The Mediator-Meg Cabon

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

The Mediator

Nguồn: forum thuvien-ebook

Người dịch: labuonnafortuna

Susannah Simon, 16 tuổi, là một teen Mỹ "bình thường" về mọi mặt, trừ việc cô có thể nhìn thấy và giao tiếp với hồn ma. Câu chuyện mở đầu khi Suze chuyển đến Bắc California sống cùng mẹ và dượng Andy, cùng 3 đứa con riêng của dượng. Mọi thứ đều xa lạ với Suze, nếu không tính đến chuyện... ở đâu cô cũng thấy hồn ma, giống như khi còn ở New York. Ma ở khắp nơi, chỉ có điều hình như chỉ có mình Suze trông thấy chúng. Nhưng có thật thế không, khi mọi việc ở đây mới chỉ là khởi đầu?

Tập 1: Vùng đất u tối

Chương 1

Người ta bảo với tôi rằng tôi sẽ trông thấy cọ.

Tôi chẳng tin, nhưng đấy là những gì họ nói. Họ nói tôi có thể nhìn thấy những cây cọ từ trên máy bay.

Tôi biết người ta có trồng cọ ở Nam California, tôi đâu phải con nít, tôi đã xem bộ phim 90210 và đủ thứ khác nữa. Nhưng tôi sẽ chuyển tới sống ở Bắc California cơ mà, tôi chắc chẳng có cọ kiếc gì ở Bắc California hết. Tôi đã tưởng thế, đấy là trước khi mẹ tôi bảo chớ có vứt hết áo len đi.

"Ồ không, con sẽ cần áo len đấy, cả áo khoác nữa. Ở đấy cũng có khi lạnh, có lẽ không lạnh bằng ở New York, nhưng cũng khá lạnh," mẹ tôi nói.

Đấy là lí do tại sao tôi mặc cả áo cái khoác da màu đen trên máy bay. Tôi có thể chuyển nó đi cùng với hàng đống thứ khác, nhưng tôi có một cảm giác dễ chịu hơn khi mặc chiếc áo ấy.

Và giờ đây tôi ngồi trên máy bay, mặc áo khoác da, trông xuống những cây cọ qua khung cửa sổ khi máy bay hạ cánh. Và tôi nghĩ, Tuyệt cú, áo da đen và những cây cọ. Tôi đã dần quen với điều này, như thể tôi biết trước rồi mình sẽ quen được...

... Không.

Mẹ tôi không khoái chiếc áo da ấy lắm, nhưng xin thề là tôi không hề mặc nó cốt để làm mẹ giận hay gì hết. Tôi không giận dỗi gì mẹ về cái chuyện mẹ quyết định kết hôn với một người sống cách xa 3 ngàn dặm, buộc tôi phải chuyển trường vào giữa năm thứ hai; rời xa đứa bạn thân nhất - và cũng là duy nhất - tôi có kể từ hồi mẫu giáo đến giờ, rời xa thành phố mà tôi đã sống trong suốt 16 năm trời.

Ồ không, tôi không giận tí nào hết.

Tôi thực sự yêu mến dượng Andy. Dượng rất tốt với mẹ tôi, dượng làm cho mẹ hạnh phúc và dượng cũng yêu quý tôi nữa.

Điều duy nhất làm tôi không vui là việc phải chuyển đến sống ở California này.

À, mà tôi đã nhắc đến 3 đứa con riêng của dượng Andy chưa vậy?

Họ đều ra đón tôi khi tôi vừa bước xuống may bay. Mẹ tôi, dượng Andy, và 3 đứa con của dượng. Ngái Ngủ, Ngu Ngơ, và Tiến Sỹ, tôi gọi chúng thế. Anh em mới của tôi đấy.

"Suze!" Ngay cả khi không nghe thấy tiếng mẹ hét to tên tôi khi bước ra cửa, tôi không thể không trông thấy họ - gia đình mới của tôi. Dượng Andy đã bảo 2 đứa nhỏ nhất giơ cao tấm biển Mừng con trở về, Susannah! Những người khác cùng chuyến bay đi qua và trầm trồ với nhau, "Ái chà, trông hay quá nhỉ?" khi nhìn tôi với ánh mắt kinh ngạc.

Phải, tôi hoà nhập quá tốt đấy chứ.

Tôi bước lại gần họ và nói: "Thôi mà, mẹ bỏ tấm biển ấy xuống được rồi đấy."

Nhưng mẹ còn mải ôm tôi nên chẳng chú ý gì cả. Mẹ cứ gọi mãi: "Ôi, Suze!" Ngoài mẹ ra, tôi không thích bị ai khác gọi là Suze hết, và qua vai mẹ tôi đưa mắt nhìn 3 thằng con trai đe doạ đừng có mà định bụng bày trò gì ở đây. Chúng chỉ đứng đó cười toe toét với cái biển ngớ ngẩn ấy, Ngu Ngơ cười vì nó còn biết làm gì khác đâu chứ, còn Tiến Sỹ - thì chắc là vì nó vui khi được gặp tôi. Ngài Tiến Sỹ kì lạ thế đấy. Ngái Ngủ - đứa lớn nhất - thì chỉ đứng ỳ ra đó, trông... ngái ngủ chứ sao nữa.

"Chuyến bay thế nào, nhóc?" Dượng Andy đỡ chiếc túi khỏi vai tôi, khoác lên vai dượng. Dượng có vẻ ngạc nhiên vì nó lại nặng đến thế và nói, "Chà, con tống thứ gì vào thế này? Con cũng biết buôn lậu trạm bơm cứu hoả của thành phố New York qua biên giới bang là tội nặng đấy."

Tôi cười với dượng. Dượng Andy thật sự có vẻ ngờ nghệch, nhưng là một người ngờ nghệch tốt bụng. Dượng chẳng biết tí ti gì về cái yếu tố cấu thành tội nghiêm trọng ở bang New York hết, vì dượng mới chỉ đến đó có 5 lần, mà tình cờ là chỉ cần 5 lần ấy dượng đã thuyết phục được mẹ lấy dượng.

"Không phải trạm bơm cứu hoả, máy thu phí đỗ ô tô đấy ạ. Mà con còn tận 4 cái túi nữa cơ." Tôi nói.

"4 cơ á?" Dượng giả bộ sốc. "Con đang suy tính gì đấy hả? Chuyển nhà hay làm gì?"

Tôi đã nói dượng Andy toàn nghĩ dượng ấy là diễn viên hài chưa ấy nhỉ? Không phải đâu. Dượng làm nghề mộc.

"Chị Suze," ông Tiến Sỹ háo hức nói, "chị Suze, chị có để ý thấy là lúc hạ cánh, đuôi máy bay hơi bị chếch lên không? Đấy là hiện tượng xảy ra khi một vật có khối lượng chuyển động với tốc độ lớn gặp phải vận tốc gió tương đương hoặc lớn hơn thổi ngược chiều."

Tiến Sỹ, đứa nhỏ nhất, khoảng 12 tuổi, nhưng thằng nhóc cứ như 40 vậy. Nó dành gần cả thời gian đón khách khứa trong lễ cưới để thao thao với tôi về chuyện gia súc bị người ngoài hành tinh làm thịt ra sao, chuyện nước Mỹ đang ém nhẹm Khu Vực Số 51 như thế nào nhằm không cho người dân biết rằng Chúng Ta Không Đơn Độc.

"Ôi Suzie, con đến đây mẹ vui lắm. Rồi con sẽ thích ngôi nhà. Dù lúc đầu chưa quen, nhưng bây giờ con đến rồi... Con chờ xem phòng riêng nhé. Dượng Andy đã sửa sang lại rất đẹp."

Trước khi cưới, dượng Andy và mẹ tôi đã mất hàng tuần để tìm một căn nhà đủ rộng cho cả 4 đứa con mỗi đứa có 1 phòng riêng. Cuối cùng thì họ tìm được ngôi nhà vĩ đại trên đồi Carmel, cái nhà mà nếu không vì nó ở cái bang chết giẫm này thì làm sao mà mua được, và lại được công ty sửa chữa Andy sửa sang lại với cái giá quá rẻ. Mẹ tôi đã tất bật suốt mấy ngày chuẩn bị phòng cho tôi, căn phòng mẹ cứ nói mãi rằng đấy là phòng đẹp nhất nhà.

"Từ cửa sổ phòng con trông ra cảnh biển đẹp tuyệt! Ôi Suze, rồi con sẽ thích mê cho mà xem!" Mẹ nói.

Tôi chắc rằng mình cũng sẽ thích, kiểu như tôi sẽ thích việc bỏ ăn bánh mỳ vòng thay bằng giá linh lăng, hay thay vì đi tàu điện ngầm thì đi lướt sóng, những thứ đại loại như vậy.

Chẳng hiểu sao Ngu Ngơ hỏi tôi bằng cái giọng vốn ngớ ngẩn sẵn của nó: "Cậu thích tấm biển không?" Không thể tin được là nó bằng tuổi tôi. Nó tham gia vào đội cử tạ của trường, mong đợi gì hơn được ở nó chứ? Đầu nó chẳng nhét được cái gì khác ngoài việc nhịn thở và gồng cơ tập thể hình - đấy là những gì tôi biết được sau khi ngồi cạnh nó ở đám cưới - tôi ngồi giữa nó và Tiến Sỹ, bạn tưởng tượng được cuộc nói chuyện đi đến đâu rồi đấy.

"Ừ, tấm biển rất tuyệt," tôi nói, giật tấm biển khỏi bàn tay ú nần của nó và úp mặt có chữ viết xuống. "Ta đi được chưa ạ? Con muốn lấy hành lý trước khi có ai nhặt mất."

"À, đi chứ." Mẹ nói, trao cho tôi cái ôm chặt cuối cùng. "Ôi, gặp con mẹ vui biết bao. Trông con tuyệt lắm..." Rồi sau đó mẹ bước đi và nói nhỏ để không ai nghe được, dù mẹ chẳng muốn nói điều đó: "... Cho dù mẹ đã nói với con về cái áo đó, Suze, và mẹ tưởng con phải vứt cái quần jeans ấy đi rồi chứ..."

Tôi mặc cái quần jeans cũ nhất, cái bị thủng đầu gối ấy. Trông nó cực hợp rơ với cái áo phông đen và đôi bốt khoá kéo đến mắt cá chân. Cái quần jeans, đôi bốt, cái áo khoác da màu đen của dân đua môtô, cộng thêm cái túi đeo vai Surplus màu xanh hải quân làm cho tôi trông giống như con nhóc trốn nhà đi lang thang trong một bộ phim truyền hình vậy.

Nhưng này, khi mẹ phải ngồi trên chuyến bay suốt 8 tiếng đồng hồ thì mẹ cũng muốn cho bản thân mình thoải mái đấy.

Tôi nói vậy, nhưng mẹ chỉ đưa mắt nhìn tôi và cho qua. Đấy là điểm tốt ở mẹ tôi. Mẹ không ca cẩm mãi về một điều gì đó như các bà mẹ thường thế. Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ chẳng biết là chúng may mắn đến như thế nào đâu.

Mẹ nói: "Được rồi, lấy hành lý của con đi," rồi mẹ cất cao giọng và gọi: "Jake, lại đây nào, chúng ta sẽ mang hành lý của Suze về."

Mẹ phải gọi Ngái Ngủ bằng tên thật của anh ta, vì lúc ấy trông anh ta cứ như đã đứng đấy mà gà gật rồi vậy. Tôi từng hỏi mẹ xem có phải Jake, học năm cuối trung học, mắc chứng ngủ rũ (sẵn sàng ngủ ở bất cứ nơi đâu) hay có nghiện không, thì mẹ trả lời đại loại: "Không? Sao con lại hỏi thế?" Cứ như thể anh ta đứng đó mà không chớp mắt liên tục và câm như hến vậy.

Từ từ đã, cũng không hẳn như vậy đâu. Anh ta cũng có nói với tôi một lần. Lần hỏi: "Này, em ở trong một băng nhóm nào đó hả?" là trong đám cưới khi anh ta trông thấy tôi đứng ngoài, mặc cái áo da đen ấy ra ngoài váy phù dâu, lén hút thuốc.

Để tôi giải thích đã nào. Đấy là điếu thuốc đầu tiên và duy nhất tôi từng hút. Khoảng thời gian ấy đối với tôi thật khó khăn. Tôi đã lo sợ mẹ tôi sẽ cưới người đàn ông này, chuyển đến California và hoàn toàn quên hẳn tôi. Xin thề là trước đó tôi chưa từng động đến một điếu thuốc nào hết.

Đừng nghĩ là tôi nhìn nhầm Jake. Cao khoảng 1m80, với mái tóc vàng óng mất trật tự và đôi mắt xanh lấp lánh giống hệt bố, hẳn cô bạn thân Gina của tôi sẽ gọi anh ta là hấp dẫn. Nhưng anh ta chưa phải là người hấp dẫn nhất đâu, theo ý tôi.

Ông Tiến Sỹ vẫn đang thao thao bất tuyệt về vận tốc gió. Nó đang phân tích tốc độ vận hành thích hợp để thoát khỏi lực hấp dẫn của trái đất. Tốc độ ấy gọi là vận tốc thoát. Tôi nghĩ Tiến Sỹ có thể giúp ích trong việc la cà giúp tôi làm bài tập, cho dù tôi học trên nó 3 lớp.

Trong khi Tiến Sỹ đang giảng giải, tôi đưa mắt quan sát xung quanh. Đây là lần đầu tiên tôi đến California, và cho dù ta vẫn đang đứng trong sân bay - sân bay quốc tế San Jose - thì phải nói rằng ta đã hoàn toàn xa hẳn New York rồi. Đầu tiên là: mọi thứ đều sạch sẽ. Không bụi, không rác, không viết vẽ bậy ở bất cứ chỗ nào. Các sảnh đợi được sơn toàn một gam màu sáng, mà màu sáng thì bám bụi phải biết. Vì sao người dân New York chỉ toàn mặc màu tối? Không phải để trông cho sành điệu đâu. Đấy là để không phải tống tất tần tật quần áo vào hiệu giặt là sau chỉ mỗi một lần mặc.

Nhưng dường như ở CA đầy nắng này đấy chẳng phải mối bận tâm. Có thể nói, gam màu sáng hoàn toàn lên ngôi. Người phụ nữ đi qua tôi mặc quần legging hồng và áo chẽn bó kiểu thể thao Spandex. Thế đấy. Nếu đây là một ví dụ cho những điều bắt buộc phải tuân thủ ở California thì có thể nói tôi đang gặp phải một cú sốc văn hoá hết sức nghiêm trọng.

Và còn điều gì kì lạ ở đây nữa nhỉ? Chẳng có một vụ cãi lộn nào hết. Mọi người đều xếp hàng nghiêm chỉnh, chẳng ai to tiếng với nhân viên bán vé cả. Ở New York, nếu bạn là khách hàng, bạn sẽ cãi vã với người bán, cho dù bạn đang bất cứ đâu - ở sân bay, khu thương mại Bloomingdale, hay xếp hàng mua xúc xích đi nữa. Nơi nào cũng vậy thôi.

Nhưng không phải ở đây. Mọi người ở đây đều kiên nhẫn chờ đợi.

Chắc là tôi biết nguyên cớ. Tôi thấy hình như ở đây chẳng có điều gì có thể khiến con người ta khó chịu được cả. Ngoài kia ánh nắng đang chan hoà trên những tán lá cọ tôi trông thấy khi còn ngồi trên máy bay. Có cả chim mòng biển nữa - không phải bồ câu mà là những con mòng biển thật sự, màu trắng và xám - lao xao ngoài bãi đỗ xe. Và khi tôi lấy hành lý, chẳng ai thèm kiểm tra xem cái mác trên đấy có trùng khớp với cuống vé gửi không nữa. Mọi người đều nói những câu kiểu như: "Tạm biệt, chúc một ngày tốt lành."

Phi thực tế.

Gina - bạn thân nhất của tôi ở Brooklyn, hừm, thôi thì đứa bạn duy nhất vậy - trước khi tôi đi có nói rằng việc có anh em là con riêng của dượng cũng có điểm tốt. Cô ấy biết vậy vì có tận 4 anh em - không phải con riêng của dượng hay dì mà là anh em ruột. Tuy thế, tôi chẳng còn tin những gì cô ấy bảo hơn cái việc tin vào những gì lúc trước người ta nói với tôi về loài cọ. Nhưng đến khi trông thấy Ngái Ngủ xách 2 cái túi, Ngu Ngơ xách 2 cái còn lại, còn tôi thì tay không vì cái túi đeo vai thì dượng Andy cũng đeo nốt rồi, tôi cũng hiểu những điều cô bạn tôi nói, rằng có anh em cũng có cái lợi của nó. Họ có thể mang vác những đồ nặng giúp bạn mà trông cứ như không vậy.

Này, chính tay tôi xếp đồ đấy nhé. Tôi biết trong đó có gì chứ. Chúng chẳng hề nhẹ nhàng tí nào hết, thế mà trông Ngái Ngủ và Ngu Ngơ cứ như thế: Vô tư đi, chúng ta cùng vác nào.

Đồ đạc của tôi an toàn ra tận bãi đỗ xe. Khi cửa tự động mở ra, mọi người - kể cả mẹ tôi - đều thò tay vào túi và lôi kính mát ra. Hẳn họ phải biết điều gì đấy mà tôi không biết. Bước ra khỏi xe, tôi mới biết điều ấy là gì.

Ở đây ngập tràn ánh nắng.

Không chỉ nắng, mà là nắng chói chang rực rỡ đến loá mắt. Tôi cũng có kính chứ bộ, đâu đó, nhưng khi rời New York thời tiết có vài độ và đang mưa tuyết, tôi chẳng biết phải nhét chúng vào chỗ nào dễ lấy cả. Lần đầu tiên khi mẹ nói chúng tôi sẽ chuyển đi - mẹ và dượng Andy thấy rằng việc mẹ - với 1 đứa con và cái nghề phóng viên truyền hình - chuyển đi sẽ dễ dàng hơn là cho dượng với tận 3 đứa, nhất là với công việc kinh doanh của dượng - mẹ bảo rằng rồi tôi sẽ thích California. "Đấy là trường quay phim Goldie Hawn,

Chevy Chase," mẹ nói.

Tôi thích phim Goldie Hawn, tôi cũng thích Chevy Chase, nhưng chưa bao giờ nghe nói người ta gộp cả 2 phim đấy thành 1 cả.

"Đấy là bối cảnh cho những câu chuyện của tác giả Steinbeck mà con học ở trường, chuyện Chú Ngựa Đỏ ấy mà."

Phải nói là tôi chẳng mấy ấn tượng. Tôi nhớ trong chuyện Chú Ngựa Đỏ chẳng có nhân vật nữ nào hết, cho dù trong đó có rất nhiều đồi núi. Đứng trong bãi đỗ xe, tôi đưa mắt nhìn những dãy đồi bao quanh sân bay quốc tế San Jose, quả thật là nhiều, và bao phủ những dãy đồi ấy là lớp cỏ toàn một màu nâu héo úa.

Lác đác trên những ngọn đồi ấy là những cái cây tôi chưa thấy bao giờ. Trông chúng bẹp dí ở trên đỉnh như thể có người khổng lồ từ trên trời đấm thẳng xuống vậy. Sau này tôi mới biết đấy là cây cyprus.

Rõ ràng là có hệ thống phun nước ở bãi xe, bởi ở đây có những bụi cây xum xuê với những bông hoa đỏ to tướng, trông chúng thấp tè so với những cây cọ cao đến vô tận và to đến không ngờ. Lát sau, khi nhìn những bông hoa ấy tôi mới nhận ra chúng là hoa dâm bụt. Và những con bọ kì quái bay quanh những bông hoa, phát ra những tiếng vù vù ấy, hoá ra lại chẳng phải là bọ biếc gì hết. Chúng là chim ruồi.

"Ồ, chúng có ở khắp nơi. Nhà mình cũng có máng cho chúng ăn ở nhà. Nếu thích con treo một cái trên bậu cửa sổ cũng được đấy," mẹ nói khi tôi chỉ cho mẹ.

Chim ruồi dám bay đến tận cửa sổ phòng bạn cơ đấy! Loài duy nhất bay đến cửa sổ phòng tôi khi còn ở Brooklyn là chim bồ câu. Mẹ tôi chưa bao giờ khuyến khích tôi nuôi chúng cả.

Phút giây thư giãn với chim ruồi của tôi tan biến khi Ngu Ngơ đột ngột thông báo: "Con sẽ lái xe" và nhảy luôn lên ghế tài xế của chiếc xe tải nhỏ.

"Bố sẽ lái," dượng Andy kiên quyết.

"Thôi mà bố, làm sao con thi lấy bằng lái được nếu bố không cho con luyện tập chứ?" Ngu Ngơ nói.

"Con có thể tập với chiếc Rambler," dượng Andy nói khi mở cốp sau của chiếc Land Rover và bắt đầu xếp hành lý của tôi vào, "Con cũng vậy, Suze à."

Tôi giật mình, "Con cũng vậy là sao ạ?"

"Con cũng có thể tập lái xe với chiếc Rambler," dượng ngoắc tay về phía tôi bông đùa, "nhưng phải có người biết lái ngồi bên cạnh."

Tôi chớp mắt, "Con không biết lái xe."

Ngu Ngơ phát ra tiếng cười ầm ỹ nghe như tiếng ngựa, "Cậu mà không biết lái xe à?" Nó huých Ngái Ngủ đang ngồi dựa vào một bên thân xe, mặt hướng ra nắng, "Này Jake, cậu ta không biết lái xe."

"Chẳng có gì lạ nếu một người dân New York không có bằng lái. Anh không biết thành phố New York luôn tự hào về hệ thống giao thông lớn nhất Bắc Mỹ, phục vụ 3,2 triệu dân trong bán kính 4 triệu dặm vuông từ thành phố New York, qua Long Island đến tận Connecticut hả? Với lại 1,7 tỉ người sử dụng hệ thống tàu điện ngầm, xe bus và tàu hoả mỗi năm đấy," ngài Tiến Sỹ nói.

Mọi người trố mắt nhìn Tiến Sỹ, và mẹ tôi dè dặt nói: "Mẹ chẳng bao giờ lái xe trong thành phố cả."

Dượng Andy đóng cửa sau chiếc Land Rover, nói: "Đừng lo, Suze. Dượng và mẹ đăng ký cho con một khoá học lái xe. Rồi con ngang tài với Brad ngay ấy mà."

Tôi ngó Ngu Ngơ. Cả triệu năm nữa tôi cũng không nghĩ có người sẽ bảo tôi cần phải ngang tài với Brad trong mọi mặt.

Rồi tôi bắt gặp rất nhiều điều đáng ngạc nhiên. Những cây cọ mới chỉ là phần mở đầu. Khi lái xe về nhà - nhà chúng tôi cách sân bay khoảng 1 giờ, không phải 1 giờ trôi nhanh cho lắm, khi tôi bị nêm chặt giữa Ngái Ngủ và Ngu Ngơ, còn Tiến Sỹ ngồi trên đống hành lý đằng sau vẫn đang dẫn giải về niềm tự hào của Uỷ Ban Giao Thông New York - tôi bắt đầu nhận ra rằng mọi thứ rồi sẽ khác, rất khác với những gì tôi dự đoán, và chắc chắn là khác hoàn toàn với cuộc sống trước đây.

Không chỉ là việc tôi đến sống ở đầu kia của đất nước, không chỉ là những gì tôi thấy đều khác hoàn toàn với New York: bên đường đầy những biển quảng cáo atiso hay lựu với giá 1 đô 12 quả; những cánh đồng nho nối tiếp nhau, cây xoắn xuýt quanh những thân gỗ; những rừng cây chanh và cây bơ; có những loại cây cối xum xuê um tùm mà tôi chẳng biết tên. Trên tất cả mọi điều, đó là bầu trời bao la xanh ngắt dến nỗi những quả khí cầu lơ lửng trông nhỏ xíu như một chiếc cúc lọt thỏm giữa bể bơi tiêu chuẩn Olympic vậy.

Ở đây có biển, và biển trải rộng trong tầm mắt bất ngờ đến nỗi ban đầu tôi chẳng nhận ra, chỉ ngỡ một cánh đồng khác nữa lại hiện ra. Nhưng rồi tôi thấy cánh đồng ấy cứ lấp lánh, phản chiếu ánh mặt trời, nhấp nháy như thế đang gửi mật mã SOS với tôi vậy. Ánh nắng chói chang đến nỗi khó mà trông rõ khi không có kính râm. Nhưng biển đây rồi... biển Thái Bình Dương bao la như bầu trời kia, một thực thể sống động, uốn éo, xô bờ cát trắng của mảnh đất hình vòng cung cong cong.

Sống ở New York, suy nghĩ của tôi về biển - hay ít nhất là bờ biển cát trắng - ít ỏi và rất khác. Tôi không nén nổi há hốc miệng vì sững sờ khi trông thấy biển. Lúc ấy, mọi người đều ngưng nói, trừ có Ngái Ngủ, lúc ấy đang ngủ, tất nhiên rồi.

"Gì vậy con?" Mẹ tôi hỏi có vẻ lo lắng.

"Không, không có gì ạ," tôi bối rối. Dĩ nhiên họ đều quá quen thuộc với cảnh biển này rồi. Chắc họ sẽ nghĩ tôi thật kì quặc vì trông tôi hết sức thích thú khi ngắm cảnh ấy. "Con chỉ ngắm biển thôi mà."

"Ra vậy," mẹ nói, "Ừ, biển thật đẹp phải không?"

Ngu Ngơ nói: "Sóng to đấy. Con sẽ ra chơi trước khi ăn bữa tối."

"Không được, chừng nào con chưa thi giữa kì xong," dượng đáp.

"Thôi mà bố!"

Việc này làm mẹ tôi ca một bài dài về ngôi trường tôi sắp chuyển đến, ngôi trường mà Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ cũng đang học. Nó được đặt theo tên của Junipero Serra, một người Tây Ban Nha định cư vào những năm 1700, ép buộc người dân bản xứ ở đây từ bỏ đạo của họ và chuyển sang đạo Cơ Đốc. Thực ra ngôi trường đó là một trụ sở rất lớn của hội truyền giáo được xây bằng gạch nung, hàng năm thu hút đến 20 triệu khách du lịch đến tham quan.

Tôi không chú ý lắm đến những điều mẹ tôi nói. Tôi từ trước đến giờ chẳng có một tí tẹo hứng thú nào hết đối với trường học. Lý do duy nhất mà tôi chưa chuyển đến đây từ trước lễ Giáng Sinh là vì Trường Truyền Giáo đã hết chỉ tiêu, và tôi bắt buộc phải đợi đến học kì 2 may ra mới có cơ hội. Tôi chẳng lấy đấy làm buồn phiền. Tôi sống với bà trong vòng vài tháng, việc này hoá ra lại thật thú vị. Bà tôi là một luật sư xuất sắc chuyên về lĩnh vực hình sự, ngoài ra bà còn là một đầu bếp cừ khôi nữa.

Biển dần khuất sau những ngọn đồi nhưng tôi vẫn còn mải nghĩ. Tôi đang ngoái cổ lại mong được nhìn thấy cảnh biển khác thì đột ngột chú ý. Tôi nói: "Khoan đã, ngôi trường này được xây vào năm nào cơ?"

"Thế kỷ 18," Tiến Sỹ đáp. "Hệ thống truyền giáo, được thực thi bởi những thầy tu dòng thánh Francis dưới sự chỉ dẫn của nhà thờ Công giáo và chính quyền Tây Ban Nha, được lập ra không chỉ để bắt những người dân bản xứ phải theo đạo Cơ Đốc mà còn huấn luyện họ trở thành những thương nhân thành đạt trong xã hội mới của Tây Ban Nha. Lúc đầu, việc truyền giáo là để -"

"Thế kỷ 18?" tôi nói, rướn người về phía trước. Tôi bị kẹp giữa Ngu Ngơ và Ngái Ngủ - đầu anh ta gục xuống đến khi đỗ lại trên vai tôi, đến mức chỉ cần ngửi qua tôi có thể nói chắc rằng anh ta đang dùng loại dầu gội Finesse. Nói cho bạn hay, Gina chưa bao giờ nói với tôi về chuyện bọn con trai choán mất quá nhiều chỗ ngồi như thế, nhất là khi họ cao đến 1m80, nặng gần cả trăm cân. "Từ tận thế kỷ 18 cơ á?"

Mẹ tôi chắc đã thấy được nét kinh hoàng trong giọng nói của tôi, bèn quay lại trấn an: "Nghe này Suze, chúng ta đã bàn về chuyện này rồi. Mẹ đã nói với con là có cả một danh sách dài ngoằng xin học ở trường Robert Louis Stevenson, mà con cũng bảo con không thích học ở một trường toàn con gái là gì, thế nên trường Sacred Heart không ổn, hơn nữa dượng Andy cũng nghe nói về những điều tiếng rất xấu về chuyện nghiện ngập gây lộn ở những trường công lập quanh đây - "

"Từ tận thế kỷ 18 cơ á?" Tôi thấy tim mình bắt đầu đập dồn dập, như thể tôi mới chạy hộc tốc một quãng vậy. "Thế tức là nó đã gần 300 năm tuổi?"

Chúng tôi lái xe qua thành phố Carmel-ven-biển, có những căn nhà nhỏ đẹp như tranh vẽ - thậm chí một số còn lợp mái lá - cùng với những nhà hàng và những phòng tranh xinh xắn. Dượng Andy phải lái cẩn thận vì đường phố đông đúc những người lái xe đã hết-hạn-sử-dụng bằng lái; mà cũng không có đèn giao thông gì cả, chẳng hiểu sao người dân ở đây luôn tự hào về điều đó.

"Dượng không hiểu, từ thế kỷ 18 thì có gì đáng sợ đến thế?" Dượng Andy thắc mắc.

"Suze chưa bao giờ có hứng thú với những căn nhà cổ," mẹ tôi nói mà chẳng có một tí ngữ điệu - điều mà tôi luôn gọi là giọng thông-báo-tin-buồn khi mẹ đọc những bản tin về máy bay rơi hay trẻ vị thành niên phạm pháp trên TV.

"Thế à? Thế thì có lẽ con bé chẳng thích ngôi nhà đâu," dượng nói.

Nắm lấy thành ghế tựa đầu của dượng, tôi lo lắng thắc mắc: "Tại sao ạ? Lý do gì mà con lại không thích ngôi nhà?"

Khi rẽ vào thì tôi hiểu ngay lý do. Ngôi nhà rất rộng và đẹp vô cùng với những cái tháp theo phong cách từ thời Victoria và tất cả mọi thứ khác nữa. Mẹ tôi đã chọn màu sơn xanh biển, trắng và kem. Ngôi nhà được bao quanh bởi những cây thông cao lớn bóng đổ dài và những cây bụi trổ hoa khắp nơi. Ba tầng, hoàn toàn bằng gỗ, không giống như những ngôi nhà quanh đấy chỉ rặt kính với thép hay đất, nó là ngôi nhà đẹp nhất, giàu thẩm mỹ nhất ở đây.

Và tôi chẳng muốn đặt chân vào tí nào.

Tôi biết rằng khi đồng ý chuyển đến sống với mẹ ở California này là tôi sẽ phải quen với rất nhiều thay đổi. Những cây atisô dọc hai bên đường, những vườn chanh, hay biển... chúng thật sự đâu có quan trọng gì. Thực ra, thay đổi lớn nhất chính là việc tôi sẽ phải chấp nhận mẹ dành tình cảm cho những người khác nữa. Bố tôi đã mất được khoảng chục năm, thời gian chục năm ấy chỉ có mỗi hai mẹ con với nhau. Và phải nói thật rằng tôi vẫn thích mọi thứ vẹn nguyên như nó vốn thế. Thực tế mà nói, nếu không vì dượng Andy đã làm cho mẹ hạnh phúc đến nhường ấy thì hẳn tôi đã kịch liệt phản đối vụ chuyển chỗ ở này rồi.

Chẳng thể nào nhìn hai người họ - dượng Andy và mẹ - mà không nhận ra ngay rằng họ yêu nhau đến thế nào. Và tôi sẽ là loại con cái kiểu gì nếu ngăn cản họ? Vậy là tôi đón nhận dượng Andy, đón nhận 3 đứa con riêng của dượng, và chấp nhận thực tế là tôi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì yêu thương tôi đã có - cô bạn thân nhất của tôi, bà tôi, những bánh mỳ tròn, và cả khu thời thượng SoHo nữa - tất cả để mang lại cho mẹ tôi niềm hạnh phúc mẹ xứng đáng có được.

Nhưng tôi vẫn chưa nghĩ đến một chuyện là, lần đầu tiên trong đời tôi sẽ phải sống trong một ngôi nhà thực sự.

Không phải là một ngôi nhà chung chung nào đó, mà là ngôi nhà được sửa sang lại, vốn từng được sử dụng để làm nhà trọ vào thế kỷ 19, dượng Andy tự hào khoe với tôi như thế khi dỡ đồ của tôi trong xe, nhét vào tay những đứa con trai. Được xây vào năm 1849, ngôi nhà chẳng có mấy tiếng tăm vào cái thời ấy. Những cuộc đấu súng vì đàn bà và bài bạc xảy ra ở phòng khách phía trước, giờ vẫn có thể trông thấy những lỗ đạn. Dượng Andy đã sửa lại chút ít, thay vì thay hẳn nó đi. Điều này có vẻ hơi lẩm cẩm, dượng thú nhận, nhưng cũng hay. Dượng dám cá rằng chúng tôi đang sống trong ngôi nhà duy nhất có những lỗ đạn còn lại từ thế kỷ 19 trên dãy đồi Carmel này.

Huh, tôi cũng nghĩ vậy.

Mẹ cứ liếc nhìn tôi suốt khi chúng tôi bước lên hiên nhà. Tôi biết mẹ lo lắng không biết tôi đang nghĩ gì. Tôi hơi khó chịu với mẹ vì mẹ chẳng nói trước với tôi. Tuy vậy tôi cũng hiểu nguyên nhân vì sao mẹ lại làm vậy. Nếu mẹ nói trước mẹ đã mua một ngôi nhà trên trăm tuổi thì hẳn tôi đã không chuyển đến sống ở đây mà sẽ sống với bà cho đến khi đi học đại học.

Bởi lẽ mẹ tôi đúng ở một điểm: tôi không khoái những ngôi nhà cổ.

Cho dù vậy, như tôi thấy ngôi nhà cổ này rất khác. Đứng trên hiên nhà có thể nhìn thấy toàn cảnh đồi Carmel phía bên dưới, làng mạc, thung lũng, bãi biển, đại dương... Một quang cảnh đẹp tuyệt vời - đáng để cho người ta bỏ hàng triệu đô để kiếm một chỗ ở đây (căn cứ vào những ngôi nhà xa hoa quanh đấy) - cái nơi mà tôi lại chẳng muốn sống tí tẹo nào hết.

Khi mẹ tôi gọi: "Lại đây Suze, lại xem phòng của con đi," tôi không thể không rùng mình khe khẽ.

Ngôi nhà đẹp từ trong ra ngoài. Tất cả gỗ thích làm nhà đều bóng loáng, sắc xanh dương và vàng trông thật vui tươi. Nhận ra những đồ đạc của mẹ khiến tôi cảm thấy khá hơn đôi chút. Đây là chiếc két hình chiếc bánh mà mẹ và tôi đã mua vào nghỉ dịp cuối tuần ở Vermont. Và đây, những tấm ảnh chụp khi tôi còn bé xíu treo trên tường phòng khách, cạnh ảnh của Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ. Kia là những cuốn sách của mẹ trong chiếc giá sách gắn vào hốc tường trong căn phòng nhỏ. Cây cối của mẹ ở mọi nơi, những bệ gỗ treo trước những bậu cửa sổ kính đã đổi màu thời gian, hay trên cái trụ tay vịn cuối cầu thang, những cái cây mẹ đã phải trả cái giá vận chuyển cao chót vót vì mẹ sẽ buồn biết bao nếu phải xa chúng.

Nhưng cũng có những thứ mà tôi chưa từng thấy bao giờ: chiếc máy vi tính màu trắng đẹp đẽ trên chiếc bàn mẹ từng hay ngồi viết những tấm séc để thanh toán hoá đơn; chiếc TV màn hình lớn được nối với chiếc điều khiển cầm tay của trò chơi điện tử đặt trong hốc lò sưởi trong phòng trông không hợp tí nào; cạnh cửa gara là những chiếc ván lướt sóng được đặt dựa vào tường; và một chú chó to tướng đến là lắm dãi nhớt cứ gí chiếc mũi to đùng ươn ướt vào túi tôi vì tưởng tôi giấu đồ ăn trong đấy.

Những đồ đạc ấy dường như có vẻ là đồ của đàn ông, không phù hợp và xa lạ đối với cuộc sống của hai mẹ con tôi trước đây. Nhưng rồi tôi cũng sẽ phải quen dần với sự có mặt của chúng thôi.

Phòng tôi ở tầng trên, thẳng phía dưới là mái hiên trước nhà. Trong suốt quãng đường từ sân bay về, mẹ tôi cứ lo lắng mãi về chỗ ngồi gần chiếc cửa sổ được làm đua ra phía ngoài mà dượng Andy đã lắp trước đó. Từ chiếc cửa sổ ấy, cảnh quan bao la của toàn bộ bán đảo trải rộng trước mắt, cũng giống như khi nhìn từ hiên nhà. Mọi người thật tuyệt vời khi dành cho tôi một căn phòng đáng yêu, trông ra khung cảnh bên ngoài đẹp nhất so với các phòng khác trong nhà.

Và tôi hiểu được những vất vả của họ để làm cho căn phòng trở nên thân thuộc nhất với tôi, hay ít nhất là đối với một đứa con gái hay mơ mộng, nữ tính đầy mình... mà tôi thì không thế, tôi chẳng phải loại con gái có bàn phấn gắn gương hay điện thoại tiểu thư công chúa. Tôi hiểu được sự vất vả của dượng Andy khi dượng dùng giấy màu kem có điểm những bông hoa lưu ly xanh dán lên phía trên những tấm ván tường phòng tôi và trên những bức tường phòng tắm kề bên được dành riêng cho tôi; khi mọi người dành cho tôi chiếc giường mới bốn phía phủ rèm - kiểu giường mẹ luôn thích chọn cho tôi và hẳn đã không cầm lòng được. Tôi hối hận biết bao về cách cư xử của mình trong xe. Đi vòng quanh căn phòng, tôi thầm nghĩ, thế này cũng không đến nỗi nào, mình cũng không còn thấy băn khoăn nữa. Có lẽ mọi thứ rồi cũng sẽ tốt đẹp, có lẽ nỗi buồn chưa bao giờ tồn tại trong ngôi nhà này, có lẽ tất cả những kẻ bị bắn đều đáng tội...

Khi quay về hướng chiếc cửa sổ, tôi chợt nhận thấy có người ngồi sẵn trên chiếc ghế cạnh cửa sổ mà dượng Andy đã làm cho tôi với tất cả tình thương.

Người đó tôi, Ngái Ngủ, Ngu Ngơ hay cả Tiến Sỹ đều không quen.

Tôi quay về phía dượng Andy xem dượng có nhìn thấy kẻ lạ mặt kia không, nhưng dượng không thấy, cho dù hắn đứng ngay trước mặt.

Mẹ tôi cũng không nhìn thấy hắn, mẹ chỉ nhìn thấy mỗi tôi mà thôi. Có lẽ vẻ mặt tôi lúc ấy chẳng dễ coi cho lắm, nên mặt mẹ xị xuống, mẹ thở dài và nói: "Ôi Suze, đừng lại thế chứ con."

(hết chương 1)

Chương 2

Chắc có lẽ tôi nên giải thích ở đây. Tôi không hoàn toàn giống như những đứa con gái mười sáu tuổi thông thường khác.

Ôi, tôi cũng có vẻ bình thường đấy chứ. Tôi không nghiện, không uống rượu hay hút thuốc - trừ cái lần duy nhất bị Ngái Ngủ bắt gặp. Tôi không xỏ khuyên ở đâu hết, trừ hai tai, mỗi tai một lỗ. Tôi chẳng có hình xăm nào, cũng chẳng nhuộm tóc. Trừ đôi bốt và cái áo khoác da, tôi không dùng quá nhiều đồ màu đen. Tôi thậm chí cũng chẳng sơn móng tay màu tối. Nhìn chung, tôi là một teen Mỹ quá bình thường.

Tất nhiên rồi, chỉ trừ một việc là tôi có thể giao tiếp với người chết.

Có lẽ thế chưa đúng lắm, phải chỉnh lại là người chết nói chuyện với tôi chứ. Ý tôi là, tôi không phải là người khơi mào cho các cuộc chuyện trò kiểu đó. Thực ra, tôi cố tránh những điều ấy càng xa càng tốt ấy chứ.

Chỉ có điều chúng chẳng để tôi yên.

Những hồn ma ấy mà.

Đừng nghĩ tôi bị điên, hay ít nhất tôi cũng không điên hơn bạn vào cái tuổi 16 đâu. Tôi đoán nhiều người cho là tôi có vẻ điên điên. Chắc chắn phần lớn trẻ con ở khu tôi ở trước đây cho là vậy. Dở người ấy mà. Các giáo viên phụ trách trường tôi đã hơn một lần coi tôi không bình thường. Lắm khi tôi nghĩ có khi họ cứ nhốt béng tôi vào hoá lại dễ chịu hơn.

Nhưng ngay cả khi ở trên tận tầng 9 ở Bellevue - nơi người ta nhốt những kẻ điên loạn ở New York, tôi chắc cũng chẳng tránh được bọn ma. Chúng sẽ tìm ra tôi mà thôi.

Chúng luôn luôn tìm thấy tôi.

Tôi vẫn nhớ cái lần đầu tiên. Tôi nhớ rõ lần đó như nhớ tất cả những kỷ niệm khác vào quãng thời gian ấy, những kỷ niệm không mấy vui vẻ, vào lúc tôi khoảng 2 tuổi. Tôi nhớ rõ như nhớ cái lần tôi giằng con chuột khỏi con mèo nhà tôi, nâng niu nó trong tay cho đến khi người mẹ hoảng hốt của tôi vứt béng nó đi mất.

Này, lúc đó tôi mới có 2 tuổi thôi mà.

Hồn ma ấy cũng giống như con chuột, xám xịt và bất lực. Đến tận bây giờ tôi vẫn không biết bà ta là ai. Tôi nói bằng cái giọng bi bô của trẻ con mà bà ấy chẳng hiểu gì cả. Dù có là ma thì cũng đâu có hiểu được đứa trẻ 2 tuổi hơn những người thường là mấy. Bà ấy chỉ đứng trên đầu cầu thang nhà tôi nhìn tôi với ánh mắt buồn bã. Lúc đó tôi thấy thương bà ấy, thương như thương con chuột ấy, và muốn giúp bà. Chỉ không biết phải giúp thế nào. Thế là tôi làm cái điều mà bất cứ đứa trẻ 2 tuổi nào cũng làm. Tôi chạy đi tìm mẹ.

Đó là lần tôi học được bài học đầu tiên về ma: chỉ có mình tôi trông thấy chúng mà thôi.

À, tất nhiên người khác cũng nhìn thấy chứ. Nếu không thì làm quái gì có những ngôi nhà ma ám, những câu chuyện ma, chương trình Những Bí Ẩn Chưa Có Lời Giải, và những gì đại loại kiểu thế? Nhưng có một điểm khác ở đây. Hầu hết những người gặp ma thì chỉ nhìn thấy 1 con thôi. Còn tôi thì nhìn thấy tất cả bọn ma.

Tất cả bọn ma. Tất cả. Tất cả những người chết, vì bất kỳ lý do gì mà vẫn còn lang thang trên đời thay vì đến nơi họ lẽ ra cần phải đến, tôi đều nhìn thấy hết.

Để tôi nói cho bạn hay, như thế là cực kỳ nhiều ma đấy.

Cũng cái ngày mà tôi trông thấy con ma đầu tiên, tôi hiểu ra rằng hầu hết mọi người - kể cả mẹ tôi - chẳng thể nhìn thấy chúng. Không ai trong số những người tôi quen có thể thấy ma. Hay ít nhất chẳng ai thừa nhận điều đó cả.

Dẫn đến điều thứ hai tôi biết về ma vào cái ngày hôm đó, 14 năm về trước: tốt nhất đừng có ba hoa là mình vừa trông thấy 1 con ma, sau này cũng thế. Hay trường hợp của tôi, những con ma.

Tôi không sẽ không bảo là mẹ tôi nhận ra thứ mà tôi chỉ cho mẹ và bi bô với mẹ vào cái buổi chiều khi tôi 2 tuổi ấy, là một con ma. Chắc là mẹ không biết. Chắc mẹ chỉ nghĩ tôi đang cố nói với mẹ điều gì đó về cái con chuột mà mẹ tịch thu mất vào lúc sáng. Nhưng mẹ chỉ nhìn lên cầu thang, gật gật và nói: "Ừ ừ, Suze này, con muốn ăn trưa với món gì nào? Pho mát hay cá ngừ?"

Tôi không mong đợi ở mẹ một phản ứng tương tự như cái phản ứng khi con chuột bị tóm - mẹ tôi, lúc đấy đang ôm đứa trẻ mới sinh nhà hàng xóm, ré lên một tiếng kinh hoàng trước cái cảnh con chuột đang nằm gọn trong tay tôi, và mẹ thậm chí còn hét to hơn nữa khi tôi tự hào khoe thành tích với mẹ - và to nữa nữa khi tôi tự hào khoe thêm: "Mẹ xem này. Giờ con cũng có em bé đấy nhé," - giờ tôi nhận ra là lúc ấy mẹ không hiểu được tôi vì mẹ đâu có nhìn thấy ma.

Nhưng tôi cũng chờ đợi chí ít là một lời giải thích cho cái thứ đang lơ lửng trên đầu cầu thang. Hầu hết những thứ ngày thường tôi vẫn thắc mắc, từ cái trạm bơm cứu hoả cho đến những ổ cắm điện, tôi đều được giải đáp rõ ràng. Tại sao cái thứ trên đầu cầu thang kia thì lại không chứ?

ẳng có gì hết.

Ở cái tuổi lên 2, tôi thấy điều ấy cũng chẳng có gì đáng thắc mắc cho lắm. Lúc ấy, nó cũng chỉ giống như những điều khác để phân biệt giữa trẻ con và người lớn mà thôi: Trẻ con phải ăn hết phần rau, người lớn thì không. Trẻ con có thể chơi vòng quay ngựa gỗ trong công viên, người lớn thì không. Trẻ con có thể nhìn thấy những thứ màu xám, người lớn thì không.

Và mặc dù lúc đó chỉ mới 2 tuổi, tôi cũng hiểu ra rằng cái thứ màu xám ở đầu cầu thang ấy chẳng phải là thứ để đem ra hỏi han. Không hỏi ai hết. Không bao giờ.

Và tôi chẳng bao giờ nói với bất kỳ ai về con ma đầu tiên tôi thấy, cũng không nói với ai về hàng trăm con ma khác tôi gặp sau này. Có gì để nói đâu nhỉ? Tôi trông thấy chúng. Chúng nói chuyện với tôi. Hầu như tôi chẳng hiểu chúng nói gì, muốn gì, và rồi chúng luôn luôn bỏ đi. Hết chuyện.

Có lẽ mọi thứ cứ trôi qua như thế nếu như bố tôi không đột ngột qua đời.

Thật đấy. Chỉ có vậy thôi. Phút trước bố còn ở đó, nấu ăn và cười đùa như bố thường làm, vậy mà hôm sau bố đã không còn nữa.

Mọi người an ủi tôi suốt cái tuần sau khi bố mất - cái tuần mà tôi chỉ biết đứng trên bậu cửa chờ bố về - nhưng bố chẳng bao giờ trở về nữa.

Tôi chẳng thích nghe những lời an ủi. Tại sao tôi phải nghe họ chứ? Bố không về nữa ư? Họ có lẩm cẩm không vậy? Tôi hiểu một điều là bố mất rồi. Nhưng bố chắc chắn rồi sẽ quay về. Ai sẽ giúp tôi làm bài tập toán đây, ai sẽ thức dậy thật sớm cùng tôi vào sáng Chủ Nhật, làm bánh quế theo cách của người Bỉ và xem phim hoạt hình cùng tôi, ai sẽ dạy tôi lái xe khi tôi 16 tuổi như đã hứa bây giờ? Bố có lẽ đã mất thật rồi, nhưng chắc chắn tôi sẽ lại được gặp bố thôi. Hàng ngày tôi vẫn thấy những người đã khuất, thế thì sao tôi lại không gặp được bố cơ chứ?

Hoá ra tôi đã đúng. Bố tôi đã mất, tôi không nghi ngờ gì điều đó. Bố mất vì chứng nhồi máu cơ tim. Mẹ tôi đã tiến hành hoả táng rồi giữ tro trong chiếc cốc vại uống bia kiểu Đức cổ, loại có nắp đậy. Bố từng rất thích uống bia. Mẹ đặt nó lên giá cao chỗ con mèo không với tới, thỉnh thoảng lúc mẹ nghĩ là tôi không quanh quẩn đâu đây, mẹ lại nói chuyện với chiếc cốc ấy.

Điều này làm tôi buồn kinh khủng. Chắc chắn là tôi không thể đổ lỗi cho mẹ vì làm tôi buồn. Nếu tôi không biết thì có lẽ tôi cũng đã nói chuyện với chiếc cốc ấy rồi.

Nhưng bạn thấy đấy, những người đó đã lầm. Bố tôi mất, điều đó đúng. Nhưng tôi vẫn được gặp lại bố.

Thực ra, giờ có khi tôi còn gặp bố nhiều hơn cả khi bố còn sống. Khi ấy, bố đi làm suốt ngày. Giờ bố mất rồi, bố chẳng có nhiều việc để làm, vì thế mà tôi gặp bố rất nhiều lần. Thực tế là quá nhiều ấy chứ. Bố khoái cái việc đột ngột hiện ra khi tôi ít để ý nhất. Như thế chẳng hay ho cho lắm.

Cuối cùng thì bố là người giải thích cho tôi. Tôi nghĩ, về một mặt nào đó việc bố mất cũng tốt thôi, vì nhờ đó mà tôi hiểu được mọi chuyện.

Thật ra thì không phải vậy. Có một người bói bài tarot đã từng nói về chuyện đó một lần rồi. Đó là cái lần trường tôi tổ chức hội hè. Tôi đi cũng chỉ bởi Gina không muốn đi một mình. Tôi nghĩ vụ này thật vớ vẩn, nhưng tôi vẫn đi bởi vì đó là những điều mà những người bạn thân nhất hay làm vì bạn mình. Người đàn bà đó - bà thầy bói Zara - xem lá bài của Gina và nói chính xác những gì cô ấy muốn nghe: À, rồi sau này cháu sẽ cực kỳ thành đạt, làm bác sỹ phẫu thuật não, cháu sẽ kết hôn vào năm 30 tuổi, có 3 con, vân vân và vân vân. Khi xong việc, tôi những muốn đi nhưng Gina cứ nhất định bắt bà Zara xem cho cả tôi nữa.

Bạn biết thế nào rồi đấy. Bà Zara xem các lá bài một lần, bà có vẻ đăm chiêu, rồi tráo bài và xem lại. Rồi bà ấy nhìn tôi:

"Cháu," bà ấy nói, "nói chuyện được với người đã khuất."

Điều này làm Gina hết sức hào hứng. Cô nàng tuôn: "Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Thật thế à? Suze, cậu nghe thấy không đấy? Cậu có thể nói chuyện với người chết! Cậu cũng là cô đồng!"

"Không phải là cô đồng," bà Zara nói. "Mà là Cầu nối của hồn ma."

Gina có vẻ bị sốc, "Gì cơ? Đấy là cái gì thế ạ?"

Nhưng tôi thì hiểu. Tôi không biết chính xác phải gọi như thế nào, nhưng tôi hiểu nó là cái gì. Bố tôi không giải thích được rõ lắm, nhưng tôi biết đại loại là thế này: tôi là người có thể liên hệ với những người đã chết ngoẻo rồi nhưng vẫn vương vấn vì những điều còn... bận tâm. Sau đó, nếu có thể, tôi giúp đỡ họ giải quyết cái mớ bòng bong đó đi.

Tôi chỉ có thể nghĩ được cách giải thích đó thôi. Chẳng biết tại sao tôi lại may mắn đến thế - ý tôi là ở chỗ, về tất cả những phương diện khác thì tôi hoàn toàn bình thường, hừm, gần như bình thường. Tôi chỉ không may mắn ở chỗ là có khả năng liên lạc với người chết.

Không hẳn là tất cả những người chết. Chỉ những người chết chưa nhắm mắt thôi.

Bạn thấy cuộc sống của tôi mười sáu năm vừa qua đầy những hoa thơm trái ngọt thế nào rồi đấy.

Hãy tưởng tượng việc bạn bị người đã chết ám ảnh - theo nghĩa đen của từ ấy - từng phút từng ngày trong đời. Chẳng hay ho gì đâu. Bạn đi mua đồ ăn hay kiếm một lon soda - ối chà, một gã đứng ngay trong góc. Gã bị bắn chết. Và nếu bạn giúp cho cảnh sát tóm được kẻ thủ sát thì gã kia sẽ nhắm mắt xuôi tay mà yên nghỉ.

Thế mà lúc ấy tất cả những gì bạn muốn lại chỉ là một lon soda thôi.

Hay là bạn đến thư viện mượn sách - và ối, hồn ma của một bà thủ thư nào đấy đến tìm bạn, muốn bạn nói giúp với thằng cháu là bà ta rất bực mình về những điều nó làm với những con mèo của bà ta sau khi bà chết ngoẻo đi rồi.

Đó mới là những người biết lý do vì sao họ vẫn còn quanh quẩn trên đời. Nửa còn lại thì chả rõ vì sao họ chưa đi về cái cõi âm mà lý ra họ phải đến.

Rắc rối ở chỗ vì thế mà con ngốc là tôi đây phải giúp họ đi đến đó.

Tôi là cầu nối của những bóng ma.

Nói cho bạn hay, đấy chẳng phải là điều tôi muốn mọi người dính vào đâu.

Chuyện cầu nối này chả xơ múi được gì. Chả có ai đề nghị trả lương tháng hay gì gì cho tôi hết, thậm chí tiền lương theo giờ cũng không. Chỉ là có những khi bạn thấy ấm lòng khi làm được điều gì đó giúp người khác mà thôi. Như việc đi nói với một cô bé, người đã không kịp nói lời tạm biệt với người ông trước khi ông mất, rằng ông cô rất yêu thương cô, và ông tha thứ cho cô cái lần cô coi chuyện ông kể về xứ El Dorado là chuyện nhảm nhí. Những câu chuyện như thế thực sự sưởi ấm trái tim bạn, thật đấy.

Nhưng còn lại thì hầu hết chẳng dễ chịu tí nào. Ngoài cái điều rắc rối là lúc nào cũng bị quấy rầy bởi những người mà chỉ mỗi mình bạn trông thấy, thì trên thực tế, có rất nhiều con ma cực kỳ đáng ghét. Nói nghiêm chỉnh đấy. Chúng là những thứ của nợ khó chiều. Nhìn chung, chúng biết rằng với cách cư xử của chúng khi còn sống, chúng không được người ta kính trọng cho lắm. Thế là chúng cứ ở lại mà quấy rầy người ta, sập cửa, đập phá, làm cho mọi thứ trở nên lạnh lẽo, rên rẩm. Biết tôi đang nói về cái gì rồi đấy, cái loài yêu tinh ấy mà.

Đôi khi chúng cũng trở nên hung dữ, cố làm cho người khác bị thương. Chúng cố tình làm vậy đấy. Đó là những lúc tôi điên tiết lên, những lúc tôi buộc phải tẩn cho chúng một trận.

Đó là điều mẹ tôi thấy lúc mẹ nói, "Ôi Suze, đừng có lại thế nữa chứ con." Khi tôi tẩn nhau với ma, mọi thứ thường trở nên hơi bị... lộn xộn một tí.

Tôi không có ý định làm cho căn phòng mới này lộn tùng phèo lên, vì thế mà tôi quay lưng lại với con ma đang ngồi trên chiếc ghế gần cửa sổ và nói: "Không có gì đâu mẹ. Mọi thứ đều ổn cả. Căn phòng đẹp lắm. Con cám ơn mẹ nhiều."

Chắc mẹ không tin, chẳng dễ lừa được mẹ tôi đâu. Tôi biết mẹ đang nghi tôi có điều gì đó không ổn, nhưng mẹ lại không biết đấy là điều gì. Thế có lẽ cũng tốt, vì nếu không thì cả cái thế giới vốn trật tự của mẹ sẽ náo loạn hết lên cho xem. Mẹ là phóng viên truyền hình, mẹ chỉ tin vào những điều gì mẹ thấy tận mắt. Mà mẹ thì đâu có thấy ma.

Bạn không biết tôi ao ước được như mẹ đến nhường nào đâu.

"Vậy được rồi, mẹ mừng vì con thích. Mẹ đã hơi lo một chút. Mẹ biết con không khoái... ừm... những nơi cổ kính."

Những nơi cổ kính là cái điều mà tôi ghét nhất, bởi vì nơi nào càng cổ thì càng có nguy cơ là sẽ có người nào đó qua đời, và rồi người đó vẫn đang lang thang quanh đấy để tìm sự công bằng hay chờ đợi để nhắn gửi thông điệp cuối cùng cho một người khác. Nói cho bạn hay, điều này dẫn đến một hậu quả khá thú vị khi tôi và mẹ đi tìm mua nhà trong thành phố. Chúng tôi chọn được những căn hộ gần như hoàn hảo, thế rồi tôi sẽ nói như kiểu: "Không, không đời nào," mà chẳng có lý do nào có thể viện ra cả. Thật lạ là mẹ lại không gửi béng tôi vào trường nội trú cho xong chuyện.

"Thật mà, mẹ. Căn phòng tuyệt lắm, con rất thích," tôi nói.

Nghe thấy điều đó, dượng Andy hớn hở chạy khắp phòng cho tôi thấy những chiếc đèn chỉ cần vỗ tay là có thể bật tắt (ôi giời ơi), và hàng đống những thứ dượng đã lắp đặt. Tôi theo chân dượng, bày tỏ niềm vui thích, cẩn thận không nhìn về hướng có con ma. Thật ấm áp khi thấy dượng Andy muốn làm cho tôi vui đến thế. Và tôi quyết định sẽ thật vui vẻ, như dượng ấy khao khát. Chí ít thì vui hết mức mà một người như tôi đây có thể.

Lát sau, chẳng còn gì để chỉ cho tôi xem nữa, dượng Andy bèn đi chuẩn bị cuộc liên hoan ngoài trời để mừng việc tôi dọn đến, chúng tôi có một bữa tối với hải sản và thịt nướng. Ngái Ngủ và Ngu Ngơ thì đi "lướt tí sóng" trước bữa ăn, còn ông Tiến Sỹ thì dạt về một chỗ khác, lẩm bẩm một cách khó hiểu về bữa ăn, về một "cuộc thử nghiệm" đang tiến hành, để lại tôi ngồi một mình với mẹ...

"Con thực sự không có vấn đề gì đấy chứ, Suze? Mẹ biết đây là một thay đổi lớn. Mẹ biết như thế là đòi hỏi quá nhiều ở con - " mẹ hỏi.

Tôi cởi chiếc áo khoác da. Không biết tôi nói điều này chưa, nhưng tháng Giêng như thế này là khá nóng, khoảng trên 20 độ. Lúc ngồi trong xe mà tôi nóng muốn chết. "Con ổn mà mẹ - thật đấy."

"... Bắt con rời xa bà, Gina, và cả New York nữa. Mẹ thật ích kỷ. Mẹ biết đối với con mọi thứ chẳng dễ dàng gì. Nhất là sau khi bố mất..."

Mẹ tôi cứ muốn cho rằng cái lý do vì sao tôi chẳng giống mẹ hồi mẹ còn tuổi teen như tôi - mẹ là đội trưởng đội cổ vũ, là nữ hoàng trong lễ hội hằng năm dành cho cựu học sinh, có rất nhiều bạn trai, và nhiều thứ khác nữa - là do tôi mất bố khi còn quá nhỏ. Mẹ nghĩ cái chết của bố là nguyên nhân của mọi thứ, từ việc tôi chẳng có bạn bè gì hết, trừ Gina, cho đến việc đôi khi tôi cư xử theo cách rất kỳ quặc.

Và tôi chắc rằng một số việc tôi làm trước đây có vẻ kỳ lạ đối với những ai không biết tôi làm thế để làm gì, hay vì ai. Vô số lần tôi bị phát hiện quanh quẩn ở những nơi không nên đến. Vài lần tôi cũng từng bị cảnh sát dẫn về nhà vì tội xâm phạm, phá hoại của công hay đập phá và đột nhập gia cư.

Ngay cả khi tôi chưa bao giờ thực sự bị kết án về một tội nào đó, tôi đã phải ngồi hàng tiếng đồng hồ trong phòng bác sỹ trị liệu của mẹ - được an ủi rằng cái việc tôi hay tự nói chuyện với bản thân là hoàn toàn bình thường, nhưng xu hướng tôi nói chuyện với những người không tồn tại thì có lẽ là không bình thường.

Kể cả việc tôi không thích những ngôi nhà nào xây quá 5 năm.

Hay kể cả việc tôi dành hàng đống thời gian trong nghĩa địa, trong nhà thờ, đền đài, lăng tẩm, căn hộ hay nhà riêng (đã bị khoá) của người khác, hay lang thang trong sân trường sau giờ học.

Chắc mấy đứa con của dượng Andy đã nghe được ít nhiều, vì thế mới có chuyện vớ vẩn về băng nhóm nào đó. Nhưng như tôi đã nói, tôi chưa bao giờ bị xử lý vì những gì đã làm.

Và thậm chí cái lần bị đình chỉ học trong hai tuần vào năm tôi học lớp 8 cũng không bị ghi vào hồ sơ.

Vì thế có lẽ việc mẹ tôi ngồi trên giường nói về "sự khởi đầu mới mẻ" hay những thứ đại loại thế cũng không phải là điều gì bất thường cho lắm. Điều kỳ quái là ở chỗ mẹ cứ nói trong khi con ma thì đang ngồi cách đó không xa, quan sát hai mẹ con. Nhưng mặc kệ. Mẹ dường như có nhu cầu cần trình bày về chuyện mọi thứ sẽ trở nên khá hơn cho tôi ra sao khi sống ở West Coast này.

Và nếu đấy là những gì mẹ muốn thì tôi sẽ cố hết sức cho mẹ đạt được mong muốn ấy. Tôi đã quyết định sẽ không làm bất cứ điều gì có thể tống tôi vào tù, cũng là một sự khởi đầu mới đấy chứ.

"Thôi được rồi, chắc là con không cần người dỡ đồ giúp nên mẹ sẽ đi xem dượng Andy chuẩn bị bữa tối đến đâu rồi," mẹ nói, hết cả hơi sau bài thuyết trình về việc con-sẽ-không-thể-có-bạn-bè-gì-hết-nếu-không-có-một-cách-hành-xử-thân-thiện.

Dượng Andy, ngoài việc có khả năng xây dựng nên bất cứ thứ gì, còn là một đầu bếp siêu đẳng mà mẹ tôi thì chắc chắn là chẳng bao giờ bén gót.

Tôi nói: "Vâng, vậy cũng được. Con sẽ dỡ đồ và mấy phút nữa con xuống."

Mẹ gật đầu và đứng dậy, nhưng không để tôi thoát dễ dàng thế. Đi ra đến cửa, mẹ quay lại và nói, đôi mắt xanh ngấn nước: "Mẹ chỉ mong con được hạnh phúc, Suzie à. Tất cả những gì mẹ muốn chỉ có vậy thôi. Con có nghĩ con sẽ hạnh phúc khi sống ở đây không?"

Tôi ôm lấy mẹ. Xỏ đôi đôi bốt ấy vào thì tôi cao bằng mẹ. "Chắc chắn rồi mẹ à. Ở đây con sẽ hạnh phúc mà. Con cảm thấy nơi này giờ là nhà của mình rồi," Tôi nói.

"Thật không? Con nói thật đấy chứ?" Mẹ sụt sịt.

"Thật mà." Tôi không hề nói dối, ý tôi là trong phòng tôi hồi còn ở Brooklyn lúc nào mà chẳng có ma như thế này.

Mẹ đi ra, và tôi khép cửa khe khẽ sau lưng mẹ. Chờ đến khi không còn nghe tiếng bước chân mẹ trên cầu thang nữa, tôi mới quay lại.

"Này," tôi nói với con ma đang ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa sổ, "anh là tên quái nào vậy?"

(hết chương 2)

Chương 3

Nếu bảo rằng gã này ngạc nhiên khi bị xưng hô kiểu đó thì có lẽ là còn nhẹ đấy. Hắn ta trông còn hơn cả ngạc nhiên. Hắn ngoái hẳn lại phía sau lưng xem có thật là tôi đang nói với hắn hay không.

Nhưng dĩ nhiên, thứ duy nhất ở sau lưng hắn là cái cửa sổ và quang cảnh đẹp tuyệt của vịnh Carmel. Rồi hắn quay lại nhìn tôi, chắc nhận ra tôi đang chiếu tướng đích thị vào hắn vì hắn thốt lên: "Nombres de Dios," theo cái cách hẳn sẽ làm cho Gina lăn đùng ra bất tỉnh nhân sự, vì cô nàng vốn kết các anh chàng mang dòng máu Latinh.

"Gọi thánh thần cũng chả ích gì đâu," tôi bảo hắn, đá chiếc ghế đính tua hồng về phía bàn phấn mới và ngồi dạng chân trên ghế. "Nếu vẫn chưa tỉnh ra, thì này, Thần Thánh cũng chả mấy bận tâm đến anh đâu. Nếu không thì Ngài đã chả để anh rũ xác ra ở đây đến -" tôi dò xét cách ăn mặc của hắn, trông rất giống kiểu ăn mặc trong Miền Tây Hoang Dã, "xem nào, đến 150 năm. Có thật là anh đã ngoẻo được từng ấy năm rồi không?"

Hắn nhìn tôi bằng đôi mắt đen lóng lánh. "Ngoẻo nghĩa là gì?" Hắn hỏi bằng giọng khàn khàn do lâu ngày không nói.

Tôi đảo mắt một vòng. "Lên nóc tủ," tôi cắt nghĩa. "Đi ma teo, về chầu ông bà, ngủ với giun." Thấy biểu hiện của hắn chứng tỏ hắn vẫn không hiểu, tôi chán nản đành kết, "Chết ấy."

"À, ra là chết." Hắn đáp. Nhưng thay vì trả lời câu hỏi của tôi, hắn lắc đầu. "Tôi không hiểu," giọng hắn băn khoăn, "tôi không hiểu làm thế nào mà cô lại nhìn thấy được tôi. Từ xưa đến giờ chưa có ai -"

"Vậy đấy," tôi ngắt lời hắn. Tôi nghe hàng đống những lời này rồi, bạn biết đấy. "Nghe đây, thời thế thay đổi rồi. Vậy vấn đề rắc rối nho nhỏ của anh là gì?"

Hắn nhìn tôi bằng đôi mắt to, hắn có hàng mi còn dài hơn cả của tôi. Thường thì tôi không gặp những con ma hấp dẫn cho lắm, nhưng tên này... trời, khi còn sống chắc hắn ta phải được lắm, vì giờ thì hắn chết rồi và tôi đang cố hình dung ra cái thứ dưới lớp áo trắng cổ mở rộng, để lộ một ít phần ngực và bụng mà hắn đang mặc kia. Liệu ma có được lớp cơ bụng đến thế không nhỉ? Đấy là điều tôi chưa từng có dịp nào - hay có lòng dạ nào - để khám phá cả.

Không thể để bị sao lãng bởi điều đó ngay bây giờ được. Tôi là một người đạt đến mức điêu luyện cơ mà.

"Rắc rối nho nhỏ?" hắn kêu lên. Ngay cả khi hắn có một giọng nói du dương êm dịu, tiếng Anh của hắn đều đều và không giống giọng địa phương, giống như tôi đã hình dung từ trước, cách phát âm chữ t rất nhẹ giống kiểu Brooklyn. Rõ ràng là hắn có mang dòng máu Tây Ban Nha, căn cứ vào cái từ Dios và màu da của hắn, nhưng hắn cũng là người Mỹ như tôi - hay cũng là người Mỹ giống như một ai đó sinh ra trước khi California trở thành một bang.

"Phải." Tôi hắng giọng. Hắn hơi quay đi và đặt đôi bốt lên tấm thảm xanh nhạt phủ trên chiếc ghế cạnh cửa sổ, nhờ đó mà tôi có được câu trả lời, phải, ma cũng có thể có cơ bụng săn chắc như ai. Cơ bụng hắn nổi lên, được bao phủ bởi một lớp lông thưa mỏng đen óng.

Tôi nuốt xuống. Thật khó khăn.

"Rắc rối, khó khăn. Tại sao anh vẫn còn ở đây?" Hắn nhìn tôi, không một chút biểu hiện nhưng có vẻ có hứng thú. Tôi thêm: "Sao anh còn chưa về cõi bên kia?"

Hắn lắc đầu. Tôi đã nói là hắn có mái tóc ngắn sẫm màu và trông có vẻ khá thô chưa nhỉ? Như thể nếu chạm vào thì sẽ có cảm giác rất dày dặn vậy. "Tôi không hiểu ý cô muốn hỏi gì?"

Tôi cảm thấy hơi nóng, nhưng vì đã cởi chiếc áo da ra rồi nên tôi chẳng biết phải làm gì nữa. Tôi không khoái cái việc cởi bất cứ thứ gì trong khi hắn ta đang ngồi đó nhìn. Điều này làm cho tôi đột ngột rất khó chịu.

"Anh bảo sao, anh không hiểu những gì tôi nói ấy à?" Tôi cáu kỉnh nói, gạt một vài sợi tóc cho khỏi vướng vào mắt. "Anh đã chết rồi. Anh không thuộc về nơi này. Lẽ ra anh phải làm cái việc mà người ta vẫn thường làm khi chết rồi chứ. Hưởng thụ trên thiên đàng, bị thiêu dưới địa ngục, tái sinh, cải thiện tầm nhận thức tốt hơn, hay thế nào đấy. Anh đúng ra không được... hừm... không được đi lang thang."

Hắn trầm ngâm nhìn tôi, một chân co lên, cánh tay khẽ đung đưa đặt trên đầu gối. "Nếu tôi cứ đi lang thang thì sao nào?" Hắn hỏi.

Tôi không dám chắc, nhưng có cảm giác hắn đang bỡn cợt tôi. Mà tôi thì không thích bị bỡn cợt. Thật đấy. Người Brooklyn lúc trước cũng hay bỡn, cho đến khi tôi học được là một cú đấm thẳng vào mũi có thể làm họ nín ngay.

Tôi chưa sẵn sàng oánh tên này, chưa đâu. Nhưng cũng sắp rồi. Ý tôi là, tôi đã phải đi cả triệu dặm dài tưởng như mất đến hàng mấy ngày để đến sống với những tên con trai ngốc nghếch; tôi phải dỡ đồ; tôi làm cho mẹ khóc; rồi sau đó gặp ngay một con ma trong phòng. Đừng đổ lỗi cho tôi về chuyện tôi cư xử thô lỗ với hắn chứ.

"Nghe đây," tôi đứng dậy thật nhanh, vòng chân ra phía sau ghế. "Anh có thể đi lang thang nếu muốn, bồ tèo ạ. Mặc xác anh. Tôi cóc cần biết. Nhưng anh không được lang thang quanh đây."

"Là Jesse," anh ta nói, không động đậy.

"Cái gì?"

"Cô gọi tôi là bồ tèo. Tôi nghĩ chắc cô muốn biết tôi cũng có tên. Là Jesse."

Tôi gật. "Phải. Được rồi, thế thì Jesse. Anh không thể ở đây được, Jesse ạ."

"Còn cô?" Jesse đang cười. Anh ta có khuôn mặt đẹp trai, khuôn mặt mà nếu ở trường cấp 3 cũ của tôi thì anh ta đã được bầu làm vua trong buổi khiêu vũ rồi. Kiểu gương mặt mà Gina sẽ cắt ra khỏi tờ tạp chí và dính lên tường phòng mình.

Nhưng anh ta không hề đáng mến tí nào hết. Trông anh ta nham hiểm lắm. Cực kỳ nham hiểm.

"Còn tôi thì làm sao?" Tôi biết mình đang ăn nói thô lỗ. Tôi cóc quan tâm.

"Tên cô là gì?"

Tôi trừng mắt. "Nghe đây. Nói cho tôi hay anh muốn gì, rồi biến đi. Tôi đang nóng, muốn thay quần áo. Tôi không có thời gian để -"

Anh ta ngắt lời tôi, nhẹ nhàng như thể chẳng thèm nghe tôi nói gì hết: "Người phụ nữ đó - mẹ cô ấy mà - gọi cô là Suzie." Đôi mắt ánh ta nhìn tôi lấp lánh. "Có phải đấy là tên gọi tắt của Susan không?"

"Susannah," tôi tự động chỉnh ngay. "Giống trong bài hát 'Đừng khóc vì tôi' ấy."

Anh ta cười. "Tôi biết bài hát đó."

"Rồi. Chắc nó lọt vào top 40 bài hát vào cái năm anh chào đời đấy nhỉ?"

Anh ta vẫn cười. "Giờ đây là phòng cô phải không, Susannah?"

"Phải," tôi nói. "Bây giờ đây là phòng của tôi. Thế nên anh phải dọn đi chỗ khác thôi."

"Tôi phải dọn đi chỗ khác?" Anh ta nhướn một bên lông mày đen. "Chốn này đã là nhà tôi 150 năm rồi. Tại sao tôi phải rời bỏ nó chứ?"

Tôi thực sự cáu điên rồi đây. Cái chính là vì tôi đang rất nóng, muốn mở cửa sổ ra, mà cái cửa sổ thì lại ở sau anh ta, mà tôi thì không muốn lại gần anh ta đến thế. "Bởi vì đây là phòng của tôi. Tôi sẽ không chia sẻ phòng mình với một tên cao bồi chết nghoẻo nào đó đâu."

Điều này chạm phải lòng tự ái của anh ta. Anh ta dậm mạnh chân xuống sàn và đứng dậy. Ngay lập tức tôi ước giá mình đừng nói gì hết. Anh ta cao, cao hơn tôi nhiều, thế mà kể cả có đôi bốt vào thì tôi cũng đã khoảng 1m75.

"Tôi không phải cao bồi," anh ta tức giận bảo. Anh ta cũng hạ giọng cũng nói thêm điều gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng vì tôi học tiếng Pháp nên chả hiểu gì hết. Lúc đó, chiếc gương cổ treo phía trên bàn trang điểm của tôi bắt đầu rung rung một cách đáng sợ trên cái móc gắn vào tường. Tôi biết đấy không phải là do một cơn động đất ở California mà là do con ma đang đứng trước mặt tôi, cái thứ mà hiển nhiên có khả năng điều khiển mọi thứ chuyển động.

Đây là một điều về loài ma: chúng rất dễ tự ái! Một chuyện dù nhỏ nhất cũng có thể làm chúng nổi cơn tam bành.

"Ôi chà," tôi nói, đưa hai tay lên, lòng bàn tay hướng ra ngoài. "Bình tĩnh, bình tĩnh đã nào anh bạn."

"Gia đình tôi," Jesse nổi xung lên, chỉ tay vào mặt tôi, nói, "phải làm việc vô cùng vất vả để có được thành quả trên cái xứ này, nhưng không bao giờ, không bao giờ là một vaquero -"

"Này," tôi nói. Đấy chính là lúc tôi phạm một sai lầm lớn. Tôi không thích cái ngón tay anh ta đang chỉ vào tôi, bèn vươn ra tóm lấy nó thật mạnh, chộp lấy tay anh ta, kéo anh ta về phía tôi để anh ta nghe cho rõ tiếng tôi rít lên: "Thôi ngay cái trò với chiếc gương đi. Và đừng có chỉ tay vào mặt tôi. Còn thế nữa là tôi bẻ gãy ngón tay luôn đấy."

Tôi lăng bàn tay anh ta đi và hài lòng thấy chiếc gương đã thôi rung lắc. Nhưng sau đó tôi chợt nhìn vào mặt anh ta.

Ma thì làm gì có máu. Làm sao mà có, chúng chết rồi cơ mà. Nhưng xin thề, lúc ấy mặt Jesse trở nên trắng bệch, không còn màu sắc gì hết, như thể máu trên mặt anh ta đã bốc hơi đi đâu hết rồi vậy.

Không sự sống, không máu, tức là ma không phải là một thứ vật chất. Vì thế việc tôi tóm lấy ngón tay anh ta là hoàn toàn vô nghĩa, tay tôi phải đi xuyên qua anh ta. Đúng không?

Nhầm. Đó là điều xảy ra với hầu hết mọi người. Nhưng không phải với những người giống như tôi. Không phải với những người nói chuyện được với người chết. Chúng tôi có thể nhìn thấy ma, nói chuyện với ma, và, khi cần, có thể tẩn cho chúng một trận.

Nhưng đấy không phải là điều mà tôi muốn đem đi khoe khắp chốn cùng quê. Tôi cố gắng tránh chạm vào chúng - thật ra là chạm vào tất cả mọi người - tránh càng xa càng tốt. Nếu những cố gắng để thương lượng không xong mà tôi buộc phải sử dụng vũ lực đối với một con ma cứng đầu cứng cổ thì nói chung tôi mong chúng không biết trước rằng tôi có thể làm thế. Luôn luôn nên dùng những đòn bất ngờ khi phải đương đầu với những thành viên trong hội âm phủ, những kẻ khét tiếng chơi bẩn.

Jesse nhìn xuống ngón tay mình như thể nó vừa bị tôi vừa xuyên thủng một lỗ vậy, có vẻ hoàn toàn không thể thốt nên một câu nào hết. Có lẽ đó là lần đầu tiên trong suốt 1 thế kỷ rưỡi qua anh ta bị một người nào đó chạm vào. Việc đó có thể làm một người bị sốc nặng. Đặc biệt là với một kẻ đã chết.

Lợi dụng lúc anh ta đang kinh ngạc, tôi nói bằng giọng cứng rắn nhất, vô cảm nhất: "Giờ nghe đây Jesse. Đây là phòng của tôi, anh hiểu chứ? Anh không ở lại đây được đâu. Hoặc anh phải giúp tôi đưa anh đến nơi cần phải đến, hoặc là anh đi kiếm ngôi nhà khác mà ám. Rất tiếc, nhưng phải thế thôi."

Jesse rời mắt khỏi ngón tay mình, nét mặt anh ta dường như vẫn nhất định không chịu tin: "Cô là ai?" Anh ta khẽ khàng hỏi. "Cô là loại... con gái kiểu gì vậy?"

Anh ta ngần ngừ rất lâu trước khi nói ra cái từ con gái, rõ ràng vẫn còn chưa chắc từ đó có đúng trong trường hợp của tôi hay không. Điều đó khiến tôi nóng gáy. Ý tôi là, có lẽ tôi không phải là đứa con gái nổi nhất trường, nhưng chưa có một ai phủ nhận việc tôi là một đứa con gái thực sự. Đám công nhân xây dựng thỉnh thoảng hò hét những lời lẽ lỗ mãng vào tôi, nhất là khi tôi mặc chiếc váy ngắn bằng da màu đen. Tôi không phải không có tí hấp dẫn nào hay cư xử như đàn ông. Chắc chắn lúc trước là tôi có đe doạ bẻ gãy ngón tay anh ta, nhưng thế không có nghĩa tôi không phải là con gái, có Chúa chứng giám!

"Để tôi nói cho anh hay tôi không phải loại con gái như thế nào," tôi cấm cẳn. "Tôi không phải loại con gái ở chung phòng với người khác giới. Hiểu chứ? Vì thế, hoặc anh biến đi, hoặc tôi tống cổ anh ra ngoài. Hoàn toàn do anh chọn. Tôi cho anh ít thời gian suy nghĩ. Nhưng lúc tôi quay lại đây, Jesse, tôi muốn anh không còn ở đây nữa."

Tôi quay lưng lại và bỏ đi.

Tôi phải làm thế. Tôi không hay thua trong các vụ cãi nhau với bọn ma, nhưng có cảm giác lần này tôi sẽ thua, thua tệ hại. Lẽ ra tôi không nên nói năng cộc lốc với anh ta, và cũng không nên thô bạo như vậy. Tôi thực sự không hiểu mình bị làm sao, thật đấy. Tôi chỉ...

Tôi nghĩ chắc là tôi chỉ không hề mong chờ có một con ma đẹp trai đến vậy ở trong phòng tôi, thế thôi.

Chúa ơi, tôi nghĩ, và phóng vù xuống sảnh. Tôi sẽ làm gì đây nếu anh ta không chịu đi? Tôi không thể thay quần áo ngay trong chính căn phòng của mình!

Cho anh ta thêm chút thời gian, tiếng nói vang vọng trong đầu tôi. Đó là giọng nói tôi hết sức dè chừng tránh không nói cho bác sỹ trị liệu của mẹ tôi.

Cho anh ta thêm thời gian. Rồi anh ta sẽ bỏ đi. Chúng lúc nào cũng làm thế.

Hừm, nói chung thì phần lớn là như vậy.

(hết chương 3)

Chương 4

Bữa tối trong gia đình Ackerman cũng giống như bữa tối trong tất cả những ngôi nhà to khác mà tôi từng biết: Mọi người ngay lập tức nói chuyện - tất nhiên chỉ trừ có Ngái Ngủ, kẻ chỉ nói khi được hỏi trực tiếp - và không ai muốn dọn bàn sau khi ăn xong. Tôi đủ tỉnh táo để gọi điện cho Gina, nói rằng cô nàng đã lầm. Tôi chẳng thấy việc có anh em có tí teo lợi ích nào hết: họ há miệng ra mà nhai, và ngốn hết tất cả bánh mỳ tròn Poppin' Fresh trước khi tôi kịp lấy cho mình một chiếc.

Sau bữa tối, tôi thấy tốt nhất là nên tránh xa phòng mình ra và cho Jesse thêm thời gian để quyết định xem nên ra đi cùng với hàm răng còn nguyên vẹn hay là không. Tôi không phải là đứa khoái dùng vũ lực, nhưng công việc của tôi lại đem lại hậu quả tai hại là thế. Lắm khi, cách duy nhất có thể làm cho một người nghe lời là bằng nắm đấm. Tôi biết đấy không phải là thủ pháp được sổ tay chẩn đoán trên giá sách của các vị bác sỹ trị liệu tán thành cho lắm.

Thế nhưng, có ai nói tôi là chuyên gia trị liệu đâu nhỉ.

Điều rắc rối trong dự định là ở chỗ tối đó lại là tối thứ bảy. Sức ép của chuyện chuyển nhà làm tôi quên béng mất ngày hôm đó là thứ mấy. Khi còn ở nhà cũ, tối thứ bảy tôi thường đi chơi với Gina, bắt tàu điện ngầm đến khuVillage chơi và đi xem phim, hay chỉ là loanh quanh ở quán Joe's Pizza ngắm người qua lại. Tôi chưa từng được một tên con trai nào rủ đi chơi, nếu không tính cái lần Daniel Bogue mời tôi trượt cùng với cậu ta khi có bài hát dành riêng cho các đôi tình nhân tại trung tâm trượt băng Rockerfeller Center, vào năm lớp 5.

Rồi sau đó tôi tự làm mình mất mặt khi ngã đập mặt xuống sân trượt.

Tuy nhiên, mẹ tôi thì lại lo lắng cho tôi nên đẩy tôi tham gia vào các vụ tụ tập ở Carmel. Rửa bát đĩa xong, mẹ ngay lập tức như kiểu: "Brad này, tối nay con làm gì? Có tiệc tùng hay gì không? Hay con dẫn Suze đi cùng và giới thiệu nó với vài người nhé."

Ngu Ngơ - lúc đó đang trộn một món giàu protein, hiển nhiên rồi, hai tá tôm to vĩ đại và một đống món sò nướng tiêu thụ trong bữa tối đâu có thấm tháp gì - đáp: "Vâng, thế cũng được, nếu tối nay anh Jake không phải đi làm."

Ngái Ngủ, tỉnh dậy khi nghe tên mình, liếc xuống đồng hồ và nói: "Khỉ thật," với lấy chiếc áo khoác jean và ra khỏi nhà.

Tiến Sỹ nhìn đồng hồ và khụt khịt. "Lại muộn nữa. Nếu không cẩn thận thế nào anh ấy cũng tự đuổi việc mình cho xem."

Ngái Ngủ có việc làm sao? Thông tin này mới đối với tôi đây, thế là tôi hỏi: "Anh ấy làm việc ở đâu ạ?"

"TiệmpizzaPeninsula." Tiến Sỹ đang tiến hành một thử nghiệm kỳ quái với con chó và cái máy đi bộ của mẹ. Con chó - to khủng khiếp, chắc là nó lai giữa giống chó St. Bernard và gấu - ngồi im trên sàn trong khi Tiến Sỹ gắn các điện cực lên chỗ mà nó đã cạo trụi lông trên người con chó. Lạ nhất là có vẻ như mọi người đều không lấy gì làm phiền lòng, kể cả con chó.

"Ngá- à, Jake, làm việc ở một tiệm bánh pizza ấy ạ?"

Dượng Andy đang cọ cái đĩa nướng bánh trong bồn rửa, nói: "Nó giao bánh cho họ. Kiếm được khối tiền boa đấy."

"Anh ấy đang tiết kiệm để mua một chiếc Camaro," Ngu Ngơ nói cho tôi hay, bộ râu kem sữa to tướng dính trên môi trên.

"Hả," tôi nói.

"Các con muốn bố thả cho xuống bất kỳ chỗ nào cũng được. Con vừa bảo gì hả Brad? Muốn chỉ cho Suze đường đến trung tâm mua sắm hả?" Dượng Andy hào phóng nói.

"Không ạ," Ngu Ngơ đáp, lấy ống tay áo quệt lên miệng. "Mọi người vẫn đang nghỉ ở Tahoe. Có lẽ để cuối tuần sau."

Tôi gần như sụm xuống vì nhẹ người. Cái cụm từ trung tâm mua sắm luôn làm cho tôi phát hoảng, nỗi sợ này không liên quan đến những người sống nhăn đâu nhé. Ở New York không có trung tâm mua sắm, nhưng Gina lại thích bắt tàu hoả đến chơi một cái ở New Jersey. Lúc nào cũng thế, khoảng 1 tiếng sau thì các giác quan của tôi đã được phát huy tối đa, và tôi phải ngồi xuống nghỉ trong cái quán Đây Không Phải Là Sữa Chua, làm một hơi trà thảo mộc cho đến khi đỡ mệt.

Và phải nói thật là, tôi không hề khoái cái ý nghĩ có người "thả tôi xuống" đâu đó. Chúa ơi, chuyện gì xảy ra với cái nơi này thế không biết nữa? Tôi có thể thấy ý tưởng về tàu điện ngầm ở đây có thể không hay ho cho lắm, là do lỗi của San Andreas, nhưng chẳng lẽ người ta không thể có nổi hệ thống xe bus cho ra hồn?

"Tôi biết rồi," Ngu Ngơ nói, dận mạnh chiếc cốc rỗng xuống bàn. "Tôi sẽ chơi với cậu vài lượt Coolboarder, Suze ạ."

Tôi chớp mắt nhìn cậu ta: "Cậu sẽ làm cái gì cơ?"

"Chơi Coolboarder với cậu." Thấy tôi vẫn đần ra, Ngu Ngơ tiếp: "Cậu chưa bao giờ nghe nói đến Coolboarder hả? Vậy đi thôi."

Cậu ta dẫn tôi đến chỗ cái TV màn hình lớn trong phòng chung. Hoá ra Coolboarder là tên một trò chơi video. Mỗi người chơi có một tấm ván trượt tuyết, rồi trượt đua xuống các sườn dốc, sử dụng một cái điều khiển bằng tay để điều khiển tốc độ của vận động viên và các loại chuyển động của người đó.

Tôi hạ Ngu Ngơ đến lần thứ 8 thì cậu ta nói: "Thôi, xem phim đi."

Thấy mình có lẽ hơi quá - chắc có lẽ tôi cũng nên để cậu bạn tội nghiệp thắng ít nhất một lần - tôi cố sửa lỗi bằng cách tình nguyện đi lấy bỏng ngô dưới bếp.

Lúc ấy tôi mới thực sự cảm thấy mệt mỏi. Giữa New York và California chênh nhau đến 3 múi giờ, vì thế mà dù mới có 9 giờ nhưng tôi cảm thấy mệt mỏi cứ như thể giờ là nửa đêm rồi vậy. Dượng Andy và mẹ tôi đã đi nghỉ trong căn phòng to hoành tráng, nhưng vẫn để cửa mở, chắc là để bọn tôi không suy nghĩ linh tinh xem họ đang làm gì trong ấy. Dượng Andy đọc một cuốn tiểu thuyết trinh thám, còn mẹ tôi thì đang xem phim truyền hình.

Tôi chắc rằng việc này hoàn toàn vì bọn trẻ con chúng tôi; những tối thứ Bảy khác dám cá là họ đóng cửa, hay ít nhất là đi chơi với bạn bè của dượng Andy hay đồng nghiệp mới của mẹ ở đài truyền hình ở Monterey, nơi mẹ làm việc. Hiển nhiên là họ đang cố thức để khiến bọn tôi cảm thấy yên tâm. Sau những gì dượng và mẹ cố gắng thì cũng nên để họ ngủ một giấc chứ.

Tôi đứng đợi cho ngô rang nở ra, băn khoăn không biết bố tôi sẽ nghĩ gì về tất cả những chuyện này. Bố không thích việc mẹ tái hôn cho lắm, mặc dù như tôi đã nói, dượng Andy là người đàn ông rất tuyệt vời. Bố thậm chí còn ít thích cái việc tôi chuyển đến West Coast này hơn nữa cơ.

Khi tôi nói cho bố biết, bố hỏi: "Làm thế nào mà bố hiện ra cái bùm trước mặt con nếu con sống xa đến cả 3 ngàn dặm?"

"Cái chính ở đây là, bố ạ," tôi nói, "bố không nên bùm một cái xuất hiện trước mặt con. Đúng ra thì bố chết rồi cơ mà, phải không ạ? Lẽ ra bố nên làm việc gì mà người đã chết cần phải làm ấy, chứ đừng theo dõi hai mẹ con con nữa."

Trông bố có vẻ bị tổn thương vì điều đó. "Bố không theo dõi," bố đáp. "Bố chỉ kiểm tra thôi. Để chắc chắn rằng con được hạnh phúc, tất cả chỉ có thế."

"Con có hạnh phúc," tôi an ủi bố. "Con rất hạnh phúc, cả mẹ cũng thế."

Tôi đang nói dối, tất nhiên. Nhưng không phải về mẹ - mà là tôi. Cái viễn cảnh phải chuyển đi khiến cho tôi lo lắng như một con ngốc. Thậm chí đến giờ tôi cũng không rõ mọi việc sẽ suôn sẻ. Việc với Jesse ấy mà. Tôi muốn nói là, bố tôi đang ở đâu chứ? Sao bố không lên nhà cho tên đó một trận? Jesse dù sao cũng là một tên con trai, ở trong phòng của tôi, và các ông bố thường rất ghét những chuyện như vậy...

Nhưng ma thì khác. Chúng chả bao giờ loanh quanh khi bạn thực sự cần chúng. Ngay cả khi đấy là bố bạn đi chăng nữa.

Chắc tôi đã để đầu óc lang thang ít lâu, vì điều tiếp theo tôi biết là cái lò vi sóng báo hiệu. Tôi lấy bỏng ngô và mở túi ra. Đang đổ bỏng vào trong cái bát gỗ to thì mẹ vào bếp và bật cái đèn phía trên đầu lên.

"Chào cưng," mẹ nói. Rồi mẹ nhìn tôi: "Con không sao chứ Suze?"

"Vâng ạ," tôi nói. Tôi cho vài miếng ngô rang vào miệng. "Ngu Ng- à, Brad và con sẽ xem phim."

"Con chắc chứ?" Mẹ vẫn nhìn tôi nghi ngờ. "Con chắc là mình không có vấn đề gì chứ?"

"Vâng, con ổn mà. Con chỉ mệt thôi."

Trông mẹ có vẻ nhẹ nhõm. "Ừ phải.Chắc là con mệt do chênh lệch múi giờ. Nhưng... ừm... chỉ có điều là trông con không vui khi lần đầu tiên con bước vào phòng mình. Mẹ biết cái giường phủ rèm là hơi quá, nhưng mẹ không cưỡng lại được."

Tôi nhai bỏng, hoàn toàn chẳng xa lạ gì với những chuyện kiểu thế. "Cái giường đẹp mà mẹ -cả căn phòng nữa." Tôi nói.

Mẹ tôi thật sự nhẹ nhõm hẳn, tôi cảm thấy thương mẹ. Mẹ là người phụ nữ tốt bụng và không đáng có một đứa con gái là người giao tiếp với hồn ma.

Tôi biết từ trước là mẹ có phần thất vọng về tôi. Khi tôi 14 tuổi, mẹ cho tôi một đường dây điện thoại riêng, nghĩ rằng nếu quá nhiều bạn trai gọi điện cho tôi thì các bạn của mẹ sẽ không gọi được. Bạn có thể tưởng tượng mẹ thất vọng đến thế nào khi chả có ai ngoài Gina gọi cho tôi bằng đường dây riêng, mà chỉ để kể lại các phi vụ hẹn hò của cô nàng. Tôi đã nói rồi, bọn con trai ở khu tôi ở chả bao giờ có hứng mời tôi đi chơi cả.

Người mẹ đáng thương của tôi. Mẹ luôn muốn có một đứa con gái ngoan ngoãn, bình thường. Thế mà thay vào đấy, mẹ lại có tôi.

"Cưng à," mẹ nói. "Con không muốn thay quần áo sao? Con mặc bộ này suốt từ 6 giờ sáng đến giờ đúng không?"

Mẹ hỏi câu này đúng vào lúc Tiến Sỹ đi vào để dán thêm keo lên các điện cực. Chắc tôi sẽ không dám nói thế này đâu: Mẹ à, nói thật nhé, con cũng muốn thay lắm, nhưng con không khoái làm vậy trước mặt hồn ma của một tên cao bồi đang sống trong phòng con đâu.

Thay vào đó, tôi nhún vai và nói như không có gì: "Vâng, lát con sẽ thay."

"Con chắc chắn không cần người dỡ đồ giúp đấy chứ? Mẹ cảm thấy thật tệ. Lẽ ra mẹ -"

"Không, con không cần giúp, lát nữa con sẽ dỡ." Tôi ngó Tiến Sỹ đang lục lọi cái ngăn kéo. "Con đi đây. Con không muốn lỡ mất phần đầu phim." Tôi nói.

Tất nhiên, rốt cuộc thì tôi lỡ mất phần mở đầu của phần giữa, và cả phần kết bộ phim. Tôi lăn ra ngủ trên chiếc tràng kỷ, mãi cho đến khi dượng Andy lay nhẹ vai tôi lúc 11 giờ.

"Lên ngủ đi nhóc," dượng nói. "Dượng nghĩ đã đến lúc thừa nhận là con bị hạ đo ván rồi đấy. Đừng lo, Brad sẽ không nói cho ai biết đâu."

Tôi lảo đảo ngồi dậy, đi lên phòng. Tôi tiến ngay về phía chiếc cửa sổ để ngỏ. Tôi nhẹ cả người vì Jesse không còn chắn lối. Phải. Cuối cùng thì tôi cũng giữ được căn phòng.

Tôi vớ lấy cái túi vải đi vào phòng tắm, tắm một cái và, cực kỳ cảnh giác - tôi đâu biết chắc liệu Jesse có nghe lời và biến đi hay không - thay bộ đồ ngủ. Bước ra khỏi phòng tắm, tôi thấy tỉnh táo hơn chút ít. Tôi nhìn quanh, cảm nhận cơn gió hiu hiu, ngửi mùi biển mằn mặn. Không giống như hồi còn ở Brooklyn, nơi lúc nào tai con người ta cũng bị tra tấn bởi còi hú và báo động ô tô, ở đây thật tĩnh lặng, âm thanh duy nhất là tiếng cú rúc thảng hoặc.

Tôi ngạc nhiên nhận ra rằng mình hoàn toàn chỉ có một mình. Thực sự một mình. Không có con ma nào lảng vảng xung quanh. Đây chính là cái điều tôi hằng mong muốn.

Tôi leo lên giường, vỗ tay để tắt đèn. Rồi tôi cuộn mình thật sâu bên dưới tấm chăn mới cứng.

Ngay trước khi giấc ngủ kéo đến, tôi nghĩ mình nghe thấy cái gì đó ngoài tiếng cú rúc. Nghe như tiếng ai đó hát Ôi Susannah, giờ đây em còn khóc vì tôi nữa không, vì tôi đến từ Alabama với cây đàn banjo.

Nhưng tôi tin chắc rằng mình chỉ tưởng tượng ra vậy thôi.

(hết chương 4)

Bật mí một tẹo: Chương 5 sẽ về ngày đầu tiên đi học ở trường mới (trường Truyền Giáo) của Suze, và... có 2 bất ngờ lớn sẽ xảy đến với cô bé.

Chương 5

Ngôi trường Công giáo Juniperro Serra, dạy từ mẫu giáo đến lớp 12, được chuyển thành trường cho cả học sinh nam và nữ nào những năm 80 và gần đây đã bỏ yêu cầu mặc đồng phục nghiêm ngặt, may phước cho tôi. Đồng phục vốn là màu xanh đậm và trắng, không phải màu tôi thích. Mau mắn thay, kiểu đồng phục ấy đã trở nên quá phổ biến đến nỗi họ bỏ luôn, cũng như việc trường chỉ dành cho nam sinh trước đây, và mặc dù không được mặc quần jeans, học sinh có thể mặc bất cứ thứ gì chúng thích. Và vì muốn xài hết số quần áo thiết kế mua ở vô số các cửa hàng giảm giá ở New Jersey cùng với Gina đóng vai trò nhà tư vấn thời trang, điều này làm tôi rất khoái.

Những thứ liên quan đến đạo Thiên chúa mới thật sự là vấn đề. Không hẳn đến mức là một điều phiền phức. Mẹ tôi chưa bao giờ tốn công ép tôi theo bất kỳ tôn giáo nào. Bố tôi là tín đồ Do thái không tích cực, mẹ tôi theo đạo Cơ đốc. Tôn giáo chưa bao giờ quan trọng đối với bố mẹ tôi, và chẳng cần phải nói, nó chỉ làm tôi rối trí mà thôi. Bạn hẳn phải cho tôi là đứa hiểu thấu về tôn giáo hơn ai hết, nhưng thực ra, tôi chẳng biết tí ti gì về chuyện xảy ra với những con ma mình tống khứ đi đâu đó sau khi chết. Tất cả những gì tôi biết, khi tống chúng đi rồi, là chúng không quay về nữa. Không bao giờ. Chấm hết.

Vì thế khi mẹ và tôi đến phòng hành chính của Trường Truyền Giáo vào ngày thứ Hai sau khi chuyển đến California đầy nắng, tôi hơi lùi lại khi đối diện với tượng chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá cao 1m80, phía sau bàn làm việc.

Lẽ ra tôi không nên ngạc nhiên đến thế. Mẹ tôi đã chỉ cho tôi ngôi trường ấy từ phòng tôi khi giúp tôi dỡ đồ vào buổi sáng Chủ Nhật. "Con thấy mái vòm kia không? Trường Truyền Giáo đấy. Cái mái vòm ấy che phía trên nhà nguyện." Mẹ nói.

Tiến Sỹ cứ quanh quẩn khắp nơi - tôi thấy lúc nào thằng nhóc chả vậy - và chúi mũi vào một trong những tài liệu của nó, lần này là về những thầy tu dòng thánh Francis, thành viên của hội Thiên Chúa giáo La mã tuân theo lời răn của thánh Francis chuẩn y năm 1209. Theo như Tiến Sỹ thì Cha Junipero Serra, một thầy tu Francis, là một nhân vật lịch sử bị nhìn nhận một cách hoàn toàn sai lầm. Là một người có công lớn đối với nhà thờ Công giáo nhưng gây tranh cãi, một thời ông từng được coi như thánh sống, nhưng như Tiến Sỹ nói, thổ dân Mỹ đã coi chuyện ông chuyển đến như là "sự công khai ủng hộ chính sách khai thác thuộc địa của người Tây Ban Nha. Cho dù Junipero Serra được biết đến là người đã đấu tranh cho quyền sở hữu đất đai và tự do trong kinh tế của những người bản xứ cải đạo, ông ta hoàn toàn ủng hộ việc không cho họ có quyền tự trị, là kẻ trung thành với những kiểu hình phạt tra tấn về thể xác, đã xin chính quyền Tây Ban Nha cho cái quyền được tra tấn những người da đỏ."

Khi Tiến Sỹ kết thúc bài giảng, tôi chỉ nhìn nó và nói: "Em có trí nhớ thiên về hình ảnh đấy nhỉ?" Thằng nhóc chẳng hiểu tôi nói gì cả.

"À," nó nói, "biết về lịch sử nơi mình đang sống cũng tốt."

Tôi nhớ chuyện này để tham khảo về sau. Có thể tôi sẽ cần đến Tiến Sỹ trong trường hợp Jesse lại hiện ra lần nữa.

Giờ đây, khi đứng trong văn phòng mát lạnh của toà nhà cổ mà Junipero Serra đã cho xây dựng để cải thiện dân bản xứ trong vùng, tôi băn khoăn tự hỏi rồi mình sẽ gặp bao nhiêu hồn ma. Cái người tên Serra này hẳn đã gây thù chuốc oán với kha khá thổ dân ở đây - đặc biệt là với thứ gọi là những kiểu hình phạt tra tấn về thể xác - và tôi không nghi ngờ gì chuyện mình rồi sẽ phải gặp tất cả bọn họ.

Rồi khi mẹ và tôi đi trên hành lang rộng dẫn ra cái sân trong của Trường, tôi chỉ toàn gặp những người dân vùng này. Có vài du khách đang chụp ảnh cái thác nước ấn tượng, một người làm vườn cắm cúi quanh gốc một cây cọ - thậm chí ở ngôi trường mới của tôi cũng có cọ cơ đấy - một vị linh mục trầm tư dạo bước trên lối đi có mái che giữa hai toà nhà. Nơi này thật xinh đẹp và bình yên - nhất là đối với một toà nhà cổ kính đã từng phải chứng kiến quá nhiều cái chết như thế.

Tôi không thể nào hiểu nổi. Những con ma biến đi đâu hết rồi?

Cũng có thể chúng sợ phải loanh quanh ở nơi này. Tôi cũng thấy hơi rợn khi nhìn lên cây thánh giá đó. Tôi muốn nói là, tôi chả có ý gì chống lại tôn giáo hết, nhưng có cần thiết phải dựng cả một cái thánh giá với những vết thương và gì gì nữa trông như thật như thế không nhỉ?

Hiển nhiên tôi không phải là đứa duy nhất có ý nghĩ đó, có một tên con trai đang ngồi thùm thụp trong chiếc tràng kỷ gần cái mà người ta bảo mẹ và tôi ngồi chờ, nó liếc theo hướng tôi nhìn và nói: "Người sẽ nhỏ những giọt huyết lệ nếu người con gái nào tốt nghiệp ra trường vẫn còn là một thiếu nữ đồng trinh."

Tôi không thể không bật ra tiếng cười khan. Mẹ liếc tôi một cái. Nhân viên văn thư, một người phụ nữ trung niên có dáng người đầy đặn, trông như thể có điều gì đó xúc phạm đến bà ghê gớm, đảo tròn con mắt, mệt mỏi nói: "Ôi, lại Adam."

Adam, tên con trai tầm tuổi tôi trông khá ổn, nhìn tôi với vẻ hoàn toàn nghiêm túc. "Thật đấy," cậu ta nói. "Chuyện xảy ra vào năm trước. Với chị gái mình." Cậu ta hạ giọng một cách đầy ẩn ý. "Chị ấy đã được chọn."

Tôi lại cười, và mẹ cau mày nhìn tôi. Mẹ đã bỏ ra gần hết ngày hôm qua giải thích cho tôi hiểu rằng thật sự rất, rất khó để thuyết phục trường nhận tôi vào học, nhất là khi mẹ chả đưa ra được bằng chứng nào chứng tỏ tôi đã được làm lễ rửa tội cả. Rốt cuộc thì họ nhận tôi chỉ vì dượng Andy có 3 đứa con trai cũng học ở đây. Tôi tưởng tượng ra một khoản hiến tặng khá lớn cũng góp phần trong việc tôi được nhận, nhưng mẹ không nói cho tôi về điều đó. Tât cả những gì mẹ nói là tôi phải cư xử cho đúng đắn, đừng có quăng quật bất cứ thứ gì ra ngoài cửa sổ - dù tôi nhắc cho mẹ nhớ là vụ đó không phải do lỗi của tôi. Tôi đã oánh nhau với một con ma mới hung bạo, con ma dám không nghe lời, không chịu từ bỏ vụ ám tủ để đồ của bọn con gái ở trường cũ của tôi. Cái vụ ném con ma đó qua cửa sổ tất nhiên đã làm hắn phải nghe lời, buộc hắn sau này phải biết đường mà cư xử cho đàng hoàng tử tế.

Dĩ nhiên tôi đã nói với mẹ là tôi đang tập oánh tennis trong nhà và cái vợt bay khỏi tay tôi - một câu chuyện bốc phét đặc biệt không thể tin được, vì chưa ai tìm thấy cái vợt tennis của tôi hết.

Khi tôi đang ôn lại kỷ niệm đau thương ấy thì cánh cửa gỗ nặng nề mở ra, một vị linh mục bước ra và nói: "Chào chị Ackerman, hân hạnh được gặp lại chị. Đây chắc hẳn là cháu Susannah Simon. Mời vào." Ông dẫn chúng tôi vào văn phòng, ngừng lại và nói với tên con trai đang ngồi trên tràng kỷ: "Ôi, không, trò McTavish. Không phải vào ngày đầu tiên của học kỳ mới thế này chứ."

Adam nhún vai. "Biết làm thế nào được ạ? Mụ ấy ghét con."

"Cẩn thận, đừng có gọi sơ Ernestine là mụ, cậu McTavish. Lát nữa ta sẽ nói chuyện với trò, sau khi xong việc với 2 quý cô đây."

Chúng tôi bước vào, và thầy hiệu trưởng, Cha Dominic - đấy là tên ông ấy - ngồi xuống chuyện trò với chúng tôi một lát, hỏi xem tôi có thích California không. Tôi nói có thích, đặc biệt là biển. Gia đình tôi đã dành gần hết ngày trên bãi biển sau khi tôi dỡ đồ xong. Tôi đã tìm thấy cặp kính râm, và dù nước lạnh không bơi được, tôi đã có một thời gian tuyệt vời chỉ nằm ườn trên bãi cát ngắm sóng biển. Sóng còn to hơn cả trong phim Baywatch, và ông Tiến Sỹ suốt cả chiều giải thích cho tôi chuyện đó. Giờ tôi quên béng rồi, vì ánh mặt trời làm cho tôi mê mẩn và tôi hầu như chẳng nghe gì hết. Tôi bắt đầu yêu biển, yêu hương vị biển, những lớp tảo trên mép nước, cảm nhận bờ cát mát lạnh lùa qua ngón chân, vị mặn của muối còn vương trên da khi tôi trở về nhà. Ở Carmel có lẽ không có quán Bagel Bob nào hết, nhưng chắc chắn là cũng đâu có bãi biển nào ở Manhattan chứ.

Cha Dominic thực thà bảy tỏ rằng ông hi vọng tôi sẽ vui khi học ở Trường Truyền Giáo, và tiếp tục nói rằng cho dù tôi không theo đạo Thiên chúa, tôi cũng không nên cảm thấy mình không được phép đến lễ Mass. Dĩ nhiên, có những Ngày Lễ Thánh Bắt Buộc(*), ngày mà những học sinh theo đạo Thiên chúa tạm gác bài học qua một bên và đến nhà thờ. Tôi có thể tham gia cùng, hoặc ở lại lớp học không một bóng người, tuỳ tôi chọn.

Tôi nghĩ điều này thật buồn cười, nhưng tôi cố gắng kìm giữ lại. Cha Dominic đã có tuổi nhưng còn nhanh nhẹn, và tôi thấy ông cũng khá dễ coi trong bộ áo chùng cổ đen trắng - phải nói là ông đẹp so với cái tuổi 60. Tóc ông đã bạc trắng, đôi mắt xanh biếc, móng tay gọn gàng. Tôi không biết nhiều linh mục lắm, nhưng tôi nghĩ người này có lẽ cũng không đến nỗi nào, đặc biệt là khi ông không xử nặng tay tên con trai ngồi ngoài kia, kẻ đã dám gọi một bà xơ là mụ ta.

Sau khi Cha Dominic nói tôi nghe những trường hợp có thể bị đuổi học - bỏ học quá nhiều, buôn bán ma tuý trong trường, chuyện như cơm bữa - ông hỏi tôi có gì chưa rõ nữa không, tôi nói không. Ông bèn hỏi mẹ tôi còn gì cần hỏi nữa không, mẹ cũng không. Thế là ông đứng lên và nói: "Vậy thì tốt rồi. Tôi xin tạm biệt chị, chị Ackerman, và xin dẫn cháu Susannah vào lớp. Được chứ, Susannah?"

Tôi nghĩ việc một ông hiệu trưởng, mà hẳn phải có khối việc phải làm, tốn thời gian dẫn tôi vào lớp thì có vẻ khá kì quặc, nhưng tôi không nói gì hết. Tôi chỉ lấy áo khoác - cái áo len Esprit kiểu quân đội màu đen, hàng độc (mẹ sẽ không cho tôi mặc đồ da vào ngày đầu tiên đi học) - đứng chờ trong khi mẹ bắt tay ông ấy. Mẹ hôn tạm biệt tôi, nhắc tôi tìm Ngái Ngủ lúc 3 giờ vì anh ta có nhiệm vụ lái xe đưa tôi về - chỉ có mẹ không gọi anh ta là Ngái Ngủ. Một lần nữa cái việc thiếu nghiêm trọng phương tiện giao thông công cộng lại làm cho tôi phải lê xác đến trường và về nhà cùng mấy anh em con dượng.

Rồi mẹ ra về, và Cha Dominic cùng tôi băng qua sân, sau khi bảo Adam ngồi chờ ông.

"Không vấn đề, thưa cha," Adam đáp. Cậu ta liếc tôi sau lưng Cha. Chẳng có mấy tên con trai cùng tuổi thèm liếc đến tôi. Hi vọng cậu ta học cùng lớp tôi. Cuối cùng thì mong ước của mẹ rằng tôi sẽ hoà nhập hơn với cuộc sống xung quanh cũng có cơ trở thành hiện thực.

Trong khi đi, Cha Dominic nói cho tôi biết chút ít về toà nhà này - hay những toà nhà này, như thế mới đúng. Một dãy những khối nhà có tường dày xây bằng gạch nung nối với nhau bằng lối đi có mái thấp, giữa những toà nhà ấy là một cái sân rất đẹp trồng đầy cọ, có vòi phun nước và một bức tượng Cha Serra bằng đồng cùng với những phụ nữ da đỏ với những chiếc túi địu con đằng sau lưng, quỳ dưới chân ông ta. Phía bên kia lối đi là những chiếc ghế đá cho khách nghỉ chân khi ngắm khung cảnh tĩnh lặng đẹp tuyệt vời quanh sân; cửa ra vào của các lớp học và các hộc tủ để đồ bằng thép được ốp ngay vào tường gạch. Cha Dominic nói một trong những ngăn tủ ấy giờ là của tôi, ông cũng chỉ cho tôi ngăn tủ của chính ông. Liệu tôi có muốn cất áo khoác đi không nhỉ?

Tôi đã rất ngạc nhiên khi thức dậy vào buổi sáng Chủ Nhật run rẩy toàn thân vì lạnh. Tôi tung chăn ra và đóng sầm cửa sổ lại, chán ngán nhìn màn sương bao phủ khắp thung lũng, toàn bộ khung cảnh mở ra vịnh đều trở nên tối tăm. Tôi chắc rằng cơn bão nhiệt đới khủng khiếp nào đó đã đổ bộ vào, nhưng Tiến Sỹ khẽ khàng giải thích rằng sương mù vào sáng sớm là chuyện thường ngày ở vùng Tây Bắc này, và rằng vùng Pacifico - tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là thờ ơ - quá nổi tiếng bởi ở đây chẳng có mấy bão bùng. Tiến Sỹ trấn an tôi rằng đến trưa sương sẽ tan hết, rồi sau đó trời lại nóng như mấy ngày trước thôi.

Thằng nhóc nói đúng. Lúc tôi từ biển về nhà, rám nắng và vui vẻ, phòng tôi lại nóng như lò thiêu vậy, và tôi lại mở tung những cánh cửa sổ - thấy rằng lúc tỉnh dậy vào buổi sáng thì nó đã được đóng lại rồi, tôi cứ nghĩ người mẹ thân yêu của mình đã lo lắng cho mình.

Ít nhất, tôi cũng hi vọng mẹ tôi đã làm vậy. Giờ nghĩ lại... nhưng không, tôi không gặp lại Jesse sau ngày chuyển đến đây. Chắc chắn là mẹ tôi đã đóng chúng lại.

Dù sao đi nữa, khi bước ra ngoài, trèo lên xe của mẹ tôi lại thấy lạnh, vì thế mới phải mặc chiếc áo khoác len ấy.

Cha Dominic bảo ngăn tủ của tôi là ngăn số 273, và Cha hài lòng nhìn tôi tự xem xét nó, thong dong phía sau tôi, vui vẻ ngắm nhìn những thanh xà của lối đi, nơi có những gia đình chim én làm tổ hàng năm. Ông có vẻ khá thích các loài chim - thật ra là thích nhất trong số các loài động vật, vì có một câu ông ấy hỏi tôi là làm thế nào mà tôi quen được với Max, con chó của nhà Ackerman - không giấu diếm vẻ chế nhạo khi dượng Andy cứ lặp đi lặp lại rằng những khúc gỗ trên lối đi sẽ phải đem thay, nhờ vào công đức của bọn chim én và chất thải của chúng.

268, 269, 270. Tôi đi dọc hành lang rộng mở, đọc những con số trên những cánh cửa tủ màu be. Khác với những ngăn tủ trường tôi khi còn ở Brooklyn, tủ để đồ ở đây không hề bị vẽ bậy, không lõm hay bị dính đầy những sticker của các ban nhạc rock. Tôi đoán chắc học sinh ở West Coast tự hào về bộ mặt của trường chúng hơn bất kỳ đứa học sinh Mỹ nào.

271, 272. Tôi đứng khựng lại.

Trước ngăn tủ 273 đứng chình ình một con ma.

Không phải Jesse. Đó là một đứa con gái, ăn mặc rất giống tôi, chỉ khác là tóc vàng óng chứ không nâu như tóc tôi. Trên mặt cô ta hiện hữu một cái nhìn cực kỳ khó chịu.

"Cô," cô ta nói với tôi, "nhìn cái gì?" Rồi, cô ta hỏi ai đó đứng phía sau tôi: "Đây là đứa người ta thế vào chỗ tôi chứ gì? Biết ngay mà."

Được rồi, thú nhận nhé. Tôi phát hoảng lên. Quay lại phía sau, tôi há hốc miệng nhìn Cha Dominic đang liếc nhìn đầy dò hỏi.

"À," ông nói khi nhìn vào bộ mặt tôi, "ta chắc vậy."

(hết chương 5)

Chương 6

Tôi cứ thế đảo qua đảo lại, hết nhìn Cha Dominic đến con ma. Cuối cùng tôi đành mở miệng: "Cha có thể nhìn thấy cô ta sao?"

Ông gật đầu. "Đúng vậy. Ta đã nghi ngờ từ khi nghe mẹ con kể về con - và cả... những rắc rối của con ở trường cũ - rằng con có thể là một người trong số chúng ta, Susannah ạ. Nhưng ta chưa dám chắc, nên tất nhiên là không nói gì hết. Cái tên Simon, ta chắc con có biết, là một từ tiếng Do thái, nghĩa là "người biết lắng nghe", là một người giao tiếp với người chết thì dĩ nhiên con có phẩm chất đó..."

Tôi hầu như chẳng nghe gì cả. Tôi không thể chấp nhận cái thực tế là rốt cuộc, sau ngần ấy năm, tôi cũng gặp được một người khác nữa cũng có khả năng nói chuyện với người chết.

"Thì ra chính vì thế mà không có hồn ma của một người thổ dân nào lảng vảng quanh đây hết?" Tôi gào lên. "Chính Cha đã trông nom bọn họ. Giời, thế mà con đã thắc mắc họ biến đâu rồi. Con tưởng phải thấy hàng trăm ấy chứ -"

Cha Dominic nhã nhặn gật đầu và nói: "À, cũng không hẳn là hàng trăm, nhưng khi ta mới đến đây thì cũng có một số. Nhưng đâu có gì, thật đấy. Ta chỉ đang thực hiện nghĩa vụ của mình, tận dụng khả năng kỳ diệu mà Chúa đã ban cho ta, thế thôi."

Tôi nhăn mặt. "Có phải đấy là người chịu trách nhiệm cho việc này không ạ?"

"Nhưng tất nhiên chúng ta chính là một món quà của Chúa." Cha Dominic liếc xuống tôi với cái kiểu đáng tiếc là món quà ấy được ban cho những chúng ta, những kẻ tội nghiệp, những sinh vật yếu đuối với những nghi kị. "Thế con nghĩ món quà ấy còn xuất phát từ đâu được nữa?"

"Con chả biết. Con luôn nghĩ mình muốn có đôi lời với cái kẻ nào phải chịu trách nhiệm cho nó, cha biết đấy. Bởi vì, nếu được lựa chọn, con chẳng thà mình đừng được ban cái món quà ấy còn hơn."

Cha Dominic kinh ngạc. "Nhưng tại sao lại không hả Susannah?"

"Nó chỉ toàn dẫn con chui đầu vào rắc rối thôi. Cha có biết là con đã phải ngồi trong phòng bác sỹ tâm lý mất bao nhiêu tiếng đồng hồ không? Mẹ con còn tin con là một đứa tâm thần phân liệt nữa kìa."

"Phải." Cha Dominic gật gù vẻ trầm ngâm. "Phải. Ta có thể hiểu món quà kỳ diệu là những người như chúng ta đây có thể bị người thường coi là - hừm, lạ lùng."

"Lạ lùng ấy ạ? Cha có đùa không đấy?"

"Chắc là ở Trường Truyền Giáo này ta được an toàn hơn," Cha Dominic thừa nhận. "Ta chưa bao giờ gặp phải những chuyện cực kỳ khó khăn như những người ở... ờ... ngoài chiến tuyến như con, không được sự giúp đỡ của giáo hội - "

"Những người như con?" Tôi nhướn mày. "Ý Cha là không chỉ có mỗi mình Cha và con ấy ạ?"

Trông Cha có vẻ ngạc nhiên. "Ờ, ta chỉ nghĩ là... chắc vậy. Chúng ta không phải là những người duy nhất có khả năng. Không, không, chắc chắn còn có những người khác nữa chứ."

"Xin lỗi." Con ma nhìn chúng tôi một cách hết sức chế nhạo. "Nhưng ông có thể nói cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra ở đây không hả? Con quỷ cái này là ai? Có phải nó sẽ thay vào chỗ của tôi không đấy?"

"Này! Ăn nói cho tử tế." Tôi khinh bỉ lườm cô ta. "Đây là một linh mục, cô biết đấy."

Cô ta chế nhạo tôi. "Xì, tôi biết ông ta là linh mục. Suốt tuần nay ông ta chỉ kiếm cớ tống cổ tôi đi."

Tôi nhìn Cha Dominic ngạc nhiên, và ông bối rối nói: "À, con thấy đấy, Heather hơi khó bảo - "

"Nếu ông nghĩ," Heather nói giọng khinh khỉnh, "rằng tôi sẽ chỉ đứng đó mà nhìn ông chuyển ngăn tủ của tôi cho con khốn này -"

"Cứ thử gọi tôi là con khốn lần nữa xem," tôi nói, "rồi tôi sẽ cho cô dành cả phần còn lại của vĩnh hằng ngay trong ngăn tủ của chính cô đấy."

Heather nhìn tôi không chút dấu hiệu nào của sợ hãi. "Con khốn," cô ta nói, kéo dài giọng.

Tôi đánh cô ta nhanh đến nỗi cô ta không kịp thấy cú đấm của tôi. Tôi đánh mạnh, thật mạnh cho cô ta choáng váng đập người vào hàng tủ, để lại một vết lõm dài mang dáng người. Cô ta ngã mạnh xuống sàn đá, nhưng một giây sau đứng ngay dậy. Tôi tưởng cô ta sẽ đánh lại tôi, nhưng thay vào đó, Heather đứng dậy và với một tiếng rên rỉ, hết sức bình sinh chuồn thẳng theo hành lang.

"Hừ," tôi nói, cho mình nghe là chính, "đúng là đồ gà(*)."

Tất nhiên cô ta sẽ trở lại. Tôi mới chỉ làm cô ta hoảng thôi. Rồi cô ta sẽ quay lại. Nhưng lần sau tôi mà còn gặp lại cô ta, mong rằng cô ta sẽ biết lễ độ hơn tí chút.

***

Chú thích nhỏ tí xíu:

Ở đây, nguyên bản là: "Huh," I said, mostly to myself. "Chicken."

"Chicken" là tiếng lóng, chỉ kẻ hèn nhát, nhưng nếu để: "Đồ hèn." thì không hay lắm, nên mình dịch là "gà", theo mình như thế hợp hơn, và... đúng bản chất của Suze hơn, hì.

Heather biến rồi, tôi thổi nhẹ những đốt ngón tay. Bọn ma có hàm toàn xương với xẩu.

"Sao," tôi nói, "Cha đang nói gì thế ạ?"

Cha Dominic vẫn nhìn chằm chằm vào cái chỗ mà Heather đã đứng, nhận xét hơi khô khan đối với một vị linh mục: "Ngày nay người ta dạy những phương pháp để giao tiếp với ma thật thú vị làm sao."

"Thưa Cha," tôi nói. "Không có ai gọi con như thế mà ra đi dễ dàng đâu. Con chả cần biết trước kia anh ta đã phải sống khổ sở thế nào, hay là cô ta đi nữa."

"Ta nghĩ là," Cha Dominic trầm ngâm nói, "có vài điều chúng ta cần trao đổi, giữa ta và con."

Rồi ông đặt một ngón tay lên môi. Cánh cửa bên cạnh chúng tôi mở ra, và một người đàn ông râu ria xồm xoàm xuất hiện, nhìn theo phía hành lang, hẳn là nghe thấy tiếng động của cái phần hồn của Heather đập vào dãy tủ để đồ - thật buồn cười là người chết có thể nặng đến thế.

"Mọi việc ổn chứ, Dom?" ông ta hỏi khi nhìn thấy Cha Dominic.

"Ổn cả, Carl ạ." Cha Dominic đáp. "Ổn cả. Và xem tôi mang đến cho thầy điều gì này." Cha Dominic đặt bàn tay lên vai tôi. "Học sinh mới của thầy, Susannah Simon. Susannah, đây là thầy chủ nhiệm của con, Carl Walden."

Tôi rút bàn tay vừa đấm Heather bay hồn ra. "Em chào thầy, thầy Walden."

"Chào em, Simon." Tay tôi lọt thỏm trong bàn tay vĩ đại của thầy Walden. Tôi trông ông không giống một giáo viên cho lắm, giống một tiều phu thì đúng hơn. Trên thực tế, thầy ấy đã phải ép sát người vào tường để lấy lối đi cho tôi vào lớp. "Thầy rất vui được chào đón em," thầy nói bằng giọng âm vang. "Cảm ơn Dom đã dẫn cô bé đến đây."

"Có gì đâu," Cha Dominic nói. "Chúng tôi chỉ có vấn đề nhỏ xíu với cái tủ đồ của cô bé thôi mà. Có lẽ thầy đã nghe thấy rồi, hi vọng thầy không phiền. Tôi sẽ cho người trông coi nó. Giờ, Susannah, ta chờ con ở phòng làm việc lúc 3 giờ để... ờ... hoàn tất các thủ tục giấy tờ."

Tôi mỉm cười thân thiện. "Ôi không được đâu ạ. Anh con sẽ đến đón lúc 3 giờ."

Cha Dominic cau mày. "Thế thì ta sẽ gửi cho con vậy. Khoảng 2 giờ."

"Vâng," tôi nói, vẫy những ngón tay về phía ông. "Tạm biệt."

Tôi chắc là ở West Coast này chả ai lại nói tạm biệt hay vẫy tay với hiệu trưởng cả, bởi vì lúc tôi quay lại phía đám bạn mới cùng lớp, tất tần tật chúng đều nhìn tôi miệng há hốc.

Chắc là tại bộ quần áo. Tôi lo lắng nên đã mặc nhiều màu đen hơn bình thường một tẹo. Tôi luôn nói, khi nào không chắc chắn, cứ mặc màu đen. Chẳng bao giờ gặp rắc rối khi mặc màu đen hết.

Hay là có nhỉ. Bởi vì lúc tôi lướt qua những gương mặt há hốc, tôi chả thấy một mảnh vải đen nào hết. Rất nhiều màu trắng, vài màu nâu, cả đống đồ kaki, nhưng chả có tí màu đen nào.

Ối.

Thầy Walden có vẻ không nhận thấy sự lúng túng của tôi. Thầy giới thiệu tôi với cả lớp, và bảo tôi kể về nơi trước đây tôi ở. Tôi nói, và tất thảy bọn bạn đều nhìn tôi vô cảm. Tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi rịn ra phía sau gáy. Phải nói thật với bạn là đôi khi tôi khoái cái bè lũ âm phủ hơn là một đống bạn bè đồng trang lứa. Những đứa 16 tuổi có thể cực kỳ đáng sợ.

Nhưng thầy Walden thật tốt bụng. Thầy chỉ bắt tôi đứng đó khoảng 1 phút trước tất cả những cái nhìn chằm chằm, rồi thầy bảo tôi ngồi.

Điều này nghe có vẻ dễ, đúng không? Chỉ việc đi đến chỗ và ngồi xuống thôi mà. Nhưng bạn biết không, có tận 2 chỗ trống. Một chỗ ở cạnh đứa con gái rất xinh xắn có làn da rám nắng, mái tóc xoăn màu vàng mật ong. Chỗ kia là ở phía sau, sau đứa con gái có mái tóc cực trắng và làn da cực hồng, chắc chắn là một đứa bị bệnh bạch tạng.

Không đùa tí nào hết. Một đứa bạch tạng.

Có 2 điều ảnh hưởng đến quyết định của tôi. Một là khi nhìn thấy cái chỗ phía sau, tôi cũng trông thấy ngay sau chỗ ngồi ấy là cửa sổ nhìn ra bãi đỗ xe của trường.

Mà thôi, có thể bạn cho rằng cảnh ấy chẳng thú vị lắm, nhưng phía xa xa ở bãi đỗ xe là biển.

Không đùa đâu. Ngôi trường này, ngôi trường mới của tôi, có cảnh biển Thái Bình Dương thậm chí còn đẹp hơn cả cảnh nhìn từ phòng riêng của tôi, bởi vì trường ở gần bãi biển hơn nhiều. Từ cửa sổ phòng học thậm chí có thể thấy cả những con sóng cơ đấy. Tôi muốn ngồi càng gần cửa sổ càng tốt.

Lý do thứ 2 tôi ngồi đấy thật đơn giản: Tôi không muốn ngồi cạnh đứa con gái da ngăm ngăm kia để cho đứa con gái bạch tạng ấy không nghĩ là tôi không thích ngồi cạnh một đứa trông kỳ quái như nó. Thật ngớ ngẩn đúng không? Cứ làm như là nó quan tâm đến điều tôi nghĩ lắm ấy. Nhưng tôi chẳng suy nghĩ lâu la. Tôi trông thấy biển, tôi trông thấy đứa bạch tạng, và cứ thế đến ngồi.

Khi ngồi xuống, một đứa con gái ngồi cách tôi mấy chỗ cười khí khí và nói, dù chỉ thầm thì nhưng nghe rất rõ: "Trời, ngồi cạnh đứa quái đản, sao lại không chứ?"

Tôi nhìn nó. Nó có mái tóc quăn cực đẹp và đôi mắt trang điểm cũng hoàn hảo. Tôi nói, chẳng thèm thầm thì gì hết: "Xin lỗi, cậu có bị Tourette không?"

Thầy Walden quay lưng viết gì đó trên bảng, nhưng nghe tiếng tôi nên dừng lại. Mọi người xung quanh đều nhìn tôi, kể cả đứa con gái vừa nói. Nó giật mình chớp mắt nhìn tôi: "Cái gì?"

"Hội chứng Tourette ấy mà," tôi đáp. "Đấy là một chứng rối loạn thần kinh làm cho người ta nói ra những điều họ không thực sự cố ý. Cậu có mắc chứng đó không vậy?"

Mặt đứa con gái từ từ chuyển sang đỏ: "Không."

"Ồ, thế thì cậu cố tình nói năng hơi bị bất nhã rồi đấy." Tôi nói.

"Tôi đâu có bảo cậu là kẻ quái đản ," đứa con gái nói nhanh.

"Tôi biết, chính vì thế tôi sẽ chỉ bẻ gãy đúng một ngón tay cậu sau giờ học mà thôi, thay vì bẻ tất." Tôi đáp.

Nó quay lại thật nhanh để đối diện với cả lớp. Tôi ngồi lại vào chỗ. Tôi không biết mọi người bắt đầu bàn tán gì sau đó, nhưng thấy lớp da trên đầu đứa con gái bạch tạng - vốn trông rõ mồn một phía dưới mái tóc trắng toát - chuyển sang màu đỏ vì bối rối. Thầy Walden phải yêu cầu cả lớp trật tự, và khi học trò cứ lờ thầy đi, thầy bèn dộng nắm tay xuống bàn và nói với chúng tôi rằng nếu có lắm chuyện muốn bàn đến thế thì có thể bàn trong bài luận 1000 từ về trận đánh ở Bladensburg trong cuộc chiến năm 1812 ấy, hai mặt giấy, nộp lên bàn cho thầy vào sáng hôm sau.

Ờ, thật tốt là tôi đến trường không phải để kết bạn.

(hết chương 6)

Chương 7

Mà tôi đã làm việc đó rồi. Kết bạn ấy mà.

Tôi chẳng thèm cố gắng, thậm chí còn chẳng muốn tí nào hết. Tôi muốn nói là, tôi đã có đủ bạn bè ở Brooklyn rồi. Tôi có Gina, người bạn tốt nhất mà một người có thể có. Tôi chẳng cần thêm người bạn nào khác nữa.

Và thực sự tôi không cho rằng mọi người ở đây rồi sẽ mến tôi - sau khi bị bắt viết một bài luận 1000 từ vì cái chuyện xảy ra khi tôi vừa mới ngồi xuống như thế. Nhất là sau chuyện khác nữa xảy ra khi chúng tôi được thông báo là đến tiết thứ hai rồi - ở Trường Truyền Giáo không có hệ thống chuông báo giờ học, cứ mỗi 1 tiếng chúng tôi lại đổi lớp học, và có 5 phút để đến lớp khác. Khi thầy Walden vừa cho tan lớp, đứa con gái bạch tạng quay người lại và nói, đôi mắt màu tía ánh lên giận giữ phía sau cặp kính đổi màu: "Chắc tôi phải biết ơn cậu hay gì đó vì những gì cậu đã nói với Debbie đấy nhỉ?"

"Cậu," tôi đứng dậy, nói, "chẳng cần phải thế nào cả."

Cô ta cũng đứng dậy. "Nhưng chẳng phải cậu đã làm thế vì cái lý do này hay sao? Bênh vực một đứa bạch tạng? Vì cậu thấy thương hại tôi chứ gì?"

"Tôi làm thế," tôi nói, vắt chiếc áo khoác qua cánh tay, "bởi vì Debbie là một con quái vật."

Tôi thấy khoé môi đứa con gái giật giật. Debbie quơ hết sách vở và chuồn ra khỏi lớp gần như ngay khi thầy Walden cho lớp giải tán. Cùng với cả lố con gái, kể cả đứa da ngăm ngăm xinh xắn ngồi cạnh cái ghế trống, nó thì thào và lườm tôi khinh bỉ qua những cái vai mặc áo len Ralph Lauren.

Dám nói là đứa con gái bạch tạng muốn bật cười khi tôi gọi Debbie là con quái vật, nhưng lại không cười. Cô ta dữ dằn nói: "Tôi tự thân vận động trong cuộc đấu tranh của mình được rồi. Tôi không cần cậu giúp, New York ạ."

Tôi nhún vai. "Tốt thôi, Carmel." Cô ta không thể không mỉm cười. Khi cười, cô ta để lộ hàm răng niềng lấp lánh như mặt biển ngoài kia.

"Cee Cee," cô ta nói.

"Cee Cee là gì?"

"Tên mình. Mình là Cee Cee." Cô nàng rút bàn tay trắng muốt ra, móng tay sơn màu cam rực rỡ. "Chào mừng đến Trường Truyền Giáo."

"Có thật là..." một đứa con gái mặt giống mặt ngựa khao khát hỏi, "nó... nó..." Cô ta suy nghĩ lung lắm khi tìm từ để hỏi. "Nó... xứng danh như người ta đồn không?"

Có lẽ chẳng cần nói thêm, những đứa con gái ấy không phải là những đứa đẹp xinh cho lắm trong lớp. Tôi thấy ngay lập tức nếu xét theo tiêu chuẩn của đứa da ngăm và đứa tôi doạ bẻ gãy hết ngón tay sau giờ học, cái bọn sành điệu với áo len và váy kaki. Ôi, không hề. Những đứa con gái theo gót tôi là một tập hợp nhốn nháo, đứa thì mặt mụn, đứa thì béo quá, đứa lại gầy nhom. Tôi còn hết hồn khi thấy một đứa đi giày hở mũi cùng với tất chân dày. Tất màu be, còn giày màu trắng. Vào tháng Giêng!

Tôi có thể thấy là mình sắp gặp vấn đề khó khăn rồi đây.

Cee Cee có vẻ như là thủ lĩnh. Là chủ bút tờ báo của trường, tờ Tin Tức Trường Truyền Giáo mà cô nàng gọi là "giống mục bình luận văn học hơn là một tờ báo thực sự", Cee Cee hẳn đã nghiêm túc khi nói với tôi rằng cô ấy không cần tôi chiến đấu thay cô ấy. Cô nàng có hàng đống đạn dược cho riêng mình rồi, gồm có một kho chứa thuốc súng là những nhận xét bằng lời, và những nguyên tắc làm việc cực kỳ nghiêm túc. Điều đầu tiên mà cô nàng nói với tôi - sau khi hết giận tôi - là hỏi xem tôi có hứng thú viết một bài cho tờ báo không.

"Không có gì ghê gớm đâu," cô ấy nhẹ nhàng nói. "Có khi chỉ là một bài so sánh giữa văn hóa teen vùng East Coast và West Coast thôi mà. Mình chắc là cậu thấy những điều khác biệt giữa bọn mình và các bạn cũ của cậu ở New York. Cậu thấy thế nào? Độc giả của mình sẽ rất thích thú - đặc biệt là với những đứa như Kelly và Debbie. Hay cậu có thể nguệch ngoạc về chuyện ở East Coast, có làn da ngăm là một điều đáng hổ thẹn như thế nào cũng được."

Rồi cô nàng cười, không phải kiểu độc ác nhưng cũng không hoàn toàn trong sáng. Nhưng đó mới là Cee Cee, tôi nhanh chóng nhận ra điều đó, những nụ cười bừng sáng - sáng chói hơn nữa nhờ bộ niềng răng khá đẹp - và tính tình vui tươi. Cô ấy nổi tiếng vì những trò đùa tinh nghịch cũng như kiểu cười ầm như ngựa vỡ oà khi không thể nhịn được, cười vang với những niềm vui chẳng cần che giấu, và luôn bị suỵt bởi những vị tu sĩ khó tính giám sát hành lang, ngăn không cho chúng tôi làm phiền khách du lịch, những người muốn chụp ảnh của Junipero Serra được những người phụ nữ da đỏ đáng thương quây quần xung quanh.

Trường Truyền Giáo là một ngôi trường nhỏ. Chỉ có 70 đứa học sinh năm thứ 2 trung học. Tôi vô cùng biết ơn cái việc lịch học của tôi và Ngu Ngơ trái ngược nhau, cái tiết duy nhất mà hai đứa ngồi chung là vào giờ ăn trưa. Bữa trưa được sắp xếp ở ngoài sân bên cạnh bãi đỗ xe là một cái sân chơi rất rộng cỏ mọc đầy, nhìn ra biển, có học sinh năm cuối ngồi ghế dài giống như bọn lớp 2, và có bọn chim mòng biển đổ dồn về phía kẻ ngốc nào đó dám dại dột vứt một con cá nhỏ ra. Tôi biết vì chính tôi đã thử mà. Thế là xơ Ernestine - cái người mà Adam, hóa ra học cùng lớp xã hội học với tôi, dám gọi là mụ ấy - liền tới và yêu cầu tôi không bao giờ được lặp lại cái trò đó một lần nữa. Cứ làm như tôi chưa tởn cái cảnh đồng loạt 50 con mòng biển to tướng quang quác đổ ụp từ trên trời xuống vây quanh tôi không bằng, cái kiểu mà bọn chim bồ câu ở Công Viên Quảng Trường Washington hay làm nếu bạn ngu ngốc vứt cho chúng một mẩu bánh quy xoắn ấy mà.

Ngái Ngủ và Tiến Sỹ cũng ăn trưa cùng lúc. Đó là lúc duy nhất tôi thấy những đứa con nhà Ackerman khi ở trường. Quan sát họ trong môi trường tự nhiên của chính họ cũng hay. Thật khoái khi thấy những nhận xét của tôi trước đây về con người bọn họ là chả sai tí nào. Tiến Sỹ tụ tập cùng với một nhóm trẻ con trông cực kỳ quái, phần lớn đều 4 mắt và có laptop đặt trên đùi, cái điều mà tôi chưa từng nghĩ tới lại hoàn toàn đang xảy ra. Ngu Ngơ thì lê la với mấy đứa dân thể thao được vây quanh - như kiểu bọn mòng biển vây lấy tôi lúc trước ấy - bởi những đứa con gái da nâu trong lớp tôi, trong đó có cái đứa mà tôi tránh không ngồi cạnh. Chúng có vẻ như đang nói về chuyện đã làm gì vào Giáng Sinh, đây là ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ đông, và đứa nào gãy chân nhiều nhất khi trượt tuyết ở Tahoe.

Ngái Ngủ có lẽ là đứa hay ho nhất. Không phải chuyện anh ta đang tỉnh đâu, cho tôi xin. Anh ta ngồi ở một trong những chiếc bàn nhỏ, mắt nhắm tịt, mặt hứng nắng. Đây vẫn chưa phải điều thú vị, vì ở nhà lúc nào tôi chả thấy thế rồi. Cái làm tôi thấy hay ho là chuyện xảy ra bên cạnh anh ta kìa. Đó là một anh chàng đẹp trai kinh khủng, không làm gì khác ngoài việc nhìn đăm đăm về phía trước, khuôn mặt anh ta hiện lên một nỗi buồn đau ghê gớm. Thỉnh thoảng bọn con gái đi qua - thì con gái lúc nào chả thế khi có một anh chàng đẹp trai gần đó - và chào anh ta, anh ta bèn rời mắt khỏi mặt biển đang nhìn và đáp, "Ồ, chào bạn" trước khi lại hướng ánh mắt về phía những con sóng như có sức thôi miên ấy.

Lúc đó tôi chợt nghĩ Ngái Ngủ và bạn anh ta rất có thể bị nghiện. Điều đó giải thích được rất nhiều điều về Ngái Ngủ.

Nhưng khi tôi hỏi Cee Cee xem cô ấy có biết anh chàng đó là ai không, và anh ta có nghiện nghiếc gì không, thì cô ấy đáp: "À, đó là Bryce Martinson. Không, anh ta có nghiện đâu. Anh ta chỉ buồn thôi, bởi bạn gái anh ta đã chết trong kỳ nghỉ."

"Thế à?" Tôi cố nhai món ngô. Đồ ăn ở Trường Truyền Giáo này không thể mê nổi. Chả trách mà bọn trẻ con toàn mang đồ ăn từ nhà đi. Món khai vị hôm nay là món xúc xích. Không đùa đâu. Xúc xích thật đấy. "Cô ta chết thế nào?"

"Tự bắn vào đầu mình." Adam, tên con trai ở văn phòng hiệu trưởng, nói xen vào. Cậu ta đang ăn món Cheetos trong cái túi to đùng lôi ra từ cái ba lô da. Ba lô hiệu Louis Vuitton hẳn hoi. "Phần phía sau đầu bay luôn."

Một trong những đứa con gái trông như ngựa ngoái lại, hẳn nghe lỏm được, và nói: "Chúa ơi, Adam. Sao cậu có thể nhẫn tâm đến thế được nhỉ?"

Adam nhún vai. "Này. Tớ đâu có quý mến gì cô ta khi cô ả còn sống chứ. Nhưng tớ không nói là giờ tớ mến cô ta vì cô ta chết rồi đâu đấy. Mà thật ra, tớ còn ghét cô ta hơn nữa kìa. Nghe nói tất cả học sinh sẽ phải đến buổi cầu siêu cho cô ta vào ngày thứ Tư."

"Phải." Trông Cee Cee có vẻ ghê tởm. "Chúng ta phải cầu nguyện cho linh hồn bất tử của cô ta bởi vì cô ta tự tử và giờ vĩnh viễn bị thiêu ở dưới địa ngục kia kìa."

Adam trầm tư. "Thế à? Tớ tưởng những kẻ tự tử thì phải đến nơi mà linh hồn bị trừng phạt để gột sạch tội lỗi và được lên thiên đàng chứ."

"Không đâu, đồ ngốc ạ. Cậu nghĩ vì sao mà Monsignor Constantine không cho phép Kelly tổ chức lễ truy điệu chứ? Tự sát là một trọng tội. Monsignor Constantine sẽ không cho cái kẻ tự sát được truy điệu trong nhà thờ của ông ấy đâu. Ông ta thậm chí còn không cho phép cha mẹ Heather chôn cô ta trên đất thánh đâu." Cee Cee đảo tròn đôi mắt màu tím. "Tớ chưa bao giờ quý mến Heather cả, nhưng thậm chí còn ghét Monsignor Constantine và mấy cái luật lệ ngu ngốc của ông ta hơn nhiều. Tớ đang suy nghĩ về việc viết một bài về chuyện này, đặt tên là Cha, Con và Kẻ đạo đức giả Thần thánh."

Những đứa con gái khác cười khúc khích có vẻ lo lắng. Chờ bọn họ xong xuôi, tôi hỏi: "Sao cô ta lại tự sát?"

Adam trông có vẻ phát chán lên: "Dĩ nhiên là vì Bryce rồi. Hắn chia tay cô ta."

Đứa con gái da màu xinh xắn tên Bernadette, người cao nhất trong bọn tôi - 1m80 - cúi xuống thì thào: "Tớ nghe nói anh ta đã làm thế ở trung tâm mua sắm. Các cậu tin nổi không?"

Một đứa con gái khác nói: "Đúng thế, vào đêm Noel. Bọn họ đi sắm sửa cho lễ Giáng Sinh, cô ta chỉ vào cái nhẫn kim cương bày trong cửa sổ tiệm Bergdorf, và nói như kiểu: 'Em muốn có chiếc nhẫn.' Tớ đoán là anh ta đã phát hoảng lên - các cậu biết đấy, rõ ràng đấy là nhẫn đính hôn - và chia tay với cô ta ngay tại trận."

"Và thế là cô ta về nhà tự bắn vào đầu à?" Tôi thấy câu chuyện này cực kỳ ngớ ngẩn. Tôi từng hỏi Cee Cee xem chúng tôi sẽ ăn trưa ở đâu nếu (lạy trời đừng) đổ mưa, cô ấy bảo rằng mọi người sẽ ngồi ăn ở phòng điểm danh, và các nữ tu mang đến những trò chơi kiểu như Parcheesi (dùng xúc xắc và những miếng nhựa đủ màu để di chuyển từ ngoài vào trung tâm tấm bảng theo luật) cho mọi người cùng chơi. Tôi băn khoăn không biết câu chuyện đó - cũng như chuyện ăn trưa vào hôm trời mưa - có phải là chuyện bịa không. Cee Cee đúng là kiểu con gái thích cái chuyện lừa mị một ma mới - không phải có ác ý gì, chỉ để lấy đó làm chuyện giải trí cho chính mình thôi.

"Chưa đâu," Cee Cee đáp. "Cô ả cố quay lại với anh ta. Cứ mười phút cô ta lại gọi điện, cho đến khi mẹ anh ta bảo đừng có gọi nữa. Thế là cô ta bắt đầu gửi những lá thư, bảo rằng cô ta sẽ làm việc đó - cậu biết đấy, tự tử nếu anh ta không quay lại. Khi anh ta không trả lời, cô ta lấy khẩu 44 của bố, lái xe đến nhà Bryce và nhấn chuông."

Adam tiếp tục kể từ điểm đó, và tôi biết bắt đầu dính đến máu me rồi đây. "Ờ," cậu ta nói, đứng hẳn dậy để diễn đạt, dùng món Cheeto làm súng. "Gia đình Martinson đang mở tiệc đón Năm mới - đó là đêm Giao thừa mà - thế nên họ đều có nhà. Họ ra mở cửa, thấy đứa con gái điên rồ đó trên ngưỡng cửa với khẩu súng dí vào đầu. Cô ta nói nếu họ không gọi Bryce ra, cô ta sẽ bóp cò. Nhưng làm sao họ gọi Bryce được chứ, vì họ đã gửi hắn đến Antigua từ trước rồi - "

" - Hi vọng ánh nắng và trò lướt sóng sẽ xoa dịu tinh thần rệu rã của anh ta," Cee Cee chêm vào, "vì cậu biết đấy, chuyện đăng ký học đại học cũng đã làm cho anh ta lo lắng đủ rồi. Anh ta đâu cần phải chịu thêm áp lực từ cái kẻ cứ bám riết đó nữa."

Adam trừng mắt nhìn cô nàng, và tiếp tục câu chuyện, dí Cheeto vào một bên đầu. "Ờ, đó là sai lầm vĩ đại của gia đình Martinson. Khi nghe tin Bryce đã ra nước ngoài, cô ta bèn bóp cò, thổi bay phía sau đầu, tí não và của khỉ gì đó dính lên cả đèn trang trí Giáng Sinh của nhà Martinson."

Tất cả mọi người trừ tôi đều rên lên khi nghe chi tiết đó. Tuy nhiên, tôi đang nghĩ về những thứ khác. "Cái ghế trống ở phòng điểm danh. Cái ở cạnh đứa-tên-gì-ấy-nhỉ, à Kelly. Đấy là chỗ ngồi của đứa con gái tàn đời, đúng không?"

Bernadette gật đầu. "Ừ. Chính vì thế mà bọn tớ đã nghĩ thật kỳ lạ là cậu lại bỏ qua chỗ ấy. Cứ như thể là cậu biết Heather từng ngồi đó vậy. Bọn tớ đều nghĩ có khi cậu là đứa có khả năng đặc biệt hay gì đó - "

Tôi chẳng muốn nói cho bọn họ biết cái lý do tôi không chọn chỗ của Heather chả liên quan gì đến khả năng đặc biệt hết. Tôi không nói gì cả. Tôi nghĩ: mẹ thật tuyệt vời khi nói với tôi vì sao đột nhiên lại có một suất cho tôi, trước khi cái trường này lại quá đông và không thể nhận thêm đứa học sinh mới nào nữa.

Tôi nhìn Bryce chăm chăm. Chuyến đi đến Antigua đã mang lại cho anh ta làn da rám nắng. Anh ta ngồi bên chiếc bàn nhỏ, chân gác lên ghế, cánh tay đặt trên đầu gối, nhìn chằm chằm ra biển. Một làn gió nhẹ thổi bay một vài sợi tóc vàng nâu.

Anh ta chẳng biết gì, tôi thầm nghĩ. Anh ta chẳng biết gì hết. Anh ta cứ nghĩ cuộc sống của mình giờ đây thật tồi tệ? Cứ đợi đấy.

Hãy đợi đấy.

(hết chương 7)

Chương 8

Anh ta không phải đợi lâu. Cô ả đến tìm anh ta ngay sau bữa trưa. Tất nhiên là anh ta chả bao giờ biết. Tôi liếc thấy cô ta trong đám đông ngay lập tức, khi mọi người tiến về phía dãy tủ để đồ. Bọn ma toả ra một vầng sáng để phân biệt với người bình thường - ơn Chúa, nếu không tôi đã chẳng thấy được sự khác biệt.

Cô ả nhìn anh ta đầy căm giận như thể cô ta là một trong những đứa trẻ tóc vàng trốn ra từ Ngôi làng bị Nguyền rủa vậy. Mọi người không biết cô ta đứng đó, cứ thế thẳng tiến xuyên qua cô ả. Tôi hơi ghen tị với họ. Ước gì đối với tôi bọn ma cũng vô hình như chúng vô hình với tất cả những người khác. Tôi biết điều đó có nghĩa là tôi không thể thích thú trò truyện với bố như trong những năm qua, nhưng mà này, thế cũng có nghĩa là tôi không phải đứng đó và biết rằng Heather sắp làm một điều khủng khiếp.

Nhưng thế không phải tôi biết cô ta sắp làm gì anh ta đâu nhé. Bọn ma đôi khi có thể trở nên cực kỳ hung ác. Cái trò mà Jesse đã làm với tấm gương chưa là cái gì đâu, thật đấy. Bọn chúng từng ném đồ vật vào người tôi mạnh đến nỗi nếu không cúi người để tránh thì chắc chắn tôi cũng đồng hội với cái bọn ấy rồi. Tôi bị những cơn chấn động và gãy hàng đống xương. Mẹ chỉ nghĩ tôi là đứa suốt ngày gặp tai nạn. Phải rồi mẹ à. Đúng vậy đấy. Tôi ngã xuống cầu thang và gãy cổ tay. Chà, còn cái lý do tôi ngã xuống cầu thang là hồn ma 300 tuổi của một tên người Tây Ban Nha đi xâm chiếm Nam Mỹ đã đẩy tôi.

Tuy thế, cái giây phút trông thấy Heather, tôi biết cô ta sắp làm chuyện xấu xa. Tôi không đoán điều đó dựa trên lần gặp trước kia với cô ta đâu nhé. Không đâu. Tôi nhìn theo hướng Heather nhìn và thấy cô ta hoàn toàn không nhắm vào Bryce. Một trong những thanh xà phía bên trên lối mà Bryce đang đi mới chính là cái thu hút sự chú ý của cô ta. Khi đứng đó, tôi thấy khúc gỗ bắt đầu rung lắc. Không phải tất cả những thanh xà trên lối đi. Ồ không. Chỉ một thanh duy nhất, nặng. Cái thanh ngay phía trên đầu Bryce.

Tôi hành động mà không suy nghĩ gì hết. Tôi tung người mạnh hết sức bình sinh về phía Bryce. Cả hai bọn tôi đều văng ra. Thế cũng may, bởi vì lúc bọn tôi đều đang lăn tròn thì tôi nghe thấy một tiếng nổ inh tai. Tôi cúi đầu để bảo vệ đôi mắt nên không thực sự nhìn thấy khúc gỗ phát nổ, nhưng tôi nghe thấy, và cũng cảm nhận thấy điều đó. Những mẩu gỗ nhỏ xíu trút xuống khiến tôi đau đớn. Thật may là tôi mặc chiếc quần bằng vải len.

Bryce nằm không động đậy bên dưới tôi đến nỗi tôi nghĩ rằng có lẽ một mẩu gỗ đã đập trúng vào giữa đầu anh ta hay sao đó. Nhưng khi tôi ngẩng mặt lên thì thấy anh ta không sao hết, chỉ nhìn chằm chằm đầy kinh hoàng về phía khúc gỗ dày 25 phân, dài gần 60 phân nằm lăn lóc cách bọn tôi không xa. Quanh bọn tôi vương vãi những mẩu gỗ văng ra từ thanh xà chính. Tôi đoán Bryce nhận ra rằng nếu khúc gỗ đó mà làm anh ta vỡ đầu thì những phần của Bryce cũng đã tung toé trên cái sàn đá đó rồi.

"Xin lỗi, xin lỗi - " Tôi nghe thấy giọng nói lo âu của Cha Dominic và nhìn thấy ông đang dẹp đám đông những kẻ đang sững sờ để tiến tới. Ông đứng chết trân khi trông thấy khúc gỗ, nhưng khi thấy tôi và Bryce, ông trở lại như bình thường.

"Lạy Chúa nhân từ," ông kêu lên, chạy ào đến chỗ hai đứa. "Các con có sao không? Susannah, con có bị thương không? Còn Bryce nữa?"

Tôi từ từ đứng dậy. Tôi hay phải kiểm tra xem có cái xương gãy nào không, và qua ngần ấy năm, tôi thấy rằng khi đứng lên càng chậm rãi bao nhiêu, càng dễ nhận ra phần xương gãy và càng ít có nguy cơ đè lên nó bấy nhiêu.

Nhưng trong trường hợp này hình như không có cái xương nào gãy cả. Tôi đã đứng được trên đôi chân mình.

"Trời, con chắc là con không sao đấy chứ?" Cha Dominic hỏi.

"Con không sao mà," tôi đáp, phủi quần áo. Khắp người tôi dính đầy gỗ vụn, và đây lại là cái áo khoác hiệu Donna Karan đẹp nhất chứ. Tôi nhìn quanh tìm Heather - thề là nếu ngay lúc đó tôi mà thấy bóng dáng cô ta, nhất định tôi sẽ giết cô ta, nhất định thế... trừ khi... mà tất nhiên... cô ta đã chết sẵn rồi. Nhưng cô ả đã chuồn mất.

"Chúa ơi," Bryce nói, tiến về phía tôi. Trông anh ta không bị thương, chỉ hơi bị chấn động một tẹo. Mà thật ra để khiến cho một tên con trai cao lớn như anh ta bị thương thì cũng khó. Anh ta cao đến 1m80 và có đôi vai rộng, một anh chàng mang dáng dấp Baldwin thực sự.

Và anh ta đang nói với tôi. Với tôi đấy!

"Lạy Chúa, em không sao chứ?" anh ta hỏi. "Cảm ơn em. Chúa ơi. Em vừa mới cứu mạng anh đấy."

"À," tôi đáp. "Không có gì đâu, thật đấy." Tôi không thể cưỡng lại việc đưa tay ra gỡ một mẩu gỗ khỏi chiếc áo len anh ta đang mặc. Vải len cashmere. Đúng như tôi đoán.

"Chuyện gì xảy ra ở đây thế này?" Một người đàn ông khoác rất nhiều lớp áo thụng và đội chiếc mũ len đỏ đang dẹp đám đông tiến tới. Khi trông thấy khúc gỗ và ngước lên để xem nó rơi từ chỗ nào xuống, ông ta quay lại phía Cha Dom và nói: "Thấy chưa? Thấy chưa hả Dominic? Ông để cho những con chim quý hoá của ông làm tổ bất cứ nơi nào chúng muốn, việc này đều từ đấy mà mà ra cả đấy! Anh Ackerman đã nhắc nhở là chuyện này có thể xảy ra, giờ thì trông đấy! Anh ta đã đúng! May mà không có ai thiệt mạng!"

Vậy ra đây là Monsignor Constantine.

"Tôi thành thực xin lỗi, Monsignor," Cha Dom nói. "Tôi không dám nghĩ lại xảy ra chuyện như thế này. Ơn Chúa không có ai bị thương." Ông quay về phía Bryce và tôi. "Hai con đều không làm sao chứ? Tôi thấy trò Simon trông hơi nhợt nhạt. Tôi sẽ đưa trò ấy đến phòng y tế, nếu trò không phiền, Susannah. Còn các con, tất cả về lớp đi. Mọi người đều không sao cả. Chỉ là một chuyện không may thôi. Tất cả đi ngay đi."

Thật bất ngờ, tất cả mọi người đều nghe lời Cha. Cha Dominic có khả năng như vậy đấy. Bạn sẽ nghe theo những điều ông bảo bạn làm. Ơn Chúa là khả năng ấy của ông được sử dụng vào những việc tốt chứ không phải việc xấu!

Tôi ước gì điều đó cũng đúng trong trường hợp của monsignor. Ông ta đứng ở hành lang đột ngột trở nên vắng lặng, nhìn chằm chằm vào khúc gỗ. Chỉ cần nhìn qua cũng biết nó không phải là khúc gỗ còn nguyên vẹn nhất. Khúc gỗ ấy đã cũ, nhưng nó hoàn toàn khô ráo.

"Tôi sẽ cho người vứt những cái tổ chim ấy đi, Dominic ạ," ông ta nói một cách chua chát. "Tất cả. Chúng ta không thể nào để những nguy cơ tiềm tàng như thế được. Nếu mà chẳng may có một du khách đứng ở đây thì sao? Hoặc là tổng giám mục. Tháng sau ông ấy sẽ đến đây, ông biết rồi đấy. Nếu như Giám mục Rivera có lỡ đứng chỗ này và cái khúc gỗ ấy rơi xuống, thì sẽ thế nào hả Dominic?"

Những bà xơ đã đến từ lâu, nghe thấy tất cả những tiếng nói om sòm, nhìn Cha Dominic đáng thương đầy trách cứ đến nỗi tôi phải nói một điều gì đó. Tôi mở miệng định nói thì Cha Dominic nắm chặt lấy cánh tay tôi và bắt đầu kéo tôi đi. Ông nói: "Tất nhiên, ông hoàn toàn có lý. Tôi sẽ nhờ ban giám sát xử lý chuyện này ngay, thưa Monsignor. Chúng ta không thể để cho giám mục bị thương được. Hoàn toàn không."

"Chúa ơi, người gì mà như cái ung nhọt!" Tôi nói, ngay sau khi chúng tôi được an toàn sau cánh cửa phòng hiệu trưởng. "Ông ta có nói đùa không vậy? Ông ta cho rằng một vài con chim có thể làm ra cái chuyện này chắc?"

Cha Dominic đi thẳng đến một chiếc tủ nhỏ có đầy những giải thưởng - sau này tôi biết được thì ra đấy là những phần thưởng trong quá trình dạy học. Trước khi được giáo khu cử giữ chức quản lý, Cha Dominic từng là một thầy giáo dạy môn sinh học khá nổi tiếng và được học sinh rất yêu mến. Ông tìm kiếm phía đằng sau của một trong những giải thưởng ấy và lôi ra một bao thuốc.

"Ta không cho rằng gọi một monsignor của nhà thờ Công giáo là cái nhọt là một việc không hề phạm thượng tí nào, Susannah," ông nói, liếc xuống bao thuốc màu trắng pha đỏ.

"Thật may phước là con không theo Công giáo," tôi nói. "Và Cha có thể hút một điếu nếu Cha muốn," tôi gật đầu về phía bao thuốc trong tay ông. "Con sẽ không nói gì hết đâu."

Ông nhìn xuống bao thuốc trong khoảng 1 phút, rồi thở dài thật sâu và cất nó về chỗ cũ. "Không," ông nói. "Cảm ơn con, nhưng ta không nên."

Giời. Thật tốt là tôi chưa từng thực sự dính vào cái vụ hút thuốc.

Tôi nghĩ mình nên đổi chủ đề, và tôi cúi xuống xem xét một vài phần thưởng. "Năm 1964," tôi nói. "Cha dạy học lâu vậy."

"Ừ." Cha Dominic ngồi xuống phía sau chiếc bàn. "Chuyện khỉ gió gì đã xảy ra ngoài đó vậy Susannah?"

"À," tôi nhún vai. "Là Heather đấy ạ. Con nghĩ ta đều biết lý do cô ta quanh quẩn ở đó. Cô ta muốn giết Bryce Martinson."

Cha Dominic lắc đầu. "Chuyện này thật kinh khủng. Thật sự. Ta chưa từng thấy một... một linh hồn nào lại có cách cư xử hung bạo đến thế. Chưa bao giờ trong suốt từng ấy năm là một người liên hệ với người chết."

"Thế ạ?" Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Phòng hiệu trưởng không nhìn ra biển mà trông ra ngọn đồi nơi tôi ở. "A," tôi nói. "Ở đây Cha có thể trông thấy nhà của con đấy!"

"Con bé từng luôn luôn là một đứa ngoan ngoãn. Heather Chambers chưa từng một lần vi phạm kỷ luật trong suốt những năm học ở Trường Truyền Giáo. Điều gì lại có thể làm cho con bé căm ghét người nó từng yêu đến như thế được nhỉ?"

Tôi ngoái đầu lại nhìn ông. "Cha không đùa chứ ạ?"

"Ừ, hừm, ta biết bọn chúng đã chia tay, nhưng những cảm xúc quá khích như thế - cái việc con bé cứ muốn giết chóc. Chắc chắn như thế là rất bất thường -"

Tôi lắc đầu. "Con xin lỗi, con biết Cha đã có lời thề sống độc thân và gì đó nữa, nhưng chả lẽ Cha chưa từng yêu bao giờ? Cha không biết việc đó như thế nào ạ? Tên đó đã dội một gáo nước lạnh vào cô ấy. Cô ấy nghĩ họ sẽ làm đám cưới. Con biết là điều đó thật điền rồ, nhất là khi cô ấy mới có... ơ... 16 tuổi phải không ạ? Nhưng dù sao đi nữa anh ta đã làm vậy. Nếu như điều đó còn chưa đủ khiến một đứa con gái nổi máu giết chóc, thì con không biết liệu đó là điều gì nữa đây."

Cha nhìn tôi trầm ngâm. "Con nói điều đó từ kinh nghiệm bản thân."

"Ai cơ? Con ấy ạ? Không hẳn thế. Ý con muốn nói là, con cũng từng thích bọn con trai, và vân vân, nhưng chả có tên nào đáp lại." Thật cay đắng. "Tuy vậy con có thể hình dung Heather cảm thấy thế nào khi anh ta chia tay cô ấy."

"Như tự sát ấy à," Cha Dominic nói. "Đúng thế. Nhưng hoá ra việc tự sát vẫn còn chưa đủ. Con bé sẽ chưa thoả mãn đâu, cho đến khi nó kéo được cậu ta đi cùng."

"Chuyện này thật kinh khủng," Cha Dominic nói. "Thật sự, thật sự kinh khủng. Ta đã nói chuyện với nó đến rát cổ bỏng họng, mà nó vẫn không nghe. Và rồi vào đúng ngày đầu tiên đi học lại thì chuyện này xảy ra. Ta sẽ phải bảo cậu ta ở nhà cho đến khi chúng ta giải quyết xong chuyện này mới được."

Tôi cười. "Cha sẽ làm việc đó thế nào? Nói rằng cô bạn gái đã chết của anh ta đang cố giết anh ta ấy ạ? Ồ vâng, thế thì chuyện này sẽ khiến monsignor vui đây."

"Không hề." Cha Dominic mở một ngăn kéo và bắt đầu lục lọi. "Bằng một ít tài khéo léo, trò Martinson sẽ nghỉ học trong một hay hai tuần."

"Ôi, không!" Tôi cảm thấy tái cả mặt. "Cha định đầu độc cậu ta ạ? Con tưởng cha là một linh mục chứ! Việc đó chẳng phải đã bị cấm hay sao?"

"Đầu độc á? Không, không đâu Susannah ơi. Ta định cho cậu ta một ít chấy rận thôi mà. Bà y tá kiểm tra mỗi học kỳ một lần. Ta biết rồi cậu trẻ Martinson sẽ gặp rắc rối đây -"

"Ôi trời!" Tôi ré lên. "Kinh quá! Cha không thể cho chấy lên đầu cậu ấy được!"

Cha Dominic ngẩng lên khỏi ngăn kéo. "Sao lại không chứ? Việc đó phục vụ cho mục đích của chúng ta mà. Giữ cậu ta tránh xa khỏi nguy hiểm đủ lâu để ta và con nói chuyện phải quấy với trò Chambers, và - "

"Cha không thể cho chấy lên đầu cậu ta được đâu," tôi nhắc lại, một cách mạnh mẽ hơn cần thiết, có lẽ vậy. Tôi không hiểu sao mình lại phản đối ý kiến đó đến như thế, trừ cái việc... hừm... cậu ta có mái tóc rất đẹp. Tôi có cơ hội được nhìn mái tóc ấy gần hơn khi cả hai bọn tôi lăn lộn trên đất. Một mái tóc xoăn trông mềm mại, tôi có thể tưởng tượng ngón tay mình lùa qua mái tóc ấy. Cái ý nghĩ về những con bọ bò lổm ngổm trên mái tóc ấy làm tôi kinh cả người. Bài hát của bọn trẻ con thế nào ấy nhỉ?

Anh nhìn sâu vào đôi mắt em

Em biết làm gì đây nếu không kéo dài khoảnh khắc ấy

Em đưa tay vuốt mái tóc êm

Và một con bọ cắn ngón tay em.

"Eo, kinh," tôi nói, ngồi lên bàn. "Cha cứ từ từ vụ chấy rận được không ạ? Để con đối phó với Heather. Cha bảo là Cha đã nói chuyện với cô ta trong bao lâu cơ? Một tuần ạ?"

"Từ đầu năm mới này," Cha Dominic nói. "Phải. Đó là lần đầu con bé xuất hiện ở đây. Giờ ta hiểu là nó chỉ đợi có Bryce thôi."

"Vâng. Được rồi, Cha cứ để con lo chuyện này. Có lẽ cô ta cần người tâm sự chuyện con gái với nhau."

"Ta không biết nữa." Cha Dominic trông tôi có vẻ nghi ngờ. "Ta thật sự thấy là con hơi có thiên hướng đối với... ờ... đối với việc sử dụng vũ lực. Vai trò của một người thương thuyết với hồn ma không cho phép dính dáng đến bạo lực, Susannah ạ. Con phải là người giúp đỡ những linh hồn gặp chuyện không may, chứ không phải làm tổn thương họ."

"Sao ạ? Lúc nãy Cha có ở đó không vậy? Cha nghĩ là con chỉ cần phải đứng nói với khúc gỗ đó là đừng có làm vỡ sọ anh ta thôi là đủ ấy ạ?"

"Dĩ nhiên là không. Ta chỉ nói là nếu con có động lòng trắc ẩn một tí thì -"

"Thưa Cha, con có thừa lòng trắc ẩn ấy chứ. Con rất đau lòng thay cho cô gái đó, thật đấy ạ. Nhưng đây là trường của con. Cha hiểu chứ? Của con. Không còn là của cô ta nữa. Cô ta đã có sự lựa chọn cho chính mình, giờ thì cô ta lại quanh quẩn ở đây. Và con sẽ không để cho cô ta kéo theo Bryce - hay bất cứ ai khác - theo cô ta đâu."

"Ờ." Cha Dominic trông có vẻ hoài nghi. "Ờ... nếu con chắc vậy..."

"Ôi, con chắc mà." Tôi nhảy khỏi chiếc bàn. "Cha cứ để con lo, được chứ ạ?"

Cha Dominic nói: "Được rồi." Nhưng ông nói có vẻ hơi nhỏ, tôi nhận thấy thế. Tôi phải nhờ ông viết cho một cái giấy cho phép để về lớp mà không gặp rắc rối bởi một trong số những bà xơ nào đó. Tôi đang chờ cho đến lúc một trong số họ - cái người có mặt cứ nhăn nhăn nhó nhó - xong cái việc nghiên cứu kỹ lưỡng tờ giấy phép ấy trước khi để cho tôi đi tiếp, thì một cánh cửa đề PHÒNG Y TÁ mở ra, và Bryce cũng bước ra với một tờ giấy phép.

"Này," tôi không thể không hỏi. "Chuyện gì vậy ạ? Có phải cô ta - à, em muốn nói là, có phải lại có chuyện gì đó không ạ? Anh có bị thương không?"

Anh ta cười hơi ngượng ngùng. "Không đâu. Nếu không tính cái dằm tồi tệ găm dưới ngón tay cái. Anh cố phủi hết những vụn gỗ trên người, em biết đấy, và một mảnh găm vào dưới này, rồi - " Anh ta giơ bàn tay phải lên. Ngón tay cái của anh ta được cuốn bằng một dải băng, to đùng.

"Í ẹ," tôi nói.

"Anh biết." Trông anh ta có vẻ ảm đạm. "Bà ấy còn bôi cả thuốc đỏ nữa. Anh ghét cái thứ đó."

"Trời ạ," tôi nói. "Anh có một ngày thật thảm hại."

"Cũng không hẳn đâu," anh ta nói, hạ ngón tay xuống. "Hay ít nhất thì cũng không tệ bằng việc nếu em không ở đây hôm nay. Nếu không nhờ có em thì anh đã chết rồi." Anh ta thấy tôi đi ra từ cánh cửa đề PHÒNG HIỆU TRƯỞNG, và hỏi: "Em không gặp rắc rối gì chứ?"

"Không," tôi đáp. "Cha Dominic chỉ muốn em điền vào một số giấy tờ thôi mà. Em là học sinh mới, anh biết đấy."

"Và là một học sinh mới," bà xơ nghiêm khắc nói, "em cũng phải biết rằng không được phép la cà ở hành lang. Cả hai em nên về lớp đi."

Tôi nói xin lỗi và lấy lại tờ giấy. Bryce hào hiệp chỉ cho tôi lớp học vào tiết sau, và bà xơ bỏ đi có vẻ hài lòng. Ngay khi bà ta đi khỏi tầm nghe, Bryce nói: "Em tên là Suze phải không? Jake đã kể cho anh nghe về em. Em là em gái mới của cậu ta, chuyển đến từ New York."

"Vâng, đúng vậy," tôi nói. "Còn anh là Bryce Martinson."

"Ơ, Jake cũng kể về anh rồi à?"

Tôi suýt nữa thì cười ầm lên với cái ý tưởng Ngái Ngủ lại đi kể lể một chuyện gì đó. Tôi nói: "Không ạ, không phải Jake."

Anh ta nói "Oh," bằng một giọng buồn đến nỗi tôi gần như cảm thấy thương cho anh ta. "Chắc là mọi người cũng bàn tán về anh đúng không?"

"Có tí chút." Tôi nói liều. "Em rất tiếc về chuyện xảy ra với bạn gái anh."

"Anh cũng vậy, thật đấy." Nếu anh ta nổi cáu vì tôi lôi cái chuyện đó ra nói thì cũng chưa biết thế nào được. "Anh thậm chí còn chẳng muốn quay về nơi này sau khi... em biết đấy. Anh cố xin chuyển đến trường RLS, nhưng hết chỗ mất rồi. Ngay cả trường công lập cũng chẳng muốn nhận anh. Chẳng dễ dàng gì để chuyển đi khi mà còn học có mỗi một học kỳ nữa thôi. Anh chẳng hề muốn quay lại học, chỉ trừ... em biết đấy. Các trường đại học muốn em phải tốt nghiệp phổ thông trước khi nhận em vào học."

Tôi cười. "Em có biết."

"Dù sao đi nữa." Bryce thấy tôi đang cầm áo khoác - tôi cứ phải lê la nó theo suốt vì không thể sử dụng được tủ đồ, cánh cửa đã bị lõm vào vĩnh viễn, không mở được khi tôi đánh Heather va vào nó - và nói: "Có cần anh cầm giúp không?"

Quá choáng trước cử chỉ lịch sự này đến nỗi chả cần suy nghĩ, tôi nói luôn: "Vâng," và đưa áo cho anh ta. Anh ta vắt nó qua cánh tay và nói: "Vậy là, anh đoán mọi người hẳn phải đổ lỗi cho anh về chuyện đã xảy ra. Với Heather, ý anh là vậy."

"Em không nghĩ vậy," tôi đáp. "Nếu có thì mọi người đổ lỗi cho Heather vì chuyện xảy ra với Heather chứ."

"Ừ," Bryce nói, "nhưng anh muốn nói là, anh đã đẩy cô ấy đến chỗ phải làm thế, em biết mà. Đấy mới là vấn đề. Giá như anh đừng có chia tay cô ấy -"

"Anh đánh giá mình hơi bị quá cao đấy nhỉ?"

Anh ta có vẻ sững lại. "Gì cơ?"

"Thế này nhé, anh cho rằng cô ta tự sát là vì anh chia tay cô ta. Em thì nghĩ đấy hoàn toàn chẳng phải là lý do để cô ta tự sát. Cô ta tự sát vì cô ta là một kẻ bệnh hoạn. Anh chẳng có dính dáng gì tới việc khiến cho cô ta làm thế cả. Việc chia tay có khi chỉ là chất xúc tác cho việc cô ta suy sụp lần cuối thôi, nhưng cũng có thể do những cuộc khủng hoảng khác trong cuộc sống của cô ta - cha mẹ cô ta ly hôn, cô ta không vào được đội cổ vũ, con mèo của cô ta chết. Bất cứ việc gì đi chăng nữa. Vì thế đừng quá khắt khe với bản thân." Chúng tôi đến cửa lớp - dạy môn hình học, tôi đoán thế, giáo viên là xơ Mary Catherine. Tôi quay qua anh ta và lấy lại chiếc áo khoác.

"Đến lớp em rồi. Cảm ơn anh đã đi cùng."

Anh ta nắm lấy một ống tay áo khoác. "Này em," anh ta nói, nhìn tôi. Thật khó để nhìn thấy đôi mắt anh ta - bên dưới lối đi khá tối do sấp bóng mặt trời. Nhưng tôi nhớ khi chúng tôi ngã xuống thì tôi thấy mắt anh ta màu xanh biển. Một màu xanh rất đẹp. "Nghe này," anh ta nói. "Tối nay để anh mời em đi chơi nhé. Để cảm ơn em đã cứu anh, và nhiều nữa."

"Cảm ơn anh," tôi đáp, kéo lại chiếc áo. "Nhưng em có việc mất rồi." Tôi không nói thêm là những việc của tôi có liên quan đến anh ta theo một cách nhã nhặn nhất.

"Thế thì tối mai nhé," anh ta nói, vẫn nắm lấy áo khoác của tôi.

"Anh nghe này," tôi nói. "Em không được đi chơi vào buổi tối những ngày thường."

Tất nhiên điều này không đúng. Trừ cái thực tế là có vài lần cảnh sát dẫn độ tôi về nhà, còn lại thì mẹ hoàn toàn tin tưởng tôi. Nếu tôi muốn đi chơi với một anh chàng vào buổi tối những ngày thường, mẹ sẽ cho phép. Vấn đề là, chuyện này chưa từng xảy ra, chưa có một anh chàng nào mời tôi đi chơi hết, kể cả vào ngày thường hay bất kỳ ngày nào khác.

Tôi đâu phải là đứa không ra gì. Ý tôi là, tôi không phải Cindy Crawford, nhưng cũng không phải đứa hạ dân. Tôi nghĩ vấn đề thực sự là ở chỗ, ở trường cũ, tôi toàn bị coi là một đứa quái đản. Đứa con gái toàn mất thời gian nói chuyện với chính mình và gặp rắc rối với cảnh sát.

Đừng giận nếu tôi nói thế này. Thỉnh thoảng khi có mấy tên con trai mới chuyển đến, chúng có vẻ để ý đến tôi... nhưng chỉ đến khi có ai đó quen tôi làm cho chúng mở mắt ra thôi. Rồi chúng sẽ tránh tôi như tránh một thứ bệnh dịch hay gì đó.

Bọn con trai ở East Coast. Chúng thì biết gì chứ?

Nhưng giờ tôi có cơ hội bắt đầu lại từ đầu, với những đứa con trai chẳng biết gì về những chuyện trong quá khứ của tôi - hừm, trừ có Ngái Ngủ và Ngu Ngơ, và tôi không tin là họ sẽ nói ra, bởi chẳng ai trong 2 người đó là người mà bạn có thể nói là... biết sử dụng từ ngữ cả.

Hiển nhiên là chẳng ai trong số 2 người đó đã nói cho Bryce, vì những từ cuối cùng anh ta nói ra là: "Vậy cuối tuần này nhé. Em định làm gì vào tối thứ Bảy?"

Tôi không chắc đấy là ý hay khi hẹn hò với một tên con trai có cô bạn gái đã chết đang nhăm nhăm cố sát hại anh ta. Tôi muốn nói là, nếu cô ta phát hiện ra và xử tôi về tội đó thì sao nhỉ? Tôi chắc chắn rằng Cha Dominic sẽ nghĩ là chuyện này không ổn cho lắm, việc tôi đi chơi với Bryce ấy mà.

Nhưng mà này, một đứa con gái như tôi đây được một anh chàng cực kỳ nổi như Bryce Martinson mời đi chơi, chuyện này có phải thường xuyên xảy ra đâu nhỉ?

"Vâng," tôi nói. "Vậy thì thứ Bảy. Đón em lúc 7 giờ nhé?"

Anh ta cười. Anh ta có hàm răng thật đẹp, trắng và đều tăm tắp. "7 giờ," anh ta nói và buông áo khoác của tôi ra. "Hẹn gặp em vào hôm đó. Nếu như không phải sớm hơn."

"Tạm biệt." Tôi vẫn đứng đó, tay đặt trên cửa lớp học hình học của xơ Mary Catherine. "À, Bryce này."

Anh ta bắt đầu đi về phía lớp học. "Ừ?"

"Cẩn thận nhé."

Tôi nghĩ là anh ta nháy mắt với tôi, nhưng trong bóng tối thì cũng khó nói chắc cho lắm.

(hết chương 8)

Chương 9

Khi tôi leo lên chiếc Rambler vào cuối ngày, Tiến Sỹ tấn công tôi. "Mọi người đều đang bàn tán về chuyện đấy!" nó gào lên, nhảy loi choi trên ghế. "Ai ai cũng thấy hết! Chị đã cứu mạng anh ấy! Chị đã cứu Bryce Martinson!"

"Chị chẳng cứu sống anh ta," tôi nói, bình thản xoay lại chiếc gương bên để ngắm lại mái tóc. Hoàn hảo. Những ngọn gió mang mùi muối chắc chắn cũng phải đồng tình.

"Chị đã làm vậy. Em trông thấy khúc gỗ to đùng đấy mà. Nếu nó mà rơi trúng đầu anh ấy thì anh ấy đã chết rồi! Chị đã cứu anh ấy! Đúng vậy đấy."

"Ờ." Tôi thoa chút son bóng lên môi. "Chắc vậy."

"Chúa ơi, chị mới đến trường Truyền Giáo được có một ngày, thế mà ngay lập tức trở thành người nổi nhất trường rồi cơ đấy!"

Tiến Sỹ hoàn toàn chẳng giữ được bản thân nữa. Đôi lúc tôi nghĩ chẳng biết có phải là do chất Ritalin không. Không phải tôi không thích thằng nhóc. Thực ra, tôi khoái nó nhất trong số mấy tên con trai của dượng Andy, điều đó cũng chẳng nói lên được gì nhiều nhặn lắm, nhưng đối với tôi thì tất cả mới chỉ có vậy. Đêm hôm trước, chính thằng nhóc mò sang phòng tôi trong khi tôi đang băn khoăn xem ngày mai mình mặc bộ quần áo nào đến trường, gương mặt thằng nhóc trông nhợt nhạt và nó hỏi tôi xem tôi có muốn đổi phòng với nó không.

Tôi nhìn nó cứ như thể nó không bình thường vậy. Tiến Sỹ có một căn phòng khá đẹp, nhưng chỉ có thế thôi, cho tôi xin đi. Từ bỏ phòng tắm riêng và cảnh biển ấy à? Không đời nào nhé. Không, kể cả khi điều đó cũng có nghĩa là tôi thoát khỏi tên cùng phòng bất đắc dĩ, Jesse ấy, cái kẻ mà tôi không còn thấy bóng dáng đâu kể từ khi bị tôi đuổi cổ ra ngoài.

"Lý do quái gì mà em nghĩ là chị lại muốn đổi phòng chứ hả?" Tôi hỏi.

Tiến Sỹ nhún vai. "Chỉ là... ờ...căn phòng này có vẻ kỳ quái, chị có thấy thế không?"

Tôi nhìn nó chằm chằm. Bạn phải trông thấy phòng tôi lúc ấy cơ. Chiếc đèn bên cạnh giường đang bật, toả ánh sáng hồng lên khắp mọi nơi, chiếc CD player đang phát nhạc của Janet Jackson - đủ lớn để khiến mẹ phải gào lên đến 2 lần, bắt tôi vặn nhỏ xuống - thế mà có người lại dám gọi phòng tôi là kỳ quái cơ đấy. "Kỳ quái ấy hả?" tôi gào lên, nhìn khắp phòng. Không có dấu hiệu nào của Jesse. Không có dấu hiệu nào của bất kỳ con ma nào hết. Chắc chắn là mọi thứ hoàn toàn bình thường. "Kỳ quái chỗ nào cơ chứ?"

Tiên Sỹ cắn môi. "Đừng nói với bố em nhé," nó nói, "nhưng em đã tìm hiểu rất nhiều về ngôi nhà này, và đi đến một kết luận - khá chắc chắn - là nó đã bị ma ám."

Tôi chớp mắt nhìn gương mặt nhỏ nhắn đầy tàn nhang, nhận ra rằng thằng nhóc đang nói nghiêm chỉnh. Rất nghiêm chỉnh, lời tiếp theo của nó chứng tỏ điều đó.

"Mặc dù các nhà khoa học hiện đại đã khám phá được phần lớn những cái được gọi là hiện tượng siêu nhiên trên đất nước này, còn có rất nhiều những bằng chứng chứng tỏ rằng trên đời vẫn còn tồn tại những hiện tượng ma quái. Nghiên cứu của riêng em về ngôi nhà cho đến nay chưa đầy đủ để chứng tỏ rằng có sự tồn tại của linh hồn, ví dụ như cái gọi là vùng lạnh lẽo (*). Nhưng dù gì đi chăng nữa, thì chắc chắn là có sự thay đổi bất thường nhiệt độ trong căn phòng này, chị Suze ạ, và nó khiến cho em tin rằng nơi này có lẽ chịu ít nhất là một phạm vi ảnh hưởng của bạo lực dã man - thậm chí có thể còn là một vụ giết người nữa - và rằng những tàn dư của nạn nhân - hay chị gọi là linh hồn cũng được - vẫn còn lảng vảng ở đấy, có lẽ đang chờ mong trong vô vọng để tìm lại công lý cho cái chết yểu của mình."

Tôi phải dựa hẳn vào một cái cột giường, nếu không thì chẳng lăn đùng ra mất thôi. "Giời," tôi nói, cố gắng giữ cho giọng mình bình thường. "Cách hay để làm cho con gái thấy thoải mái đấy nhỉ?"

(cont.)

***

Chú thích tí teo: Vùng lạnh lẽo (Cold spot): những nơi có nhiệt độ thấp hay giảm đột ngột mà không giải thích được, thường được cho là do những hiện tượng siêu tự nhiên gây nên.

Tiến Sỹ trông có vẻ bối rối. "Em xin lỗi," nó nói, tai bắt đầu chuyển sang đỏ. "Lẽ ra em không nên nói gì hết thì hơn. Em có kể với Jake và Brad, họ bảo em bị thần kinh. Có lẽ đúng thế thật." Nó thở dài đầy can đảm. "Nhưng em nghĩ, là một người đàn ông, em có trách nhiệm đề nghị đổi phòng cho chị. Chị thấy đấy, em chả sợ gì hết."

Tôi mỉm cười với thằng bé, cơn sốc vừa qua bỗng chốc trào dâng thành một tình cảm yêu thương vô bờ bến. Thằng bé thực sự làm cho tôi xúc động. Bạn có thể thấy nó đã phải lấy hết can đảm để đưa ra lời đề nghị đó. Nó thực sự, thực sự tin rằng căn phòng của tôi bị ma ám, bất chấp tất cả những hiểu biết về khoa học nó có, thằng bé sẵn sàng chấp nhận hi sinh bản thân mình vì tôi, hơn cả một tấm lòng hào hiệp bẩm sinh. Bạn cũng sẽ yêu quý thằng bé cho mà xem. Chắc chắn là như vậy.

"Được rồi, Tiến Sỹ à," tôi nói, một cơn sóng uỷ mị trào dâng khiến tôi quên mất, gọi béng thằng bé bằng cái tên riêng tôi tự đặt cho nó. "Chắc là chị cũng xử lý tốt bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào diễn ra quanh đây thôi."

Nó có vẻ không bận tâm lắm đến cái tên đó. Nó nói, rõ ràng là nhẹ nhõm hẳn: "Vâng, nếu chị thực sự không thấy có vấn đề gì - "

"Không, không sao đâu mà. Nhưng chị muốn hỏi em một câu," tôi hạ giọng xuống, đề phòng trường hợp Jesse còn lảng vảng đâu đó. "Trong khi tìm hiểu, em đã khám phá được tên của cái kẻ đáng thương mà hồn của hắn đang ở chung phòng với chị chưa?"

Tiến Sỹ lắc đầu. "Thật ra, chắc chắn là em có thể tìm được để nói cho chị biết nếu chị thực sự muốn. Em có thể lục lọi trong thư viện. Ở đó người ta giữ tất cả báo chí trong vùng kể từ khi xuất bản tờ đầu tiên, không lâu sau khi ngôi nhà này được xây. Chúng ở dạng phim, nhưng chắc chắn nếu em có thời gian tìm thì -"

Có vẻ hơi buồn cười khi một đứa trẻ con dành toàn bộ thời gian lục lọi trong cái tầng hầm thư viện tối mù để tìm những tấm phim chụp, thế mà chỉ cách đó có 1, 2 toà nhà thôi lại là một bãi biển tuyệt đẹp. Nhưng mà này, nó tự chọn đấy chứ.

Thế nhưng "Tuyệt cú mèo," tôi lại đáp vậy đấy.

Giờ tôi có thể thấy rằng việc Tiến Sỹ yêu mến tôi có nguy cơ trở nên quá đà. Trước tiên tôi tình chuyện ở trong một căn phòng bị đồn là ma ám, rồi tôi đến trường và cứu mạng Bryce Martinson. Tiếp theo là gì nữa đây?

"Nghe này," tôi nói trong khi Ngái Ngủ đang vật lộn với cái khoá xe mà rõ ràng là không có vẻ gì là hoạt động sau lần thử đầu tiên. "Chị chỉ làm cái điều mà ai cũng làm nếu có đứng gần đó thôi mà."

"Anh Brad cũng đứng ngay gần đó," Tiến Sỹ nói, "nhưng anh ấy có làm gì đâu?"

Ngu Ngơ nói: "Vì Chúa, anh không trông thấy cái khúc gỗ ngu ngốc đó, được chưa? Nếu nhìn thấy thì anh cũng đã đẩy anh ta ra rồi. Khỉ ạ!"

"Ờ phải, nhưng mà anh có thấy đâu nào. Chắc là anh đang quá bận ngắm Kelly Prescott chứ gì?"

Câu này làm cho Tiến Sỹ ăn một cú vào cánh tay. "Im ngay, David," Ngu Ngơ nói. "Em thì biết cóc gì."

"Tất cả tụi bây im đi thì có," Ngái Ngủ nói, gắt gỏng bất thường. "Nếu tụi bây không làm cho tao mất tập trung nãy giờ thì cái xe chết tiệt này đã khởi động được rồi. Brad, thôi đánh David đi, David, đừng có hét vào tai anh nữa, còn Suze, nếu em không bỏ cái đầu vĩ đại ra khỏi cái gương thì anh sẽ không nhìn thấy ta đang đi đến cái chỗ quái nào hết đâu. Chết tiệt, không thể đợi đến khi mua con Camaro nữa!"

Điện thoại reng sau bữa tối. Mẹ phải gào to lên tận cầu thang tôi mới nghe thấy vì lúc đấy tôi đang đeo headphone. Dù là ngày đầu tiên của học kỳ mới nhưng tôi đã có hàng đống bài tập về nhà, nhất là môn Hình học. Ở trường cũ tôi mới học đến chương 12. Bọn học sinh năm thứ 2 trung học ở Trường Truyền Giáo thì đã học chương 12 rồi. Tôi biết nếu không cố mà theo thì toi đời là cái chắc.

Khi tôi xuống nghe điện, mẹ đã cực kỳ cáu tiết vì tội tôi bắt mẹ phải gào lên - mẹ phải giữ giọng để làm việc - đến nỗi mẹ chẳng thèm nói tôi biết ai đang đợi. Tôi nhấc ống nghe và nói: "Alô?"

Im lặng, rồi giọng Cha Dominic vang lên. "Alô, Susannah đấy à? Có phải con không? Ta xin lỗi vì làm phiền con ở nhà, nhưng ta đã suy nghĩ kỹ rồi và ta thực sự cho là - đúng thế, ta thực sự cho là chúng ta phải hành động ngay. Ta không thể không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra với Bryce tội nghiệp nếu con không có ở đó."

Tôi liếc ra đằng sau. Ngu Ngơ đang chơi Coolboarders với bố - người duy nhất trong nhà nhường cậu ta phần thắng - mẹ tôi đang làm việc với máy tính, Ngái Ngủ thì đi làm thay cho người giao pizza nào đó mới gọi điện báo bị ốm, còn Tiến Sỹ thì đang ngôi trong phòng ăn nghiên cứu đề tài khoa học nộp vào tận tháng Tư.

"À," tôi nói. "Thưa Cha, con không thể nói chuyện ngay lúc này được."

"Ta biết," Cha Dom nói. "Đừng lo - ta đã nhờ một bà xơ bảo rằng muốn nói chuyện với con. Mẹ con nghĩ chỉ là một người bạn mới ở trường thôi. Nhưng cái quan trọng là, Susannah à, chúng ta phải làm một điều gì đó thôi, và ta nghĩ là nên làm vào tối nay - "

"Cha này," tôi nói. "Cha đừng lo chuyện đó. Con thu xếp xong xuôi hết rồi."

Giọng Cha Dom đầy ngạc nhiên. "Thế à? Thật thế à? Cách nào? Con làm cách nào để mọi thứ ổn thoả?"

"Cha đừng bận tâm. Nhưng con lo xong rồi. Mọi thứ rồi sẽ ổn cả thôi. Con hứa đấy."

"Ờ, phải, thật tốt khi hứa mọi chuyện sẽ ổn thôi, nhưng ta thấy con hành động thế nào rồi, Susannah ạ, và ta không thể nói là ta rất ấn tượng với cách con làm được đâu. Tháng nữa là Giám mục đến rồi, ta không thể -"

Cuộc gọi chờ đột ngột reo. Tôi nói, "Cha chờ một tí. Con có một cuộc gọi khác nữa." Tôi chuyển máy và nói: "Gia đình Ackerman và Simon đây."

"Suze đấy à?" Giọng con trai mà tôi chẳng nhận ra.

"Vâng..."

"A, chào em. Anh Bryce đây. Thế nào. Mọi chuyện sao rồi?"

Tôi nhìn mẹ. Mẹ đang cau mày trước câu chuyện đang đọc. "À," tôi nói. "Không có gì nhiều nhặn đâu. Anh chờ một lát được không Bryce? Em đang nói chuyện với một người nữa ở đường dây khác."

"Không sao," Bryce đáp.

Tôi chuyển sang đường dây nói chuyện với Cha Dominic. "Xin chào," tôi nói, cẩn thận không nói tên. "Con phải cúp máy. Mẹ có một vị khách rất quan trọng đang chờ nói chuyện. Một Thượng nghị sĩ. Thượng nghị sỹ quốc gia." Chắc tôi phải xuống địa ngục vì nói thế - nếu quả thực có cái nơi đó - nhưng tôi cũng không thể nói với Cha Dominic một sự thật: tôi đang hẹn hò với bạn trai cũ của con ma.

"Ờ, không sao," Cha Dominic nói. "Ta - ờ, nếu con đã có kế hoạch rồi - "

"Con có mà. Cha đừng lo. Không có chuyện gì phá hỏng cuộc viếng thăm của giám mục được đâu. Chào Cha." Tôi tắt và chuyển sang đường dây với Bryce. "À, chào anh. Em xin lỗi bắt anh đợi. Có việc gì thế ạ?"

"À, không có gì đâu. Anh chỉ nghĩ về em thôi mà. Em muốn làm gì vào thứ 7? Anh muốn hỏi là, em muốn đi ăn tối hay xem phim, hay là cả hai?"

Lại có một cuộc gọi khác. Tôi nói, "Bryce, em rất xin lỗi, nhiều người gọi quá, anh chờ một lát nhé. Cảm ơn anh. Alô?"

Một giọng con gái tôi chưa từng nghe bao giờ. "Xin chào, có phải Suze đấy không?"

"Tôi đây."

"A, chào Suze. Mình là Kelly đây. Kelly Prescott cùng lớp điểm danh ấy mà. Này, mình muốn nói với cậu là - việc cậu làm hôm nay với Bryce thật có nghĩa khí. Ý mình muốn nói là, trong đời mình chưa từng thấy hành động nào dũng cảm đến thế. Lẽ ra người ta phải đưa tin về cậu rồi chứ. Nhân tiện, thứ 7 này mình có một vụ tụ tập nho nhỏ - không có gì nhiều nhặn đâu, chỉ là tiệc ở bể bơi thôi mà, bố mẹ mình sẽ đi vắng, nhà mình lại có bể bơi nước nóng - thế nên nếu cậu muốn thì cậu ghé qua chơi nhé."

Tôi đứng như trời trồng ở đó, tay cầm điện thoại. Kelly Prescott, đứa con gái giàu nhất, xinh nhất trong số bọn năm 2 mời tôi đến bữa tiệc bể bơi vào buổi tối cái ngày tôi đi chơi cùng với anh chàng hấp dẫn nhất trường, người tình cờ cũng đang ở một đường dây khác.

"Ừ, chắc chắn rồi Kelly à," tôi nói. "Mình thích lắm. Mà Brad có biết chỗ không nhỉ?"

"Brad nào?" Kelly hỏi. Rồi sau đó: "À, Brad. Phải rồi, cậu ta là anh em con dượng của cậu hay gì đó, phải không nhỉ? Ờ, được, cứ rủ cậu ta. Nghe này - "

"Mình muốn nói chuyện lắm, Kelly ạ, nhưng có người đang chờ ở đường dây khác. Ngày mai mình nói chuyện với cậu ở trường nhé?"

"Ồ, được chứ. Bye."

Tôi chuyển về Brad, bảo anh ta chờ thêm một tí, lấy tay che ống nói và hét lên: "Này Brad, thứ 7 này tiệc bể bơi nhà Kelly nhá. Có đi thì đi."

Ngu Ngơ đánh rơi luôn cái điều khiển. "Không phải thế chứ!" cậu ta hét lên sung sướng. "Không thể có chuyện quái đó chứ!"

"Này!" dượng Andy cốc đầu cậu ta. "Ăn nói cẩn thận."

Tôi quay lại với Bryce. "Đi ăn tối cũng tuyệt," tôi nói. "Gì cũng được trừ thực phẩm tự nhiên."

Bryce nói: "Hay quá! Anh cũng ghét đồ ăn tự nhiên. Chả có cái gọi là thịt ngon, em biết đấy, với một ít khoai tây, một ít nước thịt - "

"Ờ, phải. Bryce này, em lại có cuộc gọi chờ, em rất xin lỗi nhưng em không thể nói chuyện được. Mai em sẽ nói chuyện với anh ở trường."

"Ờ, được thôi." Bryce có vẻ hơi sững sờ. Tôi đoán mình là đứa con gái đầu tiên trả lời các cuộc gọi chờ trong khi đang nói chuyện với anh ta. "Tạm biệt Suze. Và, ờ, cảm ơn em một lần nữa."

"Không có gì đâu ạ." Tôi ấn nút nhận cuộc gọi.

"Alô?"

"Suze! Cee Cee đây!"

Và tôi nghe thấy tiếng Adam hét kèm: "Cả tớ nữa!"

"Này bồ tèo," Cee Cee nói, "bọn mình sắp đến Clutch. Muốn bọn này đón không? Adam có bằng lái rồi đấy."

"Mình có quyền hợp pháp rồi!" Adam hét vào cái điện thoại.

"Clutch ấy à?"

"Ừ, quán café Clutch, trên phố ấy mà. Cậu uống được café, đúng không? Ý mình là, cậu là dân New York đúng không?"

Tôi phải nghĩ cái đã. "À, ờ. Vấn đề là - mình có việc mất rồi."

"Ôi, thôi đi mà. Cậu định làm gì chứ? Giặt quần áo chắc? Mình muốn nói là, cậu là người hùng vĩ đại và có lẽ chẳng có thời gian đâu cho lũ thảo dân như bọn mình - nhưng mà -"

"Mình vừa mới viết xong bài luận cả ngàn từ về trận chiến Bladensburg cho thầy Walden," tôi đáp. "Mà mình còn có cả đống bài toán Hình phải làm nếu muốn theo kịp lũ thiên tài các cậu đấy."

"Ôi, giời ạ," Cee Cee nói. "Được rồi. Nhưng phải hứa trưa mai cậu ngồi ăn cùng với bọn này đấy nhé. Bọn này muốn nghe cậu kể chuyện cậu áp sát vào người Bryce ra sao, cậu cảm thấy thế nào, tất tần tật."

"Mình không muốn nghe đâu đấy!" Adam tuyên bố, có vẻ kinh hoàng.

"Được thôi," Cee Cee đáp. "Thế thì mình muốn nghe hết."

Tôi xoa dịu cô nàng và nói rằng tôi sẽ không hé răng gì hết và cúp máy. Rồi tôi liếc xuống cái máy điện thoại. Nó không kêu nữa, thật nhẹ cả người. Tôi vẫn không thể tin nổi. Chưa bao giờ trong đời tôi lại nổi tiếng đến thế. Thật là quái dị.

Tất nhiên là tôi nói dối về đống bài tập. Bài luận tôi xong rồi, mà tôi cũng đã xem xong hai chương của môn Hình - tất cả xong trong một tối. Sự thật là, tôi có một việc nhỏ cần làm, và tôi đã chuẩn bị được tí chút rồi.

Làm một người giao tiếp với hồn ma thì cũng chẳng cần nhiều đồ cho lắm. Ý tôi là mấy thứ kiểu như thánh giá hay nước thánh thì chắc là cũng cần phải có để giết một con ma cà rồng - và có thể nói ngay với bạn là chưa bao giờ trong đời tôi gặp một con ma cà rồng nào hết, thế mà tôi từng dành vô khối thời gian lang thang trong nghĩa địa đấy - nhưng đối với bọn ma thì phải tuỳ cơ mà ứng biến thôi.

Đôi khi, để công việc được suôn sẻ, bạn phải biết đập phá và đột nhập nữa kìa. Thế thì sẽ cần vài dụng cụ. Tôi thực lòng khuyên bạn nên dùng những thứ có sẵn ngay tại trận để khỏi phải mang vác lỉnh kỉnh. Nhưng tôi cũng phải có cái đai dụng cụ để dắt lưng sẵn đèn pin, vài cái tuốc nơ vít, vài cái kìm, và mấy thứ khác nữa, cái đai ấy tôi đeo ngoài quần legging đen. Lúc đấy khoảng nửa đêm, tôi đang thắt chặt cái đai quanh mình, yên chí là mọi người trong nhà đã ngủ hết, kể cả Ngái Ngủ - từ quán pizza trở về nhà khoảng lúc 10 giờ - khoác lên mình chiếc áo da đen thì có một chuyến viếng thăm của người quen cũ - bạn-biết-là-kẻ-nào-đấy.

"Giời ạ," tôi nói khi liếc thấy hình ảnh anh ta phía sau tôi phản chiếu trong cái gương tôi đang soi để sửa soạn. Xin thề, dù tôi đã gặp ma được nhiều năm rồi nhưng mỗi khi có một con hiện ra ngay trước mặt, tôi vẫn cứ thấy hoảng như thường. Tôi quay lại, bực mình không phải vì chuyện anh ta dám ở trong phòng mà vì anh ta bất thình lình hiện ra khi tôi đang không đề phòng. "Sao anh còn lảng vảng quanh đây? Tôi tưởng là bảo anh biến đi chỗ khác rồi chứ?"

Jesse đang đứng dựa vào cột giường của tôi một cách hết sức thoải mái. Đôi mắt đen sẫm của anh ta soi tôi từ đầu đến chân. "Cô không thấy là bây giờ hơi muộn cho một cuộc dạo chơi sao, Susannah?" anh ta hỏi một cách tự nhiên như thể chúng tôi đang nói dở dang cái chuyện... oh, tôi cũng chẳng biết nữa, về Luật Nô lệ Bỏ trốn, cái luật có hiệu lực vào khoảng thời gian anh ta chết chẳng hạn.

"Ờ," tôi đáp, kéo mũ áo xuống. "Nghe này, không có ý xúc phạm đâu Jesse, nhưng đây là phòng tôi. Sao anh không biến đi? Và đừng có dí mũi vào việc của tôi nữa, được không?"

Jesse không động đậy. "Mẹ cô sẽ không thích chuyện cô đi tối thế này đâu."

"Mẹ của tôi." Tôi lườm anh ta. Chính xác hơn là ngước lên lườm anh ta. Anh ta rõ ràng là quá cao đối với một người đã chết. "Anh thì biết gì về mẹ tôi chứ?"

"Tôi rất quý mẹ cô," Jesse bình thản nói. "Bà ấy là người phụ nữ tốt. Cô thật may mắn có một người mẹ yêu thương mình đến thế. Bà sẽ buồn lo lắm nếu biết cô tự dấn thân vào chỗ nguy hiểm."

Chốn nguy hiểm. Phải! "Ờ, thế này nhé, tin nhanh cho anh nè Jesse. Chuyện tôi lẻn ra ngoài vào buổi tối có từ lâu lắm rồi, và mẹ tôi chưa từng nói một câu nào hết. Mẹ biết tôi có thể tự lo cho bản thân được rồi."

Thôi được, nói dối đấy, nhưng mà này, anh ta biết làm sao được cơ chứ?

"Cô có thể tự lo cho bản thân?" Jesse nhướn một bên chân mày đen, nghi hoặc. Tôi không thể không trông thấy có một vết sẹo vắt ngang qua bên lông mày ấy, như thể từng có người dùng dao rạch một đường lên mặt Jesse vậy. Tôi khá hiểu cảm giác đó. Nhất là khi anh ta bật ra tiếng cười khúc khích và nói: "Tôi không nghĩ thế đâu, bé cưng ạ. Không phải trong trường hợp này."

Tôi giơ cả hai tay lên. "Được rồi. Một: đừng có gọi tôi bằng tiếng Tây Ban Nha. Hai: anh đâu biết tôi sắp đi đâu, thế nên tránh đường ra."

"Thế mà tôi lại biết cô sắp đi đâu đấy, Susannah ạ. Cô sắp đến trường để nói chuyện phải trái với đứa con gái đang cố giết anh chàng đó, cái anh mà cô có vẻ... thinh thích ấy. Nhưng phải nói cho cô hay, bé cưng ạ, mình cô không đấu lại được với cô ta đâu. Nếu nhất định muốn đi, cô nên nhờ ông linh mục đi cùng."

Tôi trừng mắt nhìn anh ta. Tôi có cảm giác mắt mình sắp lồi cả ra ngoài, nhưng tôi thực sự không thể tin nổi cái điều này. "Cái gì cơ?"Tôi lắp bắp. "Làm thế nào anh biết những chuyện đó? Anh đang... đang do thám tôi đấy hả?"

***

Chú thích tí teo: "bé cưng" ở đây là Jesse nói bằng tiếng Tây Ban Nha, anh chàng này trêu rõ tức cả mình!!!

Thấy vẻ mặt tôi thì chắc anh ta nhận ra là mình đã nói nhầm điều không nên nói, vì anh ta đứng hẳn dậy và nói: "Tôi chẳng biết cái từ đó nghĩa là gì, do thám ấy. Tất cả những gì tôi biết là cô đang dấn thân vào chỗ nguy hiểm đấy."

"Anh đã theo dõi tôi," tôi nói, chọc ngón tay vào anh ta như kết tội. "Đúng thế không? Chúa ơi, Jesse, tôi vừa mới có một ông anh rồi, cảm ơn anh cả đống luôn. Tôi không cần anh cứ loanh quanh theo dõi đâu -"

"Ồ phải," Jesse đáp, đầy mỉa mai. "Anh cô quan tâm đến cô nhiều lắm đấy. Gần đến mức nhiều như quan tâm đến giấc ngủ của anh ta vậy."

"Này!" tôi nói, thật kì quái, tôi đang bênh Ngái Ngủ cơ đấy. "Anh ấy đi làm buổi tối, thế được chưa? Anh ấy đang để dành tiền mua chiếc Camaro."

Jesse làm một cử chỉ mà tôi dám chắc rằng đó là một cử chỉ thô thỗ vào những năm 1850. "Cô," anh ta nói, "sẽ không đi đâu hết."

"Ô, thế à?" Tôi quay gót và vù ra cửa. "Cứ thử ngăn tôi xem nào, cái đồ chết rồi kia."

Anh ta làm được đấy. Cái chốt bật ngay vào vị trí lúc tay tôi đặt trên nắm đấm cửa. Trước đó tôi còn chẳng biết là cửa phòng tôi có ổ khoá - chắc chắn là cái ổ khoá này xưa lắm rồi. Có Chúa mới biết, chìa khoá hẳn bị mất từ lâu rồi.

Tôi đứng đó khoảng nửa phút, cứ nhìn chằm chằm vào bàn tay đang kéo cái nắm đấm cửa một cách vô ích. Rồi tôi hít một hơi dài, theo cách mà bác sỹ trị liệu của mẹ tôi đã khuyên. Bà ấy hẳn không có ý bảo tôi làm như vậy khi phải đương đầu với một con ma đi theo dõi, mà là nói chung khi nào tôi cảm thấy stress.

Nhưng việc này có tác dụng. Thực sự có tác dụng.

"Thôi được rồi," tôi nói, quay lại. "Jesse. Như thế này không ổn."

Jesse trông có vẻ khá khó chịu. Khi nhìn anh ta, tôi biết ngay rằng anh ta không thích cái việc mình vừa làm cho lắm. Cho dù trước đây anh ta bị giết thì cũng không phải bởi anh ta vốn là người tàn ác bẩm sinh, hay thích thú cái việc làm tổn thương người khác. Anh ta là người tốt. Hay ít nhất thì anh ta đang cố làm một người tốt.

"Tôi không thể," anh ta nói. "Susannah. Đừng đi. Người đàn bà đó - cô gái đó, Heather ấy mà. Cô ta không giống với bất kỳ linh hồn nào cô từng gặp trước đây đâu. Lòng cô ta tràn ngập hận thù. Cô ta sẽ giết cô nếu có thể."

Tôi mỉm cười khích lệ. "Thế thì chỉ tôi mới có thể giải quyết được cô ta, đúng không? Thôi nào, mở cửa đi."

Anh ta do dự. Trong một giây, tôi nghĩ anh ta sẽ mở. Nhưng cuối cùng thì lại không mở. Anh ta cứ đứng đó, có vẻ khó chịu... nhưng cương quyết.

"Mặc kệ anh," tôi nói, vòng qua anh ta, thẳng hướng về phía chiếc cửa sổ. Tôi đặt 1 chân lên chiếc ghế dượng Andy đã làm cho tôi, dễ dàng nhấc cánh cửa giữa lên. Còn 1 chân nữa chưa qua thì tôi cảm thấy bàn tay anh ta nắm lấy cổ tay tôi.

Tôi quay lại nhìn anh ta. Tôi không thể thấy gương mặt anh ta vì sấp bóng ánh đèn, nhưng có thể nghe tiếng anh ta đủ rõ, tiếng nói nhỏ nhẹ.

"Susannah," anh ta nói.

Vậy đấy. Chỉ mỗi tên tôi.

Tôi không nói gì cả. Có lẽ là không thể. Ý tôi là - không phải có cái gì đó đang làm họng tôi nghẹn lại. Chỉ là tôi... tôi cũng chẳng rõ nữa.

Thay vì vậy, tôi liếc xuống bàn tay anh ta, bàn tay rất lớn, nâu, ngay cả khi trái ngược với màu áo da đen của tôi. Cái nắm tay của anh ta quá chặt đối với một người đã chết. Hay ngay cả với một người còn sống nhăn. Anh ta thấy tôi liếc xuống và nhìn về hướng tôi nhìn, thấy bàn tay mình đang nắm chặt lấy cổ tay tôi.

Anh ta buông tay tôi ra như thể da tôi đột nhiên bắt đầu phồng rộp lên hay gì đó. Tôi trèo ra ngoài cửa sổ xong. Khi leo hết mái hiên và nhảy xuống đất, tôi quay lại ngước lên phía cửa sổ phòng mình.

Nhưng tất nhiên, anh ta đã đi rồi.

(hết chương 9)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#teen