Việt Bắc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kiến thức tham khảo bài Việt Bắc:
I. CÁC ĐỀ BÀI CƠ BẢN:
Đề 1: Tám câu thơ đầu:
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. "Việt Bắc" là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi "Việt Bắc" ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân li:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi mang âm hưởng ca dao, tình yêu: "Mình về mình có nhớ ta". "Mình về" là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. "Về" gợi đến sự chia li, đó là sự chia li của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì "mình" đứng ở đầu câu, còn "ta" đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa "ta" và "mình". Nỗi niềm gợi lên qua câu hỏi ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ "nhớ", nó làm cho "mình" và "ta" dường như được xích lại gần nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. "Mười lăm năm ấy" gợi đến một quãng thời gian khó khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm "thiết tha mặn nồng". Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong "mười lăm năm ấy" giữa "ta" và "mình". Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Đến câu thơ thứ ba cũng là một câu hỏi. Câu hỏi: "Mình về mình có nhớ không" cũng có sự lặp lại gần giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa "ta - mình" và nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới "ta", mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian "núi rừng" và "sông nguồn". Câu hỏi gợi về không gian có "núi", có "nguồn" ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi. Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động "nhìn" và "nhớ". Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa các hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu đạt trực tiếp qua động từ "nhớ" xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ "nhớ" xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng nhớ thương, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ở lại đặt ra câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động đến người ra đi: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". "Ai" là đại từ không xác định. "Ai" có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, quen thuộc với người ra đi - một con người cụ thể xuất hiện "bên cồn" trong buổi chia li. "Ai" có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động đến người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết - đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó dường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. "Trong dạ" thì "bâng khuâng" còn hành động bên ngoài biểu hiện sự "bồn chồn" thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong cảm xúc và hành động. Chính vì cảm xúc "bâng khuâng" thì mới có hành động "bồn chồn" đó được.
Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, quen thuộc thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh "áo chàm". Hơn thế nữa chiếc "áo chàm" gợi đến sắc màu bền bỉ khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm" dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...". Trước tiên là hành động "cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.

Đề 2: Nỗi nhớ về thiên nhiên, con người và cuộc sống Việt Bắc qua đoạn thơ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Tố Hữu, một cái tên không hề xa lạ với bạn đọc yêu thơ . Qủa thật là vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định Tố Hữu đã và sẽ luôn là ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hòa hợp giữa chất trữ tình và chính trị được ẩn hiện qua từng tác phẩm mà nổi bật nhất là bài Việt Bắc.Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của một người cán bộ vế xuôi với con người thiên nhiên Tây Bắc. Đoạn thơ sau đã thể hiện sự nhớ nhung của tác giả với cảnh, người cùng cuộc kháng chiến:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bàn khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cây ngọt bùi.”
     Việt Bắc là căn cứ cách Mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến chống pháp. Thiên nhiên và đồng bào Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15 năm trời. Bài thơ VIệT BắC được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, là lúc các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trởi về Hà Nội. Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân và cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chug của người cán bộ về xuôi với Việt Bắc, với cuộc kháng chiến, với cách mạng. Đoạn trích trên nằm ở khổ ba của phần I bài thơ nói về những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người Việt Bắc.
     Một nỗi nhớ da diết, không nguôi được tác gỉa hình dung thật lạ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
     Một chữ “gì” hàm chứa biết bao điều, phải chăng đó chính là nỗi nhớ thiên nhiên, với nhân dân cùng quãng thời gian kháng chiến đầy ấp kỷ niệm. Nhớ “như nhớ người yêu”, hình ảnh so sánh thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dẳng triền miên, luôn thường trực trong tâm trí. Một khung cảnh hiện ra đã hoàn toàn khẳng định đối tượng được nhớ đến - Việt Bắc: ”Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” rồi sau đó là những hình ảnh miêu tả không gian thơ mộng đậm chất núi rừng Việt Bắc
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
     Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được liệt kê đến từng chi tiết. Rõ ràng tác giả vẫn nhớ rất rõ những kỷ niệm cùng khung cảnh Việt Bắc. “Người thương”, hai chữ thôi nhưng chứa đựng biết bao ân tình. Đây chính là những con người VIệT BắC đã cưu mang, che chở cho cán bộ trong suốt một quãng thời gian dài gian khó. “Bếp lửa” – hình ảnh của một gia đình ấm cúng thường thấy, Phải chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia đình thứ hai của mình.Vần chân “sương” và “người thương” làm cho giọng điệu câu văn trở nên da diết, diễn tả một nỗi nhớ bịnh rịnh, lưu luyến, không muốn rời xa. Vẫn tiếp tục là nỗi nhớ, nhưng dường như ngày càng sâu đậm hơn với những tên gọi địa danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trãi qua:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
     Dù là một nơi nhỏ trong chốn núi rừng Việt Bắc bao la, nhưng dường như trong ký ức của tác giả nó cũng trở nên quan trọng, không bao giờ có thể quên.Một sự khẳng định chắc chắn…không bao giờ có thể quên:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
     Dù bản thân có đi xa, dù có ở nơi chốn nào thì vẫn sẽ luôn nhớ về “mình”. Ngôn từ xưng hô thật giản dị mà thân thương. “Mình” cùng “ta” nào có thể quên được những “đắng cay ngọt bùi” đã trải qua. Hình ảnh ẩn dụ “đắng cay” chính là những khó nhọc, gian nan mà nhân dân cùng cán bộ đã phải trải qua trong suốt thời kỳ kháng chiến, còn niềm vui chiến thắng không gì khác chính là “ngọt bùi”. Từng nỗi nhớ như tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho một tình cảm sâu nặng tựa như nỗi tương tư đến “người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng khắc sâu hơn sự nhớ nhung ngghìn trùng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.
     Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.
     Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người Việt Nam trong kháng chiến. Với những câu thơ dạt dào cảm xúc, Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy Việt Bắc đã trở thành thành phần tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
    Bàn về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét "tình thương mến đặc biệt trong thơ Tố Hữu và sự cảm hòa với người với cảnh... một thứ nhạc xuân tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ". trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bằng làn khói sương hình ảnh con người tháng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Nối tiếp khúc ca nỗi nhớ cảnh thiên nhiên Việt Bắc, đoạn thơ tiếp theo là những tiếng nhớ tiếng thương hướng tới những đồng bào đã từng gắn bó sắt son. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thân thương mộc mạc cần thế kỷ niệm một thời không thể nào quên
    Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng năm khó khăn thiếu thốn cho trở nên thật ấm áp bởi sự đầy đủ của tình người tự sự sẻ chia bình dị, không phải là những điều lớn lao vĩ đại như tính mệnh, xương máu, mà chỉ là bát cơm, củ sắn, mảng chăn sơ sài nhưng đó lại là ân tình sâu nặng của con người nơi đây. Câu thơ vừa là một nét tả thực những khó khăn là người lính Việt Bắc gặp phải trên con đường chiến đấu, lại vừa làm nổi bật lên tình quân dân khăng khít. Vật chất thật ít ỏi, đơn sơ mà nghĩa tình thật sâu sắc, thiêng liêng. Tình đồng bào, đồng chí mà ấm áp thân thương như tình cảm gia đình ruột thịt. Giữa cán bộ và đồng bào dường như không còn khoảng cách nào nữa. Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có tính khái quát. Tất cả khẳng định sự đồng cam, cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc với những người chiến sĩ cách mạng.
    Trong nỗi nhớ tha thiết ý khi hướng về con người Việt Bắc, tiếng lòng của nhà thơ đến chạm tấm hình ảnh thân thuộc mà thiêng liêng - hình ảnh người mẹ tảo tần lam lũ với đức hi sinh cao cả:
"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô"
    Hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, địu con lên rẫy, cõng trên lưng cả mặt trời nắng cháy, bẻ từng bắp ngô nhọc nhằn, vất vả nuôi giấu cán bộ và dành cho cán bộ những gì đẹp nhất trong cuộc sống của mình. Hai chữ "cháy lưng" nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với người mẹ Việt Bắc. Hình ảnh người mẹ ấy bình dị gần gũi, mộc mạc trở đi trở lại trong các sáng tác của Tố Hữu với tiếng gọi "bầm" quen thuộc. Mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên không chỉ Tố Hữu là thơ ca Việt Nam đã nhiều lần thưởng thức cái bóng hình ấy:
"Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Con với mẹ không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi".
    Sau hình ảnh người mẹ trong dòng chảy ký ức của thi nhân dần vọng về những âm thanh quen thuộc của nhịp sống Việt Bắc:
"Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya thắp sáng những giờ liên hoan"
    Bức tranh cuộc sống Việt Bắc rộn rã âm thanh. Cán bộ cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng kháng chiến mà còn gieo chữ xuống bả, đem ánh sáng văn hóa xuống làng. Các lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ được mở ra khắp các bản làng. Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục chân trời tri thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể.
"Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"
    Tinh thần trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người."Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm, nện cối đều đều suối xa"
    Đọc hai câu thơ mà ta thấy văng vẳng đâu đây những khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu trở về trong niềm vui háo hức của đám trẻ mục đồng sau một ngày lao động hăng say. Âm thanh gợi một không gian êm ả, thanh bình. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơ rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ rứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Tất cả tạo nên một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc, là âm thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, một bài ca trong trẻo, tươi vui, mà không một cuộc sống khổ ải nào có thể dập tắt được.
    Khúc hát về nỗi nhớ con người Việt Bắc nói riêng và cả bài thơ nói chung đã ru vỗ hồn người bằng giai điệu ngọt ngào tha thiết. Đoạn thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian
Đề 3: Bức tranh tứ bình:
Bộ tranh tứ bình - bản tình ca trong tác phẩm VIỆT BẮC của nhà thơ Tố Hữu:
Ta về mình có nhớ ta
……………………..
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Sơ đồ minh họa:
Tình ca Việt Bắc - Hoa và Người
Bài làm
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Giữa trăm nghìn tình cảm nhớ thương tha thiết ấy, tác giả đặc biệt dành những cảm xúc đẹp nhất cho cảnh và người Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
Ta về mình cố nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Câu hỏi tu từ mình có nhớ ta vừa là lời đối thoại vừa là cái câu nối xuống câu dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng Người” . Từ xưa đến nay, trong văn chương nghê thuật, hoa và trăng là biểu tượng cho cái đẹp cua thiên nhiên tạo vật. Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Hoa ở bên người để người mang gương mặt sắc màu của hoa. Người bên hoa để cho hoa mang hồn người. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu sáu dành cho nhớ hoa, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Đọc đoạn thơ trên, chúng ta có cảm giác đoạn thơ được tác giả viết không hề trau chuốt mà như cứ tuôn chảy từ một tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ về xuôi. Qua đây mà cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt Bắc cứ lần lượt hiện lên có đủ bốn mùa trong năm, mỗi mùa có một màu sắc, âm thanh chủ đạo tạo thành một bộ tứ bình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức.
Ở đây ta thấy bức tranh mùa đông hiện về với màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, có điểm những bông chuối đỏ tươi như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức .tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của rừng, làm cho thiên nhiên Việt, Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến. “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hành và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trò thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Mùa đông qua đi thì mùa xuân lại về mang bao nhiêu điều tốt lành đến cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức sống âm thầm đang trỗi dậy.

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết cua hoa mơ nơ khắp rừng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng”, “trắng rừng” được viết theo phép đổi trật tự cú pháp và từ trắng được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Điều đó chứng tỏ đây là những giờ phút hoa mơ nở rộ nhất:
Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt (41)
Tráng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ
(Tố Hữu)
Nổi bật trên cái nền của hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công việc của mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công “nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Bức tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuối, màu xanh ngắt của rừng, màu trắng muốt của hoa mơ, mà còn có cả màu vàng rực của rừng phách đang đổ “ve kêu rừng phách đổ vàng”. “Đổ vàng” có nghĩa là chuyển sang màu vàng nhưng nhiều và đậm hơn gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; mà trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cùng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát an tình thủy chung
“Trăng rọi hòa bình” là ánh tráng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng đi qua những tháng ngày “mưa bom bão đạn”, đi qua bao đêm “vầng trăng” cũng “quầng lên một vầng lửa máu”, thì mới thấy hết sự xúc động của lòng người trong những đêm trăng hòa bình đó. Vì vậy tả cảnh trăng rừng mà không thấy vắng lặng, lanh lẽo; mà trái lại đã gợi lên không khí rạo rực đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng ấy, đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thủy chung của ai đó càng làm cho ánh trăng như sáng hơn và cùng lung linh, thắm đượm tình người Việt Bắc hơn.
Đây là đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất Việt Bắc. Đoạn thơ cũng thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình sâu lắng, tha thiết ân tình và mang đậm tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao, nhịp nhàng, uyển chuyển; câu nọ gọi câu kia, ý nọ gọi ý kia cứ tuôn trào lên dào dạt cảm xúc qua cách xưng hô Mình – Ta, một cách xưng hô truyền thống thắm thiết tình nghĩa. Nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cho cả đoạn thơ mang to hưởng bâng khuâng êm ái như một khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ cứ tâng dần làm cụ thể hơn tấm lòng của người ra đi đôi với cảnh và người Việt Bắc.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp vói nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gùi, thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
II. ĐỀ NÂNG CAO:

Đề 1. Cảm nhận vẻ đẹp bộ tranh tứ bình Việt Bắc qua đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ta…ân tình thuỷ chung” (Việt Bắc-Tố Hữu). Nhận xét về tính dân tộc được thể hiện trong đoạn thơ.
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
   Tương tự như các đề trước.
2. Nội dung cảm nhận
2.1. Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
         Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh vật – “ta về mình có nhớ ta”. Đây là câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Vẫn là cách xưng hô “mình – ta” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. “Ta – mình” còn gợi bao lời nồng nàn của ca dao tình yêu lứa đôi: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ” hay “Mình về mình nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Ths Phan Danh Hiếu. Nét đặc sắc của Tố Hữu là ở chỗ, viết về sự kiện lịch sử, về chuyện chính trị nhưng không hề khô khan, cứng nhắc. Đó là nhờ nhà thơ đã vận dụng sáng tạo hai đại từ nhân xưng “mình – ta” cũng như sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn. Chuyện chia tay của nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau vì nghĩa vụ cách mạng. Lời thơ vì thế trở nên dạt dào hương vị trữ tình.
         Câu thơ thứ hai như một lời khẳng định:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
         Hai câu thơ đầy ắp những “ta”, “mình”, những “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp điệp từ “ta” với âm “a” (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như vang vọng, mênh mang, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. “Hoa” cũng là cách nói hoán dụ cho ta cảm nhận: trong tâm hồn người ra đi thì ký ức còn lại là những ký ức rất đẹp. Còn “Người” là vẻ đẹp của con người lao động nơi đây. Chữ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo. Nó gợi lên nỗi nhớ lắng sâu da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Có lẽ vì vậy mà bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đan cài vào nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy.
Vào Youtube, gõ từ khóa “Văn học Online” và đăng ký kênh đó để được học văn miễn phí với thầy. Được các em đăng ký kênh và xem bài giảng. Thầy rất cảm ơn các em.
2.2. Mở đầu bộ tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
         Thế giới mùa đông thường gặp trong thơ ca kim cổ là thế giới của sự lạnh lẽo, u ám, buồn tẻ. Nhà thơ Việt Phương ghi lại những cảm nhận của mình thật tinh tế về mùa đông ấy như thế này:
“Mùa đông lạnh gió lùa qua khe cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
Có ai về tôi gửi áo len cho”
                 (Nhớ mùa đông Hà Nội)
         Nhưng thế giới mùa đông trong thơ Tố Hữu thì lại khác. Việt Bắc mùa đông lại vô cùng sống động, tốt tươi. Hai sắc màu “xanh – đỏ” tương phản, đối lập mà lại rất đỗi hài hòa. Hai chữ “rừng xanh” truyền thẳng đến người đọc hình ảnh màu xanh bạt ngàn mà trầm tĩnh của đại ngàn. Cánh rừng ấy vẫn xanh màu xanh của sự sốngchứ không phải là cánh rừng trơ cành, trụi lá, ảm đạm rét mướt thường thấy trong thơ ca viết về mùa đông.  Điểm xuyết trên nền xanh bát ngát, bao la của cánh rừng là màu “hoa chuối đỏ tươi” đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Trong nghệ thuật hội họa, xanh là gam màu lạnh; đỏ là gam màu nóng. Ở đây màu đỏ, lại là “đỏ tươi” khiến bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp, dạt dào sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng. Có nhà phê bình đã không tiếc lời ngợi ca: Tố Hữu giống như một nhà hội họa vậy, ông đã mang đến cho câu thơ một bức tranh sống động, hài hòa. Màu đỏ của hoa chuối giống như nét chấm phá trên thảm xanh của núi rừng. Từ xa nhìn tới, hoa chuối giống như những bó đuốc đỏ rực đang thắp sáng cả cánh rừng già làm bừng sáng cả mùa đông Việt Bắc.
         Giữa bao la nắng gió, giữa vô cùng thiên địa, con người lao động vùng chiến khu xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
         Ấy là con người lên núi làm nương, phát rẫy, sản xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt, dáng hình, mà chớp lấy một khoảnh khắc rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng gài ở thắt lưng làm con người hiện lên như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Tư thế ấy là tư thế của con người làm chủ: làm chủ tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình thế. Có thể nói, giữa hoang sơ tráng lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
2.3. Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa Đông thơ mộng, người đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt của hoa mơ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
         Mùa xuân là mùa của những loài hoa khoe sắc. Nếu người miền Nam đón xuân với sắc mai vàng rực rỡ, người Hà Nội rạo rực với sắc đỏ của hoa đào; thì Việt Bắc tự hào với sắc trắng của hoa mơ. Hoa mơ là linh hồn của mùa xuân nơi đây. Trong bài thơ “Theo chân bác”, Tố Hữu cũng đã từng viết về loài hoa ấy:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
         Và hôm nay, Việt Bắc lại vào xuân với “mơ nở trắng rừng”. Phép đảo ngữ “trắng rừng”, từ “trắng” là tính từ nhưng được dùng như động từ nên tạo ra cảm giác: cánh rừng như bừng sáng, nở rộ một màu trắng tinh khiết. Động từ “nở” nằm ở giữa câu, trước nó là sự định vị thời gian – “ngày xuân”; sau nó là định vị không gian – “trắng rừng”. Động từ “nở” và tính từ “trắng” kết hợp với nhau làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Hoa mơ như đang xòe ra, bung ra, mở ra – nở trắng cả thời gian “ngày xuân”, nở trắng cả không gian “trắng rừng”. Ths Phan Danh Hiếu. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, tinh khiết của hoa mơ. Màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng tạo nên bức tranh thơ lãng mạn mang đến cảm giác mơ màng, bâng khuâng.
         Thấp thoáng dưới cánh rừng xuân thơm mát bởi sắc trắng dịu mát tinh khiết của hoa mơ là hình ảnh con người lao động với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là công việc đan nón thủ công – một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con người lao động: cần mẫn, cẩn thận, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, trau chuốt… đó cũng chính là  phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ nơi đây. Màu nón trắng trên đôi tay tài hoa của người lao động hòa vào sắc trắng trong trẻo của hoa mơ dệt nên bức tranh xuân tràn trề nhựa sống. Ths Phan Danh Hiếu
2.4. Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
         Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè với hai ấn tượng: tiếng ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Chữ “đổ” đ¬ược dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện lên đồng thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động của sắc màu. Dường như khi tiếng ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng loạt chuyển sang màu vàng. Tài liệu thầy Phan Danh Hiếu. Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Ý thơ gợi nhớ một câu thơ của Khương Hữu Dụng: “một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Đó là nghệ thuật dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Nghệ thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà hiện lên tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như trong thơ ca cổ kim.
         Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một mình” giàu sức gợi. Nó vừa gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng năng, chịu thương chịu khó; vừa gợi nhớ ca dao: “trúc xinh trúc mọc đầu đình – em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ, niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ dành cho người em gái thương yêu. Phép điệp phụ âm “m” trong ba chữ “măng – một – mình” đi liền nhau tạo nên nhạc tính làm giọng thơ trở nên da diết bâng khuâng. Phan Danh Hiếu
2.5. Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
         Động từ “rọi” rất gợi. Mùa thu có ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng cánh rừng, từng bản làng Việt Bắc. Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình: mình về Hà Nội rồi, sống trong cuộc sống hòa bình đừng quên những năm tháng chiến tranh, ăn một miếng ngon đừng quên những tháng ngày khốn khó; sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược. Hãy luôn nhớ về cội nguồn kháng chiến – nơi núi rừng Việt Bắc mà ta đã cùng nhau đi qua bao cay đắng ngọt bùi. Có thể nói, bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
3. Đánh giá nhận xét:
         – Về nội dung: đoạn thơ là bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bức tranh thơ lãng mạn hài hòa, giàu sức sống. Mỗi bộ tranh là một thế giới sắc màu đẹp đẽ. Đoạn thơ mở đầu bằng mùa đông và kết thúc bằng mùa thu. Mùa đông là ẩn dụ cho buổi đầu của cách mạng với bao khó khăn, thử thách; mùa thu là mùa quả chín ngọt ngào gợi những âm vang chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và của trận Điện Biên – “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.
         – Tính dân tộc trong đoạn thơ: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau đi làm nghĩa vụ. Phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung, đoạn thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn vô hạn của cách mạng dành cho nhân dân. Về hình thức nghệ thuật, thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh. Sử dụng nhiều động từ giàu sức gợi. Điệp từ “nhớ” biến hóa linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (câu hỏi tu từ, liệt kê, ẩn dụ…). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu.
III. KẾT BÀI
Đề 2:
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và con người qua đoạn thơ bộ tranh tứ bình Việt Bắc (Việt Bắc – Tố Hữu). Qua đó nêu suy nghĩ về tình yêu quê hương của bản thân.
BÀI LÀM
Pauxtôpxki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp”. Quả đúng như thế, trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã mở đường đến với cái đẹp của bộ tranh tứ bình và cũng là mở đường đi tới tình yêu quê hương đất nước :
Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc với cảnh đẹp bốn mùa Xuân – Hạ Thu – Đông.
Hai câu thơ mở đầu mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ bâng khuâng thấm vào hồn người và cảnh vật. Vẫn là cách xưng hô “Ta – Mình” ngọt ngào trong ca dao gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Điệp từ “ta” được nhắc lại bốn lần cùng với từ “hoa” là âm “a” (âm mở) khiến cho dòng cảm xúc của người đi như bỗng trở nên mênh mang sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc còn “người” là vẻ đẹp của con người lao động Việt Bắc. Bốn cặp câu tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đều hài hòa trong những câu thơ đầy lãng mạn, trẻ trung của hồn thơ Tố Hữu. Nói “nhớ những hoa cùng người” phải chăng là nỗi nhớ trong nỗi niềm bâng khuâng, da diết cứ tuôn chảy khắp thiên nhiên, núi rừng chiến khu.
Bức tranh mùa đông mở ra thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy sức sống:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc vào tháng 10.1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa Đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Nhắc đến mùa đông người ta thường nghĩ đến cảnh rét mướt , lụi tàn, lòng người thì cô đơn, tiết trời thì u ám. Nhưng đến với mùa đông trong thơ Tố Hữu thì ngược lại, thiên nhiên ở đây lại giàu sức sống và ấm áp. Hai màu sắc đối lập mà hài hòa “xanh” – “đỏ tươi” mang đến bao cảm xúc. Màu xanh là màu của sự sống, màu của cánh rừng mùa đông tươi tốt chứ không hề tàn lụi. Hoa chuối “đỏ tươi” nở rộ lung linh dưới ánh mặt trời. Trong gam màu hội họa, màu đỏ là gam màu nóng, cho nên, chính nó cũng đã xua đi gam màu lạnh lẽo của rừng xanh mang đến sự ấm áp cho bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh màu đông càng sống động hơn bởi sự xuất hiện của con người, ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Con người tỏa sáng trong từng câu chữ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình thế với đôi cánh tay như hai cánh bay lên: “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta” (Nguyễn Đình Thi). Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi. Có thể nói, giữa hoang sơ tráng lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Bức tranh mùa xuân lan tỏa và bừng sáng một sức sống hoang dại và mãnh liệt của hoa mơ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Nếu như phương Nam nắng gió nổi tiếng với sắc vàng của hoa Mai, Hà Nội với màu đỏ của hoa đào thì Việt Bắc có đặc trưng riêng bởi màu trắng của hoa mơ. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng. Động từ “nở” nằm ở giữa câu làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Nở trắng cả thời gian “ngày xuân”, nở trắng cả không gian “trắng rừng”. Như vậy là màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón Bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Dưới bóng hoa mơ dịu mát, thấp thoáng hình ảnh con người lao động với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là công việc đan nón bằng thủ công, một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ nơi đây.
Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu thơ thứ nhất có hai hình ảnh: tiếng ve và hoa phách. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ. Hoa phách là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh bạt ngàn, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi bản đàn ve vừa dạo khúc đầu tiên của mùa hè thì những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Đặc biệt, câu thơ tựa như một bức sơn mài càng ngắm càng đẹp, càng ngắm càng say mê. Tranh mùa hè mà cứ cảm tưởng như màu vàng trong tranh của những danh họa phương Tây vẽ về mùa thu.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Trong thơ xưa, người phụ nữ miền sơn cước thường xuất hiện với những thân phận đau buồn hay sự cô đơn, hiu hắt:
Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi!
Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi
(Nguyễn Bính)
Trong thơ Tố Hữu, người em xuất hiện rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương. Hai chữ “một mình” mà vẫn không gợi lên cái cô đơn hiu hắt bởi cô đang làm bạn với thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ tự do. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả. Ba chữ “măng – một – mình” đi liền với nhau tạo nên nhạc tính làm giọng thơ trở nên da diết bâng khuâng. Người đi rồi mà dường như hồn còn lạc giữa bạt ngàn hoa phách. Và dường như, nhớ em, anh không chỉ nhớ trong quá khứ, trong hiện tại mà còn nhớ em trong cả tương lai nữa, vì mai về rồi lại thương em lẻ loi đơn chiếc một mình.
Khép lại bộ tranh tứ bình là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Có ai đó đã nói rằng: núi rừng Việt Bắc nhiều sắc hoa nhưng có loài hoa lạ “Hoa trăng”. Trăng đẹp nhất là trăng mùa thu. Có lẽ chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên và con người càng trở nên gần gũi, thân thương hơn bao giờ hết. Chữ “rọi” rất hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.
Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tình cảm, mang phong vị ca dao, dân ca đậm hồn dân tộc. Cách miêu tả giàu hình ảnh, sử dụng nhiều động từ và hình ảnh giàu tính biểu cảm. Phối màu sống động. Điệp từ nhớ biến hóa linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên: nhớ ta – ta nhớ những hoa cùng người; nhớ người đan nón – nhớ cô em gái – nhớ ai tiếng hát. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu.
Vâng! Bộ tranh tứ bình Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước. Nói về lòng yêu nước, nhà văn I-li-a Ê-ren-bua của nước Nga từng nói: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Đọc bộ tranh tứ bình của Việt Bắc lại càng yêu thương thấm thía hơn cảnh đẹp của quê hương đất nước mình trên khắp mọi nẻo đường quê. Yêu quê hương nào đâu chỉ là yêu văn hóa, yêu con người, yêu tiếng mẹ đẻ mà yêu quê hương, yêu đất nước mình còn là vì những cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp ấy. Tố Hữu đã mang vào tận tâm hồn ta vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp cho ta yêu những điều bình dị, thân thiết, gắn bó trong cuộc sống hằng ngày. Thiên nhiên đất nước ta thật đẹp thật hào hùng mà cũng thật lãng mạn biết bao. Đó là Lũng Cú đến mũi Cà Mau với chiều dài đất nước từ cực Bắc đến cực Nam, từ Tây sang Đông. Nơi có biết bao danh thắng thiên nhiên mà nhân dân đã góp công sức tạo thành. Những sông suối thiên nhiên chảy vào dòng sông thi ca lấp lánh bao vần thơ đẹp: sông Hương, sông Thu Bồn, sông Đà Rằng, sông Hồng “tiếng hát bốn ngàn năm”. Những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái… do tình yêu thủy chung của con người tạo nên. Cho đến cả những người dân bình dị cũng góp tuổi góp tên mình dựng xây nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
Trong không gian sinh tồn ấy, con người Việt Nam đã sinh sống và làm việc, cùng yêu thương, đoàn kết, chia bùi sẻ ngọt, cùng chống lại bao kẻ thù hung bạo để bảo vệ độc lập dân tộc. Con người Việt Nam thật đáng tự hào, họ là những con người “sống giản dị, chết bình tâm”. Thời chiến tranh quyết xông pha trận mạc, cái chết có hề chi dù “trăm thân phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa” . Thời bình, họ “cần cù làm lụng”, “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Đó là vẻ đẹp của lối sống yêu chuộng hòa bình, coi trọng danh dự, phẩm giá con người.
Ngày nay, sống trong thời bình nhưng chúng ta cũng không ngừng nâng cao cảnh giác trước những diễn biến hết sức phức tạp của khu vực và thế giới, nhất là cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu. Một cuộc chiến có thể xảy ra. Hơn bao giờ hết, mỗi bạn trẻ cần tích cực học tập để có kiến thức, nâng cao lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ quê hương nếu xảy ra biến cố. Nên nhớ rằng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, đá có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh). Hãy yêu đất nước mình từ con đường đi học đến nhành cây, ngọn cỏ, từng giọng nói thầy cô đến ánh mắt mẹ cha âu yếm nhìn ta mỗi buổi về nhà.
Xin cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho ta những vần thơ đẹp về thiên nhiên nhiên và con người Việt Bắc mà cũng là cảnh trí, con người Việt Nam. Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình ấy giúp ta cảm nhận thấm thía hơn tình yêu thiên nhiên của tác giả và cũng giúp chúng ta ngộ ra được tình yêu đất nước nào đâu phải ở đâu xa, yêu những điều bình dị quanh ta cũng là yêu đất nước, quê hương. Vâng! Hãy yêu quê hương, đất nước mình, vì “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung Quân)
Đề 3:
: Trong bài thơ Việt Bắc, cảnh chia tay giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc đã được Tố Hữu thể hiện qua lời đối đáp.
         Người ở lại hỏi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
         Người ra đi đáp lời:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
  Cảm nhận hai đoạn thơ trên và nhận xét về phong cách nghệ thuật Tố Hữu.
HƯỚNG DẪN
ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY
I.MỞ BÀI
II.THÂN BÀI
1.Khái quát
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Tập trung ca ngợi lãnh tụ và người anh hùng với cảm hứng sử thi và lãng mạn dạt dào. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Trong số những sáng tác đặc sắc của ông có bài “Việt Bắc”.
         Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến gồm các tỉnh: “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Bài thơ ra đời vào tháng 10 – 1954 khi TW Đảng và cán bộ rời “thủ đô gió ngàn” về lại “thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”.
Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện một cách tinh tế tình cảm cách mạng giữa những người kháng chiến và nhân dân Việt Bắc nghĩa tình cũng như lòng biết ơn sâu nặng đối với những con người đã kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ. Hai đoạn thơ trích dẫn trên đây là hai đoạn thơ tiêu biểu nhất cho vẻ đẹp nghĩa tình ấy.
2.Cảm nhận
2.1. Bốn câu thơ mở đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi. Tình cảm nhớ thương, lưu luyến phút chia tay được thể hiện qua hai câu hỏi tu từ gợi bao thương nhớ. Đằng sau những câu hỏi tu từ ấy là những kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình:
         Câu hỏi tu từ thứ nhất hướng đến thời gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
“Mình” và “ta” là cách xưng hô ngọt ngào, thân mật trong mối quan hệ yêu đương hoặc có quan hệ gần gũi thân thiết. Đó là ngôn ngữ trong ca dao tình yêu lứa đôi: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ”. Ở đây, Tố Hữu đã mượn hai đại từ nhân xưng trong ca dao tình yêu để diễn tả tình cảm cách mạng. Vì thế, câu chuyện chia tay – chuyện chính trị trở nên lắng đọng.
Mặt khác, câu hỏi tu từ là câu hỏi không dùng để hỏi mà dùng để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng cũng như gửi gắm tâm tư. Ở đây, trong câu mở đầu“Mình về mình có nhớ ta” – người ở lại bộc lộ những băn khoăn, trăn trở, sợ người đi sẽ quên mình, quên những tháng năm gắn bó. Trong câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra đi, “Ta” là chỉ người ở lại. “Mình” ở đầu câu, “ta” ở cuối câu, tưởng như xa cách mà hoá ra gần gũi. Vì ở giữa hai đầu nỗi niềm ấy có một từ “nhớ” kết dính “mình – ta” lại với nhau. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người ở lại hỏi người ra đi: Có nhớ “Ta” trong “mười lăm năm ấy” hay không ? “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian. Đại từ “ấy” như đẩy thời gian “mười lăm năm” về quá khứ làm thức dậy cả một miền kỷ niệm. Đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Thời gian ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954 vừa đúng mười lăm năm. Đó là mười lăm năm “chung lưng đấu cật”, cùng nhau đi qua thăng trầm, đi qua bao gian khổ, bao đắng cay ngọt bùi. Nhớ những ngày sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt phải chạy lũ chạy mưa: “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”; nhớ bao khó khăn thiếu thốn về vật chất nhưng ta và mình đã cùng nhau cố gắng vượt qua: “Thương nhau chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. Quá khứ ấy giờ đã thành kỷ niệm nhưng “di sản” mà ta và mình có được sau mười lăm năm gắn bó lại chính là “thiết tha mặn nồng”. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Hai câu đầu là gợi nhắc kỷ niệm mười lăm năm gắn bó, hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha. Câu hỏi tu từ thứ hai hướng đến không gian:
Mình về mình có nhớ không ?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Câu thơ ngắt nhịp 4/4 tạo thành hai không gian: cây, sông (miền xuôi) và  núi, nguồn (miền ngược). Núi và Nguồn là ở Việt Bắc – đây chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại chứa đầy kỉ niệm của mười lăm năm nghĩa tình. Điệp động từ “nhìn” và “nhớ” được nhắc lại hai lần. “Nhìn” là hành động tác động vào thị giác, “nhớ” là hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Thầy Phan Danh Hiếu. Sự đan xen giữa các hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi đừng quên những tháng năm ta cùng mình gắn bó. Cách gợi nhắc này cho thấy được lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên nguồn. Sống trong năm tháng hòa bình đừng quên những năm tháng chiến tranh, ăn một miếng no đừng quên những ngày khốn khó ta cùng mình củ sắn bẻ đôi, bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng, có cuộc sống đủ đầy đừng quên những tháng ngày thiếu thốn ta đã cùng mình vượt qua. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó, nhà thơ cũng nhắc nhở thế hệ cháu con phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
2.2. Đoạn thơ thứ hai thể hiện nghĩa tình sâu nặng của người cán bộ cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
         – Trước đó, nỗi nhớ Tố Hữu hướng về rừng núi bao la với thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội “mưa nguồn suối lũ” và những kỷ niệm gian khổ cùng nhân dân Việt Bắc: “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”; nhớ cảnh núi rừng hoang sơ, ngậm ngùi tiễn người về xuôi: “trám bùi để rụng măng mai để già; nhớ những con người Việt Bắc nghèo khổ mà nặng sâu nghĩa tình. Đoạn thơ tiếp theo tiếp tục là dòng nhớ mênh mang của người đi về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
         – Câu thơ thứ nhất diễn tả nỗi nhớ Việt Bắc qua phép so sánh “như nhớ người yêu”.
Nhớ gì như nhớ người yêu
         Tố Hữu diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt khôn nguôi của người kháng chiến dành cho Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực, da diết, cháy bỏng, bồn chồn đứng ngồi không yên như tình yêu đôi lứa: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Cách nói “nhớ gì như nhớ” mang hơi hướng của một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm bâng khuâng, trăn trở, day dứt. “Nhớ người yêu” là nỗi nhớ đặc biệt. Ca dao xưa từng viết: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than”. Xuân Diệu từng đắm say “uống xong lại khát là tình/ Gặp xong lại nhớ là mình với ta”; Tố Hữu thì “lạ chưa vẫn ở bên em/ mà anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em”. Từ đó cho thấy người cán bộ về xuôi mang theo nỗi nhớ Việt Bắc sâu nặng, dạt dào, tha thiết. Đằng sau nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện lên giăng mắc khắp không gian, lung linh trong từng chương kỷ niệm.
                 Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
         Câu thơ thứ nhất: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” ngắt nhịp 4/4 tạo thành hai vế. Vế đầu là không gian tình yêu. Vế sau là không gian lao động.  Nhớ những tối cùng nhau ngắm một vầng trăng hẹn thề mọc lên đầu đỉnh núi, nhớ những chiều lao động cùng nhau ngắm một dải nắng vàng nhuộm thắm trên lưng nương. Thầy Phan Danh Hiếu. Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hòa giữa nghĩa vụ và tình cảm.
         Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
         Ở đây, nỗi nhớ không còn giăng mắc mông lung nữa mà đã cụ thể, hiện hữu trong những bản làng, những mái nhà thấp thoáng trong những làn khói sương vừa thực vừa mộng. Thiên nhiên hoang sơ, bảng lảng trong sương khói. Khói sương vừa là khói sương của thiên nhiên, vừa là khói bếp yêu thương mỗi sớm, mỗi chiều quyện hòa lãng đãng. Bếp lửa ấy, gian nhà ấy gắn liền với bóng dáng “người thương”. Hai chữ “sớm khuya” kết hợp động từ “đi-về” gợi bóng dáng con người Việt Bắc tần tảo, đảm đang, giàu đức hi sinh. Bên bếp lửa ấm áp nghĩa tình ấy, cán bộ và nhân dân đã cùng nhau chung vai sát cánh, cùng nhau đi qua mười lăm năm thiết tha mặn nồng. Tình cảm ấy có bếp lửa thiêng liêng làm chứng cho nghĩa tình nở hoa.
         Không chỉ là nỗi nhớ trong tình yêu, kết thúc khổ thơ, tình cảm người đi còn toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy”
         Điệp ngữ “nhớ từng” lặp lại làm nỗi nhớ như kéo dài ra mênh mang. Qua phép liệt kê: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…kết hợp cách ngắt nhịp 2/2/2/2 làm nhịp thơ rải đều gợi hình dung kỷ niệm như được khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này đến hình ảnh khác. Tất cả đều gợi nỗi nhớ trùng điệp, trải rộng. Nhớ từ cái lớn đến cái nhỏ, từ gần đến xa. Cuối cùng nỗi nhớ trùm lên mọi không gian thời gian. Từ “vơi đầy” vừa chỉ mực nước của sông suối, vừa gợi nỗi nhớ vơi đầy, dào dạt.
         Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” gợi nhớ nơi hẹn hò, nơi gặp gỡ thuở ban đầu. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê …” là những địa danh lịch sử gắn liền với chiến khu Việt Bắc. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến như thế. Quả đúng như Chế Lan Viên đã từng viết.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
2.3. Nhận xét
         – Nội dung: Hai đoạn thơ vừa phân tích trên đây là hai đoạn thơ tiêu biểu cho nghĩa tình cao đẹp giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Đoạn thơ thứ nhất là lời người ở lại nói với người ra đi với bao chân tình, ân cần, thắm thiết. Đoạn thơ đã khơi dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền chặt và nhắc nhở người về đừng quên cội quên nguồn. Đoạn thơ thứ hai là tiếng lòng đồng vọng của người ra đi đáp lại người Việt Bắc. Tiếng lòng ấy là lời thề thủy chung gắn bó và lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ dành cho nhân dân Việt Bắc nghĩa tình. Cả hai đoạn thơ nói về hai tình cảm riêng, mang những nét đẹp khác nhau nhưng chúng không tách rời nhau mà ngược lại bổ sung cho nhau cùng làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đồng thời tôn vinh vẻ đẹp nghĩa tình giữa cách mạng và nhân dân.
         – Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” tạm xa nhau đi làm nghĩa vụ. Phong cách thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung, đoạn thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Về hình thức nghệ thuật, Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị như lười ăn tiếng nói hằng ngày. Âm điệu ngọt ngào; kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca trữ tình truyền thống.
3. Nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ, điệp từ…). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc.
III. KẾT BÀI

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro