Thiên Hạ Kiêu Hùng 13

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thiên Hạ Kiêu Hùng

Tác giả: Cao Nguyệt

Thể loại: Lịch Sử Quân Sự

Nhóm dịch: Quan Trường

Nguồn dịch: Mê Truyện

Ebook by: Kiếm Giới

Creator by: Thủy Hỏa Thần

-------o0o-------

 Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 601 : Lưỡng cường giao tranh

Khoảng cách lúc đầu ba ngàn dặm dần dần rút ngắn còn hai dặm, dưới ánh trăng, ánh mắt của Dương Nguyên Khánh lạnh lùng. Hiện ra sát khí, hắn đã thấy rồi. Ở phía xa có một đường màu đen đang di chuyển rất nhanh.

Dương Nguyên Khánh chậm rãi rút chiến đao ra, lại ngẩng đầu nhìn thoáng qua ánh trăng khuyết sáng ngời, đôi mắt nheo lại, chiến đấu dưới ánh trăng, đây là phương thức chiến đấu hắn thích nhất, nhưng Đậu Kiến Đức có thể không thích nó. Khóe miệng của hắn lộ ra một nụ cười tàn khốc, chiến đao dưới ánh trăng vẽ một đường cong, chém thẳng về phía trước.

-Giết!

Kèn phát lệnh nổi lên, tiếng kèn trầm thấp vang vọng qua vùng hoang dã, ba mươi ngàn kỵ binh đã phát động, tiếng reo hò phát ra rung trời lở đất, trút ra thứ dũng khí nén chặt đã lâu.

Vạn mã lao nhanh, ùn ùn kéo đến, như rít gào của biển khi dấy lên sóng lớn, tiếng vó ngựa nặng trĩu giống như trên đất bằng vang lên tiếng sấm, khiến mặt đất run rẩy, gào thét hướng về phía đội quân Đậu Kiến Đức mà đi.

Đội quân của Đậu Kiến Đức phát hiện phục binh khi tiếng kèn vang lên, hàng ngũ lập tức đại loạn, họ bây giờ đang hành quân, kéo dài hơn bốn năm dặm, phải nhanh chóng dàn trận hình tác chiến cũng không dễ dàng. Đậu Kiến Đức thất kinh đầu như nổ tung, gã chợt nhớ tới một thông tin mình lãng quên, kỵ binh Dương Nguyên Khánh đang lúc ban đêm đã đánh tan Lý Thúc Lương, nói cách khác, đội quân Dương Nguyên Khánh giỏi đánh trận ban đêm, hắn cũng nhân lúc ban đêm hành quân bất ngờ tập kích.

Đậu Kiến Đức ảo não vỗ trán, căm giận bản thân không để ý đến thông tin trí mạng này, nhưng hiện tại hối hận cũng không kịp rồi, gã nhất định phải lập tức tổ chức trận hình đối chiến, Đậu Kiến Đức thét to với thuộc cấp của mình là Cao Hiền Nhã:

-Cao tướng quân, ngươi nhanh chóng mang năm ngàn kỵ binh ngăn chặn quân địch, cho ta tranh thủ thời gian!

-Tuân mệnh!

Cao Hiền Nhã cũng liên tục thổi lên tiếng kèn, đây là hiệu lệnh xuất kích của kỵ binh bên trái, năm ngàn kỵ binh lập tức đi theo gã hướng về phía quân Tùy ngoài một dặm mà đi nghênh chiến.

Đội quân Đậu Kiến Đức đang nhanh chóng tập trung dàn trận, cung binh đang ở bên ngoài vài dặm, bài trận cũng không kịp nữa rồi, đành phải đem mười ngàn kỵ binh bố trí ở phía trước, gã hiện tại chỉ có thể dựa vào kỵ binh chống lại sự tấn công quân Tùy, để gã tranh thủ thời gian khôi phục trận tác chiến của bộ binh.

Ba mươi ngàn kỵ binh của quân Tùy càng chạy càng gần, cuối cùng ầm ầm chạm mặt với năm ngàn kỵ binh của Đậu Kiến Đức, năm ngàn kỵ binh giống như tảng đá lớn giữa dòng sông, chúng không cách nào ngăn nổi sự tấn công của quân Tùy nhiều hơn gấp sáu lần, chỉ trong phút chốc bị thanh thế lớn mạnh của kỵ binh quân Tùy nuốt trọn, hai mươi ngàn kỵ binh của quân Tùy vòng qua hai bên quân địch tiếp tục chạy lên phía trước đánh tới, thêm một lần nữa cùng hỗn chiến với mười ngàn quân địch chặn đường bọn họ.

Ngưu Tiến Đạt dẫn năm ngàn kỵ binh theo hướng bắc tiên phong mà đi, bên kia là hậu quân của Đậu Kiến Đức, do đại tướng Phạm Nguyện Thống soái, do năm nghìn nỏ binh và năm ngàn đao thuẫn binh tạo thành.

Hậu quân và trung quân cách xa nhau khoảng bốn dặm, không có cách nào nhận được sự hỗ trợ của kỵ binh trung quân, đành phải vội vàng bày trận, hơn năm ngàn nỏ binh giương nỏ cài tên hướng về phía quân Tùy mà bắn tới, kỵ binh quân Tùy lấy thuẫn chắn lại mưa tên dày đặc, có mấy trăm người bị bắn ngã. Chiến mã gục ngã, kỵ binh quay cuồng rơi xuống đất, tiếng kêu thảm thiết không ngừng.

Tên chỉ bắn ra một lần, quân Tùy liền chạy tới để giết, năm ngàn nỏ quân hoảng sợ xoay người bỏ chạy, kỵ binh quân Tùy như cuồng phong bão táp xông vào bên trong đám nỏ binh. Ngưu Tiến Đạt hét lớn một tiếng, khua tay múa tam tiêm thác thiên xiên đánh bay một gã chiến tướng. Xiên sắt tả hữu liên hồi. Tử thi quằn quại khi bị gã xiên trên ngọn xiên, kỵ binh quân Tùy ở trong đám nỏ binh phát động giết chóc.

Đây là một cuộc giết chóc không cân xứng, nỏ binh đã không có kỵ binh bảo hộ. Thì giống như bầy cừu không có người chăn và chó săn bảo vệ, chỉ có thể mặc cho bầy sói tùy ý thôn tính, kỵ binh vây quanh sát hại. Mặc kệ nỏ binh kêu rên cầu xin tha mạng, cũng không chút lưu tình, giết cho nỏ binh mát hồn mất vía, khóc hô bốn phía chạy trốn.

Chủ tướng hậu quân Phạm Nguyện thấy nỏ quân không thể rút lui, gấp rút luôn miệng rống to,

-Đao thuẫn binh tiếp viện!

Năm ngàn đao thuẫn binh sĩ khí lao đao, bọn họ không quen đánh trận ban đêm, thị lực không đủ. Chiến mã lao như điên khiến cho đầu óc của bọn chúng chóng mặt, tốc độ phản ứng tầm vóc và sức mạnh không thể chịu đựng được cường độ cao của chiến tranh, sự chết chóc thảm hại của nỏ quân khiến bọn chúng sớm kinh hoàng trong lòng, nhưng dưới sự thúc giục của các tướng lĩnh, khiến cho bọn chúng không thể không kiên trì nghênh chiến, và đón tiếp bọn họ, là sự giết chóc vô tình của năm ngàn kỵ binh.

Ở trung quân giao tranh rất dữ dội. Trong trận hỗn chiến của kỵ binh, La Sĩ Tín vung đại thiết thương, dũng mãnh vô cùng, chiến mã của gã là thần mã, hai cánh tay có ngàn cân lực. Một cây đại thiết thương múa đến xuất quỷ nhập thần, làm lá chắn tử cho gã. Cản gã chỉ có mất mạng, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, giết cho quân địch xác chết la liệt khắp nơi, máu tươi nhuộm đỏ cả vùng quê.

Lúc này, tiếng kèn trong quân Đậu Kiến Đức lại vang lên, mười ngàn trường mâu của bộ binh từ mặt bên đón đánh, quân của Đậu Kiến Đức dù sao cũng là chủ lực tinh nhuệ của gã, tuy gặp quân Tùy phục kích có phần hỗn loạn, nhưng bọn chúng cũng không vứt bỏ giáp để chạy, mà nhanh chóng tập hợp và dàn trận.

Sự ngăn cản hai lần của năm ngàn kỵ binh và mười ngàn kỵ binh cuối cùng cũng phát huy tác dụng, bọn chúng cho bộ binh của Đậu Kiến Đức có thời gian để bắt đầu bày trận ứng chiến, giảm nhẹ áp lực cực lớn của kỵ binh.

Ba vạn kỵ binh của quân Tùy chia làm bốn nhánh quân đội, mười ngàn tiền quân do La Sĩ Tín dẫn đầu, mười ngàn trung quân do đích thân Dương Nguyên Khánh dẫn dắt, còn bên cánh hữu có năm ngàn kỵ binh do Ngưu Tiến Đạt dẫn đầu, cánh tả có năm ngàn kỵ binh do Thôi Phá Quân dẫn đầu.

Từ quân số trong quân mà so sánh, quân của Dương Nguyên Khánh ở vào hoàn cảnh xấu, quân của Đậu Kiến Đức có bốn mươi lăm ngàn người, mà quân của hắn chỉ có ba mươi ngàn người, nhưng quân của Dương Nguyên Khánh lại chiếm thế thượng phong, quân của hắn là ba mươi ngàn kỵ binh, còn quân đối phương với lúc này chỉ có hai mươi ngàn kỵ binh và hai mươi lăm ngàn bộ binh, quan trọng hơn là quân Tùy có kinh nghiệm đánh đêm phong phú, hơn nữa còn là phục kích đánh úp đối phương.

Quân Tùy lấy khỏe đánh mệt, có sự chuẩn bị đầy đủ, mà quân của Đậu Kiến Đức còn vội vàng ứng chiến, không phát huy được sức chiến đấu tốt nhất, cho dù quân chủ lực của Đậu Kiến Đức ngoan cường ứng chiến, nhưng từ đầu đến giờ vẫn ở vào tình thế xấu.

Bản thân Dương Nguyên Khánh cũng không tham gia chiến đấu nhiều, vì hắn là chủ soái, hắn phải chỉ huy toàn cục, nếu hắn tham chiến, toàn bộ quân Tùy mất đi linh hồn, bản thân chỉ có thể chỉ huy từng trận, mà không thể phối hợp các trận, hắn được ba ngàn kỵ binh hộ vệ, đứng ở mặt đông rừng rậm phụ cận chỉ huy.

Lúc này, Dương Nguyên Khánh nhận được thám báo bên ngoài bẩm báo, phát hiện trung tâm chỉ huy quân địch bên phía nam đã không còn kỵ binh hộ vệ, đây quả là một thiếu sót của đội quân Đậu Kiến Đức.

Dương Nguyên Khánh lúc này ra lệnh:

-Lệnh cho Thôi Phá Quân cánh tả công kích trung tâm chỉ huy bên phía nam!

Trong tiếng trống trận, Thôi Phá Quân suất lĩnh mấy ngàn kỵ binh vượt qua sự ngăn cản của binh lính, đánh hướng về phía nam của thân vệ quân của Đậu Kiến Đức, nơi này hẳn là có ba ngàn kỵ binh hộ vệ, nhưng chủ tướng Từ Doãn Chí của ba ngàn kỵ binh lại bị La Sĩ Tín giết, đội kỵ binh bị xé ra, xuất hiện lỗ hổng phòng ngự rất lớn.

Đột nhiên bị kỵ binh quân Tùy đánh tới khiến đội thân vệ của Đậu Kiến Đức một trận hỗn loạn, bọn chúng khó có thể ngăn cản kỵ binh quân Tùy tấn công mãnh liệt, Đô úy thân binh gấp đến mức hô to:

-Vương gia, mau rút lui theo hướng bắc!

Trong lòng Đậu Kiến Đức sau một hồi gào thét, gã biết chỉ cần mình vừa rút lui, binh lính của mình sẽ sụp đổ, nhưng không rút lui lại không được, kỵ binh quân Tùy đã giết đến ngoài bảy mươi bước, tiễn như mưa bắn tới bọn chúng.

Lúc này, mưu sĩ Tống Chính Bản hét thảm một tiếng, một mũi tên lạc bắn trúng vai trái ông, Đậu Kiến Đức thất kinh ánh mắt trợn tròn, hét lớn một tiếng:

-Tiên sinh làm sao vậy.

Tống Chính Bản cố hết sức hô:

- Vương gia, giữ được tánh mạng quan trọng hơn, mau đi đi!

Đậu Kiến Đức trong lòng đau đớn vạn phần, gã về nhìn chân trời phía đông, đã hiện lên ánh mặt trời, nhìn sắc trời đã dần sáng, quân đội của gã đã kiên trì đến trời sáng, cuối cùng cũng thất bại trong gang tấc.

Đậu Kiến Đức cắn răng hô to một tiếng:

-Rút lui!

Quân Đậu Kiến Đức đã tháo chạy về phía bắc, sau một cuộc chiến khốc liệt giữa đêm, quân Dương Nguyên Khánh cuối cùng đã làm nên một chiến thắng quyết định trong trận chiến này, hắn ngay lập tức ra lệnh cho quân đội đuổi theo.

Quân Tùy cùng nhau đuổi giết, giết quân Đậu Kiến Đức xác chết la liệt khắp mọi nơi, vô số người quỳ xuống đất xin hàng, Đậu Kiến Đức dẫn dắt mấy ngàn tàn binh trốn về huyện Cộng Thành.

Trận chiến này, Dương Nguyên Khánh lấy ba mươi ngàn kỵ binh chủ lực đánh với bốn mươi lăm ngàn quân chủ lực của Đậu Kiến Đức, lấy ưu thế phục kích và đánh đêm cuối cùng thắng được đối phương, giết hai mươi lăm ngàn quân địch, tù binh hơn mười ngàn người, thu được chiến mã và của cải vô số kể, cuối cùng tàn quân của Đậu Kiến Đức trốn về huyện Cộng Thành chưa tới bảy ngàn người.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 602 : Tình cũ khó động

Nhưng ba mươi ngàn quân chủ lực của Dương Nguyên Khánh cũng trả giá, gần tám ngàn người bị thương vong, đây là lần đầu tiên quân của Dương Nguyên Khánh đông chinh bị thương vong nặng nề nhất.

Bến Hà Dương, đây là một bến cổ xưa, ở bên kia bờ sông Hoàng Hà là bến Minh Tân có tiếng, nơi mà một ngàn sáu trăm năm trước Chu Vũ Vương hợp Minh phạt Trụ, bến Hà Dương cũng là bờ phía bắc duy nhất của sông Hoàng Hà thích hợp cho việc đổ bộ quy mô lớn của đại quân.

Ánh nắng mùa thu rực rỡ chiếu hai bên bờ sông, cuối thu không khí dễ chịu, gió lạnh cuối thu dưới ánh mặt trời chiếu xuống mang theo một tia ấm áp, tạo từng đợt sóng trên nước sông Hoàng Hà, lúc này trên sông, mấy trăm chiến thuyền lẳng lặng thả neo. Đây là một đội tàu có hai mươi ngàn binh lính, chở đầy dã tâm lớn của Lý Mật lên bắc, bọn họ mưu tính lợi dụng cơ hội Dương Nguyên Khánh và Đậu Kiến Đức ở phía đông quận Hà Nội đang ác chiến, một phát chiếm đóng phía tây quận Hà Nội.

Nhưng dã tâm của bọn họ cũng không dễ dàng thực hiện được như vậy, giờ phút này ngay bên kia Hoàng Hà ở bến Hà Dương, mười ngàn quân Tùy đã bày trận địa sẵn sàng nghênh đón, ba ngàn nỏ binh bao vây thành hình bán nguyệt, hai dặm lớn ở bến bị phong tỏa. Phía sau nỏ binh, bảy ngàn kỵ binh tay cầm trường mâu bày thế trận sẵn sàng nghênh đón, sự phong tỏa của nỏ binh cộng thêm kỵ binh sẵn sàng liều chết, bất kể như thế nào cũng không thể đổ bộ thành công.

Chủ tướng của quân Tùy Từ Thế Tích lập tức đứng lên một mô đất, nhìn đoàn thuyền lớn đang hạ neo ngoài xa trên sông, mấy trăm chiến thuyền che khuất bầu trời, tinh kỳ bay phất phới, ánh mắt của Từ Thế Tích có chút suy nghĩ, gã có một trực giác, Lý Mật nhiều khả năng ở trên thuyền chiến này, gã nhìn thấy ở giữa có một chiếc thuyền lầu rất lớn, nếu so với thuyền khác phải lớn gấp đôi, một cây đại kỳ màu vàng riềm đen tung bay trong gió, trực giác nói cho gã biết, đây là thuyền của Lý Mật.

Từ Thế Tích là một rất người rất nặng tình xưa, gã cũng biết trong thuyền lớn có rất nhiều bộ hạ của gã thuở xưa, bạn cùng gã uống rượu, anh em chiến đấu cùng gã tắm máu chiến đấu hăng say, gã từng nghĩ tới không phải chỉ một lần, khi nào thì có thể lại gặp bọn họ một lần, nhưng không phải bây giờ, hiện giờ là chiến trường, gã tuyệt không muốn cùng bộ hạ cũ gặp lại trên chiến trường.

Lúc này một tên binh lính hô:

-Từ tướng quân, một chiếc thuyền nhỏ đã tới đây!

Từ Thế Tích nhìn thấy, một chiếc thuyền lá nhỏ đang lái vào bờ, trên thuyền chỉ có ba người, hai người chèo thuyền, một tên quân sĩ,

-Để cho bọn họ lên bờ!

Từ Thế Tích ra lệnh.

Trong chốc lát, tên quân sĩ lên bờ, được binh lính đưa tới trước mặt Từ Thế Tích, tên quân sĩ quì một gối nói:

-Khởi bẩm Từ tướng quân, Ngụy vương dẫn quân đi trước đến tương trợ Tấn Vương điện hạ cùng đánh Đậu Kiến Đức, bởi vì thời gian gấp rút không kịp tiếp ứng, nhưng thư tiếp ứng đã gửi tới!

Quân sĩ từ trong bọc quần áo sau lưng rút ra một cuốn minh thư trình lên. Binh lính đem thư vòng cho Từ Thế Tích. Từ Thế Tích mở minh thư ra nhìn một lần, mặt trên nguệch ngoạc viết lên ngàn chữ, có đại ấn của Lý Mật. Nào là cùng vì đại nghĩa, giúp đỡ triều Tùy, tạo phúc thiên hạ bá tánh.... Duy chỉ không nói tới cùng nhau đối phó với Đậu Kiến Đức.

Từ Thế Tích thận trọng xem xét, gã phát hiện con dấu đóng trên cuốn minh thư vẫn chưa hoàn toàn khô, nói cách khác con dấu vừa mới đóng trên thuyền, trong lòng của gã cười nhạt một tiếng, nói với tên quân sĩ:

-Ngươi trở về nói cho Lý Mật biết, ông ta nếu quả thật có lòng trợ giúp quân Tùy chống lại quân Đậu Kiến Đức, vậy nên đi qua bên bờ sông Lê Dương, từ phía sau cắt đứt đường lui của Đậu Kiến Đức, mà không nên xuất hiện ở nơi đây. Đi đi!

Tên quân sĩ hành lễ, chạy về thuyền nhỏ hướng giữa sông mà đi. Trên khoang thuyền, Lý Mật vẻ mặt âm trầm, gã nhìn thấy binh lính lên bờ đi liên lạc rồi, nhưng trên bờ binh lính cũng không có hiệu lệnh rút quân. Cái này đã nói lên đối phương cũng không có bị đánh động. Khiến trong lòng của gã cảm thấy căm tức.

Lý Mật muốn chiếm lấy quận Hà Nội, cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên, quân của gã sau khi thất bại khi vây đánh Lạc Dương, tổn thất nặng nề, quân số từ lúc đầu hơn bốn trăm ngàn giảm mạnh còn hơn hai trăm ngàn. Bao gồm chết trận, chạy trốn và đầu hàng, gần như giảm đi một nửa. Mà các quận Hà Nam bởi vì trước kia nạn trộm cướp hung hăng ngang ngược, mỗi năm cộng thêm thiên tai và chiến tranh, đã mười phần chết hết chín phần, rất nhiều quận mỗi một huyện cũng chỉ còn lại có hơn ngàn người, cơ bản là không thể tiếp tục chiêu mộ binh lính, nguồn chiêu mộ lính bị khô kiệt, không chỉ nguồn chiêu mộ lính không đủ, mà lương thực ở kho Lạc Khẩu cũng vì phần lớn lãng phí và quân đội phải ăn, lương thực đứng trước nguy cơ cạn kiệt.

Vào lúc này, Lý Mật tự nhiên liền nghĩ tới các quận của Hà Đông có dân số đông, đặc biệt là phía nam Thái Nguyên, gần như không có gặp nạn trộm cướp và tai hoạ, dân cư dày đặc, tiền tài lương thực sung túc, nếu gã có thể cướp lấy quận Hà Nội làm bàn đạp, ở Hà Đông mộ binh thu lương thực, như vậy thực lực của gã có thể khôi phục lại như trước. Thực lực của gã khôi phục, trong khi thực lực Đông Đô vẫn chưa khôi phục, vậy nếu đánh tiếp Lạc Dương, thì gã cuối cùng có thể tóm được Lạc Dương.

Khiến Lý Mật vẫn còn một nỗi sầu lo là một việc vừa mới phát sinh, ngày hôm qua gã nhận được một tin, quân Lý Uyên ra Quan Trung, cướp lấy quận Hoằng Nông, thái thú Dương Cung Nhân đầu hàng, việc này khiến gã trong lòng có chút hoảng sợ. Lý Uyên thế lực mở rộng về đông, sớm hay muộn cũng sẽ cùng gã xảy ra va chạm, khi đó, gã có tài gì mà cùng Lý Uyên đối chiến?

Lý Mật bắt đầu cảm nhận được rằng, thiên hạ tranh bá cuối cùng đọ nhau chính là thực lực, là người dân, lòng dân và tiền bạc lương thực. Lý Uyên có thể chiếm lĩnh Quan Trung nhanh chóng lớn mạnh, là bởi vì lão có sự ủng hộ của quý tộc ở Quan Lũng, có tiền bạc lương thực ở Thục. Dương Nguyên Khánh có thể từ phía sau khống chế người, đuổi Lý Uyên ra khỏi Hà Đông, là bởi vì hắn ở Phong Châu hậu tích bạc phát (có tích lũy lâu dài từ trước nên phát triển rất nhanh), tích tụ nhiều năm, mà mình nam chinh bắc chiến, cơ hồ đem tất cả tiền tài lương thực đều tiêu hao hầu như không còn. Gã đấu đánh nhiều năm, cuối cùng lại không công, trong lòng của gã nghĩ như thế nào cũng đều không cam tâm, gã nóng lòng tìm kiếm một chỗ dân cư tiền bạc lương thực đầy đủ, Hà Đông chắc chắn là một trong số đó.

Lúc này quân sĩ lên thuyền, quỳ trước mặt gã bẩm báo:

-Khởi bẩm Ngụy vương, chủ tướng phía bên kia đúng là Từ Thế Tích!

-Quả nhiên là y!

Lý Mật nghiến răng nghiến lợi một hồi, không ngờ không nghĩ tình xưa, cắt đứt con đường sống của mình, lúc này, Bính Nguyên Chân đi lên trước cười nói:

-Điện hạ, Từ Thế Tích là người rất trọng tình cũ, ty chức cùng ông ta làm việc chung đã nhiều năm, hiểu rõ ông ta vô cùng, điện hạ đừng ngại dùng ân tình xưa cảm động ông ta. Lúc trước ông ta từng đi theo điện hạ giành lấy kho Lê Dương, lại cùng điện hạ cướp lấy kho Lạc Khẩu, đủ để nhìn thấy trong lòng ông ta kính trọng điện hạ bao nhiêu, nếu điện hạ tự mình đi khuyên ông ta, lại mang theo Mã Khánh Vũ cùng vài thuộc cấp cũ của ông ta, hứa sẽ trọng dụng ông ta, không chừng có thể lay động ông ấy.

Lý Mật trầm ngâm một lát, liền gật đầu,

-Thả xa thuyền!

Chỉ chốc lát, một chiến thuyền ngàn thạch xuất hiện, đây là một loại thuyền do sức người đạp để di chuyển, do Nam Tề Tổ Xung Chi phát minh, còn gọi thiên lý thuyền, là một chiếc thuyền cỡ trung, có thể chở hai trăm người. Lý Mật và Bính Nguyên Chân xuống thuyền, đem theo vài tên thuộc cấp cũ của Từ Thế Tích, con thuyền chậm rãi chạy hướng vào bờ, cách bờ khoảng hơn mười bước thì dừng lại, có quân sĩ hô to:

-Ngụy vương mời Từ tướng quân đáp lời!

Binh lính nhanh chóng bẩm báo Từ Thế Tích, Từ Thế Tích im lặng một lát, liền giục ngựa tiến đến mép bờ đê. Lý Mật nhìn thấy Từ Thế Tích, thấy gã phong thần tuấn lãng, oai hùng anh phát, trong lòng cũng không khỏi có chút ngầm hối hận. Nếu lúc trước có thể khéo giữ Từ Thế Tích lại, th hiện tại cũng là phụ tá đắc lực của mình, thì làm gì đến nỗi hiện tại không có người để dùng chứ?

Hiện giời đang lâm vào cảnh khốn đốn về nhân tài, sau khi Địch Nhượng chết, Địch Nhượng ngày trước rất nhiều thuộc cấp đều không nguyện vì lão mà dốc sức, nên đều trốn đi, như Từ Thế Tích, Trình Giảo Kim, còn có Lưu Hắc Thát, Trương Thắng Vũ..., bỏ đi hơn mười người, người ở lại cũng đều là những người không như ý muốn, không chịu ra sức, tấn công Lạc Dương không được, cũng là vì thuộc hạ cũ của Địch Nhượng không chịu ra sức lực.

Lý Mật cũng hy vọng một lần nữa có thể lấy được lòng quân Ngõa Cương, chỉ có điều Địch Nhượng uy tín rất cao, lão nghĩ lấy lại lòng người, nói dễ vậy sao.

Lý Mật đi lên mũi thuyền, chắp tay cao giọng nói:

-Lý Mật ở đây, Từ hiền đệ đã lâu không gặp?

Từ Thế Tích cũng chắp tay đáp lễ, lạnh nhạt nói:

- Từ mỗ rất tốt, đa tạ Ngụy công nhớ thương, ta khuyên Ngụy công lập tức trở về, lòng dân ở quận Hà Nội hướng Tùy, Ngụy công cũng đừng tiếp tục gây chiến tranh, vùi dân vào dầu sôi lửa bỏng!

Lý Mật cười ha hả:

-Từ hiền đệ, Lý Mật ta không phải là tạo phản loạn phỉ, ta là hậu nhân của danh môn, lòng mang chí lớn, một lòng cứu dân từ dầu sôi lửa bỏng, ta cũng hiểu được đạo lý an dân mới có thể khiến quốc gia hưng thịnh, ta làm sao có thể gây chiến tranh với quận Hà Nội. Từ hiền đệ theo ta nhiều năm, chẳng lẽ vẫn không rõ Lý Mật ta là loại người gì sao?

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 603 : Đêm tấn công Hà Nội

-Nếu Ngụy công có lòng an dân, vậy thì mời lui binh, ta đã nói, lòng dân quận Hà Nội hướng Tùy, bọn họ sẽ không tiếp nhận sự thống trị của Ngụy công.

Lý Mật trong lòng thầm mắng, lại không thể làm gì, gã chuyển đề tài, lại cười nói:

-Ta biết Từ hiền đệ là người trọng tình trọng nghĩa, lúc trước Từ hiền đệ đi không từ giã, chẳng lẽ đối với Lý Mật ta không có chút tin tưởng nào sao? Chẳng lẽ không muốn cùng ta chung tay, cùng nhau giành lấy thiên hạ sao? Từ hiền đệ, ta còn nhớ rõ lúc trước khi chúng ta cướp lấy kho Lê Dương, hiền đệ còn từng lời hùng tráng, giành người trong thiên hạ, không Bồ Sơn Công còn ai khác nữa, năm đó Bồ Sơn Công bây giờ hãy còn, nhưng Từ hiền đệ cũng đã rời xa ta, khiến người ta phải than thở!

Từ Thế Tích không nói gì hồi lâu, lúc trước gã quả thật đã từng nói, nguyện giúp Bồ Sơn Công cướp lấy thiên hạ, nhưng thế sự vô thường, ai có thể lường trước việc phát sinh về sau chứ?

Lúc này, thuộc hạ cũ của Từ Thế Tích là Mã Khánh Vũ lớn tiếng nói:

-Tam đương gia, về Ngõa Cương đi! Các huynh đệ cũ đều nhớ người, người đi rồi, chỗ của người vẫn còn trống, có một lần Uông Tề ngồi vào chỗ của người, bị chúng tôi đánh cho một trận, chúng tôi đã nói, Tam đương gia nhất định sẽ trở lại, Tam đương gia, mấy ngàn đệ huynh cũ đều nhớ người!

Từ Thế Tích nhìn Mã Khánh Vũ khuôn mặt thô kệch mà chân thành, trong mắt Từ Thế Tích cũng có vài phần ngấn lệ, gã nghẹn lời thi lễ nói:

-Thế Tích bất tài, cảm tạ các huynh đệ còn nhớ đến ta.

Bính Nguyên Chân nhìn ra tình cảm của Từ Thế Tích, liền nhẹ nhàng huých Lý Mật một cái, Lý Mật hiểu ý, lập tức cao giọng nói:

- Từ hiền đệ, nếu như hiền đệ đồng ý trở về, ta đem vùng Tề Lỗ chia cho hiền đệ, phong hiền đệ làm Thanh Châu Vương, cho phép hiền đệ tự lập môn hộ, hiền đệ cũng có thể tự xưng vương, so với làm đại tướng cho người khác còn mạnh hơn nhiều, Dương Nguyên Khánh mới cho hiền đệ một chức Tả Kiêu Vệ Tướng Quân, ngay cả cái tước vị đều không có, đi theo ta, lại có thể phong vương, hiền đệ, đâu nặng đâu nhẹ, hiền đệ hẳn là hiểu được!

Từ Thế Tích bị đám huynh đệ cũ dùng tình cảm xưa làm cho cảm động, nhưng lời nói của Lý Mật một hồi chợt khiến gã tỉnh ngộ, Dương Tư Ân, Tô Định Phương, Bùi Hành Nghiễm tất cả bọn họ đều đi theo Dương Nguyên Khánh nhiều năm, mới tích công được phong làm tướng quân, mà mình vừa mới tới mấy tháng, công lao nhỏ bé, Dương Nguyên Khánh lại phong mình làm Tả Kiêu Vệ Tướng Quân, ngay cả Mã Thiệu đi theo Dương Nguyên Khánh mười mấy năm cũng mới được một chức phó Tướng, đây là coi trọng mình tới bậc nào. Gã lại nghĩ tới Dương Nguyên Khánh mang mình đến Bùi gia, bởi vì mình có điều đáng tiếc ở Bùi học, cái tình nghĩa này gã sao lại có thể quên. Còn nữa, Dương Nguyên Khánh rõ ràng biết mình là tướng cũ của Ngõa Cương, lại không chút do dự đem trọng trách ngăn cản quân Ngõa Cương giao cho mình, không có bất kỳ sự giám sát nào, sự tín nhiệm này gã sao lại có thể phụ lòng. Từ Thế Tích trong lòng thầm hổ thẹn, bản thân thiếu chút nữa bị thuyết phục.

Nghĩ đến đây, Từ Thế Tích trịnh trọng thi lễ,

-Đa tạ hảo ý của Ngụy công, đa tạ các huynh đệ nhớ thương, nhưng Từ Thế Tích đã cống hiến cho Dương Nguyên Khánh, thì tuyệt đối sẽ không nay Tần mai Sở, các vị huynh đệ tự bảo trọng, xin mời Ngụy công trở về!

Nói xong, gã quay ngựa xông lên đồi cao, lớn tiếng ra lệnh:

-Tên nỏ chuẩn bị!

Ba ngàn nỏ quân rào rào cử động, nhắm ngay bọn Lý Mật trên sông, Lý Mật trong lòng vừa tức vừa hận, vừa bất đắc dĩ, đành phải khoát tay,

-Trở về!

Xa thuyền quay đầu, một lần nữa chạy nhanh về thuyền lớn giữa sông, nhưng Lý Mật lại không cam tâm trở về như vậy.

Ban đêm, mây đen che khuất ánh trăng, sao mờ, hàng trăm thuyền vẫn hạ neo trên mặt nước đen như mực trên sông Hoàng Hà. Về đêm gió lớn, mặt nước hơi gợn sóng, khiến con thuyền nhấp nhô trên mặt nước, khiến dây thừng thô to vỗ vào cột buồm vang lên những tiếng bạch bạch.

Trong khoang thuyền, ánh sáng êm dịu của ngọn đèn và chiếc lư hương nơi góc phòng bay lên làn khói lượn lờ, khoang thuyền được lấp đầy bởi một cỗ đàn hương. Lý Mật đang chắp tay sau lưng ở trong khoang thuyền đi qua đi lại, trong lòng cực kỳ bực bội, hai bên đã giằng co một ngày rồi, gã vốn định lên bờ từ nơi khác, nhưng gã phát hiện chỉ cần con thuyền của gã vừa khẽ động, thì kỵ binh đối phương cũng động theo, khiến trong lòng gã không có kế sách nào khả thi, quan trọng hơn là gã chỉ dẫn theo hai mươi ngàn quân, còn đối phương lúc này đã có mười ngàn quân phòng ngự.

Nhưng nếu như vậy mà quay về, gã lại không cam lòng, bất luận thế nào gã cũng muốn thử một lần. Lúc này gã ở đây đợi trời tối hẳn, để xem quỷ nước có thể mang đến cho gã tin tức gì.

Lúc này ngoài khoang thuyền vang lên tiếng bước chân, Lý Mật tinh thần rung lên, một cận vệ ở cửa bẩm báo:

-Điện hạ, Phòng Trưởng sử phái người đưa tin đến, nói có chuyện quan trọng cần bẩm báo.

Lý Mật ngẩn ra, gã còn tưởng rằng là quỷ nước có tin tức truyền đến, không ngờ là Trưởng sử Phòng Huyền Tảo phái người đến đưa tin, gã lập tức ra lệnh:

-Đưa người truyền tin vào!

Rất nhanh, một gã quân sứ được đưa vào, quì một gối xuống thi lễ,

-Tham kiến Ngụy Vương điện hạ!

-Thư của Trưởng sử đâu?

Quân sứ bèn lấy ra hai phong thư trình lên, Lý Mật nhận lấy hai phong thư, một phong thư là Phòng Huyền Tảo đưa tới, phong thư còn lại không ngờ là của Đông đô Tả Phó Xạ Lô Sở viết cho gã, gã chớp mắt, ngỡ mình đã nhìn lầm, quả thật đúng như vậy, là Lô Sở viết thư cho gã.

Lý Mật trong lòng nghi hoặc, phất tay, để mọi người đi xuống, lúc này mới ngồi xuống mở thư ra, gã xem thư của Lô Sở trước. Trong thư không ngờ là hy vọng gã có thể đầu hàng Hoàng Thái đế, gã sẽ tiến cử hiền tài của mình làm Ngụy vương, tổng quản đối ngoại quân sự, điều này làm cho Lý Mật rất kinh ngạc, gã lại rút tiếp thư của Phòng Huyền Tảo xem một lần. Giờ mới hiểu được toàn bộ câu chuyện trong đó, hóa ra Đông Đô bị nội chiến.

Lô Sở, Hoàng Phủ Vô Dật, Đoàn Đạt và một nhóm phụ tá trọng thần và tân quý Vương Thế Sung mâu thuẫn sâu đậm, đã đến mức thủy hỏa bất dung, đám người Lô Sở liền muốn rời xa, tự thân mình tiến vào Đông Đô, trợ giúp bọn họ và chống lại Vương Thế Sung, chính mình trước đó không lâu vừa mới tấn công thành Lạc Dương, lúc này lại muốn kêu mình đầu hàng, sao bọn họ lại nghĩ vậy được.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Đây cũng là một cơ hội. Lý Mật chắp tay sau lưng dạo bước trong khoang thuyền, gã đang nghĩ mấy năm này tự mình phát triển, tuy rằng một thời đã từng cực thịnh. Lại không thể kéo dài, bọn quan viên ở Hà Nam tuy rằng rất nhiều người đầu hàng gã, nhưng cũng không có mấy người là thật tâm. Từ việc bọn họ chưa bao giờ đồng ý tới gặp mình, báo cáo thuế má nhân khẩu cũng chỉ là chiếu lệ, căn bản không đủ tin.

Ngược lại, Lý Uyên vào Quan Trung lập tức thanh thế chấn động, thế lực khuếch trương nhanh chóng, nhưng lại vô cùng vững chắc. Mà Dương Nguyên Khánh vào Hà Đông cũng giống như vậy, ngắn ngủikhông đến hai tháng, bọn quan viên Hà Đông thật lòng khâm phục. Đều đến Thái Nguyên yết kiến, có thế mới biết được chí hướng của mỗi người.

Nói cho cùng là vì mình không có được thế lực địa chủ ủng hộ, Lý Uyên thì được quý tộc Quan Lũng ủng hộ, Dương Nguyên Khánh thì được giới trí thức Sơn Đông ủng hộ, mà Tiêu Tiển thì được giới trí thức phía nam ủng hộ, cũng nhanh chóng lớn mạnh. Lý Mật ta đây đơn giản là nhờ hỗ trợ lương thực và được tầng thấp nhất là một số ít nông dân ủng hộ. Nhưng tranh đoạt thiên hạ, sự ủng hộ của nông dân tầng thấp nhất không có nghĩa lý gì.

Cho nên Lý Mật vĩnh viễn không bao giờ trở thành chính thống, trong mắt người trong thiên hạ gã chỉ là một thủ lĩnh của loạn phỉ. Nhớ năm xưa Lưu Bị suy nghĩ trong đầu phải làm thế nào để có một danh hiệu hoàng thúc, thì ra là phải là một người chính thống. Tào Tháo hợp thiên hạ lấy lệnh sai khiến các nước chư hầu cũng là vì giành chính thống. Lý Mật nếu muốn được thiên hạ, cũng nhất định phải đi con đường chính thống.

Phong thư này của Lô Sở không ngờ chạm đến nỗi lòng của Lý Mật, gã vì sao mà không thể tiếp nhận được? Sống mái với Vương Thế Sung, học Tào Mạnh Đức, ép thiên tử lệnh cho chư hầu, gã liền có đại nghĩa, có tên chính thống, thì gã có thể đến Hà Nam nói các thế lực địa chủ ủng hộ, đòi lương thực có lương thực, muốn binh có binh, thứ có trong tay các địa chủ lớn kia là tráng đinh và nô lệ cường tráng.

Gã lại xem thư của Phòng Huyền Tảo, Phòng Huyền Tảo cũng đề nghị gã phục tùng về phía Lạc Dương, nghĩ cách khống chế Hoàng Thái đế, không chỉ có thể loại bỏ đại địch Vương Thế Sung, mà còn có thể không đánh cũng thắng và chiếm cứ được Lạc Dương, đạt được tên chính thống. Sau này thời cơ chín muồi, một cước đá văng Hoàng Thái đế, bản thân đăng cơ xưng đế, có thể nói một mũi tên trúng ba con chim.

Nghĩ đến đây, Lý Mật không chút do dự quyết định đầu hàng Hoàng Thái đế, trong thư Phòng Huyền Tảo khuyên gã trước là đưa mười ngàn thạch gạo cấp cho Lạc Dương, để có thể mua chuộc lòng người. Hiện tại ở Lạc Dương giá gạo cực kỳ đắt, một đấu gạo mười ngàn tiền. Lý Mật lúc này viết một phong thư cho Lô Sở, đóng dấu tên mình lên, lại viết một phong thư cho Phòng Huyền Tảo, lệnh cho gọi tên quân sĩ vừa mới mang thư đến.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 604 : Mật sứ của Vương Thế Sung

Lý Mật đem thư giao cho tên lính và nói:

-Hai phong thư này lập tức đưa cho Phòng Trưởng sử, để y dựa vào sự sắp xếp của ta ở trong thư mà làm.

Quân sĩ nhận thư và cất kỹ, thi lễ liền đi. Lý Mật khẽ thở phào nhẹ nhõm, giờ khắc này gã bị phân tâm, bỗng nhiên dục vọng đối với quận Hà Nội không thể vội vã như vậy được.

Nhưng quận Hà Nội vẫn phải đánh, đạt được chắc là không tệ, không chiếm được gã cũng không có gì nuối tiếc.

Dưới sự che chở của bóng tối, mười mấy chiếc xa thuyền bắt đầu lặng lẽ lên đường, tất cả đều là xa thuyền chở binh lính, tổng cộng hai ngàn binh lính, nhiệm vụ của bọn họ là lên đất liền cướp lấy bến tàu.

Trên bến tàu, binh lính phòng ngự đã giảm bớt tám phần, đại doanh quân Tùy đóng ở ngoài hai trăm bước, bọn lính phần lớn đã về doanh trại nghỉ ngơi, trên bến tàu chỉ có hai ngàn nỏ binh, bọn họ giữ nguyên áo mũ ngã vào bờ đê ngủ nghỉ, trên người bọc chăn lông, mười mấy tên binh trinh sát tuần tra thận trọng xem sự chuyển động của dòng sông. Nhưng đêm rất tối, đại đội thuyền đều ở ngoài mấy trăm bước, bọn họ nhìn không thấy, chỉ có gần trong khoảng một trăm bước, mới có thể bị binh lính theo dõi trên bờ phát hiện.

Bất thình linh trên mặt sông bắn tới một mũi hỏa tiễn, trong đêm phát sáng màu đỏ khác thường, đây là trinh sát tuần tra trên mặt sông của quân Tùy phát ra để cảnh báo, có thuyền quân địch ở gần bờ sông, vài tên lính trinh sát tuần tra nhảy dựng lên, đến đại doanh bẩm báo, “Keng! Keng! Keng!” trên mặt sông vang lên tiếng chuông cảnh báo, ở bên bờ sông nỏ binh đang ngủ đều từ trong mộng bừng tỉnh, giơ nỏ lên, cảnh giác chú ý quân địch xuất hiện giữa sông.

Từ Thế Tích đúng lúc rời doanh trại đi tuần tra, thấy binh lính báo tin, gã lập tức giục ngựa chạy tới bờ sông nhìn ra giữa sông. Lúc này, trên mặt sông đã xuất hiện bóng đen đen của những chiếc thuyền, hẳn là ở ngoài trăm bước, nhưng đang nhanh chóng hướng vào bờ.

-Hỏa thuyền xuất kích!

Từ Thế Tích ra lệnh một tiếng, hơn năm mươi hỏa thuyền đỗ ở bờ biển lập tức hướng lòng sông chạy tới, những thuyền này đều là thuyền nhỏ, chất đầy bụi rậm và dầu hỏa, mỗi thuyền do hai gã quỷ nước Hoàng Hà mặc áo da cá mập màu đen lái, theo gió bắc mạnh mẽ mà hướng về phía hơn mười chiếc thuyền lớn trước mặt.

Thuyền nhỏ tốc độ cực nhanh, chỉ chốc lát đã đến gần thuyền lớn của quân Ngõa Cương, trên thuyền lớn tướng sĩ hô to gọi nhỏ, bọn lính đều bắn tên, tiễn như mưa dày đặc xuống, mưu tính ngăn cản thuyền nhỏ, nhưng không hiệu quả, quỷ nước giơ tấm chắn nắm tay lái thuyền tiếp tục đi tới, khi khoảng cách với thuyền lớn ước chừng hơn mười bước, thuyền nhỏ nổ ầm bốc cháy lên, nhóm quỷ nước đều nhảy xuống, ở dưới nước kéo thuyền nhỏ cập sát vào thuyền lớn.

Lửa cháy rất mạnh, dầu hỏa trút xuống nước, ở trong nước tạo thành một biển lửa, vài tên quỷ nước chạy trốn không kịp, bị chết cháy ở trong nước. Trong khoảng khắc, hơn mười thuyền lớn đều sa vào trong biển lửa, thuyền lớn cũng bắt đầu bốc cháy, binh lính trên thuyền bị cháy không chịu nổi, đều nhảy xuống sông chạy thoát thân, nhưng biển lửa trên mặt nước lại khiến cho bọn hắn khó mà thoát khỏi, cuối cùng bỏ mạng.

Trên mặt nước tất cả đều biến thành biển lửa, khói dày đặc không dứt, khí thế hùng tráng, ngay cả chính quân Tùy bọn họ cũng không ý thức được dầu hỏa có thể cháy ở trên mặt nước, hơn mười ngàn binh lính tập trung ở bờ biển, chen lấn nhìn biển lửa trên mặt sông, thỉnh thoảng truyền đến từng đợt tiếng hoan hô, là vì một thuyền địch đã bị đốt. Từ Thế Tích mắt nhìn mặt nước, môi cắn chặt, tuy rằng lửa cháy dữ dội, nhưng gã không cách nào cười được, trong lòng tràn đầy sầu não.

Lý Mật đứng trên thuyền, trợn mắt há hốc mồm mà nhìn thuyền của mình ở trong biển lửa giãy dụa, đại hỏa thiêu đốt ngút trời, thê thảm dị thường, mười tám chiếc thuyền lớn chỉ có năm chiếc từ trong lửa chạy thoát trở về, còn lại mười ba chiếc thuyền lớn, hơn một ngàn binh lính đại đa số bị táng thân trong biển lửa, chỉ có một phần nhỏ được Từ Thế Tích phái trinh sát tuần tra cho thuyền ra cứu.

Lý Mật đưa mắt nhìn hồi lâu, bùi ngùi thở dài, sớm nghe nói hỏa lực của Dương Nguyên Khánh cực kỳ lợi hại, quả nhiên khiến người ta tuyệt vọng. Nếu như thuyền của gã bị đốt, chỉ sợ Lý Mật gã cũng sẽ mất mạng ở bờ phía bắc, gã đã nản lòng thoái chí, liền quay đầu lại lệnh:

-Truyền lệnh của ta, thuyền lớn quay đầu, trở về nơi bến sông Minh Tân.

Mấy trăm chiếc thuyền lớn bắt đầu lục tục quay đầu, trong bóng đêm mù mịt, một số thuyền chạy nhanh sang hướng bờ bên kia, còn một số ít thuyền thì chạy hướng về khối đất bồi Trung Than phía tây nam của sông Hoàng Hà, đó là khối đất bồi ở sông Hoàng Hà, có Hà Dương quan, vẫn bị thuỷ quân của Lý Mật chiếm đoạt, cũng coi đây là một căn cứ thuỷ quân Ngõa Cương ở Hoàng hà.

Trên bờ bắc, thuyền trinh sát tuần tra truyền tin đến, quân Ngõa Cương toàn bộ rút khỏi, các binh sĩ lập tức hoan hô. Từ Thế Tích sắc mặt cũng lộ ra vẻ tươi cười, Lý Mật rút lui, tạm thời loại bỏ mối đe dọa của quân Ngõa Cương, nhưng gã cũng biết, thật ra không phải toàn bộ thuyền đều rút lui, một số thuyền hẳn vẫn còn ở trên đảo Trung Than.

Lúc này, Ưng Dương lang tướng nói khẽ với Từ Thế Tích:

-Từ tướng quân, chúng ta phải đoạt lại Hà Dương quan, nếu không quận Hà Nội vẫn bị uy hiếp.

Từ Thế Tích gật đầu:

-Hiện tại không vội, chờ mùa đông Hoàng Hà đóng băng thì mới đánh hạ!

Gã lại quay đầu lại lệnh:

-Lính liên lạc lập tức đi báo cáo với tổng quản, đội quân Lý Mật đã bị buộc rút lui về phía nam.

Quân Đậu Kiến Đức ở phía tây huyện Hoạch Gia bị đại bại, buộc Đậu Kiến Đức không thể không rút ba mươi ngàn nhân mã đang bao vây Tân Hương, rút quân về huyện Cộng Thành, chỉnh đốn quân mã phía sau gã vẫn còn bốn mươi ngàn quân, ngang bằng với quân Tùy. Đậu Kiến Đức trong lòng có chút mâu thuẫn, y muốn vứt bỏ việc tranh đoạt quận Hà Nội, rút quân về Hà Bắc, nhưng hơn ba mươi ngàn quân tinh nhuệ bị tổn thất làm y nhói tim, khiến y không thể chấp nhận sự thật này, không thu hoạch được gì, cứ như vậy rút binh sao?

Y cũng muốn tăng thêm quân để đánh, nhưng y lại sợ bị tổn thất lớn hơn, điều này là tâm lý của con bạc, không cam tâm lỗ vốn, muốn lấy lại vốn, nhưng lại sợ thua nhiều hơn, tâm lý mâu thuẫn này khiến y tiến thoái lưỡng nan.

Đúng lúc này, Đậu Kiến Đức đã nhận được tin, một nhánh quân Tùy hai mươi ngàn người từ khe núi Thái Hành tiến vào quận Hà Nội, đang hối hả lao về phía huyện Tân Hương. Đậu Kiến Đức biết, đây là viện quân của quân Tùy, như vậy quân lực của quân Tùy đã gần sáu mươi ngàn người, lại đánh xuống, chỉ sợ không phải đơn giản là tranh đoạt quân Hà Nội, ngọn lửa chiến tranh sẽ cháy tới Hà Bắc.

Đậu Kiến Đức xem xét thời thế, cuối cùng quyết định rút lui khỏi quận Hà Nội, y tự tay viết cho Dương Nguyên Khánh một bức thư, lúc ban đêm đại quân rời huyện Cộng Thành, trở về Hà Bắc.

Chiến dịch tranh đoạt quận Hà Nội cuối cùng cũng chấm dứt bằng sự thất bại của Đậu Kiến Đức.

Doanh trại Dương Nguyên Khánh vẫn như cũ ở huyện Hoạch Gia. Tần Quỳnh đã dẫn hai vạn viện quân đến, mang cho hắn dược vật và quân y. Một hồi phục kích chiến, mặc dù hắn diệt hơn ba vạn địch, nhưng giết địch ba ngàn, tổn tám trăm, quân Đậu Kiến Đức ngoan cường phản kích khiến cho hắn cũng tổn thất hơn hai ngàn người, năm ngàn người bị trọng thương. Những người này đều là lão binh theo hắn nhiều năm, là căn cơ để hắn giành thiên hạ, khiến Dương Nguyên Khánh đau lòng vô cùng. Mấy ngày qua, hắn dành phần lớn thời gian thăm người bệnh trong quân doanh, an bài trợ cấp.

Doanh trướng thương binh là lều lớn, đỉnh lều ước chừng chiếm một mẫu đất, là trướng chăm ngựa lớn thu được từ Đột Quyết. Loại lều này thông gió tốt, rộng mở mà không cảm thấy áp lực, rất thích hợp làm doanh trướng thương binh. Trong đỉnh đầu đại trướng có thể nằm hơn một trăm tên thương binh.

Phần lớn thương binh bị trúng tên, cũng có không ít kỵ binh ác chiến bị trường mâu thương tổ còn có một ít là bị thương do bị ngã. Thời đại vũ khí lạnh, trên chiến trường binh lính bị giết trực tiếp không nhiều, tuyệt đại đa số là sau khi bị thương chữa trị không kịp thời mà chết.

Quân Tùy bỏ mình hơn hai ngàn người cũng như vậy, binh lính bị giết tại chỗ cũng chỉ có mấy trăm, còn lại đều do chữa trị không kịp mà tử vong. Có chết do mất máu nhiều, có chết do nhiễm trùng vết thương, đây là vấn đề lớn khiến quân đội đau đầu.

Dương Nguyên Khánh nghe y chính Liễu Hoằng bẩm báo, thở dài với các tướng phía sau nói:

-Chữa trị binh lính bị thương quả thực là một vấn đề lớn. Một chiến dịch đánh ít nhất hai ba canh giờ, lính sau khi bị thương phải nằm trên chiến trường hai ba canh giờ, gần như rất khó có người trụ được tới cuối. Nhất định phải nghĩ biện pháp giải quyết vấn đề khó khăn này.

Dương Nguyên Khánh vừa dứt lời, Tần Quỳnh liền tiếp lời cười nói:

-Vấn đề này Trương đại soái cũng từng cùng chúng ta thương lượng qua, thảo luận rất sôi nổi.

Hắn quay đầu lại hỏi La Sĩ Tín:

-Sĩ Tín, ngươi còn nhớ rõ sao?

La Sĩ Tín gật đầu nói:

-Ta nhớ lúc ấy Giả Nhuận Phủ đưa ra một biện pháp tốt, tổ chức ra đôi y binh cứu trợchuyên môn , không cần đánh giặc, chỉ chú ý khuân vác thương binh, dùng tốc độ nhanh nhất đem thương binh chở về đại doanh cứu trị. Lúc ấy tất cả mọi người rất tán thành.

Kỳ thật Dương Nguyên Khánh cũng nghĩ đến y hộ binh, và cứu trợ y binh này có cách làm khác nhau nhưng kết quả lại giống nhau đến kì diệu. Hắn lại truy vấn:

-Về sau đâu rồi, hiệu quả như thế nào đây?

La Sĩ Tín ánh mắt có chút ảm đạm, thấp giọng nói:

-Sau liền xảy ra trận chiến chùa Đại Hải, phương án này không kịp thực thi.

Dương Nguyên Khánh vỗ vỗ bờ vai của hắn, lại hướng mọi người nói:

-Đây là một biện pháp tốt, tất cả mọi người đều đã từng đánh giặc, suy nghĩ nhiều một ít biện pháp cứu trợ thiết thực hữu hiệu, tận lực giảm một ít huynh đệ bị chết, cũng là bớt một ít mẹ góa con côi.

Lúc này, Tần Quỳnh dẫn Giả Nhuận Phủ vào. Giả Nhuận Phủ cũng không phải là đại tướng chiến đấu anh dũng mà chủ quản quân nhu binh trong quân đội của Trương Tu Đà. Y là một tiểu địa chủ ở chân núi Thái Sơn thuộc quận Lỗ, bởi vì muội muội gả cho Tần Quỳnh mà quen biết Trương Tu Đà. Trương Tu Đà thấy y tính toán sổ sách rất khôn khéo, cũng hiểu một chút mưu lược, bèn mệnh y phụ trách hậu cần trong quân đội. Trước mắt y là Thương Tào Tham Quân Sự trong quân của Dương Nguyên Khánh, chủ quản lương thảo quân tư.

Giả Nhuận Phủ tiến lên thi lễ:

-Tham kiến tổng quản!

Dương Nguyên Khánh cười nói:

-Chúng ta đang nói về việc giảm bớt thương binh tử vong, nghe nói ngươi từng đề xuất qua với sư phụ ta về việc thành lập y binh cứu trợ chuyên môn, chúng ta đều cảm thấy không tồi. Ta muốn nghe ngươi nói thêm một lần về phương án đó.

Giả Nhuận Phủ suy nghĩ rồi nói:

-Chuyện này thật ra là ty chức nghe một lão quân y nói, ty chức từng mở một đại lý xe ở huyện Lịch Thành, chuyên thuê và mua bán xe bò xe ngựa. Lúc ấy có một cửa hiệu thuốc bắc đặt làm một chiếc xe ngựa đặc chế, dùng để chuyên chở người bệnh cần cấp cứu. Xe ngựa rất rộng, bên trong đóng ba cái giường, có thể đồng thời vận chuyển ba người bệnh, bên cạnh có thể có ngồi thêm được một thầy thuốc, trên đường cũng có thể cứu trị. Ty chức cảm thấy quân đội chúng ta cũng có thể làm loại xe ngựa này chuyên vận chuyển thương binh, bên ngoài bọc một lớp sắt, phòng ngừa tên bắn. Xe ngựa làm lớn một chút, một lần vận chuyển sáu thương binh, cộng thêm một y binh cứu trợ...

Giả Nhuận Phủ nói đến đây, tất cả mọi người đều lớn tiếng ủng hộ, quả nhiên là biện pháp tốt. Dương Nguyên Khánh trong lòng thầm nghĩ, đây chính là hình mẫu ban đầu của xe cứu thương.

Lúc này Y chính Liễu Hoằng cũng cười nói:

-Ty chức cũng có một đề nghị! Từ rất lâu trước đã nghĩ tới rồi.

-Ngươi nói đi!

Dương Nguyên Khánh đầy hứng khởi nói.

Liễu Hoằng vuốt râu nói:

-Chính là là liên quan đến việc rửa sạch vết thương. Trước kia chúng ta đều là dùng nước sạch để rửa, sau đó bôi thuốc, nhưng như vậy miệng vết thương của binh sĩ dễ dàng sinh mủ, rất nhiều binh lính đều phát sốt lên mà chết. Về sau lại đổi dùng nước muối để rửa miệng vết thương, nhưng cảm giác hiệu quả vẫn không lý tưởng lắm. Có một lần ở Phong Châu có binh lính nói cho ty chức biết, dùng rượu nho loại tốt rửa miệng vết thương hiệu quả không tệ, chỉ có điều trong quân đội không cho phép uống rượu. Ty chức hy vọng tổng quản có thể đặc chuẩn cho quân y sử dụng rượu nho.

Liễu Hoằng nói xong, Dương Nguyên Khánh chợt nhớ tới năm đó Ngụy Trưng chưng rượu bán cho người Đột Quyết, liền cười nói:

-Ngươi đã nhắc ta nhớ, Ngụy Trưng biết dùng phương pháp của Tây Vực để chưng rượu, khiến rượu càng nặng. Tuy nhiên chúng ta không cần rượu nho, có thể dùng cao lương để ủ rượu, sau đó dùng phương pháp của Tây Vực chưng rượu, như vậy rượu càng mạnh hơn, dùng để tiêu độc thì quá tốt. Sau khi về Thái Nguyên, Liễu Y chính có thể tìm Ngụy thị lang thương lượng một chút.

Kỳ thật thuốc luyện công từ trước của Dương Nguyên Khánh cũng là một loại thuốc hay dùng để cầm miệng vết thương. Dương Nguyên Khánh từng mở rộng trong quân đội Phong Châu, nhưng sau lại phát hiện, loại thuốc này chỉ hợp với từng người, rất nhiều binh lính dùng xong vết thương ngược lại nghiêm trọng hơn, nên dần dần đã ngừng sử dụng.

Mọi người mỗi người một câu, lần lượt đưa ra kế sách. Lúc này, Trình Giảo Kim cũng không nhịn được nói:

-Lão Trình ta cũng đưa ra một phương pháp để binh lính không muốn chết.

Giọng nói của anh ta rất vang, tất cả mọi người lập tức yên lặng, ai ai cũng mang vẻ mặt cổ quái nhìn anh ta, đây không phải lời vô nghĩa sao? Có binh lính nào muốn chết, không biết anh ta lại muốn đưa ra ý kiến thiu thối gì đây?

Trình Giảo Kim gãi đầu, có chút lúng túng nói:

-Mọi người đừng nhìn ta bằng thứ ánh mắt đó, phương pháp của ta cam đoan tất cả mọi người đều thích.

Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười:

-Kỳ thật lời lão Trình nói cũng đúng, có đôi khi đau khổ mà sống không bằng chết, quả thực là muốn chết cho xong, tướng quân nói đi! Biện pháp gì?

Ánh mắt Trình Giảo Kim liếc nhìn đám binh lính bận bịu qua lại trong lều lớn. Những binh lính này đều là đến hỗ trợ chăm sóc thương binh, ai ai cũng bận đến mồ hôi đầm đìa, anh ta chán ghét dùng tay phẩy phẩy cái mũi, nói:

-Có thể thay mấy lão hôi hám chuyên chăm sóc người này bằng các cô gái xinh đẹp không vậy? Nếu như thế, lão Trình ta cũng muốn bị thương.

Anh ta vừa mới nói xong, các tướng lĩnh đều phản đối:

-Không được! Trong quân doanh không thể có nữ nhân.

Dương Nguyên Khánh ha ha cười. Chẳng lẽ Trình Giảo Kim muốn trở thành người tình của hộ sĩ sao?

Hắn khoát tay, hướng mọi người nói:

-Các vị, kỳ thật phương pháp của lão Trình cũng có chút đạo lý. Nữ nhân vốn đã có thiên tính chăm sóc người khác, họ tỉ mỉ, quan tâm, có thể chăm sóc thương binh cẩn thận hơn. Ban đầu khi ta lập quy củ, chủ yếu là suy xét trong quân xuất hiện nữ nhân sẽ ảnh hưởng lòng quân, nhưng nếu như là y hộ binh thì sẽ khác. Về sau quân doanh chúng ta có thể đặc biệt tách ra một y doanh, không cho binh lính dễ dàng ra vào, như vậy thì có thể chiêu mộ nữ y hộ binh. Hiện ở các nơi quả phụ rất nhiều, không lo vấn đề chọn người, ta quyết định tiếp thu ý kiến của Trình Tướng quân.

Trình Giảo Kim vui mừng đến mức lông mi như dựng đứng lên:

-Tổng quản, chiêu mộ nhiều mỹ nữ một chút, ty chức đoán lão Tần và tiểu La dù không bị thương cũng giả bộ bị thương, dù gì cũng đánh giặc mà. Thế mới càng hứng thú!

Tất cả mọi người trừng mắt nhìn anh ta. Tuy rằng còn muốn phản đối, nhưng Dương Nguyên Khánh đã quyết định, mọi người cũng không có cách nào. Dương Nguyên Khánh quả thật đã quyết định, ở Thái Nguyên thành lập tổng y doanh hậu cần, chiêu mộ số lượng lớn nữ binh chuyên chăm sóc và chữa bệnh. Có thể giải quyết vấn đề kế sinh nhai của rất nhiều các góa phụ, trong đó người thể trạng khỏe mạnh có thể cử làm nữ hộ binh trên chiến địa, điều này sẽ rất có lợi với việc giảm bớt tỉ lệ tử vong của thương binh.

Dương Nguyên Khánh nói với Giả Nhuận Phủ và Y chính Liễu Hoằng:

-Chuyện này ta sẽ giao cho hai người là tổng quản đặc biệt chấp hành mệnh lệnh, sau khi ta về Thái Nguyên sẽ an bài triều đình hiệp trợ, các biện pháp đều phải lập tức được hoạt động.

Giả Nhuận Phủ và Liễu Hoằng đồng loạt khom người nói:

-Ty chức tuân mệnh!

Lúc này, một gã thân binh chạy vội tới, ghé vào tai Dương Nguyên Khánh nói nhỏ vài câu. Dương Nguyên Khánh hơi ngẩn ra, liền cười nói với mọi người:

-Ta có chút việc qua lều lớn một chuyến, các ngươi tiếp tục trấn an thương binh.

Dương Nguyên Khánh xoay người ra khỏi lều lớn, xoay người lên ngựa, dọc theo đường cái chạy về phía đại doanh của trung quân. Chạy tới trước cửa lều, hắn xuống ngựa, một gã thân binh chào đón, chỉ chỉ vào lều khách ở bên cạnh:

-Tổng quản, người tới đang chờ ở trong lều.

Dương Nguyên Khánh lại hỏi:

-Mấy người tới?

-Chỉ có một người, còn có mấy người tùy tùng, chờ ở biệt doanh.

-Tổng quản giá lâm!

Cùng với tiếng hô to của binh lính, Dương Nguyên Khánh vén cửa lều vải đi vào trong lều khách. Trong lều khách có một người đàn ông chừng ba mươi tuổi đang ngồi, đang lo lắng lo lắng mà uống trà. Người này mặc một áo bào gấm màu trắng, thân hình cao lớn khôi ngô, vạm vỡ, có khuôn mặt dài, trong đôi mắt dài và nhỏ luôn không khỏi toát ra sự âm u lạnh lẽo.

Anh ta nghe thấy tiếng quát ngoài lều vải, vội vàng đứng lên. Lúc này Dương Nguyên Khánh vén cửa lều đi vào, nam tử trẻ tuổi thấy Dương Nguyên Khánh đầu đội kim khôi, liền biết là người anh ta muốn gặp. Anh ta liền vội vàng tiến lên vài bước, khom người thi lễ:

-Tướng của Đông Đô Trịnh quốc công, Lại bộ Vương Thượng thư Vương Nhân Tắc tham kiến Tấn Vương điện hạ!

-Ngươi là cháu của Vương Thượng thư!

Dương Nguyên Khánh cười cười hỏi.

Vương Nhân Tắc sợ vội vàng gật đầu nói:

-Chính là tại hạ! Phụng mệnh thúc phụ đến bái kiến điện hạ.

-Ngồi đi!

Dương Nguyên Khánh mệnh Vương Nhân Tắc ngồi xuống, hắn thấy trên bàn nước trà cũng chưa hề đụng tới, đã nguội, liền chỉ bảo thân binh:

-Đem cho Vương Tướng quân một chén trà nóng.

Vương Nhân Tắc vội vàng hạ thấp người nói:

-Đa tạ! Có thể cho tại hạ đổi một ly sữa đặc được không? Thật sự tại hạ không có thói quen uống trà.

Dương Nguyên Khánh ha hả cười:

-Đi bưng hai bát sữa đặc đến đây.

Binh lính đi ra ngoài, Dương Nguyên Khánh cười hỏi:

-Vương Tướng quân đã ở Đông Đô nhiều năm rồi, vẫn không có thói quen uống trà sao?

Vương Nhân Tắc lắc đầu, cười khổ nói:

-Con người tại hạ không phải là mệnh hưởng phúc, theo thói quen từ nhỏ uống sữa đặc và rượu sữa ngựa, uống trà thực không quen. Nếu không chính là theo cách của người Đột Quyết, cho ít muối vào trà sữa, còn có thể uống vài chén, bình thường nước chè xanh thực không quen.

-Cái này cũng khó trách, thói quen rất khó sửa.

Dương Nguyên Khánh hàn huyên sơ sơ hai câu, liền hỏi anh ta:

-Vương Thượng thư phái tướng quân tới gặp ta, có chuyện gì không?

Vương Nhân Tắc vội vàng từ trong lòng ngực lấy ra bức thư viết tay của Vương Thế Sung, hai tay dâng lên đưa cho Dương Nguyên Khánh:

-Đây là thư mà thúc phụ tại hạ gửi cho điện, điện hạ mời xem trước.

Dương Nguyên Khánh mở thư ra nhìn một lần, khẽ cau mày. Quân đội của Lý Uyên chiếm lĩnh quận Hoằng Nông, đây là chuyện khi nào? Hắn không ngờ không biết.

-Lý Uyên xuất binh chiếm Hoằng Nông, là chuyện khi nào?

-Hồi bẩm điện hạ, đây là việc vừa mới phát sinh hôm trước, tin tức vừa truyền đến, thúc phụ liền mệnh tại hạ lập tức tới gặp điện hạ.

Dương Nguyên Khánh lại tiếp tục xem thư, trong thư Vương Thế Sung khẩn cầu hợp tác với mình, đánh đuổi quân đội của Lý Uyên về Quan Trung. Nhưng hợp tác như thế nào, sẽ làm sao sau khi giành lại quận Hoằng Nông, ông ta trong thư không có nói, Dương Nguyên Khánh liền gấp thư lại và hỏi:

-Vương Thượng thư là hy vọng ta xuất binh tới Hoằng Nông sao?

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 605 : Dò xét mấu chốt

Trên mặt Vương Nhân Tắc lộ ra vẻ làm khó, y thở dài một tiếng nói:

-Ta không biết nên nói như thế nào, nhưng quả thật là chúng ta đang gặp khó khăn rất lớn. Quân lương của chúng ta sắp hết, muốn cầu Điện hạ nhìn trên phương diện đều là quân Tùy, cho chúng ta mượn ba mươi ngàn thạch lương thực, thúc phụ vô cùng cảm kích.

Trong lòng Dương Nguyên Khánh thầm cười lạnh một tiếng: “Vương Thế Sung muốn có lợi ích thực tế là quân lương đây, nhưng lại không tự mình xuất binh Hoằng Nông, thiên hạ nào có chuyện tốt bực này.”

Hắn cũng dấu diếm thanh sắc, bưng chén trà lên chậm rãi uống một ngụm, ước chừng để cho tâm của Vương Nhân Tắc treo ngược lên cổ họng, mới chậm rãi nói:

-Mượn lương không phải không được, nhưng ít ra cũng cần Việt Vương cho ta một phong thư. Dù sao ngài ấy mới là người đứng đầu quân đội. Mặt khác, ta rất lo lắng, một mình Vương Thượng thư phải đối phó với hai kẻ họ Lý, ngài ấy ứng phó được không?

Dương Nguyên Khánh nói song Lý là chỉ Lý Uyên và Lý Mật, điểm này Vương Nhân Tắc hiểu, thật ra đây cũng chính là chỗ khó khăn của thúc phụ y. Thật ra Vương Thế Sung cũng hy vọng Dương Nguyên Khánh có thể xuất binh Hoàng Nông, giúp đỡ y đánh đuổi Lý Uyên, dù sao, một mình y cũng khó mà đối phó được hai thế lực lớn Lý Uyên và Lý Mật.

Nhưng Vương Thế Sung lại lo lắng sẽ dẫn sói vào nhà, một khi thế lực Dương Nguyên Khánh tiến vào quận Hoằng Nông, hắn còn trả lại sao? Hơn nữa quận Hoằng Nông còn là sào huyệt của Dương thị, thế nên ở trong thư, Vương Thế Sung không viết là sau khi đuổi Lý Uyên đi thì sẽ thế nào? Y để cho cháu mình tùy theo hoàn cảnh mà đàm phán.

Vương Nhân Tắc vội vàng nói:

-Hồi bẩm Sở Vương Điện hạ, bởi vì việc quân, Thánh Thượng…

Vương Nhân Tắc nói đến đây, y bỗng nhiên ngẩn người. Y mới nhận ra, vừa nãy Dương Nguyên Khánh xưng hô chính là Việt Vương, căn bản là hắn không thừa nhận triều đình Lạc Dương. Vương Nhân Tắc gãi đầu, dường như y hiểu được điều gì đó, nhưng nhất thời lại không rõ, giống như có sương mù tràn ngập ở trước mặt, suy nghĩ của y có chút rối loạn, không biết nên nói gì.

Dương Nguyên Khánh liếc mắt nhìn hắn, thản nhiên cười nói:

-Trước tiên là nói về quân lương đi!

-Vâng!

Vương Nhân Tắc vội vàng nói:

-Bởi vì Thánh Thượng… Không! Hoàng Thái Đế giao quân quyền cho thúc phụ ta, cho nên việc quân lương ngài không hỏi đến rồi, do thúc phụ ta và vài vị Tướng quốc trực tiếp thảo luận.

-Vậy thì kì quái, vì sao Vương Thượng thư không hướng Lô Sở, truyền đạt yêu cầu bọn họ cấp quân lương mà lại đến chỗ ta mượn lương thực. Điều này hơi buồn cười nha!

Dương Nguyên Khánh hơi mỉm cười.

-Cái này… Ai!

Vương Nhân Tắc thở dài một tiếng:

-Bởi vì thúc phụ và mấy người Lô Sở như nước với lửa, căn bản sẽ không cho chúng ta mượn lương thực. Hơn nữa nhà kho Hàm gia cũng đã cạn kiệt lương thực, chỉ có trong Hoàng cung còn cất giữ hai mươi ngàn thạch lương thực. Hoàng Thái Đế lại nghe theo lời gièm pha của đám người Lô Sở, nói là dùng để tế dân, không chịu cấp cho quân đội. Quả thật làm cho người ta cực kỳ tức giận. Không có chúng ta liều mạng, thành Lạc Dương sớm đã bị phá. Hiện tại thành Lạc Dương đã không còn nguy hiểm, bọn họ liền một cước đá văng quân đội, bọn lính đều muốn tạo phản rồi.

Dương Nguyên Khánh là nhân vật ở cấp bậc nào? Ở trong quan trường ngươi lừa ta gạt đã mười mấy năm, một Vương Nhân Tắc nho nhỏ sao có thể là đối thủ của hắn. Dương Nguyên Khánh lập tức nghe được manh mối trong lời nói của Vương Nhân Tắc, khẳng định là trong tay Vương Thế Sung còn lương thực, lại đánh chủ ý đến lương thực cứu mạng của dân, thế nên Dương Đồng mới không chịu cho y. Kế đó, Vương Thế Sung cố ý tuyên truyền trong quân là Hoàng đế và trọng thần vô tình vô nghĩa, cố ý kích động tướng sĩ dưới trướng có ý phẫn hận với Hoàng đế và triều đình, bước tiếp theo là chuẩn bị đoạt quyền.

Tuy nhiên việc Vương Thế Sung và đám người Lô Sở mâu thuẫn nhưng thật ra rất có ý tứ. Nếu như hắn là Lô Sở, hắn và Vương Thế Sung tranh đấu, nhất định trong tay phải có quân đội, hoặc là hỏi mượn binh của Dương Nguyên Khánh hắn, hoặc là tìm Lý Mật hoặc Lý Uyên. Chẳng lẽ Lý Uyên xâm lấn quận Hoằng Nông là do đám người Lô Sở đưa tới hay sao?

Suy nghĩ một chút thấy cũng không có khả năng. Lý Uyên là Đường Đế, tìm Lý Uyên thì hậu quả rất nghiêm trọng. Lô Sở chấp nhận, Dương Đồng cũng không đồng ý. Như vậy, khả năng tìm Lý Mật là rất lớn. Nhưng mặc kệ Lô Sở muốn tìm ai làm chỗ dựa, nhất định là Lạc Dương sẽ có trò hay để xem rồi.

Nghĩ vậy, Dương Nguyên Khánh nhanh chóng chỉnh sửa lại suy nghĩ, Vương Thế Sung muốn mượn lương thực của hắn, đồng thời mời hắn cùng tấn công Lý Uyên, nhưng lại không muốn hắn chiếm lĩnh quận Hoằng Nông. Nhưng theo như biểu hiện bên trong của Vương Nhân Tắc có chút mâu thuẫn, hắn lại cảm thấy Vương Thế Sung còn có thêm một mục đích khác, đang thử thăm dò điều gì ở mình.

Đối với Dương Nguyên Khánh hắn mà nói, muốn hiệp công quận Hoằng Nông cũng có thể, nhưng cần Vương Thế Sung trả giá thật cao, Dương Nguyên Khánh liền chậm rãi nói:

-Ba mươi ngàn thạch lương thực ta có thể cấp cho các ngươi, cũng không cần các ngươi trả lại, nhưng ta có điều kiện, ta muốn quận Hoằng Nông.

Dương Nguyên Khánh nói rất trực tiếp, đương nhiên, hắn cũng không muốn quận Hoằng Nông, chỉ có điều hắn cần rao giá trên trời.

Miệng Vương Nhân Tắc há hốc, nửa ngày vẫn không thể khép lại, lại muốn quận Hoằng Nông, đây là kết quả mà thúc phụ y sợ nhất. Môi y giật giật, lẩm bẩm nói:

-Điện hạ, có thể đổi điều kiện khác không?

-Điều kiện khác ta nghĩ không được rồi, trừ khi…

Dương Nguyên Khánh nhìn y đầy ẩn ý.

Tinh thần Vương Nhân Tắc rung lên:

-Trừ khi cái gì?

Lúc này, binh lính đưa lên một chén trà nóng, Dương Nguyên Khánh trực tiếp cầm lấy từ trên tay binh lính. Hắn bưng chén trà, cẩn thận nhấp một ngụm trà nóng, cảm thấy khí nóng tiến vào lục phủ ngũ tạng vô cùng thoải mái. Hắn không vội trả lời, mà quan sát biểu hiện của Vương Nhân Tắc, hắn cần nắm bắt được mục đích sâu nhất của Vương Thế Sung.

Vương Nhân Tắc cắn vào môi dưới, trong lòng rất lo lắng. Lần này y đi sứ, thúc phụ ôm hy vọng rất lớn, y cũng có khát vọng thành công. Hiện tại cần xem Dương Nguyên Khánh đưa ra điều kiện gì, có thể nhận điều kiện như thế nào, như vậy thúc phụ rất có khả năng đạt thành hiệp nghị với Dương Nguyên Khánh. Đây chính là bước đầu tiên của việc kết thành đồng minh của bọn hắn.

-Điện hạ… Trừ khi cái gì?

Vương Nhân Tắc lại nhỏ giọng hỏi.

Từ vẻ lo lắng của Vương Nhân Tắc, Dương Nguyên Khánh nhìn ra lần đi sứ này của cháu trai, Vương Thế Sung đặt rất nhiều kỳ vọng. Vương Nhân Tắc giống như cái gương, soi sáng tình cảnh khốn khổ của Vương Thế Sung. Điều này khiến cho Dương Nguyên Khánh hiểu được, cái gọi là mượn lương thực thật ra chỉ là cái cớ, thật sự là Vương Thế Sung muốn cùng mình kết thành đồng minh, có được sự ủng hộ của mình.

Lúc này, Dương Nguyên Khánh mới nheo mắt, cười nói:

-Trừ khi đem ba ngàn thợ thủ công của Quân khí giám và gia quyến của bọn họ cho ta.

Vương Nhân Tắc cúi đầu không nói. Tuy điều kiện này so với việc chiếm lĩnh quận Hoằng Nông có tốt hơn một chút, nhưng cũng rất hà khắc. Thúc phụ y rất xem trọng ba ngàn thợ thủ công ưu tú này, điều này làm y khó có thể đáp ứng. Một lúc lâu sau, Vương Nhân Tắc thở dài nói:

-Tại hạ không thể làm chủ, ta trở về bẩm báo với thúc phụ, nếu thúc phụ đồng ý, chúng ta lập tức mang người qua sông đưa đến.

Dương Nguyên Khánh gật đầu, ánh măt dịu dàng đứng lên:

-Để biểu đạt thành ý của ta với Vương Thượng thư, trước tiên ta có thể bày tỏ thái độ, ủng hộ Vương Thượng thư tiếp tục tiến về phía trước một bước. Mặt khác, Lý Uyên ở bên kia, ta cũng sẽ lấy thế đè y, lên tiếng ủng hộ Vương Thượng thư thảo phạt Lý Uyên. 

Vương Nhân Tắc cáo từ đi rồi, Dương Nguyên Khánh vẫn còn trầm tư. Vương Thế Sung thể hiện thiện ý khiến cho hắn phát hiện một quân cờ vô cùng tốt, Vương Thế Sung tồn tại ở Lạc Dương, rất có thể làm chệch hướng Lý Mật và Lý Uyên. Tuy không có khả năng kết thành đồng minh vĩnh viễn, nhưng ít nhất vào hiện tại, đối với hắn, Vương Thế Sung cực kì hữu dụng.

Với Vương Thế Sung, địch nhân lớn nhất là Lý Mật, tiếp đó là Lý Uyên mở rộng về phía đông tạo thành uy hiếp, mà điều này hoàn toàn là điều mà hắn cần. Hắn cần một người thay hắn làm chệch hướng mở rộng của Lý Uyên. Đã cùng chung địch nhân, có lẽ bọn họ có thể kết làm đồng minh.

Về phần Vương Thế Sung tự lập làm Đế, kỳ thật đó cũng là chính trị Bắc Tùy cần. Nghĩ đến đây, Dương Nguyên Khánh cầm bút viết một mệnh lệnh, giao cho một gã thân vệ, lệnh hắn:

-Dùng chim ưng mang phong thư giao cho Lạc Dương Trương Thắng.

Lúc này, một gã thân binh khác đi tới, mang một phong thư dâng cho Dương Nguyên Khánh:

-Tổng quản, đây là thư tay mà Đậu Kiến Đức phái người đưa tới.

Dương Nguyên Khánh mở thư ra, thấy trên thư viết một hàng chữ to đẹp như rồng bay phượng múa, ‘Dương công không chết, Kiến Đức ngủ không ngon!’

Dương Nguyên Khánh hơi mỉm cười, trong những lời này bao hàm sự bất đắc dĩ và phẫn hận của Đậu Kiến Đức, nhưng bên cạnh đó đã thừa nhận quận Hà Nội thuộc về Dương Nguyên Khánh hắn rồi.

Hắn cũng cầm bút viết một câu, ‘Các tu kỳ đức, các an kỳ dân, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.’

Đương Nguyên Khánh đưa thư cho thân binh:

-Đưa cho người của Đậu Kiến Đức mang về.

Hắn đứng lên ra lệnh:

-Truyền mệnh lệnh của ta, quân đội nghỉ ngơi chỉnh đốn ba ngày, chuẩn bị tiến đến quận Hà Đông!

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 606 : Phía nam đánh áp Lý Uyên

Đậu Kiến Đức thở thật dài, rút kinh nghiệp xương máu, y cần tiếp nhận giáo huấn lần này, tại sao lại thua, đương nhiên không thể trách quân sư Tống Chính Bản. Đậu Kiến Đức quay đầu nhìn thoáng qua Tống Chính Bản ở phía sau, cách đó không xa. Y cũng bị trúng tên, nằm trên một cỗ kiệu, buồn bực không vui, mấy ngày nay vẫn tự trách bản thân.

Sách lược của Tống Chính Bản là đúng, mấu chốt là mình chọn sai thời điểm. Y không nên lựa chọn hành quân vào ban đêm, quên mất là quân đội Dương Nguyên Khánh giỏi về đánh đêm, cũng quên quân đọi Dương Nguyên Khánh lấy kỵ binh làm chủ. Bọn họ không chọn vùng núi để phục kích, nhất định sẽ tiến công trên bình nguyên, đây chính là không hiểu biết về đối phương, mà quan trọng hơn là kế sách của bọn họ bị Dương Nguyên Khánh nhìn ra. Nói cho cùng, là y chọn sai kẻ thù, y không nên tiến công quận Hà Nội.

Đậu Kiến Đức đau buồn nhắm hai mắt lại, y lần lượt nhớ lại từng gương mặt quen thuộc, lần lượt hiện lên trong đầu y. Bọn họ đã nằm lại trên đất quận Hà Nội, đến thi thể cũng không thể mang về cố hương.

-Vương gia!

Một gã kỵ binh hăng hái chạy tới. Đậu Kiến Đức nghe thấy giọng nói này, là tên thân binh y phái đi đưa thư cho Dương Nguyên Khánh, y mở to mắt hỏi:

-Đưa thư cho Dương Nguyên Khánh rồi sao?

-Đã đưa. Hắn trả lại Vương gia một phong thư.

Tên thân binh đưa thư cho y.

Đậu Kiến Đức vội vàng nhận lấy, vài tên thân binh đốt đuốc lên. Nhờ có ánh lửa, Đậu Kiến Đức nhìn bức thư, cũng chỉ có một câu: ‘Các tu kỳ đức, các an kỳ dân (Mỗi người tự tu đức, tự an dân của mình), mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.’

Đậu Kiến Đức đọc đi đọc lại mấy lần, khóe miệng của y lộ ra một nụ cười khổ. Sớm hay muộn thì Dương Nguyên Khánh muốn tính kế lên Hà Bắc. Y chậm rãi nằm xuống, nhìn lên ngôi sao sáng nhất trên bầu trời đêm, ngôi sao bên cạnh có vẻ mờ đi rồi.

Chăm chú nhìn một lúc lâu, y lấy ra một cái kim bài giao cho một gã thân binh:

-Nhanh đi quận Tề, nói với Tử Viên Lãng, ta nhận thỉnh cầu kết thân của hắn, sẽ cưới muội muội của hắn làm Trắc Phi.

Đây là chiến dịch mà y thất bại thảm thiết nhất kể từ khi khởi sự. Trong một đêm, ba mươi tám ngàn lão binh đã trải qua trăm trận chiến bị diệt, bao gồm cả tám ngàn Long Tương quân tinh nhuệ nhất của y, đây là Ngự lâm quân do y hao tổn rất nhiều vốn liếng tạo ra, áo giáp kiên cố nhất, chiến mâu lợi hại nhất, chiến mã cường kiện nhất, cùng với mười dặm chọn một chiến sĩ, cuối cùng chỉ còn lại ba ngàn người khiến cho Đậu Kiến Đức đau thấu ruột gan, vết thương do tên bắn lại bắt đầu đau.

Đậu Kiến Đức ngồi trên một xe kéo do hơn trăm binh lính tháp tùng, trên người đắp một tấm thảm thật dày. Y cũng bị thương, đang lẩn trốn trong hỗn loạn thì bị trúng một mũi tên vào thắt lưng, không thể cưỡi ngựa. Đậu Kiến Đức nằm trên một tấm đệm, đưa mắt nhìn bầu trời phá lệ đầy sao sáng, trong lòng của y phập phồng cảm xúc, thật khó có thể bình ổn.

Trong bóng đêm, quân đội Đậu Kiến Đức chậm rãi rút lui. Bóng đêm bao phủ nhiều đội binh lính, dọc theo đường núi nhấp nhô không bằng phẳng, xếp thành hàng dài, rút khỏi hướng đông, các tướng lĩnh trầm mặc không nói. Vẻ mặt âm trầm cưỡi ngựa đi bên cạnh đội ngũ, trên mặt mỗi người đều toát ra một loại uất hận và không cam lòng.

Trên bản đồ của Đại Tùy, quận Hoằng Nông không sát Hoàng Hà. Một vùng đất dài hẹp ở phía bắc của quận thuộc quận Hà Nam, cứ thế kéo dài đến Đồng Quan, giống như người anh là quận Hà Namuỗi cánh tay dài ôm lấy người em là quận Hoằng Nông. Nhưng về duyên cách lịch sử và phong tục tập quán, vùng đất dài hẹp ven Hoàng Hà bị quận Hà Bắc cướp đi này trước nay đều thuộc sự quản hạt của địa khu Hoằng Nông.

Năm Đại Nghiệp thứ chín, Dương Huyền Cảm tạo phản, Lạc Dương nằm trong thế nguy. Vì để Thái Thú quận Hoằng Nông là Dương Tích Trí lúc bấy giờ ngăn cản Dương Huyền Cảm lui quân vào Quan Trung, Dương Quảng đã hạ chỉ phía tây huyện Thiểm tạm thời đều thuộc quận Hoằng Nông quản hạt, buộc Dương Tích Trí trăm phương ngàn kế ngăn cản Dương Huyền Cảm rút lui về phía tây.

Trên chiếu thư nói tuy là tạm thời quản hạt, nhưng vẫn không hề bãi bỏ. Cho nên đã xuất hiện vùng đất hẹp dài ven Hoàng Hà ở phía tây huyện Thiểm mang thân phận kép, vừa thuộc Lạc Dương quản hạt, đồng thời cũng thuộc sự quản hạt của quận Hoằng Nông. Cho nên khi Lý Uyên phái đại tướng Lý Hiếu Cung dẫn ba mươi ngàn quân đội xuất hiện tại vùng dài hẹp này, đã mang tới một chấn động cực lớn ở Lạc Dương. Vua và dân đều cho rằng đây không đơn giản là đánh chiếm quận Hoằng Nông, ý đồ của Lý Uyên là Lạc Dương. Hoàng Thái đế Dương Đồng mệnh Vương Thế Sung khẩn cấp ứng đối, Vương Thế Sung bèn để lại tâm phúc thủ thành, còn ông ta đích thân dẫn ba mươi ngàn quân đóng quân ở nơi hiểm trở của núi Hào, như hổ rình mồi quân đội của Lý Hiếu Cung.

Quân đội chủ lực của Lý Hiếu Cung đóng quân ở khoảng hai mươi dặm về phía tây huyện Thiểm, gần sát với Hoàng Hà. Mặt khác y phái thuộc cấp Hoàng Trị Công dẫn ba nghìn quân thủ Hàm Cốc Quan, lại phái thuộc cấp Lưu Hoằng Cơ dẫn năm nghìn quân thủ thành Hoằng Nông, chặt chẽ khống chế mấy yếu địa chiến lược của quận Hoằng Nông, hình thành thế giằng co với Vương Thế Sung.

Mà đúng lúc này, thám tử quận Hà Đông truyền tin tức đến, Dương Nguyên Khánh đích thân dẫn bốn mươi ngàn đại quân chuyển hướng đến quận Hà Đông, chia làm hai đường. Một đường đóng ở bến Phong Lăng, một đường đóng quân ở vùng huyện Hà Bắc bên kia Hoàng Hà, cách sông đối nhau với bọn họ.

Tình huống bất chợt khiến Lý Hiếu Cung vô cùng lo lắng. Bốn mươi ngàn đại quân của Dương Nguyên Khánh đóng quân ở bờ Hà Bắc tạo cho y áp lực rất lớn. Một khi Vương Thế Sung phát động công kích phối hợp với đại quân của Dương Nguyên Khánh qua sông, nếu quân Tùy ở bến Phong Lăng cũng đồng thời qua sông, cắt đứt đường lui của y, ba mươi ngàn quân của y sẽ gặp tai họa ngập đầu. Lý Hiếu Cung cấp bách phái người về Trường An báo cáo với Lý Uyên.

Trong đại doanh ở núi Hào, Vương Thế Sung cũng đứng trước sa bàn suy nghĩ rất lâu không nói. Đã có rất nhiều người biết sự tích Dương Nguyên Khánh sử dụng sa bàn để tác chiến, trong số đó có ông ta. Ông ta phái thám báo thăm dò tỉ mỉ núi sông Hà Nam, cũng làm một chiếc sa bàn của hai mươi quận thuộc Hà Nam đạo. Tuy không chuẩn và chi tiết như sa bàn của Dương Nguyên Khánh, nhưng hữu dụng hơn nhiều so với bản đồ.

Vương Thế Sung mắt tuy nhìn sa bàn, nhưng trong đầu lại đang nghĩ đến việc của triều đình. Hai tháng chống lại quân Ngõa Cương, khiến ông ta dần dần nắm giữ quân quyền, nhưng mâu thuẫn giữa ông ta với đám người Lô Sở và Hoàng Phủ Vô Dật cũng bắt đầu trở nên gay gắt. Mà ông ta chỉ là một hòa thượng từ bên ngoài đến, trên sự khống chế của triều đình, ông ta mãi mãi không bằng mấy lão thần như Lô Sở kia. Hoàng Thái đế rõ ràng cũng thiên hướng về Lô Sở, điều này khiến ông ta cực kỳ bị động. Tuy ông ta nắm trong tay phần lớn quân đội, nhưng mười ngàn quân Ngự Lâm hộ vệ hoàng thành lại khống chế trong tay cháu trong tộc của Lô Sở là Lô Tổ Thượng. Khiến ông ta tuy muốn phát động quân sự chính biến, nhưng lại kề cà không dám động thủ.

Gần đây Vương Thế Sung nghe được một tin đồn, nói là triều đình định chiêu hàng Lý Mật, điều này khiến cho ông ta hết sức căng thẳng. Nếu tin đồn là thật, vậy thì ông ta sắp đối mặt với kiếp nạn sinh tử. Đại quân của Lý Mật tới đã không còn là đối phó với Lạc Dương, mà là đối phó với cá nhân Vương Thế Sung ông. Trên triều đình sẽ không có người ủng hộ ông ta, điều này khiến Vương Thế Sung có một loại cảm giác bốn bề gặp địch trên chính trị, khiến ông ta rất cô lập.

Vương Thế Sung không phải loạn phỉ tạo phản như Chu Kiệt, Lý Tử Thông, đầu óc đơn giản, chỉ biết giết người đoạt lấy. Ông ta cũng không phải là danh soái trung thần như Dương Nghĩa Thần, Trương Tu Đà. Ông ta giỏi tác chiến, có năng lực thống soái, cũng có mưu lược, hơn nữa âm hiểm ác độc. Đồng thời, ông ta cũng có tầm nhìn và đầu óc chính trị nhất định. Ông ta biết bây giờ đã không phải là thời kỳ quần hùng cùng tồn tại, loạn phỉ nổi lên khắp nơi như năm Đại Nghiệp thứ bảy, muốn tham gia tranh đoạt thiên hạ, cần phải có cơ sở chính trị, phải có được sự giúp đỡ của văn nhân, có được sự giúp đỡ của danh môn sĩ tộc nắm giữ các loại tài nguyên.

Nếu chỉ dùng sức mạnh giết chết hết Hoàng đế và các đại thần văn võ trong triều, vậy đó cũng chính là thời khắc diệt vong của Vương Thế Sung ông. Ông ta cần phải có được sự giúp đỡ của thế lực chính trị. Bây giờ ông ta loạn trong giặc ngoài, bên trong có sự căm thù của đám người Lô Sở, ngoài có sự uy hiếp của Lý Mật và Lý Uyên, khiến ông ta cảm giác áp lực ghê gớm. Bây giờ hi vọng duy nhất của ông ta chính là Dương Nguyên Khánh, ông ta hi vọng có thể có được sự giúp đỡ của Dương Nguyên Khánh, có sự viện trợ về lương thực để duy trì quân đội của ông ta, có được sự giúp đỡ về quân sự khiến ông ta có thể giảm bớt áp lực từ bên ngoài vào.

Lúc này Vương Thế Sung cũng đã có được tình báo, Dương Nguyên Khánh xuất binh tới quận Hà Đông, ở phía bắc đánh áp quân đội của Lý Uyên, điều này khiến ông ta vui mừng quá đỗi. Đây cũng có nghĩa việc đi sứ của cháu trai Vương Tắc Nhân đã có thu hoạch. Chỉ có điều sao cháu trai vẫn chưa quay lại, khiến Vương Thế Sung thấp thỏm không yên

Đúng lúc này, ngoài lều vải có thân vệ bẩm báo:

- Nhân Tắc tướng quân đã quay về rồi!

Vương Thế Sung mừng rỡ, vừa nghĩ đến cháu trai, cháu trai liền trở về. Ông ta vội vàng lệnh nói:

- Mau bảo nó vào gặp ta!

Một lát, Vương Nhân Tắc vội vàng đi vào, quì một gối:

- Cháu Vương Nhân Tắc tham kiến thúc phụ!

- Mau mau đứng lên!

Vương Thế Sung đỡ cháu trai lên, hai người ngồi xuống. Vương Thế Sung liền không nhịn nổi mà vồ vập hỏi:

- Thế nào, thái độ của Dương Nguyên Khánh sao hả?

Vương Nhân Tắc trên đường đã nghe được tin Dương Nguyên Khánh đi vòng sang quận Hà Đông. Đây chính là đã thực hiện lời hứa của hắn, từ phía bắc đánh áp quân của Lý Uyên, bày tỏ thành ý của hắn. Tin tức này khiến Vương Nhân Tắc cũng cảm thấy rất hưng phấn. 

- Thúc phụ, Dương Nguyên Khánh trên đại cuộc muốn hợp tác với thúc phụ, chỉ có điều ở một số chi tiết vẫn muốn thúc phụ nhượng bộ.

Vương Thế Sung gật gật đầu,

- Trước tiên cháu hãy nói cho ta biết tình hình chi tiết khi cháu và anh ta gặp nhau. Từng câu nói của anh ta cũng không được lược bỏ.

Vương Nhân Tắc bèn kể lại tỉ mỉ cuộc gặp gỡ giữa anh ta và Dương Nguyên Khánh cho Vương Thế Sung nghe. Vương Thế Sung không nói một lời, trên mặt cũng không có bất kỳ biểu hiện gì. Chỉ có điều khi Vương Nhân Tắc nói Dương Nguyên Khánh gọi Dương Đồng là Việt vương, đôi mắt của ông ta lóe lên cái nhìn kỳ dị. Nhưng ông ta lại rất nhanh giấu đi cảm xúc và tiếp tục nghe, khi ông ta nghe tới chỗ Dương Nguyên Khánh nguyện ý ủng hộ ông ta tiếp tục tiến lên một bước, ông ta nén không nổi sự hưng phấn trong lòng, đứng phắt dậy đi đi lại lại.

Ông ta đã tin tưởng Dương Nguyên Khánh ủng hộ ông ta thay thế được Nam Tùy, triều Tùy chỉ có một, ở Thái Nguyên chứ không phải ở Lạc Dương. Điểm này quan trọng hơn bất cứ thứ gì, đây chính là nền tảng hợp tác giữa ông ta và Dương Nguyên Khánh. Cũng có nghĩa là sau khi ông ta giành được chính quyền Lạc Dương có thể có được sự giúp đỡ của Dương Nguyên Khánh, có thể khiến ông ta vượt qua được thời kỳ gian nan ban đầu.

- Thúc phụ, vậy còn vấn đề đổi ba mươi ngàn thạch lương thực lấy ba nghìn thợ thủ công trong Quân khí giám, chúng ta có thể đáp ứng không?

Vương Thế Sung khẽ mỉm cười, đây là vấn đề nhỏ rồi, chỉ cần có thể đổi lấy sự ủng hộ của Dương Nguyên Khánh, điều kiện này hoàn toàn có thể đáp ứng. Hơn nữa Dương Nguyên Khánh cũng không đưa ra điều kiện hà khắc theo kiểu muốn lấy quận Hoằng Nông hoặc phải như thế này thế kia khiến ông ta khó có thể tiếp nhận.

- Điều kiện này có thể chấp nhận.

- Nhưng… phía triều đình liệu có đồng ý không ạ?

Vương Nhân Tắc lo lắng hỏi.

Vương Thế Sung do dự một chút, tuy rằng Quân khí giám chịu sự khống chế của ông ta, nhưng đưa đi ba nghìn thợ thủ công tốt và người nhà của họ, thì đó không còn là chuyện đơn giản như vậy nữa. Ông ta suy nghĩ rồi nói:

- Dương Nguyên Khánh cũng không nói sẽ cần ngay, có thể chậm một chút giao cho anh ta. Cháu chịu khó đi quận Hà Đông thêm chuyến nữa, thương lượng cụ thể một chút với Dương Nguyên Khánh. Nói cho anh ta biết, chỉ cần trong một tháng sau khi quân đội của Lý Uyên rút khỏi, ta có thể giao thợ thủ công cho anh ta.

- Cháu hiểu ạ, cháu lập tức đi gặp Dương Nguyên Khánh lần nữa.

Vương Thế Sung đơn giản viết cho Dương Nguyên Khánh một bức thư tay, mệnh cho cháu mình mang đi.

Sáng sớm. Nơi cửa thành huyện Hoằng Nông vẫn hối hả như thường ngày. Cho dù thế cục quận Hoằng Nông đang rất căng thẳng, nhưng đối với người dân bình thường cũng không có ảnh hưởng gì. Một đám nông dân quãy gánh tụ lại ở trước cửa thành, la hét ầm ĩ muốn vào thành bán rau quả, đồ ăn.

Lúc này, một người đàn ông cưỡi ngựa cùng với một chiếc xe ngựa từ phía xa đi tới. Đám người chen lấn khiến họ không thể không đi chậm lại, nhẫn nại cùng với những người quẩy sọt đi vào thành.

Người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi, làn da trắng nõn, mặt dài choắt, dưới cằm để một chòm râu đen. Tuy trông có vẻ hơi tiều tụy, nhưng ánh mắt lại vô cùng trong và sáng. Người này chính là Dương Sư Đạo từng đảm nhiệm Thái Thú quận Ngũ Nguyên, cũng là con trai của Dương Hùng. Hoàng tộc Đại Tùy, Dương Nguyên Khánh sau khi tự lập ở Phong Châu, y không thể không rời quận Ngũ Nguyên quay về kinh thành, được Dương Quảng bổ nhiệm làm Thái Thú quận Lương. Nhưng quận Lương lại bị quân Ngõa Cương công chiếm, y chỉ đành quay về kinh đảm nhiệm Hồng Lư Tự Khanh. Sau khi Hoàng Thái đế lên ngôi, y lại được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư.

Trưa ngày hôm qua, Dương Sư Đạo nhận được tin tức xác thực, đám người Lô Sở đã thuyết phục Hoàng Thái đế, chuẩn bị tiếp nhận việc đầu hàng của Lý Mật, điều này khiến Dương Sư Đạo vô cùng căng thẳng. Y ý thức được một cuộc binh tai, y suốt đêm mang theo vợ con trốn khỏi thành Lạc Dương, tới tránh ở chỗ huynh trưởng là Dương Cung Nhân.

Dương Sư Đạo tối hôm qua chạy suốt cả đêm, cũng suy nghĩ suốt cả đêm. Mặc dù y cũng nghe nói huynh trưởng đã đầu hàng Lý Uyên, nhưng bản thân Dương Sư Đạo lại muốn đi Thái Nguyên. Nguyên nhân rất đơn giản, em gái của y là Dương Bội Hoa lấy tên là Giang Bội Hoa, gả cho Dương Nguyên Khánh, được phong làm Trắc Phi của Sở Vương.

Hơn nữa y từng đảm nhiệm Thái Thú quận Ngũ Nguyên, có mạng lưới quan hệ rất mạnh ở Phong Châu, có quan hệ không tồi với mấy cao quan Bắc Tùy như Thôi Quân Tố, Đỗ Như Hối, Trương Đình. Y tin mình có thể được trọng dụng, nói không chừng còn có thể nhập tướng (làm Tể tướng – triều Tùy có nhiều Tể tướng cùng một lúc).

Nhưng có một số lời y phải dặn dò một chút với huynh đệ Dương Cung Nhân. Vợ của Dương Sư Đạo năm ngoái bị bệnh mà chết, để lại hai đứa con trai thơ dại, được tiểu thiếp Bạch Ngọc Nương của y chăm sóc. Lần này chạy khỏi Lạc Dương, nhất định phải đưa bọn họ ra.

Xe ngựa chậm rãi dừng lại ở cửa sau của quận nha, đây là chỗ ở của Thái Thú. Trước cửa phủ vô cùng náo nhiệt, mười mấy chiếc xe ngựa chất đầy rương hòm lớn nhỏ, mấy chục tên nha dịch đang bận rộn khuân vác đồ đạc.

Dương Sư Đạo trong lòng hơi ngây ra, đại ca muốn dọn nhà sao? Vừa khéo Dương Cung Nhân từ trong cửa lớn đi ra, sắp xếp hòm sách của gã.

- Đại ca!

Dương Sư Đạo hô một tiếng, Dương Cung Nhân vừa quay đầu lại thấy là Tam đệ, gã sửng sốt. Tam đệ không phải ở Lạc Dương đảm nhiệm Lễ Bộ Thượng thư sao? Làm sao lại tới quận Hoằng Nông?

- Đại bá!

Hai đứa con trai của Dương Sư Đạo cũng từ trong cửa xe vẫy tay với gã.

Dương Cung Nhân ha ha cười tiến lên trước, đưa tay xoa đầu hai đưa cháu, cười nói với Dương Sư Đạo:

- Sao đệ không gửi thư tới trước, chậm một canh giờ nữa là ta phải đi rồi, đệ tới đâu tìm ta chứ?

- Đại ca đi đâu?

Dương Cung Nhân cười cười:

- Ở đây nói chuyện không tiện, vào trong nhà rồi hãy nói!

Dương Nhân Cung sai bảo người nhà dắt xe ngựa vào phủ, lại mệnh người tìm vợ đến dẫn mấy đứa trẻ, còn gã thì dẫn huynh đệ vào trong thư phòng. Dương Nhân Cung và Dương Sư Đạo là huynh đệ cùng cha khác mẹ, hơn nữa Dương Nhân Cung nhiều hơn Dương Sư Đạo mười tuổi. Tuy là như thế, nhưng tình cảm giữa hai huynh đệ họ lại vô cùng thắm thiết.

Hai người đi vào thư phòng và ngồi xuống, Dương Cung Nhân liền hỏi:

- Lạc Dương xảy ra chuyện gì sao?

Dương Sư Đạo thở dài,

- Lũ ngu dốt Lô Sở dẫn sói đuổi hổ, Lạc Dương phỏng chừng sắp binh biến rồi.

Dương Sư Đạo bèn nói lại một lần nữa chuyện Lô Sở thuyết phục Hoàng Thái đế chuẩn bị chấp nhận Lý Mật đầu hàng, y thở dài nói:

- Vương Thế Sung là hạng người lòng dạ độc ác, gã sao chịu bó tay chịu trói. Gã tất nhiên sẽ xuống tay trước, triều đình Nam Tùy sớm hay muộn cũng sẽ sửa họ Vương rồi.

Dương Cung Nhân trầm ngâm một chút nói:

- Không bằng đệ cùng ta đi Trường An đi! Lý Uyên đã phong ta làm Hộ bộ thị Lang, ta cũng có thể đảm bảo để đệ làm Thái Thú.

Dương Cung Nhân nhìn chăm chú vào huynh đệ, Dương Sư Đạo lắc đầu:

- Đệ quyết định đi Thái Nguyên, muốn xin huynh trưởng lo cho đệ một chiếc thuyền.

Dương Cung Nhân trầm tư thật lâu sau, cuối cùng cũng đồng ý:

- Cũng được, tương lai giữa Dương Nguyên Khánh và Lý Uyên còn chưa biết ai được ai thua, huynh đệ chúng ta quả thực phải để lại cho đối phương một đường lui.

Trong Hoàng Hà, một đội thuyền lớn gồm ba mươi chiếc thuyền tạo thành đi dọc theo bờ bắc Hoàng Hà hướng về phía đông, cánh buồm giơ lên, gió tây bắc thổi mạnh khiến cho con thuyền lớn lướt đi như bay, dần dần khiến tòa Sơn Lĩnh ở bờ bắc đã ở xa xa phía sau lưng.

-Bẩm báo Vương gia, phía trước chính là huyện Hà Bắc.

Trên thuyền lớn thứ hai, Dương Nguyên Khánh đứng ở mép thuyền ngắm thế núi kéo dài bất tận. Bên cạnh là người cầm lái của con thuyền. Người này họ Tiền, chừng hơn năm mươi tuổi, đã lái thuyền ở trên sông Hoàng Hà bốn mươi năm, làn da ngăm đen, da mặt dày bóng lỗ chỗ những đường ngang dọc, hằn lên sựbể dâu của năm tháng.

Dương Nguyên Khánh nhìn theo phía tay ông ta, chỉ nhìn thấy ở hướng đông bắc xuất hiện một cửa ải rất lớn. Bên trong cửa ải có xây dựng một tòa thành trì. Đó chính là huyện Hà Bắc. Mấy tháng trước, đại quân của Lý Thế Dân chính là từ nơi này rút về bờ nam. Giờ này, bên bờ Hoàng Hà sát huyện Hà Bắc có rất nhiều thuyền lớn thuyền nhỏ neo đậu. Đây là thuyền từ các nơi đến, một lần có thể vận chuyển hơn mười nghìn binh lính.

Dương Nguyên Khánh từ bến Phong Lăng đến. Bên bến Phong Lăng kia do Lý Tĩnh dẫn hai mươi nghìn quân đội đã làm xong công tác chuẩn bị qua sông, còn Dương Nguyên Khánh thì dẫn hơn hai mươi nghìn quân đến đóng quân ở vùng bến đò của quân Hà Bắc. Bọn họ cũng không vội vàng phát động công kích đối với bờ bên kia sông Hoàng Hà mà còn đang chờ thời cơ.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 607 : Cơn bão dầu hỏa

Trên thực tế, Dương Nguyên Khánh cũng không thích nam hạ huyết chiến với quân Đường. Quân đội của hắn cần nghỉ ngơi và chỉnh đốn, còn tấn công quận Hoằng Nông thì cũng không phù hợp với kế hoạch chiến lược của hắn. Hắn chỉ là muốn ép Lý Uyên về Quan Trung, sau đó sẽ nâng đỡ lực lượng Vương Thế Sung, và như thế hắn liền có thể tìm cơ hội phát động thế tấn công với Hà Bắc.

Tháng mười đã đến, thời tiết bắt đầu trở lạnh. Dương Nguyên Khánh nhìn nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy, lại hỏi người chèo thuyền:

- Bình thường Hoàng Hà đóng băng vào lúc nào?

-Bình thường là trung tuần tháng mười một. Bây giờ vẫn còn sớm, ít nhất phải nửa tháng nữa. Khi đó Hoàng Hà đóng băng vô cùng rắn chắc, không cần phải đi thuyền mà trực tiếp có thể đi đến được bờ bên kia.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu. Còn nửa tháng nữa, quả thật còn sớm. Lúc này, đoàn thuyền bắt đầu giảm tốc độ, chầm chậm đi về phía bến đò huyện Hà Bắc, có một con thuyền đi tới, trên thuyền có binh lính hô to:

-Tổng quản có ở trên thuyền không?

Có binh lính chỉ vào còn thuyền thứ hai. Con thuyền nhỏ đi nhanh đến gần tới mép thuyền. Một binh lính báo tin lo lắng bẩm báo:

-Khởi bẩm tổng quản, binh lính tuần tra vừa mới chặn hai con huyền lớn vận chuyển dầu hỏa ở giữa Hoàng Hà.

Tin tức này khiến Dương Nguyên Khánh cũng hơi hơi giật mình kinh hãi. Là chuyện gì vậy? Không ngờ giữa Hoàng Hà mà lại có thể bắt được thuyền chở đầy dầu hỏa. Dầu hỏa ở đâu ra, vận chuyển cho ai? Hắn lập tức truy vấn:

-Thuyền chở dầu hỏa đó giờ đang ở đâu?

-Ngay bên canh bến đò, chính là hai con thuyền lớn kia.

Dương Nguyên Khánh nhìn theo hướng tay binh lính chỉ. Chỉ nhìn thấy trên bến đò có hai con thuyền lớn đang đậu. Trên thuyền toàn là binh lính trang bị đầy đủ võ trang. Dương Nguyên Khánh lập tức mệnh lệnh người lái thuyền:

-Mau đậu sát cạnh hai thuyền lớn kia!

Người lái thuyền điều chỉnh phương hướng, thuyền Dương Nguyên Khánh ngồi chậm rãi đến gần phía hai con thuyền hàng bị chặn. Đây là hai thuyền hang lớn, loại thường thấy trên sông Hoàng Hà. Người chèo thuyền và chủ thuyền đều đã bị bắt, hàng hóa trên thuyền đều bị quân Tùy khống chế. Dương Nguyên Khánh nhảy lên thuyền lớn. Lập tức có một Giáo Úy tiến lên quì một gối bẩm báo:

-Bẩm báo tổng quản, chúng tôi bắt được hai thuyền, bên trong có chở năm trăm thùng dầu hỏa.

-Đã thẩm vấn rồi sao? Vậy dầu hỏa này là từ đâu tới? Vận chuyển cho ai?

Dương Nguyên Khánh mặt âm trầm hỏi. Dầu hỏa là một tài nguyên chiến lược quân sự quan trọng. Giếng dầu quận Diêu An có binh lính chuyên biệt coi giữ. Hắn không nghĩ thông tại sao trên sông Hoàng Hà mà lại có thuyền vận chuyển dầu hỏa.

-Hồi bẩm tổng quản. Bọn ty chức đã thẩm vấn rồi. Hai thuyền này xuất phát từ huyện Văn Hương gần Đông Quan. Bọn họ muốn đi vào kênh Vĩnh Tế, vận chuyển dầu hỏa đến U Châu. Bọn ty chức đã thẩm vấn người chèo thuyền, bọn họ cũng không biết dầu hỏa là từ đâu đến? Khi bọn ty chức bắt chúng, có mấy binh lính quân Đường kháng cự nên bị giết, chứng tỏ rằng dầu hỏa này là vật tư của quân Đường.

Dương Nguyên Khánh không nói gì. Hắn đi vào kho để hàng hóa. Trong kho hàng chất đầy các thùng gỗ, mấy tên lính đang kiểm kê vật tư. Bên trong kho bốc lên mùi hôi của dầu hỏa. Dầu hỏa cũng chính là dầu mỏ, sau khi chảy ra từ giếng thì sẽ lắng đọng bên trong bể lắng dầu chuyên dùng vài ngày, thì có thể thu được dầu mỏ chất tương đối nhẹ, phù hợp dùng để đốt.

Thực ra Dương Nguyên Khánh trong lòng hiểu được. Con trai của Cao Quýnh là Cao Đức Hoằng từng làm quan ở đất Thục. Anh ta đã nói với hắn rằng ở Thục Châu cũng có giếng dầu hỏa, tối đen như mực, dùng không hết. Người dân địa phương dùng để chiếu sáng, và còn dùng để trị bệnh. Bản thân hắn lợi dụng dầu hỏa mấy lần khiến người Đột Quyết phải đại bại. Cả triều đình đều biết, mấy người Lý Uyên chẳng lẽ bọn họ không nghĩ tới sao?

Thật ra không chỉ Lý Uyên mà tất cả các thế lực đều đang tìm kiếm khắp nơi các giếng dầu hỏa, chỉ có điều khác biệt là tìm thấy và không tìm thấy mà thôi. Cũng giống như hàng binh của Đậu Kiến Đức đã khai ra rằng, Đậu Kiến Đức đã ở tìm kiếm dầu hỏa khắp nơi nhưng vẫn không tìm được.

Mấy tháng trước, khi Lý Kiến Thành đánh hạ quận Diên An, bọn họ cũng không phái trọng binh đi bảo vệ giếng dầu hỏa quận Diên An, khiến cho Bùi Hành Nghiễm dễ dàng chiếm được. Khi đó Dương Nguyên Khánh liền mơ hồ đoán được rằng, sở dĩ Lý Kiến Thành không coi trọng giếng dầu hỏa chỉ có một lời giải thích mà thôi. Đó chính là bọn họ đã nắm giữ được tài nguyên dầu hỏa trong tay. Tài nguyên đó hẳn là ở đất Thục.

Hôm nay hai thuyền này đã xác nhận suy đoán của hắn là đúng. Quân Đường quả nhiên là có dầu hỏa. Rất rõ ràng, Lý Uyên muốn vận chuyển số dầu hỏa này đến La Nghệ - U Châu, lấy việc chống cự mình để tiến công đối với U Châu.

-Dẫn chủ thuyền lên đây!

Rất nhanh sau đó, bọn lính dẫn một người đàn ông trung niên lên thuyền. Ông ta chính là chủ của hai chiếc thuyền đó. Ông ta nghe nói là hàng vận chuyển là hàng cấm quân dụng thì sợ đến mức cả người mềm nhũn, cuống quít quỳ xuống dập đầu:

-Chúng tôi chỉ là thuyền dân, được bọn họ thuê, chúng tôi chỉ biết có vận chuyển hàng, ngoài ra không biết gì hết.

-Ta muốn hỏi ngươi, trước các ngươi đã có người vận chuyển loại hàng này đến U Châu sao?

Dương Nguyên Khánh nhìn chăm chú và hỏi ông ta.

Người chủ thuyền vội vàng lắc đầu:

-Huyện Văn Hương tổng cộng có hơn năm mươi thuyền. Mọi người đều biết nhau cả. Thuyền của chúng tôi là thuyền đầu tiên được bọn họ trưng dụng. Sau đó còn thuyền khác hay không thì chúng tôi không biết. Nhưng trước đó chắc chắn là không có.

Dương Nguyên Khánh hơi nhẹ lòng chút, lại hỏi:

-Các ngươi đến U Châu như thế nào? Ta muốn hỏi là các ngươi từ đâu tiến vào kênh Vĩnh Tế?

-Khởi bẩm tướng quân, bên quận Cấp, tất cả các thuyền đi Kỳ Thủy tiến vào kênh Vĩnh Tế đều kiểm tra rất nghiêm. Chúng tôi chưa bao giờ dám đi sang bên đó. Thông thường là từ huyện Ôn của quận Hà Nội đi vào kênh Vĩnh Tế rồi sau đó mới trực tiếp đi về phía bắc.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu. Hắn đã không cần phải hỏi thêm gì nữa rồi. Quân Đường tuyệt đối sẽ không chỉ vận chuyển hai thuyền dầu đến U Châu, mà chắc chắn sau đó còn có nữa, mà không chỉ là dầu mỏ, còn có các quân tư khác. Hắn dặn dọ thân binh bên cạnh:

-Lập tức tiến đến quận Hà Nội tìm Từ tướng quân, nói là làm theo mệnh lệnh của ta, bảo anh ta kiểm tra nghiêm ngặt tất cả các thuyền đi về phương bắc, không được bỏ sót thuyền nào.

Thân binh đáp ứng một tiếng, lập tức lên bờ đi tới quận Hà Nội. Dương Nguyên Khánh cảm thấy rất may mắn. Hôm nay may là chặn lại được hai thuyền dầu mỏ này, chứ nếu không thì trong tương lai giao chiến với La Nghệ sẽ phải đối mặt với sự tập kích của dầu mỏ.

Dương Nguyên Khánh khen ngợi Giáo Úy thám báo:

-Lần này các ngươi có công đã chặn thuyền lại, mỗi người thưởng trăm xâu tiền, ghi nhớ một lần công hạng giáp.

Giáo Úy mừng rỡ. Hai lần công hạng giáp là có thể thăng lên một cấp. Anh ta quỳ gối xuống tạ ơn.

-Tạ ơn tổng quản phong thưởng!

Chủ thuyền mặt run sợ. Hóa ra vị tướng quân này chính là Dương Nguyên Khánh trong truyền thuyết. Ông ta dập đầu cầu xin tha thứ:

-Dương tổng quản tha mạng. Tiểu nhân không bao giờ dám vận chuyển hàng cho bọn họ nữa!

Dương Nguyên Khánh lập tức chỉ bảo Giáo Úy:

-Dỡ dầu hỏa xuống, hai thuyền này sẽ được trưng dụng tại chỗ. Để cho bọn họ lập công chuộc tội!

……

Tuy rằng việc Lý Uyên có dầu mỏ cũng nằm trong dự liệu của Dương Nguyên Khánh, nhưng trong lòng hắn vẫn có chút cảm thán. Một lần cơn bão dầu mỏ đã khiến cho hắn ý thức được rằng kỹ thuật quân sự trong chiến tranh đã truyền bá nhanh chóng. Ví dụ như dầu mỏ, một khi nó phát huy uy lực trong chiến tranh thì tất cả các thế lực đều sẽ đi tìm kiếm nó. Còn có cả sa bàn nữa, hắn nghe nói Vương Thế Sung cũng đã bắt đầu sử dụng rồi. Vậy thì trong quân đội của Lý Uyên chắc chắn cũng sẽ xuất hiện.

Lại ví dụ như phương án y hộ binh xác lập ở quận Hà Nội. Điều này có thể giảm bớt binh lính tử vong. Như thế thì không lâu sau các thế lực khác cũng sẽ xuất hiện bóng dáng các nữ cứu thương. Điều này là điều không thể nào tránh khỏi. Mấu chốt là xem năng lực chiến đấu của binh lính, năng lực thống lĩnh của thống soái cùng với sự trợ giúp tiến bạc lương thực, năng lực vận chuyển, nguồn chiêu mộ binh lính có mạnh hay không v.v. Đây mới chính là sự đảm bảo cho thắng lợi.

Dầu hỏa sớm hay muộn sẽ bị các thế lực sử dụng phổ biến trong chiến tranh. Điều này nằm trong dự liệu của Dương Nguyên Khánh. Dầu hỏa chỉ là một loại hình vũ khí, không có gì là bí mật. Lý Qũy cũng chính là sử dụng dầu hỏa để tác chiến với Tiết Cử.

Nhưng hắn vẫn còn bộ đội chủ lực thực sự - quân trọng giáp mạch đao của hắn, đó mới là đòn sát thủ mà người khác khó mà học được. Việc chế luyện trọng giáp và chế tạo mạch đao kiểu mới đây mới là kỹ thuật tuyệt mật của hắn. Hắn quyết không để bất cứ kẻ nào có thể học được.

Phủ Nguyên soái hành quân của Dương Nguyên Khánh ở bên trong thị trấn huyện Hà Bắc, được tạm thời sửa từ huyện nha . Hắn vừa mới đi đến cửa phủ thì một thân binh chạy lên bẩm báo:

-Khởi bẩm tổng quản, Dương Thái Thú ngày xưa đã trở lại rồi, đang ở bên trong nha nội.

-Dương Sư Đạo sao?

Dương Nguyên Khánh hơi ngây người ra.

-Đúng là ngài ấy!

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 608 : Lâm trận tăng soái

Dương Nguyên Khánh mừng rỡ. Dương Sư Đạo không ngờ đã trở lại. Tin tức này đã quét sạch sự không vui do cơn bão dầu mỏ mang đến. Hắn xoay người xuống ngựa, bước nhanh đi về phía quân nha. Vừa đi vào cửa liền gặp ngay Dương Sư Đạo.

Dương Sư Đạo cũng nhìn thấy Dương Nguyên Khánh, bên trong ánh mắt có chút phức tạp, có một sự xấu hổ, cũng có sự bất an cùng với kỳ vọng về tương lai.

Y hoang mang đi lên phía trước hành lễ:

-Sư Đạo xin tham kiến Sở Vương điện hạ!

Dương Nguyên Khánh vội vàng đỡ lấy anh ta, nhẹ nhàng đập vào vai y một cái cười nói:

-Lần này trở về, nếu lại muốn trốn đi nữa là không được đâu đấy!

Dương Sư Đạo trong lòng bỗng trào dâng một cảm giác ấm áp. Dương Nguyên Khánh cũng không vì bao năm xa cách mà trở nên lạnh nhạt. Cứ như là mới hôm qua rời xa nhau vậy. Y không kìm nổi vui mừng trong lòng cười nói:

-Khi ta đi ngươi đã từng nói, nếu như có một ngày ta chọn một con đường khác thì sẽ đến quận Ngũ Nguyên. Vị trí Thái Thú vẫn còn giữ ở đó cho ta. Ta có thể tùy ý đến đảm nhiệm chức vụ đó. Vì thế lần này ta quay trở về rồi, tiếp tục làm Thái Thú quận Ngũ Nguyên.

Dương Nguyên Khánh vỗ vỗ bờ vai của y, lắc lắc đầu.

-Ngươi không cần đến quận Ngũ Nguyên. Ta có vị trí tốt hơn cho ngươi. Ngươi đi theo ta.

Dương Nguyên Khánh xoay người đi về phía phòng làm việc. Dương Sư Đạo cũng đi vào theo. Hai người ngồi xuống, Dương Nguyên Khánh lại ra lệnh cho thân binh mang trà lên. Lúc này hắn mới thẳng thắn hỏi:

-Lần này ngươi tới là muốn nương tựa vào Dương Nguyên Khánh ta hay là dựa vào Dương Hựu?

Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Dương Nguyên Khánh nhất định phải nói thẳng ra trước. Bởi vì thân phận của Dương Sư Đạo không giống như người bình thường, xử lý tốt y tương lai có thể giúp sức lớn nhất cho mình. Nhưng nếu xử lý không tốt thì y sẽ trở thành lực cản của mình. Về vấn đề mấu chốt này, thái độ của hắn không được mơ hồ.

Dương Sư Đạo khẽ cười nói:

-Ngươi xem, ta là đến tìm ngươi trước hay là trực tiếp đến Thái Nguyên tìm Dương Hựu?

Dương Nguyên Khánh cũng nhịn không được bật cười. Y chỉ cần nói rõ ràng, thật ra trong lòng hắn cũng hiểu được, với trí tuệ của Dương Sư Đạo thì y sẽ không đi giúp Dương Hựu. Mặc dù y là Hoàng tộc nhưng y cũng sẽ nhìn về phía trước, chứ không lưu luyến một vương triều cũ.

-Được rồi! Hãy nói cho ta biết tình hình Lạc Dương trước đã.

Bên trong điện Lưỡng Nghi cung Thái Cực Trường An, có một hội nghị khẩn cấp được triệu tập để bàn về việc cứu viện quận Hoằng Nông. Điện Lưỡng Nghi là nội triều, là nơi tổ chức cử hành hội triều nhỏ. Chỉ có những đại thần quan trọng mới có tư cách dự hội triều ở đây.

Lý Uyên ngồi ở ghế rồng trên bậc thềm ngọc. Vì đêm qua cả đêm ông ta không ngủ nên trong mắt kéo đầy tia máu, tinh thần có chút tiều tụy.

-Các vị ái khanh, hãy bàn luận việc đầu tiên đi! Về vấn đề người thân của quân nhân hoán đổi trọng thần, các vị ái khanh cảm thấy có được hay không?

Hai ngày trước, Dương Nguyên Khánh mệnh lệnh cho Thái Thường Thiếu Khanh Tiết Thu đi sứ Trường An, đề xuất dùng ba người Hậu Đản, Vũ Văn Hâm, Lưu Chính Hội cùng với xác của Lý Thúc Lương và Hạ Hầu Đoan để đổi lấy hơn mười nghìn thân nhân gia đình binh lính Quan Trung bị bắt trong một trận của Lý Thúc Lương.

Việc này được thảo luận rất kịch liệt trong hội nghị. Dường như là một nửa tán thành, một nửa phản đối. Bản thân Lý Uyên là tán thành. Đậu Đản là con rể của ông ta, Vũ Văn Hâm và Lưu Chính Hội là tâm phúc từ lúc khởi binh của ông ta. Thi thể của Lý Thúc Lương và Hạ Hầu Đoan thì ông ta lại càng muốn đón trở về hậu táng. Chỉ có điều nếu ông ta độc đoán quyết định thì lại thể hiện ông ta quá mức ích kỷ. Vì thế ông ta hy vọng các trọng thần triều đình ủng hộ.

Bùi Tịch rất hiểu tâm tư của Lý Uyên. Ba người Đậu Đản, Vũ Văn Hâm, Lưu Chính Hội đều là tâm phúc của Lý Uyên. Đậu Đản còn là con rể của ông ta. Mà hơn mười nghìn gia quyến của binh lính kia chủ yếu là người già và trẻ em, chỉ tiêu tốn lương thực thôi, không làm ăn được gì. Chỉ ngoại trừ có việc có thể khiến Dương Nguyên Khánh hơi khó chịu ra thì giữ lại cũng chẳng có tác dụng gì, chi bằng đổi với Dương Nguyên Khánh.

Bùi Tịch đứng lên nói:

-Bệ hạ, thần nghe được rằng Đậu Đản, Vũ Văn Hâm, Lưu Chính Hội thân vùi trong doanh trại của địch nhưng kiên trinh không chịu hàng. Tinh thần trung liệt này chúng ta mà không thiện đãi, không ngó ngàng tới thì không biết sẽ làm đau lòng bao trái tim đại thần, ngăn cản hào kiệt đến với chúng ta. Còn hơn mười nghìn binh lính đầu hàng Bắc Tùy, can tâm bán mạng cho Dương Nguyên Khánh. Gia quyến của bọn họ lại do chúng ta thay Bắc Tùy nuôi dưỡng. Như thế là lãnh đạm với người trung thành, hậu đãi với kẻ phản bội. Đó chẳng phải là việc khiến người thân phải buồn khổ, kẻ thù được sung sướng hay sao? Bệ hạ, kẻ phản đối chính là không muốn để cho Dương Nguyên Khánh được như ý. Nhưng bọn họ không nghĩ được rằng các trung thần của chúng ta còn đang trong tù ngục của Bắc Tùy phải chịu tra tấn khổ sở. Người xưa có câu bỏ ngàn lượng mua xương ngựa (thu hút nhân tài), còn chúng ta thì lại lòng dạ hẹp hòi, bị tình thế cục bộ trước mắt làm cho bị mê hoặc, đối xử tốt với kẻ phản bội mà coi nhẹ trọng thần, bên trọng bên khinh. Xin bệ hạ tự quyết định.

Lưu Văn Tĩnh vừa định đứng dậy phản đối thì Lý Kiến Thành lại lấy ánh mắt ra hiệu ông ta đừng nên nhiều lời. Lưu Văn Tĩnh lại nuốt lời muốn nói phản đối Bùi Tịch.

Lý Uyên gật gật đầu. Thái độ của Bùi Tịch rất hợp ý ông ta. Ông ta lại hỏi Nội Sử Lệnh Đậu Uy:

-Đậu ái khanh nghĩ như thế nào?

Đậu Uy thân thể yếu đuối, run run rẩy rẩy nói:

-Bệ hạ, Hậu Đản là cháu trai lão thần. Lão thần không dám nhiều lời nhưng Vũ Văn Hâm và Lưu Chính Hội là nhân tài, không nên dễ dàng từ bỏ.

Đậu Uy là tán thành theo một cách vòng vo. Lý Uyên hiểu được tâm tư của ông ta. Ông ta lại hỏi Tả Phó Xạ Độc Cô Chấn:

-Độc Cô ái khanh có tán thành không?

Độc Cô Chấn khẽ mĩm cười nói:

-Lão thần vô cùng tán thành suy nghĩ của Bùi tướng quốc.

Lý Uyên lại liếc nhìn mọi người một cái, thấy không có ai phản đối liền dứt khoát đưa ra quyết định:

-Nếu các ái khanh đều không phản đối thì trẫm quyết định chuyện này sẽ do Đậu Thượng thư của Hộ bộ toàn quyền phụ trách.

Thượng Thư Hộ bộ tiến lên khom mình thi lễ:

-Thần tuân chỉ!

Chấm dứt việc bàn luận thứ nhất, Lý Uyên nhẹ nhàng thở ra một hơi. Tâm tư lại chuyển sang chuyện trọng đại của ngày hôm nay, đó là từ bỏ hay quyết giữ quận Hoằng Nông.

-Các vị ái khanh, bây giờ sẽ là chuyện đại sự của hội nghị hôm nay. Về quận Hoằng Nông, Lý Hiếu Cung khẩn cấp xin triều đình cứu viện. Tình thế mọi người đã nắm rõ hết cả rồi. Trẫm hơi mâu thuẫn cuối cùng là nên từ bỏ quận Hoằng Nông hay kiên quyết giữ. Trẫm muốn nghe ý kiến của mọi người, mọi người cứ nói thoải mái.

Lúc này là Lưu Văn Tĩnh dẫn đầu đứng lên nói:

-Bệ hạ, thần chủ trương tạm thời từ bỏ quận Hoằng Nông. Dương Nguyên Khánh vừa mới đánh bại Đậu Kiến Đức, Lý Mật cũng không công mà lui. Quân Bắc Tùy sĩ khí đang hăng, bới sự bố trí binh lực của Dương Nguyên Khánh thì có thể thấy manh mối. Hắn đang bố trí binh lực ở bến Phong Lăng. Rất rõ ràng là muốn ngắt đường lui của chúng ta. Một khi đường lui bị cắt mất, mà đường đông lại bị Vương Thế Sung và Dương Nguyên Khánh giáp công (đánh gọng kìm/ đánh từ hai mặt), quân đội Lý Hiếu Cung sĩ khí lao đao. Trận chiến này tất nhiên sẽ thảm bại. Như thế thì rút khỏi Hoằng Nông còn hơn.

Trong triều đình có một câu danh ngôn: “Có Lưu Văn Tĩnh tán thành, tất nhiên sẽ có Bùi Tịch phản đối, ngược lại cũng vậy.” Khóe mắt mọi người lặng lẽ liếc sang nhìn Bùi Tịch.

Quả nhiên, Bùi Tịch đứng lên cất cao giọng nói:

-Lưu tướng quốc làm sao mà chưa chiến đấu đã nói thất bại vậy?

Ông ta đi ra khỏi vị trí của mình, thi lễ với Lý Uyên:

-Bệ hạ, sách lược ứng đối không ngoài hai loại. Một loại là ứng đối tích cực, một loại là thoái lui tiêu cực. Quận Hoằng Nông là bước đầu tiên tranh đoạt Quan Trung của chúng ta. Nếu Dương Nguyên Khánh đóng quân bên bờ Hà Bắc thì chúng ta sẽ lui về Đồng Quan. Lâu dần sẽ khiến cho trong lòng tướng sĩ sẽ sợ họ “Dương” đó. Nghe thấy quân đội Dương Nguyên Khánh thì sẽ quá mức run sợ. Như thế thì chúng ta còn nói gì đến việc tranh bá thiên hạ nữa chứ? Vì thế thần cho rằng Dương Nguyên Khánh chốt ở quận Hà Đông, chúng ta nên có đối sách tăng binh, tăng thêm binh lực cho huyện Văn Hương, phong tỏa mặt sông, phòng ngự Dương Nguyên Khánh qua sông từ bến Phong Lăng . Đây cũng chỉ là kết quả tồi tệ nhất mà thôi. Thực ra thần cho rằng Dương Nguyên Khánh đóng quân ở quận Hà Đông chỉ là gây áp lực với chúng ta. Hắn chưa chắc đã thực sự sẽ qua sông. Cho dù là hắn muốn qua sông thì Vương Thế Sung cũng sẽ không đáp ứng, xin bệ hạ minh giám!

Nói xong, Bùi Tịch ngạo mạn liếc qua Lưu Văn Tĩnh rồi lui xuống. Trong triều đình một mảnh xì xào bàn tán. Đậu Uy cũng đứng lên nói:

-Bệ hạ, thần đồng ý với đề nghị của Bùi tướng quốc. Quận Hoằng Nông là bước đầu tiên của chúng ta hướng về Trung Nguyên, không thể dễ dàng từ bỏ được.

Đậu Uy là kiểu có qua có lại mới toại lòng nhau. Vừa rồi Bùi Tịch chủ trương gắng sức đổi mấy người Đậu Đản về, trong lòng ông ta lấy làm cảm kích, lúc này ông ta cũng muốn ủng hộ ý kiến của Bùi Tịch.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 609 : Vụ cướp người

Lúc này trọng thần triều đình đều đua nhau lên tiếng, tán thành tăng binh thì nhiều, mà chủ trương rút binh về thí ít. Lý Uyên cuối cùng quyết định:

- Trẫm quyết định phái viện binh đến quận Hoằng Nông. Không biết các vị ái khanh đề cử ai làm tướng soái?

Công bộ Thượng thư Độc Cô Hoài Ân tiến lên thi lễ nói:

- Bệ hạ, thần đề cử Tề vương Nguyên Cát làm chủ soái quân chi viện!

Đây cũng là một tiền lệ trong việc trị quân của Lý Uyên. Chủ soái quân đội tất nhiên chính là dòng họ Lý, rất ít khi phái người họ khác làm chủ soái. Như vậy có thể đảm bảo quân quyền có thể khống chế một cách chặt chẽ trong tay ông ta. Vì thế trong quân Đường cũng có rất nhiều phe phái. Ví dụ như phe Lý Thế Dân, Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát, Lý Thần Thông, Lý Hiếu Cung, Lý Hiếu Cơ v.v. Thỉnh thoáng có người họ khác thì cũng là con rể hoặc là tâm phúc tuyệt đối của ông ta như mấy người Sài Thiệu và Bùi Tịch.

Hiện tại trong dòng họ Lý, Lý Thế Dân ở Lũng Tây đối phó Tiết Cử, Lý Thần Thông ở Hà Tây trấn an các quận, Lý Hiếu Cơ ở Thục Châu ứng chiến với phía Nam phản loạn, vợ chồng Sài Thiệu ở quận Phòng Lăng phòng ngự Nam Dương, Chu Kiệt xâm lấn. Thái Tử Lý Kiến Thành sẽ không đi, Trường An chỉ có Lý Nguyên Cát đang phụ trách luyện binh, vì thế nên chỉ có thể là anh ta dẫn binh đi viện trợ Lý Hiếu Cung.

Lúc này, Thượng thư Khuất Đột Thông từ nãy đến giờ chưa nói gì mới tiến lên nói:

- Bệ hạ, một trận chiến không nên có hai tướng soái. Đã có Quận Vương Hà Gian làm chủ soái Hoằng Nông rồi, quân cứu viện cũng nên do ông ta thống lĩnh, như thế dễ dàng điều hành hơn. Hơn nữa thần không tán thành ý kiến của Bùi tướng quốc. Thần nghĩ Dương Nguyên Khánh dùng binh sẽ xem xét quan sát tình hình để dự đoán sự thay đổi. Có vượt sông hay không thì hắn nắm quyền chủ động, chứ không có chuyện hắn kiêng nể Vương Thế Sung mà không dám vượt sông. Ít nhất thì thần nắm chắc tám phần rằng, quân đội của Dương Nguyên Khánh nhất định sẽ qua sông. Còn về việc là qua từ chỗ bến Phong Lăng hay là bến đò huyện Hà Bắc thì thần không chắc.

Lời can gián của Khuất Đột Thông đã chọc giận Bùi Tịch. Ông ta hừ mạnh một tiếng nói:

- Khuất Đột Thượng thư, hiện tại quận Vương Hà Gian gặp phải sự uy hiếp của lưỡng quân tam địa, thế mà ông lại để một mình ông ta đối phó. Nếu như Bắc Tùy từ bến Phong Lăng qua sông tấn công vào huyện Hương Văn, chẳng lẽ tướng giữ huyện Văn Hương còn phải phái người đi mấy trăm dặm để đến xin chỉ thị Quận vương Hà Gian hay sao? Còn chưa nói đến làm hỏng thời cơ mà còn khiến cho Quận vương Hà Gian rơi vào cảnh khốn cùng hai mặt thụ địch nữa.

Bùi Tịch lại bẩm báo với Lý Uyên:

- Bệ hạ, đây vốn là hai chiến trường không giống nhau. Một cái là bảo vệ Đồng Quan kiêm phòng ngự huyện Văn Hương, còn một cái là đánh với Vương Thế Sung. Thần vô cùng tán thành đề nghị của Độc Cô Thượng thư, để Tề vương Nguyên Cát làm chủ soái dẫn quân viện trợ phía đông.

Bùi Tịch rất có thế mạnh trong triều đình. Đồng thời ông ta cũng là một chính khách cực kỳ giảo hoạt. Ông ta thực ra đang suy nghĩ không phải là chiến cục của Lý Hiếu Cung như thế nào, mà là đang suy nghĩ làm thế nào để kéo Đậu thị và Độc Cô thị đến phe của Tần vương Lý Thế Dân. Vì thế ông ta cố gắng thực hiện việc đổi Đậu Đản về để lấy lòng Đậu Uy. Đồng thời phản đối Khuất Đột Thông cũng chính là để ủng hộ theo đề nghị của Độc Cô Hoài Ân.Tuy một lần không thành công ngay được nhưng ảnh hưởng lâu dài nhất định sẽ có thể khiến ông ta được toại nguyện.

Lý Uyên trầm tư một lát. Bùi Tịch nhắc tới sự an toàn của Đồng Quan liền đã lập tức nhắc nhở ông ta. Không chỉ cần phải suy xét đến chiến cục của quận Hoằng Nông mà cũng cần phải suy nghĩ đến sự an toàn của Đồng Quan. Lời can gián của Khuất Đột Thông cũng có chút đạo lý. Có thể phái trọng thần phụ tá Nguyên Cát.

- Trẫm đã phê chuẩn rồi. Phong Tề vương làm Đồng Quan đại Nguyên soái, Binh Bộ Thị Lang Triệu Từ Cảnh làm Trưởng Sử hành quân, dẫn ba mươi nghìn quân hướng về phía đông viện trợ quận Hoằng Nông.

Thánh chỉ đã đưa ra, Tề vương Lý Nguyên Cát ban đêm đã dẫn hai mươi nghìn quân chậm rãi đi về hướng Đồng Quan. Tính cả mười nghìn quân của Đồng Quan thì tổng cộng có ba mươi nghìn quân trợ giúp quận Hoằng Nông.

……

Tề vương Lý Nguyên Cát dẫn đại quân đến Đồng Quan vào ngày thứ ba. Lúc này con đường lớn từ Đồng Quan đến huyện Hoa Âm chật ních dân chúng Lạc Dương rút về phía tây. Bọn họ đều là người Quan Trung bị cưỡng chế dời đi vào đầu năm Đại Nghiệp. Gía lúa gạo ở Lạc Dương tăng vọt khiến cho bọn họ nhớ nhà da diết, và tấp nập quay trở về quê cũ.

Lúc này dân chúng Lạc Dương đang sơ tán về phía tây bị gián đoạn bởi vì cuộc chiến tranh sắp bùng nổ. Số người này là từ quận Hoằng Nông dời đi, cũng là đám người Quan Trung cuối cùng rời đi khỏi phía tây.

Lý Nguyên Cát dẫn theo hai mươi nghìn quân Đường đi trên đường chính hành quân về phía đông, đi trên đường cùng với vô số dân chạy nạn. Không xa phía trước là Lý Nguyên Cát với ánh mắt lạnh lùng quan sát đám dân chạy nạn. Từ sau khi thất bại quay trở về từ Thái Nguyên, anh ta bị phụ hoàng trách phạt, không cho phép anh ta dẫn binh nữa, chỉ cho phép anh ta chịu trách nhiệm huấn luyện binh lính. Điều này khiến anh ta không vui chút nào, trong lòng tràn đầy một sự kích động bạo ngược. Anh ta muốn giết người. Nhưng ở Trường An thì anh ta không dám, bây giờ ra khỏi Trường An rồi thì dục vọng bạo ngược trong lòng anh ta lại càng ngày càng mãnh liệt.

Lúc này, một ông cụ già đi lại tập tễnh trên đường, con đường rất chen chúc chật chội. Ông ta đi không vững, nghiêng mình ngã vào con ngựa ở bên Lý Nguyên Cát. Con ngựa của Lý Nguyên Cát vội nghiêng người sang một bên né tránh khiến cho người Lý Nguyên Cát bị lay mạnh.

Lý Nguyên Cát giận tím mặt. Anh ta rút kiếm ra, nghiêng người nắm lấy tóc ông cụ, chặt mạnh một cái…

Những người ở xung quanh hô lên kinh ngạc, nghiêng ngả chạy trốn vào bên trong. Lý Nguyên Cát cười ha hả, tiện tay ném đầu người vào chỗ đám đông, càng gây nên những tiếng kêu sợ hãi.

Lý Nguyên Cát dùng vải lau vết máu trên kiếm, cho đao vào trong vỏ rồi tiệp tục đi về phía trước như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Đội quân cuối cùng đến trước Đồng Quan. Ở đây hai bên đường có không ít các cửa hàng, mọi nhà đều khai trương buôn bán. Họ bán lương khô và một số thứ đồ dùng hàng ngày, kinh doanh rất tốt. Đám người cuối cùng rời khỏi là gia quyến và con cháu của một gia đình giàu có. Bọn họ mua không ít đồ. Phía trước mỗi cửa hàng đều chật cứng khách mua hàng.

Lúc này, một chiếc xe ngựa mạ vàng từ ở chỗ gần bên quân đội chạy qua, có bốn tùy tùng đi theo. Trong cửa sổ xe lộ ra một khuôn mặt thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp. Cô gái chừng hai mươi tuổi, đôi mắt bồ câu say lòng người, trên đầu toàn là châu ngọc. Cô gái đang hiếu kỳ nhìn đoàn quân đội đang chậm rãi đi đến.

Lý Nguyên Cát liếc mắt một cái liền nhìn thấy cô gái này. Ánh mắt anh ta bỗng dưng sáng ngời, nhìn chằm chằm vào cô gái. Lý Nguyên Cát đã động lòng rồi.

Lý Nguyên Cát quay đầu lại nhìn chiếc xe ngựa đã đi xa. Bên trong con mắt sự tham lam thèm thuồng còn chưa dứt. Nhóm thân binh của Lý Nguyên Cát đã sớm ngầm hiểu, Tề Vương điện hạ đã thích người phụ nữ nào thì làm sao nàng ta có thể chạy thoát được. Hai người vội vàng đi nghe ngóng rồi quay lại bẩm báo:

- Điện hạ, cô gái đó là kỹ nữ Lạc Dương nổi tiếng Tô Vạn Xuân, nghe nói đã được nhận làm tiểu thiếp của phó tướng Hoàng Quân Hán của Lý Hiếu Cung.

Con mắt Lý Nguyên Cát càng thêm sáng lên. Hóa ra là nàng, đã sớm nghe danh. Nghe nói mấy năm trước có một người bỏ ra cả ngàn lượng vàng để được cùng nàng một đêm. Lý Nguyên Cát chẳng để ý gì đến việc nàng là tiểu thiếp của Hoàng Quân Hán. Trong mắt anh ta Hoàng Quân Hán chẳng là cái thá gì. Chỉ có điều người phụ nữ này là xuất thân kỹ nữ, nếu như anh ta thu nạp về thì phụ hoàng biết được chắc chắn sẽ tức giận.

Lúc này một gã thân binh đã nghĩ kế thay cho anh ta:

- Điện hạ có thể nuôi nàng ta ở một nơi khác. Không cho nàng ta vào phủ, Thánh Thượng sẽ không biết được đâu.

Lý Nguyên Cát gật gật đầu. Đó là một cách tốt. Anh ta đánh mắt ngay với đám thân vệ một cái. Hơn trăm thân binh nhanh chóng quay đầu ngựa lại, đuổi theo cỗ xe ngựa kia.

Lý Nguyên Cát cười đắc ý, thúc ngựa đi về phía trong thành.

Từ lúc Lý Nguyên Cát thích người phụ nữ kia cho đến khi nhóm thân binh đuổi theo cũng không có động tĩnh gì lớn. Một số người qua đường bình thường thì sẽ đều không chú ý. Nhưng những người có ý thì lại khác. Cửa hàng bên trái thứ hai tên là cửa hàng tạp hóa Trương Ký. Chủ cửa hàng họ Trương, là một người đàn ông trai tráng tầm hơn ba mươi tuổi. Anh ta vừa giới thiệu trái cây với khách hàng, đồng thời cũng chú ý đến nhất cử nhất động của Lý Nguyên Cát. Anh ta nhìn thấy thân binh của Lý Nguyên Cát đã đuổi theo thì liền lập tức gọi một tiểu nhị đến, dặn dò vài câu, tiểu nhị liền nhanh chóng rời khỏi cửa hàng.

Ước chừng hơn nửa canh giờ sau, tiểu nhị đã quay trở lại, đánh mắt với ông chủ Trương một cái. Ông chủ Trương liền lập tức cùng với tiểu nhị đi ra phía sau cửa hàng. Mặt sau cửa hàng là một con sông nhỏ, trên sông có đậu mấy chiếc thuyền con.

- Đã nhìn thấy gì rồi?

- Ty chức thấy người phụ nữ kia đã bị thân binh Lý Nguyên Cát cướp đi, đi về hướng huyện Hoa Âm.

Thân phận thực sự của chủ cửa hàng Trương chính là thám báo quân Bắc Tùy. Hệ thống tình báo của Dương Nguyên Khánh đã kiến thiết được mấy năm nay, dần dần đã hình thành nên một mạng lưới tình bào lớn. Quan viên tình báo một phần là thuộc phủ Nội vệ, do Tướng quân Ngụy Bí Thống soái. Chủ cửa hàng Trương này tên là Trương Thiếu Hoa. Quân chức là Giáo Úy, là trợ thủ của nhà tình báo Trường An, phụ trách thu thập thông tin tình báo vùng Đồng Quan và Bồ Tân. Cửa hàng tạp hóa Trương Ký này chính là trung tâm tình báo của bọn họ. Hôm nay bọn họ đang quan sát đoàn quân viện trợ của Lý Nguyên Cát và trong lúc vô ý phát hiện ra cảnh tượng Lý Nguyên Cát cướp đoạt phụ nữ.

- Thân phận của người phụ nữ kia đã xác nhận được chưa?

- Ty chức đã hỏi tùy tùng của người phụ nữ đó rồi. Người phụ nữ đó là tiểu thiếp của phó tướng Hoàng Quân Hán của Lý Hiếu Cung, vốn là kỹ nữ nổi tiếng Lạc Dương.

Tiểu nhị vừa dứt lời, từ xa xa trên con đường có hai người cưỡi ngựa đi đến, mặt đầy máu, chính là tùy tùng của người phụ nữ đó. Bọn họ cũng chính là thân binh của Hoàng Quân Hán. Bọn họ vốn là hộ tống tiều thiếp của chủ tướng về Trường An, không ngờ lại bị Lý Nguyên Cát cướp đoạt ở Đồng Quan, còn giết hai huynh đệ của bọn họ. Hai người này vừa sợ vừa tức giận liền chạy về bẩm bảo chủ tướng.

Trương Thiếu Hoa nhìn chăm chú hai người đi vào Đồng Quan. Sự nhạy cảm nghề nghiệp khiến cho anh ta nắm bắt ngay lấy tin tình báo quan trọng này. Anh ta liền viết ngay một bức tình báo, dặn dò tiểu nhị:

- Thả chim ưng gửi về huyện Hà Bắc.

……

Ban đêm, thị trấn Hà Bắc, Dương Nguyên Khánh lần thứ hai gặp đặc sứ Vương Nhân Tắc của Vương Thế Sung. Hai bên đã đồng ý hợp tác đồng minh, dưới đây là chi tiết về sự trao đổi bàn luận đó.

- Điện hạ, thúc phụ của ty chức tuy đã khống chế Quân khí giám, có thể trực tiếp đưa ba nghìn thợ thủ công qua Hoàng Hà, nhưng nếu như đưa người nhà bọn họ thì cần phải có sự hợp tác của Hộ bộ và Kinh Triệu. Có thể không nhanh được như vậy. Ý của thúc phụ là mong điện hạ hãy chờ một chút. Người thì sẽ nhất định đưa sang nhưng mong điện hạ hãy cho thêm một chút thời gian.

Vương Nhân Tắc vừa nói vừa len lén liếc Dương Sư Đạo ngồi bên, trong lòng khiếp sợ. Lễ Bộ Thượng thư Dương Sư Đạo làm sao lại xuất hiện trong trại lớn của Dương Nguyên Khánh cơ chứ? Chẳng lẽ Hoàng thái đế cũng đang có mối liên hệ ngầm với Dương Nguyên Khánh hay sao?

Nghĩ đi nghĩ lại thì không thể như vậy được. Dương Nguyên Khánh không thể nào bàn luận với bọn họ về việc cùng hợp tác trước mặt Hoàng thái đế được. Điều đó chỉ có một cách giải thích. Dương Sư Đạo đã đầu hàng Dương Nguyên Khánh.

Dương Nguyên Khánh nhìn ra sự bất an trong lòng Vương Nhân Tắc, liền cười nói:

- Dương Thượng thư trước kia là Thượng thư Binh bộ Lạc Dương nhưng bây giờ đã là Trưởng sử hành quân của ta. Vương Tướng quân không cần quá lo lắng.

Vương Nhân Tắc lúc này mới chợt hiểu, vội vàng thi lễ với Dương Sư Đạo:

- Dương Trưởng sử có hành động thật sáng suốt!

Dương Sư Đạo thản nhiên cười nhưng không nhiều lời. Bây giờ là Dương Nguyên Khánh đang đích thân nói chuyện với Vương Nhân Tắc, y không muốn nói chen vào. Dương Nguyên Khánh lại nói:

- Chuyện của thợ thủ công thì có thể trì hoãn một chút. Chỉ cần Vương Thượng thư đồng ý thì ta tin tưởng ông ấy sẽ làm được. Còn về chuyện lương thực, ta có thể cấp trước cho các ngươi mười ngàn thạch lương thực để giải quyết việc khẩn cấp trước mắt đã.

Dương Nguyên Khánh từ chỗ Dương Sư Đạo biết được rằng, trong quân của Vương Thế Sung chỉ còn lại không đến hai mươi ngàn thạch lương thực, mà phải nuôi cả một đại quân một trăm nghìn người. Qủa thật là vô cùng khó khăn. Dứt khoát là ân tình đã làm thì làm đến cùng, trước tiên cấp cho bọn họ mười ngàn thạch lương thực để kéo lại trái tim Vương Thế Sung đã. Vương Nhân Tắc mừng rỡ, vội vàng cảm tạ nói:

- Tạ ơn điện hạ đem than ấm sưởi ngày đông tuyết. Bọn ty chức vô cùng cảm kích!

Dương Nguyên Khánh cười cười lại nói:

- Về phần có xuất binh quận Hoằng Nông hay không thì do ta quyết định. Nhưng ta có thể nói rõ trước rằng, ta không có hứng thú với quận Hoằng Nông. Về sau cũng không chú ý nhiều lắm đến cái quận nhỏ này.

So với lần đầu tiên căng thẳng gấp gáp, thì lần này Vương Nhân Tắc có vẻ thong dong khôn khéo hơn nhiều. Anh ta nghe ra ý trong lời nói của Dương Nguyên Khánh. Quân Bắc Tùy sẽ xuất binh đến Hoằng Nông. Điều này khiến cho Vương Nhân Tắc trong lòng cũng rất bất đắc dĩ. Dương Nguyên Khánh nếu như thực sự muốn xuất binh đến quận Hoằng Nông thì bọn họ cũng ngăn không được, chỉ có thể gửi hy vọng Dương Nguyên Khánh lời nói có thể tin được. Đừng chiếm quận Hoằng Nông.

Anh ta trong lòng thở dài một tiếng thi lễ đáp:

- Vậy ty chức xin cáo từ. Lời của điện hạ ty chức sẽ nói lại với thúc phụ.

Dương Nguyên Khánh lấy ra một phong thư đưa cho anh ta:

- Đưa phong thư này cho Vương Thượng thư. Ta chúc ông ấy sớm toại nguyện, muốn gì được nấy.

Vương Nhân Tắc nhận lấy bức thư, thi lễ thật sâu:

- Ty chức xin cáo từ!

Dương Nguyên Khánh lập tức ra lệnh với Giáo Úy thân binh:

- Hộ tống Vương Tướng quân sang sông!

Vương Nhân Tắc đi rồi, Dương Nguyên Khánh mới cười với Dương Sư Đạo nói:

- Nói suy nghĩ của ngươi xem nào?

Hắn sớm nhìn ra Dương Sư Đạo có chuyện muốn nói nhưng vẫn luôn nhịn lại được. Dương Sư Đạo nhẹ nhàng nhíu mày nói:

- Ta chỉ là không rõ, vì sao tổng quản không cần quận Hoằng Nông? Quận Hoằng Nông là vùng chiến lược giữa Quan Trung và Lạc Dương mà.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu.

- Ta không phải không cần quận Hoằng Nông. Chỉ có điều tạm thời không cần mà thôi. Quân đội Lý Uyên ra khỏi Quang Trung, bước đầu tiên chính là đặt chân lên đất Hoằng Nông. Bọn họ gây áp lực với Vương Thế Sung còn lớn hơn nhiều so với ta. Sở dĩ ta ủng hộ Vương Thế Sung là vì ta muốn ông ta thay ta ngăn chặn Lý Uyên. Nếu như ta chiếm lĩnh quận Hoằng Nông thì coi như ta giữ nhà cho ông ta rồi. Quận Hoằng Nông này về sau hãy tính.

Dương Sư Đạo ngẫm nghĩ một chút rồi đề nghị:

- Tổng quản có thể chỉ lấy một huyện thôi. Huyện Thiểm hoặc huyện Văn Hương. Giống như Lý Mật ở Hà Bắc chiếm lĩnh huyện Lê Dương vậy. Như vậy có thể đảm bảo sự tồn tại của quân Bắc Tùy tại Hà Nam.

Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát, vẫn lắc đầu một cái.

- Lý Mật lấy Lê Dương ngoại trừ việc chứng minh sự tồn tại ở Hà Bắc ra thì chẳng có ý nghĩa thực tế gì khác. Nếu như ta lấy huyện Thiểm, cuối cùng bị Vương Thế Sung lấy đi mất, Lý Uyên mở rộng ra phía đông thì sẽ ép ta không thể không cứu. Có lúc ta hy vọng Lý Uyên xuất binh đến Hoằng Nông. Đến lúc đó thì ta sẽ rất khó xử lý. Dứt khoát hai tay mất không, không được để bọn họ khống chế. Một khi cần thì ta sẽ chẳng chỉ lấy một huyện Thiểm đâu mà sẽ lấy toàn bộ quận Hoằng Nông.

Việc gì cũng có cái lợi cái hại của nó. Dương Sư Đạo cũng biết. Y thấy Dương Nguyên Khánh đúng là tạm thời không muốn cài thế lực vào Hà Nam thì y cũng không muốn khuyên thêm nhiều lời gì nữa.

Lúc này, một gã thân binh ở cửa bẩm báo:

- Khởi bẩm tổng quản, Đồng Quan đưa tới tin tình báo khẩn!

- Vào đi!

Một gã thân binh bước nhanh vào gian phòng đưa bức thư màu đỏ lên. Thư đỏ biểu thị tình huống khẩn cấp. Dương Nguyên Khánh rút ra một quyển tình báo, giở ra nhìn kỹ bên trong. Trong tình báo có hai nội dung: Lý Uyên khẩn cấp phái Lý Nguyên Cát dẫn hai mươi nghìn quân đến Đồng Quan, khiến quân chiếm giữ ở Đồng Quan lên đến ba mươi nghìn quân. Tin tình báo thứ hai lại rất thú vị. Lý Nguyên Cát ở Đồng Quan đoạt tiểu thiếp của Hoàng Quân Hán.

Tin tình báo thứ hai khiến Dương Nguyên Khánh cảm thấy hết sức có hứng thú. Hắn đưa tin tình báo cho Dương Sư Đạo:

- Ngươi xem cái này đi.

Dương Sư Đạo nhìn tờ tin tình báo rồi cười nói:

- Xem ra Lý Uyên cũng không muốn nhả ra miếng thịt béo quận Hoằng Nông này.

- Điều này cũng nằm trong dự liệu của ta.Tuy nhiên Lý Uyên lại bổ nhiệm tới hai chủ soái. Ngươi không thấy điều này là kỳ lạ sao?

- Có lẽ ông ta cho rằng đây là hai chiến trường. Một người phụ trách giữ Đồng Quan, một người phụ trách giữ Hoằng Nông. Có lẽ bên trong bọn họ có các ý kiến khác nhau. Lý Uyên bị ép phải áp dụng kế điều hòa.

Dương Nguyên Khánh nhíu mày. Hắn dường như hơi thất thần, ánh mắt nhìn chăm chú vào hộp thư màu đỏ trên bàn, vắt óc suy nghĩ cách bài trừ sự ảnh hưởng của hai vị chủ soái được Lý Uyên bổ nhiệm và đầu óc tỉnh táo để suy nghĩ thông tin tình báo thứ hai, hắn phát hiện ra trong tin tình báo thứ hai có thể làm được rất nhiều thứ.

Suy tư của Dương Nguyên Khánh khiến cho Dương Sư Đạo cũng ý thức được điều gì đó. Y nhìn kỹ lại tin tình báo thứ hai một lần nữa. Tề vương Lý Nguyên Cát cướp đoạt người phụ nữ của phó tướng Hoàng Quân Hán của Lý Hiếu Cung. Y liếc mắt nhìn Dương Nguyên Khánh một cái. Ánh mắt hai người chạm nhau, dường như có thần giao cách cảm vậy, cả hai cùng cười phá lên. Dương Sư Đạo nhịn cười nói:

- Nhưng điều này cần có mật thám ở bên trong quân Đường.

- Cái này không thành vấn đề!

Dương Nguyên Khánh giải thích, ánh mắt hắn híp lại nói:

- Biết người biết ta, mới có thể trăm trận trăm thắng. Ta làm sao có thể không cài người vào doanh trại quân Đường cơ chứ?

……

Buổi trưa ngày hôm sau, một thông tin được truyền đi ồn ào huyên náo trong doanh trại quân Đường ở Hàm Cốc Quan. Thê tử của chủ tướng Hoàng Quân Hán bị Tề vương Lý Cát nhắm trúng và đã bị cướp đi ở Đồng Quan. Thông tin này là khiến người ta thấy hứng thú nhất. Nó truyền đi rất nhanh, hơn nữa nội dung thì biến dạng. Hai đứa con trai của Hoàng Quân Hán cũng không phải là con đẻ của ông ta mà thực chất là con của Tề vương. Bời vì lý do này nên Hoàng Quân Hán mới được thăng chức lên cao. Hoàng Quân Hán can tâm tình nguyện dâng thê tử cho Tề vương. Thông tin càng truyền đi càng xấu.

Trong trại lớn, Hoàng Quân Hán đã nhận được bẩm báo của tùy tùng hộ vệ tiểu thiếp của mình, trong lòng lửa giận ngập tràn, đang uống hết chén rượu sầu này đến chén rượu sầu khác. Dù trong quân không cho phép uống rượu nhưng lúc này gã hơi có chút không kiềm chế được tâm trạng của mình rồi.

Lúc này, một đoàn quan quân đi đến trước cửa trại bị thân binh của Hoàng Quân Hán chặn lại. Các quan quân phẫn nộ đến mức hét lên:

- Chúng ta muốn gặp tướng quân!

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 610 : Cần lời giải thích

Hoàng Quân Hán chừng hơn bốn mươi tuổi, gã xuất thân là thế gia quan lại quận Đông. Năm Đại Nghiệp thứ bảy, một gã quan nhỏ người quận Đông tên là Địch Nhượng phạm pháp nên sắp bị chém. Gã lại tán thưởng sự sáng suốt gan dạ của Địch Nhượng nên thả ông ta chạy trốn, từ đó về sau liền có trại Ngõa Cương.

Hoàng Quân Hán cũng bởi vì thả Địch Nhượng nên phải chạy trốn suốt đêm. Gã chạy trốn trên giang hồ mấy năm. Tuy Địch Nhượng năm đó được thả ra đã trở thành bá chủ một phương nổi tiếng thiên hạ, nhưng gã lại không muốn nhận ân tình của Địch Nhượng. Sau đó Hoàng Quân Hán tới Thái Nguyên. Trong lần đầu tiên mộ binh của Lý Uyên, gã liền gia nhập và chiếm được cảm tình của Lý Hiếu Cung. Công tích từng bước nâng cao và ngày hôm nay đã trở thành tướng quân.

Trước đây không lâu, gã gặp kỹ nữ nổi tiếng Lạc Dương là Tô Vạn Xuân ở trong một thanh lâu ở huyện Hoằng Nông. Xưa kia gã đã từng là hào khách của Tô Vạn Xuân. Xuất phát từ tình cũ, gã liền thu nhận nàng làm tiểu thiếp. Thấy đại chiến sắp bùng nổ ở quận Hoằng Nông, gã liền phái thân binh đem Tô Vạn Xuân về Trường An. Không ngờ Tô Vạn Xuân lại bị Tề vương Lý Nguyên Cát đoạt đi ở Đồng Quan.

Điều này khiến Hoàng Quân Hán phẫn nộ vô cùng. Đó là sự sỉ nhục mà không một người đàn ông nào có thể chịu đựng được. Bất kể là Tô Vạn Xuân xuất thân ra sao, quan trọng là hiện tại nàng đã là nữ nhân của gã. Tề vương biết rõ điều này mà còn dám cướp nàng đi. Đây lại là một sự sỉ nhục ngang nhiên đối với gã.

Hoàng Quân Hán trong lòng đau khổ, mượn rượu giải sầu, từng chén, từng chén một. Lúc này, một nhóm quan quân xông vào, ai nấy vẻ mặt đều giận dữ. Hoàng Quân Hán ngừng uống rượu quát lớn:

- Các ngươi muốn làm gì?

Một thiên tướng tiến lên chắp tay nói:

- Tướng quân, hiện tại bên trong quân doanh lời đồn rất nhiều ảnh hưởng đến lòng quân. Bọn ty chức muốn chứng thực.

- Lời đồn gì?

Hoàng Quân Hán sửng sốt. Gã không hề biết gì về sự ồn ào huyên náo trong quân doanh.

Các tướng ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên nói như thế nào. Nhìn thấy chủ tướng đang uống rượu giải sầu đau khổ thì chắc cũng phải đến quá nửa là sự thật. Một gã tướng lớn tuổi thở dài trong lòng rồi tiến lên nói:

- Tướng quân, về chuyện thê tử của Tướng quân bị Tề vương cướp đi, bây giờ đã truyền khắp doanh trại rồi.

- Thối tha!

Hoàng Quân Hán giận tím mặt, vỗ mạnh vào bàn một cái mắng:

- Mẹ cha đứa nào tung tin vậy?

Các tướng lĩnh đều sửng sốt. Chẳng lẽ không có chuyện này. Tên tướng đó lại cẩn thận nói:

- Còn có một tin nữa là tiểu thiếp của tướng quân đã bị Tề vương đoạt đi rồi.

Hoàng Quân Hán suy sụp ngồi xuống. Một lúc lâu sau mới buồn bã nói:

- Thê tử của ta đã gần bốn mươi tuổi rồi, Tề vương đoạt nàng làm gì cơ chứ?

Phủ nhận thê tử, chẳng còn nghi ngờ gì chính là thừa nhận tiểu thiếp rồi. Tất cả các tướng lĩnh đều tức giận. Tên tướng hỏi ban đầu phẫn uất nói:

- Tướng quân, ngài cứ chịu nhịn như thế sao? Hay là cứ để thông tin truyền đi như thế trong doanh trại, mọi người không cần đánh giặc nữa rồi!

Nam nhân có hai nỗi sợ. Nỗi sợ thứ nhất là người phụ nữ của mình bị đoạt đi. Nỗi sợ thứ hai là những người xung quanh biết người phụ nữ của anh ta bị đoạt đi. Điều này còn khó chịu hơn là giết anh ta. Hoàng Quân Hán sắc mặt lúc trắng lúc đỏ, cuối cùng thì thâm như gan lợn vậy. Anh ta bỗng nhiên gầm nhẹ một tiếng như dã thú, quắc mắt đứng lên, một phát đá văng cái bàn. Anh ta đi nhanh ra phía ngoài trại, trèo lên lưng con chiến mã, ra khỏi doanh trại. Trong thời chiến không cho phép uống rượu, trong quân doanh không cho phép tùy ý phi ngựa. Chủ tướng không được tự ý rời khỏi quân doanh. Cả ba quy định này Hoàng Quân Hán đều đã vi phạm cả rồi. Các tướng lĩnh đều thở dài một tiếng, đủ thấy chuyện này có sức công kích lớn như thế nào đối với gã.

Quân đội của Hoàng Quân Hán đóng quân ở Hàm Cốc Quan. Quân đội của Lý Hiếu Cung đóng ở huyện Thiểm. Hai nơi cách nhau cũng không xa lắm. Lúc này đã là giữa canh một, trong quân doanh vô cùng yên tĩnh. Bọn lính sớm đã ngủ say sưa, chỉ có các đội tuần tra đang tuần tra ở xung quanh quân doanh. Ở gần bến sông Hoàng Hà cũng bố trí hơn một nghìn binh lính, cả đêm canh gác không ngủ.

Lý Hiếu Cung cũng chưa đi ngủ. Ông ta đang đọc sách trong trại lớn, mãi đến canh ba, trên sông không có gì bất thường, ông ta mới an tâm đi ngủ.

Lý Hiếu Cung cũng là ngày hôm qua nhận được điệp văn triều đình gửi tới. Thánh Thượng đã bổ nhiệm Tề vương làm Đồng Quan đại soái, dẫn ba mươi nghìn quân đến ủng hộ quận Hoằng Nông. Sự bổ nhiệm này khiến Lý Hiếu Cung phải thở dài ngao ngán. Dù Thánh Thượng không chịu đem toàn bộ quân đội cho mình, nhưng cũng đừng phái gã Lý Nguyên Cát này đến. Việc Lý Nguyên Cát làm mất Thái Nguyên, Lý Hiếu Cung hiểu rất rõ và từ nhỏ đã hiểu rõ Nguyên Cát rồi. Đây là một con người cao ngạo, ích kỷ, bạc tình vô nghĩa. Để Nguyên Cát trợ giúp quận Hoằng Nông, liệu y có chịu nghe theo sự chỉ huy của mình hay không?

Lý Hiếu Cung lo lắng không nguôi nhưng lại bất đắc dĩ với sự bổ nhiệm của Thánh Thượng. Trong lòng ông ta lo lắng về việc khó nắm chắc được cục diện trận chiến. Dùđọc sách nhưng một chữ cũng chẳng vào. Ông ta đã đọc hơn nửa canh giờ rồi nhưng chưa lật qua được trang nào.

Lúc này, một thân binh ở ngoài trại bẩm báo:

- Điện hạ, Hoàng Tướng quân khẩn cấp cầu kiến!

Lý Hiếu Cung ngẩn ra. Đã muộn thế này rồi Hoàng Quân Hán chạy tới làm gì? Mình cũng đâu có triệu anh ta vào gặp, sao anh ta lại tự ý rời khỏi quân doanh?

Lý Hiếu Cung trong lòng nghi hoặc, liền ra lệnh:

- Cho anh ta vào!

Rất nhanh, Hoàng Quân Hán bước nhanh đi vào trại lớn, quỳ rạp xuống đất lên tiếng khóc lớn. Lý Hiếu Cung ngây ngẩn cả người, cuống quít đỡ lấy anh ta:

- Hoàng Tướng quân, xảy ra chuyện gì?

Hoàng Quân Hán lau nước mắt, nghiến răng nghiến lợi kể lại chuyện Lý Nguyên Cát cướp đoạt tiểu thiếp của mình ra, gã bi phẫn nói:

- Thân binh của mạt tướng đã nói cho bọn họ biết đó là nữ nhân của mạt tướng rồi. Thế mà hai thân binh của mạt tướng cũng bị giết ngay tại đó, hai thân binh bị thương. Điện hạ, y muốn người phụ nữ đó thì mạt tướng giao cho y là được, sao lại phải làm nhục mạt tướng như vậy chứ?

Lý Hiếu Cung kinh ngạc lạnh hết cả chân tay. Lý Nguyên Cát không ngờ dám cả gan làm loạn đến mức độ này, dám đoạt nữ nhân của phó tướng của mình, còn giết thân binh của gã nữa…Thật là. Đây là thái độ nên có của một kẻ bề trên hay sao? Trong lòng ông ta hỗn loạn, không thể tưởng tượng nổi lại xảy ra chuyện như thế. Ông ta nhất thời không biết nên làm thế nào mới đúng.

Lý Nguyên Cát không ngờ, chính là muốn ông ta thay mình ra mặt, đòi lại công bằng. Người phụ nữ đó gã có thể không cần, nhưng gã nhất định phải làm cho ra nhẽ.

- Điện hạ, mạt tướng vị trí thấp kém, không có tư cách nói chuyện với Tề vương. Mạt tướng chỉ có thể đến cầu khẩn điện hạ ra mặt thay mạt tướng, đòi lại công bằng.

Lý Hiếu Cung đã dần dần bình tĩnh lại. Ông ta bỗng nhiên cũng ý thức được đây thực ra là một cơ hội, lợi dụng cơ hội này để thay Lý Nguyên Cát. Ông ta vỗ vai Hoàng Quân Hán nói:

- Ngươi yên tâm, ta nhất định sẽ đòi lại công bằng cho ngươi. Ta sẽ khiến y phải chịu trừng trị thích đáng.

Hoàng Quân Hán trầm mặc một chút, lại nói:

- Điện hạ là muốn trực tiếp đi tìm y đòi người sao?

Lý Hiếu Cung lắc đầu:

- Chiến cuộc bây giờ ta đã không bỏ được. Hơn nữa dù là trực tiếp đi tìm y thì y cũng không thừa nhận đâu. Ta muốn Thánh Thượng trực tiếp buộc tội trừng trị y.

Hoàng Quân Hán trên mặt lộ ra một tia lo lắng. Ý muốn ban đầu của gã là muốn Lý Hiếu Cung nói chuyện với Lý Nguyên Cát một chút. Lý Nguyên Cát trả lại Tô Vạn Xuân cho mình, rồi xin lỗi, bản thân mình còn giữ được thể diện. Sự việc như thế là được giải quyết. Không ngờ Lý Hiếu Cung lại muốn đưa việc này làm ầm lên đến tận chỗ Lý Uyên. Như thế thì về sau Lý Nguyên Cát sẽ không hận mình hay sao? Tiền đồ của mình như thế chẳng phải hết rồi sao? Kết thù với thân vương. Đây chẳng phải là ngu ngốc hay sao?

Hoàng Quân Hán cắn cắn môi dưới, lẩm bẩm nói:

- Điện hạ, có thể nói chuyện trước với Tề vương một chút được không?

Lý Hiếu Cung thở dài nói:

- Ngươi không hiều về con người Tề vương này. Y sẽ chẳng những không thèm để ý đến sự can thiệp của chúng ta mà sẽ còn làm ngươi nhục nhã hơn thêm. Y chỉ sợ một người đó là Thánh Thượng mà thôi. Cũng chỉ có Thánh Thượng mới có thể lấy lại công bằng cho ngươi. Đương nhiên nếu như bản thân ngươi muốn từ bỏ thì ta cũng không còn cách nào khác.

Nói đến đây, ánh mắt Lý Hiếu Cung sáng ngời nhìn chăm chú Hoàng Quân Hán, dường như đang hỏi anh ta: “Có muốn đòi lại công bằng hay không?”

Hoàng Quân Hán dường như nhìn thấy hình ảnh người phụ nữ mình yêu thích giọng uốn éo dưới háng của Lý Nguyên Cát thì liền quyết định chắc chắn, kiên quyết nói:

- Xin điện hạ hãy làm chủ cho mạt tướng!

- Được rồi, đêm nay ta sẽ buộc tội y!

…..

Tấu chương buộc tội của Lý Hiếu Cung đã được dùng cách nhanh nhất để đưa tới Trường An. Chiến cục vẫn rất yên ổn, dù là Vương Thế Sung hay là Dương Nguyên Khánh thì bọn họ vẫn chưa có bất cứ hành động gì. Bọn họ dường như đang chờ đợi điều gì?

Núi Hào, trước doanh trại lớn của Vương Thế Sung có mấy thám báo quân Tùy chạy gấp tới, từ xa đã có trinh sát nhìn thấy và hô to:

- Đứng lại!

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 611 : Ngự Sử giám sát

Dù là Bắc Tùy và Nam Tùy đều là quân Tùy, khôi giáp cũng gần giống nhau, nhưng điểm khác biệt chính là chiếc mũ sắt. Mũ sắt của quân Bắc Tùy là mũ xích ưng. Trên mũ ưng lăng bình thường có một con chim diều hâu làm bằng đồng đỏ, dưới ánh mặt trời chiếu lấp lánh nhìn rất rõ, còn của quân Nam Tùy thì không có.

Vì thế trinh sát tuần tra liếc mắt một cái liền nhận ra những người đó là thám báo quân Bắc Tùy. Hơn mười cung tên chĩa vào bọn họ. Giáo Úy cầm đầu thám báo cao giọng nói:

-Phụng mệnh tổng quản Phong Châu, đến để đưa thư cho Vương Thượng thư!

Có người nhận ra Giáo Úy này đã từng tới đó một lần. Bọn họ thông báo cho tướng đang trực, cửa được mở ra, có mấy thân binh của Vương Thế Sung đi ra hỏi vài câu rồi dẫn mấy thám báo Bắc Tùy vào trong trại lớn.

Vương Thế Sung đang suy xét chiến thuật để cướp lấy quận Hoằng Nông. Ông ta đã chắc chắn Dương Nguyên Khánh nhất định sẽ qua sông tham chiến. Đây là việc mà ông ta từng kiêng kỵ nhất. Bây giờ ông ta cũng chấp nhận rồi. Qua mấy lần bàn bạc qua lại, ông ta cũng đã tin tưởng vào lời hứa của Dương Nguyên Khánh. Chỉ đuổi thế lực của Lý Uyên về Quan Trung chứ sẽ không chiếm lĩnh quận Hoằng Nông.

Lý Uyên chiếm lĩnh quận Hoằng Nông đã trực tiếp uy hiếp đến quận Hà Đông và Lạc Dương. Đặc biệt là sau khi mùa đông kết băng thì sự uy hiếp của Lý Uyên đối với quân đội Hà Đông càng lớn. Đây cũng chính là nguyên nhân mà Dương Nguyên Khánh chủ động tham gia và giải quyết nguy cơ quận Hoằng Nông, đồng thời cũng là cơ sở hợp tác song phương giữa bọn họ, có cùng chung kẻ địch.

Bây giờ mấu chốt là ai sẽ là chủ đạo? Vốn là song phương bình đẳng, hợp tác tác chiến, hỗ trợ lẫn nhau. Nhưng dần dần Vương Thế Sung phát hiện mình đã bị Dương Nguyên Khánh dắt mũi. Chiến dịch này trở thành do Dương Nguyên Khánh chủ đạo, ông a phối hợp làm theo. Vương Thế Sung trong lòng cũng cảm thấy bất đắc dĩ với điều này, chỉ có thể thở ngắn than dài mà thôi. Ai bảo bây giờ ông ta có việc phải cầu người này cơ chứ?

Hiện tại nói là Vương Thế Sung đang suy nghĩ chiến thuật cướp quận Hoằng Nông, chi bằng nói là ông ta đang chờ đợi chỉ thị của Dương Nguyên Khánh. Phải đánh thế nào? Khi nào tiến công? Ông ta đã không còn một chút quyền tự chủ nào.

Lúc này, thân binh ở cửa bẩm báo:

-Khởi bẩm Thượng thư, sở Vương điện hạ đã đưa tin đến!

-Mời y vào!

Rất nhanh, Giáo Úy thám báo quân Bắc Tùy bước nhanh đi vào, quì gối chào theo nghi thức quân đội:

-Giáo Úy thám báo quân Bắc Tùy Tưởng Thông Vệ phụng mệnh Tổng quản đến đưa tin cho Thượng thư!

Giáo Úy lấy ra một phong thư dâng lên cho Vương Thế Sung. Vương Thế Sung nhận lấy bức thư rồi mở ra. Nội dung bức thư rất đơn giản. Dương Nguyên Khánh nói cho ông ta biết thời gian phát động tiến công chính là trong mấy ngày này, bảo ông ta chuẩn bị tốt, lúc nào cũng có thể phát động tiến công.

Vương Thế Sung trong lòng hơi hơi có chút thất vọng. Ông ta cứ tưởng có thời gian xác định rồi. Kết quả là vẫn chưa có. Ông ta thở dài một tiếng, lại hỏi Giáo Úy:

-Tổng quản của các ngươi bây giờ ở đâu?

-Bẩm báo Vương Thượng thư, Tổng quản của chúng tôi bây giờ đang ở bến Phong Lăng.

Đồng Quan, mấy chục tên kỵ binh bảo vệ mấy quan viên cưỡi ngựa từ đằng xa chạy tới, tiếng vó ngựa chạy làm kinh động đến cửa hàng hai bên đường. Từ khi Tề vương Lý Nguyên Cát đồng ý bảo vệ Đồng Quan, lập tức đóng cửa thành, không cho người đi đường và thương nhân ra vào Đồng Quan, điều này khiến cho Đồng Quan dần dần vắng vẻ, cửa hàng hai bên đường kinh doanh cũng xuống dốc không phanh.

Tiếng vó ngựa chạy làm cho tất cả các cửa hàng chú ý, một nhóm trưởng quầy đang ngồi nói chuyện phiếm cùng nhau đều đứng lên, nhìn đám người ngựa chạy tới. Khoảng chừng hơn một trăm kỵ binh quân Đường bảo vệ ba gã quan viên, một gã đàn ông trung niên khoảng hơn bốn mươi tuổi, đầu đội mũ sa đen, mặc quần áo bào màu tím, phía sau lưng có một thanh Thượng Phương Thiên Tử Kiếm, đi theo phía sau là một quan viên trẻ tuổi hơn một chút, lại mặc áo quan bào màu đỏ thẫm, cấp bậc hơi thấp.

- Là giám sát Ngự Sử!

Lão chưởng quầy nhiều tuổi rất tinh mắt biết nhìn người, lão nhận ra người tới, nhóm người đều vây quanh chưởng quầy:

- Cừu chưởng quầy làm sao biết được?

- Các người không thấy ở giữa cái cờ màu trắng có con nghê màu đen kia sao? Đó chính là cờ xí của Ngự Sử đài, quan viên ở bên trong kia mặc áo bào tím, ít nhất cũng là chức ngũ phẩm trở lên, không phải Ngự Sử đại phu Đậu Kháng thì chính là Trị Thư Thị Ngự Sử - Vu Chí Ninh.

Lập tức lão chưởng quầy lại lắc đầu:

- Không phải Đậu Kháng, Đậu Kháng ta đã gặp qua. Đây chính là Vu Chí Ninh.

Lúc này, chỉ nghe thấy binh lính cao giọng bẩm báo:

- Bẩm báo Tề vương điện hạ, Trịhư Thị Ngự sử Vu Sứ quân phụng chỉ đến đây giám sát.

Bọn người trong quầy thốt lên một tiếng kinh ngạc, khâm phục lão chưởng quầy mắt sáng như đuốc, lão chưởng quầy vuốt nhẹ chòm râu dê đắc ý cười không nói. Đối với bọn họ là những người làm ăn, xem người phân biệt thời thế vốn là việc làm quan trọng nhất, ánh mắt lão chưởng quầy sáng ngời, dường như đang nghĩ tới điều gì, hạ giọng nhìn mọi người nói:

- Nếu ta đoán không nhầm, không biết có phải vì việc Tề vương cướp người mà Trị Thư Thị Ngự Sử đến.

Việc Tề vương cướp nữ nhân sớm đã làn truyền khắp Đồng Quan. Lập tức các thương nhân đều bàn luận, trên nét mặt mỗi người đều lộ rõ vẻ vui mừng. Nếu Tề vương bị bỏ cũ thay mới, như vậy Đồng Quan sẽ có thể một lần nữa được mở ra. Duy trì người đi đường lui tới, việc buôn bán của bọn họ lại có thể thịnh vượng lên.

Chưởng quầy Trương Thiếu Hoa không lộ vẻ mặt gì mà rời đi, lão trở lại cửa hàng của mình. Nhanh chóng viết một phần tình báo, giao cho tiểu nhị tâm phúc, dặn dò tiểu nhị liên tục:

- Dùng chim ưng của thành Hà Đông, lần này là phát đi hướng thành Hà Đông.

Tiểu nhị lái thuyền nhỏ rời đi, Trương Thiếu Hoa lại nhìn thành Đồng Quan, trong lòng anh ta có chút lo lắng, có phải Ngự Sử đến vì việc Tề vương cướp nữ nhân hay không, anh ta cũng không nắm chắc.

****

Rất nhiều chuyện quả thật chỉ có thể phỏng đoán, nhưng nếu như có căn cứ phỏng đoán, như vậy khả năng đoán trúng cũng rất lớn, bọn họ quả thật có căn cứ. Gần đây Đồng Quan rất yên ổn, việc duy nhất khiến Ngự Sử có khả năng đến, chính là sáu ngày trước nảy sinh việc Tề vương cướp người.

Việc Tề vương cướp danh kỹ cũng không có gì là lớn lối. Không cướp đoạt trước Đồng Quan, nhưng có người cố ý thổi phồng lên, làm gần như tất cả mọi người ở Đồng Quan đều biết.

Trị Thư Thị Ngự Sử Vu Chí Ninh đúng là phụng chỉ đến điều tra việc Tề vương cướp người, thậm chí y còn mang theo Thượng Phương Thiên Tử Kiếm, khi cần dùng để làm kinh sợ Tề vương. Lý Hiếu Cung dâ tấu chương buộc tội làm cho Lý Uyên giận tím mặt, việc này dù là như thế nào thì gã cũng không thể tha thứ dễ dàng, khi hai quân giao chiến, không ngờ Lý Nguyên Cát cướp tiểu thiếp của đại tướng, việc này sẽ dẫn đến nội chiến nghiêm trọng, sẽ làm cho quận Hoằng Nông thất bại thảm hại.

Nhưng Lý Hiếu Cung cũng không đưa ra được chứng cớ, Lý Uyên cũng lo lắng trong đó có ẩn tình, một bên là con mình, một bên là cháu trai. Làm một quân chủ, gã càng muốn suy xét cho thế lực cân bằng, không thể tin những lời đồn mà phải lập tức giải quyết nhanh chóng. Sau khi Lý Uyên suy xét, quyết định phái Ngự Sử đến điều tra. Một khi là thật, lập tức cách chức chức vụ đại soái Đồng Quan của Lý Nguyên Cát.

Vu Chí Ninh cũng là con cháu gia tộc Vu thị quý tộc Quan Lũng, làm quan cẩn thận, suy nghĩ chu đáo chặt chẽ, rất được Lý Uyên coi trọng. Lần này Lý Uyên phái lão đến, chính là hy vọng Vu Chí Ninh có thể điều tra công bằng, nhưng Vu Chí Ninh đã hiểu được một ý tứ khác sâu trong nội tâm của Lý Uyên: cố gắng không để Lý Nguyên Cát bị oan uổng.

Nếu không, Lý Uyên hẳn đã triệu hồi Lý Nguyên Cát về Trường An rồi sau đó từ từ điều tra, nhưng Lý Uyên không làm như vậy. Điều này nói lên Lý Uyên cũng không muốn việc Lý Nguyên Cát cướp đoạt vợ bé của Đại Tướng là sự thật, bởi vì điều này không chỉ phá hỏng thanh danh Lý Nguyên Cát, mà còn ảnh hưởng đến cả thanh danh của Lý Uyên.

Từ xưa đến nay Hoàng Đế chưa bao giờ nói rõ tâm tư trong lòng ra, điều này phải nhờ vào thủ hạ chính là thần tử tự hiểu, quả thật là Vu Chí Ninh hiểu rõ suy nghĩ ẩn bên trong của Lý Uyên.

Vu Chí Ninh được mời đi đến phòng khách quý chờ một chút, lúc này, ngay trong một phòng cách vài chục bước, Lý Nguyên Cát đang hung tợn mà uy hiếp Trưởng sử hành quân Triệu Từ Cảnh.

- Không có chuyện này, ngươi nhớ kỹ chưa? Không có!

Triệu Từ Cảnh xuất thân danh môn Lũng Tây, làm quan đảm nhiệm Binh Bộ Thị Lang, đồng thời cũng là Phò mã đương triều, y cưới con gái thứ năm của Lý Uyên là Công chúa Trưởng Quảng. Triệu Tử Cảnh tuổi cũng không lớn, chỉ có khoảng hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, bộ dạng phóng khoáng hoạt bát, vốn nổi danh là một anh chàng đẹp trai, học vấn cũng không tồi, nhưng tính cách lại hơi có chút yếu đuối.

Y cũng nghe nói việc Lý Nguyên Cát cướp vợé của Hoàng Quân Hán, nhưng vì Lý Nguyên Cát mạnh mẽ, cứng rắn nói y phải im lặng, y cũng không ngờ sự việc sẽ kinh động đến Thánh Thượng, làm hiện tại trong lòng y cảm thấy bất an.

- Chỉ có điều… làm sao Thánh Thượng biết?

Triệu Từ Cảnh ngập ngừng hỏi.

- Việc này còn phải hỏi sao? Ngoại trừ Lý Hiếu Cung, còn ai dám tố cáo ta?

Lý Nguyên Cát nghiến răng nghiến lợi, gã đi ra ngoài cửa, lại không yên tâm quay đầu lại nói:

- Nhớ kỹ lời ta nói…, không có chuyện này, nếu ta gặp chuyện xấu, mẫu hậu ta cũng sẽ không tha cho ngươi.

Triệu Từ Cảnh không dám lên tiếng, đi theo Lý Nguyên Cát ra ngoài đại sảnh, hai người đi vào đại sảnh, Vu Chí Ninh vội vàng đứng dậy thi lễ nói:

- Tham kiến Tề vương điện hạ!

Lý Nguyên Cát liếc qua trên bàn thấy một thanh Thượng Phương Thiên Tử Kiếm, gã hừ mạnh một tiếng, nghênh ngang ngồi xuống. Triệu Từ Cảnh khom lưng chắp tay, rồi ngồi xuống ở phía dưới.

Vu Chí Ninh miễn cưỡng mỉm cười một chút, nói:

- Lần này hạ quan đến đây, là vì Quận vương Hà Gian buộc tội điện hà cướp đoạt vợ bé của đại tướng Hoàng Quân Hán, Thánh Thượng tức giận, sai hạ quan đến điều tra.

Y vừa dứt lời, Lý Nguyên Cát vỗ bàn mạnh một cái, tay gã duỗi ra, cả giận nói:

- Nói ta cướp vợ người khác, chứng cớ ở đâu?

Vu Chí Ninh lộ vẻ xấu hổ, vội vàng nói:

- Cũng bởi vì thiếu chứng cớ, nên Thánh Thượng mới sai hạ quan đến điều tra rõ chân tướng sự việc.

Lý Nguyên Cát nhếch miệng lên, giọng nói vô cùng ngạo mạn, nói:

- Không cần phải điều tra, ta cho ngươi biết chân tướng, đây là bởi vì Lý Hiếu Cung hận ta không chịu nghe theo gã sai khiến, nên sử dụng thủ đoạn hèn hạ nói xấu ta, ý đồ làm cho ta bị cách chức, chỉ đơn giản như vậy thôi.

Vu Chí Ninh thấy lúc này Lý Nguyên Cát không hợp tác. Tuy rằng việc này đã nằm trong dự liệu của y, nhưng y vẫn cảm thấy buồn bã, y đưa mắt nhìn Triệu Từ Cảnh:

- Triệu Thị Lang cho rằng thế nào?

Triệu Từ Cảnh do dự một chút, trong nháy mắt y cảm thấy sát khí trên người Lý Nguyên Cát truyền đến, đúng vậy! Y tội gì vì tên tiểu tướng lĩnh Hoàng Quân Hán mà đắc tội với Tề vương. Nói thật y cũng không có chứng cớ, chỉ nghe được một ít lời đồn, Triệu Từ Cảnh cắn môi một cái nói:

- Chuyện này ta chưa bao giờ nghe thấy.

Trên mặt Lý Nguyên Cát không che dấu được vẻ đắc ý, gã hừ một tiếng:

- Ta biết, có người bất mãn với ta vì việc buông tha cho Thái Nguyên, chỉ cần có tin tức hơi bất lợi đối với ta lập tức sẽ lấy ra làm tấu, cũng không xem là thật hay là giả. Ta cảm thấy Ngự Sử nên điều tra Lý Hiếu Cung một chút, đến hỏi gã tại sao phải nói xấu ta?

Vu Chí Ninh cười khổ một tiếng nói:

- Việc này đã nằm trong kế hoạch của hạ quan. Sau khi điều tra sơ qua ở Đồng Quan, hạ quan sẽ đi quận Hoằng Nông.

- Không cần điều tra!

Lý Nguyên Cát nói như đinh đóng cột:

- Ta cho ngươi biết, chuyện này không có. Nếu như người điều tra lung tung, sẽ ảnh hưởng đến lòng quân của ta, ngươi muốn đi quận Hoằng Nông, tốt nhất nên đi ngay đi!

Lý Nguyên Cát đứng lên xoay người rời đi, Vu Chí Ninh cảm thấy đau đầu một trận, Thái Tử khoan dung độ lượng, Tần vương chiêu hiền đãi sĩ, cho dù là Triệu vương Huyền Phách hơi ngốc cũng sẽ không làm điều xằng b� Tề vương nhờ cậy Thánh Thượng nên rất kiêu căng ngạo mạn, đứa con ngông cuồng ngang ngược, Vu Chí Ninh vừa liếc nhìn Triệu Từ Cảnh, Triệu Từ Cảnh cười khổ một tiếng, nhìn y thi lễ nói:

- Chuyện này nên điều tra nhanh, sớm chấm dứt đi! Thời gian càng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến chiến cuộc.

Vu Chí Ninh thở dài:

- Ta biết, hẳn là ta sẽ đi tới quận Hoằng Nông điều tra, sau đó lấy chứng cớ rồi trở về.

Y đứng lên chắp tay nói:

- Ta đây xin cáo từ!

Triệu Từ Cảnh dẫn Vu Chí Ninh ra khỏi Đồng Quan, y vừa bước nhanh trở về, y cảm thấy hẳn là nên nói chuyện lại với Lý Nguyên Cát một chút. Y đi đến trong sân của Lý Nguyên Cát, nhưng từ cửa sổ thấy bên trong Lý Nguyên Cát đang bàn giao việc gì cho thân binh, tay ra hiệu động tác “giết”, lập tức trong lòng Triệu Từ Cảnh trở nên lạnh lẽo, y biết Lý Nguyên Cát muốn làm điều gì, hẳn là giết người bịt miệng.

Đúng lúc đó Lý Nguyên Cát cũng quay đầu nhìn ra bên ngoài sân, hai người bốn mắt chạm nhau, trong ánh mắt Lý Nguyên Cát toát ra một loại âm độc tàn nhẫn khó nói.

*****

Bến Phong Lăng bờ phía bắc Hoàng Hà, vài ngày trước mặt sông vẫn còn rất vắng vẻ, lại trong một đêm tập hợp mấy trăm chiến thuyền, đồng thời cũng trong một đêm từ thành Hà Đông điều đến mười nghìn quân đội, làm quân đội ở bến Phong Lăng đạt tới ba mươi nghìn người, quan trọng hơn là chủ soái quân Bắc Tùy Dương Nguyên Khánh đã ở bến Phong Lăng.

Trên mặt sông, cột buồm thuyền lớn dày đặc như rừng, hơn sáu trăm thuyền đông nghìn nghịt bao trùm vài dặm mặt sông, những thuyền này là từ quận Diên An đi tới, mỗi thuyền có thể bốc xếp và vận chuyển được hơn hai trăm binh lính, hơn nữa còn ngựa và lương thực, có thể một lần vượt qua Hoàng Hà.

Dương Nguyên Khánh cùng với mấy chục tên tướng lãnh đi thị sát chiến thuyền ở trên bến, hắn nhìn chăm chú bên kia bờ sông Hoàng Hà. Trời quang, gió Bắc rét lạnh thổi tan sương mù sáng sớm, nước sông đập vào hai bên bờ, phát ra tiếng vang Oạp oạp, tầm nhìn hết sức rõ ràng.

Hắn có thể nhìn thấy lờ mờ một vệt đen bên kia bờ sông. Bên kia bờ là huyện Văn Hương, căn cứ vào tình báo của hắn, binh lực đóng quân bên kia chỉ có hai nghìn người, tuy rằng Lý Nguyên Cát thống lãnh đại quân tiến đến, nhưng y vẫn đóng quân ở Đồng Quan, khoảng cách đến huyện Văn Hương còn có hơn hai mươi dặm, khi đại chiến bắt đầu, căn bản là sẽ không kịp tới phòng ngự, chỉ sợ Lý Uyên không thể nghĩ ra con lão chỉ để ý đến Đồng Quan, mà mặc kệ sự sống chết của quận Hoằng Nông, nguồn gốc xuất phát từ chỗ một quân hai soái.

Nghe nói Khuất Đột Thông phản đối một quân hai soái, nhưng Lý Uyên không có tiếp thu lời nói của y. Lý Uyên suy xét từ trong chính trị, không muốn nhiệm vụ phòng ngự của quận Hoằng Nông và Đồng Quan gộp với nhau. Quận Hoằng Nông thuộc loại quan ngoại, mà Đồng Quan lại thuộc Quan Trung, đây là hai hệ thống bất đồng, trong chính trị là không có vấn đề, nhưng ở trên quân sự, đây tuyệt đối là một điều không tốt. Lý Uyên lại cố tình phái Tề vương Lý Nguyên Cát kiêu căng đến đây, Lý Hiếu Cung làm sao có thể chỉ huy được gã, có lẽ trong đầu Lý Uyên vẫn muốn bảo vệ Đồng Quan là chính, tiếp theo mới là bảo vệ quận Hoằng Nông.

- Buổi tối có thể qua sông sao?

Dương Nguyên Khánh quay đầu lại hỏi Tư mã Hành quân Trương Trinh Hiếu.

Trương Trinh Hiếu tiến lên thi lễ nói:

- Bẩm báo tổng quản, ty chức đã xác nhận, căn cứ tình hình mặt nước bây giờ, khi canh một nước sông xoáy ít nhất, lúc đó qua sông là tốt nhất.

Dương Nguyên Khánh gật nhẹ đầu, lại tập trung suy nghĩ việc còn sót lại. Lúc này, Tần Quỳnh ở bên cạnh thấp giọng hỏi:

- Tổng quản, thời cơ đã chín muồi rồi sao?

- Sắp chín muồi rồi!

Dương Nguyên Khánh cười đầy thâm ý.

Dương Nguyên Khánh đã có được tình báo, Trị Thư thị Ngự Sử Vu Chí Ninh đã ra khỏi Đồng Quan, hiện đang trên đường đến quân doanh của Lý Hiếu Cung, thời cơ hắn chờ đợi đã sắp đến.

Bên trong quân doanh của Vương Thế Sung một mảnh bận rộn, tất cả binh lính đều mặc khôi giáp chỉnh tề, chuẩn bị lương khô cho hai ngày, đao thương đánh bóng, cung tên điều chỉnh dây cung. Trước các doanh trướng, bọn lính quây quần ngồi ăn cơm trưa, bên trong nồi hầm có thể thấy từng con cá chép Hoàng Hà rất béo, và từng miếng thịt nặng khoảng hai lạng, thức ăn vô cùng thịnh soạn, cơm cũng có thể ăn no.

Đây chính là điềm báo trước đại chiến, mỗi một lần trước đại chiến, bọn lính đều được ăn no nê, cho nên bọn lính cũng vô cùng yên tĩnh, cố gắng hưởng thụ hương vị của thịt cá, đây có lẽ là bữa cuối cùng của bọn họ.

Vương Thế Sung dẫn theo mấy tên thân binh vào cùng ăn bữa ăn ngon hôm nay với một đám binh lính, đây vốn là một điều quan trọng của một người thống lĩnh như Vương Thế Sung. Ông ta có thể cùng đám sĩ tốt đồng cam cộng khổ, giành được sự yêu quý của tầng lớp tướng sĩ thấp nhất.

Ngày hôm qua Vương Thế Sung nhận được tình báo của Dương Nguyên Khánh, ấn định thời gian hôm nay sẽ phát động tấn công, tuy rằng thời gian cụ thể ấn định tấn công vào giờ nào không có, nhưng Vương Thế Sung cũng đã chuẩn bị tốt khâu cuối cùng trước khi tấn công.

- Đại tướng quân, nếu lần này lập được nhiều công lớ, chúng tôi sẽ được thưởng cái gì?

Một tên binh lính trẻ tuổi tràn đầy kỳ vọng hỏi han.

Vương Thế Sung đang ăn một con cá, ông ta nhổ ra một cái xương cá, cười ha ha nói:

- Lần này nếu như ngươi giết được hai mươi tên địch, ta sẽ thưởng cho ngươi một cung nữ làm vợ!

Bọn lính đều cười rộ lên, một gã lão binh vỗ vỗ bả vai binh lính trẻ tuổi, chế nhạo nói:

- Tiểu Tam lang, cởi quần cho chúng ta nhìn xem lông đã dài đủ chưa nào?

Mọi người lại một lần nữa cười phá lên, lúc này, một gã thân binh bước nhanh đi tới, nói nhỏ bên tai Vương Thế Sung vài câu, Vương Thế Sung gật nhẹ đầu, nhìn bọn lính nói:

- Mọi người ăn no một chút, đánh giặc mới có sức, hôm nay có rất nhiều thịt, ăn hết mình đi.

Vương Thế Sung đứng lên bước nhanh quay trở về lều trung quân của mình, đi vào lều lập tức hỏi:

- Thư ở đâu?

Một gã thân binh đưa một phong thư lên cho ông ta, đây là tin từ điểm liên lạc trực tiếp ở bờ sông đến. Ở hai bên bờ sông Hoàng Hà, Dương Nguyên Khánh và Vương Thế Sung đều thiết lập một điểm liên lạc, chỉ cần một con thuyền qua sông, lập tức sẽ có tin tức nhanh chóng truyền lại. Hai người ở những điểm liên lạc này ngày càng thấy nhiều dấu hiệu gia tăng.

Vương Thế Sung vội vàng mở thư ra xem một lần, quả là tin tức ông ta đang chờ mong, thời gian đã ấn định cụ thể canh một đêm nay.

Vương Thế Sung thở một hơi nhẹ, ông ta chờ thời khắc này đã lâu.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 612 : Lòng người khó đoán

Đại doanh quân Đường ở huyện Thiểm. Hoàng Quân Hán vội vã đi tới lều lớn trung quân, bởi vì trong lòng gã không yên, lập tức Lý Hiếu Cung tạm thời điều gã đến đại doanh, phái một viên Đại tướng khác đi phòng thủ Hàm Cốc Quan.

Mấy ngày nay, trong lòng Hoàng Quân Hán vừa là khẩn trương vừa là chờ mong, dù sao Lý Hiếu Cung cũng là Quận vương Hà Gian, y buộc tội nhất định sẽ có hiệu quả, cho dù là đắc tội với Tề vương, nhưng ít ra vợ bé của gã có thể trở về, gã có thể bảo vệ tôn nghiêm. Nhưng trong lòng Hoàng Quân Hán còn có một chút bất an, dù sao Tề vương cũng là con của Hoàng Đế, thật sự Thánh Thượng sẽ giáng tội con mình sao?

Vừa rồi Lý Hiếu Cung phái thân binh tìm đến gã, Ngự Sử của triều đình đã đến, điều này làm cho trong lòng Hoàng Quân Hán khong yên, gã biết là việc mình chờ đợi đã đến.

Mới vừa đi tới trước lều lớn trung quân, lại nghe thấy từ trong lều lớn truyền ra tiếng tức giận quát lớn của chủ tướng Lý Hiếu Cung:

- Sao lại không đủ chứng cớ? Việc này trước tiên phải điều Tề vương về kinh, rồi đổi soái. Sau đó mới bàn đến chuyện khác, hiện tại đại chiến sắp tới, Thánh Thượng cũng không có đổi soái, phải cần chứng cớ gì, trận này bảo ta phải đánh như thế nào?

Hoàng Quân Hán dừng bước, trong lòng gã nguội lạnh đi một nửa, chứng cớ không đủ, gã làm có chứng cớ gì? Chẳng lẽ không có chứng cớ không thể trừng phạt Tề vương sao?

Lúc này lại nghe thấy được âm thanh của Ngự Sử:

- Quận Vương điện hạ, dù sao y cũng là Tề vương, nếu đưa y trở về Trường An, không phải là nói cho vua và dân chúng là thật sự y cướp đoạt vợ bé của đại tướng sao? Khi đó làm cho bệ hạ giấu mặt đi đâu. Điện hạ, ngài cũng thông cảm một chút cho sự khó xử của Thánh Thượng.

Nếu vừa rồi trong lòng chỉ có nguội lạnh một nửa, vậy thì bây giờ trong lòng Hoàng Quân Hán hoàn toàn rơi vào hố băng, chuyện gã lo lắng nhất cuối cùng đã xảy ra. Thánh Thượng vốn là không muốn xử phạt con mình, mà là tìm lý do đến giúp Lý Nguyên Cát giải vây. Hoàng Quân Hán cười buồn bã, khó trách Lý Nguyên Cát không kiêng nể gì cướp người con gái của gã, cũng là bởi vì Vương tử phạm pháp, không có khả năng bị tội như thường dân.

Trong lều lớn, Lý Hiếu Cung chắp tay sau lưng đi qua đi lại, trong lòng đã phẫn nộ tới cực điểm, y không thể ngờ rằng kết quả sẽ như thế này. Thánh Thượng phái Ngự Sử đến, không phải là vì bảo vệ công lý, mà là vì che đậy, y tưởng rằng bằng một tờ tấu chương, Thánh Thượng có thể triệu hồi Lý Nguyên Cát trước, đổi một Nguyên soái, và đợi đánh xong trận này, sau đó lại điều tra, đây là cách làm bình thường.

Nhưng Thánh Thượng đã thiên vị làm cho hy vọng của y sụp đổ, ngược lại làm cho cục diện trở nên phức tạp hơn. Dưới tình hình này, làm sao Lý Nguyên Cát có thể phối hợp tác chiến với mình, Thánh Thượng vì cái gọi là tôn nghiêm đế vương phải làm hỏng toàn bộ chiến cuộc.

Lý Hiếu Cung không phải Hoàng đế, cho nên y không thể giải thích trái tim của đế vương sao lại thế.

Lúc này, Lý Hiếu Cung ngẩng đầu, thấy Hoàng Quân Hán đứng ở trước cửa lều, lập tức trong lòng cảm thấy áy náy, thu lại sự ph trên khuôn mặt, miễn cưỡng cười nói:

- Hoàng Tướng quân, đây là Ngự Sử phụng chỉ đến điều tra việc lần trước, tướng quân vào đi!

Hoàng Quân Hán mặt vẫn như cũ đi vào, vội thi lễ với Lý Hiếu Cung và Vu Chí Ninh một cái, không nói được một lời. Lý Hiếu Cung vỗ nhẹ bả vai gã, không kìm nổi thở dài nói:

- Ngồi xuống trước đã!

Hoàng Quân Hán ngồi xuống, lạnh lùng thản nhiên nói:

- Ngự Sử có cái gì muốn hỏi sao?

Vu Chí Ninh ho khan một tiếng, cười nói:

- Thánh Thượng rất thông cảm với cảnh ngộ của Hoàng Tướng quân, đối với những gì Tề vương đã làm cũng rất tức giận, cho nên đặc biệt sai ta đến điều tra chân tướng. Nếu thật sự có chuyện này, nhất định sẽ nghiêm khắc trừng phạt Tề vương, xin Hoàng Tướng quân yên tâm.

Hoàng Quân Hán cười nhạt một tiếng:

- Ta đoán rằng vợ bé của ta hiện giờ hẳn là chết rồi, đã bị Tề vương giết người bịt miệng, ta còn có cái gì để nói đâu?

Trên mặt Vu Chí Ninh lộ ra vẻ xấu hổ, cười khan nói:

- Không thể nói như vậy được, nếu Tề vương dám cả gan làm như vậy, y chỉ biết tội thêm một bậc, Hoàng Tướng quân phải tin bệ hạ khoan dung ngay thẳng.

Hoàng Quân Hán vẫn lạnh lùng như trước nói:

- Vậy ngươi cần hỏi ta cái gì?

Vu Chí Ninh tinh thần phấn chấn, vội vàng nói:

- Chính là việc Tề vương cướp đi ái thiếp của Hoàng Tướng quân, Hoàng Tướng quân có chứng cớ gì hay không?

Hoàng Quân Hán suy nghĩ một chút nói:

- Thân binh của ta chỉ ra và xác nhận, có thể tính là chứng cớ không?

Vu Chí Ninh lộ vẻ bối rối:

- Thân binh của Hoàng Tướng quân sợ rằng không ổn, tốt nhất là người thứ ba chứng nhận, hoặc là có chứng cớ gì trực tiếp, ví dụ như đồ vật gì bên người Tề vương rơi ở hiện trường, hiện tại lại nằm trên tay Hoàng Tướng quân.

Rốt cục Hoàng Quân Hán ức chế trong lòng không chịu nỗi phẫn nộ, gã bực tức nói:

- Làm cho Ngự Sử thất vọng rồi, ta không có bất kỳ chứng cớ nào! Có lẽ ta thật sự là vu cáo hãm hại Tề vương.

- Cái này…

Vu Chí Ninh nhìn thoáng qua Lý Hiếu Cung, vẻ mặt rất khó xử, trong lòng Lý Hiếu Cung hiểu được, y nghĩ vấn đề rất đơn giản, cho dù Thánh Thượng muốn xử phạt, đại thần trong triều đình cũng thông cảm cũng sẽ không làm cho Tề vương bị phạt. Ví dụ như gã Vu Ngự Sử ngay trước mắt này, trong lòng bọn họ, so với mọi thứ thì duy trì hình tượng của đế vương đều rất quan trọng.

Kết quả cuối cùng Lý Hiếu Cung cũng nghĩ đến, đơn giản là Thánh Thượng sẽ bồi thường Hoàng Quân Hán một mặt nào đó, sau đó chuyện này lập tức không giải quyết được gì.

Trong lòng Lý Hiếu Cung thở dài một tiếng, lòng người khó đoán, quan trường phức tạp, không phải y có thể dự đoán được, y cười khổ một tiếng nói:

- Ngự Sử đi đường đã mệt mỏi, đi xuống nghỉ ngơi trước đi!

Vu Chí Ninh biết là Lý Hiếu Cung muốn nói với Hoàng Quân Hán một chút, lão gật nhẹ đầu, đứng dậy đi cùng thân binh nghỉ ngơi trước. Trong lều lớn chỉ còn lại Lý Hiếu Cung và Hoàng Quân Hán, trong lều vô cùng yên tĩnh, không khí có vẻ có chút căng thẳng.

Một lúc sau, Hoàng Quân Hán thở dài:

- Dự đoán Vạn Xuân của ty chức đã không còn trên thế gian này, đánh tới y có ý nghĩa gì? Chuyện này ty chức nhận biết được, ai bảo y là Tề vương.

Lý Hiếu Cung cảm thấy áy náy nhìn gã, tình ý sâu xa nói:

- Đợi đánh xong trận này, chúng ta về Trường an, ta sẽ nói rõ chuyện này với Thánh Thượng, ta tin tưởng Thánh Thưởng sẽ cho ngươi một câu trả lời, có lẽ ngươi có thể nhận được một niềm vui bất ngờ.

Hoàng Quân Hán trầm mặc không nói, gã hiểu được Lý Hiếu Cung nói cái gì là niềm vui bất ngờ? Trong lòng y dâng lên một sự sỉ nhục lớn, nhưng y vẫn kiềm chế được phẫn hận trong lòng, Lý Hiếu Cung lại vỗ bờ vai của y:

- Đợi chiến tranh chấm dứt, ta sẽ đi tìm Thánh Thượng, nhưng hiện tại tạm thời gác lại chuyện này, đại chiến đã đến, chúng ta phải toàn lực đối phó với Vương Thế Sung, Dương Nguyên Khánh có thể sẽ qua sông?

Hoàng Quân Hán cả kinh:

- Dương Nguyên Khánh sẽ qua sông sao?

Lý Hiếu Cung thần sắc vô cùng ngưng trọng:

- Ta vừa nhận được tin tình báo, trên mặt sông ở bến Phong Lăng xuất hiện rất nhiều thuyền, ta nghi ngờ Dương Nguyên Khánh sẽ vượt qua sông từ bến Phong Lăng.

- Nhưng quân phòng thủ của chúng ta ở bến Phong Lăng chưa tới hai nghìn người.

- Cho nên ta mới lo lắng!

Lý Hiếu Cung lo lắng nói:

- Quyết không thể để Dương Nguyên Khánh cắt đường lui của chúng ta.

Y nhìn thoáng qua Hoàng Quân Hán, lại nói:

- Ngươi có thể dẫn sáu nghìn người cốt lõi đến huyện Văn Hương phòng thủ, hai nghìn người đóng quân ở đó cũng sẽ thuộc sự chỉ huy của ngươi, khi cần thiết, ngươi có thể sử dụng dầu hỏa phong tỏa mặt sông, Dương Nguyên Khánh đã từng châm dầu hỏa phong tỏa mặt sông ở quận Hà Nội để đối phó với Lý Mật, hiệu quả rất tốt.

- Hàm Cốc Quan không thủ sao?

Hoàng Quân Hán hỏi.

Lý Hiếu Cung thở dài một tiếng:

- Mặt khác ta sẽ phái người đi phòng thủ ở Hàm Cốc Quan, quan trọng là huyện Văn Hương, nơi này mới là nơi quan trọng trong quan trọng của việc phòng ngự.

Hoàng Quân Hán yên lặng gật nhẹ đầu:

- Ty chức sẽ xuất phát ngay!

*****

Đêm càng về khuya, đã sắp đến canh một. Lý Hiếu Cung vẫn như mọi ngày ngồi đọc sách trong lều lớn, nhưng hôm nay dòng suy nghĩ của y vô cùng nôn nóng không yên, y luôn cảm thấy có điều gì làm cho y cảm thấy sợ, nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có thể là việc của Hoàng Quân Hán và thái độ của Thánh Thượng, nhưng trong lòng y vẫn có cảm giác mình nôn nóng không yên và chuyện này không có vấn đề gì, là có việc khác.

Lý Hiếu Cung chắp tay sau lưng đi lại trong lều lớn, khi y đi được vòng thứ năm, bỗng nhiên có một suy nghĩ trong đầu gã lóe lên, như bị sét đánh trúng, y đứng đó không nhúc nhích, y đã nghĩ đến chuyện gì làm cho mình lo âu bất an, là việc Dương Nguyên Khánh và Vương Thế Sung, đã bảy tám ngày rồi, không ngờ không có chút động tĩnh nào, việc này thật sự là rất lạ, chẳng lẽ là ….

Trong lòng gã dâng lên một cảm giác cực kỳ bất an, gã cảm thấy Dương Nguyên Khánh cũng biết việc Hoàng Quân Hán, cho nên y mới có thể lặng yên như vậy.

Đúng lúc này, âm thanh của thân binh truyền đến từ ngoài cửa lều rất khẩn trương:

- Điện hạ, binh lính tuần tra trinh sát bẩm báo, phát hiện trên mặt sông có điều khác thường!

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 613 : Hợp tình hợp lý

Lý Hiếu Cung dẫn mấy trăm người cưỡi ngựa gấp rút chạy về phía bờ sông Hoàng Hà. Đại doanh của gã rất gần bờ sông Hoàng Hà, chỉ cách chưa đến ba dặm. Chỉ trong chốc lát, bọn họ đã chạy vội tới bờ sông Hoàng Hà. Trên bến thuyền có một nghìn hai trăm sĩ binh, tay cầm cung tên trường mâu, đều đang khẩn trương, nhìn chăm chú vào mặt sông.

Lý Hiếu Cung đến, binh lính đều tránh ra tạo thành một con đường. Lý Hiếu Cung xoay người xuống ngựa, bước nhanh đi đến bờ sông. Gã cũng có chút khẩn trương hỏi:

- Ở chỗ nào?

Một gã Giáo úy chỉ về phía mặt sông.

- Điện hạ nhìn kỹ, có thể nhìn thấy không?

Một mảnh trăng sáng chiếu trên mặt sông. Sóng trên mặt sông lăn tăn. Ánh trăng chiếu xuống mặt sông nhìn vô cùng rõ nét. Lý Hiếu Cung tập trung nhìn một lát. Trên mặt sông, cách đó khoảng hơn nghìn bước có rất nhiều bóng đen rất lớn. Đó là hình dáng của những con thuyền lớn. Có hơn trăm chiếc chiến thuyền, lẳng lặng thả neo ở trên mặt sông. Dưới ánh trăng chiếu xuống lúc sáng lúc tối, giống hệt quỷ ảnh, có vẻ quỷ dị khác thường.

Lý Hiếu Cung hít sâu một hơi. Đây là thuyền lớn của quân Tùy. Bọn họ sắp phát động đợt tấn công vào bờ phía nam, gã vội hỏi:

- Hiện tại là lúc nào rồi?

- Hồi bẩm điện hạ, hiện tại vừa qua canh một.

Một gã thân binh vừa nói xong, bên quân doanh bỗng nhiên phát ra một tiếng kêu thảm thiết. Lý Hiếu Cung quay đầu lại, chỉ thấy trong quân doanh xuất hiện ánh lửa, mơ hồ truyền đến tiếng báo động chói tai. Lý Hiếu Cung chấn động, kêu to một tiếng.

- Không tốt!

Gã quay đầu ngựa lại chạy về phía đại doanh.

Trong lòng gã cảm thấy vô cùng hối hận. Đáng ra gã nên sớm nghĩ ra Dương Nguyên Khánh sẽ phát động tấn công đồng thời với Vương Thế Sung. Trên mặt sông đã có sự khác thường, vậy đội quân của Vương Thế Sung sao có thể không có phản ứng gì?

Đáng lẽ gã phải kịp thời lệnh cho binh lính lên ứng chiến. Cũng do Giám sát Ngự Sử đến, khiến tâm tư mình bị nhiễu loạn, lại không ngờ được điểm này. Trong lòng Lý Hiếu Cung lại vừa hận vừa oán. Gã chỉ hy vọng Vương Thế Sung đánh lén ban đêm bị binh lính canh gác ngăn chặn thành công.

Lý Hiếu Cung một mạch chạy gấp quay về đại doanh. Tình hình trong đại doanh khiến gã thoáng thở phào một hơi. Tuy rằng trong đại doanh hỗn loạn không chịu nổi, nhưng đội quân của Vương Thế Sung không thể tiến công được vào đại doanh, bị đại tướng Triệu Tùng dẫn hai nghìn người bắn nỏ ngăn chặn thành công.

Lý Hiếu Cung từ cửa thành phía tây vào đại doanh. Cửa thành phía tây còn chưa bị quân địch công kích. Khi tiến vào đại doanh, đại tướng Triệu Tùng ra nghênh đón.

- Điện hạ, Vương Thế Sung phái năm nghìn kỵ binh đêm tập kích đại doanh, bị lính trinh sát tuần tra phát hiện. Chúng ta thành công chặn được bọn họ.

Lý Hiếu Cung gật đầu, chỉ vào ánh lửa phía đông nam hỏi:

- Chuyện gì xảy ra ở đó vậy?

- Hồi bẩm điện hạ. Góc đông nam có khoảng chục lều lớn bị hỏa tiễn của quân địch đốt cháy. Bọn lính đều đã rút khỏi.

- Tình hình thương vong như thế nào?

- Khi quân địch đánh thẳng vào quân doanh giết chết mấy trăm huynh đệ. Nhưng bọn họ cũng bị cung tiễn bắn chết khoảng hai trăm tới ba trăm người.

- Truyền mệnh lệnh của ta, các đại tướng lập tức chỉnh đốn quân đội. Ngăn cấm hỗn loạn.

Lý Hiếu Cung ra lệnh, gã giục ngựa chạy về phía cửa đông của quân doanh. Bốn nghìn nỏ thủ đã tập trung trước cửa đông của quân doanh, hồi hộp nhìn chăm chú vào sâu trong đại doanh tối tăm. Trong bóng đêm, mơ hồ có thể thấy rất nhiều đội quân. Tuyệt đối không chỉ là năm nghìn kỵ binh. Hẳn là đội quân Vương Thế Sung có tới ba mươi nghìn người. Bọn họ cũng cũng không nóng lòng tấn công, mà đang kiên nhẫn chờ đợi điều gì vậy?

Trong lòng Lý Hiếu Cung lo lắng như đốt. Gã quay đầu lại nhìn về phía Hoàng Hà. Gã biết Vương Thế Sung đang chờ điều gì. Vương Thế Sung cũng không định tập kích ban đêm vào đại doanh. Ông ta chỉ muốn kìm chân đội quân của mình, khiến quân Bắc Tùy có thể thong dong đổ bộ.

- Truyền mệnh lệnh của ta, binh lính chuẩn bị rút lui!

Trong lòng Lý Hiếu Cung cảm thấy sự nguy hiểm mãnh liệt khác thường. Gã không có khả năng đợi quân bắc Tùy giỏi về chiến đấu ban đêm đổ bộ sau đó mới rút lui. Khi đó đội quân của gã đã xong rồi.

...

Cũng vào canh một, một đội quân Bắc Tùy cuối cùng lên thuyền từ bến Phong Lăng. Sau một tiếng chuông trầm vang lên, hơn sáu trăm chiến thuyền xuất phát, lợi dụng bóng đêm che dấu xuất phát tiến về phía bờ nam, nghìn cánh buồm san sát, thanh thế to lớn.

Ban đêm, trong sông Hoàng Hà cũng không an toàn, tràn ngập sát khí. Trên mặt sông đầy những dòng xoáy to, nhỏ. Chỉ cần hơi sơ ý một chút, con thuyền gặp được dòng xoáy lớn, sẽ bị hút vào. Thậm chí thuyền hỏng người chết.

Để qua sông đêm nay, quân Tùy đã chuẩn bị đầy đủ. Bọn họ dùng thuyền thương nhân để che dấu. Cứ mỗi một canh giờ vào ban đêm lại qua sông một lần để thăm dò, cuối cùng đã xác định canh một là thời gian an toàn nhất. Hơn nữa căn cứ vào kinh nghiệm mấy chục năm của người chèo thuyền, qua sông ban đêm tuy rằng tầm nhìn không tốt, nhưng mặt nước so với ban ngày càng an toàn hơn.

Mấy trăm chiến thuyền lớn theo gió Tây Bắc mạnh mẽ lướt sóng Hoàng Hà mà đi. Ở bên trong một thuyền tầng, Dương Nguyên Khánh đứng ở đầu thuyền nhìn chăm chú vào tình hình phía bờ bên kia. Hiện tại đang là tháng mười hanh khô. Trên thực tế mặt nước Hoàng Hà cũng chỉ còn có bảy tám dặm. Chỉ khoảng nửa canh giờ là có thể đến bờ bên kia.

Lúc này, trong lòng Dương Nguyên Khánh có chút lo lắng, sợ quân địch sẽ sử dụng dầu hỏa phong tỏa mặt sông. Khi phát hiện trong quân Đường cũng xuất hiện dầu hỏa, điều này đã trở thành một bóng ma khó có thể hủy diệt trong lòng Dương Nguyên Khánh.

Trong tiếng sóng nước ào ào, thuyền lớn càng lúc càng gần bờ bên kia. Khi chỉ còn cách hơn năm trăm bước, chỉ huy sứ qua sông Tần Quỳnh vung tay lên, chủ thuyền thắp sáng một chiếc đèn lồng, treo cao phía trên cột buồm. Đây là một loại tín hiệu, đại đội thuyền nhanh chóng hạ buồm, giảm bớt tốc độ. Mà ba mươi chiến thuyền làm tiên phong, hối hả chạy vào bờ.

Tất cả mọi người nhìn chăm chú vào ba mươi chiến thuyền đang chạy nhanh vào bờ này. Bờ bên kia vẫn im ắng, không có một chút động tĩnh.

Trong lòng Dương Sư Đạo có chút bất an, ở bên cạnh Dương Nguyên Khánh khẽ nói:

- Hơi kỳ lạ! Cách khoảng năm trăm bước, hẳn là đối phương đã có thể phát hiện ra đội thuyền của chúng ta, vì sao lại yên lặng không hề có chút động tĩnh nào?

Dương Nguyên Khánh ngẩng đầu nhìn ánh trăng. Ánh trăng sáng một cách khác thường, rải ánh sáng bạc xuống mặt sông trong đêm. Hắn cũng có kinh nghiệm. Nếu không có ánh trăng, chỉ trông vào ánh sao cũng có thể thấy động tĩnh ngoài bốn năm trăm bước trên mặt sông. Huống gì hôm nay không có sương mù, ánh trăng trong sáng. Quả thật quân phòng thủ trên bờ có thể nhìn thấy bọn họ rất rõ ràng, nhưng bọn họ lại không có động tĩnh gì. Điều này khiến Dương Nguyên Khánh cũng có chút kinh ngạc.

Dương Nguyên Khánh không vội đáp lại sự nghi ngờ của Dương Sư Đạo. Hắn vô cùng chăm chú nhìn ba mươi chiến thuyền tiên phong đang tiến về phía bờ bên kia. Chỉ còn không đến trăm bước, nhưng vẫn không có bất kỳ động tĩnh gì.

- Chẳng lẽ trên bến thuyền không có quân phòng thủ sao?

Trong lòng Dương Nguyên Khánh thầm nghĩ.

Cuối cùng, thuyền tiên phong thuyền lục tục cập vào bến thuyền. Ba mươi chiến thuyền với hơn một nghìn binh lính tay cầm tấm chắn và trường mâu, thật cẩn thận nhảy xuống thuyền chạy về phía trên bờ, nhưng trên bờ vẫn không có bất kỳ động tĩnh gì.

Lúc này, binh lính quân Tùy ở trên bờ đốt sáng ba cái đèn lồng lớn. Đây là thể hiện không có phục binh. Tần Quỳnh lập tức hạ lệnh.

- Đội thuyền đổ bộ!

Mấy trăm chiến thuyền lớn lại một lần nữa nâng cánh buồm chính lên, bắt đầu áp sát vào bờ bên kia. Trong lòng Dương Nguyên Khánh cảm thấy hoang mang. Vì sao bờ sông lại không có đội quân phòng ngự. Hắn nhận được tin tức tình báo, trên bến thuyền có ít nhất hai nghìn quân phòng thủ. Chẳng lẽ bọn họ đều quá sợ hãi bỏ chạy rồi sao?

Ngẫm lại cũng thấy không thực tế. Khi tập trung thuyền để xuất phát từ bến Phong Lăng, với tài trí của Lý Hiếu Cung, tất nhiên gã sẽ phái trọng binh phòng ngự ở đây. Vậy sao lại không có đội quân xuất hiện như vậy, khiến hắn thuận lợi đổ bộ, một vài phương án tác chiến đã suy nghĩ chuẩn bị đều chưa dùng tới cái nào. Dương Nguyên Khánh suy nghĩ cả trăm lần cũng không giải thích được điều này. Tuy nhiên như vậy cũng tốt, có thể giảm bớt thương vong đáng kể cho đội quân đổ bộ của hắn.

Từng chiếc từng chiếc chiến thuyền lớn thay phiên nhau cập vào bến thuyền. Binh lính đại quân Bắc Tùy từ trên thuyền lớn lục tục đổ bộ. Bọn họ đã phân công rõ ràng, hành động nhanh chóng, rất nhanh đã chiếm đóng trong phạm vi hai dặm xung quanh bến bến thuyền. Một nghìn binh lính đã lên bờ trước thì đang trinh sát tuần tra ngoài ba dặm, bảo vệ cho đại quân chủ lực đổ bộ.

Mãi cho đến canh bốn, ba mươi nghìn quân Bắc Tùy mới đổ bộ xong. Dương Nguyên Khánh là người cuối cùng đang lên bến thuyền. Lúc này Chỉ huy sứ qua sông Tần Quỳnh tiến lên bẩm báo.

- Mạt tướng đã hoàn thành việc đổ bộ. Tất cả đều thuận lợi. Có nên xuất phát về phía huyện Văn Hương hay không, xin Tổng quản chỉ thị!

Dương Nguyên Khánh nhìn qua sắc trời một chút, lắc đầu nói:

- Lệnh cho các huynh đệ nghỉ ngơi ngay tại chỗ. Sau khi rạng sáng lại xuất phát về phía huyện Văn Hương.

Dương Nguyên Khánh ra lệnh, ba mươi nghìn binh lính Bắc Tùy đều nghỉ ngơi ở ngay tại chỗ. Trước khi bọn họ lên thuyền, đều đã ăn uống no đủ.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 614 : Nuốt hận tại Hoằng Nông (1+2)

Hiện tại mỗi người đều lấy chăn lông của mình quấn quanh người ngã đầu ngủ, mỗi người đều tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, để khi trời rạng sáng có đủ thể lực để vững vàng chiến đấu. Bọn họ đều là những người lính đã nhiều năm kinh nghiệm.

Một doanh trướng hành quân được dựng ngay trên bến thuyền. Trong doanh trướng đèn đuốc sáng trưng. Một sa bàn bày trận được đặt ở giữa. Dương Nguyên Khánh đang cùng các tướng lĩnh ở trước sa bàn thương nghị chiến dịch tiếp theo.

- Thực sự ngoài dự đoán của mọi người, chúng ta không ngờ không gặp bất kỳ sự chống cự nào đã trực tiếp đổ bộ lên bờ phía nam. Hẳn là đã xảy ra chuyện gì đó. Nhưng việc này tạm thời không cần lo lắng tới. Hiện tại ta muốn nói với mọi người chính là, vào canh một, đội quân của Lý Tĩnh và của Vương Thế Sung cũng phát động tấn công đối với quân Đường ở huyện Thiểm. Hiện tại liên quân của bọn họ là năm mươi nghìn người. Mà đội quân của Lý Hiếu Cung ở huyện Thiểm chỉ có hai mươi nghìn người. Hơn nữa ba mươi nghìn người chúng ta đã cắt đứt đường lui của bọn họ. Thắng bại vừa xem đã có thể thấy ngay. Sau khi rạng sáng, chúng ta chia thành hai đường. Ta dẫn hai mươi nghìn người cướp lấy thành huyện Văn Hương, phòng ngự viện quân từ Đồng Quan đến trợ giúp. Tần tướng quân dẫn mười nghìn quân cướp lấy thị trấn Hoằng Nông, đập tan hy vọng rút về huyện Hoằng Nông phòng ngự của Lý Hiếu Cung.

Dương Nguyên Khánh vừa mới nói tới đây, Tần Quỳnh liền khom người nói:

- Tổng quản, rạng sáng mới xuất phát, mạt tướng sợ không kịp. Mong Tổng quản chấp thuận cho mạt tướng dẫn quân xuất phát ngay bây giờ.

Dương Nguyên Khánh suy nghĩ một chút liền đồng ý, đưa quân lệnh tiễn thứ ba cho anh ta, lại dặn dò anh ta nói:

- Huyện Hoằng Nông chỉ có một nghìn quân phòng thủ, không đáng để lo nghĩ. Nhưng ngươi nhất định phải coi chừng dọc đường sẽ bị người ta phục kích. Quân địch không chặn đánh chúng ta ở bến tàu. Ta nghi ngờ bọn họ sẽ mai phục ở nửa đường. Ngươi cần phải cẩn thận.

- Mạt tướng nhất định sẽ cẩn thận!

Tần Quỳnh thi lễ, lại vội vàng rời khỏi doanh trướng đi điểm binh, Tần Quỳnh vừa mới đi không bao lâu, một gã thân binh tiến đến, vẻ mặt cổ quái nhìn Dương Nguyên Khánh nói:

- Bẩm báo Tổng quản, Tướng phòng thủ huyện Văn Hương Hoàng Quân Hán phái người đến cầu kiến, nói Hoàng Quân Hán đã quyết định đầu hàng Tổng quản.

Trong lều lớn, các tướng lĩnh đều ngây ngẩn cả người. Thảo nào trên bến thuyền không có quân phòng thủ, thì ra quân phòng thủ của quân địch muốn đầu hàng. Dương Nguyên Khánh và Dương Sư Đạo trao đổi ánh mắt với nhau. Hai người đều hiểu ý mỉm cười.

.....

Trời sáng dần, Dương Nguyên Khánh dẫn hai mươi nghìn đại quân đến huyện Văn Hương. Đây là một thị trấn cũng không lớn lắm. Thành trì cũng không hiểm trở. Bốn phía là núi vây quanh. Hơn hai mươi dặm về phía tây chính là Đồng Quan. Huyện Văn Hương nằm ở trên đường đi tới Đồng Quan. Vị trí địa lý của nó cực kỳ quan trọng.

Lúc này trong cánh đồng bát ngát ở trước thị trấn, hơn ba nghìn quân Đường đã buông binh khí xuống, xếp thành hàng chờ quân Tùy đến tiếp nhận đầu hàng. Đại tướng dẫn đầu chính là Hoàng Quân Hán. Thủ hạ của anh ta tổng cộng có hơn tám nghìn binh lính. Trong đó một bộ phận tướng lãnh có nhà ở Quan Trung không muốn đầu hàng. Hoàng Quân Hán cũng không miễn cưỡng, thả bọn họ cùng gần năm nghìn binh lính Quan Trung không muốn đầu hàng về Đồng Quan. Anh ta dẫn đầu hơn ba nghìn binh lính Hà Đông vẫn luôn theo anh ta, đầu hàng phía quân Bắc Tùy.

Hoàng Quân Hán cũng biết sau khi anh ta quay về Trường An, Lý Uyên sẽ bởi vì áy náy mà dành hậu đãi cho anh ta. Nhưng anh ta thà rằng đầu hàng Dương Nguyên Khánh cũng tuyệt đối không tiếp nhận loại sỉ nhục lớn này. Một người chỉ biết bao che cho con trai mà không thương tiếc đại tướng, không đáng để anh ta nguyện trung thành. Trong ánh mắt anh ta tràn ngập sự tuyệt vọng nhưng đầy kiên cường.

Mặc dù vợ con của anh ta đều ở Trường An, nhưng anh ta tin tưởng Dương Nguyên Khánh sẽ giải quyết thay cho anh ta. Dương Nguyên Khánh ngay cả gia quyến của sĩ tốt bình thường cũng đồng ý dùng đại thần bị bắt đổi về, huống chi là vợ con của mình. Dương Nguyên Khánh quan tâm tới sĩ tốt rõ ràng đã hình thành sự đối lập với Lý Uyên ích kỷ. Về điểm này Hoàng Quân Hán đã lĩnh hội rất sâu.

Lúc này Dương Nguyên Khánh dẫn đầu đại quân chậm rãi đi tới. Dương Nguyên Khánh giục ngựa tiến lên, khẽ cười nói:

- Hoàng Tướng quân bỏ gian tà theo chính nghĩa, khiến người ta khâm phục!

Hoàng Quân Hán tiến lên vài bước, quì một gối, hai tay ôm quyền giơ lên cao, lớn tiếng nói:

- Mạt tướng Hoàng Quân Hán hoàn toàn tỉnh ngộ, nguyện trung thành với Sở Vương điện hạ!

Đội quân Lý Hiếu Cung ở thị trấn Đào Lâm cách huyện Thiểm hai mươi dặm về phía tây nam bị hai đội quân Tùy đuổi theo. Quân Đường bị bắt phải ứng chiến, vì người ít không đánh lại số đông mà đại bại, bị tiêu diệt hơn năm nghìn người. Lý Hiếu Cung dẫn tàn quân tiếp tục rút lui về hướng nam. Mà lúc này thị trấn Hoằng Nông đã bị Tần Quỳnh dẫn mười nghìn quân chiếm lĩnh. Lý Hiếu Cung bất đắc dĩ, chỉ đành vòng qua huyện Hoằng Nông, dẫn quân rút lui, thọc sâu về phía quận Hoằng Nông. Đồng thời, gã lại khẩn cấp phái người về phía Đồng Quan, cầu cứu Lý Nguyên Cát.

Dọc đường về Đồng Quan, Triệu Từ Cảnh vô cùng lo lắng. Về tới đầu thành, Lý Nguyên Cát đứng ở trên tường thành, ngóng nhìn núi non trùng điệp ở phía xa ngoài hai mươi dặm, đồng thời, mơ hồ có thể thấy được huyện Văn Hương. Xa hơn nữa, sông Hoàng Hà giống hệt một chiếc đai lưng ngọc, từ phương bắc chảy xuôi đến. Ngay ở chỗ này, lại uốn khúc chuyển hướng chảy về phía đông, một đoạn sông nhỏ uốn lượn từ phía xa trải dài tới, còn kéo dài đến Đồng Quan. Nơi này là quan ải đường bộ duy nhất để tiến vào Quan Trung.

- Điện hạ!

Triệu Từ Cảnh thở hồng hộc chạy tới, giọng nói đầy cấp bách:

- Lý Quận Vương khẩn cấp cầu viện, vì sao không đi cứu viện cho bọn họ?

Lý Nguyên Cát quay đầu liếc mắt nhìn Triệu Từ Cảnh một cái. Trong ánh mắt tràn ngập vẻ trào phúng.

- Triệu Trưởng Sử cho rằng ta sẽ đi cứu gã sao?

Triệu Từ Cảnh ngây người một chút. Anh ta thoáng nhớ tới sự kiện Hoàng Quân Hán, trong lòng lập tức vừa tức vừa vội nói:

- Điện hạ, sự kiện kia chỉ là việc tư, mà hiện tại là quốc sự ảnh hưởng tới xã tắc. Ngài không thể bởi vì một việc tư mà hủy đi tính mạng của mấy chục nghìn quân Đường.

- Câm miệng!

Lý Nguyên Cát thẹn quá hóa giận, quát mắng anh ta nói:

- Ta là chủ soái Đồng Quan, bảo vệ Đồng Quan mới là bản chức của ta. Hiện tại binh lính của Dương Nguyên Khánh tụ tập ở huyện Văn Hương. Người đi cầu cứu của Lý Hiếu Cung lại không bị ngăn cản. Đây là Dương Nguyên Khánh cố ý để anh ta đi qua, dụ dỗ chúng ta đi cứu viện. Nếu ta thất bại ở Văn Hương. Đồng Quan mất đi, ngươi có gánh nổi trách nhiệm này không?

- Việc này.....

Triệu Từ Cảnh nhất thời nghẹn lời. Nhưng anh ta biết, Lý Nguyên Cát chỉ lấy cớ quân Tùy đang đóng ở huyện Văn Hương, nhưng trên thực tế là Lý Nguyên Cát ôm hận với Lý Hiếu Cung, không muốn đi cứu gã.

- Nhưng điện hạ cầm binh không cứu, không có ý đi cứu viện. Về sau làm sao giải thích được với Thánh Thượng?

Lý Nguyên Cát âm hiểm nhìn anh ta, cười lạnh một tiếng.

- Một khi đã như vậy, ta cho ngươi năm nghìn quân, lệnh cho ngươi đi cứu viện Lý Hiếu Cung, thể hiện phong thái của ngươi một lần đi!

- Tôi đi cứu sao?

Triệu Từ Cảnh há hốc miệng.

- Đúng! Ta liền lấy danh nghĩa chủ soái Đồng Quan, lệnh cho ngươi đi cứu viện. Ngươi dám chống lại quân lệnh của ta không?

Lý Nguyên Cát lạnh lùng nói.

.....

Sau nửa canh giờ, vạn bất đắc dĩ, Triệu Từ Cảnh dẫn đầu năm nghìn quân chạy về phía huyện Văn Hương. Trong lòng anh ta lại nghĩ, một khi gặp phải quân Tùy ngăn chặn, sẽ lập tức rút về Đồng Quan. Tuy rằng anh ta hy vọng Lý Nguyên Cát đi cứu viện Lý Hiếu Cung, nhưng điều kiện tiên quyết chính là anh ta ở lại Đồng Quan trấn thủ thành.

Dọc đường đi, Triệu Từ Cảnh rất thận trọng, dẫn quân đi về phía đông. Khoảng chừng đi được một canh giờ, đội quân dần dần đến gần huyện Văn Hương. Triệu Từ Cảnh càng thêm thận trọng. Anh ta phái người đi trước tìm hiểu tin tức. Một lát sau, binh lính quay trở về về phía anh ta báo cáo một tin tức kinh người.

- Khởi bẩm Trưởng Sử, thành huyện Văn Hương là một tòa thành trống không. Một gã quân Tùy cũng không có.

Triệu Từ Cảnh lập tức ngây ngẩn cả người. Làm sao lại như vậy được? Không phải có tin tức báo cáo nói, có rất nhiều quân Tùy qua sông tới nơi này sao?

Binh lính lại bẩm báo nói:

- Nghe trong huyện người ta nói, quân Tùy muốn đi tham gia vây bắt đội quân Lý Quận Vương, cho nên bọn họ bỏ lại thành huyện Văn Hương.

Trong lòng Triệu Từ Cảnh suy nghĩ một chút. Mặc kệ như thế nào, trước chiếm đóng thị trấn rồi mới nói sau. Anh ta lập tức ra lệnh:

- Dùng tốc độ nhanh nhất, đi tới chiếm lĩnh thị trấn!

Đội ngũ tăng thêm tốc độ gấp rút chạy về phía thị trấn. Mà lúc này, cách quân Đường vài dặm về phía nam, Dương Nguyên Khánh dẫn đầu hai mươi nghìn đội quân mai phục tại một khu rừng rậm. Dương Nguyên Khánh cũng nhìn chăm chú vào thành huyện Văn Hương. Tòa thành thị trấn trống rỗng đó hắn buông để làm một miếng mồi, sẽ chờ đội quân Đồng Quan bị mê hoặc mà mắc câu.

Lúc này, một gã thám báo cưỡi ngựa chạy gấp tới, xoay người xuống ngựa, hướng về phía Dương Nguyên Khánh bẩm báo:

- Khởi bẩm Tổng quản, quân địch năm nghìn người đang chạy về phía thành huyện Văn Hương. Sẽ đến rất nhanh.

-Chỉ nằm nhìn người!

Trong lòng Dương Nguyên Khánh thoáng có chút thất vọng. Hắn tưởng rằng ít nhất phải có mười nghìn viện quân. Xem ra, Lý Nguyên Cát quả thật làlòng dạ đen tối, mặc kệ sự chết sống của Lý Hiếu Cung. Hắn đã nghe được từ miệng Hoàng Quân Hán từ đầu đến cuối toàn bộ sự kiện. Lý Hiếu Cung buộc tội Lý Nguyên Cát, đưa Ngự Sử giám sát tới. Nhưng Lý Nguyên Cát lại sống chết không chịu thừa nhận. Bởi vậy, giữa Lý Hiếu Cung và Lý Nguyên Cát đã hình thành thù hận sâu đậm.

Kỳ thật Đồng Quan hiểm yếu, một người đã đủ giữ quan ải, vạn người không thể khai thông. Chỉ cần năm nghìn quân đã có thể bảo vệ Đồng Quan vững vàng. Căn bản không cần ba mươi nghìn người đóng ở đó. Hôm nay, chỉ có thể chứng minh Lý Nguyên Cát muốn trả thù Lý Hiếu Cung, không chịu phái chủ lực đi cứu viện. Bên trong gia tộc Lý thị đã xuất hiện sự rạn nứt.

- Xuất binh, chặt đứt đường lui của quân địch!

Dương Nguyên Khánh ra lệnh một tiếng, hai mươi nghìn quân Tùy liền phát động, đánh về phía cách Đồng Quan vài dặm.

.....

Triệu Từ Cảnh dẫn năm nghìn đội quân một đường gấp rút chạy. Khi còn cách thành huyện Văn Hương có hai dặm, một cơn gió sông lạnh như băng thổi tới. Triệu Từ Cảnh bỗng nhiên phản ứng lại. Không đúng! Cho dù quân Tùy đi tham dự bao vây tiễu trừ đội quân của Lý Hiếu Cung, cũng không có khả năng trong thị trấn lại không có một sĩ binh. Nhất định sẽ phải có một ít quân ở lại trấn thủ thị trấn. Một thị trấn quan trọng như vậy, quân Tùy sao có thể hoàn toàn buông tha. Đây nhất định là miếng mồi.

- Toàn quân dừng bước!

Trong lòng Triệu Từ Cảnh nghi hoặc lại khẩn trương. Anh ta lại ra lệnh cho một tên lính tiến đến tra xét. Một lát sau binh lính chạy gấp trở về bẩm báo.

- Trưởng Sử, thành huyện Văn Hương lại đóng cửa. Trên tường thành xuất hiện hơn một nghìn lính Tùy đang canh gác.

- Không tốt! Toàn quân hoả tốc lui về Đồng Quan.

Triệu Từ Cảnh ý thức được mình bị lừa. Đây là kế dẫn dụ của quân địch. Quân địch muốn chặt đứt đường lui của mình. Triệu Từ Cảnh lòng nóng như lửa đốt dẫn quân rút lui về phía Đồng Quan. Nhưng anh ta đi chưa đến hai dặm, hai bên sơn đạo bỗng nhiên truyền đến một tiếng mõ. Lập tức, vạn tên cùng bắn. Tên dày đặc từ hai bên trong núi rừng bắn ra. Năm nghìn quân Đường không kịp đề phòng, bị bắn đến mức người ngã ngựa đổ, tiếng kêu thảm thiết vang lên thành một mảnh.

Triệu Từ Cảnh cả kinh hồn bay phách lạc, hắn rút ra chiến đao ra khàn giọng hô to.

- Vượt vòng vây, xông ra ngoài!

Tiếng kêu la ở hai bên đường núi vang lên rung trời. Đường phía trước và phía sau đều bị quân Tùy chặn đứng. Tên bay trong không gian nhanh như mưa. Quân Đường bị ép ở trên đường núi chật hẹp, tiến thoái lưỡng nan, thương vong vô cùng nghiêm trọng. Vô số những quả cầu lửa rất lớn từ hai bên núi đá được lăn xuống, đè lên đám người. Binh lính quân Đường không có chỗ nào tránh né, bị cháy sạch, kêu rên thảm thiết. Tiếng khóc lóc liên tục vang lên...

Đội quân Triệu Từ Cảnh bị phục kích chỉ cách Đồng Quan có hơn mười dặm. Tuy rằng từ trên Đồng Quan không nhìn thấy, nhưng thám báo Đồng Quan lại khẩn cấp bẩm báo tin tức này với Tề Vương Lý Nguyên Cát.

Một gã Giáo úy thám báo quỳ xuống trước mặt Lý Nguyên Cát, buồn bã năn nỉ nói:

- Điện hạ. Triệu Trường Sử bị mấy vạn quân Tùy vây khốn, thương vong vô cùng nghiêm trọng, sớm muộn cũng sẽ gặp nguy, khẩn cầu điện hạ khẩn cấp đi cứu viện!

Trên mặt Lý Nguyên Cát không chút thay đổi. Kỳ thật y đã sớm biết sẽ có kết cục này. Năm nghìn người đi cứu viện Lý Hiếu Cung, không phải là bữa ăn ngon đưa tới tận cửa sao? Mà nếu quả thật không đi cứu viện, y không thể nói rõ với phụ hoàng. Nếu Triệu Từ Cảnh nóng lòng đi cứu Lý Hiếu Cung, vậy để anh ta đi làm một kẻ chết thay vậy! Không hoàn toàn ngăn chặn cái miệng của anh ta, khó đảm bảo anh ta không tố cáo mình với phụ hoàng.

Trên mặt Lý Nguyên Cát dần dần lộ ra một nụ cười lạnh có chút hung ác. Y nhanh chóng liếc mắt một cái nhìn Giáo úy thám báo đang cầu xin, mạnh rút đao ra, đâm một đao vào tim Giáo úy. Giáo úy kêu thảm một tiếng, ngã xuống đất mà chết. Lý Nguyên Cát lau vết máu của lưỡi dao ở trên người anh ta, lạnh lùng nói:

- Ngươi tính cái gì vậy, dám đến ra lệnh cho ta xuất binh sao?

Y lập tức hạ lệnh nói:

- Quân Tùy sắp tiến hành tấn công Đồng Quan trên quy mô lớn, không cho phép mở cửa thành. Ai dám cả gan mở cửa, chém chết không tha!

....

Quân Đường bị bao vây trên đường núi đã chết hơn nửa. Thi thể người chết trận lấp đầy khe. Người đầu hàng vô số kể. Bản thân Triệu Từ Cảnh cũng trúng ba mũi tên, đều là những vị trí quan trọng. Anh ta đang hấp hối.

Triệu Từ Cảnh nằm sau một tảng đá lớn, lấy từ trong người ra một lá thư máu và một cái ngọc bội, giao cho thư đồng ở bên cạnh. Cố dùng hết hơi sức cuối cùng, đứt quãng nói:

- Ngươi phải... sống sót, giao lá thư này cho... vợ ta. Bảo nàng nói cho Thánh Thượng biết, ta là... là bị Tề Vương hãm hại....

Triệu Từ Cảnh không còn hơi sức nữa, nói như vậy rồi nhắm mắt chết. Mấy tên thân binh đều nghẹn ngào khóc rống lên, đúng lúc này. Hai mươi nghìn quân Tùy từ trên núi vọt xuống, bao vây xung quanh hơn hai nghìn quân Đường còn lại. Quân Đường không còn đường thối lui, đều quỳ xuống đất đầu hàng. Một trận phục kích chiến đấu chưa đến một canh giờ đã kết thúc.

Dương Nguyên Khánh cưỡi ngựa xuất hiện trên chiến trường, thị sát nhóm hàng binh quân Tùy thu thập đước trên chiến trường. Khắp nơi đều là thi thể bị đốt cháy. Thi thể chồng chất trong khe rãnh. Trong lòng Dương Nguyên Khánh cũng không nhịn được thở dài một tiếng, căn dặn tướng sĩ dưới quyền.

- Cố gắng cứu chữa cho người bị thương. Người chết trận thì chôn ngay tại chỗ. Chôn sâu một chút, tránh không để cho sói hoang ăn họ.

Một gã Thiên tướng dẫn hơn mười người thân vệ của Triệu Từ Cảnh tới. Trên cáng do đám người phía sau đang khiêng là thi thể của Triệu Từ Cảnh. Hơn mười người thân vệ quỳ xuống khóc nói:

- Cầu Sở Vương điện hạ tha mạng cho chúng ta, để chúng ta đưa thi thể Triệu thị lang về Trường An.

Lúc này, một tên lính đưa một lá thư và một khối ngọc bội cho Dương Nguyên Khánh.

- Đây là lấy được do lục soát từ trên người một gã Thân binh, hình như là di thư của Triệu Từ Cảnh.

Lá thư không dán kín. Dương Nguyên Khánh rút lá thư ra nhìn qua một lần. Trong thư, Triệu Từ Cảnh lên án Tề Vương Lý Nguyên Cát cướp vợ của đại tướng, lòng mang tư hận, không chịu xuất binh cứu viện Lý Hiếu Cung. Dương Nguyên Khánh trầm tư suy nghĩ một lát. Nếu lá thư này đến tay Lý Uyên, Lý Nguyên Cát nhất định phải chết, mà không hình thành được rạn nứt bên trong gia tộc Lý thị. Không thể để lá thư này rơi vào tay Lý Uyên được.

Dương Nguyên Khánh cất lá thư vào trong người, trả ngọc bội lại, nói.

- Đem ngọc bội trả lại cho thân binh.

Hắn lại nhìn mười người thân binh của Triệu Từ Cảnh nói:

- Niệm tình các ngươi trung thành đối với chủ nhân, ta tha cho các ngươi một mạng, cũng chấp nhận cho các ngươi đưa thi thể Triệu thị lang về Trường An. Tuy nhiên không cho phép đi qua Đồng Quan. Các ngươi sẽ tiết lộ việc quân cơ của ta. Các ngươi đi vòng lên Vũ Quan, đi qua quận Thượng Lạc rồi quay trở về đi!

Hơn mười người thân binh rưng rưng nước mắt dập đầu tạ ơn, liền nâng cáng có thi thể của Triệu Từ Cảnh đi về phía dưới chân núi. Dương Nguyên Khánh vẫn nhìn theo cho tới khi bọn họ đi xa, lúc này mới hạ lệnh nói:

- Chỉnh đốn đội quân, quay về huyện Văn Hương.

....

Huyện Lô Thị quận Hoằng Nông. Đội quân Lý Hiếu Cung năm chiến năm bại, thương vong vô cùng nghiêm trọng. Tàn quân còn lại chưa tới ba nghìn người, đang tuyệt vọng chạy trốn về phía nam. Lý Tĩnh dẫn đầu mấy chục nghìn liên quân một đường đuổi xuống phía nam, chỉ cách bọn họ có hơn mười dặm. Nếu tiếp tục tăng thêm tốc độ, đêm nay sẽ đuổi kịp tàn quân Lý Hiếu Cung, hoàn toàn tiêu diệt bọn họ, bắt sống Lý Hiếu Cung.

Mấy chục nghìn liên quân nghỉ ngơi ở thị trấn Lô Thị chừng nửa canh giờ, chuẩn bị đứng dậy tiếp tục đuổi theo. Lúc này, hơn mười người kỵ binh từ phía sau vội vàng chạy tới.

- Lý Tư Mã!

Kỵ binh phía sau hô to.

Lý Tĩnh quay đầu nhìn lại. Anh ta nhận ra người mới tới, là mấy tên thân binh của Dương Nguyên Khánh. Anh ta lập tức ghìm cương chiến mã. Một lát sau, mấy tên thân binh chạy gấp tới, lấy ra một kim bài lệnh của Dương Nguyên Khánh nói:

- Tổng quản có lệnh, giặc cùng đường chớ đuổi, để Lý Hiếu Cung quay về Trường An.

Lý Tĩnh ngẩn ra.

- Vì sao lại làm vậy?

Thân binh lại lấy ra một lá thư đưa cho anh ta.

- Đây là lá thư do Tổng quản tự tay viết cho Tư Mã, Tư Mã xem thì biết.

Lý Tĩnh nhận lá thư mở ra, vội vàng xem qua một lần. Trên mặt dần dần lộ ra sự hiểu ý, mỉm cười. Vẫn là Tổng quản có tầm nhìn xa. Lúc này, anh ta hạ lệnh nói:

- Đội quân dừng truy đuổi, trở về huyện Hoằng Nông.

....

Quân Tùy dừng truy đuổi, cuối cùng đã khiến Lý Hiếu Cung thoát khỏi đại nạn. Gã dẫn đầu chưa đến ba nghìn tàn quân một đường chạy trốn về phía nam, từ Vũ Quan tiến vào quận Thượng Lạc. Ở huyện Thượng Lạc, gã gặp thân binh của Triệu Từ Cảnh, mới biết được Triệu Từ Cảnh bị Tề Vương Lý Nguyên Cát làm hại. Lý Hiếu Cung đầy bi phẫn, từ quận Thượng Lạc quay trở về Trường An.

Chiến dịch tranh đoạt quận Hoằng Nông lấy liên quân hai Tùy đại thắng mà hạ màn. Lý Hiếu Cung dẫn đầu ba mươi nghìn quân Đường, gần như toàn quân bị diệt. Thảm bại lần này, khiến dã tâm đông tiến của Lý Uyên gặp đả kích trầm trọng.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 615 : Khách đến từ Đan Dương

Chiến tranh kết thúc, quận Hoằng Nông lại dần dần khôi phục trở lại. Trên đường cái bắt đầu có người qua lại. Ba ngày sau khi đại chiến kết thúc, ở phương nam của huyện Hoằng Nông, trên đường cái xuất hiện một chiếc xe bò, xung quanh có vài tên kỵ sĩ khôi ngô hộ vệ hai bên.

Xe bò rộng rãi, chậm rãi di chuyển trên đường, đi rất rất vững vàng. Lúc này, một khuôn mặt thiếu nữ hơi gầy ló ra ở cửa sổ xe. Thân hình nàng nhỏ bé, chiếc cổ mảnh dẻ có thể nắm trọn trong bàn tay, thế nhưng nàng lại có một đôi mắt cực kỳ linh động, rất sinh động. Ánh mắt nàng đảo xung quanh, cất giọng cao vút hỏi người đánh xe:

- Lão Lưu, đã tới Huyện Hoằng Nông chưa?

Người đánh xe là một ông lão ngoài 60 tuổi, đang híp mắt suy nghĩ, cứ như là sắp ngủ gật đến nơi. Lão phản ứng rất chậm, một lát sau mới "A" một tiếng, nói:

- Sắp rồi, còn khoảng một hai dặm nữa.

Một gã thị vệ trẻ tuổi đi bên cạnh xe bò không nhịn được cười, nói:

- Ngọc Nhi cô nương, cô không thể ngó ra xem được sao?

Cô gái nhìn thoáng qua liền thấy một góc tường thành của thị trấn, hóa ra thị trấn đã ở trước mắt. Nàng hơi đỏ mặt, liếc tên thị vệ một cái rồi rụt đầu về, nhỏ giọng nói:

- Công chúa, đã đến huyện Hoằng Nông.

Bên trong xe bò, một cô gái mặc váy trắng, đầu đội mũ che mạng, chiếc khăn lụa dùng để che đã được nhấc lên. Cô gái tuổi chừng mười hai, mười ba tuổi, dáng người nhỏ bé thon thả. Tuy rằng tuổi không lớn lắm thế nhưng dung nhan tuyệt mỹ vô song, có lẽ là do đi đường vất vả cho nên sắc mặt nàng tái nhợt, thân thể khẽ tựa trên thành xe. Ánh mắt nàng mông lung, sâu trong con ngươi lại phảng phất có một chút đau khổ.

Nàng chính là con gái nhỏ của Dương Quảng, công chúa Đan Dương - Dương Phương Hinh. Nàng sau khi được Thẩm Quang cứu ra từ cung Giang Đô, thì được giấu ở quận Đan Dương. Chờ tình hình tạm lắng xuống thì nàng đi theo đường thủy dọc Trường Giang, vòng lên phía Bắc. Tại Tương Dương nàng xuống thuyền rồi lên xe bò từ Tương Dương thẳng hướng Bắc mà đi, ròng rã một tháng trời, cuối cùng cũng đến được quận Hoằng Nông.

Đích đến của nàng là phủ Thái Nguyên, đó là lãnh địa cuối cùng của Đại Tùy. Lúc này Dương Phương Hinh vẫn đang chìm trong nỗi đau khi phụ hoàng bị buộc phải tự vẫn. Đây là vết thương lòng mà cả đời này cũng khó có thể lành lại.

Nàng vốn là một cô gái ngây thơ, sôi nổi, vô tư lự, được nuông chiều bởi cha mẹ. Thế nhưng nước mất nhà tan, cha qua đời mẹ ly tán làm nàng trở nên trưởng thành sau một đêm dài. Nàng trở lên trầm mặc, suốt quãng đường đi nàng không hề nói một câu với những thị vệ xung quanh.

Nha hoàn bên cạnh Dương Phương Hinh là cung nữ Ngọc nhi, vẫn luôn luôn đi theo nàng. Cô ấy vẫn sôi nổi, hòa đồng với bọn thị vệ, và luôn tìm cách làm cho công chúa vui vẻ, nhưng chưa một lần thành công.

- Công chúa!

Ngọc Nhi vén một góc rèm xe lên, lén lút nhìn ra ngoài, sau đó nhỏ giọng nói:

- Buổi sáng nô tì vu vơ nghe thấy bọn họ có nhắc đến Dương tướng quân ở trong quận Hoằng Nông. Nếu công chúa không muốn đi Thái Nguyên thì bây giờ trốn vẫn còn kịp.

Dương Phương Hinh thở dài:

- Không đi Thái Nguyên thì còn đi được nơi đâu?

- Lạc Dương thì sao?!

- Lạc Dương?

Trên khóe miệng Dương Phương Hinh lộ ra nụ cười gượng, lắc đầu, không nói gì thêm. Ngọc Nhi có chút sốt ruột, lắc lắc tay nàng nói:

- Công chúa, thế cuối cùng là có đi không?

- Ngươi nhảy xuống xe rồi chạy ra hai mươi bước ta xem.

Ngọc Nhi ngẩn người, lát sau mới lầm bầm nói:

- Nô tì không muốn đi.

- Ngươi nếu không muốn đi thì còn nói cái gì đó?

Dương Phương Hinh nhìn nàng, nhàn nhạt hỏi.

Ngọc Nhi phát hiện trong giọng nói của công chúa có chút mất hứng, nàng cảm thấy có chút tủi thân, lí nhí nói:

- Người ta cứ nghĩ là công chúa muốn đi, thế nên mới nghĩ kế, người ta chỉ là muốn tốt thôi mà.

Dương Phương Hinh cầm tay nàng, dịu dàng nói:

- Ta biết ngươi có ý tốt. Nhưng mà... ta không muốn đi Lạc Dương.

Ngọc Nhi lập tức vui vẻ trở lại.

- Hóa ra là công chúa muốn đi Thái Nguyên.

- Ta cũng không muốn đi Thái Nguyên.

Dương Phương Hinh khẽ thở dài một tiếng:

- Ta cũng không biết là mình muốn đi đâu? Có lẽ là ta muốn trở lại Giang Đô, xây một căn nhà nhỏ trước phần mộ của Phụ Hoàng. Ta sẽ ở đó cả đời, làm bạn với Phụ Hoàng, để người không còn cô đơn.

Nói đến đây, Dương Phương Hinh bưng mặt, nước mắt khẽ chảy ra từ những kẽ tay của nàng.

Đúng lúc này, xe bò đột nhiên dừng lại. Lại thấy âm thanh của vài tên thị vệ:

- Tham kiến Tổng quản!

Sau đó là một âm thanh của một người trẻ tuổi.

- Công chúa Điện hạ đang ở bên trong sao?

- Bẩm Tổng quản, Công chúa Điện hạ đang ở bên trong.

- Tốt lắm. Các ngươi đã vất vả rồi, ta sẽ có trọng thưởng.

Trong xe bò, Ngọc Nhi liền có chút kích động, nàng đã nhận ra giọng nói của Dương Nguyên Khánh. Lúc trước Dương Nguyên Khánh đã cứu nàng, giọng nói của hắn đã khắc sâu trong tâm khảm của nàng.

- Công chúa, là Dương tướng quân!

- Ta biết rồi.

Dương Phương Hinh lau đi nước mắt, giọng nói vẫn bình thản như trước. Mặc dù năm ngoái Dương Nguyên Khánh đánh bại người Đột Quyết ở trước Nhạn Môn, giúp nàng không bị khuất nhục, lần này lại cứu nàng từ Giang Đô ra. Thế nhưng Phụ hoàng của nàng đã từng có lần rưng rưng mà nói rằng, Dương Nguyên Khánh là tên bán nước. Câu nói bi thương này của Phụ hoàng, cùng với từ bán nước đã khắc sâu vào tâm trí nàng, khiến cho trong lòng nàng vừa có một phần cảm kích với Dương Nguyên Khánh, lại có một phần căm hận, rất mâu thuẫn.

Lúc này, giọng nói của Dương Nguyên Khánh từ bên ngoài vọng vào:

- Thần Dương Nguyên Khánh, tham kiến Công chúa Điện hạ!

Dương Phương Hinh trầm mặc không nói. Ngọc Nhi thấy nàng không có phản ứng, sốt ruột lắc lắc cánh tay nàng.

- Công chúa, Dương tướng quân đang cùng người nói chuyện đó!

Dương Phương Hinh thả khăn voan xuống che đi dung mạo, nàng kéo rèm xe lên. Xuyên qua lớp lụa mỏng, nàng thấy trước mặt là một thanh niên khoảng 27-28 tuổi, đầu đội mũ Tử kim, thân hình cao lớn khôi ngô, mũi cao thẳng, miệng góc cạnh rõ ràng, ánh mắt sắc bén dường như có thể nhìn xuyên qua lớp lụa trên mặt nàng.

Lúc Dương Phương Hinh năm tuổi đã từng được Dương Lệ Hoa mang đến phủ của Dương Nguyên Khánh ra mắt, thế nhưng nàng đã quên rồi. Về sau tại thị trấn Nhạn Môn lại được gặp lại, lần đó thì do khoảng cách quá xa nên nàng cũng không nhìn rõ hình dáng của hắn. Trong ấn tượng của nàng thì Dương Nguyên Khánh có dáng người rất cao lớn, trái lại, thị nữ Ngọc Nhi thì lại thổi phồng hắn đến mức thế gian hiếm có.

Dương Phương Hinh cười nhạt nói:

- Dương Tổng quản vì nước xả thân, khổ cực rồi!

Nàng từ nhỏ đã bị giáo dục nghiêm khắc, mỗi câu nói của nàng đều phải phù hợp với thân phận. Tuy rằng còn trẻ thế nhưng vẫn có phong cách, cử chỉ bình tĩnh, khéo léo.

Dương Nguyên Khánh từ sớm đã nhận được báo cáo từ thị vệ hộ tống, rằng Công chúa Đan Dương đã đến, cho nên hắn đặc biệt ra ngoài thành đón tiếp. Trong trí nhớ của Dương Nguyên Khánh thì Dương Phương Hinh là cô bé năm tuổi trắng trẻo, bảy tám năm trôi qua rồi nàng đã lớn lên, chắc hẳn là mười ba tuổi.

Dương Nguyên Khánh thi lễ, áy náy nói:

- Thần không thể bảo vệ được tính mệnh cho Thánh thượng, đây là thần tử vô năng, vi thần áy náy vạn lần.

Lời nói của Dương Nguyên Khánh lại gợi lên nỗi thương tâm của Dương Phương Hinh, hàng mi dài rủ xuống, khóe mắt nàng chảy ra giọt lệ trong suốt, giọng nói có chút nức nở.

- Đó là tội ác của Vũ Văn Hóa Cập, Tổng quản ở Thái Nguyên xa xôi, cho dù có lòng thì cũng khó thực hiện được. Đây không phải lỗi của Tổng quản, Dương Tổng quản không nên tự trách.

Dương Nguyên Khánh thấy nàng vẫn còn nét ngây thơ của thiếu nữ lại phải gánh trên vai tránh nhiệm cùng đau thương. Điều này làm hắn có chút thương tiếc, dịu dàng nói:

- Công chúa Điện hạ đã vất vả dọc đường rồi, hôm nay hãy nghỉ ngơi thật tốt, sáng mai theo vi thần trở về Thái Nguyên, nơi đó có người thân của công chúa.

Dương Phương Hinh lặng lẽ gật đầu, nàng có thể cảm nhận được sự quan tâm của Dương Nguyên Khánh, trong lòng cũng có chút cảm kích.

- Đa tạ Dương Tổng quản đã bảo vệ, Đan Dương vô cùng cảm kích.

Dương Nguyên Khánh sai người đưa Dương Phương Hinh đến hậu viện của Quận nha trong thị trấn nghỉ ngơi, sau đó lại lệnh cho thân binh của nàng giới nghiêm bốn phía của tiểu viện, không cho bất cứ ai tiếp xúc với nàng. Dương Sư Đạo hai hôm trước đã đi Thái Nguyên, trước tiên tiếp xúc cùng với các Tướng quốc của chính sự đường, Dương Nguyên Khánh đã đề nghị phong y làm Nạp Ngôn.

Dương Nguyên Khánh vừa về tới doanh trại ở ngoài thành, mới bước chân vào cổng liền có thân binh tiến lên bẩm báo:

- Bẩm Tổng quản, trong trướng có người đang chờ tiếp kiến, nói là tộc nhân của Tổng quản.

- Tộc nhân?

Dương Nguyên Khánh hơi trầm ngâm, liền hiểu ra, nhất định là người của Dương gia tại Hoằng Nông đến. Hắn ở lại Hoằng Nông mấy ngày nhưng vẫn không tiếp xúc với Dương gia, mà cố ý tránh né bọn họ. Hắn cũng không muốn nhận tổ quy tông, hắn càng muốn là thân phận của mình giữ ở một trạng thái mơ hồ hơn.

- Người tới tên là gì?

Thân binh bẩm báo nói:

- Tổng cộng có hai người, một trong hai gọi là Dương Dị, người còn lại không rõ.

Tên người này có chút quen tai, hắn tập trung suy nghĩ một lát, dường như là đã từng nghe Dương Nguy nói qua rồi. Người này hiện nay đang có vai vế cao nhất trong Dương gia ở Hoằng Nông. Y là chú của Dương Tố ông nội của hắn, rất ít khi xuất hiện.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 616 : Bắt đầu xuất hiện vết rạn

Y là một nhân vật thần bí trong Dương gia. Tộc nhân của Dương gia đã tới đây thì Dương Nguyên Khánh quyết định cũng nên gặp một lần.

- Dẫn họ đến lều của ta.

Dương gia tại Hoằng Nông được mệnhlà một trong ba gia tộc lớn tại Quan Tây, cùng nổi danh giống Lý gia tại Lũng Tây, Vi gia tại Kinh Triệu. Hơn ngàn năm qua, Dương gia tại Hoằng Nông đã chia ra làm mấy chục chi lớn nhỏ, có hơn một ngàn tộc nhân. Mỗi chi đều có gia chủ và Từ đường của riêng mình. Dương Tố chỉ thuộc một chi trong đó thôi.

Dương gia ở Tây Nam của Hoằng Nông còn xây dựng một Từ đường tổng, thờ phụng tổ tiên Dương gia từ thời Xuân Thu là Dương Thiệt. Cứ ba năm một lần, gia chủ của tất cả các chi thuộc Dương gia cùng với các trưởng lão đều phải đến Từ đường tổng để tiến hành đại tế.

Năm Đại Nghiệp thứ chín, Dương Huyền Cảm tạo phản, Dương Quảng chỉ hạ lệnh xử tử vài tên tộc nhân của Dương gia đã tiếp tay cho Dương Huyền Cảm, còn lại tất cả tộc nhân thuộc chi đó đều không bị ảnh hưởng đến.

Ngồi ở trong lều chờ Dương Nguyên Khánh là hai gã tộc nhân của Dương gia, một người gọi là Dương Dị, là chú của Dương Tố, tuổi chừng hơn tám mươi, tóc trắng xóa nhưng tinh thần vẫn quắc thước, tư duy vẫn nhanh nhẹn, lão cùng Dương Tố là tộc nhân cùng chi, nếu tính về vai vế thì Dương Nguyên Khánh phải gọi lão là cụ.

Người còn lại là Dương Văn Tấn, là gia chủ của chi Tùng Dương, chi lớn nhất của Dương gia tại Hoằng Nông. Sau khi chi của Dương Tố suy bại, chi Tùng Dương được tất cả các chi của Dương gia đề cử, Dương Văn Tấn thay thế Dương Huyền Cảm đảm nhiệm chức chủ tế của Từ đường tổng.

Hai người ngồi trong lều trầm mặc không nói, những lời nên nói thì cũng đã nói trên đường rồi, hiện tại chỉ chờ thái độ của Dương Nguyên Khánh thôi. Đây cũng là mục đích chủ yếu của lần thăm hỏi này của họ, hi vọng Dương Nguyên Khánh có thể thừa nhận hắn là người của Dương gia, dù sao Dương Nguyên Khánh cũng đã đưa di thể của Dương Huyền Cảm trở về tộc mộ của Dương gia.

- Dương Tổng quản giá lâm.

Binh lính ngoài lều hét to, mành che được vén lên, Dương Nguyên Khánh bước nhanh đến, cười tủm tỉm:

- Thật xin lỗi, công việc bận rộn, khiến hai vị đợi lâu rồi.

Ngữ khí của hắn rất khách khí, như thể là đang tiếp đãi các hương thân gia tộc lớn của Hoằng Nông vậy. Dương Dị cùng Dương Văn Tấn nhìn nhau, hai người đều không che dấu nỗi thất vọng trong mắt, chưa cần nói chuyện thì họ đã biết trước kết quả. Dương Nguyên Khánh sẽ không thừa nhận mình là người của Dương gia, cũng sẽ không tiếp nhận lời mời về thăm hỏi Từ đường tổng.

Lý Hiếu Cung đại bại trốn về Quan Trung làm chấn động toàn Trường An. Lần xuất binh với quận Hoằng Nông này là bước đầu tiên trong kế hoạch tiến quân Trung Nguyên, thế nhưng lại kết thúc bằng thất bại. Phò mã, Binh Bộ Thị Lang Triệu Từ Cảnh tử trận. Thế nhưng càng làm cho người ta khó chấp nhận đó là lần này lại bại dưới tay của đối thủ cũ là Dương Nguyên Khánh, thật khiến người ta thổn thức. Mấy ngày liền, thành Trường An từ công khanh đại thần cho tới phu kiệu hay lái buôn cũng đều bàn luận về trận thảm bại khó có thể chấp nhận này.

Thế nhưng thái độ của Hoàng Đế Lý Uyên thì lại trầm mặc khác thường, chỉ đưa ra một cái kết luận rằng "Thời cơ xuất binh không chính xác", sau đó không nói thêm gì, trên triều cũng không đem ra bàn luân, cũng không xử phạt gì đối với bại tướng Lý Hiếu Cung. Gần như là đem chuyện này gác lại, thái độ như là mặc kệ. Một số đại thần nhạy bén đối với chính trị thì đều có thể hiểu được, chuyện này có lẽ là liên quan đến nội đấu trong hoàng tộc, Lý Uyên đúng là có nỗi khổ khó nói.

Tại Minh Đức môn, Trường An. Một đội kỵ binh mấy trăm người đang hộ vệ Tần Vương Lý Thế Dân từ ngoài thành trở về. Dân chúng trong thành đều dạt ra hai bên, đội kỵ binh xông thẳng vào trong, mấy chục tên vệ binh thủ thành không kịp ngăn cản, đành trơ mắt nhìn bọn họ chạy trên đường Chu Tước.

- Đó là Tần Vương Điện hạ, không hiểu sao hôm nay lại mạnh mẽ xông qua cổng thành thế nhỉ?

Bọn lính thủ thành sôi nổi bàn luận, cũng không thể nào lý giải được chuyện Tần Vương làm việc rất có nguyên tắc, lại cư xử như bọn con ông cháu cha quần là áo lượt mà xông qua cổng thành.

- Có thể là do Tần Vương Điện hạ đang tức giận! Dù sao thì trận thảm bại ở quận Hoằng Nông cũng khiến mọi người cảm thấy khó chịu trong lòng.

Có binh sĩ am hiểu thì đoán được tâm tình của Lý Thế Dân đang không vui.

- Tần Vương trở về gấp từ Lũng Tây, nhất định là tình thế của quận Hoằng Nông đang rất nghiêm trọng.

- Nghe nói là có liên quan đến Tề Vương...

- Hừ! Đứng nói lung tung.

Bọn lính nhỏ giọng bàn luận, lại liếc nhìn về Lý Thế Dân đã đi xa.

Lý Thế Dân suất binh Lũng Tây giằng co với quân của Tiết Cử, ba ngày trước nhận được tình báo khẩn cấp, Lý Hiếu Cung đại bại tại quận Hoằng Nông, Triệu Từ Cảnh tử trận, ba mươi ngàn quân gần như bị tiêu diệt sạch, trận chiến này thảm bại làm cho Lý Thế Dân phẫn nộ không thôi. Từ lúc Phụ hoàng phái viện quân đi quận Hoằng Nông, mà không phải là rút quân đội của Lý Hiếu Cung về thì y đã biết rõ kết quả của trận chiến này.

Phụ Hoàng của y coi trọng địa bàn mà xem thường sĩ tốt, chính vì loại quan niệm này mà đã đưa ra quyết sách sai lầm. Sau đó phụ Hoàng lại mắc phải một loạt sai lầm tiếp theo, phái Ngự Sử Vu Chí Ninh đi điều tra sự việc cướp người ở Đồng Quan. Tại thời khắc sắp khai chiến đáng nhẽ phải đổi tướng, đợi chiến dịch kết thúc thì từ từ điều tra. Một mặt thì điều tra, một mặt thì tác chiến, hai chủ soái thì đấu đá với nhau hỏi sao có thể phối hợp tác chiến?

Hiện tại Lý Thế Dân lo lắng nhất là quân tâm, phụ Hoàng xử lý sự kiện Đồng Quan đã sai lầm làm cho quân tâm không an, nếu như không xử lý tốt chuyện này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với lòng tin của những binh lính cống hiến cho vương triều họ Lý.

Trong lòng Lý Thế Dân cực kỳ lo lắng, đồng thời cũng rất tức giận huynh đệ là Tề Vương Lý Nguyên Cát. Y thừa hiểu tính cách của huynh đệ mình, ích kỷ bạc bẽo, lòng dạ hẹp hòi, thủ đoạn độc ác, để cho y làm chủ soái của quân tiếp viện chính là sai lầm của phụ Hoàng. Lý Thế Dân mím môi, giục ngựa chạy gấp, rất nhanh đã về tới Tần Vương phủ.

Tần Vương phủ nằm ở phường Sùng Nhân, trước là phủ ở của Tần Vương Dương Tuấn triều Tùy. Sau khi sửa chữa lại toàn bộ, đã thành Vương phủ của Lý Thế Dân. Phủ Tần Vương không chỉ là nơi ở, đồng thời cũng là nơi xử lý công vụ tập trung. Tất cả Trưởng Sử, Tư Mã, Văn Học, Lục Sự Tham quân, Lục Tào Tham Quân Sự, hay là kể cả phụ tá, hội quán văn học v.v.. cũng đều tập trung ở đây.

Trưởng Sử hiện nay của phủ Tần Vương là Trưởng Tôn Vô Kỵ, Tư Mã là Đoàn Chí Huyền, Văn Học là Phòng Huyền Linh, Lục Sự Tham quân là Nhan Sư Cổ. Trưởng Tôn Vô Kỵ và Đoàn Chí Huyền đều ở bên trong quân đội ở Lũng Tây, sự vụ hàng ngày ở phủ Tần Vương đều do Phòng Huyền Linh xử lý.

Lý Thế Dân xoay người xuống ngựa, vội vàng đi vào trong phủ. Phòng Huyền Linh nghe tin liền ra đón, y không ngờ Lý Thế Dân lại trở về gấp như vậy, vừa mừng vừa sợ nói:

- Điện Hạ sao lại trở về nhanh thế ạ?

- Haizz!

Lý Thế Dân thở dài một tiếng, y thấy hai bên đều có chuyện phải làm, liền nhịn không được cảm khái trong lòng, chỉ chỉ vào quan phòng của y nói:

- Đi vào trong nói chuyện.

Lý Thế Dân đi vào phòng mình, một thị nữ giúp yn cởi bỏ áo ngoài, bên trong mặc áo bào xanh nhạt bó sát người, eo đeo thắt lưng da, toát ra vẻ đầy sức sống, nhưng tâm tình bên trong của y thì ngược lại. Y khoát tay áo, cho thị nữ lui ra.

Phòng Huyền Linh đi đến, nói:

- Trong lòng vẫn đang buồn bực sao.

- Đã tối rồi.

Lý Thế Dân thở dài. Hôm nay thì y không thể đi gặp phụ hoàng được rồi. Y xoay người nhìn ra ngoài cửa sổ, phía tây mây đen mù mịt.

- Có lẽ ta nên tỉnh táo lại.

Trong giọng nói của Lý Thế Dân vẫn còn mang theo chút trầm tư, dường như dòng suy nghĩ của y đang miên man ở phương xa. Phòng Huyền Linh lẳng lặng nhìn y, đột nhiên Lý Thế Dân xoay người, nhìn chăm chú vào Phòng Huyền Linh.

- Trong thư tiên sinh khuyên ta công khai thảo phạt tứ đệ Nguyên Cát là có ý gì?

Phòng Huyền Linh lắc đầu.

- Đây thật ra không phải ý của ty chức, mà là ý của Bùi Tướng quốc. Chỉ là ty chức cảm thấy ý kiến của ông ấy cũng rất có lý.

- Bùi Tịch?

Lý Thế Dân sửng sốt một chút.

Phòng Huyền Linh nở nụ cười:

- Ngay đêm nhận được tin tức bại trận từ Hoằng Nông, Bùi Tướng quốc đã tới tìm ty chức. Ty chức biết rõ là ông ta muốn mượn miệng ty chức loan truyền cho cả thiên hạ, chẳng qua là ty chức thấy rằng ông ta nói cũng đúng, cho nên ty chức đã bỏ thêm ý kiến của ông ta vào trong thư với Điện hạ.

Lý Thế Dân lại chìm vào suy nghĩ, lát sau y mới đột nhiên giật mình, hóa ra là y cùng Phòng Huyền Linh vẫn đang đứng nói chuyện nãy giờ. Y cười áy náy, vội vàng nói:

- Mời tiên sinh ngồi.

Lý Thế Dân cũng ngồi xuống, cầm chiếc chuông nhỏ ở trên bàn lên rung nhẹ, tiếng chuông rất trong trẻo, ngay lập tức liền có thị nữ xuất hiện ở cửa ra vào. Lý Thế Dân phân phó:

- Cho ta cùng Phòng tiên sinh hai chén trà.

Chỉ dựa vào thời gian ngắn ngủi này mà Lý Thế Dân đã dần dần hiểu được ý tứ của câu nói kia. Công khai thảo phạt Tề Vương Lý Nguyên Cát chính là cơ hội để y lấy lòng quân.

- Ý của tiên sinh là để ta lấy được quân tâm sao?

Lý Thế Dân có chút kinh ngạc nhìn chăm chú vào Phòng Huyền Linh.

- Đây chỉ là một điểm đơn giản có thể thấy từ bên ngoài thôi, quả thật là có ý tứ này, thế nhưng không phải là tất cả.

Trên mặt Phòng Huyền Linh luôn kèm theo một chút thần bí làm cho Lý Thế Dân có chút mù mờ, y vừa muốn hỏi thì lại mím chặt môi, thị nữ dáng người thướt tha bưng hai chén trà đến. Lý Thế Dân có chút tức giận trừng mắt với cô, cô xuất hiện không đúng lúc làm cắt đứt dòng suy nghĩ của mình, đợi cho thị nữ đặt khay trà xuống, y không kiên nhẫn lập tức khoát khoát tay:

- Mau lui ra, không cho phép ai vào!

Thị nữ đi xa, Lý Thế Dân không chờ được liền vội hỏi:

- Nếu như nhìn sâu hơn thì sao?

Phòng Huyền Linh đứng lên đóng hết các cửa sổ, sau đó mới ngồi xuống nhỏ giọng nói:

- Thái Tử ủng hộ Tề Vương, làm cho Lý Hiếu Cung bị yếu thế. Ý của Bùi Công là, đây chính là cơ hội tốt để lôi kéo Lý Hiếu Cung.

Lý Thế Dân kinh ngạc, trong lời nói của Phòng Huyền Linh bao hàm rất nhiều ý tứ sâu xa, làm đầu óc y có chút choáng váng. Thế nhưng dù sao y cũng cực kì thông minh, lập tức nắm bắt được những điểm trọng yếu trong đó. Ý tứ của Bùi Tịch và Phòng Huyền Linh là khiến cho địa vị của y và Thái Tử ngang nhau. Tương lai lấy điều đó để phát triển, điều này làm Lý Thế Dân hết sức kinh hãi, không thốt nổi lên lời.

Phòng Huyền Linh cũng biết Lý Thế Dân khó có thể tiếp nhận được ngay, liền cười xòa:

- Nói thế nào đi nữa thì Điện hạ hẳn là sẽ dần dần nắm quân quyền, Lý Hiếu Cung là thế lực lớn thứ hai của quân đội, cơ hội này Điện hạ không thể bỏ qua.

Lý Thế Dân nhẹ nhàng gật gật đầu, y cần thời gian để cân nhắc chuyện này.

Điện Cam Lộ, cũng Thái Cực. Đây là thư phòng ở nội cung của Lý Uyên, cũng là nơi lãi đọc sách hoặc tiếp kiến trọng thần khi có việc gấp. Trên hành lang phía ngoài điện Cam Lộ, vài tên hoạn đang cầm đèn lồng, dẫn Thái Tử Lý Kiến Thành vội vàng đi tới điện Cam Lộ.

Triều Đường vừa thành lập, các loại quy củ lễ nghi vẫn chưa hoàn thiện, hơn nữa Lý Uyên rất coi trọng Lý Kiến Thành cho nên y có thể tiến vào nội cung, cùng phụ thân thương nghị đại sự. Lý Kiến Thành vừa mới nhận được tin tức, tứ đệ của y là Nguyên Cát vừa trở về Trường An, bị Phụ hoàng triệu vào cung chất vấn. Lý Kiến Thành trong lòng rất lo lắng, sợ rằng Phụ hoàng trong lúc tức giận nhất thời mà làm ra chuyện gây hối hận về sau. Y không muốn thảm kịch Tùy Văn Đế giết người thân lại một lần nữa xảy ra, đây là nguyên nhân bại vong cuối cùng của triều Tùy. Triều Tùy cuối cùng đã không còn hoàng thân để chống đỡ.

Y đã mất đi một người anh em là Trí Vân, cho nên bất kể thế nào thì y cũng không muốn mất đi người anh em thứ hai. Hoàng Quân Hán đã đầu hàng Dương Nguyên Khánh, chuyện này cũng không khó để xử lý, hoàn toàn có thể bỏ qua. Lý Kiến Thành rất lo Phụ hoàng sẽ đưa ra quyết định không có lý trí.

Bên trong điện Cam Lộ, Lý Nguyên Cát đang quỳ trên mặt đất. Eo lưng thẳng tắp, trong mắt toát ra vẻ hung ác, nhưng không nhằm vào phụ thân mà nhìn chằm chằm vào mấy cung nữ bên cạnh, làm cho mấy cung nữ trong lòng khiếp đảm.

- Phụ hoàng, con không đoạt người phụ nữ kia. Cô ta là kỹ nữ ở Lạc Dương, con làm sao có thể chỉ vì một kỹ nữ mà tự hủy đi thanh danh của mình. Phụ hoàng vì sao không nghe con giải thích, lại cứ đi tin vào những điều vô căn cứ như vậy?

Lý Uyên tức giận đến tái xanh mặt, lão đã vì đứa con này mà tính toán rất nhiều, gánh chịu bao nhiêu phiền toái, thế nhưng bây giờ ở trước mặt mình mà y vẫn không thừa nhận. Lý Uyên tức đến mức nghiến răng nghiến lợi, đập bàn mắng:

- Nghiệp chướng, Hoàng Quân Hán sẽ vô duyên vô cớ đi vu oan ngươi sao? Ngươi ở Thái Nguyên gây ra bao nhiêu tai tiếng chẳng lẽ cho rằng Trẫm không biết? Ngươi cưỡng đoạt dân nữ cũng không phải lần đầu!

Lúc này thì Lý Kiến Thành đã vào trong điện, y tiến lên thấp giọng khuyên Phụ hoàng:

- Phụ hoàng, tức giận có hại cho sức khỏe, ngàn vạn lần không nên tức giận, trước hết cứ nghe xem Nguyên Cát giải thích thế nào đã.

Lý Uyên thời gian gần đây đã xuất hiện hiện tượng đầu óc choáng váng, ngự y khuyên lão không nên tức giận, cố gắng giữ tâm trạng bình thản. Lý Uyên vừa rồi đã quên, sau khi được con trưởng nhắc nhở, cơn giận đã giảm xuống một chút, liền nói:

- Được rồi! Con hãy giải thích đi, nếu như giải thích không thỏa đáng thì nhất định Trẫm sẽ nghiêm trị.

Lý Nguyên Cát đã nghĩ đối sách suốt dọc đường, bây giờ điều có lợi nhất cho y chính là Hoàng Quân Hán đầu hàng Bắc Tùy, có tên Triệu Từ Cảnh biết một chút sự tình thì đã chết rồi, kể cả cô gái kia cũng bị y giết luôn, tất cả đều chết không có gì để đối chứng. Bây giờ chỉ cần y dứt khoát phủ nhận, thì phụ hoàng cũng không có cách nào xử lý. Có sự giáo huấn ở Thái Nguyên nên y biết rõ không thể thành thật thừa nhận.

Lúc này, Lý Kiến Thành cũng nhẹ nhàng nói:

- Nguyên Cát, suy nghĩ kĩ một chút rồi hẵng nói, không nên làm cho cho phụ hoàng tức giận thêm.

Thật ra Lý Kiến Thành cũng biết, phụ hoàng chẳng qua cũng chỉ là tìm một cái cớ hợp lý để bịt miệng mọi người, trấn an triều thần mà thôi. Chuyện này nếu cứ thế bỏ qua thì tại thời điểm này sẽ làm ảnh hưởng tới uy tín của Hoàng gia.

Lý Nguyên Cát cảm kích nhìn huynh trưởng, sau đó chậm rãi nói:

- Phụ Hoàng, con tuy rằng có gây ra một số chuyện không hay ở Thái Nguyên, nhưng đây chỉ là hành động trẻ người non dạ. Trải qua bài học xương máu khi thất thủ Thái Nguyên, con đã hối cải. Chuyện cướp người ở Đồng Quan thực sự là con vô tội, Phụ Hoàng, lòng người khó đoán! Hoàng Quân Hán đã có ý định đầu hàng Dương Nguyên Khánh, thế nhưng lại không muốn mang tiếng là bán chủ cho nên mới nghĩ ra kế mượn dao giết người này, lấy cớ là con cướp phụ nữ của y, cho nên y mới tức giận đầu hàng. Như vậy y lại đứng về bên chính nghĩa, còn con lại trở thành kẻ tiểu nhân hèn hạ.

Lời giải thích này có thể miễn cưỡng chấp nhận được, sắc mặt Lý Uyên cũng hơi giãn ra một chút, lại tiếp tục chất vấn y:

- Vậy vì sao con không đi cứu Hiếu Cung, khiến cho y bơ vơ lạc lõng, cuối cùng đại bại.

- Phụ Hoàng, con thực sự oan uổng mà.

Lý Nguyên Cát ủy khuất chảy nước mắt.

- Binh bại ở Hoằng Nông tất cả tội lỗi đều đè vào đầu con, chẳng lẽ con lại ko biết cân nhắc đại cục sao? Dương Nguyên Khánh tự mình dẫn mấy chục ngàn quân chủ lực đánh chiếm huyện Văn Hương, Đồng Quan nói thì viện trợ cho Hoằng Nông như thực chất thì lại giống gây khó khăn hơn. Triệu Thị Lang không nghe lời khuyên của con, cứ nhất định phải cứu viện cho huyện Thiểm, cho nên mới trúng phải mai phục. Chuyện này khiến con rất hối hận, vì sao không ngăn cản y thật cứng rắn.

Nói đến đây, giọng nói của Lý Nguyên Cát đã trở nên nghẹn ngào. Lý Uyên mềm lòng, dù sao cũng là con mình, y cũng tin tưởng con trai mình nói đúng sự thật. Y cho dù xấu xa thì cũng không đến mức này. Lão thở dài một tiếng, thương cảm cho Triệu Từ Cảnh bỏ mình.

- Thế nhưng... đáng lẽ con phải đi cứu Từ Cảnh, dù sao nó cũng là anh rể của con, làm sao con có thể trơ mắt nhìn nó tử trận.

Mắt Lý Nguyên Cát lại đỏ lên, run rẩy nói:

- Con không nghĩ là anh ấy sẽ tử trận, mà cứ nghĩ rằng anh ấy sẽ phá vòng vây bỏ chạy. Nếu biết vậy thì con cho dù có chết cũng sẽ đi cứu anh ấy. Lúc đó con đang mang trọng trách nơi Đồng Quan, Dương Nguyên Khánh dẫn đại quân chờ ở bên, nếu như bị mất Đồng Quan... Con thực sự... Thực sự không dám hành động thiếu suy nghĩ.

Đến đây thì Lý Nguyên Cát nghẹn ngào khóc rống lên, Lý Kiến Thành cũng quỳ rạp xuống đất, cầu xin giúp em mình.

- Phụ hoàng, Tứ đệ giải thích hoàn toàn hợp lý, đệ ấy giữ trọng trách trấn thủ Đồng Quan, đúng là không thể hành động thiếu suy nghĩ, cho nên không thể đổ trách nhiệm của thất bại cho Tứ đệ được.

- Tất cả đứng lên đi!

Lý Uyên thở dài.

Sáng hôm sau, Lý Uyên đã tuyên bố trước triều, binh bại tại Hoằng Nông không phải là do Tề Vương không cứu, mà là Dương Nguyên Khánh dẫn đại quân hùng hậu ở huyện Văn Hương, dụ quân Đồng Quan rời khỏi để nhắm tới Quan Trung. Tề Vương thân mang trọng trách trấn thủ Đồng Quan, không thể manh động, đưa ra quyết định chính xác, có công mà không có tội.

Bại trận tại Hoằng Nông không phải là chiến bại mà chỉ là triều đình nắm thời cơ Đông tiến chưa chuẩn xác. Đậu Kiến Đức không thể kiềm chế được Dương Nguyên Khánh, làm cho Dương Nguyên Khánh kịp thời viện binh cho Lạc Dương, cho nên không phải là Lý Hiếu Cung chỉ huy bất lực, miễn tội cho Lý Hiếu Cung. Tất cả tướng sĩ tử trận đều được phụ cấp gấp đôi, bày tỏ Hoàng ân bao la.

Thảm bại, gần một trăm ba mươi ngàn người chết, toàn quân bị diệt vậy mà không có kẻ nào bị truy cứu trách nhiệm, chỉ tuyên cáo rồi kết thúc. Lý Hiếu Cung trong lòng uất hận vô cùng, thế nhưng cũng đành phải chấp nhận.

Ngay đêm đó, Lý Thế Dân đi tới phủ của Lý Hiếu Cung.

- Thánh thượng một lòng cầu yên ổn, như vậy rất ảnh hưởng đến quân tâm.

Trong thư phòng, huynh đệ Lý thị ngồi đối diện nhau, Lý Hiếu Cung mắt đã đỏ bừng, hắn đem chén rượu đập trên bàn thật mạnh, vô cùng đau đớn nhìn Lý Thế Dân, nói:

- Đồng Quan tướng sĩ mỗi người đều biết thằng khốn đó đoạt nữ nhân của Hoàng Quân Hán, mỗi người đều biết hắn trong lòng mang đố kị nên mới không chịu xuất binh, Thánh thượng lại tin tưởng lời của hắn, tưởng các tướng sĩ đều là đồ ngu sao?

[/QUOTE]

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 617 : Huynh đệ nảy sinh hiềm khích

- Thánh thượng một lòng cầu yên ổn, như vậy rất ảnh hưởng đến quân tâm.

Trong thư phòng, huynh đệ Lý thị ngồi đối diện nhau, Lý Hiếu Cung mắt đã đỏ bừng, hắn đem chén rượu đập trên bàn thật mạnh, vô cùng đau đớn nhìn Lý Thế Dân, nói:

- Đồng Quan tướng sĩ mỗi người đều biết thằng khốn đó đoạt nữ nhân của Hoàng Quân Hán, mỗi người đều biết hắn trong lòng mang đố kị nên mới không chịu xuất binh, Thánh thượng lại tin tưởng lời của hắn, tưởng các tướng sĩ đều là đồ ngu sao?

Lý Thế Dân yên lặng thay hắn rót một chén rượu, thở dài:

- Kì thật có một số chi tiết đã rõ ràng, tối hôm đó Hoàng Quân Hán cho năm nghìn quân trở về Đồng Quan, lúc này quân đội và tướng lãnh đều biết Hoàng Quân Khánh phải đầu hàng. Lúc này còn cách thời điểm Dương Nguyên Khánh phát động tiến công khá sớm, hắn hoàn toàn có thể cử quân đi tiếp quản phòng ngự của huyện Văn Hương, ngăn cản Hoàng Quân Hán đầu hàng, nhưng hắn đã không làm, mà ngồi chờ Dương Nguyên Khánh qua sông chiếm lĩnh huyện Văn Hương. Bởi vậy có thể thấy được rằng hắn hy vọng Dương Nguyên Khánh có thể chặt đứt đường lui của quân đội Hoằng Nông, trả thù bọn họ việc đã buộc tội hắn. Đây chính là do nội tâm của hắn ác độc, hắn căn bản không phải là vì thất bại, bởi vì ta biết rất rõ vấn đề ở đây là chỗ nào. Hắn rõ ràng là dẫn hai vạn quân đi viện trợ ngươi, phụ hoàng lại bổ nhiệm hắn là Đồng Quan đại soái, như vậy liền lẫn lộn chức trách của hắn. Chiến dịch này thất bại, phụ hoàng cũng có trách nhiệm rất lớn. Kỳ thật Khuất Đột Thông nói rất đúng, một trận chiến quả thật không thể có đến hai soái.

Lý Hiếu Cung ngửa cổ uống một hơi cạn sạch rượu trong chén, phun mùi rượu nói:

- Ngươi nói không sai, Đồng Quan vốn là có mười ngàn quân đóng giữ, có thể đủ phòng ngự một trăm ngàn người tiến công, nhưng hắn lại dùng ba mươi ngàn người phòng ngự Đồng Quan. Sau đó Triệu Từ Cảnh muốn đi cứu ta, hắn lại chỉ cấp cho Triệu Từ Cảnh năm ngàn người, rõ ràng hắn muốn cậu ta đi tìm chết. Mật thám của Đồng Quan báo lại phát hiện quân đội của Triệu Từ Cảnh bị vây, đang cơn nguy cấp, hắn lại hạ lệnh đóng cửa chính của Đồng Quan, không cho ai ra ngoài, rõ ràng là muốn Triệu Từ Cảnh đi tìm chết. Tâm địa của hắn thật ác độc. Ngay cả tỷ phu của mình cũng có thể phái đi chịu chết. Hắn thật sự cho là mình có thể dối trên lừa dưới sao?

Nói tới đây, Lý Hiếu Cung cao giọng hạ lệnh:

- Dẫn bọn họ tiến vào!

Một lát, thân binh nhân được lệnh đem hai người đàn ông trung niên tiến vào. Bọn họ quỳ rạp xuống đất:

- Tiểu dân tham kiến Vương gia.

Lý Hiếu Cung chỉ bọn hắn, nhìn Lý Thế Dân nói:

- Hai người này là người chứng kiến, là những người thương nhân ở phía ngoài Đồng Quan, tận mắt nhìn thấy thằng khốn đoạt nữ nhân của Hoàng Quân Hán kia, ta đã phái người đi Đồng Quan tìm họ tới.

- Các ngươi nói nói lại tình huống lúc đó cho ta.

Một gã thương nhân gật đầu nói:

-Lúc ấy tiểu nhân đang ở trên đường, trong đám người đẩy xe lương khô, đại khái là cách Đồng Quan hơn hai dặm. Chúng tôi thấy hơn một trăm quân sĩ cưỡi ngựa xông lên, vây một chiếc xe ngựa, bên cạnh xe ngựa có bốn người cùng bọn họ ác đấu, kết quả là tại chỗ bị giết chết hai người, còn hai người khác bị vây ở bên trong. Lúc này kỵ binh mới lôi ở trong xe ngựa ra một nữ nhân có tướng mạo rất đẹp, đem cô ấy đặt ngang trên lưng ngựa, rồi hướng huyện Hoa Âm mà chạy đi. Chúng tôi mới biết được bọn họ là thân binh của Tề Vương điện hạ. Hồi bẩm Vương gia, lúc ấy ở trên đường còn có rất nhiều binh lính vận chuyển lương thực, bọn họ cũng nhìn thấy.

Lý Hiếu Cung phất tay, bảo người đưa bọn họ dẫn vào, lại than dài một tiếng nói với Lý Thế Dân:

- Ta mới đầu còn có chút hoài nghi là Hoàng Quân Hán gạt ta, hiện tại bằng chứng như rành rành như vậy, chẳng lẽ Thánh Thượng vẫn thà tin tưởng lời nói một bên của thằng khốn kia, cũng không chịu ở Đồng Quan cho điều tra lại tỉ mỉ mọi chuyện sao? Ta biết ông ấy luôn mong muốn duy trì sự yên ổn, nhưng lòng người đều có công đạo, ông ấy thiên vị cho đứa con như vậy, có từng nghĩ đến cảm nhận của mỗi tướng sĩ không?

Lý Thế Dân không lộ ra thanh sắc, chậm rãi uống một chén rượu. Kì thật mục đích của hắn hôm nay là muốn cùng Lý Hiếu Cung có chung nhận thức, sau đó đem hắn lôi kéo về bên cạnh mình. Nhưng hắn cũng biết, phụ hoàng một khi đã hạ lệnh, tất cả đều khó có khả năng sửa lại, cho dù Lý Hiếu Cung có tìm ra nhiều hơn nữa những căn cứ chính xác cũng vô dụng, vấn đề hiện tại là làm sao có thể khiến Lý Hiếu Cung lựa chọn đứng cùng một bên với mình.

Hắn trầm tư một lát, liền nói:

- Ta hôm nay sẽ đi tìm phụ hoàng, thuyết phục ông ấy đưa vợ con Hoàng Quân Hán đến Hà Đông. Chúng ta đã thất tín với quân sĩ, bây giờ làm như vậy có thể xoay chuyển một chút.

Lý Hiếu Cung ánh mắt lộ ra sự cảm kích, chuyện này hắn cũng muốn thuyết phục Thánh Thượng, nhưng nếu Thế Dân nguyện ý ra mặt, không còn gì tốt hơn. Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến thanh âm chạy nhốn nháo, có cận vệ lo lắng bẩm báo:

- Vương gia, Thái tử điện hạ tới rồi.

Lý Hiếu Cung và Lý Thế Dân nhìn nhau, hai người đều ngây ngẩn cả người, thái tử điện hạ không ngờ lại xuất cung, Lý Hiếu Cung vội vàng đứng dậy:

- Ta đi nghênh đón thái tử điện hạ.

Hắn vừa liếc nhìn Lý Thế Dân, ý là hỏi hắn có đi hay không? Lý Thế Dân trầm ngâm một chút, đứng lên nói:

- Ta cùng đi với ngươi.

Trước cửa phủ, Lý Kiến Thành mặc áo bào xanh, đầu đội mũ nồi, chắp tay sau lưng đứng ở trên bậc thang chờ. Lần này y đến là để trấn an Lý Hiếu Cung. Lý Kiến Thành thật ra cũng không phải là muốn thiên vị cho huynh đệ, nhưng làm Thái Tử, y biết rõ muốn thành lập một nước mới thì phải bắt đầu từ bộ phận hoàng thất, có ổn định và đoàn kết mới có lợi cho đế quốc mở rộng và lớn mạnh. Trái lại, nếu nội bộ bị chia rẽ, làm cho đế quốc rơi vào sự hao tổn, như thế thì vô lực tiếp tục mở rộng.

Bảo vệ Tứ đệ Nguyên Cát có thể tránh khỏi sự gièm pha của hoàng thất, giữ gìn hình tượng của phụ hoàng và hoàng thất Lý Đường, có lợi cho sự ủng hộ của người trong thiện hạ đối với triều Đường. Nhưng y cũng biết, chỉ bảo vệ Nguyên Cát là chưa đủ, y còn phải tiếp tục trấn an người có liên quan là Lý Hiếu Cung, như vậy mới có thể tránh cho hoàng thất bị chia rẽ, cũng có thể nói là tính toán của Lý Kiến Thành khá chu toàn

Lúc này Lý Kiến Thành khoanh tay đứng ở trên bậc thang, híp mắt nhìn một đám thị vệ dắt ngựa đang đợi ở đối diện. Y nhận ra đây là thị vệ của Nhị đệ Lý Thế Dân, hóa ra Nhị đệ đã ở phủ của Lý Hiếu Cung, cái này cũng hơi trùng hợp.

Lúc này, phía sau y truyền đến một chuỗi tiếng bước chân, Lý Hiếu Cung vội vàng đi ra, khom người nói xin lỗi:

- Khiến thái tử điện hạ ở bên ngoài phủ đợi lâu, thần thật thất lễ!

- Không có gì, đây là ta không mời mà tới, rất đường đột, ta mới phải nói lời xin lỗi

Lý Kiến Thành khẽ mỉm cười, ánh mắt dừng lại ở trên người Lý Thế Dân phía sau Lý Hiếu Cung:

- Nhị đệ cũng tới đây sao?

Lý Thế Dân tiến lên khom người thi lễ:

- Tiểu đệ biết Hiếu Cung trong lòng đau buồn, cho nên đặc biệt tới đây an ủi ông ấy.

- Là vậy sao? Thật sự là trùng hợp, ta cũng đến đây an ủi Hiếu Cung.

Lý Kiến Thành ánh mắt lại nhìn hướng lên bầu trời, tận lực che dấu một tia mất tự nhiên xuất hiện trên mặt y:

- Thời tiết có vẻ không tốt lắm, hẳn là trời sắp mưa.

Cho dù chưa nói tới việc Nhị đệ Lý Thế Dân có thể uy hiếp ngôi vị thái tử của y, nhưng theo tiền lệ của triều Tùy trước, vẫn là sẽ có người không tự chủ được liên hệ tới nó. Không ở đúng vị trí của mình thì sẽ không bàn đến chính sự. nếu đã làm Thái tử, Lý Kiến Thành tự nhiên sẽ phảicủng cố ngôi vị thái tử của y thêm vững chắc, không chỉ lấy được tín nhiệm của phụ hoàng, mà đồng thời cũng phải phòng ngừa những uy hiếp từ người ngoài. Trong tất cả các huynh đệ, Nhị đệ Lý Thế Dân không thể nghi ngờ là uy hiếp lớn nhất của y.

Lý Kiến Thành nói thời tiết không tốt, ý tứ là muốn nhắc nhở Nhị đệ nên cáo từ mà rời đi, nhưng không ngờ Lý Thế Dân lại không có chút nào để ý đến, chỉ cười cười, vẫn như cũng đứng phía sau Lý Hiếu Cung.

Lý Hiếu Cung là chủ nhà, cảm thấy không khí có chút xấu hổ, liền vội vàng cười nói:

- Đừng đứng ở cửa mà nói chuyện như vậy, thái tử điện hạ, mời vào.

Dọc đường đi Lý Kiến Thành vài lần muốn cùng Nhị đệ nói vài câu. Nhưng khi ánh mắt hai người chạm nhau, lại tìm không thấy chuyện để nói. Y vốn là muốn hỏi chiến sự ở Lũng Tây , nhưng nếu nhắc tới Lũng Tây sẽ không thể tránh nói đến chuyện Lý Thế Dân chưa phụng chỉ vào kinh, biết được chuyện này càng thêm xấu hổ, nên hai người vẫn duy trì trầm mặc.

Lý Hiếu Cung đem Lý Kiến Thành mời đến quý khách phòng, ba người ngồi xuống. Lý Kiến Thành ngồi ở vị trí trên cùng, còn Lý Hiếu Cung và Lý thế Dân ngồi ở hai bên, hai thị nữ tiến lên dâng trà.

Lý Kiến Thành thân là Thái Tử, không thể tùy ý xuất cung, y ở bên ngoài dạo chơi một thời gian cũng không thể quá dài. Y không có khả năng cùng mọi người hàn huyên nhiều chuyện, nếu như Nhị đệ không chịu rời đi, y cũng chỉ có thể thẳng thắn nói rồi.

Lý Kiến Thành trầm ngâm một chút rồi nói:

- Ta hôm nay đến chủ yếu muốn đến cùng Hiếu Cung nói chuyện một chút, hy vọng ngươi có thể hiểu được nỗi khổ tâm của Thánh Thượng.

[/QUOTE]

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 618 : Trợ giúp

Lý Hiếu Cung bưng chén trà chậm rãi thưởng thức, cũng không nói gì. Bên cạnh, Lý Thế Dân cũng không nói, nhưng lại có chút không yên lòng, trên tay cầm lấy một khối ngọc bội, dường như lời nói của huynh trưởng Lý Kiến Thành với hắn không có nửa điểm liên quan, hắn giống như chỉ là một người ngồi nghe.

Lý Kiến Thành vừa nói, nhưng ánh mắt lại bị khối ngọc trên tay Nhị đệ hấp dẫn. Y bỗng nhiên nhận ra khối ngọc bội kia chính là vật mà hôm trước Ngũ muội Quế Dương Công chúa ở trước mặt phụ hoàng xuất ra cáo trạng, chính là khối ngọc bội hình con bướm, là tín vật mà chính thân binh của Triệu Từ Cảnh đưa cho Quế Dương Công chúa. Như thế nào ngọc bộ này lại ở trong tay nhị đệ Lý Thế Dân?

Chẳng lẽ Quế Dương Công chúa đã cùng Nhị đệ nói qua chuyện gì sao? Lý Kiến Thành phát hiện kì thật chuyện này Nhị đệ Lý Thế Dân tham dự rất sâu, trong lòng của y xuất hiện một sự nghi ngờ, chuyện này đến cuối cùng còn muốn diễn biến như thế nào nữa?

Mặc dù ở trong lòng suy nghĩ như vậy, nhưng y vẫn không có ngừng nói, hướng Lý Hiếu Cung, thành khẩn:

- Đại Đường vương triều vừa mới được thành lập, lúc này phải giữ gìn đoàn kết và ổn định hoàng tộc mới là trọng yếu, quan hệ đến chuyện chúng ta cuối cùng có lấy được hay không thiên hạ. Thánh Thượng kỳ thật cũng biết sự tình không phải đơn giản như Tề vương nói, nhưng người cũng không có cách nào, lúc này người chỉ có thể đem tình thế bình ổn trở lại, khiến mọi người nhanh chóng quên đi việc này, để tránh ảnh hưởng đến danh dự của hoàng thất. Ta hy vọng Hiếu Cung có thể hiểu được nỗi khổ tâm của Thánh Thượng.

Lý Hiếu Cung còn chưa có nói chuyện, Lý Thế Dân đã không kìm nổi, cười lạnh một tiếng:

- Phụ hoàng có nỗi khổ tâm thì đệ có thể hiểu, nhưng lời giải thích của huynh trưởng lại khiến người khác khó có thể tin phục, thậm chí là hoàn toàn ngược lại.

Lý Kiến Thành lộ ra vẻ mặt cực kì không hài lòng. Đây chính là nguyên nhân y không muốn Nhị đệ có mặt ở trong này, vì hắn sợ Nhị đệ nhúng tay vào việc này, khiến những lời cố gắng khuyên bảo của mình đối với Hiếu Cung trở thành công cốc. Hiện tại chuyện mà hắn lo lắng cuối cùng cũng đã xảy ra, Lý Kiến Thành trong lòng lửa giận bốc lên, y hít một hơi thật dài, khắc chế những bất mãn trong lòng, dùng giọng nói cứng rắn, mạnh mẽ hiếm có mà nói:

- Đệ còn nói! Làm sao lại khó có thể tin phục? Làm sao lại hoàn toàn ngược lại?

Lý Thế Dân vẫn không thèm để ý đến thái độ của huynh trưởng, hắn vẫn như cũng không chút hoang mang nói:

- Thời trung cổ lũ lụt tràn lan, vua Cổn dùng phương pháp vòng vây trị thủy, nhưng kết quả lại càng khiến cho lũ lụt thêm ngập trời. Còn vua Vũ dùng phương pháp khai thông để trị thủy, cuối cùng cũng bình ổn được lũ lụt. Việc hôm nay cũng tương tự như vậy. Tề vương phạm pháp vốn là việc nhỏ, chỉ cần hủy bỏ quan chức, trọng trách của hắn, mọi chuyện liền giải quyết xong, quân lính sẽ cảm thấy Thánh Thượng công chính nghiêm minh. Vương tử phạm pháp cũng phải chịu tội như dân. Phụ hoàng của chúng ta đang gây dựng danh vọng rất cao nhưng giờ lại áp dụng phương pháp xử lý chuyện này kiểu bịt miệng, không chịu xử phạt Tề Vương, trực tiếp coi việc quận Hoằng Nông thảm bại, chuyện Hoàng Quân Hán đầu hàng là ngẫu nhiên sao? Nhưng hiện tại phụ hoàng vẫn là không chịu thừa nhận, tiếp tục làm chuyện thêm trầm trọng, nhưng lại không biết chuyện này có thể ngăn chặn miệng của các tướng sĩ, nhưng ngàn vạn lần không thể chặn lại trái tim họ. Những chuyện nho nhỏ như vậy góp lại sẽ thành lớn, làm người ta đau lòng. Huynh trưởng thân là Thái Tử, không khuyên giải phụ hoàng dũng cảm nhận sai, ngược lại lại bao che dung túng, trợ giúp Tề vương, thế cho nên phụ hoàng trên con đường sai lầm lại càng chạy càng xa, huynh trưởng chẳng lẽ không tự xét lại sao?

Lý Kiến Thành giận dữ, nhìn chằm chằm Nhị đệ Thế Dân, hung hăng nói:

- Vậy đệ muốn như thế nào, chẳng lẽ khiến phụ hoàng đánh chết Tứ đệ, sau đó ra chiếu buộc tội chính mình sao? Có lẽ đây đúng như hy vọng của đệ, dù sao những loại tình cảm huynh để này đối với đệ có cũng được, mà không có cũng chẳng sao.

Lý Thế Dân khóe mắt nhanh chóng nhìn lướt qua Lý Hiếu Cung, thấy gã có vẻ mặt phẫn hận, hắn biết phẫn hận này không phải đối với mình, mà là nhằm vào huynh trưởng Kiến Thành. Mục đích của chính mình đã đạt đến, giọng điệu của Lý Thế Dân dần dần bình thản, hạ xuống:

- Đệ chỉ là cùng luận sự mà thôi, nếu trên triều đã có kết luận như vậy, đệ còn có thể bức bách phụ hoàng nhận tội sai của mình sao? Đệ vẫn là tin tưởng câu nói kia, công đạo đều có trong lòng mỗi người, đại ca rồi một ngày nào đó sẽ vì việc bao che cho Nguyên Cát mà hối hận.

Lý Kiến Thành một phen suy tính không ngờ đến cuối cùng vì có huynh đệ Lý Thế Dân ngồi đây mà không có phát huy ra tác dụng. Y không còn thời gian để cùng Nhị đệ tranh luận nữa, cửa cung đã sắp đóng, y chỉ có thể mang theo tiếc nuối mà ảm đạm rời đi.

Màn tranh luận này cuối cùng lại khiến Lý Thế Dân lấy được lợi ích. Cũng giống như lời hắn nói, Lý Kiến Thành tạo ra áp lực chỉ có thể ngăn chặn miệng của Lý Hiếu Cung, khiến gã duy trì trầm mặc, nhưng Lý Kiến Thành không cách nào ngăn chặn tâm của Lý Hiếu Cung. Mà giờ Lý Thế Dân đã lấy được lòng của Lý Hiếu Cung, thành công đem nhân vật đứng thứ hai trong quân đội của triều Đường kéo về phía mình. Đây cũng là chuyện khiến Lý Kiến Thành chuẩn bị không kịp.

Cái gọi là “ cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng” là chỉ việc Lý Uyên thông qua thiết triều mà đưa ra quyết định về thất bại ở quận Hoằng Nông, ý đồ cưỡng ép bình ổn dư luận, khiến chuyện này không giải quyết được gì, nhưng Trường An không phải chỉ có một thế lực của Lý Uyên.

Chợ Lợi Nhân trong thành Trường An, nơi này vẫn là nơi buôn bán lớn nhất của Quan Lũng. Nó từng suy bại sau một lần triều Tùy dời đô đến Lạc Dương, nhưng khi triều Đường thành lập, nơi này lại bắt đầu trở nên hưng thịnh. Tuy rằng triều đại đã biến đổi như biển cả thành ruộng dâu, nhưng nếu sau thị trường hưng thịnh, của cải cũng sẽtheo triều đại thay đổi mà dời đi. Chín phần mười cửa hàng ở đây vẫn không đổi chủ nhân mới, vẫn như cũ đều là nằm trong tay những quý tộc Quan Lũng.

Ở phía đông nam chợ Lợi Nhân là nơi ở của những người bán thuốc. Nơi này tập trung hơn một trăm hiệu thuốc bắc, mỗi ngày những người muốn mua dược liệu đều ra vào nơi này. Toàn bộ hiệu thuốc ở khu Quan Lũng đều nhập hàng từ nơi đây, khắp phố xá tràn ngập một mùi hương của thuốc đông y.

Ở giữa có một hiệu thuốc khá độc đáo, cả tòa kiến trúc đều được bôi lên một màu đỏ, ngay cả cờ hiệu cũng là một màu đỏ. Hiệu thuốc bắc tên là Bạch Nguyên, ở giữa hơn một trăm hiệu thuốc chỉ cần liếc mắt liền có thể thấy nó. Nhưng màu đỏ ở y dược lúc này khá kiêng kỵ, dễ dàng làm cho người ta liên tưởng đến màu máu tươi, cho nên mọi người tuy rằng thấy được hiệu thuốc bắc, nhưng kinh doanh của hiệu thuốc lại không được tốt lắm, nằm ở mức trung bình kém, mỗi ngày ngoài mười mấy người khách đến nhập hàng, còn lại hiệu thuốc lúc nào cũng vắng ngắt.

Lúc chạng vạng tối, đây cũng là thời điểm kinh doanh kém nhất, các chưởng quầy của các hiệu thuốc khác đều bận rộn tính tiền của một ngày nay. Lúc này, một nam tử trẻ tuổi khoảng mười tám mười chín tuổi đang cưỡi ngựa theo đầu đường chạy tới đây, trên mặt cười hì hì, trong tay mang theo một cái bao, một bàn tay khống chế dây cương, cho thấy thuật cưỡi ngựa thành thạo của y, đồng thời cũng thể hiện y là một người trẻ tuổi hết sức lông bông. Rất nhiều người đều biết y, đó chính là tiểu nhị A Hỉ Lang của hiệu thuốc Bạch Nguyên.

- Chưởng quầy a gia, ta đã trở về!

A Hỉ Lang không đợi ngựa dừng hẳn liền nhảy xuống, đi lại vững vàng, không có chút nào là bị ảnh hưởng bởi quán tính. Cũng là do những người chưởng quầy ở đây không hiểu, nếu như gặp phải kỵ binh hoặc là người Hồ giỏi cưỡi ngựa, nhất định sẽ cả kinh mà trợn mắt há hốc miệng. Những gì A Hỉ Lang biểu hiện ra, đúng là kỹ thuật khống chế ngựa cao siêu.

Sự nhiệt tình của A Hỉ Lang nhận lấy cái nhìn xem thường cùng hung hang. Người gọi là chưởng quầy a gia tuy nhiên mới chỉ ba mươi tuổi. Gã thò người ra ngoài quầy, vươn cánh tay thật dài đập trên đầu A Hỉ Lang. Chỉ cánh tay dài này cũng đủ để người ta ngạc nhiên thán phục, đây quả thật là cung tiễn thủ trời sinh.

Kỹ thuật khống chế ngựa cao siêu, cùng với cung tiễn thủ trời sinh, tất cả những điều này đều ám chỉ hiệu thuốc bắc này quả thật bất thường. Hiệu thuốc bắc này chính là tổng đường tình báo do quân bắc Tùy thiết lập tại thành Trường An

Đường chủ của tình báo đường tên là Tưởng Thông, chính là người có cánh tay dài trời sinh cung tiễn thủ, là chưởng quầy của hiệu thuốc bắc. Hắn ở đây giữ chức vụ Ưng Kích Lang Tướng của triều Tùy, một phần của bắc Tùy nội vệ quân.

Ba năm trước đây tình báo đường ở Trường An được thành lập, giờ đã phát triển với hơn ba trăm người, bên dưới còn có năm điểm tình báo, mà ngôi nhà ở ngoài Đồng Quan chính là một trong các điểm tình báo. Lúc trước cứu Đại Vương Dương Hựu, cũng là nhờ vào tình báo đường phái ra những thám tử có võ nghệ cao cường tới giúp đỡ Tạ Tư Lễ hoàn thành.

A Hỉ Lang biết mình cưỡi ngựa như vậy đã bại lộ thuật cưỡi ngựa, sợ tới mức thè lưỡi, chạy về hướng hậu viên, chưởng quầy Tưởng Thông phía sau đuổi theo, mắng:

- Tiểu tử thối, trước đem thứ đó cho ta rồi hãy chạy tiếp.

A Hỉ Lang lúc này mới thu hồi lại sự vui đùa của mình, lắc mình tiến tới một gian nhà kề, sắc mặt trở nên nghiêm túc. Hắn cũng là một gã thám báo của quân Tùy, tuổi tuy rằng không lớn, nhưng đã nhập ngũ sáu năm, trở thành kỵ binh đã sáu năm, luyện được một thân cưỡi ngựa bắn cung cao siêu, là một gã tuổi trẻ lữ soái, sau lại bị điều đến dưới tay Tưởng Thông, cùng ông ở Trường An làm thám tử tình báo. Mỗi ngày hắn đều phải đi ra ngoại thành lấy thuốc, nhưng thực tế là đi thu phát tình báo. Bọn họ dựa vào Chim ưng đưa thư và liên hệ với Thái Nguyên, nhưng ở trong thành không dám nuôi dưỡng chim ưng, sợ sẽ bị người khác phát hiện.

A Hỉ Lang lấy ra một ống tình báo màu đỏ đưa cho Tưởng Thông, Tưởng Thông sắc mặt lập tức ngưng trọng, chuyện này chứng tỏ có chuyện trọng yếu. Hắn thật cẩn thận từ trong ống trúc rút ra một chiếc khăn lụa mỏng manh, chậm rãi mở ra, trên mặt lại tràn ngập tâm sự.

Tưởng Thông đọc tới đọc lui mấy lần, lại lo nghĩ một chút, rồi ngẩng đầu lên nhìn A Hỉ Lang nói:

- Chúng ta có chuyện phải làm rồi.

Ngày tiếp theo, Trường An vừa mới yên lặng bây giờ dư luận bỗng náo nhiệt hẳn lên. Vốn đã không có bao nhiêu người bàn luận về chuyện chiến sự ở quận Hoằng Nông, nhưng bây giờ chuyện này lại một lần nữa trở thành tiêu điểm. Nhưng khác với mọi lần chính là lần này chuyện đàm luận về chủ đề càng sâu, phạm vi càng rộng. Người Trường An dường như trong một đêm tìm kiếm được chỗ then chốt, rất nhiều chi tiết không bị mọi người chú ý bây giờ bị lôi ra ánh sang. Mà tiêu điểm của dư luận lần này chính là đương kim Hoàng đế Lý Uyên.

Tửu quán Phường Bình Khang là nơi có đông khách nhất, đây là tửu quán nổi danh ở Trường An, chiếm hơn mười mẫu đất, lầu cao bốn tầng. Tửu quán này chính là sản nghiệp của Đậu gia, hàng năm đều mang lại lợi nhuận cuồn cuộn cho họ.

Giữa trưa, trong tửu quán khách uống rượu ngồi đầy, trò chuyện vui vẻ, phá lệ náo nhiệt. Bên cạnh cửa sổ có rất nhiều người đang cùng nhau bàn luận về đề tài này, khiến rất nhiều người hiểu chuyện cũng kéo tới, tay bưng một chén rượu, đứng một bên mà dựng tai nghe.

Kẻ nói chuyện là một môn khách hơn bốn mươi tuổi, râu đen dài một thước, ánh mắt nhạy bén, hết sức dẻo miệng.

- Các ngươi không cảm thấy kỳ quái sao? Hoàng Quân Hán ở bên trong quân doanh triệu tập quan quân từ Giáo Úy trở lên vào nghị sự, người nguyện ý đầu hàng cùng hắn thì ở lại, còn không muốn đầu hàng thì trở về Đồng Quan. Lúc ấy có hơn năm ngàn người quya lại Đồng Quan, khi đó sắc trời vẫn là hoàng hôn, mà Dương Nguyên Khánh một canh giờ sau mới phát động tiến công qua sông, Tề Vương không ngờ lại án binh bất động, điều này chứng tỏ cái gì?

- Điều được chứng minh Tề Vương căn bản là cố ý không cứu viện Hoằng Nông của quân Đường.

Có người lớn tiếng chen vào lời nói, lập tức khiến mọi người xung quanh cảm thấy ngạc nhiên thán phục.

- Vì sao Tề vương phải làm như vậy?

Có người lại hỏi.

Người trung niên cười lạnh một tiếng:

- Rất đơn giản, bởi vì Hà Gian quận vương buộc tội Tề vương đoạt nữ nhân của Hoàng Quân Hán, Tề vương lòng mang thù hận, cho nên tình nguyện để ba vạn quân Đường toàn bộ bị tiêu diệt, y cũng sẽ không đưa ra người nào để cứu viện.

Trong tửu quán lập tức vang những thanh âm mắng to, ba vạn quân toàn bộ bị tiêu diệt, tuyệt đại bộ phận đều là con cháu của Trung Quan, rất nhiều người đều có bằng hữu thân thích ở trong đó.

- Con mẹ nó, rốt cuộc cái tên cứt chó Tề vương có đoạt nữ nhân của Hoàng Quân Hán hay không, trên thánh chỉ không nói có đoạt hay không sao?

Người trung niên vừa muốn nói chuyện, một gã tiểu nhị của tửu điếm đã chui vào gõ cái bàn, cảnh cáo người trung niên:

- Chưởng quầy kêu ngươi nói chuyện thì coi chừng một chút, đừng có dính đến Thánh Thượng.

Người trung niên lạnh lùng cười, hướng đến mọi người nói:

- Tất cả mọi người ở đây cũng không phải là đồ ngốc, đều có thể chính mình suy nghĩ. Một người là thân vương, một người chỉ là tướng lĩnh bình thường, ai là người vu cáo, ai là người vô tội?

Trong tửu quán lập tức một mảnh xôn xao.

Từ chuyện ở trong tửu quán nổi tiếng này đã tạo nên phong ba trong thành Trường An. Mấy ngày nay các tửu quán, nhà trọ, thanh lâu, cửa hàng lớn nhỏ ở Trường An đều bàn luận chuyện này. Những dân chúng biết chuyện ở Trường An cũng dần dần bị điều động, bắt đầu có những người nhà của các tướng sĩ ôm linh bài đến ngoài cửa Hoàng thành Chu Tước khóc rống, yêu cầu triều đình nghiêm trị Tề vương, để có một câu trả lời hợp lí đối với những tướng sĩ đã hi sinh.

Mọi người tụ tập ngày càng nhiều, thậm chí đến ngày thứ ba có hơn mấy nghìn người quỳ gối trước Hoàng thành mà khóc lóc nức nở, thanh thế cực lớn, chặn lại những xe ngựa để khóc lóc kể lể, trở ngại những quan viên vào triều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đi lại của triều đình. Đúng lúc này, trong quân doanh Bá Kiều truyền đến tin tức, xuất hiện hiện tượng binh lính trốn chạy.

Áp lực của dư luận thật lớn khiến cho Lý Uyên sứt đầu mẻ trán, hắn cuối cùng không thể không đối mặt với sự thật.

Trong nội cung Cam Lộ điện, Lý Nguyên Cát quỳ gối trước mặt phụ hoàng Lý Uyên. Lúc này đây không chỉ có hai người là Lý Uyên và Lý Nguyên Cát, mà bao gồm cả Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung, đồng thời còn có mẫu thâu của Lý Nguyên Cát, Hoàng hậu Đậu thị đang lo lắng nhìn nhi tử của mình.

- Bây giờ ngươi còn không có ý định nói thật, phải không?

Lý Uyên lạnh lùng nhìn nhi tử.

Lý Nguyên Cát cuối cùng cũng không gánh được. Trong thành Trường An bỗng dưng xuất hiện những dư luận tạo ra áp lực thật lớn khiến hắn bị vây vào trung tâm cuả cơn gió lốc chính trị, lúc này Lý Nguyên Cát trở thành nơi để ngàn người chỉ trích. Hắn cho dù như thế nào cũng không nghĩ ra, hắn chỉ có một lần rất tùy ý cưỡng đoạt nữ nhân, nhưng không ngờ lại xuất hiện hậu quả nghiêm trọng như thế. Môi của hắn run rẩy, nhưng làm thế nào cũng không nói nên lời.

Lý Uyên là lần đầu phải đối mặt với áp lực chính trị lớn như thế này, nên lời nói của y cũng không được vẹn toàn, ý chỉ chính thức cũng đã ban. Hiện tại cho dù Lý Nguyên Cát thừa nhận, y cũng không biết làm thế nào mới tốt, chẳng lẽ thật sự muốn y tự hạ chiếu buộc tội mình bao che cho nhi tử sao? Chuyện này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của bậc đế vương, sai một ly, đi một dặm. Lý Uyên cũng biết chuyện này quan trọng, khiến dao động quân tâm. Thật sự nếu mình không nghiêm trị nhi tử, tìm lại cho người nhà binh lính một công đạo, như vậy quy mô binh lính chạy trốn sẽ càng rộng.

Lý Thế Dân nhìn đến huynh đệ của mình lúc này đang do dự, không muốn thừa nhận. Y nghĩ đến lúc trước Lý Nguyêt Cát vứt bỏ mình ở Thái Nguyên, làm hại chính mình thiếu chút nữa chết ở Hà Đông, nghĩ đến gã háo sắc, ác độc và ích kỷ đã làm cho Hoằng Nông thảm bại, trong lòng lửa giận bao lâu nay bây giờ bạo phát, chỉ vào Lý Nguyên Cát rống to:

- Ngươi còn không chịu thừa nhận! Ngươi là một tên đại họa, có phải ngươi muốn chúng ta mất nước Đại Đường, để cho Lý gia diệt chủng, ngươi mới chịu từ bỏ ý đồ của mình?

Lý Kiến Thành lửa giận cũng bạo phát, nhưng lửa giận của hắn lúc này là nhằm vào Lý Thế Dân. Chuyện này vốn đã bình ổn nhưng bây giờ lại một lần nữa gợn sóng, hắn hoài nghi chính Lý Thế Dân đã đứng sau chuyện này mà phá rối, trong giọng nói của Lý thế Dân cũng không nhìn ra một tia tình huynh đệ, chắc chắn nếu y có thể, y nhất định sẽ giết chết Nguyên Cát.

Một cỗ nhiệt huyết tiến vào trong đầu của Lý Kiến Thành, hắn cũng chỉ thẳng vào Lý Thế Dân hô:

- Ngươi câm miệng! Ở trước mặt phụ hoàng ngươi không có tư cách ra lệnh cho người khác.

Lý Thế Dân cũng không nhượng bộ chút nào, trợn mắt lạnh lùng nhìn:

- Ngươi thân là Thái tử của một quốc gia, chẳng những không khuyên bảo phụ hoàng đúng lúc mà sửa sai, ngược lại lại giật dây mong muốn phụ hoàng bao cho kẻ ác nhân. Xuất hiện hậu quả ngày hôm nay, ngươi còn không biết sai, còn không hối cải, còn muốn bao che cho hắn, vì hắn mà xã tắc Đại Đường bị phá hủy, ngươi còn xứng với chức Thái Tử sao?

Hai nhi tử nội chiến khiến Lý Uyên tức giận đến cả người phát run. y run rẩy chỉ ngón tay vào hai huynh đệ:

- Các ngươi... Các ngươi!

Y bỗng nhiên trước mắt tối sầm, thân hình mềm nhũn ngã xuống đất, ngất đi, mọi người lập tức luống cuống tay chân, hô to:

- Thánh Thượng!

- Phụ hoàng!

Lý Uyên nằm trên giường bệnh bị ép phải viết chiếu hạ tội mình, bởi vì y không thể kịp thời triệu lùi Tề vương, làm cho trận chiến ở Hoằng Nông đại bại. Y hướng tới tất cả người nhà của các tướng sĩ tạ lỗi, cũng tước bỏ tước hiệu Tề vương của Lý Nguyên Cát, giáng xuống làm thứ dân, hạ tội gã phạm phải hành vi phạm tội giao do đại tam ti hội thẩm.

Huynh đệ Lý Thế Dân và Lý Kiến Thành cũng vì chuyện này mà bất hòa, quan hệ huynh đệ bắt đầu xuất hiện sự rạn nứt. Một sự kiện nho nhỏ như vậy nhưng đã dẫn tới hậu quả chính trị nghiêm trọng.

Dựa theo hiệp định giữa Dương Nguyên Khánh và Vương Thế Sung đã đạt thành, sau khi quân Bắc Tùy trú binh ba ngày ở quận Hoằng Nông, sẽ qua sông quay trở về quận Hà Đông, cùng lúc đó, giữa vương triều Bắc Tùy và Đường đã trao đổi hiệp nghị, dùng Đậu Đản, Vũ Văn Hâm, Lưu Chính Hội, ba vị trọng thần đổi lấy hơn mười ngàn tù binh quân Đường. Lúc này hơn mười ngàn tù binh này đã chính thức bị biên chế trở thành quân Bắc Tùy, và đều giống với các quân tướng sĩ Bắc Tùy khác. Nhà của bọn họ cũng đồng dạng có thể được ban cho đất đai và về phương diện thuế má thì được ưu đãi.

[/QUOTE]

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 619 : Mối hận mất nước

Dương Nguyên Khánh để quân sĩ ở quận Hà Đông nghỉ ngơi và chỉnh đốn mấy ngày, chuẩn bị trở về Thái Nguyên, đại quân Bắc Tùy bắt đầu điều tra về tình hình người nhà với quy mô lớn. Dựa theo bình quân một tên binh lính có ba người nhà cứ thế mà tính toán, lần này có mấy chục ngàn người dời đi Hà Đông. Đương nhiên, cũng không phải người nhà nào đều tình nguyện chuyển về phía Đông, nhưng dựa theo tính toán, phỏng chừng cũng có ba mươi ngàn người từ các nơi ở Quan Lũng dời đi Hà Đông.

Nhóm đầu tiên gồm có hơn mười hai ngàn gia đình quân nhân theo qua sông Bồ Tân, dưới sự hướng dẫn của quan viên Bắc Tùy, vội vàng dắt xe bò, ngựa, lừa mang theo toàn bộ gia sản ít ỏi, dìu già dắt trẻ đi qua cầu nổi.

Ngay lúc Dương Nguyên Khánh điều quân tác chiến ở quận Hoằng Nông, là lúc mười mấy tên quan viên và hơn ba trăm học sinh từ Thái Nguyên chạy tới quận Hà Đông sẵn sàng chuẩn bị tiếp đón số gia đình quân nhân. Lần này tiếp nhận các gia đình quân nhân là do Hộ Bộ Thượng Thư Đỗ Như Hối toàn quyền phụ trách, Dương Nguyên Khánh vừa mới trở về phủ Nguyên soái Hà Đông liền lập tức bổ nhiệm Trưởng sử Lý Tĩnh dẫn mười ngàn quân đội tới trợ giúp.

Trong vùng đất trống ở giữa trong vòng hơn mười dặm từ Bồ Tân qua đến Hà Đông đã dựng lên mấy ngàn căn lều trại. Bên cạnh sông Hoàng Hà được đặt hơn mười bàn lớn, dựa theo các quận huyện Quan Lũng lần lượt đăng ký. Trước mỗi bàn lớn đều có một đội ngũ xếp hàng thật dài, một vị quan viên và một học sinh phụ trách một bàn. Trong đó quan viên làm thủ tục đăng ký, còn học sinh ở một bên lật xem danh sách binh lính, tra tìm đối chiếu với binh lính, viết lời chú giải ở dưới tên.

Dương Nguyên Khánh được mấy trăm thân binh hộ vệ đi xuống, đứng thị sát tình hình đang diễn ra ở bên bờ sông Hoàng Hà, rồi hắn lập tức lên thuyền khởi hành, hắn cần nói với Đỗ Như Hối vài câu.

Dương Nguyên Khánh xoay người xuống ngựa. Chậm rãi đi đến trước ba chiếc bàn lớn, cười híp mắt nhìn nhóm di dân đang làm thủ tục đăng ký. Người phụ trách đăng ký là một quan viên rất trẻ tuổi, chỉ khoảng hai mươi, họ Tiếu, là một vị tòng sự Bộ hộ. Anh ta và một học sinh trẻ tuổi khác phụ trách đăng ký cho thân nhân binh lính ở ba huyện: huyện Quắc, huyện Trần Thương và huyện Hòa Mi.

Hai người thấy Dương Nguyên Khánh đứng ở phía sau bọn họ, sợ tới mức lập tức đứng lên, vội vàng thi lễ,

- Ty chức không biết tổng quản ở sau người ta, xin thứ lỗi.

Dương Nguyên Khánh khoát tay cười nói:

- Cứ làm việc bình thường, không cần quan tâm đến ta.

Hai người ngồi xuống, lúc này đến lượt một vợ chồng già dẫn theo con dâu và cháu trai, tổng cộng bốn người, ông lão khom người cười:

- Con ta tên là Tống Đạo Vũ.

Vẻ mặt Tòng sự ôn hoà cười nói:

- Lão nhân gia không cần khẩn trương, mời nói cho ta biết: ông thuộc thôn, xã, huyện nào?

Tiểu nhân là người ở huyện Trần Thương, xã Bản Kiều, Tống gia thôn, con trai tên là Tống Đạo Vũ.

Tòng sự cầm bút viết nhanh lên tấm thẻ giấy cứng, học sinh ở bên cạnh lấy danh sách tra tìm. Ánh mắt Dương Nguyên Khánh nhạy bén, lập tức nhìn thấy. Hắn tự tay chỉ vào tên Tống Đạo Vũ, cậu học sinh mặt đỏ lên, hỏi:

- Lão nhân gia tên là Tống Trường Đệ phải không?

Ông lão ha hả cười nói:

- Chính là ta, cả nhà chúng ta từ trước đến nay đều nương nhờ vào đứa con này.

Làm đăng ký xong, giao cho lão một miếng thẻ đồng cười nói:

- Lão cầm lấy thẻ đồng này đi về phía sau lều lớn nghỉ ngơi. Thẻ đồng này nhất định phải bảo quản cho tốt, khi các quận huyện cung cấp đồ ăn đều phải dựa vào thẻ này mà lĩnh.

- Nhất định cất kỹ! Nhất định cất kỹ!

Ông lão đem thẻ đồng cất vào người, bà vợ bên cạnh ông ta lại lầm bầm nói:

- Chỉ có một tấm thẻ đồng thôi à, cái gì cũng không cho nữa sao?

Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười, cao giọng hướng tới tất cả gia đình quân nhân nói:

- Mọi người trước tiên về phía lều lớn ở phía sau nghỉ ngơi, lúc nào xuất hiện tình hình đặc biệt lúc ấy sẽ cấp cho mỗi gia đình một con ngựa, ba tấm da dê, năm đấu gạo và hai mươi xâu tiền, sẽ có quân sĩ hộ vệ mọi người tiến về phương Bắc.

Những người xếp hàng xung quanh đều hưng phấn lên, rõ ràng còn có thể nhận một con ngựa, mọi người đều xì xào bàn luận. Cụ già này là người từng trải nhiều, nhìn ra Dương Nguyên Khánh có thân phận không giống bình thường, thấy bên cạnh hắn có nhiều tùy tùng như vậy, lão bèn cười rồi tiến lên kéo Dương Nguyên Khánh qua một bên, thấp giọng hỏi:

- Xin hỏi vị tướng quân này, quân bắc Tùy có thể cho chúng ta bao nhiêu đất đai, nghe nói còn có thể miễn thuế hả?

- Còn tùy nơi mà lão muốn đến, nếu nguyện ý đi quận Định Tương, mỗi gia đình sẽ được cấp 150 mẫu đất vĩnh viễn. Nếu bố trí định cư ở quận Mã Ấp là 120 mẫu, quận Lâu Phiền là tám mươi mẫu, quận Thái Nguyên chỉ có bốn mươi mẫu, mà nam quận Thái Nguyên chỉ có ba mươi mẫu. Dù sao phương bắc đất đai cũng rộng lớn hơn, đều miễn thuế như nhau, năm năm miễn thuế, sau năm năm giảm phân nửa, nếu binh lính bỏ mình, gia đình quân nhân sẽ được miễn thuế mãi mãi.

Dương Nguyên Khánh nhìn thấy ông lão hơi do dự, liền cười hỏi:

- Ông lão tình nguyện đi nơi nào định cư?

Trên mặt ông lão lộ ra vẻ khó nghĩ, ông ta muốn định cư ở quận Thái Nguyên, nghe nói phương bắc có người Đột Quyết, nhưng ở đấy đất đai được cấp lại nhiều hơn hấp dẫn lão, 150 mẫu đấy! Chỉ việc đem đi bán thì chuyện giàu lên cũng không có gì khó. 

- Chuyện này... Ta muốn thương lượng với con trai một chút, đa tạ Tướng quân, xin hỏi tướng quân họ gì.

- Ta họ Dương.

Dương Nguyên Khánh cười nói.

- Ồ! Họ Dương, cùng một họ với Hoàng đế Bắc Tùy Dương Nguyên Khánh à.

Lúc này, từ phía sau Dương Nguyên Khánh truyền tới một thanh âm giòn giã giã,

- Ông lão, vị tướng quân trước mặt ngươi chính là Dương Nguyên Khánh, chỉ là người không phải Hoàng đế Bắc Tùy, mà là Sở Vương.

Dương Nguyên Khánh vừa quay đầu lại, chỉ thấy Công chúa Đan Dương Dương Phương Hinh đang đứng ở phía sau hắn, mặt nàng được che bởi một chiếc khăn lụa mỏng manh, mơ hồ có thể thấy khuôn mặt của nàng. Rất mơ hồ, trong giọng nói của nàng cũng không có ý cười, cũng không có ý giận, mà là một loại giọng điệu rất bình thản, khiến người nghe khó đoán được ý nghĩa chân chính. Tiểu cung nữ Ngọc nhi đứng ở sau lưng nàng, vẻ mặt cười như hoa nở.

Ông lão nghe nói vị tướng quân tuổi trẻ ở trước mặt chính là Dương Nguyên Khánh người nổi tiếng thiên hạ, vậy mà mình còn kéo cánh tay của hắn, sợ tới mức vôi vàng quỳ xuống,

- Tiểu dân không biết, mong Hoàng Đế Bệ Hạ tha mạng!

Người bên cạnh đều kinh hô, lập tức lui về phía sau, vài tên thân binh tiến lên, vây Dương Nguyên Khánh vào giữa đội ngũ, Dương Nguyên Khánh nâng ông lão dậy, cười trấn an hắn nói:

- Lão nhân gia không cần sợ hãi, con của ngươi là binh lính của ta, vậy cũng là trưởng bối của ta, nhưng ta không phải Hoàng đế, lần sau gặp ta, gọi ta là Dương tổng quản, vậy là tốt lắm rồi.

Ông lão trong lòng cảm kích, chắp tay nói:

- Đa tạ Dương tổng quản đã đưa cả nhà chúng ta đến đây, để cho chúng ta có thể đoàn tụ.

Dương Nguyên Khánh vỗ vỗ ông lão, chỉ vào một gã thân binh nói:

- Đưa cả nhà ông lão đến lều lớn nghỉ ngơi. Nói cho quan viên nơi đó, nói là ta có lệnh, phàm những ai là người già, phụ nữ và trẻ em, đều được cấp thêm một lừa, để bọn họ không phải đi bộ.

Ông lão vái tạ thiên ân, dẫn người nhà đi theo thân binh đến lều lớn, khi đi ra được mấy chục bước. Ông lão bỗng nhiên xoay người dùng hết khí lực toàn thân cao giọng hô to:

- Hoàng Đế Bệ Hạ vạn tuế!

Ông ta lại lần nữa hô to:

- Hoàng Đế Bệ Hạ vạn tuế!

Trong đội ngũ bắt đầu có người bắt chước ông ta hô lên,

- Hoàng Đế Bệ Hạ vạn tuế!

Càng ngày càng nhiều người hô lên:

- Hoàng Đế Bệ Hạ vạn tuế!

Tiếng la vang tận mây xanh. Dương Nguyên Khánh cười ôn hòa chắp tay về phía mọi người, tỏ vẻ cảm tạ mọi người.

Lúc này, Dương Phương Hinh cười lạnh một tiếng nói:

- Dương tổng quản. Ngươi dường như rất thích?

- Bọn họ muốn hô, ta cũng không ngăn cản được.

Dương Nguyên Khánh vẫy tay, bất đắc dĩ cười khổ nói:

- Nàng cũng tận mắt nhìn thấy rồi đấy, đây không phải chủ ý của ta, Công chúa điện hạ à!

Ánh mắt Dương Nguyên Khánh dừng lại ở trên khuôn mặt của Công chúa Đan Dương. Ánh mắt lợi hại của hắn dường như nhìn thấu qua khăn sa mỏng, Dương Phương Hinh cũng không sợ loại ánh mắt đó, đi về phía trước một bước, một ngọn lửa phẫn nộ trong mắt tỏa ra ngày càng lớn, tuy rằng nàng chỉ có mới mười ba tuổi. Nhưng quốc gia mất đi là đả kích khiến nàng trở nên kiên cường, không còn là tiểu Công chúa trước kia được nuông chiều yêu quý nữa. Nàng căm tức nhìn Dương Nguyên Khánh, hàm răng trắng như tuyết khẽ nói,

- Ngươi và Vũ Văn Hóa Cập có gì khác nhau chứ?

Ánh mắt kia của Dương Nguyên Khánh bỗng biến mất. Trở nên dịu dàng hẳn lên, khiến cho người ta cảm thấy ấm áp, hắn mỉm cười, dịu dàng nói với nàng:

- Công chúa hẳn là ở trên thuyền mới đúng, như thế nào chạy đến nơi đây?

Ánh mắt Dương Nguyên Khánh lại nhanh chóng liếc qua tới nơi cách đó không xa có hơn mười người thân binh hộ vệ công chúa, vẻ mặt tươi cười biến mất, trong mắt chớp động hiện lên sự bất mãn. Bờ sông Hoàng Hà nhiều người dễ hỗn loạn, bọn họ sao có thể để Công chúa tùy ý lên bờ?

- Bọn chúng luôn chấp hành đúng mệnh lệnh của ngươi!

Lửa giận trong mắt Dương Phương Hinh biến mất, kỳ thật trong nội tâm nàng cũng hiểu được, Dương Nguyên Khánh cũng không hy vọng dân chúng hô loạn lên như vậy, chỉ có điều trong nội tâm nàng vẫn căm hận.

[/QUOTE]

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 620 : Trở về Thái Nguyên .

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 620 : Trở về Thái Nguyên .

Nàng căm hận bất kỳ một thứ gì cướp đi danh hiệu của phụ thân nàng, bọn họ đều là hung thủ giết phụ thân nàng. Dương Nguyên Khánh cũng không ngoại lệ, nàng tận lực khắc chế hận ý trong lòng, giọng nói bình thản như trước, nhưng trong giọng nói tràn đầy lạnh lẽo,

- Không phải sao? Hơn nữa ta đã thành thật thực hiện giống như trong lời hứa của ngươi.

- Lời hứa của ta? Dương Nguyên Khánh có chút khó hiểu.

Trong lòng bàn tay Dương Phương Hinh xuất hiện một miếng ngân bài, trong giọng nói chứa một chút trào phúng,

- Ngươi đã quên sao? Đây là vật ngươi cho ta, ta có thể dùng nó để rời khỏi bất cứ lúc nào, cho nên ta ra lệnh với bọn họ. Ta muốn rời khỏi đây, bọn họ chỉ có thể để cho ta lên bờ, kết quả ta phát hiện ngươi cũng không giữ lời, bọn họ vẫn đi theo ta.

Dương Nguyên Khánh cười cười, hắn thật sự đã quên, ngân bài là lúc ấy đưa cho nàng an tâm, chẳng qua là món đồ chơi dỗ trẻ con mà thôi, làm sao có thể thật sự cho nàng rời khỏi, ánh mắt của hắn lại dần trở nên có chút lợi hại hơn, nhìn chăm chú vào nàng nói:

- Nàng có thể rời khỏi Hà Đông, nhưng thân binh của ta vẫn đi theo nàng, hơn nữa nàng cũng chỉ có ba cơ hội để rời đi, không nên dễ dàng lãng phí.

- Nói sau đi! Nói không chừng đây là lần cuối cùng, ta sẽ rời khỏi nơi này mãi mãi, không bao giờ ... trở về nữa.

Trong giọng nói của Dương Phương Hinh có chút ý cười cợt, nhưng loại này ý cười cũng không làm người ta vui vẻ, mà là một kiểu cười lạnh, còn có một chút căm tức khi bị lừa gạt. Hôm nay nàng lợi dụng ngân bài này làm một phép thử, nàng phát hiện thật sự không có thể rời khỏi nơi đây.

Dương Phương Hinh liền dừng bước trước mặt tiểu tỳ Ngọc nhi lạnh lùng nói:

- Nếu ngươi còn cười ngây ngô cười với hắn, về sau cũng đừng có đi theo ta, hãy theo hắn mà cười ấy, ngươi cũng có thể gọi hắn là Hoàng Đế Bệ Hạ.

Mặt Ngọc nhi bỗng dưng đỏ bừng, nhỏ giọng nói:

- Công chúa, lời này của người là như thế nào chứ, Dương tướng quân chính là ân công của chúng ta mà!

Dương Phương Hinh quay đầu lại liếc nhìn Dương Nguyên Khánh, vẫn như trước dùng một loại giọng điệu lãnh đạm nói với Ngọc nhi:

- Nợ ân tình của hắn ta về sau tự nhiên sẽ trả, nhưng không cần phải a dua như vậy, đi thôi!

Dương Phương Hinh xoay người nghênh ngang rời đi, Dương Nguyên Khánh nhìn bóng lưng mảnh mai, dường như còn non nớt của nàng. Trước giờ hắn vẫn xem nàng như là đứa nhỏ, nhưng hiện tại hắn chợt phát hiện, nàng đang dần dần trưởng thành. Trong lịch sử, nàng là Dương phi của Lý Thế Dân, không biết nàng khi đó, đối mặt với Lý Thế Dân thì là một con người có tính cách như thế nào?

- Tổng quản, Công chúa tuổi nhỏ nên cao ngạo, thật sự không hiểu được chuyện tri ân đồ báo (có ơn tất báo).

Bên cạnh một gã thân binh thấp giọng phàn nàn nói.

Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu,

- Nàng là Công chúa mất nước, không phải dân nữ bình thường, không thể dùng cách bình thường để đối đãi với nàng.

Giọng nói của Dương Nguyên Khánh rất nhỏ, dường như chỉ có chính hắn nghe thấy, hắn lầm bầm lầu bầu, nói:

- Nàng kỳ thật một chút cao ngạo cũng không có, áp lực của nàng quá lớn. Nếu đánh giá một cách sâu xa, có thể cảm giác được trong nội tâm nàng sợ hãi như thế nào.

...

Trở lại trong khoang thuyền, Dương Phương Hinh nhào người lên giường, thất thanh khóc rống lên. Hôm nay rốt cục nàng ý thức được mình là Công chúa mất nước rồi. Cái gọi là Bắc Tùy, bất quá là trăng trong nước, hoa trong kính, Dương Nguyên Khánh cuối cùng cũng sẽ xưng Đế, Đại Tùy nhất định bị diệt vong.

Nàng vừa hận mình yếu đuối. Nàng muốn vĩnh viễn rời xa nơi này, nhưng nàng thật không có dũng khí rời khỏi, nàng còn không biết mình có thể đi nơi nào? Đại Tùy mất nước rồi, thiên hạ tuy rộng nhưng lại không có nơi nào cho nàng sống yên ổn, khắp nơi đều nhìn nàng chằm chằm như hổ rình mồi, nàng dường như bị những ánh mắt ấy xé thành từng mảnh nhỏ. Mất nước khiến nàng bỗng nhiên cảm thấy vô cùng sợ hãi, không có chỗ nào cho nàng dựa vào, nàng co cuộn người lại, nước mắt tràn mi mà ra, muốn hét lên cho thỏa nỗi lòng, "Phụ hoàng, mau tới cứu con!"

Đội tàu rời khỏi bến Bồ Tân, một mạch Bắc tiến. Lúc này con thuyền đi ngược dòng, bên hai bờ sông đang vận chuyền hàng hóa, mấy trăm người ra sức kéo con thuyền tầng nặng hai ngàn thạch. Thuyền chậm rãi hướng về phía bắc mà đi, lúc này đây Dương Nguyên Khánh cũng không đi đường bộ, mà là đi đường thủy. Hắn chính là muốn đích thân khảo sát giá trị của cách vận tải đường thuỷ.

Dương Nguyên Khánh vẫn có ý tưởng, thông qua đường thủy này liên kết Phong Châu và Thái Nguyên với nhau. Bây giờ chỉ là vận chuyển lương thực đến bến Hoàng Hà quận Ly Thạch, tiếp đó lợi dụng súc vật kéo lương thực đến Thái Nguyên. Vì thế, ở bến quận Ly Thạch đã thành lập nên những kho hàng chứa vật tư thật lớn, bao gồm cả kho lúa, phái trọng binh canh gác. Hắn ở Phong Châu tích góp từng tí một cũng đã được hơn một trăm ngàn thạch lương thực, đến bây giờ còn chưa vận chuyển xong.

Hắn cũng từng suy xét mở một kênh đào, từ quận Ly Thạch đến quận Tây Hà, liên kết Hoàng Hà và Phần Thủy lại với nhau, nhưng khu trung gian có Lữ Lương Sơn, với thế núi liên miên, hùng vĩ vừa cao lại dốc, khiến ý nghĩ của hắn không thể thực hiện được. Tháng trước, mười ngàn thạch lương thực đã được vận chuyển đến bến sông ở Phong Châu để đưa đi bằng đường sông, lại từ bến sông Phần thủy chuyển tới phía Bắc, cuối cùng thuận lợi đã tới Thái Nguyên.

Chuyện này chấn động một thời, mặc dù lộ trình dài hơn nghìn dặm, nhưng cũng đã can đảm thử một lần, tuy nhiên phương án này cũng có chỗ rườm rà, nguyên nhân là khi hồ Long Môn cạn cần phải một lần nữa dỡ hang xuống. Nhưng so với việc súc vật kéo hàng rồi vượt qua Lữ Lương Sơn, đi thêm mấy trăm dặm mới vận chuyển đến được Thái Nguyên lại tiện lợi hơn nhiều. Chỉ có điều lộ trình cách xa, thời gian tiêu hao cũng nhiều hơn nửa tháng.

Phương án này cần nhiều lần vận chuyển thực tế, hoàn toàn thành thục, mới có thể phê chuẩn, tuy nhiên điều này lại cho Dương Nguyên Khánh một gợi ý thật lớn. Đó là khi có thể đi thuyền đến Phần Thủy, như vậy tương lai quân đội của hắn cần vật tư để tiến quân vào Trung Nguyên, liền có thể đi Phần Thủy đến Hoàng Hà, không cần hao phí ngàn vạn con súc vật gian nan kéo hàng.

Tùy Đường có hồ Phần Thủy rộng lớn, lượng nước dồi dào, xấp xỉ bằng hồ Hán Thủy, là tuyến đường thủy chính xuyên qua Nam Bắc Hà Đông. Thời Xuân thu Tấn quốc chính là nhờ nó mà hưng thịnh. Hôm nay Dương Nguyên Khánh cố ý đi lên phía Bắc qua Phần Thủy, chính là muốn tự xem thử con đường thủy nổi tiếng của Tần quốc năm xưa như thế nào. Ngạn ngữ có câu: 'Phần thủy thanh, Tấn Trung hưng" nói đúng là nếu vận chuyển trên đường thủy hưng thịnh thì có thể khiến toàn bộ kinh tế Hà Đông đi lên.

Mấy ngày về sau, đội tàu tiến nhập vào Chiêu dư trạch, nơi này còn gọi là Cửu trạch, là một vùng hồ lớn nằm giữa huyện Bình Diêu, Giới Hưu, Văn Thủy, và huyện Kỳ. Vùng này mặt hồ có gió tây nam, các thuyền đều căng buồm lên, con thuyền chậm rãi lướt đi trên mặt nước.

Dương Phương Hinh một mình đứng ở đầu thuyền. Lông mi thật dài rủ xuống, ánh mắt dừng lại trên mặt hồ, cái nhìn thật sâu sắc. Trải qua gần mười ngày đi đường tâm tình của nàng đã hoàn toàn bình tĩnh, dần dần tiếp nhận sự thật ở trước mắt. Tuy rằng trên danh nghĩa bắc Tùy cũng không phải hoàn toàn là triều Tùy, nhưng dù sao nếu so với bất kỳ một chính quyền nào khác, thì nó cũng giống triều Tùy nhất.

Nàng tựa như một nàng thiên nga cô đơn, rất hỉ hoan khi được ở một mình, suy tư, có khi cả ngày cũng không nói câu nào.

- Đang nghĩ gì vây?

Không biết từ khi nào, Dương Nguyên Khánh đã đến bên cạnh nàng, cũng đồng dạng nhìn mặt hồ. Trên mặt mang nét dịu dàng tươi cười.

Nếu như là vài ngày trước, khi Dương Nguyên Khánh đứng bên cạnh nàng, nàng sẽ lặng yên xoay người rời đi. Cho hắn sự lãnh đạm và coi thường, nhưng hôm nay nàng không rời đi, hai tròng mắt giấu dưới vành mũ trúc có vẻ mỹ lệ mông lung, vẻ mặt làm người ta khó có thể phỏng đoán. Hôm nay nàng không có đeo khăn sa mỏng che mặt.

Dương Nguyên Khánh cũng là lần đầu tiên nhìn thấy dung nhan thật sự của nàng, bên cạnh hắn là một khuôn mặt nổi bật, da thịt trong suốt như ngọc, lông mi thật dài nhẹ nhàng khép lại, như hồ sâu lại giống như mộng như ảo toát lên từ đôi mắt to của nàng. Cái mũi thẳng, môi đỏ mọng, mượt mà tạo ra một đường cong tinh mĩ. Đây là vẻ đẹp tuyệt trần của một thiếu nữ, có một chút còn hơi ngây ngô, nếu như nàng đã trưởng thành chắc chắn là một tuyệt thế giai nhân.

- Ta suy nghĩ, mặt này hồ Thủy Thiên trăm năm sau sẽ biến thành như thế nào? Hay sẽ vẫn trong suốt xanh thẳm như hôm nay?

Giọng nói Dương Phương Hinh rất bình tĩnh, bình tĩnh đến mức dường như không mang theo nhiễm một chút bụi trần, không có bất kỳ cảm xúc. Nàng cố hết sức phủ cho mình thêm một tầng bảo hộ, không cho bất cứ kẻ nào có thể nhìn thấu tâm tư của nàng, nàng đã dần dần biến dung mạo thành một thứ để bảo vệ cho tâm hồn.

- Ta biết, ngàn năm sau, mặt hồ nước đã biến mất, biến thành ruộng dâu.

Dương Nguyên Khánh khẽ cười cười, quay đầu lại nhìn chăm chú vào nàng, vừa lúc Dương Phương Hinh cũng quay đầu trông lại, nàng cuối cùng không có che dấu sự kinh ngạc, trong ánh mắt xinh đẹp của nàng toát ra, dường như đang hỏi Dương Nguyên Khánh, ngươi làm sao biết được?

- Cả vùng đại địa này giống như một giọt nước mắt, một ngày nào đó sẽ khô cạn thôi.

Dương Nguyên Khánh thản nhiên nói.

[/QUOTE]

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 621 : Sĩ tử tập hợp .

- Cả vùng đất giống như một giọt nước mắt.

Dương Phương Hinh cúi đầu lẩm nhẩm hai lần, hai tròng mắt càng thêm mông lung, những lời này làm cho nàng cảm nhận được một loại vẻ đẹp thê lương.

- Sau khi trở về Thái Nguyên, nàng có đồng ý ở lại cung Tấn Dương hay không, hay là muốn ở trong phủ của ta?

Dương Nguyên Khánh lại dịu dàng hỏi nàng.

- Ta cũng không biết!

Dương Phương Hinh cúi đầu thở dài một tiếng, nàng không nghĩ sẽ ở thâm cung nữa, nhưng cũng không muốn ở trong phủ của Dương Nguyên Khánh. Nàng rất thông minh, nàng biết Dương Nguyên Khánh tuy là tới hỏi nàng, nhưng trên thực tế hắn đã quyết định rồi.

- Ta không tự chủ được, do ngươi quyết định đi!

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu,

- Vậy ở phủ của ta, tỷ tỷ của nàng sẽ tới chăm sóc cho nàng.

- Tỷ tỷ của ta sao?

Dương Phương Hinh ngây ngẩn cả người, nàng nghi ngờ nhìn Dương Nguyên Khánh,

- Ngươi nói tới ai?

- Ngày trước là công chúa Nghĩa Thành, nàng còn nhớ chứ?

Dương Phương Hinh cả người chấn động, đôi mắt trợn tròn lên, không thể tin nổi nhìn Dương Nguyên Khánh,

- Phụ hoàng không phải nói tỷ ấy. . . . đã chết rồi sao?

- Công chúa Nghĩa Thành đúng là đã chết, nhưng Dương Bội Hoa không chết, nàng đã đổi tên là Giang Bội Hoa, tới Thái Nguyên nàng sẽ nhìn thấy nàng ấy.

Dương Nguyên Khánh cười cười, ngẩng đầu nói với nàng:

- Mặt hồ gió to, vào khoang thuyền đi thôi!

Hắn xoay người hướng về phía khoang thuyền mà đi, Dương Phương Hinh quay đầu lại nhìn chăm chú vào bóng lưng Dương Nguyên Khánh đang đi xa. Nàng chợt phát hiện, trong lòng của hắn cũng không phải chỉ có sắt và máu, cũng có dịu dàng và nước mắt.

...

Lại qua ba ngày, đội tàu rốt cục đã tới Thái Nguyên, trên bến tàu mới sửa ở ngoài thành Thái Nguyên từ sáng sớm đã tấp nập, ngoại trừ Đỗ Như Hối còn ở lại quận Hà Đông sắp xếp việc tiếp nhận người nhà tướng sĩ, còn lại bốn vị Tướng quốc, toàn bộ đã đến bến tàu để nghênh đón. Ngoại trừ quan viên, còn có người nhà tướng sĩ, bọn họ toàn bộ đều tới bến tàu nghênh đón thân nhân mình trở về.

- Đến rồi! Đến rồi!

Có người nhìn thấy đội tàu ở nơi xa, lớn tiếng quát to, đám người lập tức kích động lên, sớm đã chuẩn bị tốt, bắt đầu khua chiêng gõ trống, vừa múa vừa hát.

Trong sự náo nhiệt của tiếng chiêng trống, đoàn thuyền thứ nhất chậm rãi cập bờ, dây thừng được neo vào các cọc sắt trên bờ, mạn thuyền áp vào bến tàu, hai đội binh lính đi trước mở đường xuống bến tàu, xếp thành hàng thẳng ngăn cách mọi người. Dương Nguyên Khánh cùng mấy trăm thân binh hộ vệ cũng ra khỏi thuyền lớn đi xuống. Lúc này Bùi Củ, Tô Uy, Thôi Quân Tố và Vương Tự bốn vị tướng quốc cùng nhau chạy ra đón chào.

- Hoan nghênh tổng quản chiến thắng trở về trở về!

- Tổng quản đã phải khổ cực rồi.

Dương Nguyên Khánh cũng chắp tay hướng về phía bốn vị Tướng quốc đáp lễ cười nói:

- Tiền phương tác chiến, còn cần hậu phương vững chắc, các vị tướng quốc ổn định cục diện triều đình, trợ giúp hậu cần, tướng sĩ ở tiền phương mới có thể an tâm giành thắng lợi. Đây là công lao của mọi người.

Tô Uy vuốt râu cười nói:

- Trong triều đình cũng có không ít chính vụ quan trọng dang chờ tổng quản trở về phê chuẩn. Chúng ta ngày nào cũng đều trông mong người, rốt cục cũng đã trở về.

Dương Nguyên Khánh ha hả cười,

- Ta hiểu được ý của Tô tướng quốc. Chính là không muốn cho ta nghỉ ngơi, ngày mai sẽ phải vào triều làm việc.

Mọi người đều cười ha hả, Bùi Củ nói:

- Sao có thể không để cho tổng quản nghỉ ngơi được. Nhưng cũng không thể quá dài, nhiều nhất là ba ngày. Chúng ta đều đã bàn bạc, tổng quản đi thuyền trở về, chính là nghỉ ngơi rồi. Ở trên thuyền mười ngày, hơn nữa nghỉ ngơi ba ngày, tổng cộng mười ba ngày, vậy là đủ rồi.

- Bùi tướng quốc đổi nghề làm thương nhân từ khi nào vậy?

Dương Nguyên Khánh hài hước lại đưa tới một trận cười. Dương Nguyên Khánh lại hỏi:

- Thi Hương chuẩn bị như thế nào rồi?

Đây là một trong những chuyện hắn quan tâm. Triều đình và quan phủ địa phương phân bố không đủ, nhu cầu cấp bách cần bổ sung ngay, vốn chuẩn bị để mùa xuân sang năm sẽ cử hành, nhưng Dương Nguyên Khánh chuẩn bị đến năm nay vào mùa thu sẽ cử hành ở Thái Nguyên trước tiên.

Lần này thi Hương do Lại bộ và Lễ Bộ đồng cử hành, Lại bộ Thượng thư Thôi Quân Tố liền vội vàng tiến lên nói:

- Các hạng mục của kỳ thi Hương đều đã chuẩn bị hoàn thành. Chỉ chờ tổng quản trở về sẽ bắt đầu cuộc thi.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu,

- Vậy ba ngày sau cử hành.

Lúc này, Công chúa Đan Dương Dương Phương Hinh cũng từ trên thuyền đi xuống. Bùi Củ và Tô Uy đều biết nàng, bọn họ kích động nước mắt tuôn đầy mặt. Cùng tiến lên trước quỳ xuống,

- Lão thần Bùi Củ, Tô Uy tham kiến Công chúa điện hạ!

Dương Phương Hinh được gặt mặt các cựu thần tin cậy của phụ hoàng. Nước mắt của nàng cũng tuôn ra, nàng hướng về phía hai người đáp lễ, thanh âm nghẹn ngào nói:

- Các vị đại thần xin đứng lên, Đan Dương chịu không nổi lễ trọng này.

- Thánh Thượng đã thăng tiên, xin Công chúa điện hạ bảo trọng phượng thể, Thái Nguyên sẽ là nhà của Công chúa điện hạ, nơi này vẫn là Đại Tùy. Xin Công chúa điện hạ an tâm ở lại nơi này, có lão thần chúng ta ở đây, không ai có thể xúc phạm tới Công chúa điện hạ.

- Đan Dương đa tạ các vị đại thần đã quý trọng!

Bùi Củ lặng lẽ kéo Dương Nguyên Khánh đến một bên, thấp giọng hỏi:

- Công chúa điện hạ cũng ở cung Tấn Dương sao?

Dương Nguyên Khánh lắc đầu,

- Cung Tấn Dương quá lạnh lẽo, công chúa sẽ rất khổ sở, ta chuẩn bị nhận nuôi công chúa ở phủ của ta, giao cho Vương phi và Giang Trắc Phi chăm sóc, ta sẽ xem công chúa là muội muội, như vậy đối với công chúa sẽ tốt hơn.

Kỳ thật Bùi Củ cũng biết Trắc Phi của Dương Nguyên Khánh chính là công chúa Nghĩa Thành lúc trước, các tướng quốc cũng biết, chỉ có điều tất cả mọi người giả bộ hồ đồ. Như vậy cũng tốt, Giang Trắc Phi là tỷ tỷ của Công chúa Đan Dương, do nàng chăm sóc là thích hợp nhất.

- Khi nào sẽ đưa công chúa đi gặp Thánh Thượng?

- Trước tiên ta đưa công chúa tới phủ của ta dàn xếp xong mọi việc. Sáng mai, ta tự mình đưa công chúa đi gặp Thánh Thượng.

- Được rồi! Ta đi nói với các tướng quốc khác một tiếng, Công chúa hôm nay tạm thời không đi cung Tấn Dương.

...

Gặp mặt với các quan viên trên bến tàu ước chừng tiêu hao đi nửa canh giờ. Từng nhóm người rời đi, Dương Nguyên Khánh rốt cục mới có cơ hội nhìn thấy người nhà mình, ở một góc bến tàu có mấy cỗ xe ngựa đang đứng đợi, có thân binh hộ vệ, một chiếc rộng thùng thình, trong xe ngựa là Sở Vương phi Bùi Mẫn Thu và Trắc Phi Giang Bội Hoa đang ngồi, Dương Nguyên Khánh trước đó đã viết thư, Bùi Mẫn Thu sắp xếp cho Giang Bội Hoa cùng đi với nàng.

Dương Nguyên Khánh tuy rằng được phong làm Sở Vương, nhưng thê thiếp của hắn lại chiếu theo nghi lễ của Đông cung để sắc phong. Bùi Mẫn Thu được phong làm Thái Tử chính phi, Trắc Phi có hai người, là Trương Xuất Trần và Giang Bội Hoa được phong làm chính Tam phẩm lương đệ, A Sử Na được phong làm Tứ phẩm lương viện, mấy người còn lại thì được phong làm ngũ phẩm thừa huy. Con trai trưởng Dương Ninh được phong làm quận Vương Mã Ấp, trưởng nữ Dương Băng được phong làm quận chúa Tây Hà, mấy người con còn lại đều được phong làm quận Vương và quận chúa.

Dương Nguyên Khánh dẫn theo Dương Phương Hinh đi vào trong xe ngựa, Dương Phương Hinh ngơ ngác nhìn Giang Bội Hoa, nàng rốt cục nhận ra, đây là công chúa Nghĩa Thành. Lần cuối cùng khi nàng nhìn thấy tỷ tỷ khi chỉ mới có sáu tuổi, mơ hồ còn một chút ấn tượng, ánh mắt của nàng đỏ lên, môi giật giật, gọi:

- Tỷ tỷ!

Mắt Giang Bội Hoa cũng đỏ lên, vươn hai tay ra, Dương Phương Hinh rốt cuộc ức chế không nổi tình cảm của mình, nước mắt tràn mi mà ra,

- Tỷ tỷ!

Nàng hô to một tiếng, nhào vào trong lòng của Giang Bội Hoa, tỷ muội hai người ôm đầu khóc rống lên.

Tỷ muội hai người cùng ngồi trên chiếc xe ngựa, ôn lại chuyện cũ sau nhiều năm xa cách. Dương Nguyên Khánh thì ngồi trên xe ngựa với thê tử, mấy trăm thân binh hộ vệ quanh hai cỗ xe ngựa chậm rãi trở về Sở Vương phủ.

Xe ngựa của Bùi Mẫn Thu rộng thênh thang nên thoải mái, bố trí rất đơn giản, trên xe có phủ thảm, gần cửa sổ đặt một cái bàn nhỏ, ở trong góc của thùng xe có một lư hương, khói nhẹ lượn lờ, khiến trong xe tràn ngập một mùi thủy tiên thơm ngát, ấm áp như hương mùa xuân.

Dương Nguyên Khánh tựa lưng vào vách xe, sau lưng lót một chiếc gối mềm, hắn lập tứ thả lỏng tinh thần, nhắm nghiền hai mắt, lúc này thứ gì hắn cũng không muốn, chỉ muốn có một giấc ngủ ngon lành.

Bùi Mẫn Thu ngồi ở bên cạnh hắn, cầm tay trượng phu, hé miệng cười nói:

- Thiếp có vài lời muốn nói với chàng, nhưng chàng lại muốn ngủ sao?

- Ta rất mỏi mệt, không biết tại sao, ngồi trên xe ngựa của nàng, ta liền muốn ngủ!

Dương Nguyên Khánh híp nửa mắt cười nói.

- Vậy được rồi! Thiếp chỉ nói một việc quan trọng nhất thôi.

- Ừ! Nàng nói đi, chuyện gì?

Bùi Mẫn Thu trầm ngâm một chút nói:

- Chính là về việc học hành của Ninh nhi, nhị cữu đã hai lần đề cập đến, ông ấy nguyện ý làm thầy cho Ninh nhi, chuyên dạy học, thiếp suy xét ông ấy là bậc đại nho nổi tiếng thiên hạ, cho nên thiếp có chút động tâm, muốn bàn bạc với chàng một chút.

Theo như lời của thê tử thì nhị cữu chính là đại nho Vương Thông, ông ta lại muốn một mình dạy thế tử sao, Dương Nguyên Khánh cười nói:

- Nếu để ông nội nàng biết Vương Thông làm thày dạy cho Ninh nhi, ông sẽ mắng nàng đến chết đấy.

- Thiếp mặc kệ ông ấy, Ninh nhi là con của thiếp, không phải con cháu Bùi gia, thiếp muốn đứa con này được giáo dục tốt nhất, nếu có bản lĩnh thì Bùi gia cũng xuất hiện một đại nho vang danh khắp thiên hạ như thế đi. Thiếp cũng có thể khiến Ninh nhi bái ông ta làm thầy.

Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu, nói:

- Lý Cương không phải đang làm rất tốt đấy ư, tại sao phải đổi thầy?

- Nhưng. . . . chẳng qua là thiếp cảm thấy danh tiếng của nhị cữu lớn hơn, tất cả con cháu nhà quyền quý đều tìm đủ mọi cách để bái ông ấy làm thầy. Hiện tại ông ấy chủ động đề xuất, tình nguyện dạy dỗ cho Ninh nhi, thiếp cảm thấy được đây là một cơ hội tốt.

- Cơ hội?

Dương Nguyên Khánh cười lạnh một tiếng.

Bùi Mẫn Thu kéo tay trượng phu vội la lên:

- Chàng không cần châm chọc khiêu khích như vậy. Thiếp cũng biết chuyện này rất quan trọng, và đương nhiên cũng biết Vương gia đã có tính toán lâu dài, cho nên thiếp không đồng ý với ông ta, chờ chàng trở về quyết định.

- Được rồi! Ta quyết định từ chối. Muốn dựa vào con trai ta để cầu danh lợi sao, cho dù là ông ta lại có học vấn, nhưng nhân phẩm thấp kém. Lý Cương tuy rằng không ra sức phục vụ cho ta nhưng nhân cách phẩm đức của ông ta so với Vương Thông cao hơn nhiều, học vấn cũng không kém, giao con trai cho ông ta, ta mới có thể yên tâm thực sự.

Bùi Mẫn Thu hơi do dự, kỳ thật nàng cũng biết Vương gia và Bùi gia có mâu thuẫn và ám đấu. Là một người mẹ, đồng thời nàng cũng hy vọng con mình được giáo dục tốt nhất, về phương diện khác nàng cũng không muốn con của mình trở thành vật hy sinh cho hai nhà ám đấu, cho nên nàng rất mâu thuẫn. Vương gia hai lần tới cửa khuyên nhủ, nàng đều không đồng ý.

Hiện tại trượng phu quyết định khiến lòng nàng rốt cục cũng nhẹ nhõm, ít nhất nàng không cần quan tâm chuyện này nữa, có thể phái người đi Vương gia từ chối. Lúc này, nàng vừa cười hỏi:

- Chàng thực sự muốn nhận Đan Dương Công chúa làm biểu muội sao?

Dương Nguyên Khánh lười biếng nói:

- Không phải nói chỉ nói một việc sao?

Bùi Mẫn Thu ngẩn ra, lập tức mỉm cười, vươn đầu ngón tay lên trên trán hắn ấn nhẹ một chút,

- Chàng đó! Chàng lường trước được việc thiếp muốn hỏi nên dùng việc kia để che chắn hả. Được rồi! Sau này thiếp sẽ hỏi lại chàng, bây giờ cho chàng nghỉ ngơi.

Dương Nguyên Khánh cười ha hả, chậm rãi nhắm hai mắt lại, xe ngựa nhẹ nhàng chuyển động, ở bên trong hắn nhanh chóng ngủ thiếp đi.

...

Dương Nguyên Khánh trở về khiến không khí trầm lặng trong triều lập tức thay đổi tốt lên. Đầu tiên đó là Lại Bộ và Lễ Bộ liên hợp tuyên bố, sau ba ngày sẽ cử hành kì thi Hương tuyển chọn người tài. Đây là kỳ thi được cử hành lần đầu tiên sau khi Bắc Tùy thành lập, lần này sẽ tuyển gần 200 người để bổ sung quan viên cho các quận huyện ở Hà Đông cùng với trong triều đình, bởi vậy thu hút được sự quan tâm của nhiều người.

Đối vơi Dương Nguyên Khánh cùng với quan viên thượng tầng của Bắc Tùy mà nói, lần khoa cử này cũng là một lần dò xét tính thống nhất cũng như sự ủng hộ của các giai cấp trong xã hội đối với triều đình. Bởi vậy triều đình Bắc Tùy cực kỳ coi trọng lần khoa cử này.

Lúc này trong thành Thái Nguyên đã tụ tập hơn hai mươi ngàn sĩ tử, đến từ Hà Đông, Hà Bắc và các nơi khác, chờ đợi để tham gia kỳ thi lần này. Đối với những sĩ tử này đây cũng là cơ hội thay đổi được số phận của cuộc đời.

Khoa cử lần này và kì thi ba năm trước tại Phong Châu không giống nhau, kì thi trước đây chỉ diễn ra trong phạm vi Phong Châu là nơi vắng vẻ, người đọc sách không nhiều lắm, vả lại lại không có sự thay đổi, cho nên mọi việc đều do quan phủ một mình ôm lấy mọi việc, thí sinh chỉ cần đọc qua chút sách vở là có thể tham gia cuộc thi. Còn lần này thì không giống như vậy, chỉ tuyển những người có học vấn thật sự uyên bác, quan phủ cũng không gây nhiều khó dễ về vấn đề sinh hoạt. Các nhà trọ trong thành Thái Nguyên đều đông chật khách trọ, các chùa chiền cũng mở cửa cho các thí sinh tới tá túc, giải quyết chỗ ăn ở cho hơn hai mươi ngàn sĩ tử, cũng hoàn toàn không có vấn đề gì. Hơn nữa nếu như sĩ tử đạt được đề cử huyện học còn có thể được một khoản trợ cấp nhất định.

Bởi vì tồn tại xã hội con người liền có giai cấp, nên hơn hai mươi ngàn sĩ tử cũng chia làm ba tầng lớp lớn. Một loại là con cháu của các danh gia có tiếng học giỏi, bao gồm con cháu danh môn và ở con cháu của các gia đình đời đời có người nổi tiếng, như gia tộc Bùi thị, gia tộc Vương thị, gia tộc Tiết thị hay các gia tộc đến từ Hà Bắc như Phạm Dương Lô thị, Bách Nhân Lý thị, Bác Lăng Thôi thị, Thanh Hà Thôi thị, Thanh Hà Trương thị, Cự Lộc Ngụy thị, Bình Hương Sài thị, Quảng Bình Du thị, Hà Gian Trương thị. Bọn họ đều là gia đình có tiếng là học giỏi, đều phái ra các con cháu ưu tú nhất tới tham gia cuộc thi lần này.

Các danh môn nổi tiếng đều tới, ngoại trừ Hà Nam, Hà Bắc hai khu vực lớn, một số con cháu của các danh môn đến từ các khu vực khác, như Hoằng Nông Dương thị, Kinh Triệu Đỗ thị và Vi thị, Đan Dương Tạ thị, Bành Thành Lưu thị, Ngô Hưng Thẩm thị, con cháu của các gia tộc này cũng đã xuất hiện trong thành Thái Nguyên.

Tầng lớp tiếp theo đó là các môn đệ của các trường học, lúc Tùy Văn Đế Dương Kiên mới lên ngôi Hoàng đế, liền cho xây dựng trường học ở các châu huyện. Ở thời Vũ Đế Dương Quảng khi hưng thịnh nhất, có nuôi dưỡng một lớn người đọc sách, bọn họ đều là quan văn của triều Tùy, lấy việc đạt được một chức vị làm mục tiêu theo đuổi. Ở trong thời loạn lạc bọn họ có rất ít cơ hội làm quan, nhiều thời điểm bọn họ ngược lại trở thành người cầm đầu bọn thổ phỉ chém giết người làm niềm vui, cửa nát nhà tan, vợ con ly tán.

Tính từ lúc thiên hạ đại loạn tới nay, đây là lần đầu tiên chính thức tổ chức thi khoa cử, quan phủ các nơi đều đề cử con cháu ưu tú của mình đi tới Thái Nguyên dự thi. Thậm chí các quận Hà Bắc bị Đậu Kiến Đức chiếm lĩnh cũng có rất nhiều học sinh, quan lại tới Thái Nguyên.

Tầng lớp thứ ba đó là con cháu thuộc các gia đình bậc trung hoặc nhỏ. Tự xưng con cháu hàn môn (nghèo khó). Không có thân thế thế gia, không có bối cảnh gia đình hậu thuẫn ở phía sau. Cũng bởi vì mấy năm trước kỳ thi ở Phong Châu có con cháu của hàn môn trúng tuyển, cho nên bọn họ đã mang theo hy vọng mà đến. Bọn họ bán ruộng bán nhà, cáo biệt thê tử tiến đến Thái Nguyên tranh giành, ước muốn thay đổi cuộc đời của mình.

Trong các quan viên của bắc Tùy, có không ít xuất thân từ hàn môn, như Hoàng môn thị lang Ngụy Trưng, Nội sử xá nhân Trương Lượng... Bọn họ là những học sinh bần hàn gian khổ, ở trong triều đình họ nêu lên các bản tấu yêu cầu triều đình thiết lập tế quán, cung cấp các điều kiện cơ bản nhất cho các học sinh bần hàn yên tâm học tập và thi cử.

Trong ba tầng lớp, các học sĩ thuộc danh môn có địa vị tối cao, bọn họ phần lớn có gia cảnh dư giả, lộ phí sung túc, trong quan trường có quan hệ rộng lớn với các nhân vật cấp cao. Ở trong hơn hai mươi ngàn sĩ tử, bọn họ hoạt động sổi nổi, xuất hiện khắp nơi trong thành Thái Nguyên. Trong đó Văn Hỉ Bùi thị và Thái Nguyên Vương thị là hai đại gia đình có tiếng học giỏi, con cháu rất nổi bật, có cảm giác như hạc giữa bầy gà.

...

Trương Xuất Trần từ sau khi sinh hạ con trai Dương Trí, liền luôn ở trong nhà an dưỡng thân thể, bình thường rất ít khi đi ra ngoài. Nàng được phong làm Trắc Phi, chức quan của nàng là Lương đệ, cho nên bên ngoài đều gọi nàng là Trương Lương đệ, nhưng ở bên trong Dương phủ, người làm hay nha hoàn thì gọi nàng là Nhị phu nhân.

Xuất Trần ở sân Phù Dung viện, diện tích năm mẫu, có ba mẫu là hồ nước, đủ loại hoa phù dung, hoa sen, có một chiếc cầu bằng ngọc quanh co khúc khuỷu xuyên qua hồ sen. Trung tâm hồ là một đảo nhỏ rộng gần hai mẫu. Đảo nhỏ có những hàng liễu xanh rủ lá, có rất nhiều loại kỳ hoa dị thảo, ở trong vườn hoa có xây một tòa tiểu lâu xinh xắn. Con gái Dương Băng sống một mình một tòa tiểu lầu, còn nàng và con trai ở mặt khác của tòa lầu. Còn có một tiểu lầu là cho hơn mười người nha hoàn và vú già ở.

Lúc này là hạ tuần tháng mười, đã có một chút lạnh đầu mùa đông. Hồ sen hầu hết đã héo rũ, một đôi chim uyên ương đang bơi lội ở trong hồ nước, Xuất Trần dẫn theo con gái Dương Băng mới từ trong thư phòng Nguyên Khánh trở về, Dương Nguyên Khánh đi đường mệt nhọc, đã đi ngủ.

- Băng nhi, con muốn trò chuyện cùng mẫu thân, hay là đi đọc sách?

Xuất Trần nắm tay của con gái nhẹ giọng hỏi.

Dương Băng năm nay đã mười tuổi rồi, được phong làm quận chúa Tây Hà, dáng vẻ duyên dáng yêu kiều, rất giống mẫu thân của cô bé. Xuất Trần thân có võ nghệ, nhưng nàng lại không dạy con gái của mình tập võ, nàng muốn cho con gái đọc sách. Dương Băng bây giờ cùng đệ đệ Dương Ninh cùng nhau học tập ở chỗ Lý Cương.

Dương Băng muốn trở về gian phòng của mình, liền lôi tay của mẫu thân làm nũng nói:

- Mẫu thân, con muốn làm xong sớm bài tập mà tiên sinh giao cho, buổi tối còn có thời gian nói chuyện cùng phụ thân.

- Tiểu nha đầu, phụ thân đã trở lại liền quên mẹ ngay phải không?

Xuất Trần cười đưa tay nhẹ nhàng nhéo má con gái một chút,

- Đi thôi! Nên làm xong sớm một chút, buổi tối còn viết chữ với phụ thân nữa chứ.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 622 : Thẩm thị ở Ngô Hưng

Dương Băng hì hì cười, chạy về phía tòa tiểu lầu của mình. Xuất Trần nhìn bóng dáng của con gái đã chạy đi xa, vừa mới gian nan mang thai rồi sinh nữ nhi này, thế mà nhoáng một cái con bé đã mười tuổi, không khỏi nhẹ nhàng thở dài một tiếng, cảm thán năm tháng trôi qua cực nhanh, mình cũng hai mươi tám tuổi rồi.

- Nhị phu nhân!

Phía sau Xuất Trần truyền đến âm thanh của một tiểu nha hoàn.

Xuất Trần xoay người hỏi:

- Có chuyện gì không?

- Vưu phu nhân đã tới, muốn gặp Nhị phu nhân.

Xuất Trần cũng không có nhiều họ hàng thân thích ở Thái Nguyên, phụ thân nàng ở quận Dư Hàng cũng tính là danh gia vọng tộc, nhưng từ khi nàng sinh hạ đến nay, gần như không có khi nào lui tới. Mẫu thân là Ngô Hưng Thẩm thị, tiếp xúc tương đối nhiều. Bên cạnh trượng phu Dương Nguyên Khánh cũng có hai người là con cháu Thẩm thị giữ chức vụ quan trọng. Một người là nội vệ quân Á Tướng Thẩm Hưng, còn một người khác là Ký sự Tham quân Thẩm Xuân. Thẩm Xuân tuy rằng xuất thân từ Đôn Hoàng Thẩm thị, nhưng phụ thân cũng là anh ruột của Thẩm Thu Nương, cho nên Thẩm Xuân thật ra là biểu huynh của Trương Xuất Trần, cũng vì nguyên nhân này, Thẩm Xuân được Dương Nguyên Khánh dùng làm Ký sự Tham quân là chức vụ cơ yếu.

Vưu phu nhân này là mẫu thân của Thẩm Hưng. Bình thường thường cũng hay lui tới, cũng không phải người ngoài, Trương Xuất Trần liền gật gật đầu,

- Mời bà ấy đến sân nhà ta đi!

Rất nhanh, dưới sự hướng dẫn của nha hoàn Vưu phu nhân đã đi vào Phù Dung viện. Vưu phu nhân năm nay ngoài năm mươi tuổi, búi tóc cao, mặc váy dài có tay áo hẹp, đầu đầy châu ngọc, cách ăn mặc cao quý sa hoa. Bà là mẫu thân của Thẩm Hưng, có tước Tam phẩm theo lệnh vua.

Khách gần đến trước cửa, Xuất Trần liền tươi cười ra đón,

- Mợ hôm nay như thế nào lại rảnh rỗi đến đây?

Vưu phu nhân vội vàng khom người thi lễ,

- Tham kiến Trắc Vương phi!

- Mợ, mợ lại làm vậy nữa, cứ phải khách khí như vậy sao?

Xuất Trần có chút oán giận bà nói.

Vưu phu nhân khẽ cười nói:

- Hôm nay là có chính sự cần tìm Trắc Vương phi, cho nên cấp bậc lễ nghĩa phải chu toàn.

Xuất Trần dẫn Vưu phu nhân vào phòng khách ngồi. Một nha hoàn bưng trà lên cho hai người. Xuất Trần lúc này mới hỏi:

- Mợ tìm ta có chuyện gì quan trọng không?

Vưu phu nhân có chút do dự, không biết nói thế nào, một lúc sau mới ấp úng nói:

- Xuất Trần, đệ (Thời xưa ở Trung Quốc vợ gọi em dâu của chồng là đệ, như thời nay gọi là thím) còn nhớ rõ đại bá phụ của Thẩm gia không?

Vưu phu nhân nói đại bá phụ của Thẩm gia chính là chỉ gia chủ của nhà họ Thẩm - Thẩm Bách. Nghĩ đến người này, Xuất Trần lập tức mặt trầm xuống. Hai mươi năm trước cô và mẫu thân không có chỗ nào nương thân, chỉ có thể trở về nhà cũ của Thẩm gia ở Ngô Hưng. Lúc ấy ông ngoại Thẩm Huyền Cối bại trận bị giết, mấy huynh trưởng của mẫu thân cũng bị liên lụy, bị đày đi quận Đôn Hoàng. Các đồn điền nhà cửa mà ông ngoại để lại đều bị Thẩm Bách và mấy đứa con trai chiếm hết, mẹ con họ chỉ có thể ở trong gian của người ở, bị đối xử rất tệ bạc. Nếu không có sự giúp đỡ của bà cô (cô của cha) e rằng bọn họ còn bị Thẩm gia đuổi ra khỏi nhà của tổ tiên. Chuyện này Xuất Trần khắc cốt ghi tâm, không thể nào quên.

- Sao mợ lại nhắc tới ông ta?

Vưu phu nhân thở dài nói:

- Ông ta cũng đến Thái Nguyên rồi. Ông ta có tìm đến cậu của đệ. Ông ta muốn gặp đệ.

- Gặp ta?

Xuất Trần cười nhạt một cái:

- Ông ta gặp ta làm gì chứ? Ta họ Trương, ông ta họ Thẩm. Ta và ông ta có quan hệ gì chứ?

Vưu phu nhân cũng biết không phải Xuất Trần không muốn nhận Thẩm gia mà là Xuất Trần còn canh cánh trong lòng chuyện của hai mươi năm trước. Xuất Trần đã từng nói với bà như vậy. Vưu phu nhân cười khổ một tiếng rồi nói:

- Ông ấy đến lần này chủ yếu là đến xin lỗi đệ đó.

Đúng lúc này, ngoài cửa nha hoàn bẩm báo:

- Lão gia đến!

Là Dương Nguyên Khánh đến. Vưu phu nhân có vẻ hoảng hốt đứng dậy. Làm thế nào bây giờ? Xuất Trần cười xua tay,

- Mợ cũng đâu phải người ngoài. Không cần phải lo lắng thế đâu.

Lúc đang nói thì Dương Nguyên Khánh đã bước nhanh vào. Mặc dù đã để hắn ngủ ở phòng sách, nhưng hắn lại không ngủ được. Trong lòng hắn còn nhớ đến đứa con trai bé nhỏ, liền rảo bước đến chỗ của Xuất Trần.

Vừa bước vào phòng khách đã thấy một phu nhân trung niên đang đứng trước mặt khiến hắn giật mình. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu hắn là thím đã đến rồi nhưng nhìn lại thì không phải. Vị phu nhân này hình như hắn có quen thì phải. Đó là mẫu thân của Thẩm Hưng, cũng là thê tử của Hình bộ Thị lang Thẩm Quân Đạo.

Vưu phu nhân tiến về phía Dương Nguyên Khánh thi lễ,

- Tham kiến Dương tổng quản!

- Phu nhân không cần đa lễ!

Dương Nguyên Khánh có chút áy náy nhìn sang Xuất Trần nói:

- Phu nhân có khách. Một lúc nữa ta quay lại.

Vưu phu nhân phản ứng rất nhanh. Chuyện của Thẩm gia cứ để cho Dương Nguyên Khánh nghe, biết đâu có thể sẽ giúp ích giải quyết bế tắc. Bà ta thấy Dương Nguyên Khánh đang định đi liền cười nói:

- Thật ra ta không có việc gì đâu. Chỉ là gia chủ Thẩm gia muốn gặp Xuất Trần…

Quả nhiên, bước chân của Dương Nguyên Khánh chậm lại, trong ánh mắt hắn lộ ra vẻ hứng thú, quay lại hỏi:

- Là Thẩm gia ở Giang Nam sao?

- Đúng vậy, là đại bá phụ của Xuất Trần, cũng chính là gia chủ Thẩm Bách của Thẩm gia dẫn theo mấy đệ tử đến tham gia khoa cử. Ông ta cũng muốn đến xin lỗi Xuất Trần vì chuyện năm xưa.

Họ Thẩm ở Ngô Hưng là một trong những danh môn vọng tộc có tiếng ở Giang Nam. Dương Nguyên Khánh đương nhiên có hứng thú. Hắn mỉm cười, nói:

- Đây là chuyện tốt! Xuất Trần, nàng định bao giờ thì đi gặp ông ấy?

Xuất Trần mặt lạnh tanh nói:

- Thiếp căn bản không muốn gặp người đó.

Vưu phu nhân thấy không khí có chút gò bó, hơn nữa bà ta đã chuyển lời tới rồi thì bà ta cũng không cần thiết phải ở lại đây nữa, liền đứng dậy nói:

- Không còn chuyện gì nữa, ta xin phép cáo từ. Xuất Trần, có việc gì cứ trực tiếp tìm ta.

Xuất Trần mặc dù bất mãn với Thẩm gia nhưng quan hệ giữa cô với Vưu phu nhân rất tốt. Cô đích thân tiễn Vưu phu nhân ra khỏi phủ. Dương Nguyên Khánh vẫn chưa đi, hắn đợi thê tử quay lại. Hắn rất có hứng thú với Thẩm gia. Gia chủ không ngờ đã đến Thái Nguyên rồi. Lúc này, cô con gái Dương Băng vội tiến vào,

- Phụ thân!

Cô bé như một chú chim non nhào vào lòng phụ thân. Dương Nguyên Khánh yêu thương nhất chính là đứa con gái này. Hắn không bao giờ quên hình ảnh đứa con gái tinh nghịch hồi nhỏ hay leo lên cổ hắn. Thoáng một cái, con gái đã lớn thế này rồi. Dương Nguyên Khánh kéo bím tóc của con gái, cười nói:

- Tiểu nha đầu, hình như lại cao lên rồi. Đo với phụ thân xem nào.

- Vâng!

Dương Băng nhảy lên, đứng đối diện với phụ thân, Dương Nguyên Khánh dùng bàn tay đo đỉnh đầu của cô bé, không ngờ đã đến môi hắn rồi. Hắn có chút ngây ra. Hai tháng trước thôi cô bé mới tới cổ họng mình, làm sao mà trong chớp mắt đã cao được tới như vậy? Vừa thoáng nhìn, phát hiện ra cô con gái kiễng chân. Hắn cười ha hả, dùng ngón trỏ vuốt mũi cô con gái:

- Con ăn gian nhé!

Dương Băng hì hì cười, gót chân hạ xuống đất. Vẫn chỉ mới cao đến cổ họng mà thôi.

- Băng nhi của ta không ngờ đã đi giày cao gót được rồi.

- Phụ thân, giày cao gót là gì?

Dương Băng tò mò hỏi.

- Chính là…đế giày rất dày.

Dương Nguyên Khánh dùng tay đo độ dày,

- Ước chừng nó dày như thế này sẽ khiến người ta trông cao hơn.

- Thế Băng nhi cũng muốn có một đôi, để sớm cao lớn hơn.

Dương Nguyên Khanh nhẹ ấn vào mũi con gái, cười tủm tỉm hỏi:

- Lớn nhanh để làm gì, có phải muốn kiếm như ý lang quân?

- Phụ thân nói lung tung!

Dương Băng dẫm chân, đưa tay ra véo một cái rất mạnh lên tay của Dương Nguyên Khánh.

- Phụ thân không được nói lung tung nữa!

Dương Nguyên Khánh thấy con gái giận liền vội giơ hai tay đầu hàng,

- Được rồi! được rồi! Phụ thân không nói lung tung nữa.

Hắn ôm con gái vào lòng, rồi hỏi:

- Đi gặp Đan Dương công chúa rồi sao? Hồi nhỏ con đã cùng công chúa chơi tuyết đó. Con không nhớ sao?

- Phụ thân!

Dương Băng trừng mắt cười nói:

- Chuyện đó lúc hai tuổi mà. Làm sao con nhớ được?

Dương Nguyên Khánh ha hả cười,

- Là phụ thân hồ đồ. Nhưng công chúa chỉ lớn hơn con ba tuổi. Con có thể đi tìm gặp cô ấy chơi, cùng đọc sách, thêu thùa…

- Nhưng…con phải gọi cô ấy thế nào? Gọi là công chúa, hay gọi là cô ạ?

Dương Băng có vẻ khó xử. Vấn đề này làm cô khổ não cả một canh giờ.

- Gọi là dì đi! Cô ấy là muội muội của tam nương.

Lúc này, Xuất Trần tiễn Vưu phu nhân xong đã quay lại. Nàng nhìn thấy con gái đang ở trong lòng của phụ thân thì cũng mỉm cười. Đây là cảnh tượng mà nàng rất muốn nhìn thấy. Nó thể hiện sự yêu thương của chồng đối với con gái.

- Băng nhi, con đã làm xong bài tập chưa?

Dương Băng lè lưỡi nói:

- Vẫn chưa làm ạ! Con nghe thấy bảo phụ thân đến nên con chạy đến tìm phụ thân luôn mà.

Dương Nguyên Khánh vỗ nhẹ và sau đầu cô con gái yêu quý nói:

- Con mau đi làm bài tập đi. Đến tối phụ thân đến xem con viết chữ thế nào. Mẹ con nói con viết chữ rất đẹp.

- Vậy con đi trước ạ!

Dương Băng nhảy từng bước đi ra.

Dương Nguyên Khánh nhìn theo bóng dáng đáng yêu của con, không nhịn được cười một cái.

- Nguyên Khánh, chàng cười gì vậy?

Xuất Trần ngồi xuống hỏi hắn.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 623 : Tiết lộ thiên cơ

- Ta cứ nghĩ con gái đã trưởng thành thành một đại cô nương rồi. Bây giờ mới thấy rằng nó vẫn còn là một đứa trẻ.

- Nó vốn dĩ là một đứa trẻ. Chẳng qua là bề ngoài cao lớn một chút. Nhưng hồi thiếp bằng tuổi nó, thiếp cũng đã chẳng nhảy nhót như thế nữa rồi.

- Ừ! Lúc đó nàng đã cầm tay ta rồi.

Dương Nguyên Khánh giọng nói vẻ trêu chọc.

- Ta chẳng phải từ nhỏ đã cầm tay nàng rồi sao?

Xuất Trần phản ứng trước lời trêu chọc của chồng. Nàng tức giận giơ tay gõ vào đầu hắn.

- Đồ đầu bò đáng chết, lại trêu thiếp rồi.

Xuất Trần động tác rất nhanh nhưng Dương Nguyên Khánh nhẹ nhàng né được, nàng liền gõ vào khoảng không.

Xuất Trần lập tức đã không còn giận. Ngày trước nàng đập vào đầu Nguyên Khánh, Nguyên Khánh không bao giờ né kịp, trăm lần trăm trúng, nhưng bây giờ…nàng khẽ thở dài, ….. Thân thủ đã không còn như trước nữa rồi.

- Chẳng lẽ nàng vẫn muốn đi làm nữ hiệp Giang Hoài?

Dương Nguyên Khánh hiểu được ý tứ trong cái thở dài của t.

Xuất Trần lắc đầu, lại thở dài:

- Mười năm trước là con gái đã giữ chân thiếp. Mười năm sau lại là con trai giữ chân thiếp. Bây giờ lại thêm sợi dây thừng Vương Phi nữa. Chàng có nghe nói có nữ hiệp Vương Phi chưa?

Xuất Trần lườm hắn một cái.

Dương Nguyên Khánh ha hả cười, liền đem đề tài vòng vo trở lại.

- Ta hỏi nàng. Bây giờ nàng vẫn còn canh cánh trong lòng với nhà họ Thẩm ở Ngô Hưng sao?

Xuất Trần hiểu được tâm tư của chồng là muốn gần gũi hơn và nhà họ Thẩm ở Ngô Hưng. Nàng không chút do dự nói:

- Chàng có thể nói rằng thiếp lòng dạ hẹp hòi, cũng có thể nói thiếp không quan tâm đến đại cục. Nhưng bản thân thiếp không quên được sự nhục nhã mà năm đó Thẩm gia gây ra cho thiếp và mẹ thiếp. Đương nhiên nếu chàng nhất định muốn tiếp kiến nhà họ Thẩm Ngô Hưng thì thiếp sẽ không ngăn chàng. Nhưng chắc chắn thiếp sẽ không gặp bọn họ, càng không thừa nhận bọn họ là “nương gia”, Nguyên Khánh, xin chàng hãy hiểu cho lòng thiếp.

Dương Nguyên Khánh biết Xuất Trần rất kiên định, ân oán rõ ràng, nếu nàng đã oán hận ai thì cả đời cũng sẽ không tha thứ. Bản thân hắn muốn thuyết phục nàng nhận họ Thẩm Ngô Hưng là nương gia, e rằng thật sự là không làm được.

Bất đắc dĩ, hắn lại đành hỏi:

- Nếu nhà họ Thẩm ở Đôn Hoàng trở về Ngô Hưng thì sao?

Xuất Trần im lặng. Nhà họ Thẩm Đôn Hoàng bên kia là cậu ruột nàng, nàng lại không thể không thừa nhận. Sau một lúc lâu, nàng thở dài.

- Nguyên Khánh, chúng ta tạm thời không nói chuyện này nữa có được không?

…..

Vưu phu nhân đã về đến phủ. Phủ của bà ta nằm ở thành nam, rộng khoảng mẫu. Đây là nơi ở mà Dương Nguyên Khánh cấp cho con trai bà là Thẩm Quang. Thẩm Quang phần lớn thời gian đều trong quân, trong nhà chỉ còn hai ông bà già ở. Thẩm Quang đã thành hôn ở Giang Đô, thê tử của anh ta ở quận Đan Dương, tạm thời còn chưa về.

Chồng của bà ta là Thẩm Quân Đạo nguyên là Lại Bộ Thị Lang triều Trần. Sau khi triều Trần diệt vong thì bị đưa đến Trường An định cư, về sau làm học sĩ của Thái tử Dương Dũng, tiếp đó chuyển thành người trong phủ của Hán Vương Dương Lượng. Sau khi Dương Lượng tạo phản thất bại, Thẩm Quân Đạo bị xóa tên khỏi quan trường.

Hai tháng trước, Thẩm Quân Đạo mới từ Tràng An đến Thái Nguyên, được Dương Nguyên Khánh bổ nhiệm làm Hình bộ Thị Lang. Ông ta năm nay đã sáu mươi tuổi rồi mới quay lại chốn quan trường, Thẩm Quân Đạo rất coi trọng chức quan này, cũng cố gắng dốc hết sức. Trong khoảng thời gian này ông ta khá bận rộn chỉnh sửa luật Khai Hoàng, xóa bỏ không ít hình phạt nghiêm khắc, rất được Tử Vi Các khen ngợi.

Lúc này, Thẩm Quân Đạo đang ở nhà cùng với tộc huynh Thẩm Bách từ Giang Nam đến. Đó cũng là gia chủ hiện tại của nhà họ Thẩm.

Thẩm Bách ngoài sáu mươi tuổi, dáng gầy gò. Cũng giống như tất cả các gia tộc khác, Thẩm gia đang tìm tương lai của gia tộc. Dù là Tiêu Tiển ở Tây Lương mấy lần phái người mời con cháu Thẩm gia xuất sĩ cho triều Lương, nhưng đều bị Thẩm Bách khéo léo từ chối. Trong lòng ông ta hiểu rất rõ, đã có cơ sở Triều Tùy thống nhất thiên hạ thì phương nam sớm muộn cũng sẽ bị phương bắc thống nhất. Triều Lương chẳng giữ được bao nhiêu năm nữa.

Ánh mắt của ông ta nhìn về ba chính quyền lớn ở phía bắc. Triều Đường tuy rằng hùng mạnh, có quý tộc Quan Lũng toàn lực ủng hộ nhưng quý tộc Quan Lũng lại căng thẳng với sĩ tộc Giang Nam. Điều này Thẩm gia hiểu rất rõ. Còn Nam Tùy ở Lạc Dương thì ngay cả vấn đề lương thực cũng không giải quyết được. Tuy được gọi là chính thống nhưng cũng chỉ là kéo dài hơi tàn, khó mà giữ lâu dài được.

Ánh mắt của ông ta cuối cùng đã tập trung vào Bắc Tùy Thái Nguyên. Gia tộc họ Thẩm này ở triều đình khá là được, có cha con Thẩm Quân Đạo, có tâm phúc Thẩm Xuân của Dương Nguyên Khánh, càng quan trọng hơn là Trắc Phi của Dương Nguyên Khánh chính là cháu ngoại của Thẩm gia. Điều này có nghĩa là Thẩm gia có thể đi con đường tắt nhờ họ ngoại.

Thẩm Bách suy nghĩ đã rất lâu rồi. Vừa hay nghe nói Bắc Tùy chuẩn bỠcử hành khoa cử, ông ta liền hạ quyết tâm, đưa mấy đứa người con cháu ưu tú đến Thái Nguyên để tham gia thi Hương.

Thẩm Bách đang nói chuyện với tộc đệ Thẩm Quân Đạo thì quản gia ở ngoài cửa bẩm báo:

- Lão gia, phu nhân đã trở về.

Thẩm Bách và Thẩm Quân Đạo tinh thần cùng cảm thấy dao động.

Rất nhanh, Vưu phu nhân đi vào phòng khách. Nhìn vẻ mặt không vui chút nào của bà ta, Thẩm Bách hơi trầm xuống. Ông ta cảm thấy không ổn.

- Phu nhân, thế nào rồi?

Thẩm Quân Đạo lo lắng hỏi.

Vưu phu nhân ngồi xuống. Bà ta uống một ngụm trà, không nhanh không chậm nói:

- Chuyện có cái thất vọng, nhưng cũng có hy vọng. Mọi người muốn nghe cái nào trước?

- Nói việc thất vọng trước đi!

Thẩm Bách hỏi có chút bất an.

- Thất vọng chính là Trương Lương đệ không chịu gặp gia chủ đâu. Thiếp thấy cô ta không muốn tha thứ cho Thẩm gia đâu.

Thẩm Bách và Thẩm Quân Đạo quay ra nhìn nhau, trên mặt hiện lên vẻ thất vọng. Thẩm Bách càng không che dấu được sự ủ rũ trong lòng. Ông ta rất hối hận vì những chuyện đã qua. Ông ta không thể nào ngờ được rằng, từ một tiểu nương bướng bỉnh hai mươi năm trước nay lại trở thành phi tử của Sở Vương và tương lai có thể trở thành quý phi. Trong quá khứ ông ta vì một chút lợi nhỏ mà hôm nay đây phải trả cái giá quá đắt.

Thẩm Quân Đạo lại vội vàng hỏi:

- Thế hy vọng là gì?

- Hy vọng là đồng thời ta đã gặp được Sở Vương. Sở vương rất có hứng thú với Thẩm gia.

Tinh thần Thẩm Bách rung động. Ông ta ý thức được chính mình đã phạm phải một sai lầm ấu trĩ. Em dâu Trương Lương có lẽ vì chyện năm trước mà canh cánh trong lòng. Nhưng Dương Nguyên Khánh thì không. Trong tương lai hắn muốn chiếm Giang Nam, như thế Thẩm gia có thể là trợ lực lớn cho hắn. Trong tình hình như thế, thái độ của em dâu Trương Lương cũng không quan trọng nữa. Thẩm gia cũng không phải là dòng tộc nhỏ mà lại có một giá trị lợi dụng rất lớn. Dương Nguyên Khánh làm sao có thể dễ dàng bỏ quên cho Thẩm gia được?

Nghĩ đến đó, Thẩm Bách trong lòng vô cùng hưng phấn, vội hỏi:

- Thế Sở Vương còn nói gì nữa?

- Sau đó thì tạm thời không nói gì thêm. Sau đó ta cũng quay về. Nhưng ta có thể nói với gia chủ rằng, vài ngày nữa Sở Vương nhất định sẽ đến tiếp kiến gia chủ.

Thẩm Bách trong lòng đã hoàn toàn thoải mái. Sự uể oải trong lòng dường như được quét sạch, ông ta đứng dậy thi lễ thật sâu,

- Hôm nay đa tạ hiền đệ và muội muội, Thẩm Bách vô cùng cảm kích.

Thẩm Quân Đạo xua tay cười,

- Đây là vì Thẩm gia. Vì gia tộc mà góp chút sức mọn, đây là việc nên làm, gia chủ không cần khách khí.

.....

Quốc Tử Học của Thái Nguyên nằm ở thành nam, là một học phủ nằm trên khoảng hai trăm mẫu đất, có hơn ba nghìn sĩ tử học tập ở đó. Nó cũng là học phủ cao nhất của Vương triều bắc Tùy, là một trong ba học phủ lớn nổi danh của khu vực Hà Đông, Bùi học và Vương học.

Quốc Tử Học thực hành quy định tiến cử nên con cháu của hàn môn không có hy vọng được vào học tại đây. Bên trong học phủ phần lớn đều là con cháu của quan viên, vọng tộc của các quận Hà Đông. Con cháu của các danh môn vọng tộc được hưởng ưu thế giáo dục từ nhỏ.

Đây cũng là cách chọn lựa cửu phẩm một cách công bằng. Người thống trị hai triều Tùy Đường tuy muốn lợi dụng khoa cử để phá vỡ sự lng đoạn trong sự chọn lựa quan viên, nhưng chế độ khoa cử của Tùy Đường không dao động được gốc rễ của chế độ cửu phẩm. Đó chính là sự lũng đoạn của các danh môn thế gia trong tài nguyên giáo dục.

Trên thực tế, đại bộ phận sĩ tử thông qua khoa cử đậu Tiến sĩ đều là con cháu danh môn vọng tộc. Khoa cử chỉ mở ra một khe cửa nhỏ cho con cháu hàn môn.

Nhưng cái khe nhỏ đó cũng gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của con cháu các danh môn vọng tộc.

Tới gần giữa trưa, giờ học sáng của Quốc Tử Học đã kết thúc. Hơn mười đồ sinh đang ngồi nói chuyện. Lần này thi Hương, đồ sinh ba thành phụ cận Quốc Tử Học đều đến tham gia. Mười mấy người này cũng là một trong những người tham gia. Trong bọn họ có người là con cháu quan viên, con cháu các vọng tộc của các huyện, cũng là tiểu danh môn, không thể so sánh với họ Bùi, họ Vương.Tuy nhiên ở huyện thì cũng đã được coi là đại tộc rồi.

- Nghe nói có hơn hai mười nghìn người tham gia thi Hương, nhưng chỉ chọn hai trăm người, một trăm chọn lấy một. Liệu, chúng ta có hy vọng không?

Một gã đồ sinh cao to nói giọng oán trách.

Một đồ sinh khác đến từ quận Thượng Đảng thở dài nói:

- Lúc đầu vì muốn vào Quốc Tử Học để học tập, gia chủ nhà ta đã phải lao tâm khổ tứ tìm đến liên hệ với Thái Thú mới xin được cho hai người. Cứ tưởng vào được Quốc Tử Học là có thể yên tâm được làm quan. Đến bây giờ chẳng khác nào bọn nhà quê vẫn phải tham gia khoa cử. Thế thì ta học ở đây còn có ý nghĩa gì nữa?

- Kỳ thật Quốc Tử Học của triều Tùy cũng có thể đề cử người làm quan. Giống như Đỗ Như Hối. Ông ta chẳng phải cũng đèn sách ở Quốc Tử Học, được giới thiêu sau đó được chọn vào Lại bộ sao? Nhưng bây giờ thì hay rồi. Áp đặt toàn bộ đều phải tham gia khoa cử. Học tại Quốc Tử Học thực sự không còn ý nghĩa gì nữa rồi.

- Không thể nói như thế được. Mấy người quê mùa cầm cuốc đó làm sao giống như anh nghe giảng bài được? Bọn họ có thể hiểu chính xác được kinh nghĩa không? Cho dù bọn họ gian khổ mười năm đi nữa thì cũng chẳng có cơ hội. Không sao đâu, cuối cùng cũng thi rớt mà thôi?

- Chó chê mèo lắm lông mà thôi!

Đồ sinh đến từ Thượng Đẳng cười một tiếng rồi nói:

- Tổng cộng chọn hai trăm người, riêng con cháu Bùi học và Vương học đã hơn hai trăm người rồi. Bọn họ còn không đủ chia! Chúng ta thì là cái gì chứ? So với con cháu hàn môn thì có khác gì đâu. Nghe nói chủ khảo lần này là Vương Thông. Ông ta là người quyết định cuối cùng, ta cho rằng trong những người được chọn có một nửa là con cháu họ Vương.

- Không phải vậy chứ! Không phải vẫn chưa chọn chủ khảo sao? Dương Nguyên Khánh sáng nay mới về, làm sao chọn chủ khảo nhanh thế được? Còn Bùi gia nữa sẽ không đồng ý cho Vương Thông làm chủ khảo đâu.

- Chỉ là đồn đại thôi. Quan chủ khảo quả thật vẫn chưa chọn đâu. Mà thôi, không nói nữa, chúng ta góp tiền đến lầu Tiến Sĩ uống rượu thôi.

Mười mấy sĩ tử có vẻ rất hào hứng, mỗi người góp một ít tiền, chậm rãi đi về tửu lầu Tiến Sĩ.

Tửu lầu Tiến Sĩ đã có tiếng lâu đời ở Thái Nguyên, là nơi các sĩ tử rất thích lui tới uống rượu. Thứ nhất là vì nó nổi tiếng, thứ hai là có thể nghe ngóng từ đây một số thông tin. Do đó hai tháng gần đây từ lúc triều đình Bắc Tùy tuyên bố khoa cử, ngày nào nơi đây cũng đều rất nhộn nhịp.

Tửu lầu Tiến Sĩ cách Quốc Tử Học không xa, ra cửa chính đi vài trăm bước là đến. Nhưng cách gia đình nhà họ Vương càng gần hơn. Lúc này đúng vào giữa trưa, trong tửu quán chật ních sĩ tử dùng cơm uống rượu. Hầu như một nửa là sĩ tử của nhà họ Vương, còn lại là đồ sinh của Quốc Tử Học, còn có các sĩ tử danh môn từ các vùng khác, hơn chục người xuất thân hàn môn. Từ cách ăn mặc có thể thấy quần áo bọn họ làm từ vải thường, đầu quấn khăn vải đay, đồ ăn gọi ra thì toàn thứ rẻ tiền nhất. Bọn họ ngồi hai bàn ở một góc khuất, vừa uống rượu vừa nghe đám con cháu Vương học khoác lác. Chỉ còn ba ngày nữa là khoa cử, không biết có nghe được thông tin gì về đề thi không, điều đó rất quan trọng với họ.

Mười mấy đồ sinh của Quốc Tử Học đi vào tửu lầu, đi một vòng mới tìm được một chỗ trống ở một góc nhỏ trên lầu hai, sau đó bọn họ ngồi xuống gọi tiểu nhị mang rượu và thức ăn lên.

Tửu lầu lúc này rất náo nhiệt, có người đang thì thào nói chuyện riêng với nhau, có người thì lại cao giọng ồn ào. Trong số những người đến từ các quận của Hà Đông, Hà Bắc thì con cháu họ Vương của Thái Nguyên biểu hiện sinh động nhất. Con cháu Vương học không hoàn toàn là con cháu của họ Vương. Đại bộ phận đều không phải là họ Vương. Bọn họ chỉ là học tập trong gia đình họ Vương và muốn bước lên dấu vết của nhà họ Vương. Điều đó rất có lợi cho con đường công danh của bọn họ. Rất nhiều quan viên quận Hà Đông đều xuất thân trong gia đình họ Vương. Bọn họ đều quan tâm đến con cháu đời sau của gia đình họ Vương. Hiện tượng này giống với gia đình họ Bùi.

Chỉ là khoa cử được cử hành ở Bắc đô Thái Nguyên. Gia đình họ Vương bọn họ có thêm mấy phần ưu thế về tâm lý.

- Ta nói cho ngươi biết một tin tức nội bộ. Lần tuyển chọn này, Vương học chúng ta là chắc chắn là số người đứng số một, ít nhất cũng phải chiếm trên một nửa trở lên. Không thể nào có chuyện công bằng đâu.

Một người là con cháu của Vương học nói rất lớn khiến cho toàn bộ các sĩ tử ở lầu hai đều chú ý. Cũng có thể là chủ đề này quá mẫn cảm. Cả lầu hai trở nên yên tĩnh.

Lúc này, một gã con cháu họ Bùi ngồi cạnh cửa sổ cười cười nhạt một cái. Anh ta tên là Bùi Thanh Tùng, là cháu trai Bùi Thế Thanh, là một thanh niên nhiệt huyết. Vốn không muốn nhiều chuyện, nhưng nghe thấy con cháu họ Vương càng nói càng kiêu ngạo, ngông cuồng. Dám nói con cháu họ Vương được chọn chiếm đến hơn một nửa, anh ta không nhịn được nói:

- Cho dù sự lựa chon không công bằng đi chăng nữa, nhưng cũng không đến lượt nhà họ Vương.

Trong tửu quán rất yên tĩnh, câu nói của anh ta không lớn nhưng ai nấyđều nghe rất rõ. Lời nói của anh ta giống như chọc vào tổ ong vò vẽ. Hơn một nửa số người trên lầu hai nhìn về phía anh ta. Con cháu Vương học dường như không chịu được, cầm chén rượu đến trước mặt anh ta. Bọn họ nhìn anh ta dò xét, lạnh lùng hỏi:

- Vị nhân huynh này họ gì, là người ở đâu?

- Không dám. Tại hạ họ Bùi, người Văn Hỉ.

Bùi Thanh Tùng ngạo nghễ nói.

Trong quán rượu là một không khí yên ắng. Hóa ra là con cháu Bùi gia Văn Hỉ, chả trách lại dám phản bác người của Vương gia. Sĩ tử vừa ăn nói ngông cuồng của Vương gia cười nhạt nói,

- Hóa ra là Bùi huynh, thất kính, tại hạ Vương Tế Trung, gia phụ là Vương đại nhân Kinh Triệu Doãn.

Bùi Thanh Tùng không nhịn được nhếch mép một cái. Hóa ra là con trai của Vương Túc, chả trách lại ngông cuồng như vậy. Anh ta cũng cười nói:

- Hóa ra là con trai của Vương Kinh Triệu, thất lễ rồi.

Trong quán rất nhiều người cùng bật cười. Bình thường các sĩ tử rất khiêm tốn, rất ít khi đem gia cảnh nhà mình khoe khoang, con cháu nhà quý tộc thì lại càng khiêm tốn. Tên Vương Tế Trung này không ngờ lại lôi cha mình ra. Loại con cháu quý tộc kiểu này quả thật rất ít gặp. Ngay cả con cháu Vương học cũng cảm thấy mất mặt.

Thực ra Vương Tế Trung vốn cũng không muốn đem phụ thân ra làm vỏ bọc. Anh ta chỉ muốn chứng minh rằng tin tức nội bộ của mình là chính xác. Nhưng không ngờ nói năng vô ý khiến cho mọi người khinh bỉ. Đến ngày cả ngôn từ của vị con cháu họ Bùi cũng thể hiển sự coi thường.

Vương Tế Trung có chút thẹn thùng lại hóa thành giận, hung hăng nói:

- Không phải Vương gia thứ nhất chẳng nhẽ Bùi gia xếp thứ nhất sao?

Bùi Thanh Tùng cười nhạt nói,

- Ta chẳng qua thấy Vương huynh quá ngây thơ. Ta có thể nói cho huynh biết, Vương gia không lấy được vị trí thứ nhất, Bùi gia cũng không lấy được vị trí thứ nhất. Mục đích của Dương Nguyên Khánh là lấy Hà Bắc, vì vậy danh môn thế gia Hà Bắc mới là trọng điểm của khoa cử lần này.

Hơn chục sĩ tử của Quốc Tử Học ngồi sau Bùi Thanh Tùng ngơ ngác nhìn nhau. Một người đến từ quận Thượng Đảng không kìm nổi liền hỏi:

- Bùi huynh, theo như huynh nói thì khoa cử lần này là không công bằng. Tất cả chúng ta chỉ làm nền thôi sao?

Bùi Thanh Tùng lắc đầu,

- Thời thịnh chẳng có cái gì là công bằng cả huống chi là thời loạn? Thiên hạ này là thiên hạ của danh môn thế gia. Dương Nguyên Khánh muốn đoạt lấy thiên hạ. Ông ta nhất định phải dựa vào sự ủng hộ các danh môn thế gia. Như Bùi gia và Vương gia đã được ân sủng rồi, ông ta không thể nào lại cho con cháu hai họ thêm một lần ân sủng nữa. Bùi gia và Vương gia trong lần khoa cử này được chọ mười người là tốt lắm rồi. Vì thế ta mới nói con cháu danh môn thế gia Hà Bắc mới là trong điểm trong lần khoa cử này.

- Nhưng khoa cử Phong Châu rất công bằng. Người được chọn đều là con cháu hàn môn, điều này thì giải thích thế nào?

Một đồ sinh của Quốc Tử Học không phục hỏi.

Bùi Thanh Tùng khinh thường cười,

- Đó là bởi vì khoa cử Phong Châu căn bản không có danh môn thế gia tham gia. Các ngươi không thử nghĩ xem, xếp thứ nhất chẳng phải là Kinh Triệu Vi thị sao? Thật sự công bằng sao? Thêm nữa, khoa cử Phong Châu mục đích là tìm gấp nhân tài. Còn lần khoa cử này Thái Nguyên mục đích là làm bước đệm tấn công Hà Bắc. Ông ta cấp bách cần đến sự ủng hộ của các sĩ tộc Hà Bắc. Lúc đó một khác, bây giờ một khác!

Có lẽ không nên nói toạc ra như vậy. Nói ra thế sẽ gặp phải rắc rối, Bùi Thanh Tùng nhất thời cũng không nghĩ tới, tại tửu lầu Tiến Sĩ anh ta đã tiết lộ thiên cơ điều đó khó tránh khỏi sóng gió lớn.

Sáng sớm hôm sau, Dương Nguyên Khánh đã đưa công chúa Đan Dương - Dương Phương Hinh tới cung Tấn Dương để yết kiến thiếu đế Dương Hựu. Có lẽ vì cùng đi với Giang Bội Hoa nên trên đường đến Thái Nguyên vẻ mặt bi thảm của cô không còn nữa, tinh thần trở nên phơi phới. Nhờ sức ảnh hưởng của Giang Bội Hoa, thái độ của cô với Dương Nguyên Khánh cũng không còn lãnh đạm như trước nữa.

Dương Nguyên Khánh cưỡi ngựa đi bên cạnh xe ngựa. Xung quanh còn có hàng trăm hộ vệ cận binh.

- Công chúa điện hạ, hôm qua nghỉ ngơi tốt chứ?

Dương Nguyên Khánh đi bên cạnh xe ngựa cười hỏi. Bản thân hắn lại khôi phục rất tốt. Chỉ ở bên gia đình một hôm thì những mệt nhọc trên đường dường như tan biến hết, tinh thần của hắn tốt hơn bao giờ hết.

Dương Phương Hinh không nói gì, một lúc sau cô mới hỏi nhỏ:

- Dương tổng quản, ngươi sẽ để ta ở cung Tấn Dương?

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 624 : Sóng to gió lớn

Dương Nguyên Khánh cảm nhận được sự bất an trong lòng cô, liền cười hỏi:

- Bản thân công chúa có muốn ở trong cung Tấn Dương không? Nếu công chúa muốn, vi thần sẽ sắp xếp.

Dương Phương Hinh không muôn nói rằng mình muốn ở trong phủ của Dương Nguyên Khánh, cô nói vòng vo:

- Nếu tỷ tỷ cũng vào ở trong cung Tấn Dương, thì ta cũng bằng lòng dọn đến cung Tấn Dương. Dù sao ta cũng muốn ở cùng với tỷ ấy.

Dương Nguyên Khánh ha hả cười,

- Vi thần hiểu rồi!

- Dương tổng quản…

Trong xe ngựa, Dương Phương Hinh không kìm được liền hỏi:

- Băng nhi nói ngươi là người đàn ông nhân hậu nhất thế gian. Ngươi có thấy đúng không?

- Vi thần là cha nó. Đối với nó đương nhiên vi thần là người đàn ông nhân hậu nhất thế gian rồi. Công chúa không cho rằng phụ thân của công chúa là người tốt nhất thiên hạ này sao?

- Đúng vậy!

Trong xe ngựa Dương Phương Hinh thấp giọng nói:

- Trong thiên hạ cha của ta là nhân ái nhất, bao dung nhất, là người lương thiện nhất không ai sánh bằng.

Trầm ngâm một lúc, Dương Phương Hinh lại nói nhỏ:

- Dương tổng quản, cảm ơn ngươi!

- Cảm ơn cái gì?

Dương Nguyên Khánh không hiểu liền hỏi.

- Cảm ơn ngươi đã tôn cha ta làm Vũ Đế chứ không dùng Dương, Suy, Ai, Mạt. Những chữ này sẽ hạ thấp cha ta. Ta nghe nói triều Đường gọi cha ta là Dương Đế. Dương tổng quản, ta hy vọng ngươi sẽ thắng triều Đường.

Dương Nguyên Khánh gật đầu

- Công chúa điện hạ, công chúa nên nhớ điều này. Triều Đường là kẻ thù của chúng ta, không riêng gì là kẻ thù của Dương Nguyên Khánh mà đó là kẻ thù của Đại Tùy. Cho dù công chúa không hài lòng với vi thần thì cũng không được ca ngợi kẻ thù.

- Ta không thế đâu, ta không bao giờ lại ca ngợi kẻ đã giáng chức phụ thân ta thành Dương Đế.

Cung Tấn Dương nằm ở bên ngoài thành bắc, phải đi từ thành bắc ra. Đội hình của Dương Nguyên Khánh lên đến đường lớn Tấn Dương. Đường lớn Tấn Dương là trục đại lộ của Thái Nguyên. Nó thẳng tắp nối giữa cửa thành nam và cửa thành bắc kéo dài ra ngoài. Điểm cuối là cổng chính của cung Tấn Dương, Tấn Dương môn.

Bọn họ vừa đến đường cái Tấn Dương liền đã nghe thấy âm thanh la hét ầm ĩ. Chỉ nhìn thấy một đám người đông nghìn nghịt từ mặt nam hướng về phía bắc khiến Dương Nguyên Khánh vô cùng ngạc nhiên. Lúc này mới nhìn rõ, đại bộ phận là sĩ tử mặc nho bào chứ không phải giáp binh. Bây giờ hắn mới cảm thấy bớt căng thẳng, lúc đầu hắn nghĩ đó là quân đội vào thành.

Dương Nguyên Khánh nhíu mày. Đám sĩ tử này đang cầm biểu ngữ, tay chân múa may, rõ ràng là đang biểu tình. Có chuyện gì xảy ra vậy? Hắn lập tức sai một tên cận binh:

- Đi nghe ngóng xem có chuyện gì?

Cận binh quất ngựa chạy như bay. Dương Nguyên Khánh lệnh cho thuộc hạ tăng tốc đến cung Tấn Cương trước.

Một con bướm nhỏ tung đôi cánh đã dẫn đến gió bão từ xa xôi ngàn dặm. Bùi Thanh Tùng con cháu nhà Bùi thị chỉ một phen lơ đãng đã tiết lộ thiên cơ, gây nên sóng to gió lớn. Mười mấy sĩ tử sau một đêm liên kết với nhau đã kêu gọi ba nghìn sĩ tử Quốc Tử Giám đi biểu tình.

Bọn họ cầm một biểu ngữ rất lớn, “Đả đảo danh môn vọng tộc, đòi công bằng!’Bọn họ khiêng theo tượng Khổng Tử, biểu tình ầm ĩ trên đường Tấn Cương. Cuộc biểu tình không ngừng thu hút những sĩ tử tham gia lần khoa cử này cùng biểu tình. Sau một canh giờ, lượng người biểu tình đã lên tới hai mươi nghìn người, rầm rộ cả một vùng. Đám đông cũng đã thu hút hơn mười nghìn người dân Thái Nguyên vây xung quanh để xem.

Phủ Kinh Triệu điều hàng trăm nha dịch ra để duy trì trật tự. Quân Cửu Môn cũng phụng mệnh xuất năm nghìn kỵ binh vây quanh đám đông, chỉ sợ sẽ xảy ra chuyện nghiêm trọng.

- Khoa cử công bằng!

- Đả đảo danh môn vọng tộc!

…..

- Lấy người có tài, phản đối câu kết!

Đám sĩ tử tinh thần sục sôi, vung tay hô to. Rất nhiều nước mắt đã rơi xuống, gào thét đến khan giọng, hy vọng có một cuộc thi công bằng để thực hiện ước mơ cả đời của bọn họ.

Đội hình hùng dũng đi về phía cửa bắc, cửa bắc đã đóng lại. Ba nghìn cung thủ xếp thành năm hàng, cung nỏ lạnh lùng chĩa về phía các sĩ tử. Hai bên là năm trăm kỵ binh tay lăm lăm giáo mác, đằng đằng sát khí. Đi qua cửa bắc vài dặm là đến cung Tấn Dương - trung tâm chính trị của Vương triều bắc Tùy. Các binh lính không thể cho phép bọn họ đi qua cửa bắc.

Đám đông càng tiến gần, tất cả binh lính càng căng thẳng. Tướng quân Mã Thiệu của Cửu Môn đứng ở đầu thành, tay nắm chặt đao, lòng bàn tay đã lấm tấm mồ hôi. Môi anh ta đã căng thành một đường dài, ánh mắt nhìn chằm chằm vào đám đông biểu tình. Đúng lúc này, bên ngoài thành bắc bỗng có tiếng binh linh hô to:

- Mã tướng quân!

Mã Thiệu bước nhanh đến, quay người về phía bên kia thành thì thấy một kỵ binh xuất hiện ở dưới thành. Trong tay giơ cao một mặt của kim bài, cao giọng hô:

- Tổng quản có lệnh, mở cửa thành, không được làm hại sĩ tử!

Mã Thiệu cảm thấy nhẹ lòng, quay nhanh sang bên này, đã thấy đám đông tiến đến rất gần, ông ta lập tức cao giọng lệnh:

- Rút quân, mở thành!

Cung thủ và kỵ binh đều đã lùi đi. Cửa thành bắc từ từ mở ra, hàng chục nghìn sĩ tử đi qua thành, hung dũng đi về phía cung Tấn Dương.

……

Trong Tử Vi các cung Tấn Dương, Dương Nguyên Khánh cùng với năm vị tướng quốc đang thảo luận khẩn cấp việc đám đông biểu tình trong thành Thái Nguyên. Lời của Bùi Thanh Tùng nói khi ở quán rượu quả không sai. Dương Nguyên Khánh thực sự là muốn thông qua lần thi Hương này để lôi kéo sĩ tộc Hà Bắc. Đó cũng chính là bàn đạp tốt cho việc phát động tấn công Hà Bắc vào năm sau. Sự công bằng tuyệt đối là không thể có, chỉ có thể công bằng ở một mức độ nào đó thôi.

Từ hai tháng trước, lúc Vương Tự đề xuất ý kiến về khoa cử, tại Tử Vi các năm vị tướng quốc và Dương Nguyên Khánh đã đạt được thỏa hiệp. Dựa theo tỉ lệ tam tam tứ mà phân chia danh sách được lựa chọn lần này. Chính là sĩ tộc bên ngoài Hà Đông, sĩ tộc Hà Đông và còn lại mới là chọn lựa công bằng.

Nhưng sự đồng lòng thỉnh cầu công bằng của các sĩ tử khiến sự thỏa hiệp của bọn họ đối mặt với một thách thức lớn. Năm vị tướng quốc đều trầm mặc. Lúc này, Đỗ Như Hối mới về tối qua thở dài nói:

- Lời thỉnh cầu về sự công bằng của các sĩ tử ta có thể hiểu được. Dù sao đây cũng là lần khoa cử đầu tiên của bắc Tùy. Để tạo nênthanh danh, ta đề nghị tất cả đều nên công bằng, giữ lời hứa công bằng khoa cử, đáp ứng lời thỉnh cầu của các sĩ tử.

Bùi Củ lắc đầu,

- Nếu như là ở thời kỳ thịnh vượng, khoa cử công bằng còn có thể thực hiện được. Nhưng bây giờ thì không. Mấy ngày nay ta đã gặp con cháu đến tham gia khoa cử của họ Thôi Bắc Lăng và họ Lô Phạm Dương. Họ Thôi Bắc Lăng phái năm người đến, hai dòng chính, ba dòng thứ. Họ Lô Phạm Dương Lô phái tới sáu người, ba dòng chính, ba dòng thứ. Ta thấy những người bọn họ phái đến đều không phải là những con cháu ưu tú nhất. Ví dụ như ba đứa cháu của Thôi Hoằng Thăng là Khải Nguyên, Khải Đông, Khải Bách Đô thì đều không đến. Còn con cháu của Phạm Dương Lô ta đều chưa từng nghe nói tới. Từ đó có thể thấy sĩ tộc Hà Bắc đang rất thận trọng. Ta có thể hiểu được sự thận trọng của họ. Bọn họ sợ khoa trương quá sẽ bị Đậu Kiến Đức trừng trị. Nhưng nếu thật sự làm theo ý kiến của Đỗ tướng quốc, toàn bộ thi cử công bằng, thì kết quả sẽ thế nào? Ta có thể nói, sĩ tử của sĩ tộc Hà Bắc đều không thể vượt qua được cuộc thi. Dù sao thì sĩ tộc Hà Đông sẽ dốc hết sức mình. Như vậy hậu quả rất nghiêm trọng. Sĩ tộc Hà Bắc sẽ cho là chúng ta không nể mặt. Vì thế vẫn phải phân chia danh sách. Chỉ là xem xét nên phân chia như thế nào.

Tuy Vương Tự và Bùi Củ từ trước vẫn tranh đấu gay gắt. Nhưng trong việc khoa cử lần này, ông ta và Bùi Củ lập trường không khác biệt là mấy. Hơn nữa còn có phần quá đà hơn. Ông ta kiên quyết phản đối khoa cử mà chủ trương công bằng trong việc chọn lựa cửu phẩm. Tất cả danh sách sẽ đem phân chia cho các quận, do các quận tự đề cử những người ưu tú. Như thế thì con cháu Vương Tự ít nhất sẽ chiếm đến hai phần. Việc tiến hành khoa cử ngẫu nghiên đã xâm phạm đến lợi ích của ông ta.

- Ta ủng hộ ý kiến của Bùi tướng quân. Lần khoa cử này là ý kiến của ta. Thực ra phương án đầu tiên của ta là điều chỉnh chế độ khoa cử. Kết hợp để cử với thi cử, các quận có thể chọn ra nhiều người. Ví dụ căn cứ vào nhân khẩu của từng quận, đề cử ra hai mươi người đến năm mươi người, sau đó những người được đề cử đó tham gia khoa cử. Thực ra đó là phương pháp của năm Khai Hoàng. Ta cho rằng như vậy mọi người sẽ dễ chấp nhận hơn.

- Ta phản đối phương án của Vương tướng quốc!

Người nói chính là Thôi Quân Túc. Ông ta xuất thân từ họ Thôi Thanh Hà. Tuy họ Thôi Thanh Hà cũng kiên quyết phản đối tiến hành sĩ tộc khoa cử nhưng Thôi Quân Túc theo Dương Nguyên Khánh nhiều năm, suy nghĩ của ông ta có phần tiến bộ. Chủ trương của ông ta là cho con cháu hàn mônmột cơ hội, vì thế ông ta chủ trương thực hành khoa cử của phái tiến bộ.

- Ta cho rằng Đỗ tướng quốc nói đúng. Dù là cuộc thi công bằng thì trên thực tế cũng là danh môn vọng tộc chiếm ưu thế. Mấy năm trước khoa cư Phong Châu là vì không có danh môn sĩ tộc tham dự nên con cháu hàn môn trúng tuyển khá nhiều. Nhưng năm nay khoa cử không hề đơn giản. Danh môn sĩ tộc Hà Đông và Hà Bắc cơ bản đều tham dự, cơ hội cho con cháu hàn môn vốn là rất ít. Nếu theo phương án của Bùi tướng quốc, đại bộ phận đều phân cho con cháu của danh môn, còn lại tổ chức thi cử công bằng, như thế thì càng không công bằng đối với con cháu hàn môn. May mắn thì có một hai người có thể vượt qua cuộc thi, nói không chừng chẳng ai qua được. Người trong thiên hạ sẽ hoài nghi về sự công bằng trong khoa cử của chúng ta. Tất cả nên công bằng, tất cả dựa vào thực lực mà đánh giá. Mọi người thấy thế nào?

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 625 : Cầu nối của Lô thị

Tất cả mọi người quay ra nhìn Dương Nguyên Khánh. Hắn đang đứng trước của sổ, lặng lẽ nhìn về phía xa. Từ nơi này có thể nhìn ra cửa chính của cung Tấn Dương. Trước cửa của cung Tấn Dương là chục nghìn sĩ tử. Bọn họ đang lặng yên ngồi trên bãi cỏ trước cửa chính, giữ yên lặng, dùng một thứ ngôn ngữ không lời thỉnh cầu sự công bằng.

Một biểu ngữ lớn được dựng thẳng đứng lên, “Đả đảo danh môn vọng tộc, cần công bằng”. Mấy chữ lớn này thật vô cùng nhức mắt.

Hai trăm người được chọn lựa có thể trực tiếp ra làm quan. Nó giống như một chiếc bánh tròn đầy sức hấp dẫn, mỗi người đều muốn chia một ít, nhưng cũng chỉ có bấy nhiêu mà thôi. Người này thêm một ít thì người kia phải ít đi một ít. Chính vì thế phân thế nào đi nữa cũng không tránh khỏi này sinh nhiều ý kiến.

Nhưng bất kể có ý kiến như thế nào, phương án cuối cũng vẫn phải do Dương Nguyên Khánh quyết định.

Dương Nguyên Khánh thở dài. Hắn không thể không suy xét đến lợi ích của sĩ tộc Hà Bắc. Lợi ích của họ Vi ở Kinh Triệu, họ Thẩm ở Ngô Hưng và các vọng tộc ở các khu vực khác, hắn đều phải xem xét.

Trầm mặc hồi lâu, Dương Nguyên Khánh rốt cuộc đã có quyết định. Hắn chậm rãi nói:

- Trong số hai trăm người, ta sẽ chọn ba mươi người, một trăm bảy mươi người còn lại sẽ thông qua cuộc thi để quyết định, chọn lựa công bằng. Về phần quan chủ khảo, ta đề cử Lý Cương đảm nhiệm.

Hai mươi nghìn sĩ tử cuối cùng cũng đã nhận được câu trả lời. Năm vị tướng quốc đã ra mặt cam đoan với các sĩ tử tại Tử Vi Các rằng nhất định sẽ tổ chức kỳ thi Hương công bằng.

- Xin hãy tin tưởng chúng ta. Đây là lần đầu tiên Bắc Tùy tổ chức khoa cử. Chúng ta nhất định sẽ dựng lên một ngọn cờ công bằng, để cho lần khoa cử này xứng đáng là hình mẫu cho người đời sau. Xin hãy tin tưởng vào lời hứa của Sở Vương điện hạ!

Người đứng ở trên cao hướng về phía các sĩ tử lớn tiếng hô hào đó chính là Tô Uy. Ông ta rất được các sĩ tử kính trọng bởi danh tiếng trong quan trường. Lời hô hào chân thành của ông ta cũng nhận được những tràng pháo tay hưởng ứng kịch liệt.

- Quan chủ khảo lần thi này, Tử Vi Các đã nhất trí bổ nhiệm Binh bộ Thị lang Lý Cương đảm nhiệm. Trong Đại Tùy ngài ấy là người có tiếng là công chính nghiêm minh. Mong mọi người hãy tin tưởng vào quyết tâm của chúng ta. Mọi người hãy về nghỉ ngơi thật tốt, ngày kia sẽ chính thức là khoa cử rồi. Ta chúc mọi người có một kì thi thành tích tốt, mọi người hãy về đi!

Dưới sự cam đoan của các tướng quốc và sự khuyên bảo của các đại thần tại Tử Vi Các, đám sĩ tử cuối cùng cũng bắt đầu đứng dậy ra về. Bọn họ đi từng nhóm hai, ba người quay về thành Thái Nguyên.

Dương Nguyên Khánh đứng trong phòng mình nhìn ra phía cửa sổ, nhìn xa xăm về phía các sĩ tử đang ra về. Mấy trăm năm chịu sự chi phối của các danh môn vọng tộc, đám sĩ tử nghèo khổ này không có cơ hội được cùng nhau đứng lên đòi sự công bằng, bình đẳng. Cuối cùng hôm nay đã làm được rồi. Bọn họ đã thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết. Chính sự đoàn kết đó đã khiến cho các môn phiệt Thái Nguyên Vương thị, Văn Hỉ Bùi thị phải cúi đầu nhường bước. Tại sao trước đây không làm được mà bây giờ lại có thể làm được? Mấu chốt chính là có chế độ khoa cử.

Chỉ cần thiết kế tốt chế độ thượng tầng thì dân đen tự nhiên sẽ tập hợp được sức mạnh của mình, bảo vệ lợi ích của chính mình, đối đầu với các danh môn vọng tộc, hoàn toàn không cần Dương Nguyên Khánh phải đi cầu cạnh đám danh môn vọng tộc nhượng bộ, hoàn toàn không cần hắn phải bận tâm. Thực sự có thể đối đầu với các danh môn vọng tộc không phải là Dương Nguyên Khánh mà chính chính là hàng chục nghìn sĩ tử của các gia đình hàn môn. Cái này có lẽ chính là cái gọi là nước chảy thành sông.

Lúc này, Đỗ Như Hối đi vào.

- Tổng quản, ngài tìm ty chức?

Dương Nguyên Khánh quay người lại, gật đầu:

- Cứ ngồi xuống đi đã!

Đỗ Như Hối ngồi xuống cười nói:

- Tổng quản cảm thấy phiền lòng sao? Vừa về ngày thứ hai mà đã gặp phải chuyện mấy chục nghìn người biểu tình rồi.

- Cũng may không phải là quân đội chứ không thì đêm nay ta chắc đừng mong được đi ngủ.

Dương Nguyên Khánh dựa người vào tấm đệm, vẻ mặt có vẻ rất thoải mái. Mấy chục nghìn người biểu tình ngày hôm nay dường như không ảnh hưởng gì đến tâm trạng của hắn.

Đỗ Như Hối nhìn chăm chú vào mặt hắn, trong ánh mắt lộ vẻ xảo quyệt, cười hỏi:

- Việc biểu tình của các sĩ tử dường như đúng với tâm nguyện của tổng quản. Ty chức thấy tổng quản có vẻ như là cười trên nỗi đau của người khác vậy.

Dương Nguyên Khánh ngửa đầu ha hả cười,

- Lão Đỗ, ông thật là con giun trong bụng ta rồi?

- Bởi vì ty chức rất hiểu ngài. Những năm đầu Đại Nghiệp, lúc tổng quản khuyên Ngư Câu La tổ chức khoa cử, ty chức đã biết thực ra ngài muốn chủ trương công bằng trong việc chọn lựa nhân tài.

Đỗ Như Hối chăm chú nhìn vào Dương Nguyên Khánh với một ánh mắt cảm thông, thậm chí là thương hại. Ông ta thở dài:

- Nguyên Khánh, thực ra ty chức rất hiểu nỗi khổ tâm của ngài.

- Ngươi hiểu gì cơ?

Nụ cười của Dương Nguyên Khánh đã biến mất. Ánh mắt hắn thản nhiên nhìn vào Đỗ Như Hối.

- Sĩ tộc!

Đỗ Như Hối dùng một giọng điệu quả quyết, không chút do dự nói:

- Ty chức biết người không thích sĩ tộc Sơn Đông, cũng giống như không thích quý tộc Quan Lũng. Ngài oán hận hết thảy đám danh môn vọng tộc, ngài muốn đạp đổ bọn họ. Nhưng bây giờ ngài không thể không dùng bọn họ. Từ lần khoa cử này có thể thấy. Ty chức thấy sự vui mừng từ trong nội tâm của ngài. Đối với mấy chục nghìn sĩ tử, ngài chỉ hận không nhào lên ôm hết thảy họ vào lòng. Bọn họ đã thay ngài giải quyết một vấn đề lớn.

Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu. Chả trách Bùi Củ luôn nói Đỗ Như Hối có chí tiến thủ. Bây giờ hắn mới thực sự thấy được "chí tiến thủ" của Đỗ Như Hối. Đoán biết được tâm sự của người bề trên, hơn nữa còn nói ra. Đây không phải là việc làm của người lăn lộn mười mấy năm trong quan trường.

Tuy nhiên Dương Nguyên Khánh cũng không hy vọng bên cạnh hắn người nào cũng đa mưu túc trí giống như Bùi Củ, luôn làm ra vẻ như Tô Uy. Có khi có một tâm phúc có "chí tiến thủ" như thế này cũng chưa hẳn là chuyện xấu.

Hắn khẽ mỉm cười.

- Được rồi, chúng ta không nói chuyện này nữa. Ta tìm ngươi đến là muốn hỏi một chút về việc gia đình quân nhân rời về phía đông bây giờ tiến triển thế nào rồi?

.......

Việc hai mười nghìn sĩ tử tổ chức biểu tình ở Thái Nguyên khiến đã gây lên sóng gió lớn. Sự việc này đã trở thành tâm điểm cho tất cả mọi người. Có người vui mừng, có người phản cảm, có người tán thành, có người phản đối. Nhưng đại đa số mọi người coi việc này là một việc kỳ lại hiếm gặp để đem ra bàn luận. Chuyện mấy chục nghìn sĩ tử biểu tình từ trước đến nay là chuyện chưa từng thấy.

Sau khi các sĩ tử giải tán, mấy trăm nghìn người dân Thái Nguyên vây quanh cũng dần dần tản ra về.

Ở thành đông Thái Nguyên có một nhà trọ tên là nhà trọ A Bảo, là một nhà trọ thuộc hạng khá sang, sạch sẽ thoái mái, ba mươi phòng đều là phòng hảo hạng. Phòng trọ sáng sủa, vật dụng tốt, tiểu nhị phục vụ chu đáo, khá là có tiếng ở Thái Nguyên. Đương nhiên, danh tiếng lớn đi cùng với giá cả cũng rất cao. Tiền thuê phòng ở đây gấp ba lần các phòng trọ bình thường.

Mặc dù như vậy, nhà trọ này vẫn đông kín khách. Khách trọ ở đây đa số là danh môn vọng tộc từ các nơi đến. Bọn họ có yêu cầu khá cao đối với nơi ăn chốn ở. Còn về phần tiền thuê phòng, gia tài bọn họ hùng hậu, trên người tiền đầy túi, đủ để bọn họ chi tiêu.

Cuộc biểu tình của các sĩ tử thu hút rất nhiều người chạy đến xem, các sĩ tử quay về, bọn họ cũng lục đục quay về nhà trọ. Lúc này cách nhà trọ không xa có bảy tám sĩ tử đi tới. Đi đầu là một người đàn ông trung niên, dáng người cao gầy, khuôn mặt trắng, để hàm râu đen, ăn mặc cũng rất chăm chút. Ông ta mặc trường bào lụa màu lam, đầu đội mũ tam lương. Có thể thấy người đàn ông trung niên này là bề trên của đám sĩ tử, chứ không phải là nhân vật đi cùng sĩ tử như quản gia chẳng hạn.

Đằng sau ông ta là sáu sĩ tử trẻ tuổi đều mặc nho bào màu nhạt, ai nấy tinh thần đều rất tràn trề. Bọn họ là con cháu Lô thị, được Lô thị Phạm Dương phái tới tham gia khoa cử Thái Nguyên. Ba con trai dòng chính, ba con trai vợ kế. Người đàn ông trung niên phía trước được bọn họ gọi là tứ thúc, tên là Lô Sách. Ông ta là nội sử lệnh của nam Tùy Lạc Duơng, cũng là đệ đệ của Lô Sở. Hiện tại gia chủ của Lô thị Phạm Dương là tể tướng của Lạc Dương Lô S nhưng trong gia đình người chủ sự lại là Lô Dự - nhị đệ của Lô Sở tam đệ Lô Chiêu thì đảm nhiệm chức Tư Mã quận Trác còn tứ đệ Lô Sách là người dẫn đoàn đến Thái Nguyên tham gia khoa cử, chủ quản tài sản của Lô gia.

Lần này Lô gia đến Thái Nguyên tham gia khoa cử rất cẩn thận, đồng thời cũng rất coi trọng. Cẩn thận ở chỗ bọn họ không phái những sĩ tử giỏi đến Thái Nguyên tham gia khoa cử vì sợ sẽ khiến La Nghệ không vui, ngược lại lại rất coi trọng, đã phái Lô Sách - một nhân vật quan trọng trong gia đình dẫn đoàn, thể hiện thái độ của Lô gia.

- Tứ thúc, đám sĩ tử biểu tình này, cái gì mà phản đối danh môn vọng tộc, yêu cầu công bằng. Thúc nói xem triều đình Bắc Tùy có chịu sự uy hiếp của bọn họ không?

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 626 : Cuộc thi ở Trường An (1)

Lô Sách không để ý đến nghi vấn của sĩ tử đó. Một sĩ tử họ Lô khác không nhịn được hỏi:

- Tứ thúc, mấy ngày trước Bùi tướng quốc gặp chúng ta, thúc nói Sở Vương điện hạ lúc nào đó cũng có thể sẽ gặp chúng ta, thể hiện sự tôn trọng đối với Lô thị Phạm Dương. Ý con muốn nói là…tiếp kiến Tứ thúc.

Lô Sách giận giữ quay đầu lại trừng mắt nhìn bọn họ,

- Tất cả các ngươi im miệng cho ta. Bây giờ quay về thu dọn đồ đạc, sau đó đi ăn cơm, ăn cơm xong đến Vương học đọc sách. Chăm chỉ ôn luyện. Hãy dựa vào thực lực mà tham gia cuộc thi. Đừng có cả ngày chỉ nghĩ Lô gia như thế nào?

Mấy sĩ tử họ Lô không dám lên tiếng nói gì nữa. Bọn họ bước nhanh chân, rất nhanh liền đã đến cổng nhà trọ nhưng lại thấy trước cửa phòng trọ có rất nhiều binh lính đứng đó, Lô Sách trong lòng không khỏi sửng sốt.

Ông ta vừa bước vào cửa lớn. Ông chủ nhà trọ đợi ông ta khá lâu đã liền nhanh chân chạy đến luôn miệng nói:

- Lô tiên sinh, nhanh lên! Nhanh lên! Sở Vương điện hạ đang đợi ngài đó.

Trong đầu Lô Sách phút chốc trở nên trống rỗng. Dương Nguyên Khánh không ngờ lại đích thân đến tìm ông ta. Ông ta không còn để ý đến đám con cháu nữa mà vộinhanh chân cùng với trưởng quầy đi vào phía trong.

Vừa đến cánh cổng vào sân đã thấy mấy chục cận vệ, toàn thân mặc áo giáp, tay cầm binh khí. Lô Sách tiến tới vội vàng chắp tay với sự đề phòng nghiêm ngặt:

- Tại hạ Lô Sách, Sở Vương điện hạ lệnh ta đến yết kiến ngài.

Một gã Giáo Úy gật đầu cho ông ta vào còn trưởng quầy bị giữ lại ở bên ngoài.

Thực ta trưởng quầy có phần nói quá. Dương Nguyên Khánh không phải đã đợi quá lâu mà là vừa mới đến thôi. Lúc này hắn đang ngồi trong phòng uống trà. Mấy năm gần đây hắn cũng học được cách nhẫn nại. Người nào mà lúc nào cũng vội vàng sẽ khó có thể thành công được. Chỉ khi học được cách chờ đợi và nhẫn nại mới có thể khiến nhân phẩm của hắn tỏa huơng.

Lúc này, một gã cận binh ngoài cửa bẩm báo:

- Tổng quản, Lô tiên sinh đến rồi.

- Mời ông ta vào!

Cánh cửa mở ra, cận binh đưa Lô Sách đi vào. Lô Sách tiến đến thi lễ:

- Lô Sách tham kiến Sở Vương điện hạ!

Dương Nguyên Khánh mỉm cười xua tay,

- Lô tiên sinh không cần khách khí, mời ngồi!

Lô Sách ngồi xuống, trong lòng có chút hồi hộp. Một tên cận binh đem đến hai tách trà nóng. Lô Sách cầm trong tay tách trà, không biết nên nói gì. Dương Nguyên Khánh lại cười nói:

- Ta nhớ là đã gặp tiên sinh ở đâu đó rồi. Thật xin lỗi, thời gian lâu quá, ta không nhớ rõ lắm.

Dương Nguyên Khánh lúc đảm nhiệm tổng quản U Châu đã từng đến Lô phủ ba lần và đã gặp không ít người Lô gia. Hắn nhớ rất rõ Lô Sở và người chủ sự gia đình Lô Dự. Những người khác không nhớ rõ lắm. Đối với Lô Sách, hắn chỉ cảm thấy hơi quen quen.

Lô Sách hạ thấp người cười nói:

- Năm Đại nghiệp thứ bảy, để phòng ngừa dịch bệnh lan truyền ở quận Trác, điện hạ đã đích thân đem vôi đến cho Lô phủ. Lúc đó chính là tại hạ nhận số vôi đó, điện hạ còn có ấn tượng gì sao?

Dương Nguyên Khánh trên mặt lộ vẻ như bừng tỉnh nhớ ra. Hắn đã nhớ ra rồi. Hình như chính là Lô Sách này. Hắn ha ha cười:

- Hóa ra là cố nhân!

Lô Sách lại nói:

- Lần khoa cử Thái Nguyên này, Lô gia rất coi trọng, đã đặc biệt phái người đến Lạc Dương hỏi gia chủ, gia chủ nói có thể tham gia. Lúc chúng tôi thảo luận chuẩn bị phái đến những sĩ tử giỏi nhất đến tham gia thì La Nghệ đến, yêu cầu Lô gia nên từ bỏ cuộc thi. Ôi!

Lô Sách thở dài một tiếng,

- Chúng tôi sợ sẽ đắc tội với La Nghệ nên chỉ phái mấy sĩ tử bình thường đến thôi. Sở Vương điện hạ, chúng tôi rất xin lỗi!

- Cái này không có gì, ta có thể hiểu được Thật ra Thôi thị Bác Lăng cũng thế, chỉ phái năm sĩ tử bình thường đến. Bọn họ sợ áp lực từ Đậu Kiến Đức. Ta vẫn cho rằng, thái độ là quan trọng nhất. Lô gia phái tiên sinh đến dẫn đoàn, thái độ này đã rất đáng tán thưởng rồi

Được Dương Nguyên Khánh khích lệ, Lô Sách rất đắc ý, vuốt râu cười nói:

- Không ngờ điện hạ đích thân đến nhà trọ thăm hỏi, có thể thấy được sự quan tâm đối với Lô thị. Ta nhất định chuyển lời đến Nhị ca, cũng sẽ báo cáo với gia chủ.

Dương Nguyên Khánh đến lần này cũng không đơn giản là đến thăm Lô Sách, hắn còn có ý đồ sâu xa hơn. Hắn biết Lô Sách là thân đệ của Lô Sở, có địa vị khá cao trong Lô gia, phụ trách tiền tài của gia tộc, rất khôn khéo và có khả năng. Lúc Nguyên Hoằng Tự làm tổng quản U Châu, ông ta từng đảm nhiệm Thương Tào Tham Quân Sự, về sau mẫu thân qua đời ông ta đã từ chức. Dương Nguyên Khánh muốn ông ta thành người của mình và trở thành một chiếc cầu nối với Lô thị Phạm Dương.

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một chút, liền cười nói:

- Bắc Tùy chúng ta vị trí Thái phủ Tự Thiếu Khanh vẫn còn trống, thiếu một quan viên thích hợp. Ta cảm thấy tiên sinh rất thích hợp với vị trí này, không biết tiên sinh thấy thế nào?

Lô Sách sửng sốt. Ông ta có chút không tin vào tai mình. Thái phủ Tự Thiếu Khanh? Đây là chức quan lớn tứ phẩm cơ đấy. Không ngờ lại cho mình đảm nhiệm? Ông ta nhìn sang Dương Nguyên Khánh, thấy hắn rất nghiêm túc, không có chút gì là nói đùa. Ông ta cắn vào môi mình, lập tức từ trong mơ tỉnh lại. Ông ta xác nhận không phải là mơ. Trong lòng rất vui mừng, đứng dậy thi lễ với Dương Nguyên Khánh:

- Lô Sách nguyện vì Sở Vương điện hạ dốc sức!

Đang lúc đám sĩ tử tiến hành biểu tình thì trong một ngôi làng hẻo lánh ở phía tây thành Thái Nguyên có một con chim diều hâu bay lên không trung, lượn vài vòng rồi vỗ cánh bay về phương nam.

Trong nội điện Lưỡng Nghi, cung Thái Cực, Trường An đang diễn ra một cuộc họp về cuộc thi lần này. Lý Uyên vốn dự định sau khi bình định thiên hạ mới tổ chức thi cử, thu nạp nhân tài nhưng sức ảnh hưởng của cuộc thi ở Thái Nguyên quá lớn khiến y thấy khó nghĩ. Lý Uyên chỉ cần nghĩ đến việc người tài trong thiên hạ đều bị Dương Nguyên Khánh thu nạp hết là y có chút không kìm chế được tức giận.

- Các vị ái khanh, trẫm luôn nghĩ tại sao nhà Bắc Tùy ngay từ khi mới thành lập nhà nước liền lập tức tổ chức thi cử mà Đại Đường chúng ta lại chậm trễ không hề có động tĩnh gì hết vậy. Trẫm thiết nghĩ chúng ta cũng nên tổ chức một cuộc thi để tuyển chọn người tài, khiến anh tài trong thiên hạ cho Đại Đường chúng ta sử dụng.

Lý Uyên vẫn còn có một ý nghĩ khác sâu sắc hơn. Sự kiện Đồng Quan của đứa con trai thứ ba Lý Nguyên Cát mặc dù đã dần lắng xuống nhưng việc này vẫn đem tới một đả kích rất lớn đối với uy tín của y. Muốn nhanh chóng bù đắp lại uy tín và danh dự đó thì cuộc thi lần này chính là cách tốt nhất lôi kéo sĩ tử, lấy lòng mọi người.

Chính lúc này, Bùi Tịch bước ra khỏi hàng, tấu:

- Bẩm bệ hạ, bây giờ đã là hạ tuần tháng 10 rồi, mùa đông cũng sắp tới nữa, lúc này mà tổ chức khoa cử thì sợ rằng có nhiều sĩ tử sẽ không thể xuất hành được. Thần kiến nghị mùa xuân năm sau mới tổ chức. Nếu nhà bắc Tùy gọi nó là thi Hương thì chúng ta gọi nó là kì thi mùa xuân. Thần cho rằng, như vậy mới có thể thu hút được nhiều sĩ tử tới dự thi.

Bùi Tịch vừa dứt lời thì Lưu Văn Tĩnh liền bước ra nói:

- Bệ hạ, thần cũng có đôi lời muốn nói.

Lý Uyên sớm đã thấy được sự đối đầu của Bùi và Lưu nhưng không thể trách được. Với tư cách là một vị hoàng đế, mâu thuẫn giữa hai vị đại thần quan trọng của mình, y cứ vui vẻ mà quan sát. Hơn nữa, Bùi Tịch và con thứ Thế Dân lại rất thân nhau, trong khi Lưu Văn Tĩnh lại là người phát ngôn của thái tử Kiến Thành. Mâu thuẫn giữa hai người bọn họ cũng mơ hồ ám chỉ mâu thuẫn của Thế Dân và Kiến Thành.

Từ sau thất bại Hoằng Nông, mâu thuẫn giữa con cả Kiến Thành với con thứ Thế Dân cũng dần dần được công khai. Mâu thuẫn này không phải là cuộc chiến tranh đoạt trưởng thứ, mà cũng chỉ là ý kiến bất đồng mà thôi. Đối với mâu thuẫn giữa hai huynh đệ, Lý Uyên cũng không quá can thiệp. Y là hoàng đế cũng có suy nghĩ của hoàng đế, cái mâu thuẫn của chính mình không hề đáng sợ, chỉ cần không làm tổn hại tới xã tắc, thì mâu thuẫn tồn tại ở một mức độ nhất định nào đó còn có lợi cho sự kiểm soát của một hoàng đế như y.

Cho nên ở một chừng mực ý nghĩa nào đó mà nói thì Lý Uyên y hi vọng triều đình của mình xuất hiện đấu tranh phe phái, như mâu thuẫn giữa Bùi Tịch và Lưu Văn Tĩnh. Lý Uyên sẽ lẳng lặng theo dõi diễn biến cuộc đấu từ ân oán cá nhân chuyển sang đấu đá phe phái.

Lý Uyên gật đầu cười nói:

- Lưu ái khanh, mời!

Lưu Văn Tĩnh tiến lên một bước, lên giọng đồng thời cũng nói với các vị đại thần khác:

- Thần lại cho rằng tổ chức thi cử không phải là một việc dễ dàng gì. Mặc dù nhà bắc Tùy đã tổ chức qua vài lần, nhưng trên thực tế nó phải chịu sự chống đối mạnh mẽ của các nhà quý tộc, mà không hề đạt được thành công theo đúng nghĩa. Thần cho rằng không cần phải đợi đến mùa xuân mới tính đến việc này, nếu Thánh Thượng có lòng tiến hành khoa cử, thì ngay bây giờ nên bắt tay vào chuẩn bị. Chỉ có chuẩn bị một cách đầy đủ, chu đáo khiến cuộc thi đi vào lòng người thì mới có hàng nghìn hàng vạn sĩ tử tới ứng thi. Bệ hạ không thể nghe lời Bùi tướng quốc lầm nước nói như vậy.

Bùi Tịch giận dữ, y căm tức nhìn Lưu Văn Tĩnh nói:

- Lưu tướng quốc, tôi có nói là bây giờ không chuẩn bị sao? Tôi chỉ là nói đợi tới mùa xuân hãy tổ chức thi, chứ không hề nói bây giờ không để ý tới, tất nhiên là phải sớm chuẩn bị cho kịp.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 626 : Cuộc thi ở Trường An (2)

Lưu Văn Tĩnh liếc mắt nhìn hắn, cười lạnh nói:

- Nghe ý của ngài, vậy thì rõ ràng khoa cử là một việc hết sức dễ dàng rồi, việc này chỉ cần vỗ đầu một cái là có thể tổ chức thi được ngay. Thế ngài không biết rằng thi cử nếu xử lý không tốt, nhẹ thì khiến nhiều người tức giận, nặng thì mất nước sao, không phải là chuyện dễ dàng gì đâu. Bùi tướng quốc, ngài vẫn không hiểu sao?

Sắc mặt Lý Uyên bỗng lập tức chìm hẳn xuống, Lưu Văn Tĩnh chính là đang châm chọc Bùi Tịch nhưng Lý Uyên lại cảm thấy như y đang chế giễu chính mình. Bởi vì y nóng lòng muốn tổ chức khoa cử, điều này rõ ràng là đang chế nhạo y chỉ vỗ đầu một cái đã nghĩ đến việc tổ chức thi cử.

Đúng lúc này, Điện Trung Thiếu Giám Vũ Văn Hân tiến vào đại điện nói:

- Bệ hạ, Thái Nguyên có tin khẩn đưa tới.

Lý Uyên bất mãn liếc nhìn Lưu Văn Tĩnh, nén cơn giận trong lòng nói:

- Trình lên đây!

Một tên thái giám đem thư tình báo từ Thái Nguyên đặt lên ngự án của Lý Uyên. Lý Uyên mở ra xem một lần, khẽ cau mày, không ngờ ở Thái Nguyên đang diễn ra cuộc diễu hành quy mô lớn của các sĩ tử. Y liếc qua nhìn đứng bên cạnh thái tử Kiến Thành, y nghi ngờ cuộc diễu hành của sĩ tử Thái Nguyên là có người âm thầm khơi mào, đó có phải là người của ta hay không. Y đưa bức thư này cho tên thái giám:

- Đưa thái tử xem!

Điện Lưỡng Nghi vô cùng im lặng, trong lòng mười mấy vị trọng thần đều hết sức ngờ vực nhìn bức thư trong tay Lý Uyên, không biết Thái Nguyên đã xảy ra chuyện lớn gì? Lý Kiến Thành chủ quản tình báo của Đại Đường, y nhận lấy bức thư xem qua một lượt, lập tức hiểu được ý của phụ hoàng, vội nói:

- Khởi bẩm phụ hoàng, việc này nhi thần cũng không hề được biết, hẳn là không hề có liên quan tới chúng con, có lẽ là do Hà Bắc Đậu Kiến Đức gây nên.

Hà Bắc nhiều danh môn gia thế như vậy đều phái người đến Thái Nguyên dự thi, Đậu Kiến Đức trong lòng sao có thể chịu để yên, có lẽ là do y gây nên. Lý Uyên gật đầu nói với Kiến Thành:

- Đem bức thư đưa cho các vị đại thần xem!

Tin tức trên tờ giấy đó rất ngắn gọn, chỉ cần một lướt một lượt có thể xem hết, mười mấy vị trọng thần nhanh chóng truyền nhau xem qua một lần. Ánh mắt mỗi người đều lộ ra vẻ khiếp sợ, mấy vạn sĩ tử diễu hành biểu tình, đây dường như là việc chưa bao giờ nghe thấy. Mỗi người cũng đều có chung một ý nghĩ, việc này có thật sự là do Đậu Kiến Đức đứng đằng sau chủ mưu?

Lúc này, Lưu Văn Tĩnh lại bước ra nói:

- Bệ hạ, việc này đã chứng thực cho những lo lắng của thần, việc tổ chức khoa cử không phải là chuyện dễ dàng. Nó dính đến quyền lợi của rất nhiều người, nhà bắc Tùy hẳn là đã không xử lý tốt những bất hòa về quyền lợi này mới dẫn đến việc hàng vạn sĩ tử biều tình như vậy. Bệ hạ, đây chính là gương cho chúng ta, nhất định phải cẩn thận chú ý xử lý tốt việc khoa cử.

Cho dù những lời nói của Lưu Văn Tĩnh khiến Lý Uyên không hề thấy thoải mái chút nào nhưng lúc này y không có lòng dạ nào nổi giận. Bức thư báo ngoài ý muốn từ Thái Nguyên khiến lòng y thấy rất loạn. Y cũng ý thức được việc gấp rút tổ chức thi cử sẽ đem lại phiền toái. Lý Uyên xua tay:

- Các vị ái khanh, chuyện thi cử tạm thời để đó, để sau hãy bàn, bây giờ bãi triều.

..........

Lý Uyên trở về ngự thư phòng của mình, chắp tay sau lưng đứng trước cửa sổ, cố gắng làm lắng lại những hỗn loạn trong lòng. Từ sau thất bại của Hoằng Nông, tâm trạng của y luôn bị đè nén, như luôn có một bóng ma trong lòng y, làm y thấy uể oải, sa sút, khiến y cảm thấy Đại Đường đang đi xuống dốc, không có được cái khí thế của nhà Đường khi mới thành lập. Bây giờ rất cần một trận Đại thắng để vực dậy một Đại Đường đang đi xuống, nhưng đối với chiến dịch của Tiết Cử thì cuối cùng vẫn rơi vào tình trạng bế tắc.

Lý Uyên cũng hiểu được nối khó xử của Lý Thế Dân, sự kiện Đồng Quan và cuộc thảm bại Hoằng Nông khiến tinh thần quân Đường giảm sút. Nếu lúc này tùy tiện phát động chiến dịch đánh Tiết Cử, một khi thất bại thì sẽ dẫn tới những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, cả đội quân nhà Đường có lẽ sẽ vì thế mà sụp đổ. Hơn nữa, nội bộ Tiết Cử đã xuất hiện cuộc nội chiến giữa hai người con trai, lúc này tốt nhất là đợi cho nội bộ Tiết Cử tự nó tan tác.

Lý Uyên tán thành kiến nghị của Lý Thế Dân, nhưng thế cục Trường An bất lực không thể phát triển được cũng khiến cho Lý Uyên muốn phát điên.

Khó khăn lắm mới nghĩ được cách có thể dùng khoa cử để xoay chuyển tình thế, thì việc biểu tình của sĩ tử Thái Nguyên lại dội vào mặt y một gáo nước lạnh. Lý Uyên nhìn lên bầu trời mây trắng lững lờ, y không kìm nổi thở dài.

- Bệ hạ, thái tử điện hạ cầu kiến!

Bên ngoài cửa truyền tới bẩm báo của tên quan hầu.

- Truyền cho y vào!

Lý Uyên chậm rãi trở lại ngự tháp của mình ngồi xuống. Lúc này, Kiến Thành vội vàng tiến vào, y cúi đầu thi lễ:

- Nhi thần tham kiến bệ hạ! Liên quan tới việc thi cử, nhi thần có một ý tưởng.

- Con nói đi!

Lý Kiến Thành trầm ngâm một lúc nói:

- Phụ hoàng, nhi thần cho rằng tính mạo hiểm của thi cử là rất lớn, nó chắc chắn sẽ động chạm tới lợi ích thiết thân của bộ phận quý tộc Quan Lũng, phụ hoàng lẽ nào không nhận thấy, hôm nay lúc lên triều chẳng phải rất nhiều trọng thần giữ thái độ im lặng đó sao?

Lý Kiến Thành chính là chỉ đám người Độc Cô thị và Đậu thị. Điều này đã nằm trong dự liệu của Lý Uyên. Vấn đề này Lý Uyên cũng đã nghĩ đến. Không chỉ có sĩ tộc Sơn Đông chống đối việc khoa cử mà sĩ tộc Quan Lũng cũng giống như vậy. Mục đích cơ bản của việc thi cử là tuyển chọn quan lại, nó vừa đúng là lợi ích căn bản. Y biết việc thi cử sẽ dẫn đến sự chống đối của sĩ tộc Quan Lũng, vì thế suy nghĩ đầu tiên của y là trước khi thống nhất thiên hạ thì tạm gác lại chuyện thi cử, để bảo đảm lợi ích của sĩ tộc Quan Lũng, giành lấy sự ủng hộ hoàn toàn của họ. Nhưng Dương Nguyên Khánh tổ chức thi quy mô lớn ở Thái Nguyên lại đem đến cho y một áp lực rất lớn, khiến y không thể không khai triều thi hội để thăm dò việc này, nhưng kết quả lại khiến người thấy đau lòng. 

- Trẫm biết có người không thích thi cử, nhưng tình thế cũng ở chỗ này. Nếu trẫm không tổ chức thi thì anh tài trong thiên hạ sớm muộn gì cũng chạy hết xuống Thái Nguyên, trẫm cũng không còn cách nào khác.

Lý Uyên thở dài.

Lý Kiến Thành thấy phụ thân đã bị lay động, lại dè dặt nói:

- Phụ hoàng, nhi thần cũng đã cẩn thận suy nghĩ qua về việc này, Dương Nguyên Khánh dám tiến hành khoa cử quy mô lớn là do hắn đã cho sĩ tộc Hà Đông những lợi ích rất lớn. Hơn nữa, mục đích mà hắn tổ chức thi cử càng không phải là chiêu tập người tài trong thiên hạ, mà rõ ràng là hắn vì lôi kéo sĩ tộc Hà Bắc, cũng là làm ra thái độ công bằng. Điều này có thể giải thích được việc hàng vạn sĩ tử biểu tình, cũng chính là vì hắn không phải là công bằng chính trực nên mới dẫn tới dân chúng phẫn nộ. Chuyện này đưa tới cho nhi thần một gợi ý lớn, thật ra chúng ta cũng có thể noi theo khoa cử của bắc Tùy.

Lý Uyên đã bị con trai mình thuyết phục, lời của Kiến Thành nói rất có lý , tìm được nguồn gốc của sự việc. Chính điều này khiến trong lòng Lý Uyên có chút thông suốt. Y khen ngợi gật đầu, lại hỏi:

- Chúng ta làm thế nào để noi theo bắc Tùy?

- Ý của nhi thần là, trước khi phụ hoàng tổ chức kì thi này, cách tốt nhất để hiệp thương liên kết với quý tộc Quan Lũng và sĩ tộc Quan Lũng là bảo đảm cho lợi ích của họ. Nhi thần cho rằng khoa cử cũng hoàn toàn có thể tổ chức được.

Lý Uyên thở dài:

- Chỉ sợ lòng tham của bọn họ quá lớn, trẫm không thể thỏa mãn những đòi hỏi đó của họ.

Lý Kiến Thành vội vành cười nói:

- Cho nên mới phải liên kết một cách triệt để, nhi thần nghĩ rằng để giành lấy thiên hạ, bọn họ nên thấu hiểu nỗi khổ tâm của phụ hoàng, và họ cũng sẽ nể mặt phụ hoàng.

- Được rồi! Việc này trẫm sẽ suy nghĩ lại.

Lý Kiến Thành đã cởi được một khúc mắc trong lòng của Lý Uyên khiến lòng y vui vẻ trở lại, y cười nói:

- Kiến nghị của hoàng nhi rất tốt, từ nay về sau nên đưa ra nhiều kiến nghị tốt như vậy cho phụ hoàng.

Hôm nay, Lý Kiến Thành đến tìm phụ thân là có hai việc quan trọng. Việc khoa cử chỉ là việc thứ nhất, y thấy phụ thân đồng ý ý kiến của y, làm y trong lòng được an ủi, cưới nói:

- Phụ hoàng, nhi thần vẫn còn một việc nữa cần đề nghị.

Lý Kiến Thành đi theo phụ thân đã nhiều năm, y luôn tồn tại với tư cách là một trợ thủ đắc lực của phụ thân, nhưng y rất ít khi có được những kiến giải của riêng mình, phần lớn đều là làm theo sự chỉ đạo của phụ thân. Cũng chính vì điều này mà y nhận được sự tín nhiệm của Lý Uyên. Và đó cũng chính là cách đối nhân xử thế của Lý Kiến Thành, che giấu cá tính, thể hiện sự phục tùng, y hi vọng có thể bình yên mà tiếp nhận ngôi vị hoàng đế của phụ thân.

Nhưng người huynh đệ Lý Thế Dân trong vụ án tam đệ Lý Nguyên Cát lại quá cứng rắn làm y cảm nhận được một sự uy hiếp. Cho dù hiện nay Lý Thế Dân vẫn chưa đe dọa tới ngôi vị thái tử của y nhưng nếu như y cứ để cho tình hình này phát triển thêm thì sớm muộn gì Lý Thế Dân cũng đe dọa tới ngôi vị thái tử của y.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 627 : Nội chiến Tây Tần

Điều càng khiến Lý Kiến Thành lo lắng là việc phụ hoàng không hề có chút thái độ ác cảm gì với bản tính này của Lý Thế Dân, ngược lại còn có thái độ bỏ mặc không quan tâm tới. Lúc này Lý Kiến Thành bắt đầu cảnh giác lên, y nhận thức được bản thân mình không thể giống như trước đây nữa, một mực phục tùng mà y cũng cần phải thể hiện được năng lực bản thân. Lý Kiến Thành cũng biết hiện nay phụ hoàng đang rơi vào tình trạng bị động, suy sụp, cần nhanh chóng thoát khỏi thế bất lợi này. Lý Kiến Thành lại càng nhận thức được thời cơ của mình đã tới, cuộc thi lần này y đã nắm lấy cơ hội, đưa ra kiến giải của riêng mình, giành được sự khen ngợi của phụ hoàng.

Nhưng sáng kiến về khoa cử lần này vẫn chưa đủ, y vẫn cần phải tiếp tục đưa ra ý kiến có sức thuyết phục hơn nữa, để có thể có kế hoạch cụ thể nhằm thoát khỏi cục diện khó khăn này.

Lý Kiến Thành thấy phụ hoàng đang hết sức chăm chú nghe đề nghị của mình, y không chút hoang mang liền nói:

- Phụ hoàng, đề nghị thứ hai của nhi thần chính là chủ trương giảng hòa với bắc Tùy, nhằm xóa bỏ tình trạng thù địch giữa chúng ta và bắc Tùy.

Lời đề nghị này Lý Kiến Thành từng suy nghĩ rất lâu, y đã nhiều lần muốn nói nhưng thời cơ chưa đến, quận Hoằng Nông thất bại thảm hại, y càng không có cơ hội nói ra. Quận Hoằng Nông thất bại thảm hại, kích động đến rất nhiều người, nó bị người đời xem là đầu hàng một cách hèn nhát. Hiện nay cùng với sự thay đổi của thời cuộc, bóng đen thất bại của Hoằng Nông đã phai nhạt. Lý Kiến Thành cho rằng thời cơ đã chín muồi. Hôm nay nhân cơ hội này, y trịnh trọng bày tỏ một ý kiến quan trọng với phụ hoàng.

Vẻ mặt Lý Uyên vô cùng trang nghiêm, giảng hòa với bắc Tùy, điều này quả quyết là thừa nhận sự chiếm cứ của bắc Tùy với Hà Đông. Nó khiến cho y khó lòng mà chấp nhận được. Lý Uyên chắp tay sau lưng đi tới trước cửa sổ, đứng thật lâu mà không nói gì.

Lý Kiến Thành lại tiếp tục nói:

- Phụ hoàng, sở dĩ Hoằng Nông thất bại là do chiến lược sai lầm của chúng ta, hoặc có thể nói chiến lược của chúng ta không rõ ràng. Rốt cuộc là phải Đông tiến hay là khôi phục Hà Bắc, tự chúng ta cũng không phân biệt cho rõ ràng. Nếu chỉ là vì đông tiến thì chúng ta không nên đặt trọng binh ở bến Bồ Tân, uy hiếp Hà Đông. Điều này càng khiến cho Dương Nguyên Khánh nghĩ rằng mục đích đông tiến của chúng ta chỉ vì muốn đoạt lại Hà Đông, nên hắn mới bắt tay với Vương Thế Sung, làm chúng ta thất bại. Nhưng nếu là vì muốn chiếm lại Hà Đông thì không nên chiếm quận Hoằng Nông, mà chỉ cần từ bến Bồ Tân tiến quân vào là được, còn cứ một mực muốn chiếm lấy quận Hoằng Nông càng khiến cho Vương Thế Sung cảm nhận được sự uy hiếp. Phụ hoàng, đây chính là nguyên nhân thất bại căn bản của Hoằng Nông.

- Ta cũng biết!

Giọng nói của Lý Uyên trầm xuống hết mức. Mặc dù y không bao giờ thừa nhận nhưng trong lòng y hiểu rõ, chính là do chiến lược sai lầm của mình mà dẫn đến thất bại của Hoằng Nông, làm cho kế hoạch đông tiến của đại Đường vấp phải một sự đả kích lớn.

- Phụ hoàng, chiến lược của Dương Nguyên Khánh đã rất rõ ràng rồi. Hắn muốn đoạt lấy Hà Bắc, nên mới liên minh với Vương Thế Sung, ổn định phía nam. Gần đây nhi thần có nghe được một số ý kiến, không ít người cho rằng có thể nhân cơ hội Dương Nguyên Khánh tiến công Hà Bắc, chúng ta tấn công Hà Bắc từ phía sau. Nhi thần cho rằng, đây là ý tưởng cực kì mạo hiểm. Nếu chúng ta không đối mặt với hiện thực, cứ tiếp tục giao chiến với Dương Nguyên Khánh, vậy kết cục cuối cùng là cả hai đều bị thương. Cơ nghiệp của chúng ta sẽ bị hủy trong chốc lát, mà biến thành một thế lực khác.

Lý Uyên im lặng một lúc lâu, trong số không ít người mà Lý Kiến Thành nói đến cũng bao gồm cả y, nhưng đó đã là quá khứ rồi. Từ sau thất bại Hoằng Nông, cái suy nghĩ ấy của y ngày càng mờ nhạt. Từ sau bắc Tùy thành lập, y đã nhận thức được mình tạm thời vẫn chưa có đủ khả năng xóa bỏ vương triều mới tồn tại song song với nhà Đường. Cũng như vậy, bắc Tùy cũng chưa đủ khă năng tiêu diệt hoàn toàn nhà Đường. Hai chính quyền này sẽ cùng tồn tại trong cùng một khoảng thời gian, vậy lấy gì để cùng tồn tại chính là chiến tranh lạnh hoặc là giống như Lý Kiến Thành nói, tạm thời hòa giải. Lý Uyên quả thật vẫn chưa có quyết định.

Lý Kiến Thành có thể nhận ra sự do dự của phụ hoàng, y lại khuyên:

- Hòa giải được với Dương Nguyên Khánh, thì chúng ta càng có thể tập trung tinh lực để xử lý nội chính, tiêu diệt Tiết Cử. Phụ hoàng, chúng ta cũng cần có thời gian.

- Nhưng hắn cũng nhất định sẽ đưa ra yêu cầu không được phép đặt chân tới Hoằng Nông, vậy kế hoạch đông tiến của chúng ta thì sao?

- Phụ hoàng, cái này trên thực tế chỉ là ngưng chiến giảng hòa, chứ không phải là điều kiện liên minh gì đó, chỉ cần thời cơ của chúng ta tới thì chúng ta có thể vứt bỏ cái hòa giải này bất cứ lúc nào, không cần bị nó ràng buộc nữa. Trên thực tế, Dương Nguyên Khánh cũng giống như vậy, đợi việc Hà Bắc của hắn hoàn thành, hắn cũng sẽ qua mặt đối phó với chúng ta, chỉ là trong thời gian này mọi người duy trì một sự hòa giải mà ai cũng ngầm hiểu. Như vậy, có lợi cho việc phòng ngừa một vài hiểu lầm không cần thiết. Còn về kế hoạch đông tiến, chúng ta có thể đến Vũ Quan để tiến vào Nam Dương kì thực thì cũng như nhau.

Lý Uyên trầm tư rất lâu, nhẹ nhàng thở dài:

- Lời con nói rất có lý, bây giờ ta quả thật không muốn làm kẻ thù với Dương Nguyên Khánh. Sự kiện Đông Quan là một đòn đả kích quá lớn đối với quân đội chúng ta, chúng ta cần có thời gian tu bổ. Như vậy đi! Trước tiên phái người đi sứ Thái Nguyên, đi lại với Dương Nguyên Khánh, xem xem thái độ của đối phương, sau đó mới xác định tới khả năng hòa giải...

Nói đến đây, Lý Uyên quay lại nhìn đứa con cả:

- Con cho rằng phái ai đi là thích hợp nhất?

Đối với việc chọn người này Lý Kiến Thành sớm đã có dự liệu, y vội nói:

- Chuyện này vẫn chưa trở thành nghị quyết của triều đình, tốt nhất nên giữ bí mật một chút, không nên phái triều thần đi, đồng thời để tỏ rõ sự coi trọng và thành ý của phụ hoàng thì nhi thần đề nghị Thần Thông thúc phụ đi là tốt nhất.

Lý Uyên suy nghĩ một chút, phái tộc đệ Lý Thần Thông đi, quả là thích hợp nhất, y liền gật đầu đồng ý:

- Được rồi! Vậy cho ông ta đi Thái Nguyên.

....

Từ sau khi bị liên quân Lý Uyên và Lý Quỹ đánh bại, bá vương Tây Tần Tiết Cử vẫn chưa thể khôi phục lại nguyên khí. Mặc dù trước mắt y vẫn đang chiếm lĩnh năm quận như quận Bao Hãn, quận Tây Bình, quận Tiêu Hà, quận H Nguyên và quận Tây Hải, lãnh thổ quốc gia mở rộng. Nhưng dân số thì lại hết sức thưa thớt, khiến việc bổ sung binh lực trở thành một vấn đề lớn.

Tiết Cử đã nghĩ đủ mọi cách, thậm chí còn trưng tập hơn hai mươi nghìn quân ngoại tộc như Khương, Để, Thổ Dục Hồn, vậy mà quân đội của y cũng chưa vượt qua con số năm mươi ngàn. Con số này mà so với một trăm ba mươi ngàn quân của y lúc hưng thịnh nhất thì chỉ bằng có một phần sáu.

Điều khiến Tiết Cử thêm đau đầu đó là, việc y trưng tập Tây Nhung làm quân đội, lại làm cho thế lực của người Thổ Dục Hồn và người Khương càng mở rộng về phía đông,... phần lớn người Hán lại di chuyển xuống vùng Thiên Thủy, Kim Thành và Lũng Tây mà bên đó nay đã trở thành địa bàn của nhà Đường. Không chỉ có người Hán di cư xuống phía đông mà nhiều Hán thần trong triều đình của y cũng lần lượt không từ mà biệt, đầu hàng nhà Đường. Tổn thất lớn nhất đó là tướng quốc của y, thượng thư dân bộ triều Tùy trước Tiêu Vũ treo ấn mà đi.

Chỉ nội trong một tháng ngắn ngủi, số triều thần của y đã giảm đi một nửa. Chuyện này khiến Tiết Cử chịu một đòn đả kích rất lớn, phần lớn thời gian y đều mượn rượu giải sầu, đắm chìm trong tửu sắc, múa hát, không hỏi han gì tới việc triều chính.

Mà chính cũng trong lúc này, hai con trai của y là Thái tử Tiết Nhân Cảo và Tấn vương Tiết Nhân Việt lại nảy sinh nội chiến tranh quyền đoạt lợi. Tiết Nhân Cảo nhận được sự ủng hộ to lớn của đại tướng Tông La Hầu, trong tay có tới hai mươi nghìn quân. Trong khi đó, Tiết Nhân Việt nhận được sự ủng hộ của Lương Sư Đô, cũng có trong tay hai mươi nghìn quân. Hai bên đấu đá lẫn nhau, tranh giành dân số và lương thực của nhau, cuộc nội chiến hết sức ác liệt, làm suy yếu một cách lớn lao thế lực của Tây Tần.

Đối với việc nước Tây Tần xảy ra loạn lạc Tiết Cử coi như không thấy. Ngay cả việc người thân cận nhất với y là mưu sĩ Hách Viện kiến nghị thu hồi binh quyền, ngăn chặn cuộc chiến huynh đệ tương tàn, y cũng ngoảnh mặt làm ngơ. Không lâu sau, Hách Viện buồn giận sinh bệnh mà chết, lại càng không có người dám khuyên can Tiết Cử.

Ban đêm tại huyện Hoàng Thủy, quận Tây Bình, trong hoàng cung của Tiết Cử sênh ca múa hát khắp nơi, tiếng cười duyên dáng thỉnh thoảng lại truyền tới tiếng cười phóng túng vô độ của Tiết Cử. Các vệ sĩ đều nhíu mày cười khổ, cảm thấy bất lực trước sự sa sút của chủ công.

Cách huyện Hoàng Thủy hai mươi dặm về phía nam, một đội quân đang lặng lẽ tiến tới gần kinh đô. Đó là hai mươi nghìn quân do Tấn vương Tiết Nhân Việt đi đầu. Y không nói không rằng đến kinh đô của nước Tây Tần.

Tiết Cử đem quân đội của mình chia làm ba, lệnh cho thái tử Tiết Nhân Cảo và đại tướng Tông La Hầu dẫn hai mươi nghìn quân đóng giữ quận Bao Hãn, lại lệnh cho thứ tử Tấn vương Tiết Nhân Việt cùng với đại tướng Lương Sư Đô dẫn hai mươi nghìn quân đóng giữ quận Tiêu Hà và quận Hà Nguyên.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 628 : Sứ giả Tây Tần

Còn y một mình dẫn tám nghìn quân trấn thủ quận Tây Bình, và cũng đem tất cả tiền tài, lương thực tập trung trong thành Hoàng Thủy, y lợi dụng điều này để khống chế hai người con trai.

Tiết Nhân Việt sở dĩ dẫn quân tới thành Hoàng Thủy trước là vì quân lương của y sắp cạn, mặc dù nhiều lần thúc giục phụ hoàng tiếp tế lương thực nhưng đều không nhận được hồi đáp. Tiết Nhân Việt nhận được tin huynh trưởng Tiết Nhân Cảo cũng đang cạn lương thực như y, lương thực viện trợ không đến được. Dưới lời khuyên của Lương Sư Đô, Tiết Nhân Việt dứt khoát quyết định, y muốn cướp chính quyền cướp lương thực trước khi huynh trưởng khởi binh. Vì thế y đã dùng một số tiền lớn để mua chuộc hai người thân cận nhất bên cạnh phụ thân là đại tướng Chung Lợi Tục và tên thái giám Đa Bảo.

Trong bóng đêm, Tiết Nhân Việt thấp thỏm chờ đợi tin tức, Lương Sư Đô ở bên cạnh vỗ vai y cười nói:

- Điện hạ giành lấy chính quyền là thuận theo ý trời, thuận lòng quân, không một ai muốn nước Tây Tấn bị tiêu vong như thế. Chỉ cần sau khi điện hạ nắm được quyền trong tay thì có thể chuyên tâm trị nước, tích cực chuẩn bị chiến tranh. Thần tin rằng điện hạ sẽ nhận được sự ủng hộ của tất cả mọi người, hơn nữa thần cũng sẽ tìm cách khiến bắc Tùy ủng hộ điện hạ.

Tiết Nhân Việt thở dài nói:

- Cứ cho là bắc Tùy ủng hộ ta thì cũng có tác dụng gì chứ, nó có thể chi viện tiền tài lương thực cho ta không?

Đôi mắt Lương Sư Đô híp lại thành một đường, đôi lúc lại để lộ ra nụ cười xảo trá, y thủ thỉ khuyên Tiết Nhân Việt:

- Nhất định được. Con mắt của chúng ta nên nhìn xa một chút, nhà Đường không thể lúc nào cũng dông dài cùng chúng ta được, sớm muộn gì cũng sẽ rút quân về Quan Trung. Lúc đó thời cơ của chúng ta sẽ tới. Điện hạ không cần quá lo lắng cho tương lai, bây giờ trước tiên hãy cướp lấy chính quyền, sau đó chặn lương thực của quận Bao Hãn, buộc bọn họ đầu hàng. Lúc đó trong tay chúng ta sẽ có bốn mươi nghìn quân, đủ để chống lại nhà Đường.

Tiết Nhân Việt lẳng lặng gật đầu, con mắt y hướng ra phía xa kinh thành Hoàng Thủy, đem nay y có thể thành công hay không?

.....

Trong vương cung, tường vàng rực rỡ, đèn chiếu đại điện sáng như ban ngày, nhạc công hai bên thổi khúc nhạc du dương, ở giữa một đội vũ cơ nhảy múa.

Trên bàn ngà voi khảm vàng ở bậc thềm ngọc bày biện các loại sơn hào hải vị. Tiết Cử đến bây giờ không biết là đã uống bao nhiêu rượu nữa, y ngà ngà say, nhưng tinh thần hết sức phấn khích, hai bên đều có ba cô thiếu nữ xinh đẹp, rót rượu đấm chân cho y, khoa chân múa tay, khiến y vô cùng thoải mái.

- Được lắm! Nhảy rất đẹp.

Tiết Cử lớn tiếng vỗ tay.

Lúc này, tên thái giám Đa Bảo người thân cận bên cạnh y bưng tới một hộp ngà voi, cười nói:

- Bệ hạ, thuốc quý đến đây.

- Đem đến cho ta.

Vị thuốc này là thứ thần dược của một gã thầy mo người Thổ Dục Hồn hiến tặng. Tương truyền có thể uống ngàn chén không say, có thể ngự hàng trăm mĩ nữ. Tiết Cử luôn đợi được dùng nó.

Y vội vã nhận lấy rồi mở hộp ra, chỉ thấy bên trong có ba viên thuốc màu đỏ thắm, kích thước giống quả trứng chim.

Tiết Cử cầm lấy một viên, đặt dưới ánh đèn, trên viên thuốc lóe lên một thứ ánh sánh rực rỡ. Y híp mắt nhìn một lúc lâu, lại quay lại hỏi tên thái giám:

- Dùng trực tiếp như vậy sao?

- Thầy mo nói, mỗi ngày một viên, sau khi uống rượu ăn vào lập tức có hiệu quả, ăn liền một lúc ba viên có thể duy trì nửa năm.

Tiết Cử cười ha ha:

- Dùng rượu ăn vào, tốt, ta rất thích.

Y không chút ngần ngại cho viên thuốc vào miệng nuốt, nâng chén uống một hơi cạn, chậm rãi nhắm mắt lại, dường như đang chờ đợi thuốc phát huy tác dụng.

......

Ban đêm, Tiết Cử chết đột ngột, Tấn vương Tiết Nhân Việt thừa lúc đêm tối cướp lấy kinh đô Hoàng Thủy của nước Tây Tấn. Y phong tỏa mọi tin tức, bí mật không phát tang, lập tức giả mạo chiếu chỉ truyền cho thái tử Tiết Nhân Cảo vào kinh bàn chuyện tác chiến với nhà Đường.

Trời vẫn còn chưa sáng rõ, canh năm, cổng thành phía đông thành Thái Nguyên chậm rãi mở ra. Hơn hai mươi nghìn sĩ tử từ khắp mọi nơi tập trung trước cổng thành, cuồn cuộc đi ra khỏi cổng thành. Lần này bọn họ không phải là đi diễu hành biểu tình nữa mà là đến để dự kì thi Hương, kì thi mà bọn họ đã mong chờ từ rất lâu.

Trường thi đặt trong một doanh trại ở bên ngoài phía đông thành, do hàng trăm lều lớn tạo thành. Mỗi lều đều có một dãy số tương ứng với số trong tờ giấy mà mỗi thí sinh cầm trên tay. Mỗi lều có thể chứa được 50 thí sinh tham gia thi. Hôm qua trường thi đã mở cửa một ngày cho thí sinh vào xem trước, hôm nay xem như là đã quen thuộc rồi.

Ngoài trời đang rất lạnh, vì thế trường thi chuẩn bị cho mỗi thí sinh một chậu than nhỏ, lại có người chuyên đi bỏ thêm than vào. Ngoài ra, mỗi thí sinh còn nhận được một tấm da dê Kim Sơn thượng hạng. Sau khi thi xong thì tấm da dê này sẽ tặng lại cho thí sinh, làm vật kỉ niệm việc họ tới tham gia cuộc thi Hương đầu tiên của nhà Tùy. Cũng có sĩ tử đặc biệt đến thành Bắc dò la qua, tấm da dê Kim Sơn này rất đắt, một tấm giá ba nghìn. Mặc dù cũng có người muốn bán nó đi nhưng phần lớn sĩ tử khác đều giữ nó lại bên mình, làm vật kỉ niệm cho hành trình của một đời người.

Hơn hai mươi nghìn sĩ tử xếp thành hai mươi hàng dài trước cổng ra vào doanh trại. Khảo quan kiểm tra qua loa giấy thi của thí sinh, rồi cho sĩ tử vào trong doanh trại, nhanh chóng nhưng có trật tự. Vẻn vẹn trong vòng nửa canh giờ, hơn hai mươi nghìn sĩ tử lần lượt tiến vào trong trường thi.

Một tên sĩ tử trẻ tuổi có đôi tai to nhanh chóng tìm được vị trí của mình. Cậu ta rất hài lòng bởi cả một giường gỗ đôi chỉ có một mình cậu ta ngồi, bên cạnh có đặt một chậu than nhỏ, bất cứ lúc nào cũng có thể thò tay ra sưởi ấm. Cậu ta cẩn thận trải tấm da dê trên giường, ngồi xuống, trên cái bàn nhỏ có đặt một cái bút mực, nghiên mực và hồ dán. Cậu sĩ tử này vô tình phát hiện trên bàn thừa một tờ giấy.

Cậu ta nhặt tờ giấy lên, trên đó có in một đoạn chữ, ý là ngoài việc chọn ra hai trăm thí sinh xuất sắc nhất để trực tiếp làm quan thì còn chuẩn bị tuyển chọn hai nghìn người nữa để vào học ở trường Quốc Tử. Bất luận là con nhà danh gia vọng tộc hay nghèo hèn đều có thể học. Miễn phí ăn ở, đồng thời mỗi tháng triều đình sẽ trợ cấp thêm năm đấu gạo và tám xâu tiền để nuôi gia đình. Phía dưới có đóng một dấu đỏ, ấn có sáu chữ rất to “Thượng Thư Đại Tùy Lệnh Dương”.

Cậu sĩ tử này hết sức ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn quanh bốn phía. Lúc này cậu mới phát hiện ra tất cả các thí sinh đều nhận được một tờ giấy như nhau, tất cả đều rất kinh ngạc.

Lúc này, quan giám khảo mới giải thích với các sĩ tử:

- Tờ giấy đó chính là để trưng cầu ý nguyện của từng người, những ai đồng ý học có thể điền tên của mình lên trên tờ giấy, sau đó nộp cùng với bài thi, những ai không đồng ý học thì có thể mang tờ giấy đó theo hoặc có thể đốt nó đi cũng được, không cần nộp. Nhưng ta khuyên mọi người nên suy nghĩ cho kĩ, đấu gạo Lạc Dương tám nghìn tiền, cơ hội này không phải ai cũng có được.

Cậu sĩ tử này cực kì thông minh, cậu ta lập tức nhận ra đây kì thực là nhà Tùy đang muốn giữ người tài, bước chuẩn bị cho việc giành lấy thiên hạ sau này. Cậu thấy rất xúc động, không biết là bản thân có thi đậu hay không nhưng ít nhất sau này cũng đã có một con đường lui. Cậu rất có lòng tin với bản thân, việc thi đậu xếp trước hai nghìn thí sinh đối với cậu nhất định không thành vấn đề.

Cậu lập tức cầm bút lên, ngay ngắn viết tên của mình lên trên giấy: Chử Toại Lương.

....

Cùng với ba hồi chuông dài, cuộc thi bắt đầu, tất cả các sĩ tử đang múa bút thành văn. Cuộc thi này với cuộc thi thời kì đầu Phong Châu giống nhau, cũng thi ba kỳ: thiếp kinh, sách luận và làm thơ; thi liền trong hai ngày. Ngày thứ nhất thi thiếp kinh và làm thơ, ngày thứ hai thi sách luận, tất cả các bài thi không được đánh tên.

Sau khi cuộc thi bắt đầu không lâu thì Dương Nguyên Khánh và mười mấy vị trọng thần liền xuất hiện ở trường thi, bọn họ giám sát trường thi. Dưới sự chỉ dẫn của một viên quan Dương Nguyên Khánh đã đến được 25 trường thi. Một gã cùng đi với viên quan này, hạ giọng nói:

- Hồi bẩm tổng quản, chính là thí sinh ngồi thứ tư hàng bên trái.

Dương Nguyên Khánh gật đầu, đi đến cái lều đó. Tới trước cửa hắn quay lại nháy mắt ra hiệu cho mấy tên thân binh, lệnh cho bọn họ không cần đi theo. Hắn chắp tay sau lưng, thản nhiên đi vào bên trong lều lớn, trên người mặc áo bào, đầu đội mũ quan, chân đi đôi ủng da, hoàn toàn là cách ăn mặc của quan văn ngũ phẩm. Hắn chậm rãi đi qua từng chiếc giường một. Tất cả các thí sinh đều đang múa bút không có ai để ý tới việc hắn đã đến.

Cuối cùng, Dương Nguyên Khánh dừng lại trước mặt thí sinh thứ tư hàng bên trái, con mắt hắn rất tinh nhanh, chỉ cần liếc một cái đã thấy tên người đề trên tờ giấy: Bùi Thanh Tùng.

Chính là người này, chỉ cần một vài câu đơn giản cũng dẫn tới một trận sóng lớn. Dương Nguyên Khánh còn ngỡ như có Lý Uyên hay là Đậu Kiến Đức đứng đằng sau phá rối. Quân nội vệ phải mất tới hai ngày mới tìm ra chân tướng thì ra là con cháu Bùi gia chỉ do một vài câu nói vô tình gây nên, không hề có chút can hệ nào đến Lý Uyên và Đậu Kiến Đức.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 629 : Sắp đặt Tây Vực (1+2)

Tuy nhiên người này quả thật rất tinh mắt, không ngờ cậu ta có thể nhìn thấu ý đồ thật sự của việc tổ chức cuộc thi lần này là làm lung lạc sĩ tộc Hà Bắc. Chỉ dựa vào điểm này thôi, Dương Nguyên Khánh không hề muốn trừng phạt y mà còn muốn trọng dụng y. Cho dù cậu ta là con cháu Bùi gia nhưng Dương Nguyên Khánh vẫn nghĩ người tài nên trọng dụng.

Bùi Thanh Tùng đang chăm chú làm bài thi đột nhiên cảm thấy có người đứng bên cạnh mình, không khỏi ngẩng đầu lên nhìn. Y liếc một cái liền bắt gặp ánh mắt nghiêm khắc của Dương Nguyên Khánh. Bùi Thanh Tùng lập tức kinh hoảng, cậu nhận ra người đứng trước mặt mình. Lần trước khi Dương Nguyên Khánh đến chúc mừng Bùi gia, cậu có gặp qua một lần, trong lòng lập tức thấy loạn, viết sai liền mấy chữ.

Cậu đương nhiên biết mình đã phạm phải sai lầm gì, mấy ngày hôm nay cậu luôn sống trong trạng thái vô cùng bất an, chỉ đợi quan phủ tới bắt đi, không ngờ sau đó lại bình an vô sự, thế nhưng cậu vẫn bất chấp tham gia cuộc thi, trong lòng vẫn ôm lấy một tia may mắn, có lẽ là quan phủ không tìm ra được nguyên nhân.

Lúc này trong lòng cậu ta hết sức lo lắng, từ ánh mắt Dương Nguyên Khánh cậu có thể nhận thấy mình đã bị lộ, Dương Nguyên Khánh biết là do cậu làm. Cũng chính lúc đó, Dương Nguyên Khánh cảm nhận được sự bất an của cậu, ánh mắt liền trở nên dịu dàng, giơ tay lấy cặp gắp than kẹp lên hai hòn than bỏ vào chậu, cẩn thận đặt lên trên ngọn lửa đang cháy. Dương Nguyên Khánh vỗ nhẹ tay, quay người đi ra.

Chỉ với một hành động rất nhỏ ấy cũng khiến Bùi Thanh Tùng thấy ấm áp hẳn lên, mắt có chút đỏ. Y day day mắt, liền xóa đi những chữ vừa viết sai, tiếp tục làm bài thi.

......

Dương Nguyên Khánh bước ra khỏi lều, gặp ngay tên sứ giả đang đợi hắn, liền hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì rồi?

- Khởi bẩm tổng quan, Lương Sư Đô của Tây Tần phái một tên sứ giả tới, cầu kiến tổng quan!

Tin này khiến Dương Nguyên Khánh hơi ngẩn người, trong lòng hắn có một cảm giác không lạc quan chút nào, hắn trầm ngâm một chút nói:

- Mời người trở lại Quy Tùy quán chờ!

Quy Tùy quán chính là nơi ghi danh của những quan viên nhà Tùy trước đó trở về bắc Tùy. Chỉ cần là quan viên hàng thất phẩm trở lên, nguyện vì bắc Tùy mà dốc sức, đều có thể trước tiên đăng kí ở tạm tại đó chờ bộ Lại thông báo.

Quy Tùy quán nằm ở thành phía Nam, sau khi bước vào cửa là có thể thấy ngay một toàn nhà rộng rãi thoáng đãng, tòa nhà này chiếm khoảng tám mươi mẫu đất, gồm có hơn sáu mươi cái sân tạo thành. Đình đài lầu các, núi giả hồ cá, là một nơi phong cảnh đẹp. Đây vốn là nơi ở đầu tiên của Hán vương Dương Lượng, sau này y thấy nó gần với cửa thành, phong thủy không phù hợp nên đã bỏ tòa nhà này và xây một tòa nhà mới. Ngôi nhà mới này của y chính là phủ của Dương Nguyên Khánh hiện nay. Còn tòa nhà cũ thì được tu sửa lại thành Quy Tùy quán.

Quy Tùy quán cũng chính là nơi Dương Nguyên Khánh đón tiếp một vài người quan trọng. Phòng của hắn ở Tử Vi các, người bình thường không thể dễ dàng đi vào được, vì thế có rất nhiều người ngoài đều đến Quy Tùy quán tiếp kiến Dương Nguyên Khánh.

Mật sứ mà Lương Sư Đô phái tới là tộc đệ của y, tên Lương Trung, cũng chính là tướng lĩnh tâm phúc của Lương Sư Đô. Lúc này Lương Trung ngồi trong khách đường của Quy Tùy quán, một mặt uống trà, một mặt nghĩ xem nên làm thế nào để nói chuyện của Lương Sư Đô với Dương Nguyên Khánh.

Lúc này, ngoài sân có tiếng bước chân người, Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng chậm rãi tiến vào. Thật ra bất luận là Tiết Cử cũng tốt, Lương Sư Đô cũng tốt, đối với Dương Nguyên Khánh không có giá trị chiến lược quá lớn. Thực lực của họ không thể so sánh được với nhà Đường. Thực lực ở đây không phải là sức chiến đấu với quân đội của y mạnh đến đâu mà là năng lực tác chiến lâu dài. Nơi mà Tiết Cử đang nắm giữ dân số ít, thuế phú cằn cỗi, không có một bảo đảm nào về binh lực, lương thực, tài nguyên. Từ sau thất bại lần trước, Tiết Cử đến nay vẫn chưa thể khôi phục được nguyên khí. Mà Dương Nguyên Khánh cũng nghe nói Tiết Cử đắm chìm trong tửu sắc, không quan tâm đến việc triều chính, lại có chút tự từ bỏ khiến Dương Nguyên Khánh rất thất vọng về y.

Tuy nhiên khi thấy bọn họ chống lại nhà Đường, Dương Nguyên Khánh lại quyết định tiếp kiến mật sứ của Lương Sư Đô, để nghe xem y sẽ nói gì với mình?

Lương Trung đã gặp qua Dương Nguyên Khánh. Khi thấy Dương Nguyên Khánh bước vào trong phòng, y lập tức tiến đến quỳ gối hành lễ:

- Mạt tướng Lương Trung, phụng mệnh Long Tương Đại tướng quân Lương (Lương Sư Đô) Tây Tần đi sứ bắc Tùy, khấu kiến Sở vương điện hạ!

Hành động này của y cũng coi là tự biết mình, Dương Nguyên Khánh tương đối hài lòng về thái độ của y, liền gật đầu, khoát tay nói:

- Lương tướng quân miễn lễ, mời ngồi!

- Đa tạ Sở vương điện hạ ban cho ngồi.

Lương Trung không dám ngồi song song cùng một hàng với Dương Nguyên Khánh, mà ngồi ở mặt bên trên ghế ngồi, thể hiện sự cung kính của kẻ bề tôi với cấp trên. Một tên thân binh bưng lên cho y một tách trà, một tên thân binh khác cũng dâng tách trà của Dương Nguyên Khánh lên. Lá trà là đỉnh trà trên núi Thanh Thành đất Thục, dùng thứ nước quý trong nội cung Tấn Dương chế thành, đây cũng là thứ trà mà Dương Nguyên Khánh thích nhất.

Dương Nguyên Khánh tinh tế uống một ngụm trà, lúc này mới thong thả hỏi:

- Lương tướng quốc không quản nghìn dặm tới đây, có phải Tây Tần đã xảy ra chuyện gì sao?

Lương Trung vội hạ thấp người nói:

- Hồi bẩm điện hạ, nước Tây Tần đã xảy ra đại sự rồi, Tiết Cử bệnh chết, Tấn vương đăng cơ thừa kế ngôi vị vua Tây Tần.

Tin này ngược lại nằm ngoài dự liệu của Dương Nguyên Khánh, Tiết Cử luôn khỏe mạnh sao lại đột nhiên chết được. Dương Nguyên Khánh là người hết sức tinh tế, chỉ một lát là hắn lập tức nhận ra đầu mối ngay trong lời nói của Lương Trung. Y dám cả gan gọi thẳng tên tục của tiên đế Tiết Cử, điều này là bất kính vô cùng, thứ nữa là người đăng cơ không phải là thái tử Tiết Nhân Quả mà lại là Tấn vương Tiết Nhân Việt, trong này nhất định có điều gì đó uẩn khúc. Dương Nguyên Khánh ngay lập tức nhận thức được, nhất định là Tấn Vương Tiết Nhân Việt giết cha đăng cơ. Lương Sư Đô cho dù được phong là Long Tương đại tướng quân, nhưng xem ra trong chuyện này y cũng diễn một vai nhân vật ám muội.

Dương Nguyên Khánh không để lộ những gì hắn nghĩ, lẠhỏi:

- Vì sao Lương Sư Đô lại phái người đến đây gặp ta, mà lại không phải là Tiết Nhân Việt, điều này là cớ gì?

Câu hỏi này của Dương Nguyên Khánh đã hỏi tới điểm quan trọng, Lương Trung do dự một hồi cuối cùng không thể không nói sự thật, y cắn răng nói:

- Khởi bẩm điện hạ, Tiết Nhân Việt mặc dù đăng cơ làm tân vương, nhưng suy cho cùng thì y cũng chỉ là con rối trong tay Lương Sư Đô. Sau thế giằng co trong vòng 10 ngày, Lương đại tướng quân đã đánh bại đội quân của Tiết Nhân Cảo, trong tay có tới gần bốn mươi nghìn quân. Lương đại tướng quân khẩn cầu điện hạ ủng hộ ông ấy thay thế nhà Tây Tần, ông ấy muốn tự lập một vương triều mới, tiếp tục vì điện hạ chống lại nhà Đường.

Nói xong, y lấy ra một bức thư, dâng hai tay lên Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh nhận lấy thư, không kìm nổi thở dài một tiếng, Tiết Cử diệt vong, Lương Sư Đô lại hóa trang lên sân khấu rồi.

Căn phòng hết sức yên ắng, Dương Nguyên Khánh không hề nói chuyện, nâng lấy chung trà chậm rãi uống, dường như là muốn nhân lúc nước trà còn nóng cảm nhận lấy hương vị thơm ngon của trà Mông Cổ. Trong khi đó, Lương Trung thì tim đã nhảy lên tận cổ họng (ý là tim đập gấp gáp, tâm trạng hồi hộp – BTV), không biết y sẽ phải đối mặt với một kết quả như thế nào. Đối với Lương Sư Đô mà nói, sự ủng hộ của bắc Tùy với y là rất quan trọng. Nếu như không có sự ủng hộ của bắc Tùy thì bọn họ sẽ không thể cầm cự nổi quá nửa năm.

Một lúc lâu sau, Dương Nguyên Khánh mới thản nhiên nói:

- Tại sao Lương Sư Đô không muốn đầu hàng bắc Tùy, trở thành Lũng Hữu Đại đô đốc của triều đình?

- Điều này....

Lương Trung không biết nên trả lời như thế nào cho phải, lúc này y mới hiểu được ý của Dương Nguyên Khánh, thì ra là hắn muốn Lương Sư Đô đầu hàng bắc Tùy, điều này thật khó có thể làm. Trong lòng Lương Trung rất rõ, Lương Sư Đô đến nằm mơ cũng muốn tự mình lập một vương triều mới, y làm sao có thể đồng ý đầu hàng chứ. Nếu thật muốn đầu hàng thì đầu hàng bắc Tùy không bằng đầu hàng đại Đường. Mặc dù Lương Trung rất rõ điều này nhưng y lại không thể nói thật với Dương Nguyên Khánh.

- Cái này ti chức cũng không biết, rất khó trả lời mong điện hạ lượng thứ.

Dương Nguyên Khánh biết Lương Sư Đô căn bản cũng không hề có cái ý nghĩ này, hắn cười nói:

- Được! Ta sẽ không làm khó các người nữa, Lương Sư Đô muốn ta phải ủng hộ y như thế nào?

Lương Trung mừng rỡ, vội nói:

- Điện hạ, đại tướng quân chúng tôi có hai thỉnh cầu, một là hi vọng bắc Tùy có thể phái sứ giả đến tham gia nghi thức nhường ngôi của Tây Tần, giúp ổn định tình hình năm quận ở Tây Tần. Một thỉnh cầu khác đó là hi vọng bắc Tùy có thể viện trợ lương thực cho chúng tôi. Để đáp lại điều này, Lương đại tướng quân sẽ chuẩn bị phát động cuộc tấn công vào Hà Tây sau khi ổn định tình hình. Trong thư đại tướng quân đã nói rất rõ rồi.

Dương Nguyên Khánh mở thư ra cẩn thận xem lại một lần, trong tâm có chút động lòng. Nếu như Lương Sư Đô thật sự có thể chiếm lĩnh Hà Tây, chặt đứt nguồn ngựa, tài nguyên của đại Đường, điều này cũng không tệ chút nào.

 Chương 629 : Sắp đặt Tây Vực (p2)

Tuy nhiên, Dương Nguyên Khánh cũng biết, Lương Sư Đô là người quận Linh Võ, một khi y tự lập, vậy mục tiêu lâu dài của y tất nhiên sẽ là phát triển quận Linh Võ, cái gọi là giành lấy Hà Tây chỉ là bước thứ nhất của y. Một khi để y lớn mạnh, cuối cùng thì chỉ là nuôi hổ thành họa.

Nghĩ tới đây, Dương Nguyên Khánh lại thong thả nói:

- Ta cho dù có lòng viện trợ lương thực cho các người, nhưng trên thực tế các người đã bị đại Đường bao vây, không có cách nào mà vận chuyển qua được. Như thế này, khi các người lấy được quận Trương Dịch, ta sẽ vận chuyển lương thực theo đường biển xuôi xuống phía nam, còn về sứ giả, ta sẽ phái Tạ Tư Lễ đến chúc mừng đại tướng quân đăng cơ.

..........

Lương Trung trong lòng nặng nề, ngổn ngang từ biệt ra về, nhưng Dương Nguyên Khánh vẫn chưa . Hắn chắp tay sau lưng đứng trước cửa phòng đưa mắt nhìn về bầu trời phía xa. Trong lòng hắn đang rất lo lắng, Lương Sư Đô trong lịch sử vì muốn tự lập mà không ngần ngại bán nước, đi nương nhờ vào người Đột Quyết. Trong tư tưởng của y không hề có cái gì gọi là chủ nghĩa dân tộc, chỉ có lợi ích. Con người này mà thay thế Tiết Cử chiếm cứ khu vực Lũng Hữu thì rất có thể y sẽ khiến tộc Thổ Dục Hồn mạnh trở lại, thậm chí còn làm cho Thổ Phiên tiến xuống cao nguyên. Y sẽ làm cho quận Tây Hải và quận Hà Nguyên hai quận mà bắc Tùy phải tốn nhiều công đánh bại biến mất một lần nữa. Hắn thà không ủng hộ con người này, thà để cho nhà Đường tiêu diệt Lương Sư Đô, khiến nhà Đường phải bỏ công bỏ sức ra bảo vệ cho các quận ở sông Hoàng.

Tuy nhiên hắn không đồng ý với kế sách tự trị dân tộc trong lịch sử nhà Đường. Nhà Đường và nhà Tùy không giống nhau: bắc Tùy thì trực tiếp chiếm lĩnh các vùng của Tây vực, đặt thiết quân luật để cai trị, trong khi đó nhà Đường ngược lại cho người dân bản địa tự trị, thần phục triều đình trung ương. Chính sách này của nhà Đường vào thời kì thịnh trị thì rất khả thi, nhưng một khi nhà nước suy yếu, các dân tộc sẽ lần lượt tự lập.

Nghĩ đi nghĩ lại thì biện pháp tốt nhất vẫn là hắn sẽ đặt thêm một cây chêm vào trong khu Tây vực nhằm đảm bảo sức ảnh hưởng của bắc Tùy tại vùng này. Cho dù là Lương Sư Đô thống trị hay nhà Đường thống trị đểu tốt, Tây vực sẽ không dễ dàng mất đi.

............

Mấy ngày hôm nay Thẩm Bách luôn luôn chờ để được tiếp kiến Dương Nguyên Khánh. Hôm nay cuộc thi Hương chính thức bắt đầu, mấy người con cháu của Thẩm gia cũng tham gia ứng thi, vì thế Thẩm Bách lại càng nhàn rỗi.

Thẩm Bách ở phía Tây thành trong khách sạn Duyệt Lai. Đây cũng chính là khách sạn có tiếng nhất ở Thái Nguyên. Y bao luôn cả một cái sân riêng, ở cùng với vài người con cháu trong Thẩm gia. Do cuộc thi Hương chính thức bắt đầu nên khách sạn cũng yên tĩnh. 

Ánh nắng ấm áp xuyên qua cửa sổ chiếu vào trong phòng, Thẩm Bách đang ngồi trước cửa sổ nhàn nhã đọc sách. Sau mấy ngày chờ đợi không có kết quả bây giờ y ngược lại hết sức bình tĩnh không hề vội vã. Chỉ cần Dương Nguyên Khánh thật sự coi trọng Thẩm gia thì không cần biết y có ở Thái Nguyên không thì Dương Nguyên Khánh cũng sẽ tìm đến y. Ngược lại nếu Dương Nguyên Khánh không coi trọng Thẩm gia mà mình cứ đến trước mặt thì Dương Nguyên Khánh hắn cũng coi như không thấy.

Ngay trong lúc Thẩm gia bình tĩnh trở lại thì cơ hội lại đến. Tiếng của chưởng quầy nhà trọ từ trong sân truyền đến:

- Thẩm tiên sinh có bên trong hay không?

Thẩm Bách đi ra khỏi phòng, chỉ thấy trong sân ngoài người chưởng quầy ra thì còn có mấy tên lính:

- Chưởng quầy tìm ta có việc gì sao?

Một tên lính tiến lên chắp tay thi lễ:

- Tiên sinh ngài có phải là Ngô Hưng Thẩm Bách?

- Chính là tại hạ!

Thẩm Bách chắp tay, trả lời một cách thận trọng. Mặc dù đối phương chỉ là một tên lính nhỏ nhưng y rất lễ phép lại rất chu toàn, không có chút dáng vẻ kiêu căng nào hết.

Tên lính này cũng cảm nhận được sự khiêm tốn của Thẩm Bách, trên khuôn mặt lộ ra một nụ cười:

- Chúng tôi là thân binh của Tấn Châu Dương tổng quản, tổng quản ra lệnh cho chúng tôi đến mời tiên sinh đến gặp.

Thẩm Bách trong lòng nhảy dựng hết cả lên. Quả nhiên đến rồi, y hồi hộp tới mức giọng nói có chút run run:

- Xin đợi một chút, tôi vào thay y phục rồi ta đi liền.

Thẩm Bách thay xong y phục liền theo thân binh tới phủ của Dương Nguyên Khánh. Dù sao thì Thẩm Bách cũng là gia chủ của một danh gia vọng tộc, biết thừa cách đối nhân xử thế. Dương Nguyên Khánh hẹn gặp y trong phủ của mình chính là hắn đã ra ám thị với y. Dương Nguyên Khánh có khả năng sẽ coi Thẩm gia như là họ ngoại của y. Nghĩ đến đây, trong lòng Thẩm Bách bắt đầu thấy phấn chấn hẳn lên. Nếu thật sự là như thế thì có một ngày Thẩm gia sẽ trở thành thế lực chính trị to lớn của nhà bắc Tùy.

Tên thân binh này dẫn y đến thẳng trước cửa bên ngoài thư phòng của Dương Nguyên Khánh. Đến nơi, có người bẩm báo nói:

- Khởi bẩm tổng quản, Thẩm tiên sinh đến rồi.

- Mời vào!

Có tiếng Dương Nguyên Khánh trong phòng truyền ra.

Thẩm Bách đẩy cửa đi vào, không khỏi ngẩn người khi thấy trong phòng quả nhiên có hai người, một trong số đó y quen biết, chính là Thẩm Xuân người mà cách đây hai ngày y đã gặp trong Thầm quân đạo gia, y là con cháu của Thẩm thị Đôn Hoàng. Thẩm Bách biết, y là Ký Thất Tham Quân (gần như trợ lý) của Dương Nguyên Khánh, thuộc những người tâm phúc. Còn một người khác khoảng hai mươi bảy hai mươi tám tuổi, thân hình cao lớn, ánh mắt sắc sảo, người này chắc là con người nổi tiếng khắp trong thiên hạ Dương Nguyên Khánh.

Thẩm Bách vội vàng tiến lên phía trước thi lễ:

- Tiểu dân Thẩm Bách tham kiến Sở vương điện hạ.

Dương Nguyên Khánh khẽ cười nói:

- Nghe danh Thẩm gia đã lâu, ta sớm đã có ý muốn gặp, tiếc là ta vừa từ Hà Đông trở về mấy hôm trước, công việc bận rộn, không có thời gian gặp khanh, khiến Thẩm gia chủ phải đợi lâu.

- Đâu có! Đâu có! Là tiểu dân làm phiền tới công việc của điện hạ.

Thẩm Bách vừa khách sáo lại vừa lén thăm dò Thẩm Xuân. Trong lòng nghĩ xem việc Thẩm Xuân có mặt ở đây là ý gì. Có một ý nghĩ cứ nói cho y biết, Dương Nguyên Khánh rất có thể muốn sát nhập hai họ Thẩm lại với nhau.

- Thẩm gia chủ mời ngồi!

Thẩm Bách ngồi xuống, trong lòng có chút bất an, y nhận thức được con đường muốn trở thành thế lực chính trị lớn của bắc Tùy quả thật không hề dễ dàng.

Dương Nguyên Khánh nhìn y một cái, nét mặt để lộ ra một nụ cười ấm áp, nói với Thẩm gia:

- Thực ra Thẩm thị Ngô Hưng cũng chính là nhà mẹ đẻ chuyết kinh (cách gọi vợ thời cổ) của ta. Nhũ mẫu Thẩm thị đã nuôi dưỡng ta từ nhỏ tới khi trưởng thành, ta vẫn luôn coi là mẹ của ta. Nhiều lần ta phái người đến đón về Thái Nguyên, tiếc là nhũ mẫu nói không thể rời bỏ được những đứa trẻ mồ côi mà nhũ mẫu đã nhận nuôi, không chịu đi. Hiện nay người vẫn ở trong nhà của Ngô Hưng Thầm gia chứ?

Thầm Bách vội nói:

- Thu Nương vào mùa đông sẽ tới Thầm gia, bây giờ phần lớn thời gian ở quận Đan Dương.

- Vậy không biết tòa nhà mà cha của bà có còn trong phủ Thẩm gia không?

Dương Nguyên Khánh lại điềm đạm hỏi.

Chỗ mà Dương Nguyên Khánh nói đến là chỉ một căn phòng cũ và mấy chục mảnh đất của Thẩm Huyền Cối. Lúc đó, mẹ con Xuất Trần cũng là vì mảnh đất này mà bị em trai của Thẩm Bách chiếm đoạt, sau này có quan hệ không mấy tốt đẹp với Thẩm gia.

Kì thực chuyện này cũng có chút oan uổng cho Thẩm Bách, việc căn phòng đó bị chiếm là sự thật, nhưng đất thì không phải. Năm đó, Thẩm Huyền Cối khởi binh chống lại nhà Tùy, để xoay sở quân phí mà đem bán mấy mảnh đất dưới tên của y, sau đó gia tộc họ Thẩm mua lại. Trong lúc phân chia lại thì lại cho luôn người em Thẩm Bách là Thẩm Tùng lại càng không nghĩ tới lợi ích của Thẩm Huyền Cối. Nhưng mảnh đất đó mười năm trước đã chia lại một nửa cho mẹ con Thu Nương rồi, ước chừng có khoảng hai mươi khoảnh.

Nếu như Dương Nguyên Khánh đã đặc biệt hỏi tới chuyện này thì Thẩm Bách chỉ còn nước thừa nhận tất cả quyền sở hữu của tòa nhà đó vẫn thuộc về mẹ con Thẩm Thu Nương.

- Hồi bẩm Sở vương điện hạ, tòa nhà đó vẫn còn, cũng đã có lần tu bổ qua, đất đai một lần nữa phân chia lại trong nội bộ gia tộc, cũng bằng lòng phân cho Trắc Vương phi (Trương Xuất Trần – BTV).

Dương Nguyên Khánh gật đầu, cười nói:

- Sở dĩ ta hỏi tới việc này, cũng là vì ta đang có một suy nghĩ, ta đang chuẩn bị cho phép Thẩm thị Đôn Hoàng một lần nữa được trở về nhà cũ ở Ngô Hưng, thê tử của ta cũng đồng ý như thế. Lấy tòa nhà đó trên danh nghĩa của nàng chuyển lại cho Thẩm thị Đôn Hoàng. Chỉ cần người trong Thẩm thị trở về nhà cũ, ta tin rằng Thẩm thị Ngô Hưng sẽ chấn hưng trở lại, đây cũng chính là việc mà ta mong đợi từ lâu. Hôm nay mang chuyện nhà Thẩm gia ra, cũng là để bàn bạc về chuyện này, Thẩm gia ở bên đó có gì khó khăn không?

Thẩm Bách trong lòng thở dài một tiếng, quả nhiên mình đã đoán trúng. Mục đích của Dương Nguyên Khánh là muốn sát nhập hai họ Thẩm với nhau. Dẫu sao Thẩm thị Đôn Hoàng mới chính là họ hàng nhà ngoại thật sự của Trắc Vương phi. Y cũng biết, một khi Thẩm thị Đôn Hoàng trở về quê cũ, tất nhiên sẽ dính líu tới sự phân chia lại quyền tộc trưởng. Cả gia tộc Thẩm thị sẽ có sự điều chỉnh rất lớn, Thẩm Bách không thể tránh khỏi việc phải nhượng lại rất nhiều quyền lợi.

Tuy nhiên Thẩm Bách cũng hiểu rõ, không có sự trở về của Thẩm thị Đôn Hoàng thì cũng không thể nói tới lợi ích chính trị sau nàycủa Thẩm thị Ngô Hưng được. Được cái này mất cái kia, nhưng cái mà y đạt được sẽ lớn hơn rất nhiều so với những gì mà y mất đi. 

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 630 : Cha con Chử thị

Nghĩ đến đây, Thẩm Bách lắc đầu nói:

- Không có gì khó khăn, hai họ Thẩm sát nhập là một việc tốt, thần hết lòng ủng hộ.

- Tốt!

Dương Nguyên Khánh rất tán thưởng sự thức thời của Thẩm Bách. Sự rộng lượng này mới là khí phách của danh môn Giang Nam. Đương nhiên, cho dù Thẩm Bách đã đồng ý phối hợp với mình rồi thì hắn cũng cần phải tỏ vẻ một chút.

Dương Nguyên Khánh lại cười nói:

- Cuộc thi Hương ở Thái Nguyên lần này ta nghe nói người nhà Thẩm gia cũng tham dự, liệu có có con cháu của Thẩm gia chủ không?

Con trưởng của Thẩm Bách là Thẩm Hoán đang nhậm chức là thủ hạ dưới trướng Thẩm Pháp Hưng cát cứ ở Giang Nam. Mặc dù Thẩm Pháp Hưng cũng họ Thẩm nhưng y không phải chính tông của Thẩm thị Ngô Hưng, chỉ là cùng họ nhưng khác chi. Thẩm thị cho mặc dù nhận được sự che chở của Thẩm Pháp Hưng nhưng Thẩm Bách lại không hề có ý ủng hộ Thầm Pháp Hưng. Y cho rằng Thẩm Pháp Hưng khó có thể duy trì lâu dài, lần này tới Thái Nguyên, y cũng muốn tìm một con đường ra khác.

Thẩm Bách vội khom người nói:

- Lần này thần có đem theo sáu người con cháu Thẩm gia, con thứ của thần Thẩm Trạm cũng là một trong số đó.

Dương Nguyên Khánh trầm ngầm một chút rồi cười nói:

- Cuộc thi lần này, trên tay ta có một vài người được chọn vào nằm ngoài danh sách, nếu như Thẩm gia chủ có ý muốn, lệnh lang ta có thể lưu lại làm quan nhà bắc Tùy.

Thẩm Bách mừng rỡ, đây chính là mục đích y đến Thái Nguyên tham gia khoa cử. Y đứng lên thi lễ thật sâu:

- Thẩm gia nguyện tận lực vì Sở vương điện hạ.

Khi Thẩm Bách đã ra về, trong thư phòng chỉ còn lại Dương Nguyên Khánh và Thẩm Xuân. Thẩm Xuân năm nay khoảng 30 tuổi, dáng người bậc trung, tính tình trầm ổn, y là một trong 18 người thuộc dòng dõi con cháu quý tộc tòng quân ở Đôn Hoàng vào năm Đại Nghiệp thứ tư, là con trai trưởng của Thẩm thị ở Đôn Hoàng. Sau khi nhập ngũ tám năm, y lần lượt nhậm các chức Huyện úy huyện Đại Lợi, Khải tào tham quân sự tổng quản phủ Phong Châu, hiện là Ký thất tham quân sự tổng quản phủ Tấn Châu, thay Dương Nguyên Khánh xử lý các công văn trọng yếu, là tâm phúc của hắn.

Trong lúc tiếp kiến Thẩm Bách, Dương Nguyên Khánh luôn tỏ thái độ trầm tư, khi Thẩm Bách đi rồi, Thẩm Xuân lên tiếng, y có chút lo lắng nói:

- Tổng quản, tôi đang lo Thẩm gia không chịu từ bỏ quận Đôn Hoàng, dù gì cũng đã tận lực hai chục năm, nhiều người trẻ tuổi không còn muốn trở về Giang Nam nữa.

- Ta biết chứ, cũng không cần toàn bộ Thẩm gia rời khỏi Đôn Hoàng, thực ra, ta chỉ định đưa một bộ phận Thẩm thị trở về.

Dương Nguyên Khánh cười, vỗ vai y, nói:

- Thật ra, ta gọi ngươi đến không phải vì chuyện này, ta muốn điều ngươi đi làm Thái Thú quận Đôn Hoàng.

Thẩm Xuân sửng sốt, bảo y đến Đôn Hoàng làm Thái Thú, y chưa từng nghĩ tới, suy nghĩ một lúc, y mới chần chừ nói:

- Lẽ nào Đôn Hoàng vẫn chưa thuộc về triều Đường hay sao?

- Vẫn chưa!

Trong mắt Dương Nguyên Khánh bỗng léo lên một tia hy vọng. Ban đầu hắn cũng cho rằng quận Đôn Hậu đã bị triều Đường chiếm đóng, nhưng mấy ngày trước hắn mới nhận được thư từ Đôn Hoàng,, khiến hắn lại thêm hy vọng.

- Hiện tại Thái Thú Lý Triệu Cẩm ở Đôn Hoàng là tộc đệ của Lý Quỹ, y vẫn khống chế quận Đôn Hoàng và Y Ngô, trong tay có gần mười lăm ngàn quân đội. Ta cứ nghĩ y đầu hàng triều Đường nhưng không phải, y và triều đình còn chút mặc cả, bởi triều đình không chấp nhận yêu cầu của y, y muốn được lãnh chức Đôn Hoàng Vương. Triều Đường giờ đang tập trung tinh lực đối phó Tây Tần, xong xuôi rồi họ mới quay lại chinh phạt Lý Triệu Cẩm. Vì thế, chúng ta nhất định phải ra tay trước triều Đường, đoạt được quận Đôn Hoàng và Y Ngô.

Dương Nguyên Khánh đi đến bức tường bên trái, kéotấm rèm che tường ra, ngay lập tức lộ ra một tấm bản đồ. Thẩm Xuân giờ mới để ý, đây đích thị là bản đồ Tây Vực.

Dương Nguyên Khánh đi đến trước bản đồ, khẽ thở dài, nói:

- Năm Đại Nghiệp thứ tư, ta phụng mệnh chinh phạt Y Ngô, bắt đầu mở rộng lãnh thổ phía tây cho Đại Tùy, sau đó lại thành lập nên các quận Tây Hải, Hà Nguyên, Thả Mạt, Thiện Thiện và Y Ngô ở Tây Vực, hiện tại năm quận này đều không nằm trong tay Đại Tùy.

Nói đến đây, Dương Nguyên Khánh nhặt lên một cành gỗ chỉ về hướng quận Thả Mạt và Thiện Thiện:

- Hai quận này hiện đang bị một người tên là Ngụy Quy chiếm đóng, ngươi có biết là y là ai không?

Thẩm Xuân lắc lắc đầu:

- Thuộc hạ không biết!

- Ta cũng vừa mới được biết chuyện này, quả là một chuyện ngoài sức tưởng tượng, “Ngụy Quy” này chính là Nguyên Hoằng Tự không rõ tung tích chạy trốn đến quận Tây Hải.

Dương Nguyên Khánh thở dài, nói:

- Ai cũng nghĩ y chết rồi, nhưng thực ra y lại vượt qua được sa mạc Qua Bích (sa mạc Gobi – BTV), chiếm lĩnh được thành Thảt Mạt, rồi năm vừa đây còn chiếm cả thành Thiện Thiện. Dưới trướng y có khoảng sáu nghìn quân đội, rõ ràng mục tiêu kế tiếp của y chính là Đôn Hoàng, hay cũng có thể là Y Ngô, tình hình Tây Vực không hề yên ổn chút nào!

Thẩm Xuân bỗng cảm thấy một áp lực lớn đè lên vai, Dương Nguyên Khánh đã bổ nhiệm y đi làm Thái Thú, nhưng y dựa vào cái gì mà đi cướp Đôn Hoàng, cậy vào những thế gia đó sao? Bọn họ cũng là cỏ đầu tường (thành ngữ - ý nói không thể tự làm chủ, ngả theo chiều gió - BTV), khi Lý Quỹ làm chủ chính trị thì ủng hộ Lý Quỹ, hiện tại muốn họ quay sang ủng hộ Bắc Tùy, trừ phi Bắc Tùy có thể tỏ rõ sự hùng mạnh ở quận Đôn Hoàng, bằng không những thế gia đó vẫn rụt đầu không chịu chui ra.?

Dương Nguyên Khánh hiểu được sự lo lắng của y, hắn cười cười, giải tỏa nghi hoặc:

- Yên tâm, ta sẽ không để ngươi đơn phương độc mã lên đường, ngươi sẽ đi cùng Tô Định Phương dẫn ba nghìn kỵ binh đến đó. Hơn nữa tại Đôn Hoàng, Y Ngô đều có một số người phe ta ở đó, đều là những người quyền cao chức trọng, bọn họ sẽ giúp đỡ ngươi và Tô Định Phương đoạt được quận Đôn Hoàng và Y Ngô.

Thẩm Xuân yên lặng gật đầu, tuy trong lòng có chút lo lắng, im lặng một lúc, y nói:

- Vậy khi nào thuộc hạ có thể xuất phát?

- Sáng mai xuất phát!

….

Ngày đầu tiên khoa thi cử kết thúc, đám sĩ tử quay trở lại trong thành, đem đến sức sống mới cho thành Thái Nguyên, làm nơi đây càng trở nên nhộn nhịp.

Trên đường, có một tên sĩ tử là Chử Toại Lương đang thong dong chạy về đường Bích Phượng, đây chính là một đường phố lớn tại Thái Nguyên, hai bên đường cửa hàng tấp nập, buôn bán sôi nổi, nhà trọ, tửu quán có đến hơn mười quán. Chử Toại Lương chạy một mạch đến nhà trọ Tấn Trung, mặc dù cái tên nghe có vẻ uy nghi, nhưng thực tế chỉ là một quán trọ nhỏ, Chử Toại Lương liền xông thẳng vào bên trong.

- Cha!

Trước cửa phòng là một người đàn ông trung niên hơn năm mươi tuổi, ông ta chính là phụ thân của Chử Toại Lương, Chử Lượng, thấy con trai đã về, ông ta mỉm cười phúc hậu:

- Tiểu tử thối, sao con về nhanh vậy? Có phải con thi không được nên nộp giấy trắng phải không?

Chử Toại Lương gãi đầu cười nói:

- Không phải đâu thưa cha, con thi rất khá, riêng phần thiếp kinh con rất tự tin có thể được trọn điểm, ngày mai thi sách luận, con cũng có lòng tin.

- Nếu con đã tự tin như vậy thì không cần phải ôn tập sớm, chúng ta sẽ đi uống một chén.

Chử Lượng quê gốc tại Dương Địch, sau du lịch đến quận Dư Hàng, tiếng lành đồn xa, được Trần Hậu Chủ phong làm quan, sau khi triều Trần diệt vong ông ra làm quan cho triều Tùy, lần lượt đảm nhiệm chức học sĩ Đông cung, Bác sĩ Thái Thường (chức quan quản lý việc tế tự của Thái Thường Tự - BTV). Trong sự việc Dương Huyền Cảm tạo phản, ông bị liên lụy, sau đó bị cách chức xuống làm Tư hộ quận Tây Hải. Sau khi Tiết Cử khởi binh, ông ta được phong chức Hoàng môn thị lang của nước Tây Tần. Ông không vừa mắt Tây Tần, rồi lại cáo quan, mang theo con là Chử Toại Lương đến Trường An, vừa lúc nơi này bạo phát vụ án Đồng Quan, làm Chử Lượng có chút thất vọng. Ông lại đi vòng đến Thái Nguyên, còn Chử Toại Lương liền báo danh tham gia khoa cử, lạ thay, ở đây người ta không kiểm tra hộ tịch, cho dù là nô lệ chạy trốn cũng có thể tham gia, vì thế, Chử Lượng liền quyết định ở lại Thái Nguyên yên lặng quan sát thế cục bắc Tùy.

Hai cha con đi vào một tửu quán gần đó, tên là Bích Phượng, một nơi lớn nhất trên đường Bích Phượng., Lúc này các sĩ tử đều tụ tập đến đây làm việc buôn bán trong quán càng lúc càng bận rộn, hai cha con đi lên lầu hai, vừa lúc có một vị khách rời đi, khiến cho hai cha con may mắn có được một chỗ ngồi đẹp cạnh cửa sổ.

Hai người ngồi xuống, một tiểu nhị nhanh chóng lại gần đó, cười nói:

- Quan khách dùng gì ạ?

- Có món gì hay loại rượu nào đặc biệt không?

Chử Sáng cười hỏi.

- Có món đứng đầu danh mục quán tôi là cá chép Phần Thủy kho, rượu nho Đại Lợi năm năm, ngay cả Trường An cũng chưa được uống, hơn nữa lại không đắt, chỉ cần ba xâu tiền, đảm bảo quan khách sẽ no say trở về.

Chử Lượng cười lớn, nói:

- Được rồi, vậy ngươi tự liệu lấy cho đủ ba xâu tiền đi! Để hai cha con ta được ăn no say!

- Cha, chỉ một bữa cơm mà hết ba xâu tiền, như thế có xa xỉ quá không?

Do vốn biết tính cha mình cần kiệm, tự dưng ông phóng khoáng như vậy, Chử Toại Lương có chút khó hiểu.

Chử Lượng vuốt râu, cười mỉm, nói:

- Lâu lắm rồi mới đi ăn bên ngoài, không sao cả!

- Mà cha ơi, con kể cha chuyện này, hôm nay, trước khi thi, người ta tuyên bố một chuyện...

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 631 : Tên đề bảng vàng (1+2)

Chử Toại Lương liền kể về việc có thể học ở Quốc Tử Học, Chử Lượng nghe xong, thở dài nói:

- Một tháng cấp năm đấu gạo, tám xâu tiền sao? Chà! bắc Tùy quả thực không tiếc vốn bỏ ra!

- Cha, con thấy bắc Tùy không tệ đâu! Ít nhất thì cách họ đối xử với các sĩ tử rất được, còn triều Đường thì đâu làm được chuyện này. Riêng năm đấu gạo, tám xâu tiền cũng có thể nuôi cả gia đình, vì thế mà bây giờ nhiều sĩ tử chỉ cần lo tu chí học hành, không cần lo chuyện làm lụng vất vả, chỉ với điểm này thôi cũng đã đủ để thu phục lòng sĩ tử.

Chử Toại Lương vô cùng phấn khởi, y cảm thấy vấn đề không phải ở chỗ triều đình có giàu mạnh hay không, mà là triều đình có xem trọng lòng người đọc sách hay không. Không có tài lực thì có thể cấp ít một chút, chẳng hạn như một đấu gạo hay hai xâu tiền, đây cũng là một phần tâm ý, trong thiên hạ chỉ bắc Tùy mới có thể làm được điều này.

- Con cảm thấy nếu cứ như vậy, dù có thi đậu vào Quốc Tử Học hay không, thì vẫn có hơn hai mươi ngàn sĩ tử một lòng đi theo bắc Tùy. Còn tấm da dê kia nữa, tuy nhỏ nhưng đối với một người sĩ tử nghèo khó quả là một trợ giúp lớn, sao cha lại không chịu cống hiến cho bắc Tùy?

- Ta đâu nói sẽ không dốc sức cho Bắc Tùy, chỉ là ta đang quan sát, rốt cuộc là triều Đường hay bắc Tùy có thể khiến ta lưu lại.

- Nhưng cha à...

Chử Toại Lương hạ giọng nói:

- Con đã quyết định rồi, con sẽ theo Bắc Tùy, nhưng nếu cha lại chạy tới triều Đường, chẳng phải chúng ta sẽ trở thành kẻ thù sao?

- Cái thằng bé này, quả nhiên là đã kiên quyết ở lại ắc Tùy rồi, được rồi! Để ta suy nghĩ lại.

Lúc đó, có hai tên tiểu nhị bưng đồ ăn và rượu ra, nhanh chóng xếp lên bàn, có hơn mười món ăn, lại thêm một bình rượu nho thượng đẳng. Chử Toại Lương ngây ngẩn cả người, ở Trường An, từng ấy đồ ăn ít nhất phải hết mười xâu tiền, chưa kể tiền rượu, nếu tính tiền rượu thì bình rượu nho này giá đến mười xâu tiền. Một lúc sau, y ngờ vực hỏi tiểu nhị:

- Có thật tất cả chỉ hết ba xâu tiền?

Tiểu nhị nghe tiếng nói biết là người xứ khác, liền cười giải thích:

- Đương nhiên rồi, bất quá thì chúng tôi phải thu tiền mới, còn như loại tiền vải mỏng hơn giấy ở Lạc Dương, chúng tôi không thu.

Chử Lượng tuy đã đến Thái Nguyên mấy ngày, nhưng ông ta chỉ quanh quẩn trong nhà trọ, chuyên dùng bạc, nên khi nghe đến tiền mới, ông tò mò, hỏi:

- Tiền mới là gì vậy?

- Là loại tiền này!

Tiểu nhị rút từ túi bên hông một đồng tiền vàng óng, đặt lên bàn:

- Đây! Cái này là tiền Khai Hoàng Ngũ Chu mới, mặt trái đúc chữ Phong Châu Quan hoặc bắc Tùy Quan, loại tiền này đến chín phần là đồng,. Hiện tại ở Thái Nguyên, các cửa hàng cơ bản chỉ thu loại tiền này, tôi còn nghe nói ở quận Thượng Đảng, Trường Bình và quận Giáng đang bắt đầu chỉ thu loại tiền này thôi, không còn nhận tiền cũ trước kia nữa!

Chử Lượng nhướn mày hỏi:

- Vậy những đồng tiền trước đây giờ phải làm sao?

- Có thể đến cửa hàng Để (nơi cung cấp ký gởi giao dịch, cư trú, chất hàng của thương gia từ thời Đường - BTV) hoán đổi, ngay tại nha huyện cạnh đây, tuy nhiên nếu đổi tiền vải thì có chút thiệt thòi.

Chử Lượng cầm đồng tiền lên, híp mắt nhìn, một lúc sau, ông ta cảm thấy loại tiền này so với tiền cũ thì lớn hơn, dày hơn, chữ viết thì rõ ràng, mà còn nặng hơn nữa, đây đích thị là một đồng tiền tốt. Ở Trường An chuyện tiền tệ vẫn còn nhiều hỗn loạn, trên thị trường loại tiền nào cũng có, tuy vậy ông ta vẫn thắc mắc, lại hỏi tiểu nhị:

- Vậy ngộ nhỡ có người làm giả tiền thì sao? Như lượng đồng chỉ còn 7 phần, nhìn sơ cũng khó nhận ra

được.

- Làm giả ư?

Tiểu nhị nhếch miệng, liền chỉ về hướng nam thành, cười lạnh, nói:

- Cửa thành nam treo hơn năm mươi chiếc đầu người, đều là kết cục của những kẻ làm tiền giả cả, cả nhà già trẻ gái trai đều bị tịch thu tài sản, kẻ phạm tội thì bị giết, đoạn tử tuyệt tôn đó!

Ăn xong cơm chiều, Chử Toại Lương liền đi tìm mấy bạn học khác nói chuyện, Chử Lượng thì mang theo một chiếc hộp trúc đựng đồ ăn thừa. Vốn tính tiết kiệm, mà lại bỏ ba xâu tiền cho một bữa cơm thì đương nhiên ông sẽ đem cơm thừa về.

Ông từ từ đi đến trước cửa nam thành, về phía cửa thành bên trái có một cái cây lớn treo những cái lồng gỗ, trong đó là những cái đầu người, già trẻ gái trai đều có, trên tường dán đầy những tờ cáo thị, cũng đã khoảng mười ngày rồi, nội dung giống như tiểu nhị đã nói, Lạc thị ở quận Ly Thạch, tự đúc tiền giả. Chiếu theo luật Đại Tùy bọn chúng đều bị tịch thu tài sản, xử chém toàn nhà 52 người, lấy đó cảnh tỉnh mọi người.

Chử Lượng gật gật đầu, biết giúp đỡ người nghèo, kẻ yếu, chăm sóc người già, cô đơn là nhu, nghiêm tựa gió cuốn sấm rền, giết một người răn trăm người, quả là biết kết hợp cương nhu. Đây mới là đạo yên ổn lâu dài, một mặt khoan dung chỉ khiến dân tâm càn quấy, quan không uy nghiêm; một mặt nghiêm khắc làm cho dân chúng oán than, quan dân đối lập, đây chính là điểm mạnh của bắc Tùy.

Lúc này, Chử Lượng phát hiện trước cửa thành có một chiếc rương sắt lớn màu đen, cạnh đó có hai tên lính canh gác. Ông ta tò mò bước lại gần xem, hóa ra là một hòm thư khiếu nại, ngay mặt rương đề chữ “Ngự Sử đài quỹ ”(quỹ có nghĩa là hòm - BTV). Ông có chút không hiểu, muốn hỏi hai tên lính, nhưng hai tên này căn bản không thèm đếm xỉa đến ông.

- Cái rương Ngự Sử đài này chính là nơi thu thập dân tình, cũng có thể gọi là hòm cáo quan.

Bỗng sau lưng ông ta vang lên tiếng cười sang sảng.

Chử Lượng quay lại, thì ra là một quan viên trẻ độ hai mươi tuổi, lệnh bài thuộc loại bát phẩm, chắc là phụ trách công việc này.

Chử Lượng đặt hộp đồ ăn xuống, chắp tay hỏi:

- Xin hỏi... Đây có phải là nơi để dân chúng gửi yêu cầu giải oan?

Tên quan kia liền cười hàm ý nói:

- Thật ra không chỉ mình cáo quan của dân chúng thôi đâu, quan lại cũng có ...

Chử Lượng sực tỉnh, dân và quan đều có thể cáo quan sao? Kỳ thật, dân cáo quan không phải là chuyện đáng sợ, mà quan cáo quan mới là chuyện đáng lo ngại. Bởi thường thì sự việc phải có chứng cớ xác thực, nội dung tường tận, mỗi lần cáo thì phải chuẩn xác, hơn nữa sẽ không làm mất thể diện, đây quả là một biện pháp tàn nhẫn, còn về việc Ngự Sử đài có vạch tội hay không thì lại là một chuyện khác.

- Ta hiểu rồi, đa tạ!

Chử Lượng gật đầu, quay về quán trọ. Khi ông ta đang đi lên bậc thang thì có một gã quan viên bắt chuyện:

- Có phải tiên sinh đây đã từng làm quan triều Tùy?

Chử Lượng cười khổ, đành nói:

- Ta trước đây từng làm quan triều Trần, triều Tùy, còn cả Tây Tần nữa, hiện tại đang nghĩ có nên đầu quân cho bắc Tùy hay không. Không biết phía bên các vị liệu còn cần một nguyên lão bốn triều như ta?

….

Hiện giờ, tất cả mọi người đang chú tâm tới đợt khoa cử lần này của Bắc Tùy, sau khi kì thi kết thúc, đám sĩ tử hoan hô vui mừng. Mấy ngày kế tiếp, bọn họ tập trung ở gần thành Thái Nguyên du ngoạn sơn thủy, uống rượu hàn huyên tâm sự, lấy văn kết bạn hay cùng đấu thơ, sĩ tử dù trẻ hay già đều cùng tận hưởng kỳ khoa cử khó gặp một lần trong đời.

Trong lúc đó, ở đại sảnh chấm thi được phong tỏa tại Quốc Tử Học, hơn một trăm người theo Bùi Học, Vương Học cùng các Bác sĩ được Quốc Tử Học điều đến đang khẩn trương phê duyệt đống bài thi chất cao như núi.

Quan chủ khảo, Lý Cương, tuổi đã gần bảy mươi, tuy cố chấp không muốn làm quan bắc Tùy, nhưng ông ta vẫn chấp nhận đề nghị của Dương Nguyên Khánh đến làm chủ khảo, đơn giản vì lựa chọn nhân tài, giáo dục hậu bối là ý thích của ông.

Quan chủ khảo thì không tham gia bình luận mà chỉ giám sát quá trình chấm bài, đảm bảo cho nó luôn diễn ra công minh, chọn ra danh sách hai trăm người có tư cách, dĩ nhiên không để những việc gian lận bất minh lẫn vào. Tuy nhiên, cũng có một vài bài thi phải do đích thân quan chủ khảo giải quyết dứt khoát.

Hơn hai mươi ngàn bài thi được chấm qua ba lượt. Đầu tiên họ chấm phần sách luận trước, những bài đạt chỉ tiêu thì được đi tiếp vào vòng trong, chính là phần thơ. Một bài thơ hoàn hảo thì phải đảm bảo cả ba yêu cầu về cách thức, luật thơ, ý thơ, những bài thơ như vậy mới chuyển sang xét phần thiếp kinh. Sau cùng, chọn ra ba nghìn người đủ tư cách, rồi từ đó chọn ra 170 bài xuất sắc nhất.

Chỉ có tổng cộng 170 người lọt vào danh sách trúng tuyển thông qua thi cử công minh, nhưng thực tế, Dương Nguyên Khánh còn có thể chọn 30 người nữa, căn cứ theo yêu cầu mà phân phối đến các quan lớn.

Thế mới nói, trên đời này chẳng có gì là công bằng tuyệt đối cả, đám sĩ tử thì luôn miệng “Không cần thế phiệt, cần công minh”, thậm chí còn tiến hành biểu tình, còn có rất nhiều con cháu quý tộc trong đó, nhưng thực chất Dương Nguyên Khánh không thể đem lại cho họ một sự công bằng chân chính.

Có thể trong tương lai khi đất nước phồn vinh thì chuyện công bằng không khó, nhưng hiện giờ thời thế loạn lạc, hắn không làm được, hắn cần thông qua khoa cử để lôi kéo các đại danh thế gia về mình. Chuyện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nhanh chóng ổn định cục diện chính trị sau khi chiếm lĩnh Hà Bắc, thậm chí ngay lúc hắn bắt đầu chiếm lĩnh Hà Bắc thôi cũng có rất nhiều thuận lợi.

Lý Cương hiểu nỗi khổ của Dương Nguyển Khánh nên lão yên lặng làm theo sự sắp xếp của hắn. Thật ra, ông ta biết chứ, nếu Dương Nguyên Khánh chỉ lấy một phần rưỡi trong danh sách thôi cũng đã là nhượng bộ lắm với bọn họ rồi.

 Chương 631 : Tên đề bảng vàng (2)

- Lý chủ khảo, ngài xem, bài thi này hồ dính bị bóc ra rồi.

Một vị Bác sĩ đứng lên, giơ cao bài thi đó, hỏi Lý Cương:

- Phải xử lý thế nào đây?

Hồ danh chính là phần ghi rõ họ tên, quê quán cùng số báo danh của mỗi thí sinh trước khi thi, sau đó phải dùng một tờ giấy dài dán chồng lên, che toàn bộ nó đi. Nếu cố tình dán sai hoặc không dán thì bài thi bị gạt ngay lập tức, đây là một quy định cực kì nghiêm khắc, nhưng trừ một số trường hợp ngoài ý muốn, chẳng hạn hồ danh bị tróc ra như bài thi trước mắt.

- Đưa cho ta xem!

Lý Cương nhận bài thi từ vị Bác sĩ, nhanh chóng liếc qua phần tên họ, là Vương Tích, người Thái Nguyên, rồi ông ta liếc sang thơ:

Đông cao bạc mộ vọng,

Tỷ ỷ dục hà y.

Thụ Thụ giai thu sắc,

Sơn sơn duy lạc huy.

Thơ viết rất hay, thiếp kinh thì đúng hết, sách luận cũng được xếp loại xuất sắc, nếu cứ theo cái đà này thì Vương Tích chắc chắn nằm trong tốp mười, nhưng hồ danh của y sao lại bị tróc ra chứ, mà y lại là người của Vương thị.

Nếu theo quy định, hồ danh vô cớ bong tróc, hơn nữa còn liên quan đến khảo sinh, bài thi này nhất định không được tính. Lý Cương suy nghĩ hồi lâu, rồi ông ta dùng một tờ giấy trắng dán trùm lên, nhấc bút, tự bình phẩm bài thi này.

….

Ba ngày chấm bài cuối cùng cũng kết thúc. Buổi trưa, Lý Cương tay cầm một chiếc túi da bịt kín, đi tới Tử Vi các, vào Nghị sự đường, trong đó Dương Nguyên Khánh và năm vị tướng quốc đã chờ sẵn.

- Thật thất lễ, ta có chút chậm trễ.

Lý Cương áy náy nói.

- Lý tiên sinh mấy ngày nay đã cực khổ nhiều.

Dương Nguyên Khánh cười cười nói:

- Chúng ta đợi đã lâu, không biết Trạng Thủ năm nay sẽ rơi vào nhà nào?

Theo quy định của Tùy đế Dương Quảng, các sĩ tử tham gia thi tỉnh đều phải trình văn trạng đến bộ Lễ, cho nên người đứng đầu được xưng là Trạng Thủ hay Trạng Nguyên. Dương Nguyên Khánh tuy có thể chọn ra ba mươi người theo ý riêng, nhưng như đã thống nhất, ba mươi người đó chỉ được xếp vào nhị giáp, không được tiến cử lên nhất giáp.

Nhất giáp chính là hai mươi người xếp đầu tiên, được gọi là tiến sĩ, còn 170 người còn lại thuộc nhị giáp, gọi là tòng tiến sĩ.

Lý Cương mở túi ra, đưa danh sách những thí sinh trúng tuyển, còn phía dưới là bài thi của mười người xuất sắc nhất, danh sách chính thức của mười người này phải được các tướng quốc trong Tử Vi các thống nhất quyết định.

Bùi Củ liếc mắt nhìn, xếp thứ hai là con cháu Bùi gia, Bùi Thanh Tùng, trong lòng ông đột nhiên giật thót. Đứng thứ ba là Vương Tích, ông biết người này là tộc đệ của Vương Tự, có chút tiếng tăm ở Hà Đông. Còn người đứng đầu ông chưa từng nghe qua, Chử Toại Lương, họ Chử à, lẽ nào là người Dương Địch, ông biết có một Chử Lượng cùng Ngu Thế Nam nổi tiếng là hai đại văn sĩ nổi danh của triều Nam.

Lý Cương liền giải thích:

- Về phần Chử Toại Lương, bài thi của cậu ta cả về sách luận, thơ hay kinh thiếp đều hoàn hảo, thư pháp cũng tốt, rất có khí chất, ta hổ thẹn không bằng y, tất cả các Bác sĩ đều thống nhất để cậu ta đứng đầu bảng.

Mọi người đều xem bài của Chử Toại Lương, chữ viết quả nhiên rất được, trong trẻo quyến rũ, vừa trầm lại vừa sinh động, tuy còn thoáng chút bồng bột, có thể là do tuổi trẻ. Đợi một thời gian nữa, người này nhất định trong tương lai sẽ là một đại thư pháp nổi tiếng.

Dương Nguyên Khánh nhìn kĩ danh sách trúng tuyển, hắn đã sắp xếp ba mươi người trong đó, con của Thẩm Bách là Thẩm Trạm đứng thứ ba mươi tư, rồi hắn cười hỏi:

- Thế nào, cứ chiếu theo danh sách này mà yết bảng chứ?

Vương Tự cắn môi, gã có chút không vừa lòng khi Bùi Thanh Tùng đứng trước Vương Tích. Nhưng có mặt Bùi Củ ở đây, gã e ngại không tiện nói. Suy cho cùng, sách luận Vương Tích sai một chữ, Bùi Thanh Tùng thì đúng hết, tuy nhiên ở phần thiếp kinh, y có một câu xóa sửa, nói chung là không được hoàn mĩ.

Bùi Củ hiểu được tâm lý của Vương Tự, liền nói:

- Hay là để Bùi Thanh Tùng xếp ở vị trí thứ ba đi! Dù sao Vương Tích vốn là đại văn sĩ nổi danh ở Tấn Trung, để y đứng trước càng làm cho người đời nể phục.

Vương Tự im lặng, gã thực ra cũng bằng lòng với kiến nghị của Bùi Củ. Dương Nguyên Khánh suy nghĩ một chút, lại hỏi Lý Cương:

- Tiên sinh nghĩ thế nào?

Lý Cương cười nói:

- Hai người này không chênh lệch nhau lắm, ta không có ý kiến gì!

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Vậy danh sách này sẽ điều chỉnh một chút, Vương Tích xếp thứ hai, Bùi Thanh Tùng thì xếp thứ ba.

….

Giữa trưa, hơn hai mươi ngàn sĩ tử từ bốn phương tám hướng chạy tới bắc thành, đi vào bên trong giáo trờng, sĩ tử đứng chen chúc, vân kín một vùng, chỉ thấy toàn đầu người.

Mặc dù sẽ có quan viên đi đến từng quán trọ báo tin, nhưng lại muộn hơn so với lúc dán yết bảng ít nhất một canh giờ, vì thế mà nhiều sĩ tử chọn cách vọt vào trong giáo trường xem bảng.

Bảng vàng được dán lên, đính trên ba mươi bảng gỗ lớn, phía dưới có binh lính bảo hộ, gồm có danh sách hai trăm người trúng tuyển và danh sách hai nghìn người được học tại Quốc Tử Học.

Điều này khiến cho nhiều người có chút an ủi, tuy không đậu tiến sĩ, nhưng ít ra có thể vào đọc sách trong Quốc Tử Học, tương lai sẽ có cơ hội được làm quan.

Có một quan viên cao giọng hét:

- Các vị sĩ tử xin mời về cho, rồi sẽ có người đích thân đến báo tin vui, bảng danh sách này sẽ được giữ lại trong vòng mười ngày, ngày mai, ngày kia cũng có thể đến xem.

Tên quan ấy hét khô cả cổ mà chẳng ai thèm để ý tới lời của gã, bảng danh sách vẫn chật ních người đến xem, thỉnh thoảng có vài tiếng hô to vui mừng.

Có lẽ vì đây là lần khoa cử đầu tiên, nên các quan viên trông coi yết bảng không thể lo nghĩ chu toàn, các sĩ tử không chỉ xem một lần rồi đi, bọn họ xem một lần không thấy tên mình, thì có thể xem lần thử hai, thứ ba, thậm chí là bốn năm lần... Cứ như vậy, người đứng sau không nhìn được bảng danh sách nên mới la to.

Chử Toại Lương tới chậm một bước, trước mặt là cả ngàn người đang chen chúc, nửa ngày rồi mà vẫn không chịu rời đi, y sốt ruột, rốt cuộc bọn họ định xem cho tới bao giờ đây?

Ngay lúc đó, y nghe thấy tiếng ai đó gọi tên mình, Dư Hàng Chử Toại Lương, y liền hét lớn:

- Ta ở đây!

Giáo trường lập tức im lặng lạ lùng, hàng nghìn ánh mắt quay sang nhìn y khiến y chột dạ, không biết đã xảy ra chuyện gi?

- Có chuyện gì vậy?

Y cười khan hỏi mấy người cạnh đó.

Một gã sĩ tử nhìn Chử Toại Lương, chậm rãi gằn từng chữ:

- Dư Hàng Chử Toại Lương, chính là Trạng Nguyên của lần khoa cử này.

Phía nam thành Thái Nguyên, một đội quân Tùy hộ tống mười mấy sứ giả triều Đường đang tiến về cửa thành, đi đầu là một người đàn ông cao to, độ bốn mươi tuổi, mày rậm mắt nhỏ, mũi to như quả cà chua. Ông ta chính là tòng đệ Lý Thần Thông (chỉ quan hệ cùng ông cố khác cha - BTV) của Lý Uyên, phong quan Hoài An Vương, Hữu dực Vệ đại tướng quân.

Lý Thần Thông khởi hành từ Bồ Tân Quan đến Hà Đông, 500 tên lính của ông ta không thể nhẠcảnh, vì thế ông ta được quân Tùy hộ tống đi hướng bắc đến Thái Nguyên trước.

Lần này, ông ta gánh vác trọng trách đến giải hòa với triều Tùy, trong lòng có chút sốt ruột. Từ lúc chiến dịch Thái Nguyên bùng nổ giữa bắc Tùy và triều Đường, Triều Đường luôn ở thế bị động, làm cho các giới Quan Lũng đều bất mãn với triều đình, thêm vào đó là sự kiện Đồng Quan dẫn đến Hoằng Nông thất bại thảm hại, làm cho quý tộc Quan Lũng càng thêm bất mãn với gia tộc Lý thị.

Lý Thần Thông hiểu rất rõ áp lực cực lớn mà huynh trưởng của ông ta phải chịu đựng,, ông ta cũng đồng ý với đề nghị của Lý Kiến Thành, trước mắt hòa giải với bắc Tùy, rồi sau này tìm cách để lập công lớn ở phương diện khác, dần dần khôi phục lòng tin của nhân chúng với triều đình.

Đến chỗ cửa thành có một tên quan viên đứng đợi, thấy Lý Thần Thông , y liền thúc ngựa chạy lại, khom người thi lễ:

- Tôn giá (cách gọi tôn trọng với người đối diện – BTV) đây có phải là sứ giả đến từ triều Đường?

- Tại hạ là Lý Thần Thông, là sứ giả nhà Đường.

- Hạ quan là Nội sử xá nhân Vi Luân, phụng lệnh Tử Vi các đợi ngài ở đây, điện hạ dọc đường vất vả rồi.

Lý Thần Thông thấy người thanh niên này chưa đến hai mươi, có chút trí thức lại thông thạo lễ nghĩa, ứng phó linh hoạt, để lại cho ông ta một ấn tượng khá tốt, liền cười trả lời:

- Đa tạ !

Bỗng ông ta nghe có tiếng chiêng vang lên từ trong thành, thỉnh thoảng lại có tiếng hô từng đợt, không khí có phần náo nhiệt, ông ta ngẩn ra, trong thành có chuyện gì sao?

Vi Luân khẽ cười nói:

- Hôm nay là ngày tân khoa tiến sĩ diễu hành khoe quan, vì thế mà trong thành rất náo nhiệt.

Lý Thần Thông giật mình, có chút tò mò liền hỏi:

- Vậy ta có thể vào đó xem chút được không?

- Đương nhiên có thể, xin mời điện hạ.

Đoàn người Lý Thần Thông đi vào trong thành. Chỉ thấy trên đường lớn Tấn Dương tấp nập người, đến mấy trăm ngànngười chen chúc nhau đứng xem ở hai bên đường, lướt mắt không thấy đâu là giới hạn. Kỵ binh thì cách ba bước lại có một nhóm, năm bước lại có một trạm để duy trì trật tự.

Không khí toàn Thái Nguyên hân hoan như đón tết, tiếng trống, tiếng cheng vang lên tưng bừng, kèn Xô-na thổi những tràng dài rộn rã. Lúc này, một đám sĩ tử trẻ tuổi xuất hiện ở đầu đường, khoảng hai trăm người, trên người đeo một dải lụa đỏ, mặc áo gấm đỏ thắm, đầu đội mũ ô sa hai cánh, trước ngực là một đóa hoa gấm lớn màu đỏ, ai nấy cũng mang vẻ mặt hồng hào, vô cùng vui vẻ.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 632 : Mật sứ triều Đường

Trước họ là năm trăm kỵ binh mở đường, rồi đến đoàn nhạc, sau cùng mới là hai trăm tiến sĩ cưỡi ngựa theo sau, mỗi con ngựa đều có một người dẫn hướng để tránh làm cho ngựa hoảng sợ. Đoàn tiến sĩ nối đuôi nhau đi đến, xung quanh dân chúng tung hô, chúc tụng, khiến các sĩ tử vui sướng đến độ mắt ánh hào quang, vinh quang này cả đời họ khó mà quên được.

Lý Thần Thông cưỡi ngựa chậm rãi đi bên ngoài dòng người, trong lòng thầm khâm phục vạn phần. Trong lúc triều Đường đang tranh luận kịch liệt xem có nên tiến hành khoa cử hay không thì Bắc Triều đã nhanh chóng thực hiện, dùng vinh quang, tôn trọng để lung lạc lòng người đọc sách.

Ở Trường An, trước khi ông đi thì toàn bộ vua dân trên dưới thảo luận nhiều nhất về cuộc đại diễu hành của sĩ tử ở Thái Nguyên, trong giọng điệu nhiều người còn có vẻ vui mừng khi người gặp họa, tựa như Thái Nguyên đã gặp phải áp chế nghiêm trọng. Nhưng thực tế, người bắc Tùy sớm quên đi cảm giác không vui mà cuộc diễu hành mang đến, hiện tại chỉ có vinh quang và tự hào của người đọc sách. Bấy giờ, một nguy cơ sâu sắc trỗi dậy trong lòng Lý Thần Thông, triều Đường đã lạc hậu rồi, còn bắc Tùy không chỉ thắng lợi về mặt quân sự mà mọi mặt khác đều phát triển nhanh chóng.

Lý Thần Thông nghĩ đến trên đường lên phía bắc thấy nhân dân an cư lạc nghiệp, quan phủ lo tổ chức dân chúng xây dựng thủy lợi, lại có nhiều trai tráng làm ruộng mà không phải tham gia quân đội. Bắc Tùy dùng kế sách tinh binh làm dân giàu, dùng lực lượng trai tráng để lo sản xuất chứ không dùng cho chiến tranh, làm như vậy, khi chiến tranh trường kỳ xảy ra thì có thể ứng phó tiêu hao..

Đoàn người đi xuyên qua thành Thái Nguyên, ra đến cửa bắc, rồi tiếp tục thẳng tiến cung Tấn Dương, hai bên đường dân chúng vây kín chờ đợi, đường đi được trải thảm đỏ cho đến tận trong cung. Khi Lý Thần Thông từ thành đi ra, dân chúng tưởng là tiến sĩ liền tung hô, chúc tụng, khiến Lý Thần Thông cực kỳ khó xử, ông ta đành kiên trì lách sang đường nhỏ mà đi.

Dân chúng đang chờ đón tân khoa tiến sĩ, nếu biết ông ta là sứ giả triều Đường, thì thứ ông ta nhận được chắc chắn không phải là tiếng hoan hô kia, mà là trứng thối, đá, về điểm này, ông ta tự hiểu.

Lý Thần Thông tới trước cổng lớn cung Tấn Dương, ở đó, hai vị lão thần Tô Uy và Bùi Củ đã chờ sẵn. Lý Thần Thông đều biết hai vị này, năm xưa Bùi Củ chính là Tể tướng triều Tùy, còn Tô Uy là nguyên lão sáng lập Đại Tùy. Hai nhân vật quan trọng ra nghênh đón khiến ông ta cảm thấy vô cùng áp lực.

Lý Thần Thông cảm thấy mình không còn là một Hoài An Vương thanh cao, ông ta liền xuống ngựa, bước nhanh về phía trước, khom người chào:

- Lý Thần Thông tham kiến hai vị lão tướng quốc.

Tô Uy híp mắt cười:

- Vương gia là khách quý bắc Tùy, trên đường đi chúng tôi còn nhiều sơ suất, mong vương gia thứ lỗi.

- Ta đi đường rất thuận lợi, được hộ vệ rất cẩn thận, lão tướng quốc đã quá lời.

Đứng bên cạnh đó, Bùi Củ cũng cười nói:

- Đáng nhẽ nên để Vương gia nghỉ ngơi vài ngày cho lại sức, nhưng ta đoán vương gia cũng đang rất sốt ruột, vậy chúng ta nói vài chuyện đơn giản trước.

- Đúng vậy, ta cũng muốn bàn chuyện trước, nghỉ ngơi không vội.

- Vậy thì mời ngài!

- Hai vị lão tướng quốc, mời!

Lý Thần Thông đi theo Tô Uy và Bùi Củ vào trong cung, qua Tử Vi các, chỗ này thật rộng, tường cao mười trượng. Ông ta còn nhớ, trước đây nơi này vốn gọi là Tê Phượng các,nơi tập trung quyền hành cao nhất của vương triều bắc Tùy, Dương Nguyên Khánh cũng xử lý việc triều chính ở nơi này, không biết hắn có thấy mình hay không?

Lý Thần Thông trong lòng không yên, khi đi vào Tử Vi các, ông ta gặp Đỗ Như Hối cùng Thôi Quân Tố ra đón, Tô Uy và Bùi Củ thì không vào trong, ông ta cảm thấy có chút kỳ quái, thấy thế, Đỗ Như Hối liền nói:

- Thật thất lễ, hôm nay là ngày các tiến sĩ vào triều lãnh chức, cần phải cử hành nhiều nghi thức long trọng, vì thế Tô Úy và Bùi Củ cần đến đó chủ trì nghi thức, Vương tướng quốc cũng bận ở đó huấn dạy tân quan, cho nên bây giờ chỉ có ta cùng Thôi tướng quốc và điện hạ đây nói chuyện.

Thôi Quân Tố nói:

- Dương tổng quản mấy ngày nay công việc bề bộn, không những chuyện quân sự mà cả chuyện khoa thi cử lần này, ngày mai ngài ấy mới có thể tiếp chuyện với điện hạ được.

Lý Thần Thông hiểu rõ, thực tế Dương Nguyên Khánh để cho Đỗ Như Hối cùng một số người khác tiếp chuyện mình trước, sau đó nếu sơ đàm tiến triển tốt thì hắn sẽ đích thân ra mặt, đây cũng là một chuyện bình thường, ông không lấy làm kỳ lạ.

- Vậy thì phiền Đỗ tướng quốc và Thôi tướng quốc rồi.

Lý Thần Thông được mời vào phòng nghị sự , đây là nơi cao nhất ở Tử Vi các, qua cửa sổ có thể thấy rõ cửa bắc thành Thái Nguyên. Bấy giờ ông ta thấy có hai trăm tiến sĩ đang từ trong thành đi ra, từ từ tới cung Tấn Dương, trước cửa cung có trải thảm và dựng nên một đài cao. Ở đó, Tô Uy và Bùi Củ cùng hơn trăm quan viên khác đã đợi sẵn, trên đài cao, ông ta còn nhìn thấy cả Dương Nguyên Khánh, Đỗ Như Hối cười, giải thích:

- Hôm nay tổng quản đích thân đội mũ cho các tiến sĩ, sau đó, ba người đầu bảng còn phải vẽ chân dg ở Văn học quán, rồi cử hành đại tiệc, lúc đó Thánh thượng sẽ tiếp kiến bọn họ. Nghi lễ rất rườm rà, vì thế mai họ sẽ được nghỉ ngơi một ngày, sau đó mới đến bộ Lại nhậm chức.

Ngay lúc đó, Dương Sư Đạo, Ngụy Trưng và Trương Thuật cùng đi vào Nghị sự đường. Dương Sư Đạo đảm nhiệm việc đàm phán, nếu không vào triều làm Tể tướng, song đã là nhân vật hết sức quan trọng. Ngụy Trưng thì lo phần ghi chép, Trương Thuật thì giám sát, đây đích thực là một hội đàm chính thức.

Lý Thần Thông ngồi xuống, có một số nô tì đóng cửa lại, rồi lập tức lui xuống, bên trong nghị sự đường trở nên vô cùng im lặng.

Đỗ Như Hối đứng lên nghiêm nghị nói:

- Chúng tôi đã xem qua bức thưdo Đế Tôn triều Đường gửi tới, thư có đề cập đến việc chấm dứt hận thù, hai bên cùng đàm phán giảng hòa. Về vấn đề này, Bắc Tùy hoàn toàn đồng ý, nhưng có một số chuyện cần phải chứng thực, cho nên hai bên cùng ngồi lại từ từ đàm phán, hy vọng trước cuối năm có thể đạt được phương án hòa giải hoàn chỉnh.

…..

Một canh giờ sau, Đỗ Như Hối vào quan phòng của Dương Nguyên Khánh, lúc này lễ mừng tân tiến sĩ đã chấm dứt, hai trăm tiến sĩ đã đến điện Văn Xương tham gia tiệc rượu, Dương Nguyên Khánh thì về quan phòng của mình.

So với nghi lễ đón tiến sĩ, hắn xem trọng cuộc phỏng vấn bí mật của Lý Thần Thông hơn. Chiều hôm qua, hắn mới nhận được thư của Lý Uyên, trong thư biểu đạt hy vọng hai bên giảng hòa.

Dương Nguyên Khánh cũng đang chờ đợi một kết quả như vậy, bởi bắc Tùy nhất định không nuốt nổi triều Đường, mà triều Đường thì càng không diệt nổi bắc Tùy, cứ chiến đấu như vậy chỉ tiêu hao sức lực, chi bằng tạm thời ngừng chiến, phát triển thế lực. Dương Nguyên Khánh cần đông tiến Hà Bắc, Lý Uyên cũng cần tiêu diệt hoàn toàn nước Tây Tần, củng cố hậu phương.

Hai bên đều có nhiệm vụ cấp bách riêng, như vậy giải hòa là chuyện có thể, đương nhiên, nếu muốn có một lần giải hòa chân chính thì phải có rất nhiều khoản cần chứng thực, như khi Bắc Tùy tấn công Hà Bắc, thì U Châu phải tính sao? La Nghệ đã đầu hàng triều Đường và được phong làm Bắc Bình Vương, tất nhiên bắc Tùy sẽ tấn công U Châu, như vậy chuyện giải hòa sẽ phải làm sao đây?

Mấy vấn đề này nhất định phải giải quyết thông qua đàm phán, Đường triều nhất định phải nhượng bộ, nên Dương Nguyên Khánh mới để Đỗ Như Hối làm quan đàm phán, toàn quyền phụ trách buổi đàm phán với Lý Thần Thông, tốt nhất là cố gắng kéo dài thời gian đàm phán đến cuối năm.

- Thưa tổng quản, lần này Lý Thần Thông đi sứ mà không hề thông qua ý kiến của triều đình bên kia, đây chỉ là ý riêng của Lý Uyên, bảo Lý Thần Thông đi thăm dò tính khả thi của việc giải hòa, cùng với việc phải trả giá cao.

- Có phải ngươi và ông ta nói đến chuyện U Châu?

Dương Nguyên Khánh hỏi.

- Đúng vậy, như yêu cầu của tổng quản, tôi đã thẳng thắn đề cập đến chuyện này, hy vọng triều Đường từ bỏ U Châu.

- Vậy Lý Thần Thông nói thế nào?

- Ông ta nói cần phải về bẩm báo Thánh thượng đã, ông ta không thể tự quyết định được.

-Còn phía bọn họ đề xuất yêu cầu gì?

Dương Nguyên Khánh lại hỏi.

Đỗ Như Hối khom người nói:

- Triều Đườnghy vọng chúng ta từ bỏ việc ủng hộ Tây Tần.

Nếu triều Đườngđồng ý từ bỏ chuyện ủng hộ La Nghệ, đổi lại hắn sẽ từ bỏ sự ủng hộ đối với nước Tây Tần. Chuyện này cũng không phải không được, chỉ có điều hắn cần một hội đàm chính thức, không phải cái được gọi là mật sứ.

Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi vài bước, rồi nói với Đỗ Như Hối:

- Ngươi hãy nói với Lý Thần Thông, ta hy vọng sẽ có một hội đàm chính thức giữa hai triều đình, chứ không phải là ý riêng của Lý Uyên nữa, như vậy mọi chuyện mới có tính ràng buộc, tuy nhiên ngươi phải hiểu nguyên nhân thực sự khi ta để ngươi kéo dài thời gian.

Đỗ Như Hối không trả lời, đợi Dương Nguyên Khánh giải thích, hắn đi đến bên cửa sổ phía bắc, tầm nhìn ngưng lại ở hướng tây bắc, lát sau thản nhiên nói:

- Tô Định Phương và Thẩm Xuân đã xuất quân đi Tây Bắc, ta hy vọng trước khi ký kết hiệp nghị hòa giải thì đã cầm chắc quận Đôn Hoàng và Y Ngô.

Nếu nói hành lang Hà Tây như một sợi dây gắn kết Trung Nguyên và Tây Vực, thì quận Đôn Hoàng chính là chỗ thiết cài, hay có thể nói là yết hầu từ Tây Vực thông đến Trung Nguyên, toàn khu Tây Vực có vị trí chiến lược hết sức quan trọng.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 633 : Gió động Đôn Hoàng

Quận Đôn Hoàng đồng thời cũng là một vị trí đặc biệt, trong khi các quận khác ở Tây Vực đều bị Tiên Ti, Nhu Nhiên, Đột Quyết và những gót sắt thảo nguyên khác càn quét mà dần bị Hồ hóa, quận Đôn Hoàng vẫn giữ vững nền văn hóa Hán hùng mạnh, thấp thoáng như một ốc đảo trong sa mạc mờ mịt cát bụt.

Lúc này, Đôn Hoàng vẫn đang bị thế lực tàn dư của nước Đại Lương khống chế, tộc đệ Lý Triệu Cẩm của Lý Quỹ vẫn được bổ nhiệm làm đô đốc Sa Châu của nước Đại Lương. Sau khi Đại Lương diệt vong, Lý Triệu Cẩm quyết định đầu hàng triều Đường, nhưng khi nghe tin Lý Quỹ ở Trường An bị giết, Lý Triệu Cẩm liền thay đổi chủ ý, tự xưng là Đôn Hoàng Vương, rồi đưa ra điều kiện đầu hàng với triều Đường, y nguyện thần phụcvới triều Đường với một điều kiện, nhà Đường đồng ý giữ nguyên quân đội và địa bàn của y.

Dĩ nhiên triều Đường không thể chấp nhận chuyện này, vì thế việc thương lượng buộc tạm ngừng, lúc này triều Đường đang tận lực tiêu diệt Tây Tần, khiến quận Đôn Hoàng tạm thời trở nên yên ắng.

Tháng 11, ở Đôn Hoàng gió giữ dội, làm bụi cát bay hỗn độn, cái lạnh thấu xương dường như đang đóng băng mọi thứ, đến đá dường như cũng sắp nứt ra. Đôn Hoàng đang trong những ngày đông giá rét, khiến việc buôn bán bận rộn trên con đường tơ lụa cũng trở nên yên tĩnh, không hề nhìn thấy một bóng người, các thương nhân giờ đang ở nhà nghỉ ngơi, chờ mùa xuân đến.

Trong gió lạnh thấu xương, dường như nghe thấy tiếng lục lạc leng keng phát ra từ đâu đó, quả nhiên là có một đội lạc đà vượt qua gió cát đang từ từ tiến về Đôn Hoàng, giữa một vùng hoang sơ, sự xuất hiện của những người này lại dậy lên sức sống hừng hực. 

- Lý tướng quân, đến Đôn Hoàng còn bao xa nữa, tôi sắp hết kiên trì rồi!

Một gã đồng hành trẻ tuổi cưỡi trên lạc đà hét lớn.

Lý Giáo Úy là thủ lĩnh, là một người đàn ông chừng ba mười tuổi. Ông ta sở hữu một gương mặt có đường nét rõ ràng, hai hàng lông mi thô dày như bàn chải, ẩn sau là một đôi mắt tinh tường, sắc sảo, tỏ rõ là một người nghị lực vững chí.

Ông ta tên là Lý Sa Đà, con thứ của Lý Đoan – huynh trưởng của Lý Tĩnh, luôn theo sát thúc phụ Lý Tĩnh nhiều năm liền, từ một tên lính tốt từng bước lập công được thăng làm thám báo Ưng Kích Lang Tướng. Lần này, ông ta đi theo Tô Định xuất chinh đến Đôn Hoàng với nhiệm vụ liên hệ với phái thân Tùy, họ là những thế lực mà năm xưa Dương Nguyên Khánh lưu lại ở đó.

Ông ta dẫn theo hai mươi thủ hạ cải trang thành thương đội xuất phát từ Trường An, mua hơn mười con lạc đà ở huyện Ngọc Môni, trên người cũng có công văn triều Đường. Tuy là lần đầu tiên đến Đôn Hoàng nhưng vì trước đây đã từng ở Phong Châu nhiều năm, nên thời tiết khắc nhiệt kiểu này không ảnh hưởng tới ông ta là mấy. Ông ta ngửa đầu lên trời, sắc trời mờ tối, nhìn không rõ lúc nào, hẳn là gần chập tối. Ông ta lớn tiếng hỏi người đàn ông đang dẫn đường bên cạnh:

- Mã Quả đại thúc, Đôn Hoàng còn xa lắm không?

Người dẫn đường tên là Mã Quả, tuổi đã hơn sáu mươi, trong người mang một nửa huyết thống người Hán. Ông từng là thương nhân, hàng năm đều đến hành lang Hà Tây, nên nắm rõ địa bàn khí hậu nơi đây như lòng bàn tay, Tô Định Phương tìm đến ông ta xin chỉ đường giúp.

Mã Quả cười nói:

- Nhanh thôi, đi vài dặm nữa là có thể thấy thành rồi.

Mọi người đi thêm vài dặm, quả nhiên thoáng thấy hình dáng của thành, hai mươi thủ hạ mừng rỡ tung hô, bôn ba trong bão cát gần nửa tháng, cuối cùng họ cũng đến nơi.

……

Việc kiểm tra ở Đôn Hoang lỏng lẻo hơn nhiều so với suy nghĩ của quân Tùy, binh lính chỉ nhìn qua công văn rồi cho đi tiếp.

Ngoài thành gió lạnh thấu xương, khói bụi mù mịt, không hề có một bóng người. Nhưng ngược lại, bên trong thành là không khí tấp nập, người người đi lại náo nhiệt, có tiếng tiểu nhị thét lớn, trên đường có không ít người bán hàng rong, cây cảnh, đồ thủ công mĩ nghệ, che kín hai bên đường, còn trên đường thì tấp nập xe ngựa, có thể nghe cả tiếng một phu xe nào đó chửi bậy.

Đoàn người cưỡi lạc đà chậm rãi đi trên đường, trong lòng mỗi người đều như có cảm giác được sống lại với không khí náo nhiệt, bởi ở đây so với Trung Nguyên không khác là mấy Bất kể là kiến trúc hay diện mạo con người, là một tòa thành lớn của Trung Nguyên lại xuất hiện người đến từ nước khác, khiến cho họ chợt nhận ra, nơi này thực ra là Tây Vực cách Trung Nguyên cả chục ngàn dặm.

Lý Sa Đà tìm nhà trọ bố trí chỗ ở cho thủ hạ, sau đó ông ta liền tới nam thành một mình, hỏi thăm vài người, rồi tìm đến Thẩm phủ. Đó là một phủ lớn màu đen, nếu như ở Trung Nguyên, Thẩm gia vì là phú hộ không có tước vị nên không được phép có môn lầu (kiến trúc tượng trưng cho nhà giàu – BTV), nhưng ở Đôn Hoàng thì khác. Lý Sa Đà còn nhìn thấy hai tượng sư tử bằng đá trước cửa, đây là dấu hiệu đặc trưng cho quan lại và các nhà quyền quý, vậy mà Thẩm gia cũng có.

Lý Sa Đà đi lên bậc thang, gặp một lão gia nhân đang quét rác, liền chắp tay nói:

- Hãy nói với chủ nhân của ông là có khách từ Trung Nguyên đến tìm.

Lão gia nhânnhìn Lý Sa Đà một cái, rồi xoay người đi vào trong phủ. Một lát sau, một gã khác như là quản gia, lanh lợi khôn khéo, chắp tay cười nói:

- Xin hỏi vị tiên sinh đây là đến tìm Thẩm gia phải không?

- Ta là do Tam công tử phái tới đây, đặc biệt dặn phải chuyển bức thư này.

- Tam công tử?

Quản gia ngạc nhiên nhắc lại, chợt bừng tỉnh rồi vội vàng nói:

- Vậy xin mời ngài vào bên trong phủ chờ một lát.

Quản gia mời Lý Sa Đà đi vào cửa, rồi nhanh chóng chạy vào nhà. Một lát sau, một người đàn ông trung niên, đội mũ ô sa, mặc áo bào, cùng với vài gia nhân chạy ra, kích động hỏi:

- Người đưa thư đang ở đâu?

Ông ta chính là phụ thân của Thẩm Xuân, Thẩm Đồng Nhân, sau khi huynh cả là Thẩm Vãn Xuân qua đời năm ngoái, huynh trưởng lại không có con, ông ta được làm gia chủ một chi củaThẩm thị. Thẩm Xuân là người con thứ ba của ông ta, đã rời nhà ra đi nhiều năm, cách đây ba năm có gửi thư về bảo mình đã nhậm chức tại Phong Châu, giờ cuối cùng đã có tin tức.

Thẩm Đồng Nhân cũng nghe chuyện ở Trung Nguyên đang xảy ra biến cố lớn, quân Phong Châu đã chiếm Hà Đông, thành lập triều Tùy mới, khiến cho ông ta càng thêm mong mỏi chờ tin con trai mình.

Lý Sa Đà thi lễ:

- Tiên sinh phải chăng là phụ thân của Thẩm Tham quân, tức là Thẩm Xuân Thẩm Tham quân.

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Thẩm Đồng nghe tin con mình lãnh chức Tham quân, vui vẻ cười lớn, Lý Sa Đà liền lấy một phong thư đưa cho Thẩm Đồng Nhân, cười nói:

- Tại hạ là Lý Sa Đà, là đồng sự với con trai ngài.

- Ồ! Hóa ra là Lý sứ quân.

Thẩm Đồng nghe ra người này không phải là người đưa tin bình thường, liền khách khí nói:

- Lý sứ quân, mời ngài đến nội đường nói chuyện.

Thẩm Đồng Nhân cùng Lý Sa Đà vào nội đường, liền sai người dâng trà. Tuy bọn họ đang Tây Vực, nhưng vẫn không bỏ thói quen cũ của triều nam, ngay cả lá trà cũng được vận chuyển từ phía nam xa xôi.

Thẩm Đông xem xong thư của con trai, sắc mặt có chút đanh lại, trong ánh mắt lại toát lên một chút vui sướng, ngạc nhiên. Phụ thân ông ta, Thẩm Huyền Cối, có tất cả bốn người con, trong đó muội muội nhỏ nhất của ông ta là Thu Nương gả cho một đại tướng nhà Trần là Trương Trung Túc. Không lâu sau khi triều Trần diệt vong, phụ thân ông ta khởi binh chống Tùy, kết quả bị trấn áp, phụ thân ông ta cùng vị huynh trưởng chết thảm, ba huynh đệ bọn họ bị đẩy đến Đôn Hoàng, nhoáng cái đã hai mươi mấy năm rồi.

Ông ta chưa từng nghĩ tới chuyện Thẩm gia lại có ngày khởi sắc, muội muội ông ta, Thu Nương đã trở thành nhũ mẫu của Dương Nguyên Khánh, còn con gái Xuất Trần cũng được gả cho hắn, hiện là Sở Vương Trắc Phi, làm cho Thẩm thị có cơ hội được chấn hưng, khiến ông ta kích động, khó giữ được bình tĩnh trong thời gian dài.

Thẩm Đồng Nhân đọc những dòng cuối thư, biết được thân phận củaLý Sa Đà, liền chắp tay áy náy nói:

- Hóa ra là Lý tướng quân, thất kính.

Lý Sa Đà khẽ mỉm cười:

- Thẩm đại nhân cho rằng quân Tùy có bao nhiêu khả năng cướp lấy Đôn Hoàng?

- Chuyện này khó nói lắm!

Thẩm Đồng Nhân khẽ thở dài:

- Từ lúc Lý thị ở Lũng Tây thành lập nước Lương, chúng tôi từ phía nam đến đây ngày càng suy thoái, mà các thế tộc lớn ở Đôn Hoàng như Tác thị, Tào thị, Trương thị hay Lý thị lấy lại thế lực,, nhiều lần làm khó chúng tôi. Năm trước Tiêu Nhân Nhân đưa gia tộc Tiêu thị trở về Kinh Châu, Trần gia cũng trở về Đan Dương, chỉ còn lại Tạ, Lục, Thẩm, thế lực ba họ chúng tôi càng lúc càng mỏng manh, may nhờ Tư Mã Lục Thuần Hưng của quận Đôn Hoàng che chở, bằng không chúng tôi cũng buộc phải rời đi.

Lý Sa Đà hiểu được nỗi khó xử của bọn họ, giờ Trung Nguyên đang xảy ra chiến loạn, nếu không ép buộc, chẳng ai muốn dời đến nơi chiến loạn, có thể là thấy được các sĩ tộc Giang Nam bị chèn ép, nhưng Thẩm Đồng Nhân đã không muốn nhắc đến nhiều, Lý Sa Đà cũng không nên hỏi làm gì.

Lý Sa Đà rất quan tâm đến tình hình của một người khác, vội hỏi:

- Vậy tướng quân Lý Châu giờ đang ở đâu?

Lý Châu hay Dương Đại Lang, năm đó được Dương Nguyên Khánh lưu lại Đôn Hoàng làm Đô úy, chưởng quản quân của quận Đôn Hoàng, Thẩm Đồng cười lạnh, trả lời:

- Tên ấy sao? Nếu không phải do y thì Đôn Hoàng đâu dễ bị cướp lấy như vậy. Y nhận Lý Quỹ làm nghĩa phụ, được phong làm Hữu võ Vệ đại tướng, rồi nhanh chóng trở thành cháu trai của Lý Triệu Cẩm, làm người tiên phong giúp ông ta cướp lương thực, đất đai của chúng tôi. Trần Thủ và hai con trai bị y giết chết, Trần gia bị buộc trở về quận Đan Dương, đoàn buôn của Tiêu gia cũng bị nó cướp, ngựa và lạc đà đều trở thành vật của quân đội, mọi của cải cướp được đều hiến tặng cho Lý Triệu Cẩm. Y còn cưới con gái của Tác gia làm vợ, bây giờ thì y nở mày nở mặt, nhưng sau lưng thì ta luôn gọi y là Lý trư.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 634 : Sóng quỷ vân quyệt

Lý Sa Đà kinh ngạc, Tô tướng quân từng nói, Lý Châu là người rất đáng tin, sao lại thành ra thế này?

Suy nghĩ một lúc ông ta lại hỏi:

- Vậy bây giờ Lý Châu đang đảm nhiệm chức vụ gì ở Đôn Hoàng?

- Y là một trong hai phó tướng của Lý Triệu Cẩm, nổi tiếng lãnh khốc vô tình, tướng quân tốt nhất đừng tìm đến y.

Thẩm Đồng Nhân thở dài, tuy triều Tùy muốn đoạt được Đôn Hoàng, hơn nữa còn phong con trai Thẩm Xuân làm Thái thú Đôn Hoàng, làm ông ta vô cùng mừng rỡ, nhưng quả thật ông ta không giúp gì được cho quân Tùy. Đất đai toàn bộ bị cướp mất, gia sản thì bị thu một nửa làm quân phí, nguồn thu nhập hiện tại của Thẩm gia bị cắt đứt, chỉ có thể dựa vào chút tích góp từ quá khứ miễn cưỡng duy trì đời sống của gia tộc, thời kì thịnh vượng của các đại gia tộc Giang Nam đã qua đi từ lâu.

Lúc này, Thẩm Đồng Nhân chợt nhớ ra một chuyện vội vàng nói:

- Ta có thể liên hệ với Lục gia, Tư Mã Lục Thuần Hưng chính là gia chủ của Lục thị, chúng tôi đã qua lại hơn hai mươi năm, đôi bên rất thân thiết. Gã này thì cực kì căm thù Lý Triệu Cẩm, quan trọng hơn trong tay gã thì có quyền lực nhất định, quen biết rộng với giới quan trường ở Đôn Hoàng, hẳn là có thể giúp đỡ Lý tướng quân.

Lý Sa Đà ngẫm nghĩ một chút, như vậy cũng tốt, có thể thông qua Lục Tư Mã để hiểu quận Đôn Hoàng phân bố binh lực như thế nào, trang bị vũ khí hay tình báo quan trọng ra sao, việc này trợ giúp rất nhiều khi chiếm đoạt và ổn định được thế cục ở Đôn Hoàng.

- Vậy thì làm phiền Thẩm gia chủ rồi!

- Không cần khách khí, ta sẽ toàn lực dốc sức giúp đỡ các vị.

Thẩm Đồng Nhân suy nghĩ một chút, rồi lại nói:

- Lý tướng quân nghỉ ngơi ở đâu? Tối nay ta sẽ liên hệ với y, có lẽ ta sẽ đến tìm các vị.

- Chúng tôi đang ở nhà trọ Bình An cạnh bắc thành.

Lý Sa Đà rời khỏi Thẩm gia, cưỡi ngựa trở về nhà trọ. Đối với sự thay đổi của Lý Châu, trong lòng ý vô cùng ngạc nhiên và nghi ngờ. Lý Sa Đà cũng không biết thân phận thật sự của Lý Châu. Tô Định Phương chỉ nói cho y biết, Lý Châu này có thể tin tưởng, nhưng những gì Lý Châu làm khiến y có chút nghi ngờ. Lời nói của Thẩm Đồng Nhân chính là vẽ đường cho hươu chạy, vì bọn họ cướp lấy quận Đôn Hoàng mà trở thành đại địch.

Có lẽ đây chỉ là biểu hiện giả của Lý Châu, có lẽ lòng y đã thay đổi. Trong lòng Lý Sa Đà có suy nghĩ đó, y không dám mạo muội đi tìm Lý Châu.

Trở lại nhà trọ, Lý Sa Đà lập tức viết một bức thư, gọi một gã thuộc hạ, đưa bức thư cho y rồi nói:

- Tìm người dẫn đường trở lại Ngọc Môn Quan, đem phong thư này giao cho Tô Tquân. Tình huống có biến, phải nhanh chóng đưa đến tay y.

Tên thuộc hạ nhận lệnh, lập tức đi tìm người dẫn đường, hai người vội vàng rời đi. Lúc này trời đã dần tối, đám thương nhân đã thu dọn về nhà, bên trong thành Đôn Hoàng lại trở nên yên tĩnh.

Thẩm Đồng Nhân vẫn đợi cho bầu trời tối đen, y cấp bách không nhịn nổi, đi ra cửa, ngồi xe ngựa đi tới Lục phủ. Lục phủ là hậu duệ của danh môn Giang Nam Lục thị. Sau khi triều Trần bị diệt, một bộ phận thành viên của gia tộc Lục thị tham gia khởi nghĩa chống lại triều Tùy lưu vong đến Đôn Hoàng, trở thành một thế gia vọng tộc ở Đôn Hoàng. Hiện tại ở trong thành Đôn Hoàng, sĩ tộc ở phía nam thành chỉ còn lại ba nhà: Lục thị Dư Hàng, Thẩm thị Ngô Hưng và Tạ thị Đan Dương.

Vốn là quận Nam Tiêu thị đứng đầu sĩ tộc Giang Nam, nhưng từ khi Tiêu Nhân Nhân đưa toàn bộ gia tộc trở về quận Nam, Lục gia dần trở thành lãnh tụ của sĩ tộc Giang Nam ở thành Đôn Hoàng. Mặt khác, con em Lục gia rất đông, quan trọng nhất là Tư mã Lục Thuần Hưng của quận Đôn Hoàng là đại biểu duy nhất của sĩ tộc Giang Nam trong chốn quan trường, bảo vệ lợi ích của ba nhà.

Thẩm Đồng Nhân được huynh đệ Lục thị mời vào thư phòng. Bọn họ có quan hệ vô cùng tốt, hơn nữa còn là thông gia, đứa con trưởng của Thẩm Đồng Nhân là Thẩm Hiền lấy con gái của gia chủ Lục thị Lục Thuần Hòa làm vợ. Giữa thông gia, có chuyện gì cũng có thể thẳng thắn thành khẩn nói ra.

Thẩm Đồng Nhân bèn đem sự việc Lý Sa Đà tìm đến lúc chiều và việc quân Tùy chuẩn bị cướp lấy quận Đôn Hoàng nói cho huynh đệ Lục thị, y hưng phấn nói:

- Nếu quân Tùy có thể tiêu diệt Lý Triệu Cẩm, đó chính là thời cơ để sĩ tộc Giang Nam chúng ta trở mình. Hai năm qua, chúng ta đã chịu đủ uất ức rồi.

Huynh đệ Lục thị cũng rất oán hận Lý Triệu Cẩm. Lục Thuần Hòa thở dài nói;

- Hai năm qua ta cũng chịu đựng đủ rồi. Nếu quân Tùy không đến, chúng ta cũng rời đi, quay về quận Dư Hàng rồi.

Dừng lại một chút, Lục Thuần Hòa lại nói:

- Chúng ta trợ giúp quân Tùy như thế nào?

Thẩm Đồng Nhân liếc qua Lục Thuần Hưng vốn trầm mặc không nói gì, ý muốn nói, vị Tư mã quận ngồi ở chỗ này, còn phải hỏi sao?

Lục Thuần Hưng cười khổ nói:

- Sự việc không dễ như vậy. Triều Đường đã sớm đem Đôn Hoàng nhập vào bản đồ. Hiện tại, quân Tùy cường đoạt quận Đôn Hoàng, triều Đường có bằng lòng không? Sớm hay muộn thì hai quân cũng sẽ có một hồi ác chiến, mà nhất định là chúng ta sẽ bị liên lụy. Ta lo là ba nhà chúng ta đều sẽ bị hủy trong trận ác chiến này.

Thẩm Đồng Nhân trầm mặc. Quả thật điều Lục Thuần Hưng nói không sai. Đôn Hoàng có vị trí chiến lược trọng yếu như vậy, triều Đường nhất định là không dễ dàng bỏ qua. Nếu thực sự bùng nổ chiến tranh, ba nhà bọn họ còn giữ được hay không? Cho dù là thoát khỏi chiến tranh, nếu cuối cùng triều Đường cướp lại quận Đôn Hoàng, bọn họ có thể bị xử lý hay không? Điều này cũng là một vấn đề lớn.

- Nhưng…

Thẩm Đồng Nhân lại nghĩ tới con y là Thẩm Xuân, không kìm được, thở dài nói:

- Ta cảm thấy chúng ta phải dùng hết sức hỗ trợ quân Tùy, các người thấy thế nào?

Lục Thuần Hòa hiểu được tâm tư của Thẩm Đồng Nhân. Tuy rằng bản thân y không sẵn lòng tham dự vào cuộc chiến tranh đoạt Đôn Hoàng của hai triều Tùy Đường, nhưng Thẩm Đồng Nhân là thông gia với y, y phải nể mặt. Lục Thuần Hòa cười nói:

- Thông gia, ông cứ yên tâm! Lục gia chúng ta nhất định sẽ hết lòng hỗ trợ.

Sau khi Thẩm Đồng Nhân từ biệt rời đi, huynh đệ Lục thị lại tiếp tục thương lượng đại sự này. Sắc mặt Lục Thuần Hưng âm trầm, có chút bất mãn với huynh trưởng:

- Vì sao chúng ta phải đáp ứng y?

- Dù sao cũng là thông gia, y đích thân tới tận cửa nhờ vả, ta có thể không cho y chút mặt mi sao? Quân Tùy lại muốn tấn công Đôn Hoàng. Cái này thật phiền toái.

Lục Thuần Hưng cười lạnh nói:

- Có phiền toái gì đây? Phải lập tức phái người đi Trường An báo lên triều đình. Nếu không quân Tùy tới quận Đôn Hoàng, Thái thú sẽ mang họ Thẩm, Lục gia chúng ta lập tức xong đời.

Lục Thuần Hòa có chút do dự, trên mặt lộ ra chút lúng túng;

- Nhưng… Điều này không tốt lắm đâu! Dù sao Thẩm Đồng Nhân cũng là thông gia của chúng ta. Giao tình đã hai mươi mấy năm, làm như vậy… chúng ta có chút không nhân nghĩa

- Đại ca! Bây giờ là lúc nào rồi còn nói đến nhân nghĩa?

Lục Thuần Hưng vội la lên:

- Thẩm Đồng Nhân hắn có nghĩ đến lợi ích của chúng ta không? Thẩm Xuân muốn làm Thái thú Đôn Hoàng, Dương Nguyên Khánh lại là con rể Thẩm gia, vậy chúng ta được cái gì? Chúng ta có cái gì? Lúc trước Hoài An Vương phái người tìm đại ca, đại ca nhận lời, đệ liền bí mật đầu hàng triều Đường. Hiện giờ, Thẩm Đồng Nhân lại đến tiến cử quân Tùy, chúng ta làm thế nào có thể nói rõ với triều Đường? Đại ca đừng quên Chu nhi vẫn đang ở Trường An làm con tin đấy!

Một câu nhắc nhở Lục Thuần Hòa, con của y là Lục Thừa Chu vào Trường An buôn bán, trở thành người trung gian giữa triều Đường và Đôn Hoàng Lục thị. Nếu mình phản bội triều Đường, hướng về triều Tùy, triều Đường sẽ không bỏ qua cho con mình.

Y thở dài nói:

- Vậy được rồi! Chuyện này chúng ta duy trì im lặng, xem như Thẩm Đồng Nhân chưa tới tìm chúng ta.

- Việc này đệ không có ý kiến. Nhưng chúng ta phải lập tức phải người tới Trường An báo tin này. Bây giờ đệ đi ngay, sẽ đi suốt đêm!

Ánh mắt Lục Thuần Hưng rất u ám và lạnh lẽo, triều Đường đã đáp ứng sẽ để y làm Thái thú Đôn Hoàng, sao y có thể để cho Thẩm gia thực hiện được ý đồ.

Vương phủ Đôn Hoàng Vương Lý Triệu Cẩm là một tòa nhà lớn chiếm diện tích khoảng ba mươi mẫu, lúc đầu chính là Tiêu phủ, có vị trí trọng yếu giữa trung tâm thành Đôn Hoàng. Theo màn đêm buông xuống, Vương phủ cũng trở nên yên tĩnh. Bốn phía xung quanh Vương phủ dày đặc thị vệ. Lúc này, một chiếc xe ngựa dừng lại trước cổng lớn của Vương phủ, Lục Thuần Hưng từ trong xe đi ra, bước nhanh đến bậc thang, vài tên thị vệ ngăn y lại.

- Vương gia đã nghỉ ngơi. Mời Lục Tư mã trở về!

Lục Thuần Hưng có chút vội vã la lên:

- Ta có đại sự khẩn cấp cần bẩm báo với Vương gia, hãy thông báo hộ ta.

Lúc này, một gã quan quân từ trong Vương phủ đi ra, người này tên là Tác Thuyên, xuất thân từ gia tộc Tác thị, là một danh gia vọng tộc ở Đôn Hoàng. Hiện nay y là một trong bốn Tiền đô úy của Lý Triệu Cẩm. Hôm nay vừa đúng là phiên trực của y.

Trong khoảng trăm năm nay, gia tộc Tác thị vẫn là danh gia vọng tộc ở Đôn Hoàng. Hai mươi mấy năm trước, Tùy Văn Đế Dương Kiên đem một bộ phận sĩ tộc Giang Nam lưu đày đến Đôn Hoàng, cũng là có ý muốn dùng sĩ tộc Giang Nam làm phong phú thêm cho Đôn Hoàng, dùng để củng cố sự thống trị của triều Tùy ở Đôn Hoàng.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 635 : Trường An cảnh báo

Các gia tộc cũ của Đôn Hoàng, lấy gia tộc Tác thị cầm đầu không chống lại được tài lực hùng hậu của sĩ tộc Giang Nam, đành phải hành quân lặng lẽ, chờ thời cơ tái khởi Đông Sơn. Sau khi Lý Quý thành lập Lương quốc, bắt đầu dốc sức nâng đỡ Hà Tây Lý thị và có quan hệ cực tốt với hai nhà Tác, Tào. Các cựu tộc của Đôn Hoàng lần nữa nổi dậy, bắt đầu phản kích mạnh mẽ sĩ tộc Giang Nam, cướp đi đất đai, cắt đứt thương lộ, đập phá cửa hàng của bọn họ. Lần lượt bức cho Tiêu thị và Trần thị phải rời khỏi Đôn Hoàng. 

Tuy nhiên, cùng với việc Lương quốc bị triều Đường tiêu diệt, các cựu tộc ở Đôn Hoàng mất đi chỗ dựa vững chắc, bắt đầu hoảng. Bọn họ đều biết Lý Triệu Cẩm khó mà chống được triều Đường. Như vậy, triều Đường có thể dung nạp cựu tộc Đôn Hoàng bọn họ, những người đã từng toàn lực ủng hộ Lương quốc hay không?

Tác Thuyên ra khỏi cửa chính Vương phủ, chắp tay cười nói:

- Mời Lục Tư mã trở về! Vương gia uống say, ngài cũng biết, lúc này khó có thể đánh thức Vương gia.

Lý Triệu Cẩm lấy việc mê rượu mà nổi danh. Người trong thành Đôn Hoàng đều biết, y thường xuyên uống đến say mèm. Lục Thuần Hưng nóng nảy:

- Quả thật là ta có chuyện trọng yếu. Nếu đợi đến sáng mai, chỉ sợ không kịp nữa rồi.

Tác Thuyên có chút tò mò, tiến lên cười hỏi:

- Sự tình gì? Nếu không ngại có thể nói cho ta biết. Không chừng ta có thể giúp đỡ một chút.

Lục Thuần Hưng thấp giọng nói:

- Tình báo khẩn cấp. thám tử quân Tùy vào thành.

Nhà trọ Bình An. Nhóm thủ hạ của Lý Sa Đà đã ngủ từ sớm. Bọn họ bôn ba mấy ngày trong bão cát, đã sớm mệt không chịu nổi. Lý Sa Đà cũng dùng nước nóng ngâm chân, chuẩn bị lên giường đi ngủ. Đúng lúc này, có người đập cửa phòng y, sau đó có tiếng trưởng quầy vang lên:

- Lý tiên sinh, có người tìm ngài có việc gấp.

Lý Sa Đà ngẩn ra. Ngay lập tức y nghĩ đây hẳn là Thẩm Đồng Nhân tìm y rồi. Y liền mang giày rồi mở cửa. Một cơn gió lạnh thấu xương thổi tới, làm cho y không khỏi rùng mình. Một ngươi áo đen che kín mặt đứng trước cửa, trưởng quầy đã tránh ra xa. Lý Sa Đà lùi lại phía sau một bước, theo bản năng rút dao găm ra, quát lên:

- Ngươi là người phương nào?

Người áo đen cười lạnh một tiếng, giọng nói có chút buồn bực và hờn dỗi:

- Có người đã tố cáo nhóm người các ngươi. Đi nhanh đi! Nếu ngươi không đi, quân đội sẽ nhanh chóng đến bắt giữ các ngươi.

Lý Sa Đà giật mình kinh hãi, y còn muốn hỏi lại, người áo đen đã xoay người chạy ra xa. Trong lòng Lý Sa Đà kinh nghi, chẳng lẽ là Thẩm gia bán đứng bọn họ sao?

Chưởng quầy bước lên phía trước nói:

- Các người nhanh đi đi! Hiện giờ cửa thành đã đóng, nhưng có thể dùng mấy lượng vàng hối lộ để ra khỏi thành, các thương nhân đều làm như thế. Đi nhanh đi!

Lý Sa Đà không kịp suy nghĩ nữa, y xoay người chạy đến đập cửa phòng của thủ hạ, gấp gáp hô lên:

- Tất cả dậy mau!

Một phút sau, Lý Sa Đà và thủ hạ của hắn cưỡi lạc đà chạy khỏi nhà trọ Bình An, chạy về hướng cửa thành đang bị màn đêm bao phủ.

Nửa canh giờ sau, đại đội binh lính chạy trên đường phố, nhanh chóng bao vây nhà trọ Bình An, một quan quân hô lên:

- Các huynh đệ, giương to mắt lên, không được để cho thám tử quân Đường chạy mất.

Cùng lúc đó, một chi quân đội mấy trăm người khác bao vây Lục phủ, bọn lính cầm đuốc trên tay, làm cho cửa lớn của Lục phủ sáng như ban ngày. Huynh đệ Lục thị vô cùng kinh nghi bước ra, Lục Thuần Hưng phẫn nộ quát lên:

- Các ngươi làm gì vậy?

Tên quan quân cầm đầu lạnh lùng nói:

- Lục Tư mã, có người tố cáo các ngươi cấu kết với triều Đường, mưu đồ gây rối, muốn bán đứng Vương gia!

Y vung tay lên:

- Bắt lại cho ta!

Mười mấy tên binh lính đồng loạt xông lên, đem huynh đệ Lục thị đè xuống dưới đất, không thèm nhìn đến Lục Thuần Hưng đang la to, dùng dây thừng trói bọn họ lại, sau đó bịt miệng miệng, ném hai người vào một chiếc xe ngựa. Mấy trăm binh lính nhanh chóng rời khỏi Lục phủ.

Lý Sa Đà dẫn mấy thủ hạ ra khỏi cửa thành, nhằm thẳng hướng bắc mà chạy trốn. Người dẫn đường đã đi trước một bước, trong đêm đen, gió lạnh thấu xương, bão cát che khuất bầu trời, căn bản là không thể phân biệt được đường đi, chỉ có thể nhân lúc bão cát nhỏ đi, dựa vào một ít ánh sáng của sao trời chỉ dẫn, nhằm hướng bắc mà chạy. Mọi người vừa lạnh vừa mệt, chạy được khoảng ba bốn dặm thì phát hiện ở phía trước có một rừng cây Dương. Lý Sa Đà mừng rỡ, vội vàng ra lệnh:

- Tiến đến rừng cây nghỉ ngơi.

Hơn hai mươi người nắm chặt dây cương lạc đà, chống chọi với bão cát, khó nhọc bước về phía rừng cây. Đúng lúc này, có tiếng vó ngựa truyền đến. Một đội kỵ binh từ bên trong rừng dương lao ra, ước chừng có mấy trăm người, tiến đến bao vây đám người Lý Sa Đà. Mấy trăm người đồng loạt giơ nỏ lên, nhắm thẳng vào bọn họ. Một gã Đại tướng từ trong rừng giục ngựa đi ra, nhìn bọn họ cười lạnh:

- Không cần phản kháng, phản kháng thì đám các ngươi chết là cái chắc!

Lý Sa Đà chú ý đến vị đại tướng này rất lâu, đột nhiên ông hỏi:

- Ngươi chính là Lý Châu?

Đại tướng gật đầu nói,

- Đúng vậy!

Lý Sa Đà quay đầu lại nhìn thuộc hạ, thuộc hạ của ông đều đã rút đao ra, lưng dựa vào lưng, sẵn sàng quyết chiến với quân địch, trong lòng ông than thầm, đành theo ý trời vậy! Bèn hạ lệnh:

- Hạ đao xuống, đi theo họ!

Đám quân trinh thám nhà Tùy ngơ ngác nhìn nhau, mặc dù mệnh lệnh này khiến người ta khó có thể chấp nhận nhưng quân Tùy quân lệnh như sơn, binh sĩ từ từ hạ đao xuống, đại tướng nhìn kỹ họ một cái, khoát tay,

- Đưa bọn họ về doanh trại!

Đám trinh thám theo đại đội kỵ binh về doanh trại ở phía đông thành, tứ phía của doanh trại được bao bọc hàng rào rất lớn để chắn cát bụi mà những trận cuồng phong thổi tới, từng chiếc lều được dựng ngay ngắn, có khoảng hơn một nghìn chiếc lều lớn.

Trong một chiếc lều lớn đèn sáng trưng, đại tướng Lý Châu đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại, Lý Châu cũng chính là Dương Đại Lang ngày trước, nhiều năm trước khi Dương Nguyên Khánh tấn công quận Y Ngô, để ông lại thành Đôn Hoàng, nháy mắt đã tám, chín năm trôi qua, Lý Châu đã trở thành một đại tướng quân gần bốn mươi tuổi, cắm rễ ở Đôn Hoàng, Dương Nguyên Khánh cũng không hề tới thăm hỏi ông, cũng không hề can thiệp tới sự phát triển của ông.

Lý Châu sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, không chọn sĩ tộc Giang Nam ở Đôn Hoàng, mà chọn cựu tộc Đôn Hoàng làm nơi phát triển. Bảy năm trước ông cưới con gái cả nhà họ Tác làm vợ, cũng đã có con, qua bảy năm cắm rễ ở Đôn Hoàng, ông đã trở thành người đại diện quyền lợi cho cựu tộc Đôn Hoàng.

Ông giúp cựu tộc Đôn Hoàng giành lại đất đai đã bán cho sĩ tộc Giang Nam, đòi lại thương lộ đã bị sĩ tộc Giang Nam cướp mất, trong cựu tộc Đông Hoàng ông có danh tiếng rất lớn, thế nên sau khi Lý Quỹ thành lập nước Đại Lương, để bảo vệ sự thống trị của quận Đôn Hoàng. Lý Quỹ cũng không thể không thể hiện thiện ý với ông, phong ông làm Tả Vũ Vệ đại tướng, nhận ông làm thành viên gia tộc Lũng Tây Lý thị. Hiện tại, với thế lực hơn năm nghìn binh sĩ con cháu Đôn Hoàng, ông trở thành phó tướng của Lý Triệu Cẩm. 

Lý Sa Đà bị cận binh giải vào trong trướng. Lý Châu khoát tay, ra lệnh cho cận binh lui xuống, trong trướng chỉ còn lại hai người ông và Lý Sa Đà.

- Ngươi làm sao chứng minh ngươi là quân Tùy?

Lý Châu thản nhiên hỏi.

Lý Châu rất cẩn thận, trong khi thế lực của các bên đều nhằm vào quận Đôn Hoàng, ông cần phải làm rõ thân phận của Lý Sa Đà. Chứng minh gã không phải là quân Đường.

Lý Sa Đà lấy trong ngực ra một tấm quân bài, tiến lên phía trước đặt ở trên bàn, đây là chứng cứ duy nhất của y. Lý Châu cầm tấm quân bài lên quan sát, ông lại lấy ra một tấm quân bài từ trong chiếc hộp nhỏ trên bàn, lật đi lật lại, so sánh hai tấm quan bài với nhau. Điểm khác biệt là, tấm quân bài của ông có chữ nhị của Phong Châu, nhưng trên lệnh bài của Lý Sa Đà không có, mà là chữ nhị của đại Tùy.

Lý Châu mỉn cười hiểu ý, kỳ thực ông biết Lý Sa Đà không phải là quân Đường. Nếu không Lục Thuần Hưng sẽ không chạy đến báo cho bọn họ.

- Ngươi có biết các ngươi bị ai bán đứng không?

Lý Châu liếc mắt nhìn y hỏi.

- Ta nghĩ không phải Thẩm gia thì là Lục gia.

Lý Sa Đà đã phản ứng, cũng không chắc chắn là Thẩm Đồng Nhân bán đứng y, cũng có thể là Lục gia. Thẩm Đồng Nhân rất có thể đã đi tìm Lục Thuần Hưng Tư mã quận Đôn Hoàng.

Lý Châu nhìn y chằm chằm, giọng điệu trách móc nói:

- Là Lục Thuần Hưng đã bán đứng các ngươi, bởi vì y đã đầu hàng quân Đường, y muốn mượn tay Lý Triệu Cẩm tiêu diệt các ngươi, là do các ngươi quá vội vàng. Chưa biết nước Đôn Hoàng nông sâu thế nào đã tùy tiện ra tay, nếu như hôm nay không phải là Tác Thuyên đang trực thì các ngươi đều khó mà sống sót!

Có lẽ thấy mình nói có phần hơi nghiêm khắc, Lý Châu dịu giọng nói:

- Lẽ ra các ngươi nên tới tìm ta trước chứ không nên tới tìm Thẩm Đồng Nhân. Gã không phải là người trong cuộc.

Lý Sa Đà yên lặng gật đầu, y cũng thừa nhận mình có phần hơi nóng vội. Trước khi biết rõ về thân phận của Lục gia, không nên đồng ý với Thẩm Đồng Nhân đi tìm Lục gia, lẽ ra y không nên nói rõ thân phận của mình với Thẩm Đồng Nhân.

Nhưng hiện tại y đã biết Lý Châu là người có thể tin cậy, chỉ là còn một điều Lý Sa Đà vẫn còn chưa chắc chắn, lưỡng lự một lúc rồi hỏi:

- Ý của Lý tướng quân là Tác gia cũng là cánh tay của triều Tùy?

- Nói chính xác là theo nước Lương, hiện nước Lương đã bị diệt vong, họ cần tìm một chỗ dựa, đáng tiếc là triều Đường đã chọn Lục Thuần Hưng, Tác gia đành theo ta thôi.

Lý Châu cười, chuyển chủ đề hỏi y:

- Bây giờ ngươi nói thật với ta, hiện quân Tùy đã đi đến đâu rồi? Có bao nhiêu binh sỹ? Do ai chỉ huy?

- Quân Tùy đã đến Ngọc Môn quan, ở đó đợi tin tức của chúng ta, có ba nghìn kỵ binh, do Tô Định Phương tướng quân chỉ huy.

... ...

Trong điện Lưỡng Nghĩa cung Thái Cực, hoàng đế nhà Đường Lý Uyên đang cùng với các trọng thần bàn bạc phương án cụ thể để đối phó với Bắc Tùy. Khoảng mười ngày trước, Lý Thần Thông từ Thái Nguyên sẽ trở về, mang theo ý kiến của Dương Nguyên Khánh, trên nguyên tắc là ủng hộ hai bên hòa giải, nhưng tiền đề là do triều đình hai bên cùng nhau bàn bạc chứ không phải do một mình thái độ của Lý Uyên quyết định.

Đây là một thái độ rất chính thức, Lý Uyên chấp nhận phương án của Dương Nguyên Khánh, thực ra y phái Lý Thần Thông bí mật đi Thái Nguyên là để thăm dò khả năng hòa giải, mặc dù Dương Nguyên Khánh đã tỏ rõ thái độ đồng ý đàm phám, vậy y cũng chuẩn bị thông qua đường lối của triều đình đàm phán với Bắc Tùy, như vậy đối với hai bên đều có sức giàng buộc, họ có thể bình tĩnh trở lại, từ Vũ Quan ở phía nam phát triển lên Trung Nguyên, mà không phải lo lắng bị Dương Nguyên Khánh tấn công.

Hiện trở ngại lớn nhất giam chân bọn họ là La Nghệ của U Châu, Lý Uyên biết rõ, Bắc Tùy quyết không chịu nhượng bộ, cuối cùng hoặc là đàm phán thất bại, hoặc là triều Đường nhượng bộ.

- Các vị ái khanh, Dương Nguyên Khánh đã từ bỏ việc ủng hộ Tây Tần, để đổi lấy sự nhượng bộ của chúng ta ở U Châu, trẫm muốn nghe ý kiến của các vị ái khanh.

Lúc này Nội Sử Lệnh Tiêu Vũ tiến lên phía trước nói:

- Bệ hạ thần có thể nói đôi điều không.

Tiêu Vũ là Dân bộ Thượng thư triều Tùy, bị Dương Quảng giáng chức làm Thái thú quận Hà Trì, sau khi Tiết Cử khởi sự, bị ép làm tể tướng nước Tây Tần. Chính vào tháng trước, y và cha con Chử thị cùng nhau rời khỏi nước Tây Tần, tìm lối thoát mới, nhưng con đường mà bọn họ chọn không giống nhau, cha con Chử thị tới Thái Nguyên, Chử Lượng được bổ nhiệm làm Thái Thượng Tự khanh, con ông là Chử Toại Lương thi đậu tân khoa trạng nguyên, được bổ nhiệm làm Trưởng sử quận Mã Ấp.

Tiêu Vũ tuy là con cháu triều Lương, nhưng vì y là con rể của Độc Cô thị nên được Lý Uyên đặc cách trọng dụng, phong y làm Nội Sử Lệnh, bái làm Thừa tướng, trở thành trợ thủ đắc lực trong triều đình của gia tộc Độc Cô.

Tiêu Vũ hiểu rõ tình hình nước Tây Tần. Vì thế trong chuyện này gã có quyền phát ngôn, Lý Uyên vui vẻ gật đầu,

- Mời Tiêu ái khanh!

- Bệ hạ, thần biết năm quận Hà Hoàng đa số là người Hán ẩn náu, đất đai rất rộng. Dựa vào số thuế ít ỏi không thể nuôi sống hàng vạn quân binh, với tình hình đó Lương Sư Đô nhất định sẽ phải cầu cứu dân tộc Thổ Dục Hồn và dân tộc Khương, để nhận lấy bò và dê cứu trợ của họ, nếu như vậy chắc chắn là họ sẽ phải cắt nhượng phần đất đai của hai quận Tây Hải và Hà Nguyên cho Thổ Dục Hồn, trở lại là lãnh thổ như trước năm Đại Nghiệp thứ năm. Dương Nguyên Khánh cũng hiểu rõ điều này, vì thế hắn mới quyết định không đứng về phía Lương Sư Đô nữa, mong chúng ta nhanh chóng tiêu diệt Lương Sư Đô, để tránh hai quận Tây Hải và Hà Nguyên rơi vào tay bọn Thổ Dục Hồn. Vì thế mới đề cập tới việc ngừng ủng hộ cho Tây Tần, để đổi lấy sự nhượng bộ của chúng ta ở U Châu, thực tế là hắn thuận nước giong thuyền.

Lý Uyên gật đầu, lão trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nhưng trẫm cũng lo lắng Thổ Dục Hồn trở thành mối nguy hiểm lớn cho đại Đường, trở thành mối họa cho Tây Bộ.

- Bệ hạ, tạm thời không cần phải lo lắng. Thổ Dục Hồn sau khi chịu sự đả kích ghê gớm của nhà Tùy, đến nay vẫn chưa khôi phục nguyên khí. Chỉ cần thái độ của chúng ta cứng rắn, tiếp tục xây dựng quận huyện ở Tây Hải và Hà Nguyên, không nhượng bộ, đồng thời trấn an bọn họ. Cho phép bọn họ chăn thả sinh lợi ở hai quận Tây Hải và Hà Nguyên, như vậy có thể ổn định được Thổ Dục Hồn, không đến nỗi trở thành mối họa của Tây Bộ.

Sách lược của Tiêu Vũ vừa cứng rắn vừa mềm dẻo khiến Lý Uyên tán thưởng. Chính sách đối với Thổ Dục Hồn có thể quyết định như vậy, lão lại hỏi:

- Ý của Tiêu Tướng quốc là bản thân Dương Nguyên Khánh đã quyết định không ủng hộ Lương Sư Đô nữa, vì thế có thể dùng việc đó để thuận nước giong thuyền khiến chúng ta từ bỏ La Nghệ, chúng ta có thể đưa ra một điều kiện khác, có phải là ý này không?

Tiêu Vũ gật đầu.

- Bệ hạ, ý của thần đúng là như vậy. Thần đề nghị đưa ra thêm điều kiện yêu cầu Dương Nguyên Khánh là giảm đóng quân ở sáu quận Bắc Quan, để giảm bớt áp lực cho các quận Nội Quan và Lũng Hữu của chúng ta, điều kiện này có lợi cho chúng ta, thần nghĩ cũng có lợi cho hắn.

Lý Uyên mỉm cười, kiến nghị của Tiêu Vũ nói trúng ý lão, không hổ là trọng thần của triều Tùy, quả là có biết nhìn xa trông rộng, lão lại nói với các đại thần khác:

- Trẫm vẫn còn một điều lo ngại, nếu từ bỏ La Nghệ e rằng thiên hạ sẽ cười chê ta là kẻ bất nhân bất nghĩa, các vị ái khanh có cách nào hay không?

Bùi Tịch có chút đố kỵ khi Lý Uyên coi trọng Tiêu Vũ, Tiêu Vũ tới đây đã giành mất không ít mối lợi ích của y, đặc biệt là có rất nhiều việc trước đây Lý Uyên thường bàn bạc cùng y giờ đều chuyển sang bàn bạc cùng Tiêu Vũ, điều này khiến Bùi Tịch rất khó chịu, y luôn tìm cơ hội để xoay chuyển cục diện.

Lúc đó Lý Uyên hỏi đến chuyện của La nghệ, y liền chộp lấy cơ hội tiến lên phía trước:

- Bệ hạ, thần có điều muốn nói.

- Bùi ái khanh mời!

- Bệ hạ, thần biết rõ La nghệ không thực sự là đầu hàng chúng ta, mà chỉ muốn lợi dụng chúng la làm lá chắn chống lại Dương Nguyên Khánh, trên thực tế chúng ta chưa hề thu lợi gì từ U Châu, một viên quan cũng không có chứ đừng nói là có quyền khống chế quân đội, bệ hạ, ý của thần là thực sự không nên vì hư danh mà phải trả giá quá đắt.

- Đây là hư danh sao?

Lưu Văn Tĩnh cười nhạt một tiếng tiến lên nói:

- Thánh Thượng cũng nói rồi, cái này cũng có ảnh hưởng đến danh tiếng của triều Đường, La Nghệ dù sao cũng đầu hàng Đại Đường, U Châu đã là lãnh thổ của Đại Đường, người đời đều biết, nếu chúng ta vì hòa giải với nhà Tùy mà bỏ mặc U Châu, như vậy thiên hạ sẽ nghĩ Thánh Thượng như thế nào? Sẽ nói chúng ta không có nhân nghĩa, Bùi tướng quốc đây lẽ nào gọi là hai chữ ‘hư danh’ sao, có thể nói qua loa cho xong chuyện sao?

- Được rồi! Hai vị ái khanh không cần tranh luận nữa.

Lý Uyên có chút phiền não trước sự đối đầu cuả bọn họ, sắc mặt lão trầm xuống, lại hỏi Tiêu Vũ:

- Tiêu tướng quốc có cách nào không?

Tiêu Vũ trầm ngân một lúc nói:

- Bệ hạ không ngại chúng ta có thể dùng biện pháp đổi soái, phái một vị đại tướng đến nhận quyền quản lý, đồng thời điều đại tướng ở La Nghệ về kinh thành, lúc đó thông tin La Nghệ sẽ bị bại lộ, mũ không tướng sẽ rơi vào tay La Nghệ, mà bệ hạ không mang tiếng là bất nghĩa.

- Hay, đúng là cao minh.

Lý Uyên không ngớt lời khen ngợi, không hổ là gừng cay Tiêu Vũ quả nhiên là không khiến lão thất vọng, lúc đó trong điện, Thiếu Giam Vũ Văn Hân ở cửa điện bẩm báo:

- Bệ hạ, quận Trương Dịch có cấp báo!

- Chuyện gì?

Lý Uyên trở nên căng thẳng, không biết đã xảy ra chuyện gì, đột nhiên trong lòng lão có một linh tính không ổn.

Một tên thị vệ bước vào điện, quỳ một gối xuống bẩm báo:

- Bệ hạ, quận Trương Dịch tám trăm dặm cấp báo, quân phòng thủ huyện Phúc Lộc phát hiện một đội quân Tùy, có khoảng ba nghìn binh lính, đang tiến về phía Tây Bắc.

Lý Uyên 'A!' một tiếng đứng dậy, trong lòng lão chợt nghĩ đến một nơi, 'quận Đôn Hoàng!'

Trong Tử Vi Các của cung Tấn Dương, Ký thất tham quân Tiêu Tấn vội vã đi vào quan phòng của Dương Nguyên Khánh. Thẩm Xuân đã đi quận Đôn Hoàng, Ký thất tham quân chỉ còn lại một mình Tiêu Tấn, mỗi ngày y đều phải xử lý rất nhiều công văn cơ yếu, có chút bận rộn. Tiêu Tấn tiến lên khom người thi lễ:

- Tổng quản tìm ty chức có gì sai khiến?

Dương Nguyên Khánh gật đầu cười nói:

- Khoảng thời gian này ngươi đã chịu nhiều vất vả rồi.

- Đây là chức trách của thuộc hạ.

- Một mình ngươi quả thực là quá bận rộn, ta dự tính để cho tân khoa Thám hoa Bùi Thanh Tùng đảm nhiệm chức vụ Ký thất tham quân mới. Y trở về huyện Văn Hỉ đón vợ và con gái, hẳn là ngày mai sẽ trở lại. Ngươi chú ý chỉ bảo y, để y sớm có thể chia sẻ công việc với ngươi.

- Thuộc hạ đã rõ, nhất định sẽ dốc toàn lực chỉ bảo y.

Tiêu Tấn là người của Tiêu gia ở Đôn Hoàng, y chính là cháu của Tiêu Nhân Nhân, theo Dương Nguyên Khánh đã lâu, chuyên xử lý các loại công văn trong quân.

Ngày hôm nay, Dương Nguyên Khánh nhận được một phong thư do ưng tín từ Ngọc Môn Quan mang đến, trên cơ bản là trình bày một số sự việc phát sinh ở quận Đôn Hoàng, trong đó, có một việc ngoài dự liệu của hắn, chính là việc Dương Đại Lang lại đứng ở phía cựu tộc Đôn Hoàng, một mực chèn ép sĩ tộc Giang Nam. Tuy việc đó đã trái với sự kỳ vọng của Dương Nguyên Khánh, nhưng hắn tin tưởng vào tính cách cẩn thận của Dương Đại Lang, y làm như vậy nhất định là có nguyên nhân.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 636 : Chết không nhắm mắt

Chỉ là, nếu sự việc đã như vậy, hắn cần trấn an một chút mười tám tên đệ tử sĩ tộc Giang Nam đi theo hắn đã nhiều năm nay. Đệ tử Tiêu gia vẻn vẹn có ba người, ngoại trừ Tiêu Tấn, còn có hai gã đệ tử Tiêu gia đang làm việc trong quân. Chỉ dựa vào điểm này, Dương Nguyên Khánh cũng muốn cho bọn họ một công đạo.

Trầm ngâm một chút, Dương Nguyên Khánh lại hỏi:

- Ngươi vẫn còn liên lạc với gia tộc sao? Ý ta là Tiêu gia ở Đôn Hoàng.

Tiêu Tấn trầm mặc giây lát. Kỳ thật năm ngoái y có nhận được một phong thư của Tiêu Nhân Nhân, mong y thay gia tộc nghĩ một biện pháp, gia tộc ở Đôn Hoàng đã bị ép đến mức không thể chịu nổi, đã sắp không trụ được nữa rồi. Tiêu Tấn vẫn chưa có hồi âm, vì y cũng chưa nghĩ ra cách nào để trợ giúp gia tộc.

- Hồi bẩm Tổng quản, năm ngoái thuộc hạ có nhận được tin của gia chủ, nói hoàn cảnh của Tiêu gia ở Đôn Hoàng rất gian nan, khả năng là không thể tồn tại ở Đôn Hoàng được nữa rồi.

- Rồi sao?

Dương Nguyên Khánh lại hỏi:

- Sau đó không có tin tức gì nữa sao?

- Nghe người trong tộc nói lại, sau đó Tiêu gia đã rời khỏi Đôn Hoàng, trở về quận Nam, đó là nguyên quán của gia tộc thuộc hạ.

Dương Nguyên Khánh thở dài một tiếng, có chút áy náy nói:

- Đối với chuyện này, ta thực rất muốn nói lời xin lỗi với Tiêu gia. Trên thực tế, Lý Châu cũng chính là Dương Đại Lang, y vẫn luôn là tâm phúc của ta. Tuy y chèn ép sĩ tộc Giang Nam không phải là do ta bày mưu tính kế, nhưng quả thật là ta đã quên đi lợi ích của gia tộc các ngươi, còn có Tạ gia và Thẩm gia. Ngươi có thể viết một phong thư, gửi tới gia chủ, thay ta truyền đạt sự áy náy. Nếu như bọn họ có ý định đến Thái Nguyên, ta sẽ sắp xếp cho bọn họ thật tốt. Nếu như bọn họ vẫn muốn ở lại phương nam, vậy chờ đến một ngày, nhất định ta sẽ bồi thường cho bọn họ, chỉ hi vọng bọn họ có thể hiểu cho Lý Châu, thân y gánh vác trách nhiệm nặng nề, có chút khó xử.

Tiêu Tấn vội vã thi lễ:

- Đa tạ Tổng quản quan tâm. Thực ra Lý Châu Tướng quân cũng rất có chừng mực, cũng chưa từng xúc phạm bất cứ một người nào của Tiêu gia, chỉ là cướp đi thổ địa và chặt đứt tài lộ của bọn họ. Nhưng… những thứ này đều là vật ngoài thân, nhất định là bọn họ sẽ hiểu cho Lý Châu Tướng quân. Hơn nữa, trong lòng thuộc hạ cũng hiểu vì sao Lý Châu Tướng quân lại lựa chọn cựu tộc Đôn Hoàng.

Dương Nguyên Khánh cảm thấy có hứng thú, liền cười hỏi:

- Ngươi nói cho ta nghe một chút, vì sao y lại lựa chọn cựu tộc Đôn Hoàng?

- Việc này thì phải bắt đầu từ Tiên đế. Năm đó, khi mấy Văn Đế quyết định lưu đày mấy đại gia tộc Giang Nam, để tỏ thái độ tha thứ, đã cho bọn họ mang tiền tài đi trước. Hơn nữa, lúc bấy giờ, Thái thú quận Đôn Hoàng và Thủ lĩnh quân đồn trú cũng nghiêng về phía sĩ tộc Giang Nam, lại thêm việc cô cô thuộc hạ được gả cho thủ lĩnh quân đội, sau lại gả cho Thái thú tân nhiệm, điều này càng làm cho thế lực của sĩ tộc Giang Nam ở Đôn Hoàng càng thêm mạnh mẽ. Nhưng trên thực tế, dân bản xứ ở Đôn Hoàng không thích sĩ tộc Giang Nam, thậm chí còn căm thù bọn họ, bởi vì bọn họ dùng đủ loại thủ đoạn chiếm cứ ruộng đất vốn đã không nhiều lắm, đồng thời còn lũng loạn mậu dịch và cửa hàng ở Đôn Hoàng.

Mà dân bản xứ chỉ có thể trở thành tá điền hoặc tiểu nhị cho sĩ tộc Giang Nam, giống như Tác gia, Tào gia, Trương gia… những đại gia tộc ở địa phương này cũng bị bức đến mức gần như phải dời đi, sĩ tộc Giang Nam mạnh mẽ nhưng cũng không ổn định. Dân địa phương không ủng hộ bọn họ. Ở Đôn Hoàng, bọn họ không có gốc rễ, chỉ cần triều Tùy có chút yếu kém trong việc khống chế Đôn Hoàng, dân bản xứ sẽ đứng lên phản kháng. Lý Châu Tướng quân cũng nhìn ra điểm này, cho nên mới quay ngược lại ủng hộ cho cựu tộc Đôn Hoàng, như vậy, y có thể chân chính cắm gốc rễ ở Đôn Hoàng.

Dương Nguyên Khánh liên tục gật đầu. Tiêu Tấn giải thích vấn đề khiến cho hắn hiểu được tại sao Dương Đại Lang lại ủng hộ cựu tộc Đôn Hoàng. Bởi vì y là người mà mình lưu lại, quân đội thủ hạ của y đều là đội quân con em của Đôn Hoàng, chỉ có duy trì cựu tộc Đôn Hoàng, y mới có thể chính thức khống chế được thủ hạ, cũng chính là quân đội. Phải nói là Dương Đại Lang rất tinh ý.

- Ta đã hiểu, ngươi đi trước đi! Nhất định phải viết thư cho gia tộc, giải thích rõ ràng sự tình, nói cho bọn họ, trong tương lại, khi ta thống nhất phương nam, còn cần sự đóng góp to lớn của bọn họ.

Tiêu Tấn cáo từ lui xuống, Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi tới bức tường phía đông, ngưng mắt nhìn bản đồ Hà Tây và Lũng Hữu được treo trên tường. Quận Đôn Hoàng ở vị trí xa xôi nhất của Tây Bắc, nhưng cũng là điểm mấu chốt giữa Hà Tây và Tây Vực. Nếu có như có thể đặt gốc rễ ở Tây Vực, không chế được quận Đôn Hoàng, như vậy trong tương lại, bất kể là thu phục Hà Tây hay tiến công Tây Vực, hắn đều có một ván cầu tốt nhất.

Có điều, Dương Nguyên Khánh cũng biết Lý Uyên tuyệt đối không buông tha cho địa phương chiến lược Đôn Hoàng này một cách dễ dàng, sẽ phát sinh một chiến dịch tranh đoạt quận Đôn Hoàng. Cũng không biết Tô Định Phương và Dương Đại Lang có thể cáng đáng được hay không? Sâu trong ánh mắt Dương Nguyên Khánh hiện lên một tia lo lắng.

Ba ngàn kỵ binh quân Tùy đã rời khỏi Ngọc Môn Quan, nơi này chính là một quan ải tử thời xưa. Ở phía nam Ngọc Môn Quan là huyện Thường Nhạc thuộc quận Đôn Hoàng, là một tòa huyện thành nhỏ chỉ có hơn hai ngàn dân cư, không có quân trú đóng, thành trì thấp bé cũ nát, chỉ có thể miễn cưỡng chống lại đám sói trên sa mạc.

Quân Tùy liền đóng đại doanh ở ngoài huyện thành. Trong lều lớn, chủ tướng Tô Định Phương đứng bên cạnh địa đồ, đang chăm chú lắng nghe một gã thám báo báo cáo tình hình mới nhất.

- … Quân đội của Lý Triệu Cẩm hiện đang ở gần Liễu Viên, ước chừng khoảng mười ngàn người.

Tô Địch Phương tìm được Liễu Viên trên bản đồ, đây là một cái trấn nhỏ cách huyện thành Đôn Hoàng khoảng tám mươi dặm, bởi vì một mặt có hồ nước mà có hơn mười hộ gia đình định cư, từ chỗ này tới huyện Thường Nhạc còn khoảng bốn mươi dặm.

Năm nay Tô Định Phương hai mươi bảy tuổi. Nếu như tính luôn cả bốn năm chiến đấu ở hồ Cáp Lợi, như vậy y theo Dương Nguyên Khánh đã hơn chục năm, từ một gã thiếu niên nghé con mới sinh không sợ cọp đã từng bước trưởng thành một Đại tướng có thể tự mình cáng đáng một phương. Ở lần tấn công Y Ngô đó, y sơ suất quá dễ tin người, suýt nữa khiến cho hơn một trăm thủ hạ bị tiêu diệt sạch. Từ lần đó tới nay, y dần dần trở nên thành thục.

Lúc này đây, Dương Nguyên Khánh bổ nhiệm y làm Tổng quản quân ở đường Ngọc Môn, toàn quyền phụ trách việc cướp đoạt quận Đôn Hoàng và Y Ngô. Ngoài ra, còn muốn y chiếm quận Thiện Thiện và quận Thả Mạt. Tô Định Phương cảm giác được đôi vai mình gách trách nhiệm nặng nề, y cũng tràn ngập lòng tin vào bản thân.

Tô Định Phương đã lấy được tình báo của Lý Châu, tổng cộng Lý Triệu Cẩm có mười lăm ngàn người, trong đó có ba ngàn quân đóng tại quận Y Ngô, huyện Đôn Hoàng có hơn mười hai ngàn người trú đóng. Hiện tại Lý Triệu Cẩm tự mình suất lĩnh mười ngàn người đến nghênh chiến, như vậy quân canh giữ quận Đôn Hoàng chỉ còn hai ngàn người. Hiện tại y cần liên lạc với Lý Châu.

Vừa nghĩ đến điều này, ngoài lều có binh sĩ báo cáo:

- Khởi bẩm Tô Tướng quân, Lý Sa Đà Tướng quân phái thủ hạ đưa tin tình báo tới.

- Cho y vào!

Chỉ chốc lát sau, một gã thám báo thủ hạ của Lý Sa Đà tiến vào lều lớn, quỳ một gối, ốm quyền nói:

- Bẩm báo Tô Tướng quân, Lý Tướng quân có tin tình báo khẩn cấp.

Thám báo đưa tin tình báo lên trên, Tô Định Phương nhận lấy, chậm rãi, cẩn thận lấy ra đọc. Phòng thủ huyện Đôn Hoàng đúng là chỉ có hai ngàn người, đều là thủ hạ của Lý Châu. Quả nhiên đúng với dự đoán của y, Lý Châu đã chặt đứt đường rút lui của Lý Triệu Cẩm. Trong số mười ngàn quân của Lý Triệu Cẩm, có ít nhất ba ngàn người là quân đội của Lý Châu.

- Hiện tại Lý Sa Đà Tướng quân ở đâu?

Tô Định Phương lại hỏi.

- Hồi bẩm, Lý Sa Đà Tướng quân phụng lệnh của Lý Châu Tướng quân phòng thủ huyện Đôn Hoàng.

Tô Định Phương gật đầu, có nội ứng lớn nhất là Lý Châu, như vậy chiến dịch cướp đoạt quận Đôn Hoàng trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Y lập tức hạ lệnh:

- Truyền lệnh của ta, toàn quân lên ngựa, tiến quân về Liễu Viên!

Ba ngàn kỵ binh đã chuẩn bị từ lâu, theo lệnh của Tô Định Phương, ba ngàn kỵ binh lên ngựa, chạy ra cửa doanh trại, cuồn cuộn tiến gấp về phía Liễu Viên. Lúc này là buổi trưa, Liễu Viên cũng không xa, chỉ có hơn bốn mươi dặm, một lúc lâu sau là có thể giết đến.

Liễu Viên nằm giữa huyện Thường Nhạc và huyện Đôn Hoàng. Nơi này chiếm diện tích hơn ngàn mẫu, có một cái hồ nước từ thời xưa. Bên cạnh hồ nước trồng rất nhiều hồng liễu, chính vì vậy mới đặt tên là Liễu Viên.

Ở phía tây bắc hồ nước có một thôn trấn, chỉ có khoảng ba bốn mươi hộ gia đình, dựa vào việc chăn thả và đánh cá trong hồ nước mà sinh sống. Thương nhân đi qua, bọn họ cũng nhờ vào việc cung cấp lương thực cho thương nhân mà kiếm chút thù lao.

Cái trấn nhỏ này xưa nay vẫn luôn yên lặng, nhưng một cuộc chiến tranh đột nhiên xuất hiện đã phá vỡ sự bình lặng của bọn họ. Một đội quân hơn mười ngàn người xuất hiện bên ngoài trấn, mấy trăm tên lính xông vào trấn, lần lượt lục soát từng nhà tìm thám tử của quân địch. Dân cư trong trấn vội vàng đi thuyền vào giữa hồ, trốn trên một cái đảo nhỏ ở giữa hồ, đợi cho chiến tranh kết thúc.

Thủ lĩnh của chi quân đội này là Lý Triệu Cẩm, đã hơn năm mươi tuổi, là một con sâu rượu, con ngươi quanh năm híp lại như suy tư, đôi mắt thỉnh thoảng toát ra vẻ âm lãnh. Y là tộc đệ của Hoàng đế Lý Quỹ của nước Đại Lương, được phong làm Đôn Hoàng Vương, đồng thời đảm nhiệm Thái thú Đôn Hoàng, nắm giữ đại quyền quân chính của quận Đôn Hoàng.

Sau khi nước Đại Lương bị diệt, Lý Thần Thông ba lần phái người tới khuyên y đầu hàng triều Đường. Lý Triệu Cẩm cũng không phải không chịu đầu hàng, chỉ là điều kiện y đưa ra rất hà khắc, y muốn triều Đường tiếp tục phong y làm Đôn Hoàng Vương, quân đội vẫn do y thống lĩnh như cũ, con cháu của y được kế thừa tước Vương và quân đội. Trên thực tế, ý của y chính là thành lập nước Đôn Hoàng, có thể thần phục triều Đường, nhưng nhìn chung y vẫn là quốc vương.

Triều Đường không có khả năng chấp nhận điều kiện này, hai bên ở vào thế giằng co. Lý Triệu Cẩm cũng biết triều Đường vì nước Tây Tần mà không để ý đến y, nếu có một ngày Tây Tần bị diệt vong, kẻ tiếp theo sẽ chính là y. Sở dĩ trong khoảng thời gian này, Lý Triệu Cẩm đang chiêng trống rùm beng chuẩn bị thành lập Vương quốc, nhưng thật không ngờ, đúng lúc này, triều Tùy cũng nhúng tay vào Đôn Hoàng.

Trong lòng Lý Triệu Cẩm rất khẩn trương. Cũng may là quân Tùy chỉ có ba ngàn kỵ binh, quân đội của y gấp năm lần đối phương, đủ để tiêu diệt đội quân này. Lý Triệu Cẩm tự mình dẫn mười ngàn đại quân chinh phạt quân Tùy, ý đồ tiêu diệt toàn bộ quân Tùy.

Lý Triệu Cẩm nhìn về phía xa, y cảm giác quân Tùy đã sắp đến. Lúc này, phó tướng Lý Châu đứng sau lưng y, sắc mặt không chút thay đổi.

Lúc này, có một người chỉ về phía xa hô to:

- Vương gia mau nhìn, quân Tùy tới!

Chỉ thấy ở phía xa xuất hiện một điểm đen, sau đó điểm đen ngày càng nhiều, ngày càng gần. Tất cả binh lính đều thấy rõ, đây là một chi kỵ binh đang hăng hái lao về hướng này, cách trận tuyến mấy trăm bước thì dừng lại.

- Quân đội dàn trận!

Lý Triệu Cẩm lớn tiếng hô to. Mười ngàn quân lính dưới tay y nhanh chóng dàn trận, y thống lĩnh bốn ngàn trung quân, Lý Châu thống lĩnh ba ngàn lính bản bộ ở cánh trái, một Đại tướng khác là Trương Chí Thai thống lĩnh ba ngàn quân cánh phải.

Nhưng Lý Châu không có rời đi, y tiến lên nói khẽ với Lý Triệu Cẩm:

- Vương gia, hình như đối phương muốn nói chuyện với ngài.

Lý Triệu Cẩm ngẩn ra. Quả nhiên, một gã Đại tướng của đối phương chậm rãi tiến lên, la lớn:

- Tướng quân Lý Triệu Cẩm ở đâu? Mời ra nói chuyện.

Trong lòng Lý Triệu Cẩm có chút do dự, y không muốn ra, nhưng Lý Châu lại khuyên y:

- Vương gia, không ngại nghe y nói điều gì, nếu như đưa ra điều kiện như với triều Đường, còn có thể đàm phán giải quyết.

Lý Triệu Cẩm trầm tư chốc lát, sau đó thúc ngựa đi tới, cách khoảng năm mươi bước thì dừng lại. Vài tên thân binh dùng tấm chắn phòng vệ hai bên trái phải của y, phòng ngừa quân Tùy bắn lén. Lý Châu lập tức tiến đến sát phía sau y, trong tay cầm một cây đại thiết thương, lạnh lùng nhìn Lý Triệu Cẩm.

- Ta là Lý Triệu Cẩm, ngươi muốn nói chuyện gì?

Tô Định Phương lạnh lùng nói:

- Nếu ngươi không muốn chết, lập tức xuống ngựa đầu hàng, bằng không, ngày này sang năm chính là ngày giỗ của ngươi!

Lý Triệu Cẩm giận dữ:

- Ai dám giết ta?

- Ta dám giết ngươi!

Lý Châu gầm lên một tiếng, đại thiết thương rung lên, từ phía sau đâm xuyên qua lồng ngực Lý Triệu Cẩm. Đại thương vung lên, hất thân hình cao gầy của y lên không trung. Lý Triệu Cẩm ở giữa không trung vạn phần khiếp sợ nhìn Lý Châu, lập tức mất mạng, đôi mắt không có cách nào nhắm lại.

Mấy tên thân binh bên cạnh Lý Triệu Cẩm thất kinh, đều rút đao ra, giận dữ chém về phía Lý Châu. Lý Châu sớm đã có chuẩn bị, y vung thi thể, cười lạnh một tiếng, đại thiết thương đâm trái đâm phải, trong nháy mắt đã có vài tên thân binh bị đâm trúng rơi xuống ngựa. Đúng lúc này, Tô Định Phương hạ lệnh tấn công.

Ba ngàn kỵ binh quân Tùy lao đến như sấm sét, mãnh liệt lao về hướng quân đội của Lý Triệu Cẩm. Lý Triệu Cẩm đã chết, quân đội như rắn không đầu, sĩ khí tan vỡ, hơn nữa còn có ba ngàn quân do Lý Châu thống lĩnh ở bên cạnh trợ giúp. Mấy ngàn quân độquay đầu bỏ chạy. Bọn lính quăng mũ cởi giáp, tranh nhau chạy trối chết, thất bại thảm hại…

Đây cũng là lý do Dương Nguyên Khánh chỉ cấp cho Tô Định Phương ba ngàn kỵ binh tới quận Đôn Hoàng. Ba ngàn kỵ binh không phải đến để chém giết, mà là để tiếp thu bại quân đầu hàng. Quân Tùy chia binh làm hai cánh, nhanh chóng đuổi kịp, khống chế giết chóc. Bại quân không cản nổi chiến mã của quân Tùy, cùng đường đều phải quỳ xuống đất đầu hàng. Mười hai ngàn quân đội của quận Đôn Hoàng bị giết và trốn được khoảng hai ngàn người, còn lại toàn bộ đều đầu hàng.

Một lúc lâu sau, Tô Định Phương đưa quân tiến vào thành Đôn Hoàng.

Lúc quân Tùy tiến vào quận Đôn Hoàng cũng là lúc mệnh lênh khẩn cấp của Lý Uyên đã đến Lương Châu, lệnh cho Hà Gian Quận Vương Lý Hiếu Cung thống lĩnh mười lăm ngàn quân đội của quận Võ Uy và quận Trương Dịch cấp tốc tiến về Đôn Hoàng, cần phải cướp lấy quận Đôn Hoàng, quyết không thể quân Tùy chen vào một thanh đao nhọn ở phía sau lưng Hà Tây.

Mà Lý Thế Dân cũng đồng thời ra lệnh cho Tổng quản Lương Châu Ân Khai Sơn thống lĩnh tám ngàn quân lính trấn giữ Đại Đấu Bạt Cốc, đề phòng Lương Sư Đô nhân cơ hội từ Đại Đấu Bạt Cốc tiến sát Hà Tây.

Thành Trường An, hơn mười sứ giả hòa đàm của Bắc Tùy, dưới sự bảo vệ của ba trăm quân Đường vượt qua cửa Minh Đức, chậm rãi tiến nhập thành Trường An.

Ở phía trước đội ngũ, Thượng thư Bộ hộ Bắc Tùy Đỗ Như Hối nhìn quang cảnh rộng rãi của thành Trường An, nhịn không được than rằng:

- Quá hùng tráng! Đã hai mươi năm, cuối cùng Đỗ Như Hối ta cũng đã trở về.

Phó sử Ngụy Trưng ở phía sau nghe được Đỗ Như Hối cất lời cảm khái, không khỏi cười nói:

- Đỗ Tướng quốc thật sự chưa từng trở về sao?

Đỗ Như Hối lắc đầu:

- Năm thứ nhất Đại Nghiệp, ta theo Tổng quản đến Phong Châu ở phương Bắc, cưới vợ sinh con ở Phong Châu, nắm Phong Châu nhận Phong Châu, vẫn chưa từng trở về.

- Vì sao Tướng quốc không chịu trở về? Là Tổng quản không chịu phê chuẩn sao?

Ngụy Trưng hiếu kỳ hỏi thăm.

Đỗ Như Hối cười khổ một tiếng:

- Cũng không phải. Lúc mới đầu, ta cảm thấy là Huyện lệnh ở Phong Châu thật là mất mặt, sợ bị chúng bạn nhạo báng, không dám trở về Trường An. Khi đó ta mới hai mươi tuổi. Sau này, mặc dù cảm giác tự ti đã không còn, nhưng đã thành gia lập nghiệp, phụ mẫu cũng ở đó, cũng là không muốn trở về nữa rồi.

Lý Thần Thông đi theo bên cạnh hai người cũng không nhịn được cười to:

- Ha…ha…! Lúc đó Đỗ Tướng quốc đi Phong Châu làm quan cảm thấy rất oan ức hay sao?

Đỗ Như Hối vuốt râu thở dài nói:

- Đúng vậy! Lúc đó lập huyện Đại Lợi, cần Bộ lại phái một gã quan viên dự khuyết đi trước đảm nhiệm Huyện lệnh. Lúc đấy, tất cả mọi người đều liều mạng từ chối, viện đủ mọi lý do, có người nói trái tim không chịu được lạnh, có người nói còn vướng mẹ già. Lúc đó ta lấy lý do mình sợ lạnh, kết quả là dưới sự nóng giận, Cao Thị lang của Bộ lại đã điền tên ta, bổ nhiệm dự khuyết Bộ lại Đỗ Như Hối đến huyện Đại Lợi quận Ngũ Nguyên đợi lệnh, ba ngày sau lập tức khởi hành. Ta chậm chân kháng nghị, cuối cùng không thể làm gì khác, đành bất đắc dĩ mà khởi hành. Lúc đó trong lòng cảm thấy rất uất ức, dọc đường đi không ngừng thể hiện ra mặt cho Dương Tổng quản nhìn. Hiện tại nhớ lại, thật muốn đến trước mộ Cao Thị lang thắp một nén nhang.

Hơn mười quan viên ở phía sau đều nở nụ cười. Ngụy Trưng cười nói;

- Chim khôn chọn cành mà đậu. Dương Tổng quản là một cành cây tốt nhất, Đỗ Tướng quốc được ma xui quỷ khiến, tiền đồ vô lượng.

Trên mặt Lý Thần Thông có chút xấu hổi, liền cười nói:

- Điều này cũng chưa chắc, cành cây tốt nhất hẳn là Thánh thượng của triều Đường chúng ta.

- Cái này khó mà nói. Đều vì chủ mình! Đều vì chủ mình!

Tất cả mọi người đều đứng lên cười vang.

Không lâu sau, đoàn người cười nói một chút đã đến Hoàng thành, mới vừa qua cửa Chu Tước đã có vài tên hoạn quan tiếp đón, chắp tay thi lễ nói:

- Điện hạ. Thánh thượng mời sứ Tùy vào điện Lưỡng Nghi gặp mặt.

Lý Thần Thông gật đầu, nói với Đỗ Như Hối:

- Đỗ Tướng quốc, Thánh thượng của chúng ta rất là coi trọng lần hòa đàm này, mời Đỗ Tướng quốc vào điện Lưỡng Nghi gặp mặt. Ngụy Phó sứ có an bài khác, mời Tướng quốc đi theo ta!

Đỗ Như Hối nói với Ngụy Trưng hai câu, liền ngồi lên kiệu của Lý Thần Thông, vài tên hoạn quan cường tráng bước nhanh về hướng điện Lưỡng Nghi.

Trong điện Lưỡng Nghi, Lý Uyên và hơn mười trọng thần đã chờ rất lâu. Trong lòng Lý Uyên có chút mất hứng. Dương Nguyên Khánh luôn miệng nói muốn hòa đàm, nhưng mặt khác lại phái binh âm thầm chém giết cướp đoạt quận Đôn Hoàng, y nghĩ Dương Nguyên Khánh cũng không có thành ý.

Lúc này, ngoài điện truyền đến tiếng tuyên cáo của một gã thị vệ:

- Sứ thần Bắc Tùy đã đến!

- Tuyên y vào điện!

- Bệ hạ có chỉ, tuyên sứ thần Bắc Tùy vào yết kiến!

- Bệ hạ có chỉ, tuyên sứ thần Bắc Tùy vào yết kiến!

Dưới tiếng hét to của thị vệ, Đỗ Như Hối ngẩng cao đầu bước vào điện Lưỡng Nghi. Đỗ Như Hối là Tướng quốc trẻ tuổi nhất trong số năm Tướng quốc của Tử Vi Các, năm nay mới chỉ ba mươi hai tuổi, nhưng y chính là nguyên lão khai quốc công thần của Dương Nguyên Khánh, cũng là tâm phúc của Dương Nguyên Khánh. Y tựa như một cây trường mâu thẳng tắp, lợi hại không thể đỡ. Nhất thời trong điện Lưỡng Nghi vang lên tiếng tiếng nghị luận khe khẽ, rất nhiều đại thần đều nghe đại danh của Đỗ Như Hối từ lâu, nhưng thật không ngờ là y còn trẻ như vậy.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 637 : Đấu võ mồm .

Đỗ Như Hối đi tới trước thềm ngọc, khom người thi lễ:

- Thượng thư Bộ hộ triều Tùy Đỗ Như Hối tham kiến triều Đường Hoàng đế Bệ hạ!

- Đỗ Tướng quốc miễn lễ, bình thân!

- Tạ ơn Bệ hạ!

Đỗ Như Hối đứng thẳng lưng, cất cao giọng nói:

- Tùy thần tiếp nhận Thượng Thư Lệnh của triều ta, nhận lệnh của Sở Vương Điện hạ đi sứ quý quốc, thương nghị hòa đàm giữa hai triều, mong muốn trong lúc hòa đàm, hai bên thẳng thắn đàm phán để có nhiều thành quả, chúng ta nguyện tỏ thành ý lớn để hoàn thành lần hòa đàm này.

Lý Uyên là vua một nước, mặc dù trong lòng không vui, nhưng có chút không tiện nói. Y liền nháy mắt với Bùi Tịch, Bùi Tịch bước ra triều ban, cũng chắp tay nói:

- Tại hạ Bùi Tịch, nghe đại danh Đỗ Tướng quốc đã lâu, là đệ nhất năng thần của Sở Vương. Tại hạ có một số việc muốn thỉnh giáo Đỗ Tướng quốc.

Đỗ Như Hối cũng chắp tay nói:

- Thì ra là Bùi Tướng, mời nói!

- Vừa rồi Đỗ Tướng quốc bày tỏ thái độ khiến kẻ khác cảm động, Độ Tướng quốc nói, triều Tùy nguyện tỏ thành ý lớn để hoàn thành lần hòa đàm này. Ta có chút không hiểu, nếu luôn miệng nói có thành ý, vì sao quý triều trong lúc hòa đàm còn xuất binh chiếm quận Đôn Hoàng, không biết thành ý ở chỗ nào?

Bùi Tịch giơ hai tay về phía trước, nhìn mọi người mà than:

- Ta nhìn không ra thành ý của triều Tùy ở chỗ nào. Các vị đồng liêu có thấy được không?

Đỗ Như Hối lắc đầu:

- Bùi Tướng nói lời ấy sai rồi, xin nghe ta nói một lời. Sở Vương Điện hạ quyết đinh xuất binh chiếm quận Đôn Hoàng xuất phát từ mục đích gìn giữ lãnh thổ Đại Tùy. Năm đó Thổ Dục Phồn bị Đại Tùy Vũ Đế của chúng ta đánh bại, luôn luôn lặng lẽ hành quân. Gần nhất, vì để nhận được sự ủng hộ của dân tộc Thổ Dục Hồn, Lương Sư Đô không tiếc bán đứng lợi ích Đại Tùy, dùng dân tộc Thổ Dục Hồn gây mưa gió một lần nữa. Để phòng ngừa quận Đôn Hoàng rơi vào tay dị tộc, Điện hạ dứt khoát quyết định xuất binh chiếm quận Đôn Hoàng, phòng ngừa dân tộc Thổ Dục Hồn tiến lên phía bắc. Bùi Tướng quốc không hiểu được quyết định chống lại dị tộc của Đại Tùy hay sao? Đương nhiên, có lẽ quả thật là triều Đường không thể hiểu được, nhưng Đại Tùy chúng ta quân dân một lòng, quyết không cho phép Thổ Dục Hồn xâm phạm một tấc lãnh thổ của Đại Tùy chúng ta.

Giọng điệu của Đỗ Như Hối như trong bông có kim, thầm châm biếm việc triều Đường cấu kết với Đột Quyết, khiến cho không khí trong điện Lưỡng Nghi có chút xấu hổ. Lúc này, Tiêu Vũ bước ra, thành khẩn nói:

- Đỗ Tướng quốc không khỏi khinh thường triều Đường chúng ta quá. Chúng ta cũng rất là lo lắng Lương Sư Đô sẽ vì mấy cái dê bò mà bán đứng quận Tây Hải và quận Hà Nguyên cho Thổ Dục Hồn, cho nên chúng ta mới dùng thành ý lớn nhất cùng các người hòa đàm, để kịp thời ngăn cản Lương Sư Đô bán đứng lợi ích dân tộc. Đại Đường cũng vì lợi ích dân tộc mà bảo vệ biên giới không bị dị tộc xâm chiếm, mong Đỗ Tướng quốc không nên coi thường chúng ta.

Lời Tiêu Vũ rất thành khẩn, Đỗ Như Hối gật đầu nói:

- Nếu như mỗi vị Đại thần của triều Đường đều có thể bảo vệ lợi ích dân tộc như Tiêu Tướng quốc, vậy ta xin lỗi vì đã xem thường quý quốc. Có điều, việc triều Tùy chúng ta cướp đoạt quận Đôn Hoàng với việc hòa đàm lần này không có quan hệ, dù sao quận Đôn Hoàng cũng không phải do triều Đường khống chế, mà là do thế lực tàn dư của Lương quốc không chế. Chúng ta thấy triều Đường chập chạp không chịu thu phục quận Đôn Hoàng, e sợ Lý Triệu Cẩm sẽ đầu hàng dân tộc Thổ Dục Phồn, cũng có lẽ sẽ đầu nhập vào Tây Đột Quyết. Sở dĩ chúng ta chủ động xuất binh, tiêu diệt thế lực Lương quốc, khôi phục sự thống trị của triều Tùy, mong quý quốc không nên quá mẫn cảm, cho là chúng ta muốn chiếm lĩnh Hà Tây. Ta có thể xác nhận với các vị, quả thật là chúng ta không có ý nghĩ này.

Bùi Tịch còn muốn tiếp tục phản bác, nhưng Lý Uyên đã dứt khoát giơ tay cản y lại. Lý Uyên hiểu rõ, Đỗ Như Hối đã bắt được nhược điểm lớn nhất của bọn họ, cũng biết quận Đôn Hoàng không nằm trong tay triều Đường, mà lại trong tay thế lực tàn dư của Lương quốc. Cứ như vậy, cho dù là bọn họ có biện luận thế nào để bác bỏ đi nữa, triều Tùy cũng có là có danh xuất sư, cũng không thể cải biến được quyết tâm chiếm lĩnh quận Đôn Hoàng của triều Tùy. Muốn đoạt lại quận Đôn Hoàng, chỉ dựa vào lưỡi thương môi kiếm trên bàn đàm phán là không đủ, cần phải phối hợp với chiến tranh, nhất định phải dùng nắm đấm đánh bay quân Tùy trở lại, bọn họ mới có thể nhượng bộ trên bàn đàm phán. Hiện tại không cần phải bàn luận lại chuyện này.

Lý Uyên mỉm cười, lại hỏi:

- Trẫm có một vấn đề nhỏ cần xác nhận, về lần hòa đàm này, quý quốc có cho Đỗ Tướng quốc toàn quyền quyết định hay không?

Đỗ Như Hối hơi khom người thi lễ:

- Bệ hạ, Tùy thần chỉ được trao quyền quyết định có hạn độ, cũng không có toàn quyền quyết định. Đối với một vài vấn đề quan trọng, Tùy thần phải phái người trở lại xin chỉ thị của Sở Vương Điện hạ, xin chỉ thị từ toàn thể Tướng quốc của Tử Vi Các, mong Bệ hạ thứ lỗi!

Trên thực tế, Đỗ Như Hối được Dương Nguyên Khánh trao toàn quyền quyết định. Sở dĩ y nói như vậy, chỉ là một loại thủ đoạn đàm phán, chủ yếu là để kéo dài thời gian đàm phán, chờ sau khi quân Tùy chiếm lĩnh triệt để quận Đôn Hoàng và quận Y Ngô, mới ở trên bàn đàm phán xác định quyền sở hữu đối với hai quận, để quân Đường không dám tùy tiện xâm chiếm, Tô Định Phương mới có thể tiếp tục suất quân chinh tây quận Thiện Thiện và quận Thả Mạt.

Chiến tranh là vì cướp đoạt quyền lực và lãnh thổ, mà hòa đàm chính là để cố định loại quyền lực và lãnh thổ này, là hai bên hỗ trợ lẫn nhau.

Cũng không thể tránh được, Lý Uyên đành gật đầu:

- Được rồi! Trẫm mong muốn nhanh chóng đạt thành hiệp nghị hòa giải. Trẫm mong muốn lần sau gặp mặt Sở Vương Điện hạ là ở trên bàn rượu chứ không phải trên chiến trường.

Đỗ Như Hối cười nhạt nói:

- Sở Vương Điện hạ cũng nói như vậy. Ngài từng nói qua từng là lão bằng hữu với bệ hạ, ngài rất hoài niệm những năm tháng cùng bệ ha trùng tu cung Phần Dương, mong có thể cùng Bệ hạ đối ẩm, ổn lại chuyện xưa.

Quận Trương Dịch, Lý Hiếu Cung thống lĩnh mười lăm ngàn quân Đường hăng hái đi về phía bắc. Đội quân do mười ngàn bộ binh và năm ngàn kỵ binh tạo thành, khôi giáp sáng loáng, đao mâu như rừng, sát khí đằng đằng.

Tại quận Đôn Hoàng, Tô Định Phương mất ba ngày để hoàn tất việc chỉnh biên mười ba ngàn quân lính. Y suất quân gia cố tường thành, dùng kế vườn không nhà trống, đem toàn bộ dân chúng và gia súc, lương thực của quận Đôn Hoàng vào bên trong thành Đôn Hoàng, chuẩn bị nghênh tiếp đại chiến sắp tới. Thành Đôn Hoàng, sau khi trải qua cuộc chiến giữa Lưỡng Tấn Nam Bắc triều và hàng trăm năm đấu tranh chống lại các cuộc xâm lược của các bộ tộc khác. Thành trì liên tục bị phá hủy rồi lại xây dựng lại. Sau mỗi lần gia cố lại thêm vững chắc và dần dần đã trở thành một tòa thành rộng lớn, chắc chắn với chu vi hai mươi dặm, tường thành cao hai trượng.

Mùa đông đến, vào lúc trời đông giá rét, quân Tùy đem từng thùng nước tưới lên trên tường thành. Trải qua một đêm, thành Đôn Hoàng đã trở thành một tòa thành băng. Lớp băng dày đến hai tấc bao phủ lấy tường thành, trông như được phủ thêm một lớp áo giáp bằng băng tuyết trong suốt. Dưới ánh mặt trời chiếu rọi, lấp lánh một màu băng xanh khiến cả tòa thành như phảng phất một sự huyền ảo lạ thường.

Đánh trận vào mùa đông, chỉ cần phòng thủ tốt thì coi như là đã chiếm được ưu thế. Tô Định Phương cũng không phải là một mãnh tướng chỉ biết chém giết. Anh ta theo Lý Tĩnh học được cách xem xét thiên thời địa lợi, lợi dụng tất cả những điều kiện xung quanh đem áp dụng vào việc ứng chiến. Đây cũng là nguyên nhân trọng yếu khiến Dương Nguyên Khánh sau khi suy xét kỹ càng đã phái anh ta tây chinh.

Đặc điểm lớn nhất của quận Đôn Hoàng đó là nằm sâu bên trong sa mạc. Dân cư thưa thớt, cây cối lác đác, xung quanh chỉ có ba mảnh rừng hồ dương. Tất cả đều bị Tô Định Phương sai người chặt không còn cây nào. Dọc theo bờ sông vẫn còn không ít giống cây liễu đỏ, bởi vì có hình dáng uốn lượn không thích hợp làm vũ khí công thành mà mới may mắn còn sống sót.

Tô Định Phương và mười mấy tên thân binh đang đứng xung quanh nhìn chăm chú vào hàng trăm tên lính đang chặt cây bên một khu rừng hồ dương. Khu rừng hồ dương này rộng hơn mười mẫu, cây cối xung quanh tươi tốt rậm rạp, cây nào cây nấy cao to, vững chắc, cành lá xum xuê. Mặc dù tuổi thọ của chúng chí ít cũng đã trải qua hàng trăm năm lịch sử, nhưng Tô Định Phương đã không ngần ngại ra lệnh đốn ngã.

Từng gốc cây ầm ầm ngã xuống, bị bọn lính kéo vào trong thành. Bên cạnh đó, chủ nhân của gia tộc Tác Thị là Tác Lợi đang đứng nhìn mà thấy đau lòng vô cùng. Khu rừng hồ dương này là tài sản riêng của gia tộc y, đã có 150 năm lịch sử, hiện tại đã bị chặt phá hết hầu như không còn sót lại gì.

- Vậy thì xin hãy để lại cho tôi một gốc cây đi! Đây là hương hỏa của gia tộc tôi, xin lưu lại một cây để sau này chúng có thể phát triển trở lại!

Mỗi một cây đại thụ ngã xuống, thoáng qua trên mặt Tác Lợi từng thớ thịt lại co giật mãnh liệt, lòng của y hệt như bị dao cắt. Y rốt cục cũng chịu đựng không nổi sự đau khổ trong lòng, tiến lên cầu khẩn Tô Định Phương:

- Tô tướng quân, hãy giữ các cây này lại đi, xin đừng chặt thêm nữa.

Tô Định Phương lắc đầu lạnh lùng nói:

- Tác gia chủ, ta hiểu được tâm tình của ngươi, nhưng những cây này ta không chặt, quân Đường cũng sẽ chặt thôi chúng nó cũng sẽ không giữ được.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 638 : Nguy cấp .

Tô Định Phương nhìn y một cái, thấy vẻ mặt khẩn khoản van nài của y, liền cầm roi ngựa chỉ vào gốc cây nhỏ phía bờ sông. Đó là một thân cây nhỏ chỉ mới tăng trưởng được một năm:

- Gốc cây nhỏ đằng kia ta có thể lưu lại cho ngươi.

Mặc dù cây đó thực sự rất nhỏ, nhưng so với việc bị chặt hết toàn bộ thì vẫn còn tốt hơn là không còn gì. Tác Lợi thấy một tên lính mang theo búa đang đi về hướng cây nhỏ. Y gấp đến độ chạy nhanh đến, vừa chạy vừa quát to lên:

- Cây kia là Tô tướng quân để lại cho ta. Ngươi không được phép chặt.

Tô Định Phương lắc đầu, thời tiết mùa này rét mướt, quân Đường cần nhóm lửa để sưởi ấm, gốc cây nhỏ này có thể giữ được sao?

Đúng lúc này, bỗng một gã trinh sát từ đằng xa chạy nhanh tới, trong phút chốc đã đến trước mặt Tô Định Phương. Gã trinh sát ở trên ngựa chắp tay thi lễ nói:

- Khởi bẩm tướng quân, phát hiện quân Đường khoảng mười lăm ngàn người đã đến huyện Ngọc Môn.

- Chủ tướng là ai?

- Hồi bẩm tướng quân, hình như là Hoài An Vương Lý Hiếu Cung!

- Hóa ra là hắn!

Tô Định Phương nhẩm tính trong lòng, từ huyện Ngọc Môn đến huyện Đôn Hoàng ước tính hai trăm dặm, nếu hành quân cả ngày lẫn đêm, có thể xế chiều ngày mai chúng sẽ đến được huyện Đôn Hoàng, chỉ còn một ít thời gian. Anh ta lập tức hạ lệnh:

- Nhanh nữa lên nào, trước lúc trưa mai mà vẫn chưa xong hãy cho một mồi lửa thiêu hủy toàn bộ rừng cây.

Ra lệnh xong, Tô Định Phương liền quay đầu ngựa chạy về phía nội thành.

Quân Đường hành quân ngày đêm, đến trưa ngày thứ ba đã đến thành Đôn Hoàng. Mười lăm ngàn quân Đường trùng trùng điệp điệp, cờ bay phấp phới, thanh thế hùng tráng. Dưới một cây soái kỳ, Lý Hiếu Cung toàn thân mặc áo giáp nhìn chăm chú vào bãi sa mặc hoang vắng, nơi đập vào mắt chỉ có đá sỏi và cồn cát mênh mông, ngẫu nhiên xuất hiện vài bụi cây lung lay trong gió, nhưng không nhìn thấy một cây lớn nào.

Lúc này, Lý Hiếu Cung bị khoảng đất đã từng là rừng hồ dương thu hút, toàn bộ các cây đại thụ đều bị chặt phá hầu như không còn gì, chỉ có từng đám cây đã bị chặt còn trơ trọi mỗi gốc cây, ở trên mặt đất đâu đâu cũng thấy các mảnh vụn còn sót lại. Nơi xa bên ven sông, còn thừa lại một gốc cây nhỏ lẻ loi trơ trọi, chỉ lớn bằng cánh tay. Trong thời tiết lạnh giá, Lý Hiếu Cung không kìm được thở dài một tiếng, vườn không nhà trống, quân Tùy không lưu lại cho bọn y bất cứ cơ hội nào.

Kể từ khi xảy ra sự kiện Đồng Quan hai tháng trước, Lý Hiếu Cung luôn tỏ ra khiêm tốn, trong lòng y hiểu được, Thánh Thượng đối với y có chút bất mãn. Nguyên nhân của việc bất mãn là do y đem việc của Tề vương Lý Nguyên Cát gây nên chấn động quá lớn, mà không xem xét đến thể diện của Thánh Thượng.

Nhưng Lý Hiếu Cung cũng không hối hận, nếu không bị trừng phạt nghiêm khắc, Lý Nguyên Cát sẽ phá hủy toàn bộ quân Đường. Kinh lược Hà Tây nguyên là do Lý Thần Thông phụ trách, sau khi điều Lý Thần Thông đi thương lượng với Bắc Tùy, quân Hà Tây tạm thời do y nắm giữ. Nguyên nhân có lẽ là trải qua một lần thảm bại ở Hoằng Nông nên Lý Hiếu Cung hết sức cẩn thận, y tuyệt không thể khinh thường khiến bản thân mình rơi vào thất bại một lần nữa.

Lúc này, một gã trinh sát từ phía sau đuổi theo:

- Quận vương điện hạ!

Lý Hiếu Cung ghìm cương ngựa, đây là trinh sát y phái đi quận Y Ngô dò xét tin tức, y lập tức hỏi:

- Bên phía quận Y Ngô như thế nào rồi?

- Hồi bẩm tướng quân, quận Y Ngô đã đầu hàng triều Tùy, chỉ có hơn hai ngàn quân chiếm đóng nhưng đội quân chúng ta không qua được!

- Tại sao?

- Quân Tùy chiếm giữ được chỗ hiểm yếu nhất ở eo sông, đóng ba nghìn quân, nơi đó dễ thủ khó công. Nếu chúng ta giả trang thành thương nhân đi qua, đội quân của chúng ta ít nhất phải có ba vạn người thì mới có thể đánh thắng.

Lý Hiếu Cung thở phào một cái, kỳ thực y cũng không muốn đi tấn công quận Y Ngô, chỉ có điều y tìm không ra một cái cớ. Như vậy là tốt nhất, quân Tùy chắn giữ eo sông, binh lực của y không đủ, đây chính là cái cớ tốt nhất.

Trong lòng Lý Hiếu Cung vô cùng không muốn chiến đấu với quân Tùy. Hiện tại đang là lúc sĩ khí của quân Đường dần dần khôi phục, nếu lại bị quân Tùy làm cho bị thương nặng, e rằng sẽ hình thành trong lòng quân Đường một loại chứng bệnh sợ Tùy, như vậy trong tương lai sẽ cực kỳ bất lợi cho quân Đường nếu đánh nhau với quân Tùy.

Từ lúc Thái Nguyên khởi binh tới nay, trong quá trình một đường xuôi nam chiếm cứ Quan Trung, quân Đường thế như chẻ tre, vẫn duy trì mạch chiến thắng, đó là bởi vì quân của Dương Nguyên Khánh ở Phong Châu bị quân Đột Quyết kiềm chế, bọn họ mới có thể thuận lợi như thế.

Có thể nói từ sau khi quân Tùy đông chinh, trận chiến Thái Nguyên, trận chiến quận Giáng, trận chiến Hoằng Nông, quân Đường đều chiến bại, bị quân Tùy tiêu diệt hơn một trăm ngàn quân, hơn nữa sự kiện nội chiến Đồng Quan đã khiến cho lòng quân của quân Đường lung lay, sĩ khí lao đao, cũng chính là nguyên cớ này, quân Tùy khi tác chiến với quân Tây Tần có trang bị và hậu cần đều không bằng không ngờ là thắng bại chia đôi, nếu không phải là Lý Thế Dân đích thân chỉ huy ở Lũng Tây, nếu không phải quân Tây Tần phát sinh nội chiến, e là quân Đường sẽ thất bại liên tục, ngay cả Lũng Hữu cũng bị mất hoàn toàn. Đây chính là biểu hiện cụ thể quân Đường bắt đầu lâm vào nguy cơ, che dấu dưới lớp trang bị tinh nhuệ là long quân tan tác, sĩ khí lao đao.

Lý Hiếu Cung trong lòng như gương sáng, quân Tùy hiện tại tạm thời không biết hư thật của quân Đường. Nếu một khi phát hiện chi tiết về quân Đường, chỉ sợ đến cái mạng nhỏ của mình cũng phải bỏ lại ở Đôn Hoàng.

Một tên lính chỉ vào đằng trước hô to:

- Điện hạ mau nhìn, đã tới thành Đôn Hoàng rồi!

Lý Hiếu Cung chăm chú từ phía xa nhìn lại, chỉ thấy xa xa ngoài vài dặm, một tòa thành trì bằng băng đứng sừng sững giữa cánh đồng bát ngát, dưới ánh mặt trời trông tráng lệ, nguy nga, đẹp lạ thường. Trên mặt Lý Hiếu Cung lộ ra một tia chua xót khó có thể che giấu được, quân Tùy đã dùng băng bọc hết toàn bộ thành Đôn Hoàng, khiến ybiết công thành như thế nào?

- Truyền mệnh lệnh của ta, toàn quân hạ trại ngoài thành ba dặm!

Quân Đường ở ngoài ba dặm bắt đầu hạ trại đóng quân, bọn họ không mang vật dụng để làm trại chỉ mang theo lương thực, nên chỉ có thể hạ trại bằng cách dùng một số lượng lớn thương giáo cắm xung quanh để làm hàng rào bảo vệ, từng tốp lính chạy đến bờ sông, đục thủng băng để lấy nước.

Lý Hiếu Cung tự mình bố trí việc hạ trại, hắn đặc biệt coi trọng đến sự an toàn của lương thực. Bọn họ lần này Bắc thượng là chạy đua với thời gian, cái gì cũng đơn giản, lương thực mang cũng không nhiều, chỉ có thể duy trì không đến nửa tháng, phần còn lại phải dựa vào việc viện trợ lương thực để có thể cầm cự với quân Tùy.

Một đội kỵ binh đi tuần tra một vòng, trở về bẩm báo:

- Điện hạ, tất cả rừng cây xung quanh quận Đôn Hoàng đều đã bị quân Tùy chặt hầu như không còn, phía nam còn sót lại một ít liễu đỏ nhưng không tìm thấy một cái cây nào thích hợp làm thang công thành.

- Ta biết, tuần tra tiếp đi!

Lý Hiếu Cung trong lòng vô vũng căm tức, bọn họ không mang theo vũ khí công thành, quân Tùy lại vườn không nhà trống làm cho bọn họ không tìm thấy một gốc cây nào thích hợp làm vũ khí công thành. Chẳng lẽ muốn bọn họ đi quận Trương Dịch mang vũ khí công thành về sao?

Lúc này phó tướng Sử Vạn Bảo đi đến bên cạnh Lý Hiếu Cung thấp giọng nói:

- Quận vương điện hạ, trận chiến này đối với chúng ta là rất bất lợi!

Sử Vạn Bảo là đại tướng của Lý Thần Thông, nguyên là cường hào ở Trường An, nhờ có công trợ giúp Lý Thần Thông cướp lấy Quan Trung nên được Lý Uyên phong làm quốc công. Là một người cực kỳ khôn khéo, xảo quyệt, gã cảm thấy quân Tùy không có ý chiến đấu, muốn tốc chiến tốc thắng căn bản không có khả năng khiến cho gã vô cùng lo lắng. Bọn gã là cấp dưới của Lý Thần Thông, nếu thảm bại ở Đôn Hoàng quận, gã trở về không thể ăn nói với Lý Thần Thông.

- Chúng ta lương thực không đủ, đường vận chuyển lương thực lại quá dài, một khi bị quân địch cắt ngang đường vận chuyển lương thực, trận chiến này không cần đánh cũng tự thua. Hơn nữa, bão cát rất lớn, ban đêm khí hậu xuống thấp, các binh sĩ vô cùng khổ sở, chi bằng rút quân trở về bẩm báo với Thánh Thượng, quân Tùy đã chiếm quận Đôn Hoàng, chúng ta không thể giành thắng, bảo vệ thực lực là thượng sách.

Lý Hiếu Cung thở dài

- Hôm nay vừa tới đã bỏ chạy, không thể giao phó với Thánh Thượng được, cũng sẽ bị quân Tùy chê cười. Trước tiên cứ kiên trì vài ngày, nếu tình thế thật sự không ổn thì sẽ suy nghĩ thêm về việc rút quân. Ngươi đi trước trấn an lòng quân, nói cho bọn họ biết, quân Tùy lương thực ít, binh lính già nua, bọn chúng cũng không cầm cự được mấy ngày.

Sử Vạn Bảo bất đắc dĩ đành phải tiến đến trấn an binh sĩ, biết rõ đó là một lời nói dối cũng chỉ có thể lừa được nhất thời, giảm bớt sự sợ hãi trong lòng bọn họ

Trên đầu thành, Tô Định Phương chăm chú nhìn quân Đường hạ trại, không ngờ đối phương không mang theo vật dụng để làm lều trại, chẳng lẽ bọn họ không biết vào ban đêm Đôn Hoàng có bão cát sao? Khóe miệng Tô Định Phương lộ ra một nụ cười lạnh.

Ban đêm, cuồng phong nổi lên, cát bụi đầy trời gió lạnh thấu xương, phía Tây Bắc phát ra tiếng rít giống hệt tiếng than khóc dưới âm ti làm người ta kinh hồn táng đảm. Trước mắt là một dải màu đen mờ mịt, chỉ cần bước ra ngoài vài chục bước là không thấy gì nữa.

Cửa thành phía Tây chậm rãi mở ra, Lý Sa Đà dẫn đầu đội kỵ binh trinh sát hơn trăm người từ trong thành chạy ra. Chỉ một lát sau đã mất hút trong cơn bão cát.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 638 : Mượn gió đêm tập kích .

Đại doanh của quân Đường nằm ở ngoài thành về phía bắc. Lý Sa Đà dẫn đầu hơn trăm trinh sát hành tẩu gian nan trong cơn bão cát, vẫn vây xung quanh phía tây bắc đại doanh của quân Đường. Nơi này thuận gió, làm người ta không thể đứng yên được, nếu không ngồi thấp xuống, có thể sẽ bị bão thổi bay đi mất.

Nhóm trinh sát tìm được mấy tường đá dùng để chắn bão liền ngồi xổm xuống ở sau tường. Nơi này hóa ra là một tòa nhà lớn bị bỏ hoang, qua nhiều năm bị gió cát ăn mòn, chỉ còn lại có vài đoạn tường đổ nát thê lương. Mọi người tháo hơn mười bao đồ nặng nề buộc trên lưng ba con lạc đà xuống. Đây là một máy bắn đá loại nhỏ, bị tháo rời thành nhiều bộ phận nhỏ để lạc đà vận chuyển, có thể đem đá nặng hơn chục cân quăng xa hơn trăm bước.

Đồ quân nhu nhanh chóng được lắp đặt rồi buộc chặt, rất nhanh sau đó đã lắp ráp thành một cái máy bắn đá cao một trượng. Lúc này, một gã trinh sát từ trong bóng tối chạy tới, chỉ về hướng tây nam nói:

- Quân doanh của quân Đường cách đây ngoài trăm bước, từ chỗ hàng rào thương giáo bên ngoài đến lều lớn ở bên trong ước chừng xa hơn năm mươi bước, trên mặt đất còn có không ít chông sắt.

Lý Sa Đà cười lạnh một tiếng, quân Đường hạ trại vẫn giống với phương thức hạ trại ở Trung Nguyên, không có suy xét đến tình hình thực tế của Đôn Hoàng. Đêm nay sẽ cho bọn họ nếm thử sự lợi hại của gió đêm ở Đôn Hoàng. Y lập tức hạ lệnh:

- Chuẩn bị hỏa cầu!

Nhóm trinh sát đi về phía lạc đà, lấy ra hơn mười viên hỏa cầu màu đen, là từ vải bố quấn quanh mà thành, dùng để thấm dầu hỏa. Lõi hỏa cầu được đúc bằng sắt, do đó, trọng lượng của nó đạt tới mười cân, ở trạng thái không có gió có thể phóng xa trăm bước, nhưng ở nơi có sức gió mạnh mẽ vào ban đêm, nương theo sức gió có thể phóng xa một trăm năm mươi bước, đủ để quăng vào doanh trại của quân Đường.

Bỏ một viên hỏa cầu vào cái túi chắc, mười mấy tên lính kéo ra chỗ máy bắn đá, cái cán dài hai trượng rưỡi được kéo cong đến mức tối đa, một tên binh lính đốt hỏa cầu lên, hỏa cầu bốc cháy mãnh liệt, ở giữa luồng gió mạnh khiến ngọn lửa kéo dài ra.

- Phóng!

Lý Sa Đà hạ lệnh. Hỏa cầu bay lên không trung, trên bầu trời đêm mù mịt hình thành một đốm sáng ngời, bay vút về hướng đại doanh quân Đường.

Hỏa cầu bay qua tháp canh, lướt qua đám thương giáo dày đặc bay vào đại doanh của quân Đường ‘Ầm’ một tiếng.

Hỏa cầu rơi trúng đỉnh lều lớn. Bên trong trướng, binh lính giật mình thức tỉnh, bọn chúng nhốn nháo hoang mang lăn cả ra đất, lao ra khỏi lều lớn. Ngay sau đó, lều lớn bén lửa, bị gió thổi mạnh, nhanh chóng bốc cháy dữ dội.

Đ...A...N...G...G! Đ...A...N...G...G! Đ...A...N...G...G!

Tiếng chuông cảnh báo trên tháp canh khẩn cấp vang lên. Trong lúc tiếng cảnh báo bên trong doanh trại vang lên chói tai, lại một viên hỏa cầu xẹt qua bầu trời đêm đen tối bay vào đại doanh quân Đường. Lần này rơi xuống đất, hỏa cầu bắn ngược trở lại, bay vào đỉnh đại trướng, binh lính trong trướng vải hỗn loạn chạy ra. Hỏa cầu rơi vào màn chiếu, lửa lớn từ bên trong trướng vải rất nhanh bốc lên.

Hỏa cầu bắn vào các góc phía tây bắc của quân Đường, nơi này là doanh trại của bộ binh, lúc này bọn lính đều từ trong mộng bừng tỉnh. Hoảng sợ vô cùng, nhanh chân chạy ra khỏi trướng, tụ tập trên bãi đất trống ở ngoài trướng. Rất nhiều người đi chân trần, đứng run rẩy, sắp bị đông cứng trong gió rét. Hàng trăm tên lính đang dập lửa ở lều lớn, Lý Hiếu Cung cũng chạy vội tới góc tây bắc lớn tiếng quát hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì?

- Điện hạ, mau nhìn!

Lý Hiếu Cung vừa ngẩng đầu, chỉ thấy trên bầu trời, một viên hỏa cầu đang bay tới. Vài tên thân binh vội vàng đẩy y ra, hỏa cầu xẹt qua đỉnh đầu y, rơi trúng vào một cái lều, trong phút chốc đốt thủng thành một lỗ lớn, hỏa cầu rơi vào trong trướng vải nhanh chóng bốc cháy.

- Mau dập lửa. Không cho lửa lan ra!

Lý Hiếu Cung lớn tiếng ra lệnh, giận dữ chạy đến bên cạnh lều lớn. Một tên lính chỉ vào điểm sáng mơ hồ trong bão cát:

- Điện hạ, là ở chỗ này!

Lý Hiếu Cung ngưng mắt nhìn, liền quay đầu hướng về một gã tướng lĩnh nói:

- Dẫn một nghìn kỵ binh đi tiêu diệt mồi lửa của quân Tùy!

Tên tướng lĩnh quay người đi rồi, lúc này lại có một viên hỏa cầu nện vào trong doanh trại, đây là viên hỏa cầu thứ bảy. Binh lính quân Đường dốc sức dập lửa, nhưng sức gió quá mạnh mẽ, lửa bay theo gió, dây thừng trên đỉnh lều lớn bị đốt cháy, các mảnh vụn của lều lớn bị gió thổi bay hỗn độn giữa lưng chừng trời, bảy tám lều liên tiếp bị đốt cháy, lửa bắt đầu cháy thành một mảng lớn…

Trong bóng đêm, lính Tùy lại đem hỏa cầu thả lên máy bắn đá, đúng lúc này, một gã lính gác chạy vội tới, la lớn:

- Chạy mau! Kỵ binh quân Đường đang tiến đến.

Lý Sa Đà ngay tức khắc hạ lệnh:

- Phá hủy máy bắn đá, lập tức rút lui.

Lính Tùy đồng loạt rút đao chém tới tấp, trong chốc lát máy bắn đá đổ sụp xuống. Bọn họ ôm mấy viên quả cầu nhảy lên ngựa, chạy về phương bắc, rất nhanh đã biến mất trong bão cát.

Không bao lâu sau, kỵ binh quân Đường đã tìm được địa điểm công kích, ngoại trừ một bãi ngổn ngang phế tích, người và vật phẩm đều mất tăm mất tích.

Trong đại doanh của quân Đường, Lý Hiếu Cung phát giác tình thế đã trở nên nghiêm trọng, căn bản không thể dập tắt được ngọn lửa, toàn bộ hơn trăm lều trại ở góc tây bắc đều bị đốt cháy trụi. Ngọn lửa bay lên không gào thét trong tiếng gió hừng hực. Trong lòng của y hiểu được, hoặc là toàn bộ đại doanh đều bị thiêu hủy, hoặc là tự hủy một nửa.

- Tất cả dỡ bỏ toàn bộ lều trại!

Lý Hiếu Cung cưỡi ngựa chạy khắp doanh trại hạ lệnh, để ứng phó với loại lửa lớn này nên cách ly khu vực bị cháy ít nhất hai trăm bước,

- Trước tiên hủy bên này, cách ly khu này ra!

Lúc này, Sử Vạn Bảo chạy lên nói:

- Điện hạ, phải phòng ngừa quân Tùy nhân cơ hội đánh lén!

Một câu nhắc nhở Lý Hiếu Cung, y vội vàng nói:

- Ngươi dẫn theo bốn nghìn kỵ binh ra ngoài phòng ngự, nếu có động tĩnh gì, bất luận là ai đều bắn chết cho ta!

- Tuân mệnh!

Sử Vạn Bảo quay đầu ngựa tiến đến tập hợp kỵ binh, bộ binh thì bận rộn dỡ bỏ doanh trại, nhóm lớn binh lính thì chạy trốn tới góc tây nam. Lúc này, lửa càng lúc càng cháy lớn, mấy trăm lều lớn đều bị đốt cháy cả. Đây là khu vực đóng quân của bộ binh, gió thổi mạnh tạo thành một biển lửa.

Lý Hiếu Cung cưỡi ngựa đi về phía tây nam, nơi này đã tập họp được sáu bảy ngàn bộ binh, hầu hết mọi người đều không có áo giáp, rất nhiều người đi chân trần, y phục phong phanh, đứng chụm lại thành một đội trong mùa đông giá rét. Ước chừng một nửa trong số họ trên tay không có vũ khí. Lý Hiếu Cung quay đầu nhìn về phía biển lửa, phần lớn trang bị và vũ khí của binh lính đều bị lửa thiêu cháy. Y thở dài một tiếng, trận này y nên đánh như thế nào đây?

Binh lính quân Tùy đứng đầy trên đầu thành, trong đại doanh quân Đường ngoài ba dặm thế lửa rất mạnh, ở trong bóng đêm có thể thấy được rõ ràng. Bọn lính đều bàn tán, trận này thình lình xảy ra trận hỏa hoạn lớn thế này sẽ cho bọn họ thời cơ gì để chiến thắng. Tô Định Phương cười nhạt, ngày đầu tiên y đến Đôn Hoàng đã phát hiện ban đêm ở Đôn Hoàng rất thuận lợi cho việc dùng hỏa công đánh lén. Lúc ấy y đã suy nghĩ đến việc đánh lén đại doanh của Lý Triệu Cẩm, thật không ngờ cuối cùng lại dùng để đối phó với quân Đường đầu tiên.

Tuy rằng trận lửa lớn này không đến mức khiến quân Đường chết thê thảm và nghiêm trọng, nhưng ít ra có thể làm sĩ khí quân Đường bị đả kích nghiêm trọng, khiến cho tài vật của chúng bị tổn thất lớn. Vả lại lương thảo của đối phương không nhiều, tinh thần của binh lính lại đang hoang mang cực độ, đó chính là thời khắc y xuất kích.

Hoả hoạn kéo dài đến canh một mới dần dần tắt, ngoài thành lại khôi phục sự yên tĩnh, chỉ có những cơn cuồng phong đang gào thét chói tai. Cát bụi bay đầy trời, che khuất tầm mắt.

Ngày kế tiếp, trời dần dần hé sáng, gió cũng đã lặng đi rất nhiều, sa mạc đã trở lại diện mạo vốn có của mình. Trong ánh bình minh mờ ảo có thể thấy trong đại doanh quân Đường, lều trại đã không còn nữa, chỉ còn lại một khoảng đất bị cháy đen.

Lúc này, một gã trinh sát cưỡi ngựa hối hả chạy tới, đứng dưới chân thành hô to:

- Tô tướng quân!

Tô Định Phương dò hỏi:

- Tình hình quân Đường như thế nào?

- Bẩm báo Tô tướng quân, không thấy quân Đường. Bọn chúng đã rút lui trong đêm!

Tô Định Phương thoáng sững sờ, chuyện gì đã xảy ra, hùng hổ mà đến nhưng lại chạy trốn ngay trong đêm. Không lẽ một lần bị đánh lén bằng hỏa công đã khiến bọn chúng sợ đến vỡ mật sao?

- Cón sót lại thứ gì không?

- Hồi bẩm tướng quân, ngoại trừ mấy trăm đỉnh lều lớn bị thiêu hủy thì không còn lại gì cả, lương thực, lều trại, thương giáo bọn họ đều mang đi cả.

Lý Sa Đà mừng rỡ,

- Tô tướng quân, quân địch hoảng sợ mà bỏ chạy, chính là cơ hội cho chúng ta đuổi theo giết hết bọn chúng. Xin tướng quân ra lệnh! Thuộc hạ nguyện dẫn binh truy kích bọn chúng.

Tô Định Phương lắc đầu, quân Đường rút lui có trật tự, tất cả trang bị đều mang theo, dựa vào đâu nói bọn chúng vì hoảng sợ mà bỏ chạy. Năm nghìn kỵ binh của chúng lại không bị tổn thất gì, tối hôm qua đều ra ngoài doanh trại. Lý Hiếu Cung dụng binh rất thận trọng, y tuyệt sẽ không sơ suất, tuyệt sẽ không để cho mình có cơ hội truy kích, nói không chừng đây là y dùng kế dụ binh.

- Không được truy kích! Truyền mệnh lệnh của ta, hôm nay không được mở cổng thành!

Quyển 15: Phong Khởi V Hà Đông Đạo

 Chương 640 : Sứ giả triều Lương đến muộn

Ngoài mấy chục dăm, sau một cồn cát, năm nghìn kỵ binh xếp thành hàng chỉnh tề. Lý Hiếu Cung đầu đội kim khôi, người mặc ngân giáp, tay cầm mã giáo, ánh mắt lạnh lùng nghiêm nghị nhìn về nơi xa. Ở phía sau bọn họ, bộ binh quân Đường đã đi xa, nhưng Lý Hiếu Cung cũng không vội vàng rút lui, y đang chờ đợi sự truy kích của quân Tùy, có lẽ y còn có thể nắm bắt được cơ hội cuối cùng. Quân Tùy chân chính chỉ có ba nghìn quân, còn lại đều là Lương binh của Lý Triệu Cẩm, trong thời gian quá ngắn, chúng chưa đủ thời gian chấn chỉnh lại nên sức chiến đấu chưa mạnh, quân Đường vẫn còn một cơ hội.

Lý Hiếu Cung kiên nhẫn chờ đợi, đến giữa trưa, từ xa xa, một lính trinh sát chạy tới,

- Khởi bẩm Điện hạ, quân Tùy không có bất cứ động tĩnh gì, cửa chính thành Đôn Hoàng đến bây giờ vẫn không mở ra.

Lý Hiếu Cung bất đắc dĩ thở dài một tiếng, y biết kế mai phục của mình đã bị đối phương khám phá, đối phương không chịu cùng mình liều mạng, Tđành phải quay đầu lại ra lệnh:

- Rút quân!

Năm nghìn binh mã quay đầu lại chậm rãi tiến về hướng huyện Thường Nhạc. Quân Đường chứa đầy hy vọng mà đến, nhưng lại rút lui trong thất vọng.

Thành Trường An, cuộc đàm phán giữa Đường và Tùy lâm vào tình thế bế tắc, đôi bên chủ yếu tranh chấp quyền sở hữu quận Đôn Hoàng. Triều Tùy cho rằng quận Đôn Hoàng vẫn là lãnh thổ của Đại Tùy, bị Lý Quỹ cướp, hiện tại đã bị triều Tùy xuất binh đánh đuổi quân đội nước Lương, đoạt lại quận Đôn Hoàng, quận Đôn Hoàng thuộc về triều Tùy là một đạo lý hiển nhiên.

Mà triều Đường lại khăng khăng nói Lý Quỹ đã đầu hàng triều Đường, như vậy tất cả đất đai hiển nhiên thuộc về triều Đường, trong đó, bao gồm cả quận Đôn Hoàng, đó là lí do quận Đôn Hoàng thuộc lãnh thổ của triều Đường. Tuy rằng bị triều Tùy chiếm đoạt, nhưng triều Đường quyết không thừa nhận. Triều Đường cho rằng quận Đôn Hoàng là khu vực gây nhiều tranh cãi, trọng hiệp nghị hòa giải cũng không bao gồm nó và cả quận Y Ngô.

Hai bên không ai nhường ai, hiệp nghị hòa giải coi như không thành công. Tính ra, Đỗ Như Hối ở Trường An đã suốt nửa tháng nhưng đôi bên vẫn chưa có dấu hiệu thỏa hiệp, chỉ còn hai ngày nữa là bắt đầu tháng mười hai rồi.

Sáng sớm hôm nay, Đỗ Như Hối vừa mới rời giường, ngoài cửa truyền đến một tiếng gõ cửa dồn dập, chỉ nghe Ngụy Trưng ở bên ngoài lo lắng nói:

- Đỗ tướng quốc, có tin tức khẩn cấp từ Thái Nguyên!

Đỗ Như Hối mang giày xong liền bước ra mở cửa, thấy vẻ mặt Ngụy Trưng phấn khởi, liền cười hỏi:

- Ngụy thị lang cao hứng như vậy, có tin gì tốt chăng?

- Đúng vậy!

Ngụy Trưng lấy ra một phong thư, nóng lòng nói:

- Nghe người đưa tin nói, quân Đường đã vội vã rút lui khỏi quận Đôn Hoàng, hiện tại quận Đôn Hoàng và quận Y Ngô đã hoàn toàn bị chúng ta khống chế.

Ánh mắt Đỗ Như Hối sáng lên, cất tiếng cười lớn:

- Nếu thật là như vậy, đã đến lúc chúng ta trở về nhà rồi.

Trong ngự thư phòng, Lý Uyên đứng ở trước bản đồ, trầm mặc thật lâu không nói gì. Cùng lúc Đỗ Như Hối nhận được tin tức từ Thái Nguyên, thì Lý Uyên cũng đồng thời nhận được tin của Lý Hiếu Cung do Trương Dịch khẩn cấp đi tám trăm dặm đưa tới. Với binh lực ở Hà Tây thì không thể nắm được quận Đôn Hoàng và quận Y Ngô. Hiện tại trời đông giá rét, quân Tùy ở Đôn Hoàng đã chuẩn bị đầy đủ, vườn không nhà trống. Sĩ khí quân Đường quá thấp, không thể đánh hạ thành Đôn Hoàng trong mùa đông. Để tránh cho quân Đường toàn quân bị diệt ở thành Đôn Hoàng, ông ta quyết định rút quân về Lương Châu.

Ở trong thư Lý Hiếu Cung giải thích kỹ càng tỉ mỉ lý do vì sao ông ta phải rút lui khỏi quận Đôn Hoàng. Ông ta kín đáo nói cho Lý Uyên biết, quân Đường sẽ không chấp nhận nổi việc lại thất bại trước quân Tùy. Quân Tùy đã từng một lần nửa đêm tập kích nhiễu loạn khiến sĩ khí quân Đường gần như sụp đổ. Lòng sợ hãi quân Tùy khiến bọn lính tình nguyện mạo hiểm đi chân trần ngoài giá lạnh trốn ở ngoài lều, cũng không muốn quay về lều lấy khôi giáp và giày.

Lý Hiếu Cung thẳng thắn vạch rõ, ông ta rút quân là vì tương lai của Đại Đường, vì Đại Đường chưa đến mức sụp đổ trước uy áp của Bắc Tùy. Nếu đã không có khả năng đoạt lại quận Đôn Hoàng, vậy nên bảo toàn thực lực, không cùng chiến đấu với quân Tùy chính là lựa chọn tốt nhất.

Ở trong thư tuy rằng lời nói của Lý Hiếu Cung thẳng thắn thành khẩn đến mức chói tai, nhưng Lý Uyên lại biết những lời ông ta nói đều là sự thật. Đại Đường quả thật không chấp nhận nổi nếu lại bị quân Tùy đánh bại một lần nữa. Nếu không ông ta cũng sẽ không cầu hòa với Dương Nguyên Khánh. Chỉ có điều vị trí chiến lược của quận Đôn Hoàng quá quan trọng. Cứ buông tha như vậy, khiến trong lòng Lý Uyên cảm thấy giống như một tảng đá nặng trịch đè ép.

- Phụ hoàng tìm nhi thần sao?

Ngoài cửa truyền đến giọng nói của thái tử Kiến Thành.

Lý Uyên quay đầu lại nhìn anh ta một cái, gật đầu lại hỏi anh ta.

- Hoàng thúc Thần Thông của con đâu? Ông ấy có đến đây không?

- Hoàng huynh, đệ ở đây!

Lý Thần Thông đi từ phía sau Lý Kiến Thành đến, Lý Uyên sai người tuyên hai người bọn họ tiến đến thương nghị đại sự.

- Trước hết, hai người ngồi đi đã!

Lý Uyên cũng trở về ngồi xuống ghế dựa của mình. Tạm thời, ông ta không nói về việc của Lý Hiếu Cung, mà hỏi Lý Thần Thông trước.

- Tình hình đàm phán hôm nay thế nào?

Lý Thần Thông lắc đầu.

- Hôm nay, mọi người đã ngồi một canh giờ. Đại khái đã xong. Chỉ có quận Đôn Hoàng là khác nhau quá lớn, không thể đạt được thỏa hiệp.

- Khác nhau thế nào?

- Khác nhau cũng chỉ là một vấn đề. La Nghệ U Châu, Lương Sư Đô quận Tây Bình, cũng đã thống nhất ý kiến với chúng ta, cũng đã đồng ý xây dựng lại cầu nổi Bồ Tân giữa hai bên. Chúng ta cũng hứa hẹn không đeo đuổi quận Hoằng Nông, để báo đáp lại. Đối phương cũng đồng ý cắt giảm binh lực đóng ở sáu quận phía bắc đến mức thấp nhất. Số quân đóng ở mỗi quận không vượt qua nghìn người. Số quân đóng ở quận Quan Nội chúng ta cũng tương tự như vậy. Hơn nữa, mậu dịch hai bên cùng với mượn đường của con đường tơ lụa, còn có người thân của quan viên đi lại, những điều này đều đạt được thỏa hiệp. Chỉ có vấn đề của quận Đôn Hoàng, hai bên đều không chịu nhượng bộ, khiến cho hiệp nghị giải hòa cuối cùng không thể đạt được.

Lý Uyên gật đầu. Kỳ thật đối với tiến triển đàm phán ông ta đã rõ như lòng bàn tay. Lúc này, ông ta hỏi lại một lần, cũng là để vào đề cho câu chuyện. Ông ta thấy Lý Kiến Thành muốn nói lại thôi, liền hỏi:

- Hoàng nhi muốn nói gì sao?

Lý Kiến Thành vội vàng cúi thấp người nói:

- Phụ hoàng, con muốn đề nghị, vẫn là muốn đạt được thỏa hiệp với triều Tùy, phân quận Đôn Hoàng và quận Y Ngô thành hai. Triều Tùy muốn quận Đôn Hoàng. Mà chúng ta lấy quận Y Ngô. Hai bên công nhận lẫn nhau. Phụ hoàng có đồng ý với phương án này không?

Lý Uyên cười chua xót nói:

- Đã không có quận Đôn Hoàng, lấy quận Y Ngô thì còn có ý nghĩa gì? Trẫm ở Tây Vực, ngay cả quan viên nhậm chức báo cáo công tác cũng phải mượn đường qua quận Đôn Hoàng. Nếu không có quận Đôn Hoàng, trẫm cũng không muốn quận Y Ngô.

- Phụ hoàng. Ý của Nhi thần là tìm một bậc thang, hai bên đều có thể chấp nhận. Đàm phán đã kéo dài nửa tháng. Nhi thần cho rằng không thể lại kéo dài thêm nữa.

- Không cần tìm bậc thang gì cả!

Lý Uyên quyết đoán lắc đầu.

- Trẫm tìm hai người các ngươi đến, chính là nói rõ các ngươi biết, trẫm đã quyết định buông tha quận Đôn Hoàng và quận Y Ngô. Có thể thừa nhận chúng là lãnh thổ quốc gia của triều Tùy.

Lý Kiến Thành và Lý Thần Thông nhìn nhau. Trong mắt hai người đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Bản thân Thánh Thượng vẫn kiên trì không chịu nhượng bộ. Tại sao đột nhiên ông ta lại thay đổi chủ ý. Lý Kiến Thành trầm ngâm một chút hỏi:

- Phụ hoàng, có phải bên Hiếu Cung có tin tức gì bất lợi không?

Lý Uyên chậm rãi gật đầu, đưa lá thư của Lý Hiếu Cung cho anh ta.

- May mắn không có tổn binh hao tướng, cho nên cũng chưa thể nói là bất lợi. Chỉ có điều chúng ta đi chậm một bước, quân Tùy đã chiếm đóng hai quận Đôn Hoàng và Y Ngô.

Lý Kiến Thành xem lá thư xong, lại chuyển lá thư cho hoàng thúc Lý Thần Thông. Rốt cục Lý Kiến Thành đã hiểu được lý do vì sao phụ hoàng cuối cùng đã đồn ý. Tuy rằng phụ hoàng không chịu thừa nhận thất bại, nhưng trên thực tế Lý Hiếu Cung chính là không chiến mà bại. Quận Đôn Hoàng đã không thể đoạt lại được. Hơn nữa trong lòng quân Đường đã sợ Tùy. Chỉ sợ đây mới là nguyên nhân căn bản cuối cùng đã thúc đẩy phụ hoàng bắt buộc phải nhượng bộ.

Lý Thần Thông xem lá thư xong, ông ta khẽ cau mày.

- Nhưng cứ như vậy đồng ý cho triều Tùy, có phải là nhượng bộ quá lớn hay không? Hơn nữa, cũng không có thể diện. Có lẽ chúng ta có thể tranh cãi từ chỗ khác thêm một chút quyền lợi. Ví dụ như bảo vệ tính mạng của La Nghệ và Ôn Ngạn Bác gì đó, Bệ hạ nghĩ sao?

- Điều này có thể. Khanh đi nói chuyện với bọn họ, nhưng có một vài điều phải nói rõ ràng với bọn họ, trẫm cũng không phải bởi vì quận Đôn Hoàng là đất đai của triều Tùy mới đưa lễ cho bọn họ. Quận Đôn Hoàng là địa bàn của Lãnh quốc, bị triều Tùy giành chiếm đóng trước mà thôi. Điểm ấy rất quan trọng. Nếu không tương lai lại nói tiếp. Trường An cũng từng là đất đai của triều Tùy. Vậy sẽ thành phiền phức, không thể chỉ có một quận Đôn Hoàng bắt đầu thuộc về triều Tùy đạt được trong hiệp nghị.

- Thần hiểu, nhất định sẽ lảng tránh điều này. Thần tin tưởng bọn họ cũng có thể hiểu được!

- Được rồi! Cứ như vậy đã.

Lý Uyên đứng lên nói:

- Trẫm hy vọng ngày mai sẽ đạt được hiệp nghị giải hòa. Trẫm cần tập trung binh lực đối phó với Lương Sư Đô, không thể lại kéo dài tiếp.

Dừng một chút, Lý Uyên lại nhìn Lý Kiến Thành nói:

- Để Thái tử thay trẫm ký tên gia ấn trên hiệp nghị. Dù sao Dương Nguyên Khánh chỉ là Sở Vương, không cùng đẳng cấp với trẫm.

- Nhi thần tuân chỉ!

. . .

Đàm phán giải hòa Tùy Đường kéo dài ước chừng nửa tháng, rốt cục triều Đường cuối cùng đã nhượng bộ đạt được hiệp nghị. Hai bên hứa hẹn bỏ qua thù hận, thừa nhận lãnh thổ quốc gia của nhau. Ít nhất trong một năm, cam đoan chưa được đối phương cho phép, đội quân của mình sẽ không bước vào lãnh địa của đối phương. Ngoài ra, hai bên lại ước định hai mươi mấy điều trói buộc khác. Hiệp nghị được làm thành hai bản, do Thái tử Lý Kiến Thành và Sở Vương Dương Nguyên Khánh là người cao nhất ký tên xác nhận. Mười ngày sau, Dương Nguyên Khánh cũng đặt ấn cùng chữ ký trên hiệp nghị giải hòa.

Từ đó, Tùy Đường hai hướng chính thức giảng hòa. Bọn họ tự điều chỉnh bố trí binh lực. Triều Đường bố trí phòng ngự ở ở Quan Trung, phía Đông của Bắc Tùy. Một trăm nghìn đại quân điều đi Lũng Tây. Mặt khác năm mươi nghìn binh lực quận Hoằng Hóa và quận Thượng cũng rút về Quan Trung.

Mà ba mươi nghìn binh lực triều Tùy đã cho đóng quân ở quận Hà Đông được bố trí đến khe núi quận Thái Nguyên. Đồng thời cắt giảm hai mươi lăm nghìn quân ở quận Linh Võ và sáu quận Quan Bắc xuống còn năm nghìn quân. Còn lại hai mươi nghìn quân được triệu hồi về Thái Nguyên, bố trí gần quận Nhạn Môn và gần khe núi Phi Hổ. Triều Tùy bắt đầu chuẩn bị chiến dịch Hà Bắc.

. . . . .

Đầu tháng mười một, ngay ngày hôm sau khi Tùy đường đạt được hiệp nghị giải hòa, một chiếc xe ngựa chậm rãi từ cửa nam tiến vào thành Thái Nguyên. Hai bên xe ngựa có hơn mười người tùy tùng, đều mặc trang phục màu đen bó sát người, lưng giắt hoành đao, cưỡi ngựa đi theo xe ngựa.

Ở trong thời kỳ chiến loạn, loại tình huống như thế này khá phổ biến. Bình thường gia đình giàu có khi xuất hành đều mang nhiều võ sĩ đi theo. Ở triều Tùy cũ, hoành đao từng là hàng cấm, nghiêm cấm thứ dân bình thường mang theo. Hiện tại, lệnh cấm này đã sớm được phá bỏ. Ở các nơi trong Trung Nguyên, đừng nói là hoành đao, ngay cả quân nỏ cũng được tùy ý xuất hiện trong gia đình bình thường.

Binh lính trấn thủ cửa thành cũng không gặng hỏi quá lâu về vấn đề này, chỉ hỏi một chút về nơi chốn liền cho bọn họ vào thành. Xe ngựa vừa vào thành, liền gặp ngay không khí náo nhiệt phồn hoa. Màn xe được vén lên. Một người đàn ông trung niên quan sát xung quanh nhìn, chỉ thấy trên đường cái người đến người đi. Chỉ hơn một tháng nữa là tới năm mới. Trên đường cái có vẻ náo nhiệt khác thường.

- Khúc Tam Lang, nơi này có thể còn náo nhiệt hơn cả thành Giang Lăng chúng ta.

Người trung niên cười nói. Ông ta nói khẩu âm phía nam.

Có thể vì tính tình của người đàn ông trung niên này rất tốt, các tùy tùng đều hợp ý với ông ta. Một gã tùy tùng trẻ tuổi cười nói:

- Lý Thiếu Khanh có chút trọng bên này kinh bên kia rồi! Ta cảm thấy thành Giang Lăng cũng không thể kém hơn so với nơi này. Chỉ có điều chúng ta đi ở trên đường đã hai mươi ngày. Hơn nữa, cũng sắp đến năm mới, ta chắc lúc này bên trong thành Giang Lăng cũng náo nhiệt như vậy.

Nếu bọn họ nói chuyện bên cạnh cửa thành, bị binh lính thủ vệ nghe thấy, nhất định sẽ liên hệ những manh mối khẩu âm phía nam của bọn họ, Thiếu Khanh, thành Giang Lăng lại, sẽ lập tức đoán ra bọn họ là quan viên đến từ phía nam.

Quả thật như thế. người này chính là Lý Thị Lang Lương triều, Hồng Lư Tự Thiếu Khanh, tên là Lý Kinh. Nếu Dương Nguyên Khánh thấy ông ta cũng sẽ chấn động. Vì Lý Kinh chính là cậu ruột của Dương Nguyên Khánh. Tên ban đầu là Lý Đại Lang. Vì ngại tên này có vẻ quê mùa, sau ra làm quan liền đổi tên là Kinh. Hiện tại gọi là Lý Kinh

Năm đó Dương Nguyên Khánh vì lôi kéo Lý Kinh, đặc biệt phong cậu hắn làm huyện úy huyện Kinh Sơn quận An Lục. Năm thứ chín Đại Nghiệp, Lý Kinh phát hiện Tiêu Tiển muốn tạo phản, phần lớn quan viên quận An Lục đều đã gia nhập Nam Hoa Hội. Trong lòng ông ta liền cảm thấy sợ hãi, vứt bỏ chức quan trốn vào kinh, tìm nơi nương tựa trong nhà Dương Nguyên Khánh. Tuy nhiên, không đến hai tháng, ông ta lại nhớ quê nhà muốn về phía nam. Bùi Mẫn Thu không ngăn được ông ta, liền tặng ông ta một khoản tiền lớn, để ông về quê làm phú ông.

Lý Kinh có hai người con trai. Con trai cả là Lý Quý. Con thứ là Lý Phúc. Thời gian Lý Quý học ở trường tại quận Nam đã gia nhập Nam Hoa Hội, đảm nhiệm Trường Sử quận Giang Hạ Lương triều. Bởi vì Lý Kinh là cậu của Dương Nguyên Khánh, nửa năm trước Tiêu Tiển tự mình tới cửa, mời ông ta đến Giang Lăng, cũng phong ông ta làm Hồng Lư Tự Thiếu Khanh.

Lần này ông ta phụng mệnh đi sứ bắc Tùy, dẫn theo lòng kỳ vọng tràn đầy của Tiêu Tiển. Một mặt là hy vọng bắc Tùy có thể thừa nhận Triều Lương hợp pháp. Về phương diện khác cũng hy vọng Tùy Lương hai triều có thể kết làm đồng minh.

Lý Kinh có chút khẩn trương. Ông ta không biết Dương Nguyên Khánh có thể trách mình về việc lần trước tự chạy về phía nam hay không. Hơn nữa, mình đã thành bầy tôi của triều Lương, có thể khiến Dương Nguyên Khánh tức giận hay không? Trong lòng ông ta thực sự lo lắng bất an không yên.

Xe ngựa chậm rãi đi tới trước cửa vương phủ Dương Nguyên Khánh thì dừng lại. Ông ta thoáng nhìn về phía bảng hiệu trên cửa lớn. 'Sở Vương phủ'. Trong lòng Lý Kinh không khỏi cảm thán thật sâu. Ông ta nhớ tới tình cảnh năm đó, khi Dương Nguyên Khánh mới ba tuổi, mình còn dẫn hắn đi Dương phủ. Ngay lúc đó bảng hiệu Việt Quốc Công phủ làm ông ta sợ hãi không thôi. Mà hiện tại, đứa nhỏ này đã trưởng thành. Nhưng hắn lại trở thành Sở Vương. Hơn nữa, nghe nói tương lai hắn còn có thể trở thành hoàng đế. Không biết mẫu thân hắn dưới suối vàng biết được, sẽ vui sướng và tự hào tới mức nào.

Lý Kinh lau nước mắt đang chảy ra qua khóe mắt già nua, căn dặn tùy tùng một tiếng.

- Đi tới gặp người gác cổng bẩm báo một tiếng, nói có thân thích của Sở Vương điện hạ từ phía nam đến đây.

Một lát sau, những tiếng ngọc bội nhẹ nhàng vang lên, Sở Vương phi vợ của Dương Nguyên Khánh là Bùi Mẫn Thu cùng mấy chục nha hoàn vú già vây quanh đi từ trong phủ ra. Bùi Mẫn Thu đã đoán được là cậu của trượng phu đến đây, nàng không dám chậm trễ, tự mình đi ra nghênh đón.

Lý Kinh cuống quít xuống xe ngựa, tiến lên hai bước khom người thi lễ.

- Tham kiến Sở Vương phi!

- Quả nhiên là cậu đã đến.

Bùi Mẫn Thu cười thi lễ trở lại.

- Hai năm nay không gặp, thoạt nhìn cậu thân thể càng thêm khỏe mạnh, khiến người ta vui mừng.

- Cảm ơn Vương phi quan tâm, Nguyên Khánh có ở trong phủ không?

- Chàng vẫn chưa về. Cháu sẽ lập tức phái người đi thông báo với chàng. Thời tiết rét lạnh, mời cậu vào trong phủ nghỉ ngơi trước. Mấy ngày hôm trước Nguyên Khánh còn rất lo lắng cho tình hình gần đây của cậu.

Bùi Mẫn Thu lại nhìn qua xe ngựa một chút, có chút ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao chỉ có một mình cậu, mợ đâu?

- Ha hả! Bà ấy không đi được, tháng trước vợ của Phúc nhi sinh hạ đứa con thứ tư. Hiện tại bà ấy đang bề bộn nhiều việc.

- Không ngờ Phúc biểu đệ đã có bốn đứa con trai. Vì sao cậu không cho người đến nói một tiếng. Vậy mà chúng ta lại không biết gì.

- Các ngươi ở Phong Châu mà! Quá xa.

Lý Kinh được mời vào vương phủ. Bùi Mẫn Thu lệnh cho quản gia dẫn mười mấy tùy tùng vào trong phủ nghỉ ngơi, lại phái người đi thông báo với Dương Nguyên Khánh. Sau đó, mới dẫn cậu Lý Kinh vào phủ gia.

.....

Trong Tử Vi Các, Dương Nguyên Khánh đang họp hội nghị nội các, thương nghị với năm vị tướng quốc về phương án cụ thể phát động đợt tấn công Hà Bắc.

- Thế cục Hà Bắc khá phức tạp. Hiện tại, Ngụy Đao Nhi, La Nghệ, Cao Khai Đạo cùng với Đậu Kiến Đức đang đứng ở trạng thái giằng co. Bọn họ xem nhau là địch, đồng thời cũng sẽ liên hợp đối phó với bên ngoài. Năm trước Đậu Kiến Đức tấn công U Châu, Cao Khai Đạo liền xuất binh trợ giúp La Nghệ, tập kích quân Đậu Kiến Đức từ phía bên cạnh, khiến Đậu Kiến Đức binh bại phải quay trở về. Hơn nữa, Ngụy Đao Nhi, gã và Đậu Kiến Đức cũng từng cùng đối phó với Tiết Thế Hùng. Cho nên, khi thế lực của chúng ta tiến vào Hà Bắc, rất có thể sẽ khiến bọn họ liên hợp lại. Ta có thể đoán được, dù thế nào, đây cũng là một trận chiến kéo dài.

Dương Nguyên Khánh thoáng nhìn về phía mọi người, lại chậm rãi nói:

- Đối với chúng ta mà nói, khó khăn không chỉ có là phải nắm được Hà Bắc, hơn nữa còn phải đối mặt với sự khốn khổ của người dân Hà Bắc. Trải qua năm sáu năm bị loạn phỉ tàn sát bừa bãi, cuộc sống của người dân Hà Bắc đã sớm trở nên khó khăn. Dân cư giảm mạnh. Nói thẳng thắn một chút, chính là chúng ta phải chuẩn bị trước rất nhiều tiền. Nhất là lương thực. Đây là vàng trong thời loạn thế. Các vị tướng quốc còn lại phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc cướp lấy Hà Bắc. Ở phía sau cần toàn lực trợ giúp cho cuộc chiến Hà Bắc lần này.

Tô Uy đứng lên cười nói:

- Để ta thay mặt các vị trong nội các tỏ thái độ trước! Từ mấy tháng trước Việc cuộc chiến Hà Bắc sắp phát sinh đã nằm trong chương trình nghị sự của Tử Vi Các. Năm nay mấy quận phía nam Hà Đông chúng ta là đã thu hoạch lương thực. Nhưng bốn quận Lâu Phiền, Mã Ấp, Nhạn Môn, Định Tương do bị Lưu Vũ Chu phá hủy, vẫn chưa khôi phục lại.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 641 : Hai yêu cầu

Tô Uy tiếp:

- Gần đây lại có mấy chục nghìn dân di cư từ Quan Trung tới, cũng cần bố trí một lượng lớn lương thực. Cũng may quận Ngũ Nguyên và quận Linh Võ có lương thực dự trữ nhất định, có thể giải quyết được vấn đề này. Hiện tại nhà kho thành Thái Nguyên và nhà kho thành ở cung Tấn Dương còn có lương thực dự trữ hơn tám trăm nghìn thạch. Để đối phó với cuộc chiến Hà Bắc lần này, Tử Vi Các thương nghị, đồng ý lấy ra năm trăm nghìn thạch lương thực, để ủng hộ chiến dịch Hà Bắc. Mặt khác, còn có một triệu xâu tiền, cũng dành làm quân phí cho chiến dịch Hà Bắc lần này.

Bùi Củ cũng cười nói:

- Nếu triều đình có thể thu mấy chục quận Hà Bắc vào trong túi, đương nhiên chúng ta cầu còn không được. Từ lúc cuộc chiến Hà Nội, chúng ta đã thương nghị về kế sách đối phó với Hà Bắc. Nếu chiến dịch Hà Bắc có thể hoàn thành trong một năm, như vậy Hà Đông còn chịu đựng được. Nếu quá một năm, vậy có chút quá sức. Ta lại bổ sung một chút. Vừa rồi Tô tướng quốc nói còn trữ lại tám trăm ngàn thạch lương. Đó chỉ là lương thực dự trữ của Thái Nguyên. Trên thực tế, năm nay sau khi các quận phía nam thu hoạch lương thực, thuế lương dần dần thu vào. Đến khoảng tháng hai sang năm, quan phủ còn có đại khái hai trăm ngàn thạch thuế lương thu vào. Cho nên nói, tài lực của chúng ta còn khá đầy đủ.

Hôm nay hội nghị Tử Vi Các chủ yếu là thương nghị trợ giúp hậu cần cho cuộc chiến Hà Bắc. Hơn nữa, thế cục Hà Bắc khá phức tạp. Dựa theo kế hoạch, ít nhất phải tốn thời gian nửa năm, chiến tranh cần tới thực lực của một nước, nguồn chiêu mộ lính, dân phu, thuế ruộng cùng với các loại trợ giúp vật tư. Những điều này đều phải được chuẩn bị đầy đủ từng việc một.

Hội nghị diễn ra ước chừng một canh giờ mới giải tán đi. Phía sau còn rất nhiều công việc cụ thể phải thu xếp. Dương Nguyên Khánh quay trở lại quan phòng của mình. Vừa mới đi tới cửa, một gã thị vệ tiến về phía hắn bẩm báo.

- Tổng quản, vừa rồi Vương phi phái người đến bẩm báo, nói cậu Tổng quản từ phía nam đến đây, mời ngài trở về một chuyến.

Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Ngay lập tức trong lòng liền mừng rỡ. Mấy ngày hôm trước hắn nghe một quan viên quê ở quận An Lục nói, đầu năm quận An Lục từng bị một đội quân của Chu Kiệt vượt biên qua đánh cướp. Hắn còn rất lo lắng cho an toàn của cậu. Không ngờ, cậu đã đến đây. Hắn nhìn xem sắc trời một chút. Cũng đã sắp tới giữa trưa, hắn liền vui vẻ nói:

- Về phủ trước đã!

.....

Dương Nguyên Khánh lên xe ngựa chạy về phía trong thành Thái Nguyên. Hôm nay, thời tiết sáng sủa. Ánh mặt trời mùa đông chiếu qua màn xe hắt vào bên trong, khiến trong xe ấm áp khác thường. Dương Nguyên Khánh nheo mắt lại, hưởng thụ cảm giác nhàn nhã hiếm có này. Một lát sau, xe ngựa chậm rãi tiến qua cầu phủ, ngừng lại ở trước cửa phủ.

- Lão gia đã trở lại!

Người gác cổng thấy hắn từ trên xe ngựa bước xuống, lập tức quát to một tiếng chạy gấp vào trong phủ bẩm báo. Một lát sau, Bùi Mẫn Thu đi ra đón. Nàng khẽ cười nói:

- Còn tưởng rằng chàng chưa về, cho nên đã để cậu đi nghỉ ngơi trước.

Nàng vừa dứt lời, Lý Kinh đã xuất hiện ở cửa đông viện, ha hả cười nói:

- Ta làm sao ngủ được. Vẫn ở đây chờ Nguyên Khánh trở về!

Dương Nguyên Khánh vội vàng tiến lên phía trước khom người thi lễ.

- Nguyên Khánh ra mắt cậu!

Lý Kinh có chút chân tay luống cuống, liên tục xua tay.

- Không dám nhận! Không dám nhận! Hiện tại cháu đã là Vương gia, không thể lại giống từ trước được.

- Hiện tại là cháu ngoại gặp cậu, không liên quan tới chức Vương gia.

Dương Nguyên Khánh lại cười hỏi:

- Mợ đâu, đã đi nghỉ ngơi rồi sao?

Bùi Mẫn Thu từ bên cạnh đi lên cười nói:

- Phúc biểu đệ của chàng mới có thêm cậu con trai thứ tư. Mợ muốn chăm sóc cháu trai, cho nên lần này không đi cùng tới đây.

- Cậu con trai thứ tư?

Dương Nguyên Khánh có chút ngạc nhiên.

- Ôi! Phúc nhi chính là có mạng sinh con trai. Vợ nó không ngừng mang thai, sinh liên tiếp bốn đứa đều là cháu trai. Ta cũng sắp chết lặng. Trong nhà có khá nhiều chuyện! Để từ từ sẽ nói cho cháu biết.

Dương Nguyên Khánh gật đầu, dẫn Lý Kinh theo đi tới thư phòng ngoài của mình.

Hai người tới thư phòng ngồi xuống. Một thị nữ dâng trà cho bọn họ. Lý Kinh cười khổ một chút nói:

- Ta không biết nên nói về chuyện này như thế nào, nhưng vẫn phải nói một chút. Ta không ngại nói thẳng, hiện tại ta là Hồng Lư Tự Thiếu Khanh của triều Lương.

Trên mặt Dương Nguyên Khánh cũng không lộ ra vẻ kinh ngạc. Chuyện trong nhà, nghe thấy Lý Kinh liên tiếp được bốn người cháu trai, hắn có chút kinh ngạc. Nhưng trên phương diện chính trị, cho dù trời sập xuống, hắn cũng có thể che giấu thái độ của mình.

- Cậu vào làm quan cho triều Lương bao lâu rồi?

Dương Nguyên Khánh cầm chén trà lên uống một hớp trà, không chút hoang mang hỏi.

Lý Kinh thấy Dương Nguyên Khánh cũng không có vẻ gì là kinh sợ, ông ta cũng cảm thấy bớt căng thẳng hơn, khẽ thở dài nói:

- Nửa năm trước, Thánh Thượng tự mình đến nhà mời ta. Ta cảm động trước thành ý của ông ta, nên đã đồng ý ra làm quan. Hơn nữa phần mộ của mẫu thân cháu lại được triều Lương xây dựng cải tạo lại, chiếm diện tích cả trăm mẫu đất, theo đúng quy cách của hoàng thất. Khí thế hùng vĩ, đặc biệt giống với lăng tẩm. Dân ở đó đều gọi mộ mẫu thân cháu là mộ thái hậu...

Dương Nguyên Khánh yên lặng nghe, không hề ngắt lời kể của Lý Kinh, nhưng trong óc hắn lại đang nhanh chóng suy ngẫm ý đồ của cậu khi đến đây. Rất rõ ràng, cậu đến với thân phận của sứ giả triều Lương, bao gồm cả việc Tiêu Tiển lôi kéo cậu, sửa lại mộ mẫu thân. Những thứ này đều có thể coi như là hành động lấy lòng mình. Tiêu Tiển là có mục đích chính trị rất mạnh.

- Thánh Thượng nói, năm đó cháu và ông ấy có quan hệ cá nhân rất tốt. Hơn nữa, khi ở Giang Đô, hai người còn từng hợp tác với nhau. Ông ấy rất hy vọng có thể tiếp tục kéo dài mối quan hệ hữu nghị và hợp tác này.

Dương Nguyên Khánh trầm tĩnh khiến Lý Kinh vô cùng căng thẳng. Bỗng nhiên ông ta ý thức được, quan hệ cậu cháu mỏng manh giữa bọn họ không đủ để chịu đựng nổi sứ mệnh mà ông ta đang mang. Dương Nguyên Khánh không có khả năng bởi vì ông ta là cậu mà đồng ý bất kỳ yêu cầu nào của ông ta. Tất nhiên là căn cứ vào cân nhắc tới lợi ích của bắc Tùy, ông ta rất lo lắng Dương Nguyên Khánh sẽ khéo léo cự tuyệt đề nghị của ông ta. Đến lúc đó, ông ta trở về sẽ phải ăn nói làm sao?

Dương Nguyên Khánh gật đầu nói:

- Quả thật rất cảm ơn Tiêu Tiển đã trợ giúp cháu ở Giang Đô. Không biết lần này cậu đến, Tiêu Tiển đã kỳ vọng ở cậu thế nào? Cháu muốn nói, cậu tới mang theo nhiệm vụ gì?

Dương Nguyên Khánh thẳng thắn khiến Lý Kinh bỗng nhiên càng thêm căng thẳng. Ông ta cũng tỉnh táo lại. Mặc kệ nói thế nào, ông ta là Hồng Lư Tự Thiếu Khanh của triều Lương. Ít nhất cũng nên biểu đạt được hoàn chỉnh ý nguyện của triều Lương. Hơn nữa còn phải bảo vệ tôn nghiêm của triều Lương.

Lý Kinh thở dài, ngồi thẳng người, cũng thẳng thắn nói:

- Lần này ta đến, là làm đặc sứ cho Thánh Thượng, với một hy vọng là triều Tùy có thể thừa nhận triều Lương mới chính là kế thừa chính thống của tây Triều Lương. Kỳ thật là hy vọng giữa hai triều chúng ta có thể kết làm đồng minh, cùng đối phó với triều Đường.

- Cùng đối phó với triều Đường?

Những lời này khiến Dương Nguyên Khánh cảm thấy rất hứng thú. Tuy rằng hắn và triều Đường vừa đạt được hiệp nghị giải hòa, nhưng giải hòa chỉ là một cách làm dịu đi sự hận thù của hai bên, hoặc là nói chỉ là một loại hiệp nghị ngừng chiến. Cũng không có nghĩa là tương lai bọn họ không sẽ xung đột vũ trang. Hơn nữa, trên hiệp nghị nói rất rõ, trong vòng một năm không xâm phạm lẫn nhau. Nói cách khác, hiệp nghị giải hòa giữa hai triều Tùy Đường chỉ có thời hạn hiệu lực trong một năm. Một năm sau, triều Đường đã ổn định thế cục Quan Lũng, bắt đầu mở rộng về hướng đông. Mà khi đó mình cũng có thể đã bình định được Hà Bắc rồi.

Hơn nữa hiệp nghị giải hòa giữa Tùy Đường còn có một vấn đề quan trọng nhất mà hai bên đều có ý xem nhẹ. Hiệp nghị kia chỉ là bảo đảm không xâm phạm lãnh địa của nhau, nhưng cũng khó giữ được bọn họ ở bên ngoài lãnh thổ cũng sẽ có sự hòa thuận chung. Ví dụ như quân Tùy tấn công Lạc Dương, mà quân Đường đang tấn công Lạc Dương, như vậy giữa hai bên có thể vì tranh đoạt Lạc Dương mà bùng nổ chiến đấu kịch liệt. Điều này không ở trong phạm vi hiệp nghị. Đây là một kiểu cố ý xem nhẹ. Hai bên đều không muốn bị hiệp nghị này trói buộc quá nhiều.

Nếu có thể cùng Tiêu Tiển kết làm đồng minh, thật ra có lợi trong việc khống chế triều Đường mở rộng về phía nam. Nếu triều Lương và triều Đường phát sinh chiến tranh kịch liệt, hắn có thể phái đội quân tới tham chiến cùng triều Lương, hoặc là hắn ở sau lưng ủng hộ triều Lương.

Nghĩ vậy, Dương Nguyên Khánh khẽ cười nói:

- Năm đó cậu mợ đã có ơn nuôi dưỡng cháu, nếu cậu đã tự mình nhận sứ mệnh tới đây, sao cháu có thể không nể mặt cậu. Mặt khác, quả thật cháu và Tiêu Tiển có giao tình nhiều năm, cháu cũng nguyện ý kéo dài tình hữu nghị trong quá khứ với ông ta. Cứ như vậy đi! Để đáp lại việc ông ta đã phái cậu đi sứ tới Thái Nguyên, cháu cũng sẽ phái một đặc sứ đại diện triều Tùy đi sứ Tây Lương. Trước tiên, cháu đồng ý với yêu cầu đầu tiên của phía cậu, thừa nhận triều Lương là hợp pháp, sau đó chúng ta lại từ từ nói chuyện kết liên minh.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 642 : Tình cờ gặp mặt tại chợ Bắc

Lý Kinh mừng rỡ.

- Như vậy ngày mai chúng ta có thể xuất phát!

- Không vội, cậu hiếm khi có thời gian tới đây một chuyến, hãy ở lại thêm vài ngày, tìm hiểu một chút về phong thổ Thái Nguyên. Ngày mai cháu sẽ cùng cậu dạo thành Thái Nguyên bắc, xem thử có thể mua chút gì làm quà biếu cho mợ hay không.

Chợ Bắc Thái Nguyên là chợ lớn nhất trong toàn bộ Hà Đông thậm chí là Hoàng Hà, rộng tới mấy trăm mẫu đất, có ba mươi mấy nghề và gần 800 cửa hàng. Từ súc vật lừa ngựa, cho tới củi gạo mỡ muối ăn. Từ các thứ đắt tiền như vàng bạc châu báu, đến những thử rẻ như kim chỉ, các loại thương phẩm cái gì cần có đều có. Ở đây có trên mười ngàn người hành nghề chưởng quầy và tiểu nhị. Nơi này cũng là nơi tập hợp và phân tán thương phẩm của mười lăm quận của Hà Đông. Hầu như các tiểu thương, người bán hàng rong ở các quận Hà Đông đều mua hàng từ nơi này.

Dương Nguyên Khánh dẫn theo Lý Kinh ngồi xe ngựa vào chợ. Tiếng ầm ĩ náo nhiệt lập tức đập vào mặt. Bây giờ đã gần tới tết, nhà nào cũng đều bận rộn mua sắm đồ tết. Trong chợ Bắc người đến người đi. Sát đường, ngay trước cửa hàng, tiếng tiểu nhị mời chào vang lên liên tục không ngừng. Một chiếc chiếc xe bò chở đầy lương thực dầu mỡ, tiến về bến thuyền của chợ Bắc. Chợ Bắc có một đường sông vận chuyển lương thực nối thẳng tới sông Phần. Việc lưu thông hàng hóa từ phía nam xuống phía bắc đều là dựa vào vận chuyển đến sông Phần.

Ở cửa chợ Bắc, Dương Nguyên Khánh đã thay đổi trang phục, dùng cách thức cải trang vi hành dẫn theo Lý Kinh vào chợ. Tuy là cải trang vi hành, nhưng hai trăm thân vệ lại bảo vệ ở xung quanh. Trong đám người chen chúc, bình thường cũng nhìn không ra.

- Chưởng quầy, gạo này của ngươi bao nhiêu tiền một đấu?

Lý Kinh xuất thân là tiểu địa chủ, tương đối chú ý đến giá cả gạo ở những nơi khác. Ông ta đi đến trước một cửa hàng gạo, nắm một nắm gạo trắng, không nhịn được hỏi.

Chưởng quầy cười ha hả đi tới.

- Đây là gạo Giáng Châu, là gạo mới thu hoạch năm nay. Tám mươi tiền một đấu. Nếu ngươi muốn lấy nhiều, mười thạch trở lên, bảy mươi lăm tiền cũng có thể bán.

- Vậy lúa mạch này thì sao?

Lý Kinh lại chỉ lúa mạch ở bên cạnh hỏi.

- Lúa mạch thì rẻ hơn một chút. Sáu mươi tiền một đấu. Cũng mười thạch trở lên, giảm năm tiền.

Lý Kinh rất kinh ngạc quay đầu lại nhìn Dương Nguyên Khánh nói:

- Nguyên Khánh, giá gạo ở chỗ các cháu cũng không đắt!

Dương Nguyên Khánh mỉm cười.

- Năm nay phía nam thu hoạch được mùa, cho nên giá lương thực khá rẻ. Giang Lăng chỗ các cậu một đấu gạo bao nhiêu tiền?

- Giang Lăng là vùng đất lắm cá nhiều thóc. Một đấu gạo cũng phải một trăm tiền. Còn đắt hơn so với chỗ các cháu.

Chưởng quầy đứng ở bên cạnh cười tiếp lời nói:

- Vị khách nhân này, Giang Lăng là dùng tiền Đại Nghiệp, đương nhiên phải đắt hơn một chút. Chúng ta dùng tiền mới. Một xu tiền mới có thể đổi được hai xu tiền Đại Nghiệp. Nếu tính theo như tiền Đại Nghiệp, chỗ chúng ta một đấu gạo chính là một trăm sáu mươi tiền, còn đắt hơn ở Giang Lăng các ngươi.

Dương Nguyên Khánh nhận lấy một xâu xu tiền mới trong tay thân binh đưa cho Lý Kinh. Vừa cầm vào, ông ta liền cảm giác khác hẳn. Tiền mới của Bắc Tùy dày hơn nhưng không giòn với màu vàng trong. Quả nhiên là tiền tốt. Mà ở Giang Lăng, lưu thông phần lớn là tiền Đại Nghiệp, rõ ràng phải khác nhau.

Lý Kinh gật đầu.

- Nói như vậy, gạo Thái Nguyên vẫn đắt hơn một chút. Dù sao Giang Lăng cũng là quê hương của cá và gạo. Tuy nhiên súc vật ở Giang Lăng rất đắt. Một con trâu ít nhất cũng đắt gấp hai lần với ở đây. Ai cũng có sở trường riêng mà!

Hai người lại đi tới khu vực bán châu báu. Nơi này có hai mươi mấy cửa hàng lớn nhỏ, đều là bán các loại vàng bạc châu báu trang sức. Người bình thường cầm vàng bạc cũng tới nơi này đổi tiền.

Dương Nguyên Khánh dẫn Lý Kinh đi tới một cửa hàng nổi tiếng tại thành Thái Nguyên, tên là Bách Thúy Sanh. Thê tử của Dương Nguyên Khánh đều đến cửa hàng này mua trang sức. Chưởng quầy của cửa hàng thường đi Dương phủ đưa trang sức. Ông ta nhận ra Dương Nguyên Khánh, sợ tới mức vội vàng ra nghênh đón. Ông ta khom người thi lễ.

- Sao Sở Vương điện hạ lại tự mình đến đây. Chỉ cần người cho người nói với tiểu nhân một tiếng, tiểu nhân sẽ tự động đưa hàng tới cửa, không dám chậm trễ điện hạ xử lý công vụ.

Dương Nguyên Khánh cũng biết ông ta, liền chỉ vào Lý Kinh cười nói:

- Không làm phiền Cao chưởng quầy. Tôi đưa cậu tôi đến xem. Muốn mua cho mợ vài món trang sức. Có trang sức nào thích hợp không?

Cao chưởng quầy nghe Dương Nguyên Khánh nói là mua trang sức cho mợ, trong lòng nhanh chóng tính toán, liên tục gật đầu nói:

- Có! Có! Mời Điện hạ đi theo ta.

Mọi người đi vào buồng trong ngồi xuống, Cao chưởng quầy lấy ra một hộp đựng báu vật nhỏ làm bằng ngà voi. Sau khi ông ta đặt lên bàn, mở hộp báu ra. Bên trong có tám tầng mỏng. Mỗi một tầng đều là một loại trang sức, đều đặt trong một ngăn ngà voi. Lý Kinh thấy cái hộp làm bằng ngà voi quý như vậy lại chỉ đặt có tám món đồ trang sức, trong lòng ông ta có chút bất an, thấp giọng hỏi:

- Loại trang sức này bao nhiêu tiền một cái?

Cao chưởng quầy khẽ cười nói:

- Trong hộp trang sức này, rẻ là hai trăm ngàn tiền. Nhìn xem! Chính là cái này.

Cao chưởng quầy lấy ra một cái vòng tay, cười nói:

- Đây là ngọc phỉ thúy thượng phẩm, dùng nguyên một khối ngọc phỉ thúy mài nhẵn chế thành, không có chút tỳ vết nào. Nhưng độ sáng bóng hơi kém một chút. Cho nên chỉ cần hai trăm ngàn tiền. Kỳ thật cũng bởi vì đang thời kỳ chiến loạn. Nếu là trong năm Khai Hoàng, một cái vòng tay thế này ít nhất phải ba trăm ngàn tiền.

Hai trăm ngàn tiền chính là hai ngàn xâu tiền. Hơn nữa nhất định là tiền mới. Nếu là tiền Đại Nghiệp, ít nhất phải bốn trăm ngàn tiền. Lý Kinh sợ tới mức nhất thời líu lưỡi không nói nên lời. Ông ta mua không nổi. Ông ta cũng không muốn để Dương Nguyên Khánh tốn nhiều tiền như vậy. Ông ta nhẹ nhàng kéo hắn một cái.

- Nguyên Khánh, chúng ta đi cửa hàng khác xem thử một chút đã!

Dương Nguyên Khánh lại nhặt một cái vòng tay đặt ở phía trên cùng. Nó cũng là vòng ngọc phỉ thủy, nhưng cái vòng ngọc này rõ ràng so là sáng bóng hơn cái vừa rồi nhiều. Cao chưởng quầy liền dựng thẳng ngón cái khen:

- Điện hạ thật có mắt nhìn đồ. Đây là ngọc phỉ thúy cực phẩm, là từ trong cung đưa ra. Sáng bóng hơn bất kỳ cực phẩm nào. Nó cũng là vật có một không hai. Đây là một trong ba trang sức tốt nhất của cửa hàng tôi. Tôi không nói giá gốc là bao nhiêu. Nếu điện hạ muốn, một triệu tiền.

Dương Nguyên Khánh gật đầu.

- Ta muốn có nó. Tìm thêm một hộp trang sức tốt. Tiền thì ngươi đi hỏi Vương phi. Nàng sẽ đưa vàng cho ngươi.

Lý Kinh bị dọa tới mức giật mình khiếp sợ. Thứ đó đắt tiền như vậy, ông ta làm sao dám nhận. Ông ta liên tục xua tay.

- Nguyên Khánh, trang sức quý nhất của mợ cháu cũng không quá trăm xâu tiền. Ta tuyệt đối không thể nhận cái vòng tay này được.

Dương Nguyên Khánh lại không để ý đến ông ta, bảo Cao chưởng quầy mang hộp trang sức tới. Cao chưởng quầy vội vàng lấy ra một hộp trang sức bằng ngà voi rất tinh xảo. Cầm vòng ngọc lên, Dương Nguyên Khánh đặt vào trong hộp, sau đó khăng khăng nhét vào trong lòng bàn tay Lý Kinh. Hắn nhìn ông ta cười nói:

- Đây là tâm ý của cháu cho mợ. Tương lai mợ có thể lấy ra khoe với người khác. Đây là do cháu ngoại Sở Vương tặng. Nếu là thứ chẳng ra gì, chẳng phải cháu sẽ mất mặt sao? Cậu hãy nhận lấy, thay cháu chuyển cho mợ.

Lý Kinh thoái thác mãi cũng không xong, chỉ đành phải nhận lấy. Ông ta oán giận nói:

- Sớm biết thế này, ta đã không đi cùng cháu đến đây rồi.

Đúng lúc này, bên ngoài trên đường truyền đến một tiếng hét lớn:

- Tiểu tặc! Lần này xem ngươi chạy trốn ở đâu được?

Dương Nguyên Khánh thoáng sửng sốt. Giọng nói này nghe rất quen tai. Rất giống giọng nói của Trình Giảo Kim. Nhưng Trình Giảo Kim ở quận Nhạn Môn. Sao anh ta có thể ở Thái Nguyên được. Hắn đi ra khỏi cửa hàng, chỉ thấy có hai người từ trong một ngõ nhỏ lao ra. Người phía trước tuổi còn trẻ bị ngã lăn trên đất. Một người cường tráng chạy ở phía sau tóm lấy người kia. Đó chẳng phải là Trình Giảo Kim sao?

- Đại ca, tha cho tôi đi!

- Tiểu tặc, lần trước lão tử tra đã tha cho ngươi một lần rồi!

Trình Giảo Kim vung nắm đấm to bằng cái bát lên định đánh về phía gã.

Mặt Dương Nguyên Khánh trầm xuống. Tốt xấu gì, Trình Giảo Kim cũng là Á Tướng, vì sao lại đánh nhau giống như kẻ vô lại ngoài đường như vậy. Hắn hừ một tiếng thật mạnh, khẽ quát:

- Trình Giảo Kim!

Trình Giảo Kim vừa quay đầu lại, thấy Dương Nguyên Khánh, lập tức ngây ngẩn cả người. Sao Tổng quản đại nhân lại ở đây. Người trẻ tuổi đang nằm trên mặt đất thừa dịp Trình Giảo Kim sửng sốt thất thần, vội đứng lên định bỏ chạy. Nhưng anh ta lại bị Trình Giảo Kim nắm cổ áo, kéo trở lại.

- Tiểu tặc còn muốn chạy trốn, không có cửa đâu!

Dương Nguyên Khánh thấy mọi người chung quanh xông tới, liền thét lên, ra lệnh:

- Tới đây nói chuyện!

Trong mắt Trình Giảo Kim lộ vẻ tức giận khó ổn định, nắm cổ áo người trẻ tuổi kéo vào cửa hàng châu báu. Sau khi cùng Dương Nguyên Khánh vào trong phòng, anh ta hung hăng ném người thanh niên trẻ tuổi ngã trên mặt đất, tiến về phía Dương Nguyên Khánh thi lễ.

- Ty chức tham kiến Tổng quản!

Người trẻ tuổi kia nghe Trình Giảo Kim gọi là Tổng quản, hắn lập tức hiểu được người trước mắt là ai, sợ tới mức co rúm người lại. Dương Nguyên Khánh nhìn anh ta một cái, lại hỏi Trình Giảo Kim.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 643 : Giương đông kích tây (1+2)

- Người này là ai? Sao ngươi lại đánh nhau với anh ta ở trên đường giống như lưu manh vậy?

Trình Giảo Kim trừng mắt nhìn anh ta một cái, oán hận nói:

- Người này tên là Hướng Bình, là đường huynh của nương tử tôi. Từ nhỏ anh ta ở quê chúng tôi đã nổi tiếng là người hư hỏng. Anh ta theo lão gia chạy tới báo tin cho nương tử tôi, nói cha mẹ vợ tôi và hai người anh em của vợ tôi ở quê bị tôi liên lụy nên quan phủ đã nhốt vào ngục giam. Sau sẽ xử trảm. Nương tử của ta quá lo lắng, cho anh ta năm trăm lượng bạc, còn có trang sức của nàng, bảo anh ta chuẩn bị để cứu người. Kết quả lại bị tên trộm này nuốt hết toàn bộ. Anh ta căn bản không về quê, ở lại Thái Nguyên, chắc là muốn qua một thời gian sẽ quay lại lừa tiền.

Nói tới đây, Trình Giảo Kim hận đến mức con mắt muốn phun ra lửa, lại vung nắm tay lên muốn đánh anh ta. Dương Nguyên Khánh nhìn sắc mặt người trẻ tuổi này đầy vẻ kinh hoàng, chắc Trình Giảo Kim nói là thật, lại hỏi Trình Giảo Kim:

- Vậy làm sao ngươi phát hiện được?

Trình Giảo Kim hung hăng đá vào phía sau lưng anh ta một cái, lúc này mới nói:

- Tôi thường xuyên ở quận Nhạn Môn. Chuyện này lúc đầu tôi cũng không biết. Mấy hôm trước nương tử tôi đi tới nhà Tần Quỳnh chơi, xem trang sức nương tử của Tần Quỳnh. Trong lúc vô ý nàng phát hiện ra một món đồ trang sức của nàng không ngờ lại ở trong hộp trang sức nương tử của Tần Quỳnh. Hỏi ra mới biết, đây là do vợ Tần Quỳnh mua được từ cửa hàng châu báu. Nương tử tôi lại đến cửa hàng châu báu hỏi thăm, mới biết được tiểu tặc này vẫn ở ngay trong thành Thái Nguyên, bán của cải vào trang sức của nương tử tôi lấy tiền, ở Thái Nguyên ăn uống chơi gái đánh bạc. Nương tôi viết thư cho tôi. Hai ngày trước, tôi xin phép xong mới gấp trở về, vẫn phục tại chỗ này, hôm nay rốt cục cũng tóm được anh ta.

Dương Nguyên Khánh thấy bộ dạng người đàn ông này đầu hoẵng não chuột, vừa nhìn cũng biết không phải là người lương thiện, liền lạnh lùng hỏi anh ta:

- Cha vợ của Trình Tướng quân thật sự sẽ bị chém đầu sao?

Người đàn ông quỳ trên mặt đất, liều mạng đánh mặt mình, khóc lóc cầu xin nói:

- Tiểu nhân đáng chết. Không có chuyện này. Là đường muội của tôi viết phong thư về cho ông bà. Nhị thúc lấy ra khoe. Tôi thấy địa chỉ, nên chạy tới lừa tiền em họ. Là tôi đáng chết. Cầu xin Vương gia tha cho tôi một mạng!

Trình Giảo Kim thấy anh ta cuối cùng cũng đã thừa nhận , lại nắm lấy cổ áo anh ta mắng:

- Tiền của lão tử ở đâu? Còn không mau trả lại cho ta!

- Tiền. . . . Toàn bộ đã thua hết, chỉ còn lại một món trang sức.

Người đàn ông run run lấy từ trong người ra một món trang sức bằng vàng. Trình Giảo Kim cướp lấy món trang sức, hận đến mức quả thực muốn một quyền đánh chết gã. Bản thân anh ta bị vợ quản tiền chặt muốn chết, không có tiền uống rượu, không có tiền đi dạo thanh lâu. Vậy mà thằng khốn này lại lừa được năm trăm lượng bạc. Còn có đống trang sức có giá trị đắt tiền. Cái này đủ cho mình uống bao nhiêu lần, đi dạo thanh lâu bao nhiêu lần. Vậy mà toàn bộ lại bị gã này ăn uống chơi gái đánh bạc tiêu hết. Quả thật Trình Giảo Kim muốn giận điên lên rồi.

Trong lòng Dương Nguyên Khánh tức giận, quay đầu lại ra lệnh cho thân binh nói:

- Mang người này ra, chém!

- Vương gia tha mạng! Vương gia tha mạng a!

Người đàn ông quỳ trên mặt đất dập đầu thật mạnh. Trình Giảo Kim hận thì hận, nhưng dù sao người này cũng là con trai độc nhất của đại bá phía bên nhà nương tử. Nếu thật sự giết chết, chỉ sợ không thể nói rõ với nương tử mình. Anh ta chỉ đành phải cầu xin với Dương Nguyên Khánh:

- Tổng quản tạm tha cho anh ta một mạng đi! Tôi muốn cho nương tử của mình chút mặt mũi.

Dương Nguyên Khánh có chút kinh ngạc liếc mắt nhìn Trình Giảo Kim một cái. Hắn phát hiện Trình Giảo Kim dường như đã bị nương tử hắn quản lý, nên mới có biểu hiện tốt như thế. Dương Nguyên Khánh gật đầu.

- Được rồi! Vậy ta giao người này cho ngươi xử lý. Muốn giết muốn đánh tùy ngươi. Nhưng sáng mai ngươi phải tới cung Tấn Dương gặp ta. Ta có chuyện cần tìm ngươi.

- Ty chức tuân lệnh, ty chức đi trước một bước.

Trình Giảo Kim nắm cổ người đàn ông, kéo về phía ngoài cửa.

- Đi cùng lão tử! Xem ta trừng trị ngươi thế nào.

Ban đêm, Dương Nguyên Khánh từ thư phòng trở lại phòng ngủ. Sau khi dùng nước nóng ngâm chân xong hắn chuẩn bị nghỉ ngơi. Bỗng nhiên, mắt hắn thoáng nhìn lại, phát hiện hộp ngà voi ở trên bàn. Trong lòng hắn cảm thấy sửng sốt, hắn mở hộp ra. Bên trong chính là cái vòng tay mà ban ngày hắn đã mua cho.

- Đây là do cậu đưa tới. Cậu sống chết sống không chịu nhận. Cậu nói nó quá quý, cậu nhận không nổi.

Bùi Mẫn Thu từ buồng trong đi ra, chải vuốt mái tóc thật dài. Nàng giải thích cho trượng phu:

- Tháng trước Cao chưởng quầy cũng cho thiếp xem qua cái vòng tay này, nói giá một triệu năm trăm ngàn tiền, nói là từ trong cung đưa ra. Thiếp cũng đã nghĩ mua nó cho thím chàng. Nhưng Xuất Trần nói chờ mẫu thân tới rồi tính sau. Thiếp cũng chỉ đành nói Cao chưởng quầy tạm thời giữ hộ, thật không ngờ chàng lại mua nó. Xem ra thật có duyên phận.

Lông mày Dương Nguyên Khánh nhăn thành một đoàn. Cậu không chịu nhận. Vậy có lẽ hơi khó một chút. Bùi Mẫn Thu nhặt chiếc vòng tay từ trong hộp lên. Sau khi cẩn thận quan sát một lúc lâu, nàng nhìn Dương Nguyên Khánh nói:

- Buổi chiều thiếp từng hỏi qua Phương Hinh. Cái này quả thật là vật trong cung. Đó là vật yêu thích của Độc Cô Hoàng Hậu. Đây là một trong ba trang sức không được chôn cùng bà ta. Tiên đế giữ nó lại làm kỷ niệm. Không biết vì sao lại lưu truyền ra ngoài. Đây chính là vật báu vô giá.

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một chút hỏi:

- Cậu biết đây là vòng tay của Độc Cô Hoàng Hậu không?

- Ông ấy biết, buổi chiều thiếp đã nói với cậu.

Dương Nguyên Khánh trầm mặc. Hắn biết vì sao cậu từ bỏ. Là thê tử hắn gây áp lực cho cậu, nói cho cậu biết đây là vòng tay của Độc Cô Hoàng Hậu, cậu còn có thể dám nhận sao?

Trong lòng Dương Nguyên Khánh thở dài một tiếng. Cái này cũng không thể trách thê tử của mình. Chỉ có thể nói quá trùng hợp. Nàng chuẩn bị đưa nó cho thím, lại bị mình mua về đưa cho mợ. Điều này khiến nàng rất khó xử. Nàng cũng không giấu diếm mình, trực tiếp thản nhiên nói cho mình biết. Đây là một sự tín nhiệm giữa hai vợ chồng.

Bùi Mẫn Thu thấy trượng phu đã hiểu được ý của mình, nàng ngồi xổm xuống, cầm tay trượng phu áy náy nói:

- Phu quân, chuyện này thật sự rất thật có lỗi. Thiếp không nên nói cho cậu biết đây là vòng tay Độc Cô Hoàng Hậu. Cậu không chịu nhận vòng tay cũng là lỗi của thiếp.

Dương Nguyên Khánh nhẹ nhàng vuốt ve cái trán trơn bóng của vợ, ôn nhu cười nói:

- Muốn trách thì trách Cao Chưởng quầy kia. Nàng đã bảo ông ta giữ lại, ông ta lại bán cho ta. Cái này rõ ràng chính là gây xích mích trong quan hệ của vợ chồng chúng ta. Ngày mai ta tìm lão tính sổ.

Bùi Mẫn Thu liên tục xua tay.

- Cái đó không liên quan gì đến Cao chưởng quầy. Ông ấy chỉ muốn lấy lòng chàng. Đừng trách ông ấy. Là do tâm tư thiếp quá nhỏ. Ngày mai thiếp sẽ tự tay cầm vòng tay đưa cho cậu. Nếu cậu không cần, thiếp sẽ phái người đưa cho mợ.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu.

- Thôi đi, cậu không chịu nhận. Ta nghĩ cũng không phải vì nàng tạo áp lực. Độc Cô Hoàng Hậu gì đó, mợ ta phúc duyên nông cạn, giữ nó cũng không hẳn là chuyện tốt. Ta có thể hiểu được lo lắng của cậu. Hơn nữa cái vòng tay thím ta cũng không thể mang. Vật của Hoàng Hậu Đại Tùy, chỉ có thể truyền cho Hoàng Hậu Đại Tùy mới.

Dương Nguyên Khánh kéo tay vợ mình qua, đeo lên tay vợ, mỉm cười nói:

- Xem như ta tặng cho nàng. Sang năm là chúng ta đã lấy nhau được tròn mười năm. Đây là quà ta tặng cho nàng. Còn phía mợ, nàng thay ta mua hai món trang sức khác. Lại mua bốn cái khóa trường mệnh, cho bốn người cháu trai của cậu, mỗi đứa một cái.

Bùi Mẫn Thu vùi mặt vào sâu trong lòng trượng phu. Trong lòng nàng vừa cảm thấy vui mừng, lại vừa cảm động. Tuy rằng trượng phu đã làm tới Sở Vương, nhưng hắn còn nhớ rõ hắn và mình đã lấy nhau sắp được mười năm.

.....

Sáng sớm ngày hôm sau, Trình Giảo Kim đi tới cung Tấn Dương. Đây vẫn là lần đầu tiên anh ta đến cung Tấn Dương. Anh ta không biết đường. Lúc đến, anh ta đành túm lấy một gã hoạn quan mới có việc vừa ra khỏi cung dẫn đường cho anh ta. Dọc đường, anh ta hết nhìn đông lại tới nhìn tây, không nhịn được nhếch miệng cười nói:

- Tòa Tấn Dương cung này không tệ. Chờ ngày nào đó khi lão tử làm hoàng đế, cũng xây một cung điện như vậy để hưởng thụ mới được.

Lão hoạn quan đang dẫn đường phía trước cũng tái mặt. Người này là ai vậy? Không ngờ cũng muốn làm hoàng đế.

- Vị Tướng quân này, nói cũng không thể nói lung tung. Lời này đồn ra ngoài sẽ có thể bị mất đầu đấy.

- Khụ! Lão hoạn quan già ơi, thảo nào phía dưới không chim, nhát gan đến trình độ này. Ngươi cho là Tổng quản sẽ để ý tới mấy lời này của ta sao? Hắn chỉ mắng ta là thối lắm. Thành thật mà nói, cho dù thật sự bảo lão Trình ta làm hoàng đế, ta còn không muốn nữa là! Đương nhiên, cắt chim làm hoạn quan ta lại càng không muốn.

Lão hoạn quan từ tám tuổi đã vào làm hoạn quan trong cung Bắc Chu. Làm hoạn quan đã bốn mười năm, ông ra còn chưa bao giờ gặp qua người nào nói chuyện thô lỗ như vậy. Ông ta tức giận đến mức mặt hết xanh lại trắng. Khuôn mặt âm trầm không nói được một lời, dẫn anh ta đi đến trước Tử Vi Các.

- Nơi này chính là Tử Vi Các. Ngươi tự mình đi vào thôi!

Lão hoạn quan hung hăng trừng mắt nhìn hắn một cái, xoay người liền rời đi. Trình Giảo Kim nhìn theo bóng dáng của ông ta lắc đầu. Đù một chút cũng không được. Cuộc đời như thế thì làm sao chịu nổi.

Anh ta xoay người đi đến cửa trước của Tử Vi Các, chắp tay thi lễ với thị vệ nói.

- Tại hạ là Á Tướng Trình Giảo Kim, phụng lệnh của Dương tổng quản đến yết kiến. Xin thay ta bẩm báo.

Dương Nguyên Khánh đang ngồi ở trong quan phòng soạn thảo việc triều sớm mai. Đứng bên cạnh hắn là Kí Thất tham quân Bùi Thanh Tùng. Anh ta là thám hoa của khoa tiến sĩ mới. Tuy rằng bởi vì miệng lưỡi của anh ta đã dẫn tới hai vạn hơn sĩ tử biểu tình, nhưng Dương Nguyên Khánh cũng không trách tội anh ta, ngược lại có chút thưởng thức ánh mắt hơn người của anh ta. Đặc biệt đề bạt anh ta làm Kí Thất tham quân, đi tới quận Đôn Hoàng tiếp nhận nhậm chức của Thẩm Xuân.

Dương Nguyên Khánh đưa mấy phần tấu chương đã phê xong cho anh ta, căn dặn:

- Mấy phần này có thể chuyển gửi xuống cho nội sử trong tỉnh. Mặt khác, mang tấu chương của Công bộ Thị Lang Lý Xuân thỉnh cầu xây dựng cải tạo lại cầu nổi bến Duyên An cho ta xem qua.

Bùi Thanh Tùng đi ra khỏi phòng. Rất nhanh, anh ta đã lấy một phần tấu chương đưa cho Dương Nguyên Khánh.

- Tổng quản, là cái này phải không?

Dương Nguyên Khánh nhận xem qua một chút.

- Chính là nó, ta xem qua một chút. Ngươi cứ xuống trước đi!

Bùi Thanh Tùng thi lễ, lui xuống. Dương Nguyên Khánh cảm thấy vô cùng hứng thú đối với đề nghị này của Lý Xuân. Bởi vì triều đình muốn lợi dụng vận tải đường thuỷ Hoàng Hà, sửa cầu nổi sẽ gây trở ngại cho việc vận tải đường thuỷ, cho nên vẫn không chủ trương sửa cầu nổi. Nhưng Lý Xuân lại đề nghị dùng dây xích sắt sửa thuyền cầu nổi trước. Lại lợi dụng mùa đông khô hanh, dùng cách đóng cọc sửa một đoạn cầu gỗ giữa sông dài hơn mười bước. Đội thuyền có thể đi xuyên qua phía dưới cầu gỗ, không ảnh hưởng đến vận tải đường thuỷ. Như vậy có thể giảm bớt nỗi khổ phải đi đò của người dân trong quận Duyên An và quận Ly Thạch, có thể qua lại vô cùng thuận tiện.

Lý Xuân chủ yếu là cân nhắc tới lợi ích qua lại của người dân hai bên bờ sông, nhưng Dương Nguyên Khánh thấy nó cũng có giá trị chiến lược. Một cầu nổi sẽ khiến quận Duyên An và quận Ly Thạch hợp làm một thể. Nếu quận Duyên An có việc gì, quân Tùy quận Ly Thạch có thể dùng tốc độ nhanh nhất tới trợ giúp, hoàn toàn có thể sửa vài cái cầu nổi. Như vậy sáu quận Quan Bắc có thể hợp thành một thể với Hà Đông. Điều này cũng có ý nghĩa chiến lược rất lớn đối việc Bắc Tùy khống chế sáu quận Quan Bắc. Hơn nữa, điều này cũng không ảnh hưởng tới vận tải đường thuỷ. Trong lòng Dương Nguyên Khánh rất hưng phấn. Hắn cầm bút phê duyệt nói:

- Giao trách nhiệm cho Tử Vi Các lập tức thương nghị việc này.

Hắn buông bút xuống, ngoài cửa có thị vệ bẩm báo.

- Khởi bẩm Tổng quản, Á Tướng Trình Tướng quân cầu kiến.

- Để anh tiến vào!

Dương Nguyên Khánh đặt tấu chương sửa cầu qua một bên. Hiện giờ, hắn có một chuyện đại sự khác.

Một lát sau, Trình Giảo Kim bước nhanh vào quan phòng. Tuy rằng anh ta ở trước mặt người khác cà lơ phất phơ, nhưng ở trước mặt Dương Nguyên Khánh anh ta vẫn không dám vô lễ. Anh tiến lên một bước, quì một gối ôm quyền nói:

- Mạt tướng Trình Giảo Kim tham kiến Tổng quản!

- Đứng lên đi!

Trình Giảo Kim đứng lên, Dương Nguyên Khánh cười mà như không cười nhìn anh ta một cái, hỏi:

- Người ngày hôm qua, ngươi đã xử lý như thế nào ? Đánh một trận rồi thôi, hay đánh gãy một chân của anh ta vậy?

Mặt Trình Giảo Kim đỏ lên, gãi đầu nói:

- Dù sao cũng là đường huynh. Anh ta cũng thừa nhận không có việc bắt giam. Nương tử của tôi đã tha cho anh ta, cho anh ta hai trăm xâu tiền, để anh ta đưa phong thư về.

Dương Nguyên Khánh không kìm nổi cười, nói:

- Ta phát hiện, đối với ngươi mà nói, nương tử ngươi nói chuyện còn có tác dụng hơn so với ta.

Trình Giảo Kim biết Dương Nguyên Khánh đang chế nhạo mình, chỉ đành phải cười khổ một tiếng nói:

- Còn không phải vì sợ phiền sao? Nàng luôn ở bên cạnh dỗ dành mẫu thân tôi. Mỗi lần tôi nói nàng một câu, mẹ tôi sẽ chửi mắng tôi không ngừng. Hơn nữa nàng đã mang thai, tôi cũng mong nàng sinh cho tôi một thằng con trai. Cũng lười tranh cãi với nàng.

Dương Nguyên Khánh gật đầu.

- Ta cũng rất cao hứng khi thấy ngươi thay đổi như vậy. Tối hôm qua ta đã nói với Vương phi, bảo nàng quan tâm nhiều hơn tới thê tử và mẫu thân của ngươi. Ngươi nói nàng có chuyện gì khó xử, cứ nói với Vương phi. Vương phi nhất định sẽ giải quyết giúp nàng.

Trong lòng Trình Giảo Kim thấy cảm động, khom người nói:

- Cảm ơn Tổng quản đã quan tâm!

- Được rồi! Khi nào thì ngươi trở về?

Dương Nguyên Khánh hỏi.

- Mạt tướng đã xin với Tần tướng quân cho nghỉ năm ngày. Chuyện đã giải quyết. Mạt tướng tính ngày mai sẽ trở về.

- Ngươi đi theo ta. Ta có nhiệm vụ giao cho các ngươi.

Dương Nguyên Khánh đứng lên đi về phía phòng tác chiến ở bên cạnh. Trình Giảo Kim theo sau. Vào trong phòng, anh ta mới phát hiện giữa phòng có đặt một bàn sa bàn, rộng hai trượng, dài hai trượng rưỡi, giống với sa bàn trong lều lớn chủ soái.

Vẻ mặt Dương Nguyên Khánh rất nghiêm túc. Hắn nhặt cây gỗ lên nhìn chăm chú vào Trình Giảo Kim nói:

- Hiện tại chuyện ta nói với ngươi, liên quan đến việc chiến dịch Hà Bắc của chúng ta cuối cùng có không thành công hay không. Cho nên ngươi phải nghiêm túc nghe cho ta. Không cho phép hi hi ha ha, nếu không ngươi sẽ phải rơi đầu đấy.

Cho dù lão hoạn quan nói mười nghìn lần Trình Giảo Kim phải bị chém đầu, anh ta cũng sẽ không thèm để ý tới. Nhưng Dương Nguyên Khánh chỉ nói với anh ta một lần, anh ta liền nhớ kỹ. Anh ta bành cái mặt đen ra đến mức gần như có thể làm trống được. Trên mặt không còn chút tươi cười tùy tiện nào. Ánh mắt anh ta nhạy bén khác thường nhìn chằm chằm vào cây gỗ mà Dương Nguyên Khánh đang cầm. Lỗ tai dựng thẳng đến mức thẳng tắp.

Dương Nguyên Khánh dùng cây gỗ chỉ vào huyện Linh Khâu.

- Hiện tại ngươi và Tần tướng quân cùng hai mươi ngàn Kiêu kỵ binh đóng quân ở huyện Linh Khâu. Ta hỏi ngươi, hiện tại các ngươi đang làm cái gì?

Trình Giảo Kim suy nghĩ một chút, thật cẩn thận nói:

- Đang huấn luyện cũng chờ đợi lệnh tấn công quận Thượng Cốc.

- Tốt lắm. Vậy ngươi có biết bao lâu nữa sẽ tấn công quận Thượng Cốc không?

Con mắt Dương Nguyên Khánh nhìn chằm chằm vào anh ta hỏi.

Trình Giảo Kim cắn cắn môi, không dám nói, Dương Nguyên Khánh cười nói:

- Ngươi cứ việc nói thật, ta sẽ không trách ngươi.

- Dạ! Mạt tướng nghe nói là mùa xuân sang năm. Tất cả các huynh đệ cũng biết là mùa xuân sang năm.

- Quả thật là như thế. Khi ta bàn chuyện chính sự với các tướng quốc cũng nói là mùa xuân sang năm. Thậm chí trọng thần khác của Lý Uyên và triều Đường cũng biết là mùa xuân sang năm sẽ đánh Hà Bắc. Trên hiệp nghị giải hòa do ta và triều Đường ký tên, cũng nhắc tới điểm này. Ta nghĩ Hà Bắc cũng biết. Nhưng ta muốn nói rõ ràng cho ngươi biết, kia tuy nhiên là kế sách bên ngoài, minh tu sạn đạo (ngoài mặt thì làm việc này) của ta. Cuộc chiến Hà Bắc sẽ không chờ tới mùa xuân sang năm mới phát động, mà là bắt đầu từ bây giờ!

Dương Nguyên Khánh mỉm cười, nhìn chăm chú vào anh ta nói:

- Ngươi hiểu chưa?

Ánh mắt Trình Giảo Kim lộ ra vẻ khiếp sợ, lắp bắp nói:

- Ý của Tổng quản là nói, tin tức mùa xuân sang năm tấn công Hà Bắc đều là giả, để mê hoặc kẻ địch?

Dương Nguyên Khánh gật đầu.

- Đúng là như vậy. Hiện tại chỉ có hai người ngươi và ta biết tin tức tuyệt mật này. Ngươi có cảm tưởng gì không?

- Mạt tướng.... Mạt tướng sẽ kín miệng, tuyệt không nói cho nương tử biết.

Dương Nguyên Khánh cười ha ha, hắn vỗ vỗ vào vai Trình Giảo Kim, ý vị sâu xa nói:

- Ngươi không có cơ hội nói cho nương tử biết đâu. Rời khỏi Tấn Dương cung, ngươi trực tiếp quay về quận Nhạn Môn, thời gian đã không cho phép. Ngày mai ngươi phải khai triển.

- Mạt tướng hiểu rồi, mạt tướng tức khắc đi ngay.

- Tốt! Ta nói cho ngươi biết, ngươi và Tần tướng quân phải hoàn thành nhiệm vụ. Nhiệm vụ này ảnh hưởng tới toàn bộ thành bại của chiến dịch Hà Bắc.

Một màn tuyết lớn bay lất phất, bao trùm lên cả vùng đồng bằng mênh mông, khiến cho khu bình nguyên Hà Bắc rộng lớn trở thành thế giới trắng xóa một màu tuyết.

Phía nam quận Hà Gian là huyện Nhạc Thọ, đây là đô thành của Đậu Kiến Đức, cũng bao phủ trong cảnh tuyết trời mờ mịt. Sáng tinh mơ, không thể thấy dù chỉ một bóng người trong màn tuyết trắng xóa. Lúc này, mọi người đều đang ở trong nhà tận hưởng lò sưởi, cả nhà cùng quây quần ấm áp bên nhau.

Lúc này, có hai bóng đen xuất hiện từ xa đang tiến lại gần, họ là hai sĩ binh đang cưỡi ngựa, khó nhọc vượt qua màn tuyết chạy đến trước cửa thành. Lúc này cửa thành đã mở, hai kỵ binh phóng ngựa vào trong thành, thẳng tiến đến cung Kim Thành – vương cung của Đậu Kiến Đức.

Trong ngự thư phòng ở cung Kim Thành, hai chậu than lửa đang cháy hừng hực, khiến trong phòng trở nên cực kỳ ấm áp, Đậu Kiến Đức đang thảo luận đối sách cùng với mưu sĩ Tống Chính Bản. Từ sau khi quận Hà Nội đại bại, nỗi sợ hãi của Đậu Kiến Đức đối với Dương Nguyên Khánh càng sâu hơn, y biết sớm muộn gì Dương Nguyên Khánh cũng sẽ tấn công Hà Bắc. Mấy tháng nay Đậu Kiến Đức luôn lo âu thấp thỏm quá độ, vì vậy mặc cho các đại thần nhiều lần thỉnh cầu dựng triều đăng cơ, y vẫn không có lòng dạ hồi đáp.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 644 : Kẻ mạnh tìm hang

Điều Đậu Kiến Đức đang suy xét trong thời gian này là muốn chừa lại một đường lui cho chính mình. Dĩ nhiên là tốt nếu quân đội của y có thể địch nổi quân bắc Tùy, nhưng nếu không làm được thì chí ít y vẫn còn một đường lui.

Đậu Kiến Đức đang suy xét đến Từ Viên Lãng ở Thanh Châu, người này đã chiếm cứ bốn quận của Thanh Châu là Đông Lai, Bắc Hải, Cao Mật và quận Tề. Đây vốn là địa bàn của Lý Mật, song sau khi bị Từ Viên Lãng chiếm cứ, dường như Lý Mật cũng không phản ứng gì nhều. Điều này khiến Đậu Kiến Đức có chút hối hận, y vốn cũng có chủ ý tiến đánh Thanh Châu này, chỉ là y sợ trở mặt với Lý Mật nên mới chần chừ không động thủ. Chẳng ngờ sau khi tên Từ Viên Lãng không não này chiếm lĩnh bốn quận của Thanh Châu, Lý Mật lại âm thầm chấp nhận khiến Đậu Kiến Đức cực kỳ khổ não, sớm biết thế thì y đã ra tay đoạt trước.

Tuy nhiên Đậu Kiến Đức cũng biết, Từ Viên Lãng vốn dĩ là thuộc tướng của quân Ngõa Cương. Từ Viên Lãng chiếm lĩnh bốn quận Thanh Châu, có lẽ Lý Mật vẫn xem Từ Viên Lãng là thế lực của quân Ngõa Cương nên mới không để ý, nếu là Đậu Kiến Đức thì hoàn toàn khác biệt rồi.

Nhưng bất luận ra sao, Đậu Kiến Đức đã quyết định đoạt lấy bốn quận Thanh Châu, lưu lại một đường lui cho mình. Y chuẩn bị cơ hội lấy em của Từ Viên Lãng làm phi, thâu tóm bốn quận Thanh Châu.

Đậu Kiến Đức khoanh tay đứng trước cửa sổ, lo lắng nói:

- Dưới trướng Từ Viên Lãng chỉ có hai mươi ngàn quân đội, không đáng để lo. Hiện tại ta vẫn lo về phía Lý Mật, nếu ta thâu tóm được Từ Viên Lãng, chọc giận Lý Mật thì y sẽ dẫn quân tấn công Thanh Châu, mà Dương Nguyên Khánh lại tiến đánh Hà Bắc, khiến ta rơi vào cảnh trước sau có địch. Đáng lẽ ta hy vọng Lý Mật có thể trợ giúp cùng chống lại quân Tùy đông chinh, ta lo lắng thịt dê chưa tới miệng thì đã rước lấy một thân tàn.

Tống Chính Bản khẽ cười nói:

- Chủ công muốn trông mong vào Lý Mật trợ giúp chống lại Dương Nguyên Khánh đông chinh, thuộc hạ thấy không được thực tế.

- Vì sao?

Đậu Kiến Đức không hiểu quay lại hỏi.

- Chủ công quên rồi sao? Lý Mật đã đầu hàng Lạc Dương, tự xưng là thần Tùy.

Đậu Kiến Đức lắc đầu:

- Chuyện đầu hàng đó cơ bản không hề thật lòng, y thuần túy chỉ muốn đục nước béo cò, chiếm đoạt Lạc Dương, sau đó ép thiên tử ra lệnh với chư hầu, chuyện ấy ngươi không cần để trong lòng.

- Nhưng bất kể Lý Mật có thật lòng hay không, chí ít ngoài mặt y cũng làm rất tốt. Y trách chúng ta là phản tặc, quan trọng hơn là Dương Nguyên Khánh đông chinh lại không gây tổn hại đến lợi ích của y. Lý Mật cơ bản không muốn giúp chúng ta, chỉ vì vướng phải hiệp nghị đồng minh ngày trước mới không tiện cự tuyệt. Nhưng y đã đầu hàng triều Tùy nên sẽ tìm được cái cớ, đã là thần Tùy thì sao có thể lại giúp chúng ta, chủ công nói có đúng không?

Đậu Kiến Đức trầm ngâm hồi lâu mới nhẹ thở dài, y nói:

- Ngươi nói phải. Lý Mật một đời kiêu hùng, nếu không có lợi ích, sao y có thể trợ giúp không công cho chúng ta? Có điều nếu ta chiếm được bốn quận Thanh Châu, liệu Lý Mật có thẹn quá hóa giận hay không? Trái lại sẽ thừa dịp khi Dương Nguyên Khánh đông chinh mà tấn công ta, ta đang lo lắng về điều này.

- Chủ công, vậy thì phải xem biểu hiện của Vũ Văn Hóa Cập rồi, y có thể lôi kéo được Lý Mật, thế thì không thành vấn đề.

- Vũ Văn Hóa Cập!

Đậu Kiến Đức tự nói một mình, bất chợt cười lạnh một tiếng:

- Tên ngu xuẩn đó có thể lôi kéo được Lý Mật sao?

- Chủ công, tuy Vũ Văn Hóa Cập một đời vô năng, song đại tướng Trần Lăng thủ hạ của y thì rất lợi hại, chớ nên coi thường.

- Ta cũng hy vọng y có thể lôi kéo Lý Mật.

Đậu Kiến Đức thở dài, nhìn thấy một sĩ binh báo tin chạy đến trên quảng trường, thản nhiên nói:

- Hẳn là đã có tin tức của Vũ Văn Hóa Cập.

Ngoài cửa nhanh chóng có người bẩm báo:

- Vương gia, tình báo phương nam truyền đến.

- Vào đi!

Đậu Kiến Đức dùng mắt ra hiệu cho Tống Chính Bản, Tống Chính Bản cũng ngồi xuống. Một sĩ binh đưa tin nhanh chóng tiến vào, quỳ một gối nói:

- Bẩm báo Vương gia, hai trăm ngàn đại quân của Lý Mật cùng quân đội của Vũ Văn Hóa Cập đang tranh chấp ở quận Bành Thành, đã gần một tháng.

- Quả nhiên không nằm ngoài dự đoán của tiên sinh.

Đậu Kiến Đức cười vang, y phất tay lệnh cho sĩ binh báo tin lui đi, có phần hưng phấn nói với Tống Chính Bản:

- Cơ hội của chúng ta đã đến!

Tống Chính Bản cũng cười nói:

- Đoán chừng Vũ Văn Hóa Cập ngồi thuyền lên phía bắc, nhưng Hoàng Hà đóng băng khiến y khó mà đi được, chỉ có thể dừng lại ở quận Bành Thành. Một trăm ngàn quân đội trong tay y chính là quân chính quy của triều Tùy, sức chiến đấu rất mạnh, Lý Mật chưa chắc có thể dễ dàng tiêu diệt y. Ít ra cục diện g cho đến trước tháng hai năm sau sẽ không bị phá vỡ, chủ công có thể lợi dụng cơ hội này để thâu tóm Từ Viên Lãng.

Đậu Kiến Đức không kềm được kích động trong lòng, lập tức hạ lệnh:

- Truyền lệnh của ta, ta muốn xuống phía nam nghênh đón tân vương phi!

…..

Khi tuyết trắng bao phủ vùng Hà Bắc rộng lớn, quận Nhạn Môn cũng là băng tuyết ngập trời. Phía đông quận Nhạn Môn là trọng điểm phòng ngự của quân Tùy, có hai yếu đạo chiến lược tiến vào Hà Bắc, một đường là Quân Đô Hình, còn lại là Phi Hồ Hình.

Hai yếu đạo chiến lược đều mượn đường sông xuyên qua Thái Hành Sơn, phía trước là sông Tang Can, còn phía sau là Dịch Thủy, điểm khác biệt là chỉ có một đoạn Dịch Thủy trong đó. Từ huyện Phi Hồ đến huyện Dịch có thể đi đến lòng chảo sông Dịch Thủy, mà đoạn đường từ huyện Linh Khâu đến huyện Phi Hồ phải băng qua núi cao khe sâu, đường đi cực kì gian nguy.

Trình Giảo Kim thúc ngựa phóng nhanh, trong hai ngày đã đến được huyện Hà Khâu. Song y lại không ngờ chỉ sau vỏn vẹn nửa ngày, Dương Nguyên Khánh cũng đến huyện Hà Khâu. Tấn công huyện Dịch sự tình trọng đại, hắn vẫn có chút không yên tâm về Trình Giảo Kim.

Toàn bộ kế hoạch chiến lược của Dương Nguyên Khánh phân thành hai bước. Bước đầu hắn muốn tìm một chỗ dừng chân ở Hà Bắc trước tiên để lập căn cứ hậu cần, bước thứ hai là phát động thế công mùa xuân.

Dương Nguyên Khánh đã chọn nơi dừng chân là quận Thượng Cốc. Mùa đông năm Đại Nghiệp thứ bảy, hắn đã từng tiến đánh Vương Bạt Tu của quận Thượng Cốc, cực kỳ hiểu rõ tình hình tác chiến mùa đông ở nơi đây.

Quận Nhạn Môn tổng cộng có hai trăm ngàn trú quân, chủ tướng là Tần Quỳnh. Tần Quỳnh đang giữ chức Tả Kiêu Kỵ Vệ tướng quân, dưới trướng có hai Á tướng, một là Ngưu Tiến Đạt, một là Trình Giảo Kim. Trong đó Ngưu Tiến Đạt suất lĩnh năm ngàn quân đội trấn giữ phía bắc chốt quân An biên, giằng co với quân U Châu của La Nghệ. Trong khi đó Tần Quỳnh và Trình Giảo Kim suất lĩnh mười lăm ngàn quân đội đóng ở huyện Linh Khâu, chờ đợi mệnh lệnh tiến công Hà Bắc.

Đại doanh quân Tùy không ở trong huyện Linh Khâu, mà là cửa khe núi Phi Hồ ở phía đông nam huyện thành. Nơi đây có một dòng sông chảy qua, đại doanh quân Tùy đóng hạ trên một khoảng đất rộng ở bờ tây con sông.

Dương Nguyên Khánh dẫn theo Tần Quỳnh, Trình Giảo Kim cùng hơn trăm thân binh đến bên bờ sông Bạch Thủy. Đằng xa là lối vào Phi Hồ Hình có địa hình như miệng kèn, hai bên là đồi núi thấp được bao phủ bởi rừng cây rậm rạp. Đồi núi cao dần từ tây sang đông, nơi cao nhất là Thái Hành Sơn trùng điệp, trên núi còn có một đoạn Trường Thành thời Tần bị bỏ hoang.

- Ngươi thấy không?

Dương Nguyên Khánh chỉ roi ngựa hướng mảnh đất trống chật hẹp ở bờ bên kia, cảm khái nói với Tần Quỳnh:

- Năm Nhân Thọ thứ tư, ta thống lĩnh mười tám gia tướng cùng hơn trăm thủ hạ, khiến hơn một ngàn quân Dương Lượng đại bại. Thoáng chốc mười lăm năm đã qua đi, nhớ đến tựa như chuyện mới phát sinh ngày hôm qua. Khi ấy khí thế hừng hực, nghĩ lại quả thực khiến người hoài niệm!

Tần Quỳnh đang nghĩ đến nhiệm vụ mà Dương Nguyên Khánh giao cho, đoạt lấy huyện Phi Hồ và huyện Dịch, cảm thán của Dương Nguyên Khánh không thể khơi dậy sự đồng cảm nơi y. Trình Giảo Kim ở bên cạnh lại tiếp lời nói:

- Hiện tại tổng quản cũng khí thế hừng hực mà! Trong lúc nói chuyện, Ngụy Đao Nhi, không! Đậu Kiến Đức đã hoàn toàn sụp đổ.

Dương Nguyên Khánh khẽ cười, quay lại nói với Trình Giảo Kim:

- Ta nghe Từ Thế Tích nói, kế sách đoạt Hổ Lao quan của ngươi rất hay, vừa vặn lợi dụng nhược điểm nam nhân tham luyến nữ sắc, lần này ta hy vọng ngươi lại xuất binh đoạt quận Phi Hồ.

- Nhưng…

Trình Giảo Kim lạnh đến run cầm cập:

- Trời lạnh thế này, khỏa thân giả trang thành nữ nhân, quả thực không chịu được.

- Không nhất định phải giả thành nữ nhân, ngươi có thể nghĩ đến cách khác. Nếu ngươi hạ được huyện Phi Hồ, ta sẽ thưởng ba ngàn lượng bạc, bù đắp tổn thất cho ngươi, thế nào?

Dương Nguyên Khánh lòng ôm khích lệ chăm chú nhìn y.

Trình Giảo Kim nghĩ ngợi, trời lạnh thế này nam nhân thích gì nhất? Y đảo mắt một hồi, bỗng nhiên nghĩ ra cách rồi.

- Tổng quản, trong Phi Hồ Hình có thôn trang không?

- Có! Có một thôn trang khoảng hơn trăm hộ nhân khẩu, lấy săn bắn làm sinh kế.

- Vậy mạt tướng có thể thử xem sao!

- Tốt!

Dương Nguyên Khánh khen ngợi, cười nói với Tần Quỳnh:

- Để lão Trình đánh huyện Phi Hồ, Tần tướng quân đoạt huyện Dịch, ta sẽ ở huyện Hà Khâu đợi tin tốt của các ngươi.

Huyện Phi Hồ là một huyện nhỏ không đến một ngàn hộ nhân khẩu, nằm ở phía tây Thái Hành Sơn, nơi giao nhau của Hằng Sơn và Yên Sơn, là khởi nguồn của Lai Thủy và Dịch Thủy, vị trí địa lý cực kỳ quan trọng.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 645 : Kế đoạt Phi Hồ

Nơi này đồng thời cũng là một trạm trung chuyển của Phi Hồ Đạo, có thể đi thẳng đến lòng chảo sông Dịch Thủy. Đi thêm hơn hai trăm dặm về phía đông là đến huyện Dịch, huyện thành được xây dựng tên một ngọn đồi, thành trì kiên cố như pháo đài, dễ thủ khó công.

Với quân Tùy mà nói, huyện Phi Hồ là chốt đầu cầu đầu tiên không thể tránh khỏi nếu muốn đoạt quận Thượng Đảng. Huyện Phi Hồ cũng là cửa tây lớn của quận Thượng Đảng, cửa lớn của quận Thượng Đảng mà mở ra thì có thể tiến vào lòng chảo sông Dịch Thủy, xông thẳng vào nội địa quận Thượng Đảng. Vì huyện thành Phi Hồ nhỏ hẹp, không thể dung quá nhiều sĩ binh, trước mắt chỉ có hai ngàn trú binh do Ngụy Thiết Sinh – cháu của Ngụy Đao Nhi suất lĩnh.

Lúc này tuyết lớn đã phong tỏa đường đi của huyện Phi Hồ, chỗ tuyết đọng sâu nhất là tới ngang eo người. Trừ phi có đủ nhân lực dọn tuyết, bằng không đi lại ở Phi Hồ Đạo rất khó khăn. Thêm vào đó thời gian tiến công Hà Bắc của quân Tùy là mùa xuân sang năm, còn không nhất định là đi qua Tỉnh Hình hay là đi qua Phi Hồ Hình, vì vậy phòng ngự ở quận Phi Hồ không được nghiêm ngặt. Trời đã sắp chạng vạng tối, trên đầu thành cũng chỉ có loe hoe vài chục thủ quân.

Lúc này, đột nhiên có âm thanh lục lạc du dương truyền đến từ đằng xa. Có thủ quân phát hiện đó là một đội lạc đà, không ngờ lại đến từ Phi Hồ Đạo, khiến thủ quân kinh ngạc vạn phần, thế mà lại có kẻ có thể vượt qua Phi Hồ Đạo bị tuyết lớn bao trùm.

Bởi vì phát hiện bất thường nên cửa thành nhanh chóng đóng lại, cầu treo cũng được kéo cao. Một sĩ binh nhanh chân đến bẩm báo với tướng trấn giữ, sĩ binh trốn ngủ dưới thành đều nhao nhao chạy lên đầu thành, rướn cổ ngóng nhìn ra ngoài thành. Bọn họ đã trông thấy một đội thương nhân tiến đến thay vì là quân Tùy, kéo theo hơn một trăm đầu lạc đà. Thương nhân thông thường đều dùng lừa, tuy cũng có dùng lạc đà nhưng không thường gặp.

Mười mấy người đi trước vác theo không ít thú rừng, rất nhiều người nhận ra bọn họ là thợ săn ở trong Phi Hồ Hình, thường mang thú rừng đến huyện đổi lấy lương thực và muối. Thợ săn đi đầu họ Trương, tướng mạo đầu hoẵng não chuột, mọi người đều gọi y là Trương chuột.

- Trương chuột, đội lạc đà sau lưng làm gì vậy?

Một sĩ binh lớn tiếng hỏi.

- Là thương đội đến từ Thái Nguyên đi quận Trác, có mang theo thứ tốt.

- Thứ tốt gì vậy?

Đám sĩ binh nhốn nháo hỏi.

Trương chuột mỉm cười thần bí, cầm hồ lô nước bày ra vẻ uống rượu:

- Rượu!

Các sĩ binh bừng tỉnh đại ngộ, nhất thời trở nên kích động. Quận Thượng Cốc chiến loạn nhiều năm, lương thực luôn khan hiếm, căn bản không có lương để ủ rượu. Ngẫu nhiên có thể ủ chút rượu trái cây, nhưng rượu lại không đủ mạnh, cộng thêm khí hậu giá lạnh, cần phải uống rượu chế hàn. Vì thế nghe nói có rượu, đám sĩ binh trên đầu thành bắt đầu trở nên hỗn loạn.

- Ngụy tướng quân đến rồi!

Đám sĩ binh nhốn nháo tránh đường, một đại tướng ngoài ba mươi tuổi tiến đến, khuôn mặt tím đen, đầy vẻ dữ tợn, ánh mắt hung ác. Y là Ngụy Thiết Sinh, cháu của Ngụy Đao Nhi, tên hiệu là “Ngụy súc sinh”, gian dâm chém giết, không chuyện ác nào không làm. Người quận Thượng Cốc hận y thấu xương, y cũng tự biết dân oán mình sâu sắc, khó có thể chết già, vì vậy sống ngày nào hay ngày ấy.

- Ngụy tướng quân, là thương nhân bán rượu!

Các sĩ binh kích động hét to.

- Con mẹ nó, một bình nước tiểu ngựa cũng mua được các ngươi!

Ngụy Thiết Sinh chửi một tiếng, trông ra ngoài thành, phía trước là mười mấy thợ săn. Y cũng nhận ra, đằng sau là hơn một trăm đầu lạc đà, trên lạc đà chất đầy vò rượu, dẫn đầu là một nam nhân mặt đen, sau lưng là mấy chục người đồng hành.

Tuy Ngụy Thiết Sinh không phải là đại tướng tài giỏi, trước đây y chỉ là một tên vô lại, song y cũng biết một số thường thức. Hiện tại cách ngày quân Tùy tấn công Hà Bắc không còn xa nữa, y tất nhiên phải cảnh giác vạn phần, cộng thêm rất ít thương nhân đi đường vào mùa đông, nên y có chút hoài nghi đối với đội thương nhân này.

- Từ đâu đến, đi đâu?

Ngụy Thiết Sinh hung ác hỏi.

Nam nhân mặt đen chính là Trình Giảo Kim, trước đây y cũng vào nam ra bắc, lại từng ở trong trại Ngõa Cương, y biết cách đối phó với đám loạn phỉ lâu la này.

Y tiến đến, hét to như muốn phá thủng chiêng:

- Trên núi đi Bạch Hổ, trong nước du ngoạn Thanh Long, hôm nay từ nơi trù phú đi ngang qua, trước khi đến quận Trác chỉ đủ tiền để ăn cơm. Chiếu theo quy củ dâng lên hai phần, mong vị quân gia này lưu lại cho chúng tôi một con đường sống, sau khi hồi hương sẽ thắp một nén hương trong miếu Quan đế, cầu cho quân gia được trường sinh.

- Nói năng rất khá!

Ngụy Thiết Sinh có chút thiện cảm với Trình Giảo Kim, lại hỏi:

- Ta thấy mặt ngươi hơi quen.

Đây cũng là tiếng lóng, ý muốn hỏi Trình Giảo Kim có từng đụng phải đám loạn phỉ trên đường đi hay không, Trình Giảo Kim nhếch miệng cười:

- Từng chạm trán với Tống Kim Cương mấy ngày, vì tên khốn chẳng tài cán đó nên các huynh đệ đều đã tản đi. Sau đó cướp được lạc đà của một đội thương nhân, chúng tôi cũng làm ăn buôn bán nhỏ rày đây mai đó.

- Đó là rượu phải không?

- Con mẹ đó, là nước tiểu ngựa pha với nước!

Ngụy Thiết Sinh bật cười, trong quân Tùy không thể nào có một tên khốn như thế, y phất tay:

- Cho bọn họ vào!

Cầu treo hạ xuống, cửa thành mở ra, đám sĩ binh ra khỏi thành kiểm soát người, tịch thu hết đao tùy thân của bọn họ. Đội lạc đà tiến vào thành, Trình Giảo Kim chỉ vào rượu chất trên lạc đà nói nói Ngụy Thiết Sinh:

- Tổng cộng một ngàn vò, ca ca có thể lấy hai trăm vò.

Ngụy Thiết Sinh cũng không khách khí, phất tay hạ lệnh:

- Lấy hai trăm vò rượu!

Các sĩ binh nhao nhao đi lấy rượu. Ngụy Thiết Sinh đánh giá Trình Giảo Kim qua một lượt, thấy dáng vẻ y có phần thô lỗ ctráng bèn hỏi:

- Huynh đệ họ gì? Là người phương nào?

- Tiểu đệ là Trình Tri Tiết, người quận Đông.

Trình Tri Tiết là Tự do phụ thân của Trình Giảo Kim đặt cho y, chưa từng dùng qua nên người bình thường không biết được. Ngụy Thiết Sinh gật đầu, lại hỏi:

- Bên ngoài Phi Hồ Đạo có quân Tùy không?

- Có, ở quận Linh Khâu. Nhưng thật ra đụng phải một đội kỵ binh tuần tra truy vấn chúng tôi cả nửa ngày, nói chúng tôi không có nộp thuế, hiểu được ý tứ của bọn chúng, đưa mấy chục vò rượu liền được thả đi. Con mẹ nó, buôn bán một chút không hề dễ ăn mà! Đúng là lên núi vẫn vui hơn.

Ngụy Thiết Sinh nhéo nhéo cánh tay y, cơ bắp cực kì rắn chắc, Ngụy Thiết Sinh liền cười nói:

- Nếu đã muốn lên núi, vậy thì theo ta đi!

Trình Giảo Kim nhếch miệng cười nói:

- Đợi đệ bán xong chỗ rượu này rồi tính sau. Thật không dám giấu, rượu cùng lạc đà đều do chúng tôi cướp được, nghe nói ở quận Trác có thể bán giá cao. Đợi chúng tôi bán hết rượu, đến vui vẻ trong thanh lâu vài ngày rồi lại đến nhờ cậy ca ca.

Ngụy Thiết Sinh và Trình Giảo Kim nói chuyện rất ăn ý, liền quyết định lưu y ở lại, Ngụy Thiết Sinh vỗ vỗ vai y cười nói:

- Muốn nữ nhân không phải rất dễ sao? Nơi này của ca ca cũng có, nhị thúc ta là Hoàng đế Đại Ngụy, ta là Binh bộ Thượng Thư, Phiêu Kỵ Đại tướng quân. Ngươi đi theo ca ca, ta bảo đảm ngươi sẽ được làm tướng quân, muốn làm thị lang hay thiếu khanh đều tùy vào ngươi.

Trình Giảo Kim nheo mắt nói:

- Làm quan có gì hay, vẫn là muốn uống rượu chén lớn, ăn nhiều thịt ngon, thấy người không thuận mắt thì cho một đấm, thấy thích nữ nhân nào thì ra tay cướp đoạt, vậy mới là con mẹ nó sảng khoái!

- Hay! Nói hay lắm, huynh đệ chúng ta tính khí hợp nhau, không cho ngươi đi, nhất định phải lưu lại, hôm nay ca ca giúp ngươi đón gió tẩy trần.

Ngụy Thiết Sinh nói chuyện với Trình Giảo Kim rất hợp ý, từng câu từng lời của Trình Giảo Kim đều nói trúng tâm can Ngụy Thiết Sinh, song y lại không biết Trình Giảo Kim có thể nói chuyện ăn ý với bất kỳ ai.

….

Buổi tối, mười ngàn quân Tùy đã tiếp cận huyện Phi Hồ, họ ẩn mình trong một khu rừng cách đó ba dặm, chờ đợi tin tức trong huyện thành. Một số sĩ binh quân Tùy không muốn nhập bọn bị Trình Giảo Kim thả về mang theo tin tức, Trình Giảo Kim đã kết bái huynh đệ cùng với tướng trấn giữ Ngụy Thiết Sinh, trở thành phó tướng thủ quân huyện Phi Hồ, tối nay sắp công phá thành.

Tần Quỳnh lập tức ngã bật người khỏi cây tùng, ánh mắt lộ vẻ đăm chiêu. Nếu nói Trình Giảo Kim đoạt được Hổ Lao quan là sai kế, đoạt cung Phần Dương là nhờ vận may, đoạt huyện Vương Ốc chỉ là trùng hợp, thế thì Tần Quỳnh không thể không thừa nhận Trình Giảo Kim đoạt được huyện Phi Hồ quả thực là một loại thông minh.

Kỳ thực mưu lược không có gì gọi là sai kế hay chính sách, chỉ cần thành công thì đã là thượng sách. Nếu để Tần Quỳnh y đoạt huyện Phi Hồ thì sẽ có kết quả nào, chẳng qua chỉ là đánh lén rồi mạnh mẽ tấn công. Tần Quỳnh không thể bái huynh đệ với tướng trấn giữ, trở thành phó tướng của đối phương, càng không thể trơ trẽn hạ mê dược mãn tính trong rượu, sẽ tổn hại đến tên tuổi của y. Song Trình Giảo Kim lại có thể làm được, chỉ cần có thể thành công thì chẳng từ bất cứ thủ đoạn nào, điều này y không bằng Trình Giảo Kim.

Nếu cẩn thận đếm lại quân công, quân công của Trình Giảo Kim lại vượt xa y, nhưng vì sao Tần Quỳnh y lại trở thành chủ tướng mà không phải là Trình Giảo Kim? Nguyên nhân bởi vì xuất thân, Tần Quỳnh y là thuộc tướng của Trương Tu Đà, La Sĩ Tín cũng vậy, đây là một loại mắt xích về mặt cảm tình.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 646 : Ngụy Đao mặt đen

Bao gồm cả Giả Nhuận Phủ, không nói không rằng trở thành chủ quản hậu cần của quân bắc Tùy. Bao gồm luôn Ngưu Tiến Đạt, trở thành người đứng đầu trong Á tướng, vượt qua nguyên lão Mã Thiệu và Trình Giảo Kim nhiều lần lập kỳ công.

Đây là một dạng mắt xích về mặt cảm tình của tổng quản Dương Nguyên Khánh đối với Trương Tu Đà, khiến tướng lĩnh của phe Trương Tu Đà trong quân bắc Tùy đều được trọng dụng, nhưng trọng dung chưa hẳn là tin cậy. Tuy Dương Nguyên Khánh luôn miệng nói không yên tâm về Trình Giảo Kim nên đích thân đến quận Nhạn Môn bố trí, nhưng Tần Quỳnh biết nếu Dương Nguyên Khánh thật sự lo lắng về Trình Giảo Kim thì sẽ không để y đoạt huyện Phi Hổ, còn Tần Quỳnh mới thực sự là người mà tổng quản không yên tâm.

Tần Quỳnh được trọng dụng không nhờ vào quân công, mà là nhờ quan hệ của Trương Tu Đà. Điều này khiến Tần Quỳnh cảm nhận được một nguy cơ sâu sắc, y không thể cứ mãi dựa vào thế lực cũ của Trương Tu Đà. Nếu y không thể biểu hiện trí tuệ, tài cán mà chủ tướng nên có, sớm muộn gì cũng bị người đến sau đào thải.

Lúc này, Tần Quỳnh ngầm hạ quyết tâm, bất luận thế nào y cũng phải đoạt được huyện Dịch, lập nên một đại công chân chính.

…..

Trong một tòa nhà lớn ở huyện thành Phi Hồ, mùi thịt nướng vẫn lượn lờ giữa không trung tòa nhà, đống lửa trong sân đã dần lụi tàn, vò rượu ngổn ngang khắp nơi. Hầu như hai ngàn sĩ binh thủ thành đều uống say khướt, nằm vất vưởng trên mặt đất. Trên hành lang, trong phòng, trong đình, đâu đâu cũng thấy sĩ binh nằm lăn ra đất, bọn họ dường như không màng đến ban đêm rét lạnh.

Trình Giảo Kim nằm cạnh đống lửa, nằm ngáy khò khò cũng như bao kẻ khác, kế bên là Ngụy Thiết Sinh uống say như chết gối đầu lên đùi y. Bốn bề một mảnh yên tĩnh, chỉ còn tiếng gió xào xạc thổi qua trên đỉnh đầu.

Lúc này, Trình Giảo Kim đột nhiên mở mắt, y đã đổi rượu mình uống thành rượu dỏm, chỉ mê dược mãn tính mới có thể khiến người say. Tuy Trình Giảo Kim cũng uống được nửa vò rượu, song trước đó y đã ăn thuốc giải nên không hề bị mê man.

Trình Giảo Kim chậm rãi đứng dậy, tức thì từng thủ hạ của y cũng đứng dậy theo. Bọn họ đá vào sĩ binh ở bốn phía, tất cả đều không có động tĩnh.

- Tướng quân, đã uống say hết rồi.

- Xách vài hũ rượu đem đến chỗ thủ quân ở cửa thành, chuốc cho bọn chúng say hết đi.

Trình Giảo Kim vừa hạ lệnh, mấy chục thủ hạ xách vò rượu lảo đảo hướng về cửa thành. Tuy là rượu dỏm nhưng vì uống nhiều, hoặc nhiều hoặc ít cũng sẽ bị say.

Trình Giảo Kim quỳ xuống trước mặt Ngụy Thiết Sinh, vỗ vỗ mặt y:

- Đại ca, tỉnh dậy! Đại ca!

Bất luận y vỗ thế nào, Ngụy Thiết Sinh vẫn ngủ say không tỉnh. Trình Giảo Kim trầm mặt, thấp giọng chửi:

- Con mẹ nó, cười theo ngươi làm quai hàm lão tử muốn chua luôn, hừ! Thứ đồ chim cái thá gì, xứng làm đại ca của Trình Giảo Kim ta sao?

Trình Giảo Kim nổi lòng xấu, rút đao ra, định chém cổ của Ngụy Thiết Sinh, chợt y có chút do dự. Ngụy Thiết Sinh từng kết bái với Trình Giảo Kim, cứ thế mà giết thì sẽ bại hoại tên tuổi của y, sẽ gặp báo ứng, y khá mê tín với chuyện này. Trình Giảo Kim lập tức gọi một thủ hạ đến, đưa đao cho thủ hạ:

- Chém đầu tên thủ lĩnh đạo tặc này đi!

Sĩ binh giơ đao lên, một nhát chém đứt đầu Ngụy Thiết Sinh. Trình Giảo Kim cười ha hả, nhặt đầu người ném cho thủ hạ:

- Công lao này nhường cho ngươi, tiền ta nợ ngươi xóa bỏ hết đi!

Y xoay người sải bước đến cửa thành, lúc này có một sĩ binh chạy về:

- Tướng quân, toàn bộ thủ quân ở cửa thành đã say hết rồi.

Trình Giảo Kim bĩu môi khinh thường:

- Lão tử biết đám khốn này sẽ uống trộm rượu mà.

Y chỉ chiến đao hướng về thành lâu hạ lệnh:

- Đốt lửa mở thành!

Lát sau, thành lâu đốt lửa, ngọn lửa phụt cháy phừng phực, cực kỳ sáng rực trong đêm tối. Cầu treo được hạ xuống, cửa thành ầm ầm mở ra.

Quân Tùy trốn trong rừng thấy lửa cháy mãnh liệt đều trở nên phấn chấn, Tần Quỳnh hạ lệnh một tiếng:

- Xông vào thành!

Mười ngàn quân Tùy lao ra khỏi khu rừng, xông về phía huyện Phi Hồ.

Giữa trưa hôm sau, Dương Nguyên Khánh dẫn theo ba ngàn quân đã đến huyện Phi Hồ. Kỳ thực lo lắng của Tần Quỳnh chỉ là một dạng không tự tin vào chính mình, suy đoán của y không hề chính xác. Dương Nguyên Khánh đích thân đến đốc chiến không phải vì không tin y mà là ngược lại, chính vì tín nhiệm nên hắn mới để Tần Quỳnh chủ quản quận Nhạn Môn, đó là nơi bắc Tùy sắp phát động chiến dịch Hà Bắc.

Chỉ là chiến dịch này quá quan trọng nên hắn mới đích thân đến xem xét, có thể thuận lợi đoạt được quận Thượng Cốc hay không, toàn bộ chiến dịch Hà Bắc có thể triển khai thuận lợi hay không.

Sở dĩ để Tần Quỳnh đánh huyện Dịch là vì huyện Dịch khó đánh hơn, đó là quận trị của quận Thượng Cốc, thành trì cao to rộng lớn. Ngụy Đao Nhi đã đặt trọng binh đồn trú ở huyện Dịch, Trình Giảo Kim không thể đánh nổi, chỉ có thể cậy nhờ năng lực thống soái của Tần Quỳnh, có lẽ có thể đánh hạ.

Đương nhiên Dương Nguyên Khánh sẽ không đặt trứng gà vào một cái giỏ. Hắn khảo nghiệm qua ba phương án, phương án Phi Hồ Hình chỉ là một trong số đó, kế tiếp là phương án Tỉnh Hình, có La Sĩ Tín suất lĩnh bốn mươi ngàn quân bố trí ở trong Tỉnh Hình. Nếu Tần Quỳnh không đoạt được quận Thượng Cốc thì phương án Tỉnh Hình sẽ được truy động, La Sĩ Tín dẫn quân tấn công quận Hằng Sơn, khiến quận Hằng Sơn trở thành chiếc cầu tiến công Hà Bắc của quân Tùy, có điều quận Hằng Sơn tương đối khó đánh, sẽ phải trả giá bởi rất nhiều thương vong.

Còn lại là phương án Hà Nội, Từ Thế Tích cũng dẫn ba mươi ngàn quân bố trí ở Hà Nội. Một khi hai phương án trước đều thất bại thì phương án Hà Nội sẽ được truy động, Từ Thế Tích dẫn quân tiến đánh quận An Dương, phối hợp cùng với quân nam Tùy tử thủ ở huyện Nghiệp. Có điều phương án này là trực tiếp đối mặt với Đậu Kiến Đức, Dương Nguyên Khánh không muốn dùng đến.

Vì vậy trong cả ba phương án, phương án Phi Hồ Hình là tối ưu nhất, Dương Nguyên Khánh rất kỳ vọng phương án này có thể thành công.

Quân đội của Dương Nguyên Khánh chậm rãi đến trước Phi Hồ Hình, Trình Giảo Kim ra nghênh đón, quỳ một gối hành lễ nói:

- Mạt tướng Trình Giảo Kim không phụ tổng quán phó thác, đã thuận lợi đoạt được quận Phi Hồ.

Dương Nguyên Khánh gật đầu khen ngợi:

- Làm rất tốt, ta sẽ ghi nhớ công đầu của ngươi.

Hắn lại nhìn vào trong thành, không thấy Tần Quỳnh bèn hỏi:

- Tần tướng quân đâu rồi?

- Hồi bẩm tổng quản, sáng sớm hôm qua Tần tướng quân đã dẫn quân tiến công huyện Dịch. Y nhờ mạt tướng nói lại với tổng quản, y nhất định sẽ đoạt được huyện Dịch, không để tổng quản thất vọng.

Dương Nguyên Khánh khẽ cau mày, hắn vốn muốn thương lượng với Tần Quỳnh về quân tình, không ngờ y lại vội vàng đi mất. Tuy Dương Nguyên Khánh có thể hiểu Tần Quỳnh sốt nuột muốn lập công, nhưng tâm thái này ngược lại sẽ khiến y khó mà bình tĩnh, dục tốc thì bất đạt, hơn nữa Tần Quỳnh cũng không đủ binh lực.

Dương Nguyên Khánh lấy ra một phong thư, quay lại nói với Ưng Dương lang tướng Đặng Trì Niên:

- Ngươi tức tốc dẫn theo hai ngàn sĩ binh đến trợ giúp Tần tướng quân trước, giao phong thư này cho y.

- Mạt tướng tuân mệnh!

Đặng Trì Niên tiếp lấy thư, liền dẫn theo hai ngàn sĩ binh chạy đến huyện Dịch. Dương Nguyên Khánh lập tức lệnh cho thân vệ:

- Có thể thả chim ưng đưa thư về Thái Nguyên rồi.

Một con chim ưng vỗ cánh bay vút lên trời, lượn vài vòng trên không trung rồi giương cánh bay về hướng tây nam.

…..

Huyện Dịch khó đánh hơn huyện Phi Hồ. Huyện Dịch là quận trị của quận Thượng Cốc, có trên mười ngàn hộ nhân khẩu, chu vi thành trì hai mươi dặm, tường thành cao to rộng lớn, có hai mươi ngàn trú quân. Tuy quận Thượng Cốc là nơi Ngụy Đao Nhi lập nghiệp, song đô thành của y lại ở huyện Chính Định thuộc quận Hằng Sơn. Gần huyện Chính Định có tám mươi ngàn quân đội tập trung, y lệnh cho tâm phúc là đại tướng Địch Tước Nhi dẫn hai mươi ngàn quân đóng giữ quận Thượng Cốc, binh lực gần như tập trung trong thành huyện Dịch.

Huyện Dịch khó đánh không phải chỉ bởi bản thân thành trì khó đánh, mà còn vì huyện Dịch nằm sâu trong quận Thượng Cốc, quân Tùy tiến vào rất dễ bị phát hiện. Khác với quận Phi Hồ không biết quân Tùy đến, có thể dùng kế đoạt, còn huyện Dịch gần như không thể dùng kế.

Tần Quỳnh suất lĩnh mười ngàn quân Tùy men theo lòng chảo sông Dịch Thủy cấp tốc tiến quân hướng về huyện Dịch. Ngày đông giá rét, nước sông đóng băng như một dải bạch ngọc kéo dài bất tận về phương xa, cây cối hai bên bờ sông băng kết đầy những cành băng trong suốt óng ánh, đây chính là một cảnh sắc mỹ lệ tuyệt luân, nhưng cũng không dùng để lợi dụng tác chiến.

Lúc này, phía trước đội ngũ có chút rối loạn. Tần Quỳnh thúc ngựa lên trước, chỉ thấy hơn trăm thám báo áp giải vài tên thám tử quân Ngụy tiến đến. Thám tử mặc giáp da, bị trói chặt bằng dây thừng, quần áo rách nát, bọn họ bị ấn quỳ ngay trước ngựa Tần Quỳnh.

- Tướng quân, đây là mấy tên thám tử mà chúng tôi bắt được ở phía trước.

Tần Quỳnh xoay mình xuống ngựa, đến trước mặt một tên thám tử hỏi:

- Các ngươi tổng cộng có mấy người?

Thám tử cúi đầu im lặng. Tần Quỳnh thấy y đã có ý mở miệng, lại nhìn sang những người bên cạnh, phất tay:

- Áp giải những kẻ khác lui đi.

Những thám tử khác đều bị dẫn đi, chỉ còn lại một người, Tần Quỳnh lại nói với y:

- Chỉ cần ngươi chịu khai thật, ta sẽ thả ngươi đi, tuyệt không nuốt lời.

Hồi lâu sau thám tử thấp giọng nói:

- Chúng tôi có hết thảy hai mươi người, đã phát hiện được quân Tùy, có điều năm người chúng tôi chạy chậm nên mới bị bắt.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 647 : Điều kiện hà khắc (1+2)

- Những kẻ chạy trốn khác đã thấy quân Tùy rồi sao?

- Chúng tôi ẩn thân ở gốc đại thụ kia, thấy rất rõ ràng.

Tần Quỳnh ngước đầu nhìn, chỉ thấy ở nơi cao nhất lộ ra tán cây khổng lồ bị tuyết trắng bao phủ, cây cao chừng mười mấy trượng, chí ít cũng trên cả ngàn năm, sừng sững đứng giữa không trung.

Quả thực nếu ẩn mình trong gốc đại thụ này, thì có thể thấy rõ ràng tình hình trong mười mấy dặm, Tần Quỳnh lại hỏi y:

- Huyện Dịch có bao nhiêu trú quân? Chủ tướng là ai?

- Hồi bẩm tướng quân, huyện Dịch có hai mươi ngàn trú quân, chủ tướng là Địch Tước Nhi.

Tần Quỳnh lại hỏi y mười mấy vấn đề, bao gồm trang bị, lương thực, lòng dân,...v.v… Thám tử có thể trả lời tất cả, trên cơ bản đều là thật. Lúc này Tần Quỳnh đại để hiểu được tình hình huyện Dịch, không ngờ lại có hai mươi ngàn trú quân, mà Tần Quỳnh chỉ có mười ngàn người, cũng không mang theo vũ khí công thành, như thế sẽ rất bất lợi, có điều trang bị cùng sĩ khí của quân Tùy lại vượt xa đối phương. Từ giáp da trên người đối phương cho thấy, hơn nữa chỉ có thám báo và thân binh mới có thể mặc giáp da, những sĩ binh khác đều mặc lam lũ, lúc thường cũng ăn không no, sĩ khí cực kì thấp.

Tần Quỳnh dù sao cũng là đại tướng có kinh nghiệm phong phú, y nhanh chóng phân tích điểm có lợi và bất lợi của mình, y cũng ý thức được mình không cần phải hấp tấp tiến quân. Đối phương đã biết y sẽ đến, vội vàng tiến quân sẽ làm tiêu hao rất nhiều thể lực sĩ binh, ngược lại sẽ đẩy y vào thế bị động.

Về phần tấn công thành trì, Tần Quỳnh nhất thời cũng không có kế sách nào khả thi, cũng may có thể thấy đại thụ thẳng tắp cao vút ở bốn phía, rất thích hợp chế tác vũ khí công thành.

Nghĩ đến đây, Tần Quỳnh lập tức hạ lệnh:

- Truyền lệnh của ta, đội ngũ nghỉ ngơi ở đây!

Lính Tùy đã hành quân gấp suốt một ngày, ai nấy đều đã mệt mỏi rã rời, mọi người nhốn nháo tìm chỗ ngồi xuống nghỉ ngơi, uống nước ăn lương khô, thám tử đó lại rụt rè nói:

- Tướng quân, ta đã khai hết toàn bộ, ngài có thể thả ta về nhà được không?

Tần Quỳnh cười nói:

- Hiện tại thả thì sợ ngươi sẽ tiết lộ quân cơ của ta, đợi giao chiến xong ta sẽ thả ngươi, còn thưởng cho ngươi tiền và lương thực.

- Đa tạ tướng quân!

Tần Quỳnh tìm một tảng đá lớn ngồi xuống, tiếp lấy miếng bánh mà sĩ binh đưa cho, vừa từ tốn ăn, vừa suy nghĩ kế sách phá thành.

……

Sỡ dĩ Dương Nguyên Khánh chọn Ngụy Đao Nhi làm cửa đột phá khi tiến công Hà Bắc, chính vì Ngụy Đao Nhi là kẻ yếu nhất trong toàn bộ thế lực Hà Bắc. Tuy y được hiệu xưng một trăm ngàn đại quân, song trên thực tế y chỉ khống chế quận Thượng Cốc và quận Hằng Sơn. Dân lực nghiêm trọng không đủ, hầu như toàn dân đều là lính, từ lão ông sáu mươi tuổi cho đến thiếu niên mười hai, mười ba tuổi, tất cả đều bị bắt buộc tòng quân, vì vậy mới miễn cưỡng tập trung được một trăm ngàn đại quân.

Ngụy Đao Nhi gần như vẫn còn kéo dài hình thức tạo phản từ mấy năm trước, toàn dân là lính, tát ao bắt cá, phá hoại nghiêm trọng sức sản xuất, hình thức này trước mắt đã bị mấy thế lực lớn vứt bỏ.

Song Ngụy Đao Nhi cũng may mắn khi cướp được vài kho lương ở quận Trác, khuân vác mấy chục triệu cân lương thực về quận Hằng Sơn, chỗ lương thực này miễn cưỡng duy trì mức độ quân lương thấp nhất của y. Thêm vào đó, Đậu Kiến Đức vì cổ vũ Ngụy Đao Nhi đối kháng La Nghệ ở U Châu, cũng gửi cho y một ít vũ khí và giáp da, lại trợ giúp một chút về mặt lương thực. Điều này khiến một trăm ngàn đại quân của Ngụy Đao Nhi có thể tiếp tục duy trì, hơn nữa vì La Nghệ có chút kiêng kị với Đậu Kiến Đức, cho nên cũng chần chừ không động thủ với Ngụy Đao Nhi.

Ngụy Đao Nhi tựa như một con thằn lằn sinh tồn trong khe hẹp, dựa dẫm vào Đậu Kiến Đức, cực khổ giữ lấy một mảnh địa bàn của mình. Mấy tháng trước, y muốn nhân cơ hội chủ lực quân Tùy giằng co với quân của Lý Thế Dân ở phía nam Hà Đông Đạo để xuất binh cướp bóc quận Thái Nguyên, nhưng sau cùng y không có can đảm này.

Y sợ nhất là quân Tùy sẽ đông chinh Hà Bắc, nhưng quân Tùy cũng không vì y sợ hãi mà bỏ qua đông chinh. Sau khi đạt thành hiệp nghị hòa giải với quân Đường, cuộc đông chinh của quân Tùy sẽ mở màn.

Đầu năm, Ngụy Đao Nhi đăng cơ làm Ngụy đế, y cho dựng một cung điện của mình mô phỏng theo cung Kim Thành của Đậu Kiến Đức, lấy hai mươi bốn phi tử. Có điều y không có đủ nhân tài đảm nhiệm công khanh đại thần, khiến triều đình của y trở thành một cái thùng rỗng, phong danh hiệu đại thần cho các tướng thuộc cấp, vì thế đã trở thành trò cười cho thiên hạ.

Mấy ngày nay, Ngụy Đao Nhi lo lắng đến cực điểm, y cũng nghe nói Tùy, Đường đã đạt thành hiệp nghị hòa giải, phía nam lại kết minh cùng Vương Thế Sung, vậy thì bước tiếp theo của quân Tùy tất nhiên là đông chinh Hà Bắc. Ngụy Đao Nhi y chính là người bị chém đầu tiên, điều này khiến lòng y vừa phiền vừa loạn, y không biết nên làm thế nào mới tốt.

Trước một chiếc gương đồng lớn, Ngụy Đao Nhi thân mặc long bào, đầu đội xung thiên quan (mũ miện của vua), nheo mắt tự đánh giá mình trong gương, y có thể mặc long bào này được bao lâu?

Y khẽ vuốt một vết sẹo dài trên mặt. Vết sXợn người này chính là kỷ niệm lưu lại từ thời niên thiếu, theo y đã tròn ba chục năm, lẽ nào vết sẹo này phải biến mất ở nhân gian hay sao?

Ngụy Đao Nhi thở dài trong bụng, y thực không cam lòng, nhưng có thể làm gì đây? Quân đội của y có thể địch lại quân Tùy tinh nhuệ hay không? Ngụy Đao Nhi hiểu rõ, quân đội của y chính là một đám ô hợp, đến quân đội của Lưu Vũ Chu còn không đánh lại nổi thì sao có thể đối phó với quân đội của Dương Nguyên Khánh.

Đúng lúc này, thị vệ ngoài cửa cung bẩm báo:

- Bẩm báo vương thượng, có sứ giả bắc Tùy đến cầu kiến!

Tinh thần Ngụy Đao Nhi chấn động, vội nói:

- Nhanh mời y vào!

Lòng y lại dấy lên một tia hy vọng, sứ giả bắc Tùy tìm đến mình vì chuyện gì?

Lát sau, thị vệ dẫn vào một nam tử ngoài ba mươi, chắp tay thi lễ với Ngụy Đao Nhi:

- Tại hạ là Thiếu Khanh Lưu Sùng Vận của Hồng Lư Tự triều Tùy, phụng mệnh Sở vương điện hạ đặc biệt đến đàm luận điều kiện với Ngụy tướng quân để tránh hai bên giao chiến.

Mặc dù đối phương xưng y là Ngụy tướng quân mà không phải là Hoàng đế, song Ngụy Đao Nhi lúc này một chút cũng không màng đến. Y tựa như người sắp chết đuối đột nhiên vớ được cọc gỗ, vì kích động mà cơ mặt hơi co giật, vết sẹo cũng trở nên cực kỳ dữ tợn, không ngờ quân Tùy lại muốn đàm phán với y.

Y tận lực khắc chế kích động trong lòng, chắp tay nói với Lưu Sùng Vận:

- Lưu Thiếu khanh, mời ngồi!

Lưu Sùng Vận ngồi xuống, Ngụy Đao Nhi cũng ngồi theo, y hít thật sâu rồi nói:

- Lưu Thiếu khanh hãy nói đi! Sở vương điện hạ có điều kiện gì?

Ngụy Đao Nhi hiểu rõ, điều kiện của Dương Nguyên Khánh nhất định vô cùng hà khắc. Y có thể tiếp nhận hay không là một chuyện, nhưng chí ít y có được một tia hy vọng, Ngụy Đao Nhi cực kỳ khẩn trương chăm chú nhìn Lưu Sùng Vận.

Lưu Sùng Vận cười nói, không nhanh cũng không chậm:

- Lần này chúng tôi đông tiến, trên thực tế là vì tấn công La Nghệ ở U Châu, vì vậy mới lựa chọn đi qua Phi Hồ Đạo. Chúng tôi đã đoạt được huyện Phi Hồ, lính sắp đến dưới thành huyện Dịch, thiết nghĩ Ngụy tướng quân cũng đã biết. Điều kiện của chúng tôi chính là mong quý quân có thể nhượng lại quận Thượng Cốc, như thế chúng tôi có thể tạm thời đình chỉ tấn công quận Hằng Sơn.

Trái tim của Ngụy Đao Nhi tức thì trở nên thấp thỏm, điều kiện của đối phương quả nhiên hà khắc, không ngờ là nhượng lại quận Thượng Cốc. Y chỉ có hết thảy hai quận, nhượng lại Thượng Cốc thì y chỉ còn quận Hằng Sơn, điều này không khỏi có phần quá đáng.

Nhưng Ngụy Đao Nhi cũng biết, đối phương tiến quân đến Hà Bắc đã ở thế tất nhiên. Hoặc là đối phương đánh hạ quận Thượng Cốc, hoặc là y nhượng lại quận Thượng Cốc, quả thực không có con đường thứ ba để đi. Chỉ là trước đó không lâu Đậu Kiến Đức còn phái sứ giả đến nói với y, muốn y phải bảo vệ quận Thượng Cốc và quận Hằng Sơn, nếu hiện tại y đáp ứng nhượng lại quận Thượng Cốc thì sao có thể ăn nói với Đậu Kiến Đức?

Ngụy Đao Nhi chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong cung điện, y thực tại không thể định được chủ ý. Kỳ thực y vẫn ôm một tia hy vọng, chính là Đậu Kiến Đức sẽ trợ giúp cho mình, nếu y đáp ứng điều kiện của quân Tùy, vậy thì y sẽ hoàn toàn đánh mất sự trợ giúp của Đậu Kiến Đức.

Lúc này, một thị vệ vội vàng tiến vào đại điện, đến cạnh Ngụy Đao Nhi thấp giọng nói:

- Vương thượng, Thổ Môn Quan truyền đến tin tức khẩn cấp, mấy ngàn quân Tùy tiên phong đã vượt qua Tỉnh Hình đến Thổ Môn Quan, trước mắt đang giằng co với thủ quân của chúng ta ở Thổ Môn Quan.

Tin tức ngoài ý muốn này khiến Ngụy Đao Nhi vừa kinh hãi vừa giận, phẫn nộ nói với Lưu Sùng Vận:

- Chẳng phải các ngươi nói sẽ không tấn công quận Hằng Sơn ư? Nhưng quân của các ngươi đã đi qua Tỉnh Hình đến Thổ Môn Quan rồi, ngươi giải thích thế nào đây?

Lưu Sùng Vận nói không chút hoang mang:

- Ta đã nói chỉ cần các người chịu nhượng lại quận Thượng Cốc, chúng tôi có thể tạm thời đình chỉ tấn công quận Hằng Sơn. Nhưng hiện tại Ngụy tướng quân cũng không hạ lệnh nhượng lại quận Thượng Cốc, đương nhiên quân Tùy sẽ không đình chỉ dụng binh, Ngụy tướng quân hiểu chứ?

Ngụy Đao Nhi hung hăng nhìn chằm chằm vào Lưu Sùng Vận, y đương nhiên hiểu. Quân Tùy đến Thổ Môn Quan chính vì phối hợp với quan Tùy trước mắt tạo áp lực cho mình, y cực kỳ oán hận, hồi lâu sau mới hậm hực nói:

- Nếu ta nhượng lại quận Thượng Cốc, vậy quân Tùy sẽ lui khỏi Tỉnh Hình chứ?

Lưu Sùng Vận mỉm cười:

- Chúng tôi có thể lui về Tỉnh Hình Quan, nơi đó thuộc về địa giới Hà Đông rồi.

Ngụy Đao Nhi bất đắc dĩ, đoạn từ Tỉnh Hình Quan đến Thổ Môn Quan không có nguy hiểm nhưng có thể thủ, trên thực tế lui hay không cũng không có gì khác biệt, chẳng qua quân Tùy chỉ tỏ một thái độ, y trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Để ta suy nghĩ, muộn nhất là sáng mai sẽ trả lời Lưu Thiếu khanh.

…..

Tại huyện Dịch, mười ngàn quân Tùy đóng ở thành bắc, hai ngàn quân Tùy khác thì canh giữ đường sông Dịch Thủy, bảo vệ đường vận chuyển lương thảo. Tần Quỳnh đã nhận được thư của Dương Nguyên Khánh, biết hắn lợi dụng thủ đoạn chính trị ép buộc quân đội Ngụy Đao Nhi lui khỏi quận Thượng Cốc, thượng binh phạt mưu (cảnh giới cao nhất trong dụng binh là dùng mưu lược để thắng quân địch), không chiến mà có thể phục binh đương nhiên là hay nhất. Tần Quỳnh cũng là đại tướng có kinh nghiệm phong phú, y không có bất kỳ mâu thuẫn nào, mà tích cực phối hợp với Dương Nguyên Khánh tiến hành tạo áp lực chính trị với quân địch, y đóng quân ở ngoài thành bắc, rút quân đội ra khỏi thành nam.

Ngoài thành bắc cũng là tuyết phủ trắng xóa, tuyết đọng trong đồng hoang cao đến một trượng. Trên một khoảng trống cách tường thành chừng hai dặm, quân Tùy đã dọn sạch một mảnh đất trống, dựng trại đóng quân, từng đỉnh lều được sắp ngay hàng thẳng lối. Bọn họ đốn hạ cây cối, dựng nên một vòng tường rào bao quanh bốn phía, sáu tòa tháp điểu vọng dựng cao sừng sững. Một khúc sông nhỏ chảy xuyên qua doanh trại, băng kết thành từng lớp dày trên mặt sông, quân Tùy đục băng lấy nước, bận rộn nấu cơm.

Quân Tùy hạ trại ở đây đã được mười ngày, trong thời gian này quân Tùy không có bất kỳ hành động công thành nào, Tần Quỳnh vẫn nhẫn nại chờ đợi thời cuộc biến hóa.

Sáng sớm, sắc trời vừa rạng, hơn trăm quân Tùy chậm chạp đẩy một dụng cụ bắn đá to lớn ra khỏi đại doanh, men theo mặt sông nhỏ đóng băng sáng loáng hướng về phía tường thành. Hơn ngàn thủ quân trên thành lập tức tập trung, bọn họ không hề sợ hãi khẩn trương mà mang theo ánh mắt hưng phấn.

Hôm nay chủ tướng vẫn chưa đến, có lẽ bọn họ sẽ lấy được công văn mà quân Tùy ném tới. Dụng cụ bắn đá dừng lại cách tường thành chừng hai trăm bước, cố định trên vùng trống. Hơn trăm quân Tùy hò hét một tiếng, kéo mạnh cần ném đá, một sĩ binh trong đó đặt một quả cầu gỗ cực lớn vào bọc thép. Theo tiếng hạ lệnh, cần bắn dài bật ra, quả cầu gỗ văng mạnh hướng vào trong thành, vô số đôi mắt đều nhìn chằm chằm vào quả cầu gỗ này.

Mười ngày nay, quân Tùy đã ném đơn tuyên truyền đến lần thứ tư, ba lần trước không thấy hiệu quả. Tần Quỳnh hoài nghi tướng địch đã tịch thu, vì vậy trời vẫn chưa sáng, quân Tùy đã chấp hành ném lần thứ tư.

Quả cầu gỗ vẽ ra một đường cong trên không trung bay vào thành. Lần này quân Tùy đặc biệt nới lỏng mối cài của quả cầu gỗ, có lẽ vì sức gió quá lớn nên quả cầu đã bung ra giữa không trung, mấy ngàn tờ đơn tuyên truyền rơi tứ tán, mượn gió bắc lả tả rơi vào trong thành.

Trên đầu thành, các sĩ binh hét kinh một mảnh, nhốn nháo nhảy dựng lên bắt lấy đơn tuyên truyền bay trông không trung. Có sĩ binh bắt được năm, sáu phần nhét vào trong ngực, tuy bản thân không biết chữ, nhưng có thể tìm người biết chữ đọc cho, hơn nữa trên đơn còn có hình vẽ.

Do ba lần trước sau khi rơi xuống đất quả cầu mới vỡ ra, kết quả mọi công văn bên trong đều bị chủ tướng Địch Tước Nhi lệnh cho thân binh đoạt lấy, không ai xem được nội dung trong đó, mà hôm nay không ngờ trời chưa sáng thì quân Tùy đã đến, hơn nữa toàn bộ đều bị phát tán.

Quân Tùy phát tán đơn khiến chủ tướng Địch Tước Nhi cực kỳ khẩn trương, y đặc biệt lệnh cho thân binh thay phiên trực trên đầu thành, tập trung vào động tĩnh của quân Tùy. Một khắc sau khi đơn được truyền đi, Địch Tước Nhi nghe thấy liền tức tốc chạy đến. 

Y thấy đơn tuyên truyền đã bị phát tán khắp thành, không khỏi nổi trận lôi đình, lớn tiếng quát:

- Tất cả phải giao ra mọi công văn của quân Tùy, ai không giao sẽ xử tội thông đồng với địch.

Dưới áp lực uy cường của chủ tướng Địch Tước Nhi, đám sĩ binh không thể không giao truyền đơn. Địch Tước Nhi không chịu bỏ qua, y lệnh cho người lục soát toàn thân của từng sĩ binh trực vào sáng sớm, lại phái quân đội truy tìm truyền đơn trên khắp đường lớn hẻm nhỏ. Suốt một buổi sáng, hơn hai ngàn thân binh trực thuộc Địch Tước Nhi đều soát tìm truyền đơn trong từng nhà từng hộ, đám sĩ binh thừa cơ xảo trá vơ vét tài sản, náo loạn đến độ gà chó cũng không yên.

Địch Tước Nhi ước chừng năm mươi tuổi, từ nhỏ lớn lên cùng với Ngụy Đao Nhi, từng là bộ hạ của Man Thiên Vương Vương Bạt Tu. Năm Đại Nghiệp thứ bảy, Thời Nhậm U Châu tổng quản Dương Nguyên Khánh tiêu diệt Vương Bạt Tu, Địch Tước Nhi luôn ở nhà làm nông. Mãi đến mùa thu năm ngoái, Ngụy Đao Nhi đến cửa mời y cùng tạo phản, y liền trở thành phó tướng của Ngụy Đao Nhi, trợ giúp Ngụy Đao Nhi công thành cướp trại, lập không ít chiến công. Sau khi Ngụy Đao Nhi tự xưng đế liền khẳng khái phong y là Thượng Cốc Vương, phong quận Thượng Cốc là lãnh địa của y.

Trên thực tế, hai ngày trước Địch Tước Nhi đã nhận được ý chỉ của Ngụy Đao Nhi, lệnh y bỏ quận Thượng Cốc lui về phía nam. Có điều Địch Tước Nhi không cam tâm vứt bỏ thành trì rộng lớn của huyện Dịch, trong thành vẫn còn chín triệu sáu trăm ngàn cân lương thực, y nắm chắc bảo vệ huyện Dịch.

Trong vương triều chính thống, còn có tướng tại ngoại mệnh vua có điều không chịu, huống hồ triều đình của Ngụy Đao Nhi lại sơ sài như thế, quận Thượng Cốc là lãnh địa của Địch Tước Nhi, dính dáng đến lợi ích thiết thân của y, Địch Tước Nhi tuyệt sẽ không nguyện ý dễ dàng vứt bỏ lợi ích của mình.

Địch Tước Nhi chắp tay sau lưng lo lắng đi qua đi lại, y có thể mượn cớ không nhận được chim ưng đưa thư mà cự tuyệt lui quân, cũng có thể mượn cớ trời đông giá rét khó mà lui quân. Tóm lại, y muốn nghĩ cách kéo dài.

Kỳ thực không phải Địch Tước Nhi không muốn rút lui, mấu chốt là y vẫn chưa xác định rõ làm thế nào để bù đắp lại lợi ích bị tổn hại. Bè phái chư tướng như rừng dưới trướng Ngụy Đao Nhi, các huyện Tư Dương, Linh Thọ, Hành Đường, Phòng Sơn, Tỉnh Hình, Cửu Môn, Chân Định, Thạch Ấp,…v.v… của quận Hằng Sơn đều bị phong cho các đại tướng, nếu lui về quận Hằng Sơn thì sẽ bố trí y như thế nào? Chẳng lẽ cứ để y ở bên cạnh Ngụy Đao Nhi hay sao?

Lúc này, một viên quan quân đến cửa bẩm báo:

- Tướng quân, chúng tôi đã thu hồi được hai ngàn bảy trăm hai mươi tờ công văn quân Tùy ném vào thành.

Địch Tước Nhi bỗng xoay người hạ lệnh:

- Quân Tùy ném vào khẳng định là số tròn, hẳn là vẫn còn hai trăm tám mươi tờ, tiếp tục tịch thu, nghĩ mọi biện pháp đoạt lại cho ta.

Quan quân do dự một hồi, y muốn nói kỳ thực cơ bản không thể phòng được, nếu quân Tùy ném vào lúc nửa đêm thì bọn họ không thể lục tìm. Sau cùng quan quân không dám mở miệng, cúi đầu quay đi.

Địch Tước Nhi tâm phiền ý loạn, trên đơn tuyên truyền của quân Tùy hứa hẹn rất nhiều điều tốt đẹp, nếu sĩ binh của y thấy được thì quân tâm sẽ dao động nghiêm trọng.

….

Ráng chiều, thủ quân trên thành bắt đầu đổi gác, xôn xao xuống thành nghỉ ngơi. Một lão binh thừa dịp mọi người không phòng bị, móc ra mấy tờ truyền đơn từ một viên gạch hỏng của tường thành, nhanh chóng nhét vào trong ngực rồi vỗ mông theo đám sĩ binh xuống thành.

Trở về doanh trướng, mười mấy sĩ binh lập tức vây quanh lão binh:

- Vương đại ca, mau lấy ra xem.

- Đừng gấp! Đừng gấp! Chúng ta cứ xem bên trên viết gì trước đã!

Lão binh lấy ra một tở truyền đơn đặt lên đùi, các sĩ binh đều xúm lại xem. Trên truyền đơn có hình có chữ, bọn họ không biết chữ, hình vẽ là một nông dân đang dẫn trâu cày ruộng, một phụ nữ đang kéo sợi dệt vải trước mái nhà tranh, mấy đứa trẻ con chạy nhảy vui đùa, còn có một con chó và mấy con gà. Đây là chẳng qua là tình hình mà đám sĩ binh quen thuộc, đáng tiếc đã rời xa bọn họ, các sĩ binh không khỏi thở dài một tiếng.

- Gọi tiểu Lục Lang đến đây!

Lát sau, một người trẻ tuổi gầy gò được tìm đến, là một người biết chữ khó tìm được trong đám sĩ binh, lão binh vẫy tay gọi y:

- Lại mau, bên trên viết gì, đọc mọi người nghe thử.

Người trẻ tuổi tiếp lấy truyền đơn nhìn lướt qua, nói với mọi người:

- Trên đơn nói quân Tùy lại thực hành điền chế đồng đều ở quận Thượng Cốc một lần nữa, đinh nam nhận năm mươi mẫu ruộng, đinh nữ nhận mười mẫu cây dâu tằm, còn miễn thuế ba năm, ai đầu hàng đều có thể hưởng thụ, nếu không chịu đầu hàng thì sẽ không cho ruộng dư.

Trong lều lập tức trở nên ồn ào, có người hét to:

- Ta nói có sai đâu! Đường huynh (anh con chú bác) của ta đã được chia năm mươi mẫu thượng điền ở quận Mã Ấp, cũng miễn thuế ba năm, quả thực không hề nộp lên trên một chút gì cho thuế mùa thu năm nay.

Ánh mắt lão binh lóe sáng, lầm rầm nói:

- Con mẹ nó, khoản mua bán này không tồi chút nào!

Màn đêm buông xuống, đại doanh của quân Tùy vẫn cứ im lìm, trên tường thành phía bắc khoảng hơn một ngàn lính canh đang đi lại tuần tra, nhưng lính canh của ba phía tường thành còn lại thì rất thưa thớt, đặc biệt là cả khu tường thành phía nam dài mấy dặm lại chỉ có vài chục tên lính canh, bọn chúng tụ lại với nhau đốt lửa sưởi ấm, không ai chịu mạo hiểm tuần tra qua lại trong gió lạnh, cũng không cần thiết phải đi.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 648 : Ra quân phá kế

Ở đoạn phía đông của tường thành phía nam, lại càng không có tên lính canh nào. Lúc này, trên hành lang bên trong thành bỗng nhiên xuất hiện một nhóm bóng đen lớn, chừng hơn trăm người, bọn họ thấy dọc thành không có người, lũ lượt chạy lên đầu thành, cầm đầu chính là lão binh kia, ông ta dùng dây thừng buộc chặt phần tường nhô ra, ném sợi dây xuống thành, vẫy vẫy tay về phía sau, thấp giọng hô:

- Mọi người đi mau!

Từng bóng đen tiếp nối nhau khom lưng chạy về phía tường nhô ra, vịn dây thừng mà tuột xuống. Động tác của họ nhanh lẹ, chưa đến một khắc, hơn một trăm người đã xuống thành hết, co giò bỏ chạy, bước ngắn bước dài về phía bóng đêm.

…..

Bên trong đại trướng của quân Tùy đèn đuốc sáng trưng, chủ tướng Tần Quỳnh đứng trước một cái sa bàn nhỏ (dùng cát để mô phỏng địa hình, bản đồ) tỉ mỉ quan sát địa hình, đây là khối sa bàn về địa hình của vùng Tây Bắc Hà Bắc, bao gồm quận Thượng Cốc, quận Bác Lăng, quận Hằng Sơn cùng quận Trác.

Thái Nguyên đã truyền tin tức đến, Ngụy Đao Nhi đã hứa sẽ bỏ qua quận Thượng Cốc rút về phía nam, nếu như vậy thì vài ngày này, ở huyện Dịch quân địch đang rút lui khỏi thành trì, Tần Quỳnh chính là muốn suy xét xem quân của Địch Tước Nhi sẽ rút theo tuyến đường cụ thể nào.

Phía đông của quận Thượng Cốc là quận Trác, mặt tây là Thái Hành Sơn sừng sững, mặt chính nam là quận Bác Lăng, mặt tây nam là quận Hằng Sơn, mặt đông nam là quận Hà Gian. Từ quận Thượng Cốc đi thẳng tới quận Hằng Sơn cũng không dễ, nhất định phải vượt qua Ngũ Hồi Lĩnh và Hằng Sơn, điều này không thể làm được trong mùa đông, vậy chỉ có thể xuôi về phía nam quận Bác Lăng, qua huyện Đường, Hằng Dương để vào quận Hằng Sơn, Tần Quỳnh đã đoán biết tuyến đường rút quân của quân huyện Dịch.

Lúc này ông ta rất khâm phục mưu kế chiếm quận Thượng Cốc của Dương Nguyên Khánh, căn bản không cần phải liều chết tấn công huyện Dịch, chỉ cần tạo áp lực với Ngụy Đao Nhi, ép quân đội của y rút khỏi huyện Dịch, là có thể ở bên ngoài tiêu diệt toàn bộ hai mươi ngàn quân của quận Thượng Cốc.

Quân Tùy có thể không tấn công huyện Hằng Sơn, mà cũng tuyệt không thể để lính thủ thành của quận Thượng Cốc bỏ chạy dễ dàng như vậy được.

Lúc này, ngoài trướng, có binh lính bẩm báo:

- Khởi bẩm Tần tướng quân, có hơn trăm tên lính trong thành chạy ra, tự nguyện đầu hàng.

Tần Quỳnh một phen vui mừng, xem ra thư khuyên hàng ném vào thành hồi sáng sớm có hiệu quả rồi, ông ta lập tức bước nhanh ra ngoài đại bản doanh.

Ngoài của doanh tụ tập hơn một trăm thủ quân trốn từ trong thành ra, binh khí đã giao nộp cho lính tuần tra của quân Tùy, bọn họ đã đầu hàng, đang đợi sự bố trí của quân Tùy. Lúc này cửa doanh mở ra, một nhóm quân Tùy từ trong doanh chạy ra, dẫn đầu chính là chủ tướng Tần Quỳnh.

Ông ta nhìn thoáng qua những hàng binh này, thấy bọn họ ai nấy đều hoảng hốt không an, liền cao giọng hỏi:

- Trong số các ngươi, ai là người cầm đầu?

Lão binh đó bước ra, hành lễ nói:

- Tại hạ họ Vương, là người cầm đầu những huynh đệ này, xem qua thư khuyên hàng của quân Tùy, chúng tôi đều nguyện ý đầu hàng!

Tần Quỳnh gật gật đầu, lại hỏi ông ta:

- Sao lại chỉ có hơn trăm người các ngươi, những thủ quân khác đều không thể đầu hàng sao?

- Hồi bẩm tướng quân, mọi người đều là bị ép buộc làm binh sĩ, người muốn đầu hàng rất nhiều, chúng tôi chỉ là một nhóm chạy trốn nhanh nhất.

Lão binh vừa nói xong, trong bóng đêm truyền tới tiếng vó ngựa. Một gã lính trinh sát của quân Tùy chạy tới, ở trên ngựa chắp tay nói:

- Bẩm báo tướng quân, phía sau lại có hơn một trăm thủ quân từ trong thành trốn ra, đến đây đầu hàng.

Tần Quỳnh trong lòng mừng rỡ, chỉ muốn tiếp tục có quân đầu hàng tới, như vậy thì quân địch sẽ dần dần bị tan rã, đây là một dấu hiệu vô cùng tốt, huyện Dịch đã không còn thủ được bao lâu nữa.

... . .

Vào lúc canh ba, một tên lính báo tin vội vã chạy vào của chính quân nha :

- Không xong rồi, tướng quân, có chuyện rồi!

- Đồ khốn!

Địch Tước Nhi nghe xong bẩm báo, vỗ mạnh vào bàn một cái, không nén được giận hỏi:

- Tối nay ai trực?

- Là … là tướng quân Quách Tam.

Một tên lính báo tin e sợ nói.

Địch Tước Nhi nhảy dựng người lên, ra lệnh:

- Chém đầu tướng Quách Tam thị chúng cho ta.

Y nổi giận lôi đình đi ra ngoài quân nha, gần như là giận điên lên. Chỉ trong vòng một đêm đã có ba ngàn lính vượt thành chạy trốn, cố nhiên không có một sự ngăn cản nào, cũng không ai báo cáo với y, hơn nữa còn có kẻ muốn mở thành đầu hàng.

Y nhảy lên ngựa, chạy gấp một đường, thẳng tới cửa thành bắc. Cửa thành bắc đốt mấy trăm bó đuốc, chiếu rõ như ban ngày, hai mươi mấy tên tính bỏ trốn bị bắt lại, trói gô, quỳ trên mặt đất.

Một tướng lĩnh tiến lên bẩm báo:

- Bẩm báo Địch tướng quân, hai mươi bốn tên này có ý đồ mở thành đầu hàng, bị chúng anh em bắt được.

Địch Tước Nhi không nén được giận, tiến lên một cước đá ngã lăn một tên:

- Giết! Giết hết toàn bộ cho ta, đem đầu của bọn chúng treo trên cửa thành cảnh cáo, xem ai còn dám trốn nữa!

Lúc này, một binh sĩ chạy tới:

- Địch tướng quân, đánh nhau rồi!

- Cái gì đánh nhau rồi?

Địch Tước Nhi cả giận nói.

Tên lính thở hồng hộc thưa:

- Trong đại doanh… binh lính tranh đoạt tài vật đánh nhau, loạn thành một đám rồi.

Địch Tước Nhi hận tới giậm một chân, nhảy lên ngựa chạy tới hướng quân doanh. Đại doanh nằm ở thành tây, rộng khoảng mấy trăm mẫu, hai mươi ngàn binh sĩ trú trong đại doanh này. Lúc này đại doanh xảy ra nội loạn nghiêm trọng, khởi nguồn là do hơn ba ngàn binh sĩ đã bỏ trốn, để lại không ít các vật dụng, bọn binh sĩ cũng vì tranh giành những vật dụng này, đánh tới nỗi đầu rơi máu chảy.

Quân của Ngụy Đao Nhi thiếu hụt quân tư nghiêm trọng, thường xuyên phát sinh vì tranh giành lương thực quân trang mà đánh nhau kịch liệt, hơn nữa lần này là hơn mười ngàn người tham gia tranh đoạt ẩu đả, các quan quân cũng không ngăn lại được.

Địch Tước Nhi lúc chạy tới quân doanh, cuộc đại loạn đã sắp bình ổn, phó tướng Giang Tông của y dẫn hơn hai ngàn người trấn áp nghiêm ngặt, đuổi các binh sĩ về quân doanh của họ. Trong đại doanh đã là một cảnh hỗn độn, lều trại đổ lệch, ghế ngồi vỡ tan tành, giày và thảm rách te tua, mấy trăm binh sĩ bị thương nằm trên đất rên rỉ, thi thể của những binh sĩ bị giết chết đã được khiêng đi, khắp nơi là những vũng máu lớn đến kinh người.

- Rốt cuộc xảy ra chuyện gì ?

Địch Tước Nhi một cước đá lăn một tấm khiên, gầm lên giận dữ.

Phó tướng Giang Tông tiến lên khẩn trương nói:

- Tướng quân, lòng quân dao động nghiêm trọng, rất nhiều kẻ đều muốn chạy trốn, sợ là duy trì không nổi nữa.

Địch Tước Nhi giận dữ nhìn chằm chằm vào mặt đất đầy thương binh, ánh mắt lóe lên không ngừng, phó tướng Giang Tông lại khuyên y:

- Tướng quân, rút lui thôi! Rút tới quận Hằng Sơn đi, ít ra chúng ta hãy còn mười bảy ngàn quân, nếu như đều trốn hết, chúng ta trở về cũng không có chỗ đứng nữa.

Địch Tước Nhi vạn bất đắc dĩ, chỉ đành cắn răng hạ lệnh:

- Tất cả các binh sĩ còn lại thu dọn hành trang, mỗi người mang theo một túi gạo, lập tức xuất phát.

….

Vào lúc canh bốn, cửa thành phía nam của huyện Dịch mở toang, một nhánh quân chậm rãi ra khỏi cổng thành, rời khỏi huyện Dịch, đạp trên cánh đồng tuyết mênh mang tiến về phía nam.

Bầu trời đầy sao, mặt đất tuyết trắng xóa, hiện rõ những tia sáng nhỏ xíu, có thể thấy rõ ràng rừng rậm nơi xa và những dãy núi chập chùng liên miên.

Đội ngũ càng đi càng dài, giống như một sợi dây dài màu đen đang tiến về phía trước trong tuyết, nhưng nếu như nhìn kỹ, thì có thể phát hiện không ngừng có những điểm đen nhỏ từ sợi dây đen đó tách ra, chạy theo hướng ngược lại, khiến cho sợi dây màu đen càng ngày càng nhỏ, càng lúc càng ngắn.

Đi theo hướng nam ước chừng ba mươi dặm, đội ngũ rút về phía nam đã tới bên bờ sông Dịch Thủy. Dịch Thủy tuôn ra khỏi sơn cốc, từ dòng chảy nhỏ hẹp biến thành một con sông to lớn, băng tuyết ngập trời, giống như một tấm gương đang hiện ra trước mắt mọi người.

Mà mười bảy ngàn quân rút lui xuống phía nam từ lúc xuất phát tới lúc đến nơi không đủ mười ngàn người, chỉ trong ba mươi dặm ngắn ngủi đã có gần tám ngàn binh sĩ chạy trốn, vợ con của họ đều ở huyện Dịch và quận Thượng Cốc, không còn ai lại muốn đi quận Hằng Sơn, huống chi bọn họ còn vác theo một túi gạo.

Địch Tước Nhi trong lòng hết sức nặng nề, y không có cách gì ngăn cản những binh sĩ chạy trốn. Một cảm giác sợ hãi không tên bao phủ trong lòng y, quân Tùy liệu có truy kích bọn họ hay không, theo lý thì không thể, bọn họ là theo hiệp nghị đã đạt được chủ động rút quân, nhưng y rất sợ trong hiệp nghị chỉ là nhượng lại quận Hằng Sơn, m không có điều nào đảm bảo bọn họ an toàn trở về quận Hằng Sơn.

- Tướng quân mau nhìn!

Một binh sĩ chỉ về phía trước hô to.

Y nhìn thấy tình hình phía bên kia bờ, lòng của y lập tức rơi xuống vực sâu vạn trượng, cảnh tượng y sợ hãi nhất cuối cùng cũng xuất hiện. Một nhánh quân Tùy mấy ngàn tên cưỡi ngựa xuất hiện ở bên kia bờ sông Dịch Thủy, chặn đứng đường đi của bọn y.

- Tướng quân, phía sau cũng có!

Ở phía sau bọn họ, một nhánh mấy ngàn quân Tùy cũng cắt đứt đường lui, trước sau bị giáp kích, tất cả các binh sĩ đều sợ ngây người, từ từ buông bao gạo trên vai xuống.

Địch Tước Nhi giận dữ cắn môi, quay đầu lại nói với một gã thân binh:

- Lên nói với chủ tướng quân Tùy, triều Tùy và Hoàng đế chúng ta đã đạt thành hiệp nghị nhượng lại quận Thượng Cốc, chúng ta đang chấp hành hiệp nghị này, nhượng lại quận Thượng Cốc, xin bọn họ đừng ngăn trở chúng ta rút quân.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 648 : Ra quân phá kế

Tên thân binh giục ngựa chạy vội lên, la lớn:

- Tướng quân của ta nói, hai bên đã đạt thành hiệp nghị, chúng ta đang rút quân theo hiệp nghị, mong các vị đừng cản trở.

Tần Quỳnh cười ha hả, cao giọng nói:

- Trở về nói với Địch Tước Nhi, Hoàng đế Ngụy Đao Nhi của các người cũng không có yêu cầu quân Tùy cam kết để các người rút lui an toàn. Nếu y lập tức đầu hàng có thể tha y một mạng, còn không sông Dịch Thủy chính là nơi chôn thây của y.

Tên thân binh vừa trở về, Địch Tước Nhi không cần nghe gã nói, oán hận nói:

- Ta đã nghe thấy cả rồi!

Phó tướng Giang Tông tiến lên phía trước cẩn trọng nói :

- Tướng quân, phải chăng Ngụy Đao Nhi cố ý sơ xuất?

Địch Tước Nhi cắn răng nói :

- Ngươi nói quả không sai, y biết ta sau khi trở về không cách gì bố trí, ta hiểu y quá rõ, y chính là muốn quân Tùy tiêu diệt hết chúng ta.

- Thế chúng ta làm sao bây giờ?

Địch Tước Nhi quay đầu lại nhìn kỹ vẻ kinh hoàng trong mắt của binh sĩ, sớm đã không còn chút ý chí chiến đấu nào, từng người một bất cứ lúc nào đều chuẩn bị bỏ trốn, y không còn cách nào khác đành thở dài :

- Còn làm thế nào nữa? Quân không có ý chí chiến đấu, trước sau đều bị vây chặt. Ta và ngươi nếu còn muốn sống tiếp, trừ phi là đầu hàng, chứ không có con đường thứ hai nữa.

- Truyền lệnh của ta, bỏ vũ khí xuống đầu hàng!

Theo lệnh của Địch Tước Nhi truyền xuống, hơn chín ngàn binh lính của y từ từ bỏ vũ khí xuống, đầu hàng quân Tùy.

......

Đây là một cuộc chiến không có đổ máu, dưới áp lực chính trị mạnh mẽ, Ngụy Tước Nhi bị bức phải bỏ quận Thượng Cốc, quận Thượng Cốc sát nhập vào bản đồ của Bắc Tùy, khiến cho quân Tùy cuối cùng có được bàn đạp để tiến quân Hà Bắc. Ba ngày sau, Dương Nguyên Khánh đích thân soái lĩnh năm mươi ngàn quân Tùy qua Phi Hồ Hình tới quận Thượng Cốc.

Triều đình bắc Tùy cũng bắt đầu động viên toàn diện, quan phủ năm quận Thái Nguyên, Lâu Phiền, Ly Thạch, Mã Ấp cùng với quận Tây Hà đã động viên một trăm năm mươi ngàn dân phu tề tựu tại Thái Nguyên, trợ giúp mang một lượng lớn lương thảo và các loại quân tư hướng tới quận Thượng Cốc, cuộc chiến tranh cơ khí bắt đầu phát động vào thời khắc đầu tháng mười hai lạnh giá nhất.

Sáng sớm, đại quân hùng mạnh do Dương Nguyên Khánh soái lĩnh đã đến huyện Dịch, đại quân năm mươi ngàn người bắt đầu ở bên ngoài thành huyện Dịch hừng hực khí thế lập trại đóng quân, dọn dẹp tuyết đọng, dựng màn trướng, lập hàng rào doanh, từng chiếc xe bò kéo đầy lương thảo tiến vào đại doanh.

Dương Nguyên Khánh thì có mấy trăm thân binh bảo vệ tiến vào thị trấn huyện Dịch, bên cửa thành, Tần Quỳnh dẫn đầu mười mấy danh tướng ra nghênh đón chủ công.

Tần Quỳnh và các tướng đồng loạt quỳ một gối, hai tay ôm quyền hành lễ:

- Mạt tướng Tần Quỳnh, tham kiến Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh xoay người xuống ngựa, cười ha hả nâng Tần Quỳnh dậy:

- Tần tướng quân miễn lễ!

Hắn vỗ vỗ vai Tần Quỳnh khen ngợi:

- Lần tấn công huyện Dịch này Tần tướng quân làm hay lắm, không chết một binh một tốt mà đã hạ được quận Thượng Cốc, có thể nói là điển hình của kế không đánh mà thắng, ta sẽ ghi nhớ công lớn của ngươi.

Tần Quỳnh vẻ mặt ngượng ngùng, vội vàng nói:

- Mạt tướng vô công, là Tổng quản tạo áp lực với Ngụy Đao Nhi, buộc quân địch chủ động rút khỏi huyện Dịch, mạt tướng không dám kể công.

- Nhưng ném thư khuyên hàng vào thành đích thị là phương án của ngươi, cuối cùng thúc đẩy quân thủ thành tan rã, đây mới là nguyên nhân thực sự khiến cho Địch Tước Nhi bị ép phải bỏ huyện Dịch, nên công lao của ngươi vẫn là không nhỏ, trong lòng ta hiểu rõ.

Dương Nguyên Khánh vừa liếc nhìn ánh mắt hăm hở của Trình Giảo Kim bên cạnh, cười nói:

- Công lao đánh trận không chỉ ở chỗ giết địch nhiều ít, đôi khi còn phải xem kết quả, lần này hạ quận Thượng Cốc, là mở ra cánh cửa lớn cho quân Tùy chúng ta để tấn công Hà Bắc, là một thắng lợi cực kỳ quan trọng, cho nên lần này ta muốn khen ngợi tất cả các tướng sĩ tham chiến, các tướng lĩnh lập công giống như Tần tướng quân, Trình tướng quân đây, càng phải trọng thưởng.

Mọi người mừng rỡ, nhất tề khom người thi lễ:

- Đa tạ Tổng quản khen thưởng.

Dương Nguyên Khánh trong sự vây quanh của mọi người tiến vào huyện Dịch, hắn lúc đi nhậm chức Tổng quản U Châu từng vài lần đi qua huyện Dịch. Trong hồi ức của hắn, dân số huyện Dịch rất đông, thương nghiệp phồn vinh, trên đường phố các dòng người hối hả, tiếng rao hàng không ngớt.

Mà lúc này huyện Dịch trong mắt hắn lại vắng lặng đáng sợ, đường lớn không người qua lại. Tất cả các cửa hàng đều đóng cửa, trong cửa hàng trống rỗng, bị cướp phá sạch sanh, cả thành trì hiện ra một cảnh hoang tàn đổ nát.

Lúc này vài tên thân sĩ được lệnh tiến lên, bọn chúng quỳ xuống khóc không ra tiếng :

- May có quân Tùy tới đây mới cứu chúng tôi một mạng, mong Sở Vương Điện hạ nhận chúng tôi một lạy.

Bọn chúng dập đầu sát đất, Dương Nguyên Khánh vội đỡ bọn chúng dậy:

- Không cần phải như vậy. Cứu giúp con dân Đại Tùy, là việc phải làm của chúng ta, mau mau đứng dậy.

Dương Nguyên Khánh đỡ lấy cánh tay của mấy ông lão, chỉ cảm thấy bọn họ ai nấy gầy như bộ xương, đây lúc trước còn là những phú hộ thân sĩ, vậy mà gầy thành như vậy, càng không cần phải nói tới những người dân thường rồi.

Hắn cau mày, quay đầu lại hỏi Tần Quỳnh:

- Sao có thể như vậy?

Tần Quỳnh thở dài nói :

- Chúng thần khi tiến vào thành, mới biết trong thành đang bị nạn đói nghiêm trọng, người nhà của các binh sĩ thuộc hạ của Địch Tước Nhi ít ra còn có chút lương mà giữ mạng sống, mà người nhà của các binh sĩ quận Hằng Sơn đều lâm vào tuyệt cảnh, bệnh chết đói ít nhất nửa nhà hơn một năm nay, những người còn sống đều gầy trơ xương đã sắp chịu không nổi nữa, việc đầu tiên của chúng thần là cấp bách phát lương thực cứu trợ. Hầy! Nếu quả thật đợi đến mùa xuân năm sau mới lại tấn công quận Thượng Cốc, chắc người trong thành đều chết đói cả rồi.

Dương Nguyên Khánh trong mắt có chút tức giận, đối với các tướng đau xót nói :

- Từ năm Đại Nghiệp thứ sáu Vương Bạc tạo phản đến nay, đã sáu năm rồi, Hà Bắc, Hà Nam là trọng địa của bọn loạn phỉ tạo phản. Mười mấy triệu người tính ra chỉ còn lại hai ba phần, hiện nay thứ quý giá nhất không phải là địa bàn đất đai, mà là nhân khẩu, cho nên chúng ta phát động chiến dịch Hà Bắc, việc quan trọng đầu tiên là tranh đoạt nhân khẩu. Có thể giết ít thì giết ít, lần tấn công quận Thượng Cốc này, ta không chủ trương cường hành công thành, tận lực lợi dụng hết thảy các thủ đoạn, dùng kế không đánh mà thắng, giảm thiểu thương vong tới mức thấp nhất, các ngươi có thể hiểu được nỗi khổ tâm của ta chứ?

Các tướng đều đáp lại:

- Mạt tướng hiểu rồi!

- Các ngươi phải nhớ kỹ, không có người, thì cũng không có Vương triều.

Dương Nguyên Khánh đi tới quận nha. Ngụy Đao Nhi sau khi tạo phản, quan viên của quận Thượng Cốc đều chạy trốn cả, quận nha bị Địch Tước Nhi biến thành Vương phủ Thượng Cốc. Lúc này Thái Thú mới bổ nhiệm của Dương Nguyên Khánh hai ngày trước đã tới nhậm chức, Thái Thú mới tên là Lý Hoán Chi, nguyên là Thái Thú quận Tế Âm của Lý Mật, sau khi kiến lập Bắc Tùy, ông ta từ quan chạy tới Bắc Tùy, nguyện ý đền đáp triều đình mới.

Lý Hoán Chi chừng năm mươi tuổi, nguyên quán Lũng Tây, khôn khéo tháo vát, Dương Nguyên Khánh bổ nhiệm ông ta làm Thái Thú, Tử Vi Các lại bổ nhiệm Vương Hiếu Tùng nguyên là Huyện Lệnh huyện Cửu Nguyên quận Phong Châu làm Trưởng Sử, điều Huyện Lệnh huyện Nhạc Bình của quận Thái Nguyên Trương Đào làm Tư Mã, bộ Lại đồng thời bổ nhiệm Lục Sự Tham Quân và các Tào chủ quản.

Dựa theo sự thỏa thuận phân quyền của Dương Nguyên Khánh và Tử Vi Các, Dương Nguyên Khánh làm Nhiếp Chính Vương, Thượng Thư Lệnh, Thái Thú các quận nhậm chức hay bãi nhiệm đều do hắn nắm quyền, còn Trưởng Sử, Tư Mã và Huyện Lệnh các huyện thì do Tử Vi Các bổ nhiệm và miễn nhiệm, các Tào Tham quân phía dưới cùng các Huyện Thừa, Huyện Úy lại do Lại bộ quản lý, có thể nói chức quyền phân minh.

Dương Nguyên Khánh đi vào quận nha, Thái Thú Lý Hoán Chi tiến lên hành lễ:

- Tham kiến Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu:

- Lý sứ quân miễn lễ, mời tới công đường nói chuyện.

Dương Nguyên Khánh đến công đường ngồi xuống, khoát tay với mọi người cười nói:

- Các vị tướng quân, các vị sứ quân mời ngồi, mọi người thả lỏng một chút, ta không phảiNgự Sử Giám Sát.

Mọi người mỉm cười, đều ngồi xuống, Dương Nguyên Khánh lúc này mới hỏi Lý Hoán Chi:

- Ta hiện nay mỗi khi đến một nơi, điều quan tâm nhất chính là còn bao nhiêu nhân khẩu, Lý sứ quân hiện tại có thể nói cho ta biết không?

Lý Hoán Chi đứng dậy:

- Ty chức hiện nay chỉ thống kê nhân khẩu của huyện Dịch, ước chừng tám ngàn hộ, hơn hai mươi ba ngàn người, đại đa số đều là người già và trẻ em, thanh niên trai tráng chưa tới bảy ngàn người, nhưng nghe nói còn có không ít thanh niên tòng quân ở Hằng Sơn. Còn về phạm vi của quận Thượng Cốc, ty chức vẫn chưa có thống kê, từ dưới năm huyện Tù, huyện Toại Thành, huyện Vĩnh Lạc, huyện Lai Thủy, huyện Phi Hồ lấy được một ít vật tư vụn vặt, toàn quận đoán chừng không quá năm mươi ngàn người.

Dương Nguyên Khánh nhớ rõ khi hắn đảm nhiệm Tổng quản U Châu, nhân khẩu của quận Thượng Cốc có gần hai trăm ngàn, chỉ trong vòng sáu năm ngắn ngủi giảm mất gần tám phần, hắn thở dài, nói với Lý Hoán Chi:

- Việc cấp bách là phải cứu trợ, không đủ người có thể mời quân đội trợ giúp, nhất định phải nhanh chóng, không thể kéo dài, ta đoán trong núi sâu cũng có không ít người ẩn nấp trong đó, phải phái người đi khuyên bọn họ quay về. Tiếp theo lợi dụng mùa đông phân phối lại đất đai, đầu xuân sau phải tổ chức sản xuất, trâu cày và hạt giống cần thiết, ta đã lệnh Tư Nông Tự giúp đỡ sắp xếp, phải tìm mọi cách bảo vệ nhân khẩu, khôi phục sản xuất.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 649 : Thâu tóm Thượng Cốc

Tên thân binh giục ngựa chạy vội lên, la lớn:

- Tướng quân của ta nói, hai bên đã đạt thành hiệp nghị, chúng ta đang rút quân theo hiệp nghị, mong các vị đừng cản trở.

Tần Quỳnh cười ha hả, cao giọng nói:

- Trở về nói với Địch Tước Nhi, Hoàng đế Ngụy Đao Nhi của các người cũng không có yêu cầu quân Tùy cam kết để các người rút lui an toàn. Nếu y lập tức đầu hàng có thể tha y một mạng, còn không sông Dịch Thủy chính là nơi chôn thây của y.

Tên thân binh vừa trở về, Địch Tước Nhi không cần nghe gã nói, oán hận nói:

- Ta đã nghe thấy cả rồi!

Phó tướng Giang Tông tiến lên phía trước cẩn trọng nói :

- Tướng quân, phải chăng Ngụy Đao Nhi cố ý sơ xuất?

Địch Tước Nhi cắn răng nói :

- Ngươi nói quả không sai, y biết ta sau khi trở về không cách gì bố trí, ta hiểu y quá rõ, y chính là muốn quân Tùy tiêu diệt hết chúng ta.

- Thế chúng ta làm sao bây giờ?

Địch Tước Nhi quay đầu lại nhìn kỹ vẻ kinh hoàng trong mắt của binh sĩ, sớm đã không còn chút ý chí chiến đấu nào, từng người một bất cứ lúc nào đều chuẩn bị bỏ trốn, y không còn cách nào khác đành thở dài :

- Còn làm thế nào nữa? Quân không có ý chí chiến đấu, trước sau đều bị vây chặt. Ta và ngươi nếu còn muốn sống tiếp, trừ phi là đầu hàng, chứ không có con đường thứ hai nữa.

- Truyền lệnh của ta, bỏ vũ khí xuống đầu hàng!

Theo lệnh của Địch Tước Nhi truyền xuống, hơn chín ngàn binh lính của y từ từ bỏ vũ khí xuống, đầu hàng quân Tùy.

......

Đây là một cuộc chiến không có đổ máu, dưới áp lực chính trị mạnh mẽ, Ngụy Tước Nhi bị bức phải bỏ quận Thượng Cốc, quận Thượng Cốc sát nhập vào bản đồ của Bắc Tùy, khiến cho quân Tùy cuối cùng có được bàn đạp để tiến quân Hà Bắc. Ba ngày sau, Dương Nguyên Khánh đích thân soái lĩnh năm mươi ngàn quân Tùy qua Phi Hồ Hình tới quận Thượng Cốc.

Triều đình bắc Tùy cũng bắt đầu động viên toàn diện, quan phủ năm quận Thái Nguyên, Lâu Phiền, Ly Thạch, Mã Ấp cùng với quận Tây Hà đã động viên một trăm năm mươi ngàn dân phu tề tựu tại Thái Nguyên, trợ giúp mang một lượng lớn lương thảo và các loại quân tư hướng tới quận Thượng Cốc, cuộc chiến tranh cơ khí bắt đầu phát động vào thời khắc đầu tháng mười hai lạnh giá nhất.

Sáng sớm, đại quân hùng mạnh do Dương Nguyên Khánh soái lĩnh đã đến huyện Dịch, đại quân năm mươi ngàn người bắt đầu ở bên ngoài thành huyện Dịch hừng hực khí thế lập trại đóng quân, dọn dẹp tuyết đọng, dựng màn trướng, lập hàng rào doanh, từng chiếc xe bò kéo đầy lương thảo tiến vào đại doanh.

Dương Nguyên Khánh thì có mấy trăm thân binh bảo vệ tiến vào thị trấn huyện Dịch, bên cửa thành, Tần Quỳnh dẫn đầu mười mấy danh tướng ra nghênh đón chủ công.

Tần Quỳnh và các tướng đồng loạt quỳ một gối, hai tay ôm quyền hành lễ:

- Mạt tướng Tần Quỳnh, tham kiến Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh xoay người xuống ngựa, cười ha hả nâng Tần Quỳnh dậy:

- Tần tướng quân miễn lễ!

Hắn vỗ vỗ vai Tần Quỳnh khen ngợi:

- Lần tấn công huyện Dịch này Tần tướng quân làm hay lắm, không chết một binh một tốt mà đã hạ được quận Thượng Cốc, có thể nói là điển hình của kế không đánh mà thắng, ta sẽ ghi nhớ công lớn của ngươi.

Tần Quỳnh vẻ mặt ngượng ngùng, vội vàng nói:

- Mạt tướng vô công, là Tổng quản tạo áp lực với Ngụy Đao Nhi, buộc quân địch chủ động rút khỏi huyện Dịch, mạt tướng không dám kể công.

- Nhưng ném thư khuyên hàng vào thành đích thị là phương án của ngươi, cuối cùng thúc đẩy quân thủ thành tan rã, đây mới là nguyên nhân thực sự khiến cho Địch Tước Nhi bị ép phải bỏ huyện Dịch, nên công lao của ngươi vẫn là không nhỏ, trong lòng ta hiểu rõ.

Dương Nguyên Khánh vừa liếc nhìn ánh mắt hăm hở của Trình Giảo Kim bên cạnh, cười nói:

- Công lao đánh trận không chỉ ở chỗ giết địch nhiều ít, đôi khi còn phải xem kết quả, lần này hạ quận Thượng Cốc, là mở ra cánh cửa lớn cho quân Tùy chúng ta để tấn công Hà Bắc, là một thắng lợi cực kỳ quan trọng, cho nên lần này ta muốn khen ngợi tất cả các tướng sĩ tham chiến, các tướng lĩnh lập công giống như Tần tướng quân, Trình tướng quân đây, càng phải trọng thưởng.

Mọi người mừng rỡ, nhất tề khom người thi lễ:

- Đa tạ Tổng quản khen thưởng.

Dương Nguyên Khánh trong sự vây quanh của mọi người tiến vào huyện Dịch, hắn lúc đi nhậm chức Tổng quản U Châu từng vài lần đi qua huyện Dịch. Trong hồi ức của hắn, dân số huyện Dịch rất đông, thương nghiệp phồn vinh, trên đường phố các dòng người hối hả, tiếng rao hàng không ngớt.

Mà lúc này huyện Dịch trong mắt hắn lại vắng lặng đáng sợ, đường lớn không người qua lại. Tất cả các cửa hàng đều đóng cửa, trong cửa hàng trống rỗng, bị cướp phá sạch sanh, cả thành trì hiện ra một cảnh hoang tàn đổ nát.

Lúc này vài tên thân sĩ được lệnh tiến lên, bọn chúng quỳ xuống khóc không ra tiếng :

- May có quân Tùy tới đây mới cứu chúng tôi một mạng, mong Sở Vương Điện hạ nhận chúng tôi một lạy.

Bọn chúng dập đầu sát đất, Dương Nguyên Khánh vội đỡ bọn chúng dậy:

- Không cần phải như vậy. Cứu giúp con dân Đại Tùy, là việc phải làm của chúng ta, mau mau đứng dậy.

Dương Nguyên Khánh đỡ lấy cánh tay của mấy ông lão, chỉ cảm thấy bọn họ ai nấy gầy như bộ xương, đây lúc trước còn là những phú hộ thân sĩ, vậy mà gầy thành như vậy, càng không cần phải nói tới những người dân thường rồi.

Hắn cau mày, quay đầu lại hỏi Tần Quỳnh:

- Sao có thể như vậy?

Tần Quỳnh thở dài nói :

- Chúng thần khi tiến vào thành, mới biết trong thành đang bị nạn đói nghiêm trọng, người nhà của các binh sĩ thuộc hạ của Địch Tước Nhi ít ra còn có chút lương mà giữ mạng sống, mà người nhà của các binh sĩ quận Hằng Sơn đều lâm vào tuyệt cảnh, bệnh chết đói ít nhất nửa nhà hơn một năm nay, những người còn sống đều gầy trơ xương đã sắp chịu không nổi nữa, việc đầu tiên của chúng thần là cấp bách phát lương thực cứu trợ. Hầy! Nếu quả thật đợi đến mùa xuân năm sau mới lại tấn công quận Thượng Cốc, chắc người trong thành đều chết đói cả rồi.

Dương Nguyên Khánh trong mắt có chút tức giận, đối với các tướng đau xót nói :

- Từ năm Đại Nghiệp thứ sáu Vương Bạc tạo phản đến nay, đã sáu năm rồi, Hà Bắc, Hà Nam là trọng địa của bọn loạn phỉ tạo phản. Mười mấy triệu người tính ra chỉ còn lại hai ba phần, hiện nay thứ quý giá nhất không phải là địa bàn đất đai, mà là nhân khẩu, cho nên chúng ta phát động chiến dịch Hà Bắc, việc quan trọng đầu tiên là tranh đoạt nhân khẩu. Có thể giết ít thì giết ít, lần tấn công quận Thượng Cốc này, ta không chủ trương cường hành công thành, tận lực lợi dụng hết thảy các thủ đoạn, dùng kế không đánh mà thắng, giảm thiểu thương vong tới mức thấp nhất, các ngươi có thể hiểu được nỗi khổ tâm của ta chứ?

Các tướng đều đáp lại:

- Mạt tướng hiểu rồi!

- Các ngươi phải nhớ kỹ, không có người, thì cũng không có Vương triều.

Dương Nguyên Khánh đi tới quận nha. Ngụy Đao Nhi sau khi tạo phản, quan viên của quận Thượng Cốc đều chạy trốn cả, quận nha bị Địch Tước Nhi biến thành Vương phủ Thượng Cốc. Lúc này Thái Thú mới bổ nhiệm của Dương Nguyên Khánh hai ngày trước đã tới nhậm chức, Thái Thú mới tên là Lý Hoán Chi, nguyên là Thái Thú quận Tế Âm của Lý Mật, sau khi kiến lập Bắc Tùy, ông ta từ quan chạy tới Bắc Tùy, nguyện ý đền đáp triều đình mới.

Lý Hoán Chi chừng năm mươi tuổi, nguyên quán Lũng Tây, khôn khéo tháo vát, Dương Nguyên Khánh bổ nhiệm ông ta làm Thái Thú, Tử Vi Các lại bổ nhiệm Vương Hiếu Tùng nguyên là Huyện Lệnh huyện Cửu Nguyên quận Phong Châu làm Trưởng Sử, điều Huyện Lệnh huyện Nhạc Bình của quận Thái Nguyên Trương Đào làm Tư Mã, bộ Lại đồng thời bổ nhiệm Lục Sự Tham Quân và các Tào chủ quản.

Dựa theo sự thỏa thuận phân quyền của Dương Nguyên Khánh và Tử Vi Các, Dương Nguyên Khánh làm Nhiếp Chính Vương, Thượng Thư Lệnh, Thái Thú các quận nhậm chức hay bãi nhiệm đều do hắn nắm quyền, còn Trưởng Sử, Tư Mã và Huyện Lệnh các huyện thì do Tử Vi Các bổ nhiệm và miễn nhiệm, các Tào Tham quân phía dưới cùng các Huyện Thừa, Huyện Úy lại do Lại bộ quản lý, có thể nói chức quyền phân minh.

Dương Nguyên Khánh đi vào quận nha, Thái Thú Lý Hoán Chi tiến lên hành lễ:

- Tham kiến Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu:

- Lý sứ quân miễn lễ, mời tới công đường nói chuyện.

Dương Nguyên Khánh đến công đường ngồi xuống, khoát tay với mọi người cười nói:

- Các vị tướng quân, các vị sứ quân mời ngồi, mọi người thả lỏng một chút, ta không phảiNgự Sử Giám Sát.

Mọi người mỉm cười, đều ngồi xuống, Dương Nguyên Khánh lúc này mới hỏi Lý Hoán Chi:

- Ta hiện nay mỗi khi đến một nơi, điều quan tâm nhất chính là còn bao nhiêu nhân khẩu, Lý sứ quân hiện tại có thể nói cho ta biết không?

Lý Hoán Chi đứng dậy:

- Ty chức hiện nay chỉ thống kê nhân khẩu của huyện Dịch, ước chừng tám ngàn hộ, hơn hai mươi ba ngàn người, đại đa số đều là người già và trẻ em, thanh niên trai tráng chưa tới bảy ngàn người, nhưng nghe nói còn có không ít thanh niên tòng quân ở Hằng Sơn. Còn về phạm vi của quận Thượng Cốc, ty chức vẫn chưa có thống kê, từ dưới năm huyện Tù, huyện Toại Thành, huyện Vĩnh Lạc, huyện Lai Thủy, huyện Phi Hồ lấy được một ít vật tư vụn vặt, toàn quận đoán chừng không quá năm mươi ngàn người.

Dương Nguyên Khánh nhớ rõ khi hắn đảm nhiệm Tổng quản U Châu, nhân khẩu của quận Thượng Cốc có gần hai trăm ngàn, chỉ trong vòng sáu năm ngắn ngủi giảm mất gần tám phần, hắn thở dài, nói với Lý Hoán Chi:

-Việc cấp bách là phải cứu trợ, không đủ người có thể mời quân đội trợ giúp, nhất định phải nhanh chóng, không thể kéo dài, ta đoán trong núi sâu cũng có không ít người ẩn nấp trong đó, phải phái người đi khuyên bọn họ quay về. Tiếp theo lợi dụng mùa đông phân phối lại đất đai, đầu xuân sau phải tổ chức sản xuất, trâu cày và hạt giống cần thiết, ta đã lệnh Tư Nông Tự giúp đỡ sắp xếp, phải tìm mọi cách bảo vệ nhân khẩu, khôi phục sản xuất.

Quyển 15: Phong Khởi Vân Dũng Hà Đông Đạo

 Chương 650 : Mối lo của U Châu (1+2)

- Ty chức hiểu rõ, nhất định không phụ sự ủy thác của Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh lại nói với Tần Quỳnh:

- Hiện nay việc trong tay Lý Thái Thú là cực kỳ phức tạp, nếu như đủ người thì rất nhiều việc đều được xử lý tốt, cho nên ngươi đặc biệt chọn ra năm trăm quân sĩ để Lý Thái Thú sai bảo. Ngoài ra, lượng lớn lương thực và vật tư quân dụng sắp chuyển đến quận Thượng Cốc, việc xây dựng các kho hàng cần thiết thì do ngươi hoàn thành, không cần giao lại cho địa phương.

Ý của Dương Nguyên Khánh chính là chuẩn bị cho cuộc chiến do Tần Quỳnh phụ trách, Tần Quỳnh trong lòng hiểu rõ, lập tức khom người nói :

- Mạt tướng tuân mệnh!

... .

Dương Nguyên Khánh đem tất cả mọi việc đều nhất nhất an bài xong, liền để mọi người ra về. Hắn tới một phòng quan chuẩn bị riêng cho mình, theo yêu cầu của hắn, gian phòng bố trí rất đơn giản, một giường một bàn một tủ sách. Ngoài ra góc tường còn có một cái lư hương, khói nhẹ lượn lờ, tràn ngập mùi hương phảng phất, trong phòng đốt một cái chậu than đang cháy hồng, khiến căn phòng vô cùng ấm áp.

Hắn thấy trên tường treo một tấm bản đồ Hà Bắc, liền chắp tay sau lưng đi tới, nhìn chăm chú vào bản đồ. Mặt đông của quận Thượng Cốc chính là quận Trác do La Nghệ khống chế, từ lúc phát động chiến dịch quận Thượng Cốc tới nay, đã qua nửa tháng rồi, La Nghệ không thể không biết, y hiện nay hẳn là cũng phái ra một lượng lớn quân đội tụ tập tại biên giớicủa huyện Trác, mà đối diện huyện Trác là huyện Lai Thủy của quận Thượng Cốc, Dương Nguyên Khánh quay đầu lại hỏi Tần Quỳnh:

- Huyện Lai Thủy phái quân tới đóng rồi chứ?

- Hồi bẩm Tổng quản, mạt tướng lệnh Đặng Trì Niên dẫn năm ngàn quân tiến đóng huyện Lai Thủy, phòng ngừa quân U Châu có khả năng tấn công.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Kỳ thực ta quan tâm tới tình báo hơn, nhất định phải nắm rõ nhất cử nhất động của quân U Châu, cần phái rất nhiều thám báo đi dò la tin tức ở vùng biên giớiquận Trác, cùng đó lệnh cho Đặng Trì Niên tăng cường tuần tra trinh sát, phòng bị thám báo của đối phương, những điều này không nên để ta phải nhắc ngươi, ngươi phải sắp xếp xong xuôi cả rồi mới đúng.

Tần Quỳnh yên lặng gật đầu:

- Mạt tướng đã sắp xếp xong hết rồi, đã cho mười đội một trăm thám báo lẻn vào biên giới quận Trác, do thám tình hình ở U Châu, Đặng Trì Niên cũng có phòng bị sự thâm nhập của quân U Châu.

Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười, lấy ra một mảnh tin tình báo cho hắn xem:

- Đây là tin tình báo của thám tử do quận nội vệ sắp xếp trong thành U Châu gửi về, theo như tình hình, La Nghệ đã phái đi mười năm ngàn quân thẳng tới Tây Nam, không biết có phải huyện Trác hay không, ngươi có thể đối chiếu xem sao, về sau tin tình báo có liên quan tới U Châu của quân nội vệ ta có thể chép cho ngươi một bản.

Tần Quỳnh mừng rỡ, nói như vậy tình báo của y càng thêm toàn diện rồi, hắn vội vàng thi lễ:

- Đa tạ Tổng quản giúp đỡ.

Ngừng một lát, Tần Quỳnh lại nói:

- Mạt tướng vẫn còn một việc xin chỉ dạy, chính là liên quan tới việc bố trí cho Địch Tước Nhi, y là đầu hàng chứ không phải tù binh, mạt tướng không biết nên bố trí cho y như thế nào, xin Tổng quản chỉ thị.

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một chút nói:

- Cái tên Địch Tước Nhi này ta vẫn còn ấn tượng, năm Đại Nghiệp thứ bảy, ta phái Lý Tĩnh tiêu diệt Vương Bạt Tu, tên Địch Tước Ni này chính là Cửu trại chủ bị bắt giữ làm tù binh. Lúc đó vì y chức thấp quan nhỏ nên ta mới tha cho, y đã về quê làm nông. Vốn tưởng rằng y thành thực, không ngờ qua năm năm, y lại khởi binh tạo phản, loại người này có cốt phản, không biết khi nào y lại sẽ tạo phản, không thể lưu lại mầm họa này.

- Mạt tướng hiểu rồi, sẽ mau chóng xử lý hắn.

Dương Nguyên Khánh thản nhiên nói:

- Cũng không cần gấp quá, miễn đừng ảnh hưởng tới việc nhận đầu hàng của quận Hằng Sơn, đợi sau khi Ngụy Đao Nhi bị diệt xong, rồi xử lý một thể.

Tần Quỳn do dự một lát, có chút kinh ngạc hỏi:

- Mục tiêu kế tiếp của Tổng quản vẫn là quận Hằng Sơn sao?

- Chắc vậy! Ngụy Đao Nhi lần này đã nhường Thượng Cốc, Đậu Kiến Đức sẽ không tha cho y, ta lo lắng Đậu Kiến Đức sẽ chiếm quận Hằng Sơn, nên ta muốn xử lý Ngụy Đao Nhi trước khi Đậu Kiến Đức chiếm quận Hằng Sơn, chúng ta chiếm lĩnh trước quận Hằng Sơn, giữ được con đường chiến lược Tỉnh Hình..

- Nhưng... Chẳng phải Tổng quản và Ngụy Đao Nhi có ước định, nếu nuốt lời, liệu có ảnh hưởng đến danh dự của Tổng quản?

Tần Quỳnh có chút bận tâm.

Dương Nguyên Khánh híp mắt cười lạnh lùng nói:

- Yên tâm đi! Ta sẽ để y cho ta một lý do khiến người trong thiên hạ tin phục.

Tin tức quân Tùy tiến quân quận Thượng Cốc, mấy ngày trước sớm đã truyền đến thành U Châu, khiến cho quan viên thành U Châu một phen kinh hồn. Tuy biết quân Tùy sớm muộn gì cũng tấn công Hà Bắc, nhưng rốt cuộc khi đến ngày này, vẫn khiến rất nhiều quan viên cảm thấy lo lắng bất an.

Đặc biệt là sự tiến công của quân Tùy cũng không phải là mùa xuân năm tới như tưởng tượng của mọi người, mà là tháng mười một đã phát động rồi. Điều này khiến quan trường của U Châu chìm trong một loại cảm giác khủng hoảng không tên, mỗi người đều bắt đầu cân nhắc đường lui của mình.

Sáng sớm, Tổng quản phủ U Châu Tư Mã Ôn Ngạn Bác ngồi xe ngựa từ trong nhà đi ra, xe ngựa nhằm hướng phủ Tổng quản chạy tới. Ôn Ngạn Bác là em của Nội Sử thị lang triều Đường Ôn Đại Nhã, La Nghệ đầu hàng triều Đường, Ôn Ngạn Bác đã đạt tới ảnh hưởng then chốt.

Giống như tất cả các quan viên, ông ta cũng rất lo lắng quân Tùy mở rộng thế lực phía Đông, bất luận từ vị trí chiến lược của U Châu, hay là cảm tình cá nhân của Dương Nguyên Khánh, U Châu chắc chắn là mục tiêu tấn công đầu tiên của quân Tùy.

Càng làm cho trong lòng ông ta khó chịu chính là, triều Đường bỏ mặc U Châu. Trong thỏa thuận hòa giải giữa hai triều Tùy Đường, đã xác định rõ ràng U Châu không nằm trong lãnh thổ vốn có của nhà Đường. Tuy Ôn Ngạn Bác cũng biết La Nghệ không phải là thật tâm đầu hàng triều Đường, nhưng chí ít La Nghệ ngoài mặt biểu hiện rất tốt, tự xưng thần với triều Đường, tất cả các thuộc hạ đều xưng là quan triều Đường, trong khi đó triều Đường vì ngừng chiến mà chủ động vứt bỏ U Châu, trên mặt đạo nghĩa lại thua một nước cờ.

Dù triều Đường bổ nhiệm La Nghệ là Nạp ngôn (chức quan chủ yếu nhận lệnh vua), điều y về triều làm quan lớn, lại bổ nhiệm Lưu Hoằng Cơ làm Tổng quản mới ở U Châu, tước đoạt binh quyền của La Nghệ. Dụng ý của Thánh Thượng rất rõ, chính là muốn chọc giận y, khiến bản thân y và triều Đường rạn nứt, để nhà Đường thoát khỏi sự xấu hổ trên mặt đạo nghĩa.

Không ngờ La Nghệ lại nhìn thấu dụng ý của triều Đường, một mặt lớn tiếng phải về triều cáo cáo, một mặt lại lề mề không chịu đi, điều này khiến cho kế hoạch như ý của triều Đường thất bại. Hiện nay quân Tùy tiến công Hà Bắc quy mô lớn, y càng không có khả năng trở về, thế thì triều Đường phải làm thế nào? Cứ cam chịu quân Tùy tấn công U Châu như vậy sao?

Ôn Ngạn Bác không phải là lo lắng cho vận mệnh của mình, ông ta lo lắng là triều Đường sẽ vì chuyện của U Châu mà thất tín với thiên hạ, về sau ai còn dám đầu hàng triều Đường?

Xe ngựa chạy qua đường lớn, ông ta nhìn đường phố rộn ràng qua cửa xe. Người đi đường như dệt cửi, rất nhiều người đều cõng trên lưng bao lớn bao nhỏ, lúc này ông ta mới nhớ ra cách năm mới còn chưa tới một tháng, trong lòng ông ta có chút kỳ lạ, tin tức quân Tùy tấn công Hà Bắc đã truyền ra rồi, dân chúng U Châu vẫn có tâm trí mà đón năm mới sao?

- Dừng xe!

Ông ta ra lệnh một tiếng, xe ngựa chầm chậm dừng lại, ông ta chỉ vào một gã trung niên đang mang theo bao lớn bao nhỏ dặn dò tùy tùng hai bên:

- Gọi người kia lại đây cho ta!

Vài tên tùy tùng giục ngựa lên trước, dẫn gã trung niên tới trước xe ngựa. Gã trung niên nơm nớp lo sợ, kêu la không ngớt:

- Lão gia, tôi không có phạm pháp gì cả!

Ôn Ngạn Bác ôn tồn cười nói:

- Ngươi không cần lo lắng, ta chỉ hỏi ngươi vài câu, không hề nói ngươi phạm pháp.

Gã trung niên nghe thấy ông ta chỉ muốn dò hỏi, mới nhẹ nhõm:

- Lão gia muốn hỏi gì?

Ôn Ngạn Bác trầm ngâm một lát rồi hỏi:

- Ngươi không biết quân Tùy đã bắt đầu tấn công Hà Bắc rồi sao?

- Biết, mọi người đều biết cả, chuyện này sớm đã truyền ra rồi.

- Vậy ngươi không sợ sao? Vẫn còn vui vẻ như vầy đón năm mới.

Ông ta nhìn chăm chú vào gã hỏi.

Gã gãi gãi sau ót, nhếch miệng nói:

- Cái này... lão gia muốn nghe lời thật sao?

- Đương nhiên, ta muốn nghe lời thật, ngươi cứ việc theo sự thực mà nói, ta thứ tội cho ngươi.

Gã trung niên cười khổ nói:

- Kỳ thực chỉ cần không phải là Ngụy Đao Nhi đánh tới, thì sẽ không có ai sợ hãi cả. Mọi người đều nói Dương Tổng quản không tệ, năm đó dẫn dắt dân quân toàn thành phòng ngừa bệnh dịch, đã cứu cả một thành U Châu, rất nhiều người hiện nay còn cảm kích ngài ấy, hơn nữa nghe nói triều Tùy còn miễn thuế, phát đất, cũng không cưỡng ép dân làm lính phục dịch. Nói thật, mọi người còn mong ngóng Dương Tổng quản trở lại cơ!

Ôn Ngạn Bác một lúc lâu không nói gì, ông ta khoát khoát tay để gã trung niên đi, hồi lâu sau ông thở dài một tiếng. Lòng dân đã mong quân Tùy đánh tới, bọn họ làm sao có thể chịu được nhân tình này.

- Đi thôi! Đến phủ Tổng quản.

Xe ngựa bắt đầu chạy, theo hướng phủ Tổng quản gấp rút mà đi.

Phủ Tổng quản U Châu, La Nghệ chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong phòng, hiện rõ vẻ lo lắng bất an. Y vừa mới nhận được tin, quân Tùy đã đoạt được quận Thượng Cốc, Dương Nguyên Khánh đích thân dẫn đại quân năm mươi ngàn tiến đóng huyện Dịch, quận Thượng Cốc sắp thành hậu phương vững chắc cho quân Tùy tấn công Hà Bắc, hoặc có thể nói là hậu phương để tấn công U Châu của y, sau đó sẽ lại lấy U Châu làm căn cơ, tiện đà càn quét Hà Bắc.

Trong lòng La Nghệ hết sức phiền não, bắt đầu từ mùa hạ năm nay, để ứng phó với nguy cơ sắp tới, y bất chấp tất cả khuếch trương binh lực, khiến binh lực của y đạt tới năm mươi ngàn người. Tuy không đến nỗi toàn dân làm lính giống như Ngụy Đao Nhi, nhưng cũng đã tới mức hai hộ một binh, điều này khiến nhân dân ba quận quận Trác, quận Ngư Dương và quận An Nhạc dưới sự quản hạt của y oán thán sôi sục.

Vẫn may trong tay y còn có không ít thế lực cũ của Dương Quảng lưu lại khi chinh phạt Triều Tiên nên mới có thể ngăn được sự phẫn nộ của dân. Hiện nay điều y lo lắng nhất là hai mươi ngàn quân mới chiêu mộ huấn luyện chưa đủ, sĩ khí không ổn định, liệu có khi nào lòng quân sụp đổ giống như quân đội của Ngụy Đao Nhi, để cho quân Tùy không đánh mà thắng. Tuy điều này khả năng không cao, nhưng áp lực lớn khi quân Tùy chinh phạt phía Đông khiến y mấy đêm liền mất ngủ, mà mất ngủ lại dẫn đến tâm trạng của y càng thêm phiền não.

Chính trong lúc y đang khổ sở suy nghĩ sách lược ứng phó, có thị vệ ở ngoài cửa bẩm báo:

- Khởi bẩm Vương gia, Ôn Tư Mã cầu kiến!

Y liền gật đầu:

- Mời ông ta vào!

Y cố gắng bình tâm lại, y không muốn để thuộc hạ nhìn ra tâm trạng lo lắng của mình, điều này không có lợi đối với việc ổn định tâm trạng của các quan viên.

Rất nhanh, Ôn Ngạn Bác đã đi vào phòng, khom người thi lễ:

- Tham kiến Vương gia!

- Tư Mã mời ngồi!

Ôn Ngạn Bác ngồi xuống, ông ta thấy đôi mắt của La Nghệ khô tới đỏ bừng, đây rõ ràng là vì liên tiếp mất ngủ, có thể thấy áp lực của y cũng cực lớn.

Không đợi ông ta mở lời, La Nghệ liền hỏi trước:

- Ta muốn biết, hiện nay dân tâm thế nào? Liệu có lâm vào cảnh hỗn loạn?

Điều La Nghệ lo lắng là lòng dân hỗn loạn có thể ảnh hưởng tới sự ổn định của quân tâm, Ôn Ngạn Bác không dám nói thật với y, chỉ đành cười khổ sở một cái nói:

- Hiện nay dân tình U Châu vẫn còn tương đối bình tĩnh, mọi người đều bận rộn lễ mừng năm mới. Thuộc hạ đoán quân Tùy đánh hạ quận Thượng Cốc cũng chỉ là muốn đoạt được một cánh cửa rộng lớn vào phía Đông, hơn nữa bọn họ cũng không thể lưu lại mầm họa Ngụy Đao Nhi. Dương Nguyên Khánh tất nhiên sẽ diệt trừ y trước, chí ít trước mùa xuân bọn họ sẽ không tấn công U Châu, trong khoảng thời gian này lòng dân sẽ không loạn

- Ôn Tư Mã, ngươi thấy khả năng chúng ta và Đậu Kiến Đức liên minh có cao hay không?

Do dự một lát, La Nghệ rốt cục không kìm được trầm giọng hỏi.

- Kết liên minh với Đậu Kiến Đức!

Ôn Ngạn Bác giật mình kinh hãi, vội vàng nói:

- Đậu Kiến Đức lại là tử địch của quân U Châu, Tiết Tổng quản chết trong tay của y, tướng sĩ U Châu ai mà không hận y thấu xương. Nếu Vương gia và y kết liên minh, làm sao có thể ăn nói với các tướng sĩ? Huynh đệ Tiết Thị sẽ không đồng ý, lại nói Cao Khai Đạo đã thể hiện rõ ràng, nguyện cùng quân U Châu chống lại quân Tùy mở rộng về phía Đông. Thuộc hạ cho rằng, không cần thiết phải sát nhập cùng với Đậu Kiến Đức, cứ coi như là kế tạm thời, cũng dẫn tới sự bất mãn của các tướng sĩ, Vương gia cho rằng thế nào?

- Ta chỉ suy nghĩ trong đầu, tùy tiện nói ra thôi.

Kỳ thực La Nghệ hai ngày nay luôn suy nghĩ cùng với Đậu Kiến Đức kết liên minh, một tháng trước Đậu Kiến Đức bí mật phái sứ giả tới gặp y, thể hiện nguyện vọng muốn hòa giải với quân U Châu. Điều này nói rõ Đậu Kiến Đức cũng muốn cùng y liên minh đối phó Dương Nguyên Khánh.

Chính vì nguyên nhân này, hai ngày nay ý nghĩ muốn cùng Đậu Kiến Đức liên minh của La Nghệ càng lúc càng mãnh liệt, nhưng y lại lo lắng vấp phải sự chống đối của thuộc hạ, nên y mới dò hỏi Ôn Ngạn Bác xem sao, y phát hiện mâu thuẫn của ông ta rất lớn, liền không đề cập tới việc này nữa.

Nhưng Ôn Ngạn Bác hiểu rõ La Nghệ, La Nghệ tuyệt đối sẽ không vô duyên vô cớ nói chuyện này, tất nhiên là trong lòng y có ý tưởng này rồi, ông ta liền nói lời sâu xa:

- Vương gia, Đậu Kiến Đức là kẻ lòng lang dạ sói, y đã nhăm nhe U Châu không chỉ ngày một ngày hai, ở một mức độ nào đó, Dương Nguyên Khánh còn phải sợ y. Đương nhiên, hiện nay chúng ta có chung kẻ địch, hoặc giả có thể liên minh đối phó quân Tùy Đông tiến, nhưng sau này thì sao? Vương gia đã nghĩ qua chưa, thế lực của Đậu Kiến Đức một khi tiến vào quận Trác, chỉ e sau này kẻ tiêu diệt chúng ta không phải Dương Nguyên Khánh mà là Đậu Kiến Đức.

La Nghệ trầm tư không nói, y đương nhiên biết sự nguy hiểm khi kết liên minh với Đậu Kiến Đức, chỉ là y hiện nay khó mà chịu đựng áp lực quân Tùy mở rộng về phía Đông. Y mới nghĩ tới liên minh với Đậu Kiến Đức, bất cứ việc gì cũng có cái giá phải trả, mấu chốt là y có thể chấp nhận cái giá này không.

Ôn Ngạn Bác thấy La Nghệ vẫn chưa xua tan ý niệm muốn cùng Đậu Kiến Đức liên minh, liền khuyên y:

- Vương gia, kỳ thực lương thực trong tay chúng ta rất dư dả, lại còn vài trăm ngàn binh giáp, đây chính là ưu thế của chúng ta. Chúng ta có thể hoàn toàn lợi dụng ưu thế này, không cần thiết phải dựa vào người ngoài, hơn nữa chúng ta có quận Trác và quận Ngư Dương đất đai rộng lớn như vậy, chỉ cần sách lược đúng đắn, hoàn toàn có thể tự mình chặn được quân Tùy, Vương gia cũng không cần lo lắng quá mức.

Lời này của Ôn Ngạn Bác đã nói trúng nỗi lòng của La Nghệ, y thở dài:

- Ta cảm thấy binh lực của ta vẫn còn quá ít, nếu như ta có được tám mươi ngàn quân, có lẽ ta có thể chặn đứng được quân Tùy đông tiến. Trong tay ta có binh giáp, có lương thực, nhưng không có nguồn chiêu binh, tiên sinh có cách nào không?

Ôn Ngạn Bác khẽ mỉm cười:

- Hiện nay cách mùa xuân năm tới vẫn còn thời gian hai tháng,Vương gia hoàn toàn có thể lợi dụng thời gian hai tháng này, phái người đi các nơi ở Hà Bắc tuyên truyền, nói U Châu chuẩn bị phát lương cứu trợ quy mô lớn. Tới lúc đó, tất nhiên sẽ có lượng lớn dân chúng từ Hà Bắc tới lĩnh gạo, từ những người này chiêu mộ ra ba mươi ngàn quân còn không dễ dàng sao?

La Nghệ mừng rỡ, đây là một cách tuyệt diệu, sao y lại không nghĩ đến, những khúc mắc trong lòng mấy ngày nay lập tức thông suốt, y luôn miệng nói:

- Cứ làm như thế đi! Ta phải lập tức cứu trợ.

Ôn Ngạn Bác lại nói:

- Cùng lúc với cứu trợ, chúng ta vẫn cần hòa hoãn với Dương Nguyên Khánh, nói với hắn, Hà Bắc dân đói quá nhiều, chúng ta đang trấn an nạn dân. Thần nghĩ quân Tùy cũng sẽ không phạm vào sai lầm cực lớn của thiên hạ, trong lúc chúng ta cứu trợ mà tấn công U Châu, đây cũng là cho chúng ta thời gian tranh thủ huấn luyện, Vương gia cảm thấy thế nào?

La Nghệ gật gật đầu:

- Tư Mã nói rất đúng, ta phái người đi quận Thượng Cốc ngay.

Ôn Ngạn Bác đứng dậy hành lễ:

- Thuộc hạ nguyện vì Vương gia san sẻ ưu lo, đi quận Thượng Cốc giao thiệp với Dương Nguyên Khánh trước.

Cái gọi là kéo một phát mà động toàn cục, quân Tùy ngoài dự liệu của mọi người đã tiến chiếm quận Thượng Cốc trong tháng mười một, không chỉ gây cho La Nghệ ở U Châu áp lực cực lớn, mà còn khiến các thế lực khác ở Hà Bắc cũng theo đó mà khẩn trương cả lên. Trong bốn thế lực lớn ở Hà Bắc, yếu nhất là Ngụy Đao Nhi, tiếp theo là Cao Khai Đạo, đứng thứ hai là La Nghệ ở U Châu, mạnh nhất là Đậu Kiến Đức.

Đối mặt với thế mạnh đông tiến của quân Tùy, các thế lực lớn Hà Bắc đều ý thức được, chỉ dựa vào lực lượng của mình chỉ sợ là khó mà kháng cự quân Tùy. Dưới tình hình đó, vứt bỏ hiềm khích trước đây, tiếng gọi liên hợp chống Tùy dần dần xuất hiện giữa các thế lực lớn. Đầu tiên là La Nghệ cùng Cao Khai Đạo bắt đầu liên hợp, trong chiến dịch đối phó với Bắc tiến của Đậu Kiến Đức, bọn họ đã không chỉ liên minh một lần, mà lần này chống Đông tiến của quân Tùy, La Nghệ và Cao Khai Đạo rất tự nhiên đã đã được thỏa thuận liên minh, cùng nhau đối phó quân Tùy.

Mà lúc này, Đậu Kiến Đức cũng đã có ý tưởng liên minh cùng La Nghệ chống quân Tùy, ngay từ một tháng trước, y đã phái Tống Chính Bản bí mật tới U Châu tiếp xúc với La Nghệ. Đậu Kiến Đức vốn nghĩ sau khi nhiều lần tiếp xúc với La Nghệ, làm dịu đi cái nhìn thù địch của hai bên, sau đó lại đề xuất kiến nghị hai bên liên hợp, không ngờ quân Tùy đã chiếm quận Thượng Cốc trước, làm đảo lộn kế hoạch của y, nhưng đồng thời cũng mang lại cho y cơ hội.

Màn đêm buông xuống, một cỗ xe ngựa chạy vào thành U Châu, trên xe Tống Chính Bản nhìn chằm chằm vào màn đêm phủ trên một con đường, trong đầu lại đang suy nghĩ về hướng đi tiếp theo của quân Tùy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro