Thi GDQP 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cau 2: Van de Dan Toc Ton Giao

Nguyễn Ái Quốc từ một thanh niên thuộc địa, mất nước, ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Dưới ánh sáng của Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin, và tấm gương của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và xuất phát từ thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm hết sức độc đáo và sáng tạo về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong thời đại mới, đó là: Độc lập dân tộc là khát vọng ngàn đời chính đáng của tuyệt đại bộ phận quần chúng nhân dân, nhất là đối với các dân tộc thuộc địa; độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc; độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và ấm no hạnh phúc của nhân dân; kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc trong thời đại mới, vừa thể hiện mối quan hệ khăng khít gắn bó giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Người về dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạnh vô sản nhằm tập hợp đông đảo các lực lượng cách mạng vô sản nhằm tập hợp đông đảo các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới trong cuộc đấu tranh cùng chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

1.1. Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc

Khái niệm: Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác: Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.

Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc.

Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một, hai người. Vì vậy, phải đoàn kết tập hợp các lực lượng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại... Trong các lực lượng đó có đồng bào các tôn giáo khác nhau trong một mặt trận cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Ngay sao Cách mạng Tháng Tám thành công, đúng như Người khẳng định: "Dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới được giải phóng, lúc này chỉ có quốc gia chứ không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người đều là công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đáu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc".

Theo Người, việc xem xét đánh giá tôn giáo luôn gắn liền với đặc điểm điều kiện hoàn cảnh cụ thể của dân tộc, tìm ra những điểm tương đồng để hướng tới sự giải phóng cho con người, từng bước hạn chế, khắc phục khác biệt nhằm thực hiện đoàn kết, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đứng lên làm cách mạng, giành độc lập tự do, hạnh phúc đều cần thiết và đúng đắn cả. Từ quan niệm như vậy, Người đã tìm thấy những giá trị văn hoá, đạo đức trong tín ngưỡng, tôn giáo, điểm "tương đồng" giữa tín ngưỡng tôn giáo và chủ nghĩa xã hội.

Do điều kiện lịch sử khách quan của Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, cho nên giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo mà trọng tâm là chính sách dân tộc, tôn giáo là một trong những nội dung đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc; vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng giải quyết một cách đúng đắn trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Do đó đã phát huy được sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam và Người đã cùng Trung ương Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời.

Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.

Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà "Không có gì quý hơn độc lập tự do", một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri.

Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân - tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.

Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana... đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau

Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính sách "chia để trị" nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: "Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt." Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng đã đề ra.

Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà chính Người là hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công"

Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta - nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước.

Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hóa Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn giáo có lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hòa đồng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau.

Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo là nhằm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Người, thể hiện tính nhất quán, lâu dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ mềm dẻo, khéo léo trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo. Trong "Tám điều mệnh lệnh" của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi rõ: Chính phủ, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến tôn giáo và đồng bào có đạo. Bài Công Hội trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) viết: "Ai là thợ thuyền thì được vào Hội, dù tin Phật, tin đạo, tin cộng sản, tin vô chính phủ, tin gì cũng mặc, miễn là theo đúng quy tắc Hội là được". Chương trình Việt Minh (1941) khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Ngày 3-9-1945, trong phiên họp chính phủ đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 6 là:

"Thực dân phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ bề thống trị. Tôi đề nghị chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết". Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo khi nước nhà vừa giành lại độc lập đã được đưa vào Hiến pháp năm 1946.

Bác luôn thể hiện sự kính trọng của mình đối với các vị sáng lập ra các tôn giáo. Trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Người viết: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Chúa Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách "Tam Dân" thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc chung cho xã hội... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy".

Theo Hồ Chí Minh, giá trị nhân bản, nhiều ý tưởng của các vị sáng lập các tôn giáo phù hợp với lý tưởng cách mạng. Bức thư gởi đồng bào công giáo (1945) có đoạn viết: "Đức Thiên chúa đã giáng sinh để cứu vớt nhân loại. Đức Chúa là tấm gương hi sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những phong trào bị đè nén, vì hòa bình, vì công lý... Ngày nay, đồng bào cả nước giáo và lương đều đoàn kết chặt chẽ, nhất tâm nhất trí như con một nhà cương quyết giữ vững tự do, độc lập... Tinh thần hi sinh ấy của đồng bào là nêu cao tinh thần cao thượng của Đức Chúa Giêsu". Thư gởi Hội Phật tử Việt Nam (1947) có đoạn: "Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hi sinh tranh đấu diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hi sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan bọn thực dân phản động, để cứu quốc ra khỏi khổ nạn để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại bi của Đức Phật Thích ca".

Trong tư tưởng và hành động, Bác luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, đức tin của đồng bào có đạo; cùng đồng bào có đạo hướng đức tin ấy vào chân thiện mỹ, vào mục tiêu độc lập tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của đồng bào. Thư gởi đồng bào nhân lễ Giáng sinh (1946), Bác viết: "Tôi kính cẩn cầu Đức Thượng đế phù hộ dân tộc Việt Nam và giúp cho Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Thượng đế và Tổ quốc muôn năm". Thư gởi Hội Phật tử Việt Nam (1947) mở đầu: "Nhân ngày lễ Phật rằm tháng bảy, tôi kính cẩn cầu nguyện Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào ta...".

Theo Hồ Chí Minh, tôn giáo nằm trong dân tộc; số phận của tôn giáo gắn liền với số phận của dân tộc, đất nước. Người từng chỉ rõ: "Nước có độc lập thì đạo Phật mới dễ mở mang"; "Tổ quốc được giải phóng, tôn giáo mới được tự do". Theo Người, giữa đức tin tôn giáo và bản sắc văn hóa dân tộc - mà chủ nghĩa yêu nước là nấc thang hàng đầu - không mâu thuẫn nhau. Tín đồ tôn giáo trước hết là người con của dân tộc Việt Nam, mang trong mình truyền thống tốt đẹp. Một người có thể vừa là công dân tốt, vừa là tín đồ ngoan đạo. Tín đồ cũng có thể được kết nạp vào Đảng Cộng sản khi đủ các tiêu chuẩn. Thực tiễn đã minh chứng nhiều chức sắc và tín đồ các tôn giáo đã đi theo kháng chiến hoặc hoạt động yêu nước ngay trong lòng địch, tiêu biểu như: cụ Cao Triều Phát, cụ Ngô Tâm Đạo; hòa thượng Thích Minh Nguyệt, hòa thượng Thích Thiện Hào, đại đức Thiên Ân, bồ tát Quảng Đức, hòa thượng Thích Thiện Hoa, ni trưởng Huỳnh Liên; linh mục Phạm Bá Trực, thầy Năm Tú, linh mục Chân Tín và nhóm Đối Diện, hàng trăm tín đồ công giáo là liệt sĩ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết một chân lý: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Theo Người, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết các tín đồ, đoàn kết lương giáo là một bộ phận quan trọng trong đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, các tổ chức trong xã hội - trong đó có các tôn giáo và tín đồ - phải đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết; chấp nhận những dị biệt nhưng không phương hại lẫn nhau, phát huy các điểm tương đồng hướng đến mục tiêu chung là Tổ quốc độc lập thống nhất, nhân dân hạnh phúc ấm no; chống mọi âm mưu gây chia rẽ của các thế lực thù địch. Người nói: "Trong Hiến pháp nước ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự do. Nếu ai làm sai Hiến pháp,... sẽ bị trừng phạt". Nhưng Người cũng chỉ rõ: "Bảo vệ tự do tín ngưỡng nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản chúa, phản nước".

Tư tưởng, thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo nêu trên rất chân thành và hoàn toàn phù hợp với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, trong đó có lợi ích một bộ phận đồng bào có đạo. Sainteny, đại diện Chính phủ Pháp ở Hà Nội những năm 1945-1947, trong hồi ký Chuyện một nền hòa bình bị bỏ lỡ, đã thừa nhận: "Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có thể nhận thấy nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào dù là rất nhỏ của sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với bất kỳ một tôn giáo nào".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro