải nệm. Con bé chắc đã có một giấc mơ tồi tệ và đã trèo sang giường ngủ với mẹ. Tất nhiên, con bé đã làm thế. Hôm nay là ngày chọn cống phẩm.

Tôi gối đầu lên khuỷu tay. Đã có đủ ánh sáng trên chiếc giường ngủ để nhìn rõ họ. Em gái tôi, Prim, đang cuộn tròn người sang một bên như một cái kén bên cạnh mẹ, má của hai người áp vào nhau. Khi ngủ, trông mẹ tôi như trẻ hơn, vẫn dáng vẻ mệt mỏi nhưng không đến nỗi héo mòn. Gương mặt Prim trong trẻo như giọt mưa, đáng yêu như anh thảo, loài hoa mà cô bé mang tên. Mẹ tôi có lẽ cũng đã từng rất đẹp. Hay đó là những điều mọi người đã kể với tôi.

Ngồi trên đầu gối của Prim, canh chừng cho con bé là con mèo xấu xí nhất trên đời với chiếc mũi dập nát, một nửa của một bên tai bị mất và một đôi mắt có màu của bí thối. Prim đặt tên nó là Buttercup, khăng khăng rằng cái bộ lông vàng xám xịt của nó tương xứng với một bông hoa mao lương vàng rực rỡ. Nó ghét tôi. Hoặc ít nhất cũng là không tin tưởng tôi. Mặc dù đã vài năm trôi qua, nhưng tôi nghĩ nó vẫn nhớ tôi đã cố gắng dìm nó trong thùng nước như thế nào khi Prim mang nó về nhà. Một con mèo nhỏ gầy giơ xương, bụng căng phồng lên vì giun, toàn thân lúc nhúc bọ chét. Điều cuối cùng mà tôi cần trên đời này là phải nuôi thêm một miệng ăn. Nhưng Prim đã ra sức van xin, thậm chí khóc lóc khiến tôi đành phải cho nó ở lại. Và điều đó hóa ra lại tốt. Mẹ tôi đã loại bỏ hết lũ kí sinh trùng, và nó hóa ra lại có tài bắt chuột, mặc dù chỉ bắt được vài con chuột hiếm hoi. Thỉnh thoảng, khi tôi làm thịt một con thú tôi săn được, tôi cho nó ăn bộ lòng. Nó dần dần không gào rít lên với tôi nữa. Ruột thú. Không gào rít. Đây là giới hạn gần gũi tối đa mà chúng tôi có thể tiến đến.

Tôi thả chân xuống giường và xỏ vào đôi bốt đi săn của mình – một miếng da mềm được quấn vừa khít với bàn chân. Tôi mặc quần, áo sơ mi, cuộn mái tóc đen dài đã được tết lại của mình vào chiếc mũ lưỡi trai, rồi chộp lấy chiếc túi đựng thức ăn của mình. Trên bàn, miếng pho mát nhỏ tuyệt vời làm từ sữa dê bọc trong lá cây húng quế được úp trong một chiếc bát gỗ để bảo vệ nó khỏi lũ chuột cũng như lũ mèo đói khát, là quà của Prim dành cho tôi trong ngày chọn cống phẩm. Tôi cẩn thận đặt miếng pho mát vào túi khi ra khỏi nhà.

Khu vực của chúng tôi tên là Seam, thuộc Đặc khu 12, vào giờ này thường lúc nhúc các thợ mỏ đang trên đường đến ca làm việc buổi sáng. Những người đàn ông và đàn bà với đôi vai còng xuống, các khớp gối sưng phồng, và nhiều người trong số họ từ lâu đã từ bỏ việc cố gắng cọ rửa bụi than khỏi các móng tay, móng chân sứt mẻ và các đường nét trên khuôn mặt hốc hác của mình. Nhưng hôm nay, các con phố nhem nhuốc xỉ than này lại hoàn toàn vắng vẻ. Buổi chọn cống phẩm đến 2 giờ mới bắt đầu, nên bạn ngủ ở nhà cũng được, nếu như bạn có thể ngủ.

Nhà của tôi ở sát vành đai của Seam. Tôi chỉ phải đi qua vài cánh cổng là đã tiến đến một cánh đồng hoang tàn, gọi là Meadow. Ngăn cách Meadow với khu rừng, thực tế là rào quanh Đặc khu 12, là một lưới sắt cao với các vòng dây thép gai quấn phía trên. Theo lý thuyết, nó sẽ có điện 24h/ngày để ngăn chặn dã thú trong rừng như các đàn chó hoang, báo sư tử, gấu trước đây từng tấn công các khu phố của chúng tôi. Nhưng kể từ khi chúng tôi may mắn chỉ có hai hoặc 3 tiếng đồng hồ có điện vào buối tối thì việc chạm vào hàng rào thường là an toàn. Mặc dù vậy, tôi luôn dành chút thời gian nghe ngóng thật cẩn thận xem có tiếng kêu ro ro chứng tỏ hàng rào có điện hay không. Và ngay lúc này thì nó im lặng như tờ. Nấp sau các bụi rậm, tôi nằm sấp bụng xuống và trườn qua một khe nhỏ ở hàng rào rộng 2 foot mà đã bị lỏng ra nhiều năm nay. Có một vài chỗ lỏng lẻo khác trên hàng rào, nhưng chỗ này gần nhà nên tôi thường xuyên vào rừng bằng lối này.

Ngay khi vào rừng, tôi đi lấy cung và ống tên trong một hốc cây. Dù có điện hay không thì hàng rào vẫn thành công trong việc ngăn chặn những người muốn kiếm thực phẩm tươi sống ra khỏi Đặc khu 12. Trong rừng họ sẽ đi lạc lung tung, lại thêm những lo lắng về rắn độc, thú dữ và không có bất cứ đường mòn nào để đi. Nhưng dù sao vẫn có thực phẩm nếu bạn biết cách phải tìm chúng thế nào. Cha tôi biết cách và ông đã dạy tôi một chút trước khi bị thổi bay thành các mẩu nhỏ trong một vụ nổ hầm mỏ. Thậm chí không còn lại gì để đem chôn. Lúc đó tôi mới 11 tuổi. Năm năm sau, tôi vẫn còn tỉnh dậy trong tiếng gào thét gọi ông chạy đi.

Mặc dù việc vào rừng là phạm pháp và việc săn bắn trái phép sẽ dẫn đến các hình phạt nghiêm khắc, nhưng ngày càng có nhiều người mạo hiểm để vào rừng nếu như họ có vũ khí. Nhưng phần lớn họ không đủ liều lĩnh để mạo hiểm đi vào rừng chỉ với một con dao. Chiếc cung tên của tôi là của hiếm, được cha tôi làm thủ công với một vài thứ khác, mà tôi đã cẩn thận bọc vào miếng vải áo mưa và giấu kĩ trong rừng. Cha tôi đã có thể kiếm được nhiều tiền hơn nếu bán chúng, nhưng nếu chính quyền phát hiện ra, ông có thể bị đem ra hành hình công khai với tội danh xúi giục phản loạn. Phần lớn những Người giữ trị an mắt nhắm mắt mở cho một số người đi săn như chúng tôi bởi họ cũng có nhu cầu về thịt tươi như bất cứ ai. Thực ra, họ ở trong số những khách hàng tốt nhất của chúng tôi. Nhưng ý tưởng về việc ai đó có thể trang bị vũ khí cho Seam là không bao giờ được phép.

Vào mùa thu, cũng có một số người dũng cảm lẻn vào rừng để thu hoạch táo, nhưng họ vẫn luôn ở trong tầm nhìn của khu vực Meadow. Luôn luôn đủ gần để có thể quay trở về với sự an toàn của Đặc khu 12 nếu có sự cố gì xảy ra. “Đặc khu 12. Nơi bạn có thể đói cho đến chết trong sự an toàn”, tôi lẩm bẩm. Sau đó tôi liếc nhanh qua vai. Thậm chí ở đây, ở nơi xa xôi hẻo lánh này, bạn vẫn luôn lo sợ sẽ có ai đó nghe lỏm được những gì bạn nói.

Khi tôi còn nhỏ, tôi đã dọa mẹ tôi sợ chết khiếp khi tôi buột miệng nói ra một số điều về Đặc khu 12, về những người đề ra luật lệ ở nước tôi, Panem, ở một thành phố rất xa xôi được gọi là Capitol. Về sau tôi đã hiểu ra rằng điều đó chỉ đem lại cho chúng tôi nhiều rắc rối hơn, nên tôi học cách ngậm miệng lại và biến khuôn mặt tôi trở thành một chiếc mặt nạ lãnh đạm, thờ ơ để không ai có thể đọc được suy nghĩ của mình. Tôi hoàn thành các nhiệm vụ ở trường một cách lặng lẽ. Chỉ trao đổi vài đoạn đối thoại ngắn gọn, lịch sự ở phiên chợ. Thảo luận chút ít về việc mua bán ở Hob, tức là chợ đen, nơi tôi kiếm được phần lớn tiền của mình. Thậm chí ở nhà, là nơi tôi ít thoải mái nhất, tôi tránh nói về các vấn đề nhạy cảm, như việc chọn cống phẩm, hay sự thiếu thốn thực phẩm, hay Trò chơi sinh tử. Prim có thể bắt đầu nhắc lại những lời nói của tôi và điều đó sẽ đưa chúng tôi tới đâu?

Trong rừng, đang đợi tôi là một người mà duy nhất với người đó, tôi có thể là chính mình, Gale. Tôi có thể cảm thấy khuôn mặt mình đang dần bớt căng thẳng, tốc độ nhanh dần khi trèo lên đồi đến chỗ hẹn của chúng tôi, một gờ đá có thể nhìn bao quát cả thung lũng. Một bụi dâu rừng rậm rạp che chắn nó khỏi những con mắt tò mò không cần thiết. Hình ảnh anh ấy đang đợi ở đó khiến tôi mỉm cười. Gale nói tôi sẽ không bao giờ mỉm cười trừ khi ở trong khu rừng này.

“Hey, Catnip”, Gale gọi. Tên thật của tôi là Katniss, nhưng lần đầu tiên giới thiệu tên với anh ấy, tôi nói gần như thì thầm, nên anh ấy nghĩ tôi nói Catnip, cây bạc hà mèo. Sau đó, một con mèo rừng điên rồ bắt đầu đi theo tôi khắp nơi trong rừng để kiếm đồ ăn bố thí, nó chính thức trở thành cái tên anh ấy gọi tôi. Cuối cùng tôi phải giết con mèo rừng vì nó xua đuối các con thú khác. Tôi gần như đã hối tiếc về điều đó vì nó cũng không phải bạn đồng hành tồi. Nhưng tôi cũng đã có một khoản thu kha khá cho tấm da của nó.

“Nhìn xem anh bắn được gì này”, Gale giơ lên một ổ bánh mì có cắm một mũi tên trên đó khiến tôi bật cười. Đó là một ổ bánh mì nướng từ tiệm bánh mì thực sự, chứ không phải những lát bánh mì dẹt, cứng đơ mà chúng tôi tự làm từ những khầu phần ngũ cốc của mình ở nhà. Tôi cầm lấy nó trong tay mình, rút mũi tên ra, và đặt cái lỗ thủng trên vỏ bánh lên mũi mình, hít vào cái mùi thơm phức khiến miệng tôi ứa nước miếng. Bánh mì ngon như thế này chỉ dành cho các dịp đặc biệt.

“Hừm, vẫn còn ấm”, tôi nói. Anh ấy chắc hẳn đã phải đến tiệm bánh mì từ sáng sớm để mua nó. “Anh mất bao nhiêu cho nó?”

“Chỉ một con sóc. Anh cho là ông lão bán bánh khá đa cảm sáng nay. Thậm chí ông ấy còn chúc anh may mắn”

“À, tất cả chúng ta đều cảm thấy gần gũi hơn một chút trong hôm nay, không phải sao?”, tôi nói, thậm chí không thèm ngước mắt lên. “Prim dành cho chúng ta một ít pho mát”. Tôi lấy nó ra.

Khuôn mặt anh rạng rỡ trước sự chăm sóc đó. “Cảm ơn Prim. Chúng ta sẽ có một bữa tiệc thực sự”. Đột nhiên anh ấy nói giọng của người Capitol khi anh nhại lại giọng của Effie Trinket, người phụ nữ luôn tươi cười điên khùng, mỗi năm một lần đều đến để đọc ra những cái tên trong buổi chọn cống phẩm. “Anh gần như quên mất đấy. Chúc mừng Trò chơi sinh tử”. Gale giất một vài quả mâm xôi từ bụi cây xung quanh, “Và chúc cho vận may…” Anh ấy ném một quả mâm xôi theo đường vòng cung về phía tôi. Tôi dùng miệng bắt lấy nó và cắn vỡ lớp vỏ mỏng manh. Vị chua chua ngọt ngọt ngay lập tức tan chảy trên đầu lưỡi. “… sẽ luôn thuộc về các bạn!” Tôi kết thúc câu nói với giọng điệu tương tự. Chúng tôi phải nói đùa về việc này bởi vì việc bốc thăm khiến cho bạn căng thẳng đến mất trí. Bên cạnh đó, việc nhại lại giọng Capitol khiến cho mọi thứ đều trở nên hài hước.

Tôi ngồi nhìn khi Gale lấy ra con dao và cắt chiếc bánh mì thành các lát mỏng. Anh ấy giống như anh trai tôi. Mái tóc đen thẳng, làn da màu ô liu, chúng tôi thậm chí còn cùng có màu mắt xám. Nhưng chúng tôi lại không có họ hàng gì, ít nhất cũng không có họ gần. Hầu hết các gia đình làm việc trong các hầm mỏ đều giống nhau như vậy. Đó là lý do tại sao Prim và mẹ tôi, với màu tóc sáng và đôi mắt xanh nước biển, luôn luôn nhìn như không thuộc về nơi đó. Đúng vậy. Cha mẹ của mẹ tôi thuộc về một tầng lớp buôn bán nhỏ cung cấp hàng hóa cho các quan chức, Người giữ trị an, và một số khách hàng không thường xuyên của Seam. Họ điều hành một cửa hàng điều chế thuốc ở một khu vực đẹp hơn của Đặc khu 12. Vì hầu như không ai đủ tiền đi bác sĩ, người bào chế thuốc trở thành người trị thương của chúng tôi. Cha tôi quen biết mẹ tôi là do trong những lần đi săn, thỉnh thoảng ông kiếm được một ít dược thảo và bán cho cửa hàng của bà để bà chế thành các loại thuốc chữa bệnh. Mẹ phải thực sự rất yêu cha đến mức rời bỏ nhà mình để tới Seam. Tôi cố gắng nhớ đến điều đó khi tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là một người phụ nữ chỉ ngồi đó, trống rỗng và không thể chạm đến được, trong khi con của mình thì chỉ còn da bọc xương. Vì cha tôi, tôi đã cố để tha thứ cho bà. Nhưng thực lòng mà nói, tôi không phải loại người dễ tha thứ.

Gale phết pho mát dê mềm mịn lên các lát bánh mì, cẩn thận đặt vào mỗi miếng một chiếc lá húng quế trong khi tôi gạt các cọng và lá dâu ra khỏi quả của chúng. Chúng tôi dựa lưng vào tảng đá nghỉ ngơi. Từ chỗ này, không ai nhìn thấy chúng tôi, nhưng chúng tôi lại có thể nhìn rõ cả thung lũng đang căng tràn sức sống của mùa hè với màu xanh ngút ngàn, rễ cây cắm sâu vào lòng đất, vạn vật đang tỏa sắc màu lóng lánh dưới ánh mặt trời. Một ngày rực rỡ với bầu trời xanh trong và những cơn gió nhẹ. Thức ăn tuyệt vời, với pho mát hòa quyện trong bánh mì ấm nóng và những quả dâu chín mọng tan chảy trong miệng. Mọi thứ sẽ thật hoàn hảo nếu như đây thực sự là một kỳ nghỉ, nếu như cả ngày nghỉ là được đi lang thang trên núi với Gale, đi săn cho bữa ăn nhẹ vào buổi tối nay. Nhưng thay vào đó, chúng tôi lại phải đứng trên quảng trường vào lúc hai giờ để chờ đợi những cái tên được xướng lên.

“Em biết đấy, chúng ta có thể làm điều đó” Gales lặng lẽ nói.

“Điều gì?” Tôi hỏi.

“Rời khỏi đặc khu. Chạy trốn. Sống ở trong rừng. Em và anh, chúng ta có thể làm được”, Gale nói tiếp.

Tôi không biết phải nói gì. Ý tưởng đó thật ngớ ngẩn.

“Nếu chúng ta không có quá nhiều những đứa nhóc”, Gale nhanh chóng nói thêm.

Tất nhiên chúng không phải con của chúng tôi. Nhưng chúng cũng gần như thế. Hai em trai và một đứa em gái của Gale. Prim. Và bạn cũng có thể tính thêm các bà mẹ của chúng tôi bởi họ sẽ sống thế nào khi không có chúng tôi? Ai có thể lấp đầy những miệng ăn mà ngày càng đòi hỏi nhiều thức ăn hơn? Với cả hai chúng tôi đi săn hàng ngày, vẫn có những đêm thú săn dùng để đối lấy mỡ, dây giày hoặc len, vẫn có những đêm chúng tôi phải đi ngủ với chiếc dạ dày sôi sùng sục.

“Em không bao giờ muốn có con”. Tôi nói.

“Anh có lẽ muốn. Nếu như anh không sống ở đây.”

“Nhưng anh sống ở đây”. Tôi nổi cáu.

“Quên nó đi”. Gale ngắt lời.

Cuộc nói chuyện này làm cho chúng tôi không thoải mái. Ra đi ư? Làm sao tôi có thể bỏ lại Prim, người duy nhất trên thế giới này tôi thực sự yêu thương. Và Gale thì hết lòng với gia đình mình. Chúng tôi không thể bỏ đi, vậy tại sao chúng tôi phải thảo luận về điều đó? Và ngay cả khi chúng tôi ra đi… ngay cả khi chúng tôi ra đi… thì cái ý nghĩ vớ vẩn về việc có con ở đâu ra vậy? Không hề có bất cứ sự lãng mạn nào xảy ra giữa tôi và Gale. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi chỉ là một con nhóc 12 tuổi gày gò, và dù chỉ hơn tôi 2 tuổi, anh ấy trông giống như một người đàn ông trưởng thành. Phải mất một thời gian dài chúng tôi mới có thể trở thành bạn bè, dừng cạnh tranh trong việc kiếm ăn và bắt đầu giúp đỡ lẫn nhau.

Bên cạnh đó, nếu muốn có con, Gale sẽ không gặp bất cứ khó khăn gì trong việc kiếm một người vợ. Anh ấy đẹp trai, đủ khỏe mạnh để làm các công việc dưới hầm mỏ, và anh ấy có thể săn bắn. Bạn có thể nói rằng các cô gái đều muốn Gale qua cái cách mà họ thì thào bàn tán về anh khi anh lướt qua họ lúc ở trường. Điều đó khiến tôi cảm thấy ghen tị nhưng không phải theo lý do mà mọi người nghĩ. Đối tác đi săn tốt như vậy không dễ tìm.

“Giờ anh muốn làm gì?” Chúng tôi có thể săn bắn, câu cá hoặc hái lượm.

“Chúng ta đi câu cá ở hồ trước. Chúng ta có thể bỏ lại cần câu và vào rừng hái lượm. Kiếm thứ gì đó ngon lành cho tối nay,” Gale nói.

Đúng, tối nay. Sau khi chọn cống phẩm, mọi người chắc sẽ tổ chức ăn mừng. Và rất nhiều người sẽ làm như vậy, tạm quên đi rằng có thể con họ sẽ bị chọn vào năm khác. Nhưng ít nhất có hai gia đình sẽ hạ cửa chớp, đóng cửa chính, và cố tìm ra cách để vượt qua được những tuần đau đớn sắp tới.

Chuyến đi săn rất thuận lợi. Bọn thú ăn thịt không để ý đến chúng tôi cả buổi trong khi các con mồi ngon lành, dễ săn lại đầy rẫy. Đến cuối buổi sáng, chúng tôi đã có một đống cá, một túi rau cỏ và tuyệt nhất là một túi to dâu tây. Tôi tìm ra khoanh đất đầy dâu tây này vài năm trước đây, nhưng Gale là người đưa ra ý kiến về việc làm giăng một chiếc lưới xung quanh nó để ngăn thú rừng ăn mất.

Trên đường về nhà, chúng tôi lượn qua Hob, chợ đen này họp ở một nhà kho bỏ hoang mà trước đây dùng để cất trữ than. Khi người ta nâng cấp lên một hệ thống hiệu quả hơn, có thể vận chuyển than trực tiếp từ các hầm mỏ lên tàu, thì Hob dần dần tiếp quản cái kho này. Hầu hết công việc kinh doanh đều nghỉ vào ngày chọn cống phẩm, nhưng chợ đen thì vẫn hoạt động khá nhộn nhịp. Chúng tôi dễ dàng đổi được bánh mì ngon bằng sáu con cá, và đổi hai con cá nữa để lấy muối. Greasy Sae, người phụ nữ lớn tuổi gày giơ xương thường đổ súp nóng trong chiếc siêu lớn ra bát để bán đã đổi một đôi nến để lấy một nửa số rau cỏ của chúng tôi. Chúng tôi có thể kiếm được tốt hơn nếu bán cho chỗ khác, nhưng chúng tôi cố gắng giữ mối làm ăn với Greasy Sae. Bà ấy là người duy nhất để trông mong sẽ mua một con chó hoang. Chúng tôi không định săn chúng, nhưng nếu bạn bị tấn công và bạn hạ được một hoặc hai con chó, vậy thì, thịt nào cũng là thịt thôi. “Một khi nó đã ở trong nồi súp, ta sẽ gọi nó là thịt bò”, Greasy Sae nháy mắt. Không ai ở Seam có thể hếch mũi quay đi trước một chiếc chân chó hoang ngon lành, nhưng những Người giữ trị an mà đến Hob có thể khó chiều hơn.

Khi kết thúc việc giao dịch tại chợ, chúng tôi đi đến cửa sau của nhà ngài thị trưởng để bán một nửa số dâu tây vì biết rằng ông ta thực sự thích chúng và có thể chấp nhận mức giá chúng tôi đưa ra. Con gái của ngài thị trưởng, Madge, ra mở cửa. Cô ấy cùng khóa với tôi ở trường. Là con gái thị trưởng, bạn sẽ nghĩ cô ấy là một kẻ hợm hĩnh, nhưng thực ra cô ấy khá tốt. Cô ấy giấu mọi suy nghĩ cho riêng mình. Giống tôi. Vì cả hai chúng tôi đều không thực sự có một nhóm bạn nên chúng tôi dường như có rất nhiều việc hoàn thành cùng nhau lúc ở trường như ăn trưa, ngồi cạnh nhau trong các buổi học, ở cùng một đội trong các hoạt động thể thao. Chúng tôi hiếm khi nói chuyện, mà việc đó lại thích hợp với cả hai.

Hôm nay, chiếc váy màu xám thường mặc đến trường của cô ấy đã được thay thế bằng chiếc váy trắng đắt tiền, và mái tóc vàng được buộc lại bằng một sợi ruy băng màu hồng. Trang phục cho ngày chọn cống phẩm.

“Váy đẹp lắm”, Gale khen.

Madge phóng ánh mắt về phía Gale, cố gắng tìm hiểu xem liệu đây có phải là lời khen chân thành không hay anh ấy chỉ châm biếm. Nó thực sự là một chiếc váy đẹp, nhưng bình thường cô ấy sẽ không bao giờ mặc nó. Cô ấy mím môi và mỉm cười “À, nếu cuối cùng tôi là người phải đến Capitol, thì tôi muốn trông mình thật xinh xắn, đúng không?”

Bây giờ thì đến lượt Gale bối rối. Liệu cô ấy thực sự nghĩ thế? Hay cô ấy chỉ làm Gale bối rối? Tôi đoán là điều thứ hai.

“Cô sẽ không đến Capitol”, Gale lạnh nhạt. Ánh mắt của anh ấy dừng lại trên chiếc huy hiệu nhỏ, hình tròn trang trí trên váy Madge. Vàng thật. Hàng thủ công tinh xảo. Nó trị giá bằng số bánh mì cho một gia đình trong nhiều tháng. “Cô có thể có bao nhiêu? Năm phiếu? Tôi có sáu phiếu khi tôi mới mười hai tuổi.”

“Đó không phải lỗi của bạn ấy,” tôi lên tiếng.

“Không, đó không phải lỗi của ai cả. Chỉ là nó phải thế,” Gale nói. Gương mặt Madge trở nên lạnh băng. Cô ấy đặt tiền cho đám dâu vào tay tôi. “Chúc may mắn, Katniss.” “Bạn cũng thế,” tôi nói xong và cánh cửa ngay lập tức đóng lại.

Chúng tôi lặng lẽ đi bộ về Seam. Tôi không thích Gale chỉ trích Madge, nhưng tất nhiên, anh ấy đúng. Hệ thống chọn ra cống phẩm không hề công bằng, và người nghèo sẽ luôn chịu thiệt thòi. Bạn đủ điều kiện để bị chọn làm cống phẩm vào ngày bạn bước sang tuổi mười hai. Vào năm đó, sẽ có một phiếu ghi tên bạn. Mười ba tuổi, hai phiếu. Và cứ như thế cho đến khi bạn mười tám tuổi, năm cuối cùng của nghĩa vụ làm cống phẩm, tên bạn sẽ có trong hòm phiếu bốc thăm bảy lần. Điều đó là đúng cho toàn bộ các công dân ở mười hai đặc khu trên toàn bộ lãnh thổ Panem.

Nhưng ở đây có một cách lách luật. Nếu bạn nghèo và đói như chúng tôi, bạn có thể chọn cách ghi thêm tên bạn vào nhiều phiếu chọn cống phẩm để đổi lấy một số thẻ tiêu dùng[1]. Mỗi chiếc thẻ trị giá bằng lượng ngũ cốc và dầu tối thiểu cung cấp cho một người trong một năm. Bạn cũng có thể làm việc này cho mỗi thành viên trong gia đình mình. Do đó, ở tuổi mười hai, tên tôi đã có năm phiếu. Một chiếc là nghĩa vụ của tôi, và ba chiếc còn lại là để có ngũ cốc và dầu cho tôi, Prim và mẹ tôi. Thực ra thì năm nào tôi cũng phải làm thế. Và số phiếu cứ thế tăng lên. Nên bây giờ, ở tuổi mười sáu, tên tôi có trong hộp phiếu chọn cống phẩm hai mươi lần. Gale, mười tám tuổi, không chỉ phải giúp đỡ mà còn phải một tay nuôi cả gia đình năm người trong bảy năm, sẽ có đến bốn mươi hai phiếu. 

Bạn có thể hiểu tại sao những người như Madge, những người không bao giờ phải mạo hiểm cuộc sống để đổi lấy một tấm thẻ tiêu dùng, có thể khiến cho anh ấy tức giận. Cơ hội mà tên cô ấy được rút ra là rất nhỏ so với chúng tôi, những người sống ở Seam. Không phải là không có, nhưng rất nhỏ. Và mặc dù luật lệ được đặt ra bởi Capitol, chứ không phải bởi các đặc khu, càng chắc chắn không phải bởi gia đình Madge, nhưng thật khó để không nổi giận với những người không phải đăng ký để được thẻ tiêu dùng.

Gale cũng biết sự tức giận của anh ấy đối với Madge là không đúng. Vào những ngày khác, sâu trong rừng, tôi đã từng nghe anh ấy diễn thuyết hùng hồn về vấn đề thẻ tiêu dùng chỉ là một công cụ khác gây ra sự khốn khổ cho đặc khu của chúng tôi như thế nào. Một cách để gieo rắc lòng hận thù giữa những người công nhân đói khổ ở Seam và những người có thể có thêm bữa ăn nhẹ vào buổi tối nói chung và bằng cách đó có thể bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bao giờ tin tưởng lẫn nhau. “Gây chia rẽ trong chính chúng ta là lợi thế của Capitol,” anh ấy có thể nói vậy nếu xung quanh không có ai nghe ngoài tôi. Nếu hôm nay không phải ngày chọn cống phẩm. Nếu một cô gái với chiếc ghim cài áo bằng vàng và không cần dùng đến thẻ tiêu dùng không ra vẻ thì tôi chắc chắn những gì cô ấy nghĩ chỉ là những lời bình luận vô hại.

Trong khi bước đi, tôi liếc nhìn gương mặt Gale, sự giận giữ vẫn còn nung nấu phía sau vẻ mặt lạnh lùng. Cơn thịnh nộ của anh ấy dường như chẳng có ý nghĩa gì với tôi, mặc dù tôi không bao giờ nói vậy. Không phải là tôi không đồng tình với anh. Tôi đồng tình. Nhưng la hét về Capitol giữa rừng thì có gì tốt? Điều đó cũng chẳng thay đổi được gì. Nó không thể làm cho mọi thứ trở nên công bằng. Và nó cũng không thể lấp đầy dạ dày của chúng tôi. Thực sự thì nó chỉ xua đuổi các con thú săn ở gần đó đi mà thôi. Mặc dù vậy tôi vẫn để anh ấy la hét. Tốt hơn là để anh ấy làm việc đó trong rừng còn hơn là ở trong đặc khu.

Tôi và Gale phân chia chiến lợi phẩm, hai phần cá, hai phần bánh mì, rau xanh, mỗi người một phần tư số dâu tây, muối, nến và một ít tiền.

“Hẹn gặp lại anh ở quảng trường,” tôi nói.

“Mặc cái gì đẹp một chút,” Gale nói thẳng thừng.

Về nhà, tôi thấy mẹ và Prim đã sẵn sàng để đi. Mẹ tôi mặc một chiếc váy khá đẹp từ hồi còn làm ở tiệm điều chế thuốc. Prim thì mặc trang phục của tôi lần đầu tiên đi chọn cống phẩm, một chiếc váy và áo sơ mi diềm đăng ten. Nó hơi rộng đối với con bé, nhưng mẹ tôi đã điều chỉnh cho vừa bằng mấy chiếc ghim. Mặc dù vậy, con bé vẫn gặp khó khăn trong việc giữ cho chiếc áo không bị tuột ra khỏi váy ở phía sau lưng. Một bồn nước nóng đã được chuẩn bị cho tôi. Tôi kì cọ hết bụi bặm và mồ hôi trong rừng và thậm chí còn gội đầu. Thật đáng ngạc nhiên, mẹ tôi đã lấy ra một trong những chiếc váy đáng yêu của bà cho tôi. Một chiếc váy xanh da trời nhạt với một đôi giày phù hợp.

“Mẹ chắc chứ?” tôi hỏi. Tôi đang cố gắng vượt qua việc từ chối những lời đề nghị giúp đỡ từ bà. Một thời gian dài tôi đã rất tức giận, tôi đã không cho phép bà làm bất cứ việc gì cho tôi. Và đây là một điều gì đó rất đặc biệt. Quần áo trước đây rất quý giá đối với mẹ tôi.

“Tất nhiên. Để mẹ vấn tóc lên giúp con nữa,” bà nói. Tôi để bà dùng khăn lau khô tóc, bện nó lại rồi vấn lên. Tôi gần như không thể nhận ra mình khi nhìn vào chiếc gương vỡ treo trên tường.

“Trông chị xinh lắm,” Prim thì thào.

“Và không có gì giống chị cả.” Tôi nói và ôm lấy con bé, bởi tôi biết vài tiếng đồng hồ tới là vô cùng khủng khiếp đối với em. Lần đầu đi chọn cống phẩm. Con bé khá là an toàn như bạn có thể thấy, vì tên con bé chỉ có một phiếu. Tôi không để con bé phải ghi danh cho bất cứ phiếu tiêu dùng nào. Nhưng con bé lo lắng cho tôi, rằng điều không ai mong đợi sẽ xảy ra.

Tôi bảo vệ Prim theo mọi cách mà tôi có thể, nhưng tôi bất lực trong việc chọn cống phẩm. Nỗi đau đớn mà tôi luôn cảm nhận được khi con bé đau lòng đang nhức nhối trong ngực và đe dọa sẽ biểu lộ ra trên gương mặt tôi. Tôi nhận ra chiếc áo sơ mi đã bị tuột ra khỏi váy phía sau lưng con bé một lần nữa và buộc bản thân phải bình tĩnh lại. “Cuộn cái đuôi của em lại đi, con vịt con”, tôi nói và vuốt chiếc áo phía sau vào đúng vị trí. Prim cười khúc khích và đáp lại tôi bằng tiếng kêu “Quạc quạc”.

“Quàng quạc với em đi,” tôi nói và bật cười. Thứ mà chỉ Prim mới có thể làm tôi biểu lộ ra. “Thôi nào, đi ăn thôi,” tôi nói và đặt một nụ hôn nhanh lên trán con bé.

Cá và rau xanh đã được hầm trong nồi, nhưng đó là để dành cho bữa tối. Chúng tôi quyết định để lại dâu tây và bánh mì mua ở tiệm cho bữa tối nay, như chúng tôi vẫn nói, là để làm cho nó trở nên đặc biệt. Thay vào đó chúng tôi uống sữa vắt từ con dê của Prim, Lady, và ăn chỗ bánh mì cứng ngắc làm từ ngũ cốc của thẻ tiêu dùng, mặc dù chẳng ai cảm thấy muốn ăn lắm.

Đến một giờ, chúng tôi hướng đến quảng trường. Việc tham dự là bắt buộc, trừ khi bạn đang hấp hối. Tối nay, các quan chức sẽ đi một vòng để kiểm tra xem bạn có nằm trong trường hợp này không. Nếu không, bạn sẽ bị đi tù.

Thực sự tồi tệ là họ lại tổ chức buổi chọn cống phẩm tại quảng trường, một trong số ít các nơi tại Đặc khu 12 mà bạn có thể cảm thấy dễ chịu. Quảng trường được bao quanh bởi các hàng quán, và vào những ngày họp chợ, đặc biệt những hôm thời tiết đẹp, nó làm cho bạn cảm thấy như đang ở kỳ nghỉ lễ vậy. Nhưng hôm nay, mặc dù đầy những băng rôn sáng trưng treo trên các tòa nhà thì vẫn không thể thay đổi được bầu không khí. Những chiếc camera được treo lên như những con chim ó đậu trên nóc nhà, chỉ để tạo thêm hiệu ứng.

Mọi người xếp thành hàng trong yên lặng và đăng ký tên. Chọn cống phẩm cũng là dịp tốt để Capitol kiểm tra dân số. Những đứa trẻ từ mười hai đến mười tám tuổi được tập trung thành từng nhóm xếp theo độ tuổi, nhiều tuổi nhất đứng phía trước, nhỏ tuổi, như Prim, đứng ở phía sau. Nhưng cũng có những người mà không có người thân có nguy cơ bị chọn làm cống phẩm, hay những người không còn quan tâm đến sự kiện này, họ đi lại giữa đám đông và đánh cược cho hai đứa trẻ sẽ được xướng tên. Tiền cược được đặt dựa trên độ tuổi của những đứa trẻ, chúng ở Seam hay khu buôn bán, chúng có suy sụp hay khóc lóc không. Hầu hết mọi người từ chối giao dịch với những tên đầu gấu đó, nhưng phải rất khéo léo, rất khéo léo. Chính những kẻ này có thể trở thành những tên chỉ điểm, và ai chưa từng phạm pháp cơ chứ? Về cơ bản thì tôi có thể bị bắn hàng ngày do đi săn, nhưng chính sự ham thích của những người mua bảo vệ tôi. Nhưng không phải tất cả mọi người đều có thể chắc chắn như vậy.

Dù sao đi nữa, Gale và tôi cũng thống nhất rằng nếu chúng tôi phải lựa chọn giữa việc chết vì đói và việc có một viên đạn vào đầu thì chết vì bị bắn sẽ nhanh hơn rất nhiều.

Không gian càng lúc càng chật chội, tù túng vì mọi người kéo đến. Quảng trường rất rộng, nhưng vẫn không đủ để chứa toàn bộ dân số khoảng tám nghìn người của Đặc khu 12. Những người đến muộn được chỉ dẫn đứng ở những con phố gần đó, nơi họ có thể xem sự kiện qua màn hình vì chính phủ sẽ truyền hình trực tiếp.

Tôi thấy mình đang đứng giữa nhóm mười sáu tuổi đến từ Seam. Tất cả trao đổi vài cái gật đầu nhẹ rồi tập trung sự chú ý vào chiếc sân khấu được dựng lên tạm thời trước trụ sở tòa án. Trên đó có ba chiếc ghế, một chiếc bục, và hai chiếc bình thủy tinh lớn hình cầu, một cho các cậu bé và một cho các cô bé. Tôi nhìn chằm chằm vào những mẩu giấy đang được trút vào bình của các cô gái. Hai mươi trong số đó có ghi tên Katniss Everdeen bằng nét chữ viết tay cẩn thận.

Cha của Madge chiếm đến hai trong ba chiếc ghế, ngài thị trưởng Undersee, một người đàn ông hói, cao to, và Effie Trinket, người phụ trách Đặc khu 12, vừa mới đến từ Capitol, với nụ cười khoe hàm răng trắng đáng sợ, mái tóc hồng nhạt, và bộ trang phuc màu xanh nõn chuối. Họ thì thầm với nhau rồi lo lắng nhìn vào chiếc ghế trống.

Ngay khi chiếc đồng hồ trong phố điểm hai tiếng, thị trưởng bước lên bục và bắt đầu đọc diễn văn. Vẫn là câu chuyện như mọi năm. Ông ấy kể về lịch sử của Panem, một đất nước được dựng lên từ tro tàn của một nơi từng được gọi là Bắc Mỹ. Ông liệt kê các thảm họa, hạn hán, các trận bão, hỏa hoạn, nước biển xâm lấn nhấn chìm rất nhiều vùng đất, những cuộc chiến tranh giành giật chút tài nguyên còn lại. Kết quả hình thành nên Panem, một Capitol chói sáng cai trị mười ba đặc khu, đem lại hòa bình và thịnh vượng cho các công dân của nó. Sau đó là những Ngày đen tối, một cuộc nổi dậy của các đặc khu chống lại Capitol. Mười hai đặc khu đã được bình định, đặc khu thứ mười ba thì bị xóa sổ. Hiệp ước về tội mưu phản đã đề ra những luật mới để bảo vệ nền hòa bình và như một sự nhắc nhở chúng tôi hàng năm rằng Những ngày đen tối không bao giờ được phép lặp lại, nó đã đưa ra cho chúng tôi Trò chơi sinh tử.

Luật của Trò chơi sinh tử rất đơn giản. Như một hình phạt cho việc nổi dậy, mỗi đặc khu phải cống nộp một cô bé và một cậu bé tham gia, được gọi là các cống phẩm. Hai mươi tư cống phẩm đó sẽ bị nhốt trong một đấu trường rộng lớn ngoài trời mà có thể chứa đựng bất cứ thứ gì, từ sa mạc nóng bỏng đến những hoang mạc lạnh băng. Trong thời gian một vài tuần, các đối thủ phải chiến đấu với nhau cho đến chết. Cống phẩm cuối cùng còn sống sẽ chiến thắng.

Lấy đi những đứa trẻ ở các đặc khu của chúng ta, bắt chúng phải giết chóc lẫn nhau cho chúng ta xem – đây là cách Capitol nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi hoàn toàn nằm dưới sự định đoạt của họ như thế nào. Cơ hội để chúng tôi có thể sống sót trong một cuộc nổi dậy nhỏ như thế nào.

Bất cứ lời lẽ nào mà họ sử dụng, thông điệp thực sự của nó rất rõ ràng. “Hãy nhìn chúng ta lấy đi con của các ngươi và hi sinh chúng như thế nào, và các ngươi chẳng thể làm gì được. Nếu các ngươi chỉ nhấc một ngón tay lên, chúng ta sẽ phá hủy tất cả những gì còn lại của các ngươi. Y như những gì chúng ta đã làm với đặc khu 13.”

Để làm nó trở nên nhục nhã và đau khổ hơn, Capitol yêu cầu chúng tôi coi Trò chơi sinh tử như một lễ hội, một sự kiện thể thao, một cuộc so tài giữa các đặc khu. Cống phẩm cuối cùng còn sống sẽ nhận được một cuộc sống dễ chịu khi trở về, và đặc khu của họ sẽ nhận được một cơn mưa các quà tặng, một lượng lớn thực phẩm. Vào tất cả các năm, Capitol sẽ trình chiếu các món quà dành cho đặc khu chiến thắng bao gồm ngũ cốc, dầu, và thậm chí những thứ hiếm hoi như đường trong khi các đặc khu còn lại thì phải chiến đấu với sự đói khát.

“Đó là thời gian dành cho sự ăn năn, cũng là thời gian để biết ơn,” ngài thị trưởng nhấn mạnh.

Sau đó ông đọc một danh sách những người chiến thắng trong quá khứ của Đặc khu 12. Trong bảy mươi tư năm, chúng tôi chỉ có đúng hai người. Và chỉ một người còn sống. Haymitch Abernathy, một người đàn ông trung niên, bụng phệ, người mà ngay lúc này đây, đã xuất hiện và đang hò hét những câu khó hiểu, lảo đảo đi lên sân khấu, rồi ngã phịch xuống chiếc ghế thứ ba. Ông ấy đang say. Rất say. Đám đông hưởng ứng bằng một tràng pháo tay, nhưng ông ấy lúng túng và cố gắng trao cho Effie Trinket một cái ôm mà cô ta vừa kịp tránh được.

Ngài thị trưởng trông thật khốn khổ. Vì tất cả đều được truyền hình trực tiếp nên ngay lúc này Đặc khu 12 đã trở thành trò cười của Panem, và ông ấy biết điều đó. Ông nhanh chóng kéo sự chú ý trở lại cuộc tuyển chọn cống phẩm bằng cách giới thiệu Effie Trinket.

Tươi tắn và rạng rỡ như mọi khi, Effie Trinket điệu đà đi lên bục, và nói câu nói như thương hiệu của riêng cô ta “Chúc mừng Trò chơi sinh tử! Và chúc cho vận may sẽ luôn thuộc về các bạn!” Mái tóc hồng của cô ta chắc phải là tóc giả vì những lọn tóc xoăn đã bị xô lệch đi một chút khi cô ta đụng độ với Haymitch. Cô ta bắt đầu với việc vinh hạnh thế nào khi được ở đây, mặc dù tất cả mọi người đều biết rằng cô ta khao khát đau đớn được nhảy sang một đặc khu tốt hơn, nơi mà có những người chiến thắng đích thực, chứ không phải những tên say xỉn quấy rối bạn trước toàn thể dân chúng cả nước.

Trong đám đông, tôi nhận ra Gale đang thoáng cười quay lại nhìn tôi. Khi buổi chọn cống phẩm qua đi, ít nhất điều này cũng là một yếu tố giải trí nhẹ nhàng. Nhưng đột nhiên tôi nghĩ về Gale và bốn mươi hai phiếu có tên anh ấy trong chiếc bình thủy tinh kia và lợi thế sẽ không nghiêng về anh ấy như thế nào. Không khi so sánh với rất nhiều các cậu bé khác. Và có lẽ anh ấy cũng đang nghĩ như vậy về tôi bởi mặt anh ấy tối lại rồi quay đi. “Nhưng vẫn còn hàng nghìn những mẩu giấy khác,” tôi ước tôi có thể thì thầm điều đó với anh ấy.

Thời điểm rút thăm đã đến. Effie nói câu cửa miệng của mình “Ưu tiên các quý cô!” và bược về phía chiếc bình thủy tình hình cầu chứa tên các cô bé. Cô ta cho tay vào, khoắng tay xuống tận đáy bình, và lấy ra một mẩu giấy. Cả đám đông hít sâu và rồi bạn có thể nghe thấy tiếng một chiếc ghim rơi xuống, và tôi cảm thấy muốn nôn và hy vọng khắc khoải rằng đó không phải tôi, không phải tôi, không phải là tôi.

Effie Trinket quay trở lại bục, vuốt nhẹ mẩu giấy, rồi đọc ra cái tên bằng một giọng rõ ràng. Và đó không phải tôi.

Đó là Primrose Everdeen.

CHƯƠNG 2

Một lần, khi tôi nấp trên một cái cây, bất động chờ đợi các con thú săn đi ngang qua, tôi đã ngủ gật và bị rơi từ trên cao 10 feet xuống, đập lưng xuống đất. Nó như thể có một lực cực mạnh tống toàn bộ không khí ra khỏi phổi của tôi. Tôi nằm đó, chỉ cố gắng hít vào, thở ra, và không làm gì khác.

Đó chính xác là những gì tôi cảm nhận lúc này, cố gắng nhớ xem phải thở thế nào, không thể thốt ra lời, hoàn toàn choáng váng khi cái tên được xướng lên quay vòng vòng trong đầu tôi. Một ai đó giữ chặt lấy cánh tay tôi, một cậu trai ở Seam, và khi tôi nghĩ tôi có thể sắp sửa ngã thì cậu ta đỡ lấy tôi.

Phải có sự nhầm lẫn nào đó ở đây. Điều này không thể xảy ra được. Prim chỉ có một mẩu giấy trong số hàng nghìn chiếc thôi mà! Nguy cơ con bé bị chọn là rất nhỏ đến nỗi tôi thậm chí không buồn lo lắng về con bé. Không phải tôi đã làm mọi thứ rồi hay sao? Ðãng ký tên để đổi lấy thẻ tiêu dùng, và không cho phép con bé làm như vậy? Một phiếu. Một phiếu trong số hàng nghìn chiếc. Vận may đúng ra phải hoàn toàn dành cho con bé. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Ở một nơi nào đó phía xa, tôi có thể nghe thấy đám đông đang xì xào thương cảm như họ vẫn luôn làm khi có một đứa trẻ mười hai tuổi bị chọn bởi không ai nghĩ điều đó là công bằng. Và sau đó, tôi nhìn thấy con bé, mặt cắt không còn một giọt máu, bàn tay siết chặt thành nắm đấm để ở hai bên, bước đi chậm chạp, cứng nhắc hướng về phía khán đài, ngang qua tôi, và tôi thấy vạt áo sơ mi phía sau lưng bị tuột ra khỏi chiếc váy của con bé. Chính hình ảnh này, chiếc áo tuột ra như đuôi vịt, đã khiến tôi tỉnh lại.

“Prim!” Tiếng kêu nghẹn ngào thoát ra từ cuống họng và mọi múi cơ của tôi bắt đầu hoạt động trở lại. “Prim!” Tôi không cần phải xô đẩy đám đông. Những đứa trẻ khác ngay lập tức tránh ra nhường lối cho tôi đi tới lối đi thẳng dẫn lên khán đài. Tôi với được con bé ngay khi con bé vừa chạm vào mép bậc thềm. Với một cái khoát tay, tôi đẩy con bé về phía sau mình.

“Tôi tình nguyện,” tôi hổn hển. “Tôi tình nguyện làm cống phẩm!”

Có một chút bối rối trên sân khấu. Đặc khu 12 không hề có tình nguyện viên trong hàng thập kỷ nay và hình thức đó đã bị quên lãng. Quy định của hình thức đó là khi tên của cống phẩm đã bị rút ra khỏi bình đựng phiếu, nếu một cậu bé đủ điều kiện khác, trong trường hợp tên được đọc ra là của một cậu bé, hoặc một cô bé khác, nếu là tên của một cô bé, bước lên phía trước thì có thể thay thế vị trí của cậu bé hoặc cô bé đó. Ở một vài đặc khu, nơi mà việc giành được vị trí cống phẩm là một vinh dự lớn, người ta thường rất háo hức mạo hiểm cuộc sống của mình, thì việc xin tình nguyện là rất phức tạp. Nhưng ở Đặc khu 12, nơi mà từ cống phẩm rất gần nghĩa với từ xác chết, thì những người tình nguyện hoàn toàn tuyệt chủng.

“Thật đáng yêu!” Effie Trinket thốt lên. “Nhưng tôi tin là có một thủ tục nhỏ là phải giới thiệu người thắng lợi trong cuộc tuyển chọn, sau đó kêu gọi các tình nguyện viên, và nếu có một người bước lên phía trước thì chúng ta, ừm…” cô ta ngắc ngứ, có vẻ không chắc chắn lắm.

“Việc đó thì sao chứ?”, ngài thị trưởng lên tiếng. Ông ấy đang nhìn tôi với một biểu hiện đau lòng trên khuôn mặt. Ông ấy không thực sự biết tôi, nhưng vẫn ngờ ngợ nhận ra. Tôi là cô gái vẫn thường đem dâu tây đến. Cô gái mà con gái ông ấy có thể đã từng nhắc đến trong một lúc nào đó. Cô bé mà năm năm trước đây đứng nép vào mẹ và em gái, khi ông tặng cho cô, đứa con lớn, chiếc huân chương dũng cảm. Một chiếc huân chương cho cha cô bé, đã tan xác trong các hầm mỏ. Liệu ông ấy có nhớ điều đó không? “Việc đó thì sao chứ?” ông nhắc lại một cách cộc cằn. “Để cô bé tiến lên phía trước đi.”

Prim đang la hét điên cuồng phía sau tôi. Con bé vòng cánh tay mảnh dẻ bám chặt lấy tôi như một chiếc kìm. “Không, Katniss! Không! Chị không thể đi đươc!”

“Prim, buông ra,” giọng tôi nghiêm khắc bởi vì việc này chỉ khiến tôi thêm đau lòng và tôi không muốn khóc. Khi truyền hình phát sóng lại buổi tuyển chọn cống phẩm hôm nay, mọi người sẽ nhận ra những giọt nước mắt của tôi, và tôi sẽ bị đánh dấu là một mục tiêu dễ dàng. Một kẻ yếu đuối. Và tôi sẽ không cho bất cứ ai được hả lòng về điều đó. “Buông ra!”

Tôi có thể cảm thấy ai đó đang kéo con bé ra khỏi lưng tôi. Tôi quay lại và thấy Gale đã ôm con bé khỏi mặt đất còn con bé thì đang đấm túi bụi vào tay anh ấy. “Đi lên đi, Catnip”, anh ấy cố gắng hết sức giữ cho giọng nói được bình tĩnh rồi đưa Prim đi khỏi đó, về chỗ mẹ tôi. Tôi cứng rắn lại và bước lên các bậc thềm.

“Ồ, hoan hô!” Effie Trinket tươi rói. “Đó chính là tinh thần của Trò chơi!” Cô ta hài lòng vì cuối cùng đã có một đặc khu hiếm khi có người tình nguyện lại tiếp tục có tinh thần đó. “Tên em là gì?”

Tôi nuốt xuống khó khăn và nói “Katniss Everdeen”

“Tôi cá đó là chắc chắn là em gái của em. Chúng ta không muốn cô ấy cướp mất mọi vinh quang, phải không nào? Thôi nào, mọi người! Chúng ta hãy dành một tràng pháo tay thật lớn cho cống phẩm mới nhất của chúng ta,” Effie Trinket hô vang.

Thời gian chờ đợi sự hưởng ứng của người dân Đặc khu 12 dường như kéo dài vô tận, nhưng không một ai vỗ tay, ngay cả với những kẻ đang nắm giữ những mảnh giấy cá cược, những người mà thường chẳng bao giờ quan tâm. Có thể vì họ đã biết tôi khi ở Hob, hoặc biết cha tôi, hoặc đã từng gặp Prim, người mà không ai có thể không yêu mến. Do đó, thay cho những tràng pháo tay tán thưởng, tôi đứng im ở đó trong khi họ đang tham gia vào một hình thức chống đối rõ nét nhất mà họ có thể làm. Yên lặng. Điều đó thể hiện những gì chúng tôi không bằng lòng. Chúng tôi không tha thứ. Tất cả những điều này là sai trái.

Sau đó một việc không tưởng đã xảy ra. Ít nhất tôi không ngờ đến bởi vì tôi không nghĩ Đặc khu 12 lại quan tâm đến tôi. Nhưng có một sự thay đổi đã xảy ra kể từ lúc tôi đứng ra làm cống phẩm thay cho Prim, và giờ đây dường như tôi đã trở thành một người đáng quý. Bắt đầu là một người, rồi thêm một người nữa, sau đó hầu hết tất cả mọi người trong đám đông khép ba ngón tay giữa của bàn tay trái lại đặt lên môi họ rồi giơ lên hướng về phía tôi. Đó là một cử chỉ xưa cũ và hiếm khi được dùng đến ở Đặc khu chúng tôi, thỉnh thoảng mới nhìn thấy ở các lễ tang. Nó biểu tượng cho lòng biết ơn, sự khâm phục, và lời vĩnh biệt gửi đến người mà bạn yêu thương.

Hiện tại tôi thực sự có nguy cơ sẽ bật khóc, nhưng may mắn thay Haymitch lại chọn đúng thời điểm này loạng choạng bước ngang qua sân khấu để đến chúc mừng tôi. “Hãy nhìn cô ấy. Nhìn cô gái này đi,” ông ấy hò hét, quàng một cánh tay lên vai tôi. Ông ta khỏe một cách đáng ngạc nhiên trong bộ dạng tàn tạ đó. “Tôi thích cô ấy!” Hơi thở của ông ta nồng nặc mùi rượu và chắc phải lâu lắm rồi chưa tắm gội. “Cực kỳ…” ông ấy không thể tìm ra từ ngữ một lúc lâu. “Can đảm!”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hơn tất cả các người!” ông hét lên và chỉ thẳng về phía một chiếc camera.

Có phải ông ấy đang chỉ về phía khán giả hay không, hay ông ấy say đến mức thực sự chọc tức Capitol? Tôi sẽ không bao giờ biết được vì khi sắp mở miệng để tiếp tục thì Haymitch lao thẳng xuống khỏi khán đài và cú ngã đã khiến ông ta bất tỉnh.

Ông ấy thật kinh tởm, nhưng tôi lại lấy làm biết ơn. Với mọi chiếc camera chĩa về phía ông ấy, tôi có đủ thời gian để giải phóng những âm thanh nghẹn ngào trong cổ họng và bình tĩnh lại. Tôi cho tay về sau lưng và chăm chú nhìn về phía xa.

Tôi có thể nhìn thấy những ngọn đồi nơi tôi thường trèo lên vào các buổi sáng cùng với Gale. Trong một khoảnh khắc, tôi khao khát một điều gì đó… ý tưởng về việc chúng tôi rời khỏi đặc khu… sống tự do trong rừng… nhưng tôi biết tôi hoàn toàn đúng về việc chạy trốn. Bởi vì nếu thế ai sẽ ở đây để tình nguyện thay thế cho Prim?

Haymitch được khiêng đi trên một chiếc cáng, và Effie Trinket thì đang cố gắng lăn lăn quả cầu một lần nữa. “Thật là một ngày sôi động!” cô ta thỏ thẻ trong khi cố gắng chỉnh lại bộ tóc giả đang bị lệch hẳn sang bên phải. “Nhưng còn nhiều hồi hộp hơn ở phía sau. Đã đến lúc chọn ra cống phẩm nam của chúng ta!” Rõ ràng là hy vọng ngăn được tình trạng tóc tai sắp bung ra của mình, cô ta để một tay trên đầu khi tiến đến quả cầu chứa tên các cậu bé trai và chộp lấy luôn mẩu giấy đầu tiên cô ta chạm vào. Cô ta đi vèo trở lại bục và tôi thậm chí không có đủ thời gian để cầu nguyện cho Gale được an toàn khi cô ta đọc ra cái tên. “Peeta Mellark.”

Peeta Mellark!

Ôi, không, tôi nghĩ. Không phải cậu ấy chứ. Bởi vì tôi nhận ra cái tên này, mặc dù tôi chưa bao giờ nói chuyện trực tiếp với chủ nhân của nó. Peeta Mellark.

Không, may mắn không hề dành cho tôi trong ngày hôm nay. Tôi nhìn cậu ấy khi cậu ấy tiến dần về sân khấu. Chiều cao trung bình, dáng người chắc nịch, mái tóc vàng tro hơi gợn sóng trước trán cậu ấy. Trong khoảnh khắc vẻ sốc đã hiện lên trên khuôn mặt, nhưng bạn cũng có thể thấy sự đấu tranh của cậu ấy để giữ cho bản thân không xúc động. Nhưng đôi mắt xanh nước biển của cậu ấy đã cho thấy sự sợ hãi mà tôi vẫn thường nhìn thấy ở các con mồi của mình. Nhưng cậu ấy vẫn bình tĩnh trèo lên sân khấu và đứng vào vị trí của mình.

Effie Trinket kêu gọi những người tình nguyện, nhưng không có ai bước lên. Tôi biết cậu ấy có hai người anh trai, tôi đã nhìn thấy họ ở tiệm bánh, nhưng một người thì giờ đã quá tuổi để tình nguyện làm cống phẩm, còn người kia thì chưa. Điều này là bình thường. Đối với tất cả mọi người, tình cảm gia đình trong ngày chọn cống phẩm cũng chỉ đến mức này thôi. Điều tôi làm là hoàn toàn khác thường.

Ngài thị trưởng bắt đầu đọc bản Hiệp ước dài dòng, chán ngắt về tội phản bội mà ông ấy vẫn đọc hàng năm vào thời điểm này – đó là bắt buộc – nhưng tôi không nghe lấy một từ nào.

Tại sao lại là cậu ấy? Tôi nghĩ. Rồi tôi cố gắng thuyết phục bản thân mình rằng điều đó không quan trọng. Peeta Mellark và tôi không phải bạn bè. Thậm chí không phải hàng xóm. Chúng tôi không nói chuyện với nhau. Lần tiếp xúc thực sự duy nhất của chúng tôi đã xảy ra cách đây nhiều năm. Cậu ấy có thể đã quên nó. Nhưng tôi chưa từng và sẽ không bao giờ quên…

Đó là khoảng thời gian tồi tệ nhất. Cha tôi mới chết trước đó ba tháng trong vụ tai nạn ở hầm mỏ vào một tháng Giêng rét buốt nhất mà bất cứ ai cũng có thể nhớ được. Sự tê liệt trước việc ông qua đời đã qua đi, nhưng nỗi đau vẫn thường xuyên hành hạ tôi, hao mòn cơ thể tôi với những cơn nức nở.Cha ở đâu? Tôi thét gào trong tâm trí. Cha đi đâu rồi? Tất nhiên, không có ai trả lời.

Đặc khu đã cho chúng tôi một khoản tiền nhỏ để bồi thường cho cái chết của ông. Đủ để sống trong một tháng đau thương mà trong khoảng thời gian đó mẹ tôi có thể tìm được một công việc. Chỉ là bà ấy đã không tìm. Bà đã không làm bất cứ việc gì ngoài việc ngồi dựa vào ghế, hoặc thường xuyên hơn, nằm trùm chăn, co quắp trên giường, mắt nhìn cố định vào một điểm nào đó phía xa. Đôi khi bà bị kích động, bật dậy như thể có một việc khẩn cấp nào đó, nhưng rồi chỉ để sụp xuống rơi vào trạng thái bất động. Không lời cầu xin nào từ Prim có thể tác động đến bà.

Tôi đã rất sợ hãi. Giờ đây tôi hiểu rằng mẹ tôi đã bị nhốt chặt trong một thế giới đen tối của sự đau buồn, nhưng vào lúc đó, tất cả những gì tôi biết là tôi không chỉ mất cha, mà còn mất luôn cả mẹ. Ở tuổi mười một, với Prim mới bảy tuổi, tôi đã phải gánh trách nhiệm làm trụ cột của gia đình. Tôi không có sự lựa chọn. Tôi mua thức ăn ở chợ, và nấu nó tốt nhất có thể và cố gắng giữ cho tôi và Prim trông luôn chỉnh tề. Bởi vì nếu có người biết rằng mẹ tôi không thể chăm sóc cho chúng tôi, đặc khu sẽ đưa chúng tôi đi khỏi bà và cho chúng tôi vào nhà từ thiện. Tôi đã lớn lên và thường nhìn thấy những đứa trẻ từ những ngôi nhà đó ở trường. Nỗi buồn và dấu vết của những bàn tay thô bạo hiện trên mặt chúng, sự tuyệt vọng khiến vai họ co lại về phía trước. Tôi không bao giờ có thể để điều đó xảy ra với Prim. Prim ngọt ngào, bé nhỏ của tôi, người khóc cùng với tôi ngay cả khi không biết lý do tôi khóc, người chải và tết tóc cho mẹ tôi trước khi chúng tôi đến trường, người lau chiếc gương cạo râu của cha tôi sạch bóng mỗi đêm bởi vì ông ghét lớp bụi than vẫn thường bám lên mọi thứ ở Seam. Nhà từ thiện sẽ nghiền nát con bé như nghiền nát một con rệp. Do đó tôi đã giấu kín tình trạng khó khăn của chúng tôi.

Nhưng khi hết tiền, chúng tôi đói và ngày càng tiến gần đến cái chết. Không có cách nào trì hoãn được nó. Tôi cứ tự nói với bản thân rằng nếu tôi có thể duy trì được đến tháng Năm, chỉ đến mồng 8 tháng Năm thôi, khi đó tôi sẽ đủ mười hai tuổi, và có thể đăng ký tên lấy thẻ tiêu dùng và lấy được đáng kể ngũ cốc và dầu để nuôi sống chúng tôi. Chỉ có điều còn đến vài tuần nữa. Chúng tôi có lẽ đã chết đói vào lúc đó rồi.

Chết đói không phải là một kết cục hiếm thấy ở Đặc khu 12. Ai mà chưa từng nhìn thấy các nạn nhân cơ chứ? Những người già cả không thể làm việc. Những đứa trẻ ở những gia đình có quá nhiều miệng ăn. Những người bị thương trong hầm mỏ. Rải rác trên các con phố. Và vào một ngày nào đó, bạn bắt gặp họ ngồi bất động dựa vào tường hay nằm ở khu Meadow, bạn nghe thấy tiếng khóc than trong một ngôi nhà, và những Người giữ trị an sẽ được gọi đến để thu dọn tử thi. Đói khát không bao giờ là nguyên nhân chính của những cái chết này. Đó luôn luôn là do cúm, do dãi nắng dầm mưa, hay viêm phổi. Nhưng không ai ngốc đến mức không hiểu lý do.

Buổi chiều mà lần đầu tiên tôi gặp Peeta Mellark, mưa không ngừng trút xuống như những tấm màn nước lạnh buốt. Tôi đang ở trong phố, cố gắng đổi mấy bộ quần áo sơ sinh cũ rích của Prim ở chợ nhưng không có ai chịu mua. Mặc dù tôi đã từng đến Hob vài lần với cha tôi, tôi vẫn quá sợ hãi để một mình đến nơi hỗn độn và đáng sợ đó. Nước mưa đã ngấm qua chiếc áo khoác đi săn của cha, khiến tôi lạnh thấu xương. Ba ngày nay, chúng tôi không có gì ăn ngoài nước đun sôi với vài chiếc lá bạc hà khô mà tôi tìm thấy ở sau tủ chén. Vào lúc phiên chợ kết thúc, tôi run cầm cập đến nỗi đánh rơi cả mớ quần áo trẻ em của mình vào vũng bùn. Tôi không nhặt chúng lên vì sợ rằng mình sẽ ngã nhào xuống và không thể đứng dậy được nữa. Ngoài ra, cũng không có ai muốn mua chúng.

Tôi không thể về nhà. Bởi ở nhà là mẹ tôi với đôi mắt chết chóc và em gái bé nhỏ của tôi với đôi má hõm lại và đôi môi nứt nẻ. Tôi không thể bước vào căn phòng với bếp lửa khói mù mịt từ những cành cây ẩm ướt mà tôi kiếm được ở bìa rừng sau khi hết than, mà trong tay không mang về chút hy vọng gì.

Tôi bước đi loạng choạng trên con hẻm lầy lội đằng sau các cửa hiệu chuyên bán đồ cho những người giàu có nhất trong thị trấn. Các thương nhân sống ở ngay phía trên cửa hiệu của mình, nên về cơ bản tôi đang ở trong sân sau nhà họ. Tôi vẫn nhớ khung cảnh lúc đó, những luống hoa vẫn chưa được trồng cho mùa xuân, một hoặc hai con dê được quây trong hàng rào, một con chó lông ướt sũng đang bị buộc vào một cây cột, nằm co ro trong tình trạng bẩn thỉu.

Tất cả các hình thức trộm cắp đều bị nghiêm cấm ở Đặc khu 12. Hình phạt sẽ là cái chết. Nhưng có một ý nghĩ xẹt qua đầu tôi là có thể có gì đó ở trong thùng rác, và đó là đồ đã vứt đi. Có thể là một khúc xương ở hàng thịt hay rau héo nát ở cửa hàng rau quả, một thứ gì đó mà không ai ngoài gia đình tôi tuyệt vọng đến nỗi có thể ăn. Đáng tiếc là thùng rác nào cũng trống rỗng.

Khi tôi đi qua hiệu bánh, mùi thơm phưng phức của bánh mì mới ra lò làm tôi chóng mặt. Chiếc lò nướng ở phía sau cửa hiệu đang hắt ánh sáng rực rỡ, ấm áp tràn ra ngoài khung cửa bếp. Tôi đứng như bị thôi miên trước hơi nóng và mùi thơm ngào ngạt tỏa ra từ đó cho đến khi cơn mưa quấy nhiễu, cào những ngón tay lạnh băng của nó vào lưng mình, kéo tôi trở lại với hiện thực. Tôi nâng cái nắp thùng rác của hiệu bánh lên và thấy nó sạch bong một cách nhẫn tâm.

Đột nhiên có giọng ai đó hét lên với tôi, tôi nhìn lên và thấy bà vợ của chủ tiệm bánh đang bảo tôi cút đi và hỏi tôi có muốn bà ấy gọi những Người giữ trị an đến không và rằng bà ta phát ốm lên như thế nào khi bắt gặp những con chuột hôi hám đến từ Seam lục lọi thùng rác của bà ta. Những lời lẽ thật cay nghiệt và tôi không thể biện minh được cho mình. Khi tôi cẩn thận đậy lại chiếc nắp thùng rác và quay lưng bỏ đi, thì tôi nhìn thấy cậu ấy, một cậu bé tóc vàng đang ngó ra từ sau lưng mẹ cậu. Tôi đã từng nhìn thấy cậu ấy ở trường. Cậu ấy bằng tuổi tôi, nhưng tôi không biết tên cậu ta. Cậu ấy đi cùng với những đứa trẻ trong thị trấn, nên làm sao tôi có thể biết cậu ấy? Mẹ cậu càu nhàu đi vào bên trong tiệm bánh, nhưng chắc hẳn cậu ấy đã dõi theo tôi khi tôi đi ra phía sau hàng rào chuồng lợn nhà họ và đứng dựa người vào phía sau một cây táo già. Việc nhận ra rằng tôi chẳng có thứ gì để mang về nhà cuối cùng đã làm cho tôi sụp ngã. Hai đầu gối tôi sụm lại và cả người trượt theo thân cây xuống gốc. Đã quá sức chịu đựng. Tôi đã quá ốm yếu và mệt mỏi, ôi, thật quá mệt mỏi rồi. Hãy để cho họ gọi những Người giữ trị an đến và đưa chúng tôi tới nhà từ thiện, tôi nghĩ. Hay tốt hơn, hãy để tôi chết ngay tại đây dưới cơn mưa này.

Có tiếng loảng xoảng trong tiệm bánh và tôi nghe thấy người phụ nữ lại gào lên và âm thanh của một cái tát, và tôi lơ đãng tự hỏi không biết có chuyện gì xảy ra trong đó. Tiếng chân bì bõm bước qua vũng bùn đi lại phía tôi và tôi nghĩ, Là bà ta. Bà ta cầm gậy đến để xua tôi đi. Nhưng đó không phải bà ta. Là cậu bé đó. Trong tay cậu ấy đang cầm hai ổ bánh mì lớn mà chắc hẳn đã bị rơi vào trong lò vì vỏ bánh đã bị cháy đen.

Mẹ cậu ấy vẫn đang rủa xả “Đem nó cho lợn ăn đi, đồ ngu ngốc! Tại sao ư? Không một người tử tế nào sẽ mua bánh mì cháy cả!”

Cậu ta bắt đầu xé những cái bánh ở những phần bị cháy, ném vào máng lợn, rồi tiếng chuông phía trước tiệm bánh vang lên, bà mẹ bỏ đi vào để phục vụ khách hàng.

Cậu bé thậm chí không bao giờ liếc nhìn về phía tôi, nhưng tôi thì đang theo dõi cậu ấy. Bởi vì chiếc bánh mì, bởi vì vết đỏ tấy hiện rõ ở trên má cậu ta. Điều gì đã khiến bà ta đánh cậu?

Cha mẹ tôi không bao giờ đánh đập con cái. Nên tôi thậm chí không thể tưởng tượng được. Cậu bé ngoái lại nhìn tiệm bánh như thể kiểm tra xem ở bậu cửa còn ai không, rồi quay sự chú ý trở lại với con lợn, cậu ta ném ổ bánh mì về phía tôi. Một giây sau, cậu ta lõm bõm quay trở lại tiệm bánh và đóng chặt cánh cửa bếp ở sau lưng mình.

Tôi chằm chằm nhìn vào mấy ổ bánh mì mà không tin vào mắt mình. Chúng vẫn ngon, thực sự hoàn hảo, chỉ trừ những chỗ bị cháy. Có phải ý cậu ấy là tôi được phép lấy chúng không? Cậu ta hẳn phải có ý đó. Bởi vì chúng ở ngay dưới chân tôi. Trước khi ai đó có thể nhìn thấy những gì xảy ra, tôi nhét ngày mấy ổ bánh mì vào bên dưới chiếc áo sơ mi của mình, quấn chiếc áo khoác đi săn chặt quanh mình và nhanh chóng rời khỏi đó. Hơi nóng của chiếc bánh mì phả vào da tôi bỏng rát, nhưng tôi càng ôm nó chặt hơn, đeo bám lấy cuộc sống.

Vào lúc tôi về đến nhà, hai ổ bánh mì đã nguội đi phần nào, nhưng bên trong vẫn còn ấm. Khi tôi thả chúng xuống bàn, Prim vươn tay đến xé lấy một miếng, nhưng tôi cho con bé ngồi xuống, ép mẹ tôi cùng ngồi vào bàn, rồi rót trà nóng ra. Tôi cạo sạch những chỗ bị đen, và cắt bánh mì ra thành các lát mỏng. Chúng tôi ăn hết một ổ bánh, hết lát này đến lát khác. Đó là chiếc bánh mì ngon lành nhất, được trộn với nho khô và đậu phộng.

Tôi hong quần áo bên bếp lửa, chui vào giường và chìm vào một giấc ngủ không mộng mị. Điều này không xảy đến với tôi cho đến buổi sáng mà cậu bé đó đã nướng cháy chiếc bánh mì một cách có chủ đích. Có thể cậu ta đã thả hai chiếc bánh mì vào lửa dù biết rằng sẽ bị phạt, và rồi trao chúng cho mình. Nhưng tôi lại gạt nó đi. Đó chắc chắn chỉ là một tai nạn thôi. Tại sao cậu ấy phải làm vậy cơ chứ? Cậu ta thậm chí còn không biết mình. Dù thế, việc ném cho tôi chiếc bánh mì cũng là việc vô cùng tốt bụng và chắc chắn kết quả sẽ là bị trừng phạt nếu bị phát hiện. Tôi không thể lý giải được hành động của cậu ta.

Chúng tôi ăn vài lát bánh mì vào bữa sáng rồi đi đến trường. Nó như thể mùa xuân đã đến chỉ sau một đêm. Không khí ngọt ngào, ấm áp. Các đám mây nhẹ nhàng, thoáng đãng. Ở trường, tôi đi ngang qua cậu bé đó ở hành lang, má vẫn sưng húp và đôi mắt thì tối lại. Cậu ấy đang đi với bạn mình và chẳng thể nào nhận ra tôi. Nhưng buổi chiều, khi tôi đón Prim và chuẩn bị về nhà, tôi thấy cậu ta đang nhìn tôi chăm chú từ phía bên kia sân trường. Mắt chúng tôi chạm nhau chỉ trong một giây, sau đó cậu ấy quay đi. Tôi hạ mắt xuống, bối rối, và đó là lúc tôi nhìn thấy nó. Cây bồ công anh đầu tiên trong năm. Một tiếng chuông vang lên trong đầu tôi. Tôi nghĩ về hàng giờ đồng hồ lang thang trong rừng với cha tôi và tôi đã biết cách làm thế nào để gia đình tôi tiếp tục tồn tại.

Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa bao giờ có thể quên được mối liên hệ với cậu trai này, Peeta Mellark, và chiếc bánh mì đã mang lại hy vọng cho tôi và cây hoa bồ công anh đã nhắc nhở tôi rằng tôi vẫn chưa lâm vào đường cùng. Và hơn một lần, tôi quay đầu lại trên hành lang trường học và bắt gặp ánh mắt của cậu ấy nhìn chằm chằm vào tôi, để rồi vụt quay đi. Tôi cảm thấy như tôi mắc nợ cậu ấy, và tôi thì ghét phải nợ nần người khác. Có lẽ nếu tôi đã cảm ơn cậu ta vào lúc nào đó, thì bây giờ tôi sẽ ít cảm thấy mâu thuẫn hơn. Tôi nghĩ về việc cảm ơn cậu ấy một đôi lần, nhưng dường như không lúc nào có cơ hội. Và hiện tại sẽ không bao giờ có. Bởi vì chúng tôi sắp bị ném vào một đấu trường để chiến đấu với nhau cho đến chết. Chính xác thì tôi định làm gì với một lời cảm ơn ở đó? Dù thế nào nó dường như không hề chân thành nếu tôi đang cố gắng để cứa vào cổ họng cậu ấy.

Ngài thị trưởng kết thúc bản Hiệp ước về tội mưu phản thê lương và ra hiệu cho tôi và Peeta bắt tay nhau. Bàn tay của cậu ấy rắn chắc và ấm áp như những ổ bánh mì đó. Peeta nhìn thẳng vào mắt tôi, và trao cho tôi một cái bắt tay mà tôi nghĩ là để làm yên lòng tôi. Có lẽ nó chỉ là sự bồn chồn.

Chúng tôi quay lại đối diện với khán giả khi bài hát ca ngợi Panem được bật lên.

Ồ, không sao, tôi nghĩ. Ở đó có tới hai mươi tư người. Nếu may mắn thì sẽ có ai đó giết cậu ấy trước khi tôi phải xuống tay.

Tất nhiên, gần đây vận may thường không đáng tin cậy lắm

CHƯƠNG 3

Ngay khi bài hát ca ngợi Panem kết thúc, chúng tôi liền bị bắt giữ. Tôi không có ý nói chúng tôi bị còng tay hay gì hết, nhưng một nhóm những Người giữ trị an đã tới đưa chúng tôi đi xuyên qua cửa trước của Trụ sở tòa án. Có lẽ trước đây các cống phẩm đã từng cố bỏ trốn. Tuy nhiên tôi chưa từng nhìn thấy chuyện đó xảy ra.

Khi đã vào bên trong, tôi được đưa đến một căn phòng và được bỏ lại đó một mình. Đó là nơi sang trọng nhất mà tôi đã từng ở với những tấm thảm dày màu thẫm, cùng một chiếc ghế đi văng và mấy chiếc ghế tựa bằng nhung. Tôi biết vải nhung vì mẹ tôi có một chiếc váy với cổ làm bằng thứ này. Khi tôi ngồi trên chiếc đi văng, tôi không thể ngăn ngón tay mình lướt qua lướt lại trên lớp vải. Nó giúp tôi bình tĩnh lại vì tôi phải cố gắng chuẩn bị cho vài giờ tới. Đó là thời gian để các cống phẩm nói lời tạm biệt với bạn bè và người thân. Tôi không thể trở nên đau buồn, rời căn phòng này với đôi mắt sưng húp và chiếc mũi đỏ chót. Khóc lóc không phải là lựa chọn lúc này. Sẽ có nhiều camera hơn ở ga tàu điện.

Em gái và mẹ tôi đến đầu tiên. Tôi với lấy Prim và con bé trèo vào lòng tôi, choàng cánh tay quanh cổ và ngả đầu vào vai tôi, giống như con bé thường làm khi nó mới chỉ là một đứa bé con lẫm chẫm tập đi. Mẹ ngồi bên cạnh tôi, vòng cánh tay ôm lấy cả hai chị em tôi. Trong một vài phút, chúng tôi không nói gì. Sau đó tôi bắt đầu dặn dò họ những thứ họ cần nhớ để làm vì từ giờ tôi sẽ không ở đây để làm cho họ nữa.

Prim không được ghi danh để lấy bất cứ thẻ tiêu dùng nào. Nếu họ cẩn thận, họ có thể xoay xở được nhờ vào việc bán sữa cùng pho mát từ con dê của Prim và việc bán một số loại thuốc tự điều chế cho mọi người ở Seam mà hiện mẹ tôi đang làm. Gale sẽ kiếm giúp các loại dược thảo mà bà không tự trồng được, nhưng bà phải miêu tả chúng thật kĩ càng vì Gale không quen thuộc với chúng như tôi. Anh ấy cũng sẽ chia cho họ thú săn – anh ấy và tôi đã có một thỏa thuận về điều này một hay vài năm trước – và có thể sẽ không yêu cầu cái gì để đổi lại, nhưng họ vẫn nên cảm ơn anh ấy bằng một thứ gì đó, ví dụ như sữa hoặc thuốc.

Tôi không định bảo Prim học cách săn bắn. Tôi từng cố dạy con bé một vài lần nhưng đó là thảm họa. Rừng làm con bé sợ hãi, và mỗi khi tôi bắn một thứ gì đó, con bé lại bắt đầu khóc và nói về việc chúng tôi có thể chữa trị cho nó như thế nào nếu chúng tôi đưa nó về nhà đúng lúc. Nhưng con bé lại chăm sóc rất tốt con dê của mình, nên tôi chỉ tập trung nói về điều đó.

Khi tôi kết thúc những chỉ dẫn về chất đốt, việc mua bán, và việc ở trường, tôi quay sang mẹ tôi, nắm lấy cánh tay của bà, bóp mạnh. “Nghe con nói đây. Mẹ có thực sự đang nghe con nói không?” Bà gật đầu, hoảng sợ vì vẻ dữ dội của tôi. Bà ấy cần phải biết chuyện gì sắp đến. “Mẹ không thể suy sụp một lần nữa,” tôi nói.

Mẹ tôi cúi đầu nhìn sàn nhà. “Mẹ biết. Mẹ sẽ không. Chỉ là mẹ đã không ngăn được những…”

“Vậy thì, lần này mẹ phải ngăn được điều đó. Mẹ không thể lại đánh mất chính mình và bỏ lại Prim một mình. Giờ sẽ không có con để giữ cho cả hai sống sót. Không cần biết điều gì sẽ xảy ra. Bất cứ điều gì mẹ nhìn thấy trên màn hình. Mẹ phải hứa với con là mẹ sẽ chiến đấu để vượt qua nó!” Tôi cao giọng như đang quát. Trong đó là tất cả sự giận giữ, tất cả nỗi sợ hãi mà tôi đã cảm nhận được khi bà từ bỏ.

Bà giằng cánh tay ra khỏi sự kìm kẹp của tôi, và giờ thì chuyển sang tự giận dữ với chính mình. “Mẹ đã bị ốm. Lẽ ra mẹ có thể tự chữa trị cho bản thân mình nếu mẹ có thuốc thang như bây giờ.”

Việc mẹ tôi ốm có lẽ cũng là một lý do. Tôi đã từng thấy bà chữa trị cho những người bị trầm cảm. Có lẽ đó cũng là một loại ốm, nhưng đó là điều tôi không thể chịu đựng được.

“Vậy hãy chữa trị nó đi. Và chăm sóc cho con bé!” tôi đáp lại.

“Em sẽ ổn thôi, Katniss,” Prim nói, hai tay giữ lấy mặt tôi. “Nhưng chị cũng phải tự chăm sóc mình. Chị rất nhanh nhẹn và dũng cảm. Có lẽ chị có thể thắng.”

Tôi không thể chiến thắng. Tận sâu trong trái tim con bé phải biết điều đó. Cuộc chiến đó vượt xa khả năng của tôi. Những đứa trẻ từ những đặc khu giàu có hơn, ở nơi chiến thắng là một vinh quang to lớn, những kẻ được huấn luyện cả cuộc đời cho điều đó. Những cậu trai to lớn gấp hai đến ba lần tôi. Các cô gái thì biết đến hai mươi cách để giết bạn chỉ với một con dao. Ồ, cũng sẽ có những người như tôi. Những kẻ mà sẽ bị quét sạch trước khi cuộc chiến bắt đầu trở nên thú vị.

“Có lẽ,” tôi đáp, bởi tôi không thể yêu cầu mẹ tôi cố gắng khi bản thân tôi thì từ bỏ. Ngoài ra, đầu hàng mà không hề chiến đấu không phải là tính cách của tôi, ngay cả khi mọi thứ dường như không thể vượt qua được. “Khi đó chúng ta sẽ giàu có như Haymitch.”

“Em không quan tâm liệu chúng ta có giàu có hay không. Em chỉ muốn chị quay về nhà. Chị sẽ cố gắng, phải không? Thực sự, thực sự cố gắng chứ?” Prim hỏi.

“Thực sự, thực sự cố gắng. Chị xin thề,” tôi trả lời. Và tôi biết, vì Prim, tôi sẽ làm thế.

Và sau đó, Người giữ trị an đã đứng ở cửa, cho biết thời gian của chúng tôi đã hết, cả ba chúng tôi ôm siết lấy nhau và tất cả những gì tôi có thể nói là “Con yêu cả hai.” Và họ cũng nói điều đó với tôi, sau đó Người giữ trị an yêu cầu họ ra ngoài rồi đóng cửa lại. Tôi vùi đầu vào một cái gối nhung như thể nó sẽ giúp ngăn cách tôi với mọi thứ bên ngoài.

Một ai đó bước vào phòng, và khi tôi nhìn lên, tôi ngạc nhiên khi thấy đó là ông chủ tiệm bánh, cha của Peeta Mellark. Tôi không thể tin là ông ấy đến gặp tôi. Sau cùng, tôi sẽ cố gắng để giết con ông ấy sớm thôi. Nhưng chúng tôi cũng biết nhau chút ít, và ông ấy biết về Prim nhiều hơn. Khi con bé bán pho mát dê ở Hob, con bé để riêng hai miếng cho ông ấy, và ông ấy đưa lại cho con bé một lượng bánh mì khá hào phóng. Chúng tôi luôn mong chờ được mua bán với ông ấy khi bà vợ phù thủy của ông ấy không có ở đó bởi vì ông ấy tử tế hơn nhiều. Tôi cảm thấy chắc chắn ông ấy sẽ không bao giờ đánh con trai mình theo cái cách bà ta đã làm khi những chiếc bánh mì bị cháy. Nhưng tại sao ông ấy lại tới để gặp tôi?

Ông chủ tiệm bánh ngượng nghịu ngồi ở mép chiếc ghế tựa bọc vải nhung. Ông ấy là một người đàn ông to lớn, vai rộng với những vết sẹo lâu năm do bị bỏng bởi lò nướng. Ông ấy chắc hẳn đã nói lời tạm biệt với con trai mình.

Ông lôi từ trong túi áo khoác ra một gói giấy màu trắng và đưa cho tôi. Tôi mở nó ra và thấy bên trong đựng bánh quy. Đó là một món xa xỉ mà tôi không bao giờ mua được.

“Cảm ơn bác,” tôi nói. Người chủ tiệm bánh không phải là người nói nhiều trong phần lớn những lần tôi gặp và hôm nay ông ấy cũng không nói gì. “Cháu đã có một phần chiếc bánh mì của bác sáng nay. Bạn cháu, Gale, đã đổi cho bác một con sóc để lấy nó.” Ông ấy gật đầu, như thể đang nhớ ra con sóc. “Không phải là vụ trao đổi tốt nhất của bác,” tôi nói tiếp. Ông ấy nhún vai làm như nó không quan trọng.

Sau đó tôi không thể nghĩ được gì, nên chúng tôi ngồi im lặng cho đến khi Người giữ trị an đến triệu ông ấy đi. Ông ấy đứng dậy, ho khan một tiếng. “Tôi sẽ để ý đến em gái cháu. Đảm bảo cô bé sẽ không bị đói.”

Tôi cảm thấy áp lực trong ngực mình nhẹ đi trước câu nói của ông. Mọi người giao dịch với tôi, nhưng họ thật sự quý Prim. Có lẽ đủ yêu thích để giúp con bé sống sót.

Người khách tiếp theo của tôi cũng không thể đoán ra được. Madge bước thẳng đến chỗ tôi. Cô ấy không khóc lóc hay lảng tránh, thay vào đó có sự khẩn cấp trong giọng nói của cô ấy khiến tôi ngạc nhiên. “Họ để cho bạn được mang một thứ từ đặc khu của mình vào đấu trường. Một thứ nhắc nhở bạn về ngôi nhà của mình. Bạn sẽ đeo nó chứ?” Cô ấy đưa ra chiếc huy hiệu hình tròn bằng vàng mà cài trên váy cô ấy lúc trước. Lúc đó tôi không chú ý đến nó lắm, nhưng giờ tôi nhìn thấy nó có hình một con chim nhỏ đang bay.

“Chiếc huy hiệu cài áo của bạn ư?” tôi hỏi. Đeo một biểu tượng về đặc khu của mình là điều cuối cùng tôi nghĩ đến.

“Đây, mình cài nó lên váy của bạn, được chứ?” Madge không đợi tôi trả lời, cô ấy vươn tới và cài con chim vào váy tôi. “Hãy hứa là bạn sẽ đeo nó khi vào đấu trường được không Katniss?” cô ấy hỏi. “Hứa chứ?”

“Được,” tôi nói. Những chiếc bánh quy. Một chiếc huy hiệu. Tôi sắp có tất cả các loại quà tặng trong ngày hôm nay. Madge tặng tôi thêm một thứ nữa. Một nụ hôn vào má. Sau đó cô ấy đi ra và để tôi lại với suy nghĩ rằng có lẽ Madge thật sự đã là một người bạn của tôi trong suốt thời gian qua.

Cuối cùng, Gale ở đây và có thể không có gì lãng mạn giữa tôi và anh ấy, nhưng khi anh ấy dang rộng cánh tay, tôi không ngần ngại lao vào đó. Cơ thể anh ấy quá quen thuộc với tôi – cách mà nó chuyển động, mùi hương của rừng, thậm chí tiếng đập của trái tim anh ấy mà tôi đã nghe được từ những khoảnh khắc bất động để săn thú – nhưng đây là lần đầu tiên tôi thực sự tự mình cảm nhận được nó, dựa vào các cơ bắp rắn chắc đó.

“Nghe này,” anh ấy nói. “Lấy được một con dao có thể là khá dễ dàng, nhưng nếu em có thế lấy được chiếc cung tên. Đó sẽ là cơ hội tốt nhất của em.”

“Nhưng không phải lúc nào họ cũng có cung tên,” tôi nói, nghĩ về cái năm mà họ chỉ có những chiếc dùi cui đáng sợ mà các cống phẩm phải dùng nó để đâm nhau đến chết.

“Vậy hãy làm một chiếc,” Gale lại nói. “Dù một cái cung tên yếu vẫn còn hơn không có cái nào.”

Tôi đã từng thử bắt chước làm cung tên giống cha tôi nhưng thất bại. Nó không dễ chút nào. Thậm chí đôi khi cha tôi cũng từng phải bỏ dở công việc của mình.

“Em thậm chí còn không biết liệu ở đó có cây cối hay không,” tôi nói. Có năm, họ ném tất cả mọi người vào một vùng đất chẳng có gì ngoài đá cuội, cát và các bụi rậm bẩn thỉu. Tôi thật sự rất ghét năm đó. Rất nhiều đấu thủ đã bị rắn độc cắn chết hoặc phát điên vì khát.

“Hầu hết luôn luôn có một ít cây cối,” Gale nói. “Từ cái năm mà một nửa số đấu thủ bị chết vì lạnh. Không nhiều tính giải trí ở đó.”

Đó là sự thật. Chúng tôi đã trải qua một kỳ Trò chơi sinh tử, xem những người chơi bị lạnh cho đến chết vào ban đêm. Bạn khó có thể nhìn thấy họ vì họ chỉ nằm co tròn lại và không có củi để nhóm lửa, đốt đuốc hay bất cứ thứ gì. Đó được xem như năm người xem kém hứng thú nhất ở Capitol, tất cả những cái chết đều im lặng, không có máu chảy. Từ đó, ở đấu trường thường xuyên có cây cối để có thể nhóm lửa.

“Đúng, luôn luôn có một ít,” tôi thừa nhận.

“Katniss, đó chỉ là đi săn thôi mà. Và em là thợ săn giỏi nhất mà anh từng biết,” Gale nói tiếp.

“Đó không phải là đi săn. Họ được trang bị vũ khí. Họ biết suy nghĩ,” tôi phản bác.

“Em cũng vậy. Và em còn được thực hành nhiều hơn họ. Thực hành trong thực tế,” anh ấy nói. “Em biết cách giết con mồi thế nào.”

“Không phải giết người,” tôi nói.

“Thực sự thì nó có gì khác biệt?” Gale dứt khoát.

Điều tồi tệ là nếu tôi có thể quên đi họ là con người, thì nó sẽ chẳng có gì khác biệt cả.

Những Người giữ trị an quay lại quá nhanh và Gale xin họ cho thêm thời gian, nhưng họ vẫn đưa anh ấy đi, và tôi bắt đầu thấy hoảng loạn. “Đừng để họ phải đói!” tôi gào lên, cố níu lấy tay anh ấy.

“Sẽ không. Em biết là anh sẽ không để họ đói. Katniss, hãy nhớ là anh…” anh cố nói, nhưng họ giật mạnh chúng tôi ra và đóng sầm cửa lại, nên tôi sẽ không bao giờ biết anh ấy muốn tôi phải nhớ điều gì.

Đó là một chuyến đi ngắn từ Trụ sở tòa án đến ga tàu điện. Tôi chưa bao giờ đi ô tô trước đây. Thậm chí hiếm khi đi xe ngựa. Ở Seam, chúng tôi chỉ đi bộ.

Tôi đã đúng về việc không nên khóc. Nhà ga chen chúc các phóng viên với những chiếc camera như côn trùng của họ chĩa thẳng vào mặt tôi. Nhưng tôi đã được thực hành rất nhiều trong việc xóa sạch các biểu cảm khỏi khuôn mặt mình và bây giờ tôi đang làm vậy. Tôi bắt gặp hình ảnh của chính mình trên màn hình ti vi treo trên tường mà đang truyền hình trực tiếp sự xuất hiện của tôi và cảm thấy hài lòng rằng trông tôi khá buồn tẻ.

Ngược lại, Peeta Mellark rõ ràng là đã khóc và dường như đủ thú vị để không cần cố gắng che dấu điều đó. Ngay lập tức tôi băn khoăn liệu đó có phải chiến lược của cậu ấy cho Trò chơi. Tỏ ra yếu đuối và sợ hãi, để trấn an các cống phẩm khác rằng cậu ấy không có khả năng chiến đấu, và cuối cùng hóa ra lại là kẻ mạnh. Điều này vài năm trước đây đã được áp dụng rất tốt cho một cô gái, Johanna Mason, đến từ Đặc khu 7. Cô ấy tỏ ra là một con ngốc yếu đuối, nhát gan, nên không ai lo lắng về cô ấy, cho đến khi một loạt các đấu thủ bị loại. Cô ấy hóa ra lại có thể giết chóc rất hiệu quả. Vô cùng thông minh, đó là cách cô ấy đã chơi trong Trò chơi sinh tử. Nhưng điều này dường như không phải là một chiến lược phù hợp cho Peeta Mellark bởi cậu ấy là con trai của một ông chủ tiệm bánh. Với tất cả những năm tháng được ăn uống đầy đủ, thường phải xoay tròn các khay bánh mì đã khiến cho cậu ấy có một đôi vai rộng lớn và chắc khỏe. Sẽ phải mất một lượng cực lớn nước mắt để thuyết phục mọi người bỏ qua cậu ấy.

Chúng tôi phải đứng vài phút ở cửa tàu trong khi các camera thi nhau chụp hình chúng tôi, sau đó chúng tôi được phép vào trong và các cánh cửa từ từ đóng lại. Con tàu ngay lập tức bắt đầu chuyển bánh.

Ban đầu tốc độ của nó làm tôi như ngừng thở. Tất nhiên, tôi chưa bao giờ đi tàu, vì việc đi lại giữa các đặc khu bị cấm, chỉ trừ những nhiệm vụ được chính quyền cho phép. Đối với chúng tôi, thì chủ yếu là vận chuyển than. Nhưng đây không phải là tàu chở than, nó là một trong những loại tàu nhanh nhất của Capitol với tốc độ trung bình 250 dặm/giờ. Chuyến đi của chúng tôi đến Capitol mất chưa đến một ngày.

Ở trường, chúng tôi được dạy rằng Capitol được xây dựng ở một nơi từng được gọi là Rockies. Đặc khu 12 thì ở một khu vực được biết đến với cái tên Appalachia. Hàng trăm năm trước, họ đã tìm thấy than ở đây. Đó là lý do tại sao những thợ mỏ của chúng tôi phải đào xới xuống thật sâu trong lòng đất.

Bằng cách này hay cách khác thì chủ đề được dạy ở trường cũng lại quay về than đá. Bên cạnh các môn văn và toán cơ bản thì phần lớn kiến thức chúng tôi được học đều liên quan đến than. Chỉ trừ những bài giảng hàng tuần về lịch sử Panem. Nó hầu như toàn ba hoa về việc chúng tôi mắc nợ Capitol thế nào. Tôi biết chắc phải còn gì đó khác ngoài những gì họ dạy chúng tôi, những thông tin xác thực về những gì đã xảy ra trong cuộc nổi loạn. Nhưng tôi không bỏ nhiều thời gian nghĩ về nó. Dù sự thật là gì thì tôi cũng không thấy nó giúp gì được tôi trong việc kiếm được thức ăn đặt trên bàn.

Tàu chở cống phẩm thậm chí còn sang trọng hơn căn phòng trong Trụ sở tòa án. Chúng tôi mỗi người được phân một phòng ngủ riêng, trong đó có một giường ngủ, một tủ quần áo, và một phòng tắm riêng với bình nước nóng lạnh. Chúng tôi không có nước nóng ở nhà, trừ khi chúng tôi tự đun.

Các ngăn tủ chất đầy quần áo chất lượng tốt, và Effie Trinket bảo tôi có thể làm bất cứ thứ gì tôi muốn, mặc bất cứ thứ gì tôi thích, mọi thứ đều thuộc quyền sử dụng của tôi. Chỉ cần sẵn sàng ra ăn tối sau một tiếng nữa. Tôi cởi chiếc váy xanh của mẹ tôi ra, và đứng dưới vòi nước nóng. Tôi chưa bao giờ tắm bằng vòi hoa sen trước đây. Nó giống như đứng dưới cơn mưa mùa hè, chỉ là ấm hơn. Tôi mặc quần và một chiếc áo sơ mi xanh lục sậm.

Vào phút cuối cùng, tôi sực nhớ ra chiếc huy hiệu nhỏ bằng vàng của Madge. Lần đầu tiên tôi thực sự ngắm nhìn nó. Như thể có ai đó đã tạo ra con chim nhỏ bằng vàng rồi lồng nó vào một chiếc nhẫn. Con chim chỉ được gắn vào chiếc nhẫn ở các đầu cánh của nó. Đột nhiên tôi nhận ra nó. Một con chim mockingjay.

Chúng là loài chim rất thú vị và là một sự xỉ nhục đối với Capitol. Trong suốt cuộc nổi dậy, Capitol đã tạo ra một loạt các loại động vật biến đổi gen để làm vũ khí. Tên gọi chung cho chúng là muttations, và đôi khi viết tắt là mutts. Một trong số chúng là một loài chim đặc biệt tên là jabberjay, có khả năng ghi nhớ và nhắc lại các đoạn đối thoại của con người. Chúng là loài chim truyền tin, chỉ có con đực, được thả vào những vùng mà Capitol biết kẻ thù của mình lẩn trốn tại đó. Sau khi các con chim nghe được các cuộc nói chuyện, chúng bay trở lại trung tâm để được ghi âm lại. Phải mất một thời gian dài mọi người mới biết những gì diễn ra trong đặc khu, các cuộc nói chuyện riêng tư đã bị truyền đi như thế nào. Sau đó, tất nhiên, những người nổi dậy đã gửi cho Capitol toàn những lời nói dối, và chuyện đó thật lố bịch. Do đó các trung tâm bị đóng cửa và các con chim bị thả ra để tự chết trong tự nhiên.

Chỉ có điều chúng không chết. Thay vào đó, những con jabberjay này lại kết đôi với những con chim nhại mockingbird giống cái và tạo ra một loài hoàn toàn mới mà có thể bắt chước cả tiếng hót của chim chóc và các giai điệu của con người. Chúng đã mất khả năng phát âm ra từ ngữ nhưng vẫn có thể nhại lại một số âm thanh của con người, từ âm điệu cao vút của một đứa trẻ cho đến giọng trầm lắng của một người đàn ông. Và chúng cũng có thể tái hiện lại các bài hát. Không chỉ vài nốt nhạc, mà cả những bài hát giai điệu phức tạp, nếu bạn có đủ kiên nhẫn để hát cho chúng nghe và nếu chúng thích giọng của bạn.

Cha tôi đã rất thích các con chim mockingjay. Khi chúng tôi đi săn, ông thường huýt sáo và hát những bài hát phức tạp cho chúng nghe, và sau khi dừng lại để mời gọi, chúng luôn luôn hót đáp lại. Không phải ai cũng được đối xử tôn trọng như vậy. Nhưng bất cứ khi nào cha tôi cất tiếng hát, tất cả chim chóc trong khu vực đó đều im lặng lắng nghe. Giọng của ông rất hay, cao vút và trong trẻo, đầy sức sống, nó khiến bạn muốn khóc và cười cùng một lúc. Tôi không bao giờ có thể bắt bản thân tiếp tục hát kể từ khi ông mất. Tuy nhiên, vẫn có một chút an ủi về loài chim nhỏ này. Nó giống như một phần của cha tôi, bảo vệ tôi. Tôi cài chiếc huy hiệu vào áo sơ mi của mình, và với nền vải màu xanh lục sậm, tôi gần như có thể tưởng tượng ra hình ảnh con chim mockingjay bay lượn giữa rừng cây.

Effie Trinket đến để đưa tôi ra ăn tối. Tôi theo cô ta đi qua một hành lang hẹp lát đá để tới phòng ăn với những bức tường đóng ván bóng loáng. Có một chiếc bàn đang bày những chiếc đĩa cực kỳ dễ vỡ. Peeta Mellark đang ngồi đợi chúng tôi, chiếc ghế bên cạnh cậu ấy đang trống.

“Haymitch đâu?” Effie Trinket vui vẻ hỏi.

“Lần cuối mà tôi nhìn thấy ông ấy thì ông ấy đang chợp mắt,” Peeta trả lời.

“Ồ, thật là một ngày mệt mỏi,” Effie Trinket lại nói. Tôi nghĩ cô ta cảm thấy nhẹ nhõm trước sự vắng mặt của Haymitch, và ai có thể lên án cô ta chứ?

Bữa tối được tiến hành. Một bát súp cà rốt đặc sệt, salad rau xanh, mấy miếng thịt cừu và khoai tây hầm, pho mát và trái cây, một chiếc bánh sô cô la. Trong suốt bữa ăn, Effie Trinket liên tục nhắc nhở chúng tôi để dành bụng vì sẽ có nhiều món khác nữa. Tôi cố nhồi thêm thức ăn vào bụng bởi tôi chưa bao giờ được ăn như thế này, rất ngon và rất nhiều, và vì có lẽ điều tốt nhất tôi có thể làm từ bây giờ cho đến khi Trò chơi bắt đầu là tăng thêm vài cân nữa.

“Ít nhất hai người vẫn còn cư xử văn minh,” Effie nói khi chúng tôi ăn xong các món chính. “Hai người năm ngoái ăn mọi thứ ở trong tay họ giống như một cặp hoang dã. Điều đó làm tôi phát buồn nôn.”

Cặp đôi năm ngoái là hai đứa trẻ đến từ Seam, những người mà chưa bao giờ, chưa một ngày trong đời họ có đủ thức ăn. Và khi họ thực sự có được thức ăn thì lịch sự trên bàn ăn chắc chắn là điều cuối cùng họ có thể nghĩ đến. Peeta là con của một ông chủ tiệm bánh. Mẹ tôi thì đã dạy dỗ Prim và tôi rất cẩn thận, nên đúng, chúng tôi có thể sử dụng dao và nĩa. Nhưng tôi vô cùng ghét những lời chê bai của Effie Trinket nên tôi cố tình hoàn tất phần còn lại của bữa ăn bằng tay. Sau đó tôi lau tay vào khăn trải bàn. Việc này khiến cô ta phải mím chặt môi lại.

Bây giờ khi bữa ăn đã kết thúc, tôi phải chiến đấu để nén thức ăn trong dạ dày. Tôi có thể thấy Peeta cũng hơi xanh xao. Dạ dày của cả hai chúng tôi đều không quen với quá nhiều thức ăn bổ dưỡng như thế này. Nhưng nếu như tôi có thể tiêu hóa được món ăn hỗn tạp của Greasy Sae gồm thịt chuột, lòng lợn và vỏ cây – món đặc biệt vào mùa đông – thì tôi quyết định phải vượt qua được điều này.

Chúng tôi chuyển sang một toa khác để xem tường thuật tóm tắt về sự kiện chọn cống phẩm trên toàn Panem. Họ cố gắng sắp xếp chúng xen kẽ nhau trong ngày để một người có thể xem mọi sự kiện trực tiếp trên truyền hình, nhưng chỉ những người ở Capitol mới thực sự làm được như vậy, vì không ai trong số họ phải tự tham gia chọn cống phẩm.

Từng đặc khu một, chúng tôi lần lượt xem các cuộc chọn cống phẩm khác, những cái tên được xướng lên (có những người bước lên trước tình nguyện, hoặc thường xuyên hơn, là không có ai). Chúng tôi xem xét những khuôn mặt của những đứa trẻ sẽ trở thành đối thủ của mình. Một vài người để lại ấn tượng cho tôi. Một cậu trai khổng lồ, người lao lên phía trước để tình nguyện làm cống phẩm ở Đặc khu 2. Một cô gái có khuôn mặt tinh ranh với mái tóc đỏ bóng mượt từ Đặc khu 5. Một cậu bé bị què một chân ở Đặc khu 10. Và ấn tượng sâu sắc nhất là cô bé mười hai tuổi đến từ Đặc khu 11. Cô bé có đôi mắt và làn da nâu đen, nhưng ngoài điều đó ra, cô bé rất giống Prim về vóc dáng và vẻ mặt. Chỉ là khi cô bé từng bước tiến lên khán đài và họ kêu gọi những người tình nguyện, thì tất cả những gì bạn có thể nghe được là tiếng gió rít qua các tòa nhà đổ nát xung quanh cô bé. Không có ai sẵn sàng thay thế vị trí của cô bé.

Cuối cùng, họ chiếu đến Đặc khu 12. Prim bị gọi tên, tôi chạy lên xin tình nguyện. Bạn không thể bỏ qua sự tuyệt vọng trong giọng tôi khi tôi đẩy Prim ra phía sau mình, như thể tôi sợ rằng sẽ không ai nghe thấy và sẽ đưa Prim đi mất. Nhưng tất nhiên, họ nghe thấy. Tôi thấy Gale lôi con bé ra khỏi tôi và nhìn thấy chính mình đang bước lên sân khấu. Những người bình luận không chắc phải nói gì về việc từ chối vỗ tay của dân chúng. Lời chào từ biệt trong im lặng. Một người nói rằng Đặc khu 12 luôn luôn lạc hậu một chút nhưng các tập quán địa phương lại khiến người ta say mê. Và như là để minh họa, Haymitch rơi khỏi sân khấu, và họ rên rỉ một cách tức cười. Tên của Peeta được rút ra, và cậu ấy im lặng đứng vào vị trí. Chúng tôi bắt tay nhau. Họ cắt cảnh một lần nữa cho đến cảnh bài hát ca ngợi và chương trình kết thúc.

Effie Trinket bực tức vì tình trạng mái tóc giả của cô ta cũng bị chiếu lên. “Cố vấn của hai người phải học thêm rất nhiều về cách xuất hiện. Rất nhiều về hành vi khi lên truyền hình.”

Peeta bất chợt cười lớn. “Ông ấy say mà,” cậu ấy nói. “Ông ấy say hàng năm.”

“Hàng ngày,” tôi thêm vào. Tôi không thể ngăn được mình hơi nhếch mép lên. Effie Trinket làm như thể Haymitch chỉ có thái độ thô lỗ một chút và có thể được sửa chữa với vài lời khuyên từ cô ta.

“Đúng,” cô ta rít lên. “Thật kỳ cục là hai người có thể thấy điều đó buồn cười. Hai người phải biết rằng cố vấn của mình là số mệnh của mình trong Trò chơi này. Người mà sẽ khuyên bảo các bạn, tìm kiếm những nguồn cứu trợ, quyết định sự xuất hiện của các món quà. Haymitch có thể đưa ra sự khác biệt giữa cuộc sống của các bạn và cái chết của các bạn!”

Đúng lúc đó, Haymitch loạng choạng đi vào toa tàu của chúng tôi. “Tôi đã để lỡ bữa tối rồi à?” ông ấy nói với giọng lè nhè. Tiếp đó ông ấy nôn lên cả tấm thảm đắt tiền và ngã thành một đống lộn xộn.

“Đấy, cười đi!” Effie Trinket rít lên. Cô ta nhảy trên mũi giày qua chỗ nôn mửa và bỏ chạy về phòng.

CHƯƠNG 4

Trong một vài phút, tôi và Peeta ghi nhận hình ảnh người cố vấn của chúng tôi cố gắng đứng dậy khỏi đống nôn mửa nhầy nhụa kinh tởm của mình. Mùi chua loét của chỗ ói mửa trộn lẫn với mùi rượu nồng nặc làm tôi cũng suýt nôn ra cả bữa tối của mình. Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau. Rõ ràng Haymitch không phải là lựa chọn tốt nhưng Effie Trinket nói đúng về một thứ, đó là một khi chúng tôi đã vào đấu trường thì ông ta là tất cả những gì chúng tôi có được. Như thể có thỏa thuận ngầm, Peeta và tôi mỗi người đỡ lấy một cánh tay và giúp ông ta đứng lên.

“Tôi trượt ngã ư?” Haymitch hỏi. “Mùi kinh quá.” Ông ta quệt tay lên mũi làm dính chất nôn lên mặt mình.

“Để chúng tôi đưa ông về phòng,” Peeta nói. “Lau rửa cho ông một chút.”

Chúng tôi nửa dìu nửa lôi Haymitch về toa của ông ấy. Vì chúng tôi không thể đặt ông ấy xuống tấm ga trải giường bằng vải thêu, chúng tôi lôi thẳng ông ấy vào trong bồn tắm và bật vòi hoa sen cho ông ấy. Ông ấy còn không nhận biết được gì.

“Ổn rồi,”Peeta nói với tôi. “Từ giờ mình sẽ lo phần còn lại.”

Tôi không thể không cảm thấy một chút biết ơn bởi điều cuối cùng tôi muốn làm là phải lột trần Haymitch và rửa sạch chất nôn mửa trên lông ngực ông ấy, và đưa ông ấy vào giường. Có thể Peeta đang cố gắng gây ấn tượng tốt cho ông ấy, để được ông ấy yêu thích khi Trò chơi bắt đầu. Nhưng xét theo tình trạng của ông ấy bây giờ, Haymitch sẽ không nhớ gì về điều này vào sáng hôm sau.

“Được thôi,” tôi nói. “Mình có thể nhờ một trong số những người Capitol đến giúp cậu.” Có một số người Capitol trên tàu. Nấu ăn cho chúng tôi. Chờ đợi chúng tôi. Canh gác chúng tôi. Chăm sóc chúng tôi là nhiệm vụ của họ.

“Không. Mình không cần họ,” Peeta trả lời.

Tôi gật đầu và đi về phòng mình. Tôi hiểu Peeta cảm thấy thế nào. Chính tôi cũng không thể chịu được việc nhìn thấy những người Capitol. Nhưng bắt họ phải xử lý Haymitch có thể là một cách trả thủ nho nhỏ. Nên tôi đang nghĩ xem lý do Peeta khăng khăng tự mình chăm sóc cho Haymitch là gì và đột nhiên tôi nghĩ, Đó là vì cậu ấy tốt bụng. Giống như khi cậu ấy đã rất tốt bụng cho tôi chỗ bánh mì.

Ý nghĩ đó làm tôi giật mình. Một Peeta Mellark tốt bụng đối với tôi sẽ nguy hiểm hơn rất nhiều so với một người không tốt bụng. Những người tử tế luôn có thể tác động lên tôi và ghi lại dấu ấn trong lòng tôi. Và tôi không thể để Peeta làm vậy. Không phải ở nơi mà chúng tôi sắp đến. Nên tôi quyết định, bắt đầu từ bây giờ, sẽ hạn chế hết sức tiếp xúc với con trai ông chủ tiêm bánh.

Khi tôi trở về phòng, con tàu đang dừng lại ở một nhà ga để tiếp nhiên liệu. Tôi nhanh chóng mở cửa sổ, ném gói bánh quy mà cha Peeta cho tôi ra khỏi tàu rồi đóng sập cửa kính vào. Không thêm gì hết. Không thêm bất cứ thứ gì từ họ.

Không may, gói bánh đập xuống đất và bị bung ra ở giữa khóm hoa bồ công anh ven đường ray. Tôi chỉ nhìn hình ảnh đó một vài giây, bởi con tàu lại chuyển bánh, nhưng thế cũng quá đủ. Đủ để nhắc nhở tôi về một cây hoa bồ công anh khác ở trường nhiều năm trước…

Tôi chỉ vừa quay đi khỏi khuôn mặt thâm tím của Peeta Mellark khi tôi nhìn thấy cây bồ công anh và tôi biết rằng vẫn chưa hết hy vọng. Tôi cẩn thận nhổ nó lên và nhanh chóng về nhà. Tôi đã chộp lấy một cái xô, cầm tay Prim và tiến đến khu Meadow, và đúng vậy, nó nằm rải rác lẫn trong đám cỏ úa vàng. Sau khi thu hoạch chúng, chúng tôi rà soát dọc theo phía trong hàng rào gần một dặm cho đến khi chúng tôi lấy đầy được cái xô với lá, cọng và hoa bồ công anh. Tối đó, chúng tôi đã nhét đầy bụng mình bằng món salad bồ công anh và phần còn lại của chỗ bánh mì.

“Còn gì nữa?” Prim hỏi tôi. “Còn loại thức ăn nào chúng ta có thể kiếm được nữa?”

“Tất cả các loại,” tôi đã hứa với con bé. “Chị chỉ cần phải nhớ ra chúng.”

Mẹ tôi có một quyển sách mà bà mang theo từ cửa hiệu điều chế thuốc. Các trang sách được làm từ da thuộc đã cũ và bên trong có các hình vẽ các loại cây cỏ bằng mực. Các dòng chữ viết tay rõ nét ghi tên chúng, nơi có thể tìm thấy chúng, khi nào chúng nở hoa, các công dụng chữa bệnh của chúng. Nhưng cha tôi đã thêm vào quyển sách các bài viết. Những loại cây có thể ăn được, chứ không dùng để chữa bệnh. Bồ công anh, cây thương lục, một số loai hành dại, một số loại thông. Tôi và Prim đã thức suốt đêm nghiên cứu những trang sách đó.

Ngày hôm sau, chúng tôi nghỉ học. Một thời gian dài tôi lượn xung quanh rìa khu Meadow, nhưng cuối cùng tôi dần có can đảm chui qua hàng rào. Đó là lần đầu tiên tôi ở đó một mình, không có vũ khí của cha bảo vệ mình. Nhưng tôi đã tìm lại được chiếc cung nhỏ và các mũi tên cha làm cho tôi ở một hốc cây. Tôi có lẽ đã không đi quá hai mươi thước trong rừng ngày hôm đó. Phần lớn thời gian tôi ngồi trên cành của một cây sồi già, hi vọng các con thú sẽ đi ngang qua. Sau vài giờ đồng hồ, tôi may mắn giết được một con thỏ.

Tôi đã bắn vài con thỏ trước đây, dưới sự hướng dẫn của cha tôi. Hình ảnh con thỏ dường như khuấy động chút gì đó trong mẹ tôi. Bà tự thức tỉnh, lột da con thỏ, và nấu một nồi hầm với thịt thỏ và một ít rau xanh Prim kiếm được. Sau đó bà trở nên luống cuống và trở về giường, nhưng khi nồi hầm chín, chúng tôi đã ép bà ăn được một bát.

Khu rừng trở thành vị cứu tinh của chúng tôi, và mỗi ngày tôi lại tiến sâu hơn vào vòng tay của nó. Lúc đầu nó không hiệu quả lắm, nhưng tôi đã quyết định sẽ kiếm ăn bằng cách đó. Tôi đánh cắp trứng từ các tổ chim, giăng lưới bắt cá, thỉnh thoảng có thể bắn được một con sóc hoặc thỏ cho món hầm và kiếm được nhiều loại cây cỏ xuất hiện dưới chân mình. Nhiều loại có thể ăn được, nhưng chỉ ăn nhầm một lần, bạn có thể chết. Tôi kiểm tra đi kiểm tra lại những cây cỏ mình thu thập được với những hình vẽ của cha tôi. Tôi đã giữ được gia đình mình sống sót.

Ban đầu, bất cứ dấu hiệu nào của nguy hiểm, tiếng tru từ phía xa, tiếng cành cây găy không giải thích được, đều ngay lập tức khiến tôi bay ngay trở lại hàng rào. Sau đó, tôi bắt đầu mạo hiểm trèo lên cây để tránh lũ chó hoang mà sẽ nhanh chóng chán nản bỏ đi. Gấu và mèo thì sống ở sâu trong rừng hơn, có lẽ do không thích không khí đầy khói than ở đặc khu chúng tôi.

Vào ngày mồng 8 tháng Năm, tôi đến Trụ sở tòa án, đăng ký thẻ tiêu dùng của mình, và đẩy về nhà một khẩu phần ngũ cốc và dầu đầu tiên của tôi trên chiếc xe nôi của Prim. Cứ vào ngày mồng 8 hàng tháng tôi lại được quyền làm như vậy. Tất nhiên, tôi vẫn không dừng việc săn bắn và hái lượm. Ngũ cốc không đủ để sống, và còn nhiều thứ khác cần phải mua như xà phòng, sữa và kim chỉ. Những gì chúng tôi không ăn được, tôi bắt đầu đem đi trao đổi ở Hob. Thật đáng sợ khi vào đó mà không có cha tôi bên cạnh, nhưng những người ở đây kính trọng cha tôi, nên họ chấp nhận tôi. Sau cùng thì thú săn vẫn là thú săn thôi, không cần biết ai bắn chúng. Tôi cũng bán ở cửa sau nhà của những khách hàng giàu có trong thị trấn, cố gắng nhớ lại những gì cha tôi đã dạy và cũng học thêm vài mẹo mới. Các ông chủ hàng thịt sẽ mua thịt thỏ nhưng không mua sóc. Chủ tiệm bánh sẽ mua sóc nhưng chỉ nên bán một con khi bà vợ không có ở đó. Người đứng đầu những Người trị an thì rất thích những con gà rừng. Ngài thị trưởng thì say mê dâu tây.

Vào cuối mùa hè, khi tôi đang rửa tay chân ở một cái ao thì tôi nhận ra những cây mọc xung quanh mình. Cao, với những chiếc lá như đầu mũi tên. Đang ra hoa với ba cánh hoa màu trắng. Tôi quỳ dưới nước, các ngón tay vùi sâu vào lớp bùn nhũn, kéo lên một ít rễ cây. Những củ nhỏ màu xanh nhạt nhìn không giống củ lắm nhưng luộc hoặc nướng lên sẽ ngon như bất cứ củ khoai tây nào. “Katniss,” tôi nói to lên. Đó là loài cây mà tôi được đặt tên. Và tôi đã từng nghe cha tôi nói đùa, “Chừng nào con có thể tìm được chính mình thì con sẽ không bao giờ chết đói.” Tôi mất hàng giờ sục sạo ở đáy ao với các ngón tay và một cây gậy, và thu thập những củ bị nổi lên mặt nước. Tối đó, chúng tôi đã có một bữa tiệc với cá và củ katniss cho đến khi tất cả chúng tôi lần đầu tiên trong nhiều tháng, no căng bụng.

Dần dần, mẹ tôi cũng trở về với chúng tôi. Bà bắt đầu lau dọn, nấu nướng và bảo quản một số thực phẩm tôi mang về cho mùa đông. Mọi người trao đổi hoặc trả tiền cho những loại thuốc mẹ tôi chế ra. Rồi một ngày, tôi nghe thấy bà hát.

Prim đã rất xúc động khi thấy bà đã trở lại, nhưng tôi vẫn luôn quan sát, chờ bà lại biến mất khỏi chúng tôi một lần nữa. Tôi không tin bà. Và một nơi nào đó xấu xa trong tôi ghét mẹ vì sự yếu đuối của bà, vì sự bỏ mặc của bà, vì tình cảnh nhiều tháng bà đã đẩy chúng tôi vào. Prim đã tha thứ cho bà, nhưng tôi đã trở nên xa cách mẹ tôi, xây một bức tường bảo vệ tôi để không cần đến bà và giữa chúng tôi không bao giờ có thể như trước.

Giờ thì tôi sắp chết mà không bao giờ có thể sửa lại những điều đó. Tôi nghĩ về việc hôm nay tôi đã hét lên với bà như thế nào lúc ở Trụ sở tòa án. Mặc dù tôi cũng nói rằng tôi yêu bà. Nhưng có lẽ nó vẫn chưa đủ bù lại.

Tôi đứng nhìn chằm chằm qua cửa sổ con tàu một lúc lâu, ước rằng tôi có thể mở nó ra một lần nữa, nhưng không chắc điều gì sẽ xảy ra khi tàu đang chạy tốc độ cao thế này. Ở đằng xa, tôi thấy ánh đèn của một đặc khu khác. 7? Hay 10? Tôi không biết. Tôi nghĩ về những người đang ở trong những căn nhà kia, đang ngủ trên giường của họ. Tôi tưởng tượng ra ngôi nhà của mình, với những cánh cửa chớp đóng chặt. Mẹ tôi và Prim đang làm gì lúc này? Liệu họ có thể ngồi ăn bữa tối không? Món cá hầm và dâu tây? Hay chúng vẫn nằm im trên đĩa không ai động đến? Hay họ đang xem bản tin tóm tắt các sự kiện trong ngày hôm nay trên chiếc ti vi cũ rích được đặt trên bàn dựa lưng vào tường? Chắc chắn, sẽ có nhiều nước mắt hơn. Liệu mẹ tôi có vững vàng, mạnh mẽ vì Prim không? Hay bà lại bắt đầu buông tay, đặt gánh nặng của cả thế giới lên đôi vai mỏng manh của em tôi?

Không nghi ngờ gì là Prim sẽ ngủ cùng mẹ tôi tối nay. Nghĩ đến con mèo già nhếch nhác Buttercup đang ngồi trên giường trông coi Prim khiến tôi thấy được an ủi phần nào. Nếu con bé khóc, nó sẽ dụi mũi vào cánh tay con bé, nằm cuộn tròn trong đó cho đến khi con bé nguôi ngoai và chìm vào giấc ngủ. Tôi thật sự mừng vì mình đã không dìm chết nó.

Tưởng tượng về nhà mình khiến tôi đau khổ vì cô đơn. Ngày hôm nay như dài vô tận. Liệu có phải Gale và tôi chỉ vừa mới cùng ăn dâu rừng sáng nay? Nó dường như cách đây cả cuộc đời vậy. Giống như một giấc mơ dài bị chuyển sang một cơn ác mộng. Có lẽ, nếu tôi đi ngủ, khi tỉnh dậy tôi sẽ thấy mình đang ở Đặc khu 12, nơi mà tôi thuộc về.

Có lẽ trong ngăn tủ có một số bộ đồ ngủ, nhưng tôi chỉ cởi áo sơ mi và quần rồi trèo lên giường, chỉ mặc mỗi đồ lót. Ga trải giường được làm từ loại vải lụa mềm mượt. Chiếc chăn lông dày ngay lập tức đem lại hơi ấm.

Nếu tôi định khóc thì bây giờ là lúc thích hợp. Đến sáng, tôi có thể xóa đi mọi dấu vết của nước mắt trên mặt mình. Nhưng không có giọt nước mắt nào. Tôi quá mệt mỏi và tê liệt để có thể khóc. Điều duy nhất mà tôi cảm nhận được là khao khát được ở một nơi nào khác. Vì vậy tôi để cho con tàu đu đưa đem tôi vào sự quên lãng.

Ánh sáng lờ mờ lọt qua rèm cửa khi tiếng gõ cửa nhẹ đánh thức tôi. Tôi nghe thấy giọng Effie Trinket đang gọi tôi dậy. “Dậy, dậy, dậy! Hôm nay sẽ là một ngày rất, rất, rất trọng đại!” Tôi cố gắng tưởng tượng xem cái gì đang diễn ra trong đầu của người phụ nữ này. Những suy nghĩ gì trong đầu cô ta lúc thức? Giấc mơ gì sẽ đến với cô ta lúc ngủ? Tôi không thể nghĩ ra được.

Tôi mặc lại bộ quần áo xanh lục vì nó chưa thực sự bị bẩn, chỉ hơi nhàu một chút do nằm trên sàn cả đêm. Ngón tay tôi trượt nhẹ theo vòng tròn bao quanh con chim mockingjay vàng và tôi nghĩ về khu rừng, về cha tôi, về mẹ và Prim cũng đang tỉnh dậy, phải tiếp tục sống tiếp.

Tôi đã đi ngủ với mái tóc tết công phu mà mẹ đã làm cho tôi trong ngày chọn cống phẩm và nó không bị rối lên, nên tôi cứ để như vậy. Không quan trọng. Lúc này chúng tôi không còn ở xa Capitol mấy. Và dù sao, một khi chúng tôi đã vào thành phố, người thiết kế của tôi sẽ chịu trách nhiệm về vẻ ngoài của tôi cho buổi lễ mở màn tối nay. Tôi chỉ hi vọng người thiết kế của mình không phải một người nghĩ rằng khỏa thân là từ cuối cùng trong thời trang.

Khi tôi bước vào toa ăn của tàu, Effie Trinket lướt qua tôi với một tách cà phê. Cô ta đang lẩm bẩm thở ra những lời lẽ tục tĩu. Haymitch với gương mặt sưng húp và đỏ au do lối sống buông thả những ngày qua, đang lặng lẽ cười. Peeta đang cầm một chiếc bánh cuộn và trông có vẻ hơi bối rối.

“Ngồi xuống! Ngồi xuống đi!” Haymitch gọi, vẫy tay về phía tôi. Ngay khi tôi ngồi vào ghế của mình, tôi được phục vụ một đĩa thức ăn lớn. Trứng, thịt giăm bông, một chồng khoai tây chiên. Một đĩa hoa quả được đặt trên đá để giữ lạnh. Rổ bánh cuộn mà họ đặt trước mặt tôi có thể để cho gia đình tôi ăn trong một tuần. Còn có một ly nước cam kiểu dáng rất tao nhã. Ít nhất thì tôi cũng nghĩ đó là nước cam. Tôi chỉ được nếm một quả cam đúng một lần trong đời, vào dịp năm mới khi cha tôi mua về như một món quà đặc biệt. Một tách cà phê. Mẹ tôi rất thích cà phê, thứ mà chúng tôi không bao giờ có đủ tiền mua, nhưng với tôi nó chỉ có vị đắng và nhạt nhẽo. Một cốc lớn đựng thứ gì đó màu nâu mà tôi chưa nhìn thấy bao giờ.

“Họ gọi nó là sô cô la nóng,” Peeta lên tiếng. “Nó rất ngon.”

Tôi nhấp một ngụm thứ chất lỏng nóng hổi, ngọt lịm như kem đó và bị rùng mình. Mặc dù phần còn lại của bữa ăn vẫn đang mời gọi, tôi vẫn lờ nó đi cho đến khi tôi uống hết cốc sô cô la của mình. Sau đó tôi nuốt xuống tất cả nước miếng đang trào ra trong miệng mình, cẩn thận để không uống quá nhiều thứ thức uống bổ dưỡng này. Một lần, mẹ tôi đã nói với tôi rằng tôi luôn luôn ăn như thể tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy thức ăn nữa vậy. Và tôi nói, “con sẽ không như thế trừ khi con mang chúng về nhà.” Điều đó làm bà không thể nói gì được nữa.

Khi dạ dày tôi cảm thấy như nó sắp sửa vỡ ra, tôi ngồi ngả ra sau và quan sát những người bạn đồng hành của mình trong bữa sáng. Peeta vẫn đang ăn, bẻ từng miếng bánh cuộn và nhúng chúng vào sô cô la nóng. Haymitch không chú tâm lắm đến đĩa ăn của mình, nhưng ông ấy nốc cạn một cốc nước quả màu đỏ mà được ông ấy tiếp tục pha trộn với một thứ chất lỏng trong suốt từ một cái chai. Xét theo mùi hương thì nó là một loại rượu nào đó. Tôi không biết Haymitch, nhưng tôi vẫn thường nhìn thấy ông ở Hob, ném một đống tiền vào quầy của người phụ nữ bán rượu trắng. Ông ấy sẽ say khướt vào lúc chúng tôi đến Capitol mất.

Tôi nhận ra tôi ghét Haymitch. Không nghi ngờ gì các cống phẩm của Đặc khu 12 không bao giờ có nổi một cơ hội. Đó không chỉ vì chúng tôi thiếu ăn và không được huấn luyện. Một số cống phẩm của chúng tôi vẫn đủ khỏe mạnh để có thể thành công. Nhưng chúng tôi hiếm khi có được các nhà tài trợ và ông ấy đóng góp phần lớn trong nguyên nhân của việc đó. Những người giàu có đỡ lưng cho các cống phẩm – vì họ cá cược cho các cống phẩm đó hay đơn giản là vì quyền được khoe khoang về việc lựa chọn người chiến thắng – mong đợi một người xuất sắc hơn Haymitch để hợp tác.

“Vậy, ông được cho là người sẽ đưa ra lời khuyên cho chúng tôi,” tôi nói với Haymitch.

“Đây là lời khuyên. Hãy sống sót,” Haymitch trả lời rồi cười ầm lên. Tôi trao đổi một cái nhìn với Peeta trước khi tôi nhớ ra là tôi không được liên hệ gì với cậu ấy. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy sự khắc nghiệt trong mắt cậu ấy. Thông thường cậu ấy có vẻ rất dịu dàng.

“Điều đó thật hài hước,” Peeta lên tiếng. Đột nhiên cậu ấy hất chiếc ly ra khỏi tay Haymitch. Nó vỡ vụn trên sàn khiến thứ chất lỏng đỏ như máu chảy về phía đuôi con tàu. “Chỉ là không hài hước đối với chúng tôi.”

Haymitch ngẫm nghĩ về điều đó chốc lát rồi thẳng tay đấm vào quai hàm của Peeta, khiến cậu ấy bay khỏi chiếc ghế. Khi ông ấy quay lại để với lấy chai rượu, tôi cắm phập con dao của tôi vào bàn, ngay giữa tay ông ấy và cái chai, vừa vặn tránh được ngón tay ông ta. Tôi chuẩn bị tinh thần để tránh cú đấm của ông ấy, nhưng nó đã không xảy ra. Thay vào đó ông ta ngồi dựa vào ghế và nheo mắt nhìn chúng tôi.

“Vậy, điều này nghĩa là sao?” Haymitch nói. “Có phải năm nay tôi thực sự có một cặp chiến binh không?”

Peeta bò dậy khỏi sàn và vốc một ít đá bên dưới đĩa hoa quả. Cậu ấy bắt đầu chườm nó lên vết sưng tấy ở quai hàm.

“Không,” Haymitch ngăn lại. “Cứ để vết thâm tím đó lại. Khán giả sẽ nghĩ cậu đã đánh nhau với một cống phẩm khác trước khi cậu thực sự làm điều đó trong đấu trường.”

“Điều đó phạm luật,” Peeta nói.

“Chỉ khi họ bắt được quả tang. Vết thâm tím sẽ nói lên rằng cậu đã đánh nhau, nhưng cậu không bị bắt quả tang, thậm chí còn tốt hơn,” Haymitch trả lời. Ông quay sang tôi. “Cô có thể tấn công bất cứ thứ gì với con dao đó ngoài chiếc bàn này không?”

Cung và tên là vũ khí của tôi. Nhưng tôi cũng dành khá nhiều thời gian tập ném dao. Thỉnh thoảng, nếu tôi đã bắn một con thú bị thương, nó cũng hiệu quả hơn nếu tôi phi dao vào nó trước khi tôi tiếp cận nó. Tôi nhận ra rằng nếu tôi muốn thu hút sự chú ý của Haymitch thì đây chính là lúc tôi tạo ấn tượng. Tôi giật phắt con dao khỏi bàn, kẹp tay vào lưỡi dao, và sau đó phi nó ngang qua căn phòng cắm thẳng vào tường. Tôi thực sự chỉ hi vọng có được cú phi dao khiến cho con dao đâm thẳng vào tường một cách chắc chắn, nhưng nó lại cắm vào khe giữa hai tấm ván tường, khiến cho kết quả thu được ấn tượng hơn rất nhiều so với khả năng của tôi.

“Đứng lui ra đây. Cả hai đứa,” Haymitch nói, hất đầu về phía giữa phòng. Chúng tôi làm theo và ông ấy đi vòng quanh chúng tôi, thỉnh thoảng sờ nắn chúng tôi như những con thú, kiểm tra cơ bắp, soi xét gương mặt. “Chà, hai ngươi không hoàn toàn hết hy vọng. Có vẻ mạnh khỏe. Và khi các chuyên gia thời trang sửa sang cho cả hai, trông các ngươi cũng đủ thu hút.”

Peeta và tôi không băn khoăn về điều này. Trò chơi sinh tử không phải là một cuộc thi sắc đẹp, nhưng những cống phẩm xinh đẹp nhất có vẻ luôn thu hút được nhiều nhà tài trợ hơn.

“Thôi được, ta sẽ thỏa hiệp với các ngươi. Các ngươi không quấy rầy ta uống rượu, và ta sẽ giữ cho mình đủ tỉnh táo để giúp các ngươi,” Haymitch nói. “Nhưng các ngươi phải làm chính xác những gì ta bảo.”

Đó chưa phải là một thỏa thuận tốt lắm nhưng dù sao vẫn là một bước tiến lớn so với mười phút trước đây khi chúng tôi không có sự chỉ dẫn nào.

“Tốt thôi,” Peeta trả lời.

“Vậy ông sẽ giúp chúng cháu,” tôi nói. “Khi chúng cháu ở trong đấu trường, chiến lược gì là tốt nhất ở trong Cornucopia cho ai đó…”

“Lần lượt từng việc một. Trong vài phút nữa, chúng ta sẽ đến ga. Các cháu sẽ được giao cho các chuyên gia thời trang. Các cháu sẽ không thích những gì họ làm với mình. Nhưng dù nó là gì thì cũng không được phản đối,” Haymitch nói.

“Nhưng…” tôi bắt đầu.

“Không nhưng. Không phản đối,” Haymitch ngắt lời. Ông ấy cầm chai rượu trên bàn và rời khỏi toa tàu. Khi cánh cửa đóng lại sau lưng ông ấy, toa tàu tối lại. Vẫn có một chút ánh sáng bên trong, nhưng bên ngoài nó như thể màn đêm lại buông xuống. Tôi nhận ra là chúng tôi chắc phải đang ở trong một đường hầm xuyên qua những ngọn núi ở Capitol. Những ngọn núi này tạo thành một bức tường thành tự nhiên ngăn cách Capitol với các đặc khu phía đông. Gần như không thể đi vào Capitol từ phía đông mà không đi qua đường hầm này. Lợi thế về mặt địa lý này là một nhân tố quan trọng gây ra thất bại của các đặc khu trong cuộc chiến tranh mà dẫn tới việc trở thành cống phẩm của tôi hiện nay. Vì những người nổi dậy phải leo lên các ngọn núi này, họ trở thành những mục tiêu dễ dàng cho lực lượng không quân của Capitol.

Peeta Mellark và tôi đứng im lặng khi con tàu lao trong đường hầm. Đường hầm sâu mãi, sâu mãi, tôi nghĩ đến hàng tấn đá đang ngăn cách tôi với bầu trời, và ngực tôi thắt lại. Tôi ghét bị nhốt trong hầm đá như thế này. Nó gợi cho tôi nghĩ tới các hầm mỏ và cha tôi, bị mắc kẹt, không thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bị chôn vùi mãi mãi trong bóng tối.

Cuối cùng con tàu cũng bắt đầu chạy chậm lại và đột nhiên ánh sáng tràn ngập toa tàu. Chúng không thể ngăn được. Cả tôi và Peeta đều chạy ra cửa sổ để nhìn ngắm những thứ chúng tôi chỉ được nhìn thấy trên ti vi, Capitol, thành phố đề ra luật lệ cho Panem. Các camera đã không nói dối về sự huy hoàng của nó. Nếu có gì đó dối trá, thì đó là chúng không ghi lại được vẻ nguy nga tráng lệ của những tòa nhà cao vút chọc trời đang tỏa ra ánh sáng lung linh như cầu vồng, những chiếc xe ô tô bóng loáng đang lăn bánh trên những con phố lát đá rộng rãi, những người ăn mặc quái lạ với những kiểu tóc kỳ quặc và khuôn mặt được tô vẽ, những người mà chắc chưa bao giờ bỏ lỡ một bữa ăn. Tất cả các màu sắc dường như đều là nhân tạo, màu hồng quá rực, màu xanh quá sáng, màu vàng nhức mắt, giống như những chiếc đĩa tròn dẹt đựng các viên kẹo mà chúng tôi không thể mua nổi trong những cửa hàng kẹo bé xíu ở Đặc khu 12.

Mọi người bắt đầu hào hứng chỉ trỏ chúng tôi khi họ nhận ra con tàu chở cống phẩm đang lăn bánh vào thành phố. Tôi bước lùi ra khỏi cửa sổ, phát ốm lên vì sự háo hức của họ, biết rằng họ không thể đợi được để xem chúng tôi chết. Nhưng Peeta vẫn giữ nguyên vị trí, thực sự vẫy chào và mỉm cười với đám đông đang trố mắt lên nhìn chúng tôi. Cậu ấy chỉ dừng lại khi khi con tàu đi vào ga, ngăn chúng tôi khỏi tầm nhìn của họ.

Cậu ấy thấy tôi đang chằm chằm nhìn cậu ấy và nhún vai. “Ai biết được?” cậu ấy nói. “Một trong số họ có thể là người giàu có.”

Tôi đã đánh giá sai cậu ấy. Tôi nghĩ về những hành động của cậu ấy kể từ khi cuộc chọn cống phẩm bắt đầu. Cái bắt tay thân thiện. Cha cậu ấy xuất hiện với túi bánh quy và hứa sẽ để ý đến Prim… liệu có phải Peeta đã bắt ông ấy làm thế? Nước mắt của cậu ấy lúc ở nhà ga. Tình nguyện tắm rửa cho Haymitch nhưng lại thách thức ông ấy sáng nay khi có vẻ như biện pháp tiếp cận bằng cách tỏ ra là một chàng trai tốt bụng đã thất bại. Và bây giờ thì vẫy chào ở cửa sổ tàu, cố gắng để chiếm được cảm tình của đám đông.

Tất cả các chi tiết đó vẫn ăn khớp với nhau, nhưng tôi linh cảm cậu ấy đã hình thành một kế hoạch. Cậu ấy không chấp nhận cái chết. Cậu ấy đang chiến đấu hết sức mình để sống sót. Điều đó cũng có nghĩa là Peeta Mellark tốt bụng, cậu bé đã cho tôi bánh mì, đang cố gắng hết sức để giết tôi.

CHƯƠNG 5

Rí-í-í-t! Tôi nghiến răng khi Venia, người phụ nữ với mái tóc màu xanh sáng và những hình xăm vàng phía trên lông mày, giật tấm dán tẩy lông ra khỏi chân tôi kéo theo lớp lông bên dưới nó. “Xin lỗi!” chị ta nói lanh lảnh với cái giọng Capitol ngu ngốc của mình. “Chỉ tại em nhiều lông quá!”

Tại sao những người ở đây lại nói với âm điệu cao như vậy nhỉ? Tại sao hàm của họ chỉ hơi mở ra một chút khi nói chuyện? Tại sao cuối mỗi câu họ đều nhấn giọng cao lên như thể họ đang đặt câu hỏi? Nguyên âm rời rạc, từ ngữ cụt lủn, và luôn luôn có tiếng xuỵt ở chữ cái s… không có gì lạ là không thể bắt chước được giọng của họ.

Venie thể hiện một nét mặt có thể coi là nét mặt cảm thông. “Tuy nhiên, tin tốt đây. Đây là cái cuối cùng. Sẵn sàng chưa?” Tôi nắm chặt vào mép chiếc bàn mà tôi đang ngồi trên đó và gật đầu. Miếng dán lột lông chân cuối cùng được giật ra đột ngột và đau đớn.

Tôi đã ở trong Trung tâm Tái tạo này hơn ba tiếng đồng hồ và tôi vẫn chưa được gặp chuyên gia thời trang của mình. Rõ ràng ông ta không có hứng thú nhìn thấy tôi cho đến khi Venia và những thành viên khác trong đội chuẩn bị của tôi xử lý một số vấn đề dễ nhận thấy nhất. Điều này bao gồm việc cọ sạch người tôi bằng một loại đất sét có sạn không chỉ giúp gột bỏ bụi bẩn mà ít nhất là lột đi ba lớp da, biến móng tay móng chân tôi về tình trạng có kỷ luật, và trước tiên là giũ sạch lông trên người tôi. Cẳng chân, cánh tay, thân mình, nách, và một phần lông mày cũng bị gột đi những chỗ mọc lộn xộn, khiến tôi trông như một con chim bị vặt lông, chuẩn bị đem đi quay. Tôi không thích điều này. Da tôi cảm thấy râm ran, nhức nhối, và bị tổn thương nặng nề. Nhưng tôi vẫn phải giữ thỏa hiệp của mình với Haymitch và không một lời phản đối nào thoát ra từ miệng tôi.

“Em đang làm rất tốt,” một anh chàng có tên là Flavius nói. Anh ta lắc lắc mái tóc xoắn ốc màu da cam của mình và tô thêm một lớp son mới màu tím lên miệng. “Nếu có một thứ gì đó mà chúng tôi không thể chịu đựng được, thì đó là tiếng than vãn. Bôi kem cho cô bé đi!”

Venia và Octavia, hai người phụ nữ to béo mà toàn thân được nhuộm một màu xanh nhợt nhạt của đậu Hà Lan, thoa một loại kem lên người tôi khiến cho làn da đang đau rát của tôi lúc đầu như bị kim châm nhưng sau đó lại thấy dịu mát. Sau đó họ kéo tôi ra khỏi bàn, cởi bỏ chiếc áo choàng mỏng mà tôi được dùng để khoác lên người. Tôi đứng đó, hoàn toàn khỏa thân, trong khi ba người đó đi vòng quanh, nhổ bỏ bất cứ sợi lông nào còn sót lại. Tôi biết tôi đáng lẽ phải thấy ngượng ngùng, nhưng họ quá khác người đến nỗi tôi không hề cảm thấy mất tự nhiên, như thể họ là ba con chim màu sắc kỳ lạ đang mổ thức ăn dưới chân mình vậy.

Lùi lại ba bước và tự thán phục công trình của họ. “Tuyệt vời! Bây giờ trông em gần như đã giống một con người rồi!” Flavius thốt lên và cả ba người họ bật cười.

Tôi cố ép cho hai mép cong lên thành một nụ cười để họ thấy rằng tôi cảm thấy biết ơn thế nào. “Cảm ơn,” tôi ngọt ngào nói. “Chúng em không có nhiều cơ hội để trở nên xinh đẹp ở Đặc khu 12.”

Điều đó đã lấy lòng họ hoàn toàn. “Tất nhiên, em không có, em gái tội nghiệp!” Octavia nói, siết chặt hai tay lại, tỏ ra đau lòng cho tôi.

“Nhưng đừng lo lắng!” Venia nói. “Khi Cinna hoàn tất cho em, em sẽ trở nên vô cùng xinh đẹp!”

“Chúng tôi hứa! Em biết đấy, hiện giờ chúng tôi đã loại bỏ hết lông và những thứ bẩn thỉu, nên em trông không còn kinh khủng chút nào!” Flavius khích lệ. “Nào, đi gọi Cinna thôi!”

Họ lao ra khỏi phòng. Thật khó để có thể ghét đội chuẩn bị của mình. Họ hoàn toàn là những kẻ ngốc. Tuy nhiên, trong một phương diện nào đó thì tôi biết rằng họ chân thành muốn giúp tôi.

Tôi nhìn sàn nhà và những bức tường trắng lạnh lẽo, cố gắng chống lại thôi thúc muốn lấy lại chiếc áo choàng. Nhưng Cinna, chuyên gia thời trang của tôi, chắc chắn sẽ lại bắt tôi cởi nó ra ngay lập tức. Thay vào đó, tay tôi chạm lên mái tóc mình, nơi duy nhất trên cơ thể mà đội chuẩn bị được yêu cầu giữ nguyên. Các ngón tay tôi vuốt ve những lọn tóc tết mượt mà mà mẹ tôi đã cẩn thận xếp đặt. Tôi đã bỏ lại chiếc váy xanh và giày trên sàn tàu, chưa bao giờ nghĩ đến việc lấy lại chúng, đến việc cố gắng giữ lại một phần của bà, của gia đình. Lúc này đây tôi ước mình đã làm thế.

Cánh cửa mở ra và một người đàn ông trẻ, chắc phải là Cinna, bước vào. Tôi đã bị ngạc nhiên trước vẻ ngoài rất bình thường của anh ta. Phần lớn các chuyên gia thời trang mà họ phỏng vấn trên tivi đều nhuộm tóc, tô vẽ và phẫu thuật biến đổi khiến cho họ trông thật lố bịch. Nhưng mái tóc cắt ngắn sát đầu của Cinna trông có vẻ có màu nâu tự nhiên. Anh ta mặc quần và áo sơ mi đen đơn giản. Sự biến đổi duy nhất có lẽ là đường kẻ mắt màu vàng ánh kim được kẻ hết sức khéo léo. Nó làm nổi bật đốm vàng trong đôi mắt xanh lục của anh ta. Và mặc dù ghét cay ghét đắng Capitol và thứ thời trang gớm guốc của họ, tôi vẫn phải thừa nhận trông nó thật cuốn hút.

“Chào Katniss. Tôi là Cinna, chuyên gia thời trang của em,” anh ta nói bằng giọng nhẹ nhàng có phần không giống với chất giọng thiếu tự nhiên của người Capitol.

“Xin chào,” tôi đáp lại một cách thận trọng.

“Cho tôi một vài phút, được chứ?” Anh ta bước quanh cơ thể trần truồng của tôi, không chạm vào nhưng quan sát từng phân nhỏ. Tôi cố gắng gạt bỏ thôi thúc đưa hai cánh tay che chắn trước ngực. “Ai làm tóc cho em vậy?”

“Mẹ em,” tôi trả lời.

“Nó rất đẹp. Rất cổ điển. Và gần như cân đối hoàn hảo với khuôn mặt em. Bà ấy có những ngón tay thật khéo léo,” anh ta nói.

Tôi đã tưởng tượng một kẻ lòe loẹt, một người nhiều tuổi đang cố gắng một cách tuyệt vọng để trông mình trẻ hơn, một kẻ nhìn tôi như nhìn một miếng thịt sẵn sàng cho lên đĩa. Nhưng Cinna không giống với bất cứ tưởng tượng nào.

“Anh là người mới, đúng không? Em không nhớ đã từng nhìn thấy anh trước đây,” tôi nói. Phần lớn các chuyên gia thời trang đều quen thuộc, được giữ nguyên trong khi các cống phẩm thì thường xuyên thay đổi. Một vài người quay đi quay lại trong suốt những năm tôi đã xem.

“Phải, đây là năm đầu tiên của tôi tại Trò chơi sinh tử,” Cinna trả lời.

“Nên họ trao cho anh Đặc khu 12,” tôi nói. Thông thường những người mới sẽ được cử làm chuyên gia thời trang cho chúng tôi, những đặc khu ít được yêu thích nhất.

“Tôi đã yêu cầu được làm cho Đặc khu 12,” anh ta nói và không đưa thêm lời giải thích nào nữa. “Tại sao em không mặc áo choàng vào và chúng ta sẽ nói chuyện một chút?”

Tôi khoác áo vào và theo anh ta đi qua một cánh cửa sang phòng khách. Hai chiếc ghế đi văng đỏ đặt đối diện nhau trước một cái bàn thấp. Ba bức tường trống và bức tường thứ tư thì hoàn toàn bằng kính, có thể nhìn toàn cảnh thành phố. Nhìn ánh sáng thì có thể thấy lúc này khoảng tầm giữa trưa, mặc dù bầu trời đã trở nên u ám. Cinna mời tôi ngồi ở một trong hai chiếc ghế dài, còn mình thì ngồi ở chiếc đối diện. Anh ta nhấn một cái nút bên cạnh bàn. Mặt bàn mở ra và từ phía dưới nâng lên một mặt bàn khác đựng bữa trưa của chúng tôi. Thịt gà và một vài lát cam nấu trong nước sốt kem trải trên một lớp ngũ cốc màu trắng ngọc trai, đậu Hà Lan xanh thái nhỏ với hành, bánh cuộn hình giống như bông hoa, và bánh pudding mật ong để tráng miệng.

Tôi cố gắng hình dung bữa ăn này ở nhà mình. Thịt gà quá đắt, nhưng tôi có thể làm nó với một con gà rừng. Tôi cần bắn con gà rừng thứ hai để đổi lấy một quả cam. Sữa dê có thể thay thế cho kem. Chúng tôi có thể trồng đậu Hà Lan trong vườn. Tôi có thể lấy hành dại ở trong rừng. Tôi không nhận ra loại ngũ cốc này, khẩu phần ngũ cốc từ thẻ tiêu dùng của chúng tôi nấu ra một loại cháo bột màu nâu không ngon mắt chút nào. Những chiếc bánh cuộn tuyệt hảo đồng nghĩa với một cuộc trao đổi khác với chủ tiệm bánh, có thể mất hai hoặc ba con sóc. Còn cho bánh pudding, tôi thậm chí không thể đoán ra có gì trong đó. Nhiều ngay săn bắn và hái lượm chỉ cho một bữa ăn thế này mà thậm chí nó chỉ là một sự thay thế đáng thương cho bữa ăn của Capitol.

Nó phải như thế nào, tôi tự hỏi, để sống trong một thế giới nơi thức ăn xuất hiện chỉ bằng cách ấn vào một chiếc nút? Làm sao tôi phải trải qua nhiều giờ săn lùng thức ăn trong rừng như thế nếu thức ăn có được quá dễ dàng? Những người Capitol này, cả ngày họ làm gì ngoài việc trang trí cho cơ thể mình, chờ đợi những chuyến hàng cống phẩm mới để tham gia vào và chết đi cho họ giải trí?

Tôi nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của Cinna đang nhìn thẳng vào mình. “Đối với em chúng tôi thật đáng khinh bỉ,” Cinna nói.

Anh ta đã nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt tôi hay phần nào có thể đọc được suy nghĩ của tôi ư? Dù sao anh ta cũng đúng. Cả đám đồi bại bọn họ thật đáng khinh.

“Không sao,” Cinna nói. “Vậy, Katniss, về trang phục của em cho lễ khai mạc. Cộng sự của tôi, Portia, là chuyên gia thời trang cho đồng đội của em, Peeta. Và ý tưởng hiện nay của chúng tôi là sẽ thiết kế cho các em các trang phục tương xứng với nhau. Như em biết đấy, nó thường thể hiện nét đặc trưng của đặc khu.”

Trong buổi lễ khai mạc, bạn sẽ được mặc một thứ gì đó gợi lên hình ảnh về nền công nghiệp chính của đặc khu bạn. Đặc khu 11, nông nghiệp. Đặc khu 4, đánh bắt cá. Đặc khu 3, các nhà máy. Điều này nghĩa là đến từ Đặc khu 12, Peeta và tôi sẽ mặc một kiểu quần áo nào đó của thợ mỏ than. Vì những bộ trang phục áo liền quần rộng thùng thình của các thợ mỏ không thực sự thích hợp, các cống phẩm của chúng tôi thường kết thúc với việc mặc các trang phục kiệm vải và đội mũ có gắn đèn pin phía trước. Có một năm, các cống phẩm của chúng tôi trần như nhộng và được phủ bằng một loại phấn đen tượng trưng cho bụi than. Nó thật kinh khủng và không thể nào chiếm được cảm tình của khán giả. Tôi chuẩn bị cho mình tình huống xấu nhất.

“Vậy, em sẽ mặc trang phục của thợ mỏ than?” tôi hỏi, hi vọng là nó không khiếm nhã.

“Không hoàn toàn chính xác. Em thấy đấy, Portia và tôi nghĩ rằng những trang phục của thợ mỏ là quá nhàm chán. Không ai sẽ nhớ đến các em với chúng. Và chúng tôi đều hiểu rằng công việc của chúng tôi là làm cho các cống phẩm của Đặc khu 12 ghi lại dấu ấn khó quên,” Cinna trả lời.

Mình chắc chắn sẽ bị khỏa thân, tôi nghĩ.

“Do đó, thay vì tập trung vào hình ảnh khai thác than, chúng tôi dự định sẽ tập trung vào than,” Cinna nói tiếp. Khỏa thân và được phủ một lớp bụi đen, tôi nghĩ. “Và chúng ta có thể làm gì với than? Chúng ta đốt nó,” Cinna nói.

“Em không sợ lửa, đúng không Katniss?” Anh ta nhìn biểu hiện của tôi và cười toe toét.

Một vài giờ sau, tôi được mặc một thứ mà có thể coi là một trang phục ấn tượng nhất hay đáng sợ nhất cho buổi lễ khai mạc. Tôi đang mặc một bộ trang phục đơn thuần là màu đen áo liền quần bó sát người từ mắt cá chân cho đến tận cổ. Một đôi bốt da sáng bóng buộc dây lên tận đầu gối. Nhưng có một chiếc áo choàng được làm từ những dải màu cam, vàng và đỏ đang bay dập dờn và một chiếc mũ sắt tương xứng làm nổi bật bộ trang phục này. Cinna định sẽ đốt lửa cho chúng ngay trước khi chiếc xe ngựa của chúng tôi lăn bánh trên các con phố.

“Tất nhiên nó không phải lửa thật, chỉ là lửa nhân tạo do Portia và tôi tạo ra. Em sẽ an toàn tuyệt đối,” anh ta nói. Nhưng tôi đã không bị thuyết phục rằng mình sẽ không hoàn toàn bị biến thành món thịt nướng vào lúc chúng tôi tiến đến trung tâm thành phố. Mặt tôi bị trang điểm tương đối ít, chỉ một vài điểm nhấn ở vài chỗ. Tóc tôi được chải ra rồi tết lại phía sau lưng như phong cách hàng ngày của tôi. “Tôi muốn khán giả nhận ra em khi em ở trong đấu trường,” Cinna mơ màng giải thích. “Katniss, cô gái của lửa.”

Một ý nghĩ xẹt qua đầu tôi rằng cách xử sự bình tĩnh và bình thường của Cinna chính là dấu hiệu của một người hoàn toàn điên khùng.

Mặc dù đã nhận ra tính cách của Peeta sáng nay, tôi vẫn thật sự thấy an tâm khi cậu ấy xuất hiện, mặc trang phục đồng nhất với tôi. Cậu ấy chắc phải biết rõ về lửa, bởi cậu ấy là con trai của một ông chủ tiệm bánh và tất cả những thứ khác nữa. Chuyên gia thời trang của cậu ấy, Portia, cùng đội của cô ta đi cùng cậu ấy đến, và mọi người hoàn toàn quay cuồng hào hứng với mớ lộn xộn mà chúng tôi sắp tạo nên. Ngoại trừ Cinna. Anh ta chỉ tỏ ra hơi mệt mỏi khi nhận những lời chúc mừng.

Chúng tôi nhanh chóng đi xuống tầng hầm của Trung tâm tái tạo, nơi mà về cơ bản là một chuồng ngựa khổng lồ. Lễ ra mắt sắp sửa bắt đầu. Các cặp đôi cống phẩm được đưa lên xe ngựa và được kéo bởi bốn con ngựa. Xe ngựa của chúng tôi có màu đen như than. Những con ngựa được huấn luyện rất tốt, thậm chí không cần có người cầm cương. Cinna và Portia hướng dẫn chúng tôi lên xe ngựa và cẩn thận chỉnh trang mọi vị trí trên cơ thể chúng tôi, xếp đặt chiếc áo choàng, trước khi rời đi để hội ý với nhau.

“Cậu nghĩ thế nào?” tôi thì thầm với Peeta. “Về ngọn lửa?”

“Mình sẽ xé toạc chiếc áo choàng của cậu nếu cậu cũng làm thế giúp mình,” cậu ấy thì thầm qua hàm răng nghiến chặt.

“Thỏa thuận,” tôi nói. Có lẽ, nếu chúng tôi quăng chúng đi kịp lúc, chúng tôi sẽ tránh được việc bị bỏng nặng. Dù nó vẫn thật tệ. Họ sẽ vẫn ném chúng tôi vào đấu trường mà không cần biết chúng tôi ở trong tình trạng nào. “Mình biết là chúng ta đã hứa với Haymitch rằng chúng ta sẽ làm chính xác những gì họ bảo, nhưng mình không cho là ông ấy đã nghĩ đến góc độ này.”

“Dù sao đi nữa thì Haymitch đang ở đâu nhỉ? Không phải ông ấy đã nói rằng sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những thứ này sao?” Peeta nói.

“Với số rượu mà ông ấy nốc vào, có lẽ không khôn ngoan lắm khi để ông ấy đi loanh quanh một ngọn lửa đang cháy,” tôi nói.

Và đột nhiên cả hai chúng tôi cùng bật cười. Tôi đoán là cả hai chúng tôi đều đang quá hồi hộp về Trò chơi và căng thẳng hơn, là đang chết khiếp về việc sẽ bị biến thành những ngọn đuốc sống nên chúng tôi hành động không được bình thường.

Âm nhạc khai mạc bắt đầu nổi lên. Thật dễ dàng để nghe được sự bùng nổ khắp Capitol. Cánh cửa lớn trượt ra để lộ những dãy phố dài đông đúc. Chuyến diễu hành kéo dài khoảng hai mươi phút và sẽ kết thúc ở Quảng trường trung tâm thành phố, nơi họ sẽ chào đón chúng tôi, chơi bản nhạc ca ngợi Panem, và hộ tống chúng tôi đến Trung tâm Huấn luyện, nơi sẽ là nhà/nhà tù của chúng tôi cho đến khi Trò chơi bắt đầu.

Các cống phẩm từ Đặc khu 1 đi ra trong một chiếc xe ngựa được kéo bởi những con ngựa trắng như tuyết. Họ trông rất đẹp, được phun sơn màu bạc, mặc những chiếc áo chùng trang nhã, trang sức lấp lánh. Đặc khu 1 sản xuất những hàng hóa xa xỉ cho Capitol. Bạn có thể nghe thấy tiếng hoan hô ầm ĩ của khán giả. Họ luôn luôn là những cống phẩm được yêu thích.

Đặc khu 2 vào vị trí phía sau họ. Trong nháy mắt, chúng tôi đã tiến đến cánh cửa và tôi có thể nhìn thấy ở giữa bầu trời u ám và lúc xế chiều, ánh sáng đang chuyển dần sang màu xám xịt. Các cống phẩm từ Đặc khu 11 chỉ vừa mới chuyển bánh ra ngoài khi Cinna xuất hiện với ngọn đuốc. “Chúng ta tiến hành thôi,” anh ta nói, và trước khi chúng tôi kịp phản ứng, anh ta đã châm lửa lên áo choàng của chúng tôi. Tôi hít sâu, chuẩn bị chờ đợi hơi nóng ập đến, nhưng chỉ có cảm giác hơi buồn buồn. Cinna trèo lên phía trước chúng tôi và châm lửa cho chiếc mũ. Anh ta thở phào nhẹ nhõm. “Nó đã hoạt động.” Sau đó nhẹ nhàng lấy tay giữ cằm tôi. “Hãy nhớ, ngẩng cao đầu. Mỉm cười. Họ sẽ yêu quý em!”

Cinna nhảy xuống khỏi xe ngựa và có một ý tưởng cuối cùng. Anh ấy hét gì đó về phía chúng tôi, nhưng âm nhạc đã nhấn chìm giọng của anh. Anh ấy hét tiếp và dùng cử chỉ để ra hiệu.

“Anh ấy đang nói gì vậy?” tôi hỏi Peeta. Lần đầu tiên, tôi nhìn cậu ấy và nhận ra, trong ánh sáng rực rỡ của ngọn lửa nhân tạo, cậu ấy đang tỏa sáng. Và chắc chắn tôi cũng vậy.

“Mình nghĩ anh ấy bảo chúng ta nắm tay nhau,” Peeta trả lời. Cậu ấy nắm lấy tay phải của tôi trong bàn tay trái của mình và chúng tôi nhìn Cinna để xác nhận. Anh ấy gật đầu và giơ ngón tay cái lên và đó là điều cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi chúng tôi tiến vào thành phố.

Sự sửng sốt ban đầu của khán giả trước sự xuất hiện của chúng tôi nhanh chóng chuyển thành reo mừng và la hét “Đặc khu 12!” Mọi cái đầu đều hướng về chúng tôi, kéo theo sự chú ý của ba chiếc xe ngựa đi trước chúng tôi. Lúc đầu, tôi như bị đóng đá, nhưng sau đó tôi nhìn thấy hình ảnh của chúng tôi trên màn hình tivi lớn và bị choáng ngợp bởi hình ảnh kinh ngạc đến nín thở của mình. Trong ánh sáng chạng vạng, ánh lửa làm bừng sáng gương mặt chúng tôi. Chúng tôi giống như đang bỏ lại vệt lửa chảy dài trên chiếc áo choàng. Cinna đã đúng về việc hạn chế trang điểm, trông chúng tôi cuốn hút hơn nhưng lại hoàn toàn dễ nhận ra.

Hãy nhớ, ngẩng cao đầu. Mỉm cười. Họ sẽ yêu quý em! Tôi nghe thấy tiếng Cinna vang lên trong đầu. Tôi nâng cằm mình lên cao một chút, nở nụ cười rạng rỡ nhất của mình, và vẫy chào bằng bàn tay còn lại. Tôi mừng vì hiện tại đang có Peeta nắm chặt tay để giữ thăng bằng, cậu ấy vững chãi, rắn chắc như một tảng đá. Và khi tôi lấy lại được tự tin, tôi thực sự đã gửi vài nụ hôn gió cho khán giả. Người dân Capitol đã bắt đầu say mê, ném hoa như mưa về phía chúng tôi, gào tên chúng tôi mà họ đã tìm thấy trong danh sách cống phẩm.

Âm nhạc nện thình thình, tiếng reo hò, sự hâm mộ đã tác động vào máu tôi, tôi không thể kìm nén được sự kích động của mình. Cinna đã trao cho tôi một lợi thể cực lớn. Không ai có thể quên tôi. Không quên ngoại hình của tôi, không quên tên tôi. Katniss. Cô gái của lửa.

Lần đầu tiên tôi cảm thấy hi vọng mong manh của tôi đang lớn dần. Chắc chắn phải có một nhà tài trợ nào đó sẵn sàng đặt cược vào tôi. Và với một chút trợ giúp thêm, một ít thức ăn, vũ khí phù hợp, tại sao tôi không thể mong chờ mình có thể thoát khỏi Trò chơi chứ?

Có ai đó ném cho tôi một bông hồng đỏ. Tôi bắt lấy nó, hít nhẹ hương thơm của bông hoa, và gửi lại một chiếc hôn gió về hướng người ném. Cả trăm bàn tay giơ lên để bắt lấy nụ hôn của tôi, như thể nó là thứ có thật, thứ hữu hình.

“Katniss! Katniss!” Tôi có thể nghe thấy tên mình được gọi ở mọi phía. Tất cả đều muốn có nụ hôn của tôi.

Chỉ đến khi tôi tiến vào Quảng trường thành phố tôi mới nhận ra tôi hoàn toàn không chỉ đặt tay mình trong bàn tay của Peeta. Tôi mới nhận ra mình đã nắm chặt lấy nó như thế nào. Tôi nhìn xuống những ngón tay của chúng tôi đang lồng vào nhau khi tôi nới lỏng dần lực siết, nhưng cậu ấy nắm chặt lại tay tôi. “Không, đừng bỏ tay mình ra,” cậu ấy lên tiếng. Ánh lửa lung linh trong đôi mắt xanh của cậu ấy. “Xin cậu đấy. Mình có lẽ sẽ ngã nhào khỏi thứ này mất.”

“Được rồi,” tôi nói. Vì vậy tôi tiếp tục nắm tay cậu ấy, nhưng tôi không thể không cảm thấy lạ về cái cách Cinna kết nối chúng tôi lại với nhau. Thật không công bằng khi giới thiệu chúng tôi như một đội và sau đó nhốt chúng tôi trong đấu trường để giết lẫn nhau.

Mười hai chiếc xe ngựa xếp thành vòng tròn theo hình dáng của Quảng trường thành phố. Trên các tòa nhà bao quanh Quảng trường, mọi cửa sổ đều chật ních những công dân danh dự của Capitol. Ngựa của chúng tôi kéo chiếc xe đến thẳng tòa nhà của Tổng thống Snow và chúng tôi đứng vào vị trí. Màn dạo nhạc kết thúc bằng một hồi kèn.

Ngài tổng thống, một người đàn ông nhỏ, gầy với mái tóc bạc trắng, phát biểu chào mừng trên một ban công phía trước chúng tôi. Thông thường người ta sẽ cắt đi hình ảnh khuôn mặt của các cống phẩm trong suốt bài phát biểu. Nhưng tôi có thể nhìn thấy trên màn hình rằng chúng tôi càng có nhiều sự chú ý hơn khi được chiếu lên truyền hình. Màn hình càng tối dần, càng khó để dời ánh mắt khỏi ánh lửa bập bùng quanh chúng tôi. Khi bài quốc ca được chơi, họ cố gắng trình chiếu nhanh một vòng hình ảnh các cặp cống phẩm, nhưng camera dừng lại ở chiếc xe ngựa của Đặc khu 12 khi nó diễu hành một vòng cuối cùng và biến mất trong Trung tâm huấn luyện.

Các cánh cửa chỉ vừa mới đóng lại sau lưng khi chúng tôi bi bủa vây bởi đội chuẩn bị, những người gần như không thể hiểu được khi họ ồn ã tuôn ra những lời tán dương. Khi tôi nhìn quanh, tôi thấy rất nhiều cống phẩm khác đang bắn về phía chúng tôi những cái nhìn xấu xa, khẳng định nghi ngờ của tôi rằng chúng tôi đã thực sự tỏa sáng hơn tất cả bọn họ. Sau đó Cinna và Portia xuất hiện, giúp chúng tôi xuống khỏi xe ngựa, cẩn thận gỡ bỏ chiếc áo choàng và mũ vẫn đang cháy của chúng tôi. Portia dập tắt lửa bằng một loại nước xịt từ một chiếc hộp nhỏ.

Tôi nhận ra là tôi vẫn đang dính lấy Peeta và ép những ngón tay cứng ngắc của mình thả ra. Cả hai chúng tôi đều xoa xoa bàn tay của mình.

“Cảm ơn vì đã nắm lấy tay mình. Mình đã hơi run lúc ở đó,” Peeta nói.

“Nó không thấy rõ,” tôi bảo cậu ấy. “Mình chắc chắn là không ai nhận ra.”

“Mình chắc chắn mọi người sẽ không nhận ra bất cứ cái gì khác ngoài cậu. Cậu nên mang ngọn lửa thường xuyên hơn,” cậu ấy nói. “Chúng hợp với cậu.” Và rồi cậu ấy mỉm cười với tôi, một nụ cười dường như thật sự ngọt ngào với một chút ngượng ngùng khiến trong lòng tôi đột nhiên tràn ngập cảm giác ấm áp.

Một hồi chuông cảnh tỉnh vang lên trong đầu tôi. Đừng ngốc nghếch thế. Peeta đang lên kế hoạch làm thế nào để giết mi, tôi tự nhắc nhở mình. Cậu ta đang quyến rũ mi để biến mi thành một con mồi dễ dàng. Càng dễ mến thì cậu ta càng nguy hiểm.

Nhưng vì cả hai đều có thể chơi trò chơi này, nên tôi kiễng chân lên và hôn vào má cậu ấy. Vào đúng vết thâm tím trên mặt Peeta.

CHƯƠNG 6

Trung tâm Huấn luyện có một cao ốc được thiết kế dành riêng cho cống phẩm và đội của họ. Đây sẽ là nhà của chúng tôi cho đến khi Trò chơi thực sự bắt đầu. Mỗi đặc khu có riêng một tầng. Bạn chỉ đơn giản bước vào thang máy và bấm số đặc khu của mình. Quá dễ để nhớ.

Tôi đã được đi thang máy một đôi lần ở Trụ sở tòa án ở Đặc khu 12. Một lần để nhận huân chương cho cái chết của cha tôi và lần sau là ngày hôm qua để nói lời từ biệt cuối cùng với bạn bè và gia đình mình. Nhưng đó là một thứ tối tăm, có mùi sữa ôi thiu, phát ra tiếng kêu cọt kẹt và di chuyển chậm như sên. Những bức tường xung quanh chiếc thang máy này được làm bằng pha lê nên bạn có thể nhìn thấy mọi người dưới tầng một đang dần bé lại như kiến khi bạn bị bắn thẳng lên không trung. Điều đó thật thú vị và tôi rất muốn hỏi Effie Trinket là liệu chúng tôi có thể đi thêm một lần nữa hay không, nhưng dù sao thì nó cũng thật trẻ con.

Rõ ràng, nhiệm vụ của Effie Trinket không dừng lại ở nhà ga. Cô ta và Haymitch sẽ trông nom chúng tôi cho đến khi chúng tôi vào đấu trường. Về phương diện này, đó là một thuận lợi vì ít nhất chúng tôi có thể trông chờ cô ta đưa chúng tôi đến những nơi cần thiết đúng giờ trong khi chúng tôi không nhìn thấy Haymitch đâu kể từ lúc ông ta đồng ý giúp chúng tôi trên tàu. Có lẽ đã say không biết trời đất gì ở một chỗ nào đó. Effie Trinket, mặt khác, lại có vẻ đang rất cao hứng. Chúng tôi là nhóm đầu tiên cô ta đi kèm mà có thể gây chú ý ở lễ khai mạc. Cô ta không chỉ ca tụng trang phục của chúng tôi mà còn ca tụng cả cách mà chúng tôi thể hiện bản thân. Và, để nghe cô ta kể về điều đó, rằng Effie biết tất cả mọi người, những người có thể là bất cứ ai ở Capitol và đã nói chuyện với họ về chúng tôi suốt cả ngày, cố gắng để lôi kéo được các nhà tài trợ cho chúng tôi.

“Dù sao tôi đã rất tài tình,” cô ta nói, mắt lim dim. “Bởi vì, tất nhiên là Haymitch chẳng thèm kể cho tôi biết chiến lược của các em. Nhưng tôi đã làm hết sức có thể. Katniss đã hy sinh bản thân vì em gái như thế nào. Các em đã thành công trong việc cố gắng vượt qua sự man rợ của đặc khu các em như thế nào.”

Sự man rợ ư? Đó là sự mỉa mai đến từ người phụ nữ đang giúp chúng tôi chuẩn bị cho cuộc chiến sinh tử. Và cô ta cho rằng thành công của chúng tôi dựa vào cái gì? Vào cách hành xử của chúng tôi trên bàn ăn ư?

“Đương nhiên mọi người đều dè dặt. Các em đến từ đặc khu mỏ than đá. Nhưng tôi đã nói, và điều này cho thấy tôi rất thông minh, rằng, ‘À, nếu bạn tạo đủ áp lực lên than đá, nó sẽ biến thành ngọc trai!” Effie cười tươi rạng rỡ với chúng tôi nên chúng tôi chẳng còn cách nào khác là phải đáp trả nồng nhiệt sự thông minh của cô ta dù nó sai hoàn toàn.

Than đá không thể trở thành ngọc trai. Chúng được tạo ra bởi con trai. Có lẽ cô ta định nói than sẽ biến thành kim cương, nhưng điều đó cũng không đúng. Tôi nghe nói người ta có một loại máy nào đó ở Đặc khu 1 có thể biến than chì thành kim cương. Nhưng chúng tôi không khai thác than chì ở Đặc khu 12. Đó là công việc của Đặc khu 13 cho đến khi họ bị hủy diệt.

Tôi tự hỏi những người mà cô ta lải nhải về chúng tôi cả ngày hôm nay liệu có biết hoặc quan tâm đến điều đó không.

“Thật không may là tôi không thể ký kết những thỏa thuận về việc tài trợ cho các em. Chỉ Haymitch có thể làm việc đó,” Effie dứt khoát. “Nhưng đừng lo, tôi sẽ bắt ông ta ngồi vào bàn ký kết ngay cả phải chĩa súng vào ông ta nếu cần thiết.”

Mặc dù thiếu kiến thức về nhiều lĩnh vực, nhưng Effie Trinket có đôi chút quyết đoán khiến tôi phải khâm phục.

Các phòng tôi ở còn rộng hơn cả ngôi nhà của chúng tôi ở quê. Chúng đều sang trọng, giống như toa tàu điện, nhưng cũng có rất nhiều máy móc tự động mà tôi chắc chắn không có thời gian để nhấn tất cả các nút bấm. Chỉ riêng vòi tắm hoa sen đã có một bảng điều khiển với hơn một trăm lựa chọn mà bạn có thể bấm để điều chỉnh nhiệt độ nước, áp lực, sữa tắm, dầu gội, dầu thơm, tinh dầu, những miếng bọt biển để mát xa. Khi bạn bước ra, đứng trên chiếc thảm chùi chân, máy sấy sẽ hoạt động, thổi khô cả người bạn. Thay vì phải chiến đấu với mái tóc ướt rối, tôi chỉ cần đặt tay lên một chiếc hộp mà nó sẽ thổi một luồng khí qua da đầu tôi, gỡ rối, rẽ ngôi và làm khô tóc gần như ngay lập tức. Sau đó nó thả tóc tôi chảy xuống quanh vai như một bức màn bóng loáng.

Tôi cài đặt chương trình cho phòng thay đồ để có những trang phục phù hợp với sở thích của mình. Các cửa sổ sẽ phóng to hoặc thu nhỏ hình ảnh các khu vực của thành phố theo sự điều khiển của tôi. Bạn chỉ cần thì thầm tên của món ăn trong quyển thực đơn khổng lồ vào một chiếc micro thì chưa đến một phút nó sẽ xuất hiện trước mặt bạn, nóng hổi và đang bốc khói nghi ngút. Tôi vừa đi lại trong phòng vừa ăn bánh mì phồng kẹp với gan ngỗng cho đến khi có tiếng gõ cửa. Effie đang gọi tôi ra ăn tối.

Tốt. Tôi đang chết đói đến nơi rồi.

Peeta, Cinna và Portia đang đứng ngoài ban công ngắm nhìn Capitol khi chúng tôi bước vào phòng ăn. Tôi rất mừng khi nhìn thấy các chuyên gia thời trang, nhất là sau khi được nghe rằng Haymitch sẽ tham gia bữa tối với chúng tôi. Một bữa ăn được chủ trì một cách đúng đắn.

Effie và Haymitch chắc chắn là một thảm họa. Bên cạnh đó, bữa tối không thực sự chỉ là ăn uống, nó còn là dịp để chúng tôi lên kế hoạch tác chiến, và Cinna và Portia đã chứng tỏ giá trị của họ thế nào.

Một người đàn ông trẻ câm lặng mặc chiếc ào chùng trắng đem các ly rượu cho chúng tôi. Tôi định từ chối, nhưng tôi chưa bao giờ uống rượu, ngoại trừ cái thứ mẹ tôi tự làm ở nhà để chữa ho, và đến bao giờ tôi mới lại có cơ hội thử nếm nó chứ? Tôi nhấp một ngụm thứ chất lỏng chua cay, bỏng rát này và thầm nghĩ nó sẽ ngon hơn nhiều nếu có thêm vài thìa mật ong.

Haymitch xuất hiện ngay khi bữa tối vừa được đem ra. Trông có vẻ ông ấy đã có chuyên gia thời trang riêng vì ông ấy ăn mặc sạch sẽ, chải chuốt và trong bộ dạng tỉnh táo nhất mà tôi từng thấy. Ông ấy không từ chối khi được tiếp rượu, nhưng khi ông ấy bắt đầu với món súp, tôi nhận ra đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ông ấy ăn. Có lẽ ông ấy thực sự tỉnh trí lại đủ lâu để giúp chúng tôi.

Cinna và Portia dường như đã có tác động khai hóa văn minh cho Haymitch và Effie. Ít ra thì họ cũng nói chuyện với nhau một cách lịch sự. Và cả hai người họ không làm gì khác ngoài việc ca ngợi màn trình diễn của các chuyên gia thời trang của chúng tôi tại lễ khai mạc. Trong khi họ nói chuyện riêng với nhau, tôi tập trung vào bữa ăn. Súp nấm, rau đắng trộn cà chua, suất đậu Hà Lan, thịt bò chín tái được thái mỏng như tờ giấy, mì với rau hầm, pho mát mà sẽ tan chảy trên lưỡi của bạn được bày ra cùng với những chùm nho xanh lam ngọt lịm. Những người phục vụ, tất cả đều còn trẻ và mặc áo chùng màu trắng giống như người đem rượu ra cho chúng tôi, đến và đi khỏi chiếc bàn mà không nói một lời, luôn giữ cho các đĩa ăn và những chiếc ly được đầy thức ăn, đồ uống.

Uống được khoảng nửa ly rượu, đầu tôi bắt đầu váng vất, nên tôi chuyển sang uống nước. Tôi không thích cảm giác này và mong nó nhanh chóng biến mất. Việc Haymitch có thể đi lại lung tung với tình trạng này suốt ngày thật là một kỳ tích.

Tôi đang cố gắng tập trung vào cuộc nói chuyện mà giờ đây đã chuyển sang chủ đề về trang phục của chúng tôi cho buổi phỏng vấn, khi một cô gái đặt một chiếc bánh được trang trí rất đẹp mắt lên bàn và khéo léo châm lửa cho nó. Chiếc bánh bừng sáng rực rỡ và rồi ngọn lửa bập bùng lướt một vòng xung quanh các đường viền của nó, sau đó vụt tắt. Tôi có một chút hồ nghi. “Cái gì làm nó cháy vậy? Là cồn ư?” tôi nói, ngẩng lên nhìn cô gái. “Đó là thứ cuối cùng mà tôi… ồ! Tôi biết chị!”

Tôi không thể nhớ ra địa điểm và thời gian nhìn thấy khuôn mặt cô gái này. Nhưng tôi chắc chắn. Mái tóc đỏ sậm, gương mặt cuốn hút, làn da trắng sứ. Nhưng ngay khi tôi thốt ra những lời đó, trong lòng tôi cảm thấy hỗn loạn với cảm giác lo lắng và tội lỗi khi nhìn cô ấy, và khi tôi không thể trấn tĩnh lại, tôi biết rằng đã có vài ký ức tồi tệ liên quan đến người nữ phục vụ này. Biểu hiện kinh hoàng thoáng qua trên mặt cô gái chỉ càng làm tăng lên cảm giác bối rối và không thoải mái của tôi. Cô ấy vội lắc đầu phủ nhận và nhanh chóng rời khỏi bàn ăn.

Khi tôi nhìn lại, bốn người lớn đang nhìn tôi soi mói.

“Đừng nực cười như thế, Katniss. Làm sao em có thể biết một Avox cơ chứ?” Effie cướp lời. “Thật là ý nghĩ ngớ ngẩn.”

“Avox là gì?” tôi ngơ ngác hỏi.

“Một người đã từng phạm tội. Họ cắt lưỡi của cô ấy để cô ấy không nói được,” Haymitch giải thích. “Cô ta có thể là một kẻ phản bội theo cách nào đó. Khó có khả năng cháu biết cô ta.”

“Và thậm chí nếu em biết, em cũng không được nói chuyện với một trong số họ trừ khi để ra lệnh,” Effie nói. “Tất nhiên, em không thật sự biết cô ta.”

Nhưng tôi thực sự biết cô ấy. Và giờ đây khi Haymitch nhắc đến từ kẻ phản bội thì tôi đã nhớ ra địa điểm. Sự phản đối quá mạnh nên tôi không thể khẳng định. “Không, em nghĩ là không, em chỉ…” tôi lắp bắp và rượu không giúp gì được.

Peeta bật ngón tay đánh tách một cái. “Delly Catwright. Đó là lý do. Mình cũng luôn nghĩ cô ấy trông rất quen. Rồi mình nhận ra trông cô ấy giống Delly như đúc.”

Delly Catwright là một cô gái có khuôn mặt xanh xao, sưng húp, mái tóc hơi hoe vàng, trông giống người hầu bàn của chúng tôi như thể một con gián so với một con bướm vậy. Cô ấy cũng là một người thân thiện nhất hành tinh – cô ấy luôn mỉm cười với tất cả mọi người trong trường. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô gái có mái tóc đỏ này mỉm cười. Nhưng tôi lấy làm biết ơn hùa theo sự gợi ý của Peeta ngay lập tức. “Tất nhiên rồi, đó là người mà mình nghĩ đến. Đó chắc là do tóc cô ấy,” tôi nói.

“Cả điểm gì đó về ánh mắt nữa,” Peeta tiếp lời.

Không khí bàn ăn dịu xuống. “Ồ, ra thế. Nếu đó là tất cả,” Cinna lên tiếng. “Và đúng, chiếc bánh này có cồn, nhưng tất cả chất cồn đã được đốt cháy. Tôi đặc biệt đặt làm nó để chúc mừng lần ra mắt chói sáng của các em.”

Chúng tôi ăn bánh và chuyển sang phòng khách để xem phát lại buổi lễ khai mạc trên truyền hình. Một số cặp đôi khác cũng tạo ra ấn tượng tốt, nhưng không ai trong số họ có thể so sánh với chúng tôi. Ngay cả đội chúng tôi cũng phải thốt lên “Ahh!” khi người ta chiếu đến hình ảnh chúng tôi tiến ra khỏi Trung tâm Tái tạo.

“Ý tưởng nắm tay nhau là của ai?” Haymitch hỏi.

“Của Cinna,” Portia trả lời.

“Chỉ hoàn hảo có một chút nổi loạn,” Haymitch nói tiếp. “Rất tốt.”

Nổi loạn? Tôi phải nghĩ về điều đó một chút. Nhưng khi tôi nhớ ra các cặp đôi khác, đứng cách xa nhau một cách cứng nhắc, không bao giờ tiếp xúc hoặc tỏ ra quen biết lẫn nhau, như thể cống phẩm đi cùng mình không hề tồn tại, như thể Trò chơi đã bắt đầu, tôi hiểu ra ngụ ý của Haymitch. Giới thiệu chúng tôi không phải như kẻ địch mà như những người bạn đã tạo cho chúng tôi sự khác biệt, cũng nổi bật như trang phục rực lửa của chúng tôi.

“Sáng mai sẽ là buổi huấn luyện đầu tiên. Gặp ta ở bữa sáng và ta sẽ nói cho các cháu chính xác những gì tôi muốn các cháu thể hiện,” Haymitch nói với tôi và Peeta. “Giờ thì đi ngủ đi trong khi những người lớn nói chuyện.”

Peeta và tôi cùng đi bộ dọc hành lang về phòng mình. Khi đến cửa phòng tôi, cậu ấy chống tay vào khung cửa, không hoàn toàn chặn mất lối vào của tôi, nhưng buộc tôi phải chú ý đến cậu ấy. “Vậy, Delly Catwright. Tưởng tượng ra tìm thấy một người giống cô ấy ở đây.”

Cậu ấy đang yêu cầu một lời giải thích, và tôi đang cố gắng để đưa ra cho cậu ấy. Cả hai chúng tôi đều biết cậu ấy đã bao che cho tôi. Vì vậy ở đây tôi lại mắc nợ cậu ấy một lần nữa. Nếu tôi kể với cậu ấy sự thật về người hầu bàn, theo phương diện nào đó nó có thể giúp cân bằng hơn. Việc này có thể gây ra tổn hại gì chứ? Ngay cả khi cậu ấy kể lại câu chuyện này, nó cũng không nguy hiểm gì nhiều cho tôi. Đó chỉ là một việc tôi đã chứng kiến. Và cậu ấy cũng nói dối giống như tôi về Delly Catwright.

Tôi nhận ra rằng tôi thực sự muốn nói chuyện với ai đó về cô hầu bàn. Một người nào đó có thể giúp tôi hiểu được câu chuyện của cô ấy.

Gale sẽ là lựa chọn đầu tiên của tôi, nhưng có vẻ như tôi chẳng bao giờ gặp lại Gale. Tôi cố nghĩ xem liệu kể với Peeta có thể cho cậu ấy bất cứ lợi thế nào đối với tôi không, nhưng tôi không thể tìm ra lợi thế nào ở đó. Có thể chia sẻ một chuyện bí mật sẽ thực sự làm cậu ấy tin rằng tôi coi cậu ấy là bạn.

Ngoài ra, ý nghĩ về cô gái bị cắt lưỡi làm tôi khiếp sợ. Cô ấy đã nhắc nhở tôi về lý do tại sao tôi ở đây. Không phải để làm người mẫu cho những trang phục hào nhoáng hay để ăn những món ăn cao lương mỹ vị. Mà để chết một cách đẫm máu trong khi khán giả đang cuồng nhiệt cổ vũ kẻ giết tôi.

Kể hay không kể? Đầu óc tôi vẫn mụ mị vì rượu. Tôi nh́n chằm chằm vào hành lang trống trải như thể quyết định đang nằm ở đó.

Peeta phá vỡ sự do dự của tôi. “Cậu đã lên mái nhà bao giờ chưa?” Tôi lắc đầu. “Cinna đã chỉ cho mình. Cậu gần như có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố. Tuy nhiên, ở đó gió hơi mạnh một chút.”

Tôi có thể diễn giải điều đó trong đầu thành “Không ai có thể nghe được chúng ta nói chuyện gì.” Ở đây bạn luôn có cảm giác là mình bị theo dõi. “Chúng ta có thể lên đó không?”

“Chắc chắn rồi, đi nào,” Peeta trả lời. Tôi theo cậu ấy lên một cầu thang dẫn lên mái nhà. Ở đó có một phòng mái vòm nhỏ có cửa đi ra bên ngoài. Khi chúng tôi bước ra không gian buổi tối mát lạnh, đầy gió, tôi nghẹt thở trước khung cảnh ngoài trời. Toàn bộ Capitol lấp lánh như một cánh đồng lớn đầy đom đóm. Điện ở Đặc khu 12 rất chập chờn, thông thường chúng tôi chỉ có điện vài giờ trong một ngày. Hầu như các buổi tối thường trôi qua trong ánh nến. Lần duy nhất mà bạn có thể trông chờ có điện là khi người ta tường thuật Trò chơi hoặc vài thông báo quan trọng của chính phủ trên tivi mà bạn bắt buộc phải xem. Nhưng ở đây không hề mất điện. Chưa bao giờ.

Peeta và tôi bước đến chỗ rào chắn ở mép mái nhà. Tôi nhìn thẳng xuống dãy phố ngay cạnh tòa nhà mà đang ồn ào người qua lại. Bạn có thể nghe thấy tiếng xe cộ, thỉnh thoảng có vài tiếng quát tháo, và tiếng kim loại kêu leng keng lạ thường. Ở Đặc khu 12, vào giờ này tất cả chúng tôi có thể coi là đã đi ngủ.

“Mình đã hỏi Cinna tại sao họ lại cho chúng ta lên đây. Họ không lo lắng rằng sẽ có một vài cống phẩm quyết định nhảy xuống dưới hay sao?” Peeta nói.

“Anh ấy đã nói gì?” tôi hỏi.

“Cậu không thể nhảy được,” Peeta trả lời. Cậu ấy đưa tay ra khoảng không có vẻ trống rỗng. Có một lực đẩy mạnh và cậu ấy giật mạnh tay lại. “Một loại lưới điện sẽ ném cậu trở lại mái nhà.

“Luôn luôn lo lắng cho sự an toàn của chúng ta,” tôi nói. Mặc dù Cinna đã chỉ cho Peeta mái nhà, tôi vẫn tự hỏi liệu chúng tôi có được phép ở trên đây vào giờ này không, quá muộn và chỉ có hai người. Trước đây tôi chưa từng nhìn thấy các cống phẩm ở trên mái nhà của Trung tâm Huấn luyện. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không bị ghi hình lại. “Cậu có nghĩ rằng bây giờ họ đang quan sát chúng ta không?”

“Có thể,” cậu ấy khẳng định. “Đến xem khu vườn đi.”

Phía bên kia của nhà mái vòm, họ trồng một khu vườn với các luống hoa và các chậu cây cảnh. Trên cành cây treo hàng trăm chiếc chuông gió, đang phát ra những tiếng leng keng. Tại đây, trong khu vườn này, trong một đêm đầy gió, đủ để che dấu đi âm thanh nói chuyện của hai người không muốn bị người khác nghe lỏm. Peeta nhìn tôi chờ đợi.

Tôi giả vờ như đang xem xét một bông hoa. “Chúng mình đang đi săn trong rừng vào ngày hôm đó. Ẩn nấp, chờ đợi thú rừng,” tôi thì thầm.

“Cậu và cha cậu?” Peeta cũng thì thầm lại.

“Không, bạn mình, Gale. Đột nhiên tất cả chim chóc đồng loạt ngừng hót. Chỉ trừ một con. Như thể nó đưa ra tiếng kêu cảnh báo. Và sau đó chúng mình nhìn thấy cô ấy. Mình chắc chắn đó là cô hầu bàn hôm nay. Một chàng trai đi cùng cô ấy. Quần áo của họ đã rách bươm. Họ có vết thâm quầng quanh mắt do nhiều ngày không ngủ. Họ chạy như thể cuộc sống của họ phụ thuộc vào điều đó,” tôi kể.

Tôi im lặng một lát, bởi tôi đang nhớ lại hình ảnh của cặp đôi xa lạ này, rõ ràng họ không đến từ Đặc khu 12, đang chạy trốn xuyên qua rừng làm cho chúng tôi bất động. Sau đó, chúng tôi tự hỏi liệu chúng tôi có thể giúp họ trốn không. Có lẽ chúng tôi có thể. Che giấu họ. Nếu chúng tôi hành động nhanh. Gale và tôi đã bị bất ngờ, đúng, nhưng cả hai chúng tôi đều là thợ săn. Chúng tôi biết những con thú bị dồn vào đường cùng trông như thế nào. Chúng tôi đã biết cặp đôi đó gặp rắc rối ngay khi chúng tôi nhìn thấy họ. Nhưng chúng tôi đã chỉ đứng nhìn.

“Một chiếc trực thăng không biết từ đâu đột ngột xuất hiện,” tôi tiếp tục kể cho Peeta. “Ý mình là, một giây trước bầu trời hoàn toàn trống trải, và sau đó nó đã xuất hiện ở đó. Nó không gây ra tiếng động gì, nhưng họ đã nhìn thấy nó. Một chiếc lưới rơi xuống chụp lấy cô gái, và kéo cô ấy lên rất nhanh, nhanh như chiếc thang máy vậy. Họ bắn một loại lao xuyên qua chàng trai. Cây giáo đó được nối với một dây cáp và họ cũng kéo chàng trai lên. Nhưng mình chắc chắn anh ta đã chết. Mình nghe thấy cô gái thét lên một tiếng. Mình đoán là tên chàng trai. Sau đó nó rời đi, chiếc trực thăng ấy. Tan biến trong không khí. Và chim chóc lại hót trở lại, như thể chưa có gì xảy ra trước đó.”

“Họ có nhìn thấy các cậu không?” Peeta hỏi.

“Mình không biết. Bọn mình nấp dưới một vách đá chìa ra,” tôi trả lời.

Nhưng tôi biết. Có một khoảnh khắc, sau tiếng chim hót cảnh báo, nhưng trước lúc chiếc trực thăng xuất hiện, cô gái đã nhìn thấy chúng tôi. Ánh mắt cô ấy khóa chặt lấy mắt tôi và kêu gọi giúp đỡ. Nhưng cả Gale và tôi đều không đáp lại.

“Cậu đang run đấy,” Peeta nói.

Gió và câu chuyện đã thổi bay mọi hơi ấm khỏi người tôi. Tiếng thét của cô gái. Đó có phải là âm thanh cuối cùng phát ra từ cô ấy không?

Peeta cởi áo khoác của cậu ấy và choàng nó lên vai tôi. Tôi lúc đầu bước lùi lại, nhưng rồi tôi để mặc cậu ấy, quyết định trong một lát sẽ chấp nhận cả chiếc áo khoác và lòng tốt của cậu ấy. Một người bạn có thể làm điều đó, đúng không?

“Họ đã đến từ đây ư?” cậu ấy hỏi và cài lại chiếc cúc áo ở cổ tôi.

Tôi gật đầu. Họ có vẻ ngoài của người Capitol. Chàng trai và cô gái.

“Cậu cho rằng họ đang chạy đến đâu?” cậu ấy hỏi.

“Mình không biết điều đó,” tôi đáp. Đặc khu 12 gần như là ranh giới cuối cùng. Đi xa hơn, chỉ còn hoang mạc. Nếu bạn không kể đến tàn tích của Đặc khu 13, vẫn đang tiếp tục bị tiêu hủy do tác động của bom độc tố. Thỉnh thoảng họ chiếu hình ảnh đó trên ti vi, chỉ để nhắc nhở chúng tôi. “Hay tại sao họ lại rời khỏi đây.” Haymitch gọi Avox là những kẻ phản bội. Phản bội lại cái gì chứ? Nó chỉ có thể là Capitol. Nhưng họ có mọi thứ ở đây. Không có lý do gì phải phản kháng.

“Mình cũng sẽ rời khỏi đây,” Peeta buột miệng nói. Sau đó cậu ấy nhìn xung quanh đầy lo lắng. Âm thanh đủ to để nghe được qua tiếng chuông gió. Cậu ấy bật cười. “Mình sẽ về nhà ngay lập tức nếu họ cho phép. Nhưng cậu phải công nhận, thức ăn rất ngon.”

Cậu ấy chữa lại. Nếu đó là tất cả những gì bạn nghe được, thì nó chỉ có vẻ như đây là lời nói của một cống phẩm đang sợ hãi, chứ không phải của một người đang suy ngẫm về sự tốt đẹp không thể nghi ngờ của Capitol.

“Trời lạnh hơn rồi. Chúng ta tốt hơn là nên đi vào thôi,” cậu ấy nói. Bên trong phòng gác mái, không gian ấm áp và sáng sủa. Giọng của cậu ấy trở lại bình thường. “Bạn của cậu, Gale ấy. Anh ấy có phải là người đã đưa em gái cậu đi trong buổi chọn cống phẩm không?”

“Ừ. Cậu biết anh ấy à?” tôi hỏi.

“Không hẳn. Mình nghe các cô gái nói chuyện về anh ấy rất nhiều. Mình đã nghĩ anh ấy là anh họ của cậu hay gì đó. Hai người khá giống nhau,” cậu ấy nói.

“Không, bọn mình không họ hàng gì,” tôi đáp.

Peeta gật đầu, không hiểu đang nghĩ gì. “Anh ấy có đến tạm biệt cậu không?”

“Có,” tôi trả lời, cẩn thận quan sát cậu ấy. “Cha cậu cũng tới. Ông ấy đem cho mình ít bánh quy.”

Peeta nhướn mày, như thể đó chỉ là một tin tức bình thường. Nhưng sau khi nhìn thấy cậu ấy nói dối một cách trôi chảy, tôi không coi trọng biểu hiện đó lắm. “Thật ư? Cha mình thích cậu và em gái cậu. Mình nghĩ ông ước có một đứa con gái thay vì một nhà đầy con trai.”

Ý nghĩ rằng tôi có thể đã trở thành chủ đề thảo luận quanh bàn ăn, ở lò nướng bánh, chỉ ngẫu nhiên được nhắc đến trong nhà Peeta thôi cũng khiến tôi giật mình. Đó chắc phải là lúc bà mẹ không có trong phòng.

“Cha mình biết mẹ cậu khi họ còn nhỏ,” Peeta nói tiếp.

Một sự ngạc nhiên khác. Nhưng có lẽ là thật. “Ồ, đúng. Mẹ mình lớn lên trong thị trấn,” tôi nói. Nó có vẻ không lịch sự khi nói rằng bà chưa bao giờ nhắc đến người chủ tiệm bánh trừ lúc khen ngợi bánh ở tiệm ông ấy.

Chúng tôi đến cửa phòng tôi. Tôi đưa lại chiếc áo khoác cho cậu ấy. “Gặp cậu vào sáng mai nhé.”

“Mai gặp,” cậu ấy nói và bước đi dọc theo hành lang.

Khi tôi mở cửa, cô gái tóc đỏ đang thu dọn trang phục áo liền quần và đôi bốt hôm khai mạc mà tôi bỏ lại trên sàn nhà trước khi đi tắm. Tôi muốn xin lỗi về việc có thể đã gây rắc rối cho cô ấy lúc trước. Nhưng tôi nhớ ra là tôi không được nói chuyện với cô ấy trừ khi yêu cầu cô ấy làm gì đó.

“Ồ, xin lỗi,” tôi nói. “Tôi định trả chúng lại cho Cinna. Tôi xin lỗi. Chị có thể đem chúng cho anh ấy không?”

Cô ấy tránh ánh mắt của tôi, chỉ gật đầu nhẹ, và hướng ra cửa.

Tôi thể hiện là tôi nói xin lỗi về bữa tối. Nhưng tôi biết rằng lời xin lỗi của mình còn hơn thế nữa. Rằng tôi xấu hổ vì tôi đã không cố gắng giúp cô ấy lúc ở trong rừng. Rằng tôi đã để Capitol giết chàng trai, và gây tổn thương cho cô ấy một cách dễ dàng.

Cũng giống như tôi đang xem Trò chơi diễn ra.

Tôi đá văng đôi giày, trèo lên giường trùm chăn mà vẫn mặc nguyên quần áo. Cơn run rẩy vẫn không dứt. Có lẽ cô gái thậm chí còn không nhớ tôi. Nhưng tôi biết cô ấy nhớ. Bạn sẽ không thể quên gương mặt của người mà người đó là hy vọng cuối cùng của bạn. Tôi kéo chăn trùm kín đầu như thể nó sẽ bảo vệ tôi khỏi cô gái tóc đỏ bị câm. Nhưng tôi có thể cảm thấy ánh mắt của cô ấy đang nhìn chằm chằm vào tôi, xuyên qua những bức tường, những cánh cửa và tấm chăn.

Tôi tự hỏi liệu cô ấy có vui mừng không khi nhìn thấy tôi chết.

CHƯƠNG 7

Giấc ngủ của tôi đầy những giấc mơ hỗn loạn. Khuôn mặt của cô gái tóc đỏ hòa lẫn vào những hình ảnh đẫm máu của Trò chơi sinh tử trước đây, với hình ảnh mẹ tôi lãnh đạm, thờ ơ, với hình ảnh Prim hốc hác và sợ hãi. Tôi bật dậy trong tiếng thét gọi cha tôi chạy đi khi chiếc hầm nổ tung thành hàng triệu đốm lửa chết chóc.

Bình minh đang bừng sáng qua cửa sổ. Toàn bộ Capitol được bao phủ bởi sương mù và không khí ma mị. Đầu tôi đau nhức và chắc đêm qua tôi đã cắn vào một bên má. Lưỡi tôi chạm vào chỗ thịt bị sứt ra và tôi thấy vị máu.

Một cách chậm chạp, tôi bò ra khỏi giường và đi tắm. Tôi đập bừa vào các nút trên bảng điều khiển và kết quả là phải nhảy cẫng lên do hết nước lạnh rồi nước nóng thay nhau đột ngột phun vào người. Sau đó tôi lại bị chìm nghỉm trong đám sữa tắm hương chanh mà tôi phải dùng bàn chải lông dày và cứng như rễ tre để chà xát gần như tróc cả da mới hết. Ồ, không sao. Ít ra thì máu của tôi vẫn còn chảy trong người.

Khi tôi làm khô người và thoa kem dưỡng thể, tôi thấy một bộ quần áo đã để sẵn cho tôi ở trước tủ quần áo. Một chiếc quần đen bó sát, một chiếc áo thắt ngang lưng, dài tay màu đỏ tía và một đôi giày da. Tôi bện tóc lại thành một dải phía sau lưng. Đây là lần đầu tiên kể từ buổi sáng chọn cống phẩm, tôi trở lại là chính mình. Không quần áo và kiểu tóc cầu kỳ, không áo choàng cháy lửa. Chỉ đơn giản là mình. Trông giống như tôi chuẩn bị đi vào rừng. Điều đó làm tôi trở nên bình thản.

Haymitch không đưa ra thời gian cụ thể để gặp mặt vào bữa sáng và cũng không ai đến gọi tôi vào sáng nay, nhưng tôi thấy đói nên tôi đi xuống nhà ăn, hy vọng ở đó sẽ có sẵn thức ăn. Tôi đã không bị thất vọng. Trong khi chiếc bàn thường dùng trống không thì có một bàn dài ở sát một bên tường đã đặt sẵn ít nhất hai mươi chiếc đĩa. Một người đàn ông trẻ, một Avox, đang đứng nghiêm trang bên cạnh bàn thức ăn. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể tự lấy thức ăn cho mình không thì anh ta gật đầu đồng ý. Tôi chất đầy đĩa với trứng, xúc xích, bánh làm bằng bột nhão được phủ một lớp mứt cam dày, các lát dưa màu tím nhạt. Khi tôi ngấu nghiến thức ăn, tôi thấy mặt trời đã lên cao. Tôi lấy cho mình đĩa thứ hai đựng ngũ cốc nóng được phủ đầy thịt bò hầm. Cuối cùng, tôi chất đầy một đĩa với bánh cuộn, và ngồi vào bàn, bẻ ra thành những mẩu nhỏ và nhúng chúng vào sô cô la nóng, như cách mà Peeta đã làm khi ở trên tàu.

Đầu óc tôi lại nghĩ ngợi lan man về mẹ tôi và Prim. Họ chắc đã dậy rồi. Mẹ tôi sẽ làm bữa sáng cho họ với món cháo bột. Prim vắt sữa dê trước khi đến trường. Chỉ hai buổi sáng trước, tôi vẫn đang ở nhà. Điều này có thể đúng không? Phải, mới chỉ hai thôi. Và bây giờ cảm thấy căn nhà vô cùng trống trải, mặc dù đang ở xa thế này. Họ sẽ nói gì tối qua về lần ra mắt ấn tượng của tôi tại Trò chơi? Liệu nó có cho họ hy vọng, hay chỉ đơn giản là làm tăng thêm sự lo sợ của họ khi nhìn thấy tận mắt hai mươi tư cống phẩm đứng thành vòng tròn, biết rằng chỉ duy nhất một người được sống sót?

Haymitch và Peeta bước vào, chào hỏi tôi, rồi lấy thức ăn vào đĩa. Điều làm tôi bực bội là Peeta đang mặc chính xác trang phục giống tôi. Tôi cần phải nói chuyện với Cinna. Hành động giống cặp song sinh này sẽ bị phá hủy một khi Trò chơi bắt đầu. Chắc chắn, họ phải biết điều này. Sau đó tôi nhớ ra Haymitch đã bảo chúng tôi phải làm theo chính xác những gì các chuyên gia thời trang yêu cầu. Nếu đó là một ai khác ngoài Cinna, tôi có thể sẽ liều lĩnh lờ ông ta đi. Nhưng sau chiến thắng tối qua, tôi không có lý do gì để phê phán lựa chọn của anh ta.

Tôi rất lo lắng về chương trình huấn luyện. Sẽ có ba ngày các cống phẩm được tập luyện với nhau. Vào buổi chiều cuối cùng, mỗi người chúng tôi sẽ có cơ hội được biểu diễn riêng trước các Nhà thiết lập Trò chơi. Nghĩ về việc sẽ gặp gỡ các cống phẩm khác, mặt đối mặt, làm tôi thấy nôn nao. Tôi lật đi lật lại chiếc bánh cuộn lấy từ giỏ bánh trong tay, nhưng cảm giác muốn ăn không còn.

Khi Haymitch hoàn tất vài đĩa hầm, ông ấy đẩy chiếc đĩa ra và thở dài. Ông ấy lấy một chai rượu bẹt ra khỏi túi áo, tu một hơi dài và chống khuỷu tay lên bàn. “Vậy, bắt đầu công việc thôi. Tập huấn. Đầu tiên, nếu các cháu muốn, ta sẽ huấn luyện riêng từng người. Quyết định ngay bây giờ.”

“Tại sao bác phải hướng dẫn bọn cháu riêng rẽ?” tôi hỏi.

“Chẳng hạn nếu cháu có một kỹ năng bí mật nào đó, cháu có thể không muốn người khác biết,” Haymitch giải thích.

Tôi trao đổi một cái nhìn với Peeta. “Mình không có bất cứ kỹ năng bí mật nào,” cậu ấy nói. “Và mình đã biết kỹ năng của cậu là gì, đúng không? Ý mình là, mình đã ăn đủ các con sóc của cậu.”

Tôi không bao giờ nghĩ rằng Peeta đã ăn những con sóc tôi bắn được. Tôi luôn hình dung ra người chủ tiệm bánh sẽ lặng lẽ trốn ở đâu đó và nướng chúng cho mình ông ấy. Không phải vì tham ăn. Nhưng bởi vì những gia đình trong thị trấn thường ăn những loại thịt đắt tiền mua từ hàng thịt. Thịt bò, thịt gà và thịt ngựa.

“Bác có thể hướng dẫn cả hai chúng cháu cùng một lúc,” tôi trả lời Haymitch. Peeta gật đầu.

“Cháu không có khả năng làm bất cứ thứ gì,” Peeta nói. “Trừ khi bác tính đến khả năng nướng bánh mì.”

“Rất tiếc, ta không tính cái đó. Katniss. Ta đã biết cháu có khả năng sử dụng dao,” Haymitch nói.

“Không hẳn. Nhưng cháu có thể săn bắn,” tôi nói. “Với một chiếc cung và các mũi tên.”

“Và cháu giỏi chứ?” Haymitch hỏi.

Tôi phải suy nghĩ về điều đó. Tôi đã phải kiếm thức ăn trên bàn bốn năm. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Tôi không giỏi bằng cha tôi, nhưng ông được thực hành nhiều hơn. Tôi nhắm bắn tốt hơn Gale, nhưng do tôi được thực hành nhiều hơn. Anh ấy là thiên tài trong việc đặt các loại bẫy. “Cháu khá tốt,” tôi trả lời.

“Cô ấy rất xuất sắc,” Peeta lên tiếng. “Cha cháu mua các con sóc của cô ấy. Ông ấy luôn khen ngợi về việc các mũi tên không hề phá hủy cơ thể con sóc. Cô ấy bắn chỉ vào mắt tất cả các con sóc. Nó cũng y như vậy đối với những con thỏ cô ấy bán cho hàng thịt. Cô ấy thậm chí còn có thể hạ một con hươu.”

Sự đánh giá về khả năng của tôi từ Peeta khiến tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Trước hết, cậu ấy đã phát hiện ra điều đó. Thứ hai, cậu ấy khen ngợi tôi. “Cậu đang làm cái gì vậy?” tôi hỏi cậu ấy đầy nghi hoặc.

“Cậu đang làm cái gì vậy? Nếu bác ấy chuẩn bị giúp cậu, bác ấy cần phải biết khả năng của cậu. Đừng đánh giá thấp bản thân mình,” Peeta nói.

Tôi không biết tại sao, nhưng điều này chọc tức tôi. “Thế còn cậu thì sao? Mình đã từng nhìn thấy cậu ở chợ. Cậu có thể vác những bao bột mì nặng mấy chục cân,” tôi bật lại cậu ấy. “Kể với bác ấy điều đó. Nó không phải là không có gì.”

“Đúng, nhưng mình chắc chắn đấu trường sẽ có rất đầy các bao bột mì để mình ném về phía mọi người. Nó không như việc có thể sử dụng vũ khí. Cậu biết là nó không giống,” cậu ấy bắn trả.

“Cậu ấy có thể đánh vật,” tôi nói với Haymitch. “Cậu ấy đứng thứ hai ở trường trong cuộc thi năm ngoái, chỉ thua anh trai cậu ấy.”

“Điều đó thì có lợi ích gì? Bao nhiêu lần cậu nhìn thấy một ai đó vật người khác đến chết?” Peeta phẫn nộ.

“Vẫn luôn có những trận đấu tay đôi. Tất cả những gì cậu cần là làm quen với một con dao, và cậu ít nhất sẽ có một cơ hội. Nếu mình bị đối thủ nhảy bổ vào, mình sẽ chết!” Tôi có thể nghe thấy giọng mình đang gắt lên vì giận dữ.

“Nhưng cậu sẽ không! Cậu sẽ sống trên cây, ăn những con sóc còn sống, lần lượt bắn gục từng người bằng các mũi tên. Cậu có biết mẹ mình đã nói gì với mình khi bà đến tạm biệt mình không, dường như để làm mình vui, bà nói có lẽ cuối cùng Đặc khu 12 sẽ có một người chiến thắng. Sau đó mình nhận ra rằng, người mẹ mình nói đến không phải là mình, mà là cậu!” Peeta hét lên.

“Ồ, bà ấy ám chỉ cậu,” tôi nói với một cái phẩy tay phản đối.

“Mẹ mình đã nói, ‘Con bé đó là người sống sót, chính là con bé.’ Con bé,” Peeta nhấn mạnh.

Điều đó làm tôi kinh ngạc. Mẹ cậu ấy thực sự đã nói như vậy về tôi ư? Bà ấy đánh giá tôi cao hơn con trai mình sao? Tôi có thể nhìn thấy nỗi đau trong mắt Peeta và biết rằng cậu ấy không nói dối.

Đột nhiên tôi thấy mình ở sân sau tiệm bánh mì và tôi có thể cảm nhận được cái lạnh buốt của nước mưa đang chảy xuống dọc lưng tôi, sự trống rỗng của dạ dày. Tôi nghe như đứa trẻ mười một tuổi khi nói. “Nhưng chỉ vì có một người nào đó đã giúp mình.”

Ánh mắt Peeta hạ xuống chiếc bánh cuộn trên tay tôi, và tôi biết cậu ấy cũng nhớ ngày đó. Nhưng cậu ấy chỉ nhún vai. “Người ta cũng sẽ giúp đỡ cậu trong đấu trường. Họ sẽ tranh nhau bảo trợ cho cậu.”

“Không nhiều hơn cậu,” tôi nói.

Peeta ngước mắt lên nhìn Haymitch. “Cô ấy không hề biết. Những ảnh hưởng mà cô ấy có thể tạo ra.” Cậu ấy cào móng tay dọc theo những thớ gỗ trên bàn, không nhìn vào tôi.

Cậu ấy đang nói cái quái gì vậy? Người ta sẽ giúp đỡ tôi ư? Khi chúng tôi sắp chết đói, không ai thèm giúp tôi! Không ai ngoài Peeta. Khi tôi có thứ gì đó để đổi chác, mọi thứ mới thay đổi. Tôi là một người trao đổi cứng rắn. Hay là do chính tôi? Ảnh hưởng gì mà tôi có? Rằng tôi yếu ớt và nghèo túng ư? Tôi cố nghĩ xem liệu đó có phải sự thật không. Có lẽ một vài thương nhân đã hơi hào phóng trong các cuộc trao đổi của họ, nhưng tôi luôn cho rằng đó là do mối quan hệ lâu dài giữa họ và cha tôi. Ngoài ra, thú săn của tôi là hàng tốt nhất. Không ai thương xót tôi!

Tôi trừng mắt nhìn chiếc bánh cuộn, chắc chắn cậu ấy định chọc tức tôi.

Sau khoảng một phút, Haymitch lên tiếng. “Được rồi. Thôi nào, Katniss, Không có gì đảm bảo họ sẽ có cung và tên ở đấu trường, nhưng trong phần biểu diễn riêng cho các Nhà thiết lập Trò chơi, hãy cho họ thấy cháu có thể làm gì. Cho đến lúc đó, hãy tránh xa việc bắn cung. Cháu có giỏi đặt bẫy không?”

“Cháu biết một vài loại bẫy đơn giản,” tôi thì thầm.

“Điều đó rất có ý nghĩa trong việc tìm thức ăn,” Haymitch nói. “Và Peeta, cô bé nói đúng, đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh trong đấu trường. Rất thường xuyên, sức mạnh cơ bắp trở thành một lợi thế cho người chơi. Tại Trung tâm Huấn luyện, họ có rất nhiều tạ, nhưng đừng thể hiện ra trước mặt các cống phẩm khác cháu có thể nâng được vật nặng đến mức nào. Kế hoạch là giống nhau cho cả hai cháu. Các cháu đến buổi huấn luyện theo nhóm. Dùng thời gian đó để cố gắng học những thứ mà các cháu chưa biết. Ném thương. Vung gậy. Học cách buộc dây thừng một cách gọn gàng. Giữ kín những gì các cháu làm tốt nhất đến buổi biểu diễn riêng. Các cháu rõ cả chưa?” Haymitch nói. Tôi và Peeta gật đầu.

“Điều cuối cùng. Trước mặt mọi người, ta muốn các cháu luôn ở cạnh nhau, mọi phút,” Haymitch nói. Cả hai chúng tôi định phản đối, nhưng Haymitch đập tay xuống bàn. “Mọi phút! Đây không phải là một buổi thảo luận tự do đưa ý kiến! Các cháu đã đồng ý làm theo những gì ta chỉ dẫn! Các cháu sẽ ở bên nhau, các cháu sẽ tỏ ra thân thiết với nhau. Giờ thì ra ngoài đi. Gặp Effie ở thang máy lúc mười giờ để đi tập huấn.”

Tôi cắn môi và hiên ngang đi về phòng mình, chắc chắn để Peeta nghe được tiếng cửa đóng sầm lại. Tôi ngồi trên giường, căm ghét Haymitch, căm ghét Peeta, căm ghét chính mình vì đã nhắc đến cái ngày mưa gió trước kia.

Đó quả là một trò đùa! Peeta và tôi tiếp tục giả vờ làm bạn bè. Ca ngợi điểm mạnh của nhau, người này yêu cầu người kia phải tin tưởng vào khả năng của bản thân. Bởi vì, thực tế là, một lúc nào đó, chúng tôi phải loại bỏ nhau và chấp nhận chúng tôi là kẻ thù không đội trời chung. Đó là điều mà tôi chuẩn bị làm ngay bây giờ nếu nó không phải vì những lời chỉ dẫn ngu ngốc của Haymitch rằng chúng tôi phải dính liền với nhau suốt thời gian huấn luyện. Tôi nghĩ, đó là lỗi của tôi vì đã nói với ông ấy rằng không cần phải huấn luyện chúng tôi riêng rẽ. Nhưng nó không có nghĩa là tôi muốn làm mọi việc cùng Peeta. Người mà, nhân đây, rõ ràng cũng không muốn trở thành cộng sự với tôi.

Tôi nghe tiếng Peeta vang lên trong đầu. Cô ấy không hề biết. Những ảnh hưởng mà cô ấy có thể tạo ra. Rõ ràng là để hạ thấp thôi. Đúng không nào? Nhưng có một phần nhỏ trong tôi thắc mắc rằng đây có phải là lời khen ngợi không. Nếu ý của cậu ấy là ở một phương diện nào đó tôi rất thu hút. Thật kỳ lạ, cậu ấy quá chú ý đến tôi. Như cái cách mà cậu ấy chú ý đến việc săn bắn của tôi. Và hình như, tôi cũng không quên cậu ấy đi như tôi vẫn tưởng. Bột mì. Đấu vật. Tôi vẫn luôn dõi theo cậu bé với những ổ bánh mì đó.

Đã gần mười giờ. Tôi đánh răng và chải lại tóc cho gọn gàng. Cơn tức giận tạm thời giúp ngăn chặn sự lo lắng của tôi về việc gặp gỡ các cống phẩm khác, nhưng lúc này, tôi cảm thấy nỗi lo lắng của tôi đang trở lại. Vào lúc tôi gặp Peeta và Effie tại thang máy, tôi phát hiện ra mình đang cắn móng tay. Ngay lập tức tôi dừng lại.

Phòng huấn luyện thật sự ở dưới tầng trệt của tòa nhà chúng tôi đang ở. Với những chiếc thang máy này, việc đi xuống chỉ mất chưa đến một phút. Cánh cửa mở ra một phòng tập rộng mênh mông với rất nhiều loại vũ khí và các loại địa hình hiểm trở. Mặc dù chưa đến mười giờ, chúng tôi vẫn là những người cuối cùng đến đây. Những cống phẩm khác đã tập trung lại thành một vòng tròn kín. Mỗi người bọn họ đều có một miếng vải hình vuông ghi số đặc khu gắn lên áo. Khi một người nào đó gắn số 12 lên lưng tôi, tôi làm một đánh giá nhanh. Peeta và tôi là hai người duy nhất ăn mặc giống nhau.

Ngay khi chúng tôi đứng vào vòng tròn, huấn luyện viên trưởng, một phụ nữ cao, có dáng vận động viên, tên là Alata bước lên và bắt đầu giải thích về chương trình huấn luyện. Các chuyên gia của từng loại kỹ năng sẽ luôn ở khu vực của họ. Chúng tôi sẽ được tự do đi từ chỗ này sang chỗ khác tùy chúng tôi lựa chọn, theo hướng dẫn của cố vấn của mình. Một vài lớp dạy kỹ năng tồn tại, những lớp khác dạy kỹ thuật chiến đấu. Chúng tôi bị cấm tham gia vào bất cứ bài thực hành chiến đấu tay đôi nào với một cống phẩm khác. Có sẵn những người trợ giúp nếu chúng tôi muốn thực hành với một đối thủ.

Khi Alata bắt đầu đọc lên danh sách các lớp kỹ năng, mắt tôi không thể không đảo quanh một vòng quan sát các cống phẩm khác. Đây là lần đầu tiên chúng tôi tập hợp, ở mặt đất, trong quần áo đơn giản. Lòng tôi se lại. Hầu hết các cậu con trai và ít nhất một nửa số con gái đều to hơn tôi, mặc dù rất nhiều cống phẩm cũng chưa từng được ăn uống no đủ. Bạn có thể nhận thấy điều đó qua những chiếc xương nhô ra của họ, làn da họ, và đôi mắt hõm vào của họ. Có lẽ tôi vốn nhỏ bé, nhưng nhìn chung sự tháo vát của gia đình tôi đã cho tôi một lợi thế về mặt đó. Tôi đứng thẳng, và trong khi tôi mảnh dẻ, tôi lại rất khỏe mạnh. Thịt và cây trong rừng kết hợp với việc nỗ lực để có được chúng đã cho tôi một cơ thể khỏe mạnh hơn phần lớn những người tôi nhìn thấy ở quanh mình.

Trường hợp ngoại lệ là những đứa trẻ đến từ các đặc khu giàu có hơn, những người tình nguyện, những người được nuôi lớn và được huấn luyện suốt cuộc đời họ chỉ để cho thời khắc này. Những cống phẩm từ Đặc khu 1, 2 và 4 thường có ngoại hình của những người đó. Đúng ra là sai luật khi huấn luyện các cống phẩm trước khi họ đến Capitol nhưng điều này xảy ra hàng năm. Ở Đặc khu 12, chúng tôi gọi họ là Cống phẩm chuyên nghiệp, hay chỉ đơn giản là những Người chuyên nghiệp. Và có nhiều khả năng người chiến thắng sẽ là một trong số họ.

Lợi thế mỏng manh mà tôi đem đến Trung tâm Huấn luyện, màn ra mắt rực lửa của tôi đêm qua, dường như biến mất trước sự hiện diện của các đối thủ của tôi. Những cống phẩm khác ghen tị với chúng tôi, không phải vì chúng tôi thật đáng kinh ngạc, mà là những người thiết kế thời trang của chúng tôi thật đáng kinh ngạc. Lúc này tôi không thấy gì ngoài sự khinh thường trong ánh mắt của các Cống phẩm chuyên nghiệp. Mỗi ánh nhìn nặng tựa hàng chục hàng trăm cân đè nên người tôi. Họ tỏ ra kiêu ngạo và tàn bạo. Khi Alata cho chúng tôi giải tán, họ tiến thẳng đến những vũ khí đáng sợ nhất trong phòng tập và sử dụng chúng dễ dàng.

Tôi đang nghĩ thật may mắn rằng tôi là một người chạy nhanh thì Peeta huých vào cánh tay tôi khiến tôi giật nảy người. Cậu ấy vẫn ở bên cạnh tôi, theo yêu cầu của Haymitch. Biểu hiện của cậu ấy rất nghiêm túc. “Cậu muốn bắt đầu từ đâu?”

Tôi nhìn quanh xem những Cống phẩm chuyên nghiệp đang phô trương tài năng, rõ ràng là đang cố gắng đe dọa các đối thủ. Rồi tôi nhìn những người khác, những người thiếu ăn, không có khả năng gì, đang run rẩy với bài học đầu tiên về cách sử dụng dao hoặc rìu.

“Có lẽ chúng ta học thắt vài sợi dây thừng,” tôi nói.

“Đồng ý,” Peeta đáp. Chúng tôi bước đến một lớp học trống, nơi mà huấn luyện viên có vẻ hài lòng vì đã có học viên. Bạn có cảm giác rằng lớp học buộc dây thừng không phải là lớp học được ưa thích tại Trò chơi sinh tử. Khi huấn luyện viên nhận ra tôi biết vài thứ về cạm bẫy, ông ấy chỉ cho chúng tôi một kiểu bẫy thật đơn giản và tuyệt vời mà có thể khiến một đối thủ của mình treo chân lơ lửng trên cây. Chúng tôi tập trung cho kỹ năng này một tiếng đồng hồ cho đến khi cả hai chúng tôi đều thành thạo nó. Sau đó chúng tôi chuyển sang học ngụy trang. Peeta có vẻ thật sự thích lớp học này, trát một tổ hợp bùn, đất sét và nước dâu quanh làn da trắng của cậu ấy, tạo nên lớp ngụy trang từ dây leo và lá cây. Người huấn luyện viên của lớp học ngụy trang hoàn toàn hào hứng với những gì cậu ấy làm.

“Mình làm ra những chiếc bánh mà,” cậu ấy thú nhận với tôi.

“Những chiếc bánh ư?” tôi hỏi. Tôi đang mải nhìn cậu con trai ở Đặc khu 2 ném một mũi lao xuyên qua trái tim của người nộm từ cách đó hơn chục mét. “Những chiếc bánh nào?”

“Ở nhà. Những chiếc bánh ướp lạnh, cho tiệm bánh,” cậu ấy nói.

Ý cậu ấy là những chiếc bánh trưng bày ở gần cửa sổ. Những chiếc bánh được trang trí bằng hoa và những hình đẹp mắt được vẽ lên mặt kem phủ của bánh. Chúng dành cho ngày sinh nhật hoặc dịp năm mới. Khi chúng tôi ở quảng trường, Prim luôn luôn kéo tôi đến đó để ngắm nghía chúng, mặc dù chúng tôi không bao giờ có khả năng mua nổi một chiếc. Dù sao đó cũng là những thứ đẹp đẽ hiếm hoi ở Đặc khu 12, nên tôi khó có thể từ chối con bé.

Tôi nhìn kỹ hơn các đường nét trên cánh tay Peeta. Những hoa văn đan xen của ánh sáng và bóng tối gợi lên hình ảnh ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá trong rừng. Tôi tự hỏi làm sao cậu ấy biết điều này, vì tôi không tin rằng cậu ấy từng vượt qua hàng rào. Cậu ấy có thể hình dung ra nó chỉ từ cây táo già xơ xác ở sân sau nhà cậu ấy ư? Không hiểu sao tất cả những thứ này – khả năng của cậu ấy, những chiếc bánh trưng bày, lời khen ngợi từ chuyên gia ngụy trang – lại làm tôi tức giận.

“Thật đáng yêu. Chỉ nếu cậu có thể rắc đường lên ai đó cho đến chết,” tôi nói.

“Đừng quá trịch thượng như vậy. Cậu không bao giờ nói trước được cậu có thể tìm thấy gì trong đấu trường. Chẳng hạn như nó thực sự là một chiếc bánh khổng lồ…” Peeta bắt đầu.

“Chẳng hạn như chúng ta chuyển sang kĩ năng khác,” tôi ngắt lời.

Vì vậy ba ngày tiếp theo trôi qua với việc Peeta và tôi lặng lẽ đi từ lớp kỹ năng này sang lớp kỹ năng khác. Chúng tôi cũng thu được vài kỹ năng giá trị, từ việc nhóm lửa, ném dao, đến việc tạo chỗ ẩn náu. Mặc dù Haymitch yêu cầu chúng tôi tỏ ra xoàng xĩnh, Peeta vẫn xuất sắc trong các trận đấu tay đôi, và tôi thì chỉ nháy mắt đã lấy sạch những loại thực vật có thể ăn được trong bài kiểm tra. Tuy nhiên chúng tránh xa lớp kỹ năng bắn cung và nâng tạ, muốn giữ chúng cho buổi trình diễn cá nhân.

Những Người thiết lập Trò chơi có mặt từ rất sớm, ngay từ hôm đầu tiên. Khoảng hai mươi người đàn ông và phụ nữ mặc áo choàng màu tím sậm. Họ ngồi trên khán đài cao xung quanh phòng tập, đôi khi đi loanh quanh quan sát chúng tôi, ghi chép gì đó, những lúc khác lại ăn uống tại bàn ăn thịnh soạn dài lê thê mà đã được chuẩn bị cho họ, tảng lờ hết chúng tôi. Nhưng dường như họ luôn để mắt đến cống phẩm của Đặc khu 12. Có vài lần tôi ngẩng lên và nhìn thấy một người đang dán mắt vào mình. Họ cũng hội ý với các huấn luyện viên trong bữa ăn của chúng tôi. Chúng tôi thấy tất cả họ đang tụ tập với nhau khi quay lại sau bữa ăn.

Bữa sáng và bữa tối được phục vụ ở tầng của chúng tôi, nhưng bữa trưa cả hai mươi tư cống phẩm ăn tại phòng ăn của nhà tập. Thức ăn được đặt trên những chiếc xe đẩy xung quanh phòng và bạn có thể tự lấy thức ăn cho mình. Các Cống phẩm Chuyên nghiệp thường tụ tập ầm ĩ quanh một chiếc bàn, như để chứng minh sự ưu việt của họ, rằng họ không sợ những người khác và coi những người còn lại chúng tôi không đáng chú ý đến. Hầu hết các cống phẩm khác đều ngồi một mình, như những con cừu bị lạc. Không ai nói gì với chúng tôi. Peeta và tôi ngồi ăn với nhau, và do Haymitch vẫn bắt buộc chúng tôi về việc đó, chúng tôi vẫn cố gắng nói chuyện thân thiện trong các bữa ăn.

Thật không dễ dàng gì để tìm ra một chủ đề. Nói chuyện về quê nhà thì thật đau buồn. Nói về hiện tại thì quá sức chiu đựng. Một hôm, Peeta dọn sạch giỏ bánh mì của chúng tôi và chỉ ra làm cách nào họ có thể trộn kỹ càng các đặc sản của các đặc khu trong bánh mì tinh chế của Capitol. Những ổ bánh mì hình con cá được nhuộm màu xanh của rong biển từ Đặc khu 4. Chiếc bánh cuộn hình trăng lưỡi liềm được rắc các loại hạt từ Đặc khu 11. Dù thế nào chăng nữa thì mặc dù nó được làm từ cùng một thứ nguyên liệu, nhìn nó vẫn ngon mắt hơn rất nhiều so với những chiếc bánh quy xấu xí hiếm hoi mà là thức ăn thông thường ở nhà.

“Và thế là cậu đã có nó,” Peeta nói, cho chỗ bánh mì trở lai giỏ.

“Cậu chắc là phải biết rất nhiêu,” tôi nói.

“Chỉ về bánh mì thôi,” cậu ấy trả lời. “Rồi, giờ thì cười lớn lên như thể chúng ta đang nói chuyện gì đó rất thú vị.”

Chúng tôi đều bật lên tiếng cười có vẻ khá thuyết phục và tảng lờ những ánh nhìn soi mói xung quanh.

“Được rồi, mình sẽ tiếp tục mỉm cười vui vẻ và cậu thì nói chuyện đi,” Peeta nói. Chỉ thị yêu cầu chúng tôi phải thân thiết với nhau của Haymitch đang làm cả hai chúng tôi mệt mỏi. Bởi vì suốt từ lúc tôi đóng sầm cửa phòng mình, không khí giữa chúng tôi luôn lạnh nhạt. Nhưng chúng tôi phải làm theo yêu cầu.

“Mình đã bao giờ kể với cậu lần mình bị một con gấu đuổi theo chưa nhỉ?” tôi hỏi.

“Chưa, nhưng nó có vẻ hấp dẫn đấy,” Peeta trả lời.

Tôi cố gắng làm cho mặt mình trở nên hào hứng khi tôi kể lại sự kiện, một câu chuyện có thật, mà khi đó tôi đã ngu ngốc thách thức quyền lợi của một con gấu đen đối với một tổ ong. Peeta cười và đặt câu hỏi rất đúng lúc đúng chỗ. Cậu ấy giỏi việc này hơn tôi.

Ngày thứ hai, trong khi chúng tôi đang thử ném lao, cậu ấy thì thầm với tôi. “Mình nghĩ chúng ta có một cái đuôi.”

Tôi ném mũi lao, việc mà thực ra tôi không quá tệ, nếu tôi không phải ném quá xa, và nhìn thấy cô bé đến từ Đặc khu 11 đang đứng phía sau chúng tôi một chút, quan sát chúng tôi. Cô bé mười hai tuổi, người mà gợi cho tôi hình dáng của Prim. Nhìn gần cô bé trông như chỉ mười tuổi. Cô bé có đôi mắt đen và sáng, làn da nâu mịn màng như sa tanh, đang đững kiễng chân lên với hai cánh tay hơi dang ra hai bên, như thể đang sẵn sàng để cất cánh với tiếng động nhẹ nhàng nhất. Nhìn cô bé không thể không nghĩ đến hình ảnh của một chú chim.

Tôi nhặt lên một mũi lao khác trong khi Peeta đang ném. “Mình nghĩ tên cô bé là Rue,” Peeta nói khẽ.

Tôi cắn môi. Rue, vân hương, là một bông hoa nhỏ màu vàng mọc ở cánh đồng Meadow. Rue. Primrose. Cả hai dù cho có bị nhúng nước ướt sũng thì cũng không thể nặng đến ba mươi cân.

“Chúng ta có thể làm gì với việc đó?” tôi hỏi cậu ấy, không định nói giọng cay nghiệt đến vậy.

“Không làm gì cả,” cậu ấy trả lời. “Chỉ là nói chuyện thôi.”

Giờ tôi đã biết cô bé ở đó, thật khó để coi như không thấy. Cô bé lặng lẽ tiếp cận và tham gia cùng chúng tôi một số lớp học kỹ năng. Giống như tôi, cô bé rất nhanh nhạy với các loại thực vật, leo trèo nhanh, và nhắm bắn rất tốt. Cô bé luôn luôn bắn trúng mục tiêu với một giàn thun. Nhưng điều gì khiến một chiếc giàn thun có thể chống lại một cậu con trai nặng một trăm cân với một thanh kiếm?

Quay trở lại tầng của Đặc khu 12, Haymitch và Effie tra hỏi chúng tôi suốt bữa sáng và bữa tối về mọi lúc trong ngày. Chúng tôi đã làm gì, ai quan sát chúng tôi, đánh giá về các cống phẩm khác như thế nào. Cinna và Portia không ở đây, nên không có ai giữ trật tự cho bữa ăn. Không phải là Haymitch và Effie còn tiếp tục tranh cãi. Mà thay vào đó, họ dường như đồng tâm hiệp lực quyết đưa chúng tôi vào khuôn phép. Hàng loạt những chỉ dẫn bất tận về việc chúng tôi nên làm ǵ và không nên làm ǵ trong đợt huấn luyện. Peeta kiên nhẫn hơn, còn tôi thì trở nên chán ngấy và gắt gỏng.

Khi chúng tôi cuối cùng cũng trốn được về giường ở đêm thứ hai, Peeta lẩm bẩm, “Ai đó nên đưa Haymitch đi uống rượu đi.”

Tôi bật ra một âm thanh vừa giống tiếng khịt mũi vừa giống tiếng cười. Sau đó tôi nghiêm trang trở lại. Điều này làm tâm trí tôi rối loạn quá mức, cố gắng giữ cho mọi thứ rõ ràng khi chúng tôi được coi như bạn bè và chúng tôi thì không phải. Ít ra khi chúng tôi vào đấu trường, tôi sẽ biết rõ vị trí của chúng tôi. “Đừng. Đừng bắt chúng ta phải đóng kịch khi không có ai ở gần.”

“Được rồi, Katniss,” cậu ấy mệt mỏi nói. Sau đó, chúng tôi chỉ nói chuyện trước mặt mọi người.

Vào ngày thứ ba của đợt huấn luyện, họ bắt đầu gọi chúng tôi rời khỏi bữa trưa cho phần trình diễn cá nhân với các Nhà thiết lập Trò chơi. Lần lượt từng đặc khu, cống phẩm nam trước, cống phẩm nữ sau. Như mọi khi, Đặc khu 12 được xếp cuối cùng. Chúng tôi quanh quẩn trong phòng ăn, không biết chỗ nào khác để đi. Không ai quay lại một khi họ đã rời đi. Khi căn phòng trở nên trống trải, áp lực phải tỏ ra thân thiện giảm đi. Vào lúc họ gọi Rue, chúng tôi bị bỏ lại một mình. Chúng tôi ngồi im lặng cho đến khi họ triệu tập Peeta. Cậu ấy đứng dậy.

“Hãy nhớ những gì Haymitch nói về việc chắc chắn phải ném các quả tạ.” Lời nói bất ngờ buột ra khỏi miệng tôi.

“Cảm ơn. Mình sẽ nhớ,” cậu ấy nói. “Cậu… nhắm thẳng nhé.”

Tôi gật đầu. Tôi không biết tại sao tôi lại nói những điều đó. Dù sao, nếu tôi thất bại, tôi vẫn thích Peeta chiến thắng hơn những người khác. Điều đó tốt hơn cho đặc khu chúng tôi, cho mẹ tôi và Prim.

Sau khoảng mười lăm phút, họ gọi tên tôi. Tôi vuốt lại tóc, thẳng lại vai, và bước vào phòng tập. Ngay lập tức, tôi biết mình gặp bất lợi. Các Nhà thiết lập Trò chơi đã ở đây quá lâu. Ngồi xem suốt các màn trình diễn của hai mươi ba người kia. Phần lớn họ đã uống quá nhiểu rượu. Không muốn gì hơn là được về nhà.

Không có gì tôi có thể làm ngoài việc tiếp tục theo kế hoạch. Tôi bước tới khu vực bắn cung. Ôi, những vũ khí này! Tôi đã ngứa ngáy tay chân với chúng nhiều ngày nay. Những chiếc cung tên được làm từ gỗ, chất dẻo, kim loại và chất liệu gì đó mà tôi thậm chí còn không biết tên. Mũi tên với lông vũ được cắt thành những hình dáng giống nhau đến hoàn hảo. Tôi chọn một chiếc cung, thử dây, quàng ống tên đồng bộ với nó lên vai. Có một bia bắn, nhưng khoảng cách quá hạn chế. Điểm đen tiêu chuẩn và những hình người. Tôi bước ra chính giữa phòng tập và chọn mục tiêu đầu tiên. Hình nộm dùng để tập ném dao. Ngay khi tôi kéo dây cung, tôi đã biết có gì đó không đúng. Dây cung căng hơn cái tôi vẫn dùng ở nhà. Mũi tên thì cứng hơn. Tôi bắn lệch hình nộm đến vài inch và đánh mất đi một chút sự tập trung mà tôi đang có. Trong một lát, tôi thấy bẽ mặt, sau đó tôi quay lại với điểm đen. Tôi bắn đi bắn lại cho đến khi tôi lấy được cảm giác với những vũ khí mới này.

Quay trở lại trung tâm phòng tập, tôi đứng ở vị trí ban đầu và bắn vào hình nộm, trúng ngay vị trí trái tim. Sau đó tôi bắn đứt sợi dây thừng đang treo bao cát dùng để tập đấm bốc, bao cát bị bung ra và nó rơi sầm xuống sàn nhà. Không dừng lại, tôi xoay vai về phía trước, chạm đến tận đầu gối và bắn một mũi tên vào một trong những chiếc đèn treo trên trần phòng tập. Một màn tia lửa tóe ra từ chỗ treo bóng đèn.

Đó là một màn bắn tên rất xuất sắc. Tôi quay lại với những Nhà thiết lập Trò chơi. Chỉ một vài người gật đầu tán thưởng, còn phấn lớn đang xúm quanh một con lợn quay mà vừa mới đưa đến bàn tiệc của họ.

Đột nhiên tôi điên tiết, với cả mạng sống của tôi đặt vào đó, họ ngay cả một chút lịch sự để xem màn trình diễn của tôi cũng không có. Tôi còn không được chú ý bằng một con heo chết. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch, tôi có thể cảm thấy mặt tôi đang bốc hỏa. Không buồn suy nghĩ, tôi rút một mũi tên từ ống tên và bắn thẳng về phía bàn của các Nhà thiết lập Trò chơi. Tôi nghe thấy những tiếng hét thất thanh khi bọn họ ngã nhào ra sau. Mũi tên đã xuyên qua quả táo ở trong miệng con heo quay và cắm thẳng vào bức tường phía sau nó. Mọi người nhìn chằm chằm vào tôi đầy kinh hoàng.

“Cảm ơn sự quan tâm của các ngài,” tôi nói. Sau đó tôi hơi khom người cúi chào và đi thẳng ra cửa mà không cần được cho phép.

CHƯƠNG 8

Tôi sải bước đến thang máy, quăng cung tên và ống tên sang hai bên, lướt qua những Avox gác thang máy đang há hốc miệng và đấm vào nút số mười hai. Cánh cửa đóng lại và thang máy phóng vút lên. Tôi thậm chí quay trở lại tầng của mình trước khi những giọt nước mắt bắt đầu lăn xuống má. Tôi có thể nghe thấy tiếng những người khác gọi tôi từ phòng khách, nhưng tôi chạy thẳng theo hành lang về phòng mình, chốt cửa lại và quăng mình lên giường. Sau đó tôi thực sự bắt đầu nức nở.

Giờ thì tôi đã làm điều đó rồi! Tôi đã phá hủy mọi thứ! Nếu tôi đã từng có một chút cơ hội, thì nó đã tan tành khi tôi bắn mũi tên về phía các Nhà thiết lập Trò chơi. Giờ thì họ sẽ làm gì với tôi? Bắt giữ tôi? Tử hình tôi? Cắt lưỡi và biến tôi thành một Avox để tôi có thể phục dịch các cống phẩm tương lai của Panem? Tôi đã nghĩ cái quái gì mà lại đi bắn các Nhà thiết lập Trò chơi? Tất nhiên, tôi không bắn họ, tôi định bắn vào quả táo bởi vì tôi đã quá giận dữ khi bị họ lờ đi. Nếu tôi định bắn họ, họ đã chết rồi!

Ồ, việc đó thì quan trọng gì chứ? Dù sao thì cũng chưa chắc tôi sẽ chiến thắng trong Trò chơi. Ai thèm quan tâm họ làm gì với tôi cơ chứ? Điều thực sự làm tôi sợ hãi là những gì họ có thể làm với mẹ tôi và Prim, lúc này gia đình tôi phải chịu đựng thế nào bởi sự bốc đồng của tôi. Liệu người ta sẽ lấy đi chút tài sản ít ỏi của họ, hay tống mẹ tôi vào tù và đưa Prim vào nhà từ thiện, hay giết họ? Người ta không thể giết họ, đúng không? Tại sao không? Điều gì khiến họ quan tâm chứ?

Lẽ ra tôi nên ở lại và xin lỗi. Hoặc cười lớn, như thể đó là một trò đùa quá trớn. Sau đó biết đâu tôi có thể kiếm được một chút khoan dung. Nhưng thay vào đó tôi lại hiên ngang rời khỏi đó với thái độ thiếu tôn trọng nhất có thể.

Haymitch và Effie đang gõ cửa phòng tôi. Tôi hét đuổi họ đi và cuối cùng thì họ cũng rời đi. Tôi nằm nức nở một mình cũng phải mất ít nhất một tiếng đồng hồ. Sau đó tôi chỉ nằm cuộn tròn trên giường, vuốt ve tấm khăn trải giường làm từ lụa, ngắm thành phố Capitol như một cửa hàng bánh kẹo nhân tạo đầy sắc màu trong ánh hoàng hôn.

Lúc đầu tôi nghĩ các nhân viên an ninh sẽ đến tìm tôi. Nhưng thời gian trôi qua, điều đó có vẻ không xảy ra. Tôi bình tĩnh lại. Họ vẫn cần một cống phẩm nữ đến từ Đặc khu 12, không phải sao? Nếu các Nhà thiết lập Trò chơi muốn trừng phạt tôi, họ có thể làm công khai. Đợi cho đến khi tôi vào trong đấu trường, xua những con thú hoang đói khát đến chỗ tôi. Bạn có thể đánh cược rằng họ sẽ đảm bảo là tôi không có cung và các mũi tên để bảo vệ chính mình.

Dù sao trước đó, họ sẽ cho tôi một số điểm thật thấp để không ai có đầu óc tỉnh táo có thể tài trợ cho tôi. Đó là điều sẽ xảy ra tối nay. Vì đợt huấn luyện sẽ không công khai với khán giả, các Nhà thiết lập Trò chơi sẽ công bố điểm số cho từng người chơi. Nó sẽ giúp cho khán giả bắt đầu đặt cược và việc đặt cược sẽ kéo dài suốt thời gian diễn ra Trò chơi. Điểm số từ một cho đến mười hai, một thể hiện tình trạng gần như tuyệt vọng, còn mười hai là mức điểm cao hầu như không thể đạt được, cho thấy khả năng chiến thắng của các cống phẩm. Điểm số không đảm bảo người nào sẽ giành chiến thắng. Nó chỉ là một chỉ số về tiềm năng của một cống phẩm đã bộc lộ trong đợt huấn luyện. Thông thường, do sự biến đổi thường xuyên của đấu trường thực tế, những cống phẩm điểm cao bị thất bại gần như ngay lập tức. Và một vài năm trước, cậu bé chiến thắng trong Trò chơi đã chỉ nhận được ba điểm. Tuy nhiên, điểm số vẫn có thể giúp hoặc hại một cống phẩm trong vấn đề nguồn tài trợ. Tôi đã hy vọng khả năng bắn cung của tôi sẽ giúp tôi đạt được điểm sáu hoặc bảy, thậm chí nếu tôi không thực sự có sức mạnh. Bây giờ thì tôi chắc chắn tôi sẽ có điểm số thấp nhất trong số hai mươi tư cống phẩm. Nếu không ai tài trợ cho tôi, khả năng sống sót của tôi giảm xuống gần như bằng không.

Khi Effie đến gõ cửa để gọi tôi ra ăn tối, tôi quyết định là mình cũng đến lúc phải ra khỏi phòng. Điểm số sẽ được thông báo trên tivi tối nay. Tôi không thể trốn tránh mãi những việc đã xảy ra. Tôi vào phòng tắm rửa mặt nhưng nó vẫn đỏ và nhem nhuốc.

Mọi người đang đợi ở bàn ăn, thậm chí cả Cinna và Portia. Tôi ước các chuyên gia thiết kế đừng có mặt vì một số lý do, tôi không thích cái ý tưởng làm họ thất vọng. Nó như là tôi đã không suy nghĩ gì mà ném đi mọi thành quả công việc của họ trong buổi lễ khai mạc. Tôi tránh nhìn mọi người khi tôi húp vài thìa súp cá. Vị mặn làm tôi nhớ tới vị nước mắt của mình.

Những người lớn bắt đầu tán chuyện về dự báo thời tiết, và mắt tôi bắt gặp cái nhìn của Peeta. Cậu ấy nhướn mày. Một câu hỏi. Chuyện gì đã xảy ra? Tôi chỉ gật đầu nhẹ. Sau đó, khi họ phục vụ các món chính, tôi nghe Haymitch nói, “Được rồi, nói chuyện riêng thế là đủ, giờ chỉ cần nói hôm nay các cháu đã biểu hiện tệ thế nào?”

Peeta xen vào. “Cháu không biết nó có ý nghĩa gì. Vào lúc cháu trình diễn, không ai thèm xem cháu. Cháu nghĩ là họ đang bận hát bài hát gì đó về nhậu nhẹt. Thế nên, cháu ném đi vài quả tạ cho đến khi họ bảo cháu có thể đi.”

Điều đó làm tôi cảm thấy tốt hơn chút ít. Có vẻ như Peeta không tấn công các Nhà thiết lập Trò chơi, nhưng ít nhất cậu ấy cũng bị chọc tức.

“Còn cháu thì sao, cháu yêu?” Haymitch hỏi.

Không hiểu sao cách Haymitch gọi tôi là cháu yêu đủ để tôi thấy rằng ít nhất tôi cũng có thể nói. “Cháu đã bắn một mũi tên vào các Nhà thiết lập Trò chơi.”

Tất cả mọi người đều ngừng ăn uống. “Em làm gì cơ?” Sự kinh hoàng trong giọng nói của Effie đã xác nhận những nghi ngờ tồi tệ của tôi.

“Cháu bắn một mũi tên vào họ. Không hẳn là bắn họ. Chỉ là bắn về phía họ thôi. Giống như Peeta nói, cháu đang bắn, và họ lờ tịt cháu đi và cháu chỉ… chỉ mất đi lý trí, nên cháu bắn quả táo bay khỏi miệng con heo quay ngu ngốc của họ!” Tôi bướng bỉnh nói.

“Và họ đã nói gì?” Cinna thận trọng hỏi.

“Không gì cả. Hoặc là em không biết. Em đi ra khỏi phòng ngay sau đó,” tôi nói.

“Mà không được cho phép?” Effie thở dốc.

“Em tự cho phép mình,” tôi trả lời. Tôi nhớ lại tôi đã hứa với Prim tôi sẽ cố gắng để chiến thắng như thế nào và tôi cảm thấy như một tấn than đá đang rơi vào người mình.

“Chà, chính là điều đó,” Haymitch lên tiếng. Rồi ông ấy phết bơ lên chiếc bánh cuộn.

“Bác có nghĩ rằng họ sẽ tống giam cháu không?” tôi hỏi. “Có thể. Sẽ thật đau đớn khi phải thay thế cháu trong giai đoạn này,” Haymitch trả lời.

“Còn về gia đình cháu?” tôi hỏi. “Liệu họ có trừng phạt gia đình cháu không?”

“Ta không nghĩ vậy. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Như vậy họ sẽ phải tiết lộ chuyện gì đã xảy ra ở Trung tâm Huấn luyện để tạo nên hiệu quả đáng giá cho toàn bộ dân chúng. Mọi người sẽ cần biết cháu đã gây ra chuyện gì. Nhưng họ không thể vì nó là bí mật, nên đó sẽ là một cố gắng vô ích,” Haymitch nói. “Có vẻ họ sẽ khiến cuộc sống của cháu thành địa ngục ở trong đấu trường.”

“Vậy sao, dù gì đi nữa thì họ cũng đã hứa hẹn làm điều đó với chúng cháu rồi,” Peeta nói.

“Chính xác,” Haymitch đồng tình. Và tôi nhận ra điều không tưởng đang diễn ra. Họ thật sự đang cố làm cho tôi vui lên. Haymitch với tay nhón lấy một miếng sườn heo, làm cho Effie nhăn mặt lại, và nhúng nó vào ly rượu của ông ấy. Ông ấy ngoạm một miếng thịt và bắt đầu cười thích thú. “Mặt của họ lúc đó như thể nào?”

Tôi có thể cảm thấy khóe miệng của mình cong lên. “Sốc. Hoảng sợ. Ừm, rất lố bịch, một vài người trong số họ.” Một hình ảnh bật ra trong đầu tôi. “Một người đàn ông ngã ngửa ra phía sau, rơi vào bát rượu pân.”

Haymitch bật cười ha hả, mọi người cũng bắt đầu cười ầm lên trừ Effie, nhưng dù sao ngay cả cô ta cũng đang phải cố gắng nín cười. “Thôi nào, đáng đời họ. Việc của họ là phải chú ý vào các cháu. Và chỉ vì các cháu đến từ Đặc khu mười hai không thể là lời giải thích cho việc họ lờ các cháu đi.” Sau đó mắt cô ta lướt một vòng như thể cô ta đang nói một thứ gì đó xúc phạm ghê gớm. “Tôi xin lỗi, nhưng đó là những gì tôi nghĩ,” cô ta nói không thực sự nhằm vào ai.

“Cháu sẽ được điểm rất thấp,” tôi nói.

“Điểm chỉ quan trọng khi chúng cao, không ai chú ý lắm đến những điểm thấp hay xoàng xĩnh. Vì theo những gì họ biết, em có thể đang giấu tài năng của mình để bị điểm thấp nhằm mục đích nào đó. Mọi người cũng hay sử dụng chiến lược đó,” Portia lên tiếng.

“Mình hi vọng đó là những gì mọi người lý giải cho điểm bốn mà mình có thể đạt được,” Peeta nói. “Nếu là thế. Thực sự, đó là bất cứ thứ gì ít ấn tượng hơn hơn việc nhìn một người nhấc một quả tạ lên và ném nó đi khoảng hai mét. Một quả tạ suýt nữa thì rơi trúng chân mình.”

Tôi cười toe toét với cậu ấy và nhận ra là mình đang đói. Tôi cắt vài miếng thịt heo, chấm nó vào khoai tây hầm và bắt đầu ăn. Ổn rồi. Gia đình tôi an toàn. Và nếu họ an toàn thì thực ra cũng chẳng có điều nguy hại thực sự nào xảy ra.

Sau bữa tối, chúng tôi đến phòng khách để xem điểm số được công bố trên tivi. Đầu tiên họ chiếu hình ảnh các cống phẩm, sau đó hiện điểm số ở bên dưới bức ảnh. Những Cống phẩm Chuyên nghiệp thường được mức điểm từ tám đến mười. Phần lớn những người chơi khác đạt mức trung bình năm điểm. Đáng ngạc nhiên là Rue đạt đến điểm bảy. Tôi không rõ cô bé đã trình diễn gì cho các giám khảo nhưng cô bé rất nhỏ bé, nên đó phải là màn trình diễn gì đó rất ấn tượng.

Đặc khu 12 có điểm sau cùng, như thường lệ. Peeta đạt được điểm tám nên ít nhất cũng phải có vài Nhà thiết lập Trò chơi đã xem phần trình diễn của cậu ấy. Tôi cắm móng tay vào lòng bàn tay khi hình ảnh gương mặt tôi hiện lên, chờ đợi điều tồi tệ nhất. Sau đó họ cho hiện lên số mười một trên màn hình.

Mười một!

Effie Trinket ré lên và mọi người thì đến vỗ vào lưng tôi, tươi cười và chúc mừng tôi. Nhưng điều đó dường như không có thật.

“Phải có nhầm lẫn gì đó. Làm thế nào… làm thế nào điều này có thể xảy ra?” Tôi hỏi Haymitch.

“Ta đoán là họ thích sự nóng giận của cháu,” ông trả lời. “Họ cần có một màn trình diễn trên truyền hình. Họ cần một vài người chơi kích động một chút.”

“Katniss, cô gái của lửa,” Cinna lên tiếng và ôm lấy tôi. “Ồ, hãy đợi cho đến khi em nhìn thấy chiếc váy dành cho buổi phỏng vấn.” “Thêm lửa nữa ư?” tôi hỏi. “Cũng gần như vậy,” anh ấy tinh quái nói.

Tôi và Peeta chúc mừng nhau, lại một khoảnh khắc ngượng ngùng khác. Cả hai chúng tôi đều làm rất tốt, nhưng điều đó có ý nghĩa gì với người kia? Tôi trốn về phòng mình nhanh nhất có thể và chui vào chăn. Áp lực trong ngày, nhất là việc khóc lóc cả buổi đã khiến tôi thật sự mệt mỏi. Tôi thiếp đi, trút bỏ mọi gánh nặng, tạm thời quên đi mọi thứ với điểm số mười một vẫn hiện lên trong đầu khi tôi nhắm mắt lại.

Vào lúc bình minh, tôi vẫn nằm dài trên giường, ngắm mặt trời lên trong một buổi sáng đẹp trời. Hôm nay là Chủ nhật. Một ngày nghỉ khi ở nhà. Tôi tự hỏi liệu Gale đã vào rừng chưa. Thông thường chúng tôi thường dùng cả ngày Chủ nhật để kiếm đồ dự trữ cho cả tuần. Dậy sớm, săn bắn và hái lượm, sau đó trao đổi ở Hob. Tôi nghĩ về việc Gale đi săn mà không có tôi. Cả hai chúng tôi đều có thể tự đi săn một mình, nhưng chúng tôi sẽ làm tốt hơn nếu đi cùng nhau. Đặc biệt nếu chúng tôi đang cố gắng để săn một con thú lớn hơn. Nhưng cũng như trong những việc nhỏ hơn, việc có một đồng đội để mang bớt gánh nặng, thậm chí có thể làm cho nhiệm vụ nuôi sống cả gia đình đầy khó khăn trở nên thú vị.

Tôi đã phải tự mình chiến đấu trong suốt khoảng sáu tháng trời trước khi tôi tình cờ gặp Gale trong rừng. Đó là một ngày Chủ nhật trong tháng Mười, không khí mát lạnh và hanh khô làm mọi vật nứt nẻ. Tôi đã dành cả buổi sáng chiến đấu với lũ sóc để giành hạt dẻ và dùng buổi chiều ấm áp hơn một chút để lội xuống những cái ao nước nông thu hoạch củ katniss. Loại thịt duy nhất mà tôi bắn được là một con sóc mà trên thực tế là nó chạy qua mũi chân tôi trong quá trình tìm kiếm quả đấu, nhưng những con thú này vẫn còn hoạt động khi tuyết chôn vùi những nguồn thức ăn khác của tôi. Đã đi quá xa hơn mọi khi, tôi vội vàng quay về nhà, đang kéo lê những chiếc bao tải của mình thì tôi đi ngang qua một con thỏ bị chết. Nó đang bị treo cổ bằng một sợi dây thép mỏng phía trên đầu tôi một foot (khoảng 30cm). Cách đó khoảng mười lăm yard (khoảng 14m) có một con khác. Tôi nhận ra những chiếc bẫy giật dây này bởi cha tôi đã từng dùng nó. Khi con mồi bị trúng bẫy, nó bị kéo lên cao khỏi tầm với của những con thú săn mồi khác. Tôi đã từng cố gắng dùng bẫy suốt mùa hè mà không thành công, nên tôi không thể không bỏ những cái bao tải xuống ðể xem xét cái bẫy này. Những ngón tay tôi chỉ vừa mới chạm vào sợi dây phía trên một con thỏ thì một giọng nói vang lên. “Nguy hiểm.”

Tôi nhảy lùi lại vài feet (1ft ~ 30cm) khi Gale hiện ra từ phía sau một cái cây. Anh ấy chắc đã phải quan sát tôi suốt nãy giờ. Anh ấy chỉ mới mười bốn tuổi, nhưng rõ ràng đã cao đến sáu feet (1.8m) và trông trưởng thành như một người lớn so với tôi. Tôi đã từng nhìn thấy anh ấy ở Seam và ở trường. Và một lần khác nữa. Anh ấy cũng mất cha trong cùng vụ nổ đã giết cha tôi. Trong tháng Giêng, tôi đứng ngay bên cạnh khi anh ấy nhận huân chương cho sự dũng cảm tại Trụ sở tòa án, một đứa trẻ khác lớn hơn cũng không có cha. Tôi vẫn nhớ hai đứa em trai nhỏ của anh ấy đang bám lấy mẹ, người phụ nữ với cái bụng căng tròn cho thấy cô ấy chỉ còn cách ngày sinh vài ngày.

“Tên của em là gi?” anh ấy hỏi, tiến đến gỡ con thỏ ra khỏi bẫy. Anh ấy có ba con khác đang treo ở thắt lưng.

“Katniss,” tôi lí nhí gần như không ra tiếng.

“À, Catnip, trộm cắp sẽ bị xử phạt bằng cái chết đấy, hay em không biết điều đó?” anh ấy nói.

“Katniss,” tôi nói to hơn. “Và em không định ăn trộm nó. Em chỉ muốn xem cái bẫy của anh. Bẫy của em chưa từng bắt được cái gì.”

Anh ấy quắc mắt nhìn tôi, có vẻ không bị thuyết phục. “Vậy em kiếm mấy con sóc đó ở đâu?”

“Em bắn nó.” Tôi kéo cung tên ra khỏi vai mình. Tôi vẫn dùng cái cung nhỏ cha tôi làm cho tôi, nhưng tôi đã tập thử cái lớn hơn khi tôi có thể. Tôi hi vọng đến mùa xuân tôi có thể hạ được những con thú lớn hơn.

Mắt Gale dán chặt vào chiếc cung. “Anh có thể xem nó không?” Tôi đưa nó ra. “Chỉ cần anh nhớ rằng, trộm cắp sẽ bị xử phạt bằng cái chết.”

Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh ấy mỉm cười. Nó biến anh ấy từ một người đầy đe dọa thành một người nào đó mà bạn ước rằng bạn đã biết anh ấy. Nhưng cũng phải mất vài tháng thì tôi mới đáp lại nụ cười đó.

Sau đó chúng tôi nói chuyện về săn bắn. Tôi bảo anh ấy là tôi có thể kiếm cho anh ấy một chiếc cung nếu anh ấy có gì đó để trao đổi. Không phải thức ăn. Tôi muốn kiến thức. Tôi muốn tự làm những chiếc bẫy của mình mà có thể bắt được một thắt lưng những con thỏ béo tròn trong một ngày. Anh ấy đã đồng ý là một thứ gì đó có thể được thực hiện. Khi các mùa cứ thế trôi qua, chúng tôi miễn cưỡng bắt đầu chia sẻ các hiểu biết, vũ khí và những nơi bí mật với nhau, những nơi có nhiều cây mận dại hay gà rừng. Anh ấy dạy tôi đặt bẫy và bắt cá. Tôi thì chỉ cho anh ấy những loại thực vật nào có thể ăn được và cuối cùng cho anh ấy một trong những cây cung trước đây của cha con tôi. Và rồi đến một ngày, không cần ai trong chúng tôi phải nói ra, chúng tôi trở thành một đội. Phân chia công việc và chiến lợi phẩm. Đảm bảo rằng cả hai gia đình chúng tôi đều có thức ăn.

Gale đã cho tôi ý thức về sự an toàn mà tôi đã đánh mất kể từ khi cha tôi mất. Sự bầu bạn của anh ấy đã thay thế cho những giờ dài cô độc trong rừng. Tôi trở thành một thợ săn giỏi hơn rất nhiều khi tôi không phải liên tục ngoái lại vì đã có người trông chừng phía sau lưng tôi. Nhưng anh ấy trở thành một cái gì đó có ý nghĩa hơn là một người bạn săn bắn. Anh ấy trở thành bạn tâm tình của tôi, một người mà với người đó tôi có thể chia sẻ những suy nghĩ mà tôi không bao giờ nói ra khi ở trong hàng rào. Đổi lại, anh ấy cũng tin tưởng tôi với những suy nghĩ của anh ấy. Ở bên ngoài hàng rào, ở trong khu rừng này với Gale… đôi khi tôi thực sự hạnh phúc.

Tôi gọi anh ấy là bạn tôi, nhưng một năm trở lại đây, nó dường như là một từ quá hời hợt để diễn tả việc Gale có ý nghĩa thế nào với tôi. Một khát khao đau đớn nhói lên trong ngực tôi. Ước gì anh ấy đang ở đây với tôi! Nhưng tất nhiên, tôi không mong muốn điều đó. Tôi không muốn anh ấy ở trong đấu trường nơi mà anh ấy sẽ bị giết chết trong vài ngày tới. Tôi chỉ… tôi chỉ nhớ anh ấy. Và tôi ghét cảm thấy quá cô đơn như thế này. Liệu anh ấy có nhớ tôi không? Chắc chắn anh ấy có.

Tôi nghĩ về điểm số mười một hiện lên dưới tên tôi tối qua. Tôi biết chính xác những gì anh ấy sẽ nói với tôi. “Vẫn còn vài chỗ cần phải tập luyện thêm.” Và sau đó anh ấy sẽ mỉm cười với tôi, còn tôi bây giờ cũng không ngần ngại cười với anh ấy.

Tôi không thể không so sánh những gì tôi đã có với Gale với những việc tôi phải giả vờ với Peeta. Làm thế nào mà tôi không bao giờ đặt câu hỏi về động cơ của Gale trong khi tôi không làm gì ngoài khác ngoài việc luôn nghi ngờ lòng tốt của Peeta. Đó thực sự không phải là một sự so sánh công bằng. Gale và tôi đã bị ném vào nhau bởi nhu cầu của cả hai bên trong việc sinh tồn. Peeta và tôi thì đều biết rằng sự sống còn của người này đồng nghĩa với cái chết của người kia. Làm sao bạn có thể lảng tránh được điều đó?

Effie đang gõ cửa phòng, nhắc nhở tôi rằng có một ngày “vô cùng trọng đại” khác đang chờ đợi tôi. Tối mai sẽ là buổi phỏng vấn trên truyền hình của chúng tôi. Tôi đoán cả đội đã bắt tay vào việc chuẩn bị sẵn sàng giúp chúng tôi cho dịp đó.

Tôi ra khỏi giường và tắm qua, cẩn thận hơn một chút trong việc bấm những cái nút điều khiển, rồi hướng đến phòng ăn. Peeta, Effie và Haymitch tập trung quanh bàn ăn thì thầm nói chuyện. Điều đó có vẻ không bình thường, nhưng cơn đói đã chiến thắng trí tò mò nên tôi chất đầy đĩa của mình với bữa sáng trước khi tham gia với họ. Món hầm hôm nay được nấu với những miếng thịt cừu mềm và nho khô. Thật hoàn hảo khi ăn cùng cơm. Tôi đã ngấu nghiến được chừng nửa núi thức ăn trong đĩa thì nhận ra không ai nói chuyện. Tôi nhấp một ngụm nước cam lớn và lau miệng.

“Vậy, chúng ta sẽ làm gì? Bác sẽ hướng dẫn chúng cháu về buổi phỏng vấn hôm nay, đúng không ạ?”

“Đúng vậy,” Haymitch trả lời.

“Bác không cần đợi cho đến khi cháu ăn xong. Cháu có thể vừa nghe vừa ăn,” tôi nói.

“À, có một chút thay đổi về kế hoạch. Về phương pháp hiện tại của chúng ta,” Haymitch nói.

“Đó là gì ạ?” tôi hỏi. Tôi không chắc phương pháp hiện tại của chúng tôi là gì. Cố gắng tỏ ra tầm thường trước mặt các cống phẩm khác là chiến lược cuối cùng mà tôi nhớ được.

Haymitch nhún vai. “Peeta đã yêu cầu được hướng dẫn riêng.”

CHƯƠNG 9

Phản bội. Đó là điều đầu tiên tôi cảm nhận được, mà điều đó lại thật lố bịch. Bởi nếu muốn có sự phản bội, thì trước hết phải có sự tin tưởng đã. Giữa Peeta và tôi. Và tin tưởng thì không phải là một phần của thỏa thuận. Chúng tôi là các cống phẩm. Nhưng cậu bé mà đã chấp nhận bị đánh để cho tôi bánh mì, người đã giúp tôi đứng vững trên xe ngựa diễu hành, người đã bao che cho tôi trong sự việc về cô gái Avox tóc đỏ, người đã nói cho Haymitch biết về khả năng săn bắn của tôi… vẫn luôn hiện diện khiến cho phần nào đó trong tôi không thể không tin tưởng cậu ấy.

Mặt khác, tôi lại cảm thấy nhẹ nhõm vì chúng tôi có thể ngừng việc giả vờ là bạn bè. Tất nhiên, dù mối liên hệ mỏng manh mà chúng tôi đã điên rồ tạo dựng nên đó là gì đi chăng nữa thì nó cũng đã bị cắt đứt. Và cũng đã đến đúng thời điểm. Trò chơi sẽ bắt đầu trong vòng hai ngày nữa, và tin tưởng sẽ chỉ là một điểm yếu. Dù quyết định của Peeta là gì – và tôi nghi ngờ quyết định đó là để đối phó với màn trình diễn vượt trội của tôi so với cậu ấy trong kỳ huấn luyện – thì tôi cũng không nên cảm thấy gì khác ngoài việc biết ơn quyết định đó. Có lẽ cuối cùng cậu ấy đã chấp nhận sự thật là chúng tôi càng sớm thẳng thắn thừa nhận chúng tôi là kẻ thù thì càng tốt cho cả hai.

“Tốt,” tôi nói. “Vậy chương trình hôm nay như thế nào?”

“Mỗi cháu sẽ có bốn giờ với Effie để học cách đi đứng, nói năng và bốn giờ với ta để thảo luận về nội dung phỏng vấn,” Haymitch trả lời. “Cháu bắt đầu với Effie trước, Katniss.”

Tôi không thể tưởng tượng ra Effie sẽ phải dạy tôi cái gì mà kéo dài những bốn tiếng đồng hồ nhưng cô ta chắc sẽ bắt tôi học cho đến phút cuối cùng. Chúng tôi đi về phòng tôi và cô ta cho tôi mặc một chiếc váy dài và đi giày cao gót, không phải chiếc mà tôi sẽ mặc trong buổi phỏng vấn thực sự, và hướng dẫn tôi bước đi. Chiếc giày là phần đau khổ nhất. Tôi chưa từng đi giày cao gót và không thể làm quen với việc cơ bản là chỉ đi đi lại lại trên hai chiếc gót giày nhỏ xíu ở chân. Nhưng Effie vẫn chạy loanh quanh trong những đôi giày đó cả ngày, nên tôi quyết định rằng nếu cô ta có thể làm được điều đó thì tôi cũng có thể. Chiếc váy lại đặt ra một vấn đề khác. Nó cứ luôn quấn vào giày của tôi nên tất nhiên, tôi phải kéo nó lên, và sau đó Effie lại nhảy bổ vào tôi như một con diều hâu, đánh vào tay tôi và la hét, “Không kéo lên khỏi mắt cá chân!” Khi tôi cuối cùng cũng có thể hoàn thành việc đi lại, thì vẫn còn cách ngồi, tư thế – hình như tôi thường có xu hướng cúi đầu xuống – cách giao tiếp bằng mắt, cử chỉ tay, và mỉm cười. Mỉm cười chủ yếu là về việc cười nhiều hơn. Effie bắt tôi phải nói hàng trăm các cụm từ sáo rỗng bắt đầu bằng việc mỉm cười, vừa nói vừa cười, hoặc kết thúc bằng một nụ cười. Đến bữa trưa, các cơ trên mặt tôi co cứng lại do phải hoạt động quá nhiều.

“Vậy thôi, đó là những gì tốt nhất tôi có thể làm,” Effie thở dài. “Katniss, chỉ cần luôn nhớ rằng em muốn khán giả yêu thích em.”

“Và chị không nghĩ rằng họ sẽ yêu thích em, đúng không?” tôi hỏi.

“Sẽ không nếu như em cứ trừng mắt lên với họ suốt. Tại sao em không để dành điều đó khi vào đấu trường? Thay vào đó, hãy nghĩ rằng em đang ở cùng bạn bè,” Effie nói.

“Họ đang cá cược xem em có thể sống được bao lâu!” tôi bùng phát. “Họ không phải bạn em!”

“Vậy thì hãy cố gắng và giả vờ đi!” Effie bật lại. Sau đó cô ta bình tĩnh lại và tươi cười với tôi. “Nhìn nhé, giống như thế này. Tôi đang mỉm cười với em mặc dù em đang chọc tức tôi.”

“Phải, nó có vẻ như rất thuyết phục,” tôi nói. “Em đi ăn đây.” Tôi đá đôi giày cao gót ra và dậm mạnh chân đi xuống phòng ăn, kéo chiếc váy của tôi lên đến tận đùi.

Peeta và Haymitch có vẻ đang trong trạng thái rất tốt, nên tôi nghĩ phần học về nội dung sẽ là một phần cải thiện cho buổi sáng nay. Tôi không thể sai lầm hơn được nữa. Sau bữa trưa, Haymitch đưa tôi đến phòng khách, cho tôi ngồi xuống chiếc ghế dài, và rồi chỉ nhăn mặt nhìn tôi một lúc lâu.

“Gì đây ạ?” cuối cùng tôi lên tiếng hỏi.

“Ta chỉ đang cố nghĩ xem phải làm gì với cháu,” ông ấy nói. “Chúng ta sẽ giới thiệu cháu như thế nào? Cháu sẽ xuất hiện duyên dáng? Cách biệt? Hay dữ dội? Cho đến thời điểm này thì cháu đang tỏa sáng như một ngôi sao. Cháu đã tình nguyện để cứu em gái. Cinna đã làm cho cháu gây ấn tượng khó quên. Cháu đạt điểm huấn luyện cao nhất. Mọi người đều bị kích thích trí tò mò, nhưng không ai biết cháu là ai. Ấn tượng mà cháu tạo ra ngày mai sẽ quyết định chính xác những gì ta có thể đem về cho cháu trong vấn đề nhà tài trợ,” Haymitch nói.

Đã xem các chương trình phỏng vấn cống phẩm trong suốt cuộc đời mình, tôi biết những điều ông ấy nói là sự thật. Nếu bạn thu hút được khán giả, bằng cách tỏ ra hóm hỉnh, tàn bạo hay lập dị, bạn sẽ được yêu thích.

“Phương pháp của Peeta là gì? Hay cháu không được phép hỏi?” tôi nói.

“Rất đáng yêu. Cậu bé có khiếu hài hước bẩm sinh,” Haymitch nói. “Trong khi đó, cứ khi nào mở miệng, cháu đều có vẻ trở nên cáu kỉnh hoặc thù địch.”

“Cháu không thế!” tôi cãi.

“Thôi nào. Ta không biết cháu lôi ở đâu ra cô gái tươi tắn, uyển chuyển trên chiếc xe ngựa diễu hành, nhưng ta chưa từng nhìn thấy cô gái đó trước đây hoặc từ sau đó,” Haymitch nói.

“Và bác đã cho cháu rất nhiều lý do để trở nên vui vẻ,” tôi phản công.

“Nhưng cháu không cần phải làm vui lòng ta. Ta sẽ không tài trợ cho cháu. Vì vậy, hãy giả vờ như ta là khán giả,” Haymitch nói. “Hãy làm cho ta vui vẻ đi.”

“Tốt thôi!” tôi càu nhàu. Haymitch đóng vai trò người phỏng vấn và tôi cố gắng trả lời những câu hỏi của ông ấy với phong thái quyến rũ. Nhưng tôi không thể. Tôi quá giận dữ với Haymitch về những gì ông ấy đã nói và thậm chí về cả việc tôi phải trả lời các câu hỏi. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là mọi thứ thật bất công, cái Trò chơi sinh tử này. Tại sao tôi phải đi đi lại lại như những con chó được huấn luyện, cố gắng làm vui lòng những người tôi căm ghét? Cuộc phỏng vấn diễn ra càng lâu, sự giận dữ của tôi dường như thể hiện càng rõ, cho đến khi tôi, theo đúng nghĩa đen, là phun ra câu trả lời vào mặt ông ấy.

“Được rồi, đủ rồi,” ông nói. “Chúng ta phải tìm một góc độ khác. Không chỉ vì cháu luôn có thái độ thù địch, mà vì ta cũng không biết gì về cháu. Ta đã hỏi cháu năm mươi câu hỏi và ta vẫn không có được bất cứ ý tưởng nào về cuộc sống của cháu, gia đình cháu, điều làm cháu quan tâm. Họ muốn biết về cháu, Katniss.”

“Nhưng cháu không muốn họ biết. Họ đã cướp đi tương lai của cháu! Họ không thể lại có được cả những thứ cháu quan tâm trước kia!” tôi nói.

“Thế thì nói dối đi! Bịa ra chuyện gì đó đi!” Haymitch nói.

“Cháu không giỏi nói dối.”

“À, thế thì cháu tốt hơn hết là nên học thật nhanh đi. Cháu đã bắt đầu di chuyển duyên dáng như một con sên chết rồi đấy,” Haymitch nói.

Ôi. Quá đau. Ngay cả Haymitch cũng phải nhận thấy là ông đã quá cay nghiệt bởi ông ấy đã hạ giọng xuống. “Đây là một ý tưởng. Hãy thử tỏ ra khiêm tốn.”

“Khiêm tốn,” tôi lặp lại.

“Rằng cháu không thể tin được một cô gái nhỏ đến từ Đặc khu 12 có thể làm được tốt thế này. Mọi thứ còn hơn tất cả những gì cháu có thể tưởng tượng. Nói về các trang phục của Cinna. Những người ở đây tốt như thế nào. Thành phố này làm cháu kinh ngạc ra sao. Nếu cháu không muốn nói về mình, ít nhất nên ca ngợi khán giả. Chỉ cần tiếp tục quay vòng nó, được chứ. Nói liên tục một thôi một hồi luôn.”

Nhưng giờ tiếp theo thật khổ sở. Đầu tiên, rõ ràng là tôi không thể nói liên tục một thôi một hồi được. Chúng tôi cũng thử cho tôi đóng vai kẻ tự phụ, nhưng chỉ tội tôi không có vẻ kiêu ngạo. Có vẻ như tôi cũng quá “mong manh” để đóng vai dữ tợn. Tôi cũng không hóm hỉnh. Vui nhộn. Quyến rũ. Hay bí ẩn.

Đến cuối buổi tập luyện, tôi vẫn không trở thành hình mẫu nào cả. Haymitch bắt đầu uống rượu, chẳng còn chút dấu vết của sự hóm hỉnh, và sự cáu kỉnh đã len lỏi trong giọng nói ông ấy. “Ta từ bỏ, cháu yêu ạ. Chỉ cần trả lời các câu hỏi và cố gắng đừng để cho khán giả thấy cháu công khai khinh thường bọn họ thế nào.”

Tối đó tôi ăn tối trong phòng mình, yêu cầu một lượng lớn các món ngon, ăn đến phát bệnh, sau đó xả hết những tức giận của mình với Haymitch, với Trò chơi sinh tử, và tất cả những người sống ở Capitol bằng cách đập vỡ hết đĩa ở trong phòng. Khi cô gái tóc đỏ bước vào để dọn giường tôi, cô ấy trợn tròn mắt trước đống lộn xộn. “Cứ để đó đi!” tôi hét lên với cô ấy. “Cứ để nguyên như thế!”

Tôi cũng ghét cô ấy, đôi mắt trách cứ và thấu hiểu của cô ấy đang gọi tôi là một kẻ hèn nhát, một ác quỷ, một con thú cưng của Capitol, bây giờ và sau này cũng thế. Đối với cô ấy, công lý cuối cùng cũng được thực thi. Ít ra cái chết của tôi cũng giúp đền bù được phần nào cái chết của chàng trai trong rừng.

Nhưng thay vì biến khỏi phòng, cô gái đóng cánh cửa phía sau lưng lại và đi vào phòng tắm. Cô ấy quay lại với một chiếc khăn ướt, nhẹ nhàng lau mặt tôi rồi lau sạch máu trên vết thương ở tay do bị một chiếc đĩa vỡ cứa vào. Tại sao cô ấy lại làm việc này? Tại sao tôi lại để cô ấy làm vậy?

“Đáng lẽ em nên cố gắng cứu hai người,” tôi thì thào.

Cô ấy lắc đầu. Có phải điều đó có nghĩa rằng chúng tôi đã đúng khi không làm gì không? Rằng cô ấy đã tha thứ cho tôi?

“Không, điều đó là sai,” tôi nói tiếp.

Cô ấy đập nhẹ ngón tay lên môi mình rồi chỉ vào ngực tôi. Tôi nghĩ ý cô ấy là tôi cũng sẽ kết thúc bằng việc trở thành một Avox. Có lẽ vậy. Một Avox hoặc chết.

Tôi dành cả giờ sau đó giúp cô gái tóc đỏ dọn dẹp căn phòng. Khi tất cả rác được đem vứt đi và thức ăn được dọn sạch, cô ấy trải lại giường cho tôi. Tôi cuộn tròn trong chăn như đứa trẻ năm tuổi và để cô ấy giúp tôi nằm xuống. Sau đó cô ấy rời đi. Tôi muốn cô ấy ở lại cho đến khi tôi ngủ. Ở đây khi tôi thức dậy. Tôi muốn sự che chở của cô gái này, mặc dù cô ấy chưa bao giờ có được sự bảo vệ của tôi.

Đến sáng, không phải cô gái đó mà là nhóm chuẩn bị của tôi dựng tôi dậy. Bài học với Effie và Haymitch đã kết thúc. Ngày hôm nay thuộc về Cinna. Anh ấy là hy vọng cuối cùng của tôi. Có lẽ anh ấy có thể làm cho tôi trở nên tuyệt vời đến mức không ai thèm quan tâm đến những gì thoát ra từ miệng tôi.

Cả nhóm làm việc với tôi đến tận chiều muộn, biến làn da tôi trở nên hồng hào, trơn mịn như sa tanh, vẽ hoa văn lên cánh tay, sơn hình ngọn lửa lên hai mươi móng tay và chân hoàn hảo của tôi. Sau đó Venia bắt đầu làm tóc cho tôi, kết những lọn tóc màu đỏ thành một kiểu tóc mà bắt đầu từ bên tai trái, quấn vòng quanh đầu rồi tết lại thành một lọn thả sang bên vai phải. Họ tẩy trắng khuôn mặt của tôi bằng các lớp phấn và trang điểm các đường nét trên khuôn mặt nổi bật lên. Đôi mắt to sẫm màu, đôi môi đỏ mọng, mi mắt sẽ phát ra một chút ánh sáng khi tôi chớp mắt. Cuối cùng họ phủ lên cơ thể tôi một loại phấn làm cho cả người tôi lấp lánh ánh vàng.

Sau đó Cinna bước vào mang theo một thứ mà tôi cho là váy của tôi, nhưng tôi không thể nhìn rõ được nó vì nó được gói lại. “Nhắm mắt lại,” anh ấy ra lệnh cho tôi.

Tôi có thể cảm nhận thấy sự bóng mịn như tơ của mặt trong khi họ trượt chiếc váy xuống cơ thể trần trụi của mình, sau đó là sức nặng. Nó phải nặng đến bốn mươi pound (khoảng 18kg). Tôi phải bám chặt lấy tay Octavia khi tôi nhắm mắt xỏ vào đôi giày, vui mừng khi nhận thấy chúng tối thiểu thấp hơn hai inch (khoảng 5cm) so với đôi giày mà Effie bắt tôi tập đi. Có một vài sự điều chỉnh và tiếng sột soạt. Sau đó thì hoàn toàn im ắng.

“Em có thể mở mắt được chưa?” tôi hỏi.

“Được rồi,” Cinna trả lời. “Mở mắt đi nào.”

Tạo vật đang đứng trước mặt tôi trong chiếc gương lớn kia chắc phải đến từ một thế giới khác. Nơi mà làn da tỏa sáng lung linh, đôi mắt sáng long lanh, và hình như họ làm quần áo từ các loại trang sức quý giá. Bởi vì chiếc váy của tôi, ôi trời, chiếc váy của tôi hoàn toàn được bao phủ trong ánh sáng lấp lánh của các loại đá quý, đỏ, vàng và trắng với một ít màu xanh làm nổi bật những đường nét của họa tiết hình ngọn lửa. Chỉ một chuyển động nhỏ nhất cũng gây ra ấn tượng là tôi đang bị nhấn chìm trong các tia lửa nóng bỏng.

Tôi không xinh xắn. Tôi không đẹp. Tôi chỉ chói sáng, rực rỡ như mặt trời.

Trong một lúc lâu, tất cả chúng tôi chỉ nhìn chằm chằm vào tôi. “Ôi, Cinna,” cuối cùng tôi cũng thì thào. “Cảm ơn anh.”

“Xoay một vòng cho anh xem nào,” anh ấy nói. Tôi dang hai tay và quay một vòng. Cả nhóm chuẩn bị hét lên ngưỡng mộ.

Cinna cho cả nhóm ra ngoài và đỡ tôi đi xung quanh phòng trong chiếc váy và đôi giày cao gót dễ điều khiển hơn rất nhiều so với những thứ của Effie. Chiếc váy được thả xuống theo một cách rất thoải mái khiến tôi không phải kéo lên khi bước đi, bớt cho tôi một việc nhỏ nhặt nhất phải lo lắng.

“Vậy, tất cả đã sẵn sàng cho buổi phỏng vấn rồi chứ?” Cinna hỏi. Qua nét mặt của anh ấy tôi có thể thấy rằng anh ấy đã nói chuyện với Haymitch. Anh ấy đã biết được tôi là người khó chịu thế nào.

“Em thật tồi tệ. Haymitch đã gọi em là một con sên chết. Dù cố gắng thế nào đi nữa, em cũng không thể làm được. Em chỉ không thể trở thành bất cứ ai trong số những hình mẫu mà ông ấy muốn em trở thành,” tôi nói.

Cinna nghĩ về điều đó một lát. “Tại sao em không chỉ là chính mình?”

“Chính mình? Điều đó cũng không ổn. Haymitch nói em luôn sưng sỉa và có thái độ thù địch,” tôi trả lời.

“À, em là… ở gần Haymitch,” Cinna vừa nói vừa cười. “Anh không thấy em như vậy. Nhóm chuẩn bị rất yêu quý em. Em thậm chí còn chiếm được cảm tình của các Nhà thiết lập Trò chơi. Và cũng như vậy đối với các công dân của Capitol, chà, họ không thể ngừng việc bàn tán về em. Không ai có thể không khâm phục sự can đảm của em.”

Sự can đảm của tôi? Đây là một ý tưởng hoàn toàn mới. Tôi không chắc ý nghĩa chính xác của nó là gì, nhưng nó gợi lên hình ảnh tôi là một chiến binh. Một kiểu dũng cảm nào đó. Nó không có vẻ như tôi không bao giờ thân thiện. Được rồi, có lẽ tôi không dễ dàng yêu quý tất cả những người tôi gặp, có thể nụ cười của tôi cũng khó có được, nhưng tôi thật sự quan tâm đến một số người.

Cinna nắm bàn tay lạnh như băng của tôi trong đôi tay ấm áp của anh ấy. “Thế này nhé, khi em trả lời các câu hỏi, em hãy nghĩ là em đang nói chuyện với một người bạn ở nhà. Ai là người bạn tốt nhất của em?” Cinna hỏi.

“Gale,” tôi trả lời ngay lập tức. “Chỉ là, điều đó cũng không ý nghĩa gì, Cinna. Em sẽ không bao giờ kể cho Gale nghe những thứ đó. Anh ấy đã biết hết chúng rồi.”

“Thế anh thì sao? Em có thể nghĩ về anh như một người bạn không?” Cinna hỏi.

Trong tất cả những người tôi đã gặp kể từ khi rời khỏi nhà, Cinna là người tôi thích nhất. Tôi đã thích anh ấy ngay từ đầu và anh ấy chưa từng làm tôi thất vọng. “Em nghĩ vậy, nhưng…”

“Anh sẽ ngồi ở khán đài chính với các chuyên gia thiết kế khác. Em có thể nhìn thẳng vào anh. Khi em được hỏi, hãy nhìn anh và trả lời câu hỏi chân thật nhất có thể,” Cinna nói.

“Thậm chí nếu những điều em nghĩ rất kinh khủng ư?” tôi hỏi. Bởi vì nó thực sự có thể xảy ra.

“Đặc biệt nếu những điều em nghĩ là kinh khủng,” Cinna trả lời. “Em sẽ thử làm nó chứ?”

Tôi gật đầu. Nó là một kế hoạch. Hay ít ra nó cũng là một tấm ván để tôi chộp lấy khi sắp chết chìm.

Quá nhanh đã đến lúc phải đi. Cuộc phỏng vấn sẽ diễn ra trên một sân khấu được dựng lên ngay trước Trung tâm Huấn luyện. Một khi tôi rời khỏi phòng mình thì thời gian sẽ chỉ còn tính bằng phút cho đến khi tôi xuất hiện trước đám đông, máy quay, và toàn thể Panem.

Khi Cinna xoay nắm cửa, tôi dừng tay anh ấy lại. “Cinna…” tôi hoàn toàn mất tinh thần bởi nỗi sợ hãi sân khấu.

“Hãy nhớ rằng họ đã yêu quý em rồi,” Cinna dịu dàng nói. “Chỉ cần là chính em thôi.”

Chúng tôi tập hợp với cả nhóm của Đặc khu 12 ở thang máy. Portia và ê kíp của cô ấy chắc đã phải làm việc rất vất vả. Peeta trông thật nổi bật trong trang phục màu đen với các điểm nhấn họa tiết ngọn lửa. Khi chúng tôi đứng cạnh nhau, thật không khó để nhận ra chúng tôi ăn mặc đồng bộ. Haymitch và Effie cũng được chưng diện cho dịp này. Tôi tránh Haymitch nhưng chấp nhận lời khen tặng của Effie. Effie có thể phiền hà và thiếu một số kiến thức nhưng cô ta không khó chịu như Haymitch.

Khi thang máy mở ra, các cống phẩm khác đã xếp hàng để được đưa lên sân khấu. Tất cả hai mươi tư người chúng tôi được ngồi thành một hình cung lớn trong suốt các cuộc phỏng vấn. Tôi sẽ là người cuối cùng hoặc người áp chót vì các cống phẩm nữ sẽ kế tiếp các cống phẩm nam cùng đặc khu. Sao mà tôi ước tôi trở thành người đầu tiên đến thế và có thể nhanh chóng thoát được tất cả những thứ này! Giờ thì tôi phải ngồi nghe những người khác hóm hỉnh, hài hước, khiêm tốn, dữ tợn và duyên dáng như thể nào trước khi tôi bước lên. Thêm vào đó, khán giả sẽ bắt đầu thấy nhàm chán, giống như các Nhà thiết lập Trò chơi lúc trước. Và tôi chắc chắn là không thể bắn một mũi tên về phía khán giả để thu hút sự chú ý của họ.

Ngay khi chúng tôi chuẩn bị lên sân khấu, Haymitch xuất hiện ngay sau lưng Peeta và tôi và gầm gừ, “Hãy nhớ, các cháu vẫn là một cặp hạnh phúc. Cho nên hãy hành động giống như vậy.”

Gì vậy? Tôi đã nghĩ rằng chúng tôi đã được giải phóng từ lúc Peeta yêu cầu được huấn luyện riêng. Nhưng tôi đoán đó chỉ là chuyện riêng, chứ không công khai. Dù sao đi nữa bây giờ cũng không còn nhiều cơ hội để chúng tôi phải diễn với nhau, vì chúng tôi sẽ bước từng người một lên sân khấu và vào vị trí của mình. Chỉ bước lên sân khấu thôi cũng làm cho hơi thở của tôi trở nên dồn dập. Tôi có thể cảm nhận được mạch máu giật giật ở hai bên thái dương. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi ngồi được vào ghế của mình vì với gót giày cao và đôi chân run rẩy, tôi sợ rằng tôi sẽ trượt ngã. Mặc dù màn đêm đã buông xuống, Quảng trường thành phố vẫn sáng hơn ánh sáng của ngày hè. Một khán đài trên cao được dựng lên cho các vị khách danh dự, bao gồm các chuyên gia thiết kế được xếp ngồi ngay hàng đầu. Các máy quay sẽ hướng vào họ khi khán giả hưởng ứng các thiết kế của họ. Một ban công lớn của tòa nhà bên phải được dành cho các Nhà thiết lập Trò chơi. Đội ngũ phóng viên truyền hình phần lớn tập trung ở các ban công khác. Nhưng Quảng trường thành phố và các đại lộ dẫn đến nó vẫn chật cứng người. Chỉ đủ không gian để đứng. Ở nhà và các hội trường công cộng khắp cả nước, mọi chiếc ti vi đều được bật lên. Mọi công dân của Panem đều được phủ sóng. Sẽ không có trường hợp mất tín hiệu vào tối nay.

Caesar Flickerman, người đàn ông đã dẫn chương trình phỏng vấn hơn bốn mươi năm nay đang huênh hoang trên sân khấu. Có một chút đáng sợ bởi diện mạo của ông ta nhìn như không hề thay đổi suốt thời gian qua. Vẫn khuôn mặt đó bên dưới lớp phấn trắng trang điểm.Vẫn một kiểu tóc được ông ta nhuộm bằng các màu khác nhau qua mỗi kỳ Trò chơi sinh tử. Vẫn kiểu trang phục sang trọng đó, bộ dạ phục màu xanh gắn hàng nghìn những bóng điện nhỏ xíu lấp lánh như ánh sao. Họ làm phẫu thuật thẩm mĩ tại Capitol, khiến cho mọi người trông trẻ hơn và thanh tú hơn. Ở Đặc khu 12, già đi có thể được coi như một kiểu thành tích nào đó bởi rất nhiều người chết sớm. Bạn nhìn thấy một người cao tuổi bạn sẽ muốn chúc mừng tuổi thọ của họ và hỏi họ bí quyết để sống lâu như vậy. Một người béo tốt sẽ bị ghen tỵ vì họ không phải kiếm ăn lần hồi như phần lớn chúng tôi. Nhưng ở đây, mọi thứ khác hẳn. Vết nhăn là không được ưa thích. Vòng eo to không phải là dấu hiệu của thành công.

Năm nay, tóc Caesar màu xanh lơ, mí mắt và môi được đánh cùng màu. Ông ta trông quái đản nhưng vẫn không đáng sợ bằng năm ngoái khi cả người ông ta màu đỏ thẫm và trông ông ta như bị nhuốm máu tươi. Caesar kể một vài câu chuyện cười để làm nóng khán giả nhưng sau đó bắt đầu công việc chính.

Cô gái từ Đặc khu 1, trông thật khêu gợi trong chiếc váy ánh vàng xuyên thấu, bước lên trung tâm sân khấu cùng với Caesar để phỏng vấn. Bạn có thể nói rằng cố vấn của cô ấy không gặp khó khăn gì để tìm ra một hình mẫu cho cô ấy. Với mái tóc vàng mượt mà đó, đôi mắt xanh như ngọc lục bảo, dáng người cao và nảy nở… trông cố ấy quyến rũ ở mọi góc độ.

Mỗi cuộc phỏng vấn chỉ kéo dài ba phút. Sau đó tiếng chuông báo hiệu ngân lên và cống phẩm tiếp theo bước lên sân khấu. Tôi sẽ nói điều này vì Caesar, ông ta thực sự đã cố hết sức để làm cho các cống phẩm tỏa sáng. Trong cách dẫn dắt của mình, ông ta tỏ ra thân thiện, cố gắng làm cho một người đang hồi hộp trở nên bình tĩnh, cười lớn với câu chuyện cười dở tệ, và có thể tỏ ra mềm yếu trước một người đáng nhớ.

Tôi ngồi giống như một quý cô, theo cách mà Effie đã dạy, khi các đặc khu lần lượt được phỏng vấn. 2, 3, 4. Diễn xuất của mọi người có vẻ nổi bật lên vài hình mẫu. Cậu trai khổng lồ đến từ Đặc khu 2 là một cỗ máy giết người không thương xót. Cô gái có khuôn mặt xảo quyệt từ Đặc khu 5 thì tinh ranh và khó nắm bắt. Tôi nhận ra Cinna ngay khi anh ấy ngồi vào chỗ, nhưng ngay cả sự xuất hiện của anh ấy cũng không làm tôi cảm thấy thoải mái hơn. 8, 9, 10. Cậu bé tàn tật từ Đặc khu 10 rất trầm lặng. Lòng bàn tay tôi đổ mô hôi như điên, nhưng chiếc váy đầy trang sức này không thấm mồ hôi, và chúng sẽ bị tuột ra ngay nếu tôi không cố gắng làm khô chúng. 11.

Rue, mặc chiếc váy mỏng nhẹ như tơ gắn thêm đôi cánh, lướt nhẹ nhàng đến bên Caesar. Một sự im lặng bao trùm cả đám đông trước hình ảnh cống phẩm nhỏ bé kỳ diệu này. Caesar rất ngọt ngào với cô bé, khen ngợi điểm bảy của cô bé trong kỳ huấn luyện, một điểm số xuất sắc cho một cô gái bé nhỏ. Khi ông ta hỏi điểm mạnh nhất của cô bé trong đấu trường là gì, cô bé không ngần ngại. “Cháu rất khó bị bắt,” cô bé nói với giọng rụt rè. “Và nếu họ không thể bắt được cháu, họ sẽ không thể giết cháu. Thế nên đừng tính đến cháu.”

“Ta sẽ không trong một triệu năm nữa,” Caesar khuyến khích.

Cậu trai đến từ Đặc khu 11, Thresh, cũng có làn da sẫm màu như Rue, nhưng sự giống nhau chỉ dừng lại ở đó. Cậu ta là một trong những người khổng lồ, chắc cao khoảng 6 feet rưỡi (gần 2m) và to như một con bò mộng, nhưng tôi nhận ra cậu ấy đã từ chối lời mời chào gia nhập nhóm của những Cống phẩm Chuyên nghiệp. Thay vào đó, cậu ta rất cô độc, không nói chuyện với ai, tỏ ra ít hứng thú với việc huấn luyện. Mặc dù vậy, cậu ta vẫn đạt điểm mười và thật không khó để hình dung ra cậu ta đã gây ấn tượng cho các Nhà thiết lập Trò chơi thế nào. Cậu ta lờ đi những cố gắng của Caesar trong việc chọc cười và chỉ trả lời các câu hỏi bằng có hoặc không hoặc giữ im lặng.

Nếu như tôi có kích cỡ như cậu ta, tôi có thể xoay sở được với vẻ mặt sưng sỉa, thù địch và nó sẽ thật phù hợp! Tôi dám cá một nửa số nhà tài trợ ít nhất là cũng đang xem xét về trường hợp cậu ta. Nếu tôi có tiền, tôi cũng sẽ cược cho cậu ta.

Và sau đó họ gọi Katniss Everdeen, và tôi có thể cảm thấy chính mình, như đang trong mơ, đứng dậy và bước đến trung tâm sân khấu. Tôi bắt lấy bàn tay đang đưa ra của Caesar, và ông ta đã có một thái độ rất nho nhã khi không ngay lập tức lau tay vào quần áo của mình.

“Vậy, Katniss, Capitol chắc chắn là một sự khác biệt hoàn toàn so với Đặc khu 12. Điều gì gây ấn tượng cho cháu nhất kể từ khi cháu tới đây?” Caesar hỏi.

Gì vậy? Ông ấy vừa nói gi? Như thể mọi từ ngữ đều không có nghĩa gì.

Miệng tôi há ra khô khốc như đang ngậm mùn cưa. Tôi liều mạng tìm Cinna trong đám đông và dán chặt mắt vào anh ấy. Tôi tưởng tượng ra từ ngữ bật ra từ miệng anh ấy. “Điều gì gây ấn tượng cho cháu nhất kể từ khi cháu tới đây?” Tôi cố nặn óc mình ra thứ gì đó đã làm tôi cảm thấy hạnh phúc khi ở đây. Hãy thành thật, tôi nghĩ. Hãy thành thật.

“Món thịt cừu hầm,” tôi trả lời.

Caesar cười lớn, và tôi ngờ ngợ nhận ra một số khán giả cũng bật cười theo.

“Cái món nấu với nho khô ấy à?” Caesar hỏi. Tôi gật đầu. “Ồ, cháu ăn cả một đĩa khổng lồ.” Ông ấy ôm bụng quay sang phía khán giả với vẻ khiếp sợ. “Điều đó không thể hiện ra, đúng không?” Họ hò hét bảo đảm với ông ta và vỗ tay hoan nghêng. Đó là điều mà tôi đã nói về Caesar. Ông ta luôn cố gắng giúp bạn nổi bật.

“Giờ thì, Katniss,” ông ta bộc bạch. “Khi cháu xuất hiện trong buổi lễ khai mạc, tim ta thật sự ngừng đập. Cháu đã nghĩ gì về bộ trang phục đó?”

Cinna nhướng một bên mày nhìn tôi. Hãy thành thật. “Ý của bác là sau khi cháu đã vượt qua được nỗi sợ hãi bị thiêu sống ư?” tôi hỏi.

Một tràng cười lớn. Tràng cười thực sự từ phía khán giả.

“Đúng. Từ lúc đó,” Caesar trả lời.

Cinna, bạn của tôi, dù sao đi nữa tôi cũng nên nói với anh ấy điều này. “Cháu nghĩ Cinna thật tuyệt vời và đó là bộ trang phục đẹp nhất mà cháu từng nhìn thấy và cháu không thể tin được là cháu đã mặc nó. Cũng như cháu không thể tin được cháu đang mặc bộ váy này. Tôi nâng váy lên và xòe rộng nó ra. “Ý cháu là, hãy nhìn nó này!”

Khán giả ầm ầm lên ồ và à, tôi thấy Cinna đang dùng ngón tay vẽ một vòng tròn nhỏ. Nhưng tôi biết anh ấy định nói gì. Xoay một vòng cho anh xem nào.

Tôi xoay một vòng và hiệu ứng xuất hiện ngay lập tức.

“Ồ, làm lại đi!” Caesar nói, và thế là tôi dang hai tay ra quay vòng vòng khiến cho đuôi váy bay lên xòe rộng ra và làm cho chiếc váy nhấn chìm tôi trong ngọn lửa. Khán giả vỡ òa ra trong tiếng reo vui. Khi tôi dừng lại, tôi phải bám lấy cánh tay Caesar.

“Đừng dừng lại!” ông ta nói.

“Cháu phải dừng thôi, cháu chóng mặt!” tôi cười khúc khích, điều mà tôi nghĩ rằng tôi chưa từng làm trong suốt cuộc đời mình. Nhưng sự kích động thần kinh và việc xoay tròn đã tác động lên tôi.

Caesar vòng tay đỡ lấy tôi. “Đừng lo, ta đã đỡ cháu rồi. Không thể để cháu theo bước người cố vấn của cháu được.”

Mọi người huýt sáo chế giễu khi những chiếc máy quay tìm đến Haymitch, người mà giờ đây đã rất nổi tiếng với việc lao đầu xuống khỏi khán đài trong buổi tuyển chọn cống phẩm và ông ấy rất đôn hậu vẫy tay xua họ đi và chỉ ngược lại phía tôi.

“Không sao đâu,” Caesar đảm bảo với khán giả. “Cô bé an toàn với tôi. Nào, về điểm số trong kỳ huấn luyện. Mư-ờ-i m-ộ-t. Hãy cho chúng ta một gợi ý về việc gì đã xảy ra ở đó.”

Tôi liếc nhìn các Nhà thiết lập Trò chơi trên ban công và cắn môi. “Ừm… tất cả những gì cháu có thể nói, là cháu nghĩ nó là màn trình diễn ấn tượng nhất.”

Những chiếc camera chiếu ngay đến các Nhà thiết lập Trò chơi đang cười tủm tỉm và gật đầu.

“Cháu đang giết chúng tôi đấy,” Caesar nói như thể đang thực sự đau đớn. “Cụ thể. Cụ thể hơn đi.”

Tôi hướng về phía ban công. “Cháu không được phép nói về nó, đúng không ạ?”

Nhà thiết lập Trò chơi mà đã ngã vào bát rượu pân hét lên, “Cô bé không được phép!”

“Cảm ơn ngài,” tôi nói. “Xin lỗi. Miệng cháu đã bị dán lại rồi.”

“Quay trở lại nào, tới thời điểm mà họ gọi tên em cháu ở buổi chọn cống phẩm,” Caesar nói. Thái độ của ông ấy lúc này trở nên trầm lặng. “Và cháu đã tình nguyện. Cháu có thể kể với chúng ta về cô bé không?”

Không. Không, không phải tất cả các người. Nhưng Cinna thì có thể. Tôi không nghĩ tôi đang tưởng tượng ra vẻ mặt buồn rầu của anh ấy. “Tên cô bé là Prim. Em ấy chỉ mới mười hai tuổi. Và cháu yêu em hơn bất cứ thứ gì.”

Bạn có thể nghe thấy tiếng động nhỏ nhất tại Quảng trường thành phố ngay lúc này.

“Cô bé đã nói gì với cháu? Sau buổi chọn cống phẩm?” Caesar hỏi.

Hãy thành thật. Hãy thành thật. Tôi nuốt xuống khó khăn. “Con bé đã yêu cầu cháu phải cố gắng hết sức để chiến thắng.” Khán giả lặng đi, bám lấy từng lời của tôi.

“Và cháu đã nói gì?” Caesar dịu dàng hỏi ngay.

Nhưng thay vì sự ấm áp, tôi lại cảm thấy sự cứng rắn lạnh lẽo bao trùm cơ thể. Cơ bắp của tôi căng ra như thể nó đang chuẩn bị cho sự giết chóc. Khi tôi cất tiếng, giọng tôi dường như rơi xuống quãng tám. “Cháu đã thề là cháu sẽ cố hết sức.”

“Tôi cá là cháu ðã nói vậy,” Caesar nói, siết chặt lấy tôi. Tiếng chuông hết giờ vang lên. “Rất tiếc chúng ta đã hết giờ. Chúc may mắn, Katniss Everdeen, cống phẩm từ Đặc khu 12.”

Tràng pháo tay kéo dài rất lâu sau khi tôi đã về chỗ ngồi. Tôi nhìn Cinna để tìm kiếm sự bảo đảm. Anh ấy đã khéo léo giơ ngón tay cái lên với tôi.

Tôi vẫn trong trạng thái mê mụ trong phần đầu cuộc phỏng vấn của Peeta. Dù sao thì cậu ấy cũng được lòng khán giả ngay từ lúc bắt đầu. Tôi có thể nghe thấy họ cười đùa, la hét. Cậu ấy đóng vai con trai của một ông chủ tiệm bánh, so sánh các cống phẩm với những chiếc bánh mì từ đặc khu của họ. Sau đó còn có một giai thoại hài hước về sự nguy hiểm của vòi tắm hoa sen ở Capitol. “Nói cho cháu biết, có phải cháu vẫn có mùi hương của hoa hồng không?” cậu ấy hỏi Caesar, rồi sau đó còn có cả một màn họ quay ra hít ngửi nhau khiến cho khán giả cười ầm. Tôi tập trung trở lại khi Caesar hỏi cậu ấy rằng cậu ấy có bạn gái ở quê nhà không.

Peeta ngập ngừng, sau đó lắc đầu một cách thiếu dứt khoát.

“Một chàng trai đẹp trai như cháu. Phải có một cô gái đặc biệt nào đó. Thôi nào, tên cô ấy là gì?” Caesar nói.

Peeta thở dài. “À, có một cô gái. Cháu đã phải lòng cô ấy suốt từ hồi cháu còn có thể nhớ được đến giờ. Nhưng cháu hoàn toàn chắc chắn cô ấy không biết đến sự tồn tại của cháu cho đến buổi chọn cống phẩm.”

Những âm thanh của sự cảm thông đến từ phía khán giả. Họ có thể liên hệ đến một tình yêu không được đáp lại.

“Cô ấy đã có một anh chàng khác ư?” Caesar hỏi.

“Cháu không biết, nhưng có rất nhiều chàng trai thích cô ấy,” Peeta trả lời.

“Vậy, đây là việc cháu phải làm. Cháu chiến thắng và trở về nhà. Lúc đó, cô ấy không thể từ chối cháu, đúng không?” Caesar động viên.

“Cháu không nghĩ điều đó sẽ có tác dụng. Chiến thắng… không giúp gì được trong trường hợp của cháu,” Peeta nói.

“Tại sao lại không chứ?” Caesar nói, tỏ ra khó hiểu.

Peeta mặt đỏ như gấc và lắp bắp. “Bởi vì… bởi vì… cô ấy đến đây cùng với cháu.”

PHẦN II: TRÒ CHƠI

CHƯƠNG 10

Trong một lúc, tất cả các máy quay đều dừng lại ở hình ảnh đôi mắt cụp xuống của Peeta khi những lời cậu ấy nói đang lắng dần. Sau đó tôi có thể nhìn thấy gương mặt mình, miệng đang há ra trong biểu hiện lẫn lộn giữa sự ngạc nhiên và sự phản đối, được phóng to trên mọi màn hình bởi tôi nhận ra, Tôi! Cậu ấy đang nói về tôi! Tôi mím chặt môi lại và cúi xuống nhìn chằm chằm vào sàn nhà, hi vọng điều này có thể giấu được những cảm xúc đang bắt đầu sôi sục trong lòng mình.

“Ồ, đó thật là một may mắn tồi tệ,” Caesar nói và có một chút đau buồn thật sự trong giọng của ông ta. Khán giả đang thì thầm đồng tình, một số thậm chí còn đau lòng bật khóc.

“Điều đó thật không may,” Peeta đồng ý.

“À, ta không nghĩ bất kỳ ai trong chúng ta có thể chê trách cháu. Thật khó để không phải lòng quý cô trẻ đó,” Caesar nói. “Cô ấy đã không biết ư?”

Peeta lắc đầu. “Không, cho đến lúc này.”

Tôi để cho mắt mình ngước lên màn hình đủ lâu để nhận ra sự ửng hồng trên hai má tôi là không thể nhầm lẫn.

“Các bạn có muốn kéo cô ấy trở lại đây và nghe câu trả lời không?” Caesar hỏi khán giả. Đám đông la hét tán thưởng. “Thật buồn, luật là luật, và thời gian với Katniss Everdeen đã hết rồi. Thôi nào, chúc những gì may mắn nhất sẽ đến với cháu, Peeta Mellark, và ta nghĩ rằng ta làm điều này là thay cho tất cả Panem khi nói rằng trái tim của chúng ta luôn ủng hộ cháu.”

Khán giả ầm ầm đến inh tai. Peeta đã hoàn toàn loại bỏ tất cả chúng tôi với việc công khai tình yêu dành cho tôi. Khi khán giả cuối cùng cũng ổn định lại, cậu ấy nghẹn lời thì thầm “Cảm ơn” và trở lại chỗ ngồi. Chúng tôi đứng dậy chào cờ. Tôi phải ngẩng cao đầu lên để thể hiện sự tôn trọng bắt buộc và không thể tránh được việc nhìn thấy tất cả mọi màn hình giờ đây đang tràn ngập hình ảnh của Peeta và tôi, đứng cách nhau có vài feet mà trong suy nghĩ của những người xem, khoảng cách có thể sẽ không bao giờ vượt qua được. Thật là bi kịch thảm thương cho hai chúng tôi.

Nhưng tôi biết rõ hơn.

Sau bài quốc ca, các cống phẩm đi theo hàng quay trở lại đại sảnh của Trung tâm Huấn luyện và vào thang máy. Tôi đổi hướng đi để chắc chắn không vào cùng một thang máy với Peeta. Đám đông làm cản trở cả đoàn chuyên gia thiết kế, cố vấn và những người đi kèm của chúng tôi, nên chỉ có các cống phẩm chúng tôi đi với nhau. Không ai nói gì. Thang máy của tôi dừng để trả bốn cống phẩm về tầng của họ trước khi tôi còn lại một mình và sau đó cửa thang máy mở ra ở tầng mười hai. Peeta chỉ vừa mới bước ra khỏi thang máy khi tôi đập mạnh lòng bàn tay vào ngực cậu ấy. Cậu ấy mất thăng bằng và đâm sầm vào một cái bình xấu xí cắm đầy hoa giả. Chiếc bình bị đổ và vỡ tan thành hàng trăm mảnh nhỏ. Peeta ngã vào đúng những mảnh vỡ và máu lập tức chảy ra từ tay cậu ấy.

“Việc này là sao?” cậu ấy kinh ngạc hỏi.

“Cậu không có quyền! Không có quyền đi nói những điều đó về tôi!” tôi hét lên với cậu ấy.

Lúc này thang máy mở ra và cả nhóm đã về đến, Effie, Haymitch, Cinna và Portia.

“Chuyện gì xảy ra vậy?” Effie hỏi, có một chút kích động trong giọng của cô ta. “Em bị ngã à?”

“Sau khi cô ấy xô em,” Peeta trả lời khi Effie và Cinna giúp cậu ấy đứng lên.

Haymitch quay sang tôi. “Xô cậu ấy ư?”

“Đó là ý của bác, đúng không? Biến cháu thành một kẻ ngu ngốc trước cả nước?” tôi trả lời.

“Đó là ý của mình,” Peeta lên tiếng, nhăn mặt khi kéo những mảnh gốm ra khỏi lòng bàn tay. “Haymitch chỉ giúp mình với ý tưởng đó thôi.”

“Phải rồi, Haymitch giúp đỡ rất nhiều. Cho cậu!” tôi nói.

“Cháu là một đứa ngốc,” Haymitch nói với giọng phẫn nộ. “Cháu nghĩ cậu ấy làm hại cháu ư? Cậu bé đó chỉ vừa mới cho cháu một thứ mà cháu không bao giờ tự làm được cho mình.”

“Cậu ấy làm cháu trở nên yếu đuối!” tôi nói.

“Cậu ấy giúp cháu được yêu mến! Và hãy thừa nhận đi, cháu có thể tận dụng tất cả sự giúp đỡ mà cháu có thể với sự kiện đó. Cháu chả có chút lãng mạn chết tiệt nào cho đến khi cậu ấy nói cậu ấy muốn cháu. Và bây giờ tất cả bọn họ đều muốn cháu. Tất cả những gì họ bàn tán bây giờ đều là về cháu. Đôi tình nhân bất hạnh đến từ Đặc khu Mười hai!” Haymitch nói.

“Nhưng chúng cháu không phải đôi tình nhân bất hạnh!” tôi phản đối.

Haymitch chộp lấy vai tôi và ghim chặt tôi vào tường. “Ai thèm quan tâm? Đó chỉ là một màn kịch lớn. Đó là việc cháu được nhận biết như thế nào. Sau cuộc phỏng vấn của cháu, điều nổi bật nhất ta có thể nói về cháu là cháu khá thú vị, mặc dù ngay cả điều đó cũng đã là một phép màu nhỏ rồi. Bây giờ thì ta có thể nói cháu là một người làm tan vỡ trái tim bao người khác. Ôi, ôi, ôi, các chàng trai ở quê nhà đã khao khát được quỳ dưới chân cháu như thế nào. Điều nào làm cháu nghĩ cháu sẽ có được nhiều nhà tài trợ hơn?”

Mùi rượu trong hơi thở của ông ấy làm tôi phát ốm. Tôi đẩy tay ông ấy khỏi vai và bước tránh ra xa, cố gắng làm đầu óc trở nên thông suốt.

Cinna tiến đến và ôm lấy tôi. “Ông ấy nói đúng, Katniss.”

Tôi không biết phải nghĩ gì. “Đáng lẽ cháu phải được báo trước, thì cháu đã không trông ngu ngốc như vậy.”

“Không, phản ứng của em thật hoàn hảo. Nếu em biết trước, nó sẽ trông không giống thật,” Portia nói.

“Cô ấy chỉ lo lắng về bạn trai cô ấy thôi,” Peeta cộc cằn, ném đi những mảnh vỡ dính máu của bình hoa.

Má tôi lại nóng bừng lên với ý nghĩ về Gale. “Mình không có bạn trai.”

“Gì cũng được,” Peeta nói. “Nhưng mình cá là anh ấy đủ thông minh để biết đây chỉ là một trò lừa bịp khi anh ấy xem nó. Bên cạnh đó, cậu cũng không nói rằng cậu yêu mình. Thế nên điều đó có gì nghiêm trọng chứ?”

Những lời nói đó đang thấm dần. Cơn tức giận của tôi cũng lắng xuống. Tôi bây giờ đang bị giằng xé giữa ý nghĩ tôi đã bị lợi dụng và ý nghĩ tôi đã được trao tặng một lợi thế. Haymitch đã đúng. Tôi đã sống sót qua cuộc phỏng vấn, nhưng tôi thực sự là gì chứ? Một cô gái ngu ngốc xoay tròn trong chiếc váy lấp lánh. Cười khúc khích. Khoảnh khắc duy nhất mà tôi thu hút được sự chú ý thực sự nào đó là khi tôi nói về Prim. So sánh điều đó với Thresh, sự trầm lặng, sức mạnh chết người của cậu ta, và tôi sẽ bị lãng quên ngay. Ngu ngốc, lung linh và dễ lãng quên. Không, không hoàn toàn bị lãng quên, tôi đã đạt mười một điểm trong kỳ huấn luyện.

Nhưng giờ đây Peeta đã biến tôi thành một tạo vật được yêu thương. Không chỉ tình yêu của cậu ấy. Tôi đã nghe cậu ấy kể rằng tôi có rất nhiều người hâm mộ. Và nếu khán giả thực sự nghĩ rằng chúng tôi yêu nhau… Tôi nhớ đến khán giả đã phản ứng mạnh mẽ như thế nào trước lời thú nhận của cậu ấy. Cặp tình nhân bất hạnh. Haymitch đã đúng, họ sẽ nhai đi nhai lại thứ vớ vẩn đó trên khắp Capitol. Đột nhiên tôi lại lo sợ rằng mình đã phản ứng không thích hợp.

“Sau khi cậu ấy nói cậu ấy yêu em, chị có nghĩ em cũng có thể sẽ yêu cậu ấy không?” tôi hỏi.

“Chị nghĩ vậy,” Portia trả lời. “Cái cách mà em tránh nhìn vào camera, đôi má ửng hồng e thẹn.”

Những người khác cũng xúm vào phụ họa theo.

“Cháu là vàng đấy, cháu yêu. Cháu sẽ có hàng dài các nhà tài trợ xếp hàng quanh tòa nhà này,” Haymitch nói.

Tôi bối rối về phản ứng của mình. Tôi bắt mình phải bày tỏ lòng biết ơn với Peeta. “Mình xin lỗi vì đã xô cậu.”

“Không sao đâu,” cậu ấy nhún vai. “Mặc dù điều đó đúng lý ra là phạm luật.”

“Tay cậu không sao chứ?” tôi hỏi.

“Chúng sẽ ổn thôi,” cậu ấy trả lời.

Trong sự im lặng sau đó, mùi thơm của bữa tối tỏa ra từ trong phòng ăn. “Thôi nào, đi ăn thôi,” Haymitch lên tiếng. Tất cả chúng tôi theo ông ấy vào bàn ăn và ngồi vào ghế. Nhưng sau đó Peeta chảy máu quá nhiều và Portia phải dẫn cậu ấy đi điều trị. Chúng tôi bắt đầu với món súp kem nấu với cánh hoa hồng mà không có họ. Vào lúc chúng tôi ăn xong, họ quay trở lại. Hai tay Peeta đã được quấn băng. Tôi không thể không cảm thấy tội lỗi. Ngày mai chúng tôi sẽ vào đấu trường. Cậu ấy đã cho tôi một ân huệ và tôi đã đáp trả bằng một vết thương. Tôi sẽ không bao giờ ngừng mắc nợ cậu ấy sao?

Sau bữa tối, chúng tôi xem lại bản tường thuật trong phòng khách. Tôi có vẻ điệu đà và hời hợt. Xoay tròn và cười khúc khích trong chiếc váy của mình, mặc dù những người khác bảo đảm với tôi rằng trông tôi rất duyên dáng. Peeta mới thực sự duyên dáng và sau đó thì hoàn toàn chiến thắng với vai diễn chàng trai đang yêu. Và rồi tôi xuất hiện, đỏ mặt và bối rối, được làm cho xinh đẹp dưới bàn tay của Cinna, được yêu mến bởi lời thú nhận của Peeta, trở nên bi thương bởi hoàn cảnh trớ trêu, và nhờ tất cả những thứ đó, trở nên không thể quên được.

Khi bài hát quốc ca kết thúc và màn hình tối lại, sự im lặng bao trùm cả căn phòng. Ngày mai, vào lúc bình minh, chúng tôi sẽ bị lôi dậy và chuẩn bị vào đấu trường. Trò chơi thực sự không bắt đầu cho đến mười giờ vì rất nhiều cư dân Capitol ngủ dậy muộn. Nhưng Peeta và tôi phải chuẩn bị từ sớm. Không biết được chúng tôi sẽ phải đi bao xa để đến đấu trường mà đã được chuẩn bị cho Trò chơi năm nay.

Tôi biết Haymitch và Effie sẽ không được đi cùng chúng tôi. Ngay khi chúng tôi rời khỏi đây, họ sẽ có mặt ở Trụ sở Trò chơi, hy vọng điên cuồng sẽ ký kết được các thỏa thuận tài trợ, tìm ra chiến lược để gửi các món quà cho chúng tôi như thế nào và vào lúc nào. Cinna và Portia sẽ đi cùng chúng tôi đến nơi mà chúng tôi từ đó được đưa vào đấu trường. Nhưng những lời tạm biệt cuối cùng phải được nói ngay tại đây.

Effie nắm tay hai chúng tôi, và thật sự ứa nước mắt, chúc chúng tôi bình an. Cảm ơn chúng tôi vì đã là những cống phẩm xuất sắc nhất mà cô ta đã vinh dự được hộ tống. Và sau đó, bởi vì đó là Effie và bởi hình như cô ta bị luật quy định phải nói điều gì đó tồi tệ, nên cô ta nói thêm “Tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu cuối cùng tôi tôi cũng được đề bạt tới một đặc khu văn minh hơn vào năm sau!”

Sau đó cô ta hôn vào má hai chúng tôi và nhanh chóng đi ra ngoài, đắc thắng với cả sự xúc động lúc chia tay lẫn khả năng cải thiện gia tài của cô ta.

Haymitch khoanh tay và nhìn xuống cả hai chúng tôi.

“Có lời khuyên cuối cùng nào không ạ?” Peeta hỏi.

“Khi tiếng cồng vang lên, chạy chối chết ra khỏi nơi đó. Không ai trong các cháu được tham gia vào cuộc chiến đẫm máu tại Cornucopia. Chỉ biến ngay khỏi đó, giữ khoảng cách xa càng xa càng tốt giữa cháu và những người khác, và đi tìm nguồn nước,” ông ấy nói. “Rõ rồi chứ?”

“Và sau đó?” tôi hỏi.

“Cố sống sót,” Haymitch trả lời. Đó là lời khuyên ông ấy đã từng nói với chúng tôi khi ở trên tàu, nhưng lần này ông ấy không say xỉn hay cười cợt. Và chúng tôi chỉ gật đầu. Còn có gì để nói nữa đây?

Khi tôi về phòng mình, Peeta vẫn nán lại nói chuyện với Portia. Tôi mừng vì điều đó. Dù những lời chia tay xa lạ mà chúng tôi phải nói với nhau là gì thì cũng có thể đợi đến ngày mai. Chăn đệm của tôi đã được trải ra, nhưng không thấy bong dáng của cô gái Avox tóc đỏ. Tôi ước tôi biết tên cô ấy. Đáng lẽ tôi nên hỏi. Có lẽ cô ấy có thể viết nó ra. Hoặc diễn đạt nó. Nhưng có lẽ điều đó chỉ đem lại những hình phạt cho cô ấy.

Tôi đi tắm và cọ sạch lớp nhũ vàng, lớp trang điểm, hương vị của sắc đẹp ra khỏi người tôi. Tất cả những thành quả còn lại của đội thiết kế là những ngọn lửa trên móng tay và móng chân tôi. Tôi quyết định giữ chúng như một lời nhắc nhở tôi là ai trong lòng khán giả. Katniss, cô gái của lửa. Dường như nó cho tôi thứ gì đó để tin tưởng trong những ngày sắp tới.

Tôi mặc chiếc áo ngủ dày dặn, vải bông nhẹ và trèo lên giường. Mất khoảng năm giây để tôi nhận ra rằng tôi sẽ không thể ngủ được. Tôi cần ngủ kinh khủng vì khi vào đấu trường, mọi giây phút tôi nhượng bộ sự mệt mỏi sẽ đều là sự mời chào của thần chết.

Điều này thật tệ. Một, hai, hay ba giờ trôi qua và mí mắt tôi vẫn từ chối trĩu xuống. Tôi không thể ngừng việc cố tưởng tượng ra chính xác thì tôi sẽ bị ném vào địa hình nào. Sa mạc ư? Đầm lầy? Hay hoang mạc lạnh lẽo? Trên tất cả, tôi hy vọng sẽ có cây cối để có thể cho tôi chỗ để trốn, thức ăn và nơi ẩn náu. Thông thường ở đó sẽ có cây cối vì những vùng đất cằn cỗi sẽ rất buồn tẻ và Trò chơi sẽ kết thúc quá nhanh nếu không có chúng. Nhưng khí hậu ở đó sẽ như thế nào? Những loại bẫy nào các Nhà thiết lập Trò chơi sẽ giấu đi để đẩy nhanh tốc độ vào những lúc diễn biến Trò chơi chậm lại? Và rồi những cống phẩm đồng hành với tôi…

Càng khắc khoải tìm kiếm giấc ngủ thì giấc ngủ lại càng trốn tránh tôi. Cuối cùng, tôi thậm chí bồn chồn đến mức không thể nằm yên trên giường. Tôi đi đi lại lại trên sàn nhà, tim đập nhanh, hơi thở gấp gáp. Căn phòng của tôi như biến thành một nhà tù. Nếu tôi không ra ngoài hít thở không khí ngay, tôi sẽ lại quăng, ném đồ đạc. Tôi chạy dọc theo hành lang đến cánh cửa dẫn lên mái nhà. Nó không khóa mà đang khép hờ. Có lẽ ai đó đã quên đóng nó, nhưng điều đó không quan trọng. Lưới điện bao quanh mái nhà ngăn chặn bất cứ hình thức bỏ trốn liều lĩnh nào. Và tôi cũng không tìm cách chạy trốn, chỉ muốn hít đầy không khí vào phổi mình. Tôi muốn nhìn thấy bầu trời và mặt trăng vào đêm cuối cùng mà sẽ không ai săn đuổi tôi.

Mái nhà không được chiếu sáng vào ban đêm, nhưng ngay khi bàn chân trần của tôi vừa chạm đến chỗ ngói lợp tôi đã thấy bóng cậu ấy, quay lưng về phía những ánh đèn đang chiếu sáng bất tận trên khắp Capitol. Rõ ràng có sự ồn ào ở những con phố phía dưới, âm nhạc, hát hò và tiếng còi xe, nhưng tôi không nghe được gì qua những ô cửa kính dày trong phòng mình. Tôi có thể lẻn đi ngay lúc này để cậu ấy không biết sự có mặt của tôi; cậu ấy sẽ không thể nghe thấy tôi trong âm thanh ầm ĩ đó. Nhưng không khí ban đêm quá ngọt ngào, tôi không thể chịu đựng được việc quay lại căn phòng ngột ngạt như cái lồng đó. Và có gì khác biệt xảy ra cơ chứ? Dù chúng tôi có nói chuyện với nhau hay không?

Chân tôi bước nhẹ trên những viên gạch ngói. Tôi chỉ đứng sau lưng cậu ấy một yard (gần 1m) khi nói, “Cậu tốt hơn là nên ngủ một chút.”

Cậu ấy giật mình nhưng không quay lại. Tôi có thể nhìn thấy cậu ấy hơi lắc đầu. “Mình không muốn bỏ lỡ bữa tiệc. Sau cùng thì nó là dành cho chúng ta mà.”

Tôi bước đến ngồi bên cạnh cậu ấy và dựa vào thành lan can. Những con phố lớn đang chật ních người nhảy múa. Tôi nheo mắt để nhìn rõ hơn hình dáng bé nhỏ của họ. “Họ đang hóa trang à?”

“Ai mà biết được?” Peeta trả lời. “Với tất cả những loại quần áo điên khùng mà họ mặc ở đây. Cậu cũng không ngủ được à?”

“Không thể ngừng suy nghĩ được,” tôi nói.

“Nghĩ về gia đình cậu ư?” cậu ấy hỏi.

“Không,” tôi thừa nhận với một chút cảm giác tội lỗi. “Tất cả những gì mình có thể làm là lo lắng về ngày mai. Tất nhiên, điều đó thật vô nghĩa.” Trong ánh sáng hắt lên từ phía dưới, tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt cậu ấy lúc này, nhìn thấy cái cách cậu ấy nắm bàn tay băng bó của mình một cách khó khăn. “Mình thật sự xin lỗi về tay của cậu.”

“Không sao đâu, Katniss,” cậu ấy nói. “Dù sao trong Trò chơi này, mình chưa bao giờ là một đối thủ đáng gờm.”

“Cậu không nên nghĩ vậy,” tôi nói.

“Tại sao không? Đó là sự thật. Hy vọng cao nhất của mình là không tự làm nhục bản thân và…” cậu ấy do dự.

“Và sao?” tôi hỏi.

“Mình không biết phải nói thế nào cho chính xác. Chỉ là… mình muốn chết như chính mình. Điều đó có nghĩa gì không?” cậu ấy hỏi. Tôi lắc đầu. Làm thế nào cậu ấy có thể chết đi như một người khác mà không phải là chính cậu ấy? “Mình không muốn khi ở đó mình bị họ làm cho thay đổi. Biến mình thành một loại ác quỷ nào đó mà mình vốn không phải.”

Tôi cắn môi với cảm giác mình trở nên thấp kém. Trong khi tôi chỉ mải suy ngẫm về việc có cây cối trong đấu trường hay không thì Peeta lại đang đấu tranh với việc làm thế nào để giữ được nhân phẩm của mình. Sự trong sáng của bản thân cậu ấy. “Ý cậu là cậu sẽ không giết bất kỳ ai ư?” tôi hỏi.

“Không, khi thời điểm đến, mình chắc rằng mình cũng sẽ giết chóc như những người khác. Mình không thể ngã xuống mà không chiến đấu. Chỉ là mình vẫn luôn ước rằng mình có thể nghĩ ra một cách nào đó để… để cho Capitol thấy rằng họ không sở hữu mình. Rằng mình còn là một thứ gì đó có ý nghĩa hơn chứ không phải chỉ là một quân cờ trong Trò chơi của họ,” Peeta nói.

“Nhưng cậu không phải,” tôi nói. “Không ai trong chúng ta hết. Đó là cách mà Trò chơi diễn ra.”

“Thôi được, nhưng trong khuôn khổ luật lệ đó, vẫn còn có cậu, vẫn còn có mình,” cậu ấy khăng khăng. “Cậu không thấy sao?”

“Một chút. Chỉ là… không công kích nhau, nhưng ai thèm quan tâm chứ Peeta?” tôi nói.

“Mình quan tâm. Ý mình là, điều gì khác mà mình được phép quan tâm đến vào lúc này?” cậu ấy giận dữ hỏi. Lúc này đôi mắt xanh nước biển của cậu ấy khóa chặt lấy mắt tôi, đòi hỏi một câu trả lời.

Tôi bước lùi lại. “Quan tâm đến điều Haymitch đã nói. Về việc cố gắng sống sót.”

Peeta mỉm cười với tôi, buồn bã và chế nhạo. “Được rồi. Cảm ơn về lời khuyên, bạn yêu quý[2].”

Đó như một cái tát thẳng vào mặt. Cái cách cậu ấy sử dụng ngôn từ âu yếm của kẻ bề trên của Haymitch. “Nhìn đây, nếu cậu muốn dùng những giờ phút cuối cùng của cuộc đời cậu để lên kế hoạch cho một cái chết thanh cao trong đấu trường, thì đó là lựa chọn của cậu. Còn mình thì muốn dùng thời gian đó của mình ở Đặc khu 12.”

“Mình không ngạc nhiên nếu cậu làm được thế,” Peeta nói. “Gửi tới mẹ mình những lời chúc tốt đẹp nhất của mình khi cậu trở về, được chứ?”

“Cứ hy vọng về điều đó đi,” tôi nói. Sau đó tôi quay đi và rời khỏi nóc nhà. Tôi trải qua phần còn lại của đêm đó trong giấc ngủ lơ mơ lúc tỉnh lúc thức, tưởng tượng ra những lời bình luận chua cay mà tôi sẽ nói với Peeta Mellark sáng hôm sau. Peeta Mellark. Chúng ta sẽ chờ xem cậu kiêu hãnh thế nào khi phải đối mặt giữa sống và chết. Cậu có thể sẽ trở thành một trong những cống phẩm hung bạo điên cuồng, loại ác quỷ mà cố gắng ăn trái tim của một người nào đó sau khi đã giết họ. Có một tên từ Đặc khu 6 đã làm như vậy vài năm trước, tên là Titus. Hắn ta trở nên vô cùng man rợ, và các Nhà thiết lập Trò chơi đã phải làm hắn bất tỉnh bằng súng điện để thu lại xác những người chơi đã bị hắn giết trước khi hắn ăn họ. Không có luật lệ nào trong đấu trường, nhưng việc ăn thịt đồng loại không được khán giả Capitol đồng tình, nên họ cố ngăn chặn điều đó. Có một số suy đoán rằng vụ tuyết lở mà cuối cùng đã giúp loại bỏ được Titus là được sắp đặt riêng để đảm bảo người chiến thắng không phải là một kẻ điên loạn.

Tôi không gặp Peeta sáng hôm đó. Cinna đến gặp tôi từ trước lúc bình minh, đưa tôi một bộ quần áo đơn giản để mặc, và dẫn tôi lên mái nhà. Trang phục và những thứ chuẩn bị cuối cùng của tôi được để riêng ở căn hầm bên dưới đấu trường. Một chiếc trực thăng đột ngột xuất hiện trên bầu trời, cũng như chiếc đã xuất hiện trong rừng vào ngày mà tôi nhìn thấy cô gái Avox tóc đỏ bị bắt, và một chiếc thang dây được thả xuống. Tôi đặt tay và chân lên thanh thang phía dưới và ngay lập tức tôi như thể bị đông cứng. Có một dòng điện gì đó gắn chặt tôi vào chiếc thang trong khi tôi được an toàn kéo lên vào trong khoang.

Tôi cho là chiếc thang sẽ rời ra ngay sau đó, nhưng tôi vẫn bị dính vào nó khi một người phụ nữ mặc áo choàng trắng lại gần tôi, mang theo một ống tiêm. “Cái này chỉ là thiết bị định vị của cháu thôi, Katniss. Cháu càng đứng yên thì tôi càng gắn nó chính xác hơn,” cô ta nói.

Đứng yên ư? Tôi là một bức tượng. Nhưng điều đó cũng không ngăn được việc tôi cảm thấy nhói đau khi mũi kim đâm vào sâu dưới da để gắn thiết bị theo dõi bằng kim loại vào mặt trong cẳng tay tôi. Giờ thì các Nhà thiết lập Trò chơi luôn luôn có thể định vị được vị trí của tôi trong đấu trường. Họ không muốn thất lạc cống phẩm nào.

Ngay khi thiết bị định vị được gắn xong, chiếc thang rời khỏi tôi. Người phụ nữ rời đi và Cinna được đưa lên từ mái nhà. Một Avox nam bước vào và hướng dẫn chúng tôi đến một căn buồng nơi bữa sáng đã được bày sẵn. Mặc dù bụng vẫn còn no, tôi vẫn ăn nhiều nhất có thể, mặc dù không loại thức ăn tuyệt hảo nào có thể làm tôi ngon miệng. Tôi đang quá lo lắng, nên tôi thậm chí có thể ăn cả bột than. Thứ duy nhất có thể làm tôi xao lãng là cảnh vật bên ngoài cửa sổ khi chúng tôi bay qua thành phố và sau đó đến một nơi hoang vu ở rất xa. Đây là những gì chim chóc có thể nhìn thấy. Chỉ khác là chúng tự do và an toàn. Trái ngược với tôi.

Chuyến bay kéo dài khoảng nửa giờ đồng hồ trước khi cửa sổ của trực thăng tối đen đi, báo hiệu rằng chúng tôi đã tới gần khu vực đấu trường. Trực thăng hạ cánh và Cinna cùng tôi trở lại chiếc thang, chỉ là lần này, chiếc thang dẫn thẳng xuống một đường ống ngầm, đi vào những căn hầm nằm ngay phía dưới đấu trường. Chúng tôi theo chỉ dẫn đi đến đúng căn hầm, là khoang chuẩn bị của tôi. Ở Capitol, người ta gọi chúng là Phòng khởi động. Ở các đặc khu, nó được coi như Chuồng nhốt gia súc. Nơi các con thú được đưa đến trước khi vào lò mổ.

Mọi thứ đều mới cứng, tôi sẽ là cống phẩm đầu tiên và duy nhất được sử dụng Phòng khởi động. Các đấu trường là các địa danh lịch sử, được bảo tồn sau khi Trò chơi diễn ra. Các địa điểm nổi tiếng để cư dân Capitol đến thăm quan, nghỉ dưỡng. Đi trong vòng một tháng, xem lại Trò chơi, tham quan các căn hầm, thăm lại những nơi mà những cái chết diễn ra. Bạn thậm chí còn có thể tham gia vào việc tái hiện lại Trò chơi. Họ nói rằng mùi vị rất tuyệt.

Tôi phải đấu tranh để nén bữa sáng xuống dạ dày khi tôi tắm và đánh răng. Cinna tết tóc tôi theo kiểu cách đơn giản thành một dải đằng sau lưng, kiểu tóc mà đã thành thương hiệu riêng của tôi. Sau đó quần áo được đưa đến, đồng phục cho mọi cống phẩm. Cinna không tham gia gì trong bộ đồng phục của tôi, thậm chí còn không biết trong hộp đó là gì, nhưng anh ấy giúp tôi chuẩn bị quần áo mặc bên trong, chiếc quần đơn giản màu vàng nâu, áo sơ mi màu xanh lá cây nhạt, thắt lưng màu nâu cứng cáp, và một chiếc áo khoác mỏng màu đen, có mũ trùm đầu, dài đến ngang đùi. “Chất liệu của chiếc áo khoác được thiết kế để giữ thân nhiệt. Đề phòng những đêm trời lạnh,” anh ấy nói.

Một đôi tất ôm sát chân và một đôi bốt tốt hơn những gì tôi có thể hy vọng. Da mềm chứ không giống như đôi bốt tôi đeo ở nhà. Chúng có đế bằng cao su mềm dẻo, chuẩn xác kết hợp với bước chân. Rất thích hợp để chạy.

Tôi nghĩ tôi đã được trang bị xong khi Cinna lấy ra chiếc huy hiệu vàng hình con chim mockingjay từ trong túi áo của anh ấy. Tôi đã hoàn toàn quên mất nó.

“Anh lấy nó ở đâu vậy?” tôi hỏi.

“Từ bộ quần áo màu xanh lục em mặc trên tàu,” anh ấy nói. Tôi nhớ ra là tôi đã lấy nó ra khỏi chiếc váy của mẹ tôi và gài nó vào chiếc áo sơ mi. “Nó là biểu tượng của đặc khu em, đúng không?” Tôi gật đầu. “Nó suýt nữa bị loại ra lúc ở bàn kiểm định. Một vài người nghĩ rằng chiếc huy hiệu có thể được sử dụng như một vũ khí, do đó sẽ tạo cho em một lợi thế không công bằng đối với các cống phẩm khác. Nhưng sau cùng, họ đã cho nó qua.” Cinna nói. “Tuy nhiên, họ lại loại bỏ chiếc nhẫn của cô gái đến từ Đặc khu Một. Nếu em xoay viên đá quý, một kim nhọn sẽ xuất hiện. Thật là một cô gái thâm độc. Cô ta cãi là cô ta không hề biết chiếc nhẫn có thể chuyển đổi thành như vậy và không có cách nào chứng minh được cô ta biết. Nhưng cô ta đã mất đi vật biểu tượng đó. Đây, em đã được sửa soạn xong. Đi một vòng nào. Đảm bảo là mọi thứ cảm thấy thoải mái.”

Tôi bước đi, chạy một vòng, quay hai cánh tay. “Vâng, nó ổn. Hoàn toàn vừa vặn.”

“Vậy là không còn việc gì để làm ngoài việc chờ đợi được gọi,” Cinna nói. “Trừ khi em nghĩ em có thể ăn thêm gì đó?”

Tôi từ chối thức ăn nhưng nhận lấy một cốc nước rồi uống từng ngụm nhỏ trong khi ngồi trên chiếc ghế dài để chờ đợi. Tôi không muốn ngồi gặm móng tay hay cắn môi, rồi tôi nhận ra mình đang gặm nhấm mặt trong của má mình. Nó vẫn chưa liền hẳn ở vết sứt vài ngày trước. Rất nhanh vị máu tràn ngập trong miệng tôi.

Sự bồn chồn dần chuyển thành nỗi khiếp sợ khi tôi lường trước được những gì sắp đến. Tôi có thể bị chết, chết rất nhanh, trong vòng một giờ nữa. Thậm chí còn chưa đến một giờ. Ngón tay tôi ám ảnh sờ vào cục u cứng nhỏ bé nhô lên ở cẳng tay nơi mà người phụ nữ gắn thiết bị định vị vào.Tôi ấn vào nó, mặc dù bị đau, tôi ấn vào nó mạnh đến nỗi một vết thâm bắt đầu hình thành.

“Em có muốn nói chuyện không, Katniss?” Cinna hỏi.

Tôi lắc đầu nhưng sau một lúc, tôi chìa tay ra với anh ấy. Cinna nắm lấy nó bằng cả hai tay của anh ấy. Và đó là cách chúng tôi ngồi cho đến khi giọng nói êm dịu của một người phụ nữ thông báo đã đến lúc sẵn sàng vào vị trí khởi động.

Một tay vẫn nắm chặt hai tay Cinna, tôi bước lên và đứng vào một chiếc đĩa tròn bằng kim loại. “Hãy nhớ những gì Haymitch dặn. Chạy khỏi đó, tìm nguồn nước. Những việc còn lại sẽ tính sau,” anh ấy dặn dò. Tôi gật đầu. “Và nhớ điều này nữa. Anh không được phép tham gia cá cược, nhưng nếu anh có thể, anh sẽ đặt tiền của anh cho em.”

“Thật ư?” tôi thì thào.

“Thật,” Cinna trả lời. Anh ấy cúi xuống và hôn vào trán tôi. “Chúc may mắn, cô gái của lửa.” Và sau đó một ống hình trụ bằng kính hạ dần xuống quanh tôi, tách rời bàn tay nắm chặt của chúng tôi, chia cắt anh ấy khỏi tôi. Anh ấy đập nhẹ những ngón tay vào dưới cằm. Ngẩng cao đầu.

Tôi nâng cằm lên và đứng thẳng nhất có thể. Ống thủy tinh bắt đầu nâng lên. Trong khoảng mười lăm giây, tôi chìm trong bóng tối và sau đó tôi có thể cảm thấy đĩa kim loại đẩy tôi lên khỏi ống và ra ngoài trời. Trong một lúc, tôi bị lóa mắt bởi ánh sáng mặt trời và chỉ cảm nhận được những cơn gió mạnh đang đưa tới mùi hương đầy hy vọng của rừng thông.

Sau đó tôi nghe thấy tiếng người phát thanh viên huyền thoại, Claudius Templesmith, khi giọng của ông ấy vang lên khắp nơi xung quanh tôi.

“Thưa quý vị, Trò chơi sinh tử lần thứ bảy mươi tư bắt đầu!”

CHƯƠNG 11

Sáu mươi giây. Đó là khoảng thời gian chúng tôi buộc phải đứng trên đĩa kim loại tròn trước khi âm thanh của tiếng cồng vang lên giải phóng chúng tôi. Chỉ bước lên một bước trước khi hết một phút đó, những quả địa lôi chôn dưới đất sẽ thổi bay chân bạn. Sáu mươi giây để đưa các cống phẩm vào các vị trí ở một vòng cung có khoảng cách bằng nhau đến Cornucopia[3], một chiếc sừng dê vàng khổng lồ có dạng hình nón với chóp cong lên và miệng của nó phải cao ít nhất hai mươi feet (khoảng 6m), được chất đầy các vật dụng mà sẽ giúp chúng tôi tồn tại được trong đấu trường này. Thức ăn, bình đựng nước, vũ khí, thuốc men, quần áo, mồi lửa. Rải xung quanh Cornucopia là các loại hàng hóa khác, giá trị của chúng giảm dần theo độ xa của chúng so với chiếc sừng. Ví dụ, chỉ cách chỗ tôi đứng vài bước chân là một miếng nhựa hình vuông rộng ba feet (khoảng 1m2). Chắc chắn nó có thể có tác dụng nào đó vào những ngày mưa to. Nhưng ở trong miệng chiếc sừng kia, tôi có thể nhìn thấy một bộ lều trại mà có thể che chắn được hầu hết các loại thời tiết. Nếu tôi có can đảm để vào đó và chiến đấu với hai mươi ba cống phẩm khác để có nó. Điều mà tôi được chỉ dẫn là không được làm.

Chúng tôi đang ở trên một khu đất rộng, bằng phẳng, thoáng đãng. Một mặt bằng đất cứng. Phía sau những cống phẩm đứng chéo với tôi, tôi không thể nhìn thấy gì, cho thấy đó là một sườn dốc thẳng đứng hoặc thậm chí là vách đá. Phía bên phải tôi là một hồ nước. Bên trái và sau lưng tôi là rừng thông cao vút. Đây là nơi mà Haymitch muốn tôi chạy đến. Ngay lập tức.

Tôi có thể nghe thấy từng lời chỉ dẫn của ông ấy trong đầu. “Chỉ biến ngay khỏi đó, giữ khoảng cách càng xa càng tốt giữa cháu và những người khác, và đi tìm nguồn nước.”

Nhưng nó thật quyến rũ, quá quyến rũ, khi tôi nhìn thấy những tặng phẩm nằm sẵn ở đó ngay trước mắt tôi. Và tôi biết rằng nếu tôi không lấy nó, thì người khác sẽ lấy. Rằng các Cống phẩm Chuyên nghiệp sống sót sau cơn tắm máu sẽ chia nhau phần lớn những chiến lợi phẩm duy trì sự sống này. Có thứ gì đó lọt vào mắt tôi. Đằng kia, nằm trên một bọc vải nhô lên, là một ống bạc đựng các mũi tên và một cây cung, đã được buộc sẵn lại, chỉ chờ được lấy đi. Nó là của mình. Tôi nghĩ. Nó được dành cho mình.

Tôi chạy nhanh. Tôi có thể chạy nhanh hơn bất cứ cô gái nào ở trường mặc dù một vài người có thể thắng tôi khi chạy đua đường trường. Nhưng với khoảng cách bốn mươi yard (khoảng 37m) này, chính là chặng đua dành cho tôi. Tôi biết tôi có thể lấy nó, tôi biết tôi có thể với tới nó trước tiên, nhưng sau đó câu hỏi đặt ra là tôi có thể chạy khỏi đó nhanh thế nào. Vào lúc tôi đang rối rắm với các túi đồ và việc tranh cướp vũ khí thì những người khác cũng sẽ tiến đến chiếc sừng dê, và tôi có thể sẽ hạ gục được một hoặc hai người, nhưng nếu như ở đó có cả tá, và với phạm vi gần như vậy, họ có thể hạ tôi bằng những cây lao hoặc dùi cui. Hoặc bằng cả những nắm đấm mạnh mẽ của họ.

Nhưng tôi không phải là mục tiêu duy nhất. Tôi cá rằng rất nhiều những cống phẩm khác sẽ bỏ qua một cô gái nhỏ hơn, ngay cả khi người đó đạt điểm mười một trong kỳ huấn luyện, để loại bỏ những đối thủ đáng gờm hơn của họ.

Haymitch chưa bao giờ nhìn thấy tôi chạy. Có lẽ nếu ông ấy đã nhìn thấy ông ấy sẽ bảo tôi chạy đến giành lấy nó. Giành lấy vũ khí đó. Vì đó là loại vũ khí rất thích hợp mà có thể trở thành cứu tinh của tôi. Và tôi chỉ nhìn thấy mỗi một cây cung trong cả đống tặng phẩm đó. Tôi biết một phút sắp hết và tôi phải nhanh chóng quyết định chiến lược của mình và tôi nhận thấy mình đang lấy đà chuẩn bị chạy, nhưng không phải theo hướng về phía bìa rừng mà về phía kho hàng, về phía cây cung. Khi tôi đột nhiên nhìn thấy Peeta, cậu ấy đứng cách tôi khoảng năm cống phẩm về bên phải, một khoảng cách khá xa, nhưng tôi vẫn có thể nói rằng cậu ấy đang nhìn tôi và tôi nghĩ hình như cậu ấy đang lắc đầu. Nhưng mặt trời chiếu vào mắt tôi, và trong khi tôi đang khó xử về việc đó thì tiếng cồng vang lên.

Và tôi đã bỏ lỡ nó! Tôi đã bỏ lỡ mất cơ hội của mình! Bởi vì một vài giây tôi mất tập trung đó cũng đủ để thay đổi quyết định của tôi về việc xông lên tranh cướp. Chân tôi ngập ngừng một lúc, bối rối về phương hướng mà não tôi muốn đi và sau đó tôi lao tới, tóm được một túi nhựa và một ổ bánh mì. Những thứ nhặt được quá nhỏ và tôi quá giận dữ với Peeta về việc làm tôi mất tập trung nên tôi chạy vượt lên hai mươi yard nữa (khoảng gần 20m) để lấy một chiếc ba lô màu cam tươi mà bên trong có thể chứa thứ gì đó vì tôi không thể chịu được việc rời khỏi đây mà rõ ràng không lấy được gì.

Một cậu trai, mà tôi nghĩ từ Đặc khu 9, với được cái ba lô cùng lúc với tôi và trong ít phút chúng tôi tranh giành nó, và rồi cậu ta ho khụ, phun ra đầy máu tung tóe lên mặt tôi. Tôi lảo đảo ngã ra sau, bị đẩy lùi bởi thứ chất lỏng phun ra nhớp nháp, ấm nóng đó. Sau đó cậu ta đổ trượt xuống đất. Đó là lúc tôi nhìn thấy con dao trên lưng cậu ta. Những cống phẩm khác đã đến được Cornucopia và đang ném dao tấn công. Đúng, là cô gái ở Đặc khu 2, đứng cách đó mười yard (khoảng 9m), đang chạy về phía tôi, một tay đang nắm chặt nửa tá dao. Tôi đã nhìn thấy cô ta ném dao trong đợt huấn luyện. Cô ta chưa bao giờ ném trượt. Và tôi sẽ là mục tiêu kế tiếp.

Tất cả nỗi sợ hãi mơ hồ mà tôi từng cảm nhận ngay lúc này đang dồn lại thành nỗi sợ hãi cô gái kia, một kẻ săn mồi có thể giết tôi trong vài giây. Adrenaline phóng ra trong người tôi, tôi quăng chiếc ba lô lên một bên vai và chạy hết tốc lực vào rừng. Tôi có thể nghe thấy tiếng con dao rít lên lao về phía mình và theo phản xạ giơ chiếc ba lô lên che chắn đầu mình. Con dao cắm vào chiếc ba lô. Giờ thì hai quai của nó đã được đeo vào vai tôi, tôi chạy tiến về phía khu rừng. Không hiểu sao tôi biết cô gái sẽ không đuổi theo tôi. Biết rằng cô ta sẽ quay trở lại Cornucopia trước khi những vật dụng tốt bị lấy hết. Tôi mỉm cười. Cảm ơn về con dao. Tôi nghĩ.

Đến bìa rừng, tôi quay lại một chút để xem xét tình hình. Khoảng một tá hoặc hơn các cống phẩm đang đâm chém nhau ở khu vực chiếc sừng. Một vài người đã nằm chết trên mặt đất. Những người lựa chọn chạy trốn thì đã biến mất trong rừng hoặc vào khoảng không đối diện với tôi. Tôi tiếp tục chạy cho đến khi khu rừng đã hoàn toàn che giấu tôi khỏi những cống phẩm khác rồi mới giảm tốc độ thành những bước chạy chậm rãi mà tôi nghĩ là tôi có thể duy trì được lâu. Trong một vài giờ sau đó, tôi luân phiên giữa việc chạy chậm và đi bộ, giữ khoảng cách càng xa càng tốt giữa tôi và các đối thủ. Tôi đã rơi mất chiếc bánh mì trong lúc giằng co với cậu trai từ Đặc khu 9, nhưng vẫn nhét được chiếc túi nhựa vào tay áo nên khi tôi bước đi, tôi gấp nó lại gọn gàng và nhét vào túi áo. Tôi cũng gỡ con dao ra – nó là một con dao tốt với một lưỡi dài sắc bén, có răng cưa ở gần cán, rất có ích trong việc cưa thứ gì đó – rồi gài nó vào thắt lưng. Tôi vẫn chưa dám dừng lại để kiểm tra có gì trong chiếc ba lô. Tôi cứ tiếp tục di chuyển, và chỉ dừng lại để kiểm tra xem có ai bám theo không.

Tôi có thể đi rất lâu. Tôi biết điều đó từ những ngày tôi đi săn trong rừng. Nhưng tôi sẽ cần nước. Đó là chỉ dẫn thứ hai của Haymitch, và vì tôi có thể coi là đã làm sai chỉ dẫn đầu tiên, nên tôi quan sát kĩ càng để tìm ra bất cứ dấu hiệu nào của nước. Nhưng không có may mắn nào.

Khu rừng bắt đầu thay đổi, và những cây thông được xen lẫn với rất nhiều loại cây khác, một vài loại tôi nhận ra được, một số khác thì hoàn toàn xa lạ. Có một lúc, tôi nghe thấy tiếng động và rút dao ra, nghĩ rằng tôi có thể phải tự vệ, nhưng tôi chỉ làm một con thỏ giật mình. “Thật tốt khi nhìn thấy mày,” tôi thì thầm. Nếu đã có một con thỏ, thì có thể có hàng trăm con khác đang đợi bị sập bẫy.

Mặt đất dốc dần xuống. Tôi thực sự không thích điều này. Thung lũng làm tôi cảm thấy như bị sập bẫy. Tôi muốn ở nơi cao ráo, như những ngọn đồi ở quanh Đặc khu 12, nơi tôi có thể nhìn thấy kẻ thù của mình đang tiếp cận. Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục đi.

Đáng cười là tôi không cảm thấy quá tệ. Những ngày tôi ép mình nhồi nhét thức ăn vào người cũng đáng giá. Tôi vẫn khỏe mạnh dù tôi bị thiếu ngủ. Việc ở trong rừng làm tôi khỏe lại. Tôi vui vì được ở một mình, mặc dù đó chỉ là sự hoang tưởng, vì có lẽ tôi đang ở trên màn hình tivi ngay lúc này. Không phải luôn luôn nhưng thỉnh thoảng. Có rất nhiều cái chết được trình chiếu trong ngày đầu tiên nên một cống phẩm vất vả đi xuyên qua rừng không đáng để xem đến. Nhưng họ sẽ chiếu đến tôi đủ để cho khán giả biết tôi còn sống, không bị thương và đang di chuyển. Một trong những ngày cao điểm nhất để cá cược là ngày mở màn, khi những con số thương vong đầu tiên xuất hiện. Nhưng điều đó không thể so sánh với những gì xảy ra khi đấu trường chỉ còn lại một vài người chơi.

Đó là lúc chiều muộn khi tôi bắt đầu nghe thấy tiếng pháo hiệu. Mỗi lần bắn đại diện cho một cống phẩm đã chết. Cuối cùng cuộc chiến ở khu vực Cornucopia cũng đã phải dừng lại. Họ không bao giờ thu thập những thi thể đẫm máu cho đến khi những kẻ giết người đã bỏ đi. Trong ngày mở màn, họ thậm chí không bắn pháo hiệu cho đến khi cuộc chiến đầu tiên kết thúc bởi vì quá khó để theo dõi số thương vong. Tôi cho phép mình dừng lại, thở hổn hển khi tôi đếm số lần bắn. Một… hai… ba… liên tiếp cho đến khi họ bắn đến phát thứ mười một. Mười một người chết tất cả. Còn lại mười ba người chơi. Móng tay tôi cào vào vết máu khô mà cậu trai Đặc khu 9 ho bắn lên mặt tôi. Chắc chắn cậu ta đã chết. Tôi băn khoăn về Peeta. Liệu cậu ấy có qua được ngày hôm nay không? Tôi sẽ biết điều đó trong vài giờ nữa. Khi họ trình chiếu hình ảnh những người chết trên bầu trời cho những người còn lại chúng tôi được biết.

Bất thình lình, tôi bị xúc động bởi ý nghĩ rằng Peeta có thể đã chết, tái nhợt mất máu, được thu thập và đang trong quá trình vận chuyển trở về Capitol để tắm rửa, mặc lại quần áo, và được cho vào một chiếc quan tài bằng gỗ giản dị để đưa về Đặc khu 12. Không còn ở đây nữa. Đang trên đường về nhà. Tôi cố hết sức nhớ lại xem liệu tôi có nhìn thấy cậu ấy thêm lần nào không trước khi cuộc chiến bắt đầu. Nhưng hình ảnh cuối cùng mà tôi có thể gợi lên là Peeta đang lắc đầu khi tiếng cồng vang lên.

Có lẽ điều đó lại tốt hơn, nếu cậu ấy đã chết. Cậu ấy không tự tin rằng cậu ấy có thể thắng. Và tôi không phải kết thúc bằng nhiệm vụ khó khăn là phải giết cậu ấy. Có lẽ nó tốt hơn nếu cậu ấy đã ra khỏi đây mãi mãi.

Tôi ngồi sụp xuống bên cạnh chiếc ba lô, kiệt sức. Dù sao tôi cũng phải xem xét nó kĩ càng trước khi màn đêm buông xuống. Xem xem tôi phải làm gì với nó. Khi cởi bỏ quai đeo, tôi có thể cảm thấy nó được làm rất chắc chắn mặc dù cái màu thì thật không may mắn. Cái màu cam này sẽ gần như phát sáng trong bóng tối. Tôi quyết định việc đầu tiên tôi phải làm vào ngày mai là phải ngụy trang cho nó.

Tôi giật cái nắp mở ra. Thứ tôi mong muốn nhất, ngay lúc này, là nước. Chỉ thị ngay lập tức đi tìm nguồn nước của Haymitch hoàn toàn không tùy tiện. Tôi không thể chịu đựng lâu nếu thiếu nước. Trong một vài ngày, tôi sẽ vẫn có thể hoạt động được với triệu chứng không dễ chịu của việc mất nước, nhưng sau đó tôi sẽ yếu dần đến mức không thể cử động được và sẽ chết trong vòng một tuần, không hơn. Tôi cẩn thận bày ra những vật dụng trong ba lô. Một cái túi ngủ mỏng màu đen có thể giữ thân nhiệt. Một gói bánh quy. Một gói các miếng thịt bò khô. Một chai i ốt. Một hộp diêm gỗ. Một cuộn dây thép nhỏ. Một cặp kính râm. Và một chai nhựa nửa gallon (1 gallon = 3.78 lit) có nắp đậy dùng để đựng nước mà đang cạn nhẵn.

Không nước. Đổ đầy nước vào chiếc bình đối với họ khó khăn đến thế sao? Tôi bắt đầu nhận thức được cơn khát trong cổ họng và miệng, đôi môi nứt nẻ. Tôi đã di chuyển cả một ngày dài. Trời đã rất nóng và tôi đổ mồ hôi rất nhiều. Tôi cũng đi như vậy hồi ở nhà, nhưng ở đó luôn có những dòng suối để uống nước hoặc có tuyết để làm tan ra nếu suối bị đóng băng.

Khi cho lại đồ vào ba lô, tôi đã có một ý nghĩ tồi tệ. Hồ nước. Cái hồ mà tôi đã nhìn thấy khi chờ đợi tiếng cồng. Nếu như đó là nguồn nước duy nhất trong đấu trường này thì sao? Đó là cách họ làm để đảm bảo có thể buộc chúng tôi tập hợp lại để chiến đấu. Hồ nước cách chỗ tôi đang ngồi này cả ngày đi đường và chuyến đi sẽ khó khăn hơn rất nhiều khi không có gì để uống. Và rồi, ngay cả khi tôi có thể đến đó, thì chắc chắn là nó sẽ được canh gác nghiêm ngặt của một vài Cống phẩm Chuyên nghiệp. Tôi gần như sửng sốt khi nhớ ra con thỏ mà tôi làm cho hoảng sợ ngày hôm nay. Nó cũng phải uống nước. Tôi chỉ cần phải tìm ra chỗ nào thôi.

Ánh sáng chạng vạng đã tắt và tôi cảm thấy không thoải mái. Cây cối quá thưa để tìm được chỗ ẩn náu. Những lớp lá thông dưới chân tôi cũng làm cho việc tìm kiếm những con thú khó hơn khi tôi cần dấu vết của chúng để tìm ra nguồn nước. Nhưng tôi vẫn đi xuống dốc, càng lúc càng đi sâu vào thung lũng mà dường như xa bất tận.

Tôi cũng đói nhưng tôi vẫn chưa muốn xâm phạm vào nguồn dự trữ bánh quy và thịt bò khô quý giá của mình. Thay vào đó tôi lấy dao và làm việc với một cây thông, cắt đi lớp vỏ phía ngoài, nạo ra một lượng lớn lớp vỏ mềm bên trong. Tôi chầm chậm nhai chỗ vỏ đó khi tôi đi tiếp. Sau một tuần được ăn những thức ăn ngon nhất thế giới, thật có chút khó khăn khi nuốt xuống. Nhưng tôi đã ăn vô số vỏ thông trong suốt cuộc đời mình. Tôi sẽ thích nghi lại nhanh thôi.

Một giờ sau, rõ ràng là tôi cần phải tìm một nơi để cắm trại. Các sinh vật ban đêm bắt đầu xuất hiện. Tôi có thể nghe thấy một vài tiếng cú kêu và tiếng sói tru. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là tôi sẽ phải cạnh tranh với dã thú để giành những con thỏ. Chưa kể đến việc liệu tôi có bị coi là một nguồn thức ăn của chúng không, thì điều đó cũng vẫn còn quá sớm để nghĩ tới. Có thể có vô số các con thú đang bám theo tôi lúc này.

Nhưng hiện giờ, tôi quyết định ưu tiên cho các cống phẩm đồng hành với mình. Tôi chắc chắn nhiều kẻ vẫn tiếp tục săn tìm suốt đêm. Những kẻ đã chiến thắng ở Cornucopia sẽ có thức ăn, nguồn nước dồi dào từ cái hồ, đuốc hoặc đèn pin, và vũ khí mà họ đang ngứa ngáy muốn sử dụng. Tôi chỉ có thể hy vọng tôi đã đi đủ nhanh và đủ xa để thoát khỏi phạm vi săn lùng của họ.

Trước khi nghỉ ngơi, tôi lấy dây thép và làm hai cái bẫy giật dây trong bụi cây. Tôi biết thật nguy hiểm khi đặt bẫy, nhưng thức ăn ở đây sẽ hết rất nhanh. Và tôi không thể đặt bẫy khi đang chạy trốn. Tuy nhiên, tôi vẫn đi bộ thêm năm phút nữa trước khi cắm trại.

Tôi cẩn thận chọn cho mình một cái cây. Một cây liễu, không thực sự cao, nhưng nằm giữa một lùm các cây liễu khác, tạo thành một chỗ ẩn náu trong những cành lá dài thướt tha rủ xuống. Tôi trèo lên, bám vào những cành chắc chắn gần thân cây, và tìm được một chạc cây vững chãi để làm giường. Cũng phải cải tạo thêm một chút, nhưng tôi cũng xếp đặt được cái túi ngủ ở một tư thế tương đối thoải mái. Tôi đặt chiếc ba lô vào phía dưới chân của chiếc túi ngủ rồi chui vào túi. Để đề phòng, tôi tháo chiếc thắt lưng, thắt một vòng quanh thân cây và chiếc túi ngủ của tôi và thắt lại ở eo. Giờ thì nếu tôi có lăn trong lúc ngủ thì tôi cũng không rơi sầm xuống đất. Tôi đủ nhỏ bé để kéo phần đầu chiếc túi trùm qua đầu mình, nhưng tôi chỉ đội mũ áo lên. Khi đêm xuống, nhiệt độ giảm đi nhanh chóng. Dù tôi đã phải chấp nhận rủi ro để lấy chiếc ba lô, nhưng giờ thì tôi biết đó là lựa chọn đúng. Chiếc túi ngủ này, tỏa ra hơi ấm và giữ thân nhiệt cho tôi, sẽ là vô giá. Tôi chắc rằng với một số cống phẩm khác, mối quan tâm lớn nhất của họ bây giờ là làm thế nào để giữ ấm trong khi tôi thực sự có thể có được vài giờ để ngủ. Nếu như tôi không quá khát…

Màn đêm vừa mới buông xuống khi tôi nghe thấy bài quốc ca để bắt đầu trình chiếu hình ảnh tổng hợp về những cái chết. Xuyên qua các cành cây, tôi có thể nhìn thấy các tín hiệu của Capitol, xuất hiện trôi nổi trên bầu trời. Thực ra tôi đang nhìn một màn hình khác, một màn hình khổng lồ được chở đi bằng một trong những chiếc trực thăng tàng hình của họ. Bài quốc ca nhỏ dần và bầu trời tối đi trong chốc lát. Ở nhà, chúng tôi có thể được xem bản tin đầy đủ về mọi cái chết nhưng cách làm đó sẽ tạo ra một lợi thế không công bằng cho các cống phẩm còn sống. Chẳng hạn, nếu tôi có trong tay một chiếc cung tên và bắn một ai đó, bí mật của tôi sẽ bị tiết lộ cho tất cả các cống phẩm khác. Không, ở trong đấu trường này, tất cả chúng tôi nhìn thấy những hình ảnh giống như những bức ảnh họ đã chiếu lên khi công bố điểm trong kỳ huấn luyện. Những bức ảnh chân dung đơn giản. Nhưng bây giờ, thay vì điểm số, họ chỉ chiếu lên số đặc khu. Tôi hít sâu một hơi khi gương mặt của mười một cống phẩm đã chết bắt đầu chiếu lên và kiểm đếm họ lần lượt từng người một bằng ngón tay.

Bức ảnh đầu tiên xuất hiện là cô gái đến từ Đặc khu 3. Điều đó nghĩa là tất cả các Cống phẩm Chuyên nghiệp từ Đặc khu 1 và 2 đều còn sống. Không có gì ngạc nhiên. Sau đó là cậu trai từ Đặc khu 4. Tôi đã không tính đến cậu ta, thông thường tất cả những Người chuyên nghiệp sẽ qua được ngày đầu tiên. Cậu trai từ Đặc khu 5… tôi đoán cô gái mặt cáo già đã qua được ngày đầu. Cả hai cống phẩm từ Đặc khu 6 và 7. Cậu trai từ Đặc khu 8. Cả hai người Đặc khu 9. Phải rồi, đó là cậu con trai đã tranh giành chiếc ba lô với tôi. Tôi đếm các đầu ngón tay, chỉ còn thêm một cống phẩm nữa thôi. Đó có phải Peeta không? Không, đó là cô gái đến từ Đặc khu 10. Vậy đấy. Tín hiệu của Capitol trở lại với một hồi kèn cuối cùng. Sau đó bóng tối và âm thanh của khu rừng trở lại.

Tôi nhẹ nhõm khi biết Peeta còn sống. Tôi lại tự nói với bản thân rằng nếu tôi bị giết, chiến thắng của cậu ấy sẽ có lợi nhất đối với mẹ tôi và Prim. Đó là điều tôi tự nói với bản thân để giải thích cho những cảm xúc mâu thuẫn trong lòng tôi mỗi khi nghĩ đến Peeta. Lòng biết ơn về việc cậu ấy đã tặng tôi một lợi thế khi thú nhận tình yêu của cậu ấy dành cho tôi trong buổi phỏng vấn. Sự tức giận trước sự thanh cao của cậu ấy lúc trên mái nhà. Nỗi khiếp sợ rằng chúng tôi sẽ đến lúc phải mặt đối mặt vào bất cứ lúc nào trong đấu trường này.

Mười một người chết, nhưng không có ai đến từ Đặc khu 12. Tôi cố gắng nhớ ra còn lại những ai. Năm Cống phẩm Chuyên nghiệp. Mặt cáo. Thresh và Rue. Rue… vậy là sau cùng cô bé đã qua được ngày đầu tiên. Tôi không thể không cảm thấy vui mừng. Đó mới là mười người trong số chúng tôi. Ba người khác tôi sẽ tìm ra vào ngày mai. Lúc này khi trời đã tối, và tôi đã đi rất xa, và tôi đang ẩn náu trên cây cao, nên giờ tôi phải cố gắng nghỉ ngơi.

Tôi đã không thực sự được ngủ trong hai ngày nay, và còn thêm chuyến đi cả một ngày dài trong đấu trường. Dần dần, tôi để cho các cơ bắp của mình được thư giãn. Mắt tôi nhắm lại. Điều cuối cùng tôi nghĩ đến là thật may mắn rằng tôi không ngáy…

Rắc! Âm thanh tiếng cành cây gãy làm tôi thức giấc. Tôi đã ngủ bao lâu rồi? Bốn tiếng? Năm? Chóp mũi tôi lạnh như đóng băng. Rắc! Rắc! Chuyện gì xảy ra vậy? Đây không phải là âm thanh cành cây gãy do chân người dẫm lên, nhưng tiếng răng rắc rõ ràng đó phải là tiếng cây gãy. Rắc! Rắc! Tôi đoán nó cách chỗ tôi khoảng vài trăm yard về bên phải (1 yard = 0.914m). Tiếng động nhỏ dần, rồi im lặng, tôi quay về hướng đó. Trong một vài phút, không có gì ngoài bóng tối và có gì đó cọ xát. Sau đó tôi thấy một đốm lửa và một ngọn lửa nhỏ bắt đầu bùng lên. Một đôi tay hơ lên ngọn lửa để sưởi ấm, nhưng tôi không thể nhìn được gì rõ hơn nữa.

Tôi phải cắn môi để không hét lên mọi cái tên ngu ngốc nhất mà tôi biết để dành cho cái người đã nhóm lửa kia. Họ đang nghĩ cái quái gì vậy? Ngọn lửa thắp lên khi màn đêm vừa buông xuống sẽ chỉ là một thứ vô hại. Những kẻ đã chiến đấu ở Cornucopia, với sức mạnh vượt trội của họ và cộng thêm nguồn tiếp tế nữa, họ không thể ở đủ gần để phát hiện ra ngọn lửa ngay lúc đó. Nhưng bây giờ, khi họ có lẽ đã đi xuyên vào rừng hàng giờ đồng hồ để săn lùng những nạn nhân, thì bạn cũng có thể phất một lá cờ và hét lên, “Đến đây và bắt tôi đi!”

Và tôi ở đây, chỉ cách kẻ ngu ngốc nhất trong Trò chơi này một quãng ngắn. Cột chặt trên cây. Không muốn bỏ chạy bởi vị trí của tôi sẽ bị lộ ra cho bất cứ kẻ giết người nào đang tìm kiếm. Ý tôi là, tôi biết rằng ngoài trời đang rất lạnh, và không phải ai cũng có một chiếc túi ngủ. Nhưng khi đó bạn phải nghiến răng lại và cố chịu đựng cho đến bình minh!

Tôi nằm trong chiếc túi ngủ khoảng vài giờ tiếp theo, suy nghĩ nung nấu xem liệu tôi có nên ra khỏi chiếc cây này, tôi sẽ không có chút khó khăn nào trong việc hạ gục người hàng xóm mới này. Bản năng của tôi là chạy trốn, chứ không phải chiến đấu. Nhưng rõ ràng người này là một mối nguy hiểm. Những kẻ ngu ngốc luôn nguy hiểm. Và người này có vẻ không có loại vũ khí nào trong khi tôi thì có một con dao tuyệt hảo.

Bầu trời vẫn tối đen, nhưng tôi có thể cảm nhận được những dấu hiệu đầu tiên của bình minh đang đến. Tôi đang bắt đầu nghĩ chúng tôi – nghĩa là cái người mà mạng sống đang bị tôi âm mưu lấy đi và tôi – chúng tôi có lẽ thực sự có thể qua được đêm nay mà không bị phát hiện ra. Thì ngay sau đó tôi nghe thấy nó. Một vài đôi chân đang bắt đầu tăng tốc chuyển sang chạy. Người nhóm lửa chắc hẳn là đang ngủ lơ mơ. Chúng đã bắt được cô ta trước khi cô ta có thể chạy trốn. Giờ thì tôi biết đó là một cô gái. Tôi có thể biết được qua lời cầu xin và tiếng thét đau đớn tiếp theo. Sau đó là tiếng vỗ tay và chúc mừng từ một vài giọng nói. Một kẻ nào đó hét lên, “Mười hai đứa đã chết và còn phải hạ mười một đứa nữa!” mà được hòa trong những tiếng huýt sáo tán thưởng.

Như vậy là chúng chiến đấu theo nhóm. Tôi không thực sự ngạc nhiên. Thông thường các liên minh được hình thành trong giai đoạn đầu của Trò chơi. Nhóm mạnh sẽ tập hợp với nhau để săn lùng và hạ những kẻ yếu, khi căng thẳng lên đến đỉnh điểm, sẽ bắt đầu quay sang giết nhau. Tôi không phải quá khó khăn để suy đoán xem ai lập ra liên minh này. Đó sẽ là những Cống phẩm Chuyên nghiệp còn lại từ Đặc khu 1, 2 và 4. Hai tên con trai và ba đứa con gái. Những kẻ đã ăn trưa cùng nhau.

Trong một lúc, tôi nghe thấy họ kiểm tra các vật dụng của cô gái kia. Tôi có thể nói vậy qua những lời bình luận của chúng rằng chẳng tìm được thứ gì tốt. Tôi tự hỏi liệu nạn nhân có phải là Rue không nhưng nhanh chóng loại bỏ suy nghĩ đó. Cô bé quá thông minh để có thể nhóm một đống lửa như vậy.

“Tốt hơn là nên đi khỏi chỗ này để họ có thể thu thập thi thể trước khi nó bắt đầu bốc mùi.” Tôi gần như chắc chắn đó là tên con trai hung tợn từ Đặc khu 2. Có vài tiếng xì xào tán thành, và sau đó, trước sự khiếp sợ của tôi, tôi nghe thấy cả nhóm hướng về phía mình. Chúng không biết tôi đang ở đây. Làm sao chúng có thể biết được? Và tôi đã ẩn nấp rất kỹ trong lùm cây này. Ít nhất trong lúc mặt trời vẫn chưa lên. Sau đó chiếc túi ngủ màu đen của tôi sẽ chuyển từ sự ngụy trang sang rắc rối. Nếu họ tiếp tục di chuyển, họ sẽ đi qua tôi và rời đi trong vòng một phút.

Nhưng những Kẻ chuyên nghiệp dừng lại ở khoảng rừng trống cách cái cây của tôi khoảng mười yard. Chúng có đèn pin và đuốc. Tôi có thể nhìn thấy một cánh tay ở đây, một chiếc bốt ở kia, xuyên qua khe hở giữa các cành cây. Tôi ngồi im như đá, thậm chí không cả thở. Chúng đã phát hiện ra tôi ư? Không, vẫn chưa. Tôi có thể biết thông qua những lời nói của chúng, tâm trí của chúng đang ở đâu đó.

“Không phải là lúc này chúng ta phải nghe thấy tiếng pháo hiệu rồi sao?”

“Tao nghĩ là đúng. Không có gì ngăn họ bắn ngay lập tức.”

“Trừ khi cô ta chưa chết hẳn.”

“Nó chết rồi. Tao đã tự tay cắt cổ nó.”

“Thế thì tiếng pháo hiệu đâu?”

“Đứa nào đó nên quay lại. Đảm bảo công việc được hoàn tất.”

“Đúng đấy, chúng ta không muốn phải săn lùng cô ta hai lần.”

“Tao nói là nó đã chết!”

Cuộc tranh cãi nổ ra cho đến khi một cống phẩm làm những kẻ còn lại im miệng. “Chúng ta đang lãng phí thời gian! Tôi sẽ đi kết thúc cô ta và chúng ta đi tiếp!”

Tôi suýt nữa thì ngã khỏi cái cây. Giọng nói đó là của Peeta.

CHƯƠNG 12

Tạ ơn Chúa, tôi lo xa nên đã thắt chiếc dây lưng quanh người. Tôi đã lộn khỏi chạc cây và đang cắm mặt xuống đất, được giữ lại bởi cái thắt lưng, một tay và hai chân tôi đang dạng ra trên chiếc ba lô ở trong cái túi ngủ, bám chặt vào thân cây. Phải có vài tiếng sột soạt khi tôi đổ nghiêng đi, nhưng những Kẻ chuyên nghiệp đã quá mải mê cãi vã nên không nghe thấy.

“Vậy đi đi, Chàng trai đang yêu,” tên con trai đến từ Đặc khu 2 nói. “Tự đi kiểm tra đi.”

Tôi chỉ nhìn thấy bóng của Peeta, được chiếu sáng bởi ngọn đuốc, đang quay lại chỗ cô gái bên đống lửa. Mặt cậu ấy sưng húp với những vết thâm tím, một chỗ băng cầm máu ở một cánh tay và từ âm thanh của dáng đi thì cậu ấy hình như đi khập khiễng. Tôi nhớ lại hình ảnh cậu ấy đã lắc đầu, bảo tôi đừng tham gia vào cuộc chiến giành các vật phẩm, trong khi suốt thời gian đó, suốt thời gian đó, cậu ta đã lên kế hoạch ném bản thân vào giữa những thứ nguy hiểm này. Trái ngược hoàn toàn với những gì Haymitch đã bảo cậu ấy phải làm.

Thôi được, tôi có thể tiêu hóa được điều đó. Nhìn tất cả những vật phẩm đó thật quyến rũ. Nhưng việc này… việc mới xảy ra này. Việc tham gia vào đàn sói Chuyên nghiệp kia để đi săn những người còn lại chúng tôi. Không ai từ Đặc khu 12 có thể nghĩ đến sẽ làm một việc như thế! Những Cống phẩm Chuyên nghiệp quá xấu xa, kiêu ngạo, được chăm bẵm tốt hơn, nhưng chỉ vì chúng là những con chó cảnh của Capitol.

Khắp nơi, ngoài những người từ đặc khu của chính chúng ra, mọi người đều căm ghét chúng. Tôi có thể tưởng tượng ra những điều người ta nói về cậu ấy ở quê nhà lúc này. Và chẳng phải Peeta đã từng trơ tráo nói với tôi về sự hổ thẹn sao?

Rõ ràng, cậu bạn cao thượng ở trên mái nhà đã lại chơi đùa với tôi một lần nữa. Nhưng đây sẽ là lần cuối cùng của cậu ta. Tôi sẽ háo hức chờ đợi được xem hình ảnh thông báo cái chết của cậu ta trên bầu trời đêm nếu tôi không tự mình giết cậu ta trước.

Các Cống phẩm Chuyên nghiệp im lặng cho đến khi cậu ta đi khỏi phạm vi có thể nghe được, mới thì thào.

“Tại sao chúng ta không chỉ việc giết cậu ta luôn bây giờ và giải quyết cho xong đi?”

“Cứ để hắn đi theo chúng ta. Có gì nguy hiểm đâu? Và hắn ta rất hữu ích với con dao đó.”

Cậu ấy ư? Tin mới đây. Thật là nhiều điều thú vị tôi được biết về người bạn Peeta của tôi hôm nay.

“Ngoài ra, cậu ta là cơ hội tốt nhất của chúng ta trong việc tìm con bé ấy.”

Phải mất một lúc tôi mới nhận ra rằng “con bé ấy” mà chúng nói tới chính là tôi.

“Tại sao? Em nghĩ là con bé sẽ quăng mình vào câu chuyện lãng mạn ngu ngốc đó à?”

“Chắc là thế. Theo em thì cô ta có vẻ là một kẻ đầu óc đơn giản. Mỗi lần nghĩ đến việc cô ta quay tròn trong chiếc váy đó, em lại muốn buồn nôn.”

“Giá như chúng ta biết làm sao cô ta có được điểm mười một đó.”

“Cá với mày là Chàng trai đang yêu biết.”

Tiếng động quay trở lại của Peeta làm chúng im lặng.

“Nó chết chưa?” tên đến từ Đặc khu 2 hỏi.

“Chưa. Nhưng giờ thì chết rồi,” Peeta trả lời. Vừa lúc đó, pháo hiệu được bắn. “Sẵn sàng lên đường chứ?”

Nhóm Cống phẩm Chuyên nghiệp bắt đầu cuộc hành trình ngay khi bình minh vừa rạng, và tiếng chim hót ngập tràn khắp không gian. Tôi vẫn giữ nguyên vị trí bất tiện của mình, các cơ bắp run rẩy do phải gắng sức trong khoảng thời gian dài quá sức chịu đựng, sau đó tôi trèo trở lại cành cây của mình. Tôi cần phải trèo xuống, đi tiếp, nhưng trong một lúc tôi nằm yên đó, sắp xếp lại các thông tin tôi đã nghe được. Không chỉ việc Peeta đi cùng bọn Chuyên nghiệp, cậu ta đang giúp chúng săn tìm tôi. Con bé đầu óc đơn giản cần được bắt lại vì điểm số mười một của nó. Bởi vì nó có thể sử dụng cung tên. Điều mà Peeta biết rõ hơn bất cứ ai.

Nhưng cậu ta vẫn chưa tiết lộ với chúng. Cậu ta giữ lại thông tin đó vì cậu ta biết nó là điều giúp cậu ta còn sống ư? Cậu ta có còn đang giả vờ yêu tôi trước khán giả hay không? Cậu ta đang nghĩ gì trong đầu vậy?

Đột nhiên, tất cả chim chóc ngừng hót. Sau đó một con cất cao giọng hót cảnh báo. Một tiếng duy nhất. Giống như tiếng hót Gale và tôi đã nghe khi cô gái Avox tóc đỏ bị bắt. Ở tít cao bên trên đống lửa chết chóc, một chiếc trực thăng xuất hiện. Một hàm răng khổng lồ bằng kim loại được thả xuống. Chậm rãi, nhẹ nhàng, xác chết của nữ cống phẩm được kéo lên chiếc trực thăng. Sau đó nó biến mất. Chim chóc lại tiếp tục hót.

“Đi thôi,” tôi tự nhủ. Tôi luồn ra khỏi chiếc túi ngủ, cuộn nó lại và cho vào ba lô. Tôi hít một hơi sâu. Trong khi tôi được che chắn bởi màn đêm, chiếc túi ngủ và các nhánh cây liễu, có thể thật khó khăn cho những chiếc camera để thu được hình ảnh rõ nét của tôi. Tuy nhiên lúc này tôi biết chúng phải đang theo sát tôi. Vào phút tôi nhảy xuống đất, tôi đảm bảo sẽ được một pha cận cảnh.

Khán giả chắc sẽ rất hưng phấn, biết rằng tôi đang ở trên cây, rằng tôi đã nghe lỏm được cuộc nói chuyện của những kẻ Chuyên nghiệp, rằng tôi đã biết Peeta đi với chúng. Cho đến khi tôi nghĩ ra chính xác cách tôi muốn chơi trò chơi này như thế nào, tốt nhất ít ra tôi cũng nên hành động như thể tôi nắm rõ tình hình. Không lúng túng. Không bối rối hay sợ hãi.

Không, tôi cần phải nhìn như đi trước một bước trong trò chơi này.

Do đó, khi tôi ra khỏi tán lá và bước vào ánh sáng bình minh, tôi dừng lại một giây, để cho những chiếc máy quay có thời gian hướng thẳng vào mình. Sau đó tôi hếch nhẹ đầu sang một bên và nở một nụ cười ranh mãnh. Đó! Hãy để họ tìm hiểu xem điều đó nghĩa là gì!

Tôi gần như rời đi ngay khi tôi nghĩ đến những chiếc bẫy của mình. Có lẽ thật khinh suất khi đi kiểm tra chúng trong khi những kẻ khác đang ở quá gần. Nhưng phải làm. Quá nhiều năm đi săn, tôi đoán vậy. Và sự cám dỗ của việc có thể kiếm được thịt. Tôi đã được thưởng một con thỏ rất béo tốt. Ngay lập tức, tôi làm lông và moi ruột con thú, giấu đầu, chân, đuôi, da và bộ lòng bên dưới một đống lá. Tôi đang ước ao có lửa – ăn thịt thỏ sống có thể khiến bạn bị mắc bệnh dịch của thỏ, một bài học tôi đã học được theo cách khó khăn nhất – thì tôi nghĩ về cống phẩm đã chết kia. Tôi nhanh chóng quay lại chỗ cô ta cắm trại. Khá chắc chắn rằng đống than của ngọn lửa chết chóc kia vẫn còn nóng. Tôi cắt con thỏ ra, làm một xiên thịt nướng từ cành cây và đặt nó lên trên đống than.

Lúc này tôi rất mừng vì có những chiếc camera. Tôi muốn các nhà tài trợ thấy rằng tôi có thể săn thú, rằng tôi là một cửa cá cược tốt bởi tôi sẽ không bị thu hút sa vào những cái bẫy do đói dễ dàng như những người khác. Trong khi con thỏ được nướng, tôi ngồi nghiền nhỏ một phần cành cây đã cháy thành than và bắt đầu ngụy trang cho chiếc ba lô màu cam. Màu đen làm dịu bớt sắc cam đi, nhưng tôi cảm thấy một lớp bùn sẽ có tác dụng tốt hơn. Tất nhiên, để có bùn, tôi sẽ cần có nước…

Tôi thu dọn đồ đạc, cầm lấy xiên thịt nướng, đá một ít đất phủ lên chỗ than, và đi theo hướng ngược lại với nhóm Chuyên nghiệp. Tôi ăn một nửa chỗ thịt thỏ khi đi, sau đó gói phần còn lại vào cái túi ni lông để ăn sau. Chỗ thịt làm cho dạ dày tôi ngừng sôi lên, nhưng chẳng thể làm tôi hết khát. Nước bây giờ là ưu tiên hàng đầu của tôi.

Khi tôi tiếp tục chặng đường dài đi bộ, tôi cảm thấy chắc chắn tôi vẫn đang chiếm giữ màn hình ở Capitol, nên tôi cẩn thận để tiếp tục che dấu cảm xúc của mình. Nhưng thật là thời điểm tốt để Claudius Templesmith có những vị bình luận viên khách mời, mổ xẻ các hành động của Peeta, các phản ứng của tôi. Tất cả những việc đó có nghĩa là gì? Liệu Peeta đã bộc lộ bản chất thực sự chưa? Điều này ảnh hưởng đến tỷ lệ cá cược như thế nào? Chúng tôi có bị mất các nhà tài trợ không? Thậm chí liệu chúng tôi có nổi các nhà tài trợ không? Có, tôi cảm nhận chắc chắn rằng chúng tôi có, hay ít nhất cũng từng có.

Chắc chắn Peeta đã phá tan hình ảnh đôi tình nhân bất hạnh của chúng tôi. Hay cậu ấy chưa? Có thể, vì cậu ấy vẫn chưa tiết lộ nhiều về tôi, chúng tôi vẫn có thể có được chút lợi lộc từ việc đó. Có lẽ mọi người sẽ nghĩ rằng chúng tôi đã cùng nhau âm mưu việc gì đó nếu lúc này tôi tỏ ra là việc đó làm cho tôi thích thú.

Mặt trời lên cao trên bầu trời và mặc dù có vòm lá che thì vẫn quá sáng. Tôi lấy một ít mỡ thỏ bôi lên môi mình và cố gắng để không thở hổn hển, nhưng không có tác dụng. Đã cả một ngày trời và tôi đang bị mất nước rất nhanh. Tôi cố gắng và nghĩ về mọi thứ tôi biết trong việc tìm nước. Nước chảy xuống, nên thực tế, tiếp tục đi xuống thung lũng này không phải là không tốt. Nếu tôi có thể xác định được lối đi của các con thú hoặc phát hiện ra một thảm thực vật thực sự xanh tốt, chúng có thể giúp tôi tìm ra nhưng hình như không có gì thay đổi. Chỉ có một sườn dốc thoai thoải, chim chóc và những cây cối giống nhau.

Khi ngày trôi đi, tôi biết tôi đang đương đầu với khó khăn. Một chút nước tiểu tôi thải ra có màu nâu đen, đầu tôi đau nhức. Bề mặt khô khốc trên lưỡi tôi từ chối tiết nước bọt. Mặt trời làm mắt tôi hoa lên nên tôi lôi chiếc kính râm ra, nhưng khi tôi đeo chúng lên chúng tạo ra những hình thù ngộ nghĩnh trước mắt tôi, nên tôi chỉ nhét nó trở lại ba lô.

Đó là lúc chiều muộn khi tôi nghĩ rằng tôi đã tìm thấy sự giúp đỡ. Tôi nhìn thấy một cụm các bụi dâu và vội vàng hái lấy quả, để hút lấy nước dâu ngọt ngào từ những lớp vỏ mọng đó. Nhưng ngay khi tôi đưa chúng lên môi, tôi đã nhìn kỹ chúng. Điều tôi nghĩ là những quả dâu này có hình dạng hơi khác và khi tôi bóp vỡ một quả ra thì bên trong có màu đỏ như máu. Tôi không nhận ra loại dâu này, có thể chúng ăn được, nhưng tôi đoán đây là một loại bẫy xấu xa nào đó trong một phần công việc của các Nhà thiết lập Trò chơi. Mặc dù người hướng dẫn về thực vật trong Trung tâm Huấn luyện đã nhấn mạnh với chúng tôi là phải tránh những quả dâu trừ khi bạn chắc chắn 100% là chúng không có độc. Những thứ mà tôi đã biết, nhưng tôi quá khát nên phải nhớ đến lời nhắc nhở của cô ấy mới cho tôi sức mạnh để ném chúng đi.

Sự mệt mỏi đang bắt đầu tác động lên tôi, nhưng nó không phải sự mệt mỏi thông thường do đi bộ đường dài. Tôi phải dừng lại và nghỉ ngơi thường xuyên, mặc dù tôi biết phương pháp duy nhất cứu tôi khỏi sự ốm yếu này là phải tiếp tục tìm kiếm. Tôi thử một biện pháp khác – trèo lên một cái cây cao nhất có thể trong tình trạng yếu ớt của mình – để nhìn xem có dấu hiệu nào của nước không. Nhưng nhìn xa hết mức có thể theo bất cứ hướng nào, cũng chỉ có những rừng cây giống nhau trải dài bất tận.

Quyết định đi tiếp cho đến khi đêm xuống, tôi bước đi cho đến khi chân tôi vấp vào nhau và ngã xuống.

Kiệt sức, tôi cố lết lên một cái cây và buộc mình vào đó. Tôi không muốn ăn nhưng tôi mút chiếc xương thỏ chỉ để cho miệng mình hoạt động. Màn đêm buông xuống, bài quốc ca vang lên, và cao trên bầu trời tôi nhìn thấy hình ảnh của cô gái đó, rõ ràng là đến từ Đặc khu 8. Người mà Peeta quay lại để kết thúc mạng sống.

Nỗi sợ hãi của tôi đối với nhóm Chuyên nghiệp là rất nhỏ so với cơn khát đang thiêu đốt. Bên cạnh đó, họ đi theo hướng cách xa tôi và vào lúc này, họ cũng phải nghỉ ngơi. Với sự khan hiếm nước, họ thậm chí đã phải quay lại cái hồ để lấy nước.

Có lẽ đó cũng là cách giải quyết duy nhất cho tôi.

Buổi sáng đến trong tình trạng khốn khổ. Đầu tôi giật giật theo từng nhịp đập của trái tim. Một cử động nhỏ cũng đem lại những cơn đau nhói ở các khớp xương. Tôi rơi xuống hơn là nhảy xuống khỏi cây. Phải mất vài phút tôi mới thu dọn xong đồ đạc. Ở đâu đó trong đầu mình, tôi biết điều này là sai. Tôi phải hành động cảnh giác hơn, di chuyển gấp hơn. Nhưng đầu óc tôi như có một màn sương mù, và thật khó để hình thành một kế hoạch. Tôi dựa lưng vào gốc cây, một ngón tay rón rén vuốt ve bề mặt khô nhám của lưỡi mình khi tôi tính toán các lựa chọn của mình. Làm thế nào để tôi lấy được nước?

Quay lại hồ nước. Không tốt. Tôi không bao giờ làm được việc đó.

Hy vọng trời mưa. Không có một đám mây nào trên bầu trời.

Tiếp tục tìm kiếm. Đúng, đây là cơ hội duy nhất của tôi. Nhưng sau đó, một ý nghĩ khác ập đến, và cơn tức giận trào lên sau đó làm cho tôi tỉnh táo lại.

Haymitch! Ông ấy có thể gửi nước đến cho tôi! Nhấn một cái nút và nó sẽ được đưa đến cho tôi trong chiếc dù bạc trong vài phút. Tôi biết tôi phải có nhà tài trợ, ít nhất một hoặc hai người có thể trả được một panh nước (1 pint = 0,473 lít) cho tôi. Phải, nó rất đắt, nhưng những người này, họ rất giàu. Và họ cũng đánh cược cho tôi. Có lẽ Haymitch không nhận ra tôi cần nước đến mức nào.

Tôi thốt lên một âm thanh to nhất có thể. “Nước”. Tôi chờ đợi, mong ngóng một chiếc dù sẽ rơi xuống từ trên bầu trời. Nhưng không có gì xuất hiện.

Có gì đó không đúng. Tôi có bị đánh lừa về việc có các nhà tài trợ hay không? Hay hành động của Peeta đã làm cho tất cả họ rút lại nguồn tài trợ? Không, tôi không tin điều đó. Phải có một ai đó ngoài kia muốn mua nước cho tôi, chỉ có Haymitch là từ chối đưa nó đến. Là cố vấn của tôi, ông ấy có thể điều khiển lượng quà tặng từ các nhà tài trợ. Tôi biết ông ấy ghét tôi. Ông ấy đã thể hiện điều đó đủ rõ. Nhưng đủ để bỏ mặc tôi chết ư? Từ việc này? Ông ấy không thể làm thế, đúng không? Nếu một cố vấn ngược đãi cống phẩm của mình, ông ta sẽ phải chịu trách nhiệm trước những người xem, trước những người dân ở Đặc khu 12. Ngay cả Haymitch cũng sẽ không mạo hiểm làm vậy, đúng không? Bạn có thể nói bất cứ điều gì về những người đổi chác với tôi ở Hob, nhưng tôi không nghĩ họ sẽ chào đón ông ấy quay lại đó nếu ông ấy để tôi chết như thế này. Và khi đó ông ấy có thể kiếm rượu ở đâu được? Nên… sao? Ông ấy đang cố gắng bắt tôi phải chịu đựng vì đã không nghe lời ông ấy ư? Có phải ông ấy đang hướng tất cả các nhà tài trợ về phía Peeta? Hay ông ấy chỉ đang quá say để có thể nhận ra chuyện gì đang xảy ra lúc này? Không hiểu sao tôi không tin điều đó và tôi cũng không tin ông ấy đang cố gắng giết tôi bằng việc bỏ mặc tôi. Sự thật thì theo cái cách khó ưa của mình, ông ấy thực sự đã cố gắng chuẩn bị cho tôi về việc này. Vậy thì chuyện gì đang xảy ra thế?

Tôi vùi mặt vào hai tay. Không phải lo sợ sẽ khóc vào lúc này, tôi không thể khóc nổi một giọt nước mắt để cứu cuộc sống của mình. Haymitch đang làm cái gì vậy? Mặc cho nỗi tức giận, căm ghét và sự nghi ngờ của tôi, một giọng nói nhỏ từ sau đầu tôi thì thầm một câu trả lời.

Có lẽ ông ấy đang gửi cho ngươi một thông điệp, nó nói. Một thông điệp. Đang nói cái gì vậy? Sau đó tôi hiểu ra. Chỉ có một lý do hợp lý nhất khiến Haymitch trì hoãn việc gửi nước cho tôi. Bởi vì ông ấy biết rằng tôi đã gần tìm ra nó.

Tôi nghiến chặt răng và kéo mình đứng lên. Chiếc ba lô của tôi dường như nặng gấp ba lần. Tôi tìm một cành cây gẫy để dùng làm gậy chống và lên đường. Mặt trời thiêu đốt, thậm chí còn khô nóng hơn hai ngày đầu tiên. Tôi cảm thấy giống như một miếng da thuộc cũ, khô cong và nứt toác ra do hơi nóng. Mỗi bước chân là một sự nỗ lực, nhưng tôi không dừng lại. Tôi không ngồi xuống. Nếu tôi ngồi xuống, có khả năng là tôi sẽ không thể đứng dậy được nữa, tôi thậm chí sẽ không nhớ ra nổi nhiệm vụ của mình.

Tôi là một con mồi dễ bắt biết bao! Bất kể cống phẩm nào, ngay cả Rue bé nhỏ, cũng có thể hạ tôi ngay lập tức, chỉ cần đẩy tôi ngã và giết tôi bằng chính con dao của tôi, và tôi gần như chẳng có chút sức lực nào để chống trả. Nhưng nếu có ai đó đang ở trong khoảng rừng của tôi, thì họ cũng đang lờ tôi đi. Sự thật là, tôi cảm thấy đang ở cách một người nào đó còn sống đến cả triệu dặm.

Dù sao thì cũng không phải đang ở một mình. Không, họ lúc này chắc chắn đang cho camera theo dõi tôi. Tôi nghĩ lại những năm ngồi xem các cống phẩm đói ăn, lạnh cóng, mất máu và mất nước cho đến chết. Trừ khi có một cuộc chiến thực sự gay cấn đang diễn ra ở đâu đó, nếu không, tôi đang được theo dõi sát sao.

Suy nghĩ của tôi trở về với Prim. Chắc là con bé sẽ không xem tôi được tường thuật trực tiếp, nhưng họ sẽ trình chiếu thông tin cập nhật ở trường trong giờ ăn trưa. Vì con bé, tôi cố gắng trông ít tuyệt vọng nhất mà tôi có thể.

Nhưng vào buổi chiều, tôi biết rằng thời điểm kết thúc đã đến. Hai chân tôi run rẩy và tim thì đập quá nhanh. Tôi tiếp tục quên đi, chính xác đó là những gì tôi đang làm. Tôi vấp ngã liên tục và cố gắng đứng dậy trên đôi chân của mình, nhưng khi chiếc gậy trượt rơi, tôi cuối cùng cũng đổ nhào xuống đất không thể đứng dậy nổi. Tôi để mắt mình nhắm lại.

Tôi đã đánh giá sai Haymitch. Ông ấy không hề có ý định giúp tôi.

Điều này cũng được thôi, tôi nghĩ. Ở đây điều này cũng không quá tệ. Không khí dịu dần, báo hiệu buổi tối đang đến. Thoang thoảng đâu đây mùi hương ngọt ngào, dịu nhẹ gợi cho tôi nhớ đến những bông hoa ly. Ngón tay tôi vuốt ve trên nền đất bằng phẳng, trơn nhẵn, dễ dàng đẩy được lớp bề mặt trượt ra.Đây là chỗ thích hợp để chết, tôi nghĩ.

Đầu ngón tay tôi tạo nên các hình xoáy trên mặt đất mát lạnh, trơn mượt. Mình yêu bùn, tôi nghĩ. Biết bao nhiêu lần tôi tìm ra được dấu vết các con thú nhờ sự giúp đỡ của bề mặt mềm mại, lưu lại được dấu vết của nó. Cũng tốt cho những vết ong đốt nữa. Bùn. Bùn. Bùn! Mắt tôi mở bừng ra và tôi vùi những ngón tay vào trong đất. Nó là bùn! Tôi hếch mũi lên ngửi không khí. Và chúng là những bông hoa súng! Những bông hoa súng mọc dưới nước!

Giờ thì tôi đang trườn, trên lớp bùn, lôi mình đi theo hướng của mùi thơm. Năm yard từ chỗ tôi ngã xuống, tôi trườn xuyên qua một đám thực vật rậm rạp vào một cái ao. Nổi trên mặt nước, những bông hoa vàng đang nở rộ, là những bông hoa súng tuyệt đẹp của tôi.

Tất cả những gì tôi có thể làm là không được nhấn chìm cả mặt mình xuống nước và uống vào nhiều nhất có thể. Nhưng tôi chỉ còn lại một chút tỉnh táo để kìm chế. Với đôi tay run rẩy, tôi lấy chiếc bình đựng nước của mình ra và cho đầy nước vào bình. Theo những gì có thể nhớ được, tôi thêm vào một số giọt i ốt vừa đủ để làm sạch nước. Nửa giờ đồng hồ chờ đợi thật khổ sở, nhưng tôi đã làm thế. Ít nhất, tôi nghĩ đó là nửa tiếng, nhưng chắc chắn đó là thời gian lâu nhất mà tôi có thể chịu đựng được.

Chậm thôi, từ từ nào, tôi tự nhủ. Tôi uống một ngụm và chờ một lát. Sau đó thêm một ngụm nữa. Trong một vài tiếng sau, tôi đã uống hết cả nửa gallon nước (1 gallon = 3.78 lít). Sau đó là bình thứ hai. Tôi chuẩn bị sẵn một bình nước khác trước khi tôi lui về nghỉ ngơi ở một cái cây, nơi tôi tiếp tục nhấm nháp, ăn thịt thỏ và thậm chí tự cho phép mình thưởng thức một trong những chiếc bánh quy quý giá. Vào lúc bản nhạc quốc ca được bật lên, tôi cảm thấy khá hơn rõ rệt. Không có gương mặt nào xuất hiện đêm nay, không cống phẩm nào chết hôm nay. Ngày mai, tôi sẽ ở đây nghỉ ngơi, ngụy trang chiếc ba lô của mình bằng bùn, bắt vài con cá nhỏ mà tôi đã nhìn thấy lúc tôi nhấp từng ngụm nước, đào củ của những cây hoa súng để làm một bữa ăn ngon lành. Tôi rúc vào chiếc túi ngủ, ôm chặt lấy bình nước đã giữ lại cuộc sống thân thương của mình, tất nhiên, lúc này nó đúng là vậy.

Một vài giờ sau, tiếng chân chạy tán loạn đã làm tôi tỉnh ngủ. Tôi hoang mang nhìn quanh. Vẫn chưa tới bình minh, nhưng đôi mắt nhức nhối của tôi vẫn có thể nhìn rõ nó.

Thật khó để không nhìn thấy một bức tường lửa đang đột ngột tấn công tôi.

CHƯƠNG 13

Thôi thúc đầu tiên của tôi là trườn khỏi cái cây, nhưng tôi đang bị buộc vào nó. Bằng cách nào đó các ngón tay vụng về của tôi cũng tháo được cái khóa thắt lưng và tôi rơi sầm xuống đất thành một đống, vẫn loay hoay trong chiếc túi ngủ. Không có thời gian để thu dọn bất cứ thứ gì. May thay, chiếc ba lô và bình nước của tôi đã ở sẵn trong chiếc túi ngủ. Tôi vội nhét chiếc thắt lưng vào, kéo chiếc túi quàng qua vai và chạy bay đi.

Cả khu rừng chìm trong lửa và khói. Các cành cây gãy do cháy rơi như mưa dưới chân tôi. Tất cả những gì tôi có thể làm là chạy theo những động vật khác, những con thỏ và hươu và thậm chí tôi còn thấy một đàn chó hoang chạy như bay xuyên qua rừng. Tôi tin vào khả năng định hướng của chúng bởi vì bản năng sinh tồn của chúng nhạy bén hơn mình. Nhưng chúng chạy nhanh hơn rất nhiều, bay qua các bụi cây một cách nhẹ nhàng trong khi đôi bốt của tôi thì bị vướng vào rễ cây và các cành cây to bị đổ xuống, nên không có cách nào để tôi có thể theo kịp chúng.

Hơi nóng thật kinh khủng, nhưng tệ hơn thế chính là khói, đang có nguy cơ làm tôi ngạt thở bất cứ lúc nào. Tôi kéo cổ áo sơ mi lên che mũi, may mắn là nó bị ướt bởi mồ hôi và nó trở thành một chiếc khẩu trang mỏng. Và tôi chạy, nín thở, chiếc túi của tôi đập mạnh trên lưng, mặt tôi bị một vết cắt của một cành cây xuất hiện đột ngột trong lớp khói xám mù mịt, bởi vì tôi biết nhiệm vụ của tôi là phải chạy.

Vụ cháy này không phải do lửa trại của các cống phẩm bị bùng lên mất kiểm soát, không có sự cố bất ngờ nào hết. Ngọn lửa tấn công tôi rơi xuống từ một độ cao bất thường và rất giống nhau cho thấy chúng phải do con người, do máy móc, do các Nhà thiết lập Trò chơi tạo ra. Hôm nay đã quá im ắng. Không có thêm cái chết nào, có lẽ cũng không có cuộc chiến nào cả. Khán giả Capitol sẽ bắt đầu cảm thấy buồn chán, kêu ca rằng Trò chơi này ngày càng trở nên tẻ nhạt. Đây là điều mà Trò chơi này không được phép.

Thật không khó để hiểu được động cơ của các Nhà thiết lập Trò chơi. Một bên là nhóm những kẻ Chuyên nghiệp và một bên là những người còn lại chúng tôi, có lẽ đã rải rác đi xa và khó có thể chạm trán nhau trong đấu trường. Đám cháy được thiết kế để xua chúng tôi ra, hướng chúng tôi về cùng một chỗ. Đó không phải là một biện pháp độc đáo nhất mà tôi đã từng xem, nhưng nó lại vô cùng hiệu quả.

Tôi nhảy vượt qua một khúc gỗ cháy. Không nhảy đủ cao. Đuôi áo khoác của tôi bị bắt lửa và tôi phải dừng lại để cởi nó ra, dập tắt lửa. Nhưng tôi không muốn để mặc chiếc áo bị xém lửa và cháy âm ỉ như thế nên tôi mạo hiểm nhét nó vào chiếc túi ngủ, hy vọng rằng việc thiếu không khí sẽ giúp dập tắt được những chỗ tôi không thể dập. Đây là tất cả những gì tôi có, những thứ tôi đang vác trên lưng, và nó cũng đã quá ít cho việc sống còn rồi.

Thời gian chỉ còn tính bằng phút cho đến khi cổ họng và mũi tôi bị thiêu đốt. Các cơn ho bắt đầu rất nhanh sau đó và phổi của tôi bắt đầu cảm thấy như thể chúng thực sự bị nấu chín. Sự khó chịu chuyển sang đau đớn cho đến khi mỗi hơi thở đều đem đến sự bỏng rát trong ngực tôi. Tôi cố ẩn núp dưới một tảng đá nhô lên ngay khi những cơn ói mửa bắt đầu, và tôi đã nôn ra toàn bộ bữa tối đạm bạc của mình và bất kể lượng nước nào còn lại trong dạ dày. Cúi gập đầu trong hai tay và đầu gối, tôi nôn cho đến khi không còn gì để cho ra nữa.

Tôi biết tôi phải tiếp tục đi, nhưng lúc này tôi đang run rẩy và đầu óc váng vất, há hốc miệng để hít lấy không khí. Tôi tự cho phép mình uống một ngụm nước để súc miệng và nhổ đi, sau đó uống một vài ngụm nước khác từ chiếc bình. Ngươi có một phút, tôi tự nhủ. Một phút để nghỉ ngơi. Tôi tranh thủ thời gian sắp xếp lại các vật dụng của mình, cuộn chiếc túi ngủ lại và nhét bừa mọi thứ vào chiếc ba lô. Một phút của tôi đã hết. Tôi biết đã đến lúc phải lên đường, nhưng khói đã che phủ hết suy nghĩ của tôi. Những con thú giúp tôi định hướng đã nhanh chân bỏ lại tôi đằng sau. Tôi biết lúc trước tôi không ở trong khu vực rừng này, không có những tảng đá lớn giống tảng đã tôi đang trú ẩn trong suốt chuyến đi của tôi trước đây. Các Nhà thiết lập Trò chơi đáng hướng tôi đến đâu? Quay lại hồ nước? Tới một địa hình hoàn toàn mới, nơi chứa đầy các hiểm họa? Tôi đã vừa mới tìm được vài giờ yên bình ở ao nước khi đợt tấn công này bắt đầu. Liệu có con đường nào khác song song với chỗ có đám cháy để tôi có thể quay trở lại đó không, ít nhất là để tới nguồn nước? Bức tường lửa phải có giới hạn và nó không thể cháy mãi được. Không phải vì các Nhà thiết lập Trò chơi không thể cung cấp đủ nhiên liệu cho đám cháy mà bởi vì, một lần nữa, điều đó sẽ mang đến những lời chỉ trích về sự nhàm chán từ phía khán giả. Nếu tôi có thể quay trở lại đằng sau bức tường lửa, tôi có thể tránh gặp nhóm Chuyên nghiệp. Tôi chỉ vừa mới quyết định sẽ thử và đi vòng trở lại mặc dù sẽ mất nhiều dặm đường để tránh xa cái địa ngục kia và sau đó phải đi lòng vòng tìm đường trở lại, thì quả cầu lửa đầu tiên đập thẳng vào tảng đá cách đầu tôi khoảng hai feet. Tôi nhảy khỏi gầm tảng đá, trỗi lên một nỗi sợ hãi mới.

Trò chơi đã có một bước phát triển. Đám cháy là để bắt chúng tôi phải di chuyển, bây giờ khán giả sẽ được xem một vài trò vui thực sự. Khi tôi nghe thấy tiếng xì xì, tôi nằm sấp xuống đất, không có cả thời gian để nhìn. Quả cầu lửa đập vào cái cây bên trái tôi, nhấn chìm nó trong lửa. Vẫn nằm im là chết. Tôi vừa kịp đứng lên trước khi quả cầu thứ ba đập xuống đất ngay chỗ tôi vừa nằm, tạo nên một cột lửa đằng sau tôi. Lúc này thời gian không còn ý nghĩa khi tôi điên cuồng cố gắng chạy để né tránh các đợt tấn công. Tôi không thể nhìn ra những quả cầu lửa được bắn ra từ đâu, nhưng nó không phải là một chiếc trực thăng. Các góc độ không đủ xa. Có thể cả khoảng rừng này được trang bị những máy phóng lửa chuẩn xác mà được giấu ở những cây cối hoặc các tảng đá. Ở đâu đó, trong những căn phòng sạch sẽ, mát lạnh, một Nhà thiết lập Trò chơi đang ngồi trước một bảng điều khiển, ngón tay đặt trên các nút bấm mà có thể kết thúc cuộc sống của tôi trong vòng một giây. Tất cả việc cần phải làm là một cú bắn trực tiếp.

Bất kể kế hoạch mơ hồ nào tôi đang ấp ủ về việc quay lại chiếc ao của mình đều bị xóa sạch khỏi đầu tôi, khi tôi chạy ngoằn nghoèo và nhảy lên, ngụp xuống để tránh những quả cầu lửa. Mỗi quả chỉ to bằng một quả táo nhưng chứa sức sát thương dữ dội nếu bị chạm phải. Mọi giác quan của tôi đều phải hoạt động hết công suất khi nhu cầu sinh tồn được đặt lên hàng đầu. Không có thời gian để xem xét liệu hướng đi của tôi có đúng không. Khi có tiếng xuỵt, tôi phải hành động ngay hoặc chết.

Dù sao có nguyên nhân nào đó bắt tôi tiếp tục phải tiến về phía trước. Cả cuộc đời xem Trò chơi sinh tử cho tôi biết rằng một số khu vực nhất định trong đấu trường được thiết kế cho một số loại hình tấn công nào đó. Và rằng nếu tôi có thể thoát khỏi khu vực này, tôi có thể ra ngoài tầm bắn của các máy phóng lửa. Tôi cũng có thể rơi thẳng vào một cái hố đầy những con rắn vipe, nhưng lúc này tôi chẳng thể lo lắng về điều đó được.

Tôi không biết mình phải trườn, bò cũng như chạy lắt léo để tránh những quả cầu lửa trong bao lâu nhưng các đợt tấn công cuối cùng cũng bắt đầu giảm đi. Thật là tốt bởi tôi lại bắt đầu nôn ọe. Lần này chỉ có axit từ dạ dày làm rát cổ họng tôi và trào lên cả mũi nữa. Tôi buộc phải dừng lại khi cả người tôi co gập lại, cố gắng giải thoát khỏi các chất độc mà tôi hít phải trong suốt đợt tấn công. Tôi chờ đợi tiếng xì xì tiếp theo, dấu hiệu tiếp theo của các quả cầu lửa. Nó không xuất hiện. Ảnh hưởng của trận nôn mửa đã ép đôi mắt nhức nhối của tôi ứa nước mắt. Quần áo tôi ướt sũng mồ hôi. Không hiểu sao qua mùi khói và chất nôn mửa, tôi lại ngửi thấy mùi khét của tóc bị cháy. Tay tôi dò dẫm bím tóc của mình và phát hiện ra một quả cầu lửa đã đốt mất ít nhất là sáu inch (1 in = 2.54 cm). Món tóc bị cháy đen vỡ vụn trong các ngón tay tôi. Tôi nhìn chúng chằm chằm, bị thôi miên trước sự chuyển đổi, thì những âm thanh xì xì lại bắt đầu.

Các cơ bắp của tôi ngay lập tức phản ứng, chỉ có điều lần này không đủ nhanh. Quả cầu lửa đập xuống mặt đất ngay cạnh tôi, nhưng là sau khi nó sượt qua bắp chân tôi. Nhìn ống quần bén lửa làm tôi kinh hoàng. Tôi xoay người và vội vàng lùi ra sau bằng tay và bàn chân, la hét, cố gắng thoát khỏi nỗi kinh hoàng đó. Khi tôi cuối cùng cũng lấy lại được bình tĩnh, tôi lăn đi lăn lại cái chân bị bắt lửa trên mặt đất, giúp dập tắt đi phần bị cháy tồi tệ nhất. Nhưng sau đó, không cần suy nghĩ, tôi xé đi chỗ vải còn lại bằng tay không.

Tôi ngồi trên mặt đất, cách vài yard từ chỗ đám cháy dữ dội do quả cầu lửa tạo ra. Bắp chân tôi đang nhức nhối, bàn tay tôi phủ lên vết bỏng đỏ tấy. Tôi không thể bỏ tay ra vì chân đang run dữ dội. Nếu các Nhà thiết lập Trò chơi muốn kết liễu tôi, thì đây chính là lúc thích hợp.

Tôi nghe thấy giọng của Cinna, cùng với hình ảnh của chiếc váy lộng lẫy và những viên đá quý lấp lánh. “Katniss, cô gái của lửa.” Thật là một trò đùa thú vị mà các Nhà thiết lập Trò chơi chắc đã phải tạo nên dựa vào chi tiết đó. Dường như, những bộ trang phục tuyệt đẹp của Cinna đã mang lại cách hành hạ đặc biệt này cho tôi. Tôi biết anh ấy không thể nhìn thấy trước được điều này, sẽ gây ra đau đớn cho tôi, bởi vì thật sự, tôi tin anh ấy quan tâm đến tôi. Nhưng tóm lại, có lẽ xuất hiện trong tình trạng trần như nhộng trên chiếc xe ngựa diễu hành đó lại an toàn hơn cho tôi.

Bây giờ thì cuộc tấn công đã kết thúc. Các Nhà thiết lập Trò chơi không muốn tôi chết. Vì vẫn chưa đến lúc. Mọi người đều biết họ có thể tiêu diệt chúng tôi trong vòng vài giây kể từ khi tiếng cồng mở màn vang lên. Trò vui thực sự của Trò chơi sinh tử là nhìn các cống phẩm giết chóc lẫn nhau. Đôi khi, họ giết một cống phẩm chỉ để nhắc nhở những người chơi rằng họ hoàn toàn có thể. Nhưng phần lớn, họ điều khiển chúng tôi phải đương đầu với nhau trực diện. Điều đó có nghĩa là, nếu tôi không còn bị lửa tấn công thì ít nhất cũng phải có một cống phẩm khác đang ở rất gần.

Tôi sẽ kéo lê mình lên một cái cây và ẩn nấp ngay nếu tôi có thể, nhưng khói vẫn còn dày đặc đủ để giết chết tôi. Tôi cố gắng đứng lên và bắt đầu khập khiễng đi khỏi bức tường lửa đang làm sáng cả bầu trời. Nó dường như không đuổi theo tôi nữa, ngoại trừ những đám khói đen xì khét lẹt của nó.

Một ánh sáng khác, ánh sáng ban ngày, bắt đầu nhẹ nhàng bừng lên. Những đám khói cuộn lên trong ánh nắng ban mai. Tầm nhìn của tôi rất hạn chế. Hình như tôi chỉ có thể nhìn xa được mười lăm yard (1 yard = 0.914 m) theo bất cứ hướng nào. Bất cứ cống phẩm nào cũng có thể dễ dàng ẩn nấp ở đây khiến tôi không thể nhìn thấy. Tôi nên rút con dao ra để đề phòng, nhưng tôi lo ngại về khả năng tôi có thể giữ được nó lâu. Sự đau đớn ở bàn tay tôi không thấm vào đâu so với cơn đau ở bắp chân. Tôi ghét các vết bỏng, vẫn luôn ghét chúng, ngay cả một vết bỏng nhỏ từ việc lôi khay bánh mì ra khỏi lò. Đó là loại đau đớn tồi tệ nhất đối với tôi, nhưng tôi chưa bao giờ bị những vết bỏng nào như thế này.

Tôi quá mệt đến nỗi thậm chí tôi không nhận ra mình lội xuống một khe nước cho đến khi tôi ngập mắt cá chân. Đó là một khe nước suối, chảy ra từ một khe hở giữa các tảng đá và mát vô cùng. Tôi ngâm tay vào chỗ nước nông và cảm thấy đỡ đau ngay lập tức. Đây có phải là những gì mẹ tôi thường nói không? Bước đầu tiên điều trị vết bỏng là nước lạnh? Rằng nó sẽ giúp giảm nhiệt độ. Nhưng ý của bà là các vết bỏng nhỏ. Có lẽ bà sẽ đưa ra lời khuyên đó cho hai tay tôi. Nhưng còn bắp chân tôi thì sao? Mặc dù tôi không có can đảm để kiểm tra nó, tôi đoán rằng đó là một loại vết thương hoàn toàn khác.

Tôi nằm sấp bụng bên mép khe nước một lúc lâu, đu đưa hai tay trong nước, xem xét những ngọn lửa nhỏ trên móng tay mà đang bắt đầu tróc ra. Tốt. Tôi đã có đủ lửa cho cả cuộc đời rồi.

Tôi rửa hết máu và tro trên mặt. Tôi cố gắng nhớ lại tất cả những gì tôi biết về các vết bỏng. Chúng là những loại thương tích phổ biến ở Seam nơi chúng tôi nấu ăn và sửa ấm ngôi nhà của mình bằng than đá. Rồi cả những vụ tai nạn hầm mỏ nữa… Một lần có một gia đình đã đem đến một người đàn ông trẻ đã bất tỉnh cầu xin mẹ tôi cứu giúp. Vị bác sĩ của đặc khu, người chịu trách nhiệm chữa trị cho các thợ mỏ đã từ chối điều trị và yêu cầu gia đình đó đưa anh ta về nhà để chết. Nhưng họ không chấp nhận điều này. Anh ta nằm trên chiếc bàn trong nhà bếp của chúng tôi, không còn nhận thức được. Tôi nhìn thoáng qua vết thương trên đùi anh ta trước khi chạy khỏi nhà, bị hở miệng to, thịt bị cháy thành than, vết bỏng sâu đến tận xương. Tôi vào rừng và đi săn cả ngày hôm đó, bị ám ảnh bởi chiếc chân kinh khủng đó và các ký ức về cái chết của cha tôi. Điều buồn cười là Prim, cô bé mà sợ ngay cả cái bóng của chính mình, lại ở lại và giúp mẹ tôi. Mẹ tôi nói rằng những người chữa bệnh là do bẩm sinh, chứ không phải được tạo ra. Họ đã làm hết sức, nhưng người đàn ông vẫn chết, giống như người bác sĩ đã nói.

Chân tôi đang cần được chăm sóc, nhưng tôi vẫn chưa thể nhìn tới nó. Điều gì sẽ xảy ra nếu nó cũng tệ như vết thương của người đàn ông đó và tôi có thể nhìn thấy được cả xương của mình? Sau đó tôi nhớ ra mẹ tôi đã nói rằng nếu vết bỏng quá nặng, nạn nhân thậm chí có thể không cảm thấy đau bởi các dây thần kinh đã bị phá hủy. Được cổ vũ bởi điều đó, tôi ngồi dậy và nâng chân ra trước mặt.

Tôi gần như xỉu đi khi nhìn thấy bắp chân mình. Thịt đỏ au bên dưới vết bỏng phồng giộp lên. Tôi bắt mình phải hít thở chậm và sâu, cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng các máy quay đang chĩa thẳng vào mặt mình. Tôi không được tỏ ra yếu đuối trước vết thương này. Không được nếu tôi muốn được giúp đỡ. Đáng thương không đem lại cho bạn sự trợ giúp. Khâm phục trước ý chí không chịu thua của bạn sẽ có tác dụng hơn. Tôi cắt phần còn lại của chiếc quần trên cẳng chăn đến tận đầu gối và kiểm tra vết thương kĩ hơn. Vùng bị bỏng to khoảng bằng bàn tay tôi. Không có chỗ da nào bị cháy đen. Tôi nghĩ nó không quá tệ để nhúng nước. Thận trọng tôi duỗi chân xuống khe nước, gác gót chiếc bốt lên một tảng đã để chiếc bốt da không bị ướt sũng, và thở dài vì việc này giúp giảm đau một chút. Tôi biết chắc rằng phải có thảo dược, chỉ cần tôi có thể tìm ra chúng, sẽ giúp vết thương liền nhanh hơn, nhưng tôi không thể hoàn toàn nhớ ra chúng. Nước và thời gian có lẽ là tất cả những gì tôi có để xoay xở.

Tôi có nên tiếp tục di chuyển không? Khói đang dần tan nhưng vẫn còn quá dày đặc để không ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu tôi tiếp tục tránh xa đám cháy, liệu tôi có không tiến thẳng vào kho vũ khí của những kẻ Chuyên nghiệp hay không? Bên cạnh đó, mỗi khi tôi nhấc chân ra khỏi nước, cơn đau lại trỗi dậy mãnh liệt khiến tôi lại phải nhúng nó trở lại. Hai bàn tay tôi đã hơi bớt nhức nhối. Chúng có thể chịu được những khoảng thời gian ngắn nhấc ra khỏi khe nước. Cho nên tôi chậm rãi sắp xếp lại đồ đạc. Đầu tiên tôi lấy nước ở cái khe cho vào đầy bình, xử lý nó, và khi đợi đủ thời gian trôi qua, tôi bắt đầu bổ sung nước lại cho cơ thể mình. Sau một lúc, tôi tự ép mình nhấm nháp một chiếc bánh quy, giúp ổn định cái dạ dày. Tôi cuộn chiếc túi ngủ lại. Ngoại trừ vài vết đen, nó gần như không bị hư hại gì. Chiếc áo khoác của tôi thì lại là vấn đề khác. Cháy xém và khét lẹt, ít nhất khoảng một foot (30,48cm) ở sau lưng không sửa chữa được. Tôi cắt bỏ phần hư hại và chỉ còn lại một miếng vải mà che được đến hết các xương sườn của tôi. Nhưng chiếc mũ trùm đầu vẫn còn nguyên vẹn và nó tốt hơn rất nhiều so với việc không có gì để mặc.

Dù đau nhưng cơn buồn ngủ bắt đầu kéo đến. Tôi phải trèo lên một cái cây và cố gắng nghỉ ngơi, trừ khi tôi muốn dễ dàng bị phát hiện. Bên cạnh đó, rời bỏ cái vũng nước của tôi dường như là không thể. Tôi sắp xếp các vật dụng của mình gọn gàng lại, thậm chí đeo cái ba lô lên lưng, nhưng tôi hình như không thể đi được. Tôi phát hiện ra một vài loại thực vật dưới nước mà rễ có thể ăn được và làm một bữa ăn nhỏ với miếng thịt thỏ cuối cùng của mình. Uống từng ngụm nước. Ngắm mặt trời đang chậm rãi hoàn thành quỹ đạo hình cung của nó trên bầu trời. Dù sao thì tôi có thể đi nơi nào khác an toàn hơn chỗ này được chứ? Tôi đặt lại chiếc ba lô và để cơn buồn ngủ chiến thắng. Nếu các Cống phẩm Chuyên nghiệp muốn tôi, hãy cứ để chúng tìm ra tôi, tôi nghĩ trước khi trôi vào trạng thái mơ màng. Cứ để chúng tìm ra tôi.

Và tìm ra tôi, chúng đã làm được. Cũng may là tôi đang chuẩn bị lên đường bởi vì khi tôi nghe thấy tiếng chân, tôi có chưa đến một phút chạy trước chúng. Trời bắt đầu tối dần. Ngay lúc tôi tỉnh giấc, tôi bật dậy và chạy, nhảy qua khe nước, bay thẳng vào bụi cây. Cái chân làm tôi bị chậm lại, nhưng tôi cảm thấy tốc độ của những kẻ săn đuổi cũng không nhanh như lúc trước khi xảy ra hỏa hoạn. Tôi nghe thấy những tiếng ho, những tiếng gọi nhau cáu gắt của chúng.

Tuy nhiên, chúng vẫn đang rút ngắn khoảng cách, giống như một đàn chó hoang, và tôi cũng làm như những gì tôi đã từng làm trong suốt cuộc đời mình trong những hoàn cảnh như thế này. Tôi chọn lấy một cái cây cao và bắt đầu trèo lên. Nếu chạy gây ra đau đớn thì leo trèo là cả một cực hình bởi vì nó đòi hỏi không chỉ toàn bộ sức lực mà còn trực tiếp cọ sát bàn tay tôi vào vỏ cây. Dù vậy tôi vẫn trèo rất nhanh, và vào lúc chúng đến được gốc cây thì tôi đã trèo được lên hai mươi feet (1ft ~ 30.48cm). Trong một lúc, chúng dừng lại và hỏi ý kiến nhau. Tôi hy vọng chúng không nghe thấy tiếng tim tôi đang đập thình thịch.

Đây có thể là điều đó, tôi nghĩ. Tôi có cơ hội nào để chống lại chúng chứ? Tất cả sáu đứa đang ở đó, năm Cống phẩm Chuyên nghiệp và Peeta, điều an ủi duy nhất của tôi là chúng cũng đang kiệt sức. Dù vậy, hãy nhìn vào vũ khí của chúng. Nhìn khuôn mặt chúng, đang cười sung sướng và hằm hè nhìn tôi, một kẻ chắc chắn phải giết ở phía trên chúng. Hoàn cảnh dường như hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng sau đó một ý nghĩ khác chợt đến. Chúng to và khỏe hơn tôi, không sai, nhưng chúng cũng nặng nề hơn. Đó là lý do mà tôi chứ không phải Gale mạo hiểm rướn lên víu những cành cây ăn quả cao nhất hay ăn cắp trứng ở những tổ chim cao nhất. Tôi ít ra phải nhẹ hơn đứa Cống phẩm Chuyên nghiệp nhỏ con nhất năm mươi hoặc sáu mươi pound (1pound ~ 0.454kg).

Lúc này tôi mỉm cười. “Mọi thứ với chúng mày thế nào?” Tôi vui vẻ gọi với xuống.

Việc này khiến chúng sửng sốt, nhưng tôi biết khán giả sẽ thích nó.

“Đủ tốt,” thằng con trai ở Đặc khu 2 trả lời. “Mày thì sao?”

“Ở đây hơi ấm đối với tao,” tôi nói. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng cười từ Capitol. “Không khí ở trên cao trong lành hơn. Tại sao chúng mày không lên đây?”

“Hãy nghĩ là tao sẽ làm vậy,” vẫn thằng con trai đó trả lời.

“Đây, cầm lấy nó, Cato,” đứa con gái từ Đặc khu 1 nói, và đưa cho hắn chiếc cung bạc cùng ống tên. Cung của tôi! Các mũi tên của tôi! Chỉ nhìn thấy chúng cũng khiến tôi tức giận đến mức muốn hét lên, với chính mình, với tên phản bội Peeta vì đã làm tôi mất tập trung nên không lấy được chúng. Lúc này tôi cố gắng nhìn vào mắt cậu ta, nhưng Peeta có vẻ cố tình tránh ánh mắt tôi vì cậu ta đang lau bóng con dao của mình bằng vạt áo.

“Không,” Cato nói, hất chiếc cung ra. “Anh sẽ sử dụng thanh kiếm của mình tốt hơn.” Tôi có thể nhìn thấy vũ khí đó, một thanh gươm ngắn và nặng đeo ở thắt lưng hắn.

Tôi cho Cato thời gian để kéo người hắn lên cái cây trước khi tôi bắt đầu trèo tiếp. Gale luôn nói tôi gợi cho anh ấy hình ảnh của một con sóc khi nhìn cái cách tôi trèo thoăn thoắt ngay cả trên một cành cây mảnh dẻ. Một phần đó là do cân nặng của tôi, một phần là do thực hành. Bạn phải biết chỗ nào để bám tay và đặt chân vào. Tôi đã trèo cao thêm ba mươi feet nữa khi tôi nghe thấy tiếng cành cây gãy và nhìn xuống để thấy Cato bị bầm dập khi hắn cùng một cành cây rơi sập xuống đất. Hắn ta bị đập xuống đất rất mạnh và tôi đang hy vọng hắn bị gãy cổ thì hắn đứng dậy và chửi rủa như một con thú điên.

Con bé cầm những mũi tên, Glimmer, tôi nghe một đứa gọi nó – eo, những cái tên mà người ở Đặc khu 1 đặt cho con của họ thật buồn cười – dù sao Glimmer cũng cố leo lên cây cho đến khi những cành cây bắt đầu gãy dưới chân nó và sau đó đã khôn ngoan mà dừng lại. Bây giờ tôi ít nhất cũng ở trên cao tám mươi feet. Con bé đó cố gắng bắn tôi và ngay lập tức có thể thấy nó không có khả năng sử dụng cung tên. Tuy nhiên, một trong những mũi tên đã bắn vào thân cây ở chỗ rất gần tôi, và tôi có thể lấy được nó. Tôi vẫy nó chọc tức phía trên cô ta, như thể đây là mục đích duy nhất của việc lấy nó, khi thực ra là tôi định sẽ dùng nó nếu như tôi có cơ hội. Tôi có thể giết chúng, tất cả bọn chúng, nếu những vũ khí bằng bạc kia ở trong tay tôi.

Nhóm Chuyên nghiệp tập hợp lại dưới đất và tôi có thể nghe thấy chúng lầm rầm bí mật với nhau, giận dữ vì tôi đã khiến chúng trông như những tên ngốc. Nhưng trời đã chạng vạng tối và chúng không có khả năng tấn công tôi. Cuối cùng, tôi nghe thấy tiếng Peeta nói đầy cay độc. “Ồ, cứ để cô ta ở trên đó. Có vẻ như cô ta cũng chẳng đi đâu được. Chúng ta sẽ giải quyết cô ta vào sáng mai.”

Chà, cậu ta đã đúng về một việc. Tôi không đi đâu được. Tất cả sự giảm nhẹ đau đớn ở khe nước đã biến mất, giờ đây tôi đang cảm thấy toàn bộ sự bỏng rát của các vết thương. Tôi trườn xuống một chạc ba của cái cây và vụng về chuẩn bị một chỗ để ngủ. Mặc chiếc áo khoác vào. Mở chiếc túi ngủ của tôi ra. Lấy thắt lưng buộc mình vào cây, và cố gắng để không rên rỉ. Nhiệt độ trong chiếc túi là quá nóng cho chân tôi. Tôi xẻ một đường trên chiếc túi ngủ và treo bắp chân mình ra ngoài trời. Tôi phun nước lên vết thương ở chân và hai tay.

Tất cả dáng vẻ hiên ngang của tôi đã biến mất. Tôi yếu đi vì đau và đói, nhưng tôi không thể ăn được. Ngay cả nếu tôi có thể qua được đêm nay, thì chuyện gì sẽ đến vào sáng mai? Tôi nhìn chằm chằm lên tán lá, cố gắng buộc bản thân nghỉ ngơi, nhưng các vết bỏng lại không cho tôi yên. Chim chóc cũng đang dần đi ngủ đêm, hót những bài hát ru cho con của chúng. Các sinh vật ban đêm bắt đầu xuất hiện. Một con cú rúc lên. Mùi của một con chồn hôi nhè nhẹ xen lẫn mùi khói. Ánh mắt của một con thú nào đó đang quan sát tôi từ những cái cây bên cạnh – có lẽ là một con chuột túi ô pốt – bị thu hút bởi ánh lửa từ những ngọn đuốc của các Cống phẩm Chuyên nghiệp. Đột nhiên, tôi chống người dậy trên một khuỷu tay. Đó không phải là mắt của con chuột túi ô pốt nào cả. Tôi biết quá rõ ánh phản chiếu trong vắt như thủy tinh đó. Thực sự, chúng không thể là mắt của các con thú. Trong những tia sáng lờ mờ cuối cùng của ngày, tôi nhìn ra cô bé, đang im lặng nhìn tôi qua những cành cây. Rue.

Cô bé đã ở đây bao lâu rồi? Có lẽ suốt thời gian vừa rồi. Bất động và không bị phát hiện ra khi mọi hành động thì diễn ra ngay bên dưới em. Có lẽ cô bé đã trèo tót lên cái cây của mình trước cả tôi khi nghe thấy nhóm Chuyên nghiệp đến gần.

Trong một lúc chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. Sau đó, thậm chí không làm lay động cả một chiếc lá, bàn tay nhỏ nhắn của cô bé trượt ra khoảng không và chỉ vào một thứ gì đó phía trên đầu tôi.

CHƯƠNG 14

Mắt tôi dõi theo hướng tay cô bé chỉ lên tán lá phía trên đầu. Đầu tiên, tôi không biết cô bé đang chỉ cái gì, nhưng sau đó, khoảng mười lăm feet phía trên, tôi nhìn thấy một vật gì đó không rõ hình thù trong ánh sáng lờ mờ. Nhưng vật gì chứ? Một con vật nào đó ư? Nó trông có kích cỡ của một con gấu trúc Mỹ, nhưng nó treo lủng lẳng ở bên dưới một cánh cây, đu đưa rất nhẹ nhàng. Đó phải là thứ gì khác. Giữa những âm thanh buổi tối quen thuộc của khu rừng, tai tôi nghe ra một tiếng vo ve rất nhỏ. Sau đó tôi nhận ra. Đó là một tổ ong bắp cày.

Nỗi sợ hãi trào lên trong lòng tôi, nhưng tôi vẫn đủ thông minh để giữ im lặng. Sau cùng, tôi vẫn không biết loại ong bắp cày nào sống ở đây. Nó có thể chỉ là loại bình thường kiểu để-chúng-tôi-yên-thì-chúng-tôi-sẽ-để-bạn-yên. Nhưng đây là Trò chơi sinh tử, và bình thường không phải là tiêu chí. Có vẻ như chúng sẽ là một trong những loại sinh vật biến đổi gen Muttation của Capitol, những con ongtracker jacker. Giống như jabberjay, những con ong bắp cày giết người này được tạo ra với số lượng lớn trong một phòng thí nghiệm và được đặt ở những vị trí chiến lược, giống như những quả địa lôi, xung quanh các đặc khu trong thời kỳ chiến tranh. To hơn các con ong bắp cày thông thường, thân chúng óng lên màu vàng sậm rất đặc biệt và ngòi của chúng có thể tạo nên một vết đốt sưng to như quả mận. Phần lớn mọi người không thể chịu đựng được nhiều hơn một vài vết chích. Một số người chết ngay lập tức. Nếu bạn còn sống, hiện tượng ảo giác tạo ra bởi nọc độc thực sự sẽ khiến người ta phát điên. Và còn một điều khác nữa, những con ong bắp cày này sẽ truy đuổi bất cứ ai quấy nhiễu tổ của nó và cố gắng để giết họ. Đó là lý do tên chúng có từ tracker – truy đuổi.

Sau chiến tranh, Capitol đã phá hủy tất cả những tổ ong xung quanh thành phố của họ, nhưng những tổ ong ở gần các đặc khu thì bị bỏ lại, không đụng đến. Một lời nhắc nhở khác về sự yếu đuối của chúng tôi, tôi cho là vậy, cũng giống như Trò chơi sinh tử. Một lý do khác để giữ chúng tôi ở bên trong hàng rào của Đặc khu 12. Khi Gale và tôi đi ngang qua một tổ ong tracker jacker, chúng tôi ngay lập tức quay đi theo hướng ngược lại.

Vậy nó có phải là thứ đang treo trên đầu tôi không? Tôi quay trở lại nhìn Rue để cầu cứu, nhưng cô bé đã biến mất khỏi cái cây.

Ở vào hoàn cảnh của tôi, tôi nghĩ cũng chẳng quan trọng tổ ong bắp cày đó là loại ong gì. Tôi bị thương và bị vây bắt. Bóng tối cho tôi một chút trì hoãn, nhưng vào lúc mặt trời lên, các Cống phẩm Chuyên nghiệp sẽ tính toán ra một kế hoạch để giết tôi. Không có cách nào khiến chúng từ bỏ ý định sau khi tôi đã làm chúng trở nên thật ngu ngốc. Cái tổ ong có lẽ là lựa chọn duy nhất tôi còn. Nếu tôi có thể thả nó rơi vào bọn chúng, tôi có thể có cơ hội trốn thoát. Nhưng tôi phải mạo hiểm cả tính mạng của mình trong lúc làm việc đó.

Tất nhiên, tôi sẽ không bao giờ có thể đến đủ gần cái tổ để cắt nó rơi ra. Tôi sẽ phải cưa cái cành ra khỏi thân cây và làm cho cả cái cành và tổ ong rơi xuống. Phần răng cưa ở con dao của tôi có thể làm được điều đó. Nhưng hai tay tôi có thể không? Và sự rung động của việc cưa cành có làm khuấy động đàn ong không? Và chuyện gì xảy ra nếu bọn Chuyên nghiệp phát hiện ra tôi đang làm gì và dời trại đi? Điều đó sẽ làm tiêu tan toàn bộ mục đích.

Tôi nhận ra rằng cơ hội tốt nhất mà tôi có để cưa cành cây mà không khiến bọn chúng chú ý đến là quãng thời gian bài quốc ca được bật lên. Việc đó có thể bắt đầu bất cứ lúc nào. Tôi bò ra khỏi chiếc túi ngủ, đảm bảo rằng con dao nằm chắc chắn tại thắt lưng mình và bắt đầu trèo lên cao. Ngay cả việc này cũng đã nguy hiểm rồi vì các cành cây càng lúc càng trở nên nhỏ bé, yếu ớt đối với tôi nhưng tôi vẫn kiên trì. Khi tôi với tới cành cây có tổ ong, tiếng vo ve trở nên rõ ràng hơn. Nhưng tiếng kêu vẫn nhẹ nhàng một cách kỳ lạ nếu đây là những con ong tracker jacker. Đó là do khói, tôi nghĩ. Nó làm say chúng. Đây là một biện pháp quân phản loạn đã tìm ra để chống lại những con ong bắp cày này.

Huy hiệu của Capitol chiếu sáng trên bầu trời và bản nhạc quốc ca cất lên. Ngay bây giờ hoặc không bao giờ, tôi nghĩ, và bắt đầu cưa. Vết bỏng giộp bên tay phải tôi vỡ ra khi tôi vụng về kéo con dao tới lui. Khi tôi tạo được một đường rãnh, công việc đòi hỏi ít sức lực hơn, nhưng hầu như vẫn vượt quá những gì tôi có thể chịu đựng. Tôi nghiến chặt răng và tiếp tục cưa, thỉnh thoảng liếc lên trời để biết được rằng hôm nay không có cái chết nào. Điều đó không sao. Khán giả sẽ thỏa mãn với việc nhìn thấy tôi bị thương và ở trên cây với nhóm Cống phẩm Chuyên nghiệp ở bên dưới. Nhưng bài quốc ca sắp hết và tôi mới chỉ cưa được ba phần tư cành cây khi bản nhạc kết thúc, bầu trời trở lại tối đen và tôi buộc phải dừng lại.

Giờ thì sao nào? Tôi có thể kết thúc công việc bằng cách mò mẫm trong bóng tối nhưng đó có lẽ không phải là kế hoạch khôn ngoan nhất. Nếu những con ong bắp cày quá say, nếu tổ ong bị mắc lại khi đang rơi xuống, nếu tôi cố gắng tẩu thoát, tất cả việc này có thể là hoàn toàn phí thời gian. Tốt hơn, tôi nghĩ, mình nên trốn ở đây cho đến tảng sáng và ném cái tổ ong vào kẻ thù của mình.

Trong ánh sáng yếu ớt từ những ngọn đuốc của bọn Chuyên nghiệp, tôi dịch dần về chỗ chạc cây của mình và phát hiện ra sự ngạc nhiên lớn nhất mà tôi từng có. Nằm trong chiếc túi ngủ của tôi là một lọ nhựa nhỏ được gắn vào một chiếc dù bạc. Món quà đầu tiên của tôi từ một nhà tài trợ! Haymitch chắc hẳn đã gửi nó đến trong thời gian đang phát bản nhạc quốc ca. Chiếc bình dễ dàng vừa vặn trong lòng bàn tay tôi. Nó có thể là cái gì? Chắc chắn không phải là thức ăn. Tôi vặn chiếc nắp ra và qua mùi hương của nó tôi biết đây là thuốc. Thận trọng, tôi thử lớp trên cùng của lọ thuốc mỡ. Sự nhoi nhói ở đầu ngón tay tôi biến mất.

“Ôi, Haymitch,” tôi thì thầm. “Cảm ơn.” Ông ấy không hề bỏ rơi tôi. Không bỏ mặc tôi tự chống chọi một mình. Giá của lọ thuốc này chắc phải vô cùng đắt. Có lẽ không phải một mà là nhiều nhà tài trợ phải góp vào để mua cái lọ bé nhỏ này. Đối với tôi, nó là vô giá.

Tôi nhúng hai ngón tay vào chiếc lọ và nhẹ nhàng thoa lớp thuốc mỡ thơm tho đó lên bắp chân mình. Hiệu quả của nó thật thần kỳ, xóa tan nỗi đau đớn ngay khi tiếp xúc, chỉ để lại cảm giác mát lạnh dễ chịu. Đây không phải là loại thảo dược pha chế mà mẹ tôi đã tán ra từ những loại cây cỏ mọc trong rừng, nó là loại thuốc công nghệ cao được chế tạo ra từ những phòng thí nghiệm của Capitol. Khi bắp chân của tôi đã bôi thuốc xong, tôi xoa một lớp mỏng lên hai tay mình. Sau khi gói chiếc bình trong chiếc dù, tôi nhét nó an toàn trong ba lô. Bây giờ, cơn đau đã dịu, tất cả những gì tôi có thể làm là chui lại vào chiếc túi ngủ trước khi tôi chìm vào giấc ngủ.

Một con chim đậu cách tôi có vài feet báo cho tôi biết ngày mới đang đến. Trong ánh sáng mờ đục của buổi sớm, tôi kiểm tra hai tay mình. Thuốc đã chuyển tất cả những vết bỏng đỏ rực sang một màu hồng nhạt như da em bé. Chân tôi vẫn có cảm giác nóng như lửa đốt, nhưng vết bỏng đó trước đây đau rát hơn rất nhiều. Tôi lại thoa một lớp thuốc khác và lặng lẽ đóng gói đồ đạc. Dù cho điều gì xảy ra, tôi cũng sẽ phải di chuyển và di chuyển thật nhanh. Tôi cũng cố ăn một cái bánh và một miếng thịt bò khô, rồi uống một vài ngụm nước.

Gần như không có gì trong dạ dày tôi ngày hôm qua, và tôi đã bắt đầu cảm thấy tác động của cơn đói.

Phía dưới, tôi có thể nhìn thấy đám Chuyên nghiệp và Peeta đang ngủ trên mặt đất. Qua tư thế của cô ta, ngồi dựa vào một gốc cây, tôi đoán Glimmer đã được phân công canh gác, nhưng sự mệt mỏi đã chiến thắng cô ta.

Mắt tôi nheo lại khi cố gắng nhìn cái cây bên cạnh, nhưng tôi không thể nhìn ra Rue. Vì cô bé đã mách nước cho tôi, nên dường như là công bằng nếu tôi cảnh báo cô bé. Bên cạnh đó, nếu hôm nay tôi chết, thì tôi muốn Rue giành chiến thắng. Ngay cả khi điều đó có nghĩa là sẽ có ít thực phẩm hơn cho gia đình tôi, ý nghĩ về việc Peeta sẽ đội vòng nguyệt quế của người thắng cuộc thật không thể chịu đựng được.

Tôi gọi tên Rue trong tiếng thì thào khe khẽ và đôi mắt đó ngay lập tức xuất hiện, mở to và đầy cảnh giác. Cô bé chỉ tay lên cái tổ ong một lần nữa. Tôi giơ con dao của mình lên, và làm động tác như đang cưa. Cô bé gật đầu và biến mất. Có tiếng sột soạt ở cái cây bên cạnh. Sau đó âm thanh đó lại xuất hiện nhưng ở xa hơn một chút. Tôi nhận ra cô bé đang chuyền từ cây này sang cây kia. Tất cả những gì tôi có thể làm là không bật cười thành tiếng. Liệu đây có phải là những gì cô bé đã trình diễn cho các Nhà thiết lập Trò chơi xem không? Tôi tưởng tượng cô bé đang bay quanh các dụng cụ tập luyện mà không bao giờ chạm chân xuống đất. Cô bé đáng lẽ ít nhất phải đạt được điểm mười.

Những tia nắng hồng rực đang bừng lên ở phía đông. Tôi không thể đợi lâu hơn được nữa. So với sự đau đớn của việc leo trèo đêm qua thì lần trèo lên này chỉ là một nhiệm vụ quá đơn giản. Tại cành cây đang treo tổ ong, tôi đặt con dao vào đúng cái rãnh đêm qua và đang định kéo lưỡi cưa cắt ngang cành cây thì tôi nhìn thấy có gì đó đang chuyển động. Ở đó, ngay trên cái tổ. Một con ong tracker jacker vàng óng đang lười nhác bò trên bề mặt màu xám mỏng như giấy đó. Không nghi ngờ gì, nó đang có vẻ hơi thờ ơ, nhưng con ong này đã bò ra khỏi tổ và đang di chuyển và điều đó có nghĩa là những con khác cũng sẽ bò ra sớm thôi. Mồ hôi qua lớp thuốc mỡ toát ra ở lòng bàn tay tôi lấm tấm và tôi cố hết sức lau khô chúng vào áo mình. Nếu tôi không cưa xong cành cây này trong vòng vài giây nữa thì cả đàn ong này sẽ ùa ra và tấn công tôi.

Trì hoãn không có tác dụng gì. Tôi hít một hơi thật sâu, nắm chặt cán dao và cưa xuống mạnh nhất có thể. Tới, lui, tới, lui! Các con ong tracker jacker bắt đầu kêu vo ve và tôi nghe thấy chúng đang bay ra.Tới, lui, tới, lui! Một cơn đau nhói xuyên thẳng vào đầu gối tôi và tôi biết một con đã phát hiện ra tôi và những con khác sẽ chú ý đến. Tới, lui, tới, lui. Và ngay khi con dao cắt xuyên qua cành cây, tôi dùng hết sức ném cành cây đó tránh xa khỏi mình. Nó đâm sầm xuống những cành cây bên dưới, vướng vào vài cành cây một lát nhưng cuối cùng cũng trượt ra rơi xuống cho đến khi nó đập thịch xuống đất. Tổ ong vỡ toang ra như một quả trứng, và một đàn ong tracker jacker hung dữ ùa ra. Tôi cảm thấy vết đốt thứ hai ở má, vết thứ ba ở cổ và nọc độc của chúng gần như ngay lập tức khiến tôi chóng mặt. Tôi dùng một cánh tay bám chặt vào cây trong khi rút ngòi ong ra. May là chỉ có ba con ong tracker jacker này phát hiện ra tôi trước khi cái tổ rơi xuống. Những con còn lại đã hướng mục tiêu về phía kẻ thù của tôi dưới đất.

Tình cảnh vô cùng hỗn loạn. Các Cống phẩm Chuyên nghiệp đã tỉnh dậy ngay khi cả đàn ong tracker jacker tấn công. Peeta và một vài đứa khác đã khôn ngoan bỏ lại mọi thứ và chạy lao đi. Tôi có thể nghe thấy tiếng hét “Đến hồ nước! Đến hồ nước!” và biết rằng chúng hi vọng tránh được đàn ong bằng cách nhảy xuống nước. Cái hồ phải rất gần đây nếu chúng nghĩ rằng chúng có thể thoát khỏi những con ong hung dữ. Glimmer và một đứa con gái khác, đứa đến từ Đặc khu 4, không được may mắn như vậy. Chúng nhận vô số vết chích thậm chí trước khi chúng chạy khuất khỏi tầm mắt của tôi. Glimmer dường như hoàn toàn phát điên, la hét ầm ĩ và cố gắng đánh những con ong bằng chiếc cung của cô ta, một việc vô ích. Cô ta gọi những người khác đến cứu, nhưng tất nhiên, không ai quay lại. Đứa con gái từ Đặc khu 4 loạng choạng chạy khuất khỏi tầm mắt tôi, mặc dù tôi không dám cá cô ta có thể ra được đến hồ nước. Tôi nhìn Glimmer ngã xuống, co giật điên cuồng trên mặt đất trong vài phút, và rồi bất động.

Tổ ong không còn gì ngoài những lỗ trống. Các con ong đã biến mất do đuổi theo những kẻ khác. Tôi không nghĩ chúng sẽ quay lại, nhưng tôi không muốn mạo hiểm với việc đó. Tôi vội vàng trèo và nhảy xuống đất, chạy ngay về hướng ngược lại với cái hồ. Chất độc từ ngòi ong làm tôi hoa mắt, nhưng tôi phải tìm đường quay về khe nước nhỏ của mình, trong trường hợp còn con ong nào đó vẫn đang bám theo tôi. Sau khoảng năm phút, tôi lê người lên những tảng đá. Người ta không hề phóng đại tác dụng của những vết chích của ong tracker jacker. Thực sự, vết đốt ở đầu gối tôi sưng to gần bằng một quả cam chứ không phải quả mận. Một loại chất lỏng màu xanh hôi thối rỉ ra từ những chỗ tôi rút ngòi ong ra.

Sự sưng tấy. Sự đau đớn. Chất lỏng rỉ ra. Tận mắt nhìn thấy Glimmer co giật cho đến chết trên mặt đất. Quá nhiều việc xảy ra thậm chí trước khi mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời. Tôi không muốn nghĩ về việc Glimmer trông như thế nào lúc này. Cơ thể cô ta đã biến dạng. Các ngón tay sưng phồng đang nắm chặt lấy cây cung…

Chiếc cung! Ở đâu đó trong đầu óc mụ mị của tôi, các ý nghĩ đã kết nối với nhau và tôi đứng bật dậy, chệnh choạng len qua rừng cây quay lại chỗ Glimmer. Chiếc cung. Những mũi tên. Tôi phải lấy chúng. Tôi vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo hiệu, nên có lẽ Glimmer vẫn đang trong tình trạng hôn mê, trái tim cô ta vẫn chiến đấu chống lại nọc độc của những con ong. Nhưng ngay khi nó dừng lại và pháo hiệu thông báo cái chết của cô ta, một chiếc trực thăng sẽ đến và thu nhặt thi thể, lấy đi không chỉ chiếc cung mà còn cả ống tên. Tôi đã xem các Trò chơi sinh tử này suốt rồi. Và tôi không cho phép chúng lọt khỏi tay mình một lần nữa!

Tôi đến được chỗ Glimmer đúng lúc pháo hiệu được bắn. Các con ong tracker jacker đã biến mất. Cô gái này, từng đẹp đến nín thở trong chiếc váy dát vàng trong đêm phỏng vấn, giờ thì không thể nhận ra nổi. Các đường nét của cô ta đã bị phá hủy hoàn toàn, chân tay cô ta to gấp ba lần lúc bình thường. Các cục u đã bắt đầu vỡ ra, phun ra thứ chất lỏng xanh thối rữa xung quanh cô ta. Tôi phải dùng một hòn đá đập gãy một vài cái mà trước đây là ngón tay cô ta để lấy chiếc cung ra. Ống tên bị kẹp chặt dưới lưng cô ta. Tôi cố gắng lật người cô ta lại bằng cách kéo một cánh tay, nhưng thịt rã ra trên tay tôi và tôi ngã ngửa ra đất.

Điều này là thật ư? Hay hiện tượng ảo giác đã bắt đầu? Tôi nhắm chặt hai mắt lại và cố gắng thở bằng miệng, tự bắt mình không được phép ói mửa. Bữa sáng phải ở yên trong bụng, nó có thể mất vài ngày trước khi tôi có thể đi săn trở lại. Tiếng pháo hiệu thứ hai được bắn lên và tôi đoán đứa con gái Đặc khu 4 cũng vừa mới chết. Tôi nghe thấy chim chóc trở nên im lặng và sau đó một con cất tiếng hót cảnh báo, có nghĩa là một chiếc trực thăng sắp xuất hiện. Bối rối, tôi nghĩ nó là cho Glimmer, mặc dù điều này là hoàn toàn vô lý bởi vì tôi vẫn đang ở gần cô ta, vẫn đang vật lộn để lấy được các mũi tên. Tôi lảo đảo bò dậy và cây cối xung quanh tôi bắt đầu quay vòng vòng. Ở giữa bầu trời, tôi nhìn thấy chiếc trực thăng. Tôi lao về phía thi thể Glimmer như thể để bảo vệ nó nhưng sau đó tôi nhìn thấy cô gái từ Đặc khu 4 đang được kéo lên và biến mất.

“Làm đi!” tôi ra lệnh cho chính mình. Nghiến chặt hàm, tôi vùi bàn tay mình xuống thi thể Glimmer, nắm vào chỗ chắc phải là lồng ngực của cô ta, và kéo gập bụng cô ta lên. Nhưng tôi không thể làm được, lúc này tôi đang thở quá nhanh, tất cả việc này như cơn ác mộng, và tôi đang mất khả năng phân biệt đâu là thật. Tôi giật mạnh chiếc ống tên màu bạc, nhưng nó mắc vào cái gì đó, bả vai cô ta, cái gì đó, và cuối cùng cũng giật được nó ra. Tôi vừa mới ôm chặt lấy ống tên trong cánh tay mình khi tôi nghe thấy những tiếng chân, của một vài đôi chân, đang băng qua các bụi cây đến đây, và tôi nhận ra nhóm Chuyên nghiệp đang quay trở lại. Chúng quay lại để giết tôi hay lấy lại vũ khí của chúng, hay là cả hai.

Nhưng quá muộn để chạy. Tôi rút một mũi tên nhầy nhụa ra khỏi ống và cố gắng đặt nó vào dây cung nhưng thay vì một dây cung, tôi nhìn thấy đến ba cái và mùi hôi thối từ những nốt ong đốt thật ghê tởm khiến tôi không thể làm được. Tôi không thể làm được. Tôi không thể làm được.

Tôi hoàn toàn bất lực khi tên săn người đầu tiên xuyên qua rừng cây lao đến, mũi lao được nâng lên và sẵn sàng ném đến. Vẻ sốc trên gương mặt Peeta không có ý nghĩa gì với tôi. Tôi chờ đợi cú ném. Thay vào đó, cánh tay của cậu ấy hạ xuống.

“Cậu còn đang làm cái gì ở đây thế?” cậu ấy rít lên với tôi. Tôi ngơ ngẩn nhìn chằm chằm vào một dòng nước rỉ ra từ một vết đốt dưới tai cậu ấy. Cả người cậu ấy bắt đầu lấp lánh như thể cậu ấy được phủ lên một màn sương. “Cậu điên à?” Lúc này cậu ấy đang dùng cán lao thúc vào tôi. “Đứng dậy! Đứng dậy!” Tôi đứng lên, nhưng cậu ấy vẫn đang đẩy tôi. Cái gì vậy? Chuyện gì đang diễn ra vậy? Cậu ấy đẩy mạnh tôi ra xa. “Chạy!” cậu ấy hét lên. “Chạy đi!”

Đằng sau cậu ấy, Cato đang chém phăng những bụi cây lao đến. Cậu ta cũng ướt sũng, lấp lánh và bị một vết đốt to đùng dưới một mắt. Tôi bắt được tia nắng mặt trời phản chiếu trên kiếm của cậu ta và làm theo lời Peeta nói. Nắm chặt cung và các mũi tên của mình, đập mạnh vào một cái cây chẳng biết ở đâu xuất hiện, vấp ngã khi tôi cố gắng giữ thăng bằng. Quay lại quá chỗ cái khe nước của tôi và đi vào một khoảng rừng xa lạ. Cả thế giới bắt đầu cong vẹo một cách đáng báo động. Một con bướm phình ra to như một cái nhà rồi vỡ ra thành hàng triệu ngôi sao. Cây cối chuyển thành máu và bắn tung tóe lên giầy tôi. Những con kiến bắt đầu bò lúc nhúc trên vết phỏng giộp ở bàn tay tôi và tôi không thể giũ chúng ra được. Chúng đang trèo lên cánh tay tôi, lên cổ tôi. Một ai đó đang hét lên, một tiếng hét cao và dài mà chưa bao giờ dừng lại để thở. Tôi có một ý nghĩ mơ hồ răng đó có thể là tiếng hét của chính mình. Tôi trượt chân và ngã vào một cái hố nhỏ đầy những bong bóng nhỏ màu da cam mà phát ra tiếng kêu vo ve giống như một cái tổ ong tracker jacker. Chống cằm vào đầu gối, tôi ngồi đợi chết.

Ốm yếu và mất phương hướng, tôi chỉ có thể nặn ra một ý nghĩ duy nhất: Peeta Mellark vừa mới cứu sống tôi.

Sau đó những con kiến chui vào mắt và mắt tôi tối sầm lại.

CHƯƠNG 15

Tôi rơi vào một cơn ác mộng mà tôi tỉnh giấc mấy lần để rồi chỉ thấy một nỗi kinh hoàng lớn hơn đang chờ đợi mình. Tất cả những thứ mà tôi sợ nhất, tất cả những điều mà tôi lo sợ cho những người khác đều hiện lên một cách sống động, rõ nét khiến tôi không thể không tin chúng là thật. Mỗi lần tỉnh lại, tôi nghĩ, Cuối cùng, nó cũng kết thúc, nhưng nó không kết thúc. Nó chỉ là sự bắt đầu cho một chương mới của cuộc tra tấn. Có bao nhiêu cách tôi có thể nhìn Prim chết? Tái hiện lại những giây phút cuối cùng của cha tôi? Cảm thấy cơ thể của chính mình bị xé nát? Đây là bản chất nọc độc của tracker jacker, được tạo ra chuyên để nhắm vào những nơi mà nỗi sợ hãi tồn tại trong đầu bạn.

Khi tôi cuối cùng đã có thể lấy lại tri giác, tôi vẫn nằm im, chờ đợi những hình ảnh tiếp theo tấn công. Nhưng sau cùng tôi cũng nhận thức rằng chất độc cuối cùng cũng phát tác hết công dụng, bỏ lại tôi với cơ thể tàn tạ và yếu ớt. Tôi vẫn đang nằm nghiêng về một bên, bất động trong tư thế của một bào thai. Tôi nâng một bàn tay lên mắt để nhận ra rằng chúng vẫn an toàn, không bị những con kiến không hề tồn tại bò vào. Chỉ đơn giản duỗi tay chân ra cũng đòi hỏi một nỗ lực lớn lao. Quá nhiều phần cơ thể đau đớn, nó dường như không đáng để giữ lại chúng. Rất, rất chậm, tôi cố gắng ngồi dậy. Tôi ở trong một cái hố nông, không chứa đầy những bong bóng màu cam kêu vo ve như trong ảo giác của tôi nhưng với nhiều lá cây già úa. Quần áo tôi ẩm ướt, nhưng tôi không biết nước bùn, sương, mưa hay mồ hôi gây ra. Trong một lúc lâu, tất cả điều tôi có thể làm là nhấp những ngụm nước nhỏ từ bình nước và nhìn một con bọ cánh cứng bò lên một bên của bụi cây kim ngân.

Tôi đã hôn mê bao lâu rồi? Lúc tôi mất đi ý thức là vào buổi sáng. Bây giờ là buổi chiều. Nhưng sự cứng nhắc ở các khớp xương cho thấy phải hơn một ngày đã trôi qua, thậm chí có thể là hai ngày. Nếu vậy, tôi sẽ không cách nào biết được cống phẩm nào sống sót khỏi vụ tấn công của ong tracker jacker đó. Không phải Glimmer hay cô gái đến từ Đặc khu 4. Nhưng còn có tên con trai từ Đặc khu 1, cả hai cống phẩm từ Đặc khu 2, và Peeta. Họ có chết vì các vết ong đốt không? Chắc chắn nếu họ còn sống, những ngày vừa qua của họ cũng phải kinh khủng như của tôi. Và còn Rue thì sao? Cô bé rất nhỏ nhắn, không cần nhiều nọc độc cũng khiến cô bé nguy khốn. Nhưng rồi một lần nữa… những con ong tracker jacker không thể đuổi theo cô bé được và cô bé đã rời đi từ trước rồi.

Mùi vị thối rữa tràn ngập trong miệng tôi và nước đã có một chút tác dụng với nó. Tôi lê người về phía bụi cây kim ngân và giất một bong hoa. Tôi nhẹ nhàng kéo nhị hoa ra khỏi bông hoa và cho các giọt mật hoa chảy vào lưỡi. Mật ngọt khuếch tán trong miệng, thấm xuống họng tôi, làm ấm huyết quản với những kỷ niệm về mùa hè, và về khu rừng ở quê nhà với sự hiện diện của Gale bên cạnh tôi. Vì một lý đo nào đó, cuộc nói chuyện của chúng tôi trong buổi sáng cuối cùng đó ùa về.

“Chúng ta có thể làm điều đó, em biết đấy.”

“Điều gì?”

“Rời khỏi đặc khu. Chạy trốn. Sống ở trong rừng. Em và anh, chúng ta có thể làm được.”

Và đột nhiên, tôi không phải đang nghĩ đến Gale mà là Peeta và… Peeta! Cậu ấy đã cứu tôi! Tôi nghĩ. Bởi vì lúc mà chúng tôi chạm mặt, tôi không thể phân biệt được đâu là thật và đâu là những ảo giác do nọc độc của ong tracker jacker gây ra. Nhưng nếu cậu ấy đã làm vậy, và những bản năng trong tôi mách bảo rằng cậu ấy đã làm, thì đó là vì cái gì? Có phải cậu ấy chỉ đơn giản là đang diễn vai Chàng trai đang yêu mà cậu ấy đã bắt đầu từ buổi phỏng vấn không? Hay cậu ấy đang thực sự cố gắng bảo vệ tôi? Và nếu đúng là vậy, thì lúc đầu cậu ấy đã định làm gì với những Cống phẩm Chuyên nghiệp kia? Tôi không thể hiểu được điều gì cả.

Trong một thoáng tôi tự hỏi Gale sẽ lý giải tình huống này là gì và rồi tôi đẩy mọi thứ ra khỏi đầu mình bởi vì có một lý do nào đó khiến Gale và Peeta không thể cùng tồn tại trong suy nghĩ của tôi.

Do đó, tôi tập trung vào một việc tốt đẹp duy nhất đã xảy ra kể từ khi tôi vào đấu trường. Tôi có một cây cung và các mũi tên! Một bộ đầy đủ mười hai mũi tên nếu bạn tính cả chiếc tôi lấy được ở trên cây. Chúng không có chút dấu vết nào của thứ chất lỏng màu xanh nhớt nhát, độc hại chảy ra từ thi thể Glimmer – điều này khiến tôi tin rằng điều đó có lẽ hoàn toàn không có thực. – nhưng chúng có dính một lượng máu khô. Tôi có thể rửa chúng đi sau, nhưng tôi dùng một phút để bắn vài mũi tên vào một cái cây gần mình. Chúng có vẻ giống những vũ khí ở Trung tâm Huấn luyện hơn là những cái tôi dùng ở nhà, nhưng ai thèm quan tâm chứ? Chỉ cần tôi có thể sử dụng chúng.

Vũ khí này đã cho tôi một triển vọng hoàn toàn mới trong Trò chơi. Tôi biết tôi vẫn còn phải đối mặt với nhiều đối thủ nguy hiểm khác. Nhưng tôi không còn đơn thuần chỉ là một con mồi, chỉ biết bỏ chạy, lẩn trốn, chấp nhận áp dụng những biện pháp liều lĩnh. Nếu Cato xông đến đây ngay lúc này, tôi sẽ không chạy biến đi, mà sẽ bắn. Tôi nhận thấy tôi đang thực sự tưởng tượng ra khoảnh khắc đó với cảm giác thích thú.

Nhưng trước hết, tôi phải lấy lại sức lực cho cơ thể mình. Tôi lại bị mất nước nghiêm trọng và lượng nước dự trữ của tôi đang ít đến mức báo động. Chút trọng lượng mà tôi đã tăng lên bằng cách nhồi nhét thức ăn trong thời gian chuẩn bị ở Capitol đã ra đi cùng với vài pound nữa. Xương hông và xương sườn của tôi đã nhô lên hơn những gì tôi nhớ về chúng trong những tháng tồi tệ sau cái chết của cha tôi. Và còn những vết thương mà tôi phải chiến đấu với chúng – các vết bỏng, vết cắt, vết thâm tím do đập vào cây, và ba vết chích của ong tracker jacker, tất cả đều đau đớn, sưng tấy như trước. Tôi dùng thuốc mỡ bôi lên vết bỏng, và cũng thử chấm một ít vào vết ong đốt, nhưng nó không có tác dụng với chúng. Mẹ tôi biết một cách để chữa chúng, một loại lá nào đó có thể hút được chất độc ra, nhưng bà hiếm khi có lý do để dùng đến nó, và tôi thậm chí còn không nhớ được tên nó là gì nữa là hình dáng của nó.

Nước trước, tôi nghĩ. Bây giờ mày có thể săn bắn dọc đường rồi. Thật dễ dàng nhận ra phương hướng mà từ đó tôi đã đến đây dựa vào dấu vết ngả nghiêng của cây lá do cơ thể chao đảo tôi gây ra khi len qua chúng. Vì vậy tôi đi về hướng khác, hi vọng kẻ thù của mình vẫn đắm chìm trong thế giới kỳ quái của nọc độc tracker jacker tạo ra.

Tôi không thể di chuyển quá nhanh, các khớp xương của tôi từ chối bất kỳ loại vận động đột ngột nào. Nhưng tôi thiết lập một cách đi chậm của thợ săn mà tôi vẫn thường sử dụng khi lần theo dấu vết các con thú. Trong vòng vài phút, tôi phát hiện ra một con thỏ và giết được con thú đầu tiên bằng cung tên. Nó không phải phát bắn trơn tru vào mắt như mọi khi, nhưng tôi sẽ chấp nhận nó. Sau khoảng một tiếng đồng hồ, tôi tìm thấy một dòng suối, nông nhưng rộng và thừa đủ cho nhu cầu của tôi. Mặt trời vẫn nóng bức và gay gắt, nên trong lúc đợi nước uống của tôi được lọc sạch, tôi cởi quần áo, chỉ còn mặc đồ lót và lội xuống dòng nước êm dịu. Tôi bẩn thỉu từ đầu tới chân, tôi thử kì cọ mình nhưng rốt cuộc chỉ nằm im trong nước một vài phút để nước làm trôi sạch các vết nhọ nhem, máu và những chỗ da đang bắt đầu tróc ra khỏi các vết bỏng. Sau khi giũ quần áo và phơi chúng lên các bụi cây cho khô, tôi ngồi bên bờ suối đắm mình trong ánh nắng mặt trời một lát, gỡ mái tóc rối của mình bằng các ngón tay. Tôi thấy thèm ăn trở lại và ăn một cái bánh với một miếng thịt bò. Tôi dùng một nhúm rêu để gột sạch vết máu ra khỏi những vũ khí màu bạc của mình.

Khi đã sạch sẽ, tôi lại bôi thuốc cho vết bỏng, tết lại tóc, và mặc lại bộ quần áo ẩm ướt, biết rằng mặt trời sẽ nhanh chóng sấy khô chúng. Đi dọc theo dòng suối về phía nguồn của nó có vẻ là hành động khôn ngoan nhất. Lúc này tôi đang đi lên đồi, điều mà tôi thích hơn, với một nguồn nước sạch không chỉ cho tôi mà có lẽ còn cho các con thú nữa. Tôi dễ dàng nhận ra một con chim lạ mà chắc phải là một dạng nào đó thuộc loài gà rừng. Dù sao đối với tôi, trông nó có vẻ là ăn được. Vào lúc chiều muộn, tôi quyết định nhóm một đống lửa nhỏ để nướng thịt, cá rằng trời nhá nhem tối sẽ giúp tôi che dấu khói và tôi có thể dập tắt lửa khi đêm xuống. Tôi làm sạch con thú, xem xét kĩ càng hơn đối với con chim, nhưng không có dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm nào về nó. Sau khi nhổ lông, nó không to hơn một con gà, nhưng nó béo tròn và chắc nịch. Tôi vừa mới đặt miếng đầu tiên lên than khi tôi nghe thấy tiếng gãy của cành cây nhỏ.

Theo phản xạ, tôi quay về phía có tiếng động, cầm cung và mũi tên đặt lên vai. Không có ai ở đó. Dù sao đi nữa tôi cũng không thể nhìn thấy ai. Sau đó tôi phát hiện ra đầu một chiếc giày trẻ con nhô ra đằng sau một gốc cây. Vai tôi thả lỏng và tôi tươi cười. Cô bé có thể di chuyển len lỏi trong rừng như một cái bóng, bạn phải nhận xét về cô bé như vậy. Làm cách nào khác cô bé có thể đi theo tôi được cơ chứ? Lời nói buột ra khỏi miệng tôi trước khi tôi có thể ngăn lại.

“Em biết đấy, bọn chúng không phải là những người duy nhất có thể thiết lập liên minh,” tôi lên tiếng.

Trong một lúc, không có phản hồi. Sau đó, một mắt của Rue hé ra khỏi gốc cây. “Chị muốn em thành đồng minh à?”

“Tại sao không? Em đã cứu chị bằng những con ong tracker jacker đó. Em đủ thông minh để vẫn còn sống sót. Và dù sao thì chị cũng không thể thoát khỏi em được,” tôi nói. Cô bé chớp mắt nhìn tôi, cố gắng quyết định. “Em đói không?” Tôi có thể thấy cô bé đang nuốt nước miếng, hai mắt long lanh nhìn miếng thịt. “Vậy thì đến đây. Hôm nay chị bắn được đến hai con thú cơ.”

Rue ngập ngừng bước ra khỏi gốc cây. “Em có thể chữa vết ong đốt của chị.”

“Em có thể ư?” tôi hỏi. “Làm thế nào?”

Cô bé đút tay vào chiếc túi em đang đeo và lấy ra một nhúm lá cây. Tôi gần như chắc chắn chúng là những chiếc lá mẹ tôi dùng. “Em tìm thấy chúng ở đâu vậy?”

“Chỉ quanh đây thôi. Tất cả chúng em đều mang theo chúng khi chúng em làm việc trong vườn cây ăn quả. Bọn họ bỏ lại rất nhiều tổ ong ở đó,” Rue trả lời. “Cũng có rất nhiều ở đây nữa.”

“Đúng rồi. Em ở Đặc khu 11. Nông nghiệp,” tôi nói. “Vườn cây ăn quả à? Chắc chắn đó là nguyên nhân em có thể bay quanh những cái cây giống như em có cánh vậy.” Rue mỉm cười. Tôi đã đề cập đến một trong vài thứ ít ỏi mà cô bé sẽ đặt lòng kiêu hãnh của mình ở đó. “Nào, đến đây. Chữa cho chị đi.”

Tôi ngồi phịch xuống bên đống lửa và cuộn ống quần lên để lộ ra vết ong đốt ở đầu gối. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Rue cho một ít lá vào miệng và bắt đầu nhai chúng. Mẹ tôi đã dùng những phương pháp khác nhưng có vẻ như chúng tôi không có nhiều sự lựa chọn. Sau một phút hoặc khoảng đó, Rue ấn chỗ bã lá trộn lẫn nước bọt vừa nhai đó vào đầu gối tôi.

“Ôiii.” Tiếng rên buột ra khỏi miệng trước khi tôi có thể ngăn lại. Nó như thể những chiếc lá đang thực sự loại bỏ nỗi nhức nhối khỏi vết ong đốt ngay tức khắc.

Rue cười khúc khích. “May mà chị biết để lôi ngòi ong ra, nếu không chị sẽ còn bị nặng hơn nhiều.”

“Đắp lên cổ chị! Má chị nữa!” tôi gần như cầu xin.

Rue nhét một nhúm lá khác vào miệng và ngay sau đó tôi bật cười bởi tác dụng giảm đau thật tuyệt vời. Tôi nhìn ra vết bỏng dài trên cẳng tay Rue. “Chị có một thứ cho vết thương đó.” Tôi đặt vũ khí sang bên cạnh và chữa trị cánh tay của cô bé bằng thuốc trị vết bỏng.

“Chị có những nhà tài trợ thật tốt,” cô bé nói đầy thiết tha.

“Em đã nhận được gì chưa?” tôi hỏi. Cô bé lắc đầu. “Dù sao em cũng sẽ sớm nhận được thôi. Hãy chờ xem. Chúng ta càng tiến gần đến cuối, càng nhiều người sẽ nhận ra em thông minh đến nhường nào.” Tôi lật miếng thịt nướng.

“Chị không nói đùa chứ, về việc muốn em trở thành đồng minh ấy?” cô bé hỏi.

“Không, chị nói thật đấy,” tôi trả lời. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng lầm bầm chửi rủa Haymitch khi tôi lập nhóm với đứa trẻ mỏng manh này. Nhưng tôi muốn cô bé. Bởi vì cô bé là một người sống sót, và tôi tin em, và tại sao tôi lại không thừa nhận điều đó chứ? Cô bé gợi cho tôi nhớ tới Prim.

“Được thôi,” cô bé nói, và chìa tay ra. Chúng tôi bắt tay nhau. “Đã thỏa thuận.”

Tất nhiên, loại thỏa thuận này chỉ là tạm thời, nhưng không ai trong chúng tôi đề cập đến điều đó.

Rue đóng góp một lượng lớn các loại củ giàu tinh bột cho bữa ăn. Nướng chúng trên đống lửa, chúng có vị ngọt sắc của củ cải vàng. Cô bé cũng nhận ra con chim lạ tôi bắt được, một loại chim rừng mà họ gọi là groosling ở đặc khu của em. Cô bé nói thỉnh thoảng có một đàn đi tha thẩn trong vườn trái cây và họ sẽ có một bữa ăn tươm tất vào ngày hôm đó. Trong một lúc, tất cả cuộc đối thoại của chúng tôi dừng lại khi chúng tôi lấp đầy dạ dày mình. Con groosling đã cho một bữa ăn ngon lành, nhiều chất béo, mỡ chảy xuống mặt bạn khi bạn cắn vào nó.

“Ôi,” Rue rên lên với một tiếng thở dài. “Trước đây em chưa bao giờ được ăn cả một cái đùi.” Tôi cá là cô bé chưa từng. Tôi cũng cá rằng thịt hầu như không bao giờ xuất hiện trong cuộc đời em. “Ăn cả chiếc kia đi,” tôi nói.

“Thật ạ?” cô bé hỏi.

“Ăn bất cứ thứ gì em muốn. Bây giờ chị đã có cung và các mũi tên, chị có thể săn được nữa. Thêm vào đó chị còn đặt bẫy nữa. Chị sẽ chỉ cho em làm thế nào để làm chúng,” tôi nói. Rue vẫn do dự nhìn cái chân. “Ồ, ăn đi,” tôi giục, đặt chiếc đùi vào tay em. “Dù sao nó cũng chỉ để được ít ngày, và chúng ta thì có cả một con chim cùng với một con thỏ.” Ngay khi cô bé cầm lấy nó, sự thèm thuồng đã chiến thắng và em cắn một miếng to.

“Chị đã nghĩ, ở Đặc khu 11, bọn em phải có nhiều thức ăn hơn bọn chị một chút. Em biết đấy, vì bọn em trồng thực phẩm mà,” tôi nói.

Mắt Rue mở to. “Ồ, không, bọn em không được phép ăn các thực phẩm được thu hoạch.”

“Họ sẽ bắt giữ bọn em hay làm gì?” tôi hỏi.

“Họ sẽ dùng roi da đánh chị và bắt mọi người đứng xem,” Rue trả lời. “Ngài thị trưởng rất nghiêm khắc về việc này.”

Qua biểu hiện của cô bé, có thể thấy rằng đó không phải là sự kiện hiếm khi xảy ra. Việc trừng phạt bằng roi da công khai là một việc hiếm hoi ở Đặc khu 12, mặc dù đôi khi cũng có. Theo pháp luật thì Gale và tôi có thể ngày nào cũng bị trừng phạt bằng roi da về việc xâm nhập rừng trái phép – ừ thì, đúng ra, chúng tôi có thể phải chịu một đống những điều tồi tệ nhất – ngoại trừ việc tất cả các quan chức đều mua thịt của chúng tôi. Bên cạnh đó, ngài thị trưởng của chúng tôi, cha của Madge, có vẻ không thích những sự kiện kiểu đó. Có lẽ, là một đặc khu ít thanh thế nhất, nghèo đói nhất, thường bị chế nhạo nhất cả nước cũng có ưu điểm của nó. Chẳng hạn, chúng tôi hầu như được Capitol lờ đi chừng nào chúng tôi còn cung cấp đủ hạn ngạch than.

“Bọn chị có bao giờ có đủ lượng than mình cần dùng không?” Rue hỏi.

“Không,” tôi trả lời. “Chỉ những gì bọn chị mua được và bất cứ cái gì có thể giấu được trong bốt thôi.”

“Họ chỉ cho bọn em nhiều thức ăn hơn chút xíu trong thời gian thu hoạch mùa vụ, để cho mọi người có thể làm việc lâu hơn,” Rue kể.

“Các em không phải đến trường à?” tôi hỏi.

“Trong thời gian thu hoạch thì không. Lúc đó tất cả mọi người đều phải làm việc,” Rue trả lời.

Thật thú vị khi nghe về cuộc sống của cô bé. Chúng tôi gần như chẳng bao giờ nói chuyện với bất cứ ai ngoài đặc khu của mình. Thực tế, tôi tự hỏi liệu có phải các Nhà thiết lập Trò chơi đang ngắt tiếng cuộc đối thoại của chúng tôi hay không, bởi mặc dù các thông tin này có vẻ vô hại, họ vẫn không muốn người ở các đặc khu khác nhau biết về nhau.

Theo ý kiến của Rue, chúng tôi lấy ra tất cả thực phẩm để lên kế hoạch cho thời gian tới. Cô bé đã nhìn thấy hầu hết thức ăn của tôi, nhưng tôi cho thêm hai chiếc bánh quy và mấy miếng thịt bò cuối cùng vào đống thức ăn đó. Cô bé thu thập được hẳn một đống củ rễ, hạt, rau xanh, và thậm chí cả dâu rừng.

Tôi vân vê một quả dâu lạ mắt trong các ngón tay mình. “Em chắc là nó an toàn chứ?”

“Ồ, vâng, chúng em có loại dâu này ở quê nhà mà. Em đã ăn chúng nhiều ngày nay rồi,” cô bé nói, ném một vài quả vào miệng. Tôi dè dặt cắn một quả, và vị nó cũng ngon như những quả dâu mâm xôi của chúng tôi. Nhận Rue làm đồng minh có vẻ là lựa chọn tốt hơn bao giờ hết. Chúng tôi phân chia số thực phẩm của mình, để trong trường hợp chúng tôi tách ra, cả hai chúng tôi sẽ vẫn có thể duy trì được vài ngày. Ngoài thực phẩm, Rue có một túi da đựng nước nhỏ, một súng cao su tự chế, và có thêm một đôi tất. Cô bé cũng có một mảnh đá sắc dùng để làm dao. “Em biết nó không nhiều lắm,” cô bé nói có vẻ xấu hổ, “nhưng em phải nhanh chóng rời khỏi Cornucopia.”

“Em đã làm đúng,” tôi nói. Khi tôi bày đồ đạc của mình ra, cô bé há hốc miệng một chút khi nhìn thấy cặp kính râm của tôi.

“Làm thế nào chị có được chúng vậy?” em hỏi.

“Trong ba lô của chị. Cho đến giờ thì chúng vẫn không có công dụng gì. Chúng không ngăn được ánh mặt trời và chúng còn làm cản trở thị lực,” tôi nói với một cái nhún vai.

“Chúng không phải kính râm, chúng là kính dùng ban đêm,” Rue kêu lên. “Đôi lúc, khi chúng em phải thu hoạch suốt đêm, người ta phát vài đôi kính này cho những người phải trèo lên cây cao nhất. Những chỗ mà ánh đuốc không thể chiếu sáng tới được. Một lần, một bạn nam tên Martin đã cố gắng giữ lại đôi kính của mình. Giấu nó trong quần cậu ấy. Họ đã giết cậu ấy khi phát hiện ra.”

“Họ đã giết một cậu bé chỉ vì lấy cái này ư?” tôi kêu lên.

“Vâng, và tất cả mọi người đều biết cậu ấy không gây nguy hiểm gì. Martin có vấn đề về đầu óc. Ý em là, cậu ấy vẫn hành động giống như một đứa trẻ ba tuổi. Cậu ấy chỉ muốn chiếc kính đó để chơi,” Rue kể.

Nghe điều này khiến tôi cảm thấy Đặc khu 12 có vẻ là một thiên đường an toàn. Tất nhiên, người ta vẫn luôn bất ngờ đổ gục vì đói, nhưng tôi không thể tưởng tượng được những Người giữ trị an lại đi giết một đứa trẻ đầu óc đơn giản. Có một cô gái nhỏ, một trong những đứa cháu của bà Greasy Sae, thường đi lang thang quanh Hob. Cô bé đó đầu óc không tốt, nhưng cô bé được đối xử như một loại thú nuôi, người ta ném cho cô bé những đồ thừa hoặc đồ vứt đi.

“Vậy cái kính này có công dụng thế nào?” tôi hỏi Rue, cầm lấy chiếc kính.

“Chúng giúp chị nhìn được trong bóng tối,” Rue đáp. “Hãy thử chúng tối nay, khi mặt trời lặn.”

Tôi đưa Rue một ít diêm và cô bé thì đảm bảo rằng tôi có một đống lá trong trường hợp vết ong đốt của tôi lại nhức nhối. Chúng tôi dập lửa và hướng về đầu nguồn suối cho đến khi gần như màn đêm đã buông xuống.

“Em ngủ ở đâu?” tôi hỏi cô bé. “Ở trên cây à?” Em gật đầu. “Chỉ với chiếc áo khoác của em thôi à?”

Rue giơ lên đôi tất thừa ra của mình. “Em có cái này để đeo vào tay.”

Tôi nghĩ về những đêm lạnh lẽo ở đây. “Em có thể dùng chung túi ngủ với chị nếu em muốn. Cả hai chúng ta dễ dàng vừa trong đó.” Khuôn mặt cô bé sáng bừng lên. Tôi có thể nói rằng điều nảy còn hơn những gì cô bé mong đợi.

Chúng tôi chọn một cái chạc cây cao và nghỉ đêm ở đó ngay khi bài quốc ca bắt đầu vang lên. Không có cái chết nào trong ngày hôm nay.

“Rue, hôm nay chị mới tỉnh lại. Chị đã bỏ lỡ mấy đêm rồi?” Bản nhạc quốc ca sẽ át đi tiếng nói của chúng tôi, nhưng tôi vẫn thì thầm. Tôi thậm chí còn đề phòng lấy tay che lên miệng. Tôi không muốn khán giả biết những điều tôi định kể với cô bé về Peeta. Nhận được ám hiệu từ tôi, cô bé cũng làm theo như vậy.

“Hai,” em trả lời. “Hai chị từ Đặc khu 1 và 4 đã chết. Chỉ còn lại mười người chúng ta.”

“Một điều gì kỳ lạ đã xảy ra. Ít nhất, chị nghĩ nó đã xảy ra. Cũng có thể nọc độc của tracker jacker đã khiến chị tưởng tượng ra những thứ đó,” tôi nói. “Em biết cái anh đến từ đặc khu của chị chứ? Peeta ấy? Chị nghĩ anh ấy đã cứu chị. Nhưng anh ấy đã từng đi cùng bọn Chuyên nghiệp.”

“Bây giờ anh ấy không đi cùng họ nữa,” cô bé nói. “Em đã bí mật theo dõi chỗ họ cắm trại ở gần hồ. Họ đã quay trở lại đó trước khi họ gục ngã bởi những vết ong đốt. Nhưng anh ấy không ở đó. Có lẽ anh ấy đã cứu chị và phải chạy trốn.”

Tôi không trả lời. Nếu, thực sự, Peeta đã cứu tôi thì tôi lại mắc nợ cậu ấy một lần nữa. Và món nợ này không thể trả được. “Nếu anh ấy đã làm vậy, có lẽ tất cả chỉ là một phần trong vở kịch của cậu ấy. Em biết đấy, để làm mọi người nghĩ rằng anh ấy đang yêu chị.”

“Ồ,” Rue có vẻ suy ngẫm. “Em không nghĩ đó là diễn kịch.”

“Dĩ nhiên đó chỉ là đóng kich,” tôi khẳng định. “Cậu ấy đã đạo diễn nó cùng với cố vấn của bọn chị.” Bản nhạc quốc ca kết thúc và bầu trời tối đen lại. “Nào, hãy thử chiếc kính này thôi.” Tôi lôi cái kính ra và đeo nó vào. Rue đã không nói đùa. Tôi có thể nhìn rõ mọi thứ, từ những chiếc lá trên cây đến một con chồn hôi đang đi thơ thẩn xuyên qua các bụi rậm trong khoảng năm mươi feet. Tôi có thể giết nó từ chỗ này nếu tôi muốn. Tôi có thể giết bất cứ ai.

“Chị tự hỏi còn ai khác có cái kính này không,” tôi nói.

“Nhóm Chuyên nghiệp có hai chiếc. Nhưng họ đã có mọi thứ ở gần hồ nước rồi,” Rue nói. “Và họ còn rất mạnh nữa.”

“Chúng ta cũng mạnh mà,” tôi nói. “Chỉ là mạnh theo cách khác thôi.”

“Chị rất mạnh. Chị có thể bắn cung,” cô bé nói. “Em thì có thể làm gì chứ?”

“Em có thể tự kiếm thức ăn cho mình. Họ có thể không?” tôi hỏi.

“Họ không cần phải làm vậy. Họ đã có những hàng hóa đó rồi,” Rue trả lời.

“Nếu như họ không có thì sao. Nếu như những hàng hóa đó biến mất. Họ có thể sống được bao lâu chứ?” tôi nói. “Ý chị là, đây là trò chơi về sự đói khát mà, đúng không?”

“Nhưng chị Katniss à, bọn họ không phải chịu đói,” Rue nhắc tôi.

“Đúng, chúng không đói. Đó chính là vấn đề,” tôi đồng ý. Và lần đầu tiên, tôi có một kế hoạch. Một kế hoạch mà không phải bị thúc ép bởi việc cần phải bỏ chạy và lẩn trốn. Một kế hoạch tấn công. “Chị nghĩ chúng ta cần phải sửa lại điều đó, Rue ạ.”

CHƯƠNG 16

Rue đã quyết định tin tưởng tôi, hoàn toàn. Tôi biết điều đó bởi ngay khi bản nhạc quốc ca kết thúc, em nằm rúc vào tôi và ngủ ngon lành. Tôi cũng chẳng nghi ngờ gì cô bé, bởi tôi cũng chẳng có phương án đề phòng nào cụ thể cả. Nếu cô bé muốn tôi chết, tất cả những gì cô bé phải làm là biến mất khỏi cái cây đó mà không chỉ cho tôi thấy tổ ong tracker jacker. Len lỏi trong tôi, ở một nơi sâu thẳm trong tâm tưởng, là một sự thật hiển nhiên. Cả hai chúng tôi không thể cùng chiến thắng trong Trò chơi này. Nhưng vì lợi thế vẫn chưa nghiêng về sự sống sót của bất cứ ai trong hai chúng tôi, nên tôi cố gắng lờ đi ý nghĩ đó.

Bên cạnh đó, tôi đang bị phân tâm bởi ý tưởng mới đây về nhóm Chuyên nghiệp và số hàng hóa của chúng. Dù thế nào Rue và tôi cũng phải tìm ra cách phá hủy nguồn thực phẩm của chúng. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng việc tự kiếm thức ăn của chúng sẽ là một cuộc chiến đấu vô cùng cam go. Từ trước đến giờ, chiến lược của các Cống phẩm Chuyên nghiệp luôn là nắm giữ tất cả nguồn thực phẩm từ đầu và triển khai từ đó. Những năm mà họ không bảo vệ tốt nó – một năm một nhóm những kẻ vô cùng hèn hạ đê tiện đã phá hủy chúng, một năm khác thì một trận lũ do các Nhà thiết lập Trò chơi gây ra đã quét sạch chúng – những năm đó thường là những năm mà các cống phẩm từ các đặc khu khác giành chiến thắng. Do đó, các Cống phẩm chuyên nghiệp đã được lớn lên với điều kiện thức ăn đầy đủ hơn, thực sự lại là một điểm yếu của họ, bởi vì họ không biết đói là như thế nào. Không như tôi và Rue đã từng trải qua.

Nhưng tôi quá mệt để có thể bắt đầu bất cứ kế hoạch chi tiết nào tối nay. Các vết thương của tôi đang hồi phục, đầu óc tôi vẫn còn hơi mụ mẫm bởi nọc độc ong, và hơi ấm của Rue nằm bên cạnh, đầu của cô bé dựa vào vai tôi, đã cho tôi một cảm giác an toàn. Lần đầu tiên tôi nhận ra tôi đã cô đơn thế nào trong đấu trường này. Sự hiện diện của một người khác có thể đem lại sự an ủi như thế nào. Tôi nhượng bộ cơn buồn ngủ của mình, quyết định rằng ngày mai cục diện sẽ thay đổi. Ngày mai, đến lượt bọn Chuyên nghiệp sẽ trở thành những kẻ phải luôn dè chừng sau lưng mình.

Tiếng nổ của pháo hiệu làm tôi giật mình tỉnh giấc. Bầu trời đầy các vệt sáng, chim chóc ríu rít. Rue ngồi trên một cành cây đối diện tôi, tay cô bé đang khum khum che cái gì đó. Chúng tôi chờ đợi, lắng nghe thêm tiếng bắn, nhưng không có thêm phát pháo nào hết.

“Em nghĩ đó là ai?” tôi không thể không nghĩ đến Peeta.

“Em không biết. Đó có thể là bất cứ người nào khác,” Rue trả lời. “Em đoán đêm nay chúng ta sẽ biết thôi.”

“Còn lại những ai nhỉ?” tôi hỏi.

“Tên ở Đặc khu 1. Cả hai cống phẩm Đặc khu 2. Tên ở Đặc khu 3. Thresh và em. Và chị với Peeta,” Rue liệt kê. “Đó là tám. Chờ đã, và cái anh từ Đặc khu 10, người mà có cái chân tàn tật ấy. Anh ta nữa là chín.”

Còn một người nữa, nhưng không ai trong chúng tôi nhớ ra đó là ai.

“Em tự hỏi không biết người vừa rồi chết như thế nào,” Rue nói.

“Không biết được. Nhưng điều đó tốt cho chúng ta. Một cái chết sẽ ngăn khán giả lại một chút. Có lẽ chúng ta sẽ có thời gian để làm gì đó trước khi các Nhà thiết lập Trò chơi quyết định rằng mọi thứ đang diễn ra quá chậm,” tôi nói. “Cái gì trong tay em vậy?”

“Bữa sáng,” Rue đáp. Cô bé chìa tay ra cho tôi thấy hai quả trứng to.

“Chúng là loại gì?” tôi hỏi.

“Em không chắc. Có một đầm lầy ở đằng kia. Một loại chim nước nào đó,” em trả lời.

Sẽ thật là ngon nếu nấu chúng, nhưng cả hai chúng tôi đều không muốn mạo hiểm nhóm lửa. Tôi đoán cống phẩm chết hôm nay là nạn nhân của nhóm Chuyên nghiệp, điều đó nghĩa là họ đã phục hồi đủ sức khỏe để quay lại với Trò chơi. Mỗi người chúng tôi hút lòng của một quả trứng, ăn một chiếc đùi thỏ và vài quả dâu. Đó là một bữa sáng ngon miệng ở bất cứ đâu.

“Sẵn sàng thực hiện nó chưa?” tôi hỏi trong khi đeo ba lô vào.

“Làm cái gì ạ?” Rue hỏi lại, nhưng theo cái cách cô bé đứng bật dậy, bạn có thể nói rằng em sẽ đứng dậy làm bất cứ điều gì tôi yêu cầu.

“Hôm nay chúng ta sẽ tước đoạt đi thức ăn của bọn Chuyên nghiệp,” tôi trả lời.

“Thật ạ? Làm thế nào?” Bạn có thể nhìn thấy sự hào hứng lóe lên trong mắt cô bé. Như thế này, cô bé hoàn toàn trái ngược với Prim, người mà những việc mạo hiểm là cả một thách thức.

“Chưa có ý tưởng gì. Thôi nào, chúng ta sẽ nghĩ ra một kế hoạch trong khi đi săn,” tôi nói.

Tuy nhiên chúng tôi không sắn bắn được mấy vì tôi quá bận rộn thu thập mọi mẩu tin tức có thể từ Rue về căn cứ của nhóm Chuyên nghiệp. Cô bé chỉ đến đó trong khoảng thời gian rất ngắn để theo dõi bọn chúng, nhưng đã quan sát rất tinh tường. Chúng đã dựng trại ở gần hồ nước. Kho hàng hóa của chúng ở cách đó khoảng ba mươi yard. Trong ngày, chúng để lại một cống phẩm khác, cậu trai đến từ Đặc khu 3, để canh chừng hàng hóa.

“Tên đến từ Đặc khu 3 à?” tôi hỏi. “Cậu ta hợp tác với chúng?”

“Vâng, anh ta ở trại cả ngày. Anh ta cũng bị ong đốt, khi họ dẫn theo bầy ong tracker jacker lúc chạy về hồ nước,” Rue kể. “Em đoán họ thống nhất để anh ta sống nếu anh ta chịu làm người canh gác cho họ. Nhưng anh ta không to lớn lắm.”

“Cậu ta có loại vũ khí gì?” tôi hỏi.

“Theo em có thể nhìn được thì không nhiều lắm. Một ngọn lao. Anh ta có thể ngăn chặn một số người chúng ta lại gần với nó, nhưng Thresh có thể dễ dàng kết liễu anh ta,” Rue nói.

“Và thực phẩm cứ để bên ngoài như vậy à?” tôi hỏi. Cô bé gật đầu. “Có gì đó không bình thường lắm về tất cả những sự sắp đặt đó.”

“Em biết. Nhưng em cũng không thể nói nó chính xác là gì,” Rue nói. “Katniss, ngay cả nếu như chị có thể đến được chỗ để thực phẩm, thì làm thế nào chị có thể đem chúng đi?”

“Đốt chúng. Ném chúng xuống hồ. Dội nhiên liệu đốt lên chúng.” Tôi chọc vào bụng Rue, giống như tôi vẫn làm thế với Prim. “Ăn chúng!” Cô bé cười khúc khích. “Đừng lo. Chị sẽ nghĩ ra cái gì đó. Phá hủy các thứ dễ dàng hơn rất nhiều so với tạo ra chúng.”

Trong một lúc lâu, chúng tôi đào củ, thu lượm dâu rừng và rau cỏ, chúng tôi thì thầm bày ra một chiến lược. Và tôi cũng biết nhiều hơn về Rue, chị cả trong gia đình có sáu con, hết sức che chở cho các anh chị em của mình, người đã nhường khẩu phần thực phẩm của mình cho các em, người phải đi tìm kiếm, lục lọi trên các cánh đồng ở một đặc khu nơi mà những Người giữ trị an có ít lòng tốt hơn rất nhiều so với những người ở đặc khu chúng tôi. Rue, người mà khi tôi hỏi thứ cô bé yêu thích nhất trên đời là gì, trong tất cả mọi thứ, đã trả lời rằng, “Âm nhạc.”

“Âm nhạc ư?” tôi hỏi lại. Trong thế giới của chúng tôi, tôi xếp âm nhạc ở một nơi nào đó trong ranh giới giữa những chiếc ruy băng buộc tóc và cầu vồng về tính hữu ích. Ít nhất thì một chiếc cầu vồng cũng cho bạn một dấu hiệu về thời tiết. “Em dành rất nhiều thời gian cho nó à?”

“Chúng em hát lúc ở nhà. Cả trong lúc làm việc nữa. Đó là lý do em thích chiếc ghim cài áo của chị,” em nói, chỉ vào con chim mockingjay mà tôi một lần nữa lại quên khuấy mất.

“Bọn em cũng có những con chim mockingjay à?” tôi hỏi.

“Ồ, vâng. Em có vài con mà em coi là những người bạn đặc biệt của mình. Chúng em có thể hát đi hát lại với nhau trong nhiều giờ. Chúng có thể gửi những lời nhắn đi giúp em,” cô bé nói.

“Ý của em là sao?” tôi hỏi.

“Em thường trèo lên cây cao nhất, nên em là người đầu tiên nhìn thấy lá cờ báo hiệu thời gian nghỉ. Có một bài hát đặc biệt mà em thường dùng,” Rue kể. Cô bé hé miệng và hát một đoạn nhạc ngắn gồm bốn nốt nhạc bằng một chất giọng rõ ràng, ngọt ngào. “Và những con chim mockingjay sẽ truyền nó đi khắp vườn cây. Đó là cách mọi người biết để dừng công việc lại,” em tiếp tục. “Tuy nhiên, chúng cũng có thể trở nên rất nguy hiểm, nếu chị đến quá gần tổ của chúng. Nhưng chị không thể buộc tội chúng về việc đó.”

Tôi cởi móc chiếc huy hiệu và đưa ra cho cô bé. “Đây, em giữ nó đi. Nó sẽ có ý nghĩa với em nhiều hơn là với chị.”

“Ồ, không,” Rue từ chối, gập các ngón tay tôi nắm lại chiếc huy hiệu. “Em thích nhìn thấy nó trên người chị. Đó là cách em quyết định tin tưởng chị. Ngoài ra, em còn có cái này.” Cô bé lôi từ trong áo ra một chiếc vòng cổ được tết từ một loại cỏ nào đó. Trên đó có treo một ngôi sao được khắc bằng gỗ một cách vụng về. Hay có lẽ nó là một bông hoa. “Nó là một chiếc bùa may mắn.”

“Ừ, nó vẫn có tác dụng cho đến giờ,” tôi nói, cài con chim mockingjay trở lại áo mình. “Có lẽ em chỉ nên trung thành với nó.”

Đến bữa trưa, chúng tôi đã có một kế hoạch. Đầu buổi chiều, chúng tôi đã sẵn sàng để thực hiện nó. Tôi giúp Rue thu thập và đặt củi thành hai đống lửa trại đầu tiên, đống thứ ba em sẽ tự sắp xếp. Chúng tôi quyết định sẽ gặp nhau sau ở chỗ mà chúng tôi đã cùng dùng bữa lần đầu tiên. Con suối sẽ giúp tôi quay trở về được chỗ đó. Trước khi đi, tôi đảm bảo rằng Rue đã có đủ thức ăn và diêm. Tôi thậm chí còn bắt em giữ lấy cái túi ngủ của tôi, trong trường hợp chúng tôi không thể gặp lại vào đêm nay.

“Còn chị thì sao? Chị không lạnh à?” cô bé hỏi.

“Không nếu chị có thể lấy được một cái túi khác ở chỗ hồ nước,” tôi nói. “Em biết đấy, trộm cắp không phải là việc phạm pháp ở đây,” tôi cười toe toét.

Vào phút cuối cùng, Rue quyết định dạy tôi tín hiệu mockingjay, giai điệu mà cô bé dùng để báo hiệu ngày làm việc kết thúc. “Nó có thể không có tác dụng. Nhưng nếu chị nghe thấy chim mockingjay hót nó, chị sẽ biết là em vẫn ổn, chỉ là em chưa thể quay về ngay được.”

“Có nhiều chim mockingjay ở đây không?” tôi hỏi.

“Chị chưa nhìn thấy chúng à? Chúng có tổ ở khắp nơi,” em trả lời. Tôi phải thừa nhận là tôi không hề để ý đến.

“Thôi được rồi. Nếu mọi việc theo đúng kế hoạch thì chị sẽ gặp em vào bữa tối,” tôi nói.

Bất ngờ, Rue vòng cánh tay ôm lấy tôi. Tôi chỉ ngần ngại một chút trước khi ôm lại.

“Chị phải cẩn thận,” cô bé dặn dò tôi.

“Em cũng vậy,” tôi đáp lại. Tôi xoay đi và hướng trở lại dòng suối, cảm thấy đôi chút lo lắng. Về việc Rue sẽ bị giết, về việc Rue sẽ không bị giết và hai chúng tôi là hai người cuối cùng còn sót lại, về việc bỏ Rue lại một mình, về việc bỏ Prim lại một mình ở quê nhà. Không, Prim còn có mẹ tôi với Gale, và ông chủ tiệm bánh, người đã hứa rằng sẽ không để con bé bị đói. Rue thì chỉ có mình tôi.

Khi tôi đến được dòng suối, tôi chỉ việc đi dọc theo nó xuống đồi tới nơi mà lần đầu tiên tôi tình cờ bắt gặp nó sau khi bị ong tracker jacker tấn công. Tuy nhiên tôi phải thận trọng khi đi dọc theo con suối vì tôi nhận ra rằng các suy nghĩ của mình toàn về những câu hỏi không có lời giải đáp mà phần lớn chúng là về Peeta. Tiếng pháo hiệu được bắn ra sáng sớm nay có phải là báo hiệu cái chết của cậu ấy? Nếu vậy thì cậu ấy đã chết như thế nào? Dưới tay của một tên Chuyên nghiệp? Và có phải đó là để trả thù về việc đã để tôi sống không? Tôi cố gắng lần nữa để nhớ lại thời điểm lúc ở bên thi thể của Glimmer, khi cậu ấy lao ra từ rừng cây. Nhưng chỉ có một thực tế là lúc ấy cậu ấy đang tỏa sáng lấp lánh khiến tôi thấy nghi ngờ về tất cả mọi thứ đã diễn ra.

Tôi chắc hẳn đã phải di chuyển rất chậm ngày hôm qua bởi tôi đến được chỗ nước nông mà tôi tắm gội chỉ trong ít giờ. Tôi dừng lại để lấy thêm nước và trát thêm một lớp bùn vào ba lô. Nó dường như có xu hướng quay trở về màu cam dù cho bao nhiêu lần tôi đã ngụy trang nó.

Đến gần trại của nhóm Chuyên nghiệp khiến các giác quan của tôi trở nên nhạy bén hơn, và càng gần chúng, tôi lại càng cảnh giác, thường xuyên dừng lại để lắng nghe xem có âm thanh nào bất thường không, một mũi tên đã sẵn sàng đặt lên dây cung. Tôi không nhìn thấy bất kỳ cống phẩm nào khác, nhưng tôi nhận ra vài thứ mà Rue đã nhắc đến. Những khóm dâu ngọt. Một bụi cây lá dùng để chữa các vết ong đốt của tôi. Một cụm tổ ong tracker jacker ở lân cận cái cây mà tôi bị bao vây. Và đây đó, có bóng dáng màu đen và trắng của cánh chim mockingjay trên những cành cây cao tít phía trên.

Khi tôi tiến đến cái cây có tổ ong rơi bên dưới, tôi dừng lại một lát để lấy lại dũng khí. Rue đã đưa ra những chỉ dẫn rất cụ thể về việc làm thế nào để đến được vị trí dễ quan sát nhất gần cái hồ từ chỗ này.Hãy nhớ, tôi tự nhủ. Lúc này mày là người đi săn, không phải chúng. Tôi nắm chặt hơn cây cung của mình và tiếp tục. Tôi đến được chỗ cây cối mà Rue tả và một lần nữa ngưỡng mộ sự thông minh của cô bé. Nó ở ngay bìa rừng, nhưng những tán lá của các bụi cây rất rậm rạp nên tôi dễ dàng quan sát được trại của nhóm Chuyên nghiệp mà không bị phát hiện. Giữa chúng tôi là khoảng đất rộng bằng phẳng nơi Trò chơi bắt đầu.

Ở đó có bốn cống phẩm. Tên đến từ Đặc khu 1, Cato và con bé từ Đặc khu 2, và một thằng nhóc gầy nhẳng, nước da tai tái, chắc hẳn là đứa đến từ Đặc khu 3. Cậu ta gần như không để lại ấn tượng gì cho tôi trong suốt thời gian ở Capitol. Tôi hầu như chẳng nhớ gì về cậu nhóc, không gì về trang phục, điểm số hay buổi phỏng vấn. Thậm chí ngay lúc này, khi cậu ta ngồi đó, nghịch vớ vẩn một chiếc hộp nhựa, cậu ta cũng dễ dàng bị lu mờ trong sự hiện diện của những đồng bọn to lớn, dữ tợn của cậu ta. Nhưng cậu ta chắc phải có giá trị nào đó hoặc là họ không hề lo lắng gì khi để cậu ta sống. Dù vậy, nhìn thấy cậu ta cũng chỉ làm tăng thêm cảm giác lo lắng của tôi về việc tại sao nhóm Chuyên nghiệp có thể để cậu ta canh gác, tại sao chúng lại cho phép cậu ta sống.

Cả bốn cống phẩm dường như vẫn đang trong quá trình phục hồi sau đợt tấn công của ong tracker jacker. Thậm chí từ chỗ này, tôi cũng có thể nhìn thấy những cục u sưng phồng như quả mận trên người chúng. Chắc chúng không biết là phải rút ngòi ong ra, hoặc nếu chúng đã làm thì cũng không biết về những chiếc lá có thể chữa trị vết ong đốt. Có vẻ như bất cứ loại thuốc nào chúng tìm được ở Cornucopia cũng không có tác dụng.

Chiếc sừng Cornucopia vẫn nằm ở vị trí cũ, nhưng những thứ bên trong nó đã được dọn sạch. Phần lớn các tặng phẩm, được chứa trong các thùng gỗ thưa, các bao tải, và các túi ni lông lớn, được chồng lên gọn gàng thành hình kim tự tháp tại một vị trí có khoảng cách rất đáng ngờ so với cái trại. Những thứ khác được rải thành một vành đai quanh chiếc kim tự tháp, gần như bắt chước cách sắp xếp các vật dụng xung quanh Cornucopia vào lúc bắt đầu Trò chơi. Một mái che bằng lưới ở trên, ngoài việc dùng để ngăn chặn chim chóc, thì nó dường như là một mái che vô ích đối với chiếc kim tự tháp.

Tất cả sự sắp đặt này hoàn toàn khó hiểu. Khoảng cách, chiếc lưới, và sự có mặt của tên nhóc Đặc khu 3. Chỉ có một việc chắc chắn đó là phá hủy những vật phẩm này sẽ không hề đơn giản như bề ngoài của chúng. Có một chi tiết nào đó đang được ẩn dấu ở đây, và tôi tốt hơn là nên ở yên đây cho đến khi khám phá ra đó là gì. Theo phán đoán của tôi thì chiếc kim tự tháp là một chiếc bẫy theo một kiểu nào đó. Tôi nghĩ về những chiếc hố chông được ngụy trang, những chiếc lưới sẽ buông xuống, một sợi dây mảnh mà khi bị đứt sẽ phóng ra một mũi tên tẩm độc đâm thẳng vào trái tim bạn. Thực sự, các khả năng là vô hạn.

Trong khi tôi đang suy tính các lựa chọn của mình, tôi nghe thấy Cato hét lên. Cậu ta đang chỉ vào rừng, rất xa phía sau tôi, và không cần quay lại tôi biết rằng Rue chắc chắn đã nhóm ngọn lửa trại đầu tiên. Chúng tôi đảm bảo thu thập đủ gỗ tươi để làm cho đám khói trở nên dễ nhận ra. Đám Chuyên nghiệp bắt đầu trang bị cho chúng ngay lập tức.

Một cuộc tranh cãi nổ ra. Nó đủ lớn để tôi có thể nghe ra đó là về việc cho hay không cho tên nhóc ở Đặc khu 3 đi cùng với chúng.

“Nó sẽ đi. Chúng ta cần nó trong rừng, dù sao thì nhiệm vụ của nó ở đây đã hoàn thành rồi. Không ai có thể chạm vào những vật phẩm kia,” Cato nói.

“Thế còn Chàng trai đang yêu kia thì sao?” tên đến từ Đặc khu 1 lên tiếng.

“Tao đã nói với mày là quên nó đi. Tao biết chỗ mà tao đã chém nó. Chỉ có phép màu xảy ra thì nó mới không bị chảy máu cho đến chết. Dù gì đi nữa thì nó cũng không có khả năng tấn công chúng ta,” Cato trả lời.

Vậy là Peeta đang ở đâu đó trong rừng, bị thương nặng. Nhưng tôi vẫn mù tịt về động cơ khiến cậu ấy phản bội lũ Chuyên nghiệp.

“Đi nào,” Cato nói. Hắn đẩy một ngọn giáo vào tay tên nhóc Đặc khu 3, và chúng hướng về phía có ngọn lửa. Điều cuối cùng mà tôi nghe thấy khi chúng tiến vào rừng là tiếng Cato nói, “Khi chúng ta tìm ra con bé đó, tao sẽ giết nó theo cách của riêng tao, và không đứa nào được xía vào.”

Không hiểu sao tôi không nghĩ hắn đang nói về Rue. Cô bé đã không ném cả tổ ong tracker jacker vào hắn.

Tôi ở yên đó trong nửa giờ đồng hồ hoặc chừng đó, cố gắng nghĩ xem phải làm gì với chỗ vật phẩm. Một lợi thế mà tôi có đối với cung tên là khoảng cách. Tôi có thể bắn một mũi tên lửa vào chiếc kim tự tháp khá dễ dàng – tôi là một cung thủ đủ giỏi để có thể bắn xuyên qua những khe hở trên chiếc lưới – nhưng không có gì bảo đảm là nó sẽ bắt lửa. Có vẻ như nó sẽ chỉ đốt cháy chính nó và sau đó thì sao? Tôi sẽ không thu được gì mà lại trao cho bọn chúng quá nhiều thông tin về bản thân mình. Rằng tôi đã đến đây, rằng tôi có một đồng bọn, rằng tôi có thể sử dụng cung tên một cách chuẩn xác.

Không có lựa chọn. Tôi sẽ phải đến gần hơn và xem liệu tôi có không thể khám phá ra chính xác cái gì đang bảo vệ cho chỗ hàng hóa đó không. Trên thực tế, tôi chỉ vừa mới định hiện thân thì mắt tôi bắt được một chuyển động. Cách vài trăm yard bên phải tôi, tôi nhìn thấy một ai đó đang nhô ra khỏi rừng. Trong một giây, tôi nghĩ đó là Rue, nhưng rồi tôi nhận ra Mặt Cáo – cô ta là người mà tôi đã không thể nhớ ra sáng nay – rón rén đi ra khu đất trống. Khi quyết định rằng nó an toàn, cô ta chạy về phía kim tự tháp bằng những bước nhanh và ngắn. Ngay trước khi tiến đến vành đai các vật phẩm mà được rải xung quanh chiếc tháp, cô ta dừng lại, tìm kiếm trên mặt đất, và cẩn thận đặt chân lên một vị trí. Sau đó cô ta bắt đầu tiếp cận chiếc kim tự tháp bằng những bước nhảy lò cò rất lạ, đôi khi chỉ chạm đất bằng một chân, hơi loạng choạng, đôi khi lại mạo hiểm bằng vài bước. Ở một vị trí, cô ta nhảy lên, qua một chiếc thùng nhỏ và chạm đất thăng bằng trên đầu ngón chân. Nhưng cô ta hơi quá đà một chút, và theo quán tính bị lao về phía trước. Tôi nghe thấy cô ta ré lên khi hai bàn tay chạm xuống đất, nhưng không có gì xảy ra. Nhanh chóng cô ta điều chỉnh lại chân và tiếp tục cho đến khi chạm được đến đống hàng hóa.

Vậy là tôi đã đúng về chiếc bẫy, nhưng nó rõ ràng phức tạp hơn những gì tôi tưởng tượng. Tôi cũng đã đúng về cô gái đó. Cô ta thật quá tinh ranh khi khám phá ra lối đi này để đến chỗ thức ăn và có thể làm lại theo một cách chính xác. Cô ta lấy đầy chiếc ba lô của mình, lấy một vài thứ từ một loạt các vật chứa đồ, bánh quy từ một chiếc thùng gỗ thưa, một ít táo từ một chiếc bao tải đang treo lơ lửng trên một sợi dây thừng bên cạnh một cái thùng. Nhưng chỉ một chút trong mỗi loại, không đủ để bị phát hiện ra thức ăn bị mất. Không đủ để gây ra nghi ngờ. Và sau đó cô ta lại thực hiện lại các bước nhảy nhỏ kỳ lạ của mình để ra khỏi vòng tròn rồi chạy vọt trở lại lại rừng, bình an vô sự.

Tôi nhận ra tôi đang nghiến răng trong tâm trạng thất vọng. Mặt Cáo đã xác nhận những gì mà tôi đã dự đoán. Nhưng loại bẫy nào họ đã đặt mà phải cần sự khéo léo như vậy? Có bao nhiêu vị trí khởi động bẫy? Tại sao cô ta lại ré lên như vậy khi tay chạm đất? Mày nên nghĩ rằng… và dần dần một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi… mày nên nghĩ rằng mặt đất sẽ nổ tung lên.

“Nó được chôn dưới đất,” tôi thì thào. Điều đó lý giải mọi thứ. Nhóm Chuyên nghiệp sẵn sàng bỏ lại các vật phẩm, phản ứng của Mặt Cáo, việc gia nhập của tên nhóc Đặc khu 3, nơi họ có các nhà máy, nơi họ sản xuất ti vi, xe hơi và chất nổ. Nhưng cậu ta kiếm chúng ở đâu? Trong số tặng phẩm ư? Đó không phải là loại vũ khí họ thường cung cấp, bởi họ muốn xem các cống phẩm đích thân chém giết nhau. Tôi rời khỏi bụi cây và đi qua một trong những chiếc đĩa kim loại tròn dùng để đưa các cống phẩm lên đấu trường. Đất xung quanh nó đã được đào lên và được đập bẹt xuống. Những quả địa lôi đã bị vô hiệu hóa sau sáu mươi giây chúng tôi đứng trên chiếc đĩa, nhưng tên nhóc Đặc khu 3 chắc đã có thể kích hoạt lại chúng. Tôi chưa từng thấy ai trong các Trò chơi này làm vậy. Tôi cá nó đã trở thành một cú sốc ngay cả đối với các Nhà thiết lập Trò chơi.

Chà, chúc mừng tên nhóc từ Đặc khu 3 đã gây được một ấn tượng đối với họ, nhưng giờ thì tôi phải làm gì? Tất nhiên tôi không thể đi bừa vào cái đám hỗn độn đó mà không tự làm mình bị thổi bay lên đến tận trời. Còn về việc bắn một mũi tên lửa, điều đó còn nực cười hơn nữa. Những quả mìn được kích hoạt bằng áp lực đè lên chúng. Dù áp lực đó không cần nhiều. Một năm, có một cô gái làm rơi vật biểu tượng của mình, một quả bóng nhỏ bằng gỗ, khi cô ta đang đứng ở chiếc đĩa của mình, và họ theo đúng nghĩa đen là phải vét lấy từng mẩu nhỏ thi thể cô ta trên mặt đất.

Cánh tay của tôi rất khéo léo, có lẽ tôi có thể ném vài viên đá vào đó và kích hoạt cái gì? Có thể là một quả mìn? Việc đó có thể làm khởi động cả một chuỗi phản ứng. Nó có thể không? Liệu tên nhóc từ Đặc khu 3 có đặt các quả mìn theo cách mà một quả nổ sẽ không ảnh hưởng đến những quả khác không? Theo cách ấy sẽ bảo vệ được các vật phẩm mà vẫn đảm bảo kẻ xâm nhập sẽ chết. Thậm chí nếu tôi thổi bay được một quả mìn, chắc chắn tôi sẽ kéo lũ Cống phẩm Chuyên nghiệp quay trở lại đây giết tôi. Và dù sao đi nữa, tôi đang nghĩ cái quái gì vậy? Ở đó vẫn còn có chiếc lưới, được căng lên để ngăn chặn bất cứ cuộc tấn công nào như vậy. Ngoài ra, điều mà tôi thực sự cần là ném khoảng ba mươi viên đá vào đó cùng một lúc, kích hoạt cả một chuỗi phản ứng, phá hủy toàn bộ kho hàng.

Tôi liếc nhìn lại khu rừng. Khói từ đám cháy thứ hai của Rue đã bốc lên trời. Vào lúc này, bọn Chuyên nghiệp có lẽ đã bắt đầu nghi ngờ về việc bị gài bẫy. Thời gian sắp hết.

Phải có một giải pháp cho vấn đề này, tôi biết là có, nếu tôi có thể hoàn toàn tập trung suy nghĩ. Tôi chăm chú nhìn chiếc kim tự tháp, các bao tải, các hòm gỗ, quá nặng để một mũi tên có thể làm đổ. Có lẽ có một thùng đựng dầu ăn, và ý tưởng về mũi tên chứa mồi lửa đang quay trở lại thì tôi nhận ra tôi có thể kết thúc với việc mất tất cả mười hai mũi tên của mình và vẫn không bắn được một mũi tên nào trực tiếp vào thùng dầu, vì tôi chỉ đang đoán thôi. Tôi thực sự đang nghĩ về việc thử bắt chước lại những bước nhảy nhẹ nhàng của Mặt Cáo đến chỗ kim tự tháp với hy vọng tìm được một biện pháp phá hủy khác thì mắt tôi chiếu đến chiếc túi đựng táo. Tôi có thể cắt đứt sợi dây thừng bằng một phát bắn, không phải tôi đã làm rất nhiều lần ở Trung tâm Huấn luyện rồi sao? Đó là một chiếc túi lớn, nhưng có thể nó vẫn chỉ đủ cho một quả mìn nổ. Nếu như tôi có thể làm bung các quả táo ra…

Tôi đã biết phải làm gì. Tôi di chuyển vào tầm bắn, và tự cho mình được dùng ba mũi tên để hoàn thành nhiệm vụ này. Tôi đặt chân cẩn thận, quên hết mọi thứ xung quanh khi tôi nhắm vào mục tiêu thật kĩ càng. Mũi tên đầu tiên xẹt qua một bên của chiếc túi gần phía trên, để lại một vết rách trên bao bì. Mũi tên thứ hai làm rộng nó ra thành một cái lỗ hở. Tôi có thể nhìn thấy một quả táo đang nhô ra khi tôi bắn mũi tên thứ ba bay đi, trúng vào miếng vải rách ra của bao bì và xé nó ra khỏi cái túi.

Trong khoảnh khắc, mọi thứ dường như đóng băng lại. Sau đó những quả táo tràn xuống mặt đất và tôi bị hất bay ngược về phía sau.

CHƯƠNG 17

Sức ép cùng với những lớp đất cứng của bãi đất trống dội lên người khiến tôi hoàn toàn tê liệt. Chiếc ba lô giúp giảm nhẹ một chút cú va đập. May mà ống tên bị mắc lại ở chỗ gập của khuỷu tay, không làm hỏng cả nó lẫn vai tôi, và chiếc cung thì được ôm chặt trong lòng. Mặt đất vẫn rung chuyển với những tiếng nổ. Tôi không thể nghe thấy chúng. Lúc này tôi không thể nghe thấy bất cứ thứ gì. Nhưng những quả táo chắc hẳn đã làm nổ đủ số mìn, gây ra những mảnh vỡ làm kích hoạt những quả mìn khác. Tôi cố dùng cánh tay che đi khuôn mặt mình khi những mảnh vỡ của mọi vật, một số mảnh đang bắt lửa, rơi rào rào xung quanh tôi. Một đám khói cay sè mắt tràn ngập không khí, không phải là một phương thuốc tốt nhất cho một ai đó đang cố gắng lấy lại khả năng hít thở.

Sau khoảng một phút, mặt đất ngừng rung lắc. Tôi nằm cuộn tròn sang một bên và tự cho mình một khoảnh khắc thỏa mãn trước khung cảnh đống đổ nát đang cháy âm ỉ mà mới đây chính là chiếc kim tự tháp. Bọn Chuyên nghiệp có vẻ sẽ không cứu được bất cứ thứ gì ra khỏi đó.

Mình tốt hơn là phải rời khỏi đây, tôi nghĩ. Bọn chúng chắc là đang chạy thẳng đến đây. Nhưng khi tôi đứng dậy, tôi nhận ra rằng trốn đi có lẽ không hề đơn giản. Tôi đang bị choáng. Không phải loại chao đảo nhẹ nhàng, mà là loại chóng mặt khiến cây cối như đang bổ nhào xuống xung quanh bạn và khiến cho mặt đất như đang nổi sóng dưới chân.

Tôi đi vài bước và không hiểu sao kết thúc bằng việc ngã khụy trên hai tay và đầu gối. Tôi đợi một vài phút để tình trạng này qua đi, nhưng nó không biến mất.

Sự hoang mang bắt đầu dâng lên. Tôi không thể ở đây. Biến khỏi đây là việc cần thiết. Nhưng tôi không thể bước đi hay nghe thấy gì. Tôi áp một tay vào tai trái, cái tai mà đã hướng về phía vụ nổ, và nó đang chảy máu. Có phải vụ nổ đã làm tôi bị điếc không? Ý nghĩ đó làm tôi khiếp sợ. Tôi phụ thuộc rất nhiều vào đôi tai cũng như đôi mắt mình để làm thợ săn, có lẽ không chỉ là đôi khi. Nhưng tôi không thể tỏ ra sợ hãi. Chắc chắn, khẳng định là tôi đang được tường thuật trực tiếp trên màn hình của toàn bộ Panem.

Không có vệt máu nào hết, tôi tự nhủ và cố gắng kéo mũ áo trùm lên đầu, buộc dây lại dưới cằm bằng các ngón tay không chịu hợp tác. Việc đó giúp thấm máu đi. Tôi không thể đi, nhưng liệu tôi có thể bò không? Tôi ngập ngừng tiến về phía trước. Đúng, nếu tôi đi rất chậm, thì tôi có thể bò. Phần lớn khu rừng sẽ có không thiếu chỗ ẩn núp. Hy vọng duy nhất của tôi là có thể quay trở lại bụi rậm của Rue và trốn kỹ trong đám cây cỏ. Tôi không thể để mình bị bắt gặp ở chỗ trống trải này trong khi đang ngã khụy. Tôi sẽ không chỉ phải đối mặt với cái chết, mà chắc chắn đó sẽ là một cái chết chậm chạp và đau đớn dưới tay Cato. Ý nghĩ về việc Prim sẽ phải nhìn điều đó thôi thúc tôi kiên trì dịch từng chút một về chỗ ẩn náu.

Một phát nổ nữa làm tôi ngã sóng soài. Một quả mìn còn sót lại, bị nổ tung do tác động của những chiếc hòm gỗ gãy vụn. Điều này xảy ra thêm hai lần nữa. Tôi nhớ lại hình ảnh những hạt ngô cuối cùng nổ tung khi tôi và Prim nổ bỏng ngô trong bếp lúc còn ở nhà.

Nói rằng tôi trốn được vừa kịp lúc đã là sự giảm nhẹ. Đúng ra tôi chỉ vừa mới lê được người vào đám lá hỗn độn dưới gốc những bụi cây khi Cato xuất hiện, lao vào bãi đất trống, theo sau là đồng bọn. Cơn thịnh nộ của hắn điên cuồng đến mức tức cười – vậy là người ta thực sự giật tóc và đấm xuống đất – nếu như tôi không biết trước rằng điều đó là nhằm vào tôi, vào những gì tôi đã gây ra cho hắn. Thêm vào đó, vị trí rất gần của tôi, sự bất lực trong việc trốn chạy hay tự vệ, và thực tế, tất cả mọi thứ khiến tôi rất sợ hãi. Tôi mừng vì chỗ ẩn nấp của tôi làm cho các camera không thể quay cận mặt vì tôi đang cắn móng tay như thể không sống được đến ngày mai. Gặm nhấm hết những mẩu cuối cùng của lớp sơn móng tay, cố gắng ngăn hai hàm răng không đập vào nhau lập cập.

Tên nhóc từ Đặc khu 3 ném những hòn đá vào đống đổ nát và phải đảm bảo tất cả mìn đều đã được kích hoạt bởi vì đám chuyên nghiệp đang tiến gần tới đó.

Cato đã kết thúc giai đoạn đầu của cơn thịnh nộ và lại xả giận với những đám khói còn sót lại bằng cách đá vào vô số các thùng vỡ. Các cống phẩm khác chọc chọc xung quanh đống hỗn độn, tìm xem còn thứ gì có thể thu hồi, nhưng không còn gì. Tên nhóc từ Đặc khu 3 đã làm công việc của mình rất tốt. Ý nghĩ này chắc cũng xuất hiện trong đầu Cato, bởi vì hắn quay sang tên nhóc và dường như đang chửi rủa cậu ta. Tên nhóc từ Đặc khu 3 chỉ kịp có thời gian quay đầu và chạy trước khi bị Cato tóm được bằng một miếng võ khóa cổ từ phía sau. Tôi có thể nhìn thấy những cơ bắp cuồn cuộn trên cánh tay Cato khi hắn bẻ mạnh đầu tên nhóc sang một bên.

Nó đến thật nhanh. Cái chết của tên nhóc từ Đặc khu 3.

Hai đứa Chuyên nghiệp khác có vẻ như đang cố gắng làm Cato bình tĩnh lại. Tôi có thể nói rằng hắn muốn quay trở lại rừng, nhưng chúng tiếp tục chỉ lên trời, điều này làm tôi bối rối cho đến khi tôi nhận ra, Tất nhiên. Chúng nghĩ người gây ra những vụ nổ này đã chết.

Chúng không biết về những mũi tên và những quả táo. Chúng cho rằng cái bẫy mìn của chúng đã bị lỗi, nhưng cống phẩm đã làm thổi bay mọi hàng hóa đã bị chết khi làm việc này. Nếu chỉ có một phát pháo hiệu, nó có thể dễ dàng bị chìm lấp bởi các tiếng mìn nổ. Những mảnh vụn còn lại của tên trộm được đưa đi bởi trực thăng. Chúng lui về phía xa của hồ nước để các Nhà thiết lập Trò chơi thu hồi xác chết của tên nhóc Đặc khu 3. Và chúng chờ đợi.

Tôi cho là tiếng pháo hiệu đã được bắn. Một chiếc trực thăng xuất hiện, và đưa thi thể tên nhóc đi. Mặt trời khuất dần ở phía chân trời. Màn đêm buông xuống. Trên bầu trời, tôi có thể nhìn thấy hình quốc huy và biết rằng bài quốc ca chắc đã phải bắt đầu. Một khoảnh khắc tăm tối. Họ trình chiếu hình ảnh của tên nhóc Đặc khu 3. Họ chiếu hình cậu trai Đặc khu 10, người đã chết sáng sớm nay. Sau đó quốc huy lại xuất hiện. Vậy, bây giờ chúng đã biết. Kẻ đánh bom vẫn sống. Trong ánh sáng của chiếc quốc huy, tôi có thể thấy Cato và con bé đến từ Đặc khu 2 đeo chiếc kính nhìn xuyên màn đêm vào. Tên từ Đặc khu 1 đốt một cành cây để làm đuốc, chiếu sáng gương mặt đầy quyết tâm của bọn chúng. Nhóm Chuyên nghiệp sải bước trở lại rừng để săn lùng.

Cơn choáng váng đã giảm dần, và trong khi tai trái của tôi vẫn điếc đặc thì tôi có thể nghe thấy một tiếng tinh tinh trong tai phải, nó dường như là một dấu hiệu tốt. Tuy nhiên, không có ích gì khi rời khỏi nơi ẩn nấp của tôi. Tôi gần như an toàn nhất có thể khi ở đây, ngay tại hiện trường gây án này. Chúng có lẽ nghĩ rằng kẻ nổ bom đã có hai đến ba giờ đồng hồ đi trước chúng. Mặc dù vậy, vẫn còn rất lâu trước khi tôi mạo hiểm di chuyển.

Điều đầu tiên tôi làm là lôi chiếc kính của mình ra và đeo vào, giúp tôi thoải mái một chút khi ít nhất một trong những giác quan thợ săn của tôi vẫn hoạt động. Tôi uống một ít nước và rửa máu ở tai đi. Lo sợ mùi thịt sẽ thu hút những con thú ăn thịt không mong muốn – máu tươi cũng đủ tệ rồi – tôi làm một bữa ăn ngon lành từ rau củ và dâu rừng mà tôi và Rue đã thu lượm được hôm nay.

Người đồng minh bé nhỏ của tôi đang ở đâu? Liệu em có quay lại được chỗ hẹn không? Em có đang lo lắng về tôi không? Ít ra thì trên bầu trời cũng cho thấy cả hai chúng tôi còn sống.

Tôi điểm qua những cống phẩm còn sống trên đầu ngón tay. Tên từ Đặc khu 1, cả hai cống phẩm Đặc khu 2, Mặt Cáo, cả hai người từ Đặc khu 11 và 12. Chỉ còn lại tám người chúng tôi. Việc cá cược chắc chắn phải đang rất sôi nổi ở Capitol. Họ chắc là đang phân tích những điểm đặc biệt của mỗi người chúng tôi. Có lẽ là đang phỏng vấn gia đình và bạn bè của chúng tôi. Đã rất lâu rồi kể từ khi một cống phẩm từ Đặc khu 12 lọt vào top 8 người. Và bây giờ thì có cả hai chúng tôi. Tuy nhiên, theo những gì Cato nói, thì Peeta đang sắp chết. Không chỉ do Cato là kết luận cho mọi thứ. Không phải là cậu ấy đã mất hết toàn bộ vật phẩm rồi sao?

Hãy để Trò chơi sinh tử lần thứ bảy mươi tư bắt đầu[4], Cato, tôi nghĩ. Hãy để chúng thực sự bắt đầu.

Hơi lạnh bắt đầu tăng lên. Tôi với lấy chiếc túi ngủ trước khi nhớ ra tôi đã để lại nó cho Rue. Tôi đã định sẽ lấy một cái khác, nhưng với đống mìn và tất cả mọi việc đã diễn ra, tôi quên khuấy mất. Tôi bắt đầu run rẩy. Vì dù sao đi nữa ngủ qua đêm trên cây cũng không phải là một việc khôn ngoan, nên tôi bới một cái hố dưới bụi cây và phủ lên người tôi bằng lá cây và lá thông. Tôi vẫn lạnh cóng. Tôi phủ mảnh ni lông lên phần thân trên và đặt chiếc ba lô để chắn bớt gió. Nó tốt hơn một chút. Tôi bắt đầu thông cảm hơn cho cô gái đến từ Đặc khu 8, người đã nhóm lửa lên trong đêm đầu tiên. Nhưng giờ, chính tôi là người phải nghiến chặt răng và chịu đựng cho đến sáng. Nhiều lá cây hơn, nhiều lá thông hơn. Tôi kéo cánh tay mình vào bên trong chiếc áo khoác và thu đầu gối lên tận ngực. Dần dần tôi cũng chìm vào giấc ngủ.

Khi tôi mở mắt ra, mọi thứ trông hơi đứt đoạn, và phải mất một phút tôi mới nhận ra rằng mặt trời đã lên cao và chiếc kính đang làm méo mó tầm nhìn của mình. Khi tôi ngồi dậy và cởi nó ra, tôi nghe thấy một tiếng cười ở đâu đó gần hồ nước và bất động. Tiếng cười bị bóp méo, nhưng thực tế là nó đã cho tôi thấy tất cả bằng chứng là tôi đã phục hồi lại khả năng nghe của mình. Đúng, tai phải của tôi đã nghe được, mặc dù nó vẫn còn những tiếng inh inh bên trong. Còn về tai trái, ừ thì, ít nhất nó cũng đã ngừng chảy máu.

Tôi nhòm qua bụi cây, lo sợ rằng nhóm Chuyên nghiệp đã quay lại, bắt được tôi ở đây vào một lúc nào đó. Không, đó là Mặt Cáo, đang đứng trên đống tan hoang của chiếc kim tự tháp và cười sung sướng. Cô ta thông minh hơn nhóm Chuyên nghiệp, thực sự đã tìm được một vài thứ hữu dụng trong đám tro tàn. Một chiếc bình kim loại. Một lưỡi dao. Tôi bối rối trước sự thích thú của cô ta cho đến khi tôi hiểu ra rằng kho hàng của bọn Chuyên nghiệp đã mất, cô ta thực sự có một cơ hội. Cũng như tất cả những người còn lại. Ý nghĩ về việc hiện thân và kết nạp cô ta thành đồng minh thứ hai để chống lại nhóm Chuyên nghiệp xẹt qua đầu tôi. Nhưng tôi loại bỏ nó. Có điều gì đó trong nụ cười ranh mãnh của cô ta làm tôi chắc chắn rằng làm bạn với Mặt Cáo cuối cùng sẽ cho tôi một con dao đâm vào sau lưng. Với ý nghĩ đó trong đầu, đây sẽ là cơ hội tuyệt vời để bắn cô ta. Nhưng cô ta nghe thấy gì đó, không phải tôi, bởi cô ta xoay đầu đi, hướng về phía sườn dốc, và cô ta phóng vút vào rừng. Tôi chờ đợi. Không ai, không có gì xuất hiện. Tuy nhiên, nếu Mặt Cáo nghĩ nó nguy hiểm, có lẽ cũng đã đến lúc tôi nên rời khỏi đây. Bên cạnh đó, tôi rất háo hức được kể cho Rue nghe về chiếc kim tự tháp.

Vì tôi không biết bọn Chuyên nghiệp đang ở đâu, đường quay trở lại con suối có vẻ cũng giống như đi về bất cứ hướng nào khác. Tôi vội vàng, một tay cầm cung, một tay cầm miếng thịt groosling, bởi lúc này tôi đang đói ngấu, không chỉ muốn ăn rau xanh và dâu rừng mà còn cần chất béo và protein trong thịt. Chuyến đi đến con suối không xảy ra chuyện gì. Ngay khi đến đó, tôi lấy đầy nước và rửa ráy, chăm sóc đặc biệt cho cái tai bị thương. Sau đó tôi đi lên đồi dọc theo dòng suối. Tại một vị trí, tôi nhìn thấy các dấu giày trên bùn dọc bờ suối. Các Cống phẩm Chuyên nghiệp đã đến đây, nhưng không lâu. Dấu giày rất sâu vì chúng in trên bùn nhão, nhưng lúc này nó gần như khô cong dưới ánh mặt trời nóng bức. Tôi đã không đủ cẩn thận về dấu vết của chính mình, phụ thuộc vào dáng ði nhẹ nhàng và những chiếc lá thông ðể che giấu vết giày. Bây giờ tôi bỏ giày và tất ra và ði bằng chân ðất trên bờ suối.

Nước mát đã tiếp thêm sinh lực cho cơ thể và làm tinh thần tôi trở nên sảng khoái hơn. Tôi bắn được hai con cá, dễ dàng vớt được chúng trong dòng suối nước chảy rất chậm này, rồi đi tiếp và ăn một con cá sống mặc dù tôi vừa mới ăn miếng thịt groosling. Con thứ hai tôi để dành cho Rue.

Dần dần, nhẹ nhàng, tiếng inh inh trong tai tôi nhỏ dần cho đến khi mất hoàn toàn. Cứ một lúc tôi lại kiểm tra tai trái, cố gắng làm sạch đi bất cứ thứ gì đang che lấp đi khả năng ghi nhận âm thanh của nó. Nếu có bất cứ cải thiện nào, thì nó cũng không được nhận thấy. Tôi không thể làm quen với việc một tai bị điếc. Nó làm tôi cảm thấy mất thăng bằng và mất khả năng phòng thủ phía bên trái. Giống như bị mù. Đầu tôi luôn nghiêng sang phía bị thương vì tai phải của tôi cố gắng bù đắp cho bức tường kín mít nơi mà ngày hôm qua có một dòng chảy các thông tin vào đều đặn. Thời gian trôi qua càng lâu, hi vọng của tôi rằng đây là vết thương có thể lành được càng ít đi.

Khi tôi đến chỗ mà chúng tôi tụ họp lần đầu tiên, tôi cảm thấy chắc chắn rằng nó không bị xáo trộn. Không có dấu hiệu của Rue, cả trên mặt đất lẫn trên cây. Điều này thật lạ. Vào giờ này đáng lẽ cô bé phải quay về rồi chứ, đã giữa trưa rồi. Không nghi ngờ gì, em đã qua đêm trên một cái cây ở nơi nào đó. Cô bé có thể làm gì khác được khi không có ánh sáng và bọn Chuyên nghiệp thì có những chiếc kính nhìn xuyên màn đêm để đi săn lùng trong rừng. Và đám cháy thứ ba tôi cho là em đã nhóm lên – mặc dù đêm qua tôi quên không kiểm tra nó – ở nơi xa nhất so với vị trí này. Cô bé có thể chỉ cẩn thận hơn khi quay trở lại thôi. Tôi ước em nhanh chóng quay lại vì tôi không muốn quanh quẩn ở đây quá lâu. Tôi muốn dành buổi chiều đi lên những nơi cao hơn, săn bắn trên đường đi. Nhưng thực sự không có gì cho tôi làm ngoài việc chờ đợi.

Tôi gột vết máu trên áo khoác, tóc tai và rửa một danh sách vết thương ngày càng nhiều của mình. Những vết bỏng đã đỡ hơn rất nhiều nhưng dù sao tôi vẫn bôi một chút thuốc lên đó. Vấn đề chính phải lo lắng lúc này là tránh cho nó bị nhiễm trùng. Tôi đi tiếp và ăn con cá thứ hai. Nó sẽ không giữ được lâu dưới ánh mặt trời nóng bỏng này, nhưng cũng dễ dàng đâm được thêm vài con cho Rue. Nếu như em xuất hiện.

Cảm thấy dễ bị nguy hiểm khi ở dưới đất với chỉ một bên tai nghe được, tôi leo lên một cái cây để đợi. Nếu bọn Chuyên nghiệp xuất hiện, đây sẽ là vị trí rất tốt để bắn chúng. Mặt trời di chuyển chậm rãi. Tôi làm những việc linh tinh để giết thời gian. Nhai lá thuốc và đắp chúng vào vết ong đốt đã xẹp đi nhưng vẫn còn đau. Chải mái tóc ẩm ướt của mình bằng các ngón tay và tết lại nó. Buộc lại dây giày. Kiểm tra lại cây cung và chín mũi tên còn lại. Thử đi thử lại cái tai trái xem có dấu hiệu nào còn nghe được không bằng cách vò một chiếc lá ở gần nó, nhưng không có kết quả tốt.

Mặc dù đã ăn thịt groosling và cá, dạ dày tôi vẫn sôi lên, và tôi biết tôi đang sắp có cái mà chúng tôi gọi là ngày trống rỗng khi ở Đặc khu 12. Đó là ngày mà dù bạn cho bao nhiêu thứ vào bụng thì nó cũng không bao giờ đủ. Không có gì để làm ngoài việc ngồi trên cây làm cho nó trở nên tệ hơn, nên tôi quyết định sẽ nhượng bộ nó. Sau cùng thì tôi đã mất rất nhiều cân nặng trong đấu trường này, tôi cần thêm một ít calo. Và có cung và tên khiến tôi cảm thấy tự tin hơn rất nhiều về viễn cảnh tương lai của mình.

Tôi chậm rãi tách vỏ và ăn một ít hạt. Chiếc bánh quy cuối cùng. Cổ của con groosling. Thật tốt vì nó sẽ mất thời gian để gặm sạch thịt. Cuối cùng, một cái cánh của con groosling và con chim đã trở thành lịch sử. Nhưng đây là ngày trống rỗng, và thậm chí với tất cả những thứ đó, tôi bắt đầu mơ giữa ban ngày về thức ăn. Đặc biệt là các đĩa thức ăn xa xỉ, thừa mứa được phục vụ ở Capitol. Con gà trong nước sốt từ cam và kem. Những chiếc bánh ngọt và bánh pudding. Bánh mì với bơ. Mì trộn nước sốt rau. Thịt cừu và nho khô hầm. Tôi nhấm mút một vài chiếc lá bạc hà và tự nhủ phải vượt qua nó. Bạc hà rất tốt vì chúng tôi thường uống trà bạc hà sau bữa tối, nên nó đánh lừa dạ dày tôi nghĩ rằng giờ ăn đã hết. Kiểu như vậy.

Đu đưa trên cây, với mặt trời sưởi ấm, miệng đầy bạc hà, cung và mũi tên ở trong tay… đây là thời gian thư giãn nhất mà tôi có kể từ khi vào đấu trường. Chỉ cần Rue xuất hiện là chúng tôi có thể đi khỏi đây. Sự bồn chồn của tôi tăng lên khi bóng tối dần đến. Vào lúc chiều muộn, tôi quyết tâm đi tìm cô bé. Tôi ít nhất có thể đến nơi cô bé nhóm ngọn lửa thứ ba và xem có bất cứ dấu hiệu nào về chỗ của em không.

Trước khi đi, tôi rải vài lá bạc hà quanh chỗ đốt lửa trại trước đây. Vì chúng tôi hái những chiếc lá này ở rất xa, Rue sẽ hiểu rằng tôi đã đến đây, trong khi chúng không có ý nghĩa gì với lũ Chuyên nghiệp cả.

Chưa tới một tiếng, tôi đã đến được nơi mà chúng tôi thống nhất sẽ nhóm đống lửa thứ ba và tôi biết rằng đã có thứ gì đó không đúng. Củi đã được sắp xếp gọn gàng, bùi nhùi nhóm lửa được đặt rải rác một cách chuyên nghiệp, nhưng nó chưa từng được nhóm lên. Rue đã xếp đặt đống lửa nhưng chưa hề quay lại đây. Ở một chỗ nào đó giữa cột khói thứ hai mà tôi nhìn thấy trước khi tôi thổi bay đám vật phẩm và nơi này, cô bé đã gặp rắc rối.

Tôi phải tự nhắc nhở mình là cô bé còn sống? Có đúng không? Liệu pháo hiệu thông báo cái chết của em có được bắn trong khoảng thời gian ngắn ngủi sáng nay khi ngay cả cái tai không bị hỏng của tôi vẫn chưa nghe được? Liệu hình ảnh của em có xuất hiện trên bầu trời đêm nay không? Không, tôi không muốn tin điều đó. Có thể có hàng trăm lý do giải thích khác. Cô bé có thể đã bị lạc đường. Gặp phải một đàn thú ăn thịt hay một cống phẩm khác, chẳng hạn như Thresh, và phải lẩn trốn. Dù việc gì xảy ra, tôi gần như chắc chắn cô bé bị mắc kẹt ở ngoài kia, một nơi nào đó giữa đống lửa thứ hai và đống lửa chưa được nhóm dưới chân tôi. Một thứ gì đó đang giữ cô bé ở yên trên cây.

Tôi nghĩ tôi sẽ đi tìm ra đó là gì.

Thật là một sự khuây khỏa khi có gì đó để làm sau khi ngồi gần như cả buổi chiều. Tôi lặng lẽ rón rén đi xuyên qua những bóng cây, để chúng che giấu tôi. Nhưng không có gì có vẻ đáng ngờ. Không có dấu hiệu của bất cứ cuộc chiến đấu nào, không có sự dập nát của các lớp lá kim trên mặt đất. Tôi dừng lại chỉ một lát khi tôi nghe thấy nó. Tôi phải xoay đầu sang một bên để nghe cho chắc chắn, nhưng âm thanh đó lại xuất hiện. Bốn nốt nhạc của Rue đến từ một con chim mockingjay. Dấu hiệu cho thấy cô bé vẫn ổn.

Tôi cười tươi và đi về hướng của con chim. Chỉ một khoảng cách ngắn ở phía trước, tôi nghe được một số nốt nhạc. Rue chắc đã hát chúng, và mới gần đây thôi. Mặt khác chúng tạo thành một bài hát mới. Tôi ngước mắt lên tìm trên cây xem có dấu hiệu nào của cô bé không. Tôi nuốt nước bọt và nhẹ nhàng hát đáp trả, hi vọng cô bé hiểu rằng rất an toàn để gặp tôi. Một con chim mockingjay nhại lại giai điệu của tôi. Và đó là lúc tôi nghe thấy tiếng hét.

Đó là tiếng thét của một đứa trẻ, tiếng thét của một cô bé, nhưng không ai trong đấu trường này có thể tạo ra âm thanh đó ngoài Rue. Và bây giờ tôi đang chạy, biết rằng đó có thể là một cái bẫy, biết rằng ba tên Chuyên nghiệp có thể đang ở tư thế sẵn sàng để tấn công tôi, nhưng tôi không thể ngăn bản thân lại. Lại có một tiếng hét thất thanh khác, lần này là tên tôi. “Katniss! Katniss!”

“Rue!” tôi hét lại, để em biết tôi đang ở gần. Như vậy, chúng cũng biết rằng tôi đang ở gần, và hy vọng rằng con bé đã tấn công chúng bằng tổ ong tracker jacker và đạt điểm số mười một mà chúng vẫn không thể lý giải sẽ đủ để kéo sự chú ý của chúng khỏi em. “Rue! Chị đang đến đây!”

Khi tôi lao ra một khoảng rừng trống, cô bé đang nằm trên mặt đất, bị mắc vào một cái lưới một cách tuyệt vọng. Cô bé chỉ kịp thời gian với tay qua cái mớ lộn xộn đó và gọi tên tôi trước khi một mũi lao xuyên vào người em.

CHƯƠNG 18

Tên đến từ Đặc khu 1 chết trước khi có thể rút ngọn lao ra. Mũi tên của tôi đã cắm sâu vào giữa cổ hắn. Hắn ngã khụy gối và làm giảm thời gian còn lại ngắn ngủi của sinh mạng mình bằng cách giật mũi tên ra và bị nhấn chìm trong máu của chính hắn. Tôi lại tiếp tục giương cung lên, nhắm sang các phía trong khi hét lên với Rue, “Còn tên nào nữa không? Còn tên nào nữa không?”

Cô bé phải nói không đến vài lần trước khi tôi nghe thấy. Rue đã nằm cuộn tròn sang một bên, cơ thể em co lại ôm lấy mũi lao. Tôi xô tên cống phẩm ra xa khỏi em và rút dao ra, gỡ cô bé khỏi chiếc lưới. Nhìn qua vết thương, tôi biết rằng nó vượt quá khả năng cứu chữa của tôi cũng như của bất cứ ai. Ngọn giáo đã đâm sâu đến tận cán vào dạ dày em. Tôi cúi xuống trước mặt cô bé, bất lực nhìn chằm chằm vào thứ vũ khí đang cắm trên người em. Những lời an ủi rằng em sẽ ổn thôi sẽ không có ích gì. Cô bé không ngốc. Tay em vươn ra và tôi nắm chặt lấy nó như thể đang nắm chặt sinh mạng mình.

“Chị đã thổi bay hết nguồn thực phẩm chưa?” em thì thào.

“Đến từng mẩu nhỏ,” tôi đáp.

“Chị phải thắng,” cô bé nói.

“Chị sẽ. Giờ thì chị sẽ thắng cho cả hai chúng ta,” tôi hứa. Tôi nghe thấy một tiếng pháo hiệu và ngước nhìn lên. Đó phải là cho cái chết của tên đến từ Đặc khu 1.

“Đừng đi.” Rue siết chặt lấy tay tôi.

“Chắc chắn không. Chị sẽ ở ngay đây,” tôi trả lời. Tôi dịch đến gần em hơn, kéo đầu em vào lòng. Tôi nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen và dày của em ra sau tai.

“Hát đi,” cô bé nói, nhưng tôi gần như không nghe ra được.

Hát ư? Tôi nghĩ. Hát gì? Tôi có biết một vài bài hát. Tin hay không, đã có thời âm nhạc cũng tràn ngập trong ngôi nhà của tôi. Âm nhạc mà tôi cũng góp phần. Cha tôi lôi kéo tôi bằng giọng hát tuyệt vời của ông – nhưng tôi đã không hát mấy kể từ khi ông mất. Chỉ trừ khi Prim rất ốm. Khi đó tôi sẽ hát cho con bé nghe cùng một bài hát mà em thích từ khi còn bé.

Hát. Cổ họng tôi đang thít chặt lại vì khóc, khản đặc do khói và mệt mỏi. Nhưng nếu đây là của Prim, ý tôi là, yêu cầu cuối cùng của Rue, tôi ít nhất cũng phải cố gắng. Bài hát đến với tôi là một bài hát ru đơn giản, bài hát mà chúng tôi ru những đứa bé đang đói và cáu gắt. Tôi nghĩ nó có từ lâu, rất lâu đời rồi. Được sáng tác từ xa xưa trong những ngọn đồi ở quê tôi. Cái mà giáo viên âm nhạc của tôi gọi là hơi thở của núi. Nhưng lời bài hát rất đơn giản và êm dịu, hứa hẹn ngày mai sẽ nhiều hy vọng hơn khoảng thời gian tồi tệ mà chúng tôi gọi là ngày hôm nay.

Tôi ho nhẹ, nuốt mạnh xuống và bắt đầu:

Sâu trong đồng cỏ, dưới bóng cây liễu

Một thảm cỏ tươi, một chiếc gối xanh êm ái

Hãy gối đầu lên, và nhắm lại đôi mắt mệt mỏi của em

Và khi em mở mắt ra, mặt trời sẽ mọc

Nơi đây rất an toàn, nơi đây thật ấm áp

Nơi đây những bông hoa cúc sẽ bảo vệ em khỏi mọi hiểm nguy

Nơi đây những giấc mơ của em sẽ thật ngọt ngào và ngày mai sẽ trở thành hiện thực

Nơi đây là nơi mà chị yêu em.

Mắt Rue run run nhắm lại. Ngực em vẫn phập phồng nhưng chỉ rất nhẹ. Cổ họng tôi nghẹn ngào và những giọt nước mắt lăn dài trên má. Nhưng tôi phải hát hết bài hát cho cô bé.

Sâu trong đồng cỏ, ở một nơi xa khuất

Một chiếc áo choàng kết từ lá cây, một con đường tràn ngập ánh trăng

Hãy quên đi hết những muộn phiền và để nỗi buồn của em lắng xuống

Và khi bình minh trở lại, chúng sẽ trôi xa

Nơi đây rất an toàn, nơi đây thật ấm áp

Nơi đây những bông hoa cúc sẽ bảo vệ em khỏi mọi hiểm nguy

Những dòng cuối cùng gần như không ra tiếng.

Nơi đây những giấc mơ của em sẽ thật ngọt ngào và ngày mai sẽ trở thành hiện thực

Nơi đây là nơi mà chị yêu em.

Mọi thứ trở nên tĩnh lặng. Sau đó, gần như kỳ lạ, các con chim mockingjay hót lên bài hát của tôi.

Trong một lúc, tôi ngồi yên đó, nhìn những giọt nước mắt của mình rớt xuống mặt cô bé. Những tràng pháo hiệu của Rue. Tôi rướn lên, đặt một nụ hôn vào thái dương em. Chậm rãi, như thể tránh làm em thức giấc, tôi đặt đầu cô bé xuống mặt đất và gỡ tay em ra.

Lúc này họ sẽ muốn tôi rời khỏi đây. Để họ có thể thu hồi các thi thể. Và ở đây cũng không còn gì để ở lại nữa. Tôi dựng tên đến từ Đặc khu 1 lên và lấy đi chiếc ba lô, thu lại mũi tên đã kết liễu hắn. Tôi cũng cắt chiếc túi của Rue ra khỏi lưng em, biết rằng em cũng muốn tôi lấy nó nhưng bỏ lại mũi lao cắm vào dạ dày cô bé. Vũ khí trong các thi thể sẽ được chuyển lên trực thăng. Tôi không sử dụng một ngọn lao, nên nó rời khỏi đấu trường càng sớm càng tốt.

Tôi không thể ngừng nhìn Rue, nhỏ bé hơn bao giờ hết, một con thú nhỏ nằm cuộn tròn trong một cái tổ đan bằng lưới. Tôi không thể cho phép mình bỏ cô bé lại như thế này. Vừa mới bị hại chết, nhưng dường như hoàn toàn không được bảo vệ. Tôi căm ghét tên đến từ Đặc khu 1, người mà trông cũng thật yếu đuối khi chết đi, có vẻ không thích đáng. Cái tôi ghét chính là Capitol, vì đã làm điều này với tất cả chúng tôi.

Giọng của Gale đang vang lên trong đầu tôi. Những lời gào thét chống lại Capitol của anh ấy không còn vô nghĩa nữa, không còn có thể lờ đi nữa. Cái chết của Rue đã ép tôi phải đối diện với cơn giận dữ của chính mình trước sự tàn bạo, sự bất công mà họ đã bắt chúng tôi phải chịu đựng. Nhưng ở đây, mặc dù mạnh mẽ hơn lúc ở nhà, tôi vẫn cảm thấy sự bất lực của mình. Không có cách nào trả thù Capitol. Liệu có không?

Sau đó tôi nhớ lại những lời nói của Peeta trên mái nhà. “Chỉ là mình vẫn luôn ước rằng mình có thể nghĩ ra một cách nào đó để… để cho Capitol thấy rằng họ không sở hữu mình. Rằng mình còn là một thứ gì đó có ý nghĩa hơn chứ không phải chỉ là một quân cờ trong Trò chơi của họ.” Và lần đầu tiên, tôi đã hiểu được ý cậu ấy là gì.

Tôi muốn làm một điều gì đó, ngay tại đây, ngay bây giờ, để làm cho họ phải hổ thẹn, để làm cho họ phải chịu trách nhiệm, để cho Capitol thấy cho dù bất cứ điều gì họ làm hay ép chúng tôi phải làm thì vẫn có một phần trong mọi cống phẩm họ không thể sở hữu. Rằng Rue còn hơn là một quân cờ trong Trò chơi của họ. Và tôi cũng vậy.

Đi vài bước vào trong rừng có một dải hoa dại. Có lẽ chúng chỉ là những loài cỏ dại nào đó, nhưng chúng đang nở rộ ra những bông hoa xinh xắn với đủ sắc màu, tím, vàng và trắng. Tôi hái đầy chặt cánh tay và quay trở lại bên cạnh Rue. Chậm rãi, từng bông một, tôi trang hoàng cơ thể em bằng hoa. Che phủ đi vết thương tồi tệ. Làm vòng hoa bao quanh mặt em. Tết tóc em với những bông hoa đầy màu sắc.

Họ sẽ phải chiếu nó lên. Hoặc, ngay cả nếu họ chọn cách quay camera đi chỗ khác trong lúc này thì họ cũng phải mang chúng về khi họ thu thập các thi thể, và lúc đó mọi người sẽ nhìn thấy cô bé và biết rằng tôi đã làm việc này. Tôi bước lùi lại và nhìn Rue lần cuối. Sau cùng thì cô bé cũng thực sự được ngủ trong một cánh đồng.

“Tạm biệt Rue,” tôi thì thầm. Tôi đặt ba ngón tay giữa của bàn tay trái lên miệng và giơ nó lên hướng về phía cô bé. Sau đó tôi bước đi, không quay đầu nhìn lại.

Chim chóc lặng im. Ở một nơi nào đó, một con chim mockingjay cất tiếng hót cảnh báo trước sự xuất hiện của chiếc trực thăng. Tôi không hiểu làm thế nào nó biết. Nó phải nghe được những thứ mà con người không nghe được. Tôi dừng lại, mắt tôi tập trung vào những thứ phía trước, không phải những gì đang xảy ra phía sau tôi. Nó không kéo dài, sau đó tiếng chim hót như thường lệ lại vang lên và tôi biết rằng cô bé đã đi rồi.

Một con chim mockingjay khác, qua hình dáng thì là một con chim non, đậu trên một cành cây trước mặt tôi và cất lên giai điệu của Rue.

Bài hát của tôi, chiếc trực thăng, quá không quen thuộc với một kẻ non nớt mới vào nghề để có thể làm theo, nhưng nó lại rất giỏi hót lại những nốt nhạc của cô bé. Những nốt nhạc ám chỉ em an toàn.

“Yên nghỉ và an toàn,” tôi nói khi tôi đi qua bên dưới cành cây của nó. “Giờ thì chúng ta không phải lo lắng cho cô bé nữa.” Yên nghỉ và an toàn.

Tôi không biết phải đi đâu. Chút cảm giác ngắn ngủi về gia đình tôi có được vào cái đêm ở với Rue đã tan biến. Chân tôi bước đi lang thang không phương hướng cho đến hoàng hôn. Tôi không sợ hãi, thậm chí không cảnh giác. Điều này làm tôi trở thành một mục tiêu dễ dàng. Trừ khi tôi giết bất cứ ai tôi gặp trong tầm nhìn. Không cảm xúc hay sự run rẩy nhẹ nào ở hai tay tôi. Lòng căm thù Capitol cũng không làm giảm đi chút nào sự căm ghét của tôi đối với các đối thủ của mình. Đặc biệt là lũ Chuyên nghiệp. Chúng, ít ra, cũng phải trả giá cho cái chết của Rue.

Tuy nhiên không có ai xuất hiện. Không còn nhiều người trong chúng tôi còn sống và đây là một đấu trường rộng lớn. Họ sẽ đưa ra một loại máy móc nào khác để bắt chúng tôi tập trung lại một chỗ sớm thôi. Nhưng đã có đủ máu cho ngày hôm nay rồi. Có lẽ chúng tôi thậm chí còn có thể ngủ một chút.

Tôi gần như phải lôi những chiếc ba lô của mình lên cây để hạ trại khi một chiếc dù bạc lơ lửng rơi xuống và hạ cánh trước mặt tôi. Một món quà từ một nhà tài trợ. Nhưng tại sao lại là bây giờ? Tôi đang trong tình trạng khá tốt với các vật dụng. Có lẽ Haymitch nhận ra sự chán nản của tôi và đang cố gắng làm tôi vui lên một chút. Hay nó có thể là thứ gì đó có thể chữa được cái tai của tôi?

Tôi mở chiếc dù và tìm thấy một ổ bánh mì nhỏ. Nó không phải là thứ bánh trắng phau cao cấp của Capitol. Nó được làm từ ngũ cốc khẩu phần tối màu và có hình trăng lưỡi liềm. Được rắc các loại hạt. Tôi sực nhớ ra bài học của Peeta về các loại bánh khác nhau của các đặc khu tại Trung tâm Huấn luyện. Chiếc bánh mì này đến từ Đặc khu 11. Tôi cẩn thận nâng niu ổ bánh vẫn còn ấm nóng. Nó đã tốn kém mất bao nhiêu của người dân Đặc khu 11, những người thậm chí không thể nuôi sống chính họ? Bao nhiêu người đã phải làm việc không phải để dành dụm lại một đồng xu, mà để quyên góp cho một ổ bánh mì này? Chắc chắn nó là để dành cho Rue. Nhưng thay vì thu hồi món quà khi cô bé chết, họ lại ủy quyền cho Haymitch trao nó cho tôi. Như một lời cảm ơn ư? Hay bởi vì, cũng như tôi, họ không muốn để những món nợ không được trả? Vì lý do gì đi chăng nữa, thì đây cũng là lần đầu tiên. Quà tặng của một đặc khu được gửi tới cho một người không phải ở đặc khu của họ.

Tôi ngẩng mặt lên và bước vào những tia sáng mặt trời cuối cùng còn sót lại. “Tôi gửi lời cảm ơn đến những người dân Đặc khu 11,” tôi nói. Tôi muốn họ biết rằng tôi biết nó đến từ đâu. Rằng toàn bộ giá trị món quà của họ đã được công nhận.

Tôi trèo lên đến độ cao khá nguy hiểm trên một cái cây, không phải để an toàn mà để tránh xa khỏi ngày hôm nay nhất có thể. Chiếc túi ngủ của tôi được cuộn lại gọn gàng trong ba lô của Rue. Ngày mai tôi sẽ sắp xếp lại một lượt các vật dụng. Ngày mai tôi sẽ lên một kế hoạch mới. Nhưng đêm nay, tất cả những gì tôi có thể làm là dùng thắt lưng cột tôi vào cây và cắn vài miếng bánh mì nhỏ. Nó rất ngon. Nó có mùi vị của gia đình.

Rất nhanh chiếc quốc huy xuất hiện trên bầu trời và bài quốc ca vang lên bên tai phải tôi. Tôi nhìn thấy hình ảnh tên con trai Đặc khu 1, Rue. Đó là tất cả cho đêm nay. Còn lại sáu người, tôi nghĩ. Chỉ sáu người thôi. Với chiếc bánh mì vẫn nắm chặt trong tay, tôi chìm vào giấc ngủ ngay lúc đó.

Thỉnh thoảng khi mọi thứ cực kỳ tồi tệ, bộ não sẽ cho tôi một giấc mơ hạnh phúc. Một chuyến viếng thăm với cha tôi trong rừng. Một giờ ngồi trong ánh mặt trời và ăn bánh với Prim. Đêm nay nó gửi Rue đến với tôi, vẫn được trang hoàng trong những đóa hoa, đứng trên một biển cây cối cao vút, cố gắng dạy tôi nói chuyện với các con chim mockingjay. Tôi không thấy dấu hiệu nào của vết thương, không máu, chỉ là một cô bé tươi cười, rạng ngời. Em hát những bài hát tôi chưa từng nghe bằng một chất giọng du dương, trong trẻo. Triền miên. Suốt cả đêm. Có một giai đoạn nửa tỉnh nửa mơ khi tôi có thể nghe thấy những giai điệu cuối cùng trong bản nhạc của cô bé mặc dù em đã biến mất trong những tán cây. Khi tôi tỉnh giấc hoàn toàn, tôi cảm thấy được an ủi trong giây lát. Tôi cố gắng níu giữ cảm giác bình yên của giấc mơ, nhưng nó nhanh chóng trôi đi mất, để lại tôi buồn bã và cô đơn hơn bao giờ hết.

Sự nặng nề ngấm vào toàn bộ cơ thể tôi, như thể nó là chất lỏng chảy trong các mạch máu của tôi vậy. Tôi mất đi ý chí để làm cả những việc đơn giản nhất, để làm bất cứ việc gì khác mà chỉ nằm đây, nhìn không chớp mắt xuyên qua các vòm lá. Trong vài giờ đồng hồ, tôi vẫn nằm bất động như vậy. Như mọi khi, ý nghĩ về gương mặt lo lắng của Prim khi nhìn tôi trên màn hình ở quê nhà đã phá vỡ trạng thái thẫn thờ của tôi.

Tôi tự đưa ra cho mình một loạt các mệnh lệnh đơn giản để làm theo, như “Bây giờ, mày phải ngồi dậy, Katniss. Giờ mày phải uống nước đi, Katniss.” Tôi hành động theo mệnh lệnh một cách chậm chạp và cử động như người máy. “Giờ mày phải sắp xếp lại đồ đạc trong ba lô, Katniss.”

Chiếc ba lô của Rue chứa túi ngủ của tôi, chiếc túi da đựng nước đã gần hết, một ít hạt và củ, một ít thịt thỏ, đôi tất thừa ra và chiếc súng cao su. Tên đến từ Đặc khu 1 có vài con dao, hai đầu mũi lao thừa ra, một chiếc đèn pin, một túi da nhỏ, một bộ đồ sơ cứu, một bình nước đầy, và một gói hoa quả khô. Một gói hoa quả khô! Trong tất cả những thứ hắn có thể chọn. Đối với tôi, đây là dấu hiệu của tính ngạo mạn vô cùng. Tại sao phải quan tâm đến việc đem theo thực phẩm khi bạn có cả một kho tàng ở trại? Khi bạn sẽ giết kẻ thù một cách nhanh chóng, bạn sẽ quay trở về nhà trước khi bị đói? Tôi chỉ có thể hi vọng những Cống phẩm Chuyên nghiệp khác cũng đi đường thật gọn nhẹ về mặt thực phẩm và bây giờ chúng thấy mình chẳng có gì cả.

Nói về điều này, thực phẩm của chính tôi cũng còn rất ít. Tôi ăn nốt ổ bánh mì của Đặc khu 11 và miếng thịt thỏ cuối cùng. Thức ăn biến mất thật nhanh. Tất cả những gì tôi còn lại là chỗ hạt và củ rễ của Rue, và túi trái cây khô của tên con trai Đặc khu 1, và một miếng bò khô. Giờ mày phải đi săn, Katniss, tôi tự nhủ.

Tôi ngoan ngoãn tập hợp những vật dụng tôi muốn vào trong ba lô của mình. Sau khi trèo xuống khỏi cái cây, tôi giấu những con dao và đầu mũi lao của tên cống phẩm trong một đống đá để không ai khác có thể sử dụng chúng. Tôi đã bị mất phương hướng với việc đi lòng vòng tối qua, nhưng tôi cố gắng và quay về hướng có dòng suối. Tôi biết tôi đi đúng hướng khi đi ngang qua vị trí đặt đống lửa thứ ba, chưa được đốt của Rue. Ngay sau đó, tôi phát hiện ra một đàn groosling đang đậu trên cây và bắn được ba con trước khi chúng biết được cái gì tấn công chúng. Tôi quay trở lại đống lửa báo hiệu của Rue và nhóm nó lên, không quan tâm đến khói tỏa ra. Mày ở đâu, Cato? Tôi nghĩ khi tôi nướng những con chim và các loại củ của Rue. Tao đang đợi ở ngay đây.

Ai biết được lũ Chuyên nghiệp đang ở đâu lúc này? Hoặc là quá xa để đến chỗ tôi, hoặc quá chắc chắn đây là một cái bẫy hay… liệu có thể không? Quá sợ tôi? Chúng biết tôi có cây cung và các mũi tên, tất nhiên, Cato đã nhìn thấy tôi lấy nó trên thi thể Glimmer, nhưng chúng đã suy luận ra chưa? Hiểu ra là tôi đã thổi bay các vật phẩm và giết chết tên Chuyên nghiệp đồng bọn của chúng? Có thể chúng nghĩ Thresh đã làm việc này. Không phải cậu ta sẽ có lý do để trả thù cho Rue hơn tôi sao? Do ở cùng một đặc khu? Chứ không phải cậu ta có bất cứ cảm tình gì với cô bé.

Và còn Mặt Cáo thì sao? Cô ta có quanh quẩn ở đó để xem tôi làm nổ tung các vật phẩm không? Không. Khi tôi bắt gặp cô ta cười lớn trên đống tro tàn vào sáng hôm sau, nó như thể ai đó đã cho cô ta một sự bất ngờ đáng yêu.

Tôi sợ rằng họ nghĩ Peeta đã đốt ngọn lửa báo hiệu này. Cato chắc chắn rằng vết thương của cậu ấy nặng gần chết. Tôi nhận thấy mình đang ước rằng có thể kể với Peeta về những đóa hoa mà tôi đã kết trên người Rue. Rằng bây giờ tôi đã hiểu những gì cậu ấy cố giải thích lúc ở trên mái nhà. Có thể nếu cậu ấy thắng trong Trò chơi này, cậu ấy sẽ nhìn thấy tôi trong đêm giành cho người thắng cuộc, khi họ chiếu lại những hình ảnh tiêu biểu của Trò chơi trên màn hình ở sân khấu nơi chúng tôi đã có các cuộc phỏng vấn. Người chiến thắng sẽ ngồi ở vị trí danh dự trên khán đài, bao quanh bởi đội hỗ trợ của họ.

Nhưng tôi đã nói với Rue rằng tôi sẽ ở đó. Cho cả hai chúng tôi. Và không hiểu sao, dường như lời thề đó thậm chí còn quan trọng hơn cả lời hứa tôi đã nói với Prim.

Tôi thực sự nghĩ rằng lúc này tôi có cơ hội làm điều đó. Chiến thắng. Không chỉ vì tôi có những mũi tên và thông minh hơn bọn Chuyên nghiệp vài lần, mặc dù những điều đó cũng giúp ích nhiều. Một điều gì đó đã xảy ra khi tôi nắm tay Rue, nhìn sự sống đang dần rời bỏ cô bé. Bây giờ tôi đã quyết tâm trả thù cho em, làm cho cái chết của em trở nên không thể quên, và tôi chỉ có thể làm điều đó bằng cách chiến thắng và từ đó cũng làm bản thân tôi trở nên đáng nhớ.

Tôi đã nướng đến ba con chim, hy vọng một kẻ nào đó sẽ mò đến để bắn hắn, nhưng không ai xuất hiện. Có lẽ các cống phẩm khác đang ở ngoài kia, đánh một cống phẩm khác đến bất tỉnh. Điều đó cũng tốt, kể từ lúc xảy ra cuộc tắm máu, tôi đã được tường thuật trên màn hình nhiều hơn tôi mong muốn.

Cuối cùng, tôi gói chỗ thức ăn lại và quay trở lại dòng suối để bổ sung nước và thu thập vài thứ. Nhưng sự nặng nề từ buổi sáng vẫn làm tôi mệt mỏi và mặc dù mới chỉ đầu buổi tối, tôi trèo lên một cái cây và sắp xếp mọi thứ để nghỉ đêm. Bộ não tôi bắt đầu tua lại các sự kiện diễn ra từ ngày hôm qua. Tôi tiếp tục nhìn thấy hình ảnh Rue bị đâm, và mũi tên của tôi xé nát cổ của tên cống phẩm. Tôi không biết tại sao tôi lại để tâm đến hắn.

Rồi tôi nhận ra… cậu ta là người đầu tiên tôi giết.

Cùng với các thống kê khác mà người ta báo cáo để giúp mọi người đặt cược thì mọi cống phẩm đều có một danh sách nạn nhân. Tôi đoán về mặt kỹ thuật thì tôi sẽ được tính là người giết Glimmer và cô gái Đặc khu 4 nữa, vì đã ném tổ ong lên họ. Nhưng tên con trai đến từ Đặc khu 1 mới là người đầu tiên mà tôi biết rằng đã chết bởi hành động của tôi. Biết bao nhiêu các con thú đã bị tước đi sự sống dưới bàn tay tôi, nhưng chỉ một người duy nhất. Tôi nghe giọng của Gale, “Thực sự thì nó có gì khác biệt?”

Sự giống nhau đáng kinh ngạc trong động tác. Một cây cung được kéo lên, một mũi tên bắn ra. Sự khác biệt hoàn toàn về hậu quả. Tôi giết một cậu con trai mà ngay cả tên tôi cũng không biết. Ở một nơi nào đó, gia đình đang khóc thương cậu ta. Bạn bè của cậu ta sẽ muốn đòi tôi nợ máu. Có lẽ cậu ta có một người bạn gái, người mà thực sự tin rằng cậu ta sẽ quay trở về…

Nhưng sau đó tôi nghĩ đến cơ thể bất động của Rue và tôi có thể xua đuổi hình ảnh cậu con trai ra khỏi tâm trí. Ít nhất là trong lúc này.

Theo những tín hiệu trên bầu trời thì hôm nay là ngày không có sự kiện gì. Không có cái chết nào. Tôi tự hỏi chúng tôi sẽ có bao lâu trước khi thảm họa tiếp theo dồn chúng tôi lại. Nếu nó sẽ xảy ra vào tối nay thì trước hết tôi muốn được ngủ một chút đã. Tôi che cái tai lành lặn để chặn những giai điệu của bài quốc ca, nhưng sau đó tôi nghe thấy những hồi kèn, và ngồi thẳng dậy trong trạng thái đề phòng.

Trong hầu hết các phần, sự liên lạc duy nhất từ bên ngoài đấu trường với các cống phẩm là việc thông báo những cái chết hàng đêm. Nhưng đôi khi, sẽ có một hồi kèn và theo sau đó là một thông báo. Thông thường, điều này sẽ thông báo về một bữa tiệc. Khi thức ăn khan hiếm, các Nhà thiết lập Trò chơi sẽ mời các đấu thủ tới một bữa tiệc, ở nơi nào đó mà tất cả đều biết như Cornucopia, như một lời khích lệ tập trung lại và chiến đấu. Có lúc là cả một bàn tiệc và có lúc chẳng có gì ngoài một ổ bánh mì ôi để các cống phẩm chiến đấu giành giật. Tôi sẽ không tham gia để giành thức ăn, nhưng đây có thể là thời gian lý tưởng để loại bỏ một vài đối thủ.

Giọng Claudius Templesmith dội xuống từ trên cao, chúc mừng sáu người còn lại chúng tôi. Nhưng ông ta không mời chúng tôi tới một bàn tiệc. Ông ta đang nói một điều gì đó rất khó hiểu. Có một sự thay đổi luật lệ trong Trò chơi. Một sự thay đổi luật lệ! Chỉ điều đó thôi cũng làm bóp méo tư duy vì chúng tôi thực sự chẳng có một luật lệ nào được đề cập đến ngoại trừ không được bước khỏi vòng tròn của mình trong vòng sáu mươi giây và một luật lệ ngầm rằng không được ăn thịt đồng loại. Theo luật mới này, hai cống phẩm ở cùng một đặc khu sẽ được công nhận là những người chiến thắng nếu họ là hai người cuối cùng còn sống sót. Claudius dừng lại, như thể biết rằng chúng tôi vẫn chưa hiểu được nó, và nhắc lại sự thay đổi một lần nữa.

Tin tức ngấm dần. Năm nay hai cống phẩm có thể giành chiến thắng. Nếu họ đến từ cùng một đặc khu. Cả hai có thể sống. Cả hai chúng tôi có thể sống.

Trước khi tôi có thể ngăn mình, tôi đã hét lên tên của Peeta.

PHẦN III: NGƯỜI CHIẾN THẮNG

CHƯƠNG 19

Tôi đập tay lên che miệng mình, nhưng âm thanh đã thoát ra. Bầu trời tối đen đi và tôi nghe thấy dàn đồng ca của ếch nhái bắt đầu ngân lên. Ngu ngốc! Tôi tự xỉ vả mình. Thật là một hành động ngu ngốc!Tôi bất động, chờ đợi cho khu rừng sôi động trở lại với những kẻ tấn công. Rồi tôi nhớ ra rằng gần như chẳng còn lại ai.

Peeta, người đang bị thương nặng, giờ đây sẽ là đồng minh của tôi. Bất cứ sự lo ngại nào của tôi về cậu ấy đều tiêu tan bởi vì giờ đây nếu một trong hai chúng tôi lấy đi mạng sống của người kia thì chúng tôi sẽ trở thành những kẻ đê tiện bị ruồng bỏ khi quay trở lại Đặc khu 12. Thực tế, nếu tôi đang ngồi xem, tôi sẽ rất ghê tởm bất cứ cống phẩm nào mà không lập tức kết đồng minh với người đồng hành từ đặc khu của họ. Ngoài ra, điều đó cũng chỉ có ý nghĩa để bảo vệ lẫn nhau. Và trong trường hợp của tôi – là một người trong đôi tình nhân bất hạnh từ Đặc khu 12 – nó là một yêu cầu chắc chắn nếu tôi muốn có được nhiều sự giúp đỡ hơn từ các nhà tài trợ đầy cảm thông.

Đôi tình nhân bất hạnh… Peeta chắc đã chơi dưới góc độ đó suốt thời gian qua. Còn lý do nào khác để các Nhà thiết lập Trò chơi ra một thay đổi luật lệ chưa từng xảy ra trước đây cơ chứ? Vì hai cống phẩm sẽ phải hạ gục nhau để giành chiến thắng, câu chuyện “lãng mạn” của chúng tôi quá nổi tiếng với khán giả đến mức bị chỉ trích rằng điều đó sẽ hủy hoại sự thành công của Trò chơi. Không phải cảm ơn tôi. Tất cả những gì tôi đã làm là cố gắng không giết Peeta. Nhưng bất cứ việc gì cậu ấy đã làm trong đấu trường này, cậu ấy chắc đã khiến khán giả bị thuyết phục rằng đó là để giúp cho tôi sống sót. Lắc đầu để ngăn tôi chạy tới Cornucopia. Chiến đấu với Cato để tôi chạy thoát. Thậm chí bám lấy bọn Chuyên nghiệp cũng là một bước để bảo vệ tôi. Peeta, hóa ra, chưa bao giờ là một mối nguy hiểm đối với tôi.

Ý nghĩ đó khiến tôi mỉm cười. Tôi hạ hai tay xuống và ngẩng mặt hứng lấy ánh trăng để chắc rằng các máy quay có thể ghi được hình ảnh đó.

Vậy, còn ai ngoài đó đáng phải lo ngại? Mặt Cáo ư? Cống phẩm nam từ đặc khu của cô ta đã chết. Cô ta đang hoạt động đơn độc, vào ban đêm. Chiến lược của cô ta vẫn là lẩn trốn, chứ không tấn công. Tôi không thực sự nghĩ vậy, ngay cả nếu cô ta nghe thấy giọng tôi, cô ta sẽ không làm bất cứ việc gì ngoài hy vọng rằng sẽ có ai đó đến giết tôi.

Sau đó còn có Thresh. Cậu ta là một mối đe dọa rõ ràng. Nhưng tôi vẫn chưa nhìn thấy cậu ta, không một lần nào kể từ khi Trò chơi bắt đầu. Tôi nghĩ về việc Mặt Cáo đã trở nên cảnh giác thế nào khi nghe thấy một tiếng động ở chỗ vụ nổ, nhưng cô ta không hướng về phía khu rừng, mà hướng về một phía nào đó đối diện với nó. Tới khu vực của đấu trường mà dốc thẳng xuống một chỗ nào đó tôi không biết. Tôi cảm thấy gần như chắc chắn rằng người mà cô ta trốn chạy đó là Thresh và đó là lãnh địa của cậu ta. Cậu ta chưa bao giờ nghe thấy tôi ở đó, và thậm chí nếu cậu ta nghe được, thì tôi ở quá cao bên trên cho một người kích thước như cậu ta có thể với tới.

Vậy là còn lại Cato và đứa con gái từ Đặc khu 2, những người mà bây giờ chắc chắn đang ăn mừng vì luật lệ mới. Chúng là những người duy nhất còn lại mà được lợi từ nó ngoài Peeta và tôi. Giờ đây tôi có phải chạy trốn khỏi chúng khi chẳng may chúng nghe được tiếng tôi gọi tên Peeta không? Không,tôi nghĩ. Để chúng đến. Để chúng đến với những chiếc kính nhìn xuyên màn đêm của chúng và với cơ thể nặng nề, làm gãy cành cây đó.

Ngay trong tầm bắn của tôi. Nhưng tôi biết chúng sẽ không đến. Nếu chúng không đến vào ban ngày vì đám lửa của tôi, chúng sẽ không mạo hiểm với một thứ có thể là một cái bẫy khác vào ban đêm. Khi chúng đến, nó sẽ phải theo cách của riêng chúng, chứ không phải vì tôi đã cho chúng biết chỗ để tìm thấy tôi.

Ở yên đây và ngủ một chút đi, Katniss, tôi tự chỉ thị cho mình, mặc dù tôi đang ước rằng mình có thể đi tìm Peeta ngay lúc này. Ngày mai, mày sẽ đi tìm cậu ấy.

Tôi thực sự ngủ, nhưng vào buổi sáng tôi cảnh giác hơn, nghĩ rằng trong khi đám Chuyên nghiệp có thể ngần ngại tấn công tôi trên cây, chúng hoàn toàn có thể sắp đặt một cuộc mai phục. Tôi đảm bảo chuẩn bị đầy đủ cho bản thân trong cả một ngày – ăn một bữa sáng no nê, buộc chặt ba lô, sẵn sàng vũ khí – trước khi tôi trèo xuống. Nhưng tất cả có vẻ rất thanh bình và yên tĩnh ở dưới đất.

Ngày hôm nay tôi phải cẩn thận từng ly từng tý. Bọn Chuyên nghiệp sẽ biết tôi đang cố gắng tìm ra chỗ của Peeta. Chúng cũng có thể đang muốn chờ đến khi tôi tìm được trước khi ập đến. Nếu cậu ấy đang bị thương rất nặng như Cato nghĩ, tôi sẽ ở vị trí phải bảo vệ cho cả hai chúng tôi mà không có sự hỗ trợ nào. Nhưng nếu cậu ấy mất năng lực đến mức ấy, làm thế nào cậu ấy có thể sống sót được đến giờ? Và làm thế quái nào tôi có thể tìm ra cậu ấy?

Tôi cố gắng nghĩ lại tất cả những gì Peeta đã từng nói mà có thể cho tôi bất kỳ sự chỉ dẫn nào đến nơi cậu ấy đang lẩn trốn, nhưng không có ý tưởng nào lóe lên. Nên tôi quay trở lại khoảnh khắc cuối cùng tôi nhìn thấy cậu ấy chói sáng dưới ánh mặt trời, la hét tôi phải chạy đi. Sau đó Cato xuất hiện với thanh kiếm đã được rút ra. Và sau khi tôi đi xa, hắn đã đâm Peeta. Nhưng làm thế nào Peeta có thể chạy được? Có lẽ cậu ấy đã chống chọi với chất độc của tracker jacker tốt hơn Cato.

Có lẽ đó là biến số đã giúp cậu ấy trốn thoát. Nhưng cậu ấy cũng bị ong đốt. Vậy cậu ấy có thể đi được bao xa với việc bị đâm và ngấm đầy nọc độc? Và làm thế nào cậu ấy có thể sống được trong tất cả những ngày này kể từ lúc đó? Nếu vết thương và các vết đốt vẫn chưa giết được cậu ấy thì chắc chắn cơn khát lúc này đã hạ gục cậu ấy.

Và đó là lúc tôi tìm ra manh mối đầu tiên để đến chỗ có thể tìm thấy cậu ấy. Cậu ấy không thể sống được mà không có nước. Tôi biết điều đó từ những ngày đầu tiên ở đây. Cậu ấy phải trốn ở đâu đó gần nguồn nước. Ở đây có hồ nước, nhưng tôi thấy rằng đó là lựa chọn không hợp lý vì chỗ đó quá gần căn cứ cắm trại của bọn Chuyên nghiệp. Một vài vũng nước suối chảy đọng lại. Nhưng bạn thực sự sẽ giống như một con vịt ngồi trước họng súng thợ săn nếu ở một trong những chỗ đó. Và dòng suối. Cái mà chảy từ chỗ tôi và Rue hạ trại xuôi xuống gần hồ nước và xa hơn. Nếu cậu ấy bám ở chỗ dòng suối, cậu ấy có thể thay đổi vị trí và luôn luôn ở gần nguồn nước. Cậu ấy có thể đi trong dòng nước và xóa đi mọi dấu vết. Cậu ấy thậm chí còn có thể bắt được một hoặc hai con cá.

Chà, dù sao đi nữa thì đó cũng là chỗ để bắt đầu.

Để làm rối loạn suy nghĩ của kẻ thù, tôi đốt một đống lửa với rất nhiều cành cây tươi. Thậm chí nếu chúng nghĩ đó là một trò lừa bịp, tôi hy vọng chúng sẽ quyết định rằng tôi trốn ở đâu đó gần đấy. Trong khi thực tế là tôi đang đi tìm kiếm Peeta.

Mặt trời xua tan sương mù buổi sáng gần như ngay lập tức và tôi có thể nói rằng ngày hôm nay sẽ nóng bức hơn thường lệ. Nước làm đôi chân trần của tôi mát dịu khi tôi đi xuôi dòng. Tôi muốn gọi to tên Peeta trong lúc đi nhưng kiên quyết chống lại ý định đó. Tôi sẽ phải tìm cậu ấy bằng mắt và một bên tai lành lặn hoặc cậu ấy sẽ phải tìm tôi. Nhưng cậu ấy sẽ biết rằng tôi đang tìm kiếm, đúng không? Cậu ấy sẽ không nghĩ xấu về tôi khi cho rằng tôi sẽ lờ đi luật mới và tiếp tục một mình. Cậu ấy có nghĩ vậy không? Cậu ấy rất khó để xét đoán, điều đó có thể rất thú vị trong một vài hoàn cảnh, nhưng vào lúc này nó chỉ gây thêm nhiều khó khăn.

Không mất nhiều thời gian đi đến nơi mà tôi đã tắm gội để tới chỗ trại của nhóm Chuyên nghiệp. Không có dấu vết gì của Peeta, nhưng điều này không làm tôi ngạc nhiên. Tôi đã đi đi lại lại ở khu nước rộng này ba lần kể từ khi xảy ra vụ ong tracker jacker. Nếu cậu ấy ở gần đây, chắc chắn tôi đã phải có vài nghi ngờ về nó. Dòng suối bắt đầu lượn vòng về bên trái đến một khoảng rừng hoàn toàn xa lạ với tôi. Hai bên bờ suối bùn lầy được che phủ bởi các loại thực vật mọc dưới nước rậm rạp dẫn đến những tảng đá lớn mà kích thước tăng lên cho đến khi tôi bắt đầu cảm thấy có gì đó không ổn. Bây giờ thoát khỏi dòng suối không phải là một vấn đề đơn giản. Chiến đấu với Cato hoặc Thresh khi tôi trèo qua địa hình đầy đá lởm chởm này. Thực tế, tôi chỉ vừa mới quyết định là tôi đã hoàn toàn sai phương hướng, rằng một anh chàng bị thương không thể mò đến và đi từ nguồn nước này được, là lúc tôi nhìn thấy một vệt máu chảy xuống chỗ cong của một tảng đá mòn. Lúc này vệt máu đã khô lâu rồi, nhưng những vết bẩn quệt sang các bên cho thấy có ai đó – một người có lẽ không hoàn toàn điều khiển được trí óc của mình – đã cố gắng xóa nó đi.

Bám chặt vào tảng đá, tôi chầm chậm di chuyển theo hướng của vết máu, tìm kiếm cậu ấy. Tôi tìm được thêm vài vết máu nữa, một vết có vài sợi vải dính vào, nhưng không có dấu hiệu của sự sống. Tôi phá tan sự im lặng và gọi tên cậu ấy bằng giọng thì thào. “Peeta! Peeta!” Sau đó một con mockingjay đậu trên một cái cây tàn tạ và bắt đầu nhại lại tiếng của tôi nên tôi dừng lại. Tôi bỏ cuộc và trèo trở lại dòng suối, suy nghĩ, Cậu ấy chắc đã đi tiếp. Một chỗ nào đó xa hơn ở dưới.

Bàn chân tôi vừa mới chạm đến mặt nước khi tôi nghe thấy một giọng nói.

“Em đến đây để kết liễu tôi đúng không, em yêu?”

Tôi quay phắt lại. Nó đến từ bên trái, nên tôi nghe không được rõ lắm. Và giọng nói thì rất khàn và yếu. Tuy nhiên, nó phải là của Peeta. Còn ai trong đấu trường này có thể gọi tôi là em yêu? Mắt tôi nhìn kỹ vào bờ suối, nhưng ở đó không có gì. Chỉ có bùn, cây cỏ, chân của các tảng đá.

“Peeta?” tôi thì thào. “Cậu ở đâu?” Không có ai trả lời. Liệu có phải tôi vừa mới tưởng tượng ra nó? Không, tôi chắc chắn nó là thật và cũng rất gần với tôi nữa. “Peeta?” Tôi rón rén đi dọc bờ suối.

“Này, đừng có dẫm lên mình.”

Tôi nhày lùi lại. Giọng cậu ấy ở ngay dưới chân tôi. Nhưng vẫn không thấy gì. Sau đó mắt cậu ấy mở ra, một màu xanh nước biển không thể nhầm lẫn được giữa bùn nâu và lá xanh. Tôi há hốc miệng và được thưởng bằng hình ảnh một hàm răng trắng muốt khi cậu ấy cười.

Đó là kết quả của sự ngụy trang. Bỏ đi sự ngạo mạn. Peeta chắc hẳn đã bước vào màn trình diễn cá nhân với các Nhà thiết lập Trò chơi và vẽ cậu ấy hòa vào một cái cây. Hay một tảng đã cuội. Hay một bờ suối bùn lầy mọc đầy cỏ dại.

“Nhắm mắt cậu lại,” tôi ra lệnh. Cậu ấy làm theo, và ngậm cả miệng lại nữa, và hoàn toàn biến mất. Phần lớn những gì tôi có thể cho là cơ thể cậu ấy thì thực sự nằm dưới một lớp bùn và thực vật. Mặt và cánh tay cậu ấy thì được khéo léo ngụy trang thành vô hình. Tôi quỳ xuống cạnh cậu. “Mình cho là tất cả những giờ dài để trang trí bánh ngọt đã được trả giá xứng đáng.”

Peeta mỉm cười. “Đúng, che phủ. Đó là lớp phòng thủ cuối cùng của kẻ sắp chết.”

“Cậu sẽ không chết,” tôi khẳng định chắc nịch. “Ai nói vậy?” Giọng cậu ấy rời rạc. “Mình nói. Giờ thì chúng ta cùng một đội, cậu biết đấy,” tôi nói với cậu ấy.

Mắt cậu ấy mở to. “Vậy, mình đã nghe rồi. Cậu thật là tốt vì đã đi tìm những gì còn lại của mình.”

Tôi lôi chai nước của mình ra và cho cậu ấy uống một ít. “Cato đã chém cậu à?” tôi hỏi.

“Chân trái. Trên đùi,” cậu ấy trả lời.

“Để mình đưa cậu xuống suối, rửa sạch cho cậu để mình có thể xem cậu bị loại vết thương như thế nào,” tôi nói.

“Cúi xuống đây một phút đã,” cậu ấy nói. “Cần phải nói với cậu vài việc.” Tôi nghiêng người và hướng cái tai lành lặn đến gần môi cậu ấy, cảm thấy nhột nhột khi cậu ấy thì thầm. “Hãy nhớ, chúng ta đang yêu nhau điên cuồng, nên cứ hôn mình bất cứ lúc nào cậu cảm thấy thích.”

Tôi giật mạnh đầu lại nhưng cuối cùng bật cười. “Cám ơn, mình sẽ ghi nhớ điều đó.” Ít nhất, cậu ấy vẫn còn có thể nói đùa. Nhưng khi tôi bắt đầu giúp cậu ấy xuống suối, tất cả sự coi nhẹ đã biến mất. Chỉ đi có hai feet mà sao có thể khó đến thế? Quá khó khăn khi tôi nhận ra cậu ấy không thể tự mình di chuyển một inch nào. Cậu ấy yếu đến nỗi điều tốt nhất cậu ấy có thể làm được là không chống lại. Tôi cố gắng lôi cậu ấy, nhưng dù cho thực tế là tôi biết cậu ấy đang làm tất cả có thể để giữ im lặng thì những tiếng rên đau đớn vẫn thoát ra. Bùn và cây cỏ dường như đã giữ chặt cậu ấy và cuối cùng tôi phải dùng hết sức kéo mạnh để gỡ cậu ấy ra khỏi sự kết dính của chúng. Cậu ấy vẫn cách mặt nước hai feet, nằm đó, răng nghiến chặt, nước mắt trào ra tạo thành những vệt dài trên khuôn mặt đầy vết bẩn của bùn đất.

“Nhìn này, Peeta, mình sẽ lăn cậu xuống suối. Chỗ này rất nông, được chứ?” tôi nói.

“Tuyệt,” cậu ấy nói.

Tôi cúi xuống một bên cậu ấy. Dù chuyện gì xảy ra, tôi tự nhủ, không được dừng lại cho đến khi đưa được cậu ấy xuống nước. “Đếm đến ba,” tôi nói. “Một, hai, ba!” Tôi chỉ có thể lăn được đúng một vòng trước khi buộc phải dừng lại bởi âm thanh kinh khủng mà cậu ấy kêu lên. Giờ thì cậu ấy đã nằm ở mép bờ suối. Dù sao thì có lẽ điều này cũng tốt hơn.

“Thôi được, thay đổi kế hoạch. Mình sẽ không cố đưa cậu xuống nước nữa,” tôi nói với cậu ấy. Ngoài ra, nếu như tôi đưa cậu ấy xuống nước, ai mà biết được liệu tôi có thể đưa nổi cậu ấy lên hay không?”

“Không lăn nữa à?” cậu ấy hỏi.

“Thế là được rồi. Để mình giúp cậu lau rửa. Canh chừng khu rừng giúp mình, được chứ?” tôi nói. Thật khó để biết phải bắt đầu từ đâu. Cậu ấy đóng thành bánh với bùn và lá cây mục. Tôi thậm chí còn không nhìn ra quần áo cậu ấy. Nếu cậu ấy đang mặc quần áo. Ý nghĩ đó làm tôi ngần ngại một lát, nhưng rồi tôi cũng bắt tay vào. Các cơ thể khỏa thân không phải là một vụ gì to tát trong đấu trường, đúng không?

Tôi có hai chiếc bình và một túi da đựng nước của Rue. Tôi dựng chúng dựa vào những tảng đá trong dòng suối để chúng luôn được làm đầy trong khi tôi đổ nước chiếc thứ ba lên người Peeta. Phải mất một lúc, nhưng cuối cùng tôi cũng loại bỏ được đủ bùn để nhìn thấy quần áo của cậu ấy. Tôi nhẹ nhàng mở khóa chiếc áo khoác, mở cúc chiếc áo sơ mi và cẩn thận cởi chúng ra. Chiếc áo lót của cậu ấy bị dính vào vết thương, nên tôi phải cắt nó ra bằng con dao của mình và lại trút nước lên cậu ấy để làm cho nó rời ra. Cậu ấy thâm tím mình mẩy với một vết bỏng dài cắt ngang trên ngực và bốn vết chích của ong tracker jacker, nếu tính cả vết dưới tai. Nhưng tôi cảm thấy tốt hơn một chút. Ngần này tôi có thể chữa được. Tôi quyết định chăm sóc phần cơ thể phía trên của cậu ấy trước, để làm nhẹ bớt phần nào đau đớn, trước khi xử trí bất cứ tổn hại nào Cato đã gây ra ở chân cậu ấy.

Vì việc chữa trị các vết thương của cậu ấy dường như vô nghĩa khi cậu ấy nằm trong đống bùn lầy, tôi cố gắng dựng cậu ấy ngồi dựa vào tảng đá cuội. Cậu ấy ngồi đó, không phàn nàn gì, trong khi tôi rửa sạch tất cả các vết bẩn trên tóc và da. Da thịt cậu ấy trắng nhợt dưới ánh mặt trời và cậu ấy trông không còn khỏe mạnh và rắn chắc nữa. Tôi phải chích để rút ngòi ong tracker jacker ra khỏi vết đốt sưng phồng như quả mận của cậu ấy, điều này làm cậu ấy nhăn mặt lại, nhưng lúc tôi đắp những chiếc lá lên, cậu ấy thở ra khoan khoái. Trong khi cậu ấy phơi khô dưới ánh nắng, tôi giặt chiếc áo sơ mi và áo khoác dơ dáy và trải chúng lên tảng đá cuội. Sau đó tôi bôi kem trị bỏng lên ngực cậu ấy. Đây là lúc tôi nhận ra da cậu ấy trở nên nóng bỏng như thế nào. Lớp bùn và những chai nước đã che đi sự thật rằng cậu ấy đang nóng rẫy lên vì sốt. Tôi lục tung bộ sơ cứu mà tôi lấy được từ tên cống phẩm Đặc khu 1 và tìm thấy vài viên thuốc giúp hạ thân nhiệt. Mẹ tôi đôi khi thực sự phải vét hết tiền và mua những viên thuốc này khi những bài thuốc ở nhà của bà không có tác dụng.

“Nuốt chúng đi,” tôi nói với cậu ấy, và cậu ấy ngoan ngoãn cầm lấy những viên thuốc. “Cậu chắc phải đói rồi.”

“Không thực sự. Thật buồn cười, mình không thấy đói nhiều ngày nay rồi,” Peeta nói. Thực tế, khi tôi đưa cho cậu ấy thịt groosling, cậu ấy nhăn mũi với nó và quay đi. Đó là lúc tôi biết cậu ấy ốm yếu đến mức nào.

“Peeta, chúng ta cần phải cho cậu ăn một chút,” tôi khăng khăng.

“Nó sẽ bị nôn ra ngay thôi,” cậu ấy nói. Điều tốt nhất tôi có thể làm là ép được cậu ấy ăn một vài miếng táo khô. “Cảm ơn. Mình thấy tốt hơn nhiều rồi, thật đấy. Bây giờ mình có thể ngủ không, Katniss?” cậu ấy hỏi.

“Sớm thôi,” tôi hứa. “Mình phải xem xét cái chân của cậu đã.” Cố gắng nhẹ nhàng nhất có thể, tôi tháo giày, tất của cậu ấy, và sau đó chầm chậm gỡ chiếc quần ra. Tôi có thể nhìn thấy vết rách mà lưỡi kiếm của Cato đã xẻ qua lớp vải vào đùi cậu ấy, nhưng nó không thể nào chuẩn bị trước tinh thần cho tôi để nhìn thấy những gì bên dưới. Vết thương dài và sâu đỏ tấy lên đang rỉ ra cả máu và mủ. Cả cẳng chân sưng phồng. Và tệ hơn cả là mùi của thịt thối rữa.

Tôi muốn bỏ chạy. Biến mất trong rừng như tôi đã làm vào cái ngày người ta mang nạn nhân bị bỏng đến nhà tôi. Bỏ đi và săn bắn trong khi mẹ tôi và Prim làm những việc mà tôi không hề có kỹ năng cũng như dũng khí để đối mặt. Nhưng không có ai ở đây ngoài tôi. Tôi cố lấy lại thái độ bình tĩnh như mẹ tôi luôn có khi phải giải quyết những trường hợp đặc biệt tồi tệ.

“Vô cùng kinh khủng, đúng không?” Peeta hỏi. Cậu ấy ghé sát nhìn tôi.

“Tàm tạm.” Tôi nhún vai giống như nó chẳng phải cái gì ghê gớm. “Cậu nên nhìn thấy một vài người họ mang từ các hầm mỏ đến cho mẹ mình.” Tôi cố kiềm chế để không nói ra tôi đã thường xuyên biến khỏi nhà như thể nào mỗi khi mẹ tôi chữa trị cho bất cứ ca nào nặng hơn một cơn cảm lạnh. Nhớ lại, tôi thậm chí không buồn ở xung quanh ho hắng. “Đầu tiên là phải rửa sạch nó.”

Tôi để Peeta mặc chiếc quần sooc bên trong vì nó không trong tình trạng tồi tệ và tôi cũng không muốn kéo nó ra khỏi chiếc đùi sưng phồng, và, thôi được, có lẽ ý tưởng về việc nhìn thấy cậu ấy khỏa thân làm tôi không thoải mái. Đó là một điểm khác nữa về mẹ tôi và Prim. Khỏa thân không có tác động gì với họ, không gây cho hai người bất kỳ sự lúng túng nào. Mỉa mai thay, ở thời điểm này của Trò chơi, em gái bé bỏng của tôi lại hữu dụng với Peeta hơn tôi rất nhiều. Tôi bỏ mảnh ni lông bên dưới cậu ấy để tôi có thể rửa xuống phần cơ thể phía dưới. Với mỗi chai nước mà tôi dội lên cậu ấy, vết thương trông càng tệ hơn. Phần cơ thể bên dưới của cậu ấy khá ổn, chỉ có một vết đốt của ong tracker jacker và một vài vết bỏng nhỏ mà tôi có thể chữa trị nhanh chóng. Nhưng vết thương sâu trên chân cậu ấy… tôi có thể làm được cái quái gì với nó đây?

“Tại sao chúng ta không cho nó một chút không khí và sau đó…” tôi nói nhỏ dần.

“Và sau đó cậu sẽ khâu nó lại ư?” Peeta nói. Cậu ấy nhìn gần như thấy thương cảm cho tôi, như thể cậu ấy biết tôi mất phương hướng như thế nào.

“Đúng đấy,” tôi trả lời. “Trong lúc đó, cậu ăn những cái này đi.” Tôi đặt một vài nửa quả lê khô vào tay cậu ấy và quay trở lại dòng suối giặt chỗ quần áo còn lại. Khi chúng đã được trải ra để phơi khô, tôi kiểm tra những thứ trong bộ đồ sơ cứu. Nó chỉ toàn những thứ rất cơ bản. Băng gạc, thuốc giảm sốt, thuốc để ổn định dạ dày. Không có thứ gì chuyên sâu hơn mà tôi sẽ cần để chữa cho Peeta.

“Chúng ta sẽ phải thí nghiệm một chút,” tôi thú nhận. Tôi biết những chiếc lá trị vết ong tracker jacker đốt có tác dụng hút các chất nhiễm trùng ra, nên tôi bắt đầu với chúng trước. Trong vòng vài phút sau khi tôi đắp chỗ lá được nhai lên vết thương, mủ bắt đầu chảy sang một bên của cẳng chân. Tôi tự nhủ đây là dấu hiệu tốt và cắn má trong của mình thật mạnh bởi bữa sáng của tôi đang đe dọa sẽ trào ra ngoài.

“Katniss?” Peeta gọi. Tôi bắt gặp ánh mắt cậu ấy, biết rằng mặt tôi chắc phải đang tái xanh đi. Cậu ấy thốt lên. “Về nụ hôn đó thì sao?”

Tôi bật cười bởi vì tất cả những việc này thật kinh khủng khiến tôi không chịu nổi.

“Có gì không ổn à?” cậu ấy hỏi với một chút quá ngây thơ.

“Mình… mình không giỏi việc này lắm. Mình không phải mẹ mình. Mình không biết mình đang làm gì và mình ghét mủ,” tôi thú nhận. “Eo!” Tôi tự cho phép mình buông ra tiếng rên rỉ khi tôi giũ sạch lớp lá đầu tiên và đắp lớp thứ hai. “Eo ơi!”

“Cậu săn bắn như thế nào?” cậu ấy hỏi.

“Tin mình đi. Giết các con thú dễ dàng hơn việc này rất nhiều,” tôi nói. “Mặc dù với tất cả những gì mình biết, thì mình đang giết cậu.”

“Cậu có thể làm nó nhanh lên một chút không?” cậu ấy hỏi.

“Không. Im lặng và ăn lê của cậu đi,” tôi ra lệnh.

Sau ba lần đắp lá và những thứ trông như một xô mủ, vết thương trông khá hơn. Bây giờ chỗ sưng tấy đã xẹp xuống, tôi có thể nhìn ra kiếm của Cato đã chém sâu đến mức nào. Vào đến tận xương.

“Tiếp theo là gì, bác sĩ Everdeen?” cậu ấy hỏi.

“Có lẽ mình sẽ bôi một chút thuốc mỡ trị bỏng lên nó. Mình nghĩ dù sao thì nó cũng có tác dụng chống nhiễm trùng. Và sẽ băng nó lại nhé?” tôi nói. Tôi làm vậy và mọi thứ dường như dễ điều khiển hơn nhiều, băng trong vải cotton trắng sạch sẽ. Mặc dù đắp bằng băng gạc vô trùng, mép chiếc quần sooc trông thật bẩn và chảy ra những chất có thể gây nhiễm trùng. Tôi lôi ra chiếc ba lô của Rue. “Đây, che chắn cho cậu bằng cái này và mình sẽ giặt chiếc quần sooc của cậu.”

“Ồ, mình không quan tâm nếu cậu nhìn thấy mình,” Peeta nói.

“Cậu chỉ giống như những người khác trong gia đình mình,” tôi nói. “Mình để ý, được chứ?” Tôi quay lưng đi và nhìn xuống suối cho đến khi chiếc quần sooc được ném bắn tung tóe vào dòng nước. Cậu ấy chắc đang cảm thấy tốt hơn một chút nếu có thể ném nó.

“Cậu biết đấy, cậu là loại người quá câu nệ nguyên tắc đối với một người có thể giết người,” Peeta lên tiếng khi tôi đập chiếc quần sooc giữa hai tảng đá để làm sạch. “Sau cùng thì mình ước rằng mình đã để cậu tắm rửa cho Haymitch.”

Tôi nhăn mũi khi nghĩ đến ký ức đó. “Ông ấy đã đi xa đến đâu?”

“Không phải thứ cậu nên biết đâu,” Peeta trả lời. Sau đó dừng một lát như thể ký ức đó đang dội lại. “Tại sao, cậu đã nhận được thứ gì đó à?”

“Thuốc trị bỏng,” tôi nói gần như bẽn lẽn. “Ồ, và một ít bánh mì.”

“Mình đã luôn biết rằng cậu được ông ấy yêu thích,” Peeta nói.

“Xin cậu, ông ấy không thể chịu đựng được việc ở trong cùng một phòng với mình,” tôi nói.

“Bởi vì hai người rất giống nhau,” Peeta nói khẽ. Tuy nhiên tôi lờ nó đi bởi vì giờ thực sự không phải là lúc ðể tôi rủa xả Haymitch, ðiều mà thôi thúc tôi trýớc tiên.

Tôi ðể Peeta ngủ một lát trong khi ðợi quần áo của cậu ấy khô, nhýng vào lúc chiều muộn, tôi không muốn ðợi thêm chút nào nữa. Tôi nhẹ nhàng lắc vai cậu ấy. “Peeta, bây giờ chúng ta phải ði thôi.”

“Ði ý?” Cậu ấy có vẻ không hiểu. “Ði ðâu?”

“Ði khỏi ðây. Có lẽ xuống hạ lýu dòng xuối. Một nơi nào đó chúng ta có thể giấu cậu cho đến khi cậu khỏe hơn,” tôi nói. Tôi giúp cậu ấy mặc quần áo, cho cậu ấy đi chân trần để chúng tôi có thể đi bộ dưới nước và kéo cậu ấy đứng thẳng lên. Mặt cậu ấy trắng bệch khi cậu ấy phải dồn sức nặng lên đôi chân. “Cố lên. Cậu có thể làm được.”

Nhưng cậu ấy không thể. Dù sao thì cũng không thể kéo dài. Bằng cách dìu cậu ấy trên vai, chúng tôi đi được khoảng năm mươi yard xuôi theo dòng suối, và tôi có thể nói rằng cậu ấy sắp ngất đi. Tôi cho cậu ấy ngồi lên bờ, đặt đầu cậu ấy giữa hai đầu gối, lúng túng vỗ nhẹ lưng cậu ấy khi tôi quan sát xung quanh. Tất nhiên, tôi muốn đưa cậu ấy lên một cái cây, nhưng điều đó không thể làm được. Dù sao nó có thể sẽ tệ hơn. Vài tảng đá tạo thành một kiến trúc giống như một hang động nhỏ. Tôi dán mắt vào một cái như vậy cách đó khoảng hai mươi yard phía trên dòng suối. Khi Peeta có thể đứng lên, tôi nửa dẫn, nửa vác cậu ấy lên hang. Thực sự, tôi muốn đi xung quanh để tìm một chỗ tốt hơn, nhưng sẽ phải chọn chiếc này vì đồng minh của tôi không đi được nữa. Trắng nhợt như tờ giấy, thở hổn hển và mặc dù đã hạ sốt, cậu ấy vẫn đang run lập cập.

Tôi phủ lên sàn hang đá một lớp lá thông, dỡ chiếc túi ngủ ra và đặt cậu ấy nằm vào đó. Tôi lấy hai viên thuốc và một ít nước cho cậu ấy uống khi cậu ấy không nhận ra được nữa, nhưng cậu ấy không chịu ăn, thậm chí cả trái cây. Sau đó cậu ấy chỉ nằm đó, mắt dán lên mặt tôi khi tôi làm một loại mành che từ các dây leo để che kín miệng hang. Kết quả không được như ý. Một con thú sẽ không nghi ngờ nó, nhưng một con người thì sẽ nhìn ra có bàn tay con người làm ra nó đủ nhanh. Tôi giật nó ra trong tậm trạng thất vọng.

“Katniss,” cậu ấy gọi. Tôi đi đến bên cậu ấy và chải mái tóc ra khỏi mắt cậu ấy. “Cảm ơn vì đã đi tìm mình.”

“Cậu cũng sẽ đi tìm mình nếu cậu có thể,” tôi nói. Trán cậu ấy đang nóng rực. Như thể thuốc chẳng có tác dụng gì. Đột nhiên, không biết từ đâu, tôi sợ rằng cậu ấy sẽ chết.

“Đúng. Nhìn này, nếu như mình không thể quay về…” cậu ấy bắt đầu.

“Đừng nói như vậy. Mình không gột bỏ tất cả chỗ mủ đó một cách vô ích,” tôi nói.

“Mình biết. Nhưng chỉ trong trường hợp nếu mình không…” cậu ấy cố gắng tiếp tục.

“Không, Peeta, mình thậm chí không muốn nói về nó,” tôi nói, đặt ngón tay mình lên môi cậu ấy để ngăn lại.

“Nhưng mình…” Peeta khăng khăng.

Một cách bốc đồng, tôi nhướn lên và hôn cậu ấy, ngăn không cho cậu ấy nói tiếp. Dù sao điều này có thể cũng quá muộn vì cậu ấy đúng, chúng tôi được cho là đang yêu nhau điên cuồng. Đây là lần đầu tiên tôi hôn một chàng trai, điều mà tôi nghĩ đáng lẽ phải tạo ra một vài cảm giác nào đó, nhưng tất cả những gì tôi có thể nhận thấy là môi cậu ấy nóng một cách không bình thường thế nào do cơn sốt. Tôi rời đi và kéo mép chiếc túi ngủ lên bao quanh cậu ấy. “Cậu sẽ không chết. Mình không cho phép. Được chứ?”

“Được rồi,” cậu ấy thì thầm.

Tôi bước ra không khí mát lạnh của buổi tối đúng lúc chiếc dù lơ lửng từ trên trời rơi xuống. Các ngón tay tôi nhanh chóng tháo dây buộc, hy vọng có loại thuốc đặc trị nào đó có thể chữa được chân của Peeta. Thay vào đó tôi thấy một chiếc bình đựng nước xuýt nóng.

Haymitch không thể gửi cho tôi một thông điệp rõ ràng hơn. Một nụ hôn bằng một bình nước xuýt. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng gầm gừ của ông ấy. “Cháu được cho là đang yêu, cưng ạ. Chàng trai sắp chết. Hãy cho ta thứ gì đó để ta có thể khai thác được!”

Và ông ấy đúng. Nếu tôi muốn giữ cho Peeta sống, tôi phải cho khán giả xem thứ gì đó hơn thế để họ quan tâm đến. Đôi tình nhân bất hạnh khao khát được về nhà cùng với nhau. Hai trái tim chung một nhịp đập. Lãng mạn.

Chưa từng yêu, điều này sẽ là một thách thức thật sự. Tôi nghĩ về cha mẹ mình. Cách mà cha tôi chưa bao giờ quên đem quà cho mẹ khi đi rừng về. Cái cách khuôn mặt mẹ tôi sáng lên khi nghe thấy tiếng giày của ông về đến cửa. Cái cách mà bà gần như không còn sống nữa khi ông qua đời.

“Peeta!” tôi kêu lên, cố gắng dùng tông giọng đặc biệt mà mẹ tôi chỉ dành riêng cho cha. Cậu ấy lại thiếp đi, nhưng tôi hôn đánh thức cậu ấy, điều đó làm cậu ấy giật mình. Sau đó cậu ấy mỉm cười như thể cậu ấy rất hạnh phúc nằm đó, ngắm nhìn tôi mãi mãi. Cậu ấy thật giỏi mấy thứ này.

Tôi giơ chiếc bình lên. “Peeta, nhìn xem Haymitch vừa mới gửi gì cho cậu này.”

CHƯƠNG 20

Cho Peeta uống chỗ nước xuýt mất đến cả tiếng đồng hồ dỗ dành, cầu xin, đe dọa, và vâng, hôn nữa, nhưng cuối cùng, từng ngụm một, cậu ấy đã uống hết chiếc bình. Tôi để cậu ấy chìm vào giấc ngủ sau đó và chăm sóc nhu cầu cá nhân của mình, ngấu nghiến bữa tối với thịt groosling và các loại củ trong khi tôi nhìn lên trời xem báo cáo hàng ngày. Không có thương vong mới. Tuy nhiên, Peeta và tôi đã cho khán giả một ngày tương đối thú vị. Hy vọng rằng, các nhà Thiết lập Trò chơi sẽ cho chúng tôi một đêm yên bình.

Tôi theo phản xạ nhìn xung quanh tìm một cái cây tốt để làm tổ trên đó trước khi tôi nhận ra là đã kết thúc rồi. Ít nhất là trong một thời gian. Tôi không thể bỏ Peeta không được canh chừng trên mặt đất. Tôi bỏ lại quang cảnh nơi cậu ấy ẩn nấp trước đây bên bờ suối mà không thu dọn – làm thế nào tôi có thể che giấu nó? – và chúng tôi chỉ mới xuôi dòng suối được có năm mươi yard. Tôi đeo chiếc kính của mình vào, sẵn sàng vũ khí, chuẩn bị mọi thứ để canh gác.

Nhiệt độ giảm mạnh và rất nhanh tôi ớn lạnh đến tận xương. Cuối cùng, tôi nhượng bộ và chui vào trong túi ngủ với Peeta. Hơi ấm như lò sưởi và tôi rất biết ơn nằm xích lại gần cho đến khi tôi nhận ra nó hơn cả ấm, nó quá nóng bởi chiếc túi ngủ đang bức xạ lại cơn sốt của cậu ấy. Tôi kiểm tra trán của cậu ấy, thấy nó nóng ran và khô. Tôi không biết phải làm gì. Bỏ cậu ấy trong túi ngủ và hy vọng hơi nóng quá mức đó sẽ xua đi cơn sốt ư? Đưa cậu ấy ra và hy vọng hơi lạnh ban đêm sẽ làm giảm nhiệt độ? Tôi kết thúc với việc nhúng ướt một miếng băng gạc và đặt nó lên trán cậu ấy. Nó có vẻ ít tác dụng, nhưng tôi sợ làm bất cứ thứ gì quá mạnh.

Tôi trải qua cả đêm nửa nằm nửa ngồi bên cạnh Peeta, làm ướt lại băng gạc, và cố gắng không chú tâm vào thực tế rằng với việc lập nhóm với cậu ấy, tôi làm cho bản thân mình trở nên yếu hơn rất nhiều so với lúc một mình. Bị mắc kẹt trên mặt đất, phải canh gác, với một người rất ốm yếu đang cần được chăm sóc. Nhưng tôi biết trước cậu ấy đã bị thương. Và tôi vẫn đi tìm cậu ấy. Tôi sẽ chỉ cần tin tưởng rằng bất cứ bản năng nào gửi tôi đến để tìm cậu ấy là điều tốt.

Khi bầu trời ửng hồng, tôi nhận thấy mồ hôi lóng lánh trên môi Peeta và phát hiện ra cơn sốt đã lui. Cậu ấy chưa trở lại bình thường, nhưng thân nhiệt đã giảm đi vài độ. Đêm qua, khi tôi thu lượm dây leo, tôi bắt gặp một bụi dâu rừng của Rue. Tôi bứt quả và nghiền nó ra trong bình đựng nước xuýt với nước lạnh.

Peeta đang cố gắng ngồi dậy khi tôi tiến vào hang. “Mình đã tỉnh dậy và cậu thì đi rồi,” cậu ấy nói. “Mình đã lo cho cậu.”

Tôi phải phì cười khi tôi cho cậu ấy nằm xuống. “Cậu đã lo lắng cho mình ư? Cậu có tự quan sát bản thân gần đây không?”

“Mình nghĩ Cato và Clove có thể đã tìm ra cậu. Họ thích đi săn lùng vào ban đêm,” cậu ấy nói, vẫn có vẻ nghiêm trọng.

“Clove ư? Đó là ai?” tôi hỏi.

“Cô gái từ Đặc khu 2. Cô ta vẫn sống, đúng không?” cậu ấy nói.

“Đúng, chỉ còn họ, chúng ta, Thresh và Mặt Cáo,” tôi nói. “Đó là cái tên mình đặt cho cô gái đến từ Đặc khu 5. Cậu cảm thấy thế nào?”

“Tốt hơn hôm qua. Đây là một sự cải thiện lớn lao khi ra khỏi chỗ bùn lầy,” cậu ấy nói. “Quần áo sạch sẽ, thuốc và một chiếc túi ngủ… và cậu.”

Ồ, phải rồi, cả một câu chuyện lãng mạn. Tôi vươn tay để chạm vào má cậu ấy và cậu ấy bắt lấy bàn tay tôi, rồi đặt nó lên môi mình. Tôi nhớ cha tôi cũng làm những việc như thế này với mẹ tôi và tôi tự hỏi Peeta lấy nó ở đâu ra. Chắc chắn không phải từ cha cậu ấy và mụ phù thủy kia.

“Sẽ không thêm nụ hôn nào nữa dành cho cậu cho đến khi cậu ăn xong,” tôi cảnh báo.

Chúng tôi phải dựng cậu ấy lên dựa vào tường và cậu ấy ngoan ngoãn nuốt những ngụm dâu nghiền mà tôi đút cho. Tuy nhiên, cậu ấy vẫn từ chối thịt groosling.

“Cậu đã không ngủ,” Peeta lên tiếng.

“Mình không sao,” tôi nói. Nhưng sự thật là, tôi kiệt sức.

“Giờ ngủ đi. Mình sẽ canh chừng. Mình sẽ đánh thức cậu nếu có gì xảy ra,” cậu ấy nói. Tôi do dự. “Katniss, cậu không thể thức mãi được.”

Cậu ấy đã đúng điểm đó. Cuối cùng thì tôi cũng sẽ phải ngủ. Và có lẽ tốt hơn là nên ngủ ngay bây giờ khi cậu ấy có vẻ khá tỉnh táo và chúng tôi có ánh sáng ban ngày đứng về phía mình. “Thôi được,” tôi nói. “Nhưng chỉ trong vài giờ thôi. Sau đó cậu đánh thức mình dậy.”

Lúc này chiếc túi ngủ quá ấm. Tôi trải phẳng nó ra trên nền hang và nằm xuống, một tay vẫn đặt lên cây cung phòng trường hợp tôi phải bắn ngay lúc phát hiện ra. Peeta ngồi bên cạnh tôi, dựa vào tường, cái chân bị thương duỗi ra trước mặt, mắt cậu ấy dán vào thế giới bên ngoài. “Ngủ đi,” cậu ấy nói dịu dàng. Bàn tay cậu ấy chải những lọn tóc xõa ra khỏi trán tôi. Không giống như những nụ hôn và sự âu yếm đóng kịch từ trước đến giờ, cử chỉ này dường như rất tự nhiên và thoải mái. Tôi không muốn cậu ấy dừng lại và cậu ấy cũng không dừng. Cậu ấy vẫn tiếp tục vuốt tóc tôi khi tôi ngủ.

Quá lâu. Tôi ngủ quá lâu. Tôi biết ngay từ lúc mở mắt ra rằng chúng tôi đã ở vào buổi chiều. Peeta vẫn ở ngay bên cạnh tôi, vị trí của cậu ấy không thay đổi. Tôi ngồi dậy, cảm thấy có chút gì đó dè chừng nhưng đã được nghỉ ngơi tốt hơn trong nhiều ngày qua.

“Peeta, cậu đã được dặn là phải gọi mình dậy sau một vài giờ rồi mà,” tôi nói.

“Để làm gì? Không có gì xảy ra ở đây hết,” cậu ấy nói. “Với lại mình thích nhìn cậu ngủ. Cậu không cau có. Cải thiện vẻ ngoài của cậu rất nhiều.”

Điều này, tất nhiên, đem đến một cái quắc mắt làm cậu ấy cười toe toét. Đó là lúc tôi nhận ra môi cậu ấy khô khốc đến mức nào. Tôi kiểm tra má cậu ấy. Nóng như một lò than. Cậu ấy khẳng định rằng đã uống nước, nhưng tôi cảm thấy những cái chai vẫn còn đầy nguyên. Tôi đưa cho cậu ấy thêm vài viên thuốc và đứng trông chừng khi cậu ấy uống lít nước đầu tiên, rồi đến lít thứ hai. Sau đó tôi chăm sóc các vết thương nhỏ của cậu ấy, vết bỏng, vết ong chích, mà đang cho thấy đã cải thiện rất nhiều. Tôi làm mình cứng rắn lên và gỡ băng cho cái chân cậu ấy.

Trái tim tôi như chùng xuống. Nó tệ hơn, tệ hơn rất nhiều. Dễ nhận ra là không có mủ nữa, nhưng sưng lên to hơn và chỗ da căng bóng thì đỏ rực. Sau đó tôi nhìn thấy vết đỏ bắt đầu lan lên chân cậu ấy. Nhiễm trùng máu. Không được ngăn chặn, chắc chắn nó sẽ giết chết cậu ấy. Những chiếc lá tôi nhai và thuốc mỡ không có tác dụng với nó. Chúng tôi sẽ cần những loại thuốc chống nhiễm trùng cực mạnh từ Capitol. Tôi không thể tưởng tượng ra nổi giá cả của những loại thuốc hiệu nghiệm đó. Nếu Haymitch gộp mọi phần quà của các nhà tài trợ lại, liệu ông ấy có đủ tiền không? Tôi nghi ngờ điều đó. Giá cả của quà tặng tăng lên theo thời gian kéo dài Trò chơi. Cái giá để mua được một bữa ăn đầy đủ trong ngày đầu tiên sẽ chỉ mua được một cái bánh quy vào ngày thứ mười hai. Và loại thuốc mà Peeta cần đã ở mức giá cực cao ngay từ đầu.

“Chà, sưng tấy hơn, nhưng mủ thì không còn nữa,” tôi nói bằng giọng run run.

“Mình biết nhiễm trùng máu là thế nào, Katniss,” Peeta nói. “Ngay cả khi mẹ mình không phải là người chữa bệnh.”

“Cậu sẽ chỉ cần phải chịu đựng lâu hơn những người khác thôi Peeta. Họ sẽ chữa được nó ở Capitol khi chúng ta chiến thắng,” tôi nói.

“Phải rồi, đó là một kế hoạch tốt đấy,” cậu ấy trả lời. Nhưng tôi cảm thấy điều này chủ yếu là vì tôi.

“Cậu phải ăn. Làm cho cậu khỏe lên. Mình sẽ làm súp cho cậu,” tôi nói.

“Đừng nhóm lửa lên,” cậu ấy nói. “Nó không đáng đâu.”

“Chúng ta sẽ xem sao,” tôi đáp lại. Khi tôi lấy chiếc bình xuống suối, tôi ngạc nhiên thấy trời nóng kinh khủng thế nào. Tôi thề là các Nhà thiết lập Trò chơi đã làm tăng vọt nhiệt độ lên vào ban ngày và cho nó tụt hẳn xuống vào ban đêm. Tuy nhiên, nhiệt độ của những tảng đá phơi dưới nắng bên dòng suối cho tôi một ý tưởng. Có lẽ tôi không cần phải nhóm một ngọn lửa.

Tôi sắp đặt trên một tảng đá lớn có bề mặt phẳng nằm giữa đường từ dòng suối đến hang. Sau khi làm sạch nửa bình nước, tôi đặt nó trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời và cho thêm vài hòn đá nóng to bằng quả trứng vào nước. Tôi là người đầu tiên công nhận rằng tôi không giỏi nấu nướng. Nhưng vì súp chủ yếu bao gồm cho mọi thứ vào một cái bình và chờ đợi, nên nó là một trong những món tôi nấu khá hơn. Tôi băm nhỏ thịt groosling cho đến khi nó gần như nhuyễn ra và nghiền vài loại củ của Rue. Thật may là chúng đều đã được nướng rồi nên chúng hầu như chỉ cần được làm nóng lên. Đã xong, dưới ánh mặt trời và các viên đá, nước đã ấm lên. Tôi cho thịt và củ vào, đổi những viên đá mới, và đi tìm thứ rau gì đó để tăng hương vị nó thêm một chút. Trước khi quá lâu, tôi tìm ra một cụm rau thơm mọc ở chân vài tảng đá. Hoàn hảo. Tôi thái chúng ra thật nhỏ và cho thêm vào bình, đổi các viên đá một lần nữa, đậy nắp lại, và để mọi thứ được hầm lên.

Tôi thấy có rất ít dấu hiệu của các con thú xung quanh, nhưng tôi cảm thấy không thoải mái khi bỏ Peeta lại một mình trong lúc đi săn, nên tôi đặt nửa tá bẫy và hy vọng tôi may mắn. Tôi băn khoăn về các cống phẩm khác, bây giờ họ xoay sở thế nào khi nguồn thực phẩm chính của họ đã bị thổi bay. Ít nhất ba người trong số họ, Cato, Clove và Mặt Cáo, đã phải sống dựa vào đó. Tuy nhiên Thresh có lẽ không cần. Tôi có linh cảm rằng cậu ta chắc phải có những kiến thức giống Rue về cách làm thế nào để tự nuôi sống bản thân từ thế giới xung quanh. Họ có đang đánh nhau không? Đang tìm kiếm chúng tôi ư? Có thể một trong số họ đã xác định được vị trí của chúng tôi và chỉ đang chờ đến thời cơ thích hợp để tấn công. Ý nghĩ đó làm tôi quay trở lại hang.

Peeta đang nằm dài trên chiếc túi ngủ dưới bóng của các tảng đá. Mặc dù gương mặt cậu ấy sáng lên một chút khi tôi bước vào, nhưng rõ ràng là cậu ấy cảm thấy khổ sở. Tôi đặt những miếng vải mát lên đầu cậu ấy, nhưng chúng gần như đã ấm lên ngay khi chạm vào da cậu ấy.

“Cậu có muốn gì không?” tôi hỏi.

“Không,” cậu ấy trả lời. “Cảm ơn cậu. Đợi đã, có. Kể chuyện cho mình nghe đi.”

“Kể chuyện ư? Về cái gì?” tôi nói. Tôi không phải người giỏi kể chuyện. Nó là một dạng giống như hát hò. Nhưng một lần cách đây lâu rồi, Prim đã vòi vĩnh được một câu chuyện từ tôi.

“Chuyện gì đó vui vẻ. Kể cho mình nghe về ngày hạnh phúc nhất mà cậu có thể nhớ được,” Peeta nói.

Tôi thở hắt ra, nửa như thở dài, nửa như trút bỏ bực tức. Một câu chuyện vui ư? Điều này sẽ đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn món súp. Tôi vắt óc ra để nhớ lại những kỷ niệm vui. Phần lớn chúng là về Gale và tôi ở ngoài săn bắn và không hiểu sao tôi không nghĩ chúng sẽ hấp dẫn với cả Peeta lẫn khán giả. Vậy thì chỉ còn lại Prim.

“Mình đã bao giờ kể cho cậu nghe về việc làm thế nào mình kiếm được con dê cho Prim chưa?” tôi hỏi. Peeta lắc đầu và nhìn tôi chờ đợi. Nên tôi bắt đầu. Nhưng thận trọng. Vì những lời nói của tôi sẽ được truyền đi trên toàn Panem. Và trong khi mọi người sẽ dễ dàng suy luận ra rằng tôi đi săn bất hợp pháp, tôi không muốn làm hại Gale hay Greasy Sae, hay người bán thịt, hay thậm chí cả những Người giữ trị an ở quê nhà, những người là khách hàng của tôi, bằng cách công khai thông báo rằng họ cũng phạm luật.

Đây là câu chuyện thật về việc làm thế nào tôi kiếm được tiền mua con dê Lady cho Prim. Đó là một buổi tối ngày thứ sáu, ngày trước sinh nhật lần thứ mười của Prim vào cuối tháng năm. Ngay khi tan học, Gale và tôi đã vào rừng, bởi vì tôi muốn có đủ đồ để trao đổi lấy một món quà cho Prim. Có thể một ít vải mới để may váy hay một chiếc lược. Bẫy chúng tôi đặt đã bắt được kha khá và rừng thì đầy rau xanh, nhưng điều này cũng thực sự không hơn một mẻ trung bình vào đêm ngày thứ sáu của chúng tôi. Tôi đã rất thất vọng khi quay về mặc dù Gale đã nói rằng chúng tôi chắc chắn sẽ làm tốt hơn vào ngày mai. Chúng tôi đang ngồi nghỉ một lát bên dòng suối khi tôi nhìn thấy nó. Một con nai đực còn non, theo kích thước thì nó chắc khoảng một tuổi. Gạc của nó vừa mới nhú lên, vẫn còn nhỏ và phủ đầy lông nhung. Nó đã ở tư thế chuẩn bị chạy nhưng không chắc chắn về chúng tôi, không quen thuộc với con người. Rất xinh đẹp.

Có lẽ sẽ giảm xinh đẹp đi khi hai mũi tên bắn vào nó, một vào cổ và một cái khác vào ngực. Gale và tôi đã bắn cùng một lúc. Con nai cố gắng chạy nhưng bị trượt ngă, và con dao của Gale đã cắt vào họng nó trước khi nó kịp biết chuyện gì đã xảy ra. Trong giây lát, tôi cảm thấy day dứt vì đã giết một thứ gì đó thật trong sáng và thuần khiết. Và rồi dạ dày tôi sôi ùng ục với ý nghĩ về tất cả chỗ thịt tươi và ngon đó.

Một con hươu! Gale và tôi đã bắt được ba con tất cả. Con đầu tiên, một con hươu cái, không hiểu vì sao bị thương ở chân, nên gần như không tính. Nhưng từ kinh nghiệm đó chúng tôi biết rằng đừng lôi thịt súc vật vào Hob. Nó sẽ gây ra sự lộn xộn với việc mọi người đấu giá cho từng bộ phận và thực sự cố gắng giành giật các phần cho chính họ. Greasy Sae đã can thiệp và đưa chúng tôi cùng với con hươu đến cửa hàng thịt, nhưng không trước lúc nó đã bị phá hỏng tồi tệ, những súc thịt lớn đã bị lấy đi, tấm da bị thủng lỗ chỗ. Mặc dù mọi người trả giá công bằng, nó vẫn thấp hơn giá trị thực của con thú.

Lần này, chúng tôi đợi đến khi trời tối và trượt qua cái lỗ ở hàng rào gần với cửa hàng thịt. Mặc dù chúng tôi được biết là các thợ săn, nhưng cũng không hay ho gì khi mang theo một con hươu nặng 150 pound xuyên qua các khu phố của Đặc khu 12 vào ban ngày giống như chúng tôi đang dí nó vào mặt các quan chức.

Người chủ của hàng thịt, một người phụ nữ lùn, mập mạp tên là Rooba, đến mở cửa sau khi chúng tôi gõ. Bạn không mặc cả được với Rooba. Bà ấy sẽ đưa cho bạn một mức giá mà bạn có thể chấp nhận hoặc rời đi, nhưng nó là một mức giá hợp lý. Chúng tôi chấp nhận giá của bà ấy trả cho con hươu và bà ấy cho thêm chúng tôi hai miếng thịt nai nướng mà chúng tôi có thể đem đi sau khi mổ thịt xong. Ngay cả khi đã chia đôi tiền, cả tôi và Gale cũng chưa từng cầm nhiều tiền một lúc như vậy trong đời mình. Chúng tôi quyết định giữ bí mật và làm gia đình mình ngạc nhiên với thịt và tiền vào cuối ngày hôm sau.

Đây là lý do tôi thực sự có tiền để mua con dê, nhưng tôi kể với Peeta là tôi đã bán một cái mề đay cũ bằng bạc của mẹ tôi. Điều mà chẳng thể làm hại ai cả. Sau đó tôi đặt câu chuyện trong buổi chiều muộn của ngày sinh nhật Prim.

Gale và tôi đi đến chợ trên quảng trường để tôi có thể mua các vật liệu may váy. Khi tôi đang lướt các ngón tay của mình trên chiều dài của tấm vải cotton màu xanh lam dày, thì một thứ gì đó lọt vào mắt tôi. Một ông già đang giữ một đàn dê nhỏ phía bên kia của Seam. Tôi không biết tên thật của ông ấy, mọi người chỉ gọi ông ấy là Ông già chăn dê. Các khớp xương của ông ấy sưng phồng và bị trẹo đi trong hình dạng đau đớn, và ông ấy có chứng ho khan cho thấy ông ấy đã từng làm việc nhiều năm trong hầm mỏ. Nhưng ông ấy may mắn. Trong cuộc đời mình ông ấy đã dành dụm đủ để tậu được đàn dê này và bây giờ có gì đó để làm trong những năm cuối đời chứ không phải chịu cảnh dần chết đói. Ông ấy bẩn thỉu và thiếu kiên nhẫn, nhưng những con dê thì rất sạch sẽ và sữa của chúng rất giàu dinh dưỡng nếu bạn có thể mua được nó.

Một trong những con dê, lông trắng với vài đốm đen, đang nằm trên một chiếc xe bò. Thật dễ dàng để hiểu tại sao. Một thứ gì đó, có lẽ là một con chó, đã cắn vào vai nó và vết thương đã bắt đầu nhiễm trùng. Nó rất tệ, Ông già chăn dê phải bế nó lên để vắt sữa. Nhưng tôi nghĩ tôi biết ai đó có thể chữa cho nó.

“Gale,” tôi thì thầm. “Em muốn con dê đó cho Prim.”

Sở hữu một con dê cái có thể thay đổi cuộc sống của bạn ở Đặc khu 12. Những con vật này có thể sống được từ hầu hết mọi thứ, cánh đồng Meadow là nơi hoàn hảo để nuôi chúng và chúng có thể cho bốn lít sữa một ngày. Để uống, để làm pho mát, để bán. Nó thậm chí không vi phạm pháp luật.

“Nó đã bị thương rất nặng rồi,” Gale nói. “Chúng ta tốt hơn nên xem xét kỹ.”

Chúng tôi đi đến và mua một cốc sữa uống chung, sau đó đứng quan sát con dê như thể tò mò vu vơ.

“Để nó yên,” ông già lên tiếng.

“Chỉ xem thôi,” Gale nói.

“Thế thì xem nhanh. Nó sẽ đến hàng thịt sớm thôi. Hiếm người mua sữa của nó, và rồi họ chỉ trả giá có một nửa,” ông già nói.

“Người chủ hàng thịt trả giá nó bao nhiêu?” tôi hỏi.

Ông già nhún vai. “Ở đây mà xem.” Tôi quay lại và nhìn thấy Rooba đang đi ngang qua quảng trường đến chỗ chúng tôi. “Thật may là bà đã xuất hiện,” Ông già chăn dê lên tiếng khi bà ấy tới. “Con bé này đang xem xét con dê của bà.”

“Không giống như nó đã được mua trước,” tôi nói một cách bất cẩn.

Rooba nhìn tôi từ trên xuống dưới rồi cau mày nhìn con dê. “Nó chưa được. Nhìn vai nó kìa. Cá với ông là nửa thân nó sẽ là vô giá trị ngay cả để làm xúc xích.”

“Cái gì?” Ông già chăn dê kêu lên. “Chúng ta đã thỏa thuận rồi.”

“Chúng ta đã thỏa thuận về một con thú với một vài vết răng. Không phải thứ đó. Bán nó cho cô gái này nếu cô ta đủ ngu ngốc để đi mua nó,” Rooba nói. Khi bà ấy bỏ đi, tôi bắt được một cái nháy mắt.

Ông già chăn dê nổi điên, nhưng ông ta vẫn muốn rũ bỏ con dê. Chúng tôi phải mất đến nửa giờ để thỏa thuận được giá cả. Cả một đám đông tụ tập lại lúc đó để đưa ra các ý kiến. Đó sẽ là một vụ mua bán hời nếu con dê sống; tôi sẽ mất tiền nếu nó chết. Mọi người chia ra các phe khác nhau trong cuộc tranh luận, nhưng tôi đã lấy con dê.

Gale đề nghị dắt con dê. Tôi nghĩ anh ấy cũng như tôi, rất muốn nhìn thấy vẻ mặt của Prim. Ngay lúc kết thúc vụ giao dịch chóng vánh, tôi mua một sợi ruy băng hồng và buộc quanh cổ nó. Sau đó chúng tôi nhanh chóng trở về nhà tôi.

Bạn phải nhìn thấy phản ứng của Prim khi chúng tôi bước vào nhà với con dê. Hãy nhớ đây là cô bé đã khóc lóc để cứu con mèo già xấu xí Buttercup. Con bé quá sung sướng nên vừa khóc vừa cười. Mẹ tôi thì ít chắc chắn hơn khi nhìn vết thương, nhưng cả hai người họ đều bắt tay vào xử lý nó, nghiền các loại thảo dược và dỗ dành để đổ thuốc vào họng con thú.

“Họ có vẻ giống cậu,” Peeta lên tiếng. Tôi gần như quên mất cậu ấy đang ở đó.

“Ồ, không, Peeta. Họ tạo ra kỳ tích. Thứ đó không thể chết được nếu nó đã cố gắng để chết,” tôi nói. Nhưng rồi tôi cắn lưỡi mình, nhận ra điều đó nghe sẽ như thế nào đối với Peeta, người đang sắp chết, trong bàn tay kém cỏi của tôi.

“Đừng lo. Mình sẽ không cố,” cậu ấy đùa. “Kể nốt câu chuyện đi.”

“À, thế đó. Mình chỉ nhớ là đêm ấy, Prim khăng khăng đòi ngủ cùng con Lady trên cái chăn gần đống lửa. Và chỉ ngay trước lúc họ thiếp đi, con dê đã liếm má con bé, giống như nó hôn chúc con bé ngủ ngon hay gì đó,” tôi nói. “Nó đã say mê con bé.”

“Nó còn đeo dải ruy băng hồng không?” cậu ấy hỏi.

“Mình nghĩ vậy,” tôi trả lời. “Tại sao?”

“Mình chỉ đang cố hình dung ra bức tranh đó,” cậu ấy trầm ngâm. “Mình có thể hiểu tại sao ngày hôm đó lại làm cậu thấy hạnh phúc.”

“À, mình đã biết rằng con dê đó sẽ là một mỏ vàng nhỏ,” tôi nói.

“Đúng, tất nhiên mình đang nói đến điều đó, không phải niềm vui lâu dài mà cậu đã tặng cho người em gái mà cậu vô cùng yêu thương đến mức thay vị trí của em ấy trong buổi chọn cống phẩm,” Peeta lạnh nhạt.

“Con dê đã đáng giá. Giá trị của nó còn lớn gấp vài lần giá mình bỏ ra,” tôi cao giọng.

“À, nó cũng không muốn làm bất cứ thứ gì khác sau khi cậu đã cứu sống nó,” Peeta đáp lại. “Mình cũng định làm như vậy.”

“Thật ư? Cậu lại định tiêu tốn của mình thứ gì đây?” tôi hỏi.

“Rất nhiều rắc rối. Đừng lo. Cậu sẽ lấy lại được hết,” cậu ấy trả lời.

“Chẳng hiểu cậu đang nói gì,” tôi nói và kiểm tra trán cậu ấy. Cơn sốt lại tăng lên. “Dù sao cậu cũng mát hơn một chút rồi.”

Âm thanh của hồi kèn làm tôi giật mình. Tôi bật dậy và bay đến cửa hang ngay tức khắc, không muốn bỏ lỡ một âm tiết nào. Đó là người bạn mới tốt bụng của tôi, Claudius Templesmith, và như tôi dự đoán, ông ta mời chúng tôi đến một bàn tiệc. Chà, chúng tôi không đói và tôi thực sự vẫy chào tạm biệt lời đề nghị của ông ta trong sự thờ ơ thì ông ta nói, “Giờ chờ đã. Vài người trong các bạn có thể đã từ chối lời mời của tôi. Nhưng đây không phải bữa tiệc thông thường. Mỗi người các bạn đang khao khát một thứ gì đó.”

Tôi đúng là đang khao khát một thứ gì đó. Một thứ gì đó có thể chữa được chân cho Peeta.

“Mỗi người các bạn sẽ tìm thấy thứ đó trong một chiếc ba lô, có đề số đặc khu của bạn, ở Cornucopia vào lúc bình minh. Nghĩ kỹ về việc từ chối xuất hiện. Đối với vài người trong các bạn, đây sẽ là cơ hội cuối cùng,” Claudius nói.

Không còn gì nữa, chỉ còn lời nói của ông ta lơ lửng trong không khí. Tôi nhảy lên khi Peeta giữ chặt lấy vai tôi từ đằng sau. “Không,” cậu ấy nói. “Cậu sẽ không mạo hiểm cuộc sống của cậu vì mình.”

“Ai nói mình định thế?” tôi nói.

“Vậy, cậu sẽ không đi chứ?” cậu ấy hỏi.

“Tất nhiên, mình sẽ không đi. Tin mình chút đi. Cậu có nghĩ mình sẽ chạy thẳng vào một thứ gì đó miễn-phí-cho-tất-cả để chiến đấu với Cato, Clove và Thresh không? Đừng có ngốc chứ,” tôi nói, giúp cậu ấy quay lại chỗ nằm. “Mình sẽ để họ chiến đấu với nhau, chúng ta sẽ xem xem ai sẽ xuất hiện trên bầu trời đêm mai và tìm ra một kế hoạch từ đó.”

“Cậu là một người nói dối dở tệ, Katniss. Mình không biết làm thế nào cậu sống được cho đến giờ.” Cậu ấy bắt đầu nhại lại tôi. “Mình đã biết rằng con dê đó sẽ là một mỏ vàng nhỏ. Dù sao cậu cũng mát hơn một chút rồi. Tất nhiên, mình sẽ không đi.” Cậu ấy lắc đầu. “Đừng bao giờ chơi cờ bạc. Cậu sẽ mất đến đồng xu cuối cùng,” cậu ấy nói.

Tôi giận đỏ mặt. “Thôi được, mình sẽ đi, và cậu không thể ngăn mình!”

“Mình sẽ theo cậu. Ít nhất được nửa đường. Mình có thể không đến được Cornucopia, nhưng nếu mình sẽ gào tên cậu, mình cá là ai đó sẽ tìm thấy mình. Và rồi mình chắc chắn sẽ chết,” cậu ấy nói.

“Cậu sẽ không đi nổi một trăm yard từ đây trên cái chân đó,” tôi cãi lại.

“Thế thì mình sẽ lê đi,” Peeta nói. “Cậu đi và mình cũng sẽ đi.”

Cậu ấy đủ cứng đầu và có lẽ đủ mạnh mẽ để làm điều đó. Gào hét theo tôi trong rừng. Ngay cả nếu một cống phẩm không tìm ra cậu ấy, một thứ gì khác cũng tìm ra. Cậu ấy không thể tự vệ. Có lẽ tôi phải nhốt cậu ấy kín trong hang đá để ra đi. Và ai biết được nỗ lực đó sẽ gây ra chuyện gì cho cậu ấy?

“Thế mình có thể làm gì? Ngồi ở đây và nhìn cậu chết ư?” tôi nói. Cậu ấy phải biết rằng đó không phải là một lựa chọn. Rằng khán giả sẽ ghét tôi. Và nói thẳng ra, tôi cũng ghét chính mình nếu như tôi thậm chí không thèm cố gắng.

“Mình sẽ không chết. Mình hứa. Nếu cậu hứa cậu sẽ không đi,” cậu ấy nói.

Chúng tôi lâm vào bế tắc. Tôi biết tôi không thể tranh cãi với cậu ấy về việc này, nên tôi không cố. Tôi giả vờ, miễn cưỡng nghe theo. “Thế thì cậu phải làm theo những gì mình nói. Uống nước, đánh thức mình dậy khi mình bảo cậu, và ăn hết súp cho dù vị của nó kinh khủng đến thế nào!” tôi tuôn một tràng với cậu ấy.

“Đồng ý. Bắt đầu chưa?” cậu ấy hỏi.

“Đợi ở đây,” tôi nói. Không khí trở nên lạnh hơn mặc dù mặt trời chưa lặn. Tôi đã đúng về việc các Nhà thiết lập Trò chơi làm rối loạn nhiệt độ. Tôi tự hỏi liệu thứ mà một ai đó vô cùng khao khát có phải là một chiếc chăn ấm không. Món súp vẫn ngon và ấm trong chiếc bình kim loại. Và thực sự vị của nó không quá tệ.

Peeta ăn mà không phàn nàn gì, thậm chí còn vét sạch cái bình để tỏ rõ sự hăng hái. Cậu ấy lải nhải mãi về việc nó ngon thế nào, điều mà sẽ được khuyến khích nếu bạn không biết cơn sốt có thể tác động thế nào đến người ta. Nghe cậu ấy nói giống như đang nghe Haymitch trước khi chất cồn nhấn chìm ông ấy trong ý nghĩ không mạch lạc. Tôi cho cậu ấy một liều thuốc hạ sốt khác trước khi cậu ấy mất trí hoàn toàn.

Khi tôi đi xuống suối để rửa mọi thứ, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là cậu ấy sẽ chết nếu tôi không đến bữa tiệc đó. Tôi sẽ giữ được cậu ấy trong một hoặc hai ngày, và rồi nhiễm trùng sẽ lan đến tim cậu ấy hay não hoặc phổi và cậu ấy sẽ ra đi. Và tôi sẽ ở đây một mình. Một lần nữa. Chờ đợi những cống phẩm khác.

Tôi quá chìm đắm vào suy nghĩ đó đến mức suýt bỏ lỡ chiếc dù, mặc dù nó hạ cánh ngay bên cạnh tôi. Sau đó tôi nhảy với theo nó, giật nó ra khỏi nước, xé lớp vải bạc để lấy lại chiếc lọ nhỏ. Haymitch đã làm được điều đó! Ông ấy đã lấy được thuốc – tôi không biết làm cách nào, thuyết phục được một vài kẻ ngốc lãng mạn bán đi trang sức của họ – và tôi có thể cứu Peeta! Tuy nhiên nó quả là một cái lọ bé nhỏ. Nó phải cực mạnh để có thể cứu chữa được một người ốm yếu như Peeta. Một chút băn khoăn lo lắng len lỏi trong tôi. Tôi mở nút chiếc lọ và hít một hơi sâu. Tinh thần tôi sụp xuống khi ngửi thấy mùi ngọt dịu nhẹ. Để cho chắc, tôi cho một giọt vào đầu lưỡi. Không nghi ngờ gì, nó là thuốc ngủ xi rô. Nó là một loại thuốc phổ biến ở Đặc khu 12. Rẻ, là loại thuốc uống, nhưng rất công hiệu. Hầu hết mọi người đều đã uống một liều lần này hay lần khác. Chúng tôi có một ít trong một cái chai ở nhà. Mẹ tôi dùng nó cho những bệnh nhân quá kích động, làm họ ngủ đi để khâu những vết thương nặng hay làm họ bất tỉnh, hay để giúp ai đó đang đau đớn vượt qua được một đêm. Chỉ cần dùng một ít thôi. Một lọ kích cỡ này có thể làm Peeta ngủ hết cả ngày, nhưng để làm gì chứ? Tôi quá giận dữ đến nỗi suýt nữa định ném sự trợ giúp cuối cùng của Haymitch vào dòng suối thì chợt hiểu ra. Cả một ngày ư? Điều đó còn hơn những gì tôi cần.

Tôi nghiền một ít dâu rừng để mùi vị không dễ nhận biết và cho thêm vài lá bạc hà để có tác dụng tốt. Sau đó tôi quay lại hang. “Mình mang đến cho cậu một món ngon đây. Mình đã tìm được một bụi dâu rừng mới ở xa hơn một chút xuôi dòng suối.”

Peeta mở miệng ăn miếng đầu tiên mà không ngần ngại. Cậu ấy nuốt xuống và hơi nhăn mặt. “Chúng rất ngọt.”

“Đúng, chúng là dâu ngọt. Mẹ mình làm mứt từ chúng. Cậu chưa từng ăn chúng trước đây à?” tôi nói, đẩy miếng tiếp theo vào miệng cậu ấy.

“Không,” cậu ấy nói, gần như bối rối. “Nhưng vị của chúng rất quen. Dâu ngọt ư?”

“Ừ, cậu không thể kiếm được chúng ở chợ mấy, chúng chỉ mọc hoang dã,” tôi nói. Một miếng khác được nuốt vào. Chỉ còn một miếng nữa thôi.

“Chúng ngọt như xi rô,” cậu ấy nói, ăn miếng cuối cùng. “Xi rô.” Mắt cậu ấy mở to khi cậu ấy nhận ra sự thật. Tôi giữ chặt tay lên miệng và mũi cậu ấy, ép cậu ấy nuốt vào thay vì nhổ ra. Cậu ấy cố bắt mình nôn những thứ đó ra, nhưng đã quá muộn, cậu ấy đã mất dần ý thức. Thậm chí khi cậu ấy lịm đi, tôi vẫn có thể nhìn thấy trong mắt cậu ấy rằng những gì tôi đã làm là không thể tha thứ.

Tôi ngồi lại trên hai gót chân và nhìn cậu ấy trong sự pha trộn giữa nỗi buồn và sự hài lòng. Một vệt dâu dính trên cằm cậu ấy và tôi lau nó đi. “Ai không thể nói dối chứ, Peeta?” tôi nói, mặc dù cậu ấy không thể nghe thấy tôi.

Điều đó không quan trọng. Những người khác trên toàn Panem có thể.

CHƯƠNG 21

Trong những giờ còn lại trước khi đêm xuống, tôi thu thập đá và cố hết sức để ngụy trang miệng hang. Đó là một quá trình chậm chạp và khó khăn, nhưng sau bao mồ hôi và công sức di chuyển mọi thứ xung quanh, tôi hoàn toàn hài lòng với công việc của mình. Miệng hang giờ trông như một phần của một đống đá lớn, giống như nhiều đám đá khác ở xung quanh. Tôi có thể chui vào với Peeta qua một lỗ nhỏ, nhưng nó không bị phát hiện từ bên ngoài. Rất tốt, bởi vì tôi sẽ lại cần chia sẻ chiếc túi ngủ đó đêm nay. Ngoài ra, nếu tôi không thể quay về từ bữa tiệc, Peeta sẽ được che giấu nhưng không hoàn toàn bị giam cầm. Tuy nhiên tôi nghi ngờ rằng cậu ấy có thể duy trì được lâu mà không có thuốc. Nếu tôi chết ở bữa tiệc, Đặc khu 12 có vẻ như sẽ không có người chiến thắng.

Tôi làm một bữa ăn từ những con cá nhỏ, nhiều xương sống ở dòng suối này, đổ đầy mọi dụng cụ chứa nước và lọc sạch chúng, và rửa vũ khí của mình. Tôi còn lại tất cả là chín mũi tên. Tôi cân nhắc để lại con dao cho Peeta để cậu ấy có sự bảo vệ nào đó khi tôi đi xa, nhưng điều này thực sự vô ích. Cậu ấy đã đúng về việc ngụy trang là sự phòng thủ cuối cùng của cậu ấy. Nhưng tôi có thể vẫn phải dùng đến con dao. Ai biết được tôi sẽ gặp phải chuyện gì?

Đây là những thứ tôi tương đối chắc chắn. Đó là ít nhất Cato, Clove và Thresh sẽ ở gần khi bữa tiệc bắt đầu. Tôi không chắc về Mặt Cáo vì đối đầu trực tiếp không phải là phong cách hay sở trường của cô ta. Cô ta thậm chí còn bé nhỏ hơn tôi và không được trang bị vũ khí, trừ khi gần đây cô ta mới nhặt được vũ khí. Cô ta có lẽ sẽ quanh quẩn đâu đó gần đấy, xem cô ta có thể kiếm được gì. Nhưng ba người kia… tôi sẽ có rất nhiều việc phải làm. Khả năng giết từ xa là tài sản lớn nhất của tôi, nhưng tôi biết tôi sẽ phải đi thẳng vào tâm điểm của mọi thứ để lấy chiếc ba lô đó, chiếc có gắn số 12 mà Claudius Templesmith đã đề cập.

Tôi nhìn bầu trời, hy vọng bớt đi một đối thủ vào lúc bình minh, nhưng không ai xuất hiện đêm nay. Ngày mai sẽ có những gương mặt hiện trên đó. Các bữa tiệc luôn luôn mang lại những cái chết thảm.

Tôi chui vào hang, buộc chặt lại chiếc kính, và co lại nằm cạnh Peeta. Thật may tôi đã có một giấc ngủ dài hôm nay. Tôi sẽ phải thức. Tôi thực sự không nghĩ có ai đó sẽ tấn công cái hang của chúng tôi đêm nay, nhưng tôi không thể mạo hiểm lỡ mất lúc bình minh.

Đêm nay rất lạnh, lạnh đến giá buốt. Như thể các Nhà thiết lập Tṛò chơi đã thổi không khí băng giá vào đấu trường, điều mà có thể chính xác là những gì họ đã làm. Tôi nằm cạnh Peeta trong chiếc túi, cố gắng hấp thu mọi hơi nóng từ cơn sốt của cậu ấy. Thật lạ khi lại gần gũi về mặt thể xác như vậy với một người nào đó thật xa cách. Peeta cũng có thể đang ở Capitol, hay ở Đặc khu 12, hay ở trên mặt trăng ngay lúc này, cậu ấy không ở gần hơn để có thể với tới. Tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn hơn kể từ khi Trò chơi bắt đầu.

Chỉ cần chấp nhận rằng nó sẽ là một đêm tồi tệ, tôi tự nhủ. Tôi cố gắng nhưng không thể không nghĩ đến mẹ tôi và Prim, tự hỏi liệu họ có thể chợp mắt được đêm nay không. Vào giai đoạn cuối của Trò chơi như thế này, với một sự kiện quan trọng như bữa tiệc, trường học chắc chắn sẽ được nghỉ. Gia đình tôi có thể xem trên chiếc ti vi cũ gỉ, nhiễu nhập nhằng ở nhà hoặc tham gia cùng đám đông trên quảng trường để xem những màn hình lớn, rõ nét. Họ sẽ có được sự riêng tư khi ở nhà nhưng sẽ được giúp đỡ trên quảng trường. Mọi người sẽ gửi đến họ những lời lẽ tốt đẹp, một ít thức ăn nếu họ dư ra. Tôi băn khoăn liệu ông chủ tiệm bánh có tìm đến họ, đặc biệt là bây giờ khi Peeta với tôi là một đội, và thực hiện lời hứa của ông ấy là sẽ giúp cho em gái tôi luôn no bụng.

Tinh thần chắc đang lên rất cao ở Đặc khu 12. Chúng tôi hiếm khi có ai bám trụ lại cho đến thời điểm này của Trò chơi. Chắc chắn, mọi người đang rất hào hứng về tôi và Peeta, đặc biệt khi lúc này chúng tôi đang ở cùng nhau. Nếu tôi nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tiếng họ gào thét vào màn hình, cổ vũ chúng tôi. Tôi nhìn thấy gương mặt của họ – Greasy Sac và Madge, và thậm chí cả những Người giữ trị an mà đã mua thịt của tôi cũng đang vui mừng cho chúng tôi.

Và Gale. Tôi biết anh ấy. Anh ấy sẽ không hò hét và vui mừng. Nhưng anh ấy sẽ theo dõi, mọi khoảnh khắc, mọi tiến triển, và cầu mong cho tôi trở về nhà. Tôi tự hỏi liệu anh ấy có đang hi vọng rằng Peeta cũng làm được điều đó không. Gale không phải là bạn trai của tôi, nhưng liệu anh ấy có trở thành bạn trai tôi không nếu như tôi mở ra cánh cửa đó? Anh ấy đã nói về chuyện chúng tôi bỏ trốn cùng nhau. Liệu đó có phải chỉ là sự tính toán trên thực tế về cơ hội sống sót của chúng tôi khi rời khỏi đặc khu hay không? Hay còn gì hơn thế?

Tôi tự hỏi anh ấy nghĩ gì về tất cả những chuyện hôn hít này.

Qua khe hở giữa các tảng đá, tôi ngắm nhìn mặt trăng đang treo trên bầu trời. Vào lúc mà tôi ước lượng chỉ còn khoảng ba giờ đồng hồ nữa là đến bình minh, tôi bắt đầu chuẩn bị những việc cuối cùng. Tôi cẩn thận để lại cho Peeta nước và bộ đồ dùng y tế bên cạnh cậu ấy. Không có gì hữu dụng lắm nếu tôi không trở về và thậm chí những thứ này cũng chỉ kéo dài cuộc sống của cậu ấy thêm một thời gian ngắn. Sau khi cân nhắc, tôi cởi chiếc áo khoác của cậu ấy ra và mặc nó vào người tôi. Cậu ấy không cần đến nó. Không phải bây giờ, trong chiếc túi ngủ với cơn sốt của cậu ấy, và trong cả ngày, nếu tôi không ở đây để mở nó ra, cậu ấy sẽ bị quay chín trong đó. Bàn tay tôi đã cóng lại vì lạnh, nên tôi lấy đôi tất thừa ra của Rue, cắt lỗ cho các ngón tay và đeo chúng vào. Dù sao nó cũng giúp được một chút. Tôi cho đầy chiếc túi nhỏ của cô bé với thức ăn, một chai nước và băng gạc, nhét con dao vào thắt lưng, cầm cung và ống tên. Tôi chuẩn bị đi thì nhớ ra sự quan trọng của việc duy trì thói quen của cặp tình nhân bất hạnh và tôi cúi xuống, trao cho Peeta một nụ hôn dài và quyến luyến. Tôi tưởng tượng ra những tiếng thở dài não nuột phát ra từ Capitol và giả vờ lau đi giọt nước mắt của chính mình. Sau đó tôi lách qua những tảng đá để ra ngoài, hòa mình vào màn đêm.

Hơi thở của tôi tạo thành những đám khói trắng nhỏ khi nó bay ra không khí. Trời lạnh như đang ở đêm tháng mười một khi ở quê nhà. Một lần khi tôi lẻn vào rừng, tay cầm đèn lồng, cùng với Gale đến một nơi đã hẹn trước, nơi mà chúng tôi ngồi bó gối cùng nhau, nhấm nháp trà thảo mộc trong một chiếc bình kim loại bọc trong một cái mền bông, hy vọng các con thú sẽ đi ngang qua khi trời sáng. Ôi, Gale, tôi nghĩ. Giá như anh ở ngay sau lưng em lúc này…

Tôi di chuyển nhanh như dự tính. Chiếc kính hoàn toàn rõ nét, nhưng tôi vẫn mất đi việc sử dụng tai trái của mình. Tôi không biết vụ nổ đã gây ra tác hại gì, nhưng nó đã làm hỏng gì đó sâu bên trong và không thể hồi phục được. Không phải lo. Nếu tôi về được nhà, tôi sẽ cực kỳ giàu có, tôi có thể trả tiền cho ai đó để làm thính giác của tôi.

Khu rừng luôn luôn nhìn rất khác lạ vào ban đêm. Mặc dù với chiếc kính, mọi thứ vẫn có một độ nghiêng không quen thuộc với nó. Như thể những cái cây, bông hoa và các tảng đá vào ban ngày đã đi ngủ và nhẹ nhàng gửi đến những phiên bản đáng ngại hơn để thay thế vị trí của chúng. Tôi không thử bất cứ thứ gì mạo hiểm, như đi một đường mới. Tôi quay ngược lại dòng suối và đi theo đường cũ trở lại chỗ nấp của Rue gần hồ nước. Dọc đường đi, tôi không thấy dấu hiệu của cống phẩm nào khác, không một hơi thở hổn hển, không có sự va chạm nhẹ của các cành cây. Hoặc là tôi là người đầu tiên đến nơi, hoặc là những người khác đã tìm vị trí cho họ từ đêm qua. Vẫn còn hơn một tiếng nữa, có lẽ hai, khi tôi chui vào bụi cây thấp và chờ đợi cuộc tắm máu bắt đầu.

Tôi nhai vài lá bạc hà, dạ dày tôi đỡ nôn nao hơn. Tạ ơn chúa, tôi đã mặc áo khoác của Peeta. Nếu không, tôi sẽ buộc phải đi lòng vòng để giữ ấm. Bầu trời chuyển sang màu xám mờ mờ của buổi sáng và vẫn không có dấu hiệu nào của các cống phẩm khác. Điều này thực sự cũng không có gì ngạc nhiên. Mọi người tự làm mình nổi bật bằng sức mạnh hoặc cái chết hoặc sự khôn ngoan. Tôi tự hỏi liệu họ có cho rằng tôi đi cùng Peeta không? Tôi cho là Mặt Cáo và Thresh thậm chí không biết cậu ấy đã bị thương. Tất cả sẽ tốt hơn nếu họ nghĩ rằng cậu ấy đang yểm trợ tôi khi tôi tiến vào lấy chiếc ba lô.

Nhưng nó ở đâu? Đấu trường đã đủ sáng để tôi cởi chiếc kính của mình. Tôi có thể nghe thấy chim chóc buổi sáng đang hót. Chưa đến lúc ư? Trong một giây, tôi lo sợ rằng mình đã đến sai chỗ. Nhưng không, tôi chắc chắn nhớ là Claudius Templesmith đã chỉ rõ khu vực Cornucopia. Và đây là chỗ đó. Và tôi đang ở đây. Vậy bữa tiệc của tôi đâu?

Ngay khi tia nắng mặt trời đầu tiên chiếu lên chiếc sừng vàng Cornucopia, có một sự náo động trên bãi đất trống. Mặt đất trước miệng chiếc sừng mở ra và một chiếc bàn tròn với khăn trải bàn trắng như tuyết trồi lên đấu trường. Trên bàn đặt bốn chiếc ba lô, hai chiếc màu đen lớn đánh số 2 và 11, một chiếc màu xanh kích thước trung bình đề số 5 và một chiếc màu cam nhỏ nhắn – tôi thực sự có thể đeo nó quanh cổ tay mang đi – chắc chắn phải được gắn số 12.

Chiếc bàn vừa mới kêu lách cách vào vị trí thì một bóng người lao vọt vào Cornucopia, tóm lấy chiếc ba lô màu xanh lá cây và chạy biến đi. Mặt Cáo! Để mặc cô ta thực hiện được một ý tưởng thông minh và mạo hiểm đến vậy! Những người còn lại chúng tôi vẫn im ắng xung quanh bãi đất trống, đánh giá tình hình, và cô ta đã lấy được chiếc ba lô của mình. Cô ta cũng khiến tất cả chúng tôi mắc bẫy, bởi vì không ai muốn đuổi theo cô ta, không trong khi những chiếc ba lô của chính mình vẫn còn nằm chỏng chơ trên bàn. Mặt Cáo chắc hẳn phải có mục đích khi bỏ lại những chiếc ba lô khác, biết rằng lấy đi một chiếc ngoài chiếc của cô ta chắc chắn sẽ có kẻ đuổi theo. Đó đáng lẽ phải là chiến lược của tôi! Vào lúc tôi vượt qua được trạng thái ngạc nhiên, khâm phục, tức giận, ghen tỵ và thất vọng, tôi nhìn theo mái tóc bờm hung đỏ của cô ta biến mất trong rừng cây vượt khỏi tầm bắn. Hừ. Tôi luôn khiếp sợ những kẻ khác, nhưng có lẽ Mặt Cáo là một đối thủ thực sự ở đây.

Cô ta cũng làm mất thời gian của tôi, bởi vì vào lúc này rõ ràng tôi phải là người tiếp theo đến chỗ cái bàn. Bất cứ ai đến đó trước tôi sẽ dễ dàng lấy mất chiếc ba lô của tôi và chạy mất. Không do dự, tôi chạy hết tốc lực về phía cái bàn. Tôi có thể cảm nhận được nguy hiểm xuất hiện trước khi tôi có thể nhìn thấy nó. May mắn thay, con dao đầu tiên bay vèo sang bên phải tôi nên tôi có thể nghe được nó và tôi có thể làm chệch hướng nó bằng cây cung của mình. Tôi quay lại, kéo dây cung và bắn một mũi tên thẳng vào tim Clove. Cô ta nghiêng người vừa kịp để tránh được phát bắn chí tử, nhưng mũi tên đâm vào phía trên cánh tay trái của cô ta. Không may, cô ta ném dao bằng tay phải, nhưng cũng đủ để làm cô ta chậm lại một vài giây, phải nhổ mũi tên ra khỏi cánh tay, phải chịu sự đau đớn của vết thương. Tôi tiếp tục di chuyển, tự động lắp mũi tên tiếp theo, việc mà chỉ những người đã đi săn nhiều năm mới có thể làm.

Bây giờ tôi đã ở bên chiếc bàn, những ngón tay tôi hướng lại gần chiếc ba lô nhỏ màu cam. Bàn tay tôi trượt vào giữa hai quai đeo và nhanh chóng khoác nó lên cánh tay, nó thật sự quá nhỏ để vừa với bất cứ bộ phận nào khác trên cơ thể tôi, và tôi đang quay lại để bắn tiếp khi con dao thứ hai đuổi kịp tôi nhắm thẳng vào trán. Nó cứa vào phía trên lông mày bên phải của tôi, rạch ra một vết cắt sâu, làm máu trào xuống mặt tôi, che mắt tôi, tràn vào miệng với mùi vị kim loại rõ nét trong máu của chính mình. Tôi loạng choạng lùi lại nhưng vẫn cố bắn đi mũi tên đã lắp sẵn về hướng của kẻ tấn công mình. Tôi biết khi nó rời khỏi tay tôi, nó sẽ trượt. Và sau đó Clove đâm sầm vào tôi, hất tôi ngã ngửa ra, ấn vai tôi dán xuống đất bằng đầu gối cô ta.

Đây chính là nó, tôi nghĩ, và hy vọng vì Prim nó sẽ nhanh. Nhưng Clove muốn tận hưởng thời khắc này. Thậm chí cảm thấy cô ta có thời gian. Không nghi ngờ gì Cato ở đâu đó gần đây, yểm trợ cho cô ta, đợi Thresh và có thể là Peeta.

“Tên bạn trai của mày đâu, Đặc khu 12? Vẫn đang chờ đợi ư?” cô ta hỏi.

Như vậy, chừng nào chúng tôi còn nói chuyện thì tôi vẫn còn sống. “Bây giờ cậu ấy đang ở ngoài kia. Săn lùng Cato,” tôi gầm ghè với cô ta. Sau đó tôi dùng hơi từ phía trên của phổi để hét lên. “Peeta!”

Clove ấn chặt nắm đấm vào khí quản của tôi, một cách rất hiệu quả để chặn đứng tiếng hét của tôi. Nhưng đầu cô ta quay đi các hướng, và tôi biết trong một phút cô ta ít nhất cũng cho là tôi đang nói sự thật. Vì không thấy Peeta xuất hiện để cứu tôi, cô ta quay trở lại.

“Dối trá,” cô ta cười toe toét nói. “Hắn ta gần chết rồi. Cato biết anh ấy đã chém hắn ở đâu. Mày có lẽ đã buộc hắn trên một cái cây nào đó trong khi mày cố gắng để giữ cho trái tim hắn còn đập. Cái gì trong cái ba lô bé nhỏ xinh xắn này thế? Thuốc cho Chàng trai đang yêu ư? Thật tệ là hắn ta sẽ không bao giờ có được nó.”

Clove mở chiếc áo khoác ra. Nó được gài một dãy dao rất ấn tượng. Cô ta cẩn thận lựa chọn một con dao gần như rất tinh xảo, với lưỡi cong cong, sắc bén. “Tao đã hứa với Cato rằng nếu anh ấy để tao bắt được mày, tao sẽ cho khán giả một màn trình diễn hấp dẫn.”

Giờ thì tôi giãy giụa trong nỗ lực hất cô ta ra, nhưng vô ích. Cô ta quá nặng và ghì lên tôi quá chặt.

“Quên đi, Đặc khu 12. Chúng tao sẽ giết mày. Cũng giống như chúng tao đã làm với đồng minh bé nhỏ tội nghiệp của mày… tên nó là gì nhỉ? Cái con bé mà đu trên những cái cây ấy? Rue à? Chà, đầu tiên là Rue, rồi đến mày, và sau đó tao nghĩ chúng ta sẽ để cho tự nhiên chăm sóc cho Chàng trai đang yêu. Nghe thế nào?” Clove hỏi. “Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ đâu nhỉ?”

Cô ta vô ý lau đi máu trên vết thương của tôi bằng tay áo khoác. Trong một lát, cô ta xem xét mặt tôi, nghiêng sang bên này bên kia như thể nó là một khúc gỗ và cô ta đang quyết định xem chính xác họa tiết nào để khắc lên. Tôi cố gắng cắn tay cô ta, nhưng cô ta túm lấy tóc trên đỉnh đầu tôi, ấn tôi xuống đất. “Tao nghĩ…” cô ta gần như rên rừ rừ. “Tao nghĩ chúng ta sẽ bắt đầu với miệng của mày.” Tôi nghiến chặt răng khi cô ta trêu chọc phác họa đường viền môi tôi bằng đầu mũi dao.

Tôi sẽ không nhắm mắt. Lời bình luận về Rue làm tôi trào lên giận dữ, đủ tức giận khiến tôi nghĩ về việc chết với một chút tự trọng. Như hành động cuối cùng của sự thách thức, tôi sẽ nhìn chằm chằm cô ta cho đến khi tôi còn có thể nhìn, điều mà có lẽ sẽ không phải là một khoảng thời gian dài, nhưng tôi sẽ nhìn chằm chằm, tôi sẽ không thét lên. Tôi sẽ chết, theo cách nhỏ bé riêng của mình, không bị khuất phục.

“Đúng, tao nghĩ mày sẽ không cần phải dùng đến môi nữa. Có muốn gửi đến Chàng trai đang yêu một nụ hôn gió cuối cùng không?” cô ta hỏi, tôi tạo một ngụm đầy máu và nước bọt trong miệng và nhổ vào mặt cô ta. Cô ta đỏ bừng mặt vì giận dữ. “Vậy được rồi. Chúng ta bắt đầu thôi.”

Tôi lấy can đảm để chờ đợi cơn đau chắc chắn sẽ đến ngay sau đó. Nhưng khi tôi cảm nhận được mũi dao rạch vết đầu tiên trên môi, thì một hình dáng cao lớn nào đó giật phăng Clove ra khỏi người tôi và rồi cô ta đang gào thét. Lúc đầu tôi quá kinh ngạc, mất khả năng lý giải việc gì đã xảy ra. Có thể nào Peeta đến để giải cứu tôi? Liệu có phải các Nhà thiết lập Trò chơi đã gửi đến vài con thú hoang dã để tăng thêm phần thú vị? Hay một chiếc trực thăng không hiểu vì lý do gì đấy đã chộp lấy cô ta đưa lên?

Nhưng khi tôi chống người dậy bằng hai cánh tay tê cứng, tôi thấy là không phải bất cứ nguyên nhân nào nêu trên. Clove đang lủng lẳng hai chân nhấc khỏi mặt đất, bị giam chặt trên cánh tay Thresh. Tôi thở dốc, nhìn thấy cậu ta như vậy, cao vượt hẳn tôi, nắm lấy Clove như giữ một con búp bê vải. Tôi nhớ cậu ta rất to lớn, nhưng cậu ta dường như khổng lồ hơn, đầy sức mạnh hơn tôi có thể nhớ được. Có thể là cậu ta dường như đã tăng cân trong đấu trường này. Cậu ta quăng Clove một vòng và ném mạnh xuống đất.

Khi cậu ta hét lên, tôi giật nảy người, chưa bao giờ nghe cậu ta nói to quá một tiếng lẩm bẩm. “Mày đã làm gì với cô nhóc bé bỏng đó? Mày đã giết cô bé ư?”

Clove đang bò lùi lại trên bốn chi, giống như một con côn trùng điên rồ, quá sốc đến mức quên cả gọi Cato. “Không! Không, không phải tôi!”

“Mày đã nói tên cô bé. Tao đã nghe thấy. Mày đã giết cô bé?” Một ý nghĩ khác đem đến một cơn thịnh nộ mới trên nét mặt cậu ta. “Mày đã cắt cô bé giống như mày đã định làm với cô gái này ở đây à?”

“Không! Không, tôi…” Clove nhìn tảng đá, gần bằng kích cỡ một ổ bánh mì nhỏ trong tay Thresh và bỏ dở câu nói. “Cato!” cô ta hét thất thanh. “Cato!”

“Clove!” tôi nghe tiếng Cato đáp lại, nhưng hắn ta ở quá xa, tôi có thể nói quá xa, để có thể giúp gì được cho cô ta. Hắn ta đang làm gì? Cố gắng bắt được Mặt Cáo hoặc Peeta ư? Hay hắn ta đang nằm phục ở đâu đó chờ đợi Thresh và chỉ là phán đoán sai vị trí của cậu ta?

Thresh đập mạnh tảng đá vào thái dương Clove. Nó không chảy máu, nhưng tôi có thể nhìn thấy vết lõm trên đầu cô ta và tôi biết rằng cô ta đã không còn hy vọng gì nữa. Tuy nhiên, lúc này vẫn còn sự sống trên người cô ta, hơi thở dồn dập trong ngực, tiếng rên rỉ nhỏ thoát ra từ miệng cô ta.

Khi Thresh quay lại phía tôi, tảng đá giơ lên, tôi biết không ích gì khi bỏ chạy. Và cây cung của tôi trống không, mũi tên cuối cùng được lắp vào đã bay về hướng của Clove. Tôi bị khóa chặt trong cái nhìn trừng trừng từ đôi mắt màu vàng nâu rất lạ của cậu ta. “Ý cô ta là gì? Về việc Rue là đồng minh của cô?”

“Tôi – tôi – chúng tôi đã lập nhóm. Thổi bay kho vật dụng của chúng. Tôi đã cố cứu cô bé, tôi thực sự đã làm thế. Nhưng hắn đến đó trước. Đặc khu 1,” tôi nói. Có lẽ nếu cậu ta biết tôi đã cứu Rue, cậu ta sẽ không chọn một cái chết chậm chạp, tàn bạo cho tôi.

“Và cô đã giết hắn chứ?” cậu ta hỏi.

“Đúng. Tôi đã giết hắn. Và chôn cô bé trong biển hoa,” tôi nói. “Và tôi đã hát cho đến lúc cô bé ngủ.”

Nước mắt dâng lên trong khóe mắt tôi. Sự căng thẳng, cuộc chiến đấu tuôn trào với ký ức. Và tôi bị xúc động bởi Rue, và cơn đau ở đầu tôi, cùng nỗi sợ Thresh, với tiếng rên rỉ của cô gái sắp chết cách đó vài feet.

“Đến lúc ngủ ư?” Thresh nói cộc cằn.

“Đến lúc ra đi. Tôi hát cho đến lúc cô bé chết,” tôi nói. “Đặc khu của cậu… họ đã gửi bánh mì đến cho tôi.” Bàn tay tôi vươn lên nhưng không phải để rút mũi tên mà tôi biết là tôi sẽ không bao giờ kịp chạm đến. Chỉ để lau mũi. “Kết thúc nhanh, được chứ Thresh?”

Những cảm xúc mâu thuẫn hiện lên trên mặt Thresh. Cậu ta hạ thấp tảng đá và chỉ vào tôi, gần như tuyên án. “Chỉ một lần này thôi, tôi để cho cô đi. Vì cô nhóc bé bỏng đó. Cô và tôi, chúng ta hòa nhau. Không nợ nần gì nữa. Cô hiểu chứ?”

Tôi gật đầu bởi vì tôi thật sự hiểu. Về các món nợ. Về việc ghét nó. Tôi hiểu rằng nếu Thresh thắng, cậu ta sẽ phải trở về và đối mặt với một đặc khu mà đã phá vỡ tất cả các luật lệ để cảm ơn tôi và cậu ấy cũng đang phá vỡ những luật lệ đó để cảm ơn tôi. Và tôi hiểu rằng, vào lúc này, Thresh không đập vào sọ tôi.

“Clove!” tiếng Cato bây giờ gần hơn rất nhiều. Tôi có thể nói vậy qua nỗi đau trong đó khi hắn ta nhìn thấy cô ta nằm trên mặt đất.

“Bây giờ cô tốt hơn là nên chạy đi, Cô gái lửa,” Thresh nói.

Tôi không cần được nhắc đến lần thứ hai. Tôi bật dậy và chân tôi đập mạnh xuống nền đất cứng khi tôi chạy xa khỏi Thresh và Clove và âm thanh của giọng Cato. Chỉ khi tôi đến bìa rừng tôi mới quay lại một lát. Thresh và cả hai chiếc ba lô to đã biến mất ở mép bãi đất trống vào một khu vực mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Cato quỳ bên cạnh Clove, mũi lao trong tay, cầu xin cô ta ở lại với hắn. Trong một lát nữa, hắn sẽ nhận ra điều đó là vô ích, cô ta không thể cứu được nữa. Tôi lao vào rừng, liên tục gạt đi máu đang chảy vào mắt, chạy trốn giống như những con thú hoang dã bị thương. Sau một vài phút, tôi nghe thấy tiếng pháo hiệu và biết rằng Clove đã chết, rằng Cato sẽ lần theo dấu vết của một trong hai chúng tôi. Hoặc là Thresh, hoặc là tôi. Tôi tràn ngập sợ hãi, bị yếu đi do vết thương ở đầu, run rẩy. Tôi lắp một mũi tên, nhưng Cato có thể ném mũi lao đó đi xa như tôi có thể bắn tên.

Chỉ có một thứ duy nhất làm tôi bình tĩnh lại. Thresh có chiếc ba lô của Cato đựng thứ mà hắn ta rất cần. Nếu tôi phải đánh cá, thì Cato sẽ đuổi theo Thresh, chứ không phải tôi. Nhưng tôi vẫn không chậm lại khi tôi tiến tới dòng suối. Tôi lao ngay xuống, vẫn đeo bốt, và loạng choạng xuôi dòng. Tôi cởi đôi tất của Rue mà tôi đã dùng làm găng tay và ấn chúng lên trán mình, cố gắng cầm máu, nhưng chúng bị ướt sũng sau ít phút.

Không hiểu thế nào tôi vẫn quay trở về được cái hang. Tôi chui qua những tảng đá. Trong ánh sáng lốm đốm, tôi kéo chiếc ba lô nhỏ màu cam ra khỏi cánh tay mình, cắt móc cài ra, và đổ tất cả những thứ bên trong ra nền hang. Một chiếc hộp dẹt đựng một mũi tiêm. Không do dự, tôi đâm mũi tiêm vào cánh tay Peeta và chầm chậm ấn chiếc pittông.

Hai tay tôi ôm lấy đầu rồi thả rơi xuống vạt áo, trơn trượt vì máu.

Điều cuối cùng mà tôi nhớ là một con bướm đêm xinh đẹp, thanh nhã, màu xanh và bạc, đậu trên đường cong ở cổ tay mình.

CHƯƠNG 22

Âm thanh tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái nhà chúng tôi nhẹ nhàng kéo tôi tỉnh dậy. Tuy vậy tôi cố chiến đấu để quay lại với giấc ngủ, được bao bọc trong chiếc kén ấm áp bằng chăn, an toàn ở nhà. Tôi mang máng nhận ra rằng đầu mình đang đau. Có lẽ tôi đang bị cúm và đây là lý do vì sao tôi được phép nằm nghỉ trên giường, mặc dù tôi có thể nói rằng tôi đã ngủ rất lâu rồi. Tay mẹ tôi đang vuốt má tôi và tôi không đẩy nó ra như tôi sẽ làm khi tỉnh táo, không bao giờ muốn bà biết tôi khao khát sự vuốt ve dịu dàng đó như thế nào. Tôi nhớ bà đến mức nào mặc dù tôi vẫn không tin tưởng bà. Sau đó có một giọng nói, giọng nói không đúng, không phải của mẹ tôi, và tôi sợ hãi.

“Katniss,” nó nói. “Katniss, cậu có thể nghe được mình nói không?”

Mặt tôi mở ra và cảm giác về an toàn tan biến. Tôi không ở nhà, không ở với mẹ tôi. Tôi đang ở trong một cái hang tối lờ mờ, lạnh lẽo, đôi chân trần của tôi lạnh cóng dù đang được che phủ, không khí hôi hám với mùi máu không lẫn vào đâu được. Khuôn mặt hốc hác, tái nhợt của một cậu trai trượt vào tầm mắt, và sau cơn choáng váng ban đầu của sự hoảng hốt, tôi cảm thấy khá hơn. “Peeta.”

“Hey,” cậu ấy nói. “Thật tốt lại được nhìn thấy đôi mắt cậu.”

“Mình đã ngủ bao lâu rồi?” tôi hỏi.

“Không chắc. Mình tỉnh dậy tối qua và cậu đang nằm cạnh mình trong một vũng máu kinh khủng,” cậu ấy trả lời. “Mình nghĩ cuối cùng thì nó cũng đã ngừng lại, nhưng mình không ngồi dậy hay gì hết.”

Tôi rón rén nâng một tay lên đầu và thấy nó đã được băng bó. Cử động đơn giản này cũng khiến tôi thấy yếu ớt và chóng mặt. Peeta đưa một cái chai lên miệng tôi và tôi uống như chết khát.

“Cậu khá hơn rồi,” tôi nói.

“Khá hơn rất nhiều. Bất kể thứ gì cậu đã tiêm vào tay mình thì nó cũng đã phát huy tác dụng,” cậu ấy nói. “Cho đến sáng nay, gần như toàn bộ những chỗ sưng phồng ở chân mình đã biến mất.”

Cậu ấy có vẻ không tức giận về việc tôi đã lừa cậu ấy, đánh thuốc mê, rồi chạy đến bữa tiệc. Có lẽ tôi đã quá kiệt sức và tôi sẽ nghe về điều đó sau khi tôi khỏe lên. Nhưng vào lúc này, cậu ấy hoàn toàn dịu dàng.

“Cậu đã ăn chưa?” tôi hỏi.

“Mình rất tiếc phải nói rằng mình đã ngốn hết ba miếng thịt groosling đó trước khi mình nhận ra rằng nó có thể phải để dành cho một thời gian. Đừng lo, mình sẽ trở lại nhịn ăn một cách nghiêm khắc,” cậu ấy nói.

“Không, điều đó rất tốt. Cậu cần phải ăn. Mình sẽ sớm đi săn thôi,” tôi nói.

“Không quá sớm, được chứ?” cậu ấy nói. “Cậu chỉ cần để mình chăm sóc cho cậu một thời gian.”

Tôi có vẻ thực sự không có nhiều lựa chọn. Peeta cho tôi ăn một vài miếng thịt groosling và nho khô và cho tôi uống rất nhiều nước. Cậu ấy xoa bóp cho chân tôi ấm lên và ủ chúng trong chiếc áo khoác của cậu ấy trước khi kéo chiếc túi ngủ lên đến kín xung quanh cằm tôi.

“Giày và tất của cậu vẫn ẩm và thời tiết thì không giúp gì được nhiều,” cậu ấy nói. Có tiếng sấm rền vang, và tôi nhìn thấy những tia lửa điện dọc ngang bầu trời qua khe hở của các tảng đá. Mưa nhỏ giọt xuyên qua một vài chiếc lỗ trên trần hang, nhưng Peeta đã dựng một loại màn chắn trên đầu tôi và phần trên cơ thể bằng cách buộc miếng ni lông hình vuông lên tảng đá phía trên tôi.

“Mình tự hỏi không biết cái gì đã đưa đến cơn bão này? Ý mình là, nó nhằm đến ai?” Peeta nói.

“Cato và Thresh,” tôi trả lời không cần suy nghĩ. “Mặt Cáo sẽ ở trong chỗ trú ẩn của cô ta ở đâu đó, và Clove… cô ta rạch mặt mình và sau đó…” giọng tôi nhỏ dần.

“Mình biết Clove đã chết. Mình nhìn thấy điều đó trên bầu trời tối qua,” cậu ấy nói. “Cậu đã giết cô ta à?”

“Không. Thresh đã đập vỡ sọ cô ta bằng một tảng đá,” tôi trả lời.

“Thật may là cậu ta cũng đã không bắt được cậu,” Peeta nói.

Ký ức về bữa tiệc quay trở lại hoàn toàn sinh động và tôi cảm thấy phát ốm. “Cậu ta đã. Nhưng cậu ta để mình đi.” Sau đó, tất nhiên, tôi phải kể cho cậu ấy. Về những thứ mà tôi đã giữ riêng cho mình bởi vì cậu ấy quá ốm để hỏi và dù sao thì tôi lúc đó cũng chưa sẵn sàng để tường thuật lại. Chẳng hạn như vụ nổ và cái tai của tôi, cái chết của Rue và tên đến từ Đặc khu 1, và ổ bánh mì. Tất cả những thứ mà dẫn đến sự việc xảy ra với Thresh và cậu ta đã trả những khoản nợ đó như thế nào.

“Cậu ta để cậu đi vì cậu ta không muốn nợ cậu cái gì ư?” Peeta hỏi với vẻ hoài nghi.

“Phải. Mình không hy vọng cậu có thể hiểu được điều đó. Cậu đã luôn có quá đầy đủ. Nhưng nếu như cậu sống ở Seam, mình sẽ không cần phải giải thích,” tôi nói.

“Và đừng cố. Rõ ràng mình quá mơ hồ về nó.”

“Nó giống như chiếc bánh mì đó. Mình dường như chưa từng quên được đã mắc nợ cậu như thế nào về điều đó,” tôi nói.

“Chiếc bánh mì ư? Chiếc nào? Từ khi chúng ta còn là những đứa trẻ à?” cậu ấy hỏi. “Mình nghĩ chúng ta có thể cho qua chuyện đó. Ý mình là, cậu chỉ vừa mới đem mình trở về từ cõi chết.”

“Nhưng cậu đã không quen biết mình. Chúng ta thậm chí chưa từng nói chuyện. Ngoài ra, nó là món quà đầu tiên mà luôn là món nợ khó trả nhất. Mình thậm chí sẽ không ở đây để làm việc này nếu cậu không giúp mình lúc đó,” tôi nói. “Dù sao đi nữa thì tại sao cậu lại làm vậy?”

“Tại sao ư? Cậu biết tại sao mà,” Peeta nói. Tôi nhẹ lắc đầu mà vẫn cảm thấy đau đớn. “Haymitch nói phải mất rất nhiều công sức để thuyết phục cậu.”

“Haymitch ư?” tôi hỏi. “Ông ta phải làm gì với điều đó?”

“Không có gì,” Peeta nói. “Vậy, Cato và Thresh à? Mình nghĩ quá nhiều để hy vọng rằng họ sẽ đồng thời tiêu diệt lẫn nhau.”

Nhưng ý nghĩ đó làm tôi khó chịu. “Mình nghĩ chúng ta sẽ thích Thresh. Mình nghĩ cậu ta sẽ là bạn của chúng ta nếu ở Đặc khu 12,” tôi nói.

“Vậy thì hãy hy vọng rằng Cato sẽ giết cậu ấy, để chúng ta sẽ không phải làm việc đó,” Peeta dứt khoát.

Tôi không muốn Cato giết Thresh chút nào. Tôi không muốn bất cứ ai phải chết. Nhưng điều này hoàn toàn không phải là thứ mà những người chiến thắng nên lượn xung quanh đấu trường để nói ra. Mặc dù tôi đã cố gắng hết sức, tôi có thể cảm thấy những giọt nước mắt bắt đầu trào lên trong mắt tôi.

Peeta nhìn tôi đầy quan tâm. “Sao thế? Cậu đang rất đau à?”

Tôi cho cậu ấy một câu trả lời khác, bởi vì nó hoàn toàn là sự thật nhưng nó có thể được coi là một khoảnh khắc yếu đuối thay vì một người sắp chết. “Mình muốn về nhà, Peeta,” tôi nũng nịu, như một đứa bé.

“Cậu sẽ về. Mình hứa,” cậu ấy nói, và cúi xuống trao cho tôi một nụ hôn.

“Mình muốn về nhà ngay bây giờ,” tôi nói.

“Nghe mình nói này. Cậu ngủ trở lại và mơ về nhà. Và cậu sẽ thực sự về nhà trước khi cậu nhận ra,” cậu ấy nói. “Được chứ?”

“Được,” tôi thì thầm. “Đánh thức mình dậy nếu cậu cần mình canh gác.”

“Mình khỏe và đã được nghỉ ngơi, rất cảm ơn cậu và Haymitch. Ngoài ra, ai mà biết được việc này sẽ kéo dài bao lâu?” cậu ấy nói.

Ý cậu ấy là gì? Về cơn bão ư? Về thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi mà nó đem lại cho chúng tôi? Hay bản thân Trò chơi? Tôi không biết, nhưng tôi quá buồn và mệt mỏi để hỏi.

Đã là buổi tối khi Peeta đánh thức tôi. Cơn mưa trở thành một trận trút nước, tạo thành những dòng nước chảy xuyên qua trần hang nơi mà lúc trước chỉ nhỏ giọt. Peeta đã đặt cái bình đựng nước xuýt bên dưới chỗ tệ nhất và căng lại miếng ni lông mà đã bị chệch hướng khỏi tôi. Tôi cảm thấy khá hơn một chút, có thể ngồi dậy mà không cảm thấy quá chóng mặt, và tôi rất đói. Peeta cũng vậy. Rõ ràng cậu ấy đã chờ tôi tỉnh dậy để ăn và đang rất háo hức để bắt đầu.

Thức ăn không còn lại nhiều. Hai miếng thịt groosling, một mớ nhỏ lộn xộn các loại củ và một ít hoa quả khô.

“Chúng ta có nên cố chịu đựng và để dành nó không?” Peeta hỏi.

“Không, hãy ăn hết đi. Dù sao thì thịt groosling cũng để lâu rồi, và thứ cuối cùng mà chúng ta cần là bị ốm bởi thức ăn ôi thiu,” tôi trả lời, chia thức ăn thành hai phần bằng nhau. Chúng tôi cố gắng ăn thật chậm, nhưng cả hai quá đói nên đã ăn hết trong ít phút. Dạ dày tôi vẫn chưa thỏa mãn. “Ngày mai sẽ là ngày đi săn,” tôi nói.

“Mình sẽ không giúp được gì nhiều với việc đó,” Peeta nói. “Mình chưa từng đi săn trước đây.”

“Mình sẽ đi săn và cậu sẽ nấu nướng,” tôi nói. “Và cậu luôn có thể hái lượm.”

“Mình ước là có loại bụi cây bánh mì nào đó ở ngoài kia,” Peeta nói.

“Chiếc bánh mì họ gửi cho mình từ Đặc khu 11 lúc đó vẫn còn ấm,” tôi nói với một tiếng thở dài. “Đây, nhai cái này đi.” Tôi đưa cho cậu ấy hai chiếc lá bạc hà và cho một vài lá vào miệng mình.

Thật khó để nhìn được ngay cả màn trình chiếu trên bầu trời, nhưng nó cũng đủ rõ để biết không có thêm cái chết nào trong ngày hôm nay. Vậy là Cato và Thresh vẫn chưa xử lý nhau.

“Thresh đã đi đâu? Ý mình là, cái gì ở phía xa của bãi đất tròn?” tôi hỏi Peeta.

“Một cánh đồng. Trải dài hút tầm mắt, nó mọc đầy cỏ cao đến vai mình. Mình không biết, có lẽ một số trong chúng là ngũ cốc. Có những khoảng màu sắc khác nhau. Nhưng không có lối đi,” Peeta nói.

“Mình cá một số trong chúng là ngũ cốc. Mình cũng cá là Thresh cũng biết loại nào,” tôi nói. “Cậu đã vào đó chưa?”

“Chưa. Không ai thực sự muốn săn lùng Thresh trong đám cỏ đó. Có một cảm giác rùng rợn ở đó. Mỗi khi nhìn vào cánh đồng đó, tất cả những gì mình nghĩ là những nguy hiểm tiềm tàng. Rắn, những con thú dữ, và cát lún,” Peeta nói. “Có thể có bất cứ thứ gì ở đó.”

Tôi không cho là vậy nhưng những lời của Peeta nhắc tôi nhớ đến những lời cảnh báo người ta đưa ra về việc không được vượt ra ngoài hàng rào ở Đặc khu 12. Trong một lát, tôi không thể ngăn mình so sánh cậu ấy với Gale, người sẽ coi cánh đồng đó như một nguồn thực phẩm đầy tiềm năng cũng như một mối đe dọa. Thresh chắc chắn cũng vậy. Chính xác thì không phải Peeta là một người yếu đuối và cậu ấy đã chứng minh mình không phải là một kẻ nhát gan. Nhưng có những thứ mà bạn không thắc mắc gì nhiều, tôi cho là vậy, khi nhà bạn luôn luôn có mùi giống như chiếc bánh mì nướng trong lò, trong khi Gale thì đặt câu hỏi về mọi thứ. Peeta sẽ nghĩ gì về những giễu cợt bất kính chúng tôi trao đổi với nhau khi chúng tôi phá vỡ các luật lệ mỗi ngày? Liệu điều đó có làm cậu ấy sốc không? Những thứ mà chúng tôi nói về Panem? Những bài diễn văn tố cáo của Gale chống lại Capitol?

“Có lẽ có một bụi cây bánh mì trong cánh đồng đó,” tôi nói. “Có lẽ đó là lý do tại sao bây giờ Thresh nhìn có vẻ được ăn uống đầy đủ hơn khi chúng ta bắt đầu Trò chơi.”

“Hoặc là thế, hoặc là cậu ta có những nhà tài trợ rất hào phóng,” Peeta nói. “Mình tự hỏi chúng ta sẽ phải làm gì để Haymitch gửi cho chúng ta một ít bánh mì.”

Tôi nhướng mày trước khi tôi nhớ ra cậu ấy không biết về thông điệp Haymitch gửi cho chúng tôi hai đêm trước. Một nụ hôn bằng một bình nước xuýt. Đó cũng không phải là điều tôi có thể buột miệng nói ra được. Nói ra ý nghĩ của mình sẽ tiết lộ cho khán giả rằng sự lãng mạn chỉ là trò giả dối để đánh lừa sự thông cảm của họ và sẽ dẫn đến hậu quả là không có chút thức ăn nào được gửi đến. Không hiểu sao, tôi thấy khá tin tưởng rằng mình phải cho mọi thứ trở lại quỹ đạo của nó. Một thứ đơn giản để bắt đầu. Tôi vươn đến và nắm tay cậu ấy.

“Chà, ông ấy có lẽ phải dùng rất nhiều tài nguyên để giúp mình hạ gục cậu,” tôi tinh nghịch nói.

“Đúng, về điều đó,” Peeta nói, nắm chặt các ngón tay của cậu ấy với của tôi. “Đừng thử những thứ như thế một lần nữa.”

“Không thì sao?” tôi hỏi.

“Không thì… thì…” Cậu ấy không thể nghĩ ra được gì hay ho. “Chỉ là cho mình một phút.”

“Vấn đề là gì?” tôi cười toe toét.

“Vấn đề là cả hai chúng ta đều còn sống. Điều mà càng củng cố thêm ý nghĩ trong đầu cậu là cậu đã làm một việc đúng đắn,” Peeta nói.

“Mình đã làm một việc đúng đắn,” tôi nói.

“Không! Chỉ là đừng, Katniss!” Cậu ấy siết chặt tay, làm đau tay tôi, và có sự giận dữ thực sự trong giọng cậu ấy. “Đừng chết vì mình. Cậu sẽ không cho mình thêm bất cứ ân huệ nào nữa. Được chứ?”

Tôi hốt hoảng bởi sự xúc động mãnh liệt của cậu ấy nhưng nhận ra một cơ hội tuyệt vời để có được thức ăn, nên cố gắng nắm bắt. “Có lẽ mình làm điều đó vì mình, Peeta, cậu có bao giờ nghĩ vậy không? Có lẽ cậu không phải người duy nhất… người lo lắng về… nó sẽ như thế nào nếu…”

Tôi lúng túng. Tôi không ăn nói trơn tru được như Peeta. Và trong lúc đang nói, ý nghĩ về việc thực sự mất đi Peeta dội lại tôi và tôi nhận ra tôi không muốn cậu ấy chết đến mức nào. Và nó không phải là vì các nhà tài trợ. Và nó cũng không phải vì những việc sẽ xảy ra khi quay trở về quê nhà. Và nó cũng không chỉ là vì tôi không muốn cô đơn. Đó chính là cậu ấy. Tôi không muốn mất đi cậu bé với chiếc bánh mì đó.

“Nếu sao, Katniss?” cậu ấy dịu dàng hỏi.

Tôi ước tôi có thể kéo cánh cửa chớp đóng lại, khóa kín khoảnh khắc này khỏi những con mắt tọc mạch của Panem. Ngay cả nếu nó nghĩa là mất đi nguồn thực phẩm. Bất kể tôi đang cảm thấy gì thì đó cũng là việc của tôi chứ không phải của bất cứ ai khác.

“Đó chính xác là loại chủ đề mà Haymitch đã dặn mình phải tránh xa,” tôi lảng tránh, mặc dù Haymitch chưa bao giờ nói gì về việc này. Thực tế, có lẽ lúc này ông ấy đang nguyền rủa tôi vì đã bỏ đi mất cơ hội trong một khoảnh khắc đầy cảm xúc như thế này. Nhưng Peeta dường như nắm bắt được nó.

“Thế thì mình sẽ chỉ phải tự mình điền vào chỗ trống thôi,” cậu ấy nói, và dịch lại gần tôi.

Đây là nụ hôn đầu tiên mà cả hai chúng tôi đều hoàn toàn tỉnh táo. Không ai trong chúng tôi mất đi ý thức do ốm hay đau đớn hay hoàn toàn bất tỉnh. Môi chúng tôi không bị thiêu đốt bởi cơn sốt hay cảm lạnh. Đây là nụ hôn đầu tiên mà tôi thực sự cảm thấy trong ngực mình xao động. Ấm áp và ham muốn. Đây là nụ hôn đầu tiên khiến tôi muốn hôn thêm một lần nữa.

Nhưng tôi không có được nó. Ừ thì tôi cũng có thêm một nụ hôn thứ hai, nhưng nó chỉ là một nụ hôn nhẹ trên chóp mũi bởi vì Peeta bị xao lãng. “Mình nghĩ vết thương của cậu lại đang chảy máu. Nào, nằm xuống, dù sao cũng đến giờ đi ngủ rồi,” cậu ấy nói.

Đôi tất của tôi giờ đã đủ khô để đi vào. Tôi để Peeta mặc chiếc áo khoác vào. Hơi lạnh ẩm thấp dường như cứa vào tận xương tôi, nên cậu ấy chắc là gần đóng băng rồi. Tôi cũng khăng khăng đòi canh gác trước, mặc dù không ai trong chúng tôi cho là có ai đó sẽ tới trong thời tiết này. Nhưng cậu ấy không đồng ý trừ khi tôi cũng nằm trong túi ngủ, và tôi đang run cầm cập nên thật vô ích để phản đối. Trái ngược hoàn toàn với hai đêm trước đây, khi tôi cảm thấy Peeta ở xa hàng triệu dặm, lúc này tôi hoàn toàn cảm nhận được sự gần gũi của cậu ấy. Khi chúng tôi đã ổn định chỗ nằm, cậu ấy kéo đầu tôi xuống gối lên tay cậu ấy, cánh tay kia ôm lấy tôi đầy bảo vệ ngay cả khi cậu ấy đã ngủ. Không ai từng ôm tôi thế này trong một thời gian dài. Từ khi cha tôi mất và tôi ngừng tin tưởng mẹ, không cánh tay của ai làm tôi cảm thấy an toàn như thế này.

Với sự trợ giúp của đôi kính, tôi nằm nhìn những giọt nước nhỏ lộp độp xuống nền hang. Nhịp nhàng và như ru ngủ. Vài lần, tôi thiếp đi một lúc và rồi giật mình tỉnh giấc, cảm thấy tội lỗi và tức giận chính mình. Sau ba hoặc bốn giờ, tôi không thể kìm được, tôi phải đánh thức Peeta bởi tôi không thể mở mắt ra nổi. Cậu ấy có vẻ không phiền gì.

“Ngày mai, khi trời tạnh, mình sẽ tìm cho chúng ta một chỗ thật cao trên cây để cả hai chúng ta đều được ngủ ngon lành,” tôi hứa khi tôi chìm dần vào giấc ngủ.

Nhưng ngày hôm sau, thời tiết không tốt lên. Mưa vẫn trút xuống như thể các Nhà thiết lập Trò chơi đang có ý định cuốn trôi tất cả chúng tôi đi. Sấm sét đùng đùng như rung chuyển mặt đất. Peeta đang xem xét việc ra ngoài để tìm kiếm thức ăn, nhưng tôi bảo cậu ấy rằng trong cơn bão này thì điều đó chẳng có ích gì. Cậu ấy sẽ không thể nhìn thấy gì cách ba feet trước mặt và cậu ấy sẽ chỉ kết thúc với rắc rối là ướt sũng người ngấm đến tận da. Cậu ấy biết tôi đúng, nhưng sự cồn cào trong dạ dày chúng tôi đang ngày càng trở nên đau đớn.

Ngày chậm chạp chuyển sang buổi tối và không có dấu hiệu nào khả quan về thời tiết. Haymitch là hy vọng duy nhất của chúng tôi, nhưng không có gì được gửi tới, hoặc là do thiếu tiền – mọi thứ sẽ có giá cắt cổ – hoặc bởi vì ông ấy đang không hài lòng với biểu hiện của chúng tôi. Có lẽ là lý do sau. Tôi là người đầu tiên thừa nhận rằng chúng tôi chính xác là không có gì thu hút trong ngày hôm nay. Đói khát, yếu ớt do bị thương, cố gắng không làm hở miệng vết thương. Chúng tôi đang ngồi rúc vào nhau trong chiếc túi ngủ, đúng, nhưng chủ yếu là để giữ ấm. Điều hứng thú duy nhất mà mỗi người chúng tôi làm là các giấc ngủ ngắn.

Tôi thực sự không chắc làm thế nào để khơi gợi sự lãng mạn. Nụ hôn đêm qua rất tuyệt, nhưng để tạo được một cái khác sẽ mất ít nhiều suy tính. Có những cô gái ở Seam, và một vài cô gái tầng lớp thương nhân nữa, sẽ lèo lái những vấn đề này rất dễ dàng. Nhưng tôi chưa bao giờ có nhiều thời gian hay năng lực cho nó. Dù sao, rõ ràng chỉ một nụ hôn thôi là chưa đủ, vì nếu đủ thì chúng tôi đã có thức ăn từ đêm qua. Bản năng nói với tôi rằng Haymitch không chỉ tìm kiếm sự gần gũi về thân thể, ông ấy muốn một thứ gì đó riêng tư hơn. Thể loại vớ vẩn mà ông ấy đã cố bắt tôi kể về bản thân khi chúng tôi thực hành cho buổi phỏng vấn. Tôi thiểu năng về mặt đó, nhưng Peeta thì không. Có lẽ cách tiếp cận tốt nhất là để cậu ấy trò chuyện.

“Peeta,” tôi tươi tỉnh. “Cậu đã nói trong buổi phỏng vấn rằng cậu đã phải lòng mình mãi mãi. Vậy mãi mãi đó bắt đầu từ lúc nào?”

“Ồ, để xem nào. Mình cho là ngày đầu tiên đến trường. Lúc đó chúng ta mới năm tuổi. Cậu mặc một chiếc váy kẻ đỏ và tóc cậu… nó được tết làm hai bím thay vì một như bây giờ. Cha mình đã chỉ cậu cho mình khi hai cha con đang đứng đợi xếp hàng,” Peeta kể.

“Cha cậu ư? Tại sao?” tôi hỏi.

“Ông nói, ‘Nhìn thấy cô bé kia không? Cha đã muốn cưới mẹ cô bé, nhưng bà ấy đã bỏ trốn cùng một thợ mỏ,’” Peeta nói.

“Gì cơ? Cậu đang bịa chuyện đấy à!” tôi kêu lên.

“Không, chuyện thật đấy,” Peeta nói. “Và mình nói, ‘Một thợ mỏ ư? Tại sao bà ấy lại muốn một thợ mỏ nếu bà ấy có thể lấy cha?’ Và ông nói, ‘Bởi vì khi ông ấy hát… ngay cả chim chóc cũng im lặng để lắng nghe.’”

“Điều đó đúng. Chúng làm vậy. Ý mình là chúng đã như vậy,” tôi nói. Tôi sững sờ và đột nhiên xúc động, nghĩ về việc người chủ tiệm bánh đã kể điều này cho Peeta. Tôi đột nhiên nhận ra rằng việc tôi ngại ngần ca hát, sự xua đuổi âm nhạc của tôi có lẽ thực sự không phải vì tôi nghĩ nó là một việc phí thời gian. Có lẽ là vì nó gợi cho tôi nhớ đến cha tôi quá nhiều.

“Vậy là ngày hôm đó, trong tiết học nhạc buổi sáng, giáo viên đã hỏi ai biết bài dân ca trong thung lũng. Bàn tay của cậu vươn thẳng lên. Cô giáo cho cậu đứng lên trên một chiếc ghế đẩu, và để cậu hát cho cả lớp nghe. Và mình thề là tất cả chim chóc bên ngoài cửa sổ đều trở nên im lặng,” Peeta kể.

“Ôi, làm ơn đi,” tôi nói, cười khúc khích.

“Không, điều đó thực sự xảy ra. Và ngay khi bài hát của cậu kết thúc, mình đã biết rằng – cũng giống như mẹ cậu – mình đã thành người lạc mất hồn,” Peeta nói. “Trong mười một năm sau đó, mình đã cố gắng lấy dũng khí để nói chuyện với cậu.”

“Mà không thành công,” tôi chen vào.

“Không thành công. Cho nên, theo một cách nào đó, tên mình được rút ra trong buổi chọn cống phẩm lại là một may mắn thực sự,” Peeta nói.

Trong một lúc, tôi gần như vui mừng một cách ngớ ngẩn và rồi sự hỗn loạn ào đến. Bởi vì chúng tôi chỉ định đóng vở kịch vớ vẩn này, giả vờ yêu nhau chứ không phải tình yêu thực sự. Nhưng câu chuyện của Peeta có phần sự thật trong đó. Phần mà về cha tôi và lũ chim chóc. Và tôi thực sự đã hát trong ngày đầu tiên đến trường, mặc dù tôi không nhớ bài hát đó. Và chiếc váy kẻ đỏ… có một chiếc, chiếc đã được chuyển từ tôi cho Prim, được giặt đến rách tả tơi sau khi cha tôi mất.

Điều đó cũng lý giải một việc khác nữa. Tại sao Peeta chịu bị ăn đòn để cho tôi chiếc bánh mì trong ngày đói kém khủng khiếp đó. Vậy, nếu những chi tiết đó là sự thật thì… liệu tất cả có phải sự thật không?

“Cậu có một… trí nhớ thật đáng nể,” tôi ngắc ngứ.

“Mình nhớ mọi thứ về cậu,” Peeta nói, vuốt một lọn tóc rơi ra ra sau tai tôi. “Cậu là người đã không hề để ý đến.”

“Giờ thì mình để ý,” tôi nói.

“À, chẳng qua là ở đây mình không có nhiều sự cạnh tranh,” cậu ấy nói.

Tôi muốn rút lui, đóng những cánh cửa chớp đó lại một lần nữa, nhưng tôi biết tôi không thể. Nó như thể tôi nghe thấy tiếng Haymitch đang thì thầm vào tai mình, “Nói đi! Nói đi!”

Tôi nuốt mạnh xuống và để cho những lời đó bật ra. “Cậu không có sự cạnh tranh ở bất cứ đâu hết.” Và lần này, chính tôi ghé đến.

Môi chúng tôi chỉ vừa mới chạm nhau khi âm thanh tiếng kim loại va đập làm chúng tôi giật nảy người. Tôi giương cung lên, mũi tên đã sẵn sàng để bay đi, nhưng không có tiếng động nào khác. Peeta ngó qua các tảng đá và rồi reo lên. Trước khi tôi có thể ngăn lại, cậu ấy đã lao ra ngoài trời mưa, rồi đưa cho tôi một thứ gì đó. Một chiếc dù bạc có gắn một chiếc giỏ. Tôi xé toạc nó ra ngay lập tức và bên trong là cả một bữa tiệc – những chiếc bánh cuộn còn mới, pho mát dê, táo, và tuyệt nhất là một cái liễn, không thể tin được là nó đựng thịt cừu hầm chung với gạo. Món ăn rất ngon mà tôi đã nói với Caesar Flickerman rằng đó là thứ ấn tượng nhất Capitol đã cung cấp.

Peeta lách người trở vào hang, mặt cậu ấy sáng bừng lên như mặt trời. “Mình đoán cuối cùng Haymitch đã phát chán với việc nhìn chúng ta sắp chết đói.”

“Mình cũng đoán vậy,” tôi trả lời.

Nhưng trong đầu tôi có thể nghe thấy những lời nói tự mãn, nếu có một chút bực tức, của Haymitch, “Đúng vậy, đó là những gì ta tìm kiếm, cháu yêu ạ.”

CHƯƠNG 23

Mọi tế bào trong cơ thể đều muốn tôi cắm đầu vào món hầm và ngấu nghiến nó, hết miếng này đến miếng khác vào miệng. Nhưng tiếng Peeta đã ngăn tôi lại. “Chúng ta tốt hơn là nên ăn món hầm đó chậm thôi. Có nhớ đêm đầu tiên trên tàu không? Những thức ăn giàu dinh dưỡng làm mình phát ốm và mình thậm chí còn không sắp chết đói lúc đó.”

“Cậu nói đúng. Và mình có thể nuốt sạch món này!” tôi nói một cách tiếc nuối. Nhưng tôi không làm thế. Chúng tôi hoàn toàn hiểu được. Mỗi người lấy một chiếc bánh cuộn, nửa quả táo và một phần món hầm trộn cơm to bằng quả trứng. Tôi tự bắt mình ăn món hầm chậm bằng những thìa nhỏ – họ thậm chí còn gửi cho chúng tôi cả dụng cụ ăn bằng bạc và đĩa – thưởng thức từng miếng một. Khi chúng tôi ăn hết, tôi nhìn chằm chằm chiếc đĩa đầy khao khát. “Mình muốn nữa.”

“Mình cũng vậy. Nghe mình này. Chúng ta sẽ đợi một tiếng nữa, nếu thức ăn vẫn ở yên trong bụng, thì chúng ta sẽ lấy thêm phần ăn khác,” Peeta nói.

“Đồng ý,” tôi đáp. “Đây sẽ là một giờ dài đằng đẵng.”

“Có lẽ không lâu đến vậy đâu,” Peeta nói. “Cậu đang nói gì ngay trước khi thức ăn được gửi đến nhỉ? Điều gì đó về mình… không có sự cạnh tranh… điều tốt đẹp nhất từng xảy ra với cậu…”

“Mình không nhớ phần cuối cùng,” tôi nói, hy vọng ánh sáng ở đây quá yếu khiến các camera không thể chộp được khuôn mặt đỏ bừng của tôi.

“Ồ, đúng vậy. Đó là những gì mình đã nghĩ,” cậu ấy nói. “Ngồi lui vào đi, mình sắp đóng băng rồi.”

Tôi ngồi lui vào nhường chỗ cho cậu ấy trong chiếc túi ngủ. Chúng tôi dựa lưng vào thành hang, đầu tôi dựa vào vai cậu ấy, cánh tay cậu ấy thì ôm lấy tôi. Tôi có thể cảm thấy Haymitch đang huých khuỷu tay thúc tôi tiếp tục diễn. “Vậy, từ khi chúng ta năm tuổi, cậu thậm chí chưa từng chú ý đến bất cứ cô gái nào khác ư?” tôi hỏi cậu ấy.

“Không, mình chú ý đến gần như mọi cô gái, nhưng không ai trong số họ tạo cho mình ấn tượng lâu ngoài cậu,” cậu ấy trả lời.

“Mình chắc rằng điều đó sẽ làm cha mẹ cậu phát hoảng, cậu thích một cô gái ở Seam,” tôi nói.

“Hầu như không. Nhưng mình không thể quan tâm ít đi. Dù sao, nếu chúng ta trở về, cậu sẽ không phải là cô gái đến từ Seam, mà sẽ là cô gái đến từ Khu đô thị cho Người chiến thắng Victor’s Village,” cậu ấy nói.

Đúng vậy. Nếu chúng tôi thắng, mỗi chúng tôi sẽ có một căn nhà ở một khu đô thị dành riêng cho những người chiến thắng Trò chơi sinh tử. Trước đây rất lâu, khi Trò chơi sinh tử bắt đầu, Capitol đã xây dựng một dãy nhà rất đẹp ở mỗi đặc khu. Tất nhiên, ở đặc khu chúng tôi, chỉ một chiếc được sử dụng. Hầu hết những người khác chưa bao giờ sống ở đó.

Một ý nghĩ phiền muộn chợt đến. “Nhưng khi đó, hàng xóm duy nhất của chúng ta sẽ là Haymitch!”

“À, điều đó thật tốt,” Peeta nói, ôm chặt lấy tôi trong cánh tay cậu ấy. “Cậu và mình và Haymitch. Rất ấm cúng. Picnic, sinh nhật, những đêm đông dài ngồi quanh đống lửa kể lại những câu chuyện về Trò chơi sinh tử trước đây.”

“Mình đã nói với cậu là ông ấy ghét mình mà!” tôi nói, nhưng tôi không thể không cười khi nghĩ đến hình ảnh Haymitch sẽ trở thành người bạn mới của tôi.

“Chỉ thỉnh thoảng thôi. Khi ông ấy tỉnh táo, mình chưa từng nghe thấy ông ấy nói bất cứ điều gì không tốt về cậu,” Peeta nói.

“Ông ta chẳng bao giờ tỉnh táo cả!” tôi phản đối.

“Đúng thật. Mình đang nghĩ đến ai nhỉ? Ồ, mình biết. Đó là Cinna, người rất thích cậu. Nhưng chủ yếu là do cậu không cố bỏ chạy khi anh ta đốt lửa trên người cậu,” Peeta nói. “Mặt khác, Haymitch… chà, nếu mình là cậu, mình sẽ tránh mặt Haymitch hoàn toàn. Ông ấy ghét cậu.”

“Mình nghĩ cậu đã nói rằng mình là người ông ta yêu thích,” tôi nói.

“Ông ấy ghét mình hơn,” Peeta đáp lại. “Mình nghĩ nhìn chung ông ta không thích tất cả mọi người.”

Tôi biết khán giả sẽ thích màn nói đùa của chúng tôi về Haymitch. Ông ấy đã lượn đi lượn lại khá lâu, ông ấy gần như đã trở thành một người bạn cũ của một vài người trong số họ. Và sau vụ ông ấy lao đầu xuống khỏi khán đài trong buổi chọn cống phẩm, mọi người đều biết ông ấy. Vào lúc này, họ chắc hẳn đã lôi ông ấy ra khỏi phòng điều khiển để phỏng vấn về chúng tôi. Không thể biết được ông ấy sẽ dựng lên những chuyện bịa đặt gì. Ông ấy dường như ở thế bất lợi vì hầu hết các cố vấn đều có một cộng sự, một người chiến thắng khác để giúp đỡ họ trong khi Haymitch phải sẵn sàng hành động bất cứ lúc nào. Cũng hơi giống tôi khi tôi ở một mình trong đấu trường. Tôi tự hỏi ông ấy đang chống đỡ như thế nào, với việc uống rượu, sự chú ý, và áp lực của việc cố gắng giúp chúng tôi sống sót.

Thật buồn cười. Haymitch và tôi không chịu nổi nhau, nhưng có lẽ Peeta đã đúng về việc chúng tôi giống nhau bởi vì ông ấy dường như có thể giao tiếp với tôi bằng cách chọn thời điểm gửi các món quà đến. Chẳng hạn như làm thế nào tôi biết tôi chắc phải đang ở gần nguồn nước khi ông ấy không gửi đồ tiếp tế đến và làm thế nào tôi biết thuốc ngủ xi rô không chỉ là một thứ giúp làm giảm sự đau đớn của Peeta và bây giờ làm thế nào tôi biết rằng tôi phải tiếp tục đóng vở kịch lãng mạn này. Ông ấy thực sự đã không bỏ nhiều công sức liên hệ với Peeta. Có lẽ ông ấy nghĩ một bát nước xuýt sẽ chỉ là một bát nước xuýt đối với Peeta, trong khi tôi lại có thể nhìn ra được sợi dây liên hệ với nó.

Một ý nghĩ lóe lên, và tôi ngạc nhiên là câu hỏi này đến giờ mới xuất hiện. Có lẽ bởi vì chỉ gần đây tôi mới nhìn nhận Haymitch dưới góc độ hiếu kỳ. “Cậu nghĩ ông ấy đã làm điều đó như thế nào?”

“Ai cơ? Làm gì?” Peeta hỏi.

“Haymitch. Cậu nghĩ ông ấy đã làm thế nào để thắng Trò chơi sinh tử?” tôi nói.

Peeta suy ngẫm điều này một lúc trước khi trả lời. Haymitch có vóc dáng vạm vỡ, nhưng không phải những biểu tượng về thể chất như Cato hay Thresh. Ông ấy cũng không đặc biệt đẹp trai. Không theo cái cách mà khiến các nhà tài trợ trút quà như mưa cho bạn. Và ông ấy cũng quá không thân thiện. Thật khó để hình dung ra bất cứ ai có thể lập nhóm với ông ấy. Chỉ có một cách duy nhất Haymitch có thể chiến thắng, và Peeta đã nói ra điều đó vừa đúng lúc tôi tự mình đi đến kết luận.

“Ông ấy thông minh hơn những người khác,” Peeta nói.

Tôi gật đầu, và để cho cuộc đối thoại dừng tại đó. Nhưng trong sâu thẳm tôi tự hỏi liệu có phải Haymitch tỉnh táo đủ lâu để giúp tôi và Peeta vì ông ấy nghĩ rằng chúng tôi có thể có trí thông minh để tồn tại. Có lẽ ông ấy không phải lúc nào cũng say xỉn. Có lẽ, ngay từ đầu, ông ấy đã cố gắng giúp các cống phẩm. Nhưng sau đó điều đó trở nên không thể chịu đựng nổi. Đó phải như địa ngục khi cố vấn cho hai đứa trẻ và rồi nhìn chúng chết. Hết năm này sang năm khác. Tôi nhận ra rằng nếu tôi ra khỏi đây, đó sẽ trở thành công việc của tôi. Cố vấn cho cô gái đến từ Đặc khu 12. Ý nghĩ đó thật quá ghê tởm. Tôi đẩy nó ra khỏi đầu.

Khoảng nửa giờ qua đi trước khi tôi quyết định tôi phải ăn tiếp. Bản thân Peeta cũng quá đói để tranh cãi. Khi tôi chuẩn bị hai phần thịt cừu hầm với cơm ra đĩa, chúng tôi nghe thấy bài quốc ca bắt đầu vang lên. Peeta dán mắt qua khe hở giữa các tảng đá để nhìn bầu trời.

“Tối nay sẽ không có gì để xem đâu,” tôi nói, hứng thú với món hầm hơn nhìn bầu trời nhiều. “Chẳng có việc gì đã xảy ra cả, nếu không chúng ta đã nghe thấy tiếng pháo hiệu.”

“Katniss,” Peeta nói nhỏ.

“Gì thế? Chúng ta có nên chia thêm bánh cuộn không?” tôi hỏi.

“Katniss,” cậu ấy nhắc lại, nhưng tôi thấy mình đang muốn lờ đi.

“Mình sẽ chia thêm 1 phần. Nhưng mình sẽ để dành pho mát cho ngày mai,” tôi nói. Tôi thấy Peeta đang nhìn chằm chằm mình. “Gì đây?”

“Thresh chết rồi,” Peeta nói.

“Không thể nào,” tôi nói.

“Họ chắc đã bắn pháo hiệu lúc đang sấm sét và chúng ta đã bỏ lỡ nó,” Peeta nói.

“Cậu chắc chứ. Ý mình là, trời đang mưa như trút ngoài kia. Mình không biết làm thế nào cậu có thể nhìn rõ được thứ gì,” tôi nói. Tôi đẩy cậu ấy ra khỏi những tảng đá và liếc mắt ra nhìn bầu trời đang mưa tối đen như mực. Trong khoảng mười giây, tôi bắt được hình ảnh mờ mờ méo mó của Thresh và rồi biến mất. Cũng giống như cậu ấy vậy.

Tôi ngồi sụp xuống dựa vào tảng đá, trong giây lát quên đi nhiệm vụ trên tay mình. Thresh đã chết. Tôi nên vui mừng, đúng không? Bớt đi một cống phẩm phải đối đầu. Và còn là một người rất mạnh nữa chứ. Nhưng tôi không vui. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là Thresh đã để tôi đi, để tôi chạy trốn vì Rue, người đã chết với một mũi lao đâm vào bụng…

“Cậu ổn chứ?” Peeta hỏi.

Tôi nhún vai không thể hiện gì, dùng hai cánh tay ôm chặt lấy cơ thể mình. Tôi phải chôn dấu đi nỗi đau thực sự bởi không ai sẽ đánh cược vào một cống phẩm lại đi khóc than cho cái chết của đối thủ. Rue là một trường hợp. Chúng tôi đã là đồng minh. Cô bé còn quá nhỏ. Nhưng sẽ không ai hiểu được nỗi đau buồn của tôi trước vụ án mạng của Thresh. Từ đó bất chợt làm tôi bất động. Vụ án mạng! May mắn thay, tôi không thốt ra. Điều đó sẽ không cho tôi bất cứ lợi thế nào trong đấu trường. Những gì tôi nói là, “Chỉ là… nếu chúng ta không thắng… mình muốn Thresh sẽ làm được điều đó. Vì cậu ấy đã để mình đi. Và vì Rue.”

“Ừ, mình hiểu,” Peeta đáp. “Nhưng điều này có nghĩa là chúng ta đang tiến gần thêm một bước để trở về Đặc khu 12.” Cậu ấy đặt một đĩa thức ăn vào tay tôi. “Ăn đi. Nó vẫn còn ấm.”

Tôi ăn một miếng thịt hầm để thể hiện rằng mình không thực sự quan tâm, nhưng nó giống như keo trong miệng tôi và phải mất khá nhiều công sức để nuốt xuống. “Điều đó cũng có nghĩa là Cato sẽ trở lại để săn lùng chúng ta.”

“Và hắn ta cũng lại có đồ tiếp tế,” Peeta nói.

“Hắn chắc là đã bị thương, mình cá là vậy,” tôi nói.

“Điều gì khiến cậu nghĩ vậy?” Peeta hỏi.

“Bởi vì Thresh sẽ không bao giờ chịu gục ngã mà không chiến đấu. Cậu ấy rất mạnh, ý mình là cậu ấy từng rất mạnh. Và họ ở trong lãnh thổ của cậu ấy,” tôi nói.

“Tốt,” Peeta đáp lại. “Cato càng bị thương nặng càng tốt. Mình tự hỏi Mặt Cáo đang xoay xở thế nào.”

“Ồ, cô ta sẽ ổn thôi,” tôi cáu kỉnh. Tôi vẫn tức giận ý tưởng trốn ở Cornucopia của cô ta, còn tôi đã không làm vậy. “Có vẻ sẽ dễ bắt được Cato hơn cô ta.”

“Có lẽ họ sẽ tự bắt lẫn nhau và chúng ta sẽ chỉ việc về nhà,” Peeta nói. “Nhưng có lẽ chúng ta nên cẩn thận hơn về việc canh gác. Mình đã ngủ gật mất mấy lần.”

“Mình cũng vậy,” tôi thừa nhận. “Nhưng đêm nay sẽ không.”

Chúng tôi im lặng ăn hết thức ăn và sau đó Peeta đề nghị được canh gác trước. Tôi rúc sâu vào chiếc túi ngủ bên cạnh cậu ấy, kéo mũ áo che lên mặt để tránh các máy quay. Tôi chỉ cần một vài khoảnh khắc riêng tư để có thể giải phóng những cảm xúc trên gương mặt mình mà không bị nhìn thấy. Bên dưới chiếc mũ, tôi lặng lẽ nói lời vĩnh biệt Thresh và cám ơn cậu ấy đã để tôi sống. Tôi hứa sẽ nhớ cậu ấy và, nếu có thể, sẽ làm điều gì đó để giúp đỡ gia đình cậu ấy và gia đình Rue, nếu tôi thắng. Sau đó tôi trốn vào giấc ngủ, cảm thấy dễ chịu với chiếc bụng no nê và hơi ấm của Peeta bên cạnh mình.

Khi Peeta đánh thức tôi sau đó, điều đầu tiên tôi ghi nhận là mùi thơm của pho mát dê. Cậu ấy đang cầm một nửa chiếc bánh cuộn được phết lớp kem trắng đó và phía trên đặt vài lát táo. “Đừng nổi điên,” cậu ấy nói. “Mình phải ăn thêm. Đây là nửa của cậu.”

“Ồ, tốt,” tôi nói, ngay lập tức cắn một miếng to. Miếng pho mát đầy chất béo này có vị giống như loại Prim làm. Những miếng táo thì thật giòn và ngọt. “Ừm.”

“Chúng mình làm pho mát dê và trang trí táo ở tiệm bánh,” cậu ấy nói.

“Cá là cái đó đắt,” tôi nói.

“Quá đắt cho gia đình mình ăn. Trừ khi nó đã để lâu rồi. Tất nhiên, trên thực tế mọi thứ nhà mình ăn đều là đồ đã để lâu,” Peeta nói, kéo chiếc túi ngủ lên bao phủ lấy cậu ấy. Chưa đầy một phút, cậu ấy đã ngáy.

Hừm. Tôi đã luôn cho rằng những người chủ cửa hàng sống một cuộc sống dễ chịu.

Và đó là sự thật, Peeta đã luôn có đủ thức ăn. Nhưng cũng có điều gì đó buồn chán về việc phải sống cả đời với những chiếc bánh mì cũ, những ổ bánh khô, cứng mà không ai cần. Một điều về chúng tôi, từ khi tôi đem thức ăn về nhà hàng ngày, là phần lớn chúng rất tươi, bạn phải đảm bảo là nó sẽ không bị ôi thiu.

Vào một thời điểm trong ca gác của tôi, cơn mưa ngừng lại, không phải dần dần mà tất cả cùng một lúc. Cơn trút nước kết thúc và chỉ còn lại những giọt nước chảy xuống từ các cành cây và dòng chảy cuồn cuộn của con suối đang ngập tràn nước bên dưới kia. Mặt trăng tròn đầy, đẹp đẽ ló ra, và mặc dù không có đôi kính tôi vẫn có thể nhìn rõ bên ngoài. Tôi không thể xác định được mặt trăng đó có phải là thực không hay đơn thuần chỉ là một hình chiếu lên của các Nhà thiết lập Trò chơi. Tôi biết là nó đã tròn rất gần thời điểm tôi rời nhà. Tôi và Gale đã ngắm trăng mọc khi chúng tôi đi săn vào chiều muộn.

Tôi đã đi bao lâu rồi? Tôi đoán tôi đã ở trong đấu trường khoảng hai tuần, và đã có khoảng một tuần chuẩn bị ở Capitol. Có lẽ mặt trăng đã hoàn thành chu kỳ của nó. Vì một lý do nào đó, tôi khao khát mong rằng nó chính là mặt trăng của tôi, mặt trăng mà tôi đã ngắm trong khu rừng bao quanh Đặc khu 12. Điều đó sẽ cho tôi một cái gì đó để bấu víu trong cái thế giới siêu thực của đấu trường này, nơi mà sự chân thực của mọi thứ đều bị nghi ngờ.

Còn lại bốn người.

Lần đầu tiên, tôi tự cho phép mình thực sự nghĩ đến khả năng tôi có thể về nhà. Đến danh tiếng. Đến sự giàu có. Đến ngôi nhà của riêng tôi tại Victor’s Village. Mẹ tôi và Prim sẽ sống ở đó với tôi. Không còn lo lắng bị đói ăn. Một kiểu tự do mới. Nhưng rồi… sao? Cuộc sống hàng ngày của tôi sẽ như thế nào? Phần lớn nó sẽ được dùng cho việc hấp thụ thức ăn ư? Bỏ điều đó đi và tôi thực sự không chắc tôi là ai, cái tạo nên con người mình gì? Ý nghĩ đó làm tôi hơi sợ. Tôi nghĩ về Haymitch, với tất cả tiền của ông ấy. Cuộc sống của ông ấy đã trở nên như thế nào? Ông ấy sống cô độc, không vợ con, phần lớn thời gian ông ấy thức là say xỉn. Tôi không muốn cũng kết thúc như vậy.

“Nhưng mày sẽ không cô độc,” tôi thì thầm với chính mình. Tôi có mẹ tôi và Prim. Ừ thì trong một khoảng thời gian. Và sau đó… tôi không muốn nghĩ về lúc đó, khi Prim đã trưởng thành, mẹ tôi đã ra đi. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ kết hôn, không bao giờ mạo hiểm mang một đứa trẻ đến thế giới này. Bởi vì nếu có một thứ mà người chiến thắng không thể đảm bảo thì đó chính là sự an toàn của con bạn. Tên của những đứa con tôi sẽ vẫn được đưa vào quả cầu chọn cống phẩm như con của tất cả những người khác. Và tôi thề là tôi sẽ không để chuyện đó xảy ra.

Mặt trời cuối cùng cũng mọc, ánh sáng của nó lọt qua những khe hở và tỏa lên khuôn mặt Peeta. Cậu ấy sẽ trở thành người như thế nào nếu chúng tôi trở về? Chàng trai tốt bụng, khó hiểu này, người có thể đưa ra những lời nói dối thật thuyết phục khiến toàn bộ Panem tin rằng cậu ấy đang yêu tôi một cách tuyệt vọng, và tôi sẽ thừa nhận rằng, có những lúc cậu ấy khiến chính tôi cũng tin điều đó. Ít nhất, chúng ta sẽ là bạn, tôi nghĩ. Không có gì thay đổi thực tế là chúng tôi đã cứu sống lẫn nhau ở đây. Và trên hết, cậu ấy sẽ luôn là cậu bé với chiếc bánh mì đó. Bạn tốt. Mặc dù trên hết… và tôi có thể cảm thấy đôi mắt xám của Gale đang nhìn tôi khi tôi ngắm nhìn Peeta, suốt quãng đường từ Đặc khu 12.

Sự buồn bực làm tôi di chuyển. Tôi nghiêng người và lắc vai Peeta. Đôi mắt cậu ấy mở ra nhưng vẫn ngái ngủ và khi chúng tập trung vào tôi, cậu ấy kéo tôi xuống cho một nụ hôn dài.

“Chúng ta đang lãng phí mất thời gian đi săn đấy,” tôi nói khi tôi cuối cùng cũng rời ra được.

“Mình sẽ không gọi đó là lãng phí,” cậu ấy vươn vai khi ngồi dậy. “Vậy có phải chúng ta sẽ đi săn với cái dạ dày rỗng tuếch để tạo cho chúng ta một động lực không?”

“Không phải chúng ta,” tôi nói. “Chúng ta tự nhồi nhét mình là để cho chúng ta sức khỏe.”

“Tính cả mình vào,” Peeta nói. Nhưng tôi có thể thấy cậu ấy ngạc nhiên khi tôi chia chỗ thịt cừu hầm và cơm ra làm hai phần và đưa một đĩa đầy cho cậu ấy. “Tất cả chỗ này ư?”

“Chúng ta sẽ kiếm lại trong ngày hôm nay,” tôi nói, và cả hai chúng tôi cắm mặt vào đĩa của mình. Dù đã nguội, nó vẫn là một trong những món ngon nhất mà tôi từng ăn. Tôi buông nĩa và dùng ngón tay vét nốt những miếng nước sốt cuối cùng. “Mình có thể cảm thấy Effie đang rùng mình ghê tởm bộ dạng của mình.”

“Hey, Effie, nhìn này!” Peeta kêu lên. Cậu ấy ném chiếc nĩa của mình bay qua vai và theo đúng nghĩa đen là dùng lưỡi liếm sạch cái đĩa của cậu ấy, tạo ra âm thanh to và thỏa mãn. Sau đó cậu ấy gửi một nụ hôn gió về hướng chung chung cho cô ta và hô lên, “Chúng tôi nhớ chị, Effie!”

Tôi lấy tay bịt miệng cậu ấy, nhưng tôi đang cười. “Dừng lại đi! Cato có thể đang ở ngay bên ngoài hang của chúng ta.”

Cậu ấy kéo tay tôi ra. “Sao mình phải quan tâm chứ? Giờ mình đã có cậu bảo vệ rồi,” Peeta nói, kéo tôi về phía mình.

“Thôi nào,” tôi nói trong sự bực bội, giải thoát mình khỏi cái ôm của cậu ấy nhưng không trước khi cậu ấy có được một nụ hôn khác.

Khi chúng tôi đóng gói đồ đạc và đứng ở bên ngoài cái hang, trạng thái của chúng tôi trở nên cẩn trọng. Nó như thể trong những ngày vừa qua, được bảo vệ bởi các tảng đá, cơn mưa và việc Cato ra tay trước với Thresh, chúng tôi đã có được một khoảng thời gian trì hoãn, một dạng nghỉ ngơi. Bây giờ, mặc dù ngày nắng ấm, cả hai chúng tôi đều nhận thức rõ rằng chúng tôi thực sự đã quay trở lại Trò chơi. Tôi đưa cho Peeta con dao của mình, vì bất cứ loại vũ khí nào cậu ấy đã từng có thì nó cũng bị mất lâu rồi, và cậu ấy gài nó vào thắt lưng. Bảy mũi tên cuối cùng của tôi – trong số mười hai chiếc tôi đã hy sinh ba chiếc cho vụ nổ, hai chiếc cho bữa tiệc – đang kêu lạch cạch bởi để trong ống đựng tên hơi lỏng lẻo. Tôi không thể đánh mất thêm cái nào nữa.

“Lúc này cậu ta chắc đang săn tìm chúng ta,” Peeta nói. “Cato không phải loại người ngồi đợi con mồi của mình tình cờ đi ngang qua.”

“Nếu hắn ta bị thương…” tôi bắt đầu.

“Nó sẽ không có gì khác,” Peeta ngắt lời. “Nếu cậu ta có thể di chuyển, cậu ta sẽ vẫn tìm đến.”

Với cả cơn mưa kia, dòng suối chảy tràn ra hai bên bờ của nó vài feet. Chúng tôi dừng lại đó để bổ sung nước. Tôi kiểm tra những cái bẫy mà tôi đặt vài ngày trước và thấy rằng chúng trống không. Không hề ngạc nhiên dưới thời tiết như vậy. Bên cạnh đó, tôi không nhìn thấy nhiều con thú hay dấu hiệu của chúng ở khu vực này.

“Nếu chúng ta muốn có thức ăn, chúng ta tốt hơn là nên quay lại khu vực săn bắn trước đây của mình,” tôi nói.

“Quyền ra quyết định của cậu. Chỉ cần bảo cậu cần mình làm gì,” Peeta đáp lại.

“Để mắt canh chừng,” tôi nói. “Chú ý vào các tảng đã nhiều nhất có thể, thật không khôn ngoan nếu để lại dấu vết cho hắn ta lần theo. Và lắng nghe cho cả hai chúng ta.” Đến thời điểm này, rõ ràng là vụ nổ đã phá hủy hoàn toàn khả năng nghe của tai trái tôi.

Tôi sẽ bước đi trong nước để che đi dấu vết hoàn toàn, nhưng tôi không chắc chân Peeta có thể nhúng nước. Mặc dù thuốc đã ngăn chặn sự nhiễm trùng, cậu ấy vẫn còn rất yếu. Trán tôi bị đau bởi vết dao cắt, nhưng sau ba ngày máu đã ngừng chảy. Tuy nhiên tôi vẫn quấn băng quanh đầu, đề phòng trường hợp sự ráng sức sẽ làm nó chảy máu lại.

Khi chúng tôi đi dọc theo dòng suối, chúng tôi đi qua nơi tôi tìm thấy Peeta ngụy trang trong cỏ và bùn. Một điều tốt là nhờ trận mưa như trút nước và bờ suối bị ngập lụt, mọi dấu vết về chỗ ẩn nấp của cậu ấy đã được quét sạch. Điều đó nghĩa là, nếu cần thiết, chúng tôi có thể quay lại cái hang. Tuy nhiên, tôi cũng không mạo hiểm làm việc đó khi Cato đang lần theo chúng tôi.

Những tảng đá cuội lớn thu nhỏ dần rồi chuyển sang thành những viên sỏi, và sau đó, tôi nhẹ cả người khi chúng tôi quay lại khu rừng thông và chỗ mặt rừng hơi nghiêng. Lần đầu tiên tôi nhận ra chúng tôi có một vấn đề. Đi từ địa hình toàn đá với cái chân bị thương chưa khỏi – ừ thì tất nhiên bạn sẽ gây ra một ít tiếng động. Nhưng ngay cả khi đi trên thảm lá kim êm ái thì Peeta vẫn thật ồn ào. Và ý tôi ồn àotức là thật sự ồn ào, như thể cậu ấy đang dậm mạnh chân hay gì đó. Tôi quay lại nhìn cậu ấy.

“Gì thế?” cậu ấy hỏi.

“Cậu phải di chuyển nhẹ nhàng hơn,” tôi nói. “Quên Cato đi thì cậu cũng đang đuổi hết mọi con thỏ trong vòng bán kính mười dặm đấy.”

“Thật ư?” cậu ấy thốt lên. “Xin lỗi, mình đã không biết.”

Vậy là, chúng tôi bắt đầu lại và cậu ấy đã đi nhẹ hơn một chút, nhưng thậm chí chỉ với một tai nghe được, cậu ấy vẫn làm tôi giật mình.

“Cậu có thể cởi giày ra không?” tôi gợi ý.

“Ở đây ư?” cậu ấy kêu lên không tin, như thể tôi đã yêu cầu cậu ấy đi chân không trên than nóng hay gì đó. Tôi phải tự nhắc mình rằng cậu ấy vẫn chưa quen với rừng, rằng nó là một nơi đáng sợ, cấm kị ngoài hàng rào của Đặc khu 12. Tôi nghĩ về Gale, với bước đi nhẹ như nhung của anh ấy. Thật kỳ lạ, làm sao anh ấy có thể gần như không gây tiếng động như vậy, ngay cả khi lá cây rụng và thật là một thách thức để di chuyển mà không làm đánh động các con thú. Tôi có thể cảm thấy rằng anh ấy đang cười to ở nhà.

“Đúng,” tôi kiên nhẫn nói. “Mình cũng sẽ cởi. Cách này sẽ giúp chúng ta im lặng hơn.” Như thể tôi đã tạo ra tiếng động vậy. Vậy là cả hai chúng tôi tháo giày và tất, và trong khi có một chút cải thiện, tôi có thể thề là cậu ấy đang cố gắng làm gãy mọi cành cây mà chúng tôi dẫm phải.

Không cần phải nói, mặc dù mất vài tiếng đồng hồ để đi tới chỗ cắm trại của tôi và Rue trước đây, tôi vẫn không bắn được gì. Nếu dòng suối êm ả, cá có thể là một lựa chọn, nhưng dòng chảy vẫn còn quá mạnh. Khi chúng tôi dừng lại để nghỉ ngơi và uống nước, tôi cố gắng tìm ra một giải pháp. Lý tưởng nhất, bây giờ tôi sẽ gạt Peeta ra để làm mấy việc vặt thu lượm rau củ đơn giản và đi săn, nhưng rồi cậu ấy sẽ bị bỏ lại với chỉ một con dao để tự vệ, chống lại ngọn lao và sức mạnh vượt trội của Cato. Nên điều tôi thực sự muốn là cố gắng và giấu cậu ấy ở một chỗ nào đó an toàn, rồi đi săn, và quay trở về đón cậu ấy. Nhưng tôi có linh cảm là lòng tự trọng sẽ khiến cậu ấy không chịu làm theo đề xuất của tôi.

“Katniss,” cậu ấy lên tiếng. “Chúng ta cần phải chia ra. Mình biết mình đang đánh động các con thú.”

“Chỉ vì một chân của cậu đang bị đau thôi,” tôi nói một cách rộng lượng, bởi vì thực sự, bạn có thể nói đó chỉ là một phần nhỏ của vấn đề.

“Mình biết,” cậu ấy nói. “Vậy, tại sao cậu không tiếp tục? Chỉ cho mình một vài loại cây cối có thể thu lượm và đó là cách để cả hai chúng ta đều được việc.”

“Không nếu như Cato đến và giết cậu.” Tôi đã cố để nói nó theo cách dễ chịu nhất, nhưng nó vẫn nghe như tôi nghĩ cậu ấy là người yếu đuối.

Đáng ngạc nhiên là cậu ấy chỉ cười. “Xem này, mình có thể ứng phó với Cato. Mình đã chiến đấu với cậu ta trước đây, không phải sao?”

Phải rồi, và điều đó đem đến kết quả thật tuyệt. Cậu kết thúc bằng việc nằm chờ chết trong một bờ suối đầy bùn. Đó là điều tôi muốn nói, nhưng không thể. Sau cùng thì cậu ấy đã cứu sống tôi bằng việc đấu với Cato. Tôi thử một cách khác. “Hay là cậu trèo lên một cái cây và làm nhiệm vụ một người quan sát trong lúc mình đi săn có được không?” Tôi nói, cố gắng làm cho nó nghe như một công việc vô cùng quan trọng.

“Hay là cậu chỉ cho mình cái gì có thể ăn được xung quanh đây và đi kiếm cho chúng ta ít thịt có được không?” cậu ấy nói, nhại lại giọng điệu của tôi. “Chỉ đừng đi xa, trong trường hợp cậu cần trợ giúp.”

Tôi thở dài và chỉ cho cậu ấy vài loại củ để đào. Chúng tôi cần thức ăn, không nghi ngờ gì. Một quả táo, hai chiếc bánh cuộn và một viên pho mát to bằng một quả mận sẽ không duy trì được lâu. Tôi sẽ chỉ đi một quãng ngắn và hy vọng Cato đang ở xa.

Tôi dạy cậu ấy huýt sáo tiếng chim – không phải một giai điệu giống của Rue mà chỉ là huýt sáo hai nốt đơn giản – để chúng tôi có thể dùng cho việc thông báo rằng chúng tôi vẫn ổn. Thật may cậu ấy làm việc này rất tốt. Để lại chiếc ba lô cho cậu ấy, tôi lên đường.

Tôi cảm thấy giống như mình trở lại tuổi mười một, bị giới hạn nhưng không phải bởi sự an toàn trong hàng rào mà là bởi Peeta, tự cho phép mình chỉ được đi săn trong khoảng cách hai mươi, có lẽ ba mươi yard. Dù sao, đi xa khỏi cậu ấy, khu rừng trở nên sống động với âm thanh của muông thú. Được đảm bảo bởi tiếng huýt sáo đều đặn của cậu ấy, tôi tự cho mình đi xa hơn và rất nhanh đã có hai con thỏ và một con sóc béo tròn. Tôi quyết định thế là đủ. Tôi có thể đặt vài cái bẫy và bắt một ít cá. Cùng với chỗ củ Peeta kiếm được, chỗ này sẽ đủ cho hiện tại.

Khi tôi quay trở lại được một quãng ngắn, tôi nhận ra chúng tôi đã không trao đổi tín hiệu một lúc khá lâu. Khi tôi huýt sáo mà không nhận được phản hồi, tôi bắt đầu chạy. Không lâu sau, tôi tìm thấy chiếc ba lô, một chồng các loại củ xếp ngăn nắp bên cạnh nó. Tấm ni lông đã được trải trên mặt đất nơi mặt trời có thể chiếu đến một lớp dâu rừng rải trên đó. Nhưng cậu ấy đâu?

“Peeta!” Tôi hoảng hốt gọi. “Peeta!” Tôi quay phắt về phía tiếng sột soạt của bụi cây và suýt nữa bắn một mũi tên trúng cậu ấy. May thay tôi kéo cung tên lệch đi vào giây cuối cùng và nó bắn vào một gốc sồi ở bên trái cậu ấy. Cậu ấy nhảy lùi lại, hất văng một nắm dâu rừng lên tán cây.

Nỗi sợ hãi của tôi biến thành cơn giận dữ. “Cậu đang làm cái gì vậy? Đáng lẽ cậu phải ở đây, chứ không phải chạy đi lung tung trong rừng như vậy!”

“Mình tìm thấy một ít dâu rừng bên bờ suối,” cậu ấy giải thích, rõ ràng là đang bối rối trước sự tức giận của tôi.

“Mình đã huýt sáo. Tại sao cậu không đáp lại?” Tôi cáu gắt với cậu ấy.

“Mình đã không nghe thấy. Nước chảy quá to, mình cho là thế,” cậu ấy nói. Cậu ấy tiến lại và đặt hai tay lên vai tôi. Đó là lúc tôi cảm thấy mình đang run rẩy.

“Mình đã nghĩ rằng Cato đã giết cậu!” tôi gần như quát lên.

“Không, mình ổn.” Peeta vòng cánh tay ôm lấy tôi, nhưng tôi không phản ứng gì. “Katniss?”

Tôi đẩy ra, cố gắng sắp xếp lại cảm xúc của mình. “Nếu hai người đã thống nhất về tín hiệu, họ phải giữ đúng thỏa thuận. Bởi vì nếu một người trong họ không đáp trả thì họ đang gặp rắc rối, đúng không?”

“Đúng!” cậu ấy nói.

“Được rồi. Bởi vì đó là điều đã xảy ra với Rue, và mình đã phải nhìn cô bé chết!” Tôi quay lưng lại với cậu ấy, đi đến chỗ chiếc ba lô và mở một bình nước mới, mặc dù tôi vẫn còn một ít nước trong bình của mình. Nhưng tôi vẫn chưa sẵn sàng tha thứ cho cậu ấy. Tôi nhìn thấy thức ăn. Bánh cuộn và táo vẫn chưa đụng đến, nhưng ai đó rõ ràng đã lấy đi một ít pho mát. “Và cậu đã ăn mà không có mình!” Tôi thực sự không quan tâm, tôi chỉ muốn có thứ gì đó khác để nổi điên lên.

“Gì cơ? Không, mình không ăn,” Peeta nói.

“Ồ, và mình cho là những quả táo đã ăn pho mát,” tôi châm chọc.

“Mình không biết cái gì đã ăn pho mát,” Peeta nói chậm rãi và rõ ràng, như thể đang cố gắng để không mất bình tĩnh, “nhưng không phải mình. Mình đã xuống suối để hái dâu. Cậu có muốn một ít không?”

Tôi thực sự muốn, nhưng tôi không muốn nguôi giận quá nhanh. Tôi bước lại và xem chúng. Tôi chưa từng nhìn thấy loại này trước đây. Không, tôi đã từng thấy nó. Nhưng không phải ở trong đấu trường. Chúng không phải loại dâu của Rue, mặc dù chúng khá giống. Chúng cũng không giống với bất cứ loại nào tôi đã từng học trong đợt huấn luyện. Tôi cúi xuống cầm lên một ít, vân vê chúng bằng các ngón tay.

Tiếng nói của cha tôi vang vọng trong tâm trí. “Không phải chúng, Katniss. Đừng bao giờ ăn chúng. Chúng là dâu nightlock. Con sẽ chết trước khi chúng vào đến dạ dày con.”

Đúng lúc ấy, pháo hiệu được bắn lên. Tôi xoay người, nghĩ rằng Peeta đổ gục trên mặt đất, nhưng cậu ấy chỉ đang nhướn mày. Chiếc trực thăng xuất hiện cách chỗ chúng tôi chừng một trăm yard. Những gì còn lại là cơ thể gầy mòn của Mặt Cáo đang được đưa lên không trung. Tôi có thể nhìn thấy tóc mái đỏ của cô ta rực lên trong ánh mặt trời.

Tôi lẽ ra nên biết khi tôi nhìn thấy miếng pho mát bị mất…

Peeta ôm lấy tôi, đẩy tôi về phía một cái cây. “Trèo lên. Hắn ta sẽ đến đây chỉ trong một giây thôi. Chúng ta sẽ có lợi thế hơn khi chiến đấu với hắn ta từ trên cao.”

Tôi ngăn cậu ấy lại, đột nhiên bình tĩnh. “Không, Peeta, cô ta là do cậu giết, không phải Cato.”

“Cái gì? Mình thậm chí chưa từng nhìn thấy cô ta từ ngày đầu tiên đến đây,” cậu ấy nói. “Làm thế nào mình có thể giết được cô ta?”

Để trả lời, tôi giơ đám dâu ra.

CHƯƠNG 24

Phải mất một lúc để giải thích tình huống cho Peeta. Mặt Cáo đã đánh cắp thức ăn từ đống hàng tiếp tế như thế nào trước khi tôi thổi bay nó, cô ta đã cố gắng lấy đủ để duy trì sự sống nhưng không đủ để bất cứ ai phát hiện ra như thế nào, làm thế nào cô ta không nghi ngờ sự an toàn của những quả dâu chúng tôi chuẩn bị cho chính mình ăn.

“Mình tự hỏi làm thế nào cô ta tìm được chúng ta,” Peeta nói. “Lỗi của mình, mình cho là vậy, nếu như mình không quá gây ồn như cậu nói.”

Chúng tôi dường như đã rất khó để lần theo như lần theo một đàn gia súc vậy, nhưng tôi cố gắng để hòa nhã. “Và cô ta rất thông minh. Ừ, đúng vậy đấy. Cho đến khi cậu vượt mặt cô ta.”

“Không cố ý. Dù sao nó có vẻ không công bằng. Ý mình là, cả hai chúng ta có thể cũng sẽ chết.” Cậu ấy tự kiểm tra mình. “Không, tất nhiên, chúng ta sẽ không. Cậu đã nhận ra chúng, đúng không? ”

Tôi gật đầu. “Chúng mình gọi chúng là nightlock.”

“Thậm chí cả cái tên nghe cũng thật chết chóc,” cậu ấy nói. “Mình xin lỗi, Katniss. Mình đã thực sự nghĩ rằng chúng giống với những quả dâu mà cậu đã hái về.”

“Đừng xin lỗi. Điều đó chỉ có nghĩa là chúng ta đã tiến gần thêm một bước nữa để về nhà, đúng không ?” tôi hỏi.

“Mình sẽ vứt hết chỗ còn lại,” Peeta nói. Cậu ấy thu mảnh ni lông màu xanh lại, cẩn thận để không bị nát những quả dâu bên trong, và đi đổ chúng vào trong rừng.

“Đợi đã!” tôi kêu lên. Tôi lấy chiếc bao da vốn thuộc về tên đến từ Đặc khu 1 và cho vào đó một ít dâu lấy từ miếng ni lông. “Nếu chúng có thể đánh lừa Mặt Cáo, có lẽ chúng cũng có thể lừa Cato. Nếu cậu ta đuổi theo chúng ta hay gì đó, chúng ta có thể làm như chúng ta vô tình làm rơi cái túi và nếu cậu ta ăn chúng…”

“Thì xin chào Đặc khu 12,” Peeta tiếp.

“Đúng thế,” tôi nói, buộc cái túi vào thắt lưng.

“Giờ thì hắn sẽ biết chúng ta đang ở đâu,” Peeta nói. “Nếu hắn ta ở đâu đó gần đây và đã nhìn thấy chiếc trực thăng, hắn sẽ biết chúng ta đã giết cô ta và sẽ đuổi theo chúng ta.”

Peeta nói đúng. Đây có thể chỉ là một cơ hội mà Cato đang chờ đợi. Nhưng ngay cả bây giờ chúng tôi bỏ chạy, vẫn có thịt cần phải nấu và ngọn lửa mà chúng tôi nhóm lên sẽ trở thành dấu hiệu cho biết vị trí của chúng tôi. “Nhóm lửa thôi. Ngay bây giờ.” Tôi bắt đầu thu gom những cành cây và bụi cỏ.

“Cậu đã sẵn sàng đối mặt với hắn ta rồi à?” Peeta hỏi.

“Mình sẵn sàng để ăn. Tốt hơn là nên nấu thức ăn khi chúng ta còn có cơ hội. Nếu hắn biết chúng ta đang ở đây thì hắn đã biết rồi. Nhưng hắn cũng phải biết là chúng ta có hai người và có thể cho rằng chúng ta đã săn tìm Mặt Cáo. Tức là cậu đã hồi phục. Và ngọn lửa nghĩa là chúng ta không lẩn trốn, chúng ta đang chào mời hắn ta đến đây. Liệu cậu có lộ diện không?” tôi hỏi.

“Có lẽ không,” cậu ấy trả lời.

Peeta là người thành thạo với lửa, nhanh chóng nhóm lên một đống lửa từ các cành cây ẩm ướt. Một lát sau, tôi đã có những con thỏ và một con sóc nướng, các loại củ được bọc vào lá cây, nướng trong than. Chúng tôi thay phiên nhau hái rau xanh và tiếp tục canh phòng Cato cẩn thận, nhưng như tôi dự đoán, hắn ta không xuất hiện.

Khi thức ăn đã được nấu xong, tôi gói lại phần lớn, chỉ để lại cho mỗi người chúng tôi một chiếc đùi thỏ để ăn khi chúng tôi đi đường.

Tôi muốn đi đến vùng cao hơn trong khu rừng, trèo lên một cái cây thích hợp, và hạ trại nghỉ đêm ở đó, nhưng Peeta phản đối. “Mình không thể trèo được như cậu, Katniss, đặc biệt với cái chân của mình, và mình không nghĩ mình có thể ngủ ở độ cao năm mươi feet cách mặt đất.”

“Thật không an toàn khi ở ngoài trời thế này, Peeta,” tôi nói.

“Chúng ta không thể quay lại cái hang ư?” cậu ấy hỏi. “Nó ở gần nguồn nước và dễ dàng phòng thủ.”

Tôi thở dài. Đi bộ thêm vài giờ – hay tôi nên nói là lao ầm ầm – xuyên qua khu rừng để đến một địa bàn mà chúng tôi sẽ lại phải rời đi vào buổi sáng để săn bắn. Nhưng Peeta không đòi hỏi nhiều. Cậu ấy đã nghe theo mọi chỉ dẫn của tôi cả ngày hôm nay và tôi chắc chắn rằng nếu đảo ngược vai trò, cậu ấy sẽ không bắt tôi phải qua đêm trên cây. Tôi sực nhớ ra là tôi đã đối xử không phải với Peeta cả ngày hôm nay. Cằn nhằn về việc cậu ấy đã gây ồn ào thế nào, la hét về việc cậu ấy biến mất. Vở kịch lãng mạn chúng tôi đã thể hiện trong hang đã biến mất khi ra bên ngoài, dưới mặt trời nóng bỏng, với nỗi đe dọa về sự xuất hiện của Cato. Haymitch có lẽ cũng sắp không hài lòng với tôi. Và để cho khán giả…

Tôi rướn lên và trao cho cậu ấy một nụ hôn. “Chắc chắn rồi. Chúng ta trở lại hang thôi.”

Cậu ấy có vẻ hài lòng và nhẹ nhõm. “Ừ, ở đó thoải mái hơn.”

Tôi lấy mũi tên ra khỏi gốc sồi, cẩn thận để không làm hỏng đầu mũi tên. Bây giờ những mũi tên này chính là thức ăn, sự an toàn và cuộc sống.

Chúng tôi vứt một đống củi vào đám lửa. Nó sẽ tạo ra khói trong một vài giờ nữa, mặc dù tôi không cho là Cato sẽ làm bất cứ việc gì lúc này. Khi chúng tôi đến dòng suối, tôi nhận thấy nước đã rút đi đáng kể và chảy với tốc độ chầm chậm trước đây, nên tôi đề nghị lội xuống nước. Peeta vui vẻ nghe theo, và vì cậu ấy đi dưới nước bớt ồn ào hơn rất nhiều so với đi trên cạn nên nó càng chắc chắn là một ý kiến đúng đắn. Tuy nhiên đó vẫn là một hành trình đi bộ dài về hang, ngay cả khi đi xuôi dòng nước, kể cả với thịt thỏ tiếp sức cho chúng tôi. Cả hai chúng tôi đều rất mệt mỏi vì phải trèo lên dốc cả ngày và vẫn chưa được ăn no. Tôi vẫn lắp sẵn cung tên, đề phòng Cato và để bắn bất cứ con cá nào chúng tôi nhìn thấy, nhưng dòng suối thật là lùng là dường như không hề có sinh vật nào.

Khi chúng tôi đến nơi, chân chúng tôi như lê lết và mặt trời đã xuống rất thấp ở đường chân trời. Chúng tôi lấy đầy các bình nước và trèo lên một tảng đá dốc để vào chỗ trú ẩn của chúng tôi. Không nhiều, nhưng ở nơi hoang vu này, đó là thứ gần giống với ngôi nhà nhất mà chúng tôi có được. Nó cũng sẽ ấm áp hơn một cái cây bởi nó có thể che chắn gió mà đã bắt đầu đều đều thổi đến từ phía bắc. Tôi chuẩn bị một bữa tối ngon miệng, nhưng được nửa chừng thì Peeta bắt đầu ngủ gục. Sau nhiều ngày không hoạt động, chuyến đi săn đã phát huy tác dụng. Tôi bảo cậu ấy vào túi ngủ và đặt một phần thức ăn bên cạnh cho cậu ấy ăn lúc tỉnh dậy. Cậu ấy ngủ ngay lập tức. Tôi kéo khóa chiếc túi ngủ lên tận cằm cậu ấy và hôn vào trán cậu ấy, không phải cho khán giả mà là cho chính tôi. Bởi vì tôi thật biết ơn vì cậu ấy vẫn ở đây, không bị chết bên dòng suối như tôi đã nghĩ. Thật mừng vì tôi không phải một mình đối mặt với Cato.

Một Cato tàn bạo, khát máu, kẻ có thể bẻ gãy cổ một người chỉ bằng một cú xoay cánh tay, kẻ có sức mạnh thắng được Thresh, kẻ đã nhằm vào tôi ngay từ đầu. Có lẽ hắn ta đã đặc biệt căm ghét tôi kể từ lúc tôi đạt điểm cao hơn hắn trong kỳ huấn luyện. Một chàng trai như Peeta sẽ chỉ đơn giản là nhún vai trước việc đó. Nhưng tôi có cảm giác rằng việc đó khiến Cato trở nên điên cuồng. Điều đó không khó đoán ra. Tôi nghĩ đến phản ứng tức cười của hắn ta khi thấy chỗ hàng hóa bị thổi bay. Những người khác chỉ buồn phiền, tất nhiên, nhưng hắn thì hoàn toàn mất kiểm soát. Tôi tự hỏi lúc này liệu Cato có thể không hoàn toàn phát điên không.

Bầu trời sáng bừng lên với hình ảnh quốc hiệu, và tôi nhìn thấy khuôn mặt của Mặt Cáo chiếu sáng trên bầu trời và rồi biến mất khỏi thế giới mãi mãi. Cậu ấy không nói ra, nhưng tôi không nghĩ Peeta cảm thấy dễ chịu về việc giết cô ta, ngay cả nếu điều đó là cần thiết. Tôi không thể giả vờ là tôi sẽ nhớ cô ta, nhưng tôi phải khâm phục cô ta. Dự đoán của tôi là nếu họ đưa cho chúng tôi một bài kiểm tra nào đó, cô ta sẽ là người thông minh nhất trong tất cả các cống phẩm. Nếu, thực sự, chúng tôi đã đặt bẫy cô ta, tôi cá là cô ta sẽ nhận ra được và tránh xa đám dâu rừng. Chính là sự thiếu hiểu biết của Peeta đã hạ được cô ta. Tôi đã dành rất nhiều thời gian để đảm bảo rằng mình không đánh giá thấp các đối thủ đến mức quên mất rằng cũng thật nguy hiểm khi đánh giá họ quá cao.

Điều đó khiến tôi quay trở lại suy nghĩ về Cato. Nhưng trong khi tôi nghĩ rằng tôi đã có hiểu biết về Mặt Cáo, về cô ta là người thế nào và hoạt động ra sao, thì hắn ta lại hơi khó nắm bắt. Đầy sức mạnh, được đào tạo bài bản, nhưng còn khôn ngoan? Tôi không biết. Không giống như cô ta. Và hoàn toàn thiếu khả năng kiểm soát mà Mặt Cáo đã thể hiện. Tôi tin rằng Cato có thể dễ dàng đánh mất óc phán đoán trong một cơn nóng giận. Tôi không thể cảm thấy hơn hắn về điểm đó. Tôi nghĩ đến khoảnh khắc tôi bắn mũi tên bay vào quả táo trong miệng con heo quay khi tôi quá tức giận. Có lẽ tôi hiểu Cato nhiều hơn tôi nghĩ.

Mặc dù cơ thể mệt mỏi, đầu óc tôi lại tỉnh táo, nên tôi để Peeta ngủ lâu hơn thời gian mà chúng tôi thường đổi ca gác. Thực tế, trời bắt đầu rạng sáng khi tôi lắc vai cậu ấy. Cậu ấy nhìn ra ngoài trời, gần như giật mình. “Mình đã ngủ cả đêm. Điều đó không công bằng, Katniss, cậu đáng lẽ nên đánh thức mình.”

Tôi duỗi người và chui vào trong túi ngủ. “Bây giờ mình sẽ ngủ. Đánh thức mình nếu như có gì thú vị xảy ra.”

Có vẻ như không có gì xảy ra, bởi vì khi tôi mở mắt, ánh nắng sáng rực của buổi chiều lọt qua khe đá. “Có dấu hiệu nào của người bạn của chúng ta không?” tôi hỏi.

Peeta lắc đầu. “Không, cậu ta vẫn tiếp tục lẩn tránh một cách đáng lo ngại.”

“Cậu nghĩ chúng ta sẽ có bao nhiêu thời gian trước khi các Nhà thiết lập Trò chơi gom chúng ta lại một chỗ?” tôi hỏi.

“Hừm, Mặt Cáo chết đã được gần một ngày, nên đã có quá nhiều thời gian cho khán giả đặt cược và cảm thấy buồn tẻ. Mình nghĩ việc này có thể xảy ra bất cứ lúc nào,” Peeta đáp.

“Phải, mình có dự cảm rằng hôm nay sẽ là ngày đó,” tôi nói. Tôi ngồi dậy và nhìn ra không gian yên ả bên ngoài.

Peeta vẫn lặng im. Thực sự không có câu trả lời thích hợp nào lúc này.

“Chà, cho đến lúc họ ra tay, thật vô nghĩa nếu phí phạm một ngày đi săn. Nhưng có lẽ chúng ta nên ăn nhiều nhất có thể phòng trường hợp chúng ta bất ngờ gặp rắc rối,” tôi nói.

Peeta thu dọn đồ đạc trong khi tôi bày ra một bữa ăn thịnh soạn. Phần thịt thỏ còn lại, rau củ, bánh cuộn được phết chỗ pho mát cuối cùng. Thứ duy nhất tôi để dành là con sóc và quả táo.

Khi chúng tôi kết thúc, tất cả những gì còn lại là một đống xương thỏ. Hai tay tôi đầy mỡ, điều này chỉ làm tăng thêm cảm giác bẩn thỉu của tôi. Có thể chúng tôi không tắm hàng ngày ở Seam, nhưng chúng tôi vẫn giữ vệ sinh sạch sẽ hơn tôi trong thời gian gần đây. Ngoài bàn chân, do việc lội suối, tôi đang được bao phủ một lớp cáu ghét.

Rời khỏi hang có cảm giác như lần cuối cùng nhìn thấy nó. Không hiểu sao tôi không nghĩ rằng chúng tôi sẽ còn ở đấu trường thêm một đêm nào. Cách này hay cách khác, sống hay chết, tôi có một dự cảm rằng tôi sẽ rời khỏi đây trong ngày hôm nay. Tôi vỗ nhẹ vào những tảng đá để tạm biệt và chúng tôi hướng xuống suối để tắm gội. Tôi có thể cảm thấy làn da tôi đang nhức nhối mong chờ nước mát. Tôi có thể gội đầu và tết nó ra sau lưng khi còn ướt. Tôi băn khoăn liệu chúng tôi thậm chí có thể giũ qua quần áo khi đến dòng suối không. Hay cái đã từng là dòng suối. Bây giờ ở đó chỉ còn một bề mặt khô cong. Tôi đặt một tay xuống để cảm nhận nó.

“Thậm chí không có chút gì ẩm ướt. Họ chắc đã tháo hết nước khi chúng ta đang ngủ,” tôi nói. Nỗi sợ hãi về chiếc lưỡi khô nứt nẻ, cơ thể đau nhức, đầu óc mụ mị do tình trạng mất nước lần trước len lỏi trong suy nghĩ của tôi. Các bình nước và da dẻ chúng tôi vẫn còn tương đối nhiều nước, nhưng với hai người uống và mặt trời nóng bức như thế này thì sẽ không mất nhiều thời gian để làm cạn kiệt chúng.

“Hồ nước,” Peeta lên tiếng. “Đó là nơi họ muốn chúng ta đến.”

“Có lẽ những cái ao vẫn còn chút nước,” tôi hy vọng nói.

“Chúng ta có thể kiểm tra,” cậu ấy đáp, nhưng cậu ấy chỉ chiều lòng tôi. Tôi đang tự an ủi mình vì tôi biết tôi sẽ thấy gì khi chúng tôi quay lại cái ao mà tôi đã ngâm chân. Một miệng hố trống hoác, khô khốc. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn lên đường đến đó chỉ để xác nhận điều mà chúng tôi đã biết trước.

“Cậu đúng. Họ đang hướng chúng ta đến hồ nước,” tôi nói. Nơi không có chỗ ẩn nấp. Nơi mà họ được đảm bảo sẽ có một cuộc chiến đẫm máu cho đến chết mà không có gì che khuất tầm nhìn của họ. “Cậu muốn đi thẳng đến đó hay đợi cho đến khi hết nước?”

“Chúng ta đi thôi, trong khi chúng ta vẫn còn thức ăn và đã được nghỉ ngơi. Hãy đi và kết thúc việc này,” cậu ấy nói.

Tôi gật đầu. Thật buồn cười. Tôi lại cảm thấy như thể đây là ngày đầu tiên bắt đầu Trò chơi. Rằng tôi đang ở cùng một vị trí. Hai mươi mốt cống phẩm đã chết, nhưng tôi vẫn còn phải giết Cato. Và thực ra, không phải cậu ta vẫn luôn là người phải giết sao? Bây giờ dường như các cống phẩm khác chỉ là những trở ngại nhỏ, những sự ngắt quãng ngăn chúng tôi khỏi cuộc chiến thực sự trong Trò chơi này. Cato và tôi.

Nhưng không, có một chàng trai đang chờ đợi bên cạnh tôi. Tôi cảm thấy cánh tay cậu ấy đang ôm lấy tôi.

“Hai chống lại một. Sẽ dễ dàng như ăn một miếng bánh vậy,” cậu ấy nói.

“Lần tới chúng ta dùng bữa, đó sẽ là ở Capitol,” tôi trả lời.

“Cậu cứ cá là nó sẽ vậy đi,” cậu ấy nói.

Chúng tôi đứng như vậy một lúc, ôm chặt nhau, cảm nhận nhau, cảm nhận ánh mặt trời, tiếng xào xạc của lá cây dưới chân chúng tôi. Sau đó không nói lời nào, chúng tôi rời nhau ra và hướng đến hồ nước.

Bây giờ tôi không quan tâm đến việc bước chân Peeta đang tạo ra tiếng động như những loài động vật gặm nhấm đang chạy hối hả, làm cho chim chóc bay hết. Chúng tôi phải chiến đấu với Cato và tôi chỉ muốn nhanh chóng làm điều đó ở đây cũng giống như trên bãi đất trống. Nhưng tôi không nghĩ là tôi sẽ có lựa chọn đó. Nếu các Nhà thiết lập Trò chơi muốn chúng tôi ra chỗ quang đãng, thì chúng tôi sẽ ra đó.

Chúng tôi dừng lại nghỉ một lát dưới cái cây nơi các Cống phẩm Chuyên nghiệp bao vây tôi. Chiếc vỏ của tổ ong tracker jacker, bị nghiền nhão ra bởi cơn mưa to và bị khô cong dưới ánh mặt trời nóng bỏng, đã xác nhận vị trí. Tôi chạm vào nó bằng đầu mũi giày và nó rã tan ra thành bụi và nhanh chóng bị gió cuốn đi. Tôi không thể không nhìn lên cái cây nơi Rue đã bí mật đu ở đó, chờ đợi để cứu tôi. Những con ong tracker jacker. Cơ thể sưng phồng của Glimmer. Những ảo giác đáng sợ…

“Đi tiếp thôi,” tôi nói, muốn chạy trốn khỏi bóng tối đang bao phủ nơi này. Peeta không phản đối.

Do khởi hành muộn ngày hôm nay, nên khi chúng tôi đến bãi đất trống thì đã là bắt đầu buổi tối. Không có dấu hiệu nào của Cato. Không có dấu hiệu của bất cứ thứ gì ngoài chiếc sừng vàng Cornucopia đang tỏa sáng rực rỡ trong ánh mặt trời hắt lên cuối ngày. Đề phòng trường hợp Cato giở trò gian xảo, chúng tôi đi vòng quanh khu vực Cornucopia để chắc chắn rằng nó hoàn toàn trống trải. Sau đó một cách ngoan ngoãn, như thể làm theo chỉ dẫn, chúng tôi đi đến cái hồ và làm đầy các bình đựng nước.

Tôi nhăn mặt khi nhìn mặt trời đang xuống dần. “Chúng ta không muốn chiến đấu với Cato sau khi trời tối. Chỉ có duy nhất một đôi kính ban đêm thôi.”

Peeta cẩn thận nhỏ những giọt i ốt vào nước. “Có lẽ đó là điều hắn ta chờ đợi. Cậu muốn làm gì bây giờ? Quay trở lại cái hang?”

“Hoặc là thế, hoặc là tìm một cái cây. Nhưng để cho hắn ta thêm khoảng nửa giờ nữa. Sau đó chúng ta sẽ tìm chỗ ẩn náu,” tôi trả lời.

Chúng tôi ngồi bên hồ nước, hoàn toàn quang đãng. Bây giờ không cần thiết phải ẩn nấp. Trong rừng ở rìa bãi đất trống, tôi có thể nhìn thấy những con chim mockingjay đang bay chuyền cành. Những giai điệu thánh thót tung hứng giữa chúng giống như những quả bóng rực rỡ đầy màu sắc. Tôi mở miệng và hát lên giai điệu bốn nốt nhạc của Rue. Tôi có thể cảm thấy chúng dừng lại tò mò trước âm thanh giọng hát của tôi, lắng nghe kỹ hơn. Tôi hát lại bốn nốt nhạc trong sự yên lặng đó. Con chim mockingjay đầu tiên hót lại giai điệu đó, rồi một con khác. Sau đó cả thế giới như rộn ràng với âm thanh.

“Giống y như cha cậu,” Peeta lên tiếng.

Những ngón tay tôi sờ lên chiếc huy hiệu trên áo sơ mi. “Đó là bài hát của Rue,” tôi nói. “Mình nghĩ chúng vẫn nhớ nó.”

Âm nhạc rộn vang và tôi nhận ra sự tưng bừng của nó. Các nốt nhạc gối lên nhau, chúng kết nối với nhau, tạo thành một bản hòa âm thật đáng yêu, kỳ diệu. Vậy ra đó chính là âm thanh này, cảm ơn Rue, đã đưa những người công nhân ở các vườn cây ăn quả của Đặc khu 11 về nhà mỗi đêm. Tôi tự hỏi liệu bây giờ khi cô bé đã mất, có ai bắt nhịp giai điệu đó để kết thúc giờ làm việc không?

Trong một lúc, tôi chỉ nhắm mắt và lắng nghe, bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của bài hát. Sau đó một thứ gì đó bắt đầu phá vỡ bài hát. Cắt ngang với những âm điệu rời rạc, không hoàn chỉnh. Những nốt nhạc không hòa hợp rải rác xen vào giai điệu. Tiếng hót của những con chim mockingjay vút lên thành một tiếng rít cảnh báo.

Chúng tôi đứng bật dậy, Peeta cầm chắc con dao, tôi chuẩn bị bắn, khi Cato lao qua rừng cây và xông đến chỗ chúng tôi. Hắn ta không có mũi lao. Thực tế, hai tay hắn chẳng có gì, nhưng vẫn chạy thẳng đến chỗ chúng tôi. Mũi tên đầu tiên của tôi bắn thẳng vào ngực hắn ta và không hiểu sao rơi sang một bên.

“Cậu ta có một loại áo giáp hộ thân nào đó!” tôi hét lên với Peeta.

Cũng ngay lúc đó, Cato xông vào chúng tôi. Tôi tự lấy can đảm, nhưng hắn ta phóng thẳng vào giữa chúng tôi mà không thèm quan tâm đến tốc độ của mình. Từ hơi thở hổn hển của hắn ta, mồ hôi túa ra trên khuôn mặt đỏ tía của hắn, tôi có thể nói rằng hắn đã chạy hết tốc lực trong một khoảng thời gian dài. Không phải hướng tới chúng tôi. Tránh xa khỏi thứ gì đó. Nhưng là thứ gì?

Mặt tôi lướt qua khu rừng đúng lúc tôi nhìn thấy sinh vật đầu tiên chồm lên bãi đất trống. Khi tôi quay đi, tôi đã nhìn thấy nửa tá các con khác đang đến cùng với nó. Sau đó tôi mù quáng lao theo Cato mà không nghĩ gì khác ngoài việc phải cứu chính mình.

CHƯƠNG 25

Những sinh vật Muttation. Không nghi ngờ gì. Tôi chưa từng nhìn thấy những con vật thuộc giống chó này, nhưng chúng không phải là những sinh vật tự nhiên. Chúng giống như những con sói khổng lồ, nhưng loại sói nào mà có thể chồm lên và đứng thăng bằng một cách dễ dàng trên hai chân sau của nó như thế? Loại sói nào mà có thể ra hiệu cho những con còn lại trong đàn tiến lên phía trước bằng những móng vuốt chân trước như thể nó có cổ tay vậy? Những thứ này tôi có thể nhìn thấy từ xa. Đến gần, tôi chắc chắn các thuộc tính nguy hiểm hơn của chúng sẽ được thể hiện.

Cato chạy theo đường chim bay đến chiếc sừng Cornucopia, và không hề do dự tôi chạy theo hắn. Nếu hắn nghĩ đó là nơi an toàn nhất thì tôi là ai mà có thể tranh cãi chứ? Ngoài ra, ngay cả nếu tôi có thể trèo lên cây, thì điều đó cũng là không thể đối với Peeta để chạy thoát khỏi chúng với cái chân đó – Peeta! Bàn tay tôi chỉ vừa mới đặt lên bề mặt kim loại ở đầu chóp chiếc sừng Cornucopia khi tôi nhớ ra tôi là thành viên của một nhóm. Cậu ấy ở sau tôi khoảng mười lăm yard, chạy tập tễnh nhanh nhất có thể, nhưng những con thú đang nhanh chóng đuổi đến gần cậu ấy. Tôi bắn một mũi tên vào đàn chó biến đổi gen và một con ngã xuống, nhưng có rất nhiều con khác nhào vào thay vị trí của nó.

Peeta vẫy tôi hướng về phía chiếc sừng, “Chạy đi, Katniss! Chạy đi!”

Cậu ấy đúng. Tôi không thể bảo vệ được ai trong chúng tôi trên mặt đất. Tôi bắt đầu trèo, leo lên Cornucopia bằng hai tay và chân. Bề mặt vàng nguyên chất đã được thiết kế giống với chiếc sừng được dệt bằng vải mà chúng tôi làm đầy nó trong vụ thu hoạch, nên có những lằn gợn và rãnh nhỏ để bám vào. Nhưng sau cả ngày phơi nắng trong đấu trường, bề mặt kim loại đủ nóng để làm bỏng hai tay tôi.

Cato nằm nghiêng sang một bên trên đỉnh chiếc sừng, cao hai mươi feet cách mặt đất, hổn hển lấy lại hơi thở khi hắn nôn khan qua mép chiếc sừng. Giờ chính là cơ hội của tôi để kết liễu hắn. Tôi dừng nửa chừng khi đang trèo lên chiếc sừng và lắp một mũi tên khác, nhưng ngay khi tôi định bắn, tôi nghe thấy tiếng Peeta hét lên. Tôi quay lại và thấy cậu ấy vừa chạy đến được đầu cái sừng, và những con quái thú thì ở ngay gót chân cậu ấy.

“Trèo lên!” tôi hét. Peeta bắt đầu leo lên nhưng bị cản trở không chỉ bởi cái chân mà còn cả con dao ở tay cậu ấy. Tôi bắn mũi tên của tôi vào cổ con chó đầu tiên đang đặt chân của nó lên bề mặt kim loại. Khi nó chết, con thú bị hất ngược ra sau, vô tình gây ra các vết rạch vào một số con chạy đến cùng nó. Đó là lúc tôi nhìn thấy móng vuốt của nó. Dài bốn inch và rõ ràng sắc như dao cạo.

Peeta với đến chân tôi và tôi kẹp chặt tay cậu ấy để kéo lên. Rồi tôi nhớ ra Cato đang đợi ở trên nóc và quay lại, nhưng hắn đang gập đôi người vì chuột rút và có vẻ bận tâm về lũ chó hơn là chúng tôi. Hắn ta vừa ho vừa nói thứ gì đó không thể hiểu được. Âm thanh khò khè, thở hồng hộc của đám quái thú lại càng không giúp gì được.

“Cái gì?” tôi hét lên với hắn.

“Hắn nói, ‘Chúng có thể trèo lên không?’” Peeta trả lời, kéo sự chú ý của tôi trở lại phía dưới của chiếc sừng.

Đàn chó bắt đầu tập hợp lại. Khi chúng tập trung lại, chúng lại chồm lên và đứng một cách dễ dàng trên hai chân sau khiến chúng có nét giống con người một cách kỳ quái. Mỗi con đều có một bộ lông dày, một số con có lông thẳng và mượt, những con khác lại có lông xoăn, và màu sắc cũng rất đa dạng, từ đen nhánh tới màu mà tôi chỉ có thể gọi là màu vàng óng. Có một cái gì khác nữa về chúng, thứ mà làm cho tóc gáy tôi dựng ngược lên, nhưng tôi chưa thể nói rõ ra được.

Chúng dí mõm lên chiếc sừng, đánh hơi và liếm láp tấm kim loại, cào móng vuốt lên bề mặt và sau đó tru tréo với nhau. Đây chắc phải là cách chúng giao tiếp vì cả đàn lùi lại như thể để tạo không gian. Sau đó một trong số chúng, một con chó kích cỡ lớn với lông vàng lượn sóng mềm mượt như lụa bắt đầu chạy lấy đà và nhảy lên chiếc sừng. Chân sau của nó chắc phải có sức mạnh không tưởng tượng được bởi nó đáp xuống chỉ ở dưới chúng tôi khoảng mười feet, chiếc lưỡi hồng của nó rụt lại trong tiếng gầm gừ. Trong một lúc nó đu ở đó, và trong khoảnh khắc đó tôi nhận ra thứ gì khác mà tôi chưa nhìn ra về những con chó này. Đôi mắt xanh đang trừng lên với tôi không giống bất cứ con chó, con sói hay con vật thuộc giống chó nào mà tôi từng thấy. Không thể nhầm lẫn được, chúng là mắt người. Và sự phát hiện đó càng chắc chắn khi tôi nhìn thấy chiếc vòng cổ với số 1 được khảm lên trang sức và tất cả những thứ kinh khủng này giáng mạnh vào tôi. Tóc vàng, mắt xanh, con số… đó là Glimmer.

Tiếng hét thoát khỏi miệng tôi và tôi gặp khó khăn với việc giữ mũi tên đúng vị trí. Tôi đã chờ đợi để bắn, chỉ quá hiểu rõ rằng số lượng mũi tên của tôi đang giảm dần. Thực tế, chỉ đợi để xem những con vật này có thể trèo hay không. Nhưng bây giờ, mặc dù con chó đã bắt đầu tụt xuống, không thể tìm được chỗ bám nào trên bề mặt kim loại, mặc dù tôi vẫn nghe thấy những tiếng cào rít nhỏ của móng vuốt giống như móng tay cào trên bảng đen, tôi vẫn bắn thẳng vào cổ họng nó. Cơ thể nó co rút lại và rơi tõm xuống đất đánh uỵch một phát.

“Katniss?” tôi có thể cảm thấy Peeta bóp chặt cánh tay tôi.

“Đó là cô ta!” tôi thốt lên.

“Ai?” Peeta hỏi.

Đầu tôi quay hết bên này sang bên kia khi tôi kiểm tra đàn chó, ghi nhận các kích cỡ, màu sắc khác nhau. Một con nhỏ với bộ lông đỏ và đôi mắt màu hổ phách… Mặt Cáo! Và ở kia, tóc xám tro và đôi mắt lục nhạt của cậu trai từ Đặc khu 9, người đã chết khi chúng tôi tranh giành chiếc ba lô! Và tệ hơn cả, con chó nhỏ nhất, với bộ lông đen bóng loáng, đôi mắt nâu to tròn và chiếc vòng cổ có số 11 trên mặt tròn được tết bằng rơm. Răng đang nhe ra căm hờn. Rue…

“Chuyện gì vậy, Katniss?” Peeta lắc vai tôi.

“Đó là họ. Tất cả bọn họ. Những người khác. Rue và Mặt Cáo và… tất cả các cống phẩm khác,” tôi nghẹn giọng.

Tôi nghe tiếng Peeta thở dốc khi nhận ra. “Người ta đã làm gì với họ thế? Cậu không nghĩ là… chúng có thể có đôi mắt thật sự của họ chứ?”

Đôi mắt của chúng là thứ tôi ít lo ngại nhất. Bộ não của chúng thì sao? Liệu chúng có được trao cho bất cứ ký ức thực sự nào của các cống phẩm hay không? Liệu chúng có được lập trình để đặc biệt căm ghét gương mặt của chúng tôi vì chúng tôi đã sống sót và họ đã bị giết một cách tàn nhẫn không? Và những người mà tôi thực sự giết… họ có tin rằng họ đang trả thù cho cái chết của chính họ không?

Trước khi tôi có thể thoát khỏi suy nghĩ này, các con chó đã bắt đầu một cuộc tấn công mới lên chiếc sừng. Chúng chia làm hai nhóm ở hai bên chiếc sừng và đang sử dụng thân sau đầy sức mạnh để đẩy chúng lên chỗ chúng tôi. Một hàm răng khợp lên chỉ cách tay tôi một inch và rồi tôi nghe tiếng Peeta hét lên, cảm thấy lực giật mạnh trên người cậu ấy, sức mạnh của một chàng trai và con chó kéo tôi nghiêng sang một bên. Nếu không vì đang bám chặt vào cánh tay tôi, cậu ấy chắc hẳn đã rơi xuống đất, nhưng vì thế, tôi phải dùng toàn bộ sức mạnh của mình để giữ cho hai chúng tôi bám chặt vào cái sừng. Và thêm các cống phẩm khác đang kéo đến.

“Giết nó đi, Peeta! Giết nó!” Tôi hét lên với cậu ấy, và dù tôi không thể nhìn rõ chuyện gì đang diễn ra, tôi biết cậu ấy phải đang đâm con vật vì lực kéo đã giảm bớt. Tôi đã có thể lôi cậu ấy trở lại chiếc sừng nơi mà chúng tôi kéo nhau trèo lên đỉnh, nơi mà điều ít tệ hại hơn đang chờ đợi.

Cato vẫn chưa thể đứng lên được, nhưng hơi thở của hắn đã chậm lại và tôi biết rằng hắn ta sẽ sớm hồi phục lại đủ sức để tấn công chúng tôi và ném chúng tôi đến bờ vực của cái chết. Tôi giương sẵn cung tên, nhưng mũi tên cuối cùng lại dùng để bắn chết một con thú mà chỉ có thể là Thresh. Còn ai có thể nhảy lên độ cao đó chứ? Tôi cảm thấy một khoảnh khắc nhẹ nhõm vì chúng tôi cuối cùng đã lên cao trên mức các con chó có thể nhảy tới và tôi chỉ vừa mới quay lại để đối mặt với Cato khi Peeta bị giật ra khỏi mình. Tôi đã cho rằng đàn chó đã bắt được cậu ấy cho đến khi máu của cậu ấy nhỏ lộp bộp vào mặt tôi.

Cato đứng trước mặt tôi, gần như ở mép chiếc sừng, giữ Peeta trong một thế khóa đầu, chặn đứt hơi thở cậu ấy. Peeta quắp lấy cánh tay Cato, nhưng rất yếu ớt, như thể bối rối về việc nào quan trọng hơn, thở hay cố gắng ngăn chặn máu phun ra từ miệng vết thương mà một con chó để lại trên bắp chân cậu ấy.

Tôi chĩa một trong hai mũi tên cuối cùng của mình vào đầu Cato, biết rằng sẽ không ích gì khi nhắm vào người và tay chân hắn, thứ mà bây giờ tôi chỉ có thể nhìn thấy là được che phủ bởi tấm lưới màu da, bó sát người. Một loại áo giáp hộ thân cao cấp nào đó của Capitol. Đó có phải là thứ ở trong chiếc ba lô gửi cho cậu ta trong bữa tiệc không? Áo giáp hộ thân chống lại những mũi tên của tôi? Chà, họ quên không gửi cho cậu ta một chiếc mặt nạ bảo hộ.

Cato chỉ cười lớn. “Bắn tao đi và nó sẽ rơi xuống với tao.”

Hắn đúng. Nếu tôi bắn hắn và hắn rơi xuống đàn chó, Peeta chắc chắn sẽ chết cùng hắn. Chúng tôi đã lâm vào thế bế tắc. Tôi không thể bắn Cato mà không giết chết cả Peeta. Hắn không thể giết Peeta mà không đảm bảo rằng một mũi tên sẽ xuyên thủng sọ hắn. Chúng tôi đứng im như tượng, cả hai đều đang tìm kiếm một giải pháp.

Các cơ bắp tôi đều vô cùng căng thẳng, cảm tưởng như chúng có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. Răng tôi nghiến chặt chờ thời điểm quyết định. Đàn chó im lặng và thứ duy nhất tôi có thể nghe bằng chiếc tai lành lặn của mình là tiếng máu đang nhỏ xuống.

Môi Peeta đã trở nên xanh nhợt. Nếu tôi không làm gì đó thật nhanh, cậu ấy sẽ chết vì ngạt thở và rồi tôi sẽ phải mất cậu ấy và Cato có thể sẽ dùng cơ thể cậu ấy như một thứ vũ khí chống lại tôi. Thực tế, tôi chắc chắn đây là kế hoạch của Cato bởi vì khi hắn ngừng cười, môi hắn đã nở ra một nụ cười chiến thắng.

Dường như trong nỗ lực cuối cùng, Peeta giơ ngón tay lên, nhuộm đỏ máu từ chân cậu ấy, hướng tới cánh tay Cato. Thay vì cố gắng chiến đấu để thoát ra, ngón tay trỏ của cậu ấy đổi hướng và cố ý vẽ một chữ X trên mu bàn tay của Cato. Cato hiểu ra ý nghĩa của hành động đó chỉ sau tôi đúng một giây. Tôi có thể nói điều đó qua cách nụ cười biến mất trên môi hắn ta. Nhưng chỉ một giây thôi cũng là quá muộn bởi vào lúc đó, mũi tên của tôi đã xuyên thủng bàn tay hắn. Hắn hét lên và theo phản xạ hất văng Peeta, người mà cũng đang đập mạnh lại hắn. Trong khoảnh khắc kinh hoàng đó, tôi nghĩ cả hai người họ sẽ rơi xuống. Tôi trượt nhanh lên phía trước vừa kịp chụp được Peeta khi Cato trượt chân trên bề mặt chiếc sừng có dính máu và lao thẳng xuống đất.

Chúng tôi nghe thấy tiếng hắn ta rơi xuống đất, hơi thở đang rời bỏ hắn sau cú va đập, và sau đó những con chó tấn công hắn. Peeta và tôi ôm chặt lấy nhau, chờ đợi tiếng pháo hiệu, chờ đợi cuộc chiến kết thúc, chờ đợi để được giải thoát. Nhưng điều đó không xảy ra. Vẫn chưa. Bởi vì đây là cao trào của Trò chơi sinh tử, và khán giả trông đợi một màn trình diễn.

Tôi không nhìn, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng rên rỉ, gầm gè, gào rú vì đau đớn từ cả người và quái thú khi Cato vật lộn với đàn chó. Tôi không thể hiểu được làm thế nào hắn có thể sống được cho đến khi tôi nhớ ra chiếc áo giáp hộ thân đã bảo vệ hắn từ mắt cá chân cho đến cổ và tôi nhận ra rằng đó thật là một cơn ác mộng dai dẳng. Cato phải có một con dao hay thanh kiếm hoặc thứ gì đó nữa, một thứ gì đó mà hắn ta đã giấu trong quần áo mình, bởi vì thỉnh thoảng có tiếng rú chết chóc của một con thú hoặc âm thanh của kim loại chạm kim loại khi lưỡi dao va quẹt vào chiếc sừng vàng. Trận chiến xoay chuyển xung quanh chiếc sừng Cornucopia, và tôi biết Cato đang cố gắng tìm một thủ đoạn nào đó mà có thể cứu mạng hắn – để quay trở lại vị trí đuôi chiếc sừng và leo lên chỗ chúng tôi. Nhưng cuối cùng, cho dù có sức mạnh và kĩ năng xuất sắc, hắn ta đơn giản là đã kiệt sức.

Tôi không biết việc đó kéo dài bao lâu, có thể một giờ hoặc chừng đó, khi Cato gục xuống đất và chúng tôi nghe thấy tiếng những con chó kéo lê hắn, lôi hắn quay trở lại Cornucopia. Bây giờ chúng sẽ kết liễu hắn, tôi nghĩ. Nhưng vẫn không có tiếng pháo hiệu.

Màn đêm buông xuống và bài hát quốc ca vang lên và vẫn không có hình ảnh của Cato hiện lên trên bầu trời, chỉ có tiếng rên rỉ yếu ớt phát ra qua tấm kim loại bên dưới chúng tôi. Không khí lạnh băng thổi ngang qua bãi đất trống nhắc nhở tôi rằng Trò chơi vẫn chưa kết thúc và có lẽ sẽ không trong khoảng thời gian bao lâu ai mà biết được, và vẫn không có gì đảm bảo cho chiến thắng.

Sự chú ý của tôi trở lại với Peeta và phát hiện ra chân cậu ấy đang chảy máu tồi tệ như trước đây. Tất cả nguồn thực phẩm của chúng tôi, ba lô vẫn ở bên hồ nước, nơi chúng tôi bỏ lại chúng khi chạy khỏi đàn chó. Tôi không có bông băng, không có gì để cầm máu đang chảy từ bắp chân cậu ấy. Mặc dù tôi đang rét run trong cơn gió lạnh căm căm, tôi vẫn cởi chiếc áo khoác, cởi áo sơ mi, và mặc lại chiếc áo khoác nhanh nhất có thể. Sự phơi bày ngắn ngủi đó cũng khiến răng tôi va lập cập không thể kiểm soát được.

Mặt Peeta xám ngoét dưới ánh trăng mờ ảo. Tôi cho cậu ấy nằm xuống trước khi tôi kiểm tra vết thương của cậu ấy. Máu nóng, nhầy nhụa chảy tràn ra các ngón tay tôi. Một miếng băng sẽ không đủ. Tôi đã nhìn thấy mẹ tôi buộc garo vài lần và cố gắng bắt chước. Tôi cắt rời một ống tay áo khỏi chiếc áo sơ mi, buộc nó hai vòng quanh chân cậu ấy ngay phía dưới đầu gối, và thắt nút một nửa. Tôi không có cái gậy nào, nên lấy mũi tên còn lại cuối cùng và gài nó vào trong nút thắt, buộc nó chắc như mình muốn. Đây là một việc làm rất rủi ro – Peeta có thể kết thúc với việc mất đi chân của cậu ấy – nhưng khi tôi cân nhắc điều đó với việc cậu ấy mất mạng thì tôi còn sự lựa chọn nào đây? Tôi băng vết thương bằng phần còn lại của chiếc áo sơ mi và nằm xuống với cậu ấy.

“Đừng ngủ,” tôi nhắc cậu ấy. Tôi không chắc đây có phải là một chỉ dẫn y tế chính xác không, nhưng tôi sợ rằng nếu cậu ấy chìm vào giấc ngủ, cậu ấy sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.

“Cậu có lạnh không?” cậu ấy hỏi. Cậu ấy mở khóa áo khoác và tôi ôm chặt lấy cậu ấy khi cậu ấy quấn nó quanh người tôi. Thấy ấm hơn một chút khi chia sẻ thân nhiệt của chúng tôi bên trong hai lớp áo khoác, nhưng đêm mới chỉ bắt đầu. Nhiệt độ sẽ tiếp tục hạ thấp.

Ngay cả lúc này tôi có thể cảm thấy chiếc sừng Cornucopia mà đã được hun nóng bỏng khi tôi mới trèo lên, đang dần chuyển sang lạnh như băng.

“Cato có thể vượt qua được điều này không,” tôi thì thầm với Peeta.

“Cậu không tin điều đó chứ,” cậu ấy nói, kéo chiếc mũ của tôi lên, nhưng cậu ấy run còn dữ dội hơn tôi.

Những giờ tiếp theo là những giờ tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi, mà nếu bạn nghĩ về nó, cũng sẽ nói như vậy. Cái lạnh cũng đã đủ tra tấn rồi, nhưng cơn ác mộng thực sự là nghe tiếng Cato, rên rỉ, cầu xin, và cuối cùng chỉ khóc nức nở khi những con chó quay lại tiếp tục cắn xé cậu ta. Sau một lát, tôi không quan tâm hắn ta là ai hay hắn đã làm gì, tất cả những gì tôi muốn là mong cho sự đau đớn của hắn ta kết thúc.

“Sao họ không chỉ việc giết hắn ta đi?” tôi hỏi Peeta.

“Cậu biết tại sao mà,” cậu ấy nói, kéo tôi lại gần hơn.

Và tôi hiểu. Không khán giả nào có thể quay đi khỏi màn trình diễn lúc này. Từ quan điểm của các Nhà thiết lập Trò chơi, đây là màn giải trí cuối cùng.

Nó kéo dài, lặp đi lặp lại và cuối cùng hoàn toàn phá hủy tâm trí tôi, loại bỏ các ký ức và hy vọng vào ngày mai, xóa bỏ mọi thứ chỉ còn lại hiện tại, điều mà tôi bắt đầu tin rằng sẽ không bao giờ thay đổi. Sẽ không có gì ngoài sự lạnh lẽo và nỗi sợ hãi và âm thanh quằn quại đau đớn của một chàng trai trẻ đang chết dần chết mòn trong chiếc sừng.

Lúc này Peeta bắt đầu ngủ gục, và mỗi lần cậu ấy như vậy, tôi lại thấy mình đang hét gọi tên cậu ấy càng lúc càng to bởi vì nếu cậu ấy thiếp đi và chết bên cạnh tôi bây giờ, thì tôi biết rằng tôi sẽ hoàn toàn phát điên. Cậu ấy đang chống lại nó, có lẽ vì tôi nhiều hơn là vì cậu ấy, và thật khó bởi sự bất tỉnh sẽ là một biện pháp giúp tránh đau đớn. Nhưng chất adrenaline đang tuôn ra khắp cơ thể tôi sẽ không bao giờ cho phép tôi đi theo cậu ấy, nên tôi không thể để cậu ấy ra đi. Tôi chỉ không thể.

Dấu hiệu duy nhất về thời gian trôi qua nằm trên bầu trời, sự di chuyển chậm chạp của mặt trăng. Cho nên Peeta bắt đầu chỉ nó cho tôi, khăng khăng bắt tôi nhận biết quá trình của nó và đôi khi chỉ trong một giây lát tôi cảm thấy một thoáng hy vọng trước khi sự tra tấn của đêm nay lại nhấn chìm tôi một lần nữa.

Cuối cùng, tôi nghe thấy cậu ấy thì thầm rằng mặt trời sắp mọc. Tôi mở mắt và thấy các ngôi sao đang mờ dần trong ánh sáng yếu ớt của bình minh. Tôi cũng có thể nhìn thấy gương mặt Peeta trở nên tái nhợt vì mất máu như thế nào. Thời gian của cậu ấy chỉ còn lại ít như thế nào. Và tôi biết tôi sẽ phải đưa cậu ấy trở lại Capitol.

Tuy nhiên, pháo hiệu vẫn chưa bắn. Tôi áp sát chiếc tai lành lặn vào chiếc sừng và có thể nghe thấy tiếng Cato.

“Mình nghĩ giờ hắn ta đã ở gần hơn. Katniss, cậu có thể bắn hắn không?” Peeta hỏi.

Nếu hắn ta ở gần miệng sừng, tôi có thể sẽ bắn gục được hắn. Đó sẽ là hành động nhân từ ở thời điểm này.

“Mũi tên cuối cùng của mình đang ở trong ga rô của cậu,” tôi trả lời.

“Hành động đi,” Peeta nói, mở khóa chiếc áo khoác để tôi ra.

Do vậy tôi gỡ mũi tên ra, buộc ga rô lại chặt đến mức các ngón tay lạnh cóng của tôi có thể làm. Tôi chà xát hai tay với nhau, cố gắn lấy lại sự cử động. Khi tôi trườn xuống mép chiếc sừng và đu đưa ở đó, tôi cảm thấy bàn tay Peeta đang giữ chặt lấy tôi để trợ giúp.

Phải mất một vài phút để tìm Cato trong ánh sáng lờ mờ, trong vũng máu. Sau đó đống thịt sống mà đã từng là kẻ thù của tôi phát ra tiếng động, và tôi biết miệng hắn ta ở đâu. Và tôi nghĩ từ mà hắn ta đang cố nói là làm ơn.

Thương hại, không phải báo thù, tôi bắn mũi tên của mình bay thẳng vào sọ hắn. Peeta kéo tôi trở lại, chiếc cung trong tay, ống tên trống rỗng.

“Cậu đã bắn được hắn chưa?” cậu ấy thì thào.

Tiếng pháo hiệu bắn lên thay cho câu trả lời.

“Vậy là chúng ta thắng rồi, Katniss,” cậu ấy nói không ra hơi.

“Chúc mừng chúng ta,” tôi thở ra, nhưng không có niềm vui chiến thắng nào trong giọng tôi.

Một miệng hố mở ra trên bãi đất trống và như thể có ám hiệu, những con chó còn lại nhảy xuống đó, biến mất khi mặt đất đóng lại phía trên chúng.

Chúng tôi chờ đợi chiếc trực thăng đến thu thi thể của Cato, chờ đợi hồi kèn chiến thắng mà sẽ nổi lên sau đó, nhưng không có gì xảy ra.

“Này!” tôi hét lên. “Chuyện gì đang diễn ra thế?” Thứ duy nhất đáp lại là tiếng hót líu lo của những con chim đã thức giấc.

“Có lẽ là do thi thể. Có lẽ chúng ta phải đi xa khỏi đây,” Peeta nói.

Tôi cố nhớ lại. Bạn có cần phải tránh xa khỏi cống phẩm đã chết trong trận chiến cuối cùng không? Đầu óc tôi quá mụ mị để có thể chắc chắn, nhưng còn lý do nào khác cho sự chậm trễ này chứ?

“Được rồi. Cậu nghĩ mình có thể đi được đến cái hồ không?” tôi hỏi.

“Mình nghĩ mình tốt hơn là nên cố gắng,” Peeta trả lời. Chúng tôi lần từng bước xuống cái đuôi của chiếc sừng và rơi xuống đất. Nếu như tay chân tôi còn cứng ngắc thế này, thì làm thế nào Peeta có thể di chuyển được? Tôi đứng dậy trước, duỗi và xoay tay chân cho đến khi tôi nghĩ rằng tôi có thể giúp cậu ấy đứng lên. Dù sao thì chúng tôi cũng quay lại được hồ nước. Tôi vốc một ngụm nước cho Peeta và ngụm thứ hai thì đưa lên môi mình.

Một con chim mockingjay cất lên tiếng hót dài và trầm, và những giọt nước mắt nhẹ nhõm dâng đầy trong mắt tôi khi chiếc trực thăng xuất hiện và đưa thi thể Cato đi. Bây giờ họ sẽ đến đón chúng tôi. Giờ thì chúng tôi có thể về nhà.

Nhưng một lần nữa không có tín hiệu gì.

“Họ còn đang chờ đợi cái gì thế?” Peeta nói yếu ớt. Với việc mất đi ga rô và nỗ lực đi đến hồ nước, vết thương của cậu ấy lại bị toạc ra.

“Mình không biết,” tôi đáp. Dù lý do trì hoãn là gì, tôi không thể nhìn cậu ấy mất thêm chút máu nào nữa. Tôi đứng dậy để tìm một cái que, nhưng gần như ngay lập tức đi đến chỗ mũi tên mà đã bật ra từ chiếc áo giáp hộ thân của Cato. Nó cũng sẽ dùng được như mũi tên kia. Ngay khi tôi dừng lại để nhặt nó lên thì giọng của Claudius Templesmith vang dội khắp đấu trường.

“Chúc mừng những thí sinh cuối cùng của Trò chơi sinh tử lần thứ bảy mươi tư. Sửa đổi luật chơi trước đây đã hủy bỏ. Cuộc tra soát kĩ càng hơn luật lệ trò chơi đã chỉ ra rằng chỉ cho phép duy nhất một người chiến thắng,” ông ta nói. “Chúc may mắn và chúc cho vận may sẽ luôn mỉm cười với bạn.”

Sự im lặng bao trùm và rồi không có gì tiếp theo. Tôi kinh hoàng nhìn Peet trân trối khi dần hiểu ra sự thật. Họ không bao giờ có ý định để cả hai chúng tôi sống sót. Tất cả điểu này là do các Nhà thiết lập Trò chơi đặt ra để đảm bảo một trận đấu cuối cùng ấn tượng nhất trong lịch sử. Và giống như một con ngốc, tôi đã đâm đầu vào nó.

“Nếu cậu đang nghĩ về điều đó thì cũng không cần kinh hoàng đến thế đâu,” cậu ấy nói nhỏ. Tôi nhìn cậu ấy đau đớn đứng dậy. Sau đó cậu ấy tiến lại phía tôi, dường như trong động thái rất chậm chạp, tay cậu ấy đang rút con dao ra khỏi thắt lưng –

Trước khi tôi thậm chí có thể nhận thức được hành động của mình, cây cung của tôi đã được lắp mũi tên nhằm thẳng vào tim cậu ấy. Peeta nhướn mày và tôi nhìn thấy con dao đã rời khỏi tay cậu ấy rơi xuống hồ làm nước bắn tung tóe. Tôi hạ vũ khí và lùi lại một bước, mặt tôi đỏ bừng và lý do chỉ có thể là sự xấu hổ.

“Không,” Peeta lên tiếng. “Làm đi.” Tay Peeta hướng về tôi và ấn vũ khí vào tay tôi.

“Mình không thể,” tôi nói. “Mình sẽ không làm.”

“Làm đi. Trước khi họ thả những con chó trở lại hoặc thứ gì đó. Mình không muốn chết giống như Cato,” cậu ấy nói.

“Thế thì cậu bắn mình đi,” tôi giận dữ, đẩy vũ khí về phía cậu ấy. “Cậu bắn mình và trở về nhà và sống với điều đó!” Và khi tôi nói ra điều đó, tôi biết rằng cái chết ở đây, ngay lúc này sẽ là điều dễ dàng hơn cho cả hai.

“Cậu biết là mình không thể mà,” Peeta nói, vứt bỏ vũ khí. “Được rồi, dù sao thì mình cũng sẽ chết trước.” Cậu ấy cúi xuống và tháo băng ở chân ra, loại bỏ vật cản cuối cùng ngăn máu chảy xuống đất.

“Không, cậu không thể tự tử được,” tôi kêu lên. Tôi quỳ xuống, cuống cuồng buộc lại băng trên vết thương của cậu ấy.

“Katniss,” cậu ấy nói. “Đây là điều mình muốn.”

“Cậu sẽ không bỏ mình lại đây một mình,” tôi nói. Bởi vì nếu cậu ấy chết, tôi sẽ không bao giờ về được nhà, không thực sự. Tôi sẽ trải qua phần đời còn lại trong đấu trường này cố gắng tìm cách thoát ra.

“Nghe này,” cậu ấy kéo tôi đứng dậy. “Chúng ta đều biết rằng họ phải có một người thắng cuộc. Đó chỉ có thể là một trong hai chúng ta. Xin cậu, hãy giành lấy nó. Vì mình.” Và cậu ấy tiếp tục nói về việc cậu ấy yêu tôi nhiều như thế nào, cuộc sống sẽ như thế nào nếu như không có tôi nhưng tôi đã không nghe thấy gì nữa vì lời nói trước đó của cậu ấy đã chiếm lĩnh hết tâm trí tôi, quay cuồng trong đầu tôi.

Chúng ta đều biết rằng họ phải có một người thắng cuộc.

Đúng, họ phải có một người chiến thắng. Không có người chiến thắng, tất cả những thứ này sẽ thổi bay mặt mũi của các Nhà thiết lập Trò chơi. Họ sẽ làm mất uy tín Capitol. Thậm chí có thể là hủy diệt, một cách chậm chạp và đau đớn trong khi các camera truyền trực tiếp hình ảnh này đến mọi màn hình trên toàn đất nước.

Nếu cả Peeta và tôi đều chết, hoặc họ nghĩ như vậy…

Các ngón tay tôi lần mò chiếc túi da nhỏ ở thắt lưng, lấy nó ra. Peeta nhìn nó và tay cậu ấy giữ chặt cổ tay tôi. “Không, mình sẽ không để cậu làm vậy.”

“Tin mình,” tôi thì thầm. Cậu ấy nhìn thẳng vào mắt tôi một hồi lâu rồi thả tay ra. Tôi cởi nắp túi và đổ một ít dâu vào lòng bàn tay cậu ấy. Sau đó đổ vào tay mình. “Đếm từ một đến ba nhé?”

Peeta cúi xuống và hôn tôi, rất dịu dàng. “Đếm đến ba,” cậu ấy đáp.

Chúng tôi đứng lên, lưng dựa vào nhau, nắm chặt hai tay không có dâu với nhau.

“Giơ chúng lên. Mình muốn tất cả mọi người nhìn thấy,” cậu ấy nói.

Tôi xòe các ngón tay ra, và những quả dâu đen sáng bóng lấp lánh trong ánh mặt trời. Tôi bóp chặt tay Peeta lần cuối như một tín hiệu, như một lời vĩnh biệt, và chúng tôi bắt đầu đếm. “Một.” Có thể tôi sai. “Hai.” Có thể họ không quan tâm nếu cả hai chúng tôi cùng chết. “Ba!” Quá muộn để thay đổi quyết định. Tôi nâng bàn tay lên miệng, nhìn thế giới một lần cuối cùng. Những quả dâu vừa mới qua môi tôi thì những hồi kèn bắt đầu vang lên.

Giọng Claudius Templesmiths điên cuồng hét lên át cả chúng. “Dừng lại! Dừng lại! Thưa các quý ông, quý bà, tôi xin vinh hạnh giới thiệu những nhà vô địch của Trò chơi sinh tử lần thứ bảy mươi tư, Katniss Everdeen và Peeta Mellark! Tôi xin gửi tới quý vị – các cống phẩm của Đặc khu Mười hai!”

CHƯƠNG 26

Tôi nhổ những quả dâu ra khỏi miệng, lau sạch lưỡi bằng vạt áo sơ mi để chắc chắc không còn đọng lại nước dâu. Peeta kéo tôi xuống hồ nơi chúng tôi có thể rửa sạch miệng bằng nước và sau đó ôm chầm lấy nhau.



“Cậu không nuốt vào chút nào chứ?” tôi hỏi cậu ấy.



Cậu ấy lắc đầu. “Còn cậu?”



“Chắc giờ mình chết rồi nếu như mình đã nuốt,” tôi nói. Tôi có thể thấy môi cậu ấy mấp máy trả lời nhưng tôi không thể nghe được gì trong tiếng reo hò của khán giả ở Capitol mà họ đang truyền đi trực tiếp qua loa.



Chiếc trực thăng xuất hiện trên trời và hai chiếc thang dây được thả xuống, chỉ là tôi không thể nào để Peeta đi được. Tôi vòng cánh tay ôm cậu ấy khi giúp cậu ấy đứng lên, và chúng tôi mỗi người đặt một chân lên thanh thang đầu tiên. Dòng điện hút chặt lấy chúng tôi, và lần này tôi rất mừng vì tôi không thực sự chắc chắn Peeta có thể bám được vào thang suốt cuộc hành trình. Và vì mắt tôi đang nhìn xuống, tôi có thể thấy trong khi cơ bắp của chúng tôi đang bất động thì không có gì ngăn máu vẫn đang tuôn ra từ chân Peeta. Chắc chắn, ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng chúng tôi và dòng điện được ngắt, cậu ấy sẽ đổ sụp xuống sàn bất tỉnh.



Các ngón tay tôi vẫn nắm chặt lấy lưng áo khoác của cậu ấy đến nỗi khi họ đưa cậu ấy đi, nó bị rách toạc ra, để lại trên tay tôi một miếng vải đen. Các bác sĩ mặc đồ trắng vô trùng, đeo khẩu trang, găng tay, đã chuẩn bị sẵn sàng để phẫu thuật, tiến hành ngay lập tức. Peeta tái nhợt và bất động trên chiếc bàn bằng bạc, các ống truyền, dây dợ đầy quanh người cậu ấy, và trong giây lát tôi quên rằng chúng tôi đã thoát khỏi Trò chơi và tôi nhìn các bác sĩ chỉ như một mối nguy hiểm khác, một đàn thú biến đổi gen khác được tạo ra để giết cậu ấy. Sững sờ, tôi nhào đến chỗ cậu ấy, nhưng tôi bị ngăn lại và bị đẩy sang một phòng khác và một cửa kính đóng lại ngăn cách chúng tôi. Tôi đấm lên mặt kính, gào thét điên cuồng. Mọi người mặc kệ tôi, trừ một vài phục vụ người Capitol xuất hiện sau lưng tôi và đem cho tôi ít đồ uống.



Tôi sụp xuống sàn, mặt tôi vẫn dán chặt vào cửa kính, nhìn chằm chằm vô hồn vào chiếc cốc pha lê trong tay tôi. Đá lạnh với nước cam, một ống hút với diềm xếp ở phía trên. Trông nó thật không phù hợp trong đôi tay bẩn thỉu, đầy máu của tôi với những móng tay cáu bẩn và sứt sẹo. Miệng tôi ứa nước miếng trước mùi thơm của nó, nhưng tôi đặt nó xuống sàn, không tin tưởng bất cứ thứ gì quá sạch sẽ và đẹp đẽ.



Qua lớp kính, tôi nhìn các bác sĩ cuống quýt phẫu thuật cho Peeta, đôi mày họ cau lại để tập trung. Tôi nhìn thấy những dòng chất lỏng, bơm vào qua các đường ống, nhìn một bức tường toàn các đĩa số và đèn mà chẳng có nghĩa lý gì với mình. Tôi không chắc, nhưng tôi nghĩ tim cậu ấy đã ngừng đập hai lần.



Nó giống như đang ở nhà, khi người ta mang đến cái người bị thương vô vọng từ vụ nổ hầm mỏ, hay người đàn bà trong ngày đau đẻ thứ ba, hay đứa trẻ sắp chết đói đang đấu tranh chống lại bệnh viêm phổi, và mẹ tôi với Prim, họ cũng có vẻ mặt như vậy. Giờ là lúc chạy vào rừng để trốn tránh cho đến khi bệnh nhân đã đi khỏi đó rất lâu và ở một nơi khác của Seam, những người thợ rèn đang đóng quan tài. Nhưng tôi bị giữ lại đây bởi các bức tường của trực thăng và bởi một sức mạnh tương tự nó mà đang giữ những người mình yêu thương gần với cái chết. Đã bao nhiêu lần tôi nhìn thấy họ lượn quanh bếp nhà mình và tôi đã nghĩ, Tại sao họ không bỏ đi? Tại sao họ ở lại để nhìn?



Và giờ tôi đã hiểu. Đó là vì bạn không có lựa chọn.



Tôi giật mình khi nhìn thấy ai đó đang nhìn mình chằm chằm chỉ cách khoảng vài inch, và rồi tôi nhận ra đó chính là khuôn mặt của tôi phản chiếu lại qua tấm kính. Đôi mắt hoang dại, đôi má hõm vào, mái tóc tôi là một mớ rối bù, lộn xộn. Hung dữ. Hoang dã. Điên dại. Không khó hiểu tại sao mọi người đang giữ khoảng cách an toàn với tôi.



Điều tiếp theo mà tôi biết là chúng tôi hạ cánh xuống mái nhà của Trung tâm Huấn luyện và họ đang đưa Peeta đi nhưng để lại tôi sau cánh cửa. Tôi bắt đầu lao vào tấm kính, la hét ầm ĩ và tôi nghĩ là tôi đã thoáng nhìn thấy bóng của mái tóc màu hồng – đó phải là Effie, đó phải là Effie đến để giải cứu tôi – khi một mũi kim đâm mạnh vào tôi từ phía sau.



Khi tôi tỉnh lại, lúc đầu tôi sợ cử động. Toàn bộ trần nhà sáng bừng với ánh sáng vàng nhạt cho phép tôi nhận ra rằng mình đang nằm trong một căn phòng chỉ có độc một chiếc giường ngủ. Không nhìn thấy cửa ra vào hay cửa sổ. Không khí có mùi gì đó hăng hăng và mùi thuốc sát trùng. Tay phải tôi có vài ống truyền nối với bức tường đằng sau tôi. Tôi không mặc quần áo, nhưng khăn trải giường mịn màng đang phủ trên da tôi. Tôi rón rén nâng tay trái lên khỏi tấm chăn. Nó không chỉ được cọ rửa sạch sẽ, các móng tay được cắt tỉa thành hình oval một cách hoàn hảo, mà các vết sẹo do bị bỏng cũng đã mờ đi. Tôi chạm lên má, lên môi, lên vết sẹo nhăn nheo trên lông mày và tôi đang luồn các ngón tay vào mái tóc mềm mượt của mình trong khi vẫn nằm bất động. Đầy lo lắng, tôi làm rối chỗ tóc bên tai trái. Không, đó không hề là ảo tưởng. Tôi lại có thể nghe được.



Tôi cố gắng ngồi dậy, nhưng một dải băng rộng giữ cố định quanh eo ngăn tôi nâng người lên cao hơn vài inch. Sự giam hãm thân thể này làm tôi hoảng loạn và tôi đang cố gắng đẩy người dậy, vặn vẹo hông trong dải băng khi một phần của bức tường trượt mở ra và cô gái Avox tóc đỏ bước vào mang theo một chiếc khay. Sự xuất hiện của cô gái làm tôi bình tĩnh lại và ngừng cố gắng trốn thoát. Tôi muốn hỏi cả triệu câu hỏi, nhưng tôi sợ bất cứ sự thân quen nào sẽ gây nguy hiểm cho cô ấy. Rõ ràng rằng tôi đang bị theo dõi sát sao. Cô gái đặt chiếc khay ngang đùi tôi và ấn cái gì đó khiến tôi được đẩy ngồi dậy. Trong khi cô ấy điều chỉnh những chiếc gối cho tôi, tôi mạo hiểm hỏi một câu. Tôi nói to và rõ ràng nhất có thể mà chất giọng khàn khàn của mình có thể cho phép, nên không có gì tỏ ra bí hiểm. “Peeta có qua khỏi không?” Cô gái gật đầu, và khi cô ấy đặt một cái thìa vào tay tôi, tôi có thể cảm thấy một cái bóp nhẹ thiện chí.



Tôi đoán sau cùng thì cô ấy đã không mong ước tôi chết. Và Peeta đã vượt qua được. Tất nhiên, cậu ấy đã làm được. Với tất cả những thiết bị đắt tiền của họ ở đây. Tuy nhiên, tôi đã không dám chắc cho đến lúc này.



Khi cô gái Avox rời đi, cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại sau lưng cô ấy và tôi đói cồn cào hướng đến cái khay. Một bát nước xuýt trong, một cốc nhỏ nước táo, và một ly nước. Đây là nó ư? Tôi nghĩ một cách cáu bẳn. Không phải bữa tối chào mừng về nhà của tôi phải thịnh soạn hơn một chút sao? Nhưng tôi nhận ra rằng đó là cả một nỗ lực để xử lý hết bữa ăn thanh đạm trước mặt mình. Dạ dày tôi dường như đã co lại chỉ bằng kích thước của một hạt dẻ, và tôi phải tự hỏi tôi đã hôn mê bao lâu bởi tôi không có khó khăn gì để ăn một bữa sáng khối lượng lớn vào buổi sáng cuối cùng trong đấu trường. Thông thường sẽ có vài ngày trì hoãn giữa ngày kết thúc trò chơi và ngày giới thiệu người chiến thắng để họ có thể làm hồi phục một người đã bị đói khát, bị thương và bẩn thỉu. Ở một nơi nào đó, Cinna và Portia đang làm một tủ quần áo cho nhưng buổi xuất hiện trước công chúng. Haymitch và Effie đang sắp xếp một bữa tiệc lớn cho các nhà tài trợ của chúng tôi, xem xét lại các câu hỏi trong buổi phỏng vấn cuối cùng. Ở quê nhà, Đặc khu 12 có lẽ đang hỗn loạn khi họ cố gắng chuẩn bị buổi lễ chào mừng về nhà cho tôi và Peeta, mà lần gần nhất cũng đã cách đây đến ba mươi năm.



Về nhà! Prim và mẹ tôi! Gale! Ngay cả ý nghĩ về con mèo già bẩn thỉu của Prim cũng khiến tôi mỉm cười. Tôi sẽ về nhà sớm thôi!



Tôi muốn ra khỏi chiếc giường này. Để gặp Peeta và Cinna, để biết nhiều hơn về những chuyện đã xảy ra. Và tại sao tôi lại không nên làm thế chứ? Tôi cảm thấy khỏe. Nhưng khi tôi bắt đầu tìm cách thoát khỏi dải băng, tôi cảm thấy một dòng chất lỏng lạnh lẽo từ một trong những ống truyền thấm vào mạch máu của tôi và gần như ngay lập tức tôi mất đi tri giác.



Điều này lặp đi lặp lại trong một khoảng thời gian vô định. Việc tỉnh dậy của tôi, ăn uống, và, bị cho thiếp đi, mặc dù tôi đã từ bỏ thôi thúc cố gắng thoát khỏi chiếc giường. Tôi dường như ở trong một thứ ánh sáng liên miên, mờ ảo, xa lạ. Chỉ ghi nhận được một vài thứ. Cô gái Avox tóc đỏ không hề quay lại kể từ lần cho tôi ăn, các vết sẹo của tôi đang dần biến mất, hay là tôi đang tưởng tượng ra điều đó? Hay liệu tôi có nghe thấy tiếng một người đàn ông đang quát tháo không? Không phải với âm vực của người Capitol, mà là ngữ điệu thô ráp hơn của quê nhà. Tôi không thể không có một cảm giác mơ hồ, cảm thấy được an ủi rằng có ai đó đang quan tâm đến mình.



Sau đó cuối cùng thì thời điểm cũng đến khi tôi tỉnh lại và không còn bất cứ thứ gì cắm vào cánh tay phải của tôi. Dải băng kiểm soát quanh người tôi đã được dỡ bỏ và tôi được tự do đi lại. Tôi bắt đầu ngồi dậy nhưng tôi bị sững lại khi nhìn bàn tay mình. Làn da hoàn hảo, mịn màng và đầy sức sống. Không chỉ những vết sẹo trong đấu trường đã biến mất, mà cả những vết sẹo tích tụ nhiều năm do săn bắn cũng tan biến không còn dấu vết. Trán tôi cảm giác giống như vải sa tanh, và khi tôi cố tìm vết bỏng trên bắp chân, ở đó không có gì.



Tôi trượt chân xuống giường, lo lắng về việc làm sao chúng chịu nổi trọng lượng cơ thể mình và thấy chúng khỏe mạnh và ổn định. Ở chân giường đặt một bộ quần áo khiến tôi ngần ngại. Đó là trang phục mà tất cả các cống phẩm chúng tôi đã mặc khi ở đấu trường. Tôi nhìn chằm chằm vào nó như thể nó có răng cho đến khi tôi nhớ ra rằng, tất nhiên, đây là thứ tôi sẽ mặc để chào đón đội của mình.



Tôi mặc nó trong chưa đầy một phút, và bồn chồn đứng trước bức tường nơi tôi biết có một cánh cửa ngay cả khi tôi không thể thấy nó thì nó đột ngột mở ra. Tôi bước vào một hành lang rộng rãi, vắng vẻ mà dường như không có cánh cửa nào khác ở đó. Nhưng chắc chắn phải có. Và đằng sau một trong số chúng phải là Peeta. Bây giờ khi tôi hoàn toàn tỉnh táo và có thể di chuyển, tôi càng lúc càng lo lắng về cậu ấy. Cậu ấy chắc chắn phải ổn, nếu không cô gái Avox đã không nói vậy. Nhưng tôi cần tự mình nhìn thấy cậu ấy.



“Peeta!” tôi gọi to, vì không có ai để hỏi. Tôi nghe thấy tên tôi dội lại, nhưng đó không phải là giọng cậu ấy. Đó là giọng nói mà lúc đầu khiến tôi tức giận và sau đó là sự háo hức. Effie.



Tôi quay lại và nhìn thấy tất cả bọn họ đang đợi trong một phòng lớn ở cuối hành lang – Effie, Haymitch, và Cinna. Hai chân tôi lao tới không hề do dự. Có lẽ một nhà vô địch nên thể hiện sự tự chủ, sự ưu tú hơn nữa, nhất là khi cô ấy biết rằng điều đó sẽ được ghi hình lại, nhưng tôi không quan tâm. Tôi chạy đến chỗ họ và ngạc nhiên với chính mình khi tôi lao vào vòng tay của Haymitch trước tiên. Khi ông ấy thì thầm vào tai tôi, “Làm tốt lắm, cháu yêu,” nó không có chút giọng điệu châm biếm nào. Effie có vẻ xúc động và liên tục vỗ về tóc tôi và nói về việc cô ta đã kể với mọi người rằng chúng tôi là những viên ngọc trai như thế nào. Cinna chỉ ôm tôi thật chặt và không nói gì. Sau đó tôi nhận ra Portia vắng mặt và có một linh cảm xấu.



“Portia đâu? Chị ấy ở với Peeta à? Cậu ấy ổn, đúng không? Ý cháu là, cậu ấy vẫn sống chứ?” tôi nói buột miệng.



“Cậu bé ổn. Chỉ là họ muốn cuộc hội ngộ của các cháu được truyền trực tiếp tại buổi lễ chúc mừng,” Haymitch trả lời.



“Ồ. Đó là tất cả,” tôi nói. Khoảnh khắc kinh khủng khi nghĩ Peeta đã chết trôi qua. “Cháu cho là bản thân cháu cũng muốn xem điều đó.”



“Đi với Cinna đi. Anh ta phải giúp cháu chuẩn bị sẵn sàng,” Haymitch nói.



Thật là nhẹ nhõm khi ở một mình với Cinna, cảm thấy cánh tay đầy che chở của anh ấy bao quanh vai mình khi anh ấy đưa tôi đi xa khỏi những chiếc camera, đi xuống vài hành làng và đến một thang máy để đi lên tiền sảnh của Trung tâm Huấn luyện. Như vậy bệnh viện ở rất sâu dưới lòng đất, thậm chí ở dưới phòng tập nơi các cống phẩm luyện tập buộc dây thừng và ném lao. Các cửa sổ của tiền sảnh tối om, và một vài lính gác đang đứng làm nhiệm vụ. Không ai khác ở đó để nhìn chúng tôi đi ngang qua đến thang máy cho các cống phẩm. Bước chân của chúng tôi vang vọng trong sự vắng lặng. Và khi chúng tôi lên tầng mười hai, khuôn mặt của tất cả các cống phẩm, những người sẽ không bao giờ trở về lần lượt hiện lên trong đầu tôi và ngực tôi như thít lại, nặng nề.



Khi cửa thang máy mở ra, Venia, Flavius và Octavia bủa vây tôi, nói huyên thuyên, ngây ngất khiến tôi không thể nghe rõ họ nói gì. Dù sao thì cảm xúc cũng rõ ràng. Họ thật sự xúc động khi gặp lại tôi và tôi cũng rất vui mừng khi nhìn thấy họ, mặc dù không giống như khi gặp lại Cinna. Nó giống như kiểu một người sẽ vui mừng như thế nào khi gặp lại ba con thú cưng của mình sau một ngày đặc biệt mệt mỏi.



Họ lôi tôi vào phòng ăn và tôi có một bữa ăn thực sự – thịt bò nướng với đậu Hà Lan và những chiếc bánh cuộn mềm – mặc dù khẩu phần ăn của tôi vẫn bị kiểm soát nghiêm ngặt. Bởi vì khi tôi yêu cầu phần ăn thứ hai thì bị từ chối.



“Không, không, không. Họ không muốn tất cả những thứ này gây trở ngại cho việc lên sân khấu,” Octavia nói, nhưng dưới gầm bàn, cô ta bí mật chuyền vào tay tôi thêm một miếng bánh cuộn để tôi biết rằng cô ta đứng về phía tôi.



Chúng tôi quay trở lại phòng tôi và Cinna biến mất một lúc khi đội chuẩn bị giúp tôi sẵn sàng.



“Ồ, họ đã làm láng mịn cả người em,” Flavius nói một cách ghen tị. “Không còn một thiếu sót nào trên làn da của em nữa.”



Nhưng khi tôi nhìn vào cơ thể khỏa thân của mình trong gương, tất cả những gì tôi có thể thấy là tôi gầy gò như thế nào. Ý tôi là, tôi chắc chắn rằng tôi đã tệ hơn thế khi tôi bước ra khỏi đấu trường, nhưng tôi có thể dễ dàng đếm được các xương sườn của mình.



Họ lo việc cài đặt chế độ tắm vòi hoa sen cho tôi, và họ tiếp tục làm việc với móng tay, móng chân, tóc tai và trang điểm khi tôi tắm xong. Họ buôn chuyện không ngừng đến nỗi tôi hiếm khi phải trả lời, điều này lại tốt, vì tôi không cảm thấy muốn nói chuyện lắm. Thật buồn cười, vì mặc dù họ nói huyên thuyên về Trò chơi, tất cả những điều họ nói chỉ là họ đã ở đâu, họ đang làm gì lúc đó hay họ cảm thấy thế nào khi một sự kiện đặc biệt xảy ra. “Tôi vẫn ở trên giường!” “Tôi vừa mới nhuộm lông mày!” “Tôi thề là tôi đã suýt ngất!” Mọi thứ là về họ, chứ không phải về những cậu bé và cô bé đang chết dần trong đấu trường.



Chúng tôi không xem Trò chơi theo cách này ở Đặc khu 12. Chúng tôi nghiến răng và xem bởi chúng tôi buộc phải xem và phải cố gắng quay trở lại với cuộc sống bình thường nhanh nhất có thể sau khi chúng kết thúc. Để tránh phải ghét đội chuẩn bị, tôi loại bỏ một cách hiệu quả phần lớn những gì họ nói.



Cinna bước vào với một thứ có vẻ là một chiếc váy màu vàng khiêm tốn vắt trên cánh tay.



“Anh đã từ bỏ tất cả những thứ liên quan đến ‘cô gái của lửa’ rồi à?” tôi hỏi.



“Em nói xem,” anh ấy đáp và trượt cái váy qua đầu tôi. Tôi ngay lập tức nhận ra miếng lót trên ngực mình, tăng thêm đường cong mà sự đói khát đã tước mất khỏi cơ thể tôi. Hai tay tôi sờ lên ngực và nhăn mặt.



“Anh biết,” Cinna lên tiếng trước khi tôi có thể phản đối. “Nhưng các Nhà thiết lập Trò chơi đã muốn chỉnh sửa bằng cách phẫu thuật. Haymitch đã phải đấu tranh gay gắt với họ về việc đó. Đây là thỏa hiệp.” Anh ấy ngăn tôi trước khi tôi có thể nhìn thấy hình ảnh của mình trong gương. “Đợi đã, đừng quên đeo giày.” Venia giúp tôi đi đôi săng đan da mỏng và tôi quay vào gương.



Tôi vẫn là ‘cô gái của lửa’. Tà váy mỏng manh nhẹ nhàng tỏa sáng. Thậm chí một cử động nhẹ trong không khí cũng tạo ra những gợn sóng dọc cơ thể tôi. Nếu so sánh, trang phục đi xe ngựa có vẻ chói lóa, chiếc váy trong buổi phỏng vấn thì quá được sắp đặt. Trong chiếc váy này, tôi có cảm tưởng như đang khoác trên mình ánh nến lung linh.



“Em nghĩ sao?” Cinna hỏi.



“Em nghĩ nó là cái đẹp nhất,” tôi trả lời. Khi tôi có thể rời mắt khỏi lớp vải lấp lánh, tôi lại rơi vào một cú sốc khác. Tóc tôi được buông ra, buộc ra đằng sau bằng một dải ruy băng đơn giản. Phấn trang điểm đã làm đầy đặn và mềm mại các góc cạnh của gương mặt tôi. Một lớp sơn bóng phủ lên các móng tay. Chiếc đầm không tay được làm chun ở chỗ xương sườn, chứ không phải ở eo, gần như loại bỏ đi sự trợ giúp của miếng đệm ngực mà đáng lẽ tôn lên đường cong của tôi. Chiếc váy dài đến đúng đầu gối tôi. Không có giày cao gót, bạn có thể nhìn thấy vóc người thực sự của tôi. Rất chân thật, tôi trông như một cô bé. Một cô gái trẻ. Nhiều nhất cũng chỉ mười bốn tuổi. Trong sáng. Vô hại. Đúng, thật kinh ngạc là Cinna có thể lôi ra hình ảnh đó khi bạn nhớ rằng tôi vừa mới chiến thắng Trò chơi.



Đây là một tạo hình được tính toán trước. Không thiết kế nào của Cinna là tùy tiện hết. Tôi cắn môi cố gắng hiểu được động cơ của anh ấy.



“Em đã nghĩ sẽ được tạo hình một cách… công phu hơn,” tôi nói.



“Anh nghĩ Peeta sẽ thích hình ảnh này hơn,” anh ấy trả lời một cách thận trọng.



Peeta ư? Không, đó không phải về Peeta. Nó nhằm đến Capitol, những Nhà thiết lập Trò chơi và khán giả. Mặc dù tôi vẫn chưa hiểu thiết kế của Cinna, nhưng đó là một lời nhắc nhở rằng Trò chơi vẫn chưa thật sự kết thúc. Và ẩn dấu trong câu trả lời nhẹ nhàng của anh ấy, tôi cảm nhận được một lời cảnh báo. Về một thứ mà thậm chí anh ấy không thể đề cập đến trước mặt nhóm của chính mình.



Chúng tôi đi thang máy lên tầng mà chúng tôi được huấn luyện. Đó là thông lệ cho người chiến thắng và đội của cô ấy hay anh ấy rằng sẽ được đưa lên từ phía dưới sân khấu. Đầu tiên là đội chuẩn bị, tiếp đến là người hộ tống, chuyên gia thời trang, cố vấn và cuối cùng là người chiến thắng. Chỉ duy nhất năm nay, với hai người chiến thắng, mà cùng chung một người hộ tống và một cố vấn, mọi thứ sẽ phải được xem xét lại. Tôi thấy mình đang ở một nơi ít ánh sáng phía dưới sân khấu. Một chiếc đĩa kim loại mới toanh đã được lắp đặt để đưa tôi lên. Bạn có thể nhìn thấy những đống mùn cưa nhỏ, mùi sơn mới. Cinna và đội chuẩn bị tách ra để thay đổi trang phục và vào vị trí của mình, để lại tôi một mình. Trong bóng tối, tôi nhìn thấy một bức tường tạm thời dựng lên cách đó khoảng mười yard và đoán rằng Peeta đang ở đằng sau đó.



Âm thanh của khán giả ầm ầm, nên tôi không phát hiện ra Haymitch cho đến khi ông chạm vào vai tôi. Tôi nhảy tránh ra, giật mình, một nửa vẫn cảm thấy ở trong đấu trường, tôi cho là vậy.



“Bình tĩnh nào, là ta. Để ta ngắm cháu nào,” Haymitch nói. Tôi dang hai tay ra và quay một vòng. “Khá ổn.”



Đó chưa đủ cho một lời khen. “Nhưng sao?” tôi hỏi.



Haymitch nhìn quanh nơi mà tôi đang đứng, và ông ấy dường như đang ra một quyết định. “Nhưng không gì cả. Một cái ôm chúc may mắn thì thế nào?”



Được thôi, đó là yêu cầu kỳ quặc nhất của Haymitch nhưng sau cùng thì chúng tôi là những người chiến thắng. Có lẽ một cái ôm chúc may mắn là thủ tục. Chỉ là, khi tôi vòng cánh tay quanh cổ ông ấy, tôi thấy mình bị giữ chặt trong vòng tay ông. Ông bắt đầu nói, rất nhanh, rất nhỏ vào tai tôi, tóc tôi che đi miệng của ông ấy.

“Nghe kỹ đây. Cháu đang gặp rắc rối. Nói rõ ra là Capitol đang rất tức giận về việc cháu đã làm cho họ xấu hổ khi ở trong đấu trường. Một điều mà họ không thể chấp nhận được là bị cười nhạo và họ trở thành trò cười của toàn bộ Panem,” Haymitch nói.



Giờ thì tôi cảm thấy sự khiếp đảm xuyên suốt cơ thể, nhưng tôi cười to như thể Haymitch đang nói điều gì đó hoàn toàn thú vị bởi vì không có gì che đi miệng tôi. “Vậy thì, phải làm sao?”



“Cách duy nhất có thể bảo vệ cháu là cháu đã yêu điên cuồng nên cháu đã không chịu trách nhiệm được hành động của mình.” Haymitch đẩy tôi ra và chỉnh lại ruy băng buộc tóc của tôi. “Hiểu chứ, cháu yêu?” Bây giờ ông ấy không thể nói bất cứ điều gì.



“Đã hiểu,” tôi trả lời. “Bác có nói với Peeta chuyện này không?”



“Không cần thiết,” Haymitch đáp. “Cậu ấy đã luôn như vậy.”



“Nhưng bác nghĩ rằng cháu không như vậy?” tôi nói, nhân cơ hội chỉnh lại chiếc thắt nơ màu đỏ sáng mà hẳn là Cinna đã phải vật lộn mới ép được ông ấy đeo vào.



“Từ khi nào mà bắt đầu quan tâm đến những gì ta nghĩ thế?” Haymitch nói. “Tốt hơn là vào vị trí của chúng ta đi.” Ông ấy dẫn tôi đến vòng tròn kim loại. “Đây là đêm của cháu, cháu yêu. Hãy tận hưởng nó.” Ông hôn lên trán tôi và biến mất trong bóng tối.



Tôi kéo chân váy của mình, muốn nó dài hơn, mong nó có thể che được sự sự run rẩy ở hai đầu gối. Sau đó tôi nhận ra rằng thật vô ích. Cả người tôi đang run rẩy như một chiếc lá. Hy vọng rằng nó sẽ được cho là sự hồi hộp. Sau cùng thì đây cũng là đêm của tôi mà.



Mùi ẩm mốc ở dưới sân khấu đang có nguy cơ làm tôi nôn mửa. Mồ hôi lạnh và ẩm ướt túa ra trên da tôi và tôi không thể thoát khỏi cảm giác rằng tấm ván phía trên chuẩn bị sụp xuống, chôn sống tôi dưới đống đổ nát. Khi tôi rời khỏi đấu trường, khi hồi kèn nổi lên, tôi đã cho rằng mình đã an toàn. Từ lúc đó trở đi. Trong cả phần đời còn lại của tôi. Nhưng nếu những điều Haymitch nói là sự thật, và ông ấy không có lý do gì để nói dối, thì tôi chưa từng ở trong một tình thế nguy hiểm hơn thế này trong cuộc đời mình.



Nó còn tồi tệ hơn cả việc bị săn lùng trong đấu trường. Ở đó, tôi chỉ có thể chết. Kết thúc câu chuyện. Nhưng ở ngoài này còn có Prim, mẹ tôi, Gale, những người dân ở Đặc khu 12, tất cả những người mà tôi quan tâm ở quê nhà có thể bị trừng phạt nếu tôi không thể lôi ra được hình tượng một cô gái điên rồ vì yêu mà Haymitch đã gợi ý.



Dù sao như vậy tôi vẫn còn có cơ hội. Thật nực cười, trong đấu trường, khi tôi dốc ra những quả dâu đó, tôi chỉ nghĩ đến việc đấu trí với các Nhà thiết lập Trò chơi, chứ không nghĩ đến hành động của tôi sẽ làm mất uy tín của Capitol. Nhưng Trò chơi sinh tử là vũ khí của họ và bạn được cho là không thể chống lại nó. Do đó, lúc này Capitol sẽ hành động như thể họ đã kiểm soát suốt thời gian qua. Như thể họ đã sắp đặt toàn bộ các sự kiện, từ đầu cho đến vụ cả hai định tự tử. Nhưng chỉ làm được điều đó nếu tôi phối hợp với họ.



Và Peeta… Peeta cũng sẽ phải gánh chịu, nếu việc này thất bại. Nhưng điều Haymitch nói nghĩa là gì khi tôi hỏi ông ấy đã nói với Peeta tình huống này chưa? Rằng cậu ấy phải giả vờ như đang yêu mãnh liệt?



“Không cần thiết. Cậu ấy đã luôn như vậy.”



Đã lại suy tính trước tôi trong Trò chơi và hoàn toàn nhận thức được tình huống nguy hiểm mà chúng tôi đang lâm vào ư? Hay… đã yêu điên cuồng? Tôi không biết. Tôi thậm chí chưa từng phân định rõ cảm xúc của tôi với Peeta. Nó quá phức tạp. Những gì tôi đã làm như là một phần của Trò chơi. Trái ngược với những gì tôi đã làm do việc tức giận với Capitol. Hay bởi vì việc đó sẽ được nhìn nhận như thế nào ở Đặc khu 12. Hay đơn giản vì đó là việc tốt đẹp duy nhất để làm. Hay những gì tôi làm là vì tôi quan tâm đến cậu ấy.



Đây là những câu hỏi cần được làm sáng tỏ khi quay trở về nhà, trong sự yên bình và tĩnh lặng của khu rừng, khi không có ai đang theo dõi. Không phải ở đây với mọi con mắt nhìn vào tôi. Nhưng tôi sẽ không có được sự xa xỉ đó bởi ai biết được sẽ kéo dài bao lâu. Và ngay bây giờ, phần nguy hiểm nhất của Trò chơi sinh tử đang chuẩn bị bắt đầu.

CHƯƠNG 27



Bản nhạc quốc ca nổ tung trong tai tôi và sau đó tôi nghe tiếng Caesar Flickerman đang chào mừng khán giả. Ông ta có biết tầm quan trọng của việc nói chuẩn xác mọi từ ngữ từ bây giờ trở đi hay không? Ông ta phải biết. Ông ta sẽ muốn giúp chúng tôi. Đám đông vỡ òa trong tràng pháo tay khi các đội chuẩn bị xuất hiện. Tôi tưởng tượng ra Flavius, Venia và Octavia vênh vang đi lại và làm những động tác nhún chào nực cười. Đảm bảo rằng họ chẳng biết gì. Sau đó Effie được giới thiệu. Cô ta đã chờ đợi giây phút này bao lâu rồi. Tôi hy vọng cô ta có thể tận hưởng nó bởi vì theo kiểu suy nghĩ lệch lạc của Effie, cô ta có một bản năng rất nhạy bén về một số thứ nhất định và chắc rằng ít nhất cũng nghi ngờ là chúng tôi đang gặp rắc rối. Portia và Cinna nhận được sự chào đón nồng nhiệt, tất nhiên, họ đã rất tài năng, đã có một màn ra mắt sáng chói. Giờ thì tôi đã hiểu sự lựa chọn trang phục của Cinna cho tôi đêm nay. Tôi cần phải trông như một cô gái bé nhỏ, trong sáng nhất có thể. Sự xuất hiện của Haymitch đem đến một tràng pháo tay mà phải kéo dài ít nhất năm phút. Ừ thì ông ấy đã hoàn thành tốt vai trò lần đầu tiên. Không chỉ giúp cho một mà là cả hai cống phẩm sống sót. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ấy đã không cảnh báo tôi kịp thời? Liệu tôi có hành động khác đi không? Khoe khoang về khoảnh khắc dùng những quả dâu trước mặt Capitol? Không, tôi không nghĩ vậy. Nhưng tôi có thể dễ dàng trở nên ít thuyết phục hơn tôi cần phải làm bây giờ. Ngay lúc này. Bởi vì tôi có thể cảm thấy chiếc đĩa đang nâng tôi lên sân khấu.



Ánh sáng chói lòa. Tiếng ầm inh tai khi chiếc đĩa kim loại lạch cạch vào vị trí dưới chân tôi. Sau đó là Peeta chỉ cách tôi vài feet. Cậu ấy trông thật bảnh bao, khỏe mạnh, và đẹp đẽ khiến tôi khó mà nhận ra. Nhưng nụ cười của cậu ấy vẫn như vậy dù ở trong bùn hay ở Capitol và khi tôi nhìn thấy nó, tôi bước khoảng ba bước và lao vào vòng tay cậu ấy. Cậu ấy lảo đảo lùi lại, gần như mất thăng bằng, và đó là lúc tôi nhận ra vật kỳ cục thon nhỏ bằng kim loại trong tay cậu ấy là một loại gậy ba toong. Cậu ấy điều chỉnh lại và chúng tôi chỉ dính chặt lấy nhau trong khi khán giả như phát điên. Cậu ấy đang hôn tôi và trong suốt thời gian đó tôi chỉ nghĩ, Cậu có biết không? Cậu có biết rằng chúng ta đang gặp nguy hiểm như thế nào không? Sau khoảng mười phút, Caesar Flickerman vỗ nhẹ lên vai cậu ấy để tiếp tục chương trình, và Peeta chỉ đẩy ông ta sang một bên mà không thèm liếc nhìn ông ta. Khán giả càng điên cuồng. Dù cậu ấy biết hay không, thì như thường lệ, Peeta vẫn luôn biết điều khiển khán giả như thế nào.



Cuối cùng, Haymitch tách chúng tôi ra và hiền từ đẩy chúng tôi về chiếc ghế dành cho người chiến thắng. Thông thường, đây là một chiếc ghế đơn, được trang trí công phu mà từ đó cống phẩm chiến thắng sẽ xem những hình ảnh tiêu biểu của Trò chơi, nhưng vì có hai chúng tôi, các Nhà thiết lập Trò chơi đã cung cấp một chiếc đi văng bằng nhung sang trọng màu đỏ. Một chiếc ghế nhỏ, mẹ tôi sẽ gọi nó là chiếc ghế tình nhân, tôi nghĩ vậy. Tôi ngồi sát vào Peeta đến nỗi gần như là ngồi trên lòng cậu ấy, nhưng một cái nhìn của Haymitch đã nói với tôi rằng điều đó chưa đủ. Đá đôi săng đan ra, tôi vắt chân sang một bên và dựa đầu vào vai Peeta. Cánh tay cậu ấy tự động ôm lấy tôi, và tôi cảm thấy như mình quay trở lại cái hang, co tròn trong lòng cậu ấy, cố gắng giữ hơi ấm. Chiếc áo sơ mi của cậu ấy được làm từ cùng loại vải vàng như chiếc váy của tôi, nhưng Portia cho cậu ấy mặc một chiếc quần đen dài. Cũng không đi săng đan, mà một đôi bốt màu đen chắc chắn giữ cậu ấy đứng vững vàng trên sân khấu. Tôi ước Cinna cho tôi mặc trang phục tương tự như vậy, vì tôi cảm thấy quá yếu đuối trong chiếc váy mỏng manh này. Nhưng tôi đoán đó chính là điểm mấu chốt.



Caesar Flickerman kể thêm vài câu chuyện cười nữa, và rồi cũng đến lúc bắt đầu chương trình. Nó sẽ kéo dài đúng ba giờ đồng hồ và bắt buộc phải chiếu trên toàn bộ Panem. Khi ánh sáng yếu đi và quốc huy xuất hiện trên màn hình, tôi nhận ra tôi chưa chuẩn bị cho việc này. Tôi không muốn nhìn thấy hai mươi hai cống phẩm chết. Tôi đã nhìn đủ những cái chết của họ trước rồi. Tim tôi bắt đầu đập mạnh và tôi có thôi thúc mạnh mẽ muốn bỏ chạy. Làm thế nào những người chiến thắng khác đã đối mặt với chuyện này một mình được? Trong suốt những sự kiện tiêu biểu, họ thỉnh thoảng lại chiếu lên phản ứng của người chiến thắng trên ô nhỏ ở góc màn hình. Tôi nghĩ về những năm trước đây… một vài người tỏ ra đắc thắng, giơ nắm đấm lên, đấm vào ngực họ. Phần lớn chỉ ngồi bất động. Tất cả những gì tôi biết là thứ duy nhất giữ tôi ngồi trên chiếc ghế tình nhân này là Peeta – cánh tay của cậu ấy ôm lấy vai tôi, bàn tay kia thì bị năm chặt bởi hai tay tôi. Tất nhiên, những người chiến thắng trước đây không bị Capitol tìm cách tiêu diệt họ.



Thu gọn vài tuần trong vòng ba giờ quả là một kỳ công, đặc biệt khi bạn phải xem xét rất nhiều camera đã quay cùng một lúc. Bất cứ ai biên tập những sự kiện tiêu biểu này cũng phải lựa chọn một thông điệp để truyền tải. Năm nay, lần đầu tiên họ kể một câu chuyện tình yêu. Tôi biết tôi và Peeta đã chiến thắng, nhưng có một thời lượng không cân đối dành cho chúng tôi, ngay từ lúc bắt đầu. Dù sao tôi cũng vui mừng vì nó sẽ hỗ trợ cho toàn bộ câu chuyện yêu-điên-cuồng mà đó là biện pháp bảo vệ chúng tôi chống lại Capitol, thêm vào đó nó còn có nghĩa là chúng tôi sẽ không phải xem lại quá nhiều những cái chết.



Khoảng nửa giờ đầu tiên tập trung vào các sự kiện trước đấu trường, buổi chọn cống phẩm, cuộc diễu hành trên xe ngựa quanh Capitol, điểm số trong kỳ huấn luyện, và buổi phỏng vấn của chúng tôi. Có một loại nhạc nền tiết tấu vui tươi lồng ghép vào đó làm cho nó trở nên kinh tởm gấp đôi bởi, tất nhiên, gần như tất cả mọi người trên màn hình đều đã chết.



Khi chúng tôi ở trong đấu trường, có một bản tin chi tiết về trận tắm máu và sau đó các nhà làm phim chiếu lần lượt các hình ảnh về cái chết của các cống phẩm và hình ảnh của chúng tôi. Thực ra phần lớn là về Peeta, không nghi ngờ gì là cậu ấy đã gánh lấy câu chuyện lãng mạn này trên vai. Giờ tôi có thể nhìn thấy những gì mà khán giả đã xem, cậu ấy đã đánh lạc hướng bọn Chuyên nghiệp về tôi như thế nào, thức trắng đêm dưới gốc cây có tổ ong tracker jacker, chiến đấu với Cato để tôi chạy thoát và ngay cả khi nằm trong vũng bùn lầy bên bờ suối, vẫn thì thầm tên tôi trong giấc ngủ. So với cậu ấy, tôi dường như không có trái tim – chạy né tránh những quả cầu lửa, ném tổ ong xuống, và thổi bay kho vật dụng – cho đến khi tôi đi săn tìm Rue. Họ chiếu toàn bộ cái chết của Rue, mũi lao phóng đi, nỗ lực giải cứu thất bại của tôi, mũi tên của tôi xuyên qua cổ họng của tên đến từ Đặc khu 1, Rue trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay tôi. Và bài hát. Tôi phải hát mọi nốt nhạc trong bài hát. Một thứ gì đó trong tôi đóng lại và tôi quá tê liệt để có thể cảm nhận được bất cứ thứ gì. Nó giống như xem những người hoàn toàn xa lạ trong một kỳ Trò chơi sinh tử khác. Tôi nhận ra họ đã bỏ qua phần mà tôi đã bao phủ cô bé trong hoa rừng.



Đúng. Bởi ngay cả việc đó cũng có hơi hướng của sự phản loạn.



Các hình ảnh tập trung về tôi khi họ thông báo hai cống phẩm từ cùng một đặc khu có thể sống và tôi hét tên Peeta và rồi bịt tay vào miệng. Nếu tôi lúc đầu có vẻ lãnh đạm với cậu ấy, thì tôi đã đền bù cho cậu ấy vào lúc này, bằng việc đi tìm cậu ấy, chăm sóc cho cậu ấy khỏe lại, đi đến bữa tiệc để lấy thuốc, và rất rộng rãi với các nụ hôn của mình. Một cách khách quan, tôi có thể nhìn thấy các con quái thú, cái chết của Cato kinh khủng như thế nào trước đây, nhưng một lần nữa, tôi cảm thấy nó xảy ra với những người tôi chưa từng gặp gỡ.



Và rồi đến khoảnh khắc với những quả dâu. Tôi có thể nghe thấy tiếng khán giả ra hiệu im lặng cho nhau, không muốn bỏ lỡ bất cứ thứ gì. Một làn sóng biết ơn các nhà làm phim tràn qua tôi khi họ kết thúc không phải bằng thông báo chiến thắng của chúng tôi, mà bằng hình ảnh tôi đang đấm lên cửa kính của chiếc trực thăng, gào thét tên Peeta khi họ cố gắng làm hồi sinh cậu ấy.



Trong thông điệp về sự tồn tại, đó là khoảnh khắc đẹp nhất của tôi trong cả đêm.



Bài quốc ca lại vang lên một lần nữa và chúng tôi đứng lên khi Tổng thống Snow bước lên sân khấu và theo sau là một bé gái mang một tấm đệm có đặt chiếc vương miện. Tuy nhiên, chỉ có một chiếc vương miện, và bạn có thể nghe thấy tiếng khán giả xì xào bàn tán – ông ta sẽ đặt nó lên đầu ai? – cho đến khi Tổng thống Snow xoay nó và nó tách ra làm hai nửa. Ông ta đặt nửa đầu tiên lên trán Peeta với một nụ cười. Ông ta vẫn cười khi đặt nửa còn lại lên đầu tôi, nhưng đôi mắt ông ta, ghé sát mắt tôi chỉ cách vài inch, không dung thứ giống như không dung thứ cho loài rắn.



Đó là lúc tôi biết rằng mặc dù cả hai chúng tôi cùng định ăn dâu độc, nhưng tôi là người bị buộc tội đưa ra ý tưởng. Tôi là kẻ chủ mưu. Tôi là người phải bị trừng phạt.



Kế tiếp là rất nhiều những động tác cúi chào, hoan hô. Cánh tay tôi gần như rời ra vì vẫy chào khi Caesar Flickerman cuối cùng cũng nói lời chào tạm biệt khán giả, nhắc nhở họ bắt sóng vào hôm sau để xem các cuộc phỏng vấn cuối cùng. Như thể họ có sự lựa chọn vậy.



Peeta và tôi được đưa thẳng đến biệt thự của Tổng thống để dự Bữa tiệc Chiến thắng, nơi chúng tôi có rất ít thời gian để ăn uống bởi các quan chức ở Capitol và những nhà tài trợ đặc biệt hào phóng chen lấn nhau khi họ cố gắng chụp ảnh cùng chúng tôi. Hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác tươi cười nối tiếp nhau, càng lúc càng xây xẩm khi buổi tối dần trôi qua. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp hình ảnh của Haymitch khiến tôi cảm thấy yên tâm, hay Tổng thống Snow, khiến tôi thấy sợ hãi, nhưng tôi vẫn tiếp tục tươi cười, cảm ơn mọi người và mỉm cười khi được chụp ảnh. Chỉ có một thứ duy nhất tôi không bao giờ làm đó là rời khỏi tay Peeta.



Mặt trời chỉ vừa mới nhô lên ở đường chân trời khi chúng tôi rã rời quay trở về tầng mười hai của Trung tâm Huấn luyện. Tôi nghĩ bây giờ cuối cùng tôi sẽ có cái gọi là ở riêng với Peeta, nhưng Haymitch đã cho cậu ấy đi cùng Portia để tìm thứ gì đó phù hợp cho buổi phỏng vấn và đích thân hộ tống tôi trở về phòng mình.



“Tại sao cháu không thể nói chuyện với cậu ấy?” tôi hỏi.



“Còn đầy thời gian để nói chuyện khi chúng ta trở về nhà,” Haymitch trả lời. “Đi ngủ đi, cháu sẽ lên hình lúc hai giờ.”



Mặc dù có sự can thiệp liên tiếp của Haymitch, tôi vẫn quyết định gặp riêng Peeta. Sau khi trở mình trằn trọc một vài giờ, tôi chuồn ra hành lang. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là kiểm tra mái nhà, nhưng ở đó không có ai. Ngay cả những con phố ở xa phía dưới cũng hoang vắng sau lễ chúc mừng tối nay. Tôi quay trở lại giường một lúc và rồi quyết định đi thẳng đến phòng cậu ấy, nhưng khi tôi cố gắng xoay nắm cửa, tôi nhận ra rằng cửa phòng ngủ của tôi đã bị khóa từ bên ngoài. Đầu tiên tôi nghi ngờ Haymitch, nhưng sau đó có một nỗi sợ hãi âm ỉ hơn rằng có thể là Capitol đang kiểm soát và giam giữ tôi. Tôi đã không thể bỏ trốn kể từ khi Trò chơi sinh tử bắt đầu, nhưng việc này cảm giác khác hẳn, cảm thấy nhằm đến cá nhân tôi nhiều hơn. Nó cảm tưởng như tôi đang bị bỏ tù vì phạm tội, và tôi đang chờ đợi bản án. Tôi nhanh chóng quay lại giường và giả vờ đang ngủ cho đến khi Effie Trinket đến đánh thức tôi để bắt đầu “một ngày vô cùng trọng đại!” khác.



Tôi có khoảng năm phút để ăn một bát ngũ cốc trộn món hầm nóng trước khi đội chuẩn bị đến. Tất cả những gì tôi phải nói là, “Khán giả yêu mọi người!” và không phải nói thêm gì nữa trong một vài giờ tới. Khi Cinna bước vào, anh ấy xua họ ra ngoài và mặc cho tôi một chiếc váy trắng mỏng nhẹ và một đôi giày hồng. Sau đó anh ấy đích thân sửa lại phần trang điểm của tôi cho đến khi tôi dường như tỏa ra nét hồng hào, dịu dàng. Chúng tôi buôn chuyện vu vơ, nhưng tôi sợ phải hỏi anh ấy bất cứ điều gì thực sự quan trọng vì sau sự việc cánh cửa, tôi không thể rũ bỏ cảm giác rằng tôi đang bị theo dõi thường xuyên.



Cuộc phỏng vẫn diễn ra ngay dưới tiền sảnh phòng khách. Một khoảng trống đã được thu dọn và chiếc ghế tình nhân đã được đưa vào, vây quanh bởi các lọ hoa hồng màu đỏ và hồng. Chỉ có một ít camera ghi lại sự kiện này. Ít nhất thì không có khán giả trực tiếp xem.



Caesar Flickerman trao tôi một cái ôm ấm áp khi tôi bước vào. “Xin chúc mừng, Katniss. Cháu thế nào?”



“Tốt ạ. Hồi hộp về cuộc phỏng vấn,” tôi trả lời.



“Đừng. Chúng ta sẽ có một khoảng thời gian thần tiên,” ông ta nói, vỗ nhẹ vào má để làm tôi yên tâm.



“Cháu không giỏi nói về bản thân mình,” tôi nói.



“Không gì cháu nói là sai trái cả,” ông ta nói.



Và tôi nghĩ, Ồ, Caesar, giá như điều đó là sự thật. Nhưng thực ra, Tổng thống Snow có lẽ đang thu xếp thứ gì đó gọi là “tai nạn” dành cho tôi khi chúng ta đang nói.



Sau đó Peeta xuất hiện ở đó, trông thật đẹp trai trong trang phục đỏ và trắng, kéo tôi đến bên. “Mình khó mà gặp được cậu. Haymitch dường như muốn tách chúng ta ra.”



Haymitch chỉ đang thực sự cố giúp chúng tôi sống sót, nhưng có quá nhiều đôi tai đang lắng nghe ở đây, nên tôi chỉ nói, “Đúng, ông ấy gần đây trở nên vô cùng có trách nhiệm.”



“Chà, chỉ ở đây thôi và chúng ta về nhà. Sau đó ông ấy không thể giám sát chúng ta suốt được,” Peeta nói.



Tôi cảm thấy hơi rùng mình và không có thời gian để tìm hiểu tại sao bởi vì họ đã sẵn sàng cho chúng tôi. Chúng tôi ngồi có vẻ hơi nghiêm trang trên chiếc ghế tình nhân, nhưng Caesar lên tiếng, “Ồ, cứ tự nhiên đi và ôm chặt lấy cậu ấy nếu cháu muốn. Điều đó thật ngọt ngào.” Vì vậy tôi nhấc chân lên và Peeta kéo tôi sát lại gần cậu ấy.



Một ai đó đang đếm ở phía sau và chỉ như vậy, chúng tôi đang được truyền hình trực tiếp trên toàn bộ đất nước. Caesar Flickerman thật tuyệt vời, chọc ghẹo, cười đùa, trở nên im lặng khi sự kiện tự nó đã nói lên nhiều điều. Ông ấy và Peeta đã có sự hòa hợp khi họ tạo nên buổi tối cuộc phỏng vấn đầu tiên, đã có sự trêu đùa dễ dàng đó, nên tôi chỉ cần mỉm cười thật nhiều và cố gắng nói ít nhất có thể. Ý tôi là, tôi cũng phải nói một ít, nhưng ngay khi có thể tôi chuyển hướng cuộc đối thoại sang cho Peeta.



Tuy nhiên, cuối cùng Caesar cũng bắt đầu sắp đặt những câu hỏi mà yêu cầu phải trả lời đầy đủ hơn. “Chà, Peeta, chúng ta đã biết, kể từ những ngày trong chiếc hang đó, rằng đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên đối với cháu từ lúc nào nhỉ, năm tuổi?” Caesar nói.



“Từ khoảnh khắc mà cháu nhìn thấy cô ấy,” Peeta nói.



“Nhưng, Katniss, thật là một chặng đường dài đối với cháu. Ta nghĩ khán giả thật sự hồi hộp khi xem cháu dần gục ngã trước cậu ấy. Khi nào cháu nhận ra rằng cháu đã yêu cậu ấy?” Caesar hỏi.



“Ồ, thật là một câu hỏi khó…” tôi cười yếu ớt, như mất hơi và cụp mắt xuống nhìn tay mình. Giúp tôi.



“Chà, ta biết khi nó tác động tới ta. Cái đêm khi cháu hét lên tên cậu ấy từ trên cây,” Caesar nói.



Cám ơn, Caesar! Tôi nghĩ, và rồi đi theo ý tưởng của ông ta. “Phải, cháu đoán là thời điểm đó. Ý cháu là, cho đến lúc đó, cháu chỉ cố không nghĩ đến cảm xúc của cháu là thế nào, thực sự, bởi vì điều đó thật khó lý giải, và nó chỉ làm cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn nếu cháu thực sự quan tâm đến cậu ấy. Nhưng rồi, lúc ở trên cây, mọi thứ đã thay đổi,” tôi nói.



“Tại sao cháu lại nghĩ vậy?” Caesar thúc đẩy.



“Có lẽ… bởi vì lần đầu tiên… cháu có cơ hội để có thể giữ lấy cậu ấy,” tôi nói.



Đằng sau người quay phim, tôi thấy Haymitch thở hắt ra nhẹ nhõm và tôi biết tôi đang trả lời tốt. Caesar rút ra một chiếc khăn tay và phải mất một lúc vì ông ta quá xúc động. Tôi có thể cảm thấy Peeta đang ấn trán cậu ấy vào thái dương tôi và cậu ấy hỏi, “Vậy bây giờ cậu đã có mình, cậu định làm gì với mình đây?”



Tôi quay sang cậu ấy. “Giấu cậu vào nơi nào đó mà cậu không thể bị tổn thương.” Và khi cậu ấy hôn tôi, mọi người trong phòng đều thật sự thở dài.



Đối với Caesar, đây là lúc thích hợp để chuyển sang cảnh tất cả những lúc chúng tôi từng bị thương trong đấu trường, từ việc bị bỏng, bị ong đốt, đến các vết thương khác. Nhưng chưa đến lúc chúng tôi bị bao vây bởi các con chó biến đổi gen mà tôi quên mất rằng tôi đang được ghi hình. Khi Caesar hỏi Peeta “chiếc chân mới” của cậu ấy hoạt động tốt không.



“Chân mới ư?” tôi thốt lên, và tôi không thể ngăn mình vươn tới và kéo gấu quần của Peeta lên. “Ôi, không,” tôi thì thào, nhận ra một chiếc chân giả bằng kim loại và nhựa đã thay thế cho da thịt cậu ấy.



“Không ai nói với cháu à?” Caesar nhẹ nhàng hỏi. Tôi lắc đầu.



“Cháu đã không có cơ hội,” Peeta nói với một cái nhún mình.



“Đó là lỗi của cháu,” tôi nói. “Vì cháu đã buộc ga rô.”



“Đúng, nhờ lỗi của cậu mà mình vẫn còn sống,” Peeta lên tiếng.



“Cậu ấy nói đúng,” Caesar nói. “Cậu ấy chắc chắn sẽ chảy máu đến chết nếu không có nó.”



Tôi nghĩ điều đó đúng, nhưng tôi không thể không cảm thấy buồn vì nó đến mức mà tôi sợ rằng tôi có thể sẽ khóc và rồi tôi nhớ ra mọi người trên cả nước đang nhìn tôi nên tôi chỉ vùi mặt vào áo Peeta. Phải mất vài phút của họ để dỗ dành tôi quay ra vì thật dễ chịu hơn khi vùi mặt trong chiếc áo sơ mi, nơi không ai có thể nhìn thấy mặt tôi, và khi tôi quay ra, Caesar lùi lại việc đặt câu hỏi cho tôi để tôi có thể hồi phục. Thực tế, ông ta hoàn toàn để tôi yên cho đến thời điểm những quả dâu độc.



“Katniss, ta biết cháu thực sự đã bị sốc, nhưng ta buộc phải hỏi. Thời điểm mà cháu dốc những quả dâu đó ra. Lúc đó cháu đã nghĩ gì… hử?” ông ta nói.



Tôi dừng một lúc lâu trước khi trả lời, cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ. Đây là thời điểm mấu chốt thể hiện tôi có thách thức Capitol không hay là chỉ phát điên với ý nghĩ sẽ mất Peeta đến mức tôi không thể chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Đó dường như cần phải có một bài phát biểu hoành tráng, gây xúc động sâu sắc, nhưng tất cả những gì tôi nói ra chỉ là một câu gần như không rõ ràng. “Cháu không biết, cháu chỉ… không thể chịu đựng được ý nghĩ về việc… sống mà không có cậu ấy.”



“Peeta? Có muốn nói thêm gì không?” Caesar hỏi.



“Không. Cháu nghĩ điều đó đúng với cả hai chúng cháu,” cậu ấy đáp.



Caesar ngừng cuộc phỏng vấn và nó đã kết thúc. Mọi người cười và khóc, ôm nhau, nhưng tôi vẫn không chắc chắn cho đến khi tôi gặp Haymitch. “Được chưa?” tôi thì thầm.



“Hoàn hảo,” ông ấy trả lời.



Tôi trở lại phòng thu dọn một vài thứ và nhận ra rằng chẳng phải lấy thứ gì ngoài chiếc huy hiệu hình chim mockingjay mà Madge đã tặng tôi. Ai đó đã trả lại nó vào phòng tôi sau Trò chơi. Họ đưa chúng tôi đi qua các con phố bằng một chiếc ô tô với các cửa sổ tối đen, và một con tàu đang đợi chúng tôi. Chúng tôi hầu như không có thời gian tạm biệt Cinna và Portia, tuy nhiên chúng tôi sẽ gặp lại họ trong vài tháng tới, khi chúng tôi có chuyến đi một vòng đến các đặc khu để chúc mừng chiến thắng. Đó là cách Capitol nhắc nhở dân chúng rằng Trò chơi sinh tử chưa bao giờ thật sự kết thúc. Chúng tôi sẽ được trao cho rất nhiều những tấm biển vô dụng, và mọi người sẽ phải giả vờ rằng họ yêu quý chúng tôi.

Con tàu bắt đầu chuyển bánh và chúng tôi bị lao vào bóng tối cho đến khi chúng tôi ra khỏi chiếc hầm và tôi hít một hơi thở tự do đầu tiên kể từ ngày chọn cống phẩm. Effie đi cùng chúng tôi trở về nhà và Haymitch nữa, tất nhiên. Chúng tôi ăn một bữa tối thịnh soạn và ngồi im lặng trước ti vi để xem tường thuật lại cuộc phỏng vấn. Với mỗi giây Capitol lại cách xa hơn, tôi bắt đầu nghĩ về nhà. Nghĩ về Prim và mẹ tôi. Về Gale. Tôi xin phép để đi thay chiếc váy và mặc bộ quần và áo sơ mi đơn giản. Khi tôi chậm rãi, cẩn thận rửa hết lớp trang điểm trên mặt, và tết lại tóc mình, tôi bắt đầu trở lại là chính mình. Katniss Everdeen. Một cô gái sống ở Seam. Đi săn trong rừng. Mua bán ở Hob. Tôi nhìn chằm chằm vào gương khi tôi cố gắng nhớ lại tôi là ai và tôi không phải là ai. Vào lúc tôi quay trở lại với những người khác, sức nặng của cánh tay Peeta bao quanh vai tôi cảm giác thật xa lạ.



Khi con tàu dừng lại một lúc để tiếp nhiên liệu, chúng tôi được phép ra ngoài hít thở không khí trong lành. Không cần thiết phải canh chừng chúng tôi nữa. Peeta và tôi đi bộ theo đường tàu, tay trong tay, và tôi không biết nói gì bây giờ khi chỉ có mình chúng tôi. Cậu ấy dừng lại và hái một bó hoa dại cho tôi. Khi cậu ấy đưa chúng ra, tôi thật khó để tỏ ra vui lòng. Bởi vì cậu ấy không thể biết rẳng những bông hoa hồng và trắng là ngọn của những cây hành dại và chỉ làm tôi gợi nhớ về những giờ tôi đi thu lượm chúng cùng với Gale.



Gale. Ý nghĩ về việc gặp lại Gale trong vài giờ nữa làm dạ dày tôi cuộn lên. Nhưng tại sao? Tôi không hoàn toàn định hình được nó trong đầu mình. Tôi chỉ biết rằng tôi cảm thấy như tôi đã nói dối một ai đó mà luôn tin tưởng mình. Hay chính xác hơn, là hai người. Tôi đã đi quá xa với điều đó cho đến tận thời điểm này vì Trò chơi. Nhưng sẽ không còn Trò chơi để trốn tránh khi quay trở về nhà.



“Có chuyện gì không hay à?” Peeta hỏi.



“Không có gì,” tôi trả lời. Chúng tôi tiếp tục bước đi, đi hết đuôi tàu, ra đến tận nơi mà ngay cả tôi cũng khá chắc chắn là không có chiếc camera nào được giấu trong các bụi rậm dọc đường tàu. Nhưng vẫn thốt được ra lời nào.



Haymitch làm tôi giật mình khi đặt tay lên lưng tôi. Ngay cả bây giờ, ở nơi xa xôi hẻo lánh này, ông ấy vẫn hạ thấp giọng. “Làm tốt lắm, cả hai đứa. Chỉ cần tiếp tục như vậy ở đặc khu cho đến khi tất cả các camera đều rời đi. Chúng ta sẽ ổn thôi.” Tôi nhìn ông ấy trở lại con tàu, tránh ánh mắt của Peeta.



“Ý ông ấy là gì?” Peeta hỏi tôi.



“Đó là Capitol. Họ không thích màn biểu diễn của chúng ta với những quả dâu,” tôi buột ra.



“Gì cơ? Cậu đang nói chuyện gì thế?” cậu ấy nói.



“Điều đó có vẻ quá nổi loạn. Vì vậy, Haymitch đã hướng dẫn mình suốt mấy ngày qua. Để mình không làm cho tình hình tồi tệ thêm,” tôi nói.



“Hướng dẫn cậu? Nhưng không hướng dẫn mình ư?” Peeta nói.



“Ông ấy biết cậu đủ thông minh để làm đúng mọi chuyện,” tôi giải thích.



“Mình đã không biết bất cứ thứ gì để làm đúng,” Peeta nói. “Vậy, điều cậu đang nói là, những ngày gần đây và như vậy mình đoán là… từ khi ở trong đấu trường… rằng đó chỉ là một kiểu chiến lược mà hai người đã nghĩ ra.”



“Không. Ý mình là, mình thậm chí không thể nói chuyện với ông ấy khi ở trong đấu trường, đúng không?” tôi lắp bắp.



“Nhưng cậu đã biết ông ấy muốn cậu làm gì, đúng không?” Peeta nói. Tôi cắn môi. “Katniss?” Cậu ấy buông tay tôi ra và tôi bước một bước, như thể để lấy lại thăng bằng.



“Tất cả những điều đó là vì Trò chơi,” Peeta nói. “Cậu đã diễn thật xuất sắc.”



“Không phải tất cả,” tôi nói, nắm chặt lấy những bông hoa của mình.



“Thế thì bao nhiêu? Không, quên nó đi. Mình nghĩ câu hỏi thật sự là những chuyện gì sẽ được xóa bỏ khi chúng ta quay về nhà?”



“Mình không biết. Càng về gần Đặc khu 12, mình càng bối rối,” tôi nói. Cậu ấy chờ đợi, lời giải thích thêm, nhưng không có gì được nói ra.



“Được rồi, cho mình biết khi cậu đã nghĩ ra,” cậu ấy nói, và có thể cảm nhận rõ nỗi đau trong giọng của cậu ấy.



Tôi biết tai tôi đã lành lại bởi vì ngay cả khi có tiếng động cơ ầm ầm thì tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng mọi bước chân của cậu ấy khi cậu ấy quay trở lại con tàu. Vào lúc tôi bước lên tàu, Peeta đã biến vào phòng cậu ấy để nghỉ đêm. Tôi cũng không nhìn thấy cậu ấy vào buổi sáng hôm sau. Thực tế, lần tiếp theo cậu ấy xuất hiện là lúc chúng tôi đang đi vào Đặc khu 12. Cậu ấy gật đầu chào tôi, mặt cậu ấy không thể hiện cảm xúc gì.



Tôi muốn nói với cậu ấy rằng cậu ấy thật không công bằng. Rằng chúng tôi đã là những người xa lạ. Rằng tôi đã làm những gì cần phải làm để sống sót, để giúp cho cả hai chúng tôi đều sống sót trong đấu trường. Rằng tôi không thể giải thích mọi thứ với Gale như thế nào bởi vì chính tôi cũng không biết. Rằng thật không nên yêu tôi vì dù sao tôi cũng sẽ không bao giờ kết hôn và cậu ấy sẽ chỉ kết thúc với việc căm ghét tôi sau này thay vì sớm hơn. Rằng nếu như tôi thực sự có cảm xúc gì với cậu ấy thì nó cũng không quan trọng bởi tôi sẽ không bao giờ chấp nhận được kiểu tình yêu mà sẽ dẫn đến một gia đình và những đứa trẻ. Và làm sao cậu ấy có thể như vậy? Làm sao cậu ấy có thể, sau những gì chúng tôi cùng nhau trải qua?



Tôi cũng muốn nói với cậu ấy rằng tôi đã nhớ cậu ấy như thế nào. Nhưng điều đó sẽ thật không công bằng đối với tôi.



Vì vậy chúng tôi chỉ im lặng đứng đó, nhìn sân ga nhỏ bé đầy bụi bặm đang xuất hiện quanh chúng tôi. Qua cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy sân ga đang chật cứng các camera. Mọi người đang háo hức xem chúng tôi trở về nhà.



Liếc mắt sang bên, tôi thấy Peeta đang chìa tay ra. Tôi nhìn cậu ấy, không dám chắc. “Thêm một lần nữa chứ? Vì khán giả?” cậu ấy nói. Giọng cậu ấy không giận dữ. Nó trống rống, điều này còn tệ hơn. Vậy là cậu bé với chiếc bánh mì đã rời xa tôi.



Tôi nắm lấy tay cậu ấy, giữ thật chặt, chuẩn bị cho các camera, và thấy khiếp sợ khoảnh khắc mà tôi cuối cùng sẽ phải rời xa nó.



HẾT QUYỂN MỘT

code phần 2 là: 31445010

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro